text
stringlengths
1
148k
label
int64
0
2
__index_level_0__
int64
0
113k
Peltandra virginica là một loài thực vật thuộc họ Araceae, phân bố rộng rãi ở vùng đất ngập nước miền đông Hoa Kỳ, cũng như Quebec, Ontario, và Cuba. Nó phổ biến ở Florida, bao gồm cả vùng Everglades và dọc Duyên hải Vịnh. Thân rễ của nó có thể chịu được mức oxy thấp trong đất ngập nước. Loài này cũng hiện diễn ở những nơi khác tại Bắc Mỹ do du nhập hay xâm lấn.
1
null
Pothos chinensis là một loài thực vật có hoa trong họ Ráy (Araceae). Loài này được Constantine Samuel Rafinesque miêu tả khoa học đầu tiên năm 1838 dưới danh pháp "Tapanava chinensis". Năm 1948 Elmer Drew Merrill định danh lại cho "Tapanava chinensis" thành "Pothos chinensis". Phân bố. Loài này có ở Bangladesh, Bhutan, Campuchia, Lào, Myanmar, Nepal, Thái Lan, Việt Nam, Ấn Độ (Assam), Trung Quốc (Hải Nam, Hồ Bắc, Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Tây Tạng, Tứ Xuyên, Vân Nam) và Đài Loan. Sinh sống trong rừng rậm và các thung lũng núi ẩm thấp, ở cao độ đến , mọc bò trên đá hay leo trên thân cây. Tại Vệt Nam nó được gọi là ráy leo Trung Quốc, cơm lênh Trung Quốc, ráy Vân Nam; trong khi tại Trung Quốc người ta gọi nó là 石柑子 (thạch cam tử).
1
null
Pothos scandens là một loài thực vật có hoa trong họ Ráy (Araceae). Loài này được Carl Linnaeus miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753. Nó là loài điển hình của chi "Pothos". Phân bố. Loài này phân bố tại Ấn Độ (gồm cả quần đảo Andaman và Nicobar), Bangladesh, Brunei, Campuchia, Comoros, Indonesia (Java, Kalimantan, Maluku, Nusa Tenggara, Sumatera), Lào, Madagascar, Malaysia (bán đảo, Sabah), Myanmar, Philippines, Seychelles, Sri Lanka, Thái Lan, Trung Quốc (Vân Nam) và Việt Nam. Có thể có tại Nepal và Singapore. Trong tiếng Việt, nó được gọi là tràng pháo dây hay ráy leo. còn trong tiếng Trung là 螳螂跌打 (đường lang điệt đả). Mô tả. Mô tả dưới đây lấy theo e-Flora China: Dây leo, kích thước trung bình đến khá lớn, dài đến 6 m. Thân cây hơi giống hình tứ giác hoặc gần giống hình trụ, đường kính đến 10 mm. Lá nhợt ở phần xa trục và màu xanh lục tươi đến sẫm ở phần gần trục; cuống lá từ dạng trứng ngược-thuôn dài đến dạng thẳng-thuôn dài, kích thước 2-14 × 0,5–2 cm, cánh rộng, đáy men xuống, đỉnh cụt, thuôn tròn hoặc có tai; mỗi bên có 2 hoặc 3 gân thứ cấp và nhiều gân con; phiến lá hình trứng tới elip hoặc hình mác, kích thước 2-10 × 3–14 cm, đáy thuôn tròn đến nhọn, đỉnh thuôn búp măng-nhọn mũi; mỗi bên có 2 gân bên trong mép phát sinh từ đáy và hoặc là chạm tới đỉnh lá hoặc là hợp nhất thành một gân thu thập ngoại mép lá rõ nét, tất cả các gân bổ sung đều phát sinh xiên lệch từ gân giữa. Chồi hoa rút ngắn, hầu hết phát sinh từ các nách lá từ giữa đến xa của chồi sinh sản, mang một lá bắc gốc nhỏ và một vài lá nhỏ suy giảm kích thước 3–10 mm, theo trật tự là dài hơn. Cụm hoa đơn độc; cuống hoa thẳng đứng đến lan rộng, nhuốm màu xanh lục đến tím, kích thước 3-15 × 0,5–2 mm, thanh mảnh. Bao mo màu xanh lục đến nâu sẫm, hình trứng, lõm, kích thước 4-8 × 4–7 mm, đáy có vuốt ngắn hoặc hơi dài, mép cuộn trong, đỉnh tròn đến nhọn với một chóp nhọn nhỏ khá mập. Bông mo có cuống; mọc thẳng đứng, màu xanh lục đến nâu sẫm, tiết diện hình trụ, kích thước 5-10 × khoảng 1 mm, phần xa thẳng đứng xa tới cong 270°; vùng sinh sản màu vàng lục đến trắng nhạt, hình cầu hoặc hình trứng đến giống hình chùy xuôi, kích thước 4-10 × 3,5–10 mm. Hoa đường kính 1–2 mm. Cụm quả với 1-5 quả mọng. Quả màu xanh lục, khi chín chuyển thành màu đỏ tươi, hình chùy ngược, kích thước 10-17,5 × 10–14 mm. Ra hoa và kết quả quanh năm.
1
null
Typhonium jonesii là một loài thực vật có hoa trong họ Ráy (Araceae), loài đặc hữu ở Úc. Từ nguyên. Tên gọi của loài này là "jonesii" nhằm vinh danh nhà thực vật học người Úc David L. Jones, người đã tạo ra các bộ sưu tập có giá trị về các loài "Typhonium" trong Lãnh thổ phía Bắc năm 1984. Mô tả. Loài này là một loài nhỏ, rụng lá, thảo mộc lâu năm, mọc lại hàng năm từ giả thân hành khoảng đường kính 2,5 cm. Lá có ba thùy sâu. Hoa được bao bọc trong một lớp mo màu hoa cà nhạt, xuất hiện vào tháng 12. Phân bố và môi trường sống. Loài này chỉ được biết đến ở Quần đảo Tiwi, ngoài khơi bờ biển nhiệt đới Top End phía bắccủa Lãnh thổ phía Bắc. Nó được tìm thấy ở rừng thưa bạch đàn và rừng mưa trên những ngọn đồi đá và trong các đồn điền. Bảo tồn. Loài này được liệt kê là có nguy cơ tuyệt chủng theo Đạo luật EPBC của Úc. Các mối đe dọa tiềm ẩn chính bao gồm quy hoạch cho lâm nghiệp, xáo trộn môi trường sống do động vật hoang dã như trâu nước, ngựa, lợn và gia súc, cỏ dại xâm lấn như cỏ truyền giáo và cỏ gamba, và chế độ cháy không phù hợp.
1
null
Bán hạ nam hay củ chóc (danh pháp hai phần: Typhonium trilobatum) là một loài thực vật có hoa trong họ Ráy (Araceae). Loài này được (L.) Schott mô tả khoa học đầu tiên năm 1829. Công dụng. Cây thân cỏ, sông lâu năm, có thân rễ. Lá chia 3 thùy. Bông mo sặc sỡ, có mùi hôi thối. Thân rễ dùng làm thuốc chữa ho, chống nôn.
1
null
Wolffia arrhiza là một loài thuộc họ Ráy (Araceae), một họ gồm nhiều thực vật ưa nước, như "Arum" và "Pistia". Đây là loài thực vật có mạch nhỏ bé nhất. Đây là loài bản xứ châu Âu, châu Phi cùng một phần châu Á, song đã lan rộng ra khắp thế giới. "W. arrhiza" sinh trưởng trong vùng nước tĩnh như ao, hồ. Phần màu xanh nổi trên mặt nước có dạng cầu, rộng 1 mm, nhưng có mặt trên phẳng. Trên đó có vài hàng khí khổng chạy song song. Loài này không có rễ. Hoa có độc một nhị và một nhuỵ. Tuy nhiên, phương pháp sinh sản thường thấy là cá thể mới tách ra từ cá thể mẹ. Khi trời trở lạnh, chúng "ngủ" và chìm xuống đáy nước trong suốt mùa đông dưới dạng chồi măng (turion). Nó có thể tự tạo năng lượng nhờ quang hợp hay tiếp nhận cácbon hoà tan từ môi trường.
1
null
Zamioculcas zamiifolia hoặc Cây Kim Tiền là một loài thực vật có hoa trong họ Ráy (Araceae). Loài này được (Lodd.) Engl. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1905. Cây nội thất. Cây Kim Tiền là một loài cây dễ trồng trong nhà, có bụi lá xanh mướt, phát triển tốt nơi ánh sáng thấp, không cần tưới nước thường xuyên và có biệt tài thanh lọc không khí, loại bỏ khói bụi, khí độc. Nghiên cứu của các chuyên gia thực vật, môi trường học ở ĐH Copenhagen năm 2014 chỉ ra, Z. zamiifolia có thể loại bỏ 0,01 mol/m2 các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi như benzene, toluene, ethylbenzene và xylen mỗi ngày. Trong môi trường sống tự nhiên chúng quen với mùa khô dài và do đó chỉ cần tưới nước vừa phải. Z. zamiifolia chứa một lượng nước cao bất thường - 91% ở lá và 95% tại cuống lá nên chúng có thể hoàn toàn không cần được tưới nước trong 4 tháng. Tuy nhiên, trong cuống và lá của cây kim tiền có chứa nhiều tinh thể calci oxalat. Chất này có thể gây kích thích các phần da nhạy cảm, niêm mạc môi, lưỡi, màng nhầy trong họng hoặc kết mạc mắt khi ta ăn nhầm hoặc chạm phải phải dịch do cây tiết ra rồi bôi lên mắt. Một thí nghiệm độc tính của cây Z. zamiifolia được tiến hành vào năm 2015 bởi các nhà khoa học thuộc ĐH Bergen (Na Uy). Theo đó, các chuyên gia thử nghiệm chất chiết suất từ Z. zamiifolia trên tôm với liều lượng 1 mg/ml cho thấy, chúng bị chết. Các chuyên gia cho rằng, loài cây này là mối nguy hiểm tiềm tàng với gia đình có trẻ nhỏ.
1
null
Trong tô pô và các lĩnh vực toán học liên quan, có một số hạn chế mà người ta thường mắc phải đối với các loại không gian tôpô mà người ta muốn xem xét. Một số hạn chế này được đưa ra bởi các tiên đề tách . Chúng đôi khi được gọi là "tiên đề tách Tychonoff", theo tên của Andrey Tychonoff. Tiên đề tách là tiên đề chỉ theo nghĩa mà khi xác định khái niệm về không gian tôpô, người ta có thể thêm các điều kiện này làm tiên đề phụ để có được khái niệm hạn chế hơn về không gian tôpô là gì. Cách tiếp cận hiện đại là sửa chữa một lần và cho tất cả các tiên đề của không gian tôpô và sau đó nói về "các loại" không gian tôpô. Tuy nhiên, thuật ngữ "tiên đề tách" đã bị mắc kẹt. Tiên đề tách được ký hiệu bằng chữ "T" theo tên tiếng Đức "Trennungsaxiom", có nghĩa là "tiên đề tách." Ý nghĩa chính xác của các thuật ngữ liên quan đến tiên đề tách đã thay đổi theo thời gian, như được giải thích trong Lịch sử tiên đề tách. Điều quan trọng là phải hiểu định nghĩa của các tác giả về từng điều kiện được đề cập để biết chính xác ý nghĩa của chúng, đặc biệt là khi đọc các tài liệu cũ. Định nghĩa sơ bộ. Trước khi chúng ta tự định nghĩa các tiên đề phân tách, chúng ta đưa ra ý nghĩa cụ thể cho khái niệm các tập hợp (và điểm) phân tách trong không gian tôpô. (Các tập hợp được "phân tách không" giống như "các không gian được phân tách", được định nghĩa trong phần tiếp theo. ) Tiên đề tách nói về việc sử dụng các phương tiện tôpô để phân biệt các tập rời rạc và các điểm riêng biệt. Nó không đủ để các phần tử của một không gian tôpô khác biệt (nghĩa là không bằng nhau); chúng ta có thể muốn chúng có thể "phân biệt" được về mặt "cấu trúc liên kết" . Tương tự, nó không đủ để các tập con của một không gian tôpô rời rạc; chúng tôi có thể muốn chúng được "tách biệt" (theo bất kỳ cách nào). Các tiên đề phân tách, bằng cách này hay cách khác, tất cả đều nói rằng các điểm hoặc tập hợp có thể phân biệt hoặc tách biệt theo một nghĩa yếu nào đó cũng phải được phân biệt hoặc tách biệt theo một nghĩa mạnh hơn. Cho "X" là một không gian tôpô. Khi đó, hai điểm "x" và "y" trong "X" có thể phân biệt được về mặt cấu trúc liên kết nếu chúng không có chính xác các vùng lân cận giống nhau (hoặc tương đương với các vùng lân cận mở giống nhau); nghĩa là, ít nhất một trong số chúng có vùng lân cận không phải là vùng lân cận của điểm kia (hoặc tương đương có một tập hợp mở mà một điểm thuộc về nhưng điểm kia thì không). Hai điểm "x" và "y" tách biệt nhau nếu mỗi điểm có lân cận không phải là lân cận của điểm kia; nghĩa là, không thuộc về phần đóng của điểm kia. Nói một cách tổng quát hơn, hai tập con "A" và "B" của "X" được tách biệt nếu mỗi tập không tách rời khỏi phần đóng của tập kia. (Bản thân các tập đóng không nhất thiết phải rời rạc. ) Tất cả các điều kiện còn lại để tách các tập hợp cũng có thể được áp dụng cho các điểm (hoặc cho một điểm và một tập hợp) bằng cách sử dụng các tập đơn. Các điểm "x" và "y" sẽ được coi là phân tách, theo vùng lân cận, bởi vùng lân cận đóng, bởi một hàm liên tục, chính xác bởi một hàm, nếu và chỉ khi các tập đơn lẻ của chúng {"x"} và {"y"} được phân tách theo tiêu chí tương ứng. Các tập con "A" và "B" được ngăn cách bởi các vùng lân cận nếu chúng có các vùng lân cận rời nhau. Chúng được ngăn cách bởi các vùng lân cận khép kín nếu chúng có các vùng lân cận khép kín rời rạc. Chúng được phân tách bởi một hàm liên tục nếu tồn tại một hàm "f" liên tục từ không gian "X" đến dòng thực R sao cho ảnh "f" ( "A" ) bằng {0} và "f" ( "B" ) bằng {1}. Cuối cùng, chúng được phân tách chính xác bởi một hàm liên tục nếu tồn tại một hàm liên tục "f" từ "X" đến R sao cho tiền nghiệm "f" −1 ({0}) bằng "A" và "f" −1 ({1}) bằng "B." Các điều kiện này được đưa ra theo thứ tự tăng cường mạnh dần: Bất kỳ hai điểm nào có thể phân biệt được về mặt cấu trúc đều phải khác biệt và hai điểm tách biệt bất kỳ phải có thể phân biệt được về mặt cấu trúc liên kết. Bất kỳ hai tập hợp được tách biệt nào phải được tách rời nhau, hai tập hợp bất kỳ được phân tách bởi các vùng lân cận phải được tách biệt, v.v. Để biết thêm về các điều kiện này (bao gồm cả việc sử dụng chúng bên ngoài tiên đề phân tách), hãy xem các bài viết Tập hợp được phân tách và Khả năng phân biệt tôpô. Định nghĩa chính. Các định nghĩa này về cơ bản đều sử dụng các định nghĩa sơ bộ ở trên. Nhiều tên trong số này có ý nghĩa thay thế trong một số tài liệu toán học, như được giải thích trên Lịch sử của các tiên đề tách; ví dụ, nghĩa của "bình thường" và "T4 " đôi khi được hoán đổi cho nhau, tương tự như "thông thường" và "T3 ", v.v. Nhiều khái niệm cũng có một số tên gọi; tuy nhiên, cái được liệt kê đầu tiên luôn ít có khả năng mơ hồ nhất. Hầu hết các tiên đề này đều có các định nghĩa thay thế với cùng ý nghĩa; các định nghĩa được đưa ra ở đây rơi vào một mẫu nhất quán liên quan đến các khái niệm khác nhau về sự tách biệt được xác định trong phần trước. Các định nghĩa khả thi khác có thể được tìm thấy trong các bài viết riêng lẻ. Hệ quả. Một số phản ví dụ cho chiều ngược lại:
1
null
Toy Soldiers là một bộ phim hành động - tâm lý Mỹ của đạo diễn Daniel Petrie, Jr. thực hiện, công chiếu vào năm 1991. Phim dựa trên tiểu thuyết cùng tên của nhà văn William P. Kennedy. Nội dung. Ở Barranquilla, Colombia, tên khủng bố Luis Cali cùng với nhóm lính đánh thuê của hắn bắt những người trong tòa án làm con tin. Hắn yêu cầu chính phủ thả người bố trùm ma túy của hắn, Enrique Cali, sau đó biết rằng ông đã được đưa đến nước Mỹ để xét xử. Bọn khủng bố liền chạy thoát bằng máy bay trực thăng, rồi đến México để vượt biên đến Mỹ. Bọn khủng bố xâm chiếm một trường Đại học và bắt những anh chàng sinh viên làm con tin. Chúng còn đặt thuốc nổ khắp trường, sẵn sàng cho nổ tung ngôi trường nếu có biến cố gì xảy ra. Cảnh sát trưởng địa phương định can thiệp nhưng chiếc xe của ông bị bọn khủng bố nã đạn súng máy Browning M2, buộc ông phải rút lui. Cảnh sát bang, FBI và quân đội Mỹ đều được gọi đến, họ giữ khoảng cách để tránh chọc tức bọn khủng bố. Billy và nhóm bạn của anh bắt đầu quan sát và sưu tập toàn bộ thông tin về bọn khủng bố. Họ làm bọn khủng bố bị xao lãng để Billy có thể bí mật lẻn ra ngoài đưa số tài liệu cho quân đội. Phía quân đội không cho phép Billy quay lại ngôi trường, nhưng với sự động viên của thầy giáo Parker, anh đã bỏ chạy về trường kịp lúc khi bọn khủng bố đang kiểm tra số lượng sinh viên. Trùm mafia Albert Trotta - bố của Joey - dàn xếp thông qua bố của Luis ở trong tù để Joey được thả ra. Tuy nhiên Joey từ chối rời đi, anh giật khẩu súng Uzi và bắn một tên khủng bố để rồi bị bắn chết. Biết tin con trai mình chết, ông Albert trả thù bằng cách cho người giết chết ông Enrique ở trong tù. Quân đội hiểu rằng họ phải hành động nhanh trước khi Luis hay tin bố hắn chết. Họ tổ chức một cuộc tấn công vào ngôi trường, tiêu diệt bọn khủng bố. Nhóm bạn của Billy cũng hạ gục vài tên khủng bố và đưa các sinh viên khác trốn xuống tầng hầm bí mật. Luis tính cho nổ tung ngôi trường nhưng thiết bị kích hoạt của hắn đã bị nhóm của Billy chỉnh sửa cho kết nối với một món đồ chơi điều khiển từ xa. Cuối cùng Luis bị bắn chết, vài tên khủng bố còn sống thì bị bắt giữ, những sinh viên được tự do.
1
null
Cuộc biểu tình đã được tổ chức tại Thổ Nhĩ Kỳ từ ngày 28 tháng 5 năm 2013, được một số hãng truyền thông phương Tây gọi là Mùa Xuân Thổ Nhĩ Kỳ. Các cuộc biểu tình Istanbul ban đầu được khoảng 50 nhà môi trường chỉ huy chống lại việc chính phủ dự định phá bỏ công viên Taksim Gezi và xây dựng lại Doanh trại quân đội lịch sử Taksim (bị phá hủy vào năm 1940), với khả năng xây dựng ở và một trung tâm mua sắm.. Những người biểu tình đã chiếm giữ công viên này trong 4 ngày nhằm phản đối chính phủ phá bỏ công viên và xây dựng nâng cấp Quảng trường Taksim. Sau đó tòa án tại Istanbul đã ra lệnh tạm dừng việc đốn hạ cây trong viên. Những người phản đối cho rằng công viên Gezi là một trong số ít những khu vực cây xanh còn lại của thành phố cần được bảo vệ. Các cuộc biểu tình đã chuyển sang bạo động khi một nhóm chiếm công viên đã bị cảnh sát tấn công bằng hơi cay và vòi rồng. Đối tượng của các cuộc biểu tình kể từ đó mở rộng vượt ra ngoài chủ đề thay thế công viên Taksim Gezi, phát triển thành cuộc biểu tình chống chính phủ quy mô rộng lớn hơn. Các cuộc biểu tình cũng đã lan ra các thành phố khác ở Thổ Nhĩ Kỳ, và các cuộc biểu tình cũng diễn ra ở các nước khác với các cộng đồng Thổ Nhĩ Kỳ khá lớn. Thủ tướng Recep Tayyip Erdoğan đã có một số bài phát biểu được những người biểu tình nhìn nhận là kích động và thô bạo, và ngày 3 tháng 6 ông đã rời đất nước để đi theo một tour du lịch ngoại giao 3 ngày theo kế hoạch của các nước Bắc Phi, một động thái đã bị chỉ trích như vô trách nhiệm bằng cách chống lại các nhà lãnh đạo chính trị. Ngày 3 tháng 6, nghiệp đoàn công bố cuộc đình công cho 4 và 5 tháng 6. Những người biểu tình đã xuống quảng trường Taksim ở Istanbul và đường phố tại Ankara cũng như Bursa, Antalya, Eskişehir, İzmir, Edirne, Mersin, Adana, İzmit, Konya, Kayseri, Samsun, Antakya, Trabzon, Rize (tỉnh lỵ quê hương của Erdoğan), Isparta, Tekirdağ, Bodrum, và Mardin. Some of the protesters have styled themselves as #OccupyGezi. Người ta ghi nhận phạm vi thành phần của những người biểu tình rộng rãi, bao gồm cả các cá nhân từ hai phe cánh tả và cánh hữu cũng như người Thổ Nhĩ Kỳ, người Kurd, người Armenia, người Hy Lạp và người Do Thái. Các mối bất bình của những người biểu tình bao gồm từ những mối quan tâm ban đầu của môi trường địa phương các vấn đề như chủ nghĩa độc đoán của Thủ tướng Recep Tayyip Erdoğan, curbs on alcohol, a recent row about kissing in public, và nội chiến Syria. Thị trưởng Istanbul Kadir Topbaş nói. rằng chiến dịch môi trường đã được chế tác bởi "chương trình nghị sự chính trị". Theo các hãng tin khác nhau, các vụ đụng độ là một trong những sự kiện đầy thách thức nhất đối với 10 năm cầm quyền của Thủ tướng Recep Tayyip Erdogan. Vào ngày 31 tháng năm 2013, cảnh sát đàn áp người biểu tình bằng hơi cay, bắt giữ ít nhất 60 người và hàng trăm người bị thương. Các hành động cảnh sát nhận được sự chú ý rộng trên mạng internet. Những người biểu tình tổ chức và tập hợp trên Đại lộ Istiklal, vươn tới hàng nghìn vào đêm 31 tháng 5. Theo các nguồn tin chính phủ, hơn 1700 người đã bị bắt giam, với hơn 200 cuộc biểu tình ở 67 tỉnh, bao gồm Istanbul, Ankara, İzmir, Antalya, Konya, Eskişehir and many others.
1
null
Nhất Tuấn là một nhà thơ miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Cuộc đời. Nhất Tuấn tên thật là Phạm Hậu. Quê ở Ninh Bình nhưng sinh trưởng tại Nam Định. Năm 1954, cùng gia đình di cư vào miền Nam, định cư tại Đà Lạt. Sang năm sau, ông Gia nhập trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt rồi khi ra trường phục vụ quân lực Việt Nam Cộng Hòa cho đến sự kiện 30 tháng 4 năm 1975. Ông có tổng cộng 3 người vợ, người vợ đầu sinh được 3 người con 1 trai 2 gái, sau này đều đã sang Mỹ định cư theo mẹ. Người vợ thứ 2 có với ông được 1 người con gái và sau này ông đã bảo lãnh gia đình người con gái sang Mỹ. Người vợ thứ 3 cũng chính là người ở với ông cho đến khi ông mất có với ông 1 người con trai tốt nghiệp Harvard. Vào ngay đêm 30 tháng 4 năm 1975, ông đã lái trực thăng về để đón người vợ 2 và con gái đi cùng nhưng giữa lúc hỗn loạn khó lòng tìm được. Nên ngay sau đó ông đã đi cùng những đồng chí của mình và sang định cư tại Thành phố Seattle, tiểu bang Washington, Hoa Kỳ. Và cũng ở đây ông đã gặp người vợ thứ 3. Ông qua đời vào ngày 31 tháng 7 năm 2021, hưởng thọ 86 tuổi Chức vụ. Nhất Tuấn từng giữ nhiều chức vụ quan trọng. Tác phẩm. Các tác phẩm đã xuất bản: Hơn 40 bài thơ trong tập thơ Truyện Chúng Mình đã được nhiều nhạc sĩ nổi tiếng phổ nhạc từ trước 1975 cho đến nay.
1
null
They Hunger là một bản mod của trò chơi nổi tiếng Half-Life. Nó được phát hành bởi Neil MANKE (Black Widow Games) thành 3 phần, phần đầu vào năm 1999, phần hai vào năm 2000, và phần cuối vào năm 2001. Cả ba được ghép lại thành một bản cài đặt hoàn chỉnh bởi tạp chí PC Gamer. They Hunger. Trong phần đầu tiên, người chơi sẽ nhập vai một nhà văn gặp stress đi đến một nơi nghỉ dưỡng để viết tiếp tác phẩm tiếp theo của mình. Tuy nhiên, đang trên đường đi thì ông nghe tin tức trên đài phát thanh nói về một "hiện tượng khí quyển kỳ lạ", và bỗng nhiên chiếc xe đang lái bị sét đánh đâm xuống một hồ nước. Người chơi bị thương và đi quanh đó tìm sự giúp đỡ. Ông đã đi qua một hầm mộ, rồi đến nhà nguyện của một nhà thờ. Trên đường đi, ông phát hiện một số điều bí ẩn: những cái mộ trống rỗng, và có thịt, gân đầy máu gần đó. Các con đường vang vọng tiếng la hét kỳ dị. Một hộp sọ đẫm máu lăn ra khỏi chỗ để hài cốt, và khi anh bước vào nhà nguyện, ông nghe thấy ai đó hét lên "Không, không! Lấy nó ra khỏi người tôi!". Một zombie phá vỡ quan tài và bắt đầu đuổi theo anh ta. Người chơi phải dùng chiếc ô chống lại zombie. Rồi nhà văn tiếp tục đi qua một đầm lầy, chạy qua núi lửa đang phun (Sự rạn nứt của Quỷ), lái tàu, và cuối cùng là đi vào thị trấn, nơi có đài phát thanh BMRF và các đồn cảnh sát. Tại đây, ông phát hiện ra cảnh sát cũng bị biến thành zombie. Nhà văn sử dụng các đài phát thanh địa phương để gọi cho cảnh sát tiểu bang. Cuối cùng, ông bị các cảnh sát zombie này bắt bỏ tù. They Hunger 2: Rest in Pieces. Nhân vật chính được cứu bởi một sĩ quan cảnh sát nhà nước được trang bị chiếc xe tải quân sự. Người chơi tiếp tục đi theo hệ thống cống rãnh lần đến nhà nhà máy xử lý nước Rockwell. Ở đó, ông gặp một sinh vật thủy sinh kỳ lạ. Một phần quan trọng của tập phim này là người chơi gặp được Alfred - cựu trợ lý của Tiến sĩ Franklin, người đã gây ra sự ô nhiễm nước của thành phố khiến cho bất cứ ai sử dụng nước đều bị một trạng thái dở sống dở chết. Ông ta nói với người chơi rằng Tiến sĩ Franklin đã cố gắng để tìm ra cách cứu chữa nhưng cuối cùng lại bị lây nhiễm theo. Người chơi sau đó đi vào phòng thí nghiệm dưới lòng đất của Tiến sĩ Franklin, nơi anh chứng kiến nhiều thí nghiệm kinh khủng, chẳng hạn như đầu bị chặt được giữ còn sống. Ngay sau đó, người chơi sẽ chứng kiến cảnh Tiến sĩ Franklin bị rượt đuổi bởi một trong những con quái vật của mình. They Hunger 3: Rude Awakening. Ở phần cuối cùng, người chơi tỉnh dậy và thấy mình đang ở bệnh viện Rockwell. Người chơi khám phá rằng nơi đây cũng đã bị tràn ngập bởi zombie. Người chơi tiếp tục chiến đấu tìm cách ra khỏi bệnh viện. Ông đi đến một vùng nông thôn cách đó vài dặm và đến một trang trại nhỏ mà đã bị tràn ngập bởi thây ma. Bên cạnh những người nông dân, hầu hết các gia súc địa phương và các động vật khác cũng bị nhiễm độc và khá nguy hiểm. Những bộ xương người đã được hồi sinh thông qua thử nghiệm trong hai phần trước giờ lại xuất hiện, và có khả năng phóng điện. Người chơi chết và được hồi sinh, bị đưa đến một nơi giống như Stonehenge. Ở đây người chơi thấy cảnh sát trưởng Rockwood đang đưa ra một bài phát biểu trước đám zombie bỗng tấn công quân sự bởi lính chính phủ. Những người lính bắn zombie và bất kỳ dân thường nào còn sống sót (có lẽ vì nguy cơ nhiễm độc). Nhà văn gặp viên phó cảnh sát - người duy nhất trong thị trấn chưa bị zombie lây nhiễm. Cả hai bàn kế hoạch tiêu diệt hai kẻ điều khiển những thây ma là Tiến sĩ Franklin và cảnh sát trưởng (bị zombie lây nhiễm). Sau khi tiêu diệt Tiến sĩ Franklin, người chơi đuổi theo cảnh sát trưởng Rockwood trên một máy bay trực thăng có trang bị súng máy. Người chơi đánh bại cảnh sát trưởng và làm hắn nổ tung trên một hồ lớn. Trò chơi kết thúc với cảnh nhà văn và viên cảnh sát phó lái trực thăng bay ra khỏi mặt trời mọc trên nền nhạc "Bạn là thức ăn tôi ăn". Thị trấn Rockwell. They Hunger lấy bối cảnh ở một thị trấn được bao quanh bởi nhiều vách đá và hẻm núi, nhiều phần của thị trấn được phân cách bằng hệ thống đường hầm gọi là Roswell. Thị trấn có đài phát thanh địa phương riêng của mình, BMRF. They Hunger: Lost Souls. Đây là dự án phát triển "They Hunger" trên nền engine Source trong một thời gian, nhưng dự án sau đó đã bị hủy bỏ. Việc phát triển đã lên kế hoạch từ năm 2005 nhưng không có thông tin chính thức. Gần đây, một trong những nhà phát triển thú nhận rằng Neil MANKE đã bị bệnh và vì vậy dự án này đã bị hủy bỏ.
1
null
Clonostylis forbesii là một loài thực vật có hoa trong họ Đại kích. Loài này được S.Moore mô tả khoa học đầu tiên năm 1925.loài duy nhất là Clonostylis forbesii là cây hoa được tìm thấy ở Sumatra. Nó có lá nhãn nhỏ với hình elip, được sắp xếp xoắn ốc. Phân loại. Trước đây người ta cho rằng "Clonostylis" là một từ đồng nghĩa với "Spathiostemon" , nhưng bây giờ "Clonostylis" tạm thời được coi là một chi monotypic. Vì chỉ có một mẫu vật được tìm thấy, theo Nationaal Herbarium Nederland, và nó không có hoa, quả hoặc nhị, nên vẫn chưa thể phân loại rõ ràng hơn. (Loài này là đơn tính và mẫu vật được đề cập chỉ có nhụy hoa.)
1
null
Cnidoscolus aconitifolius là một loài thực vật có hoa trong họ Đại kích. Loài này được (Mill.) I.M.Johnst. mô tả khoa học đầu tiên năm 1923. Chú thích. Có nguồn gốc từ Bán đảo Yucatán ở Mexico, loại cây bụi lâu năm lớn, phát triển nhanh và nhiều lá có tên là Cnidoscolus Aconitifolius được biết đến với nhiều tên phổ biến - chaya, rau bina và sao bắp cải.  Cái tên 'Aconitifolius' đề cập đến sự giống nhau giữa lá của cây và lá của cây Aconitum. Nó có thể phát triển mạnh ở những vùng mưa và khô cằn và đòi hỏi ít bảo trì. Cnidoscolus Aconitifolius là một loại cây bụi nhiệt đới hoặc cây nhỏ mọc cao tới sáu mét. Với một số công dụng ẩm thực và làm thuốc, loại cây này khá phổ biến đối với những người làm vườn. Ngoài việc có những bông hoa đẹp và có nhiều ứng dụng, Cnidoscolus Aconitifolius khá dễ trồng và bảo trì. Nó cũng được trồng làm hàng rào trong vườn và có thể được trồng từ hom gỗ mềm, hom gỗ bán cứng và hom thân gỗ.  hơn nhiều loại cây khác. Cnidoscolus Aconitifolius: Mẹo chăm sóc Dưới đây là một số mẹo cần ghi nhớ để duy trì Cnidoscolus Aconitifolius trong khu vườn của bạn. Cnidoscolus Aconitifolius: Yêu cầu về khí hậu Điều kiện tối ưu cho sự tăng trưởng được tìm thấy ở các vùng nhiệt đới vì nó nhạy cảm với lạnh. Việc đóng băng có thể không giết chết hoàn toàn Cnidoscolus Aconitifolius nếu rễ của nó được bảo vệ tốt. Cũng có thể trồng trong thùng và mang vào nhà vào mùa đông. Cnidoscolus Aconitifolius: Yêu cầu về ánh sáng mặt trời Theo truyền thống, bạn cần bất cứ nơi nào từ ánh sáng mặt trời trực tiếp đến bóng râm. Cnidoscolus Aconitifolius có thể sống sót trong điều kiện râm mát nhưng tốc độ sinh trưởng sẽ chậm hơn. Khi trồng trong nhà, chỉ cần đặt cây gần cửa sổ có nắng là đủ. Cnidoscolus Aconitifolius: Yêu cầu về nước Cần lượng nước thấp đến trung bình. Cnidoscolus Aconitifolius có thể chịu được hạn hán và lũ lụt ở một mức độ nào đó. Cnidoscolus Aconitifolius: Nhu cầu dinh dưỡng Cnidoscolus Aconitifolius cần tiêu thụ lượng chất dinh dưỡng từ trung bình đến cao. Trước khi trồng bất cứ thứ gì, hãy cải tạo đất bằng phân trộn. Mỗi mùa sinh trưởng nên bón phân hữu cơ cân đối một lần. Cnidoscolus Aconitifolius: Yêu cầu che phủ Ở những vùng khí hậu có mùa đông lạnh vừa phải, điều quan trọng là phải sử dụng lớp phủ để tránh đất bị khô và che chắn thân cây Cnidoscolus Aconitifolius khỏi sương giá nhẹ. Cnidoscolus Aconitifolius: Thu hoạch như thế nào? Nếu muốn việc thu hoạch dễ dàng hơn, bạn nên tỉa cây Cnidoscolus Aconitifolius để chúng ở độ cao có thể quản lý được. Cắt bỏ lá Cnidoscolus aconitifolius khỏi thân khi chúng còn non và mềm. Mỗi lần chỉ cắt một phần ba đến một nửa số Cnidoscolus Aconitifolius. Để cây có sự khởi đầu tốt nhất có thể, việc thu hoạch nên trì hoãn đến năm thứ hai. Đeo găng tay sẽ bảo vệ bàn tay của bạn khỏi nhựa mủ trắng và lông lá có thể gây dị ứng Cnidoscolus Aconitifolius phát triển mạnh ở nơi có ánh nắng đầy đủ và thích phát triển ở nơi bên ngoài nhận được nhiều ánh sáng mặt trời. Tuy nhiên, bạn cũng có thể chọn trồng trong nhà và đặt gần cửa sổ có nhiều ánh nắng. Ngoài ra, nhiều người chuyển nó vào trong nhà vào mùa đông để bảo vệ nó khỏi sương giá.  Cnidoscolus Aconitifolius: Lợi ích Có rất nhiều lợi ích của việc trồng Cnidoscolus Aconitifolius vì loại cây này có nhiều ứng dụng và công dụng khác nhau. Cnidoscolus Aconitifolius: Công dụng ăn được Những lá non và đầu thân dày, mềm của Cnidoscolus Aconitifolius được chế biến theo cách tương tự như rau bina. Lá và chồi non được nấu chín để loại bỏ độc tố và ăn như một loại rau. Chúng rất ngon khi dùng riêng hoặc trộn với các loại rau khác trong các món súp và món hầm thịnh soạn. Cnidoscolus Aconitifolius: Công dụng làm thuốc Người ta nói rằng Cnidoscolus Aconitifolius có nhiều công dụng chữa bệnh, trong đó có khả năng ngăn ngừa tóc bạc và làm chắc móng tay. Nghiện rượu, tiểu đường, mất ngủ, rối loạn da, bệnh hoa liễu, bệnh gút và vết đốt của bọ cạp chỉ là một số bệnh khác mà Cnidoscolus Aconitifolius có thể điều trị và thậm chí đảo ngược. Protein, vitamin C và canxi có thể được tìm thấy rất nhiều trong lá của nó. Cnidoscolus Aconitifolius cũng giàu phốt pho, sắt, thiamine, riboflavin và niacin. Cnidoscolus Aconitifolius: Độc tính Các hợp chất xyanua được tìm thấy trong lá sống và có thể gây độc. Nhựa màu trắng từ thân cây có thể gây kích ứng da nếu tiếp xúc lâu dài. Lá của Cnidoscolus Aconitifolius có những sợi lông cực nhỏ có thể chích. Hãy nhớ sử dụng một đôi găng tay khi xử lý cây. Cnidoscolus Aconitifolius có an toàn để ăn không? Lá thô có chứa các hợp chất cyanogen và có bản chất độc hại. Cnidoscolus Aconitifolius có cần ánh nắng trực tiếp không? Để tối đa hóa năng suất của Cnidoscolus Aconitifolius, hãy trồng nó dưới ánh nắng chói chang và sử dụng đất giàu dinh dưỡng.
