text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
Roscoea kunmingensis là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Shao Quan Tong miêu tả khoa học đầu tiên năm 1992.
Từ nguyên.
Tính từ định danh "kunmingensis" lấy theo địa danh Côn Minh, nơi thu thập mẫu.
Phân bố, môi trường sống.
Rừng, ở cao độ 2.100-2.200 m. Có tại Côn Minh, Vân Nam. Tên gọi trong tiếng Trung là 昆明象牙参 (Côn Minh tượng nha sâm), nghĩa đen là sâm răng voi Côn Minh.
Mô tả.
Cây cao 8–12 cm. Lá không phiến lá ~4. Lưỡi bẹ ~3 mm; phiến lá hình mũi mác hoặc hẹp như vậy, 8-20 × 2,5-3(-4,2) cm, nhẵn nhụi, đỉnh nhọn hoặc ngắn như vậy. Cụm hoa 1 hoặc 2 hoa; cuống bao được các bẹ lá bao quanh; lá bắc hình ống, 0,5-0,7(-3,5) cm, hiếm khi đến 8 cm sau khi nở hoa, đỉnh nhọn, 2 răng. Ống tràng hoa 3,5–4 cm; thùy trung tâm thuôn dài, 1,5–2 cm × 6–8 mm; các thùy bên thẳng-thuôn dài, hẹp hơn thùy trung tâm. Các nhị lép bên hình trứng hẹp-hình nêm, ~1,4 cm. Cánh môi uốn ngược, với những đường màu trắng trên vuốt, hình trứng ngược-hình nêm, 1,6-2,1 × 1-1,5 cm, đỉnh 2 thùy xẻ sâu. Các ngăn bao phấn ~4 mm; cựa liên kết ~3 mm. Bầu nhụy hình trụ, 3-3,5 cm × 6–7 mm. Hạt hình trứng ngược, ~3,5 mm. Ra hoa tháng 5-6.
Shao Quan Tong cũng mô tả một thứ là "R. kunmingensis" var. "elongatobractea", với đặc điểm là phiến lá rộng tới 4,2 cm, lá bắc 2,5-3,5 cm và dài tới 8 cm sau khi nở hoa, ra hoa trong tháng 6, tên gọi trong tiếng Trung là 延苞象牙参 (diên bao tượng nha sâm), nghĩa đen là sâm răng voi lá bắc dài. Trong khi đó thì dạng nguyên chủng ("R. kunmingensis" var. "kunmingensis") có phiến lá rộng 2,5–3 cm và lá bắc chỉ dài 0,5-0,7 cm, ra hoa tháng 5. Tuy nhiên, các nguồn như POWO, WCSP, The Plant List không coi đặc điểm này là đủ để tách "R. kunmingensis" var. "elongatobractea" ra thành một thứ khác biệt.
"R. kunmingensis" có quan hệ họ hàng gần với "R. praecox". | 1 | null |
Roscoea nepalensis là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Elizabeth Jill Cowley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1980.
Từ nguyên.
Tính từ định danh "nepalensis" lấy theo điểm thu thập mẫu vật là Nepal.
Phân bố.
"R. nepalensis" có ở Nepal, sinh sống ở cao độ trên đồng cỏ, giữa các tảng đá, trong rừng thưa trong bóng râm của cây gỗ hay cây bụi.
Mô tả.
Cây thân thảo sống lâu năm, cao 10-26 cm, với 3-8 lá. 1-3 lá đầu tiên chỉ bao gồm bẹ lá không phiến lá, nhanh chóng tách ra; các lá còn lại tạo thành nơ lá và có phiến lá, kích thước 7-10 cm × 1,2-2,6 cm. Phiến lá có phần gốc ngắn hơi giống đoạn thân cây. Lưỡi bẹ nhỏ tại chỗ nối phiến và bẹ lá.
Trong tự nhiên, ra hoa tháng 6-7. Cuống cụm hoa nằm trong bẹ lá. Các hoa màu trắng. Lá bắc màu lục nhạt, đối diện với hoa, có chiều dài xấp xỉ chiều dài đài hoa.
Đài hoa hình ống, với đỉnh 2 thùy tù. Ba cánh hoa tạo thành ống tràng, dài 6-9 cm, thò ra từ đài hoa và chia thành 3 thùy, thùy trung tâm thẳng đứng có nắp, ~2,2-3 cm × 1 cm, hai thùy bên hẹp hơn, ~2-2,5 cm × 0,5 cm. Bên trong các cánh hoa là cấu trúc do 4 nhị vô sinh (nhị lép) tạo thành: hai nhị lép bên tạo thành cái trông giống như những cánh hoa nhỏ mọc thẳng đứng, hình gần tròn, ~1,5-2,3 cm × 1,2-1,5 cm, với gân trung tâm nổi rõ nhiều hay ít; hai nhị lép trung tâm hợp sinh một phần tại gốc tạo thành môi rộng (cánh môi), ~3,5-4 cm × 2,5-4 cm. Cánh môi không uốn ngược và chia thành 2 thùy ở đỉnh.
Nhị sinh sản 1, có bao phấn màu kem, ~ 8 mm, với cựa rất ngắn ~1-2 mm, tạo thành mô liên kết giữa 2 nang bao phấn. Đầu nhụy hình vòm.
Về hình thái, "R. nepalensis" không giống như các loài khác của "Roscoea". Kích thước nhỏ của cựa phía dưới bao phấn là giống như của "R. alpina". Lá thì giống như của "R. debilis" ở chỗ hình thành ra nơ lá và có phần gốc giống như đoạn thân hẹp. Các nhị lép bên của "R. nepalensis" là bất thường ở chỗ có hình dạng gần tròn. Loài này cũng bất thường ở chỗ là loài duy nhất trong chi "Roscoea" có hoa màu trắng. | 1 | null |
Roscoea ngainoi là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Ashiho Asosii Mao và Manas Bhaumik mô tả khoa học đầu tiên trong số ra tháng 12 năm 2007 của "Nordic Journal of Botany" (in ngày 28 tháng 8 năm 2008).
Từ nguyên.
Tính từ định danh "ngainoi" lấy theo địa danh là núi Ngaino ở bang Manipur, Ấn Độ, nơi loài này lần đầu tiên được tìm thấy. Mẫu định danh loài được thu thập vào tháng 3 năm 2005 ở độ cao 2.840 m. "R. ngainoi" giống "R. tibetica" và "R. auriculata".
Phân bố.
Nó được tìm thấy trên các ngọn đồi ở độ cao từ 2.200 đến 3.000 m, ở các khu vực đồng cỏ, nơi các loài thực vật như "Lilium mackliniae" cũng có mặt, tại Manipur, Ấn Độ.
Mô tả.
Cây cao khoảng 14 cm khi ra hoa với 6 lá. 2-3 lá đầu tiên chỉ bao gồm phần bẹ; các lá còn lại có phiến lá, ~2,3–18,5 cm × 1,6–3,5 cm. Ở phần tiếp giáp của bẹ và phiến lá có một lưỡi bẹ nhỏ, dài 1,5–2 mm. Cành hoa (cụm hoa) được các bẹ lá bao quanh, nói chung mỗi lần một hoa xuất hiện trên ống tràng hoa dài tới 9,5 cm. Hoa màu tía sẫm. Các lá bắc đối diện hoa ngắn hơn đài hoa. Đài hoa hình ống, dài khoảng 6 cm, đỉnh 3 thùy. Tiếp theo, 3 cánh hoa (tràng hoa) tạo thành ống tràng, dài hơn đài hoa, tận cùng chia thành 3 thùy, thùy trung tâm thẳng đứng, khoảng 2,6–3,0 cm × 1,0–1,2 cm, và 2 thùy bên hơi hẹp hơn, ~2,2–2,5 cm × 0,5–0,7 cm. Bên trong các cánh hoa là cấu trúc được hình thành từ 4 nhị vô sinh (nhị lép): 2 nhị lép bên tạo thành ncái giống những cánh hoa nhỏ thẳng đứng, 1,5–2,0 cm × 0,6–0,8 cm, với phần thu hẹp ngắn (vuốt) tại gốc; 2 nhị lép trung tâm hợp sinh một phần ở gốc để tạo thành môi (cánh môi), ~2,0–2,3 cm × 1,2–1,6 cm. Cánh môi phân chia thành 2 thùy riêng biệt, mỗi thùy dài 2,2–2,4 cm ở rìa trung tâm, ngắn hơn ở rìa ngoài. 2-3 vạch màu trắng kéo dài từ gốc của mỗi thùy, đôi khi tới trên 50% chiều dài đến đỉnh có khía răng cưa của nó. Nhị sinh sản 1, có bao phấn màu trắng, dài khoảng 5–6 mm, với các cựa dài 2–3 mm, được hình thành từ mô liên kết giữa 2 nang bao phấn.
Loài này giống "R. tibetica", nhưng phiến lá nhỏ hơn, ống tràng dài hơn nhiều, vượt quá đài hoa, cánh môi có hình dạng khác và có các vạch trắng ở gốc. | 1 | null |
Roscoea praecox là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Karl Moritz Schumann miêu tả khoa học đầu tiên năm 1904. Mẫu vật định danh "Henry n. 11117" thu thập ở độ cao 1.600 m.
Từ nguyên.
Tính từ định danh "praecox" có nghĩa là "sớm", do "R. praecox" ra hoa trước khi lá phát triển đầy đủ.
Phân bố, môi trường sống.
Sườn đồi cây bụi, núi có cỏ; ở cao độ 1.600-2.300 m tại Vân Nam, Trung Quốc.
Mô tả.
Cây cao 7-30 cm. Lá không phiến lá 4-5, có gân màu nâu ánh hồng, mép trong suốt, đỉnh tù. Lá thông thường không có khi nở hoa, đôi khi có 1 hoặc 2 lá ngắn, kém phát triển; lưỡi bẹ dường như không được nâng lên. Cụm hoa thò ra từ bẹ lá; cuống được bao quanh hoặc thò ra; lá bắc màu ánh lục, hình mũi mác, 4-6,5 cm. Hoa 1-3 nở cùng nhau, màu tím, tía hay trắng. Đài hoa 3-4,5 cm, đỉnh 2 răng. Ống tràng hoa hiếm khi thò ra từ đài hoa; các thùy hình mũi mác, bằng nhau, ~3 cm. Các nhị lép bên hình thoi, 1,7-2,5 cm, gân giữa yếu, gốc thu hẹp thành vuốt. Cánh môi uốn ngược, đốm màu trắng ở phần tiếp giáp của phiến cánh môi và vuốt, hình trứng ngược, 2,5-4 × 1,5-2 cm bao gồm cả vuốt dài 7 mm, đỉnh 2 khe trên 1/2 chiều dàiphiến cánh môi; các thùy đôi khi có khía răng cưa ở đỉnh. Bao phấn màu kem; cựa liên kết ~7 mm. Ra hoa tháng 4-6.
"R. praecox" thuộc về nhánh Trung Quốc của chi "Roscoea". Các loài có quan hệ họ hàng gần bao gồm "R. cautleyoides", "R. humeana" và "R. wardii". | 1 | null |
Roscoea purpurea là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được James Edward Smith miêu tả khoa học đầu tiên năm 1806 từ các mẫu vật được Francis Buchanan (1762 – 1829) thu thập ở Nepal. Buchanan cũng là người đã thu thập và mô tả nhiều loài thực vật mới từ Ấn Độ và Nepal. Nó là loài điển hình của chi này.
Phân bố.
"R. purpurea" là loài bản địa dãy núi Himalaya, từ miền trung Ấn Độ (Himachal Pradesh) đến Nepal và biên giới Bhutan-Assam, ở cao độ từ 1.500-3.100 m. Nó xuất hiện trong nhiều loại môi trường sống, cả ẩm ướt và khô ráo. Nó được tìm thấy trên đồng cỏ núi cao, mặt đá, vách bậc thang, các khoảng rừng thưa và bìa rừng thưa; đôi khi tiếp xúc với ánh nắng đầy đủ và đôi khi trong bóng râm của các cây thân thảo, cây bụi và cây gỗ khác.
Các thứ.
"R. purpurea" được chia ra thành các thứ như sau:
Mô tả.
"R. purpurea" có rễ mọng thịt. Các lá (4-8) mềm và hơi gợn sóng, màu xanh lục sáng, nhẵn hoặc có lông rung, dài 14–20 cm, mọc ngang hoặc uốn ngược lại. Các bẹ lá thường có màu tía hoặc ánh đỏ. Các lá bắc hình trứng hẹp và hầu như bị các lá phía trên che khuất. Hoa màu tía, tím hoa cà, đỏ hoặc trắng và xuất hiện liên tiếp giữa các lá phía trên từ tháng 6 đến tháng 9. Mỗi hoa chỉ tồn tại một hoặc hai ngày. Ống hoa dài 6,5–10 cm, nhưng bị các lá bắc và bẹ lá phía trên che khuất. Cánh hoa ở mặt lưng hình trứng, trong khi các cánh hoa bên ngắn hơn và thuôn tròn. Môi 3 thùy. Thùy trung tâm hình trứng ngược, rộng 2 cm và chia thùy ở đỉnh, các thùy bên thẳng-hình mũi mác. Chỉ nhị có các phần phụ nhọn, màu trắng.
Thụ phấn.
"R. purpurea" được ruồi lưỡi dài ("Philoliche longirostris") thụ phấn. Nó là loài côn trùng thụ phấn bắt buộc cho "R. purpurea". "P. longirostris" là loài ruồi lưỡi dài duy nhất phân bố trên dãy Himalaya và có vòi dài nhất trong số tất cả các thành viên của họ Tabanidae. Sự phổ biến theo mùa của loài ruồi này đồng bộ chặt chẽ với thời kỳ nở hoa đỉnh điểm của "R. purpurea". Quá trình truyền phấn xảy ra khi ruồi đẩy vào các phần phụ của nhị hoa kéo dài từ gốc của nhị hoa ở lối vào của ống tràng hoa. Hành động này làm cho bao phấn và vòi nhụy và đầu nhụy hạ xuống và chạm vào lưng ruồi.
Sử dụng.
"R. purpurea" được trồng làm cây cảnh. Ở miền bắc Ấn Độ, theo truyền thống thì rễ củ được sử dụng để làm thuốc chữa sốt rét. Ở Nepal, chúng được luộc để ăn và cũng được sử dụng trong thú y cổ truyền. | 1 | null |
Roscoea schneideriana là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Ludwig Eduard Loesener miêu tả khoa học đầu tiên năm 1923 dưới danh pháp "Roscoea yunnanensis" var. "schneideriana". Năm 1982, Elizabeth Jill Cowley nâng cấp nó thành loài độc lập.
Phân bố và môi trường sống.
Loài này có ở Tây Tạng, miền nam Tứ Xuyên và Vân Nam, Trung Quốc.
Mô tả.
Cây cao 9–45 cm. Các lá (2-)4-6, (tạo thành nơ lá ở đỉnh của thân giả); lưỡi bẹ ~0,5 mm; phiến lá hình mũi mác hẹp đến thẳng, thường cong lưỡi liềm, (5-)10-22 × 0,4–2 cm, nhẵn nhụi, đỉnh nhọn đến nhọn hoắt. Cụm hoa với cuống được các bẹ lá bao quanh hoặc hơi thò ra; lá bắc hình elip, 3,3–7 cm, các lá sát gốc hình ống. Hoa màu tía hoặc trắng, thường nở từng hoa một. Đài hoa 3–4 cm, đỉnh 2 răng. Ống tràng hoa 4-4,5 cm; thuỳ trung tâm hình elip, 1,7-3,5 cm, đỉnh nhọn đột ngột; các thuỳ bên thẳng-thuôn dài, 2-3,5 cm. Các nhị lép bên hình trứng ngược đến hình thoi, 1,5-2,5 cm. Cánh môi không uốn ngược, hình trứng ngược, 1,8-3,5 × 1-2,5 cm, 2 khe ở đỉnh khoảng 1/2 chiều dài của nó; các thùy có khía răng cưa ở đỉnh. Bao phấn màu vàng, các ngăn 6–9 mm; cựa liên kết 8–9 mm. Đầu nhụy hình phễu, cong hình móc đột ngột. Ra hoa tháng 7-8.
"R. schneideriana" thuộc về nhánh Trung Quốc của "Roscoea", như mong đợi từ phân bố địa lý của nó. | 1 | null |
Roscoea scillifolia là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được François Gagnepain miêu tả khoa học đầu tiên năm 1901 (xuất bản 1902) dưới danh pháp "Roscoea capitata" var. "scillifolia". Năm 1982, Elizabeth Jill Cowley nâng cấp nó thành loài độc lập. Các mẫu định danh "Delavay n. 2685", "Delavay n. 2685 bis" thu thập ở cao độ 2.800 m ngày 14 tháng 6 năm 1887 và "Delavay n. 3283" thu thập ở cao độ 2.800 m ngày 8 tháng 6 năm 1888 do Père Jean Marie Delavay thu thập gần Đại Lý, Vân Nam.
Phân bố.
Loài này có ở các bãi chăn thả ẩm ướt trên núi cao, ở cao độ 2.700-3.400 m tại tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Tên gọi trong tiếng Trung 绵枣象牙参 (miên tảo tượng nha sâm), nghĩa đen là sâm răng voi lá miên tảo, do lá của nó giống lá của miên tảo nhi (绵枣儿, mian zao er, "Barnardia japonica", đồng nghĩa: "Scilla scilloides").
Theo Cowley (2007), "R. scillifolia" có thể đã tuyệt chủng trong tự nhiên, do người ta không còn tìm thấy nó trong tự nhiên tại khu vực bản địa của nó kể từ thập niên 1900. Nó từng được tìm thấy trong một khu vực nhỏ trong tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, cụ thể là vùng núi xung quanh Lệ Giang.
Mô tả.
Cây cao 10-25 cm. Lá 1-5; lưỡi bẹ 2-3 mm; phiến lá hình mũi mác đến thẳng, 11-21 × 1,5-2 cm, các lá ở đầu gần đôi khi cong lưỡi liềm, đỉnh tù đến nhọn. Cụm hoa với cuống được các bẹ lá bao quanh hoặc thò ra từ bẹ lá; lá bắc màu xanh lục, 2,6-5 × 1,2-3 cm, các lá bắc ở đáy hình ống và bao quanh cụm hoa, sớm chẻ tách. Hoa màu tía ánh đen, hồng, trắng, hoặc đôi khi có màu quỳ tím, nở từng hoa một. Đài hoa màu nâu ánh trắng, 1,5-2,1 cm, đỉnh 2 (hoặc 3) răng. Ống tràng hoa 1,6-3 cm; thùy trung tâm hình elip, 1,4-2 cm × 6-10 mm; các thùy bên thẳng-thuôn dài, 1,1-2 cm × 4-6 mm. Các nhị lép bên hình elip đến hình trứng ngược lệch, 1-1,4 cm × 3-5 mm. Cánh môi với các vạch trắng ở họng, hình trứng ngược, 1,3-2 × 0,8-1,2 cm, hiếm khi có thùy sâu; các thùy đôi khi có khía răng cưa ở đỉnh. Bao phấn màu trắng; cựa liên kết 5-6 mm. Bầu nhụy 1-1,5 cm × 3-4 mm, 3 góc. Hạt hình elipxoit đến 3 góc. Ra hoa tháng 6-8.
"R. scillifolia" thuộc về nhánh Trung Quốc của "Roscoea", phù hợp với dự kiến từ sự phân bố của nó.
Gieo trồng.
Như đã nói ở trên, "R. scillifolia" có lẽ đã tuyệt chủng trong tự nhiên và chỉ được biết đến trong gieo trồng. Tại Anh, nó ra hoa vào cuối tháng 5 và có thể tiếp tục cho đến tháng 8. Nó có hoa nhỏ nhất trong tất cả các loài "Roscoea", và được mô tả là "không phải là một trong những thành viên có hoa đẹp nhất của chi này".
Trong một thời gian dài loài này trong gieo trồng đã bị gị không chính xác là "R. alpina". Cowley (2007) trích dẫn một số bài báo viết năm 1938, thập niên 1960 và 1970, tất cả đều sử dụng tên gọi "R. alpina" cho các cây trên thực tế là "R. scillifolia". | 1 | null |
Roscoea tibetica là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Alexander Theodorowicz Batalin miêu tả khoa học đầu tiên năm 1895.
Phân bố.
Loài này có trong rừng thông, lùm cây bụi, đồng cỏ núi cao; ở cao độ 2.400-3.800 m tại Tây Tạng, Tứ Xuyên, Vân Nam. Tên gọi trong tiếng Trung là 藏象牙参 (tạng tượng nha sâm) nghĩa là sâm răng voi Tây Tạng.
Quần thể mà e-flora coi là có ở Bhutan và Ấn Độ của loài này hiện nay được coi là loài riêng biệt, với danh pháp là "Roscoea bhutanica".
Mô tả.
Cây cao 5–15 cm. Lá 1-3, tạo thành nơ lá; lưỡi bẹ khó thấy, ~0,5 mm; phiến lá hình elip, rộng nhất ở gần gốc, 2-6 × 1-2,5 cm, có lông từ ít thấy đến rậm rạp nhất là khi còn non, đỉnh tù đến nhọn. Cụm hoa được các bẹ lá bao quanh; lá bắc hình elip, 2,2–4 cm. Hoa màu tía hoặc tím, nằm ngay trên nơ lá. Đài hoa có đốm màu nâu, dài 3–4 cm, đỉnh 3 răng. Ống tràng hoa 4–5 cm; thùy trung tâm thuôn dài, có nắp, 1,5-1,7 cm × ~8 mm, đỉnh nhọn đột ngột; các thùy bên hình mũi mác, 1,5-1,8 cm × 4–5 mm. Các nhị lép bên thuôn dài 1-1,3 cm. Cánh môi hơi uốn ngược, hình trứng ngược, 1,4-2,5 × 0,8-1,8 cm bao gồm cả vuốt, thường xẻ thùy sâu hơn 1/2 chiều dài của nó. Bao phấn màu kem; cựa liên kết 3–7 mm. Bầu nhụy hình trụ, ~ 1,5 cm. Ra hoa tháng 6-7.
Lịch sử phân loại.
"R. tibetica" trước đây được cho là loài đặc biệt duy nhất của chi "Roscoea" khi có mặt ở cả hai bên của phần chảy về phía nam của sông Brahmaputra. Tuy nhiên, phân tích phát sinh chủng loài phân tử năm 2000 cho thấy quần thể ở phía tây trong địa phận Bhutan, khác biệt với quần thể ở phía đông tại Trung Quốc. Do mẫu định danh "R. tibetica" thu thập tại huyện Lý Đường, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc, nên quần thể ở Bhutan được coi là một loài mới với danh pháp "R. bhutanica".
"R. tibetica" thuộc nhánh Trung Quốc trong khi "R. bhutanica" thuộc nhánh Himalaya, khớp với dự kiến từ sự phân bố tương ứng của chúng.
Hai loài này có bề ngoài rất giống nhau, ở chỗ chúng đều nhỏ và có một nhóm các lá sát gốc bó chặt. Cây non của hai loài này không dễ phân biệt, nhưng sau này có thể thấy là "R. tibetica" vẫn giữ nơ lá trong khi "R. bhutanica" phát triển kiểu sắp xếp lá thành hai hàng. Ngoài ra, ở "R. tibetica" thì sự nở hoa thường xảy ra trước khi ra lá, đài hoa dài hơn lá bắc, ống tràng dài, thò ra ngoài đài hoa, cánh môi ngắn hơn cánh hoa bên, đỉnh cánh hoa bên nhọn và đỉnh phần phụ tù; trong khi ở "R. bhutanica" thì sự nở hoa thường xảy ra sau khi đã có vài lá, đài hoa bằng hoặc ngắn hơn lá bắc, ống tràng ngắn, thường nằm trong đài hoa, cánh môi dài hơn cánh hoa bên, đỉnh cánh hoa bên tù và đỉnh phần phụ nhọn. | 1 | null |
Roscoea tumjensis là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Elizabeth Jill Cowley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1982.
Từ nguyên.
Tính từ định danh lấy theo tên địa danh nơi Gardner thu thập mẫu vật là gần Tumje, Nepal vào tháng 6 năm 1953. Các mẫu vật do Gardner thu thập ban đầu được dán nhãn là "R. purpurea" var. "auriculata" (nay là "R. auriculata") và "R. chamaeleon" (nay là "R. cautleyoides"), cho đến khi Cowley tạo ra loài mới.
Phân bố.
"R. tumjensis" sinh sống trên dãy Himalaya, ở miền trung và miền đông Nepal. Mẫu vật mô tả loài này được thu thập ở độ cao 2.740 m.
Mô tả.
Cây thường cao 18–25 cm, có 4-6 lá, trong đó 3-4 lá đầu tiên chỉ có bẹ, có thể có đốm màu tía; các lá còn lại có phiến lá 4–8 cm × 1,5–4 cm, tạo thành các tai ở phần tiếp giáp của phiến lá và bẹ lá. Ở phần tiếp giáp của bẹ và phiến lá cũng có các lưỡi bẹ nhỏ, dài 1–2 mm. Cành hoa (cụm hoa) được giữ bên trong các lá. Các hoa có thể có nhiều màu sắc khác nhau, từ tím hoa cà nhạt đến tía tươi. Các lá bắc đối diện hoa ngắn hơn nhiều so với đài hoa. Đài hoa hình ống, đỉnh 3 thùy. Ba cánh hoa (tràng hoa) tạo thành một ống, dài hơn đài hoa, tận cùng chia 3 thùy, thùy trung tâm thẳng đứng, ~3 cm × 1,5–2,5 cm, và 2 thùy bên hẹp hơn, ~3 cm × 0,9–1,4 cm. Bên trong các cánh hoa là cấu trúc hình thành từ 4 nhị vô sinh (nhị lép): 2 nhị lép bên tạo thành những cấu trúc giống cánh hoa nhỏ thẳng đứng, 1,1–2,2 cm × 0,8–1,3 cm, với gân giữa; 2 nhị lép trung tâm hợp sinh một phần ở gốc để tạo thành môi lớn hay cánh môi, ~4,5–5,5 cm × 3,5–4,5 cm. Cánh môi chia thành 2 thùy ở đầu, xẻ sâu chừng 1/4 chiều dài của nó. Nhị sinh sản 1, bao phấn màu kem, dài ~6–8 mm, với các cựa dài 6 mm hình thành từ mô liên kết giữa 2 nang bao phấn.
Hoa của nó hơi giống của "R. humeana". Các phiến lá có phần gốc hình tai giống như của "R. auriculata", nhưng "R. auriculata" có các nhị lép bên màu trắng với gân không ở giữa, trong khi "R. tumjensis" có các hoa cùng màu và các nhị bên có gân ở giữa.
"R. tumjensis" thuộc nhánh Himalaya của "Roscoea", phù hợp với dự kiến từ sự phân bố địa lý của nó.
Gieo trồng.
"R. tumjensis" được gieo trồng ở Anh, nhưng thường bị dán nhãn không chính xác là "R. brandisii". | 1 | null |
Roscoea wardii là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Elizabeth Jill Cowley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1982,
Lịch sử phân loại.
Cowley miêu tả loài theo mẫu vật do Kingdon Ward thu thập giai đoạn 1926 – 1933 tại tỉnh Assam, Ấn Độ thuộc Anh (nay là bang Arunachal Pradesh). Tuy nhiên, cần lưu ý là năm 1936 thì Heinrich Raphael Eduard Handel-Mazzetti đã mô tả thứ "R. blanda" var. "pumila" theo các mẫu vật 3351 (thu thập ngày 30 tháng 6 năm 1914, hoa màu hồng, cao độ 2.700-3.000 m, giữa Jaoping và Boloti ở Yungbei = Vĩnh Bắc, tên gọi trước năm 1934 của huyện Vĩnh Thắng, tỉnh Vân Nam) và 9510 (thu thập ngày 10 tháng 7 năm 1916, hoa màu tía, cao độ 3.500-3.800m, sườn phía tây đèo Pangblanglong nằm giữa các sông Salween và Irrawaddy, trong tỉnh Vân Nam, mẫu định danh) trong chuyến thám hiểm tây nam Trung Quốc giai đoạn 1914 - 1918 của Akademie der Wissenschaften in Wien.
Phân bố.
Cây bụi, bãi cỏ, những nơi có cỏ lộ thiên; ở cao độ 2.400-3.500 m tại Ấn Độ (Arunachal Pradesh), Myanmar và Trung Quốc (Tây Tạng, Vân Nam). Tên gọi trong tiếng Trung: 白象牙参 (bạch tượng nha sâm), nghĩa đen là sâm răng voi trắng.
Mô tả.
Cây cao 14–32 cm. Lá không phiến lá 3-5, với gân màu hồng. Lá thông thường 2-3; lưỡi bẹ 1–2 mm; phiến lá mặt xa trục màu xanh xám, hình elip, 7-8 × 1,7-4,5 cm, có lông như vảy thưa ở cả hai mặt, mép lá trong suốt, có nhú nhỏ, đỉnh nhọn đến nhọn hoắt. Lưỡi bẹ trong suốt, 1–2 mm. Cụm hoa được bẹ lá bao quanh hoặc thò ra rất ngắn từ bẹ lá; cuống nhẵn; lá bắc màu lục nhạt, dài 3,5-5,5 cm, đỉnh tù, 2 lá bắc ở gốc ban đầu hợp nhất, sau đó tách ra khi hoa thứ hai nở. Hoa màu tía sẫm. Đài hoa 3,3-4,5 cm, đỉnh 2 thùy; các thùy thuôn tròn ở đỉnh. Ống tràng hoa thường thò ra từ đài hoa khi nở hoa, 4–8 cm; thùy trung tâm hình trứng ngược hoặc hình elip rộng, 2-3,2 × 1,3-2,5 cm; các thùy bên thuôn dài đến thẳng-thuôn dài, 1,7-3,4 cm. Nhị lép bên hình elip, 1,6–2 cm × 0,7–1 cm; vuốt ngắn. Cánh môi uốn ngược, hình trứng ngược, 2,2-4,5 × 1,6-4,5 cm gồm cả vuốt dài 8–10 mm, xẻ thùy sâu; các thùy có 3 sọc trắng, nổi lên ở gốc, đỉnh có khía răng cưa. Bao phấn màu trắng, các ngăn 6–9 mm; cựa liên kết 5–8 mm. Bầu nhụy 1-1,2 cm, 3 ngăn. Vòi nhụy màu tía; đầu nhụy màu trắng. Quả nang ~3 × 1 cm. Hạt hình elipxoit đến 3 góc. Ra hoa tháng 6-8.
"R. wardii" thuộc nhánh Trung Quốc của "Roscoea", phù hợp với phân bố địa sinh học của nó. Các loài có quan hệ họ hàng gần bao gồm "R. cautleyoides", "R. humeana" và "R. praecox". | 1 | null |
Scaphochlamys abdullahii là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Yen Yen Sam và Leng Guan Saw mô tả khoa học đầu tiên năm 2005.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Sam, Aidil & Arif FRI 49130"; thu thập ngày 17 tháng 1 năm 2005 tại Khu bảo tồn rừng Ulu Setiu, huyện Setiu, bang Terengganu, Malaysia. Holotype lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Rừng Malaysia (KEP, Kepong, Selangor, Malaysia), các isotype lưu giữ tại Trung tâm Nghiên cứu Rừng (SAN, Sandakan, Sabah, Malaysia) và Vườn Thực vật Singapore (SING, Singapore).
Từ nguyên.
