text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
L'Équipe một tờ báo thể thao hàng ngày của Pháp, thuộc sở hữu của Nhà xuất bản Philippe Amaury. Các bài viết chủ yếu tập trung vào các tin tức, sự kiện của các môn thể thao như bóng đá, bóng bầu dục, đua xe và đi xe đạp. Tiền thân của L'Équipe là báo thể thao L'Auto. | 1 | null |
Lãnh sự quán là cơ quan đại diện ngoại giao, văn phòng của lãnh sự và thường trực thuộc cơ quan đại diện chính của nhà nước tại thủ đô của nước ngoài đó (nước sở tại), thường là "đại sứ quán" hoặc - giữa các nước thuộc Khối thịnh vượng chung - văn phòng ngoại giao "cao cấp". Giống như các thuật ngữ "đại sứ quán" hoặc "văn phòng ngoại giao cao cấp", "lãnh sự quán" có thể không chỉ đề cập đến văn phòng lãnh sự mà còn để chỉ tòa nhà do lãnh sự và nhân viên của lãnh sự chiếm giữ. Lãnh sự quán có thể chia sẻ cơ sở với chính đại sứ quán.
Cấp lãnh sự.
Lãnh sự có cấp bậc cao nhất được gọi là "Tổng lãnh sự". Thường có một hoặc nhiều "Phó tổng lãnh sự", các "lãnh sự", "phó lãnh sự" và "nhân viên lãnh sự" làm việc dưới quyền của tổng lãnh sự. Một quốc gia có thể bổ nhiệm nhiều hơn một tổng lãnh sự cho một quốc gia khác.
Quyền hạn và hoạt động.
Lãnh sự thuộc các cấp bậc khác nhau có thể có thẩm quyền pháp lý cụ thể đối với các hoạt động nhất định, chẳng hạn như công chứng các tài liệu. Như vậy, các nhân viên ngoại giao với các trách nhiệm khác có thể nhận được bằng sáng chế thư lãnh sự (hoa hồng). Ngoài những yêu cầu được nêu trong Công ước Viên về Quan hệ ngoại giao, có rất ít yêu cầu chính thức nêu rõ những gì một viên chức lãnh sự phải làm. Ví dụ, đối với một số quốc gia, các viên chức lãnh sự có thể chịu trách nhiệm về vấn đề thị thực; các quốc gia khác có thể hạn chế "dịch vụ lãnh sự" trong việc hỗ trợ đồng hương, hợp pháp hóa tài liệu, v.v. Tuy nhiên, các cơ quan lãnh sự sẽ do các lãnh sự thuộc nhiều cấp bậc khác nhau đứng đầu, ngay cả khi các quan chức đó có ít hoặc không có mối liên hệ với ý thức phục vụ lãnh sự hạn chế hơn.
Các hoạt động của cơ quan lãnh sự bao gồm bảo vệ lợi ích của công dân tạm trú hoặc thường trú tại nước sở tại, cấp hộ chiếu ; cấp thị thực cho người nước ngoài và ngoại giao công chúng. Tuy nhiên, vai trò chính của lãnh sự quán theo truyền thống là xúc tiến thương mại - hỗ trợ các công ty đầu tư và xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ cả trong nước và ra nước ngoài của họ. Mặc dù không được thừa nhận công khai, các lãnh sự quán, như đại sứ quán, cũng có thể thu thập thông tin tình báo từ quốc gia được chỉ định.
Khu lãnh sự.
Khu lãnh sự là một khu vực tiểu quốc gia do cơ quan lãnh sự chỉ định để thực hiện chức năng lãnh sự ở nước sở tại. Một khu lãnh sự được phục vụ bởi một lãnh sự hoặc "tổng lãnh sự" và có trụ sở chính tại một lãnh sự hoặc "tổng lãnh sự". Đây là một tiện ích chung để truyền bá các dịch vụ và cơ quan đại diện ngoại giao đến các vùng của nước sở tại ngoài đại sứ quán của nước ngoài tại thủ đô.
Vai trò trong các cơ quan đại diện ngoại giao.
Trái với suy nghĩ thông thường, nhiều nhân viên của các cơ quan lãnh sự có thể là các nhà ngoại giao chuyên nghiệp, nhưng họ có các hình thức miễn trừ ngoại giao hạn chế trừ khi họ cũng được công nhận như vậy. Các quyền miễn trừ và đặc quyền dành cho lãnh sự và nhân viên được công nhận của cơ quan lãnh sự (quyền miễn trừ lãnh sự) thường được giới hạn trong các hành động được thực hiện trong khả năng chính thức của họ và đối với chính lãnh sự quán, đối với những hành động cần thiết cho các nhiệm vụ chính thức. Trên thực tế, việc gia hạn và áp dụng các quyền ưu đãi và miễn trừ lãnh sự có thể rất khác nhau giữa các quốc gia.
Lãnh sự quán nhiều hơn các cơ quan đại diện ngoại giao khác, chẳng hạn như đại sứ quán. Các đại sứ chỉ được tập trung ở thủ đô của một quốc gia nước ngoài (trong trường hợp đặc biệt, có thể ở bên ngoài quốc gia đó, như trong trường hợp có nhiều nhiệm vụ; ví dụ, một cường quốc nhỏ có thể chỉ định một đại sứ duy nhất với một số quốc gia láng giềng có tầm quan trọng tương đối khiêm tốn mà không được coi là đồng minh quan trọng).
Lãnh sự được đăng ký tại thủ đô của một quốc gia và ở các thành phố khác trên khắp quốc gia đó, đặc biệt là các trung tâm hoạt động kinh tế và các thành phố nơi có nhiều công dân từ nước sở tại của lãnh sự cư trú. Ví dụ: ở Hoa Kỳ, hầu hết các quốc gia có tổng lãnh sự quán ở thành phố New York, (trụ sở của Liên Hợp Quốc ) và một số quốc gia có tổng lãnh sự quán ở một số thành phố lớn, chẳng hạn như Atlanta, Boston, Chicago, Dallas, Houston, Los Angeles, Miami hoặc San Francisco. Nhiều quốc gia có nhiều văn phòng lãnh sự ở các quốc gia như Đức, Nga, Canada, Brazil và Úc.
Lãnh sự là các chức vụ cấp dưới của cơ quan đại diện ngoại giao của nước sở tại (thường là đại sứ quán tại thủ đô của nước sở tại). Cơ quan đại diện ngoại giao được thành lập theo luật quốc tế theo Công ước Viên về quan hệ ngoại giao, trong khi tổng lãnh sự và cơ quan lãnh sự được thành lập theo luật quốc tế theo Công ước Viên về quan hệ lãnh sự. Về mặt hình thức, ít nhất là trong hệ thống của Hoa Kỳ, nghề nghiệp lãnh sự (xếp theo thứ tự giảm dần: tổng lãnh sự, lãnh sự, phó lãnh sự, lãnh sự danh dự) tạo thành một hệ thống cấp bậc khác với các nhà ngoại giao theo nghĩa chặt chẽ. Tuy nhiên, thông thường các cá nhân được chuyển từ hệ thống cấp bậc này sang cấp bậc khác, và các viên chức lãnh sự đến phục vụ tại thủ đô thực hiện nghiêm túc các nhiệm vụ lãnh sự trong "bộ phận lãnh sự" của cơ quan ngoại giao; ví dụ, trong một đại sứ quán.
Giữa các quốc gia thuộc Khối thịnh vượng chung, cả hoạt động ngoại giao và lãnh sự đều có thể do Cao ủy ở thủ đô đảm nhiệm, mặc dù các quốc gia thuộc Khối thịnh vượng chung lớn hơn nói chung cũng có lãnh sự quán và tổng lãnh sự tại các thành phố lớn. Ví dụ, Toronto ở Canada, Sydney ở Úc và Auckland, New Zealand, có tầm quan trọng kinh tế lớn hơn các thủ đô quốc gia tương ứng của họ, do đó cần có lãnh sự quán ở đó. | 1 | null |
Dame Margaret Natalie Smith (sinh ngày 28 tháng 12 năm 1934) được biết đến là một trong những diễn viên ưu tú của Anh. Bà xuất hiện lần đầu tiên trên sân khấu kịch vào năm 1952 và từ đó đã có một sự nghiệp diễn xuất đồ sộ trên cả sân khấu, điện ảnh và truyền hình trong suốt 60 năm. Smith đã nhận được nhiều rất giải thưởng, trong đó có bảy giải thưởng Hàn lâm Anh quốc, hai giải Oscar, ba giải Quả cầu vàng, ba giải Emmy và một giải Tony. Bà còn là một trong số ít những nữ diễn viên nhận được cả ba giải thưởng diễn xuất danh giá: Oscar, Emmy và Tony.
Những bộ phim được đánh giá cao của bà bao gồm "Othello" (1965), "The Prime of Miss Jean Brodie" (1969), "Travels with My Aunt" (1972), "California Suite" (1978), "Clash of the Titans" (1981), "A Room with a View" (1985) và "Gosford Park" (2001). Bà cũng xuất hiện trong một số phim nổi tiếng như "Hook" (1991), hai phần của phim "Sister Act" cũng như loạt phim "Harry Potter" với vai Giáo sư Minerva McGonagall. Hiện Smith đang thủ vai chính Violet Crawley trong bộ phim "Downton Abbey", bà đã nhận được một giải Quả cầu vàng và hai giải Emmy liên tiếp cho vai diễn này.
Tháng 9 năm 2012, bà đã được tôn vinh bằng giải thưởng Di sản tại liên hoan Stratford Shakespeare ở khách sạn Fairmont Royal York.
Tiểu sử.
Margaret Natalie Smith được sinh ra tại Ilford, Essex, là con gái của Margaret Smith (nhũ danh Hutton), một thư ký quê ở Glasgow, và Nathaniel Smith, một nhà bệnh lý học làm việc tại trường Đại học Oxford quê ở Newcastle upon Tyne. Bà có hai người anh trai sinh đôi, Alistair và Ian. Smith theo học tại trường Trung học Oxford.
Sự nghiệp.
Năm 1952, được sự giới thiệu của Oxford University Dramatic Society, Smith bắt đầu sự nghiệp của mình với vai diễn Viola tại nhà hát Oxford, sau đó tham gia bộ phim đầu tay vào năm 1956. Vai diễn chuyên nghiệp đầu tiên trên sâu khấu Broadway của bà nằm trong vở "New Faces of '56". Smith làm việc tại nhà hát Hoàng gia trong những năm 1960, đáng chú ý nhất là vai Desdemona trong vở "Othello", và nhận được đề cử Oscar đầu tiên cho vai diễn của mình trong bộ phim cùng tên năm 1965.
Bà xuất hiện cùng Ronnie Barker tại nhà hát Oxford trong nhiều vở kịch như "The Housemaster".
Năm 1969, Smith nhận được giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất với vai diễn một giáo viên người Scotland trong bộ phim "The Prime of Miss Jean Brodie", cũng như giải Oscar cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất với vai diễn Diana Barry trong bộ phim "California Suite". Bà cũng cùng Michael Palin xuất hiện trong các bộ phim "The Missionary" và "A Private Function".
Smith tham gia "Sister Act" vào năm 1992 và thủ vai chính trong "Tea with Mussolini" vào năm 1999 với vai Lady Hester.
Những vai diễn đáng chú ý khác của Smith bao gồm vai Charlotte Bartlett trong bộ phim "A Room with a View" do hãng Merchant Ivory sản xuất, vai Nữ công tước York trong bộ phim "Richard III" của Ian McKellen và vai Lila Fisher trong bộ phim "Love and Pain and the Whole Damn Thing" năm 1973. Nhờ sự thành công toàn cầu của loạt phim "Harry Potter", bà được biết đến một cách rộng rãi với vai Giáo sư Minerva McGonagall. Trước đó bà đã từng cùng Daniel Radcliffe xuất hiện trong bộ phim "David Copperfield" của BBC. Smith cũng thủ vai Wendy trong bộ phim "Hook" về Peter Pan, và vai bà Medlock trong bộ phim "The Secret Garden".
Năm 2010, bà bắt đầu tham gia phim truyền hình "Downton Abbey" trong vai Violet Crawley. Với vai diễn này, bà nhận được hai giải Emmy cũng như đề cử thứ chín của mình cho giải Quả cầu vàng ở hạng mục nữ diễn viên phụ trong phim truyền hình xuất sắc nhất vào năm 2012. Năm 2013, bà đã chiến thắng ở hạng mục này.
Bà đã xuất hiện trong rất nhiều vở kịch tại liên hoan Stratford Shakespeare ở Stratford, Ontario từ năm 1976 đến năm 1980, bao gồm vai nữ hoàng Elizabeth trong vở "Richard III", Cleopatra, Lady Macbeth, Virginia Woolf trong vở "Virginia" cũng như đóng cùng Brian Bedford trong những vở kịch như "Private Lives" của Noël Coward, Tháng 9 năm 2012, Smith nhận được giải thưởng Di sản danh giá của liên hoan Stratford Shakespeare cho sự nghiệp của mình.
Trên sân khấu Broadway, Smith xuất hiện trong những vở kịch như "The Lady in the Van" và "Private Lives". Bà nhận được giải Tony cho nữ diễn viên kịch xuất sắc nhất vào năm 1990 với vai một hướng dẫn viên du lịch lập dị trong vở "Lettice and Lovage" của Peter Shaffer. Năm 2007, bà tham gia vở "The Lady from Dubuque" của Edward Albee tại nhà hát Royal Haymarket.
Năm 1954, Smith xuất hiện trong chương trình truyền hình "Oxford Accents" của BBC do Ned Sherrin sản xuất. Bà đóng nhiều vai trong vở "New Faces of 1956" tại nhà hát Ethel Barrymore từ ngày 14 tháng 6 đến ngày 22 tháng 12 năm 1956. Smith cũng tham gia vở nhạc kịch hài "Share My Lettuce" được dựa trên cuốn sách của Bamber Gascoigne, công diễn tại Lyric Hammersmith vào ngày 21 tháng 8 năm 1957. Sau đó vở kịch được chuyển đến nhà hát Comedy vào ngày 25 tháng 9 năm 1957 và nhà hát Garrick vào ngày 27 tháng 1 năm 1958. Các màn biểu diễn của Smith trong vở kịch này bao gồm "Love's Cocktail" (solo), "On Train He'll Come" (solo), "Party Games" (solo), "Bubble Man" (cùng với Kenneth Williams) và "Menu" (cùng với Kenneth Williams). Một trong những sự biểu dương đầu tiên dành cho diễn xuất của bà là đề cử giải Gương mặt mới triển vọng nhất của Viện Hàn lâm Nghệ thuật Điện ảnh và Truyền hình Anh quốc (bộ phim "Nowhere To Go" năm 1958). Ở Hollywood, bà được đề cử giải Quả cầu vàng cho Ngôi sao mới của năm (hạng mục nữ diễn viên) vào năm 1964 với vai diễn của mình trong bộ phim "The V.I.P.s".
Năm 2012, Smith thủ vai chính Muriel trong bộ phim hài "The Best Exotic Marigold Hotel", cũng như vai Jean Horton trong phim "Quartet".
Smith nhận được bằng Tiến sĩ Văn học danh dự của trường Đại học Bath. cũng như hai bằng danh dự khác của trường Đại học St. Andrews vào năm 1971 và trường Đại học Cambridge vào năm 1995.
Năm 1999, Smith nhận được giải thưởng William Shakespeare do Shakespeare Theatre Company trao tặng tại Washington, DC.
Đời tư.
Smith đã kết hôn hai lần. Bà kết hôn với diễn viên Robert Stephens vào ngày 29 tháng 6 năm 1967 tại Greenwich, 10 ngày sau khi đứa con đầu lòng của họ được sinh ra. Họ có với nhau hai người con trai, Chris Larkin (sinh năm 1967) và Toby Stephens (sinh năm 1969), sau đó ly hôn vào ngày 6 tháng 5 năm 1974.
Bà kết hôn với nhà soạn kịch Beverley Cross vào ngày 23 tháng 8 năm 1975 tại Guildford; ông qua đời vào ngày 20 tháng 8 năm 1998.
Năm 2007, tờ "Sunday Telegraph" cho biết rằng Smith được chẩn đoán là đã mắc bệnh ung thư vú, nhưng sau đó bà đã bình phục hoàn toàn.
Smith cũng đã tham gia vào nhiều hoạt động từ thiện. Tháng 9 năm 2011, bà hỗ trợ quyên góp 4.6 triệu đô la Mỹ để xây dựng lại nhà hát Court ở New Zealand sau vụ động đất Christchurch năm 2011. Tháng 7 năm 2012, bà trở thành người bảo trợ cho Hiệp hội Bệnh tăng nhãn áp Quốc tế với mong muốn hỗ trợ tổ chức này cũng như tăng nhận thức thức về bệnh tăng nhãn áp. Ngày 27 tháng 11 năm 2012, Smith quyên góp một bức tranh vẽ bàn tay của mình cho cuộc đấu giá Celebrity Paw năm 2012 để gây quỹ cho Cats Protection. | 1 | null |
Nguyễn Nguyên Thành (1825-1887), tự Uẩn Phủ, hiệu Hương Phong, là một danh sĩ Việt Nam và cũng là một trong những lãnh tụ của Phong trào Văn thân cuối thế kỷ 19.
Thân thế.
Nguyễn Nguyên Thành sinh năm Ất Dậu (1825), người thôn Cẩm Ngọc, xã Đô Lương, tổng Đô Lương, huyện Lương Sơn, phủ Anh Sơn (nay là xã Đông Sơn, huyện Đô Lương), tỉnh Nghệ An.
Cha của Nguyễn Nguyên Thành là Nguyễn Hữu Tố, từng đỗ Cử nhân khoa Kỷ Mão (1819), từng làm Án sát, Bố chính hai tỉnh Sơn Tây và Hưng Yên, được bổ làm Hàn lâm trực học sĩ, mất năm Nhâm Tý (1852). Hai anh trai là Tú tài Nguyễn Nguyên Đấu và Cử nhân Nguyễn Nguyên Đốc, Nguyễn Nguyên Thành là con thứ 3. Theo sách "Quốc triều hương khoa lục" (Cao Xuân Dục chủ biên), ông còn có một người em trai là Nguyễn Đình Giác cũng đỗ Cử nhân.
Do ảnh hưởng từ cha và các anh trai, thời trẻ Nguyên Nguyên Thành đã nổi tiếng danh sĩ. Bấy giờ ở xứ Nghệ có câu: "Văn Giao, phú Tạo, thơ Thành", tức là văn hay có Nguyễn Văn Giao, phú giỏi có Hồ Sĩ Tạo, thơ đặc sắc có Nguyễn Nguyên Thành.
Sự nghiệp quan trường.
Nguyễn Nguyên Thành đậu Tú tài Khoa Bính Ngọ triều vua Thiệu Trị (1846) tại trường Nghệ An, hai năm sau ông đỗ Cử nhân năm Mậu Thân 1848, ông tiếp tục thi Hội và đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa thi năm Tân Hợi, niên hiệu Tự Đức năm thứ 4 (1851), khi mới 27 tuổi.
Sau khi đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân, ông được bổ làm Biên tu ở Quốc sử quán, năm Nhâm Tý (1852), cha là Nguyễn Hữu Tố qua đời, ông xin cáo quan đưa linh cữu cha về quê nhà ở thôn Cẩm Ngọc an táng, mãn tang cha ông được bổ làm tri phủ Lý Nhân.
Sau khi được triều đình bổ dụng, ông làm đến bậc quan hàm Hồng lô tự thiếu khanh, sung nội các Tham biện.
Do có nhiều đóng góp cho triều đình, ông được vua Tự Đức nhiều lần ban thưởng, trong đó có nghiên đá Đoan Khê.
Vào một ngày đông, Nguyễn Nguyên Thành ốm nặng, ông được vua ban cho sâm quế và lộ phí về quê dưỡng bệnh. Ông lập một thư phòng bên cạnh núi Khải Sơn ở thôn Thuận Lạc, xã Trường Mỹ, huyện Lương Sơn (nay là xóm 8, xã Lạc Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An) đã đọc sách và dưỡng bệnh. Tuy ốm đau nhưng ông vẫn rất minh mẫn, thấu hiểu việc đời nên thường được dân làng bái thỉnh chuyện làm ăn, lối sống hàng ngày.
Năm 1856, gia đình Nguyễn Nguyên Thành đóng góp nhiều công sức cùng dân phủ Anh Sơn xây dựng Văn miếu Anh Sơn tại xã Thanh Lưu, huyện Lương Sơn, nay là khu vực xã Lưu Sơn và thị trấn Đô Lương. Văn miếu Anh Sơn gồm 4 tòa: 2 tòa có 7 gian và 2 tòa có 4 gian. Hiện nay Văn miếu Anh Sơn không còn nữa .
Thủ lĩnh nghĩa quân chống Pháp.
Giữa cuối thế kỷ 19, người Pháp dùng vũ lực buộc triều đình Đại Nam ký kết các điều ước bất bình đẳng, chấp nhận quyền bảo hộ của người Pháp trên lãnh thổ Đại Nam. Chán nản thời cuộc, ông cáo quan về nghỉ vào năm 1875. Năm 1885, vua Hàm Nghi xuất bôn và hạ chiếu Cần Vương, ông mộ quân khởi nghĩa tại quê nhà cùng thời gian với Nguyễn Xuân Ôn và Lê Doãn Nhã. Dưới cờ của ông có các nghĩa sỹ: Nguyễn Nguyên Giới, Đinh Viết Kiểm (đốc vận binh lương), Võ Văn Vòng (đốc chiến), Lê Sỹ Hạnh, Lê Bá Thân (hiệp quản), Hoàng Văn Chín (tác vị), Trần Văn Sinh (Lãnh binh), Đinh Văn Ái, Phạm Đình Kiếng (suất đội), Thái Bà Đình (đốc binh)... với khoảng 300 nghĩa dũng. Ông đã chỉ huy các trận chiến đấu với định một số trận ở Đô Lương và các vùng xung quanh, sau đó phối hợp cùng với Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ôn, Phó bảng Lê Doãn Nhã, Cử nhân Trần Quang Diệm, Cử nhân Đinh Nhật Tân... chiêu mộ nghĩa quân làm lễ tế cờ ở làng Quần Phương, Nghệ An, sau đó kéo lên đóng quân ở vùng núi huyện Yên Thành, lập căn cứ kháng chiến lâu dài. Tôn Thất Thuyết lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi cử người tới phong Nguyễn Xuân Ôn làm An Tĩnh hiệp đốc quân vụ đại thần, có nhiệm vụ thống lĩnh nghĩa quân hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh chống Pháp. Lê Doãn Nhã được phong Phó tướng; Trần Quang Diệm, Đinh Nhật Tân, Nguyễn Nguyên Thành được cử làm Tán tướng quân vụ, cùng các thủ lĩnh được phong chức đề, đốc, hiệp quản khác như Đề Kiều, Đề Mậu, Đề Nhục, Lãnh Bảng, Lãnh Thừu, Lãnh Phương, Lãnh Tư, Đốc Nhạn, Đề Niên, Đề Vinh, Đề Thắng.
Khi nghĩa quân của Nguyễn Xuân Ôn thất bại, ông kéo quân lên vùng Cây Chanh Ngũ Võ, Hội Lâm thuộc huyện Anh Sơn bây giờ, định dựa vào thế hiểm yếu của núi rừng và phối hợp với nghĩa quân của Quản Bông đang hoạt động ở Con Cuông làm kế lâu dài.
Tại đây ông gặp Đinh Công Tráng sau khi thất bại ở Ba Đình (Thanh Hóa), Đinh Công Tráng cũng đem một số nghĩa quân vào đóng ở Vạn Thiện (Anh Sơn). Hai người mưu tính đánh địch nhưng mới ra quân đã thất bại. Hai ông tìm đường sang Thái Lan nhưng không được vì mưa to nước lũ. Trở về, Đinh Công Tráng bị địch phục kích bắn chết ở làng Trung Yên. Nguyễn Nguyên Thành định lấy vùng Môn Sơn Lục Dạ làm căn cứ. Nhưng vào một đêm, ông về đến Lãng Điên (Anh Sơn) thì bị lính Pháp ụp bắt, sau ít ngày bị giam ở nhà lao Vinh, ông đau nặng rồi qua đời (giữa tháng 11 năm 1887).
Trước tác.
Vốn nổi dang giỏi thơ từ nhỏ, Nguyễn Nguyên Thành làm nhiều thơ chữ Hán và Nôm, tuy nhiên trước tác của ông hiện nay còn lại không nhiều. Chỉ còn lại bài: Tự thuật, Ký Nguyễn Đức Đạt thám hoa, Ngẫu hứng...
Dưới đây là bản dịch bài Ký Nguyễn Đức Đạt thám hoa:
I.
Núi rừng, nghe nói bác tiêu dao
Cát bụi trần ai vấy được nào
Lắm bệnh, tôi lui về ở ẩn
Ha e chỉ trích thấp hay cao.
II.
Bờ Bắc, bờ Nam cách chuyến đò
Khi li, khi hợp chục năm dư
Thú vui gò suối không ai ghét
Đào nhạo, rườm tai bậc ẩn cư.
Thờ tự.
Nhà thờ ông nay ở Xóm 2 xã Đông Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Hiện vẫn còn lưu giữ được nhiêu hiện vật như Bia đá (được làm năm Mậu Tý 1880, do các học trò là phó bảng, cử nhân, tú tài phụng soạn), Kiệu, sắc phong và các đồ tế khí liên quan.
Nhà thờ tiến sĩ Nguyễn Nguyên Thành được Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An công nhận là Di tích lịch sử văn hóa.
Tên ông dự định đặt cho một con đường ngắn nối đường Hải Thượng Lãn Ông và đường Lý Tự Trọng tại phường Hà Huy Tập, thành phố Vinh nhưng nhiều ý kiến phản đối nên đã không thực hiện (đường này sau đặt là Phan Thái Ất). | 1 | null |
Chùa Long Quang (tên chính thức là Long Quang Cổ Tự, chữ Hán: 隆光古寺) là một ngôi cổ tự bên bờ sông Bình Thủy; hiện tọa lạc tại số 155/6, khu vực Bình Chánh, phường Long Hòa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ, Việt Nam.
Lịch sử.
Chùa Long Quang do Thiền sư Thiện Quyền lập vào năm Minh Mạng thứ 5 (Giáp Thân, 1824). Lúc đầu, chùa chỉ là một am nhỏ bằng cây lá. Đến năm 1829, Thiền sư Thiện Quyền cho cải tạo lại thành một ngôi chùa bậc trung. Có thể, trong khoảng thời gian này chùa được đặt tên là Long Trường với ý nguyện cầu mong ngôi chùa được vững bền . Năm 1835, Thiền sư lại cho trùng tu chùa.
Sau khi Thiền sư Thiện Quyền qua đời, khoảng năm Kỷ Mùi (1859) có nhà sư Quảng Hiền (họ Trần) đến làm Trụ trì chùa. Lúc bấy giờ ngôi chùa đã bị hư hỏng nặng, Sư bèn vận động đồ chúng góp công của xây dựng lại chùa, đến khoảng năm 1861 thì hoàn thành và đổi tên lại là Long Quang.
Năm Kỷ Sửu (1889), có Hòa thượng Từ Quang (pháp hiệu Ngộ Cảm), đến làm Trụ trì chùa. Ở đây, nhà sư vừa tu, vừa bốc thuốc chữa bệnh cho dân, nên được nhiều người tôn kính. Năm 1922, nhà sư Từ Quang đã cho tạc khoảng 50 pho tượng thờ bằng gỗ giáng hương. Đặc biệt hơn cả là bộ Thập Bát La Hán (mỗi tượng cao 80 cm, có tư thế ngồi khác nhau trông rất sinh động) được chạm khắc và đục đẽo từ một khối gỗ, chứ không chắp ghép từng phần. Các tác phẩm ấy đều do một thợ nhóm điêu khắc (đứng đầu là ông Tài Công Kiểm) ở Cần Thơ xưa thực hiện .
Sau khi Hòa thượng Từ Quang viên tịch (1924), học trò của Hòa thượng là nhà sư Trí Thới lãnh nhiệm vụ Trụ trì chùa. Năm Canh Ngọ (1930), ngôi chùa đã bị xuống cấp trầm trọng, lại được sự ủng hộ của các Phật tử, nên sư Trí Thới liền cho tái thiết lại chùa, đến cuối năm 1930, thì hoàn thành. Sau lần trùng tu này, chùa có quy mô kiên cố (tường gạch, mái lợp ngói) gồm một ngôi chánh điện (3 gian) rộng rãi và một nhà khói (nhà bếp).
Trong khoảng thời gian này, nhà sư Trí Thới có mời ông Tòng Hiên (là một Văn Thân ở Quảng Ngãi chạy vào Nam lánh nạn) đến ở tại chùa, để bốc thuốc và dạy chữ cho người dân ở địa phương. Sau một thời gian hoạt động, ông Tòng Hiên bị mật thám của chính quyền thuộc Pháp nghi ngờ, nên ông phải lánh qua chùa Long Phước ở Nha Mân (nay thuộc Châu Thành, Đồng Tháp). Sau, lại bị họ phát hiện, nên ông phải trở lại chùa Long Quang lần thứ hai, và được nhà chùa bảo bọc cho đến mười năm sau ông mới trở về Quảng Ngãi.
Tháng 9 năm 1945, quân Pháp trở lại Việt Nam lần thứ hai. Ủng hộ công cuộc chống Pháp của nhân dân Việt, chùa Long Quang trở thành nơi nuôi chứa của nhiều chiến sĩ hoạt động trong nội thành. Năm 1947, hưởng ứng lời kêu gọi "Tiêu thổ để kháng chiến", Thiền sư Trí Thới hiệp cùng tăng chúng tại đây đã tháo dỡ toàn bộ chùa Long Quang để làm vật cản ngăn tàu Pháp tại Rạch Cam; đồng thời hiến hết các đồ thờ bằng đồng để đúc đầu đạn, trong đó có một đại hồng chung cổ .
Năm 1963, Thiền sư Trí Thới viên tịch. Năm sau (Giáp Thìn, 1964), thầy Thích Chơn Khánh đến trông coi chùa. Lúc bấy giờ ngôi nhà chùa đã xuống cấp, lại được Phật tử và nhân dân trong vùng ủng hộ, nên thầy Chơn Khánh đã tiến hành xây cất lại chùa Long Quang trên nền cũ.
Khi công trình gần xong, thì bị bom đạn chiến tranh làm hư hạị nhiều nên phải làm lại, mãi đến năm Bính Ngọ (1966), ngôi chánh điện mới được xây xong. Theo tài liệu, thì trước năm 1975, trong cuộc đấu tranh chống Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa, chùa Long Quang cũng từng là nơi ở, là điểm liên lạc của nhiều cán bộ thuộc Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ở Cần Thơ.
Trụ trì chùa được gần 20 năm, năm 1983, nhà sư Thích Chơn Khánh viên tịch. Gần 10 năm sau đó, nhà chùa không có nhà sư nào đến làm chủ trì. Việc nhang đèn được một số Phật tử ở gần chùa trông coi.
Đến năm Nhâm Thân (1992), nhận được lời thỉnh cầu của các Phật tử tại địa phương, Ban trị sự Giáo hội Phật giáo tỉnh Cần Thơ bổ nhiệm Thượng tọa Thích Bình Tâm. Tháng 12 năm 1994, các ban ngành chủ quản hiệp cùng Trụ trì và các Phật tử đã tái thiết lại ngôi chùa Long Quang với dáng vẻ như hiện nay .
Năm 2010 - 2011, ngôi chùa lại được tu sửa.
Ban đầu, các vị sư của chùa tu theo phái Lâm Tế có nguồn gốc từ Trung Quốc. Hiện nay nhà chùa đã gia nhập Giáo hội Phật giáo Việt Nam và chuyển thành hệ phái Bắc tông.
Kiến trúc.
Chùa Long Quang tọa lạc trong một khuôn viên rộng khoảng 7.000 m² nằm cạnh con đường nhỏ trải nhựa và một con rạch nhỏ. Từ ngoài vào trong, có các hạng mục đáng chú ý sau:
Cổng tam quan bằng gạch với hai tầng mái ngói, đầu mái uốn công có gắn hoa văn. Bên trên nóc có gắn đôi rồng trắng ngẩng cao đầu quay ngược vào bánh xe pháp luân ở giữa. Hai cột chính có đôi hai câu liễn đối bằng chữ Hán.
Ngôi chánh điện rộng 324 m², xây theo lối kiến trúc "Thượng lầu Hạ hiên" (ảnh 2), với mái ngói và tường gạch, cà có tất cả năm cửa ra vào (trước: 2, sau: 1, bên hông: 2).
Ngay giữa trung tâm là điện thờ chính. Ở đây, bên trên có treo bức hoành phi bằng gỗ được chạm trổ tinh xảo ở giữa gắn bốn chữ Hán "Đại Hùng Bảo Điện"; bên dưới gắn khung bao lam cũng được chạm trổ hoa văn tinh xảo thếp vàng, hai bên cũng có gắn hai câu liễn đối bằng chữ Hán.
Điện thờ chính được đóng bằng gỗ có 2 bậc. Bậc cao kê 3 ghế thờ, tôn trí ba pho tượng Tam Thế Phật (A Di Đà, Đại Thế Chí, Quán Thế Âm) bằng gỗ cao hơn một mét tạc theo tư thế ngồi; bậc thấp tôn tượng Bồ Tát Di Lặc.
Ở phía trước bậc cao vừa kể là tượng Phật Thích Ca nhập niết-bàn, bằng gỗ dài một mét, được chạm trổ hoa văn tinh xảo. Đối diện điện thờ chính là bàn thờ Vi Đà Hộ pháp và Tiêu Diện Đại Sĩ (Ông Tiêu).
Sát vách bên phải, trên kệ dài bày trí 9 tượng La Hán, kế tiếp bàn thờ Địa Tạng Bồ Tát, phía sau là bàn thờ Ngọc Hoàng Thượng đế (hai bên có Nam Tào, Bắc Đẩu).
Sát vách bên trái, trên kệ dài bày trí 9 tượng La Hán (đối diện với 9 tượng bên phải), kế tiếp là bàn thờ Quán Thế Âm (hai bên có Thiên Tài và Đồng Tử).
Phía sau điện thờ chính là bàn thờ Hậu Tổ. Phía trên là tượng Phật Mẫu Chuẩn Đề, bên dưới có tượng Bồ Đề Đạt Ma. Chung quanh bày trí các long vị, các bức di ảnh của các cố Trụ trì chùa. Sát vách hai bên cửa sau có đặt hai bàn thờ, bên phải thờ các tượng Quan Công, Giám Trai..., bên trái thờ các tượng Diêm Vương, Long Vương và Phán quan...
Phía sau tòa nhà chính điện là khu Tháp rộng hơn 2.000 m², có trồng nhiều hoa kiểng, cây bonsai, cây ăn trái... Đây nơi chứa di cốt của các cố Trụ trì chùa trước đây.
Di tích Quốc gia.
Ngày 21 tháng 6 năm 1993, ngôi chùa đã được công nhận là di tích "Kiến trúc Nghệ thuật" cấp quốc gia, theo Quyết định số 774/1993/QĐ-BT của Bộ Văn hóa-Thông tin . | 1 | null |
Ngũ hình quyền hay Ngũ hình (tiếng Trung Quốc: 五形; bính âm: wǔ xíng) là một thuật ngữ võ công truyền thống của Trung Hoa trên nền tảng Hình ý quyền (những võ công mô phỏng theo động tác của các loài động vật) trong đó được đặc trưng với sự mô phỏng động tác năm loài linh vật là Long (rồng), Xà (rắn), Hổ, Báo và Hạc. Đây là hệ thống quyền công quan trọng bậc nhất của các phái võ phương Nam (Nam phái) của Trung Hoa. Trong các hệ phái võ công Trung hoa ở Quảng Đông và Phúc Kiến thì hệ thống ngũ hình (05 loài vật) có sự khác biệt so với khởi thủy gồm Hổ, Hạc, Xà (giống võ công khởi thủy) và Hầu (khỉ), Đường lang (bọ ngựa) thay cho Long và Báo.
Tổng quan.
Một trong những nét đặc sắc của võ thuật cổ truyền Trung Hoa dựa trên sự nghiên cứu thói quen và tư thế chiến đấu của loài vật. Trải qua nhiều thế kỷ, đặc tính của các loài vật và ngay cả côn trùng đã được mô phỏng, rút tỉa tinh hoa, tái tạo thành kỹ thuật chiến đấu cho con người. Việc nghiên cứu về tư thế chiến đấu của loài vật tác động lớn vào nền võ thuật cổ truyền Trung Hoa và thành quả có được chính là Ngũ Hình Quyền, một bộ phận chính thống trong võ công Thiếu Lâm có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của nhiều môn võ khác.
Nguyên thủy của ngũ hình quyền được bắt đầu từ Hình ý quyền của Võ phái Thiếu Lâm Hà Nam, sau đó được phát triển mạnh mẽ thông qua hệ thống ngũ hình quyền ở phái Vịnh Xuân Quyền và Hồng Gia Quyền. Ngoài ra một yếu tố liên hệ đến là bài Ngũ Cầm Hí (五禽戲), tập luyện dựa theo động tác của năm loài vật: hổ, hươu, gấu, khỉ và chim của Hoa Đà.
Ngũ Hình quyền có nguồn gốc ban đầu từ Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam vào thời nhà Nguyên do Thu Nguyệt thiền sư, là pháp danh của Bạch Ngọc Phong, sáng tác trên cơ sở phát triển của 173 chiêu thức của La Hán Thập Bát thủ (18 thế tay của phật A La Hán) để chế ra Ngũ Hình quyền gồm các bài quyền dựa theo những con thú nói trên và một bài tổng hợp của năm con thú. Sau này bộ Ngũ Hình quyền này đã truyền vào chùa Nam Thiếu Lâm ở Phúc Kiến, do vậy các phái võ miền Nam Trung Hoa có nguồn gốc từ Nam Thiếu Lâm Phúc Kiến đều có Ngũ Hình quyền, ví dụ như Vịnh Xuân quyền chẳng hạn cũng có bài Ngũ Hình quyền riêng không giống Ngũ Hình quyền của Hồng Gia quyền.
Trong các yếu tố trên thì "Long quyền" thuộc hỏa, lấy tâm làm chủ, luyện thần. "Xà quyền" thuộc hành kim, chủ phế, luyện khí (tiên thiên). "Hổ quyền" thuộc mộc, chủ can, luyện lực. "Báo quyền" hành thổ, chủ tì, luyện gân. "Hạc quyền" thuộc thủy, chủ thận, luyện tinh. Hệ thống ngũ hình còn gắn với triết lý Ngũ hành của Phương Đông và lấy làm căn bản trong các võ phái sau này. Con vật được nhắc đền đầu tiên trong hệ thống ngũ hình quyền cũng như hình ý quyền nói chung là hổ, là con vật được nhắc đến nhiều nhất trong các bài mô phỏng về động tác của thú, trong hình ý quyền thì hổ thuộc mạng mộc và tiêu biểu cho mùa xuân.
Hệ thống quyền.
Long hình Quyền.
Long Hình Quyền chú trọng vào trảo thủ (khống chế, khóa, vặn) và chưởng pháp, nổi tiếng với nhiều trảo thủ khác biệt như: Thần Long Triển Trảo; Kim Long Thí Trảo; Thần Long Nhập Hải. Mặc dù Trảo Thủ thường được sử dụng nhiều nhất trong Long Hình Quyền nhưng các đòn đánh bằng Quyền và Chưởng vẫn được lưu ý tới. Các thế Quyền đặc sắc trong Long Hình Quyền là: Long Bái Vĩ; Thanh Long Xuất Hải; Kim Long Vọng Nhật… Long hình quyền nằm trong hệ thống ngũ hình quyền cổ điển nhưng hệ thống ngũ hình quyền sau này không có sự hiện diện. Một phần bởi hình tượng con rồng là sản phẩm của trí tưởng tượng nên động tác khó hình dung để mô phỏng, mặt khác về cơ bản thì con rồng Trung Hoa là dạng rắn do đó những động tác tinh túy đã được thể hiện trong xà hình quyền
Xà hình quyền.
Xà hình quyền hay còn gọi là võ rắn nhất mạnh tới sự chính xác. Khởi thủy trong tự nhiên, do thiếu tay, chân, loài rắn phải cử động bằng cách vặn bẻ ngoằn ngoèo toàn thân. Để tạo hiệu năng chiến đấu, loài rắn phải san lấp nhược điểm thiếu chân của mình bằng một số điều, chẳng hạn như: có thể cuộn mình và vươn thẳng đứng, như giống rắn hổ thường làm. Từ thế cuốn khúc này, với sự chính xác và một tốc độ nhanh, nó phóng thẳng về phía con mồi. Chính từ ngay sự xung kích và cử động bẻ vặn thân mình, rắn đã đạt tới một uy lực và sức mạnh lớn.
Cốt lõi của Xà Hình Quyền là phát triển và tăng bồi Khí lực, tức là một tinh thể cho phép tập trung và thấu chuyển uy lực vào các đòn đánh (các đòn chọc). Các thế võ từ đầu ngón tay của Xà hình quyền: Thanh Xà Xuất Động; Thủy Xà Thượng Diện. Mặc dù có vẻ mềm mại, mọi động tác của người sử dụng Xà Hình Quyền đều mau lẹ và mạnh mẽ. Khi được sử dụng bởi một cao thủ, sức mạnh của khí lực nội tại sẽ tạo nên một uy lực có thể lớn nhiều lần sức mạnh bình thường của con người.
Hổ hình quyền.
Hổ là biểu tượng cho võ thuật, đặc biệt là võ thuật cổ truyền Phương Đông. Khi ngắm hoạt động của loài hổ, các nhà sư Thiếu Lâm đã thấy được sức mạnh, sự dũng cảm và uy lực của chúng và đi tới kết luận đây là con vật có giá trị vô biên với tư cách một mẫu mực để noi theo rèn luyện võ thuật. Trong tự nhiên, hồ là con vật mau lẹ và quyết liệt, kết hợp giữa sức mạnh và sự uyển chuyển, mềm mại. Động tác tấn công của hổ là động tác ép tới giống như đang bị xô bởi một cỗ xe. Sức hổ là một loại ngoại lực cương mãnh hung bạo.
Hổ Hình Quyền có điểm chủ tạo là một thể cốt mạnh mẽ, chú trọng vào xương cốt. Kỹ thuật căn bản trong Hổ Hình Quyền là hổ trảo. Các thế đánh bằng trảo thủ nổi tiếng là: Mãnh Hổ Hồi Đầu, Ngạ Hổ Khiên Dương, đặc biệt là Lão Hổ Tiển Đầu; Mãnh Hổ Thôi Sơn. Khi thực hiện Hổ Hình Quyền, võ sĩ phải cảm và nghĩ như mình là một con hổ hoang vừa rời núi. Uy lực luôn luôn đến do lòng tự hào. Đây là lúc tinh thần của con cọp hoang hiển hiện để tăng thêm uy lực phi thường cho mọi cuộc chiến đấu.
Một nhánh nhỏ trong Hổ hình quyền là Bạch Hổ Quyền được sáng tạo bởi sự phụ Lâm Đạo Thai chuyên tấn công vào hạ bộ. Đây là môn võ với đặc trưng là tấn công vào chỗ hiểm của con người, nhất là vùng bộ hạ (cơ quan sinh dục). Tương truyền, một hôm Lâm Đạo Thai đang đi du ngoạn trên ngọn núi thì trông thấy một con cọp trắng nhỏ và một con khỉ đột lớn đang giao đấu. Con cọp trắng con thất thế trước một địch thủ quá to lớn. Cuối cùng con khỉ đột chụp được con cọp và sửa soạn xé ra làm hai mảnh, thì bất đồ cọp trắng vùng dậy tát mạnh vào hạ bộ của khỉ đột. Con khỉ rú lên rồi ngã xuống chết tươi. Chứng kiến cảnh đó, Lâm Đạo Thai đã sáng tạo ra môn võ Bạch Hổ Quyền.
Báo hình quyền.
Bài chi tiết: Báo hình quyền
Là môn võ được hình thành do mô phỏng động tác của loài báo, chú trọng vào sự nhanh nhẹn, tốc độ, khéo léo nhưng không kém phần cương mãnh như Hổ hình quyền. Trong hệ thống Ngũ hình quyền cổ điển, Báo hình quyền góp mặt nhưng trong hệ thống Ngũ hình quyền cách tân thì không góp mặt, một phần do cơ bản những động tác của loài báo có phần giống với loài hổ do đó để tránh trùng lắp, người ta đã chọn Hổ hình quyền.
Hạc hình quyền.
Hạc hay chính xác hơn là sếu là một loài chim nổi tiếng về tuổi thọ và một dục tính dị thường. Do dục tính dị thường biểu thị một nguồn năng lực sung mãn và do tính biểu thị cho sự trường thọ. Luyện Hạc Hình Quyền là cách giúp cho võ sinh kiên thủ nội năng và tăng cường lần sức mạnh về cả hai mặt nội lực và ngoại lực hướng tới sự cân bằng, tĩnh tại và biểu hiện là sự thăng bằng trong các động tác. Tác dụng của việc luyện tập là phát triển khí lực nội tại đồng thời làm cứng chắc xương, và cơ bắp.
Hạc có bản chất trầm lặng tương tự như rắn và cũng như rắn, mọi động tác của hạc để triệt hạ hoặc chế ngự đối thủ đều chỉ dùng một lực tối thiểu. Toàn bộ kỹ thuật Hạc Hình Quyền là những động tác xoay vòng. Tất cả đều nhu nhuyễn và được thư giãn. Tuy nhiên, những động tác này sẽ bật ra một uy lực bất thần, chớp nhoáng ngay khi chạm vào mục tiêu. Nổi tiếng trong Hạc Hình Quyền là những đòn mở rộng tương tự như cánh hạc xòe ra gọi là Hạc Dực. Triết lý này tương tự như Thái cực quyền của Võ Đang.
Hầu quyền.
Hầu quyền hay võ khỉ là một nhánh trong hệ thống Ngũ hình quyền cách tân, những động tác của môn võ này mô phỏng động tác của những con khỉ khi nhảy nhót, nhào lộn. Môn võ này chú trọng vào sự nhanh nhẹn và tinh quái. hầu quyền chú trọng các kỹ thuật nhảy, nhào lộn, chụp bắt làm sở trường. Hầu quyền đòi hỏi ở người sử dụng sự phối hợp nhịp nhàng của thủ pháp, cước pháp và thân pháp linh động nhẹ nhàng. Các động tác của hầu quyền đều phụ thuộc vào tính linh hoạt, nhạy cảm của đôi mắt
Đường lang quyền.
Đường lang quyền hay còn gọi là võ bọ ngựa là một nhánh trong hệ thống Ngũ hình quyền cách tân. Đường lang quyền hình thành do những nhà võ thuật quan sát động tác của con bọ ngựa mà sáng tạo thành. Đường lang quyền Bắc phái là Vương Lang sáng tạo, Nam phái là do Châu Nam sáng lập tại Giang Tây. Cả hai đều nhân khi tình cờ chứng kiến cuộc tranh hùng giữa con bọ ngựa và một con dế, kết quả con dế bị mổ bụng chết. Sau nhiều năm nghiên cứu, họ đã sáng chế ra một phương thức công thủ, rập theo thủ pháp của bọ ngựa, kết hợp cùng những đòn thế của mười tám võ phái gia truyền biến chế thành một võ phái mới. Đường Lang Quyền gồm các bài quyền: Thất Tinh Đường Lang (còn gọi là La Hán Đường Lang), Lục Hợp Đường Lang (còn gọi là Mã Hầu (khỉ ngựa) Đường Lang tức Thái Cực Đường Lang).
Các võ phái.
Hồng Gia quyền.
Điểm nổi bật giống nhau giữa các hệ phái Thiếu Lâm Hồng Quyền do Hồng Hy Quan phát triển là hệ thống Ngũ Hình Quyền dựa trên cơ sở các động tác của Long, Xà, Hổ, Báo, Hạc tượng trưng cho Ngũ Hành (Long (Thổ) luyện Thần, Xà (Thủy) luyện Khí, Hổ (Kim) luyện Xương Cốt, Báo (Mộc) luyện Gân, Hạc (Hỏa) luyện Tinh). Cũng có một số hệ phái Hồng quyền không có hệ thống Ngũ Hình Quyền, những hệ phái Hồng quyền này rất ít và không phải là Hồng quyền tiêu biểu. Hồng Gia Quyền đặc biệt chú trọng đến việc mô phỏng động tác của loài hổ và được chọn lọc để nâng lên thành bài Hổ hình quyền.
Bài Ngũ Hình quyền của Hồng Gia quyền sau này được phát triển lên thành Thập Hình quyền (Long, Xà, Hổ, Báo, Hạc, Tượng, Mã, Sư, Hầu, Bưu), có nhiều lưu phái Hồng Gia quyền của Hồng Hy Quan đã không còn dạy bài Ngũ Hình nữa mà chỉ còn dạy bài Thập Hình. Hiện nay nhiều lưu phái Hồng Gia quyền lấy hẳn bài Thập Hình quyền làm đặc trưng quyền pháp vì trong đó đã có bài Ngũ Hình rồi. Bạch Mi quyền của Bạch Mi đạo nhân sau này cũng được sáng tác trên cơ sở Hổ hình quyền và Báo hình quyền của Ngũ Hình quyền của Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam.
Vịnh Xuân Quyền.
Hệ thống ngũ hình quyền với năm con linh thú (Long, Hổ, Báo, Xà, Hạc) nằm trong chương trình luyện tập của một số dòng phái Vịnh Xuân quyền tại Hà Nội, Việt Nam như Vĩnh Xuân Nội gia quyền, Vĩnh Xuân Ngô gia Hoàng pháp và hiện cũng đã được tập luyện tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Trải qua một tiến trình lịch sử dằng dặc, hệ thống ngũ hình đã được trau truốt, tinh lọc, sửa đổi rất nhiều. Đáng chú ý là sự bổ sung của hệ thống này vào kỹ pháp các dòng phái Vịnh Xuân quyền Việt Nam. Khi nghiên cứu 6 bài quyền (Ngũ hình quyền tổng hợp, Long hình quyền, Hổ hình quyền, Báo hình quyền, Xà hình quyền, Hạc hình quyền), mặc dù đã ít nhiều có sự hòa hợp của hệ thống này so với các công phu Vịnh Xuân quyền truyền thống, người tập vẫn dễ dàng nhận ra một số khác biệt: tính đơn thế và tính chất trường quyền.
Lý giải về sự có mặt của ngũ hình quyền pháp trong Vịnh Xuân quyền Việt Nam không ngoài câu trả lời: sư tổ Tế Công là người am hiểu nhiều dòng phái võ thuật Trung Hoa, khi giảng dạy cho các môn sinh tại Việt Nam, dù vẫn nhấn mạnh công phu Vịnh Xuân, ông cũng có sự kết hợp với các dòng phái khác cho phù hợp với thể chất và năng khiếu của mỗi môn đồ. Lý giải điều đó cũng giúp ta nhận ra tại sao các dòng Vịnh Xuân tại Thành phố Hồ Chí Minh có một hệ thống bài quyền khác biệt với miền Bắc, và nhiều võ sư Vịnh Xuân quyền Việt Nam đã phát triển môn phái theo các hướng khác nhau, dù cùng xuất xứ từ tổ sư.
Theo lưu phái Vịnh Xuân quyền tại Phật Sơn, Quảng Đông và Vịnh Xuân quyền từ Diệp Vấn ở Hong Kong thì Vịnh Xuân quyền chỉ có 4 bài quyền gồm: Tiểu Niệm Đầu, Tầm Kiều, Tiêu Chỉ, và Mộc Nhân Trang có 116 chiêu thức trong đó 1/2 bài là lập lại thành ra chỉ có 58 chiêu thức trên thực tế, khác với bài Mộc Nhân Trang của Vịnh Xuân quyền Hà Nội có 108 chiêu thức.
Tương truyền rằng Nguyễn Tế Công đã du nhập hệ thống Ngũ Hình quyền từ Thiếu Lâm vào Vịnh Xuân vì Nguyễn Tế Công đã từng học qua Thiếu Lâm quyền truyền thống, nhưng trong hệ thống Ngũ Hình quyền này từ Nguyễn Tế Công cho thấy không giống Ngũ Hình quyền của Thiếu Lâm. Ngũ Hình quyền là một hệ thống quyền pháp nổi tiếng tại chùa Thiếu Lâm (Tung Sơn, Hà Nam) và tại chùa Nam Thiếu Lâm (Phúc Kiến).
Hệ thống Ngũ Hình quyền tại chùa Nam Thiếu Lâm ở Phúc Kiến còn tồn tại sót lại trong hệ thống quyền pháp của Thiếu Lâm Hồng gia và Bạch Mi quyền rất rõ nét của Thiếu Lâm quyền còn vương lại nhưng cũng không giống hoàn toàn với Ngũ Hình quyền của Thiếu Lâm (Tung Sơn, Hà Nam).
Hệ thống ngũ hình quyền của các dòng phái Vịnh Xuân Quyền Việt Nam bao gồm 6 bài: | 1 | null |
Bệnh viện Johns Hopkins là một bệnh viện trường đại học nằm ở Baltimore, Maryland, Hoa Kỳ. Được thành lập nhờ tài trợ từ Johns Hopkins, đến nay, đây được coi là một trong những bệnh viện nổi tiếng nhất trên thế giới và năm thứ 17 liên tiếp được phân loại ở vị trí đầu tiên trong bảng xếp hạng của các bệnh viện tốt nhất tại Hoa Kỳ. Nhiều chuyên khoa y tế đã được thành lập tại đây, bao gồm phẫu thuật thần kinh với bác sĩ Harvey Cushin nội tiết với Alfred Blalock; nhi khoa và tâm thần học trẻ em với bác sĩ Leo Kanne. | 1 | null |
Le Locle là một đô thị trong huyện Le Locle, Canton, bang Neuchatel, Tây bắc Thụy Sĩ.
Nó nằm trên dãy núi Jura, cách không xa thành phố La Chaux-de-Fonds. Đây là thành phố nhỏ thứ ba ở Thụy Sĩ (ở Thụy Sĩ phải có hơn 10.000 người mới được coi là một thành phố).
Le Locle được biết đến như một trung tâm sản xuất đồng hồ Thụy Sĩ, khiến nó trở thành thành phố của ngành công nghiệp đồng hồ, với lịch sử có niên đại từ những năm 1600. Một số nhà sản xuất nổi tiếng như Zodiac, Tissot, Ulysse Nardin, Zenith hay Universal Genève, trước khi các công ty chuyển trụ sở tới Geneva. Lịch sử về ngành công nghiệp đồng hồ được lưu giữ trong những viện bảo tàng đồng hồ hàng đầu thế giới như bảo tàng Horlogerie du Locle, lâu đài Monts, nằm trong một trang viên quốc gia trên một ngọn đồi phía bắc của thành phố .Cách trung tâm thành phố không xa về phía Tây là một hang động dưới lòng đất, ở đó có máy nghiền ngũ cốc, xưởng cưa, khai thác dầu mỏ).
Le Locle cùng với La Chaux-de-Fonds phụ thuộc chính vào ngành công nghiệp sản xuất và xuất khẩu đồng hồ. Ngành công nghiệp làm đồng hồ đã được đưa đến Le Locle vào thế kỷ 17 bởi Daniel JeanRichard, một thợ làm đồng hồ, ông đã khuyến khích người dân trong khu vực để bắt đầu sản xuất các bộ phận đồng hồ cho ông trong mùa đông. Trong thế kỷ 20 sản xuất đồng hồ trở thành ngành công nghiệp vi cơ.
Với những giá trị về lịch sử sản xuất đồng hồ, cùng với La Chaux-de-Fonds, Le Locle đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới vào năm 2009. Khu vực được công nhận bao gồm hai thành phố nhỏ nằm gần nhau trên dãy núi Jura (ở độ cao 1.000 m (3.300 ft)). Các tòa nhà cùng xưởng sản xuất đồng hồ được xây dựng hợp lý vào đầu thế kỷ 19, sau một đám cháy khiến thành phố bị thiêu hủy, nhưng nền văn hóa sản xuất đồng hồ thì vẫn còn tồn tại từ thế kỷ 17 tới ngày nay. Quy hoạch đô thị của hai thành phố đã cung cấp quá trình chuyển đổi từ sản xuất của các nghệ nhân của một ngành công nghiệp tiểu thủ công đến tập trung nhiều nhà máy sản xuất vào thế kỷ 19, 20. Karl Marx mô tả La Chaux-de-Fonds như một "nhà máy sản xuất lớn" trong Das Kapital, ông đã phân tích phân công lao động làm đồng hồ trong ngành công nghiệp sản xuất đồng hồ ở Jura.. Cả hai là ví dụ nổi bật về mô hình mono thị trấn công nghiệp vẫn còn hoạt động và bảo quản tốt cho tới nay. | 1 | null |
Sầu hay nỗi sầu hay sầu đời, chán đời là một trạng thái tâm lý, cảm xúc của con người theo đó thể hiện một tinh thần, tâm trạng cảm xúc đi xuống một cách khá trầm trọng và toàn diện, có thể thể hiện ra sắc thái bên ngoài của khuôn mặt, điệu bộ theo kiểu trầm cảm. Người sầu đời thường có những nhìn nhận, suy nghĩ tiêu cực thế thế giới khách quan.
Người sầu đời có thể cảm thấy hoặc lần lượt trải qua những xúc cảm buồn chán, lo lắng, trống rỗng, vô vọng, cô đơn, bất lực, vô giá trị, cảm giác tội lỗi, dễ bị kích thích, tổn thương, hoặc chí ít thì bồn chồn. Họ có thể mất quan tâm đến các hoạt động mất cảm giác ngon miệng hoặc ăn quá nhiều và có thể đi kèm là mất ngủ, trầm cảm hoặc cố gắng tự tử. Mất ngủ, ngủ quá nhiều, mệt mỏi, mất năng lượng, hoặc đau nhức, rối loạn hệ tiêu hóa cũng là tác nhân đi kèm với nỗi sầu.
Sầu đời, chán nản nhất thiết phải là một rối loạn tâm thần. Đó là một phản ứng bình thường với các sự kiện nhất định cuộc sống, một triệu chứng của một số bệnh, và một tác dụng phụ của một số phương pháp điều trị y tế. Tâm trạng chán nản cũng là một tính năng chính hoặc liên quan của một số hội chứng tâm thần như trầm cảm lâm sàng.
Sầu và nỗi sầu là chủ đề được nhắc đến nhiều trong văn thơ, hội họa, nghệ thuật, ca hát hay các lĩnh vực nghệ thuật nói chung. | 1 | null |
Jonas L.A. là album nhạc phim thứ ba của nhóm nhạc pop rock người Mỹ Jonas Brothers và cũng là album nhạc phim duy nhất của họ cho loạt phim truyền hình "Jonas L.A.". Album được phát hành vào ngày 20 tháng 7 năm 2010 với nhiều lời nhận xét tích cực từ phía các nhà phê bình và đã ra mắt tại vị trí thứ 7 trên bảng xếp hạng "Billboard" 200.
Đĩa đơn.
Đĩa đơn chính thức.
"L.A. Baby (Where Dreams Are Made Of)" được phát hành trên Radio Disney vào ngày 7 tháng 5 năm 2010, đạt vị trí quán quân trên Top 30 Countdown, và trở thành đĩa đơn duy nhất từ album đạt được vị trí quán quân trên bảng xếp hạng này. Bài hát được phát hành kỹ thuật số trên iTunes vào ngày 29 tháng 6 năm 2010. "Feelin' Alive" được phát hành trên Radio Disney vào ngày 11 tháng 6 năm 2010, đạt vị trí thứ 6. Bài hát cũng đạt vị trí thứ 16 trên bảng xếp hạng Belgian UltraTop 50 của Bỉ.
Đĩa đơn quảng bá.
"Chillin' in the Summetime" được phát hành trên Radio Disney vào ngày 3 tháng 7 năm 2010. "Hey You" được phát hành trên Radio Disneyvào ngày 9 tháng 7 năm 2010.
Tiếp nhận.
Stephen Thomas Erlewine từ Allmusic bày tỏ: "Có lẽ họ đang chơi theo các quy tắc hơn là họ đã làm trong "Lines", nhưng đó lại là một điều tốt: họ đang để cho mình hành động như những đứa trẻ, chứ không phải là những người trưởng thành, thực hiện chúng với một loạt các giai điệu pop sinh động, sôi nổi."
Danh sách bài hát.
CD tặng kèm
Xếp hạng và chứng nhận.
The soundtrack debuted at #7 on US "Billboard" 200 with over 32,000 copies sold in the first week. The album became the eighth entry of the band in the chart. | 1 | null |
Villa Angarano (Dinh thự Angarano) hay Villa Angarano Bianchi Michiel là một dinh thự ở Bassano del Grappa, Veneto, phía bắc Ý. Ban đầu nó được thiết kế bởi Andrea Palladio, người công bố một thiết kế trong cuốn sách "I quattro libri dell'architettura".
Lịch sử.
Công việc đã được bắt đầu trên thiết kế của Palladio vào những năm 1540. Một quyết định dường như đã đạt được, một ngôi nhà đã có từ trước ở giữa khu vực định xây dựng. Vì lý do tài chính, suýt chút nữa tòa nhà đã không được hoàn thành. Tuy nhiên, tòa nhà trung tâm cuối cùng đã được xây dựng lại theo một thiết kế của Baldassarre Longhena, mà không phải là theo thiết kế của Palladio.
Thiết kế ban đầu bao gồm hầm rượu, chuồng ngựa, chuồng nuôi chim bồ câu, nhà để rượu vang và các không gian tiện dụng khác. Mặc dù việc xây dựng dinh thự chỉ có đóng góp một phần của kiến trúc sư Palladio, nhưng nó vẫn được UNESCO công nhận là một di sản thế giới, một phần di sản kiến trúc của Palladio, với tên Thành phố Vicenza và các biệt thự do Palladio thiết kế ở Veneto. | 1 | null |
là một tác giả light novel và kịch bản game đến từ quận Ibaraki, Nhật Bản. Ông nổi tiếng với tác phẩm light novel "Zero no Tsukaima" và làm việc trong studio game Front Wing.
Tháng 7, 2011, ông tiết lộ trên website của Media Factory rằng ông đang mắc bệnh ung thư giai đoạn sau, phát hiện vào tháng 2 cùng năm nhưng không được chữa trị, và gây ảnh hưởng đến công việc sáng tác 2 tập cuối của "Zero no Tsukaima". Sau một cuộc phẫu thuật khác về sỏi mật, người ta thấy rằng sự phát triển của ung thư đã bị chậm lại, cho phép cuộc phẫu thuật ung thư diễn ra vào tháng 8 năm 2011. Nhưng ông tái nhập viện vào tháng 12 năm 2011, và trải qua một cuộc phẫu thuật khác vào tháng 11 năm 2012. Yamaguchi qua đời ở tuổi 41 vào ngày 4 tháng 4 năm 2013. | 1 | null |
Đền thánh Thánh Tổng lãnh thiên sứ Michael (tiếng Ý: "Santuario di San Michele Arcangelo") còn gọi "Đền thánh Monte Sant'Angelo sul Gargano" hay đơn giản là "Monte Gargano", là một đền thánh và linh địa Công giáo trên núi Gargano, thuộc thị trấn Monte Sant'Angelo, tỉnh Foggia, miền bắc vùng Apulia, Italia.
Đây là ngôi đền cổ nhất ở Tây Âu được cung hiến cho tổng lãnh thiên sứ Michael và đã trở thành một địa điểm hành hương quan trọng từ thời trung cổ. Các di tích lịch sử và các vùng lân cận được bảo vệ bởi vườn quốc gia Gargano.
Trong năm 2011, nó đã trở thành một phần của di sản thế giới Longobards ở Ý.
Lịch sử.
Truyền thuyết về cuộc hiện ra của Tổng lãnh thiên thần tại Gargano có liên quan đến kinh nhật tụng Rôma ngày 8 tháng 4, cũng như trong "truyền thuyết hoàng kim" ("Legenda Aurea"), sách toát yếu truyền thuyết Kitô giáo được biên soạn bởi Jacobus de Voragine vào khoảng 1260-1275.
Theo truyền thuyết này, vào khoảng năm 490, Tổng lãnh thiên thần Michael đã hiện ra nhiều lần với giám muc Siponto gần một hang động, yêu cầu rằng hang động được dành riêng làm nơi thờ phượng của Kitô giáo và hứa sẽ bảo vệ thị trấn gần đó trước quân xâm lược ngoại giáo. Đây là những lần hiện ra đầu tiên của Michael ở Tây Âu.
Giáo hoàng Gelasius I (trị vì 492-496) đã cho xây dựng một đại giáo đường bao quanh nơi đó. Và nhà thờ San Giovanni ở Tumba là nơi an nghỉ cuối cùng của vua Lombard là Rothari (mất 652).
Sau này với sự chuyển cầu và trợ giúp đắc lực của tổng lãnh thiên thần Michael, hiện ra trên đỉnh núi với gươm và lửa, giữa một cơn bão vào đêm trước của cuộc chiến, người Lombard đã chiến thắng những người Hy Lạp trung thành với Đế quốc Byzantine vào ngày 8 tháng 5, năm 663. Trong lễ kỷ niệm chiến thắng đó, nhà thờ Siponto lập một ngày lễ đặc biệt vinh danh Tổng lãnh thiên thần vào ngày 8 tháng 5, sau đó lan rộng ra khắp Giáo hội Công giáo. Kể từ thời Giáo hoàng Piô V, ngày lễ đã được chính thức hóa là "Apparitio S. Michaelis". | 1 | null |
là một bộ phim Nhật Bản được đạo diễn bởi Sato Toya dựa theo anime cùng tên. Bộ phim được phát hành vào ngày 24 tháng 8 năm 2013.
Sản xuất.
Bộ phim khởi quay từ ngày 15 tháng 10 năm 2012 và kết thúc vào tháng 12 năm 2012.
Công ty sản xuất Nikkatsu công bố khoản chi phí phần trang phục của các siêu anh hùng (G-suits) vào khoảng 20 triệu Yên (tương đương 200,000 USD). Diễn viên Tori Matsuzaka, phát biểu: "Trang phục được thiết kế vừa vặn giúp năm người chúng tôi cử động dễ dàng trong những cảnh hành động mạnh mẽ và cho phép chúng tôi bay lượn thoải mái trong những cảnh bay."
Phát hành.
Doanh thu phòng vé.
