text
stringlengths
1
148k
label
int64
0
2
__index_level_0__
int64
0
113k
Cầu Ba Rài bắc qua sông Ba Rài nằm trên trục đường tỉnh lộ 864, thuộc địa phận xã Hội Xuân, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. Được khởi công vào ngày 27 tháng 4 năm 2012 do Sở Giao thông Vận tải Tiền Giang làm chủ đầu tư và thông xe kỹ thuật vào dịp Tết nguyên đán 2013. Cầu được khánh thành vào sáng ngày 22 tháng 4 năm 2013, với chiều dài 166,2 mét, chiều rộng 10 mét, gồm 3 nhịp, do Công ty cổ phần BETON 6 thi công với kinh phí hơn 39 tỷ đồng.
1
null
Cua dừa (danh pháp hai phần: Birgus latro) là một loài ốc mượn hồn trên cạn. Đây là động vật chân đốt sinh sống trên cạn lớn nhất thế giới, và có lẽ là ở trên giới hạn kích thước lớn nhất cho động vật trên cạn bộ khung xương ngoài trong bầu khí quyển Trái Đất gần đây, với trọng lượng lên đến 4,1 kg (£ 9,0). Nó có thể phát triển lên đến chiều dài 1 m từ đầu chân này đến đầu chân kia. Nó được tìm thấy trên các hòn đảo trên Ấn Độ Dương và các khu vực của Thái Bình Dương và ở tận phía đông như quần đảo Gambier, phản ánh sự phân bố của dừa, nó đã tuyệt chủng tại hầu hết các khu vực có dân số đáng kể, bao gồm đất liền Úc và Madagascar. Cua dừa cũng sống ngoài khơi châu Phi gần Zanzibar. Cua dừa là loài duy nhất của chi "Birgus", và có liên quan đến những con cua ký cư trên mặt đất thuộc chi "Coenobita". Nó cho thấy một số thích nghi với cuộc sống trên đất liền. Như tôm ký cư, cua dừa non sử dụng vỏ rỗng để bảo vệ, nhưng những con trưởng thành phát triển một bộ xương ngoài cứng rắn trên bụng và ngừng mang vỏ. Cua dừa đã phát triển các cơ quan được gọi là "phổi branchiostegal", được sử dụng thay vì mang thoái hóa để thở. Chúng không thể bơi, và sẽ bị chết đuối nếu chìm trong nước trong thời gian dài. Chúng đã có khứu giác phát triển, chúng sử dụng nó để tìm kiếm các nguồn thực phẩm tiềm năng. Giao phối xảy ra trên đất liền, nhưng con cái di cư ra biển để đẻ trứng thụ tinh của chúng khi chúng nở. Các ấu trùng phù du trong 3-4 tuần, trước khi quyết định đến đáy biển và bước vào một vỏ bụng. Cua đạt độ thành thục sinh dục đạt được sau khoảng 5 năm, và tổng số tuổi thọ có thể được hơn 60 năm. Cua dừa lớn ăn trái cây, các loại hạt, và phần lõi của cây đổ, nhưng cũng ăn những chất rữa và chất hữu cơ khác một cách cơ hội, và bắt cả chuột để ăn. Loài này được phổ biến liên quan đến dừa, chúng leo lên cây dừa và ăn quả dừa bằng cách bổ vỏ và ăn cơm dừa. Tuy nhiên, dừa không phải là một phần quan trọng của chế độ ăn uống của chúng. Cua dừa bị săn bắt bất cứ nơi nào chúng tiếp xúc với mọi người, và có được pháp luật bảo vệ trong một số khu vực. Mô tả. "Birgus latro" là loài động vật chân đốt sống trên mặt đất lớn nhất thế giới; ghi nhận kích thước của "Birgus latro" khác nhau nhưng phần lớn nguồn cho thấy thân dài đến , và cân nặng đến , và một sải chân dài hơn , con đực thường lớn hơn con cái. Mai có thể đạt chiều dài , và rộng đến . Cơ thể của cua dừa, giống như tất cả decapoda, được chia thành phần phía trước (đầu ngực), trong đó có 10 chân, và bụng. Cặp chân phía trước nhất có càng lớn. (Móng vuốt), bên trái lớn hơn bên phải. Hai cặp chân tiếp theo với móng nhọn, cho phép cua dừa leo lên bề mặt thẳng đứng hoặc nhô ra. Cặp chân thứ tư nhỏ với càng giống như nhíp ở cuối, cho phép cua dừa trẻ bám chặt vào bên trong vỏ hoặc vỏ dừa để tự bảo vệ, cua trưởng thành sử dụng cặp này cho đi bộ và leo trèo. Cặp chân cuối cùng rất nhỏ và được sử dụng bởi cua cái để chăm sóc trứng của chúng, và những con đực trong giao phối. Cặp chân cuối cùng này thường nằm bên trong mai, trong khoang chứa các cơ quan hô hấp. Có một số sự khác biệt về màu sắc giữa các loài động vật trên hòn đảo khác nhau, từ màu đỏ da cam đến tím xanh; trong hầu hết các vùng, màu xanh da trời là màu sắc chủ đạo, nhưng ở một số nơi, trong đó có Seychelles, hầu hết các cá thể có màu đỏ. Mặc dù "Birgus latro" là loài có nguồn gốc của cua ký cư, chỉ con non mới sử dụng vỏ ốc để tự bảo vệ bụng mềm của mình, và con lớn hơn đôi khi sử dụng vỏ dừa bị hỏng để bảo vệ bụng của chúng. Không giống như cua ẩn sĩ khác, những con cua dừa lớn không mang vỏ, thay vào đó làm cứng lưng bụng bằng bồi lên chất kitin và đá phấn. Không hạn chế bởi các giới hạn vật lý của cuộc sống trong vỏ cho phép loài này phát triển lớn hơn nhiều so với cua ẩn sĩ khác trong họ Coenobitidae. Như hầu hết cua thực sự, "B. latro" uốn cong đuôi xuống dưới thân để bảo vệ. Bụng đã được làm cứng bảo vệ cua dừa và giảm mất nước trên mặt đất nhưng được thay theo định kỳ. Con trưởng thành thay vỏ bụng hàng năm, chúng đào hang dài đến và chúng trong trốn trong đó để tránh bị thương tổn trong thời gian này. Nó vẫn còn ở trong hang từ 3 đến 16 tuần, tùy thuộc vào kích thước của chúng. Sau khi lột vỏ, nó cần 1-3 tuần cho xương ngoài cứng lên, tùy thuộc vào thân nó còn mềm và dễ bị tổn thương hay không. Trừ khi còn là ấu trùng, cua dừa không biết bơi, và chúng sẽ chết nếu ở trong nước hơn một giờ.
1
null
Leo II (, Tiếng Hy Lạp cổ: "Λέων Β", "Leōn II"; 467 – 474) là Hoàng đế Đông La Mã trị vì chưa đầy một năm vào năm 474. Ông là con trai của Zeno và Ariadne, ngoài ra cũng còn là cháu ngoại của Leo I và Verina. Vì là hậu duệ nam gần nhất của Leo, ông được chọn làm người kế vị sau khi ông ngoại mình qua đời. Sau khi cha ông cùng lên ngôi hoàng đế thì vị tiểu hoàng đế đột ngột qua đời vì một căn bệnh chưa rõ nguyên nhân sau khoảng 10 tháng trị vì cho đến tháng 11 năm 474. Có tin đồn lan truyền rằng có thể ông đã bị người mẹ Ariadne đầu độc để đưa người cha Zeno lên ngôi. Thực sự thì chính người cha của ông đã kế thừa ngôi báu cho dù bà ngoại Verina của bà đã lợi dụng cái chết của người cháu yêu dấu để âm mưu chống lại Zeno. Liên kết ngoài.
1
null
Leo I () (401 – 474) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 457 đến 474. Vốn là dân vùng Dacia Aureliana gần xứ Thracia trong lịch sử, vì vậy mà ông còn được gọi là Leo người xứ Thracia ( "Leōn ha ho Thrax"). Trị vì Đế quốc Đông La Mã trong gần 20 năm từ 457 đến 474 Leo tỏ ra là một nhà lãnh đạo tài ba, ông đã giám sát nhiều kế hoạch chính trị và quân sự đầy tham vọng nhằm mục đích chủ yếu trợ giúp cho Đế quốc Tây La Mã đang dần suy yếu và phục hồi vùng các vùng lãnh thổ của họ như xưa. Ông nổi danh vì là vị Hoàng đế Đông La Mã đầu tiên làm luật viết bằng tiếng Hy Lạp chứ không phải là tiếng Latinh như trước đây. Ông được Giáo hội Chính Thống giáo phương Đông tưởng niệm như một vị Thánh trong ngày lễ diễn ra vào ngày 20 tháng 1 hằng năm. Triều đại. Leo I hay còn gọi là Leo Marcellus lúc nhỏ sinh ở xứ Thracia hoặc tại tỉnh Dacia Aureliana vào năm 401 trong một gia đình La Mã gốc Thracia. Học giả Candidus Isaurus còn đề cập đến gốc gác Dacia của ông, trong khi John Malalas tin rằng ông xuất thân từ dòng dõi Bessian. Hồi còn trẻ, Leo vốn từng phục vụ trong quân đội La Mã rồi sau do đạt được nhiều chiến công hiển hách mà ông được thăng lên chức "comes". Leo là người cuối cùng trong một loạt hoàng đế được đưa lên ngôi báu từ tay viên Đại tướng quân Đông La Mã gốc man tộc Alan là Aspar, vì nghĩ rằng Leo sẽ là một ông vua bù nhìn dễ bề chi phối. Trái lại, Leo ngày càng trở nên độc lập với Aspar, gây nên căng thẳng giữa đôi bên mà sẽ lên đến đỉnh điểm trong vụ ám sát sau này. Lễ đăng quang của Leo diễn ra vào ngày 7 tháng 2 năm 457, ông là người đầu tiên được biết đến có liên quan đến chức Thượng phụ thành Constantinopolis. Leo I đã vội liên minh với người Isauria nhằm mục tiêu loại bỏ tên quyền thần Aspar. Cái giá của liên minh là Leo phải gả con gái của mình cho Tarasicodissa, thủ lĩnh của người Isauria cùng một cách mà Zeno đã làm khi trở thành hoàng đế vào năm 474. Năm 469, Aspar đã cố gắng phái người ám sát Zeno nhưng bất thành. Cuối cùng vào năm 471, con trai của Aspar là Ardabur có liên can đến một âm mưu chống lại Leo và chẳng mấy chốc cả hai đều bị thủ hạ do ông phái đến ám sát. Leo đánh giá quá cao khả năng của mình và ông đã mắc phải một số sai lầm đe dọa đến trật tự nội bộ của Đế quốc. Vùng Balkan đã bị người Ostrogoth tàn phá tơi bời sau một bất đồng giữa Hoàng đế và vị thủ lĩnh trẻ tuổi Theodoric Đại đế đã xảy ra tại triều đình của Leo ở Constantinopolis, nơi ông đang đắm chìm với những chiến thuật quân sự và bộ máy cai trị của Đế quốc La Mã. Ngoài ra còn có một số cuộc tấn công của người Hun. Tuy nhiên, những kẻ tấn công đã không thể nào chiếm được Constantinopolis nhờ vào các bức tường thành kiên cố, mà đã được xây dựng lại và củng cố dưới thời Theodosius II nhằm để chống lại những khí cụ công thành đầy uy lực của kẻ thù. Triều đại của Leo còn đáng chú ý vì ảnh hưởng của ông lên Đế quốc Tây La Mã đã được chứng tỏ bằng việc sắc phong Anthemius làm Hoàng đế Tây La Mã vào năm 467. Ông đã cố gắng vun đắp thành tích chính trị này bằng một cuộc viễn chinh chống lại người Vandal vào năm 468 để rồi bị thảm bại do sự kiêu ngạo của người em rể Basiliscus. Thảm họa này làm tiêu hao binh lính và tiền bạc của Đế quốc. Cuộc viễn chinh này có chi phí lên đến 130,000 bảng vàng và 700 bảng bạc, bao gồm 1113 tàu chở 100.000 quân nhưng đến lúc cuối bị mất 600 tàu. Sau thất bại này, người Vandal càng tăng cường đột kích vùng bờ biển Hy Lạp cho đến khi buộc Leo phải ký kết một thỏa thuận hòa bình tốn kém với Genseric nhằm kết thúc cuộc chiến quá tốn kém này. Về cuối đời Leo mắc bệnh lỵ nghiêm trọng dù được các danh y tận tình cứu chữa nhưng ông đã không qua khỏi và mất vào ngày 18 tháng 1 năm 474 ở tuổi 73. Gia đình. Leo và Verina có ba người con. Con gái lớn của họ là Ariadne được sinh ra trước khi Marcianus qua đời (trị vì 450-457). Ariadne có một người em gái là Leontia. Leontia lần đầu tiên được hứa gả cho Julius Patricius, con trai của Aspar thế nhưng hôn ước của họ đã bị hủy bỏ khi Aspar và một người con khác của ông là Ardabur bị ám sát vào năm 471. Leontia sau đó kết hôn với Marcianus, một người con của Hoàng đế Anthemius và Hoàng hậu Marcia Euphemia. Cặp đôi này đã dẫn đầu một cuộc nổi dậy bất thành chống lại Zeno vào khoảng năm 478-479. Cuộc nổi dậy bị đàn áp đẫm máu và cả hai đều bị đày biệt xứ đến chốn Isauria. Một người con trai không rõ danh tính khác của ông được sinh ra năm 463 nhưng mất sớm sau năm tháng hạ sinh. Những nguồn tài liệu duy nhất viết về ông là từ một lá số tử vi của Rhetorius và một cuốn tiểu sử các vị Thánh của Daniel Nhà Ẩn sĩ. Trong cuốn "Biên niên sử Gruzia", một bộ sử có từ thế kỷ thứ 13 dựa theo những nguồn tài liệu trước đây, kể lại cuộc hôn nhân của vua Vakhtang I xứ Iberia với công chúa Helena nước Byzantium, và xác nhận bà chính là con gái của vị vua quá cố trước Zeno. Vị vua tiền nhiệm này có lẽ là Leo I, câu chuyện có nhắc đến người con gái thứ ba của Leo. Cyril Toumanoff đã xác nhận vị hoàng đế này có hai người con từ cuộc hôn nhân này là Mithridates xứ Iberia và Leo xứ Iberia. Người con thứ hai Leo này chính là cha của Guaram I xứ Iberia. Tính chính xác về dòng dõi này hiện vẫn còn mơ hồ.
1
null
Hurghada ( ", " "" ) là một thành phố nằm ở tỉnh Biển Đỏ của Ai Cập. Đây là một trong các trung tâm du lịch lớn của Ai Cập nằm trên bờ biển Đỏ. Khái quát. Thành phố được thành lập vào đầu thế kỷ 20, và từ những năm 1980 đã được liên tục mở rộng bởi các nhà đầu tư Ai Cập và nước ngoài để trở thành khu nghỉ mát ven biển hàng đầu tại Biển Đỏ. Các khu nghỉ mát và khách sạn cung cấp thiết bị thể thao dưới nước cho khách lướt ván buồm, lướt ván diều, đi du thuyền, lặn có bình khí và lặn ống thở. Hurghada nổi tiếng với các hoạt động thể thao dưới nước, cuộc sống về đêm và thời tiết ấm áp. Nhiệt độ hàng ngày trong năm dao động trong khoảng , trong tháng 7 và tháng 8 nhiệt độ cao trên . Nhiều khách châu Âu tới Hurghada để nghỉ mát, đặc biệt là vào mùa đông và Giáng Sinh. Du khách Nga giảm đáng kể sau tai nạn máy bay Metrojet năm 2015. Hurghada trải dài khoảng dọc theo bờ biển, cách một quãng khá xa so với khu vực hoang mạc. Khu nghỉ mát này là điểm đến của nhiều khách du lịch từ Cairo, Châu thổ sông Nin và Thượng Ai Cập, cũng như các khách du lịch trọn gói tới từ châu Âu. Ngày nay Hurghada có khoảng 248.000 dân và được chia thành các khu: Thành phố có Sân bay quốc tế Hurghada với các chuyến bay cố định tới Cairo và nhiều thành phố châu Âu. Một bến mới của sân bay được mở vào năm 2015 để đáp ứng nhu cầu du lịch gia tăng. Lịch sử. Ngôi làng tiền thân của thành phố Hurghada ngày nay bắt đầu có người ở từ năm 1905. Tên của thành phố bắt nguồn từ một loài thực vật mọc tự nhiên từ thời Ai Cập cổ đại. Trước đó nơi đây chỉ là một làng chài. Dầu mỏ được tìm thấy ở khu vực này vào năm 1913, nhưng quá trình sản xuất và xuất khẩu chỉ được bắt đầu từ năm 1921 bởi các công ty của Anh Quốc. Dưới thời Vua Farouk người ta xây dựng một trung tâm vui chơi giải trí ở đây, tuy nhiên sau công cuộc quốc hữu hóa nền công nghiệp Ai Cập của Tổng thống Gamal Abdel Nasser, nơi này được chuyển giao cho Quân đội Ai Cập. Trong Chiến tranh Tiêu hao giữa Israel và Ai Cập, đảo Shadwan ở phía Đông thành phố được bảo vệ bởi các lực lượng Ai Cập và được sử dụng làm trạm rad đa. Vào ngày 22 tháng 1 năm 1970, đây là nơi diễn ra Chiến dịch Rhodes của các lực lượng nhảy dù Israel, những người chiếm đảo trong 36 giờ đồng hồ. Trong Chiến tranh Yom Kippur, cảng Hurghada là mục tiêu của . Các lực lượng Israel cũng chiếm đóng được đảo Shadwan khiến 32 lính Ai Cập hi sinh, còn Israel mất bảy người. Vào ngày 27 tháng 9, 1994 một vụ lái xe xả súng đã lấy đi sinh mạng của hai người Ai Cập và một du khách Đức; một người Đức khác bị thương và chết sau trở về Đức. Vụ tấn công Hurghada 2016 với thủ phạm là các phần tử khủng bố khiến ba du khách bị thương. Vào ngày 14 tháng 7 năm 2017, vụ tấn công Hurghada 2017 một người đàn ông tấn công bằng dao vào năm người Đức, một người Séc và một người Armenia, đều là phụ nữ, khiến hai người phụ nữ Đức thiệt mạng. Du khách Séc sau đó chết vào ngày 27 tháng 7 trong bệnh viên. Cuộc tấn công nổ ra tai hai khách sạn khác nhau. Khí hậu. Hurghada có khí hậu hoang mạc cận nhiệt đới (phân loại khí hậu Köppen: BWh), với mùa đông ấm áp và mùa hè nóng (hoặc rất nóng). Nhiệt độ trong giai đoạn tháng 12–1–2 khá dễ chịu, tuy nhiên vào buổi tối nhiệt độ giảm xuống 20 độ C - 10 độ C. Tháng 11, 3 và 4 ấm hơn một chút. Tháng 5 và tháng 10 nóng trong khi từ tháng 6 tới 9 rất nóng. Nhiệt độ biển trung bình hàng năm là , từ vào tháng 2 và 3 tới vào tháng 8. Nhiệt độ cao kỷ lục đo được vào ngày 12 tháng 6, 2013 là , trong khi nhiệt độ thấp kỷ lục ngày 2 tháng 2, 1993 là .
1
null
Bunny Style! (バニスタ! Banisuta ?) là một bài hát tiếng Nhật của nhóm nhạc nữ Hàn Quốc T-ara. Đĩa đơn được phát hành vào 20 tháng 3 năm 2013. Thông tin đĩa đơn. Vào ngày 20/3- T-ara đã cho phát hành 10 phiên bản từ A đến J, bao gồm 3 phiên bản phát hành giới hạn có thêm 1 bài hát được trình bày bởi những nhóm thành viên nhỏ; cụ thể là bài "Sign" do "Soyeon và Areum" trình bày trong phiên bản A, bài "Shabontama no Yukue" của Boram và Qri trong phiên bản B, phiên bản thứ 3 có bài "Dangerous Love" của Eunjung, Hyomin và Jiyeon. Bảy phiên bản còn lại do 7 thành viên thực hiện là phiên bản thông thường. Ca khúc sẽ được trình diễn cùng với 1 điệu nhảy bunny mô phỏng theo động tác của thỏ. T-ara đã tổ chức những buổi ra mắt đặc biệt tại 15 thành phố ở Nhật Bản, bắt đầu từ Sapporo vào ngày 20 và Marioka ngày 21. Các thành phố khác là Saitama, Kyoto, Fukuoka, Nagasaki..
1
null
Aswan ( ' ; tiếng Ai Cập: '; tiếng Copt: ', '), cách viết cũ "Assuan" là thành phố tỉnh lỵ tỉnh cùng tên ở Ai Cập. Aswan là một thành phố ở phía nam của Ai Cập, cư ly 680 km (425 dặm) về phía nam Cairo, ngay dưới đập nước Aswan và hồ Nasser, với dân số 275.000 người.
1
null
Gentleman (phiên âm: [ jen-tl-mu"h"n ] ) hay cách gọi tiếng Việt: Quý ông, là một thuật ngữ đề cập đến chuẩn mực của bất kỳ người đàn ông nào "văn minh, có học thức, tế nhị và phong thái tốt." "Gentleman" là một đặc quyền được chia sẻ giữa giới thượng lưu và quý tộc, các tầng lớp cấu thành của quý tộc Anh. Theo truyền thống, và nguồn gốc nghiêm ngặt của từ ngữ thì quý ông phải thuộc tầng lớp thượng lưu, tức là người có chức danh thấp nhất của Thứ bậc hoàng tộc, Quý tộc và Hiệp sĩ. Giới quý tộc đã hạ cánh hiện không còn thuộc về quý tộc, họ được quyền trưng bày thanh kiếm (hay chiếc khiên huy hiệu) và quý ông phải là chuẩn mực của gia đình. Mặc dù, quý ông không phải là một người hoàn hảo nhưng đây được coi là dấu hiệu của địa vị xã hội và giá trị nhất định như một chỉ số về thứ hạng và sự sung túc cho nam giới. Từ nguyên. Cụm từ "gentleman" là một danh từ, trong ý nghĩa tiếng Anh được tách thành (gentle + man). Từ "gentle" trong tiếng Anh mang ý nghĩa nhẹ nhàng, từ tốn, đáng yêu hoặc tốt bụng và từ "man" bao hàm ý nghĩa người đàn ông. Từ "gentle" bắt nguồn từ tiếng Pháp cổ là "gentilz" mang ý nghĩa "sinh ra tốt". Do đó, từ nguyên cuối cùng của "gentil" là "gentilis" trong tiếng Latinh mang ý nghĩa "thuộc cùng một gia đình, chủng tộc hoặc quốc tịch"; và trong nhiều tài liệu tiếng Anh-Latinh, nó được phiên dịch là "rộng lượng". Mối quan hệ từ nguyên "gentleman" cũng tồn tại đối với thuật ngữ tiếng Anh là "gentry", theo nghĩa rộng hơn biểu thị giới quý tộc. Thuật ngữ cũng song song trong tiếng Pháp gọi là "gentilhomme" (homme: nam giới), trong ngôn ngữ tiếng Tây Ban Nha là "gentilhombre", tiếng Ý là "gentiluomo" và tiếng Đức là "Ehrenmann" hoặc "Kavalier". Theo từ điển Thiều Chửu, trong tiếng Việt gọi nôm na là "Quý ông" ("ông" trong tiếng gọi tôn quý nhau với nam giới). Định nghĩa truyền thống. Thuật ngữ "gentleman" phức tạp hơn nhiều do nó không thể được định nghĩa bằng hàng loạt các quy tắc và thường tương đối mơ hồ trên các từ điển hay thông tin đại chúng, không có đường nét để khó có thể mô tả đặc điểm chính xác ràng buộc. Những điều sau đây được quy cho là cần thiết, đôi khi cũng là điều kiện tiên quyết đủ để xem xét bất kỳ người đàn ông nào có thể là một quý ông hay không: Xuất thân. Vào cuối những năm 1500, giáo sĩ William Harrison, khi bản thân ông là "hình mẫu hiện đại", đã định nghĩa rằng "các quý ông là những người có chủng tộc và dòng máu đang chảy trong cơ thể họ, hoặc ít nhất là biểu hiện đức tính của họ. Điều này làm cho họ trở nên cao quý và được mọi người biết đến." Trong bối cảnh này, nhà sử học Maurice Keen (1933-2012) mô tả hạng mục xã hội của gentleman là "thứ hạng Anh gần nhất, tương đương với thứ hạng quý tộc của Pháp." Do đó, hạng mục xã hội của quý ông (peerage) trong tiếng Anh tương ứng với tiếng Pháp "gentilhomme" (nhà quý tộc). Vào thế kỷ 14, thuật ngữ quý ông bao gồm giai cấp thống trị cha truyền con nối, vốn là những người nổi dậy trong Cuộc nổi dậy của nông dân (1381), chẳng hạn như một thành ngữ nổi tiếng của những người ủng hộ linh mục John Ball, phổ biến vào thế kỷ thứ 14: Một quý ông thường được mong đợi phải có phù hiệu (chiếc khiên đại diện cho gia tộc), người ta chấp nhận rằng chỉ một quý ông mới có phù hiệu, và vì vậy điều này được chỉ ra trong một cốt chuyện của William Shakespeare về cách "gentleman" được tạo ra: Những quý ông tổ tiên không được biết đến là William, Công tước xứ Normandy (đối với các dân tộc Anglo-Saxon vẫn còn tồn tại, chúng ta hiện không khen ngợi, ít hơn nhiều về vấn đề người Anh) bắt đầu đến nước Anh sau cách thức này trong thời đại của chúng ta. Là người đã nghiên cứu các quy luật của vương quốc, người tuân thủ trong trường đại học, dành tâm trí của anh ta cho những cuốn sách, hoặc nghiên cứu vật lý và khoa học tự do, hay bên cạnh phòng công tác của anh ta trong phòng chỉ huy của các cuộc chiến tranh, hoặc lời khuyên tốt mà anh ta đưa ra ở nhà, nhờ đó mà khối tài sản chung của anh ta được hưởng lợi, anh ta có thể sống mà không cần lao động chân tay; và để có thể và sẽ gánh vác việc cảng, phí và sự chăm sóc của một quý ông, anh ta sẽ vì tiền mà có áo khoác và huy hiệu học được ban tặng cho anh bởi truyền lệnh quan và thứ được làm tốt đến mức rẻ tiền được gọi là bậc thầy (master), đó là danh hiệu mà dành cho những người đàn ông là với chức vị Esquire và Gentleman là danh tiếng cho một quý ông mãi mãi. Điều đó càng làm cho ít người không chấp nhận, vì Vương tước chẳng mất gì vì điều đó trong khi quý ông phải chịu quá nhiều thuế và các khoản thanh toán công cộng từ người vợ hoặc bản thân họ là người chồng, điều mà anh ta cũng vui mừng hơn vì đã cứu danh tiếng của mình. Quý ông cũng được kêu gọi tham gia các cuộc chiến tranh (vì với chính phủ của khối thịnh vượng chung mà anh ta ít can thiệp) bất cứ giá nào khiến anh ta phải trả giá, anh ta sẽ tự dàn trận và tự trang bị cho phù hợp, và thể hiện lòng dũng cảm nam tính hơn, và tất cả các từ khóa của người đàn ông mà anh ta đại diện. Không có người đàn ông nào bị tổn thương vì điều đó ngoài chính mình, kẻ phá hoại sẽ đi trong bụi rậm rộng hơn chân mình sẽ chịu, hoặc như tục ngữ của chúng ta đã nói, bây giờ và sau đó mang một cánh buồm lớn hơn thuyền của mình có thể trụ vững. Giáo dục. Richard Mulcaster, nhà quý tộc thuộc thời đại Elizabeth đã định nghĩa ra rằng "đặc điểm của quý ông là họ có thể đọc, viết, vẽ, hát và nói được ngoại ngữ khác. Một quý ông là một học giả và cũng hiểu biết về thần học và luật học.” Kempf đương thời của ông đã kêu gọi một "nền giáo dục về ngữ pháp, luận lý học và toán học." Còn theo William Harrison, vào thời của Shakespeare thì ngoài những thứ khác đã có bao gồm ở trên thì những người đàn ông đó được xem là quý ông "học luật, ở trường đại học và bận rộn với sách, khoa học và nghệ thuật." Đó chính xác là tiêu chí mà trên thực tế thường không được chia sẻ bởi những giới có ảnh hưởng và có ảnh hưởng nhất ở Anh. Học bổng, kỹ năng ngôn ngữ, nghiên cứu luật pháp bị coi là "không xứng với một quý ông" và tốt nhất được coi là việc làm cho những người con trai quý tộc sinh sau, những người không có quyền thừa kế của cha và do đó phải tìm đường đi khắp thế giới ở nơi khác. Một quan điểm tương tự cũng có thể được tìm thấy ở nhà văn người Mỹ Lewis Mumford, ông yêu cầu một "sự nuôi dạy nhân văn" từ một quý ông, nhưng lại coi kiến ​​thức chi tiết chuyên sâu là khá tai hại. Người đàn ông lý tưởng hơn là người nói chung, là người biết nhiều điều gì đó về mọi thứ nhưng không có gì quá đáng. Trường công lập trở thành hình mẫu cho các quý ông và dịch vụ công cộng. Hành vi. Bất kỳ hành vi nào hoặc tính cách có thể đáp ứng các tiêu chuẩn đạo đức và luân lý nhất định thường được nhắc đến như đặc điểm của một quý ông. Việc trở thành một quý ông là một hình thức thiên hướng về tính cách hơn so với phép xã giao, bởi vì mỗi người đàn ông bình thường vẫn có thể "thực hành các phép xã giao tốt". Hành vi thể hiện một quý ông được minh họa rõ ràng trong các định nghĩa, được đưa ra trong các ấn bản của Bách khoa toàn thư Britannica. Trong lần xuất bản thứ 8 (năm 1856) thì đây vẫn là "giác quan mở rộng nhất" của thuật ngữ; "Theo phép lịch sự, danh hiệu "gentleman" thường được dành cho tất cả những người trên cấp bậc thợ thông thường khi cách cư xử của họ thể hiện một số sự sàn lọc và thông minh nhất định." Các đặc tính của một quý ông gồm: Thế kỷ 18 là thời kỳ của "Giáo phái lịch sự", thời kỳ mà sự tế nhị, tinh tế và nhã nhặn được đánh giá cao hơn tất cả. Dẫn theo lời của nhà văn người Anh Adam Nicolson, ông cho rằng Theo lý tưởng của thế kỷ 18, một quý ông trên hết được mong đợi là phải dễ chịu và dễ chịu, và vì vậy, tốt hơn là người đàn ông nên nói dối thay vì nói bất cứ điều gì có thể xúc phạm ai đó. Vào đầu thế kỷ 19, một “phiên bản nam tính” cứng rắn hơn được nghiền ngẫm nhiều, nó bắt đầu thịnh hành; vì thế, tính cách của một quý ông là một điển hình cho xu hướng này. Tính cách đó phản ánh rất nhiều tiêu chuẩn thay đổi về sự nam tính của đàn ông nước Anh, không giống như các anh hùng của thế kỷ 18 ở phương Tây với sự lịch sự quá mức và không muốn xúc phạm. Đối với Evelyn Waugh, với tư cách là một người bạn, đã viết thư cho Nancy Mitford vào năm 1956, văn bản cung cấp không ít lời giải thích cho tất cả sự vĩ đại của nước Anh, cái mà họ gọi là “quê hương vĩ đại của chúng ta” (all our national greatness). Tuy nhiên, mặc dù đã dành cả cuộc đời của mình để nghiên cứu khái niệm này (gentleman), Waugh chưa bao giờ giải thích ý nghĩa thực sự của nó. Ông cho rằng chỉ đơn giản là biết một quý ông khi chúng ta nhìn thấy rõ cách cư xử một người. Nicolson cũng tiếp tục mô tả về một quý ông được trích từ tác phẩm "Kiêu hãnh và Định kiến" của nữ nhà văn Jane Austen về sự khác biệt giữa Ngài Bingley và Ngài Darcy như sau: "Ông Bingley là một người đàn ông thuộc thế kỷ 18: đẹp trai, trẻ trung, dễ mến, thú vị, thích khiêu vũ, lịch lãm, dễ chịu, ôn hòa, không bị chi phối và không hoàn toàn kiểm soát số phận của mình. Còn Darcy thì rất ổn, cao ráo, đẹp trai, cao quý, kiêu hãnh, biết cấm đoán, bất đồng và không chịu sự kiểm soát nào ngoài số phận của mình. Darcy là một người đàn ông thuộc tuýp thế kỷ 19, bản chất là nam tính, không khoan nhượng, đen tối và gợi cảm. Và dĩ nhiên, đó là Darcy, là người mà cuốn tiểu thuyết kết thúc bằng tình yêu." Trong một cuộc khảo sát vào năm 2008, mà tờ báo điện tử "The Irish Times" thực hiện, các nhà chuyên môn đã báo cáo rằng "có 80% mọi người thừa nhận rằng cách cư xử ngày càng quan trọng trong thời kỳ kinh tế thay đổi." Hơn nữa, trong cách sử dụng tốt nhất của thuật ngữ, "gentleman" liên quan đến một tiêu chuẩn ứng xử cao cấp nhất định. Do đó, xin trích dẫn ấn bản thứ 8 một lần nữa tới "lòng tự tôn và sự trau dồi về trí tuệ thể hiện trong cách cư xử tinh tế nhưng không hạn chế." Từ "dịu dàng" (gentle), ban đầu hàm ý về một địa vị xã hội nhất định, đã có từ rất sớm để gắn liền với tiêu chuẩn cư xử mong đợi từ địa vị đó. Trang phục. Một người đàn ông ăn mặc đẹp được định nghĩa là trang phục phải phù hợp dựa trên thời tiết, môi trường sống và phong cách riêng của họ. Ăn mặc đẹp không dựa trên vật chất của đồng tiền đối với một quý ông, mà là việc lựa chọn trang phục và phụ kiện cẩn thận dựa trên phương tiện, thời điểm và sở thích. Trang phục ảnh hưởng đến cách con người nhìn nhận bản thân. Cách ăn mặc của quý ông thể hiện rằng họ nhận ra sức mạnh khoa học của quần áo tạo nên và vai trò của trang phục trong xã hội. Quần áo được sử dụng để thể hiện sự tôn trọng của một quý ông đối với gia chủ, văn phòng làm việc hoặc đối với người chủ trì một sự kiện; nhưng không phải để gây sốc, gợi lên sự ghen tị hoặc phô trương. Ăn mặc đẹp là một điểm đáng tự hào của một quý ông bởi nó thể hiện cá tính và gu thẩm mỹ của chính họ. Lịch sử phát triển thuật ngữ. Phương Tây. Các hình thức mới của thuật ngữ "quý ông" đã được tạo ra để có thể bao gồm các vòng kết nối, theo tiêu chuẩn tương ứng của người nói, thậm chí không đáp ứng các yêu cầu của thuật ngữ quý ông. Như những quý ông mới lớn về tình yêu xứng đáng và được gọi là thương gia thành đạt, những quý ông về bản chất đơn giản hơn những mối quan hệ họ hàng, được đặc trưng bởi những phẩm chất đặc biệt. Phần lớn những người đàn ông được bổ nhiệm vào cấp bậc sĩ quan, đặc biệt là trong thời kỳ chiến tranh, những người thiếu các yêu cầu về trình độ xuất thân và giáo dục để có địa vị quý ông, đôi khi họ được gọi là "quý ông tạm thời" (temporary gentlemen). Trong thời đại Victoria (1837-1901), khi ai đó được gọi là "gentleman" thì điều đó đồng nghĩa rằng họ không cần phải làm việc để kiếm tiền hoặc thực hiện bất kỳ thủ công lao động để sống và tồn tại. Ngoài ra, loại đàn ông này được phân loại theo sở hữu đất đai của riêng họ và có thu nhập đặc biệt hậu hĩnh. Các quý ông đảm bảo rằng họ không mâu thuẫn ý kiến ​​với người khác nhưng cố gắng duy trì danh tiếng đáng kính và dễ mến. Với sự phát triển của thương mại và cuộc Cách mạng Công nghiệp từ năm 1700 đến năm 1900, thuật ngữ "gentleman" được mở rộng để bao gồm tất cả nam giới thuộc các tầng lớp chuyên nghiệp thành thị: luật sư, bác sĩ và thậm chí cả thương gia. Đến năm 1841, các quy tắc của câu lạc bộ quý ông mới tại Ootacamund là bao gồm: "... quý ông của Mercantile hoặc các ngành nghề khác, di chuyển trong vòng quay bình thường của xã hội Ấn Độ". Mặc dù định nghĩa "gentleman" theo truyền thống của văn hóa phương Tây về một quý ông thường khá rõ ràng và khá hạn chế. Tuy nhiên, cuối thế kỷ thứ 18, khái niệm nghiêm ngặt dựa trên phân biệt giai cấp cho các quý ông bắt đầu được làm sáng tỏ. Nhà sử học Kitson Clark (1900–1975) đã "điều tra một cách tinh tế" để chỉ ra: "người Anh trở nên ít chắc chắn hơn về sự đầy đủ của những ý tưởng đơn giản về hệ thống cấp bậc sinh ra và bắt đầu bổ sung và nhầm lẫn quan niệm của một quý ông về sự ghi nhận của các phẩm chất tinh thần và đạo đức." Ngày càng có những người đàn ông nhận được sự giáo dục tốt như một quý ông, và cư xử đúng mực giống với các quý ông cũng bắt đầu được coi là "gentleman" mặc dù họ không thuộc tầng lớp thích hợp. Từ cuối thế kỷ 19, danh hiệu quý ông bắt đầu giảm dần. Nó chỉ được nhắc đến khi một người đàn ông đặc biệt thân thiện hoặc lịch sự, đặc biệt là đối với phụ nữ. Tuy nhiên, thông thường, nó chỉ đơn giản được sử dụng như một từ đồng nghĩa với "đàn ông", như được thể hiện trong địa chỉ "Kính thưa quý vị". Về mặt này, việc dán nhãn phân biệt ở nhà vệ sinh công cộng tại Anh với từ "Gents"; hoặc việc sử dụng từ ngữ này như câu lạc bộ của các quý ông thường là một tên gọi khoa trương; cũng có các ý đồng nghĩa cho các nhà thổ, hoặc tương tự. Theo nghĩa gốc của nó, thuật ngữ tồn tại trong các sự kết hợp đồng tình như "gents" hoặc "gentleman". Rộng hơn nữa, nó trở thành một phép lịch sự đối với tất cả đàn ông, như trong cụm từ "Ladies and Gentlemen". Trong thời hiện đại, các bài phát biểu hay các buổi lễ trao giải, thuật ngữ "gentleman" thường được dân chủ hóa để bao gồm bất kỳ người đàn ông nào có hành vi tốt, lịch sự hoặc lịch lãm hay thậm chí với tất cả nam giới (để chỉ các cơ sở phân biệt giữa giới tính nam và nữ; hoặc như một dấu hiệu của phép lịch sự của người nói khi xưng hô với người khác). Á Đông. Ở Đông Á, các đặc điểm của một "quý ông" (cách nói của người Á Đông là Quân tử) dựa trên các nguyên tắc của Nho giáo, trong đó thuật ngữ "Jūnzǐ" (君子) biểu thị và xác định "con trai của một người cai trị", một "hoàng tử", một "người đàn ông cao quý"; và những lý tưởng xác định khái niệm "quý ông", "người đàn ông thích hợp", và "người đàn ông hoàn hảo". Về mặt khái niệm, "Jūnzǐ" (君子) bao gồm một chủ nghĩa tinh hoa di truyền, bắt buộc người quân tử phải có đạo đức trong các việc làm như: Đối lập với ý nghĩa "Jūnzǐ" thì "Xiǎorén" (小人) mang ý nghĩa "tiểu nhân" và "tiểu nhân". Như trong tiếng Anh, động từ "small" trong cách sử dụng của người Trung Hoa là "tiểu" hoặc "nhỏ" có thể biểu thị và hàm ý một người "xấu tính", "nhỏ nhen trong tâm trí và trái tim, hay "tư lợi hẹp hòi", tham lam, vật chất và bề ngoài cá nhân. Cách sử dụng tại Vương Quốc Anh. Chức danh chính thức tại triều đình. Tại cung điện của các quốc gia thuộc chế độ quân chủ, mỗi một chức vụ điều có thể liên quan đến chức danh "Gentleman" (chức danh này sẽ được cử bởi một thành viên của quý tộc cấp thấp hoặc một thành viên danh dự phục vụ cho hoàng gia, trong khi các chức vụ cao nhất thường được dành cho quý tộc địa vị cao hơn). Trong ngôn ngữ tiếng Anh-Anh, thuật ngữ cũng sử dụng trong lễ nghi triều đình tại Anh, Scotland (tương đương với "Lady" dành cho phụ nữ, "Page" (người mang tràng áo của vua và hoàng hậu, dành cho nam giới trẻ tuổi) bao gồm: Chức danh Gentleman có thể xảy ra trong hoạt động về tôn giáo chẳng hạn như "Gentiluomo của Đức Tổng Giám Mục Westminster" trong Giáo hội Công giáo La Mã tại Vương quốc Anh là một người hộ tống cá nhân cho Hồng y Tổng Giám Mục Westminster. Địa chủ. Thực tế, có một trật tự khác biệt của Tầng lớp quý tộc đã hạ cánh tồn tại ở Vương quốc Anh từ rất sớm đã thường được giả định và được các cơ quan có thẩm quyền ủng hộ. Giống như hàng khanh tước, quý tộc địa chủ nhỏ được chia thành nhiều cấp bậc khác nhau, và cũng có một số vị trí vững chắc hơn những người khác. Những Địa chủ (gentry) được hình thành từ những người có địa vị xã hội đã được Luật Bổ sung năm 1413 ("Additions of 1413"), công nhận là một tước vị riêng biệt. Nói chung, những người đàn ông có địa vị hoặc vị thế xã hội cao, giàu có, không cần phải làm việc kiếm sống được coi là một quý ông. Theo cố giáo sư Freeman đề cập đến Địa chủ là một quý ông như thế này: Tuy nhiên, Sir George Sitwell đã gợi ý rằng ý kiến ​​này dựa trên một quan niệm sai lầm về các điều kiện của xã hội thời trung cổ và nó hoàn toàn trái ngược với các bằng chứng tài liệu. Không phải tất cả các chủ đất đều là "gentleman" và không phải tất cả các "gentleman" đều là chủ đất. Vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên trong một xã hội lúc bấy giờ bị ám ảnh bởi phần lớn các thứ hạng có sự phân cấp và xếp hạng giữa các quý ông. Vào đầu thế kỷ 19, tầng lớp quý tộc địa chủ chỉ chiếm một phần nhỏ dân số. Trong khi tầng lớp khanh tướng (peerage) bao gồm khoảng 300 gia đình thì quý tộc địa chủ chỉ chiếm bao gồm: 540 Nam tước, 350 hiệp sĩ, 6.000 điền chủ và khoảng 20.000 gentleman. Nhóm này chiếm khoảng 1,5% dân số cả nước và chiếm khoảng 16% thu nhập quốc dân. Không có cấp bậc nào trong số quý tộc địa chủ này được ngồi trong Hạ viện trong Quốc hội, trong khi vinh dự đó đã được dành cho những người thuộc hàng khanh tướng. Để gia nhập hàng ngũ quý tộc, việc đơn giản như thừa kế một điền trang là không đủ. Họ phải kế thừa (hoặc mua — nhưng nhiều hơn ở điểm đó) một mảnh đất đủ lớn để chủ sở hữu có thể cho những người nông dân nhỏ hơn thuê và thuê người khác làm thay công việc lao động chân tay trong trang trại cho mình. Giả dụ, nếu anh ta phải tự mình canh tác ruộng đất, thì anh ta là một nông dân trồng trọt. Đó chắc chắn là một người đàn ông đáng kính, nhưng không phải là một quý ông. Nói chung, một nông dân Yeoman (cấp bậc dưới cùng của địa chủ) sở hữu từ một đến ba trăm mẫu đất và sản xuất 40 đến 50 bảng Anh cho một năm. Vì vậy, một quý ông cần nhiều hơn thế. Tuy nhiên, với sự trỗi dậy của cuộc cách mạng công nghiệp, các yêu cầu sau đó đã được nới lỏng vào nửa cuối thế kỷ 19. Những quý ông mới được đúc tiền này không có uy tín gắn bó với những người từ “gia tộc lâu đời”, những người được thừa kế các điền trang qua nhiều thế hệ. Vào những năm 1850, khái niệm về một quý ông bắt đầu chuyển từ thu nhập quyền sở hữu đất đai sang quy tắc ứng xử. Trong thế kỷ 21, thuật ngữ "gentry" vẫn được sử dụng, vì giai cấp địa chủ ở nước Anh vẫn tồn tại, nhưng nó ngày càng đề cập nhiều hơn đến lịch sử hơn là của cải vật chất hoặc bất động sản hiện tại trong một gia đình. Hơn nữa, sự tôn trọng vốn đã từng được hầu hết người dân Anh tự động dành cho các thành viên của tầng lớp này đã gần như hoàn toàn tiêu tan khi sự giàu có, quyền lực chính trị và ảnh hưởng xã hội của nó giảm sút, các nhân vật xã hội khác như người nổi tiếng ngày càng chiếm vị trí trong lòng công chúng. Định nghĩa hiện đại. Ngày nay, danh hiệu “quý ông” không còn phù hợp như một biểu hiện của sự tinh tế và tính cách của một người, vì trên thực tế nó từng được quy cho những người đàn ông giàu có và chức tước chứ không dựa trên làm việc kiếm sống. Nhu cầu bắt buộc phải có nghề nghiệp và trên thực tế, việc sống một cuộc sống hoàn toàn nhàn hạ được coi là khá vô duyên. Vì thế thuật ngữ "gentleman" mang tính bình đẳng hơn nhiều cho ngày nay. Để chỉ rằng một ai đó là quý ông có nghĩa là họ phải mong muốn đạt được nó. Sự giàu có và quyền lực không còn đủ cho định nghĩa truyền thống nữa, và đồng nghĩa với việc chúng đơn giản không phải là một phần phù hợp của định nghĩa hiện đại. Nó quan trọng bởi vì trở thành một quý ông đặt ra tiêu chuẩn cao cho nam giới. Tiền bạc và địa vị không thể mua được đẳng cấp hay sự tôn trọng. Do đó, bất kỳ người đàn ông nào cũng có thể trở thành một quý ông trong thời đại ngày nay nếu anh ta muốn trở thành, nhưng đó không phải là một việc làm nhỏ và đó là cả một quá trình trong cuộc sống, một điều gì đó mà anh ta không ngừng phấn đấu để trở thành, hay một khát vọng đến từ việc theo đuổi sự hoàn thiện cá nhân, nhận thức về bản thân và động lực, hơn là một đích đến. Thuật ngữ quý ông cũng được sử dụng trong Bộ luật thống nhất về tư pháp quân sự của Hoa Kỳ (gọi tắt là UCMJ - "Uniform Code of Military Justice") trong điều khoản 133 đề cập đến "hành vi phù hợp với một sĩ quan và một quý ông." Trong một số trường hợp, ý nghĩa của nó trở nên vặn vẹo thông qua những nỗ lực sai lầm để tránh xúc phạm bất kỳ ai; chẳng hạn như một bản tin về một cuộc bạo động có thể đề cập đến một “gentleman” cố gắng dùng thùng rác để phá cửa sổ và cướp một cửa hàng. Cùng đó, việc sử dụng tương tự (đặc biệt là giữa dấu ngoặc kép hoặc trong một giọng điệu thích hợp) cũng có thể là một sự mỉa mai có chủ ý. Văn hóa đại chúng. Văn học. Việc sử dụng thuật ngữ "gentleman" là một khái niệm trọng tâm trong nhiều cuốn sách của Văn học Mỹ: Người nổi tiếng. Với nhiều người, khái niệm về quý ông hiện đại thường gắn liền với hình ảnh của những tài tử màn bạc hoặc thời trang.
1
null
T-ara N4 (viết tắt của tên T-ara Brand New 4) là nhóm nhỏ của nhóm nhạc nữ Hàn Quốc T-ara, trực thuộc hãng đĩa MBK Entertainment. Nhóm nhỏ gồm có 4 thành viên, Eunjung, Hyomin, Jiyeon và Areum. Nhóm ra mắt thị trường Hàn Quốc và Mỹ vào năm 2013 với album đầu tay "Jeon Won Diary". Lịch sử. Ngày 9 tháng 4 năm 2013, CCM (nay là MBK Entertainment) thông báo thành lập nhóm nhỏ mang tên 'T-ara N4'. Nhóm gồm 4 thành viên: Jiyeon, Eunjung, Hyomin và Areum. Họ cho ra mắt album mới vào ngày 29/4/2013, được sản xuất bởi Duble Sidekick. Bài hát được lấy cảm hứng từ phim cũ "Cuộc sống thôn quê", có tên là "Countryside Life" (Jeon Won Diary) và cũng là tên của album. Bài hát sẽ có những điệu nhảy hip hop sôi động. Trong chuyến lưu diễn đến Mỹ của T-ara N4 cùng với Chris Brown và thành viên mới - Dani, nhóm đã gặp rất nhiều khó khăn từ sự đón nhận của khán giả cũng như từ thái độ của Chris Brown. Ngày 10 tháng 7 năm 2013 Areum đã tuyên bố tách khỏi T-ARA cũng như T-ARA N4 để theo đuổi sự nghiệp hát đơn. Theo thông tin, Dani sẽ thay thế vị trí của Areum. T-ARA N4 sẽ hợp tác với Chris Brown để cho ra 1 phiên bản khác của Countryside Life. Theo nhiều thông tin từ phía Popular Entertainment cho biết, T-ara N4 sẽ chính thức debut tại Mĩ vào tháng 3/2014 với album mới mang tên Miss Understood, album này sẽ có sự hỗ trợ của Chris Brown, Wiz Khalifa, Ray J và nhiều nghệ sĩ khác. Sự nghiệp. Ra mắt mini-album "Countryside Life (Jeon Won Diary)". Ngày 10 tháng 4, ảnh Ji Yeon trong nhóm nhỏ xuất hiện. Ngày 12 tháng 4, ảnh của Hyomin xuất hiện cùng với tên của nhóm nhỏ T-ara N4, viết tắt của "T-ara Brand New 4". Teaser đã xuất hiện trên Youtube, GomTV và các trang mạng khác và ngày 15/4. Ca khúc này có hai phiên bản, gồm bản "Drama" (phiên bản phim) và "Dance" (phiên bản nhảy). Ngày 25 tháng 4, T-ara N4 tiếp tục tiết lộ teaser khác cho video "Countryside Life". Ca khúc này nằm trong album đầu tay của nhóm là ""Jeon Won Diary"."
1
null
Quần đảo Auckland (Maori: Motu Maha hay Maungahuka) là một quần đảo nằm trong các quần đảo hẻo lánh của New Zealand thuộc Các hòn đảo nằm gần Nam Cực. Quần đảo này bao gồm 7 hòn đảo nhỏ là đảo Auckland, đảo Adams, đảo Enderby, đảo Disappointment, đảo Ewing, đảo Dundas, đảo Green, với một khu vực có diện tích 625 km vuông (240 sq mi). Quần đảo này nằm cách cảng Bluff của đảo Nam khoảng 465 km (290 dặm), giữa vĩ độ 50 ° 30 'đến 50 ° 55' Nam và kinh độ 165 ° 50 'và 166 ° 20' Đông. Các hòn đảo không có dân cư sinh sống. Quần đảo Auckland là một phần của vùng sinh thái quần đảo lãnh nguyên Antipodes Subantarctic. Địa lý. Đảo Auckland là hòn đảo chính, có diện tích đất khoảng 510 km 2 (197 sq mi), với chiều dài khoảng 42 km (26 dặm). Điều đáng chú ý tại hòn đảo là các vách đá dựng đứng và địa hình gồ ghề cao đến hơn 600 m (1.969 ft). Hòn đảo cũng bao gồm các đỉnh núi cao (650 m hoặc 2,133 ft) như núi Raynal (635 m hoặc 2,083 ft), núi D'Urville (630 m hay 2.067 ft), núi Easton (610 m hay 2.001 ft), và tháp Babel (550 m hay 1.804 ft) cùng rất nhiều các hang động. Tận phía nam của hòn đảo này nhô ra rộng tới 26 km (16 dặm). Ở đây có sự xuất hiện của các vịnh hẹp gần cửa Carnley Harbour (eo biển Adams) chia tách hòn đảo chính với đảo Adams (diện tích khoảng 100 km 2 hay 39 sq mi). Tại khu vực có các đỉnh núi thậm chí còn cao hơn như núi Dick 705 m (2,313 ft). Các vịnh hẹp là phần còn lại được tạo ra bởi miệng núi lửa đã tắt mà đảo Adams và một phần phía nam của hòn đảo chính là vành miệng núi lửa. Nhóm này bao gồm rất nhiều hòn đảo nhỏ khác, đặc biệt là đảo Disappointment (Cách đảo chính 10 km hay 6,2 mi về phía tây bắc) và đảo Enderby (cách đảo chính 1 km hay 0,62 mi, ngoài khơi mũi phía bắc), mỗi đảo diện tích chưa tới 5 km 2 (2 sq mi). Đảo chính của quần đảo có nhiều tính năng như là cửa hút gió, đặc biệt là tại Port Ross nằm ở phía bắc của đảo. Hầu hết các đảo có nguồn gốc từ núi lửa, với quần đảo bị chi phối bởi hai ngọn núi lửa có lịch sử 12 triệu năm tuổi từ kỳ Miocen, sau đó bị xói mòn và chia cắt thành các đảo. Những phần còn lại là các lớp đá macma có niên đại 15-25 triệu năm tuổi với một số đá granit và hóa thạch trầm tích từ khoảng 100 triệu năm trước đây.
1
null
UEFA Champions League 2012–13 là giải đấu cao nhất lần thứ 58 dành cho các câu lạc bộ do UEFA tổ chức, và là mùa giải thứ 21 theo thể thức và tên gọi của UEFA Champions League. Trận chung kết của mùa giải sẽ được tổ chức tại sân vận động Wembley ở thủ đô Luân Đôn, Anh. 2013 là năm kỉ niệm năm thứ 150 ngày ra đời của hiệp hội bóng đá Anh, tổ chức bóng đá lâu đời nhất thế giới. Đây sẽ là trận chung kết lần thứ 7 được tổ chức ở sân Wembley (tính cả sân cũ). Chelsea là đội đương kim vô địch của giải đấu nhưng không thể vượt qua được vòng bảng, qua đó trở thành đội đương kim vô địch đầu tiên của giải đấu không qua được vòng bảng. Phân bổ đội bóng tham dự. Có tất cả 76 đội bóng tham dự mùa giải 2012–13, đến từ 52 hiệp hội bóng đá quốc gia của UEFA. Số đội bóng tham dự ở mỗi quốc gia được dựa vào bảng tính điểm xếp hạng theo bảng tính điểm của UEFA: Đội đương kim vô địch Chelsea dù kết thúc mùa mùa giải 2011-12, tuy nằm ngoài top 4 nhưng theo luật vẫn được tham dự giải đấu. Thể thức thi đấu. Vòng loại đầu tiên (4 đội bóng) Vòng loại thứ hai (34 đội bóng) Vòng loại thứ ba cho các câu lạc bộ vô địch (quốc gia) (20 đội bóng) Vòng loại thứ ba cho các câu lạc bộ không vô địch (10 đội bóng) Vòng loại cuối cùng cho các câu lạc bộ vô địch (10 đội bóng) Vòng loại cuối cùng cho các câu lạc bộ không vô địch quốc gia (10 đội bóng) Vòng đấu bảng (32 đội bóng) Các vòng đấu loại. Trong hệ thống Champions League mới, vòng đấu loại sẽ chia ra làm hai nhánh. Một nhánh dành cho các câu lạc bộ vô địch quốc gia và nhánh còn lại là các câu lạc bộ không phải vô địch quốc gia nhưng giành được có quyền tham dự vòng loại. Việc phân nhánh này sẽ giúp cho các câu lạc bộ vô địch quốc gia ở những liên đoàn không mạnh có nhiều cơ hội lọt vào vòng đấu bảng Champions League hơn. Ở cả hai nhánh, những đội bị loại ở vòng loại thứ ba sẽ xuống chơi ở vòng loại trực tiếp của UEFA Europa League, còn những đội bị loại ở vòng loại cuối cùng chơi ở vòng bảng của UEFA Europa League. Vòng loại thứ nhất. Lễ bốc thăm vòng loại thứ nhất và vòng loại thứ hai diễn ra vào ngày 25 tháng 6 năm 2012. Lượt trận đầu tiên nhất diễn ra vào ngày 3 tháng 7 và lượt trận thứ hai diễn ra vào ngày 10 tháng 7 năm 2012. Vòng loại thứ hai. Lượt trận thứ nhất diễn ra ngày 17 và 18 tháng 7 trong khi lượt trận thứ hai diễn ra ngày 24 và 25 tháng 7 năm 2012. Vòng loại thứ ba. !colspan=6|Champions Route !colspan=6|League Route Vòng bảng. Có tổng cộng 32 câu lạc bộ tham gia vòng đấu bảng. Các đội bóng được phân thành 4 nhóm, dựa trên hệ số UEFA. 32 câu lạc bộ này được bốc thăm chia thành 8 bảng 4 đội vào 26 tháng 8. Các đội bóng cùng nhóm hoặc cùng quốc gia không được xếp chung bảng. Màu sắc dùng trong bảng: Vòng đấu loại trực tiếp. Vòng 16 đội. Lễ bốc thăm vòng 16 được tổ chức vào ngày 20 tháng 12 năm 2012. Trận lượt đi các trận đấu vào các ngày 12, 13, 19 và 20 tháng 2, và trận lượt về được đấu vào các ngày 5, 6, 12 và 13 tháng 3 năm 2013. Tứ kết. Lễ bốc thăm vòng tứ kết được tổ chức vào ngày 15 tháng 3 năm 2013. Hai trận lượt đi được đấu vào ngày 2 và ngày 3 tháng 4 năm 2013, và hai trận lượt về được đấu vào ngày 9 và ngày 10 tháng 4 năm 2013. Bán kết. Lễ bốc thăm vòng bán kết và cuối cùng (để xác định đội "nhà" cho các mục đích hành chính) được tổ chức vào ngày 12 tháng 4 năm 2013. Hai trận lượt đi được đấu vào ngày 23 và ngày 24 tháng 4, và hai trận lượt về được đấu vào ngày 30 tháng 4 và ngày 01 tháng 5 năm 2013. Lượt về. Real Madrid v Borussia Dortmund. "Borussia Dortmund thắng với tổng tỷ số 4–3." Barcelona v Bayern Munich. "Bayern Munich thắng với tổng tỷ số 7–0." Chung kết. Trận chung kết diễn ra vào ngày 25 tháng 5 năm 2013 tại Sân vận động Wembley ở Luân Đôn, Anh. Thống kê. Thống kê không bao gồm vòng loại và vòng play-off. "Lưu ý: Người chơi và các đội in đậm vẫn còn thi đấu."
1
null
Nha Hố là một địa danh nằm ở khu vực hạ lưu Sông Cái Phan Rang, trên địa bàn xã Nhơn Sơn, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận. Nơi đây được biết đến với các trại thực nghiệm nông nghiệp, nghiên cứu gây giống, phát triển, bảo tồn các loại giống cây trồng - vật nuôi phù hợp với khí hậu bản địa, trong đó tiêu biểu là các giống cây nho, đặc sản của tỉnh Ninh Thuận. Địa lý. Nha Hố nằm lệch về phía Tây xã Nhơn Sơn, cách trung tâm thành phố Phan Rang – Tháp Chàm 14 km về phía tây bắc, là một khu vực đồng bằng có ba mặt phía đông, phía tây và phía bắc giáp núi, còn phía nam giáp sông Cái Phan Rang. Địa hình đồng bằng tương đối bằng phẳng, với hướng nghiêng Bắc, Tây Bắc xuống phía Đông và Đông Nam. Nha Hố nằm trong vùng tương đối khô hạn. Khí hậu Nha Hố là khí hậu nhiệt đới điển hình, nhiều gió, nhiều nắng, ít bão, không có sương muối. Biên độ nhiệt độ trung bình ngày nhiều năm dao động từ 11,0 - 14,9 °C, trong đó thấp nhất xảy ra vào tháng 12 với 5,7 °C, cao nhất vào tháng 8 với 20,4 °C. Do nằm trong khu vực nội chí tuyến, với nguồn bức xạ mặt trời dồi dào, nên tổng nhiệt hàng năm tại Nha Hố cũng như các vùng khác tại Ninh Thuận tương đối cao, dao động từ 9.774 - 10.180 °C. Nhiệt độ trung bình tăng dần từ tháng 01 và đạt cực đại lên tới 29,1 °C vào tháng 5, 6, sau đó giảm chậm vào tháng 7, 8. Tháng 9, nhiệt độ bắt đầu giảm nhanh và đạt cực tiểu vào tháng 01 với giá trị 24,6 °C. Mặc dù chỉ cách Phan Rang khoảng 10 km, nền nhiệt độ tối cao trung bình tháng tại Nha Hố luôn cao hơn khoảng 0,1 - 1,3 °C so với Phan Rang và cũng hình thành biến trình hai cực đại, hai cực tiểu. Cực đại đạt 37,7 °C xuất hiện vào tháng 5, 6, 8. Cực tiểu thứ nhất xảy ra vào tháng 7 đạt 37,6 °C và cực tiểu thứ hai xảy vào tháng 12 đạt 32,1 °C. Nhiệt độ tối thấp trung bình năm tại đây cũng như các vùng khác tại Ninh Thuận, dao động từ 19,0 - 21,8 °C. Độ ẩm tương đối trung bình hàng năm tại Nha Hố thường đạt từ 75 đến 80,7%, cao hơn so với Phan Rang 1% và các tháng trong năm đều cao hơn 1 đến 3%. Số ngày xuất hiện gió Tây khô nóng mạnh chiếm 11,2 - 25,6 % tổng số ngày có gió tây khô nóng, trung bình 1,7 ngày/năm. Mặc dù có đặc điểm khí hậu khô, nhưng nhờ có hệ thống kênh thủy lợi dẫn nước từ đập Nha Trinh, được bổ sung nước từ hồ Đơn Dương dẫn qua sông Pha, vùng đất hạ lưu sông Cái Phan Rang nói chung và Nha Hố nói riêng vốn khô cằn dần trở thành các vùng đồng bằng trù phú, màu mỡ. Quốc lộ 27 là tuyến giao thông chính trên địa bàn khu vực. Trước đây Nha Hố còn có tuyến đường sắt Phan Rang – Đà Lạt đi qua. Nguồn gốc địa danh. Nha Hố là địa danh có nguồn gốc từ tiếng Champa. Tương truyền, vào khoảng thế kỷ 12, dưới triều đại vua Po Klong Garai của vương quốc Panduranga, nhà vua cho xây dựng đập Nha Trinh trên dòng sông Cái Phan Rang. Sau khi hoàn thành công trình này, vua mới lập nên một ngôi làng gần đó nhằm trông coi đập và đặt tên là Chahoch. Sau này, trải qua gần 900 năm, tên gọi này mới bị đọc trại lại thành Nha Hố như hiện nay. Ngày nay, địa danh Nha Hố còn được lưu lại với tư cách đơn vị hành chính là hai thôn Nha Hố 1 và Nha Hố 2, đều thuộc địa bàn xã Nhơn Sơn. Lịch sử vùng thực nghiệm nông nghiệp. Ngày 21 tháng 6 năm 1918, Toàn quyền Đông Dương ra Quyết định thành lập Viện Khảo cứu Khoa học Đông Dương, phục vụ công tác thực nghiệm gây giống và phát triển các loài cây phù hợp với khí hậu bản địa. Trại Nha Hố được thành lập cũng trong quyết định này, cùng với các trại Phú Hộ (Bắc Kỳ), Eakmat (Cao nguyên) và Long Định (Nam Kỳ), và là trại thực nghiệm nông nghiệp đầu tiên được thành lập ở Trung Kỳ. Sau năm 1954, chính quyền Quốc gia Việt Nam, sau là Việt Nam Cộng hòa, đã tiếp quản các cơ sở của Viện Khảo cứu Nông-Lâm Đông Dương tại miền Nam, trong đó có cả trại Nha Hố. Ngày 25 tháng 2 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm đã ký quyết định số 539-TTP/NS sáp nhập Nha Khảo cứu Địa chất và Nông trang, và Nha Khảo cứu Lâm sản & kỹ thuật thành Nha Khảo cứu và Sưu tầm Nông-Lâm-Súc. Cũng trong năm này, Trại thực nghiệm Chăn nuôi Nha Hố được thành lập, với tổng diện tích 490 ha sử dụng làm đồng cỏ tự nhiên và phát triển đồng cỏ trồng để chăn nuôi bò. Nhiệm vụ chính của trại bao gồm cải thiện nâng cao tầm vóc bò địa phương, tạo giống bò cho sức kéo tốt, cải thiện năng suất bò thịt, cung cấp bò giống cho các trại giống và xây dựng đồng cỏ dùng cho chăn nuôi bò. Thập niên 1960, Hoa Kỳ đã viện trợ và hỗ trợ cho việc nghiên cứu phát triển nông nghiệp cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa, thông qua cơ quan USAID. Nha Hố và Eakmat là những trọng điểm vì nằm xa vùng chiến sự. Năm 1965, chính quyền Việt Nam Cộng hòa dời trụ sở Cơ quan nông nghiệp quốc gia về Nha Hố và đổi tên thành Trung tâm Kỹ thuật nông nghiệp Quốc gia Việt Nam, quản lý các trại thực nghiệm trồng trọt và chăn nuôi, mà thông dụng vẫn gọi chung là Trung tâm Nha Hố hay Trại Nha Hố. Ngày 31 tháng 10 năm 1968, Nha Khảo cứu và Sưu tầm Nông-lâm-Súc được cải tổ thành Viện Khảo cứu Nông nghiệp, quản lý trực tiếp Trung tâm Nha Hố. Thời kỳ này, trại đã thực nghiệm và tìm ra nhiều giống cây trồng ngoại nhập thích hợp với bản địa như các giống khoai lang Okinawa 100 (đạt năng suất 15,2 tấn/ha); Hsinchu 1 (12,2 tấn/ha); Tainan 14 (12,2 tấn/ha)...; các giống lai tạo hiệu quả cao như bắp (ngô) Tainan 5, Tainan 11, Nha Hố hỗn hợp, Nha Hố sớm, Nha Hố composite 0202...; các giống cỏ dùng trong chăn nuôi bò như cỏ mật ("Brachiaria distachya"), cỏ lông tây ("Brachiaria mutica"), cỏ sả lá nhỏ ("Panicum maximum"), cỏ voi ("Pennisetum purpureum)... Sau năm 1975, Trại Nha Hố chính quyền Việt Nam thống nhất tiếp quản, đổi tên thành Trung tâm kỹ thuật nông nghiệp Nam Trung Bộ, gọi tắt là Nông trang Nha Hố. Năm 1982, Trung tâm kỹ thuật nông nghiệp Nam Trung Bộ được đổi tên thành Trung tâm Nghiên cứu cây bông trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, gọi tắt là Trung tâm Nha Hố. Năm 1997, Xí nghiệp Giống cây trồng Nha Hố, chuyên về sản xuất và kinh doanh giống cây trồng, được tách khỏi Trung tâm nghiên cứu cây bông Nha Hố. Năm 2005, xí nghiệp được cổ phần hóa và chuyển đổi thành Công ty cổ phần giống cây trồng Nha Hố. Năm 2001, Trung tâm Nghiên cứu cây bông đổi tên thành Viện nghiên cứu cây bông và cây có sợi. Năm 2006, đổi tên thành Viện nghiên cứu Bông và phát triển nông nghiệp Nha Hố. Mặc dù trong thời gian dài gắn việc nghiên cứu với sản xuất bông, nhưng Viện được biến đến nhiều với công tác nghiên cứu và sản xuất các giống nho bản địa như NH 01-152, NH 01-153, NH 01-138, NH 02-97, NH 02-137... góp phần quan trọng trong việc phát triển vùng trồng nho và sản xuất các sản phẩm làm từ nho ở Ninh Thuận. Bên cạnh đó, nhiều loại giống cây trồng được Viện nghiên cứu, thuần hóa, lai tạo giữa các đối tượng cây trồng có giá trị kinh tế để tạo ra giống mới có năng suất cao như táo, măng tây xanh, lúa, bắp và các cỏ chăn nuôi... Ngoài ra, trên địa bàn Nha Hố còn có các trại sản xuất thực nghiệm trực thuộc Trung tâm Giống cây trồng vật nuôi Ninh Thuận (thành lập năm 2007) như trại Lương Cang chuyên về lúa giống, nho gốc ghép; trại Nha Hố chuyên về vật nuôi, bảo tồn quỹ gen giống bản địa. Tại trại Nha Hố còn lưu giữ những con giống cừu Phan Rang thuần chủng quý giá.
1
null
Rừng tràm Trà Sư là một khu rừng và khu du lịch sinh thái nằm trên địa bàn ấp Văn Trà, xã Văn Giáo, thị xã Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Đây là rừng ngập nước tiêu biểu cho vùng Tây sông Hậu, là nơi sinh sống của nhiều loài động vật và thực vật thuộc hệ thống rừng đặc dụng Việt Nam. Vị trí. Từ thị trấn Nhà Bàng thuộc huyện Tịnh Biên, đi theo đường tỉnh lộ 948 đến cầu Bưng Tiên tại Km số 6 thì rẽ trái và tiếp tục đi theo một con đường đã được trải nhựa dài khoảng 4 km là đến rừng tràm Trà Sư. Tại đây, du khách đi tắc ráng (tên gọi một phương tiện đường thủy có gắn động cơ của người miền Tây Nam Bộ) và xuồng để đi tham quan rừng tràm. Sinh thái. Với diện tích 845 ha, phần lớn loài cây ở rừng tràm Trà Sư là tràm (trên 10 tuổi, cao 5 - 8 m). Ngoài ra, đây còn là nơi sinh sống nhiều loài động vật và thực vật. Ở đây hiện có: Không chỉ phong phú về động vật, rừng tràm Trà Sư còn là nơi tụ họp của 140 loài thực vật thuộc 52 họ và 102 chi, trong đó có 22 loài cây gỗ, 25 loài cây bụi, 10 loài dây leo, 70 loài cỏ, 13 loài thủy sinh, 11 loài sinh cảnh, 78 loài cây thuốc và 22 loài cây cảnh... Theo kết quả khảo sát của BirdLife International và Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, rừng tràm Trà Sư được đánh giá là nơi có tầm quan trọng quốc tế trong công tác bảo tồn đất ngập nước tại đồng bằng sông Cửu Long. Năm 1999, cả hai tổ chức ấy đều đã đề xuất chính quyền địa phương xây dựng khu bảo vệ tại khu vực này. Ngày 27 tháng 5 năm 2003, chính quyền tỉnh An Giang đã ra quyết định phê duyệt thành lập khu bảo vệ cảnh quan rừng tràm Trà Sư, để đáp ứng nhu cầu du lịch sinh thái và phục vụ công tác nghiên cứu bảo tồn môi trường. Nhìn chung, chính sự đa dạng và phong phú về tài nguyên khiến rừng tràm Trà Sư trở thành điểm đến lý tưởng đối với các nhà nghiên cứu và những người ham mê khám phá thiên nhiên hoang dã. Hiện ngành du lịch An Giang đang khai thác điểm tham quan du lịch sinh thái này. Lập kỷ lục. Ngày 15 tháng 1 năm 2020, tại thành phố Long Xuyên, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Công ty Cổ phần Du lịch An Giang tổ chức lễ đón nhận kỷ lục Việt Nam cho 2 hạng mục rừng tràm Trà Sư và cây cầu tre dài nhất Việt Nam. Khu du lịch rừng tràm Trà Sư do Công ty cổ phần Du lịch An Giang thuê lại với diện tích trên 160 ha để phát triển du lịch. Với kinh phí trên 10 tỷ đồng, Công ty xây dựng "cây cầu tre vạn bước" xuyên qua khu rừng có chiều dài hơn 10 km qua hai giai đoạn. Giai đoạn 1 có chiều dài gần 4 km, sử dụng trên 500.000 cây tre các loại, kinh phí xây dựng trên 5 tỷ đồng, được đưa vào sử dụng từ ngày 1 tháng 1. Giai đoạn 2 có chiều dài khoảng 6 km, dự kiến hoàn thành vào ngày 30 tháng 4. Năm 2019, đã có hơn 200.000 du khách đến Trà Sư và sau sự thay đổi này, dự kiến lượng khách đến An Giang tăng đột biến trong năm nay.