1
null
Günther Emanuel von Kirchbach, kể từ năm 1880 là Graf von Kirchbach ("Bá tước von Kirchbach") (9 tháng 8 năm 1850 tại Erfurt – 6 tháng 11 năm 1925 tại Bad Blankenburg) là một sĩ quan quân đội Phổ, được phong đến cấp Thượng tướng trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất. Từng tham chiến trong Chiến tranh Pháp-Đức được bổ nhiệm làm Tư lệnh Cụm tập đoàn quân "Kiev" trong giai đoạn cuối của cuộc thế chiến. Tiểu sử. Günther là con trai của Thượng tướng bộ binh Phổ Hugo von Kirchbach (1809 – 1887), người mà vào ngày 3 tháng 2 năm 1880 đã được phong Bá tước tại kinh thành Berlin, với quyền thừa hưởng thuộc về con trai trưởng của ông. Vì vậy, từ năm 1880 Günther von Kirchbach cũng mang hàm Bá tước.. Vào ngày 7 tháng 4 năm 1868, Kirchbach gia nhập Trung đoàn Bắn súng hỏa mai Cận vệ với quân hàm Thiếu úy, và tham chiến trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871). Từ ngày 17 tháng 10 năm 1899 cho đến ngày 17 tháng 5 năm 1901, ông là Thiếu tướng chỉ huy Lữ đoàn Bộ binh số 71 tại Danzig, sau đó, ông được thăng cấp Trung tướng chỉ huy Sư đoàn số 17 và cuối cùng, ông được lên quân hàm Thượng tướng kỵ binh vào ngày 11 tháng 9 năm 1807. Từ năm 1908 cho đến năm 1911, ông giữ chức Tướng tư lệnh của Quân đoàn V. Chức vụ cuối cùng của ông trong nền hòa bình trước Chiến tranh thế giới thứ nhất là Chủ tịch Tòa án Quân sự Đế chế. Ngoài ra, ông cũng là của Trung đoàn Bộ binh "Bá tước Kirchbach" (Hạ Schliesen 1) số 46. Khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, Kirchbach được bổ nhiệm làm Tướng tư lệnh của Quân đoàn Trừ bị X, thuộc biên chế của Tập đoàn quân số 2 dưới quyền Thượng tướng Bülow, tham chiến trên Mặt trận phía Tây. Ở Pháp, ông bị thương trong trận St. Quentin và phải nhập viện trong một thời gian ngắn. Ông được thay thế bởi tướng Johannes von Eben và vào ngày 7 tháng 9 năm 1914 ông trở lại nhậm chức Chủ tịch Tòa án Quân sự Đế chế. Ông giữ chức vụ này cho đến khi được lãnh chức Tướng tư lệnh của Quân đoàn Dân binh vào ngày 23 tháng 9 năm 1916. Cùng năm, được giao quyền chỉ huy ("Führung") Cụm tập đoàn quân Woyrsch vào ngày 13 tháng 11 năm 1916. Tiếp theo đó, vào ngày 22 tháng 4 năm 1917, Kirchbach được ủy nhiệm làm Tư lệnh của Phân bộ quân D. Người kế niệm ông chỉ huy Phân bộ quân D là viên thượng tướng Sachsen Hans von Kirchbach. Vào ngày 12 tháng 12 năm 1917, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh của Tập đoàn quân số 8. Đến ngày 8 tháng 8 năm 1918, sau khi Thống chế Hermann von Eichhorn bị ám sát tại Ukraina, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh của Cụm tập đoàn quân "Kiev" và giữ chức vụ này cho tới ngày 5 tháng 2 năm 1919. Sau đó, ông giải ngũ. Từ năm 1873 cho đến năm 1912, tướng Kirchbach đã viết ấn bản thứ nhất của cuốn sách lịch sử gia đình ông "Das Geschlecht derer von Kirchbach" (Ẩn bản thứ nhất: Charlottenburg 1912). Ấn bản thứ hai của cuốn sách đã được hoàn tất bởi con trai của ông là Hans Hugo Graf von Kirchbach (1887 – 1972) ("Das Geschlecht Kirchbach 1490–1939", C. A. Starke Verlag, Görlitz 1939). Gia đình. Vào ngày 16 tháng 6 năm 1883, tại Gut Sproitz (Landkreis Görlitz), ông thành hôn với Adda Freiin von Liliencron (24 tháng 9 năm 1865 tại Potsdam – 2 tháng 5 năm 1951 tại Bad Blankenburg), con gái của viên thị thần và trưởng quan kỵ binh vương quốc Phổ Carl Freiherr von Liliencron, điền chủ của Sproitz, và bà Adda Freiin von Wrangel. Lưu ý. Chú ý đến tên gọi của ông: "Graf" là một tước hiệu, tương đương với Bá tước, chứ không phải là một tên riêng hoặc tên lót. Trước năm 1919, tước hiệu nằm ở phía trước tên riêng. Tước hiệu cũ của những người còn sống sau năm 1919 là thành phần thuộc tên họ, do đó nằm phía sau tên thánh và không thể được dịch. Tước vị tương đương với "Nữ Bá tước" là "Gräfin".
1
null
Croton aromaticus là một loài thực vật có hoa trong họ Đại kích. Loài này được Carl Linnaeus mô tả khoa học đầu tiên năm 1753. Phân bố. Loài bản địa Ấn Độ, Bangladesh và Sri Lanka. Lưu ý. Các danh pháp "C. aromaticus" do các tác giả khác đặt là như sau:
1
null
Cornell George Hopley-Woolrich (4 tháng 12 năm 1903 – 25 tháng 9 năm 1968) là một tiểu thuyết gia Mỹ và viết truyện ngắn dưới bút danh William Irish & George Hopley. Woolrich là một trong những nhà văn chuyên viết thể loại trinh thám thành công nhất trong thập niên 1940, chỉ sau Dashiell Hammett, Erle Stanley Gardner và Raymond Chandler. Nhiều kịch bản phim đã được chuyển thể từ tác phẩm của Woolrich hơn bất kỳ tiểu thuyết tội phạm khác, và nhiều câu chuyện của ông đã được chuyển thể trong chương trình radio Suspense và một số chương trình phát thanh khác ở Mỹ. Ở Việt Nam, nhiều truyện ngắn của ông đã được dịch và đăng trên tạp chí Kiến Thức Ngày Nay vào cuối thập niên 1990. Tiểu sử. Sinh ra ở thành phố New York, cha mẹ của Woolrich chia tay khi ông còn trẻ. Ông sống một thời gian ở Mexico với cha mình trước khi trở về thành phố New York sống cùng với mẹ là bà Claire Attalie Woolrich. Ông đã từng học Đại học Columbia nhưng lại nghĩ ngang vào năm 1926 mà không cần tốt nghiệp khi cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình, Cover Charge, được xuất bản. Cover Charge là một trong sáu tiểu thuyết lấy cảm hứng từ tác phẩm của F. Scott Fitzgerald. Ông nhanh chóng chuyển sang chú tâm viết tiểu thuyết trinh thám,và xuất bản dưới bút danh của mình. Thời trẻ, Woolrich là người đồng tính luyến ái.. Năm 1930, trong khi làm việc như một nhà biên kịch ở Los Angeles, Woolrich kết hôn với Violet Virginia Blackton (1910-1965), con gái của nhà sản xuất phim câm J. Stuart Blackton. Họ chia tay sau ba tháng, và chính thức ly dị vào năm 1933. Woolrich trở về New York, cùng mẹ chuyển vào sống ở khách sạn Marseille. Khi mẹ ông mất vào ngày 6 tháng 10 năm 1957, ông chuyển đến khách sạn Franconia. Vài năm sau, ông gia nhập Đảng Cộng sản cùng với một số nhà văn khác tại Manhattan. Ông mất ngày 25 tháng 9 năm 1968 và được chôn cất tại Nghĩa trang Ferncliff, thành phố Hartsdale, New York. Tài sản để lại của ông khoảng $850.000 và được tặng cho Đại học Columbia để ban học bổng cho sinh viên báo chí. Tác phẩm. Tiểu thuyết. Woolrich viết tiểu thuyết từ năm 1940 cho đến 1948. Woolrich qua đời để lại một cuốn tiểu thuyết chưa hoàn thành, The Loser; được công bố năm 2005. Khác. Lane, Joel. "Mansions of Fear: The Dark Houses of Cornell Woolrich". "Wormwood" No 3 (Autumn 2004), 22-32.
1
null
Croton eluteria là một loài thực vật có hoa trong họ Đại kích. Loài này được Carl Linnaeus mô tả khoa học đầu tiên năm 1753 dưới danh pháp "Clutia eluteria". Năm 1787 William Wright chuyển nó sang chi "Croton" như là "Croton eleutheria" (dẫn chiếu tới "Clutia eluteria" của Linnaeus). Từ nguyên. Tính từ định danh "eluteria" lấy theo tên đảo Eleuthera, đảo thuộc Bahamas. Phân bố. Loài bản địa Bahamas, Cuba, Cộng hòa Dominica, Haiti.
1
null
Dalechampia dioscoreifolia là một loài thực vật có hoa trong họ Đại kích. Loài này được Poepp. mô tả khoa học đầu tiên năm 1841. Đây là loài bản địa Trung Mỹ (Costa Rica, Nicaragua, Panama) và phía bắc và phía tây Nam Mỹ (Colombia, Venezuela, Guiana thuộc Pháp, miền Bắc Brazil, Bolivia, và có thể là Ecuador).
1
null
Giáo hội Công giáo dành một sự tôn kính đặc biệt cho Maria (mẹ của Chúa Giêsu). Điều này được dựa trên những quy điển của Kinh Thánh về màu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa qua Đức Maria, người trở thành Mẹ của Thiên Chúa. Từ Công đồng Êphêsô năm 431, tín điều này đã được khẳng định đến Công đồng Vatican II và Giáo hoàng Gioan Phaolô II qua thông điệp "Redemptoris Mater" (Mẹ Đấng cứu thế) tái khẳng định Maria đã được tôn kính không chỉ là Mẹ Thiên Chúa mà còn là Mẹ của Giáo hội. Là mẹ của Chúa Giêsu, Đức Maria có một vai trò trung tâm trong Giáo hội Công giáo Rôma. Việc tôn kính mà giáo hội công giáo dành cho Maria đã phát triển theo thời gian cả không chỉ trong lời cầu nguyện, phụng vụ mà cả trong nghệ thuật, thơ ca và âm nhạc. Các Giáo hoàng đã khuyến khích việc tôn kính này nhưng theo thời gian cũng đã có những cải cách nhất định. Có thể nói công giáo Rôma có nhiều tước hiệu, ngày lễ kính và phương thức tôn kính dành cho Đức Maria hơn bất kỳ truyền thống Kitô giáo khác. Giáo hoàng Biển Đức XVI cho rằng Maria là Mẹ Thiên Chúa vẫn tiếp tục ""cầu bầu và ban nhiều ân sủng nhờ phước lành của Thiên Chúa"." Vai trò quan trọng của Maria trong niềm tin Công giáo Rôma cùng với sự phát triển của Thánh Mẫu Học Công giáo không chỉ dựa trên những tuyên bố chính thực từ Rôma, từ truyền thống của các thánh mà còn từ chính cộng đồng tín hữu lẫn công chúng ở khắp nơi trên thế giới. Đôi khi điều này thông qua các báo cáo về việc Đức Mẹ hiện ra với các em nhỏ trên các quả đôiì. Tòa thánh vẫn tiếp tục công nhận những cuộc hiện ra này mà lần chấp thuận gần đây nhất là vào tháng 5 năm 2008. Một số cuộc hiện ra, chẳng hạn như Fatima đã trở thành một cộng đoàn xã hội với hàng triệu thành viên trên khắp thể giới. Lịch sử tôn kính. Trong Giáo hội sơ khai. Lịch sử lòng sùng kính Đức Maria có từ thế kỷ thứ 1. Các kitô hữu đầu tiên tập trung lòng đạo đức của họ nơi các thánh tử đạo. Hình ảnh Đức Maria đã được tìm thấy trong các hang toại đạo Priscilla, hang toại đạo thánh Phêrô, hang toại đạo Maiô. Sau đó họ nhìn thấy nơi Đức Maria là cầu nối giữa cái cũ và cái mới. Trong thế kỷ thứ 2, Thánh Irênê thành Lyons gọi Mẹ Maria là "Eva thứ hai" bởi vì nếu như Eva thứ nhất "bất tuân" thì qua Mẹ Maria và sự sẵn sàng vâng phục Thiên Chúa của Mẹ, nhân loại đã được hồi sinh. Lời cầu nguyện với Đức Maria xuất hiện sớm nhất là Kinh Trông Cậy được cho là ra đời vào khoảng năm 250. Sau khi sắc lệnh Milan, các Kitô hữu được phép thờ phượng công khai và việc tôn kính Đức Maria trở nên rộng rãi. Trong những thập kỷ sau, nhiều thánh đường và nhà thờ được xây dựng. Các nhà thờ Đức Mẹ đầu tiên được xây dựng ngay tại Rôma từ đầu thế kỷ thứ 5 như: Vương cung thánh đường Đức Bà Trastevere, Vương cung thánh đường Đức Bà Antiqua và Vương cung thánh đường Đức Bà Cả. Trong thế kỷ thứ 5, cuộc tranh luận về Maria chủ yếu xoay quanh câu hỏi nên gọi Maria là Theotokos (Mẹ Thiên Chúa) hay chỉ là Christotokos (Mẹ Của Chúa Kitô). Theotokos có nghĩa là "người mang Thiên Chúa" hay "Mẹ Thiên Chúa" với ngụ ý rằng Chúa Giêsu, mà Mẹ Maria đã sinh ra, thực sự là Thiên Chúa và Con người trong một người. Nghĩa là có cả Thiên Tính và Nhân Tính. Trong khi đó phái Nestorians lại ủng hộ tiêu đề Christotokos vì họ tin rằng Đức Chúa Con có trước Maria, như vậy Đức Maria chỉ là mẹ của Chúa Giêsu như một con người, vì vậy gọi bà là "Mẹ Thiên Chúa" gây nhầm lẫn và có khả năng dị giáo. Công đồng Êphêsô (431) đã tuyên bố tín điều Đức Maria là Theotokos. Giáo huấn Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời trở nên phổ biến trên toàn thế giới Kitô giáo từ thế kỷ thứ 6 trở đi, ngày lễ kính được tổ chức vào ngày 15 tháng Tám ở cả phương Đông và phương Tây. Thời kỳ trung cổ. Thời Trung Cổ có một sự phát triển đáng kể dành cho Maria. Lòng sùng kính Đức Maria được hàng loạt vị thánh tôn sùng, bao gồm Thánh Ephrem người Syria, thánh Gioan Damas và thánh Bernard Clairvaux. Các thánh ca như Ave Maris Stella và Salve Regina được phổ biến và trở thành ca khúc hàng ngày trong các tu viện. Các thực hành đạo đức sùng kính Đức Mẹ cũng tăng lên đáng kể. Lời cầu nguyện với Đức Maria phổ biến nhất là Kinh Kính Mừng. Từ năm 1000 trở đi ngày càng có nhiều nhà thờ, trong đó có nhiều nhà thờ lớn nhất châu Âu được xây dựng dành riêng cho Đức Maria. Đền thánh Walsingham và những nơi khác trở thành những trung tâm hành hương lớn. Nhà thờ theo kiểu kiến trúc Roman như Nhà thờ Speyer (còn được gọi là Mariendom) ở Speyer, Đức và Nhà thờ Đức Mẹ Flanders ở Tournai, Bỉ. Theo kiến trúc Gothic, như Nhà thờ Đức Bà Paris được xem là một kiệt tác xây dựng lớn. Một trong những tranh cãi lớn của thời kỳ này là thuyết Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ Maria. Mặc dù sự vô tội của Đức Maria đã được thiết lập ngay trong Hội Thánh đầu tiên, nhà thần học Duns Scotus được xem là "Tiến sĩ của Đức Maria" đã lập luận về việc ủng hộ Đức Maria chí thánh được thoát khỏi tội nguyên tổ ngay từ giây phút đầu tiên Mẹ được cưu mang. Các Giáo hoàng đã ban hành nghị các tông huấn, lễ kính và rước kiệu tôn vinh Mẹ Maria. Giáo hoàng Clêmentê IV (1265-1268) đã tạo ra một bài thơ bao gồm bảy niềm vui của Đức Maria, được coi như một phiên bản đầu tiên của Kinh Mân Côi. Thời Phục Hưng và Kháng Cách. Bắt đầu từ thế kỷ 13, rất nhiều hình tượng nghệ thuật về Đức Maria xuất hiện ở châu Âu. Thời kỳ Phục Hưng là giai đoạn chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của chủ đề Marian trong nghệ thuật. Trong thời gian này, các công trình quan trọng về Đức Maria được sáng tác bởi các bậc thầy như Boticelli, Leonardo da Vinci và Raphael. Trong Cải Cách Tin Lành, Thánh Mẫu Học của Công giáo đã bị tấn công chưa từng có. Việc tôn sùng Đức Maria bị coi như phạm thánh và mê tín dị đoan. Dưới sự ảnh hưởng của phe đối lập thần học này, các nhà cải cách Tin Lành đã phá hủy nghệ thuật tôn giáo, tượng Đức Mẹ và các bức tranh trong các nhà thờ ở miền bắc châu Âu và nước Anh. Một số các nhà cải cách Tin Lành, đặc biệt Andreas Karlstadt, Huldrych Zwingli và John Calvin khuyến khích việc loại bỏ các hình ảnh tôn giáo dựa vào 10 điều răn trong đó cấm thờ ngẫu tượng và sản xuất các tượng mạo phạm Thiên Chúa. Vào giữa thế kỷ 16, Công đồng Trentô tái khẳng định truyền thống Công giáo trong việc thờ phượng các ảnh tượng. Điều này dẫn đến một sự phát triển lớn cửa hình ảnh Đức Mẹ và nghệ thuật Thánh Mẫu trong thời kỳ Baroque. Việc thế giới Công giáo tham gia vào cuộc chiến tranh chống lại Thổ Nhĩ Kỳ và giành chiến thắng dưới sự bảo trợ của Maria. Đặc biệt là chiến thắng ở trận Lepanto (1571) đã đánh dấu sự hồi sinh mạnh mẽ của việc sùng kính Đức Mẹ, tập trung đặc biệt vào Đức Maria, Nữ Vương Thiên Đàng và Trái đất và vai trò quan trọng của Mẹ như là trung gian hòa giải của nhiều ân sủng". Linh mục Dòng Tên Francisco Suárez là thần học gia đầu tiên có những đóng góp về Thánh Mẫu Học. Ngoài ra còn có những đóng góp nổi tiếng khác phải của Lawrence of Brindisi, Robert Bellarmine, Francis bán hàng. Sau 1650, tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội được ủng hộ và phổ biến bởi Dòng Tên. Giáo hoàng Phaolô V và Gregory XV trị vì vào năm 1617 và 1622 đã không chấp quan điểm cho rằng Đức trinh nữ không nguyên tội. Alexander VII tuyên bố vào năm 1661, rằng linh hồn của Mẹ Maria miễn trừ tội nguyên tổ. Giáo hoàng Clêmentê XI đã xác lập lễ Vô Nhiễm Nguyên Tội cho toàn thể Giáo hội vào năm 1708. Lễ Mân Côi đã được xác lập vào năm 1716, lễ Đức Mẹ Sầu Bi vào năm 1727. Kinh Cầu Đức Bà đã được hỗ trợ mạnh mẽ bởi Biển Đức XIII và Biển Đức XIV. Giai đoạn này cũng cho thấy lòng sùng kính Đức Maria được phổ biến rộng khắp với nhiều màu sắc và đa dạng hơn bao giờ hết: Nhiều cuộc hành hương, dâng hiến cho Đức Mẹ, kinh cầu Đức Bà, các vở kịch trong nhà hát, các bài thánh ca Maria và những cuộc rước Đức Mẹ. Cũng trong khoảng thời gian này, đã có thêm rất nhiều hiệp hội, dòng tu được thành lập hướng về việc tôn sùng Đức Mẹ. Nổi bật nhất là dòng Tiểu Đệ, Tiểu Muội của thánh Louis Grignion de Montfort (1673-1716), phong trào Lêgiô (Legion of Mary) ra đời trong thời Chiến tranh thế giới thứ nhất. Dòng Chúa Cứu Thế cũng đặc biệt hướng về Đức Mẹ. Trong lĩnh vực nghệ thuật có các họa phẩm của Bartolome Esteban Murillo, nhạc của Domenico Scarlatti, khúc "Magnificat" lừng danh của Johann Sebastian Bach... Thời cận, hiện đại. Khởi điểm của việc sùng kính Đức Maria trong thời kỳ này là sự xác định tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, bởi Giáo hoàng Piô IX vàonăm 1854. Năm 1954, Giáo hoàng Piô XII tuyên bố năm Thánh Mẫu và công bố tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời vào ngày 15 tháng 8 năm 1950. Giai đoạn này cũng đánh dấu hàng loạt các sự kiện liên quan đến việc hiện ra của Đức Maria. Mạc khải cho thánh Catherine Labouré ở Paris trong khoảng 1830-1836 đã làm gia tăng những việc đạo đức, ảnh tượng Đức Mẹ Ban Ơn dâng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm. Những lần Đức Mẹ hiện ra với thánh Bernadette Soubirous ở Lộ Đức năm 1858 hay Fatima năm 1917. Ngoài ra còn có những nơi hành hương khác như Knock ở Ireland, Beauraing ở Bỉ, và ngay cả La Vang ở Việt Nam. Những nơi này đã trở thành địa điểm hành hương của người công giáo trên khắp thế giới. Giáo hoàng Piô X công bố lễ kính Đức Mẹ Lộ Đức năm 1904. Năm 1931, Giáo hoàng Piô XI chọn ngày 11 tháng 10 là ngày kính Mẫu Tâm, ngày 31 tháng 10 kính Đức Mẹ Vô Nhiễm, ngày 31 tháng 5 để kính Nữ Vương đồng thời công bố năm Thánh Mẫu 1954. Trong Công Đồng Vatican II, Giáo hoàng Phaolô VI đã công bố Đức Maria là Mẹ Giáo hội. Tại Công Đồng Vatican II, một số nghị phụ đã mong ước Công Đồng công bố một tài liệu riêng về Đức Mẹ, nhưng nhiều vị khác lại không đồng ý, viện lẽ rằng việc nghiên cứu Thánh Mẫu học đã trở nên quá khác biệt. Cuối cùng, tuyên ngôn về Đức Mẹ đã được đặt chung trong Hiến Chế Tín Lý về Giáo hội (Lumen Gentium)
1
null
Euphorbia canariensis là một loài thực vật có hoa trong họ Đại kích. Loài này được L. mô tả khoa học đầu tiên năm 1753. Đây là loài bản địa quần đảo Canary. Đây là một loài cây nhỏ, cao từ 3 đến 4 mét. Chúng được tạo thành tứ giác thịt hoặc thân cây ngũ giác trông giống như xương rồng.
1
null
Euphorbia dendroides là một loài thực vật có hoa trong họ Đại kích (Euphorbiaceae), sinh trưởng ở khí hậu bán khô hạn và Địa Trung Hải. Phân bố. Nó phân bố rộng rãi tại khu vực Địa Trung Hải, từ bán đảo Iberia đến Ai Cập. Chúng nhạy cảm giới giá lạnh, nên chỉ mọc trên những sườn núi nhiều nắng ở những khu vực đồi núi. Loài này đã được du nhập đến nhiều quốc gia như một loài cây cảnh. Mô tả. Chúng được dùng trong học truyền thống; như nhiều loài khác cùng chi "Euphorbia" thứ nhựa trắng, dính, có độc của nó đã được sử dụng để trị một số loại bệnh ngoài da từ thời cổ.
1
null
Ngày 3 tháng 4 năm 1996, Liverpool phải đối đầu với Newcastle United tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh mùa bóng 1995-96 và họ đã giành chiến thắng 4-3 nhờ các pha lập công của Robbie Fowler và Stan Collymore, mỗi người một cú đúp. Các bàn thắng của Newcastle được thực hiện bởi Les Ferdinand, David Ginola, và Faustino Asprilla. Trước trận đấu, cả hai đội đều bị mất điểm nhưng đều có chung mục tiêu muốn bám đuổi, thu hẹp khoảng cách với Man United và vượt mặt đội bóng này để leo lên ngôi vô địch. Newcastle United, đã giành tổng cộng 12 điểm vào tháng 1, nhưng thi đấu không tốt trong suốt tháng 3, họ chỉ giành được chiến thắng một trận trong bốn vòng đấu. Liverpool đã thắng sáu trên chín trận trong tháng 2 và tháng 3, ghi nhiều bàn thắng nhất và để thủng lưới ít nhất trong các trận đấu này. Liverpool bắt đầu trận đấu một cách thuyết phục và tiền đạo Robbie Fowler ghi bàn thắng đầu tiên của trận đấu. Tiền đạo Newcastle là Les Ferdinand ghi bàn cân bằng tỷ số ở phút thứ mười và cầu thủ chạy cánh David Ginola ghi bàn thứ hai cho Newcastle bốn phút sau đó. Fowler ghi bàn trong thời gian đầu hiệp hai để cân bằng tỷ số nhưng Faustino Asprilla đã lập lại lợi thế dẫn trước ở phút thứ 57. Stan Collymore cân bằng tỷ số cho Liverpool ở phút thứ 68. Trong thời gian cuối trận, Collymore đã ghi bàn thắng thứ hai của anh trong những trận đấu liên quan đến Ian Rush và John Barnes. Chung cuộc Liverpool thắng 4-3. Trận đấu được xem là trận đấu hay nhất Premier League trong lịch sử của giải đấu. Huấn luyện viên của Newcastle Kevin Keegan mô tả nó như là một "trận đấu cổ điển" trong khi Huấn luyện viên của Liverpool, Roy Evans cho biết "trận đấu có tính giải trí là trên hết" và năm 2003 đã được trao giải trận đấu hay nhất thập kỷ nhân kỷ niệm 10 năm ra đời Premier League. Kết quả trận đấu không ảnh hưởng nhiều đến chức vô địch khi nhà vô địch Man United chỉ thua một trong các trận còn lại. Vài nét về hai câu lạc bộ. Liverpool và Newcastle United là hai trong số những câu lạc bộ lớn nhất trong bóng đá Anh. Mặc dù không có giành được một danh hiệu lớn kể từ năm 1969, câu lạc bộ vùng Tyneside có lượng fan đông đảo trong 63 mùa từ 1946 -47 đến 2009-10. Trong những năm 1970 và 1980, Liverpool trở thành câu lạc bộ thành công nhất ở Anh, tích lũy 11 chức vô địch trong thời gian 17 năm. Từ mùa bóng 1993-94, trong các trận đấu, Newcastle đã thắng được ba lần và Liverpool một lần, các trận đấu còn lại kết thúc với tỷ số hòa. Trước trận đấu. Cả hai câu lạc bộ đều đã bị thua trong trận đấu trước đó. Liverpool thua 1-0 trước Nottingham Forest tại sân City Ground ngày 23 tháng 3 năm 1996, với bàn thắng duy nhất được ghi bởi tiền vệ Steve Stone. Đây là thất bại đầu tiên của Liverpool trong 21 trận đấu gần nhất trên tất cả các đấu trường. Cùng ngày, Newcastle thua 2-0 trước Arsenal - đây là thất bại thứ ba của họ trong 5 trận gần nhất. Do đó, Newcastle bị Manchester United bỏ cách ba điểm vì Quỷ đỏ đã giành ba điểm nhờ bàn thắng của tiền đạo Eric Cantona vào lưới của Tottenham. Mặc dù Newcastle đã đá hai trận với Manchester United nhưng lợi thế của họ là kém hơn so với thời điểm cuối tháng 1 khi họ cách Manchester United 12 điểm. Khi cả hai đội gặp nhau vào tháng 3 tại St James'Park, Cantona ghi bàn thắng cho Manchester United và thủ môn Peter Schmeichel đã cản phá cú sút của tiền vệ Peter Beardsley và tiền đạo Les Ferdinand. Chiến thắng này là chiến thắng liên tiếp thứ chín của Manchester United tại Premier League, kể từ khi đánh bại Newcastle 2-0 trong trận đấu lượt đi tại Old Trafford vào tháng 12 năm 1995. Trận đấu đã cho thấy Liverpool chưa chắc sẽ giành được chức vô địch giải đấu. Mặc dù ghi được nhiều bàn thắng nhất và để thủng lưới ít nhất trong top ba, nhưng họ đã hòa bốn trận và kém điểm hơn đội đứng ở vị trí thứ hai là Newcastle. Tuy nhiên, Liverpool lại đá hay hơn tại bán kết FA Cup, khi đánh bại Aston Villa 3-0 để đặt chân vào trận chung kết với Manchester United và khả năng rằng họ sẽ đạt được chức vô địch FA Cup. Diễn biến. Chiến thuật. Huấn luyện viên của Newcastle Kevin Keegan thực hiện một sự thay đổi cho đội bóng sau trận đấu trước đó của họ, mà họ đã thua Arsenal. Keegan thay thế hậu vệ Warren Barton cùng Steve Watson. Họ đã sử dụng chiến thuật 4-4-2, với Faustino Asprilla và Les Ferdinand là hai trung phong với David Ginola và Peter Beardsley là những tiền vệ hỗ trợ tấn công. Liverpool thay thế Michael Thomas với Jamie Redknapp bằng Dominic Matteo với Rob Jones. Roy Evans triển khai một đội hình 3-4-1-2, mà ông thử nghiệm trong suốt mùa giải. Steve McManaman làm cầu nối giữa hàng tiền vệ và hậu vệ. Trận đấu dự định diễn ra vào ngày 30 tháng 3 năm 1996 nhưng đã được dời lại đến ngày 03 tháng 4 vì sự hợp tác giữa Premier League và đài truyền hình Sky Sports. Diễn biến thi đấu. Liverpool đã bắt đầu trận đấu và ghi bàn đầu tiên ở phút thứ hai. Stan Collymore, người đã nhận bóng từ tiền vệ cánh trái Jamie Redknapp, tạo ra một đường chuyền ngang trong vòng cấm địa cho Robbie Fowler đánh đầu thành công ở góc xa và là bàn thắng thứ 27 của anh trong mùa giải. Newcastle bắt đầu gây áp lực lên Liverpool và họ đã có câu trả lời 8 phút sau đó. Tiền đạo Faustino Asprilla vượt qua Neil Ruddock bên cánh phải của Liverpool và chuyền bóng lại cho Ferdinand; sau đó tiền đạo này đã có cú sút bằng chân phải, hạ gục thủ thành David James. Đến phút thứ 14, Newcastle đã vượt lên dẫn trước. Ferdinand có đường chuyền dọn cỗ cho David Ginola ở cánh trái, rồi anh này băng xuống và ghi bàn thắng thứ năm của anh trong mùa giải. Liverpool đã nỗ lực tấn công để tìm bàn thắng thứ 2, nhưng Fowler đã bỏ lỡ một cơ hội ở gần khung thành, Redknapp đã phối hợp từ xa và Steve McManaman đã bỏ lỡ cơ hội khi hiệp 1 sắp khép lại. Beardsley và David Batty đã phạm lỗi và Batty đã bị phạt thẻ vàng sau pha phạm lỗi với McManaman. Ở bên kia, Asprilla và Beardsley đã gần như có thể ghi bàn từ một pha phản công. Ở khoảng thời gian giữa giờ, hậu vệ Liverpool Mark Wright đã được thay thế bằng Steve Harkness vào hiệp hai. 9 phút sau khi hiệp hai bắt đầu, Liverpool ghi bàn gỡ hòa khi Jason McAteer chuyền bóng đến chân của McManaman đang vượt qua hàng phòng thủ Newcastle trong vòng cấm địa của họ và kiến tạo cho Fowler, người ghi bàn thắng thứ hai của trận đấu. Tuy nhiên kết quả này chỉ kéo dài trong 2 phút, Newcastle lại vượt lên dẫn 3-2 với bàn thắng của Asprilla. Ngay sau khi ghi bàn Newcastle đã có cơ hội nâng tỷ số nhưng bóng đi không chính xác sau cú sút của Ferdinand. Liverpool tiếp tục tấn công và đến phút thứ 65 họ ghi bàn thắng gỡ hòa 3-3. Sai lầm của McAteer đã đặt Collymore vào vị trí thuận lợi để anh này sút tung lưới của Pavel Srníček. Cả hai đội đã có những sự thay đổi trong những phút cuối. Hậu vệ Liverpool Rob Jones được thay ra và tiền đạo Ian Rush được vào sân; Darren Peacock của Newcastle đã rời sân để Steve Howey vào thi đấu, nhằm thắt chặt việc bảo vệ khung thành của Newcastle. Khi trận đấu có khả năng kết thúc với tỷ số hòa thì trong những phút bù giờ, Rush và John Barnes bất ngờ mở cuộc phản công để ghi bàn vào lưới Newcastle. Barnes chuyền bóng cho Collymore ở bên cánh trái; Collymore sút bóng xuyên qua Srníček và ghi bàn thắng thứ hai trong trận, và mang đến niềm vui cho The Kop. Ngược lại, Keegan cảm thấy buồn bã. Sau trận đấu. Sau trận đấu, Kevin Keegan cho biết rằng có một "một chặng đường dài để đi" trong cuộc đua danh hiệu, bất chấp kết quả trận đấu. Ông ca ngợi cả hai đội và tính chất của trận đấu nhưng từ chối theo phong cách bóng đá mới của Newcastle. Huấn luyện viên của Liverpool Roy Evans cho biết rằng không có đội có thể "giành chức vô địch một cách dễ dàng như thế" và thừa nhận đội bóng của ông cũng đã thiếu mất chiến thuật "chơi hai đấu hai, một đối một, ở phía sau". Stan Collymore, người ghi bàn thắng thứ tư của Liverpool, tin rằng kết quả lại làm hấp dẫn thêm cuộc đua đến chức vô địch. Steve McManaman cũng cho biết thêm rằng nó hoàn thành một "tuần lớn" cho đội bóng, với việc mà họ lọt tới chung kết của cúp FA. Anh cũng khen hiệu suất của Newcastle, và cũng cho rằng huấn luyện viên của họ có thể tái tạo lại đội bóng. Hệ quả. Hy vọng vô địch quốc gia của Newcastle phần nào bị lu mờ do kết quả của trận đấu. Cho dù ba ngày sau họ đánh bại Queens Park Rangers, nhưng ở vòng đấu kế tiếp, họ lại để thua Blackburn Rovers khi trong mười phút cuối trận họ bị Blackburn chọc thủng lưới hai lần. Thất bại này khiến Newcastle bị Manchester United bỏ xa đến 6 điểm trên bảng xếp hạng khi giải đấu chỉ còn năm vòng. Sau trận đấu Newcastle thắng Leeds United vào ngày 30 tháng 4 năm 1996, Keegan trong một lần phát biểu trên truyền hình, đã lên tiếng chỉ trích huấn luyện viên của Manchester United, Alex Ferguson đã có những chiêu trò nhằm kích động các cầu thủ Leeds, và nói rằng ông "sẽ thích nó nếu chúng tôi đánh bại họ" trên con đường đến chức vô địch. Ferguson, người bị chỉ trích là đã chỉ đạo Leeds trong thời gian huấn luyện tại Man United vào hai tuần trước đó, đã cho rằng ý kiến trên và nhận xét từ các báo chí như một hành động nhằm nguyền rủa ông từ các đối thủ cạnh tranh trực tiếp. Mùa bóng đó Newcastle đứng thứ hai, kém 5 điểm so với đội đầu bảng Man United, vì thế Keegan nộp đơn từ chức, nhưng bị ban lãnh đạo Newcastle từ chối vào mùa hè. Tháng 1 năm 1997, Keegan chính thức rời băng ghế huấn luyện, và nói rằng "ông đã không làm được những gì có thể tại Newcastle. Sau trận đấu này, Liverpool phải đến làm khách trên sân của Coventry City, và thua 1-0. Hai chiến thắng và ba trận hòa trong các trận còn lại giúp Liverpool cán đích ở vị trí thứ ba - kết thúc cao nhất của Liverpool trong kỷ nguyên Premier League. Trong trận chung kết cúp FA, Liverpool chịu thất bại trước Manchester United bởi bàn thắng của Eric Cantona ở phút thứ 85. Đây được xem là trận đấu hay nhất Premier League từ khi thành lập. Tổng thư ký FIFA Sepp Blatter đã khen ngợi triết lý bóng đá tấn công và gửi cho Keegan lá thư qua đường bưu điện, khen "Anh đã mang đến cho các trận đấu bóng đá của chúng tôi một phong cách tích cực". Phản ánh về kết quả trận đấu, tiền vệ David Ginola quả quyết rằng nếu Newcastle giữ được kết quả dẫn trước 3-2, thì chắc chắn Newcastle sẽ giành được chức vô địch. Trong đợt kỷ niệm 10 năm Premier League, trận đấu này được bình chọn là trận đấu hay nhất thập kỷ từ các cổ động viên và các chuyên gia, nhà bình luận bóng đá. Năm 2011, Sky Sports tổ chức 20 năm kỉ niệm với bảng tóm tắt 20 trận đấu hay nhất Premier League được đăng trên mạng: trận đấu đứng ở vị trí thứ nhất, trên trận Derby Manchester diễn ra tại Old Trafford vào ngày 20 tháng 9 năm 2009. Tháng 5 năm 2012, trận đấu hay thứ hai sau trận derby Manchester ngày 20 tháng 9 năm 2009 trong hoạt động kỷ niệm 20 năm Premier League. Khi Liverpool và Newcastle gặp lại nhau tại Anfield vào ngày 11 tháng 3 năm 1997 tại lượt về mùa bóng 1996-97, tỷ số của trận đấu này cũng tương tự như kết quả của trận đấu năm 1996. Liverpool dẫn trước Newcastle 3-0 khi kết thúc hiệp 1; nhưng "Chích chòe" đã gỡ lại 3 bàn chỉ trong vòng 17 phút trước khi Fowler ấn định kết quả cho Liverpool. Vào tháng 10 năm 2011, nhằm gây quỹ cho một số tổ chức từ thiện, trong đó có NSPCC và Tổ chức Sir Bobby Robson, cả hai đội bóng đã tổ chức một trận đấu nhằm tái hiện trận đấu ngày 3 tháng 4 năm 1996. Trận đấu được tổ chức tại Kingston Park, sân nhà của Newcastle Falcons; nhiều cựu cầu thủ của Liverpool và Newcastle United đã tham gia, trong đó có Jason McAteer, Alan Shearer, Philippe Albert và Bruce Grobbelaar.