Trong tuần đầu tiên công chiếu tại Nhật Bản, bộ phim đã thu về 115.650.690 yên từ 307 phòng chiếu, xếp vị trí thứ 6 về doanh thu trong tuần. | 1 | null |
Koi☆Sento (コイ☆セント) là một OVA anime được viết và đạo diễn bởi Morita Shuhei và Sunrise thực hiện. Cốt truyện lấy bối cảnh năm 2710 khi một cậu bé tên Shinichi trong một chuyến đi dã ngoại cùng trường học đến nơi xây dựng phỏng theo thành phố Nara vào thế kỷ 21 nơi phật giáo phát triển rất mạnh cùng với công nghệ khoa học. Trong khi đi dạo thành phố thì một con hưu trắng đã đánh cắp cái túi của cậu và dẫn cậu đến gặp một cô gái lạ mặt đang bị rượt đuổi và từ đó cả hai bắt đầu tìm hiểu nhau.
Tập OVA đã phát hành tại Nhật Bản vào ngày 25 tháng 2 năm 2011. Phiên bản tiếng Anh của OVA do Sentai Filmworks giữ bản quyền phân phối tại thị trường Bắc Mỹ và Madman Entertainment thì phân phối tại Úc và New Zealand.
Âm nhạc.
Tập OVA có hai bài hát chủ đề, một mở đầu và một kết thúc. Bài hát mở đầu có tên "metamorphose" và bài hát kết thúc có tên "Startline" cả hai đều do Kotobuki Minako trình bày. Đĩa đơn chứa hai bài hát đã phát hành vào ngày 24 tháng 10 năm 2010. | 1 | null |
Gián điệp hoàng cung hay Ám sát hoàng thượng (tên chính thức: Gabi là bộ phim truyện năm 2012 của điện ảnh Hàn Quốc dựa trên tiểu thuyết có thật (có tên là Noseoa Gabi: Cà phê Nga La Tư) về sự kiện vụ ám sát Triều Tiên Cao Tông trong lịch sử Triều Tiên và một số tình tiết được hư cấu về chủ trương nhập và phổ biến thức uống cà phê của vị hoàng đế này đối với đất nước mình. Trong phim nổi bật với hình ảnh vị vua nhâm nhi tách cà phê như một cái gì đó rất mới vào thời điểm đó, đồng thời cảnh đại sứ quán ở Nga và cảnh đầu máy hơi nước tái tạo đồ họa máy tính là một trong những cảnh đẹp.
Phim tập trung vào tình thiết kế hoạch ám sát Hoàng đế Triều Tiên đang lưu vong của các thế lực Nhật Bản với Kế hoạch mang tên Sadako với trọng trách của một người phụ nữ Triều Tiên mang quốc tịch Nhật Bản với bí danh Tanya vào vai của một Thợ pha cà phê cũng như xoay quanh câu chuyện về tình yêu của cô này. Danya - một nhân vật có thật trong lịch sử và là người thợ pha cà phê đầu tiên của triều đại Chosun.
Nội dung.
Bộ phim được bắt đầu về câu chuyện của cặp tình nhân Tanya (do Kim So-yeon đóng) và Ilych (do Joo Jin-mo vào vai) vừa yêu nhau say đắm đồng thời là những cao thủ chuyên tham gia các vụ cướp những chuyến tàu hỏa chở cà phê của người Nga ở tuyến đường sắt Viễn Đông để bán lại cho chính người Nga nhằm thu lợi nhuận. Sau đó cặp tình nhân này bị truy sát và bị bắt, và số phận trớ trêu cả hai phải vô tình nhận một nhiệm vụ từ thế lực Nhật Bản và phải làm ra vẻ không quen biết nhau.
Ilych đóng vai trò là sĩ quan Nhật Bản đóng quân tại Triều Tiên để trực tiếp can dự vào tình hình nước này. Tanya thì phải đóng vai một phụ nữ có nghề pha cà phê và được cử vào Tòa Lãnh sự quán của Nga tại Triều Tiên để phục vụ cho Hoàng đế Cao Tông (Park Hee-soon thủ vai) đang lưu vong tại đây. Ở đây, sau khi Hoàng hậu Minh Thành bị ám sát bởi người Nhật và diễn ra một vụ đảo chính, Hoàng đế Cao Tông phải lưu vong vào lãnh sự quán của Nga và luôn ám ảnh với một nỗi cô đơn nhưng luôn mơ giấc mơ phục quốc.
Là người của một tổ chức gián điệp, Tanya có nhiệm vụ phải tiếp xúc ám sát Hoàng đế. Thế nhưng, sau một thời gian tiếp xúc với vị vua cô đơn, Danya lại thay đổi quyết định. Tanya lại thay đổi quyết định và tự biến mình thành kẻ bị truy giết vì phản bội tổ chức và bị tổ chức gián điệp truy sát. Sự gần gũi với vị vua đã khiến cô cảm thấy có tình cảm với vị vua buồn bã này đồng thời khâm phục tinh thần dân tộc và ý chí phục quốc của vị vua. Cô đã từ bỏ nhiều lần những cơ hội ám sát vị vua khi có thể cho chất độc vào cà phê dâng lên cho vị vua.
Vị Hoàng đế lưu vong tại chính đất nước của mình có thói quen uống cà phê và nghiện cà phê, ông tâm sự rằng: "Trẫm từ khi lưu vong đến nay, ngày nào ăn cái gì cũng thấy có vị đắng, nhưng khi uống cà phê có vị đắng thì lại cảm thấy trong đó có vị ngọt" bên cạnh đó cuộc sống hàng ngày tiếp xúc với vị vua này làm cho cô cảm thấy có cảm giác gần gũi (sau này chính Hoàng Đế nói với cô rằng ông biết tất cả về cô, biết về phụ thân của cô chính là người đã hi sinh vì ông) Điều này khiến cô thay đổi và trở thành người phò tá đắc lực cho vị vua.
Tuy nhiên sự gần gũi của cô với Hoàng đế khiến người yêu của cô là Ilych hiểu lầm rằng cô không còn yêu anh mà lại đi yêu vị vua bất tài này, anh nổi máu ghen tuông, và thay vì cộng tác một cách bất đắc dĩ với người Nhật, thì anh này lại làm tay sai đắc lực cho người Nhật trong việc tìm và tiêu diệt các tổ chức vũ trang của vua Cao Tông tổ chức bí mật tại những căn cứ địa ở làng quê gây tổn thất lớn cho ý đồ của vị vua này. Đặc biệt khi nhìn thấy ngón tay của Tanya không còn đeo chiếc nhẫn đính hôn của mình, anh ta như điên lên và lặng im không nói. Anh ta quyết định mình sẽ là người trực tiếp xâm nhập vào lãnh sự quán và ám sát Hoàng Đế.
Trước khi thực hiện mưu đồ đen tối Ilych gửi thư bí mật cho Danya yêu cầu gặp gỡ để tâm sự, khi gặp anh đã đè cô ra, xé áo cô định cưỡng hiếp, nhưng khi anh xé áo banh ngực của cô ra, anh ta thấy chiếc nhẫn đính hôn cô lồng vào sợi giây chuyền và đeo trước ngực, giấu sau lớp áo. Ilych như bừng tỉnh, anh nhận ra mình đã quá sai lầm, vì Dania vẫn còn yêu anh. Anh hối hận và thay đổi tất cả, anh xâm nhập vào Hoàng cung để gặp trực tiếp vị vua tố cáo toàn bộ kế hoạch ám sát của người Nhật, sau đó anh vội vã chạy đi để bảo vệ Dania thoát khỏi sự truy sát của tổ chức. Anh đã liều chết để đỡ đạn cho cô và chết trong tình yêu.
Bộ phim kết thúc với sự kiện vị vua Cao Tông chính thức xưng làm Hoàng Đế và phổ biến cà phê trong đất nước. Dania trở thành một nữ nhà văn viết tiểu thuyết hay đi trên những chuyến tàu mà trước đó cô cùng với người yêu đã từng tổ chức cướp cà phê.
Thông tin khác.
Ban đầu, vai diễn Danya được giao cho nữ diễn viên Lee Dae Hee nhưng phút cuối, diễn viên này lại quyết định từ chối. Kim So Yeon được chọn là giải pháp thay thế cho vai nữ chính còn bỏ ngỏ. Kim So-yeon khi tham gia dự án điện ảnh gặp rất nhiều khó khăn do cô không hề biết tiếng Nga, cô đã phải học thuộc lòng hết các câu thoại bằng tiếng Nga từ trước khi phim bấm máy. Cô nhẩm học lời thoại vào bất cứ lúc nào, kể cả lúc ăn. Nhờ những nỗ lực không ngừng đó mà khả năng thể hiện lời thoại tiếng Nga của cô trong phim rất lưu loát. | 1 | null |
, viết tắt Tokyo MX (trước đây JOMX-TV) là đài truyền hình thương mại tại thủ đô Tokyo, Nhật Bản, phát sóng phục vụ riêng cho thành phố này. Đài cạnh tranh với những đài truyền hình hàng đầu của Nhật Bản như Nippon Television, TV Asahi, NHK, Tokyo Broadcasting System, TV Tokyo, và Fuji Television. Tokyo MX được thành lập vào ngày 30 tháng 4 năm 1993 và bắt đầu phát sóng vào ngày 1 tháng 11 năm 1995. Trong số những cổ đông của đài có Chính quyền thành phố Tokyo, Tokyo FM và Sony.
Tokyo MX phát sóng hội nghị báo chí của thị trưởng Tokyo mỗi tuần; họ là đài truyền hình chủ nhà của F.C. Tokyo và câu lạc bộ bóng chày Hanshin Tigers. | 1 | null |
Thất vọng hay sự thất vọng, nỗi thất vọng, vỡ mộng là thuật ngữ mô tả cảm giác không hài lòng sau sự thất bại, đổ bể của những kỳ vọng hoặc hy vọng. Nó được biểu lộ ra bên ngoài dưới dạng nổi buồn, nỗi sầu hoặc giấu kín trong nội tâm. Thất vọng có những điểm tương tự như hối tiếc, tuy nhiên nó khác ở chỗ một người có cảm giác hối tiếc tập trung chủ yếu vào sự lựa chọn của chính họ đóng góp vào một kết quả không được như ý muốn và cảm giác tiếc nuối, trong khi một người cảm thấy thất vọng tập trung vào các kết quả có thể của chính mình hoặc của một cá nhân, tập thể khác. Sự thất vọng là một nguồn gốc của căng thẳng tâm lý và chán chường, thất vọng là một trong hai cảm xúc chính tham gia vào việc ra quyết định. | 1 | null |
Người yêu cũ hay người cũ (thường viết tắt tiếng Anh thông dụng là: ex) là thuật ngữ chỉ về mối quan hệ xã hội trong đó đề cập về một đối tượng với một sự liên hệ tình cảm đã chấm dứt với chủ thể được đề cập. Người yêu cũ có thể là người đã cùng với chủ thể trải qua một mối tình đầu nhưng cũng có thể là một bên trong số các cuộc tình đã trải qua.
Tổng quan.
Thông thường, khi mối tình tan vỡ, người ta sẽ bớt hẳn hoặc không còn liên lạc với nhau. Mọi người cho rằng thái độ lạnh nhạt, cách cư xử xa cách khi ấy chỉ làm cho kẻ trong cuộc đau lòng và nhìn chung mối quan hệ với người cũ luôn để lại những cảm xúc khó tả, việc dứt khoát cũng như quay lại với người cũ luôn là những dòng cảm xúc trái chiều được nhiều người diễn tả. Câu nói: "Tình cũ không rủ cũng tới" là đề cập đến tình hình này. Nhiều tính toán và câu chuyện oái oăm liên quan đến người cũ.
Sau khi chia tay, rất khó để cả hai trở lại mối quan hệ bạn bè bình thường và cũng rất hay tránh mặt nhau. Đàn ông là người rất khó quên được người yêu cũ thay vì quan điểm cho rằng phụ nữ mới là người khó quên hơn. Một khảo sát cho thấy đa số đàn ông độc thân khi được hỏi đã thú nhận rằng họ ước mình vẫn đang ở bên người cũ trong khi chỉ 1/4 số phụ nữ độc thân có xu hướng này.
Những dấu hiệu cho thấy một số đàn ông vẫn còn chưa muốn chấm dứt quan hệ với người cũ như: vẫn thường xuyên giúp đỡ, còn nhắn tin và email, đề cập đến trong các cuộc trò chuyện, mời đến các sự kiện, không hài lòng khi người yêu cũ có người mới. Ngay cả khi đã có gia đình thì việc quên hẳn người yêu cũ cùng là một vấn đề thậm chí có nhiều người ly dị thì quay lại với người cũ hay một phụ nữ còn muốn quan hệ tình dục với người cũ trước khi kết hôn.
Thời gian để quên đi một người tình cũ không có một con số chung, nó phụ thuộc hoàn toàn vào những tình cảm và kỷ niệm mà các bên trong cuộc đã có. Một số cột mốc có thể tham khảo gồm: Thời gian khoảng từ 2 tuần đối với những tình cảm chưa thật sự sâu đậm. Từ 02 đến 04 tháng dành cho những tình cảm sâu đậm, đi kèm với sự tiếc nuối và kỷ niệm khó phai. Và không xác định thời gian khi chủ thể không thể quên được.
Trong thời đại công nghệ hiện nay, với sự phổ biến của mạng xã hội facebook, nhiều khảo sát cho thấy những sự thật đáng ngạc nhiên về người yêu cũ. Trong một điều tra khảo sát, 85% đối tượng tham gia thú nhận có tìm kiếm hồ sơ cá nhân của người yêu cũ trên Facebook, gần 1/5 trong số đó vào đọc Facebook của người cũ hàng tuần. Tuy nhiên cũng có cảnh báo về hiểm họa của việc này, có tới phân nửa người dùng Facebook (tương đương với vài trăm triệu người) đang đối mặt với nguy cơ bị tổn thương tâm lý từ việc sử dụng mạng xã hội này để nắm thông tin về tình cũ, việc tiếp xúc gián tiếp với người cũ thông qua Facebook khiến cho quá trình hàn gắn vết thương lòng trở nên vất vả hơn cá biệt có những trường hợp tung ảnh phòng the của người yêu cũ lên mạng như trường hợp ở Việt Nam.
Lời khuyên.
Các lời khuyên trong việc kiểm soát quan hệ với người cũ | 1 | null |
Khe mang là các khe hở trên cơ thể một động vật nối thông môi trường bên ngoài với mang của con vật đó, và các khe hở này không có bộ phận nào che đậy. Khe mang là đặc trưng của các loài cá sụn tỉ như cá mập và cá đuối. Phần lớn các loài cá này có 5 cặp khe mang, nhưng một số loài có tới 6 hay 7 cặp. Khe mang của cá mập không có nắp che đậy và được sắp thành hai dãy ở hai bên cơ thể, phía sau đầu. Rìa phía trước của khe mang có thể cử động: chúng mở ra ngoài để nước từ mang thoát ra và đóng lại để ngăn nước chảy ngược vào. Ngoài ra, phía sau mỗi mắt của cá còn tồn tại một lỗ thở có tác dụng bơm nước vào mang cho cá hô hấp, chúng đặc biệt hiện rõ ở các loài cá mập sống ở vùng đáy nước và bơi chậm. Đối với các loài cá mập bơi nhanh, hiếu động sống ở vùng biển khơi, lỗ thở thường bị tiêu giảm hoặc ít hoạt động. Các loài cá mập này không dùng lỗ thở để bơm nước mà sử dụng động tác bơi nhanh để tạo chuyển động tương đối của nước qua mang. Một số loài trong chúng hoàn toàn mất khả năng chủ động bơm nước vào mang qua lỗ thở, vì vậy chúng bắt buộc phải bơi liên tục để tạo dòng nước chảy phục vụ cho hô hấp - nói cách khác khi ngừng di chuyển những loài cá mập này sẽ chết vì ngạt thở. Một số loài cá xương cũng bắt buộc phải bơi liên tục để hô hấp như vậy. Trái với cá mập, các loài cá xương chỉ có một khe hở nối môi trường ngoài tới mang và khe này được che bởi một nắp mang.
Mang cá phát triển từ một khe mang phôi thai trong các bào thai, cơ quan này hiện nay được gọi là khe hầu vì ở các động vật bốn chân chúng không phát triển thành mang như ở cá. | 1 | null |
Qua đèo Ngang (chữ Nôm: 過岧卬) là bài thơ nổi tiếng của Bà Huyện Thanh Quan, một nữ sĩ ở thời cận đại của lịch sử văn học Việt Nam. Với phong cách trang nhã, bài thơ "Qua đèo Ngang" cho thấy cảnh tượng Đèo Ngang thoáng đãng mà heo hút, thấp thoáng có sự sống của con người nhưng còn hoang sơ, đồng thời thể hiện nỗi nhớ nước thương nhà, nỗi buồn thầm lặng cô đơn của tác giả. Bài thơ được đưa vào Sách giáo khoa Ngữ Văn 7, tập 1 theo chương trình cũ , Ngữ văn 8, tập 1 bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống và Ngữ văn 8, tập 2 bộ sách Chân trời sáng tạo theo chương trình mới của Bộ giáo dục và đào tạo Việt Nam.
Nguyên tác.
Bài thơ "Qua Đèo Ngang" được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật.
Xuất xứ và chủ đề.
Trên đường đến Phú Xuân nhậm chức của vua Minh Mạng, bước tới Đèo Ngang lúc chiều tà, cảm xúc dâng trào lòng người, Bà Huyện Thanh Quan sáng tác bài "Qua đèo Ngang". Bài thơ tả cảnh Đèo Ngang lúc xế tà và nói lên nỗi buồn cô đơn, nỗi nhớ nhà thương nước của một người con hiến mình cho tổ quốc.
Lần đầu nữ sĩ "bước tới Đèo Ngang", đứng dưới chân con đèo "đệ nhất hùng quan" này, địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Hà Tĩnh - Quảng Bình, vào thời điểm "bóng xế tà", lúc mặt trời đã nằm ngang sườn núi, ánh mặt trời đã "tà", đã nghiêng, đã chênh chênh. Trời sắp tối. Âm "tà" cũng gợi buồn thấm thía. Câu 2, tả cảnh sắc: cỏ cây, lá, hoa… đá. Hai vế tiểu đối, điệp ngữ "chen", vần lưng: "đá" – "lá", vần chân: "tà" – "hoa", thơ giàu âm điệu, réo rắt như một tiếng lòng, biểu lộ sự ngạc nhiên và xúc động về cảnh sắc hoang vắng nơi Đèo Ngang 200 năm về trước.
Thể thơ.
Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. | 1 | null |
Các quốc gia vùng Alpes là những nước có lãnh thổ nằm trong vùng đồi núi của dãy Alpes. Đó là 8 nước: Đức, Thụy Sĩ, Pháp, Công quốc Monaco, Công quốc Liechtenstein, Ý, Áo và Slovenia.
Diện tích và dân số trong vùng Alpes.
Ngoài ra dãy núi Alpes về phía đông với (dãy núi Ödenburger, vùng đồi núi Günser), còn kéo dài qua tận Hungary với khoảng 20 km² đất Alpes. Tương tự vùng Istria và vùng Karst của "Croatia" – cũng được xem là thuộc vùng Alpes. Tuy nhiên 2 nước này không được liệt vào những quốc gia vùng Alpes. | 1 | null |
Biên thành (tiếng Trung: 邊城; bính âm Hán ngữ: "Bian cheng") là tên một tiểu thuyết ngắn phát hành năm 1936 của Thẩm Tòng Văn. Tiểu thuyết được xem như kiệt tác văn học trữ tình của tác giả, được xếp vào danh sách 100 rồi danh sách 20 tác phẩm vĩ đại nhất thế kỷ XX của Trung Quốc.
Cốt truyện.
Bối cảnh truyện được đặt ở thị trấn yên ả tên Trà Đồng nằm ở phía tây Hồ Nam, Trung Quốc. Tiểu thuyết xoay quanh một ông quản đò và cô cháu gái của ông tên Thuý Thuý.
Thúy Thúy, sau khi mồ côi cha mẹ, được đưa đến sống cùng ông ngoại làm nghề lái đò trên con sông đã trở thành một thiếu nữ khả ái ở tuổi 14. Người ông vui mừng khi thấy cậu cả Thiên Bảo của gia đình chủ bến đem lòng thương yêu cô Thúy Thúy nhưng nàng chẳng hề để ý tới việc cưới xin. Thực ra, trái tim nàng đã thầm lặng hướng theo cậu hai Na Tống, cho dù chàng trai đã được gia đình sắp xếp cho cuộc hôn nhân với một gia đình danh giá. Cuộc tình tay ba chưa có lối thoát thì cái chết đã cướp đi cậu cả Thiên Bảo trong một chuyến đi thuyền. Thúy Thúy bị coi là kẻ mang vận đen cho gia đình chủ bến, tình yêu của nàng và Na Tống rơi vào tuyệt vọng. Người ông quá lo lắng, đau buồn cũng sớm lìa bỏ cuộc sống trong một đêm mưa gió. Na Tống chẳng tìm ra cách giải quyết nào cho số phận tình yêu, ra đi không một lời hẹn ước. Thúy Thúy ở lại với con đò cô đơn, chờ mong người con trai có thể sẽ về mà cũng có thể chẳng bao giờ quay lại.
Phát hành.
Chương đầu tác phẩm bắt đầu được định kỳ từ năm 1934 và đến năm 1936, tác phẩm được in thành sách. Đến nay đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ. Tuy nhiên, tại Trung Quốc, tác phẩm đã bị cấm phát hành từ năm 1949 đến 1979, và tại Đài Loan đến năm 1986. Khoảng thập niên 80 thế kỷ XX, tác phẩm đã được phát hành trở lại.
Năm 2005, tác phẩm lần đầu được dịch tại Việt Nam bởi Phạm Tú Châu, do Nhã Nam mua bản quyền và Nhà xuất bản Đà Nẵng phát hành. Năm 2009, sách được dịch sang tiếng Anh phát hành bởi nhà xuất bản HarperCollins dưới tên "Border Town".
Đánh giá.
Tác phẩm nhận được phản hồi tích cực từ các nhà phê bình. Nhà văn Nhật Bản Takashi Shizuka nhận xét: "Xem ra dưới giọng văn hết sức bình tĩnh, e rằng đã ẩn giấu sự phê phán và phản kháng sâu sắc - ít nhất cũng là sự chán ghét nền văn minh hiện đại, đó chính là chủ ý của tác phẩm.
Ngoài ra, tác phẩm còn được nghi vấn là lời hồi đáp của Thẩm Tùng Văn dành cho tiểu thuyết đoạt giải Pulitzer năm 1932 của Pearl Buck, "The Good Earth". | 1 | null |
Vườn quốc gia quần đảo Channel là một vườn quốc gia gồm 5 trong số 8 hòn đảo của quần đảo Channel, ngoài khơi bờ biển của tiểu bang California (thuộc Thái Bình Dương), Hoa Kỳ. Mặc dù các đảo gần bờ đông dân cư miền Nam California, nhưng sự cô lập bởi biển cả đã khiến khu vực này kém phát triển. Khu bảo tồn rộng 249.561 mẫu Anh (100.994 ha), trong đó 79.019 ha (31.978 ha) thuộc sở hữu của chính phủ liên bang. Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên sở hữu và quản lý 76% của đảo Santa Cruz, hòn đảo lớn nhất trong vườn quốc gia.
Vườn quốc gia là nơi có nhiều tài nguyên thiên nhiên và văn hóa quan trọng. Nó đã được chỉ định một Đài tưởng niệm Quốc gia Hoa Kỳ vào ngày 26 tháng 4 năm 1938, một khu dự trữ sinh quyển quốc gia vào năm 1976 và trở thành vườn quốc gia vào ngày 5 tháng 3 năm 1980.
Địa lý.
Các đảo trong vườn quốc gia nằm dọc theo bờ biển miền Nam California từ điểm Conception gần Santa Barbara đến San Pedro, một khu phố của Los Angeles.
Vườn quốc gia bao gồm diện tích 249.354 mẫu Anh (100.910 ha), một nửa trong số đó là biển, còn lại bao gồm các đảo:
Động thực vật.
Hơn 2.000 loài động thực vật được tìm thấy trong vườn quốc gia. Tuy nhiên chỉ có ba loài động vật có vú là loài đặc hữu của đảo, một trong số đó là chuột nai ("Peromyscus maniculatus"), chồn hôi đốm, cáo đảo. "Sceloporus occidentalis becki" cũng là loài đặc hữu của quần đảo Channel. động vật khác trong vườn quốc gia bao gồm "Aphelocoma insularis", "hải cẩu cảng", sư tử biển California, "Xantusia riversiana", cú lợn, ưng Mỹ, sơn ca bờ biển, chiền chiện miền tây và bồ nông nâu California. Trong đó có 145 loài không tìm thấy ở bất cứ nơi nào khác trên thế giới. Sinh vật biển đa dạng từ vi sinh vật phù du đến các loài to lớn có nguy cơ tuyệt chủng như cá voi xanh. Các đảo cũng là những địa điểm khảo cổ văn hóa có niên đại hơn 10.000 năm. | 1 | null |
Hoàng Xuân Vinh (sinh 6 tháng 10 năm 1974 tại thị xã Sơn Tây, Hà Nội) là một vận động viên bắn súng của Việt Nam. Nhờ thành tích huy chương vàng ở nội dung 10m súng ngắn hơi nam tại Thế vận hội Mùa hè 2016, anh trở thành vận động viên thể thao Việt Nam đầu tiên và duy nhất tính đến nay giành được huy chương vàng tại đấu trường Thế vận hội.
Từ SEA Games 21 cho đến SEA Games 28, không một kỳ SEA Games nào anh không đoạt huy chương.
Trong kỳ Thế vận hội Mùa hè 2012 tổ chức tại Luân Đôn, tại nội dung 10m súng ngắn hơi nam, anh về thứ 9 còn tại nội dung 50m súng ngắn nam tự chọn, anh lại đáng tiếc để mất huy chương đồng với 0,1 điểm trước người giành Huy chương đồng Olympic nội dung này là Vương Trí Vĩ và chấp nhận đứng vị trí thứ 4.
Nhưng ngay sau đó, vào cuối năm 2012, anh vô địch châu Á. Và đến đầu năm 2013, anh vô địch thế giới, đều ở nội dung 10m súng ngắn hơi. Vì hai lần liên tiếp giành chức vô địch đấu trường châu lục và thế giới nên anh là người đầu tiên đã đem về những chức vô địch thế giới và châu Á đầu tiên cho các xạ thủ bắn súng của Việt Nam.
Tại Thế vận hội Mùa hè 2016 tổ chức tại Rio de Janeiro, Brasil, anh là người mang về tấm huy chương vàng đầu tiên cho đoàn thể thao Việt Nam tại một kỳ Thế vận hội với nội dung 10m súng ngắn hơi nam với tổng điểm 202,5 điểm, thiết lập kỷ lục Olympic mới và cũng là kỷ lục đầu tiên cho nội dung 10m súng ngắn hơi nam (nội dung này trước đó chưa có kỷ lục được thiết lập vì Liên đoàn bắn súng quốc tế (ISSF) áp dụng thể thức mới từ năm 2013). Ở nội dung 50m súng ngắn, Hoàng Xuân Vinh cũng giành vé vào loạt bắn chung kết và đạt huy chương bạc với thành tích 191.3 điểm.
Hoàng Xuân Vinh được bình chọn là "Vận động viên tiêu biểu" năm 2016 của thể thao Việt Nam. Do có những thành tích đóng góp vào sự nghiệp thể thao nước nhà, anh được phong cấp bậc quân hàm đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam.
Xuất thân và học vấn.
Hoàng Xuân Vinh sinh tại thị xã Sơn Tây, quê bà ngoại. Bố của Vinh là bộ đội Quảng Trị tập kết, mẹ cậu là công nhân. Mẹ mất sớm khi mới ba tuổi, Vinh theo cha và em mới hơn một tuổi về Hà Nội sống trong một căn nhà nhỏ trên phố Thụy Khuê. Cảnh nhà nghèo, khó khăn, bố Vinh đã không lo được nhiều cho hai anh em.
Về Hà Nội, Vinh được người mẹ kế chăm sóc nhưng cũng chẳng được bao lâu. Lớn lên trong hoàn cảnh khó khăn, hai lần mất mẹ nên khi học hết cấp ba cậu vẫn là cậu bé "cao chưa nổi mét sáu".
Học hết cấp ba, Vinh tình nguyện nhập ngũ. Anh vào Trường Sĩ quan Công binh ở Sông Bé, trong đó có một năm rưỡi học tập và huấn luyện tại Trường Sĩ quan Lục quân 2.
Sự nghiệp.
Bắt đầu theo bắn súng chuyên nghiệp.
Khác với phần lớn các xạ thủ, Hoàng Xuân Vinh theo nghiệp bắn súng chuyên nghiệp khá muộn. Năm 1994, sau khi tốt nghiệp Trường Sĩ quan Công binh, anh về làm việc tại Lữ đoàn 239 Công binh tại Thường Tín, Hà Tây. Trong quân đội, việc phải biết sử dụng súng gần như là điều bắt buộc. Hoàng Xuân Vinh được cử đi tham dự các giải phong trào và thường mang thành tích tốt về cho đơn vị.
Năm 1998, tại giải bắn súng toàn quân đội, Vinh giành vị trí quán quân. Vì vậy,
năm 1999, Câu lạc bộ Quân đội xin Vinh về. Anh được gọi vào đội tuyển quốc gia khi đã 26 tuổi và chính thức chia tay chức vụ sĩ quan chỉ huy
Cùng năm, Hoàng Xuân Vinh giành huy chương đầu tiên trong sự nghiệp VĐV thể thao chuyên nghiệp, đó là HCĐ đồng đội năm 1999 ở Cúp quốc gia nội dung súng ngắn hơi nam tổ chức tại Hải Phòng. Sang năm 2000, Vinh đã đoạt HCV và phá kỷ lục quốc gia môn súng ngắn hơi 10 m nam với 580 điểm và trở thành tuyển thủ quốc gia.
Sáu kỳ SEA Games liên tiếp kể từ năm 2001 cho đến 2011, không năm nào Vinh không đoạt ít nhất một huy chương vàng.
Các Đại hội Thể thao Đông Nam Á.
Năm 2001, Hoàng Xuân Vinh đoạt huy chương vàng đồng đội đầu tiên tại SEA Games 21. SEA Games 22 tại Việt Nam, anh đoạt một huy chương vàng cũng nội dung đồng đội súng ngắn hơi nam. SEA Games 24 tại Thái Lan, anh đoạt hai huy chương vàng cá nhân và một huy chương vàng đồng đội ở nội dung súng ngắn 10m hơi nam và súng ngắn 25m ổ quay. Anh trở thành xạ thủ xuất sắc nhất đội bắn súng Việt Nam tại SEA Games 24 khi giành được ba huy chương vàng, dẫn đầu thành tích cá nhân.
Năm 2011, tại SEA Games 26, anh giành 1 huy chương vàng tại nội dung súng ngắn hơi 10m Nam, 1 huy chương vàng nội dung súng ngắn ổ quay 25m và một huy chương bạc.
Trong Đại hội thể thao Đông Nam Á 2017. Hoàng Xuân Vinh đã thất bại khi vừa bước tới phát súng thứ 14.
Các Đại hội thể thao châu Á.
Hoàng Xuân Vinh khoác áo đội tuyển tham dự Đại hội thể thao châu Á (ASIAD) từ năm 2006. Tại ASIAD 2006 anh cùng đồng đội giành một huy chương đồng đồng đội nội dung 10m súng ngắn nam.
Tại ASIAD 16, khi tham dự nội dung 25m súng ngắn ổ quay, ở loạt bắn 10 viên đầu tiên, anh bắn được 97 điểm, chỉ thiếu 3 điểm là đạt điểm số tuyệt đối. Sang 2 loạt tiếp theo, thành tích của anh còn tốt hơn khi được 99 điểm. Với kết quả này, Vinh đạt 872 điểm loạt bắn chậm, dẫn đầu bảng xếp hạng.
Sang loạt bắn nhanh, Vinh tiếp tục xuất phát ấn tượng với tổng điểm là 99 điểm ở 10 viên đầu tiên. Đến loạt bắn 10 viên tiếp theo, anh bắt đầu mất bình tĩnh khi chỉ được 97 điểm và có đến hai điểm 8 ở loạt bắn 10 viên cuối cùng trước khi đến viên thứ 10 quyết định. Thế nhưng anh vẫn hơn đối thủ xếp sau 4 điểm. Bất ngờ đã xảy ra, trong khi các đối thủ ghi những điểm 10 quan trọng, Vinh vừa nâng tay lên chưa kịp ngắm thì một tiếng nổ chát chúa vang lên. Không phải là do súng hỏng, mà do Vinh đã mất bình tĩnh, bóp cò sai mục tiêu. Kết quả, từ vị trí quán quân, Vinh phải nhận vị trí 13 chung cuộc. Và sau đó anh cùng đồng đội trắng tay huy chương đồng đội.
Thế vận hội Mùa hè 2012.
Hoàng Xuân Vinh giành vé tham dự Thế vận hội Mùa hè 2012 tại Giải vô địch châu Á 2012 ở Qatar. Tại giải đấu này anh xếp thứ tư ở nội dung 10m súng ngắn hơi nam. Do ba vận động viên xếp trên đều đã có vé tham dự Thế vận hội từ những cuộc thi đấu trước nên Hoàng Xuân Vinh giành vé và là vận động viên bắn súng đầu tiên của Việt Nam giành quyền dự Thế vận hội bằng cách vượt qua vòng loại.
Tại London, Hoàng Xuân Vinh tham dự hai nội dung 10m súng ngắn hơi và 50m súng ngắn tự chọn. Tại nội dung 10m súng ngắn hơi, anh đạt 582 điểm ở vòng loại, chỉ kém 1 điểm để được vào vòng chung kết.
Ở nội dung 50m súng ngắn tự chọn, Hoàng Xuân Vinh xếp thứ tư vòng loại với 563 điểm và là một trong tám xạ thủ lọt vào vòng chung kết. Tiến vào lượt bắn chung kết tranh huy chương, anh còn thuộc nhóm có khả năng lấy huy chương sau khi bắn các loạt 3, 6, 7, 8 đều đạt trên 10 điểm. Tuy nhiên, bất ngờ đã xảy ra ở loạt bắn thứ 9 khi Vinh chỉ cần bắn được điểm 8 là sẽ có huy chương nhưng xạ thủ người Hà Nội chỉ bắn được 7,3 điểm. Do đó dù loạt bắn cuối cùng đạt 10,2 điểm để kết thúc lượt bắn chung kết với số điểm là 95,5 điểm và tổng điểm chung cuộc 658,5 điểm, Hoàng Xuân Vinh vẫn kém huy chương đồng Vương Trí Vĩ 0,1 điểm.
Vì đoàn Việt Nam không có tấm huy chương nào tại kỳ Olympic này, nên thất bại của anh ở nội dung 50m súng ngắn tự chọn gây ra nhiều tiếc nuối.
Giải vô địch bắn súng hơi châu Á 2012.
Giải đấu được tổ chức vào tháng 12 năm 2012 tại Trung Quốc. Hoàng Xuân Vinh tham dự nội dung 10m súng ngắn hơi nam. Ở loạt bắn tiêu chuẩn, Xuân Vinh giành được 583 điểm. Đến loạt bắn chung kết, anh thi đấu xuất sắc, đạt 100,3 điểm và giành huy chương vàng cá nhân với tổng điểm 683,3. Anh cũng góp phần đem về tấm huy chương đồng đồng đội cho đội Việt Nam ở nội dung này. Đây là tấm huy chương vàng châu Á đầu tiên của các xạ thủ Việt Nam.
Cúp bắn súng thế giới 2013.
Tại Cúp bắn súng thế giới - ISSF World Cup 2013 tổ chức ở Hàn Quốc (từ ngày 4 đến 9-4-2013), Hoàng Xuân Vinh tham dự nội dung 10m súng ngắn hơi nam. Đối thủ chính của anh ở giải này vẫn là người hơn Vinh 0,1 điểm ở Thế vận hội Mùa hè 2012, Vương Trí Vĩ. Ở vòng loại, Hoàng Xuân Vinh và Vương bám đuổi nhau quyết liệt về điểm số và xạ thủ người Việt Nam đã xếp nhì với thành tích 583 điểm.
Tại chung kết, Xuân Vinh và Vương vẫn là hai xạ thủ so kè nhau từng điểm số. Hoàng Xuân Vinh lần này đã thi đấu tập trung, không bắn hụt như những lần chung kết quan trọng khác. Kết quả loạt chung kết anh đạt 200,8 điểm, hơn Vương Trí Vĩ 0,7 điểm để đoạt huy chương vàng đầu tiên cho bắn súng Việt Nam trên đấu trường thế giới.
Thế vận hội Mùa hè 2016.
Tại Thế vận hội Mùa hè 2016 tổ chức tại Rio de Janeiro, Brasil, anh là người mang về tấm huy chương vàng đầu tiên cho đoàn thể thao Việt Nam với nội dung 10m súng ngắn hơi nam sau khi đánh bại vận động viên Felipe Almeida Wu của nước chủ nhà Brasil. Thành tích 202,5 điểm ở loạt đấu chung kết của Xuân Vinh nhỉnh hơn 0,4 điểm so với thành tích của Felipe Almeida và đồng thời thiết lập kỷ lục Olympic đầu tiên cho nội dung chung kết 10m súng ngắn hơi nam kể từ khi Liên đoàn bắn súng quốc tế - ISSF thay đổi thể thức thi đấu đối với nội dung này từ ngày 1-1-2013. Kỷ lục thế giới ở nội dung chung kết 10m súng ngắn hơi nam hiện là 206 điểm do vận động viên người Hàn Quốc Jin Jong-oh thiết lập tại Cúp bắn súng thế giới - ISSF World Cup 2015, người chỉ xếp hạng 5 tại Thế vận hội lần này.
Trong diễn biến của loạt đấu chung kết 10m súng ngắn hơi, kịch tính được đẩy lên đỉnh điểm ở hai loạt đạn cuối khi chỉ còn là cuộc đấu tay đôi tranh huy chương vàng giữa Xuân Vinh và Felipe Almeida sau khi các đối thủ khác đều bị cắt loại trực tiếp. Trước lượt bắn áp chót, tổng điểm của Xuân Vinh là 182,6 trong khi tổng điểm của Felipe Almeida là 181,8. Ở lượt áp chót, Xuân Vinh bắn không tốt khi chỉ đạt 9,2 điểm so với 10,2 điểm của đối thủ và bị tụt xuống vị trí thứ 2 với 0,2 điểm ít hơn. Ở lượt bắn quyết định, tưởng chừng Xuân Vinh lại một lần nữa cay đắng về nhì khi Felipe Almeida nhanh chóng thực hiện tốt loạt đạn cuối với 10,1 điểm và nhận được tiếng hò reo cổ vũ của khán giả nhà, Xuân Vinh tập trung vào mục tiêu rất lâu và rồi xuất thần ghi đến 10,7 điểm khi đưa viên đạn găm rất sát vùng tâm bia và qua đó vươn lên giành huy chương vàng trong tiếng vỗ tay thán phục của chính đối thủ nước chủ nhà. Xạ thủ Hoàng Xuân Vinh đã không giấu nổi những giọt nước mắt hạnh phúc.
Tấm huy chương vàng 10m súng ngắn hơi mà Xuân Vinh giành được tại Thế vận hội Mùa hè 2016 mang ý nghĩa lịch sử đối với thể thao trong nước vì đây là tấm huy chương vàng đầu tiên của Việt Nam tại một kỳ Thế vận hội.
Sau đó, vào ngày 10 tháng 8, anh đã giành tiếp tấm huy chương bạc nội dung 50m súng ngắn nam, với số điểm 191.3. Xếp sau Jin Jong-oh của Hàn Quốc (đạt 193.7 điểm).
Vinh danh, đời tư.
Năm 2000, Hoàng Xuân Vinh đã lập gia đình với Phan Hương Giang. Hai vợ chồng có một con gái và một con trai. Dù là một xạ thủ nhưng anh lại bị cận nặng. Thần tượng của Xuân Vinh là Trần Oanh, xạ thủ lừng lẫy một thời của bắn súng Việt Nam.
Do có những thành tích đóng góp vào sự nghiệp thể thao nước nhà, năm 2012, anh được thăng quân hàm đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam Cũng trong năm này, Hoàng Xuân Vinh xếp thứ ba trong danh sách 10 vận động viên tiêu biểu của Việt Nam. Năm 2013, anh tiếp tục đứng thứ ba trong danh sách bình chọn Mười vận động viên tiêu biểu. Với tấm huy chương vàng đầu tiên của thể thao viện nam cùng tấm huy chương bạc tại Thế vận hội Rio 2016, Hoàng Xuân Vinh được bình chọn là "Vận động viên tiêu biểu" của thể thao Việt Nam năm 2016 với 2.020 điểm. | 1 | null |
Quốc gia nghĩa tử là tên gọi nhóm các em vị thành niên mà phụ huynh là quân nhân trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã chết trận trong cuộc chiến Việt Nam sau được chính phủ chiếu cố giúp đỡ. Trọng tâm của chính phủ là trợ giúp việc giáo dục các em trong hệ thống trường Quốc gia nghĩa tử.
Lịch sử.
Từ thời Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã có ý giúp đỡ các cô nhi, con cái của tử sĩ và thương phế binh trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa và cho đó là một trong những quốc sách với nhà nước nhận vai trò nuôi dạy các em cho đến tuổi 18. Năm 1962 Nha Xã hội đệ trình thông qua Bộ Quốc phòng để lập ra một tổ chức đảm nhiệm vai trò này, theo mẫu Office des Pupilles de la Nation của Pháp.
Năm 1963 chính phủ lập cơ sở đầu tiên mang tên Viện Quốc gia Nghĩa tử ở Sài Gòn. Việc xây dựng có đóng góp của các thành phần dân sự qua Ủy ban vận động xây cất Quốc gia Nghĩa tử trong đó kiến trúc sư Trương Đức Nguyên thiết kế và nhà thầu Trần Ngọc Trình đảm nhận mà không lấy thù lao. Công trình xây cất tiến hành đến Tháng Chín 1963 thì khánh thành Viện Quốc gia Nghĩa tử trên đường Võ Tánh gần Ngã tư Bảy Hiền, thuộc Tân Sơn Hòa, tỉnh Gia Định.
Bác sĩ Trương Khuê Quan được bổ nhiệm làm Viện trưởng Viện Giáo dục Quốc gia Nghĩa tử. Niên học đầu tiên (1963-1964) có khoảng 500 học sinh ghi danh theo học tại trường Quốc gia Nghĩa tử.
Thời gian đầu, Quốc gia Nghĩa tử áp dụng chương trình giáo dục phổ thông. Đến năm 1966 xây thêm trường Kỹ thuật Quốc gia Nghĩa tử để khai giảng năm 1966-1967 với chủ ý đào tạo kỹ năng thực dụng. Sang năm 1968 thì lại cải tiến, áp dụng chương trình giáo dục tổng hợp cho một trường. Theo chương trình đó thì thay vì chia các lớp trung học thành Đệ nhất cấp và Đệ nhị cấp thì gom cả hai lại. Ngoài ra thay vì chia thành bốn ban như các trường trung học khác, trường Quốc gia Nghĩa tử tổng hợp chia thành tám ban:
Mỗi kỳ nghỉ hè thì các nhà giáo được gửi đi sinh hoạt trại hè ở Trường Thiếu sinh quân Vũng Tàu.
Mô hình trường sở Quốc gia Nghĩa tử sau được trải rộng thành một hệ thống trường học tại nhiều tỉnh thành như Huế (1967), Đà Nẵng (1968), Biên Hòa (1969), Cần Thơ (1971). Một số trường có cả cơ sở để học sinh tá túc nội trú. Tổng cộng là bảy cơ sở giáo dục (5 trường theo chương trình phổ thông, 1 trường kỹ thuật, 1 trường theo chương trình tổng hợp) với gần 400 giáo sư và tổng số trên 10.000 học sinh từ bậc tiểu học đến trung học, trong số đó có 800 học sinh nội trú (500 nữ Sinh và 300 nam sinh). Một số được cấp học bổng đi du học sau khi tốt nghiệp trung học đệ nhị cấp (Tú tài II) với điểm "ưu", "bình" hoặc "bình thứ". Chính phủ Hoa Kỳ qua chường trình USAID đài thọ cho số học sinh này du học ở đại học Mỹ. Hơn 90% hoàn tất học trình và về nước phục vụ.
Hành chánh.
Từ năm 1963 đến năm 1967, Trường Quốc gia Nghĩa tử thuộc Quốc gia Nghĩa tử Cuộc, một bộ phận của Bộ Quốc phòng.
Sang thời Đệ Nhị Cộng hòa Việt Nam, Trường Quốc gia Nghĩa tử chuyển sang Bộ Cựu chiến binh mới thành lập. Tuy phụ thuộc Bộ Cựu chiến binh nhưng chương trình học của trường do Bộ Quốc gia Giáo dục soạn thảo và chứng nhận. Hệ thống trường này hoạt động như một cơ quan tự trị, có ngân sách riêng, dưới quyền của một Hội đồng Quản trị gồm đại diện của Bộ Cựu chiến binh (kiêm nhiệm chủ tịch), Bộ Quốc gia Giáo dục, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chánh, Bộ Nội vụ và Bộ Tư pháp. | 1 | null |
Tiêu Chính Đức (, ?- 549), tên tự Công Hòa (公和), là một thân vương của triều Lương trong lịch sử Trung Quốc. Trong một thời gian ngắn, ông đã yêu cầu hoàng vị của triều Lương.
Xuất thân.
Không rõ Tiêu Chính Đức sinh vào thời điểm nào, ông là con trai thứ ba của Tiêu Hoành (蕭宏)- khi đó là một viên quan nhỏ trong triều đình Nam Tề. Tiêu Hoành là đệ của các tướng Tiêu Ý và Tiêu Diễn. Do ban đầu không có con trai, Tiêu Diễn đã nhận Tiêu Chính Đức làm con nuôi.
Tuy nhiên, vào năm 501, khi Tiêu Diễn tham gia vào một cuộc nội chiến chống lại hoàng đế Tiêu Bảo Quyển của Nam Tề, một người thiếp của Tiêu Diễn là Đinh Lệnh Quang (丁令光) đã hạ sinh một người con trai là Tiêu Thống. Mặc dù vậy, sau khi Tiêu Diễn lật đổ Tiêu Bảo Quyển và mở đầu triều Lương, Tiêu Chính Đức đã hy vọng mình sẽ trở thành hoàng thái tử. Tuy nhiên, Lương Vũ Đế đã thay đổi lựa chọn và đưa Tiêu Chính Đức về lại dòng Tiêu Hoành, chỉ sách phong Tiêu Chính Đức làm Tây Phong hầu, thực ấp 500 hộ.
Chạy sang Bắc Ngụy.
Tiêu Chính Đức không bằng lòng với việc chỉ có tước hầu, bực tức trước thay đổi lựa chọn hoàng thái tử. Vào năm 522 theo "Tư trị thông giám"; ("Lương thư" ghi năm 525), Tiêu Chính Dức chạy sang triều Bắc Ngụy kình địch, tuyên bố mình là hoàng thái tử bị phế truất của Lương, và tìm kiếm hỗ trợ về quân sự. Một viên quan Bắc Ngụy là Tiêu Bảo Dần, em trai Tiêu Bảo Quyển- thay vào đó lại đề xuất giết chết Tiêu Chính Đức. Triều đình Bắc Ngụy mặc dù không giết Tiêu Chính Đức, song đã không đối đãi một cách tôn trọng với Tiêu Chính Đức. Tiêu Chính Đức cho rằng bản thân gặp hiểm nguy nên đã giết một cậu bé và bảo rằng đó là người của ông, rồi đem chôn cất cậu bé ở cách xa kinh thành Lạc Dương của Bắc Ngụy. Vào năm 523, Tiêu Chính Đức chạy về Lương. Vũ Đế chẳng những không trừng phạt mà trên thực tế đã phục chức tước cho Tiêu Chính Đức.
Phụng sự Lương.
Tuy nhiên, sau khi trở về Lương, Tiêu Chính Đức đã không ăn năn vì hành động của mình, thay vào đó lại đi tập hợp đám du côn, thường dẫn đầu chúng trong các vụ cướp. Năm 525, Tiêu Chính Đức trở thành tướng dưới quyền chỉ huy của Dự Chương quận vương Tiêu Tông- hoàng nhi của Lương Vũ Đế, trấn thủ Bành Thành. Do nghĩ mình thực ra là con trai của Tiêu Bảo Quyển, Tiêu Thống đã đào thoát sang Bắc Ngụy trong chiến dịch, quân đội của Tiêu Thống cũng sụp đổ. Tiêu Chính Đức bỏ rơi quân lính và chạy về kinh thành Kiến Khang. Do các tội từng phạm phải trước đây và do hành động bỏ rơi quân lính, Lương Vũ Đế đã tước bỏ các tước vị và chức vụ của Tiêu Chính Đức và cho đưa ông đi lưu đày tại Lâm Hải. Tuy nhiên, khi Tiêu Chính Đức còn chưa đặt chân đến Lâm Hải, Lương Vũ Đế đã phái người đến ban lệnh ân xá và phục tước cho Tiêu Chính Đức.
Hoàng thái tử Tiêu Thống qua đời vào năm 531, Lương Vũ Đế lập một hoàng tử khác là Tiêu Cương làm hoàng thái tử, bỏ qua ba nhi tử của Tiêu Thống là Tiêu Hoan (蕭歡), Tiêu Dự (蕭譽), và Tiếu Sát song phong họ làm phiên vương ở ba quận lớn. Lúc này, Tiêu Chính Đức bợ đỡ sủng thần Chu Dị của Lương Vũ Đế, vì thế Chu Dị đã nhắc nhở Lương Vũ Đế rằng Tiêu Chính Đức trước đây đã từng là nhi tử của Lương Vũ Đế, song nay chỉ là một hầu tước. Do đó, Lương Vũ Đế đã sách phong Tiêu Chính Đức là Lâm Hạ vương.
Trong loạn Hầu Cảnh.
Tuy nhiên, Tiêu Chính Đức vẫn không hài lòng. Khi tướng Hầu Cảnh nổi dậy vào mùa thu năm 548, Hầu Cảnh biết Tiêu Chính Đức có thái độ bất mãn nên đã bí mật thương thảo với Tiêu Chính Đức, hứa sẽ đưa ông làm hoàng đế. Sau đó, khi Hầu Cảnh sắp tiến đến bờ bắc Trường Giang, Lương Vũ Đế đã phái Tiêu Chính Đức đem quân đi phòng thủ ở bờ nam, Tiêu Chính Đức thay vào đó lại bí mật phái mấy chục thuyền lớn đi giúp quân Hầu Cảnh vượt Trường Giang, sau đó Tiêu Chính Đức quay sang chống Lương Vũ Đế và hợp quân với Hầu Cảnh.
Sau khi Hầu Cảnh bao vây Kiến Khang và chiếm được thành ngoại, buộc lực lượng trung thành với Lương Vũ Đế phải rút vào Đài thành (tức hoàng cung), Tiêu Chính Đức đã xưng đế. Tiêu Chính Đức lập thế tử của mình là Tiêu Kiến Lý (蕭見理) làm hoàng thái tử, và gả một nhi nữ cho Hầu Cảnh, tuy nhiên Tiêu Kiến Lý ngay sau đó đã qua đời trong một cuộc đột kích. Tiêu Chính Đức cũng hiệp nghị với Hầu Cảnh rằng đến khi Đài thành thất thủ, Lương Vũ Đế và Tiêu Cương sẽ không được tha. Vào mùa xuân năm 549, khi Hầu Cảnh tiến hành dàn xếp hòa bình với Lương Vũ Đế và Tiêu Cương trong một thời gian ngắn, Tiêu Chính Đức đã lên tiếng phản đối, và Hầu Cảnh sau đó cũng không thực thi theo các điều khoản hòa bình. Tuy nhiên, khi Đài thành thất thủ, Hầu Cảnh đã ngăn chặn Tiêu Chính Đức giết chết Lương Vũ Đế và Tiêu Cương. Thay vào đó, Hầu Cảnh biến Lương Vũ Đế thành một quân cờ của mình và giáng Tiêu Chính Đức làm Lâm Hạ vương, song cũng trao cho Tiêu Chính Đức chức vụ "thị trung", "đại tư mã". Tiêu Chính Đức trở nên chán nản, và đến khi gặp Lương Vũ Đế, Tiêu Chính Đức đã khóc lóc thảm thiết. Lương Vũ Đế đáp lại: "Ngươi hãy khóc nữa đi, song chẳng phải đã quá muộn để ngươi hối hận rồi sao?".
Tiêu Chính Đức bực bội trước việc Hầu Cảnh bội ước, và sau đó ông đã bí mật gửi thư cho đường huynh đệ là Bà Dương vương Tiêu Phạm (蕭範), thỉnh cầu Tiêu Phạm đến cứu viện Kiến Khang. Thư tín bị quân của Hầu Cảnh chặn được, vào mùa hè năm 549, Hầu Cảnh đã giả chiếu ra lệnh sát hại Tiêu Chính Đức.
Gia đình.
Tiêu Chính Đức và em gái là Trường Lạc công chúa tư thông, vì sợ tiếng xấu loạn luân lan ra nên đã trói một thị nữ và đeo thêm đồ trang sức bằng vàng ngọc vào người này rồi tiến hành phóng hỏa đốt nhà, giả bộ là Trường Lạc công chúa bị lửa thiêu chết. Sau đó, Trường Lạc công chúa trở thành "Liễu phu nhân", sinh ra hai nhi tử. | 1 | null |
Chùa Khléang (hay Kh'leang, Khleng) là một ngôi chùa cổ trong hệ thống chùa Khmer ở Nam Bộ.
Vị trí.
Chùa Khléang hiện tọa lạc ở số 53, đường Tôn Đức Thắng, phường 6, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.
Nguồn gốc.
Theo tài liệu còn đang lưu trữ tại chùa Kh'leang, thì vào đầu thế kỷ 16, từ kinh đô Lô-véc , vua của nước Chân Lạp là Ang Chăn đã tổ chức một chuyến đi kinh lý qua các lãnh địa xa xôi của mình ở vùng hạ lưu sông Hậu. Khi nhà vua đến thăm Srok Kh'leang (tiếng Khmer có nghĩa là "xứ có kho", tức tỉnh Sóc Trăng ngày nay) mà không thấy có ngôi chùa thờ Phật nào, ngài bèn ra lệnh cho viên quan coi quản đất ấy tên là Tác (phiên âm từ tiếng Khmer) phải xây dựng gấp một ngôi chùa để dân chúng có nơi hành đạo.
Vâng lệnh vua ban, năm 1532, ông Tác bèn triệu tập các tín đồ và đại diện các "sóc" (srok, có nghĩa là xứ) để kêu gọi mọi người góp công, góp sức xây dựng một ngôi chùa thờ Phật. Sau khi bàn bạc, chùa Khléang (lấy tên đất đặt tên cho chùa) được khởi công xây dựng vào ngày 16 tháng 12 Phật Lịch 2076 (tức vào năm 1532 dương lịch).
Sau khi công trình "bằng gỗ và lợp lá" ấy hoàn thành, ông Tác lại tổ chức hội nghị để chọn nhà sư trụ trì của chùa. Kết quả là nhà sư Thạch Sóc (61 tuổi, thọ giới đã 40 năm, lúc đó đang tu tại chùa Luông Bassac, thuộc phạm vi huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng ngày nay) được chọn làm Trụ trì, đồng thời còn kiêm luôn chức vụ Mê Kôn (chức vụ đứng đầu hội sư sãi của một vùng).
Ngôi chùa đầu tiên ấy đến nay không còn lại dấu tích gì. Ngôi chính điện và sa la ngày nay được xây cất bằng gạch ngói từ giữa thế kỷ 16.
Ngày 27 tháng 4 năm 1990, Bộ Văn hóa và Thông tin ban hành Quyết định số 84/QĐ-BVHTT công nhận Chùa Khléang là di tích "Kiến trúc Nghệ thuật" cấp Quốc gia.
Kiến trúc.
Toàn bộ các công trình của chùa Khléang toạ lạc trong một khuôn viên rộng 3.825 m² có nhiều cây thốt nốt, có vòng rào bao quanh, và được trang trí với nhiều hoa văn, họa tiết, màu sắc rực rỡ mang đậm phong cách Khmer. Lược kể một vài hạng mục:
Cổng chính ở đường Tôn Đức Thắng (hướng Đông). Mặt trước mỗi thân cột có gắn tượng vũ nữ Kẽn naarr dang tay chống mái, và trên mái có gắn ba tháp nhỏ. Ngoài ra, chùa còn có một cổng phụ ở đường Nguyễn Chí Thanh.
Chính điện hiện nay nằm dọc theo hướng Đông - Tây , và ở vị trí trung tâm với diện tích gần 200 m². Nền cao hơn mặt đất gần 2 m, gồm ba cấp, mỗi cấp có vòng rào xây bằng gạch. Bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc đều có cửa ra vào.
Bộ mái chính điện cũng được xây dựng theo thể thức ba cấp, và mỗi cấp lại có 3 nếp. Bờ viền mái nóc có tượng rồng với thân hình uốn lượn, đầu xòe ra hình rẽ quạt, đuôi cong lên và giao thoa với những đuôi rồng khác. Trên các đầu cột ở hành lang bao quanh chính điện đều có tượng Krud dang tay chống đỡ . Ngoài ra, ở chung quanh chính điện còn có trang trí các tượng thần Teahu và tượng chằn (Yeak).
Bên trong chính điện, bộ khung mái được chống đỡ bằng 12 cây cột to (chu vi 1,10 m), xây theo kiểu corinthien (Cô-ranh-tơ) của Hy Lạp, phủ sơn đen bóng và có vẽ hình rồng, hình cá uốn lượn màu vàng lộng lẫy. Các cửa của chánh điện được làm bằng gỗ khắc cảnh giao đấu giữa giữa tiên nữ và chằn (Yeak) trên nền khung được trang trí hoa văn đến từng chi tiết.
Ngoài ra trong khuôn viên chùa còn có sala, hội trường, nhà của trụ trì, nhà của các sư sãi, các tháp chứa tro cốt, lò thiêu, v.v...
Từ khoảng 1916 (hay 1918) cho đến nay, chùa được trùng tu nhiều lần, gần đây nhất là 1994. Cũng trong năm này (ngày 7 tháng 12), Trường Bổ túc văn hóa Trung cấp PaLi Nam Bộ được đặt trong khuôn viên chùa.
Thờ cúng.
Như bao ngôi chùa thuộc hệ phái Phật giáo Nam tông Khmer khác, nơi đây cũng chỉ thờ duy nhất là Phật Thích Ca, và trên tường là bức bích họa mô tả cuộc đời vị Phật ấy từ lúc sinh ra cho đến khi đắc đạo.
Đặc biệt, trong số 45 tượng Phật Thích Ca ở đây, có một tượng cao 6,8 m, phần thân tượng cao 2,7 m, ngồi trên tòa sen lộng lẫy, xung quanh bài trí hoa lá, cây trái. Sau lưng pho tượng có tấm bia khắc chữ Khmer ghi: ""Đại đức Liêu Đuông, đời truyền thừa thứ 17, trụ trì chùa từ năm 1893 đến năm 1928, đã tạo tượng đức Phật vào năm Phật lịch 2460 với sự cúng dường của gia đình ông Lum Sun".
Hàng năm, bên cạnh các lễ hội tôn giáo, chùa Khléang còn tổ chức các lễ truyền thống của dân tộc Khmer, như lễ Chol Chnam Thmay (lễ vào năm mới, còn gọi là lễ chịu tuổi), lễ Dolta (lễ cúng ông bà), lễ cúng trăng vào ngày 15-10 âm lịch và tổ chức đua ghe ngo... | 1 | null |
Lối sống là những nét điển hình, được lặp đi lặp lại và định hình thành phong cách, thói quen trong đời sống cá nhân, nhóm xã hội, dân tộc, hay là cả một nền văn hóa. Thuật ngữ lối sống lần đầu tiên được sử dụng bởi nhà tâm lý học người Áo Alfred Adler (1870-1937). Lối sống cá nhân được đặc trưng bởi cái nhìn về thực tại (thế giới quan), cá tính, bản sắc cá nhân (bản ngã hay là cái tôi) cũng như những ảnh hưởng bởi môi trường xung quanh như gia đình, nơi sinh sống, giáo dục, văn hóa và đặc biệt là truyền thông.
Đại cương.
Một lối sống thường phản ánh thái độ của một cá nhân, giá trị hoặc thế giới quan của cá nhân đó. Không phải tất cả các khía cạnh của một lối sống là được hình thành một cách tự nhiên hoặc qua quá trình tiếp nhận một cách tự nguyện. Quan niệm xã hội và sự nghiêm khắc, hà khắc, kỷ luật có thể hạn chế sự lựa chọn lối sống có sẵn cho cá nhân. Lối sống có thể bao gồm quan điểm về chính trị, tôn giáo, sức khỏe, giới tính, đạo đức, sự thân mật, và nhiều hơn nữa. Tất cả các khía cạnh này đóng vai trò trong việc hình thành lối sống của một ai đó. Cha mẹ là người thầy đầu tiên của những đứa trẻ. Ngoài ra thì tầng lớp xã hội, địa vị xã hội, giai cấp cũng ảnh hưởng và định hình đến lối sống cá nhân.
Một số lối sống được biết đến nhiều hiện nay như lối sống bảo thủ, lối sống truyền thống, lối sống cấp tiến, lối sống phô trương, lối sống lành mạnh... Hay là lối sống đua đòi của tuổi trẻ mới lớn, lối sống thác loạn của một số bộ phận giới trẻ và ở Việt Nam, thuật ngữ lối sống Phương Tây được nhắc nhiều trong sự đối lập với nếp sống truyền thống dân tộc theo kiểu Á Đông và thường được cho là mặt trái, thiếu lành mạnh và tiêu cực với một số hiện tượng như sống thử, lối sống nổi loạn, thác loạn, lối sống hào nhoáng, chạy theo giá trị đồng tiền..., lối sống công nghiệp của phương Tây.
Sức khỏe.
Sức khỏe của một cá nhân phụ thuộc rất nhiều vào lối sống của họ. Duy trì sức khỏe thể chất và tinh thần quan trọng đối với tuổi thọ của cá nhân. Thời gian dành cho vệ sinh, thể dục, thể thao, và quy định chế độ ăn uống, lối sống lành mạnh mà họ có, tạm gọi là lối sống điều độ. Những người đã chọn để tham gia vào bất kỳ loại hoạt động thể chất hàng tuần thường khỏe mạnh hơn những người không tham gia rèn luyện.
Bệnh tâm thần có thể xảy ra thông qua lối sống, ví dụ như bệnh trầm cảm có thể thúc đẩy bệnh tâm thần thông qua sự căng thẳng và lo lắng. Lý do bị trầm cảm có thể là do một số điều bao gồm mất việc làm, góa bụa, ly dị, trầm cảm có thể dẫn đến nguy cơ tăng tần số của những thói quen xấu không có lợi cho sức khỏe thể chất. Thói quen xấu cuối cùng có thể dẫn đến một lối sống tiêu cực. Một lối sống lành mạnh hay không lành mạnh sẽ rất có thể được truyền qua nhiều thế hệ.
Môi trường sống.
Có hai loại môi trường cho một lối sống: tự nhiên và xã hội. Môi trường tự nhiên là điều kiện trong đó một người, động vật, thực vật sinh sống. Đối với một lối sống cá nhân, ảnh hưởng của môi trường tự nhiên này là quan trọng, ví dụ như không khí trong lành, nước sạch, nhà cửa sạch sẽ, đường phố sạch sẽ có ảnh hưởng nhất định. Môi trường xã hội bao gồm không gian nơi một cá nhân sống và điều kiện làm việc, mức sống, mức thu nhập, trình độ học vấn, cộng đồng và tín ngưỡng tôn giáo bất kỳ (nếu có).
Truyền thông.
Công nghệ và truyền thông đa dạng có thể góp phần thay đổi cuộc sống của mọi người trong xã hội. Nó có tác động tích cực và tiêu cực đến cuộc sống hàng ngày. Sự tích cực và tiêu cực của công nghệ phụ thuộc vào việc tiếp xúc và sử dụng nó như thế nào. | 1 | null |
Ribeyrolles 1918 là loại súng trường tấn công thử nghiệm dự tính sẽ được chế tạo cho lực lượng quân đội Pháp, nó không tiến xa hơn giai đoạn thử nghiệm nhưng các chi tiết của súng được dùng để phát triển các loại súng khác sau đó. Súng sử dụng cơ chế nạp đạn bằng phản lực bắn. dùng loại đạn 8x35 mm với hộp đạn 25 viên. Nó có chân chống chữ V nhẹ ở phía trước để có thể dùng như một loại súng yểm trợ bộ binh và có thể gắn thêm lưỡi lê. | 1 | null |
Quan hệ tình dục ba người là từ dùng để chỉ kiểu quan hệ tình dục tập thể gồm ba người cùng một lúc. Mối quan hệ ba người này có thể là một trong các trường hợp sau: ba nam với nhau, ba nữ với nhau, hai nam với một nữ, hai nữ với một nam và không nhất thiết phải cùng là dị tính luyến ái hay cùng là đồng tính luyến ái.
Đây là một trong những hình thức phổ biến của tình dục tập thể nhưng là một thể loại chuyên biệt với cách thức quan hệ tình dục của ba người (cần phân biệt với tình tay ba). Mặc dù ít được phản ánh trên phim ảnh không mang tính khiêu dâm, tình dục ba người lại xuất hiện nhiều trong phim khiêu dâm cũng như trong thể loại truyện Hentai của Nhật Bản.
Trên báo chí tiếng Việt, quan hệ tình dục ba người còn được gọi là "quan hệ tình dục ba người" (some) và hình thức chuộng nhất rơi vào nhóm hai nam với một nữ do về mặt sinh lý, kiểu này không mất sức nhưng vẫn có thể đáp ứng trọn vẹn nhu cầu giải tỏa của đôi bên. Kiểu quan hệ tình dục ba người phổ biến nhất vẫn là hai người nam cùng quan hệ với một người nữ hoặc ngược lại.
Phân loại.
Quan hệ tình dục 3 người có thể được thực hiện bởi bất kỳ giới tính và khuynh hướng tình dục. Người tham gia sẽ có thể tham gia vào bất kỳ hình thức tình dục nào với một hoặc cả hai người khác, chẳng hạn như quan hệ tình dục qua đường âm đạo, hậu môn, miệng hoặc thủ dâm lẫn nhau.