1
null
Thị trấn bạo lực (tựa tiếng Anh: Wrong Side of Town) là một bộ phim hành động, tâm lý năm 2010 của Mỹ do David DeFalco làm đạo diễn kiêm biên kịch và sản xuất. Phim có sự tham gia của hai đô vật chuyên nghiệp Mỹ Rob Van Dam và Dave Batista, mác phim chính thức là Who wants to die first (dịch tiếng Việt: Ai muốn chết trước). Nội dung. Do vô tình ngộ sát một thanh niên côn đồ nên Bobby Kalinowski bị tên trùm xã hội đen Seth Bordas - bố của thanh niên đó ra lệnh cho hàng chục thuộc hạ của hắn truy đuổi và thanh toán. Trước kia Bobby từng là lính Thủy quân lục chiến trong quân đội Mỹ nên giờ đây anh ta đã có sẵn võ công cao cường với tinh thần dũng cảm, anh ta sẽ cố gắng chống lại bọn xã hội đen, Bobby cũng đi nhờ Big Ronnie - một tay giang hồ khét tiếng thân thiết với mình để giúp đỡ mình đánh bại bọn xã hội đen. Tham khảo. California
1
null
"With or Without You" là ca khúc của ban nhạc người Ireland, U2. Ca khúc nằm trong album phòng thu thứ sáu của họ, "The Joshua Tree", và được phát hành dưới dạng đĩa đơn vào năm 1987. Đây trở thành đĩa đơn thành công nhất của ban nhạc tính tới thời điểm đó, và trở thành đĩa đơn quán quân đầu tiên của họ ở cả Mỹ lẫn Canada với những vị trí dẫn đầu lần lượt tại "Billboard" Hot 100 và "RPM". "With or Without You" đặc trưng bởi tiếng guitar của The Edge với chiếc Infinite Guitar, cùng với đó là phần giọng của Bono và phần bass đặc biệt của Adam Clayton. Ca khúc vốn đã được làm demo từ cuối năm 1985, song ban nhạc đã tiếp tục phát triển và hoàn thiện nó trong quá trình thực hiện "The Joshua Tree". Cho dù được coi là ca khúc viết về tình yêu, đây lại là một ca khúc mà Bono sáng tác từ những trăn trở của anh giữa cuộc sống của một người nhạc sĩ và của một người đàn ông tự lập. Ngay từ khi mới được phát hành, ca khúc đã nhận được rất nhiều lời nhận xét tích cực. Đây là ca khúc được trình diễn thường xuyên bởi ban nhạc, và cũng luôn được góp mặt trong các album tuyển tập cũng như các bộ phim trình diễn trực tiếp. "With or Without You" chính là ca khúc được hát lại nhiều nhất của U2. Năm 2010, tạp chí "Rolling Stone" xếp ca khúc ở vị trí số 132 trong danh sách "500 bài hát vĩ đại nhất".
1
null
Hà Ban (sinh ngày 1 tháng 1 năm 1957) là một chính khách Việt Nam. Ông từng là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa, XI XII, Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, Phó Trưởng ban Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ Trung ương. Tiểu sử. Ông sinh ngày 1 tháng 1 năm 1957 quê quán xã Điện Thắng Nam, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông từng là sinh viên khóa đầu tiên của trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng, cùng khóa với GS.TS Bùi Văn Ga, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Năm 1980, ông bắt đầu gắn bó với mảnh đất Kon Tum cho đến tháng 02 năm 2015, ông được Bộ Chính trị điều động và bổ nhiệm chức vụ Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương. Gia đình. Ông xuất thân trong một gia đình nông dân có công với cách mạng tại xã Điện Thắng Nam, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Phát biểu. "đội ngũ cán bộ của các tỉnh Tây Nguyên còn thiếu và yếu... do vậy cần tăng cường đào tạo và thu hút đội ngũ cán bộ. Đây cũng là vấn đề cốt lõi vì một Tây Nguyên phát triển bền vững..."
1
null
"Roll Over Beethoven" là bản hit toàn cầu năm 1956 của Chuck Berry được phát hành bởi Chess Records với "Drifting Heart" nằm ở mặt B. Phần lời của ca khúc này là lời kêu gọi đưa rock 'n' roll và giai điệu của R&B thay thế nhạc cổ điển truyền thống. Ca khúc đã từng được hát lại bởi rất nhiều ca sĩ và được tạp chí "Rolling Stone" xếp hạng 97 trong danh sách "500 bài hát vĩ đại nhất".
1
null
Vua Mithridates III của Parthia (tiếng Ba Tư: مهرداد سوم) cai trị đế quốc Parthia trong khoảng từ năm 57-54 TCN. Mithridates là con trai của vua Phraates III, người đã bị ông và Orodes-anh trai ông-sát hại vào năm 57 TCN. Orodes sau đó trở thành vua của Parthia và phong cho Mithridates làm vua của Media, một nước chư hầu của Parthia. Vì sự tàn ác của ông, Orodes đã trở nên thù địch với người em trai của ông ta và lật đổ ông. Mithridates đã buộc phải chạy trốn khỏi Media và tới tỉnh Syria của La Mã. Ông đã nương náu ở chỗ Aulus Gabinius, quan tổng trấn La Mã và là thống đốc của Syria. Mithridates sau đó quay trở lại xâm lược Parthia cùng với sự hỗ trợ của Gabinius. Vị tổng trấn La Mã đã hành quân với Mithridates tới tận Euphrates, nhưng sau đó ông đã phải quay về để khôi phục lại ngai vàng cho một vị vua khác, Ptolemaios XII Auletes của Ai Cập. Mặc dù mất sự hỗ trợ của người La Mã cho mình, Mithridates đã tiến vào Lưỡng Hà và cố gắng để chinh phục Babylon. Ông đã đánh đuổi Orodes và khôi phục lại triều đại của mình trong một giai đoạn ngắn vào năm 55 trước Công nguyên, ông cũng đã đúc tiền xu ở Seleucia cho đến năm 54 TCN. Tuy nhiên, vua Mithridates sau đó đã viên tướng của Orodes, Surena, vây hãm ở Seleucia, và sau một thời gian dài kháng cự, ông đã bị quân đội của Orodes đánh bại. Mithridates đã bị bắt làm tù binh và bị Orodes hành quyết vào năm 54 TCN.
1
null
Phan Thị Ràng (1937 - 1962) tại xã Lương Phi, huyện Tri Tôn, An Giang. Bà là chiến sĩ được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Ngoài ra, bà được biết là nguyên mẫu của nhân vật "chị Sứ" trong tác phẩm Hòn Đất. Tiểu sử. Bà Phan Thị Ràng sinh năm 1937 tại tỉnh An Giang, có tên cách mạng là Tư Phùng, sống ở xã Bình Sơn, huyện Châu Thành, tỉnh Rạch Giá (ngày nay thuộc huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang). Năm 1950, bà tham gia vào đội thiếu niên cứu quốc, đến năm 1954 bắt đầu tham gia cách mạng và đổi tên là "Tư Phùng". Năm 1959, Tư Phùng được dự một lớp học dự bị đảng viên và một lớp đào tạo cô đỡ để chuẩn bị hoạt động công khai. Năm 1960, bà được giao phụ trách thanh niên đi phá đường, đắp cản và bao vây đồn bốt phía địch từ Vàm Rầy đến Tám Ngàn tại xã Thổ Sơn, huyện Châu Thành, tỉnh Rạch Giá (nay thuộc huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang). Tháng 1 năm 1962, phía Việt Nam Cộng hòa tập trung hơn 2.000 quân đánh vào vùng căn cứ của quân cách mạng ở Ba Hòn gồm Hòn Đất, Hòn Me và Hòn Sóc. Trong thời gian kháng chiến bà vừa liên lạc giữa các đơn vị trong khu căn cứ, vừa tổ chức vận động nhân dân đấu tranh chính trị, binh vận, phối hợp với các hoạt động quân sự buộc phía Việt Nam Cộng hòa phải bỏ dở cuộc càn quét. Đêm ngày 8 rạng sáng ngày 9 tháng 1 năm 1962, bà đã bị bắt khi đang làm nhiệm vụ. Dù bị giặc bắt và đưa ra điều kiện, kể cả nhục hình và dụ dỗ nhưng bà vẫn một lòng trung thành và cuối cùng bị giặc sát hại khi vừa bước sang tuổi 25 (1962). Ngày 20 tháng 12 năm 1994, bà Phan Thị Ràng được nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Một cuốn tiểu thuyết, Hòn Đất của nhà văn Anh Đức đã viết dựa trên những sự kiện của cuộc đời bà. Trên tinh thần này, một vở vũ kịch, Chị Sứ, do Xuân Định đạo diễn và Hoàng Vân sáng tác nhạc, cũng đã ra đời vào năm 1968 và được công diễn nhiều năm trên sân khấu Nhà Hát Lớn Hà Nội.
1
null
Emil "Heinrich Ludwig" von Albedyll (sinh ngày 1 tháng 4 năm 1824 tại Liebenow, Pommern; mất ngày 13 tháng 6 năm 1897 tại Potsdam) là một tướng lĩnh trong quân đội Phổ. Trong chiến dịch chống Đan Mạch năm 1848 (Chiến tranh Schleswig-Holstein), ông phục vụ như một sĩ quan cần vụ và tham gia trong các trận đánh tại Schleswig, Düppel và Fredericia. Vào năm 1858, ông được phong quân hàm Đại úy và vào năm 1862 ông gia nhập trong Khoa Nhân sự của Bộ Chiến tranh (về sau trở thành Nội các Quân sự tách rời khỏi Bộ Chiến tranh Phổ). Dưới sự chỉ đạo của Trưởng khoa Nhân sự – tướng von Manteuffel, ông đã phục vụ trong cuộc Chiến tranh Schleswig lần thứ hai vào năm 1864, tham chiến trong trận đánh tại Mysunde. Vào năm 1866, Albedyll được thăng cấp Thượng tá và được bổ nhiệm làm sĩ quan phụ tá. Ông đã tham gia Đại bản doanh của Phổ trong cuộc Chiến tranh Bảy tuần. Sau cuộc chiến, ông lên chức Đại tá vào năm 1864, và một lần nữa tham gia Đại bản doanh trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871). Sau khi hòa bình lập lại, ông được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Nội các Quân sự Đức, và trên cương vị này, ông đã quyết định các chi tiết nhân sự, phục vụ và các vấn đề chỉ huy của lực lượng quân đội Phổ trong vòng 17 năm trời. Vào năm 1873, ông trở thành Thiếu tướng và Tướng dưới quyền chỉ đạo trực tiếp của Đức hoàng Wilhelm I. Vào năm 1876, ông được bổ nhiệm làm Tướng Phụ tá của Đức hoàng và trở thành Thượng tướng Kỵ binh vào năm 1886. Cuối cùng, vào năm 1888, ông được bổ nhiệm làm Tướng tư lệnh của Quân đoàn VII đóng tại Münster. Không những được Wilhelm I tin cẩn, ông còn được lòng Hoàng đế kế ngôi là Friedrich III, và tiếp tục giữ cương vị chỉ huy sau khi Wilhelm II đăng cơ vào năm 1888. Vào năm 1891, nhân dịp kỷ niệm 50 năm phục vụ quân sự của ông, Albedyll được phong tặng Huân chương Đại bàng Đen. Vào tháng 6 năm 1893, ông nghỉ hưu. Emil von Albedyll từ trần vào ngày 13 tháng 6 năm 1897 tại Potsdam và được mai táng ở nghĩa trang Bornstedt. Hồi ký "Thuở thiếu thời của tôi" của Đức hoàng Wilhelm II đã đánh giá ông là một người có tài năng, mạnh mẽ, học rộng và có trí nhớ tốt. Theo Wilhelm II, vị tướng thực sự đã thuộc danh sách toàn bộ quân đội, và không chỉ nắm bắt sự nghiệp của các sĩ quan của quân đội thường trực, ông còn biết về sự nghiệp của cha họ. Ngoài ra, ông đã từng bầu chọn các chức vụ chỉ huy chỉ sau một đêm trong cuộc tổng động viên năm 1870 khi Chiến tranh Pháp-Đức bùng nổ.
1
null
Trong toán học, bổ đề là một giả thuyết đã được chứng minh hoặc chắc chắn sẽ được chứng minh dùng làm nền tảng để từ đó các nhà toán học tiếp tục nghiên cứu và đạt tới một kết quả cao hơn. Về bản chất, hầu như không có phân biệt chính thức giữa bổ đề và định lý ngoài mặt tác dụng và quy ước.
1
null
Legio trigesima Ulpia Victrix (tiếng Latinh có nghĩa là "quân đoàn Ulpia chiến thắng thứ ba mươi") là một quân đoàn La Mã được hoàng đế Trajan thành lập vào năm 100 và để sử dụng cho các cuộc chiến tranh Dacia của ông. Quân đoàn vẫn còn hoạt động cho đến khi vùng biên giới sông Rhine bị từ bỏ vào đầu thế kỷ thứ 5. Biểu tượng của họ là các vị thần Neptune và Jupiter cùng cung Ma Kết. Ulpia là họ của Trajan, trong khi tên riêng "Victrix" có nghĩa là "chiến thắng". Căn cứ đầu tiên của quân đoàn nằm ở tỉnh Dacia thuộc khu vực phòng tuyến sông Danube, mặc dù cũng có khả năng đó là đã có một số lính lê dương của quân đoàn tham gia vào chiến dịch Parthia của Trajan. Trong năm 122, quân đoàn đã được chuyển đến "Colonia Ulpia Traiana" (Xanten ngày nay) tại Hạ Germania, và họ vẫn còn lưu lại đây trong những thế kỷ tiếp theo. Nhiệm vụ chính của họ là xây dựng các công trình và tham gia vào việc giữ gìn trật tự. Trong thế kỷ thứ 2 và đầu thế kỷ thứ 3, các đơn vị của "XXX Ulpia Victrix" đã được phái tới Parthia, cũng như ở Gaul, Mauretania và các tỉnh La Mã khác, do tình hình hòa bình tại Hạ Germania. Trong cuộc nội chiến vào năm 193, "XXX Ulpia Victrix" đã ủng hộ Septimius Severus, người sau đó ban cho họ danh hiệu "Pia Fidelis" ("trung thành và trung nghĩa"). Quân đoàn đã được hoàng đế Alexander Severus sử dụng trong chiến dịch chống lại nhà Sassanid của ông vào năm 235. Gần như chắc chắn là nó đã tham gia vào các cuộc chiến tranh chống lại người Frank của Gallienus trong thập niên 250. L. Petronius Taurus Volusianus, người sau này trở thành thuộc về pháp quan thái thú vào năm 260 và thái thú thành thị vào giữa thập niên 260, đã từng là "Primus Pilus" của quân đoàn vào thời điểm này. Quân đoàn đã đứng về phía đế chế Gallia của Postumus (năm 260-274) và cũng không có nghi ngờ gì khi nó đã phải chịu tổn thất nặng nề sau khi Aurelianus đánh bại Tetricus I trong một trận chiến đẫm máu tại đồng bằng Catalaunian (Châlons-en-Champagne) vào năm 274. Cùng với sự tái tổ chức lại quân đội La Mã (Constantius I Chlorus), các quân đoàn bảo vệ biên giới bị mất tầm quan trọng của họ vào tay lực lượng comitatus. Sự sụp đổ của khu vực biên giới sông Rhine sau năm 408-410 đã đặt dấu chấm hết cho lịch sử của quân đoàn.
1
null
Gác kiếm, hay còn biết với tựa đề Tịch dương thiên sứ (chữ Hán phồn thể: 夕陽天使, giản thể: 夕阳天使, bính âm: "Xīyáng Tiānshĭ", tiếng Anh: So Close) là một bộ phim hành động - võ thuật - tâm lý Hồng Kông sản xuất năm 2002 của đạo diễn Nguyên Khuê (Corey Yuen) thực hiện. Ba vai chính trong phim do Thư Kỳ, Triệu Vy và Mạc Văn Úy đảm nhận. Tên tiếng Anh của phim có nguồn gốc từ bài hát "Close to You" của The Carpenters, bài hát có vai trò nổi bật trong phim. Nội dung. Thừa hưởng hệ thống công nghệ vệ tinh bí mật mà người cha quá cố để lại, hai chị em Ái Lâm (Thư Kỳ) và Ái Quần (Triệu Vy) có những lợi thế vượt mặt đối thủ cũng như hệ thống pháp luật. Họ là những tin tặc máy tính, sát thủ và cả chuyên gia tình báo. Nhiệm vụ đầu tiên của họ là ám sát Châu Liêu (Thạch Tu) - chủ tịch của một công ty hàng đầu Trung Quốc đã được thực hiện thành công. Nhưng ngay sau đó, thanh tra cảnh sát Giang Nhật Hồng (Mạc Văn Úy) được giao điều tra vụ án mạng này, và đã có thể lùng ra tung tích của hai chị em. Cuộc rượt đuổi mèo vờn chuột trở nên càng phức tạp hơn khi Ái Lâm và Ái Quần trở thành mục tiêu của chính những kẻ đã thuê họ. Chúng muốn giết nốt cả hai chị em để không bị liên lụy tới vụ ám sát chủ tịch Châu. Ái Quần luôn làm trợ lý giám sát máy tính tại nhà, trong khi Ái Lâm thực thi nhiệm vụ. Sự sắp xếp này khiến Ái Quần ghen tị. Cô chỉ muốn được nhận nhiệm vụ, mà không hề biết rằng Ái Lâm đang cố bảo vệ mình. Cô chỉ cho rằng Ái Lâm từ chối để cô tham gia vì cô không đủ giỏi mà thôi. Khi Ái Lâm yêu Đình (Song Seung-heon), anh họ của bạn cũ, và quyết định từ bỏ cuộc sống bí mật này để kết hôn, mối quan hệ của hai chị em trở nên rạn nứt. Ái Quần muốn tiếp tục các hợp đồng ám sát để chứng tỏ mình không thua kém gì chị mình. Nhật Hồng lùng theo dấu vết của Ái Quần đến một tiệm bánh nơi cô mua bánh sinh nhật và hai người đã xảy ra một cuộc rượt đuổi xe điên cuồng. Ái Quần bị cảnh sát vây bắt và phải gọi chị mình, Ái Lâm trợ giúp. Cùng lúc đó, những tay sát thủ do chính kẻ đã ký hợp đồng với hai chị em trước đó cử đến, tấn công Ái Lâm tại nhà, giết chết cô và gài bẫy Nhật Hồng. Ái Quần biết mặt hung thủ thật sự sau khi xem đoạn băng được ghi lại từ vệ tinh. Cô đề nghị Nhật Hồng giúp trả thù cho cái chết của Ái Lâm, đổi lại cô sẽ giúp Nhật Hồng rửa sạch tiếng oan. Không còn lựa chọn nào khác, Nhật Hồng hợp tác với Ái Quần để trừ khử hung thủ thực sự. Đón nhận. Phim được đánh giá trung bình là 6.7/10 dựa trên 37 đánh giá trên Rotten Tomatoes và trung bình là 66/100 dựa trên 18 đánh giá trên Metacritic.
1
null
Hòa Hiệp, tên đầy đủ là Nguyễn Hòa Hiệp (sinh ngày 1 tháng 1 năm 1982) là một nam diễn viên điện ảnh, diễn viên truyền hình, diễn viên kịch nói và đạo diễn sân khấu nổi tiếng người Việt Nam. Hòa Hiệp là một nghệ sĩ đa tài và có thực lực, được công chúng yêu mến và công nhận. Anh được khán giả biết đến với những vai trong các bộ phim như "Nghề báo, Cô nàng bướng bỉnh, Cổng mặt trời, Lối sống sai lầm, Mùi ngò gai, Gia đình phép thuật, Làm Dâu, Ông trùm". Hơn 20 năm hoạt động nghệ thuật, Hòa Hiệp đang được xét duyệt Nghệ sĩ ưu tú, anh đã đạt đuực 3 huy chương vàng, 1 huy chương bạc và rất nhiều giải thưởng khác: Thanh niên tiêu biểu thành phố, HTV Awards, Nam diễn viên thân thiện, giải Ngôi sao xanh, giải Mai Vàng... Tiểu sử. Hòa Hiệp sinh ngày 1 tháng 1 năm 1982 tại thành phố Hồ Chí Minh. Anh từng thi đậu vào trường Cao đẳng Sân khấu Điện ảnh và trường Đại học hàng hải, tuy nhiên anh lựa chọn theo học tại trường Cao đẳng Sân khấu Điện ảnh. Trong thời gian học tại trường, anh đã tham gia diễn xuất ở Nhà hát kịch Thành phố. Như lọt vào tầm mắt của nghệ sĩ Hoài Linh, Hòa Hiệp được mời tham gia tiểu phẩm hài "Quả Đào Lửa" rồi đi diễn khắp các tỉnh phía Nam giúp cái tên của anh đến gần hơn với công chúng. Bản thân tôi cũng vô cùng yêu thích vẻ đẹp của anh chàng này. Bắt đầu sự nghiệp từ sớm, được dẫn dắt bởi nghệ sĩ hài Hoài Linh, Hòa Hiệp hiện tại đã là gương mặt nổi bật trong dàn diễn viên đình đám Việt Nam. Sự nghiệp. Đến năm 2002, anh tham gia bộ phim đầu tiên là phim Vòng xoay số phận, sau đó anh được các khán giả biết đến với những vai diễn trong các bộ phim khác như Mùi ngò gai, Nghề báo, Cô nàng bướng bỉnh, Cổng mặt trời, Lối sống sai lầm, Gia đình phép thuật. Ngoài ra thì chàng diễn viên điển trai này còn tham gia trong các vở hài, kịch nói tại sân khấu kịch Hồng Vân và ca hát. Sau thành công của vai Khanh phim Mùi ngò gai, Hòa Hiệp đắt show diễn xuất khi tham gia cùng lúc nhiều phim. Anh cho biết đây chính là thời kỳ đỉnh cao của mình và của phim truyền hình. Năm 2006, cái tên Hòa Hiệp nổi đình nổi đám khi anh tham gia vào 3 bộ phim là Dưới cờ đại nghĩa, Mùi ngò gai và Nghề báo. Tiếp nối thành công, anh tiếp tục được mọi người yêu mến khi tham gia vào phim Nhật ký Vàng Anh 2. Liên tục đạt được những thành tựu nổi tiếng, Hòa Hiệp ngày càng có nhiều fan hâm mộ. Để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng khán giả bởi nét điển trai của mình, Hòa Hiệp tiếp tục thăng hoa trong sự nghiệp bằng sự góp mặt Những bộ phim nổi tiếng một thời của 8x 9x có sự góp mặt của Hòa Hiệp phải kể đến là: Sóng đời (2008), Gia đình phép thuật (2009), Cổng mặt trời (2010), Lối sống sai lầm (2010),… Năm 2013, Hòa Hiệp tham gia vào chương trình Bước nhảy hoàn vũ. Anh chứng tỏ tài năng đa dạng của mình. Từ đó đến nay, Hòa Hiệp ít tham gia đóng phim hơn, anh chuyển dần sang kịch sân khấu và làm công việc đạo diễn, dẫn chương trình, ca hát và kinh doanh. Khi đang ở đỉnh cao sự nghiệp, Hòa Hiệp dường như biến mất khỏi giới giải trí. Bởi vì anh chú tâm hơn vào kinh doanh và chỉ tham gia một số phim nhỏ cùng chương trình giải trí. Nam diễn viên hiện tại đã sở hữu cơ ngơi lớn khi chuyển hướng sang kinh doanh, mở quán trà sữa. Dù vậy, anh vẫn nhận về nhiều nhận xét tiêu cực từ những người theo dõi mình. Một số cho rằng anh hết thời nên mới đi bán trà sữa. Hàng loạt bộ phim tên tuổi có sự xuất hiện của nam diễn viên Hòa Hiệp giúp anh gặt hái được nhiều thành công trong sự nghiệp, đặc biệt là giải thưởng Ngôi Sao Xanh 2017 trong hạng mục Nam diễn viên truyền hình được yêu thích nhất. Bản thân tôi thấy được Hòa Hiệp hoàn toàn xứng đáng với những gì anh đã cống hiến. Không chỉ thu hút người xem trong những bộ phim truyền hình, Hòa Hiệp còn chứng tỏ khả năng đa dạng của mình khi góp mặt trong các sân khấu kịch. Từ bi tới hài, có thể nói Hòa Hiệp là một trong số ít diễn có thể đảm đương được cả hai thể loại. Chàng trai này luôn để lại trong tôi ấn tượng tốt về khả năng cũng như về ngoại hình của mình. Hơn 20 năm hoạt động nghệ thuật, Hòa Hiệp đang được xét duyệt Nghệ sĩ ưu tú, anh đã đạt đuực 3 huy chương vàng, 1 huy chương bạc và rất nhiều giải thưởng khác: Thanh niên tiêu biểu thành phố, HTV Awards, Nam diễn viên thân thiện, giải Ngôi sao xanh, giải Mai Vàng... Và đặc biệt, anh nhận được sự yêu mến và công nhận tài năng của mình từ khán giả.
1
null
Legio Quarta Scythica (Quân đoàn Scythia thứ tư) là một quân đoàn La Mã được Marcus Antonius thành lập vào khoảng năm 42 TCN, để dành cho chiến dịch chống lại đế quốc Parthia của ông, do đó nó có một tên riêng khác, "Parthica". Quân đoàn vẫn còn hoạt động ở Syria trong những năm đầu của thế kỷ thứ 5. Biểu tượng của quân đoàn là cung Ma Kết. Nguồn gốc. Trong những năm đầu tiên sau khi được thành lập, nơi mà "IV Scythica" đóng quân thì lại không được biết đến một cách chắc chắn, mặc dù rất có thể nó đã tham gia vào chiến dịch chống lại người Parthia của Antonnius. Tên gọi của nó có thể cho thấy rằng nó đã chiến đấu chống lại người Scythia. Sau trận Actium và sau khi Antonius tự sát, Octavian đã chuyển "IIII Scythica" đến tỉnh Moesia ở khu vực Danube. Quân đoàn được báo cáo lại là đã tham gia vào các nhiệm vụ dân sự, chẳng hạn như xây dựng và trông nom các tuyến đường. Khi còn trẻ, vị hoàng đế tương lai Vespasianus đã từng phục vụ trong quân đoàn này. Các chiến dịch ở phía đông. Trong năm 58 CN, vua Vologases I của Parthia đã tiến hành xâm lược Armenia, một vương quốc chư hầu của Roma. Nero sau đó đã ra lệnh cho Gnaeus Domitius Corbulo, viên legate mới của Cappadocia, giải quyết vấn đề này. Corbulo đã đem theo quân đoàn "IIII Scythica" cùng với "III Gallica" và "VI Ferrata", ông đã đánh bại người Parthia, khôi phục lại ngai vàng Armenia cho Tigranes VI. Trong năm 62, "IIII Scythica" và "XII Fulminata" đã nằm dưới sự chỉ huy của viên legate mới là Lucius Caesennius Paetus, họ sau đó đã bị người Parthia đánh bại trong trận Rhandeia và buộc phải đầu hàng. Sau đó, quân đoàn đã phải chịu sự sỉ nhục và nó đã được chuyển đến Zeugma. Thành phố này sẽ là căn cứ của "IIII Scythica" trong thế kỷ tiếp theo. Trong năm Tứ hoàng đế (năm 69 CN), quân đoàn cũng như phần còn lại của quân đội phía Đông đã đứng về phía Vespasianus ngay lập tức. Mặc dù đã chứng minh lòng trung thành của mình, "IIII Scythica" lại không tham gia vào các trận chiến bởi vì nó không được coi là một quân đoàn tinh nhuệ. Từ thế kỉ thứ 2 trở đi. "IIII Scythica" đã tham gia vào tất cả các chiến dịch chống lại đế quốc Parthia trong thế kỉ thứ 2. Từ năm 181 tới năm 183 CN, viên tướng chỉ huy của các quân đoàn phía đông là Septimius Severus, người sau này sẽ trở thành hoàng đế dựa vào sức mạnh từ các quân đoàn của mình. Quân đoàn biến mất khỏi các ghi chép sau năm 219 CN, khi chỉ huy của họ, Gellius Maximus, nổi dậy chống lại hoàng đế Elagabalus và tự mình xưng là hoàng đế, chỉ để bị đánh bại bởi Elagabalus. Tuy nhiên, theo Notitia Dignitatum, trong những năm đầu của thế kỷ thứ 5, "IIII" Scythica vẫn còn có mặt tại Syria và nó đóng quân ở Sura.
1
null
Gioan Baotixita Trần Hữu Đức (1891 – 1971) là một Giám mục Công giáo của Việt Nam. Ông nguyên là Giám mục chính tòa tiên khởi của Giáo phận Vinh từ năm 1960 đến năm 1971. Khẩu hiệu Giám mục của ông là "Hãy Dọn Đường Chúa". Thời kỳ linh mục Tổng quản Đại giám cũng như Giám quản Tông Tòa Địa phận Vinh, linh mục Trần Hữu Đức nổi tiếng với các hoạt động khác nhau như cố gắng khai mở Tiểu chủng viện Địa phận, thành lập phong trào Liên đoàn Giáo phận, đảm nhiệm vai trò cố Vấn. Tiến hành xuất bản báo Tiến hành và tạp chí Xây dưng. Trong thời kỳ hậu cách mạng tháng Tám, linh mục Trần Hữu Đức ủng hộ chính quyền Việt Nam kháng chiến, xây dựng Tổ quốc. Thân thế và tu tập. Giám mục Gioan Baotixita Trần Hữu Đức sinh ngày 22 hoặc 24 tháng 6 năm 1891 tại Thổ Hoàng, Phước Tân (nay thuộc xã Điền Mỹ, huyện Hương Khê), tỉnh Hà Tĩnh, thuộc Giáo phận Vinh (nay khu vực này thuộc Giáo phận Hà Tĩnh). Thân phụ là ông Trần Hùng, nguyên quán giáo xứ Thọ Ninh, phủ Đức Thọ (nay thuộc xã Liên Minh, huyện Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh đã theo tổ tiên nhập cư tại giáo xứ Thổ Hoàng từ ba đời. Ông Trần Hùng từng trợ giúp linh mục Nguyễn Hoàng – Lễ Bộ Tả Tham Tri ở Huế, dưới triều vua Đồng Khánh. Tại đây, ông Trần Hùng kết hôn với bà Thị Nhiều, người Quảng Nam. Ông Trần Hùng và vợ có tất cả bốn người con, một người con trai qua đời từ nhỏ. Giám mục Trần Hữu Đức là là người con thứ ba trong gia đình, tên gốc gia đình gọi là Gioan Baotixita Long. Sau khi linh mục Nguyễn Hoàng hồi hưu, gia đình giám mục Đức trở về Hà Tĩnh ở thời gian ngắn tại Thổ Hoàng sau đó sang định cư tại Thổ Vương. Năm cậu bé Trần Hữu Đức lên 10 tuổi, cha ông qua đời. Năm 12 tuổi (1903), cậu quyết định đi theo con đường tu trì, đến làm nghĩa tử linh mục Liên, một vị linh mục thông minh và đạo đức. Sau thời gian ngắn học tập với linh mục Liên, chị cả cậu bé Đức cũng qua đời. năm 1908, cậu bé được cho nhập học tại chủng viện Xã Đoài và đổi tên là Gioan Baotixita Đức. Trong thời gian học tập với Chủng sinh Đức có tư chất thông minh và siêng năng học tập, cậu đứng đầu tất cả các niên khóa tại trường. Chủng sinh Trần Hữu Đức tốt nghiệp chủng viện năm 1914 và được bổ nhiệm làm trợ tá linh mục Nhàn trong công việc giảng dạy cho các tân tòng tại giáo họ Thanh Bích thuộc giáo xứ Đông Tháp. Sau ba năm trợ giúp linh mục Nhàn, năm 1917, chủng sinh Trần Hữu Đức được bổ nhiệm làm giáo sư Đại Chủng viện. Năm 1920, chúng sinh Trần Hữu Đức cùng với chủng sinh Phaolô Trần Đình Nhiên cử đi học trường Penang bảy năm. Trong thời gian này, mẹ và em gái chủng sinh Đức qua đời. Với sự ra đi này, gia đình 6 người của chủng sinh Trần Hữu Đức chỉ còn mỗi ông còn sống. Chúng sinh Trần Hữu Đức theo học ở trường Penang bảy năm và nổi tiếng là một chủng sinh giỏi. Ngày 15 tháng 8 năm 1925, chủng sinh Đức chính thức nhập hàng giáo sỹ và chỉ trong khoảng thời gian rất ngắn là một năm, chủng sinh Đức lãnh nhận bốn chức nhỏ trong hàng giáo sĩ. Ngày 15 tháng 8 năm 1926, chủng sinh Trần Hữu Đức nhận chức phụ phó tế rồi tiến đến chức phó tế vào ngày 8 tháng 9 cùng năm. Vì thời gian du học đã kết thúc, chủng sinh Trần Hữu Đức trở về quê hương. Linh mục. Sau khi trở về Việt Nam, Phó tế Gioan Baotixita Trần Hữu Đức được truyền chức linh mục ngày 2 tháng 4 năm 1927 tại nhà thờ chính tòa Xã Đoài, Giáo phận Vinh. Vị chủ phong cử hành nghi thức truyền chức là Đại diện Tông Tòa Địa phận Vinh André Léonce Joseph Eloy Bắc. Sau khi thụ phong linh mục, linh mục Đức được bổ nhiệm làm Giáo sư dạy Latinh, Pháp Văn, Lịch sử Giáo hội trong Tiểu Chủng viện Xã Đoài Nghệ An. Năm 1939, giám mục Địa phận cử ông làm linh mục Chính xứ Giáo xứ Kẻ Gai. Năm 1942, giám mục Địa phận lại thuyên chuyển linh mục Đức làm linh mục Chánh xứ Giáo xứ Vạn Lộc. Tại Việt Nam, cuộc cách mạng tháng Tám bùng nổ làm chuyển biến đến tình hình chính trị cũng như tôn giáo. Nhận thấy sự đổi mới này, Giám mục Đại diện Tông Tòa Vinh là Giám mục Eloy Bắc quyết định yêu cầu linh mục Tổng đại diện kiêm Trưởng hạt Xã Đoài là linh mục Châu họp Hội đồng Linh mục Địa phận. Cuộc họp diễn ra vào ngày 27 tháng 7 năm 1945. Tại cuộc họp này, linh mục Châu chọn linh mục Trần Hữu Đức làm Tổng quản Đại giám, chuyên lo về nội trị và ngoại giao. Theo linh mục Lê Ngọc Bích, trước đó, sau khi cách mạng thành công, có phái đoàn chính quyền xã Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An đến Tòa giám mục, chủng viện và giải thích cho các giáo sĩ, tu sĩ và chủng sinh biết về hoàn cảnh mới, đồng thời đề nghị các giáo sĩ Pháp trao lại quyền quản lý địa phận cho giáo sĩ Việt Nam. Sau đó một hai ngày, các giáo sĩ Pháp bị đưa đi tập trung tại Nhà xứ Cầu Rầm (thành phố Vinh). Giữa hoàn cảnh này, các giáo sĩ Địa phận họp tại Xã Đoài ngày 27 tháng 8 năm 1945 và bầu chọn linh mục Trần Hữu Đức làm Tổng quản. Theo linh mục Trương Bá Cần, việc bầu chọn này không được giáo sĩ Pháp công nhận và cũng không bị bác bỏ; trong khi chức danh "Tổng quản" không hề có trong Giáo luật Công giáo. Giữa tình thế khó khăn của Địa phậm, giám mục André Léonce Joseph Eloy Bắc qua đời sau 46 năm cai quản Địa phận. Trong thời gian giữ nhiệm vụ Tổng quản, linh mục Gioan Baotixia Trần Hữu Đức gặp rất nhiều khó khăn. Chính ông quyết định vận động thành lập Liên Đoàn Giáo phận nhà ngày 3 tháng 6 năm 1946 và nhậm chức Tối cao Cố vấn. Liên đoàn có nền tảng chắc chắn, phá triển mạnh dưới thời linh mục Trần Hữu Đức. Ngoài ra, linh mục Đức cũng cho xuất bản tờ báo Tiến Hành, tạp chí Xây dựng. Trong thời kỳ làm Giám quản, linh mục Trần Hữu Đức ra sức tìm cách mở lại trường Tiểu chủng viện. Trước đó, tiểu chủng viện bị đóng cửa từ ngày 1 tháng 5 năm 1946. Sau hơn hai năm, từ ngày 29 tháng 5 năm 1948, Tiểu chủng viện đón các chủng sinh về tiếp tục tu học. Linh mục Trần Hữu Đức bảy tỏ quan điểm rất ủng hộ chính quyền trong công cuộc kháng chiến, xây dựng Tổ quốc. Tòa giám mục Địa phận trống tòa trong 5 năm sau cái chết của Giám mục Bắc. Nhận thấy các đóng góp tích cực của linh mục Trần Hữu Đức, ngày 19 tháng 7 năm 1950, Thánh Bộ Truyền giáo tại Rôma quyết định bổ nhiệm linh mục này làm Giám quản Tông Tòa Địa phận Vinh. Tin tức bổ nhiệm đến Địa phận sau đó vào ngày 4 tháng 11 Tin vui ấy đến với Địa phận ngày 4 tháng 11 năm 1950. Trở thành Giám quản Địa phận, ngày 21 tháng 2 năm 1951, linh mục Trần Hữu Đức cho mở lại trường Thần học sau hơn bốn năm bị đóng cửa. Sau khi tái khai mở, cuối tháng 3 năm 1951, đã có 7 tân linh mục truyền chức tại Thanh Hóa. Tân giám quản quyết định cải tổ hàng giáo phẩm, cải tổ các Phước viện.. và công bố bản “Đường lối Hiện thời Của Người Công giáo”. Giám mục Vinh. Ngày 14 tháng 6 năm 1951, Tòa Thánh bổ nhiệm linh mục Gioan Baotixita Trần Hữu Đức, hiện đang là linh mục Giám quản Tông tòa giáo phận Vinh, làm Giám mục Hiệu tòa Nicietane, Đại diện Tông Tòa Hạt Đại diện Tông Tòa Vinh. Tòa Khâm Mạng Huế trao đến tay Giám mục Trần Hữu Đức quyết định bổ nhiệm này sau đó vào ngày 19 tháng 8 cùng năm. Nhận được tin bổ nhiệm, tân giám mục Trần Hữu Đức lo lắng, nhiều lần định từ chối nhưng nhiều linh mục địa phận khuyên nhủ Lễ tấn phong Giám mục cho Tân giám mục được tổ chức vào ngày 16 tháng 9 năm 1951 tại nhà thờ chính tòa Giáo phận Thanh Hóa. Chủ phong giám mục cho ông là Giám mục Louis-Christian-Marie de Cooman Hành, giám mục Đại diện Tông Tòa Hạt Đại diện Tông Tòa Thanh Hóa. Năm 1954, sau khi các bên ký hiệp định Genève, phong trào di cư nổi lên mạnh mẽ. Tại Địa phận Vinh, một số giáo dân từ Quỳnh Lưu khởi đầu cho chuyến di cư này, sau đó tiếp theo là các giáo dân tại Phủ Diễn, Vinh, Nam Đàn, Cửa Lò, Xã Đoài, Hà Tĩnh và Quảng Bình. Ngoài số giáo dân di cư lên đến 50.000 người, nhiều chủng sinh, linh mục cũng di cư. Giám đốc Đại chủng viện Xã Đoài là linh mục Trần Thanh Ngoạn cũng quyết định di cư. Giám mục Trần Hữu Đức mất tinh thần trước sự kiện này. Ngày 24 tháng 11 năm 1960, cùng với việc thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam, Giám mục Trần Hữu Đức được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám mục chính tòa Tiên khởi của Giáo phận Vinh. và ông giữ chức vụ này cho đến khi qua đời vào ngày 5 tháng 1 năm 1971. Ông là vị giám mục chính tòa giáo phận Vinh đầu tiên xuất thân từ chính giáo phận này. Chiến tranh Việt Nam ngày càng ác liệt, quân Mỹ can thiệp và oanh tạc miền Bắc, trong đó có giáo phận Vinh từ năm 1966 đến năm 1972. Các cơ sở của giáo phận như nhà thờ chính tòa, các cơ sở của giáo phận, Đại chủng viện, Tiểu chủng viện, Trường tập, bệnh viện đều biến thành đống đổ nát, các hòm thánh tích cũng chịu chung số phận. Đặc biệt, ngày 24 tháng 3 năm 1969, nhiều giáo dân, tu sỹ, giáo sỹ, linh mục và cả Giám mục Phó Phaolô Nguyễn Đình Nhiên thiệt mạng. Tông truyền. Giám mục Gioan Baotixita Trần Hữu Đức được tấn phong giám mục năm 1951, thời Giáo hoàng Piô XII, bởi: Giám mục Gioan Baotixita Trần Hữu Đức là Giám mục Chủ phong cho giám mục:
1
null
Giuse Đặng Đức Ngân (sinh 1957) là một giám mục Công giáo người Việt. Ông hiện đảm nhận vai trò Tổng giám mục phó Tổng giáo phận Huế, kiêm Giám quản Tông Tòa Giáo phận Đà Nẵng. Trước khi được bổ nhiệm đến Tổng giáo phận Huế, ông là giám mục chính tòa Giáo phận Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2023 và giám mục chính tòa Giáo phận Lạng Sơn và Cao Bằng từ năm 2007 đến đầu năm 2016. Khẩu hiệu Giám mục của ông là "Đến với muôn dân". Trong Hội đồng Giám mục Việt Nam, ông hiện đảm nhận vai trò Chủ tịch Uỷ ban Văn hóa thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam nhiệm kỳ 2022 – 2025. Trước đó, ông tiếp quản vị trí này với tư cách Chủ tịch thứ hai của nhiệm kỳ 2016 – 2019, được chọn vào chức vụ này tháng 4 năm 2017, để tiếp nối nhiệm vụ dang dở để lại của Giám mục Giuse Vũ Duy Thống, đã đột ngột qua đời tháng 3 năm 2017. Ông cũng tái đắc cử nhiệm kỳ 2019–2022. Thân thế và tu tập. Giuse Đặng Đức Ngân sinh ngày 16 tháng 6 năm 1957 tại khu vực Nhà thờ Lớn Hà Nội (giáo xứ chính tòa), nay thuộc phường Hàng Trống, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội, thuộc Tổng Giáo phận Hà Nội. Song thân Giám mục Ngân là ông Phaolô Đặng Đức Vượng (1926–2013) và bà Maria Trần Thị Xuân (1928 – 2009). Ông là con thứ ba trong gia đình có 5 người con gồm 3 nam và 2 nữ, sinh sống tại tư gia trên phố Chân Cầm, Hoàn Kiếm, thuộc khu vực Nhà thờ chính tòa Hà Nội. Trong số các người con này, chỉ có cậu Ngân chọn theo con đường tu trì. Vì là nghĩa tử của Hồng y Giuse Maria Trịnh Văn Căn, từ cuối năm 1979, cậu Đặng Đức Ngân đã được đưa đến sinh sống tại Tòa Tổng giám mục Hà Nội. Trong giai đoạn từ năm 1981 đến năm 1987, chủng sinh Ngân theo học tại Đại chủng viện Thánh Giuse Hà Nội. Chủng sinh Ngân đã gia nhập chủng viện này ngay sau ngày khai giảng (trở lại) vào ngày 25 tháng 3 năm 1981. Linh mục. Sau khoảng thời gian học tại Đại chủng viện Hà Nội, ngày 8 tháng 12 năm 1987, Giuse Đặng Đức Ngân được thụ phong linh mục bởi Hồng y Giuse Maria Trịnh Văn Căn, Tổng giám mục Hà Nội, tại Nhà thờ chính tòa Hà Nội. Sau khi được truyền chức, kể từ tháng 2 năm 1988, tân linh mục được bổ nhiệm làm linh mục chính xứ giáo xứ Thượng Thụy và Cổ Nhuế và đã giữ chức vụ này cho đến tháng 12 năm 1994. Trong thời gian này, ông cũng kiêm chức Thư ký Hồng y Trịnh Văn Căn, từ năm 1989 đến năm 1990. Linh mục Đặng Đức Ngân được cử đi du học Rôma. Trong khoảng thời gian từ tháng 1 năm 1994 đến tháng 5 năm 1999, ông theo học tại ở Roma, và nhận được học vị Tiến sĩ Giáo luật. Năm 1999, linh mục Giuse Đặng Đức Ngân trở về Việt Nam, làm Giáo sư Đại chủng viện Thánh Giuse Hà Nội và đảm nhận chức danh này cho đến năm 2016. Tại Đại chủng viện, ngoài vai trò Giáo sư, ông còn từng đảm nhận chức vụ Giám học (2000-2002) và Phó Giám đốc (2002-2003). Ông cũng được bổ nhiệm giữ chức Thư ký Tòa Tổng giám mục Hà Nội cho Hồng y Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng và đảm nhận chức danh này từ ngày 23 tháng 2 năm 1999 cho đến năm 2002. Linh mục Ngân kiêm nhiệm chức Đại diện Giám mục về Ngoại vụ từ năm 2001 đến năm 2003. Trong khoảng thời gian từ tháng 8 năm 2003 đến tháng 10 năm 2007, linh mục Đặng Đức Ngân là linh mục chính xứ Nhà thờ chính tòa Hà Nội kiêm Tổng đại diện tổng giáo phận Hà Nội. Song song với các vai trò tại Tổng giáo phận Hà Nội, linh mục Ngân còn là Thư ký Hội đồng Giám mục Việt Nam (Giáo tỉnh Hà Nội) từ năm 2000 cho đến năm 2007. Thời kỳ Giám mục. Giám mục chính tòa Cao Bằng và Lạng Sơn. Ngày 12 tháng 10 năm 2007, Văn phòng Báo chí Tòa Thánh loan tin Giáo hoàng Biển Đức XVI đã bổ nhiệm linh mục Giuse Đặng Đức Ngân làm Giám mục chính tòa Giáo phận Lạng Sơn và Cao Bằng. Thông tin bổ nhiệm được công bố sau kỳ họp Hội đồng Giám mục tại Hà Nội. Giám mục Tân cử Đặng Đức Ngân, 50 tuổi, khi bổ nhiệm được xem là một giám mục trẻ đến đến vùng đất Giáo phận Lạng Sơn Cao Bằng, chỉ có khoảng 5.000 giáo dân, 6 linh mục (1 linh mục đang du học), 18 nữ tu. Việc bổ nhiệm này kết thúc quãng thời gian trống tòa (không có giám mục quản lý), sau khi giám mục giáo phận này là Giuse Ngô Quang Kiệt được chọn làm Tổng giám mục Hà Nội. Ngày 21 tháng 11 năm 2007, Giám mục tân cử Ngân đã rời Tổng giáo phận Hà Nội và đến nhận giáo phận Lạng Sơn và Cao Bằng. Phát biểu trong buổi chia tay Tổng giáo phận, tân giám mục đánh giá vai trò giám mục "là một hồng ân lớn lao nhưng trách nhiệm cũng thật nặng nề". Tổng giám mục Kiệt cho rằng việc Giám mục Tân cử Ngân, vốn là Tổng Đại diện phải rời giáo phận sẽ để lại khoảng trống lớn cho giáo phận. Tân giám mục Đặng Đức Ngân chọn cho mình khẩu hiệu giám mục "Đến với muôn dân", lấy cảm hứng từ sắc lệnh về truyền giáo Ad Gentes ("Đến với muôn dân") ban hành tại công đồng Vatican II: "Ta đặt con làm ánh sáng muôn dân, để con đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất.". Ông đã giải nghĩa huy hiệu của mình như sau: Sau khi chia tay Tổng giáo phận Hà Nội, Giám mục Ngân dành thời gian để thực hành tĩnh tâm cũng như nhận giáo phận và hướng dẫn chuẩn bị lễ tấn phong. Nhiều thành phần và tầng lớp giáo hữu đã tham gia vào công tác chuẩn bị cho lễ tấn phong. Các giáo xứ, dưới sự thu xếp của Tổng giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt (Giám quản Tông Tòa) đã đến chào thăm Giám mục Tân cử. Giám mục Ngân cho rằng với con số giáo dân của Giáo phận, thay vì "dạy dỗ" theo từ ngữ của Giáo hội, ông phải dùng "dỗ" hơn là "dạy", với phương cách "bằng tình yêu, bằng nghị lực, bằng cảm thông, bằng thăm viếng và lan toả các giá trị tốt đẹp trong vùng đất". Lễ Tấn phong cho Tân giám mục được tổ chức vào ngày 3 tháng 12 năm 2007 tại Nhà thờ chính tòa Lạng Sơn và Cao Bằng với sự tham dự của các giám mục đến từ 15 giáo phận và 180 linh mục, nam nữ tu sĩ, giáo dân và các khách mời. Phần nghi thức truyền chức do chủ phong là Tổng giám mục Tổng giáo phận Hà Nội Giuse Ngô Quang Kiệt, cùng hai vị phụ phong là Giám mục Giuse Vũ Văn Thiên, Giám mục chính tòa Giáo phận Hải Phòng và Giám mục Stêphanô Tri Bửu Thiên, Giám mục phó Giáo phận Cần Thơ. Ngày 7 tháng 12 cùng năm, tân giám mục đã gửi thư cảm tạ đến mọi người đã cầu nguyện và hỗ trợ ông trên cương vị mới. Giám mục Ngân cử hành lễ tạ ơn tại Đại chủng viện Thánh Giuse Hà Nội vào ngày 17 tháng 12 cùng năm. Ông tham dự chuyến viếng thăm Ad Limina của Hội đồng Giám mục Việt Nam năm 2009. Giám mục Ngân cho biết ông đã cố gắng thăm viếng các giáo xứ, gia đình và cá nhân để tăng sự hiểu biết và giao thoa văn hóa trong thời gian làm Giám mục chính tòa Lạng Sơn và Cao Bằng. Giám mục chính tòa Đà Nẵng. Ngày 12 tháng 3 năm 2016, phòng Báo chí Toà Thánh công bố thông tin về việc Giáo hoàng Phanxicô bổ nhiệm Giám mục Giuse Đặng Đức Ngân đang là Giám mục chính toà giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng làm Giám mục chính toà giáo phận Đà Nẵng. Cũng theo thông báo thì Giám mục Giuse Châu Ngọc Tri đang là Giám mục chính toà giáo phận Đà Nẵng sẽ thay Giám mục Ngân làm giám mục chính toà giáo phận Lạng Sơn - Cao Bằng. Sau khi tin bổ nhiệm được công bố, ngày 13 tháng 3, Giám mục Đặng Đức Ngân viết thư gửi lời cám ơn các giáo dân trong giáo phận đã nâng đỡ ông trong nhiệm vụ giám mục và kêu gọi các linh mục, tu sĩ giáo dân cộng tác với tân giám mục Châu Ngọc Tri như đã từng cộng tác với ông để phát triển giáo phận. Trong cùng ngày, Tòa giám mục giáo phận cũng ra thông cáo loan tin và điều chỉnh kinh nguyện Thánh Thể trong tình hình có giám mục mới. Sáng ngày 17 tháng 3, một phái đoàn từ giáo phận Đà Nẵng do giám mục Châu Ngọc Tri dẫn đầu đến thăm Tòa giám mục Lạng Sơn và Cao Bằng. Chiều cùng ngày, giám mục Đặng Đức Ngân quyết định đưa phái đoàn giáo phận Lạng Sơn và Cao Bằng đến giáo phận Đà Nẵng nhằm bàn thảo chương trình chuyển giao sứ vụ. Ngày 18 tháng 3, hai phái đoàn đã ra thông cáo chung. Hai giáo phận Đà Nẵng và Lạng Sơn – Cao Bằng sau khi tham khảo ý kiến của các tổng giám mục trưởng giáo tỉnh đã quyết định ngày đón tân giám mục, lễ nhậm chức của Giám mục Đặng Đức Ngân tại Đà Nẵng là vào ngày 12 tháng 4 cùng năm. Ngày 2 tháng 4 năm 2016, Giám mục Ngân chủ sự lễ Kính lòng Thương xót, đồng thời chia tay giáo phận để đón nhận sứ vụ mới. Giám mục Đặng Đức Ngân trả lời phỏng vấn hãng truyền thông Công giáo Viet Catholic và bài phỏng vấn được công bố ngày 30 tháng 3 năm 2016. Trong cuộc phỏng vấn, Giám mục Ngân cho rằng đây là lần đầu hoán chuyển giám mục ở Việt Nam, dù đã xảy ra ở nhiều quốc gia khác. Khi được hỏi những chuẩn bị cho nhiệm vụ mới, giám mục Ngân kể lại các buổi thống nhất chung giữa phái đoàn hai giáo phận về việc nhậm chức của hai giám mục. Trong khuôn khổ bài phỏng vấn, ông cũng hy vọng các linh mục đón nhận, giúp đỡ và cùng với vị giám mục mới hoạch định các kế hoạch và giúp kết nối giữa giám mục và giáo dân. Ông cũng trông đợi có được sự tin tưởng, cảm thông và cộng tác của hàng ngũ phó tế, tu sĩ, chủng sinh, ứng sinh và giáo dân. Trả lởi Truyền thông Hội đồng Giám mục vào năm 2023, Giám mục Ngân cho biết khi nhận được tin bổ nhiệm làm giám mục tại một giáo phận miền Trung, ông thực sự không biết gì về giáo phận Đà Nẵng, trong khi ông sinh ra tại Hà Nội và sinh sống tại miền Bắc. Ông cho biết văn hóa tại Đà Nẵng khác hoàn toàn với Hà Nội hoặc giáo phận Lạng Sơn và Cao Bằng. Tại Đà Nẵng, ngoài ý khẩu hiệu chính là "Đến với muôn dân", ông còn mong muốn thực hiện theo ý câu Kinh Thánh "Đến mà xem". Trong buổi phỏng vấn với Tổng giáo phận Huế năm 2023, Giám mục Đặng Đức Ngân cho biết ông ngỡ ngàng về sự bổ nhiệm này, do là một người miền Bắc được đưa vào [một giáo phận] miền Nam. Ngày 9 tháng 4 năm 2016, giáo phận Lạng Sơn và Cao Bằng chính thức được Giám mục kế vị Châu Ngọc Tri cai quản, hiện diện trong buổi lễ cũng có Giám mục Giám quản Giuse Đặng Đức Ngân. Thánh lễ do Hồng y - Tổng giám mục Trưởng giáo tỉnh Hà Nội Phêrô Nguyễn Văn Nhơn chủ sự tại nhà thờ chính tòa Giáo phận Lạng Sơn và Cao Bằng. Ngày 12 tháng 4 cùng năm, Giám mục Đặng Đức Ngân chính thức nhận Giáo phận Đà Nẵng từ giám mục kế vị ông ở Giáo phận Lạng Sơn Giuse Châu Ngọc Tri. Tham dự lễ nhận giáo phận có đông đảo giám mục Việt Nam và Đại diện Tòa thánh. Nhân dịp một năm được đảm nhận vai trò Giám mục chính tòa Đà Nẵng và được chọn vào vị trí Chủ tịch Uỷ ban Văn Hóa Hội đồng Giám mục, Giám mục Đặng Đức Ngân có bài phỏng vấn với hãng truyền thông VietCatholic. Giám mục Ngân cho biết với việc chấp thuận bổ nhiệm, ông chấp nhận hòa nhập vào đời sống vùng miền. Ông cho biết mình phó thác vào ơn Chúa Thánh Thần và sự đồng cảm, chia sẻ của giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân. Giám mục Ngân cho biết đã tìm hiểu các khía cạnh về giáo phận, sắp xếp nhân sự và hoạch định kế hoạch 5 năm (2017-2021) cho giáo phận, tiếp nối định hướng Đại hội Dân Chúa Đà Nẵng 2010: "hiệp nhất, yêu thương và loan báo Tin Mừng." Chia sẻ về ưu tư và hy vọng trên cương vị Chủ tịch Uỷ ban Văn Hóa, giám mục Ngân thừa nhận ông không có chuyên môn về lĩnh vực này, ông cho rằng các giám mục nhận thấy ông đã trải nghiệm nhiều nét khác biệt văn hóa nên chọn ông vào chức vụ này. Trên cương vị mới, ông mong có sự đồng lòng, cộng tác từ các giáo hữu và chuyên gia trong lĩnh vực văn hóa. Giám mục Ngân tham dự chuyến viếng thăm Ad Limina lần thứ hai trong đời giám mục vào năm 2018. Các giám mục Việt Nam từ 27 giáo phận họp Đại hội XIV Hội đồng Giám mục Việt Nam tại trung tâm Mục vụ Giáo phận Hải Phòng vào cuối tháng 9 và đầu tháng 10 năm 2019. Trong khuôn khổ đại hội, các giám mục đã sắp xếp và bầu chọn nhân sự trong hội đồng và chọn Giám mục Đặng Đức Ngân đảm trách vai trò Chủ tịch Uỷ ban Văn hóa trực thuộc Hội đồng Giám mục trong nhiệm kỳ 2019 – 2022. Giám mục Đặng Đức Ngân tham dự hội thảo "400 năm hình thành và phát triển chữ Quốc ngữ trong lịch sử loan báo Tin Mừng tại Việt Nam" tại Trung tâm Mục vụ Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh. Hội thảo kéo dài trong hai ngày 25 và 26 tháng 10 năm 2019. Hội thảo do Uỷ ban Văn hóa - Uỷ ban do Giám mục Ngân phụ trách tổ chức. Các giám mục Việt Nam từ 27 giáo phận họp Đại hội XV Hội đồng Giám mục Việt Nam tại trung tâm Mục vụ Tổng giáo phận Hà Nội đầu tháng 10 năm 2022. Trong khuôn khổ đại hội, các giám mục đã sắp xếp và bầu chọn nhân sự trong hội đồng và tiếp tục chọn Giám mục Đặng Đức Ngân đảm trách vai trò Chủ tịch Uỷ ban Văn hóa trực thuộc Hội đồng Giám mục trong nhiệm kỳ 2022 – 2025. Trong thời gian làm Giám mục chính tòa Đà Nẵng, Giám mục Đặng Đức Ngân cho biết ông đã được "sự đỡ nâng, đồng hành và khích lệ" từ các linh mục, tu sĩ và giáo dân Đà Nẵng. Ông cho biết ông cảm thấy tất cả [mọi người] cũng tích cực xây dựng gia sản tại vùng đất [giáo phận]. Giám mục Ngân cho biết khi phải rời giáo phận sau dịp kỷ niệm 60 năm thành lập, ông có cảm thấy mình "xao xuyến" những gì ông đã và đang làm tại giáo phận. Tổng giám mục phó Huế. Bổ nhiệm và chúc mừng. Ngày 21 tháng 9 năm 2023, Văn phòng Báo chí Tòa Thánh công bố Giáo hoàng đã bổ nhiệm Giám mục Giuse Đặng Đức Ngân, hiện là Giám mục chính tòa Giáo phận Đà Nẵng, làm Tổng giám mục phó Tổng giáo phận Huế. Đồng thời, tân tổng giám mục phó kiêm chức Giám quản Tông Tòa Giáo phận Đà Nẵng. Giáo phận Đà Nẵng trống tòa theo ý Tòa Thánh, theo văn thư của Bộ Loan báo Tin Mừng. Việc công bố thông tin này được Tổng giám mục Marek Zalewski công bố tại Việt Nam theo đúng giờ công bố tại Rôma, trong khuôn khổ kỳ họp thường niên lần II năm 2023 của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Đây cũng là lần đầu tiên, theo Tổng giám mục Ngân, trong suốt 16 năm ông tham dự các cuộc họp của Hội đồng Giám mục, một tin tức bổ nhiệm được công bố trong khuôn khổ kỳ họp. Tổng giám mục Ngân cho biết ông vô cùng xúc động khi nhận được những sự chúc mừng của các giám mục, dù ông đã biết trước về việc bổ nhiệm. Giáo phận Đà Nẵng, trong cùng ngày công bố tin bổ nhiệm đã công bố một thông cáo về thông tin này, và đề nghị [giáo dân] cầu nguyện cho giáo phận và tân tổng giám mục phó. Văn bản này được ấn ký bởi linh mục Phaolô Phạm Thanh Thảo từ Tòa giám mục Đà Nẵng. Linh mục Nguyễn Duy đã viết một bài hát mang tên "Đến với Muôn Dân" (theo khẩu hiệu của Tổng giám mục Ngân) để tặng tân Tổng giám mục nhân sự bổ nhiệm này. Theo thông báo của Tổng giám mục Huế Giuse Nguyễn Chí Linh đề ngày 22 tháng 9, đoàn linh mục Huế sẽ đến Đà Nẵng chào thăm tân tổng giám mục phó vào ngày 28 tháng 9, trong khi lễ nhậm chức chính thức cử hành ngày 10 tháng 11 năm 2023 tại Nhà thờ chính tòa Phủ Cam. Tổng giám mục Linh cho biết ông "nhất trí mặc nhiên" để Tổng giám mục phó chủ sự các sự kiện và các lễ đại trào trong Tổng giáo phận. Tổng giám mục Tân cử Đặng Đức Ngân cũng có thư gửi tín hữu Đà Nẵng đề ngày 22 tháng 9. Ngoài thông báo việc bổ nhiệm, tâm tình cảm tạ sự quý mến và hỗ trợ cũng như xin thứ lỗi những sai sót, Tổng giám mục Ngân thông báo bổ nhiệm linh mục Bônaventura Mai Thái (quản xứ Chính Tòa Đà Nẵng) làm Đại diện Giám quản Tông Tòa. Lễ tạ ơn tại Đà Nẵng và nhậm chức tại Huế, theo tân tổng giám mục phó, sẽ được thông báo sau. Chia sẻ cùng kênh Truyền thông Hội đồng Giám mục với chủ đề Huế có một nền văn hóa cung đình, Tổng giám mục Ngân cho biết ông có thời gian sinh sống tại Hà Nội, do đó có tầm am hiểu về văn hóa cung đình, nên hy vọng cũng được giáo dân Tổng giáo phận Huế đón nhận. Tổng giám mục Ngân cho rằng trong 16 năm giám mục, ông đã đến ba giáo phận với ba vùng đất khác nhau chính là một sự kỳ diệu trong chương trình của Thiên Chúa. Để đáp từ câu hỏi về những [sự] khó khăn nhất trong sứ vụ giám mục, Tổng giám mục Ngân cho biết đó chính là sự hiểu biết, cảm thông, đón nhận và cùng nhau xây dựng Giáo hội giữa giám mục và linh mục. Chia sẻ về đường hướng mục vụ trong tư cách Tổng giám mục Phó Huế, ông cho biết vì là giám mục phó, ông sẽ theo đường hướng mục vụ của Tổng giám mục. Tổng giám mục Ngân cho biết ông dự kiến sẽ tiếp tục đồng hành Giáo phận Đà Nẵng trong tư cách Giám quản trong một vài năm tới, cho đến khi giáo phận có tân giám mục. Các công việc chuẩn bị nhậm chức tại Huế và chia tay Đà Nẵng. Theo thông báo từ Tòa giám mục Đà Nẵng ngày 13 tháng 10, Tổng giám mục Đặng Đức Ngân cử hành lễ kết thúc sứ vụ giám mục chính tòa Đà Nẵng ngày 28 tháng 10 tại Nhà thờ chính tòa Đà Nẵng. Ông chính thức rời giáo phận này để đến Tổng giáo phận Huế nhằm chuẩn bị cho lễ nhậm chức vào ngày 4 tháng 11, và lễ nhậm chức cử hành vào ngày đã thông báo trước đó là ngày 10 tháng 11 năm 2023. Trong buổi lễ tạ ơn ngày 28 tháng 10, Sắc chỉ của Bộ Loan báo Tin Mừng (Tòa Thánh) về việc bổ nhiệm Tổng giám mục Đặng Đức Ngân làm Giám quản Tông Tòa Đà Nẵng cũng đã được công bố. Tổng giám mục Ngân đã đến Tổng giáo phận Huế vào ngày 4 tháng 11. Đón tiếp phái đoàn từ Đà Nẵng có Tổng giám mục Nguyễn Chí Linh, Tổng giám mục Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng, linh mục Tổng Đại diện và Đại diện Giám mục, cùng các linh mục, tu sĩ và các hội đoàn Tổng giáo phận Huế. Tổng giám mục Ngân dự kiến tham gia kỳ tĩnh thâm linh mục đoàn Tổng giáo phận Huế, kéo dài từ ngày 6 đến ngày 9 tháng 11 năm 2023. Ông cũng trả lời truyền thông Tổng giáo phận Huế qua một cuộc phỏng vấn kéo dài hơn 12 phút. Tổng giám mục Ngân cho biết sự bổ nhiệm mang dư âm đặc biệt đối với mình trong thời gian gần với mốc 16 năm giám mục của ông. Nhận sứ vụ và huy hiệu Tổng giám mục. Với cương vị mới, Tổng giám mục Đặng Đức Ngân chọn một huy hiệu mới, kế thừa huy hiệu cũ, đồng thời bổ sung thêm một số chi tiết có liên quan đến Tổng giáo phận Huế. Huy hiệu của Tân tổng giám mục có biểu tượng mũ galero màu xanh, theo đúng chỉ thị của Phủ Quốc vụ khanh Tòa Thánh. Ngoài ý nghĩa từ năm câu thơ trong huy hiệu thời là Giám mục, hai câu thơ cuối: "Phủ Cam nối Đất Trời/Trữ tình cuộn Hương sóng" mang hàm ý bày tỏ bằng lối sống khiêm hạ, hơi ấm từ nhà thờ chính tòa Phủ Cam sẽ đến với vạn vật, cùng tâm tình như sóng nước [sông Hương] đem Tin Mừng đến với mọi người. Hình ảnh huy hiệu cũng bao gồm "Thánh giá Lorraine" (có hai thanh ngang, biểu tượng cho chức Tổng giám mục) và ngôi sao tám cánh (ngôi sao Đức mẹ), các hình ảnh hoa văn "Triện chữ T" và "hoa văn Mây cổ" từ áo tượng Đức Mẹ La Vang. Ngoài ra, bốn màu sắc chính của huy hiệu Tổng giám mục cũng bao gồm các ý nghĩa ẩn sau: màu xanh lá (đồng cỏ của Thiên Chúa, sự tươi tốt), màu xanh dương (sự vâng phục của Đức Maria, "Sự Thật" và "Khôn ngoan"), màu trắng (Đức Giêsu chiến thắng Sự chết) và màu vàng (cung đình, thiên quốc). Vào sáng ngày 10 tháng 11 năm 2023, lễ nhận sứ vụ Tổng giám mục phó của Tổng giám mục Đặng Đức Ngân đã được cử hành tại Nhà thờ chính tòa Phủ Cam. Tổng giám mục Đại diện không thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam Marek Zalewski và một số giám mục tham dự lễ. Với việc chính thức nhậm chức, Tổng giám mục phó Đặng Đức Ngân đồng quản lý Tổng giáo phận Huế với Tổng giám mục Nguyễn Chí Linh, một giáo phận khoảng 63.000 giáo dân trong một khu vực khoảng 9.773km2. Tông truyền. Tổng giám mục Giuse Đặng Đức Ngân được tấn phong giám mục năm 2007, thời Giáo hoàng Bênêđíctô XVI, bởi: Tổng giám mục Giuse Đặng Đức Ngân là giám mục phụ phong cho các giám mục:
1
null
Cosma Hoàng Văn Đạt (sinh 1947) là một Giám mục Công giáo người Việt Nam. Khẩu hiệu Giám mục của ông là "Tình thương và sự sống". Ông từng đảm trách vai trò Giám mục chính tòa Giáo phận Bắc Ninh (2008–2023), Tổng thư ký Ban Thường vụ của các Ủy ban trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam nhiệm kỳ 2013–2016 và Chủ tịch Uỷ ban Tu sĩ trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam nhiệm kỳ 2019–2022. Ngoài tiếng mẹ đẻ là tiếng Việt, ông còn có thể giao tiếp bằng tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Latinh. Thân thế và tu học. Giám mục Hoàng Văn Đạt sinh ngày 20 tháng 7 năm 1947, theo thông tin từ Văn phòng Báo chí Toà Thánh (theo thông tin từ trang web Giáo phận Bắc Ninh, ông sinh vào ngày 17 tháng 6 năm 1948 tại giáo họ Xuân Lai, giáo xứ Nội Bài, Đa Phúc, Phúc Yên (nay thuộc xã Xuân Thu, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội), thuộc Giáo phận Bắc Ninh, trong một gia đình Công giáo có nhiều tín hữu tử đạo Công giáo. Sau khi thân phụ qua đời, thân mẫu cậu bé Đạt đưa cậu và các thành viên gia đình di cư vào Nam. Thời kỳ này, cậu sinh sống tại giáo xứ Gò Công (Giáo xứ Thánh Gẫm), nay thuộc Thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Giáo xứ này hoàn toàn là giáo dân gốc miền Nam. Cậu tiếp tục đến sinh hoạt tại giáo xứ Thánh Cẩm và giáo xứ An Lạc (Tân Bình, Tp.HCM). Năm 1967, chàng thanh niên Hoàng Văn Đạt vào Dòng Tên và khấn lần đầu sau đó vào năm 1970. Sau khi tuyên khấn, Hoàng Văn Đạt được cử theo triết học và thần học tại Giáo hoàng Học viện Thánh Piô X Đà Lạt. Chủng sinh Đạt là một trong bốn chủng sinh học cùng lớp Giáo hoàng Học viện này, sau trở thành giám mục. Ba chủng sinh còn lại là Giuse Nguyễn Chí Linh, Mátthêu Nguyễn Văn Khôi và Giuse Nguyễn Năng. Thân mẫu chủng sinh Đạt không tin tưởng vào khả năng cậu có thể trở thành linh mục và từng hai lần đề nghị cậu rời Dòng Tên để về với gia đình, vì bà nhận định cậu ham chơi và bỏ lễ, bỏ việc đọc kinh bổn. Cậu Hoàng Văn Đạt, sau là Giám mục, nhận định Dòng Tên đã biến đổi cuộc đời ông. Linh mục. Sau khoảng thời gian tu học, ngày 5 tháng 6 năm 1976, Cosma Hoàng Văn Đạt được truyền chức linh mục. Sau khi được truyền chức, tân linh mục Đạt được bổ nhiệm làm Giám đốc ứng sinh Dòng Tên tại Thủ Đức. Năm 1978, ông được chọn giữ chức Đặc trách tập viện dòng Tên và giữ nhiệm vụ này đến năm 1988. Năm 1982, ông Khấn trọn vào Dòng Tên. Trong khoảng thời gian 25 năm từ năm 1977 đến năm 2002, linh mục Đạt là giáo sư các môn Thần học, Tu Đức, Luật Dòng, dạy học cho các tu sinh dòng Tên. Ông từng hỗ trợ mục vụ tại Giáo xứ Hiển Linh (Thủ Đức). Sau khi thân mẫu qua đời, năm 1986, linh mục Hoàng Văn Đạt được Tổng giám mục Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh Phaolô Nguyễn Văn Bình bổ nhiệm làm linh mục chính xứ Thiên Thần kiêm quản lý trại phong Thanh Bình, Sài Gòn, đồng thời là Tập sư Nhà Tập. Năm 1995, linh mục Đạt được thuyên chuyển làm linh mục chính xứ tại trại phong Thanh Bình. Từ năm 1997, Hoàng Văn Đạt hỗ trợ chương trình thường huấn cho các linh mục và nữ giáo dân tận hiến giữa đời của giáo phận Bắc Ninh và từ năm 2001 kiêm thêm vai trò năm phụ tá năm tập thứ III cho các linh mục Dòng Tên Việt Nam. Năm 2002, ông được cử đi du học tại Pháp chuyên về linh đạo. Từ năm 2005, ông đảm nhận vai trò linh hướng tại Đại chủng viện Thánh Giuse Hà Nội. Giám mục. Bổ nhiệm. Ngày 4 tháng 8 năm 2008, Tòa Thánh loan báo Giáo hoàng Biển Đức XVI đã quyết định bổ nhiệm linh mục Cosma Hoàng Văn Đạt thuộc Dòng Tên làm giám mục chính tòa Giáo phận Bắc Ninh. Giám mục Đạt cho biết ông không được Giáo hoàng và bất kỳ vị hữu trách nào báo tin trước, và chỉ nhận được tin bổ nhiệm qua đài phát thanh, sau khi cho rằng người thân quen đùa việc bổ nhiệm ông làm Giám mục. Quá trình gắn bó với các bệnh nhân bệnh phong giúp Tân giám mục Hoàng Văn Đạt có cảm tình đặc biệt với họ. Sau khi được công bố thông tin bổ nhiệm, ngày 12 tháng 8, tân giám mục cử hành lễ kính nhớ thánh tử đạo Việt Nam Antôn Nguyễn Đích, quan thầy các bệnh nhân phong Việt Nam tại trại phong Quả Cảm Bắc Ninh. Tân giám mục cho rằng được bổ nhiệm làm Giám mục Bắc Ninh khiến ông trở nên gần gũi về mặt địa lý với các bệnh nhân phong tại trại phong Quả Cảm hơn và khẳng định, với vai trò là một giám mục, ông sẽ là một bàn tay nối kết những tấm lòng đến với các bệnh nhân phong. Tân giám mục Hoàng Văn Đạt chọn cho mình khẩu hiệu: "Tình thương và Sự sống". Câu này trích từ sách Gióp 10,12: "Ngài đã ban cho con tình thương và sự sống…". Câu này được chính ông, khi còn là một chủng sinh, nghiên cứu về quyển sách này, tìm thấy. Hoàng Văn Đạt nhớ lại thời kỳ là chủng sinh, Giáo hoàng Phaolô VI khuyến khích xây dựng xã hội bằng tình thương và khi ấy, ông rất tâm đắc về điều này. Ông cho rằng việc chọn khẩu hiệu giám mục "Tình thương và Sự sống", một phần vì lý do tự mình khám phá trong Kinh Thánh, phần khác ông cho rằng mình đã có những cảm nghiệm thiêng liêng, giúp định hướng đời sống. Ông cho rằng, Tình thương và sự sống là ưu tư của Giáo hội Việt Nam cũng như Giáo hội Hoàn vũ. Nói về huy hiệu Giám mục của mình, ông cho biết lầy cảm hứng từ huy hiệu của dòng Tên, gồm ba chữ cái IHS ở giữa mặt trời toả sáng, trong đó IHS chính là 3 mẫu tự đầu của tên Giêsu trong tiếng Hy Lạp. Lấy cảm hứng từ huy hiệu dòng, ông lấy lại hình ảnh này và thay Mặt trời bằng nón quai thao với ước mong "Chúa Giêsu là mặt trời toả sáng cả thế giới cũng đi vào văn hoá Quan họ Bắc Ninh. Tất nhiên không chỉ Quan Họ cũng không chỉ Bắc Ninh, nhưng là cả giáo phận". Ba mẫu tự trong huy hiệu được khắc họa hình ảnh những đốt tre vàng. Giám mục Đạt thể hiện hình ảnh tre vàng là loại tre mọc phổ biến tại vùng đất văn hóa Kinh Bắc, nơi phát xuất Quan họ Bắc Ninh. Tấn phong. Lễ tấn phong tân giám mục Hoàng Văn Đạt được cử hành vào ngày 7 tháng 10 năm 2008 với nghi thức truyền chức được cử hành bởi chủ phong là Giám mục Giáo phận Đà Lạt Phêrô Nguyễn Văn Nhơn. Hai giám mục phụ phong là Giám mục chính tòa Giáo phận Hải Phòng Giuse Vũ Văn Thiên và giám mục Giuse Châu Ngọc Tri, giám mục chính tòa Giáo phận Đà Nẵng. Mục vụ. Giám mục Hoàng Văn Đạt tham gia Đại hội truyền giáo toàn quốc từ ngày 1 đến ngày 4 tháng 9 năm 2015 tại Trung tâm Mục vụ Tổng giáo phận Huế. Tại đây, ông đã có bài tham luận: "Những bước chuyển mình của Hội Thánh trên đường Loan báo Tin Mừng". Các giám mục Việt Nam từ 27 giáo phận họp Đại hội XIV Hội đồng Giám mục Việt Nam tại trung tâm Mục vụ Giáo phận Hải Phòng vào cuối tháng 9 và đầu tháng 10 năm 2019. Trong khuôn khổ đại hội, các giám mục đã sắp xếp và bầu chọn nhân sự trong hội đồng. Kết quả, các giám mục chọn Giám mục Hoàng Văn Đạt đảm trách vai trò Chủ tịch Uỷ ban Tu sĩ thuộc Hội đồng Giám mục trong nhiệm kỳ 2019 – 2022. Từ thời Đại diện Tòa Thánh Leopoldo Girelli, Giám mục Hoàng Văn Đạt đã xin từ nhiệm vì lý do sức khỏe giảm sút. Tuy vậy, Tòa Thánh không chuẩn thuận việc từ nhiệm này và ông cần một giám mục phó. Giám mục Đạt sau đó thừa nhận rằng ông đã ba lần viết đơn xin từ nhiệm, khoảng 10 năm trước đó (2013), khi Tòa Thánh bổ nhiệm Giám mục phó (2021) và thời điểm ít tháng trước độ tuổi hồi hưu theo Giáo luật (2023). Hưu dưỡng. Ngày 17 tháng 6 năm 2023, Văn phòng Báo Chí Tòa Thánh loan báo thông tin Giáo hoàng đã chuẩn thuận đơn từ nhiệm của Giám mục Hoàng Văn Đạt vì lý do tuổi tác. Với việc chấp thuận này, Giám mục phó Giuse Đỗ Quang Khang chính thức trở thành Giám mục chính tòa Bắc Ninh. Nhận xét. Giám mục Cosma Đạt được nhiều người mệnh danh là "Giám mục người cùi" vì những công đức mà ông đã đóng góp cho trại phong cùi Thanh Bình, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh trong suốt 16 năm làm mục vụ tại đây. Thánh giá đeo ngực biểu thị cho vai trò giám mục mà ông sử dụng chính là thánh giá bằng gỗ mà ông đã dùng tại trại phong, ghi dấu những tình cảm đặc biệt mà ông đã dành riêng cho những người bị bệnh nan y phong cùi. Tông truyền. Giám mục Cosma Hoàng Văn Đạt được tấn phong giám mục năm 2008, thời Giáo hoàng Biển Đức XVI: Giám mục Cosma Hoàng Văn Đạt là giám mục chủ phong cho giám mục: Giám mục Cosma Hoàng Văn Đạt là giám mục phụ phong cho giám mục:
1
null