1
null
Euphorbia latifolia là một loài thực vật có hoa trong họ Đại kích. Loài này được C.A.Mey. ex Ledeb. mô tả khoa học đầu tiên năm 1830. Đặc điểm. Cây thảo sống lâu năm, mọc đứng, cao (30-)60-90(-100) cm, màu lục nhạt. Rễ hình trụ, màu nâu, dày 15-30 cm × 5-7 mm. Thân đơn hoặc ít phân nhánh ở gốc, dày 5-7 mm, phần trên phân nhánh nhiều, nhẵn và nhẵn; xuất hiện thân vô trùng. Lá mọc xen kẽ; không theo quy tắc; lá vảy gốc nhiều; cuống lá hầu như không có; phiến lá hình elip rộng, (2-)4-6,5 × (1-)2-3 cm, gốc có hình nêm hoặc hình nêm, mép nguyên [hoặc có rãnh ở đỉnh], đỉnh tròn; gân giữa nổi rõ ở gần trục, gân bên 11-15 đôi; lá trên cành vô trùng có cuống lá, hình tuyến tính, 2-4,5 × 0,7-1,5 cm. Cụm hoa dạng chùm ở ngọn, thường cũng có các xim nhị hoa mảnh, có cuống dài từ các nách dưới; lá thứ cấp 6-10(-17), giống lá thường nhưng nhỏ hơn, tia thứ cấp 6-10(-16), 3-5 cm; cymes chia hai lần; cyathophylls 2, hình trứng tròn, hình trứng tam giác hoặc tròn, 1-1,5 × 1-2 cm, gốc phân nhánh, đỉnh tròn hoặc hình chữ nhật. Cuống Cyathium ngắn; hình chuông không cuốn, 2-2,5 × 1,5-2 mm, nhẵn, thùy hình trứng-tam giác, bên trong có lông; tuyến 4, màu nâu nhạt hoặc nâu, hình lưỡi liềm, đỉnh có 2 sừng, sừng tù. Hoa đực nhiều. Hoa cái: noãn thò ra từ chén, nhẵn, nhẵn; phong cách tự do, bền bỉ; kiểu cánh tay 2 thùy. Quả nang hình cầu, 4-4,5 × ca. 4 mm, có 3 rãnh dọc. Hạt hình trứng, 2,5-3 × 1,5-2 mm, màu vàng nâu; caruncle hiện tại, không cuống. Fl. và fr. tháng 5-tháng 9. "Euphorbia latifolia" có đặc điểm tương tự như E. esula nhưng khác ở chỗ có lá hình elip rộng hơn, màng tế bào có cuống, các tuyến có sừng tù và hạt có các hạt có màu sắc khác nhau. Phân bố. Thung lũng, đồng cỏ, rừng rậm, bụi rậm; ở độ cao 1000-1500 m. Chủ yếu ở khu vực Tân Cương (thung lũng Ili He, Tacheng) [Kazakhstan, Kyrgyzstan, Mông Cổ, Nga (Siberia), Tajikistan].
1
null
Giovanni Battista Pergolesi (sinh ngày 4 tháng 1 năm 1710 tại Jesi, gần Ancona - mất ngày 16 tháng 3 năm 1736 tại Pozzouli, gần Naples) là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ đàn violin, đàn organ người Ý. Ông là một trong những nhà soạn nhạc thuộc thời kỳ Baroque. Pergolesi là một trong những nhà soạn nhạc đặt nền móng cho sự phát triển của opera hài Ý, đồng thời ông còn là nhà kinh điển đầu tiên của thể loại này. Các tác phẩm của ông có giai điệu giàu sức diễn cảm, cách thể hiện hồn nhiên và giản dị. Giovanni Battista Pergolesi học nhạc tại thành phố Naples. Ông đặc biệt xuất sắc ở thể loại opera hài. Sự nghiệp và cuộc đời của ông ngắn ngủi vì bệnh lao. Các tác phẩm tiêu biểu của ông như "La conversione e morte di San Guglielmo" (1731), "Lo frate 'nnamorato" ("Tình cảm anh em", 1732, bằng ngôn ngữ Naples), "L'Olimpiade" (ngày 31 tháng 1 năm 1735) và "Il Flaminio" (1735).
1
null
Domenico Gaetano Maria Donizetti (; 29 tháng 11 năm 1797 tại Bergamo – 8 tháng 4 năm 1848 tại Bergamo) là nhà soạn nhạc người Ý đến từ Bergamo, Lombardia. Công trình tiêu biểu của ông là các vở opera "L'elisir d'amore" (1832), "Lucia di Lammermoor" (1835), và "Don Pasquale" (1843), tất cả điều bằng tiếng Ý, và các vở opera bằng tiếng Pháp như "La favorite" (1840) và "La fille du régiment" (1840). Cùng với Vincenzo Bellini và Gioachino Rossini, ông là nhà cách tân opera hài Ý xuất sắc, giúp thể loại này vượt qua nguy cơ bị quên lãng. Tiểu sử. Xuất thân, thời ấu thơ và niên thiếu. Gaetano Donizetti chào đời vào ngày 29 tháng 11 năm 1797, trong một hầm rượu cũ nát của một ngôi nhà sát sườn đồi ở Bergamo. Ông là người con thứ năm của Andrea Donizetti và Domenica Nava. Vào năm 1806, Gaetano được Quỹ khuyến khích học nhac nhận vào học. Cậu con trai nhà Donizetti sớm trở thành một học sinh xuất sắc và được Simone Mayr giúp đỡ. Nhờ có sự giúp đỡ này, cậu học trò đã học đàn harpsichord và sáng tác âm nhạc. 5 năm sau khi được nhận vào học, Gaetano đã viết tác phẩm "Il Piccolo compositore di Musica" với sự giúp đỡ của người thầy mà cậu yêu quý. Tác phẩm đó được dành cho dàn nhạc giao hưởng của trường. Trong năm 1815, Gaetano Donizetti tới Bologna, học âm nhạc ở cấp trung học với Stanislao Mattei nhờ vào lời giới thiệu của Mayr. 2 năm học với vị thầy tu thuộc dòng Phanxico này là 2 năm Donizetti nhận được một sự giáo dục hoàn hảo. Mặc dù vây, do bản tính ít nói của mình, vị thầy tu không tạo ra cho người học trò một sự thân thiện. Khi trưởng thành. Trong cuối tháng năm 1817, Gaetano Donizetti trở lại quê hương Bergamo. Một lần nữa, Mayr lại đóng vai trò quan trọng trong việc người học trò năm xưa của ông ký hợp đồng viết 4 vở opera cho ông bầu Zancla. Hai vở opera đầu tiên của Donizetti, "Enrico di Borgogna" và "Il falegname di Livonia", được công diễn lần đầu tiên vào các năm 1818 và 1819. Kết quả là khá thành công. Theo như chính Donizetti chia sẻ, công việc của ông vẫn tiếp diễn là bởi vì ông không phải tham gia nghĩa vụ quân sự . Vì bị cuốn hút bởi tài năng của nhà soạn nhạc trẻ này, Marianna Pezzoli Grattaroli đã giúp ông miễn nghĩa vụ trên. Vào năm 1822, Donizetti cho công diễn vở opera tiếp theo mang tên "Chiara e Serafina", đáng buồn là ông phải chịu thất bại đầu tiên trong sự nghiệp của mình. Nên cũng thật dễ hiểu khi nhà hát lớn ở thành phố Milano đã không cho người đàn ông này vào trong 8 năm liền. Tuy nhiên, trong cái rủi lại có cái may. Người thầy Mayr đáng kính của ông đã thuyết phục bỏ qua cho Donizetti. Đó là lý do vì sao buổi công diễn thực sự đầu tiên của nhà soạn nhạc người Ý diễn ra. Tác phẩm có được diễm phúc đó, "Zoraida di Granata", đã đem lại cho cha đẻ của nó thành công. Không chỉ có vậy, trong năm 1822, "Domenico Barbaja", một ông bầu có tiếng tăm, đã yêu cấu Donizetti viết một vở opera theo phong cách opera semi-seria (tiếng Việt: opera nửa nghiêm) cho San Carlo Theatre nằm ở thành Napoli. Tác phẩm đáp ứng yêu cầu đó là "La Zingara". Nó là vở opera thành công nhất của Donizetti trong năm ấy. Tuy nhiên, Hector Berlioz lại cho rằng nó "ướt át và lặp đi lặp lại". Tuy vậy, không thể phủ nhận thành công của tác phẩm, bởi nó đã đánh dấu một giai đoạn chói sáng trong sự nghiệp của Donizetti. Từ năm 1826. Donizetti bắt đầu sáng tác những vở opera theo phong cách mới. Trong năm đó, ông viết "Gabriella di Vergy", một vở nhạc kịch mang phong cách opera bi kịch. Năm sau, ông lại viết "L’esule di Roma ", tác phẩm mang phong cách opera anh hùng tân cổ điển. Ấy là chưa kể ông còn sáng tác các vở opera nói về cuộc hành trình của những người hoa tiêu, thủy thủ ("Otto mesi in due ore", "Il castello di Kenilworth", "Emilia di Liverpool") và cả những tác phẩm chứa đựng sự lãng mạn đẫm máu ("Il Paria" và "Melda de’Lambertazzi"). Tuy nhiên, sẽ là thiếu sót nếu không kể đến những vở opera mang phong cách hài hước, những tác phẩm mang đến cho ông thành công trong thời gian ông trở về quê nhà, những "L’ajo nell’imbarazzo", "Le convenienze ed inconvenienze teatrali" và "Il giovedi grasso". Vào năm 1830, Donizetti dành chiến thắng ở Teatro Carcano, Milan và có vài cuộc thử sức ở Paris và Luân Đôn với vở "Anna Bolena". Tuy đang sống trong thành công và viễn cảnh về sự nghiệp tầm cỡ thế giới và những điều đó có thể khiến Donizetti nghỉ ngơi, ông vẫn không ngơi tay, thậm chí ông viết đến 5 vở opera chỉ trong vòng chưa đến 1 năm. Năm 1832, "L’elisir d’amore", bằng chứng của tốc độ viết khủng khiếp của Donizetti (tác phẩm này được hoàn thành trong vòng chưa đầy 1 tháng), đã được trình diễn thành công rực rỡ ở Teatro della Cannobbiana, Milan. Năm sau, nhà soạn nhạc người Ý giới thiệu "Il furioso all’isola di San Domingo" và "Lucrezia Borgia " ở La Scala. Trong năm tiếp theo, Donizetti ký thêm một hợp đồng. Điều khoản của hợp đồng này đó là phải viết một tác phẩm mang phong cách opera seria cho mỗi năm cho Nhà hát San Carlo ở thành Napoli. Tác phẩm đầu tiên ông viết theo hợp đồng này là "Maria Stuarda". Không chỉ có rắc rối xung quanh kịch bản, "Maria Stuarda" còn không được trình diễn thành công do ca sĩ đảm nhận vai chính Maria Malibran không thể hiện hết được khả năng của mình. Điều đó khiến tác phẩm đi đến thất bại, ngay cả khi đã sửa kịch bản theo mong muốn của các nhà kiểm duyệt của Napoli. Tuy nhiên, thất bại này cũng không giáng một đòn quá nặng nề lên Donizetti bởi vì hai nhà soạn nhạc opera nổi tiếng đương thời là Gioachino Rossini và Vincenzo Bellini đều vô tình tạo cho ông vị thế mới. Rossini thoái lui khỏi sàn diễn opera từ năm 1829 cho đến cuối đời (1868), còn Bellini qua đời sớm vào năm 1835 do viêm ruột cấp tính. Thế nên, nghiễm nhiên Donizetti trở thành người đại diện lớn nhất của opera Ý lúc này. Cần phải nói thêm rằng, dù Rossini và Donizetti đều là đối thủ nghề nghiệp của nhau, Rossini vẫn giúp đỡ cho Donizetti bằng cách đưa ông đến với những nhà hát của thủ đô Paris, Pháp. Nhờ làm việc trên đất nước láng giềng của xứ sở mì ống, Donizetti có thu nhập cao hơn so với ở quê nhà. Vào năm 1835, năm trình diễn đầu tiên của "Maria Stuarda", Rossini mời Donizetti sáng tác cho sân khấu Paris vở opera "Marin Faliero". Đồng thời, từ quê nhà, Donizetti biết được rằng thành phố Napoli đã tạo một sự thành công đặc biệt cho vở "Lucia di Lammermoor". Sang năm 1836, có nhiều vở opera của Donizetti được trình diễn. Đầu tiên là vở "Belisario", tiếp theo là "Il Campanello" và "Betly", tiếp theo nữa là "L’assedi di Calais". Thành công trong công việc, nhưng Donizetti bắt đầu phải hứng chịu tang tóc. Chỉ trong vòng 2 năm 1836 và 1837, ông mất cha mẹ, người vợ ông cưới năm 1828 Virginia Vasselli và đứa con gái. Vasselli đã sinh cho Donizetti 3 đứa con, hai vợ chồng ông gắn bó sâu đậm với nhau. Thế nên, cũng chẳng ngạc nhiên khi Donizetti mang nỗi trầm uất đến cuối đới sau khi người bạn đừi của nhà soạn nhạc qua đời vì dịch tả. Tuy vậy, ông vẫn sáng tác trong lúc đau lòng. Hai vở opera tiếp theo mang tên "Pia de’ Tolomei" và "Roberto Devereux" ra đời. Qua đi hai năm 1836 và 1837, đến năm 1838. Một sự kiện diễn ra khi vở "Poliuto" của Donizetti bị cấm trình diễn do nhân vật chính của tác phẩm là một người tử vì đạo. Còn một việc khiến Donizetti không vui hơn, đó là giám đốc nhạc viện tên Nicola Antonio Zinarelli vừa mới qua đời, chức vụ cũ để trống. Người được chọn không phải là Donizetti mà là Saverio Mercadante chỉ vì lý do đơn giản: Ông này là người Napoli. Thất vọng vì điều đó, tháng 10 năm đó, Donizetti chia tay Napoli và nước Ý để đến với thành Paris. Định cư hẳn ở đó, ông viết "Il Duca di Alba". Khi đã ra đi như vậy, tất nhiên nhà soạn nhạc người Ý có mối quan hệ làm ăn mới. Ông đã hợp tác với các nhà hát lớn của Pháp như Opéra-Comique, Opéra et Théâtre des Italiens. Định cư trên một vùng đất mới, Donizetti chứng tỏ sự nhạy bén của mình khi dễ dàng bắt nhịp những thị hiếu của công chúng lúc đó. Năm 1840, ông viết những vở opera xuất sắc "La fille du régiment" và "La favorite", đồng thời có viết thêm "Rita". Sau đó, ông quyết định trở về Ý, nhưng không phải là Napoli, mà là Milano. Đến thành phố này, Donizetti chứng kiến buổi diễn tập "Nabucco" của nhà soạn nhạc Giuseppe Verdi. Quá ấn tượng với vở opera này, Donizetti đã không ngần ngại đến Viên để giới thiệu con người này, nơi mà ông là một giám đốc của "mùa diễn Ý". Cũng trong năm 1842 đó, ông có một buổi chỉ huy không thể nào quên tác phẩm tôn giáo "Stabat Mater" của Rossini. Hai còn người này lại tiếp xúc với nhau. Trong cuộc trò chuyện mới nhất này, Rossini khuyên Donizetti làm nhạc trưởng ở nhà thờ của Petronio, tuy nhiên Donizetti không chấp nhận vị trí đó, vì ông tìm được một vị trí có mức thu nhập khá hơn: nhạc trưởng của cung điện Habsburg. Và cũng trong năm đó, Donizetti giới thiệu tác phẩm "Linda di Chamonix" ở thànhg Viên. Vở opera đã mang đến cho ông thành công rực rỡ và kết quả tiếp theo đó là ông ký một hợp đồng với triều đình ở đó và đã có một vị trí mà ông mong mỏi từ lâu ở chỗ đó. Với bản hợp đồng đó, Donizetti có thể nghỉ 6 tháng trong 1 năm. Các tác phẩm của Donizetti, lúc này, đã không chỉ được trình diễn ở Pháp hay Ý mà cả ở Đế quốc Áo. Trong các buổi tập "Dom Sébastien, roi de Portugal", Donizetti tỏ ra bản thân ông có nhiều vấn đề. Ông trở nên lố bịch, vô lý, mất trí và dễ nổi nóng. Bệnh tật và qua đời. Donizetti mắc bệnh giang mai, căn bệnh được khẳng định làm thoái hóa tủy sống. Vào năm 1845, ông còn mắc thêm chứng viêm não bởi những lần đau ốm sau buỏi diễn cuối cùng và bệnh tâm thần do ông mắc những dịp trước. Vào ngày 28 tháng 1 năm 1846, Andrea Donizetti, cháu trai có tên giống chắt của mình, được người cha Giuseppe Donizetti cử đi để làm một buổi hội chẩn. Vài ngày sau, nhà soạn nhạc danh tiếng nằm trong bệnh viện chuyên khoa gần Ivry, nơi gần Paris, ngày bắt đầu và ngày kết thúc của khoảng thời gian đó cách nhau đến 17 tháng. Ông viết những lá thư thể hiện tâm tư của một người đang tuyệt vọng ngay từ khi bắt đầu tới bệnh viện này. Chỉ khi những rắc rối về mặt ngoại giao xảy ra (Donizetti không chỉ là công dân Ý mà còn là công dân của Đế quốc Áo-Hung, lại là một vị nhạc trưởng của nhà thờ và Ferdinand I của Habsburg), Donizetti mới được đứa cháu đem về quê nhà vào ngày 6 tháng 10 năm 1847. Trở về, ông đã bị liệt hoàn toàn và chỉ nói ra được vài lời mà thôi. Thường thì đó là những lời đơn tiết và vô nghĩa. Ông được chăm sóc chu đáo bởi những người bạn của ông tại nhà của chính họ. Gaetano Donizetti qua đời vào ngày 8 tháng 4 năm 1848. Phong cách sáng tác. Donizetti sáng tác rất nhiều và rất nhanh. Sở dĩ ông lại làm như vậy là vì ông không nhận được tiền nhuận bút và chẳng có nguồn thu nhập nào hơn ngoài việc viết theo yêu cầu của một người khác. Donizetti không giống những người đưng thời (Rossini và Bellini) cũng như sau này (Verdi) ở chỗ ông không hề kiểm soát các tác phẩm của mình. Ông sáng tác rất vội, không có lựa chọn cẩn thận và hay đi theo những giai điệu "cuồng tín", căng thẳng do trào lưu đương thời. Tuy vậy, Donizetti cũng không cho mình sự dễ dãi, hời hợt quá mức. Sự phát triển khả năng sắp xếp cùng với kỹ năng quý báu và cả trình độ về chuyên môn, những điều ông học được ở Mayr, đã giúp ông không đánh rơi các tác phẩm của mình tới mức "không chấp nhận được". Ông đạt được cái gọi là "nét ngây thơ trong vội vàng", nói dễ hiểu hơn thì đó là trí tưởng tượng của ông luôn được giữ vững. Các tác phẩm. Donizetti để lại 70 tác phẩm opera thuộc nhiều thể loại khác nhau. Ông viết đến 28 bản cantata, nhiều tác phẩm tôn giáo, hơn 250 bài hát trữ tình và các tác phẩm nhạc thính phòng
1
null
Vincenzo Salvatore Carmelo Francesco Bellini (; sinh ngày 3 tháng 11 năm 1801 tại Catnia - mất ngày 23 tháng 9 năm 1835 tại Puteaux) là nhà soạn nhạc opera người Ý. Ông là người bản địa của Catania ở Sicily và được đặt tên là "thiên nga của Catania". Các công trình lớn nhất của ông như "I Capuleti ed i Montecchi" (1830), "La sonnambula" (1831), "Norma" (1831), "Beatrice di Tenda" (1833), and "I puritani" (1835. Ông là một trong những nhà cải cách quan trọng của thể loại opera hài Ý (ngoài ra còn có Rossni và Donizetti). Tiểu sử. Xuất thân, thời thơ ấu và niên thiếu. Vincenzo Bellini sinh vào ngày 3 tháng 11 năm 1801 ở Catania, Sicilia, Ý. Vincenzo Bellini là con trai của Rosario Bellini, một nghệ sĩ organ kiêm nhà soạn nhạc sân khấu. Theo những gì được truyền lại cho đến bây giờ, cậu bé Vincenzo nhà Bellini đã thể hiện rõ chất thần đồng của mình. Những câu chuyện thể hiện tố chất đó là cậu bé này đã thể hiện một đoạn aria của Valentino Fioravanti khi mới 18 tháng tuổi, học lý thuyết âm nhạc khi mới 2 tuổi, học piano năm 3 tuổi và chơi tốt nó khi đã lên 5 tuổi. Còn chưa biết những điều này đúng hay không, chỉ biết rằng cậu bé Vincenzo được sinh ra trong một gia đình có truyền thống âm nhạc. Những câu chuyện trên có thể khiến người ta còn hoài nghi, nhưng câu chuyện sau đây khiến chúng ta có thể khẳng định Bellini là một thần đồng: Cậu viết tác phẩm "Gallus cantavit" (tác phẩm đầu tay của cậu) khi mới có 6 tuổi. Nhanh chóng, cậu trở thành một nghệ sĩ đi trình diễn khắp thị trấn nơi cậu sinh sống. Cậu cũng trở thành nhà soạn nhạc và nghệ sĩ organ cho một số nhà thờ. Khi trưởng thành. Sau khi được Vincenzo Tobia, người ông của mình, dạy dỗ, Vincenzo Bellini rời quê hương vào tháng 6 năm 1819 để đặt chân tại một nhạc viện ở Napoli. Đến đó, Bellini được chính phủ tự trị ở quê chu cấp tiền. Tại thành Napoli, Bellini bắt đầu có tình cảm với Maddalena Fumaroli. Tuy nhiên, cha của Fumaroli phản đối chuyện tình cảm của hai người. Suy nghĩ của người cha này đó là Bellini chỉ là một anh chàng nghệ sĩ harpsichord bình thường. Năm 1822, 3 năm sau khi đến Napoli, Bellini tham gia khóa học của Nicolò Zingarelli, nghiên cứu về trường phái Napoli, một trường phái opera nổi tiếng thời kỳ âm nhạc Baroque. Bellini cũng nghiên cứu các tác phẩm dành cho dàn nhạc giao hưởng của Joseph Haydn và Wolfgang Amadeus Mozart. Vở opera đầu tiên của nhà soạn nhạc người Ý mang tên "Adelson e Salvini" được trình diễn, hứa hẹn một tài năng âm nhạc sau này. Người đàn anh Gaetano Donizetti đã hết lời tán thưởng cho tác phẩm. Nối tiếp thành công đó, "Bianca e Gernando" được trình diễn tại Teatro San Carlo. Thành công của nó khiến ông bầu Barbaia muốn Bellini soạn một vở opera cho La Scala. Trong các năm 1827-1833, Bellini sống ở thành phố Milano. Ông chỉ sống bằng tiền thu được từ các buổi diễn các tác phẩm của mình. "Il pirata" được trình diễn không chỉ mang lại thành công cho nhà soạn nhạc tài năng này mà còn mang đến cho ông một sự cộng tác tốt với Felice Romani. Ông cũng kết bạn với tenor ông yêu thích, Giovanni Battista Rubini. Ở Milano, Bellini thường xuyên được săn đón, những người mong muốn khả năng thành công gần như chắc chắn. Bellini là một trong số ít các nhà soạn nhạc thời ấy có thể sống dựa vào thu nhập từ chính các tác phẩm của mình. Năm 1828, vở "La straniera" được công diễn, đem lại thành công vang dội hơn cả "Il pirata". Nó trở thành tâm điểm của báo chí. Tiếp theo, năm 1829, một tác phẩm nữa của Bellini cũng ra mắt, đó là "Zaira". Trong buổi công diễn đầu tiên ở Teatro Ducale, "Zaira" đem lại cho cha đẻ của nó thất bại. Tuy nhiên, điều đó cũng không ảnh hưởng gì, bởi "I Capuleti e i Montecchi" được chào đón ở Venice. Nói chung, Bellini đã thành công trong sự nghiệp của mình. Tuy nhiên, những dấu hiệu của bệnh tật đã đến. Bellini bắt đầu có triệu chứng của viêm ruột. Bellini đã dành một thời gian dài để dưỡng bệnh ở hồ Como, Lombardy. Trong lúc ấy, Bellini lao vào một cuộc tình mới với Giuditta Cantù, vợ của Ferdinando Turina. Câu chuyện tình này được lãng mạn hóa bởi nhiều tác phẩm nghệ thuật, nhưng ngoài đời thực thì không được hay lắm. Trớ trêu thay, cuộc tình này xuất phát tự sự tính toán và chuẩn bị. Chính người đàn ông Bellini đã nói như thế trong bức thư được ông viết vào năm 1828 cho người bạn Francesco Florimo. Năm 1831, "La sonnambula" và "Norma". Bellini đã thẳng thừng nhận xét rằng: "Thất bại, thất bại, hoàn toàn thất bại" sau khi "Norma" có buổi công diễn đầu tiên. Tuy nhiên, khán giả đã hiểu họ đang thưởng thức "Norma", một tuyệt tác. Cả hai vở opera trên đã đem lại cho Bellini thành công vang dội. Tuy nhiên, gần như ngay lập tức, vở "Beatrice di Tenda", trình diễn lần đầu ở Venice năm 1833, mang đến cho Bellini thất bại. Như giọt nước làm tràn ly, Bellini chấm dứt quan hệ hợp tác với Romani. Thất bại và buồn bực vì công việc ở thành Turina chưa vào đâu cả, Bellini đến Luân Đôn, rồi lại qua Paris. Đặt chân đến thủ đô nổi tiếng này, nhà soạn nhạc Ý được chào đón nồng nhiệt và nhà hát Italien ký với ông một hợp đồng. Kết quả là buổi diễn đầu của "I Puritani". Năm ngày sau ngày đó, Bellini được nhận huân chương cao quý nhất của nước Pháp, Bắc Đẩu Bội tinh. Sau đó, vua của Napoli trao cho nhà soạn nhạc lớn huy hiệu của Accademia Borbonica. Bellini quyết định ở lại Paris và nghĩ đến những dự định trong tương lai. Ở đó, ông trở thành bạn thân của Frédéric Chopin, Ferdinando Paer và Gioachino Rossini. Qua đời. Trong khi sự nghiệp đạt đến đỉnh cao, Bellini từ giã cuộc đời vào ngày 23 tháng 9 năm 1835, khi chưa đầy 34 tuổi, ở Puteaux, gần Paris. Ông qua đời vì viêm ruột cấp tính quái ác. Trong đám tang vào ngày 2 tháng 10 năm đó, Luigi Cherubini và Rossini đã đến và giữ quan tài. Con người. Những cuộc tình cuồng say khiến chúng ta khó hiểu về Bellini một cách đầy đủ. Ngay cả những người bạn và những người viết tiểu sử của ông cũng cho ý kiến khác nhau và tương đối mâu thuẫn. Florimo viết: "Một tâm hồn thuần khiết, đáng yêu, hiền lành, khiêm nhường nhưng dễ xúc động và thiếu thận trọng", trong khi đó Giovanni Ricordi lại cho rằng: "một con người nóng nảy, sôi sục, lúc nào cũng sẵn sàng bùng lên thành ngọn lửa". Rossini nói về Bellini như sau: "Anh ấy có một tâm hồn thật đẹp, một dáng vẻ sắc sảo, thanh tú và trang nhã". Ý kiến của Heinrich Heine thì cũng khác: "Tốt bụng và có phong cách khá quý phái. Tâm hồn ông chắc chắn là luôn luôn trong sạch và không bao giờ bị làm hoen ố bởi bất cứ âm mưu xấu xa nào". Và đây là ý của Ferdinand Hiller: Phong cách sáng tác. Bellini là một trong những nhà soạn nhạc opera Ý quan trọng nhất đầu thế kỷ XIX. Ông được coi là bậc thầy của bel canto. Ảnh hưởng của Bellini vượt qua cả lĩnh vực sân khấu này. Bằng chứng là Chopin rất ngưỡng mộ người đàn anh này, đặc biệt là trong sự diễn đạt giai điệu của ông. Nhân vật trong các vở opera của Bellini có gì đó quý phái và yếu đuối. Họ luôn mang trong mình một chút u sầu, phiền muộn. Các vai diễn trong các tác phẩm đó có đặc điểm là dành cho những danh ca đương thời. Chẳng thế mà độ khó của các vai diễn đó là rất cao và chỉ có những người đủ khả năng mới thể hiện được. Đặc trưng tinh túy trong âm nhạc opera của Bellini là mối quan hệ gần gũi của nó với lời thoại. Ông không đi phác họa từng nhân vật bằng âm nhạc, mà là biểu đạt nội dung và tâm trạng bằng âm nhạc. Cùng với đó là sự diễn cảm lời thoại một cách chính xác. Phong cách giai điệu của ông, được đặc trưng bởi việc xây dựng các tuyến giai điệu rộng rãi từ những đơn vị âm nhạc nhỏ bé. Trong khi đó, ông quy ước việc xử lý nhịp điệu, nhịp điệu của ông được hỗ trợ bằng các hòa âm giàu màu sắc, kín đáo và tế nhị với sự biểu diễn của dàn nhạc. Trong thập niên 1830, Bellini vượt mặt bất kỳ nhà soạn nhạc Ý nào trong việc cực tiểu hóa sự khác biệt giữa aria và recitative. Tầm diễn đạt của Bellini vượt xa cái vẻ ngoài ủy mị mà người ta hay nói đến các sáng tác của Bellini. Bellini không bao giờ sáng tác opera hài. Ông cũng tránh việc sáng tác quá nhiều như Donizetti và Rossini: Xem thêm. Một số nhà soạn nhạc quan trọng khác thuộc trường phái bel canto: Nguồn trích dẫn Các nguồn khác
1
null
Cây Kim Dao hay Cây xương khô hay "san hô xanh", "xương cá", (danh pháp hai phần: Euphorbia tirucalli) là một loài thực vật có hoa trong họ Đại kích thuộc họ thầu dầu Euphorbiaceae. Loài này được L. mô tả khoa học đầu tiên năm 1753. Cây mọc hoang nhiều nơi, ở thôn quê cây có thể dùng làm hàng rào. Công dụng chủ yếu là làm bài thuốc chữa bệnh viêm xoang Khu vực phân bố Là một loại cây dùng làm cảnh, cây kim dao được trồng hầu hết ở các tỉnh thành trên cả nước. Mô tả hình dáng Cây thường cao từ 1 đến 1,5 m, là cây thuộc hộ xương rồng, kim giao không có gai, cây có nhiều nhánh nhỏ như hình những chiếc đũa gắn lại với nhau nhìn rất giống xương cá nên còn gọi là cây xương cá, cây có rất nhiều nhựa trắng. Công dụng, cách dùng cây dao (Cây kim dao) làm thuốc. Cây dao có vị chua, tính sát trùng, khử phong, tiêu viêm, giải ngứa. Nhựa cây (hơi độc) có tính sát trùng mạnh, nên thường chỉ dùng để bôi ngoài da chứ không dùng để uống. Sau đây là một số tác dụng của cây dao: Dược tính. "Toàn cây dao có vị cay, hơi chua", tính mát, hơi có độc, có tác dụng thúc sữa, sát trùng, khử phong, tiêu viêm, giải độ
1
null
Euphorbia tuckeyana là một loài thực vật có hoa trong họ Đại kích (Euphorbiaceae). Đây là loài đặc hữu Cabo Verde. Tên loài lấy theo tên nhà thám hiểm Anh James Hingston Tuckey. Dân địa phương gọi nó là "tortolho". Loài cây này được dùng trong thuộc da. Mô tả. "Euphorbia tuckeyana" là một loài cây bụi cao đến 3 m. Nhựa cây màu trắng sữa. Lá thon dài, xếp theo hình hoa thị. Hoa màu vàng. Phát hiện và sinh thái. "Euphorbia tuckeyana" có mặt hầu như khắp đảo thuộc Cabo Verde, ngoại trừ Maio. Nó sống ở cả nơi bán khô cằn, bán ẩm ướt và ẩm ướt, độ cao từ 100 đến 2.500 mét. Cây mọc trên dốc đứng hay nơi lắm sỏi đá. Đây là một loài đặc trưng cho hệ thực vật đặc hữu quần đảo Cabo Verde.
