text
stringlengths
1
148k
label
int64
0
2
__index_level_0__
int64
0
113k
Pleuranthodium piundaundensis (hay Pleuranthodium piundaundense) là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Pieter van Royen miêu tả khoa học đầu tiên năm 1979 dưới danh pháp "Riedelia piundaundensis". Năm 1991, Rosemary Margaret Smith chuyển nó sang chi "Pleuranthodium". Từ nguyên. Tính từ định danh là nói tới thung lũng Piundaunde với hai hồ Piunde (cao độ ~ 3.600 m) và Aunde (cao độ ~3.700 m) trên sười núi Wilhelm phía trên điểm lấy mẫu điển hình. Mẫu điển hình: "M.M.J. van Balgooy 584", Papua New Guinea, Eastern Highlands, thung lũng Pindunde [chỉnh sửa thành Piundaunde trong Van Royen (1979)], phía trên Kombugomambuno, 3.350 m, thu thập ngày 7 tháng 6 năm 1965. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 2.580-3.600 m tại núi Wilhelm (tỉnh Chimbu), núi Kerigomna (tỉnh Eastern Highlands) và núi Hagen (tỉnh Western Highlands); Papua New Guinea.
1
null
Pleuranthodium platynema là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Karl Moritz Schumann miêu tả khoa học đầu tiên năm 1904 dưới danh pháp "Alpinia platynema". Năm 1991, Rosemary Margaret Smith chuyển nó sang chi "Pleuranthodium". Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 700 m, trên dãy núi Torricelli, Kaiser-Wilhelmsland, ở tây bắc Papua New Guinea. Mẫu vật điển hình "F.R.R.Schlechter 14327", do Rudolf Schlechter thu thập tại dãy núi Torricelli trong tỉnh West Sepik (nay là tỉnh Sandaun).
1
null
Pleuranthodium pterocarpum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Karl Moritz Schumann miêu tả khoa học đầu tiên năm 1904 dưới danh pháp "Alpinia pterocarpa". Năm 1991, Rosemary Margaret Smith chuyển nó sang chi "Pleuranthodium". Phân bố. Loài này có tại New Guinea thuộc Hà Lan, nhưng không có địa điểm thu mẫu cụ thể. Mẫu vật do Alexander Zippelius (1797-1828) thu thập. Lofthus (2014) cho rằng loài này có ở cả Tây Papua (nay thuộc Indonesia) và Papua New Guinea. POWO thì chỉ ghi chung là New Guinea.
1
null
Pleuranthodium racemigerum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Ferdinand von Mueller miêu tả khoa học đầu tiên năm 1873 dưới danh pháp "Alpinia racemigera". Năm 1991, Rosemary Margaret Smith chuyển nó sang chi "Pleuranthodium". Phân bố. Loài này có tại đông bắc Queensland, Australia.
1
null
Pleuranthodium roemeri là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1913 dưới danh pháp "Alpinia roemeri". Năm 1991, Rosemary Margaret Smith chuyển nó sang chi "Pleuranthodium". Phân bố. Loài này có ở cao độ khoảng 130 m trong thung lũng sông Bắc (sông Lorentz) trong địa phận tỉnh Papua thuộc Indonesia. Mẫu định danh "L.S.A.M.vonRömer 696" do Lucien von Römer (1873-1965) thu thập.
1
null
Pleuranthodium schlechteri là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Karl Moritz Schumann miêu tả khoa học đầu tiên năm 1904 dưới danh pháp "Alpinia schlechteri". Năm 1991, Rosemary Margaret Smith chuyển nó sang chi "Pleuranthodium". Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 700 m trên dãy núi Torricelli thuộc Kaiser-Wilhelmsland, nay là Papua New Guinea. Mẫu vật điển hình: "F.R.R.Schlechter 14519" do Rudolf Schlechter thu thập tại dãy núi Torricelli trong tỉnh Tây Sepik (nay là tỉnh Sandaun).
1
null
Pleuranthodium scyphonema là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Karl Moritz Schumann miêu tả khoa học đầu tiên năm 1904 dưới danh pháp "Alpinia scyphonema". Năm 1991, Rosemary Margaret Smith chuyển nó sang chi "Pleuranthodium". Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 1.000 m trên dãy núi Torricelli thuộc Kaiser-Wilhelmsland, nay là Papua New Guinea. Mẫu vật điển hình: "F.R.R.Schlechter 14352" do Rudolf Schlechter thu thập tại dãy núi Torricelli trong tỉnh Tây Sepik (nay là tỉnh Sandaun).
1
null
Pleuranthodium tephrochlamys là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Karl Moritz Schumann và Carl Adolf Georg Lauterbach miêu tả khoa học đầu tiên năm 1900 dưới danh pháp "Alpinia tephrochlamys". Năm 1991, Rosemary Margaret Smith chuyển nó sang chi "Pleuranthodium". Phân bố. Loài này được tìm thấy ở Kaiser-Wilhelmsland, trong địa phận các tỉnh Madang và Morobe của Papua New Guinea. Mẫu vật điển hình do Carl Adolf Georg Lauterbach thu thập:
1
null
Pleuranthodium trichocalyx là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1914 dưới danh pháp "Alpinia trichocalyx". Năm 1991, Rosemary Margaret Smith chuyển nó sang chi "Pleuranthodium". Phân bố. Loài này có ở Papua New Guinea. Mẫu định danh do Rudolf Schlechter thu thập:
1
null
Pommereschia lackneri là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Marx Carl Ludwig Wittmack miêu tả khoa học đầu tiên năm 1895. Tên gọi trong tiếng Trung là 直唇姜 (trực thần khương), nghĩa đen là gừng môi thẳng. Từ nguyên. Tính từ định danh "lackneri" có lẽ là để vinh danh Carl Lackner, chỉ huy bộ phận làm vườn tại Steglitz ở tây nam Berlin, với các cây trồng tại đây (từ mẫu vật nhập khẩu từ Myanmar) nở hoa vào tháng 10-11 năm 1894. Phân bố. Tìm thấy tại miền bắc Thái Lan, cao nguyên Shan ở đông bắc Myanmar và có thể có tại Tây Song Bản Nạp ở miền nam tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Mô tả. Cây thảo lâu năm, thanh mảnh. Thân rễ gần như nằm ngang, ngược lên trên ở một góc lệch nhất định, các củ hình cầu, dạng chuỗi hạt, mặt ngoài đầy gai, xuất hiện bên cạnh và hơi thò ra từ chùm rễ. Rễ mập, mọng, hình chỉ, dài tới 10 cm; thân giả vài cái, mọc thẳng đứng, cao 50–70 cm, cuống thuôn tròn, nhẵn; lá xếp thành 2 dãy, dãy thấp gần như chỉ là các bẹ lá, lưỡi bẹ 2 thùy, 4–6 mm, phần còn lại là 4-5 lá với bẹ và cuống lá dài, cuống lá dài 4–8 cm, hình máng ở đỉnh, phiến lá thuôn dài – hình mũi mác, đáy gần như hình tim hoặc gần hình mũi tên có tai với khoảng hở cong, 2 thùy đáy tách biệt, dần thon nhỏ phía trên thành nhọn thon, dài 15–25 cm, rộng 3,5–6 cm, hai mặt nhẵn nhụi hoặc mặt xa trục có lông tơ; cụm hoa đầu cành, cuống cụm hoa dài 12 cm, 1 cành hoa bông thóc (tương tự như "Globba" với trục giả), dài 8–12 cm, gần như hai dãy. Lá bắc hình mũi mác, che phủ đài hoa vài dài như nó hoặc hơn, dài 1,5-2,5 cm, nhọn thon, hơi lõm; lá bắc con nhỏ. Đài hoa hình ống tới gần hình chùy, chẻ hình đĩa gần tới đáy ở một bên, đỉnh 2 răng, dài 1,5 cm, hoa màu vàng kim, ống tràng dài và mỏng, dài 2-2,5 cm, các thùy hình mũi mác, dài ~1-1,3 cm, thường chèn không đều; cánh môi hình nêm, 2 răng, gắn với nhị hoa và hơi bao quanh nó, chỉ nhị rất dài và mỏng, dài 3,5–4 cm, có rãnh, ngoằn ngoèo. Bao phấn màu vàng kim, thẳng, dài 7–8 mm, 2 tai ở đáy, thuôn tròn ở đỉnh, mô vỏ bao phấn phân nhánh. Phấn hoa hình cầu. Không mô liên kết. Bầu nhụy hình xoan hoặc thuôn dài với 2 nhụy lép thẳng, dài, 3 ngăn, nhiều hạt, vòi nhụy rất dài, hình chỉ, nằm trong rãnh của chỉ nhị và bao phấn, bao phấn hơi thò ra, đầu nhụy lõm, với vòng lông cứng quanh mép. Tuyến mật hình chỉ, dài 7–8 mm. Ra hoa tháng 8. "2n" = 22.
1
null
Pommereschea spectabilis là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được George King và David Prain miêu tả khoa học đầu tiên năm 1896 dưới danh pháp "Croftia spectabilis". Năm 1904, Karl Moritz Schumann chuyển nó sang chi "Pommereschea". Tên gọi trong tiếng Trung là 短柄直唇姜 (đoản bính trực thần khương), nghĩa đen là gừng môi thẳng cuống ngắn. Phân bố. Tìm thấy tại Tây Song Bản Nạp ở miền nam tỉnh Vân Nam, Trung Quốc và cao nguyên Shan ở đông bắc Myanmar. Môi trường sống là rừng, ở cao độ ~1.200 m. Mô tả. Cây thảo lâu năm, thanh mảnh, với rễ chùm dày, thân rễ rất nhỏ. Thân giả cao 6,7-10 inch (17-25 cm), có lá. Lá hình trứng-hình mũi mác hoặc hình mũi mác, đáy hình tim với các thùy gần nhau, đỉnh nhọn hoặc nhọn thon hoặc hình đuôi, với bẹ lỏng lẻo dài 5-6 inch (13-15 cm), lưỡi bẹ 2 thùy, ~5 mm; cuống lá dài 0,5-2 cm; phiến lá dài 2,75-6,3 inch (7-16 cm), rộng 1,2-2 inch (3-5 cm), mỏng, nhẵn nhụi, màu xanh lục cả hai mặt, hơi nhạt hơn ở mặt dưới. Cụm hoa đầu cành. Cành hoa bông thóc dài 2-3 inch (5-7,5 cm), gần như xếp về một phía, chứa 8-12 hoa. Lá bắc mỏng, dài 0,6-0,9 inch (1,5-2,3 cm), hình trứng-hình mũi mác, dạng mo, chứa 1 hoa; lá bắc con 2, không đều, dài 0,2-0,3 inch (0,5-0,76 cm), thẳng, màu vàng nghệ. Đài hoa hình chùy, dài 0,25-0,28 inch (0,64-0,7 cm), màu vàng nhạt với các đốm đỏ. Tràng hoa với ống tràng màu vàng, dài 0,47-0,65 inch (1,2-1,65 cm), rất thanh mảnh, mặt ngoài rậm lông tơ; các thùy dài 0,3-0,32 inch (0,76-0,8 cm), rộng 0,15 inch (0,38 cm), hình trứng-hình mũi mác nhọn, nhẵn nhụi cả hai mặt. Cánh môi mọc thẳng, teo đi, hình thìa hẹp, dài 8-9 mm. Chỉ nhị dài 0,6-1 inch (1,5-2,5 cm), có rãnh chứa vòi nhụy; các nhị lép bên tựa cánh hoa, dài 0,4 inch (1,02 cm), nhẵn nhụi cả hai mặt, cong hình lưỡi liềm, thẳng đứng, xếp chồng sít lên nhau và các mép hơi kéo dài của nửa dưới của chỉ nhị để tạo thành một ống hơi lồi; rãnh dọc theo chỉ nhị hơi có lông tơ với lông thưa thớt. Bao phấn khoảng 5 mm. Bầu nhụy 3 ngăn, hình elipxoit, ~4 mm, có lông nhung ở mặt ngoài, ở đỉnh là vòi nhụy hình chỉ, dài 0,2 inch (0,5 cm), nằm trong rãnh của chỉ nhị, và với 2 nhụy lép hình chỉ dài 0,35 inch (0,9 cm), noãn đính trụ. Các tuyến mật hình chỉ, dài 7 mm. Quả nang hình từ elipxoit tới hình trứng tới gần hình cầu không đều, rậm lông, dài 0,32-0,35 inch (0,8-0,9 cm), bề ngang 0,24-0,25 inch (0,6-0,64 cm). Hạt dài 0,12 inch (0,3 cm) với áo hạt bao quanh ở đáy, như thủy tinh, hình chén. Ra hoa tháng 6-8.