Tính từ định danh "abdullahii" là để vinh danh thủ tướng Malaysia Abdullah Ahmad Badawi vì sự quan tâm của ông tới bảo tồn tự nhiên và bảo vệ môi trường.
Phân bố.
Loài này có tại các huyện Setiu và Hulu Terengganu, bang Terengganu, đông bắc Malaysia bán đảo. Môi trường sống là rừng thưa vùng đất thấp, bìa rừng, vệ đường và các khoảng trống trong rừng, ở cao độ khoảng 41 – 60 m.
Mô tả.
Địa thực vật thân thảo, cao tới 55 cm, thân rễ bò lan ngầm, phần cắt ra có màu tía, đường kính 5–6 mm. Các chồi lá mọc thẳng, gần nhau, 1 lá mỗi chồi, hiếm khi 2. Bẹ không phiến lá 3, màu từ đỏ tới đỏ ánh nâu, có sống dọc, rậm lông khi non, bẹ lớn nhất 6-10,5 cm, khô đi khi ra hoa. Bẹ lá 1,5–3 cm, lưỡi bẹ 2 thùy, các thùy nhỏ. Cuống lá (5,5-)9–29 cm, tiết diện thuôn tròn, có rãnh ở phần trên, màu nâu ánh tía tại đáy. Phiến lá hình elip, 12-33 × 3,8-7,6 cm, không đều, đỉnh nhọn hẹp, đáy thuôn tròn hẹp hay men xuống, đôi khi lệch, với lông áp ép rậm ở mặt dưới, màu đỏ tới đỏ ánh tía khi non. Cụm hoa dài 6,5–17 cm, màu đỏ khi non. Cuống cụm hoa 4–13 cm, ẩn giữa các bẹ không phiến lá khi non. Đầu cụm hoa hình trứng, dài 3-5,5 cm. Lá bắc 8-25, sắp xếp xoắn ốc, 19-25 × 13–20 mm; các lá bắc ở gốc lớn, hình thìa, đỉnh tù, uốn ngược, mép mỏng và hơi gợn sóng, màu đỏ hồng khi non chuyển thành nâu ánh đỏ hoặc xanh lục, xếp lợp và che khuất hoàn toàn cán hoa. Lá bắc con ngắn hơn lá bắc, lá bắc con đầu tiên lớn nhất, 10-16 × 5–7 mm, đỉnh 2 thùy và có lông, có ánh đỏ. Hoa 5-6 mỗi lá bắc, màu trắng trừ đài hoa. Đài hoa hình ống, dài 4–7 mm, ánh đỏ, đỉnh tù, chẻ 2-3,5 mm từ đỉnh ở một bên. Ống tràng 17–25 mm. Thùy tràng lưng hình mũi mác, 10-12 × 3–4 mm, đỉnh có nắp, ánh đỏ ở phần xa. Các thùy tràng bên hình mũi mác, 7-10 × 2–4 mm, chóp ánh hồng tới đỏ. Nhị lép bên thuôn dài, 8,5-11 × 2–3 mm, đỉnh tù, hơi ánh vàng. Cánh môi 13-14 × 9–11 mm, 2 thùy, uốn ngược, ~5 × 5 mm, dải giữa màu vàng, hai bên với các sọc tía, thưa nhú trên mặt xa trục. Nhị màu tía, các lông tuyến che phủ mặt xa trục. Chỉ nhị dài ~2 mm. Mô vỏ bao phấn dài 2,5–4 mm, màu vàng. Mào bao phấn ~1,5 × 2 mm, uốn ngược. Tuyến trên bầu 2, thẳng, dài ~5 mm, màu vàng. Bầu nhụy hình elipxoit, 3 ngăn. Hạt hình elipxoit, ~8 × 3 mm, màu nâu sẫm.
"S. abdullahii" thuộc nhóm một lá và gần với "S. longifolia" (= "S. biloba"), với các lá bắc xếp lợp chặt và lá hình elip. Tuy nhiên, nó khác với "S. longifolia" ở chỗ có lông áp ép rậm ở mặt dưới của lá, cuống lá nhẵn nhụi và nhiều hoa ở nách mỗi lá bắc; so với lông trên gân giữa và cuống lá, lá bắc chứa 1 hoa ở "S. longifolia".
Ngoài ra, "S. abdullahii" có các lá bắc cụm hoa màu đỏ hồng tươi khi non, khác với các loài "Scaphochlamys" khác thường có các lá bắc hoa khi non có màu đỏ máu xỉn hoặc màu đỏ ánh nâu. | 1 | null |
Scaphochlamys argentea là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Rosemary Margaret Smith miêu tả khoa học đầu tiên năm 1987.
Năm 2016, Yen Yen Sam "et al." tách 8 loài ở Borneo (gồm "S. argentea", "S. biru", "S. calcicola", "S. iporii", "S. petiolata", "S. reticosa", "S. salahuddiniana", "S. stenophylla") ra thành chi riêng, gọi là "Borneocola" - với "B. reticosus" là loài điển hình, nhưng Ooi "et al." (2017) cho rằng việc tách ra này chưa đủ độ thuyết phục và vẫn duy trì 8 loài này trong chi "Scaphochlamys".
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "B.L. Burtt & P.J.B. Woods B2700", thu thập ngày 6 tháng 8 năm 1962 gần chân núi Gunung Perigi (Vườn quốc gia Gunung Gading), Lundu, tỉnh Kuching, bang Sarawak, Malaysia. Holotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Edinburgh (E).
Phân bố.
Loài này có ở tây bắc đảo Borneo, tỉnh Kuching, bang Sarawak, Malaysia. Môi trường sống là rừng khộp (Dipterocarpaceae) thứ sinh từ vùng đất thấp đến vùng đồi trên đất giàu thạch anh trên đá granit, ở cao độ 60–600 m.
Mô tả.
Địa thực vật thân thảo, sống lâu năm, có thân rễ. Thân rễ mỏng, đường kính 1–2 mm khi khô, bò lan, với các rễ bò leo dài mịn. Các chồi lá cách nhau 2–3 cm, 1 lá, không thấy cây non; cuống lá dài 3–6 cm, mỏng, nhẵn nhụi; bẹ không lá ~3, dài nhất tới 3,8 cm (bao quanh cuống lá), khô xác, nhẵn nhụi với đỉnh nhọn có lông tơ; bẹ lá chỉ dài vài mm; lưỡi bẹ nằm ở đáy lá, ~5 mm, dạng màng, 2 thùy và nhọn thon; phiến lá 6–10 × 3–4 cm, đối xứng, hình ôvan đến thuôn dài, đáy gần hình tim đến thuôn tròn, đỉnh nhọn rộng đến nhọn thon ngắn (có thể có túm lông), mặt gần trục màu xanh lục với gân trắng bạc rõ nét, mặt xa trục màu lục nhạt, thưa lông tơ dọc theo gân giữa về phía đáy lá; cuống cụm hoa dài 3–5 cm, thanh mảnh, gần như nhẵn nhụi. Cụm hoa nhỏ, thuôn tròn, 2 × 1 cm, với 3–4 lá bắc chen chúc chặt; lá bắc 2,5 × 0,2 cm, dài và mỏng, nở rộng về phía đáy, nhẵn nhụi, đỉnh nhọn và có túm lông, mỗi lá bắc đối diện ~2 hoa; lá bắc con thứ nhất dài 1,8 cm, hơi ngắn hơn lá bắc, các lá bắc con kế tiếp ngắn hơn; đài hoa dài 8 mm, với một khe chẻ ít nhất tới giữa chiều dài của nó, 3 răng nhỏ ở đỉnh; ống hoa dài 25 mm, hơi có lông tơ, các thùy tràng hoa màu lục nhạt, uốn ngược, thùy tràng lưng rộng hơn với đỉnh nhọn hơn, các thùy tràng bên 10 × 2–3 mm; nhị lép dài 5 mm, hình trứng ngược; cánh môi 10 × 8 mm, nhỏ, thuôn tròn, mép gần như nguyên (ở vật liệu sấy khô), có vuốt, mặt gần trục được các lông tuyến nhỏ bao phủ, màu trắng đến tím cẩm quỳ nhạt với đốm trung tâm màu vàng ánh lục nhạt/màu vàng; nhị màu trắng, chỉ nhị rất ngắn, mô vỏ bao phấn dài tới 4 mm với các cựa rời ngắn; mào cắt cụt; đầu nhụy hình chén với mép có lông rung; vòi nhụy có lông tơ; bầu nhụy dài 2 mm, có lông tơ ở gần đỉnh, 1 ngăn với ít noãn đính đáy. Quả màu xanh lục vàng.
Nhóm "Petiolata" được xác định bằng cụm hoa chen chúc chặt, sắp xếp xoắn ốc, các lá bắc dạng màng, các lá bắc con tương tự như lá bắc, với lá bắc con thứ nhất ngắn hơn lá bắc, 2 gờ lưng rất mờ nhạt, hoa nhỏ, dài ~4 cm với cánh môi chủ yếu có màu tím dài ~1 cm và quả có vỏ quả ngoài nhẵn. Nhóm này chỉ giới hạn ở phía tây Sarawak, gồm 10 loài là "S. argentea", "S. biru", "S. durga", "S. hasta", "S. multifolia", "S. nigra", "S. petiolata", "S. pseudoreticosa", "S. reticosa", "S. stenophylla". | 1 | null |
Scaphochlamys atroviridis là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Richard Eric Holttum miêu tả khoa học đầu tiên năm 1950.
Từ nguyên.
Tính từ định danh "atroviridis" từ "atro-" nghĩa là sẫm, đen xỉn và "viridis" nghĩa là xanh lục; ở đây để nói tới mặt trên phiến lá màu xanh lục rất sẫm của loài này.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "S.F.N. 30240"; do Corner thu thập ngày 4 tháng 11 năm 1935 ở cao độ 500 ft (152 m) tại Bukit Kajang, huyện Kemaman, bang Trengganu (Terengganu).
Phân bố.
Loài này có ở huyện Kemaman, bang Terengganu, Malaysia bán đảo. Môi trường sống là rừng, ở nơi ẩm ướt nhiều bóng râm và đất thoát nước tốt, ở cao độ 152–165 m.
Mô tả.
Thân rễ bò lan; thân mọc thẳng đứng cao 1,5 cm hoặc thấp hơn, 1 lá, bẹ không lá nhiều dài nhất tới 4–5 cm rậm lông ngắn màu tía phồng lên che phủ; phiến lá mỏng, mặt trên màu xanh lục rất sẫm, mặt dưới nhạt màu hơn và thưa lông tơ, dài 14–20 cm và rộng 6–9 cm, đỉnh thuôn tròn, đáy hình nêm rộng và hơi men xuống; cuống lá dài 6–10 cm, với bẹ lá, bẹ thường dài 1,5 cm; cán hoa dài 3–5 cm, nhẵn nhụi hoặc gần nhẵn nhụi; trục cụm hoa dài 2–5 cm, lỏng lẻo nhiều hay ít, gồm 4-7 lá bắc; lá bắc sơ cấp màu xanh lục hoặc ở đáy hơi phồng ánh đỏ, góc ở nách ~45o, đáy lõm, bao lấy 2-5 hoa màu trắng tuyết hoa, đỉnh phẳng, mép nguyên hơi gợn sóng không nhăn, dài ~3-3,5 cm, rộng 1,5 cm, hình elip rộng, đỉnh thuôn tròn hoặc tù với phần nhọn đột ngột nhỏ rậm lông, phần còn lại gần như nhẵn nhụi; hoa thơm, cánh môi màu trắng, lá bắc thứ cấp thứ nhất dài ~1 cm và các lá bắc thứ cấp còn lại dài 5 mm, rộng lệch, nhọn đột ngột; đài hoa và bầu nhụy dài 1,3 cm; bầu nhụy nhẵn nhụi; ống tràng dài tới 2,5 cm, các thùy tràng dài 14–15 mm, gần đều, đáy rộng 4 mm; nhị lép dài bằng các thùy tràng hoa, gần thuôn dài, đáy và đỉnh thuôn tròn hơi nở rộng ngắn, rộng 5 mm; cánh môi dài ~18 mm, rộng ~15 mm, chẻ hai thùy tới nửa chiều dài, các thùy thuôn tròn xếp lợp, dải giữa màu vàng nhạt với các sọc màu tím hoa cà ở hai bên, ở đáy gần chỉ nhị có các đường màu tím hoa cà nhạt; chỉ nhị dài 3 mm; mô vỏ bao phấn dài 3 mm; mào liên kết thuôn tròn uốn ngược, hơi 3 thùy, thùy giữa lớn nhất, dài và rộng ~4 mm. | 1 | null |
Scaphochlamys biloba là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Henry Nicholas Ridley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1893 dưới danh pháp "Gastrochilus biloba" (đúng ra là "Gastrochilus bilobus" do "Gastrochilus" là danh từ giống đực). Năm 1950, Richard Eric Holttum chuyển nó sang chi "Scaphochlamys".
Từ nguyên.
Tính từ định danh "biloba" (giống đực: "bilobus", giống trung: "bilobum") là tiếng Latinh, bao gồm tiền tố "bi-" (dạng thu gọn của "bis") và danh từ "lobus". Chúng có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ "δῐ́ς" ("dís" - hai, kép, đôi) và "λοβός" ("lobós" - thùy); nghĩa là hai thùy. Ở đây là để nói tới cánh môi chẻ 2 thùy sâu của loài này.
Phân bố.
Loài này có tại miền nam Thái Lan (các tỉnh Narathiwat, Pattani) và Malaysia bán đảo (các bang Kelantan, Negeri Sembilan, Pahang, Perak, Selangor, Terengganu). Môi trường sống là rừng vùng đất thấp và rừng miền núi, trong các thung lũng hay dốc gần sông suối, đặc biệt là những nơi tán lá thưa hay hở, ở cao độ 60-1.036 m.
Mô tả.
Thân rễ bò lan, thanh mảnh, đường kính 3 mm khi khô; các chồi lá cách nhau 5–14 cm, 1 lá, bẹ không lá nhiều, dài nhất tới 4–5 cm; phiến lá mặt trên màu xanh lục sẫm với dải nhạt màu rộng ở hai bên gân giữa tới khoảng giữa về phía mép lá, mặt dưới màu ánh tía và có lông trên gân giữa, dài tới 21 cm và rộng 6-8(-10,5) cm, đỉnh nhọn tù, đáy thuôn tròn tới hình nêm rộng và hơi men xuống; cuống lá màu ánh tía, dài 3–13 cm, có lông nhiều hay ít, bẹ lá dài 2–3 cm; cán hoa dài 1–5 cm, thanh mảnh, hơi có lông; cụm hoa gồm nhiều lá bắc xếp lợp, hình trứng-hình elipxoit, dài tới 4 cm và rộng 2-2,5 cm; lá bắc màu ánh đỏ, dài ~2 cm và rộng ~5 mm, hình elip, mỏng, nhẵn nhụi, bao lấy 1 hoa; lá bắc con hơi dài hơn lá bắc, dài tới 2,3 cm, với mép cụp trong; đài hoa và bầu nhụy dài 1,8 cm; ống tràng dài ~3 cm, nở rộng về phía đỉnh; thùy tràng lưng dài ~20 mm, các thùy tràng bên hơi ngắn hơn, màu trắng hoặc kem nhạt; nhị lép màu trắng, dài ~1,5 cm và rộng ~5 mm, thuôn dài, tù; cánh môi dài ~25 mm, rộng ~18 mm, hình trứng ngược, 2 thùy chẻ sâu tới 7 mm, các thùy thuôn tròn, màu trắng với dải giữa màu vàng với các đốm nhỏ màu đỏ tươi hay hồng ở đáy; chỉ nhị dài ~3 mm, rộng, ửng đỏ hay có đốm đỏ trên lưng; bao phấn cong về phía trước, dài ~6 mm, màu trắng hay ánh hồng nhạt; mào uốn ngược và mọc thẳng đứng trong miệng hoa, không rộng hơn quá nhiều so với bao phấn, gần tròn, màu trắng. | 1 | null |
Scaphochlamys breviscapa là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Richard Eric Holttum miêu tả khoa học đầu tiên năm 1950.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Corner E.J.H. SFN 30021", được Edred John Henry Corner thu thập ngày 29 tháng 11 năm 1935 ở cao độ 700 ft (213 m) tại Ulu Bendong, huyện Kemaman, miền nam bang Terengganu, đông bắc Malaysia bán đảo. Tọa độ điểm lấy mẫu khoảng . Mẫu holotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Singapore (SING), các isotype lưu giữ tại Trung tâm Nghiên cứu Sinh học Indonesia tại Cibinong (BO), Vườn Thực vật Hoàng gia tại Edinburgh (E), Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K), Naturalis tại Leiden, Hà Lan (L), Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia Pháp (Muséum National d'Histoire Naturelle) tại Paris (P).
Phân bố.
Loài này có ở các huyện Dungun và Kemaman, bang Terengganu cũng như huyện Kuantan, bang Pahang, Malaysia bán đảo. Hiện tại nó được tìm thấy trong các rừng vùng đất thấp, ở cao độ 5–290 m, phổ biến ở các khoảng trống trong rừng.
Mô tả.
Cây thảo thân rễ cao (28)40–80 cm. Thân rễ khô đường kính ~4 mm, bò trườn; các thân mọc thẳng một lá, cách nhau khoảng 2,3 cm, được bẹ che phủ, bẹ lớn dài 14 cm; phiến lá dài tới 26 cm và rộng tới 12,5 cm, hình trứng-nhọn, nhọn thon ngắn, đáy thuôn tròn và hơi men xuống, không bao giờ hình tim, mặt trên màu xanh lục,mặt dưới nhạt màu hơn và không bao giờ màu tía, gân mặt dưới rậm lông nhiều hay ít; cuống lá dài tới 35 cm; bẹ dài 2,3 cm; các thùy lưỡi bẹ hình tam giác rộng, dài 4 mm, rậm lông áp ép; cán hoa dài 1-3,5 cm, khi non được bảo vệ trong bẹ; cụm hoa kết đặc, dài 6 cm và rộng 2,5 cm, tương tự như S. sylvestris nhưng các lá bắc ở đỉnh ít mở hơn; các lá bắc sơ cấp rậm lông ngắn đặc biệt gần dáy và các mép, ánh đỏ nhiều hay ít, dài 2,5–3 cm, rộng 1,5 cm, xếp lợp chật chội, hơi hở về phía đỉnh, mép cụp trong, đỉnh tù không gập nếp, mép mỏng hơi nhăn; lá bắc thứ cấp dài 2,1 cm, rộng 8 mm, các lá bắc khác gần như tương đương; hoa 3 (hoặc 4?) mỗi lá bắc; bầu nhụy có lông ngắn; đài hoa và bầu nhụy dài 1,6 cm, chẻ sâu, đỉnh tương tự và không khác biệt; ống tràng khoảng 8 mm dài hơn lá bắc, các thùy màu trắng, dài 12 mm và rộng 5–6 mm ở đáy, thùy tràng lưng rộng 5–6 mm ở đáy, các thùy tràng bên hẹp hơn; nhị lép dài tương đương các thùy tràng hoa, thuôn dài, đỉnh thuôn tròn, rộng 5 mm; cánh môi dài hơn các thùy tràng hoa 6 mm, hình trứng ngược, chia 2 thùy tới khoảng 1/3 về phía đáy, các thùy thuôn tròn, hơi xếp lợp, dải giữa màu vàng nhạt hai bên có các sọc màu tím hoa cà; chỉ nhị dài 3 mm; bao phấn dài 5 mm, mô vỏ bao phấn nhọn đáy rời, mào kết nối uốn ngược rộng 4 mm.
Loài này giống như loài họ hàng là "S. sylvestris". Nó khác với "S. sylvestris" ở chỗ mặt dưới phiến lá màu xanh lục, đáy phiến lá thuôn tròn rộng nhiều hay ít và không bao giờ hình tim, cán hoa ngắn, cụm hoa hơi hẹp hơn, các lá bắc có lông với sự tỏa rộng ít hơn, đỉnh ít nhọn hơn, mép hơi nhăn. "S. breviscapa" cũng gần giống "S. oculata", nhưng khác ở chỗ có các sọc màu tím hoa cà trên cánh môi (2 vệt màu đỏ ở đáy cánh môi ở "S. oculata") và mào bao phấn rộng hơn cũng có màu tím hoa cà. | 1 | null |
Scaphochlamys burkillii là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Holttum miêu tả khoa học đầu tiên năm 1950.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Burn-Murdoch A.M. S.F.N. 210", được Alfred M. Burn-Murdoch (1868-1914) thu thập ngày 21 tháng 6 năm 1913 ở cao độ 200 ft (60 m) tại Bukit Kapis, Balok, Pahang, (tọa độ ) Malaysia bán đảo. Mẫu lectotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Singapore (SING), mẫu isolectotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K). Mẫu vật khác được Holttum đề cập là "Burkill I.H. & Haniff M. S.F.N. 16133" do Isaac Henry Burkill (1870-1965) và Mohamed Haniff thu thập tại Khu bảo tồn rừng Beserah, Pahang.
Từ nguyên.
Tính từ định danh "burkillii" là để vinh danh nhà thực vật học người Anh Isaac Henry Burkill, giám đốc Vườn Thực vật Singapore từ năm 1912, với cuốn sách chủ yếu về thực vật Malaysia là "Dictionary of economic products of Malay Peninsula" (Từ điển các sản phẩm kinh tế của bán đảo Mã Lai) gồm 2 tập được xuất bản năm 1935 và tái bản nhiều lần.
Phân bố.
Loài này có ở huyện Kuantan, bang Pahang, Malaysia bán đảo. Hiện tại nó được tìm thấy trong các rừng vùng đất thấp, ở cao độ 58–60 m, phát triển tốt hơn khi cạnh tranh thấp và ngoài bóng râm. Theo ZRC (2019) thì năm 1988 nó cũng được tìm thấy trên đảo Sumatra, ở tọa độ , trong khu vực Bukit Karampal, 5 km phía tây Talanglakat trên đường Rengat-Jambi, dãy núi Tigapuluh, tỉnh Riau, Indonesia.
Mô tả.
Cây thảo thân rễ cao 25–45 cm. Thân rễ khô đường kính ~6 mm, đôi khi mọc cao lên và duy trì các rễ cọc; các thân rậm lá, trên 1-3 lá mỗi thân, che phủ bằng bẹ màu tía, phiến lá dài 15–20 cm, rộng 4-7,5 cm, hơi bất đối xứng, đáy và đỉnh hẹp tương đương, nhọn nhưng không nhọn thon, đáy hình nêm-men xuống, mặt dưới màu xanh lục (cây non màu tía nhạt) và hơi rậm lông; cuống lá màu ánh tía, dài 2–5 cm, có rãnh, các thùy lưỡi bẹ ngắn, rộng; bẹ dài 6–10 cm, với mép rộng mỏng hơi có lông; cán hoa mập, có lông, dài 1 cm, được bẹ lá che phủ; cụm hoa dài 5–6 cm đường kính 2 cm, hình elipxoit, dài gần bằng bẹ lá; lá bắc sơ cấp kết đặc, xếp lợp, đỉnh hơi hở, không uốn ngược, dài 2,5-3,5 cm, rộng 1,5 cm, màu ánh tía, gần như toàn bộ mặt ngoài rậm lông, lông áp ép mỏng thưa, đoạn giữa mập, mép mỏng không nhăn, chứa 4- 5 hoa; lá bắc thứ cấp chính dài 2,8 cm, rắn chắc, 2 gờ rõ nét, 3 thùy, đỉnh thùy giữa rậm lông dài 2 mm; các lá bắc thứ cấp còn lại dài 11–12 mm; đài hoa và bầu nhụy dài 16 mm, khe chẻ 5 mm, có răng ngắn, rậm lông, hợp sinh; ống tràng 10–15 mm dài hơn cá lá bắc, các thùy màu trắng, dài 16–18 mm và rộng 4 mm tại đáy; các nhị lép ngắn hơn thùy tràng hoa, dài bằng nhau, tù, màu trắng; cánh môi dài và rộng ~2 cm, hình trứng ngược, chẻ 2 thùy tới gần một nửa chiều dài, màu trắng, dải giữa màu vàng nhạt, các sọc màu tía đỏ ở hai bên cho tới mép; chỉ nhị dài 3 mm; bao phấn (trừ mào) dài 3,5 mm; mào kết nối rộng 4 mm, uốn ngược, màu từ trắng tới hơi ánh tía, thuôn tròn.
Về kiểu phát triển và lông áp ép trên các lá bắc, nó giống như "S. klossii" nhưng các lá bắc với mép nhẵn là rất khác biệt, cũng như màu của hoa. | 1 | null |
Scaphochlamys calcicola là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Axel Dalberg Poulsen và R. J. Searle mô tả khoa học đầu tiên năm 2005.
Năm 2016, Yen Yen Sam "et al." tách 8 loài ở Borneo (gồm "S. argentea", "S. biru", "S. calcicola", "S. iporii", "S. petiolata", "S. reticosa", "S. salahuddiniana", "S. stenophylla") ra thành chi riêng, gọi là "Borneocola" - với "B. reticosus" là loài điển hình, nhưng Ooi "et al." (2017) cho rằng việc tách ra này chưa đủ độ thuyết phục và vẫn duy trì 8 loài này trong chi "Scaphochlamys".
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Poulsen, Jugah & Clausager 2022"; thu thập trên đảo Borneo ngày 20 tháng 6 năm 2003 (ZRC ghi là ngày 30) ở cao độ 50 m, trong hẻm núi đá vôi vừa mất rừng, tọa độ , Gunung Tai Ton, huyện Bau, tỉnh Kuching, bang Sarawak, Malaysia.
Holotype lưu giữ tại Cục Lâm nghiệp bang Sarawak ở Kuching, Sarawak, Malaysia (SAR); các isotype lưu giữ tại Đại học Aarhus, Đan Mạch (AAU), Vườn Thực vật Hoàng gia tại Edinburgh (E), Naturalis ở Leiden, Hà Lan (L) và Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K).
Từ nguyên.
Tính từ định danh "calcicola" (giống đực: "calcicolus", giống trung: "calcicolum") là từ trong tiếng Tân Latinh, nghĩa là "cây/con phát triển thịnh vượng/tươi tốt trên đá vôi" hoặc "xuất hiện trên các phần đá vôi trồi lên". Ở đây là để nói tới môi trường sinh sống của loài này là các đồi đất đá vôi.
Phân bố.
Loài đặc hữu Borneo, trong rừng vùng đất thấp. Tìm thấy gần Bau, tây nam Sarawak. Môi trường sống là chân hay lề các đồi đá vôi, trên các tảng đá lăn gần suối, ở cao độ tới 50 m.
Mô tả.
Cây thảo thân rễ cao 30–60 cm. Thân rễ bò ngang trên mặt đất, mập, đường kính ~7 mm khi khô, đôi khi tạo chạc, với các rễ neo giữ (không phải rễ cọc) khá phát triển. Các chồi lá cách nhau 2–20 cm, thuộc loại một lá rất khác biệt; phiến lá được bao chặt trong 3-5 bẹ không phiến lá, dài nhất tới 18 cm, màu kem tại gốc, màu xanh lục tươi về phía đỉnh, trở thành màu nâu, dạng giấy và xé thành mảnh vụn khi già, các bẹ này che khuất hoàn toàn bẹ ngắn hơn nhiều và lưỡi bẹ của lá; bẹ lá tới 3 cm, mép mỏng và rậm lông rung, kết thúc bằng lưỡi bẹ dạng màng, dài tới 5 mm (khi tươi), 2 thùy, khó thấy nhiều hay ít; cuống lá dài 10-27(-39) cm, có rãnh; phiến lá 15-37 × 9–18 cm, hình elip rộng đến hình mác, hơi không đối xứng, uốn nếp, mặt trên màu xanh lục trơn, mặt dưới màu xanh lục rất nhạt và có lông nhung dài tới 1 mm, áp ép, màu trắng, thưa thớt trên khắp mặt dưới (nhưng rậm nhất là gần và ở hai bên gân giữa); đáy thuôn tròn tới hơi hình tim và thon nhỏ dần, đỉnh nhọn thon khác biệt tới ~1 cm. Cuống cụm hoa tới 1,5 cm, thanh mảnh, nhẵn nhụi, ẩn tại đáy lá; cụm hoa mọc từ gần đáy lá bên trong các bẹ không lá, nở hoa từ đáy tới đỉnh; đầu cụm hoa dài 7–10 cm, dẹp hai bên, rộng 1,5–2 cm và sâu 0,5-0,6 cm, thon nhỏ về phía đỉnh nhọn, với 8-13 lá bắc sắp xếp thành hai dãy và cách nhau 0,3-0,7 cm trên cành hoa bông thóc thuôn dài; lá bắc màu xanh lục nhạt, dài 2,5-3,2 cm và rộng 0,9 cm gần đáy, thẳng đứng, hình thuyền, mặt ngoài nhẵn nhụi hoặc có lông nhọn ngắn che phủ; đỉnh nhọn, mép cuốn trong và xếp chồng; lá bắc đối diện 2-3 hoa; lá bắc con 2-3,3 cm, 2 gờ lưng, nói chung dài hơn và đối diện lá bắc, bao chặt xung quanh hoa, chẻ tới đáy, mép xếp chồng, được lông nhọn ngắn che phủ; đài hoa với bầu nhụy dài 12–13 mm, chẻ ~4 mm, với đỉnh từ thuôn tròn tới nhọn, 3 răng không đều, thưa lông nhọn ngắn; ống tràng dài 2,4–4 cm, nhẵn nhụi, các thùy tràng màu trắng, thẳng, 1,5 × 0,5 cm, đỉnh có mấu nhọn và có nắp; các nhị lép thuôn dài, 1,2 × 0,3-0,4 cm, có nhú, đỉnh tù; cánh môi 1,4-1,7 × 0,9-1,1 cm, hình thìa, đỉnh 2 thùy (khía răng cưa 3–4 mm), các thùy xếp chồng, màu trắng với phần giữa màu vàng nhạt-xanh lục; nhị dài 11–12 mm; chỉ nhị 5-7 × 2 mm, mô vỏ bao phấn 4-5 × 1,5 mm, không cựa, nứt dọc theo toàn bộ chiều dài; mào thuôn tròn đến 2 mm; đầu nhụy rộng 1 mm, hình chùy với 2 bướu lưng, lỗ nhỏ có lông rung, hướng về phía trước; bầu nhụy 2 mm, nhẵn nhụi, tuyến trên bầu 4-5,5 mm, 2 thùy, hình kim. Không thấy quả.
Lá bắc con 2 gờ lưng là bất thường đối với "Scaphochlamys". Đây là đặc trưng của chi "Distichochlamys" có ở Việt Nam. Tuy nhiên, loài này không có lá bắc con hình ống khác biệt của chi "Distichochlamys".
"S. calcicola" cũng chia sẻ cụm hoa xếp thành 2 dãy như của chi "Boesenbergia", nhưng khác ở 4 điểm quan trọng khác là (i) kiểu nở hoa từ đáy tới đỉnh so với từ đỉnh tới đáy, (ii) kiểu sắp xếp hoa là xim hoa bọ cạp xoắn ốc chứa 2-3 hoa so với hoa đơn, (iii) lá bắc con đầu tiên 2 gờ lưng và đối diện với hoa so với lá bắc con hình thuyền và mọc vuông góc với lá bắc và (iv) cánh môi 2 thùy, phẳng, các thùy xếp chồng so với cánh môi dạng túi, nguyên (hiếm khi có khía răng cưa), mép uốn ngược.