1
null
Euphorbia uzmuk là một loài thực vật có hoa trong họ Đại kích. Loài này được S.Carter & J.R.I.Wood mô tả khoa học đầu tiên năm 1982. Các mẫu vật được nhân giống nhân tạo của các giống "Euphorbia trigona" , các mẫu vật được nhân giống nhân tạo của các giống đột biến mào, hình quạt hoặc màu của "Euphorbia lactea" , khi được ghép trên gốc ghép nhân giống nhân tạo của "Euphorbia neriifolia" và các mẫu vật được nhân giống nhân tạo của các giống "Euphorbia" 'Milii' khi chúng được buôn bán ở các lô hàng từ 100 cây trở lên và dễ dàng được nhận biết là mẫu vật được nhân giống nhân tạo thì không phải tuân theo các quy định của Công ước.
1
null
Euphorbia virosa (Cây đại kích sa mạc) là một loài thực vật có hoa trong họ Đại kích. Loài này được Willd. mô tả khoa học đầu tiên năm 1799. Cây có hình dáng gần giống xuơng rồng nhưng thực chất chúng không phải xuơng rồng. Phần thân chính của cây cao từ 5 – 10 cm, có dạng xoắn. Từ đó các nhánh mọc ra. Nhánh cây có từ 5 - 8 cạnh, không có lá. Trên các cạnh có nhiều gai nhọn mọc theo khoảng cách đều nhau. "Euphorbia virosa" thường được phân bố từ sông Orange ở Nam Phi đến Nam Angola, chiếm chủ yếu các khu vực khô cằn ở Namibia. Cây chứa bên trong cành một chất lỏng màu trắng đục và có độc tính cao. Chất này rất độc và được tộc người San (Thổ dân địa phương) sử dụng để nhúng đầu mũi tên họ dùng để săn bắn. Tiếp xúc với nhựa cây gây kích ứng da, và nếu mắt bị ảnh hưởng có thể gây mù lòa, trong trường ăn phải chất độc có thể gây tử vong.
1
null
Trà mủ, đước mủ, giá hay chá (danh pháp khoa học: Excoecaria agallocha) là một loài thực vật có hoa trong họ Đại kích. Loài này được L. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1759. Mô tả. Cây thân gỗ cao 6 - 15m. Phân cành cao lớn, cứng và dẻo. Mọc thành từng nhánh phụ hướng lên trên khi nhánh dài cây sẽ mọc lệch tạo thành những khúc gãy. Thân cây nhẵn, lá cây hình trái xoan nhẵn bóng, lá thường mọc thành hình xoắn ốc chặt chẽ và có vẻ như lá mọc đối hoặc xoắn lại. Phiến lá dài khoảng 6-15, rộng khoảng 3-5 cm, cuống lá dài khoảng 1-7 cm, rãnh ở mặt trên, hoa rất nhỏ đính sát cuống, dài từ 5-10 cm, nhị hoa có từ 2-4 bao phấn, có mùi thơm thoang thoảng. Quả nang, hình cầu, có 3 cạnh, có vòi nhụy, có 3 hạt bên trong, hình cầu, màu xám nhạt, phát tán bằng nước. Nhựa cây có chất saponic có thể gây mù loà. Cảnh quan. Cây có tán (sinh học) khá đẹp tại vì có nhựa độc nên ít khi được trồng làm cảnh trước nhà, chủ yếu được trồng cặp bờ sông giúp giữ đất, chống xói mòn, vì cây có nhánh dài cứng và dẻo nên cũng có vài nơi trồng để chắn gió vì khả năng năng chịu bão rất lớn, khó bị gãy đổ.
1
null
Johann Michael Haydn (; sinh ngày 14 tháng 9 năm 1737 - mất ngày 10 tháng 8 năm 1806) là nhà soạn nhạc người Áo thời kỳ cổ điển và là em trai của Franz Joseph Haydn. Ông được xem là một trong những nhà soạn nhạc quan trọng nhất thời kỳ âm nhạc Cổ điển. Cuộc đời. Michael Haydn được sinh ra năm 1737. Con đường sự nghiệp chuyên nghiệp ban đầu của Michael đã được dẫn dắt bởi người anh trai Joseph, có ca hát khéo léo đã đưa ông một vị trí như là một giọng nữ cao cậu bé tại nhà thờ St Stephen, Vienna dàn hợp xướng dưới sự chỉ đạo của Georg Reutter, cũng như Johann Georg Albrechtsberger và Franz Joseph Aumann, Cùng một nguồn chỉ ra rằng Michael là một học sinh sáng hơn Joseph, và (đặc biệt là khi Joseph đã phát triển đủ để có sự cố giữ giọng soprano của mình) đó là ca hát của Michael đó là được ngưỡng mộ hơn. Một thời gian ngắn sau khi ông rời trường ca đoàn, Michael được bổ nhiệm làm Kapellmeister tại Nagyvárad (Großwardein, Oradea) và sau đó, năm 1762, tại Salzburg, nơi ông ở lại cho 43 năm, trong thời gian đó ông đã viết hơn 360 tác phẩm, bao gồm cả nhà thờ và nhạc khí. Michael vẫn gần Joseph tất cả của cuộc đời mình. Joseph đánh giá cao âm nhạc của em trai mình. Ông qua đời tại Salzburg ở tuổi 68. Tác phẩm. Các tác phẩm của ông bao gồm cả thế tục và tôn giáo. Về thế tục có các loại như symphony, concerto, serenade, ballet, quintet, quartet, sonata (trio, duo, solo), aria, canon, opera và các vũ khúc, hành khúc. Về tôn giáo có các thể loại như antiphon, cantata, canticle, gradual, hymn, mass, motet, offertorie, oratorio, psalm, requiem.
1
null
Dầu lai lá xẻ/ dầu lai xẻ/ dầu lai nhiều khía/ dầu lai san hô, dầu mè đỏ, san hô (danh pháp hai phần: Jatropha multifida), cây không phải tên Bạch phụ tử, là một loài thực vật có hoa trong họ Đại kích. Loài này được L. mô tả khoa học đầu tiên năm 1753.
1
null
Scott Joplin (sinh năm 1867/1868 - mất ngày 1 tháng 4 năm 1917) là một nghệ sĩ dương cầm, nhà soạn nhạc người Mỹ gốc Phi. Được mệnh danh là "Ông hoàng Ragtime", ông đã soạn hơn 40 bản ragtime, 1 vở ballet ragtime và 2 vở Opera. Một trong những bản nhạc đầu tiên của ông, "Maple Leaf Rag", đã trở thành bài nhạc đầu tiên của thể loại này. Bài nhạc sau này cũng được đánh giá là những gì tinh túy nhất của ragtime cổ điển Bản nhạc nổi tiếng nhất của ông là "The Entertainer," một bản nhạc đậm chất Texas, nơi có những cao bồi nổi tiếng thế giới, đồng thời cũng là quê hương ông. Sinh ra trong một gia đình công nhân đường sắt yêu âm nhạc ở Texas, từ nhỏ, Joplin đã có niềm yêu thích với âm nhạc. Ông tự tìm hiểu về âm nhạc, với sự giúp đỡ của các giáo viên địa phương. Joplin lúc nào cũng tìm tòi cái hay trong những tác phẩm của các nhà soạn nhạc vĩ đại như Bach, Mozart, Beethoven... Có lẽ vì vậy, ông nhận định ragtime là một hình thức của nhạc cổ điển. Điều đó có nghĩa là ragtime phải được chơi trong các phòng hòa nhạc. Ông khinh thường sự thật rằng thể loại này chỉ được xem như một nhánh của honky-tonk, cũng như ragtime được chơi phổ biến nhất ở các quán rượu. Thời niên thiếu, khi còn ở Texarkana, ông đã thành lập một nhóm tứ tấu thanh nhạc, cũng như dạy đàn mandolin và guitar. Cuối những năm 1880, ông từ bỏ nghề công nhân đường sắt và chu du khắp miền Nam nước Mỹ với tư cách một nhạc sĩ lưu động. Ông đã đến Chicago để biểu diễn cho Hội chợ Thế giới năm 1893, góp phần quan trọng trong việc hình thành cơn sốt ragtime vào năm 1897. Joplin chuyển đến , Missouri vào năm 1894 và kiếm sống bằng nghề giáo viên piano. Tại đây, ông đã giảng dạy cho Arthur Marshall, Scott Hayden và Brun Campbell, những người sau này cũng trở thành nhà soạn nhạc ragtime. Joplin bắt đầu xuất bản nhạc vào năm 1895. Một trong những bài nhạc đầu tiên của ông, "Maple Leaf Rag", xuất bản năm 1899 đã khiến ông dần trở nên nổi tiếng. Đây là tác phẩm có sức ảnh hưởng lớn đến các nhà soạn nhạc ragtime, cũng như nhạc jazz sau này. Tác phẩm cũng tạm thời mang đến cho tác giả một nguồn thu ổn định. Năm 1901, Joplin chuyển đến St. Louis, nơi ông tiếp tục sáng tác, xuất bản nhạc và thường xuyên trình diễn cho công chúng. Năm 1903, trong một lần lưu diễn, tổng phổ bản opera đầu tiên của Scott Joplin, ""A Guest of Honor" bị tịch thu cùng với đồ đạc của ông, do ông không đủ tiền thanh toán cho nhà hát. Đây được cho là một hành vi ăn cắp trắng trợn. Tổng phổ của vở opera này hiện đã hoàn toàn thất lạc. Năm 1907, Joplin chuyển tới New York để tìm nhà sản xuất cho vở opera mới. Ông đã cố gắng để vượt qua những hạn chế của hình thức âm nhạc, thứ khiến ông nổi tiếng nhưng lại không có nhiều thành công về mặt tài chính. Tuy vậy, vở opera thứ hai của ông, "Treemonisha"", vẫn không bao giờ được biểu diễn đầy đủ khi ông còn sống, thậm chí còn không được khán giả đón nhận. Năm 1916, Joplin mắc chứng suy giảm trí nhớ, được cho là kết quả của bệnh giang mai. Ông được đưa đến Trung tâm tâm thần Manhattan vào tháng 1 năm 1917. Chưa đầy 3 tháng sau, ông qua đời ở tuổi 48. Cái chết của Joplin đánh dấu sự kết thúc của ragtime ở hình thức âm nhạc hàn lâm. Vài năm sau đó, dòng nhạc này đã phân mảnh thành nhiều thể loại nhỏ hơn, có thể kể đến như jazz, stride và swing. Các bản nhạc của ông đã được phát hiện và phổ biến trở lại vào những năm 70 của thế kỉ trước, bắt nguồn từ một album do Joshua Rifkin tái xuất bản. Ngay sau đó, The Sting, một bộ phim sử dụng rất nhiều nhạc của Joplin, đã đoạt Giải Oscar. Bản ghi âm bài "The Entertainer" trong phim cũng được phát sóng rộng rãi. "Treemonisha" cuối cùng cũng được sản xuất hoàn chỉnh vào năm 1972, được công chúng ca ngợi. Năm 1976, Joplin được truy tặng giải vì những cống hiến của ông cho nền âm nhạc Mỹ.
1
null
Macaranga acerifolia là một loài thực vật có hoa trong họ Đại kích. Loài này được Airy Shaw mô tả khoa học đầu tiên năm 1978. Phân bổ. Loài này có phạm vi bản địa ở W. New Guinea. Đây là một loại cây bụi và phát triển chủ yếu ở quần xã nhiệt đới ẩm ướt.
1
null
HTV1 là Kênh Thông tin công cộng của Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh, và là một trong những kênh có lượng khán giả đón xem nhiều nhất tại khu vực Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng, ngoài ra HTV1 còn phát sóng một số phim truyện và truyền hình trực tiếp một số sự kiện thể thao trong trường hợp có nhiều sự kiện thể thao diễn ra cùng giờ cùng với HTV Thể Thao, HTV Key, HTV7, HTV9, đồng thời còn trực tiếp cầu truyền hình cùng với HTV9.
1
null
Shapinsay là một hòn đảo thuộc quần đảo Orkney, ngoài khơi bờ biển phía bắc của vùng đất liền Scotland. Trên đảo có một ngôi làng tên là Balfour, từ đây đi phà để đến Kirkwall, là thị trấn lớn nhất của vùng Orkney. Shapinsay có lâu đài Balfour, là một công trình được xây dựng theo phong cách Scottish Baronial, khiến nó trở thành một trong những địa điểm nổi bật nhất trên đảo, một lời nhắc nhở về sự thống trị của gia đình Balfour trên Shapinsay trong suốt thế kỷ 18 và 19. Các Balfours thay đổi đời sống trên hòn đảo này bằng cách giới thiệu các kỹ thuật nông nghiệp mới. Ngoài ra còn có cột đá đứng, là một Broch thời kỳ đồ sắt và địa điểm khảo cổ trên đảo. Với diện tích 29,5 km vuông (11,4 sq mi), Shapinsay là hòn đảo lớn thứ tám ở quần đảo Orkney. Nó là vùng đất thấp, màu mỡ, do đó phần lớn diện tích được dùng để canh tác nông nghiệp. Shapinsay có hai khu bảo tồn thiên nhiên về các loài chim rất đáng chú ý. Theo điều tra dân năm 2001, Shapinsay có dân số khoảng 300 người. Nền kinh tế của hòn đảo này chủ yếu dựa vào nông nghiệp và một vài doanh nghiệp nhỏ có hoạt động chủ yếu liên quan đến du lịch. Chính phủ cũng đang có kế hoạch xây dựng một tuabin gió nhằm tạo ra điện năng cung cấp cho dân cư trên đảo.
1
null
Trong topo học, một ánh xạ mở là một hàm giữa hai không gian topo ánh xạ từ tập mở vào tập mở. Có nghĩa là, một hàm số "f": "X" → "Y" là ánh xạ mở nếu bất kỳ một tập mở "U" trong "X", thì ảnh "f(U)" cũng là tập mở trong "Y". Tương tự, một ánh xạ đóng là ánh xạ từ tập đóng vào tập đóng. Tóm tắt định nghĩa: Tính chất. Một hàm "f": "X" → "Y" là ánh xạ mở khi và chỉ khi mọi "x" thuộc "X" và tất cả lân cận "U" của "x", thì tồn tại một lân cận "V" của "f"("x") sao cho "V" ⊂ "f"("U"). Ánh xạ đóng và mở có thể được xác định bằng các phép toán nội hàm. Cho "f": "X" → "Y" là một hàm. Thì:
1
null
Pimelodendron griffithianum là một loài thực vật có hoa trong họ Đại kích. Loài này được Johannes Müller Argoviensis miêu tả khoa học đầu tiên năm 1866 dưới danh pháp "Stomatocalyx griffithianus". Năm 1880 George Bentham chuyển nó sang chi "Pimelodendron" với danh pháp "Pimelodendron griffithianum", nhưng chỉ tới năm 1888 thì Joseph Dalton Hooker mới công bố hợp lệ danh pháp này.
1
null
Plagiostyles africana là một loài thực vật có hoa trong họ Đại kích. Loài này được nhà thực vật học người Thụy Sĩ là Johannes Müller Argoviensis (1828-1896) mô tả lần đầu tiên năm 1864 trong "Flora oder Botanische Zeitung" dưới danh pháp "Daphniphyllum africanum", sinh sống trong vùng ven xích đạo ở Tây Phi. Năm 1897 nhà thực vật học người Pháp là Jean Baptiste Louis Pierre (1833-1905) mô tả chi "Plagiostyles" với loài điển hình là "Plagiostyles klaineana", từ mẫu vật do nhà truyền giáo kiêm nhà thực vật học người Pháp sống tại Libreville (Gabon) là Théophile-Joseph Klaine (1840-1911) gửi cho ông. Năm 1912, trong "Annales du Museé du Congo (Belge). Botanique", nhà thực vật học người Bỉ Émile Auguste Joseph De Wildeman (1866-1947) đã thiết lập danh pháp "Plagiostyles africana" như là "nom. nov." (danh pháp mới) trong chi "Plagiostyles" , với dẫn chiếu tới "Daphniphyllum africanum" thu được từ khu vực Mondembe (Cộng hòa Dân chủ Congo), nhưng không đề cập gì tới "Plagiostyles klaineana". Loài này phân bố trong khu vực rừng mưa từ Nigeria tới Tây Trung châu Phi nhiệt đới, bao gồm Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Guinea Xích Đạo, Gabon.
1
null
Plukenetia volubilis, tiếng Quechua nơi cây mọc tự nhiên là "sacha inchi". "Sacha" có nghĩa "cây, rừng, dại", còn "inchi" là "lạc, tức đậu phộng". Các ngôn ngữ cũng dựa theo đó gọi là lạc sacha, lạc núi, lạc Inca. Báo chí tiếng Việt thì dùng tên sachi. Đây là một loài thực vật có hoa trong họ Đại kích (Euphorbiaceae). Loài này được Carl Linnaeus miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753. Miêu tả. Đây là một loài dây leo, đa niên, lá có lông tơ. Cây xuất phát từ vùng nhiệt đới châu Nam Mỹ có mặt ở các nước Suriname, Venezuela, Bolivia, Colombia, Ecuador, Peru và tây bắc Brasil. "P volubilis" cũng có mặt trên chuỗi hải đảo Hứng Gió (tiếng Anh: Windward Islands) thuộc biển Caribe. Ngày nay "P volubilis" được canh tác quy mô ở nhiều nơi như Đông Nam Á, nhất là Thái Lan. Tại Việt Nam sachi đã được trồng trên Tây Nguyên (2015), và Hòa Bình (2017), đến năm 2018 thì đạt 1500 hecta kể cả Bình Thuận, Điện Biên. Trong vùng bản địa nhiệt đới rừng mưa Amazon đất trũng dân địa phương đã canh tác cây này mấy thế kỷ qua. Ở trên cao độ 1.700 m (5.500 ft) thì cây vẫn mọc được miễn là vũ lượng đủ và đất dễ thoát nước. Cây quen với thổ nhưỡng đất chua và đất bồi ven sông. Cây giỏi chịu hạn. Dây "P volubilis" có thể mọc vươn cao tới 2 mét (6' 6"), lá hình tim, rìa có răng cưa, mọc so le. Lá dài 10–12 cm (4"-4,7"), rộng 8–10 cm (3,1-3,9"), cuống khoảng 2–6 cm (0,8-2,3"). Khi mới nảy mầm, hai lá mầm mọc hở, tương tự như cây hạnh. Bao bọc lá mầm lớp màng màu trắng nhạt. Cây mọc nhanh, nếu không muốn bò thì đóng giàn để dây leo, chỉ năm (5) tháng tuổi thì trổ hoa, tám (8) tháng thì thành hột. Hoa đực nhỏ li ti màu trắng mọc thành chùm dài. Hoa cái mọc ở cuống chùm. Vùng nhiệt đới "P volubilis" ra hoa quanh năm. Trái là dạng quả nang đường kính 3–5 cm phân thành 4 tới 7 múi, gọi là thùy. Mỗi thùy có hột hình bầu dục màu nâu sẫm, đường kính 1,5–2 cm, nặng 45-100 gram. Khi non màu xanh lục đến khi chín thì ngả màu nâu rồi đen khi già. Trái có thịt mềm và nhão màu đen trông không hấp dẫn mà cũng không ăn được. Muốn thu hoạch thay vì hái khi chín, người ta nguyên trái trên cây cho khô hẳn mới hái về. Khi hai năm tuổi thì năng suất lên đến hàng trăm trái, cung cấp 400-500 hột mỗi năm mấy kỳ. Hột tươi không ăn được, nhưng bóc vỏ rồi đem rang lên thì ăn ngon. Thành phần hạt. Hạt inchi chứa nhiều protein (27%) và dầu (35 - 60%). Dầu chứa nhiều các axit béo thiết yếu như axit omega-3 linolenic (≈45-53% tổng hàm lượng chất béo) và axit omega-6 linoleic (≈34-39% tổng hàm lượng chất béo), cũng như axit omega-9 không thiết yếu (≈6-10% tổng hàm lượng chất béo). hạt sachi cũng có chứa nhiều vitamin E,A các khoáng chất như kali,magnesi,calci, chất xơ cùng nhiều chất chống oxi hoá khác. nó còn cung cấp 1 lương calo tương đối đáp ứng nhu cầu hoạt động, tập luyện. 28g hạt này sẽ bổ siung cho bạn khoảng 170 calo Sử dụng ngày nay. Dầu sacha inchi có hương vị phảng phất với vị hạt dẻ và có thể thích hợp với một loạt các món ăn, mặc dù nếu dùng hàng ngày trong một tuần thì một số người trong thử nghiệm có biểu hiện chấp nhận thấp loại dầu ăn này. Chứa nhiều axit alpha-linolenic, loại dầu ăn này đã được đánh giá trong một nghiên cứu về tiêu hóa kéo dài 4 tháng (10-15 ml/ngày) đối với người lớn, chỉ ra rằng nó là an toàn và có xu hướng gia tăng nồng độ cholesterol HDL trong máu. Tại Peru trong năm 2009, nhóm nhân đạo Oxfam đã hỗ trợ kỹ thuật trồng sacha inchi như một loại cây trồng thu hoa lợi cho các nhóm sắc tộc bản xứ, như người Ashaninka. Sacha Inchi có hàm lượng cao tryptophan (một loại hormone và chất dẫn truyền thần kinh) giúp não giải phóng căng thẳng và cảm thấy tốt hơn, làm giảm cholesterol xấu (LDL) và tăng cholesterol TỐT (HDL), tăng cường Omega-3 giúp cơ thể hấp thụ calci, giúp cải thiện mật độ và sức khỏe của xương
1
null
Reutealis trisperma là một loài thực vật có hoa trong họ Đại kích. Loài này được Blanco miêu tả khoa học đầu tiên năm 1837 dưới danh pháp "Aleurites trispermus". Năm 1966 Airy Shaw chuyển nó sang chi "Reutealis". Loài này đặc hữu Philippines và được sử dụng tại đây như một loài cây lấy gỗ. Tên tiếng Anh của nó là "Philippine tung" (đồng/trẩu Philippines).
1
null
Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Mã thị (chữ Hán: 孝慈高皇后馬氏, 18 tháng 7 năm 1332 – 23 tháng 9 năm 1382), thường gọi Minh Thái Tổ Mã Hoàng hậu (明太祖馬皇后) để phân biệt với vị Hoàng hậu cùng thụy hiệu đời Thanh. Là Hoàng hậu đầu tiên của triều đại nhà Minh, Mã thị cũng là vị Hoàng hậu duy nhất của triều đại Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương - Hoàng đế khai quốc của triều đại này. Sách sử không hề ghi rõ tên thật của bà, trong những tác phẩm tiểu thuyết như "Đại Minh anh liệt" (大明英烈) thì bà tên Mã Ngọc Hoàn (馬玉环), dã sử địa phương gọi là Mã Tú Anh (馬秀英). Trong dân gian, bà được gọi là Đại Cước hoàng hậu (大腳皇后) nên còn gọi là Mã Đại Cước (马大脚) vì tương truyền bà có bàn chân rất to ("Cước" nghĩa là bàn chân). Thân thế. Hiếu Từ Cao hoàng hậu họ Mã (馬氏), người ở Túc Châu, phủ Quy Đức (归德府; nay là khu vực thành phố Túc Châu, tỉnh An Huy). Sử ký không chép rõ tên cha mẹ bà, Minh sử ghi đại khái là Mã công (馬公) và Trịnh ẩu (鄭媼). Mẹ của Mã thị là Trịnh ẩu mất sớm, cha bà là Mã công vốn có quan hệ tốt với Quách Tử Hưng, nên sau khi Mã công chết, Mã thị được sống trong phủ Quách Tử Hưng, nhận Tử Hưng làm cha nuôi. Theo Minh Sử diễn nghĩa của Thái Đông Phiên thời nhà Thanh, Mã thị được Quách Tử Hưng dạy chữ viết và phép tính, còn vợ là Trương thị dạy về nữ công. Tương truyền Mã thị rất thông minh, học đều rất nhanh chóng. Khoảng năm Chí Chính thứ 12 triều Nguyên (1352), đất nước bắt đầu loạn lạc, Quách Tử Hưng gầy dựng thế lực riêng ở Hào Châu. Lúc ấy Chu Nguyên Chương còn hàn vi, đến trước nhà họ Quách mà xin vào làm thủ hạ cho Quách Tử Hưng, sau Hưng muốn thu phục Chu Nguyên Chương nên gả Mã thị cho Nguyên Chương, kết tóc làm phu thê. Chu Nguyên Chương và Mã thị rất ân ái, hoạn nạn luôn có nhau. Cũng do tâm tư tỉ mỉ cùng rất giỏi viết chữ nghĩa mà bà được giao cậy văn thư quan trọng của Chu Nguyên Chương. Khi ấy Chu Nguyên Chương thu 3 người cháu, một là Chu Văn Chính, cháu bên chị Lý Văn Trung và còn có Mộc Anh. Mã thị đối với 3 người con này đều tỉ mỉ cẩn thận. Dù đã thu nhận Chu Nguyên Chương, nhưng Quách Tử Hưng vốn là người đa nghi, dễ nghe lời dèm, cũng từng nhiều lần ngờ vực Chu Nguyên Chương. Mã thị biết được, bà thường tự mình khuyên giải, giúp Chu Nguyên Chương giảng hòa với cha nuôi. Khi Chu Nguyên Chương tính tự mình gầy dựng đại nghiệp, Mã thị cũng ở phía sau giúp đỡ gia đình tướng sĩ, tự tay may áo cho quân sĩ khi cấp bách. Gặp phải Trần Hữu Lượng khiêu chiến, bà khuyên Nguyên Chương không nên lạm sát khi toàn thắng, để thu phục nhân tâm. Đối với việc Chu Nguyên Chương toàn thắng lên ngôi, không thể không kể công của bà. Hoàng hậu nhà Minh. Biểu dương nữ phạm. Năm Hồng Vũ nguyên niên (1368), tháng giêng, Chu Nguyên Chương lên ngôi Hoàng đế ở Nam Kinh, lập ra Nhà Minh, xưng niên hiệu là Hồng Vũ (洪武). Với tư cách là chính thất của Hoàng đế, Mã thị được lập làm Hoàng hậu. Con trai của bà là Chu Tiêu được lập làm Hoàng thái tử, các con trai khác đều phong làm Thân vương. Bà chủ trương không cho Chu Nguyên Chương trọng dụng họ Mã của bà, tránh họa ngoại thích cho triều đình. Nhân vì cha mẹ bà mất sớm, nên Chu Nguyên Chương cho truy phong cha bà là Mã công làm "Từ vương" (徐王), mẹ Trịnh thị là "Từ vương phu nhân" (徐王夫人). Mặc dù Mã thị là Hoàng hậu nhưng bà đề cao tiết kiệm, cơm canh của Hoàng đế đều do tự Mã Hoàng hậu xem xét. Bà cũng chuộng ăn mặc giản dị, nghe nói Hoàng hậu của Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt là Sát Tất lấy dây cung dệt bạch y, nên ba cũng lập nhà may dệt tự dệt vài chất liệu vải, còn ban cho Phi tần cùng Công chúa và Mệnh phụ mỗi khi họ vào cung. Khi còn ở nhà họ Quách, Chu Nguyên Chương từng bị nhốt giam trong biệt thất, không cho ăn uống, Mã Hoàng hậu thường trộm nấu cơm làm bánh, đem giấu ở trong ngực lén đưa cho Chu Nguyên Chương, vì thế phần làn da trước ngực đều bị bỏng (Nguyên văn: 后竊炊餅,懷以進,肉為焦。). Tương truyền chính vì cách dùng "nhục vi tiêu" (肉為焦) này của Minh sử, mà về sau người Trung Quốc hay gọi "bánh hấp" (炊饼) thành "bánh nướng" (烧饼). Bà còn hay dự trữ thịt cho quân trang, nên đến đêm cũng ăn chưa no. Ngày nay hiển quý rồi, Chu Nguyên Chương nói với quần thần Hoàng hậu hiền đức, có thể sánh Trưởng Tôn hoàng hậu thời nhà Đường, nhưng bà khiêm tốn nói: ["Thiếp thường nghe 'Phu phụ tương bảo dịch, Quân thần tương bảo nan'. Bệ hạ nếu đã không quên thiếp khi bần tiện, nguyện cũng mong bệ hạ không quên các quần thần cùng hiệp lực lúc gian nan. Còn như so với Trưởng Tôn hoàng hậu, thật sự không dám nghĩ!"]. Vào khi bà giảng dạy nữ đức cho cung nhân, Mã Hoàng hậu thực hiện thao tác "coi trọng cổ huấn", thường lấy các Hiền hậu đời nhà Tống, nên mệnh cho các nữ quan tra xem các hành vi điển phạm Tống triều, rồi thường xuyên lật xem xem xét. Có nữ sử nói các Hoàng hậu nhà Tống quá mức nhân hậu, bà nói: ["Quá mức nhân hậu. Như vậy so với quá mức độc ác, không phải càng tốt hôn sao?"]. Có một ngày, sau khi xem Sử ký cùng Hán thư, bà ngẫu nhiên hỏi một nữ sử: ["Thuật thuyết Hoàng Lão là điều gì? Vì sao Đậu Thái hậu triều Hán lại say mê như vậy?"]. Vị nữ sử đáp: ["Thuật thuyết Hoàng Lão là đem thanh tĩnh vô vi làm căn bản. Vứt đi nhân nghĩa, khuyến khích dân chúng hiếu thuận hữu ái. Đó là đạo lý của thuật này"]. Nghe xong vậy, bà nói: ["Hiếu thuận hữu ái chính là nhân nghĩa, lại có thể bỏ đi 'nhân nghĩa', kêu người ta chú trọng 'hiếu thuận hữu ái' ư?"]. Đối với dân chúng, Mã Hoàng hậu cũng biểu lộ sự quan tâm dù thân phận một Hậu phi không tiện biết được tường tận. Một ngày, Hoàng hậu hỏi Chu Nguyên Chương: ["Hiện giờ dân chúng trong thiên hạ có yên ổn không?"]. Hoàng đế bèn nói: ["Chuyện này không điều là điều nàng nên bận tâm"], thế rồi bà đáp: ["Bệ hạ ngài là phụ thân của người trong thiên hạ, thiếp may mắn có thể trở thành mẫu thân của người trong thiên hạ. Con cái yên ổn hay không, thiếp sao lại có thể không hỏi!"]. Mỗi khi trong nước có thiên tai, Hoàng hậu liền suất lĩnh cung nhân ăn cơm canh đạm bạc, trợ giúp bá tánh cầu nguyện. Chu Nguyên Chương đôi khi sẽ đem chuyện cứu tế nói cho bà, Hoàng hậu liền nói: ["Thay phiên cứu tế, chẳng bằng vốn đã có tích tụ, cơm áo ấm no"]. Có khi quan viên triều đình thượng tấu xong sự tình, yến tiệc chiêu đãi trong cung bắt đầu, Hoàng hậu liền mệnh lệnh hoạn quan lấy tới rượu và thức ăn nếm thử, hương vị không tốt, bèn nói: ["Làm đồ cung phụng chủ tử của mình không tốt. Thế hẳn cung phụng người khác sẽ tận tâm"]. Chu Nguyên Chương liền cho trách phạt quan viên Quang lộc tự. Giúp chồng được tiếng nhân. Chu Nguyên Chương xử lý sự vụ ở trước điện, có khi nổi giận đùng đùng, Mã Hoàng hậu chờ Chu Nguyên Chương trở lại hậu cung, thường lấy lý lẽ uyển chuyển mà khuyên can. Tính cách của Chu Nguyên Chương rất cương quyết, bởi vì có Mã Hoàng hậu khuyên can mà thường có nhiều người được miễn giảm hình phạt. Tham quân Quách Cảnh Tường khi lưu thủ Hòa Châu, nghe nói con trai là Trì Sóc muốn giết cha, Chu Nguyên Chương nổi giận, muốn đem xử tử Trì Sóc. Bà bèn khuyên: ["Quách Cảnh Tường chỉ có 1 đứa con trai duy nhất, kẻ khác mật báo thường sẽ có hiềm nghi, giết hắn chỉ sợ Quách Cảnh Tường cũng sẽ tuyệt tự"]. Chu Nguyên Chương nghe thế bèn cho tra rõ sự tình, phát hiện Trì Sóc quả thực oan uổng. Khi con nuôi Chu Nguyên Chương là Lý Văn Trung thủ vệ Nghiêm Châu, có Dương Hiến vu cáo hắn không tuân thủ pháp luật, Chu Nguyên Chương muốn triệu Lý Văn Trung về, Mã Hoàng hậu bèn can: ["Nghiêm Châu là nơi trọng hiểm, trước mặt sau lưng đều là thù. Nay tự tiện đổi tướng lĩnh, quả thực là hạ sách. Huống hồ Văn Trung từ trước đến nay tài đức sáng suốt, Dương Hiến chỉ nói qua loa một lời thì sao có thể tin ngay được?!"]. Chu Nguyên Chương vì thế đình chỉ chuyện này, Lý Văn Trung sau lại rốt cuộc lập công lớn. Khi đó, học sĩ Tống Liêm bởi vì sự việc Tôn Thận mà bị tội. Mã Hoàng hậu khuyên can: ["Các bá tánh dân gian vì con nhỏ mà thỉnh Lão sư, còn đem 'Tôn sư chi lễ' thừa hành cả đời, huống hồ là hoàng gia thiên tử? Tống Liêm chỉ quanh quẩn trong nhà, nhất định là không biết chuyện bên ngoài!"]. Chu Nguyên Chương không nghe. Khi Mã Hoàng hậu làm lễ dâng cơm hầu Hoàng đế, bà không ăn không uống, Hoàng đế lại hỏi sự tình, thì bà lại nói: ["Thiếp vì Tống tiên sinh mà làm một chuyện công đức"]. Chu Nguyên Chương nội tâm cũng cảm thấy buồn bã, vì thế buông chiếc đũa đứng lên. Ngày hôm sau, Hoàng đế đặc xá Tống Liêm miễn tử tội, đem ông ta an trí đến Mậu Châu. Lại có phù hào Thẩm Vạn Tam nhiều năm giao thương bên ngoài, cậy mình giàu có mà tự tiện khao thưởng Thiên tử quân. Chu Nguyên Chương nghe được cảm thấy bị sỉ nhục mà muốn giết, cũng nhờ Mã Hoàng hậu mà chỉ đày đi Vân Nam. Thời Chu Nguyên Chương, hễ khi có tội phạm mang án nặng, ông đều sai cho đến xây Vạn Lý Trường Thành. Mã Hoàng hậu cầm lòng không được, bèn xin: ["Thông qua phạt lao dịch để chuộc tội, đây là ân huệ lớn nhất mà quốc gia đối đãi tù phạm trọng tội. Nhưng lỡ như thân thể bạo bệnh mà còn phải làm lao dịch, chỉ sợ vẫn không tránh được tử vong"]. Chu Nguyên Chương vì thế cho đặc xá bọn họ. Trong cung cũng hay có cung phi đắc tội Chu Nguyên Chương. Có một hôm, một cung nhân gây Hoàng đế đại nộ, ông giận dữ trách mắng, Mã Hoàng hậu cũng làm bộ tức giận mà sai đem đến Cung chính ty nghị tội, Hoàng đế bèn hỏi: ["Vì cái gì?"], bà đáp: ["Làm một Đế vương không thể vì hỉ nộ mà tùy ý thưởng phạt. Khi ngài tức giận, chỉ sợ trách phạt có điều không công bằng. Nay đem nàng ta đến Cung chính ty là có thể phán định tương đối hợp lý. Thiết đặt Cung chính ty chính là để thẩm tra cung nhân có tội, ngài chỉ cần giao cơ quan có thẩm quyền xử lý là được"]. Mã Hoàng hậu phi thường yêu quý nhân tài. Một lần Chu Nguyên Chương thị sát Thái học trở về, bà hỏi Thái học có bao nhiêu học sinh, Chu Nguyên Chương đáp có mấy ngàn người. Mã Hoàng hậu nói: ["Mấy ngàn Thái học sinh, có thể nói nhân tài đông đúc. Nhưng Thái học sinh tuy có sinh hoạt trợ cấp, nhưng thê tử và nữ nhi của bọn họ thì dựa vào cái gì đây?"]. Sau nhiều lần thuyết phục, Chu Nguyên Chương đồng ý thu thập một số tiền lương, thiết trí 20 hồng bản thương đem chia ra cho các nhà của Thái học sinh, do đó thê nhi của các Thái học sinh này vô cùng cảm tạ công đức. Qua đời. Năm Hồng Vũ thứ 15 (1382), tháng 8, Mã Hoàng hậu đột nhiên nhiễm bệnh. Quần thần thỉnh cầu nên lập đàn cầu nguyện hiến tế, lấy Thái Y viện lương y chẩn trị. Hoàng hậu nhất quyết can, nói: ["Sống chết là vận mệnh an bài, cầu nguyện hiến tế có chỗ lợi gì đâu! Huống hồ Y sinh làm sao tài thánh mà đem người sống mãi trường thọ, nếu như uống thuốc không thể thấy hiệu quả, chỉ sợ sẽ chỉ bởi vì ta mà giáng tội các vị Y sinh sao?"]. Lúc bà hấp hối, Chu Nguyên Chương ở bên bà không rời, hỏi bà còn điều gì trăn trối, bà nói: ["Hy vọng bệ hạ có thể cầu lấy người hiền năng, nghe ý kiến của người khác, từ đầu đến cuối, nghiêm túc đối đãi, con cháu đều có thể đủ hiền năng. Như vậy đại thần cùng bá tánh đều có thể ngưỡng vọng"]. Thế rồi vào ngày Bính Tuất tháng ấy (tức ngày 23 tháng 9 dương lịch), Hoàng hậu Mã thị băng thệ, thọ 51 tuổi. Thái Tổ Chu Nguyên Chương rất cảm khái đau buồn, và ông quyết định không lập ai khác làm Hoàng hậu nữa. Sau khi Mã hoàng hậu mất, Lý Thục phi rồi Quách Ninh phi lần lượt có quyền "Nhiếp lục cung sự", song không ai còn đủ tư cách khiến Chu Nguyên Chương chọn lập làm Hoàng hậu nữa. Sau khi Mã Hoàng hậu mất, trong cung thị nữ, cung nhân đều cảm thương tiếc nuối, nhiều lời hát được sáng tác để tưởng niệm Mã hoàng hậu vì tấm lòng hiền từ của bà. Trong đó có câu: ["Ngã hậu thánh từ, hóa hành gia bang. Phủ ngã dục ngã, hoài đức nan vong. Hoài đức nan vong, ư vạn tư niên. Bí bỉ hạ tuyền, du du thương thiên"; 我后聖慈,化行家邦。撫我育我,懷德難忘。懷德難忘,於萬斯年。毖彼下泉,悠悠蒼天]. Theo thể chế, Hoàng hậu băng thệ đều phải có thụy hiệu để đời sau gọi, và Chu Nguyên Chương cho truy thụy của bà là Hiếu Từ Hoàng hậu (孝慈皇后). Sau khi Minh Thái Tổ băng hà, có Đế thụy là [Cao], Mã thị được dâng thêm thụy hiệu nữa, bà được đổi gọi thành ["Hiếu Từ Cao Hoàng hậu"] hoặc ["Cao Hoàng hậu"]. Trải qua các đời Hoàng đế nhà Minh, thụy hiệu của bà toàn xưng thành Hiếu Từ Trinh Hóa Triết Thuận Nhân Huy Thành Thiên Dục Thánh Chí Đức Cao Hoàng hậu (孝慈貞化哲順仁徽成天育聖至德高皇后). Hậu duệ. Căn cứ Minh sử, Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Mã thị sinh ra 5 hoàng tử cùng 2 vị hoàng nữ. Song rất nhiều thuyết cho rằng Mã Hoàng hậu không hề sinh ra bất kỳ ai, mà đều là cung nhân khác sinh ra, và lấy danh nghĩa của bà làm con. Sách "Tội duy lục" (罪惟錄) của người Minh ghi chép lại đương thời, song đã từng nhắc đến "Có người nói Cao Hoàng hậu không con", chứng tỏ việc này đã sớm bị người Minh hoài nghi, chưa nói đến về sau. Bên cạnh đó, Phụng sứ lục (奉使录) của người Triều Tiên đương thời cũng ghi lại nhận định Chu Đệ không phải do Mã Hoàng hậu sinh ra. Sách "Tĩnh Chí cư thi thoại" (靜志居詩話) của Chu Di Tôn (朱彝尊), cuốn 13, nhan đề "Thẩm Nguyên hoa điều" (沈元華條) có viết: ["Phụng Tiên Miếu chế (Nam Kinh Thái Miếu Phụng Tiên điện), cao về phía mặt Nam, chư Phi đều ở phía Đông, riêng phía Tây chỉ chừa 1 vị Cống phi, cứ theo Nam Kinh Thái thường chí. Cao hậu sinh thời thiện lương nhưng chưa từng có mang, dẫu cho Trường lăng (ý nói Chu Đệ), đến Ý Văn Thái tử cũng không phải Hậu sở sinh"; 奉先廟制(南京太廟奉先殿)高後南面,諸妃盡東列,西序惟碽妃一人,具載南京太常寺志。善高后從未懷妊,豈惟長陵,即懿文太子亦非后生也。]. Tuy nhiên "Thái thường tự chí" được nhắc đến bên trên, phần nhiều đã được chứng minh là bóp méo sai sự thực, và người bóp méo là Trương Đình Ngọc, khi soạn sử Minh nhưng "hư hư thực thực" biên vào các ký lục truyền miệng. Rốt cuộc, cho đến nay vẫn không có căn cứ nào minh xác chứng minh Mã Hoàng hậu không con. Căn cứ Minh sử chính thức, các con của bà gồm:
1
null
Anigozanthos humilis là một loài thực vật có hoa trong họ họ Huyết bì thảo. Loài này được Lindl. mô tả khoa học đầu tiên năm 1839. Loài thực vật có hoa sống lâu năm ra hoa này là loài đặc hữu của Tây Nam Úc và phổ biến rộng rãi trong các khu rừng mở của nó. Loài này có hình hoa thị ở gốc bao gồm những chiếc lá dài giống như dây đeo, nổi lên trên bề mặt đất từ ​​một thân rễ bên dưới. Một bó hoa xuất hiện ở điểm cuối của thân cây dài, tạo cho cây có chiều cao lên tới một mét. Dạng củ của nụ hoa có màu vàng, trở thành màu cam sau đó là màu đỏ khi mở. Loài này được John Lindley mô tả lần đầu tiên trong tác phẩm năm 1840 "A sketch of the vegetation of the Swan River Colony" (Một bản phác thảo thảm thực vật của Thuộc địa sông Swan). Ba phân loài cũng đã được mô tả và công nhận. Trong khi phân loài "Anigozanthos humilis" subsp. "humilis" là phổ biến và không bị đe dọa, phân loài hiếm hơn được mô tả bởi Stephen Hopper được liệt kê với một trạng thái bảo tồn "Anigozanthos humilis" subsp. "Badgingarra" được Bộ Môi trường và Bảo tồn liệt kê là kém nổi tiếng. và phân loài "Anigozanthos humilis" subsp. "chrysanthus", đã được liệt kê là hiếm bởi cùng một cơ quan. Cây được trồng rộng rãi, và có thể chịu được khí hậu nóng ẩm, nhưng cần có sự bảo vệ mùa đông ở vùng ôn đới. Nó đã giành được giải thưởng của Hiệp hội vườn trồng trọt Hoàng gia.