Quan hệ tình dục 3 người có thể được thực hiện bởi: MMF (nam, nam, nữ); FFM (nữ, nữ, nam); MMM (nam, nam, nam) và FFF (nữ, nữ nữ).
Tư thế tình dục.
Hoạt động tình dục ba người có thể diễn ra ở một số tư thế quan hệ tình dục; ví dụ như sau: | 1 | null |
"Let It Be" là ca khúc của The Beatles, được phát hành dưới dạng đĩa đơn vào tháng 3 năm 1970 rồi sau đó được chỉnh sửa lại và được cho vào album cùng tên phát hành vào tháng 5 cùng năm. Ca khúc được viết bởi Paul McCartney, song vẫn được ghi cho Lennon-McCartney. Đây là đĩa đơn cuối cùng của The Beatles trước khi McCartney tuyên bố rời khỏi ban nhạc (khi đó, Lennon đã chia tay ban nhạc từ lâu). Cả album "Let It Be" lẫn đĩa đơn "The Long and Winding Road" đều được phát hành sau sự ra đi của McCartney và sau những tuyên bố chính thức về việc giải tán ban nhạc.
"Let It Be" giữ vị trí số 1 bởi "The Fans' Top 10" trong cuốn sách tuyển tập "The 100 Best Beatles Songs: An Informed Fan's Guide" của Stephen J. Spignesi và Michael Lewis. Đây cũng là ca khúc đứng thứ 8 trong danh sách "100 ca khúc hay nhất của The Beatles" bởi tạp chí "Rolling Stone".
Năm 1987, ca khúc này được thu lại cho chiến dịch từ thiện Ferry Aid (mà McCartney cũng tham gia). Bản thu này cũng giành được vị trí số 1 tại UK Singles Chart và tại nhiều bảng xếp hạng khác ở châu Âu.
Sáng tác và thu âm.
Nguồn gốc.
McCartney nói anh đã có ý tưởng về "Let It Be" sau khi anh có một giấc mơ về mẹ mình trong giai đoạn căng thẳng xung quanh các buổi tập cho "The Beatles" ("the White Album") vào năm 1968. Theo McCartney, bài hát đề cập đến "Mẹ Mary" không phải là nói về kinh thánh. Cụm từ này đôi khi được sử dụng để chỉ Maria, mẹ của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, McCartney đã giải thích rằng mẹ của ông - người đã mất vì bệnh ung thư khi ông 14 tuổi - là nguồn cảm hứng cho từ "Mẹ Mary" . Sau đó, anh nói: "Thật vui khi được gặp bà ấy lần nữa, tôi cảm thấy rất vui khi có giấc mơ đó, và vì vậy tôi đã viết "Let It Be". Anh cũng đã nói trong một cuộc phỏng vấn sau đó về ước mơ mà mẹ anh đã nói với anh, "Mọi chuyện sẽ ổn thôi, đừng bận tâm." Khi được hỏi liệu bài hát có nhắc đến Đức mẹ Maria, McCartney thường trả lời câu hỏi bằng cách bảo đảm với các fan của mình rằng họ có thể diễn giải bài hát tùy theo ý họ thích. | 1 | null |
Tiêu Thống (, 501–531), tên tự Đức Thi (德施), xưng Chiêu Minh thái tử, là một thái tử của triều đại Lương trong lịch sử Trung Quốc. Ông là trưởng tử của Lương Vũ Đế Tiêu Diễn, song đã qua đời trước cả phụ hoàng. Tiêu Thống để lại cho hậu thế tác phẩm "Văn tuyển"- một bộ tổng tập thi văn.
Thời thơ ấu.
Khi Tiêu Thống sinh ra, cha ông đã gần như giành được chiến thắng trong cuộc nội chiến chống lại hoàng đế Tiêu Bảo Quyển. Tiêu Thống sinh ra tại căn cứ Tương Dương của Tiêu Diễn, mẹ của ông là Đinh Lệnh Quang (丁令光)- một người thiếp của Tiêu Diễn. Sau khi giành được chiến thắng, Tiêu Diễn đã buộc Nam Tề Hòa Đế Tiêu Bảo Dung phải thiện nhượng cho mình, tức Lương Vũ Đế, kết thúc triều Nam Tề và mở đầu triều Lương. Khi các hạ thần thỉnh cầu Lương Vũ Đế sách phong Tiêu Thống làm thái tử, Lương Vũ Đế thoạt đầu từ chối vì chưa bình định được quốc gia, song đến mùa đông năm 502, Tiêu Thống đã trở thành thái tử khi mới được một tuổi. Sau khi Tiêu Thống được sách phong thái tử, Đinh Lệnh Quang cũng không được phong làm hoàng hậu.
Tiêu Thống là một đứa trẻ thông minh, ân cần, và vâng lời phụ mẫu. Theo phong tục khi đó, vào năm 506, Tiêu Thống đến ở tại Vĩnh Phúc tỉnh (永福省). Trong những ngày tháng sau đó, ông không được phụ mẫu luôn ở bên mình, song cứ vài ngày hoặc lâu hơn thì Lương Vũ Đế sẽ lại dành vài ngày ở tại Vĩnh Phúc tỉnh. Năm 515, Tiêu Thống tiến hành nghi lễ thông qua và được tuyên bố đã trưởng thành, Lương Vũ Đế ban một mũ miện cho Tiêu Thống.
Khi đã trưởng thành.
Do Lương Vũ Đế là một Phật tử sùng đạo, Tiêu Thống cũng bị ảnh hưởng, ông đã chăm chú nghiên cứu Phật, thường mời các hòa thượng đến Đông cung để giảng dạy và thảo luận về Đạo pháp. Sau khi thực hiện nghi lễ thông qua, Lương Vũ Đế cũng bắt đầu trao dần các công việc quốc gia đại sự cho Tiêu Thống, bản thân Lương Vũ Đế trở nên ít tham gia vào các hoạt động thường nhật của quốc gia.
Năm 522, hoàng thúc Thủy Hưng quận vương Tiêu Đạm (蕭憺) của Tiêu Thống qua đời. Theo phong tục, một thái tử sẽ không để tang một thời gian với hoàng thúc, song Tiêu Thống cho rằng phong tục này là không đúng đạo, và do đó đã yêu cầu các quan lại thảo luận thêm về vấn đề này. Sau khi Lưu Hiếu Xước (劉孝綽) đề xuất rằng Thái tử để tang một tháng, ông đã đồng ý, và hành động này đã trở thành tiền lệ trong triều đình Lương.
Năm 526, Đinh quý tần lâm bệnh, Tiêu Thống đã dành nhiều ngày ở bên cạnh bà mà không nghỉ ngơi. Đinh quý tần qua đời vào mùa đông năm 526, khiến Tiêu Thống đã rất buồn, đến nỗi ông không ăn gì. Lương Vũ Đế đã cố gắng an ủi hoàng nhi khi chỉ ra rằng ông không nên làm hại đến ngọc thể và vẫn còn lại cha, do đó ông bắt đầu dùng cháo đặc song không ăn thêm gì. Tiêu Thống được mô tả là từng khá béo, song ông đã mất rất nhiều trọng lượng trong thời gian để tang Đinh quý tần.
Qua đời.
Việc Đinh quý tấn qua đời đã dẫn đến rạn nứt trong mối quan hệ giữa Tiêu Thống và phụ hoàng. Tiêu Thống đã tìm được một địa điểm thích hợp để an táng Đinh quý tần, song một địa chủ đã hối lộ cho hoạn quan Du Tam Phó (俞三副) để thuyết phục Lương Vũ Đế rằng mảnh đất của người này sẽ đem đến may mắn cho hoàng đế, và do vậy Lương Vũ Đế đã mua đất và an táng Đinh quý tần tại đó. Tuy nhiên, đến khi Đinh quý tần được an táng, một đạo sĩ Đạo giáo đã nói với Tiêu Thống rằng mảnh đất đó sẽ đem đến vận xấu cho Tiêu Thống. Do đó, Tiêu Thống đã cho phép đạo sĩ chôn một vài món đồ để hóa giải vận xấu, như vịt sáp, tại vị trí dành cho người con trai trưởng. Sau đó, khi Bào Mạc Chi (鮑邈之) bị Ngụy Nhã (魏雅) chèn ép trong nội bộ nhóm người phụng sự Thái tử, ông ta đã báo với Lương Vũ Đế rằng Ngụy Nhã tiến hành ma thuật nhân danh Tiêu Thống. Đến khi Lương Vũ Đế điều tra thì đã tìm thấy vịt sáp, hoàng đế trở nên sửng sốt và tức giận, và muốn điều tra thêm. Lương Vũ Đế đã chỉ dừng lại khi được Từ Miễn (徐勉) khuyên can, và chỉ cho hành quyết đạo sĩ Đạo giáo. Vụ việc đã khiến Tiêu Thống bị làm cho bẽ mặt, và Thái tử đã không bao giờ có thể thanh minh hoàn toàn cho mình trong suy nghĩ của phụ hoàng.
Tiêu Thống qua đời vào năm 531. Ngay cả khi đã lâm bệnh nặng, do lo sẽ khiến phụ hoàng phải lo lắng cho mình, Tiêu Thống vẫn đích thân viết sớ tấu cho phụ hoàng. Sau khi Tiêu Thống qua đời, đích thần Lương Vũ Đế đã dự lễ thông dạ cho ông và cho chôn cất hoàng nhi trong một lăng mộ giống như của hoàng đế. Lương Vũ Đế cũng triệu trưởng tử của Tiêu Thống là Hoa Dung công Tiêu Hoan (蕭歡) trở về kinh thành Kiến Khang, chuẩn bị để lập Tiêu Hoan làm hoàng thái tôn. Tuy nhiên, do vẫn còn bực bội trước vụ ma thuật khi xưa, Lương Vũ Đế đã lưỡng lự trong nhiều ngày mà chưa đưa ra quyết định, và cuối cùng đã không làm như vậy. Thay vào đó, chống lại quan điểm phổ biến của Nho giáo, Lương Vũ Đế đã lập hoàng đệ đồng mẫu của Tiêu Thống là Tiêu Cương làm hoàng thái tử. Để bù đắp cho ba nhi tử của Tiêu Thống, Lương Vũ Đế phong họ làm thân vương của các quận lớn. Năm 551, Hầu Cảnh đã phế truất Lương Giản Văn Đế Tiêu Cương và lập cháu nội của Tiêu Thống là Dự Chương vương Tiêu Đống làm hoàng đế.
Di sản văn chương.
Trong giai đoạn làm Thái tử, Tiêu Thống và những người khác đã biên soạn một bộ tổng tập thi văn mà ông gọi là "Văn tập" (文選), và sau khi ông qua đời, tác phẩm này được gọi là "Chiêu Minh văn tuyển" (昭明文選)- kèm với thụy hiệu của ông. Đây là một công trình có ý nghĩa lịch sử quan trọng, nếu không có nó thì nhiều bản văn cổ có thể đã thất truyền. Văn tuyển bao gồm 60 quyển. | 1 | null |
Music from the 3D Concert Experience là album nhạc phim thứ hai của bộ ba người Mỹ Jonas Brothers. Album được phát hành vào ngày 24 tháng 2 năm 2009 trước khi của họ được phát hành. Album này được dự đoán là sẽ dẫn đầu bảng xếp hạng album "Billboard" 200 nhưng thực tế nó chỉ ra mắt tại vị trí thứ 3.
Tiếp nhận.
Allmusic chấm cho album 3/5 sao. Họ cho rằng album này không hay bằng "" của Miley Cyrus. | 1 | null |
Trường phái kinh tế học Áo là một trường phái tư tưởng nghiên cứu các hiện tượng kinh tế học dựa trên giải thích và phân tích những hành động có mục đích của các cá nhân. Trường phái này có tên gọi như vậy do nó có nguồn gốc từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 ở Viên với các nghiên cứu của Carl Menger, Eugen von Böhm-Bawerk, Friedrich von Wieser và những người khác. Hiện giờ, những người thừa kế trường phái Áo có thể đến từ bất cứ nơi nào trên thế giới, nhưng họ vẫn thường được gọi là "các nhà kinh tế học trường phái Áo", hay đơn giản là "người Áo" và tác phẩm của họ là "kinh tế học Áo".
Trong số những đóng góp của trường phái Áo có học thuyết giá trị chủ quan, học thuyết về cận biên và việc công thức hóa vấn đề tính toán kinh tế.
Nhiều nhà kinh tế học hiện đại phê phán kinh tế Áo và coi việc trường phái này bác bỏ các phương pháp kinh tế lượng, kinh tế thực chứng và đề cao quá đáng phân tích kinh tế vĩ mô là đi ra ngoài khuôn khổ kinh tế học chính thống, hay là kinh tế học không chính thống. Những người theo trường phái Áo do đó cũng chỉ trích kinh tế học chính thống. Dù trường phái Áo bị coi là dị giáo của kinh tế học từ cuối những năm 1930, nó vẫn thu hút được sự quan tâm của cả các học giả lẫn công luận bắt đầu từ những năm 1970.
Phương pháp luận.
Trường phái Áo bắt đầu những phân tích thông qua quan sát nền kinh tế và tìm hiểu quan điểm cũng như động cơ ẩn sau hành động của từng cá nhân đơn lẻ. Cach tiếp cận này, vẫn được gọi là "cá nhân luận" hay "chủ nghĩa khách quan duy lý", khác biệt với những trường phái tư duy kinh tế học khác, vốn đánh giá thấp tầm quan trong của kiến thức, thời gian, kỳ vọng cá nhân và các nhân tố chủ quan khác, mà tập trung vào phân tích cân bằng.
Năm 1949, Ludwig von Mises trình bày phiên bản tiếp cận chủ quan của ông, mà ông gọi là "hành vi học" trong một cuốn sách được xuất bản bằng tiếng Anh với tựa đề "Human Action" (Hành vi con người). Trong cuốn sách, Mises tuyên bố về phương pháp luận của ông, và cho rằng hành vi học có thể được sử dụng để làm "một tiên nghiệm" cho các sự thật kinh tế học lý thuyết. Mises cũng lập luận chống lại việc áp dụng xác suất thống kê vào các mô hình kinh tế học. Theo Mises, kinh tế học suy luận dựa trên những thí nghiệm tưởng tượng, nếu được thực hiện chính xác, có thể đưa tới những kết luận không thể tranh cãi từ các giả định đúng đắn và điều này không thể có chỉ bởi sử dụng quan sát thực nghiệm và thống kê học. Tuy nhiên, kể từ thời của Mises, không nhiều nhà kinh tế Áo áp dụng hoàn toàn cách tiếp cận hành vi học của ông và nhiều người đã sử dụng các phiên bản thay thế. Lấy ví dụ, Fritz Machlup, Friedrich von Hayek và những người khác, không coi trọng cách tiếp cận "tiên nghiệm" của Mises trong kinh tế học.
Kinh tế gia Paul A. Samuelson viết rằng hầu hết các nhà kinh tế đánh giá những kết luận đạt được chỉ thông qua suy luận logic thuần túy là bị hạn chế và yếu. Theo Samuelson và nhà kinh tế học Bryan Caplan, khía cạnh này trong phương pháp luận của trường phái Áo đã khiến nó bị chỉ trích nhiều trong kinh tế học chính thống. Caplan đã tuyên bố sự thách thức của trường phái Áo với tính thực tế của những giả định tân cổ điển thực ra giúp cho những giả định đó đứng vững hơn.
Bắt đầu từ thế kỷ 20, nhiều nhà kinh tế Áo đã tích hợp các mô hình và toán học vào phân tích kinh tế của họ. Nhà kinh tế Áo Steven Horwitz lập luận rằng phương pháp luận của trường phái Áo vẫn nhất quán với kinh tế học vĩ mô và kinh tế học vĩ mô Áo có thể được thể hiện trên những nền tảng của kinh tế học vi mô. Nhà kinh tế Áo Roger Garrison thì lập luận rằng học thuyết kinh tế vĩ mô Áo có thể được mô tả chính xác thông qua các mô hình biểu đồ. Năm 1944, nhà kinh tế Áo Oskar Morgenstern trình bày một hình thức biểu đồ hóa sinh động của định lý Von Neumann–Morgenstern về độ thỏa dụng trong tác phẩm "Theory of Games and Economic Behavior" (Lý thuyết trò chơi và hành vi kinh tế).
Các học thuyết.
Chi phí cơ hội.
Học thuyết về chi phí cơ hội lần đầu tiên được công thức hóa một cách đầy đủ bởi nhà kinh tế Áo Friedrich von Wieser vào cuối thế kỷ 19. Chi phí cơ hội là chi phí cho một hoạt động được đo bằng giá trị của hoạt động tạo ra giá trị lớn tiếp theo đã không được thực hiện vì lựa chọn hoạt động ban đầu. Đó là sự hy sinh liên quan tới lựa chọn tốt thứ hai cho một người hoặc một tổ chức, vốn có trong tay vài lựa chọn cùng lúc. Quan điểm này hiện nay được nhất trí bởi mọi kinh tế gia đương đại thuộc mọi trào lưu tư tưởng kinh tế.
Chi phí cơ hội là một khái niệm nền tảng trong kinh tế học, và đã được mô tả là cho thấy "mối quan hệ cơ bản giữa sự hy sinh và lựa chọn". Quan điểm về chi phí cơ hội đóng vai trò rất quan trọng đảm bảo rằng các nguồn lực khan hiếm được sử dụng một cách hiệu quả. Như thế, chi phí cơ hội không chỉ giới hạn ở chi phí bằng tiền hay tài chính: chi phí thực của một lựa chọn sản xuất, thời gian mất đi, sự hài lòng và các lợi ích khác mang tới sự thỏa dụng cũng được tính vào chi phí cơ hội.
Vốn và lãi suất.
Học thuyết của trường phái Áo về vốn và lãi suất được phát triển lần đầu bởi Eugen von Böhm-Bawerk. Ông cho rằng tỉ lệ lãi suất và lợi nhuận được xác định bởi hai yếu tố là cung và cầu trên thị trường và sự ưa thích về thời gian.
Học thuyết của Böhm-Bawerk là sự đáp trả với học thuyết giá trị lao động và quan điểm về tư bản của Karl Marx. Học thuyết của Böhm-Bawerk thách thức sự đúng đắn của học thuyết giá trị lao động trên khía cạnh chuyển đổi giá trị hàng hóa, mà theo Marx là có hai giá trị. Böhm-Bawerk lập luận rằng các nhà tư bản không hề bóc lột công nhân; họ "tạo điều kiện" cho công nhân bằng cách cung cấp thu nhập trước so với sản lượng và doanh số mà các công nhân sẽ giúp nhà tư bản tạo ra. Học thuyết của Böhm-Bawerk cân bằng sự tập trung về vốn với mức độ tạo ra các tài sản vốn ban đầu của tiến trình sản xuất. Böhm-Bawerk cũng tranh luận rằng quy luật thỏa dụng biên ngụ ý rằng quy luật cổ điển về chi phí là đúng. Vì vậy mà một số nhà kinh tế Áo bác bỏ hoàn toàn quan điểm cho rằng lãi suất bị ảnh hưởng bởi sự ưa thích thanh khoản.
Lạm phát.
Mises tin rằng giá cả và lương sẽ tăng không tránh khỏi khi lượng tiền và tín dụng từ ngân hàng tăng lên. Do đó ông sử dụng từ "lạm phát" để chỉ sự gia tăng quá mức của cung tiền, chứ không phải theo nghĩa hiểu hiện giờ. Theo quan điểm của Mises, lạm phát là kết quả của các chính sách từ chính phủ hoặc ngân hàng trung ương dẫn tới sự gia tăng cung tiền. Tiếp theo Mises, trường phái Áo ngày nay cho rằng đặc điểm ngữ nghĩa của lập luận từ Mises là rất quan trọng trong cuộc trao đổi hiện giờ về lạm phát giá cả, và lạm phát giá cả chỉ có thể được ngăn chặn bởi kiểm soát chặt cung tiền. Mises viết:
Suy nghĩ về lý thuyết, chỉ có một ý nghĩa gắn một cách duy lý với khái niệm lạm phát: sự gia tăng số lượng tiền (trong nghĩa rộng hơn của cụm từ này, tức là bao gồm cả các tín dụng ủy thác), không đi kèm với sự gia tăng về cầu tiền tương ứng (một lần nữa theo nghĩa rộng của cụm từ này), nên việc giá trị trao đổi khách quan của đồng tiền giảm xuống là điều sẽ xảy ra tiếp theo.
Nhà kinh tế học Richard Timberlake chỉ trích quan điểm của Mises rằng lạm phát nhất thiết phải liên quan tới việc tăng cung tiền. Timberlake cho rằng các nhà kinh tế kể từ thời của John Stuart Mill đã nhận ra sự không liên hệ giữa tăng số lượng tiền và tăng giá cả hàng hóa nói chung. Timberlake tuyên bố quan điểm của Mises đã được chứng minh là sai nhiều lần và biện pháp thống kê về giá cả là cần thiết để thử nghiệm tính đúng đắn trong thực nghiệm của học thuyết Mises. Kinh tế gia Paul Krugman đã tranh luận chống lại quan điểm Áo về lạm phát. Krugman chỉ ra rằng trong giai đoạn từ 2007 tới cuối 2012, cơ sở tiền tăng hơn 350%, trong khi lạm phát đồng thời chỉ là không tới 3% mỗi năm. Theo Krugman, "Nếu bạn tin rằng... mở rộng tín dụng đơn giản sẽ dẫn tới quá nhiều tiền đuổi theo quá ít hàng hóa và do đó là tỉ lệ lạm phát cao... thì việc lạm phát cao không trở thành thực tế là một sự bác bỏ quyết định với mô hình Áo".
Vấn đề tính toán kinh tế.
Vấn đề tính toán kinh tế là sự chỉ trích của trường phái Áo nhắm vào các nhà kinh tế học xã hội chủ nghĩa. Nó được đề xuất đầu tiên bởi Max Weber năm 1920. Mises trao đổi về ý tưởng của Weber với học trò của ông Friedrich Hayek, người mở rộng ý tưởng này tới mức độ trở thành một trong những lý do quan trọng được trích dẫn khi trao giải Nobel cho ông. Vấn đề kinh tế học được đề cập là vấn đề liên quan tới việc phân bổ nguồn lực sao cho hiệu quả trong nền kinh tế.
Trường phái Áo nhấn mạnh sức mạnh tự tổ chức của cơ chế giá cả. Mises và Hayek tranh luận rằng cơ chế giá là giải pháp khả thi duy nhất với vấn đề tính toán kinh tế, vì cơ chế giá cả kết hợp việc cung ứng hàng hóa và các quyết định đầu tư một cách hiệu quả nhất. Trong bối cảnh giá cả thị trường không kèm theo thông tin đầy đủ và hiệu quả, chủ nghĩa xã hội thiếu một phương pháp để tập trung nguồn lực một cách hiệu quả trong thời gian dài ở bất cứ thị trường nào mà cơ chế giá cả có hiệu lực (một ví dụ nơi cơ chế giá cả không có hiệu quả là ở một số lĩnh vực tương đối khu biệt như hàng hóa công cộng và hàng hóa chung). Những ai đồng ý với sự chỉ trích này tranh luận rằng đó là sự phủ nhận chủ nghĩa xã hội và cho thấy một nền kinh tế kế hoạch kiểu chủ nghĩa xã hội không bao giờ có thể hiệu quả trong dài hạn với phần lớn nền kinh tế và có khả năng áp dụng rất hạn chế. Cuộc tranh luận trở nên dữ dội vào những năm 1920 và 1930 và giai đoạn đặc thù này trong lịch sử kinh tế học sau này được biết đến với tên gọi "Cuộc tranh luận tính toán xã hội chủ nghĩa."
Mises lập luận trong bài báo năm 1920 "Economic Calculation in the Socialist Commonwealth" (Tính toán kinh tế trong phúc lợi xã hội chủ nghĩa) rằng các hệ thống giá cả trong các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa không thể nào đầy đủ vì nếu chính quyền sở hữu các phương tiện sản xuất, thì không thể định giá của các hàng hóa vốn do giá cả khi đó chỉ là việc chuyển giao nội bộ hàng hóa trong hệ thống xã hội chủ nghĩa và không phải là những hàng hóa cuối cùng, những phương tiện trao đổi đích thực. Do đó, các hàng hóa này không được định giá và hệ thống kinh tế trở nên không đầy đủ, bị khiếm khuyết vì những người lập kế hoạch ở trung ương không thể nào biết cách phân bổ các nguồn lực sẵn có cho hiệu quả. Điều này dẫn tới việc Mises tuyên bố "...rằng các hoạt động kinh tế duy lý không thể nào tồn tại trong một xã hội phúc lợi xã hội chủ nghĩa." Tuyên bố của Mises bị chỉ trích là quá cực đoan, khi mô tả xã hội chủ nghĩa là điều bất khả, thay vì chỉ dừng lại ở việc cho rằng nguồn lực được phân bổ thiếu hiệu quả.
Chu kỳ kinh doanh.
Học thuyết của trường phái Áo về chu kỳ kinh doanh tập trung vào chu kỳ tín dụng và nguyên nhân của chu kỳ kinh doanh. Được làm rõ thêm bởi Hayek và những người khác, học thuyết chu kỳ kinh doanh bắt đầu bởi von Mises, người tin rằng sự mở rộng cung tiền, với lãi suất thấp nhân tạo, sẽ dẫn tới sự phân bổ sai nguồn vốn từ các doanh nghiệp. Nhà kinh tế Áo Murray Rothbard, viết "học thuyết của Mises cho thấy sự hoạt động toàn diện của chu kỳ tăng trưởng-suy thoái: bơm tín dụng ngân hàng gây ra lãi suất, do chính phủ bắt đầu; sự tăng trưởng do đầu tư sai lầm bởi lạm phát phớt lờ các tín hiệu của thị trường tự do; kết thúc của lạm phát cho thấy những đầu tư sai lầm này; và cuối cùng, suy thoái như là một cách sửa chữa của thị trường tự do với những lãng phí và hỗn loạn của tăng trưởng trước đó." Rothbard cũng cho rằng học thuyết của Mises là một trong số ít học thuyết tích hợp cả kinh tế học vi mô và vĩ mô, do đó ủng hộ những học thuyết áo liên quan tới giá cả và hệ thống tư bản.
Luận điểm.
Theo trường phái Áo, chu kỳ tăng trưởng-suy thoái là do sự đầu tư sai lầm xuất phát từ việc mở rộng tín dụng thái quá và không bền vững cho những người vay mượn cá nhân và công ty từ các ngân hàng. Quá trình tạo ra tiền này tạo ra ấn tượng giả tạo về việc "những khoản tiết kiệm" được sẵn sàng đưa vào giúp tăng đầu tư: cung tiền cho đầu tư tăng và lãi suất giảm. Những người vay tiền nhận được các khoản vay mới và "đấu giá" để có nguồn vốn rẻ đồng thời làm tăng giá của các sản phẩm hàng hóa khác, do đó chuyển đầu tư từ hoàng hóa tiêu dùng sang các hàng hóa tài chính. Những người theo trường phái Áo cho rằng sự chuyển đổi này là không bền vững và trong dài hạn sẽ phải đảo ngược, và quá trình tự điều chỉnh sẽ đầy biến động và đứt quãng nếu như việc chuyển đổi vốn tư bản vào các hàng hóa tài chính tiếp tục kéo dài.
Tỉ lệ tiêu dùng so với tiết kiệm hay đầu tư được xác định bởi sở thích của con người, tức là mức độ mà họ ưa thích những thỏa mãn hiện tại hơn so với tương lai. Do đó lãi suất thuần túy được xác định bởi sở thích theo thời gian của các cá nhân trong xã hội, và tỉ lệ cuối cùng của lãi suất thị trường phản ánh lãi suất thuần túy cộng hoặc trừ đi rủi ro kinh doanh và những yếu tố của sức mua. Do đó, nếu tỉ lệ lãi suất thị trường thấp hơn mức này, các doanh nhân sẽ đầu tư quá trớn.
Vì họ cạnh tranh cho cùng số tư bản và thị phần, một số doanh nhân sẽ tăng vay mượn, để không bị những doanh nhân khác đánh bại. Một khuynh hướng đầu tư quá trớn và vay mượn kiểu đầu cơ trong môi trường này do đó là không thể tránh khỏi. Tiền mới này sau đó được phân phát từ những người vay mượn kinh doanh vào các yếu tố sản xuất: tới những chủ đất và chủ sở hữu vốn bán tài sản tài chính của họ cho những doanh nhân mới mắc nợ, rồi tới lượt những yếu tố sản xuất khác như tiền lương, tiền thuê và lãi suất. Trường phái Áo kết luận rằng, vì những sở thích liên quan tới thời gian là không đổi, mọi người sẽ đổ xô vào thiết lập lại những tỉ lệ tiêu dùng trên tiết kiệm (hay đầu tư) cũ, và cầu sẽ chuyển từ những mức cao hơn xuống những mức thấp hơn. Nói cách khác, người gửi tiền sẽ có xu hướng rút tiền khỏi hệ thống ngân hàng và chi tiêu, chứ không tiết kiệm, các ngân hàng sẽ yêu cầu những người vay của họ phải trả nợ và lãi suất cũng như các điều kiện tín dụng sẽ bị hủy hoại.
Trường phái Áo không cho rằng các biện pháp thắt lưng buộc bụng nhất thiết sẽ ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế. Thay vào đó, trường phái Áo lập luận những nỗ lực của chính quyền trung ương giữ giá các tài sản tài chính, như việc bỏ tiền vào những ngân hàng đã sụp đổ, hay kích thích kinh tế thông qua chi tiêu thâm hụt, sẽ chỉ khiến những tính toán sai lầm và việc đầu tư sai thêm trầm trọng, làm rối loạn thông tin giá cả thị trường và phân bổ nguồn lực. Chu kỳ kinh doanh của trường phái Áo do đó cho rằng những chính sách kiểu đó của chính phủ chỉ kéo dài quá trình tự điều chỉnh cần thiết để đạt lại tăng trưởng ổn định. Những người Áo cho rằng sai sót chính sách nằm trong sự yếu đuối và cẩu thả của chính phủ (hoặc ngân hàng trung ương) khi bơm những nguồn tín dụng sai lầm vào thị trường từ đầu, chứ không phải ở chỗ cố gắng kết thúc cuộc khủng hoảng bằng những biện pháp tài khóa và tiền tệ thắt chặt chi tiêu.
Vai trò của ngân hàng trung ương.
Những người theo trường phái Áo nói chung tin rằng mở rộng tín dụng từ ngân hàng là một nhân tố quan trọng đóng góp vào những chu kỳ kinh doanh và là quá trình tạo tiền cực đoan với tỉ lệ lãi suất tương đối thấp có thể gây ra chi tiêu vốn tư bản quá tay từ những người vay mượn. Một ngân hàng trung ương, bằng cách mở rộng nguồn cung các khoản vay mượn cho các ngân hàng thương mại, có thể khuyến khích việc vay mượn quá trớn và tài trợ cho thị trường vay nợ với lãi suất thị trường thấp hơn mức lãi suất lẽ ra sẽ xuất hiện nếu cung tiền được cố định.
Murray Rothbard tin rằng các ngân hàng trung ương khuyến khích tín dụng thái quá trước khi nổ ra cuộc Đại khủng hoảng và những chính sách sau đó của ngân hàng trung ương đã khiến cuộc khủng hoảng kéo dài bằng cách trì hoãn các điều chỉnh giá cả cần thiết ở nhiều thị trường khác nhau. Rothbard cho rằng trong một thị trường không có nhà chức trách phụ trách tập trung quyền lực về chính sách tiền tệ, sẽ không có tình trạng đầu tư quá trớn trên diện rộng vì những doanh nhân khôn ngoan sẽ không đồng thời cùng phạm sai lầm trong một lúc. Ông còn cho rằng những nhà băng khôn ngoan sẽ tránh xa việc vay mượn đầu cơ và những người gửi tiền không được bảo hiểm sẽ theo dõi sát sao hơn bản cân đối kế toán của các định chế tài chính, dẹp bỏ bất cứ việc đầu cơ thái quá nào trong các thị trường tài chính. Theo quan điểm của Rothbard, tình trạng đầu tư thái quá, hay đầu tư sai lầm, là kết quả sự can thiệp vào những thị trường tiền tệ từ ngân hàng trung ương.
Rothbard viết rằng sự kiểm soát tập trung hóa của ngân hàng trung ương đối với tỉ lệ lãi suất và chính sách bảo vệ các ngân hàng từ những đợt rút tiền hàng loạt theo chu kỳ dẫn tới việc các ngân hàng mở rộng tín dụng và cho vay với lãi suất thấp, làm rối loạn chức năng giá cả của thị trường tín dụng. Friedrich Hayek, mặc khác, cho rằng ngành ngân hàng tự do cạnh tranh có khuynh hướng gây ra bất ổn một cách nội sinh, lặp lại chính những tác động mà Rothbard cho là do chính sách của ngân hàng trung ương gây ra. Hayek tuyên bố việc cần sự kiểm soát của ngân hàng trung ương là không thể tránh khỏi.
Tên gọi.
Trường phái Áo lần đầu được gọi tên từ những cuộc tranh luận với trường phái kinh tế học lịch sử Đức. Những người thuộc trường phái kinh tế học lịch sử Đức chỉ trích phương pháp luận của trường phái Áo trong cuộc đấu tranh phương pháp luận (Methodenstreit), khi người Áo cho rằng bản chất của khoa học kinh tế là tư duy và suy diễn, tách rời những nghiên cứu mang tính tình huống lịch sử mà trường phái kinh tế học lịch sử theo đuổi. Năm 1883, Menger xuất bản cuốn "Những điều tra với phương pháp luận khoa học xã hội với chú trọng vào kinh tế học", trong đó ông tấn công phương pháp luận của trường phái kinh tế học lịch sử. Gustav von Schmoller, một lãnh đạo của trường phái kinh tế học lịch sử, là người đầu tiên đáp trả và ông đã sử dụng cụm từ "trường phái Áo" để khu biệt những người không tin vào phương pháp luận sử học trong kinh tế học. Từ đó trở đi, cụm từ này bắt đầu được dùng rộng rãi.
Lịch sử.
Làn sóng thứ nhất.
Trường phái Áo có nguồn gốc ở Viên, Đế quốc Áo. Cuốn sách của Carl Menger in năm 1871, "Những nguyên lý kinh tế học", thường được coi là tác phẩm nền tảng của trường phái Áo. Cuốn sách là một trong những tác phẩm nghiên cứu hiện đại đầu tiên về học thuyết độ thỏa dụng cận biên. Trường phái Áo là một trong ba luồng tư tưởng nền tảng trong cuộc cách mạng cận biên những năm 1870, với đóng góp đáng kể là việc giới thiệu cách tiếp cận chủ quan trong kinh tế học. Trong khi học thuyết cận biên có ảnh hưởng lớn với các nhà kinh tế học thời kỳ này, bắt đầu xuất hiện một trường phái riêng hợp nhất xung quanh tác phẩm của Menger, sau nay sẽ được biết đến với các tên gọi "trường phái tâm lý học", "trường phái Vienna" hay "trường phái Áo"
Những đóng góp của Menger vào lý thuyết kinh tế sau đó được tiếp nối một cách chặt chẽ bởi Böhm-Bawerk và Friedrich von Wieser. Ba nhà kinh tế học này được biết đến là "làn sóng thứ nhất" của trường phái Áo. Böhm-Bawerk viết các tác phẩm chỉ trích sâu sắc Karl Marx vào những năm 1880 và 1890, một phần trong "cuộc chiến phương pháp luận" (Methodenstreit) của trường phái Áo vào thế kỷ 19, trong đó những người theo trường phái Áo tấn công dữ dội trường phái kinh tế học lịch sử của Georg Wilhelm Friedrich Hegel và những người theo Hegel, bao gồm Marx.
Đầu thế kỷ hai mươi ở Vienna.
Một số nhà kinh tế học Áo quan trọng được đào tạo tại Đại học Vienna vào những năm 1920 và sau đó tham gia vào một khóa học riêng do Von Mises tổ chức. Trong đó có Gottfried Haberler, Friedrich Hayek, Fritz Machlup, Karl Menger (con trai của Carl Menger), Oskar Morgenstern, Paul Rosenstein-Rodan
Abraham Wald.
Thời kỳ sau trong thế kỷ hai mươi.
Vào giữa những năm 1930, hầu hết các nhà kinh tế học đã chấp nhận các đóng góp quan trọng của những người theo trường phái Áo thời kỳ đầu. Nhưng sau chiến tranh thế giới thứ hai, kinh tế học Áo lại không được các nhà kinh tế học coi trọng vì trường phái này bác bỏ các phương pháp toán học và thống kê trong nghiên cứu kinh tế. Fritz Machlup dẫn lại một tuyên bố của Hayek, "thành công lớn nhất của một trường phái là nó không tồn tại nữa vì những quan điểm học thuyết cơ bản của nó đã hòa nhập vào, trở thành một bộ phận chung được chấp nhận của dòng tư tưởng." Học trò của Mises, Israel Kirzner nhớ lại là vào năm 1954, khi Kirzner đang học tiến sĩ, người ta không còn phân biệt trường phái Áo nữa. Khi Kirzner đang cân nhắc nên học sau đại học ở đâu, Mises đã khuyên ông nhận đề nghị từ trường Johns Hopkins vì đó là một đại học danh tiếng và Fritz Machlup dạy ở đó.
Sau 1940, kinh tế học Áo có thể chia ra làm hai dòng tư tưởng, vẫn còn chia rẽ trong một số quan điểm tính tới cuối thế kỷ hai mươi. Một dòng tư tưởng, do Mises dẫn đầu, cho rằng phương pháp luận tân cổ điển là sai lầm không thể cứu vãn; dòng tư tưởng kia chấp nhận phần lớn phương pháp luận tân cổ điển và dễ chấp nhận hơn với sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế.
Henry Hazlitt đã viết nhiều bài nghiên cứu cũng như bài báo và cả nhiều cuốn sách về đề tài kinh tế học Áo giai đoạn từ những năm 1930 tới 1980. Tư tưởng của Hazlitt chịu nhiều ảnh hưởng từ Mises. Cuốn sách của ông "Kinh tế học chỉ một bài" (1946) bán được hơn một triệu bản, ông cũng nổi tiếng với tác phẩm "Sự thất bại của kinh tế học mới" (1959), một tác phẩm nhắm sự chỉ trích vào tác phẩm "Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ" của John Maynard Keynes.
Danh tiếng của trường phái Áo lại nổi lên vào cuối thế kỷ 20 một phần nhờ những nỗ lực của Israel Kirzner và Ludwig Lachmann tại Đại học New York, và sự quan tâm của công chúng với những đóng góp của Hayek sau khi ông giành giải Nobel kinh tế năm 1974. Những đóng góp của Hayek rất có ảnh hưởng trong việc làm hồi sinh trào lưu "laissez-faire" (phản đối sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế) trong thế kỷ 20.
Chia rẽ giữa những người theo trường phái Áo đương đại.
Theo nhà kinh tế học Bryan Caplan, vào cuối thế kỷ hai mươi, đã xuất hiện sự chia rẽ giữa những người tự nhận mình thuộc trường phái Áo. Một nhóm, dựa trên các tác phẩm của Hayek, theo đuổi khung phân tích chung của kinh tế học tân cổ điển, bao gồm việc sử dụng các mô hình toán và cân bằng tổng quát, và chỉ đơn giản có cái nhìn phê phán với phương pháp luận chính thống chịu ảnh hưởng của những khái niệm từ trường phái Áo như vấn đề tính toán kinh tế và vai trò độc lập của lập luận logic trong phát triển các học thuyết kinh tế. (tức các học thuyết kinh tế có thể được phát triển dựa trên suy luận logic, tách rời thực tế)
Nhóm thứ hai, theo bước Mises và Rothbard, bác bỏ các học thuyết tân cổ điển về kinh tế học tiêu dung và phúc lợi, bác bỏ các phương pháp kinh tế lượng, toán học và thống kê, cho rằng chúng không thể áp dụng cho khoa học kinh tế. Họ có tư duy khá cực đoan và Caplan bình luận: "Nếu Mises và Rothbard đúng, thì kinh tế học chính thống hoàn toàn sai; nhưng nếu Hayek đúng, thì kinh tế học chính thống chỉ cần điều chỉnh lại những vấn đề mà nó tập trung sự chú ý."
Nhà kinh tế Leland Yeager đã thảo luận về sự chia rẽ vào cuối thế kỷ hai mươi giữa hai dòng tư tưởng của trường phái Áo và lấy dẫn chứng là một cuộc thảo luận được ghi chép lại của Murray Rothbard, Hans-Hermann Hoppe, Joseph Salerno, và những người khác, trong đó họ chỉ trích dữ dội Hayek. "Gây ra sự chia rẽ giữa Mises và Hayek về vấn đề tính toán kinh tế, đặc biệt là tìm cách tấn công và cô lập Hayke, là không công bằng với cả hai con người vĩ đại đó và không thành thật với lịch sử tư tưởng kinh tế", Yeager viết.
Trong một cuốn sách được Viện Mises xuất bản năm 1999, Hans-Hermann Hoppe đánh giá rằng Murray Rothbard là thủ lĩnh của "trường phái Áo chính thống" và đối lập Rothbard với kinh tế gia được giải Nobel Friedrich Hayek. Hoppe thừa nhận Hayek là nhà kinh tế trường phái Áo nổi bật nhất trong giới học thuật, nhưng tuyên bố Hayek phản lại các truyền thống của trường phái Áo do Carl Menger và Böhm-Bawerk, rồi truyền qua Mises tới Rothbard.
Những nhà kinh tế học có quan điểm giống Hayek tập hợp lại ở Viện Cato, Đại học George Mason University, Đại học New York, và những học hiệu khác. Họ bao gồm Pete Boettke, Roger Garrison, Steven Horwitz, Peter Leeson và George Reisman. Các nhà kinh tế học có quan điểm gần Mises-Rothbard bao gồm Walter Block, Hans-Hermann Hoppe, Jesús Huerta de Soto và Robert P. Murphy, tất cả đều là người của Viện Ludwig von Mises và thành viên của một số tổ chức học thuật khác. Theo Murphy, a "một hòa ước giữa những người hai dòng tư tưởng trong trường phái Áo" đã được ký vào khoảng năm 2011. | 1 | null |
Tiêu Tông (, 501-531), tên tự Thế Khiêm (世謙), là hoàng tử thứ hai của Lương Vũ Đế, mẹ là Ngô thục viện, ông tự xem mình là di phúc tử của hoàng đế Tiêu Bảo Quyển triều Nam Tề.
Thời gian ở Lương.
Mẹ của Tiêu Tông nguyên là cung nhân của Nam Tề Phế Đế Tiêu Bảo Quyển, sau khi Tiêu Bảo Quyển bị giết chết thì bà trở thành thiếp của Tiêu Diễn, được lập làm thục viện, bảy tháng sau thì sinh hạ Tiêu Tông. Trong cung có nhiều nghi ngờ rằng Tiêu Tông là con của Tiêu Bảo Quyển song Tiêu Diễn không tin theo. Sau khi Ngô thục viện bị thất sủng, đem sự việc này kể với nhi tử. Sau khi biết chuyện, Tiêu Tông bí mật lập thất miếu thờ triều Tề, lại lén đi lễ bái lăng của Nam Tề Minh Đế. Tuy nhiên, Tiêu Tống không có cách nào xác tín bản thân mình là con trai của Tiêu Bảo Quyển. Sau khi nghe nói về việc "tích huyết nghiệm thân", Tiêu Tông liền bí mật phát quật mộ táng của Tiêu Bảo Quyển, nhỏ máu lên trên di cốt, máu ngấm vào xương cốt. Sau đó, Tiêu Tông lại giết chết một nhi tử của chính mình, lấy hài cốt để thử nghiệm. Từ đó, Tiêu Tông thực sự tin rằng mình là di phúc tử của Tiêu Bảo Quyển.
Ngày 15 tháng 8 năm 504, Tiêu Tông được phong làm Dự Chương quận vương, thực ấp 2000 hộ. Ngày 27 tháng 2 năm 506, Tiêu Tông thụ chức sứ trì tiết, đô đốc Nam Từ châu chư quân sự, Nhân Uy tướng quân, Nam Từ châu thứ sử. Không lâu sau, Tiêu Tông được tiến hiệu Bắc trung lang tướng. Ngày 20 tháng 2 năm 511, cải nhiệm làm đô đốc Tư, Dĩnh, Hoắc tam châu chư quân sự; Vân Huy tướng quân, Dĩnh châu thứ sử. Ngày 23 tháng 5 năm 513, cải nhiệm làm An Hữu tướng quân, lĩnh thạch đầu thú quân sự. Ngày 27 tháng 5 năm 516, cải nhiệm làm kiêm hộ quân. Ngày 13 tháng 12 năm 516, cải nhiệm An Tiền tướng quân. Ngày 30 tháng 3 năm 517, cải nhiệm Bắc trung lang tướng, Nam Từ châu thứ sử. Ngày 28 tháng 1 năm 521, cải nhiệm thị trung, Trấn Hữu tướng quân.
Ngày 28 tháng 4 năm 523, Tiêu Tông được cải nhiệm là sứ trì tiết, đô đốc Nam Duyện, Duyện, Thanh, Từ, Ký ngũ châu chư quân sự, Bình Bắc tướng quân, Nam Duyện châu thứ sử. Ngày 30 tháng 1 năm 524, Tiêu Tông được tiến hiệu là Trấn Bắc tướng quân.
Tiêu Tông được biết Kiến An vương Tiêu Bảo Dần của Nam Tề ở tại Bắc Ngụy, xem người này là thúc phụ, hứa đem vùng trấn thủ quy hàng Bắc Ngụy. Năm 525, Lương Vũ Đế tiến hành Bắc phạt, tướng Bắc Ngụy là Nguyên Pháp Tăng (元法僧) đem Bành Thành hàng Lương. Lương Vũ Đế lệnh cho Tiêu Tống lãnh đạo quân lính trấn thủ Bành Thành. Sau đó, Lương Vũ Đế lệnh cho Tiêu Tông thoái quân. Tiêu Tông nghĩ rằng nếu về Nam thì sau này sẽ không còn có cơ hội gặp Tiêu Bảo Dần, vì thế vào ngày 12 tháng 7, Tiêu Tống đã cưỡi ngựa chạy trốn thâu đêm đến chỗ tướng Bắc Ngụy Nguyên Diên Minh. Tiêu Diễn vô cùng phẫn nộ nên đã phế Ngô thục viện làm thứ nhân, không lâu sau thì bà bệnh mất, có thuyết nói bị hạ độc giết chết. Ngô thục viện bệnh mất, Lương Vũ Đế mủi lòng, hạ chiếu khôi phục phong hiệu cho Tiêu Tông, ban cho Ngô thục viện thụy hiệu "Kính" (敬).
Thời gian ở Bắc Ngụy.
Sau khi chạy sang Bắc Ngụy, Tiêu Tông thụ chức "tư không", được phong tước "Cao Bình quận công", "Đan Dương vương", thực ấp 7.000 hộ, thưởng 3 triệu tiền đồng, 3.000 thất vải lụa, 1.000 thất tạp thái, 50 con ngựa, 500 con dê, 100 nô tì. Tiêu Tông đoạn tuyệt quan hệ phụ-tử với Lương Vũ Đế, đổi tên thành "Tán" (贊), cải tự "Đức Văn" (德文), cùng với Tiêu Bảo Quyển mặc áo tang. Sau khi Lương Vũ Đế biết chuyện đã tước bỏ tước hiệu và đất phong của Tiêu Tông, cắt đứt thuộc tịch, đổi họ Tiêu Trực (kì tử của Tiêu Tống) thành Bội (悖). Không quá 10 ngày, Lương Vũ Đế lại khôi phục thuộc tịch của Tiêu Tông, phong Bội Trực làm Vĩnh Tân hầu, thực ấp 1.000 hộ.
Năm 527, Tiêu Bảo Dần làm phản ở Trường An, Tiêu Tán muốn rời khỏi Lạc Dương đến hưởng ứng. Chiếu theo luật pháp Bắc Ngụy, khi qua cầu không được cưỡi ngựa, song Tiêu Tán lại cưỡi ngựa đi qua, cuối cùng bị kiều lại bắt đưa đến Lạc Dương. Đến khi triều đình Bắc Ngụy nghị, nhận định Tiêu Tán không liên can đến cuộc phản loạn của Tiêu Bảo Dần, cuối cùng xá miễn. Tháng 10 năm Vĩnh An thứ nhất (528), Tiêu Tán nhậm chức "tư đồ". Tháng 11, cải nhiệm thái úy. Sau đó, Tiêu Tán kết hôn với hoàng tỉ của Bắc Ngụy Hiếu Trang Đế là Thọ Dương trưởng công chúa, được trao chức phò mã đô úy, xuất nhiệm Tề, Tế, Tây Duyện tam châu chư quân sự; Tề châu thứ sử; Phiếu Kị đại tướng quân; Khai Phủ Nghi Đồng tam ti.
Tháng 12 năm Vĩnh An thứ 3 (530), Nhĩ Chu Triệu (爾朱兆) và Nhĩ Chu Độ Luật (爾朱度律) đánh chiếm Lạc Dương, sát hại Bắc Ngụy Hiếu Trang Đế. Cùng tháng, Triệu Lạc Chu (趙洛周) ở Tề châu chiếm thành hưởng ứng cuộc phản loạn của Nhĩ Chu Triệu, đánh đuổi Tề châu thứ sử Tiêu Tán. Thọ Dương trưởng công chúa bị bắt đưa đến Lạc Dương, Nhĩ Chu Thế Long (爾朱世隆) muốn chiếm hữu trưởng công chúa, trưởng công chúa không thuận theo nên bị giết. Sau khi Tiêu Tán bị đánh đuổi, xuất gia làm sư, đến ẩn tại Trường Bạch Sơn. Không lâu sau đó, Tiêu Tống đi đến Dương Bình, bị bệnh mất tại đây, hưởng dương 30 tuổi. Đến năm 531, thời Bắc Ngụy Tiết Mẫn Đế, triều đình Bắc Ngụy tiến hành an táng theo vương lễ cho Tiêu Tông, hợp táng với Thọ Dương trưởng công chúa tại Tung Sơn. | 1 | null |
Sir Arthur Stanley Eddington (28 tháng 12 năm 1882 - 22 tháng 11 năm 1944) ông là một nhà vật lý, nhà toán học và đặc biệt là nhà thiên văn đã có những đóng góp to lớn cho Vật lý thiên văn đầu thế kỉ 20.
Trong năm 1920, ông đã thúc đẩy việc tìm ra cơ chế tổng hợp hạt nhân trong lõi của các ngôi sao, được ông viết trong bài báo "Sự hình thành của các ngôi sao". Trong thời gian mà nguồn hiểu biết của con người về "nguồn năng lượng sao" vẫn còn là bí ẩn; Eddington đã là người đầu tiên đưa ra chính xác về sự tổng hợp Hydro thành Heli.
Ông được biết tới nhiều bởi việc nghiên cứu thuyết tương đối. Một số bài báo của ông được viết để giải thích về Thuyết tương đối của Albert Einstein. Sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, ông dẫn đầu đoàn viễn chinh quan sát hiện tượng Nhật Thực vào ngày 29 tháng 5 năm 1919, điều này đã cung cấp một trong những bằng chứng thực nghiệm sớm nhất củng cố Thuyết tương đối, ông được biết đến như là người kiểm chứng lý thuyết này. | 1 | null |
Tumblr là một tiểu blog và mạng xã hội được sáng lập bởi David Karp vào năm 2007 và hiện tại thuộc sở hữu của Automattic. Trang web cho phép người dùng đăng tải các nội dung đa phương tiện lên một trang blog, đồng thời theo dõi blog của những người dùng khác. Hầu hết các tính năng của trang web được thực hiện thông qua giao diện "dashboard".
Tính đến ngày 16 tháng 2 năm 2021, Tumblr đã có hơn 518 triệu blog và hơn 14 triệu bài đăng mỗi ngày.
Lịch sử.
Lịch sử Tumblr bắt đầu vào khoảng năm 2006, khi David Karp đang trong hai tuần nghỉ giữa hợp đồng với công ty phần mềm Davidville (Frederator Studios) mà anh làm việc. Lúc đó Karp vừa tròn 20 tuổi, nghỉ học từ năm 15 tuổi và chưa bao giờ tốt nghiệp trung học. Karp hứng thú với lĩnh vực tumbleblog và đang chờ đợi một dịch vụ blog nổi tiếng ra mắt. Do có không ai thực hiện điều này, sau một năm, Karp và Marco Arment bắt đầu phát triển một dịch vụ blog cho riêng mình. Tumblr được khởi động vào tháng 2 năm 2007. Chỉ trong vòng hai tuần đã có 75,000 người dùng. Tháng 9 năm 2010, Arment rời khỏi công ty để tập trung cho Instapaper.
Vào năm 2009, sau khi mua lại ứng dụng Tumblerette trên App Store của Apple, Tumblr cho ra mắt ứng dụng chính thức của mình trên iPhone. Tháng 6 năm 2012, trên nền tảng iOS, Tumblr cập nhật phiên bản mới Tumblr 3.0 hỗ trợ Spotify, cho phép hiển thị hình ảnh độ phân giải cao cũng như truy cập ngoại tuyến. Trên BlackBerry, Tumblr cũng phát hành thông qua ứng dụng Mobelux trên BlackBerry App World vào ngày 17 tháng 4 năm 2010.
Đầu tháng 6 năm 2012, Tumblr hợp tác với Adidas để thực hiện chiến dịch quảng cáo lớn đầu tiên. Adidas khởi động một trang blog về bóng đá trên trang web để quảng bá cho các sản phẩm của mình.
Ngày 20 tháng 5 năm 2013, Yahoo và Tumblr đạt được thỏa thuận để Yahoo! Inc. mua Tumblr với giá 1,1 tỷ đô la tiền mặt. Nhiều người dùng Tumblr không vui với tin này nên lập một bản kiến nghị, đạt được gần 170.000 chữ ký. David Karp vẫn là CEO và thỏa thuận đã được hoàn tất vào ngày 20 tháng 6 năm 2013. Mục tiêu bán quảng cáo không đạt và tính tới năm 2016, Yahoo đã làm giảm 712 tỷ đô la giá trị của Tumblr.
Tháng 6 năm 2017, Verizon Communications mua lại Yahoo và sở hữu Tumblr dưới hình thức công ty con của Oath. Tháng 12 cùng năm, David Karp rời Tumblr, tiếp quản điều hành là chủ tịch kiêm COO Jeff D'Onofrio.
Tumblr cùng với Oath (năm 2019 đổi tên thành Verizon Media) tiếp tục gặp khó khăn dưới thời Verizon. Vào tháng 3 năm 2019, SimilarWeb ước tính Tumblr mất 30% lưu lượng truy cập người dùng, sau khi Tumblr đưa ra chính sách hạn chế nội dung chặt chẽ đối với nội dung người lớn (một điểm thu hút đáng chú ý đối với dịch vụ) kể từ tháng 12 năm 2018. Vào tháng 5 năm 2019, có thông tin rằng Verizon đang xem xét việc bán trang web do tiếp tục gặp khó khăn kể từ khi mua (như đã thực hiện với một tài sản khác của Yahoo, Flickr, thông qua việc bán cho SmugMug). Sau tin tức này, phó chủ tịch của Pornhub đã công khai bày tỏ sự quan tâm đến việc mua Tumblr, với lời hứa sẽ khôi phục các chính sách nội dung dành cho người lớn trước đó.
Ngày 12 tháng 8 năm 2019, Verizon Media thông báo rằng họ đã bán Tumblr cho Automattic ‒ nhà điều hành dịch vụ blog WordPress.com, với số tiền không được tiết lộ. Axios báo cáo rằng giá bán chưa đến 3 triệu đô la, giảm đáng kể so với giá mua ban đầu của Yahoo. CEO Automattic Matt Mullenweg tuyên bố rằng trang web sẽ hoạt động như một dịch vụ bổ sung cho WordPress.com và không có kế hoạch đảo ngược các quyết định chính sách nội dung được đưa ra dưới thời Verizon.
Lượng người dùng.
Đến tháng 2 năm 2021, Tumblr có 518 triệu blog và 14 triệu bài đăng mỗi ngày, trong đó 25% lượng truy cập là từ Hoa Kỳ. Số ngôn ngữ là 18.
Tumblr phổ biến nhất với lứa tuổi vị thành niên cũng như học sinh đại học với một nửa lượt xem thuộc về những người dưới 25 tuổi. Đến năm 2009, Tumblr đạt 85% tỉ lệ người dùng tiếp tục sử dụng dịch vụ, so với 40% của Twitter.
Chỉ trích.
Vi phạm bản quyền.
Tumblr bị chỉ trích vì người dùng trang web có khả năng vi phạm bản quyền. Sự thu hút về mặt hình ảnh của Tumblr đã khiến trang web trở thành nơi lý tưởng cho các blog ảnh. Nhiều trang blog đăng tải những tác phẩm đã đăng ký bản quyền mà không trả phí. Người dùng Tumblr có thể đăng tải những nội dung không phải của mình nhờ tính năng "re-blog".
Nội dung không phù hợp.
Tumblr cũng bị chỉ trích vì một lượng lớn nội dung trên trang web mang tính chất người lớn. Những người đăng tải chúng còn sử dụng Tumblr để quảng cáo cho các trang web khiêu dâm. Trong một nghiên cứu bởi Web.App Storm, phần lớn những từ khóa được tìm kiếm trên trang web có liên quan tới nội dung khiêu dâm, ba trong số đó nằm trong top 10. Ngày 17 tháng 12 năm 2018, chỉ vài ngày sau khi ứng dụng bị xóa khỏi App Store vì một vài người dùng vô tình phát hiện ra một tài khoản chia sẻ những nội dung không phù hợp liên quan tới trẻ em, Tumblr đã cấm vĩnh viễn nội dung người lớn, đồng thời xoá mọi nội dung khiêu dâm từ trước như một động thái nhằm lọc lại nền tảng mạng xã hội này.
Tumblr còn bị chỉ trích vì mức phí quảng cáo quá cao, cũng như những vấn đề về bài đăng rác.
Tài chính.
Nguồn ngân sách ban đầu của Tumblr là từ thu nhập của David Karp với công việc tư vấn phần mềm tại trang web UrbanBaby. Tumblr đã được tài trợ bởi Union Square Ventures, Spark Capital, Martín Varsavsky, John Borthwick (Betaworks), Fred Seibert và Sequoia Capital, vân vân). Tumblr có chung hai nhà đầu tư chính với Twitter. Chủ tịch và giám đốc điều hành John Maloney là người sáng lập UrbanBaby cùng vợ mình là Susan Maloney.
Công ty có giá trị 800 triệu đô la Mỹ vào tháng 8 năm 2011. Tháng 9 năm 2011, công ty được Greylock Partners và Insight Venture Partners tài trợ 85 triệu đô la Mỹ.
Trong một bài phỏng vấn với Nicole Lapin của "Bloomberg West" vào ngày 7 tháng 9 năm 2012, David Karp cho biết trang web kiếm doanh thu nhờ quảng cáo, và với lượng người dùng ngày càng tăng, các nhà quảng cáo sẽ đầu tư nghiêm túc vào trang web. Chiến dịch quảng cáo đầu tiên của họ khởi động vào tháng 5 năm 2012 sau 16 lần thử nghiệm.
Tumblr đạt doanh thu 13 triệu đô la Mỹ và được tài trợ 125 triệu đô la Mỹ trong năm 2012. Năm 2013, Tumblr sử dụng 25 triệu đô la Mỹ cho việc vận hành trang web.
Trong nửa đầu năm 2013, Tumblr, Inc. cho phép các công ty khác trả phí để quảng bá những bài đăng của họ tới một lượng người dùng lớn hơn. Lee Brown, giám đốc bán hàng, cho biết mức phí trung bình cho việc quảng cáo trên Tumblr chỉ nằm trong sáu con số, và tính năng nay sẽ làm tăng lợi nhuận trong năm 2013. Tumblr cũng cho phép người dùng trả phí để sử dụng những giao diện đặc biệt cho trang blog của họ.
Đón nhận.
Tháng 8 năm 2009, David Karp được "BusinessWeek" phong danh hiệu Doanh nhân Công nghệ Trẻ tuổi xuất sắc nhất năm 2009. Tháng 8 năm 2010, Tumblr lọt vào danh sách "New York City Hot 125" của Lead411.
Những người nổi tiếng sử dụng Tumblr bao gồm Taylor Swift, Lady Gaga, Zooey Deschanel và John Mayer, cũng như nhiều nghệ sĩ khác như Tyler "Telle" Smith của nhóm The Word Alive, Pete Wentz của nhóm Fall Out Boy và các thành viên của nhóm Motionless in White. Ngày 21 tháng 10 năm 2011, Tumblr trở thành dịch vụ blog đầu tiên được Tổng thống Obama sử dụng.
Năm 2011, trang blog We are the 99% trở nên nổi tiếng và trở thành câu khẩu hiệu chung của phong trào Chiếm lấy Phố Wall. | 1 | null |
Eduard Friedrich Karl von Fransecky (16 tháng 11 năm 1807 – 22 tháng 5 năm 1890) là một tướng lĩnh trong quân đội Phổ, đã có nhiều đóng góp đến việc thành lập Đế quốc Đức tháng 1 năm 1871. Ông đã trở thành một sĩ quan của Phổ vào năm 1825, từng tham chiến chống Đan Mạch năm 1848. Về sau, với vai trò là một viên tướng, ông đã tham gia tích cực trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866 và Chiến tranh Pháp-Đức các năm 1870 – 1871.
Tiểu sử.
Fransecky đã chào đời vào năm 1807 tại Gedern trong một gia đình quân sự. Vào năm 1818, ông nhập học trong một trường thiếu sinh quân của Phổ tại Potsdam. Đến năm 1825, ông được giao nhiệm vụ cầm cờ trong Trung đoàn Bộ binh số 16 ở Düsseldorf. Từ năm 1834 cho đến năm 1857, Fransecky đã phục vụ trong Cục Sử học của Bộ Tổng tham mưu Phổ. Ông đã thể hiện khả năng của mình trong cuộc Chiến tranh Schleswig lần thứ nhất chống Đan Mạch vào năm 1848, phục vụ tại Schleswig.
Vào năm 1857, ông trở thành tư lệnh của một trung đoàn. Sau đó, từ năm 1860 cho đến năm 1864, ông được bổ nhiệm làm sĩ quan chỉ huy của đạo quân chư hầu Oldenburg của Phổ. Sau đó, ông trở về nước, được thăng cấp Thiếu tướng vào tháng 11 năm 1864, và lên chức Trung tướng năm 1865. Ông được trao cho quyền chỉ huy Sư đoàn số 7 đóng quân tại Magdeburg. Trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866, quân ông đã giao tranh với các lực lượng đông hơn nhiều của Áo tại trận Münchengrätz, góp phần mang lại một thắng lợi quyết định cho quân đội Phổ. Ngoài ra, ông cũng đóng một vai trò quan trọng trong trận Königgrätz.
Trong trận đánh cuối cùng của cuộc chiến vào ngày 22 tháng 7 năm 1866, Fransecky đã tấn công trực diện vị trí phòng ngự của quân đội Áo, trong khi hai trung đoàn dưới quyền tướng von Bose bọc sườn đối phương theo một đường núi. Vận động bọc sườn của Bose đã thành công, cắt đường rút của quân Áo một khi họ bị Fransecky đánh bại. Song, trận chiến đã chấm dứt sau khi cả hai bên đều nhận được tin về hiệp định đình chiến giữa hai nước. Nhờ những cống hiến của ông đối với các lực lượng Phổ trong cuộc chiến tranh, ông đã được tặng thưởng Huân chương Quân công ("Pour le Mérite"). Từ năm 1867 cho đến năm 1869, von Fransecky đã phục vụ như một thanh tra trong quân đội Sachsen. Vào năm 1870, Fransecky đã trở thành tướng tư lệnh của Quân đoàn II của Phổ. Trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức, Quân đoàn II của Phổ là một phần thuộc Tập đoàn quân số 2 của Đức dưới quyền chỉ huy của Hoàng thân Friedrich Karl. Fransecky đã thể hiện khả năng của mình trong trận chiến tại Gravelotte, nơi quân ông đã ứng chiến sau một cuộc hành binh cấp tốc kéo dài 16 tiếng đồng hồ. Sau trận Gravelotte, Quân đoàn II cũng tham gia vào cuộc vây hãm Metz. Sau khi người Đức hạ được pháo đài Metz, Fransecky và Quân đoàn II dưới quyền của ông được đưa đến Paris. Trong cuộc vây hãm Paris, Fransecky được giao quyền chỉ huy các đạo quân giữa sông Seine và Marne.
Cuối năm 1870, quân đội Pháp ở Paris dưới quyền tướng Ducrot đã phát động các đợt tấn công lớn để phá vòng vây của quân đội Đức, nhưng chỉ chiếm được Champigny và Bry. Viện binh của Đức gồm các thành phần thuộc Quân đoàn II và VI do Fransecky chỉ huy đã được điều đến Villiers, và vào ngày 2 tháng 12 năm 1870, ông phát động các cuộc phản công vào Champigny và Bry. Quân ông ban đầu giành thắng lợi nhanh chóng, nhưng rồi quân Pháp đã giành lại được Champigny và Bry. Mặc dù vậy, trước sự cứng rắn của các chiến tuyến của quân Đức, quân Pháp sau khi chịu thiệt hại rất nặng nề đã bị buộc phải triệt thoái qua sông Marne. Vào tháng 1 năm 1871, Quân đoàn II được biệt phái khỏi cuộc vây hãm và được đặt trong Tập đoàn quân phía Nam mới được thành lập dưới quyền tướng Edwin von Manteuffel. Dưới sự chỉ đạo của Manteuffel, Fransecky đã tham gia trong các chiến dịch ở Côte-d'Or và Jura chống lại "Tập đoàn quân phía Đông" dưới quyền Bourbaki. Sau khi các lực lượng của Bourbaki bị đánh bại trong trận Pontarlier và bị buộc phải rút chạy qua biên giới Thụy Sĩ, Fransecky đã được bổ nhiệm làm tướng tư lệnh của Quân đoàn XIV tại Strassbourg và được tặng thưởng Lá sồi gắn vào Huân chương Quân công.