1
null
Renealmia pyramidalis là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Carl Linnaeus miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753 dưới danh pháp "Alpinia racemosa". Năm 1783, Jean-Baptiste de Lamarck mô tả loài "Amomum pyramidale" với dẫn chiếu tới "Alpinia racemosa". Năm 1850, Achille Richard chuyển nó sang chi "Renealmia" thành danh pháp "R. racemosa", nhưng danh pháp này là không hợp lệ do nó đã được Eduard Friedrich Poeppig và Stephan Friedrich Ladislaus Endlicher sử dụng vào năm 1838 để chỉ một loài khác ("Renealmia racemosa") có ở Bolivia và Peru (danh pháp trước đó là "Amomum racemosum" ). Năm 1975, Paulus Johannes Maria Maas xác định lại danh pháp cho nó là "Renealmia pyramidalis" theo tên gọi hợp lệ thứ hai là "Amomum pyramidale" năm 1783 của Jean-Baptiste de Lamarck. Phân bố. Loài này có tại quần đảo Leeward và quần đảo Windward trong khu vực Tiểu Antilles. Du nhập vào Trinidad và Tobago.
1
null
Rhynchanthus beesianus là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được William Wright Smith miêu tả khoa học đầu tiên năm 1918. Tên gọi trong tiếng Trung là 喙花姜 (uế hoa khương), nghĩa đen là gừng hoa mỏ. Phân bố. Loài này có tại tỉnh Vân Nam, Trung Quốc và có thể có tại Myanmar. Môi trường sống là rừng, cây bụi, đồng cỏ, biểu sinh trên cây gỗ; ở cao độ 1.500-1.900 m. Mô tả. Thân rễ mập, rễ có lông. Thân giả 0,5-1,5 m. Lá 8-10, xếp thành 2 dãy. Lá phía dưới 4-5, tiêu giảm thành bẹ không phiến lá, mép màu nâu khô xác, phần giữa có sọc màu tía. Lá phía trên có phiến lá 3-6; lưỡi bẹ như màng; cuống lá màu đỏ mặt gần trục, ~4 mm; phiến lá hình elip-thuôn dài, 15-30 × 4,5–9 cm, nhẵn nhụi, đáy thuôn tròn hoặc nhọn hoặc hình nêm rộng, mép màu nâu khi khô, đỉnh hình đuôi-nhọn thon. Cành hoa bông thóc đầu cành, mọc thẳng đứng, 10–15 cm, ~12 hoa; cuống cụm hoa ngắn; lá bắc màu đỏ tới đỏ thắm, chuyển thành tía khi khô, thẳng-hình mũi mác, dài 3–7 cm, rộng ~1 cm, hơi giống như màng; lá bắc con gần tương tự, nhưng nhỏ hơn nhiều, hiếm khi dài quá 1,5 cm. Hoa dài ~9 cm. Đài hoa hình ống, màu đỏ, dài ~3 cm, chẻ một bên, đỉnh với 2 điểm màu xanh lục. Ống tràng hoa màu vàng tới đỏ, 2-4,5(-6) cm, hơi nở rộng ở phần xa; các thùy màu đỏ nhạt ở đáy, ánh vàng ở phần xa, hình trứng-hình mũi mác, nhọn thon, dài 1,5–3 cm. Không nhị lép bên và cánh môi. Chỉ nhị màu vàng, hình mũi mác hoặc hình thuyền, thò dài, ~4,5 cm, đáy nở rộng và gập nếp; bao phấn ~8 mm. Bầu nhụy ~5 mm, 3 ngăn, nhẵn nhụi hoặc có lông tơ. Vòi nhụy thẳng, thanh mảnh. Đầu nhụy hình phễu, hơi thò ra ngoài bao phấn. Noãn nhiều. Ra hoa tháng 7. Nhiễm sắc thể "2n" = 44.
1
null
Rhynchanthus bluthianus là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Marx Carl Ludwig Ludewig Wittmack miêu tả khoa học đầu tiên năm 1899. Từ nguyên. Tính từ định danh "bluthianus" là để vinh danh Franz Bluth, chủ vườn ươm cây ở Groß-Lichterfelde (Lichterfelde, Steglitz-Zehlendorf, tây nam Berlin); người đã gửi mẫu cây đang ra hoa được trồng tại vườn ươm này cho Wittmack để nhận dạng vào ngày 15 tháng 8 năm 1896. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở Myanmar và miền bắc Thái Lan. Mô tả. Củ hình cầu-hình trứng. Thân giả cao 30 cm, đường kính ~1,5 cm. Lá 4, xếp thành 2 dãy, hình trứng-hình mũi mác, không cuống, với bẹ lá dài hở bao quanh thân, dài 12 cm, rộng 2-4 cm, các lá thấp nhất tiêu giảm thành các bẹ không phiến lá. Cành hoa bông thóc ít hoa (2 hoa), mỗi hoa dài ~5 cm, mọc từ nách lá bắc màu xanh lục ánh đỏ, lá bắc thấp nhất với chóp giống như lá. Đài hoa dài 1,5 cm, màu đỏ thắm, 3 răng, cắt cụt, chẻ một bên; ống tràng dài bằng đài hoa, các thùy dài khoảng một nửa, màu từ đỏ thắm tới tía, không nhị lép bên và cánh môi. Nhị 1 hình ống, với các rìa hợp nhất cùng nhau, lớn, màu trắng, với bao phấn màu vàng trên đỉnh. Bầu nhụy nhẵn nhụi, vòi nhụy nằm giữa các mô vỏ bao phấn, đầu nhụy hình cầu. Nhụy lép (vòi nhụy bên dạng dấu vết) chỉ có 1 thay vì 2.
1
null
Rhynchanthus johnianus là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Friedrich Richard Rudolf Schlechter miêu tả khoa học đầu tiên năm 1907. Từ nguyên. Tính từ định danh "johnianus" là để vinh danh K. W. John, chủ vườn ươm lan ở Andernach, (Rheinland-Pfalz, Đức) trồng năm 1903. Được nhập khẩu ngẫu nhiên cùng với các củ lan "Thunia marshalliana" từ Moulmein (bang Mon, đông nam Myanmar). Phân bố. Loài này được tìm thấy ở Bangladesh và Myanmar. Mô tả. Cây thảo lâu năm, có củ, cao tới ~1,5 m. Củ gần hình trứng, được các vảy ngắn giống như bẹ che phủ và bao bọc chặt, nhẵn nhụi, cao 4–6 cm. Thân giả hẹp, gốc có bẹ ngoại trừ tán lá ở phần xa, bẹ lá bao bọc chặt thân giả; lá xếp thành 2 dãy, hình mũi mác nhọn thon, màu xanh lục nhạt, hai mặt nhẵn nhụi, dài 20–25 cm ở đoạn gần giữa rộng 4–6 cm. Cụm hoa dài gồm nhiều hoa. Lá bắc màu đỏ tươi, hình mũi mác nhọn thon, nhẵn nhụi, hơi ngắn hơn bao hoa. Lá bắc con ngắn, dài ~2 cm, nhọn thon, nhẵn nhụi. Đài hoa hình trụ, phần trước chẻ, đỉnh chia đôi ngắn, chóp đỉnh nhọn thon, cao khoảng gấp đôi lá bắc con. Tràng hoa màu vàng, dài ~7 cm, nhẵn nhụi, khoảng gần giữa chia 3 thùy nhẵn nhụi, ống tràng hình trụ, các thùy hình mũi mác nhọn thon. Không nhị lép bên. Cánh môi tiêu giảm thành răng ngắn và tù, hình tam giác ở đáy chỉ nhị. Chỉ nhị thuôn dài và cuộn lại, hình cuống, hơi nở rộng ở đoạn giữa, cao hơn rõ nét so với tràng hoa, nhẵn nhụi. Vòi nhụy hình chỉ hơi thò ra ngoài bao phấn. Đầu nhụy nhỏ, hình đầu. Bầu nhụy gần hình trụ, nhẵn nhụi.
1
null
Rhynchanthus longiflorus là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Joseph Dalton Hooker miêu tả khoa học đầu tiên năm 1886. Nó là loài được mô tả đầu tiên và đồng thời là loài điển hình của chi "Rhynchanthus". Từ nguyên. Tính từ định danh "longiflorus" nghĩa là hoa dài, để nói tới hoa rất dài của loài này. Phân bố. Loài này được tìm thấy từ đông bắc Ấn Độ (vùng thực vật Assam), Bangladesh qua Myanmar tới Thái Lan. Mô tả. Thân rễ dạng củ, hình trứng rộng, đường kính 1-1,5 inch (2,5-3,8 cm), màu xanh lục, mọng, với các rễ như lông măng hình giun rất mập thò ra, và từ hai bên thì thân giả của năm sau sẽ mọc ra. Thân giả cao 18-20 inch (45-50 cm), mọc thẳng đứng, thanh mảnh, với 8-12 lá xếp thành 2 dãy. Lá dài 5-8 inch (13-20 cm), rộng 1-1,5 inch (2,5-3,8 cm), thuôn dài-hình mũi mác, nhọn thon, như màng, màu xanh lục tươi, rìa mép màu nâu tới đỏ rất hẹp, đáy thon nhỏ thành cuống lá rất ngắn. Bẹ thanh mảnh, nhạt màu, với các tai ngắn và thuôn tròn ở miệng, có vết màu đỏ. Cụm hoa là cành hoa bông thóc đầu cành không cuống với cán hoa thanh mảnh, ít hoa (4-5 hoa), hoa dài 3,5-4 inch (9-10 cm), hình ống hẹp, mọc thẳng. Lá bắc 2, dài 1,5 inch (3,8 cm), dạng mo, thẳng-thuôn dài, tù, như màng, như thủy tinh, màu da cam-đỏ nhạt. Đài hoa ngắn hơn lá bắc, hình ống hẹp, với miệng chẻ và đỉnh tù thuôn tròn. Tràng hoa màu vàng lục nhạt; ống tràng dài 2 inch (5 cm), nở rộng phía trên điểm giữa; các thùy dài ~0,33 inch (0,85 cm), hình trứng-hình mũi mác, nhọn thon dài, lõm, thẳng đứng, màu xanh lục nhiều hơn so với ống tràng. Không nhị lép bên. Cánh môi tiêu giảm thành một điểm ở đáy chỉ nhị. Chỉ nhị dài 1,5 inch (3,8 cm), thuôn dài, hình thuyền hẹp, phồng ở đoạn giữa và hở ở phía trước, hơi cong, thò rất nhiều ra ngoài bao hoa, co nhỏ thành một điểm dài ở đỉnh, màu da cam-vàng. Bao phấn màu da cam. Bầu nhụy rất ngắn, có lông tơ, 3 ngăn, noãn nhiều. Nhụy lép 2, thuôn dài. Vòi nhụy hình chỉ, rất thanh mảnh, thò ra ngoài bao phấn, đầu nhụy hình phễu, miệng cắt cụt, nguyên, không lông rung.