Trong phạm vi chi "Scaphochlamys" thì nó tương tự như "S." sp. aff. "breviscapa" (các chồi lá với một lá mọc thẳng đứng, to (24 × 12 cm), cuống dài (29 cm); nhưng loài chưa mô tả kia có phiến lá hình trứng với đỉnh nhọn tù, cuống lá dài hơn khoảng 5 cm, cành hoa bông thóc kết đặc với các lá bắc sắp xếp xoắn ốc. Ngoài ra, cánh môi của nó có màu tía xung quanh đường trung tâm của cánh môi (tương tự như "S. petiolata" và "S. reticosa"). Các đặc trưng vô sinh của "S." sp. aff. "breviscapa" thì giống với "S. oculata" hơn là với "S. breviscapa".
Lá của "S. calcicola" tương tự về kích thước và hình dạng với "S. sylvestris" và "S. breviscapa", nhưng hai loài kia có cụm hoa kết đặc và sắp xếp xoắn ốc. "S. sylvestris" có cuống lá dài hơn rất nhiều (15 cm), "S. breviscapa" có cuống lá dài tương đương (1-3,5 cm) trong khi "S. oculata" có cuống lá hơi dài hơn (2–5 cm).
Nhóm "Calcicola".
Nhóm "Calcicola" được xác định bằng cụm hoa hơi lỏng lẻo, các lá bắc dạng màng sắp xếp xoắn ốc hay hai dãy, các lá bắc con tương tự như lá bắc, với lá bắc con thứ nhất 2 gờ lưng mờ nhạt và đôi khi dài hơn lá bắc liên hợp, hoa lớn, dài ~5,5 cm với cánh môi dài ~2 cm và quả có vỏ quả ngoài nhẵn. Nhóm này chỉ giới hạn ở huyện Bau, tỉnh Kuching, Sarawak, gồm 2 loài là "S. calcicola", "S. uniflora". | 1 | null |
Scaphochlamys concinna là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được John Gilbert Baker miêu tả khoa học đầu tiên năm 1890 dưới danh pháp "Kaempferia concinna". Năm 1950, Richard Eric Holttum chuyển nó sang chi "Scaphochlamys".
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "King’s Collector 10135" ("Kunstler H. 10135"); thu thập tháng 6 năm 1886 tại Ulu Bubong, Perak. Mẫu holotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K), mẫu isotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Singapore (SING). Mẫu "Sam Y.Y. FRI50155" thu thập ngày 5 tháng 1 năm 2006 tại tọa độ , cao độ 140 m, Khu bảo tồn rừng Lentang, bang Pahang được lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Edinburgh (E).
Từ nguyên.
Tính từ định danh "concinna" (giống đực: "concinnus", giống trung: "concinnum") trong tiếng Latinh có nghĩa là đẹp, tinh xảo, tao nhã.
Phân bố.
Loài này có ở bang Perak, Malaysia bán đảo. Nó cũng có ở bang Pahang, và có thể có tại bang Selangor. Hiện tại nó được tìm thấy trong các rừng vùng đất thấp và rừng trên đồi, ở cao độ 30–600 m, phổ biến ở ven suối và những nơi nhiều bóng râm trong rừng.
Mô tả.
Cây thảo thân rễ lâu năm, cao 40–55 cm. Thân rễ rất thanh mảnh, bò trườn. Các chồi lá đôi khi mọc sát nhau, loại một lá. Bẹ không phiến lá một vài cái, dài nhất tới 8 cm. Lá thuôn dài-hình mác, bẹ lá ngắn, cuống lá dài 9-12 inch (23–30 cm), mọc thẳng, phiến lá gần như da, nhẵn nhụi, 6-8 inch (15–20 cm) x 2 inch (5 cm), rộng nhất gần đáy hình tim, đỉnh nhọn thon ngắn; gân giữa mặt dưới có lông ngắn. Cán hoa dài 2,5–4 cm, thanh mảnh, nhẵn nhụi; cụm hoa là cành hoa bông thóc hình elipxoit, kết đặc, có cuống ngắn, dài 4 cm và rộng ~2 cm, nhiều hoa; lá bắc 1-1,2 inch (2,5-3,0 cm), rộng đến 1 cm ở đáy, hình trứng-hình mác, màu ánh đỏ, hẹp dần thành đỉnh nhọn, mỏng, mép rất mỏng, gần như/hoàn toàn nhẵn nhụi, chứa 2 hoa; lá bắc con thứ nhất dài 2,2 cm, mỏng, rộng ~7 mm, lá bắc con thứ hai dài 1,5 cm; đài hoa rất ngắn, cộng với bầu nhụy dài ~1,2 cm; ống tràng rất thanh mảnh, dần nở rộng đến họng, hơi dài hơn lá bắc, các thùy thuôn dài ~0,5 inch (1,3 cm); hoa màu trắng với các vết/sọc màu đỏ, cánh môi thuôn dài mép cuốn trong, mào bao phấn nhỏ, nguyên.
Rất giống với "S. oculata", nhưng có lá hẹp bất thường cũng như lá bắc hẹp hơn và nhọn hơn. Holttum cho rằng loài này và "S. oculata" chỉ là một. | 1 | null |
Scaphochlamys cordata là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Yen Yen Sam và Leng Guan Saw mô tả khoa học đầu tiên năm 2005.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Sam & Mustapa FRI 47155"; thu thập ngày 17 tháng 10 năm 2002 tại Khu bảo tồn rừng Jengai, huyện Dungun, bang Terengganu, Malaysia. Holotype lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Rừng Malaysia ở Kepong, Selangor, Malaysia (KEP), các isotype lưu giữ tại Trung tâm Nghiên cứu Rừng ở Sandakan, Sabah, Malaysia (SAN) và Vườn Thực vật Hoàng gia tại Edinburgh (E).
Từ nguyên.
Tính từ định danh "cordata" là tiếng Latinh (giống đực: "cordatus", giống trung: "cordatum") để chỉ hình tim, ở đây là để nói tới đặc điểm phiến lá hình tim của loài này.
Phân bố.
Loài này có tại Khu bảo tồn rừng Jengai, huyện Dungun, bang Terengganu, đông bắc Malaysia bán đảo. Môi trường sống là rừng khộp (Dipterocarpaceae) vùng đất thấp, ở cao độ khoảng 65 – 140 m. Có thể tìm thấy nó trên các sống đất nhô cao, thường trong các khoảng trống dưới các tán lá nhỏ với thảm thực vật nền thưa.
Mô tả.
Địa thực vật thân thảo, thân rễ bò lan trên mặt đất. Các chồi lá mọc thẳng, gần nhau, 1 lá mỗi chồi. Bẹ không phiến lá 4, màu nâu ánh đỏ, đỉnh có mấu nhọn, bẹ lớn nhất 11–17 cm. Bẹ lá 1,5–2 cm, lưỡi bẹ 2 thùy, các thùy nhỏ, ~1 mm. Cuống lá thanh mảnh, dài 31-55,5 cm, tiết diện thuôn tròn. Phiến lá hình tim, 15,5-28,5 × 8,2-14,7 cm, hơi không đều, đỉnh nhọn thon, đáy hình tim, đôi khi với các tai xếp chồng, gân thứ cấp 8-10 đôi, 6 đôi đầu tiên luôn bắt nguồn từ đáy, nổi rõ nét ở mặt trên của lá; mặt dưới của lá rậm lông ở phần xa, màu đỏ ánh nâu khi non. Cụm hoa thanh mảnh, dài 21,5-25,3 cm, màu đỏ khi non. Cuống cụm hoa 10-17,8 cm, ẩn giữa các bẹ không phiến lá khi non; cán hoa 5,5-8,5 cm. Lá bắc 4-10, sắp xếp xoắn ốc, lỏng lẻo, cách nhau 1,5–2 cm, màu đỏ khi non sau chuyển thành xanh lục, hình thìa, 15-22 × 5,5–12 mm khi dẹt, có lông về phía đỉnh ở cả hai mặt, phần xa uốn ngược. Lá bắc con ngắn hơn lá bắc, hình mác hẹp, 6-11 × 1–3 mm, mép cụp trong, đỉnh nhọn, có lông che phủ khắp, lá bắc con thứ nhất lớn nhất, bao quanh các lá bắc con kế tiếp và hoa. Hoa trên 15 mỗi lá bắc, nhỏ, màu trắng trừ đài hoa. Đài hoa hình ống, 7,5-9 × 1,5–2 mm, màu đỏ, có lông, chẻ 2,5–4 mm từ đỉnh ở một bên. Ống tràng 11–14 mm. Thùy tràng lưng hình mũi mác với mép cụp trong mạnh, 6-8,5 × 1,5–2 mm, đỉnh có nắp, màu ánh hồng ở phần xa, có nhú trên mặt xa trục. Các thùy tràng bên hình mũi mác với mép cụp trong mạnh, 5-7 × 1–2 mm, màu ánh hồng ở phần xa, có nhú trên mặt xa trục. Nhị lép bên thuôn dài, 3-7,5 × 1–2 mm, đỉnh thuôn tròn, có nhú trên mặt gần trục. Cánh môi 7-10 × 5-9,8 mm, 2 thùy, các thùy xếp chồng, khe ~4 mm từ đỉnh, dải giữa màu vàng nhạt, có đốm tía cả hai mặt. Nhị màu ánh tía, dài 3,5-4,5 mm. Chỉ nhị ngắn, dài ~1 mm. Mô vỏ bao phấn dài ~2,5 mm. Mào bao phấn ngắn, dưới 1 × 1,5 mm. Đầu nhụy nhỏ, hình chén, màu ánh vàng, có nhú.
"S. cordata" thuộc nhóm một lá với các lá bắc hoa rất lỏng lẻo trong cụm hoa. Loài này tương tự như "S. atroviridis", nhưng khác với "S. atroviridis" ở hình dạng và phần đỉnh lá (hình tim với đỉnh nhọn thon so với hình elip với đáy hình nêm hoặc men xuống và đỉnh thuôn tròn), chiều dài cuống lá (31-55,5 cm so với 6–10 cm), chiều dài cụm hoa (21,5-25,3 cm so với 5–10 cm), kích thước lá bắc (15-22 × 5,5–12 mm so với 30-35 × ~15 mm) và kích thước cánh môi (7-10 × 5-9,8 mm so với 18 × 15 mm). | 1 | null |
Scaphochlamys erecta là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Richard Eric Holttum miêu tả khoa học đầu tiên năm 1950.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Corner E.J.H. SFN 31941"; do Edred John Henry Corner (1906-1996) thu thập ngày 30 tháng 8 năm 1936 (ZRC ghi là ngày 30 tháng 8 năm 1938) ở tọa độ , đường Mersing, ven sông Sedili (Sungei/Sungai Sedili), miền đông bang Johor, miền nam Malaysia bán đảo. Holotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Singapore (SING), các isotype lưu giữ tại Trung tâm Nghiên cứu Sinh học Indonesia ở Cibinong, Indonesia (BO), Vườn Thực vật Hoàng gia tại Edinburgh (E), Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K) và Naturalis ở Leiden, Hà Lan (L).
Phân bố.
Miền đông bang Johor, miền nam Malaysia bán đảo. Các cây của loài này mọc thẳng đứng trong lớp dày và liên tục thay mới gồm các lá mục nát trên nền rừng ven sông Sedili.
Mô tả.
Thân rễ thẳng đứng hay gần thẳng đứng, cụm hoa đầu cành, lá xếp 2 dãy; nhánh mới của thân rễ ở nách lá gần nơi mọc ra cụm hoa, ban đầu được bẹ che phủ, bẹ lớn nhất dài tới 10 cm. Lá màu xanh lục, mặt dưới nhạt màu hơn, dài 20-32(-50) cm, rộng 3,8-5,5(-7) cm (các lá ngắn hơn đôi khi rộng tới 5 cm), không đối xứng, hình elip, đỉnh nhọn (không nhọn thon) hẹp dần, đáy hẹp dần thành men xuống. Cuống lá dài 1–3 cm; lưỡi bẹ và mép bẹ rất mỏng, lưỡi bẹ dài nhưng phần lớn là tách ra; bẹ dài 6-9(-15) cm, đáy ôm chặt thân ngắn. Cán hoa thường dài 4–5 cm (đôi khi tới 15 cm), gần như nhẵn nhụi; trục cụm hoa dài 4–5 cm, gồm 10-12 (đôi khi tới 25) lá bắc xếp lợp; các lá bắc sơ cấp dài 3–4 cm, rộng tới 1,4 cm, hình trứng, đỉnh nhọn rộng và có đoạn nhọn đột ngột ngắn, lưng gần như nhẵn nhụi, trừ phần nhọn đột ngột, mép mỏng, hầu như không khô xác, vết nhăn nhỏ, cụp trong tới 2/3 về phía đáy, đỉnh và đáy hở, đối diện 2-4 hoa. Lá bắc thứ cấp thứ nhất dài tới 2 cm, các lá bắc khác dài 0,9 cm; hoa không thơm, màu trắng; nhụy 1 ngăn, noãn 3 đính đáy; đài hoa và bầu nhụy dài 12 mm, hơi phồng, đỉnh có răng ngắn, nhẵn nhụi; ống tràng dài 2,8 cm, mỏng, đỉnh hơi nở rộng, các thùy dài 1 cm, thùy tràng lưng rộng 4 mm, đỉnh nhọn, các thùy tràng bên hơi hẹp hơn. Nhị lép dài 8 mm, thuôn dài, đỉnh thuôn tròn, rộng 4 mm, tỏa rộng; cánh môi dài 13 mm, rộng 12 mm, hình trứng ngược, 3 thùy (các thùy thuôn tròn xếp lợp), màu trắng, dải giữa màu vàng chanh với mép màu tím hoa cà. Chỉ nhị dài 2,5 mm; bao phấn dài 3 mm, mô vỏ bao phấn rời, nhọn, mào kết nối uốn ngược, thuôn tròn, rộng 3 mm, dài 2 mm. Nhụy lép mỏng, rời tới đáy, dài 4,5 mm. Quả 1 ngăn, chứa 1-3 hạt hình elipxoit.
Loài này dường như khác với "S. malaccana" và "S. klossii" ở chỗ có các đoạn phát triển sinh dưỡng dài hơn giữa các cụm hoa kế tiếp nhau. Kết quả là các thành phần mới của nhánh đồng trục (trục giả) sinh ra trong nách của lá trong tán lá chứ không phải của vảy hay bẹ ở đáy của chồi lá trước đó. Số lượng hoa trong nách mỗi lá bắc dường như ít hơn so với "S. klossii", và độ che phủ lông của lá bắc cũng ít hơn rất nhiều. Hoa tương tự như của "S. klossii". Lá về tỷ lệ là hẹp hơn so với "S. klossii", với đáy men xuống dài như ở "S. grandis". | 1 | null |
Scaphochlamys gracilipes là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Karl Moritz Schumann mô tả khoa học đầu tiên năm 1899 dưới danh pháp "Haplochorema gracilipes". Năm 2006, Shoko Sakai và Hidetoshi Nagamasu chuyển nó sang chi "Scaphochlamys".
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Beccari O. 2839"; do Odoardo Beccari (1843-1920) thu thập tại núi Wah (Gunung/Gunong Wah) tỉnh Kuching, bang Sarawak tháng 11 năm 1866. Holotype lưu giữ tại phòng mẫu cây Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Italia (Museo di Storia Naturale dell’Università) ở Firenze (FI), các isotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Edinburgh (E), Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K) và Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Pháp (Muséum National d'Histoire Naturelle) ở Paris, Pháp (P). Theo bản đồ của Beccari năm 1902 thì vị trí của Gunung Wa (không có chữ h) khoảng ở tây nam Sarawak. Một mẫu khác là "Burtt B.L. 8281" thu thập ngày 15 tháng 6 năm 1975 tại tọa độ , Vườn quốc gia Gunung Mulu, gần sông Terekan (Sungai Terekan), Sarawak, hiện nay được lưu giữ tại E.
Từ nguyên.
Tính từ định danh "gracilipes" trong tiếng Latinh có nghĩa là chân/cuống thanh mảnh; ở đây là để nói tới cuống cụm hoa và trục cụm hoa rất thanh mảnh của loài này (theo mô tả của Schumann: "inflorescentia... petiolo et rhachi tenuibus gracillimis").
Phân bố.
Loài này được tìm thấy ở bang Sarawak, Malaysia, phần trên đảo Borneo. Môi trường sống là rừng thường xanh vùng đất thấp.
Mô tả.
Cây thảo sống lâu năm, cao 20–25 cm, thân rễ bò lan, thân 1 lá, các lá có cuống dài 5–8 cm, bẹ và lưỡi bẹ khó thấy, thuôn dài hoặc thuôn dài-gần hình trứng ngược; phiến lá dài 12–17 cm và rộng 4–7 cm, hai mặt nhẵn nhụi, chuyển thành màu ánh nâu khi khô. Cụm hoa hình chùy lỏng lẻo, dài 10 cm, với cuống cụm hoa và trục hoa rất mỏng và thanh mảnh; lá bắc 5, hình trứng-thẳng, dài 8 mm, gập nếp, nhẵn nhụi; bầu nhụy nhẵn nhụi.
Nhóm "Anomala".
Nhóm "Anomala" được xác định là có cụm hoa lỏng lẻo, các lá bắc dạng màng sắp xếp xoắn ốc, các lá bắc con tương tự nhưng hầu hết là dài hơn lá bắc, lá bắc con thứ nhất có 2 gờ lưng rất mờ nhạt và khó thấy, hoa nhỏ dài ~2,5 cm, với cánh môi màu trắng dài ~1 cm, vỏ quả ngoài có u/bướu nhỏ. Nhóm "Anomala" bị giới hạn ở phía tây của đới khâu Đường Lupar chạy theo hướng đông đông nam qua Engkilili và Lubok Antu. Gồm bảy loài là "S. anomala", "S. gracilipes", "S. iporii", "S. lanjakensis", "S. penyamar", "S. salahuddiniana", "S. scintillans". | 1 | null |
Scaphochlamys grandis là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Richard Eric Holttum miêu tả khoa học đầu tiên năm 1950.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Corner E.J.H. SFN 30030"; do Edred John Henry Corner (1906-1996) thu thập ngày 30 tháng 10 năm 1935 ở tọa độ , cao độ 700 ft (235 m), tại Ulu Bendong, Kemaman, bang Terengganu, Malaysia bán đảo. Holotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Singapore (SING), các isotype lưu giữ tại Trung tâm Nghiên cứu Sinh học Indonesia ở Cibinong, Indonesia (BO), Vườn Thực vật Hoàng gia tại Edinburgh (E), Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K), Naturalis tại Leiden, Hà Lan (L) và Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Pháp (Muséum National d'Histoire Naturelle) ở Paris (P).
Phân bố.
Loài này có ở các bang Pahang và Terengganu, Malaysia bán đảo. Loài cây thảo thân rễ sống lâu năm cao đến 80–100 cm này mọc ở cả vùng đất thấp và trên đồi, cao độ 30–1.036 m. Nó thường được tìm thấy gần suối và có nhiều trong các khoảng trống giữa các tán cây, hơn là dưới bóng các tán cây dày dặc. Bên ngoài các khu bảo tồn rừng có sự suy giảm chất lượng môi trường sống.
Mô tả.
Thân rễ khỏe, đường kính 1 cm hoặc hơn khi khô, phát triển lệch lên phía trên, được các rễ cột dài tới 30 cm chống đỡ. Hai bên của thân rễ mang 5 (hoặc hơn) lá và cụm hoa đầu cành; nhánh mới sinh ra trong nách lá thứ 2 hoặc 3 phía dưới cụm hoa, bẹ thứ nhất rậm lông dài đến 18 cm. Phiến lá dài tới 50 cm và rộng đến 10 cm, mặt trên màu xanh lục, mặt dưới màu xanh lục nhạt, gân rậm lông, bất đối xứng, rộng nhất phía trên đoạn giữa lá, đỉnh hơi nhọn thon và dần thu hẹp về phía đáy, đáy men xuống. Cuống lá ngắn hoặc không có. Các thùy lưỡi bẹ rộng, cao 10 mm hoặc hơn, hình tam giác. Bẹ dài 18 cm, mép rộng mỏng, có lông ngắn. Cán hoa dài tới 7 cm, đường kính ~4 mm, có lông len ngắn. Cụm hoa dài 7–12 cm, với các lá bắc xếp lợp chặt. Lá bắc sơ cấp nhiều, ở cây non màu xanh lục, sau chuyển thành màu hung hung đỏ, toàn bộ rậm lông len ngắn, hở tới một nửa chiều dài từ đỉnh, mép mỏng và nhăn, dài 3,5-4,5 cm, rộng 12–16 mm tại đáy, đỉnh tù và hẹp, thường đối diện 2 (đôi khi nhiều?) hoa. Lá bắc thứ cấp thứ nhất dài 2-2,2 cm, rậm lông, lá bắc thứ cấp thứ hai dài 8 mm. Bầu nhụy có lông. Đài hoa cộng bầu nhụy dài 17–20 mm. Ống tràng dài ~4 cm, các thùy màu trắng, dài 16 mm, thùy lưng rộng 4 mm. Nhị lép màu trắng, dài như thùy tràng hoa, rộng 5 mm. Cánh môi dài 2,2 cm, 2 thùy tới gần một nửa chiều dài từ đỉnh, các thùy khía tai bèo-vết khía không đều trong phần lớn các phần, dải giữa màu vàng, mép màu tím hoa cà xỉn với vài vạch màu tím hoa cà trang trí. Chỉ nhị dài 3 mm. Bao phấn (trừ mào) dài 5 mm, mào màu tím hoa cà nhạt, uốn ngược mạnh (đỉnh gần như chạm vào lưng bao phấn), mép thẳng đứng, rộng 6 mm. Nhụy lép mỏng và nhọn, dài 4,5 mm. Quả hình elipxoit, dài 16 mm, bóng. Hạt 2-3, màu đen, hình elipxoit.
Loài này có quan hệ gần với "S. klossii" ở hình dạng cụm hoa và lá bắc, nhưng to lớn hơn về mặt sinh dưỡng và có hoa to lớn hơn với mào bao phấn lớn hơn. Tại thời điểm năm 1950 nó là loài "Scaphochlamys" lớn nhất đã biết, chỉ tìm thấy ở Kemaman. | 1 | null |
Scaphochlamys klossii là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Henry Nicholas Ridley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1907 dưới danh pháp "Gastrochilus klossii". Năm 1950, Richard Eric Holttum chuyển nó sang chi "Scaphochlamys".
Mẫu định danh.
Mẫu định danh:
Phân bố.
Đông nam bang Johor, Malaysia bán đảo. Phổ biến trong các rừng đầm lầy xung quanh sông Sedili và các chi lưu, nói chung mọc thành các cụm trong các chỗ trũng ẩm ướt.
Các thứ.
Chia ra thành 3 thứ như sau:
Mô tả.
Thân rễ bò lan hoặc hơi mọc hướng lên, các thành phần ngắn, dài với rễ khỏe. Cấc chồi kế tiếp khá gần nhau, mỗi chồi với 4-6 lá hoặc hơn. Lá nhiều gần như xếp thành 2 dãy, cuống lá dài 0,25-7 inch (1–18 cm), thanh mảnh, có bẹ bao quanh khoảng một nửa chiều dài, có cánh nhiều hay ít và có rãnh, mặt dưới có lông nhiều hay ít; các thùy lưỡi bẹ rộng, hình tam giác, dài 6–10 mm; bẹ với mép có lông áp ép rộng và mỏng, dài tới 15 cm; phiến lá hơi mọng, hình trứng ngược hẹp hoặc hình elip hoặc phần rộng nhất phía trên điểm giữa, hơi bất đối xứng, đáy hình nêm hoặc phiến lá hẹp dần thành đáy men xuống, đỉnh nhọn đột ngột hoặc nhọn ngắn, dài 8-12 inch (20–30 cm) rộng 2-4 inch (5–10 cm); mặt trên xanh lục sẫm, nhẵn nhụi; mặt dưới xanh lục nhạt, có lông nhiều hay ít. Cụm hoa đầu cành với cán hoa dài 2–6 cm, có lông mịn. Cành hoa bông thóc từ hình trụ đến hình trứng hay hình elipxoit, nhọn, dài 3-3,5 inch (7,5–9 cm), rộng 1-1,2 inch (2,5–3 cm). Lá bắc hình mác tới hình trứng hẹp, nhọn, dài 2,7-3,5 cm, rộng 1-1,4 cm, 2–4 mm ở phần mép mỏng và nhăn, màu xanh lục, rậm lông len nhiều hay ít nhưng đặc biệt rậm trên các mép mỏng, lông mịn, áp ép, xếp lợp chặt, thường che khuất trục cụm hoa, nhưng lỏng lẻo hơn ở các cụm hoa dài; mép cụp trong tới đỉnh. Lá bắc con hình mác nhọn thon, thường dài 6–8 mm, đôi khi ở các cụm hoa thành phần với ít hoa thì dài tới 0,5-0,75 inch (1,2-1,9 cm), thuôn dài, có mấu nhọn, có 1-2 gân to rõ nét và các gân con nhỏ hơn, có lông nhiều hay ít, bao quanh 2 hoa. Hoa 3-8 ở nách mỗi lá bắc, sắp xếp trong cụm hoa thành phần 2 tầng, toàn bộ được bao bọc trong lá bắc thứ hai dài 1,8-2,2 cm với mép cụp trong gặp nhau tại đáy, mỗi hoa với một lá bắc con ngắn hơn. Đài hoa với bầu nhụy dài 0,8-1,2 cm; đài mỏng, hình ống, có răng không đều. Tràng hoa có lông tơ; ống tràng thanh mảnh, dài khoảng 1,8 cm; các thùy tràng màu trắng, dài ~7 mm, rộng ~4 mm, thùy tràng lưng với đỉnh nhọn. Nhị lép dài xấp xỉ thùy tràng, rộng 5 mm, đỉnh thuôn tròn hơi uốn ngược, màu trắng. Cánh môi dài và rộng ~1,2 cm, gần tròn, hơi có 2 thùy với các thùy nhăn uốn ngược, màu trắng với các đường màu tím hoa cà nhạt đặc biệt gần đỉnh họng và dải giữa màu vàng chanh nhạt. Chỉ nhị rất rộng, dài ~2 mm. Bao phấn thẳng, dài ~3 mm, túi bao phấn rời và nhọn ở đáy; mô kết nối thuôn dài ở đỉnh với mào bao phấn hình trứng dài 2 mm và rộng 3 mm, thuôn tròn, nguyên hay hơi có thùy và nhăn uốn ngược. Bầu nhụy 3 ngăn, có lông mịn. Quả hình elipxoit, dài ~1,2 cm, chứa 1-3 hạt. Hạt hình elipxoit với áo hạt xé rách tới đáy.
"S. klossii" var. "glomerata".
Thân ít lá, chen chúc; phiến lá tới 20 × 7 cm; bẹ lá dài 5–8 cm; lá bắc gần nhẵn nhụi, đối diện ~7 hoa, mép lá bắc hơi nhăn; đôi khi gần mép lá có các vạch màu trắng bạc trang trí.
"S. klossii" var. "minor".
Cây rất nhỏ; phiến lá tới 20 × 5 cm; cuống lá thanh mảnh; cụm hoa lỏng lẻo, dài 8 cm (gồm cả cán hoa); lá bắc ít, đối diện 2-3 hoa. Phổ biến, thường mọc thành các cụm trong các rừng đầm lầy hay trên các sườn đồi, trong các chỗ trũng ẩm ướt. | 1 | null |
Scaphochlamys kunstleri là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được John Gilbert Baker miêu tả khoa học đầu tiên năm 1890 dưới danh pháp "Curcuma kunstleri". Năm 1950, Richard Eric Holttum chuyển nó sang chi "Scaphochlamys".
Phân loại.
Được chia thành 4 thứ như sau:
Mẫu định danh.
Các mẫu định danh bao gồm:
Từ nguyên.
Tính từ định danh "kunstleri" đặt theo tên nhà thám hiểm kiêm nhà sưu tập mẫu cây người Đức Hermann H. Kunstler.
Phân bố.
Loài này có tại Malaysia bán đảo (các bang Kedah, Kelantan, Perak) và miền nam Thái Lan (huyện Betong, tỉnh Yala). Được tìm thấy trong rừng, ở cao độ 30–513 m.
Mô tả.
Thân rễ khá mập, dưới mặt đất, các chồi lá cách nhau ~8 cm. Các chồi lá với 2 lá to và vài bẹ không lá bên ngoài chúng. Bẹ màu tía nhiều hay ít, dài nhất tới 20 cm. Cuống lá với bẹ dài 13–20 cm, phần cuống ngắn hơn phần bẹ, mập, có rãnh sâu. Lá thuôn dài hẹp tới đáy; phiến lá mỏng, dài ~30–45 cm, rộng 10–18 cm; đỉnh thuôn tròn với chóp nhọn đột ngột hình tam giác dài 1 cm; đáy hình nêm-men xuống; mặt trên màu xanh lục tới xanh lục sẫm; mặt dưới ánh tía nhiều hay ít (đôi khi xanh lục), có lông mịn nhiều hay ít, áp ép và khá thưa. Cuống cụm hoa rất ngắn, dài 6–10 cm, nhẵn nhụi. Cụm hoa ngắn, dài 6–10 cm, đường kính 4–5 cm, hình trụ hay hình nón thông; lá bắc với rìa trên rộng hơi tỏa rộng, tạo thành túi hở như của "Curcuma", dài 2,8-3,8 cm, tất cả màu trắng hoặc xanh lục nhạt, mép màu đỏ hay đỏ tươi, ở các cụm hoa lớn thì rộng hơn dài, ở các cụm hoa nhỏ thì rộng xấp xỉ dài, đáy rất rộng, các bên xếp lợp gần nhau gần đáy nhưng không hợp sinh, đỉnh thuôn tròn rất rộng, đường giữa hơi cong ra ngoài để mỗi lá bắc tạo thành một túi hở. Mào 0. Lá bắc con thứ nhất dài đến 2,2 cm, các lá bắc con kế tiếp dần dần ngắn hơn. Hoa 3-6 trong nách mỗi lá bắc, dài tới 7 cm; đài hoa với bầu nhụy dài 1,5-1,6 cm, hình ống rộng; ống tràng hơi dài hơn lá bắc, tới 38 x 3 mm, dần nở rộng phía trên điểm giữa thành họng hình phễu thanh mảnh rộng tới 5 mm; các thùy màu trắng trong mờ hay màu vàng da bò nhạt, dài 1,5–2 cm hìn trứng-hình mác, mỏng, hơi nhọn; thùy tràng lưng rộng 7–9 mm ở đáy, hẹp về phía đỉnh; các thùy tràng bên ngắn và hẹp hơn. Nhị lép màu vàng da bò-vàng cam rất nhạt, hình trứng ngược-hình elip, đáy rộng, ngắn và hẹp hơn thùy tràng lưng, có lông tơ trên lưng, với các gân trong mờ, hai bên xếp chồng lên nhị hoa. Cánh môi dài 2-2,5 cm, rộng tới 20 mm, hình trứng ngược-hình nêm, hơi dài hơn các đoạn của tràng hoa, có khía răng cưa hoặc 2 thùy tới khoảng 1/3 chiều dài, màu vàng da bò-vàng cam rất nhạt hoặc màu kem với dải giữa màu vàng chanh và đôi khi với các sọc màu hồng gần đáy ở mỗi bên dải giữa, đáy có rãnh khá sâu, nhẵn nhụi, phiến cánh môi có các gân trong mờ màu trắng và ánh đỏ. Nhị có lông tơ trên lưng; chỉ nhị màu trắng, dài và rộng 3–4 mm. Các ngăn bao phấn song song, thẳng, màu vàng nhạt hay tràn đầy màu hồng, dài 6 mm, rộng 3 mm, có lông tơ, hợp sinh với các mép cụp trong của mô liên kết thò ra ở cả hai bên. Phấn hoa hình elip rộng, nhẵn, không dính. Mào bao phấn rất ngắn, mập, có khía răng cưa, hầu như không uốn ngược. Bầu nhụy 1 ngăn (đôi khi 3 ngăn theo Valeton, 1918), ~8 noãn đính trụ. Nhụy lép rất dài (12 mm) và mỏng. Đầu nhụy có mỏ. Quả không rõ. | 1 | null |
Scaphochlamys lanceolata là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Henry Nicholas Ridley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1907 dưới danh pháp "Gastrochilus lanceolata" (đúng ra là "Gastrochilus lanceolatus" do "Gastrochilus" là danh từ giống đực). Năm 1950, Richard Eric Holttum chuyển nó sang chi "Scaphochlamys".