Sau khi cuộc chiến tranh kết thúc, ông đã được ban thưởng 150.000 thaler. Vào năm 1879, ông được bổ nhiệm làm Thống đốc thành phố Berlin. Đến năm 1882, ông từ chức Thống đốc do vấn đề sức khỏe. Eduard von Fransecky qua đời ngày 22 tháng 5 năm 1890 ở Wiesbaden. | 1 | null |
Thơ tuồng là một thể loại văn chương Việt Nam hình thành ở miền Trung và miền Nam Việt Nam có lẽ phổ biến nhất vào thế kỷ 18, 19 và sang đầu thế kỷ 20.
Thơ tuồng có phần giống loại thơ truyện lục bát nhưng khác ở chỗ thường thêm những đoạn văn thuộc bộ môn hát tuồng gồm có văn xuôi, thể thơ bảy chữ, thể đối... Tên gọi những đoạn này là:
Có thể nói thơ tuồng là thơ lục bát được soạn thêm hình thức hát tuồng để trình diễn. Tuy nhiên nó cũng không phải là tuồng thuần túy vì cốt lõi vẫn là phần kể truyện chứ không phải chỉ là đối thoại. | 1 | null |
Tình tay ba hay cuộc tình tay ba, mối tình tay ba, chuyện tình tay ba, chuyện ba người là từ chỉ về một mối quan hệ tình cảm, lãng mạn liên quan đến ba người. Trong đó đề cập đến quan hệ tình cảm giữa hai người trong tương quan với người thứ ba (kẻ thứ ba), thông thường là kẻ đến sau trong mối quan hệ với hai người kia, các mối quan hệ này có thể là tình bạn, tình yêu, tình cảm gia đình và thường gây nên sự ghen tuông, hận thù giữa những người trong cuộc, có thể hai bên trong mối quan hệ tay ba này là vợ/chồng nhưng vẫn quan hệ với người thứ ba gây nên nghịch cảnh và hậu quả đáng tiếc từ sự ghen tuông này xuất phát từ tâm lý bắt cá hai tay của một bên trong cuộc. Cần phân biệt giữa tình tay ba với tình dục ba người (chỉ đơn thuần đề cập về những tư thế, kiểu quan hệ nhục dục). | 1 | null |
Cặp đôi hoàn hảo là một phiên bản của chương trình "Just the Two of Us" của đài BBC, Anh Quốc sản xuất. Mùa thứ 2 được sản xuất năm 2013. Chương trình được phát sóng trực tiếp lúc 21h (giờ Hà Nội - UCT+7) vào các chủ nhật hàng tuần trên VTV3.
Ban giám khảo ban đầu là các nghệ sĩ Cẩm Vân, nhạc sĩ Tuấn Khanh và đạo diễn Phạm Hoài Nam., sau được thay đổi bằng đạo diễn Lê Hoàng, nhạc sĩ Lưu Thiên Hương và nhạc sĩ Lê Minh Sơn. | 1 | null |
Rage of Honor là một bộ phim hành động võ thuật Mỹ do đạo diễn Gordon Hessler thực hiện, được phát hành vào năm 1987. Phim có sự tham gia của diễn viên võ thuật người Nhật Sho Kosugi. Phim kể về anh chàng đặc vụ tên Shiro Tanaka quyết tâm truy đuổi một tổ chức lớn chuyên buôn ma túy để trả thù cho người cộng sự thân thiết bị sát hại.
Nội dung.
Shiro Tanaka là một cảnh sát thuộc lực lượng chống ma túy, vừa thông minh lại vừa tinh thông võ nghệ, anh cùng với hai người bạn là Dick Coleman và Ray Jones từng phá nhiều vụ án phức tạp ở thành phố Phoenix, Arizona. Một lần nọ, Jones vô tình tìm được kho chứa hàng của một tổ chức buôn ma túy nên bị tên trùm độc ác Havlock tra tấn đến chết. Khi chứng kiến cái chết của Jones, Shiro thề sẽ truy lùng và giết chết Havlock để trả thù cho cộng sự.
Vài ngày sau, Shiro và cô bạn gái Jennifer Lane đến Argentina để gặp Coleman. Coleman thông báo một tin quan trọng là anh ta đã có được một số hình ảnh làm bằng chứng buộc tội tổ chức của Havlock. Shiro biết rằng nếu Coleman giữ số ảnh trong tay thì sẽ bị bọn tội phạm tìm cách thủ tiêu, anh bảo Coleman đem số ảnh về Mỹ và cho Jennifer về Mỹ cùng với Coleman. Tối hôm đó, Shiro đã lẻn vào một kho chứa hàng của Havlock nhằm mục đích tìm hắn, anh tiêu diệt hết bọn thuộc hạ nhưng không tìm thấy tên trùm. Cảnh sát đến nơi và bắt Shiro về đồn. Havlock đã cử hai tên sát thủ ninja lẻn vào đồn cảnh sát để thủ tiêu một tên đồng bọn, Shiro sau đó ra tay giết chết hai tên sát thủ này.
Sáng hôm sau, Shiro được ông sếp Paul Sterling bảo lãnh, ông ta cho anh biết rằng chiếc máy bay của Coleman và Jennifer chưa về đến Mỹ mà đã bị rơi xuống một khu rừng, hai người đó vẫn còn sống và đang bị nhiều thuộc hạ của Havlock truy đuổi. Shiro được người của Sterling đưa đến khu rừng để anh đi tìm Coleman và Jennifer. Shiro phải đối đầu với cả bộ lạc thổ dân da đỏ và bọn thuộc hạ của Havlock. Sau khi bọn thuộc hạ bị tiêu diệt, Shiro và Havlock đánh nhau quyết liệt, và dòng suối chảy xiết khiến Havlock bị cuốn trôi đi. Shiro lấy lại số ảnh bằng chứng và cứu được Jennifer, còn Coleman thì đã bị Havlock giết chết trước đó.
Shiro và Jennifer thấy một chiếc trực thăng bay đến, họ cứ tưởng là người của Sterling nhưng thực ra đó là một nhóm sát thủ chuyên nghiệp võ nghệ cao cường. Chúng được đồng bọn của Havlock cử đến để giết Shiro và Jennifer, nhưng Shiro đã nhanh chóng giết hết chúng. Shiro và Jennifer dùng chiếc trực thăng của bọn sát thủ đến một nhà máy bị bỏ hoang. Sau trận đấu súng gây cấn với bọn côn đồ, Shiro nhìn thấy xác chết của Sterling. Hung thủ giết Sterling chính là một số đồng bọn của Havlock, có cả những tên đặc vụ tham nhũng, chúng xuất hiện và buộc Shiro giao nộp số ảnh. Shiro tức giận dùng phi tiêu giết hết bọn tội phạm, anh bất ngờ phát hiện ra Havlock vẫn còn sống và cầm kiếm Nhật giao chiến với tên trùm ma túy. Trong lúc đánh nhau, Havlock đã bị thanh kiếm đâm vào ngực, hắn rơi xuống sông và chết mất xác. Shiro đã trả thù thành công, anh cùng với Jennifer về Mỹ. | 1 | null |
(sinh 1 tháng 9 năm 1975 tại Yokohama, Nhật Bản) là một diễn viên phim khiêu dâm nổi tiếng của Nhật Bản. Cô xuất hiện trong các chương trình quen thuộc trên truyền hình, đài phát thanh và đã làm 2 đĩa CD âm nhạc.
Cuộc đời và sự nghiệp.
Trước khi bước vào công nghiệp giải trí cho người lớn, Sawaguchi làm việc trong quán cà phê và cửa hàng quần áo, sau đó làm trong trung tâm giám hộ tư nhân. Cô có tiếng là được nhiều người yêu và chụp ảnh. Cô bước vào nghề đóng phim người lớn năm 1996.
Các chương trình truyền hình.
Regular cast
Special appearances | 1 | null |
Jallianwala Bagh (Punjabi: ਜਲ੍ਹਿਆਂਵਾਲਾ ਬਾਗ਼, Hindi: जलियांवाला बाग़) là một công viên công cộng ở thủ phủ hành chính Amritsar thuộc bang Punjab của Ấn Độ, và là đài tưởng niệm quốc gia quan trọng, thành lập năm 1951 để tưởng nhớ những người tuần hành trong hòa bình bị thảm sát trong Ngày đầu năm mới của người Punjabi, ngày 13 tháng 4 năm 1919 tại sự kiện Thảm sát Jallianwala Bagh. Theo nguồn tin chính thức từ cơ quan Ấn Độ thuộc Anh có 379 người thiệt mạng, và 1.100 người bị thương. Bác sĩ phẫu thuật Smith nói rằng có 1.526 nạn nhân. Con số người thiệt mạng thực tế cho đến nay vẫn không rõ, nhưng dường như phải cao hơn con số chính thức 379.
Vườn công viên của vụ thảm sát có diện tích nằm ở vùng lân cận của khu phức hợp Đền Vàng, đền thiêng liêng nhất của đạo Sikh.
Khu tưởng niệm do "Jallianwala Bagh National Memorial Trust" quản lý, được thành lập theo đạo luật "Jallianwala Bagh National Memorial Act" thông qua bởi Chính phủ Ấn Độ năm 1951. | 1 | null |
Thảm sát Jallianwala Bagh (hay thảm sát Amritsar), diễn ra tại vườn công viên Jallianwala Bagh ở thủ phủ Amritsar miền bắc Ấn Độ ngày 13 tháng 4 năm 1919 với việc chuẩn tướng Reginald E.H. Dyer đã hạ lệnh nổ súng vào đám đông.
Chủ Nhật ngày 13 tháng 4 năm 1919, Dyer nhận được tin có một cuộc tuần hành lớn với khả năng bạo loạn nên đã ra lệnh cấm tất cả mọi người tụ tập, biểu tình. Khi biết rằng có 15.000 đến 20.000 người bao gồm cả phụ nữ, trẻ em và người già đang tụ tập tại công viên Jallianwala Bagh, Dyer lập tức đem theo khoảng 50 lính vũ trang xếp thành hàng ngũ và sau một lúc ông ta quyết định cho nổ súng nhằm kết thúc cuộc tuần hành. Dyer và lính bắn trong khoảng 10 phút, có thể cho đến khi họ đã bắn hết toàn bộ số đạn mang theo; Dyer đã khai rằng lính của ông và ông đã bắn tổng cộng 1.650 băng đạn dựa theo số băng đạn rỗng của binh lính sau vụ thảm sát. Con số chính thức báo cáo từ Chính quyền Anh Ấn tuyên bố có 379 người thiệt mạng, và xấp xỉ 1.100 người bị thương. Số nạn nhân theo ước tính của Nghị viện Ấn Độ rơi vào khoảng hơn 1.500 và xấp xỉ hơn 1,600 người đã thiệt mạng.
Sau sự kiện, Hạ Nghị viện Vương quốc Anh đã buộc Dyer phải nghỉ hưu. Ông ta trở thành nhân vật lịch sử anh hùng trong mắt của nhiều người có những liên hệ tới thuộc địa British Raj, bao gồm Thượng Nghị viện Vương quốc Anh, nhưng lại bị phản đối bởi Hạ Nghị viện, và Hạ nghị viện đã hai lần bỏ phiếu chống lại Dyer. Vụ thảm sát gây ra yêu cầu đánh giá lại vai trò của quân đội, trong đó thiết lập chính sách mới với "lực lượng vũ trang tối thiểu", và quân đội phải được đào tạo lại và phát triển chiến thuật phù hợp để kiểm soát đám đông. Một số nhà lịch sử cho rằng sự kiện này cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự kết thúc quyền cai trị của thực dân Anh ở Ấn Độ. | 1 | null |
Nền công nghiệp âm nhạc toàn cầu thường cấp chứng nhận cho các ấn phẩm nhạc bằng đĩa chứng nhận doanh số dựa trên tổng doanh số tiêu thụ hoặc doanh số nhập hàng. Những đĩa này và yêu cầu của nó được dựa trên các cơ quan cấp ở các quốc gia và vùng lãnh thổ toàn cầu. Chứng nhận chuẩn được chia ra làm ba loại theo thứ tự thấp đến cao: Vàng, Bạch kim và đôi khi là Kim cương; tại Liên hiệp Anh còn có chứng nhận Bạc, đứng thấp hơn Vàng. Trong nhiều trường hợp, chứng nhận "Đa-Bạch kim" hoặc "Đa-Kim cương" được trao cho những ấm phẩm có nhiều đĩa Bạch kim hoặc Kim cương.
Liên đoàn Công nghiệp ghi âm quốc tế (IFPI) là tổ chức đại diện cho nhiều nền công nghiệp nhạc toàn cầu. Liên đoàn có hiệu lực trong 66 quốc gia và có chi nhánh tại 45 quốc gia. Trong vài trường hợp Liên đoàn chỉ liên kết với những cơ quan có sẵn trong một quốc gia, nhưng với các quốc gia kém phát triển trong ngành công nghiệp nhạc, Liên đoàn có vai trò như nhà cung cấp chính của thị trường nhạc quốc gia đó. Còn vài nước khác không được đại diện bởi Liên đoàn và có cơ quan cấp riêng, đảm nhận toàn bộ công việc với ngành công nghiệp nhạc.
Mặc cù tất cả các cơ quan đều cấp chứng nhận cho doanh số và lượng nhập hàng của album, còn có các hình thức khác để cấp như đĩa đơn, tải kỹ thuật số, video âm nhạc, DVD nhạc và tải nhạc chuông. Thêm vào đó, một vài cơ quan có tách riêng chứng nhận cho những nhạc phẩm trong hoặc ngoài nước. | 1 | null |
Guiné thuộc Bồ Đào Nha () được gọi là Tỉnh hải ngoại Guiné từ năm 1951, là thuộc địa của Tây Phi thuộc Bồ Đào Nha từ cuối thế kỷ 15 cho đến ngày 10 tháng 9 năm 1974, khi nó giành được độc lập như Guiné-Bissau.
Lịch sử.
Chính phủ Trung ương Bồ Đào Nha đã ban hành một tuyên bố chủ quyền đối với khu vực vào năm 1446. Năm 1450, nhà thám hiểm Nuno Tristão đi thuyền dọc theo bờ biển Tây Phi, và từ đó bắt đầu buôn bán vàng và nô lệ, sau thế kỷ 17, các cường quốc châu Âu như Pháp, Anh và Thụy Điển cũng đến đây và buôn bán nô lệ khá phổ biến trong một thời gian.
Chính xác có bao nhiêu người bản địa bị bán làm nô lệ vào thời điểm đó là không có sẵn. Ước tính có khoảng 10 triệu người, khoảng 37% trong số đó được bán cho Brasil ở Nam Mỹ. Thị trấn Cacheu là thị trường buôn bán nô lệ lớn nhất vào thời điểm đó. 1765 để thiết lập một thủ đô mới peso.
Vào đầu thế kỷ XIX, chế độ nô lệ bị bãi bỏ và buôn bán nô lệ bị cấm hoàn toàn. Chỉ có một vài giao dịch bất hợp pháp vẫn tồn tại.
Sau bốn thế kỷ thống trị trong khu vực, Bồ Đào Nha bắt đầu có các đối thủ cạnh tranh, phần nội địa dần bị chia rẽ bởi các thực dân châu Âu khác. Ví dụ, các căn cứ thương mại chính của lưu vực sông Casamance và Tây Phi thuộc Pháp chồng chéo với nhau. Ngoài ra, Anh cũng đang cố gắng chiếm đảo Borama. Ba đảng đã ở bên lề Thế chiến I, và sau phiên hòa giải của Tổng thống Mỹ Ulysses S. Grant, họ quyết định thuộc về Bồ Đào Nha.
Guinea trước đây thuộc Bồ Đào Nha thuộc quyền quản lý của Cape Verde, và một thuộc địa riêng biệt được thành lập vào năm 1879.
Năm 1951, Bồ Đào Nha đã sửa đổi luật pháp liên quan để thay đổi nơi này thành lãnh thổ hải ngoại. Năm 1956, Amílcar Lopes Cabral thành lập Đảng châu Phi độc lập Guinea-Cape Verde (PAIGC), phát động phong trào xây dựng quốc gia độc lập và phát triển ổn định. Chính phủ Trung ương Bồ Đào Nha đã phá vỡ nó vào năm 1961 và đảng này đã ra tuyên bố độc lập, đặt tên là Cộng hòa Guiné-Bissau.
Sau cuộc Cách mạng hoa cẩm chướng, các lực lượng phát xít ở miền trung Bồ Đào Nha sụp đổ và chính phủ lâm thời mới thành lập bắt đầu đàm phán với PAIGC. Cuối cùng, vào ngày 10 tháng 9 năm 1974, Guiné-Bissau được công nhận độc lập. Anh trai của Amílcar Lopes Cabral trở thành tổng thống đầu tiên. Chính thức chấm dứt quy tắc 500 năm của họ. | 1 | null |
Đảo Gough là một hòn đảo núi lửa ở phía nam Đại Tây Dương. Nó là một hòn đảo thuộc nhóm đảo Tristan da Cunha và một phần của Saint Helena, Ascension và Tristan da Cunha, lãnh thổ hải ngoại thuộc Anh. Hòn đảo không có người ở, ngoại trừ các nhân viên của một trạm dự báo thời tiết (thường là 6 người) theo một chương trình về môi trường tự nhiên ở Nam Cực và Nam Đại Dương đã duy trì liên tục trên đảo từ năm 1956. Đây là một trong những nơi xa xôi nhất có sự hiện diện của con người liên tục.
Tên.
Hòn đảo này lần đầu tiên được đặt tên là Ilha de Gonçalo Alvares trên bản đồ Bồ Đào Nha (Tây Ban Nha: "Isla de Gonzalo Álvarez"). Nó được đặt tên là đảo Gough sau khi thuyền trưởng Charles Gough nhìn thấy hòn đảo này vào năm 1732. Sự nhầm lẫn của người Bồ Đào Nha với tên vị thánh Gonçalo với ngôn ngữ Tây Ban Nha là "Diego" đã dẫn đến sự nhầm lẫn thành "đảo Diego Alvarez" trong nguồn tiếng Anh từ năm 1800 đến năm 1930.
Địa lý.
Đảo Gough là hình chữ nhật với chiều dài 13 km (8,1 dặm) và có chiều rộng 7 km (4,3 dặm). Nó có diện tích 91 km 2 (35 sq mi) và nơi cao nhất đạt trên 900 m (3.000 ft) so với mực nước biển. Các đỉnh cao nhất trên đảo bao gồm Edinburgh Peak, Hags Tooth, Mount Rowett, Sea Elephant Bay, Quest Bay, và Hawkins Bay.
Xung quanh đảo còn có các đảo và đảo đá như đảo Tây Nam, đảo Saddle (Nam), Tristiana Rock, Isolda Rock (Tây), đảo Round, đảo Cone, Lot's Wife, Church Rock (Bắc), đảo Chim cánh cụt (Đông bắc), và đảo Đô đốc (Đông).. Đây là hòn đảo đơn, một nơi gồ ghề, hòn đảo gần nhất cách khoảng 400 km (250 dặm) về phía đông nam, cách đất liền gần nhất là tới Cape Town với 2.700 km (1.700 dặm), và hơn 3.200 km (2.000 dặm) tới điểm gần nhất của Nam Mỹ.
Thiên nhiên.
Đảo Gough cùng với Inaccessible là khu bảo vệ động vật hoang dã, đã được công nhận là di sản thế giới của UNESCO. Nó đã được mô tả là một trong những hệ sinh thái ít biến động nhất và là một trong những nơi cư trú tốt nhất cho các loài chim biển ở Đại Tây Dương. Đặc biệt, gần như toàn bộ số lượng của loài chim hải âu Tristan ("Diomedea dabbenena") và hải bão Đại Tây Dương ("Pterodroma incerta") trên thế giới. Tuy nhiên, tháng 4 năm 2007 các nhà nghiên cứu được công bố bằng chứng cho thấy tình trạng băng tan, cùng với việc chuột nhắt nhà sinh sôi quá nhanh (ăn trứng và chim non) có thể khiến hai loài này đang đứng bên bờ vực tuyệt chủng. Hòn đảo cũng là nơi sinh sống của loài chim kịch đảo Gough ("Gallinula comeri"), và cực kỳ nguy cấp sơn ca Gough ("Rowettia goughensis").
Với số lượng chim đa dạng, hòn đảo này được xác định là một vùng chim quan trọng (IBA) của Hiệp hội Quốc tế Bảo vệ các loài chim như là vùng chim đặc hữu và địa điểm sinh sản cho các loài chim biển, bao gồm các loài: chim cánh cụt Rockhopper phương Bắc (144.000 cặp chim bố mẹ), hải âu Tristan (1000-1500 cặp), hải âu bồ hóng (5000 đôi), hải âu vàng mỏ lớn Đại Tây Dương (5000 đôi), "Pachyptila vittata" (100.000 đôi), hải bão Kerguelen (20.000 cặp), hải bão lông mịn (50.000 cặp), hải bão Đại Tây Dương (20.000 cặp), hải bão cánh lớn (5000 đôi), hải bão xám (10.000 cặp), hải âu lớn (100.000 đôi), hải âu nhỏ (10.000 cặp), hải bão lưng xám (10.000 cặp), hải bão mặt trắng (10.000 cặp), hải bão bụng trắng (10.000 cặp), nhàn Nam Cực (500 cặp), Skuas Nam Cực (500 cặp), kịch đảo Gough (2500 cặp) và sơn ca Gough (3000 con) | 1 | null |
Tiêu Kỉ (, 508 – 5 tháng 8 năm 553 DL), tên tự Thế Tuân (世詢), cũng được biết đến với tước Vũ Lăng vương (武陵王), là một thân vương và người yêu cầu hoàng vị của triều Lương trong lịch sử Trung Quốc. Ông là hoàng tử nhỏ tuổi nhất của Lương Vũ Đế, và được giao cai quản khu vực này là Tứ Xuyên và Trùng Khánh. Năm 552, tin rằng được Trời định làm hoàng đế, Tiêu Kỉ đã xưng đế và tiến về phía đông để cố gắng đoạt lấy ngôi vị. Năm 553, quân Tây Ngụy đã tấn công lãnh địa của Tiêu Kỉ, còn quân viễn chinh của Tiêu Kỉ đã thất bại trước quân của thất huynh Nguyên Đế, bản thân Tiêu Kỉ chết trong trận chiến.
Bối cảnh.
Tiêu Kỉ sinh năm 508, là hoàng thử thứ tám và nhỏ tuổi nhất của Lương Vũ Đế. Mẹ của ông là Cát tu dung. Khi còn thơ ấu, ông được đánh giá là hiếu học, và văn phong của ông được đánh giá là thanh tao và không quá hào nhoáng. Năm 514, Lương Vũ Đế phong Tiêu Kỉ là Vũ Lăng vương, Khi đã đến tuổi thiếu niên, Tiêu Kỉ nhiều lần được thăng chức vào các vị trí quan trọng do là hoàng tử được phụ hoàng sủng ái. Năm 537, Lương Vũ Đế phong Tiêu Kỉ làm thứ sứ của Ích châu (益州, nay là Tứ Xuyên). Trong lúc phụng sự tại Ích châu, Tiêu Kỉ đã tạo ra sự phát triển lớn về kinh tế và cũng mở mang lãnh thổ của Lương vào sâu trong các lãnh địa của tộc man di. Dưới sự quản lý của ông, Ích châu trở nên thịnh vượng và hùng mạnh về quân sự và kinh tế.
Trong loạn Hầu Cảnh.
Năm 548, phản tướng Hầu Cảnh tiến hành bao vây kinh thành Kiến Khang, nhiều thứ sử các châu đã cử quân đến Kiến Khang để giúp giải vây cho kinh thành. Tuy nhiên, Tiêu Kỉ ban đầu đã không có bất kỳ hành động nào. Sau khi Kiến Khang thất thủ và Lương Vũ Đế qua đời vào năm 549, Tiêu Kỉ đã hành động vào mùa xuân năm 550 khi phái thế tử Tiêu Viên Chiêu (蕭圓照) dẫn theo 3 vạn quân đi cứu viện. Tiêu Kỉ tuyên bố rằng ông nguyện để đội quân này hành động theo lệnh của hoàng huynh là Tương Đông vương Tiêu Dịch- khi đó trở thành người lãnh đạo các châu. Do lo ngại trước ý định thực sự của Tiêu Kỉ, Tiêu Dịch đã phong cho Tiêu Viên Chiếu làm thứ sử của Tín châu (信州, nay thuộc đông bộ Trùng Khánh) và lệnh cho Tiêu Viên Chiếu dừng quân tại Bạch Đế thành (thủ phủ của Tín châu) và không tiến thêm nữa.
Vào mùa hè năm 550, hòa thượng Tôn Thiên Anh (孫天英) đã phát động một cuộc khởi nghĩa nông dân và tấn công Thành Đô (成都, nay thuộc Thành Đô, Tứ Xuyên), thủ phủ của Ích châu. Tiêu Kỉ dã giao chiến với Tôn Thiên Anh và giết chết người này.
Vào mùa thu năm 550, người dân Lê châu (黎州, nay gần tương ứng với Quảng Nguyên, Tứ Xuyên) -- một châu nhỏ và nằm trong lãnh địa của Tiêu Kỉ— đã nổi dậy và đánh đuổi Lê châu thứ sử Trương Bôn (張賁). Bộ tướng Dương Pháp Sâm (楊法琛) đã dẫn quân tiến vào Lê châu, ông ta đã xúi giục hai gia tộc lớn của Lê châu là họ Vương và họ Giả thỉnh cầu Tiêu Kỉ cho phép Dương Pháp Sâm làm thứ sử. Tiêu Kỉ đã từ chối và tống giam nhi tử của Dương Pháp Sâm là Dương Sùng Ngung (楊崇顒) và Dương Sùng Hồ (楊崇虎). Đáp lại, Dương Pháp Sâm dâng vùng đất đang chiếm giữ cho Tây Ngụy.
Vào mùa đông năm 550, Tiêu Kỉ đã đưa quân rời khỏi Thành Đô và tiến về phía đông theo Trường Giang. Tiêu Dịch nghi ngờ về mục đích của Tiêu Kỉ nên đã viết một lá thư để ngăn ông lại, ghi rằng, "Người dân Ba Thục dũng cảm song dữ tợn, họ dễ dàng trở nên xúc động và khó kiểm soát. Ta cần đệ dõi theo bọn họ, để ta có thể tiêu diệt tên giặc [Hầu Cảnh]." Tiêu Dịch cũng lưu ý: "Xét theo địa lý, đệ và ta giống như Lưu Bị và Tôn Quyền, và chúng ta nên thỏa mãn với lãnh địa của mình. Dựa vào quan hệ huyết thống, chúng ta có thể giống như nước Lỗ và nước Vệ, và có thể tiếp tục giao thiệp." Có lẽ để phản ứng lại với thư của Tiêu Dịch, Tiêu Kỉ đã trở về Thành Đô. Trong khi đó, Tiêu Kỉ phái các bộ tướng Dương Can Vận (楊乾運) và Tiều Yêm (譙淹) đi đánh Dương Pháp Sâm. Vào mùa xuân năm 551, Dương Can Vận đã đánh bại được Dương Pháp Sâm, đánh bật và buộc người này phải chạy trốn, song Dương Can Vận sau đó đã thoái quân trong khi chưa bắt được Dương Pháp Sâm.
Vào mùa hè năm 551, một sự kiện đã khiến mối quan hệ giữa Tiêu Dịch và Tiêu Kỉ trở nên căng thẳng hơn. Nhi tử của Tiêu Kỉ là Giang An hầu Tiêu Viên Chính (蕭圓正) giữ chức thái thú của Tây Dương quận (nay gần tương ứng với Hoàng Cương, Hồ Bắc), nhận được sự ủng hộ rất lớn từ người dân, quân của Tiêu Viên Chính có tới 10 vạn tráng sĩ. Tiêu Dịch trở nên nghi ngờ và đã ban cho chất tôn hàm tướng. Khi Tiêu Viên Chính đến Giang Lăng (江陵, nay thuộc Kinh Châu, Hồ Bắc), thủ phủ của Kinh châu, để cảm tạ bá phụ. Tiêu Dịch đã từ chối gặp chất tôn song phái Nam Bình vương Tiêu Khác (蕭恪) đến đãi tiệc và trút say Tiêu Viên Chính. Sau đó, Tiêu Dịch tiến hành quản thúc Tiêu Viên Chính trong phủ của mình và đoạt lấy đội quân của Tiêu Viên Chính; khiến Tiêu Kỉ phẫn nộ.
Cũng vào hè năm 551, Hầu Cảnh tiến hành tấn công Tiêu Dịch trên quy mô lớn, Tiêu Dịch hy vọng vào sự trợ giúp từ Tây Ngụy nên đã lệnh cho Nghi Phong hầu Tiêu Tuần (蕭循)- thứ sử của Lương châu (梁州, nay thuộc nam bộ Thiểm Tây), từ bỏ thủ phủ Nam Trịnh (南鄭, nay thuộc Hán Trung, Thiểm Tây) và nhượng thành cho Tây Ngụy. Tiêu Tuần không đồng ý với quyết định, cho rằng hành động này không có lý do, song không nhận được phản hồi của Tiêu Dịch. Trong khi đó, thượng trụ Vũ Văn Thái của Tây Ngụy đã cùng với bộ tướng là Đạt Hề Vũ (達奚武) và Vương Hùng (王雄) đã tiến hành một cuộc tấn công theo hai hướng nhắm vào Nam Trịnh. Tiêu Tuần đã phái ký thất tham quân Lưu Phan (劉璠) đi cầu viện Tiêu Kỉ, Tiêu Kỉ đã phái Dương Can Vận đến hỗ trợ Tiêu Tuần. Sau khi hay tin Giản Văn Đế qua đời và Hầu Cảnh trở thành "Đại Hán hoàng đế", Tiêu Dịch mặc dù đã khước từ thỉnh cầu xưng đế song lại bắt đầu cho sản xuất các xe và trang phục chỉ dành cho hoàng đế.
Xưng đế.
Vào mùa xuân năm 552, sau khi hay tin Tiêu Dịch tấn công Hầu Cảnh (song không biết tướng Vương Tăng Biện của Tiêu Dịch khi đó đã đánh bại Hầu Cảnh và chiếm Kiến Khang), Tiêu Kỉ đã bình "thất huynh của ta [tức Tiêu Dịch] là một văn sĩ, Làm sao huynh ấy có thể thành công về quân sự?" Vào thời điểm đó, do thấy hoa nở từ các cột trụ trong phủ, và tin rằng đây là một dấu hiện được thần thánh phù trợ, Tiêu Kỉ đã xưng đế. Khi các thuộc hạ là Vương Tăng Lược (王僧略, huynh đệ của Vương Tăn Biện) và Từ Phanh (徐怦) phản đối hành động này, ông đã giết chết họ. Hành động này của ông đã khiến cho Tiêu Huy (蕭撝)-- người được Tiêu Kỉ phong là Tần quận vương—thở dài và nhận xét rằng việc giết người tài giỏi là dấu hiệu của tai họa sắp xảy đến. Trong khi đó, Tiêu Kỉ cũng triệu Lưu Phan đến, có ý định biến Lưu Phan làm người của mình, song Lưu Phan đã từ chối và cương quyết đòi trở về với Tiêu Tuần, Tiêu Kỉ cuối cùng đã nhượng bộ. (Ngay sau đó, Nam Trịnh đã rơi vào tay Vũ Văn Thái.) Tiêu Kỉ đã phong Tiêu Viên Chiếu làm thái tử và phong những nhi tử khác của ông làm vương.
Tiêu Viên Chiếu ở Bạch Đế thành đã cố ý thông tin sai cho cha rằng quân của Tiêu Dịch đang bị quân của Hầu Cảnh đánh bại. Do đó, Tiêu Dịch đã hành quân từ Thành Đô nhằm đối đầu với Hầu Cảnh. Ông để Lưu Huy (蕭撝) và nhi tử là Nghi Đô quận vương Tiêu Viên Túc (蕭圓肅) lưu thủ Thành Đô. Đáp lại, Tiêu Dịch đã cho khắc hình Tiêu Kỉ vào một bảng gỗ, và đích thân đóng đinh vào để nguyền rủa Tiêu Kỉ. Tiêu Dịch cũng phái các tù binh nguyên là quân của Hầu Cảnh đến chỗ Tiêu Dịch để thể hiện rằng Hầu Cảnh đã bị đánh bại. Tuy nhiên, Tiêu Viên Chiếu đã bắt các sứ giả và tù nhân của Tiêu Dịch và tiếp tục cung cấp cho cha mình các thông tin sai, vì thế Tiêu Kỉ đã cho tăng tốc hành quân. Tiêu Dịch lo sợ trước khả năng của Tiêu Kỉ nên đã thỉnh cầu Tây Ngụy tấn công Tiêu Kỉ từ phía sau. Vũ Văn Thái cho rằng có thể đoạt lấy Ích châu nên đã phái Uất Trì Huýnh đem quân đánh Ích châu. Cả Dương Pháp Sâm và Dương Can Vận đều hàng Tây Ngụy, và Uất Trì Huýnh nhanh chóng tiến đến Thành Đô và bao vây thành.
Tiêu Kỉ đã phái Tiều Yêm quay trở về Kiến Khang để cố giải vây, và nay thì ông đã nhận thức được rằng Hầu Cảnh đã bị tiêu diệt. Ông quở trách Tiêu Viên Chiếu, song vẫn quyết định tiến về phía đông để tấn công Tiêu Dịch (nay đã xưng đế, tức Nguyên Đế), bất chấp ý nguyện quay trở về Thành Đô để cứu viện của binh sĩ. Ban đầu, Tiêu Kỉ đã thắng được bộ tướng Lục Pháp Hòa (陸法和) của Tiêu Dịch, và ông đánh xuyên qua Tam Hiệp. Tiêu Dịch đã viết thư cho Tiêu Kỉ, đề xuất hòa bình và hứa để Tiêu Kỉ tiếp tục giữ Ba Thục và có quyền hành động giống như đế vương tại đó. Tuy nhiên, Tiêu Kỉ đã từ chối, song đến khi hay tin Thành Đô có nguy cơ thất thủ và bị quân của Tiêu Dịch ngăn cản, Tiêu Kỉ đã cố gắng chấp thuận hòa bình. Tuy nhiên, vào lúc này, Tiêu Dịch đã nhận thức được các khó khăn của Tiêu Kỉ, do đó đã từ chối hòa bình. Tuy nhiên, bất chấp việc đang ở trong tình thế khó khăn, Tiêu Kỉ đã từ chối phân phát khối tài sản đáng kể của ông cho binh lính để khuyến khích họ chiến đấu, kết quả là nhuệ khí của họ suy giảm.
Vào mùa hè năm 553, các bộ tướng của Tiêu Dịch là Vương Lâm, Tạ Đáp Nhân (謝答仁), và Nhâm Ước (任約), đã đánh bại hậu quân của Tiêu Kỉ và cắt đứt đường rút lui của ông, buộc Tiêu Kỉ phải tiếp tục tiến về phía đông. Bộ tướng khác của Tiêu Dịch là Phàn Mãnh (樊猛) đã tiêu diệt đội quân còn lại của Tiêu Kỉ và bao vây thuyền của ông để ngăn ông trốn thoát. Tiêu Dịch đã phái một mật chỉ cho Phàn Mãnh: "Nếu người đó vẫn còn sống, sẽ không có thắng lợi." Do đó, Phàn Mãn đã lên tàu của Tiêu Kỉ, Tiêu Kỉ đã ném một túi vàng vào Phàn Mãnh, hét lên "Hãy để ta thuê ngươi với số vàng này -- đưa ta đến chỗ thất huynh của ta." Phàn Mãnh đáp lại: "Làm thế nào mà ngươi có thể gặp được Thánh thượng? Nếu ta giết ngươi, số vàng này sẽ đi về đâu?". Phàn Mãnh tiến gần đến chỗ Tiêu Kỉ và giết chết ông. Tiêu Viên Mãn (蕭圓滿) đã cố bảo vệ cha cho đến lúc cuối, và cũng bị giết. Sau khi Tiêu Viên Chính từ chối tự sát, Tiêu Dịch đã bỏ đói Tiêu Viên Chính đến chết, và bắt giữ các nhi tử còn lại của Tiêu Kỉ. Tiêu Dịch cắt bỏ dòng của Tiêu Kỉ ra khỏi hoàng thất, và cải tính của Tiêu Kỉ thành Thao Thiết (饕餮, nghĩa là "tham ăn"). | 1 | null |
Hoàng Xuân Việt tên thật là Nguyễn Tùng Nhân (sinh 13 tháng 8 năm 1928 tại Vĩnh Thành, Bến Tre, mất ngày 20 tháng 7 năm 2014) là một học giả, nhà văn, dịch giả, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục và là một nhà hùng biện. Ông tốt nghiệp cao học tại trường Đại chủng viện Saint Joseph và Saint Sulpice. Ông còn theo học và nghiên cứu chuyên sâu những môn triết học, thần học, xã hội học, phụ nữ học, thiên văn học và năng lực hạnh tâm. Ông có thể sử dụng thành thạo tiếng Hi Lạp, La Tinh, Hán Nôm, Anh, Pháp, Bồ Đào Nha. Hoàng Xuân Việt từng đảm nhiệm vị trí hiệu trưởng của Trường Nhân Xã Học Làm Người (1966 – 1975), Trường Hán Nôm Học Làm Người Nguyễn Trãi (1993 – 2001), và là tác giả của 373 đầu sách trong nhiều lĩnh vực. Cùng với Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Duy Cần, Phạm Cao Tùng, ông là một trong bốn học giả nổi bật trong loại sách "học làm người".
Tiểu sử và sự nghiệp.
Học giả Hoàng Xuân Việt sinh ngày 13 tháng 8 năm 1920 tại Vĩnh Thành, Bến Tre. Từ năm 11 tuổi, ông đã theo học tại các chủng viện Công giáo với mong muốn trở thành linh mục. Từ năm 18 tuổi, ông bắt đầu viết những cuốn sách như: "Đức tự chủ, Ngón thần để luyện lâm, Đức điềm tĩnh,"... Trong khoảng từ năm 1950 – 1957, ông đã viết khoảng 9 tác phẩm. Ngày 29 tháng 6 năm 1957 theo lịch định là ngày ông được thụ phong linh mục, tuy nhiên lễ thụ phong này bị hoãn lại, vì trước đó 2 ngày, cuốn sách "Rèn nhân cách" của ông được xuất bản mà chưa thông qua Giám mục Ngô Đình Thục.
Năm 2005, ông sang định cư tại Hoa Kỳ, rồi về lại Việt Nam. Ông mất ngày 20 tháng 7 năm 2014 tại nhà riêng tại Thành phố Hồ Chí Minh | 1 | null |
Vụ nổ bom Bombay xảy ra ngày 14 tháng 4 năm 1944 tại bến cảng Victoria, thành phố Bombay khi tàu chở hàng SS "Fort Stikine" - đang chở hàng hóa hỗn hợp gồm kiện bông, vàng và đạn dược gồm 1.400 tấn thuốc nổ - bắt lửa và bị phá hủy trong hai đợt nổ lớn làm văng tung tóe mảnh vỡ, gây đắm các tàu xung quanh và khơi mào cho một vụ hỏa hoạn làm chết 800 ngườ. Vụ nổ làm rung chuyển cảng Mumbai và khiến 300 người tử vong, gây thiệt hại 20 triệu bảng Anh tính theo thời giá lúc đó.
Chiếc tàu và hàng hóa.
Tàu SS "Fort Stikine" là một chiếc tàu chở hàng có số tấn đăng ký tổng cộng là 7.142, được đóng năm 1942 ở Prince Rupert, British Columbia theo một thỏa thuận thuê-cho thuê và được đặt tên theo Fort Stikine - một tiền đồn của Hudson's Bay Company nằm ở nơi ngày nay là Wrangell, Alaska.
Xuất phát từ Birkenhead vào ngày 24 tháng 2 qua Gibraltar, Port Said và Karachi, chiếc tàu đã đến Bombay ngày 12 tháng 4 năm 1944. Hàng hóa trên tàu gồm 1.395 tấn chất nổ gồm 238 tấn chất nổ "A" nhạy cảm, ngư lôi, mìn , đạn pháo, đạn dược, máy bay chiến đấu Supermarine Spitfire, kiện cotton, các thùng dầu mỏ, gỗ, sắt phế liệu và £1–2 triệu bảng Anh nén vàng trong 31 thùng gỗ thưa. | 1 | null |
Kraft Prinz zu Hohenlohe-Ingelfingen (2 tháng 1 năm 1827 – 16 tháng 1 năm 1892), là một vị tướng chỉ huy pháo binh của quân đội Phổ, đồng thời là nhà văn quân sự đã viết một số tác phẩm về khoa học chiến tranh có ảnh hưởng lớn ở châu Âu thời đó. Trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866, ông đã chỉ huy thành công lực lượng pháo binh trừ bị của Phổ tại trận Königgrätz, và trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871) – cuộc chiến mà ông được nhìn nhận là nhà chỉ huy pháo binh giỏi nhất ở cả hai phía, ông đã đóng một vai trò quan trọng trong chiến thắng của các lực lượng Phổ tại Gravelotte, Sedan và cuộc vây hãm Paris.
Thiếu thời.
Kraft Karl August zu Hohenlohe-Ingelfingen sinh ra tại Koschentin ở vùng Hạ Schlesien ngày 2 tháng 1 năm 1827. Ông là con trai của Vương công Adolf zu Hohenlohe-Ingelfingen (1797 – 1873) – từng là Thủ tướng Phổ trong một thời gian ngắn năm 1862, và là một cháu nội của Friedrich Ludwig, Vương công Hohenlohe-Ingelfingen (1746 – 1818), người đã chỉ huy các lực lượng Phổ đầu hàng tại Prenzlau năm 1806.
Do tình cảnh nghèo nàn của các điền trang gia đình ông trong những cuộc chiến tranh của Napoléon, Hohenhole đã nhận được một nền giáo dục nghiêm ngặt từ cha mình, và được gửi tới quân đội Phổ. Tại đây, ông được bổ nhiệm vào lực lượng pháo binh, được xem là binh chủng rẻ tiền nhất của quân chủng lục quân. Ông đã gia nhập Lữ đoàn Pháo binh Cận vệ vào ngày 24 tháng 4 năm 1845, với quân hàm Thiếu úy. Từ năm 1845 cho đến năm 1846, ông học ở Trường Đào tạo Pháo binh và Công binh. Trong kỳ thi sĩ quan sau đó, người ta đã phát hiện ra rằng ông có những năng lực phi thường của một sĩ quan pháo binh. Trong một thời gian ngắn, các sĩ quan cấp trên của ông tỏ ra phẫn nộ trước sự hiện diện của vị hoàng thân, vì lo ngại rằng ông sẽ lợi dụng chức tước của mình cho việc thăng tiến. Tuy nhiên, các mối nghi ngờ đã chấm dứt khi tình hình cho thấy rằng ông không hề dựa vào địa vị xã hội của mình để được thăng tiến trong quân ngũ pháo binh.
Vào ngày 18 tháng 3 năm 1848, ông đã tham gia chiến đấu trên đường phố Berlin. Từ năm 1850 cho đến năm 1853, ông tham dự Viện Hàn lâm Quân sự Phổ. Vào năm 1854, ông trở thành tùy viên quân sự tại Viên, đế đô của Đế quốc Áo.
Con đường thăng tiến.
Sau khi phục vụ như một tùy viên quân sự ở Áo và tại biên giới Transilvania trong cuộc Chiến tranh Krym – cuộc chiến đã góp phần mang lại cho ông kinh nghiệm về việc sử dụng pháo binh, Kraft được bổ nhiệm làm một đại úy trong Bộ Tổng tham mưu, và vào năm 1856 trở thành lính hầu của nhà vua, tuy viện, ông vẫn giữ liên lạc chặt chẽ với binh chủng pháo binh. Vào năm 1864, sau khi được thăng cấp thiếu tá và sau đó là thượng tá, ông đã khước từ vai vế của mình trong Bộ Tổng tham mưu, để trở thành tư lệnh của trung đoàn Pháo dã chiến Cận vệ mới được thành lập. Sang năm sau (1865), ông lên chức đại tá.
Vào năm 1866, cuộc Chiến tranh Áo-Phổ bùng nổ, và đây là lần đầu tiên Kraft thực sự được trải nghiệm trong chiến tranh. Trong đợt tấn công quyết liệt của Quân đoàn Vệ binh Phổ nhằm vào cánh phải của quân Áo tại trận đánh quyết liệt ở Königgrätz-Sadowa vào ngày 3 tháng 7 năm 1866, ông đã chỉ huy thành công vang dội lực lượng pháo binh trừ bị của Vệ binh, và sau cuộc chiến ngắn ngủi này ông dồn năng lực của mình, giờ đã được củng cố bằng kinh nghiệm mà ông rút ra, vào việc huấn luyện chiến thuật cho lực lượng pháo binh Phổ.
Vào năm 1868, Kraft được thăng cấp Thiếu tướng và trao cho quyền chỉ huy Lữ đoàn Pháo binh Cận vệ. Trên cương vị này, ông đã tận dụng các kinh nghiệm của mình để chỉ huy pháo binh Cận vệ Phổ với thành công rất lớn trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871). Có thể thấy, tại trận Sadowa năm 1866, pháo binh Phổ di chuyển chậm đến chiến trường do chỉ đi theo sau đội hình hàng dọc của Phổ. Trái lại, trong trận Gravelotte–St. Privat vào ngày 18 tháng 8 năm 1870, Vương công Hohenlohe đã đặt lực lượng pháo binh của mình dẫn đầu đoàn quân, nhờ đó các khẩu đại bác của Phổ nhập trận nhanh chóng, bẻ gãy được tất cả mọi nỗ lực phản công của quân đội Pháp. Bên cạnh sự triển khai pháo binh mạnh mẽ như vậy, mỗi khẩu đại bác của Kraft còn được ông bố trí một xe goòng, để cho các cỗ pháo của mình luôn luôn được tiếp tế về đạn dược. Ngoài ra, với Kraft, các khẩu pháo của Đức cũng bắn theo một cách thông minh hơn. Có thể thấy, trong trận Sedan vào ngày 1 tháng 9 năm 1870, Hohenlohe đã tiến hành oanh kích một cách có hệ thống toàn bộ khu rừng Bois de la Garenne. Ông đặt 10 khẩu đội pháo của mình trên một cao điểm nhìn ra vị trí phòng ngự của quân Pháp, và chỉ định mỗi khẩu đội nã đạn vào một khu vực khác nhau mà ông đã xác định. Cuộc oanh kích của ông đã làm tê liệt sức kháng cự của quân Pháp. Sau khi sự tập trung hỏa lực "kiểu Napoléon" này tiêu diệt pháo binh Pháp ở tầm bắn xa, người Đức chia pháo binh của mình thành nhiều đơn vị nhỏ để yểm trợ bộ binh tấn công đối phương. Việc yểm trợ này thường được thực hiện ở tầm rất gần, mặc dù quân Phổ chịu nhiều thiệt hại do súng trường "Chassepot" của Pháp gây ra. Một khi bộ binh Phổ tấn công vị trí của quân Pháp, họ chỉ vấp phải sự kháng cự yếu ớt của địch thủ.
Mặc dù trên thực tế, quân đội Phổ - Đức phải chịu thương vong khoảng 460 sĩ quan và 8.500 binh lính tại Sedan, thắng lợi quyết định của họ đã mang lại cho phía Pháp những thiệt hại rất lớn, và Hohenlohe đã viết trong "Thư từ về pháo binh" của ông (1888): "Ưu thế của chúng ta thật quá vượt bậc đến mức chúng ta không chịu thiệt hại nào cả". Ngoài ra, cũng chính ông đã trực tiếp chỉ đạo cuộc công pháo vào Paris, khởi đầu từ ngày 5 tháng 1 năm 1871. Vào năm 1873, ông được trao quyền chỉ huy một sư đoàn bộ binh, và 3 năm sau ông lên chức Trung tướng. Trong khi ông nghỉ hưu vào năm 1879, ông được thăng cấp Thượng tướng Bộ binh năm 1883. Đến năm 1889, Đức hoàng ("Kaiser") Wilhelm II đã phong ông làm Thượng tướng Pháo binh.
Các tác phẩm.
Vương công Hohenlohe đã viết nhiều tác phẩm quân sự, trong đó có một số công trình đã trở nên kinh điển. Những công trình này bao gồm "Briefe über Artillerie" ("Thư từ về Pháo binh", 1887); "Briefe über Strategie" (1877; được dịch sang tiếng Anh với tên gọi "Letters on Strategy" – "Thư từ về Chiến lược", 1898); và "Gespräche über Reiterei" (1887; "Bàn về Kỵ binh"). Ngoài ra, các tác phẩm "Briefe über Infanterie" và "Briefe über Kavallerie" ("Thư từ về Bộ binh", "Thư từ về Kỵ binh", 1889) ít quan trọng hơn, mặc dù chúng chưa đựng những thông tin thú vị về các tư tưởng thịnh hành của người Đức thời bấy giờ.
Hồi ký.
Hồi ký của Vương công Hohenlohe ("Aus meinem Leben") đã được soạn thảo gần Dresden trong thời gian ông nghỉ hưu, và sự xuất bản tập 1 (1897) đã gây thu hút đến mức mà phải trải qua 8 năm rồi việc xuất bản mới được tiếp tục. Ông qua đời gần Dresden vào năm 1892. | 1 | null |
Chùa Đất Sét (tên chính thức là Bửu Sơn Tự, chữ Hán: 寶山寺) là một ngôi chùa nổi tiếng của tỉnh Sóc Trăng, vì có hàng ngàn pho tượng bằng đất sét và 4 đôi nến (đèn cầy) cao lớn.
Vị trí.
Chùa Đất Sét tọa lạc tại số 286 đường Tôn Đức Thắng thuộc phường 5, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng, Việt Nam.
Nguồn gốc.
Chùa Đất Sét được xây dựng vào đầu thế kỷ 20, do dòng họ Ngô tự lập để tu tại gia. Ban đầu, chỉ là một am nhỏ bằng cây lá trên một diện tích nhỏ hẹp, và trong sảnh điện thờ cũng rất đơn sơ. Mãi đến đời trụ trì thứ tư là ông Ngô Kim Tòng, am nhỏ mới được tôn tạo, mở rộng và có thêm nhiều tượng thờ như ngày nay.
Kiến trúc, thờ phụng.
Chùa hiện nay tọa lạc trên một diện tích khoảng 400 m2. Cổng tam quan được xây kiên cố, lợp ngói. Ngôi chánh điện ngó về hướng Đông. Phần mặt tiền của điện được xây kiến cố bằng vật liệu thời hiện đại, hai cột chính có đắp nổi hình rồng uốn lượn khá tinh xảo. Phần còn còn lại của điện chỉ là "cột gỗ, mái tôn", không lầu và có kết cấu đơn giản. Cả mái chùa được chống đỡ bằng 24 cây cột cây. Mỗi cây được ốp bằng đất sét, đắp hình rồng uốn lượn và những hoa văn trang trí khác.
Trong nội điện không rộng, và vì chứa nhiều thứ nên chật chội. Ở đây có trên ngàn tượng pho tượng các vị Phật, Tiên, Thánh, Thần...và linh thú do ông Ngô Kim Tòng làm ra trong suốt 42 năm (từ 1928 đến 1970) để thờ và trang trí . Tất cả được làm chủ yếu từ đất sét, có pha trộn bột hương (nhang) cùng với keo ô dước để không bị nứt nẻ, và đều được sơn phết tỉ mỉ bằng sơn và dầu bóng.
Qua sự sắp xếp các pho tượng thờ: A Di Đà, Di Lặc, Quan Thế Âm, Khổng Tử, Ngọc Hoàng Thượng đế, Lão Tử, Diêu Trì Kim Mẫu, v.v... đã nói lên tư tưởng "Tam giáo đồng nguyên" (Phật, Nho, Lão) của người lập chùa và các thế hệ truyền thừa. Và cũng vì chùa Đất Sét lập ra để tu tại gia nên chùa không có sư, không nhận tiền công đức của khách thập phương. Hiện nay chùa do người trong gia đình thay nhau quản lý .
Hiện vật.
Chùa Đất Sét không chỉ nổi tiếng bởi hàng ngàn pho tượng làm bằng đất sét, cột chùa cũng được ốp bằng đất sét, mà còn được nhiều người biết đến bởi 4 đôi nến (đèn cầy) cao lớn được đúc năm 1940. Trong đó, có ba đôi mà mỗi cây cao 2,6 m, ngang 1 m, và được đúc bằng 200 kg sáp. Cặp còn lại nhỏ hơn, và mỗi cây được đúc bằng 100 kg sáp. Tổng cộng là 1,4 tấn sáp. Để đúc được nó phải dùng sáp nguyên chất, chặt nhỏ, cho vào chảo nấu lỏng, đổ vào khuôn (dùng tôn lợp nhà cuộn lại). Sau một tháng, nến nguội rồi mới gỡ khuôn ra và trang trí. Hiện nay, hai nến nhỏ vẫn cháy suốt ngày đêm từ khi ông Ngô Kim Tòng qua đời (ngày 18 tháng 7 năm 1970) mà vẫn chưa hết. Phỏng tính bình quân mỗi cây nến cháy suốt ngày đêm phải mất 70-80 năm. Ngoài ra, tại đây còn có 3 cây hương (nhang), mỗi cây cao 1,5 m, nặng 50 kg và hiện chưa được đốt.
Về phần các hiện vật khác (cũng đều làm bằng đất sét), đáng chú ý có:
Ngoài ra, còn có lục long đăng (có 3 chóp đỉnh lớn), 7 lư hương nhỏ và các cặp Kim Lân, Thanh Sư, Bạch Tượng, Bạch Hổ, Long Mã... đều là những hiện vật được tạo tác khá tinh xảo .
Tháng 3 năm 2011, chùa Đất Sét đã được UBND tỉnh Sóc Trăng công nhận là "Di tích lịch sử – văn hóa" (thuộc lĩnh vực kiến trúc – nghệ thuật) cấp tỉnh.
Tiểu sử Ngô Kim Tòng.
Cha là ông Ngô Kim Đính, và mẹ là bà Đỗ Thị Ngọc. Ông là người con thứ 4 (nên thường được gọi là Cậu Năm, theo cách gọi của người miền Nam).
Vì gia đình nghèo, nên ông chỉ học hết lớp 3 trường làng, rồi ở nhà để coi sóc am tu của ông bà để lại. Năm 18 tuổi, ông đến xã Phú Hữu (huyện Long Phú) thuê 2 công đất để làm rẫy. Vì thiếu ăn, lại làm quá sức, nên ông ngã bệnh. Sau khi được cha mẹ rước về nhà chữa trị và khỏi bệnh, ông đi đào đất sét đem về phơi khô, giã nhuyễn...rồi nhào nắn nên những cốt tượng theo trí tưởng tượng của minh. Với lòng say mê hiếm có, ông đã miệt mài vừa làm, vừa học để làm ra tác phẩm, chứ không kinh qua trường lớp.
Năm ông 38 tuổi, cha ông mất. Kể từ đó, ông và người chị ba cùng nối nghiệp cha, trường chay tu học, và ông trở thành người kế thừa đời thứ tư của dòng họ "Ngô Cư Sĩ Học Phật Tu Nhơn". Sau khi tạo tác xong những tác phẩm bằng đất sét, bằng sáp...đã kể trên, ông mất vào ngày 18 tháng 7 năm Canh Tuất (1970), hưởng thọ 62 tuổi (tuổi ta).
Khen ngợi tài năng và sức sáng tạo của ông, một nhà văn đã nói: ""Có thể nói Cậu Năm Ngô Kim Tòng là người sống vì đất. Suốt 42 năm miệt mài với từng gánh đất, nâng niu từng vốc đất, cậu đã tạo dáng cho đất, phả hồn thiêng vào đất, tạo nhịp đập trái tim cho đất để trăm năm sau đất cất tiếng nói thay người"...". Hiện nay, trong chùa Đất Sét có bàn thờ ông. | 1 | null |
Nhân Duệ Vương hậu Lý thị (인예왕후 이씨; 1031 ? – 1092), là con gái của Thái úy Lý Tử Uyên và Kê Lâm Quốc Đại phu nhân Kim thị. Bà là vị vương hậu thứ hai của vua Cao Ly Văn Tông.
Lý thị nhập cung cùng với 2 người em gái, sơ phong "Diên Hòa Cung chủ" (延德宮主). Năm Văn Tông thứ 6 (1052) được thăng vị Vương hậu. Dưới thời trị vì của con bà là Cao Ly Tuyên Tông, Lý Vương hậu được tôn làm Vương thái hậu. Năm 1092, thái hậu qua đời, được truy thụy là Nhân Duệ Thánh Thiện Hiếu Mục Vương thái hậu (仁睿聖善孝穆王太后), cho táng tại Đới lăng (戴陵).
Bà là mẹ của cả ba vua: Thuận Tông, Tuyên Tông và Túc Tông; là bà nội của Hiến Tông và Duệ Tông. Ngoài ra bà còn sinh hạ cho Văn Tông thêm 7 vương tử và 4 vương nữ khác. Hai người em gái của bà là Nhân Kính Hiền phi (인경현비) và Nhân Tiết Hiền phi (인절현비; ? – 1082) cũng là những phi tần của Văn Tông. | 1 | null |
Legio Quarta Flavia Felix (Quân đoàn Flavian Thứ Tư May Mắn), là một quân đoàn La Mã được Vespasianus thành lập trong năm 70, từ đống tro tàn của Legio IV Macedonica. Quân đoàn đã có mặt ở Thượng Moesia trong nửa đầu của thế kỷ thứ 4. Biểu tượng của quân đoàn là một con sư tử.
Trong cuộc khởi nghĩa Batavia, quân đoàn "IV Macedonica" đã chiến đấu cho Vespasianus, nhưng hoàng đế lại không tin tưởng binh lính của mình, có lẽ bởi vì họ đã ủng hộ Vitellius hai năm về trước. Do đó "IV Macedonica" đã bị giải tán, và một quân đoàn thứ tư mới gọi là "Flavian Felix" đã được hoàng đế thành lập, ông đã ban cho quân đoàn tên họ của mình, "Flavia". Do biểu tượng của quân đoàn là một con sư tử, có lẽ nó đã được thành lập vào tháng 7 hoặc tháng 8 năm 70.
"IV Flavia Felix" đã đóng quân ở Burnum, Dalmatia (Kistanje ngày nay), tại đây nó thay thế XI Claudia. Sau cuộc xâm lược của người Dacia vào năm 86, Domitianus di chuyển quân đoàn tới Thượng Moesia, ở Singidunum (Belgrade hiện nay, Serbia), mặc dù có một số bằng chứng về sự hiện diện của quân đoàn này, một trong các vexillatio của nó ở Viminacium (gần Kostolac ngày nay, Serbia), căn cứ của VII Claudia.
Trong năm 88, quân đoàn thứ tư đã tham gia cuộc xâm lược trả đũa nhằm vào Dacia (xem chiến tranh Dacia lần thứ hai của Domitianus). Nó cũng tham gia vào các cuộc chiến tranh Dacia của Trajan, và có mặt trong chiến thắng ở trận Tapae lần hai. Quân đoàn cũng tham gia vào trận chiến cuối cùng và cũng là trận đánh quyết định trong cuộc chiến tranh chống lại người Dacia, chinh phục kinh đô của họ, Sarmisegetusa.
Những bia kỷ niệm của IV Flavia Felix cũng đã được tìm thấy tại Aquincum (Budapest). Điều này cho thấy rằng một tiểu đơn vị của nó đã thay thế II Adiutrix trong thời gian quân đoàn này tham gia các cuộc chiến tranh của Lucius Verus chống lại đế chế Parthia (từ năm 162-166).
Trong các cuộc chiến tranh Marcomanni (từ năm 166-180 CN), quân đoàn thứ tư đã chiến đấu trên sông Danube chống lại các bộ tộc người Đức.
Sau cái chết của Pertinax, "IV Flavia Felix" đã ủng hộ Septimius Severus chống lại hai đối thủ tranh giành ngôi vị là Pescennius Niger và Clodius Albinus.
Quân đoàn có thể chiến đấu trong một trong một số cuộc chiến tranh chống lại nhà Sassanid, nhưng nó vẫn lưu lại Thượng Moesia cho đến nửa đầu thế kỷ thứ 4.
Quân đoàn La Mã này đã xuất hiện trong phần đầu của phim Võ sĩ giác đấu, trong đó Maximus Decimus Meridius là vị tướng của quân đoàn và chỉ huy chiến dịch ở Germania chống lại người Marcomani. | 1 | null |
Phân thứ lớp Cá xương thật ("Teleostei") là một trong ba nhóm cá thuộc lớp Cá vây tia ("Actinopterygii"). Nhóm này hình thành từ đầu kỷ Tam điệp, và bao hàm 20.000 -30.000 loài cá xếp trong khoảng 40 bộ, bằng với tất cả số loài của các nhóm động vật có xương sống khác cộng lại; như vậy phần lớn các loài cá tồn tại hiện nay đều thuộc nhóm này. Hai nhóm cá vây tia khác là phân thứ lớp Cá toàn xương ("Holostei") và phân lớp Cá sụn hóa xương ("Chondrostei") có thể là các nhóm cận ngành.
Đặc điểm.
Các loài Cá xương thật có hàm trên và mảnh trước hàm chuyển động được và có cấu trúc thay đổi tương ứng với cấu trúc của hệ thống cơ hàm. Sự thay đổi này giúp cho chúng có thể đưa quai hàm ra phía trước miệng. Vây đuôi của cá có dạng đồng hình, tức là cả thùy trên và thùy dưới đều cân xứng và kích thước, hình dạng giống nhau. Cột sống cá kết thúc tại phần gốc của vây đuôi, đặc điểm này giúp phân biệt phân thứ lớp Cá xương thật với các nhóm cá khác có cột sống kéo dài đến tận thùy trên của vây đuôi.
Là một nhóm loài lớn, các loài Cá xương thật có đặc điểm hình thái rất đa dạng, từ loài cá tuế chỉ dài hơn 7mm cho đến loài cá maclin dài hơn 3,5 mét hay cá thái dương nặng đến hơn 900 kg. Sự đa dạng lớn này khiến việc định nghĩa nhóm Cá xương thật thông qua hình dáng và cấu trúc không phải là điều dễ dàng.
Sinh thái và hành vi.
Các loài Cá xương thật có mặt ở nhiều khu vực khác nhau trên thế giới, từ môi trường nước ngọt đến cả nước mặn, bao hàm các vùng nước triều, vùng duyên hải, thềm lục địa, biển khơi và vùng biển thẳm, từ các vùng biển băng giá ở hai cực Trái Đất đến các suối nước ấm có nhiệt độ lên đến 38 độ bách phân. Tuy nhiên, mỗi loài Cá xương thật thường có xu hướng sống giới hạn trong một loại môi trường nào đó trong một giai đoạn sống nhất định, và các môi trường sống khác nhau thường có sự hiện diện của những loài cá có khác biệt lớn về vòng đời, sinh sản, hành vi, hình dáng.
Quy mô lớn của phân thứ lớp Cá xương thật cũng dẫn đến sự đa dạng trong tập tính sinh sản. Phần lớn một lứa đẻ của chúng "sản xuất" ra rất nhiều trứng, phân tán ra khắp nơi nhưng chỉ có một số ít sống sót đến lúc trưởng thành. Trong đó cá nước ngọt thường đẻ trứng chìm xuống đáy nước, còn cá biển đẻ trứng trôi nổi trong nước. Một số khác ấp trứng trong miệng, một số canh chừng trứng và cá con suốt một thời gian dài sau khi đẻ. Một số loài cá là lưỡng tính, có khả năng tự thụ tinh, một số loài là cá đực trong một giai đoạn sống, nhưng trở thành cá cái trong giai đoạn khác. Ít nhất 12 loài có khả năng đẻ trứng thai, và nhiều loài khác có đặc tính sinh sản chưa được rõ ràng.
Vai trò.
Số lượng phong phú của nhiều loài Cá xương thật kích thước lớn, tỉ như cá hồi và cá bơn lưỡi ngựa, giúp cho nhóm cá này đóng vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống con người với tư cách là một nguồn thực phẩm chủ yếu cũng như là điều kiện cho lĩnh vực câu cá giải trí phát triển. Ngoài ra, sự đa dạng của nhóm Cá xương thật xét về cả đặc điểm hình thái, cấu trúc cơ thể, tập tính môi trường sống - với mức độ lớn hơn tất cả các loài thú, chim, bò sát và lưỡng cư cộng lại - khiến chúng chiếm một vị trí chủ đạo trong ngành nuôi cá cảnh, một ngành công nghiệp với doanh thu lên đến hàng triệu Mỹ kim.
Phân loại và tiến hóa.
Hóa thạch sớm nhất của phân thứ lớp Cá xương thật có niên đại từ kỷ Tam điệp sớm. Đến kỷ Crêta chúng đã thống trị các môi trường sống nước ngọt lẫn nước mặn trên Trái Đất. Một số nhóm Cá xương thật nguyên thủy nhất có thể kể đến bao gồm các bộ Pholidophoriformes, Leptolepidiformes, Tselfatiformes và Osteoglossomorpha. Theo danh sách dưới đây, phân thứ lớp này bao hàm 12 siêu bộ, tuy nhiên thông tin này có thể thay đổi vì quá trình nghiên cứu và phân loài các loài cá này vẫn còn tiếp diễn. | 1 | null |
Trưa Thượng Hải (tựa gốc tiếng Anh: Shanghai Noon) là một bộ phim hài hước - hành động - võ thuật Mỹ của đạo diễn Tom Dey, có sự tham gia của Thành Long và Owen Wilson vào hai vai chính trong phim. Phim được phát hành vào ngày 26 tháng 5 năm 2000 tại Mỹ. Phần tiếp theo của phim có tựa là "Shanghai Knights" đã được phát hành vào năm 2003.
Nội dung.
Bộ phim lấy bối cảnh năm 1881, khi vuơng triều Thanh ở Trung Hoa nghe tin công chúa Pei-Pei bị bắt cóc thì liền cử ba thị vệ giỏi nhất hoàng cung hộ tống vị quan ngự sử Chon đem vàng qua Mỹ chuộc công chúa về. Một người lính tên Chon Wang, cháu của quan ngự sử, thường học lỏm ngoại ngữ trong các buổi học của công chúa, cảm thấy có cách nhiệm vì đã lơ là để công chúa bị kẻ gian dụ dỗ. Dù không được chọn nhưng anh vẫn tình nguyện xin đi theo.