1
null
Blancoa canescens là một loài thực vật có hoa trong họ Huyết bì thảo. Loài này được John Lindley mô tả khoa học đầu tiên năm 1839. Nó là loài đặc hữu miền tây Tây Australia và là loài duy nhất của chi Blancoa. Tên chi "Blancoa" là đặt theo tên của Francisco Manuel Blanco (1778-1845), một tu sĩ dòng Augustinô kiêm nhà thực vật học người Tây Ban Nha.
1
null
Vạn diệp hay còn gọi cúc vạn diệp, cỏ thi, dương kỳ (Danh pháp khoa học: Achillea millefolium) là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc (Asteraceae). Nó có nguồn gốc từ các vùng ôn đới Bắc bán cầu tại châu Á, châu Âu, và Bắc Mỹ. Ở New Mexico và miền nam Colorado, nó được gọi là "plumajillo" (tiếng Tây Ban Nha nghĩa là 'lông vũ nhỏ') do hình dạng lá của nó. Phân bố. Vạn diệp mọc từ ngang mặt nước biển đến độ cao . Chúng nở hoa vào tháng 5-6, và thường sống tại vùng đồng cỏ hay rừng mở. Phát triển mạnh vào mùa xuân. Tại Bắc Mỹ, có cả cây bản địa và du nhập, và cả lưỡng bội và đa bội. Nó sống ở mọi sinh cảnh trên toàn California trừ Colorado và xa mạc Mojave. Loài cây này đã được du nhập vào Úc. Thứ. Các thứ và phân loài là:
1
null
Thảm sát Bình An hay còn gọi là thảm sát Tây Vinh (tiếng Triều Tiên: 타이빈 양민 학살 사건) là một loạt các cuộc thảm sát do sư đoàn bộ binh thiết giáp thủ đô (hangul: 수도기계화보병사단; hanja:首都機械化步兵師團) của quân đội Hàn Quốc thực hiện đối với dân thường Việt Nam tại xã Bình An, nay là 3 xã Tây Vinh, Tây Bình, Tây An thuộc huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Trong suốt cuộc hành quân, lính Nam Hàn đã đột kích 15 thôn của xã Bình An (cũ). Điển hình tại một thôn, họ đã lùng sục và bắn chết 68 người, chỉ có 3 thường dân sống sót. Bối cảnh sự kiện. Từ giữa năm 1965, trong chiến lược chiến tranh cục bộ, quân đội viễn chinh Mỹ và quân chư hầu cùng với một khối lượng lớn vũ khí, khí tài chiến tranh được ồ ạt đưa vào miền Nam. Tại chiến trường Bình Định, nhiều đơn vị quân sự thiện chiến như Sư đoàn Kỵ binh bay số 1 của Mỹ, Sư đoàn Mãnh Hổ, Lữ đoàn Bạch Mã của Nam Hàn… đã xung trận. Lực lượng này đã thực hiện hàng loạt vụ càn quét, thảm sát. Những vụ thảm sát liên tiếp diễn ra ở huyện Tuy Phước như Tân Giảng (xã Phước Hòa), Nho Lâm (xã Phước Hưng) và nhiều nơi khác. Nhưng điển hình nhất cho những tội ác man rợ đó là vụ thảm sát do lính Nam Hàn gây ra ở Bình An (xã Tây Vinh) vào tháng 2 năm 1966. Từ ngày 23/01 đến 26/2/1966, khoảng 1.200 người dân thường của xã Bình An (cũ) bị lính đánh thuê Nam Triều Tiên giết. Chỉ trong một giờ ngày 26/2, có 380 dân thường ở thôn Gò Dài đã bị giết, tất cả nạn nhân được chôn chung cùng một hố. Tưởng niệm. Do nhiều gia đình, người làng bị thảm sát cùng thời gian, những người còn sống lấy 26/2 làm ngày giỗ chung của cả làng. Thôn Gò Dài là nơi có hố chôn tập thể lớn nhất đã trở thành Khu chứng tích Gò Dài - nơi tưởng niệm những người đã chết trong vụ thảm sát.
1
null
Trong topo học của không gian metric, định lý Heine-Borel, được đặt theo tên của Eduard Heine và Émile Borel, phát biểu rằng: Đối với một tập con "A" trong không gian Euclide formula_1, thì 2 mệnh đề sau đây là tương đương nhau: Trong thực tế, định lý Heine-Borel được phát biểu cho bất kỳ một không gian metric nào, như sau: Chứng minh. Giả sử formula_2 compact. Vì formula_1 là không gian Hausdorff nên formula_2 đóng. Lấy một họ các phủ mở của formula_2. Vì formula_2 compact nên có phủ con hữu hạn. Do đó có formula_9 sao cho formula_10. Nên, với hai điểm bất kỳ formula_11 và formula_12 của formula_2, ta có formula_14. Vậy formula_2 bị chặn. Ngược lại, nếu formula_2 đóng và bị chặn, giả sử formula_17 với mọi formula_18. Cố định một điểm formula_19 của formula_2, đặt formula_21. Khi đó, với mọi formula_22 thì Đặt formula_24, thì formula_2 là tập con của formula_26, là tập compact. Vì formula_2 đóng nên formula_2 cũng compact.
1
null
Sonchus megalocarpus là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được Joseph Dalton Hooker mô tả khoa học đầu tiên năm 1856 dưới danh pháp "Sonchus asper" var. "megalocarpus". Năm 1929, John McConnell Black nâng cấp nó thành loài riêng biệt. Năm 1976, Nicholas Sèan Lander tách nó thành loài duy nhất của chi "Actites". Nghiên cứu năm 2004 cho thấy "A. megalocarpa" có quan hệ họ hàng gần với "Sonchus maritimus" và "Sonchus arvensis". Vì thế, nó được chuyển trở lại chi "Sonchus" nghĩa rộng.
1
null
Mùi hương: Chuyện một kẻ giết người (tiếng Đức: "Das Parfum: Die Geschichte eines Mörders") là tên tiểu thuyết đầu tay của Patrick Süskind xuất bản lần đầu tại Đức năm 1985. Truyện xoay quanh Jean-Baptiste Grenouille, một người học nghề nước hoa sống tại Pháp vào thế kỷ 18, cùng chuyến hành trình đi tìm mùi hương tối thượng, tinh khiết nhất từ các trinh nữ, những người sẽ bị Grenouille truy sát. Cốt truyện. Grenouille (tiếng Pháp: "Con cóc") là đứa con không mong đợi được sinh ra tại một hàng cá tại Paris, Pháp. Khác với những anh chị xấu số của mình, Grenouille đã sống sót và tiếng khóc ré của thằng bé đã đưa mẹ nó vào chỗ chết. Số phận thằng bé "bị quỷ ám", "chẳng có mùi" nhưng khứu giác lại cực nhạy, đã trải qua nhiều bà vú, tu viện rồi trại trẻ mồ côi và sau đó là xưởng thuộc da. Grenouille trong thời gian rảnh của mình thường đi hết mọi đường cùng ngõ hẻm để khám phá mùi hương của Paris, không vì gì ngoài để thoả mãn lòng tham thích ngửi mùi của mình. Vào một ngày nọ, khi đã nhớ được gần hết mùi, thằng bé khám phá ra một mùi mà nó chưa bao giờ biết để rồi tìm ra nó đến từ một thiếu nữ đang thái mận. Đó là lần đầu tiên hắn ngửi thấy một mùi hương như thế "tuyệt diệu" vả cảm thụ "cái đẹp thuần tuý". Sau khi gây ra cái chết của cô gái và đã hít từng chút một mùi của cô, Grenouille trở về và quyết tâm trở thành một nhà chế tạo nước hoa vĩ đại nhất thế giới, tạo nên và lưu giữ những mùi như mùi hương thiếu nữ. Trên đường tìm kiếm cách thức để bảo quản mùi hương, Grenouille đã đến học việc một nhà làm nước hoa nổi tiếng tên Baldini. Tài năng xuất sắc của cậu học trò mới này đã giúp Baldini trở thành nhà chế tạo nước hoa nổi tiếng nhất Paris. Cũng trong thời gian này, Grenouille khám phá ra rằng không thể chưng cất, cách mà Baldini vẫn sử dụng, để lưu lại mùi của các chất vô cơ, như thủy tinh hay đồng. Trong lúc thất vọng và nằm bệnh liệt giường, Grenouille được Baldini chỉ cho rằng còn có những cách khác để bảo quản mùi hương và thế là Grenouille lại dứt áo ra đi để đến Grasse, miền đất của những nhà làm nước hoa. Còn Baldini thì được các công thức chế tạo nước hoa do Grenouille chỉ cho. Không lâu sau, Baldini và vợ đã chết do sập nhà. Bảy năm sau đó, Grenouille đến đỉnh núi Plomb du Cantal vùng Massif Central và sống tách biệt hoàn toàn với con người vì kinh hãi "uế khí" của họ. Hắn tưởng tượng mình là Grenouille Vĩ Đại của một vương quốc của riêng hắn, tự thưởng thức trong đầu tất cả những mùi hương hắn từng được ngửi. Và mỗi ngày trước khi đi ngủ, hắn hít chai mùi hương của cô gái với quả mận năm xưa. Cũng trong thời gian này, hắn khám phá ra rằng cơ thể mình không hề có mùi. Sau bảy năm, Grenouille đi đến Montpellier và lọt vào tầm ngắm của Marquis de La Taillade-Espinasse, một quý tộc và học giả nghiệp dư với lý thuyết "fluidum letale" của mình. Grenouille trở thành đối tượng để Marquis thử nghiệm khử độc và hồi phục sinh khí và từ "một con thú" trở thành "một con người" với một diện mạo, trang phục mới. Hắn cũng tìm ra cách tạo cho mình một mùi hương để hoà nhập con người từ các thành phần như phân mèo hay pho mát. Cuối cùng, hắn cũng bỏ chạy khỏi Montpelllier để đến Grasse. Khi vừa đặt chân đến Grasse, hắn đã bị mê hoặc bởi mùi hương của cô gái tên Laure, nhưng hắn cho rằng cô bé còn quá nhỏ và quyết định chờ thêm hai năm để nắm lấy mùi hương chín mùi nhất của cô. Từ một bà goá một nhà chế tạo nước hoa và một thợ cả, Grenouille đã học được cách lưu mùi hương bằng mỡ và thử nghiệm kiến thức ấy với động vật. Hắn khám phá ra mình phải giết con vật nó để mùi không bị lẫn mùi phân và nỗi sợ. Trong khi nhớ nhung về mùi hương của Laure, hắn chợt nhận ra rằng mọi nước hoa mà hắn làm rồi cũng sẽ hết và sợ hãi. Hắn rồi cũng tin rằng để tạo ra mùi hương tối thượng phải mùi hương của Laure với những cô gái khác. Lẳng lặng, hắn lần lượt giết chết 24 trinh nữ xinh đẹp của nơi đó và tóm lấy mùi hương của họ, gây nên nỗi kinh hoàng khắp nơi. Các nạn nhân đều bị lột trần, cạo sạch sẽ và tuyệt nhiên vẫn còn trinh tiết. Sau hai năm án mạng xảy ra và xâu chuỗi lại các dữ kiện, cha Laure nhận ra con gái mình, thiếu nữ đẹp nhất thành phố và đã đến tuổi dậy thì, nhiều khả năng sẽ là nạn nhân tiếp theo. Ông đem con đi trốn nhưng cũng không thoát được khứu giác sắc bén của Grenouille; cô gái không thoát khỏi thảm cảnh của 24 trinh nữ trên. Không lâu sau khi hoàn thành nước hoa của mình, hắn đã bị bắt giải và bị tuyên án tử hình. Hôm thi hành án, hắn để cho nước hoa tối thượng của mình, tổng hợp mùi hương của 25 cô gái, toả hương khắp nơi khiến tất cả mọi người đê mê và choáng ngợp. Đám đông đã biến buổi hành hình thành "một buổi cuồng lạc lớn nhất thế giới từng được chứng kiến từ thế kỷ 2 trước Công nguyên". Người thợ cả mà Grenouille làm việc cho đã bị hành hình thay cho hắn. Thêm nữa, hắn còn được miễn tội và cha của Laure còn muốn nhận hắn làm con nuôi. Tuy nhiên, hắn cảm thấy không thể chịu nổi khi phải sống với con người. Grenouille quay lại Paris và tại đây, hắn gặp một nhóm người "cặn bã xã hội" gồm có kẻ cướp, sát nhân, gái điếm... Hắn đổ tất cả nước hoa lên người mình để cho đám người chú ý. Bị choáng ngợp với nỗi thèm thuồng không cưỡng lại nổi, đám người đó lao đến Grenouille, xé xác hắn thành từng mảnh và ngoạm hết chúng. Khi mùi hương phai đi, ai nấy ban đầu đều cảm thấy ghê tởm vì đã ăn thịt người nhưng đồng thời cũng thấy hạnh phúc lâng lâng, tự hào vì "lần đầu họ đã hành động vì tình yêu". Phát hành và đón nhận. Ngay từ khi ra mắt, tiểu thuyết đã gây được sự chú ý và nhận được nhiều khen ngợi. Trong suốt 9 năm sau khi phát hành, tiểu thuyết này luôn nằm trong tiểu thuyết danh sách bán chạy tại Đức và được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Năm 2006, tiểu thuyết được chuyển thể thành bộ phim cùng tên đạo diễn bởi Tom Tykwer. Nói về cuốn sách, nhiều người đã cho rằng nó là lới đáp trả lại chủ nghĩa hiện thực huyền ảo trong tiểu thuyết "Trăm năm cô đơn" của Gabriel García Márquez. Cuốn sách được mua bản quyền bởi Nhã Nam, dịch ra tiếng Việt từ nguyên tác bởi Lê Chu Cầu và phát hành tại Việt Nam năm 2007 bởi Nhà xuất bản Văn học.
1
null
Aetheorhiza bulbosa là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được Carl Linnaeus mô tả khoa học đầu tiên năm 1753 dưới danh pháp "Leontodon bulbosus". Năm 1827, Alexandre Henri Gabriel de Cassini chuyển nó sang thành loài duy nhất của chi "Aetheorhiza" là "Aetheorhiza bulbosa". Các nghiên cứu năm 2003, 2007 gợi ý rằng nó nên gộp vào chi "Sonchus". Phân bố. Loài này là bản địa khu vực ven Địa Trung Hải (Albania, Algeria, Cyprus, Ai Cập, Pháp, Hy Lạp, Ireland, Italia, Liban, Syria, Libya, Maroc, Palestine, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Tunisia, Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Tư cũ). Phân loài. "A bulbosa" subsp. "bulbosa". "A. bulbosa" subsp. "bulbosa" là phân loài nguyên chủng. Nó có các danh pháp đồng nghĩa như sau: Phân loài này có sự phân bố rộng khắp trong vùng bản địa của cả loài. "A. bulbosa" subsp. "microcephala". "A. bulbosa" subsp. "microcephala" (đồng nghĩa: "Sonchus bulbosus" subsp. "microcephalus" ). Bản địa Cyprus, Hy Lạp, Liban, Syria, Thổ Nhĩ Kỳ. "A. bulbosa" subsp. "willkommii". "A bulbosa" subsp. "willkommii" có các danh pháp đồng nghĩa sau: Phân loài đặc hữu quần đảo Baleares (Tây Ban Nha).
1
null
Ageratina aromatica là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được (L.) Spach mô tả khoa học đầu tiên năm 1841. Loài cây này phân bố rộng rãi và phổ biến khắp phần lớn khu vực đông và nam Hoa Kỳ, từ Louisiana đến Massachusetts, và sâu trong nội địa đến tận Kentucky và Ohio.
1
null
Yên vương (chữ Hán: 燕王, "Yànwáng", "vua nước Yên") là tước hiệu của những người đứng đầu nước Yên thời Xuân Thu và Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc, hay vùng đất xung quanh khu vực Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay). Thông thường, tước hiệu này chỉ các quân chủ của nước Yên trước khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc. Kể từ thời nhà Hán trở đi, nó trở thành tước hiệu cho các hoàng tử hoặc thân vương tới trấn giữ đất Yên - một vị trí phòng thủ quan trọng của Đế quốc Trung Hoa trước sự xâm lược của các dân tộc du mục phương Bắc như Mông Cổ và Mãn Châu.
1
null
Sâm bố chính hay còn gọi là sâm báo, Sâm Thổ Hào (Thổ Hào Sâm) (danh pháp hai phần: Abelmoschus sagittifolius) là một loài thực vật có hoa trong họ Cẩm quỳ. Loài này được (Kurz) Merr. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1924. Sâm thổ hào trước kia có nguồn gốc tại Thanh Hà, Thanh Chương, Nghệ An. Qua thời gian những gốc sâm Thổ Hào tự nhiên bị khai thác dần cạn kiệt. Để phục hồi loại sâm quý "tiến vua", là dược liệu quý để dâng vua, tiến chúa từ những năm 1400. Được danh y Hải Thượng Lãn Ông dùng làm thuốc lần đầu tiên tại huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, nên thường được gọi với cái tên khác là Sâm Bố Chính. Thành phần hóa học. Rễ sâm bố chính chứa chất nhầy 35 - 40%, tinh bột (Đỗ Tất Lợi, 1999). Theo Trần Công Luận và cs, 2001, rễ cây sâm Bố Chính trồng ở Bạc Liêu chứa phytosterol, coumarin, acid béo, acid hữu cơ, đường khử và hợp chất uronic. Hàm lượng lipid là 3,96%. lipid gồm acid myrisric, acid palmitic, acid stearic, acid oleic, acid linoleic, acid linolenic. Hàm lượng protein toàn phần là 0,23g %, hàm lượng protid là 1,26g %. Các amino acid gồm 11 chất, trong đó có histidin, arginin, threonin, alanin,prolin, tyrosin, valin, phenylalanin và leucin. Hàm lượng tinh bột là 15,14% và chất nhầy là 18,92%. Chất nhầy là D-glucose và L-rhamnose. Ngoài ra, còn có 13 nguyên tố: Na, Ca, Mg, Al, So Fe, V, Mn, Ti, Mo, Cu, Zr và P.
1
null
Abroma augustum là một loài thực vật có hoa trong họ Cẩm quỳ (Malvaceae). Loài này được Carl Linnaeus mô tả khoa học đầu tiên năm 1768 dưới danh pháp "Theobroma augusta". Năm 1776, Nikolaus Joseph von Jacquin mô tả chi "Abroma" với loài duy nhất được tác giả gọi là "Abroma fastuosum" kèm theo miêu tả và hình minh họa. Tuy nhiên, do Jacquin đã đổi tên từ tên gọi "Theobroma augusta" L., nên theo quy tắc của ICN thì tên gọi đúng phải là "Abroma augustum", còn "A. fastuosum" là tên gọi bất hợp lệ. Tên gọi chính xác của loài điển hình ("A. augustum" ) đã được Carl Linnaeus Trẻ đặt năm 1782. Các tên gọi trong tiếng Việt của loài này là tai mèo, bất thực, vông vàng, bông vàng, múc, bom wan.
1
null
Cassadee Blake Pope (sinh ngày 28 tháng 8 năm 1989) là một ca sĩ, nhạc sĩ người Mỹ và là giọng ca chính của ban nhạc pop rock Hey Monday (ban nhạc hiện nay đang bị gián đoạn kể từ tháng 12 năm 2011). Với ban nhạc, cô phát hành album "Hold on Tight" và ba đĩa đơn. Pope bắt tay vào sự nghiệp solo được công bố vào tháng 12 năm 2011, nhưng vẫn trấn an người hâm mộ rằng ban nhạc sẽ không "tan rã". Vào đầu năm 2012, cô có tour diễn solo acoustic đầu tiên của mình trước khi phát hành đĩa đơn đầu tay vào tháng 5 năm sau. Cô đã tham gia vào mùa giải thứ ba của The Voice US (đài NBC) và đã được giành chiến thắng ngày 18 Tháng 12 2012. Pope trở thành nữ thí sinh chiến thắng đầu tiên của The Voice. Album solo nhạc đồng quê đầu tay, "Frame by Frame", được phát hành vào ngày 08 tháng 10 năm 2013. Đứng thứ 9 trên bảng xếp hạng Billboard 200 và đứng nhất trên bảng xếp hạng Top Country Albums, "Wasting All These Tears" lọt Top 10 đĩa đơn nhạc đồng quê. Cuộc sống và sự nghiệp. Thời thơ ấu và trưởng thành. Cô từng đoạt giải thưởng St Ann trường nhạc Jazz và bắt đầu như một ca sĩ khi ở trường trung học ở West Palm Beach. Pope đã hẹn hò với Rian Dawson, tay trống của All Time Low. Bắt đầu sự nghiệp và Hey Monday: 2008-2011. Trong khi ở trường trung học Wellington ở Wellington, Florida, Pope thành lập ban nhạc Blake với người bạn thân Mike Gentile. Dự án đã giải tán trước khi được ký kết và trong năm 2008, cô và Gentile cùng với Alex Lipshaw, Michael "Jersey" Moriarty, và Elliot James thành lập ban nhạc punk pop Hey Monday. Hey Monday phát hành album studio đầu tiên của họ, "Hold on Tight", trong tháng 10 năm 2008. Pope đã viết hai bài hát và là đồng tác giả của chín bài hát khác. Cô xuất hiện trong video của Fall Out Boy "America's Suitehearts", từ album "Folie à Deux" năm 2008 của họ. Cô cũng là khách mời góp giọng cho bản phối lại ca khúc "Take My Hand" của The Cab, đã xuất hiện trên băng phối nhạc của Fall Out Boy, "Welcome to the New Administration", và xuất hiện trong video âm nhạc cho bài hát vào mùa hè sau năm 2009. Cô đã có một vai khách mời, diễn lại chính mình trong phim truyền hình "", "Degrassi Goes Hollywood", cùng với Pete Wentz. Thành viên Elliot James của Hey Monday rời khỏi ban nhạc vào cuối năm 2009. Đĩa đơn đầu tiên của Hey Monday "Beneath It All" đã được phát hành trong tháng 8 năm 2010. Đĩa đơn "The Christmas" đã được phát hành vào ngày 6 tháng 12 năm 2011. Tiếp theo một thời gian sau đó là thông báo rằng nhóm Hey Monday sẽ có một thời gian gián đoạn không xác định, trong khi các thành viên trong ban nhạc theo đuổi các dự án cá nhân, và Pope sẽ solo. Cũng trong năm 2010, Pope và phần còn lại của Hey Monday cùng với các thành viên từ Stereo Skyline xuất hiện trên một tập phim của chương trình MTV được gọi là "Silent Library; Celebrity Edition". Hey Monday lưu diễn với nhiều ban nhạc như Fall Out Boy, All Time Low và Yellowcard. Pope đã biểu diễn trực tiếp bài hát "We'll Be a Dream" của We the Kings, thay thế cho Demi Lovato (Giọng hát được lựa chọn ban đầu cho ca khúc) cũng như hát trực tiếp cho Yellowcard, The Academy Is..., All Time Low, Attack Attack!, The Cab, Cobra Starship, Fall Out Boy, This Providence, và I See Stars. Sự nghiệp solo và The Voice: 2012-2014. Vào đầu năm 2012, Pope bắt tay vào tour diễn solo đầu tiên của cô tại phía đông và bờ biển phía tây. Cô đã phát hành đĩa đơn đầu tay của cô mang tên "Cassadee Pope EP" vào ngày 22 tháng năm 2012, với bốn bài hát, "Original Love", "Secondhand, I Guess We're Cool", và "Told You So". Tất cả các bài hát trong EP đều được viết bởi Pope. Cô thử giọng cho mùa giải thứ ba của cuộc thi hát nổi tiếng, The Voice US vào mùa hè và tất cả bốn huấn luyện viên đều đã lựa chọn cung cấp cho cô một vị trí trong đội của họ. Cô cuối cùng đã chọn ca sĩ nhạc đồng quê Blake Shelton để là huấn luyện viên của mình. Trong đêm thi trực tiếp thứ ba, Pope thể hiện ca khúc "Over You", ca khúc đồng sáng tác bởi người thầy Shelton về anh trai của ông đã chết trong một tai nạn xe hơi; Pope cống hiến bài hát với ý nghĩa như ông nội tuyệt vời của cô đã qua đời khi cô còn nhỏ. Bài hát đã đạt số một trên bảng xếp hạng iTunes, khiến ca khúc "Gangnam Style" của ca sĩ người Hàn PSY xuống vị trí thứ hai. Cô là thí sinh nữ duy nhất có mặt trong Top 4, nơi cô biểu diễn ca khúc "Stupid Boy" của ca sĩ nhạc đồng quê Keith Urban, và tiếp tục đạt số một trên iTunes. Cô tiến đến trận chung kết của The Voice cùng với Terry Mcdermott cùng là thí sinh trong đội Blake và giành chiến thắng. Pope trở thành nữ thí sinh chiến thắng đầu tiên của The Voice. Một album tổng hợp các buổi biểu diễn của cô trên The Voice mang tên ' đứng ở vị trí thứ 1 trên Heatseekers và bán ra 11.000 bản trong tuần đầu tiên, và hơn 8.000 bản trong tuần sau. Đĩa đơn của cô cũng xuất hiện lại tại bảng xếp hạng ở vị trí thứ 42, bán 1.000 bản. Pope thể hiện ca khúc "Stand" tại New Year's Eve with Carson Daly, và sau đó thể hiện ở đêm mà với nhóm Train thắng giải thưởng Grammy tại sân khấu NIVEA Kiss tại Quảng trường Times ở thành phố New York. Vào tháng 1 năm 2013, Pope đã ký kết với hãng âm nhạc Republic Nashville, một dấu ấn của Big Machine Records. Cô hiện đang làm việc cho album đầu tay của cô sẽ được phát hành vào mùa thu năm 2013. Cô cũng đã thực hiện một số bài hát cô đã viết cho album, trong đó có "Wasting All These Tears" (cũng là đĩa đơn đầu tiên của cô sau chiến thắng), và một số bài hát như "Good Times"," "Easier to Lie," "Break Your Heart," "Champagne," và "You Hear a Song". Đĩa đơn chính của album đầu tay, "Wasting All These Tears" sẽ được phát hành vào ngày 04 tháng 6 năm 2013.
1
null
Carl Friedrich Ferdinand Graf von der Goltz (12 tháng 4 năm 1815 tại Stuttgart – 21 tháng 2 năm 1901 tại Nizza) là một Thượng tướng kỵ binh của Phổ. Từ năm 1872 cho đến khi hoàng đế mất năm 1888, ông đã giữ chức vụ "tướng phụ tá thường nhật" ("diensttuender Generaladjutant") của Đức hoàng Wilhelm I. Ông là anh trai của Graf Robert von der Goltz (1817 – 1869), Đại sứ Phổ tại Paris. Tiểu sử. Von der Goltz là con trai của viên Trung tướng và Công sứ Carl Heinrich Friedrich Graf von der Goltz (1775 – 1822) với bà Juliane "Julie" Wilhelmine Freiin von Seckendorff (1786 – 1857). Vào năm 1832, ông gia nhập Trung đoàn Thiết kỵ binh Vệ sĩ "Đại Tuyển hầu tước" (Schlesien) số 1, đóng trại tại Breslau. Ông được phong cấp sĩ quan vào năm 1833 và tham gia trong chiến dịch của Thống chế Pháp Bugeaud ở xứ Algérie từ năm 1844 cho đến năm 1845. Vào năm 1848, Goltz được bổ nhiệm làm sĩ quan phụ tá của vương tử nước Phổ, tức Hoàng đế Wilhelm I về sau này, và tháp tùng vương tử trong chiến dịch trấn áp quân nổi dậy tại Baden vào năm 1849. Vào năm 1859, ông được phong cấp bậc Thượng tá và Tư lệnh của Trung đoàn Khinh kỵ của Đức vua tại Bonn và vào năm 1861 ông đảm nhiệm chức sĩ quan hầu cận ("Flügeladjutant") của Quốc vương. Kể từ năm 1864, Von der Goltz là Tư lệnh của Lữ đoàn Kỵ binh số 14, đơn vị mà ông đã chỉ huy trong chiến dịch chống Áo Habsburg trong cuộc Chiến tranh Bảy tuần năm 1866. Vào năm 1868, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh của Sư đoàn Kỵ binh Cận vệ và đã chỉ huy đơn vị trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871), tham gia các trận đánh khốc liệt tại Gravelotte-St. Privat và Sedan, cũng như trong cuộc vây hãm Paris, sau khi ông đã được thăng cấp Trung tướng và Tướng phụ tá vào tháng 7 năm 1870. Vào tháng 10 năm 1872, Goltz được bổ nhiệm làm Tư lệnh của Lữ đoàn Kỵ binh Cận vệ và vào năm 1873, ông là chỉ huy trưởng đơn vị cảnh vệ , được đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Bộ Tổng tham mưu. Đến năm 1875, ông được lên quân hàm Thượng tướng Kỵ binh. Vào năm 1888, ông được phép từ chức chỉ huy của mình theo yêu cầu của ông và vẫn phục vụ với vai trò là "tướng phụ tá thường nhật" ("diensttuender Generaladjutant") của Đức hoàng Wilhelm I cho tới khi hoàng đế băng hà vào ngày 9 tháng 3 năm 1888. Carl Friedrich Graf von der Goltz từ trần vào ngày 21 tháng 2 năm 1901 ở Nizza. Ông được mai táng trong lăng mộ của gia tộc Goltz ở Charlottenburg.