1
null
Riedelia affinis là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Henry Nicholas Ridley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1886 dưới danh pháp "Alpinia affinis". Năm 1904, Karl Moritz Schumann chuyển nó sang chi "Riedelia". Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao nguyên Sogeri (Sogere), Papua New Guinea. Mẫu vật điển hình: Số 2 và 58 trong bộ sưu tập của Henry Ogg Forbes (1851-1932) thu thập tháng 10 năm 1885. Lưu ý rằng, Schumann (1904) viết rằng "Neu-Guinea: Holländischer Anteil bei Sogere (Forbes n. 2 u. 58, blühend im Oktober 1885)" là thiếu chính xác (Holländischer Anteil = phần thuộc Hà Lan), do Henry Ogg Forbes đã tiến hành công việc thu thập mẫu vật tại khu vực dãy núi Astrolabe ở đông nam New Guinea, và mẫu thu tại cao nguyên Sogeri gần Port Moresby.
1
null
Riedelia alata là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1913. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở vùng hạ lưu sông Legal (Legarè ?) ở tây bắc đảo New Guinea, thuộc địa phận Indonesia. Mẫu vật điển hình: "Jankowski 33" thu thập tháng 6 năm 1912. Lịch trình thám hiểm của Janowski R. Fr. trong tháng 6 năm 1912 là: Bờ đông vịnh Geelvink (nay là vịnh Cenderawasih), Moesairo, "P. Mambor", Manokwari, sông Legarè (hay Legarei) đều thuộc tỉnh Papua nên loài này có trong tỉnh Papua. Lưu ý. Danh pháp "Riedelia alata" là đồng nghĩa của "Williamriedelia alata" , một loài tảo cát đã tuyệt chủng trong họ Hemiaulaceae.
1
null
Riedelia albertisii là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Karl Moritz Schumann miêu tả khoa học đầu tiên năm 1899 dưới danh pháp "Alpinia albertisii". Năm 1904 tác giả này chuyển nó sang chi "Riedelia". Phân bố. Loài này được tìm thấy ở ven sông Fly, tỉnh Tây (tỉnh Western, tỉnh Fly River) ở tây nam Papua New Guinea. Mẫu vật điển hình: "C.L.M.d'Albertis 20", do Luigi Maria D'Albertis (1841 – 1901) thu thập.
1
null
Riedelia angustifolia là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1913. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở ven sông Giriwo ở phía bắc đảo New Guinea, thuộc địa phận Indonesia. Mẫu vật điển hình: "Jankowski 185" thu thập tháng 7 năm 1912. Lịch trình thám hiểm của Janowski R. Fr. trong tháng 7 năm 1912 là: sông Siriwo, sông Giriwo đều thuộc tỉnh Papua nên loài này có trong tỉnh Papua.
1
null
Riedelia areolata là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1913. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 75-300 m trong rừng miền núi gần Naumoni, sông Mamberamo, tỉnh Papua ở tây bắc đảo New Guinea, thuộc địa phận Indonesia. Mẫu vật điển hình: "M. Moszkowski 387".
1
null
Riedelia arfakensis là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1913. Phân bố. Loài này được tìm thấy trên đất nghèo mùn ở cao độ 1.200 m trên dãy núi Arfak ở tây bắc đảo New Guinea, thuộc địa phận tỉnh Tây Papua, Indonesia. Mẫu vật điển hình: "K. Gjellerup 1021" do K. G. Gjellerup thu thập ngày 22 tháng 4 năm 1912.
1
null
Riedelia aurantiaca là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Henry Nicholas Ridley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1916. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 46-762 m (150-2.500 ft) dọc theo sông Utakwa (Otakwa) ngược dòng tới phần trung tâm dãy núi Snow = dãy núi Maoke (trong dãy núi Nassau = dãy núi Sudirman) ở tỉnh Papua, Indonesia. Mẫu vật điển hình: "C.B. Kloss s.n." thu thập năm 1912 tại núi Carstensz. Lưu ý. "Riedelia aurantiaca" là đồng nghĩa của "Geocharis aurantiaca" có ở Johor, Malaysia bán đảo.
1
null
Riedelia bicuspis là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Henry Nicholas Ridley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1916. Loài này có quan hệ họ hàng gần với "Riedelia triciliata" nhưng có hoa to hơn. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 1.189 m (3.900 ft) dọc theo sông Utakwa (Otakwa) ngược dòng tới phần trung tâm dãy núi Snow (dãy núi Nassau) ở tỉnh Papua, Indonesia. Mẫu vật điển hình: "C.B. Kloss s.n." thu thập ngày 28 tháng 1 năm 1913 tại núi Carstensz.
1
null
Riedelia bidentata là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1914. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 1.000 m trên dãy núi Toricelli, trong tỉnh Tây Sepik ở đông bắc Papua New Guinea. Mẫu vật điển hình: "F.R.R. Schlechter 20240" do Rudolf Schlechter thu thập ngày 17 tháng 9 năm 1909.
1
null
Riedelia bismarcki-montium là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Karl Moritz Schumann miêu tả khoa học đầu tiên năm 1904. Phân bố. Loài này được tìm thấy trên dãy núi Bismarck ở Kaiser-Wilhelmsland (nay là Papua New Guinea). Mẫu vật điển hình: "F.R.R. Schlechter 14022", do Rudolf Schlechter thu thập tháng 1 năm 1902.
1
null
Riedelia brachybotrys là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1913. Phân bố. Loài này được tìm thấy trên sườn dốc ở cao độ 1.350 m trên núi ở Hellwig tại tây nam đảo New Guinea, thuộc địa phận tỉnh Papua, Indonesia. Mẫu vật điển hình: "L.S.A.M. von Römer 765" do Lucien von Römer (1873-1965) thu thập. Trong số các mẫu do ông thu thập còn có các số 840, 871, 873 và 1015.
1
null
Riedelia branderhorstii là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1913. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở tây nam đảo New Guinea, thuộc Indonesia. Mẫu vật điển hình: "B. Branderhorst 213" do Bastiaan Branderhorst thu thập.
1
null
Riedelia brevicornu là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1913. Phân bố. Loài này được tìm thấy trên đồi Nepenthes ven sông Bắc (Noordrivier) thuộc tỉnh Papua, Indonesia. Mẫu vật điển hình: "G.M. Versteeg 1341" do Gerard Martinus Versteeg (1876-1943) thu thập ngày 30 tháng 6 năm 1907.
1
null
Riedelia capillidens là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Alexander Gilli miêu tả khoa học đầu tiên năm 1980 (in năm 1983). Phân bố. Loài này được tìm thấy trong tỉnh Western Highlands, Papua New Guinea. Mẫu vật điển hình: " A. Gilli 494", do Alexander Gilli thu thập tại Kasap, Western Highlands.
1
null
Riedelia corallina là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Karl Moritz Schumann miêu tả khoa học đầu tiên năm 1900 dưới danh pháp "Alpinia corallina". Năm 1913, Theodoric Valeton chuyển nó sang chi "Riedelia". Phân bố. Loài này được tìm thấy trong rừng đầm lầy hạ lưu sông Gogol, tới cao độ 100 m trên dãy núi Oertzen (Tajomanna), bình nguyên Astrolabe, tỉnh Madang, Papua New Guinea cũng như ở bờ nam sông Bắc (Noordrivier, sông Lorentz) ở tỉnh Papua, Indonesia. Mẫu vật điển hình: "C.A.G. Lauterbach 904, 2109, 2190" do Carl Adolf Georg Lauterbach (1864-1937) thu thập tại Papua New Guinea năm 1894-1896.
1
null
Riedelia cordylinoides là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Henry Nicholas Ridley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1916 dưới danh pháp "Alpinia cordylinoides". Năm 1990, Rosemary Margaret Smith chuyển nó sang chi "Riedelia". Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 945-1.676 m (3.100-5.500 ft) dọc theo sông Utakwa (Otakwa) ngược dòng tới phần trung tâm dãy núi Snow = dãy núi Maoke (trong dãy núi Nassau = dãy núi Sudirman) ở tỉnh Papua, Indonesia. Mẫu vật điển hình: "C.B. Kloss s.n." thu thập ngày 19 tháng 2 năm 1912 và ngày 30 tháng 1 năm 1913 tại núi Carstensz.
1
null
Riedelia curcumoidea là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Pieter van Royen miêu tả khoa học đầu tiên năm 1979. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở tỉnh Papua, Indonesia. Mẫu vật điển hình: "C. Kalkman 4493" thu thập tại núi Antares (Gunung Antaros, trong huyện Pegunungan Bintang, tỉnh Papua).
1
null
Riedelia curviflora là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Daniel Oliver miêu tả khoa học đầu tiên năm 1883. Phân bố. Loài này được tìm thấy trong khu vực quần đảo Maluku (đảo Buru). Schumann (1904) cho rằng loài này có khu vực phân bố rộng hơn, ngoài khu vực quần đảo Maluku còn bao gồm cả đảo New Guinea (Andai, Sattelberg, dãy núi Bismark, sông Ramu), quần đảo Aru (đảo Voka), các đảo Bougainville và San Cristobal (Makira) trong quần đảo Solomon. Plants of the World Online (2020) cũng ghi nhận loài này có tại Maluku, New Guinea, quần đảo Solomon. Tuy nhiên, điều này có thể là sự gộp lẫn của cả "Riedelia lanata". Mẫu vật điển hình: "J.G.F. Riedel s.n." do Johann Gerard Friedrich Riedel (1832-1911) thu thập trên đảo Buru.