7 tuần sau, nhóm của Chon đến tiểu bang Nevada. Chon Wang nhìn thấy chú mình bị một băng cướp giết chết nên anh nhảy khỏi xe lửa đuổi theo bọn cướp, anh lạc mất những thị vệ còn lại. Kẻ cầm đầu băng cướp là Roy O'Bannon bị các đồng bọn phản bội và chôn sống trong hoang mạc. Chon khi bị rơi khỏi tàu đã tìm thấy Roy và đưa anh ta đôi đũa để tự đào đất lên. Roy lúc đó chỉ đường qua loa cho Chon tìm thành phố Carson.
Chon đi qua một ngọn núi tuyết, khi đến khu rừng, anh đã đánh bại một nhóm thổ dân của bộ lạc Crow, giúp đỡ cậu bé của bộ lạc Sioux. Hành động nghĩa hiệp của Chon làm ông Tù trưởng bộ lạc da đỏ Sioux cảm kích, và gả con gái tên là Lá Rơi cho anh, Chon đành miễn cưỡng làm phò mã. Ngày hôm sau Chon tiếp tục đi tìm thành phố Carson, anh vào một quán rượu để hỏi đường rồi tình cờ gặp lại Roy. Roy lộ tẩy về vụ chỉ sai đường đi, Chon tức giận đánh nhau với Roy. Bọn côn đồ trong quán cũng lao vào đánh Chon và Roy, cả hai bất đắc dĩ phải hợp sức chống trả. Cảnh sát ập đến dẹp loạn, nhưng chỉ bắt giữ đúng 2 người Chon và Roy.
Tối hôm đó Lá Rơi - cô vợ Chon - phá cửa phòng giam giải cứu hai người. Chon và Roy kết bạn với nhau, Roy dạy Chon cách bắn súng và cưỡi ngựa. Roy dẫn Chon đến thành phố Carson, cả hai bất ngờ nhận ra họ đang bị truy nã. Chon và Roy bỏ chạy sau khi Chon hạ gục hết đám cảnh sát của tên cảnh sát trưởng điên rồ Nathan Van Cleef.
Buổi tối Chon và Roy tìm quán trọ nghỉ ngơi, họ tiếp tục chạm trán Van Cleef, cả hai lại bị cảnh sát bắt. Chon nhận ra kẻ chủ mưu bắt cóc công chúa Pei-Pei chính là tên phản quốc Lo Fong, cũng là đồng bọn của Van Cleef. Sáng sớm Van Cleef định treo cổ Chon và Roy nhưng Lá Rơi giải cứu họ lần nữa. Chon liều lĩnh đi đến khu đất của Lo Fong để tìm công chúa Pei-Pei. Anh nhìn thấy công chúa đang ở cùng nhiều công nhân của Lo Fong. Công chúa không thể bỏ trốn vì cô lo lại Lo Fong dọa sẽ giết những người công nhân con tin nếu công chúa trốn. Chon suýt bị Lo Fong giết, Roy cưỡi ngựa đến giải cứu Chon kịp thời.
3 thị vệ Trung Hoa gặp Lo Fong trong một nhà thờ chính tòa để đàm phán, họ đưa 100 lượng vàng cho Lo Fong đúng như yêu cầu của hắn, đổi lại hắn phải thả công chúa ra. Cuộc trao đổi trở nên rắc rối khi Chon và Roy xuất hiện. Chon cùng 2 thị vệ Trung Hoa giao chiến với Lo Fong, nhưng một người trong họ, là trưởng đoàn, một mực dùng vũ lực ép Chon tuân mệnh lệnh của hoàng đế Trung Hoa.
Một mình Lo Fong đánh bại cả ba, hắn tính giết công chúa, Chon cố gắng bảo vệ cô. Cuối cùng Chon cũng giết được Lo Fong bằng cách treo cổ hắn lên tháp chuông. Trong khi đó, Roy đấu súng với Van Cleef, cuối cùng Roy bắn gục Van Cleef bằng viên đạn cuối cùng còn sót lại. Công chúa Pei-Pei không còn muốn trở về Trung Hoa nữa, cô bắt đầu yêu Chon và muốn định cư tại Mỹ. Lá Rơi cũng thích thú với vẻ lãng tử của Roy nên đã chia tay Chon và hẹn hò với Roy. Sau ngày hôm đó Chon và Roy trở thành cảnh sát, trong lúc đang đi dạo thì cả hai nhìn thấy một băng cướp nhảy lên xe lửa, họ quyết định đuổi theo bắt bọn cướp đó. Bộ phim kết thúc. | 1 | null |
Legio Quarta Macedonica (Quân đoàn Macedonia thứ tư), là một quân đoàn La Mã được Julius Caesar thành lập trong năm 48 trước Công nguyên cùng với những lính lê dương người Ý. Quân đoàn này sau đó đã bị hoàng đế Vespasianus giải tán trong năm 70. Biểu tượng của quân đoàn là một con bò đực (như tất cả các quân đoàn khác của Caesar) và cung Ma Kết.
Vào thời điểm quân đoàn được thành lập năm 48 TCN, Cộng hòa La Mã khi ấy đang trên đà suy tàn một cách nhanh chóng. Caesar thì đã vượt qua sông Rubicon vào năm trước và đang bắt đầu một cuộc nội chiến. Pompeius, Cato trẻ và phần còn lại của phe bảo thủ trong viện nguyên lão đã bỏ trốn sang Hy Lạp. Caesar lúc này chuẩn bị cho việc truy đuổi và, trong quá trình chuẩn bị, ông đã cho thành lập Legio IV. Những trận đánh đầu tiên mà quân đoàn tham gia đó là Dyrrhachium và ở Pharsalus, nơi Caesar đánh bại Pompeius. Sau trận chiến này, quân đoàn đóng quân tại tỉnh Macedonia, và vì thế nó có được tên riêng cho mình.
"IV Macedonica" luôn đứng về phía người con nuôi của Julius Caesar, Octavian, đầu tiên chống lại những kẻ ám sát Caesar trong trận Philippi vào năm 42 trước Công nguyên, sau đó chống lại Marcus Antonius trong trận thủy chiến Actium vào năm 31 trước Công nguyên.
Octavian, lúc này là Augustus, đã phái quân đoàn tới Hispania Tarraconensis trong năm 30 trước Công nguyên, và nó đã tham gia vào các cuộc chiến tranh Cantabria. Trong năm 25 trước Công nguyên, quân đoàn còn là đóng vai trò là lực lượng quyết định trong trận Vellica dưới sự chỉ huy của chính Augustus. Sau khi Augustus hoàn toàn giành chiến thắng vào năm 13 trước Công nguyên, quân đoàn lưu lại trên địa bàn tỉnh này, nhưng binh sĩ của nó thì lại đóng quân rải rác khắp bán đảo Iberia.
Trong năm 43, quân đoàn đã được chuyển tới Thượng Germania, để thay thế vai trò là đơn vị đồn trú của Moguntiacum (Mainz ngày nay) cho XIV Gemina. Cùng với XXII Primigenia, quân đoàn đã ủng hộ Vitellius, thống đốc của Thượng Germania, trong Năm Tứ hoàng đế (năm 69), đầu tiên chống lại Otho, sau đó là Vespasianus, người cuối cùng sẽ trở thành hoàng đế sau này.
Trong cuộc khởi nghĩa Batavia (năm 69/70), "IV Macedonica" đã bảo vệ Mainz và chiến đấu dưới quyền Potillius Cerealis chống lại quân khởi nghĩa. Hành động của họ xứng đáng không bị quở trách nhưng Vespasianus lại không tin tưởng những binh sĩ của mình, có thể là do họ đã từng ủng hộ Vitellius. Quân đoàn đã bị giải tán vào năm 70, nhưng nó lại được tái lập lại ngay sau đó dưới tên Legio IIII Flavia Felix. | 1 | null |
Assassin's Creed là một trò chơi điện tử hành động - phiêu lưu lén lút được phát triển bởi Ubisoft Montreal và xuất bản bởi Ubisoft. Đây là phần đầu tiên trong dòng trò chơi Assassin's Creed. Trò chơi phát hành lần đầu trên Xbox 360, sau đó trên Play Station 3 vào tháng 11 năm 2007, trong khi đó bản dành cho Windows ra mắt tháng 4 năm 2008.
Cốt truyện đặt trong một chuỗi lịch sử hư cấu xen lẫn các sự kiện có thực, tập trung vào cuộc chiến hàng thế kỉ trước giữa các Assassin (Sát thủ), những người đấu tranh cho hoà bình và tự do, với các Templar (Hiệp sĩ dòng Đền), những kẻ mong muốn hoà bình có được qua thống trị. Trò chơi lấy bối cảnh cuộc Thập tự chinh thứ ba tại vùng Đất Thánh năm 1191, xoay quanh tổ chức The Secret Order of Assassins (tạm dịch: "Hội Sát thủ Bí mật"), dựa trên các Hashashin có thực. Người chơi vào vai một người đàn ông thời hiện đại tên là Desmond Miles. Bằng việc sử dụng cỗ máy "Animus", Miles có thể xem và kiểm soát ký ức của tổ tiên của mình là Altaïr Ibn-La'Ahad, một sát thủ.
Thông qua Animus, người chơi dần khám phá ra một cuộc chiến giữa hai phe, Sát thủ và Hiệp sĩ dòng Đền, nhằm tranh giành cổ vật "Piece of Eden" (tạm dịch: "Mảnh ghép Địa Đàng") có khả năng kiểm soát tâm trí. Trò chơi nhận được phần lớn đánh giá tích cực và giành nhiều giải thưởng tại hội chợ E3 năm 2006. Phần tiếp theo, Assassin's Creed II, đã được ra mắt vào tháng 11 năm 2009. Kể từ sau thành công của "Assassin's Creed II", các phiên bản tiếp theo đã được phát hành hàng năm, mang đến nhiều nhân vật sát thủ và thời điểm lịch sử khác nhau.
Tóm tắt.
Cốt truyện.
Năm 1191, Altaïr và hai sát thủ - anh em Malik và Kadar Al-Sayf được cử đến Đền thờ của Solomon để lấy một cổ vật được gọi là "Apple of Eden" (Quả táo Địa đàng) từ kẻ thù truyền kiếp của Hội Sát thủ, Hiệp sĩ dòng Đền. Vì kiêu ngạo, Altaïr thực hiện nhiệm vụ dẫn đến cái chết của Kadar; tuy nhiên, Malik có thể lấy được quả Apple trước khi trốn thoát. Mặc dù Altaïr sau đó đã chuộc lỗi một phần bằng cách chống lại cuộc tấn công của Hiệp sĩ dòng Đền vào căn cứ Masyaf của Hội Sát thủ, thủ lĩnh và cấp trên của anh là Al Mualim đã giáng chức và ra lệnh cho anh ám sát chín cá nhân để lấy lại vị trí và danh dự trước đó:
Khi Altaïr loại bỏ từng mục tiêu, anh phát hiện ra cả chín người đều là Hiệp sĩ dòng Đền có âm mưu lấy lại Quả táo, là di tích của một nền văn minh bị lãng quên từ lâu được cho là sở hữu sức mạnh giống như thần thánh. Bản thân Altaïr cũng đặt câu hỏi về bản chất mệnh lệnh của Al Mualim trong khi dần dần trở nên khiêm tốn và khôn ngoan hơn so với Malik. Trong nỗ lực ám sát Robert, Altaïr bị lừa bởi một Hiệp sĩ tên là Maria Thorpe. Maria tiết lộ rằng Robert đã đoán trước rằng Sát thủ sẽ truy đuổi anh ta và đi đàm phán về một liên minh giữa Thập tự chinh và Saracens để chống lại họ.
Tha mạng cho Maria, Altaïr đối mặt với Robert trong trại của Vua Richard I và vạch trần tội ác của hắn. Không biết nên tin ai, Richard đề nghị một cuộc đấu tay đôi để xác định sự thật, nhận xét rằng Chúa sẽ quyết định kẻ chiến thắng. Sau khi Altaïr hạ gục Robert, Robert đã nói rằng Al Mualim là kẻ chủ mưu cuối cùng, đã phản bội cả Sát thủ và Hiệp sĩ để chiếm lấy Quả táo. Altaïr quay trở lại Masyaf, nơi Al Mualim đã sử dụng Quả táo để mê hoặc người dân, như một phần trong kế hoạch chấm dứt cuộc Thập tự chinh và mọi xung đột trên thế giới bằng cách áp đặt trật tự bằng vũ lực. Với sự giúp đỡ của Malik và một số Sát thủ được cử đến để hỗ trợ, Altaïr xông vào tòa thành và đối mặt với Al Mualim trong khu vườn, chống lại sức mạnh của Quả táo và giết chết thủ lĩnh của mình. Sau đó, Altaïr cố gắng phá Quả táo nhưng thay vào đó lại mở ra một bản đồ hiển thị vị trí của vô số Mảnh ghép Địa đàng khác trên khắp thế giới.
Quay trở về hiện tại, nhóm Sát thủ tiến hành một cuộc tấn công bất thành vào cơ sở Abstergo để giải cứu Desmond. Sau khi hoàn thành ký ức của Altaïr, Vidic tiết lộ với Desmond rằng Abstergo là bình phong cho các Hiệp sĩ dòng Đền thời hiện đại, đang tìm kiếm những Mảnh ghép Địa đàng còn lại. Khi Desmond không còn hữu ích, cấp trên của Vidic ra lệnh giết anh ta, nhưng Lucy, thân phận thật là một Sát thủ trà trộn vào Abstergo, thuyết phục họ giữ anh ta sống để thử nghiệm thêm. Desmond bị bỏ lại một mình trong phòng, nơi anh phát hiện ra những bức vẽ kỳ lạ mô tả một sự kiện thảm khốc sắp xảy ra .
Lối chơi.
"Assassin's Creed" là một trò chơi điện tử hành động - phiêu lưu trong đó người chơi vào vai Altaïr Ibn-La'Ahad, được tái hiện thông qua nhân vật Desmond Miles. Mục đích của trò chơi là thực hiện các cuộc hành thích được giao bởi Al Mualim, lãnh đạo của hội Sát thủ. Để đạt được mục đích, người chơi phải đi từ trụ sở đầu não của Hội, băng qua một phần của vùng Đất Thánh được gọi là Kingdom ("Vương quốc"), tới một trong ba thành phố - Jerusalem, Acre hoặc Damascus - để tìm người của Hội tại đó. Người này sẽ cung cấp nơi ẩn náu và thông tin về mục tiêu, đồng thời yêu cầu người chơi thực hiện một số nhiệm vụ khác bao gồm nghe lén, tra hỏi, móc túi và một vài việc cho người cấp tin cũng như các bằng hữu sát thủ. Người chơi có thể tham gia vào các hoạt động ngoài lề khác trong môi trường thế giới mở này bao gồm trèo tháp cao để định vị thành phố, giải cứu người dân bị đe doạ hoặc quấy rối bởi quân lính. Có nhiều yêu cầu ngoài lề nhưng không ảnh hưởng đến cốt truyện, chẳng hạn như giết các thành viên của Hiệp sĩ dòng Đền hay thu thập những lá cờ. Sau khi hoàn thành mỗi vụ hành thích, người chơi sẽ quay trở lại trụ sở của Hội để nhận vũ khí tân tiến hơn và mục tiêu mới. Người chơi có thể tùy chọn thứ tự hành thích đối với một số mục tiêu. | 1 | null |
Hiến Ai Vương hậu (Hangul: 헌애왕후, Hanja: 獻哀王后; 964 – 20 tháng 1, 1029), hay Thiên Thu Vương thái hậu (천추왕태후, 千秋王太后), là một Vương hậu của nhà Cao Ly. Bà là vợ, đồng thời là chị/em họ của Cao Ly Cảnh Tông, mẹ ruột của Cao Ly Mục Tông. Bà cũng là cháu nội của người sáng lập nên nhà Cao Ly - Cao Ly Thái Tổ.
Lịch sử.
Thuở nhỏ.
Không rõ tên thật của bà. Bà là con gái của vương tử Vương Húc (왕욱), về sau được truy tôn là Cao Ly Đới Tông, và vợ đồng thời là em gái cùng cha khác mẹ với ông ta là Tuyên Nghĩa Vương hậu.
Anh ruột của bà là Cao Ly Thành Tông, quốc vương thứ sáu của Cao Ly, và em gái ruột của bà là Hiến Trinh Vương hậu. Do cha mẹ mất sớm nên ba anh em bà sống cùng với bà nội là Thần Tĩnh Vương thái hậu. Tuy mang dòng máu hoàng tộc của họ Vương nhưng bà và người em gái là Hiến Trinh Vương hậu (cũng là vợ thứ của Cảnh Tông, thông gian với Cao Ly An Tông sinh ra Cao Ly Hiển Tông) lại lấy họ Hoàng Phủ của bà nội, tức Thần Tĩnh Vương thái hậu Hoàng Phủ thị (신정왕태후 황보씨; 900 – 983), điều này khiến cho họ có thể kết hôn với những người anh họ cùng cha khác mẹ của mình trong hoàng tộc họ Vương của Cao Ly nhằm duy trì huyết thống hoàng gia.
Vương hậu của Cao Ly Cảnh Tông.
Năm 679, khi mới 15 tuổi, bà cùng em gái là Hiến Trinh Vương hậu (khi đó mới 13 tuổi) được gả cho vua Cao Ly Cảnh Tông (anh họ của bà). Không lâu sau đó, Hiến Ai Vương hậu có thai và người ta cho rằng Cao Ly Cảnh Tông đã rất vui mừng vì ông ta không có người thừa kế nào từ hai hoàng hậu trước đó (Hiến Túc Vương hậu và Hiến Ý Vương hậu): việc thiếu người thừa kế là một điều đáng lo ngại nên khi Hiến Ai Vương hậu mang thai, Cao Ly Cảnh Tông trở nên yêu thích Hiến Ai Vương hậu hơn.
Sang ngày 5 tháng 7 năm 680, bà sinh người con trai duy nhất của bà với vua Cao Ly Cảnh Tông là Vương Tụng, điều đó khiến cho Cao Ly Cảnh Tông càng vui mừng hơn. Năm 681, vua Cao Ly Cảnh Tông qua đời, người con trai duy nhất của ông ta là Vương Tụng khi đó chỉ mới 1 tuổi nên một tông thất khác là Vương Trị đã kế vị, tức là vua Cao Ly Thành Tông, anh ruột của bà.
Sùng Đức công chúa.
Vừa lên ngôi vua, vua Cao Ly Thành Tông đã phong cho bà thành Sùng Đức công chúa. Sau đó bà bị Cao Ly Thành Tông buộc phải rời khỏi hoàng cung Khai Thành và sống bên ngoài Khai Thành cùng con trai bà là Vương Tụng.
Cao Ly Thành Tông đã tiến hành cải cách tại Cao Ly và tạo lập vương quốc thành một chế độ quân chủ tập trung trên nền tảng Nho giáo vững chắc. Ông ta đã nhấn mạnh sự trong sạch và khiết tịnh đối với hai em gái của mình là Sùng Đức công chúa và Hiến Trinh Vương hậu.
Năm 990, Cao Ly Thành Tông phong cho con của bà là Vương Tụng (khi đó mới 10 tuổi) làm người kế vị của mình do ông ta không sinh được con trai. Vương Tụng được Cao Ly Thành Tông sai người đưa vào hoàng cung Khai Thành và nuôi dạy như con ruột của mình. Vợ thứ hai của Cao Ly Thành Tông là Văn Hòa Vương hậu Kim thị đã trực tiếp nuôi dạy Vương Tụng. Vương Tụng lớn lên cùng với Tuyên Chính Vương hậu như em trai với chị gái, Vương Tụng cũng được cho là thích đi theo Tuyên Chính Vương hậu vì bà ta đã chăm sóc ông ta từ khi còn nhỏ.
Lúc này, Sùng Đức công chúa gặp Kim Trí Dương (김치양, 金致陽, Kim Chi-yang), người đến từ gia tộc họ Kim ở Dongju và đã đi tu từ rất sớm. Thường xuyên gặp Kim Trí Dương, bà đến để thông cảm với ông ta, nhưng khi Cao Ly Thành Tông biết chuyện này của bà thì ra lệnh cấm bà và Kim Trí Dương gặp nhau. Tuy nhiên, bà vẫn bí mật gặp Kim Trí Dương, việc này khi lộ ra đã gây náo loạn trong cung, nhưng Cao Ly Thành Tông đã nhanh chóng kết thúc vụ bê bối này và trấn an người dân bằng cách tống Kim Trí Dương đi lưu đày.
Sau khi vua Cao Ly Thành Tông qua đời vào năm 997, con trai bà là Vương Tụng lên làm vua, tức là Cao Ly Mục Tông. Cao Ly Mục Tông được nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông) chấp thuận. Bà được Cao Ly Mục Tông phong làm thái hậu ngự tại Thiên Thu sảnh (천추전, 千秋殿), Thiên Thu cung (천추궁, 千秋宮), nên được gọi là Thiên Thu Vương thái hậu (천추태후, 千秋太后). Cao Ly Mục Tông lập Tuyên Chính Vương hậu thành vương hậu của mình. Dù vua Cao Ly Mục Tông đã trưởng thành nhưng ông ta đã chọn bà làm nhiếp chính cho ông ta.
Thiên Thu Vương thái hậu.
Cao Ly sử viết rằng:
Ngoài ra, còn có tin đồn rằng Cao Ly Mục Tông và Tuyên Chính Vương hậu đều thích thú với việc kê gian nên có vẻ như đây không phải là một cuộc hôn nhân tốt đẹp giữa hai vợ chồng và họ không có con. Thậm chí, Tuyên Chính Vương hậu có thể khiến ông ta lên ngôi do ảnh hưởng của gia tộc và có ảnh hưởng đáng kể về chính trị trong bối cảnh được Cao Ly Mục Tông sủng ái, cuộc sống cá nhân của bà ta cũng không mấy hạnh phúc. Cao Ly Mục Tông sau đó sủng ái một cung nữ trong hoàng cung họ Kim và tôn bà ta lên thành Yêu Thạch Trạch cung nhân (요석택궁인, 邀石宅宮人).
Trong khi Han In-gyeong và những người khác đã lãnh đạo một cuộc đảo chính để đánh đuổi Cao Ly Mục Tông và đưa Vương Tuân lên ngôi vua Cao Ly, Cao Ly Mục Tông đã biết được điều này và trừng phạt các thành viên của gia tộc Kim, nhưng sự chống đối lại Cao Ly Mục Tông ngày càng nhiều hơn.
Với tư cách là Thái hậu và nhiếp chính, Thiên Thu Vương thái hậu đã triệu nhân tình Kim Trí Dương từ nơi lưu đày vào hoàng cung Khai Thành và bổ nhiệm ông ta làm quan chức triều đình. Dưới sự bảo trợ của bà, Kim Trí Dương được thăng chức nhiều lần cho đến khi đạt được vị trí phụ trách cả về tài chính và nhân sự, mang lại quyền lực to lớn. Ngoài ra, Kim Trí Dương còn thực hiện chính sách ưu tiên Seogyeong, quê hương của Thiên Thu Vương thái hậu, xây dựng các ống dẫn và các đền thờ ở nhiều nơi, chẳng hạn như Tinh Túc tự (성수사, 星宿寺) ở Dongju, nơi sinh của Kim Trí Dương.
Tuy là Thái hậu và đang làm nhiếp chính cho vua Cao Ly Mục Tông, bà lại có nhân tình là Kim Trí Dương (金致陽). Hai người tư thông với nhau và có một người con trai vào năm 1003. Kim Trí Dương sau đó đã âm mưu đưa con trai của mình lên ngai vàng để kế vị Cao Ly Mục Tông, người đang không có con trai để kế vị sau này. Thấy Cao Ly Mục Tông không chịu nghe theo sự chỉ bảo của mình, Thiên Thu Vương thái hậu đã thống nhất với Kim Trí Dương rằng bà sẽ đưa con trai của hai người lên kế vị ngôi vua thay cho Cao Ly Mục Tông. Tuy nhiên, vì muốn bảo vệ ngôi vua cho anh họ mình, Vương Tuân đã đe dọa kế hoạch này của hai người. Vì lý do này, Thiên Thu Vương thái hậu và Kim Trí Dương đã nhiều lần cố gắng giết cháu trai của mình, Vương Tuân, vì ông ta là vật cản cho việc con trai nhỏ của họ lên ngôi, nhưng lần nào họ cũng thất bại.
Mặc dù sự ra đời của Vương Tuân không bình thường (kết quả của sự gian díu giữa Vương Uất và Hiến Trinh Vương hậu), nhưng cha của Vương Tuân cũng là con trai của người sáng lập Cao Ly, vì vậy Vương Tuân đã có thể sống dưới sự bảo vệ cao độ của Cao Ly Thành Tông khi nhà vua vẫn còn sống. Tuy nhiên, mạng sống của Vương Tuân bị đe dọa khi Cao Ly Thành Tông băng hà vì bạo bệnh. Ngay cả khi Cao Ly Mục Tông đã trưởng thành, Thiên Thu Vương thái hậu vẫn đóng vai trò nhiếp chính cho ông ta và cùng với Kim Trí Dương nắm giữ quyền lực lớn nhất trong triều đình. Trong khi đó, người ta tin rằng Thiên Thu Vương thái hậu đã ép Vương Tuân rời khỏi hoàng cung Khai Thành bằng cách ép ông ta đi tu và cố gắng giết Vương Tuân bằng cách cử người nhiều lần truy lùng ông ta. May mắn là trụ trì của ngôi chùa mà Vương Tuân tu tập đã thành công trong việc ngăn chặn những nỗ lực ám sát đó. Thời gian đó Thành Mục Trưởng công chúa (성목장공주, 成穆長公主) thường xuyên cùng Vương Tuân (em cùng cha khác mẹ với bà ta) đi chùa Hyeonhwa (현화사) để cầu nguyện cho cha mẹ của bà ta.
Đầu năm 1009, Kim Trí Dương lộng quyền, phái người đi đốt phá cung điện Manwoldae, âm mưu giết vua Cao Ly Mục Tông để đưa con trai của hắn lên ngôi. Kim Trí Dương dẫn đại quân bao vây kinh thành Khai Thành và buộc Thiên Thu Vương thái hậu phải truất ngôi vua của Cao Ly Mục Tông. Khi biết Kim Trí Dương có ý tiêu diệt luôn mình, Thiên Thu Vương thái hậu đích thân lên tường thành Khai Thành chỉ huy quân đội hoàng cung Cao Ly chống đỡ các đợt công thành của phản quân do Kim Trí Dương chỉ huy.
Trước hỗn loạn này, Mục Tông hoảng sợ cho đòi tướng Khang Triệu (康兆) về cung cứu giá. Người đưa thư giúp Mục Tông cho Khang Triệu đã đi ra khỏi Khai Thành thông qua cổng thành phía tây, nơi các tướng của Kim Trí Dương đang bao vây nhưng họ vẫn còn lòng trung thành với Cao Ly Mục Tông. Tuy nhiên trước sự áp đảo về quân số giữa Kim Trí Dương và quân đội hoàng cung Cao Ly, Thiên Thu Vương thái hậu và Cao Ly Mục Tông phải dẫn toàn bộ tướng sĩ, văn võ bá quan, Tuyên Chính Vương hậu Lưu thị, Yêu Thạch Trạch cung nhân Kim thị, người hầu rời bỏ Khai Thành, chạy về phía bắc. Kim Trí Dương đánh chiếm Khai Thành.
Sau khi nhận được thư, ngay lập tức, "Đô tuần kiểm sứ" Khang Triệu đã nhanh chóng dẫn đại quân Cao Ly từ Seobukmyeon - đông bắc tiến về Khai Thành. "Đô tuần kiểm phó sứ" Lý Huyễn Vân (이현운, 李鉉雲) đi theo tháp tùng Khang Triệu. Bị các tướng còn trung thành với Cao Ly Mục Tông phản lại và bị quân đội của Khang Triệu tấn công. Đại quân của Kim Trí Dương bị đánh cho tan tác sau 3 ngày chiếm giữ Khai Thành. Khang Triệu đã giết Kim Trí Dương và đứa con 6 tuổi của hắn cùng những người ủng hộ hắn. Sau đó Thiên Thu Vương thái hậu cùng Cao Ly Mục Tông và các tướng sĩ, văn võ bá quan, Tuyên Chính Vương hậu Lưu thị, Yêu Thạch Trạch cung nhân Kim thị, người hầu mới trở về Khai Thành. Khang Triệu thăng chức cho thuộc cấp của mình là Lý Huyễn Vân lên làm Lại Bộ thị lang (이부시랑; 吏部侍郞; yibu shirang).
Ngay lúc này, Yêu Thạch Trạch cung nhân Kim thị của Cao Ly Mục Tông lại vướng vào vụ tư thông với Kim Long Đại (김융대, Kim Yung-dae). Vụ việc được sử sách ghi lại.
Không ngờ, một số quan chứa học giả, kẻ thù trong triều của Khang Triệu đã phao tin rằng ông ta đang chuẩn bị âm mưu chiếm ngai vàng. Việc này nhanh chóng đến tai vua Cao Ly Mục Tông, và ông ta chuẩn bị cho người giết Khang Triệu. Nhưng Khang Triệu nhanh hơn, đã cùng "Lại Bộ thị lang" Lý Huyễn Vân dẫn quân đánh vào hoàng cung Khai Thành, giết sạch toàn bộ kẻ thù của ông ta. Sau đó Khang Triệu tiến hành đảo chính truất ngôi vua của Cao Ly Mục Tông. Kết quả là Thiên Thu Vương thái hậu cũng bị lật đổ hoàn toàn khỏi chính trường Cao Ly.
Bị lưu đày, quay về Hoàng Châu và 2 lần tham gia kháng chiến chống quân Liêu xâm lược.
Bị lưu đày và quay về Hoàng Châu.
Sau cuộc đảo chính, Khang Triệu đã sáp nhập Trung Xu Viện (중추원; 中樞院; chungch'uwon), Ngân Đài (은대; 銀臺; Ŭndae), và Tuyên Huy Viện (선휘원; 宣徽院; sŏnhwiwŏn) vào Trung Đài Sảnh (中臺省; chungdaesŏng) mới được thành lập. Khang Triệu làm người đứng đầu Trung Đài Sảnh, và Lý Huyễn Vân, với tư cách là cấp phó, được bổ nhiệm làm phó trưởng ban.
Khang Triệu cho lưu đày Cao Ly Mục Tông, Tuyên Chính Vương hậu và Thiên Thu Vương thái hậu đến Chungju, phía nam của Cao Ly. Sau vụ tư thông với Kim Long Đại (김융대, Kim Yung-dae) và việc Cao Ly Mục Tông bị lưu đày, Yêu Thạch Trạch cung nhân Kim thị cũng không còn được ghi chép nữa. Tuy nhiên vào ngày 2 tháng 3 năm 1009, Cao Ly Mục Tông bị cấp dưới của mình (đã được Khang Triệu hạ lệnh từ trước) ám sát ở Jeokseong-myeon, Paju-si trên đường đến Chungju, nơi sẽ giam giữ Cao Ly Mục Tông, Tuyên Chính Vương hậu và Thiên Thu Vương thái hậu. Sau đó, cuộc đời của Tuyên Chính Vương hậu Lưu thị (vợ của Cao Ly Mục Tông) không được ghi lại trong sử sách nữa, nhưng người ta cho rằng bà ta đã bị giết cùng với Cao Ly Mục Tông. Sau khi chết, Tuyên Chính Vương hậu Lưu thị được thờ trong đền thờ của Cao Ly Mục Tông và hai vợ chồng Cao Ly Mục Tông - Tuyên Chính Vương hậu được chôn cất trong Nghĩa lăng (의릉, 義陵), cùng với thụy hiệu Tuyên Chính được đặt cho bà ta.
Lúc này Khang Triệu cùng với các đồng minh của mình là Thôi Hàng (최항, 崔沆, Choe Hang), Chae Chung-sun đã đưa một tông thất là Vương Tuân (王詢, 왕순) lên ngôi, tức Cao Ly Hiển Tông. Khang Triệu đã thành lập nên chế độ cai trị Cao Ly bằng quân sự. Ngay sau đó, Thiên Thu Vương thái hậu được trả tự do khỏi Chungju và bà đến sống ở Hoàng Châu.
Cuộc xâm lược của nhà Liêu những năm 1010 - 1011.
Mùa thu năm 1010, tận dụng thời cơ triều đình Cao Ly đang có tranh giành quyền lực khi Khang Triệu ("Gang Jo") vừa giết vua Cao Ly Mục Tông, quân Khiết Đan nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông) một lần nữa lại tấn công Cao Ly với lý do báo thù cho Cao Ly Mục Tông.
Quân Liêu do đích thân Liêu Thánh Tông chỉ huy tấn công lần đầu nhưng không chiếm được thành Hưng Hóa (Hueng hwa), nơi hai tướng Dương Quy (Yang Kyu) và Ha Kongchin cùng 3.000 quân Cao Ly trấn giữ. Sau 7 ngày chiến đấu mà không hạ nổi thành, Liêu Thánh Tông chia quân bao vây Hưng Hóa rồi đích thân dẫn đại quân Liêu với hơn 300.000 quân nam hạ. Dương Quy phái Ha Kongchin về kinh đô Khai Thành báo tin quân Liêu nam hạ. Khi đó Dương Quy chỉ còn 700 quân Cao Ly giữ thành Hưng Hóa.
Quân Liêu đến Dongju (nay là Sonchon, Triều Tiên) giao tranh với Khang Triệu (Gang Jo), "Hành dinh đô thống phó sứ" Lý Huyễn Vân (Yi Hyon-un) và "Binh bộ thị lang" Trương Diên Hựu (Jang Yeonu) cùng 300.000 quân Cao Ly. Khang Triệu cùng Lý Huyễn Vân đại thắng quân Liêu 3 trận đánh lớn nhưng sau đó vì khinh địch mà bị quân Liêu đánh bại. 30.000 quân Cao Ly bị tiêu diệt bên ngoài thành Dongju, hàng trăm ngàn quân Cao Ly bỏ chạy tán loạn. Khang Triệu và Lý Huyễn Vân cùng một thuộc tướng tên là Lô Tiễn (노전, 盧戩) bị quân Liêu bắt sống. Trương Diên Hựu (Jang Yeonu) thì dẫn tàn quân Cao Ly của mình chạy về kinh đô Khai Thành thay vì rút về thành Dongju. Thành Dongju còn khoảng vài ngàn lính Cao Ly nhưng vẫn kiên cường phòng thủ trước các cuộc tấn công của quân Liêu.
Khang Triệu và Lý Huyễn Vân bị giải đến trước mặt Liêu Thánh Tông. Liêu Thánh Tông yêu cầu cả hai người phục vụ cho nhà Liêu. Lý Huyễn Vân nhận lời quy hàng nhà Liêu và nói với Liêu Thánh Tông rằng: "Bây giờ thuộc hạ đã tận mắt nhìn thấy mặt trời mới sáng ngời, làm sao còn kiên trì nghĩ đến suối núi xưa?". Còn Khang Triệu đã từ chối đầu hàng vua Liêu Thánh Tông nhưng Liêu Thánh Tông không vội giết ông ta, chỉ giam cầm ông ta lại. Liêu Thánh Tông sau đó cử Lô Tiễn (노전, 盧戩), một tướng Cao Ly bị bắt cùng Khang Triệu, cùng với sắc lệnh giả mạo của Khang Triệu yêu cầu Dương Quy ở thành Hưng Hóa hãy dâng thành quy hàng quân Liêu. Dương Quy từ chối và ông ta nói rằng ông ta chỉ nhận lệnh từ nhà vua Cao Ly chứ không phải từ Khang Triệu. Liêu Thánh Tông sai người đi lan truyền việc Khang Triệu đã bị bắt sống để làm giảm nhuệ khí của thành Dongju và thành Hưng Hóa. Tuy nhiên Dương Quy ở thành Hưng Hóa và vài ngàn quân Cao Ly ở thành Dongju vẫn từ chối đầu hàng quân Liêu.
Liêu Thánh Tông sau đó bỏ qua thành Dongju (khi đó chỉ còn 1.000 quân Cao Ly giữ thành) mà tiến về phía nam, lần lượt đánh chiếm Quách Châu (Gwakju, nay là Chongju, Triều Tiên), Anbukbu, An Nhung (Anyung), Mingju, Sukju và Jaju, sau đó tiến đến thành Seoyeong (nay là Bình Nhưỡng, Triều Tiên). Do bị tướng Tak Sachong phản bội không chi viện, Đại Đạo Tú (khi đó đã hơn 70 tuổi, con trai của thái tử Đại Quang Hiển, hậu duệ dời thứ 11 của Đại Dã Bột - đệ của Bột Hải Cao Vương) bị quân Liêu bắt sống, thành Seoyeong cũng bị quân Liêu công hạ. Tak Sachong dẫn đội quân Cao Ly của hắn chạy về kinh đô Khai Thành báo tin.
Quân Liêu nhanh chóng nam hạ tiến đánh đến Hoàng Châu - nơi Thiên Thu Vương thái hậu đang sinh sống. Thiên Thu Vương thái hậu đã lãnh đạo dân quân tại Hoàng Châu đứng lên chống trả lại quân Liêu rất ác liệt. Quân Cao Ly từ Haeju cũng đến Hoàng Châu chi viện cho Thiên Thu Vương thái hậu chống Liêu, nhưng do lực lượng mỏng hơn nên Thiên Thu Vương thái hậu phải rút lui khỏi Hoàng Châu. Quân Liêu chiếm đóng Hoàng Châu rồi tiếp tục nam hạ đánh chiếm Tongju. Sau đó quân Liêu đánh chiếm Pyongju - cửa ngõ của kinh đô Khai Thành.
Tướng Cao Ly là Dương Quy dẫn 700 quân Cao Ly từ thành Hưng Hóa và tập hợp lại với 1.000 tàn quân Cao Ly của Khang Triệu tại thành Dongju. Với đội quân tổng hợp 1.700 người, Dương Quy đã tiến về phía nam đánh bại 6.000 quân Liêu đang đóng tại thành Quách Châu (곽주, 郭州, Gwakju, nay là Chongju, Triều Tiên). Dương Quy đã tái chiếm lại Quách Châu, cắt đứt con đường rút lui của quân Liêu. Dương Quy còn cứu thoát 7.000 tù binh Cao Ly đang bị giam trong thành Quách Châu và di dời họ đến thành Dongju ở phía tây bắc.
Quân Liêu tiếp tục nam hạ, rồi chiếm đóng và đốt cháy kinh đô Khai Thành (Kaesong) của Cao Ly, trong đó Naseong do Lý Tử Lâm xây nên cũng bị quân Liêu phá hủy. Khương Hàm Tán (Gang Gam-han) đã thúc giục vua Cao Ly Hiển Tông trốn khỏi cung điện Khai Thành (Kaesong), không đầu hàng quân Liêu xâm lược. Cao Ly Hiển Tông làm theo lời khuyên của Khương Hàm Tán và trốn thoát khỏi kinh đô đang bốc cháy. Liêu Thánh Tông dẫn đại quân Liêu liên tục đuổi theo nhằm bắt giữ Cao Ly Hiển Tông. Cao Ly Hiển Tông, Khương Hàm Tán, Trương Diên Hựu, Tak Sachong và Ha Kongchin cùng triều đình Cao Ly phải tản ra đi theo nhiều hướng khác nhau. Trong đó Cao Ly Hiển Tông, Nguyên Trinh Vương hậu Kim thị, Nguyên Hòa Vương hậu Thôi thị đi cùng với Khương Hàm Tán, Trương Diên Hựu.
Quân Liêu do Liêu Thánh Tông chỉ huy tiếp tục truy đuổi xuống tận phía nam và bắt được nhiều nhóm quan lại, tướng sĩ, cung nữ Cao Ly. Thiên Thu Vương thái hậu dẫn quân đội Cao Ly của mình chặn đánh quân Liêu và cứu được nhiều nhóm quan lại, tướng sĩ, cung nữ Cao Ly khỏi tay người Liêu. Sau đó quân Liêu bắt kịp toán quân của Cao Ly Hiển Tông, Khương Hàm Tán và Trương Diên Hựu tại Chungju. May mắn là Thiên Thu Vương thái hậu đã xuất hiện và cứu được Cao Ly Hiển Tông khỏi sự tấn công của người Liêu. Cao Ly Hiển Tông cùng Thiên Thu Vương thái hậu, Nguyên Trinh Vương hậu Kim thị, Nguyên Hòa Vương hậu Thôi thị, Khương Hàm Tán và Trương Diên Hựu di chuyển sâu về phía nam đến tận thành Naju.
Sau nhiều lần từ chối đầu hàng vua Liêu Thánh Tông, cuối cùng Khang Triệu đã bị vua Liêu hạ lệnh chém đầu tại Khai Thành vào ngày 24 tháng 11 âm lịch năm 1010 (tức là ngày 31 tháng 12 dương lịch năm 1010).
Đầu tháng 2 năm 1011, Liêu Thánh Tông lên kế hoạch rút lui khỏi Cao Ly và muốn mang theo những tù Cao Ly giải về nhà Liêu cùng với họ. Dương Quy ở thành Hưng Hóa biết được việc đó thì ra sức tấn công quân Liêu để giải thoát những tù binh Cao Ly đó. Tại Mô Lão Đại (무로대, 無老代, Murodae), quân Cao Ly của Dương Quy đã đánh bại 2.000 quân Liêu và cứu thoát 2.000 tù binh Cao Ly. Sau đó quân Cao Ly của Dương Quy đến Thạch Lãnh (석령, 石嶺, Sŏngnyŏng) và đánh bại 2.500 quân Liêu, rồi cứu thoát được 1.000 tù binh Cao Ly. Tại Dư Lý Trạm (여리참, 余里站, Yŏrich'am), quân Cao Ly của Dương Quy đã giết 1.000 quân Liêu và cứu thoát thêm 1.000 tù binh Cao Ly. Nghe tin con đường rút lui đã bị quân đội Cao Ly của Dương Quy cắt đứt, Liêu Thánh Tông rút quân từ phương nam về Khai Thành.
Cao Ly Hiển Tông hứa sẽ tái khẳng định mối quan hệ triều cống với nhà Liêu với điều kiện quân Liêu phải rút lui. Một cuộc nổi dậy của nhân dân Cao Ly (trong đó có Thiên Thu Vương thái hậu tham gia) đã bắt đầu quấy rối lực lượng quân Liêu của vua Liêu Thánh Tông, Hàn Đức Nhượng, Tiêu Bài Áp và Gia Luật Bồn Nô. Không thể thiết lập được chỗ đứng và tránh các cuộc phản công của quân Cao Ly đã tập hợp lại, quân Liêu của vua Liêu Thánh Tông, Hàn Đức Nhượng, Tiêu Bài Áp và Gia Luật Bồn Nô đã rút lui trong tháng 2 năm 1011 khi không giành được lợi lộc gì to lớn, mặc khác cuộc xâm lược Cao Ly lần này đã khiến cho nhà Liêu lãng phí nguồn tài nguyên quý giá và làm giảm ngân khố quốc gia.
Quân Liêu sau đó lại bị quân dân Cao Ly do Dương Quy và Kim Thúc Hưng chỉ huy tập kích hai lần trước khi về đến biên giới nhà Liêu. Hầu hết các tù binh Cao Ly đều được Dương Quy và Kim Thúc Hưng giải cứu khỏi tay quân Liêu. Ở lần tập kích đầu tiên, họ suýt giết được Liêu Thánh Tông. Tuy nhiên, ở lần tập kích thứ hai, Dương Quy và Kim Thúc Hưng đều tử trận.
Sau cuộc chiến, Cao Ly Hiển Tông, Nguyên Trinh Vương hậu Kim thị, Nguyên Hòa Vương hậu Thôi thị, Khương Hàm Tán, Trương Diên Hựu, Tak Sachong và Ha Kongchin cùng triều đình Cao Ly từ Naju quay về kinh đô Khai Thành. Còn Thiên Thu Vương thái hậu thì quay về Hoàng Châu tiếp tục sinh sống.
Cuộc xâm lược của nhà Liêu những năm 1018 - 1019.
Vào tháng 12 năm 1018, 100.000 quân Liêu dưới sự chỉ huy của tướng quân Tiêu Bài Áp đã xâm lược Cao Ly lần nữa. Khương Hàm Tán (Gang Gam-chan) và Kang Minchom chỉ huy quân Cao Ly đánh bại quân Liêu của Tiêu Bài Áp tại Hưng Hóa trấn (Heunghwajin).
Trong khi đó, cuối năm 1018, Cao Ly Hiển Tông ra lệnh biên soạn Bát vạn đại tạng kinh, gồm 6.000 quyển. Đây là bản khắc quan trọng và đầy đủ nhất về học thuyết Phật giáo trên thế giới và nó còn có giá trị về mặt thẩm mỹ chứng tỏ một trình độ tay nghề cao. Việc khắc này nhằm mục đích cầu mong Đức Phật phù hộ cho Cao Ly thoát nạn xâm lược.
Quân Liêu của Tiêu Bài Áp vượt qua Seoyeong, tiến đến Hoàng Châu thì bị dân quân Cao Ly do Thiên Thu Vương thái hậu chỉ huy liên tục tập kích, quấy phá suốt ngày đêm. Nhờ quân số vượt trội nên quân Liêu của Tiêu Bài Áp vẫn chiếm được Hoàng Châu. Thiên Thu Vương thái hậu chỉ huy dân quân Cao Ly rút về phía nam. Quân Liêu nam hạ chiếm Tongju rồi tiến tới kinh đô Khai Thành (Kaesong) của Cao Ly nhưng bị đánh bại bởi lực lượng Cao Ly do tướng Khương Hàm Tán chỉ huy.
Khương Hàm Tán và Kang Minchom sau đó đã cắt đứt nguồn cung cấp lương thực cho quân Liêu và cho quân tiến hành quấy rối họ không ngừng. Quân Liêu của Tiêu Bài Áp tiếp tục tiến về kinh đô Khai Thành nhưng gặp phải sự kháng cự gay gắt và các cuộc tấn công liên tục từ quân dân Cao Ly do Thiên Thu Vương thái hậu chỉ huy. Kiệt sức, tướng Liêu là Tiêu Bài Áp nhận ra rằng nhiệm vụ không thể hoàn thành nên quyết định rút lui về phía bắc. Kết cục hơn 90.000 quân Liêu của Tiêu Bài Áp của Tiêu Bài Áp đã bị Khương Hàm Tán và Kang Minchom đánh tan tác ở Quy Châu (Gwiju). Quân đội Cao Ly (chỉ với khoảng 12.000 quân) của Khương Hàm Tán và Kang Minchom tiêu diệt gần hết 90.000 quân Liêu trong trận Quy Châu này. Nhiều người khác bị quân Cao Ly bắt sau khi đầu hàng dọc theo bờ sông. Chỉ có tướng Tiêu Bài Áp và vài ngàn quân Liêu còn lại may mán sống sót và thoát khỏi thất bại nặng nề ở Quy Châu. Sau đó Tiêu Bài Áp dẫn vài ngàn quân Liêu này chạy về lãnh thổ nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông). Cùng với trận Tát Thủy (Salsu) năm 612 của Ất Chi Văn Đức (Eulji Meundeok) và trận Nhàn Sơn đảo (Hansando) năm 1592 của Lý Thuấn Thần (Yi Sunshin), trận Quy Châu (Gwiju) năm 1019 này của Khương Hàm Tán (Gang Gamchan) đã trở thành ba trận thắng vĩ đại nhất trong lịch sử bán đảo Triều Tiên.
Khương Hàm Tán trở về kinh đô Khai Thành (Kaesong) và được chào đón như một anh hùng quân sự đã cứu Cao Ly. Thiên Thu Vương thái hậu thì quay về Hoàng Châu. Sau chiến tranh, vào năm 1020, Khương Hàm Tán (73 tuổi) đã từ giã quân đội và triều đình để nghỉ ngơi vì ông ta đã quá già và đã trở thành anh hùng dân tộc.
Được Cao Ly Hiển Tông gọi về lại triều đình.
Đầu năm 1029, nhờ công lao trong các cuộc chiến chống quân Liêu xâm lược, Thiên Thu Vương thái hậu được vua Cao Ly Hiển Tông cho quay về triều đình Khai Thành (Kaesong). Bà qua đời tại Sùng Đức cung (숭덕궁, 崇德宮) của Khai Thành vào ngày 20 tháng 1 năm 1029, thọ 65 tuổi. Trong khi đó, có giả thuyết cho rằng bà đã không quay trở lại Khai Thành mà chết tại Minh Phúc cung (Myeongbok cung) ở Hoàng Châu.
Bà được Cao Ly Hiển Tông ban thụy là Ưng Thiên Khải Thánh Tĩnh Đức Hiến Ai Vương thái hậu (Hangul: 應天啟聖靜德獻哀王太后; Hanja: 응천계성정덕헌애왕태후). Sau đó bà được chôn cất tại lăng mộ U Lăng (유릉, 幽陵, Yureung). | 1 | null |
Balto hay Balto - A dog's journey là một phim hoạt hình/live-action (phim do người đóng) của đạo diễn Simon Wells (từng làm bộ phim Hoàng tử Ai Cập), do hãng Amblin Entertainment sản xuất năm 1995, phát hành bởi Walt Disney Pictures. Bộ phim thuộc thể loại lịch sử, phiêu lưu, dựa trên câu chuyện có thật về chú chó Balto đã dẫn đầu một đoàn chó kéo xe, mang kháng sinh về cứu trẻ em bị dịch bạch hầu ở thị trấn Nome, Alaska vào năm 1925. "Balto" là phim hoạt hình cuối cùng được sản xuất bởi hãng hoạt hình Amblimation của Steven Spielberg. Hai phần tiếp theo của bộ phim được phát hành dưới dạng video là "Balto II: Wolf Quest" (2002) và "Balto III: Wings of Change" (2004). Ở Việt Nam, phim từng được lưu hành dưới dạng băng đĩa với tên ""Chú chó Balto"."
Tóm tắt nội dung.
Mở đầu phim là cảnh một bà cụ dẫn cháu gái đi dạo quanh công viên Trung tâm ở New York để tìm bức tượng chú chó Balto. Khi hai bà cháu ngồi nghỉ ở ghế đá, bà cụ đã kể cho đứa cháu nghe câu chuyện tuổi thơ của mình. Bối cảnh chuyển từ live-action sang hoạt hình từ đây.
Năm 1925, thị trấn Nome thuộc bang Alaska, Mỹ là một nơi xa xôi hẻo lánh, quanh năm chìm trong băng tuyết. Bấy giờ, phương tiện nhanh nhất và đáng tin cậy nhất của người dân là những xe trượt tuyết do chó kéo. Ở thị trấn Nome, có một chú chó lai sói lang thang tên Balto. Cậu bị cả chó lẫn con người kì thị xa lánh, sống cô đơn cùng ngỗng già Boris và hai con gấu bắc cực Muk & Luk. Ngỗng già Boris gần như là một người cha đối với Balto, ông luôn khuyên nhủ cậu tránh xa khỏi những rắc rối nhưng bản tính bướng bỉnh của Balto ít khi chịu nghe theo lời khuyên ấy. Trong cuộc đua chó hằng năm của thị trấn, Balto đã liều mạng chạy ra đường đua, lấy lại chiếc mũ cho Rosy - chủ của Jenna, cô chó Husky mà Balto thầm yêu. Rosy muốn cảm ơn Balto nhưng bị cha mình ngăn cản vì sợ con chó lai sói có thể cắn cô bé. Mặc cảm và tủi thân, Balto còn bị sỉ nhục bởi Steele - con chó Husky kéo xe nổi tiếng của thị trấn, và đàn em của hắn.
Không lâu sau, dịch bệnh bạch hầu ập đến thị trấn Nome, nhiều đứa trẻ rơi vào cảnh thập tử nhất sinh, trong đó có cô bé Rosy. Bác sĩ đã hết thuốc kháng sinh đặc trị (antitoxin) do bệnh nhân quá đông, bão tuyết lại đang hoành hành, khiến mọi đường vận chuyển thuốc như đường hàng không, đường biển, đường xe lửa, đều bị vô hiệu hóa. Văn phòng thống đốc ở Juneau đánh điện tín cho Nome, thông báo rằng sẽ gửi thuốc đến thị trấn Nenana bằng xe lửa. Nome phải dùng chó kéo xe để mang thuốc về. Thị trấn Nome quyết định tổ chức cuộc đua tìm kiếm những con chó kéo xe giỏi nhất, thành lập một đội chó chở thuốc kháng sinh về từ Nenana, cách Nome 600 dặm. Đội chó của Steele chiến thắng và được chọn nhưng khi lấy thuốc trở về, đội chó bị lạc. Thấy thị trấn Nome dần mất hi vọng cứu sống bọn trẻ bị bệnh, Balto quyết định lên đường tìm lại đội chó chở kháng sinh. Ngỗng Boris cùng hai chú gấu bắc cực Muk và Luk đi theo giúp đỡ Balto. Giữa chặng đường, cả nhóm bị gấu tấn công, Jenna (vẫn âm thầm đi theo Balto từ lúc rời thị trấn) đã xông ra cứu Balto kịp thời nhưng sau đó bị thương nặng. Balto nhờ Boris, Muk và Luk đưa Jenna trở về Nome chữa trị, bản thân cậu sẽ đi tiếp một mình. Jenna tặng Balto khăn quàng cổ của cô, hi vọng nó sẽ làm cậu cảm thấy ấm áp hơn. Trước khi chia tay, ngỗng Boris nói với Balto: "Một con chó không thể hoàn thành chuyến đi này một mình, nhưng... một con sói thì có thể." (A dog can not make this journey alone, but... maybe a wolf can)
Trên đường đi, Balto dùng móng cào vỏ cây để đánh dấu đường về. Cuối cùng, cậu tìm thấy đội chó chở kháng sinh dưới một thác nước đóng băng. Cậu cố gắng thuyết phục Steele để cậu đem thuốc về trước nhưng hắn từ chối và đánh Balto rất dã man. Trong lúc hai con chó giằng co, Steele cắn khăn quàng trên cổ Balto làm chiếc khăn tuột ra. Steel mất đà ngã xuống vực nhưng không chết. Những con chó kéo xe còn lại đồng loạt nhường cho Balto làm đội trưởng, dẫn tất cả quay về Nome. Steele phá rối họ bằng cách đánh dấu đường sai vị trí, khiến đội kéo xe lạc đến bờ vực, Balto và thùng thuốc bị ngã xuống vực sâu. Kiệt sức và đau đớn, Balto bắt đầu mất hi vọng đem kháng sinh quay về, cậu nằm khóc dưới đáy vực. Bỗng một con sói trắng (linh hồn của mẹ Balto) đã hiện ra, hú lên những tràng dài để nhắc nhở cậu về dòng máu sói mạnh mẽ bên trong mình. Nhờ thế, Balto gượng dậy, kéo được thùng thuốc lên khỏi vực và tiếp tục chỉ huy đội chó trở về Nome. Để tránh bị lạc đường lần nữa, Balto đã sử dụng khả năng đánh hơi, đưa cả đội đi đúng hướng.
Trong khi đó, Steele trở về Nome trước nhờ dấu chỉ đường của Balto, bịa chuyện với những con chó khác và Jenna rằng Balto và cả đội chó kéo xe đã chết. Jenna quyết không tin, cô biết chắc Balto còn sống nên đã đem một ngọn đèn bão lên đỉnh đồi tuyết, làm tín hiệu soi đường cho cậu quay lại. Thời gian trôi qua, đúng lúc thị trấn và ba người bạn thân của Balto gần như tuyệt vọng, Balto đã dẫn đầu đội chó kéo xe mang thuốc về thành công. Steele bị phát hiện là kẻ dối trá, hèn nhát và bị tất cả đồng loại xa lánh. Sau khi được tiêm kháng sinh kịp thời, Rosy cùng những trẻ em ở Nome khỏi bệnh bạch hầu, Jenna và Balto đoàn tụ với nhau. Balto từ một chú chó lang thang, nay đã trở thành anh hùng của mọi người.
Kết thúc câu chuyện, phim lại chuyển từ hoạt hình về phim do người đóng. Bà già kể câu chuyện chính là cô bé Rosy năm xưa. Khi tìm thấy bức tượng Balto trong công viên Trung tâm, hai bà cháu cùng tưởng niệm chú chó anh hùng và chặng đường dài mà đội chó đã vượt qua, nhờ lòng dũng cảm, sự trung thực và trí thông minh. Trước khi ra về, bà đã nói với bức tượng: "Cảm ơn Balto. Ta đã không thể sống sót nếu không có ngươi." (Thank you, Balto. I would have been lost without you.)
Nhân vật.
Balto
Boris
Muk và Luk
Jenna
Rosy
Steele
Nhạc phim.
Toàn bộ nhạc nền trong "Balto" đều do James Horner sáng tác.
Lời và lời dịch bài hát "Reach for the light".
"Lời bài hát:"
Deep in the night
The winds blow cold
And in a heartbeat
The fear takes hold
Deep in the storm
There's a place that's soft and still
Where the road waits to be taken
If you only will
The voices inside you
Can lead your soul astray
Believe in what you dream
Don't turn away
Don't you turn away
Reach for the light
You might touch the sky
Stand on the mountaintop
And see yourself flying
Reach for the light
To capture a star
Come out of the darkness
And find out who you are
Somewhere in time
The truth shines through
And the spirit knows
What it has to do
Somewhere in you
There's a power with no name
It can rise to meet the moment
And burn like a flame
And you can be stronger
Than anything you know
Hold on to what you see
Don't let it go
Don't you let it go
Now, there's no turning back
When your destiny is calling
Listen to the thunder roll
And let your heart break free
Reach for the light
You might touch the sky
Stand on the mountaintop
And see yourself flying
Reach for the light
To capture a star
Come out of the darkness
And find out who you are
Reach for the light.
"Lời dịch:"
Sâu thẳm trong đêm,
Gió lạnh cuộn thổi,
Và trong nhịp đập trái tim
Nỗi sợ hãi đang bao trùm.
Sâu trong tâm bão
Vẫn còn một vùng yên tĩnh,
Nơi có con đường đang chờ để khai phá
Chỉ cần bạn cố gắng kiếm tìm.
Giọng nói bên trong bạn
Có thể khiến tâm hồn bạn lạc lối.
Hãy tin vào những gì bạn ước ao,
Đừng ngoảnh đi,
Bạn đừng vội ngoảnh đi nhé.
Hãy đi theo ánh sáng,
Bạn có thể chạm tới bầu trời,
Đứng vững trên đỉnh núi
Bạn sẽ thấy mình bay cao.
Hãy đi theo ánh sáng,
Bạn sẽ nắm bắt cả những vì sao.
Hãy ra khỏi bóng tối
Và tìm ra bạn thực sự là ai.
Lúc này, ở nơi nào đó
Một sự thật vẫn sáng bừng soi rọi.
Và tâm trí bạn biết rõ
Điều gì bạn phải làm.
Đâu đó sâu trong con người bạn
Là một sức mạnh không tên,
Chỉ đợi thời cơ để trỗi dậy
Và cháy lên như ngọn lửa.
Và bạn có thể trở nên mạnh mẽ
Hơn bất cứ điều gì bạn biết.
Hãy khắc nghi những gì bạn thấy.
Đừng từ bỏ,
Bạn đừng từ bỏ nhé.
Bây giờ đã không còn đường lui nữa
Số mệnh đang kêu gọi bạn
Hãy lắng nghe tiếng sấm rền
Và để trái tim bạn được tự do.
Hãy đi theo ánh sáng,
Bạn có thể chạm tới bầu trời,
Đứng vững trên đỉnh núi
Bạn sẽ thấy mình bay cao.
Hãy đi theo ánh sáng,
Bạn có thể bắt lấy những vì sao.
Hãy ra khỏi bóng tối
Và tìm ra bạn thực sự là ai.
Hãy luôn đi theo ánh sáng.
Hai phần tiếp theo của Balto.
Hai phần phim hoạt hình tiếp theo của "Balto" được Universal Cartoon Studios phát hành dưới dạng DVD. Phần 2 "Wolf Quest" (Sứ mệnh Sói) phát hành năm 2002 trên các kênh truyền hình của "Sinclair Broadcast Group", một công ty viễn thông có độ phủ sóng rộng nhất trên các đài truyền hình địa phương Hoa Kỳ. Phần 2 kể về đàn chó con của Balto và Jenna, nhân vật chính là Aleu với hành trình khám phá dòng máu sói trong huyết quản cô bé.
Phần 3 "Wings of Change" (Đôi cánh của sự đổi thay) phát hành năm 2004. Cốt truyện vẫn là về hậu duệ của Balto nhưng lần này, nhân vật chính là Kodi, một trong những đứa con trai của Balto.
Cả hai phần phim đều là hư cấu, không hề dựa trên sự thật lịch sử nào về chú chó Balto.
Sự khác biệt giữa phim và lịch sử.
Trong phim "Balto", thị trấn Nome chỉ cử một đội chó kéo xe đầu tiên và duy nhất đi chuyển thuốc về. Trong lịch sử, nhiều đội chó kéo xe đã luân phiên nhau chuyển kháng sinh về thị trấn. Balto chỉ là thủ lĩnh của đội chó kéo xe cuối cùng trên chặng đường vận chuyển thuốc. Chặng đường dài nhất, nguy hiểm nhất được vượt qua bởi đội chó kéo xe của con chó đầu đàn có tên Togo. Thực ra, tạo hình của Balto trong phim dựa trên hình mẫu Togo ngoài đời, còn chú chó Balto thật là giống Husky lông đen, không phải là chó lai sói lông xám.
Trong phim, Balto và những chú chó kéo xe đã tự xoay xở để chuyển thuốc đến nơi an toàn, trong khi người đánh xe (musher) bị ngất xỉu suốt quãng đường về. Trên thực tế, điều này hoàn toàn không có thật.
Trong lịch sử, Balto không phải là một chú chó lang thang như phim đã miêu tả. Từ khi sinh ra, Balto đã là thú nuôi của người đánh xe nổi tiếng Leonhard Seppala (người này cũng là chủ của chú chó Togo ở trên). Leonhard đã đào tạo Balto thành chó dẫn đầu đoàn kéo xe. Trong chặng đường chuyển kháng sinh về Nome, Leonhard Seppala là người kéo xe của đội do Togo cầm đầu. Đội cuối cùng của Balto được dẫn dắt bởi Gunnar Kaasen, nhân viên của Leonhard. | 1 | null |
Chuyến bay 904 của Lion Air 904 (JT 904, LNI 904) là một chuyến bay chở khách trong nước theo lịch trình trên máy bay PK-LKS, một chiếc Boeing 737-8GP vận hành bởi Lion Air bay giữa Bandung và Denpasar, Indonesia. Ngày 13 tháng 4 năm 2013, vào khoảng 03:00 (07:00 GMT), chiếc máy bay hạ cánh khẩn cấp vào một biển ven bờ cạn, cự ly 0,6 hải lý (1,1 km) so với đê chắn sóng bảo vệ ngưỡng đường băng 9, trong khi cố gắng hạ cánh tại Denpasar. Thân máy bay của máy bay bị gãy đôi thành hai phần. Có 101 hành khách và 7 thành viên phi hành đoàn trên máy bay. Tổng cộng có 22 người bị thương trong vụ tai nạn, tuy nhiên không có trường hợp tử vong nào. Ban đầu, cơ quan chức năng cho rằng máy bay bị trượt quá đường băng trước khi lao xuống biển. Tuy nhiên, phát ngôn viên của Lion Air - Edward Sirait - khẳng định máy bay chưa kịp tới đường băng đã đập thẳng bụng xuống mặt biển. Thời điểm xảy ra tai nạn trời nhiều mây và có mưa.
Chiếc máy bay này có số đuôi PK-LKS, là một chiếc Boeing 737-8GP mới được chuyển từ Malindo Air sang cho Lion Air. | 1 | null |
Legio quarta decima Gemina (Quân đoàn đôi thứ mười bốn) là một quân đoàn của đế quốc La Mã, nó được Julius Caesar thành lập vào năm 57 trước Công nguyên. Tên riêng "Gemina" của nó (sinh đôi trong tiếng Latin) cho thấy quân đoàn là kết quả của sự hợp nhất giữa hai quân đoàn trước đó, một trong số đó là quân đoàn thứ mười bốn chiến đấu trong trận Alesia, quân đoàn kia là quân đoàn Martia. Tên riêng "Victrix" (chiến thắng) của nó đã được Augustus thêm vào sau khi nó tham gia cuộc chiến tranh Pannonia vào khoảng năm 9 SCN. Biểu tượng của quân đoàn là Ma Kết, như nhiều quân đoàn khác được Caesar thành lập hoặc những tia sét bắt chéo của thần Jupiter
Quân đoàn XIV GMV được Caesar thành lập ở Cispaline Gaul và tham gia vào cuộc chinh phục xứ Gaul của ông. Hạn nhập ngũ của họ là 16 năm, giống như các quân đoàn khác (sau này Augustus nâng lên thành 20 năm). Trong nhiều năm sau vụ thảm sát tại Atuatuca, họ được coi như là một quân đoàn kém may mắn. Họ thường xuyên bị bỏ lại ở hậu phương để bảo vệ doanh trại trong các trận chiến và các cuộc tấn công.
Quân đoàn XIV GMV sau này đã chiến đấu dưới quyền tướng Germanicus Caesar chống lại Arminius. Một thập kỷ trước khi chiến dịch này xảy ra, Arminius đã thành công trong việc tiêu diệt toàn bộ ba quân đoàn trong trận chiến rừng Teutoburg, một trong những thảm họa lớn nhất trong lịch sử quân đội La Mã. Họ đã giành được một chiến thắng quyết định cho Germanicus, và điều này giúp cho ông có được một cuộc diễu binh mừng chiến thắng.
"XIV Gemina Martia Victrix" đã đóng quân tại Moguntiacum, Thượng Germania kể từ năm 9 SCN, và nó là một trong bốn quân đoàn được sử dụng bởi Aulus Plautius và Claudius trong cuộc xâm lược Britain của La Mã vào năm 43, và nó cũng tham gia vào việc đánh bại Boudicca trong năm 60 hoặc 61. Đây là trận chiến sẽ khiến nó vào lịch sử như một trong những quân đoàn La Mã vĩ đại nhất. theo Tacitus và Dio, Quân đoàn XIV đã đánh bại đạo quân lên tới 230.000 người của Boudicca, với lực lượng ít ỏi của họ chỉ gồm 10.000 Binh sĩ và quân trợ chiến. Sau đó, quân đoàn đóng quân ở Britain trong vài năm tiếp theo và vào năm 68, họ đóng quân tại Gallia Narbonensis.