1
null
Ngưu bàng hay còn gọi gô bô (danh pháp khoa học: Arctium lappa) là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được L. mô tả khoa học đầu tiên năm 1753. Phân phối và sinh thái. Là loài bản địa từ các vùng ôn đới của Cựu Thế giới, từ Scandinavia đến Địa Trung Hải và từ Quần đảo Anh qua Nga và Trung Đông đến Ấn Độ, Trung Quốc, Đài Loan và Nhật Bản. Nó được nhập tịch ở hầu hết mọi nơi và thường được tìm thấy ở những khu vực bị xáo trộn, đặc biệt là trong đất giàu nitơ. Nó thường được trồng ở Nhật Bản nơi nó đặt tên cho một kỹ thuật xây dựng cụ thể, đóng cọc cây ngưu bàng. Lá của cây ngưu bàng lớn hơn cung cấp thức ăn cho sâu bướm của một số Lepidoptera, chẳng hạn như "Myelois circumvoluta".
1
null
Tư Mã Huy (chữ Hán: 司馬徽; 173-208), tự Đức Tháo (德操), hiệu Thủy Kính (水鏡), còn gọi là "Thủy Kính tiên sinh", người Dĩnh Xuyên, là một nhân vật lịch sử cuối thời Đông Hán (Hán mạt và Tam Quốc). Tương truyền ông là danh sĩ là một đệ tử của đại thuật sĩ Tịch ứng chân, có tài kinh bang tế thế, kiến thức hơn người. Trước tình cảnh chính trị nhà Hán thối nát, đất nước bị chia cắt, nhân dân lầm than, ông đành bất lực chọn cuộc sống mai danh ẩn tích. Tư Mã Huy nổi tiếng với câu nói với Lưu Bị trong tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa: ""Ngọa Long, Phượng Sồ, được một trong hai có thể an thiên hạ"." Ghi chép trong lịch sử. Căn cứ theo Tam Quốc chí chú của Bùi Tùng Chi, dẫn theo Tương Dương ký của Tập Tạc Xỉ thời Đông Tấn ghi chép, thì Bàng Đức Công chính là người tôn xưng Gia Cát Lượng là "Ngọa Long", Bàng Thống là "Phụng Sồ", Tư Mã Huy là "Thủy Kính". Trong Tam Quốc Chí, Bàng Thống truyện, có chép "Tư Mã Huy là người thanh nhã, rất biết nhìn người". Năm Bàng Thống 18 tuổi, lúc Lưu Bị hội kiến Tư Mã Huy, ông đã tiến cử với Lưu Bị cả Gia Cát Lượng lẫn Bàng Thống. Trong "Tam quốc diễn nghĩa". Trong bộ tiểu thuyết "Tam Quốc diễn nghĩa" của La Quán Trung, Tư Mã Huy xuất hiện ở Chương 37: "Tư Mã hai lần tiến cử danh sĩ, Lưu Bị ba phen tới thảo lư", là một nhân vật phụ xuất hiện khá ngắn nhưng đủ nói lên được cái tài bao trùm thiên hạ của ông. Tam Quốc diễn nghĩa mô tả Gia Cát Lượng và Bàng Thống là hai mưu sĩ hàng đầu, mệnh danh là "Long Phượng". Lưu Bị một bữa bị lạc trong rừng, tình cờ đến nơi ẩn sĩ Tư Mã Huy cư ngụ. Biết danh Thủy Kính tiên sinh là người học rộng tài cao, Lưu Bị có hỏi trong thiên hạ liệu ai có thể đứng ra giúp đời. Tư Mã Huy mới nói: ""Ngọa Long - Phượng Sồ, được một trong hai người, có thể an định thiên hạ"." Lưu Bị mới sốt sắng hỏi Ngọa Long, Phượng Sồ là ai thì Tư Mã Huy mỉm cười không nói. Một thời gian sau, có mưu sĩ tài ba là Từ Thứ đến đầu quân Lưu Bị, Tào Tháo biết chuyện căm tức, mới bắt nhốt mẹ Từ Thứ, ép bà viết thư đòi con về để phục vụ cho mình. Từ mẫu biết Tháo là kẻ độc ác gian hùm, nên tức giận quát mắng, Tháo mới giả mạo thư Từ mẫu, gọi Từ Thứ về. Từ Thứ tin là thật, gạt nước mắt chia tay Lưu Bị. Lưu Bị tiễn Từ Thứ trong niềm bi ai buồn bã vô cùng. Đi được nửa đường, Từ Thứ bỗng cưỡi ngựa quay lại, tiến cử cho Lưu Bị một người bạn của mình là Gia Cát Lượng. Tư Mã Huy nghe nói Từ Thứ ở với Lưu Bị, mới đến hỏi thăm, nghe Lưu Bị nói chuyện đó, Tư Mã Huy dậm chân nói rằng Thứ đã trúng kế Tào, Từ mẫu tính tình cương nghị, phen này Thứ không về thì mẹ sống, mà về nhất định mẹ Từ Thứ sẽ chết. Lưu Bị sửng sốt, hồi lâu mới đem chuyện Gia Cát Lượng hỏi Tư Mã Huy. Tư Mã Huy nói: - Từ Thứ ra đi rồi thì chớ, còn làm phiền đến người này làm chi. Gia Cát Lượng ngồi nhàn ở Ngọa Long San, thường tự ví mình như Quản Trọng, Nhạc Nghị. Nhưng thực ra tài người này không thể tưởng tượng được, có thể ví như Khương Tử Nha làm nên sự nghiệp 800 năm nhà Chu, Trương Lương làm nên sự nghiệp 400 năm nhà Hán vậy. Ngọa Long mà bữa trước tôi nói với tướng quân, chính là Gia Cát Lượng, còn Phượng Sồ là Bàng Thống. Lưu Bị nghe Tư Mã Huy thuyết giảng, như người tỉnh cơn mê, dứt khoát tìm gặp bằng được Gia Cát Lượng. Nói rồi Tư Mã Huy trở về, tới cổng than thở một mình: - Gia Cát Lượng gặp được minh chúa song không gặp thời. Đáng tiếc thay!. Về sau, Gia Cát Lượng phò tá Lưu Bị trùng hưng Hán thất, lập nhà Thục Hán, tuy nhiên sự nghiệp thống nhất Trung nguyên của ông không thực hiện được, đành ngậm tiếc nuối mà qua đời. Điều này quả ứng nghiệm với những gì Tư Mã Huy nói. Đủ thấy tài nhìn người, đoán tương lai tài tình của Tư Mã Huy. Tham khảo. Tư Mã Huy nổi tiếng với câu nói với Lưu Bị trong tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa: ""Ngọa Long, Phượng Sồ, được một trong hai có thể an thiên hạ"."
1
null
Arnoseris minima là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được Carl Linnaeus mô tả khoa học đầu tiên năm 1753 dưới danh pháp "Hyoseris minima". Năm 1791, Joseph Gaertner thiết lập chi "Arnoseris", với 1 loài được ông mô tả là "Arnoseris pusilla", nhưng dẫn chiếu tới mô tả cho "Hyoseris minima" của Carl Linnaeus trong "Systema Vegetabilium" (ấn bản 14, 1784). Năm 1811, August Friedrich Schweigger và Franz Körte chuyển danh pháp của loài thành "Arnoseris minima". Phân bố. Loài bản địa Maroc và châu Âu đại lục từ Pháp, Tây Ban Nha ở phía tây tới Belarus, Ukraina, miền tây bán đảo Balkan ở phía đông và Thụy Điển ở phía bắc. Du nhập vào đảo Anh và đông bắc Bắc Mỹ.
1
null
Artemisia abrotanum, tên gọi phổ thông ngải chanh, là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được Carl Linnaeus mô tả khoa học đầu tiên năm 1753. Từ nguyên. Tính từ định danh "abrotanum" bắt nguồn từ tiếng Latinh Trung đại "abrotonum", tới lượt nó lại bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ "ἀβρότονον" (abrótonon) với nguồn gốc không chắc chắn, nhưng có thể là từ tiếng Akkad (𒀀)𒈬𒌨𒁲𒉡 ((a)murdennu, nghĩa là “hoa gai”). Tên gọi. Các tên gọi trong một số ngôn ngữ châu Âu bao gồm: southernwood, southern wormwood, lad's love, old man, armoise aurone. Mô tả. Cây lâu năm hoặc cây bụi nhỏ, 50–130(–170) cm (không mọc thành búi), thơm (rễ mập, hóa gỗ). Thân tương đối nhiều, mọc thẳng, màu nâu, phân cành (dạng gỗ, dễ gãy), nhẵn nhụi hoặc thưa lông. Lá mọc trên thân cây, màu xanh lục sẫm; phiến lá hình trứng rộng, (2–)3–6 × 0,02–0,15 cm, 2–3-thùy lông chim (thuỳ thẳng hoặc hình chỉ), các mặt thưa lông (mặt xa trục) hoặc nhẵn nhụi (mặt gần trục). Đầu hoa (đu đưa khi thuần thục) trong các mảng mở, phân nhánh rộng, 10–30 × 2–10 cm. Tổng bao hình trứng, (1–)2–3,5 × (1–)2–2,5 mm. Lá bắc tổng bao thuôn dài-hình elip, thưa lông. Chiếc hoa: hoa cái 4–8(–15); hoa lưỡng tính 14–16(–20); tràng hoa màu vàng, 0,5–1 mm, có tuyến. Quả tựa quả bế 2 lá noãn (màu nâu nhạt) hình elipxoit (2–5 góc, dẹt, có rãnh), 0,5–1 mm, nhẵn nhụi. "2n" = 18. Ra hoa vào cuối mùa hè-mùa thu. Mọc nơi đất bỏ hoang; cao độ 0–3.000 m. "A. abrotanum" từng được gieo trồng rộng rãi trong các khu vườn để sử dụng từ xa xưa vào việc đuổi ruồi muỗi và ký sinh trùng. Nó có sự phổ biến mới trong nghề làm vườn cảnh quan khô; do chịu được khô hạn và có thể lấp đầy những không gian vườn khó khăn, như các dốc đá khô. Phân bố. Loài cây bụi nhỏ bản địa Italia, Pháp, Tây Ban Nha nhưng đã du nhập rộng khắp châu Âu tới đảo Anh ở phía tây, Na Uy và Phần Lan ở phía bắc, miền trung Nga, Kazakhstan ở phía đông cũng như vào Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Yemen và miền trung Bắc Mỹ.
1
null
Artemisia absinthium, tên gọi phổ thông ngải đắng, ngải áp xanh (Absinth), khổ hao Trung Á, là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được Carl Linnaeus mô tả khoa học đầu tiên năm 1753. Từ nguyên. Tính từ định danh "absinthium" là tiếng Latinh, bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ "ἀψίνθιον" (apsínthion). Tới lượt mình, từ apsínthion có lẽ là vay mượn từ tiếng Armenia cổ "աւշինդր" (awšindr). Mô tả. Cây thảo, sống lâu năm, thơm, cao 60-150 cm, hơi hóa gỗ ở gốc, có lông lụa xám trắng hoặc có lông tơ mềm áp ép. Thân 1-3. Các lá sát gốc: cuống lá 6-12 cm; phiến lá hình elip-hình trứng hoặc hình trứng, 8-12 × 7-9 cm, 2 hoặc 3 lá lông chim xẻ tới sát gân giữa; các đoạn 4 hoặc 5 cặp, các thùy lông chim; các tiểu thùy hình mác-hình elip hoặc -thẳng, 8-15 × 2-4(-7) mm, đỉnh tù. Các lá thân giữa: cuống lá 2-6 cm; phiến lá hình trứng hoặc hình elip-hình trứng, 2 lá lông chim xẻ tới sát gân giữa; các tiểu thùy thẳng-hình mác, (8-)10-25 × 2-3(-5) mm. Các lá trên cùng 4-6 × 2-4 cm, lá lông chim xẻ tới sát gân giữa hoặc 5 thùy; các lá bắc dạng lá với 3 thùy hoặc nguyên; thùy hình mác hoặc thẳng-hình mác. Các cụm hoa kép thường là chùy hoa hình nón rộng; các nhánh cấp 1 thẳng, mọc thẳng lên hoặc tỏa rộng lệch ít hay nhiều, dài tới 30 cm và các nhánh cấp 2 dài tới 12 cm. Cụm hoa hình đầu có cuống ngắn, đu đưa. Tổng bao 3-4 hàng, hình cầu hoặc hình gần cầu, đường kính 2,5-3,5(-4) mm, các lá bắc tổng bao ngoài cùng nhất thẳng, dài ~3 mm, màu xanh lục, có lông màu hoa râm áp ép, các lá bắc trong hình trứng hay hình trứng rộng-hình tròn, 1,5-2,5 x 1,25-2 mm, chủ yếu là khô xác; đế hoa hình bán cầu hoặc phẳng ít hay nhiều, rậm lông tơ màu trắng. Chiếc hoa nhiều, màu vàng. Chiếc hoa cái ở mé ngoài 15-25, hữu sinh; tràng hoa màu vàng, 2 răng lệch, dài ~1,25 mm, các nhánh vòi nhụy tỏa ngang, thò ra. Chiếc hoa ở đĩa hoa 30-70(-90), lưỡng tính, hữu sinh; tràng hoa màu vàng, hình chuông, dài 1,5-2 mm, 5 răng, nhẵn nhụi. Quả dạng quả bế 2 lá noãn, thuôn dài-hình trụ, 0,8-1 mm, có vành miện hoa ở đỉnh hoặc không. Ra hoa và tạo quả tháng 8-9. "2n" = 18. Mẫu định danh. Lectotype: "Herb. Clifford: 404", "Artemisia No. 7", lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên ở London, Anh (BM). Phân bố. Loài bản địa châu Âu lục địa, Bắc Phi và châu Á (từ Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Nam Á tới Tây Siberia, Trung Á, Tây Himalaya) nhưng đã du nhập vào đảo Anh, châu Mỹ, Eritrea, Ethiopia, Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Nam Á, Đông Nam Á, Australia. Tại Việt Nam được du nhập và trồng tại các khu vực Đà Lạt, Sa Pa, Tam Đảo. Môi trường sống là sườn đồi, thảo nguyên, bụi rậm, bìa rừng, thường mọc ở những nơi ẩm ướt cục bộ; cao độ 1.100-1.500m. Thành phần. Ngải đắng chứa các chất có vị đắng thuộc nhóm các sesquiterpene lactone; absinthin với hàm lượng 0,20 - 0,28%, là thành phần chính của các chất có vị đắng này. Tinh dầu ngải đắng chứa tới 0,2 - 0,8% và chứa (-) - thujone, (+) - isothujone, thujyl alcohol và các ester của nó, chamazulene cũng như các monoterpene và sesquiterpene khác. Trong các nghiên cứu của Bailen "et al." (2013) và của Gonzalez-Coloma "et al." (2013) thì nhóm các tác giả Gonzalez-Coloma đã phát hiện ra một kiểu hóa chất (chemotype) không tạo ra β-thujone mà chứa các terpenoid không thấy ở những nơi khác. Sử dụng. Ngải đắng là một thành phần trong rượu mạnh absinthe, và nó cũng được dùng để tạo hương vị trong một số loại rượu mạnh và rượu vang khác, bao gồm rượu đắng, bäsk, vermouth và pelinkovac. Trong y học, nó được dùng để điều trị chứng khó tiêu, do vị đắng giúp người ta thấy thèm ăn, cũng như để điều trị một số chứng bệnh nhiễm trùng khác, như bệnh Crohn và bệnh Berger (IgAN).
1
null
Artemisia adamsii là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được Wilibald Swibert Joseph Gottlieb von Besser mô tả khoa học đầu tiên năm 1834. Tên gọi. Tên gọi thông thường trong tiếng Trung là 东北丝裂蒿 (đông bắc ti liệt hao), nghĩa đen là ngải tơ rách đông bắc. Mô tả. Cây thân thảo sống lâu năm hoặc cây bụi nhỏ, cao 15-40 cm, phân nhánh ở đỉnh, có lông tơ hình mạng nhện hoặc trước có lông tơ sau nhẵn nhụi. Các lá ở phần thân dưới không cuống ít hay nhiều; phiến lá 2 hoặc 3 thùy xẻ lông chim tới gân giữa. Các lá ở phần thân giữa: phiến lá hình trứng, 1,5-2,5(-3) × 1,5-2,5(-3) cm, 1 hoặc 2 thùy xẻ lông chim tới gân giữa; các phần 3 hoặc 4 cặp; các thùy hình chỉ, 2-3 × 0,5-1 mm, đỉnh nhọn; các lá bắc tựa như lá với thùy xẻ chân vịt gần tới cuống. Cụm hoa kép là chùy hoa hẹp. Tổng bao gần hình cầu, đường kính 2-3 mm. Chiếc hoa cái ở phần mép 9-12. Chiếc hoa đĩa ở tâm 35-45, lưỡng tính. Quả bế hình elipxoit-hình trứng. Ra hoa và tạo quả tháng 7-10. Phân bố. Loài này là bản địa khu vực từ miền nam Siberia Nga (Buryatia, Chita) tới miền đông Mông Cổ và đông bắc Trung Quốc (tây Hắc Long Giang, đông Nội Mông). Môi trường sống là các thảo nguyên muối, bãi cỏ, bờ sông, sườn đồi; ở các cao độ thấp.
1
null
Artemisia afra, tên phổ thông ngải (đắng) châu Phi, là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được Carl Ludwig von Willdenow mô tả khoa học đầu tiên năm 1803, dựa theo mô tả chưa công bố của Nikolaus Joseph von Jacquin. Năm 1804, Nikolaus Joseph von Jacquin mới công bố các mô tả của ông. Phân bố. Loài này có phân bố rời rạc, tại miền nam Ethiopia ở phía bắc và Angola, Botswana, Nam Phi, Lesotho, Namibia, Swaziland (Eswatini), Zambia, Zimbabwe ở phía nam.
1
null
Artemisia alba là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được Antonio Turra mô tả khoa học đầu tiên năm 1764. Từ nguyên. Tính từ định danh "alba" là tiếng La tinh, nghĩa là trắng. Các tên gọi thông thường như L'Artemisia bianca (tiếng Ý), L’Armoise blanche (tiếng Pháp) hay white mugwort, white wormwood, white artemisia (tiếng Anh) đều có nghĩa đen là ngải trắng. Không nhầm lẫn nó với "Artemisia herba-alba" cũng được gọi là ngải trắng. Phân bố. Loài bản địa Nam Âu, Tây Âu và Trung Âu (Albania, Bỉ, Bulgaria, Cộng hòa Séc, Hy Lạp, Hungary, Italia, Nam Tư cũ, Pháp, Romania, Slovakia, Tây Ban Nha) và tây bắc châu Phi (Algérie, Ma Rốc). Tuyệt chủng tại Áo. Đồng nghĩa. Danh sách dưới đây liệt kê các danh pháp đồng nghĩa của "Artemisia alba" subsp. "alba".
1
null
Artemisia aleutica là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được Oskar Eric Gunnar Hultén mô tả khoa học đầu tiên năm 1939. Mẫu định danh. Mẫu định danh là "O. J. Murie 2438" do O. J. Murie thu thập trên đảo Kiska ngày 21-6-1937. Phân bố. Loài đặc hữu quần đảo Aleut.
1
null
Chiến dịch Masher hay trận Bồng Sơn diễn ra từ 28 tháng 1 đến 6 tháng 3 năm 1966 là một chiến dịch có sự phối hợp giữa Quân đội Hoa Kỳ, Quân lực Việt Nam Cộng hòa và Quân đội Hàn Quốc. Tên của chiến dịch "Masher" (Kẻ tán gái) về sau được đổi thành "Cánh Trắng" (White Wing) vì tên cũ bị coi là khá thô thiển. Chiến dịch này có nhiệm vụ là tìm và diệt, được chia thành 4 giai đoạn. Nó đã diễn ra trong 42 ngày. Sư đoàn Không kỵ số 1 tuyên bố đã tiêu diệt 1.342 quân đối phương, trong khi có 288 lính Mỹ tử trận và 990 lính bị thương. Ngoài ra quân Việt Nam Cộng hòa và Hàn Quốc tuyên bố có thêm 808 quân Giải phóng bị hạ sát bởi họ. Tuy vậy, con số thương vong của quân Giải phóng mà Mỹ tuyên bố bị cho là phóng đại gấp nhiều lần, vì báo cáo chiến dịch của Mỹ cho thấy họ chỉ thu giữ được 65 vũ khí cộng đồng và 189 vũ khí cá nhân của đối phương. Trên thực tế, xác của hàng nghìn dân thường bị sát hại trong chiến dịch đã được Mỹ/Hàn Quốc đếm là quân Giải phóng. Phía Mỹ tuyên bố đã tiêu diệt được Sư đoàn 3 của Quân Giải phóng, nhưng thực tế không lâu sau đó, sư đoàn này đã tái xuất hiện trên chiến trường. Cũng trong chiến dịch này; đã diễn ra các vụ thảm sát ở Tây Vinh và Gò Dài do quân đội Hàn Quốc thực hiện. Khoảng 1.004 - 1.200 thường dân đã bị quân Hàn Quốc sát hại rồi báo cáo rằng đó là "kẻ thù bị tiêu diệt". Số liệu. Chính phủ Mỹ đã tổng kết số lượng hỏa lực được triển khai trong Chiến dịch Masher/Cánh Trắng, theo đó có tổng cộng 1.352 phi vụ ném bom cùng với 1.126 phi vụ không kích mang theo 1,5 triệu pound bom, ngoài ra, 292.000 pound napalm cũng đã được sử dụng. Chiến dịch này đã buộc 1.884 thường dân phải di tản. Tính đến năm 1967, trên toàn miền Nam Việt Nam, số lượng quân Giải phóng bị bắt là 17.000 người nhưng đã có đến trên 1,2 triệu dân thường phải đi tị nạn.
1
null
Ngải thơm, hay Ngải giấm, Thanh hao lá hẹp, Thanh cao rồng, danh pháp khoa học Artemisia dracunculus, với "dracunculus" nghĩa là "tiểu long". Đây là loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được L. mô tả khoa học đầu tiên năm 1753. Đặc điểm. Cây thảo sống nhiều năm, cao 90 cm; thân mọc thẳng đứng, mảnh, phân nhánh. Lá không cuống, nhẵn, nguyên hay hơi có răng, hình ngọn giáo dài 3–8 cm, rộng 2-4mm. Cụm hoa đầu ở nách lá, cuống dài đến 1,5 cm, mảnh; bao chung cao 2mm; lá bắc dày, hoa hình ống màu lục hay trắng, có lông. Quả bế nhẵn, dài 0,6mm. Cây ưa đất tốt, không ẩm ướt và cũng chịu được sáng. Có thể trồng bằng cách tách cây vào mùa xuân và mùa thu, có thể dùng cành giâm vào mùa xuân. Phân bố. Ở Nam Âu châu, Ấn Độ, Trung Quốc, Mông Cổ, Siberia, được thuần hoá ở nhiều nước. Việt Nam có nhập trồng làm cây gia vị. Thành phần hoá học. Toàn cây có mùi thơm do có nồng độ cao các tinh dầu thiết yếu và chứa chất đắng. Công dụng. Ẩm thực. Ngải giấm là một trong bốn loại gia vị thảo mộc chính của ẩm thực Pháp. Lá dùng làm gia vị.
1
null
Artemisia herba-alba là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được Ignacio Jordán Claudio de Asso y del Rio mô tả khoa học đầu tiên năm 1779. Phân loại. "A. herba-alba" từng được coi là một phức hợp loài có sự phân bố tại khu vực ven Địa Trung Hải, với các đơn vị phân loại có quan hệ họ hàng gần được coi là các loài độc lập trong khu vực Iran-Turan, hoặc chỉ như là một loài - như trong Vallès (1987); Ouyahya & Viano (1988); Vallès "et al." (2011); Podlech (2013); Bougoutaia "et al." (2014). Nghiên cứu phát sinh chủng loài năm 2017 của Malik "et al." chỉ ra rằng "A. herba-alba" nghĩa hẹp ("sensu stricto") tốt nhất chỉ nên bao gồm 1 loài về cơ bản có sự phân bố tại khu vực bán đảo Iberia và tây bắc châu Phi, trong khi các đơn vị phân loại Iran-Turan khác mà trước đây gộp trong phức hợp loài này (như "A. inculta" , "A. oliveriana" và "A. sieberi" ; thường được coi là đồng nghĩa của "A. herba-alba") nên được coi là các loài tách biệt. Vấn đề với "Artemisia aethiopica". Năm 1753, Carl Linnaeus mô tả loài "Artemisia aethiopica" (Flores "in racemis subrotundis, magnitudine A. Absinthii") với khu vực phân bố là Ethiopia, dẫn chiếu tới mô tả của Joseph Pitton de Tournefort (1700) và John Ray (1704). Năm 1771, Linnaeus thay đổi mô tả của "A. aethiopica" (Flores "racemosi, pedunculati, nutantes, subglobosi" = [đầu] hoa dạng chùm, có cuống, rủ xuống, gần hình cầu). Năm 1803, Carl Ludwig Willdenow coi "A. aethiopica" là đồng nghĩa của "A. valentina" , với lý do từ chối tên gọi "A. aethiopica" có lẽ là do tính ngữ định danh "aethiopica" không phù hợp, do loài này không được tìm thấy tại Ethiopia. Do "A. herba-alba" và "A. valentina" là các đơn vị phân loại được tin tưởng là có quan hệ họ hàng rất gần, nên đôi khi chúng được coi là các loài tách biệt (như Greuter & von Raab-Straube, 2008. "Med-Checklist" 2: 43.); hay các phân loài (như Vallès, 1987. "Bol. Soc. Brot.", Sér. 2, 60: 5–27.) hoặc thậm chí ở cấp thứ (như Willkomm & Lange, 1865. "Prodr. Fl. Hispan." 2: 75.) của loài theo danh pháp có độ ưu tiên cao hơn là "A. herba-alba". Ouyahya (1995) coi "A. aethiopica" như là đồng nghĩa của "A. herba-alba". Tuy nhiên, mẫu vật 988.3 mà Linnaeus dùng để mô tả "A. aethiopica" lại có đặc trưng không phù hợp với "A. herba-alba" - loài với đầu hoa hình nón ngược hoặc hình elipxoit và mọc thẳng đứng. Mẫu vật của Linnaeus phù hợp với loài ở đông nam Tây Ban Nha hiện nay có danh pháp "A. lucentica". Bản thân danh pháp "A. aethiopica" cũng rất ít khi được sử dụng, vì thế nhằm bảo toàn việc sử dụng các danh pháp "A. herba-alba", "A. valentina" và "A. lucentica", Benedí "et al." (2010) đã đề xuất việc từ chối tên gọi "A. aethiopica". Phân bố. Loài bản địa tây bắc Bắc Phi, miền nam Pháp, Tây Ban Nha nhưng đã du nhập vào đảo Anh.