1
null
Riedelia decurva là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Henry Nicholas Ridley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1886 dưới danh pháp "Alpinia decurva". Năm 1914, Theodoric Valeton chuyển nó sang chi "Riedelia". Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 610-762 m (2.000-2.500 ft) trên cao nguyên Sogeri (Sogere), Papua New Guinea. Mẫu vật điển hình: " H.O. Forbes 41, 53, 57, 229, 231, 253" do Henry Ogg Forbes (1851-1932) thu thập tháng 10 năm 1885. Henry Ogg Forbes đã tiến hành công việc thu thập mẫu vật tại khu vực dãy núi Astrolabe ở đông nam New Guinea, và mẫu thu tại cao nguyên Sogeri gần Port Moresby.
1
null
Riedelia dolichopteron là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1914. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 600 m trong rừng ven sông Djamu, trong tỉnh Madang ở đông bắc Papua New Guinea. Mẫu vật điển hình: "F.R.R. Schlechter 17317" do Rudolf Schlechter thu thập ngày 21 tháng 2 năm 1908.
1
null
Riedelia epiphytica là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1913. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 30-50 m ven sông Bắc (Noordrivier = sông Lorentz), ở tây nam đảo New Guinea, thuộc địa phận tỉnh Papua, Indonesia. Mẫu vật điển hình: "L.S.A.M. von Römer 756" do Lucien von Römer (1873-1965) thu thập trên dốc dãy núi Hellwig và "G.M. Versteeg 1412" do Gerard Martinus Versteeg (1876-1943) thu thập ven sông Lorentz.
1
null
Riedelia erecta là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1913. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở bờ nam sông Bắc (Noordrivier = sông Lorentz), tây nam đảo New Guinea, thuộc địa phận tỉnh Papua, Indonesia. Mẫu vật điển hình: "M. Moszkowski 63". Các mẫu vật khác còn có "Versteeg 1127, 1310" và "M. Moszkowski 175".
1
null
Riedelia eupteron là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1913. Phân bố. Loài này được tìm thấy tại Sabang, ven sông Bắc (Noordrivier = sông Lorentz), ở tây nam đảo New Guinea, thuộc địa phận tỉnh Papua, Indonesia. Mẫu vật điển hình: "G.M. Versteeg 1375" do Gerard Martinus Versteeg (1876-1943) thu thập gần Sabang, ven sông Lorentz.
1
null
Riedelia exalata là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1917. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 2.591 m (8.500 ft) trong rừng trên sống núi Koebré trong dãy núi Arfak, tỉnh Tây Papua, Indonesia. Mẫu vật điển hình: "L.S. Gibbs 5637" do Lilian Suzette Gibbs (1870–1925) thu thập trên dãy núi Arfak.
1
null
Riedelia ferruginea là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1914. Phân bố. Loài này được tìm thấy trong rừng gần Siu, đông bắc Papua New Guinea. Mẫu vật điển hình: "F.R.R. Schlechter 19224" do Rudolf Schlechter thu thập tại Morobe, gần Siu ngày 12 tháng 4 năm 1909. Lưu ý. "Riedelia ferruginea" là đồng nghĩa của "Riedelia brunneopilosa" có ở tỉnh Papua, Indonesia.
1
null
Riedelia flava là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1914 dựa theo mô tả trước đó của Carl Adolf Georg Lauterbach. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở ven sông Augusta (sông Sepik), trong tỉnh Tây Sepik (nay là tỉnh Sandaun) ở đông bắc Papua New Guinea. Mẫu vật điển hình: "L. Schultze 309".
1
null
Riedelia fulgens là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1913. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 500 m trên dãy núi Resi ven sông Bắc (Noordrivier / Noord fluss = sông Lorentz), ở tây nam đảo New Guinea, thuộc địa phận tỉnh Papua, Indonesia. Mẫu vật điển hình: "L.S.A.M. von Römer 423" do Lucien von Römer (1873-1965) thu thập ven sông Lorentz và "G.M. Versteeg 1648" do Gerard Martinus Versteeg (1876-1943) thu thập ven sông Lorentz.
1
null
Riedelia geluensis là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1914. Phân bố. Loài này được tìm thấy trong rừng ở cao độ 1.000-1.200 m trên các dãy núi Finisterre và Kami, đông bắc Papua New Guinea. Các mẫu vật điển hình: "F.R.R. Schlechter 16721" do Rudolf Schlechter thu thập trên dãy núi Kami ngày 28 tháng 10 năm 1901, "F.R.R. Schlechter 18170" do Rudolf Schlechter thu thập trên dãy núi Finisterre (tỉnh Madang) và "E. Werner n. 152" thu thập tháng 8 năm 1907 tại trạm Gelu (trên dãy núi Finisterre).
1
null
Riedelia geminiflora là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1914. Phân bố. Loài này được tìm thấy trong rừng trên dãy núi Kami, đông bắc Papua New Guinea. Mẫu vật điển hình: "F.R.R. Schlechter 17050" do Rudolf Schlechter thu thập.
1
null
Riedelia graminea là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1913. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 150 m trên núi Hugel gần Sabang, ven sông Bắc (Noordrivier / Noord fluss = sông Lorentz), ở tây nam đảo New Guinea, thuộc địa phận tỉnh Papua, Indonesia. Mẫu vật điển hình: "G.M. Versteeg 1223" do Gerard Martinus Versteeg (1876-1943) thu thập gần Sabang, ven sông Lorentz (Noord rivier, sông Bắc).
1
null
Riedelia grandiligula là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1914. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 700 m trên dãy núi Toricelli, trong tỉnh Sandaun (Tây Sepik), tây bắc Papua New Guinea. Mẫu vật điển hình: "F.R.R. Schlechter 20257" do Rudolf Schlechter thu thập ngày 18 tháng 9 năm 1909.
1
null
Riedelia hirtella là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Henry Nicholas Ridley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1916. Phân bố. Loài này được tìm thấy dọc theo sông Utakwa (Otakwa) ngược dòng tới phần trung tâm dãy núi Snow (dãy núi Nassau) ở tỉnh Papua, Indonesia. Mẫu vật điển hình: " C.B. Kloss s.n." thu thập ngày 27 tháng 1 năm 1913 tại núi Carstensz.
1
null
Riedelia hollandiae là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1913. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 40 m tại Biwak Hollandia ven vịnh Humbold (hiện nay gọi là vịnh Yos Sudarso), ở đông bắc tỉnh Papua, Indonesia cũng như trong rừng rậm nhiệt đới trên núi Hugel và tây bắc Papua. Mẫu vật điển hình: "K. Gjellerup 297" do Knud Gjellerup thu thập ngày 7 tháng 8 năm 1910.
1
null
Riedelia insignis là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Otto Warburg miêu tả khoa học đầu tiên năm 1891 như là loài duy nhất của chi "Naumannia". Năm 1897, Karl Moritz Schumann coi "Naumannia" như là đồng nghĩa của "Riedelia", nhưng không tạo ra tên gọi tổ hợp mới thay cho "Naumannia insignis". Năm 1901, Schumann tạo ra tổ hợp tên gọi mới là "Riedelia insignis". Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 900 m tại Sattelberg gần Finschhafen, trên đường tới Sahang, sông Ramu, dãy núi Bismarck; trên bán đảo Huon, thuộc tỉnh Morobe ở đông bắc Papua New Guinea.
1
null
Riedelia klossii là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Henry Nicholas Ridley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1916. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 1.189 m (3.900 ft) dọc theo sông Utakwa (Otakwa) ngược dòng tới phần trung tâm dãy núi Snow (dãy núi Nassau) ở tỉnh Papua, Indonesia. Mẫu vật điển hình: "C.B. Kloss s.n." thu thập tháng 1 năm 1913 tại núi Carstensz.
1
null
Riedelia lanata là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Rudolph Herman Christiaan Carel Scheffer miêu tả khoa học đầu tiên năm 1876 dưới danh pháp "Hedychium lanatum". Năm 1891, Carl Ernst Otto Kuntze cho rằng "Gandasulium" là danh pháp được ưu tiên so với "Hedychium" và chuyển "Hedychium lanatum" sang chi "Gandasulium" với danh pháp "Gandasulium lanatum". Năm 1896, ông đề cập tới danh pháp "Riedelia lanata" trong "Herbarium Bogoriense". Năm 1913, Theodoric Valeton mô tả "Riedelia lanata" theo tên gọi do Kuntze đề cập năm 1896. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở tây bắc đảo New Guinea (Doré, Doreh), cao độ 1.900 m trên dãy núi Arfak, bờ sông Argi, tỉnh Tây Papua, Indonesia. Lưu ý rằng do Valeton coi "R. lanata" là gộp cả "R. curviflora" nên ông cho rằng nó có cả tại đảo Buru. Hiện nay người ta coi chúng là 2 loài tách biệt. Mẫu vật điển hình: "J.E.Teijsmann 6741" và "J.E.Teijsmann s.n." (tháng 8 năm 1872) do Johannes Elias Teijsmann (1808-1882) thu thập tại Doré.
1
null
Riedelia lanatiligulata là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Henry Nicholas Ridley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1922. Phân bố. Loài này được tìm thấy gần Fofofofo ở tỉnh Central, Papua New Guinea. Mẫu vật điển hình: "C.T. White 615" do Cyril Tenison White (1890-1950) thu thập.
1
null
Riedelia latiligula là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1914. Phân bố. Loài này được tìm thấy trên dãy núi Toricelli, trong tỉnh Tây Sepik (tỉnh Sandaun) ở tây bắc Papua New Guinea. Mẫu vật điển hình: "F.R.R. Schlechter 20067" do Rudolf Schlechter thu thập ngày 6 tháng 11 năm 1909.
1
null
Riedelia ligulata là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Henry Nicholas Ridley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1916. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 152-945 m (500-3.100 ft) dọc theo sông Utakwa (Otakwa) ngược dòng tới phần trung tâm dãy núi Snow = dãy núi Maoke (trong dãy núi Nassau = dãy núi Sudirman) ở tỉnh Papua, Indonesia. Mẫu vật điển hình: "C.B. Kloss s.n." thu thập tại núi Carstensz.
1
null
Riedelia longifolia là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1914. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ khoảng 450 m trong rừng tại Somadjidji, đông bắc Papua New Guinea. Mẫu vật điển hình: "F.R.R. Schlechter 17360" do Rudolf Schlechter thu thập ngày 6 tháng 5 năm 1909.
1
null
Riedelia longirostra là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1914. Phân bố. Loài này được tìm thấy trên dãy núi Kami, đông bắc Papua New Guinea. Mẫu vật điển hình: "F.R.R. Schlechter 17032" và "F.R.R. Schlechter 17127" do Rudolf Schlechter thu thập tương ứng vào các ngày 24 tháng 12 năm 1907 và 3 tháng 1 năm 1908.
1
null
Riedelia longisepala là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Henry Nicholas Ridley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1916. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 1.189 m (3.900 ft) dọc theo sông Utakwa (Otakwa) ngược dòng tới phần trung tâm dãy núi Snow = dãy núi Maoke (trong dãy núi Nassau = dãy núi Sudirman) ở tỉnh Papua, Indonesia. Mẫu vật điển hình: "C.B. Kloss s.n." thu thập tại núi Carstensz.