Trong năm 89, thống đốc của Thượng Germania, Lucius Antonius Saturninus, đã nổi dậy chống lại Domitianus cùng với sự ủng hộ của quân đoàn XIV của XXI Rapax, nhưng cuộc khởi nghĩa đã bị đàn áp.
Sau khi quân đoàn XXI bại trận trong năm 92, "XIV Gemina" đã được phái đến Pannonia để thay thế nó, và đóng quân tại Vindobona (Viên). Sau khi một cuộc chiến tranh với người Sarmatia và các cuộc chiến tranh Dacia của Trajanus(từ năm 101-106), quân đoàn đã được chuyển đến Carnuntum, tại đây quân đoàn lưu lại trong ba thế kỷ tiếp theo. Một số tiểu đơn vị của quân đoàn thứ mười bốn đã chiến đấu trong các cuộc chiến tranh chống lại người Mauri, dưới thời Antoninus Pius, và quân đoàn cũng đã tham gia chiến dịch Parthia của Hoàng đế Lucius Verus. Trong cuộc chiến tranh chống lại người Marcomanni, hoàng đế Marcus Aurelius đã đặt trụ sở của mình tại Carnuntum.
Trong năm 193, sau cái chết của Pertinax, viên tướng chỉ huy quân đoàn thứ mười bốn, Septimius Severus, đã được các quân đoàn ở Pannonia tuyên bố là hoàng đế. XIV Gemina đã chiến đấu cho vị hoàng đế của nó trên đường tiến quân đến Rome nhằm tấn công kẻ tiếm vị Didius Julianus (năm 193), và góp phần vào việc đánh bại Pescennius Niger (năm 194), và có thể chiến đấu trong chiến dịch Parthia mà kết thúc với việc cướp phá kinh thành của đế chế Parthia, Ctesiphon (năm 198).
Trong giai đoạn hỗn loạn sau thất bại của Valerianus, quân đoàn XIIII Gemina đã ủng hộ kẻ tiếm vị Regalianus chống lại Hoàng đế Gallienus (năm 260), sau đó là Gallienus chống lại Postumus của đế quốc Gallia (nó nhận được danh hiệu "VI Pia VI-Fidelis" ("sáu lần trung thành, sáu lần trung nghĩa"), và sau khi Gallienus qua đời, là cho Hoàng đế Gallia Victorinus (năm 269-271).
Chú thích.
Legions of Rome Stephen Dando-Collins | 1 | null |
Hoàng thân Adalbert của Phổ (sinh ngày 29 tháng 10 năm 1811 tại Berlin – mất ngày 6 tháng 6 năm 1873 tại Karlsbad), tên khai sinh là Heinrich Wilhelm Adalbert là một hoàng tử Phổ, từng là một vị chỉ huy đầu tiên của lực lượng "Hải quân quốc gia Đức" ("Reichsflotte") do Quốc hội Frankfurt thành lập năm 1848 (lực lượng này đã giải tán năm 1852), và được Friedrich Wilhelm IV phong làm Tổng chỉ huy tối cao của lực lượng Hải quân Phổ năm 1849, về sau ông đã được phong hàm Đô đốc của lực lượng Hải quân Phổ vào năm 1854. Ông chỉ huy Hải quân Phổ cho đến khi cuộc Chiến tranh Pháp-Đức kết thúc năm 1871. Trên cương vị này, ông đã hết mình xây dựng lực lượng Hải quân, mặc dù quân chủng này chưa thể đóng một vai trò quan trọng trong các cuộc chiến tranh thống nhất nước Đức (1864 – 1871), khi mà Adalbert đã phục vụ trong đại bản doanh của tướng Steinmetz trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ và Chiến tranh Pháp-Đức. Ông được ghi nhận vì lòng dũng cảm và xem nhẹ cái chết của mình trong những cuộc chiến tranh này.
Ông được nhìn nhận là người sáng lập hàng đầu của lực lượng hải quân non trẻ của Đức, do bản tường trình của ông năm 1848 đã báo trước về một cường quốc hải quân độc lập và do ông thành lập Bộ Hải quân Phổ vào năm 1853. Qua vai trò của mình đối với Hải quân Phổ - Đức, ông đã hỗ trợ đắc lực đến thành công của quá trình cải cách quân đội Phổ của tướng Albrecht von Roon.
Cuộc đời.
Adalbert là con trai của Hoàng thân Friedrich Wilhelm Karl, người đã qua đời năm 1851, và Nữ Bá tước Amelia Marie Anna xứ Hesse-Homburg. Qua đó, ông là cháu nội của vua Phổ Friedrich Wilhelm II, cháu gọi vua Friedrich Wilhelm III bằng bác đồng thời là em họ của vua Friedrich Wilhelm IV và Wilhelm I, vua Phổ và Hoàng đế Đức về sau này. Cũng giống như mọi hoàng tử khác trong Hoàng gia Phổ, ông bị buộc phải gia nhập quân đội ngay từ thuở thiếu thời, và được đưa vào quân đoàn pháo binh Phổ. Nhưng, khác với phần lớn Hoàng tộc Hohenzollern, ông có lòng đam mê du lịch và mong muốn được nhìn thấy các nước khác.. Và, để trau dồi tinh thần của mình (chứ không như phần lớn các du khách ở địa vị xã hội cao thời bấy giờ), ông đã đi nhiều nơi ở châu Âu, châu Á và châu Mỹ: vào năm 1826, ông đến Hà Lan. Năm 1832, ông tới Anh và Scotland. Năm 1834, tới Sankt-Peterburg và Moskva. Năm 1837, tới miền Trung Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp và quần đảo Ionia. Vào năm 1842, vua xứ Sardegna đã điều một tàu khu trục nhỏ phục vụ cho ông, và trên chiếc tàu này vị vương thân Phổ đã đến Genova, Gibraltar, Tangiers, Madeira, và Teneriffe. Ngoài ra, ông cũng vượt đại dương và khám phá bờ biển Brasil. Sau khi trở về nước, ông đã cho xuất bản một cuốn sách nói về chuyến hành trình của mình, tựa là "Ausmeinem Reisetagebuche", trong các năm 1842 – 1843. Tác phẩm này đã được dịch sang tiếng Anh và xuất bản tại Luân Đôn vào năm 1848.
Khi ông 29 tuổi, Adalbert được bổ nhiệm làm Chuẩn tướng trong lực lượng pháo binh Cận vệ Hoàng gia, và vào năm 1840, ông lên chức Thiếu tướng. Đến năm 1843, ông trở thành Tướng thanh tra của pháo binh Phổ, và năm 1848 ông được phong cấp Trung tướng. Vào năm 1848, chính phủ lâm thời cách mạng của "Đế quốc Đức" (Quốc hội Frankfurt) đã mời ông làm cố vấn cho việc thành lập một lực lượng Hải quân quốc gia Đức, và được bổ nhiệm làm chủ tịch ủy ban dân tộc về vấn đề hải quân. Adalbert vốn dĩ đã nghiên cứu về ngành hải quân của các cường quốc khác, nhất là Anh. Những hoạt động của ông với vai trò là người tổ chức Hải quân quốc gia Đức đã dẫn đến việc ông viết một bản tường trình mang tên "Denkschrift fiber die Bildnng einer deutschen Flotte" vào tháng 5 năm 1848, trong đó ông đề ra những phương án tốt nhất để xây dựng một lực lượng hải quân có thể bảo vệ quyền lợi của nước Đức. Theo đó, tiến trình phải được thực hiện qua 3 bước: phòng ngự bờ biển, phòng ngự tích cực và bảo vệ quyền thương mại, và cuối cùng sẽ xây dựng một cường quốc hải quân độc lập. Qua đó, theo thời gian, Đức sẽ trở thành một quốc gia có khả năng quyết định tương lai của ngành hải quân của mình, và bản tường trình góp phần khiến ông trở thành một trong những người sáng lập hạm đội Đức.
Không lâu sau đó, để đối phó với Đan Mạch trong cuộc Chiến tranh Schleswig lần thứ nhất, vua Friedrich Wilhelm IV đã nâng cấp đội tàu ("Küstenflotille") thành lực lượng hải quân của Phổ, và vào tháng 3 năm 1849 nhà vua ban chỉ dụ phong Adalbert làm Tổng tư lệnh tối cao của Hải quân Phổ, và với sắc chỉ này Adalbert đã trở thành chỉ huy của hai lực lượng hải quân riêng biệt: Hải quân quốc gia Đức và Hải quân Đức. Điều đó cũng chứng tỏ rằng hạm đội của nước Phổ phản động hầu như không hề hợp tác với hạm đội của Quốc hội Frankfurt. Việc vua Phổ đàn áp Quốc hội Frankfurt năm 1849 và hòa ước với Đan Mạch năm 1850 đã chấm dứt mọi hy vọng về một lực lượng hải quân Đức thống nhất, đồng thời làm chậm tiến trình phát triện của hải quân Phổ. Hạm đội Frankfurt bị giải tán vào năm 1852, và giờ đây Adalbert phải chú tâm vào việc xây dựng Hải quân Phổ. Mặc dù Bộ Chiến tranh Phổ phản đối mọi sự phát triển của Hải quân, Hoàng thân Adalbert đã thuyết phục nhà vua loại hải quân ra khỏi quyền kiểm soát của Bộ Chiến tranh và thành lập Bộ Hải quân Vương quốc Phổ ("Königliche Preussische Admiralität") vào tháng 11 năm 1853, mặc dù bộ này không phải là lúc nào cũng độc lập. Dù ông không phải là Bộ trưởng Bộ Hải quân, đến năm 1854, Adalbert được vua phong làm "Đô đốc của Các bờ biển Phổ", trong khi ông vẫn tiếp tục giữ cương vị Tổng tư lệnh tối cao của Hải quân. Trái với niềm tin của lục quân rằng hải quân chỉ có chức năng bảo vệ bờ biển, Adalbert chủ trương mở rộng sứ mệnh của hải quân ra ngoài bờ biển của Phổ. Vào ngày 7 tháng 8 năm 1856, Adalbert chỉ huy tàu hộ tống "Danzig" tiến vào biển Địa Trung Hải trong chiến dịch bên ngoài vùng lãnh hải nước nhà đầu tiên của Hải quân Phổ, để chống lại bọn hải tặc Riff ở Bắc Phi. Tuy nhiên, trong khi quân ông chỉ có 90 người, 500 tên hải tặc đã buộc họ phải rút lui, với 24 người chết và bị thương. Bản thân Adalbert cũng bị trúng đạn ở bắp vế.
Vào năm 1859, ông cũng tổ chức một lực lượng hải quân và phái đến Đông Á, với các mục đích khoa học và ngoại giao. Sau khi vua Wilhelm I lên ngôi, Adalbert đã khuyến khích Wilhelm tích cực xây dựng lực lượng Hải quân Phổ. Vào năm 1864, trong cuộc Chiến tranh Schleswig lần thứ hai, Adalbert đã tuần tra cùng với hạm đội của mình trên biển Baltic. Trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866, tình hình cho thấy là bờ biển nước Phổ không bị đe dọa, và ông chuyển đến binh đoàn của Thái tử Friedrich Wilhelm. Hoàng thân Adalbert đã tham gia trong bộ tham mưu của Quân đoàn V dưới quyền tướng Steinmetz. Ông liên tiếp chứng tỏ sự can đảm và không sợ chết của mình trong các trận đánh ở Nachod và Skalitz, và điều đó khiến cho ông được binh lính Phổ mến mộ. Vào năm 1870, ông dẫn một đội tàu đến thăm các hải cảng của Anh. Trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871), các tàu thuyền của ông đã trú ẩn ở Wilhelmshaven. Ông nhận thấy hải quân Phổ - Đức chưa đủ mạnh, và một lần nữa, cũng giống như năm 1866, ông theo dõi cuộc chiến ở đại bản doanh của lục quân dưới quyền tướng Steinmetz. Vào ngày 14 tháng 8, ông dong ngựa lên phía trước Trung đoàn bộ binh "Jäger" số 7 thuộc Lữ đoàn Goltz trong chiến trận. Trong trận Gravelotte vào ngày 18 tháng 8 năm 1870, ông luôn luôn đứng ở tuyến đầu, và điều này đã phấn khích tinh thần của binh sĩ Phổ. Tại trận chiến này, con ngựa mà ông cưỡi đã bị bắn chết, và một con ngựa khác bị thương. Sau đó, ông dành vài tuần ở Metz, dù không có một hoạt động quân sự thực sự nào. Đến tháng 10, ông được triệu tập đến Tổng hành dinh của quân đội Phổ - Đức tại Versailles. Sau cuộc Chiến tranh Pháp-Đức, ông từ giã sự nghiệp quân sự vào năm 1871, tuy vậy ông vẫn không từ bỏ mọi mối liên hệ của mình với lực lượng Hải quân Đế quốc Đức mới thành lập. Ông qua đời hai năm sau đó do bị đau gan.
Gia đình.
Vào năm 1850, Hoàng thân Adalbert kết hôn không đăng đối với Theresa Elsser, một vũ công tài năng, và cuộc hôn nhân này đã mang lại cho Theresa Elsser tước hiệu là Nữ Nam tước von Barnim. Người con duy nhất của họ, Nam tước Adalbert von Barnim, sinh năm 1841, đã qua đời năm 12 tháng 7 năm 1860 tại Ai Cập. | 1 | null |
Legio Septima Claudia Pia Fidelis ("'Quân đoàn Claudia thứ bảy") là một quân đoàn La Mã. Giống như tất cả các quân đoàn khác của Caesar, biểu tượng của nó là một con bò đực, cùng với sư tử.
Quân đoàn Thứ bảy, thứ sáu, thứ tám và thứ chín đều được Pompeius thành lập ở Tây Ban Nha trong năm 65 trước Công nguyên. Cùng với các quân đoàn VIII, IX và X, quân đoàn VII là một trong những đạo quân lâu đời nhất trong quân đội của đế quốc La Mã. Họ được lệnh tới Cisalpine Gaul vào khoảng năm 58 trước Công nguyên và hành quân cùng với Caesar trong suốt cuộc chiến tranh xứ Gaul. Ông cũng đã đề cập đến quân đoàn VII trong ghi chép của mình về cuộc chiến chống lại người Nervii, và có vẻ như quân đoàn này đã được sử dụng trong các cuộc viễn chinh khắp miền Tây xứ Gaul dưới sự chỉ huy của Crassus, viên tướng dưới quyền Caesar. Trong năm 56 TCN, quân đoàn VII đã có mặt trong chiến dịch Venetic. Trong cuộc khủng hoảng do Vercingetorix gây ra, quân đoàn đã chiến đấu ở khu vực lân cận của Lutetia, nó phải đã có mặt tại Alesia và quân đoàn chắc chắn đã tham gia vào chiến dịch càn quét người Bellovaci.
Legio VII là một trong hai quân đoàn sử dụng trong cuộc xâm lược Britain của Caesar, và nó đóng một vai trò quan trọng trong Trận Pharsalus vào năm 48 trước Công nguyên. Quân đoàn sau đó tồn tại ít nhất cho đến cuối thế kỷ thứ 4, bảo vệ khu vực trung lưu sông Danube.
Tiberius Claudius Maximus, người lính La Mã dâng đầu của Decebalus lên cho hoàng đế Trajan, đã từng phục vụ trong Legio VII Claudia. | 1 | null |
Phụng Thánh phu nhân (chữ Hán: 奉聖夫人, 1108 - 18 tháng 9, 1171), là một phi tần của hoàng đế Lý Thần Tông, em gái của Linh Chiếu hoàng thái hậu, mẹ của Lý Anh Tông.
Năm 1138, Thần Tông hoàng đế bệnh nặng. Phu nhân đã giúp Linh Chiếu hoàng thái hậu tính kế, cuối cùng giúp được Anh Tông hoàng đế kế thừa hoàng vị, công lao hiển hách. Bà rất được Anh Tông kính trọng, thường cho dự triều nghi cùng Hoàng thái hậu trong điện.
Tiểu sử.
Phu nhân có tên húy là Lan Xuân (蘭春), là con gái út của Phụ Thiên đại vương (輔天大王), mẹ là Thụy Thánh công chúa - con gái của Dự Tông Chính hoàng. Tổ phụ của phu nhân là Chân Đăng bảo sở Quan sát sứ họ Lê, có trị sở ở hương Tuế Phong (này là Hương Nộn, huyện Tam Nông), cháu của Ngự Man đại vương Lê Long Đinh, như vậy dòng họ Thái hậu là hậu duệ xa của hoàng đế Lê Đại Hành. Tổ mẫu là Ngọc Kiều công chúa, con gái của Phụng Càn vương Lý Nhật Trung, được Lý Thánh Tông nhận làm con gái nuôi.
Năm 1134, Thần Tông hoàng đế lấy chị bà là Linh Chiếu hoàng thái hậu, sau thấy bà đoan trang hiền thục, ưa nhìn nên đón vào cung. Khi bà mới vào trong cung đã hiểu rõ đạo lý làm vợ, lên trên tông thất thì giữ bền phong độ nữ lưu. Ăn mặc điểm trang ắt đúng độ, nói năng cử chỉ đúng phép, Thần Tông dần có thiện cảm.
Năm 1136, bà được sắc phong làm Phụng Thánh phu nhân (奉聖夫人), ngang hàng với chị bà là Cảm Thánh phu nhân (感聖夫人). Bấy giờ, phu nhân giữ bền tâm hạnh, sửa mình theo giáo hóa Nho gia, giữ trọn bổn phận dâu hiền, phụng thờ tiên tổ không thiếu sót mà ân huệ lẽ mọn cũng thấm xuống tận gia nhân. Đạo đức của phu nhân sánh ngang Nga Hoàng, Nữ Anh vợ của Thuấn, dâng lời phò trí giúp mưu; cũng giống như Thái Nhâm Thái Khương giúp nhà Chu, trước hết nêu cao đạo đế.
Tranh đoạt Hoàng vị.
Thần Tông hoàng đế khi trước đã lập Lý Thiên Lộc (李天祿) làm Hoàng thái tử, nhưng Linh Chiếu hoàng thái hậu thấy Thiên Lộc là con người hầu, địa vị thấp hèn, trong khi Lý Thiên Tộ (李天祚), con của Thái hậu, sinh chỉ sau Thiên Lộc mà địa vị lại cao hơn, nên Thái hậu bèn cùng phu nhân tìm cách mà xin Thần Tông chuyện phế lập.
Năm 1138, tháng 9, Thần Tông hoàng đế bệnh nặng. Thái hậu cùng hai vị phu nhân là Nhật Phụng phu nhân, Phụng Thánh phu nhân đút lót Tham tri chính sự Từ Văn Thông, và dặn rằng: "Nếu có vâng mệnh vua thảo di chiếu thì chớ nên bỏ lời của ba phu nhân". Văn Thông nhận lời. Khi Thần Tông ốm năng, sai soạn di chiếu, Văn Thông chần chừ không viết.
Ba phu nhân vào khóc lóc, nói rằng: "Bọn thiếp nghe người xưa lập con nối thì lập con đích chứ không lập con thứ; Thiên Lộc là con nàng hầu yêu, nếu cho nối ngôi thì ả mẫu thân lại sinh lòng ghen ghét tất tiếm lấn, làm hại mẹ con thần thiếp. Như thế chúng thiếp làm thế nào được?".
Thần Tông hoàng đế cho là phải, xuống chiếu rằng: "Hoàng tử Thiên Tộ tuy tuổi còn thơ ấu, nhưng là con đích, thiên hạ đều biết, nên cho nối nghiệp của trẫm, còn Thái tử Thiên Lộc thì phong làm Minh Đạo Vương".
Ngày 26 tháng 9, năm đó, Thần Tông hoàng đế băng hà. Con trai là Thái tử Thiên Tộ kế vị, tức Lý Anh Tông. Cảm Thánh phu nhân được tôn làm Hoàng thái hậu, tôn hiệu là Hiến Chí hoàng thái hậu (憲至皇太后), ở cung Quảng Từ. Theo lệ như Linh Nhân thái hậu trước đây, buông rèm nhiếp chính.
Cuối đời.
Sau khi Thần Tông hoàng đế băng hà, phu nhân gào khóc theo đưa xe tang rồi nguyện ở lại trông coi lăng tẩm, giữ lòng không trễ biếng mà đạo đức của phu nhân vẫn rõ ràng; chẳng cần tu đạo Thượng thừa mà giáo hóa của phu nhân được hoàn bị. Phu nhân dung nhan đoan chính, tính tình kín đáo, mừng giận không lộ ra nét mặt; dùng người thì khiến họ vui mà ở lại, chẳng cần roi vọt bức bách.
Bấy giờ, phu nhân thường vào cung hầu chị mình đương là Hiến Chí hoàng thái hậu đang làm nhiếp chính. Thường ngày rằm, mồng một, phu nhân đều đến dự chầu. Anh Tông với phu nhân một lòng kính mến, chuyện trò rất mực ân cần, mà không điều gì lầm lỗi. Mỗi khi phu nhân dự tính việc gì đều yết kiến riêng đế và Hoàng thái hậu.
Anh Tông hoàng đế và Hoàng thái hậu khi rảnh rỗi thường xa giá đến chỗ bà để thăm, thấy nơi ở đơn giản nhưng nề nếp, bèn khen phẩm cách của bà và than rằng: "Đúng là bậc phu nhân thời thịnh trị ngày trước". Bia mộ chí ghi lại rằng:
Năm 1171, tháng 9, phu nhân lâm bệnh nặng, Anh Tông hoàng đế chạy chữa mọi cách cũng không khỏi, sang ngày 18 tháng 9 bà qua đời ở độ 63 tuổi. Lý Anh Tông rất xót thương, nghỉ thiết triều, giảm bữa ăn để tỏ lòng, lại sắc ban lễ phúng gấp bội lệ thường, rồi sai làm lễ táng theo nghi thức của hoàng hậu tại núi Phác Sơn, phía Tây chùa Diên Linh Phúc Thánh.
Bài thơ trên bia mộ.
Sau khi Phụng Thánh phu nhân mất, Anh Tông sai quốc sử thuật đạo đức tốt đẹp của phu nhân ghi vào bia mộ.
Bài minh ghi rằng:
Dịch thơ:
Phát triển nghề Hát xuân.
Hát xuân là một nghệ thuật ca hát có từ đời Hùng Vương, ban đầu được hình thành từ các Mỵ nương ở tầng lớp trên của xã hội Văn Lang, sau dần phổ biến trong dân gian.
Theo lời truyền tụng của người dân làng An Thái (Phong Châu, Phú Thọ), có lần đi du xuân qua đất Phù Ninh, tình cờ, Phụng Thánh phu nhân thấy những người đang làm ruộng, đánh cá, hái củi và cả lũ trẻ mục đồng đang nô đùa, vừa chơi vừa hát. Nghe những điệu hát vừa lạ vừa hay bèn cho gọi mọi người lại hỏi chuyện về nguồn gốc của điệu hát và sai hầu cận ghi chép lại. Không chỉ có vậy, sau đó, phu nhân còn tổ chức cho sưu tầm các câu hát truyền miệng ghi vào sách vở, được tất cả gần 2.000 câu; tập hợp những người am hiểu trong các phường chia ra từng tiết mục rành mạch gồm có năm đoạn lề lối; 14 đoạn quả cách; chín giọng vặt là tạo sự bài bản cho nghệ thuật hát Xuân; cho phục dựng thành điệu hát lễ ở một số đình đền thờ vua Hùng, tạo điều kiện cho các phường hát đến những nơi này trình diễn. Chính Phụng Thánh phu nhân đã giúp cho môn nghệ thuật này được phổ biến rộng. Nhớ công ơn trong việc bảo tồn và phát triển hát Xuân, các phường hát đã kiêng tên bà nên gọi chệch đi là hát Xoan.
Có thể nói, Phụng Thánh phu nhân là người mở đầu cho việc từng bước hoàn thiện hát Xoan, sau bà nhiều trí thức, Nho sĩ, quan lại mà nổi tiếng nhất là tiến sĩ Đỗ Nhuận (phó soái hội Tao Đàn đời Lê Thánh Tông), họ đã thu thập văn bản, sửa chữa câu từ, biến hát Xoan tuy phong phú về lời điệu nhưng còn mộc mạc, thô sơ chưa có nề nếp rõ ràng trở thành những câu hát, điệu múa thanh thoát, đẹp đẽ bóng bẩy hơn, có bài bản được cố định thành quy cách nghiêm ngặt, mặt du nhập thêm vào nội dung Xoan những chi tiết không phải của thời Hùng Vương.
Phu nhân lúc còn ở kinh đô, danh vọng và thế lực sánh với bậc đế vương, thường vinh hiển thì không quên tiên tổ, cội nguồn nguyện được mở thắng duyên để đền đáp ơn quyến ngộ của tiên thánh. Lại mong khi từ giã cõi đời được gần gũi mẹ cha. Cho nên vào năm 1145, sau 8 năm hương khói, chăm sóc lăng mộ Lý Thần Tông; bà xin về hương Tuế Phong là nơi đất đẹp có núi đồi thanh tú vây quanh, sông hồ xanh biếc bao bọc ở thế rồng ấp hổ chầu để chọn đất dựng chùa tu hành, vua Lý Anh Tông đã ra sắc chỉ đặc ân cấp cho nhân công, cho gỗ ngói để dựng chùa, đó chính là chùa Diên Linh Phúc Thánh. | 1 | null |
Legio quinta Macedonica (Quân đoàn Macedonia thứ năm) là một quân đoàn La Mã. Ban đầu, quân đoàn có lẽ được chấp chính quan Gaius Vibius Pansa Caetronianus và Octavia thành lập vào năm 43 trước Công nguyên, và nó đóng quân ở Moesia ít nhất cho đến tận thế kỷ thứ 5. Biểu tượng của nó là con bò đực, ngoài ra còn sử dụng một biểu tượng khác là con đại bàng. Tên riêng "Macedonica" của nó xuất phát từ thực tế là quân đoàn đóng quân tại Macedonia trong một khoảng thời gian đáng kể suốt quá trình tồn tại của nó.
Lịch sử.
Thế kỉ 1 TCN.
"Legio V" là một trong hai mươi tám quân đoàn ban đầu được Octavian thành lập. Có hai quân đoàn thứ năm ghi nhận đó là "V Gallica" và "V Urbana". Có thể là cả hai đều là những tên gọi ban đầu của V Macedonica. Quân đoàn có thể đã tham gia vào trận Actium (31 TCN). Sau đó nó được chuyển đến Macedonia và ở lại đây từ năm 30 TCN đến năm 6 SCN, nhờ vậy mà quân đoàn đã có được tên riêng của nó, trước khi chuyển đến Oescus (Moesia).
Thế kỉ 1 SCN: Đại khởi nghĩa của người Do Thái.
Trong năm 62, một số vexillatio của quân đoàn năm đã chiến đấu chống lại đế chế Parhia ở Armenia dưới quyền của Lucius Caesennius Paetus. Sau thất bại tại trận Rhandeia, toàn bộ các quân đoàn như V Macedonica, III Gallica, VI Ferrata, và X Fretensis đã chiến đấu dưới sự chỉ huy của Gnaeus Domitius Corbulo trong cuộc chiến tranh thắng lợi chống lại người Parthia.
Quân đoàn thứ năm có lẽ vẫn còn ở phía Đông khi cuộc Đại Khởi nghĩa của người Do Thái nổ ra ở tỉnh Iudaea, bắt đầu từ năm 66. Nero đã giao các quân đoàn V Macedonica, X Fretensis và XV Apollinaris cho tướng Titus Flavius Vespasianus nhằm chống lại cuộc khởi nghĩa. Trong năm 67, ở vùng Galilêa, thành phố Sepphoris đã đầu hàng quân đội La Mã một cách hòa bình, và sau V Macedonica đã đánh chiếm được núi Gerizim, nơi tôn nghiêm nhất của người Samaritan. Trong năm Tứ hoàng đế (năm 68), quân đoàn dừng chân tại Emmaus, tại đây vẫn còn tồn tại vài ngôi mộ của những người lính trong quân đoàn V Macedonica. Sau khi tuyên bố Vespasianus làm hoàng đế và kết thúc của cuộc chiến tranh dưới con trai của ông,Titus, V Macedonica rời Iudaea và quay trở về Oescus (năm 71). Trong năm 96, hoàng đế Hadrianus đã phục vụ trong quân đoàn với chức vị là "tribunus militum".
Thế kỉ thứ 2: Ở Dacia và bảo vệ phòng tuyến Danube.
Vào năm 101, quân đoàn di chuyển đến Dacia và tham gia vào chiến dịch chống lại vua Decebalus của Hoàng đế Trajan. Các Viên legate của V Macedonica chính là vị hoàng đế tương lai Hadrianus. Sau khi chiến tranh kết thúc vào năm 106, quân đoàn lưu lại ở Troesmis (Iglita ngày nay), gần châu thổ sông Danube, và bắt đầu từ năm 107. Một đội trưởng của quân đoàn, Calventius Viator đã tỏ ra xuất chúng dưới thời Hadrianus và sau này ông được bổ nhiệm làm chỉ huy lực lượng kị binh cận vệ của hoàng đế, "equites singulares Augusti".
Khi Hoàng đế Lucius Verus bắt đầu chiến dịch chống lại người Parthia (năm 161-166), quân đoàn dã di chuyển tới phía đông, nhưng sau đó nó lại quay trở về Dacia Porolissensis, với doanh trại ở Potaissa.
Khu vực biên giới phía bắc là một biên giới nóng của đế quốc, khi mà hoàng đế Marcus Aurelius đã phải chiến đấu chống lại người Marcomanni, người Sarmatia, và người Quadi, V Macedonica đã tham gia vào các cuộc chiến tranh này.
Vào đầu triều đại của Commodus, V Macedonica và XIII Gemina đã đánh bại người Sarmatia một lần nữa, dưới quyền những kẻ tiếm vị sau này là Pescennius Niger và Clodius Albinus.Quân đoàn thứ năm đã ủng hộ Septimius Severus, trong cuộc chiến trành giành ngai vàng của ông ta.
Trong năm 185 hoặc 187, quân đoàn đã được tặng thưởng tiêu đề "Pia Constans" ("Trung thành và đáng tin cậy") hoặc "Pia Fidelis" ("Trung thành và trung nghĩa"), sau khi nó đánh bại một đội quân lính đánh thuê ở Dacia.
Những thế kỉ sau.
Trong khi vẫn đóng quân ở Potaissa suốt thế kỷ thứ 3, V Macedonica đã nhiều lần tham gia các cuộc chiến và giành nhiều vinh quang. Valerianus ban cho quân đoàn thứ năm tên hiệu "III Pia III Fidelis", còn người con trai của ông, Gallienus ban cho quân đoàn tiêu đề "VII Pia VII Fidelis", cùng danh hiệu với lần thứ 4, thứ 5 và 6 có thể được trao khi quân đoàn được sử dụng như một đơn vị kỵ binh di động chống lại hai kẻ tiếm vị Ingenuus và Regalianus (năm 260, Moesia). Một vexillatio đã tham gia cuộc chiến tranh chống lại Victorinus (Gaul, năm 269-271).
Quân đoàn trở về Oescus trong năm 274, sau khi Aurelianus ra lệnh triệt thoái khỏi Dacia. Nó đã bảo vệ địa bàn tỉnh trong những thế kỷ sau đó và trở thành một đơn vị comitatensis dưới quyên của Tổng chỉ huy quân đội phía đông (Militum Magister per orientis). Nó có thể đã trở thành một phần của quân đội Đông La Mã. | 1 | null |
Aelia Pulcheria (sinh năm 398 hoặc 399 – mất năm 453) là con gái của Hoàng đế Đông La Mã Arcadius và Hoàng hậu Aelia Eudoxia. Bà là người con thứ hai của Arcadius và Aelia Eudoxia, trước bà có người chị cả là Flaccilla sinh năm 397 nhưng đã mất hồi trẻ. Những anh chị em còn lại gồm Arcadia, sinh năm 400, Theodosius II, hoàng đế tương lai và Marina, cả hai đều sinh năm 401. Khi Arcadius mất vào năm 408. Người em trai Theodosius II kế thừa ngôi vị hoàng đế của Đế quốc Đông La Mã lúc mới bảy tuổi. Ngày 4 tháng 7 năm 414, Pulcheria vừa tròn mười lăm tuổi đã tuyên bố làm nhiếp chính cho em trai mình lúc này mới có mười ba tuổi, thậm chí bà còn dùng tôn hiệu Augusta và Hoàng hậu của Đế quốc Đông La Mã. Theo sử gia cổ đại Sozomen trong tác phẩm "Ecclesiastical History" (Lịch sử Giáo hội) của ông cho biết thì Pulcheria là một tín đồ rất mực sùng đạo do chịu ảnh hưởng từ mẹ mình, sau khi lên nắm quyền nhiếp chính thì bà và đám em gái đã thề nguyện sẽ theo Chúa và bảo vệ Giáo hội suốt đời với tư cách của một trinh nữ ngoan đạo. Theodosius II qua đời vào ngày 26 tháng 7 năm 450 và Pulcheria sớm kết hôn với tướng Marcianus vào ngày 25 tháng 11 năm 450. Sau đó Marcianus và Pulcheria được đám triều thần tôn là Hoàng đế và Hoàng hậu của Đế quốc Đông La Mã. Ba năm sau, vào tháng 7 năm 453, Pulcheria đột ngột qua đời vì bạo bệnh, do những công tích giúp đỡ Kitô giáo mà về sau bà được Giáo hội phong thánh. Pulcheria được biết là đã sớm nắm quyền và có ảnh hưởng khá lớn lên triều đại của người em trai. Pulcheria còn có ảnh hưởng rất lớn lên Giáo hội và những tập tục thần học trong thời gian này. Ngoài ra, bà còn tác động lên các chính sách chống dị giáo, cho xây dựng rất nhiều nhà thờ cùng các cuộc tranh luận về danh hiệu "Theotokos" của Đức Mẹ Đồng Trinh Maria ("Người sinh Thiên Chúa"). | 1 | null |
Theodosius II (tiếng Latin: "Flavius Theodosius Junior Augustus"; 401 – 450) thường gọi là Theodosius Trẻ hoặc Theodosius Nhà thư pháp, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 408 đến 450. Ông được biết đến nhiều về việc ban hành bộ luật Theodosius và công xây dựng các bức tường thành Theodosius quanh Constantinopolis. Triều đại của ông còn được ghi nhận về các cuộc tranh cãi Thần học lớn nhất giữa hai trường phái Kitô giáo là Nestoria và Eutychia.
Tiểu sử.
Thời kỳ ban đầu.
Theodosius sinh năm 401, là con trai duy nhất của Hoàng đế Arcadius và người vợ gốc Frank Aelia Eudoxia. Vào tháng 1 năm 402, ông được cha phong làm đồng Augustus, do vậy trở thành người trẻ tuổi nhất từng nắm giữ xưng hiệu này trong lịch sử La Mã. Năm 408, cha ông qua đời và cậu bé bảy tuổi đã trở thành Hoàng đế Đông La Mã.
Chính quyền Đông La Mã lúc đầu bị viên Pháp quan thái thú ("Praetorian Prefect") Anthemius khống chế hoàn toàn, cũng chính ông là người đã giám sát việc xây dựng các bức tường thành quanh thủ đô Constantinopolis nhằm nâng cao khả năng phòng thủ trước các cuộc xâm lấn của người rợ ngày càng tăng.
Năm 414, chị của Theodosius là Pulcheria được tôn làm "Augusta" và đảm nhận việc nhiếp chính. Đến năm 416 Theodosius được kế thừa tước hiệu Augustus chính thức tự gánh vác việc nước và thời kỳ nhiếp chính kết thúc, thế nhưng người chị của ông vẫn còn để lại ảnh hưởng rất lớn đối với việc trị nước nhất là về tôn giáo. Tháng 6 năm 421, Theodosius kết hôn với Aelia Eudocia, một phụ nữ gốc Hy Lạp. Cả hai có một người con gái tên là Licinia Eudoxia.
Theodosius tỏ ra ngày càng quan tâm đến Kitô giáo, cũng bởi chịu sự ảnh hưởng từ người chị sùng đạo Pulcheria, cũng bởi vậy mà ông đã bắt đầu một cuộc chiến tranh chống lại nhà Sassanid (421-422) vì lý do họ đàn áp người Kitô giáo; cuộc chiến kết thúc trong hòa hoãn, người La Mã đã buộc phải chấp nhận hoà bình khi hay tin đại quân người Hun đang chuẩn bị vây hãm đe dọa Constantinople.
Năm 423, Hoàng đế Tây La Mã Honorius, chú của Theodosius qua đời và viên "primicerius notariorum" (Trưởng quan hành chính) Joannes tự xưng làm Hoàng đế phía Tây nhưng không được phía Đông công nhận. Em gái của Honorius là Galla Placidia và đứa con trai nhỏ của Valentinianus cùng nhau chạy trốn đến Constantinople để tìm kiếm sự giúp đỡ từ triều đình phía Đông và sau vài lần cân nhắc kỹ lưỡng vào năm 424, Theodosius quyết định tuyên chiến chống lại ngụy đế Joannes. Tháng 5 năm 425, Valentinianus III được binh lính đưa lên làm Hoàng đế Tây La Mã với sự hỗ trợ của "magister officiorum" Helion và mẹ ông làm nhiếp chính. Để củng cố mối quan hệ giữa hai phần của Đế quốc, Theodosius đã đem cô con gái rượu Licinia Eudoxia đính hôn với Valentinianus.
Giáo dục và luật lệ.
Năm 425, Theodosius cho thành lập trường Đại học Constantinople với 31 giáo sư (15 người giảng dạy bằng tiếng Latin và 16 người giảng dạy bằng tiếng Hy Lạp). Các môn học bao gồm luật học, triết học, y học, số học, hình học, thiên văn học, âm nhạc và hùng biện.
Năm 429, Theodosius đã bổ nhiệm một ủy ban với nhiệm vụ thu thập tất cả các luật lệ kể từ thời Đại đế Constantinus và tạo ra một hệ thống luật chính thức hoàn chỉnh. Kế hoạch này đã bị bỏ dở, nhưng công việc của ủy ban thứ hai lại được tổ chức ở Constantinople, họ vẫn được phân công thu thập tất cả các bộ luật chung và phải hoàn thành chúng đúng thời hạn, để rồi bộ luật tập của họ được công bố với tên gọi Bộ luật Theodosianus vào năm 438. Bộ luật của Theodosius II gồm những sắc lệnh tổng hợp được ban hành từ thời Đại đế Constantinus, tạo thành cơ sở cho các bộ luật của Hoàng đế Justinian I vào thế kỷ sau.
Chiến tranh với người Rợ và Ba Tư.
Đế quốc Đông La Mã còn bị đe dọa từ các cuộc đột kích ngắn hạn của người Hun. Năm 447, đại quân của người Hun đã tràn qua vùng Balkan, phá hủy một trong số những thành phố ở Serdica (Sofia) rồi tiến quân tới Athyra (Büyükçekmece) ở vùng ngoại ô của Constantinople nhằm trực tiếp uy hiếp kinh đô. Sau đó, đích thân Anatolius đã chủ trương đàm phán cầu hòa khiến hai bên đạt được một thỏa thuận ngưng chiến lâu dài với điều kiện mỗi năm Đông La Mã phải cống nạp cho họ một số lượng lớn vàng bạc khiến cho ngân khố quốc gia ngày càng giảm sút.
Khi các tỉnh châu Phi thuộc La Mã rơi vào tay người Vandal vào năm 439, cả hai hoàng đế Đông và Tây La Mã đều gửi quân tới Sicilia để tấn công người Vandal ở Carthage, nhưng kế hoạch này mau chóng thất bại. Nhận thấy biên giới của Đế quốc La Mã chẳng còn lực lượng quân sự nào đáng kể, liên quân Hun và Ba Tư nhà Sassanid cùng nhau tuyên chiến. Suốt năm 443, hai đội quân La Mã lần lượt đều bị người Hun đánh cho thảm bại. Vì thế đã buộc triều đình La Mã phải ký thỏa thuận hòa bình với điều kiện phải tăng khoản cống nạp gấp ba lần sau khi quân Hun rút sâu vào bên trong lãnh thổ của Đế quốc. Cuộc chiến với người Ba Tư mặt khác lại chứng tỏ sự thiếu quyết đoán của Đông La Mã dẫn đến một thoản thuận hòa bình giữa đôi bên vào năm 422 mà không cần thay đổi hiện trạng.
Tranh luận Thần học.
Trong một lần viếng thăm Syria, Theodosius đã gặp tu sĩ Nestorius, một nhà thuyết giáo nổi tiếng. Vì mến mộ tài năng lẫn đức hạnh của ông mà hoàng đế đã bổ nhiệm Nestorius làm Tổng giám mục thành Constantinople vào năm 428. Vừa nhậm chức chưa được bao lâu, Nestorius đã dính vào vụ tranh luận dữ dội giữa hai phe Thần học chỉ vì khác biệt trong quan điểm Thiên Chúa giáo. Nestorius cố gắng tìm cách dung hòa giữa hai phe, nhấn mạnh thực tế rằng Đức Chúa được sinh ra như một người bình thường, cứ khăng khăng đòi gọi Đức Mẹ Đồng Trinh Maria là "Theotokos" ("Người sinh Thiên Chúa"), và những người từ chối danh hiệu đó vì Thiên Chúa chỉ là một hữu thể vĩnh cửu, cũng có thể ngài chưa từng được sinh ra. Nestorius đề nghị dùng danh hiệu "Christotokos" ("Người sinh Chúa Kitô") như một sự thỏa hiệp nhưng không được hai phe công nhận. Ông bị cáo buộc là đã tách rời tính chất thiêng liêng và nhân tính của Chúa Kitô, kết quả là xuất hiện "hai Chúa Kitô", một tà thuyết sau này được gọi là giáo thuyết Nestoria. Dù lúc đầu được sự ủng hộ hoàng đế, Nestorius đã gặp phải một đối thủ mạnh mẽ từ Tổng giám mục Cyril thành Alexandria. Theo yêu cầu của Nestorius, hoàng đế đã cho mời một công đồng được triệu tập ở Ephesus vào năm 431. Hội đồng này đã chính thức xác nhận danh hiệu "Theotokos" và lên án Nestorius, khiến ông phải trở về tu viện của mình ở Syria và cuối cùng bị triều đình lưu đày đến sống tại một tu viện xa xôi ở Ai Cập.
Gần hai mươi năm sau, một vụ tranh cãi Thần học lại nổ ra lần nữa, lần này do Tu viện trưởng Constantinopolitan Eutyches khởi xướng, theo đó thì ông cho rằng Kitô giáo được một số người hiểu theo nghĩa phải hòa trộn bản tính Thiên Chúa và nhân tính của Chúa Kitô thành một. Vì vụ việc lần này mà Eutyches bị Tổng giám mục Flavian thành Constantinople lên án kịch liệt nhưng may nhờ vào người bạn sẽ kế thừa Cyril là Dioscurus thành Alexandria ra tay cứu giúp mới thoát khỏi bị kết án. Một công đồng khác được triệu tập ở Ephesus vào năm 449 mà về sau bị Giáo hoàng Leo I gọi là một "công đồng của kẻ cướp" vì những trường hợp hỗn loạn của nó. Công đồng này đã quyết định phục chức cho Eutyches và truất phế Flavian, ông này bị ngược đãi và chết ngay sau đó. Leo thành Rome và nhiều giám mục khác đã phản đối kết quả nhưng riêng hoàng đế lại ủng hộ. Chỉ sau khi ông qua đời vào năm 450 thì quyết định mới bị đảo ngược tại Công đồng Chalcedon năm 451.
Qua đời.
Theodosius mất vào năm 450 do bị ngã ngựa khi đang dạo chơi cùng tùy tùng. Vì không có con trai nối dõi nên đã xảy ra một cuộc tranh đấu quyền lực giữa hai phe phái trong triều, kết quả là người chị Pulcheria của ông đã giành thắng lợi sau khi đưa quân dẹp tan phe cánh của viên thái giám đầy quyền uy Chrysaphius. Sau đó, bà vội vàng kết hôn với tướng Marcianus và đưa ông lên ngôi Hoàng đế Đông La Mã để rồi cả hai vợ chồng cùng nhau trị vì đất nước.
Liên kết ngoài.
| 1 | null |
Claudius Claudianus mà trong tiếng Anh thường gọi là Claudian (370 – 404), là một nhà thơ Latinh phụng sự trong triều của Hoàng đế Tây La Mã Honorius tại Mediolanum (này là Milan nước Ý) và đặc biệt là mối quan hệ thân thiết với tướng Stilicho. Các tác phẩm do ông viết hầu như toàn là thể thơ sáu âm tiết hoặc đôi câu bi thương, thường thuộc vào ba loại chính gồm những bài thơ đề tặng cho Honorius và Stilicho cùng một thiên sử thi thần thoại.
Tiểu sử.
Claudianus sinh trưởng tại Alexandria, Ai Cập. Ông đến Roma khoảng trước năm 395, và để lại dấu ấn bằng một bài điếu văn ca ngợi hai người bảo trợ trẻ tuổi của mình là Probinus và Olybrius, vì thế mà trở thành thi sĩ trong triều. Ông đã viết một số bài thơ tán tụng chức chấp chính quan của hai người bảo trợ mình cùng những bài thơ ca ngợi những chiến công của Stilicho, đồng thời ra sức thóa mạ, đả kích những kẻ đối nghịch với Stilicho ở triều đình phía Đông của Hoàng đế Arcadius.
Từ đó mà tên tuổi của ông vang danh đến mức được triều đình phong tặng danh hiệu "vir illustris". Được Viện nguyên lão La Mã tôn vinh và cho dựng tượng ở Quảng trường La Mã vào năm 400. Thậm chí ngay cả vợ của Stilicho là Serena còn hứa sẽ kiếm một người vợ giàu có cho ông.
Vì không có bài thơ nào của Claudianus ghi lại những thành tựu của Stilicho kể từ sau năm 404, các học giả cho rằng có thể Claudianus mất vì bệnh vào năm đó tại Roma.
Ảnh hưởng.
Mặc dù là dân Hy Lạp bản xứ, Claudianus được xem là một trong những nhà thơ viết bằng tiếng Latinh hay nhất cuối thời cổ đại. Ông thường không được xếp hạng trong số các nhà thơ Latinh kiệt xuất nhất nhưng tác phẩm của ông khá tao nhã, nhất là biệt tài khéo kể chuyện và các đoạn văn bút chiến của ông đôi khi đạt đến độ vô đối của thuật đả kích. Nền văn học ở thời đại ông thường được đặc trưng bởi phẩm chất của các nhà phê bình hiện đại thích kiểu cách, thứ mà trong tác phẩm của ông chẳng chút gì phóng khoáng, đôi lúc nhạt nhẽo và vô cảm.
Thơ của Claudianus là một nguồn sử liệu có giá trị, mặc dù bị bóp méo bởi những quy ước của văn tán tụng. Những bài thơ mang tính chính trị và lịch sử có quan hệ với Stilicho được gói gọn trong những bản thảo truyền miệng riêng biệt từ số tác phẩm còn lại của ông, một dấu hiệu cho thấy có thể chúng đã được chính Stilicho xuất bản thành một bộ thi tập riêng sau khi Claudianus mất.
Tác phẩm phi chính trị quan trọng nhất của ông là một thiên sử thi chưa hoàn thành với tên gọi "De raptu Proserpinae" (Vụ bắt cóc nàng Proserpina). Bộ ba tập của thiên sử thi hiện còn tồn tại tới nay được cho là do nhà thơ viết vào khoảng năm 395 và 397. Vào thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, tuy Claudianus không còn là một trong những nhà thơ La tinh nổi tiếng nhất thời cổ đại, nhưng kiệt tác "De raptu Proserpinae" của ông đã ảnh hưởng đến nền hội họa và thi ca trong nhiều thế kỷ trước. | 1 | null |
Synesius (; khoảng 373 – 414), là một Giám mục gốc Hy Lạp xứ Ptolemais thành Pentapolis, Libya sau năm 410. sinh ra trong một gia đình giàu có thuộc dòng dõi các vị vua Sparta tại Balagrae (nay là Bayda) gần Cyrene từ khoảng năm 370 đến 375.
Tiểu sử.
Hồi còn trẻ (khoảng năm 393), Synesius cùng với người anh Euoptius chuyển đến sống tại thành Alexandria, tại đây ông trở thành một người theo thuyết Tân Platon và là môn đệ của nhà nữ toán học tài ba Hypatia. Cũng có lúc ông sống ở Athena từ năm 395 đến 399.
Năm 398, ông được chọn làm phái viên đại diện thành Cyrene và cả vùng Pentapolis đến triều đình ở Constantinopolis. Ông đã tới thủ đô trong dịp trao "khoản tiền cống nạp" ("aurum coronarium") và kiến nghị giảm thuế cho quê hương mình. Cũng tại Constantinople, nhờ khả năng ăn nói lưu loát mà ông nhận được sự bảo trợ của viên pháp quan thái thú ("Praetorian prefect") đầy quyền uy Aurelianus. Synesius rất có tài về văn chương đã sáng tác và gửi cho Hoàng đế Đông La Mã Arcadius một bài diễn văn mang tên "De Regno", đầy đủ các lời khuyên bảo mang tính chất thời sự cho việc học tập của một nhà cai trị khôn ngoan, nhưng cũng chứa đựng một tuyên ngôn táo bạo rằng ưu tiên hàng đầu của hoàng đế phải là cuộc chiến chống tham nhũng và cuộc chiến chống lại sự thâm nhập của đám người rợ trong quân đội Đông La Mã/Byzantine.
Ba năm hoạt động tại Constantinople khiến ông cảm thấy mệt mỏi, chán chường và hay cáu gắt; bù lại những lúc rảnh rỗi thì ông lại chú tâm một phần vào việc viết lách để khuây khỏa nỗi niềm. Aurelianus đã thành công trong việc chấp nhận miễn thuế xứ Cyrene và Pentapolis và miễn trừ nghĩa vụ nghị viên cho ông, nhưng về sau ông bị thất sủng và mất hết mọi thứ. Mãi sau này khi Aurelian trở lại nắm quyền mới khôi phục việc ban ân cho Synesius. Cảm kích trước tấm chân tình của Aurelian mà nhà thơ đã viết tác phẩm "Aegyptus sive de providentia", một câu chuyện ngụ ngôn kể về thần thiện Osiris và ác quỷ Typhon, ngụ ý ám chỉ Aurelian và viên tướng người Goth Gainas (quan viên trong triều Arcadius), cố gắng thông tường mọi thứ và câu hỏi bàn về việc Chúa ban phép lũ quỷ sứ.
Năm 402, trong một trận động đất, Synesius đã rời khỏi Constantinople để trở lại xứ Cyrene. Dọc đường ông đi qua thành Alexandria mà mãi tới năm 403 mới trở về; là một trong những thành phố Ai Cập mà ông đã từng kết hôn và cư ngụ, trước khi trở về xứ Cyrene vào năm 405. Những năm sau đó Synesius khá bận rộn. Mối quan tâm chính của ông là việc tổ chức phòng thủ vùng Pentapolis nhằm tránh các cuộc tấn công hàng năm của các bộ tộc láng giềng.
Năm 410, Synesius giờ trở thành một tín đồ Thiên Chúa giáo ngoan đạo chưa hề thể hiện những quan điểm thần học rõ rệt đã được dân chúng yêu mến mà bầu làm Giám mục xứ Ptolemais, sau một lúc do dự trên cơ sở cá nhân và giáo lý, cuối cùng ông đã chấp nhận đảm nhận cương vị này và được Theophilus tôn phong tại Alexandria. Một khó khăn cá nhân là ít nhất phải làm sao tránh mang tiếng xấu mà giữ được vợ mình, người mà ông rất mực gắn bó, nhưng còn phải tôn kính tính chất Chính Thống giáo mà ông đã quy định rõ ràng về tự do cá nhân đến việc bất đồng chính kiến về những vấn đề của sự sáng tạo linh hồn, sự sống lại theo nghĩa đen và cuối cùng là hủy diệt thế giới, trong khi cùng lúc đó ông đã đồng ý nhìn nhận một số nhượng bộ những quan điểm phổ biến trong việc giảng dạy công khai của mình.
Nhiệm kỳ Giám mục của ông đã gặp rắc rối không chỉ bởi những mất mát trong nước (ba người con trai của ông đã qua đời, hai đứa mất vào năm 411 và đứa thứ ba mất vào năm 413) mà còn bởi những cuộc xâm lược của quân rợ vào xứ sở quê hương (đã bị ông đẩy lùi đã chứng tỏ bản thân ông còn là một nhà tổ chức quân sự có tài) và bởi các cuộc xung đột với viên quan "praeses" Andronicus, người mà ông đã rút phép thông công do việc can thiệp vào quyền tị nạn của Giáo hội. Không rõ ông mất vào lúc nào; thường là vào khoảng năm 414, bởi vì ông có vẻ như chẳng biết gì về cái chết tàn khốc của Hypatia.
Ông hoạt động khá nhiều lĩnh vực, như được thể hiện nhất là trong các bức thư gửi bạn bè, cùng vị trí trung gian lỏng lẻo của bản thân giữa chủ nghĩa Tân Platon và Kitô giáo khiến ông trở thành một chủ đề cho những quan tâm thú vị. Mối quan tâm về khoa học của Synesius được chứng thực trong bức thư ông gửi cho Hypatia, mà nhiều học giả cho là đã phát hiện về tài liệu tham khảo sớm nhất biết đến chiếc thủy kế do chính Hypatia sáng chế, cùng với một tác phẩm viết về thuật giả kim dưới hình thức một bài chú dẫn Democritus giả hiệu.
Tác phẩm.
Những tác phẩm của ông còn tồn tại gồm: | 1 | null |
Elvis Costello (tên thật là Declan Patrick MacManus, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1954) là một ca sĩ - nhạc sĩ người Anh. Anh bắt đầu sự nghiệp với việc chơi nhạc pub rock ở London vào đầu những năm 70, sau đó gắn liền với phong trào Punk/New Wave ở Anh nửa sau thập niên này. Album đầu tay của anh, "My Aim Is True" (1976), đã ngay lập tức có được nhiều phản hồi tích cực. Ngay sau đó, Costello thành lập nên ban nhạc The Attractions. Họ đã đi tour và thu âm nhiều album cùng nhau trong suốt 10 năm, cho tới khi những bất đồng giữa anh với các thành viên dẫn tới việc ban nhạc tan rã vào năm 1986. Sự nghiệp của Costello từ đó trở nên nổi bật hơn trong vai trò solo, cho dù sau đó The Attractions cũng có vài lần tái hợp ngắn gián đoạn trong nhiều năm.
Chú trọng vào phần lời, ca từ trong các ca khúc của Costello bao hàm rất nhiều chủ đề hơn bất cứ những ca khúc phổ thông nào khác. Âm nhạc của anh cũng bao gồm nhiều thể loại, thậm chí có đánh giá đã coi anh như "một cuốn bách khoa nhạc pop" có thể "khơi gợi lại quá khứ bằng cách của mình".
Costello đã từng giành vô số giải thưởng suốt sự nghiệp của mình, trong đó có Giải Grammy, và 2 lần được đề cử Brit Award cho nghệ sĩ nam xuất sắc nhất. Năm 2003, Elvis Costello cùng The Attractions được vinh danh tại Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll. Năm 2004, tạp chí "Rolling Stone" xếp anh ở vị trí số 80 trong danh sách "100 nghệ sĩ vĩ đại nhất". | 1 | null |
Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam (tên tiếng Anh: "Vietnam Association for Victims of Agent Orange/dioxin" - VAVA) là một tổ chức xã hội tại Việt Nam, chủ trương đoàn kết, tập hợp các nạn nhân bị tổn thương bởi chất độc hóa học, phần lớn là do chất độc da cam có chứa dioxin của các công ty hóa chất Mỹ sản xuất và quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam (sau đây gọi tắt là Nạn nhân chất độc da cam) và người dân Việt Nam tự nguyện tham gia khắc phục hậu quả chất độc da cam/đioxin..
Lịch sử.
Ngày 10 tháng 1 năm 2004, Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam (Vietnam Association for Victims of Agent Orange/dioxin - VAVA) được chính thức thành lập nhằm "giúp đỡ, bảo vệ quyền lợi cho những nạn nhân chất độc da cam, góp phần khắc phục hậu quả chất độc hoá học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam và đại diện cho các nạn nhân chất độc da cam Việt Nam trong quan hệ với các cơ quan, tổ chức trong nước và nước ngoài". Một trong những việc làm đầu tiên của Hội là lập dự án "Giúp đỡ các nạn nhân chất độc da cam trong cuộc sống", đồng thời "tổ chức thu thập hồ sơ chứng cứ tiến hành khiếu kiện dân sự các công ty Mỹ sản xuất chất độc da cam để quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh".
Hoạt động.
Trung ương Hội cũng đã có định hướng phát triển mở rộng thành lập Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin địa phương tới 63 tỉnh, thành phố trong cả nước.
Đến nay, đã có 59 tỉnh, thành phố trong cả nước thành lập Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin. Nhiều tỉnh đã có 100% số huyện, xã có Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin cấp huyện và cấp xã. Các cấp cơ sở hội nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam đã giúp cho hàng nghìn nạn nhân chất độc da cam làm thủ tục để địa phương giải quyết chế độ; trợ cấp hàng trăm triệu đồng làm nhà ở cho các nạn nhân ở Thái Bình, Thừa Thiên Huế, Đồng Nai; hỗ trợ cho các nguyên đơn tham gia vụ kiện các công ty hóa chất Mỹ sản xuất chất độc này; thăm hỏi tặng quà cho các nạn nhân ở Làng Hòa Bình Thanh Xuân, Làng Hữu nghị Vân Canh (Hà Nội), cơ sở Thiên Phước (TP. Hồ Chí Minh) và các trung tâm chăm sóc nạn nhân CĐDC/dioxin.
Ngày 10 tháng 8 hàng năm đã được chọn làm Ngày vì nạn nhân chất độc da cam.
Điều lệ Hội.
Hội có điều lệ riêng quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hội, nguyên tắc tổ chức, hoạt động của hội... có thể được tải về để xem tại đây . | 1 | null |
Hồ Thị Chỉ (chữ Hán: 胡氏芷; 1902 - 1982), là Nhất giai Ân phi (一階恩妃) của hoàng đế Khải Định thuộc triều đại nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Khi Hoàng quý phi Trương Như Thị Tịnh bỏ đi tu, bà có vai trò lớn nhất trong hậu cung của Khải Định.
Câu chuyện về bà là một bi kịch, khi yêu hoàng đế Duy Tân nhưng cuối cùng bà lại trở thành hoàng phi của Khải Định. Bà sống cuộc sống tẻ nhạt bên cạnh Khải Định, không con cái, cho đến lúc ông mất thì bà phải dọn ra khỏi hoàng cung, sống cô đơn cho đến cuối đời.
Tiểu sử.
Theo tộc phả của dòng họ Hồ Đắc ở làng An Truyền (làng Chuồn); nay là xã Phú An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên – Huế, thì bà Hồ Thị Chỉ là con gái của Thượng thư bộ Học Hồ Đắc Trung và bà Châu Thị Ngọc Lương; cháu nội của Hầu tước Hồ Đắc Tuấn và Quận chúa Công nữ Thức Huấn, con gái của Tùng Thiện vương Nguyễn Phúc Miên Thẩm – Hoàng tử thứ 10 của vua Minh Mạng. Các anh em trai của bà là Hồ Đắc Khải, Hồ Đắc Điềm, Hồ Đắc Di, Hồ Đắc Ân, Hồ Đắc Lân và Hồ Đắc Thứ. Các chị em gái là Hồ Thị Hạnh, Hồ Thị Huyên và Hồ Thị Phương.
Mối tình với vua Duy Tân.
Theo sử sách, vào khoảng năm 1913, khi vua Duy Tân 14 tuổi, ở ngôi được 6 năm, để nhà vua ở tuổi thiếu niên không vướng vào chính trị như vua cha Thành Thái, người Pháp cho xây tòa "Thừa lương" ở Cửa Tùng (Quảng Trị). Vào mùa hè hàng năm, nhà vua ra nghỉ ngơi tắm biển. Cùng tháp tùng nhà vua trong mỗi lần ra Cửa Tùng có ông Hồ Đắc Trung, Thượng thư bộ Học, cùng 4 người con: Hồ Đắc Điềm, Hồ Đắc Di, Hồ Thị Chỉ, Hồ Thị Hạnh, để nhà vua có bạn trò chuyện, nô đùa. Lúc ấy, Hồ Thị Chỉ mới 12 tuổi mà đã có nhiều nét xuân thì, vừa xinh xắn yểu điệu, vừa hay thẹn thùng e lệ trông rất dễ thương, dễ mến. Ngay từ phút đầu, nàng đã làm cảm động vị vua trẻ.
Năm sau gần đến hè, vì Hồ tiểu thư đã lớn nên không được phép cùng các anh ra chơi Cửa Tùng. Hồ Thị Chỉ thương nhớ vua nên cứ giọt ngắn giọt dài, vậy mà vẫn không lay chuyển được quyết định của mẹ. Còn vua Duy Tân cũng rất buồn nhớ, luyến tiếc hè năm ngoái... Do vậy, khi vua được hai bà Hoàng Thái Hậu cho phép nạp phi, ông đã chọn tiểu thư họ Hồ.
Sư bà Diệu Không kể:
Thế nhưng, trớ trêu là cuối năm 1915, vua Duy Tân đã mời Thượng thư Hồ Đắc Trung gặp riêng và nói lời rút lui việc hôn nhân với Hồ Thị Chỉ mà không cho biết lý do. Đầu năm 1916, lễ nạp phi diễn ra, người ngồi kiệu hoa vào cung là tiểu thư Mai Thị Vàng, con gái ông Mai Khắc Đôn, thầy dạy chữ Hán cho vua Duy Tân.
Gia đình Thượng thư Hồ Đắc Trung, nhất là Hồ Thị Chỉ đã rất thất vọng và buồn chán. Đến tháng 5/1916, vua Duy Tân bị Pháp bắt vì tham dự cuộc khởi nghĩa vũ trang do Việt Nam Quang phục hội lãnh đạo. Từ biến cố này, nguyên nhân của việc nhà vua từ hôn với Hồ Thị Chỉ đã được sáng tỏ. Theo lời khai của nhà vua với người Pháp, sở dĩ ông thay đổi ý định kết hôn với con gái Thượng thư Hồ Đắc Trung vì lúc bấy giờ, ông đã nhận lời tham dự cuộc khởi nghĩa vũ trang do Quang Phục hội lãnh đạo, nên không muốn người yêu là Hồ Thị Chỉ và gia đình đông con của Thượng thư Hồ Đắc Trung phải gánh chịu liên lụy.
Lại nói, ban đầu, người Pháp cũng đặt Hồ Đắc Trung vào vị trí số người có nghi vấn liên quan đến cuộc khởi nghĩa bất thành, nên nhờ lời khai đó, ông được công nhận là vô can. Tiểu thư Hồ Thị Chỉ càng thêm cảm phục quý mến tình cảm của Duy Tân và nguyện một đời sống chết vì vua. Thế nhưng, cuộc đời bà lại rẽ sang một hướng khác.
Trở thành Ân phi vua Khải Định.
Hoàng đế Khải Định, tên Nguyễn Phúc Bửu Đảo, còn có tên là Nguyễn Phúc Tuấn; là con trưởng của hoàng đế Đồng Khánh và Tiên Cung hoàng hậu Dương Thị Thục. Dân gian thường gọi Bửu Đảo là ông Hoàng Cả. Giống vua cha, Khải Định nổi tiếng là một ông vua bù nhìn theo Pháp, ham chơi, thích trang điểm lòe loẹt, nửa cổ nửa kim. Theo giai thoại được truyền tụng trong dân gian thì Khải Định là người đồng tính nhưng lại có tất cả 12 bà vợ, trong đó có 2 bà được cưới hỏi theo đúng nghi lễ triều đình, đó là bà Trương Như Thị Tịnh đã xuất gia tu hành trước khi Khải Định lên ngôi và bà Hồ Thị Chỉ cưới sau ngày lên ngôi.
Năm 1917, Khải Định ngự giá lễ đặt viên đá đầu tiên xây trường nữ sinh Đồng Khánh. Vua thấy một nữ sinh xinh đẹp, khoan thai kính cẩn dâng lên ngài một chiếc kéo mới tinh đặt trên một cái khay phủ gấm điều. Hoàng thượng nhận chiếc kéo để cắt giải lụa hồng, buộc ngang cổng trường, trước khi tiến vào sân hành lễ. Thế rồi, cô thiếu nữ sau này được đưa vào nội cung làm hoàng phi.
Hồi ký của sư bà Diệu Không ghi lại cuộc gặp ngỏ lời cầu hôn với Hồ Thị Chỉ giữa vua Khải Định và Thượng thư Hồ Đắc Trung:
Đối với ông Hồ Đắc Trung, đây là một tin sét đánh vì ông biết con gái ông rất nặng tình với cựu hoàng Duy Tân, không dễ gì chấp nhận làm vợ Khải Định. Và đúng như thế, khi nghe cha nói lại ý định của vua, cô Hồ Thị Chỉ đã vừa khóc vừa thưa: ""Con xin nguyện ở với cha mẹ trọn đời không lấy ai nữa hết!".
Ông bà Hồ Đắc Trung, anh cả Hồ Đắc Khải, em gái Hồ Thị Hạnh đã họp bàn tìm cách thuyết phục Hồ Thị Chỉ vì họ thừa biết, tuy Khải Định mới ngỏ ý nhưng đây đã là "khẩu dụ" của nhà vua, nếu không nghe theo thì cả nhà không tránh khỏi tội khi quân, kháng chỉ, tai họa khôn lường. Họ đã nghĩ đến chuyện hai cha con Hồ Đắc Trung, Hồ Đắc Khải xin từ quan về làm ruộng.
Liền mấy ngày đêm, cả nhà ra sức khuyên giải Hồ Thị Chỉ. Cô em Hồ Thị Hạnh đêm nằm bên chị rỉ rả thuyết phục: "Thầy và anh Khải đều là văn nhơn, nay về làm ruộng sao được. Huống nữa còn 4 anh em đang học ở Hà Nội, vậy ai là người nuôi các anh nên tương lai? Nếu chị mà không biết hy sinh thì chị còn thua nàng Kiều đã bán mình chuộc cha. Còn Ngài (Duy Tân) đã vị quốc gia, vậy sao chị không vị gia đình như Ngài đã hy sinh vì nước?". Cuối cùng, sáng hôm sau, đôi mắt còn sưng húp, nét mặt buồn phiền, Hồ Thị Chỉ sang phòng cha và thưa: "con xin nghe lời Thầy và anh!".