Giuse Nguyễn Chí Linh (sinh ngày 22 tháng 11 năm 1949) là một giám mục người Việt Nam của Giáo hội Công giáo Rôma, hiện giữ chức tổng giám mục Tổng giáo phận Huế và Chủ tịch Ủy ban Mục vụ Di Dân thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam, nhiệm kỳ 2022–2025. Ngoài các công việc mục vụ thuần túy, Giuse Nguyễn Chí Linh cũng thường xuyên cùng đồng hành với các đoàn thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam hỗ trợ, động viên các nạn nhân bão lũ ở nhiều địa bàn khác nhau. Trong thời kỳ cai quản giáo phận Thanh Hóa, ông triển khai các chương trình hướng đến lợi ích cộng đồng như: thành lập Hội Thầy thuốc Samaritano với mục đích hỗ trợ bệnh nhân, người khuyết tật và người nghèo khổ trong giáo phận; cấp học bổng cho học sinh khó khăn, một số phòng phát thuốc miễn phí, thành lập dự án hỗ trợ vốn cho phụ nữ nghèo khó kiếm thu nhập và một vài kế hoạch phát triển nông nghiệp như làm trạm bơm, làm đường bê tông ở các làng quê. Ông cũng thường xuyên kêu gọi mọi người hỗ trợ các nạn nhân bão lũ, những người khó khăn và đến thăm các trại phong, trại khuyết tật trên địa bàn giáo phận Thanh Hóa. Ngoài ra, Nguyễn Chí Linh cũng bày tỏ sự đồng cảm với người nhiễm HIV/AIDS và bày tỏ quan điểm về bảo vệ sự sống bào thai. Tổng giám mục Nguyễn Chí Linh từng đảm nhận vai trò Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam trong hai nhiệm kỳ: 2016–2019 và 2019–2022. Trước khi trở thành Tổng giám mục Huế, ông cũng từng giữ các chức vụ khác như: giám mục chính tòa, Giám quản Tông Tòa Giáo phận Thanh Hóa, Giám quản Tông Tòa Giáo phận Phát Diệm. Ngoài tiếng mẹ đẻ là tiếng Việt, ông có thể giao tiếp bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Latinh. Trong Hội đồng Giám mục Việt Nam, trước khi trở thành Chủ tịch trong nhiệm kỳ 2016–2019, Nguyễn Chí Linh từng đảm trách một số vai trò như chủ tịch Ủy ban Giáo dân (2004–2007), Phó Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam (2010–2013), Chủ tịch Ủy ban Mục vụ Di dân trực thuộc Hội đồng Giám mục (2013–2016). Thân thế và những năm đầu tu nghiệp. Nguyễn Chí Linh sinh ngày 22 tháng 11 năm 1949 tại giáo xứ Ba Làng, thuộc xã Hải Thanh, huyện Tĩnh Gia (nay là phường Hải Thanh, thị xã Nghi Sơn), tỉnh Thanh Hóa, thuộc Giáo phận Thanh Hóa, nhưng theo gia đình di cư vào Nam. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống Công giáo lâu đời, với song thân là ông Lôrensô Nguyễn Xuân Hòa (1906–2017) và bà Matta Nguyễn Thị Thanh, kết hôn năm 1937. Là người Công giáo, Nguyễn Chí Linh nhận thánh quan thầy là Giuse, một vị Thánh của Giáo hội Công giáo. Theo gia đình di cư vào Nam, từ năm 1955 đến năm 1962, cậu bé Linh theo học cấp bậc tiểu học tại trường xứ Thanh Hải, Phan Thiết. Do gặp nhiều khó khăn, ông Nguyễn Xuân Hòa và gia đình quyết định đến định cư tại Cam Ranh – Khánh Hòa từ năm 1964. Sau khi tốt nghiệp tiểu học, Nguyễn Chí Linh bắt đầu con đường tu trì bằng việc theo học tại Tiểu Chủng viện Nha Trang và học tại đây cho đến năm 1967 thì tốt nghiệp. Trong vòng một năm sau đó, chủng sinh Linh theo học tại trường Thiên Hựu, Huế và tiếp tục tu học tại Chủng viện Chúa Chiên Lành, Đà Lạt cho đến năm 1970. Từ năm 1972, gia đình Nguyễn Chí Linh tiếp tục di cư đến sống tại Phan Rang – Ninh Thuận và sau năm 1975 lại trở về địa điểm đầu tiên sau khi di cư vào Nam là Thanh Hải, Phan Thiết và ổn định cuộc sống tại đây. Riêng về con đường tu học của chủng sinh Linh, từ năm 1970, chủng sinh này theo học Giáo hoàng Học viện Thánh Piô X, Đà Lạt và học tại đây cho đến năm 1977, khi học viện này đóng cửa. Học cùng lớp Giáo hoàng Học viện này, sau này còn có ba giám mục khác là Cosma Hoàng Văn Đạt, Mátthêu Nguyễn Văn Khôi và Giuse Nguyễn Năng. Sau đó, vì hoàn cảnh không thể thụ phong linh mục, chủng sinh Nguyễn Chí Linh về sinh sống với gia đình tại giáo xứ Song Mỹ, Nha Trang cho đến năm 1992. Chủng sinh Linh làm các công việc lặt vặt và làm ruộng để nuôi sống gia đình của mình. Nguyễn Chí Linh từng phải ngồi tù nhiều lần vì việc giảng dạy giáo lý Công giáo của mình. Trong hoàn cảnh khó có khả năng được truyền chức linh mục do bị tù, Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Hòa đã hỗ trợ chủng sinh Linh một cách kiên trì, sau đó phong chức Phó tế cho chủng sinh này. Linh mục. Ngày 30 tháng 12 năm 1992, Phó tế Nguyễn Chí Linh được giám mục Phaolô Nguyễn Văn Hòa, giám mục Giáo phận Nha Trang truyền chức linh mục, tại nhà thờ Phan Rang, giáo phận Nha Trang. Sau khi được truyền chức linh mục, vị linh mục trẻ được giám mục giáo phận bổ nhiệm làm linh mục phó giáo xứ Phước Thiện, giáo phận Nha Trang và đảm nhận chức vụ này đến năm 1995. Sau khoảng thời gian ngắn là 3 năm đảm trách công việc mục vụ tại giáo xứ, trong khoảng thời gian từ năm 1995 đến năm 2003, linh mục Nguyễn Chí Linh được giáo phận cử đi du học tại Paris, Pháp. Ông tốt nghiệp với học vị Tiến sĩ Triết học. Sau khi tốt nghiệp tại ngoại quốc, ông trở về Việt Nam ngày 8 tháng 11 năm 2003 và được chọn làm Giáo sư Đại chủng viện Sao Biển, Nha Trang. Chia sẻ về vấn đề giảng tĩnh tâm cho các linh mục khi đến giảng tĩnh tâm tại Giáo phận Đà Lạt năm 2009, ông thừa nhận rằng mình không có kinh nghiệm giảng tĩnh tâm, vì thời gian đảm trách mục vụ tại các giáo xứ khá ngắn. Giám mục Giáo phận Thanh Hóa. Giai đoạn 2004–2008. Ngày 12 tháng 6 năm 2004, Tòa Thánh loan báo giáo hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm linh mục Giuse Nguyễn Chí Linh làm giám mục chính tòa Giáo phận Thanh Hóa. Lễ tấn phong cho vị giám mục tân cử được cử hành sau đó vào ngày 4 tháng 8 cùng năm tại nhà thờ chính tòa Thanh Hóa. Phần nghi thức truyền chức giám mục cử hành bởi chủ phong Phaolô Nguyễn Văn Hòa, giám mục chính tòa Giáo phận Nha Trang, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam và hai vị phụ phong là Giuse Ngô Quang Kiệt giám mục chính tòa Giáo phận Lạng Sơn và Cao Bằng kiêm Giám quản Tông tòa Tổng giáo phận Hà Nội và Phaolô Maria Cao Đình Thuyên, giám mục chính tòa Giáo phận Vinh. Nguyễn Chí Linh chọn khẩu hiệu Giám mục của mình là: "Xin cho họ nên một". Trong cùng năm, Hội đồng Giám mục Việt Nam họp, quyết định chọn tân giám mục Giuse Linh làm Chủ tịch Ủy ban Giáo dân trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam. Nhắc nhớ về những ngày tháng đầu tiên trên cương vị giám mục, giám mục Linh tự nhận rằng mình rất lúng túng. Ông cho rằng về địa lý thì đây là quê hương ông, nhưng lại không quen biết ai và lúng túng về công việc khi đón nhận nhiệm vụ mới chưa từng có kinh nghiệm. Giám mục Nguyễn Chí Linh giữ vai trò dẫn đầu đoàn Công giáo Việt Nam tham gia Đại hội Giới Trẻ Công giáo Thế giới lần thứ 20 tổ chức tại Đức vào tháng 8 năm 2005. Phái đoàn đến từ Việt Nam gồm 16 linh mục, 2 nữ tu, một chủng sinh và nhiều giáo dân. Đoàn giới trẻ Việt Nam dự tính tổ chức trình diễn văn hóa Tây Nguyên nhưng gặp một số khó khăn nên bị hủy. Đoàn cũng tham gia cộng tác với một số cộng đoàn Việt Nam hải ngoại. Khi được hỏi liệu sẽ được tiếp kiến Giáo hoàng Biển Đức, giám mục Linh cho rằng đã gửi lời nhờ giới chức Đức sắp xếp cuộc gặp, tuy vậy cũng không mong đợi gì nhiều vì giáo hoàng không thể đáp ứng hết các yêu cầu từ các đoàn. Tháng 9 năm 2006, vị giám mục Thanh Hóa tham gia đại hội Giới trẻ Công giáo miền Bắc, trong phần hỏi đáp, khi được hỏi về vấn đề tự do tôn giáo ở Việt Nam, ông đưa ra nhận định rằng theo lập trường của Giáo hội Công giáo, tự do tôn giáo thuộc về bản chất của con người, từ khi sinh ra, con người đã có quyền tự do đó. Tại Việt Nam, vấn đề này khó thực hiện vì xung đột giữa giáo hội và chính quyền, ý thức hệ và những khúc mắc trong lịch sử. Được hỏi tiếp về vấn đề người Công giáo có được gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam, ông trả lời rằng đó là quyền của cá nhân và giáo hội mong mỗi người tự xem xét về ảnh hưởng đến đức tin khi gia nhập. Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng có cuộc gặp Giáo hoàng Biển Đức XVI vào tháng 1 năm 2007. Nhận định về cuộc gặp này, giám mục Linh có nhận định rằng ông mong rằng đây là bước tiến triển bang giao giữa Tòa Thánh và Việt Nam. Cũng trong khoảng thời gian này, khi được phỏng vấn về tình hình tôn giáo tại Việt Nam, giám mục Linh cho rằng mình không đủ thẩm quyền để trả lời chính thức cho các lãnh đạo giáo hội Việt Nam, còn theo quan điểm của ông thì việc này cần có thời gian. Dù cả phía công giáo và nhà nước đều mong muốn thay đổi tình hình tôn giáo, nhưng việc thực hiện các chủ trương cần có thời gian đi vào thực tế. Từ năm 2007 đến tháng 9 năm 2009, giám mục Nguyễn Chí Linh kiêm nhiệm làm Giám mục giám quản Tông Tòa Giáo phận Phát Diệm sau khi Giám mục Giuse Nguyễn Văn Yến về hưu. Nhận phỏng vấn trong dịp giáo phận Thanh Hóa kỷ niệm 75 năm thành lập, nhắc đến thông tin về những ưu tiên trong các công tác mục vụ, ông cho biết đó là vấn đề đào tạo nhân sự: linh mục, tu sĩ và giáo dân. Khó khăn của giáo phận Thanh Hóa là thiếu nhân sự và tài chính. Giám mục Linh khuyến khích hợp nhất, hỗ trợ người khó khăn như cấp học bổng cho học sinh nghèo thăm viếng người khó khăn, bệnh nhân phong và hỗ trợ dựng nhà gạch thay nhà tranh vách lá cho dân nghèo. Ngoài ra, ông còn xây dựng mô hình nhóm cộng tác đa thành phần giáo dân, không phân biệt phẩm cấp: linh mục, giám mục cùng rửa bát cùng nhau. Nói về các hoạt động ông đã triển khai hướng đến những người khó khăn, Nguyễn Chí Linh cho biết về giáo dục là cấp học bổng, về y tế là một ít phòng phát thuốc và việc trông đợi thành lập hội y bác sĩ Công giáo khám chữa bệnh, cả hai vấn đề về y tế này đều trong tinh thần miễn phí. Ngoài ra còn có dự án hỗ trợ vốn cho thành phần phụ nữ nghèo kiếm thu nhập và một vài kế hoạch phát triển nông nghiệp như làm trạm bơm, làm đường bê tông ở các làng quê. Ông cũng cho biết thêm rằng không thể triển khai thêm các hoạt động khác vì vấn đề tài chính. Trên cương vị giám mục Thanh Hóa, ông viết một bức thư kêu gọi hỗ trợ bị ảnh hưởng bão lũ, vốn làm ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến người dân trên địa bàn giáo phận Thanh Hóa với những ngôn từ mạnh mẽ và đầy xúc động, cũng như công bố số tài khoản đứng tên ông nhằm việc nhận hỗ trợ từ các "mạnh thường quân" vào tháng 10 năm 2007. Trước khi khai mạc kỳ Họp Hội đồng Giám mục trong cùng tháng, Nguyễn Chí Linh nhận trả lời phỏng vấn báo RFA xung quanh vấn đề này. Khi được hỏi về những điểm mới trong Thư chung kỳ họp Hội đồng giám mục lần này, giám mục Linh cho rằng bản thảo Thư chung phải được duyệt đi xét lại nhiều lần, nên ông trả lời với cung cách dè dặt. Bàn luận về vấn đề những việc giáo dân cần phải quan tâm để hoàn thành vai trò người giáo dân trong xã hội, ông cho rằng đó là các vấn đề bùng nổ thông tin và vấn đề di cư. Ngoài ra, tệ nạn xã hội cũng là một vấn đề đáng quan tâm. Trả lời câu hỏi về vấn đề khó khăn nhất của thanh niên thuộc giáo phận Thanh Hoá, ông cho rằng đó là vấn đề việc làm. Do thiếu việc làm hoặc thu nhập thấp, bấp bênh nên họ đa số đi về miền Nam. Một khó khăn nữa là vấn đề thiên tai xảy ra hàng năm. Giám mục Linh chia sẻ ông bất lực nhìn thanh niên giáo phận ra đi, do đó quyết định đồng hành cùng họ bằng việc tổ chức đại hội đồng hương tại phía Nam nhằm mục đích động viên, an ủi và kêu gọi giáo dân sống với tinh thần Công giáo. Về vấn đề giới tu sĩ Việt Nam có nên tham gia môi trường chính trị, Nguyễn Chí Linh cho biết đây là một vấn đề tế nhị, nếu hiểu chính trị theo kiểu tư cách công dân thì ông cho rằng giáo dân Công giáo cần có nghĩa vụ công dân với dân tộc và đất nước, còn nếu là tham gia các tổ chức xã hội chính quyền thì không nên vì gặp vấn đề tế nhị và khó xử. Cùng trong năm 2007, các giám mục Việt Nam nhất trí chọn giám mục Giuse Nguyễn Chí Linh làm Phó Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, ông tái đắc cử và đảm nhiệm vai trò này trong lần bầu chọn vào tháng 10 năm 2010. Giám mục Nguyễn Chí Linh cử phái đoàn các linh mục, tu sĩ, giáo dân đến thăm và mừng Tết với Trại phong Thanh Hóa tháng 1 năm 2008. Trong chuyến thăm này, họ tặng quà và cùng sinh hoạt với các bệnh nhân phong tại đây. Giám mục Linh vì bận đột xuất nên không thể tham gia như dự kiến. Hội Thầy thuốc Samaritano được giám mục Linh cho thành lập ngày 7 tháng 5 năm 2008 với mục đích hỗ trợ bệnh nhân, người khuyết tật và người đau khổ trong giáo phận. Ngày 9 tháng 6 năm 2008, giám mục Linh cùng một số giám mục đón đoàn Tòa Thánh đến thăm chính thức Việt Nam. Trong khuôn khổ chuyến viếng thăm, ông trả lời một số câu hỏi xung quanh sự kiện này. Trả lời câu hỏi về vấn đề trông đợi các vấn đề thảo luận giữa phái đoàn Tòa Thánh với chính quyền Việt Nam, giám mục Linh cho biết có hai vấn đề nổi bật là bổ nhiệm giám mục cho các giáo phận trống tòa và vấn đề tranh chấp đất đai Tòa Khâm sứ cũng như trong hầu hết các giáo phận tại Việt Nam. Ông cho rằng theo ý kiến riêng, cách tháo gỡ các khúc mắc dần dần sẽ tốt hơn cho quan hệ của hai bên. Trả lời câu hỏi về vấn đề thiết lập quan hệ Tòa Thánh và Vatican, vị giám mục Thanh Hóa cho biết chỉ có các nhóm đang cộng tác và thiết lập lộ trình này. Chia sẻ về đóng góp xã hội của giáo hội Công giáo Việt Nam đối với xã hội, Nguyễn Chí Linh cho rằng việc này đang khá hạn chế: về giáo dục chỉ được mở trường mẫu giáo, về y tế chỉ được mở phòng phát thuốc, ông cũng nhận định vấn đề này cần thương thảo và mong rằng chính quyền sẽ có cái nhìn thoải mái hơn. Tháng 9 năm 2008, trong vụ việc tranh chấp Giáo xứ Thái Hà ở Hà Nội, Nguyễn Chí Linh đến nhà thờ này để cử hành lễ cầu nguyện cho công lý và hòa bình. Trước những căng thẳng về tranh chấp, cùng trong tháng này, vị giám mục Thanh Hóa đã viết thư hiệp thông, bày tỏ sự sẻ chia với tổng giáo phận Hà Nội, lòng ngưỡng mộ lòng can đảm của Tổng giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt và tuyên bố ủng hộ cầu nguyện ôn hòa, bất bạo động. Giám mục Nguyễn Chí Linh được Hội đồng Giám mục Việt Nam bầu chọn làm nghị phụ đại diện tham gia Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới về Linh mục tổ chức cuối tháng 10 năm 2008. Ngoài ông, giám mục phó Giáo phận Nha Trang Giuse Võ Đức Minh cũng được cử làm nghị phụ tham dự sự kiện này. Ngoài hai giám mục, thành phần tham gia đến từ Việt Nam còn có linh mục Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản tham dự với tư cách chuyên gia, trợ tá đặc biệt của Tổng giám mục Monsengwo Pasinya. Trong khuôn khổ sự kiện, ngày 14 tháng 10, Nguyễn Chí Linh trình bày bài tham luận với nội dung là lời Chúa trong lịch sử Giáo hội Việt Nam. Sau những hoạt động cứu trợ thiên tai năm 2006 tại Giáo phận Đà Nẵng và năm 2007 tại Giáo phận Vinh, cuối tháng 11 năm 2008, Nguyễn Chí Linh phát động, kêu gọi ủng hộ cứu trợ và có chuyến thăm cứu trợ cho các nạn nhân lũ lụt tại Tổng giáo phận Hà Nội. Đầu tháng 12, ông tham gia vào phái đoàn Hội đồng giám mục Việt Nam, hỗ trợ lũ lụt trên địa bàn giáo phận Vinh và giáo phận Thanh Hóa. Giai đoạn 2009 - 2016. Trong dịp tĩnh tâm cuối năm 2008, giám mục Linh kêu gọi các linh mục đến với những hoàn cảnh khó khăn và có những hỗ trợ cho họ, ông cho rằng lễ Giáng sinh gắn liền với đức tính bác ái của người Công giáo. Thực hiện lời kêu gọi này, tháng 1 năm 2009 những hoạt động chia sẻ với những người khó khăn lan rộng trên địa bàn giáo phận. Riêng giám mục Linh đã quyết định đến thăm và tặng quà cho các gia đình sinh sống trên thuyền ở ven thành phố Thanh Hóa. Sau đó, ông tiếp tục đến thăm vào trao quà tại các địa điểm khác như trại khuyết tật tại Gia Hà và trại tâm thần Quảng Xương. Ông cũng bày tỏ mong muốn có thể xây dựng nơi để chăm sóc người khuyết tật trong giáo phận khi điều kiện cho phép. Giám mục Nguyễn Chí Linh cùng đoàn các giám mục Việt Nam đi hành hương Ad Limina, triều yết Giáo hoàng Biển Đức XVI. Trong cơ cấu ban tổ chức, giám mục Linh đảm trách công việc ngoại vụ. Chuyến hành hương kéo dài từ ngày 20 tháng 6 đến ngày 4 tháng 7 năm 2009. Nửa tháng sau đó, này 20 tháng 7, Nguyễn Chí Linh trả lời phỏng vấn của Báo Église d’Asie nhân dịp có công tác tại Paris. Khi được hỏi về vấn đề đào tạo linh mục cho giáo phận Thanh Hóa, ông cho biết chủng viện đã bị đóng cửa trong hàng thập niên, thiếu giáo viên và chủng sinh gặp nhiều khó khăn. Về thiết lập các dòng tu, ông cho biết các dòng đều thiếu nhân sự và cơ sở. Nói đến vấn đề mục vụ giáo dân, vị giám mục Thanh Hóa cho biết mỗi hè ông đào tạo 1.000 - 1.500 giáo lý viên và chú ý đến ban mục vụ của các giáo xứ. Ngoài ra, ông cũng trả lời một số câu hỏi liên quan đến Năm Thánh 2010 của Giáo hội Công giáo Việt Nam. Ngày 26 tháng 7 năm 2009, Giám quản Giáo phận Phát Diệm Nguyễn Chí Linh viết thư gửi tín hữu giáo phận này. Trong thư, giám mục Linh loan báo thông tin Giáo hoàng đã bổ nhiệm linh mục Giuse Nguyễn Năng làm Giám mục chính tòa Giáo phận Phát Diệm vào ngày 25 tháng 7. Ngoài ra, ông cũng cho biết lịch trình đón tiếp và ngày giờ lễ tấn phong cũng như khẩu hiệu của Tân giám mục. Giám mục Linh cũng tuyên bố kết thúc vai trò giám quản trong thư này. Ngày 27 tháng 7, phái đoàn giáo phận Phát Diệm do ông dẫn đầu đến chào thăm Tân giám mục Nguyễn Năng. Tại buổi gặp mặt, đoàn gửi tặng phẩm phục giám mục gồm nhẫn, gậy, đai, thánh giá đeo ngực cho giám mục Năng. Bão số 11 năm 2009—bão Mirinae tàn phá nặng nề các tỉnh miền Trung thuộc ba giáo phận: Giáo phận Qui Nhơn, giáo phận Kon Tum và giáo phận Nha Trang, Chủ tịch Ủy ban Caritas Việt Nam họp khẩn và quyết định gửi 500.000.000 đồng để giúp đỡ các nạn nhân trong thông báo ngày 7 tháng 11. Ngày 9 tháng 11, Nguyễn Chí Linh cùng một số giám mục khác đến thăm và an ủi các nạn nhân của bão lũ và gửi hỗ trợ đến họ với tinh thần không phân biệt tôn giáo. Ngoài khoản tiền từ Caritas Việt Nam, đoàn còn nhận nhiều khoản hỗ trợ tiền từ các giáo phận miền Bắc cũng như một số cá nhân hảo tâm. Cuối tháng 12, Tòa giám mục Thanh Hóa đến thăm nhân dịp Giáng sinh tại trại phong Cẩm Thủy do ông dẫn đầu phái đoàn 100 người. Trong thư gửi giáo dân Giáo phận Thanh Hóa dịp Tết Nguyên Đán 2010, Nguyễn Chí Linh nhắc nhở giáo dân đề cao cảnh giác trước tệ nạn ma túy và khả năng lây nhiễm HIV. Ngày 1 tháng 3 năm 2010, tại đền Đức Mẹ hằng Cứu giúp Thái Hà, ông chủ sự lễ kỷ niệm 80 năm Dòng Chúa Cứu Thế tại Hà Nội và bày tỏ để tỏ tâm tình hiệp thông của Giáo phận Thanh Hóa với giáo xứ Thái Hà trong những tranh chấp đất đai. Tháng 4 năm 2010, Ủy ban Đặc trách Giới trẻ Hội đồng Giám mục Việt Nam phát đi thông báo Ủy ban Nhân dân tỉnh Thanh Hóa không chấp thuận tổ chức Đại hội Giới trẻ Công giáo Việt Nam tại giáo xứ Ba Làng, giáo phận Thanh Hóa do có một số tranh chấp về đất đai. Trước đó, trong thư đề nghị cấp phép tổ chức, giám mục Nguyễn Chí Linh và giám mục Chủ tịch Ủy ban Đặc trách Giới trẻ Giuse Vũ Văn Thiên đã đồng ký tên. Nhân dịp bổ nhiệm Tân Tổng giám mục Phó Tổng giáo phận Hà Nội Phêrô Nguyễn Văn Nhơn cuối tháng 4 năm 2010, Phó chủ tịch Hội đồng Giám mục Nguyễn Chí Linh và Phó Tổng Thư ký Giuse Võ Đức Minh đã viết thư đại diện cho Hội đồng Giám mục Việt Nam chúc mừng. Trong lễ tiếp đón tân Tổng giám mục phó Phêrô Nguyễn Văn Nhơn tại Tổng giáo phận Hà Nội ngày 7 tháng 5 năm 2010, giám mục Nguyễn Chí Linh đã có phát biểu về những vấn đề căng thẳng tại Tổng giáo phận này:"Không thể phủ nhận được rằng việc bổ nhiệm này đã gây ra một số tranh cãi trong những ngày vừa qua. Có người bi quan cho đó là sai lầm của Tòa Thánh Vatican, là dấu hiệu của một Hội đồng Giám mục Việt Nam đang bị phân hóa, bị khuynh loát, thậm chí là một trang sử buồn cho Giáo hội Việt Nam và cách riêng, cho Tổng giáo phận Hà Nội." Phát biểu của giám mục Linh là lần đầu tiên trong lịch sử Giáo hội công giáo Việt Nam người ta được nghe một vị giám mục lên tiếng xác nhận một sự thật có liên quan đến quyết định của Tòa Thánh Vatican. Nhắc đến sự ra đi của Tổng giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt một tuần sau đó, với cương vị Phó Chủ tịch Hội đồng, Nguyễn Chí Linh xác nhận lý do từ nhiệm và hồi hưu của Tổng giám mục Kiệt hoàn toàn là vì lý do sức khỏe. Nhân dịp sự kiện bế mạc kỳ họp Thường niên II năm 2010, đài Chân Lý Á Châu đã có buổi phỏng vấn với giám mục Nguyễn Chí Linh, xung quanh vấn đề thiết lập Ủy ban mới là Ủy ban Công lý và Hòa bình, trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam. Được phỏng vấn về vấn đề Ủy ban Công lý và Hòa Bình có phải giải quyết, hỗ trợ giáo dân khi có những mâu thuẫn với chính quyền, Giám mục Nguyễn Chí Linh cho rằng khái niệm công lý - hòa bình của dư luận khác khái niệm của giáo hội. Vị phó chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam cho biết cách hiểu của Giáo hội Công giáo là công lý đồng nghĩa với tình thương, con người tôn trọng quyền lợi và sở thích của nhau. Giám mục Linh cho rằng nguyện vọng Hội đồng Giám mục lên tiếng bảo vệ quyền lợi cho giáo dân là chính đáng nhưng Hội đồng có sứ mạng toàn diện và không đơn giải với bài toán vừa cần "công lý hòa bình", vừa cần "hiện hữu giữa lòng xã hội". Được phóng viên nêu câu hỏi với nội dung giáo dân cho rằng phương thức im lặng của Hội đồng Giám mục là không hiệu quả, không biết dấn thân, Giám mục Nguyễn Chí Linh cho rằng mọi người có quan điểm riêng và hội đồng không cần làm theo dư luận mong đợi. Ông cho rằng giáo dân Việt Nam đa số sống đạo bình thường và không đòi hỏi Hội đồng Giám mục phải làm theo ý kiến của họ. Ông cho rằng cần "cân, đong, đo, đếm" để cân bằng dư luận và truyền thông. Trong cuộc phỏng vấn ngắn tháng 4 năm 2011, khi bàn luận về vai trò của Tân Đại diện Không thường trú Tòa Thánh Leopoldo Girelli, giám mục Nguyễn Chí Linh cho biết rằng Việt Nam cũng chưa biết về quy chế ngoại giao đối chức danh “Đại diện không thường trú” của Tòa thánh Vatican. Ông cũng khẳng định rằng bản thân mình lần đầu tiên nghe về chức vụ này và cũng băn khoăn về quyền hạn, mối quan hệ với giáo hội và nhà nước Việt Nam của vị này. Tù nhân chính trị Lê Văn Sơn bị bắt năm 2011 và đưa ra xét xử vì cáo trạng "âm mưu lật đổ chính quyền" năm 2013. Lê Văn Sơn là một trong nhóm 14 thanh niên Công giáo và Tin Lành bị xét xử. Nói về khoảng thời gian bị bắt, Sơn cho biết giám mục Nguyễn Chí Linh tìm mọi cách lên tiếng giúp anh và bạn bè. Giám mục Linh cùng các linh mục, tu sĩ giáo phận Thanh Hóa chào đón các giám mục Việt Nam đến giáo phận để tham dự kỳ họp thứ II năm 2012 của Hội đồng Giám mục Việt Nam tháng 10 năm 2012. Trong nhiệm kỳ kéo dài từ năm 2013 đến năm 2016, Nguyễn Chí Linh đảm trách vai trò Chủ tịch Ủy ban Mục vụ Di dân thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam. Đầu năm 2015, từ ngày 12 đến ngày 14 tháng 1, ông tham gia hội nghị của Ủy ban Mục vụ Di dân với đề tài "Mục vụ Di dân trong bối cảnh Tân Phúc âm hóa" tại Tòa giám mục Thanh Hóa. Tháng 12 năm 2014, Nguyễn Chí Linh phát động phong trào Ngày tình thương Giáng sinh tại Giáo phận Thanh Hóa trong những lời nhắc nhở mục vụ dành cho các linh mục. Ngày 17 tháng 12, ông cùng đoàn các linh mục đã đến thăm và chúc mừng Giáng sinh, đồng thời trao quà cho những hoàn cảnh khó khăn không phân biệt tôn giáo. Tháng 1 năm 2015, Nguyễn Chí Linh tham gia Hội nghị của Ủy ban Mục vụ Di dân do ông làm chủ tịch với chủ đề “Mục vụ Di dân trong bối cảnh Tân Phúc Âm hóa. Trong khuôn khổ hội nghị, giám mục Linh làm rõ thực trạng di dân tại Việt Nam nói riêng cũng như thế giới nói chung và khái quát thực trạng Ủy ban Mục vụ Di dân, hướng dẫn đường hướng hoạt động cho ủy ban này những năm tiếp theo. Đoàn giáo phận Thanh Hóa do giám mục Nguyễn Chí Linh dẫn đầu đã đến thăm nhiều địa điểm của Giáo phận Thái Bình vào tháng 10 năm 2015. Nhân dịp này, đoàn cũng đến thăm nguyên giám mục Thái Bình Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Sang. Nguyễn Chí Linh tổ chức Tuần lễ Di dân vào đầu năm 2016. Trong tuần lễ này, các hoạt động như cầu nguyện nhóm, chầu Thánh Thể, chia sẻ chuyên đề, thăm viếng các giáo xứ có nhiều di dân sẽ được tổ chức. Tháng 2 cùng năm, ông cắt băng khánh thành Trung tâm Tình thương Têrêxa Caculta nhằm mục đích nuôi dưỡng trẻ mồ côi và khuyết tật. Đây là nỗ lực của giám mục Linh, Caritas Giáo phận Thanh Hóa và đông đảo "mạnh thường quân" hỗ trợ. Giữa tháng 6 năm 2016, Nguyễn Chí Linh cùng các linh mục giáo phận Thanh Hóa đến Đan viện Châu Sơn để đồng tế dịp lễ kỷ niệm 25 năm linh mục của nguyên Tổng giám mục Hà Nội Giuse Ngô Quang Kiệt. Tháng 10 năm 2016, ông được bầu chọn làm Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam. Ngày 26 tháng 10 cùng năm, ông cùng các thành viên Ban thường vụ Hội đồng Giám mục và một số giám mục khác đã đến thăm một số giáo dân Giáo phận Vinh nhằm mục đích hỗ trợ người dân là nạn nhân bão lũ. Tổng giám mục Tổng giáo phận Huế. Giai đoạn 2016–2017. Ngày 29 tháng 10 năm 2016, Giuse Nguyễn Chí Linh được Giáo hoàng Phanxicô bổ nhiệm làm tổng giám mục Tổng giáo phận Huế, đồng thời kiêm nhiệm giám quản Tông tòa Giáo phận Thanh Hóa. Một phái đoàn từ Tổng giáo phận Huế do linh mục nguyên Tổng đại diện Antôn Dương Quỳnh dẫn đầu đến Thanh Hóa chào mừng Tân Tổng giám mục. Trước khi lễ nhậm chức chính thức tổ chức, ngày 9 tháng 1, đại diện chính quyền các cấp và các tôn giáo khác đã đến gửi lời chức mừng đến Tân Tổng giám mục Tổng giáo phận Huế. Trưa cùng ngày, Nguyễn Chí Linh đến cử hành lễ tại Trung tâm Hành hương Đức Mẹ La Vang để cầu nguyện cho việc nhận sứ vụ mới. Buổi tối, nguyên Tổng giám mục Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng chào đón Tân Tổng giám mục đến Tòa giám mục Huế. Tại đây, Tổng giám mục Hồng tượng trưng trao chìa khóa Tòa giám mục cho người kế vị. Ông chính thức nhậm chức Tổng giám mục Tổng giáo phận Huế đánh dấu bằng một buổi lễ vào sáng ngày 12 tháng 1 năm 2017. Tại buổi lễ này, tân Tổng giám mục Huế chia sẻ ông sẽ cố gắng học dần các đặc điểm đặc biệt nơi đây: nói giọng Huế, học ăn ớt, cách sống người Huế và Quảng Trị. Ông cũng cám ơn hai vị tiền nhiệm là Stêphanô Nguyễn Như Thể và Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng đã tạo tiền đồ vững chắc và tổ chức buổi lễ nhậm chức trang trọng. Ông nhận trả lời phỏng vấn về vấn đề một số giáo dân tụ tập khiếu kiện Formosa do linh mục Nguyễn Đình Thục dẫn đầu vào ngày 14 tháng 2 năm 2017. Khi được hỏi về nhận định của ông về việc cuộc tập trung nộp đơn khiếu kiện bị dẹp bỏ,ông cho biết do chưa nắm được thông tin và cho rằng để đưa ra nhận định vào thời điểm phỏng vấn là quá sớm. Tổng giám mục Linh cho biết người dân cảm thấy bị ảnh hưởng nặng nề do nhà máy Formosa và mong muốn nhà nước giải quyết công bằng. Ông cũng nhận định rằng hai bên là nhà nước và giáo dân chưa có cùng quan điểm, chính vì thế có những xung khắc. Nói về một số chỉ trích đến Hội đồng Giám mục, với tư cách Chủ tịch Hội đồng, tổng giám mục Linh cho biết Hội đồng Giám mục Việt Nam phải lựa chọn thái độ không gây tổn thất lớn cho cả hai bên, đồng thời đưa ra dẫn chứng về Thư Chung của Hội đồng đã từng đề cập đến vấn đề Formosa, giám mục Phêrô Nguyễn Văn Khảm và Hồng y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn tham gia hội thảo với thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng trình bày vấn đề môi trường. Ngoài ra, ông cũng cho biết đã nhiều dịp trao đổi với các cơ quan nhà nước rằng sự đấu tranh của giáo dân không mang màu sắc chính trị. Nói về chia sẻ với giáo dân giáo xứ Song Ngọc cùng các giáo xứ lân cận, Nguyễn Chí Linh chia sẻ ông đồng cảm và cố gắng tối đa để thực hiện hóa nguyện vọng của giáo dân, mong rằng những nguyện vọng này được chú ý và cho biết cụ thể thì cần bàn thêm với các giám mục khác trong Hội đồng Giám mục. Giải bóng đá Hiệp nhất – Khẩu hiệu giám mục của tổng giám mục Nguyễn Chí Linh với các đội bóng tham gia đến từ các lớp tiền Chủng viện và các giáo xứ tại địa điểm sân bóng Đại học Giáo dục Thể chất thành phố Huế tổ chức lần thứ I vào tháng 3 năm 2017. Ngày 1 tháng 6 năm 2017, với vai trò Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, ông ký xác nhận lá thư nêu lên những suy nghĩ của người Công giáo về Luật Tôn giáo vừa được thông qua và có hiệu lực năm 2018. Nói rõ hơn về vấn đề này trong một cuộc phỏng vấn, tổng giám mục Linh nhận định bộ luật là một bước thụt lùi, không phải tự do đích thực, có các lĩnh vực giáo hội vẫn còn bị hạn chế như sức khỏe, giáo dục... và cơ chế xin–cho. Theo thông lệ và thông báo ngày 27 tháng 6 năm 2017 của giáo hoàng Phanxicô, ngày 29 tháng 6, Tổng giám mục Nguyễn Chí Linh đã đến Vatican nhận dây pallium của Tổng giám mục. Lễ trao dây đã được tổ chức tại Linh Địa Đức Mẹ La Vang, Tổng giáo phận Huế, trong lễ bế mạc Đại Hội Hành Hương Đức Mẹ La Vang do Tổng giám mục Leopoldo Girelli—Đại Diện Tòa Thánh tại Việt Nam đeo dây Pallium trên vai Tân Tổng giám mục Huế. Khi được hỏi về về chuyến viếng thăm Tòa Thánh và nhận dây pallium, Nguyễn Chí Linh cho rằng buổi lễ trang trọng và có tính chất quốc tế, cá nhân ông coi đó là niềm vui lớn. Ít ngày sau khi nhận dây Pallium từ tay giáo hoàng, Nguyễn Chí Linh nhận trả lời báo Église d’Asie về tình hình giáo hội Công giáo Việt Nam. Nhắc đến về việc 150 người xâm nhập vào vùng đất Đan viện Thiên An vào ngày 28 tháng 6 năm 2017, dòng Biển Đức cho là tài sản của họ và phá hủy Thánh giá, vị Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam cho rằng trước đây Đan viện Thiên An có một khu đất diện tích khoảng 107 mẫu tây và tranh chấp xảy ra khi bộ Dân luật Việt Nam không thừa nhận quyền tư hữu, và chính quyền không thừa nhận quyền sở hữu của đan viện đối với khu đất. Căng thẳng leo thang khi một số khu đất được bán cho các doanh nghiệp kinh doanh du lịch, các doanh nghiệp ngoại quốc. Nêu lên quan điểm cá nhân về lý do Đan viện bị cô lập, không được sự ủng hộ, Tổng giám mục Linh cho rằng người Công giáo Huế vẫn còn tổn thương trong Chiến dịch Tết Mậu Thân tại Huế năm 1968. Các đan sĩ cho rằng Tòa Tổng giám mục cần hỗ trợ việc đòi lại quyền kiểm soát khu đất cho đan viện. Ngoài ra, Nguyễn Chí Linh cho biết ông đã đến thăm nơi ngày vào ngày 16 tháng 6 năm 2017. Nhắc đến tiến trình tôn phong chân phước cho cố hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, ông cho rằng đang diễn tiến tốt đẹp. Trả lời câu hỏi về chủ đề thông tin về việc thiết lập quan hệ ngoại giao, ông này cho biết Tổng giám mục Leopoldo Girelli không được quyền cư ngụ cách thường trực ở Việt Nam và chỉ có quyền ở Việt Nam trong một tháng, hành trình ở Việt Nam cần phải được Bộ Ngoại giao cho phép. Chia sẻ về Đại hội Hội đồng Giám mục năm 2016, khi ông được bầu làm Chủ tịch, Nguyễn Chí Linh cho biết việc mời ông Nguyễn Thiện Nhân không rõ là sáng kiến của ông Nhân hay Tổng giám mục Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh Phaolô Bùi Văn Đọc và cá nhân ông không hoan nghênh việc này, trong khuôn khổ kỳ họp Hội đồng giám mục. Về các vấn đề khác, vị Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam đánh giá rằng người Cộng sản và Công giáo xích lại gần nhau và hiểu nhau hơn, số giáo dân tham gia con đường tu trì dồi dào và Học viện Công giáo Việt Nam được khai mở. Tháng 9 năm 2017, cơn bão số 10 mang tên Doksuri đổ bộ vào các tỉnh miền Trung Việt Nam gây hậu quả nặng nề. Chính vì thế, Hội đồng Giám mục Việt Nam kêu gọi mọi người hướng đến chia sẻ cùng các nạn nhân cơn bão. Ngày 21 tháng 9, cùng với một số giám mục khác, Nguyễn Chí Linh đến trao các phần quà hỗ trợ cho người dân gặp khó khăn tại giáo phận Vinh. Dịp Tĩnh tâm linh mục tại Tổng giáo phận Huế, giám mục Nguyễn Chí Linh một lần nữa nhắc nhở các linh mục nhớ đến đồng bào đang lâm cảnh khó khăn trong thiên tai lũ lụt. Cuối tháng 11 năm 2017, giám mục Linh cùng đoàn Caritas Huế và một số linh mục đến các địa điểm giáo xứ Tiên Nộn và Cây Da nhằm mục đích trao các phần quà hỗ trợ cho các nạn nhân lũ lụt quanh các địa điểm này trong tinh thần không phân biệt tôn giáo. Giai đoạn 2018–2019. Nguyễn Chí Linh cùng đoàn các giám mục Việt Nam đến thăm và hành hương Tòa Thánh, Rôma trong khuôn khổ chuyến viếng thăm bổn phận của giám mục, Ad Limina kéo dài từ ngày 2 đến ngày 11 tháng 3 năm 2018, Hội đồng đã yết kiến giáo hoàng Phanxicô vào ngày 5 tháng 3 năm 2018. Tại đây, với cương vị Chủ tịch Hội đồng, ông đã có bài phát biểu gửi giáo hoàng. Trong cuộc gặp với Thánh bộ Ngoại giao Tòa Thánh, ông bày tỏ hy vọng Tòa thánh sẽ có quan hệ ngoại giao chính thức với Việt Nam. Trong khuôn khổ chuyến viếng thăm này, Tổng giám mục Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh Phaolô Bùi Văn Đọc qua đời tại Rôma sáng ngày 7 tháng 3, theo giờ Việt Nam. Sau khi đưa thi hài về nước, ngày 17 tháng 3 cùng năm, Nguyễn Chí Linh chủ sự lễ an táng cho cố Tổng giám mục Bùi Văn Đọc. Ngày 13 tháng 4 năm 2018, Tổng giám mục Nguyễn Chí Linh ban hành Quy chế Hội đồng Mục vụ Tổng giáo phận Huế, và cho thử nghiệm quy chế này trong vòng 4 năm. Hơn 10 ngày sau đó, ngày 25 tháng 4, Tòa Thánh loan tin Giáo hoàng Phanxicô đã chọn linh mục Giuse Nguyễn Đức Cường làm Giám mục chính tòa Giáo phận Thanh Hóa. Cùng ngày, Giám quản Tông Tòa Giáo phận Thanh Hóa Nguyễn Chí Linh, với cương vị Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam đã gửi văn thư chúc mừng giám mục tân cử. Phái đoàn đại diện Giáo phận Thanh Hóa đến Giáo phận Đà Lạt chào mừng tân giám mục Nguyễn Đức Cường vào ngày 3 tháng 5 năm 2018. Phái đoàn do Tổng giám mục Nguyễn Chí Linh—Giám quản Tông Tòa dẫn đầu. Cũng trong dịp này, với cương vị Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, ông ký quyết định Chủng viện Minh Hòa – Đà Lạt trở thành Cơ sở II của Đại chủng viện Thánh Giuse Xuân Lộc. Nguyễn Chí Linh đảm nhận vai trò ở giáo phận Thanh Hóa cho đến khi Tòa thánh bổ nhiệm linh mục Giuse Nguyễn Đức Cường kế nhiệm ông làm giám mục giáo phận Thanh Hóa. Ông chính thức tổ chức buổi chia tay với Giáo phận Thanh Hóa vào ngày 10 tháng 6. Lễ tấn phong giám mục Nguyễn Đức Cường được cử hành vào ngày 27 tháng 6 năm 2018. Chủ phong nghi thức truyền chức là Tổng giám mục Giuse Nguyễn Chí Linh và hai vị phụ phong, gồm Giuse Nguyễn Năng, giám mục Giáo phận Phát Diệm và Giám mục Phó Giáo phận Đà Lạt Đa Minh Nguyễn Văn Mạnh. Tháng 8 năm 2018, Nguyễn Chí Linh cùng các giám mục khác tham gia đại hội Phong trào Thiếu nhi Thánh thể tại Trung tâm Hành hương Đức Mẹ La Vang trong khuôn khổ kỷ niệm 100 năm thành lập phong trào này. Ngày 5 tháng 9 năm 2018, Tổng trưởng Thánh bộ Tu sĩ Tòa Thánh João Braz de Aviz đến thăm Tổng giáo phận Huế, tháp tùng có giám mục Phêrô Nguyễn Văn Đệ, chủ tịch Ủy ban Tu sĩ trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam đặt chân đến Huế tại sân bay Phú Bài. Đón tiếp đoàn là phái đoàn do tổng giám mục Linh dẫn đầu. Ngày 21 tháng 9 năm 2018, chủ tịch nước Việt Nam là ông Trần Đại Quang qua đời. Với cương vị Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, giám mục Nguyễn Chí Linh thay mặt Hội đồng viết thư phân ưu gửi quyền Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh vào một ngày sau đó. Trong khuôn khổ bế mạc kỳ họp thường niên lần II kỳ họp Hội đồng Giám mục Việt năm 2018, các giám mục đến Trung tâm Hành hương Ba Giồng, có địa chỉ hành chính tại Tân Lý Đông, Châu Thành, Tiền Giang. Nguyễn Chí Linh chủ tế nghi lễ tại trong dịp viếng địa điểm hành hương của hội đồng giám mục. Trước đó, trong kỳ họp này, Tân Đại diện không thường trú Tòa Thánh tại Việt Nam Marek Zalewski cũng chính thức có dịp gặp gỡ các giám mục người Việt. Nguyễn Chí Linh tham gia hội nghị kéo dài từ ngày 24 đến ngày 28 tháng 9 năm 2018 cùng các giám mục tại Việt Nam, cùng tham gia buổi tọa đàm trao đổi với Ban Tôn giáo Chính phủ về nội dung Luật tín ngưỡng, tôn giáo và cách áp dụng luật này vào đời sống. Nhân dịp Tòa Thánh bổ nhiệm Tân đại diện Thường trú, Tổng giám mục Nguyễn Chí Linh trả lời phỏng vấn của hãng thông tấn RFI. Khi được hỏi về những khó khăn của giáo hội Công giáo Việt Nam về vấn đề bổ nhiệm giám mục, vị chủ tịch Hội đồng giám mục Việt Nam chia sẻ việc bổ nhiệm ở Việt Nam theo cơ chế Tòa Thánh đề cử và Việt Nam có quyền phủ quyết ứng viên, tuy vậy tình hình ngày càng tốt đẹp hơn do các bên tế nhị tôn trọng lẫn nhau, chỉ gặp một số khó khăn khi bổ nhiệm các vị trí Tổng giám mục Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh và Tổng giám mục Hà Nội. Nói về những khó khăn khác, Nguyễn Chí Linh cho biết cộng đồng Công giáo chưa được phép tham gia điều hành xã hội qua các hoạt động giáo dục và y tế ở cấp quốc gia và bày tỏ mong muốn nhà nước sẽ gỡ bỏ các vướng mắc này. Về vấn đề tranh chấp đất đai, tổng giám mục Linh thừa nhận Hội đồng Giám mục Việt Nam có trách nhiệm phải lên tiếng với tâm thái thắng thắn nhưng tế nhị, để ý kiến này được xem là ý kiến của một cộng đồng có thiện chí, không nhằm mục đích công kích. Nguyễn Chí Linh cùng đoàn 45 người hành hương Đất Thánh giữa tháng 10 năm 2018. Nhân dịp này, ông chủ sự lễ đặt tượng Đức Mẹ La Vang tại nơi đây. Caritas Huế và phòng khám Từ thiện Kim Long thuộc tổ chức tọa đàm với chủ đề "Giảm kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS" vào ngày 10 tháng 11 năm 2018 tại Trung Tâm Mục Vụ Tổng giáo phận Huế. Nhân dịp này, Tổng giám mục Nguyễn Chí Linh đã đến dự và chia sẻ về chủ đề HIV/AIDS, ông cho biết mình đồng cảm với nỗi đau của bệnh nhân HIV/AIDS và cho rằng nỗi đau này sẽ càng lớn hơn nếu họ bị kỳ thị. Chính vì thế, ông kêu gọi các tham dự viên hỗ trợ những người bị phân biệt và kỳ thị. Tổng giám mục Nguyễn Chí Linh đã tham dự hội thảo "400 năm hình thành và phát triển chữ Quốc ngữ trong lịch sử loan báo Tin Mừng tại Việt Nam" tại Trung tâm Mục vụ Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh. Hội thảo kéo dài trong hai ngày 25 và 26 tháng 10 năm 2019. Ngày 22 tháng 11 năm 2018, Đại diện Tòa Thánh không thường trú Marek Zalewski đến thăm Tổng giáo phận Huế, Tổng giám mục Linh ra sân bay Phú Bài đón ông này. Chiều cùng ngày, Đại diện Tòa Thánh cùng Tổng giám mục Linh đến thăm các dòng tu trên địa bàn tổng giáo phận. Đầu tháng 12 năm 2018, Tổng quản Dòng Tên Arturo Sosa cùng hai linh mục phụ tá đã đến Việt Nam. Nhân dịp này, Nguyễn Chí Linh đã chủ sự lễ truyền chức linh mục, đồng tế với Tổng quản Sosa và các linh mục Vinh Sơn Phạm Văn Mầm—Giám tỉnh dòng Tên Việt Nam, Giuse Phạm Tuấn Nghĩa—Viện trưởng Học viện dòng Tên cử hành lễ truyền chức cho 6 tân linh mục. Giám mục Linh nhận trả lời phỏng vấn của báo VnExpress về chủ đề mừng lễ Giáng sinh của giáo dân Công giáo Việt Nam nhân dịp lễ này vào năm 2018. Bàn luận về phong cách trang trí lễ Giáng sinh ở các tỉnh thành phía Nam, giám mục Linh nhận định việc trang trí thiên về hiện đại, ánh sáng và đa sắc màu. Ông cũng cho hay phong cách miền Bắc lại trang trí thiên về tả chân thực, tái dựng cảnh Chúa Giêsu hạ sinh thông qua các công cụ như mái tranh, giấy bồi dùng để tạo hang đá. Riêng về các dòng tu, Nguyễn Chí Linh cho biết ngoài trang trí, họ diễn đạt gửi gắm thông điệp Giáng sinh đến người tham quan không có niềm tin Kitô giáo. Ngoài ra, ông cũng nhận định xã hội đã dần chấp nhận cách biểu thị niềm tin của giáo dân, biểu lộ qua việc trang trí trong dịp lễ này. Nói đến việc mừng lễ Giáng sinh ở Việt Nam, tổng giám mục Linh cảm nhận rằng lễ này trở thành lễ hội không phân biệt tôn giáo và thông điệp truyền tải hòa bình. Ngày 28 tháng 12 cùng năm, tại nghĩa trang Thai Nhi tại Giáo xứ Ngọc Hồ, thuộc Tổng giáo phận Huế, Tổng giám mục Linh chủ sự lễ cầu nguyện cho việc bảo vệ sự sống. Trong thời kỳ làm Giám mục Thanh Hóa, ông từng có ý tưởng thu thập các bào thai bị phá và hỏa thiêu, dồn vào 2 lỗ gạch thông, bắt vít để dùng xây thành một lăng lớn, nhắc nhở đển việc tôn trọng và bảo vệ sự sống. Đầu năm 2019, Nguyễn Chí Linh đến thăm và tiếp xúc giáo dân di cư Huế hiện đang sinh sống tại tỉnh Bình Dương, giáo phận Phú Cường. Giữa tháng 1, ông đón tiếp phái đoàn Công giáo Hàn Quốc do Hồng y Andrew Yeom Soo-Jung, Tổng giám mục Tổng giáo phận Seoul dẫn đầu. Từ ngày 21 đến ngày 24 tháng 2 năm 2019, với tư cách Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, Tổng giám mục Nguyễn Chí Linh đến Vatican tham gia hội nghị về Bảo vệ trẻ em trong Giáo hội, với đa số nghị phụ là Chủ tịch Hội đồng Giám mục trên toàn thế giới. Trong biến cố hỏa hoạn Nhà thờ Đức Bà Paris, với cương vị Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, Tổng giám mục Nguyễn Chí Linh đại diện Giáo hội Công giáo Việt Nam gửi lời chia buồn đến Giáo hội Công giáo Pháp. Video chia buồn được công bố vào ngày 17 tháng 4 năm 2019 và nội dung được ông nói bằng tiếng Pháp. Tháng 6 năm 2019, chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam Nguyễn Chí Linh ấn ký thư chung gửi giáo dân Việt Nam, nội dung chính nói về việc thực thi một số nghi thức phụng vụ, cũng như lòng đạo đức bình dân, việc đặt tay chữa bệnh.. Đồng ký tên trong thư này có Chủ tịch Ủy ban Giáo lý Đức Tin Gioan Đỗ Văn Ngân. Tháng 8 năm 2019, phái đoàn giáo sĩ Công giáo do Tổng giám mục Nguyễn Chí Linh dẫn đầu tham gia Hội nghị Thủ tướng Chính phủ và các chức sắc tôn giáo, có dịp tiếp xúc với thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc. Tại hội nghị, về phía Công giáo có bài tham luận về 5 chương trình chính mà Giáo hội Công giáo đã quan tâm thực hiện tại Việt Nam, do giám mục Tôma Vũ Đình Hiệu trình bày. Các giám mục Việt Nam từ 27 giáo phận họp Đại hội XIV Hội đồng Giám mục Việt Nam tại trung tâm Mục vụ Giáo phận Hải Phòng vào cuối tháng 9 và đầu tháng 10 năm 2019. Trong khuôn khổ đại hội, các giám mục đã sắp xếp và bầu chọn nhân sự trong hội đồng. Kết quả, các giám mục tiếp tục chọn Tổng giám mục Nguyễn Chí Linh làm Chủ tịch Hội đồng Giám mục trong nhiệm kỳ 2019–2022. Nhân chuyến viếng thăm của Giáo hoàng Phanxicôđến Thái Lan, Tổng giám mục Nguyễn Chí Linh và một số giám mục Việt Nam sang Thái Lan tham dự. Chiều ngày 20 tháng 11 năm 2019, họ tổ chức một thánh lễ Công giáo bằng tiếng Việt đã được cử hành trên đất Thái Lan. Lễ này gồm có 4 giám mục, 70 linh mục và 700 giáo dân. Trong khung cảnh chào đón chuyến công du của Giáo hoàng Phanxicô đến Tokyo, Nhật Bản, Tổng giám mục Linh cùng hai giám mục Emmanuel Nguyễn Hồng Sơn, Louis Nguyễn Anh Tuấn và Chánh văn phòng Hội đồng Giám mục Giuse Đào Nguyên Vũ đã có chuyến thăm các giáo dân Công giáo Việt Nam tại Tokyo vào ngày 24 tháng 11 năm 2019. Nhân dịp Giáng sinh, ngày 20 tháng 12 năm 2019, Tòa Tổng giám mục Huế đã mời các đại diện chính quyền địa phương và đại diện các tôn giáo đến tham gia bữa tiệc. Trong khuôn khổ buổi lễ, Tổng giám mục Nguyễn Chí Linh trích dẫn Kinh Thánh Kitô giáo nói về ước mơ của Thiên Chúa về một nhân loại không có ranh giới, xã hội không phân biệt, chung sống hòa bình và đoàn kết. Tổng giám mục Linh mong rằng, với ý nghĩa lễ giáng sinh là lễ bình an, các thành phần tham gia sẽ tìm lại được sự hòa hợp, tin tưởng, đồng thuận với nhau. Như đã đề nghị Ủy ban Bác bác Xã hội và các dòng tu thuộc Tổng giáo phận Huế Trước đại lễ Giáng sinh, Đức Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Chí Linh - Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, kêu gọi Ban bác ái xã hội và các dòng tu của Tổng Giáo phận Huế cũng như những mối quan hệ để chuẩn bị quà tặng người nghèo. 500 người nghèo, khuyết tật ngoài Công giáo đã được mời đến Toà Tổng Giám mục để dự buổi tiệc nhẹ, xem văn nghệ, bốc thăm trúng thưởng và nhận quà. Việc tặng quà này bắt đầu quy về Tòa giám mục kể từ hai năm nay, dù trước đó được trao tặng rải rác tại các giáo xứ. Ngày 26 tháng 12 năm 2019, Tổng giám mục Nguyễn Chí Linh ấn ký quyết định tôn phong Đức Mẹ La Vang làm thánh bổn mạng Tổng giáo phận Huế. Đây là lần đầu tiên sau 170 thành lập, Tổng giáo phận quyết định tôn phong thánh bổn mạng. Quyết định có hiệu lực ngày 1 tháng 1 năm 2020, lễ khai mạc 170 năm thành lập Tổng giáo phận Huế. Trước đó, cũng nhằm chào đón Năm thánh kỷ niệm 170 năm thiết lập Tổng giáo phận Huế, ngày 12 tháng 11 năm 2019 Tổng giám mục Linh đã giới thiệu tập sách: "Cẩm nang Năm Thánh" nằm giới thiệu những hiểu biết về Năm Thánh của Giáo hội Công giáo, cũng như lược sử Tổng giáo phận Huế. Giai đoạn từ năm 2020 đến 2022. Cuối tháng 2 năm 2020, Tổng giám mục Nguyễn Chí Linh trả lời phỏng vấn của Ủy ban Truyền thông Tổng giáo phận Huế về Vương cung thánh đường Đức Mẹ La Vang. Chia sẻ thông tin về thánh đường mới này đến những độc giả, Tổng giám mục Linh ôn lại sơ lược lịch sử của thánh đường này. Thánh đường cũ đã bị tàn phá trong chiến tranh, kế từ năm 2008, khi chính quyền tỉnh Quảng Trị trao trả lại 21 ha đất trước thuộc Tổng giáo phận Huế, việc triển khai tái xây dựng nhà thờ đã được khởi sự. Tổng giám mục Linh cũng đã tuyên bố lễ khánh thành tổ chức vào ngày 16 tháng 10 năm 2020, sau khi Hội đồng Giám mục Việt Nam họp thường niên lần thứ II năm 2020 tại Tổng giáo phận. Nói về quyết định chọn Đức Mẹ La Vang làm bổn mạng Tổng giáo phận, Tổng giám mục Nguyễn Chí Lin cho biết rằng nguyên do do lòng yêu mến, giữ vai trò quan trọng trong lòng giáo hữu. Nói về Trung tâm Hành hương Đức Mẹ La Vang, ông cho rằng chính Hội đồng Giám mục Việt Nam chủ trì, ông với tư cách đại diện Hội đồng. Ông cũng nhắc đến sự đóng góp của giáo dân trong và ngoài Việt Nam, cũng như sự quan tâm của mọi người không phân biệt tôn giáo đối với trung tâm này. Nói về thao thức cũng như định hướng khi Trung tâm Hành hương Đức Mẹ La Vang là trung tâm hành hương toàn quốc của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam, vị Tổng giám mục Huế cho rằng La Vang ngày càng được thăm viếng nhiều hơn, kế cả các tour du lịch bao gồm những người không phải giáo dân Công giáo trong và ngoài Việt Nam. Ông cho rằng đây là động lực để Hội đồng Giám mục cũng như Tổng giáo phận Huế nỗ lực đáp ứng nhu cầu của mọi người. Trong tình hình đại dịch COVID-19, Tổng giám mục Nguyễn Chí Linh viết thư mục vụ gửi giáo dân Tổng giáo phận Huế vào ngày 17 tháng 3 năm 2020 nhằm công bố một số thay đổi mục vụ để phòng tránh lây lan dịch bệnh. Đầu thư, Tổng giám mục Huế kêu gọi giáo dân dành thời gian làm "giờ chầu kính Lòng Chúa Thương Xót", với số lượng người tham gia mang tính đại diện, tránh lây lan dịch bệnh. Về cử hành bí tích Xức dầu Bệnh nhân, ông cho phép các linh mục dùng găng tay để phòng tránh việc lây bệnh. Nói đến vấn đề cử hành Bí tích Hòa Giải, Tổng giám mục Linh cho phép cử hành nghi thức tập thể với các điều kiện: chỉ được cử hành trong địa bàn Tổng giáo phận, phải giải nghĩa cho giáo dân, thời hạn từ Lễ Lá đến đêm Vọng Phục Sinh...Để phòng tránh phát tán dịch bệnh, ông nhắc nhở các linh mục cần chú ý giảm bớt hoặc đình chỉ các sinh hoạt đông người, cử hành các nghi thức ngắn gọn, kể cả trong Tuần Thánh... Về lễ Truyền Dầu, ông loan báo chỉ cử hành lễ này cách đơn giản tại Tòa giám mục. Ngày 27 tháng 3 cùng năm, Tổng giám mục Nguyễn Chí Linh ra thông cáo gửi giáo dân, quy định thay đổi sinh hoạt tôn giáo: từ 12 giờ trưa ngày 28 tháng 3, các thánh lễ chỉ giới hạn số người không quá 20, cho phép các dòng tu biệt lập cử hành thánh lễ, mở cửa các nhà thờ cho giáo dân đến cầu nguyện, đề nghị giáo dân tham dự lễ trực tuyến.. Ngoài ra, ông còn chỉ dẫn một số giới hạn về lễ an táng, lễ cưới, cử hành các bí tích. Về nghi thức bí tích Hòa Giải, ông thay đổi điều kiện cử hành: chỉ cử hành đến lễ "Chúa Nhật II Phục Sinh", chỉ cử hành đầu lễ và cần xin phép Tổng giám mục Linh nếu cử hành ngoài lễ trong con số giới hạn không quá 20 người một lần, làm theo các nghi thức của Ủy ban Phụng tự Hội đồng Giám mục và cần giải thích cho giáo dân trước khi cử hành nghi thức. Với cương vị Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, Tổng Giám mục Nguyễn Chí Linh ấn ký thông báo khẩn về nội dung tổ chức "Ngày cầu nguyện cho dịch bệnh sớm chấm dứt" vào ngày 2 tháng 4 năm 2020. Ngày tổ chức sự kiện này được ấn định là ngày 4 tháng 4. Tổng giám mục Linh cho biết quyết định này khởi nguồn từ một số giám mục thuộc Hội đồng Giám mục. Tiếp sau thông báo của Chủ tịch Hội đồng Giám mục, Giám mục Chủ tịch Ủy ban Phụng tự Emmanuel Nguyễn Hồng Sơn đã ra thông cáo quy định chính thức, làm rõ một số vấn đề liên quan đến ngày cầu nguyện vào ngày 3 tháng 4. Ngày 6 tháng 4 năm 2020, Trưởng ban Ban Tôn giáo Chính phủ Việt Nam ký văn bản gửi Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam và các Giám mục giáo phận về việc phòng, chống dịch Covid-19. Nội dung thư, ban tôn giáo ghi nhận, đánh giá cao tinh thần hợp tác của Hội đồng Giám mục, các giám mục giáo phận đã ra các thông cáo phòng chống dịch, nhiều giáo xứ, dòng tu góp phần hỗ trợ chính quyền phòng chống dịch. Tuy vậy, Trưởng Ban Tôn giáo đề cập đến tình trạng một số giáo xứ thuộc Giáo phận Hà Tĩnh vẫn cử hành lễ với sự tham gia của hàng trăm giáo dân. Trưởng ban tôn giáo đề nghị Hội đồng Giám mục xử lý các linh mục vi phạm và đề nghị tuân theo chỉ thị của thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc về phòng chống dịch bệnh. Ngày 7 tháng 4, với cương vị Chủ tịch Hội đồng Giám mục, ông ấn ký thư chúc mừng hồng y người Úc George Pell, sau khi hồng y này được Tòa Thượng Thẩm Úc tuyên trắng án trong phiên tòa điều tra về việc Hồng y Pell tình nghi lạm dụng tình dục. Trong Đại hội Hội đồng Giám mục Việt Nam XV từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 10 năm 2022 tại Hà Nội, các giám mục Việt Nam bầu chọn Tổng giám mục Nguyễn Chí Linh làm Chủ tịch Ủy ban Mục vụ Di Dân, trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam nhiệm kỳ 2022–2025. Kiêm nhiệm Giám quản Nha Trang (2022–2023). Ngày 23 tháng 7 năm 2022, Văn phòng Báo chí Tòa Thánh ra thông cáo về việc Giáo hoàng Phanxicô đã chấp thuận đơn từ nhiệm chức Giám mục Giáo phận Nha Trang của Giám mục Võ Đức Minh. Đồng thời, Tòa Thánh cũng bổ nhiệm Tổng giám mục Nguyễn Chí Linh làm Giám quản Tông Tòa Giáo phận Nha Trang, trong tình trạng "trống tòa và theo ý Toà Thánh". Tổng giám mục Linh dự kiến chính thức nhận vai trò Giám quản vào ngày 31 tháng 8 năm 2022, theo thông báo của Tòa Tổng giám mục Huế đề ngày 26 tháng 7 năm 2022. Bằng việc bổ nhiệm này, Tổng giám mục Linh đã trở về [quản lý] giáo phận xuất thân của mình. Ngay sau khi tin bổ nhiệm được công bố, Giám mục Nha Trang nhắn tin cho tân giám quản thông báo về một tình hình ổn định của giáo phận vào thời điểm này. Tổng giám mục Nguyễn Chí Linh đồng tế cùng Giám mục Nha Trang Võ Đức Minh trong một buổi lễ chung sáng ngày 31 tháng 8 năm 2022. Buổi lễ này mang hai ý nghĩa: lễ tiếp nhận sứ vụ Giám quản của Tổng giám mục Linh và lễ tạ ơn của Giám mục Minh. Tổng giám mục Linh cũng cử hành một lễ khởi đầu sứ vụ riêng vào chiều ngày 1 tháng 9. Ông đã cử hành lễ kết thúc giáo vụ Giám quản Tông Tòa Nha Trang vào ngày 6 tháng 6 năm 2023. Trước đó, Tòa Thánh đã bổ nhiệm linh mục Giuse Huỳnh Văn Sỹ làm giám mục chính tòa Nha Trang vào ngảy 1 tháng 5. Mục vụ từ năm 2023. Ngày 21 tháng 9 năm 2023, Tòa Thánh bổ nhiệm Giám mục Giáo phận Đà Nẵng Giuse Đặng Đức Ngân làm Tổng giám mục phó Tổng giáo phận Huế. Lịch trình chào thăm và nhậm chức của Tân tổng giám mục phó được Tổng giám mục Linh công bố trong thư gửi giáo dân Huế, được viết trong cùng ngày công bố tin. Tổng giám mục Linh, theo thông báo, dự kiến cùng đoàn đến chào thăm Tổng giám mục Ngân tại Đà Nẵng vào ngày 28 tháng 9, trong khi lễ nhậm chức được cử hành ngày 10 tháng 11 cùng năm. Tổng giám mục Linh cho biết ông đã làm đơn từ nhiệm vì tuổi tác đã hai năm, nhưng chỉ tròn 75 tuổi theo quy định từ nhiệm của Giáo luật vào cuối năm 2024. Ông hy vọng Đà Nẵng sẽ có giám mục chính tòa mới để Tòa Thánh chấp thuận đơn từ nhiệm của mình. Ông cũng công bố mình "nhất trí mặc nhiên" để Tổng giám mục phó chủ sự các sư kiện và chủ tế các lễ đại triều trong Tổng giáo phận. Nhận định. Trong bài chia sẻ tại lễ nhậm chức tổng giám mục Huế của Nguyễn Chí Linh, giám mục Cosma Hoàng Văn Đạt trích dẫn một bài giảng trước đó của giám mục Giuse Nguyễn Năng, nêu nhận định về vị tân Tổng giám mục Huế: Tông truyền. Tổng giám mục Giuse Nguyễn Chí Linh được tấn phong giám mục năm 2004, dưới thời Giáo hoàng Gioan Phaolô II, bởi: Tổng giám mục Giuse Nguyễn Chí Linh là Chủ phong nghi thức truyền chức giám mục cho giám mục: Tổng giám mục Giuse Nguyễn Chí Linh là vị Phụ phong trong nghi thức truyền chức giám mục cho các giám mục:
1
null
Giuse Trịnh Chính Trực (1925–2011) là một giám mục của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách vai trò giám mục tại Giáo phận Ban Mê Thuột trong hai giai đoạn: giám mục phó, từ năm 1981 đến năm 1990 và giám mục chính tòa, từ năm 1990 đến năm 2000. Khẩu hiệu Giám mục của ông là "Chúa giàu lòng thương xót". Giám mục Trịnh Chính Trực được đánh giá là một con người giản dị, thẳng thắn và gần gũi. Tu tập. Giám mục Trịnh Chính Trực sinh ngày 25 tháng 10 năm 1925, tại giáo xứ Bút Đông, thuộc xã Trác Bút (nay là phường Châu Giang), thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, tổng giáo phận Hà Nội. Từ năm 1939, cậu bé Trịnh Chính Trực được gia đình cho nhập học tại Tiểu chủng viện Hoàng Nguyên, Hà Nội. Sau đó, từ năm 1945, chủng sinh Trực đi giúp xứ Hoàng Nguyên, Hà Nội. Giai đoạn từ năm 1948 đến năm 1954, chủng sinh Trực tiếp tục con đường tu học bằng cách theo học tại Đại chủng viện Xuân Bích, Hà Nội. Linh mục. Ngày 31 tháng 5 năm 1954, Phó tế Giuse Trịnh Chính Trực được Giám mục Đại diện Tông Tòa Hạt Đại diện Tông Tòa Hà Nội Giuse Maria Trịnh Như Khuê thụ phong linh mục tại Hà Nội. Sau khi được truyền chức, tân linh mục được bổ nhiệm phục vụ Cô nhi viện Têrêxa tại Hà Nội và Ban Mê Thuột. Ông sau đó di cư vào Nam cùng Cô nhi viện này vào năm 1954. Một năm sau đó (1955), linh mục Trịnh Chính Trực được bổ nhiệm làm linh mục Phó giáo xứ Thánh Tâm, Ban Mê Thuột. Song song nhiệm vụ này, từ năm 1956, ông đảm nhận công việc Tuyên Uý Bảo An Đoàn tại Đắk Lắk và giữ chức vụ này cho đến năm 1960, khi thuyên chuyển sang Châu Sơn. Năm 1960, linh mục Trực được bổ nhiệm đảm trách vai trò linh mục quản xứ Châu Sơn, Ban Mê Thuột. Tại giáo xứ Châu Sơn năm 1963, linh mục Giuse Trịnh Chính Trực đã cho dựng tượng Chúa Kitô Vua cao 2,4 mét, tại một ngọn đồi thuộc khu vực của giáo xứ. Hiện nay, hàng ngàn người Công giáo vẫn lên địa điểm này tham dự Thánh lễ và cầu nguyện trước bức tượng trong ngày lễ Chúa Kitô Vua. Năm 1967, giáo phận Ban Mê Thuột được thiết lập, linh mục Trực giữ vai trò linh mục quản xứ Thánh Tâm (giáo xứ Chính tòa Ban Mê Thuột), cho đến năm 1972. Cũng từ năm 1967, ông kiêm Tổng Đại diện Giáo phận, giữ vai trò này đến năm 1990. Năm 1972, ông được bổ nhiệm kiêm thêm vai trò Giám đốc Tiểu chủng viện Lê Bảo Tịnh và giữ vai trò này đến năm 1983. Tòa Thánh Vatican ngày 17 tháng 3 năm 1975 loan tin báo cáo rằng linh mục Tổng đại diện Trịnh Chính Trực đã bị giết chết trong chiến sự. Tin cũng cho biết giám mục Phêrô Nguyễn Huy Mai của Giáo phận Ban Mê Thuột và giám mục tân cử Nguyễn Văn Hòa, cùng một số linh mục Công giáo đã bị quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt đi. Tờ Quan sát viên Rôma báo cáo ngày 18 tháng 3 và Khâm sứ Tòa Thánh tại Sài Gòn đã xác nhận rằng linh mục Trịnh Chính Trực đã bị giết chết, đồng thời xác nhận số phận chưa rõ ràng của hai giám mục bị bắt đi. Giám mục. Ngày 19 tháng 6 năm 1981, Tòa Thánh loan tin Giáo hoàng đã quyết định bổ nhiệm linh mục Giuse Trịnh Chính Trực, Tổng đại diện Giáo phận Ban Mê Thuột, làm giám mục Phó Giáo phận này. Lễ tấn phong cho vị giám mục tân chức được tổ chức cách trọng thể sau đó vào ngày 15 tháng 8 cùng năm, với phần nghi thức tấn phong chính yếu cử hành bởi vị chủ phong là Giám mục Phêrô Nguyễn Huy Mai, giám mục chính tòa Ban Mê Thuột và hai vị phụ phong là giám mục Alexis Phạm Văn Lộc, giám mục chính tòa Giáo phận Kon Tum và giám mục Giuse Maria Nguyễn Tùng Cương, giám mục chính tòa Giáo phận Hải Phòng. Ngày 4 tháng 8 năm 1990, giám mục Nguyễn Huy Mai qua đời, Giám mục Trịnh Chính Trực kế vị làm Giám mục chính tòa Giáo phận Ban Mê Thuột. Thời kỳ giám mục của Giám mục Trịnh Chính Trực là một thời kỳ khó khăn. Trong thời kỳ này, nhận thấy trên địa bàn Giáo phận đang quản lý, quan niệm của người dân là không cho con cái học lên cao, Giám mục Trịnh Chính Trực tích cực kêu gọi mọi người quan tâm và đầu tư cho giáo dục. Ông quan niệm rằng có trình độ học vấn mới góp phần xây dựng xã hội và phụng sự Giáo hội tốt. Cũng trong thời kỳ làm giám mục, giám mục Trực luôn quan tâm đến chủng sinh, linh mục và giáo dân, kể cả khi đã bệnh nặng. Trong các chuyến viếng thăm các giáo xứ, giám mục Trực luôn khuyên giáo dân nỗ lực làm kinh tế giỏi. Ông quan niệm, phát triển kinh tế tốt thì mới có thể lo cho con trẻ ăn học, phát triển xã hội. Về sinh kế, ông khuyến khích giáo dân trồng cây công nghiệp, ưu tiên cây cao su. Vào những thời điểm khó khăn, ông chọn cách lao động chân tay là chăm sóc vườn cây cách chu đáo để giải khuây. Từ 29 tháng 12 năm 2000, giám mục Trực nghỉ hưu tại Tòa Giám mục Giáo phận Ban Mê Thuột. Giám mục Trịnh Chính Trực qua đời ngày 23 tháng 9 năm 2011, sau vài tuần sống thực vật. Khoảng thời gian hai năm trước khi qua đời, ông phải nằm liệt giường. Tang lễ cố giám mục được cử hành sau đó vào ngày 27 tháng 9, với sự tham gia của đông đảo chức sắc, tu sĩ cũng như giáo dân. Một số giám mục không thể đến dự do gặp ảnh hưởng của bão. Đánh giá. Đánh giá những đóng góp của cố Giám mục Giuse Trịnh Chính Trực, Giám mục Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản, Giám mục Giáo phận Ban Mê Thuột, Chủ tịch Ủy ban Thánh Nhạc Hội đồng Giám mục Việt Nam đã nói: Tông truyền. Giám mục Giuse Trịnh Chính Trực được tấn phong giám mục năm 1981, thời Giáo hoàng Gioan Phaolô II, bởi: Giám mục Giuse Trịnh Chính Trực là Giám mục Chủ phong cho giám mục: Linh mục Giuse Trịnh Chính Trực là Linh mục Trợ phong cho giám mục:
1
null
Phương pháp Ziegler– là một phương pháp điều chỉnh bộ điều khiển PID được phát triển bởi John G. Ziegler và Nathaniel B. Nichols. Phương pháp này được thực hiện bằng cách thiết lập thông số độ lợi khâu "I" (tích phân) và khâu "D" (vi phân) về không (0,zero). Độ lợi khâu "P" (tỷ lệ, khuếch đại), độ lợi formula_1 được tăng lên từ không (0) cho đến khi nó đạt đến độ lợi formula_2 tối đa, mà đầu ra của vòng điều khiển dao động với biên độ không đổi. formula_2 và chu kỳ dao động formula_4 được sử dụng để thiết lập độ lợi "P", "I", và "D" tùy thuộc vào loại điều khiển được sử dụng:
1
null
Động vật hình cây là một động vật có bề ngoài tương tự như một thực vật, ví dụ động vật thuộc bộ Hải quỳ. Đây là một khái niệm lỗi thời xét trong khoa học hiện đại. Động vật hình cây xuất hiện phổ biến trong các sách thảo dược thời kì Trung cổ và Phục hưng. Một ví dụ nổi bật là "cây cừu" - loài sinh vật mà người ta tin rằng có quả là một con cừu. Động vật hình cây cũng xuất hiện trong nhiều y văn cổ có tầm ảnh hưởng như cuốn "De Materia Medica" của Dioscorides cũng như các phóng tác và bài bình về tác phẩm đó, đáng chú ý là cuốn "Discorsi" của Mattioli. Người ta thường xem động vật hình cây là một sự cố gắng của con người thời Trung cổ nhằm giải thích nguồn gốc các loài cây lạ lùng chưa được biết đến trước đó ("cây cừu" là một nỗ lực để giải thích cho sự tồn tại của sợi bông). Các báo cáo về động vật hình cây tiếp tục xuất hiện trong thế kỉ 17 và nhận được lời bình từ nhiều nhà tư tưởng có sức ảnh hưởng vào thời ấy như Francis Bacon. Chỉ đến tận năm 1646 thì những lời tuyên bố về sự tồn tại của động vật hình cây chỉ bị bác bỏ cụ thể, và ngày càng có nhiều chỉ trích nhắm vào những lời tuyên bố này trong suốt thế kỉ 17 và 18. Ở những nền văn hoá phương Đông như Trung Quốc cổ đại thì nấm được phân loại là thực vật trong các sách Đông y; người ta xem các loài nấm thuộc chi "Cordyceps" - cụ thể là "Ophiocordyceps sinensis" (đông trùng hạ thảo) - là các động vật hình cây. Văn hoá đại chúng. Tác phẩm "Hai vạn dặm dưới đáy biển" do nhà văn Jules Verne viết vào thế kỉ 19 sử dụng lặp đi lặp lại nhiều lần khái niệm "động vật hình cây" khi miêu tả sự sống dưới đáy đại dương.