1
null
Riedelia macranthoides là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1913. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở Naumoni, ở tây bắc đảo New Guinea, thuộc địa phận tỉnh Papua, Indonesia. Mẫu vật điển hình: "M. Moszkowski 333" do Max Moszkowski thu thập.
1
null
Riedelia macrothyrsa là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1914. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 2.400 m trên dãy núi Bismarck, tây bắc Papua New Guinea. Mẫu vật điển hình: "F.R.R. Schlechter 18766" do Rudolf Schlechter thu thập ngày 14 tháng 11 năm 1908.
1
null
Riedelia maculata là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1913. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 150-250 m tại Alkmaar và Binnenkamp ven sông Noordrivier / Noordfluss (sông Lorentz), tây nam đảo New Guinea, thuộc địa phận tỉnh Papua, Indonesia. Mẫu vật điển hình: "G.M. Versteeg 1594" và "G.M. Versteeg 1624" do Gerard Martinus Versteeg (1876-1943) thu thập tại Alkmaar.
1
null
Riedelia marafungensis là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Pieter van Royen miêu tả khoa học đầu tiên năm 1979. Phân bố. Loài này được tìm thấy tại Papua New Guinea. Mẫu vật điển hình: "A.N. Millar & P. van Royen NGF 15799" thu thập tại Papua New Guinea.
1
null
Riedelia maxima là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1913. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở Sabang, sông Noordrivier / Noord fluss (sông Lorentz) ở tây nam đảo New Guinea, thuộc địa phận tỉnh Papua, Indonesia. cũng như tại Papua New Guinea. Mẫu vật điển hình: "B. Branderhorst 354" thu thập gần Alkmaar, "L.S.A.M. von Römer 422" tại Alkmaar, "G.M. Versteeg 1334" gần Sabang và "G.M. Versteeg 1518" tại Alkmaar.
1
null
Riedelia microbotrya là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1914. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 1.400 m trên dãy núi Bismarck, đông bắc Papua New Guinea. Mẫu vật điển hình: "F.R.R. Schlechter 18606" do Rudolf Schlechter thu thập ngày 1 tháng 11 năm 1908.
1
null
Riedelia minor là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1914. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 1.000 m trên dãy núi Torricelli, tỉnh Tây Sepik (tỉnh Sandaun), tây bắc Papua New Guinea và ở cao độ 1.600 m gần phía nam cửa sông Tami (khoảng 15 km về phía đông vịnh Yos Sudarso), ngày nay là đông bắc tỉnh Papua, Indonesia. Mẫu vật điển hình: "F.R.R. Schlechter 20260" do Rudolf Schlechter thu thập ngày 18 tháng 9 năm 1909 và "L. Schultze (33) 69" do Leonhard Schultze-Jena (1872-1955) thu thập tháng 7 năm 1910 tại trại Hochmoos gần phía nam cửa sông Tami.
1
null
Riedelia monophylla là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Karl Moritz Schumann miêu tả khoa học đầu tiên năm 1904. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 700 m trên dãy núi Torricelli ở Kaiser-Wilhelmsland (nay là tỉnh Sandaun, Papua New Guinea). Mẫu vật điển hình: "F.R.R. Schlechter 14326", do Rudolf Schlechter thu thập tháng 4 năm 1902.
1
null
Riedelia montana là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1913. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 2.600 m trên đỉnh dãy núi Hellwig, ở tây nam đảo New Guinea, thuộc địa phận tỉnh Papua, Indonesia. Mẫu vật điển hình: "L.S.A.M. von Römer 1200" do Lucien von Römer (1873-1965) thu thập.
1
null
Riedelia monticola là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1914. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 2.400 m trên đất mùn trên dãy núi Bismarck, phía bắc Papua New Guinea. Mẫu vật điển hình: "F.R.R. Schlechter 18765" do Rudolf Schlechter thu thập tại dãy núi Bismarck.
1
null
Riedelia nymanii là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Karl Moritz Schumann miêu tả khoa học đầu tiên năm 1904. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 800 m tại Sattelberg, trên dãy núi Bismarck ở Kaiser-Wilhelmsland (nay thuộc tỉnh Morobe, Papua New Guinea). Mẫu vật điển hình: "E.O.A Nyman 553" do Erik Olof August Nyman (1866-1900) thu thập tháng 6 năm 1899.
1
null
Riedelia orchioides là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Karl Moritz Schumann miêu tả khoa học đầu tiên năm 1899 dưới danh pháp "Alpinia orchioides". Năm 1913, Theodoric Valeton chuyển nó sang chi "Riedelia". Phân bố. Loài này được tìm thấy ở Hatam trong dãy núi Arfak, ở tây bắc đảo New Guinea, thuộc địa phận tỉnh Tây Papua, Indonesia. Mẫu vật điển hình: "O. Beccari s.n." do Odoardo Beccari (1843-1920) thu thập tại dãy núi Arfak.
1
null
Riedelia paniculata là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1913. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 1.200-2.000 m tại các dãy núi Arfak (bắc tỉnh Tây Papua), Hellwig (tây nam tỉnh Papua), Indonesia cũng như tại trại Hochmoor ở đông bắc New Guinea (Papua New Guinea). Mẫu vật điển hình: "K. Gjellerup 1147" do Knud Gjellerup thu thập ở cao độ 1.900 m trên dãy núi Arfak ngày 28 tháng 4 năm 1912, "L.S.A.M. von Römer 1013" do Lucien von Römer (1873-1965) thu thập ở cao độ 2.000 m trên dãy núi Hellwig. Các mẫu vật thu tại đông bắc New Guinea bao gồm "L. Schultze (33) 10" và "L. Schultze (26) 11" do Leonhard Schultze-Jena (1872-1955) thu thập ở cao độ 1.200-1.600 m tại trại Hochmoor trong tháng 7 năm 1910.
1
null
Riedelia plectophylla là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Karl Moritz Schumann miêu tả khoa học đầu tiên năm 1899 dưới danh pháp "Alpinia plectophylla". Năm 1904, ông chuyển nó sang chi "Riedelia", nhưng do nhận thấy "Alpinia plectophylla" và "Alpinia macrantha" được Rudolph Herman Christiaan Carel Scheffer mô tả năm 1876 chỉ là một loài, nên ông đã định danh nó là "Riedelia macrantha". Tuy nhiên, danh pháp do Scheffer đặt là "nomen illegitimum" (tên không hợp lệ), do nó đã được Eduard Friedrich Poeppig và Stephan Friedrich Ladislaus Endlicher sử dụng từ năm 1838 để chỉ loài có ở Trung Mỹ và vùng nhiệt đới Nam Mỹ, với danh pháp chính thức hiện nay là "Renealmia alpinia". Năm 2016, Rafaël Govaerts đã hiệu chỉnh lại danh pháp thành "Riedelia plectophylla". Phân bố. Loài này được tìm thấy trên đảo New Guinea trong khu vực gần Andai, tỉnh Tây Papua, Indonesia. Mẫu định danh là Beccari số 618, do Odoardo Beccari (1843-1920) thu thập năm 1872.
1
null
Riedelia pterocalyx là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Karl Moritz Schumann miêu tả khoa học đầu tiên năm 1904 dưới danh pháp "Alpinia pterocalyx". Năm 1913, Theodoric Valeton chuyển nó sang chi "Riedelia". Phân bố. Loài này được tìm thấy ở ven vịnh Triton, huyện duyên hải Kaimana, phía đông nam tỉnh Tây Papua, Indonesia. Mẫu vật điển hình: "A. Zippelius s.n." do Alexander Zippelius (1797-1828) thu thập.
1
null
Riedelia pulcherrima là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Henry Nicholas Ridley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1916. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 762 m (2.500 ft) dọc theo sông Utakwa (Otakwa) ngược dòng tới phần trung tâm dãy núi Snow = dãy núi Maoke (trong dãy núi Nassau = dãy núi Sudirman) ở tỉnh Papua, Indonesia. Mẫu vật điển hình: "C.B. Kloss s.n." thu thập tại núi Carstensz.
1
null
Riedelia purpurata là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Henry Nicholas Ridley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1916. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 945-1.676 m (3.100-5.500 ft) dọc theo sông Utakwa (Otakwa) ngược dòng tới phần trung tâm dãy núi Snow = dãy núi Maoke (trong dãy núi Nassau = dãy núi Sudirman) ở tỉnh Papua, Indonesia. Hai mẫu vật điển hình: "C.B. Kloss s.n." thu thập tại núi Carstensz ngày 16 tháng 1 năm 1913 và ngày 12 tháng 2 năm 1913.
1
null
Riedelia rigidocalyx là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1914. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở Sepik, ven sông Augusta (tên cũ của sông Sepik), đông bắc New Guinea (Papua New Guinea). Mẫu vật điển hình: "L. Schultze 296" do Leonhard Schultze-Jena (1872-1955) thu thập tháng 11 năm 1910.
1
null
Riedelia robusta là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1913. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở các trại Geiten và Van Weel ven sông Noordfluss (sông Lorentz), tây nam đảo New Guinea, thuộc địa phận tỉnh Papua, Indonesia. Mẫu vật điển hình: "G.M. Versteeg 1199" do Gerard Martinus Versteeg (1876-1943) thu thập; gồm ba mẫu a, b và c; được thu thập tương ứng vào ngày 2 tháng 6, 26 tháng 6 và 14 tháng 7 năm 1907.
1
null
Riedelia rosacea là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Pieter van Royen miêu tả khoa học đầu tiên năm 1979. Phân bố. Loài này được tìm thấy tại Papua New Guinea. Mẫu vật điển hình: "A.N. Millar NGF 15798" thu thập tại Papua New Guinea.
1
null
Riedelia schlechteri là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1914. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ khoảng 1.300 m trong rừng tại Dischore, tỉnh Morobe, Papua New Guinea. Mẫu vật điển hình: "F.R.R. Schlechter 19715" do Rudolf Schlechter thu thập ngày 6 tháng 6 năm 1909.
1
null
Riedelia sessilanthera là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1913. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ trên 1.000 m ở tây nam New Guinea, cụ thể là từ cao độ từ 1.350 m lên tới đỉnh núi trong dãy núi Hellwig, thuộc địa phận tỉnh Papua, Indonesia. Mẫu vật điển hình: "L.S.A.M. von Römer 1119" do Lucien von Römer (1873-1965) thu thập. Một mẫu khác là "L.S.A.M. von Römer 1314".
1
null
Riedelia stricta là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Karl Moritz Schumann miêu tả khoa học đầu tiên năm 1904. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 500 m trên dãy núi Torricelli ở Kaiser-Wilhelmsland (tỉnh Sandaun ở tây bắc Papua New Guinea). Mẫu vật điển hình: "F.R.R Schlechter s.n." do Rudolf Schlechter thu thập tháng 4 năm 1902.
1
null
Riedelia subalpina là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Pieter van Royen miêu tả khoa học đầu tiên năm 1979. Phân bố. Loài này được tìm thấy tại Papua New Guinea. Mẫu vật điển hình: "W. Vink 16015" thu thập trong dãy núi Kubor, tỉnh Simbu, Papua New Guinea.