Ngày 3 tháng 12 cùng năm, lễ nạp phi đã diễn ra long trọng và Hồ Thị Chỉ được phong làm Ân phi, thuộc hàng Nhất giai Phi là tước hiệu cao quý nhất trong hàng "cửu giai" do triều Nguyễn ban tặng cho các bà vợ của vua trong nội cung, chỉ dưới Hoàng quý phi là chính thất của nhà vua.
Bà rất được nể trọng với tư cách là Hoàng hậu, xuất hiện cùng Khải Định trong những lần tiếp tân, yến tiệc với quan khách trong ngoài nước. Bà xinh đẹp, thông thái, am hiểu văn hóa, ứng xử với phương Đông phương Tây, nói tiếng Pháp rất thông thạo, thường làm phiên dịch cho nhà vua.
"Tuy được gả cho vua mà tình người con gái vẫn còn quyến luyến vua cũ không nguôi, còn thầy tôi làm quốc trượng... mà lòng vẫn buồn nên thường lui tới chùa Trúc Lâm để tâm sự với hòa thượng Giác Tiêu cho vơi bớt nỗi sầu thế sự", sư bà Diệu Không cho biết.
Cuối đời.
Sau ngày Khải Định qua đời (1925), bà Ân phi không có được mụn con với nhà vua. Thái tử Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy lên nối ngôi đặt niên hiệu Bảo Đại. Vua Bảo Đại lập lại các danh hiệu Hoàng thái hậu, Hoàng hậu, Đông cung thái tử và thay đổi cả nghi thức nội cung, chỉ phong cho mẹ đẻ là bà Hoàng Thị Cúc chức Đoan Huy Hoàng Thái hậu, tức bà Từ Cung có quyền thế bậc nhất trong nội cung. Ân phi Hồ Thị Chỉ không được thụ phong, không sống trong nội cung, mà sống ở Cung An Định, rồi chuyển về ngôi biệt thự 145 (79D cũ) ở đường Phan Đình Phùng (Huế) trú ngụ.
Cuộc đời thăng trầm cay đắng, hai lần "nạp phi", không có con, bà Ân Phi Hồ Thị Chỉ phiền muộn âu sầu, mắc phải chứng trầm cảm, rối loạn tâm thần. Bà sống lay lắt và đơn độc. Ngày ngày bà mang một rổ bánh nậm, lọc ra bán ở chợ An Cựu để kiếm sống qua ngày, ai thích thì cho, ai không thích không bán, ăn mặc và chỗ ở rất luộm thuộm. Bệnh thần kinh ngày càng có chiều hướng nặng hơn.
Năm 1975, hai người anh ruột của bà là Hồ Đắc Điềm và Hồ Đắc Di từ Hà Nội vào Huế đã gặp lại người em gái của mình sau bao năm xa cách. Từ đó cuộc sống của bà được cải thiện hơn, tỉnh táo hơn, không đi lang thang nữa. Hàng tuần bà vẫn đi cầu kinh ở Dòng Chúa Cứu Thế.
Bà mất vào năm 1985 vì suy kiệt và tiêu chảy cấp tại bệnh viện Trung ương Huế, hưởng thọ 83 tuổi. Mộ phần của bà được an táng bên cạnh song thân trong khuôn viên lăng mộ Hồ Đắc trên ngọn đồi thông gần chùa Hồng ân do ni trưởng Thích Nữ Diệu Không (em gái của bà) sáng lập và trụ trì. Hiện nay tại khu vực này có nhà Tưởng niệm họ Hồ và gia tộc Hồ Đắc mới được xây cất bên cạnh bảo tháp của Sư bà Diệu Không. | 1 | null |
là tên tiểu thuyết phát hành năm 2013 của Murakami Haruki. Đây cũng là tiểu thuyết đầu tiên trong vòng 3 năm kể từ tập cuối tiểu thuyết "1Q84" phát hành năm 2010.
Cốt truyện.
Tazaki Tsukuru có bốn người bạn thân thời cấp 3. Trong tên của họ đều có Hán tự chỉ màu sắc như "đỏ", "xanh", "trắng" và "đen". Trong tên Tazaki không có gì chỉ màu sắc nên cậu cảm thấy lạ lẫm và lo lắng. Cũng chỉ có mình cậu trong nhóm bạn đó rời bỏ quê nhà đi học một trường đại học ở Tokyo.
Rồi một ngày nọ, khi đó cậu 20 tuổi, bốn người kia bảo chấm dứt tình bạn với cậu. Không hiểu lý do vì sao, cậu cảm thấy mất mát và trở nên cô độc. Bởi thế, từ tháng 7 năm thứ hai đại học đến tháng 1 năm thứ ba, "cậu sống mà lúc nào cũng nghĩ đến chết".
Thời gian trôi đi, Tazaki đã trở thành một kỹ sư thiết kế đường ray xe lửa và đã 36 tuổi. Bề ngoài, cậu là một người đàn ông thành đạt song thực ra, sự khước từ của bốn người bạn kia đã để lại một vết sẹo không thể nào xoá được trong tâm hồn cậu. Khi tâm sự với người mình yêu về quá khứ của mình, cô gái nói "Anh phải thẳng thắn đối diện quá khứ". Bởi vậy, Tazaki quyết định thực hiện một chuyến "hành hương" kéo dài nhiều năm để đi tìm căn nguyên cho hành động của bốn người bạn của cậu 16 năm trước. Cậu luôn cảm thấy mình là một kẻ thiếu màu sắc hay nhân phẩm, sống một cuộc đời trống rỗng và phù du.
Quá trình sáng tác.
"Kể từ một câu chuyện giống như đường trượt như '1Q84', tôi muốn viết một thứ gì đó khác đi." Murakami nhắn nhủ nhà xuất bản của mình vào tháng 2. "Nhưng tôi không biết nó sẽ như thế nào cho đến khi tôi thực sự bắt đầu xắn tay viết." Ông còn cho biết thêm: "Ban đầu tôi định viết một truyện ngắn nhưng tôi càng viết, nó tự nhiên càng dài ra. Chuyện này không thường xảy ra với tôi lắm, có lẽ là lần đầu tiên kể từ khi viết "Rừng Na Uy".
Phát hành.
Tháng 2 năm 2013, ông thông báo cuốn tiểu thuyết đầu tiên trong 3 năm kể từ "1Q84" sẽ được phát hành vào tháng 4. Ngày 12 tháng 4, cuốn sách được chính thức phát hành với tên "Shikisai wo motanai Tazaki Tsukuru, kare no junrei no toshi" (nghĩa là "Tazaki Tsukuru không màu và những năm hành hương của cậu"). Bức tranh tên "Pillar of Fire" của Morris Louis được sử dụng làm hình bìa sách.
Ban đầu cuốn sách được cho in 500.000 bản nhưng với số lượng đơn đặt hàng tăng cao, Bungeishunju, nhà xuất bản cuốn sách đã phải in thêm 300.000 bản, phá kỷ lục lượng bản in đầu của bất cứ cuốn sách nào. Một tuần sau khi phát hành, nhà xuất bản đã cho in lên đến 1 triệu bản. Đây cũng là cuốn sách đầu tiên của Murakami Haruki có tên tiếng Anh chính thức "Colorless Tsukuru Tazaki and His Years of Pilgrimage". Nửa sau tên cuốn sách ám chỉ bản nhạc "Years of Pilgrimage" của nhạc sĩ người Hungary, Franz Liszt. Cũng chính bản nhạc này đã góp phần thôi thúc Tazaki thực hiện cuộc "hành hương" của mình. Cũng sau khi cuốn sách phát hành, album solo của nghệ sĩ piano người Nga Lazar Berman, trong đó có chứa bản thu "Years of Pilgrimage", cũng đã cháy hàng tại Nhật. Universal Music gấp rút cho ấn hành lại album để phát hành vào ngày 15 tháng 5 năm 2013.
Khu sách Daikanyama Tsutaya ở Shibuya, Tokyo đã cho đếm ngược thời gian và bắt đầu thực hiện bán cuốn sách lúc nửa đêm trong vòng 3 tiếng đồng hồ. Trong sự kiện này, nhà phê bình văn học Fukuda Kazuya cũng có mặt để chào người đọc và nói chuyện với họ về các tác phẩm đã xuất bản của Murakami Haruki.
Tháng 5 năm 2013, Philip Gabriel, một trong các dịch giả chính của Murakami Haruki sang tiếng Anh, xác nhận rằng ông đang dịch cuốn sách này và dự kiến cuối năm 2013 sẽ hoàn thành để xuất bản năm 2014. Trong một đoạn phỏng vấn bằng e-mail, Gabriel nói: "Đây là một cuốn sách rất thực tế, như "Rừng Na Uy" vậy. Nó, với tôi, có vẻ nặng nề, thậm chí là u buồn hơn so với những tác phẩm khác, nhưng quan trọng nhất, là nó có triển vọng". Đồng thời trong thời gian này, một cuốn sách phi hư cấu của Murakami có tên "Ozawa Seiji-san to Ongaku ni Tsuite Hanashi wo Suru" (nghĩa là "Tôi nói với nhạc trưởng Ozawa Seiji về âm nhạc") (2011) cũng đang được dịch sang tiếng Anh bởi Jay Rubin.
Tại Hàn Quốc, sau cuộc tranh chấp giữa các đơn vị xuất bản lớn thì cuối cùng, Minumsa đã mua thành công bản quyền của "Tazaki Tsukuru" với mức giá tối thiểu ước tính 150 triệu won (khoảng 2,7 tỉ đồng).
Tại Việt Nam, cuốn sách sẽ được đơn vị chuyên phát hành sách của Murakami Haruki tại Việt Nam - Nhã Nam - phát hành và được dịch bởi Uyên Thiểm (Lương Việt Dũng). Đây sẽ là tiểu thuyết đầu tiên và là ấn phẩm thứ sáu có bản quyền (sau chùm 5 tập truyện ngắn do Nhà xuất bản Đà Nẵng phát hành năm 2006 - 2007) của Haruki được dịch từ nguyên tác tiếng Nhật sang tiếng Việt. Bản tiếng Việt được ra mắt từ cuối tháng 9 năm 2014. | 1 | null |
Vũ Linh, tên thật là Võ Văn Ngoan (10 tháng 12 năm 1958 – 5 tháng 3 năm 2023) là một nghệ sĩ cải lương nổi tiếng người Việt Nam. Ông được khán giả biết đến qua nhiều tuồng hát nổi bật như: "Hòn vọng phu", "Giũ áo bụi đời", "Bức ngôn đồ Đại Việt", "Cô đào hát", "Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài"...
Thân thế và sự nghiệp.
Xuất thân trong gia đình nghèo nên việc học hành dang dở, ông đi hát năm 11 tuổi đến năm 13 tuổi, gia đình cho ông học hát ở trường Văn Phát, sau chuyển qua học ca cổ với Văn Vĩ. Năm 1972, ông theo đoàn hát Đồng Ấu Hoa Thế Hệ đi lưu diễn ở các tỉnh, một thời gian sau ông về hát cho gánh Hoa Anh Đào Kim Chưởng và gặp được nghệ sĩ ưu tú Diệu Hiền và nghệ sĩ Trương Ánh Loan, hai người này được cho là đã thương mến ông như con em trong nhà và tận tình chỉ dẫn ông trong nghề nghiệp.
Ông đã từng cộng tác với những đoàn hát khác như: Khánh Hồng An Giang, Thiên Nga, Sơn Minh...
Năm 1981, ông trở về thành phố lần đầu tiên và hát cho gánh Minh Tơ và Huỳnh Long. Năm 1983, ông theo hợp tác với gánh Lâm Đồng đi lưu diễn các tỉnh. Đến năm 1988, ông cộng tác với Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang 2 và chính năm này Vũ Linh thực sự bước lên đài vinh quang sau hơn 15 năm trong nghề, cũng chính nơi đây ông đã đưa nghệ thuật sân khấu cải lương tuồng cổ trở lại với quần chúng, bắt đầu bằng vở "Xa phu đi sứ". Không lâu sau đó là một loạt những tuồng cải lương Hồ quảng nổi tiếng khác như Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài, Bàng Quý Phi, Thần Nữ dâng Ngũ Linh Kỳ, Chiêu Quân cống Hồ... Vài năm sau ông cũng có về cộng tác với các gánh Sông Bé 2, Sông Bé 3.
Năm 1989, ông đạt hạng nhì trong 10 diễn viên được ưa thích nhất trong năm. Năm 1990, ông hợp tác với Tài Linh ghi dấu trong các vở "Xử án Bàng Quý Phi" (Tống Nhơn Tôn và Bàng Quí Phi), "Trảm Trịnh Ân" (Triệu Khuông Dẫn và Hàn Tố Mai), "Thần Nữ dâng Ngũ Linh Kỳ" (Tiết Ứng Luông và Thần Nữ), "Thái Tử Đan giả gái" (Thái Tử Đan và Vũ Tuyết Nương) ... và đạt hạng nhất trong 10 diễn viên được ưa thích nhất trong năm. Năm 1991, đoạt Huy Chương Vàng giải Triển Vọng Trần Hữu Trang. Ông là nam nghệ sĩ duy nhất trong số 6 diễn viên đoạt giải năm đó (Vũ Linh, Thanh Thanh Tâm, Ngọc Huyền, Tài Linh, Phương Hồng Thủy, và Thanh Hằng). Năm 1995, đoạt Huy chương Vàng giải xuất sắc Trần Hữu Trang. Đây là năm đầu tiên giải Trần Hữu Trang có phát thêm giải Diễn viên xuất sắc. Trích đoạn ông diễn khi đi dự thi là nhân vật Nguyễn Địa Lô trong tuồng Bức Ngôn Đồ Đại Việt.
Đến năm 1997, ông được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú.
Vũ Linh đã quay trên 400 video cải lương hồ quảng và xã hội. Ngoài ra ông cũng tham gia rất nhiều trong những video ca nhạc như "Duyên tình", "Tình đời". Ông cũng tham gia diễn xuất trong 2 cuốn phim truyện, Cô Bé Mộng Mơ và Búp Bê Kỳ Quái. Vũ Linh đã diễn chung với nhiều nữ nghệ sĩ trên sân khấu cũng như trong video như: Phương Hồng Thủy, Tài Linh, Thanh Thanh Tâm, Thoại Mỹ, Thanh Hằng, Thanh Ngân, Hương Lan, Phượng Mai...
Vũ Linh sinh ra trong gia đình có sáu anh chị em. Ông là người con thứ tư nên những người thân thuộc, anh em trong nhà gọi anh là Anh Năm. Hai người em của ông cũng trong giới nghệ sĩ, đó là Hồng Nhung và Tiểu Linh. Ông có 2 người con, con trai cả đã mất năm 4 tuổi do bệnh kinh phong, người con gái út tên Võ Thị Hồng Loan, sinh năm 1987.
Qua đời.
Ông qua đời tại nhà riêng ở quận Phú Nhuận do bệnh tật vào trưa ngày 5 tháng 3 năm 2023, hưởng thọ 65 tuổi.
Linh cữu của ông được an táng ở Nghĩa trang Hoa viên Bình Dương vào ngày 9 tháng 3 năm 2023. | 1 | null |
Hải âu Tristan (tên khoa học Diomedea dabbenena) là một loài loài chim biển trong họ Hải âu. Đây là một trong những loài hải âu lớn của chi Diomedea, và đã được công nhận rộng rãi như là một loài vào năm 1998.
Số lượng cá thể.
Quần thể sinh sản ở Đảo Gough có 2 đến 3 cặp nhưng không liên tục trên đảo. Quần thể sinh sản hàng năm được ước tính từ 1.250 đến 1.750 cặp sinh sản. Tương đương với 3.400-4.800 cá thể trưởng thành sinh sản hai năm một lần. Các số liệu gần đây cho thấy số lượng cá thể của loài hải âu Tristan trên Gough đã giảm 28% trong vòng 46 năm và ở mức 3-5% hàng năm từ năm 2000 đến năm 2016, tỷ lệ suy giảm cá thể hàng năm là 2,9-5,3%. Số lượng cá thể loài này đã giảm 96% trong vòng 3 thế hệ qua. Do đó, tỷ lệ suy giảm liên tục được đặt ở đây trong dải 80-100% trong ba thế hệ (86 năm). | 1 | null |
Khu khai mỏ Cornwall và Tây Devon là một di sản thế giới, trong đó bao gồm cảnh quan khai thác tại Cornwall và Tây Devon ở phía tây nam của Vương quốc Anh. Các địa điểm đã được thêm vào danh sách di sản thế giới tại phiên họp thứ 30 của UNESCO tại Vilnius vào năm 2006. Đây là các mỏ khai thác đồng và thiếc thế kỷ 18 và 19, thể hiện sự đóng góp của các mỏ tại Cornwall và Tây Devon cho cuộc cách mạng công nghiệp ở nước Anh, tạo ra ảnh hưởng sâu sắc tới ngành công nghiệp khai thác trên toàn thế giới.
Lịch sử.
Tính đến giữa thế kỷ 16, Devon khai thác khoảng 25-40% sản lượng thiếc so với Cornwall nhưng tổng số tiền thu được từ việc khai thác tại Cornwall và Devon trong giai đoạn này là tương đối nhỏ. Sau những năm 1540, khai thác tại Cornwall đã có những tiến bộ vượt bậc và khai thác của Devon chỉ khoảng 1/10 so với Cornwall. Từ giữa thế kỷ 16 trở đi, các mỏ tại Devon có giá trị rất nhỏ trong thu nhập cho nhà vua và đã phải ngừng sản xuất theo Đạo luật 1512 của Quốc hội (điều này không áp dụng cho các mỏ tại Cornwall).
Phong cảnh tại Cornwall và Tây Devon đã được định hình lại hoàn toàn trong suốt thế kỷ 18 và 19 bằng cách khai thác hầm mỏ đối với đồng và thiếc. Các hầm mỏ, nhà máy, xưởng đúc, nhà ở, đồn điền, bến cảng và các ngành công nghiệp phụ trợ mọc lên đánh dấu sự đổi mới về năng suất khai thác. Trong những năm đầu thế kỷ 19, các khu vực này khai thác và cung cấp hai phần ba lượng đồng cho toàn thế giới. Trong thời gian cuối thế kỷ 19, các mỏ ở phía đông của Cornwall và Tây Devon cung cấp một nửa nhu cầu về sản lượng Asen cho thế giới.
Đầu thế kỷ 19 cũng chứng kiến một cuộc cách mạng về công nghệ động cơ hơi nước làm thay đổi bộ mặt của ngành khai khoáng. Động cơ bơm chùm được phát triển bởi các kỹ sư Richard Trevithick và Arthur Woolf cho phép khai thác ở độ sâu lớn hơn nhiều và đã được áp dụng cho đến tận nay. Động cơ chùm và các máy móc khai thác mỏ đã được xuất khẩu từ các xưởng đúc kỹ thuật chính trong vùng ở Hayle, Perranarworthal, Tavistock... đến các khu khai thác mỏ trên toàn thế giới.
Khu vực.
Di sản thế giới này bao gồm các khu vực riêng biệt được liên kết với nhau theo chủ đề trải dài từ Cornwall qua Tây Devon. Nó gồm: | 1 | null |
là bộ phim điện ảnh sản xuất năm 2005, đạo diễn là Satoshi Miki, ông cũng đồng thời là một nhà viết kịch bản.
Tóm tắt.
Suzume là một người vợ luôn phải sống một mình khi chồng cô đi nước ngoài làm việc. Cuộc sống của cô buồn tẻ đến mức chỉ có con rùa làm bạn. Chồng cô thỉnh thoảng cũng gọi điện về nhưng điều duy nhất mà anh ta qua tâm là cô có chăm sóc, có cho rùa ăn hay không?
Một ngày nọ, cô quyết định leo lên một cầu thang một00 bậc trong một0 phút với hy vọng sẽ có điều may mắn xảy ra với mình. Tuy nhiên, khi cô đang leo giữa chừng thì phía trên có một xe táo đi ngang làm đổ cả đống táo xuống cầu thang. May thay, Suzume nhanh chân tránh được, thoát chết. Đúng lúc này Suzume nhìn thấy một thứ có thể thay đổi đời cô: một tấm áp phích chiêu dụ làm điệp viên.
Cô cảm thấy cuộc đời mình thật tẻ nhạt, cô vị nên quyết định gia nhập làm điệp viên cho một chính phủ nước ngoài. Những điệp viên cũ nhận thấy Suzume có tố chất trở thành điệp viên siêu hạng nên đưa cô 5 triệu và Suzume bắt đầu công việc mới của mình - một điệp viên, với sự huấn luyện của đôi vợ chồng điệp viên. Từ đây cô trải qua những ngày tháng tập luyện và trải qua một số chuyện làm thay đổi cuộc sống của cô.
Nhận xét.
Nhà báo Emma Slawinski của trang phê bình "Eye for Film" chỉ trích gay gắt bộ phim khi cô viết, "(bộ phim) là một đống hổ lốn pha trộn giữa các nhân vật, các cảnh quay và những sự kiện nhằm cố gắng tạo ra một âm mưu tinh vi", " Cũng có một vài điểm tinh tế và những tình tiết thú vị nhưng chúng lại trở nên nhàm chán khi đi dần đến cuối phim, kết quả là bộ phim kết thúc hoàn toàn thất bại. Trong khi đó, nhà báo Kevin Gilvear của tờ "DVD Times" lại dành những lời khen ngợi cho đạo diễn và bộ phim khi ông so sánh với bộ phim ra mắt của Satoshi Miki, "In the Pool". Ông "...gửi lời cảm ơn tới dàn diễn viên tươi trẻ và đa dạng các sắc thái giúp mọi người có thể nở nụ cười thỏa mãn khi bước ra khỏi rạp.
Phát hành.
Phim phát hành lần đầu ở Nhật Bản vào ngày 2 tháng 7/2005, phim tiếp tục phát hành ở Hàn Quốc vào ngày 19 tháng 10/2006. Sau đó phim được trình chiếu ở Liên hoan phim Raindance, Anh vào ngày 28 tháng 10/2008 và ở Đài Loan vài ngày 7 tháng 10/2008. | 1 | null |
Tiêu Đống (, ?- 552), tên tự Nguyên Cát (元吉), đôi khi được biết đến với tước hiệu trước khi đăng cơ là Dự Chương vương (豫章王), là một hoàng đế có thời gian trị vì ngắn ngủi của triều đại Lương trong lịch sử Trung Quốc. Năm 551, khi tướng Hầu Cảnh nắm quyền kiểm soát triều đình ở Kiến Khang, ông ta muốn thể hiện quyền lực nên đã phế truất Giản Văn Đế và đưa Tiêu Đống lên thay thế.
Trong thời gian trị vì ngắn ngủi của mình, Tiêu Đống hoàn toàn nắm dưới sự kiểm soát của Hầu Cảnh. Chỉ hai tháng rưỡi sau khi Tiêu Đống đăng cơ, Hầu Cảnh đã buộc ông phải thiện nhượng cho ông ta. Năm 552, quân của Vương Tăng Biện (王僧辯) đã công chiếm Kiến Khang, theo lệnh của Tiêu Dịch, tướng Chu Mãi Dịch (朱買臣) đã quăng Tiêu Đống và hai hoàng đệ xuống Trường Giang.
Bối cảnh.
Tiêu Đống là trưởng tử của Dự Chương vương Tiêu Hoan (蕭歡)- trưởng tử của Thái tử Tiêu Thống của Lương Vũ Đế. Khi Tiêu Thống qua đời vào năm 531, Lương Vũ Đế đã dự tính lập Tiêu Hoan làm thái tử theo nguyên tắc của Nho giáo, song cuối cùng đã thay đổi ý định và chỉ phong Tiêu Hoan làm Dự Chương vương. Lương Vũ Đế thay vào đó lập thứ tử Tiêu Cương làm thái tử. Mẫu thân của Tiêu Đống là Vương vương phi. Ông có hai người đệ được ghi tên trong sách sử là Tiêu Kiều (蕭橋) và Tiêu Cù (蕭樛). Sau khi Tiêu Hoan qua đời, Tiêu Đống kế tập tước vị Dự Chương vương.
Năm 548, tướng Hầu Cảnh nổi dậy và chiếm được kinh thành Kiến Khang của Lương vào năm 549. Hầu Cảnh tiến hành quản thúc với các thân vương của hoàng tộc họ Tiêu, bao gồm Tiêu Đống. Sau khi Lương Vũ Đế qua đời trong cùng năm, Tiêu Cương đăng cơ kế vị, tức Giản Văn Đế, song vẫn nằm dưới quyền kiểm soát của Hầu Cảnh.
Năm 551, sau khi thất bại trước bộ tướng Vương Tăng Biện của Tương Đông vương Tiêu Dịch, Hầu Cảnh rút về Kiến Khang. Để thể hiện quyền lực của mình, Hầu Cảnh đã phế truất Giản Văn Đế và đưa Tiêu Đống lên ngôi. Khi người trong triều đình đến phủ của Tiêu Đống để hộ tống ông vào cung, ông cùng Trương vương phi đang chăm sóc cho khu vườn của họ, trồng các loại rau để tự cung cấp trong bối cảnh chiến loạn gây ra nạn đói tại khu vực kinh thành. Tiêu Đống sửng sốt khi đám rước đến, ông không biết phải đối phó ra sao, khóc lóc mà bước lên loan giá. Hầu Cảnh tuyên bố Tiêu Đống là hoàng đế.
Trị vì ngắn ngủi.
Tiêu Đống không có thực quyền do chúng đều nằm trong tay Hầu Cảnh. Tiêu Đống truy phong cho tổ phụ và phụ thân là hoàng đế, và tôn mẫu thân Vương thị làm hoàng thái hậu. Ông lập Trương vương phi làm hoàng hậu.
Hai tháng rưỡi sau khi Tiêu Đống đăng cơ, Hầu Cảnh đã buộc Tiêu Đống phải thiện nhượng cho mình. Hầu Cảnh trở thành "Đại Hán hoàng đế", giáng Tiêu Đống làm Hoài Âm vương, song giam cầm ông và hai hoàng đệ trong một giam ngục bí mật.
Qua đời.
Vào mùa xuân năm 552, Vương Tăng Biện công chiếm Kiến Khang, buộc Hầu Cảnh phải chạy trốn. Thoạt đầu, Tiêu Dịch lệnh cho Vương Tăng Biện giết chết Tiêu Đống, song Vương Tăng Biện đã từ chối và nói rằng mặc dù ông ta nguyện đánh Hầu Cảnh, song việc giết chết một hoàng đế nên giao phó cho người khác. Do đó, Tiêu Dịch đã lệnh cho Chu Mãi Dịch hành động.
Do Hầu Cảnh đã chạy trốn, Tiêu Đống và hai hoàng đệ thoát khỏi giam ngục, song vẫn bị xích. Họ gặp được tướng Đỗ Trắc (杜崱), và được người này giúp bỏ đi xiềng xích. Tiêu Kiều và Tiêu Cù vui mừng nói, "Cuối cùng hôm nay chúng ta đã thoát khỏi hoành tử." Tiêu Đống thuyết, "Khó mà biết được đó là họa hay phúc, sự tình rất khó nói." Ngay sau đó, họ gặp phải Chu Mãi Dịch, người này mời họ đến uống rượu trên thuyền. Tuy nhiên, trước khi tàn tiệc rượu, lính của Chu Mãi Dịch đã tóm lấy và quăng họ xuống Trường Giang. | 1 | null |
"Penny Lane" là ca khúc của ban nhạc The Beatles, được viết chính bởi Paul McCartney, song vẫn được ghi cho Lennon-McCartney. Ca khúc được phát hành vào tháng 2 năm 1967 trong quá trình thu âm "Sgt. Pepper" đi kèm với đĩa đơn "Strawberry Fields Forever" ở mặt A. Cả hai ca khúc này sau đó đều được cho vào trong album "Magical Mystery Tour" (1967). Đĩa đơn này thực tế được phát hành vì các nhà sản xuất không muốn có một khoảng thời gian gián đoạn quá dài của ban nhạc.
Năm 2004, tạp chí "Rolling Stone" xếp "Penny Lane" ở vị trí 456 trong danh sách "500 bài hát vĩ đại nhất".
Thành phần tham gia sản xuất.
Theo Ian McDonald:
Tháng 8 năm 1987, cây piccolo trumpet mà Mason chơi solo trong ca khúc này và 2 ca khúc khác của The Beatles ("All You Need Is Love" và "Magical Mystery Tour") đã được bán đấu giá bởi Sotheby's với giá 10.846$. | 1 | null |
Đình Bình Hòa là một ngôi đình cổ, hiện tọa lạc ở số 15/77 đường Chu Văn An, thuộc phường 12, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Ngày 7 tháng 1 năm 1993, ngôi đình đã được Bộ Văn hóa-Thông tin công nhận là di tích "Kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia" theo Quyết định số 43VH/QĐ.
Lịch sử hình thành.
Đình Bình Hòa được xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ 19, và sau đó được trùng tu ba lần:
Năm 1972, dựng thêm võ ca trên sân đình, với bộ khung thép và lợp tôn. Sau năm 1975, đình bị bỏ hoang một thời gian. Năm 1990, Ban quản trị lâm thời được thành lập. Sau đó, đình được sửa chữa, tháo dỡ và cất mới một số hạng mục sau:
Mặc dù trải qua bao biến đổi, và được trùng tu nhiều lần, nhưng đình vẫn giữ được những yếu tố cơ bản của ngôi đình cổ Nam Bộ, và rất điển hình cho kiểu kiến trúc cổ ở Thành phố Hồ Chí Minh vào thế kỷ 19.
Kiến trúc, bài trí.
Đình được xây dựng trên gò đất cao, quay về hướng Đông. Kiến trúc đình theo dạng hình chữ Đinh (丁), mặt bằng kiến trúc chia thành hai trục chính song song với nhau, có trục chính và trục phụ. Trục chính (từ ngoài vào) có tiền điện, trung điện và chính điện. Trục phụ nằm bên trái gồm có nhà Túc, nhà kho và nhà bếp. Giữa hai trục có một khoảng trống gọi là sân Thiên tĩnh. Lần lượt từ ngoài vào trong có:
Cổng đình được xây theo kiểu Tam quan, có bia ông Hổ, hai bên là miếu Ngũ hành và miếu Thần nông. Sân đình rộng 17 m x 25 m, và lát gạch tàu.
Ngôi chính điện có ba gian:
Bên trục phụ của đình có nhà Túc, nhà kho và nhà bếp. Đây là một dãy nhà ba gian hai chái nằm song song với trục chính. Trong nhà Túc có ba bàn thờ: Tiền hiền -Hậu hiền, Anh hùng liệt sĩ và Tiền vãn-Hậu vãn.
Lễ hội, hiện vật quý.
Vị thần được thờ chính tại đình Bình Hòa là Thành hoàng Bổn cảnh, được vua Tự Đức sắc phong vào năm Quý Sửu (1853) . Hiện tại, căn cứ theo bài vị đặt ở bàn thờ Hội đồng nội (đã dẫn trên), thì đình còn thờ thêm "Tứ Vị Thánh Nương" . Hàng tháng đình cúng hai ngày 15 và 30. Trước đây, lễ Kỳ yên (cầu an) là lễ lớn nhất tại đình, và được tổ chức suốt 3 ngày đêm. Hiện nay, lễ ấy được giản lược rất nhiều, và chỉ diễn ra hai ngày (10-11 tháng 09 âm lịch, nghi lễ rất trang nghiêm có nhạc lễ và có lễ xây chầu-đại bội. Lễ vật chính cúng thần không nhất thiết phải là tam sanh như lệ xưa mà chỉ là mâm cỗ với nhiều món ăn...
Ngoài bộ cột quý, trong đình hiện còn lưu giữ 39 hiện vật có giá trị khác. Đáng chú ý là 5 bàn thờ bằng gỗ được chạm trổ tinh xảo; hai bát nhang gốm Sài Gòn xưa, sắc phong của vua Tự Đức, v.v... | 1 | null |
Á sừng ("Dermatitis plantaris sicca") là thuật ngữ để mô tả các bệnh khô da, nứt da, bong da ở bàn tay, bàn chân, đặc biệt ở gót chân thường xuất hiện vào mùa đông (còn được gọi là viêm da cơ địa mùa đông), diễn biến dai dẳng, hay tái phát.
Á sừng hiện nay cũng có thể coi là 1 bệnh hoặc 1 biểu hiện của viêm da cơ địa đặc trưng bởi các tổn thương dạng sừng ở các đầu ngón tay, chân, gót, bàn tay, bàn chân…
Nguyên nhân chính.
Với các trường hợp viêm da cơ địa, bệnh được cho là có yếu tố di truyền và cơ địa da dị ứng tiếp xúc, bệnh thường khởi phát hoặc tăng năng hơn trong khi gặp những yếu tố thuận lợi: Mùa đông (khí hậu lạnh, khô), tiếp xúc với các chất tẩy rửa hàng ngày như xà phòng, nước xả vải, bột giặt, dầu gội đầu, nước rửa bát, kem hóa dược bôi da...
Triệu chứng.
Dày sừng ở da đầu ngón chân, tay, gót chân: Nền da khô, đỏ ở các đầu ngón tay, chân ranh giới không rõ ràng. Các dát đỏ có thể lan rộng ra ở bàn tay, bàn chân, gót chân. Vào mùa hè, thương tổn có thể đỏ, ngứa nổi mụn nước như trong bệnh tổ đỉa, lâu ngày có thể làm các móng xù xì, lỗ chỗ. Vào mùa đông khi độ ẩm trong không khí thấp, tình trạng nứt nẻ càng nặng thêm, phần da bệnh dễ bị nứt toác ra, rớm máu, đau đớn, có thể ảnh hưởng đến sinh hoạt và công việc. Nếu tiếp xúc với bột giặt, các chất tẩy rửa, các loại nước bẩn, xăng, dầu, khói thuốc, hóa chất... thì bệnh càng nặng thêm. Người bệnh cũng dễ có nguy cơ nhiễm nấm, vi khuẩn tại các vùng tổn thường.
Với các trường hợp viêm da tiếp xúc chủ yếu là các trường hợp viêm da trong công nghiệp. Bệnh thường gặp ở các bà nội trợ, người làm nông nghiệp, công nhân giặt, công nhân nhà máy xà phòng, thợ làm tóc hay kỹ thuật viên y tế. Các yếu tố thuận lợi là cọ xát, sang chấn, độ ẩm thấp...
Bệnh mặc dù ít ảnh hưởng đến sức khỏe nhưng gây rất nhiều khó chịu, bức bối cho người bệnh trong công việc cũng như sinh hoạt hàng ngày. Rất nhiều trường hợp không thể duy trì nghề nghiệp được do bệnh khi tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ trên sẽ nhanh chóng tái phát và làm cho tình trang bong tróc, đau đớn nặng nền hơn. Những người cố gắng bám việc thường phải chịu hành hạ bởi những cơn đau nẻ, bắn máu làm giảm năng suất lao động và chất lượng cuộc sống.
Điều trị.
Các phương pháp điều trị hiện nay là dùng:
Bên cạnh đó lưu ý các biện pháp hạn chế sự khởi phát hoặc bệnh nặng hơn như:
Lưu ý khi dùng Corticoid trong điều trị Bệnh á sừng
Corticoid dùng bôi ngoài da sử dụng điều trị bệnh á sừng có nhiều loại dưới dạng đơn chất (Gentrizone, Fucicort) hoặc phối với hoạt chất khác, như với a. salicylic (Diprosalic, Beprosalic) hoặc với calcipotriol (Daivobet). Corticoid bôi ngoài da có thể dùng điều trị tấn công bệnh á sừng. Thuốc có ưu điểm làm thương tổn nhanh được cải thiện, bệnh nhân cảm thấy dễ chịu, dễ chấp nhận. Bởi vì thuốc làm giảm viêm, giảm đỏ và giảm bong vảy da nhanh. Nhưng sự cải thiện này duy trì không bền. Mặt khác sau khi ngừng thuốc bệnh sớm bùng phát trở lại, khi đó sử dụng lại corticoid tại chỗ sẽ không thấy có hiệu quả. Nhiều trường hợp dùng corticoid tại chỗ kéo dài thấy xuất hiện thương tổn nhiễm trùng da như mụn mủ, viêm nang lông; nhiễm nấm; mọc lông; giãn mạch và teo da; Dùng corticoid bôi ngoài da kéo dài sẽ thấy thương tổn không đáp ứng với thuốc, bệnh không giảm, thậm chí còn tiến triển nặng thêm. | 1 | null |
Chamaeleo namaquensis là một loài tắc kè hoa sống trên mặt đất được tìm thấy ở sa mạc Namib thuộc Namibia và miền nam Angola.
Mô tả.
Đây là một trong những loài tắc kè hoa lớn nhất ở miền nam châu Phi, và đạt chiều dài tới 25 cm. Đuôi của ngắn hơn so với cơ thể của và so với các loài tắc kè hoa sinh sống trên cây khác. Đây là một sự thích nghi với môi trường sống chủ yếu trên mặt đất.
Không giống như các loài tắc kè hoa sống trên cây khác, đuôi của loài này không có khả năng đu bám, nhưng chúng vẫn săn mồi theo cùng một cách như các loài tắc kè hoa khác, chúng rình con mồi một cách chậm rãi và bắt con mồi bằng lưỡi dài của chúng. Chúng ăn côn trùng (đặc biệt là bọ cánh cứng và dế), thằn lằn, bao gồm cả những con non đồng loại, rắn nhỏ, và thậm chí cả bò cạp, săn bắn chúng trong cả các đụn cát và vùng nhiều đá.
Chúng bị săn bắt bởi chó rừng, diều hâu, và đại bàng. Tương tự như loài tắc kè hoa khác, ở các khu vực gần nơi cư trú của con người, nó trở thành nạn nhân động vật ăn thịt được du nhập như mèo nhà và mèo hoang. | 1 | null |
Phân thứ lớp Cá toàn xương (tên khoa học Holostei) là một nhóm các loài cá xương mang một số đặc điểm nguyên thủy. Có 8 loài thuộc phân thứ lớp này, được chia làm 2 bộ: bộ Amiiformes bao gồm chỉ một loài duy nhất là cá vây cung ("Amia calva"), và bộ Cá láng (Lepisosteiformes). Nhiều loài khác cũng được tìm thấy thông qua các hóa thạch.
Cá toàn xương có chung một số đặc điểm của Cá xương thật (Teleostei) và cá mập với các loài cá nguyên thủy khác. Tuy nhiên, khi so sánh với các nhóm cá nguyên thủy khác như phân lớp Cá sụn hóa xương (Chondrostei), cá toàn xương tỏ ra có họ hàng gần gũi với cá xương thật và xa hơn với cá mập. Ví dụ cơ quan lỗ thở tồn tại trong cá mập và cá sụn hóa xương thì đến cá toàn xương đã bị tiêu giảm thành một cơ quan "thừa" (lỗ thở trong cá láng không mở ra môi trường ngoài); đồng thời bộ xương đã bắt đầu thật sự hóa xương (ví dụ đối với cá vây cung một lớp xương mỏng đã hình thành bao phủ mặt ngoài của khối sụn lớn phía trong). Vây đuôi của cá láng tuy vẫn còn hai thùy không đều nhau, nhưng sự bất cân xứng có giảm đi; cá vây cung có vây lưng dạng tia và có thể hít thở trong không khí giống như cá nhiều vây. Cá láng có những vảy láng dày giống như của cá tầm trong khi cá vây cung có các vảy xương mỏng giống như cá xương thật. Vì vậy cá láng được cho là nguyên thủy hơn so với cá vây cung.
Phân thứ lớp Cá toàn xương thường được cho là nhóm cận ngành với cá xương thật, vì vậy trên thực tế hai nhóm này thường được gọi chung là phân lớp Cá vây mới ("Neopterygii"). Tuy nhiên các nghiên cứu về ADN ti thể gần đây có xu hướng ủng hộ sự tách bạch giữa hai phân thứ lớp này.
Tên gọi của cận lớp này bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp "holos" nghĩa là toàn bộ; và "osso" (osteo) nghĩa là xương, để nói tới bộ xương hoàn toàn là chất xương của chúng. | 1 | null |
Ngày hội Đập gối (tiếng Anh: "Pillow Fighting Day") là ngày hội mà mọi người tập trung tại một địa điểm cố định để mọi người có thể thoải mái "đánh" nhau bằng gối theo quy định đã được đặt ra trước. Qua ngày hội, mọi người có thể thoải mái vua đùa và xả "Stress", bên cạnh đó cũng giúp bạn bè gắn kết được tình cảm với nhau hơn, làm quen bạn mới.
Nguồn gốc.
Ngày hội đập gối với quy mô được tổ chức lần đầu tiên tại hơn 25 quốc gia trên thế giới vào ngày 22 tháng 3 năm 2008. Tại thành phố New York (Mỹ), đã có hơn 5.000 người tham dự ngày hội này, vượt qua kỷ lục về số người tham dự của ngày hội cộng đồng Silent Disco (Sàn nhảy Im lặng) tại Luân Đôn (Anh). Ý nghĩa và sự thú vị của ngày hội thông qua sức mạnh truyền thông của các mạng xã hội lớn (facebook, my space, Blog, Forum...) đã lan truyền ra rất nhiều quốc gia khác và đạt được con số 120 quốc gia cho đến ngày nay. | 1 | null |
Legio prima Adiutrix (quân đoàn trợ chiến thứ nhất), là một quân đoàn La Mã, nó có thể đã được Galba thành lập vào năm 68, theo lệnh của Nero. Những ghi chép cuối cùng đề cập đến quân đoàn "Adiutrix" là vào năm 344, khi nó đóng quân tại Brigetio (Szöny ngày nay), ở tỉnh Pannonia của La Mã. Biểu tượng của quân đoàn là Ma Kết, được sử dụng cùng với thần mã Pegasus, còn biểu tượng trên mũ giáp được quân đoàn "I Adiutrix" sử dụng là một con cá heo.
Lịch sử.
Quân đoàn có thể có nguồn gốc từ "I Classica", một quân đoàn được Nero thành lập từ những lính hải quân của "Classis Misenensis", nhưng sau đó đã được Galba hoàn thành. Quân đoàn đã đóng quân gần thành Roma.
Trong Năm Tứ Hoàng đế, quân đoàn đã chiến đấu trong quân đội của Otho và tham gia vào trận Bedriacum, tại đây vị hoàng đế này đã bị Vitellius đánh bại Vitellius sau khi giành được thắng lợi đã ra lệnh cho quân đoàn chuyển tới Tây Ban Nha, nhưng vào năm 70 nó đã tham gia vào việc dập tắt cuộc cuộc khởi nghĩa Batavia.
Thành phố Moguntiacum (Mainz) là căn cứ đầu tiên của quân đoàn được biết đến và cùng chia sẻ căn cứ này với Legio XIV Gemina, tại đây họ tham dự chủ yếu vào những hoạt động xây dựng. Vào năm 83, họ đã chiến đấu trong các cuộc chiến tranh Germania chống lại người Chatti, một bộ lạc Đức sống ở phía bên kia sông Rhine, dưới sự chỉ huy của Hoàng đế Domitianus. Sau đó họ thuyên chuyển tơi đạo quân Danube, đóng quân trên địa bàn tỉnh Pannonia của La Mã, và để chống lại người Dacia.
Sau khi Domitianus bị ám sát vào năm 96, "Adiutrix" cùng với đạo quân Danube, đóng một vai trò quan trọng trong nền chính trị La Mã, họ đã buộc Nerva phải chấp nhận Trajan sẽ là người kế vị ông ta sau này. Khi Trajan trở thành hoàng đế, ông đã ban cho quân đoàn tên riêng "Pia Fidelis" ("trung thành và trung nghĩa") để đền đáp sự ủng hộ của họ. Từ năm 101 tới năm 106, dưới sự chỉ huy của vị hoàng đế mới,"I Adiutrix", cùng với IV Flavia Felix và XIII Gemina, đã chinh phục Dacia và chiếm đóng tỉnh mới được thành lập. Trajan cũng còn sử dụng quân đoàn "Pia Fidelis" của ông trong chiến dịch chống lại Parthia (năm 115-117), nhưng họ đã được phái trở lại Pannonia sau khi hoàng đế Hadrianus lên kế vị, với căn cứ của họ ở Brigetio.
Trong những thập kỷ tiếp theo, "I Adiutrix" vẫn đóng quân ở biên giới sông Danube. Dưới triều đại của Marcus Aurelius, "I Adiutrix" đã chiến đấu trong cuộc chiến tranh chống lại người Marcomanni dưới sự chỉ huy của Marcus Valerius Maximianus. Từ năm 171 tới năm 175, viên tướng chỉ huy của quân đoàn là Pertinax, vị hoàng đế tương lai. Khi Septimius Severus trở thành hoàng đế, "I Adiutrix" là một trong những quân đoàn đã ủng hộ ông và tham gia cuộc hành quân tới Roma của ông.
Trong những thập kỷ tiếp theo, căn cứ chính của quân đoàn một lần nữa là ở Pannonia, nhưng nó đã tham gia vào nhiều cuộc chiến tranh với Parthia, cụ thể là trong các chiến dịch của Septimius Severus vào năm 195 và năm 197-198, vào năm 215-217 do Caracalla lãnh đạo và chiến dịch của Gordianus III vào năm 244.
Quân đoàn sau đó nhận được tên riêng Pia Fidelis Bis ("hai lần trung thành và trung nghĩa") và Constans ("đáng tin cậy") trong thế kỷ thứ 3. | 1 | null |
Chi Kỳ lân (danh pháp: Liatris) là chi thực vật gồm các loài hoa kỳ lân (còn gọi là cúc phất trần, cúc xà tiên, hoa đuôi ngựa) thuộc họ Cúc Asteraceae, bản địa Bắc Mỹ, México và Bahamas.
Các loài thuộc chi Kỳ lân là thức ăn của ấu trùng các loài bướm đêm Lepidoptera như "Schinia gloriosa", "Schinia sanguinea" (cả hai loài bướm này chỉ ăn các loài trong chi Kỳ lân), "Schinia tertia" và "Schinia trifascia".
Các loài.
Có 37 loài kì lân. Sau đây là một số loài: | 1 | null |
Bến Thủy là một phường thuộc thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, Việt Nam.
Phường Bến Thủy có diện tích tự nhiên 2,91 km², dân số hơn 17.000 người, trên 3.404 hộ.
Trên địa bàn phường có nhiều đầu mối giao thông quan trọng (cả đường thủy và đường bộ), phía Nam giáp tỉnh Hà Tĩnh được ngăn cách bằng con sông Lam. | 1 | null |
Say rượu (còn gọi là xỉn) là một trạng thái sinh lý gây ra bởi việc tiêu thụ thức uống có cồn như rượu, bia... có thể dẫn tới ngộ độc do sử dụng quá mức. Vấn đề phát sinh khi chất cồn trong rượu bia tích tụ trong máu nhanh hơn khả năng chuyển hóa của gan.
Triệu chứng.
Trong trạng thái say rượu, tâm trí và cơ thể trở nên suy yếu. Triệu chứng phổ biến thường gặp ở người trong trạng thái say rượu có thể bao gồm nói líu lưỡi, nói nhiều, mất thăng bằng, phối hợp cơ thể kém, mặt đỏ, nôn mửa. Người say rượu nặng, còn gọi là "nát" rượu hay say "quắc cần câu" thường có biểu hiện thay đổi các hành vi thông thường của họ. Do đó, Nhiều nước ban hành luật cấm người say rượu ở các mức độ xác định làm những hành vi cụ thể như lái xe hay vận hành máy móc. Tùy thuộc vào mức độ say rượu, người say có thể có cảm giác hưng phấn, tốt đẹp. Một lượng nhỏ rượu vừa phải có thể làm giảm sự ức chế xã hội và tình dục. Tuy nhiên, uống một lượng lớn rượu sẽ gây ảnh hưởng nhiều phần cơ thể cùng lúc gây tác hại nghiêm trọng và lâu dài cho sức khỏe, thậm chí dẫn đến tử vong do ngộ độc rượu.
Triệu chứng black-out.
Triệu chứng mất trí nhớ tạm thời khi uống rượu bia quá nhiều (black-out) xảy ra khi khu hồi hải mã trong thùy thái dương của não bộ - có chức năng lưu giữ thông tin và hình thành ký ức trong trí nhớ dài hạn cũng như giúp định hướng trong không gian bị hủy hoại hóa học. Khi say rượu, chất cồn làm nhiễu cơ quản thụ cảm trong khu hồi hải mã - có chức năng truyền dẫn glutamate mang thông tin giữa các nơ-ron và thỉnh thoảng làm cơ quản thụ cảm ngưng hoạt động. Điều này khiến các nơ-ron thần kinh tạo ra steroid làm chặn sự liên lạc giữa những nơ-ron này với nhau. Từ đó nhận thức dài hạn bị phá vỡ. Cơ thể khi đó vẫn có thể làm các công việc bình thường như nói chuyện, đi lại hay ăn uống nhưng não bộ vào thời điểm ấy không tạo ký ức để lưu giữ lại khiến người đó về sau không nhờ bất cứ điều gì trong thời điểm đó. Nếu bị mất trí nhớ nhẹ, người ta sau khi tỉnh rượu không nhớ những gì đã làm trong khoảng thời gian ngắn nhưng có thể nhớ lại khi được ai đó nhắc, trong khi mất trí nặng khiến họ không nhớ được ký ức khoảng thời gian dài hơn dù được nhắc lại. Black-out chia làm hai loại: en bloc và fragmentary.
Cách giải rượu.
Đối với những người say rượu, việc cần thiết nhất là để họ nghỉ ngơi và bổ sung nước cùng các chất điện giải. Những người say rượu có thể hoàn toàn hồi phục về trạng thái bình thường trong vòng 24h.
Nếu muốn giải rượu bia nhanh, có rất nhiều cách hiện đang được chia sẻ. Trong đó, phổ biến nhất là sử dụng các loại thực phẩm như mật ong, gừng, cà chua, dưa hấu... Đây chủ yếu là các loại thực phẩm cung cấp lượng đường nhất định, cùng với các chất dinh dưỡng mà cơ thể mất đi, qua đó giúp người say rượu hồi phục nhanh hơn. Ngoài ra, trong dân gian cũng lưu truyền các bài giải rượu rất hiệu quả từ Atiso, búp lá dong và sắn dây... | 1 | null |
là một nhân vật hư cấu trong anime và manga Bleach của Tite Kubo. Anh ấy từng là đội trưởng của Đội 3 trong Gotei 13 đến trước khi phản bội Soul Society cùng với Sōsuke Aizen và Kaname Tōsen. Đội phó của anh là Izuru Kira.
Ngoại hình.
Gin mặc bộ quần áo thông thường, và anh không mang bên mình bất cứ ký hiệu nào đặc biệt. Tuy nhiên nếu nhìn về tổng thể, cậu không có vẻ gì là bình thường. Anh có một đôi mắt nhắm chỉ để một khe nhỏ, và hiếm khi mở mắt để cho người ta thấy được màu xanh của đôi mắt giống tựa như bầu trời. Dù anh xuất hiện trong vóc dáng của một người thanh niên trạc khoảng giữa 20 tuổi, anh không lúc nào cũng là một người gầy và cao với một sự nhạy bén. Anh có mái tóc màu trắng bạc (tên anh có cùng nghĩa với màu tóc anh; gin [銀] là từ tiếng Nhật để chỉ về màu bạc). Anh luôn để khuôn mặt mình ẩn sau một nụ cười, và ít khi anh thể hiện những cảm xúc như buồn, đau khổ, tức giận của mình.
Tại Hueco Mundo, anh mặc trang phục giống như trang phục của Aizen và Tōsen. Trang phục đã được thay đổi sau khi cả ba cùng rời khỏi Soul Society, một chiếc áo khoác trắng, dài tay phủ lên trang phục Shinigami hakama. Cán kiếm Zanpakutō được anh đeo dưới thắt lưng mình. Sau đó, Gin mang một bộ hakama trắng giống như Arrancar, thay vì màu đen mà anh đã mặc trước đó. Gin mặc áo choàng được kéo mở xuống tới cổ tay theo hình chữ 'V', khép lại dưới hông, và mở ra lần nữa để lộ những đưởng viền, kéo xuống phần chân. Ống tay áo choàng anh có dạng hình cái chuông, kéo tới chỗ phủ kín tay anh giống như ống tay những chiếc áo kimono. Lớp lót của chiếc áo choàng và đường viền áo choàng có màu đen. Từ đó liên tưởng đến việc trang phục anh mặc giống như anh đang mặc một tabi và waraji trắng. Khi anh mặc bộ trang phục này, thanh zanpakutō của anh được ẩn vào trong lớp áo.
Tính cách.
Gin là một trong những Shinigami mang đầy sự bí ẩn nhất trong phim, từ nụ cười luôn thấy trên khuôn mặt cho đến đôi mắt luôn khép lại của mình, cho đến cách mỉa mai và châm chọc lịch sự của anh, khiến nhiều người không thể đoán được suy nghĩ của anh. Hầu như có nhiều người tỏ ra rất tin tưởng và không cảm thấy có gì lo ngại khi anh xuất hiện trước khi anh trở thành kẻ phản bội. Gin có vẻ rất hiểu về ảnh hưởng anh gây ra trên người khác và có thể nói là hơn cả việc anh chơi đùa trên cảm xúc của người khác như một trò giải trí. Cả Rukia Kuchiki và Wonderweiss Margela đều có sự đề phòng trước anh, Rukia nhận ra rằng mỗi khi nói chuyện với anh, cô cảm giác như mình đang nói chuyện với một con rắn, dù cho anh không nói chuyện trực diện với cô. Trong anime, Gin nói bằng những từ ngữ địa phương Kyoto, một cách nói chuyện lịch sự gián tiếp. Giọng chuyển âm anh ngữ của anh cũng trang trọng và lịch sự, nhưng có chút châm biếm và khôi hài.
Khi anh còn nhỏ, anh rất thích trái hồng vàng khô. Gin đã trồng và chăm sóc cho những cây hồng xung quanh trụ sở đội số 3, và tự sấy khô nó, rồi đem phân phối cho những đội khác. Thậm chí mỗi lần ăn một củ khoai tây khô sau khi mệt mỏi, anh vẫn nghĩ là, "Ồ, Đó là một trái hồng khô!" và anh ghét nó. Khi có thời gian rảnh rỗi, Ichimaru đi khắp nơi trong Soul Society. Dù anh có sở thích làm người ngoài cuộc, nhưng có vẻ anh thích đi lùng bắt và tìm kiếm cơ hội để nghịch trên những nạn nhân xấu số. Những quý ông của đội số 3 có vẻ ngược lại, và họ có thái độ rất thích những chuẩn mực trung bình. Anh cũng có kỹ năng trong việc xỏ tơ sợi côn trùng.
Lịch sử.
Gin cứu Rangiku Matsumoto khỏi cái chết trong tay của một số tay sai Sōsuke Aizen khi họ còn nhỏ, và hai người đã là bạn tốt kể từ đó. [6] Rangiku là người duy nhất Gin có vẻ thực sự quan tâm, mặc dù anh ta có vẻ "biến mất "thường xuyên. Mặc dù nó là một phần của kế hoạch của Gin để có được trả thù Aizen cho từng gây hại cho cô. Anh cũng không bao giờ nói với cô bất cứ gì hay anh ta sẽ không để lại bất cứ điều gì cho cô để cô ấy nhớ anh ta, đó là thứ Rangiku ghét ở Gin. Mặc dù, cô cũng nói (sau khi anh chết) nếu anh để lại bất cứ điều gì cho cô, cô sẽ không bao giờ có thể để có thể tiến lên và anh ấy chắc chắn đã biết đến cô lo lắng cho anh quá nhiều để làm như vậy nếu anh đã để lại bất cứ điều gì. Rangiku sau đó nói, cô ấy yêu anh ta về điều đó.
Sau khi cứu Rangiku, Gin thầm thề trả thù Aizen. Sự xuất hiện của anh là không ổn định, sự tàn nhẫn rõ ràng trong trận chiến, và sự phản bội Soul Society là cần thiết để tạo điều kiện này. Bước đầu tiên trong sự trả thù của ông đã được tham gia một trong những người giám hộ 13 sư đoàn. Gin đã được coi là một thần đồng kể từ khi anh tốt nghiệp từ học viện trong vòng một năm và được bổ nhiệm vào vị trí ở Sư đoàn 5. [7] ghế thứ ba của bộ phận một cách dễ dàng, Gin làm dấy lên mối quan tâm Aizen vào anh. [8] anh thề lòng trung thành với Aizen từ ngày họ gặp nhau, dù chỉ để anh có thể phát hiện ra điểm yếu của Aizen và trả thù cho cái ngày Azien khiến Rangiku suýt chết. Cuối cùng Gin trở thành trung úy của Sư đoàn 5 dưới Captain Sōsuke Aizen. [9] Là đội trưởng, ông đã chỉ huy Sư đoàn 3.
Cốt truyện.
☀Xuất hiện đầu tiên của Gin là cùng với đội trưởng Kenpachi Zaraki khi hai bắt chuyện với đội trưởng Byakuya Kuchiki hiện sau khi Rukia Kuchiki bị bắt. Sau đó, anh xuất hiện ở cánh cổng dẫn vào Seireitei theo lệnh của Aizen, đẩy lùi cả Ichigo Kurosaki và người giữ cửa Jidanbō mà không giết chết họ, đồng thời đóng cửa mà Jidanbō đang cầm mở. Các đội trưởng khác vẫn thất bại khi tiêu diệt đối thủ nên anh đã không cố giết chết họ, nhưng sự xâm nhập thứ hai của nhóm Ichigo, tiếp theo là cái chết giả định của Aizen, làm cho họ có mối quan tâm lớn hơn. Aizen, đã làm giả cái chết của ông, và Gin cố tình để nghi ngờ dồn về chính mình, qua đó gây sự chú ý cho các hoạt động của Aizen. Sau khi âm mưu Aizen được tiết lộ và họ rút lui đến Hueco Mundo, Gin chia tay Rangiku và nói lời xin lỗi với cô ấy.
Trong Hueco Mundo, Gin nói Aizen là chơi đùa với cấp dưới của mình. Khi nhóm của Ichigo đột nhập vào Las Noches, anh quan sát chúng, thậm chí làm thay đổi vị trí của các hội trường khi không có ai xung quanh. Sau đó, ông xuất hiện cùng Aizen và Tosen trong thành phố Karakura, cho ý kiến về việc thay đổi đột ngột của Kira trong cảm xúc để Tōsen và nhận xét rằng ông rất vui khi Kira 'làm tốt'. Sau sự xuất hiện của các Vizards, Gin làm Hiyori Sarugaki bị thương khi cô đã trở thành một trong những đe dọa của Aizen và trận Ichigo khi Aizen đề với phe đối lập còn lại. Dễ dàng áp đảo Ichigo, Gin cho anh nhiều cơ hội để chạy trong khi chế nhạo sự bất lực của Ichigo để đánh bại Aizen trước khi đến thành phố Karakura thực.
Trong thị trấn Karakura, Gin đã phải đối mặt với Rangiku một thời gian ngắn bởi Rangiku hỏi về động cơ của anh nhưng anh đã để cô chết giả. Sau khi giải thích ý định của Aizen để giết bạn bè của con người Ichigo trước khi phá hủy thị trấn Karakura, và ý định của mình để làm đối phó cho hắn, Gin sử dụng thời điểm đó để kiềm chế Zanpakutō của hắn và đâm xuyên qua người của Aizen. Mặc dù nó có trong dự kiến của Aizen, Gin cho thấy sức mạnh thực sự Bankai của mình và sử dụng mảnh kiếm của anh còn lại trong cơ thể của Aizen để hòa tan chất độc vào cơ thể của Aizen. Lấy Hogyōku, Gin tin rằng ông đã thành công cho đến khi Aizen hồi sinh trong hình thức mới, trong đó nêu rằng Hogyōku là mình không phân biệt nếu nó là bên trong của anh ta hay không. Aizen đã làm Gin bị thương trước mặt bạn bè của Ichigo và Rangiku, Gin lặng lẽ xin lỗi vì không thể để trả lại những gì Aizen đã lấy từ Rangiku như một đứa trẻ. Khi Ichigo đến, một Gin nhẹ nhõm chết nhìn thấy những thanh niên đã trở nên đủ mạnh để đánh bại kẻ thù của nhau.
Sức mạnh & khả năng.
Zanpakutou của Gin là một thanh Wakizashi (ngắn hơn Katana từ 30–60 cm). Lệnh giải ấn trảm hồn đao của nó là "Xạ sát" (Nhật: 射殺せ). Khi giải ấn, Shinsō dài ra gấp 100 lần với tốc độ rất nhanh. Vì vậy mà hồi nhỏ anh có biệt danh là Hyapponzashi (Bách kiếm). Uy lực của nó rất mạnh, có thể đẩy lùi ngươi gác cổng và Ichigo.
_Bankai_
Lệnh giải ấn bankai của Shinsō(Thần Thương) là "Kamishini no Yari" (Thần Sát Thương). Ở dạng bankai, nó có thể dài tới 13 km trong thời gian nhanh gấp 500 lần tốc độ âm thanh. Sức mạnh của nó dược thể hiện khi đấu với Ichigo ở Karakura. Nó cắt phăng nhiều tòa nhà một cách nhanh gọn như cắt giấy. Ngoài ra Gin còn đánh lạc hướng đối thủ bằng chiều dài của thanh kiếm, khiến họ quên đi tốc độ của nó. Nhưng sức mạnh thật của thanh kiếm đó được tiết lộ ở chap 414 khi Gin đâm xuyên qua Aizen: Shinsō không phải kéo dài hay kéo gọn lại mà nó chỉ tan ra thành bụi và hợp lại trong nháy mắt, và khi đâm hay chém qua 1 vật nó để lại những mảnh vụn của thanh kiếm khiến Gin có thể giết đối thủ bất cứ lúc nào.
Butō (Nhật: 无踏 nghĩa Vô Đạp)
Bằng việc sử dụng Kamishini no Yari cầm kiếm bằng hai tay để kiếm trước ngực giúp cho khả năng năng phóng ra ánh sáng trắng (Lưỡi kiếm dài và mở rộng ra) và thu hồi với tốc độ cao hơn nhiều lần so với trạng thái bình thường khi anh sử dụng Kamishini no Yari. Khả năng này.khiến lưỡi dao như vô hình Giúp anh áp đảo hoàn toàn đối thủ. | 1 | null |
Lê Minh Trí (sinh ngày 1 tháng 11 năm 1960) là chính khách người Việt Nam. Ông hiện là Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV nhiệm kì thuộc Đoàn Đại biểu Quốc hội Thành phố Hồ Chí Minh. Ông đã trúng cử đại biểu quốc hội năm 2016 ở đơn vị bầu cử số 4, Thành phố Hồ Chí Minh (gồm quận 5, quận 10 và quận 11) với tỉ lệ 70,48% số phiếu. Trong Đảng Cộng sản Việt Nam, ông là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Bí thư Ban Cán sự Đảng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
Thân thế.
Ông sinh năm 1960 tại xã Tân Thông Hội, Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông hiện cư trú tại quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
Sự nghiệp.
Ngày 6 tháng 7 năm 1984: ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Lê Minh Trí bắt đầu sự nghiệp trong ngành công an. Ông là thư ký của Võ Viết Thanh (Bảy Thanh) khi ông Thanh làm Chủ tịch UBND TP.Hồ Chí Minh.
Ông trải qua nhiều chức vụ tại TP.Hồ Chí Minh như: Phó Bí thư Quận ủy - Chủ tịch UBND Quận 11, Phó Bí thư Quận ủy - Chủ tịch UBND Quận 1.
Ông từng là Đại biểu HĐND Quận 11, TP.Hồ Chí Minh nhiệm kỳ 2004-2009.
Cuối năm 2009: ông được HĐND TP.Hồ Chí Minh bầu bổ sung làm Phó Chủ tịch UBND TP.Hồ Chí Minh.
Tháng 4/2013: Ban Bí thư điều động ông làm Phó Trưởng ban Nội chính Trung ương.
Tháng 1/2016: tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương.
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao lần 1.
Sáng ngày 8 tháng 4 năm 2016, tại kì họp thứ 11 Quốc hội khóa XIII đã bỏ phiếu bầu ông Lê Minh Trí - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Nội chính Trung ương giữ chức vụ Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao nhiệm kì 2011-2016 thay ông Nguyễn Hòa Bình, với 316/490 phiếu hợp lệ (63,97% tổng số đại biểu Quốc hội). Lúc này ông không phải là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII và cũng không làm việc trong ngành kiểm sát.
Đại biểu Quốc hội Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh nhiệm kì 2016-2021.
Ngày 22/5/2016: ông trúng cử Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV ở đơn vị bầu cử số 4, Thành phố Hồ Chí Minh (gồm quận 5, quận 10 và quận 11) với tỉ lệ 70,48% số phiếu. Lúc này ông đang là Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng ủy Khối Các cơ quan Trung ương, Bí thư Ban Cán sự Đảng - Viện trưởng Viện Kểm sát nhân dân tối cao.
Trong ngày 12 và 13 tháng 5/2017: ông có buổi tiếp xúc cử tri tại các Quận 5, 10 và 11, TP.Hồ Chí Minh trước thềm kỳ họp lần thứ 3 Quốc hội khóa XIV dự kiến khai mạc vào ngày 22/5/2017. Ông cho biết dù mới nhậm chức Viện trưởng Viện KSND tối cao 7 ngày nhưng đã phê chuẩn quyết định cách chức Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên Viện KSND huyện Bình Chánh vào ngày 13/8/2016 vì có sai phạm trong vụ việc khởi tố vụ án hình sự chủ quán cà phê “Xin Chào” do chậm đăng ký kinh doanh. Ông cũng sẽ kiên trì kiến nghị Quốc hội thành lập Quỹ nuôi dưỡng, đào tạo để khuyến học.
Ngày 24/6/2017, ông đã có buổi tiếp xúc cử tri Quận 10, TP.Hồ Chí Minh sau kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIV. Ông cho biết đã và sẽ tiếp tục chỉ đạo các đơn vị của Viện KSND tối cao làm rõ những vụ án liên quan đến việc xâm hại trẻ em nói riêng, cũng như tội phạm nói chung trên cơ sở tuân thủ triệt để các quy định của pháp luật, tránh oan sai và không để lọt tội phạm.
Ngày 13/10/2017: ông tiếp xúc cử tri các Quận 5, Quận 10 TP. Hồ Chí Minh để báo cáo Bản Dự kiến nội dung trước thềm Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIV và trả lời những ý kiến đóng góp và kiến nghị của cử tri. Ông cho biết sẽ có kiến nghị đến Thành ủy, HĐND, UBND TP. Hồ Chí Minh về vấn đề lãng phí quỹ đất nông nghiệp của TP.Hồ Chí Minh.