1
null
Nhà thờ Mộ Thánh (Kitô giáo Đông phương gọi là Nhà thờ Phục sinh), là một nhà thờ nằm ở bên trong bức tường thành của thành phố cổ Jerusalem. Nhà thờ này ở gần khu Muristan. Nơi đây được tôn kính như Đồi Sọ (đồi Can-vê hay Golgotha) nơi chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá và cũng được cho là gồm cả nơi mà chúa Giêsu được mai táng và đến ngày thứ 3 thì sống lại. Nhà thờ này là điểm viếng thăm quan trọng của những Kitô hữu hành hương ít nhất từ thế kỷ thứ 4. Ngày nay nhà thờ này cũng được dùng làm Tòa Thượng phụ Jerusalem () của Chính thống giáo Hy Lạp, trong khi quyền kiểm soát nhà thờ này được chia sẻ giữa nhiều giáo hội Kitô giáo khác nhau, như Chính Thống giáo Đông phương, Chính Thống giáo Cổ Đông phương và Giáo hội Công giáo Rôma. Các giáo hội Anh giáo và Tin Lành không có sự hiện diện thường trực trong nhà thờ này. và các thực thể thế tục trong các thỏa thuận phức tạp về cơ bản không thay đổi trong nhiều thế kỷ. Lịch sử. Việc xây dựng. Vào đầu thế kỷ thứ 2, địa điểm của nhà thờ hiện nay là đền thờ nữ thần Aphrodite; nhiều nhà văn thời xưa mô tả nơi đây là đền thờ nữ thần Venus, vị thần của người La Mã tương đương nữ thần Aphrodite. Eusebius, trong quyển "Life of Constantine" của ông cho rằng địa điểm nhà thờ này có nguồn gốc từ một nơi tôn kính của Kitô giáo, nhưng hoàng đế Hadrianus đã cố ý cho đổ đất lấp những nơi của Kitô giáo này, rồi xây đền thờ của riêng ông trên đỉnh (đất lấp), do ông ghét Kitô giáo. Mặc dù Eusebius không nói nhiều, nhưng dường như đền thờ nữ thần Aphrodite đã được xây dựng như một phần trong cuộc tái thiết Jerusalem của Hadrianus giống như Aelia Capitolina năm 135, sau khi Jerusalem bị tàn phá bởi cuộc Chiến tranh Do Thái-La Mã thứ nhất năm 70 và cuộc Khởi nghĩa Bar Kokhba năm 132–135. Khoảng năm 325-326 hoàng đế Constantine I ra lệnh phá đền thờ Aphrodite và đào đất nền của đền thờ đưa đi nơi khác, rồi chỉ thị cho Macarius of Jerusalem - vị giám mục địa phương – xây một nhà thờ trên địa điểm này. Tập Itinerarium Burdigalense tường thuật trong năm 333: "Tại đây, hiện nay, do lệnh của hoàng đế Constantine, đã xây dựng một vương cung Thánh đường, tức là một nhà thờ đẹp lạ lùng". Hoàng đế Constantine hướng dẫn cho mẹ ông – hoàng thái hậu Helena - xây các nhà thờ trên những địa điểm tưởng nhớ tới cuộc đời của chúa Giêsu. Bà đã hiện diện từ năm 326 trong việc xây dựng nhà thờ này và đích thân tham gia các cuộc khai quật và xây dựng. Trong khi khai quật, Helena (được cho là) đã tái phát hiện Thánh giá thật, và ngôi mộ (chôn xác Chúa), dù rằng tường thuật của Eusebius không đề cập tới sự có mặt của Helena tại nơi khai quật cũng như việc phát hiện Thánh giá, mà chỉ nói tới ngôi mộ. Theo Eusebius, ngôi mộ đưa ra "một bằng chứng rõ ràng, có thể nhìn thấy" rằng đó chính là ngôi mộ của chúa Giêsu; Socrates Scholasticus (s. khoảng năm 380), trong quyển "Ecclesiastical History" (Lịch sử Giáo hội Kitô) của ông đã mô tả đầy đủ việc phát hiện này (sau này được Sozomen và Theodoret nhắc lại) trong đó nhấn mạnh vai trò của Helena trong việc khai quật và xây dựng nhà thờ này; cũng giống như Nhà thờ Giáng Sinh ở Bethlehem (cũng do Constantine và Helena thiết lập) để tưởng nhớ việc đản sinh của chúa Giêsu, thì Nhà thờ mộ Thánh là để tưởng niệm cái chết và sự sống lại của Ngài. Nhà thờ do hoàng đế Constantine xây gồm 2 nhà thờ nối liền với nhau trên 2 địa điểm thiêng liêng khác nhau, trong đó là một vương cung Thánh đường (gọi là "Martyrium" (Tử đạo) mà một phụ nữ tên Egeria đã viếng thăm trong thập niên 380), một atrium (tên là "Triportico") với đồi "Golgotha" truyền thống ở một góc, và một rotunda (phòng lớn hình tròn), gọi là "Anastasis" (Phục sinh), nơi có di tích của một ngôi "mộ đục vào trong núi đá" mà Helena và giám mục Macarius xác định là mộ mai táng chúa Giêsu. Mặt đá ở đầu phía tây của tòa nhà được đục bỏ, mặc dù không biết rõ là ở thời Constantine nó còn lại bao nhiêu, vì việc nghiên cứu khảo cổ đã phát hiện là ngôi đền thờ nữ thần Aphrodite rộng tới khu phòng lớn hình tròn (rotunda) hiện nay, và vì thế mép ngoài của đền thờ phải xa hơn về phía tây. Theo truyền thuyết, Constantine đã cho đục bỏ mặt đá chung quanh ngôi mộ, mà không làm hại nó, để cô lập ngôi mộ, ở trung tâm của gian phòng lớn hình tròn (rotunda) là một nhà nhỏ được gọi là "Kouvouklion" (Kουβούκλιον; tiếng Hy Lạp hiện đại = ngăn phòng nhỏ) hoặc "Aedicule" (từ chữ Latin: "aediculum" = ngôi nhà nhỏ), được cho là bao quanh ngôi mộ này, mặc dù ngày nay không có thể xác minh truyền thuyết nói trên, vì các di tích còn lại được hoàn toàn bao bọc bởi một vỏ bọc bằng đá cẩm thạch. Việc khám phá ra các ngôi mộ kokhim ngay bên ngoài tường phía tây của nhà thờ, và gần đây hơn việc điều tra khảo cổ học ở sàn của gian phòng lớn hình tròn, cho thấy một mũi núi hẹp có độ dài ít nhất 10 yard (= 9,14 m) đã phải nhô ra từ mặt đá nếu những vật ở bên trong ngăn phòng nhỏ (Aedicule) đã một lần tồn tại bên trong nó. Kiến trúc vòm của gian phòng lớn hình tròn đã được hoàn thành vào cuối thế kỷ thứ 4. Hàng năm, Giáo hội Chính Thống giáo Đông phương cử hành lễ kỷ niệm ngày Thánh hiến nhà thờ Phục sinh (nhà thờ Mộ Thánh) vào ngày 13 tháng 9 (đối với những nhà thờ theo Lịch Julius truyền thống, ngày13 hiện rơi vào ngày 26 tháng 9 của Lịch Gregory hiện đại). Hư hại và phá hủy. Nhà thờ này bị hư hỏng bởi trận hỏa hoạn năm 614 khi vua Khosrau II của Đế chế Ba Tư xâm chiếm Jerusalem và chiếm giữ Thánh Giá. Năm 630, Hoàng đế Heraclius hành quân thắng lợi tiến vào thành Jerusalem và phục hồi Thánh Giá đích thực để xây dựng lại Nhà thờ Mộ Thánh. Dưới sự cai trị của người Hồi giáo, nó vẫn còn là một nhà thờ Kitô giáo. Các nhà cai trị Hồi giáo ban đầu đã bảo vệ các địa điểm Kitô giáo của thành phố, cấm phá hủy và sử dụng như khu nhà ở. Năm 966, các cửa và mái nhà bị đốt cháy trong một cuộc bạo loạn Ngày 18.10.1009, khalip Al-Hakim bi-Amr Allah của Nhà Fatima ra lệnh phá hủy toàn bộ nhà thờ. Người ta tin rằng Al-Hakim "đã bực tức vì số lượng lớn các người hành hương tới Jerusalem trong mùa Phục Sinh, đặc biệt để chiêm ngắm phép lạ hàng năm của ngọn lửa thiêng trong Mộ Chúa. Các biện pháp chống lại nhà thờ này là một phần của một chiến dịch chống lại các nơi thờ phượng Kitô giáo ở Palestine và Ai Cập, gây ra rất nhiều thiệt hại khác: Adhemar Chabannes ghi nhận rằng nhà thờ Thánh George ở Lydda với nhiều nhà thờ khác đã bị tấn công, và Nhà thờ Mộ Thánh bị triệt phá bình địa... Nhà văn Kitô giáo Yahya ibn Sa'id tường thuật là mọi thứ đã bị san bằng, ngoại trừ những phần không thể phá hủy được hoặc quá khó khăn để gỡ bỏ. Xây dựng lại. Trong các cuộc đàm phán trên phạm vi rộng giữa nhà Fatimid và Đế quốc Byzantine trong các năm 1027-1028 một thỏa thuận đã đạt được, theo đó vị Caliph mới Ali az-Zahir (con trai của Al-Hakim) đồng ý cho phép xây dựng lại và trang trí lại nhà thờ này. Đổi lại,nhà thờ Hồi giáo (mosque) ở Constantinople được phép mở cửa lại và các bài giảng được công bố nhân danh az-Zahir. Các nguồn Hồi giáo nói rằng một thỏa thuận phụ cũng được ký kết, cho phép nhiều Kitô hữu đã từng bị cưỡng bách phải cải theo Hồi giáo trong cuộc bách hại của Al-Hakim, được công khai từ bỏ đạo Hồi. Ngoài ra, khi phóng thích 5.000 tù nhân Hồi giáo, đế quốc Byzantine cũng đòi được khôi phục các nhà thờ khác đã bị Al-Hakim phá hủy cùng việc tái thành lập Patriarch (tòa Thượng phụ) ở Jerusalem. Việc xây dựng lại nhà thờ tốn một khoản tiền rất lớn, được hoàng đế Constantine IX Monomachos và thượng phụ Nicephorus của Constantinople tài trợ, cuối cùng đã hoàn tất vào năm 1048. Mặc dù đế quốc Byzantine đã tiêu một khoản tiền lớn vào dự án này, "nhưng cũng không thể xây dựng lại toàn bộ, mà chỉ tập trung vào gian phòng lớn hình tròn (rotunda) cùng những tòa kiến trúc chung quanh, còn vương cung Thánh đường lớn vẫn còn là đống đổ nát". Công trình xây dựng lại gồm "một sân lộ thiên với 5 nhà nguyện nhỏ liên hợp". Các nhà nguyện nằm ở phía đông của sân phục sinh, nơi từng có bức tường của nhà thờ lớn. Các nhà nguyện này tưởng niệm các cảnh Cuộc thương khó của Giêsu, chẳng hạn nơi giam giữ và nơi đánh đòn chúa Giêsu. Việc Thánh hiến các nhà nguyện này cho thấy tầm quan trọng của lòng sùng kính của các người hành hương đối với chúa Giêsu. Các nhà nguyện này được mô tả như một loại Via Dolorosa thu nhỏ lại'... vì chỉ có ít hoặc không có việc xây dựng lại ở địa điểm vương cung Thánh đường lớn. Những người hành hương từ phương Tây tới Jerusalem trong thế kỷ 11 thấy phần lớn nơi Thánh thiêng vẫn còn đổ nát". Việc kiểm soát Jerusalem – và do đó cả Nhà thờ Mộ Thánh - tiếp tục thay tay nhiều lần giữa nhà Fatimid và vương triều Seljuq (trung thành với Nhà Abbas ở Baghdad) cho tới khi có cuộc Thập tự chinh năm 1099. Thời Thập Tự chinh. Nhiều sử gia cho rằng mối quan tâm chính của Giáo hoàng Urban II, khi kêu gọi tiến hành cuộc Thập tự chinh thứ nhất, là mối đe dọa từ cuộc xâm lược vùng Tiểu Á của Thổ Nhĩ Kỳ đối với Constantinople để đáp ứng lời kêu gọi của Hoàng đế Alexios I Komnenos (của Constantinople). Các nhà sử học đồng ý là số phận của Jerusalem - và do đó của nhà thờ Mộ Thánh - được quan tâm, nếu không phải là mục tiêu trước mắt của chính sách của Giáo hoàng năm 1095. Ý tưởng chiếm Jerusalem đã được chú trọng nhiều hơn khi cuộc Thập tự chinh được tiến hành. Khu vực nhà thờ xây dựng lại được các hiệp sĩ của cuộc Thập tự chinh chiếm lại từ tay Nhà Fatimid ngày 15 tháng 7 năm 1099. Cuộc thập tự chinh thứ nhất đã được hình dung như là một cuộc hành hương có vũ trang, và không có người thập tự chinh nào có thể coi cuộc hành trình của mình là hoàn thành trừ khi anh ta đã cầu nguyện như một người hành hương tại Mộ Thánh. Hoàng thân Godfrey de Bouillon tham gia Thập tự chinh, người đã trở thành người Thập tự chinh đầu tiên chiếm được Jerusalem, đã quyết định không sử dụng danh hiệu vua Jerusalem trong suốt cuộc đời mình, và tự tuyên bố mình là "Advocatus Sancti Sepulchri" (" Người bảo vệ Mộ Thánh"). Ở thời Thập tự chinh, một bể chứa nước dưới vương cung Thánh đường cũ được đồn đại là nơi mà hoàng thái hậu Helena tìm thấy Thánh Giá thật, và bắt đầu được tôn kính như vậy; dù rằng bể đó sau này trở thành "Nhà nguyện phát hiện Thánh Giá", không có bằng chứng cho tin đồn trước thế kỷ 11, và việc nghiên cứu khảo cổ hiện đại bây giờ cho thấy bể chứa được Monomachos sửa chữa ở thế kỷ 11. Nhà chép sử biên niên William xứ Týros tường thuật việc làm lại nhà thờ này ở giữa thế kỷ thứ 12. Quân Thập tự chinh nghiên cứu khu phế tích phía đông của nơi này, đôi khi đào bới qua đống đổ nát, và trong khi cố gắng đào tìm bể chứa nước, họ đã phát hiện ra một phần mức nền nguyên thủy bao quanh ngôi đền của Hadrian; họ đã quyết định biến nơi này thành một nhà nguyện cung hiến cho Helena (Nhà nguyện Thánh nữ Helena), mở rộng đường hầm khai quật ban đầu của họ thành một cầu thang thích hợp. Quân Thập tự chinh bắt đầu tái trang bị nhà thờ theo kiểu kiến trúc Roman và thêm vào một tháp chuông. Những công trình xây dựng lại này đã hợp nhất các nhà nguyện nhỏ ở đây thành một tổng thể và đã được hoàn thành dưới thời trị vì của Nữ hoàng Melisende trong năm 1149, lần đầu tiên đặt tất cả các nơi Thánh nằm chung dưới một mái nhà. Nhà thờ này trở thành trụ sở của Latin Patriarchs thứ nhất, và cũng là trụ sở của scriptorium (phòng viết các bản sao)của vương quốc Jerusalem. Nhà thờ, cùng với phần còn lại của thành phố Jerusalem, đã bị rơi vào tay Saladin năm 1187, mặc dù hiệp ước thành lập sau cuộc thập tự chinh thứ ba cho phép các người hành hương Kitô giáo được tới nhà thờ này. Hoàng đế Friedrich II của đế quốc La Mã Thần Thánh chiếm lại thành phố và nhà thờ theo một hiệp ước trong thế kỷ 13, trong khi bản thân ông đang bị vạ tuyệt thông, dẫn đến kết quả kỳ cục là ngôi nhà thờ linh thiêng nhất của Kitô giáo được đặt dưới quyền của một tín hữu bị Giáo hội cấm chỉ tham gia nghi lễ phụng vụ. Năm 1244, cả thành phố Jerusalem và nhà thờ này bị Khwarezm chiếm. Các thời sau này. Các tu sĩ dòng Phanxicô trùng tu thêm vào năm 1555, vì nó đã bị bỏ bê mặc dù số lượng khách hành hương tăng lên. Các tu sĩ dòng Phanxicô xây lại Aedicule (căn phòng nhỏ), mở rộng cấu trúc để dựng lên một tiền phòng (ante-chamber). Sau cuộc trùng tu năm 1555, quyền kiểm soát nhà thờ thay đổi giữa các tu sĩ dòng Phanxicô và Chính Thống giáo, tùy thuộc bên nào có thể kiếm được "firman" (sắc lệnh nhà vua) thuận lợi từ Sublime Porte. vào một thời điểm cụ thể, thường là thông qua hối lộ hoàn toàn, và những cuộc va chạm dữ dội không phải là hiếm. Không có thỏa thuận về vấn đề này, mặc dù đã được nói đến tại các cuộc đàm phán Hiệp ước Karlowitz năm 1699. Năm 1767, mệt mỏi vì cãi nhau, "Sublime Porte" đã ban hành một "firman" phân chia nhà thờ cho các bên tranh chấp. Năm 1808, một cuộc hỏa hoạn lại làm hư hại nhà thờ lần nữa, khiến cho mái vòm của Rotunda sụp đổ và phá tan phần trang trí bên ngoài của Edicule. Rotunda và phần bên ngoài của Edicule được xây dựng lại trong năm 1809-1810 bởi kiến trúc sư Komminos of Mytilene theo phong cách kiến trúc Baroque thịnh hành thời đó. Đám cháy không lan vào bên trong Aedicule, và phần trang trí bằng đá cẩm thạch của Mộ được khôi phục lại từ năm 1555, mặc dù nội thất của tiền phòng, bây giờ được gọi là "nhà nguyện thiên thần", đã được xây dựng lại một phần theo mặt bằng hình vuông, thay cho phần cuối dạng bán cầu ở phía tây trước đó. Một firman (sắc lệnh) khác năm 1853 của sultan củng cố sự phân chia nhà thờ hiện tại giữa các cộng đồng (Chính Thống giáo và Công giáo) và thiết lập một nguyên trạng cho các sắp xếp để "tồn tại mãi mãi", gây ra những bất đồng ý kiến về việc bảo trì và thậm chí các thay đổi nhỏ, bao gồm cả bất đồng về việc loại bỏ một cái thang ở bên ngoài ban-công cuối nhà thờ dưới một cửa sổ; cái thang này vẫn ở nguyên một vị trí kể từ đó đến nay. Tấm ốp đá cẩm thạch màu đỏ mà Komminos dùng cho Aedicule đã xuống cấp nặng và bị lìa khỏi cấu trúc cơ bản. Từ năm 1947 "chính quyền Anh ủy trị Palestine" (chính quyền Anh cai trị Palestine theo ủy nhiệm của Liên Hợp Quốc) đã cho đặt một khung sắt ốp bên ngoài để giữ tấm đá cẩm thạch nói trên khỏi bị hư hại. Cho tới nay vẫn không có thỏa thuận nào (giữa các bên) về việc tu bổ sửa chữa tấm ốp nói trên. Vòm nóc nhà thờ hiện nay được xây từ năm 1870, đã được tu bổ trong thời gian từ năm 1994-1997, như là một phần của những việc trùng tu mở rộng hiện đại Nhà thờ Mộ Thánh, được tiến hành từ năm 1959. Trong thời gian từ năm 1973 tới 1978 các công trình phục hồi và khai quật bên trong tòa nhà và dưới khu phố Muristan gần đó, đã xác định được rằng nơi này nguyên là một mỏ đá, mà từ đó "meleke" trắng, đá vôi đã được khai thác. Về phía đông của "Nhà nguyện Thánh Helena", những người khai quật đã phát hiện một ô trống có chứa một bản vẽ tàu thủy La Mã ở thế kỷ thứ 2 sau Công Nguyên, 2 bức tường thấp chống đỡ nền của ngôi đền từ thế kỷ thứ hai của thời Hadrian, và một bức tường cao hơn ở thế kỷ thứ 4 được xây dựng để chống đỡ Vương cung thánh đường của Constantine. Gần đây nhà chức trách Giáo hội Chính thống Armenia đã cải tạo nơi khảo cổ này thành "nhà nguyện Thánh Vartan", và làm một lối đi bộ nhân tạo trên mỏ đá ở phía bắc của nhà nguyện, để có thể đi vào nhà nguyện này từ "nhà nguyện Thánh Helena" (nếu được phép). Đã có vài tranh cãi trong năm 2010, khi Hội đồng thành phố Jerusalem đe dọa cúp nước dẫn vào nhà thờ do tranh cãi về các hóa đơn tiền nước. Việc bố trí bên trong nhà thờ hiện nay. Sơ đồ mặt bằng về các bố tri bên trong nhà thờ. Phòng nhỏ (chứa Mộ Thánh) Catholicon Rotunda (Phòng tròn lớn trên có mái vòm) Phiến đá xức dầu Nhà nguyện jacobite Mộ ông Giuse Arimathie Nhà nguyện Chính thống giáo copte Gian cung thánh latin Bàn thờ thánh Maria Madalena Nhà nguyện dòng Phanxicô kính việc Chúa sống lại hiện ra với Đức Mẹ Nhà người Hồi giáo gác cửa nhà thờ Lối vào nhà thờ (cánh ngang phía nam) Nhà nguyện dòng Phanxicô kính 7 sự đau khổ Đức Mẹ Nhà nguyện Công giao kính việc đóng đinh Chúa Nhà nguyện Chính thống giáo Hy Lạp ở đồi Canvê Bàn thờ trên đồi Canvê Bàn thờ Stabat Mater Bàn thờ nơi Chúa bị đóng đinh Gian cung thánh Chính thống giáo Hy Lạp Vòm Đức Mẹ Marria Nhà nguyện nơi Chúa bị nhốt Nhà nguyện Chính thống giáo Hy Lạp kính thánh Longinus Nhà nguyện Chính thống giáo Armenia về việc lính Do Thái chia áo Chúa Giêsu Nhà nguyện nơi Chúa bị sỉ nhục Nhà nguyện thánh Helena Nhà nguyện nơi phát hiện Thánh giá thật Nhà nguyện thánh Vardan Mỏ khai thác đá thời xưa Lối vào nhà thờ là thông qua một cửa duy nhất ở cánh ngang phía nam nhà thờ. Lối đi hẹp này để vào một tòa nhà lớn như vậy đã tỏ ra có những lúc rất nguy hiểm. Ví dụ, khi một đám cháy xảy ra vào năm 1840, hàng chục người hành hương đã bị dẫm đạp đến chết. Năm 1999, các cộng đồng (Chính Thống giáo và Công giáo) đã đồng ý làm một cửa thoát hiểm mới ở nhà thờ, nhưng cho tới nay cũng chưa thấy nói cửa đó đã được làm hay chưa. Đồi Can Vê (Golgotha). Ở phía nam của bàn thờ, qua hành lang nhỏ (một lối đi chung quanh phía cuối gian cung Thánh của nhà thờ) là một cầu thang lên đồi Can-vê (Golgotha), theo truyền thuyết là nơi đóng đinh chúa Giêsu và là nơi được trang trí nhiều nhất của nhà thờ. Bàn thờ chính ở đây thuộc về Chính Thống giáo Hy Lạp, trong đó có Đá đồi Can-vê (chặng đàng Thánh giá thứ 12). Đá này có thể nhìn thấy dưới lớp kính trên cả hai phía của bàn thờ, bên dưới bàn thờ có một lỗ được cho là chỗ để dựng thập giá lên. Bên Công giáo (dòng Phanxicô) có một bàn thờ ở bên cạnh: Nhà nguyện (tưởng niệm việc) Đóng đinh vào thập giá (chặng đường Thánh giá thứ 11). Phía bên trái bàn thờ này, về hướng nhà nguyện của Chính Thống giáo, có một tượng đức Mẹ Maria, được tin là làm những phép lạ (chặng đường Thánh giá thứ 13, nơi xác chúa Giêsu được tháo khỏi thập giá đem xuống trao cho gia đình). Bên dưới đồi Can-vê và 2 nhà nguyện ở đó, trên sàn chính, là Nhà nguyện của Adam. Theo truyền thuyết, Chúa Giêsu bị đóng đinh trên nơi mà hộp sọ Adam được chôn cất. Đá của đồi Can-vê được nhìn thấy bị nứt thông qua một cửa sổ trên bức tường bàn thờ, vết nứt theo truyền thuyết được cho là gây ra bởi trận động đất xảy ra khi Chúa Giêsu gục chết trên thập giá, và được các học giả nói là do kết quả của việc khai thác đá ở một chỗ nứt tự nhiên trong đá. Tấm đá xức dầu. Ngay bên trong lối vào là Tấm đá xức dầu (The Stone of Anointing), mà truyền thuyết cho là nơi Joseph of Arimathea đã đặt xác chúa Giêsu lên để xức dầu chuẩn bị chôn. Tuy nhiên, truyền thuyết này chỉ được chứng thực từ thời Thập tự chinh, và tấm đá hiện nay chỉ được thêm vào trong lần tái thiết năm 1810. Rotunda và Aedicule. Rotunda (Phòng lớn hình tròn) nằm ở giữa nhà thờ, bên dưới vòm lớn hơn trong 2 vòm của nhà thờ. Ở giữa Rotunda là nhà nguyện được gọi là Edicule (ngăn phòng nhỏ), trong đó có Mộ Thánh. Edicule có hai phòng: phòng đầu tiên có tấm đá của Thiên thần, một mảnh của phiến đá được cho là đã niêm phong ngôi mộ sau khi chôn cất Chúa Giêsu; còn phòng thứ hai chứa chính ngôi mộ. Nguyên trạng ở Rotunda. Dưới biện pháp "nguyên trạng" (status quo) giáo hội Chính Thống giáo Đông phương, Giáo hội Công giáo Rôma và Giáo hội tông đồ Armenia đều có quyền ở bên trong Mộ Thánh, và cả ba cộng đồng giáo hội trên đều cử hành phụng vụ hoặc lễ misa hàng ngày ở đây. Rotunda cũng được dùng cho những lễ nghi khác trong những dịp đặc biệt, chẳng hạn như lễ Holy Fire (Lửa thiêng) trong ngày Thứ bẩy tuần Thánh do Thượng phụ Chính thống giáo Hy Lạp của Jerusalem cử hành. Ở phía sau, trong một nhà nguyện xây dựng bằng lưới sắt mắt cáo trên nền đá hình bán nguyệt, có một bàn thờ do giáo hội Chính Thống giáo Coptic sử dụng. Ngoài ra phía sau của Rotunda là một nhà nguyện rất thô kệch, có lối vào một phòng đục trong đá, mà từ đó một vài mộ kokhim tỏa ra. Mặc dù nơi này được phát hiện tương đối gần đây, và không xác định được là cái gì, nhưng nhiều Kitô hữu tin rằng đó là ngôi mộ của Joseph xứ Arimathea trong đó Giáo hội Chính Thống Syria cử hành Phụng vụ của họ vào ngày chủ nhật. Bên phải của ngôi mộ về phía đông nam của Rotunda là nhà nguyện (Chúa Giêsu) hiện ra, được dành riêng cho giáo hội Công giáo Rôma. Nhà thờ chính của tu viện Chính Thống giáo (Catholicon) và lối đi. Xa hơn về phía đông ở hành lang có che chắn là 3 nhà nguyện (từ nam lên bắc): Phía nam Aedicule. Ba nhà nguyện Thánh James người Công chính, Thánh Gioan Tẩy giả và Forty Martyrs of Sebaste (40 vị tử đạo ở Sebaste, nay là Sivas ở Thổ Nhĩ Kỳ),của Chính Thống giáo Hy Lạp, ở phía nam Rotunda và phía tây sân trước ban đầu tạo thành khu liên hợp "nhà rửa tội" (baptistery) của giáo hội Constantinean, nhà nguyện ở cực nam là tiền sảnh, nhà nguyện ở giữa là "nhà rửa tội" thực sự, còn nhà nguyện phía bắc là một phòng trong đó vị thượng phụ xức dầu cho người mới được rửa tội trước khi dẫn họ vào Rotunda ở phía bắc của khu liên hợp này. Mái nhà thờ. Người ta có thể lên mái nhà thờ từ sân nhỏ bên trong của Tòa thượng phụ Chính Thống giáo Hy Lạp ở Jerusalem. Nguyên trạng. Những cộng đồng tôn giáo chính trông nom nhà thờ này là Chính Thống giáo Đông phương, Chính Thống giáo Armenia và Giáo hội Công giáo Rôma, trong đó Chính Thống giáo Đông phương có phần lớn nhất. Trong thế kỷ 19, Giáo hội Chính thống Coptic, Giáo hội Chính thống Ethiopia và Giáo hội Chính thống Syria cũng được tham gia với trách nhiệm ít hơn, trong đó có các nơi Thánh thiêng cùng những cấu trúc bên trong và chung quanh nhà thờ này. Thời gian và các nơi thờ phượng dành cho mỗi cộng đồng được điều chỉnh chặt chẽ ở các khu vực chung. Việc thiết lập "nguyên trạng" năm 1853 cũng không làm ngưng được bạo hành, vẫn thường tiếp tục xảy ra, ngay cả trong thời hiện đại. Trong một ngày mùa hè nóng bức năm 2002, một tu sĩ giáo hội Chính Thống Coptic đã di chuyển chiếc ghế của mình từ vị trí đã thỏa thuận vào trong bóng râm. Việc này được các tu sĩ Chính Thống giáo Ethiopian coi như thái độ thù địch, dẫn tới đánh lộn khiến 11 người phải nhập viện. Trong một vụ va chạm khác vào năm 2004 trong khi giáo hội Chính Thống giáo đang cử hành "Lễ suy tôn Thánh giá" thì một cửa ở nhà nguyện của dòng Phanxicô (Công giáo) vẫn mở. Điều này được bên Chính Thống giáo coi như không tôn trọng họ, nên đã nổ ra vụ ẩu đả khiến vài người bị bắt, nhưng không ai bị thương nặng. Ngày Chúa nhật Lễ Lá, trong tháng 4 năm 2008, một cuộc cãi lộn đã nổ ra khi một tu sĩ Hy Lạp bị một phe đối lập tống ra khỏi tòa nhà. Cảnh sát đã được gọi tới nhưng cũng bị những người hăng máu đang cãi lộn tấn công luôn. Một cuộc va chạm giữa các tu sĩ Armenia và Hy Lạp cũng đã nổ ra trong ngày chúa nhật 9.11.2008, trong khi cử hành Lễ kính Thánh Giá. Theo thỏa thuận "nguyên trạng" (status quo), không phần chung nào của nhà thờ được bố trí lại nếu không có sự đồng thuận của tất cả các cộng đồng tôn giáo nói trên. Điều này thường dẫn tới tình trạng bỏ bê không sửa chữa kịp thời các hư hại khi các cộng đồng nói trên không thỏa hiệp được với nhau. Điển hình là tình trạng chậm trễ trong việc tu sửa "edicule" (gian phòng nhỏ chứa mộ Chúa), khiến cho nhu cầu sửa chữa nơi này hiện nay trở nên cấp thiết. Một ví dụ bất tiện khác về thỏa thuận giữ nguyên trạng là một chiếc thang bằng gỗ dưới cửa sổ bên ngoài lan can trên lối vào nhà thờ: một người nào đó đã đặt chiếc thang này ở đây trước năm 1852, mà theo thỏa thuận giữ nguyên trạng thì nơi đây là phần chung, nên chiếc thang vẫn nằm y nguyên ở vị trí này cho tới ngày nay, không ai được đụng vào. Không cộng đoàn nào kiểm soát lối vào chính. Năm 1192, Saladin phân công việc kiểm soát cửa vào nhà thờ cho hai gia đình người Hồi giáo lân cận. Gia tộc Joudeh Al-Goudia được giao phó nhiệm vụ giữ các chìa khóa của nhà thờ, còn gia tộc Nusseibeh phụ trách giữ cửa. Biện pháp bố trí này còn tồn tại tới ngày nay. Gia đình Joudeh Al-Goudia nắm giữ các tài liệu của các vua Hồi giáo Ottoman cai trị Jerusalem xác định họ là gia đình duy nhất được trao phó các chìa khóa của nhà thờ. Sự liên quan tới đền thờ nữ thần Aphrodite. Như đã nói trên, nơi đây đã từng là đền thờ nữ thần Aphrodite trước khi Constantine cho xây nhà thờ, một chi tiết mà truyền thuyết Kitô giáo cho là do Hadrian cố ý đặt đền thờ trên ngôi mộ của chúa Giêsu như một sự coi khinh Kitô giáo. Tuy nhiên, đền thờ của Hadrian được đặt ở vị trí này thực ra chỉ đơn thuần vì đây là nơi giao nhau của tuyến đường chính bắc nam (mà bây giờ là Suq Khan-ez-Zeit) với một trong hai đường chính đông-tây (mà bây giờ là Via Dolorosa tức Đường đau khổ hay Đường Thánh giá), và tiếp cận trực tiếp với forum (quảng trường lộ thiên, nơi dân chúng tụ họp) (mà bây giờ là vị trí của Muristan(hẹp hơn); theo truyền thống của các thành phố La Mã thì Forum được đặt ở ngã tư giao lộ giữa con đường chính nam-bắc gặp con đường chính đông tây (mà nay là El-Bazar/phố David). Cả đền thờ và Forum chiếm toàn bộ khoảng không gian của giao lộ giữa 2 đường chính đông-tây (vài di tích trên mặt đất của phần cuối đền thờ phía đông có tường bao quanh vẫn còn tồn tại ở chỗ "phái bộ truyền giáo Nga lưu vong" (Russian Mission in Exile). Sự liên quan tới thành phố Jerusalem. Phúc âm mô tả ngôi mộ chúa Giêsu nằm ở bên ngoài bức tường thành Jerusalem cổ, vì thông thường nơi mai táng trong thời cổ được coi là nơi không sạch sẽ, do đó thường không nằm phía trong các tường thành, tuy nhiên Nhà thờ Mộ Thánh lại nằm ở khu giữa thành phố do Hadrian lập nên, tức bên trong các tường thành Jerusalem cổ, do vua Hồi giáo Suleiman the Magnificent xây năm 1538. Người ta cho rằng thành Jerusalem vào thời chúa Giêsu thì hẹp hơn nhiều, nên vị trí này lúc đó nằm bên ngoài các tường thành, sau đó thành phố được nới rộng dần ra kể từ khi Herod Agrippa (41–44) được lịch sử ghi nhận là đã nới rộng thành phố về hướng bắc và hướng tây. Khu vực ngay phía nam và phía đông của ngôi mộ thời xưa là mỏ khai thác đá Năm 2007, nhà khảo cổ Dan Bahat cho biết "6 ngôi mộ từ thế kỷ thứ nhất đã được tìm thấy trong khu vực "Nhà thờ Mộ Thánh". Điều đó có nghĩa là nơi này (đã) nằm ở bên ngoài thành phố, không còn nghi ngờ gì nữa...", Việc xác định niên đại các ngôi mộ được căn cứ trên sự kiện là chúng thuộc kiểu "kokh", kiểu mộ thông thường ở thế kỷ thứ nhất; tuy nhiên, kiểu mộ "kokh" cũng là thông thường ở đầu thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên. Khả năng có thể một ngôi mộ ở thế kỷ thứ nhất được đặt ở phía tây thành phố Jerusalem thật đáng ngờ, vì theo Akiba ben Joseph - vị lãnh đạo giáo sĩ Do Thái ở cuối thế kỷ thứ nhất - được trích dẫn trong sách Mishnah (sách chép luật Do Thái truyền khẩu) – thì các ngôi mộ không được đặt ở phía tây thành phố vì gió ở Jerusalem thường thổi tới từ hướng tây, và như vậy sẽ đem theo mùi ô uế của xác chết vào thành phố cùng Núi Đền Thờ.. Hồ sơ khảo cổ cho biết là những chỉ thị do Akiba ben Joseph nêu ra bên trên cho việc chọn địa điểm mai táng, được tuân thủ cách cứng nhắc; hầu như mọi ngôi mộ của Jerusalem cổ truyền đều nằm ở phía đông thành phố, trên Núi Olives, ngoại trừ vài ngôi mộ nằm cách một kilometre về phía tây, và các ngôi mộ trong Nhà thờ Mộ Thánh Tuy nhiên, ta phải lưu ý rằng, nơi được cho là hốc tường đặt cuộn kinh Torah trong ngôi nhà dường như nguyên thủy được xây dựng dùng làm đền thờ Kitô-Do Thái giáo từ khoảng năm 70 tới năm 135 sau Công nguyên trên vị trí theo truyền thuyết là Cenacle (Nhà Tiệc Ly) hoặc phòng ở tầng trên của Last Supper (Bữa ăn cuối cùng) và nay được xác định là vị trí King David's Tomb (Mộ vua David) thì không hướng về Núi Đền Thờ, mà hướng về vị trí Ngôi Mộ Thánh, điều đó có lẽ cho thấy là cộng đồng Kitô hữu xây dựng nó đã bắt đầu chuyển nhiều truyền thống tôn giáo mà ban đầu kết hợp với Đền Thờ (Do Thái giáo) thành những nơi mà họ kết hợp với cái chết và Sự phục sinh của Giêsu (chẳng hạn như nơi an táng tổ phụ Adam và trung tâm thế giới) Nghi ngờ tính xác thực của địa điểm này. Mặc dù việc xác định Aedicule (căn phòng nhỏ) là nơi có mộ chúa Giêsu không phải là giáo lý đức tin đối với bất cứ nhóm Kitô hữu đa số nào, nhưng các Kitô hữu Chính Thống giáo và Công giáo vẫn tin chắc vào địa điểm truyền thống này. Tuy nhiên, do nhiều vấn đề về địa điểm này nẩy sinh, nên nhiều học giả đã bác bỏ tính hợp thức của nơi này. Chính sự kiện là bên ngoài thành phố Jerusalem vào đầu thiên niên kỷ thứ nhất Kitô giáo có nhiều nơi được gọi trong các biệt ngữ địa phương là "Golgotha" (bởi vì tất cả những nơi đó đã được sử dụng như một nơi hành quyết tội nhân) đã làm cho nhiệm vụ tìm kiếm địa điểm đích thực nơi Chúa Giêsu bị hành hình trở nên phức tạp. Trong khi đó, vị trí truyền thống của Golgotha bị một số nhà sử học coi như không thích hợp để dùng làm nơi hành quyết tử tội bằng cách đóng đinh vào thập giá, do cấu trúc đá nhô ra phía trước của nó. Sau thời gian lưu trú ở Palestine trong các năm 1882–83, tướng Charles George Gordon đã tìm thấy một địa điểm ở bên ngoài các tường thành cổ mà ông ta cho là vị trí đích thực của đồi Golgotha. Mặc dù Nhà thờ Mộ Thánh có ngôi mộ chỉ cách đồi Golgotha (trong nhà thờ) vài yards (0,9144 mét), nhưng không có lý do đặc biệt nào để coi việc đặt 2 nơi gần nhau (mộ và đồi Golgotha) là cần thiết; tuy nhiên, Gordon theo nguyên tắc này, kết luận rằng địa điểm đồi Golgotha mà ông ta tìm thấy cũng phải nằm gần nơi mai táng chúa Giêsu, nên xác định một ngôi mộ gần đó – nay gọi là "Garden Tomb" – là nơi mai táng chúa Giêsu. Các vật sành sứ và khảo cổ tìm thấy trong khu vực này sau đó được xác định có niên đại từ thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên, nên theo ý kiến các nhà khảo cổ thì nơi có ngôi Garden Tomb đã bị bỏ hoang từ thế kỷ thứ nhất sau CN. Về mặt Kinh Thánh thì điều này không phù hợp với 3 trình thuật Phúc âm (Matthew, Luca, và Gioan) trong đó đặc biệt nói rằng ngôi mộ của chúa Giêsu là mới và trong đó chưa có đặt xác ai. Mặc dù có những phát hiện về khảo cổ, nhưng Garden Tomb đã trở thành nơi ưa thích cho các người Tin Lành hành hương. Những nhà lãnh đạo Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kitô đã rất do dự trong việc xác định chính thức, dù rằng nhiều tín đồ Mormon coi Garden Tomb là địa điểm chính xác của ngôi mộ chúa Giêsu.
1
null
Artemisia kruhsiana là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được Wilibald Swibert Joseph Gottlieb von Besser mô tả khoa học đầu tiên năm 1834. Về mặt phân loại, một số tác giả - như Flora of China - coi nó là đồng nghĩa của "Artemisia lagocephala". Mô tả. "A. kruhsiana" khác với "A. lagocephala" ở chỗ có các chiếc hoa nhẵn nhụi (so với các chiếc hoa có lông tơ với các lông quăn và thanh mảnh ở "A. lagocephala"); lá có lông măng màu trắng ở mặt xa trục, một hoặc hai xẻ ba khá sâu trên các chồi sinh dưỡng (so với các lá tỏa tia có lông măng màu xám ở mặt xa trục, 3 thùy khá nông, với 3 răng hoặc nguyên ở "A. lagocephala"); cây cao tới 40 cm (so với cây cao 40-80 cm ở "A. lagocephala"). Phân bố. Loài này là bản địa khu vực từ miền đông bắc Siberia và Viễn Đông Nga (Khabarovsk, Magadan, Sakha) tới Hoa Kỳ (Alaska) và Canada (British Columbia, Các Lãnh thổ Tây Bắc, Yukon).
1
null
Artemisia lagocephala là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Lịch sử phân loại. Loài này được Wilibald Swibert Joseph Gottlieb von Besser mô tả khoa học đầu tiên năm 1829 theo mẫu cây của Friedrich Ernst Ludwig von Fischer dưới danh pháp "Absinthium lagocephalum", với dẫn chiếu tới mô tả và hình minh họa của Johann Georg Gmelin tại mục 110 trang 127-128, hình 1 và 2 tab 61 trong quyển 2 sách "Flora Sibirica sive historia plantarum Sibiriae" và coi nó như là "Artemisia chinensis sibirica" theo nghĩa của chính ông. Năm 1834, Besser đề cập tới "Artemisia lagocephala", trong phần ghi chú khi mô tả "Artemisia kruhsiana". Tuy nhiên, "Artemisia lagocephala" của ông không dẫn chiếu tới "Absinthium lagocephalum" do chính ông công bố trước đó mà chỉ dẫn chiếu tới "Artemisia chinensis sibirica" với đế hoa nhẵn nhụi ("... clinanthio calvo s. A. chinensis, sibirica ..."). Vì thế, danh pháp này được coi là công bố không hợp cách (nom. inval.). Năm 1837 (in đầu tháng 1 năm 1838), trong quyển 6 sách "Prodromus Systematis Naturalis Regni Vegetabilis", Augustin Pyramus de Candolle công bố "Artemisia lagocephala" với dẫn chiếu tới mô tả và hình minh họa của Johann Georg Gmelin tại mục 110 trang 127-128, hình 1 và 2 tab 61 thuộc quyển 2 sách "Flora Sibirica sive historia plantarum Sibiriae". Một số tác giả - như Flora of China - coi "A. kruhsiana" là đồng nghĩa của "A. lagocephala". Tên gọi. Tại Trung Quốc gọi là 白山蒿 (bạch sơn hao). Mô tả. Cây bụi hoặc cây thân thảo, mọc thành cụm, cao 40–80 cm, với phần thân gốc hóa gỗ, phân cành ngắn, rậm lông tơ màu xám hoặc ánh nâu. Các lá ở phần thân dưới và thân giữa không cuống, hình thìa, hình elip-hình mác ngược hoặc hình mác, 3-6 × 0,3–1 cm, 3-5 khía tai bèo hoặc nguyên ở đỉnh, hình nêm ở đáy, có vết rách và răng cưa. Các lá phía trên và các lá bắc giống như lá hình mác hoặc thẳng-hình mác, đỉnh tù hoặc nhọn. Cụm hoa kép là chùy hoa giống như chùm hoa. Cụm hoa đầu có cuống. Tổng bao hình bán cầu hoặc gần cầu, đường kính 4–6 mm; đế hoa hình bán cầu, có lông tơ. Chiếc hoa cái ở ngoài 7-10; tràng hoa 3 (hoặc 4) răng. Chiếc hoa đĩa 30-80, lưỡng tính; phiến tràng hoa có lông tơ nhỏ. Quả bế hình elipxoit hoặc trứng ngược. Ra hoa và tạo quả tháng 8-10. "2n" = 18. Phân bố. Loài này là bản địa khu vực từ Siberia tới Viễn Đông Nga, bán đảo Triều Tiên và miền bắc Trung Quốc (các tỉnh Hắc Long Giang, Cát Lâm, đông Nội Mông và Tứ Xuyên). Môi trường sống là các ngọn đồi, dốc đá, chỏm núi, bìa rừng ngoài, ven đường, thảo nguyên rừng, ở cao độ dưới 2.600 m.