1
null
Gaius Julius Antiochus IV Epiphanes (tiếng Hy Lạp cổ đại: Γάιος Ἰούλιος Ἀντίοχος ὀ Ἐπιφανής, trước năm 17 CN - 72 CN) trị vì từ năm 38-72 CN và là một vị vua chư hầu của đế quốc La Mã. Ông cũng còn là vị vua cuối cùng của Commagene. Cuộc đời. Antiochus là một hoàng tử và con trai của vua Antiochus III xứ Commagene và mẹ ông là nữ hoàng Iotapa của Commagene. Cha mẹ của Antiochus IV là hai anh em ruột với nhau. Bản thân Antiochus cũng sẽ kết hôn với người em gái Iotapa của ông. Antiochus mang trong mình dòng máu Armenia, Hy Lạp và Media. Thông qua tổ tiên của mình từ Commagene, nữ hoàng Laodice VII Thea, mẹ của vua Antiochus I Theos của Commagene, ông là một hậu duệ trực tiếp của vương quốc Seleukos. Antiochus dường như đã còn rất trẻ tuổi vào năm 17 CN khi mà cha ông qua đời. Hoàng đế La Mã Tiberius đã đồng ý với các công dân của Commagene là sẽ sáp nhập vương quốc của họ vào tỉnh Syria của La Mã. Từ năm 17 đến năm 38 CN, Antiochus dường như đã trở thành công dân La Mã. Ông đã sống và lớn lên ở Roma cùng với em gái mình. Trong năm 38, Antiochus đã được nhận lại vương quốc của mình từ người cháu nội của Antonia, hoàng đế La Mã Caligula. Ngoài ra, hoàng đế đã còn mở rộng thêm vùng đất của Antiochus "với một phần của Cilicia giáp với bờ biển". Caligula cũng đã giao lại cho ông toàn bộ số tiền thuế của Commagene trong hai mươi năm khi nó từng là một tỉnh của La Mã Những lý do cho việc một vị vua chư hầu lại được ban cho nhiều đến như vậy thì chưa rõ ràng. Có lẽ là do một cơn đột quỵ mà được chứng thực là đã khiến cho Caligula trở nên kì cục. Antiochus vốn là một người tâm phúc của Caligula, ông và vua Agrippa I được nói đến như là những thầy dạy của hoàng đế về nghệ thuật của chế độ độc tài. Tuy nhiên, tình bạn này lại không kéo dài được lâu vì sau đó ông đã bị Caligula lật đổ. Antiochus đã không có được vương quốc của mình một lần nữa cho đến khi Claudius lên ngôi hoàng đế vào năm 41 CN . Trong năm 43, người con trai cả của ông, Gaius Julius Archelaus Antiochus Epiphanes, đã đính hôn với Drusilla, con gái của Agrippa I. Ngoài Epiphanes, Antiochus cũng có hai người con với Iotapa: Callinicus và Iotapa trẻ. Vào năm 53 Antiochus đã dập tắt một cuộc nổi dậy của một số bộ lạc man rợ ở Cilicia, được gọi là Clitae. Vào năm 55 CN, ông đã nhận được mệnh lệnh từ Hoàng đế La Mã Nero, ra lệnh cho ông tuyển mộ quân đội để tiến hành cuộc chiến chống lại người Parthia, và vào năm 59 ông đã phục vụ dưới quyền của tướng Gnaeus Domitius Corbulo trong cuộc chiến chống lại vua Tiridates I của Armenia, em trai của vua Parthia, Vologases I. Nhờ vào sự phụng sự của mình trong cuộc chiến này, trong năm 61, ông đã nhận được một phần của Armenia. Ông đã đứng về phía Hoàng đế La Mã Vespasianus sau khi ông ta được tuyên bố là hoàng đế vào năm 70; Và sau đó ông được nhắc đến như là người giàu nhất của các vị vua chư hầu Trong cùng năm đó ông đã phái một đội quân dưới chỉ huy của Epiphanes-con trai ông- tới hỗ trợ cho hoàng tử Titus trong cuộc bao vây Jerusalem Trong thời gian trị vì của mình, ông đã thành lập các thành phố sau đây: Germanicopolis, Iotapa và Neronias Tuy nhiên, sự cai trị Antiochus đã đi đến hồi kết chỉ hai năm sau đó vào năm 72, khi ông bị viên thống đốc của Syria, Lucius Caesennius Paetus, buộc tội là đã âm mưu với người Parthia chống lại người La Mã. Do đó ông đã bị tước mất vương quốc của mình. Hai người con trai Antiochus, Epiphanes và Callinicus, dã chạy trốn sang Parthia sau một cuộc giao tranh ngắn với quân đội La Mã. Bản thân Antiochus đầu tiên lui về Sparta, và sau đó đến Roma, tại đây ông dành phần đời còn lại mình với những người con trai của ông,Epiphanes và Callinicus, và đã được đối đãi với sự kính trọng lớn. Một trong số những người cháu nội của Antiochus và Iotapa là Philopappos, một công dân Athens xuất chúng, sống ở Hy Lạp vào giữa thế kỷ thứ 1 tới thế kỷ thứ 2.
1
null
Sao Thủy có bầu khí quyển rất mỏng và rất khác nhau, chứa hydro, heli, oxy, natri, calci, kali và hơi nước, với áp suất tổng vào khoảng 10−14 bar (1 nPa). Các nguyên tố ngoại quyển chủ yếu đến từ hoặc là gió Mặt Trời hoặc lớp vỏ của hành tinh. Gió Mặt Trời đẩy các khí của khí quyển ra xa Mặt Trời tạo thành một cái đuôi giống như sao chổi phía sau của hành tinh tính từ hướng Mặt Trời. Sự tồn tại của khí quyển Hermian đã là chủ đề gây tranh cãi trước năm 1974 mặc dù vào lúc đó có sự đồng thuận rằng Mercury, giống như Mặt Trăng, thiếu một bầu khí quyển đáng kể. Kết luận này đã được xác nhận năm 1974 khi tàu không gian Mariner 10 chỉ phát hiện ra một bầu khí quyển mỏng manh trên hành tinh này. Sau đó, vào năm 2008, các đo đạc thêm đã được tàu không gian "MESSENGER" thực hiện, và nó đã phát hiện ra magnesi có trong tầng ngoài khí quyển Hermian. Thành phần. Ngoại quyển Hermian gồm nhiều thành phần có nguồn gốc từ gió Mặt Trời hoặc từ lớp vỏ hành tinh. Thành phần đầu tiên đã được phát hiện là nguyên tử Hydro(H), heli (He) và nguyên tử oxy (O), chúng được quan sát từ các quang phổ kế tử ngoại của tàu không gian Mariner 10 năm 1974. Nồng độ các nguyên tố này ở gần bề mặt ước tính dao động từ 230 cm−3 đối với hydro đến 44.000 cm−3 đối với oxy, còn heli nằm ở giá trị trung bình của hai nguyên tố trên. Năm 2008, tàu "MESSENGER" đã xác nhận sự có mặt của nguyên tử hydro, nhưng nồng độ của nó cao hơn ước tính năm 1974. Hydro và heli trong ngoại quyển Sao Thủy được tin là đến từ gió Mặt Trời, trong khi oxy có thể có nguồn gốc từ lớp vỏ của hành tinh này. Nguyên tố thứ 4 được phát hiện trong ngoại quyển Sao Thủy là natri. Nó được Drew Potter và Tom Morgan phát hiện năm 1985, khi quan sát các đường phát xạ Fraunhofer của nó ở các bước sóng 589 và 589,6 nm. Mật độ trung bình theo chiều đứng của nguyên tố này đạt khoảng 1 cm−2. Theo quan sát, natri tập trung gần các cực tạo thành các điểm sáng. Sự phong phú của nó cũng được tăng cao vào lúc gần bình minh so với hoàng hôn. Một số nghiên cứu cho rằng có sự tương quan giữa sự phong phú của natri với các đặc điểm bề mặt nhất định như Caloris hay các điểm sáng được nhận dạng bằng sóng radio; tuy nhiên các kết quả này vẫn đang là vấn đề tranh cãi. Một năm sau khi phát hiện ra natri, Potter và Morgan thông báo rằng kali (K) cũng có mặt trong ngoại quyển Sao Thủy, tuy nhiên mật độ theo chiều đứng của nó thấp hơn của natri 100 lần. Các đặc điểm và sự phân bố trong không gian của hai nguyên tố này là rất giống nhau. Năm 1998 một nguyên tố khác là calci cũng được phát hiện với mật độ theo chiều đứng nhỏ hơn natri gấp 1000 lần. Các quan sát của tàu "MESSENGER" năm 2009 đã cho thấy rằng calci tập trung chủ yếu gần xích đạo, trái ngược với sự phân bố của natri và kali. Vào năm 2008, bộ dò Fast Imaging Plasma Spectrometer (FIPS) của "MESSENGER" đã phát hiện ra nhiều loại phân tử và các ion khác nhau trong vùng lân cận của Sao Kim, bao gồm H2O+ (hơi nước bị ion hóa) và H2S+ (hydro sulfide bị ion hóa). Mức độ phổ biến của nó so với natri lần lượt là 0.2 và 0.7. Các ion khác như H3O+ (hydroni), OH (hydroxyl), O2+ và Si+ đều tồn tại. Trong lần bay ngang năm 2009, kênh Ultraviolet and Visible Spectrometer (UVVS) và Mercury Atmospheric and Surface Composition Spectrometer (MASCS) trên tàu "MESSENGER" lần đầu tiên khám phá ra sự hiên diện của magnesi trong khí quyển Hermian. Sự phổ biến gần bề mặt của chất mới được phát hiện này xấp xỉ bằng với natri.
1
null
Ngày 24 tháng 4 năm 2013, một tòa nhà tám tầng sụp đổ ở Savar, một tiểu khu gần Dhaka, thủ đô của Bangladesh. Ít nhất 1,134 người chết và 2.500 người khác bị thương. Tòa nhà này phía trong có nhà máy sản xuất quần áo, một ngân hàng, một số căn hộ và cửa hàng khác.. Các cửa hàng và ngân hàng nằm ở tầng dưới đã ngay lập tức đóng cửa khi phát hiện những vết nứt trong tòa nhà. Chủ tòa nhà đã phớt lờ các cảnh báo tránh sử dụng tòa nhà sau khi các vết nứt xuất hiện ngày hôm trước. Chủ tòa nhà bỏ trốn và là người bị cảnh sát quy trách nhiệm chính trong việc đảm bảo với chủ các công ty thuê tòa nhà rằng tòa nhà vẫn an toàn, khiến các thợ may được yêu cầu trở lại làm việc vào ngày hôm sau, và tòa nhà đã sụp đổ trong giờ cao điểm buổi sáng. Vào ngày 28 tháng tư, chủ nhân của tòa nhà Rana Plaza, Sohel Rana, đã bị bắt giữ bởi cảnh sát ở Benapole, nằm ở gần biên giới với Bangladesh, tại huyện Jessore.
1
null
Lý Hiếu Cung (chữ Hán: 李孝恭; 591 – 640), là một thân vương và tướng lĩnh nhà Đường. Ông là cháu họ của Đường Cao Tổ Lý Uyên và có công tiêu diệt các thế lực Tiêu Tiển, Phụ Công Thạch trong quá trình thống nhất thiên hạ. Lý Hiếu Cung là một trong số ít các tướng lĩnh nổi bật thời Đường sơ không khởi nghiệp dưới trướng của Tần vương Lý Thế Dân, người về sau trở thành Đường Thái Tông. Do công lao to lớn, ông được xếp vào hàng đầu trong 24 công thần được vẽ ở Lăng Yên các. Tuổi trẻ. Lý Hiếu Cung sinh năm 591, dưới thời Tùy Văn Đế. Ông là con trai của Lý An, anh em họ với Đường Cao Tổ Lý Uyên. Cha của Lý An, Lý Úy (李蔚), và Lý Bính - thân sinh của Cao Tổ Lý Uyên - là hai anh em ruột. Lý Úy là con thứ 7, còn Lý Bính là con thứ ba của Lý Hổ (李虎), Bát trụ quốc nhà Tây Ngụy và về sau được truy tôn là Đường Thái Tổ. Lý An cũng từng làm Đại tướng quân nhà Tùy. Năm 617, Lý Uyên khởi binh phản Tùy và chiếm Trường An, tôn Đại vương Dương Hựu lên làm hoàng đế, tức là Tùy Cung Đế. Lý Hiếu Cung được phong làm Tả quang lộc đại phu, Sơn Nam chiêu úy đại sử, phụ trách kinh lược Ba Thục. Sau đó ông đánh bại Chu Xán, thu phục được hơn 30 châu phía Nam dãy Tần Lĩnh. Khi đánh bại Chu Xán, các tướng dưới quyền từng khuyên Lý Hiếu Cung giết hàng binh nhưng ông từ chối nên danh tiếng tăng mạnh và các thế lực địa phương nhanh chóng quy phục. Sau khi Tùy Dạng Đế bị giết ở Giang Đô (nay là Dương Châu, Giang Tô) vào năm 618, Lý Uyên ép Cung Đế nhường ngôi để lập ra nhà Đường và trở thành Đường Cao Tổ, đặt niên hiệu là Vũ Đức. Năm Vũ Đức thứ 2 (619), Lý Hiếu Cung được phong là "Tín Châu tổng quản" (nay là vùng phía Đông Trùng Khánh), năm sau nữa được phong là Triệu quận vương (赵郡王). Vì lãnh thổ mà Lý Hiếu Cung quản lý tiếp giáp với nước Lương của Tiêu Tiển nên ông thường hiến sách lược bình định Tiêu Tiển lên Đường Cao Tổ. Năm Vũ Đức thứ 4, ông được phong làm Quỳ Châu tổng quản, đóng thêm chiến thuyền, tăng cường tập luyện thủy quân để chinh phạt Tiêu Tiển. Đường Cao Tổ phong Lý Tĩnh làm phó tướng và quân sư cho ông. Chiến dịch đánh Tiêu Tiển. Mùa thu năm 621, Lý Hiếu Cung và Lý Tĩnh dẫn theo Lư Giang quận vương Lý Viện cùng các tướng Điền Thế Khang (田世康), Chu Pháp Minh (周法明) tấn công Tiêu Tiển. Khi đó nước sông Trường Giang đang lên cao và nước chảy xiết nên nhiều người cho rằng nên tạm hoãn chiến dịch, nhưng Lý Hiếu Cung (có thể là với sự tham mưu từ Lý Tĩnh) lại quyết định lợi dung dòng nước xiết để tung ra một cuộc tấn công bất ngờ vào Giang Lăng (nay là Kinh Châu, Hồ Bắc). Sau khi đánh bại tướng Lương là Văn Sĩ Hoằng, Lý Hiếu Cung bao vây Giang Lăng và cất đứt liên lạc giữa Tiêu Tiển với phần còn lại của nhà Lương. Ông cho thả các chiến thuyền bắt được của nhà Lương xuôi dòng Trường Giang để gây hoang mang cho các đội quân tiếp viện. Tiêu Tiển, không biết rằng 10 vạn viện binh chỉ còn cách Giang Lăng vài ngày đường, quyết định đầu hàng Lý Hiếu Cung theo khuyến nghị của Sầm Văn Bản. Khi các cánh quân tiếp viện đến nơi thì Giang Lăng đã thất thủ và phần lớn trong số họ đầu hàng quân Đường. Lý Hiếu Cung giải Tiêu Tiển về Trường An, nơi ông này bị Đường Cao Tổ xử tử. Sau đó Lý Hiếu Cung được phong làm "Kinh Châu đại tổng quản", quản lý phần đất cũ của nước Lương. Trong thời gian ở đây, bên cạnh việc khuyến khích binh sĩ định cư thì ông cũng đẩy mạnh việc khai thác mỏ đồng phục vụ hoạt động thương mại. Chiến dịch đánh Phụ Công Thạch. Mùa thu năm Vũ Đức thứ 6 (623), bộ tướng Phụ Công Thạch (輔公祏) của Đỗ Phục Uy (杜伏威) (khi đó đang ở Trường An) phản Đường, suất lĩnh quân đội chiếm Bồ Châu, tự xưng là Tống Vương. Cao Tổ lệnh cho Lý Hiếu Cung đi đánh dẹp Phụ, lại phong Lý Tĩnh làm phó tướng và sai các tướng Hoàng Quân Hán, Lý Thế Tích tấn công Phụ từ hướng Bắc. Phụ sai các tướng Phùng Huệ Lượng (馮慧亮), Trần Đương Thế (陳當世) ra đóng giữ núi Bác Vọng, lệnh cho họ chỉ phòng thủ chứ không được tấn công quân Đường. Tuy nhiên, Lý Hiếu Cung đã cắt đứt đường tiếp lương của quân Tống và ép hai tướng này phải xuất chiến. Một số thuộc tướng đề nghị đi vòng qua cánh quân của Phùng, Trần và tấn công thẳng vào Đan Dương, kinh đô nước Tống (nay là Nam Kinh, Giang Tô), nhưng Lý Hiếu Cung (có thể lại nhờ khuyến nghị của Lý Tĩnh), quyết định bày trận giao chiến. Ban đầu, Lý Hiếu Cung chỉ phái ra một đội quân nhỏ và vờ bại trận, dẫn dụ quân của Phùng, Trần vào sâu trong trận địa của mình trước khi tiêu diệt hầu như toàn bộ đạo quân Tống này, với sự trợ giúp của bộ tướng dưới quyền Đỗ Phục Uy là Khám Lăng (闞稜). Sau chiến thắng, Lý Hiếu Cung và Lý Tĩnh dẫn quân công hãm Đan Dương. Phụ Công Thạch hoảng hốt bỏ chạy về hướng Đông nhưng bị dân bản địa bắt và giải đến nộp cho quân Đường. Cuộc sống về sau. Sau khi đánh bại quân Tống, Lý Hiếu Cung được phong làm "Dương châu Đại đô đốc", quản lý toàn bộ phần đất phía Nam Trường Giang. Do nắm quân quyền quá lớn và lại rất được lòng binh lính, Lý Hiếu Cung bị cáo buộc là có ý mưu phản khi ông tu bổ lại Thạch Đầu thành (pháo đài cũ của các triều đại Nam triều, gần Đan Dương). Cao Tổ triệu ông về Trường An chất vấn, dù không tìm thấy bằng chứng nào nhưng Lý Hiếu Cung vẫn bị tước binh quyền, cải phong làm "Tông chính khanh", chức vị trông coi việc ghi chép gia phả của hoàng tộc, một chức quan lớn nhưng không có nhiều thực quyền. Sau đó, Lý Hiếu Cung lần lượt được phong làm Tổng quản Lương châu (nay là Vũ Uy, Cam Túc) và Tấn châu (nay là Lâm Phần, Sơn Tây). Năm Trinh Quán thứ nhất (626), Lý Hiếu Cung được phong Hà Gian quận vương (河間郡王), kiêm Lễ bộ thượng thư. Về cuối đời, Lý Hiếu Cung sống rất xa xỉ, lúc nào cũng có hơn 100 ca kỹ múa hát trong nhà. Tuy nhiên, ông từng tiết lộ với bạn bè rằng mình: "không muốn làm thế" và chỉ sống xa hoa nhằm tránh bị Hoàng đế nghi kị. Năm Trinh Quán thứ 14 (640), Lý Hiếu Cung qua đời, hưởng thọ 50 tuổi và được phong làm Tư không, Dương châu đô đốc, chôn tại Hiến Lăng (獻陵). thụy hiệu là Nguyên (元). Năm thứ 17 (643), Lý Hiếu Cung là một trong số 24 khai quốc công thần được vẽ tranh ở Lăng Yên Các. Con trưởng Lý Sùng Nghĩa (李崇义) được tập tước Hà Gian quận vương, từng làm đến Thứ sử Bồ châu, Đồng châu, Ích châu Đại đô đốc, rất có uy danh lúc đương thời. Con thứ hai Lý Sùng Hối (李崇晦) cũng được truy tặng làm U Châu đô đốc, con thứ ba Lý Sùng Chân (李崇真) từng làm đến thứ sử Kì Châu.
1
null
Chốt chặn cuối cùng (tựa đề tiếng Anh: The Last Stand) là một bộ phim hành động Mỹ được công chiếu vào năm 2013, với nam diễn viên Arnold Schwarzenegger, nhà biên kịch Andrew Knauer và đạo diễn Kim Jee-woon. Vai diễn trong phim này là vai chính đầu tiên của Schwarzenegger kể từ sau bộ phim "" phát hành năm 2003. Đây cũng là sản phẩm hợp tác Mỹ - Hàn Quốc đầu tay của đạo diễn Kim Jee-woon, nhà quay phim Kim Ji-yong và nhà soạn nhạc Mowg. Tiêu điểm trong phim là cuộc chiến đấu của Cảnh sát trưởng một thị trấn nhỏ và những người cộng sự của ông nhằm chặn đứng sự tẩu thoát của tên trùm ma túy nguy hiểm qua biên giới Mexico trên chiếc ôtô thể thao đã cải tiến. Nội dung. Cảnh sát trưởng Ray Owens (do Arnold Schwarzenegger thủ vai) là một người đã từ nhiệm ở LAPD (Sở Cảnh sát thành phố Los Angeles) về Sommerton Junction, Arizona, một thị trấn yên tĩnh vùng biên giới sau khi các cộng sự đều hi sinh do một sơ suất của ông khi đang truy bắt tội phạm ma túy. Những lỗi thường gặp ở nơi này như ông Thị trưởng đậu xe Camaro vào nơi cấm đậu dùng cho trạm chữa cháy, hay tay sưu tầm vũ khí Lewis Dinkum (do Johnny Knoxville thủ vai) treo một tảng thịt để tập bắn súng cùng hai viên cảnh sát tại bảo tàng vũ khí của anh ta. Một đêm, tên trùm ma túy quốc tế Gabriel Cortez (do Eduardo Noriega thủ vai) đã tẩu thoát táo bạo khỏi xe vận chuyển tử tù của FBI tại Las Vegas và bắt đặc vụ Ellen Richards (do Genesis Rodriguez thủ vai) theo làm con tin, chạy tốc độ trên 200 dặm một giờ về phía biên giới Mexico trên chiếc xe thể thao cải tiến Chevrolet Corvette C6 ZR1. Đặc vụ John Bannister (do Forest Whitaker thủ vai) đã cho thiết lập phong tỏa tại đường vào thành phố Bullhead, Arizona, nhưng Cortez đã cho thuộc hạ dùng hỏa lực mạnh và xe chuyên dụng để thông đường cho hắn. Cortez cũng sử dụng kỹ năng lái xe điêu luyện để làm hư hại nặng hai xe của đội SWAT đang đi về phía Sommerton. Trước khi bay đến Arizona, Bannister đã cho điều tra nhân sự trong nội bộ để tìm hiểu làm thế nào bọn thuộc hạ của Cortez giúp hắn trốn thoát một cách dễ dàng như vậy. Trở lại thị trấn Sommerton lúc 4:30 sáng, Owens ra lệnh cho cấp dưới Jerry Bailey (do Zach Gilford thủ vai) và Sarah Torrance (do Jaimie Alexander thủ vai) đến kiểm tra nhà lão nông dân Parsons (do Harry Dean Stanton thủ vai), người đã không giao sữa đến quán ăn như thường lệ. Sau khi phát hiện Parsons đã bị sát hại, Bailey và Torrance theo dấu bánh xe tải đến hẻm núi nơi tay sai của Cortez, Thomas Burrell (do Peter Stormare thủ vai) và đám lính đánh thuê của hắn đang dựng một cây cầu trên hẻm núi, mốc biên giới Mỹ / Mexico. Bailey đã bị thương nặng trong cuộc đấu súng với những thuộc hạ của Burrell trước khi Owens lái xe xông vào để cứu cấp dưới của mình trở lại đồn. Sau khi được Bannister thông báo tên của kẻ tẩu thoát là Cortez, Owens khẩn cấp triển khai phương án đối phó với tên trùm nguy hiểm này. Ông đề bạt Sarah Torrance, Mike "Figgy" Figuerola (do Luis Guzmán thủ vai) và Frank Martinez (do Rodrigo Santoro thủ vai) - một cựu đặc nhiệm trong cuộc chiến Iraq đã suy sụp tinh thần từ khi về nước. Martinez trở thành kẻ nát rượu và đang bị tạm giam tại đồn vì tội gây rối, nhưng sau cái chết của người bạn Bailey, anh muốn giúp Owens vây bắt Cortez. Sau cùng, Owens tuyển cả Dinkum vì anh ta có kho vũ khí đủ loại để chống lại bọn thuộc hạ của Cortez. Dinkum đồng ý giúp Cảnh sát trưởng với điều kiện cho anh ta làm cấp phó và cho anh ta sử dụng khẩu súng ngắn ổ xoay Smith & Wesson Model 500. Lúc 7:10 sáng, nhóm của Owens dùng những chiếc ôtô chặn lối vào chính trong thị trấn trước khi Burrell và người của hắn đến, khiến cho trận chiến thêm gay go. Chỉ trang bị một khẩu Tommy Gun, Figuerola bước ra giữa làn khói của chiếc ôtô bị bọn Burrell bắn cháy, hiên ngang nã đạn vào chúng và bị thương bởi một tên bắn tỉa của Burrell trên mái nhà. Owens và Dinkum giết phần lớn những tên thuộc hạ của Burrell trên đường với một khẩu súng máy Vickers được mệnh danh là "Kẻ tiêu diệt Đức Quốc Xã" đặt ở cửa sau của một chiếc xe buýt do Martinez cầm lái, và bị một số tay súng tấn công từ trên mái nhà. Sau khi Owens giết chết Burrell bằng một phát đạn vào đầu, Cortez cuối cùng cũng đến thị trấn, hắn lách xe qua các chướng ngại vật trên đường thật nhanh chóng trong sự ngỡ ngàng của nhóm của Owens. Cortez đẩy đặc vụ Richards ra khỏi xe trước khi tăng tốc đến cánh đồng ngô. Owens dùng chiếc Chevrolet Camaro ZL1 của Thị trưởng đậu gần đó đuổi theo Cortez trước khi cả hai chiếc xe va chạm một xe thu hoạch ngô trên cánh đồng. Cortez choáng váng bước ra khỏi xe và nhìn thấy cây cầu mới dựng, hắn chạy bộ về phía cây cầu nhưng Owens đã đứng chờ hắn ở đó từ lúc nào. Cortez định đút lót số tiền lớn để Owens cho hắn thoát thân, nhưng Owens không quan tâm. Cả hai vật lộn nhau trước khi Cortez dùng dao găm tấn công, cuối cùng Owens đánh bại tên trùm ma túy và còng tay hắn bắt về thị trấn trên chiếc Camaro bị dập nát. Bannister đến nơi để đưa Cortez trở lại nhà tù và bắt giữ Richards cho việc nhận hối lộ của tên trùm ma túy và giúp hắn trốn thoát. Figuerola và Dinkum được đưa đến bệnh viện để điều trị vết thương. Martinez trả lại huy hiệu của Bailey mà Owens đã trao cho anh trước đó. Owens bảo Martinez hãy giữ nó vì anh xứng đáng. Kết thúc phim là cảnh Thị trưởng nhìn thấy chiếc Camaro của mình bị dập nát, Owens cảnh báo ông ta về việc đậu xe vào nơi dùng cho trạm chữa cháy trước khi cùng Torrance và Martinez bước vào quán ăn. Sản xuất và phát hành. Phim được khởi quay vào ngày 17 tháng 10 năm 2011 tại Belen, New Mexico và Nevada. Bộ phim bị gián đoạn một thời gian ngắn vào ngày 17 tháng 12 năm 2011 và được tiếp tục quay vào ngày 3 tháng 1 năm 2012. Những cảnh quay cuối cùng kết thúc vào ngày 2 tháng 2 năm 2012 và được thực hiện phần hậu kỳ ở Los Angeles. Đoạn clip nổi bật của phim được ra mắt cùng với phim "The Expendables 2" và được truyền trên internet kể từ tháng 8 năm 2012. Bộ phim đã được phát hành trên toàn thế giới vào ngày 17 tháng 1 năm 2013 và tại Bắc Mỹ vào ngày hôm sau. "Chốt chặn cuối cùng" đã được phát hành đĩa DVD và Blu-ray vào ngày 21 tháng 5 năm 2013. Đánh giá. Bộ phim nhận được sự đánh giá trái chiều từ các nhà phê bình. Nó được điểm 59% trên Rotten Tomatoes dựa trên 146 đánh giá với sự đồng thuận nêu rõ: "Không có gì đặc biệt đáng kể về nó, ngoại trừ cho người hâm mộ Schwarzenegger, "Chốt chặn cuối cùng" cung cấp giải trí không đòi hỏi xuất sắc". Phim được xếp hạng 54 trên 100 điểm, dựa trên 33 đánh giá từ Metacritic. Biên tập viên Jim Vejvoda trên IGN đánh giá bộ phim 6/10 điểm và viết: "Những thiếu sót của bộ phim rõ ràng bất cứ khi nào được yêu cầu để là một phim kinh điển. Đó là lý do không phải hầu hết khán giả sẽ muốn xem "Chốt chặn cuối cùng", nhưng nó đủ sức thuyết phục khi đánh giá tổng thể của bộ phim. "Chốt chặn cuối cùng" là một bộ phim hành động mang tính công thức, nhưng nó vẫn cung cấp những pha lái xe mạo hiểm và đẹp mắt, cảnh đấu súng gây cấn, màn đấu tay đôi kịch tính ở phần kết, pha lẫn chút hài hước để đảm bảo một hình ảnh Arnold cho người hâm mộ". Richard Roeper cũng thích bộ phim này, cho điểm 3/4 sao và nói: "Nếu bạn đã mệt mỏi với những phim mang nội dung bạo lực và ngán ngẫm những bản tin khủng bố đẫm máu trên truyền hình, bạn sẽ không quan tâm khi nghe tên bộ phim này. Nhưng nếu bạn là một người hâm mộ diễn viên có phong cách riêng, những pha đấu súng dài hơi, cốt truyện luôn phát triển những tình huống bất ngờ, đây là vé để bạn thoát khỏi đời thực vào dịp cuối tuần". Doanh thu. Bộ phim được xếp hạng ở vị trí thứ 9 về doanh thu tại các phòng vé khi khởi chiếu. Trong tuần lễ ra mắt đầu tiên đã đạt doanh thu thấp hơn kỳ vọng, chỉ dưới 6.300.000 đôla. Bộ phim thất bại về mặt doanh thu với con số khiêm tốn 48.330.757 đôla.
1
null
Tổng thống Paraguay (chính thức trong tiếng Tây Ban Nha Excelentisimo Señor Presidente de la República del Paraguay) theo Hiến pháp Paraguay là người đứng đầu nhánh hành pháp Chính phủ Paraguay. Vì vậy, Tổng thống là người đứng đầu Nhà nước và người đứng đầu Chính phủ nước Cộng hòa Paraguay. Nơi làm việc của Tổng thống Paraguay là Palacio de los López, ở Asunción. Nhà ở của Tổng thống là nhà Mburuvichá Roga, cũng tọa lạc ở Asunción. Sau khi Tổng thống thôi chức, thì được Hiến pháp Paraguay ban quyền Thượng nghị sĩ suốt đời có quyền phát ngôn nhưng không có quyền biểu quyết.
1
null
Lee Ah-reum hay còn được biết đến với nghệ danh Areum là ca sĩ Hàn Quốc. Areum là cựu thành viên của nhóm nhạc nữ nổi tiếng T-ARA và nhóm nhỏ T-ara N4. Tiểu sử. 1994–2012: Tuổi trẻ. Areum sinh ngày 19/04/1994. Cả bố và mẹ đều làm việc trong ngành công nghiệp âm nhạc. Cô tham dự trường Nghệ thuật Harlim, khoa Âm nhạc và đưng đầu lớp trong nhiều năm. 2012–2013: Tham gia vào T-ARA. Areum gia nhập T-ARA vào tháng 7 năm 2012 là thành viên thứ 8 của nhóm, Cô xuất hiện lần đầu trong Day By Day. Cô đã được xác nhận là thành viên thứ tám vào ngày 12 tháng 6 năm 2012 và công ty đã phát hành hình ảnh chính thức của Areum vào ngày 14 tháng 6 năm 2012. 2013: Rời nhóm. Ngày 10 tháng 7, MBK Entertainment (lúc bấy giờ là C.C.M) đã đăng lên trên trang chủ Youtube của công ty một đoạn clip của thành viên Areum với lời thông báo sẽ tách khỏi nhóm để phát triển sự nghiệp solo. Thông tin này ngay lập tức tạo ra một cơn chấn động không hề nhỏ trong cộng đồng fan T-ARA nói riêng và fan Kpop nói chung. Trong đoạn clip, Areum cho biết: "Có một thông tin tôi muốn chia sẻ, tôi sẽ ra mắt như một ca sĩ solo trong thời gian tới. Đừng quên Areum của T-ARA nhé. Cảm ơn các bạn đã dành cho tôi rất nhiều tình cảm. Tôi cảm nhận được tất cả thông qua những buổi họp fan và suốt quá trình quảng bá cùng T-ARA. Trong tương lai, tôi sẽ gặp lại các bạn với một hình ảnh hay hơn gấp mấy nghìn lần so với Jeon Won Diary. Thời gian ở cùng các người chị của tôi đã kết thúc, nhưng Areum sẽ trở lại là một nghệ sĩ solo. Và các chị T-ARA vẫn tiếp tục hoạt động, đừng quên họ và cũng đừng quên Areum nữa nhé. Areum cố lên! T-ARA cố lên! Cảm ơn các bạn rất nhiều đã ủng hộ Areum tới tận bây giờ. Xin đừng quên những ca khúc, những màn biểu diễn mà tôi có với T-ARA nhé! Tôi yêu các bạn!" 2013: Thành viên của T-ARA N4. Trước khi rời nhóm, Areum cũng là một thành viên của nhóm nhỏ T-ARA - T-ARA N4. Nhóm đã ra mắt cùng với ca khúc "Countryside Life" vào ngày 29 tháng 4 năm 2013. Nhưng chỉ sau đó vài tháng, tức là khi Areum tách nhóm để hoạt động solo cũng đồng nghĩa với việc cô sẽ không còn là một thành viên của nhóm nhỏ T-ARA N4, và MBK Entertainment (lúc đó là C.C.M) thông báo rằng Dani - người đã đóng trong M/V "Day by Day" của T-ARA sẽ trở thành thành viên của T-ARA N4 để thế chỗ của Areum nhưng không phải là thành viên chính thức của T-ARA. Dani sẽ thay thế vị trí của Areum để hoạt động cùng T-ARA N4 tham gia các hoạt động của nhóm khi ở nước ngoài nhờ vốn tiếng Anh lưu loát của mình. 2017-nay: Tham gia The Unit.. Đây là hoạt động đầu tiên của Aerum kể từ ngày rời khỏi T-ara. Từ thời điểm đó đến bây giờ, cô vẫn theo đuổi sự nghiệp ca hát mà không có công ty quản lý. Dưới sự giúp đỡ của một số nhân viên, Areum quyết định tham gia show truyền hình của đài KBS. Trong một cuộc phỏng vấn kể từ sau khi bị loại khỏi The Unit., Areum đã tiết lộ rằng, mối quan hệ của cô với Hwayoung khi còn là thành viên của t-ara không xấu như mọi người nghĩ và cô còn cảm thấy biết ơn Hwayoung.Những lời chia sẻ cô đã khiến cho những người từng ủng hộ cô cảm thấy thất vọng và giận dữ
1
null
Shakhrisabz ( ; ; (thành phố xanh / thành phố xanh tươi); ); tiếng Nga: Шахрисабз), là một thành phố nằm ở tỉnh Qashqadaryo, miền nam Uzbekistan, nằm cách khoảng 80 km về phía nam của thành phố Samarkand. Thành phố nằm ở độ cao 622 mét so với mực nước biển và có dân số 100.300 (2014). Trong quá khứ, thành phố từng có tên là Kesh hoặc Kish, là một trong những thành phố lớn nhất Trung Á, và là đô thị quan trọng của Sogdiana. Ngày nay, nó chủ yếu được biết đến là nơi sinh của hoàng đế Timur Lenk xuất thân Thổ Nhĩ Kỳ-Mông Cổ vào thế kỷ 14. Lịch sử. Trước đây thành phố có tên là Kesh hoặc Kish và nó là một trong những thành phố cổ nhất của Trung Á. Nó được thành lập từ hơn 2700 năm trước đây. Tên của nó được chính thức đổi thành Shahrisabz trong kỷ nguyên hiện đại. Từ thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ 4 TCN nó là một phần của đế chế Akhemenid. Alexander Đại đế cùng với Ptolemaios chiếm được phó vương của Bactria và chinh phục được Ba Tư, Bessus tạo thành một đế chế Achaemenid rộng lớn. Alexander đã dành mùa đông để gặp vợ mình là Roxanna tại đây vào năm 328-327 TCN. Trong suốt thời kỳ này, Kesh là một trong những trung tâm quan trọng của Sogdiana. Các bức tường thành phố đã được cải tạo vào cuối thời kỳ Achaemenid. Tên của nó đã chính thức được đổi thành Shahrisabz trong thời kỳ hiện đại. Vị tướng của Alexander Đại đế là Ptolemaios I Soter là người đã đánh bại Bessus tại Nautaca và chấm dứt đế chế Achaemenid vĩ đại. Alexander Đại đế đã gặp vợ của mình là Roxana tại đây vào năm 328-327 trước Công nguyên. Giữa năm 567 và 658, các nhà cai trị Kesh đã phải trả thuế cho các Khả hãn của Turk và Tây Turk. Đến năm 710, thành phố bị người Ả Rập chinh phục, và sau cuộc chinh phục của Mông Cổ ở Khwarezmia vào thế kỷ 13, khu vực nằm dưới sự kiểm soát của những người Barla, tất cả các dòng dõi của họ dường như có mối liên kết với khu vực này. Kesh là nơi sinh của Timur vào năm 1336, trong gia đình của một tù trưởng Barla địa phương và trong những nằm đầu của triều đại Timur, thành phố được hưởng sự bảo trợ đáng kể của ông. Timur coi Kesh là thị trấn quê hương của mình, và dự định cuối cùng là sẽ đặt ngôi mộ của ông tại đây. Tuy nhiên, trong thời gian trị vì của mình, trung tâm của triều đại của ông đã chuyển sang Samarkand. Địa điểm lịch sử. Một số di tích còn lại từ triều đại Timurid đã trở thành khu lịch sử của thành phố được UNESCO ghi vào danh sách di sản thế giới vào năm 2000. Là công trình vĩ đại nhất trong số các công trình do vua Timur xây dựng. Nó được xây dựng vào năm 1380 bởi các nghệ nhân từ ốc đảo Khwarezm. Nhưng công trình này đã bị phá hủy, chỉ còn lại dấu tích của cổng tháp khổng lồ cao 65 mét với đá xanh, trắng vàng được khảm rất tinh xảo. Đây là tổ hợp bao gồm 6 nhà thờ Hồi giáo được xây dựng năm 1437 bởi Ulugh Beg. Nằm sau nhà thờ là một lăng mộ được xây dựng năm 1438. Phía đông của Kok Gumbaz là một lăng mộ có tên là Dorus-Saodat, trong đó có các lăng mộ của Jehangir, con trai cả của Timur. Nhà thờ Hồi giáo liền kề được cho là ngôi mộ của một lãnh tụ Hồi giáo được tôn kính thế kỷ thứ 8 có tên là Amir Kulal. Phía sau Hazrat-i Imam là một hầm trú ẩn với một cánh cửa dẫn đến một căn phòng sâu dưới lòng đất được phát hiện bởi các nhà khảo cổ vào năm 1943. Các phòng có một quan tài bằng đá duy nhất, trên đó khắc chữ chỉ ra rằng nó được để dự định cho thi hài của Timur khi ông qua đời. Tuy nhiên, ông được chôn cất tại Samarkand chứ không phải ở Shahrisabz, và bí ẩn về ngôi mộ của ông ở Shahrisabz có hai xác chết chưa được xác định rõ danh tính. Ngoài ra là một số công trình bao gồm tổ hợp chợ được xây dựng vào thế kỷ 18 và phòng tắm thời Trung cổ.
1
null
Mỏ than Bản Khê Hồ (Trung văn giản thể: 本溪湖煤矿, Trung văn phồn thể: 本溪湖煤矿), nằm ở Bản Khê, Liêu Ninh, Trung Quốc, lần đầu tiên được khai thác vào năm 1905. Người ta bắt đầu dự án khai thác mỏ sắt và than dưới sự kiểm soát chung của Nhật Bản và Trung Quốc. Thời gian trôi qua, dự án dần chuyển qua kiểm soát của Nhật Bản. Đầu những năm 1930, Nhật Bản xâm chiếm phía đông bắc của Trung Quốc và tỉnh Liêu Ninh đã trở thành một phần của quốc gia bù nhìn Nhật Bản kiểm soát Mãn Châu Quốc. Người Nhật buộc người Hoa làm việc khai thác than trong điều kiện rất tồi tệ. Thực phẩm khan hiếm và người lao động không có đủ quần áo. Điều kiện làm việc khắc nghiệt và các bệnh như thương hàn, dịch tả phát triển mạnh mẽ. Thông thường người thợ mỏ làm việc 12 giờ mỗi tuần hoặc lâu hơn. Những người giám sát Nhật Bản đánh đập công nhân bằng cán cuốc, có nhiều mô tả công việc như lao động nô lệ. Vụ nổ. Ngày 26 tháng 4 năm 1942, một vụ nổ chất khí và bụi than ở mỏ làm thiệt mạng 1549 người, 34% của số thợ mỏ làm việc ngày hôm đó, khiến cho tai nạn này là tai nạn thảm họa tồi tệ nhất trong lịch sử khai thác than. Vụ nổ đã đẩy ngọn lửa tuôn vào hầm mỏ. Người thân thợ mỏ chạy đến nơi xảy ra vụ nổ, nhưng đã bị từ chối vào đó bằng một hàng rào bảo vệ của Nhật Bản đã dựng lên hàng rào điện để giữ không cho thợ mỏ chạy ra. Trong một nỗ lực để ngăn chặn lửa ngầm, người Nhật tắt hệ thống thông gió và đóng miệng hố. Các nhân chứng nói rằng người Nhật Bản đã không sơ tán hố đầy đủ trước khi đóng miệng hố, khiến nhiều người công nhân Trung Quốc mắc kẹt dưới đất đến nghẹt thở trong khói. Do đó, hành động của Nhật Bản bị đổ lỗi là không cần thiết và làm tăng số người chết. Phải mất 10 ngày để loại bỏ tất cả những xác chết và đống đổ nát ra khỏi trục. Người chết được chôn cất trong một ngôi mộ tập thể gần đó. Nhiều nạn nhân không thể được xác định danh tính đúng do mức độ bỏng cao. Báo cáo ban đầu của người Nhật báo cáo số người chết được chỉ 34 người. Bản báo cáo báo ban đầu là ngắn, chỉ có 40 từ, và đánh giá thấp quy mô của thảm họa như một sự kiện nhỏ. Sau đó là Nhật Bản dựng lên một tượng đài cho người chết. Tảng đá này đã ghi nhận số người thiệt mạng là 1327. Các con số thực được cho là 1549 người. Trong số này, 31 là người Nhật, phần còn lại của Trung Quốc. Loại mỏ này tiếp tục được điều hành bởi Nhật Bản cho đến khi kết thúc Thế Chiến II vào năm 1945. Sau sự rút lui của Nhật Bản, các công nhân nắm quyền kiểm soát mỏ. Sau chiến tranh thế giới thứ II, Liên Xô điều tra vụ tai nạn. Họ nhận thấy rằng chỉ có một số công nhân đã chết vì khí nổ bụi than. Báo cáo của Liên Xô nói rằng hầu hết các ca tử vong là ngộ độc khí monoxit cacbon do sự đóng cửa của hệ thống thông gió sau vụ nổ đầu tiên.
1
null
Antiochus III Epiphanes (tiếng Hy Lạp: Ἀντίοχος ὀ Ἐπιφανής, thế kỷ thứ 1 TCN - năm 17 CN) là vị vua của vương quốc Commagene từ năm 12 TCN đến năm 17 CN. Ông là con trai và người kế vị của vua Mithridates III xứ Commagene, mẹ của ông là công chúa Media và nữ hoàng của Commagene, Iotapa. Ông có gốc gác Armenia,Hy Lạp và Media. Cha mẹ của ông là anh em họ với nhau. Khi Antiochus qua đời vào năm 17 CN, cái chết của ông đã tạo ra vấn đề lớn cho vương quốc. Vào thời điểm Antiochus qua đời, Commagene đang trong tình trạng bất ổn chính trị. Lý do dẫn đến tình trạng này thì lại không rõ ràng, tuy nhiên nó có thể là kết quả của việc những người con của ông với nữ hoàng Iotapa, Antiochus và Iotapa đang còn quá nhỏ để có thể kế vị người cha của họ. Rất ít thông tin được biết đến về cuộc đời và triều đại của ông. Sau khi Antiochus qua đời, đã có hai phe phái xuất hiện. Một phe được lãnh đạo bởi giới quý tộc, những người muốn Commagene được đặt dưới sự cai trị của đế quốc La Mã và một phe khác được lãnh đạo bởi các công dân, những người mong muốn sự độc lập của Commagene được giữ lại dưới sự cai trị của một nhà vua của họ. Cả hai phe phái chính trị đã gửi sứ thần tới Roma nhằm tìm kiếm sự chỉ bảo và giúp đỡ của Hoàng đế La Mã Tiberius để quyết định tương lai của Commagene. Tiberius sau đó đã quyết định biến Commagene trở thành một phần của tỉnh Syria thuộc La Mã. Quyết định này đã được rất nhiều các công dân của Commagene hoan nghênh. Commagene vẫn nằm dưới sự cai trị La Mã cho đến khi Hoàng đế La Mã Caligula tiến hành khôi phục vương quốc cho con trai của Antiochus vào năm 38 CN.
1
null
"Echoes" là ca khúc của ban nhạc Pink Floyd, là ca khúc thứ 6 và cuối cùng của họ trong album "Meddle" (1971). Ca khúc kéo dài tận 23:31, chiếm trọn vẹn mặt B của album trong ấn bản đĩa than, bao gồm rất nhiều đoạn nhạc cụ, hiệu ứng âm thanh và giai điệu chuyển tiếp. Được viết vào năm 1970 bởi cả bốn thành viên (được ghi cho Roger Waters, Richard Wright, Nick Mason, David Gilmour trong bản gốc phát hành), "Echoes" đề cập về lòng trắc ẩn và sự tương tác giữa người với người, một trong những chủ đề lớn của Pink Floyd. Ca khúc này sau đó cũng được cho vào album tuyển tập của ban nhạc, '. "Echoes" là ca khúc dài thứ 3 trong sự nghiệp của Pink Floyd, sau "Atom Heart Mother" (23:44) và bản tổng hợp của "Shine On You Crazy Diamond" (26:01). Không như 2 ca khúc trên, "Echoes" không thể tách biệt ra làm nhiều đoạn nhỏ; tuy vậy thực tế ca khúc này được thu âm theo từng đoạn riêng biệt, và ban nhạc đã chia đôi ca khúc này để mở đầu và kết thúc buổi trình diễn sau này được quay thành bộ phim '. Sáng tác. Mỗi đoạn vào chính của ca khúc được tiếp theo đó 3 tiểu đoạn nhỏ hơn. Ca khúc đã sử dụng rất nhiều hiệu ứng âm nhạc tiên tiến hoặc chưa từng được sử dụng. Tiếng giọt nước xuất hiện ở phần mở đầu của ca khúc là thành quả của rất nhiều thử nghiệm trong suốt quá trình thu âm "Meddle": đó thực tế là tiếng piano được khuếch đại vang rồi chỉnh âm qua máy chỉnh âm Leslie. Phần lớn cấu trúc của bài hát được viết ở giọng Đô thứ. Một đoạn funk đặc trưng xuất hiện ở khoảng phút thứ 7. David Gilmour đã chơi rất nhiều đoạn luyến trong các hiệu ứng âm thanh trong phòng thu cũng như phần mở màn của các buổi trình diễn trực tiếp suốt những năm 1971-1975. Tiếng gió thổi được tạo ra khi Roger Waters miết dây bass guitar của mình và chuyển âm thanh qua máy Binson Echorec. Phần tiếng nhạc cụ điện giả tiếng hát của mòng biển được Gilmour vô tình phát hiện ra khi thu âm guitar với pedal sai kỹ thuật. Nick Mason nói: ""Tiếng guitar ở đoạn giữa của "Echoes" được tạo ra rất tình cờ khi Dave cắm nhầm giắc cắm của chiếc pedal ở mặt sau ra mặt trước. Đôi khi những hiệu ứng tuyệt hảo lại tới hoàn toàn từ may mắn, và chúng tôi thì luôn sẵn sàng bắt lấy bất cứ thứ gì hữu dụng cho một ca khúc nào đó. Những nền tảng mà chúng tôi có được từ Ron Gressin rằng nên đi xa hơn mọi khuôn sách đã để lại dấu ấn ở đây."" Đoạn "hòa âm" ở phần giữa của ca khúc được tạo nên bằng cách đặt 2 cuộn băng ở 2 góc đối diện của phòng thu: chiếc băng chính sẽ được ghi trong một máy thu và phát lại khi ghi âm, chiếc băng còn lại cũng được thu cùng lúc đó. Điều này khiến cho 2 đoạn băng không trùng khớp nhau, dẫn tới việc thay đổi lớn trong cấu trúc của các hợp âm, làm cho đoạn nhạc trở nên rất "ướt" và "vang vọng". Các tiếng gió rít được tạo bởi Richard Wright khi thu lại tiếng cắm vào và rút ra các giắc cắm ở chiếc Hammond organ. Tiếng quạ được bổ sung bằng một số đoạn băng thâu sẵn (mà ban nhạc đã từng dùng trong nhiều ca khúc trước đó như "Set the Controls for the Heart of the Sun"). Phần sau của ca khúc bao gồm nhiều nốt câm chơi bởi Gilmour trong khi Wright chơi nhiều đoạn organ solo phỏng theo The Beach Boys trong ca khúc "Good Vibrations". Bài hát chuyển sang nhịp 12/8 sau khi qua đoạn điệp khúc trong khi các đoạn trước đó được chuyển giữa các nhịp 4/4, 6/8 và 6/4. Tiếng "ca voi" được bổ sung vào đoạn trống. Ca khúc kết thúc bằng một đoạn chạy gam Shepard-Risset. Ca khúc vốn là một bản tổng hợp các sáng tác riêng lẻ của từng thành viên, ghi lại dưới tên "Nothing, Parts 1–24". Các đoạn băng thu nháp được thực hiện lần lượt dưới những tên như "The Son of Nothing" và "The Return of the Son of Nothing" – những nhan đề này sau đó được sử dụng nhằm giới thiệu vào năm 1971 các phần nháp chưa từng được ban nhạc công bố. Trong quá trình sản xuất, đoạn vào đầu tiên của ca khúc vốn chưa được xác định rõ ràng. Nó vốn được viết nhằm thể hiện cuộc gặp gỡ giữa hai con người trên thiên đàng, song vì quan điểm Waters luôn muốn Pink Floyd cũng phải là đại diện của space rock nên phần lời đã được chỉnh sửa để cũng có thể được hình dung rằng đó là một cuộc gặp gỡ dưới nước. Tiêu đề "Echoes" là vấn đề lớn nhất mà ban nhạc gặp phải trước và sau khi phát hành "Meddle". Waters, vốn là một người hâm mộ bóng đá, đề nghị đặt tên ca khúc "We Won the Double" nhằm ca ngợi chiến thắng của Arsenal vào năm 1971; còn trong tour diễn năm 1972 tại Đức, anh lại giới thiệu ca khúc này dưới tên "Looking Through the Knothole in Granny's Wooden Leg" (liên hệ với "The Goon Show", cụm từ này xuất hiện trong tập "The £50 Cure"), và sau đó dưới tên "The Dam Busters". Trong một bài phỏng vấn trên tạp chí "Rolling Stone", Waters tiết lộ rằng phần ca từ được viết nhằm miêu tả "cảm xúc rằng con người luôn cần nhận biết tính nhân văn ở đồng loại, bằng sự đồng cảm chứ không phải bằng sự ganh ghét." Anh cũng nhấn mạnh rằng ca khúc này lấy nhiều ý tưởng từ album trước đó "The Dark Side of the Moon", và với "Echoes", âm nhạc của Pink Floyd bắt đầu quan tâm hơn tới con người và tính nhân văn hơn là những chuyến du hành vũ trụ và những hình tượng mang tính psychedelic. Trình diễn trực tiếp. Ca khúc này là một phần trong các buổi diễn của ban nhạc trong những năm 1971–75. Trong "", bài hát được cắt ra làm 2 đoạn riêng biệt. Các buổi diễn vào năm 1974 và 1975 có phần hát bè và hát nền của Vanetta Fields và Carlena Williams và phần chơi saxophone solo bởi Dick Parry thay cho đoạn guitar solo (kể từ buổi diễn tại Mỹ năm 1975, Gilmour thường để phần guitar solo ở đoạn giữa ca khúc cho saxophone của Parry). Ca khúc này cũng được thể hiện trong tour diễn vòng quanh thế giới "A Momentary Lapse of Reason" của nhóm, song phần hát chính được thay đổi khi Wright hát phần bè thấp vốn của Gilmour và ngược lại. Ban nhạc đã chơi 11 buổi diễn song không hài lòng với những phần trình diễn đó. Cũng nhấn mạnh rằng Wright đã sử dụng máy chỉnh âm thay cho Farfisa organ. Gilmour cũng từng chơi ca khúc này trong tour "On an Island" vào năm 2006, với Wright hát phần bè thấp, còn Jon Carin hát phần bè cao. Đây cũng là lần duy nhất chiếc Farfisa được tái sử dụng. Phần trình diễn này sau đó được cho vào DVD "Remember That Night" và album "Live in Gdańsk" của Gilmour. Tin đồn với "2001: A Space Odyssey". Cũng như tin đồn Dark Side of the Rainbow, "Echoes" cũng bị đồn rằng được viết cho bộ phim năm 1968 của Stanley Kubrick, "", nếu đem so sánh với đoạn nhạc cuối phim (có tên "Jupiter and Beyond the Infinite"). "Echoes" được phát hành 3 năm sau khi bộ phim ra đời và có độ dài 23:31, khá gần với bài "Infinite" trong phim. Các hiệu ứng âm thanh ở đoạn giữa bài hát cũng đem tới cảm giác một chuyến du hành tới hành tinh khác. Tiếng máy bay không người lái nghe thấy ở đoạn cuối phim "2001" rất giống với đoạn bass ở giữa và đoạn chạy gam kết thúc ca khúc. Một trong những chi tiết đáng chú ý khác là việc chuyển cảnh xuất hiện đúng lúc guitar và keyboard đều đồng loạt chơi vút lên để phần lời xuất hiện trong đoạn vào thứ 2. Phần ca từ của "Echoes" cũng liên hệ tới các hành tinh, gần với hình tượng sao Mộc (Jupiter) và các vệ tinh của nó. Adrien Maben sau này tái hiện lại những hình ảnh liên tưởng của âm nhạc trong phần director cut của "Live at Pompeii". Dĩ nhiên, ban nhạc luôn khẳng định không có sự liên hệ giữa bài hát và bộ phim. Hơn nữa, kỹ thuật chỉnh phim và thu âm vào năm 1971 nhìn chung là quá đắt so với kinh phí sản xuất của nhóm. Tuy nhiên, cũng cần nói rằng Pink Floyd đã từng có kinh nghiệm trong việc thực hiện nhạc phim, điển hình như bộ phim "More" vào năm 1969. Waters sau đó có nói rằng việc ban nhạc không thể tham gia cộng tác viết nhạc cho bộ phim "2001" là "điều đáng tiếc nhất" của mình. Tới năm 1973, bộ phim "Crystal Voyager" của George Greenough đã mang nguyên 23 phút của "Echoes" vào đoạn kết với những hình ảnh chụp bởi camera Greenough đặt trên lưng khi anh lướt sóng. Vụ cáo buộc đạo nhạc. Trong buổi phỏng vấn quảng bá album "Amused to Death", Roger Waters bất ngờ tiết lộ rằng Andrew Lloyd Webber đã đạo nhạc phần điệp khúc từ "Echoes" cho đoạn nhạc trong vở nhạc kịch "Bóng ma trong nhà hát". Tuy nhiên, Waters không có ý định kiện tụng về vấn đề này. Anh nói: ""Phải, đoạn đầu trong bài hát của Bóng ma đó lấy nguyên từ "Echoes". *DAAAA-da-da-da-da-da*. Tôi không thể tin vào tai mình nữa. Thậm chí nó còn cùng nhịp luôn – nhịp 12/8 – trong cùng một cấu trúc, với cùng từng đó nốt. Hoàn toàn giống từng thứ. Thật đáng khinh, nó xứng đáng cho mọi vụ tố tụng. Song tôi nghĩ tôi nghĩ rằng cuộc sống chẳng quá dài để phải bận tâm với việc đi kiện gã Andrew Lloyd Webber chết tiệt.""