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Ridley H.N." thu thập tháng 12 năm 1892 tại núi Panti (gunung Panti), bang Johor, Malaysia bán đảo. Mẫu holotype lưu giữ Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K).
Phân bố.
Loài này có tại bang Johor, miền nam Malaysia bán đảo. Được tìm thấy trên các sườn dốc trong Khu bảo tồn rừng Panti.
Mô tả.
Cây thảo thân rễ cao 20–30 cm. Thân rễ bò lan, dạng gỗ khá thanh mảnh. Các chồi lá cách nhau khoảng 1 cm. Chồi lá ngắn, chứa 1-3 lá, mặt trên lá màu xanh lục sáng với vạch dọc màu trắng, mặt dưới hơi có lông, hình mác-hình elip hơi lệch, hẹp tại đáy, đỉnh tù, khá cứng, dài 10–12 cm rộng 3–5 cm, nhẵn nhụi, cuống lá dài 2–3 cm, bẹ dài ~3 cm, các thùy lưỡi bẹ hình tam giác. Cành hoa bông thóc dài gần như cuống lá, cuống cụm hoa dài ~1 cm, cán hoa rất ngắn, cụm hoa hình nón ngược. Lá bắc 5, xếp chồng, mọc gần như thẳng đứng, hình từ thẳng đến hình mác gần nhọn, hẹp, dài 2-2,5 cm, gần như nhẵn nhụi, hình dạng giống như ở "Scaphochlamys lancifolius", kết cấu rắn chắc, mép không quăn, đỉnh nhọn đột ngột. Lá bắc con dài ~2 cm, hình mác. Hoa màu trắng. Đài hoa dạng mo, tù, với bầu nhụy dài 1,2 cm. Ống tràng dài 2,5-2,7 cm, thanh mảnh, các thùy tràng hình mác dài tới 1,5 cm, nhọn. Nhị lép hẹp hơn. Cánh môi hình nêm ngược, dài 1,3 cm. Mào bao phấn rộng lớn, đỉnh cắt cụt. Chỉ nhị khá dài, thẳng.
Rất giống với "S. malaccana" và có thể chỉ là một thứ của loài này. | 1 | null |
Scaphochlamys cordata là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Yen Yen Sam và Leng Guan Saw mô tả khoa học đầu tiên năm 2005.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Sam & Apok FRI 49136"; thu thập ngày 9 tháng 3 năm 2005 tại Khu bảo tồn rừng Jengai, huyện Dungun, bang Terengganu, Malaysia. Holotype lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Rừng Malaysia (KEP, Kepong, Selangor, Malaysia), các isotype lưu giữ tại Trung tâm Nghiên cứu Rừng (SAN, Sandakan, Sabah, Malaysia) và Vườn Thực vật Singapore (SING).
Từ nguyên.
Tính từ định danh "laxa" là tiếng Latinh (giống đực: "laxus", giống trung: "laxum") nghĩa là lỏng lẻo, ở đây là để nói tới đặc điểm các lá bắc sắp xếp rất lỏng lẻo trên cán hoa của loài này.
Phân bố.
Loài này có trên dãy núi Timur chạy qua các bang Terengganu và Pahang, Malaysia bán đảo. Môi trường sống là rừng khộp (Dipterocarpaceae) vùng đất thấp, trên các địa hình nhấp nhô và sườn dốc, ở cao độ khoảng 54 – 130 m. Có thể tìm thấy nó trên các sống đất nhô cao, thường mọc tại những nơi nhiều bóng râm.
Mô tả.
Địa thực vật thân thảo, thân rễ bò ngang trên mặt đất. Các chồi lá mọc thẳng, cao 30–40 cm, màu đỏ khi non, cách nhau 1–3 cm, 1 lá mỗi chồi. Bẹ không phiến lá 3, màu đỏ, có sống theo chiều dọc, bẹ lớn nhất 7-13,5 cm. Bẹ lá 3,8-4,5 cm, lưỡi bẹ 2 thùy, các thùy không rõ nét. Cuống lá dài 13–36 cm, tiết diện có rãnh, màu đỏ khi non. Phiến lá hình elip hay hình trứng rất rộng, 13-22 × 10,5–14 cm, đỉnh có mũi nhọn, đáy hơi men xuống trên cuống lá, không hình nêm, mép có lông rung, gân thứ cấp hơi nổi ở mặt trên của lá, màu xanh lục sẫm, đôi khi với các dải màu trắng chạy giữa gân giữa và mép lá; mặt dưới của lá màu xanh lục nhạt, màu đỏ khi non. Cụm hoa dài 15–33 cm. Cuống cụm hoa 9–12 cm, màu đỏ khi non; cán hoa 2,5–11 cm. Lá bắc (2-4-)5-10, sắp xếp xoắn ốc, lỏng lẻo, cách nhau 0,4–2 cm, màu xanh lục sẫm, hình thìa, hình elip rộng khi dẹt, 17-25 × 8–16 mm, đỉnh nhọn, phần xa uốn ngược, mép có lông khi non. Lá bắc con nhỏ hơn lá bắc, 5-7 × 4,5–6 mm, có lông về phía đỉnh, lá bắc con thứ nhất bao quanh các lá bắc con kế tiếp và hoa. Hoa trên 20 mỗi lá bắc, nhỏ, màu trắng trừ đài hoa. Đài hoa hình ống, 6-7 × ~2 mm, màu ánh đỏ, đỉnh 2 thùy, chẻ 3–4 mm từ đỉnh ở một bên. Ống tràng 13–17 mm. Thùy tràng lưng hình mũi mác, 8-13 × 3–4 mm, mép cụp trong, đỉnh có nắp và nhọn, màu vàng nhạt. Các thùy tràng bên hình mũi mác hẹp với mép cuốn trong, 7-11 × 2–3 mm, đỉnh có nắp và nhọn. Nhị lép bên thuôn dài, 9-11,5 × 1–3 mm, đỉnh tù, có nhú trên mặt gần trục, màu vàng nhật về phía đỉnh. Cánh môi có lông, 11,5-22 × 10–20 mm, 2 thùy, có nhú ở mặt trên, các thùy 5,5-7 × 6–7 mm, khe ~6 mm từ đỉnh, quăn, dải giữa màu vàng với các sọc tía ở hai bên. Chỉ nhị dài 2,5–3 mm, một số với vết màu tía. Mô vỏ bao phấn dài 2-2,5 mm. Mào bao phấn 0,5-1 × 2,5–3 mm, đỉnh 3 thùy, uốn ngược mạnh. Đầu nhụy rộng ~1 mm, hình chén, có nhú màu nâu che phủ. Tuyến trên bầu 2, thẳng, ~4 mm, màu vàng. Bầu nhụy dài ~2 mm, 3 ngăn.
"S. laxa" là độc đáo trong chi "Scaphochlamys" ở chỗ nó có phiến lá hình elip hay hình trứng rất rộng. Loài này tương tự như "S. cordata" nhưng khác với "S. cordata" ở chỗ có cuống lá ngắn hơn (13–29 cm so với 31–36 cm), tiết diện có rãnh so với thuôn tròn ở "S. cordata", các lá hình elip hay hình trứng rất rộng. Các khác biệt khác bao gồm hoa to hơn, mào bao phấn 3 thùy và uốn ngược ở "S. laxa". | 1 | null |
Scaphochlamys malaccana là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được John Gilbert Baker mô tả khoa học đầu tiên năm 1892.
Mẫu định danh.
Thông tin về các mẫu định danh lấy theo Baker (1892), Ridley (1899), Schumann (1904) và ZRC.
Mẫu định danh cho danh pháp "Scaphochlamys malaccana" của Baker bao gồm: "Griffith W. 5761", do William Griffith (1810-1845) thu thập tại núi Ophir (Gunung Ophir), tọa độ khoảng (ZRC đề cập tọa độ khoảng trong bang Malacca là không chính xác - vì tọa độ này nằm trong khu vực thành phố Malacca), bang Johor, Malaysia bán đảo. Mẫu lectotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K), các isolectotype lưu giữ tại Đại học Aarhuus, Đan Mạch (AAU), Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia Pháp (P). Các syntype cho danh pháp này được lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K) bao gồm: "Maingay A.C. 1579" do Alexander Carroll Maingay (1836-1869) thu thập tại xấp xỉ cùng tọa độ như các mẫu của Griffith; và "Hullett R.W. s. n." do Richmond William Hullett (1843-1914) thu thập.
Mẫu định danh cho danh pháp "Kaempferia cumingii" của Schumann là "Cuming H. 2356" do Hugh Cuming (1791-1865) thu thập năm 1840 ở xấp xỉ cùng tọa độ như đề cập trên đây trên núi Ophir. Mẫu lectotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K), nó cũng là syntype cho "S. malaccana" của Baker. Các isolectotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Edinburgh (E), Naturalis ở Leiden, Hà Lan (L), Bộ sưu tập Khoa học tự nhiên bang Bayern (Staatliche Naturwissenschaftliche Sammlungen Bayerns, SNSB) ở München (M), Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia Pháp ở Paris (P).
Mẫu holotype được lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K) cho danh pháp "Gastrochilus lancifolius" của Ridley là "Lake H.W. & Kelsall s. n.", do Harry W. Lake và Kelsall Harry Joseph (1867-1950) thu thập năm 1892 tại Kwala Sembrong, bang Johor.
Hai mẫu syntype được lưu giữ tại Vườn Thực vật Singapore (SING) cho danh pháp "Gastrochilus scaphochlamys" của Ridley là:
Phân bố.
Loài này có tại Malaysia bán đảo (các bang Johor, Melaka, Negeri Sembilan, Pahang). Được tìm thấy trong rừng, ven suối hay trên dốc núi, nơi có các khoảng trống dưới tán cây.
Mô tả.
Thân rễ hướng xiên lên, được các rễ cọc hỗ trợ. Các chồi lá ngắn, cách nhau ~2 cm, thường 2 lá, với cụm hoa đầu cành; các bẹ ngoài màu ánh tía. Phiến lá ~20 × 4,5–6 cm, hơi bất đối xứng, hình elip, hẹp thành đỉnh nhọn (không nhọn thon) và đáy hình nêm, hơi có lông ở mặt dưới về phía đáy; cuống lá dài ~10 cm, khá thanh mảnh; lưỡi bẹ nhỏ; bẹ dài tới ~6 cm, hẹp. Cụm hoa với cán hoa thanh mảnh, có lông nhiều hay ít, dài 5–12 cm và 6-8 lá bắc lớn, cách nhau khoảng 0,7-2,5 cm, sắp xếp xoắn ốc trên trục thanh mảnh, ngoằn ngoèo nhiều hay ít, dài 8–10 cm, lộ ra bởi các lá bắc tỏa rộng, mỗi lá bắc mang 3-7 hoa trong nách của nó. Lá bắc màu xanh lục, dài 3–5 cm, rộng 1,2-1,7 cm, hình elip khi dẹt, với đỉnh thuôn tròn hơi nhọn đột ngột và mép cuốn trong về phía đáy, kết cấu rắn chắc, có lông mềm ở măt dưới - ít nhất là gần đáy và đỉnh, nhẵn nhụi khi già. Lá bắc con thứ nhất dài ~1,2 cm; các lá bắc con còn lại ngắn hơn. Hoa thơm. Đài hoa với bầu nhụy dài ~1 cm, hình ống, hơi phồng, các răng gần nhau, khe chẻ 3 mm xuống bên kia. Ống tràng màu trắng, thanh mảnh tại đáy, nở rộng về phía đỉnh, dài ~2,5 cm. Các thùy màu trắng, dài ~1,3 cm, nhọn, rộng 4–5 mm ở đáy, mép cụp trong về phía đỉnh. Nhị lép màu trắng, dài bằng thùy tràng hoa, thuôn dài với chóp thuôn tròn, rộng ~4 mm. Cánh môi ~1,8 × 1,4 cm, màu trắng với dải giữa màu vàng, đôi khi với đường màu tím hoa cà nhạt hay màu tía ở cả hai bên dải giữa về phía đáy, hình trứng ngược, 2 thùy sâu (gần 50% chiều dài), các thùy thuôn tròn và hơi xếp chồng. Chỉ nhị dài ~ 3 mm, rộng; các túi phấn dài ~3 mm, phần đáy rời và nhọn; mô liên kết ở đỉnh tạo thành mào uốn ngược rộng ~4 mm, dài ~2,5 mm, thuôn tròn và hơi 3 thùy, mép hơi nhăn. | 1 | null |
Scaphochlamys minutiflora là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Thaya Jenjittikul và Kai Larsen mô tả khoa học đầu tiên năm 2002.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "T.Tiptabiankarn 4407"; thu thập ở cao độ ~200m, gần thác Chatwarin (tọa độ ), Khu bảo tồn động vật hoang dã Hala Bala, phó huyện (tambon) To Deng, huyện Su-ngai Padi, tỉnh Narathiwat, miền nam Thái Lan. Mẫu holotype lưu giữ tại Đại học Aarhus, Đan Mạch (AAU), mẫu isotype lưu giữ tại Cục Vườn quốc gia, Bảo tồn Động vật hoang dã và Thực vật, Bộ Tài nguyên Thiên nhiên và Môi trường Thái Lan ở quận Chatuchak, Bangkok (BKF). Mẫu vật sống được Poonsak Vatcharakorn thu thập ngày 17 tháng 2 năm 2000 và được Thaya Jenjittikul trồng tại Bangkok.
Phân bố.
Loài này có tại miền nam Thái Lan, phần trên bán đảo (tỉnh Narathiwat). | 1 | null |
Scaphochlamys obcordata là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Puangpen Sirirugsa và Kai Larsen miêu tả khoa học đầu tiên năm 1991.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Sirirugsa 1173"; được thu thập tại Vườn quốc gia Budo–Su-ngai Padi, huyện Bacho, miền bắc tỉnh Narathiwat. Mẫu holotype lưu giữ tại Đại học Hoàng tử Songkla ở Hat Yai, tỉnh Songkhla (PSU), mẫu isotype lưu giữ tại Đại học Aarhus, Đan Mạch (AAU) nhưng có thể đã thất lạc.
Mẫu "K. & S.S. Larsen 47007" được đoàn thám hiểm Thái Lan - Đan Mạch tìm thấy năm 1995 tại điểm thu mẫu điển hình và sau đó trồng tại nhà kính Đại học Aarhus. Năm 1999 các mẫu vật thu thập từ các cây trong nhà kính này được lưu giữ như là mẫu topotype tại AAU, Cục Vườn quốc gia, Bảo tồn Động vật hoang dã và Thực vật, Bộ Tài nguyên Thiên nhiên và Môi trường Thái Lan ở quận Chatuchak, Bangkok (BKF), Vườn Thực vật Hoàng gia tại Edinburgh (E), Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K), Naturalis tại Leiden, Hà Lan (L), PSU và Vườn Thực vật Singapore (SING).
Phân bố.
Loài này có tại miền nam Thái Lan, phần bán đảo (tỉnh Narathiwat). | 1 | null |
Scaphochlamys oculata là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Henry Nicholas Ridley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1899 dưới danh pháp "Gastrochilus oculata" (đúng ra là "Gastrochilus oculatus" do "Gastrochilus" là danh từ giống đực). Năm 1950, Richard Eric Holttum chuyển nó sang chi "Scaphochlamys".
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Ridley H.N. 8484"; do Henry Nicholas Ridley thu thập năm 1897 ở cao độ ~457 - 500 m, tọa độ , đường hẻm Pahang, bang Selangor, Malaysia bán đảo. Mẫu lectotype lưu giữ Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K).
Phân bố.
Loài này có tại các bang Negeri Sembilan, Pahang và Selangor, miền trung Malaysia bán đảo. Được tìm thấy trong các khu rừng khộp (Dipterocarpaceae) từ vùng đất thấp tới vùng đồi. Loài này phát triển tốt trong các thung lũng, đặc biệt là trên nền rừng với lớp mùn dày, ở cao độ 110 – 565 m.
Mô tả.
Thân rễ thanh mảnh, bò lan khá dài, khoảng cách giữa các chồi lá tới 10 cm. Các chồi lá 1 lá và vài bẹ không phiến lá; bẹ dài nhất tới ~10 cm, nhẵn nhụi hoặc hơi có lông; phiến lá hình trứng, nhẵn nhụi, dài 20–25 cm, rộng 8–12 cm, màu xanh lục sẫm, mặt dưới màu ánh tía, thường rộng nhất gần đáy, đáy thuôn tròn đến hình tim và hơi men xuống cuống lá, đỉnh nhọn rộng, không hoặc chỉ hơi nhọn thon; các gân rõ nét ~14; cuống lá dài tới 25–28 cm, nhẵn nhụi; bẹ dài ~5 cm. Cán hoa thanh mảnh, ngắn, dài 2–5 cm, ở bên, có lông ngắn về phía đỉnh; cuống cụm hoa dài 2,5 cm, bao bọc trong bẹ ở đáy cuống lá. Cành hoa bông thóc, hình trứng, kết đặc, dài 3,8–5 cm, rộng 2,5 cm, với ~15 lá bắc xếp lợp. Lá bắc hình trứng tới hình mác, dài 2,7-3,5 cm, rộng tới 1,3-1,5 cm, màu đỏ, gần như nhẵn nhụi, mép nhẵn mỏng hẹp, đỉnh hơi tỏa rộng nhưng không uốn ngược, các lá bắc dưới tù, các lá bắc trên nhọn. Lá bắc con thứ nhất dài tới 2,5 cm và rộng 1,2 cm, 3 thùy; thứ hai tới 2,2 cm; thứ ba tới 1,8 cm. Hoa 2-3 trong mỗi lá bắc. Đài hoa với bầu nhụy dài 1,3-1,5 cm, 2 thùy rất ngắn. Ống tràng dài 2,5–3 cm, hơi nở rộng về phía trên, các thùy hình mác, nhọn, dài 1,5-1,9 cm, màu trắng; thùy tràng lưng rộng 6 mm tại đáy. Nhị lép thuôn dài, hình mác, tù rộng hay thuôn tròn, có lông tơ, dài 1,3-1,9 cm, rộng 5 mm, màu trắng. Cánh môi hình trứng ngược, dài ~2,2 cm và rộng 1,5 cm hoặc hơn, màu trắng, 2 thùy tới gần 50% chiều dài về phía đáy, dải giữa màu vàng với 2 vệt màu đỏ thắm sẫm ở đáy (đôi khi không có). Chỉ nhị ngắn và rộng, dài ~3 mm; bao phấn mập, dài ~5 mm, cong về phía trước, các ngăn bao phấn phân nhánh với rãnh sâu giữa chúng, rời tại đáy, có lông tơ; mào bao phấn rất ngắn, thuôn tròn, hầu như không uốn ngược, không rộng hơn phần còn lại của bao phấn.
"S. oculata" giống "S. biloba" ở chỗ có kiểu bò lan với chồi lá 1 lá thường có cuống dài, cụm hoa nhỏ với cuống ngắn, mào bao phấn nhỏ và màu của hoa. Tuy nhiên, nó khác ở chỗ đáy lá rộng hơn, các lá bắc rộng hơn chứa tới 3 hoa. Rất có thể là "S. oculata" và "S. concinna" là đồng loài và nếu điều này là đúng thì danh pháp của chúng sẽ là "S. concinna" (do danh pháp này có trước). | 1 | null |
Scaphochlamys pennipicta là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Richard Eric Holttum miêu tả khoa học đầu tiên năm 1950.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Haji Mohamed Nur bin Mohamed Ghous SFN 11181"; do Haji Mohamed Nur bin Mohamed Ghous (1898-1958) thu thập ngày 30 tháng 9 năm 1923 ở cao độ 4.000 ft (1.335 m) tại Đồi Fraser, bang Pahang. Mẫu holotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Singapore (SING).
Từ nguyên.
Tính từ định danh "pennipicta" là tiếng Latinh, gồm danh từ "penna" (cách viết khác: "pinna") nghĩa là lông chim, lông vũ và động tính từ "pictus" (giống cái: "picta", giống trung: "pictum") nghĩa là trang trí, sơn, tô vẽ; ở đây là để nói tới đặc điểm của mặt trên phiến lá với các vạch màu trắng giống như lông chim.
Phân bố.
Loài này là đặc hữu bang Pahang, Malaysia bán đảo. Nó được tìm thấy trong Khu bảo tồn động vật hoang dã Krau và Đồi Fraser (hiện tại chưa được phát hiện lại là có tại khu vực này, trừ mẫu lưu tại SING). Loài gừng nhỏ này được tìm thấy tại các khu rừng khộp (Dipterocarpaceae) vùng đất thấp và rừng núi thấp ở bán đảo Mã Lai. Quần thể trong Khu bảo tồn động vật hoang dã Krau được tìm thấy phát triển đồng loạt trên một địa hình thoai thoải gần các bờ sông suối ở độ cao 110–262 m. Quần thể tại điểm lấy mẫu điển hình là Đồi Fraser, chưa được thu thập lại kể từ khi thu thập mẫu điển hình. Đồi Fraser là một khu vực rừng trên núi thấp hơn với độ cao khoảng 1.212 m.
Mô tả.
Thân rễ thanh mảnh, bò lan. Các chồi lá mọc thẳng đứng, 1 lá, cách nhau 3–10 cm, bẹ ít, dài nhất tới 6 cm, che phủ. Phiến lá dài 15–18 cm, rộng 7-7,5 cm, hơi bất đối xứng, hình elip, đỉnh nhọn rộng ngắn, đáy hình nêm-men xuống, mặt trên màu xanh lục sẫm, các vạch màu trắng hình lông chim trang trí, mặt dưới màu tía hung hung đỏ, nhẵn nhụi. Cuống lá và bẹ dài 7–10 cm; bẹ ngắn; cán hoa dài 4–6 cm, thanh mảnh. Cụm hoa hình trứng, kết đặc, dài ~1,8 cm, rộng ~1,2 cm. Lá bắc sơ cấp thanh mảnh, nhẵn nhụi trừ phần đỉnh, dài ~1,3 cm, rộng 1 cm, hình trứng, nhọn đột ngột ngắn, đỉnh hơi uốn ngược, bao 2 hoa (hoặc 1?). Lá bắc thứ cấp thứ nhất dài 12 mm, thanh mảnh. Đài hoa cộng bầu nhụy dài ~1 cm. Ống tràng dài hơn đài hoa ~3 mm, các thùy dài 8 mm, màu trắng, thùy tràng lưng rộng. Nhị lép ngắn và hẹp hơn thùy tràng lưng, màu trắng. Cánh môi màu trắng (dải giữa màu vàng ?), dài 10 mm hoặc hơn một chút. Chỉ nhị ngắn. Bao phấn dài 3 mm; mào nhỏ, uốn ngược, dài bằng hoặc hơn một chút so với bao phấn.
Về kiểu phát triển và màu lá (với các vạch màu trắng giống như lông chim) thì loài này tương tự như "S. biloba"; nhưng có lá bắc và hoa nhỏ hơn, các lá bắc ngoài ít nhất có 2 hoa trong nách, lá bắc con không dài hơn lá bắc. | 1 | null |
Scaphochlamys perakensis là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Henry Nicholas Ridley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1907 dưới danh pháp "Curcuma lanceolata". Năm 1950, Richard Eric Holttum chuyển nó sang chi "Scaphochlamys", nhưng do danh pháp "Scaphochlamys lanceolata" được chính Holttum dành cho danh pháp "Gastrochilus lanceolatus" trong cùng công trình năm 1950 khi cũng đồng thời chuyển nó sang chi "Scaphochlamys" - với lý do là tên gọi "lanceolatus" của Ridley đã bị chiếm chỗ trước trong "Scaphochlamys", nên ông đã tạo ra danh pháp mới (nom. nov.) là "Scaphochlamys perakensis" cho "Curcuma lanceolata" của Ridley.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Curtis C. 2522" do Charles Curtis (1853-1928) thu thập tháng 8 năm 1898 tại Gunong Bujong Malacca (Gunung Bujang Melaka) ở bang Perak. Mẫu holotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Singapore (SING).
Từ nguyên.
Tính từ định danh "perakensis" lấy theo tên bang Perak, nơi mẫu định danh được thu thập.
Phân bố.
Loài này có ở các bang Perak (Gunung Bujang Melaka và Sungai Gepai) và Pahang (Khu bảo tồn rừng Lentang), thuộc Malaysia bán đảo. Nó cũng có trên đảo Sumatra, tại huyện Rokan Hulu, tây bắc tỉnh Riau, Indonesia. Ở Sumatra, loài này mọc trên đá vôi ở cao độ 150 m. Ở bán đảo Mã Lai, nó được tìm thấy trong các khu rừng khộp Dipterocarpaceae) vùng đất thấp và rừng đồi, ở cao độ 160 – 195 m. Nó mọc ở các bờ sông suối có độ dốc thoai thoải.
Mô tả.
Thân rễ bò lan, dày ~5 mm khi khô, mang các lá vảy cách nhau khoảng 1,5 cm; khoảng cách giữa các chồi lá tới 12 cm hoặc hơn. Các chồi lá với thân ngắn, mang 2-3 lá và bẹ bên ngoài chúng, mọc thành búi lá, hình mác gần nhọn, dài 20–45 cm, rộng 6,5–11 cm, hơi bất đối xứng, mặt trên màu xanh lục sẫm, nhẵn nhụi, mặt dưới nhạt màu hơn, với lông áp ép trên gân giữa mặt dưới, đỉnh nhọn nhưng không nhọn thon, đáy thu hẹp dần dần và men xuống; cuống lá dài 10–30 cm, khá thanh mảnh; bẹ dài 10–15 cm; lưỡi bẹ rộng, dài ~5 mm, mỏng. Cụm hoa đầu cành. Cuống cụm hoa dài 7–18 cm, thanh mảnh, có lông mịn khi non và dần nhẵn nhụi khi già. Cành hoa bông thóc hình nón ngược hoặc hình trứng khi non và hình trụ nhiều hay ít khi già, dài 4–8 cm và rộng tới 4 cm. Lá bắc hình trứng-hình mác, xếp lợp chặt ở nửa đáy, đỉnh tỏa rộng – tương tự như ở "S. klossii", màu xanh lục đôi khi với rìa màu ánh hồng, dài 2–3 cm, rộng tới 1,4 cm ở gần đáy, thon thành nhọn với đỉnh nhọn đột ngột ngắn, với rìa mỏng và nhăn nhiều rộng 2–3 mm, thưa lông (đặc biệt gần các rìa và đỉnh) khi non, dần nhẵn nhụi khi già; mỗi lá bắc chứa 3-4 hoa. Lá bắc con đầu tiên dài 1,3–2 cm, các lá bắc con khác dài 7 mm. Đài hoa với bầu nhụy dài 1,2 cm; ống đài có thùy dài 6–7 mm. Ống tràng thanh mảnh, dài 2 cm hoặc hơn – nhưng dường như ngắn hơn lá bắc, các thùy thuôn dài, dài 6–8 mm, màu trắng. Nhị lép ngắn hơn thùy tràng hoa, màu trắng, thẳng, có lông tuyến, dường như uốn ngược. Cánh môi từ thuôn dài đến hình trứng ngược, tù, hơi dài hơn thùy tràng hoa, màu trắng với các vạch màu hồng đến đỏ thắm (đôi khi không có) ở gần đáy và ở cả hai bên đường giữa, dải giữa có vệt màu vàng gần đỉnh. Chỉ nhị ngắn, dài bằng nửa bao phấn, có lông tuyến. Bao phấn thẳng, dài 4 mm, các túi phấn với các chóp nhọn, ngắn, rời ở đáy; mào nhỏ, không rộng hơn bao phấn, hình trứng-nhọn, ngắn. | 1 | null |
Scaphochlamys petiolata là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Karl Moritz Schumann miêu tả khoa học đầu tiên năm 1904 dưới danh pháp "Haplochorema petiolatum". Năm 1987, Rosemary Margaret Smith chuyển nó sang chi "Scaphochlamys".
Năm 2016, Yen Yen Sam "et al." tách 8 loài ở Borneo (gồm "S. argentea", "S. biru", "S. calcicola", "S. iporii", "S. petiolata", "S. reticosa", "S. salahuddiniana", "S. stenophylla") ra thành chi riêng, gọi là "Borneocola" - với "B. reticosus" là loài điển hình, nhưng Ooi "et al." (2017) cho rằng việc tách ra này chưa đủ độ thuyết phục và vẫn duy trì 8 loài này trong chi "Scaphochlamys".
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Haviland G.D. 2026"; thu thập ngày 11 tháng 12 năm 1892 ở khu vực núi Singhi (Gunung Senggi/Singai). Mẫu lectotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K), các mẫu isolectotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Edinburgh (E) và Cục Lâm nghiệp bang Sarawak ở Kuching (SAR). Tọa độ điểm lấy mẫu điển hình khoảng . Hai mẫu khác là "Poulsen A.D. 2309" và "Newman M.F. & Škorničková J. 2046" lưu giữ tại Edinburgh, thu thập tương ứng vào ngày 26 tháng 4 năm 2004 và ngày 28 tháng 8 năm 2008 tại bờ sông Rayu ở cao độ 50 m, tọa độ .
Phân bố.
Tìm thấy trên đảo Borneo. Là loài đặc hữu núi Singai (Singhi/Senggi) và ven sông Rayu (Sungai Rayu), huyện Bau, tỉnh Kuching, bang Sarawak, Malaysia. Môi trường sống là các rừng thạch nam (kerangas) nhiệt đới, các khu vực bằng phẳng ven suối, ở cao độ khoảng 50–460 m.
Mô tả.