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao lần 2.
Sáng ngày 27/7/2016: tại phiên họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIV đã bỏ phiếu kín bầu ông tiếp tục giữ chức vụ Viện trưởng Viện KSND nhiệm kì 2016-2021, với 448 phiếu thuận (tương đương 90,69%).
Ngày 15/3/2017: trên cương vị Viện trưởng Viện KSND tối cao, ông đã yêu cầu Cơ quan Cảnh sát điều tra (Công an Tp.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu) ra ngay quyết định khởi tố bị can Nguyễn Khắc Thủy (sinh năm 1940, nguyên Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chi nhánh tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu) ngụ ở chung cư Lakeside, phường Nguyễn An Ninh, thành phố Vũng Tàu về tội “Dâm ô trẻ em”, theo quy định tại Điều 116, Bộ luật Hình sự dưới yêu cầu của Chủ tịch nước Trần Đại Quang. Mặc dù trước đó hai ngày, ngày 13 /3/2017, Viện KSND Tp.Vũng Tàu đã "không" phê chuẩn quyết định khởi tố bị can mà gia hạn thêm 2 tháng để tiếp tục điều tra “vì nhận thấy chưa đủ cơ sở, cần phải củng cố thêm chứng cứ”. Ngày 17/11/2017, TAND Tp.Vũng Tàu đã tuyên phạt Nguyễn Khắc Thủy (77 tuổi) 3 năm tù về tội Dâm ô đối với trẻ em trong phiên tòa sơ thẩm.
Trong nhiệm kì này thư ký của ông là Mai Trung Thành - Phó Chánh văn phòng Viện KSND tối cao được bổ nhiệm làm Phó Viện trưởng Viện KSND TP.Hồ Chí Minh ngày 29/10/2019.
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao lần 3.
Ngày 26 tháng 7 năm 2021, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV, Với 480/480 đại biểu Quốc hội có mặt tán thành (bằng 96,19% tổng số đại biểu), Quốc hội đã biểu quyết thông qua nghị quyết bầu ông Lê Minh Trí giữ chức Viện trưởng Viện KSND Tối cao nhiệm kỳ 2021-2026.
Vụ án Hồ Duy Hải.
Ngày 22/11/2019: sau khi có ý kiến từ Văn phòng Chủ tịch nước thông báo ý kiến chỉ đạo của Tổng Bí thư - Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Lê Minh Trí đã ký quyết định ban hành kháng nghị giám đốc thẩm vụ án Hồ Duy Hải vốn kéo dài dai dẳng từ năm 2008. Tuy nhiên, trong phiên tòa giám đốc thẩm tháng 5 năm 2020, dưới sự chủ trì của Chánh án TAND tối cao Nguyễn Hòa Bình, kháng nghị giám đốc thẩm của Viện trưởng Viện KSND tối cao Lê Minh Trí đã bị bác bỏ. | 1 | null |
Nihoa (tiếng Anh và tiếng Hawaii: "Nihoa") hay đảo Bird ("Bird Island") hoặc Moku Manu là hòn đảo cao nhất trong mười đảo và rạn san hô vòng ở quần đảo Tây Bắc Hawaii. Đảo nằm dưới sự quản lý hành chính của quận Honolulu, tiểu bang Hawaii, Hoa Kỳ.
Địa lý.
Đảo Nihoa là một đảo núi lửa toạ lạc ở cực nam chuỗi đảo Tây Bắc Hawaii, cách đảo Necker về phía đông nam và cách đảo Kauai thuộc nhóm đảo chính Hawaii về phía tây bắc. Bao bọc xung quanh hòn đảo có diện tích 0,701054 km² này là một rạn san hô có diện tích 142.000 mẫu Anh (574.7 km²). Hình dáng lởm chởm đá của đảo là lời lý giải cho tên gọi "Nihoa" - nghĩa là "cái răng" trong tiếng Hawaii.
Trong quần đảo Tây Bắc Hawaii thì đảo Nihoa là trẻ nhất (hình thành khoảng 7,2 triệu năm về trước) trong khi rạn san hô vòng Kure là già nhất (hình thành 30 triệu năm về trước). Qua nhiều thiên niên kỉ, đảo Nihoa đã trải qua quá trình xâm thực mạnh mẽ; cùng với đảo Necker, các bãi cạn Frigate Pháp và các đỉnh nhọn Gardner, Nihoa là một trong bốn thực thể của quần đảo Tây Bắc Hawaii còn nền đá bazan lộ thiên. Đảo có hai đỉnh nhọn là đỉnh Miller ở phía tây và đỉnh Tanager ở phía đông với độ cao lần lượt là 272 m và 259 m. Ngoài ra, còn có đỉnh Dog's Head (trông giống "đầu chó") cao và đỉnh Pinnacle cao . Trên đảo có sáu Thung lũng dốc từ bắc xuống nam và gặp nhau tại mặt nam của đảo: Thung lũng West, Thung lũng West Palm, Thung lũng Miller, Thung lũng Middle, Thung lũng East Palm và Thung lũng East. Nơi duy nhất bằng phẳng trên đảo là cao nguyên Albatross ("Albatross Plateau") ở ngay phía dưới đỉnh Miller. Một khe nứt hẹp mang tên "Devil's Slide" sụt sâu . Từ cao nguyên Albatross, khe này mở rộng về hướng bắc và kết thúc tại một vách đá dốc đứng đâm thẳng xuống đại dương với độ cao .
Sinh thái.
Đảo Nihoa là ngôi nhà của 25 loài thực vật và động vật, đa dạng nhất trong toàn quần đảo Tây Bắc Hawaii. Một số loài chỉ có thể được tìm thấy trên đảo như "Telespiza ultima" và "Acrocephalus familiaris kingi" (chim), "Pritchardia remota", "Schiedea verticillata" và "Amaranthus brownii" (cây). Khu hệ thực vật và các khối đá đóng vai trò là nơi làm tổ và trú đậu cho 18 loài chim biển như "Sula sula", "Anous stolidus", nhàn và hải âu.
Do cách biệt về địa lý và không sở hữu những mỏ phân chim lớn nên đảo Nihoa không thu hút sự quan tâm của con người. Điều này giúp bảo tồn các loài đặc hữu khỏi nguy cơ tuyệt chủng. Vì đảo nhỏ nên đa phần các loài đặc hữu của Nihoa thuộc nhóm loài nguy cấp bởi lẽ cả quần thể có thể bị tiêu diệt khi một thảm hoạ nào đó - như cháy hay sự xâm nhập của sinh vật xâm lấn - xảy ra. Một ví dụ là trường hợp loài châu chấu xâm lấn "Schistocerca nitens": trong giai đoạn 1999-2003, châu chấu đã tàn phá phần lớn thảm thực vật trên đảo và gây mối nguy thực sự đối với thực vật đảo Nihoa. Vào những năm tiếp theo, số châu chấu giảm và thực vật phát triển trở lại. Hầu như chắc chắn là châu chấu đã theo các cơn gió từ đảo Kauau để đến đảo Nihoa.
Sau đây là danh sách một số sinh vật đặc hữu của đảo Nihoa:
Bảo tồn.
Năm 1909, Khu bảo tồn Quần đảo Hawaii ("Hawaiian Islands Reservation") thành lập với Nihoa là một phần trong đó. Nhiều loài sinh vật trên đảo được kiểm kê toàn diện qua chuyến thám hiểm Tanager năm 1923. Năm 1940, đảo trở thành một bộ phận của Khu nương náu Hoang dã Quần đảo Tây Bắc Hawaii ("Northwestern Hawaiian Islands Wildlife Refuge"). Năm 1988, người ta liệt kê đảo vào Sổ bộ Địa danh Lịch sử Quốc gia Hoa Kỳ do đảo có các di chỉ khảo cổ quan trọng về mặt văn hoá. Từ năm 2006, đảo thuộc Khu bảo vệ hải dương quốc gia Papahānaumokuākea ("Papahānaumokuākea Marine National Monument"). Những ai có ý định đến Nihoa nhằm mục đích nghiên cứu khoa học và văn hoá thì phải có giấy phép đặc dụng từ Cục Hoang dã và Cá Hoa Kỳ. Biện pháp này nhằm giảm rủi ro các loài ngoại lai xâm nhập hệ sinh thái mong manh của đảo.
Lịch sử.
Các nhà khảo cổ đã tìm thấy các dấu tích ruộng bậc thang và nhà cửa trên đảo, và ít nhất một di chỉ có niên đại từ khoảng thiên niên kỉ thứ nhất, khoảng năm 867-1037. Có một số băn khoăn về số lượng người đã từng sống trên đảo: trong khi các ruộng bậc thang lớn cho thấy rằng từng có nhiều người sinh sống thì mặt khác trên đảo lại chỉ có ít nước ngọt. Nhà khảo cổ học Kenneth Emory và Paul Cleghorn ước tính rằng nước ngọt trên đảo đáp ứng nhu cầu cho 100 người, mặc dầu nếu trước đây đảo từng có rừng cây thì nguồn cung cấp nước có thể nhiều hơn so với hiện nay. Người ta còn nghĩ rằng Nihoa chỉ được dùng cho mục đích tôn giáo, nói cách khác là cư dân Hawaii cổ chỉ thỉnh thoảng mới thăm đảo và không trú lại lâu.
Người phương Tây đầu tiên khám phá đảo Nihoa là thuyền trưởng James Colnett của tàu "Prince of Wales" vào ngày 21 tháng 3 năm 1788. Do Colnett vắng mặt ở nước Anh trong thời gian dài (tính cả thời gian bị người Tây Ban Nha cầm tù do Colnett tham gia cuộc khủng hoảng Nootka) nên công lao khám phá Nihoa từng được gán cho thuyền trưởng William Douglas của tàu "Iphigenia" - người đã tìm thấy đảo Nihoa một năm sau đó.
Vào cuối thế kỉ 18, phần lớn người dân Hawaii đã lãng quên đảo Nihoa. Năm 1822, nữ hoàng Kaahumanu và phu quân là vua Kaumualii cùng đi tàu với thuyền trưởng William Sumner để kiếm tìm đảo Nihoa - hòn đảo mà thế hệ của bà chỉ biết đến qua những bài hát và truyện thần thoại. Sau đó, vua Kamehameha IV viếng thăm đảo nhằm chính thức sáp nhập nơi này vào lãnh thổ Vương quốc Hawaii. Vào năm 1885, công chúa Liliuokalani cùng đoàn tuỳ tùng đã hành hương đến Nihoa nhưng buổi tiệc ban trưa của họ đã bị phá ngang do ai đó vô tình gây ra một vụ cháy rừng. Cả đoàn cố gắng tháo thân khỏi hòn đảo nhưng thủy triều đang lên đã gây khó khăn và làm ngập vài chiếc thuyền, từ đó phá huỷ mất một số bức ảnh chụp lại nơi này. | 1 | null |
Đảo Inaccessible là một ngọn núi lửa đã tắt, phun trào lần cuối cùng cách đây 6 triệu năm với đỉnh Cairn cao . Hòn đảo này có diện tích nằm ở Nam Đại Tây Dương cách Tristan da Cunha về phía tây nam. Hòn đảo được bao quanh bởi những vách đá tuyệt đẹp nhưng có thể tiếp cận được thông qua một vài bãi biển đá cuội. Các thế hệ thủy thủ đã cảnh giác với những lần lên bờ biển một cách khó khăn và địa hình hiểm trở của nó. Hòn đảo này đã không có cư dân vĩnh viễn kể từ năm 1873.
Đảo là một phần của quần đảo Tristan da Cunha, một phần của lãnh thổ hải ngoại Saint Helena, Ascension và Tristan da Cunha của Anh Quốc. Bản thân đảo chính Tristan da Cunha cũng chỉ có thể tiếp cận bằng đường biển thông qua một chuyến đi kéo dài bảy ngày từ Cape Town, Nam Phi.
Cùng với đảo Gough, đảo Inaccessible cũng là một khu bảo tồn động vật hoang dã, cùng nhau tạo thành một Di sản thế giới được UNESCO công nhận từ năm 1995. Đây là nơi có loài chim đặc hữu quý hiếm Gà nước đảo Inaccessible, loài chim không biết bay nhỏ nhất thế giới.
Địa lý.
Hòn đảo này nằm cách về phía tây nam hòn đảo chính của quần đảo Tristan da Cunha. Nó có địa hình chủ yếu là hoang vắng và khắc nghiệt, hòn đảo có một bãi neo đậu nhỏ tên là Port David ở điểm cực phía tây bắc.
Lịch sử.
Hòn đảo được phát hiện vào tháng 1 năm 1656 trong chuyến đi của con tàu Hà Lan " ’t Nachtglas" ("kính đêm"), dưới sự chỉ huy của Jan Jacobszoon, 146 năm sau khi Tristan da Cunha lần đầu tiên được nhìn thấy bởi các thủy thủ Bồ Đào Nha. Jacobszoon ban đầu đặt tên cho nó là đảo "Nachtglas".
Có hai cách giải thích cho cái tên hòn đảo "Inaccessible". Một là trên bản đồ, hòn đảo mới được tìm thấy được gọi là "inaccessible" (không thể tiếp cận) bởi vì đoàn thủy thủ Hà Lan đổ bộ lên đảo đã không thể vào bên trong hòn đảo. Các tuyên bố khác cho rằng thuyền trưởng người Pháp d'Etcheverry đã đổi tên hòn đảo vào năm 1778 sau khi không thể đặt chân lên đảo. Năm 1803, những người săn hải cẩu Hoa Kỳ do Amasa Delano dẫn đầu đã đặt chân lên đảo.
Anh em nhà Stoltenhoff, đã đến đảo Inaccessible từ Đức vào năm 1871, sống ở đó trong hai năm với ý định săn hải cẩu và bán sản phẩm của họ cho các thương nhân, mặc dù giao dịch như vậy là rất nhỏ. Do sự khan hiếm thực phẩm, họ đã "vui mừng khôn xiết" khi được giải cứu vào năm 1873 trong chuyến thăm của tàu HMS "Challenger" để kiểm tra hệ động thực vật ở đó. Tác giả người Nam Phi Eric Rosenthal đã ghi chép lại cuộc phiêu lưu của anh em Stoltenhoff vào năm 1952. Gần đó là đảo Stoltenhoff được đặt theo tên của anh em họ.
Vào năm 1922, tàu "Quest" trong cuộc Thám hiểm Shackleton-Rowett đã dừng lại một cách nhanh chóng và nhà tự nhiên học trên tàu là Hubert Wilkins đã phát hiện ra một con chim, sau đó được đặt theo tên của ông là sẻ Wilkins. Năm 1938, đoàn thám hiểm khoa học Na Uy đã dành ba tuần trên đảo, trong thời gian đó họ đã tìm cách tiếp cận cao nguyên và lập danh lục bao quát các loài thực vật, chim và đá. Một nỗ lực khác trong việc lập bản đồ hòn đảo đã được thực hiện trong cuộc thám hiểm của Hiệp hội Hoàng gia Anh năm 1962 tới Tristan da Cunha, đưa các nhà khoa học đến đảo Inaccessible. Giống như nhiều nhà thám hiểm khác trước họ, các nhà khoa học trong đoàn cũng không thể đi sâu vào được bên trong hòn đảo.
Đảo Inaccessible được tuyên bố là khu bảo tồn thiên nhiên theo Pháp lệnh bảo tồn Tristan da Cunha năm 1976. Tuy nhiên, người ta vẫn được phép thu hoạch chim biển từ đảo. Trong một cuộc thám hiểm năm 1982 (16 tháng 10 năm 1982 - 10 tháng 2 năm 1983), sinh viên và giảng viên của trường Cao đẳng Denstone ở Anh đã tạo ra các bản đồ chi tiết về hòn đảo, nghiên cứu hệ động thực vật, địa chất của nó và thực hiện một dự án đánh số theo dõi lên hơn 3.000 cá thể chim.
Vào năm 1997, vùng lãnh hải của hòn đảo rộng đã được tuyên bố là khu bảo tồn thiên nhiên theo Pháp lệnh bảo tồn Tristan da Cunha năm 1976. Hiện tại, chỉ có đoàn có hướng dẫn viên từ Tristan mới được phép đi tàu du lịch đến đảo Inaccessible; thật vậy, hầu hết các chuyến đi đến đảo được thực hiện theo yêu cầu của người nước ngoài. Năm 2004, đảo Inaccessible đã được thêm vào danh sách Di sản thế giới của UNESCO như là một phần mở rộng của Di sản thế giới đảo Gough được công nhận trước đó để tạo thành một di sản mới tên là đảo Gough và đảo Inaccessible.
Động thực vật.
Khi Hạ sĩ William Glass và gia đình trở thành những cư dân định cư đầu tiên tại Tristan da Cunha vào năm 1816, dê và lợn được đưa đến đảo Inaccessible để phục vụ như một nguồn cung cấp thực phẩm. Một số động vật nuôi trong khoảng thời gian ít nhất 57 năm và giúp anh em Stoltenhoff sống sót trong chuyến thám hiểm của họ, nhưng giờ chúng đều đã biến mất. Bò, cừu và chó cũng được đưa vào đảo tại nhiều thời điểm khác nhau trong quá khứ, nhưng không có con nào còn sót lại.
Không có động vật có vú trên cạn, bò sát, lưỡng cư, bướm hoặc ốc nào được tìm thấy tại đảo. Hòn đảo có 64 loài thực vật bản địa, trong đó có 20 loài thực vật có hoa và 17 loài dương xỉ. Ngoài ra, 48 loài động vật không xương sống tồn tại trên hòn đảo, 10 trong số đó đã được biết đến. Hải cẩu lông mao cận Nam Cực và hải tượng phương nam cũng đã được nhìn thấy ở hòn đảo với số lượng ngày càng tăng cùng với các loài cá voi sống trong các vùng biển lân cận, đáng chú ý nhất là Cá voi trơn phương nam và cá heo sẫm màu.
Hòn đảo có lẽ được biết đến nhiều nhất với loài gà nước đảo Inaccessible, loài chim không biết bay nhỏ nhất thế giới. Hòn đảo đã được tổ chức BirdLife International xác định là vùng chim quan trọng (IBA), nơi sinh sản của các loài chim biển và các loài chim trên cạn đặc hữu. Các loài chim quan trọng nhất bao gồm cánh cụt Rockhopper phương Bắc (27.000 cặp sinh sản), hải âu Tristan, hải âu bồ hóng (200 cặp), hải âu vàng mỏ lớn Đại Tây Dương (1.100 cặp), hải bão lông mịn (50.000 cặp), hải âu lớn (2 triệu cặp), hải bão bốn mắt, hải âu nhỏ (50.000 cặp), hải bão mặt trắng (50.000 cặp), hải bão bụng trắng (50.000 cặp), nhàn Nam Cực, gà nước đảo Inaccessible (5.000 cặp) và sơn ca đảo Inaccessible | 1 | null |
Legio tertia Cyrenaica (Quân đoàn Cyrene thứ ba) là một quân đoàn La Mã có thể đã được Marcus Antonius thành lập vào khoảng 36 trước Công nguyên, khi ông còn là thống đốc của Cyrenaica. Hiện vẫn còn những ghi chép về quân đoàn ở Syria vào đầu thế kỷ thứ 5. Biểu tượng của quân đoàn là không rõ.
Lịch sử.
Quân đoàn III Cyrenaica là một trong những quân đoàn La Mã tồn tại lâu nhất trong lịch sử La Mã. Nguồn gốc của tên gọi Cyrenaica không được biết rõ-có thể nó được trao cho quân đoàn để biểu thị nguồn gốc của nó ở Cyrene (giờ là Libya), hoặc để biểu thị một thắng lợi lớn hoặc hành động đáng chú ý ở tỉnh này.
Quân đoàn này chủ yếu được đóng tại Alexandria, Ai Cập, và cùng chia sẻ một 'pháo đài đôi với quân đoàn "XXII Deiotariana", nó sẽ lưu lại đây trong khoảng một trăm năm trước khi di chuyển tới Bostra, Syria.
Năm 35 trước Công nguyên (?), quân đoàn III được hình thành, có thể do Marcus Antonius hoặc Lepidus ở Cyrene. Tại thời điểm này, quân đoàn vẫn còn có khả năng giữ truyền thống của Cộng hòa về việc đánh số theo thứ tự thành lập, vì vậy đây có thể là quân đoàn thứ ba mà [Antonius] đã thành lập và đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của ông và cũng trung thành.
Năm 31 trước Công nguyên - (trận Actium) - Hoặc là trước hoặc sau khi Antonius cùng Cleopatra bị Octavian đánh bại (sau này là Augustus). Có thể những người lính của "III Cyrenaica" đã đào ngũ khỏi Antonius và tuyên bố trung thành với Octavian - người đã không giải tán quân đoàn sau đó.
Năm 26-25 trước Công nguyên -Hoạt động ở Arabia Felix (Yemen), chỉ huy của Aelius Gallus, Thái thú của Ai Cập.
Năm 23 trước Công nguyên - tham gia vào cuộc chiến tranh chống lại cuộc xâm lược của người Nubia.
Năm 23 TCN(? AD) - sự hiện diện của quân đội La Mã ở Ai Cập giảm xuống chỉ còn 2 quân đoàn: "III Cyrenaica" và "XXII Deiotariana". Những quân đoàn khác, hoặc đã từng có bao nhiêu thì lại không được biết rõ.
Từ năm 7-11SCN - Có giả thuyết rằng đây là khoảng thời gian mà pháo đài đôi tại Nikopolis được xây dựng
Năm 11- Các đơn vị trong quân đoàn III dưới sự chỉ huy của Publius Juventius Rufus, đã đóng quân tại Berenike.
Năm 39/40 - Một Vexillatio của quân đoàn III đã được phái đến vùng bờ biển phía bắc của xứ Gaul (Pháp) để trợ giúp các quân đoàn của Hoàng đế Gaius Caesar Augustus Germanicus (Caligula) thực hiện cuộc xâm lược Britain không mấy ấn tượng của ông ta.
Từ năm 58 tới năm 63SCN- Dưới sự chỉ huy của Gn. Domitius Corbulo, Các đơn vị của quân đoàn III đã có mặt ở biên giới Parthia (Iran, phần lớn Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, Armenia).
Từ năm 66 tới năm 70 -Cuộc chiến tranh của người Do Thái hoặc Cuộc khởi nghĩa vĩ đại đã nổ ra. Một cuộc nổi dậy của người Do Thái chống lại người La Mã đã bắt đầu ở Alexandria, và lây lan đến xứ Judea. Các đơn vị của III và XXII đã tham gia vào cuộc chiến tranh xảy ra ở Jerusalem, và với sự hỗ trợ của nhiều quân đoàn khác, quân trợ chiến và lực lượng đồng minh (khoảng 60.000 quân) họ đã bao vây và vây hãm thành phố, dưới sự lãnh đạo của tướng Titus Flavius Vespasianus (Vespasianus),tổng trấn của châu Phi.
Năm 69SCN - "Năm Tứ Hoàng đế". Các thế lực như Galba, Otho, và sau đó là Vitellius đều đã cố gắng để nắm quyền kiểm soát Roma sau cái chết của Nero. Ngày 01 tháng 7 - Với sự ủng hộ của Gaius Licinus Mucianus, Thống đốc Syria và Tiberius Alexander, Thái thú của Ai Cập, Vespasianus đã được tuyên bố là hoàng đế. Các quân đoàn ở Alexandria cũng hưởng ứng ông hai ngày sau đó và vào tháng Tám, các quân đoàn ở Syria và khu vực sông Danube cũng tuyên bố Vespasianus là Hoàng đế. Vespasianus tiếp đó phái Mucianus tiến về thành Roma cùng với 20.000 binh sĩ trong khi Vespasianus tiến đến Alexandria để kiểm soát việc cung cấp lương thực cho Roma.
Năm 70SCN - Một Vexillatio của quân đoàn III cùng với "X Fretensis" đã hoàn tất việc bao vây Giêrusalem dưới sự chỉ huy của con trai Vespasianus, Titus.
Từ năm 84 tới năm 88 - Người ta tin rằng một đơn vị của quân đoàn đã được gửi đến giúp sửa chữa một cây cầu dọc theo sông Danube, với các quân đoàn VII Claudia, IV Flavia, và hoặc là I hoặc II Adiutrix. Một bản khắc đá kỷ niệm cây cầu đã đề cập đến "quân đoàn đến từ Ai Cập". Quân đoàn III dường như đã được phái ra nước ngoài thường xuyên hơn quân đoàn XXII, vì vậy có thể lần này là đề cập đến quân đoàn III.
Năm 90SCN - Những người lính của quân đoàn III đã xây dựng một cây cầu ở Koptos.
Năm 116SCN- Các đơn vị của quân đoàn III (? Hoặc XXII) được phái quay trở lại xứ Judea để đàn áp một cuộc khởi nghĩa khác. (Từ năm 115 tới năm 117SCN, còn được gọi là cuộc chiến tranh Kitos)
Năm 120 hoặc 127 SCN-Quân đoàn III rời khỏi Ai Cập, và nó được chuyển đến Bosra (hay còn gọi là Bostra, Syria / Jordan), thủ phủ của nó đã được đổi tên từ Petra sang Nova Trajana Basra để tôn vinh hoàng đế Trajan. Trong khi ở Bosra, quân đoàn III đã xây dựng các cánh cổng của thành phố, các cây cầu và một đấu trường đài vòng lớn, mà vẫn còn tồn tại tới ngày hôm nay và là một điểm thu hút du lịch nổi tiếng. Trong khi đó quân đoàn II Trajana Fortis đã thay thế cho quân đoàn III ở Ai Cập.
Từ năm 132-136SCN - một cuộc chiến tranh Do Thái khác đã nổ ra, hay còn gọi là cuộc khởi nghĩa Bar Kokhba. Người ta cho rằng các đơn vị của III và XXII đã được phái đến Judea. Quân đoàn XXII đã bị xóa sổ trong cuộc chiến này, hoặc có lẽ là cuộc chiến tranh Kitos trước đó.
Năm 193 -quân đoàn III ủng hộ Lucius Pescennius Niger trong cuộc nội chiến tranh giành ngai vàng sau khi hoàng đế Commodus bị ám sát nhưng ông ta đã thất bại.
Từ năm 162 tới năm 166SCN - Các đơn vị của quân đoàn III một lần nữa tham gia chiến dịch Parthia, dưới sự chỉ huy của Lucius Verus.
Từ năm 262 tới năm 267 SCN - Có thể các đơn vị của quân đoàn III đã tham gia vào cuộc chiến tranh với Nữ hoàng Zenobia ở Palmyra (Syria).
Năm 420 hoặc 430 SCN- Quân đoàn III được liệt kê trong "Notitia Dignitatum" - một tác phẩm liệt kê lại các đơn vị quân đội La Mã và vị trí đóng quân của họ. Quân đoàn III được liệt kê là "Praefectus legionis tertiae Cyrenaicae, Bostra".
Năm 630 (?) "'III Cyrenaica" có khả năng đã bị xóa sổ trong khi cuộc xâm lược của quân Hồi giáo vào Bostra.
Liên kết ngoài và tham khảo.
"Osprey books:" | 1 | null |
Tiêu Trang (, 548-577?), cũng được biết đến với tước hiệu thân vương là Vĩnh Gia vương (永嘉王), là hoàng tôn của Lương Vũ Đế. Ông được tướng Vương Lâm tuyên bố là hoàng đế hợp pháp của triều Lương vào năm 558, dưới sự trợ giúp về quân sự của Bắc Tề. Do đó, Tiêu Trang lúc này trở thành một trong ba người yêu cầu hoàng vị Nam triều, cùng với Tây Lương Tuyên Đế và Trần Vũ Đế (và sau là chất tôn Trần Văn Đế). Năm 560, do Vương Lâm bại trận trước quân Trần, cả Vương Lâm và Tiêu Trang đều chạy sang Bắc Tề, kết thúc sự kình địch giữa họ với Tây Lương và Trần. Mặc hoàng đế Bắc Tề hứa hẹn sẽ lại đưa Tiêu Trang trở thành hoàng đế triều Lương, song chính quyền này đã không thể thực hiện được điều đó. Tiêu Trang qua đời một thời gian ngắn sau khi Bắc Tề bị tiêu diệt.
Cuộc sống ban đầu.
Tiêu Trang sinh năm 548, là nhi tử của Tiêu Phương Đẳng (蕭方等)- trưởng tử và là thế tử của Tương Đông vương Tiêu Dịch. Vào thời điểm Tiêu Trang sinh ra, tằng tổ phụ Lương vũ Đế của ông đang bị phản tướng Hầu Cảnh bao vây tại đô thành Kiến Khang. Tiêu Dịch đã cử Tiêu Phương Đẳng đến Kiến Khang để nhằm tập hợp quân các châu giải vây cho đô thành. Tiêu Phương Đẳng đã thể hiện được bản thân trong chiến dịch, song cuối cùng Hầu Cảnh đã chiếm được Đài thành vào năm 549, bắt Lương Vũ Đế và Thái tử Tiêu Cương làm con tin. Sau khi Kiến Khang hoàn toàn thất thủ, quân các châu giải tán, còn Tiêu Phương Đẳng đem quân trở về căn cứ của Tiêu Dịch tại Giang Lăng. Cũng trong năm đó, Tiêu Phương Đẳng tử trận trước đường huynh Hà Đông vương Tiêu Dự (蕭譽).
Năm 552, sau khi đánh bại Hầu Cảnh, Tiêu Dịch xưng đế, tức Nguyên Đế. Nguyên Đế phong Tiêu Trang là Vĩnh Gia vương.
Đến năm 554, quân Tây Ngụy tấn công và chiếm được đô thành Giang Lăng của Lương Nguyên Đế. Khoảng tết năm 555, quân Tây Ngụy giết chết Nguyên Đế và tuyên bố Tiêu Sát là hoàng đế, tức Tuyên Đế. Hầu hết các châu của Lương đều từ chối công nhận Tuyên Đế là quân chủ, và tướng Vương Tăng Biện (王僧辯) đã nghênh đón Tấn An vương Tiêu Phương Trí đến Kiến Khang rồi tuyên bố Tiêu Phương Trí là Lương vương, chuẩn bị lập làm hoàng đế. Trong khi đó, khi Giang Lăng thất thủ, Tiêu Trang được ni cô Pháp Mộ (法慕) che giấu và do đó thoát khỏi việc bị thảm sát như tổ phụ và các hoàng thúc đang ở Giang Lăng. Cuối cùng, ông đến chỗ bộ tướng Vương Lâm của Tuyên Đế, và Vương Lâm đưa ông đến Kiến Khang.
Mặc dù Vương Tăng Biện muốn đưa hoàng thúc của Tiêu Trang là Tiêu Phương Trí làm hoàng đế, song sau đó đã đổi ý trước sức ép của Bắc Tề và đưa Tiêu Uyên Minh lên ngôi vào hè năm 555. Trần Bá Tiên bất mãn trước quyết định của Vương Tăng Biện nên vào mùa thu năm 555, ông ta đã tấn công Kiến Khang, sát hại Vương Tăng Biện và phế Tiêu Uyên Minh. Trần Bá Tiên lập Tiêu Phương Trí làm hoàng đế, tức Kính Đế. Quân Bắc Tề ngay lập tức tiến đánh, song đã bị Trần Bá Tiên đẩy lui. Nhằm cầu hòa với Bắc Tề, Trần Bá Tiên đã cử Tiêu Trang cùng Trầm Đàm Lãng (陳曇朗), và Vương Dân (王珉) sang Bắc Tề làm con tin.
Trị vì.
Năm 557, Trần Bá Tiên buộc Kính Đế phải thiện nhượng cho mình, lập ra triều đại Trần. Vào mùa xuân năm 558, do muốn kháng Trần và phục hưng triều Lương, Vương Lâm đã thỉnh cầu viện trợ của Bắc Tề và xin đưa Tiêu Trang về để lập làm vua. Bắc Tề đã chấp thuận, và Vương Lâm đã tuyên bố Tiêu Trang là hoàng đế tại căn cứ ở Giang Hạ (江夏, nay thuộc Vũ Hán, Hồ Bắc). Vương Lâm trở thành thừa tướng, còn Tiêu Trang không được thực thi nhiều quyền lực của hoàng đế do còn nhỏ tuổi. 10 châu đã cam kết trung thành với Tiêu Trang, các châu này tạo thành Hồ Nam cùng trung bộ và đông bộ Hồ Bắc hiện nay.
Năm 559, sau khi Trần Bá Tiên qua đời và chất tôn là Trần Văn Đế kế vị, Vương Lâm đã tiến hành đông hạ, để Tiêu Trang ở lại Giang Hạ dưới sự bảo hộ của Tôn Dương (孫暘). Vào xuân năm 560, khi Bắc Chu hay tin về chiến dịch của Vương Lâm, triều đình này đã cho tiến hành một cuộc tấn công nhằm vào Giang Hạ và bao vây kinh thành. Trong khi đó, Vương Lâm đã thất bại dưới tay tướng Hầu Thiến (侯瑱) của Trần và buộc phải chạy trốn sang Bắc Tề. Ngay sau đó, Tiêu Trang cũng chạy trốn sang Bắc Tề, lãnh địa của ông thì bị phân chia giữa Trần và Tây Lương (chư hầu của Bắc Chu).
Sau khi trị vì.
Bắc Tề xem Tiêu Trang là khách quý, và đến năm 570, hoàng đế Cao Vĩ đã phong Tiêu Trang làm Lương vương và hứa hẹn sẽ cố gắng đưa ông trở lại ngai vàng triều Lương. Tuy nhiên, do phải đối mặt với nạn hủ bại và tranh chấp nội bộ, bản thân Bắc Tề đã suy yếu. Năm 573, Vương Lâm đã bị tướng Trần Ngô Minh Triệt (吳明徹) bắt và giết chết. Năm 577, Bắc Tề bị Bắc Chu thôn tính. Tiêu Trang đã qua đời một thời gian ngắn sau đó tại cố đô Nghiệp thành của Bắc Tề. | 1 | null |
Tiêu Uyên Minh (, ?-556), tên tự Tĩnh Thông (靖通) còn gọi là Lương Mẫn Đế (梁閔帝), là một hoàng đế có thời gian trị vì ngắn ngủi của triều đại Lương trong lịch sử Trung Quốc. Ông là chất tôn của hoàng đế khai quốc Lương Vũ Đế. Năm 555, Lương lâm vào tình trạng hỗn loạn sau khi Tây Ngụy bắt giữ và sát hại Lương Nguyên Đế, Bắc Tề đã buộc tướng Vương Tăng Biện (王僧辯) phải chấp thuận để Tiêu Uyên Minh lên làm hoàng đế. Tuy nhiên, ngay sau đó, Trần Bá Tiên đã giết chết Vương Tăng Biện, phế truất Tiêu Uyên Minh đưa Tiêu Phương Trí lên làm hoàng đế. Tiêu Uyên Minh qua đời vào năm sau đó.
Cuộc sống ban đầu.
Phụ thân của Tiêu Uyên Minh là Tiêu Ý- một tướng lĩnh vào mạt kỳ triều Nam Tề. Năm nhi tử của Tiêu Ý được ghi chép trong sử sách, trong đó Tiêu Uyên Minh là người nhỏ tuổi nhất. Hôn quân Tiêu Bảo Quyển của Nam Tề đã buộc Tiêu Ý phải tự sát vào năm 500.
Để trả thù cho huynh trưởng, Tiêu Diễn đã nổi dậy từ Tương Dương. Năm 502, Tiêu Diễn bao vây Kiến Khang, Tiêu Bảo Quyển bị bộ tướng sát hại. Cũng trong năm đó, Tiêu Diễn soán vị của Nam Tề Hòa Đế, khởi đầu triều Lương. Lương Vũ Đế rất yêu mến Tiêu Uyên Minh và đã phong ông là Trinh Dương hầu.
Làm quan triều Lương.
Không rõ về sự nghiệp của Tiêu Uyên Minh trước năm 547, vào năm này ông nhậm chức thứ sử của Dự châu (豫州, nay là trung bộ An Huy). Người dân Dự châu được miêu tả là cảm kích sự cai quản của ông đến nỗi họ đã làm một tượng đài bằng đá để kỉ niệm nhiệm kỳ của ông. Tuy nhiên, về sau người ta được biết rằng những thợ thủ công đã tạc tượng có liên hệ và được Tiêu Uyên Minh trả công. Do đó, người ta tin rằng ông đã khuyến khích người dân tạc tượng để ca ngợi mình.
Năm 547, tướng Hầu Cảnh của Đông Ngụy do xung khắc với thượng trụ Cao Trừng nên đã dâng đất hàng Lương. Lương Vũ Đế đã chấp thuận sự đầu hàng này và đưa quân đến cứu viện cho Hầu Cảnh, quân cứu viện do hoàng tôn của Lương Vũ Đế là Nam Khang vương Tiêu Hội Lý (蕭會理) thống soái. Tiêu Uyên Minh đã thỉnh cầu được cùng đi với Tiêu Hội Lý, và được giao phụ trợ cho Tiêu Hội Lý. Tuy nhiên, Tiêu Hội Lý là kẻ nhát gan và ngạo mạn, ông ta khước từ hội họp với các bộ tướng, thậm chí là với cả Tiêu Uyên Minh. Tiêu Uyên Minh đã bí mật báo tin này cho Lương Vũ Đế, triều đình đã triệu hồi Tiêu Hội Lý và cho Tiêu Uyên Minh làm thống soái.
Quân Lương dưới quyền Tiêu Uyên Minh đã tiến vào Bành Thành (彭城, nay thuộc Từ Châu, Giang Tô) của Đông Ngụy, dựng trại ở Hàn Sơn (寒山) thuộc vùng lân cận Bành Thành, và xây dựng một con đập trên dòng Tứ Thủy (泗水) để dùng nước công phá Bành Thành. Bộ tướng của Tiêu Uyên Minh là Dương Khản (羊侃) đã nhanh chóng hoàn tất việc xây dựng đập, song đến khi Dương Khản khuyên Tiêu Uyên Minh tấn công Bành Thành, Tiêu Uyên Minh lại lưỡng lự. Do Tiêu Uyên Minh không đưa ra được một chiến lược hiệp điệu, các bộ tướng của ông bắt đầu tự mình hành động, bao gồm cả việc cướp bóc của người dân trong vùng, Tiêu Uyên Minh đã không thể ngăn cản họ, mà chỉ có thể nghiêm cấm các đơn vị nằm dưới quyền chỉ huy trực tiếp của ông.
Cũng trong năm 547, quân Đông Ngụy do Mộ Dung Thiệu Tông thống soát đã tiến đến, thay vì nhanh chóng giao chiến với quân Đông Ngụy như Dương Khản đề xuất, Tiêu Uyên Minh lại trở nên say sưa và để cho quân Mộ Dung Thiệu Tông dàn quân. Khi hai bên giao chiến, thoạt đầu quân Lương đã giành được thắng lợi, song đến khi Mộ Dung Thiệu Tông phản công, quân Lương đã sụp đổ, bản thân Tiêu Uyên Minh bị bắt. Tuy nhiên, người dân trong vùng cảm kích trước việc ông đã không cướp bóc tài sản của họ, vì thế họ đã đặt cho ông xưng hiệu "Nghĩa vương".
Tiêu Uyên Minh bị đưa đến kinh đô Nghiệp thành (鄴城, nay thuộc Hàm Đan, Hà Bắc) của Đông Ngụy, Đông Ngụy Hiếu Tĩnh Đế đã chính thức tiếp đón và quở trách ông. Sau đó, hoàng đế Đông Ngụy cho đưa ông đến căn cứ của Cao Trừng tại Tấn Dương (晉陽, nay thuộc Thái Nguyên, Sơn Tây), Cao Trừng đối đãi ông với thái độ tôn trọng, có ý sử dụng Tiêu Uyên Minh làm một quân cờ trong cuộc đàm phán với Lương. Sau đó, Cao Trừng cho phép Tiêu Uyên Minh viết cho Lương Vũ Đế và đưa ra đề nghị để Tiêu Uyên Minh được hồi quốc, điều này đã khiến Hầu Cảnh nổi dậy vào năm 548, chiếm Kiến Khang vào năm 549, dùng Lương Vũ Đế và thái tử Tiêu Cương làm con tin, đẩy Lương vào tình trạng rối loạn.
Trở về Lương.
Không biết nhiều về các hoạt động của Tiêu Uyên Minh tại Đông Ngụy và sau đó là Bắc Tề, song ông đã than khóc thảm thiết khi biết tin về việc Kiến Khang thất thủ. Ông được thụ chức "tán kị thường thị" (散騎常侍) -- một chức vụ mang ý nghĩa danh dự và có ít trách nhiệm.
Năm 552, một hoàng tử của Lương Vũ Đế là Tương Đông vương Tiêu Dịch đánh bại Hầu Cảnh và xưng đế, tức Nguyên Đế, định đô tại Giang Lăng (江陵, nay thuộc Kinh Châu, Hồ Bắc) thay vì Kiến Khang. Năm 554, quân Tây Ngụy đã chiếm được Giang Lăng, bắt giữ và sau đó hành quyết Nguyên Đế. Sau cái chết của Nguyên Đế, Vương Tăng Biện và Trần Bá Tiên (cùng nhau kiểm soát đông bộ Lương), đã nghênh đón nhi tử mới 12 tuổi của Nguyên Đế là Tiêu Phương Trí đến Kiến Khang, chuẩn bị lập Tiêu Phương Trí làm hoàng đế.
Tuy nhiên, vào thời điểm đó, Bắc Tề Văn Tuyên Đế lại quyết định lập một chính quyền chư hầu tại Lương. Văn Tuyên Đế viết thư cho Vương Tăng Biện, trong đó nói rằng Tiêu Phương Trí còn quá trẻ để trở thành hoàng đế và tiến cử Tiêu Uyên Minh. Tiêu Uyên Minh có vẻ như đã hợp tác với Văn Tuyên Đế trong nỗ lực này, do ông cũng viết một bức thư cho Vương Tăng Biện. Ban đầu, Vương Tăng Biện hồi đáp từ chối đề nghị. Tuy nhiên, sau đó quân Tề hộ tống Tiêu Uyên Minh giành được một vài chiến thắng, Vương Tăng Biện trở nên lo sợ và viết thư hồi đáp chấp thuận ủng hộ Tiêu Uyên Minh làm hoàng đế, song yêu cầu Tiêu Uyên Minh lập Tiêu Phương Trí làm thái tử. Vương Tăng Biện cũng chỉ cho phép 1.000 lính hộ tống Tiêu Uyên Minh vượt sang bờ nam Trường Giang. Vào mùa hè năm 555, Tiêu Uyên Minh đến Kiến Khang, và đến khi trông thấy Chu Tước môn (朱雀門), ông than khóc thảm thiết, các hạ thần triều Lương cũng hành động tương tự. Sau đó, Tiêu Uyên Minh đăng cơ làm hoàng đế, theo đúng lời hứa, ông lập Tiêu Phương Trí làm thái tử. Vương Tăng Biện và Trần Bá Tiên tiếp tục thống lĩnh quân đội.
Trị vì.
Vào mùa đông năm 555, do không hài lòng trước việc Tiêu Uyên Minh đăng cơ, Trần Bá Tiên từ căn cứ tại Kinh Khẩu (京口, nay thuộc Trấn Giang, Giang Tô) tấn công bất ngờ vào Kiến Khang. Do mọi người nghĩ quân của Trần Bá Tiên hành động để đối phó với thông tin rằng Bắc Tề có kế hoạch tấn công, tướng sĩ trấn thủ Kiến Khang đã không kháng cự. Trần Bá Tiên tấn công Vương Tăng Biện, giết chết và đoạt lấy quyền lực của vị thông gia này. Hai ngày sau khi Vương Tăng Biện mất, ngày Bính Ngọ tháng 9 năm Ất Hợi (tức 29 tháng 10 năm 555), Tiêu Uyên Minh thoái vị và rời khỏi hoàng cung. Trần Bá Tiên lập Tiêu Phương Trí làm hoàng đế, tức Kính Đế.
Sau khi thoái vị.
Kính Đế phong Tiêu Uyên Minh chức thái phó và phong tước Kiến An công, song không có bằng chứng nào cho thấy Tiêu Uyên Minh có được nhiều quyền lực trên thực tế.
Do xảy ra chính biến tại Lương, Bắc Tề phát động một cuộc tấn công lớn nhằm vào Lương vào đông năm 555, với sự hỗ trợ của các tướng Lương trung thành với Vương Tăng Biện. Quân Bắc Tề và Lương lâm vào thế bế tắc trong nhiều tháng, theo đúng ý muốn của Trần Bá Tiên. Vào mùa hè năm 556, các tướng lĩnh Bắc Tề mời Tiêu Uyên Minh đến doanh trại của họ để đàm phán hòa bình, Trần Bá Tiên đã chấp thuận để Tiêu Uyên Minh đi. Tuy nhiên, trước khi có thể bắt đầu bất kỳ cuộc thương thảo nào, Tiêu Uyên Minh đã qua đời do bị nhiễm trùng nghiêm trọng ở lưng. Năm 558, Vĩnh Gia vương Tiêu Trang sau khi xưng đế đã truy thụy cho Tiêu Uyên Minh là Mẫn Đế- một thụy hiệu được công nhận song hiếm khi được các sử gia truyền thống sử dụng. | 1 | null |
Lương Kính Đế (梁敬帝, 543–558), tên húy là Tiêu Phương Trí (), tên tự Huệ Tương (慧相), tiểu tự Pháp Chân (法真), là một hoàng đế của triều đại Lương trong lịch sử Trung Quốc. Với thân phận là hoàng tử duy nhất còn sống của Lương Nguyên Đế, ông đã được tướng Trần Bá Tiên lập làm hoàng đế vào năm 555. Năm 557, Trần Bá Tiên đã buộc ông phải thiện nhượng cho mình, lập tra triều đại Trần. Năm 558, Trần Bá Tiên sát hại Lương Kính Đế.
Bối cảnh.
Tiêu Phương Trí sinh năm 544, trong thời gian trị vì của tổ phụ Lương Vũ Đế, còn cha Tiêu Dịch của ông khi đó có tước Tương Đông vương. Mẹ của ông là Hạ quý phi- thiếp của Tiêu Dịch. Ông là cửu tử của cha. Năm 549, Tiêu Phương Trí được phong là Hưng Lương hầu, song có lẽ là do cha ông sách phong do Kiến Khang năm đó đã thất thủ trước phản tướng Hầu Cảnh.
Năm 552, sau khi Tiêu Dịch đánh bại Hầu Cảnh và đoạt lấy hoàng vị, tức Nguyên Đế, ông ta đã sách phong cho Tiêu Phương Trí là Tấn An vương, và phong Hạ quý phi là Tấn An vương quốc thái phi. Năm 553, Tiêu Phương Trí được thụ hàm tướng và trở thành thứ sử của Giang châu (江州, nay thuộc Giang Tây), song khi đó ông mới chín tuổi.
Vào mùa đông năm 554, kinh đô Giang Lăng thất thủ trước quân Tây Ngụy. Lương Nguyên Đế bị bắt giữ rồi bị hành quyết vào khoảng tết năm 555, toàn bộ các huynh đệ còn sống sót của Tiêu Phương Trí cũng bị giết. Tây Ngụy lập đường huynh của Tiêu Phương Trí là Tiêu Sát làm hoàng đế triều Lương. Tuy nhiên, hầu hết các châu còn lại của Lương nằm dưới quyền kiểm soát của các tướng Vương Tăng Biện và Trần Bá Tiên, họ từ chối công nhận Tiêu Sát là hoàng đế. Thay vào đó, họ nghênh đón Tiêu Phương Trí đến Kiến Khang, thoạt đầu trao cho ông chức "thái tể" (太宰) và cho ông thực hiện quyền lực của hoàng đế về mặt chính thức. Vào mùa xuân năm 555, họ tuyên bố ông là Lương vương và đưa ông lên ngôi.
Trong khi đó, Bắc Tề Văn Tuyên Đế lại có kế hoạch riêng để đưa một người thân thiện với Bắc Tề trở thành hoàng đế Lương. Bắc Tề Văn Tuyên Đế phái Thượng Đảng vương Cao Hoán (高渙) đem quân hộ tống Tiêu Uyên Minh (bị Đông Ngụy bắt làm tù binh vào năm 547) trở về Lương. Ban đầu, Vương Tăng Biện từ chối đề nghị từ Bắc Tề và Tiêu Uyên Minh, song sau khi chịu một số thất bại trước quân Bắc Tề, ông ta đã trở nên lo sợ và quyết định chấp thuận để Tiêu Uyên Minh làm hoàng đế, đổi lại Tiêu Uyên Minh phải hứa lập Tiêu Phương Trí làm thái tử. Vào mùa hè năm 555, Tiêu Uyên Minh đến Kiến Khang và đăng cơ, song quyền kiểm soát quân sự vẫn nằm trong tay Vương Tăng Biện và Trần Bá Tiên. Tiêu Uyên Minh lập Tiêu Phương Trí làm thái tử theo đúng lời hứa hẹn.
Tuy nhiên, vào thu năm 555, do bất mãn trước việc Tiêu Uyên Minh trở thành hoàng đế, Trần Bá Tiên đã tiến hành tấn công bất ngờ vào Kiến Khang. Vương Tăng Biện bị bất ngờ nên đã để cho Trần Bá Tiên bắt giữ rồi hành quyết. Tiêu Uyên Minh thoái vị, Tiêu Phương Trí lên ngôi, tức Kính Đế.
Trị vì.
Kính Đế tôn mẹ Hạ quý phi làm hoàng thái hậu và phong Vương vương phi làm hoàng hậu. Tuy nhiên, quyền lực thực tế nằm trong tay Trần Bá Tiên.
Chiến tranh đã nổ ra ngay sau khi Kính Đế đăng cơ, các tướng trung thành với Vương Tăng Biện như Từ Tự Huy (徐嗣徽), Nhâm Ước (任約), Hầu Thiến (侯瑱), nữ tế của Vương là Đỗ Kham (杜龕), và huynh đệ của Vương là Vương Tăng Trí (王僧智), đều nổi dậy chống lại Trần Bá Tiên; Từ Tự Huy và Nhâm Ước tìm kiếm viện trợ của Bắc Tề. Vào mùa đông năm 555, quân Bắc Tề vượt Trường Giang vào lãnh thổ Lương để giúp Từ Tự Huy và Nhâm Ước, song ngay sau đó, liên quân đã lâm vào thế bế tắc ở gần Kiến Khang.
Khoảng tết năm 556, Trần Bá Tiên bao vây Thạch Đầu thành đang do quân Bắc Tề trấn giữ ở gần Kiến Khang, tướng lưu thủ thành là Liễu Đạt Ma (柳達摩) đã cầu hòa. Mặc dù Trần Bá Tiên không ủng hộ hòa bình với Bắc Tề, song do nghe theo ý của hầu hết các hạ thần trong triều, Trấn Bá Tiên đã đồng ý. Trần Bá Tiên cho đưa chất tôn của mình là Trần Đàm Lãng (陳曇朗), chất tôn của Kính Đế là Vĩnh Gia vương Tiêu Trang, và Vương Dân (王珉)- nhi tử của trọng thần Vương Xung (王沖), đến Bắc Tề làm con tin. Ông cho quân Bắc Tề triệt thoái, Từ Tự Huy và Nhâm Ước cũng đến Bắc Tề. Vào mùa xuân năm 556, Trần Bá Tiên đã giết chết Đỗ Kham. Vương Tăng Trí chạy sang Bắc Tề, và khu vực Kiến Khang phần lớn đã được bình định. Ngay sau đó, Hầu Thiến- người kiểm soát Giang châu- cũng chịu khuất phục.
Tuy nhiên, ngay sau đó liên quân Bắc Tề-Từ Tự Huy-Nhâm Ước lại tấn công Lương và lại tiến đến Kiến Khang vào hè năm 556. Trần Bá Tiên đã đánh bại liên quan vài lần, và cắt nguồn cung cấp lương thực, khiến liên quân phải chịu thảm bại. Từ Tự Huy cùng một lượng lớn các tướng lĩnh Bắc Tề đã bị bắt giữ và bị hành quyết. Trần Bá Tiên buộc Kính Đế phải sách phong cho mình làm Trường Thành huyện công, và sau đó là Nghĩa Hưng quận công. Tướng Vương Lâm khi đó đang kiểm soát Tương châu (湘州, nay thuộc Hồ Nam) và Dĩnh châu (郢州, nay thuộc đông bộ Hồ Bắc), đã không chịu nhận lệnh của Trần Bá Tiên, song vẫn công nhận Kính Đế.
Vào mùa xuân năm 557, thứ sử Quảng châu (廣州, nay là Quảng Đông) là Tiêu Bột (蕭勃) cho rằng Trần Bá Tiên có mưu đồ soán vị nên đã nổi dậy và cố gắng tiến về phía bắc. Tuy nhiên, ngay sau đó bộ tướng của Trần Bá Tiên là Chu Văn Dục (周文育) đã bắt được tướng Âu Dương Ngỗi của Tiêu Bột, các tướng của Tiêu Bột đã làm phản và giết chết ông ta.
Vào mùa hè năm 557, Trần Bá Tiên buộc Kính Đế phải tấn phong mình làm Trần công. Vào mùa đông năm 557, Trần Bá Tiên buộc Kính Đế tái phong mình làm Trần vương. Chỉ ba ngày sau đó, Trần Bá Tiên đã buộc Kính Đế phải thiện nhượng cho mình, lập ra triều đại Trần.
Qua đời.
Trần Vũ Đế phong cho Tiêu Phương Trí làm Giang Âm vương. Tuy nhiên, vào hè năm 558, Trần Vũ Đế đã phái sát thủ đi giết chết cựu hoàng đế. Do thiếu hoàng đế không có nhi tử, đường huynh đệ của ông là Tiêu Quý Khanh (蕭季卿) được phong làm Giang Âm vương để kế tập. | 1 | null |
Tây Lương Minh Đế (西梁明帝, 542 – 585), tên húy Tiêu Khuy (), tên tự Nhân Viễn (仁遠), là một hoàng đế của chính quyền Tây Lương trong lịch sử Trung Quốc. Cũng như phụ hoàng Tuyên Đế, ông chỉ kiểm soát được một lãnh thổ nhỏ bé và phải dựa vào trợ giúp quân sự từ Bắc Chu và sau đó là triều đại Tùy.
Bối cảnh.
Tiêu Khuy sinh năm 542, trong thời gian trị vì của tằng tổ phụ Lương Vũ Đế. Cha của ông là hoàng tôn của Lương Vũ Đế- Nhạc Dương quận vương Tiêu Sát, mẹ của ông là một người thiếp của Tiêu Sát và mang họ Tào. Tổ phụ của Tiêu Khuy là Tiêu Thống- thái tử của Lương Vũ Đế song đã qua đời vào năm 530, ngôi vị thái tử được chuyển giao cho Tiêu Cương. Tiêu Sát bất mãn trước việc này, và đã chuẩn bị cho một cuộc tranh giành hoàng vị vào sau này. Lương rơi vào cảnh hỗn loạn sau khi phản tướng Hầu Cảnh công chiếm kinh đô Kiến Khang vào năm 549, giữ Lương Vũ Đế và Thái tử Tiêu Cương làm con tin. Do lo sợ sẽ bị thúc phụ Tiêu Dịch loại bỏ, Tiêu Sát đã đầu hàng Tây Ngụy, xin Tây Ngụy bảo hộ. Tiêu Dịch xưng đế vào năm 552 sau khi đánh bại Hầu Cảnh, song bản thân ông ta lại bị quân Tây Ngụy đánh bại vào năm 554.
Tây Ngụy tuyên bố Tiêu Sát là hoàng đế triều Lương, tức Tây Lương Tuyên Đế, và chính quyền của Tiêu Sát trở thành một chư hầu của Tây Ngụy. Do thế tử Tiêu Liêu (蕭嶚) mất sớm, Tuyên Đế đã lập Tiêu Khuy làm thái tử. Tuy nhiên, Tuyên Đế đã không được thứ sử các châu khác công nhận là quân chủ và chỉ có thể kiểm soát một lãnh địa nhỏ quanh kinh đô Giang Lăng (江陵, nay thuộc Kinh Châu, Hồ Bắc). Tuyên Đế qua đời trong buồn rầu vào năm 562, Tiêu Khuy đăng cơ kế vị, tức Minh Đế, tiếp tục là một chư hầu của Bắc Chu.
Trị vì.
Dưới thời Bắc Chu.
Minh Đế đã tôn tổ mẫu Cung thị làm thái hoàng thái hậu, tôn chính thất của Tuyên Đế- Vương hoàng hậu làm thái hậu, và tôn mẹ đẻ của mình làm thái phi. Sử sách không ghi nhận việc Minh Đế lập hoàng hậu, và vào một thời điểm, ông đã lập nhi tử Tiêu Tông làm thái tử. Ông được đánh giá là một quân chủ có học thức, đã viết 14 quyển khác nhau như "Hiếu kinh", "Chu dịch nghĩa ký", "đại tiểu thừa u vi", song ông được cho là người khá mê tín. Ông cũng được đánh giá là hiếu thảo và ân cần, và cũng là một nhà cai trị có tài, có thể để cho các thần dân của minh nghỉ ngơi và hồi phục sau khi đã mệt mỏi vì chiến loạn.
Sau khi Trần Văn Đế qua đời vào năm 566, và Trần Phế Đế đăng cơ kế vị, các đại thần của triều Trần bị thu hút vào một cuộc tranh giành quyền lực. Năm 567, hoàng thúc của Phế Đế là An Thành vương Trần Húc đã giết chết Lưu Sư Chi (劉師之), Đáo Trọng Cử (到仲舉) và đoạt lấy quyền lực. Do lo sợ Trần Húc, tướng Hoa Kiểu (華皎)- thứ sử của Tương châu (湘州, nay tương ứng với Trường Sa, Hồ Nam) đã bí mật khuất phục Tây Lương và Bắc Chu, thỉnh cầu cứu viện từ hai triều đình này. Bắc Chu Vũ Đế và người nhiếp chính là Vũ Văn Hộ đã phái Tần vương Vũ Văn Trực (宇文直) đem quân đi cứu viện, Minh Đế cũng tập trung binh lính của mình, giao cho Vương Thao (王操) đi giúp Hoa Kiểu. Quân Trần dưới quyền chỉ huy của Thuần Vu Lượng (淳于量) và Ngô Minh Triệt (吳明徹) đã đánh bại liên quân tại Độn Khẩu (沌口, nay thuộc Vũ Hán, Hồ Bắc), cả Hoa Kiểu và Vũ Văn Trực đều phải chạy về Giang Lăng. Tướng Nguyên Định (元定) của Bắc Chu và tướng Lý Quảng (李廣) của Tây Lương bị bắt. Ngô Minh Triệt nhân cơ hội này đã đoạt lấy Hà Đông quận (河東, nay thuộc Kinh Châu) của Lương. Vũ Văn Trực đổ nguyên nhân thất bại cho tướng Ân Lượng (殷亮) của Lương, Minh Đế mặc dù biết Ân Lượng không có lỗi, song vì không muốn phản đối Vũ Văn Trực nên bất đắc dĩ phải hành quyết Ân Lượng.
Vào mùa xuân năm 568, Ngô Minh Triệt tiến hành bao vây Giang Lăng và điều hướng dòng nước để cố làm ngập lụt thành. Minh Đế được Giang Lăng tổng quản Điền Hoằng (田弘) của Bắc Chu hộ tống chạy đến thành Kỉ Nam (紀南) ở gần đó. Giang Lăng phó tổng quản Cao Lâm (高琳) và Vương Thao vẫn ở lại Giang Lăng và thủ thành trong hơn 100 ngày. Đến khi các tướng Mã Vũ (馬武) và Cát Triệt (吉徹) của Tây Lương phản công và đánh bại Ngô Minh Triệt, buộc Ngô phải triệt thoái, Minh Đế lại có thể trở về Giang Lăng.
Vào thu năm 570, tướng Chương Chiêu Đạt (章昭達) tiến hành bao vây Giang Lăng, trong khi chiếm thành An Thục (安蜀, gần Tam Hiệp). Giang Lăng gần như thất thủ, và chỉ thoát hiểm sau khi Vũ Văn Trực phái Lý Thiên Triết (李遷哲) đến giải vây, khiến Chương Chiêu Đạt phải triệt thoái.
Hoa Kiểu trở thành một hạ thần của Minh Đế từ sau khi bị thua trận vào năm 567, đến năm 571, Hoa Kiểu đã đến kinh đô Trường An của Bắc Chu. Trên đường đi, Hoa Kiểu gặp Vũ Văn Trực tại Tương Dương (襄陽, nay thuộc Tương Phàn, Hồ Bắc). Hoa Kiểu nói với Vũ Văn Trực rằng chính quyền Tây Lương đã mất nhiều lãnh thổ đến mức trở nên bần cùng và không thể lo nổi cho bản thân, Bắc Chu nên cho Tây Lương mượn một vài châu. Vũ Văn Trực chấp thuận và đề xuất việc này lên Bắc Chu Vũ Đế, đáp lại, Bắc Chu Vũ Đế đã trao ba châu: Cơ (基), Bình (平), và Nhược (鄀) (hợp thành Kinh Môn và Nghi Xương thuộc Hồ Bắc ngày nay) cho Tây Lương.
Năm 577, sau khi Bắc Chu Vũ Đế đánh bại và thôn tính lãnh thổ Bắc Tề, Minh Đế đã đến cố đô Nghiệp thành của Bắc Tề để hoan nghênh Bắc Chu Vũ Đế. Ban đầu, Bắc Chu Vũ Đế đối đãi với Minh Đế theo lễ nghi tôn trọng, song không xem Minh Đế là một chư hầu quan trọng. Minh Đế cảm nhận được điều này, và trong một buổi tiệc, Minh Đế đã bàn luận về việc phụ hoàng của mình đã mắc nợ phụ hoàng của Vũ Đế và thượng trụ Vũ Văn Thái nhiều như thế nào, xúc động đến nỗi than khóc thảm thiết. Bắc Chu Vũ Đế đã rất cảm kích, và đối đãi với Minh Đế tôn trọng hơn nữa. Minh Đế cũng dành nhiều công sức để tâng bốc Bắc Chu Vũ Đế, bao gồm cả việc so sánh Bắc Chu Vũ Đế với Nghiêu Thuấn. Bắc Chu Vũ Đế hãnh diện và đã ban thưởng nhiều châu báu cho Minh Đế, cũng như một số phi tần của Bắc Tề Hậu Chủ.
Năm 578, Bắc Chu Vũ Đế qua đời, Bắc Chu Tuyên Đế- một người thất thường và hung ác- đăng cơ kế vị. Năm 580, Bắc Chu Tuyên Đế cũng qua đời, nhạc phụ của Tuyên Đế là Dương Kiên trở thành người nhiếp chính cho ấu chúa Bắc Chu Tĩnh Đế. Do nghi ngờ mục đích của Dương Kiên, tướng Bắc Chu Uất Trì Huýnh đã nổi dậy tại Nghiệp thành. Hầu hết các tướng của Tây Lương đều khuyên Minh Đế liên kết với Uất Trì Huýnh, biện luận rằng nếu như Uất Trì Huýnh thành công, ông sẽ được ban thưởng vì trung thành với hoàng tộc Vũ Văn, còn nếu Uất Trì Huýnh thất bại, ông vẫn có thể nhân cơ hội này mà đoạt thêm một số lãnh địa. Tuy nhiên, khi Minh Đế phái Liễu Trang (柳莊) đến Trường Ân để quan sát tình hình, Dương Kiên đã nó rằng mình từng là khách của Minh Đế khi là tướng đóng quân tại Giang Lăng (mặc dù sử sách không viết là khi nào), cầu sự trung thành của Tây Lương. Liễu Trang tin rằng Uất Trì Huýnh sẽ không thể thành công, nên khi trở về Giang Lăng đã khuyên Minh Đế về phe Dương Kiên. Minh Đế chấp thuận, và ngay sau đó, khi Dương Kiên đánh bại Uất Trì Huỳnh, Minh Đế đã bình với Liễu: "Nếu quả nhân nghe lời những kẻ khác, quốc gia ắt sẽ diệt vong."
Dưới thời Tùy.
Vào mùa xuân năm 581, Dương Kiên đã buộc Bắc Chu Tĩnh Đế phải thiện nhượng cho mình, tức Văn Đế, lập ra triều Tùy. Ngay sau đó, Minh Đế đã phái hoàng đệ An Bình vương Tiêu Nham (蕭巖) đến Trường An để chúc hạ Tùy Văn Đế và để cam kết trung thành.
Năm 582, nhằm tiếp tục tôn vinh Minh Đế, Tùy Văn Đế đã lệnh cho Minh Đế gả một nhi nữ sang làm chính thất cho nhi tử được mình yêu mến- Tấn vương Dương Quảng. Sau khi bói toán vận mệnh, Minh Đế đã xác định rằng tất cả các nhi nữ của ông đều không thích hợp. Tuy nhiên, sau đó Minh Đế nhớ rằng ông có một nhi nữ sinh vào tháng thứ hai, và do khi đó cho rằng đứa bé có điềm xấu, ông đã trao đứa bé cho cữu phụ Trương Kha (張軻) nuôi dưỡng. Ông triệu cô quay trở lại hoàng cung, các thầy bói phán rằng cô là người phù hợp, Minh Đế đã đưa cô đến kết hôn với Dương Quảng. (Tùy Văn Đế cũng muốn gả nhi nữ là Lan Lăng công chúa cho nhi tử của Minh Đế là Nghĩa An vương Tiêu Sướng, song không rõ vì sao đã không làm như vậy.) Do mối quan hệ thông gia này, Tùy Văn Đế đã quyết định triệt thoái Giang Lăng tổng quản (tướng của Tùy) khỏi Giang Lăng. Do đó, trong một thời gian ngắn, Minh Đế đã có thể cai trị quốc gia của mình trong tình hình Tùy ít có sự can thiệp. Năm 583, khi Tùy rời đô từ cố thành Trường An đến Đại Hưng thành gần đó, Minh Đế đã phái Thái tử Tiêu Tông đi chúc hạ Tùy Văn Đế. Vào mùa xuân năm 584, Minh Đế đích thân đến Đại Hưng thành để tỏ lòng tôn kính đối với Tùy Văn Đế, và cả hai đều mặc long bào, song Minh Đế mặc y phục ít ấn tượng hơn để thể hiện vị thế chư hầu của mình.
Vào mùa hè năm 585, Minh Đế qua đời, Tiêu Thống đăng cơ kế vị, tức Tĩnh Đế. | 1 | null |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.