1
null
The Heavy là một bộ phim hình sự - hành động - tâm lý năm 2010 của Anh-Mỹ do Marcus Warren làm đạo diễn. Phim có sự tham gia của Gary Stretch, Vinnie Jones, Adrian Paul, Stephen Rea, Shannyn Sossamon và Christopher Lee. Nội dung. Mitchell "Boots" Mason và Christian Mason là hai anh em ruột cạnh tranh lẫn nhau. Người em Christian là quan chức chính trị đang ứng cử chức Thủ tướng, còn người anh Mitchell làm tay sai cho gã doanh nhân Anawalt. Mitchell từng trải qua nhiều đau khổ, đứa con gái của anh chết và vợ anh ngoại tình. Anh giết vợ nên bị ở tù, chính Anawalt là người giúp anh ra tù sớm. Anawalt giao cho Mitchell nhiệm vụ đi gặp 3 tên buôn ma túy, một khẩu súng được giao cho Mitchell để anh trừ khử bọn buôn ma túy. Mitchell được giao nhiệm vụ tiếp theo là ám sát Christian, anh được trả một số tiền lớn. Mitchell xâm nhập vào căn hộ của cô gái tên Claire, anh muốn mượn nơi này để ám sát Christian. Sắp tới Christian có một cuộc diễn thuyết bên kia đường. Thanh tra Dunn là người quyết tâm bảo vệ cho Christian. Vào ngày Christian diễn thuyết, Mitchell chuẩn bị một khẩu súng trường tấn công để ám sát em trai, ngờ đâu Dunn vào kiểm tra căn hộ của Claire. Hai người đàn ông bắt đầu bắn nhau, Mitchell giết chết Dunn bằng một phát đạn ngay đầu. Dunn được tiết lộ là người tạo ra hợp đồng ám sát này. Sau cuộc diễn thuyết, Christian cùng với gia đình lên xe về nhà. Nhưng Christian một mình đi kiểm tra tình hình của Mitchell, người đang bị thương và đang ngồi trên xe hơi. Bộ phim lúc này tiết lộ Christian chính là chủ nhân thực sự của hợp đồng ám sát. Christian muốn Dunn giết Mitchell, nhưng ngược lại Dunn bị Mitchell giết chết. Thấy Mitchell bị thương nặng, Christian tính kết liễu anh trai. Nhưng Mitchell dùng một quả lựu đạn cho nổ tung chính mình và Christian. Cái chết của Christian được báo chí đưa tin. Sau này Claire nhận được số tiền lớn do Mitchell để lại cho cô.
1
null
Trận Giang Lăng (chữ Hán: 江陵之戰 "Giang Lăng chi chiến") là trận đánh thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc giữa các phe quân phiệt: liên minh Tôn Quyền – Lưu Bị giao tranh với Tào Tháo. Hoàn cảnh. Huyện Giang Lăng (江陵) vốn là sở trị của Nam Quận (thuộc Kinh châu). Khi Lưu Biểu đến trấn trị Kinh châu (190) đã chọn huyện Tương Dương làm nơi đóng trụ sở. Tuy nhiên, Giang Lăng vẫn giữ vai trò trọng yếu, là nơi cất chứa kho tàng vũ khí của Kinh châu. Năm 208, Tào Tháo khởi binh đánh Kinh châu. Vừa lúc đó Lưu Biểu mất, con là Lưu Tông đầu hàng Tào Tháo. Lưu Bị - quân phiệt bị Tào Tháo đánh bại ở phương bắc, chạy xuống nương nhờ Lưu Biểu từ năm 201 – liệu thế không chống đỡ nổi quân Tào nên bỏ Tân Dã, Phàn Thành chạy về Giang Lăng. Nhưng Tào Tháo cũng nhận thức rõ vai trò của Giang Lăng nên lựa 5000 quân thiết kị, cùng Tào Thuần và Văn Sính đuổi gấp. Lưu Bị mang theo nhiều dân chúng nên không thể chạy nhanh, bị Tào Tháo đánh cho đại bại ở Đương Dương Tràng Bản, phải chạy sang Giang Hạ với con lớn của Lưu Biểu là Lưu Kỳ. Tào Tháo thúc quân chiếm giữ Giang Lăng. Lưu Bị tìm cách liên minh với Tôn Quyền, đánh bại Tào Tháo một trận lớn ở Xích Bích vào tháng 11 năm 208. Tào Tháo bại binh, phải nhanh chóng trở về giữ phương bắc, giao cho Tào Nhân và Từ Hoảng ở lại giữ thủ huyện Nam Quận là Giang Lăng, sai Nhạc Tiến giữ Tương Dương. Còn Lưu Bị và Tôn Quyền đều muốn nhân đà thắng lợi để giành lấy vùng đất chiến lược Kinh châu. Trọng điểm Giang Lăng trở thành một trong những đích nhắm tới của Tôn Quyền lẫn Lưu Bị, và chiến sự giành giật huyện này nổ ra. Diễn biến. Tào Nhân giao tranh với quân tiên phong Giang Đông. Sau trận Xích Bích, Lưu Bị đề nghị Tôn Quyền nên nhân lúc quân Tào mới thua, phải phát động tấn công ngay. Theo ý kiến của Lưu Bị, Chu Du cất quân đánh vào chính diện, còn Lưu Bị theo đường Hạ Thủy phía sau. Tôn Quyền đóng quân Sài Tang, sai Chu Du cầm vài vạn quân tiền tuyến từ Xích Bích, Ô Lâm tiến đánh Giang Lăng. Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi mang hơn 1000 quân mã đóng ở bờ nam sông Trường Giang cùng tiến. Chu Du cử vài ngàn quân tiên phong đi trước, tự mình cầm đại quân theo sau. Thấy quân Giang Đông kéo đến, Tào Nhân lập tức tuyển ba trăm người, phái bộ tướng là Ngưu Kim làm chỉ huy, ra đón đánh. Quân Giang Đông đông hơn, vì thế Ngưu Kim bị vây hãm. Quan Trưởng sử dưới quyền Tào Nhân là Trần Kiều cùng ở trên thành, trông xa thấy Ngưu Kim sắp nguy cấp, cùng các tướng rất lo lắng. Tào Nhân bảo quân hầu mang ngựa đến, để xông ra giao chiến. Trần Kiều cùng các tướng thấy quân Giang Đông mạnh, níu giữ ông lại, cho rằng có thể thí mạng mấy trăm quân không có gì là nặng. Nhưng Tào Nhân hăng hái không chịu, nhất định mặc áo giáp lên ngựa, dẫn mấy chục quân kỵ mang cờ chỉ huy ra khỏi thành. Trần Kiều và các tướng trên thành cho rằng Tào Nhân nên chống giữ bên hào, để tạo hình thế ứng cứu Ngưu Kim, nhưng ông dẫn quân vượt qua hào tiến thẳng về phía trước, xông vào vòng vây của quân Giang Đông. Nhờ sự dũng mãnh của Tào Nhân, quân Tào đánh thốc vào trận phá được vây, Ngưu Kim được giải thoát. Nhưng vẫn còn nhiều binh sĩ ở lại chưa ra được, Tào Nhân bèn quay trở lại đột phá, giết được mấy chục người bên quân Giang Đông, đưa hết binh của Ngưu Kim ra. Quân Giang Đông không chống nổi, phải lui về. Tào Nhân thu quân về, Trần Kiều và các tướng đều vô cùng khâm phục tài năng của ông. Chu Du, Lưu Bị giáp công. Chu Du mang đại quân đến, cùng các tướng sĩ tác chiến suốt mấy tháng nhưng không thể hạ được thành. Tào Nhân kiên cường chống trả trước các đợt tấn công của quân Ngô. Trong lúc Chu Du chưa tìm ra cách phá thành, Tào Nhân tổ chức đột kích ra ngoài. Quân Giang Đông mấy lần bị tấn công bất ngờ, tổn hại khá nhiều binh sĩ. Cam Ninh hiến kế với Chu Du, hãy đánh thành Di Lăng bên cạnh để cô lập Giang Lăng, thu hút sự chú ý của Tào Nhân và Từ Hoảng sang đó. Chu Du đồng tình, bèn sai Cam Ninh mang quân đi đánh. Quân Tào trong thành yếu ớt, Cam Ninh nhanh chóng đánh chiếm được thành Di Lăng. Chu Du theo đề nghị của Lưu Bị, để Trương Phi đem 1000 quân theo Chu Du cùng tác chiến tại Giang Lăng, đổi lại Chu Du phái 2000 quân tăng cường cho Lưu Bị cùng theo đường Hạ Thủy cắt đứt phía sau của Tào Nhân. Nghe tin Di Lăng mất, Tào Nhân phái 5000 quân tới đánh chiếm lại Di Lăng. Cam Ninh chỉ có vài trăm quân và 1000 dân trong thành. Quân Tào dựng lên nhiều chòi cao bắn vào thành. Quân Ngô sợ hãi, chỉ có Cam Ninh vẫn bình tĩnh chống trả và sai người đi cầu cứu Chu Du. Theo lời Lã Mông, Chu Du chia một nửa quân cho Lăng Thống ở lại Giang Lăng vây áp Tào Nhân, tự mình mang quân tới giải vây thành Di Lăng. Chu Du kéo tới đánh bại quân Tào đang vây bức Di Lăng, giải vây cho Cam Ninh. Quan Vũ theo lệnh biệt phái của Lưu Bị và Chu Du, mang quân lên đường lên bắc, cắt đứt đường rút lui của Tào Nhân. Lúc đó Thái thú Nhữ Nam là Lý Thông dưới quyền Tào Tháo phát hiện, bèn dẫn quân ra đánh Quan Vũ. Quan Vũ thúc quân bủa vây. Lý Thông và các tướng sĩ xuống ngựa nhổ hết chông chà, xông vào vòng vây của Quan Vũ, vừa đánh vừa tiến lên, cuối cùng phá được vây, đánh lui được Quan Vũ, khiến đường nối phía bắc với Giang Lăng của quân Tào được thông suốt. Tào Nhân rút lui. Tào Nhân tiếp tục cố thủ trong thành Giang Lăng. Chu Du, Cam Ninh và Lăng Thống đóng quân ở Giang Hạ và phụ cận Giang Lăng, tấn công ác liệt nhiều lần không có kết quả. Trong một đợt tấn công lên thành, Chu Du bị trúng tên của quân Tào, bị thương ở mạng sườn. Để cổ vũ tinh thần quân sĩ, ông gắng gượng chống gậy đứng dậy chỉ huy quân sĩ. Tào Nhân nghe tin Chu Du bị thương, bèn mang quân tới đánh, nhưng thấy quân Ngô vẫn phòng thủ vững vàng, phải lui binh. Hai bên giao tranh suốt 1 năm không phân thắng bại. Lưu Bị điều Quan Vũ về nam, phối hợp với Gia Cát Lượng và Triệu Vân tấn công, lần lượt đánh chiếm và thu hàng các quận Trường Sa (长沙), Quế Dương (桂阳), Vũ Lăng (武陵) và Linh Lăng (零陵), phát triển thế lực của Lưu Bị về phía nam Kinh châu. Trong khi đó, Tôn Quyền cũng khởi đại quân từ Sài Tang tấn công vào Hợp Phì. Tháng chạp năm 209, sự vây bức ngày càng ác liệt của quân Giang Đông khiến quân Tào tổn thất thảm trọng, Tào Tháo bèn lệnh cho Tào Nhân bỏ thành Giang Lăng rút về Tương Dương. Tào Nhân và Từ Hoảng theo lệnh, bèn rút hết quân sĩ về Tương Dương là trị sở Kinh châu cũ của Lưu Biểu, thiết lập và chỉnh đốn phòng tuyến mới. Chu Du thúc quân vào chiếm đóng Giang Lăng và các huyện phụ cận. Hậu quả và ý nghĩa. Chiến dịch Giang Lăng kéo dài hơn 1 năm mới kết thúc. Tuy chưa chiếm được toàn bộ Nam quận nhưng Tôn Quyền đã giành quyền kiểm soát đại bộ phận phía nam; chỉ còn lại vài huyện quanh Tương Dương vẫn còn trong tay Tào Tháo. Chu Du được Tôn Quyền phong làm Thái thú Nam quận, thiết lập chiến tuyến tiền tiêu tại đây trong cuộc đối đầu với Tào Nhân. Trong khi Lưu Bị và Trương Phi tham gia tác chiến cùng Chu Du, Gia Cát Lượng, Quan Vũ, Triệu Vân phối hợp với Lưu Kỳ tấn công 4 quận Trường Sa, Quế Dương, Vũ Lăng và Linh Lăng ở phía nam Kinh châu. Các thái thú Kim Toàn, Lưu Độ, Hàn Huyền và Triệu Phạm đều đầu hàng. Phần Tôn Quyền tấn công Hợp Phì thất bại. Như vậy sau 1 năm khổ chiến sau trận Xích Bích, phía Tôn Quyền chỉ thu được nửa Nam quận (và nửa quận Giang Hạ có từ trước), còn Lưu Bị có được 4 quận phía nam (thêm nửa quận Giang Hạ của Lưu Kỳ). Tuy nhiên, chiến quả của Chu Du không hề nhỏ, vì vị trí chiến lược của Giang Lăng vẫn rất quan trọng trong thời cuộc mới. Giang Lăng nói riêng và Nam quận nói chung là vị trí trung tâm Hoa Hạ, từ đây có thể phát động chiến tranh lên trung nguyên với Tào Tháo và tấn công sang Ích châu của Lưu Chương, Trương Lỗ. Trong khi chiến lược Long Trung đối sách mà Gia Cát Lượng đã quy hoạch cho Lưu Bị chính là giành lấy hai châu Kinh, Ích để có 2 đường tấn công lên trung nguyên tranh giành thiên hạ, thì Chu Du cũng đề ra với Tôn Quyền về chiến lược từ Giang Lăng tiến vào chiếm Thục và Hán Trung rồi liên kết với Mã Siêu để cùng đánh lên trung nguyên từ mấy đường. Bốn quận mà Lưu Bị có được chỉ giúp Lưu Bị giải quyết vấn đề nhân lực và kinh tế, không đóng vai trò chiến lược trong việc thi hành Long Trung sách. Do đó, Lưu Bị và Gia Cát Lượng phải tính tới việc tiếp cận địa bàn các quận phía bắc Kinh châu mà hậu quả là ông phải dùng nhiều nỗ lực ngoại giao, phải đợi tới khi Chu Du qua đời (210), cộng thêm sự hỗ trợ của một nhân vật ôn hòa, coi trọng liên minh Tôn-Lưu là Lỗ Túc để thực hiện được mục đích mượn huyện Giang Lăng, gọi là "mượn Kinh châu" của Tôn Quyền để có bàn đạp tiếp cận với trung nguyên. Tôn Quyền nghe theo lý lẽ của Lỗ Túc (khiến Tào Tháo thêm kẻ thù, mượn sức Lưu Bị đỡ cho gánh nặng phía tây Giang Đông), đồng ý cho Lưu Bị mượn Giang Lăng. Cũng vì việc Lưu Bị vẫn không trả lại Giang Lăng sau khi lấy được Ích châu, Tôn Quyền quyết định dùng vũ lực để đoạt lại vùng đất chiến lược này. Trong Tam Quốc diễn nghĩa. Trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa, La Quán Trung gọi Giang Lăng – thủ huyện của Nam Quận là "thành Nam Quận"; thành Công An huyện Sàn Lăng là nơi đóng bản doanh của Lưu Bị từ sau trận Xích Bích đến trước khi mượn được "Kinh châu thuộc Ngô" (tức Giang Lăng) thì La Quán Trung gọi là "thành Kinh châu"; còn Tương Dương vốn cũng thuộc Nam quận, là trị sở Kinh châu thời Lưu Biểu, tới khi Tào Tháo chiếm cũng dùng làm trị sở Kinh châu (thuộc Ngụy), La Quán Trung vẫn gọi là "Tương Dương". Chiến dịch Giang Lăng trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa được La Quán Trung mô tả rất ly kỳ, với nhiều trận xung đột giữa hai bên. Tào Nhân và Chu Du giao tranh khổ chiến khiến cả hai bên đều bị thiệt hại. Chu Du bị trúng tên của Tào Nhân, lại phao tin mình chết để Tào Nhân đến cướp trại. Khi quân Tào đến nơi, Chu Du đổ binh ra đánh khiến quân Tào thua to, Tào Nhân phải rút chạy về phía bắc. La Quán Trung muốn quy công lao chiếm thành cho phe Lưu Bị, nên hư cấu việc Gia Cát Lượng dùng kế "nẫng tay trên" của Chu Du trong việc chiếm Nam Quận (Giang Lăng). Trong lúc Tào Nhân mang quân đi cướp trại Chu Du thì Khổng Minh đã sai Triệu Vân mang kỳ binh đánh úp Nam Quận (Giang Lăng). Chu Du đánh bại được Tào Nhân rồi định đến chiếm thành thì Triệu Vân đã đứng trên thành tuyên bố thành thuộc về Lưu Bị. Chu Du bực tức bèn quay sang "đánh Kinh châu" (Công An) nhưng thành này cũng bị Gia Cát Lượng nẫng tay trên bằng cách lấy binh phù của Tào Nhân điều quân Tào ở đây đi cứu Nam Quận rồi đánh úp. Hơn nữa, La Quán Trung còn hư cấu việc Khổng Minh thừa cơ chiếm luôn cả thành Tương Dương. Khổng Minh bắt được thủ hạ của Tào Nhân là Trần Kiều, lại dùng binh phù sai người chạy đến Tương Dương, giả làm quân Tào Nhân cầu cứu, Hạ Hầu Đôn bèn mang quân ra khỏi Tương Dương đi cứu Tào Nhân, thì Quan Vân Trường lại mang quân tới đánh úp luôn Tương Dương (trên thực tế là Tương Dương còn trong tay Tào Nhân mãi đến sau này). Trong khi Chu Du khổ chiến cả năm không thu được kết quả gì thì Lưu Bị không mất nhiều công sức lại đoạt được 3 trọng trấn của Kinh châu. Điều đó khiến Chu Du uất ức, vỡ vết thương ngã lăn ra. Sự việc này được gọi là "chọc tức Chu Du lần đầu".
1
null
The Structure and Distribution of Coral Reefs, Being the first part of the geology of the voyage of the Beagle, under the command of Capt. Fitzroy, R.N. during the years 1832 to 1836" là chuyên khảo đầu tiên của Charles Darwin, được xuất bản vào năm 1842 với nội dung nghiên cứu về sự hình thành các rạn san hô và rạn san hô vòng. Darwin phôi thai ý tưởng nghiên cứu trong suốt chuyến du hành với tàu HMS "Beagle" khi vẫn còn ở Nam Mỹ, soạn ra khi HMS "Beagle" băng ngang Thái Bình Dương và hoàn thành bản thảo vào tháng 11 năm 1835. Thời đó, người ta dành mối quan tâm khoa học rất lớn cho cách mà các rạn san hô hình thành. Trong số các nhiệm vụ mà Bộ Hải quân Anh giao cho thuyền trưởng Robert FitzRoy thì việc khám phá một rạn san hô vòng được xem là nhiệm vụ khoa học quan trọng của chuyến du hành. Những kết quả thu được sau dịp nghiên cứu quần đảo Keeling ở Ấn Độ Dương đã xác nhận giả thuyết của Darwin rằng các kiểu rạn san hô và rạn vòng đa dạng có thể được giải thích bằng lý thuyết kiến tạo nâng và sụt lún trên các vùng rộng lớn của vỏ Trái Đất. Cuốn sách là quyển đầu tiên trong bộ ba quyển sách viết về địa chất dựa trên những gì Darwin khám phá được trong chuyến hành trình. Người ta xem đây là công trình khoa học vĩ đại trình bày các suy luận từ các quan sát sẵn có về chủ đề rộng lớn này. Năm 1853, Darwin được tặng thưởng Huân chương Hoàng gia của Hội Hoàng gia Luân Đôn cho cuốn chuyên khảo về rạn san hô và cho công trình nghiên cứu về hàu. Nhiều nghiên cứu hiện đại đã xác nhận lý thuyết Darwin về sự hình thành rạn san hô khi đảo và vùng lân cận của vỏ đại dương lún xuống. Giả thuyết về sự hình thành rạn san hô vòng. Sự hình thành nên rạn san hô vòng vẫn còn là một ẩn số khoa học vào thời điểm năm 1831 thì. Trong năm 1824 và 1825, hai nhà tự nhiên học người Pháp là Quoy và Gaimard nhận thấy rằng san hô chỉ sống ở vùng nước tương đối nông trong khi rạn san hô vòng lại xuất hiện giữa đại dương sâu thẳm. Tác giả của những cuốn sách tham khảo có trên tàu "Beagle" như Henry De la Beche, Frederick William Beechey và Charles Lyell nêu ý kiến rằng san hô đã phát triển trên các núi hay núi lửa ngầm, trong đó rạn san hô vòng mang hình dạng của miệng núi lửa ngầm. Lời hướng dẫn của Bộ Hải quân Anh dành cho chuyến đi có ghi: Năm 1827, khi còn là sinh viên Đại học Edinburgh, Darwin đã nghiên cứu về động vật biển không xương sống trong thời gian làm môn đệ của nhà giải phẫu học Robert Edmond Grant. Trong năm học cuối tại Đại học Cambridge vào năm 1831, ông nghiên cứu địa chất học với thầy là Adam Sedgwick. Thuyền trưởng FitzRoy mong muốn đồng hành cùng một người có khả năng nghiên cứu địa chất trong khi những người còn lại tiến hành khảo sát thủy văn, và Darwin - người bất ngờ được dành một chỗ trong chuyến thám hiểm "Beagle" - hoàn toàn phù hợp với mục tiêu của ông. Darwin được FitzRoy đưa cho tập đầu trong bộ "Principles of Geology" của Lyell - tóm lược ý tưởng cho rằng rạn san hô vòng hình thành trên miệng núi lửa. - trước khi chuyến hành trình bắt đầu. Khi dừng chân tại bờ đảo St Jago vào tháng 1 năm 1832, Darwin dùng thuyết hiện tại luận của Lyell để giải thích các thành hệ địa chất mà ông quan sát được, theo đó thì các lực địa chất khiến đất đai nâng lên hay sụt xuống trong những khoảng thời gian cực kì dài. Lúc này, Darwin nảy ra suy nghĩ rằng ông có thể viết một cuốn sách về địa chất của riêng mình. Trong thời gian từ tháng 2 năm 1832 đến tháng 9 năm 1835, tàu "Beagle" tiến hành khảo sát bờ biển Nam Mỹ. Giai đoạn này Darwin thực hiện tổng cộng bảy chuyến đi vào đất liền và tìm được rất nhiều chứng cứ cho thấy đại lục này đang dần nâng lên. Ông được tận mắt chứng kiến một vụ núi lửa phun trào và sau đó còn trải nghiệm một trận động đất vào ngày 20 tháng 2 năm 1835. Trong những tháng về sau, Darwin suy luận rằng những khu vực rộng lớn ngoài đại dương sẽ lún xuống do vùng đất liền nâng lên. Điều này gợi cho ông ấn tượng rằng có thể giải thích sự hình thành rạn san hô vòng dựa theo cách này. Theo hiểu biết của Darwin, san hô sống tại vùng biển nhiệt đới có nước sạch và bị khuấy động mạnh sẽ hình thành nên rạn san hô viền bờ ngay dưới mực nước triều thấp. Rạn viền bờ có thể vẫn kiên trì bám trụ xung quanh bờ đảo trong trường hợp bờ đảo bị nâng lên (ví dụ khi đảo là một núi lửa đang hoạt động) nhưng sẽ chết nếu bị nâng khỏi mặt biển. Theo thời gian, rạn san hô phát triển xa ra và trở thành rạn san hô chắn bờ với điều kiện bờ đảo ổn định. Khi bờ đảo dần dần lún xuống thì san hô có thể sẽ tiếp tục phát triển hướng lên phía mặt nước và trở thành rạn san hô dạng vòng một khi hòn đảo chìm hẳn xuống mặt biển. Tuy nhiên, nếu đảo lún xuống quá nhanh hoặc nước biển dâng lên quá gấp thì san hô sẽ chết do chúng chỉ sống được ở vùng nước nông. Kiểm định giả thuyết Darwin. Darwin đã vạch ra trong đầu mình các điểm chính của học thuyết về sự hình thành rạn vòng trước cả khi con tàu "Beagle" cập bến quần đảo Galápagos ngày 7 tháng 9 năm 1835. Mặc dù không còn ủng hộ quan điểm cho rằng rạn vòng hình thành trên các miệng núi lửa ngầm nhưng Darwin vẫn ghi chép lại một số chi tiết ủng hộ cho ý tưởng này, trong đó điểm đáng chú ý là 16 miệng núi lửa tại vùng này tương đồng với các rạn vòng ở chỗ chúng hơi nhô cao hơn ở một phía. Lần đầu Darwin nhìn thoáng thấy rạn san hô vòng là khi tàu "Beagle" đi qua đảo Honden vào ngày 9 tháng 11 và luồn qua các đảo trong quần đảo Dangerous (tức quần đảo Tuamotu). Khi tới Tahiti vào ngày 15 tháng 11 cùng năm, ông mô tả hòn đảo được "bảo quanh bởi một rạn san hô bị ngăn cách với bờ đảo bởi các luồng lạch và lưu vực nước lặng". Ông trèo lên các ngọn đồi trên đảo Tahiti và ấn tượng sâu sắc khi phóng tầm mắt về phía đảo Moorea, nơi mà "các ngọn núi nhô lên đột ngột từ một hồ nước trong vắt bị ngăn cách ở mọi phía bởi các các dòng sóng vỡ hẹp và định hình rõ từ đại dương." Thay vì chỉ chép lại các phát hiện về rạn san hô trong phần ghi chú về hòn đảo thì Darwin đã viết tường tận thành bản sơ thảo đầu tiên cho lý thuyết của mình dưới dạng một tiểu luận mang nhan đề "Coral Islands". Trong mô tả của ông, các polyp tạo san hô trên các bức tường chắn [rạn chắn] và phát triển mạnh mẽ tại vùng sóng vỡ ở mặt có gió của rạn. Ngoài ra, ông còn suy xét các lý do vì sao mà san hô trong vùng vụng biển (đầm nước) không phát triển cao được. Kết lại bài luận, ông cho rằng sự nâng lên của phần lớn đại lục Nam Mỹ (và Bắc Mỹ) cần được bù trừ bởi sự lún xuống tương ứng ở những vùng khác của thế giới. Quần đảo Keeling. Bản chỉ thị của Bộ Hải quân Anh dành cho FitzRoy có đề cập chi tiết đến các yêu cầu khảo sát địa chất đối với rạn san hô vòng nhằm nghiên cứu xem bằng cách nào mà rạn san hô đã hình thành nên, đặc biệt là liệu chúng nhô lên từ đáy biển hay nhô lên từ đỉnh của các ngọn núi lửa đã ngừng hoạt động, đồng thời đánh giá ảnh hưởng của thủy triều thông qua đo lường bằng các máy đo đặc biệt. Để thực thi nhiệm vụ này, thuyền trưởng FitzRoy quyết định chọn quần đảo Cocos (Keeling) nằm trong Ấn Độ Dương. Ngày 1 tháng 4 năm 1836, cả đoàn đến nơi và đầu tiên bắt tay vào việc lắp một máy đo thủy triều kiểu mới - do FitzRoy thiết kế - cho phép xem số liệu từ bờ đảo. Tàu thuyền toả ra khắp nơi để tiến hành khảo sát, đo độ sâu rạn vòng và vụng biển mặc cho bị ngăn trở bởi những cơn gió mạnh. FitzRoy nhận thấy mặt ngoài của rạn vòng bằng phẳng và cứng như đá, đồng thời thấy rằng đa phần sinh vật lại phát triển mạnh tại sóng biển dữ dội nhất. Tuy nhiên, đoàn nghiên cứu vấp phải khó khăn lớn khi xác định độ sâu vùng san hô sinh sống do các mảnh rạn san hô rất khó bị phá vỡ trong khi mỏ neo, neo móc và dây xích mà họ thả xuống và cố kéo lên đều bị sóng biển giật đứt. FitzRoy thành công hơn khi sử dụng một vật nặng hình chuông làm bằng chì gắn mỡ bò (thể rắn) và trét vôi để làm cứng. Dụng cụ này có mục đích cung cấp cảm nhận chính xác về hình dạng vùng đáy do bề mặt vật nặng sẽ bị lõm khi va vào vật thể nào đó, đồng thời cũng giúp thu thập mảnh san hô hay hạt cát. Cá nhân FitzRoy tự thực hiện những lần đo độ sâu này, và sau mỗi lần đo thì khối mỡ bò lại được cắt ra và đem lên khoang cho Darwin xem xét. Dấu vết hằn lại trên khối mỡ thể hiện hình dạng của các san hô sống tại sườn dốc mặt ngoài của rạn tính đến độ sâu khoảng 10 sải (18 mét). Càng xuống sâu thì càng ít dấu vết in lên khối mỡ bò, đồng thời có nhiều hạt cát dính lên đó. Đến độ sâu 20-30 sải (36-55 m) thì không còn thấy sự hiện diện nào của san hô sống. Darwin cẩn thận ghi chép lại vị trí của từng loại san hô xung quanh rạn san hô và vụng biển. Ông mô tả trong nhật ký bằng những ngôn từ có cánh: "Mặt nước phẳng lặng đến khác thường. Tôi lội xa tận đến chỗ các đồi san hô ngập trong sóng vỡ. Trong các hõm và rãnh nước, có những con cá xinh đẹp màu xanh lục và nhiều màu khác; hình thái và sắc thái của nhiều loài động vật hình cây thật là tuyệt vời. Có thể thứ lỗi cho niềm say mê đối với vô số sự sống hữu cơ mà biển cả miền nhiệt đới hào phóng ban tặng", dù rằng chính ông lại là một người phản đối việc sử dụng "ngôn từ hoa mỹ" như cách mà một số nhà tự nhiên học vẫn làm. Mười một ngày sau đó, cả đoàn rời khỏi quần đảo. Darwin viết tóm tắt giả thuyết của mình trong nhật kí: Công bố. Khi tàu "Beagle" trở về vào ngày 2 tháng 10 năm 1836 thì Darwin đã trở thành một ngôi sao trong giới khoa học, bởi trước đó - vào tháng 12 năm 1835 - giáo sư John Stevens Henslow của Đại học Cambridge đã phổ biến tên tuổi người học trò cũ của mình qua việc phát một số sách mỏng tập hợp các lá thư của Darwin bàn về địa chất cho một số nhà tự nhiên học xem. Charles Lyell cũng cảm thấy háo hức vì công trình của Darwin ủng hộ cho thuyết hiện tại của mình và đã gặp Darwin lần đầu vào ngày 29 tháng 10 năm 1836. Vào tháng 5 năm 1837, Lyell viết một lá thư gửi John Herschel, trong đó nói rằng ông "rất tự tin về lý thuyết đảo san hô mới của Darwin", và rằng ông đã "hối thúc Whewell cho Darwin đọc nghiên cứu ấy vào cuộc họp lần tới" của họ. Lyell còn bộc bạch: "Tôi phải vĩnh viễn từ bỏ giả thuyết về miệng núi lửa thôi, dù cho lúc đầu điều đó có làm tôi cảm thấy day dứt đấy, (...) Đảo san hô là nỗ lực cuối cùng của các đại lục đang chìm nhằm nâng phần đầu của chúng khỏi mặt nước. Có thể truy tìm dấu vết của các vùng nâng lên và lún xuống ở đại dương thông qua trạng thái của các rạn san hô." Ngày 31 tháng 5 năm 1837, Darwin trình bày các phát hiện và lý thuyết của mình trong một bài nghiên cứu được ông xướng lên tại Hội Địa chất Luân Đôn ("Geological Society of London"). Báo cáo khoa học chính thức đầu tiên của Darwin ra mắt dưới nhan đề "Journal and Remarks" (ngày nay được biết đến với nhan đề "The Voyage of the Beagle") với nội dung đề cập đến khía cạnh lịch sử tự nhiên của chuyến du hành với tàu "Beagle". Trong bài viết này, ông mở rộng các ghi chép nhật ký trong chuyến du hành thành một phần trong lý thuyết của mình, nhấn mạnh bằng cách nào mà sự hiện diện hay vắng mặt của rạn san hô và rạn san hô vòng có thể cho ta thấy liệu đáy đại dương đang nâng lên hay lún xuống. Ngay trong thời gian ấy, Darwin vẫn dành sức nghiên cứu riêng về vấn đề tiến hoá biến đổi của loài cũng như các đề tài khác. Ông hoàn tất bài báo khoa học trong khoảng cuối tháng 9. Công việc của Darwin khi này bao gồm tìm kiếm các chuyên gia để xem xét và viết báo cáo về những điều Darwin thu thập được từ chuyến đi. Darwin đề xuất được chỉnh sửa các bài báo cáo này, tự viết lời dẫn nhập và chú thích, đồng thời thông qua các mối quan hệ để vận động chính phủ tài trợ cho hoạt động xuất bản các khám phá của ông thành một cuốn sách lớn. Sau khi được Bộ Tài chính Anh cấp 1.000 bảng vào tháng 8 năm 1837, Darwin mở rộng phạm vi xuất bản qua việc gộp thêm cuốn sách về địa chất học mà ông đã phôi thai ý tưởng vào tháng 4 năm 1832. Ông chọn Smith, Elder & Co. làm đơn vị xuất bản và ký với họ những cam kết có vẻ phi thực tế về thời gian giao bản thảo và hình minh hoạ cho bên in ấn. Ông đảm bảo với Bộ Tài chính rằng công trình của ông sẽ mang lại giá trị tốt do nhà xuất bản chỉ đòi một khoản lợi nhuận nhỏ trong khi bản thân ông không lấy một xu tiền lời nào. Từ tháng 10, ông lập kế hoạch thảo ra bộ sách nhiều tập "Zoology of the Voyage of H.M.S. Beagle" và bắt tay viết về địa chất các đảo núi lửa. Tháng 1 năm 1838, Smith, Elder & Co. quảng bá phần đầu tiên trong cuốn sách địa chất có nhan đề "Geological observations on volcanic islands and coral formations" của Darwin. Vào cuối tháng đó, Darwin cho rằng cuốn sách địa chất của ông sẽ "tốn rất nhiều giấy và sẽ ngốn rất nhiều thời gian" nó nên sẽ có thể được phân ra thành nhiều tập khác nhau (cuối cùng thì "Coral Reefs" xuất bản đầu tiên, sau đó đến "Volcanic Islands" năm 1844 và "South America" năm 1846). Ông nghi ngại khoản tiền được cấp sẽ không đủ chi cho tất cả các sách địa chất cần xuất bản. Tháng 2 năm 1838, phần đầu tiên của bộ sách về động vật học cũng xuất bản nhưng Darwin rất khó thuyết phục các chuyên gia viết bài báo cáo về các công trình của ông. Làm việc quá sức khiến Darwin ngã bệnh. Tháng 11 năm 1838, Darwin cầu hôn người em họ Emma và làm đám cưới vào tháng 1 năm 1839. Ông tiếp tục ý tưởng về tiến hoá và xem đây là "sở thích chủ đạo" của mình, dù rằng công việc liên tiếp bị trì hoãn do bệnh tật. Lâu lâu Darwin lại khởi động lại công việc soạn sách "Coral Reefs". Trong thư gửi Emma ngày 9 tháng 5 năm 1842, Darwin bày tỏ nỗi lo lắng khi khoản tiền được chính phủ cấp bị vơi đi nhanh hơn nhiều so với dự kiến. Ông thổ lộ đã dành nhiều thời gian – 20 tháng – cho việc biên soạn cuốn sách bàn về san hô của mình. Xuất bản. Tháng 5 năm 1842, tác phẩm "The Structure and Distribution of Coral Reefs" ra mắt với giá bìa 15 shilling và được độc giả đón nhận. Ấn bản thứ hai ra mắt năm 1874 và được sửa đổi, viết lại rất nhiều để đáp lại quan điểm của James Dwight Dana (trong cuốn "Corals and Coral Islands')' và của Joseph Jukes. Bố cục tác phẩm. Cuốn sách được bố cục chặt chẽ lô-gic với lập luận thuyết phục. Hình minh hoạ được sử dụng như một phần không thể thiếu cho phần lập luận trong sách. Tác phẩm chứa đựng nhiều biểu đồ chi tiết và một bản đồ thế giới khổ lớn được đánh dấu bằng màu sắc nhằm thể hiện tất cả các rạn san hô mà con người đã biết, tính đến thời điểm lúc bấy giờ. Phần mở đầu tóm tắt các mục tiêu mà cuốn sách muốn nhắm tới. Ba chương đầu của sách mô tả các kiểu rạn san hô khác nhau. Mỗi chương bắt đầu bằng một đoạn mô tả chi tiết về một rạn san hô mà Darwin nắm được nhiều thông tin nhất và được ông dùng làm ví dụ điển hình trong chương. Ở chương I, Darwin miêu tả các rạn san hô vòng mà ông gọi là "lagoon island" ("đảo có vụng biển") với ví dụ minh hoạ là các khám phá chi tiết của riêng ông cũng như của tàu "Beagle" tại quần đảo Keeling. Chương II bàn về một rạn san hô chắn bờ ("barrier reef") điển hình và so sánh nó với các rạn san hô khác. Chương III viết về loại rạn san hô mà Darwin gọi là rạn san hô viền bờ ("fringing reef", "shore reef"). Sau khi mô tả xong các kiểu rạn san hô chính, Darwin tiến hành trình bày phát hiện của ông về bề mặt của các rạn san hô, theo đó thì thực tế chúng không khác nhau nhiều. Rạn vòng khác với rạn chắn bờ ở một điểm duy nhất là rạn vòng không có hòn đảo nằm giữa, và rạn chắn bờ khác rạn viền bờ ở một điểm duy nhất là rạn viền bờ nằm cách biệt với hòn đảo và bao quanh một vụng biển (đầm nước). Chương IV của cuốn sách đề cập sự phân bố và tăng trưởng của các rạn san hô, nghiên cứu các điều kiện mà tại đó san hô phát triển mạnh, tốc độ phát triển của rạn san hô và độ sâu mà các polyp san hô tạo rạn sinh sống. Một kết luận trong chương là san hô chỉ phát triển mạnh ở một độ sâu rất giới hạn. Trong chương V, Darwin trình bày lý thuyết của minh thành một đoạn diễn giải thống nhất dựa trên các khám phá từ các chương trước thông qua việc chỉ ra bằng cách nào mà rạn chắn bờ và rạn vòng hình thành khi hòn đảo lún xuống, đồng thời rạn viền bờ được tìm thấy dọc theo bờ đảo với bằng chứng rằng đảo được nâng lên. Kết thúc chương là một đoạn tóm lược lý thuyết được minh hoạ bằng hai bản in khắc gỗ thể hiện hai giai đoạn khác nhau của tiến trình hình thành rạn san hô trong mối tương quan với mực nước biển. Trong chương VI, Darwin nghiên cứu sự phân bố về mặt địa lý của các kiểu rạn san hô và nêu ra hàm ý địa chất của sự phân bố này bằng cách sử dụng một tấm bản đồ màu khổ lớn nhằm thể hiện các vùng rạn san hô vòng, rạn chắn bờ rộng lớn trên thế giới (nơi mà đáy biển đang lún xuống và không có núi lửa nào còn hoạt động) và các vùng rạn viền bờ và núi lửa bột phát (nơi đất đang nâng lên). Cuối chương này là đoạn tóm tắt các phát hiện của từng chương và kết luận cuối cùng. Cuối sách có một phụ lục lớn cung cấp mô tả chi tiết và thấu đáo về mọi thông tin mà Darwin thu thập được về các rạn san hô trên toàn cầu. Bố cục hợp lý của tác phẩm này là nguyên mẫu cho bố cục của cuốn "Nguồn gốc các loài": trình bày chi tiết các khía cạnh khác nhau của một vấn đề, sau đó thiết lập lý thuyết giải thích cho hiện tượng đó, kế tiếp là biểu thị khả năng giải thích vấn đề xa hơn của lý thuyết vừa đề ra. Có thể xem "Coral Reefs" là cuốn đầu tiên trong bộ chuyên luận vĩ đại của Darwin về triết học tự nhiên. Với cách trình bày các kiểu rạn san hô như một chuỗi tiến hoá, cuốn sách đã thể hiện một phương pháp luận chặt chẽ cho các ngành khoa học dựa trên nghiên cứu sự kiện quá khứ - tức là khoa học diễn giải các mẫu hình quan sát được ở hiện tại nhưng là kết quả của một tiến trình lịch sử. Trong một đoạn văn nọ, Darwin còn trình bày quan điểm dưới góc nhìn của chủ nghĩa Malthus về đấu tranh sinh tồn: "Trong một rạn san hô đã có từ lâu đời thì san hô – rất khác nhau về chủng loài tại những phần khác nhau của rạn san hô – hầu như chắc chắn đều thích nghi với nơi mà chúng chiếm chỗ. Chúng giữ chỗ đứng của mình – giống như bao loài sinh vật khác – thông qua đấu tranh với các san hô khác và đấu tranh với giới tự nhiên bên ngoài. Vì thế mà chúng tôi có thể luận ra rằng, sự phát triển của san hô nhìn chung là chậm, ngoại trừ các trường hợp gặp thuận lợi đặc biệt." Đón nhận. Darwin gặt hái thành công khi hoàn tất và xuất bản các cuốn sách khác bàn về địa chất học và động vật học sau chuyến du hành với tàu "Beagle". Ông dành tám năm nghiên cứu sâu về loài hàu. Hai tập sách về Lepadidae được xuất bản năm 1851. Trong khi đang viết hai tập nữa về các loài hàu còn lại thì Darwin được Hội Hoàng gia Luân Đôn trao thưởng Huân chương Hoàng gia về Khoa học tự nhiên. Trong thư gửi Darwin, Joseph Dalton Hooker cho hay rằng "Pordock đã đề cử ông với hai tác phẩm là Coral Islands và Lepadidae; Bell nối gót ủng hộ riêng tác phẩm Lepadidae và tiếp sau đó là một màn reo hò tán tụng cho công trình về Hàu mà chắc hẳn ông sẽ [mỉm cười] khi nghe thấy đấy." Khám phá của Darwin và quan điểm hiện đại. Mối quan tâm của Darwin dành cho khía cạnh sinh học của các cơ thể sống tại rạn san hô tập trung vào các mặt liên quan đến ý tưởng địa chất về sự lún xuống, cụ thể là ông tìm kiếm bằng chứng xác nhận cho ý tưởng rằng các sinh vật tạo rạn chỉ có thể sống tại vùng nước nông. Darwin xem xét kết quả đo độ sâu của FitzRoy tại quần đảo Keeling và vô số quan sát của những người khác để đưa ra mức độ sâu giới hạn là 30 sải (55 m). Các nghiên cứu hiện đại cho thấy độ sâu này vào khoảng 100 m (so với độ sâu của đáy đại dương từ 3.000 đến 5.000 m). Darwin không chỉ nhận diện được tầm quan trọng của tảo đỏ đối với sự hình thành rạn san hô mà còn xem xét thêm các sinh vật có thể hỗ trợ tạo rạn. Theo quan điểm của ông thì số sinh vật này cũng sống tại vùng nước nông tương tự san hô. Tuy nhiên, các phát hiện trong thập niên 1880 cho thấy chúng thậm chí còn sống ở các bãi ngầm sâu hơn. Ngoài ra, Darwin cũng xem xét sự phân bố loài san hô trong tổng thể một rạn san hô nhất định, và ông cho rằng các phần rạn hướng ra biển - phải hứng chịu sóng gió nhiều nhất - thì được hình thành bởi san hô lớn và tảo đỏ. Theo ông, đây là vùng san hô phát triển năng động nhất nên sẽ tạo ra xu hướng khiến rạn san hô phát triển hướng về phía ngoài một khi các sinh vật tạo rạn tiến đến mặt biển. Ông tin rằng nhiệt độ và độ tĩnh của nước trong vụng biển càng cao thì san hô càng đa dạng về loài. Các ý tưởng sinh thái học này vẫn nguyên giá trị đến tận ngày nay, và người ta vẫn tiếp tục thực hiện các nghiên cứu chi tiết hơn. Trong quá trình khảo cứu địa chất rạn san hô, Darwin đã thể hiện khả năng nổi bật của mình khi thu thập thông tin thực tế và tìm ra các mẫu hình để tái dựng tiến trình lịch sử địa chất mà chỉ dựa vào rất ít các bằng chứng có sẵn. Ông chú ý ngay cả đến những chi tiết nhỏ nhất. Khi biết được sự tồn tại của cá mó tại nơi san hô sống, Darwin đã tiến hành phẫu thuật mẫu vật cá này nhằm tìm hạt mịn san hô trong ruột cá. Ông kết luận rằng loài cá này, cũng như các động vật không xương sống ăn san hô như hải sâm, có thể là nguyên nhân lý giải cho sự tồn tại của những bãi ngầm cấu thành từ bùn hạt mịn mà ông từng tìm thấy tại quần đảo Keeling. Bên cạnh đó, phát hiện này còn cho thấy rằng "có các sinh vật ngăn trở sự phát triển của rạn san hô, và quy luật "ăn và bị ăn" vẫn đúng ngay cả với các sinh vật kiểu polyp [ý nói polyp san hô] đã tạo nên những đê chắn sóng [ý nói rạn san hô] khổng lồ này". Những quan sát của Darwin về vai trò của các cơ thể sống trong sự hình thành nên những đặc điểm đa dạng của rạn san hô đã đi trước cả các nghiên cứu hiện đại. Thời đó, khi muốn đo lường độ dày của rạn san hô chắn bờ, Darwin chỉ dựa vào quy tắc ngón tay cái của ngành hàng hải để tiên đoán rằng sườn của rạn san hô dốc hơn nhiều so với hòn đảo ở giữa rạn san hô, đồng thời đoán ước độ dày tối đa vào khoảng 5.000 ft (1.500 m). Năm 1952, Ủy ban Năng lượng Hạt nhân Hoa Kỳ khoan được lỗ sâu 4.610 ft (1.405 m) tại rạn san hô vòng Enewetak (quần đảo Marshall) trước khi chạm đến nền núi lửa. Ở thời của Darwin, chưa bao giờ người ta tìm thấy một độ dày san hô hoá thạch tương ứng trên bất kì một lục địa nào; cả ông cũng như Lyell đều không thể đưa ra bất kì một lời lý giải nào có thể làm thoả mãn những người chỉ trích lý thuyết của ông. Tuy vậy, sau này người ta tìm thấy hai địa điểm có hoá thạch rạn đá trên lục địa mà tại đó độ sâu [dày] của chúng vào khoảng 3.000 ft (1.000 ft), phù hợp với quan điểm của Darwin về sự lún xuống của đảo núi lửa. Tuy nhiên, các nỗ lực khác của Darwin nhằm giải thích cho hiện tượng lún xuống đã bị thay thế bởi một khám phá mới trong khoa học, theo đó thì sông băng cũng có thể làm thay đổi mực nước biển. Căn cứ theo giả thuyết toàn cầu của Darwin, những khu vực rộng lớn mà tại đó đáy biển bị nâng lên thì sẽ được đánh dấu bởi sự tồn tại của các rạn san hô viền bờ (thỉnh thoảng xung quanh các núi lửa đang hoạt động) trong khi những khu vực rộng lớn mà tại đó đáy biển bị lún xuống thì sẽ được đánh dấu bởi sự tồn tại của các rạn san hô chắn bờ và rạn san hô vòng nằm trên các núi lửa đã tắt. Nhìn chung những quan điểm này của ông được xác nhận bởi các cuộc khoan thăm dò địa chất hiện đại trong thập niên 1980. Tuy nhiên, ý tưởng cho rằng sự nâng lên ở một số vùng đất này sẽ được "bù trừ" bởi sự lún xuống tại một số nơi thuộc đáy đại dương kia đã bị thay thế bằng lý thuyết kiến tạo mảng hiện đại mà Darwin đã không nhìn thấy trước được.
1
null
Thác Bạt Hoảng (, 428 – 29 tháng 7 năm 451), là một hoàng thái tử của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông là trưởng tử của Bắc Ngụy Thái Vũ Đế, và được lập làm thái tử vào năm 432 khi mới 4 tuổi. Khi ông trưởng thành hơn, Thái Vũ Đế cũng dần chuyển giao các quyền lực cho ông. Tuy nhiên vào năm 451, do hoạn quan Tông Ái hãm hại, nhiều thuộc quan của Thái tử Hoảng đã bị Thái Vũ Đế xử tử. Thái tử Hoảng kinh sợ và qua đời vào năm sau. Cuộc sống ban đầu. Thác Bạt Hoảng sinh năm 428, là trưởng tử của Thái Vũ Đế. Mẹ của ông được ghi là Hạ phu nhân (賀夫人), song do cả hai thị tộc Hạ Lan (賀蘭) và Hạ Lại (賀賴) sau này đều cải họ sang 'Hạ' trong phong trào Hán hóa tộc Tiên Ti dưới thời Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế, không rõ họ của bà là Hạ Lan hay Hạ Lại. Theo ghi chép, Hạ phu nhân qua đời vào năm sinh hạ Thác Bạt Hoảng. Năm 432, Thái Vũ Đế phong Thác Bạt Hoảng làm hoàng thái tử, đồng thời Thái Vũ Đế cũng phong Hách Liên thị (một trong số các phi tần) làm hoàng hậu. Thác Bạt Hoảng trở thành một quan lại cao cấp trong triều đình vào cùng năm, song vì khi đó ông mới 4 tuổi nên vị trí này dường như chỉ là hình thức. Năm 433, Thái Vũ Đế đã cố gắng dàn xếp quốc hôn giữa Thái tử Hoảng và một trong các công chúa của Lưu Tống Văn Đế, Văn Đế mặc dù không lập tức từ chối song cũng không chấp thuận. Năm 439, khi chinh phạt Bắc Lương, Thái Vũ Đế đã cho Thái tử Hoảng làm giám quốc tại kinh đô Bình Thành (平城, nay thuộc Đại Đồng, Sơn Tây), với sự hỗ trợ của Khâu Mục Lăng Thọ (丘穆陵壽) để đề phòng quân Nhu Nhiên tấn công. Tuy nhiên, Khâu Mục Lăng Thọ không nghĩ rằng Nhu Nhiên sẽ thật sự đem quân tiến đánh nên có rất ít phòng bị, vì thế khi Sắc Liên khả hãn Uất Cửu Lư Ngô Đề tấn công, Bình Thành lâm nguy. Khâu Mục Lăng Thọ muốn hộ thống Thái tử Hoảng đến vùng đồi phía nam Bình Thành và tiếp tục bố trí phòng thủ tại đó, song vì bảo thái hậu Đậu thị của Thái Vũ Đế phản đối, Thái tử Hoảng vẫn ở lại Bình Thành, Sau đó, quân Bắc Ngụy đánh bại quân Nhu Nhiên, Uất Cửu Lư Ngô Đề buộc phải triệt thoái. Đương thời, mặc dù mới 11 tuổi, Thái tử Hoảng có vẻ như đã tham gia vào việc quyết định các chính sách và vấn đề quân sự hệ trọng. Giả dụ, ông đã phản đối chiến dịch đánh Bắc Lương của phụ hoàng, song Thái Vũ Đế đã bác bỏ ý kiến này do nghĩ sẽ dễ dàng chinh phục được nước này. Năm 442, Thái tử Hoảng dường như đã là một Phật tử mộ đạo, và khi Thái Vũ Đế nghe theo đề xuất của Thôi Hạo (崔浩) và đạo sĩ Đạo giáo Khấu Khiêm Chi mà quyết định cho xây công trình Tĩnh Luân cung (靜輪宮) rất cao và phức tạp, Thác Bạt Hoảng đã phản đối vì vấn đề chi phí, song Thái Vũ Đế không chấp thuận. Cai quản quốc gia. Năm 443, Thái tử Hoảng tháp tùng phụ hoàng trong một chiến dịch chống Nhu Nhiên, và đến khi họ đột nhiên gặp Uất Cửu Lư Ngô Đề, Thái tử Hoảng muốn lập tức tấn công, song Thái Vũ Đế lại do dự và khiến cho Uất Cửu Lư Ngô Đế có thể chạy thoát. Từ thời điểm đó trở đi, Thái Vũ Đế bắt đầu lắng nghe nghiêm túc ý kiến của Thái tử Hoảng, và đến mùa đông năm 443, Thái Vũ Đế đã ủy thác cho Thái tử Hoảng thực hiện hầu hết các nhiệm vụ của hoàng đế (ngoại trừ một số vấn đề quan trọng nhất) với sự hỗ trợ của Khâu Mục Lăng Thọ, Thôi Hạo, Trương Lê (張黎), và Thổ Hề Bật (吐奚弼). Ngay sau đó, Thái tử Hoảng đã thực hiện một chính sách nhằm khuyến khích canh tác, theo đó những người có nhiều gia súc buộc phải cho những người không có gia súc thuê chúng (tức gia súc) để lấy sức kéo, những người thuê gia súc sẽ trả phí thuê bằng cách cày bừa trên các vùng đất của chủ sở hữu gia súc, việc này đã làm tăng năng suất của các vùng đất trồng trọt lên rất nhiều. Năm 446, khi đang tấn công quân khởi nghĩa của một người Hung Nô tên là Cái Ngô (蓋吳), Thái Vũ Đế đã tìm thấy một lượng vũ khí lớn cất giữ trong các ngôi chùa tại Trường An. Cho rằng các hòa thượng ở đây liên kết với Cái Ngô, Thái Vũ Đế đã đồ sát các hòa thượng tại Trường An. Sau đó, Thái Vũ Đế ban một thánh chỉ nghiêm cấm Phật giáo trên quy mô toàn quốc. Tuy nhiên, Thái tử Hoảng đã trì hoãn trong việc ban bố thánh chỉ, tạo điều kiện cho các Phật tử chạy trốn hay đi ẩn cư, song đã không một ngôi chùa nào còn tồn tại ở Bắc Ngụy. Đây là sự kiện đầu tiên trong Tam Vũ chi họa của Phật giáo Trung Quốc. Năm 450, Thái tử Hoảng trở nên xung khắc trực diện với Thôi Hạo trên vấn đề quản lý quốc sự. Khi Thôi Hạo tiến cử một số người làm thái thú, Thái tử Hoảng đã kịch liệt phản đối, song những người này vẫn được bổ nhiệm do Thôi Hạo vẫn cương quyết tiến cử. Thái tử Hoảng cũng đã can dự vào sự việc khiến Thôi Hạo cùng toàn thể họ tộc của người này bị xử tử vào năm 450 với tội danh phỉ báng tổ tiên hoàng thất, đó là khi Thái tử đã biện luận hết mình để thuyết phục phụ hoàng tha cho Cao Doãn (高允)- một thuộc cấp của Thôi Hạo, và trong quá trình đó, Cao Doãn đã trình bày một số vấn đề liên quan đến Thôi Hạo. Vào mùa thu năm 450, khi Lưu Tống Văn Đế phái tướng Vương Huyền Mô (王玄謨) đi đánh Hoạt Đài (滑台, nay thuộc An Dương, Hà Nam), Thái Vũ Đế đã đích thân dẫn quân đi giải vây cho Hoạt Đài. Sau khi đánh bại Vương Huyền Mô, Thái Vũ Đế đã tiến sâu vào lãnh thổ Lưu Tống. Trong khi tiến đánh Lưu Tống, Thái Vũ Đế đã giao cho Thái tử Hoảng phòng thủ biên giới phía bắc trước khả năng Nhu Nhiên tiến công. Qua đời. Thái tử Hoảng được mô tả là thượng tôn luật pháp, song lại tín nhiệm thuộc quan và cũng giành quá nhiều nỗ lực để trông nom vườn cây và đồng ruộng nhằm thu hoa lợi từ chúng. Cao Doãn đã thuyết phục ông không tham gia vào các hoạt động thương mại và không nên ủy thác quá mức việc triều chính cho thuộc quan, song Thái tử Hoảng không nghe theo. Năm 451, Thái tử Hoảng xung khắc với hoạn quan Tông Ái do phát hiện ra người này tham ô, đây cũng là người mà ông rất không ưa. Tông Ái lo sợ các thuộc quan thân tín của Thái tử Hoảng là Cừu Ni Đạo Thịnh (仇尼道盛) và Nhâm Bình Thành (任平城) sẽ tố cáo mình, vì thế hoạn quan này đã ra tay trước bằng cách cáo buộc Cừu Ni và Nhâm phạm pháp. Trong cơn thịnh nộ, Thái Vũ Đế đã cho xử tử Cừu Ni và Nhâm, nhiều thuộc quan khác của Thái tử dính líu đến vụ việc và cũng bị xử tử. Thái tử Hoảng trở nên kinh sợ, lâm bệnh và qua đời. Truy phong. Ngay sau đó, Thái Vũ Đế đã nhận ra rằng Thái tử Hoảng không mắc phải bất cứ tội nào, vì thế đã rất hối tiếc vì hành động của mình. Khoảng tết năm 451, Thái Vũ Đế lập trưởng tử của Thái tử Hoảng là Thác Bạt Tuấn tước hiệu Cao Dương vương, song sau đó lại phế bỏ nhằm phong Thác Bạt Tuấn làm hoàng thái tôn vào sau này. Do lo sợ sẽ bị Thái Vũ Đế trừng phạt, Tông Ái đã ám sát Thái Vũ Đế vào mùa xuân năm 452 rồi đoạt lấy quyền lực. Tông Ái lập Nam An vương Thác Bạt Dư làm hoàng đế, rồi lại sát hại khi Thác Bạt Dư muốn khẳng định quyền lực của bản thân. Sau khi Tông Ái bị lật đổ, Thác Bạt Tuấn đăng cơ làm hoàng đế và đã truy tôn cho cha là Cảnh Mục hoàng đế, miếu hiệu Cung Tông. Gia đình. Thê thiếp. Theo Bắc sử-quyển 17, hậu đình của Ngụy cựu thái tử không có vị hiệu, đến khi Văn Thành Đế lên ngôi, thê thiếp trong cung của Thái tử đều gọi là tiêu phòng.
1
null
C/2012 S1 (hay sao chổi ISON) là một sao chổi có quỹ đạo đi đến rất gần Mặt Trời (sungrazing comet) do hai nhà thiên văn Vitali Nevski (Виталий Невский, Vitebsk, Belarus) và Artyom Novichonok (Артём Новичонок, Kondopoga, Nga) phát hiện vào ngày 21 tháng 9 năm 2012. Họ sử dụng kính thiên văn phản xạ đường kính 0,4 mét tại Đài quan sát Mạng lưới Quang học Khoa học Quốc tế (International Scientific Optical Network - ISON) gần Kislovodsk, Nga thuộc chương trình CoLiTec sử dụng các kính thiên văn robot nhằm phát hiện tiểu hành tinh. Các nhà thiên văn nhanh chóng nhận ra nó từ những bức ảnh chụp trước đó tại Dự án Khảo sát bầu trời núi Lemmon ngày 28 tháng 11 năm 2011 và bởi kính thiên văn Pan-STARRS ngày 28 tháng 1 năm 2012. Một đội các nhà thiên văn Italia từ Đài quan sát Remanzacco thuộc mạng lưới iTelescope cũng chụp ảnh được sao chổi C/2012 S1 vào ngày 22 tháng 9. Trung tâm Dữ liệu Tiều hành tinh xác nhận đây là sao chổi vào ngày 24 tháng 9 năm 2012. Quan trắc sau đó của Kính thiên văn tia gamma Swift cho phép các nhà khoa học ước lượng nhân sao chổi có đường kính khoảng 5 km. Quỹ đạo. Sao chổi C/2012 S1 sẽ đến điểm cận nhật (gần Mặt Trời nhất) ngày 28 tháng 11 năm 2013 ở khoảng cách tính từ tâm Mặt Trời. Tính đến cả bán kính Mặt Trời khoảng 695.500 km, sao chổi này sẽ cách bề mặt Mặt Trời chỉ khoảng 1.100.000 km. Quỹ đạo của nó hình hypebol rất gần dạng parabol, và các nhà thiên văn nghĩ rằng sao chổi mới này có thể có nguồn gốc từ đám mây Oort hoặc từ ngoài Hệ Mặt Trời. Trên quỹ đạo của nó, sao chổi sẽ đi cách Sao Hỏa ở điểm gần nhất vào ngày 1 tháng 10 năm 2013, và sẽ ở gần Trái Đất nhất với khoảng cách vào ngày 26 tháng 12 năm 2013. Các nhà thiên văn nhận thấy một vài tham số quỹ đạo của sao chổi C/2012 S1 xấp xỉ bằng tham số của Đại Sao chổi 1680 và họ cho rằng có thể nhân của hai sao chổi này là những mảnh vỡ của cùng một thiên thể lớn hơn. Trái Đất sẽ đi qua quỹ đạo của sao chổi này vào ngày 14–15 tháng 1 năm 2014, và có thể sẽ xuất hiện mưa sao băng. Quan sát. Vào lúc phát hiện, cấp sao biểu kiến của sao chổi C/2012 S1 xấp xỉ 18,8, quá mờ để nhìn bằng mắt thường, nhưng đủ sáng để các nhà thiên văn nghiệp dư chụp bằng kính thiên văn. Giống như những sao chổi khác, nó sẽ sáng dần lên khi đến gần Mặt Trời và mờ nhạt dần khi rời xa Mặt Trời. Trong giai đoạn 5 tháng 6 đến 29 tháng 8 năm 2013, sao chổi ISON có góc ly giác nhỏ hơn 30 độ tính từ Mặt Trời. Trong tháng 9 năm 2013, sao chổi đủ sáng để nhìn được qua kính thiên văn nhỏ. Nhưng có lẽ nó đủ sáng đến cấp 6 để nhìn bằng mắt thường vào khoảng tháng 11 năm 2013. Giả sử nó tồn tại sau khi đến điểm cận nhật, sao chổi có thể nhìn bằng mắt thường cho đến giữa tháng 1 năm 2014. Tháng 10, nhìn từ Trái Đất sao chổi ở chòm sao Sư Tử, đi gần ngôi sao sáng nhất Regulus trong chòm sao này và rồi đến gần Sao Hỏa trên bầu trời đêm, do vậy giúp những ai muốn quan sát nó có thể xác định vị trí của nó tốt hơn. Tháng 11, khi sao chổi trở lên sáng hơn, nó sẽ đến gần ngôi sao sáng Spica thuộc chòm sao Virgo, và gần một hành tinh khác là Sao Thổ trên nền trời. Khoảng thời gian nó đến gần điểm cận nhật ngày 28 tháng 11 năm 2013, nó sẽ trở lên rất sáng và nếu tồn tại được dưới bức xạ mạnh của Mặt Trời, độ sáng biểu kiến của sao chổi có thể có giá trị âm. Trong thời gian ngắn, nó có thể sáng hơn lúc Trăng tròn. Tuy sao chổi sẽ sáng nhất khi ở gần Mặt Trời; nhưng chỉ cách 1° tính từ Mặt Trời ở cận điểm, khiến rất khó quan sát nó do ánh sáng mạnh của Mặt Trời làm mờ sao chổi. Vào tháng 12, sao chổi trở lên mờ hơn, nhưng nếu còn tồn tại, nó sẽ có thể quan sát từ mọi nơi trên Trái Đất, với một đuôi sao chổi kéo dài. Đặt tên. Tên gọi của nó là C/2012 S1. Tên viết tắt của nơi phát hiện ra nó "sao chổi ISON" đôi khi được sử dụng. Nếu trung tâm ISON ở Nga phát hiện ra một sao chổi khác, tên của sao chổi mới này sẽ là "C/2012 S2 (ISON)". Tuy nhiên, do sự nhầm lẫn của các phương tiện truyền thông họ thường coi tên gọi như ISON là một tên hiệu gắn với nơi sao chổi được phát hiện ra, và do vậy cách gọi tên này sẽ gây nhầm lẫn nếu tại trung tâm này sau đó phát hiện ra một sao chổi mới. Tên gọi của một số sao chổi chu kỳ ngắn nổi tiếng thường lấy tên của các nhà thiên văn phát hiện ra nó như sao chổi Halley hay sao chổi Swift–Tuttle. Nếu theo cách đặt tên này, sao chổi này có thể có tên gọi là "sao chổi Nevski–Novichonok" hoặc sao chổi C/2012 S1 (Nevski–Novichonok).
1
null
Legio prima Italica (Quân đoàn italica thứ nhất; Tên riêng "Italica" của nó là một sự ám chỉ rằng những tân binh ban đầu đến từ Ý) là một quân đoàn La Mã được hoàng đế Nero thành lập vào ngày 22, tháng 9 năm 66 (ngày tháng được chứng thực bởi một dòng chữ khắc). Hiện vẫn còn có những ghi chép về việc "I Italica" đóng quân ở biên giới sông Danube vào đầu thế kỷ thứ 5. Biểu tượng của quân đoàn là một con lợn. Lịch sử. Không hài lòng với kết quả của cuộc chiến tranh La Mã-Parthia năm 58-63, Hoàng đế Nero đã thành lập quân đoàn "I Italica" với tên gọi "phalanx Alexandri Magni" ("phalanx của Alexandros Đại đế"), cho một chiến dịch mới ở Armenia, "ad Portas Caspias" - ở cửa ngõ của Chawar. Các ghi chép đều đề cập đến một thực tế đặc biệt là các lính lê dương ban đầu là người Italia, tất cả đều cao hơn sáu feet. Tuy nhiên, chỉ một vài tuần sau đó, cuộc khởi nghĩa của người Do Thái đã nổ ra và do đó chiến dịch Armenia dự kiến đã ​​không bao giờ diễn ra. Ngoài ra, thống đốc của Gaul, Gaius Julius Vindex, đã tiến hành một cuộc nổi dậy vào đầu năm 68 và "I Italica" đã được phái đến đó và họ đến đó đúng vào thời điểm kết thúc cuộc nổi dậy. Trong năm Tứ hoàng đế (69), sau cái chết của Nero, quân đoàn đã nhận được tên gọi "I Italica" và họ chiến đấu cho Vitellius trong trận Bedriacum thứ hai, tại đây phe Vitellius đã bị quân đội của phe Vespasianus đánh bại. Vị hoàng đế mới sau đó phái "I Italica" tới tỉnh Moesia vào năm 70. Họ đóng quân ở Novae (Svishtov ngày nay) và ở đó trong nhiều thế kỷ. Trong các cuộc chiến tranh Dacia của Trajan, quân đoàn đã chịu trách nhiệm việc xây dựng cầu trên sông Danube. Hoạt động xây dựng dường như đã là một lĩnh vực chuyên môn của quân đoàn. Khoảng năm 140, một đội trưởng của "I Italica" đã chịu trách nhiệm về việc xây dựng một phần của trường thành Antoninus. Trong suốt triều đại của Marcus Aurelius, "I Italica" gần như chắc chắn đã tham gia vào các cuộc chiến tranh chống lại những bộ tộc người Đức mà đã đe dọa vượt qua sông Danube. Sau một cuộc chiến tranh kéo dài, người La Mã đã chinh phục được nhiều vùng đất ở phía bờ trái của sông Danube. Tại đó, Marcus Aurelius đã có ý định thành lập một tỉnh mới dưới quyền thống đốc Aulus Julius Pompilius Piso, viên tướng của "I Italica" và "IV Flavia Felix", nhưng cuộc nổi loạn của Avidius Cassius ở phía Đông đã khiến cho kế hoạch thành lập các tỉnh mới bị hủy bỏ. Vào năm 193, Thống đốc Thượng Pannonia, Septimius Severus đã tuyên bố làm hoàng đế và tiến quân về Italia. "I Italica" đã ủng hộ Severus, nhưng họ lại không tiến quân về Ý. Quân đoàn đã chiến đấu chống lại đối thủ của Severus, Pescennius Niger và vây hãm Byzantium cùng với XI Claudia, sau đó tiếp tục tham gia vào trận Issus. Quân đoàn có thể đã tham gia vào chiến dịch Parthia của Severus (Năm 198). Trong thế kỷ thứ 3, dưới triều đại của Caracalla, quân đoàn đã tham gia vào việc xây dựng phòng tuyến Transalutanus, tuyến phòng thủ dọc theo sông Danube, mà đã bắt đầu gần Novae. Dưới triều đại của Alexander Severus, một số vexillatio của "I Italica" đã chuyển đến Salonae để bảo vệ bờ biển Dalmatia.