Địa thực vật thân thảo, sống lâu năm, mọc thành cụm, cao tới 45 cm. Thân rễ hơi nằm ở dưới mặt đất, đường kính ~5 mm, vỏ màu nâu ánh lục đến nâu nhạt, ruột màu nâu nhạt. Các chồi lá cách nhau 0,5–3 cm, 1 lá; bẹ không lá ~4, dài 1,5–7 cm, màu lục ánh nâu đến nâu, nhẵn nhụi, khô khi già; bẹ lá dài ~1,8 cm, dạng màng, màu xanh lục ánh nâu, nhẵn nhụi, khô khi già; lưỡi bẹ khó thấy; cuống lá dài 15–30 cm, có rãnh, màu xanh lục với các đốm trắng nhỏ thưa thớt, hình gối ở đáy; phiến lá 8–12,5 × 4–5 cm, thường không đối xứng, hình trứng đến hình mũi mác, dạng giấy, mép uốn nếp, đáy từ gần cắt cụt đến hơi thuôn tròn, đỉnh nhọn đến nhọn thon; mặt gần trục màu xanh lục từ vừa đến sẫm, nhẵn nhụi, gân giữa lõm, các gân bên dễ thấy; mặt xa trục màu xanh lục nhạt, có lông tơ, gân giữa nổi, các gân bên chính hơi dễ thấy. Cụm hoa dài 6,5–8 cm, mọc từ gần đáy lá bên trong các bẹ, chen chúc chặt, gồm 3–5 xim hoa bọ cạp xoắn ốc, mỗi xim 2 hoa mọc trên cuống cụm hoa, ra hoa theo hình xoắn ốc từ đáy tới đỉnh; cuống cụm hoa dài 4–5 cm, màu lục nhạt với dày đặc các đốm nhỏ màu trắng, nhẵn nhụi, có bẹ bao phủ; lá bắc ~3–5, kích thước ~25 × 5 mm, sắp xếp xoắn ốc, hình mác, đỉnh nhọn, màu nâu đến trắng ánh nâu, dạng màng, mỗi lá bắc đối diện ~2 hoa; lá bắc con ~2, dài 5–17 mm, màu trắng ánh nâu, ngắn hơn lá bắc nhưng hầu như không phân biệt được với lá bắc; hoa dài 3,5–4,5 cm; đài hoa dài 9–11 mm, màu trắng ánh nâu, hơi có lông tơ ở gần gốc, đỉnh nhọn; ống hoa dài 3–3,5 cm, màu trắng ánh nâu, thưa lông tơ; các thuỳ tràng hoa dài ~10 mm, hình mũi mác, màu trắng kem, nhẵn nhụi, đỉnh nhọn, có nắp; nhị lép dài 5–7 mm, hình từ thẳng đến hơi hình mác, mặt gần trục có lông tuyến che phủ, màu trắng kem, đỉnh nhọn đến tù; cánh môi 12–13 × 10–11 mm, hình thìa, mặt gần trục có lông tuyến che phủ, màu trắng ở đáy và màu tím tới đỉnh, với dải giữa màu vàng nhạt, đỉnh 2 thùy, khía răng cưa ~3 mm, các thùy đôi khi hơi xếp chồng; nhị ~5 × 1,5 mm, có lông tuyến che phủ, màu trắng; chỉ nhị dài ~1 mm; mô vỏ bao phấn 2, dài ~3,5 mm, có cựa ~0,5 mm ở đáy tại một bên, mào dài ~0,5 mm, 3 thùy; đầu nhụy dài dưới 1 mm, hình chùy, với 2 bướu ở lưng, lỗ nhỏ có lông rung, hướng về phía trước; vòi nhụy dài ~3,5 cm, màu trắng, thưa lông tơ; bầu nhụy dài ~2 mm, 1 ngăn, màu trắng, rậm lông tơ; tuyến trên bầu 2, dài ~2 mm, rời, hình kim, màu trắng ánh nâu. Quả là quả nang ~11 × 4 mm, nứt, hình trứng, màu xanh lục ánh nâu (vỏ quả ngoài giống như cutin màu nâu trong mờ bao quanh hạt màu xanh lục), thưa lông tơ, được đỡ bởi các lá bắc khô quắt. Hạt ~9 × 3 mm, hình trứng, nhẵn nhụi, màu xanh lục; áo hạt ~4 mm, xé rách, màu trắng ánh nâu; ngoại nhũ màu trắng.
Nhóm "Petiolata".
Nhóm "Petiolata" được xác định bằng cụm hoa chen chúc chặt, sắp xếp xoắn ốc, các lá bắc dạng màng, các lá bắc con tương tự như lá bắc, với lá bắc con thứ nhất ngắn hơn lá bắc, 2 gờ lưng rất mờ nhạt, hoa nhỏ, dài ~4 cm với cánh môi chủ yếu có màu tím dài ~1 cm và quả có vỏ quả ngoài nhẵn. Nhóm này chỉ giới hạn ở phía tây Sarawak, gồm 10 loài là "S. argentea", "S. biru", "S. durga", "S. hasta", "S. multifolia", "S. nigra", "S. petiolata", "S. pseudoreticosa", "S. reticosa", "S. stenophylla".
Tên gọi "S. petiolata" từng được áp dụng rộng rãi cho hầu hết các mẫu vật "Scaphochlamys" ở Borneo với cuống lá thon dài thanh mảnh. Tuy nhiên, việc thu thập lại "S. petiolata" từ điểm lấy mẫu điển hình của nó cho phép kết luận rằng loài này chỉ hạn chế trong khu vực Gunung Singai (huyện Bau, tỉnh Kuching) và dẫn đến việc công nhận một số đơn vị phân loại khác biệt là "S. biru", "S. multifolia" và "S. hasta". "S. petiolata" là loài duy nhất trong số các đơn vị phân loại này có 1 lá ở cây trưởng thành. | 1 | null |
Scaphochlamys polyphylla là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Karl Moritz Schumann miêu tả khoa học đầu tiên năm 1899 dưới danh pháp "Haplochorema polyphyllum". Năm 1972, Brian Laurence Burtt và Rosemary Margaret Smith chuyển nó sang chi "Scaphochlamys".
Mẫu định danh.
Thông tin về mẫu định danh lấy theo Schumann (1899), Ridley (1910), Valeton (1918) và ZRC.
Phân bố.
Loài này có trên đảo Borneo, ở bang Sarawak, Malaysia và tỉnh Tây Kalimantan, Indonesia. Nó được tìm thấy ở cao độ thấp (10–130 m) trong các thung lũng ẩm ướt, trong các rừng thạch nam (kerangas) nhiệt đới trên đất cát với lớp mùn dày và trên đất podzol.
Mô tả.
Cây thảo thân rễ, lâu năm, nhỏ, mọc thành cụm, cao 25–35 cm. Thân rễ bò lan, gồm các lóng ngắn khoảng 0,5 cm. Các chồi lá không khác biệt, nhiều (2-6) lá, cụm chặt cùng nhau tạo ra bề ngoài như búi lá. Cuống lá vừa phải, dài 6–9 cm, mỏng, có rãnh, nhẵn nhụi; bẹ không lá bao phủ mép mỏng, dạng màng, khi khô màu nâu, dài 5–7 cm. Bẹ lá dài rộng 3–4 mm, rộng, khác biệt. Lưỡi bẹ 2 thùy, dài 1,5–2 mm, nhẵn nhụi. Phiến lá từ thẳng tới hình elip, hình mác, đỉnh nhọn thon và nhọn đột ngột, đáy thon nhỏ dần, dài 7–15 cm và rộng 2-3,5 cm, hơi bất đối xứng, có mấu nhọn, gân ở cả hai bên phần giữa 4 song song dạng giấy, nhẵn nhụi; mặt trên màu xanh lục sẫm và trở thành màu xám khi khô; mặt dưới màu xanh lục nhạt đôi khi có ánh tía và trở thành màu nâu đỏ khi khô, nhẵn nhụi đến thưa lông tơ dọc theo gân giữa. Cụm hoa ở bên, dài 9 cm, xếp lợp khi non và trở thành lỏng lẻo hơn và nhẵn nhụi do trục thuôn dài theo tuổi. Cuống cụm hoa dài 2–5 cm, nói chung nhẵn nhụi, đôi khi có lông tơ. Lá bắc 8-12; dài 2-3,5 cm, rộng 0,7 cm; cứng; thẳng với đáy cụp trong và trở thành hở về phía đỉnh, nhiều hoa; đỉnh từ nhọn tới có mấu nhọn, đôi khi màu tía; mép mỏng, hơi nhăn, đôi khi có ánh đỏ; mặt ngoài có lông tơ mịn che phủ, nhẵn nhụi khi già; màu nâu khi khô; mỗi lá bắc đỡ ~4 hoa. Lá bắc con nhỏ, dài 5 mm, hình trứng, nhọn cuốn trong nhẵn nhụi; lá bắc con thứ nhất dài 1–2 cm, thẳng, nhẵn nhụi, đỉnh nhọn. Hoa có cuống rất ngắn, đực; bầu nhụy vô sinh, nhẵn nhụi, dài 2 mm; đài hoa dài 9 mm, khe chẻ một bên; ống tràng thanh mảnh, dài 12 mm; thùy tràng lớn hầu như không có nắp, nhọn, đỉnh hơi cuộn vào trong, dài 8–9 mm; cánh môi ngắn, dài 10 mm, 2 thùy sâu; nhị ngắn hơn cánh môi, dài 7–8 mm; nhị lép bên dài như nhị; mô vỏ bao phấn dài 7–8 mm; mào ngắn và tù; mô liên kết ngắn, cắt cụt; nhị lép bên tù, dài xấp xỉ bằng nhị hoa, ~8 mm.
Loài này về hình thái là tương tự như "S. malaccana" có trên bán đảo Mã Lai hơn là với các loài "Scaphochlamys" khác ở Borneo do có các cụm hoa sắp xếp lỏng lẻo với các lá bắc dạng da bền cuộn trong chặt ở gần đáy nhưng dẹt ở gần đỉnh. "S. polyphylla" phân biệt với "S. samunsamensis" ở chỗ các phiến lá hẹp hơn, chỉ rộng ~2–3,5 cm với mặt xa trục nhẵn nhụi (không rộng tới ~4,5 cm với mặt xa trục có lông tơ), và hoa có mùi hôi rất nhẹ (không nồng như mùi hoa nhài). Loài này phổ biến rộng và có thể đại diện cho một tổ hợp loài. Nhìn chung, các cây thu được từ các địa phương khác nhau là khá giống nhau. Tuy nhiên, các cây riêng lẻ từ các quần thể khác biệt có thể có một vài đặc điểm khác nhau, bao gồm sự hiện diện của màu đỏ (trên cuống lá, trên mặt xa trục của phiến lá, cuống cụm hoa và lá bắc), chiều dài của nhị lép và mùi hoa. Các loài có sự biến đổi màu sắc không phải là hiếm ở "Scaphochlamys" (ví dụ như "S. biloba", "S. breviscapa" và "S. kunstleri"), và chiều dài nhị lép có thể khác nhau ngay cả trong cùng một quần thể. Các lá bắc của "S. polyphylla" ban đầu chụm lại gần nhau trước khi trục cụm hoa thuôn dài ra để tạo ra một cụm hoa sắp xếp lỏng lẻo. Vì thế, các cụm hoa non có vẻ khác với các cụm hoa thuần thục. Sự khác biệt về mùi hoa xảy ra với các bộ sưu tập từ Lundu tạo ra mùi hôi rất nhẹ trong khi các bộ sưu tập từ Sri Aman tạo ra mùi khó phát hiện.
Nhóm "Polyphylla".
Nhóm "Polyphylla" được xác định bằng cụm hoa sắp xếp xoắn ốc lỏng lẻo; các lá bắc như da, bền, lá bắc con có thể phân biệt được với lá bắc, ngắn hơn, lá bắc con thứ nhất gập đôi; hoa nhỏ, dài ~3 cm với cánh môi ~1,5 cm (các sọc tía gần đáy). Nhóm này chỉ hạn chế ở chỏm phía tây Sarawak và tỉnh Tây Kalimantan. Bao gồm 2 loài là "S. polyphylla" và "S. samusamensis". | 1 | null |
Scaphochlamys reticosa là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Henry Nicholas Ridley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1905 dưới danh pháp "Gastrochilus reticosa" (đúng ra là "Gastrochilus reticosus" do "Gastrochilus" là danh từ giống đực). Năm 1987, Rosemary Margaret Smith chuyển nó sang chi "Scaphochlamys".
Năm 2016, Yen Yen Sam "et al." tách 8 loài ở Borneo (gồm "S. argentea", "S. biru", "S. calcicola", "S. iporii", "S. petiolata", "S. reticosa", "S. salahuddiniana", "S. stenophylla") ra thành chi riêng, gọi là "Borneocola" - với "B. reticosus" là loài điển hình, nhưng Ooi "et al." (2017) cho rằng việc tách ra này chưa đủ độ thuyết phục và vẫn duy trì 8 loài này trong chi "Scaphochlamys".
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "H.N. Ridley s. n."; thu thập ngày 22 tháng 9 năm 1904 tại Bidi, tỉnh Kuching, bang Sarawak, Malaysia. Holotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Singapore (SING). Tọa độ điểm lấy mẫu định danh khoảng tọa độ .
Từ nguyên.
Tính từ định danh "reticosa" nghĩa là mắt lưới, khảm; ở đây là nói tới đặc điểm hệ gân lá dạng khảm mắt lưới nổi rõ ở mặt gần trục (mặt trên) của phiến lá rất khác biệt của loài này.
Phân bố.
Loài này có trên đảo Borneo, tại huyện Bau, tỉnh Kuching, bang Sarawak, Malaysia. Môi trường sống là rừng trên đất đen mollisol chân đồi đá vôi nhiều bóng râm, ở cao độ khoảng 40 – 50 m.
Mô tả.
Địa thực vật thân thảo, sống lâu năm, có thân rễ, cao tới ~10 cm. Thân rễ thanh mảnh, bò lan xuyên qua mặt đất. Các chồi lá cách nhau ~20 mm, 1 lá; cuống lá dài 6–8 cm, nhẵn nhụi, có rãnh mặt trên; bẹ không lá ~2, dài 1,5–4 cm, cả hai đều áp ép chặt vào cuống lá, màu xanh lục nhạt khi non, nhẵn nhụi, đỉnh có mấu nhọn, khô xác khi già; bẹ lá dài 2 cm; lưỡi bẹ dài 1–2 mm, mỏng và dạng màng, hình tam giác, nhưng không luôn luôn nhìn thấy do nhanh rữa nát khi già; phiến lá 6–10 × 4,5–6 cm, hình trứng, gần như da, đáy hơi hình tim đến thuôn tròn, thon nhỏ dần ngắn, đỉnh nhọn, có túm lông; mặt gần trục màu xanh lục từ tươi tới sẫm, gân giữa lõm, tất cả các gân khác nổi tạo ra bề mặt có kết cấu gờ và mắt lưới khác biệt (khảm) – từ đây mà có tính từ định danh "reticosa"; mặt xa trục màu xanh lục nhạt, nhẵn nhụi hoặc có lông tơ. Cuống cụm hoa dài ~2 cm, màu xanh lục nhạt. Cụm hoa suy giảm, dài ~3,8 cm, kết đặc, bao gồm 5 lá bắc xếp lợp, lá bắc thứ nhất kích thước ~18 × 5 mm, hở tới đáy, hình thuyền, nhẵn nhụi, mép uốn cong vào, đỉnh nhọn, mỗi lá bắc đỡ ~2 hoa; lá bắc con thứ nhất dài ~15 mm, 2 gờ lưng, các lá bắc con kế tiếp nhỏ hơn; hoa nhỏ, nở từng bông một, đài hoa dài 14 mm, có lông mịn dài che phủ, đỉnh 2 răng và khe chẻ sâu; ống hoa dài 18 mm, màu trắng; các thùy tràng hoa màu vàng trong mờ nhạt; thùy tràng lưng 7 × 3 mm, đỉnh có nắp; các thùy tràng bên dài 6 mm, thẳng, mép hơi quăn vào, đỉnh thuôn tròn; nhị lép 5 × 2 mm, ngắn, hình chùy, đỉnh thuôn tròn, hẹp về phía đáy, với lông tuyến, màu trắng; cánh môi 9 × 8 mm, thuôn tròn hình thìa, đáy hẹp, có vuốt, mặt gần trục có lông tuyến, màu trắng ở đáy và tím hoa cà nhạt tới đỉnh, dải giữa màu vàng nhạt, đỉnh thuôn tròn, khe chẻ sâu 3 mm và xếp chồng; nhị về tổng thể màu trắng; chỉ nhị ngắn; mô vỏ bao phấn dài 4 mm với đáy thuôn tròn, không cựa, mào dài 1–2 mm, 2 răng; đầu nhụy nằm ngay trên mô vỏ bao phấn, hình chén, mép có lông rung ngắn; bầu nhụy dài 1–4 mm, 1 ngăn, có lông mịn dài che phủ. Không thấy quả và hạt.
Nhóm "Petiolata" được xác định bằng cụm hoa chen chúc chặt, sắp xếp xoắn ốc, các lá bắc dạng màng, các lá bắc con tương tự như lá bắc, với lá bắc con thứ nhất ngắn hơn lá bắc, 2 gờ lưng rất mờ nhạt, hoa nhỏ, dài ~4 cm với cánh môi chủ yếu có màu tím dài ~1 cm và quả có vỏ quả ngoài nhẵn. Nhóm này chỉ giới hạn ở phía tây Sarawak, gồm 10 loài là "S. argentea", "S. biru", "S. durga", "S. hasta", "S. multifolia", "S. nigra", "S. petiolata", "S. pseudoreticosa", "S. reticosa", "S. stenophylla". | 1 | null |
Scaphochlamys rubescens là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Thaya Jenjittikul và Kai Larsen mô tả khoa học đầu tiên năm 2002.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "T.Tiptabiankarn 5080"; thu thập trong Khu bảo tồn động vật hoang dã Hala Bala, huyện Sukhirin, tỉnh Narathiwat, miền nam Thái Lan. Mẫu holotype lưu giữ tại Đại học Aarhus, Đan Mạch (AAU), mẫu isotype lưu giữ tại Cục Vườn quốc gia, Bảo tồn Động vật hoang dã và Thực vật, Bộ Tài nguyên Thiên nhiên và Môi trường Thái Lan ở quận Chatuchak, Bangkok (BKF). Mẫu vật sống được Poonsak Vatcharakorn thu thập ngày 17 tháng 2 năm 2000 và được Thaya Jenjittikul trồng tại Bangkok.
Phân bố.
Loài này có tại miền nam Thái Lan, phần trên bán đảo (tỉnh Narathiwat). | 1 | null |
Scaphochlamys rubromaculata là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Richard Eric Holttum miêu tả khoa học đầu tiên năm 1950.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Corner E.J.H. SFN 30031" do Edred John Henry Corner (1906-1996) thu thập ngày 29 tháng 10 năm 1935 ở cao độ 700 ft (235 m), tọa độ , Ulu Bendong, huyện Kemaman, bang Terengganu. Mẫu lectotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Singapore (SING); các mẫu isolectotype lưu giữ tại Trung tâm Nghiên cứu Sinh học Indonesia tại Cibinong (BO), Vườn Thực vật Hoàng gia tại Edinburgh (E), Naturalis tại Leiden, Hà Lan (L).
Mẫu paratype "Corner E.J.H. SFN 30011" thu thập cùng ngày, cùng địa điểm, được lưu giữ tại E.
Phân bố.
Loài này có ở bang Terengganu, thuộc Malaysia bán đảo.
Mô tả.
Thân rễ mọc lệch lên trên, có các rễ cọc đỡ. Các chồi lá ngắn mọc thẳng, ken chặt (đôi khi cách nhau 1 cm), lá 1-2, nhiều bẹ không lá che phủ, bẹ dài nhất tới 12 cm, nhẵn nhụi. Phiến lá dài 15-20 cm, rộng 4,5-5 cm, màu xanh lục nhạt, mặt dưới nhạt hơn, hoàn toàn nhẵn nhụi, đỉnh nhọn không nhọn thon, đáy hình nêm và men xuống ngắn. Cuống lá cộng bẹ dài 6-10 cm. Cán hoa dài 4-6 cm, thưa lông. Trục cụm hoa dài 4 cm, nhẵn nhụi hoặc gần như nhẵn nhụi, hơi ngoằn ngoèo, bao gồm 6-8 lá bắc. Lá bắc sơ cấp màu xanh lục, hở, góc ở nách ~45 độ, dài 2,5-3 cm, rộng 12 mm, trải rộng hình elip, mép cuốn trong ở đáy, không mềm, hầu như không nhăn, hở về phía đỉnh (phiến gần như phẳng từ đây), đỉnh thuôn tròn nhọn đột ngột ngắn, đỡ 4 (hoặc hơn) hoa. Lá bắc thứ cấp (lá bắc con) thứ nhất dài 8 mm, các lá bắc con còn lại ngắn hơn. Ống tràng dài tới 2 cm, thùy tràng dài 8 mm, hẹp, màu trắng. Nhị lép dài 6 mm, rộng 2 mm, màu trắng, hở, hơi uốn ngược. Cánh môi dài 11 mm, rộng 8 mm, 2 thùy, các thùy thuôn tròn xếp lợp, màu trắng, dải giữa màu vàng nhạt với các đốm màu đỏ máu gần đáy và ở hai bên dải giữa. Chỉ nhị cộng bao phấn dài ~3,5 mm; mào liên kết uốn ngược, thuôn tròn, rộng 2,5 mm. Quả dài 12 mm, hình elipxoit, vỏ quả ngoài mỏng; hạt dài 10 mm.
Loài này gần giống với "S. malaccana", nhưng có cụm hoa ngắn hơn và hoa nhỏ hơn rất nhiều với các đốm màu đỏ ở hai bên dải giữa gần đáy cánh môi. | 1 | null |
Scaphochlamys subbiloba (cách viết khác: "Scaphochlamys sub-biloba") là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Henry Nicholas Ridley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1924 theo mẫu và mô tả trước đó của Isaac Henry Burkill. Trước đó, vào năm 1918 Theodoric Valeton đã đề cập tới mẫu vật này theo danh pháp "Gastrochilus subbiloba" (đúng ra là "Gastrochilus subbilobus" do "Gastrochilus" là danh từ giống đực) nhưng không kèm theo mô tả khoa học.
Năm 1950, Richard Eric Holttum chuyển nó sang chi "Scaphochlamys" với danh pháp được ông viết thành "Scaphochlamys sub-biloba".
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Burkill I.H. SFN 1002" do Isaac Henry Burkill (1870-1965) thu thập ở cao độ 300 m ngày 25 tháng 6 năm 1915 tại đảo Tioman (pulau/palau Tioman/Tiuman) trong vịnh Joara, thuộc huyện Rompin, bang Pahang. Mẫu lectotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K).
Phân bố.
Loài này là đặc hữu đảo Tioman, bang Pahang, Malaysia. Môi trường sống là rừng đồi núi duyên hải, ở cao độ 215 – 609 m.
Mô tả.
Thân rễ bò lan, khá mập. Các chồi lá nối tiếp nhau rất ngắn, 1-2 lá và vài bẹ không lá, bẹ dài nhất tới 10 cm, màu có ánh đỏ. Lá chen chúc, hình trứng tới hình mác-hình elip, hơi lệch, hẹp tại đáy thành hình nêm và hơi men xuống, đỉnh nhọn hiếm khi nhọn thon, có nhú ở phía dưới và với lông thưa khá dài hoặc nhẵn nhụi, mặt dưới nhẵn nhụi. Gân nhỏ, 6 đôi với nhiều gân con thanh mảnh nằm giữa, dài 10–20 cm, rộng 4–6 cm. Cuống lá với bẹ dài 7,5-11,5 cm, trong đó bẹ dài tới 6 cm, khá hẹp, nhẵn nhụi, cuống dài 3–6 cm, có lông thanh mảnh. Cán hoa dài 3–7 cm, khá thanh mảnh, có lông ngắn. Trục cụm hoa dài 6–10 cm, ngoằn ngoèo nhiều hay ít, có lông như cán hoa. Lá bắc 5-12, tỏa rộng, cách nhau 6–12 mm, hình mác nhọn thon hẹp tới hình thuyền cứng-hình elip, nhọn, dài 2,2-2,8 cm, rộng 6–8 mm khi dẹt, có lông ở phần xa (nhẵn nhụi khi già) với toàn bộ rìa cụp trong (không tỏa rộng về phía đỉnh như ở S. malaccana), mỏng, không nhăn, không lông, bao 2 hoa (hoặc hơn) trong nách lá bắc. Lá bắc con thứ nhất dài ~1,3 cm, các lá bắc con khác ngắn hơn. Ống tràng rất thanh mảnh, dài ~2,5 cm; các thùy hình mác, dài 8–10 mm, màu trắng. Nhị lép dài tương đương thùy tràng lưng và rộng tương đương, thuôn dài, tù, màu trắng. Cánh môi hình nêm ngược rộng, hơi dài hơn, đỉnh rộng gần cắt cụt, 2 thùy rất ngắn, màu trắng với dải giữa màu vàng nhạt, không có màu khác.
Rất giống với "S. tenuis" ở Kemaman nhưng có cụm hoa ngắn hơn và các lá bắc tỏa rộng. Nó khác "S. malaccana" ở chỗ các lá bắc cứng và hẹp, với toàn bộ mép cụp trong, cánh môi với xẻ thùy nông hơn. Giống như "S. tenuis", các lá bắc của nó có màu nâu khi khô chứ không phải màu xanh lục như ở "S. malaccana". | 1 | null |
Scaphochlamys sylvestris là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Henry Nicholas Ridley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1893 dưới danh pháp "Curcuma sylvestris". Năm 1950, Richard Eric Holttum chuyển nó sang chi "Scaphochlamys".
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Ridley H.N. 2400" do Henry Nicholas Ridley (1855-1956) thu thập năm 1891 tại rừng ven sông Tahan, huyện Jerantut, bang Pahang. Mẫu lectotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K).
Từ nguyên.
Tính từ định danh "sylvestris" / "silvestris" (giống trung "sylvestre" / "silvestre") có nghĩa là rừng, gắn liền với rừng, sinh sống trong rừng.
Phân bố.
Loài này có tại Vườn quốc gia Taman Negara, trong rừng ven sông Tahan và chi lưu của nó là sông Teku, thuộc huyện Jerantut, Khu bảo tồn rừng Gunung Aais, cũng thuộc huyện Jerantut và tại núi Tapis (Gunung Tapis) trong huyện Kuantan, tất cả đều thuộc bang Pahang, Malaysia. Ngoài ra, nó cũng được tìm thấy trong Khu bảo tồn rừng Hulu Telemong, huyện Hulu Terengganu, bang Terengganu, Malaysia.
Loài cây thảo thân rễ này được tìm thấy trong các rừng khộp (Dipterocarpaceae) vùng đất thấp và vùng đồi trên bán đảo Mã Lai, ở cao độ 91–457 m. Nó là loài to lớn nhất trong chi "Scaphochlamys", cao tới 1 m. Nó được tìm thấy ở các dốc thấp trong các thung lũng, thường là trong các khoảng trống dưới các tán cây nhỏ với thảm thực vật mặt đất rất thưa thớt.
Mô tả.
Thân rễ dày ~6 mm khi khô, hầu không không có mùi thơm, thanh mảnh, bò lan xa, bẹ khô che phủ, phần lớn ngầm dưới đất. Khoảng cách giữa các chồi lá 3–5 cm. Chồi lá ngắn, thường 1 lá, ra cùng hoa, vài bẹ không phiến lá, dài 5–10 cm, dài nhát tới 14 cm, bao quanh cuống lá và cán hoa. Cuống lá thanh mảnh, dài 30–45 cm; bẹ dài khoảng 3 cm; các thùy lưỡi bẹ hơi nổi trên điểm gắn của bẹ; phiến lá dài 20–26 cm, rộng 10–12 cm, mỏng, hình trứng hẹp, nhọn thon rất ngắn, đáy thuôn tròn tới gần hình tim, mặt trên màu xanh lục, mặt dưới màu tía, lông trên gân giữa ở mặt dưới. Cán hoa dài 10–15 cm, thanh mảnh, cành hoa bông thóc từ hình nón ngược tới hình trứng hay hình elipxoit, dài 3,7–5 cm, rộng 2,5–3 cm, gồm nhiều lá bắc xếp lợp, hơi thô ráp. Lá bắc nhẵn nhụi, dài ~2,5 cm và rộng ~1,5 cm, màu hồng, hình trứng rộng tới hình elip, có sọc, đỉnh uốn ngược ra ngoài với ánh đỏ, có mấu nhọn, mép mỏng nhưng không nhăn, gập nếp gần như với nhau gần đỉnh, mỗi lá bắc đỡ ~3 hoa. Lá bắc con thứ nhất dài 1,8 cm, rộng 1 cm khi dẹt; lá bắc con thứ hai dài 1,4 cm, rộng 5 mm khi dẹt. Hoa thò ra ngắn, nhỏ, màu trắng tới vàng nhạt. Đài hoa với bầu nhụy dài 1,1 cm. Ống tràng dài 1,2 -2,5 cm, hơi ngắn hơn lá bắc, màu trắng, thanh mảnh; các thùy hẹp, thẳng nhọn, dài ~1,2 cm, màu trắng. Nhị lép dài như thùy tràng hoa nhưng rộng hơn, thuôn dài dạng lưỡi, đầu tù hay thuôn tròn, màu trắng. Cánh môi hơi dài hơn thùy tràng hoa, thuôn dài hình trứng ngược với đỉnh 2 thùy, đỉnh có khía răng cưa, các thùy thuôn tròn, màu trắng, dải giữa màu vàng, các sọc màu tím ở các thùy ở hai bên dải giữa. Chỉ nhị rộng. Bao phấn thuôn dài; các túi phấn thẳng, hẹp với đầu đáy rời nhọn ngắn; mô liên kết tạo thành mào rộng, uốn ngược, tù, màu tím sẫm. Phấn hoa màu vàng nhạt. Không thấy quả. | 1 | null |
Scaphochlamys tenuis là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Richard Eric Holttum miêu tả khoa học đầu tiên năm 1950.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Corner E.J.H. SFN 30543" do Edred John Henry Corner (1906-1996) thu thập ngày 22 tháng 11 năm 1935 ở tọa độ , ven sông Nipah (Sungai Nipah = Sungai Kemaman) tại Kemaman ở bang Terengganu. Mẫu holotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Singapore (SING), các isotype lưu giữ tại Trung tâm Nghiên cứu Sinh học Indonesia tại Cibinong (BO), Vườn Thực vật Hoàng gia tại Edinburgh (E) và Naturalis ở Leiden, Hà Lan (L).
Từ nguyên.
Tính từ định danh "tenuis" (giống trung: "tenue") nghĩa là mỏng, thanh mảnh, mảnh mai, mịn, yếu. Ở đây là để nói tới cụm hoa rất thanh mảnh của nó so với các loài "Scaphochlamys" khác.
Phân bố.
Loài này có ở bang Terengganu, Malaysia bán đảo. Nó mọc trên các đồi ở cao độ thấp.
Mô tả.
Cây thảo thân rễ cao 30–50 cm. Thân rễ trên mặt đất, hướng lên, được các rễ cọc ngắn nâng đỡ. Các chồi lá mọc thẳng đứng, kết đặc, tiếp xúc sát nhau, 2 lá (hiếm khi 1 lá), bẹ không phiến lá bao quanh, bẹ dài nhất tới 9–10 cm. Phiến lá dài 15–19 cm, rộng 5–7 cm, toàn bộ màu xanh lục, nhẵn nhụi hoặc gần nhẵn nhụi, hơi bất đối xứng, hình elip, đỉnh nhọn, hơi nhọn thon, đáy thuôn tròn hoặc hình nêm, hơi men xuống. Cuống lá thanh mảnh, dài 15–20 cm. Bẹ dài 3 cm, lưỡi bẹ hình tam giác, hơi nổi lên. Cán hoa dài ~4 cm, thanh mảnh, nhẵn nhụi. Cụm hoa dài 15–23 cm, thanh mảnh. Các lá bắc cách nhau 1,5–2 cm, áp ép vào trục cụm hoa. Trục cụm hoa nhẵn nhụi, hơi ngoằn ngoèo. Lá bắc sơ cấp màu xanh lục, mép mỏng, màu nâu, không nhăn, dài 2–3 cm, rộng 1 cm ở đáy khi ép dẹt, đỉnh nhọn hẹp, đáy bao quanh trục cụm hoa, đỡ 3-5 hoa. Lá bắc thứ cấp (lá bắc con) thứ nhất dài 17 mm, rộng 6 mm. Hoa hơi có mùi thơm, màu trắng. Bầu nhụy nhẵn nhụi, 1 ngăn, đôi khi chứa 1 noãn. Đài hoa cộng bầu nhụy dài 12–13 mm. Ống tràng dài hơn lá bắc sơ cấp ~7 mm, các thùy dài 10 mm. Nhị lép rộng 3 mm, hơi ngắn hơn thùy tràng hoa. Cánh môi màu trắng, 2 thùy, các thùy thuôn tròn, xếp lợp; dải giữa màu vàng nhạt (không có phần mép màu tím hoa cà), dài 13 mm. Chỉ nhị dài 2 mm. Bao phấn dài 4 mm. Mô liên kết uốn ngược, rộng 3 mm, ngắn, hơi 3 thùy, hơi có ánh màu tím hoa cà. Nhụy lép thanh mảnh, nhọn, dài 2,5 mm. Quả hình elipxoit, dài 13 mm, 1 ngăn, đôi khi chứa 1 hạt. Hạt dài 11 mm, hình elipxoit.