1
null
Kodály Zoltán (; sinh ngày 16 tháng 12 năm 1882 tại Kecskemét - mất 6 tháng 3 năm 1967 tại Budapest) là nhà soạn nhạc, giáo viên người Hungary. Ông là nhà soạn nhạc nằm trong sự chuyển giao giữa âm nhạc Lãng mạn và Hiện đại. Kodály để lại vở opera "Háry Janos" (1926); những tác phẩm cho dàn nhạc gồm có "Buổi tối mùa hè" (1929-1930), "Những vũ khúc Galánta" (1933); những tác phẩm cho hơp xướng và dàn nhạc, có thể kể tới "Psalmus Hungarycus" (1923), "Missa Brevis" (1944); nhạc thính phòng gồm các bản tứ tấu đàn dây, những bản sonata cho violin; nhiều bản dân ca cải biên, hơp xướng cho thiếu nhi...
1
null
Artemisia pontica là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được Carl Linnaeus mô tả khoa học đầu tiên năm 1753. Từ nguyên. Tính từ định danh "pontica" là để chỉ tới khu vực Pontus ở đông bắc Thổ Nhĩ Kỳ, phía nam Biển Đen. Tên gọi. Tên gọi thông thường trong một số ngôn ngữ, như tiếng Anh: Roman wormwood (ngải La Mã), small absinthe (ngải áp xanh nhỏ), tiếng Nga: полынь черноморская (ngải Biển Đen), tiếng Trung: 西北蒿 (tây bắc hao = ngải tây bắc). Mô tả. Cây bụi nhỏ hoặc cây thân thảo, cao 30-60(-100) cm, có phần gốc hóa gỗ và các nhánh ở đáy, rậm lông tơ hoặc thân sau nhẵn nhụi, phân nhiều nhánh. Các lá ở đáy mọc thành nơ lá. Mặt xa trục của lá thưa lông tơ; các lá ở sát gốc và phần thân dưới: phiến lá hình trứng hoặc hình trứng rộng, 2-5 × 1,5-3 cm, 2 hoặc 3 thùy lông chim xẻ tới gân giữa. Các lá ở phần thân giữa 2 thùy lông chim xẻ sát gân giữa; các phần 3 hoặc 4 cặp; thùy con hình elip hoặc thẳng, 3-5 × 0,5-1 mm, đỉnh tù. Các lá trên cùng và lá bắc tựa như lá xẻ thùy hình lông chim tới gân giữa hoặc nguyên; các thùy của lá nguyên thì thẳng hoặc thẳng-hình mác. Cụm hoa kép là chùy hoa hẹp ít hay nhiều. Đầu hoa nhiều, đu đưa. Tổng bao hình cầu, đường kính 2,5-3(-3,5) mm. Chiếc hoa cái ở phần rìa 8-12. Chiếc hoa đĩa 30-40, lưỡng tính; phiến tràng hoa có lông tơ nhỏ hoặc sau này thành nhẵn nhụi. Quả bế hình trứng ngược. Ra hoa và tạo quả tháng 7-10. "2n" = 18. Phân bố. Loài bản địa Áo, các quốc gia ven biển Baltic, Bulgaria, Hungary, Italia, Kazakhstan, Nam Tư cũ, Nga (từ phần thuộc châu Âu tới Tây Siberia), Romania, Cộng hòa Séc, Slovakia, Tây Ban Nha, tây bắc Trung Quốc, Ukraina. Du nhập vào tây và bắc châu Âu (đảo Anh, Ba Lan, Bỉ, Đan Mạch, Đức, Na Uy, Pháp, Thụy Sĩ) và miền đông Bắc Mỹ. Môi trường sống là các dốc núi đá, thung lũng khô, thảo nguyên, đồi; ở cao độ từ thấp đến trung bình. Sử dụng. Tinh dầu của loài ngải này chứa cineol, long não, thujone và borneol cùng nhiều thành phần khác. Người ta cho rằng nó ít đắng hơn ngải áp xanh ("Artemisia absinthium") và là nguyên liệu tạo vị chủ yếu trong rượu vermouth. Nó được gieo trồng ở quy mô thương mại tại Tây Ban Nha và Litva. Lưu ý. The Plant List phiên bản 1.1 (đã bị bỏ không dùng) liệt kê các danh pháp đồng nghĩa của "A. pontica" như là đồng nghĩa của "A. afra". Điều này có thể là do nhầm với "A. pontica" ; do danh pháp này được liệt kê như là đồng nghĩa của "A. afra". Tuy nhiên, tra cứu trang 26 phần "Florae Capensis Prodromus" trong sách "Flora Indica: cui accedit series zoophytorum indicorum, nec non Prodromus Florae Capensis" in năm 1768 của Nicolaus Laurent Burman (phần "Prodromus Florae Capensis") theo thông tin mà IPNI, World Flora Online và The Plant List cung cấp thì không thấy liệt kê "Artemisia pontica". Trang 24 phần "Florae Capensis Prodromus" chỉ ghi nhận 2 loài "Artemisia" là "A. aethiopica" và "A. ambigua".
1
null
Artemisia princeps là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được Pamp. mô tả khoa học đầu tiên năm 1930. Phân bố và môi trường sống. "Artemisia princeps" là giống cây bản địa ở Trung Quốc, Nhật Bản và Triều Tiên. Nó cũng được đưa đến Bỉ và Hà Lan. Giống này mọc ở nhiều môi trường đa dạng như lề đường, bờ dốc, thung lũng, bờ sông.
1
null
Thánh mẫu học Công giáo là một môn học (có nhiều liên hệ với Thần học) nhằm tìm hiểu cuộc đời, các đặc ân của Maria cũng như vai trò của ngài trong kế hoạch cứu độ và thánh hóa. Trong quan điểm Công giáo, Đức Maria có một vị trí quan trọng trong kế hoạch cứu rỗi và một vị trí đặc biệt trong truyền thống và sự tôn kính. Mẹ được xem là cao trọng hơn tất cả các vị thánh khác. Vì vậy Thánh Mẫu học Công giáo nghiên cứu không chỉ cuộc sống của Đức Maria mà còn là sự tôn kính của người trong cuộc sống hàng ngày bằng lời cầu nguyện, thánh ca, nghệ thuật (nơi hình tượng Maria đã là một chủ đề ưa thích), âm nhạc, và kiến trúc và trong niềm tin Kitô giáo qua các thời đại. Các giáo điều. Có bốn giáo điều được tuyên bố chính thức như một tín điều buộc phải tin đối với người Công giáo, thể hiện mối quan hệ của Đức Maria với Chúa Giêsu và vai trò của người trong công cuộc cứu độ. Trọn đời đồng trinh. Học thuyết này dựa trên cơ sở truyền thống các Kitô hữu ở những thế kỷ đầu tiên đã dùng từ aeiparthenos -"trọn đời đồng trinh" để diễn tả về Đức Maria. Từ ngữ này còn được sử dụng bởi thánh Epiphanio, vào năm 374, khi bàn đến việc Nhập thể: Con Thiên Chúa "đã nhập thể, nghĩa là đã được sinh ra cách hoàn hảo bởi Thánh Maria, trọn đời đồng trinh, nhờ Chúa Thánh Thần" (Ancoratus, 119,5). Từ ngữ "trọn đời đồng trinh" được lặp lại ở công đồng Constantinôpôlis II (năm 553), khi khẳng định rằng: Ngôi Lời Thiên Chúa, "được nhập thể và được sinh ra bởi Thánh mẫu Thiên Chúa Đức Maria vinh hiển và trọn đời đồng trinh" tiếp đó là tại công đồng Latêranô IV (1215) và Lyon II (1274) và bởi đoạn văn tuyên bố tín điều Mẹ lên trời (1950), trong đó sự trinh khiết trọn đời của Đức Maria được trưng dẫn như là một trong những động lực của việc hồn xác được cất nhắc vào vinh quang trên trời. Giáo hoàng Gioan Phaolô II trong bài giáo huấn về Đức Maria nói: ""Mặc dù Tân ước nhấn mạnh đến sự trinh khiết của Đức Maria lúc cưu mang Chúa Giêsu, nhưng Hội thánh tin rằng Đức Maria giữ mình trinh khiết suốt đời. Điều này xem ra đã được gói ghém trong tính từ "Trinh nữ" dành cho Đức Maria (Lc 1,27). Dù sao, đức tin của Hội thánh đã được diễn tả trong các tín biểu qua các dụng ngữ "trọn đời đồng trinh", hoặc "đồng trinh trước khi sinh, đang khi sinh và sau khi sinh"". Mẹ Thiên Chúa. Danh từ "Mẹ Thiên Chúa" không trực tiếp có trong Tân Ước. Tuy nhiên danh từ “Mẹ của Chúa tôi” được Tân Ước ghi lại Luca 1:43. Người Do Thái thường dùng từ Chúa (Lord) để gọi Thiên Chúa (God) hoặc thay thế Danh xưng YAHWEH vì sợ phạm thượng. Vì vậy có thể xem như Kinh Thánh chấp nhận danh xưng Mẹ Thiên Chúa. Danh từ này lần đầu tiên chính thức được nói lên do thánh Hippolytus ở Rôma năm 235. Sau đó, Giám mục Nestorius, Giáo chủ Constantinople (năm 428) đã phản đối việc áp dụng danh từ ấy cho Đức Mẹ. Ông phản đối vì ông có một quan niệm rằng Con Thiên Chúa khác với con Bà Maria. Hay nói cách khác, Chúa Kitô có hai ngôi vị, là Ngôi Thiên Chúa (Ngôi Lời - Logos) và ngôi vị con người là Giêsu. Công đồng Êphêsô năm 431 đã khẳng định lại giáo lý của Giáo hội dạy rằng Chúa Giêsu có hai bản tính: Một là bản tính Thiên Chúa, hai là bản tính loài người. Hai bản tính ấy kết hợp trong một Ngôi duy nhất là Ngôi thứ hai. Công Đồng kết án phái Nestorius. Đồng thời các nghị phụ chấp nhận nội dung của bức thư của Thánh Cyrilô gửi Giám mục Nestorius và chính thức công nhận tước hiệu Mẹ Thiên Chúa dành cho Đức Mẹ. Công Đồng Calceđônia tuyên bố thành tín điều năm 451. Vô nhiễm nguyên tội. Do quyền năng của Thiên Chúa, Đức Mẹ được ban một ân sủng đặc biệt: Vô Nhiễm Nguyên Tội để làm Mẹ Thiên Chúa, nghĩa là Bà được ơn Vô Nhiễm ngay từ giây phút Bà đậu thai trong cung lòng Mẹ mình là Thánh Anna. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo viết: "Đức Trinh Nữ Diễm Phúc Maria, đã được gìn giữ khỏi mọi tỳ ố nguyên tội ngay từ lúc tượng thai, do ân sủng và tình thương đặc biệt của Thiên Chúa toàn năng, nhờ công nghiệp của Đức Giêsu Kitô Đấng Cứu Độ loài người...Nhờ ân sủng Thiên Chúa, Đức Maria suốt đời vẫn tinh tuyền không hề phạm tội riêng nào". Theo các Thánh Giáo Phụ Bà là người "Phụ nữ" sinh ra Đấng Cứu Thế trong (Sách Sáng Thế 3:15). Bà là Evà mới đem đến sự sống cho nhân loại, thay cho Evà cũ đã đem đến cái chết cho chính mình và cho nhân loại. Tin mừng Luca (1:28) Thiên Thần Garbriel chào Bà:"Đấng Đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Bà" Bà Elizabet được tràn đầy Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng:"Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ..." (Lc 1:42). Lên Trời. Truyền thống của Giáo hội công giáo cho rằng từ thế kỷ V, người ta đã mừng kính lễ Mẹ Maria Hồn Xác lên Trời ở Syria, thế kỷ VI, giáo đoàn Giêrusalem đã mừng kính lễ Đức Mẹ Hồn Xác về Trời. Từ cuối thế kỷ VIII, khắp Hội Thánh Tây Phương đã cử hành lễ này. Nền tảng thần học của tín điều này dựa trên những sự quy chiêu của Thánh Kinh gọi "Đức Maria là Hòm Bia của Chúa Kitô", ngôn sứ Isaia đã viết:"Ta tôn vinh chỗ Ta đặt chân"(Is 60, 13), sách Khải Huyền cũng khẳng định: "Người Nữ trốn vào sa mạc, ở đó đã có chỗ Thiên Chúa dọn sẵn cho Bà" (Kh 12,6)". Giáo lý Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên tội đưa đến kết luận: "Không như mọi con cái của Evà, Đức Maria, Evà Mới, sẽ không phải chết về phần xác". Niềm tin Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa cũng đưa Giáo hội đến chỗ tin rằng Chúa Giêsu sẽ không để Mẹ Maria, Mẹ yêu quý của Người phải chịu cảnh hư nát vì sự chết. Sách Giáo lý Hội Thánh công giáo viết: "Việc Đức Trinh Nữ được lên Trời Hồn Xác là sự thông phần cá biệt vào cuộc phục sinh của Con Mẹ, và tiên báo cuộc phục sinh của các tín hữu"(số 966).
1
null
Artemisia stelleriana, tên thông thường ngải bà già hoặc ngải bờ biển, là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được Wilibald Swibert Joseph Gottlieb von Besser mô tả khoa học đầu tiên năm 1834 theo mẫu thu thập tại khu vực Kamchatka. Tuy nhiên, từ năm 1813 thì Frederick Traugott Pursh đã đề cập tới nó như là "Artemisia chinensis" ở vùng bờ biển tây bắc Bắc Mỹ. Phân bố. Loài bản địa Viễn Đông Nga, Nhật Bản, bán đảo Triều Tiên, Canada, Hoa Kỳ. Du nhập vào Đan Mạch, đảo Anh, Ireland, đảo Newfoundland, Thụy Điển.
1
null
Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn, Bình Định (có tên Tiếng Anh: Le Quy Don Binh Dinh High school for Gifted student) là một trường trung học phổ thông chuyên công lập, có trụ sở tại thành phố Quy Nhơn, Bình Định, và là một trong hai trường chuyên của tỉnh Bình Định. Trường là nơi đào tạo nhiều học sinh giỏi cấp quốc gia, đoạt nhiều giải Olympic toàn miền Nam, là trường dẫn đầu của ngành giáo dục Bình Định. Đây là trường chuyên có diện tích nhỏ nhất trong số 83 trường chuyên trên cả nước. Lịch sử hình thành. Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn được thành lập từ năm 2000 theo Quyết định số 1930/QĐ-UB ngày 28 tháng 6 năm 2000 của Chủ tịch UBND tỉnh Bình Định, đến nay nhà trường đã trãi qua 22 năm xây dựng và phát triển với nhiệm vụ phát hiện, bồi dưỡng đào tạo năng khiếu học tập ở cấp Trung học phổ thông cho tỉnh Bình Định. Hiệu trưởng đầu tiên của trường là Thạc sĩ Phạm Quang Bắc (2000 - 2016). Hiệu trưởng tiếp theo của trường là Thạc sĩ Mai Anh Dũng (2016 - 2021). Hiệu trưởng hiện tại là Thạc sĩ Huỳnh Lê Minh Trường chính thức khai giảng năm học mới đầu tiên vào đầu tháng 8 năm 2000, với 13 cán bộ giáo viên nòng cốt, cùng 5 lớp 10 (tuyển sinh), 5 lớp 11 (chuyển từ Trường Quốc học Quy Nhơn qua). Ngay trong năm học đầu tiên, 19/23 học sinh của trường tham dự kỳ thi Olympic toàn miền Nam đạt giải (được chọn là một trong 10 sự kiện tiêu biểu của tỉnh Bình Định) và có 13 giải học sinh giỏi quốc gia. Đến năm học 2002 - 2003, bằng sự tài trợ của ông Huỳnh Uy Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Bình Dương, và kinh phí đầu tư của tỉnh, trường đã hoàn thành việc xây dựng cơ sở và chính thức đặt trường sở tại số 02 Nguyễn Huệ, Quy Nhơn. Năm học 2007-2008, Trường được chính phủ công nhận đạt danh hiệu Trường chuẩn quốc gia. Khuôn Viên. Trường gồm khu vực giảng dạy gồm: Đào tạo. Trường có nhiệm vụ phát hiện và đào tạo học sinh có năng khiếu, chuẩn bị cho học sinh có vốn kiến thức và phương pháp tư duy sáng tạo để học tốt bậc đại học và các bậc học cao hơn, góp phần đào tạo nguồn sinh viên tốt cho các trường đại học, tiền đề nguồn nhân lực có chất lượng cho quốc gia. Từ năm 2000 đến 2015, Trường trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn Bình Định đã có 417 giải Học sinh giỏi quốc gia có 11 giải nhất, 80 giải nhì, 184 giải ba và 142 giải khuyến khích. Nhiều học sinh của trường đã được gọi vào đội dự tuyển thi quốc tế. Trường đã dự thi Olympic truyền thống 30/4 toàn miền Nam, đội tuyển của trường luôn nằm trong tốp 5 trường có vị thứ cao nhất; đặc biệt các đội tuyển môn Toán, Lý, Hóa, Sinh của trường đã 06 lần nhận cờ giải nhất Olympic toàn miền Nam. Tính đến năm 2015 trường có 17 thủ khoa, á khoa các trường Đại học và Cao đẳng trong cả nước Trường trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn Bình Định đã 16 năm liền từ 2002 đến 2018 đạt tỷ lệ 100% tốt nghiệp trung học phổ thông. Đội ngũ cán bộ, giáo viên - Năm 2020-2021, Nhà trường có 63 CB, GV, NV. trong đó số cán bộ quản lý là 03, GV: 54, NV: 06 - Chất lượng đội ngũ:  Tất cả Cán bộ, giáo viên nhà trường đều đạt chuẩn và trên chuẩn, được điều động, thuyên chuyển từ các trường THPT trong tỉnh, có năng lực và kinh nghiệm trong đào tạo, bồi dưỡng học sinh giỏi. Dạy và Học. Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn Bình Định là một trong hai trường trung học phổ thông chuyên trực thuộc sở giáo dục và đào tạo Bình Định. Học sinh trường được học đủ các môn học như học sinh các trường trung học phổ thông khác, riêng các môn chuyên được tăng tiết để học sâu hơn, kĩ hơn. Học sinh được tổ chức học Tin học, Tiếng Anh, Ngoại ngữ 2, nghề và được sử dụng các phòng thí nghiệm, phòng Lab hiện đại. Ngoài ra nhà trường có chiến lược giảng dạy từ khi vào trường cho tới hết lớp 12 để học sinh có kết quả tốt nhất trong các kì thi Tốt nghiệp THPT và Tuyển sinh Đại học. Các học sinh có năng khiếu được tổ chức bồi dưỡng thêm để tham dự tốt các kỳ thi Học sinh giỏi Quốc gia, các kỳ thi Olympic quốc tế. Học bổng và Chính sách hỗ trợ tài chính. Học sinh được hưởng các học bổng của sở giáo dục và đào tạo Bình Định dành cho những học sinh đạt thành tích các kì thi Học sinh giỏi cấp tỉnh, học sinh giỏi THPT cấp Quốc gia và chọn đội dự tuyển Quốc tế, Olympic 30/4 toàn miền nam, Olympic Sinh viên, . Các học sinh nhà xa được tạo điều kiện và xem xét ở nội trú tại ký túc xá của trường. học sinh có hạnh kiểm tốt, học lực giỏi và điểm môn chuyên đạt từ 8,5 trở lên được xét cấp học bổng. Học sinh của trường còn có cơ hội nhận những học bổng du học tại các trường đại học danh tiếng ở Hàn Quốc và Nhật Bản, Úc, Hoa Kỳ, Singapore. Tuyển sinh. - Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn tuyển sinh trên các địa bàn Thành phố Quy Nhơn, thị xã An Nhơn, huyện Tuy phước, Tây Sơn, Vân Canh, Vĩnh Thạnh, Phù Cát. - Hiện nay kỳ thi vào trường được tổ chức chung với kỳ thi tuyển sinh vào 10 Công lập, ngoài 3 môn Toán - Văn - Anh còn thêm một buổi thi môn chuyên. - Mỗi năm trường tuyển sinh 7 lớp chuyên (Toán, Lý, Hóa, Sinh, Văn, Anh, Tin) mỗi lớp không quá 35 học sinh, và 1 (hoặc 2) lớp không chuyên mỗi lớp không quá 45 học sinh. Điểm xét tuyển tính từ cao xuống thấp cho đến hết chỉ tiêu cho từng lớp A1, A2.
1
null
Aster spathulifolius là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được Maxim. mô tả khoa học đầu tiên năm 1871. Do chiều cao ngắn và lá dày, Haeguk chịu đựng được gió mạnh và lạnh. Nó tạo ra những bông hoa màu tím ở những điểm nắng giữa các tảng đá, từ tháng 7 đến tháng 11. Haeguk này chỉ phát triển ở Hàn Quốc và Nhật Bản. Nó bắt nguồn từ Ulleungdo và Dokdo, hai hòn đảo của Hàn Quốc ở Biển Đông. Dokdo có ý nghĩa đặc biệt với người Hàn Quốc vì đây là lãnh thổ đầu tiên của Hàn Quốc trở thành nạn nhân của chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản trước khi Nhật Bản buộc phải chiếm đóng Triều Tiên (1910-1945). Vào mùa thu, Haeguks đang nở rộ, tô màu Dokdo bằng màu tím.
1
null
Tử uyển (), tên khoa học Aster tataricus, là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được L.f. mô tả khoa học đầu tiên. Trong văn hóa. Trong văn hóa Nhật Bản, hoa Tử uyển được gọi là "shion" (紫苑). Từ này được hiểu theo Ngôn ngữ các loài hoa của Nhật ("Hanakotoba") có nghĩa là "Tôi sẽ không quên bạn".
1
null
Lithocarpus tephrocarpus là một loài thực vật có hoa trong họ Cử. Loài này được (Drake) A.Camus mô tả khoa học đầu tiên năm 1917. Đặc điểm. Cây cao 10-15 m; cành nhỏ, vảy chồi, phiến lá non và cành chứa cụm hoa được bao phủ dày đặc bởi các lông dài màu nâu thô. Cành mập mạp, có hình thấu kính dễ thấy. Cuống lá không dài quá 1 cm, dày 5-7 mm; phiến lá hình thìa, hình ô van hoặc thuôn dài, 30-50 × 9-10 cm. Phía dưới gân lá có các lông dạng vảy sáp dính chặt khi trưởng thành, gốc tròn, tai và mép nguyên hoặc có một vài răng từ giữa lá đến đỉnh, đỉnh nhọn có đầu tù. Lá có khoảng 21-27 mạch ở mỗi bên, hơi cong vào trục lá, càng gần đỉnh càng cong nhưng không dính sát vào nhau. Cụm hoa kích thước từ 8-12 cm; cuống dày khoảng 1 cm, có lông. Hoa gần hình cầu, có đường kính 3-4 cm, đỉnh hẹp và có hình núm vú, thành dày khoảng 3-5mm. Bẹ hoa đan xen chồng lên nhau, hình trứng nhọn đầu, có lông màu nâu. Hạt hình cầu, đường kính 2,5 cm, được bao phủ bởi các sợi lông ép thưa thớt, thành dày 2mm; có vết sẹo bao phủ quanh gốc hạt, hơi lồi.
1
null
Athanasia adenantha là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được (Harv.) Källersjö mô tả khoa học đầu tiên năm 1991. Đặc điểm. "Athanasia adenantha" là một loài cây bụi trong họ Cúc. Chúng là loại cây quả bế. Cơ sở dữ liệu EOL mô tả 7 thuộc tính của loài này, bao gồm:
1
null
Athanasia inopinata là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được (Hutch.) Källersjö mô tả khoa học đầu tiên năm 1986. Phân bố. Là loài đặc hữu Nam Phi, phân bố tại tỉnh: Western Cape, phạm vi: Dãy núi Tradouw. Môi trường sống và sinh thái. Hệ thống chính: Trên cạn Môi trường sống chính: Thung lũng sa thạch và sườn núi. Các mối đe dọa. Sự cạnh tranh từ các loài thông ngoại lai xâm lấn và Hakea là mối đe dọa tiềm ẩn vì những loài này đã xâm chiếm nhiều khu vực dọc theo Đèo Tradouw. Số lượng cá thể. Xu hướng cá thể: Ổn định.
1
null
Quercus jenseniana là một loài thực vật có hoa trong họ Cử. Loài này được Hand.-Mazz. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1922. Đây là loài bản địa miền nam Trung Quốc, được tìm thấy ở các tỉnh Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tây, Vân Nam và Chiết Giang. Quercus jenseniana là một cây lớn cao tới 35 mét. Lá có thể dài tới 30 cm
1
null
Quercus rubra là một loài thực vật có hoa trong họ Cử. Loài này được Carl von Linné miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753. Đây là loài bản địa Bắc Mỹ, ở miền đông và miền trung Hoa Kỳ và đông nam và nam trung Canada. Loài sồi này mọc từ cuối phía bắc của Ngũ Đại hồ, phía đông đến Nova Scotia, phía nam xa như Georgia, Alabama, và Louisiana, và phía tây đến Oklahoma, Kansas, Nebraska và Minnesota. Loài này được du nhập đến các khu vực nhỏ ở Tây Âu, nơi chúng thường xuyên có thể được nhìn thấy trồng trong khu vườn và công viên. Loài sồi này thích đất tốt có tính axit nhẹ. Thường được gọi là sồi đỏ, sồi đỏ phía bắc được đặt tên để phân biệt với gỗ sồi đỏ phía nam ("Q. falcata"), còn được gọi là sồi Tây Ban Nha. Nó cũng là cây tiểu bang của New Jersey và cây của tỉnh Prince Edward Island.
1
null
Ilyushin Il-112 là một loại máy bay vận tải quân sự do Ilyushin phát triển, phục vụ cho mục đích không vận hàng hóa, thiết bị và nhân lực. Il-112V là phiên bản quân sự của vận tải cơ Ilyushin Il-112 đang được Tổ hợp Hàng không Ilyushin phát triển nhằm thay thế vận tải cơ hạng trung An-26 trong biên chế không quân Nga. Il-112V là máy bay vận tải hạng nhẹ thế hệ mới của Nga do Nhà máy hàng không Voronezh sản xuất.  Với kỳ vọng thay thế cho các dòng máy bay thời Liên Xô, Il-112V đang bị cho là đã sớm lạc hậu từ khi chưa hoàn thiện. Il-112V là vận tải cơ quân sự đầu tiên được thiết kế tại Nga sau khi Liên Xô tan rã. Đặc biệt, Il-112V sử dụng công nghệ kỹ thuật số tiên tiến và được trang bị các hệ thống tối tân, hoàn toàn được sản xuất ở trong nước. Theo giới chức Nga, Il-112V được đánh giá hoạt động hiệu quả hơn so với các máy bay vận tải quân sự Antonov đang nằm trong diện loại biên. Theo RT, dự án phát triển Il-112V bắt đầu từ giữa những năm 1990 nhưng bị tạm dừng một thời gian dài cho mãi tới năm 2003 và tiếp tục gặp trở ngại lần nữa vào năm 2010 - khi Bộ Quốc phòng Nga đột ngột ngưng tài trợ vì muốn cân nhắc phát triển một mẫu vận tải cơ khác là Antonov An-140. Tuy nhiên, do dự án An-140 không đáp ứng các kỳ vọng, chương trình Il-112V đã được hồi sinh lần thứ hai vào năm 2013. Theo các chuyên gia quân sự quốc tế thì triển vọng dành cho Il-112V là rất thấp, khi nó đã tỏ ra lạc hậu rất xa ngay từ khi chưa thực sự hoàn thiện. So sánh với đối thủ được đánh giá là lớn nhất - chiếc vận tải cơ hạng nhẹ CASA C-295 của Airbus thì Il-112V tỏ ra thua kém trên mọi thông số cơ bản. C-295 có kích thước gần như tương đương Il-112V nhưng lại có khả năng chuyên chở khối lượng hàng hóa lên tới 9,25 tấn với tầm bay 1.300 km so với 5 tấn của Il-112. Ngoài ra hệ thống điện tử hàng không của C-295 cũng được đánh giá cao hơn rất nhiều so với Il-112V của Nga khiến cho máy bay vận tải Nga trở nên khó bán. Quan trọng hơn, hiện nay các cường quốc quân sự trên thế giới như Mỹ và Trung Quốc đã bước đầu thử nghiệm thành công máy bay vận tải không người lái (UAV) có khả năng mang tải trọng tối đa không kém IL-112V. Dòng Il-112V thực hiện chuyến bay thử đầu tiên vào năm 2019, đến nay đã có 3 nguyên mẫu được xuất xưởng. Nguyên mẫu vận tải cơ Il-112V đã bị rơi trong chuyến bay thử ở ở Kubinka, ngoại ô Moskva làm ba người chết ngày 17 tháng 8 năm 2021. Máy bay đã bị phá hủy hoàn toàn và bốc cháy. Vụ tai nạn của Il-112V là do cháy trong động cơ. Ngoài chiếc máy bay bị rơi thì Nga chỉ còn duy nhất một mẫu dùng để thử nghiệm tĩnh Il-112 trên mặt đất. Ba thành viên phi hành đoàn đã thiệt mạng gồm Anh hùng nước Nga Nikolai Kuimov, phi công lái thử hạng nhất Dmitry Komarov và kĩ sư bay Nikolai Khludeev. Các phi công đang chuẩn bị cho các chuyến bay trình diễn. Một video quay phút cuối cùng của máy bay được công bố cho thấy, động cơ bên phải máy bay bốc cháy khi nó đang hạ cánh ở độ cao thấp. Khi gần tiếp đất, máy bay đột ngột mất lái, lật nghiêng, bổ nhào xuống đất và bốc cháy.
1
null
UAC/HAL Il-214 Multirole Transport Aircraft (MTA – Máy bay vận tải đa năng) là một mẫu thiết kế loại máy bay vận tải quân sự hạng trung, được sản xuất với sự hợp tác giữa United Aircraft Corporation (UAC) của Nga và Hindustan Aeronautics (HAL) của Ấn Độ. Mỗi công ty đầu tư 300 triệu USD cho đề án này.
1
null
Bellis perennis hay còn gọi là Cúc Anh một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được L. mô tả khoa học đầu tiên năm 1753. Đặc điểm. Cúc Anh là cây thân thảo. Cây sống lâu năm cao khoảng 10-25 cm; cuống hoa có nhung mao, sọc thưa thớt. Những bông hoa có các tia màu trắng, hồng hoặc đỏ với tâm màu vàng và có đường kính lên tới 5 cm. Đĩa hoa màu vàng, cành cây hình chuông, có lông thưa ở gần, các thùy dựng đứng, hình tam giác, phẳng. Lá. Lá dài từ 7-15 cm. Tuy nhiên, loài cây này cũng có những chiếc lá màu xanh đậm dài 2.5-5 cm, có hình hoa thị. Lá có thể trông hình thìa. Lá có thùy hoặc không có thùy, có răng và hình nêm hoặc cắt cụt ở gốc. Loại cây này không có lá trên thân: chỉ có lá ở gần gốc. Tính độc. Loài này được cho là chứa saponin, oxalat và tanin gây độc cho một số loài động vật như chó, mèo, ngựa và có thể có độc cho con người. Phân bố. Cúc Anh có nguồn gốc từ Châu Âu và Tây Á. Hiện nay nó được phân bố ở Anh, Đức, Iraq, Tây Ban Nha, Nam Tư, Chile, New Zealand và Mỹ.
1
null
Benitoa occidentalis là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được (H.M.Hall) D.D.Keck mô tả khoa học đầu tiên năm 1956. "Benitoa" là một loài đặc hữu của tiểu bang California, nơi mà nó chủ yếu được biết đến từ Quận San Benito, khu vực mà nó mang tên. Các quần thể bổ sung đã được tìm thấy ở các khu vực gần như Quận Fresno và Quận Monterey.
1
null
Song nha hai lần kép hay còn gọi manh tràng (danh pháp khoa học: Bidens bipinnata) là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được L. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753. Có bộ phận được sử dụng làm thuốc kích dục cho phụ nữ.
1
null
Song nha song tam hay Kim trản (danh pháp khoa học: Bidens biternata) là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được (Lour.) Merr. & Sherff mô tả khoa học đầu tiên năm 1929. Lá và ngọn non ăn được như rau, lá dùng uống như trà ở Ấn Độ.
1
null
Acanthopsis carduifolia là một loài thực vật có hoa trong họ Ô rô. Loài này được Carolus Linnaeus Trẻ mô tả khoa học đầu tiên năm 1782 dưới danh pháp "Acanthus carduifolius". Năm 1890, Hans Schinz chuyển nó sang chi "Acanthopsis". Phân bố. Loài bản địa miền tây tỉnh Cape (Nam Phi).
1
null
Acanthopsis disperma là một loài thực vật có hoa trong họ Ô rô. Lịch sử phân loại. Năm 1842 William Henry Harvey mô tả chi "Acanthopsis", và đề cập rằng "Acanthodium dispermum" là loài điển hình của chi này. Tuy nhiên, ông lại không tạo ra tổ hợp tên gọi mới là "Acanthopsis disperma", vì thế danh pháp "Acanthopsis disperma" là "nomen invalidum" (tên gọi không được công bố hợp lệ). Tới năm 1847 thì Christian Gottfried Daniel Nees von Esenbeck mới hợp lệ hóa tên gọi "Acanthopsis disperma". Phân bố. Loài bản địa từ tây nam Namibia đến tây bắc tỉnh Cape (Nam Phi).
1
null
Acanthopsis glauca là một loài thực vật có hoa trong họ Ô rô. Loài này được Ernst Heinrich Friedrich Meyer đặt tên là "Acanthus glaucus" năm 1837, nhưng mô tả khoa học đầu tiên do Christian Gottfried Daniel Nees von Esenbeck đưa ra năm 1847 lấy theo danh pháp "Acanthodium glaucum". Năm 1890, Hans Schinz chuyển nó sang chi "Acanthopsis". Phân bố. Loài bản địa tây bắc tỉnh Cape (Nam Phi).
1
null
Acanthopsis hoffmannseggiana là một loài thực vật có hoa trong họ Ô rô. Loài này được Christian Gottfried Daniel Nees von Esenbeck mô tả khoa học đầu tiên năm 1847 dưới danh pháp "Acanthodium hoffmannseggianum". Năm 1912, Charles Baron Clarke chuyển nó sang chi "Acanthopsis". Phân bố. Loài bản địa từ miền nam Namibia đến tỉnh Cape (Nam Phi).
1
null
Acanthopsis horrida là một loài thực vật có hoa trong họ Ô rô. Loài này được Christian Gottfried Daniel Nees von Esenbeck mô tả khoa học đầu tiên năm 1841 dưới danh pháp "Dilivaria horrida". Năm 1847, ông chuyển nó sang chi "Acanthopsis". Phân bố. Loài bản địa ở tây bắc và tây tây bắc tỉnh Cape (Nam Phi).
1
null
Acanthopsis scullyi là một loài thực vật có hoa trong họ Ô rô. Loài này được Spencer Le Marchant Moore mô tả khoa học đầu tiên năm 1901 dưới danh pháp "Blepharis scullyi". Năm 1937, Anna Amelia Obermeyer chuyển nó sang chi "Acanthopsis". Phân bố. Loài bản địa tây tây bắc tỉnh Cape (Nam Phi).
1
null
Acanthopsis spathularis là một loài thực vật có hoa trong họ Ô rô. Loài này được Ernst Heinrich Friedrich Meyer đặt tên khoa học là "Acanthus spathularis" năm 1837, nhưng mô tả khoa học đầu tiên là của Christian Gottfried Daniel Nees von Esenbeck công bố năm 1847 dưới danh pháp "Acanthodium spathulare". Năm 1890, Hans Schinz chuyển nó sang chi "Acanthopsis". Phân bố. Loài bản địa tây bắc tỉnh Cape (Nam Phi).
1
null
Brachyglottis lagopus là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được (Raoul) B.Nord. mô tả khoa học đầu tiên năm 1978. "B. Lagopus" là loài biến đổi và có thể có lá to, rậm, ở một số vùng khác lại có lá nhỏ. Hoa của nó có màu vàng.
1
null