1
null
Riedelia suborbicularis là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Pieter van Royen miêu tả khoa học đầu tiên năm 1979. Phân bố. Loài này được tìm thấy tại Papua New Guinea, và có thể có ở Tây New Guinea. Mẫu vật điển hình: "L.J. Brass 30954" thu thập tại núi Otto, cao nguyên Đông, Papua New Guinea.
1
null
Riedelia subulocalyx là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1913. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 30 m gần Sabang, ven sông Lorentz ở tây nam đảo New Guinea, thuộc địa phận tỉnh Papua, Indonesia. Mẫu vật điển hình: "G.M. Versteeg 1225" do Gerard Martinus Versteeg (1876-1943) thu thập ngày 14 tháng 6 năm 1907.
1
null
Riedelia tenuifolia là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1913. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 1.350 m trên đỉnh dãy núi Hellwig, ở tây nam New Guinea, thuộc địa phận tỉnh Papua, Indonesia, và có thể có ở Papua New Guinea. Mẫu vật điển hình: "L.S.A.M. von Römer 1120" do Lucien von Römer (1873-1965) thu thập.
1
null
Riedelia triciliata là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Henry Nicholas Ridley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1916. Loài này có quan hệ họ hàng gần với "Riedelia bicuspis" nhưng có hoa nhỏ hơn. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 1.676 m (5.500 ft) dọc theo sông Utakwa (Otakwa) ngược dòng tới phần trung tâm dãy núi Snow = dãy núi Maoke (trong dãy núi Nassau = dãy núi Sudirman) ở tỉnh Papua, Indonesia. Mẫu vật điển hình: "C.B. Kloss s.n." thu thập tại núi Carstensz tháng 2 năm 1913.
1
null
Riedelia umbellata là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1914. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ khoảng 1.100 m trong rừng trên dãy núi Bismarck, Papua New Guinea. Mẫu vật điển hình: "F.R.R. Schlechter 18546" do Rudolf Schlechter thu thập ngày 30 tháng 10 năm 1908.
1
null
Riedelia urceolata là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1914. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ khoảng 1.200 m trong rừng gần trại Hochmoo ven sông Sepik, trong tỉnh Tây Sepik (Sandaun) ở đông bắc Papua New Guinea. Mẫu vật điển hình: "L. Schultze 26" do Leonhard Schultze-Jena thu thập ngày 7 tháng 7 năm 1910.
1
null
Riedelia whitei là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Henry Nicholas Ridley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1922. Phân bố. Loài này được tìm thấy gần Deva Deva ở tỉnh Central, Papua New Guinea. Mẫu vật điển hình: "C.T. White 613" và "C.T. White 655" do Cyril Tenison White (1890-1950) thu thập.
1
null
Riedelia wollastonii là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Henry Nicholas Ridley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1916. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở cao độ 1.189-1.494 m (3.900-4.900 ft) dọc theo sông Utakwa (Otakwa) ngược dòng tới phần trung tâm dãy núi Snow = dãy núi Maoke (trong dãy núi Nassau = dãy núi Sudirman) ở tỉnh Papua, Indonesia. Mẫu vật điển hình: "C.B. Kloss s.n." thu thập tại núi Carstensz tháng 2 năm 1913.
1
null
Roscoea alpina là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được John Forbes Royle miêu tả khoa học đầu tiên năm 1839. Phân bố và môi trường sống. Rừng lá kim; ở cao độ 3.000-3.600 m. Có ở miền bắc Ấn Độ (Kashmir, Sikkim), Bhutan, Myanmar, Nepal, miền bắc Pakistan, Trung Quốc (Tây Tạng). Tên gọi thông thường trong tiếng Trung là 高山象牙参 (cao sơn tượng nha sâm), nghĩa đen là sâm răng voi núi cao. Mô tả. Cây cao 10–20 cm. Lá không phiến lá 2 hoặc 3. Lá thông thường 2 hoặc 3; lưỡi bẹ ~0,5 mm; phiến lá hình mũi mác-thuôn dài hoặc hình mũi mác-thẳng, 3-12 × 1,2–2 cm, nhẵn nhụi, đáy thuôn tròn, đỉnh nhọn. Cụm hoa có cuống được bẹ lá bao quanh; lá bắc 3–10 mm. Hoa màu tía hoặc tím hoa cà, nở từng bông một. Đài hoa 4–5 cm, đỉnh 2 răng. Ống tràng thò ra từ đài hoa, dài, thanh mảnh; thùy trung tâm thẳng đứng, hình tròn, đường kính ~1,5 cm, đỉnh nhọn đột ngột; các thùy bên uốn ngược, thẳng-thuôn dài. Các nhị lép bên mọc thẳng, tương tự như các thùy tràng hoa nhưng ngắn hơn. Cánh môi không uốn ngược, hình nêm-trứng ngược, ~1,5 cm, đỉnh 2 thùy. Bao phấn màu trắng đến màu kem, các ngăn 5–6 mm; cựa liên kết 1,5–2 mm. Quả nang 2,5-3,5 cm. Hạt gần hình hộp vuông, hơi thắt lại ở gần giữa. Ra hoa tháng 5-8.
1
null
Roscoea auriculata là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Karl Moritz Schumann miêu tả khoa học đầu tiên năm 1904. Từ nguyên. Tính từ định danh "auriculata" là nói tới hai chồi hình tai ở các chỗ nối của phiến lá và bẹ lá. Phân bố và môi trường sống. Đồng cỏ; ở cao độ 2.250-3.000 m. Có ở miền bắc Ấn Độ (Sikkim), Bhutan, miền đông Nepal, Trung Quốc (trung nam Tây Tạng). Tên gọi thông thường trong tiếng Trung là 耳叶象牙参 (nhĩ diệp tượng nha sâm), nghĩa đen là sâm răng voi lá hình tai. Mô tả. Cây mọc thẳng, cao 20–40 cm. Lá 3-7; bẹ lá màu tía, hình ống, khép kín toàn bộ; phiến lá hình mũi mác, 7,5-20 × 2-2,5 cm, nhẵn nhụi, đáy hình tai (từ đây mà có tên gọi nhĩ diệp tượng nha sâm) và ôm chặt, đỉnh nhọn. Cụm hoa gồm vài hoa; cuống cụm hoa được bẹ lá bao quanh; lá bắc hình mác-thẳng, 2-2,5 cm, dạng màng. Hoa thường có màu tía tươi hoặc trắng. Đài hoa ~3,5 cm. Ống tràng hoa dài hơn đài hoa; thùy hình mũi mác, ~3,5 cm. Các nhị lép bên mọc thẳng, màu trắng, cong hình lưỡi liềm, dài ~2 cm, có vuốt ngắn. Cánh môi uốn ngược, hình trứng ngược, ~4,5 x 3 cm, đỉnh 2 khe. Nhị ~2 cm; bao phấn ~1 cm; cựa liên kết ngắn. Quả nang 2–3 cm. Hạt màu nâu. Ra hoa tháng 6-8. "R. auriculata" thuộc nhánh Himalaya của chi "Roscoea", như mong đợi từ sự phân bố của nó. Nó dường như có quan hệ họ hàng gần nhất với "R. alpina". Gieo trồng. Jill Cowley lưu ý rằng "R. auriculata" đã được trồng trong vườn trong nhiều năm dưới tên của một loài khác là "R. purpurea". Bà đưa ra một số đặc điểm phân biệt, bao gồm bản chất có tai của lá, màu tía tươi của hoa chứ không phải màu tía nhạt hơn của "R. purpurea", các nhị lép bên màu trắng tương đối ngắn hơn của "R. auriculata", và cánh môi bị uốn xuống của nó. "R. auriculata", giống như các loài và giống cây trồng "Roscoea" khác, thường được trồng trong các vườn đá. Chúng thường cần một chỗ tương đối nhiều nắng với đất giữ ẩm nhưng thoát nước tốt. Do không xuất hiện trên mặt đất tới tận cuối mùa xuân hoặc thậm chí đầu mùa hè, nên chúng thoát khỏi thiệt hại do băng giá ở những vùng có nhiệt độ xuống tới dưới 0 °C. "R. auriculata" được mô tả là một trong những loài thường được trồng và dễ trồng nhất. Khi được trồng tại Vườn Thực vật Hoàng gia ở Kew, nó được trồng ở vị trí có nắng vào buổi sáng nhưng có bóng râm vào buổi chiều. Không nên trồng nó ở nơi nhiều nắng hoặc ở nơi quá nóng. Các dạng màu tím-tía sẫm và trắng được gieo trồng. Một dạng với hoa lớn, nhiều màu sắc được trồng với tên gọi "Roscoea auriculata" 'Floriade'. "R. auriculata" và một số giống cây trồng của nó đã được đưa vào một cuộc thử nghiệm "Roscoea" do Hiệp hội Làm vườn Hoàng gia Anh tổ chức từ năm 2009 đến năm 2011. Tất cả đều tỏ ra là chịu được lạnh (hạng H4, tức là chịu lạnh ở bất kỳ đâu tại quần đảo Anh), ra hoa từ tháng 7 đến tháng 9. Giải thưởng Garden Merit đã được trao cho loài này và giống cây trồng 'Summer Deep Purple' của nó. Giống cây trồng này gần giống với các dạng điển hình của loài này nhưng cao hơn, cho nhiều hoa với mùa hoa kéo dài.