Loài này được phân biệt nhờ cụm hoa rất thanh mảnh với các lá bắc áp ép xa. Nó gần giống như "S. malaccana", nhưng có cán hoa dài hơn và các lá bắc không tỏa rộng. Hoa cũng nhỏ hơn của "S. malaccana", với cánh môi có lẽ xẻ thùy sâu hơn. Lá non của "S. tenuis" có thể có màu tía ở mặt dưới. Các lá bắc của nó đôi khi xếp thành 2 dãy, nhưng đa phần là sắp xếp xoắn ốc. | 1 | null |
Siamanthus siliquosus là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Kai Larsen và John Donald Mood miêu tả khoa học đầu tiên năm 1998.
Phân bố.
Loài này được tìm thấy trong rừng thường xanh, ở cao độ 800 m, khoảng 10 km về phía tây làng La Lok, huyện Su-ngai Padi, tỉnh Narathiwat, miền nam Thái Lan. Tên gọi trong tiếng Thái: สยามมนัส (sayam manut).
Mô tả.
Cây thân thảo có thân rễ mọc thành các cụm ken đặc, cao đến 1,5 m; thân rễ dạng sợi. Thân giả với ba bẹ; lưỡi bẹ trong mờ, dài 1,2–1,5 cm. Phiến lá hình mũi mác, dài đến ~60 cm; đỉnh nhọn; đáy thu nhỏ dần; mép có lông; như lụa ở mặt dưới; cuống lá dài ~1,5 cm. Cụm hoa ở đầu cành, rời, chứa tới 20 hoa; trục nhẵn nhụi, dài 20–25 cm. Hoa màu da cam ánh đỏ, đơn, lộn ngược; lá bắc con thô sơ, nằm ở khoảng giữa cuống hoa; cuống hoa dài đến ~3 cm. Đài hoa hình ống, dài 3–4 cm, xẻ tới khoảng nửa chiều dài, hai răng, dài 5–7 mm. Ống tràng hoa dài 5–6 cm; thùy lưng tương tự như cánh môi, dài 9 cm, quay xuống dưới; các thùy bên nối một phần với cánh môi tạo thành môi dưới, dài 2–3 cm; đỉnh gồm 3 thùy hình chỉ, thùy giữa dài 4 cm, các thùy bên dài 7 mm; không nhị lép ở bên. Chỉ nhị dài đến ~2 cm; bao phấn dài 2,5–3 cm. Bầu nhụy 3 ngăn; vòi nhụy nằm trong rãnh bên trong nhị, rời khỏi bao phấn. Quả nang thẳng, rủ xuống, dài 5–11 cm. Hạt có góc cạnh, dài ~2 mm. | 1 | null |
Siphonochilus aethiopicus là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Georg August Schweinfurth miêu tả khoa học đầu tiên năm 1867 dưới danh pháp "Cienkowskia aethiopica". Tuy nhiên, chi "Cienkowskia" mà tác giả này mô tả lại ở tình trạng "nomen illegitimum" (tên gọi không hợp pháp), vì nó là tên đồng âm muộn của "Cienkowskya" = "Cordia" thuộc họ Cordiaceae/Boraginaceae.
Năm 1911, John Medley Wood & Millicent Franks mô tả chi "Siphonochilus" với loài "Siphonochilus natalensis" - loài điển hình của chi. Nó là "Kaempferia natalensis" chuyển sang (các tác giả xếp nó và 10 loài khác trong phân chi "Cienkowskia").
Năm 1982, Brian Laurence Burtt đồng nhất "Siphonochilus natalensis" với "Kaempferia aethiopica" và như thế danh pháp của nó là "Siphonochilus aethiopicus", do "Cienkowskia aethiopica" được công bố sớm nhất. | 1 | null |
Siphonochilus kirkii là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Joseph Dalton Hooker miêu tả khoa học đầu tiên năm 1872 dưới danh pháp "Cienkowskia kirkii". Năm 1982 Brian Laurence Burtt chuyển nó sang chi "Siphonochilus".
Phân bố.
Loài này có trong khu vực bao gồm Chad, Cộng hòa Dân chủ Congo, Cộng hòa Trung Phi, Dải Caprivi, Kenya, Malawi, Mozambique, Sudan, Tanzania, Uganda, Zambia, Zimbabwe. | 1 | null |
Siphonochilus nigericus là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Frank Nigel Hepper miêu tả khoa học đầu tiên dưới danh pháp "Kaempferia nigerica" vào năm 1968, dựa theo mô tả năm 1936 của John Hutchinson (Flora of West Tropical Africa, Quyển 2, trang 334). Năm 1982, Brian Laurence Burtt chuyển nó sang chi "Siphonochilus". | 1 | null |
Curcuma supraneeana là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Walter John Emil Kress và Kai Larsen mô tả khoa học đầu tiên năm 2001 dưới danh pháp "Smithatris supraneanae". Năm 2015, Jana Leong-Škorničková gộp "Smithatris" vào chi "Curcuma" và chuyển nó sang chi này, theo danh pháp được Walter John Emil Kress và Thet Htun chỉnh lại từ "Smithatris supraneanae" thành "Smithatris supraneeana" trong bài báo năm 2003. Mẫu định danh: "K. Larsen 47207" (holotype) thu thập ngày 5 tháng 9 năm 1998 ở tọa độ , cao độ khoảng 200 m trên núi đá vôi tại tỉnh Saraburi, miền trung Thái Lan.
Từ nguyên.
Danh từ giống cái "Smithatris" là để vinh danh nhà thực vật học người Scotland Rosemary M. Smith còn tính từ định danh "supraneanae" / "supraneeana" là để vinh danh bà Supranee Kongpitchayanond, một người trồng các loài cây họ Gừng nổi tiếng ở Thái Lan và cũng là người đã thông báo cho nhóm tác giả về loài này.
Phân bố.
Loài này có ở miền trung Thái Lan. Môi trường sống là rừng lá sớm rụng thưa trên đất có nguồn gốc đá vôi hay đồng cỏ trên các sườn dốc đá vôi, ở cao độ 100–200 m.
Mô tả.
Cây thảo thân rễ cao tới 120 cm, rễ có các củ hình cầu. Tương tự như "C. myanmarensis" ở chỗ lá có cuống, cuống cụm hoa dài với các lá bắc ken đặc, ống tràng hoa dài cong theo kiểu xoắn ốc để kéo hoa tụt vào trong lá bắc sau khi nở. Tuy nhiên, chúng khác nhau ở chỗ "C. supraneeana" về tổng thể là cao lớn hơn, phiến lá hình mũi mác với cuống lá ngắn hơn (~ 4 cm), cuống cụm hoa dài hơn (tới 100 cm), tất cả các lá bắc đều tươi màu và là hữu sinh. Hoa của chúng cũng có khác biệt, với "C. supraneeana" có thùy tràng lưng có nắp và lớn hơn 2 thùy tràng bên; các nhị lép bên với thùy tràng lưng tạo thành một nắp phía trên bao phấn và cánh môi xẻ thùy sâu.
Sử dụng.
Những thân cây có hoa được người dân địa phương thu hái trong mùa Khao Phansa của Phật giáo và bán cho khách viếng thăm chùa. Gần đây nó cũng bắt đầu được trồng ở Thái Lan và xuất khẩu sang châu Âu. Có hàng ngàn cây mọc trong Vườn thực vật Phu Kae. | 1 | null |
Stadiochilus burmanicus là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Rosemary Margaret Smith miêu tả khoa học đầu tiên năm 1980. Hiện tại, nó cũng là loài duy nhất được mô tả trrong chi Stadiochilus.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Keenan J., U Tun Aung & U Tha Hla 3733"; thu thập tháng 2 năm 1962 ở cao độ 1.520 m, tọa độ khoảng , gần làng Hpunginhku, huyện Putao, bang Kachin, lối đi phía đông từ Sumprabum lên dãy núi Kumon. Holotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Edinburgh (E).
Phân bố.
Loài này có ở huyện Putao, bang Kachin, Myanmar. | 1 | null |
Curcuma involucrata là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được John Gilbert Baker miêu tả khoa học đầu tiên năm 1890 dưới danh pháp "Kaempferia involucrata". Trong một thời gian dài, người ta biết đến nó dưới danh pháp "Stahlianthus involucratus". Năm 2015, Jana Leong-Škorničková chuyển nó sang chi "Curcuma".
Tên gọi trong tiếng Trung là 土田七 (thổ điền thất).
Phân bố.
Loài này có tại đông bắc Ấn Độ (Assam, Sikkim), Bangladesh, Myanmar, Thái Lan và Trung Quốc (Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam). Môi trường sống là nền rừng, sườn núi, cũng được trồng.
Mô tả.
Thân rễ ruột màu vàng nâu, đường kính ~1 cm, có mùi thơm nồng; rễ nở ra thành các củ hình cầu ở đỉnh. Không thân. Lá mọc thẳng; cuống lá 6-18 cm, mọc thẳng; phiến lá màu xanh lục hoặc hơi tía, hình trứng ngược-thuôn dài hoặc hình mác hoặc mác ngược-thuôn dài, 10-18 × 2-3,5(-5) cm. Cuống cụm hoa 2,5-10 cm; tổng bao thẳng, 4-5 × 2-2,5 cm, đỉnh 2 hoặc 3 thùy, với các đốm nhỏ, màu nâu, có tuyến; lá bắc con thẳng, ~1,5 cm, như màng. Hoa vài bông, mọc thành đầu hoa. Đài hoa 0,9-1,1 cm. Ống tràng hoa 2,5-2,7(-3,8) cm; thùy ~1,2 cm, thùy trung tâm nhọn đột ngột ở đỉnh. Các nhị lép bên hình mác ngược, có mào, thuôn dài, màu trắng, (0,8)-1,6-2 cm × ~4 mm. Cánh môi màu trắng với một đốm màu vàng ở trung tâm, hình thìa, ~2 × 1,3 cm, đỉnh có khía răng cưa. Chỉ nhị ~2 mm; bao phấn ~5 mm; phần phụ liên kết nửa tròn, ~3 cm. Bầu nhụy hình trứng, ~3,5 mm. Vòi nhụy thẳng; đầu nhụy có lông rung. Ra hoa tháng 5-6. "2n" = 22.
Sử dụng.
Y học dân gian làm thuốc chữa bệnh.
Chú thích.
| 1 | null |
Curcuma macrochlamys là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được John Gilbert Baker miêu tả khoa học đầu tiên năm 1890 dưới danh pháp "Kaempferia macrochlamys". Năm 1912, William Grant Craib chuyển nó sang chi "Stahlianthus". Năm 2015, Jana Leong-Škorničková gộp "Stahlianthus" vào "Curcuma" và chuyển nó sang chi này.
Phân bố.
Loài này có trong dãy núi Tenasserim, ở Myanmar và Thái Lan (Doi Suthep, Chiang Mai). Môi trường sống là rừng rậm nhiệt đới thường xanh, ở cao độ 900 m.
Mô tả.
Không thân. Lá 4-5, 4-5 × 1 inch (10-13 × 2,5 cm) hình mác có cuống, nhọn, thu hẹp dần thành cuống có rãnh dài 2-3 inch (5-7,5 cm). Cụm hoa có cuống ngắn. Lá bắc ngoài 2 inch (5 cm), thuôn dài, màu nâu ánh tía. Hoa trắng. Các phần của tràng hoa dài 0,5 inch (1,3 cm). Nhị lép hình tròn-hình nêm, hơi dài hơn các phần tràng hoa. Môi rộng 1 inch (2,5 cm), xẻ thùy sâu tới 50% chiều dài thành 2 thùy tròn, màu vàng và nhiều lông ở mặt dưới. Mào bao phấn hình trứng, nguyên. | 1 | null |
Curcuma pedicellata là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Arunrat Chaveerach và Piya Mokkamul mô tả khoa học đầu tiên năm 2007 dưới danh pháp "Stahlianthus pedicellatus". Năm 2015, Jana Leong-Škorničková chuyển nó sang chi "Curcuma". Mẫu định danh: "P. Mokkamul & A. Chaveerach 315", thu thập ở cao độ 200–300 m, tại làng Wang Krabao, huyện Pla Pak, tỉnh Nakhon Phanom, Thái Lan. Tên gọi thông thường trong tiéng Thái là "waan dak dae", "kra chaeo khao".
Từ nguyên.
Tính từ định danh là để chỉ hoa có cuống rõ nét của nó.
Phân bố.
Loài này được tìm thấy ở huyện Pla Pak, tỉnh Nakhon Phanom, đông bắc Thái Lan. Môi trường sống là đất cát tơi xốp rải rác với sa thạch và đá ong dưới tán các loài như "Shorea obtusa" và "S. siamensis" trong rừng lá sớm rụng, ở cao độ 200–300 m.
Mô tả.
Cây thân thảo một năm, thân rễ ngắn, thẳng, mập, các rễ sợi đôi khi phình to thành củ hình cầu ở đỉnh. Thân giả cao 15–30 cm, xuất hiện sau khi cụm hoa héo. Bẹ lá 2-3, 4,0-8,0 × 0,6-0,8 cm, màu đỏ, đỏ ánh lục hay lục với sọc đỏ, đỉnh nhọn. Cuống lá dài 4,0-6,5 cm, xanh lục, đỏ hay lục ánh đỏ, mặt trên có đường xoi, nhẵn nhụi. Lưỡi bẹ rất ngắn, dài ~0,2 cm, đỉnh 2 thùy, tù đến thuôn tròn, có lông rung. Lá thẳng, hình trứng ngược hẹp-thuôn dài hoặc hình mác ngược thuôn dài, 12,5-16,5 × 1,0-1,5 cm, đáy hình nêm hẹp, đỉnh nhọn, có lông rung, mặt trên xanh lục với sọc đỏ dọc theo gân giữa, nhẵn nhụi, mặt dưới xanh lục, ánh tía hoặc lục ánh tía, có lông tơ. Cụm hoa sinh từ thân rễ, thẳng, dài 4,5-9,0 cm, cuống cụm dài 3,0-6,0 cm, phẳng hay hình trụ. Lá bắc hình chuông, 3,2-3,5 × 1,3-1,7 cm, đỉnh 2 thùy hiếm khi 3 thùy, đỉnh thùy tù đến nhọn, uốn ngược, màu xanh lục rậm các sọc từ đáy tới đỉnh hoặc đỏ, nhẵn nhụi. Lá bắc con thẳng, 1,0 × 0,1 cm, như màng, đỉnh tù, nhẵn nhụi. Hoa 15-30, trắng, cuống hoa dài ~0,3 cm. Ống đài 8,0 × 0,3 cm, như màng, đỉnh 3 thùy, đỉnh thùy thuôn tròn, nhẵn nhụi. Ống tràng ~1,5 × 0,2 cm, thon về phía miệng, màu trắng, nhẵn nhụi, thùy lưng hình trứng-thuôn dài, ~1 × 0,4 cm, hình thuyền, đỉnh có nắp với mấu nhọn dài ~0,1 cm, màu trắng, nhẵn nhụi, thùy bên hình trứng-thuôn dài, ~1,0 × 0,4 cm, đỉnh thuôn tròn, màu trắng, nhẵn nhụi. Nhị lép bên hình trứng ngược, 1,2 × 0,5 cm, mặt trong có lông, đáy màu vàng, đỉnh màu trắng. Cánh môi hình thìa, 1,8-2,0 cm × 1,3-1,5 cm, vuốt ở đáy 0,7 × 0,5 cm, phần trung tâm màu vàng với vết màu đỏ tại đáy, đỉnh màu trắng, có khía răng cưa hoặc 2 thùy ngắn, đỉnh thùy thuôn tròn và khía tai bèo, có lông. Chỉ nhị rất ngắn, ~0,2 × 0,1 cm, phẳng, trắng, nhẵn nhụi. Bao phấn 0,2-0,3 × 0,1-0,2 cm, trắng, nhẵn nhụi, mào bao phấn hình trứng, 0,3-0,4 × 0,2-0,3 cm, đỉnh tù đến thuôn tròn hiếm khi có khía răng cưa, trắng, nhẵn nhụi. Đầu nhụy hình chén, với thùy giữa mặt lưng trải dài ~0,05 cm, trắng, nhẵn nhụi. Quả hình elipxoit, 0,7-0,8 × 0,4-0,5 cm, hình tam giác, trắng, nhẵn nhụi, 3 ngăn, noãn đính trụ, cuống dài ~0,3 cm. Hạt nhiều, hình trứng-thuôn dài, 0,3 × 0,1 cm, nâu, áo hạt có khe nứt. Ra hoa tháng 4, tạo quả tháng 5.
Nó có quan hệ họ hàng gần với "S. involucratus" ở các điểm như rễ phình to thành củ ở đỉnh, lá bắc thẳng, đỉnh 2 hoặc 3 thùy, lá bắc con thẳng, như màng, cánh môi màu trắng với vết màu vàng trung tâm, hình thìa, đỉnh khía răng cưa. Tuy nhiên, nó khác ở chỗ nở hoa trong mùa khô với 1 hoặc 2 phiến nhỏ tiêu giảm, thân giả xuất hiện sau khi hoa đã héo, đáy cánh môi có vết màu đỏ, đầu nhụy nhẵn nhụi. | 1 | null |
Curcuma clovisii là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng.
Lịch sử phân loại.
Loài này được François Gagnepain miêu tả khoa học đầu tiên năm 1907 dưới danh pháp "Stahlianthus thorelii". Hai mẫu định danh không số do Clovis Thorel thu thập tại Pissay và Lakhòn, Lào. Lakhòn nay là Nakhon Phanom, Thái Lan.
Năm 2012, Eliška Záveská "et al." thấy rằng "S. campanulatus", "S. involucratus" và một số họ hàng gần của chúng lồng trong phân chi "Hitcheniopsis" của chi "Curcuma", nên năm 2015 Jana Leong-Škorničková chuyển "S. thorelii" sang chi "Curcuma". Tuy nhiên, do danh pháp "Curcuma thorelii" đã được dùng cho một loài khác cũng do chính Gagnepain mô tả năm 1907, nên Škorničková đã đổi danh pháp thành "Curcuma clovisii".
Từ nguyên.
Cả hai danh pháp "Stahlianthus thorelii" và "Curcuma clovisii" đều để vinh danh nhà thực vật học người Pháp Clovis Thorel (1833-1911), người đã tham gia vào chuyến thám hiểm sông Mekong giai đoạn 1866-1868.
Phân bố.
Loài này có tại Lào và Thái Lan.
Mô tả.
Cán hoa cao 8-10 cm; vảy dài 1-5 cm; lá bắc tổng bao dài 33 mm, rộng 7-8 mm. Đài hoa dài 7-8 mm. Tràng hoa trước khi nở hoa dài 2 cm, ống tràng dài 1 cm; thùy sau dài 11 mm. Cánh môi đường kính 9 mm. Ngăn bao phấn dài 5 mm, phiến mô liên kết dài 2,5 mm. Về cơ bản, loài này giống với "Stahlianthus campanulatus", nhưng có thể phân biệt được nhờ: các lá của nó xuất hiện sau khi ra hoa, tổng bao ngắn hơn và đài hoa ngắn hơn 2 lần. | 1 | null |
Vanoverberghia sasakiana là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Hidenobu Funakoshi và Hiroyoshi Ohashi mô tả khoa học đầu tiên năm 2000.
Từ nguyên.
Tính từ định danh loài là để vinh danh Shun’ichi Sasaki (1888–1960), một nhà thu thập mẫu thực vật của Cục Lâm nghiệp Đài Loan, người đầu tiên đã thu thập mẫu của loài này vào tháng 7 năm 1912.
Phân bố.
"V. sasakiana" là loài bản địa đảo Lan Tự, huyện Đài Đông, Đài Loan và miền bắc Philippines, trong các rừng nguyên sinh ở cao độ 300-1.400 m (980-4.600 ft). Tên gọi trong tiếng Trung tại Đài Loan là 蘭嶼法氏薑 (Lan Tự pháp thị khương).
Mô tả.
Cây thân thảo sống cạn mọc thành cụm. Chồi lá mọc thẳng rồi uốn cong, thân giả dài 2–3 m, gốc hình củ hành; bẹ lá nhẵn nhụi, ánh đỏ; lưỡi bẹ hình trứng, dài 4–5 mm, như da, nhẵn nhụi, màu nâu ánh đỏ, đỉnh thuôn tròn và nguyên; cuống lá thon tròn, dài 3–4 mm, nhẵn nhụi, màu xanh lục; phiến lá thuôn dài, 50–55 × 11–13 cm, gân lá khó thấy, nhẵn nhụi cả hai mặt, gốc thon nhỏ dần, mép nguyên, đỉnh hình đuôi với chóp lông roi. Cụm hoa dài 12–40 cm; cuống thon tròn, dài 30–50 mm, nhẵn nhụi, màu xanh lục, đối diện 2–3 lá bắc bền; cán hoa thon tròn, dài 5–20 cm, nhẵn nhụi, màu đỏ ánh vàng hoặc màu vàng; cuống hoa thon tròn, dài 8–9 mm, màu đỏ ánh vàng đến vàng; lá bắc hoa dạng mo, hình ống ở gốc, 25–27 × 10–12 mm khi dẹt, màu trắng mờ đến vàng với đỉnh ánh nâu; hoa tụ đặc dọc cán hoa, màu trắng; đài hoa hình phễu, dài 12–13 mm, màu trắng ánh vàng, đỉnh ba răng; ống tràng dài 6–7 mm, nhẵn nhụi, màu trắng; thùy tràng hoa thuôn dài đến thẳng-thuôn dài, 22 × 6 mm, nhẵn nhụi, trắng, đỉnh thuôn tròn, có nắp; cánh môi hợp sinh tại gốc của các thùy tràng hoa bên, phần tự do chẻ đôi hoặc chia thành hai thùy hình giùi, 12 × 2,5 mm, màu trắng, đáy có lông tơ, đỉnh các thùy hơi chẻ đôi; nhị lép bên hình chỉ, dài 10 mm, có lông tơ, màu trắng; chỉ nhị bao quanh vòi nhụy gần một nửa chiều dài trên cánh môi, dài 25–35 mm, màu trắng; bao phấn thuôn dài, 6-2,5 mm, như lụa, màu trắng, không mào; bầu nhụy hình gần cầu, 4–5 × 3–4 mm, nhẵn nhụi, màu trắng ánh vàng. Quả hình gần cầu, 15-17 × 12–15 mm, nhẵn nhụi, màu xanh khi thuần thục, đài hoa bền. Hạt hình gần cầu, có góc cạnh, màu đen với áo hạt màu trắng. Ra hoa diễn ra tháng 9-11, mặc dù một số quần thể nở hoa vào tháng 6. Ra quả vào khoảng tháng 1-3. | 1 | null |
Vanoverberghia sepulchrei là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Elmer Drew Merrill miêu tả khoa học đầu tiên năm 1912.
Từ nguyên.
Tính từ định danh loài là để vinh danh Jules Sépulchre (1880-1912), tu sĩ Công giáo đã hỗ trợ Morice Vanoverbergh trong các công cuộc thám hiểm thực vật tại Botoc, Luzon.
Phân bố.
"V. sepulchrei" là loài đặc hữu đảo Luzon, Philippines. Nó đặc biệt phổ biến ở các tỉnh Benguet, Ifugao, Mountain (Bulubundukin) và Sorsogon trong các khu rừng nguyên sinh, dọc theo các con suối và khe núi ở độ cao 700–1.600 m (2.300-5.250 ft). Các tên gọi thông thường tại Philippines: agbab hay akbab (tiếng Bontoc), barapat, paddapad hay chakchakil (tiếng Igorot).
Mô tả.
Cây thân thảo trên cạn mọc thành cụm lỏng lẻo hoặc dày dặc. Thân rễ ngang 3–4 cm, màu đỏ, khi cắt ra có mùi thơm nồng, vảy dày, màu nâu. Chồi lá mọc từ thẳng đến rủ xuống, thân giả dài 4–8 m, gốc hình củ hành, màu đỏ; bẹ nhẵn nhụi, màu xanh lục; lưỡi bẹ hình trứng, 7-13 × 6–10 mm, như da, nhẵn nhụi, màu đỏ, đỉnh thuôn tròn và nguyên; cuống lá thon tròn, gần như không cuống hoặc dài ~10 mm, màu đỏ, nhẵn nhụi; phiến lá thuôn dài, 30–45 × 12–17 cm, các phiến lớn nhất nằm ở phần trên, khuất, màu xanh lục đậm ở trên, nhạt hơn ở dưới, nhẵn nhụi cả hai mặt, đáy thuôn tròn, mép nguyên, đỉnh hình đuôi với chóp hình lông roi dài 3–5 cm. Cụm hoa dài 18–30 cm; cuống cụm thon tròn, dài 8–20 cm, nhẵn nhụi, màu đỏ đậm, đối diện 2-3 lá bắc bền; cán hoa dài 6–12 cm, nhẵn nhụi, màu đỏ đậm; cuống hoa dài 2–5 mm, nhẵn nhụi, màu đỏ đến hồng; lá bắc có mo, hình ống và có lông tơ ở gốc, 25-30 × 15–20 mm khi dẹt, màu trắng ánh hồng ở gốc và màu nâu ở đỉnh có lông tơ; nụ hoa hình trụ; hoa tụ tập dọc theo cán hoa, nhiều, màu trắng; đài hoa hình phễu, dài 15–20 mm, nhẵn nhụi, màu trắng, đỉnh 2-3 răng, có lông tơ; ống tràng hoa dài 12–16 mm, nhẵn nhụi, màu trắng; thùy tràng ở lưng thẳng-thuôn dài, 22–27 × 5–6 mm, nhẵn nhụi, màu trắng, đỉnh thuôn tròn, có nắp với một khe nhỏ ở giữa; các thùy tràng ở bên thẳng-thuôn dài, 20–32 × 4–5 mm, nhẵn nhụi, màu trắng, đỉnh thuôn tròn và có nắp; cánh môi hợp sinh với đáy của các thùy tràng bên, phần tự do xẻ đôi, các thùy hình giùi, 17–23 × 1–2 mm, nhẵn nhụi, màu trắng, đáy có lông tơ, đỉnh các thùy nguyên; nhị lép ở bên hình chỉ, dài 5–8 mm, có lông tơ, màu trắng; chỉ nhị bao quanh vòi nhụy gần tới một nửa chiều dài của nó phía trên cánh môi, 30–35 × 3–6 mm, có tuyến, màu trắng; bao phấn thuôn dài 15-20 × 4–5 mm, màu trắng kem, không mào; vòi nhụy dài 4–5 cm, nhẵn nhụi, màu trắng với các đốm; đầu nhụy hình chén, rộng 1–2 mm, màu trắng, miệng nhỏ hình elip, mép có lông cứng lởm chởm; các tuyến trên bầu ép dẹp, hần hình cầu, dài ~1 mm; bầu nhụy hình gần cầu, 4-5 × 2–3 mm, như da, nhẵn nhụi, màu đỏ đậm. Quả hình elipxoit đến hình gần cầu, 21-26 × 13–18 mm, như da, nhẵn nhụi, màu đỏ đậm khi thuần thục, đài hoa bền. Hạt hình gần cầu, màu nâu với áo hạt màu trắng. Ra hoa từ tháng 9 đến tháng 1 năm sau. Tháng 2 bắt đầu ra quả. Thụ phấn xảy ra ban ngày và nhờ ong.
Sử dụng.
Quả của "V. sepulchrei" được người dân ở tỉnh Mountain ăn và được cho là có vị chua ngọt. | 1 | null |
Zingiber acuminatum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1904.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh:
Phân bố.
Loài bản địa Java, Borneo và có thể có ở Việt Nam. Môi trường sống là rừng ở cao độ 30-1.700 m.
Các thứ.
Valeton còn liệt kê một thứ là "Z. acuminatum" var. "acutibracteatum" ở các huyện Pekalongan và Boyolali, tỉnh Trung Java cũng như huyện Kediri, tỉnh Đông Java; nhưng nó không được POWO công nhận.
Mô tả.
Cán hoa dưới mặt đất, nghiêng hoặc gần nằm ngang, ngắn. Cành hoa bông thóc lớn thuôn dài-hình trứng dần dần nhọn thon, gần như có bướu ở lưng, xếp lợp chặt. Các lá bắc áp ép hình elip, đỉnh thuôn tròn, mép hơi cong vào trong, gần như không có mấu nhọn, nhẵn, màu hồng. Lá bắc con không dài hơn đài hoa. Hoa lớn, đồng màu vàng nhạt. Cánh hoa hình mác nhọn. Cánh môi 3 thùy thuôn dài – hình trứng, các thùy bên ngắn gần như thẳng đứng, màu vàng nhạt. Phiến lá hình elip-thuôn dài, đáy có cuống ngắn, hơi mập, men xuống, mặt dưới thưa lông ở gân. Lưỡi bẹ ngắn, rộng giữa, các thùy ngắn hình trứng-tam giác, có lông lụa.
Thứ "acuminatum".
Cây thảo gần như nhẵn nhụi, cao tới 3,5 m, thân có lông. Phiến lá hình elip-thuôn dài, 33 × 10 cm, cuống dài tới 10 mm. Lưỡi bẹ 3-4, gần đáy thân 7–10 mm, có lông măng ở đáy. Cành hoa bông thóc hình trứng-thuôn dài hoặc hình elip-thuôn dài, nhọn thon, dài 15 cm, lá bắc phồng phần dưới đỉnh, mép đỉnh cụp trong, áp ép, màu hồng, 40 × 35 mm. Lá bắc con 28 × 8 mm, nhọn, thuôn dài. Hoa màu vàng lưu huỳnh nhạt. Đài hoa 30 × 12 mm. Ống tràng 40–45 mm, các thùy 30 × 25 mm, cánh môi 28 × 25 mm, thùy giữa dài 15 mm hình trứng-thuôn dài, đỉnh cắt cụt, gần rộng đầu, phần rời ở bên khoảng 4mm, gần thẳng đứng. Bao phấn 13 mm, mào hơi ngắn. Đầu nhụy hình chén nhỏ, mép có lông rung cứng dài. Bầu nhụy có lông rất nhỏ. Quả nang hình tam giác-thuôn dài, 25 × 12 mm.
Mô tả của Phạm Hoàng Hộ về cơ bản là tương tự, nhưng khác ở chỗ lá bắc màu đỏ chứ không phải màu hồng.