1
null
Đập Nha Trinh là một đập thủy lợi nằm trên sông Cái Phan Rang tại tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam. Qua hơn 800 năm tồn tại, ngày nay, đập nước vẫn giữ vai trò điều tiết thủy lợi, vừa là khu du lịch sinh thái độc đáo với nhiều cảnh đẹp, hấp dẫn du khách của tỉnh Ninh Thuận. Thông số. Theo các tài liệu nghiên cứu, đập Nha Trinh được xác định xây dựng trong thời vua Po Klong Garai (Shinhavarmen II), từ khoảng năm 1151 - 1205, nhằm phục vụ điều tiết thủy lợi cho một vùng rộng lớn có tên gọi là Nha Hố (địa danh này ngày nay vẫn còn tồn tại với tên gọi của một thôn ở xã Nhơn Sơn, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận). Theo số liệu đo đạc hiện nay, đập Nha Trinh là một công trình thủy lợi đồ sộ, ngoài phần thân đập chính dài 385m, cao 5m và rộng 3m, thì còn có một hệ thống mương dẫn rất dài, trong đó Mương Chăm (chính là mương cái do phụ nữ đào theo truyền thuyết) dài đến 60 cây số, còn mương Đực (tức mương do nam giới đào) dài khoảng 50 cây số. Dưới phần thân đập chính, Nha Trinh còn có bốn đập con được xây liền kề để tích nước vào mùa khô. Tổng diện tích đất nông nghiệp ăn nguồn nước của hệ thống thủy lợi này lên đến hơn 12.000 ha. Giá trị du lịch. Nha Trinh vừa là công trình thủy lợi lớn của tỉnh Ninh Thuận, vừa là khu du lịch sinh thái độc đáo với nhiều cảnh đẹp, hấp dẫn du khách. Trải qua hơn 800 năm chống chọi với thiên nhiên, đập Nha Trinh vẫn còn bền vững và phát huy tốt vai trò của nó. Hàng năm, mỗi dịp tết đến, người dân trong và ngoài tỉnh lại đến nơi đây thưởng ngoạn và vui chơi. Truyền thuyết. Truyền thuyết trong dân chúng kể lại rằng, đập Nha Trinh (theo tiếng Chăm là Chakling, sau này dân Kinh đọc trại đi thành Nha Trinh) do vua Shinhavarmen III (vua Po Klong Garai) chủ trì xây dựng, và ông cũng chính là vị thần được dân thờ trong ngôi tháp trên núi Trầu. Nhưng theo các nghiên cứu sử học, thì vua Po Klong Garai chính là Suryavarmadeva, một con người nổi tiếng bởi máu phiêu lưu và một thân thế đầy sóng gió; còn ngôi tháp thờ ông là tác phẩm của vua Jaya Simhavarman (tức vua Chế Mân) dựng lên để tưởng nhớ tiền nhân của dân tộc mình. <br> Khác với chính sử, chủ yếu ghi lại chiến công của các vị vua chăm trên chính trường và chiến trường, thì các câu chuyện truyền thuyết lưu truyền trong dân gian lại có nội dung chủ yếu ghi nhớ sự đóng góp cho đời sống sản xuất của chúng dân. Nghĩ cũng đúng thôi, bởi người dân thời nào cũng thế, chỉ mong một cuộc sống no lành yên cơm ấm áo, đâu thích gì chuyện binh đao hay tranh quyền đoạt vị. Trong nhiều truyền thuyết về vị vua đã cho xây con đập, ngày nay còn phổ biến nhất là câu chuyện kể sau đây: <br> ""Ngày xưa ở vùng đất này có gia đình vợ chồng già nọ không con. Họ thường cầu mong trời đất phù hộ để ban cho họ một mụn con để đỡ cô quạnh lúc tuổi già. Một hôm, họ lội qua bến nước phía trên đập Nha Trinh bây giờ, và vô tình trông thấy một cái bọc trôi lềnh bềnh giữa sông. Ông bà vội vàng vớt lên, khi mở ra thì thấy bên trong có một bé gái rất xinh. Ông bà rất đỗi vui mừng, nghĩ là trời phật đã thấu lời khấn nguyện của mình và quyết định đem bé gái về nuôi. "Thấm thoắt, cô bế đã lớn khôn và thường theo bố mẹ vào rừng đốn củi. Một hôm, trời nắng gắt, cô gái khát nước, mà khu rừng, nơi ba người đang hái củi, lại không có khe suối gì cả. ông già khuyên con gái ráng chịu, về nhà sẽ uống nước. Không chịu nổi cơn khát, cô gái lén đi tìm nước uống. Đi một quãng xa, cô thấy một tảng đá rất to, ở giữa tảng đá có một vũng nước trong vắt. Cô gái mừng rỡ, lấy tay vục nước uống. Khi ông bà già tìm thấy cô gái, thì vũng nước tự nhiên cạn dần. Ba người cho là điềm lạ, đành quay về. Từ hôm đó, tự nhiên cô gái thụ thai. Tới tháng, cô sinh được một bé trai mình mẩy ghẻ lở trông hết sức kinh tởm. Ông bà già rất quý cháu, nuôi cháu rất cấn thận và đặt tên cháu là Pô Ông." <br> "Lên bảy tuổi, Pô Ông đi chăn bò cho nhà vua. Một hôm, vì mê chơi cùng lũ trẻ, Pô Ông để lạc một con bò trong đàn. Chạy tìm kiếm khắp nơi mà không thấy, Pô Ông bèn trèo lên một cây cao để nhìn, và thấy con bò của mình đang bị cột trong vườn một ngôi nhà to lớn. Mừng quá, Pô Ông tụt vội xuống đất, làm cho cây rung chuyển. Cây bỗng trở nên đỏ chói, rồi biến thành một con rồng. Con rồng đứng yên nhìn chàng trai một cách kính cẩn. Pô Ông nhờ một người lớn đến xin lại con bò. Không ngờ, chủ ngôi nhà ấy là một vị thầy cả có cô con gái xinh đẹp. Thấy Pô Ông ghẻ lở đầy mình, cô gái vội thưa với cha hãy trả bò cho anh ta và đuổi anh ta đi. Nhưng người cha thấy trên người chàng trai có những tướng lạ, thì rất vui mừng. Ông nói cho con gái biết điều đó và hứa gả con gái mình cho Pô Ông. Một thời gian sau, Pô Ông kết thân với một người bạn tên là Pô Klông Chanh và rủ nhau đi buôn trầu. Thường ngày, hai người về nghỉ ở một chỗ rồi thay phiên nhau về nhà lấy cơm ra cùng ăn. Một hôm, đến lượt Pô Klông Chanh đi lấy cơm, còn Pô Ông thì nằm nghỉ và ngủ thiếp đi. Khi Pô Klông Chanh trở lại thì thấy một cảnh tượng kỳ lạ: một con rồng đang liếm khắp thân mình ghẻ lở của Pô Ông, bao nhiêu vết ghẻ lở của Pô Ông biến mất, còn Pô Ông thì biến thành một chàng trai đẹp lạ thường." <br> "Một hôm, nhớ tới chàng trai chăn bò ghẻ lở, vị thầy cả tìm đến kết thân. Pô Ông nhận cô con gái thầy cả làm vợ. Được ít lâu, vị vua băng hà, nhưng không có hoàng tử kế vị. Trong khi triều đình lo nghĩ, thì con voi trắng của hoàng cung phá chuồng chạy thẳng tới chỗ Pô Ông, quỳ xuống và đưa vòi ra tỏ ý mời. Tưởng voi có chuyện gì cần đến mình, Pô Ông nhảy lên mình voi. Voi đưa chàng trai về kinh thành. Các triều thần biết đây là ý trời bèn tôn Pô Ông lên làm vua. Pô Ông đăng cơ với tên gọi là Pô Klaung Girai. Pô Ông tỏ ra là một vị vua tài ba, có tài dẫn thủy nhập điền. Ruộng vườn, trước kia khô cạn, nhờ có ngài mà tươi tốt. Dân chúng no ấm hơn xưa. Ngài cho làm một chiếc bè bằng thân cây chuối, đặt ít đất lên bè rồi thả bè trên sông Dinh, đọc thần chú cho bè trôi ngược dòng. Khi chiếc bè trôi đến Nha Trinh, ngài hô "dừng lại". Lập tức, bè chìm xuống và biến thành cái đập lớn chắn ngang sông. Ngài chỉ cho dân đào hai con mương để dẫn nước vào ruộng mà ngày nay vẫn gọi là mương Chăm. Nữ đào mương bên phải, nam đào mương bên trái. Vì cứ lo đi chòng ghẹo các cô gái, nên bên nam đào mương rất chậm. Con mương bên trái vì thế đành bỏ dở, không dùng được..."
1
null
Computer Entertainment Rating Organization (CERO) - một tổ chức phi lợi nhuận Nhật Bản, trao giải thưởng xếp hạng trò chơi máy tính và phần mềm để bán tại Nhật Bản. Xếp hạng cho thấy người tiêu dùng trong nhóm tuổi, một thể loại của những người sử dụng có thể sử dụng sản phẩm này. Chạy từ tháng 7 năm 2002 trở đi như là một nhánh của Hiệp hội các nhà cung cấp máy tính giải trí. Nhãn xếp hạng CERO. Vào ngày 1 tháng 3 năm 2006, CERO đã triển khai bản sửa đổi mới nhất cho hệ thống xếp hạng của mình. Các ký hiệu mà CERO sử dụng là các chữ cái Latinh cách điệu, được đặt tên theo cách chấm điểm trong giáo dục, ngoại trừ "F" được thay thế bằng "Z". Mỗi mục đích đều nhằm truyền tải sự phù hợp của trò chơi đối với trẻ vị thành niên. "Các nhãn xếp hạng CERO" được nhóm lại thành "các nhãn phân loại độ tuổi" và "các nhãn khác". Các nhãn phân loại độ tuổi bao gồm năm nhãn sau đây. Một trong số các nhãn được in ở phía dưới bên trái của mặt trước hộp trò chơi và một thanh màu tương ứng cũng được hiển thị trên phần gáy hộp. (Màu của thanh xếp hạng: đen cho "A"; xanh lá cây cho "B"; xanh lam cho "C"; cam cho "D"; đỏ cho "Z") Biểu tượng nội dung. Vào tháng 4 năm 2004, CERO đã định nghĩa các "biểu tượng nội dung" sau đây. Biểu tượng nội dung thể hiện rằng quyết định phân loại độ tuổi đã được đưa ra dựa trên các dạng thức thuộc về một (hoặc nhiều) biểu tượng nội dung. Chúng được nhóm thành chín loại. Các biểu tượng này được hiển thị ở mặt sau của tất cả các hộp trò chơi ngoại trừ những hộp được xếp hạng "A" hoặc "Giáo dục/Cơ sở dữ liệu".
1
null
Vườn quốc gia Springbrook là một vườn quốc gia tại Springbrook trên dãy núi McPherson thuộc nội địa Gold Coast của bang Queensland, Úc. Vườn quốc gia này cách Brisbane 96 km về phía nam. Nơi đây là một phần của hệ thống núi lửa thuộc Các rừng mưa Gondwana của Úc được UNESCO công nhận là di sản thế giới vào năm 1986. Nó bảo vệ vùng rừng quan trọng Scenic Rim và là vùng chim quan trọng, là nhà của một số các loài chim cực kỳ nguy cấp.
1
null
"Video Games" ("Trò chơi điện tử") là đĩa đơn đầu tiên của ca sĩ, nhạc sĩ Lana Del Rey trích từ album phòng thu thứ hai của cô, Born to Die. Lần đầu, đĩa đơn được đưa lên internet vào ngày 29 tháng 6 năm 2011 và ban đầu được đưa vào đĩa đơn mở rộng "Lana Del Rey". Sau này, nó trở thành đĩa đơn đầu tiên cho Born to Die và được tái phát hành vào ngày 10 tháng 10 năm 2011 bởi hãng đĩa Interscope. Tính đến nay, đây là ca khúc duy nhất của Lana Del Rey lọt vào "Billboard Hot 100" ở vị trí 91. Nội dung. Nội dung bài hát là lời bộc bạch một cô gái dù bị người yêu cự tuyệt, không ngó ngàng nhưng vẫn một lòng yêu thương anh ta. MV. Video âm nhạc chính thức của ca khúc được đạo diễn và biên tập bởi chính Lana Del Rey. Video gồm những hình do cô tự quay xen kẽ những đoạn webcam quay chính cô đang biểu diễn ca khúc.
1
null
Trần Chung Ngọc (1931– 29 tháng 1 năm 2014) là một tác giả Phật giáo người Mỹ gốc Việt. Tốt nghiệp bằng tiến sĩ Vật lý tại Đại học Wisconsin-Madison, Trần Chung Ngọc từng tham gia giảng dạy tại trường Đại học Khoa học Sài Gòn thời Việt Nam Cộng hòa, ông cũng có thời gian nhập ngũ trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Sau năm 1975, Trần Chung Ngọc sang định cư tại Hoa Kỳ, ông tiếp tục nghiên cứu vật lý. Sau khi về hưu, ông Ngọc tham gia nhóm Giao Điểm viết về các chủ đề lịch sử và tôn giáo liên quan đến Việt Nam, đặc biệt là những nội dung chống Công giáo. Tiểu sử. Trần Chung Ngọc sinh năm 1931 tại Hà Nội, Trần Chung Ngọc tham gia quân ngũ từ năm 1952 đến năm 1956 rồi quy y cửa Phật tại Chùa Văn Thánh, Sài Gòn với pháp danh Phúc Lâm. Đến năm 1962 thì theo học tại trường Đại học Khoa học Sài Gòn. Sau thời gian tái ngũ Quân lực Việt Nam Cộng hòa từ năm 1962 – 1965, Trần Chung Ngọc quay về giảng dạy tại Đại học Khoa học Sài Gòn rồi được cử đi Hoa Kỳ học tiến sĩ vật lý tại Đại học Wisconsin-Madison. Tốt nghiệp năm 1972, ông trở lại Việt Nam giảng dạy đến năm 1975 thì di cư sang Hoa Kỳ làm nghiên cứu sinh sau tiến sĩ trong vòng 2 năm cho Đại học Wisconsin-Madison, rồi làm ở phòng nghiên cứu vật lý của trường này cho đến khi về hưu năm 1996. Trần Chung Ngọc nghỉ hưu từ năm 1996 và bắt đầu nghiên cứu, viết bài về các chủ đề lịch sử, chính trị và tôn giáo. Các bài viết của ông được đăng trên trang Giao điểm và Sách hiếm. Trần Chung Ngọc mất lúc 11 giờ ngày 29 tháng 1 năm 2014 tại Illinois, Hoa Kỳ do một cơn đau tim. Các nhận định nổi bật. Theo báo Công An Nhân dân, Trần Chung Ngọc là một trí thức hải ngoại từng ở phía Việt Nam Cộng hòa nhưng ủng hộ vai trò giải phóng dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam, ủng hộ giải phóng Miền Nam, đánh giá tích cực "đợt di dân vĩ đại chưa từng có trong lịch sử Việt Nam". Giáo sư Trần Chung Ngọc cho rằng: ""Mỹ không có bất cứ lý do chính đáng nào để can thiệp vào Việt Nam, một nước nhỏ, nghèo, chưa phát triển và không có bất cứ khả năng nào có thể gây hại cho nước Mỹ. Do đó, việc Mỹ can thiệp vào Việt Nam là bất chấp dư luận, bất chấp cả công pháp quốc tế, nghĩa là: "dùng cường quyền thắng công lý" của một cường quốc tự cho mình có quyền can thiệp vào bất cứ đâu mà Mỹ muốn"" Trần Chung Ngọc cho rằng không có Đảng Cộng sản Việt Nam thì sẽ không có độc lập dân tộc: "không có Đảng Cộng sản Việt Nam thì chế độ nô lệ thực dân Pháp có cáo chung không", "chiến thắng quân ngoại xâm Pháp rồi Mỹ của Đảng Cộng sản Việt Nam". Ông cho rằng: ""Giải phóng miền Nam" là khẩu hiệu của những người Cộng sản để thực hiện thống nhất đất nước." Ông là một người gốc Việt ở nước ngoài phê phán cuốn "Bên thắng cuộc" của Huy Đức. Ông cũng là người có các bài viết bảo vệ Hồ Chí Minh trước các phê phán của một số người Việt hải ngoại về Hồ Chí Minh.. Ông cũng phê phán mục tiếng Việt của các hãng thông tấn VOA, BBC, RFA, RFI là để "chống phá Việt Nam, phục vụ cho đường lối chỉ đạo của các quốc gia liên hệ". Đánh giá. Tiến sĩ Thích Nhật Từ, Trụ trì Chùa Giác Ngộ đánh giá: "“GS.TS. Trần Chung Ngọc là nhà tri thức lớn của Phật giáo Việt Nam nói riêng và đất nước Việt Nam nói chung. Với 5 quyển sách chuyên khảo, 16 quyển sách viết chung và hơn 200 bài nghiên cứu mang tính học thuật của giáo sư Ngọc về tôn giáo và lịch sử Việt Nam là những đóng góp to lớn về mặt tri thức và phương pháp, nhằm giúp cho độc giả rộng mở tầm nhìn về tôn giáo, Phật giáo và khoa học.”"
1
null
Huệ Thi (惠施) (370 TCN-310 TCN) là 1 nhà triết học cổ đại Trung Quốc thuộc phái Danh gia. Ông từng làm tướng quốc cho Ngụy Huệ Thành vương và là người nổi tiếng hiểu sâu biết rộng về mọi mặt và giỏi biện luận. Được người đời tôn xưng là Huệ Tử (惠子). Thân thế. Huê Thi là người nước Tống. Ông là tướng quốc của nước Ngụy thời Chiến Quốc. Mười mệnh đề của Huệ Tử. Đương thời, khi trao đổi với Trang Tử, Huệ tử đã đề cập tới mười chuyện ngịch lí của thế gian: Hán âm. 1. Chí đại vô ngoại, vị chi đại nhất; chí tiểu vô nội, vị chi tiểu nhất. (至大無外,謂之大一;至小無內,謂之小一) 2. Vô hậu, bất khả tích dã, kỳ đại thiên lý. (無厚,不可積也,其大千里) 3. Thiên dữ địa ti, sơn dữ trạch bình. (天與地卑,山與澤平) 4. Nhật phương trung phương nghễ, vật phương sinh phương tử. (日方中方睨,物方生方死) 5. Đại đồng nhi dữ tiểu đồng dị, thử chi vị «tiểu đồng dị»; vạn vật tất đồng tất dị, thử chi vị «đại đồng dị». (大同而與小同異,此之謂 «小同異»;萬物畢同畢異,此之謂 «大同異») 6. Nam phương vô cùng nhi hữu cùng. (南方無窮而有窮) 7. Kim nhật thích việt nhi tích lai. (今日適越而昔來) 8. Liên hoàn khả giải dã. (連環可解也) 9. Ngã tri thiên hạ chi trung ương, Yên chi bắc Việt chi nam thị dã. (我知天下之中央,燕之北 、越之南是也) 10. Phiếm ái vạn vật, thiên địa nhất thể dã. (泛愛萬物,天地一体也) Dịch nghĩa. 1. Cái cực lớn và không có gì ở ngoài nó thì gọi là lớn nhất, cái cực nhỏ và không có gì ở trong nó thì gọi là nhỏ nhất. 2. Cái không có bề dày và không thể bị chồng lên thì lớn một ngàn dặm. 3. Trời thấp như đất. Núi ngang với đầm. 4. Mặt trời đứng bóng thì nghiêng. Vật vừa sinh là vừa chết. 5. Sự đại đồng (giống nhau nhiều) khác với sự tiểu đồng (giống nhau ít), đó gọi là «tiểu đồng dị» (sự khác biệt của sự giống nhau ít). Mọi vật hoàn toàn giống nhau hay hoàn toàn khác nhau, đó gọi là «đại đồng dị» (sự khác biệt của sự giống nhau nhiều). 6. Phương nam vô cùng tận mà lại cùng tận. 7. Hôm nay tôi đến nước Việt và hôm qua tôi đến đó. 8. Vật liên kết có thể bị tách rời ra. 9. Tôi biết trung ương của thiên hạ: nó ở phía bắc nước Yên và phía nam nước Việt. 10. Hễ yêu khắp vạn vật, thì trời và đất hợp thành một thể. Viếng tang vợ Trang tử. Vợ Trang tử chết, Huệ Thi đến viếng, thấy Trang tử ngồi duỗi hai chân, tay gõ nhịp vào bàn mà ca hát. Huệ Thi bảo: "Mình ăn ở với người ta, có con với người ta. Bây giờ người ta già, người ta chết, không khóc cũng còn được đi, lại còn gõ bàn mà hát, chẳng quá lắm ru?". Trang tử đáp: Xem thêm. Học thuyết của Huệ Thi
1
null
Takahiro Mitsuyoshi (tiếng Nhậtみつよしたかひろ, Hán tự:光吉孝浩)là một đạo diễn phim tài liệu người Nhật. Tiểu sử cá nhân. Sau khi tốt nghiệp trường đại học Waseda, Takahiro Mitsuyoshi' theo nghiệp chụp ảnh và trở thành một đạo diễn cho các chương trình chiếu trên đài truyền hình. Ông từng tham gia chương trình đào tạo Khoa Học Sáng Tác tại đại học Tokyo Attend trong Contents Creation Science Program vào năm 2007. Bộ phim đầu tay do ông đạo diễn là phim Blue Symphony. Phim Blue Symphony đã được chiếu vào năm 2008 tại Liên hoan Phim Tokyo Quốc tế.
1
null
Massimilano "Max" Allegri (sinh ngày 11 tháng 8 năm 1967) là một cựu cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá Ý cho câu lạc bộ Juventus. Ông đã giúp Milan giành Scudetto ngay trong mùa giải đầu tiên mà ông dẫn dắt, giúp đội bóng này giành chức vô địch kể từ năm 2004. Sau khi bị Milan sa thải vào đầu năm 2014, trong mùa giải đầu tiên dẫn dắt Juventus sau đó, ông giúp đội bóng giành cú đúp quốc nội và vào tới chung kết UEFA Champions League. Sự nghiệp cầu thủ. Sau khi bắt đầu sự nghiệp của mình tại các câu lạc bộ ở các hạng giải bóng đá thấp, trong đó có câu lạc bộ ở quê ông là Livorno, năm 1991 ông gia nhập Pescara đang chơi tại Serie B. Ông đã bắt đầu chơi tốt dần ở hàng tiền vệ cùng với Giovanni Gaelone và đã giúp Pescara thăng hạng Serie A. Khi Pescara thăng hạng, ông là một trụ cột không thể thiếu. Mặc dù Pescara bị xuống hạng, không có mục tiêu, nhưng ông đã ghi được 12 bàn ở vị trí tiền vệ tại Serie A. Ông chuyển đến Cagliari, sau đó là Perugia và Napoli trước khi trở về Pescara vào năm 1999. Hai năm cuối sự nghiệp (2002-2003), ông chơi cho Pistoiese và Aglianese trước khi giải nghệ vào năm 2003. Trong sự nghiệp cầu thủ bóng đá của ông không phải là ông không dính líu đến scandal. Trong trận chung kết Coppa Italia năm 2000, ông cùng 6 cầu thủ khác bị phát hiện dàn xếp tỷ số, và đã bị Liên đoàn bóng đá Ý cấm thi đấu 1 mùa giải. Sự nghiệp huấn luyện. Thời gian đầu. Ông Allegri bắt đầu sự nghiệp huấn luyện vào đầu năm 2004, và điểm đến của ông là đội bóng cuối cùng mà ông thi đấu, đó là Aglianese lúc đó chơi ở giải Serie C2. Họ đã có một mùa giải ấn tượng, và sau khi giành quyền thăng hạng, Allegri chuyển đến đội bóng Grosseto. Tại Serie C1, tuy ông đã chứng tỏ được kinh nghiệm với các huấn luyện viên các câu lạc bộ tại Serie C1 khác, nhưng đây lại là mùa giải không thành công với đội bóng ông huấn luyện, và thế là ông bị sa thải vào đầu mùa 2006-07. Một thời gian sau khi bị Grosseto sa thải, ông được Giovanni Galeone, huấn luyện viên của Udinese và cũng là cầu thủ đá tiền vệ với ông những năm ông bắt đầu sự nghiệp tại Pescara, gọi về làm trợ lý, và trở thành một người trong đội ngũ trợ lý của Gaelone. Thực tế, tuy nhiên ông được chứng minh là không thực hiện đúng luật bóng đá Ý, do ông đã ký hợp đồng với Câu lạc bộ vùng Toscana, khiến Allegri bị đình chỉ huấn luyện trong 3 tháng đầu năm 2008. Sassuolo. Tháng 8 năm 2007, ông trở thành huấn luyện viên trưởng đội bóng Serie C1 Sassuolo. Ông đã giúp đội bóng này đăng quang Serie C1 mùa 2007-08 và chính thức được thăng hạng Serie C. Cagliari. Ngày 29 tháng 5 năm 2006, ông trở thành huấn luyện viên trưởng của Cagliari thay thế cho Davide Ballardini. Mặc dù có một khởi đầu đáng thất vọng, với năm trận thua liên tiếp trong 5 vòng đầu tiên, ông vẫn được xác nhận bởi chủ tịch Massimo Cellino và sau đó tiếp tục mang lại cho đội bóng của mình lên đến một vị trí giữa bảng xếp hạng trong tháng 12. Sau chiến thắng 1-0 trước Palermo, ông được ký hợp đồng mới có hiệu lực đến hết 1 tháng 6 năm 2011. Hợp đồng sau đó được tiết lộ là đã được ký kết vào 13 tháng 10 năm 2008, ở giữa cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008.. Mùa giải 2008-09 ông giúp đội bóng kết thúc ở vị trí thứ 9. Đây được xem là một kết quả tốt, đối với nguồn lực hạn chế, thiếu các cầu thủ lớn và chất lượng tốt của phong cách bóng đá tấn công của Cagliari. Mùa giải 2009-10, ông tiếp tục giúp đội bóng có một kết quả cao ở giữa bảng xếp hạng mặc dù mất tiền đạo chủ lực Robert Acquafresca. Ngày 13-4-2010, ông bất ngờ bị ban lãnh đạo sa thải mặc dù đứng an toàn ở vị trí thứ 12 với 40 điểm và người thay thế là huấn luyện viên đội trẻ Giorgio Melis. Milan. Sau khi bị Cagliari sa thải, ông được AC Milan dòm ngó. Ngày 25 tháng 6 năm 2010, ông được Milan bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng. Trong mùa giải đầu tiên ông dẫn dắt Milan đến danh hiệu vô địch đầu tiên của họ kể từ năm 2004, đánh bại đương kim vô địch Internazionale trong cả hai trận sân nhà và sân khách. Đội bóng của ông, tuy nhiên, không thể vượt qua vòng bán kết của Coppa Italia, thua Palermo 4-3 chung cuộc. Và tại đấu trường châu Âu, ông bị loại bởi Tottenham. Tiếp đà thành công, ông cùng các học trò giành được siêu cúp Italia sau chiến thắng 2-1 trước Inter. Mùa giải 2011-12 là một mùa giải tốt của AC Milan. Nhưng họ bị loại tại Bán kết Coppa Italia trước Juventus và bị loại ở tứ kết Champions League trước Barcelona. Rossoneri kết thúc ở vị trí thứ hai sau Juventus và do đó đủ điều kiện dự UEFA Champions League. Ngày 13 tháng 1 năm 2012, ông gia hạn hợp đồng với Milan đến hết mùa 2013-14. Vào ngày 05 tháng 6 năm 2012, Allegri cho biết ông dự định sẽ huấn luyện 10 năm nữa và dự định nghỉ hưu ở tuổi 55. Ông cũng nói rằng ông hy vọng sẽ huấn luyện đội tuyển quốc gia Italia trước khi nghỉ hưu. Vào đầu mùa bóng 2012-13, Milan chỉ giành được có 8 điểm trong 7 trận đã đấu, và ông có nguy cơ bị sa thải. Bất chấp chỉ trích, ông vẫn tiếp tục sử dụng các cầu thủ trẻ để thi đấu và chèo kéo Milan từ vị trí thứ 16 lên vị trí thứ 3 sau khi mùa giải kết thúc, được dự vòng play-off UEFA Champions League 2013-14. Vào ngày 02 tháng 6 năm 2013, Silvio Berlusconi xác nhận Massimiliano Allegri vẫn là huấn luyện viên của Milan, mặc dù đã có rất nhiều tin đồn rằng ông sẽ chuyển sang AS Roma và được thay thế bởi cựu cầu thủ của Milan Clarence Seedorf. Mùa giải 2013-14, Milan thi đấu không tốt, không còn phong độ ổn định như những năm trước. Sau trận thua ngược 4-3 trước Sassuolo, ban lãnh đạo Milan đã sa thải Allegri và thay bằng cựu cầu thủ của Milan Clarence Seedorf.. Juventus. Ngày 16 tháng 7 năm 2014, ông được Juventus bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng. Trong năm đầu dẫn dắt, ông đã đưa Juventus giành Scudetto và đưa đội bóng đến trận Chung kết UEFA Champions League 2015. Juventus chỉ chịu khuất phục trước Barca với tỷ số 3-1 vào ngày 6 tháng 6 năm 2015. Mùa bóng 2015-16, Allegri giúp Juventus giành cú đúp danh hiệu trong nước là Serie A và Coppa Italia. Tháng 5/2016 Allegri gia hạn hợp đồng với Juventus đến năm 2018. Danh hiệu đạt được. Sự nghiệp cầu thủ. Cagliari Calcio
1
null
Chùa Từ Đàm là một ngôi chùa cổ danh tiếng ở Huế, chùa hiện tọa lạc tại số 1 đường Sư Liễu Quán, thuộc phường Trường An, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam. Lịch sử. Chùa do Thiền sư Minh Hoằng - Tử Dung khai sơn vào khoảng cuối thế kỉ XVII, và sau đó được đặt tên là chùa Ấn Tôn (印宗寺, hay Tông), với ý nghĩa là "lấy sự truyền tâm làm tông chỉ". Năm 1702, nhà sư Liễu Quán (về sau cũng là một cao tăng) đến chùa, xin tham học với Thiền sư Minh Hoằng - Tử Dung Năm 1703, Thiền sư Minh Hoằng - Tử Dung cho trùng tu chùa. Cũng trong năm này, chúa Nguyễn Phúc Chu ban cho chùa tấm biển Sắc Tứ Ấn Tôn Tự. Sau khi Sư viên tịch, theo lời phó chúc, học trò của Sư là Thiền sư Thiệt Vinh - Bửu Hạnh làm Trụ trì chùa. Năm 1802, nhà Tây Sơn bị đánh đổ. Khi ấy, vì thời gian và vì chiến tranh, chùa Ấn Tôn bị hư hại nặng như nhiều ngôi chùa khác trong vùng . Tuy nhiên, mãi đến năm Gia Long thứ 12 (1813), Thiền sư Đạo Trung - Trọng Nghĩa mới có thể tổ chức trùng tu chùa. Năm 1841, vua Thiệu Trị đổi tên chùa Ấn Tôn thành Từ Đàm-慈曇寺 (do kỵ húy tên vua là Miên Tông) , với ý nghĩa là "đám mây lành của Phật pháp" . Năm Thành Thái thứ 9 (1897), nhà vua cho mở đường lên đàn Nam Giao. Vì đường này đi xuyên qua khuôn viên chùa Từ Đàm, nên vua ban lệnh cho Trụ trì là Thiền sư Thanh Hiệp - Tường Vân dời 5 bảo tháp chứa di cốt của chư Tổ sang khuôn viên chùa Báo Quốc ở gần đó. Có lẽ nhân dịp này, vị Trụ trì ấy lại cho trùng tu chùa . Từ những năm 1920 trở về sau, phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam được phát triển ở cả ba miền. Trong quãng thời gian ấy, chùa Từ Đàm là trung tâm của phong trào Chấn hưng Phật giáo Trung Kỳ. Năm 1932, An Nam Phật học hội (sau đổi lại là Hội Phật học Trung Việt) thành lập tại Huế...Đến năm 1936, chư sơn môn phái Lâm Tế đồng thuận giao chùa Từ Đàm cho hội ấy để làm nơi thờ phụng và làm trụ sở của hội. Ngày 18 tháng 12 năm 1938, Tỉnh hội Phật học Thừa Thiên cho đại trùng tu chùa Từ Đàm, đồng thời cho đúc pho tượng Phật Thích Ca cùng các pháp khí để tôn trí trong chánh điện, đến năm 1940 thì hoàn tất. Các hạng mục khác như giảng đường, nhà tăng và một số nhà làm việc của Tỉnh hội cũng được xây dựng trong quãng thời gian ấy. Năm 1943, Gia đình Phật Hóa Phổ ra đời; đến năm 1951, đổi thành Gia đình Phật tử, và đặt trụ sở tại chùa Từ Đàm. Năm 1951, Đại hội thành lập Tổng Hội Phật giáo Việt Nam đã diễn ra tại chùa. Năm 1951, Hội nghị thành lập Hội Phật giáo Việt Nam (gồm 51 đại biểu của 6 tập đoàn Tăng già và cư sĩ ở ba miền) cũng đã tổ chức tại đây. Khi đó, Hội cũng đã phê chuẩn việc Hòa thượng Tố Liên thay mặt Hội ký tên gia nhập Hội Phật giáo thế giới. Vào những năm 1960, chùa Từ Đàm là trung tâm của các hoạt động đấu tranh chống lại chính sách tôn giáo dưới thời của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Hiện nay, tại chùa có đặt Văn phòng Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Thừa Thiên Huế. Kiến trúc. Ban đầu, chùa Từ Đàm chỉ là tịnh thất nhỏ làm bằng cây lá, sau nhiều lần trùng tu mới có diện mạo như ngày nay. Cổng tam quan được xây dựng năm 1965 (ảnh 2). Bên phải sân (từ cổng nhìn vào) là cội bồ đề có nguồn từ cây bồ đề ở Bồ Đề Đạo Tràng tại Ấn Độ (tức nơi Phật Thích Ca thành đạo). Ngôi chính điện chùa cũ gồm ba gian, lợp ngói, rộng 7,4 m, dài 18 m, và mặt tiền ngó về hướng Đông Nam . Đến ngày 4 tháng 7 năm 2006, chùa đã tổ chức tái thiết ngôi chánh điện, và khánh thành vào sáng ngày 30 tháng 3 năm 2010. Công trình mới có chiều dài 42 m, chiều ngang 35,9 m, gồm hai phần (dưới là tầng hầm làm hội trường, trên là ngôi chánh điện), được kiến trúc theo mô hình trùng thiềm điệp ốc, gồm ba gian hai chái, và hai bện có lầu chuông, lầu trống. Đây là kiểu kiến trúc truyền thống của chùa Huế (ảnh 1). Sau đó, Đại lễ An vị Phật đã được tổ chức trọng thể vào ngày rằm tháng 11 năm Đinh Hợi (24 tháng 12 năm 2007). Phía bên phải chánh điện là nhà khách và phòng Tăng. Trước nhà khách là một vườn hoa nhỏ. Ở giữa vườn có tượng bán thân (bằng thạch cao trắng) của cư sĩ Tâm Minh, là người có nhiều công lao với chùa, với phong trào phục hưng và phát triển Phật giáo Trung Việt. Ngày 6 tháng 1 năm Mậu Tý (12 tháng 2 năm 2008), tháp Ấn Tôn 7 tầng (mỗi tầng thờ một tượng Phật bằng đồng) cao 27 m (ảnh 3) cũng được khởi công xây dựng ở sân chùa (từ cổng nhìn vào ở phía trái), và khánh thành ngày rằm tháng 2 năm Canh Dần (30 tháng 3 năm 2010) . Ngoài ra, phía bên phải sân chùa (từ cổng nhìn vào) là Hội quán rộng lớn, gồm 10 gian phòng, cao 2 tầng. Tầng dưới của Hội quán hiện được dùng làm Văn phòng Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Thừa Thiên Huế. Bài trí. Điện Phật trong chính điện được bài trí tôn nghiêm, nhưng đơn giản. Chính giữa chỉ thờ duy nhất một tượng Phật Thích Ca, hai bên có phù điêu hai vị Bồ tát là Văn Thù và Phổ Hiền. Phía trên chánh điện có treo tấm biển sơn son thiếp vàng đề ba chữ Hán: "Ấn Tông Tự". Hai bên tấm biển này là cặp câu đối cũng sơn son thiếp vàng. Ngoài ra, ở ngoài hiên chùa còn có cặp đối của nhà yêu nước Phan Bội Châu và của cư sĩ Tâm Minh (bác sĩ Lê Đình Thám).
1
null
Cuộc chiến khốc liệt (tên gốc tiếng Anh: War) là phim điện ảnh hành động tội phạm hồi hộp của Mỹ do Philip G. Atwell đạo diễn, và đây cũng là phim điện ảnh đạo diễn đầu tay của ông. Phim có sự tham gia diễn xuất của Lý Liên Kiệt và Jason Statham, và được công chiếu tại Mỹ vào ngày 24 tháng 8 năm 2007. Đây là lần cộng tác thứ hai của Lý Liên Kiệt và Statham sau bộ phim "The One" ra mắt năm 2001. Trong phim, Jason Statham vào vai một đặc vụ FBI trong công cuộc lần chiến đấu chống lại tên ám sát bí ẩn có biệt danh Rogue. Ban đầu bộ phim có tựa là "Rogue" nhưng do trùng tên với một bộ phim khác nên được đổi thành "War". Tuy nhiên phim còn được biết với tựa đề "Rogue Assassin" ở một số quốc gia như New Zealand, Nhật Bản, Hồng Kông, Singapore, Ấn Độ, Úc, Philippines và vài nước ở châu Âu. Nội dung. Sau trận đấu súng với băng đảng hội Tam Hoàng, hai đặc vụ FBI John Crawford và Tom Lone chạm trán Rogue - tên sát thủ bí ẩn khét tiếng đang làm việc với băng đảng Yakuza. Rogue bị Lone bắn và rơi xuống sông, xác của hắn không được tìm thấy, cảnh sát cho rằng hắn đã chết. Thực ra Rogue vẫn còn sống, vài ngày sau hắn đến nhà Lone để sát hại gia đình anh, cả căn nhà bị thiêu rụi. John Crawford quyết định sẽ trả thù cho Lone. Ba năm sau, Rogue xuất hiện trở lại, hắn làm việc với ông chủ Tam Hoàng Li Chang. Chang bảo Rogue giúp đánh cắp cặp ngựa bằng vàng từ băng đảng Yakuza. Rogue đồng ý và dẫn vài tên gangster Tam Hoàng đi theo. Khi giết hết gangster Yakuza, Rogue liền đem cặp ngựa vàng về chỗ giấu bí mật của hắn chứ không đưa cho Chang, vì hắn đã có kế hoạch khác. Với tâm địa độc ác lạnh lùng, Rogue đã gài bẫy cho hai băng đảng Tam Hoàng và Yakuza giết chóc lẫn nhau hằng ngày. John Crawford cùng những đặc vụ khác nghe tin Rogue trở lại thì cũng ngạc nhiên. Crawford định bắt Rogue nhiều lần nhưng Rogue là kẻ vô cùng thông minh, hắn luôn đi trước Crawford một bước. Rogue đã phản bội Chang, hắn giết Chang rồi đưa vợ con Chang đi trốn băng đảng Yakuza. Thủ lĩnh của Yakuza là Shiro Yanagawa đang ở Nhật khi biết chuyện Li Chang chết thì liền đến Mỹ để kiểm soát bang hội. Crawford có cảnh báo Yanagawa rằng Rogue có thể sẽ tiêu diệt ông nhưng Yanagawa không tin. Hôm đó Rogue đến gặp Yanagawa, hắn đưa ông ta ngựa vàng. Yanagawa phát hiện đó là hàng giả và ra lệnh thuộc hạ tra khảo Rogue. Tuy nhiên Rogue giết hết thuộc hạ của Yanagawa rồi lấy kiếm Katana giao chiến với Yanagawa. Rogue tiết lộ cho Yanagawa biết hắn chính là Tom Lone, ba năm trước tên Rogue thật xông vào nhà giết vợ con Lone thì Lone đã bắn chết hắn, Lone đốt nhà và đi đổi khuôn mặt, giọng nói để giả làm Rogue. Rogue nói rằng hắn làm những hành động vừa qua nhằm mục đích lừa Yanagawa đến Mỹ, hắn có thể giết Yanagawa vì năm xưa ông cho tên Rogue thật giết gia đình Lone. Yanagawa cũng tiết lộ ba năm trước chính Crawford đã bán đứng Lone, ông còn nói vì Crawford nên vợ con Lone mới chết. Rogue tức giận chém đầu Yanagawa và bỏ đi. Rogue gửi cho vợ của Chang thùng hàng có chứa ngựa vàng thật để cô ta bắt đầu cuộc sống mới, còn ở Nhật thì con gái Yanagawa cũng nhận được thùng hàng tương tự nhưng bên trong chỉ có cái đầu của ông Yanagawa. Hôm sau Rogue hẹn gặp Crawford tại bến cảng, hai người đánh nhau dữ dội, cuối cùng Rogue tiết lộ danh tính thật của hắn. Crawford bất ngờ xin Rogue tha lỗi chuyện năm xưa, Rogue vẫn rút súng bắn chết Crawford. Sau ngày hôm đó, Rogue đem con ngựa vàng còn lại biến mất khỏi thành phố San Francisco, không ai biết hắn đã đi đâu.
1
null
Trận tranh vé vớt vòng loại giải vô địch bóng đá châu Âu 2012 diễn ra giữa 8 đội nhì bảng chia thành 4 cặp thi đấu loại trực tiếp sân nhà - sân khách để giành 4 suất còn lại. Các trận đấu ở vòng play-off sẽ diễn ra trong các ngày 11 và 15 tháng 11 năm 2011. Thứ tự các đội nhì bảng. 4 đội nhì bảng có vị trí cao hơn trong bảng xếp hạng hệ số của UEFA sẽ được ưu tiên đá trận lượt về trên sân nhà. Thứ tự các đội nhì bảng Phân nhóm. Lễ bốc thăm cho các trận play-off được tổ chức vào ngày 13 tháng 10 năm 2011 tại Kraków, Ba Lan, để xác định bốn cặp cũng như thứ tự của các đội nhì bảng. Lễ bốc thăm được điều hành bởi Tổng thư ký UEFA Gianni Infantino và cựu tiền đạo huyền thoại của ĐT Ba Lan, Zbigniew Boniek, đại sứ của vòng chung kết EURO 2012. Các trận lượt đi vòng play-off diễn ra vào ngày ngày 11, trận lượt về vào ngày 15 tháng 11 năm 2011. Kết quả của các hạt giống như sau: Lượt về. "Croatia thắng với tổng tỉ số 3-0 và giành quyền tham dự Euro 2012." "Cộng hòa Séc thắng với tổng tỉ số 3-0 và giành quyền tham dự Euro 2012." "Ireland thắng với tổng tỉ số 5-1 và giành quyền tham dự Euro 2012." "Bồ Đào Nha thắng với tổng tỉ số 6-2 và giành quyền tham dự Euro 2012."
1
null
Hwang Min-woo (, sinh ngày 17 tháng 5 năm 2005, còn có biệt danh là Little PSY), là một nghệ sĩ Hàn Quốc, được đánh giá là một vũ công nhí xuất sắc của xứ kim chi sau khi xuất hiện trong video năm 2012 "Gangnam Style". Sự nghiệp. Tại Hàn Quốc. Năm 2010, Min-WOO trở nên nổi tiếng và gây sự chú ý bởi các phương tiện truyền thông Hàn Quốc với những bước nhảy của mình trong siries chương trình tuyền hình Star King. Vị nghệ sĩ nhí này cũng xuất hiện trên chương trình thực tế Korea's Got Talent (Cuộc thi Tìm kiếm tài năng Hàn Quốc - Korea's Got Talent), tại cuộc thi này cậu cũng được tán thưởng và yêu mến từ khả năng vũ đạo bởi ban giám khảo. Trên thế giới. Ca sĩ nổi tiếng PSY đã thấy được tài năng của Hwang Min Woo thông qua cuộc thi Tài năng Hàn Quốc, và sau đó đã mời nghệ sĩ nhí này vào tham gia video âm nhạc của mình, mà ngày sau đó trở nên đình đám trên thế giới, đó là "Gangnam Style". Với việc "Gangnam Style" trở thành một hiện tượng đặc biệt trên thế giới, Hwang đã nhận được một sự hưởng ứng và ngưỡng mộ, tạo được sự chú ý bởi tuyền thông nước ngoài như CNN, ABC News... nghệ sĩ nhí này còn đóng quảng cáo, tham gia các đợt trình diễn ở nước ngoài như: Philippines, Hồng Kông và Los Angeles. Theo Soompi thì Hwang là một trong những nhân vật nổi tiếng nhất K-Pop. Cuộc sống cá nhân. Hwang Min Woo có hai dòng máu (Việt - Hàn), cha của cậu là một người Hàn Quốc và mẹ là người Việt Nam. Năm 2012 Hwang là một trong mười người nhận giải thưởng "Thanh niên đa văn hóa" của Korea Times với sự đống góp đặc biệt của cậu trong việc tăng cường đa dạng văn hóa quốc gia. Trong cuộc phỏng vấn bởi hãng Reuters, Hwang Min Woo tiết lộ rằng cậu muốn trở thành một "ngôi sao toàn cầu" và vượt qua sự nổi tiếng của PSY trong tương lai.
1
null
Alexander Friedrich Adolf Heinrich von Zastrow (11 tháng 8 năm 1801 – 12 tháng 8 năm 1875) là một tướng lĩnh Phổ, đã tham gia chỉ huy quân đội trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ và Chiến tranh Pháp-Đức. Heinrich von Zastrow chào đời năm 1801 trong gia đình quý tộc cổ Zastrow, là con trai của Alexander Heinrich Gebhard von Zastrow (1768 – 1815) và Mathilde von Blankenstein (1777 – 1868). Zastrow đã gia nhập lực lượng bộ binh Phổ với quân hàm thiếu úy vào năm 1819. Đến năm 1836, ông trở thành một thành viên trong Bộ Tổng tham mưu. Từ năm 1839 cho đến năm 1842, ông được gửi đến Thổ Nhĩ Kỳ. Zastrow được phong quân hàm thiếu tá vào năm 1848 và phục vụ tại Schleswig trong cuộc Chiến tranh Schleswig lần thứ nhất. Vào năm 1850, ông được giao quyền chỉ huy một tiểu đoàn trong Trung đoàn Bộ binh số 2. Vào năm 1852, ông được bổ nhiệm làm sĩ quan chỉ huy của đội quân trú phòng tại Stralsund. Vào năm 1856, ở độ tuổi 55, Zastrow kết hôn với nữ bá tước Ottilie von Rantzau, nhỏ hơn ông 16 tuổi. Được thăng cấp Đại tá, ông đã chỉ huy Trung đoàn Bộ binh số 28 và về sau này ông chỉ huy Lữ đoàn số 19 với quân hàm Thiếu tướng. Vào năm 1863, ông được bổ nhiệm làm Tướng Tư lệnh của Sư đoàn số 11 với quân hàm Trung tướng. Trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866, Heinrich von Zastrow chỉ huy sư đoàn của mình tại trận Königgrätz. Khi cuộc Chiến tranh Pháp-Đức bùng nổ vào năm 1870, Zastrow được bổ nhiệm làm Tướng Tư lệnh của Quân đoàn VII (một phần thuộc "Binh đoàn thứ nhất" dưới quyền Steinmetz), và trên cương vị này ông đã thể hiện khả năng của mình trong các trận chiến tại Spicheren, Gravelotte cùng với Cuộc vây hãm Metz. Sau khi thành Metz thất thủ, Zastrow tiến hành các cuộc vây hãm Thionville, Montmédy và Mézières. Trong giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến tranh, Quân đoàn VII là một phần của "Binh đoàn phía Nam" mới được thành lập do Thượng tướng Bộ binh Manteuffel chỉ huy. Sau khi cuộc chiến tranh chấm dứt, ông được tặng thưởng 10 vạn thaler vì những cống hiến của mình cho quân đội Đức. Ông nghỉ hưu vào năm 1872, và 3 năm sau, ông từ trần ngày 12 tháng 8 năm 1875 tại thủ đô Berlin.
1
null
El Fuerte de Samaipata hoặc Fort Samaipata còn được gọi đơn giản là El Fuerte là một địa điểm khảo cổ Thời kỳ Tiền Columbo và là một Di sản thế giới được UNESCO công nhận nằm ở tỉnh Florida, vùng Santa Cruz, Bolivia. Khu vực khảo cổ này nằm ở phía đông chân núi Andes thuộc Bolivia, và là một điểm đến du lịch phổ biến, thu hút khách du lịch trong và ngoài nước. Gần đó là thị trấn Samaipata. Đây được coi là một trong số ít các tác phẩm vĩ đại về kiến trúc đá của thế giới và là địa điểm khảo cổ duy nhất của ba nền văn hóa Chané, Inca và Tây Ban Nha. Mặc dù được gọi là pháo đài nhưng nó lại có chức năng về tôn giáo, nghi lễ, dân cư. Việc xây dựng của nó có lẽ được bắt đầu bởi người Chané, một nền văn hóa tiền Inca có nguồn gốc từ Arawak. Ngoài ra còn có tàn tích của một quảng trường và nhà ở Inca có niên đại từ cuối thế kỷ 15 và đầu thế kỷ 16 khi đế quốc Inca mở rộng về phía đông. Chané, Inca và Tây Ban Nha đều phải chống lại các cuộc tấn công từ các chiến binh Guarani (Chiriguano), những người cũng định cư trong khu vực. Người Guarani đã chinh phục vùng đồng bằng và thung lũng Santa Cruz và chiếm đóng khu vực Samaipata. Họ thống trị khu vực này cho tới thời kỳ thuộc địa Tây Ban Nha. Người Tây Ban Nha cũng đã xây dựng một khu định cư gần ngôi đền và những phần còn lại của tòa nhà mang kiến trúc Ả Rập điển hình của Andalucia. Người Tây Ban Nha bỏ hoang khu vực này và chuyển đến thung lũng gần đó là thị trấn Samaipata ngày nay. Khu khảo cổ tại Fuerte là địa điểm duy nhất bao gồm các tòa nhà của ba nền văn hóa khác nhau:. Chane, Inca và Tây Ban Nha. Mô tả. Đây là khu vực rộng được chia thành hai phần là khu vực nghi lễ và khu vực dân cư hành chính. Một số công trình xây dựng của người Inca được xây dựng trên các cấu trúc trước đó của người Chané. Bảo tồn. Hiện nay, di sản này đang bị hư hại do du khách đi trên những biểu tượng khắc trên đá, cùng với đó là tình trạng xói mòn bởi mưa và nước trút xuống từ các ngọn núi xung quanh, chính vì thế nên khu vực bên trong được phong tỏa. Tuy nhiên hầu hết các hình khắc vẫn có thể xem được. Du khách có thể dễ dàng tới được địa danh này bằng xe buýt chạy từ Samaipata. Địa điểm này được bảo vệ bởi một tổ chức xã hội phi lợi nhuận và học viện bảo tồn và các văn bản pháp luật về bảo tồn nghệ thuật đá.
1
null
Florida là một tỉnh trong ở Santa Cruz, Bolivia. Thủ phủ của tỉnh là Samaipata. Tỉnh được thành lập vào ngày 15 tháng 12 năm 1924. Tỉnh được chia thành 4 đô thị, tương ứng cũng là 4 thị trấn trung tâm của các đô thị này là: Samaipata, Pampa Grande, Mairana và Quirusillas. Dân số của tỉnh này vào khoảng 27.447 người (năm 2001). Tỉnh này nổi tiếng với di chỉ khảo cổ Fuerte de Samaipata và vườn quốc gia Amboró.
1
null
Công Tôn Long (giản thể: 公孙龙, phồn thể: 公孫龍, bính âm: Gōngsūn Lóng; Wade-Giles:. Kung-sun Lung, khoảng 320-250 TCN), tương truyền tên chữ là Tử Bỉnh (子秉), là một triết gia thuộc trường phái Danh gia (名家) của nền triết học Trung Quốc cổ đại. Rất ít tài liệu về thân thế sự nghiệp của ông, thêm vào đó là nhiều tác phẩm của ông đã bị mất. Trong tổng số 14 cuốn sách của ông chỉ còn lại 6 cuốn, trong đó có cuốn "Công Tôn Long tử" (公孫龍子). Thân thế. Ông sinh năm 325 ra ở nước Triệu vào đời Chiến Quốc và được coi là khách quý của Triệu, trong đó ông có quan hệ rất thân thiết với Bình Nguyên quân.
1
null
Virus cúm A phân nhóm H7N9 là một serotype (kiểu huyết thanh) của virus cúm A (virus cúm gia cầm hay virus cúm chim). H7 thường lây truyền giữa các loài gia cầm với một số biến thể thỉnh thoảng cũng lây sang người. Năm 2013 tại Trung Quốc lần đầu tiên báo cáo có ca nhiễm virus H7N9 ở người. Hầu hết các trường hợp được báo cáo nhiễm ở người người đều dẫn đến bệnh hô hấp nặng. Keiji Fukuda, trợ lý tổng giám đốc của WHO về sức khỏe, an sinh và môi trường, đã xác định H7N9 là "... một loại virus bất thường nguy hiểm đối với con người." Tính đến ngày 17 tháng 4 năm 2013, tỷ lệ tử vong là 21%, nhưng còn nhiều bệnh nhân vẫn đang nguy kịch, nên tỷ lệ có thể tăng lên. Tác hại được báo cáo trong năm 2013. Ngày 31 tháng 3 năm 2013, Trung tâm bảo vệ sức khỏe (CHP) của bộ Y tế Hồng Kông đã nhận được thông báo từ Ủy ban Sức khỏe Quốc gia và Kế hoạch hóa gia đình về việc xác nhận 3 ca nhiễm cúm A (H7N9). Ngày 02 tháng 4 năm 2013, CHP xác nhận thêm bốn trường hợp nữa ở tỉnh Giang Tô, tất cả được quan sát kỹ lưỡng trong tình trạng nguy kịch tại các bệnh viện ở Nam Kinh, Tô Châu và Vô Tích. Trong một tuyên bố, CHP nói rằng không phát hiện ra mối liên hệ về dịch tễ học giữa bốn bệnh nhân và cho đến nay không phát hiện ra ca nhiễm H7N9 nào trong 167 người có mối quan hệ thân cận với những bệnh nhân này. Ca tử vong đầu tiên liên đới với H7N9 được báo cáo là một người đàn ông 87 tuổi chết vào ngày 4 tháng 3. Người đàn ông thứ hai là Wu Liangliang 27 tuổi, qua đời vào ngày 10 tháng 3. Vào ngày 3 tháng 4 năm 2013, chính quyền Trung Quốc đã đưa tin về một trường hợp tử vong khác, nâng tổng số người tử vong lên 3. Ngày 4 tháng 4 năm 2013, số lượng người nhiễm bệnh được báo cáo là 14, với 5 ca tử vong, nạn nhân là một người đàn ông 48 tuổi và một người phụ nữ 52 tuổi đều ở Thượng Hải. Ngày 5 tháng 4 năm 2013, một nông dân 64 tuổi sống tại Phúc Châu (tỉnh Chiết Giang) chết, nâng số người chết lên 6. Ngày 6 Tháng 4 năm 2013, Bộ Y tế Trung Quốc báo cáo thêm 18 trường hợp dương tính, số người chết vẫn là 6. Hai ngày sau, số trường hợp dương tính đã tăng lên 24 và thêm một trường hợp nữa tử vong ở Thượng Hải, đưa số người chết đến 7.
1
null
Po Klong Garai (tiếng Chăm: "Po Klaung Yăgrai", 1151 - 1205) là vua Champa trong hơn 50 năm. Ông đã lãnh đạo người Chăm đương cự thành công ách đô hộ của triều đình Angkor, bình định xứ sở và phát triển nông nghiệp, được người Chăm suy tôn như vị thần thủy lợi. Lịch sử. Là một người được suy tôn là thần thủy lợi, anh hùng dân tộc Chăm, ông đã cho xây dựng nhiều công trình lớn như: Phụng thờ. Vua Klong Garai được thờ tự tại Tháp Po Klong Garai. Tháp Poklong Garai nằm trên đồi Trầu, thuộc phường Đô Vinh, cách trung tâm thành phố Phan Rang-Tháp Chàm 9 km về phía Tây Bắc, được xây dựng vào cuối thế kỷ 13 đầu thế kỷ 14 (thời vua Shihavaman, người Việt gọi là Chế Mân) để thờ vua Klong Garai (1151-1205), vị vua đã có nhiều công lớn trong việc cai trị đất nước Tháp Po Klong Garai là một cụm tháp Chàm hùng vĩ và đẹp nhất còn lại ở Việt Nam. Tháp Pô Klong Garai là một tổng thể gồm ba tháp: tháp chính (cao 20,5m), tháp lửa (cao 9,31m), tháp cổng (cao 8,56m). Công trình này có trình độ kiến trúc, nghệ thuật, điêu khắc đạt đến đỉnh cao. Tháp đã được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1979. Truyền thuyết. Có một truyền thuyết liên quan đến tháp Poklong Garai kể rằng ngày xưa ở Plei Chakling có hai ông bà tên Ôn Paxa và Muk Chakling dù đã cao niên nhưng chưa có con. Một lần ra biển mò cua bắt ốc ông bà thấy có một đứa bé đang trôi trên bọt nước bèn đem về nuôi và đặt tên là Karit. Karit lớn lên trở thành một cô gái xinh đẹp, nết na nên được nhiều người quý mến. Một hôm, Karit cùng cha vào rừng hái củi. Trời nóng nực, hai cha con khát nước nhưng chung quanh lại không có sông suối. Bỗng Karit thấy một tảng đá bên trên đọng ít nước trong, liền đến uống. Lạ thay nàng uống đến đâu nước trong đá tràn ra đến đó. Nhưng khi nàng đi gọi cha đến uống thì chẳng thấy giọt nước nào. Sau dạo đó Karit có thai và rồi sinh ra một cậu bé đã xấu xí lại rất háu ăn. Ông bà đặt tên cho cậu là Jatol. Karit không chịu nổi lời đàm tiếu là gái chửa hoang nên bỏ đi để con lại cho ông bà nuôi. Đứa bé càng lớn càng xấu xí, mình lại đầy ghẻ chốc nên chẳng mấy đứa chịu chơi chung. Khi ông bà mất, cậu cũng vừa khôn lớn. Cậu cùng bạn là Po Klonchanh đi buôn trầu. Một hôm trên đường về, Jatol thấy mệt nên nghỉ ở tảng đá bên đường. Pô Klonchanh về trước rồi đem cơm ra cho bạn. Khi trở lại Pô Klonchanh thấy có hai con rồng trắng đang liếm mình Jatol. Po Klonchanh chạy đến thì hai con rồng biến mất và lạ thay Jatol đã trở thành một thanh niên tuấn tú, khôi ngô khác thường. Điềm lạ đó dần lan ra khắp miền và rồi đến tai vua Nuhol, người đang cai trị Iaru. Được biết Jatol sẽ là một vị thiên tài xuất chúng, vua Nuhol cho vời Jatol đến. Thấy đúng như lời đồn đại vua đã giữ Jatol lại và gả công chúa Thakol cho. Năm 1167, vua Sulekha ở Băl Sri Banoy băng hà mà không có người nối ngôi. Biết Jatol là một nhân tài, quần thần đã cho voi trắng rước về nối ngôi. Jatol lên làm vua, xưng là Po Klong Garai. Sau 5 năm, ông dời đô ra Bal Hangâu. Bấy giờ, Panduranga, quê hương của ông bị quân Chân Lạp thường xuyên đánh phá. Pô Klong Garai phải mang quân vào Panduranga tiếp sức và dẹp loạn. Theo sử liệu Chăm thì vào năm Sửu, Chăm lịch, vua Po Klong Garai từ Balcribanơi vào Panduranga xem địa thế để xây tháp kỷ niệm thuở hàn vi của mình. Khi đến vùng Balhul thì bị tướng Hakral người Miên đang cai quản hạt này ngăn cản. Vua Po Klong Garai không muốn xảy ra cuộc đổ máu vô ích nên thách tướng Miên thi tài xây tháp, ai xây xong trước sẽ thắng. Biết khó đánh thắng vua Pô Klong Garai bằng sức mạnh quân sự, Hakral đã chấp thuận. Vua Po Klong Garai xây tháp trên đồi Balhla, còn tướng Hakral xây ở vùng Balhul. Kết cục, bên vua Po Klong Garai hoàn thành trước, tướng Hakral thua cuộc đành rút quân về.
1
null
Santa Cruz là khu vực với diện tích 370.621 km ², là vùng có diện tích lớn nhất trong 9 vùng của Bolivia. Theo điều tra dân số năm 2001, dân số của cả vùng này là 2.029.471 người. Thủ phủ cũng là thành phố lớn nhất, Santa Cruz de la Sierra. Đây là một trong những khu vực giàu có ở Bolivia với trữ lượng lớn khí thiên nhiên.
1
null
Vườn quốc gia Amboró là một vườn quốc gia nằm ở trung tâm Bolivia. Đây là một khu bảo tồn thiên nhiên với hơn 800 loài chim, 127 loài động vật có vú - trong đó có 43 loài dơi, bao gồm báo, mèo rừng và gấu mặt ngắn Andes. Vườn quốc gia có diện tích 4.425 km ² (1.709 dặm vuông), được bảo vệ tránh xa các khu định cư của con người, săn bắn, khai thác và phá rừng, mặc dù các vấn đề trên vẫn còn tồn tại ở đây. Vườn quốc gia Carrasco nằm liền kề với Amboró tạo thành vùng bảo tồn rộng lớn của cả hai vườn quốc gia. Địa lý. Vườn quốc gia này nằm ở phía tây của vùng Santa Cruz tại phần "khuỷu tay" của dãy núi Andes, nơi mà dãy núi Cordillera Oriental uốn cong về phía tây trong hành trình hướng bắc của nó. Vườn quốc gia bảo vệ hệ sinh thái rừng ẩm Tây nam Amazon và Gran Chaco ở cao độ nhỏ hơn và rừng lá rộng ẩm nhiệt đới và cận nhiệt đới (Bolivia Yungas) cùng rừng khô Bolivia ở cao độ lớn hơn. Hệ thực vật của vườn quốc gia dao động từ 300 đến 3.500 mét so với mực nước biển với lượng mưa hàng năm dao động từ 1.400 tới 4.000 mm. Động thực vật. 127 loài động vật có vú đã được tìm thấy tại đây, trong đó có 43 loài dơi. Trong số các động vật có vú lớn, người ta còn tìm thấy gấu bốn mắt, báo đốm, và thú ăn kiến khổng lồ. Vườn quốc gia có mức độ đặc hữu cao, 105 loài động vật lưỡng cư, trong đó có 50 loài cóc. Số lượng các loài chim quan sát trong khu vực là trên 840 loài, chiếm hơn 60% tổng số loài của quốc gia Nam Mỹ này. Ngoài ra là 109 loài loài cá đã được xác định, có mặt tại các đồng bằng phù sa dưới 700 m. Trên độ cao 1.000 m, sự đa dạng loài của cá giảm xuống mãnh liệt. Amboró là một trong những vườn quốc gia giàu có nhất trên thế giới về các loài thực vật với số lượng được ghi nhận khoảng 3.000 loài. Quần đảo đảo Hawaii có diện tích gấp 6 lần vườn quốc gia cũng chỉ có 2.800 loài, hay quần đảo Anh (gấp 65 lần diện tích của Amboró) chỉ có khoảng 2.000 loài. Hay là toàn bộ vùng thực vật California một trong những nơi đa dạng nhất trên thế giới cũng chỉ có 8.000 loài, cũng chỉ gấp 2,5 lần trong khi diện tích của nó gấp 170 lần. Các loài thực vật đặc hữu bao gồm gụ, thông, óc chó, dương xỉ khổng lồ cùng với vô số các loài phong lan. Liên kết ngoài. English: Spanish:
1
null
"The Great Gig in the Sky" là ca khúc của ban nhạc Pink Floyd nằm trong album thứ năm của họ, "The Dark Side of the Moon", được phát hành vào năm 1973. Ca khúc này có phần góp giọng đặc biệt của ca sĩ Clare Torry. Ca khúc thường được coi là thành tựu xuất sắc nhất của nghệ sĩ keyboard Richard Wright. Sáng tác. Ca khúc bắt đầu với những hợp âm của Wright, vốn tổng hợp từ ca khúc trước đấy có tên "The Mortality Sequence" hay "The Religion Song". Trong tour diễn năm 1972 của "The Dark Side of the Moon" (trước khi album được thu âm), ca khúc chỉ đơn giản bao gồm giai điệu organ đi cùng với phần đọc Kinh thánh cùng nhiều trích đoạn nhỏ của Malcolm Muggeridge – một cây viết người Anh có những quan điểm khá bảo thủ về tôn giáo. Theo thời gian, phần nhạc cụ chính sử dụng dần được chuyển từ piano thành organ. Rất nhiều hiệu ứng được bổ sung, trong đó có cả đoạn hội thoại của các phi hành gia NASA trên trạm vũ trụ không gian, tuy nhiên đều không làm họ thỏa mãn. Cuối cùng, chỉ khoảng 2 tuần trước khi chính thức hoàn chỉnh album, Pink Floyd quyết định chọn một giọng nữ "rên rỉ" để dẫn dắt giai điệu cho phần nhạc làm nền. Đóng góp của Torry. Khi ban nhạc tìm kiếm ca sĩ nữ, kỹ thuật viên Alan Parsons gợi ý cho họ Clare Torry – nhạc sĩ và ca sĩ 25 tuổi rất tiềm năng. Parsons trước đó từng làm việc với Torry, và đặc biệt thích chất giọng của cô trong sản phẩm album biên tập các ca khúc hát lại. Nhân viên của Abbey Road Studios liên lạc với Torry và thu xếp để cô tới thu âm ngay trong buổi chiều, nhưng cô không tỏ vẻ hào hứng. Torry không phải người hâm mộ ban nhạc Pink Floyd, và cô còn có vài kế hoạch khác trong ngày, mà sau này cô kể lại, là đi gặp Chuck Berry. Vậy nên, kế hoạch được dời xuống ngày Chủ nhật. Ban nhạc hoàn thiện phần nhạc không lời cho Torry, rồi họ đề nghị một số yêu cầu với cô để bổ sung phần hát. Ban đầu, Torry có phần choáng váng với đòi hỏi của nhóm, nhưng cô lại rất thích thú khi mình có cơ hội góp giọng như một nhạc cụ. Cô thu âm hoàn chỉnh 2 ấn bản, và bản thứ 2 có nhiều cảm xúc hơn bản đầu tiên. David Gilmour đề nghị thu thêm bản thứ 3, nhưng khi được một nửa thì Torry dừng lại khi cảm thấy rằng cô đang lặp lại và cô đã làm những gì tốt nhất có thể. Ấn bản album tổng hợp lại cả ba ấn bản. Các thành viên của Pink Floyd ấn tượng sâu sắc với phần trình diễn của Torry, nhưng vẫn luôn giữ quan điểm rằng cô chưa thể hiện hết được bản thân mình và phần hát không thể được lựa chọn vào sản phẩm cuối cùng. Torry chỉ thực sự biết rằng các bản thu của mình được sử dụng khi cô nhìn thấy "The Dark Side of the Moon" bày bán trên kệ với tên mình trong phần sản xuất. Thu âm. Wright nói về việc sáng tác ca khúc: ""Đơn giản là tôi đang chơi trong phòng thu với vài hợp âm. Dave và Roger tới và nói: "Hmm... hay đấy. Có thể chúng ta sẽ dùng chúng cho album sắp tới." Vậy nên, tôi đi ra góc khác và cố phát triển nó. Tôi viết phần giai điệu cho nó, và ở đó có vài đoạn ngắn với phần hát của Clare Torry – giọng hát tuyệt vời đó. Chúng tôi cần thứ gì đó để lấp đầy đoạn ngắn ấy, và cô ấy tới hát." Waters nhớ lại: "Đó là thứ mà Rick đã viết từ trước. Đó là một chuỗi hợp âm hoàn hảo. "The Great Gig in the Sky" và phần piano của "Us and Them" dưới con mắt của tôi, là sản phẩm hoàn hảo nhất của Rick – cả hai đều vô cùng đẹp. Và Alan gợi ý Clare Torry cho chúng tôi. Tôi không biết một chút nào về cô ấy hay ý tưởng cần một giọng hát rên rỉ là của ai. Một ngày nọ Clare tới phòng thu, và chúng tôi nói: "Không hề có ca từ ở đây, vì nó nói về cái chết, không có một chút gì để hát cả, thưa cô." Tôi nghĩ cô ấy hoàn thiện chỉ trong 1 lần thử. Và chúng tôi thốt lên: "Wow, vậy là xong rồi đó. Đây 60 bảng của cô đây."" Parsons nhận xét về lựa chọn của mình: "Cô ấy vừa mới hoàn thiện một album biên tập. Tôi vẫn luôn nhớ cách cô ấy hát "Light My Fire". Tôi thấy cô ấy có chất giọng tốt. Khi mọi chuyện xảy tới, ban nhạc vò đầu và than vãn: "Ai mà dám hát cái đoạn này chứ?" Vậy nên tôi bảo "Tôi có ý này – tôi biết một cô gái." Cô ấy tới, và chỉ vài giờ sau đó là hoàn tất. Cô ấy nói với tôi rằng cô không được hát bất cứ một từ nào. Khi cô mới bắt đầu, cô buột miệng nói "Oh yeah baby" và vài thứ giống như vậy, nên cô phải kiềm chế lại mình. Thực tế không có sự hướng dẫn nào cả – chỉ một mình cô cảm nhận nó."" Gilmour nói: "Clare không thực sự thuộc ê-kíp. Cô ấy tới vì Parsons. Chúng tôi muốn để cô gái vào trong đó hát, gào thét tới cực điểm. Alan từng làm việc với cô, nên chúng tôi muốn cô thể hiện. Và cô ấy thật tuyệt diệu. Chúng tôi có động viên cô ấy chút ít. Chúng tôi có dành cho cô chút gợi ý: "Có thể cô sẽ thích đoạn này một cách nhỏ nhẹ, đoạn khác ồn ào hơn." Có lẽ cô ấy đã làm khoảng 5 lần, và sau đó chúng tôi tổng hợp thành bản hoàn thiện lắp ghép từng đoạn nhỏ. Nó không được hoàn thiện chỉ trong 1 lần thu.". Bản thân Torry nhớ lại: ""Tôi bước tới, đeo tai nghe và cất những từ đầu tiên "Ooh-aah, baby, baby – yeah, yeah, yeah" và họ kêu lên "Không không, chúng tôi không muốn vậy. Nếu cần vậy thì chúng tôi đã nhờ tới Doris Troy rồi." Và họ nói "Hãy thử những nốt dài hơn" và tôi bắt đầu thử. Tới lúc đó, tôi bắt nhịp được với phần nhạc nền [...] vậy nên tôi nghĩ "Cõ lẽ mình nên thể hiện như một nhạc cụ", và tôi nói "Hãy bật ca khúc lại lần nữa". Một trong những kỷ niệm đáng nhớ nhất đó là tính cân bằng của chiếc tai nghe. Alan đã tạo nên những âm thanh tuyệt vời với giọng của tôi; vang, song không quá vang. Khi tôi khép mắt lại – như tôi vẫn thường làm thế – nó như bao bọc tôi vậy; một giọng ca tuyệt hảo, đối với một ca sĩ, luôn luôn tạo cảm hứng."" Chris Thomas được Alan Parsons mang tới phòng thu để hỗ trợ chỉnh âm, nhớ lại rằng họ có mặt khi album đang ở trong quá trình đầu tiên của việc chỉnh âm. Trong DVD ', rất nhiều thành viên của nhóm nhớ lại rằng họ có ca khúc trong tay nhưng không rõ phải xử lý như thế nào. Wright nhớ lại rằng sau khi thu âm xong, Torry còn tỏ ý xin lỗi vì phần hát của mình cho dù ban nhạc thực sự ấn tượng với phần trình diễn của cô. Những trích dẫn sử dụng. Vài câu trích dẫn từ các đoạn phỏng vấn được Pink Floyd thực hiện trước đó được sử dụng trong cấu trúc và nội dung ca khúc: Vụ kiện quyền tác giả. Năm 2004, Torry kiện Pink Floyd và hãng EMI về bản quyền sáng tác ca khúc khi cho rằng "Great Gig in the Sky" là phần đồng sáng tác giữa cô và Richard Wright. Ngoài ra, cô còn giữ bằng chứng mình được trả lương cho buổi thu âm ngày chủ nhật với giá 30 £. Năm 2005, trước khi vụ việc bị đưa ra Tòa Phúc thẩm, một thỏa thuận hòa giải đã được thống nhất giữa các bên. Cho dù chi tiết của thỏa thuận không được tiết lộ, mọi ấn phẩm kể từ sau năm 2005 đều được ghi sáng tác chung của Richard Wright và Clare Torry. Trình diễn trực tiếp. Pink Floyd trình diễn ca khúc này từ năm 1972 trong giai đoạn phôi thai của nó với nhan đề "The Mortality Sequence" và không có phần hát của Clare Torry. Sau khi hoàn thiện, "The Great Gig in the Sky" được trình diễn trực tiếp trong những giai đoạn 1973–1975 và 1987–1994. Trong tour diễn 1974–1975, Gilmour chơi cả pedal steel guitar và Hammond organ để Wright có thể toàn tâm chơi piano (các keyboard được đặt ở chỗ khác khiến anh không thể chơi đồng thời). Pedal steel guitar của Gilmour vì thế cũng được bố trí ngay bên chiếc Hammond của Wright. Tới năm 1987, keyboard đi tour của nhóm Jon Carin phụ trách phần chơi Hammond. Thông thường, có 3 ca sĩ sẽ tham gia lĩnh xướng phần hát, mỗi người phụ trách một đoạn riêng biệt. Trong tour diễn 1974–75, phần hát này do 2 cựu thành viên nhóm The Blackberries là Venetta Fields và Carlena Williams đảm nhiệm. Trong video trích từ "Delicate Sound of Thunder", phần hát được chia sẻ giữa Rachel Fury, Durga McBroom và Margret Taylor. Clare Torry xuất hiện trong buổi diễn Knebworth '90. Trong album trực tiếp "P•U•L•S•E" (1995), Sam Brown, Durga McBroom và Claudia Fontaine phụ trách phần hát. Khi quản lý của Pink Floyd, Steve O'Rourke, qua đời vào năm 2003, Gilmour, Wright và Mason cùng nhau chơi "Fat Old Sun" và "The Great Gig in the Sky" tại đám tang của ông. Quảng cáo. Một đoạn ngắn video của ca khúc được sử dụng trong quảng cáo chuối cho hãng Dole vào năm 1974. Một bản thu phối khí lại của ca khúc cũng được chọn làm nhạc nền cho quảng cáo thuốc đau nhức Ibuprofen trên truyền hình Anh vào năm 1990. Pink Floyd không phải là ban nhạc chơi ấn bản này, song Clare Torry tham gia hát chính với Neil Conti chơi trống và Lati Kronlund chơi bass. Các bản hát lại. Trong album "Dub Side of the Moon" của nhóm nhạc reggea Easy Star All-Stars, có tới hai bản hát lại ca khúc này theo phong cách dub là "The Great Gig in the Sky" và "Great Dub in the Sky". Một ấn bản hòa nhạc giao hưởng, hòa âm bởi Jaz Coleman, trình bày bởi Dàn nhạc giao hưởng London và chỉ huy bởi Peter Scholes, được xuất hiện trong album hòa tấu năm 1995 có tên "Us and Them: Symphonic Pink Floyd". Nhóm Phish cũng hát lại ca khúc này trong đĩa thứ ba của album "Live Phish Vol. 7". Ban nhạc The Squirrels tới từ Seattle thực hiện một album hài hước phỏng theo "The Dark Side of the Moon" có tên "The Not-So-Bright Side of the Moon". Ca khúc "Great Gig" do ca sĩ Baby Cheevers trình bày sau khi tay guitar Joey Kline nói "Sorry, the girl didn't show up!". Nhóm The Flaming Lips cũng hát lại ca khúc này trong ấn bản album tri ân "The Dark Side of the Moon", và nữ ca sĩ Peaches trình bày phần hát của Torry, trong khi Henry Rollins dựng lại nội dung những đoạn phỏng vấn gốc. Trong chuỗi hoạt động "Official Bootlegs: Covers", nhóm progressive metal Dream Theater đã trình diễn lại ca khúc này bên cạnh những ca khúc khác của album với Theresa Thomason phụ trách phần hát
1
null
The Joshua Tree là album phòng thu thứ năm của ban nhạc người Ireland, U2. Album được sản xuất bởi Daniel Lanois và Brian Eno, và được phát hành ngày 9 tháng 3 năm 1987 bởi Island Records. Trái với những cảm xúc mang tính trải nghiệm của album trước đó "The Unforgettable Fire", "The Joshua Tree" quan tâm tới những âm thanh mạnh mẽ hơn bám theo những cấu trúc khác nhau của ca khúc. Album mang nhiều ảnh hưởng từ âm nhạc Mỹ cũng như âm nhạc Ireland truyền thống, từ đó nói lên những tình cảm yêu-ghét nước Mỹ của ban nhạc với một thứ ca từ chứa đựng đầy tính chính trị, xã hội và cả tính tượng trưng trong tư tưởng. Sau những tour diễn tại Mỹ, U2 đã quyết định chọn đây làm chủ đề cho album của mình. Công việc được bắt đầu thực hiện từ tháng 1 năm 1986 tại Ireland, để đảm bảo sự thư giãn và không gian sáng tạo, ban nhạc đã thu âm album tại 2 dinh thự riêng biệt, cùng với đó là 2 phòng thu chuyên nghiệp khác nữa. Rất nhiều sự kiện diễn ra vào thời điểm đó đã ảnh hưởng lớn tới quan điểm âm nhạc của nhóm, chẳng hạn như việc ban nhạc tham gia tour diễn A Conspiracy of Hope, cái chết của người lái xe của nhóm Greg Carroll, và việc ca sĩ chính của nhóm Bono thực hiện chuyến du lịch dài ngày ở Trung Mỹ. Việc thu âm hoàn tất vào tháng 11 năm 1986, song các công việc phụ khác vẫn còn kéo dài tới tận tháng 1 năm 1987. Trong khoảng thời gian đó, U2 đi tìm chất "điện ảnh" cho album của mình, đại ý nói về sự rộng lớn và không gian mở của nước Mỹ. Cuối cùng họ đã thể hiện nó ở phần bìa album với một bức ảnh chụp ban nhạc đứng một góc trên vùng hoang mạc ở phía Tây nước Mỹ. "The Joshua Tree" có được thành công vang dội trên toàn thế giới với vị trí dẫn đầu ở 20 quốc gia và phá hàng loạt kỷ lục. Theo tạp chí "Rolling Stone", album này đã đưa "những người hùng trở thành siêu sao". U2 cũng cho phát hành các đĩa đơn bao gồm "With or Without You", "I Still Haven't Found What I'm Looking For", và "Where the Streets Have No Name". Album giành được 2 giải Grammy năm 1988, trong đó có giải Album của năm và Album trình diễn song ca và nhóm giọng Rock xuất sắc nhất. Năm 1987, ban nhạc tổ chức The Joshua Tree Tour nhằm quảng bá album. Song song với những đánh giá cho rằng đây là một trong những album nhạc Rock xuất sắc nhất lịch sử, "The Joshua Tree" cũng là một trong những album bán chạy nhất thế giới với khoảng 25 triệu đĩa đã bán. Năm 2007, ban nhạc cũng cho ra mắt bản chỉnh âm kỹ thuật số hoàn chỉnh nhân dịp kỷ niệm 20 năm phát hành album. "The Joshua Tree" cũng được đưa vào danh sách lưu trữ của Thư viện Quốc hội Mỹ vào tháng 4 năm 2014. Danh sách ca khúc. Trong quá trình chỉnh âm và thiết kế album, người vợ của Lillywhite – ca sĩ Kristy MacColl – đã tình nguyện sắp xếp thứ tự các ca khúc. Ngoài việc yêu cầu vị trí 2 ca khúc "Where the Streets Have No Name" và "Mothers of the Disappeared", các ca khúc còn lại đều được sắp đặt theo ý của MacColl.