1
null
Roscoea bhutanica là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Chatchai Ngamriabsakul mô tả khoa học đầu tiên năm 2000. Mẫu định danh: "Grierson & Long 1826", thu thập tại thung lũng rừng phía trên Lami Gompa, , Byakar, Bumtang Chu, huyện Bumthang, Bhutan, ở cao độ 3.050m, 12 tháng 6 năm 1979. Phân bố và môi trường sống. Loài này được tìm thấy ở cao độ 2.100-3.500 m, trong các thung lũng rừng rậm và các khoảng rừng thưa tại miền nam Tây Tạng (thung lũng Chumbi) và Bhutan. Mô tả. "R. bhutanica" là một trong những thành viên có kích thước nhỏ của chi "Roscoea". Cây cao 8–14 cm. Rễ củ thuôn dài đến hình thoi. Lá: 4-8 lá hoặc nhiều hơn, 2-4 lá đầu tiên là lá không phiến lá, các lá còn lại có phiến nhẵn nhụi, xuất hiện vào lúc nở hoa, hình mũi mác-hình trứng đến thuôn dài, hơi có tai, ~4–21 cm × 1–4,5 cm, mọc thành cụm ở gốc. Phần cuống của cụm hoa được các bẹ lá che phủ. Lá bắc ~4,5–8 cm × 1–1,6 cm bao quanh các hoa màu tía và nở từng hoa một, ngay phía trên lá. Đài hoa hình ống, ~5–6,5 cm, đỉnh ngang bằng lá bắc ít hay nhiều, 2 răng, răng 1-3(-9) mm, xẻ khoảng 1-1,5 cm. Ba cánh hoa tạo thành ống tràng, ~5-6,5 cm, thường dài hơn đài hoa đến khoảng 1 cm, đầu chia thành 3 thùy; thùy trung tâm hình mác ngược hẹp, ~2,3–2,6 cm × 1,1–1,3 cm, nhọn đột ngột; hai thùy bên thẳng-thuôn dài, ~2,4–2,8 cm × 0,4–0,6 cm, tù. Bên trong các cánh hoa là các cấu trúc hình thành từ 4 nhị vô sinh (nhị lép): 2 nhị lép bên tạo thành cấu trúc hình thìa lệch giống như cánh hoa thẳng đứng hẹp, ~1,6–1,9 cm × 0,5–0,6 cm; 2 nhị lép trung tâm hợp sinh để tạo thành cánh môi, ~2,5–3,2 cm × 1,6–2 cm, hơi uốn cong xuống, hình trứng ngược, đầu chia 2 thùy nhỏ hơn một nửa chiều dài của nó, không có vạch trắng ở vuốt. Nhị sinh sản 1, bao phấn màu trắng, mô vỏ bao phấn dài ~6–7 mm, vuông góc với các phần phụ nhọn và thuôn dài liên kết. Vòi nhụy màu trắng hồng; đầu nhụy màu trắng. Bầu nhụy dài ~1–1,7 cm × 0,3 cm. Tuyến dưới bầu 4–5 mm. Áo hạt xé rách nông. Các đặc trưng hoa của R. bhutanica là tương tự như ở các loài có kích thước lớn hơn là "R. purpurea" và "R. auriculata", đều thuộc nhánh Himalaya. Nhị lép của "R. bhutanica" là trung gian về màu sắc và hình dạng giữa hai loài nói trên. Nhị lép ở "R. auriculata" có màu trắng và hình trứng ngược lệch; ở "R. purpurea" có màu tía và hình thìa; ở "R. bhutanica" có màu tía với vuốt dài, vì thế tỷ lệ dài/rộng của nó lớn hơn, gần với tỷ lệ của "R. purpurea" hơn là với "R. auriculata" có vuốt ngắn. Lịch sử phân loại. "R. tibetica" trước đây được cho là loài đặc biệt duy nhất của chi "Roscoea" khi có mặt ở cả hai bên của phần chảy về phía nam của sông Brahmaputra. Tuy nhiên, phân tích phát sinh chủng loài phân tử năm 2000 cho thấy quần thể ở phía tây trong địa phận Bhutan, khác biệt với quần thể ở phía đông tại Trung Quốc. Do mẫu định danh "R. tibetica" thu thập tại huyện Lý Đường, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc, nên quần thể ở Bhutan được coi là một loài mới với danh pháp "R. bhutanica". "R. tibetica" thuộc nhánh Trung Quốc trong khi "R. bhutanica" thuộc nhánh Himalaya, khớp với dự kiến từ sự phân bố tương ứng của chúng. Hai loài này có bề ngoài rất giống nhau, ở chỗ chúng đều nhỏ và có một nhóm các lá sát gốc bó chặt. Cây non của hai loài này không dễ phân biệt, nhưng sau này có thể thấy là "R. tibetica" vẫn giữ nơ lá trong khi "R. bhutanica" phát triển kiểu sắp xếp lá thành hai hàng. Ngoài ra, ở "R. tibetica" thì sự nở hoa thường xảy ra trước khi ra lá, đài hoa dài hơn lá bắc, ống tràng dài, thò ra ngoài đài hoa, cánh môi ngắn hơn cánh hoa bên, đỉnh cánh hoa bên nhọn và đỉnh phần phụ tù; trong khi ở "R. bhutanica" thì sự nở hoa thường xảy ra sau khi đã có vài lá, đài hoa bằng hoặc ngắn hơn lá bắc, ống tràng ngắn, thường nằm trong đài hoa, cánh môi dài hơn cánh hoa bên, đỉnh cánh hoa bên tù và đỉnh phần phụ nhọn.
1
null
Roscoea brandisii là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được John Gilbert Baker miêu tả khoa học đầu tiên năm 1890 dưới danh pháp "Roscoea purpurea" var. "brandisii" theo mẫu vật và mô tả trước đó của nhà thực vật học George King (1840-1909). Năm 1904, Karl Moritz Schumann nâng cấp nó thành loài độc lập và cung cấp mô tả chi tiết bằng tiếng Latinh. Phân bố và môi trường sống. Sinh sống ở cao độ 1.600-2.600 m. Có ở đông bắc Ấn Độ (Assam, Meghalaya, Sikkim), miền bắc Bangladesh.
1
null
Roscoea capitata là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được James Edward Smith miêu tả khoa học đầu tiên năm 1822 từ mẫu vật do Nathaniel Wallich thu thập. Từ nguyên. Tính từ định danh "capitata" có nghĩa là "tạo thành hình đầu", ở đây là để nói tới cụm hoa hình đầu. Phân bố và môi trường sống. Sinh sống ở cao độ 1.200-2.600 m trên các sườn hay dốc đồi núi cỏ hay đá. Có ở Nepal và Tây Tạng, Trung Quốc. Tên gọi trong tiếng Trung là 头花象牙参 (đầu hoa tượng nha sâm), nghĩa đen là sâm răng voi hoa hình đầu. Mô tả. Cây cao 30-50 cm. Lá 3-9; phiến lá thẳng, hiếm khi hình mũi mác, 15-25 × 1-2,8 cm, có sống lá rõ nét, đáy thu hẹp lại, đỉnh nhọn. Cụm hoa hình đầu (từ đây mà có tên gọi đầu hoa tượng nha sâm), nhiều hoa mọc dày dặc; cuống 5-10 cm; lá bắc màu xanh lục, hình mũi mác, 4-4,5 × ~1 cm. Hoa màu từ xanh lam đến tím hồng. Đài hoa khoảng 2,5 cm, có lông tơ đặc biệt là dọc theo các gân, chẻ 1 bên, đỉnh 2 răng. Ống tràng hoa ngắn hơn đài hoa; thùy trung tâm thuôn dài-hình nêm, dặng nắp, ~2 cm, đỉnh nhọn đột ngột; các thùy bên dài hơn thùy trung tâm. Các nhị lép bên hình thìa lệch, ~2 cm. Cánh môi không uốn ngược, thuôn dài-hình nêm, ~2,5 × 1,4 cm, chia thùy khoảng ¼ chiều dài của nó; các thùy có khía răng cưa rõ nét ở đỉnh. Bao phấn màu trắng kem, các ngăn ~5 mm; cựa liên kết ~1 cm. Bầu nhụy màu hồng. Quả nang hình chùy, ~2,5 cm. Ra hoa tháng 7-8.
1
null
Roscoea cautleyoides (cách viết gốc: Roscoea cautleoides) là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được François Gagnepain miêu tả khoa học đầu tiên năm 1901 (xuất bản năm 1902). Từ nguyên. Tính từ định danh nguyên được viết là "cautleoides" khi François Gagnepain mô tả chính thức. Tên gọi này được đặt là do sự tương tự của loài này – cụ thể là màu hoa vàng của một số dạng – với đơn vị phân loại mà Gagnepain đã biết đến hoặc là chi "Cautlea" hoặc là tổ "Cautlea" của chi "Roscoea". Tuy nhiên, "Cautlea" là một tên gọi không hợp thức (nó không được chính tác giả chấp nhận), và sau này chỉ được hợp thức hóa thành "Cautleya" (với sự bổ sung chữ "y"). Tên gọi là để vinh danh tôn ông Proby Cautley. Cách viết tên gọi của Gagnepain được một số nguồn sửa đổi thành "Roscoea cautleyoides"; chẳng hạn như trong World Checklist of Selected Plant Families, hay The Plant List. Phần lớn các nguồn tài liệu khác, như IPNI, vẫn sử dụng cách viết gốc của Gagnepain. Phân bố và môi trường sống. Rừng thông, vùng cây bụi lùn, trảng cỏ, đồng cỏ; ở cao độ 2.000-3.500 m. Có tại các tỉnh Tứ Xuyên, Vân Nam của Trung Quốc. Tên gọi trong tiếng Trung là 早花象牙参 (tảo hoa tượng nha sâm), nghĩa đen là sâm răng voi hoa sớm. Mô tả. Cây cao 15-40(-60) cm. Lá 3 hoặc 4; bẹ lá nhẵn nhụi hoặc rậm lông tơ gần áp ép; lưỡi bẹ ~1 mm; phiến lá hình mũi mác hoặc thẳng, 5-15(-40) × 1,5–3 cm, sống lá rõ nét, xù xì, mặt gần trục với các nốt mụn có vảy, mặt xa trục nhẵn nhụi hoặc rậm lông tơ gần áp ép, đáy thu hẹp lại, đỉnh tù đến nhọn. Cụm hoa thò ra từ bẹ lá từ ngắn đến dài; cuống có gờ; lá bắc màu lục có gân màu ánh nâu, hình ống, 4–6 cm. Hoa từ 1 đến vài hoa nở cùng nhau, màu tía, vàng, trắng, hoặc hiếm khi có màu hồng nhạt, đôi khi xuất hiện trước khi lá phát triển. Đài hoa 3-5,6 cm, chẻ đến giữa ở 1 bên, đỉnh 2 răng. Ống tràng hoa 3-3,5 cm, thanh mảnh; các thùy hình mũi mác, 1,5–2 cm. Cánh môi uốn ngược, hình trứng ngược, 2,5–3 cm, mép ngoài quăn, đỉnh 2 thùy. Bao phấn thẳng, 1-1,5 cm kể cả cựa. Quả nang thuôn dài 1,5-3,5 cm. Hạt hình elipxoit đến 3 góc. Ra hoa tháng 5-8. Về hình thái, loài này rất giống với "R. glaucifolia", nhưng có thể phân biệt được bằng lá màu xanh lục, nhẵn nhụi và cánh môi chẻ tới đáy, với 2 đốm màu vàng ở vuốt của các dạng hoa màu tía; trong khi ở "R. glaucifolia" thì lá màu xanh xám với phấn trắng hay cánh môi chỉ chẻ tới 1/2-2/3 chiều dài, với 6 sọc trắng ở vuốt của các dạng có hoa màu tím. Sử dụng. Loài này đôi khi cũng được trồng trong vườn.