Thứ "borneense".
Cây cao trung bình, có lông. Lá gần như không cuống, 28 × 8,6 cm, nói chung nhỏ, hình elip hoặc trứng ngược-thuôn dài, nhọn tới thon nhỏ nhọn thon, đáy hình nêm, gân ở đáy dầy lên thành cuống, mặt trên nhẵn nhụi, mặt dưới có lông măng. Cành hoa bông thóc có cuống dài 5–10 cm, cuống có lông măng, xếp lợp chặt, hình elip hoặc hình trứng rộng, ~7,5 × 3,5 cm, có bướu lưng, lá bắc thuôn dài thuôn tròn áp ép, phần giữa tới dưới đỉnh lồi, mép có lông nhung nhỏ, phần giữa đỉnh cụp trong, 4 × 2,2 cm. Lá bắc con hình mác-thuôn dài, nhọn thon, 2,3 × 0,6 cm, không dài hơn đài hoa. Đài hoa mềm, đỉnh hẹp-cắt cụt, ngắn hơn khoảng 1/3 ống tràng. Tràng hoa đồng màu, màu vàng lưu huỳnh nhạt, dài 6 cm, ống dài 3,5 cm. Cánh môi 3 thùy, hình trứng rộng, dài ~2,5 cm, thùy giữa hình trứng-thuôn dài, đỉnh gần rộng, các thùy (hợp sinh với các nhị lép bên) hình trứng rộng, đỉnh cắt cụt, phần rời dài ~4 mm, thẳng đứng. Nhị dài 2,5 cm, bao phấn dài bằng mào. Các cánh hoa bên dài hơn cánh môi, cánh lưng dài bằng nhị hoa. | 1 | null |
Zingiber albiflorum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Rosemary Margaret Smith miêu tả khoa học đầu tiên năm 1982.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh "Kerby R. 191"; thu thập năm 1977 tại tọa độ , cao độ 1.400 m, núi Mulu, Vườn quốc gia núi Mulu, bang Sarawak, Malaysia. Mẫu holotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Edinbugh (E).
Phân bố.
Loài bản địa Sarawak và Sabah, các bang thuộc Malaysia trên đảo Borneo. Môi trường sống là rừng ở cao độ 100-1.400 m. | 1 | null |
Zingiber apoense là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Adolph Daniel Edward Elmer miêu tả khoa học đầu tiên năm 1915.
Người Bagobo gọi nó là bogobog.
Mẫu định danh.
Các mẫu định danh số "A.D.E.Elmer 11750" (ra hoa) (tọa độ khoảng ) và "A.D.E.Elmer 10545" (có quả); thu thập tại núi Apo, Todaya, tỉnh Davao del Sur, đảo Mindanao, tương ứng vào tháng 9 và tháng 5 năm 1909. Mẫu ra hoa thu thập trên đất sét pha ở cao độ 1.145 m (3.750 ft) trong rừng rậm phía nam sông Baturing. Mẫu có quả tìm thấy trong điều kiện tương tự ở cao độ 1.295 m (4.250 ft) phía nam sông Sibulan.
Phân bố.
Loài bản địa đông nam đảo Mindanao, Philippines.
Mô tả.
Các cụm nhỏ vài thân. Thân ~3, phồng tại thân rễ, mọc cao lên và uốn ngược tại đỉnh, khoảng 1/3 gần đáy không lá, cao 1-1,5 m, có bẹ xếp lợp về phía đáy, dày 1 cm. Các lá con cũng uốn ngược, như da mỏng, mặt trên màu xanh lục xỉn, mặt dưới nhạt hơn, khô thành nâu không đều trên cả 2 mặt, mọc so le, phẳng, cá lá sát gốc giống như lá bắc, nhẵn nhụi, nhẵn bóng cả hai mặt, từ thẳng tới hình mác, không cuống, cách nhau 4 cm, dần thon nhỏ thành điểm nhọn thon thanh mảnh, hình nêm về phía đáy và kết thúc tù tại đáy, dài 20-30 cm và rộng 3-4 cm ở giữa; bẹ ở giai đoạn đầu có lông cứng, cuối cùng trở thành nhẵn nhụi, tách biệt rõ nét với thân về phía họng; lưỡi bẹ gần dạng màng, dài 5 mm hoặc hơn và nhọn hơn hoặc ngắn hơn và thuôn tròn tù, có lông tơ mịn và có lông rung nhưng cuối cùng trở thành nhẵn nhụi, liên tục với các mép bẹ; gân giữa nổi rõ mặt dưới, có rãnh mặt trên, mập tại đáy. Cụm hoa nằm trên cuống có lá thuôn dài, mọc từ chỏm rễ, thẳng đứng, mọng nước, hình elipxoit, dài 7 cm, dầy 4 cm. Cuống cụm hoa dài 30-50 cm, thẳng và mọc thẳng đứng, dày 1,25 cm, cứng, thon búp măng, nhẵn nhụi, màu xanh lục ánh vàng; các lá bắc so le và xếp lợp cùng màu như thế, dài 3-5 cm, thuôn dài, đỉnh tù cong từ thân, mép mỏng có đốm ánh tía, nhẵn nhụi, thuôn dài thẳng; các lá bắc ở đầu màu trắng nhạt về phía đáy, phần khác màu đỏ lửa, nhẵn nhụi, dài 3-4 cm, thuôn dài hình trứng hoặc elip, đỉnh thuôn tròn rộng hoặc gần cắt cụt, phủ bụi và nhăn màu ánh tía dọc theo mép mỏng; các lá bắc dưới nhọn đột ngột tại đỉnh. Hoa thường 2 tại nách các lá bắc lớn, đôi lá bắc con không dài đều nhau, thường có răng, dạng màng và lốm đốm. Ống đài dài hơn, chia thùy; các thùy không đều, như thủy tinh và lốm đốm tương tự. Ống tràng dài bằng hoặc hơn ống đài. Cánh môi dạng túi và mềm nhũn, như thủy tinh và lốm đốm, hình trứng ngược , gần nguyên hoặc có thùy. Chỉ nhị ngắn; bao phấn dài và thẳng, kéo dài thành phần phụ uốn ngược. Vòi nhụy thanh mảnh, hình phễu và đầu nhụy có lông rung thò ra từ đỉnh của cựa bao phấn. Các đầu quả dài hơn và mập hơn. Quả nang không cuống mọng nước, màu trắng, khá cứng dù dạng màng, dài 2 cm, dầy 1,25 cm phía dưới điểm giữa, chẻ từ đỉnh thành 3 lá noãn gần tới đáy, nhẵn nhụi, có sọc. Hạt gắn vào thực giá noãn trung tâm màu trắng và mọng, màu đen bóng, hình cuống ngắn tại đáy, dài 5 mm, dầy 3 mm, hình elipxoit, bao bọc hoàn toàn trong áo hạt màu trắng xé rách không đều từ đỉnh về phía đáy. Hạt hình elipxoit là đặc trưng của chi "Curcuma", trong khi hạt của "Zingiber" nói chung được mô tả là có góc cạnh. | 1 | null |
Zingiber argenteum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được John Donald Mood và Ida Theilade miêu tả khoa học đầu tiên năm 1997.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh "Mood J.D. 630"; thu thập ngày 29 tháng 1 năm 1993 tại tọa độ , cao độ 150 m, trạm nông nghiệp Teng Bukap, tỉnh Kuching, bang Sarawak, Malaysia. Mẫu holotype lưu giữ tại Trung tâm Nghiên cứu Rừng Malaysia ở Sandakan, Sabah, Malaysia (SAN).
Phân bố.
Loài bản địa đảo Borneo, trong bang Sarawak, Malaysia. Môi trường sống là đất trên đá vôi trong rừng nguyên sinh vùng đất thấp với lượng mưa cao và thoát nước tốt, ở cao độ tới 150 m.
Mô tả.
Thân có lá cao 75 cm. Các bẹ lá nhẵn nhụi. Lưỡi bẹ 2 thùy, tới 5 mm, nhẵn nhụi. Cuống có lông tơ. Các lá không cuống, hình trứng, 15-18 × 6-7,5 cm, nhẵn nhụi, mặt trên màu xanh lục ánh bạc với vết màu lục sẫm dọc theo gân giữa, mặt dưới màu xanh lục, đáy thon nhỏ dần, đỉnh nhọn. Cán hoa mọc từ rễ, bò sát mặt đất, 2–5 cm, màu ánh hồng; các bẹ dài tới 7 cm, có lông. Cành hoa bông thóc trên mặt đất, mọc thẳng đứng, hình thoi tới hình trứng, 8-9 × 2,5 cm, đỉnh nhọn. Lá bắc hình elip rộng, 3-3,5 × 2-2,5 cm, màu da cam tươi, các lá bắc phía dưới chuyển thành màu đỏ. Lá bắc con 2,5 cm. Đài hoa 1,5 cm. Tràng hoa dài 5,2 cm, màu kem; thùy tràng lưng 2,1 × 0,9 cm; các thùy tràng bên 1,7 × 0,4 cm, rời tới đáy. Cánh môi dài 5 cm, màu kem; thùy giữa thuôn dài, 1,5 × 0,7 cm, chẻ đôi; các thùy bên 0,5 × 0,4 cm, thuôn tròn. Bao phấn 1 cm. Phần phụ bao phấn 0,7 cm. Quả không rõ.
Nó là một trong số ít loài "Zingiber" được mô tả từ các khu vực đá vôi. "Z. argenteum" giống "Z. coloratum" về mặt hình thái, nhưng khác ở chỗ thấp hơn, các lá nhẵn nhụi, hình trứng, mặt trên màu xanh lục ánh bạc với vết màu xanh lục sẫm dọc theo gân giữa, cụm hoa màu da cam tươi với màu ở đáy ánh đỏ, đài hoa ngắn và thùy giữa của cánh môi chẻ đôi. Nó ra hoa trong gieo trồng.
"Z. argenteum" cũng khác với loài có quan hệ họ hàng gần khác là "Z. lambii" ở các bẹ lá nhẵn nhụi, vết màu xanh lục sẫm dọc theo gân giữa ở mặt trên, các lá bắc màu da cam tươi, đài hoa ngắn và thùy giữa của cánh môi chẻ đôi. | 1 | null |
Zingiber atrorubens là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được François Gagnepain miêu tả khoa học đầu tiên năm 1902 (xuất bản tháng 1 năm 1903). Tên gọi trong tiếng Trung là 川东姜 (Xuyên Đông khương), nghĩa là gừng Xuyên Đông.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Farges s.n." do nhà thực vật học kiêm nhà truyền giáo người Pháp Paul Guillaume Farges (1844-1912) thu thập tại sảnh Thành Khẩu, tỉnh Tứ Xuyên (nay là huyện Thành Khẩu, thành phố trực thuộc trung ương Trùng Khánh, Trung Quốc) tọa độ khoảng . Ba mẫu syntype (barcode: P00088647 - holotype, P00088648 và P00088649) lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia Pháp tại Paris (P).
Phân bố.
Loài này được tìm thấy tại miền đông Tứ Xuyên, miền bắc Trùng Khánh và Quảng Tây.
Phân loại.
Schumann (1904) đặt "Z. atrorubens" trong tổ "Cryptanthium".
Mô tả.
Thân rễ hình củ gừng, có mùi thơm nồng. Thân giả cao 80–110 cm. Lá không cuống; lưỡi bẹ khô xác, có các vạch đỏ, hình tam giác tù, 2 thùy, ~6 mm; phiến lá màu xanh xám cả 2 mặt, hình mác, 15-25 × 3–6 cm, mặt gần trục nhẵn nhụi, mặt xa trục nhiều lông ở gần đáy, đáy thon nhỏ dần, đỉnh nhọn thon. Cụm hoa mọc từ thân rễ, hình trứng, ít hoa rời rạc, 8-15 × 4 cm; vảy dài 4 cm, rộng 1,5–2 cm; cuống cụm hoa chìm trong lòng đất, rất ngắn; lá bắc màu xanh lục hoặc hồng/tía nhạt, hình trứng-thuôn dài hoặc hình mác, dài ~5 cm, nhiều lông; lá bắc con thuôn dài đến hình mác, gần nhọn, ~2–3 cm, dạng màng. Hoa màu tía đến tía sẫm. Đài hoa ~2–3 cm, chẻ một bên tới giữa, có lông nhung, đỉnh 3 răng, hình tam giác tù. Ống tràng hoa 4–5 cm, khoảng 2 lần dài hơn đài hoa; các thùy hình mác, dài 3 cm, thùy giữa rộng 1,5-1,8 cm, các thùy bên màu tía nhạt, khoảng 2 lần hẹp hơn thùy giữa. Cánh môi hình mác-hình xoan hoặc hình xoan, với các sọc tía, hình trứng hoặc hẹp như vậy, ~3-3,5 × 1,5-2,2 cm, đỉnh nguyên hoặc có khía răng cưa; các thùy bên không có. Nhị hoa gần như không cuống. Bao phấn không cuống, dài 3 cm, các ngăn dài ~1,5 cm; phần phụ kết nối ~1,5 cm. Nhị lép 0. Bầu nhụy rậm lông. Đầu nhụy hình ống, miệng nở rộng, có lông rung. Đĩa 2, hình dùi, hơi có rãnh, dài ~5 mm. | 1 | null |
Zingiber aurantiacum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Richard Eric Holttum miêu tả khoa học đầu tiên năm 1950 dưới danh pháp "Zingiber gracile" var. "aurantiacum". Năm 1996 (xuất bản năm 1998), Ida Theilade nâng cấp nó thành loài độc lập với danh pháp "Zingiber aurantiacum".
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Burkill H.M. & Holttum R.E. SFN 8806" thu thập tại vùng đồi Fraser ở bang Pahang, Malaysia. Lectotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Singapore (SING).
Từ nguyên.
Tính từ định danh "aurantiacum" (giống đực: "aurantiacus", giống cái: "aurantiaca") là tiếng Latinh có nghĩa là màu da cam, ở đây để nói tới các lá bắc màu da cam tươi của loài này.
Phân bố.
Loài này có tại Malaysia bán đảo (các bang Johor, Malacca, Negeri Sembilan, Pahang và Selangor). Được tìm thấy trong rừng, ở cao độ 600-1.400 m.
Phân loại.
Thuộc nhóm "Zingiber gracile" trong tổ "Zingiber", bao gồm "Z. aurantiacum", "Z. elatius", "Z. gracile", "Z. kelantanense", "Z. petiolatum", "Z. raja", "Z. singapurense" và "Z. sulphureum".
Mô tả.
Chồi lá cao 1,5–2 m. Lưỡi bẹ dài 5–6 mm. Lá hình mác hẹp, tới 27-35 × 3,5–6 cm, cuống lá ngắn. Cán hoa dài 15–35 cm. Cành hoa bông thóc thanh mảnh, dài 15–20 cm và rộng 2,5 cm; bẹ cán hoa màu tía. Các lá bắc màu da cam tươi chuyển thành đỏ khi tạo quả. Lá bắc con dài 2,5 cm. Đài hoa dài 2,5–3 cm. Tràng hoa dài 6 cm; các thùy dài 2 cm, màu kem. Cánh môi dài tới 6 cm, màu kem; thùy giữa thuôn dài, dài 2,2 cm, đỉnh rộng đầu hoặc chẻ đôi; các thùy bên hình xoan. Quả nang dài tới 2,5 cm, nhẵn nhụi; hạt màu nâu hạt dẻ. Phấn hoa hình cầu, đường vân như ở não. | 1 | null |
Zingiber banahaoense là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được John Donald Mood và Ida Theilade mô tả khoa học đầu tiên năm 2001.. Tuy nhiên, các nguồn dữ liệu của IPNI, POWO, WCSP, The Plant List tại thời điểm tra cứu là ngày 13 tháng 5 năm 2021 đều viết danh pháp thành "Zingiber banhaoense".
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Mood J.D. 506" thu thập ngày 1 tháng 9 năm 1993 tại núi Banahao, ở cuối hẽm núi dọc theo con suối phía trên làng Kinabuhayan, Dolores, tỉnh Quezon, Philippines. Holotype lưu giữ tại Đại học Aarhus, Đan Mạch (AAU), isotype tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K).
Từ nguyên.
Tính từ định danh "banahaoense" lấy theo tên núi Banahao, nơi mẫu điển hình được thu thập.
Phân bố.
Loài này có tại đảo Luzon, Philippines.
Mô tả.
Cây thảo mọc thành cụm, cao đến 1,5m. Các bẹ và lưỡi bẹ có lông dễ thấy màu ánh trắng. Lá màu xanh lục vừa. Các vảy và lá bắc của cụm hoa màu đỏ sẫm, không đổi màu, đầy chất nhớt; lá bắc con màu đỏ sẫm, trong; đài hoa màu trắng, trong suốt; ống tràng màu trắng sau trở thành vàng nhạt; các thùy và các bộ phận khác của hoa màu vàng đồng, không đốm. | 1 | null |
Zingiber barbatum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Nathaniel Wallich miêu tả khoa học đầu tiên năm 1830.
Mẫu định danh.
"Z. barbatum" được Wallich (1830) mô tả từ Prome dọc theo sông Irrawaddy (Ayeyawaddy) gần Rangoon (Yangon ngày nay), Myanmar. Mô tả gốc trong "Plantae Asiaticae Rariores" kèm theo một hình minh họa (tab. 55) - là hình sử dụng trong hộp thông tin chung của bài này, nhưng không có vật liệu điển hình nào được chỉ định. Hình minh họa đó rõ ràng được vẽ từ cây thu thập ở Prome, và là vật liệu duy nhất áp dụng tên khoa học này. Do đó, hình minh họa này là một lectotype theo Quy tắc Quốc tế về Danh pháp Thực vật 9.1 (2012), và được Mu Mu Aung chỉ định là một lectotype năm 2016.
Từ nguyên.
Tính từ định danh "barbatum" (giống đực: "barbatus", giống cái: "barbata") là tiếng Latinh có nghĩa là râu, có râu; ở đây để nói tới chóp các lá bắc ngoài dài giống như râu. Xem mô tả bằng tiếng Latinh của Wallich ("...bracteis exterioribus lato-ovatis, gibboso-subventricosis, dorso villis copiosis, longis barbatis.").
Phân bố.
Loài này có tại Myanmar (vùng Bago) và Thái Lan. Tên gọi trong tiếng Myanmar "pwe-au", "meik-tha-lin". Môi trường sống là rừng lá sớm rụng ẩm ướt, những nơi ẩm thấp, cao độ khoảng 100–150 m.
Phân loại.
Schumann (1904) đặt "Z. barbatum" trong tổ "Cryptanthium".
Mô tả.
Cây thảo lâu năm. Thân rễ mập, bò lan, các nhánh nhỏ dày đặc, gần như có khớp nối, vỏ màu nâu, ruột màu từ nâu ánh trắng tới màu ánh vàng nhạt, mùi thơm nhẹ, các rễ con tỏa ra hình trụ, ngắn, dày đặc, một số kết thúc bằng các củ nhỏ, hình trứng, ruột màu trắng sữa-màu nước, gần như không vị và không mùi. Thân giả mọc thẳng đứng, cao 1,5 tới 4 hoặc 5 ft (45-120-150 cm), thuôn tròn, đường kính ở đáy khoảng 2,5 cm, phía trên thon nhỏ dần và thanh mảnh, được bao bọc hoàn toàn trong bẹ áp ép, nhiều vạch, phần trên có lông nhung, mép cả hai tù; lưỡi bẹ 2 thùy, dài 0,2–1 cm, cắt cụt, dạng màng, nhẵn nhụi hoặc có lông nhung. Cuống lá rất ngắn hoặc gần như không cuống, có lông nhung. Lá 7 cặp, xếp 2 dãy hở, không cuống, phiến lá thuôn dài-hình mác, đỉnh thon nhỏ dần-nhọn thon, đáy nhọn thon hoặc hình nêm, dài 10–25 cm, rộng ~3,5 cm, mặt trên nhẵn nhụi hoặc có lông màu xanh lục sẫm, mặt dưới có lông áp ép, mép nhăn hoặc hơi gợn sóng, mặt dưới xanh lục nhạt hơn. Cán hoa mọc từ thân rễ hoặc ở đáy thân giả, mập và cứng, dài 3–5 cm, được bao bọc trong các vảy hình trứng, nhọn, các vảy phía trên hình dùi-nhọn thon, có lông. Cành hoa bông thóc thuôn dài-hình trứng, đỉnh nhọn, dài 4-7,5 cm, đáy hình nêm, cán chỉ hơi thò lên phía trên mặt đất, với các lá bắc xếp lợp từ mọi phía; các lá bắc ngoài hình trứng rộng, dài 2,8-3,5 cm, rộng 2,3-2,8 cm, có bướu lồi-gần phồng lên, lưng nhiều lông, có râu dài, bên trong nhẵn nhụi, có sọc, mép áp ép, đỉnh kết thúc bằng chóp nhọn dài, thuôn tròn, hở, màu xanh lục tới xanh lục sẫm, đáy màu ánh đỏ, 1 hoa; các lá bắc trong dạng màng, hình trứng, nhọn, nhiều lông, xoắn lại, không dài hơn đài hoa. Lá bắc con dài 2,2 cm, rộng 0,6 cm, thư lông tơ dọc theo mép về phía đỉnh. Hoa lớn, màu từ trắng tới trắng pha hồng. Đài hoa hình ống, dài 1,2 cm, rộng 0,35 cm, màu trắng, dạng màng, nhẵn nhụi, hơi 2 răng ở đỉnh. Ống tràng hình trụ, dài 2-2,5 cm, màu trắng, dạng màng; mép thò ra, nhẵn nhụi, 2 môi; cánh ngoài 3, màu trắng, hình mác, nhọn thon, dài ~2 cm: cánh lưng dài ~2 cm, rộng ~7 mm, mọc cao lên, lõm, có nắp, hình mỏ-nhọn thon, đỉnh cuộn trong, tạo thành môi trên; các cánh bên dài 1,5–2 cm, rộng ~5 mm, phẳng, thuôn tròn, ngắn, song song cánh môi dưới, cùng nhau tạo thành môi dưới. Cánh môi hay cánh trong hở, 3 thùy, màu trắng với ánh hồng ở đáy; thùy giữa hình trứng đến hình trứng ngược, rộng đầu, mặt trên rất lồi giống như vòm miệng, dài 1,2-1,4 cm, rộng ~1,5 cm, đỉnh khía răng cưa hơi khía chữ V, mép nhăn; các thùy bên (các nhị lép bên) nhỏ, thuôn dài, đỉnh thuôn tròn, dài ~8 mm, rộng ~2,5 mm. Nhị hoa dài như thùy giữa cánh môi. Bao phấn lớn, gần như không cuống, màu trắng, gồm cả rìa ngoài có nắp, kết thúc bằng mỏ hình trụ-hình dùi, thò ra và nằm trên cánh môi cuốn trong, dài 1,5 cm; mô vỏ bao phấn ~7 mm, hình trụ, uốn ngược. Bầu nhụy màu trắng, gần hình elipxoit, nhẵn nhụi, 3 ngăn, nhiều noãn đính trụ. Vòi nhụy dài, hình chỉ, có vuốt, đỉnh cuộn trong hơi thò ra. Đầu nhụy lồi, màu trắng, có lông rung. Tuyến trên bầu 2, thẳng, dài ~3 mm, màu ánh trắng. Quả nang hình trứng ngược, mập, nhẵn nhụi, kích thước cỡ quả anh đào, chứa các hạt màu đen xỉn, bóng, áo hạt lớn, màu trắng; nhìn thấy khi chưa chín. Hoa nở vào chiều tối và 3 hoa nở đồng thời trên một cụm hoa.
Về hình thái là gần với "Z. squarrosum" – loài có phổ biến ở gần Rangoon, nhưng khác ở chỗ các lá bắc rộng hơn, lồi và phồng lên, kết thúc bằng mũi nhọn hình trụ rất dài. Tại Myanmar, loài này mọc trên các sườn đồi gần bờ sông Irrawaddy, gần Pome, trên cả hai bờ của con sông này, được quan sát với quả chưa chín trong tháng 9. Các cây trồng tại Calcutta nở hoa tự do trong mùa mưa và mùa lạnh (từ tháng 8 đến tháng 2 năm sau), thơm nồng. Các cành hoa bông thóc mọc ra từ các rễ bò lan, gần thân hoặc từ đáy của thân, hầu như không cao quá trên mặt đất; chúng đôi khi là phức hợp, nghĩa là các bông con mọc ra từ 1 hoặc 2 lá bắc thấp nhất. Toàn bộ cây có mùi và vị thơm dễ chịu rất nhẹ.
"Zingiber pygmaea".
Mu Mu Aung và Nobuyuki Tanaka (2016) còn tách dạng rất thấp thành loài riêng, với danh pháp "Zingiber pygmaea" (nếu được công nhận thì danh pháp đúng chính tả phải là "Zingiber pygmaeum"). Mô tả và các thông tin khác về loài này được liệt kê dưới đây.
Mẫu định danh: "N.Tanaka et al. 0267"; thu thập ngày 1 tháng 6 năm 2001, ở tọa độ khoảng , Vườn quốc gia núi Popa, thị trấn Kyaukpadaung, huyện Nyaung-U, vùng Mandalay, Myanmar. Mẫu holotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Makino ở Kochi, Nhật Bản (MBK), mẫu isotype lưu giữ tại Chi nhánh Vườn Thực vật Tsukuba của Bảo tàng Tự nhiên và Khoa học Quốc gia Nhật Bản ở Tsukuba (TNS).
Cây thảo thân rễ lâu năm, cao tới 30 cm. Thân rễ rất ngắn, vỏ màu trắng ánh nâu, ruột màu trắng, có mùi thơm; rễ có củ, củ gần hình cầu, dài 2 cm, rộng 1,5 cm, vỏ màu ánh nâu, ruột màu trắng. Thân lá có lông nhung, màu xanh lục ánh đỏ. Lá 7 cặp; phiến lá xếp dày đặc với các lóng rất ngắn, hình trứng đến thuôn dài, màu xanh lục, rậm lông cả hai mặt, đỉnh nhọn, đáy thuôn tròn, dài 15–18 cm, rộng 9–10 cm; cuống lá có lông nhung, dài 3–5 mm; lưỡi bẹ chẻ đôi, khó thấy, dài ~2 mm, mép có lông tơ; bẹ màu xanh lục, mép có lông dài màu trắng. Cụm hoa hình trứng, dài 3,5–4 cm, rộng 2,5–3 cm; cuống cụm hoa từ thân rễ, rất ngắn. Lá bắc hình trứng tới nhọn đầu, dài 2,3 cm, rộng 1,7 cm, màu nâu ánh đỏ ở đỉnh, màu trắng về phía đáy, rậm lông nhung ở đỉnh, nhẵn nhụi ở đáy mặt ngoài, gần như nhẵn nhụi ở mặt trong, đỉnh nhọn ngắn, đỡ 1 hoa. Lá bắc con thuôn dài, cuộn lại, dài 1,8 cm, rộng 0,6 cm, thưa lông tơ ở mặt xa trục, nhẵn nhụi ở mặt gần trục. Hoa màu kem đến vàng nhạt, nở vào chiều tối, mùi thơm nhẹ; đài hoa hình ống, hơi có răng cưa, dài ~1 cm, rộng 3,5 mm, nhẵn nhụi; ống hoa dài ~2,5 cm, tràng hoa 3 thùy, màu trắng, hình mác; thùy tràng lưng dài ~1,8 cm, rộng ~1 cm; các thùy tràng bên dài ~1,8 cm, rộng ~0,7 cm; cánh môi 3 thùy, màu trắng đến hơi màu kem, uốn ngược; thuỳ giữa hình trứng ngược, dài ~1,7 cm, rộng ~2,3 cm, đỉnh khía răng cưa, mép nhăn, các nhị lép bên hình trứng-thuôn dài, dài ~8 mm, rộng ~3 mm, đỉnh thuôn tròn hoặc đôi khi có răng. Bao phấn gần như không cuống, màu kem, dài 1,5 cm, mô vỏ bao phấn dài ~8 mm, uốn ngược. Bầu nhụy hình trứng, dài 3,5–4 mm, rộng 2,5 mm, nhẵn nhụi, 3 ngăn, nhiều noãn đính trụ; vòi nhụy dài, hình chỉ; đầu nhụy màu trắng, có lông rung; tuyến trên bầu 2, thẳng, dài ~3 mm, màu kem. Ra hoa tháng 7-9, hoa nở buổi chiều tối và 1-3 hoa mỗi cụm hoa nở đồng thời. Môi trường sống là nền rừng có bóng râm, trong rừng bán thường xanh, cao độ 800–1.000 m. | 1 | null |
Zingiber bisectum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Fang Ding (Phương Đỉnh) miêu tả khoa học đầu tiên năm 1996. Tên gọi trong tiếng Trung là 裂舌姜 (liệt thiệt khương), nghĩa đen là gừng lưỡi rách.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Fang D. 17878"; thu thập ngày 8 tháng 8 năm 1975 ở cao độ 260 m, tọa độ khoảng (ZRC đưa ra tọa độ - nhưng điều này thiếu chính xác, do địa điểm ở tọa độ này thuộc trấn Na Lâu, quận Vũ Minh, cao độ ~100 m, cách điểm mà Phương Đỉnh liệt kê là Cửu Đường, Côn Lôn Quan khoảng 53 km về phía tây nam) trên sườn đồi tại Cửu Đường (九塘), Côn Lôn Quan (昆仑关), huyện Ung Ninh (nay là xã khu Cửu Đường, trấn Côn Lôn, quận Hưng Ninh), Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc. Holotype lưu giữ tại Viện Y học Cổ truyền và Khoa học Dược liệu Quảng Tây ở Nam Ninh, Quảng Tây (GXMI).
Phân bố.
Loài này có tại miền nam khu tự trị Quảng Tây, Trung Quốc và có thể có ở Thái Lan. Được tìm thấy trên các sườn đồi, ở cao độ khoảng 300 m.
Mô tả.
Thân rễ ruột màu vàng, dạng củ; các rễ có củ ở đỉnh. Thân giả cao tới 3,4 m. Bẹ lá có lông nhung; lưỡi bẹ 2 khe, 1–6 cm, gần khô xác; cuống lá từ không có đến dài tới 5 mm, có lông nhung ở mặt xa trục; phiến lá gần thuôn dài hoặc thuôn dài-hình mác, ~8,5 × 4,5–10 cm, mặt gần trục lốm đốm lông màu nâu dọc theo gân giữa, mặt xa trục thưa lông nhung, đáy thon nhỏ dần, đỉnh nhọn thon. Cụm hoa mọc từ thân rễ, hình trứng hoặc gần thuôn dài, 7-10 × 2,5–7 cm, nhiều hoa; cuống cụm hoa 2-12,5 cm, có lông nhung; lá bắc màu đỏ hoặc xanh lục, thuôn dài, 4-4,5 × ~1,1 cm, có lông nhung; lá bắc con thuôn dài, 3,5–4 cm × ~7 mm, có lông nhung. Đài hoa ~2 cm, chẻ 1 bên, có lông nhung, đỉnh 3 răng. Ống tràng hoa màu trắng, 4-4,7 cm; các thùy màu ánh vàng, thùy giữa ~2,5 cm × 8–9 mm, các thùy bên hình mác, ~2,3 cm × 5 mm. Cánh môi có đốm màu tía đen; thùy giữa hình trứng ngược, ~2 × 1,3 cm, đỉnh 3 răng; các thùy bên ~10 × 7 mm. Bao phấn không cuống, ~1,5 cm; phần phụ kết nối ~1,2 cm. Bầu nhụy rậm lông nhung. Ra hoa tháng 8. | 1 | null |
Zingiber bradleyanum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được William Grant Craib miêu tả khoa học đầu tiên năm 1912.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Kerr A.F.G 763"; do Arthur Francis George Kerr (1877-1942) thu thập ngày 22 tháng 8 năm 1909 trong rừng rậm nhiệt đới thường xanh khá ẩm thấp ở cao độ 300 m, tọa độ khoảng trên Doi Suthep, Chiang Mai, Thái Lan. Lectotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K), các isolectotype tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Anh tại London (BM), Vườn Thực vật Hoàng gia tại Edinburgh (E), Học viện Trinity ở Dublin, Ireland (TCD).