1
null
Ghê sợ song tính luyến ái là sự ghét sợ đối với song tính luyến ái và những người trong nhóm song tính hoặc từng cá nhân. Ghê sợ song tính dẫn tới việc kỳ thị đối với người song tính dựa trên những ấn tượng xấu hoặc nỗi sợ vô cớ. Mặc dù, ghê sợ song tính và ghê sợ đồng tính là hai khái niệm khác nhau, chúng có những đặc điểm chung: sự bị hấp dẫn bởi người cùng giới và/hoặc giới tính, như là một phần của song tính luyến ái, người theo chủ nghĩa dị tính luyến ái xem dị tính luyến ái là sự bị hấp dẫn hoặc lối sống "đúng đắn" và áp dụng quan niệm này đối với người song tính cũng như đồng tính. Tuy nhiên, người song tính cũng bị kỳ thị trên khía cạnh khác nữa: quan niệm rằng song tính luyến ái không tồn tại và những người song tính thì lang chạ. Quan niệm song tính luyến ái không tồn tại bắt nguồn từ quan niệm nhị nguyên rằng con người hoặc hoàn toàn đồng tính hoặc hoàn toàn dị tính; những người song tính có thể là những người đồng tính nhưng tỏ ra mình là dị tính hoặc đang thử nghiệm tình dục; và một người không thể là song tính trừ khi người đó bị hấp dẫn bởi nam và nữ bằng nhau. Những câu nói phổ biến, chẳng hạn như "người ta là đồng tính, dị tính hoặc nói dối" nhấn mạnh quan niệm phân đôi đối với xu hướng tình dục.
1
null
Sắt(II) chloride là một hợp chất hóa học có công thức là FeCl2. Nó là một chất rắn thuận từ có nhiệt độ nóng chảy cao, và thường thu được dưới dạng chất rắn màu lục nhạt. Tinh thể dạng khan có màu trắng hoặc xám; dạng ngậm nước FeCl2·4H2O có màu vàng lục. Trong không khí, nó dễ bị chảy rữa và bị oxy hóa thành sắt(III) chloride. Nó được điều chế bằng cách cho axit clohydric tác dụng với mạt sắt rồi kết tinh sản phẩm thu được. Hợp chất được dùng làm chất cầm màu trong công nghiệp nhuộm vải sợi; dùng trong phòng thí nghiệm hoá học và điều chế sắt(III) chloride. Tính chất hóa học. Ngoài ra hợp chất còn tác dụng với chất có tính oxy hóa mạnh như đicromat, pemanganat trong môi trường axit, halogen... Trong điều kiện thích hợp, các muối tương ứng FeCr2O7 và Fe(MnO4)2 sẽ được tạo thành.
1
null
Sắt(III) chloride là một chất có công thức hóa học là FeCl3. Dạng khan là những vẩy tinh thể màu vàng nâu hoặc phiến lớn hình 6 mặt; nóng chảy và phân huỷ ở . Sắt(III) chloride tan trong nước, etanol, ete và glixerin. Điều chế. Sắt(III) chloride được điều chế bằng cách cho clo tác dụng lên sắt(II) sunfat (FeSO4) hoặc sắt(II) chloride (FeCl2). Ứng dụng. Sắt(III) chloride được dùng làm tác nhân khắc axit cho bản in khắc; chất cầm màu; chất xúc tác trong tổng hợp hữu cơ; chất làm sạch nước; dùng trong nhiếp ảnh, y học.. Hợp chất khác. FeCl3 còn tạo một số hợp chất với NH3, như: FeCl3 còn tạo một số hợp chất với N2H4, tạo phức FeCl3·xN2H4 có màu nâu, dễ bị khử thành FeCl2·2N2H4. FeCl3 còn tạo một số hợp chất với NH2OH, như FeCl3·xNH2OH (x ≈ 0,2585?) là chất rắn màu nâu. FeCl3 còn tạo một số hợp chất với CO(NH2)2, như FeCl3·6CO(NH2)2·3H2O là tinh thể trắng.
1
null
Bắc Borneo () là một lãnh thổ bảo hộ thuộc Anh nằm tại phần phía bắc của đảo Borneo. Lãnh thổ Bắc Borneo ban đầu được hình thành từ các nhượng địa của các quốc gia Brunei và Sulu vào năm 1877 và 1878 cho một nhân vật đại diện của Áo-Hung tên là Gustav Overbeck. Overbeck sau đó chuyển giao toàn bộ quyền lợi của mình cho Alfred Dent trước khi rút lui vào năm 1879. Năm 1881, Dent thành lập Hiệp hội hữu hạn lâm thời Bắc Borneo nhằm quản lý lãnh thổ, thể chế này được nhận hiến chương hoàng gia của Anh trong cùng năm. Đến năm sau, hiệp hội này bị thay thế bằng Công ty Đặc hứa Bắc Borneo. Tình hình khiến cho các nhà chức trách Đông Ấn Tây Ban Nha và Đông Ấn Hà Lan lo lắng, kết quả là Tây Ban Nha bắt đầu yêu sách tại miền bắc của Borneo. Nghị định thư Madrid được ký kết vào năm 1885 công nhận sự hiện diện của Tây Ban Nha tại Philippines, đổi lại là ảnh hưởng của quốc gia này nằm ngoài miền bắc Borneo. Nhằm tránh có thêm yêu sách từ các quốc gia châu Âu khác, Bắc Borneo trở thành một lãnh thổ bảo hộ thuộc Anh vào năm 1888. Bắc Borneo sản xuất gỗ để phục vụ cho xuất khẩu; cùng với nông nghiệp thì ngành này duy trì là nguồn kinh tế chủ yếu của người Anh tại Borneo. Do dân cư quá ít nên không đáp ứng hiệu quả phát triển kinh tế, người Anh bảo trợ nhiều kế hoạch để lao công người Hoa nhập cư từ Hồng Kông và Trung Quốc đến làm việc trong các đồn điền của người châu Âu, và đưa di dân Nhật Bản đến tham gia các hoạt động kinh tế. Chính quyền bảo hộ kết thúc khi quân đội của Nhật Bản xâm chiếm Bắc Borneo trong Chiến tranh thế giới thứ hai, sau chiến tranh thì lãnh thổ nằm dưới quyền một chính phủ quân sự và tiếp đó trở thành một thuộc địa hoàng gia của Anh. Lịch sử. Hình thành và những năm đầu. Bắc Borneo được hình thành vào năm 1877–1878 thông qua một loạt vụ cắt nhượng lãnh thổ tại miền bắc đảo Borneo từ Vương quốc Hồi giáo Brunei và Vương quốc Hồi giáo Sulu cho một doanh nhân và nhà ngoại giao người Áo gốc Đức là Gustav Overbeck. Một lãnh thổ cũ của Công ty Mậu dịch Hoa Kỳ Borneo tại bờ biển phía tây của miền bắc Borneo đã được chuyển giao cho Overbeck trước đó, khiến ông phải đến Brunei nhằm hợp pháp hóa nhượng địa mà ông mua từ Joseph William Torrey. William Clark Cowie giữ một vai trò quan trọng do là một người bạn thân thiết của Vương quốc Hồi giáo Sulu, nhân vật này giúp Overbeck mua thêm lãnh thổ tại bờ biển phía đông của Borneo. Trong khi đó, dù ảnh hưởng của Vương quốc Hồi giáo Bulungan cũng vươn đến Tawau trên bờ biển phía đông, song Sulu chiếm ưu thế hơn. Sau thành công trong việc mua được mảnh đất lớn tại cả phần phía tây và phía đông của miền bắc Borneo, Overbeck đến châu Âu để xúc tiến lãnh thổ này tại Áo-Hung và Ý cũng như tại quê nhà là Đức, song không quốc gia nào tỏ ý thực sự quan tâm. Anh là quốc gia duy nhất hồi đáp, họ vốn đã tìm cách kiểm soát các tuyến mậu dịch tại Viễn Đông từ thế kỷ 18. Mối quan tâm của người Anh được củng cố do họ hiện diện tại Labuan từ năm 1846. Do đó, Overbeck nhận được khoản hỗ trợ tài chính từ anh em Dent từ Anh (Alfred Dent và Edward Dent) và hỗ trợ ngoại giao và quân sự từ chính phủ Anh. Sau khi có được ủng hộ từ phía Anh, một điều khoản được đưa vào các hiệp ước, theo đó các lãnh thổ bị cắt nhượng sẽ không được trao cho bên khác mà không có phê chuẩn của chính phủ Anh. Do không thể thu hút quan tâm từ các chính phủ Áo và Đức, Overbeck rút lui vào năm 1879; toàn bộ các quyền lợi hiệp ước của ông với các vương quốc Hồi giáo được chuyển sang cho Alfred Dent, người này vào năm 1881 lập ra Hiệp hội hữu hạn lâm thời Bắc Borneo cùng sự ủng hộ từ người đồng hương Rutherford Alcock, Đô đốc Henry Keppel, Richard Biddulph Martin, Đô đốc Richard Mayne và William Henry Read. Hiệp hội lâm thời sau đó xin Nữ hoàng Victoria một hiến chương hoàng gia, và được cấp vào ngày 1 tháng 11 năm 1881. William Hood Treacher được bổ nhiệm làm thống đốc đầu tiên, và Kudat tại mũi phía bắc của Borneo được chọn làm thủ phủ hành chính của Hiệp hội lâm thời. Việc cấp hiến chương hoàng gia cho hiệp hội khiến người Hà Lan và người Tây Ban Nha lo ngại, họ sợ rằng người Anh có thể đe dọa đến vị thế các thuộc địa của họ. Vào tháng 5 năm 1882, Hiệp hội lâm thời bị thay thế bằng Công ty Đặc hứa Bắc Borneo mới thành lập, Alcock giữ vai trò là chủ tịch đầu tiên và Dent trở thành giám đốc điều hành của công ty. Chính quyền này không được nhìn nhận là một lãnh thổ mà Anh giành được, thay vào đó chỉ là một doanh nghiệp tư nhân có hướng dẫn của chính phủ nhằm bảo vệ lãnh thổ khỏi bị các quốc gia châu Âu khác xâm phạm. Dưới thời Thống đốc Treacher, công ty giành được thêm lãnh thổ trên bờ biển phía tây từ Vương quốc Hồi giáo Brunei. Công ty sau đó thu được thêm chủ quyền và quyền lợi lãnh thổ từ sultan của Brunei, bành trướng lãnh thổ đến sông Putatan (tháng 5 năm 1884), huyện Padas (tháng 11 năm 1884), sông Kawang (tháng 2 năm 1885), quần đảo Mantanani (tháng 4 năm 1885) và thêm các lãnh thổ nhỏ tại Padas (tháng 3 năm 1898). Vào giai đoạn đầu của chính quyền, tồn tại một yêu sách tại miền bắc Borneo từ nhà cầm quyền Tây Ban Nha tại Philippines, có một nỗ lực nhằm dựng quốc kỳ Tây Ban Nha tại Sandakan song bị một chiến hạm của Anh cản trở. Nhằm ngăn chặn xung đột hơn nữa và kết thúc yêu sách của Tây Ban Nha đối với miền bắc Borneo, một thỏa thuận được gọi là Nghị định thư Madrid được ký kết tại Madrid giữa Anh, Đức và Tây Ban Nha và năm 1885, theo đó công nhận sự hiện diện của Tây Ban Nha tại quần đảo Philippines. Do công ty không muốn can dự vào các vấn đề ngoại giao nhiều hơn nữa, Bắc Borneo được chuyển thành một lãnh thổ bảo hộ thuộc Anh vào ngày 12 tháng 5 năm 1888. Năm 1890, Labuan được sáp nhập vào chính quyền của Bắc Borneo, song được trao lại cho chính phủ Anh cai trị vào năm 1904. Cư dân địa phương tiến hành một số cuộc khởi nghĩa, từ năm 1894 đến năm 1900 dưới quyền lãnh đạo của Mat Salleh và dưới quyền lãnh đạo của Antanum vào năm 1915. Chiến tranh thế giới thứ nhất không có tác động lớn đến lãnh thổ, song ngành gỗ phát triển trong giai đoạn giữa hai thế chiến. Chiến tranh thế giới thứ hai và suy thoái. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Bắc Borneo bị quân Nhật áp đảo vào ngày 17 tháng 12 năm 1941. Đến ngày 3 tháng 1 năm 1942, Hải quân Nhật Bản đổ bộ tại Labuan mà không có kháng cự. Từ ngày 7 tháng 1, binh sĩ Nhật Bản tại Sarawak vượt biên sang Borneo thuộc Hà Lan và bắt đầu đến Jesselton. Một lực lượng lục quân hùng mạnh của Nhật Bản đến từ Mindanao và bắt đầu đổ bộ tại đảo Tarakan trước khi tiến đến Sandakan vào ngày 17 tháng 1. Quân Nhật tiến đến mà không gặp phải sự kháng cự mạnh mẽ nào do lãnh thổ bảo hộ này chủ yếu dựa vào Hải quân Anh để phòng thủ. Mặc dù Bắc Borneo có một lực lượng cảnh sát, song họ chưa từng có lục quân hoặc hải quân riêng. Đến cuối tháng 1, Bắc Borneo hoàn toàn bị quân Nhật chiếm đóng. Lãnh thổ được quản lý như là một bộ phận của Đế quốc Nhật Bản, các viên chức của công ty đặc hứa được phép tiếp tục quản lý dưới sự giám sát của người Nhật. Việc quân Nhật tiến đến Borneo và liên minh Anh-Nhật sụp đổ đã được dự đoán, các điện báo mật cho thấy các tàu Nhật Bản đậu thường xuyên tại Jesselton tiến hành hoạt động gián điệp. Nhiều binh sĩ Anh và Úc bị bắt sau khi Malaya và Singapore thất thủ đã bị đưa đến Bắc Borneo và trở thành tù binh chiến tranh tại trại giam Sandakan, sau đó họ bị buộc phải đi bộ từ Sandakan đến Ranau. Cuộc chiếm đóng khiến cư dân tại các khu vực duyên hải phải vào nội lục nhằm tìm thức ăn và chạy trốn hành động tàn ác trong thời chiến, dẫn đến hình thành một số phong trào kháng chiến; một trong số đó là quân du kích Kinabalu do Albert Kwok lãnh đạo và được các nhóm bản địa ủng hộ. Lực lượng Đồng Minh được triển khai đến Borneo trong chiến dịch Borneo nhằm giải phóng đảo. Lực lượng Đế quốc Úc (AIF) giữ vai trò đáng kể trong sứ mệnh này, binh sĩ được phái đến các đảo Tarakan và Labuan để bó chặt phía đông và tây của Borneo. Đơn vị đặc biệt Z của Đồng Minh cung cấp tình báo và thông tin khác từ phía Nhật Bản nhằm giúp tạo thuận lợi để AIF đổ bộ, còn các tàu ngầm của Hoa Kỳ cũng được sử dụng để vận chuyển đặc công của Úc đến Borneo. Hầu hết các đô thị lớn tại Bắc Borneo bị oanh tạc nghiêm trọng trong giai đoạn này. Chiến tranh kết thúc vào ngày 15 tháng 8 năm 1945 sau khi Nhật Bản đầu hàng và chính quyền Bắc Borneo được chính quyền quân sự Anh tiếp quản từ tháng 9. Chính quyền chính thức của công ty trở lại cai quản lãnh thổ, song không thể tìm được vốn cho chi phí tái thiết sau chiến tranh, nên họ nhượng quyền cai trị lãnh thổ bảo hộ cho chính quyền thuộc địa hoàng gia vào ngày 15 tháng 7 năm 1946. Chính quyền. Hệ thống chính quyền của Công ty Đặc hứa Bắc Borneo dựa trên cấu trúc chính quyền tiêu chuẩn của Đế quốc Anh, theo đó lãnh thổ được chia giữa các tòa thống sứ, và được chia tiếp thành các huyện. Ban đầu, Bắc Borneo chỉ có hai tòa thống sứ là East Coast (Bờ Đông) và West Coast (Bờ Tây), các tòa thống sứ lần lượt đặt tại Sandakan và Jesselton. Mỗi phủ thống sứ được chia thành các tỉnh, về sau gọi là huyện, do công chức huyện điều hành. Đến năm 1922, có 5 phủ thống sứ nhằm phù hợp để phát triển các khu vực mới, chúng gồm có West Coast, Kudat, Tawau, Interior và East Coast. Các phủ thống sứ này được chia thành 17 huyện. Theo hệ thống này, các chức vụ đứng đầu thuộc về người Anh, còn các tù trưởng bản địa quản lý cư dân ở cấp cơ sở. Đây không phải là do người Anh muốn thi hành cai trị gián tiếp, mà là nhằm tạo thuận lợi cho các công chức huyện vốn không quen thuộc với phong tục và chính trị địa phương. Chính quyền công ty lập ra nền tảng cho phát triển kinh tế tại Bắc Borneo bằng cách khôi phục hòa bình vì tại đây nạn cướp biển và xung đột bộ lạc vốn đã phát triển lan tràn. Chính quyền bãi bỏ chế độ nô lệ và lập các dịch vụ giao thông, y tế và giáo dục cho nhân dân, và cho phép các cộng đồng thổ dân tiếp tục phương cách sinh hoạt truyền thống của họ. Lực lượng cảnh sát Bắc Borneo vào năm 1883 gồm có ba người Âu, 50 người Ấn (Sikh và Pashtun), 30 người Dayak, 50 người Somalia và 20 người Mã Lai. Các cảnh sát viên được đào tạo tại trại huấn luyện trung bình ba ngày mỗi tuần. Năm 1884 lực lượng này có tổng cộng 176 thành viên, và tăng lên khoảng 510 trong vòng ba năm. Do là lãnh thổ bảo hộ nên các quan hệ quốc tế nằm trong phạm vi của chính phủ Anh, còn nội vụ do Công ty Đặc hứa Bắc Borneo cai quản với tư cách một nhà nước độc lập. Hiệp định được ký kết vào ngày 12 tháng 5 năm 1888 quy định: Hiệp định giữa Chính phủ Anh và Công ty Bắc Borneo thuộc Anh về thành lập lãnh thổ bảo hộ thuộc Anh. —Ký kết tại London, 12 tháng 5 năm 1888. I. Nhà nước Bắc Borneo bao gồm các lãnh thổ được quy định trong hiến chương hoàng gia đã nêu, và các lãnh thổ khác mà công ty đã thu được, hoặc có thể thu được trong tương lai, ‘theo các khoản trong Điều XV của hiến chương đã nêu. Lãnh thổ được chia thành 9 tỉnh là: II. Nhà nước Bắc Borneo sẽ tiếp tục cai trị và quản lý của công ty với tư cách là một nhà nước độc lập, phù hợp với các khoản trong hiến chương đã nêu; dưới sự bảo hộ của Anh; song sự bảo hộ như vậy sẽ không trao quyền cho Chính phủ của Điện hạ được can thiệp vào quản lý nội bộ của Nhà nước ngoài quy định ở đây hoặc hiến chương của công ty. III. Quan hệ giữa Nhà nước Bắc Borneo và toàn thể các nhà nước bên ngoài khác, bao gồm các nhà nước Brunei và Sarawak, sẽ do Chính phủ của Điện hạ thực hiện, hoặc phù hợp với chỉ đạo của họ; và nếu có bất kỳ khác biệt nào xuất hiện giữa Chính phủ Bắc Borneo và bất kỳ nhà nước nào khác, thì Công ty với tư cách là đại diện cho Nhà nước Bắc Borneo sẽ đồng ý tuân theo quyết định của Chính phủ của Điện hạ, và tiến hành tất cả những điều cần thiết để có hiệu lực. IV. Chính phủ của Điện hạ sẽ có quyền lập viên chức lãnh sự của Anh tại bất kỳ nơi nào trên các lãnh thổ đã nêu, họ sẽ nhận được công nhận lãnh sự nhân danh Chính phủ Bắc Borneo. Họ sẽ được hưởng bất kỳ quyền lợi nào thường được trao cho các viên chức lãnh sự, và họ sẽ được cho quyền tre-o quốc kỳ Anh tại dinh thự và công sở của mình. V. Các thần dân, hoạt động thương nghiệp, và tàu của Anh sẽ được hưởng cùng quyền lợi, đặc quyền và thuận lợi như thần dân, hoạt động thương nghiệp và tàu của quốc gia được ưu tiên nhất, cũng như bất kỳ quyền lợi, đặc quyền và thuận lợi nào khác mà thần dân, hoạt động thương nghiệp và tàu của Bắc Borneo có thể được hưởng. VI. Không có việc Chính phủ Bắc Borneo cắt nhượng hoặc chuyển nhượng bất kỳ bộ phận lãnh thổ nào của Nhà nước Bắc Borneo cho bất kỳ nhà nước bên ngoài nào, hoặc thần dân hoặc công dân của họ, mà không có ưng thuận của Chính phủ của Điện hạ; song hạn chế này sẽ không áp dụng cho việc cấp hoặc thuê nhà đất thông thường cho các cá nhân tư nhân nhằm mục đích cư trú, nông nghiệp, thương nghiệp hoặc kinh doanh khác. Kinh tế. Nhờ các hoạt động kinh tế được quy hoạch tốt, nhà chức trách Bắc Borneo bắt đầu khai hoang đất cho nông nghiệp, và quyền lợi đất đai của người bản địa bắt đầu được hình thành. Tuy nhiên, chính phủ nhận thấy cư dân bản địa quá nhỏ và không phù hợp trong việc đáp ứng yêu cầu phát triển hiện đại, do đó họ bắt đầu bảo trợ nhiều kế hoạch di cư của lao công người Hoa từ Hồng Kông và Trung Quốc. Năm 1882, nhà chức trách Bắc Borneo bổ nhiệm Walter Henry Medhurst làm ủy viên về vấn đề người Hoa nhập cư nhằm tạo lực lượng lao động để thu hút thêm doanh nhân đến đầu tư tại Bắc Borneo. Các nỗ lực của Medhurst tốn kém và không thành công; tuy nhiên người Khách Gia dù không nằm trong kế hoạch song họ bắt đầu di cư đến Bắc Borneo rồi lập nên một cộng đồng nông nghiệp tại đây. Từ thế kỷ 18, cây thuốc lá trở thành ngành trồng trọt đứng đầu của Bắc Borneo. Lịch sử ngành đốn gỗ tại Bắc Borneo có thể truy từ thập niên 1870. Kể từ thập niên 1890, xuất khẩu gỗ cứng tăng lên, khi quy mô đốn gỗ được mở rộng đặc biệt là vào giai đoạn giữa hai thế chiến. Trong thập niên 1900, Bắc Borneo tham gia làn sóng cao su. Sự kiện hoàn thành tuyến đường sắt Bắc Borneo giúp chuyên chở tài nguyên đến một cảng lớn tại bờ tây. Đến năm 1915, khoảng đất, cộng thêm các tiểu chủ người Hoa và Bắc Borneo, đã trồng cây cao su. Trong cùng năm, Thống đốc Bắc Borneo Aylmer Cavendish Pearson mời di dân người Nhật tham gia hoạt động kinh tế tại đây. Chính phủ Nhật Bản nhận được yêu cầu nhiệt tình và phái các nhà nghiên cứu đi khám phá các cơ hội kinh tế tiềm năng. Trong giai đoạn đầu, chính quyền Nhật Bản khuyến khích các nông dân của họ đến Bắc Borneo để trồng lúa do Nhật Bản phụ thuộc vào nhập khẩu gạo. Do người Nhật tăng quan tâm về tính kinh tế, họ mua các đồn điền cao su do chính phủ Bắc Borneo sở hữu. Đến năm 1937, Bắc Borneo xuất khẩu 178.000 mét khối gỗ, vượt qua Xiêm La. Đơn vị tiền tệ ban đầu của Bắc Borneo là dollar Mexico, tương đương 100 cent. Đồng tiền này sau đó được neo với dollar Eo biển và tỷ giá là 9 dollar Eo biển (tương đương 5 dollar Mỹ vào đương thời). Các giấy bạc khác được phát hành trong suốt thời kỳ cai trị, trên tiền miêu tả núi Kinabalu hoặc huy hiệu của công ty. Xã hội. Năm 1881, có từ 60.000 đến 100.000 cư dân bản địa sống tại Bắc Borneo. Cư dân ven biển chủ yếu là người Hồi giáo, còn thổ dân chủ yếu sống tại nội lục. Kadazan-Dusun và Murut là nhóm bản địa lớn nhất tại vùng nội lục, còn người Bajau, Brunei, Illanun, Kedayan và Suluk chi phối tại các khu vực ven biển. Sau nhiều kế hoạch nhập cư do người Anh khởi xướng, dân số tăng lên 200.000 người vào năm 1920, 257.804 người vào năm 1930, 285.000 người vào năm 1935, và 331.000 người vào năm 1945. Chính phủ của Bắc Borneo không chỉ tuyển lao công người Hoa mà còn nhận các di dân người Nhật đến để khắc phục tình trạng thiếu nhân lực trong lĩnh vực kinh tế. Một đường điện báo chạy từ Labuan đến Sandakan được xây dựng vào năm 1894; tiếp xúc phát thanh giữa Sandakan và Jesselton bắt đầu vào năm 1914. Đường sắt Bắc Borneo mở cửa cho công chúng vào ngày 1 tháng 8 năm 1914 và là hạ tầng chuyên chở chủ yếu đối với các cộng đồng bờ tây. Dịch vụ bưu chính cũng hiện hữu khắp hệ thống chính quyền.
1
null
Tìm kiếm tài năng Hàn Quốc (Korea's Got Talent) là một chương trình truyền hình thực tế của Hàn Quốc lần đầu tiên được phát sóng vào ngày 04 tháng 6 năm 2011 trên kênh tvN. Chương trình được mua bản quyền từ Anh (Britain's Got Talent). Đây là chương trình thực tế đầu tiên ở Hàn Quốc. Ban giám khảo cuộc thi gồm có: Kolleen Park, Jang Jin và Song Yun-ah. Chương trình bắt đầu tiếp nhận các ứng viên vào ngày 09 tháng 2 năm 2011 thông qua ARS, trang web chính thức, và qua ứng dụng smart phone. Chương trình tổ chức sơ loại khu vực trên toàn quốc bắt đầu từ Busan 02 tháng 4 năm 2011. Chương trình trở nên nổi tiếng khắp thế giới sau khi một đoạn video của Sung-bong Choi xuất hiện trên toàn thế giới đã đạt được sự chú ý của phương tiện truyền thông. Đối với các giải thưởng, các vòng bán kết sẽ có cơ hội ký hợp đồng với Sony Music, và người chiến thắng sẽ nhận được 100.000 USD. Vòng sơ loại. Vòng sơ loại (Auditions) toàn quốc được tập trung tổ chức tại các thành phố: Seoul, Daejeon, Gwangju, Daegu, Busan và Incheon.
1
null
Cecil Rhodes, thành viên Hội đồng Cơ mật Hoàng gia Anh, tiến sĩ Luật Dân sự, (5 tháng 7 năm 1853 – 26 tháng 3 năm 1902) là một doanh nhân, chính trị gia, trùm khai mỏ Nam Phi sinh tại Anh. Ông đã lập nên Công ty kim cương De Beers, ngày nay chiếm đến 40% thị trường kim cương thô toàn cầu và từng có thời kỳ đóng góp đến 90% lượng kim cương thô buôn bán trên thế giới. Là người có niềm tin mãnh liệt vào chủ nghĩa đế quốc Anh, ông đã thành lập nên vùng lãnh thổ Rhodesia ở nam châu Phi, vùng đất được đặt theo tên ông năm 1895. Năm 1964, Rhodesia Bắc trở thành một bang độc lập của Zambia và Rhodesia Nam từ đó được biết đến là Rhodesia. Năm 1980, Rhodesia, trên thực tế đã độc lập từ 1965, trở thành một quốc gia độc lập được công nhận quốc tế và đổi tên thành Zimbabwe. Đại học Rhodes của Nam Phi cũng được đặt tên theo ông. Bên cạnh đó, một quỹ học bổng mang tên Rhodes cũng được đóng góp tài chính từ tài sản của Rhodes. Nhà sử học Richard A. McFarlane đã gọi Rhodes là "một người góp công không thể thiếu trong lịch sử huy hoàng của Anh và nam Phi châu cũng như George Washington hay Abraham Lincoln trong những thời kỳ tương ứng của lịch sử nước Mỹ... Phần lớn lịch sử Nam Phi bao trùm trong những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 19 là những đóng góp lịch sử của Cecil Rhodes." Thời trẻ. Nước Anh. Rhodes sinh năm 1853 tại Bishop's Stortford, Hertfordshire, Anh quốc. Ông là con thứ 5 trong gia đình cha xứ Francis William Rhodes và vợ Louisa Peacock Rhodes. Cha ông là một cha sở (vicar) Giáo hội Anh, người luôn tự hào là không bao giờ thuyết giáo quá mười phút. Trong số những anh chị em của ông có Francis William Rhodes, người sau này trở thành một viên chức quân đội. Rhodes đã theo học trường tiểu học Bishop's Stortford từ khi 9 tuổi nhưng vì ốm yếu và bệnh hen suyễn mà ông phải thôi học vào năm 1869 và, theo Basil Williams, ông "tiếp tục việc học của mình dưới sự giám sát của cha ông... Sức khỏe của ông khá yếu và có cả những nỗi lo sợ rằng ông bị bệnh lao, căn bệnh mà nhiều người trong gia đình ông đã có triệu chứng. Cha ông sau đó đã quyết định gửi ông ra nước ngoài để thử những hiệu quả của một chuyến hải hành và khí hậu tốt hơn. Herbert [anh trai của Cecil] đã xây dựng một đồn điền ở Natal, Nam Phi, do đó Cecil đã được gửi theo một chiếc thuyền buồm đến gặp Herbert ở Natal. Hành trình tới Durban mất 70 ngày, và ngày 1 tháng 9 năm 1870, Rhodes lần đầu tiên đặt chân lên mảnh đất châu Phi, một cậu bé tóc nhạt, gầy gò, xanh xao, cao lêu nghêu, có dáng điệu nhút nhát và bẽn lẽn." Gia đình ông đã hy vọng rằng khí hậu sẽ cải thiện sức khỏe của ông. Họ cũng mong chờ ông sẽ đỡ đần người anh Herbert đang làm chủ một trang trại trồng bông. Nam Phi. Khi mới đến châu Phi, ông đã sống dựa vào số tiền vay của dì Sophia.. Sau một thời gian ngắn sống cùng Tổng thanh tra của Natal, bác sĩ Peter Cormac Sutherland ở Pietermaritzburg, Rhodes đã thế hiện sự quan tâm đến nông nghiệp. Ông đến gặp người anh Herbert ở thung lũng sông Umkomazi, Natal. Mảnh đất này không thích hợp để trồng bông và dự án này đã thất bại. Tháng 10, 1871, Rhodes khi đó 18 tuổi cùng anh trai Herbert rời khỏi thuộc địa đó để đến bãi khai thác kim cương ở Kimberley. Được N M Rothschild & Sons cung cấp tài chính, Rhodes đã gặt hái thành công suốt 17 năm tiếp theo trong việc mua hết tất cả các công ty khai thác kim cương ở khu vực Kimberley. Sự độc quyền cung cấp kim cương toàn thế giới của ông đã được chính thức hóa năm 1889 thông qua ký kết mối quan hệ bạn hàng chiến lược với Nghiệp đoàn Kim cương có trụ sở tại London. Họ đồng ý cùng kiểm soát nguồn cung toàn cầu để giữ giá kim cương luôn cao. Rhodes đã giám sát hoạt động khai thác mỏ của anh trai ông và đầu cơ trên danh nghĩa của người anh. Kim cương. Trong suốt những năm ở Oxford, công việc làm ăn của Rhodes ở Kimberley vẫn phát đạt. Trước khi rời đến Oxford, ông và C.D. Rudd đã rời khỏi Mỏ Kimberley để đầu từ vào những hầm mỏ đáng giá hơn mà được biết đến là De Beers cũ (Vooruitzicht). Ngày 13 tháng 3 năm 1888, Rhodes và Rudd đã khai trương De Beers sau khi hợp nhất nhiều mỏ đơn lẻ. Rhodes làm thư ký công ty. Với số vốn £200.000 công ty đã thu được nhiều lợi nhuận nhất ngành khai mỏ.
1
null
Bagabag là một đảo núi lửa thuộc tỉnh Madang, Papua New Guinea. Đây vốn là một ngọn núi lửa nhô lên từ đáy đại dương nhưng đã ngừng hoạt động. Bagabag cách mũi Croilles trên bời biển phía bắc của Papua New Guinea 43 km và đây là hòn đảo có khoảng cách gần nhất với đảo Karkar, chỉ cách 18 km về phía tây bắc. Hòn đảo này có hình dáng khá tròn, hình phểu lộn ngược nếu nhìn từ trên không, có đường kính chừng 7 km, nó có diện tích 37 km ². Đặc tính nổi bật của bờ biển là vịnh New Year cắt vào phía đông Nam của đảo. Do có nguồn gốc từ núi lửa, Bagabag có địa hình dóc, với các thảm thực vật lên cao đến 600 m so với mực nước biển. Phần lớn bờ biển phía bắc, phía đông và phía nam của đảo được bao quanh bởi một hàng rào kiểu rạn san hô ra xa đến khoảng 2 km ngoài khơi, những rạn san hô hẹp, và chủ yếu là ngập nước. Người từ Karkar ghé thăm đảo bằng xuồng, đặc sản của đảo Bagabag là cây và quả câu, lợn bản địa và thực phẩm vườn. Hòn đảo này có 4 ngôi làng với hơn 3000 người cư trú.
1
null
Julius von Verdy du Vernois (19 tháng 7 năm 1832 – 30 tháng 9 năm 1910) là một tướng lĩnh và sĩ quan tham mưu của Phổ, có nguồn gốc Huguenot. Trên cương vị là Cục trưởng Cục tình báo của Bộ Tổng tham mưu, ông cùng với Schellendorff được biết đến như một trong những "á thần" hàng đầu của Bá tước Moltke trong việc điều hành chiến lược của cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871). Về sau này, ông trở thành một trong những tác giả quân sự viết nhiều, có ảnh hưởng lớn nhất của Đức, và đã kế nhiệm Schellendorff giữ chức vụ Bộ trưởng Chiến tranh Phổ. Cuộc đời và sự nghiệp. Ông đã chào đời tại Freystadt, Schlesien vào ngày 19 tháng 7 năm 1832, trong một gia đình có nguồn gốc từ Pháp. Vào năm 1850, ông đã gia nhập lực lượng bộ binh Phổ. Sau một vài năm tham gia cấp trung đoàn, ông đã lọt vào tầm mắt của Bá tước Moltke, vị Tổng tham mưu trưởng mới được bổ nhiệm của Phổ, và khi cuộc Chiến tranh Bảy tuần bùng nổ (1866), ông được bổ nhiệm làm thiếu tá trong bộ tham mưu của Tập đoàn quân số 2 (dưới quyền chỉ huy của Thái tử Friedrich Wilhelm). Ông đã tham gia chiến đấu trong chiến dịch ở vùng thượng lưu sông Elbe và trận đánh Königgrätz-Sadowa, trong đó quân đội Áo bị đánh đại bại. Không lâu sau đó, ông được phong quân hàm thượng tá, và vào năm 1867, ông được bổ nhiệm làm Cục trưởng Cục tình báo của Bộ Tổng tham mưu, từ đó ông trở thành một trong những cộng sự thân cận nhất của Moltke. Trên cương vị này, ông đã phục vụ tại đại bản doanh của quân đội Đức trong suốt cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871), và được biết đến như là một trong những "á thần" trứ danh của Moltke. Ông đã được triển khai trong những sứ mệnh quan trọng nhất của Đức. Chẳng hạn như vào ngày 2 tháng 8 năm 1870, ông được gửi đến để khích lệ Tập đoàn quân số 3 do Thái tử thống lĩnh mở một đợt tấn công mạnh mẽ vào Alsace. Vernois mãn nguyện khi được biết rằng ngày 4 tháng 8 là thời điểm sớm nhất mà Leonhard Graf von Blumenthal, tham mưu trưởng của Friedrich Wilhelm, dự đoán sẽ tấn công. Cũng trong tháng đó, ông được phái đến thông báo cho Thái tử Albert của Sachsen về những dự kiến chiến lược của bộ tổng chỉ huy trong giai đoạn máu lửa của chiến dịch Sedan. Sau khi cuộc chiến tranh chấm dứt, ông tiếp tục phụng sự trong Bộ Tổng tham mưu, và cũng giảng dạy tại Học viện Chiến tranh ("Kriegsakademie"). Trên cương vị là giảng viên của học viện, ông đã triển khai một hệ thống giáo dục chiến thuật toàn diện, và đây được xem là một kết quả tất yếu của các hoạt động của ông. Phương pháp của ông có thể được khảo cứu trong tác phẩm "Studien über Truppen-Führung" ("Nghiên cứu về việc điều binh", đã được dịch sang tiếng Anh với nhan đề "Studies in Troop-leading"), và có thể được tóm lược như là việc giả định một tình thế quân sự trên thực tế, được kế tiếp bởi một cuộc tranh cãi sôi nổi về các biện pháp nối tiếp nhau mà một tư lệnh, dù là của một lữ đoàn, sư đoàn hay một lực lượng lớn hơn, phải thực hiện sau đó, thông qua các mệnh lệnh và sự hiểu biết của mi2nhg về tình hình chung. Hàng loạt các vấn đề chiến thuật của chính Moltke, kéo dài từ năm 1859 cho đến năm 1889, đã góp phần rất lớn đến việc giáo dục các sĩ quan tuyển chọn trẻ tuổi được đào tạo dưới tay Verdy, nhưng Moltke thường đương đầu với một số lượng lớn những vấn đề riêng biệt, trong khi Verdy triển khai chi tiết hàng loạt các tình huống và tư tưởng chủ đạo rút ra từ một ngày hoặc một làm việc ở những đơn vị nhát định. Do đó, Moltke có thể được nhìn nhận là người chú trọng đến việc đề ra những ý tưởng và kế hoạch đúng đắn, trong khi Verdy chuyên về việc áp dụng chúng, nhưng dù sao đi chăng nữa thì đây chỉ đơn thuần là những khuynh hướng, chứ không phải là những quan điểm đối lập, trong việc giáo huấn các sĩ quan tham mưu Phổ vào giai đoạn phát triển nhận thức từ năm 1870 cho đến năm 1888. Về tất cả mọi vấn đề này, Moltke, Verdy và Bronsart von Schellendorf cộng tác chặt chẽ với nhau. Vào năm 1876, Verdy được thăng cấp "Thiếu tướng", và từ năm 1879 cho đến năm 1883, ông giữ một chân quan trọng trong Bộ Chiến tranh. Vào năm 1881, ông lên quân hàm Trung tướng. Vào năm 1887, ông được bổ nhiệm làm Thống đốc Straßburg, và vào năm 1888 ông được thăng cấp Thượng tướng Bộ binh. Từ năm 1889 cho đến năm 1890, ông trở thành Bộ trưởng Chiến tranh Phổ, và sau đó ông nghỉ hưu. Về sau, Trường Đại học Königsberg phong tặng bằng tiến sĩ danh dự cho ông vào năm 1894. Julius von Verdy du Vernois từ trần vào năm 1910.
1
null
Công tước Eugen xứ Württemberg (; 20 tháng 8 năm 1846 – 27 tháng 1 năm 1877) là một quý tộc Đức và là một sĩ quan tham mưu của Württemberg. Thiếu thời và thân thế. Công tước Eugen đã chào đời tại Bückeburg, Schaumburg-Lippe, là người con thứ hai và là con trai trưởng của Công tước Eugen của Württemberg (1820 – 1875), (con trai của Công tước Eugen của Württemberg, và Công nương Mathilde xứ Waldeck và Pyrmont) và vợ của ông này là Công nương Mathilde xứ Schaumburg-Lippe (1818 – 1891), (con gái của Georg Wilhelm, Vương công xứ Schaumburg-Lippe và Công nương Ida xứ Waldeck và Pyrmont). Eugen sinh trưởng tại Carlsruhe ở Schlesien. Ông học tại Trường Đại học Tübingen. Sự nghiệp quân sự. Vào năm 1866, ông đã gia nhập Quân đội Württemberg với quân hàm Trung úy. Với Trung đoàn Kỵ binh số 3, ông đã tham gia trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ, giao chiến với quân đội Phổ ở trận Gochsheim. Sau cuộc chiến tranh, kể từ tháng 9 năm 1866 cho đến năm 1870, ông đã rời khỏi quân ngũ để tiếp tục học tập. Trong một thời gian, ông sống ở Paris. Cùng với người chú của mình là Công tước Wilhelm của Württemberg, ông đã thực hiện chuyến hành trình đến Hoa Kỳ từ tháng 7 năm 1868 cho đến tháng 1 năm 1869. Trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871), với quân hàm Thượng tá, ông đã tham gia chiến đấu trong các trận đánh tại Mézières, Chevilly, núi Mesly và Villiers. Vào năm 1871, ông được thăng quân hàm Đại úy, và vào năm 1872, ông được thuyên chuyển tới "Trung đoàn Thương kỵ binh số 19 (Württemberg) "Vua Karl"". Vào năm 1874, ông lên quân hàm Thiếu úy và vào năm 1876, ông trở thành một sĩ quan tham mưu. Vào tháng 12 năm 1876, ông trở thành chỉ huy kỵ binh trong "Trung đoàn Khinh kỵ binh số 11 (Westfalen số 2)" của Phổ, đóng quân tại Düsseldorf. Hôn nhân và hậu duệ. Công tước Eugen được vua Karl I của Württemberg (một người bà con xa) chọn làm chồng của Đại Công nương Vera Constantinovna của Nga, cháu gái đồng thời là con nuôi của Karl và Hoàng hậu Olga. Vào ngày 8 tháng 5 năm 1874, tại Stuttgart, ông kết hôn với Vera (1854 – 1912), con gái của Đại Công tước Konstantin Nikolayevich của Nga và Công nương Alexandra xứ Saxe-Altenburg. Họ có ba người con: Qua đời. Eugen thình lình ngã bệnh và từ trần ở tuổi 30. Ông được mai táng tại Nhà thờ Lâu đài ở Stuttgart. Tại thời điểm Eugen qua đời, ông đứng sau Hoàng tử Wilhelm (sau này là Vua Wilhelm II) trong danh sách kế vị ngai vàng Württemberg.
1
null
Mai Thị Hoa (sinh năm 1982) là một trong số rất ít những vận động viên xuất sắc của bóng chuyền bãi biển nữ Việt Nam. Cô sinh ra ở vùng đất Tiền Giang và tạo dựng nên tên tuổi ở Thành phố Hồ Chí Minh. Thành tích thi đấu. Năm 2001, lần đầu tiên xuất ngoại dự giải bóng chuyền bãi biển nữ châu Á, Mai Hoa và người bạn đồng hành Cẩm Hồng đã kết thúc tại giải với vị trí thứ 17. Năm 2003, cùng với Cẩm Hồng, Mai Hoa lên ngôi vô địch suốt 3 vòng trong khuôn khổ giải bóng chuyền bãi biển toàn quốc, và đã cải thiện vị trí tại Tour đấu trên đất Thái Lan khi kết thúc với hạng 5. Cùng năm, Mai Hoa đứng cặp cùng Vĩnh Linh và dành Huy Chương Đồng tại Sea Games 22. Năm 2004, 2005, 2006 bộ đôi Mai Hoa/Cẩm Hồng trở thành một bộ đôi nữ hoàng của bóng chuyền bãi biển Việt Nam, họ thống trị mọi giải đấu trong nước, là nỗi khiếp sợ cho mọi đối thủ trên đấu trường Việt Nam và cũng xuất sắc giành được vị trí thứ 5 tại Giải vô địch châu Á năm 2005 (chỉ sau 2 đôi Trung Quốc và 2 đôi Thái Lan) Năm 2007, Mai Hoa chính thức nói lời chia tay với bóng chuyền bãi biển để lập gia đình. Năm 2010, Mai Hoa trở lại một cách rất ấn tượng khi chỉ sau 3 tháng làm quen lại với sân tập, chị đã cùng Nguyễn Thị Tiệp giành được Huy Chương Bạc giải bóng chuyền bãi biển toàn quốc, Huy Chương Bạc Đại hội Thể dục Thể thao toàn quốc và lên ngôi vô địch giải bóng chuyền bãi biển nữ quốc tế Tanimex Cup. Cùng năm, Mai Hoa tiếp tục giã từ sân đấu vì những lý do cá nhân. Năm 2013, Mai Hoa – Cẩm Hồng trở lại với nhau sau nhiều năm xa cách. Tuy thể lực có phần sút giảm vì tuổi tác nhưng họ vẫn thi đấu một cách kiên cường và chỉ chịu thua hai đối thủ trẻ khoẻ đến từ Australia, Trung Quốc tại Giải Bóng Chuyền Bãi Biển Nữ quốc tế Sanna Cup 2013. Ngay sau đó, tại Vòng 2 Giải BCBB toàn quốc diễn ra tại Đồ Sơn - Hải Phòng; bộ đôi Hoa/Hồng lại đứng trên bục cao nhất một cách đầy thuyết phục sau khi vượt qua Mãi/Huyền (Hải Phòng) ở trận bán kết và Ngân/Nhung (Sanna Khánh Hòa) cùng với tỉ số 2-0
1
null
Yang di-Pertuan Agong (nghĩa đen "Ngài là Chúa"), Jawi: ), còn được gọi là Thủ lĩnh Tối cao của Liên bang, Quốc vương Tối cao hoặc Quốc vương Malaysia, là người đứng đầu nhà nước Liên bang Malaysia. Quy định quốc vương đứng đầu Liên bang được bắt đầu từ ngày 31 tháng 8 năm 1957, thời điểm Malaysia giành độc lập. Các quốc vương được suy tôn theo hình thức bầu chọn và việc bầu chọn ra quốc vương được diễn ra 5 năm một lần và đây cũng chính là nhiệm kì của một vị Yang di-Pertuan Agong. Việc bầu chọn vua cho Malaysia được tiến hành bởi Hội nghị các quân chủ Malaysia. Các Yang di-Pertuan Agong được bầu chọn từ các Sultan của 9 bang hồi giáo trên Bán đảo Mã Lai gồm Johor, Kedah, Kelantan, Negeri Sembilan, Pahang, Perak, Perlis, Selangor và Terengganu. Các bang có người đứng đầu là thống đốc không có quyền ứng cử. <br> Các Yang di-Pertuan Agong chủ yếu có vai trò về nghi lễ, quyền hạn thật sự nằm trong tay Hội đồng Bộ trưởng Liên Bang, đứng đầu là Thủ tướng. Yang di-Pertuan Agong thứ 16 và hiện tại là Sultan Abdullah của Pahang, thay thế Muhammad V của Kelantan, người đã thoái vị vào ngày 6 tháng 1 năm 2019. Ông được bầu vào ngày 24 tháng 1 năm 2019 tại cuộc họp đặc biệt lần thứ 251 của Hội nghị các quân chủ. Quốc vương tuyên thệ nhậm chức vào ngày 31 tháng 1 năm 2019 sau cuộc họp đặc biệt lần thứ 252 của Hội nghị các quân chủ tại Istana Negara, Jalan Duta. Yang di-Pertuan Agong thường chỉ giữ vai trò nghi lễ và ít khi can thiệp hoặc bình luận về công việc của chính phủ. Tuy nhiên, những động thái và phát ngôn của ông nếu được tuyên bố ra luôn có sức ảnh hưởng lên xã hội, điển hình như sự kiện diễn ra ngày 29/07/2021, Chính phủ của Thủ tướng Muhyiddin đã tuyên bố dỡ bỏ lệnh phong toả dịch COVID-19 mà không xin ý kiến của Quốc vương và Quốc hội, nên đã khiến cho Quốc vương Abdullah Sultan Ahmad Shah thể hiện sự tức giận. Nhân sự kiện này, các nghị sĩ phe đối lập đã công kích chính phủ rằng: "Đây rõ ràng là một sự phản bội Quốc vương và đi ngược lại hiến pháp liên bang". Hoàng gia đã ra thông cáo với nội dung: "Bệ hạ thực sự buồn trước tuyên bố ngày 26/07 rằng chính phủ đã thu hồi tất cả các sắc lệnh khẩn cấp do Người ban hành mà không được sự đồng ý của Người". Chính sự tức giận của quốc vương Abdullah Sultan Ahmad Shah khiến cho chính phủ của thủ tướng Muhyiddin lung lay và mất tín nhiệm nghiêm trọng. Lịch sử. Năm 1957, Malaysia giành được độc lập, Hội đồng lâm thời đã họp bàn và chọn ra người đứng đầu nhà nước. Các ứng cử viên gồm: Cuối cùng, Abdul Rahman ibni Tuanku Muhammad Almarhum - Người thừa kế của Negeri Sembilan đã trở thành Yang di-Pertuan Agong đầu tiên. Ứng viên. Yang di-Pertuan Agong được bầu với thời gian năm năm một lần với các ứng viên là chín người cai trị của các bang của Malaysia (chín trong số mười ba tiểu bang của Malaysia có người cai trị là các quốc vương Hồi giáo). Hội nghị bầu cử gọi là "Majlis Raja -raja" <br> Các ứng cử viên tham gia gồm: Bầu cử. Hiến pháp quy định: Người ứng cử đủ điều kiện trên nhưng không được ứng cử trở thành Yang di-Pertuan Agong nếu: Cuộc bầu cử được thực hiện bởi một cuộc bỏ phiếu kín. Các lá phiếu được sử dụng không được đánh số, nhưng đánh dấu bằng bút và mực in tương tự, và được đưa vào một thùng phiếu. Chỉ các thành viên Hội đồng nhà nước mới được tham gia bầu cử. Quá trình bầu cử được hoàn thành chỉ sau khi Hội đồng chấp nhận ứng viên thành một Yang di-Pertuan Agong mới. Sau đó Hội nghị tuyên bố Yang di-Pertuan Agong nắm giữ chức vụ một nhiệm kỳ năm năm. Các lá phiếu bị hủy trong sự hiện diện của các Sultan ngay sau khi kết quả của cuộc bầu cử được công bố. Yang di-Pertuan Agong sẽ chỉ định thủ tướng như một quan nhiếp chính trong suốt thời gian nhiệm kỳ năm năm của mình cho nhà nước. Thông thường, thủ tướng là một người thân cận của quốc vương mới. Thủ tướng đóng vai trò là người đứng đầu nhà nước ở tất cả các lĩnh vực ngoại trừ vai trò của người đứng đầu Hồi giáo của Yang di-Pertuan Agong.
1
null
Nguyễn Thị Diệu (11 tháng 6 năm 1926 – 10 tháng 7 năm 1955) là nhà hoạt động trong phong trào giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của Việt Nam. Gia đình. Nguyễn Thị Diệu (1926-1955) quê, xã Phổ Phong, thị xã Đức Phổ, Quảng Ngãi. Bà là con của Thựơng Thư Nam triều Nguyễn Hiền. Lúc nhỏ, bà theo thân phụ đang làm quan ở Rạch Giá nên học tiểu học ở đó. Sau bà lên Sài Gòn học Trường Marie Curie và đỗ tú tài. Sự nghiệp cách mạng. Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, bà tham gia hoạt động trong Đoàn phụ nữ cứu quốc Sài Gòn và khi hợp nhất các tổ chức phụ nữ kháng chiến ở Nam Bộ, bà được bầu vào Ban chấp hành Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Bị kẻ thù truy bắt, năm 1950 bà ra bưng biền Tây Nam bộ hoạt động, tự mình bơi thuyền đi tới các xã hẻo lánh, xa xôi để hoạt động cách mạng. Năm 1952 bà về huyện Kế Sách phụ trách thuế nông nghiệp. Sau Hiệp định Genève bà được phân công vào nội thành công tác. Tại thành phố, bà vào dạy tại trường Trung học Đức Trí, hoạt động trong Nghiệp đoàn giáo học tư thục và trong phong trào hòa bình Sài Gòn - Chợ Lớn. Ngày 6/7/1955, bà bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt và bị thủ tiêu tại Thủ Đức, lúc đang mang thai ba tháng với người chồng là nhà báo cách mạng Phạm Phong Lẫm (bút danh Hoa Lư). Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định lấy tên của bà đặt một con đường và một ngôi trường tại Quận 3.
1
null
Grayson Perry (sinh ngày 24 tháng 3 năm 1960) là một nghệ sĩ người Anh, được biết đến chủ yếu bởi bình gốm và sở thích dị trang của mình. Bình gốm của Perry có hình dáng cổ điển và được trang trí màu sắc tươi sáng. Trong các tác phẩm của ông có mang yếu tố tự sự mạnh mẽ, trong đó những hình tượng của Perry như "Claire", là một nhân cách khác của ông, thường xuất hiện. Ông đã được trao giải Turner năm 2003.
1
null
Nguyệt Ánh tên đầy đủ Nguyễn Thị Nguyệt Ánh (sinh ngày 12 tháng 8 năm 1984) là một nữ diễn viên truyền hình, diễn viên điện ảnh và diễn viên kịch nói nổi tiếng người Việt Nam. Là một nữ diễn viên khá “lành tính” trong làng điện ảnh Việt, Nguyệt Ánh được khán giả yêu mến và được các nhà chuyên môn đánh giá cao với lối diễn xuất tự nhiên. Cô được khán giả biết đến qua các bộ phim như "Cổng mặt trời, Thứ ba học trò, Dòng sông huynh đệ, Giấc mơ cổ tích, Gia đình phép thuật..." Xuyên suốt sự nghiệp của diễn viên Nguyêt Ánh cô nổi bật và gắn liền với những vai diễn hiền lành, ngoan ngoãn đến cam chịu, nhẫn nhục. Từ vai diễn đầu tiên trong bộ phim Dốc tình, cô đã được nhớ đến bởi vẻ hiền lành và cam chịu. Từ đó, các đạo diễn đã luôn đóng khung cô trong những dạng vai tương tự như vậy. Tiểu sử. Nguyệt Ánh sinh ngày 12 tháng 8 năm 1984 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ba mẹ Nguyệt Ánh ly thân khi cô chưa tròn một tuổi và đã ly hôn năm cô học lớp sáu. Nguyệt Ánh đã lớn lên trong sự bao bọc của mẹ và ông bà ngoại. Sau này, cả ba và mẹ diễn viên Nguyệt Ánh cũng đều có gia đình riêng. Nguyệt Ánh là một diễn viên tay ngang, cô từng theo học tại Khoa Tư vấn tài chính thuộc Trường Đại học Ngân hàng. Tuy nhiên, từ nhỏ cô xuất thân là người mẫu ảnh của nhiều tạp chí tuổi teen, lên ảnh các bìa báo tạp chí như Mực Tím, đóng các TVC… nên sau này nhờ có cơ hội, cô được thử mình với diễn xuất và bén duyên với nghề. Sự nghiệp. Nguyệt Ánh bén duyên với diễn xuất từ nhỏ khi đã từng lên ảnh bìa báo Mực Tím, đóng các TVC… Đặc biệt, Nguyệt Ánh có người dì học sân khấu điện ảnh, lần đó dì cô đi casting phim Dốc tình có dẫn Nguyệt Ánh theo. Và đây cũng chính là cơ duyên giúp Nguyệt Ánh lần đầu gặp gỡ đạo diễn Lưu Trọng Ninh. Khi còn là sinh viên năm thứ nhất Đại học Ngân hàng TPHCM, Nguyệt Ánh đã may mắn được đạo diễn Lưu Trọng Ninh mời vào vai Vân trong phim "Dốc tình". Sau đó, nữ diễn viên sinh năm 1984 tiếp tục vượt qua nhiều đối thủ nặng ký để vào vai Mai Đình trong phim "Hàn Mặc Tử". Thành công của hai vai diễn đầu tay giúp cô nhanh chóng phủ sóng màn ảnh nhỏ với phim "Mầm sống" và "Miền đất phúc". Từ vai diễn đầu tiên trong bộ phim Dốc tình, cô đã được nhớ đến bởi vẻ hiền lành và cam chịu. Từ đó, các đạo diễn đã luôn đóng khung cô trong những dạng vai tương tự như vậy. Tuy nhiên, gần đây cô cũng đã chọn lọc vai diễn kỹ lưỡng hơn rồi, để tránh có thể gây nhàm chán trong mỗi bộ phim mình tham gia. Cụ thể là rất nhiều khán giả đã gặp Ánh đã có những phản hồi khá là tích cực với vai Hồng khá cá tính trong bộ phim Ở rể vừa phát sóng. Hoặc sắp tới, cô cũng sẽ tham gia vào vở kịch kinh dị Ngôi trường số 13 với vai diễn rất lạ. Trong khi các nữ đồng nghiệp chịu khó trong việc đổi mới hình ảnh để ngày càng gợi cảm, sành điệu hơn thì Nguyệt Ánh bao nhiêu năm qua vẫn trung thành với phong cách dịu dàng, nhẹ nhàng. Cách cô ứng xử với giới truyền thông cũng như thế: nhỏ nhẹ, lễ phép nhưng rõ ràng và không để chỗ cho scandal dù đã có lần Nguyệt Ánh bị “lôi tuột” vào cuộc đôi co tình ái. Không mong manh dễ vỡ như ngoại hình cũng như các nhân vật trên phim, điều khiến Nguyệt Ánh được nhiều đạo diễn, ê kíp làm truyền hình tín nhiệm chính là thái độ làm việc chuyên nghiệp, hết mình. Nguyệt Ánh đóng phim rất chăm và cũng nhiệt tình tham gia các chương trình truyền hình thực tế mang tính khám phá, trải nghiệm như Về trường, Bạn đường hợp ý… Sở hữu gương mặt hiền lành, tính cách nhẹ nhàng, Nguyệt Ánh thường được các đạo diễn giao cho những vai hiền lành, cam chịu. Riêng đạo diễn Hoàng Mập lại nhận ra khía cạnh khác trong khả năng diễn xuất của nữ diễn viên. Anh mời cô vào vai Thắm trong phim Má tôi là đại gia. Trong bộ phim này, Thắm là một cô gái có vẻ ngoài dịu dàng, tính cách ôn hòa, ngoan ngoãn, xứng đáng là một nàng dâu thảo. Tuy nhiên, thực chất nhân vật này lại rất nhiều mưu mô, từng ngoại tình, mưu mô lợi dụng cả con gái ruột. Đây được xem là bộ phim lột xác của "gái ngoan" Nguyệt Ánh. Ngoài tham gia đóng phim truyền hình và điện ảnh, thi thoảng Nguyệt Ánh cũng xuất hiện trên sân khấu kịch cũng gây được tiếng vang trong sự nghiệp, điển hình như vai phản diện khác hẳn các vai hiền lành trên phim trong vở kịch: Gương mặt kẻ khác, Ngôi trường số 13...Ngoài ra, cô cũng làm mới mình khi góp mặt trong một số tiểu phẩm hài kịch như: Dương Quái Phi, Ngủm do cướp tiệm vàng (Liveshow Cười để nhớ của Nhật Cường)... Cô tham gia diễn xuất tại hai sân khấu kịch Trần Cao Vân và sân khấu kịch 5B. Năm 2017, cô có vai diễn chính đầu tiên trong phim điện ảnh chiếu rạp. Đó là bộ phim Tao không xa mày, trong phim Nguyệt Ánh đóng hai vai - vai người mẹ và con gái. Với vai người mẹ, nữ diễn viên sinh năm 1984 đóng cặp cùng diễn viên trẻ Ivon Trần và với vai con gái Nguyệt Ánh đóng cặp với Huỳnh Trường Thịnh. Năm 2019, cô vinh dự khi được mời vào vị trí ban giám khảo và cố vấn của giải thưởng và lễ trao giải Kilala Awards 2019. Năm 2020, Diễn viên 'Dốc Tình' - Nguyệt Ánh được chồng gốc Ấn Độ ủng hộ tham gia cuộc thi Tình Bolero 2020. Sau một thời gian ngừng đóng phim để chăm sóc gia đình, Nguyệt Ánh trở lại với vai trò thí sinh cuộc thi hát. "Lúc quyết định tham Tình Bolero 2020, tôi nhận được sự động viên của ông xã rất nhiều. Anh sẵn sàng ở nhà chăm con để tôi có thời gian luyện tập, quay hình", cô tâm sự. Hơn 20 năm hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật, Nguyệt Ánh ghi dấu ấn với những vai diễn hiền lành, mộc mạc. Sau đó, cô tham gia nhiều phim như Cổng mặt trời, Ở rể, Đam mê nghiệt ngã, Nghiệp sinh tử… Nguyệt Ánh cũng từng hai lần đoạt giải "Nữ diễn viên phụ được yêu thích nhất" của HTV Awards. Là nghệ sĩ nổi tiếng nhưng Nguyệt Ánh rất kín tiếng trên truyền thông. Cô hiếm khi trả lời phỏng vấn và càng ít chia sẻ về tổ ấm nhỏ. Hiện này, Nguyệt Anh hạn chế tham gia nghệ thuật, thi thoảng cô tham gia đóng phim và xuất hiện ở một vài chương trình truyền hình, talkshow, event.. Ngoài công việc diễn viên, cô còn lấn sân sang kinh doanh và rất thành công. Đời tư. Được nhiều khán giả biết đến bởi nét đẹp dịu dàng, hiền lành trong các vai diễn trên của phim truyền hình, ngoài đời, thì Nguyệt Ánh không khác là bao nhiêu. “Nữ diễn viên của mọi nhà’’ cũng đã gây được ấn tượng bởi lối nói chuyện rất thẳng thắn và khá cởi mở. Thời gian trước, thì Nguyệt Ánh đã vô tình đã bị lôi vào câu chuyện tình tay ba khi mà nữ diễn viên Phương Trinh đã lên báo nói rằng đã “chiếm” được người yêu của diễn viên Nguyệt Ánh. Riêng Nguyệt Ánh thì rất là bức xúc, đã trả lời tạp chí rằng, cô đã không hề quen biết với Phương Trinh và nếu cô không bình tĩnh thì cô đã kiện Phương Trinh vì những phát ngôn đó của cô ấy. Bạn trai cũ của Nguyệt Ánh khá là điển trai, đã từng tốt nghiệp đại học tại nước ngoài và cũng đang làm một vị trí cao tuy nhiên lại “quỵt tiền” của Nguyệt Ánh.Là một trong số những diễn viên trẻ xinh đẹp, nổi tiếng của showbiz Việt tuy nhiên Nguyệt Ánh khá kín tiếng về những chuyện đời tư. Cô cũng ít khi công khai chuyện tình yêu ở trên trang cá nhân hay là với công chúng. Thế nhưng, vào tháng 7/2015 người đẹp đã bất ngờ đăng tải một dòng trạng thái dài ở trên trang cá nhân để mà tố người yêu cũ. Nguyệt Ánh đã cho biết, bạn trai cô đã từng nhiều năm sống ở ngoại quốc, và hiện giờ đang là một người thành đạt tuy nhiên thực tế thì bản chất lại không như là vẻ bề ngoài. Theo như những gì đã được nữ diễn viên chia sẻ, người yêu cũ của cô là một người tham vọng và bất chấp thủ đoạn để mà có thể đạt được mục đích. Cặp kè cùng với người đã có gia đình, tán tính các cô gái hay lùm xùm chuyện ăn chia khi mà làm ăn chỉ là một trong số những ví dụ cho tính xấu của anh ta. Nguyệt Ánh đã cho biết, mình cũng không ngại làm việc ngày đêm để mà đáp ứng những nhu cầu vật chất của người yêu tuy nhiên đến nay khi đã chia tay gần 1 năm, người bạn trai này vẫn còn không trả cô những số tiền đã vay. Thậm chí, cô cũng còn bị chặn facebook và cả trang cá nhân. Ngay sau khi thông tin đã được đăng tải, các hình ảnh về bạn trai của Nguyệt Ánh cũng đã phần nào được hé lộ. Một vài hình ảnh đã được cho là của bạn trai “vừa ăn cướp vừa la làng” mà Nguyệt Ánh cũng đã “nuôi ong tay áo”. Tháng 3/2017, cô kết hôn cùng anh Kilaparthy Eswar Rao. Từ ngày lập gia đình, Nguyệt Ánh lui về tập trung chăm sóc gia đình nhỏ. Cô cũng là một trong những nghệ sĩ kín tiếng về đời tư, diễn viên không xuất hiện nhiều trong các sự kiện giải trí, hạn chế đóng phim. Cô phụ chồng quản lý lớp dạy Yoga và lấn sân sang lĩnh vực kinh doanh rất thành công. Năm 2018, vợ chồng cô đón con trai đầu lòng - bé Nanda.