1
null
Roscoea debilis là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được François Gagnepain miêu tả khoa học đầu tiên trong kỳ họp bất thường diễn ra tháng 5 - tháng 6 năm 1901 tại đảo Corse (xuất bản năm 1902). Từ nguyên. Tính từ định danh "debilis" nghĩa là "yếu ớt, mảnh dẻ"; Gagnepain mô tả loài này là "đáng chú ý vì sự mảnh dẻ của nó" (Plante remarquable par sa gracilité). Phân bố và môi trường sống. Đồng cỏ; ở cao độ 1.600-2.400 m. Có tại phía tây tỉnh Vân Nam của Trung Quốc cũng như đông bắc Myanmar. Tên gọi trong tiếng Trung là 长柄象牙参 (trường bính tượng nha sâm), nghĩa đen là sâm răng voi cán hoa dài. Mô tả. Cây cao (10-)25-50 (-60) cm. Lá không phiến lá 2-3, có màu nâu hồng rõ nét. Lá thông thường 3-4; lưỡi bẹ màu nâu hồng, 1-2 mm; phiến lá thuôn dài, hình elip, hoặc hình mũi mác, 9-2,2 × 1,5-4 cm, mặt xa trục phiến lá nhẵn hoặc có lông tơ, đáy thu hẹp lại và giống như cuống lá, đỉnh nhọn đến nhọn hoắt. Cụm hoa đôi khi với cuống thò ra ngắn từ bẹ lá; lá bắc hình mũi mác, đỉnh tù, 3,5-5,5 cm. Hoa 1-3 nở cùng nhau, màu tía, đỏ hay trắng. Đài hoa 2,7-3,5 cm, đỉnh 2 răng. Ống tràng hoa 3,5-7,5cm; thùy trung tâm hình elip đến hẹp, 2,2-3,5 cm, đỉnh nhọn đột ngột; các thùy bên hình elip đến thẳng-thuôn dài, 2,2-3,5 cm. Các nhị lép bên hình mác ngược lệch, ~2,5 cm, có vuốt. Cánh môi hơi uốn ngược, với các vạch trắng ở họng, hình trứng ngược, 2,3-3,5 × 1,4-3 cm, bao gồm cả vuốt 5-6 mm, đỉnh 2 thùy hẹp. Bao phấn cong, các ngăn 6-9 mm; cựa liên kết 7-9 mm. Bầu nhụy 1-5 cm. Ra hoa tháng 6-8.
1
null
Roscoea forrestii là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Elizabeth Jill Cowley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1982. Từ nguyên. Tính từ định danh là để vinh danh nhà thám hiểm kiêm nhà thu thập thực vật người Scotland là George Forrest (1873-1932), người đã thu thập rộng khắp tại miền tây Trung Quốc từ năm 1904 và đã du nhập nhiều loại cây trồng trong vườn mới vào châu Âu và xa hơn thế. Mẫu vật định danh do Forrest thu thập năm 1913 ở cao độ 3.050 m trong khu vực ven Đại Lý, Vân Nam. Phân bố và môi trường sống. Giữa các cây bụi và tre lùn, các khe nứt và gờ các vách đá; ở cao độ 2.000-3.400 m Có tại miền nam Tứ Xuyên và miền tây Vân Nam của Trung Quốc. Mô tả. Cây cao 17-30 (-35) cm. Lá không cánh 3-5, điểm hay đốm màu hồng nhạt. Lá thông thường 1-3; lưỡi bẹ 2–3 mm; phiến lá hình trứng thuôn dài-hình mũi mác, 6,5-13 × 2–5 cm, nhẵn nhụi hoặc hiếm khi có lông tơ, đỉnh tù đến nhọn. Cụm hoa với cuống được các bẹ lá bao quanh; lá bắc màu lục nhạt, ngắn hơn hoặc bằng đài hoa, đôi khi suy giảm mạnh hoặc hợp lại với nhau, đỉnh tù. Đài hoa điểm màu hồng, 5–13 cm, đỉnh 2 hoặc 3 răng. Ống tràng hoa thường thò ra khá dài từ đài hoa, 5-12,5 cm; thùy trung tâm có gân sẫm màu, hình elip rộng, 2,5-4 × 1,5-2,5 cm, đỉnh nhọn đột ngột; các thùy bên thẳng-thuôn dài đến hình elip, 2,6–4 cm × 5–10 mm. Các nhị lép bên hình trứng ngược lệch đến hình thoi, 1,1-2,5 × 7–11 mm, vuốt ngắn. Cánh môi uốn ngược, hình trứng ngược, 3-4,1 × 2,1–3 cm bao gồm cả vuốt, thường có thùy đến phía dưới đoạn giữa; các thùy có khía rưng cưa ở đỉnh. Bao phấn màu kem, các ngăn 5–8 mm; cựa liên kết 5–9 mm. Bầu nhụy 1–5 cm. Vòi nhụy màu trắng. Hạt hình cầu hoặc hình lập phương. Ra hoa tháng 5-7. Năm 2007, nhóm tác giả Luo Ming Hua, Gao Xin Fen, Zhu Zheng Yin và Lin Hong Hui mô tả loài "Roscoea cangshanensis" (theo tên gọi dãy núi Thương Sơn ở Vân Nam). Loài này rất giống với "R. forrestii", nhưng khác ở chỗ cánh môi có 2 thùy, mỗi thùy lại chia thành 2 thùy con, phần gốc thu hẹp thành cuống với các vạch màu trắng, và phiến lá hẹp hơn, (2-) 7-24 × 1,5-2,5 cm, với phần gốc hẹp đến giống như cuống lá. Hiện nay, nó được coi là đồng nghĩa của "R. forrestii".
1
null
Roscoea ganeshensis là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Elizabeth Jill Cowley và William John Baker miêu tả khoa học đầu tiên năm 1996. Từ nguyên. Tính từ định danh "ganeshensis" lấy theo địa danh nơi loài được thu thập lần đầu tiên là dãy núi Ganesh Himal ở miền trung Nepal. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở các bờ đá dốc trên cao độ khoảng 1.900 m trong thung lũng Buri Gandaki trong dãy núi Ganesh Himal (một phần của dãy núi Himalaya) ở miền trung Nepal. Mô tả. Về hình thái, "R. ganeshensis" trông giống như phiên bản thu nhỏ của "R. purpurea", loài cũng có ở khu vực này. "R. ganeshensis" thường cao 12–15 cm, với 5-6 lá. Phiến lá 6–20 cm × 2.7–5.3 cm. Bẹ lá nhăn, màu lục ánh vàng. Ở điểm nối phiến lá và bẹ lá có các cấu trúc nhỏ trong suốt (lưỡi bẹ), kích thước 0.5–2 mm. Cuống cụm hoa không lộ ra khỏi bẹ lá. Cụm hoa là cành hoa dạng bông thóc chứa vài hoa màu tía, đôi khi với đốm sẫm màu ở gốc cánh môi. Lá bắc màu vàng-lục, 8–13 cm, đối diện với hoa. Đài hoa hình ống, ~5–8 cm. Ba cánh hoa tạo thành ống tràng, ~8,5 cm, kết thúc bằng 3 thùy tràng: thùy trung tâm thẳng, 2 thùy bên hơi ngắn hơn. Thùy trung tâm ~3–3.5 cm × 1–1.4 cm, bên ngoài nhạt màu hơn với 9 gân màu tía, màu tía bên trong tại đỉnh và màu tía với các sọc trắng phía dưới. Thùy bên 2.7–3.1 cm × 0.6–0.9 cm, cũng màu tía và nhạt hơn tại gốc. Bên trong các cánh hoa là các cấu trúc hình thành từ 4 nhị vô sinh (nhị lép). Hai nhị lép bên trông giống như các cánh hoa nhỏ, ~1.6–2 cm bao gồm cả cựa hẹp ~0.2–0.5 cm tại gốc. Hai nhị lép trung tâm hợp sinh tại gốc tạo thành cánh môi, ~3.6–4.5 cm × 2.5–3.5 cm. Cánh môi màu tía với bề mặt nhăn nhúm và chẻ tới 1,5 cm thành 2 thùy. Nhị sinh sản 1 màu trắng với bao phấn thẳng, ~8 mm, sinh trên chỉ nhị dài 4–5 mm. Cựa ngắn màu kem hình thành từ mô liên kết giữa 2 nang bao phấn, ~1.5–3 mm. Bầu nhụy 3 ngăn, ~5–11 mm. Trong vùng bản địa của nó, "R. ganeshensis" ra hoa tháng 8-9. Phân tích phát sinh chủng loài phân tử cho thấy nó dường như có quan hệ họ hàng gần với "R. capitata". "R. ganeshensis" có thể phân biệt với các loài "Roscoea" tương tự khác ở chỗ các đốt của nó rất ngắn, lá có lông mịn che phủ cũng như bề ngoài của cánh môi là nhăn nhúm với các "vai" rất khác biệt ở các góc phía trên cánh môi.
1
null
Roscoea humeana là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Isaac Bayley Balfour và William Wright Smith miêu tả khoa học đầu tiên năm 1916. Từ nguyên. Tính từ định danh loài này là để tưởng nhớ binh nhì David Hume của Tiểu đoàn 1, Trung đoàn Hoàng gia, từng là nhân viên làm vườn của Vườn Thực vật Hoàng gia Edingburg, đã hy sinh trong cuộc rút lui khỏi Mons vào ngày 26 tháng 8 năm 1914. Phân bố, môi trường sống. Rừng thông, cây bụi và bìa rừng, đồng cỏ núi cao, các sườn đồi có cỏ và đá, sườn núi, gờ, kẽ nứt của vách núi đá vôi; ở cao độ 2.900-3.800 m. Có ở các tỉnh Tứ Xuyên, Vân Nam của Trung Quốc. Tên gọi trong tiếng Trung là 大花象牙参 (đại hoa tượng nha sâm), nghĩa đen là sâm răng voi hoa lớn. Điều này là do đài hoa của nó dài tới 10–14 cm; so với các kích thước thường thấy của bộ phận tương ứng của nhiều loài "Roscoea" khác chỉ 3,5–4 cm thì nó gấp 2-3 lần. Mô tả. Cây cao 13–25 cm. Lá 4-6, xuất hiện cùng hoặc sau khi nở hoa; lưỡi bẹ ~2 mm; phiến lá hình mũi mác rộng hoặc hình trứng-hình mũi mác, 10-30 × 3–6 cm, nhẵn nhụi, đỉnh nhọn. Cụm hoa là cành hoa dạng bông thóc với 2-8 hoa, với cuống được các bẹ lá bao quanh; lá bắc hình mũi mác, thường ngắn hơn nhiều so với đài hoa. Hoa 1 đến nhiều cùng nở, màu tím, tía, hồng, trắng hoặc vàng. Đài hoa hình ống hẹp, 10–14 cm, đỉnh xiên, 2 thùy. Ống tràng hoa dài hơn đài hoa một chút; thùy trung tâm hình trứng rộng, 3-4 × 2,5–3 cm, gốc thẳng đứng, hẹp, dạng nắp, đỉnh thuôn tròn, nhọn đột ngột; các thùy bên hình mác ngược, 3-4,5 × ~1,5 cm. Các nhị lép bên màu trắng pha chút tía, hình trứng ngược, 1,5-1,7 cm. Cánh môi uốn ngược, hình trứng ngược, thường nhỏ hơn thùy trung tâm của tràng hoa, 2-2,5 × ~3 cm, đỉnh 2khe gần đến gốc, mép có mào; vuốt cứng. Chỉ nhị ~5 mm; bao phấn màu trắng, ~1,2 cm; cựa liên kết màu lục ánh vàng, 6–8 mm. Vòi nhụy ~10 mm; đầu nhụy hình con quay, nhiều lông. Bầu nhụy hình trụ, ~1 cm. Quả nang thuôn dài, ~2,5 cm × 5 mm. Ra hoa tháng 4-7. "2n" = 24. Có quan hệ họ hàng gần với "Roscoea chamaeleon" . Các họ hàng gần khác còn có "R. praecox" và "R. wardii".
1
null