1
null
Trung Đức (23 tháng 3 năm 1952) là nghệ sĩ nhân dân của Việt Nam, được biết đến với vai trò là ca sĩ hát những bài hát truyền thống thành công nhất với chất giọng cao, ấm và truyền cảm. Ông còn là tác giả của một số ca khúc âm hưởng dân ca: "Nhớ về hội Lim", "Em đi chùa Hương" (thơ Nguyễn Nhược Pháp), "Chân quê" (thơ Nguyễn Bính), "Gọi em" (dựa theo hát Khan Tây Nguyên). Tiểu sử. Trung Đức sinh ở làng La Cả thuộc Hà Đông, Hà Nội trong gia đình không ai theo nghệ thuật, bố mẹ đều là nông dân. Trung Đức từng làm công nhân tại Thái Nguyên, sau đó đăng ký dự thi vào đoàn văn công Hà Đông và trúng tuyển. Năm 1972, Trung Đức đi bộ đội. Một năm sau đó, ông về học tại Nhạc viện Hà Nội (Học viện Âm nhạc Quốc gia). Sau khi ra trường ông về công tác tại Nhà hát Ca múa nhạc Thăng Long, rồi chuyển sang Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam. Thấy đoàn văn công Hà Đông tuyển người, ông đăng ký dự thi, trúng tuyển, rồi được đi học tại Nhạc viện Hà Nội. Người thầy đầu tiên là nghệ sĩ Quý Dương.
1
null
Đường sắt Cape-Cairo là một dự án dang dở có mục đích nối liền phía nam với phía bắc châu Phi bằng đường ray xe lửa. Dự án này đã được khởi xướng vào cuối thế kỷ 19, trong thời kỳ thống trị của chủ nghĩa thực dân. Nó thể hiện tầm nhìn rộng lớn của Cecil Rhodes trong nỗ lực kết nối những lãnh thổ đế quốc Anh ở châu Phi bằng một đường liền nối từ Cape Town, Nam Phi đến Cairo, Ai Cập. Trong khi phần lớn những đoạn đường ray nối Cape tới Cairo đã đi vào hoạt động thì tuyến đường này lại bị đứt một đoạn lớn giữa Bắc Sudan và Uganda. Lý do xây dựng. Chủ nghĩa thực dân Anh ở châu Phi có liên quan mật thiết đến khái niệm Tuyến đường sắt Cape-Cairo. Cecil Rhodes đã có công trong việc duy trì và củng cố quyền lực Đế quốc Anh tại những quốc gia ở phương nam của lục địa đen. Ông đã tưởng tượng ra một "đường đỏ" liền nét nối những thuộc địa của Anh từ Bắc đến Nam. Một tuyến đường sắt có thể là một nhân tố then chốt trong mưu đồ thống nhất các thuộc địa, giúp cho sự cai trị trở nên thuận lợi hơn, quân đội di chuyển nhanh hơn tới những điểm nóng và kiểm soát chiến tranh, thúc đẩy định cư và tăng cường thương mại. Trong quá trình thực hiện dự án này đã xuất hiện một trở ngại kỹ thuật vô cùng lớn. Nước Pháp vào cuối những năm 1890 theo đuổi chính sách đối địch khi muốn nối liền những thuộc địa của nó theo chiều đông tây, từ Sénégal đến Djibouti. Nam Sudan và Ethiopia cũng nằm trên đường này nhưng nước Pháp đã gửi những đoàn viễn chinh vào năm 1897 để lập nên một chế độ bảo hộ ở Nam Sudan và tìm ra một con đường đi xuyên Ethiopia. Mưu đồ này đã không thành khi mà một đội tàu của Anh trên sông Nile đã đối đầu với đoàn viễn chinh Pháp tại điểm giao nhau giữa hai con đường của Pháp và Anh, dẫn đến sự kiện Fashoda và thất bại ngoại giao cho Pháp. Bồ Đào Nha cũng có những ý tưởng tương tự và đã đề xuất ra "Bản đồ Hồng" để tuyên bố chủ quyền tại châu Phi. Nguyên nhân thất bại. Nước Anh đã vượt qua không chỉ những trở ngại ghê gớm của địa hình và khí hậu, mà cả những tham vọng của các thế lực khác, như trong vụ Fashoda, hay tham vọng kết nối Angola và Mozambique thành Bản đồ Hồng của Bồ Đào Nha. Sự chống đối quyền cai trị của Anh Quốc đã được hình thành sau Chiến tranh Boer lần thứ nhất và lần thứ hai. Nước Đức đã bảo toàn được phần lãnh thổ tranh chấp ở Đông Phi, ngăn cản đường nối bắc nam. Tuy nhiên, với thất bại của nước Đức năm 1918, phần lớn lãnh thổ này đã rơi vào tay người Anh và về mặt chính trị, con đường đã được nối liền. Sau 1918, Đế quốc Anh đã chiếm được quyền lực chính trị để hoàn thành Đường sắt Cape-Cairo nhưng các vấn đề kinh tế giữa hai cuộc Thế chiến đã ngăn cản điều này xảy ra. Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, với những cuộc đấu tranh giành độc lập của các dân tộc châu Phi và sự suy yếu của chủ nghĩa thực dân, dự án vẫn chưa thể thành công. Tương lai. Ý tưởng về tuyến đường sắt nối Cape với Cairo chưa hẳn đã kết thúc. Trong khi những bất ổn ở Sudan là một trở ngại, những ý đồ rõ ràng đã được xúc tiến để hoàn thành trục nối giữa Sudan và Đông Phi vì lý do kinh tế.
1
null
Hans Karl Georg von Kaltenborn-Stachau (23 tháng 3 năm 1836, tại Magdeburg – 16 tháng 2 năm 1898, tại Braunschweig) là một Thượng tướng Bộ binh và Bộ trưởng Chiến tranh Phổ. Ông sinh ra trong gia đình quý tộc Kaltenborn-Stachau, và đã gia nhập đội thiếu sinh quân, trước khi nhập ngũ trong Trung đoàn Bộ binh số 27 với quân hàm Thiếu úy vào năm 1854. Từ năm 1857 cho đến năm 1860, ông học tại "Trường Chiến tranh Tổng hợp" ("Allgemeine Kriegsschule", về sau này trở thành Học viện Quân sự Phổ) và vào năm 1861 ông được điều vào phục vụ trong vòng 3 năm ở Cục Đo đạc địa hình của Bộ Tổng tham mưu. Kaltenborn-Stachau đã tham gia trong cuộc Chiến tranh Schleswig lần thứ hai năm 1864 và vào tháng 12 ông được thuyên chuyển đến bộ tham mưu của Quân đoàn VI. Trên cương vị này, ông đã phục vụ trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ vào năm 1866, sau khi được thăng quân hàm Đại úy năm 1865. Vào năm 1868, ông trở thành một đại đội trưởng của Trung đoàn số 94, và vào năm 1869 ông được bổ nhiệm làm tham mưu trưởng của Quân đoàn VII. Sau khi được phong cấp Thiếu tá, ông đã phục vụ trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871). Vào năm 1874, ông được lãnh một chức "đại đội trưởng" trong "Trung đoàn Phóng lựu số 2", và lên quân hàm Đại tá vào năm 1879. Sau một thời gian chỉ huy Trung đoàn Bộ binh số 53, ông trở thành chỉ huy của "Trung đoàn Phóng lựu Cận vệ Hoàng đế Alexander", và vào năm 1884 ông trở thành Tham mưu trưởng của Quân đoàn Vệ binh, với quân hàm Thiếu tướng. Vào tháng 11 năm 1855, ông trở thành Lữ trưởng của Lữ đoàn Bộ binh Cận vệ số 2 và vào tháng 1 năm 1888 ông được giao quyền chỉ huy Sư đoàn số 3. Cùng năm đó, ông trở thành Sư trưởng của Sư đoàn Bộ binh Cận vệ số 2 vào tháng 7, đồng thời được phong hàm Trung tướng. Vào ngày 4 tháng 10 năm 1890, ông được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Chiến tranh Phổ. Vào năm 1893, dưới sự lãnh đạo của ông, một kế hoạch đã được đề ra, theo đó quân đội được tăng thêm 7 vạn người và thời gian phục vụ tăng thêm 2 năm. Hans von Kaltenborn-Stachau đã nghỉ hưu vào ngày 12 tháng 10 năm 1893.
1
null
Aldrich Hazen Ames (sinh 26 tháng 5 năm 1941) là một cựu nhân viên, nhà phân tích phản gián của Cơ quan tình báo trung ương Hoa Kỳ, đã bị kết tội làm gián điệp cho Liên Xô và Nga. Cho đến khi bị phát hiện, Ames đã gây thiệt hại tài sản cho CIA nhiều thứ hai, chỉ sau vụ phản bội của Robert Hanssen. Trong chín năm làm việc cho cơ quan phản gián của CIA, Ames đã khai báo thu nhập hàng năm là 60.000 USD nhưng số chi trong tài khoản thẻ tín dụng của ông lên đến 30.000$/tháng, cho phép ông có một cuộc sống dư dả với một chiếc xe Jaguar mới và một ngôi nhà 540.000$ (tương đương 810,000$-2012) được trả bằng tiền mặt. Tiểu sử. Tuổi trẻ. Aldrich Ames sinh ra tại River Falls, Wisconsin, là con của Carleton Cecil Ames và Rachel Ames (họ thời con gái là Aldrich). Cha của ông là một giảng viên cao đẳng còn mẹ ông là một giáo viên tiếng Anh trung học phổ thông. Aldrich là con trai duy nhất và cũng là anh cả trong số 3 anh chị em. Ames từng theo học trường trung học McLean High School ở McLean, Virginia. Bắt đầu từ năm 1957, tiếp sau năm thứ hai trung học, Ames làm việc cho CIA trong ba mùa hè trong vai trò nhân viên phân tích hồ sơ sơ cấp (mức lương GS-3) và đánh dấu hồ sơ mật để lưu trữ. Năm1959, Ames theo học đại học Chicago, dự định học ngành văn hóa và lịch sử nước ngoài nhưng "niềm say mê lâu dài" với drama đã khiến ông nhận điểm trượt và không thể hoàn thành năm thứ hai đại học. Ames đã làm việc cho CIA trong mùa hè 1960 như một người lao động phổ thông kiêm thợ sơn. Sau đó ông trở thành trợ lý giám đốc kỹ thuật ở một nhà hát tại Chicago cho đến tháng 2 năm 1962. Quay trở lại Washington, Ames đã được CIA thuê toàn thời gian, làm công việc văn phòng mà ông đã làm thời trung học. Sự nghiệp ở CIA. Ames đã hoàn thành bằng cử nhân lịch sử ở Đại học George Washington. Ban đầu Ames không định tạo dựng sự nghiệp với CIA, nhưng sau khi đạt được mức lương GS-7 (thang lương bổng của Mỹ, có 15 bậc tất cả) và nhận được những đánh giá tốt, Ames đã được chấp thuận cho tham gia vào Chương trình Huấn luyện Nghiệp vụ bất chấp một vài vụ va chạm với cảnh sát có liên quan đến rượu. Năm 1969, Ames đã làm đám cưới với đồng nghiệp, đặc vụ Nancy Segebarth, hai người gặp nhau tại Chương trình Huấn luyện Nghiệp vụ. Khi Ames được điều đến Ankara, Thổ Nhĩ Kỳ, Nancy đã rút khỏi CIA do đạo luật cấm các cặp vợ chồng làm tại cùng một văn phòng. Nhiệm vụ của Ames tại Thổ Nhĩ Kỳ là tuyển dụng những nhân viên tình báo Xô Viết và ông đã thành công trong việc cài gián điệp vào tổ chức Cộng sản DEV-GENÇ thông qua một người bạn cùng phòng của nhà hoạt động sinh viên Deniz Gezmiş. Bất chấp thành công đó, thành tích của Ames chỉ được đánh giá là "thỏa đáng", và Ames, thất vọng với nhận xét này, đã cân nhắc tới việc rời khỏi CIA. Năm 1972, Ames quay lại trụ sở CIA và làm việc 4 năm tiếp theo trong Đơn vị Xô Viết-Đông Âu (Soviet-East European [SE] Division). Báo cáo thành tích của ông được ghi là "nói chung hăng hái" ("generally enthusiastic"), có thể bởi vì ông giỏi quản lý công việc bàn giấy và lên kế hoạch hơn là tuyển dụng mật vụ.
1
null
Phù não độ cao lớn (tiếng Anh: "High altitude cerebral edema", viết tắt HACE) là một dạng rất nghiêm trọng và có thể gây chết người của chứng say độ cao. Trong trường hợp này, các mô não bị sưng phồng lên do thể dịch bị rò rỉ ra ngoài và nó gần như thường là kết quả của chứng say núi cấp tính ("acute mountain sickness" - "AMS"). Vì vậy, triệu chứng của phù não độ cao lớn bao hàm cả nhiều triệu chứng của say độ cao cấp tính, như là hoa mắt, chóng mặt, buồn nôn, mất ngủ, yếu mệt trong người; ngoài ra còn có thêm triệu chứng đau đầu, mất điều hòa, và giảm dần mức độ tỉnh táo tỉ như mất phương hướng, mất trí nhớ, bị ảo giác, có hành vi bất thường, và hôn mê. Trong trường hợp bất đồng ngôn ngữ, chứng phù não có thể được nhận diện nếu như người bị nghi vấn được yêu cầu (bằng lời nói hoặc ngôn ngữ cơ thể) đi bộ theo một đường thẳng. Chứng phù não độ cao lớn thật ra hoàn toàn có thể được ngăn ngừa, nguyên do là nó thường chỉ xảy ra khi bệnh nhân cố tiếp tục leo lên các độ cao lớn hơn khi các triệu chứng say độ cao cấp tính đã biểu hiện (một trường hợp ngoại lệ là bệnh nhân bị kẹt trên một nơi quá cao - thường là hơn 8.000 mét - trong một thời gian quá dài, nhất là khi không mang theo bình dưỡng khí). Tính chất nguy hiểm của chứng phù não độ cao lớn là, bệnh nhân thường có xu hướng không nhận ra rằng minh đang có nguy cơ bị phù não và xem nhẹ các triệu chứng, và họ thường không chịu cho người khác chữa trị cho đến khi các triệu chứng trở nên quá nghiêm trọng, ví dụ như khi người bệnh đã ngã quỵ dọc đường. Một số trường hợp nhanh chóng dẫn đến hôn mê sâu và tử vong nếu không được can thiệp kịp thời. Việc cung cấp ôxi và thuốc (tỉ như dexamethasone) có thể tạm thời làm giảm bớt triệu chứng và được xem là biện pháp cấp thời để cứu mạng bệnh nhân. Túi bội áp được cho là công cụ chữa trị hiệu quả khi sử dụng kết hợp với dexamethasone và, nếu như xét trong mặt bằng chung về chi phí và khối lượng hành lý chuẩn bị cho các cuộc leo núi, được đánh giá là không quá đắt hay quá nặng (15 lbs). Sau khi được sơ cứu, các bệnh nhân thường được khuyên là nên được đưa về các trung tâm y tế để được chữa trị dứt điểm. Triệu chứng. Nhìn chung các triệu chứng thường thấy của chứng phù não độ cao lớn là:
1
null
Alfred Ludwig Heinrich Karl Graf von Waldersee (8 tháng 4 năm 1832, Potsdam – 5 tháng 3 năm 1904, Hanover) là một Thống chế của Phổ và Đế quốc Đức, giữ chức vụ Tổng tham mưu trưởng Đức trong khoảng thời gian ngắn giữa Moltke và Schlieffen từ năm 1888 cho đến năm 1891. Khi còn là một sĩ quan cấp tá, Waldersee đã được tiến cử vào Bộ Tổng tham mưu và thể hiện tài năng tham mưu của mình trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871). Ông được sắp đặt làm Tổng tham mưu trưởng trong một thời gian dài trước khi Moltke nghỉ hưu năm 1888. Ông từng là một công sự thân cận của Moltke, và sự chống đối của ông trước những chính sách của Thủ tướng Otto von Bismarck cùng với chủ trương gây ra một cuộc chiến tranh phòng bị với Nga của ông (điều khiến cho cả Bismarck lẫn Moltke đều kinh hãi) đã khiến cho ông trở thành một sủng tướng của Wilhelm II khi ông này còn là Thái tử kế vị. Nhưng về sau, khi Wilhelm II lên ngôi Hoàng đế và Waldersee trở thành Tổng tham mưu trưởng, tham vọng của hai người đã đụng độ với nhau và điều này dẫn đến việc Wilhelm II huyền chức ông vào năm 1891. Tuy vậy, đến năm 1900, Đức hoàng đã bổ nhiệm ông làm Tổng tư lệnh của Liên quân tám nước trấn áp phong trào Nghĩa Hòa Đoàn tại Trung Quốc, mặc dù Bắc Kinh thất thủ về tay liên quân trước khi ông đến nơi. Gia đình. Alfred von Waldersee là người con thứ 5 trong 6 người con của Thượng tướng Kỵ binh Phổ Franz Heinrich Graf von Waldersee (1791 – 1873) và Bertha von Hünerbein (1799 – 1859). Franz Heinrich von Waldersee là con trai của Franz Anton von Waldersee (1763 – 1823), người con bất hợp pháp của Leopold III Friedrich Franz, Công tước xứ Anhalt-Dessau (1740 – 1817) với Johanne Eleonore Hoffmeier (1739 – 1816). Tuy vậy, Franz Anton đã được nuôi nấng và giáo dục trong triều đình Anhalt-Dessau, và được phong tước Bá hay "Graf" vào năm 1786. Điền trang của gia đình Waldersee, Waterneverstorf, tọa lạc tại bờ biển Ban Tích gần Behrensdorf ở bang Schleswig-Holstein của Liên minh Đức. Thiếu thời và sự nghiệp ban đầu. Alfred von Waldersee đã chào đời tại Potsdam, trong một gia đình quý tộc quân sự. Sau khi học ở một số trường thiếu sinh quân, ông được bổ nhiệm vào Quân đoàn Pháo binh của Quân đội Phổ vào năm 1850, với quân hàm Trung úy. Ông sớm làm đẹp lòng các cấp trên của mình. Trong chiến dịch lớn đầu tiên của ông, cuộc Chiến tranh Áo-Phổ vào năm 1866, ông phụng sự như một "sĩ quan hầu cận" của Thượng tướng Pháo binh Hoàng thân Friedrich Karl của Phổ, và ông tham chiến cùng với Friedrich Karl tại trận Königgrätz-Sadowa. Trong diễn tiến của chiến dịch, Bá tước Waldersee đã lên quân hàm Thiếu tá và được tiến cử vào Bộ Tổng tham mưu. Kể từ đó, ông phục vụ trong bộ tham mưu của Quân đoàn X, một đơn vị mới được thành lập ở Vương quốc Hanover đã bị Phổ chinh phạt trong cuộc chiến. Vào tháng 1 năm 1870, ông trở thành tùy viên quân sự trong Đại sứ quán Phổ tại Paris. Trên cương vị này, ông đã thu thập tin tức về thực lực quân đội Pháp cùng với mọi thông tin khác về nền quân sự Pháp, và những điều mà ông thu thập được sẽ trở nên quý giá trong các chiến dịch quân sự sắp sửa xảy ra. Trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871), Thượng tá Bá tước Waldersee, được thừa nhận vì tài nghệ quân sự và sự hiểu biết của ông về các lực lượng vũ trang của kẻ địch, đã trở thành cộng sự đắc lực nhất của "Tổng tư lệnh tối cao" của Phổ, Vua Wilhelm I. Ông tham gia trong các trận đánh lớn xung quanh Metz, được bổ nhiệm vào bộ tham mưu của tướng Friedrich Franz, Đại Công tước xứ Mecklenburg-Schwerin; và về sau ông tham chiến trong các chiến dịch chống lại "Binh đoàn Loire" của nền Cộng hòa Pháp non trẻ do tướng Chanzy chỉ huy. Đại Công tước xứ Mecklenburg là một chiến binh tài giỏi, nhưng không phải là nhà chiến thuật nổi bật, và thắng lợi của ông trong chiến dịch phía Tây chủ yếu là nhờ vào cố vấn của ông, Bá tước von Waldersee. Sau khi cuộc chiến tranh chấm dứt, Waldersee được tặng thưởng Huân chương Thập tự Sắt hạng nhất, và được bổ nhiệm làm đại diện của Đức tại Paris, và đã thể hiện tài xử trí và thái độ lịch thiệp của mình khi đảm nhiệm chức vụ khó khăn này. Vào cuối năm 1871, Waldersee đã trở thành tư lệnh của Trung đoàn Thương kỵ binh số 13 tại Hanover, và hai năm sau ông được bổ nhiệm làm tham mưu trưởng của Quân đoàn Hanover, đơn vị mà ông đã phục vụ trước năm 1874. Vào ngày 14 tháng 4 năm 1874, ông kết hôn với Mary Esther Lee (1837-1914), con gái thứ ba của thương nhân New York giàu có David Lee và là vợ góa của Vương công Friedrich xứ Schleswig-Holstein. Mary trước kia đã được Hoàng đế Áo phong làm Công nương Nöer. Bà trở thành một người ủng hộ người nghèo tại Phổ và được vinh danh vì lòng trắc ẩn của mình. Tổng tham mưu trưởng. Vào năm 1882, Waldersee được Thống chế Helmuth von Moltke Lớn bổ nhiệm làm cộng sự hàng đầu của mình trong Bộ Tổng tham mưu tại Berlin với quân hàm "Thượng tướng hậu cần" ("Generalquartiermeister"). Với cấp bậc này, ông đã được xem như là người thừa kế giả định của vị Thống chế ở độ tuổi bát tuần. Trong một vài dịp, Waldersee tháp tùng Hoàng tử Wilhelm, sau này là Đức hoàng Wilhelm II, trong những chuyến hành trình ra nước ngoài, thay mặt cho ông nội của hoàng tử là Đức hoàng Wilhelm I. Kể từ tháng 1 năm 1885, quan hệ giữa Waldersee và Wilhelm trở nên thân mật, và về sau ông trở thành một cộng sự thân cận nhất của hoàng tử. Tuy nhiên, Waldersee bị cha mẹ theo chủ nghĩa tự do của Wilhelm (Thái tử Friedrich Wilhelm và Victoria, Trưởng nữ Hoàng gia Anh) nhìn nhận là người "bài Do Thái, sùng tín một cách hẹp hòi, và phản động... thượng tướng hậu cần là hiện thân của tất cả mọi thứ mà song thân của Wilhelm bài xích dữ dội nhất." Thủ tướng Otto von Bismarck đã cầm quyền tại Phổ và Đức trong vòng một thập kỷ, nhưng vào giữa thập niên 1880, tình hình chính trị - xã hội ở Đức có thay đổi. Những người theo chủ nghĩa xã hội đã giành được ghế trong Quốc hội và tầng lớp trung lưu có xu hướng tự do tìm thấy một người bạn ở Thái tử. Nhằm củng cố quyền lực của mình, Bismarck giờ đây hướng tới một liên kết với quân đội, nhưng Thủ tướng cảm thấy khó chịu và nghi kỵ Waldersee. Vị Bá tước lúc bấy giờ đã hầu như là một Tổng tham mưu trưởng, và là người "tài năng nhưng hết sức tham vọng, không ngừng mưu mô, [và ông] ít nhiều công khai chiếc ghế Thủ tướng [cho bản thân ông]." Bộ Tổng tham mưu không biết nhiều về những ý định của Bismarck và định kiến của Waldersee đôi khi mâu thuẫn với các lập trường về chính sách ngoại giao của Thủ tướng. Waldersee, trên cương vị chính thức là người thứ hai sau Moltke, đã nâng cấp các tùy viên quân sự tại mọi đại sứ của đế quốc trên khắp thế giới "thành một ban ngoại giao thực sự độc lập". Cũng giống như Bộ trưởng Nội các Quân sự Emil von Albedyll báo cáo trực tiếp tới Hoàng đế mà không phải thông qua Bộ Chiến tranh, Waldersee thường sử dụng các tùy viên của mình để qua mặt Bộ Ngoại giao. Cuối năm 1887, Bismarck phát hiện ra rằng tùy viên quân sự tại Viên đã không thèm đếm xỉa vụ lễ tân, tự ý mở đầu các tranh cãi với bộ chỉ huy tối cao Áo về việc bố trí binh lực Đức - Áo trong tình huống một cuộc chiến tranh với Nga xảy ra. Đích thân Waldersee đã bị Bismarck "xỉ vả thậm tệ", để cho giới quân sự biết rằng ai là người điều hành các vấn đề ngoại giao. Thống chế Moltke cuối cùng đã nghỉ hưu vào tháng 8 năm 1888 và việc bổ nhiệm Waldersee làm người kế nhiệm ông là điều dễ dàng đoán trước: tân Hoàng đế 29 tuổi Wilhelm II đã ưng thuận Waldersee. Waldersee về cơ bản tiếp nối truyền thống của Moltke cho tới khi ông nảy sinh mâu thuẫn với vị hoàng đế trẻ tuổi có bản tính khó lường. Vào năm 1891, trong các cuộc diễn tập mùa thu "[Kaisermanöver]" của Quân đội Đế quốc Đức, Waldersee đã cả gan "đánh tan tác" các đội hình dưới quyền chỉ huy của vị hoàng đế nóng nảy Wilhelm II. Do đó, Waldersee đánh mất sự tín nhiệm của quân vương, và bị cách chức Tổng tham mưu trưởng. Tuy nhiên, ông vẫn được giao phó một chức vụ quan trọng: tư lệnh của Quân đoàn IX ở Hamburg-Altona. Waldersee, bất chấp tất cả những gì đã diễn ra, sẽ thiết lập dinh thự ở Hamburg, gần điền trang của Bismarck lúc về hưu tại Friedrichsruh. Năm 1898, ông được bổ nhiệm làm Cục trưởng Cục Thanh tra quân đội III tại Hanover, và lệnh thuyên chuyển được đi kèm bởi những lời tán dương nhằm giãi bày thiện ý của Wilhelm II. Cuộc viễn chinh Trung Hoa. Vào năm 1900, 2 nghìn tín đồ Ki-tô giáo người châu Âu và Trung Quốc đã bị quân nổi dậy Nghĩa Hòa Đoàn bao vây tại Bắc Kinh. Trước tình hình đó, một Lực lượng Cứu viện Quốc tế, với các lực lượng Âu, Mỹ và Nhật đã được điều đến để giải cứu. Kể từ khi công sứ của Đức hoàng Wilhelm II tại Trung Hoa là Nam tước Clemens von Ketteler bị quân nổi dậy Nghĩa Hòa Đoàn giết hại, người Đức "đòi hỏi một quyền ưu tiên nhất định trong cuộc thập tự chinh chống lại dâm man rợ Trung Hoa." Alfred Graf von Waldersee – bấy giờ đã 68 tuổi và bán nghỉ hưu, nhưng được phong hàm "Thống chế" nhân dịp này – đã được Nga hoàng, với sự tán đồng của người Nhật, đề cử làm vị Tổng tư lệnh tối cao Liên quân đầu tiên trong thời kỳ hiện đại. Những chuẩn bị cho việc vị Thống chế rời khỏi Đức đến Trung Quốc đã dẫn đến nhiều bình luận châm biếm nhằm vào cái trở nên được biết đến như là "Waldersee Rummel" hay "những vở diễn Waldersee" — mà ông ghét cay ghét đắng. Trong tâm trạng giận dữ, ông đã ghi nhận: "[Hoàng đế] đã trao cho tôi chiếc gậy Thống chế với một bài hiệu triệu hơi quá mức nồng nhiệt mà không may thay đã lên báo." Vào ngày 17 tháng 10 năm 1900, Waldersee tới Bắc Kinh ("một thời khắc lịch sử toàn cầu") và tiến vào Tử Cấm Thành. Waldersee đã đến trước Bắc Kinh quá muộn để có thể chỉ huy lực lượng đa quốc gia của ông trong bất kỳ một cuộc giao tranh lớn nào, nhưng được giao nhiệm vụ bình đình quân Nghĩa Hòa Đoàn. "Các cuộc viễn chinh trừng phạt này... là những công việc vô thưởng vô phạt [và] theo quan điểm của Waldersee... khó có thể hình thành một cuộc chiến tranh." Tuy nhiên, theo nhà văn Anh Peter Fleming, nếu như Waldersee không được bổ nhiệm làm Tổng chỉ huy liên quân, hoặc nếu như chức vụ này về tay một nhân vật thiếu quyết đoán hơn ông, những hành động thù địch không ngừng gây căng thẳng quan hệ giữa các lực lượng đồng minh ở miền Bắc Trung Quốc có thể sẽ lan nhanh. Điển hình, việc tranh cãi giữa Anh và Nga về các tuyến đường sắt đã đưa hai cường quốc đến gần nguy cơ chiến tranh. Thêm vào đó, cũng theo Fleming, Waldersee chí ít cũng đã ngăn ngừa "vô số rắc rối khác". Vị Thống chế không hiểu được tinh thần bền bỉ của người Trung Quốc. Tuy nhiên, ông nhận thấy các hành vi sai trái của những kẻ chinh phạt: binh lính của họ chán nản và ăn không ngồi rồi, bệnh phong tình lan tràn trong quân ngũ, và sau khi các hành động cướp phá bị ngăn chặn, quân sĩ vẫn dễ bị cám dỗ trước mọi loại hình "nghệ thuật Trung Hoa". Sau khi chiến dịch kết thúc, ông vội vã trở về nước Đức. Vào năm 1900, do "những thành tựu liên quan đến nền hòa bình thế giới" của ông, ông được phong làm Công dân danh dự của Hamburg, nơi ông đã từng cư ngụ. Một lần nữa tại Hanover, ông tái đảm nhiệm chức vụ tướng thành tra, và giữ cương vị này hầu như đến khi ông từ trần vào năm 1904 ở độ tuổi 72. Trong văn hóa đương đại. Trong bộ phim Hồng Kông "Cuộc khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn", Waldersee, do Richard Harrison thủ viên, được mô tả là đã kết hôn với một phụ nữ Trung Hoa, người đã cứu sống ông sau khi hai trong số các nhân vật chính người Trung Hoa định giết ông. Trong phim, ông trẻ hơn rất nhiều so với con người thật của ông trong thời gian xảy ra phong trào Nghĩa Hòa Đoàn.
1
null
Skif là loại súng phóng tên lửa chống tăng dẫn đường tầm xa do Ukraina và Belarus cùng hợp tác phát triển, hai nơi thiết kế hệ thống là Cục thiết kế nhà nước Luch ở Kiev và tập đoàn Peleng tại Minsk. Tên lửa được phát triển tại Kiev trong khi hệ thống nhắm dẫn đường được phát triển tại Minsk. Nó được thiết kế với mục đích tiêu diệt các loại xe bọc thép trong khoảng các từ 100 đến 5000 m với khả năng xuyên 800 mm giáp thép đồng nhất nằm sau giáp phản ứng nổ. Thiết kế. Skif được thiết kế dưới dạng một hệ thống chiến đấu gồm bệ chống ba chân, ống phóng tên lửa, hệ thống nhắm R-2. Sau khi phóng tên lửa sẽ bay từ nơi phóng đến nơi được chỉ điểm. Điểm đặc biệt là quỹ đạo bay của tên lửa, nó sẽ bay lên độ cao 10 m phía trên đường ngắm và sau đó sẽ đâm xuống mục tiêu ở giai đoạn cuối. Chùm laser hướng dẫn được chiếu vào đuôi của tên lửa để truyền dữ liệu chứ không phải chiếu vào mục tiêu. Bệ chống ba chấn của hệ thống có thể được điều khiển từ xa trong khoảng 50 m để giảm nguy cơ cho các pháo thủ cũng như có thể vận hành nhiều hệ thống cùng một lúc. Hệ thống nhắm có thể dùng ảnh nhiệt để sử dụng trong nhiều loại điều kiện thời tiết với chế độ 8x và 16x. Sau khi mục tiêu đã bị khóa thì hệ thống sẽ tự động bám theo mục tiêu mà không cần pháo thủ điều chỉnh gì hơn. Tên lửa sử dụng đầu đạn nổ lại với hai khối thuốc nổ lõm, một khối phía trước nhỏ hơn một chút so với khối phía sau. Loại đầu đạn này hiệu quả với loại giáp phản ứng nổ hay giáp dạng lưới.
1
null
Andreas Vesalius (31 tháng 12 năm 1514-15 tháng 10 năm 1564) là một bác sĩ và nhà giải phẫu học xứ Brabant (nay thuộc Hà Lan), tác giả của một trong những cuốn sách có ảnh hưởng nhất về giải phẫu người, "De humani corporis fabrica" ("Về cấu trúc cơ thể người"). Ông thường được xem là cha đẻ của ngành giải phẫu người hiện đại. Ông là giáo sư của Đại học Padua và trở thành bác sĩ riêng của Hoàng đế Karl V. Ngành giải phẫu học đã đi một bước rất lớn nhờ có Vesalius. Tiểu sử. Vesalius sinh ngày 31/12/1514 tại Brussels với tên lúc sinh là Andries van Wesel, cha là Anders van Wesel và mẹ Isabel Crabbe, Brussels lúc đó là một phần của Habsburg Hà Lan. Ông cố nội của ông, Jan van Wesel, có thể sinh ra ở Wesel, nhận bằng bác sĩ của Đại học Pavia và dạy học năm 1528 tại Đại học Leuven. Ông nội của ông, Everard van Wesel, là Bác sĩ hoàng gia của Hoàng đế Maximilian, trong khi cha của ông, Anders van Wesel, phục vụ như là dược sĩ cho Maximilian, và sau đó các "valet de chambre" (hầu phòng)kế nhiệm ông Charles V. Anders khuyến khích con trai mình để tiếp tục trong truyền thống gia đình, Và ghi tên ông vào "Fratres Vitae Communis" ở Brussels để học tiếng Hy Lạp và La Tinh trước khi học nghề thuốc, theo tiêu chuẩn của thời đại. Năm 1528 Vesalius vào Đại học Leuven (Pedagogium Castrense), nhưng khi cha ông được bổ nhiệm làm "Valet de Chambre" năm 1532, ông quyết định theo đuổi sự nghiệp trong quân đội tại Đại học Paris, nơi ông chuyển đến năm 1533. Ở đó ông nghiên cứu các lý thuyết của Galen dưới sự bảo trợ của Jacques Dubois (Jacobus Sylvius) và Jean Fernel. Chính trong thời gian này ông đã phát triển quan tâm đến giải phẫu, và ông thường được tìm thấy khám nghiệm xương được khai quật trong các nhà hầm mộ tại Nghĩa trang của Innocents. Vesalius bị buộc phải rời khỏi Paris vào năm 1537 do việc mở các cuộc chiến giữa Đế chế La Mã và Pháp và trở lại Leuven. Ông đã hoàn thành nghiên cứu của mình ở đó dưới Johann Winter von Andernach và tốt nghiệp năm sau. Luận án của ông, "Paraphrasis in nonum librum Rhazae medici arabis clariss. ad regem Almansorum de affectuum singularum corporis partium curatione", là một bình luận về cuốn sách thứ chín của Rhazes. Ông vẫn ở Leuven chỉ một thời gian ngắn trước khi rời khỏi nhà sau khi tranh luận với giáo sư của mình. Sau khi giải quyết một thời gian ngắn tại Venice năm 1536, ông chuyển đến Đại học Padua (Universitas artistarum) để nghiên cứu cho tiến sĩ y khoa của mình, mà ông nhận được năm 1537. Bộ sách "Fabrica" và "Tabule". Khác với các "tiến sĩ y khoa" đương thời (nay gọi là bác sĩ), thường ngự trên một cái ngai và để cho lũ "barber" (thợ cạo) thực hiện công việc mổ xẻ, Vesalius tự mình nhảy vào mổ và kiêm luôn vai trò giảng viên và phẫu thuật viên. Ông dẫn dắt người nghe vào cuộc giải phẫu. Ông vẫn cẩn thận xem xét những quyển Galen đáng kính chứ không chê bai, nhưng ông vẫn chỉ ra các sai lầm của Galen do Galen chưa từng mổ người. Khi cần, Vesalius vẫn phải mổ động vật. Một quy trình mổ hồi đó bắt đầu bằng mổ bụng và làm lộ các cơ quan (do bụng là phần dễ thối nhất), rồi phanh ngực, sau đó có thể xem xét bộ não, cuối cùng là khám nghiệm các chi. Ca mổ thường kéo dài 3-4 ngày đêm không nghỉ để không để xác bị thối. Nhưng mổ từng phần như vậy sẽ rất khó để xây dựng lại các hệ thống nằm khắp cơ thể, như hệ tuần hoàn chẳng hạn. Để giúp sinh viên hình dung rõ hơn về hệ tuần hoàn, Vesalius đã tổng hợp và xây dựng các sơ đồ tổng quan cho mỗi cuộc phẫu thuật. Đáng ra ông sẽ không xuất bản chúng nhưng do nhận thấy chúng có thể bị đánh cắp bản quyền, ông liền cho xuất bản chúng dưới tên Tabule anatomicae six ("6 bảng giải phẫu") với hình minh họa rất chân thật được vẽ bởi đồng hương ông, danh họa Calcar. Thú vị là trường Padua của ông rất gần với trung tâm nghệ thuật hàng đầu thế giới. Việc xuất bản các bức ảnh minh họa đã mở ra một giai đoạn mới cho sinh viên giải phẫu vì trước đó họ không hề có khái niệm "hình minh họa" (thậm chí, Sylvius - một giáo sư y khoa nổi tiếng và đã từng dạy Vesalius - còn tuyên bố: Sinh viên không được dùng hình mà phải thuộc văn bản La-tinh nguyên gốc). Cuốn "Tabule" đã rất thành công, điều này có thể thấy qua việc sách lậu xuất hiện rất phổ biến. Khâm phục việc làm của Vesalius, người ta còn gửi thêm các tử thi (của các tội phạm) để ông mổ, và đương nhiên là ông rất hăng hái làm việc, thậm chí người ta còn kể ông mổ những người còn chưa chết hẳn. Ông đọc lại sách của Galen và kiểm tra lại những lỗi sai trong "Tabule" để đính chính. Sau 2 năm, cuốn Fabrica đã hoàn thành. Hình minh họa của cuốn sách không biết chắc chắn là của họa sĩ hay những họa sĩ khắc gỗ nào, nhưng một điều không thể chối cãi là nó quá chân thực và tuyệt vời, và chắc chắn ngày nay - sau khoảng 450 năm - ta vẫn có thể hút hồn vào các bức minh họa này. Các bản chữ La-tinh dày đặc cũng được sắp xếp thật cẩn thận trên trang giấy. Ông cũng đảm bảo sao cho chỉ có một bản văn cho một hình vẽ, tránh tình trạng trước đó là hình và chữ không đi với nhau (do vẽ và viết ở hai nơi và thường họa sĩ không biết đọc). Vesalius giao sách cho nhà in Oporinus và không ngại ở đó kiểm tra chất lượng từng trang một của bản in, không được có một chút sai sót nào. Tất cả các nỗ lực trên đã cho ra một quyển sách tuyệt vời trong thời Phục Hưng, thật xứng đáng với danh tiếng của nó. Cuốn Fabrica vì vậy cũng rất đắt và quý, không phải ai cũng có thể có được nó. Vesalius sống thêm được 20 năm nữa, nhưng ông đã hoàn thành tác phẩm để đời của mình rồi.
1
null
Lý An Dân (chữ Hán: 李安民, 427 - 486), người huyện Thừa, quận Lan Lăng , tướng lãnh nhà Lưu Tống, nhà Nam Tề. Vì Lý Duyên Thọ biên soạn Nam sử vào đời Đường, phải kiêng húy của Đường Thái Tông Lý Thế Dân, nên chép là Lý An Nhân (李安人). Làm tướng nhà Lưu Tống. Thiếu thời. Ông nội là Nghi, làm Vệ quân tham quân. Cha là Khâm Chi, hiệu là Điện trung tướng quân, được bổ làm Tiết (huyện) lệnh. Ông theo cha đến ở huyện, năm Nguyên Gia thứ 27 (450) nhà Lưu Tống, huyện bị Bắc Ngụy chiếm, ông soái bộ khúc quay về miền nam. Lưu Thiệu giết Văn đế (453), sai An Dân lãnh một cánh quân. Ông quy hàng Hiếu Vũ đế, được giữ hiệu Kiến uy tướng quân, bổ làm Tả quân cho Lỗ Sảng. Khi Sảng phản, An Dân trốn về kinh sư, được ban chức Lãnh quân hành tham quân, thăng làm Tả vệ điện trung tướng quân. Trong những năm Đại Minh (457 – 464), quân Ngụy xâm phạm Từ, Duyện, lấy An Dân làm Kiến uy phủ tư mã, Vô Diêm lệnh, ban hiệu Điện trung tướng quân, lãnh quân dẹp loạn ở Hán Xuyên. Thời Minh đế. Tấn An vương Lưu Tử Huân xưng đế, Minh đế ban cho An Dân hiệu Vũ vệ tướng quân, lãnh thủy quân, bổ làm Kiến An vương Tư đồ thành cục tham quân, đánh Giả Kỳ Hồ, Bạch Địch Phổ, Thát Quật, đều thắng, được ban hiệu Tích xạ tướng quân, Quân chủ. Trương Hưng Thế chiếm cứ Tiền Khê, lương hết, bị địch tấn công. Ông soái mấy trăm chiến thuyền, vượt Ngũ Thành của địch, đưa gạo cho Hưng Thế. Quân chủ Thẩm Trọng, Vương Trương của địch đưa quân từ Ngư Quý Khẩu muốn chăn ngang sông, An Dân tiến quân hợp sức chiến đấu mà phá được. Lại đánh Thước Vĩ, Giang Thành, đều có công. Giúp Trương Vĩnh, Thẩm Du Chi dẹp Tiết An Đô ở Bành Thành, đài quân thất bại, An Dân ở phía sau chặn địch, lui về giữ Hạ Bi. Được ban hiệu Ninh sóc tướng quân, đồn thú thành Hoài Dương. Luận công Ngư Quý Khẩu, được phong Thiệu Vũ huyện tử, thực ấp 400 hộ. Lại theo Ngô Hỉ, Thẩm Du Chi đánh Bắc Ngụy, đến Tuy Khẩu thì thua trận, lui về giữ Túc Dự. Hoài Bắc đã mất, Minh đế có sắc để ông ở lại đồn thú Giác Thành. Được ban hiệu Ninh sóc tướng quân, Nhũng tòng bộc xạ (chức quan đứng đầu thị vệ trong cung). Đồn thú Tứ Khẩu, lãnh thủy quân phòng bị men sông Hoài cho đến Thọ Xuân. Ngụy sai Trường Xã công lập doanh trại hơn 10 dặm muốn cướp Nhữ Âm, Dự Châu thứ sử Lưu Miễn đánh lui được. Kinh Đình thú chủ Thăng Khất Nô của Ngụy bỏ thành quy hàng, An Dân soái thủy quân đi trước tấn công, phá Kinh Đình, cắt đứt đường về bến sông của địch. Được thăng làm Ninh sóc tướng quân, Quan quân tư mã, Quảng Lăng thái thú, Hành (coi việc) Nam Duyện Châu sự. Tiêu Đạo Thành ở Hoài Âm, An Dân ở xa vấn muốn kết giao, Minh đế đâm ra nghi ngờ, dời ông làm Quan quân tư mã của Lưu Uẩn, Ninh sóc tướng quân, Kinh Triệu thái thú, lại ban hiệu Ninh sóc tướng quân, Ti Châu thứ sử, lãnh Nghĩa Dương thái thú, rồi không trao, giao lại chức cũ, rồi lại không trao, đổi thụ Ninh sóc tướng quân, Sơn Dương thái thú. Cuối thời Thái Thủy (465 – 471), dân Hoài Bắc nổi dậy muốn về nam, triều đình lấy An Dân làm Đốc tiền phong quân sự, lại xin tiếp viện, không thành công nên quay về. Được ban giai Việt kị hiệu úy, lại làm Ninh sóc tướng quân, Sơn Dương thái thú. Tam Ba nhiễu loạn, thái thú Trương Đạm bỏ Phù Thành mà chạy, lấy ông Giả tiết, Đô đốc thảo Thục quân sự, Phụ sư tướng quân. Ngũ Lão gây loạn Hán Trung, có sắc gọi An Dân lui quân về Ngụy Hưng thì việc đã xong, nên ông về giữ Hạ Khẩu. Thời Hậu Phế đế. Đầu những năm Nguyên Huy (473 – 477), được ban chức Đốc Ti Châu quân sự, Ti Châu thứ sử, lãnh Nghĩa Dương thái thú, giả tiết, tướng quân như cũ. Gặp lúc Quế Dương vương Lưu Hưu Phạm khởi binh, An Dân dừng lại, điều quân cứu viện kinh sư. Được gọi về thụ Tả tướng quân, gia Cấp sự trung. Kiến Bình vương Lưu Cảnh Tố khởi binh, bọn Quan quân Hoàng Hồi, Du kích tướng quân Cao Đạo Khánh, Phụ quốc tướng quân Tào Hân Chi đều ngầm biểu tỏ ý ủng hộ, mà Du kích tướng quân Cao Đạo Khánh lãnh quân đi dẹp, Tiêu Đạo Thành lo ông ta gây biến, sai An Dân cùng Nam Dự Châu thứ sử Đoạn Phật Vinh đi theo để phòng. Ông đến Kinh Khẩu, phá quân Cảnh Tố ở Cát Kiều. Bình xong Cảnh Tố, triều đình để An Dân ở lại làm Hành Nam Từ Châu sự. Thành cục tham quân Vương Huýnh Tố vốn là thân tín của An Dân, cướp 2 xúc lụa, ông gạt nước mắt chém hắn ta, mọi người đều khiếp phục. Được thụ Quan quân tướng quân, Kiêu vệ tướng quân, không trao hiệu. Chuyển làm Chinh lỗ tướng quân, Đông trung lang tư mã, Hành Hội Kê quận sự 。 An Dân sắp đi miền đông, Tiêu Đạo Thành bày tiệc để tiễn, say sưa 1 ngày 1 đêm. Ông ngầm bày tỏ vận nhà Tống sắp hết, mấy lần quay về. Thương Ngô vương buông thả bạo ngược, An Dân bày kế đón Giang Hạ vương Lưu Tễ ở miền đông mà khởi binh, Đạo Thành không cho, nên thôi. Thời Thuận đế. Thương Ngô vương bị phế, Đạo Thành triệu ông làm Sứ trì tiết, Đốc bắc thảo quân sự, Quan quân tướng quân, Nam Duyện Châu thứ sử. Thẩm Du Chi khởi binh, Đạo Thành triệu An Dân giữ nguyên chức trấn Bạch Hạ, sửa con hào của thành, gia hiệu Chinh lỗ tướng quân. Tiến quân về phía tây, lại tiến hiệu Tiền tướng quân. Đài quân đến Bồn Thành, Thẩm Du Chi đã bình xong, vẫn thụ Đốc quân sự của các quận Nghĩa Dương thuộc Dĩnh Châu, Ti Châu, Dĩnh Châu thứ sử, trì tiết, tướng quân như cũ. Năm Thăng Minh thứ 3 (479), được thăng làm Tả vệ tướng quân, lãnh Vệ úy. Đạo Thành lên ngôi, là Nam Tề Cao đế, được làm Trung lãnh quân, phong Khang Nhạc hầu, thực ấp 1000 hộ. Làm tướng nhà Nam Tề. Thời Cao đế. Từ những năm Thái Thủy về sau, khắp nơi loạn lạc, tướng lãnh các nơi tự ý chiêu mộ bộ khúc. An Dân dâng biểu đề nghị chấm dứt việc này, triều đình nghe theo. Khi ấy Vương Kính Tắc nhờ huân công mà trở thành thân tín, nhưng việc lớn cần kín đáo, Tề Cao đế chỉ bàn bạc với ông, còn nói: "Việc nước nhờ có khanh, ta không phải bỏ sót những chi tiết nữa!" Ít lâu sau được làm Lãnh quân tướng quân. Quân Bắc Ngụy vào cướp Thọ Xuân, đến Mã Đầu. Có chiếu cho An Dân xuất chinh, gia một bộ Cổ xuy. Quân Ngụy lui, ông men sông Hoài đi Thọ Xuân. Trước đó, vào đời Tống có Vương Nguyên Sơ tụ đảng ở núi Lục Hợp, tiếm hiệu, tự nhận mình rủ tay quá gối. Châu đánh dẹp không nổi, đã hơn 10 năm. Sau khi An Dân sai quân dò xét, bắt sống Nguyên Sơ, chém đầu ở chợ Kiến Khang. Được Tán kỵ thường thị. Năm ấy, quân Ngụy lại xâm phạm, có chiếu cho An Dân nắm cờ tiết điều quân các đồn thú thuộc châu Thanh, Từ men sông Hoài. Quân Ngụy đánh Cù Sơn, Liên Khẩu, Giác Thành, ông dừng lại ở Tứ Khẩu, chia quân ứng phó. Năm Kiến Nguyên thứ 3 (481), đưa quân thủy bộ vào Thanh Châu, ở Hoài Dương cùng quân Ngụy giao chiến, phá được. Quân Ngụy lui, An Dân biết có phục binh, bèn sai em họ Mã quân chủ Lý Trường Văn đưa 200 kỵ binh làm tiền khu, tự mình cùng quân phó Chu Bàn Long, Thôi Văn Trọng bám theo sau, chia quân giấu trong rừng. Khi Trường Văn đến Túc Dự, người Ngụy thấy quân Tề ít, đưa mấy ngàn kỵ binh ra chặn đánh. Trường Văn vừa đánh vừa lui, dẫn quân địch về chỗ đại quân, ông soái bọn Bàn Long xua quân ra, hợp binh giao chiến ở Tôn Khê Chử, Chiến Phụ Loan, quân Ngụy đại bại, nhào xuống Thanh Thủy mà chết không đếm xuể. Quân Ngụy sai Đồ Đầu công đưa xe cộ chở khí tài đến Bố Khâu, Tả quân tướng quân Tôn Văn Hiển đuổi theo phá được, đốt sạch xe cộ. 4 châu Hoài Bắc từ cuối thời Thái Thủy đã muốn về nam, bọn người Từ Châu là Hoàn Phiếu Chi, người Duyện Châu là Từ Mãnh Tử tập hợp mấy vạn nghĩa quân giữ nơi hiểm trở, cầu viện nhà Nam Tề. Đế sai An Dân đi cứu, vì ông trì hoãn, quân Ngụy đánh gấp, diệt được bọn Phiếu Chi, Đế rất trách cứ ông. Thời Vũ đế. Cao đế băng, di chiếu gia cho ông làm Thị trung. Vũ đế lên ngôi, được thăng làm Phủ quân tướng quân, Đan Dương doãn. Năm thứ 2 (484), được thăng làm Thượng thư tả bộc xạ, tướng quân như cũ. An Dân nhiều lần ngầm bày mưu thành công, lại kết giao với Thượng thư lệnh Vương Kiệm, nên người đời truyền rằng Kiệm tâu xin cho ông thụ chức này. Ít lâu sau dâng biểu lấy cớ bệnh tật xin về, đổi thụ Tán kỵ thường thị, Kim tử quang lộc đại phu, tướng quân như cũ. Năm thứ 4 (486), làm An đông tướng quân, Ngô Hưng thái thú, thường thị như cũ. Mất khi đang ở chức, được 58 tuổi. Triều đình giúp việc tang 10 vạn tiền, trăm xúc vải. Tặng Trấn đông tướng quân, một bộ Cổ xuy, thường thị, thái thú như cũ, thụy là Túc hầu. Dật sự. Bình xong Lưu Tử Huân, Lưu Tống Minh đế mở đại hội ở Tân Đình, khao thưởng các quân chủ, bày cuộc Xư bồ. An Dân 5 lần ném đều là Lư, đế cả kinh, nhìn ông nói: ""Khanh mặt vuông chữ điền, là tướng phong hầu đấy." An Dân lúc nhỏ nghèo khó, có người đi qua cửa nhà, nói với ông: "Anh về sau sẽ được Đại phú quý, cùng thiên tử chơi đánh bạc."" Đến nay ông muốn tìm người ấy, nhưng không biết ở đâu. Quận Ngô Hưng có tòa miếu thờ thần Hạng Vũ, thái thú không được vào sảnh đường. Thái thú mới đến quận, ắt phải giết con bò kéo xe của mình làm lễ tế. An Dân thờ Phật, lại không muốn giết bò của mình, đi guốc gỗ vào miếu, còn bày Bát quan trai ở đấy. Ít lâu sau bò chết, chôn ở bên cạnh miếu, thời ấy gọi là "mộ bò của Lý công". Trong năm ấy ông cũng chết, mọi người đều nói là thần Hạng Vũ làm.
1
null
USS "Little" (DD-79/APD-4) là một tàu khu trục lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ từng phục vụ trong các cuộc Chiến tranh Thế giới thứ nhất và thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Mỹ được đặt theo tên Hạm trưởng George Little (1754-1809), người tham gia cuộc Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ và Chiến tranh Quasi với Pháp. "Little" được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Fore River Shipbuilding Corporation, Quincy, Massachusetts vào ngày 18 tháng 6 năm 1917, được hạ thủy vào ngày 11 tháng 11 cùng năm, được đỡ đầu bởi Bà Samuel W. Wakeman, và được đưa ra hoạt động vào ngày 6 tháng 4 năm 1918 dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hải quân Joseph K. Taussig. Lịch sử hoạt động. "Little" rời Norfolk, Virginia ngày 5 tháng 5 năm 1918 cho nhiệm vụ hộ tống vận tải cùng với Lực lượng Tuần tra tại bờ biển nước Pháp, và đã hoạt động từ Brest cho đến khi nó lên đường quay trở về nhà vào ngày 26 tháng 12. Trong giai đoạn này nó từng hộ tống cho phái đoàn của Tổng thống Woodrow Wilson đi sang Châu Âu tham dự Hội nghị Hòa bình Paris. Chiếc tàu khu trục về đến Boston, Massachusetts vào ngày 18 tháng 1 năm 1919, đi vào ụ tàu để bảo trì, rồi hoạt động cùng với Lực lượng Khu trục Hạm đội Đại Tây Dương. "Little" hộ tống cho phái đoàn của Tổng thống trong chuyến đi quay trở về New York, New York từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 7, tham gia các cuộc thực tập chiến thuật, rồi chuyển sang tình trạng dự bị cùng với Hải đội khu trục 3 tại Philadelphia vào ngày 17 tháng 11 nơi nó ở lại cho đến ngày 4 tháng 1 năm 1921. Con tàu sau đó hoạt động dọc theo bờ biển Đại Tây Dương cho đến khi nó quay trở về Philadelphia và được cho xuất biên chế vào ngày 5 tháng 7 năm 1922. Ngày 2 tháng 8 năm 1940, "Little" được xếp lại lớp với ký hiệu lườn mới APD-4, và được cải biến thành một tàu vận chuyển cao tốc bằng cách tháo dỡ hai nồi hơi lấy làm chỗ nghĩ của binh lính được vận chuyển. "Little" nhập biên chế trở lại vào ngày 4 tháng 11 năm 1940 dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Hải quân K. Earl, và khởi hành đi đến vùng biển Caribe vào tháng 2 năm 1941 để hoạt động cùng với Hạm đội Đại Tây Dương Hoa Kỳ. Sau đó nó di chuyển đến San Diego, đến nơi vào ngày 9 tháng 3 tiến hành huấn luyện đổ bộ. Con tàu quay trở lại vùng bờ Đông vào cuối mùa Hè, và đi vào ụ tàu tại Norfolk vào ngày 1 tháng 12. Trở thành soái hạm của Đội Vận chuyển 12, nó đi đến San Diego vào ngày 14 tháng 2 năm 1942 để sửa chữa và cải tiến. Sau khi hoàn tất các cuộc thực tập đổ bộ trong tháng 4, nó đi đến Trân Châu Cảng, thực hiện một chuyến đi ngắn đến đảo Midway vào cuối tháng 6 trước khi khởi hành đi Nouvelle-Calédonie vào ngày 7 tháng 7 để tham gia Chiến dịch Quần đảo Solomons. Việc tiếp tế cho binh lính Hoa Kỳ trú đóng tại Guadalcanal bị ngắt quãng trầm trọng sau Trận chiến đảo Savo ngày 9 tháng 8 năm 1942. Các tàu khu trục-vận tải cao tốc được huy động khắc phục sự thiếu hụt này. Trong khi cho đổ bộ hàng tiếp liệu và lính biệt kích Thủy quân Lục chiến lên bãi biển Guadalcanal vào ngày 30 tháng 8, "Little" chứng kiến tàu chị em bị máy bay đối phương phá hủy Ba chiếc tàu vận chuyển cao tốc APD còn lại, "Little", và , tiếp tục hỗ trợ và đã giúp vào việc tiếp tế cho lực lượng Thủy quân Lục chiến. Vào ngày 4 tháng 9, "Little" và "Gregory" đưa một phân đội biệt kích Thủy quân Lục chiến đổ bộ lên đảo Savo do một tin đồn không thể xác nhận là lực lượng đối phương đã chiếm đóng nơi đó. Binh lính được đưa quay trở về Lunga Point, Guadalcanal. Đêm hôm đó trời tối một cách đặc biệt, nên chỉ huy Đội vận chuyển Hugh W. Hadley quyết định tuần tra ngoài khơi Lunga Point thay vì đi vào cảng Tulagi vốn không thấy rõ bờ. Khoảng 01 giờ 00 sáng ngày 5 tháng 9, "Little" trông thấy những ánh chớp đạn pháo về phía Đông và tin rằng chúng xuất phát từ một tàu ngầm đối phương. Giây lát sau một thủy phi cơ hải quân PBY Catalina bay bên trên eo biển Savo thả một loạt năm quả pháo sáng để tìm kiếm cái mà họ cũng nghĩ là tàu ngầm đối phương; thay vì vậy, các quả pháo sáng lại làm bộc lộ những chiếc ADP. Bất ngờ xuất hiện một lực lượng tàu nổi Nhật Bản đang tiến hành bắn phá sân bay Henderson sau khi thực hiện thành công một chuyến Tốc hành Tokyo vận chuyển binh lính tăng viện và hàng tiếp tế đến Guadalcanal, chính là nguồn gốc của những phát đạn pháo được cho là của tàu ngầm. Khi phát hiện các tàu vận chuyển Đồng Minh, chúng xoay các khẩu pháo nhắm vào các mục tiêu mới, các đèn pha tìm kiếm phá toang màn đêm tối. Mặc dù bị áp đảo về hỏa lực, "Little" vẫn khai hỏa nhắm vào các tàu khu trục đối phương "Yudachi", "Hatsuyuki" và "Murakumo", nhưng rồi phải chịu đựng các loạt đạn pháo bắn trúng trực tiếp khiến nó trở nên hoàn toàn vô vọng và bị nổ tung lúc 01 giờ 15 phút. "Gregory" cũng chịu đựng cùng một số phận. Để đảm bảo tiêu diệt đối phương, các tàu Nhật di chuyển giữa hai con tàu bị phá hỏng, tiếp tục bắn pháo và dùng súng máy càn quét những người sống sót. "Gregory" chìm đuôi trước lúc khoảng 01 giờ 40; "Little" chìm trong tư thế thăng bằng hai giờ sau đó. Phần thưởng. "Little" được tặng thưởng hai Ngôi sao Chiến đấu do thành tích phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.
1
null
Rovaniemi là một thành phố ở tỉnh Lapland, Phần Lan. Thành phố cách Vòng Bắc Cực 5 km về phía nam. Đây là cửa ngõ đến Lapland và nơi có làng Ông già Noel. Thành phố có sân bay Rovaniemi. Thành phố có diện tích 8016 km² và dân số xấp xỉ 61.000 người.
1
null
Hòa ước Trung-Nhật (tiếng Trung: 日華平和条約), thường được gọi là Hòa ước Đài Bắc (tiếng Trung: 台北和約), là một hòa ước được ký ngày 28 tháng 4 năm 1952- Nhật Bản và Trung Hoa Dân Quốc ký Hiệp ước Đài Bắc, chính thức chấm dứt Chiến tranh Trung-Nhật, 7 năm sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ hai tại Đài Bắc, và có hiệu lực vào ngày 5 tháng 8 cùng năm, đánh dấu sự kết thúc chính thức của Chiến tranh Trung-Nhật thứ hai (1937-45). Hiệp ước này là cần thiết, bởi vì cả Trung Hoa Dân Quốc lẫn Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không được mời tham gia Hiệp ước San Francisco do bất đồng ý kiến ​​của các nước Đồng Minh về việc nhà nước nào là nhà nước hợp pháp của Trung Quốc trong và sau cuộc Nội chiến Trung Quốc. Dưới áp lực từ Hoa Kỳ, Nhật Bản đã ký một hiệp ước hòa bình riêng với Trung Hoa Dân Quốc để đưa cuộc chiến giữa hai quốc gia đến một kết thúc chính thức với một chiến thắng cho Trung Hoa Dân Quốc. Mặc dù bản thân Trung Hoa Dân Quốc không tham gia Hội nghị Hoà bình San Francisco vì việc bắt đầu lại cuộc Nội chiến Trung Quốc sau năm 1945, hiệp ước này phần lớn tương ứng với thỏa thuận của Hiệp ước San Francisco. Cụ thể, Trung Quốc miễn trừ dịch vụ bồi thường cho Nhật Bản trong hiệp ước này đối với Điều 14 (a).1 của Hiệp ước San Francisco. Hòa ước Trung-Nhật đã bị chính phủ Nhật Bản hủy bỏ vào ngày 29 Tháng Chín năm 1972. Tóm tắt Hiệp ước. Hòa ước Trung-Nhật liên quan chặt chẽ với các điều khoản của Hiệp ước San Francisco, thừa nhận rằng trong Hiệp ước San Francisco Nhật Bản đã từ bỏ mọi quyền, tựa đề và tuyên bố về hòn đảo Đài Loan, Pescadores, quần đảo Trường Sa, và quần đảo Hoàng Sa.
1
null
Khái niệm bình đẳng giới ngụ ý rằng nam giới và nữ giới cần nhận được những đối xử bình đẳng trong tất cả các khía cạnh của đời sống kinh tế - xã hội và quyền con người như: giáo dục, y tế, văn hóa, hôn nhân, gia đình, việc làm, chính sách phúc lợi xã hội... Đây là một chiến lược được Liên Hiệp quốc theo đuổi trong việc xây dựng, thực hiện, giám sát và đánh giá các chính sách để đạt mục tiêu cuối cùng là nữ giới và nam giới được bình đẳng với nhau về pháp lý. Khái niệm này dựa trên Tuyên bố Liên Hợp Quốc về Nhân quyền. Hiện nay, một số tài liệu dùng khái niệm "Giới tính thứ 3" để chỉ người đồng tính, song tính và chuyển giới (người LGBT). Nhưng thực ra cách gọi này là sai về khoa học. Ở loài người chỉ tồn tại 2 giới tính sinh học là "Nam" và "Nữ", người LGBT khác người thường về vấn đề tâm lý, chứ về mặt thể chất và giấy tờ tùy thân thì họ vẫn là Nam hoặc Nữ. Hơn nữa, nếu quy định về người LGBT trong Luật bình đẳng giới thì sẽ rất khó áp dụng vì gây ra xung đột với nhiều lĩnh vực và bộ luật khác (căn cước công dân và giấy khai sinh chỉ xác nhận cá nhân là nam giới hoặc nữ giới chứ không thể xác nhận ai là người LGBT, luật nghĩa vụ quân sự cấm người LGBT nhập ngũ để đảm bảo kỷ luật quân đội, Luật bảo vệ trẻ em cấm truyền bá hình ảnh đồng tính luyến ái cho trẻ em, Luật hôn nhân của đa số các nước không cho phép kết hôn đồng giới...). Do vậy, Luật bình đẳng giới tại các nước thường không đề cập tới người LGBT mà chỉ quy định là "Nam nữ bình đẳng", bởi quy định như vậy vẫn đủ để bao quát vấn đề mà cũng tránh gây ra mâu thuẫn với các luật khác.
1
null
"Here's to Never Growing Up" là một bài hát của nữ ca sĩ người Canada Avril Lavigne phát hành ngày 9 tháng 4 năm 2012 như là đĩa đơn đầu tiên từ album phòng thu thứ năm mang tên chính cô. Bài hát được sáng tác bởi Lavigne, David Hodges, Chad Kroeger, Jacob Kasher, và sản xuất bởi Martin Johnson. "Here's To Never Growing Up" là một bản midtempo mang phong cách pop rock nói về một "bữa tiệc được mãi mãi là tuổi trẻ" và có tham chiếu đến ban nhạc rock người Anh Radiohead. Bài hát nhận được những đánh giá trái chiều từ giới phê bình, trong đó họ đã so sánh nó với âm nhạc của Kesha, Katy Perry và Taylor Swift. PopJustice đã phản ứng "Ai có thể ngờ rằng Avril Lavigne sẽ cho chúng ta một trong những ca khúc cho phần điệp khúc dễ gây nghiện nhất năm 2013". Bài hát đã đạt được thành công tương đối trên các bảng xếp hạng trên toàn thế giới, khi nằm trong top 20 tại Úc, Canada, Ireland, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ. Video ca nhạc của bài hát được đạo diễn bởi Robert Hales, trong đó Avril và ban nhạc biểu diễn tại vũ hội của trường, cùng với những hình tượng trùng lặp với video cho đĩa đơn năm 2002 "Complicated" của cô. Video đã nhận được những phản hồi tích cực từ các nhà phê bình khi ca ngợi diện mạo của Avril trong clip. Lavigne đã biểu diễn "Here's To Never Growing Up" trên một số chương trình, bao gồm Dancing with the Stars, The Today Show và The Voice UK.
1
null
Say núi mạn tính ("Chronic mountain sickness" - viết tắt là CMS) là một bệnh hình thành do người bệnh ở một nơi quá cao trong thời gian quá lâu. Nó còn được biết đến với tên là bệnh Monge, đặt theo tên của bác sĩ Carlos Monge Medrano, người đầu tiên miêu tả về căn bệnh này vào năm 1925. Trong khi say núi cấp tính xảy ra ngay sau khi leo lên một nơi quá cao, say núi mạn tính có thể xảy ra sau một thời gian rất lâu từ khi sinh sống ở một nơi có độ cao lớn, thậm chí có thể nhiều năm sau thì bệnh mới phát. Ở đây, cần lưu ý rằng trong khi theo y học, chuẩn của "độ cao lớn" là hơn 2.500 mét (8.200 foot), thì phần lớn trường hợp mắc bệnh say núi mạn tính chỉ xảy ra ở các nơi cao hơn 3.000 mét (10.000 foot). Hai đặc điểm đặc trưng của say núi mạn tính là chứng tăng hồng cầu (tức tỉ lệ hồng cầu trong máu tăng cao hơn bình thường) và giảm oxy hóa huyết, cả hai điều này có thể được giải quyết khi chuyển xuống sống ở độ cao thấp hơn. Say núi mạn tính được cho là xảy ra bởi việc cơ thể sản xuất nhiều hồng cầu hơn bình thường nhằm tăng khả năng chứa ôxi trong điều kiện không khí loãng ở nơi cao, tuy nhiên điều này có thể gây ra chứng đặc máu và sư mất quân bình trong dòng máu chảy qua phổi (bất tương xứng trong tỉ lệ thông khí/tưới máu). Tuy nhiên, say núi mạn tính cũng được cho là kết quả của quá trình thích nghi của các bệnh phổi và tim trong điều kiện sống ở môi trường thiếu ôxi kéo dài tại những vùng núi cao. Những triệu chứng thường thấy của say núi mạn tính là đau đầu, chóng mặt, ù tai, khó thở, tim đập nhanh, rối loạn giấc ngủ, mệt mỏi, chán ăn, rối loạn tâm thần, chứng xanh tím, và giãn tĩnh mạch. Chẩn đoán lâm sàng cho thấy người bệnh có Hb > 200 g/L, Hct > 65%, và nồng độ ôxi bão hòa trong động mạch (SaO2) < 85% ở cả nam lẫn nữ. Phương pháp điều trị bao gồm việc chuyển xuống sống ở các vùng thấp hơn, điều này sẽ giúp các triệu chứng giảm dần và tỉ lệ hồng cầu dần chuyển về mức bình thường. Biện pháp điều trị tức thời bao gồm trích máu tĩnh mạch, loại bỏ dòng máu đang luân chuyển, giảm tỉ lệ hồng cầu, tuy nhiên các biện pháp này không phải là tốt nhất xét về lâu dài.
1
null