Phân bố.
Loài này có tại các tỉnh Chiang Mai, Lampang, Lamphun, Mae Hong Son, Phayao, Tak ở miền bắc Thái Lan cũng như tại Myanmar.
Mô tả.
Cây thảo cao 58-63(-100) cm. Thân rễ ruột màu vàng tươi. Thân giả tới 14 lá. Lá hình mác hoặc thuôn dài-hình mác, đỉnh nhọn thon, nhọn, đáy thon nhỏ dần, lá to nhất dài ~40 cm, rộng ~6,5 cm, gần như không cuống, mặt trên nhẵn nhụi, màu xanh lục sẫm với vết màu xám bạc dọc theo gân giữa, mặt dưới rậm lông. Lưỡi bẹ chẻ đôi, dài gần tới 3 cm, rộng 5 mm, màu xanh lục, thưa lông tơ, như thủy tinh tại mép. Bẹ thấp nhất 2-3, các bẹ trên mỏng, màu hồng. Cụm hoa gồm 4 cành hoa bông thóc ở bên, sắp xếp thành đôi trên dưới; cuống các cành hoa dưới dài 2-4 cm, vài lần ngắn hơn cuống các cành hoa trên, vảy xếp lợp che phủ. Cành hoa bông thóc dài ~3-3,5 cm; các lá bắc mặt lưng mỏng, các lá bắc thấp nhất dài 3 cm, màu hồng, các lá bắc trên màu xanh lục với gân màu ánh đỏ. Lá bắc con dài 2,3 cm, rộng 0,3 cm. Đài hoa như thủy tinh, màu trắng trong suốt, dài 9 mm. Các phần khác của hoa màu từ trắng tới màu kem, trừ mào bao phấn màu vàng tươi. Tràng hoa màu trắng, ống tràng dài 3,7 cm; các thùy thuôn dài hoặc thẳng-hình mác, nhọn, dài ~2,3 cm, rộng 3-7 mm. Nhị lép bên với các thùy bên giả lập cánh môi. Cánh môi dài 1,8 cm, rộng 1,3 cm. Bao phấn dài ~1 cm, phần phụ kết nối dài hơn một chút. | 1 | null |
Zingiber brevifolium là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Nicholas Edward Brown miêu tả khoa học đầu tiên năm 1886.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Bull W. s. n." do nhà thực vật học người Anh William Bull (1828-1902) đưa từ Philippines về ngày 4 tháng 8 năm 1886. Mẫu holotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K).
Phân bố.
Loài này có tại Philippines.
Mô tả.
Cây cao khoảng 30 cm, hoàn toàn nhẵn nhụi. Phần dưới thân không lá, với 3-4 bẹ tù, màu ánh đỏ xỉn trên phần gốc, phần có lá từ phía trên điểm giữa thân. Lá ít, 3-5 (có thể hơn ở những cây khỏe), thân màu xanh lục, các bẹ rời hoặc ôm lấy, không cuống, phiến lá thuôn dài-hình mác hoặc hình elip, nhọn, 6,3-10 x 3,1-4,4 cm, đáy thuôn tròn đôi khi gần nhọn, mặt trên màu xanh lục sẫm, mặt dưới màu xanh lục ánh xám. Cành hoa bông thóc không cuống, ở đầu cành, hình thoi, dài 6,3-7,5 cm, rộng 1,5-1,7 cm. Lá bắc áp ép, thuôn dài, rộng đầu, với phiến thô sơ hình mác nhỏ phát sinh từ khía chữ V hoặc các lá bắc trên đơn giản chỉ là nhọn, các sọc màu da cam-vàng với 2 hoa màu đỏ. Các lá bắc trong thuôn dài-hình mác, nhọn, dài 1,9 cm, rộng 0,6-0,8 cm, dạng màng. Đài hoa như màng, dạng mo, dài 1,9-2,5 cm. Hoa màu vàng, ống tràng dài đến 3,2 cm, thò ra, thanh mảnh, cong phía trên. Cánh hoa thẳng-hình mác nhọn thon, dài 1,7-1,9 cm, 2 cánh phía dưới hợp sinh tới gần nửa chiều dài. Cánh môi dài 1,5-1,7 cm, 3 thùy; các thùy bên cong lưỡi liềm-thuôn dài, tù; thùy giữa hình mác nhọn, dài gấp đôi các thùy bên. Bao phấn với mỏ cong dài 0,8 cm.
Lưu ý.
Năm 1899, Karl Moritz Schumann mô tả một loài mới tại đảo New Guinea và cũng đặt danh pháp cho nó là "Zingiber brevifolium". Danh pháp này hiện chưa dung giải được . Mẫu định danh: "Lauterbach C.A.G. 1596" do nhà thực vật học người Đức Carl Adolf Georg Lauterbach (1864-1937) đưa từ Kaiser Wilhelmsland về. Mẫu holotype lưu giữ tại Vườn Thực vật và Bảo tàng Thực vật Berlin thuộc Đại học Tự do Berlin (B). | 1 | null |
Zingiber bulusanense là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Adolph Daniel Edward Elmer miêu tả khoa học đầu tiên năm 1919.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Elmer A.D.E. 15178" và "Elmer A.D.E. 16914"; thu thập tương ứng vào tháng 11 năm 1915 và tháng 8 năm 1916 ở cao độ ~500 m, tọa độ khoảng , tại Irosin (núi Bulusan), tỉnh Sorsogon, đảo Luzon. Các syntype lưu giữ tại Trung tâm Nghiên cứu Sinh học Indonesia tại Cibinong (BO), Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Italia tại Firenze (FI), Nhà kính và Vườn thực vật thành phố Genève ở Genève, Thụy Sĩ (G), Naturalis ở Leiden, Hà Lan (L, chỉ có mẫu "Elmer A.D.E 15178") và Naturalis ở Leiden, Hà Lan (U – trước năm 2010 thuộc phòng mẫu cây Đại học Utrecht).
Từ nguyên.
Tính từ định danh "bulusanense" lấy theo tên gọi núi Bulusan trên đảo Luzon, Philippines.
Phân bố.
Loài này có tại đảo Luzon, Philippines. Môi trường sống là rừng, ở cao độ khoảng 1.500 ft (460 m) trên núi Bulusan, đông nam đảo Luzon.
Mô tả.
Các cụm vài thân. Thân mập, dài 2 m hoặc hơn, mọc cao lên từ đáy, ngửa ra về phía đỉnh, dày 2,25 cm, màu xanh lục sẫm, phình to tại đáy, khoảng 1/3 chiều dài từ đáy không lá. Thân rễ ngắn, cong queo, phân nhánh ít và ngắn, xuất hiện như cụm nhiều mấu nhỏ; rễ dài, dạng sợi, màu ánh vàng như thân rễ, mọc từ cả hai đáy của thân và thân rễ. Lá to phân nhánh, mọc so le, cách nhau 3–6 cm, tiêu giảm và thưa thớt về phía đáy, nhiều hơn và hẹp hơn về phía phần xa, đầu nhọn thon thanh mảnh uốn ngược, như da, mặt dưới màu xanh lục nhạt hơn, khi già và khô màu nâu ánh lục không đều cả hai mặt, các lá nhỏ hơn hình mác, các lá to hơn thuôn dài hình mác, không cuống, dài 40 cm, rộng 6–7 cm tại gốc, mép thẳng, nhẵn nhụi, thon búp măng về phía đáy rộng với mép uốn ngược tại đáy; các gân bên nhiều, lệch, mờ nhạt; gân giữa màu nâu nhạt khi khô, nổi lên ở mặt dưới, có gờ, thưa lông dọc theo các bên của nó, chìm ở mặt trên về phía đáy; bẹ có lông tơ bẩn màu - đặc biệt về phía đỉnh, dễ dàng tách khỏi thân và xếp chồng, có gờ rõ nét, mép màu nâu ánh đỏ và nhẵn nhụi ở mặt trong; lưỡi bẹ gồm 2 phần cùn lồi ra, tù hoặc cắt cụt không đều tại đỉnh có lông rung, dài 5 mm, ngắn hơn trên các phiến lá nhỏ hơn, chủ yếu màu nâu ánh đỏ. Cuống cụm hoa dài 15–20 cm, dày 2 cm, thon búp măng, màu ánh lục, được che phủ bằng các lá bắc có tua viền màu ánh tía, mọc thẳng đứng từ thân rễ, từ ít tới thành cụm; đầu cụm hoa hình elipxoit-hình trứng, dài 12–20 cm, dày 8 cm; các lá bắc ngoài chứa nước, trở thành tách biệt khi quả thuần thục, còn không thì xếp lợp chặt, hình nêm ngược, dài 4 cm, bề ngang rộng đầy đủ tại đỉnh cắt cụt, tại đáy rộng khoảng 1/2, phần đỉnh dày nhất và cứng, phần ngoài uốn cong vào trong hay phần lộ ra màu đỏ, các phần khác màu trắng; lá bắc con hay lá bắc trong dài 3 cm hoặc hơn, rộng 8 mm tại đáy hay phần rộng nhất, như thủy tinh và đốm tía dọc theo các bên của mép về phía đỉnh tù, có sọc nhỏ, các bên xếp lợp, có lông tơ trên lưng về phía đỉnh có lông rung mịn, dần dần thon từ đáy tới đỉnh, thuôn dài; đài hoa dài 2 cm, hình ống, như thủy tinh, gân song song mờ nhạt, đốm tía về phía đỉnh cắt cụt, nhẵn nhụi, tách biệt rõ nét về phía đỉnh ở mặt bụng; ống tràng dài 3 cm, dần dần dày lên về phía phần xa, phần khác hình ống thanh mảnh; 3 thùy ngoài dài 1,5 cm, có gân mịn, đốm dọc theo mép và về phía đỉnh, như thủy tinh; các thùy bên hình mác rộng và với đỉnh nhọn, thùy giữa thuôn dài và với đỉnh tù; cánh môi dài 2 cm, khoảng 1/3 từ đáy nhiều gân và đốm, hình nêm; phần phiến hình tam giác, đáy gần như rộng bằng toàn bộ chiều dài, chia thành thùy con khó thấy tại đáy, gần nhọn tại đỉnh, như thủy tinh, đốm, mép mềm nhũn, hơi nhăn nheo và thường cuộn trong; phần rời của chỉ nhị ngắn, mỏng, dẹp; bao phấn dài 12 mm, rộng ~3 mm, thẳng, chẻ đôi tại cả hai đầu, nhẵn nhụi, mở rộng thành mỏ dài màu đốm tía; vòi nhụy hình chỉ, nhẵn nhụi, đốm và dần dần mập về phía đỉnh; đầu nhụy hình phễu, mép với lông rung như thủy tinh; bầu nhụy hơi nhẵn nhụi, với một đôi phần phụ thẳng màu trắng ánh vàng dài 4 mm. Quả nang chưa mở dài 3 cm, rộng khoảng 1,5 cm, cắt cụt ở đỉnh, nhọn cùn tại đáy, hình tam giác nhưng mặt bụng rộng hơn 2 mặt lưng, màu trắng, nứt từ đỉnh xuống dưới dọc theo 2 đường ráp bên và dọc theo ngăn lưng; 3 lá noãn không đều về chiều rộng, lá noãn lưng rộng và thẳng, 2 lá noãn bên ép ra phía ngoài và chia tách rộng gần phía đáy, các bên của các lá noãn uốn ngược khá rõ nét, thu được sức mạnh đủ để đẩy các lá bắc xếp lợp ra ngoài nhằm giúp cho hạt được thoát ra; hạt trong các ngăn bên 7-10, gắn vào thực giá noãn mập màu trắng thành 2 hàng gần nhau và so le theo kiểu cao dần lên, ngăn lưng chứa 1 tới vài hạt tại đỉnh ngăn; các hạt được bao quanh bằng màng (áo hạt) mọng thịt màu trắng và trở thành xé rách từ đỉnh về phía đáy, không cuống hoặc gần như không cuống, hạt dài 6 mm, dày ~3 mm, hình elipxoit hoặc hình trứng ngược, bóng, màu nâu ánh đen, ánh tía tại chỗ gắn ở đáy rốn hạt, thon búp măng hay góc cạnh rất khó thấy về phía đỉnh. Khi khô hạt được kiến phát tán, khi ẩm chúng bị rửa trôi.
Dễ dàng phân biệt "Z. bulusanense" với các loài Philippine khác ở chỗ các bẹ có lông tơ bẩn màu. | 1 | null |
Zingiber capitatum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được William Roxburgh miêu tả khoa học đầu tiên năm 1810. Tên gọi trong tiếng Hindu "jenglí-adrac".
Phân bố.
Loài này có tại khu vực từ Trung tới Đông Himalaya. Tại Ấn Độ từ vùng Kumaon (miền đông bang Uttarakhand) tới Sikkim, Darjeeling (miền bắc bang Tây Bengal) tới Meghalaya (Bhoilasa) và Assam; Nepal; Bhutan; Bangladesh; miền bắc Myanmar.
Phân loại.
Schumann (1904) đặt "Z. capitatum" trong tổ "Dymczewiczia".
Mô tả.
Thân giả cao tới 1,3 m. Lá không cuống, thẳng-hình mũi mác hoặc thẳng dài thon nhỏ-nhọn thon, đáy hẹp bằng, mọc thẳng, ôm thân hoặc hở, mặt trên nhẵn nhụi, mặt dưới có lông tơ. Lưỡi bẹ không dài quá 1 mm, hai thùy hình tai, có lông tơ. Cành hoa bông thóc đầu cành, mọc thẳng đứng, hình elipxoit hẹp, nhọn, kết đặc, dài 10-14 cm, đường kính 4,5 cm. Lá bắc ngoài hình mác, hình trứng hoặc thuôn dài, các lá bắc trên hình mác nhọn, có lông tơ, màu xanh lục, mép hẹp màu nâu hạt dẻ; lá bắc trong (lá bắc con) hình trứng. Bầu nhụy có lông lụa ngắn. Đài hoa có răng cưa, dạng màng, dài 1 cm, màu trắng. Ống tràng dài hơn; các thùy hình mác, màu vàng nhạt, dài 2,3 cm. Cánh môi hình tròn, màu vàng nhạt, mép khía răng cưa, rộng 1,8 cm; các thùy bên thuôn dài, tù, đồng màu. Quả nang màu hoe đỏ, hình elipxoit, dài 2 cm. Hạt màu đen, áo hạt màu trắng, xé rách. Nở hoa đầu mùa mưa và hạt chín trong tháng 9-10. | 1 | null |
Zingiber cernuum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Nicol Alexander Dalzell miêu tả khoa học đầu tiên năm 1852. Tên gọi thông thường trong tiếng Anh là "curved-stem ginger", nghĩa là gừng thân cong.
Phân bố.
Loài này có tại tây nam Ấn Độ (các bang Maharashtra, Kerala và Karnataka). Loài này mọc trong rừng nửa thường xanh và rừng lá sớm rụng ẩm ướt, trên sáu vùng sinh thái ở tây nam Ấn Độ. Phạm vi cao độ của loài này được ước tính từ các dữ liệu bản đồ là nằm trong khoảng 300 đến 800 m. Nó ra hoa và tạo quả vào tháng 7-10. Nó được phát hiện là rất nhạy cảm với các noãn bào tử "Phythium" (gây bệnh thối mềm), trong các cuộc điều tra trên các họ hàng hoang dã của gừng được gieo trồng để cải thiện khả năng kháng bệnh của cây trồng. Loài này cũng được nghiên cứu về khả năng chống lại các loại sâu bệnh khác của gừng và đậu khấu. Các dấu hiệu AFLP cho thấy sự biến đổi di truyền cao ở loài này.
Phân loại.
Baker (1892) và Schumann (1904) đặt "Z. cernuum" trong tổ "Cryptanthium".
Mô tả.
Cây thảo lâu năm. Thân lá cao 80–200 cm, đỉnh luôn luôn cong, nhẵn nhụi, màu xanh lục sáng tươi. Phiến lá hình elip hẹp đến thuôn dài-hình mác, nhọn thon, đáy hẹp, hai mặt nhẵn nhụi, màu xanh lục tươi. Cành hoa bông thóc hình trứng tù tới elipxoit; cuống cụm hoa mọc trực tiếp từ thân rễ, rất ngắn, đỉnh chỉ hơi thò ra trên mặt đất. Lá bắc hình trứng hoặc thuôn dài tù màu vàng nghệ-xanh tươi, nhẵn nhụi mặt trong, chẻ 3 ngắn. Ống tràng dài gần bằng đài hoa, các thùy tràng hoa dài bằng nhau, màu vàng-vàng da bò. Cánh môi hình trứng ngược, 3 thùy, thùy giữa hình trứng, chẻ đôi sâu, màu lốm đốm trắng đỏ/tía/hồng, các thùy bên màu vàng pha đỏ/tía/hồng. Quả nang màu trắng ánh vàng, nhẵn. Hạt (chưa chín) màu đỏ, có sọc; áo hạt dạng màng, màu trắng. | 1 | null |
Zingiber chlorobracteatum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được John Donald Mood và Ida Theilade miêu tả khoa học đầu tiên năm 1999.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh như dưới đây, được lưu giữ tại Đại học Aarhus, Đan Mạch (AAU):
Phân bố.
Loài này có trên đảo Borneo, tại bang Sabah, Malaysia. Loại cây thảo lâu năm này có các chồi lá cao tới 1,8-2,5 m, được ghi nhận ở cao độ 700–810 m. Nó mọc trên các ngọn đồi trong các khu rừng thứ sinh bị khai thác gỗ, chủ yếu là gần các sông suối.
Mô tả.
Cụm hoa hình thoi thanh mảnh với các lá bắc màu vàng-xanh lục. | 1 | null |
Zingiber chrysanthum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được William Roscoe miêu tả khoa học đầu tiên năm 1824.
Từ nguyên.
Tính từ định danh "chrysanthum" (giống đực: "chrysanthus", giống cái: "chrysantha") là tiếng Tân Latinh có nghĩa là có hoa màu vàng kim; ở đây để nói tới cánh môi màu vàng tươi hay vàng kim của loài này.
Phân bố.
Loài này có trong khu vực phía nam dãy núi Himalaya, lên tới cao độ 1.700-1.800 m, bao gồm Ấn Độ (từ Kumaon qua Sikkim tới Assam), Bangladesh, Bhutan, Myanmar và Nepal.
Phân loại.
Thuộc tổ "Cryptanthium".
Mô tả.
Thân rễ dạng củ, mọng thịt, nằm ngang, rất lớn. Thân giả mọc thẳng đứng, nhiều, cao 1,8-2,4-(3) m. Lá mọc so le, thành 2 dãy, hình thuôn dài-hình mác, 27-30 × 5-7,5 cm, nhọn thon, đáy thon nhỏ dần và dài, mặt trên nhẵn nhụi, mặt dưới có lông tơ, gần như không cuống hoặc trên cuống rất ngắn vặn xoắn, với bẹ chìa dạng lá kèm tù. Cành hoa bông thóc từ rễ, nằm gần với thân rễ, cuống cụm hoa rất ngắn, hình cầu kết đặc hoặc hình elipxoit ngắn-thuôn dài, đường kính 5 cm. Lá bắc xếp lợp, lớn, rộng, kết đặc, 7 × 5 cm; lá bắc ngoài hình trứng, thu hẹp thành điểm nhọn, đỉnh có lông nhung, vặn xoắn, uốn ngược, màu xanh lục nhạt tới xanh lục; lá bắc trong thẳng-hình mác, rộng 3,8-5 cm, bao lấy 3/4 chiều dài ống tràng hoa, màu xanh lục nhạt. Đài hoa thượng, hình trụ, dạng màng, trong suốt, có lông rung, dài 4 cm. Ống tràng uốn cong vào, có lông tơ, dài 3,8-5 cm. Phiến ngoài của tràng hoa gồm 3 phần hình mác ngắn, dài 2,5 cm, màu đỏ sẫm hoặc đỏ tươi; phần giữa lõm, uốn cong vào, hơi có lông, rộng và nhọn thơn hơn 2 phần bên. Phiến trong hay cánh môi, dài 2,3-2,5 cm, gồm 3 thùy chẻ sâu, màu vàng tươi hay vàng kim, không đốm; các tai ở đáy lớn nhất trong số các loài Zingiber đã biết; thùy giữa lớn nhất, hình tròn, có khía tai bèo, hơi chẻ đôi; các thùy bên hình trứng. Chỉ nhị với mỏ, ngắn hơn hoặc dài gần bằng cánh môi. Bao phấn kép, rất dài, vòi nhụy kéo dài ra ngoài bao phấn, xuyên qua rãnh của chỉ nhị và được hỗ trợ ở đáy bởi 2 bướu mầm. Đầu nhụy hình chén, có lông rung. Quả nang hình elipxoit-thuôn dài. Hạt gần tròn, đường kính 6 mm, màu nâu hạt dẻ, đỉnh có áo hạt dạng màng, màu trắng. | 1 | null |
Zingiber chrysostachys là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Henry Nicholas Ridley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1899.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Ridley H.N. 5199"; thu thập tháng 6 năm 1893 ở tọa độ khoảng , khoảng nửa đường tới đỉnh của Maxwell's Hill, bang Perak, Malaysia. Mẫu lectotype được lưu giữ tại Vườn Thực vật Singapore (SING), mẫu isolectotype được lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K).
Phân bố.
Loài này có tại miền trung và nam Thái Lan (các tỉnh Kanchanaburi, Phatthalung, Nakhon Ratchasima) và Malaysia (các bang Perak, Kedah).
Phân loại.
Schumann (1904) xếp nó trong tổ "Lampugium" (= tổ "Zingiber").
Mô tả.
Thân thanh mảnh, cao khoảng 60–100 cm, dày 0,3 cm, màu ánh tía. Lá ~10, cách nhau khá xa, hình mác nhọn thon, màu xanh lục sẫm, mỏng, dài 11–13 cm, rộng 3,5-3,8 cm; cuống ngắn; lưỡi bẹ thuôn dài, ~2,2-2,5 cm, dạng màng. Cán hoa cao ~15 cm với cuống cụm hoa cao ~5 cm, khá mập và được các bẹ màu đỏ che phủ. Cành hoa bông thóc dài 9–10 cm, thuôn dài tới hình elipxoit; với các lá bắc hình trứng ngược rộng, cắt cụt, rộng đầu, màu vàng tươi. Hoa đơn độc. Ống tràng ngắn, màu trắng, các thùy hình mác nhọn, dài 2,3-2,5 cm, màu trắng. Cánh môi hình trứng ngược, với đáy thẳng hẹp, 3 thùy, dài như cánh hoa; các thùy bên hình trứng, tù, màu trắng; thùy giữa và đĩa giữa các thùy bên màu trắng lốm đốm màu đỏ thắm/tía, đỉnh chẻ đôi ngắn. Nhị, chỉ nhị thẳng; nhị dài bằng cánh môi. Các ngăn bao phấn hình elip nhưng hơi hẹp hơn mô liên kết. Mỏ cong, nhọn, lốm đốm dày dặc màu hồng. | 1 | null |
Zingiber citriodorum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Ida Theilade và John Donald Mood mô tả khoa học đầu tiên năm 2002.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Mood J.D. 1475"; thu thập ngày 14 tháng 8 năm 1998 ở cao độ 1.290 m, tọa độ , km 21 trên đường 1322, khoảng 3 km từ điểm nối với đường 107, Wiang Haeng, tỉnh Chiang Mai, Thái Lan. Mẫu holotype được lưu giữ tại Đại học Aarhus, Đan Mạch (AAU).
Phân bố.
Loài này có tại tỉnh Chiang Mai, miền bắc Thái Lan. | 1 | null |
Zingiber clarkei là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được John Gilbert Baker miêu tả khoa học đầu tiên năm 1892. Danh pháp này đã được George Bentham và Joseph Dalton Hooker đề cập năm 1883 theo mô tả trước đó của George King (1840-1909) khi các tác giả mô tả tổ "Pleuranthesis", nhưng không hợp lệ do không kèm theo mô tả cho loài này.
Từ nguyên.
Tính từ định danh "clarkei" là để vinh danh Charles Baron Clarke (1832-1906), nhà thực vật học người Anh, giám quản Vườn Thực vật Calcutta giai đoạn 1869-1871, viện sĩ Hiệp hội Hoàng gia từ 1882, chủ tịch Hiệp hội Linnaeus giai đoạn 1894-1896.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Hooker J.D. & Thomson T. 3"; do Joseph Dalton Hooker (1817-1911) và Thomas Thomson (1817-1878) thu thập năm 1859 ở cao độ 3.000-5000 ft (tối đa 1.600 m), tọa độ khoảng . Mẫu syntype (MNHN-P-P00450919) được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Pháp ở Paris (P).
Phân bố.
Loài này có ở Đông Himalaya, tại các bang Sikkim và Tây Bengal ở Ấn Độ cũng như tại Bhutan.
Phân loại.
Loài này được xếp trong tổ "Pleuranthesis".
Mô tả.
Thân lá 150-200 cm, có lông tơ. Lá không cuống hoặc cuống rất ngắn, thuôn dài hoặc thuôn dài-hình mác, thon nhỏ-nhọn thon, đáy nhọn, 30-45 x 5-10 cm, có lông tơ mịn ở mặt dưới, mép và đỉnh bẹ. Lưỡi bẹ dài 6 mm, dạng màng, cắt cụt, rậm lông. Cành hoa bông thóc ở bên, thuôn dài-hình trụ nhọn, dài 7,5-10 cm, đường kính 3,5 cm, rủ xuống; cuống cụm hoa 7,5-15 cm, có lông măng, phần dưới rộng hơn. Lá bắc dài 2,5 cm, thuôn dài-hình trứng ngược, tù, màu xanh lục, phần trên cùng ánh đỏ, đỉnh có lông-lông rung, 2-4 hoa. Đài hoa dài 1 cm, 3 răng khó thấy. Ống tràng dài bằng lá bắc; các thùy tràng hơi ngắn, dài 2,5 cm, màu vàng nhạt, thùy tràng trên rộng nhất và lõm. Cánh môi dài như thùy tràng hoa, thuôn dài, màu vàng ánh màu tía nâu/tía đen. Nhị màu vàng nhạt, gần dài bằng cánh môi. Bầu nhụy rậm lông. Quả nang gần hình cầu, dạng màng, ngắn hơn lá bắc. Hạt lớn cỡ hạt đậu, đường kính 6 mm, màu nâu-nâu hạt dẻ. Áo hạt nhỏ, ngắn, màu trắng. | 1 | null |
Zingiber cochleariforme là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Fang Ding (Phương Đỉnh) miêu tả khoa học đầu tiên năm 1980. Tên gọi thông thường trong tiếng Trung là 匙苞姜 (thi bao khương), nghĩa là gừng bao hoa hình thìa.
Từ nguyên.
Tính từ định danh "cochleariforme" bao gồm các từ tiếng Latinh "cochlear" nghĩa là xoắn ốc, vỏ ốc, thìa và "forme" nghĩa là hình dạng; ở đây là nói tới các lá bắc hình nêm-hình vỏ ốc/hình thìa bao bọc hoa của loài này.
Phân bố.
Loài này có tại huyện tự trị các dân tộc Long Lâm, địa cấp thị Bách Sắc, tây bắc khu tự trị Quảng Tây, Trung Quốc.
Mô tả.
Thân rễ màu vàng nhạt, mọng thịt, mùi thơm nồng. Thân giả 0,7–2 m. Lưỡi bẹ 2 thùy, 4-7(-14) mm, nhẵn nhụi hoặc có lông tơ mỏng; cuống lá từ không có đến 6 mm, có lông nhung; phiến lá hình elip-hình mác, hiếm khi hình mác, 35-50 × 8–14 cm, mặt gần trục nhẵn nhụi, mặt xa trục nhiều lông, có tuyến lốm đốm trên cả hai mặt, đáy thuôn tròn-hình nêm đến hình nêm, đỉnh nhọn thon. Cụm hoa mọc từ thân rễ, hình trứng đến hình trứng ngược, 3-6 × 1,5–5 cm; cuống cụm hoa 1–6 cm, thanh mảnh, có lông nhung; lá bắc màu tía hoặc trắng, hình nêm-hình vỏ ốc/hình thìa đến thuôn dài, 1,5-4 × 0,5–2 cm, mặt xa trục có lông tơ, đỉnh cắt cụt hoặc thuôn tròn; lá bắc con 2,2-2,8 cm. Đài hoa màu ánh vàng, dài 1-1,3 cm. Ống tràng hoa 3,5–4 cm; các thùy màu trắng ánh vàng, hình mác, 2,5-3,5 cm. Cánh môi màu trắng ánh vàng, ~2,5 cm; thùy giữa màu tía hay đỏ ở đỉnh, hình mác ngược, ~2 × 0,8 cm, đỉnh 3 răng; các thùy bên gần thuôn dài, ~9 × 5 mm, họng có lông ngắn. Bao phấn ~1,2 cm; phần phụ liên kết màu tía hoặc đỏ, hiếm khi màu vàng, ~1,2 cm. Bầu nhụy rậm lông nhung. Quả nang màu đỏ, hình trứng-hình elipxoit, ~4 × 2 cm, 3 góc tù, nhiều lông. Hạt màu đen; áo hạt màu trắng. Ra hoa tháng 8-10, tạo quả tháng 10-11. | 1 | null |
Zingiber collinsii là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được John Donald Mood và Ida Theilade mô tả khoa học đầu tiên năm 1999 nhưng không có mô tả tiếng Latinh kèm theo. Năm 2000, các tác giả bổ sung mô tả tiếng Latinh và hiệu chỉnh một số sai sót trong bài báo đầu tiên.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Collins M. VN80"; thu thập năm 1980 tại rừng thứ sinh ven thác Đray Sáp, tỉnh Đắk Lắk (nay thuộc tỉnh Đắk Nông), Việt Nam. Mẫu holotype được lưu giữ tại Đại học Aarhus, Đan Mạch (AAU):
Một mẫu khác là "Trần H.Đ., Truong A.T. & Nguyen T.T. 159"; thu thập ngày 27 tháng 7 năm 2009 ở cao độ 380 m, tọa độ , tại thác Đray Sáp, tỉnh Đắk Nông, Việt Nam. Mẫu này được lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Edinburgh (E):
Từ nguyên.
Tính từ định danh "collinsii" là để vinh danh Mark Collins, người đã thu thập mẫu điển hình tại Việt Nam năm 1980.
Phân bố.
Loài này có tại Việt Nam (tỉnh Đắk Nông, Vườn quốc gia Cát Tiên, Rừng phòng hộ Tân Phú), Lào (tỉnh Attapeu) và có thể có ở Campuchia (?). Mọc ở những nơi râm mát trong hay ven rìa rừng thường xanh đến nửa thường xanh, ở cao độ 50–450 m. Thường được tìm thấy dưới dạng cây đơn lẻ, hiếm khi tạo thành các cụm lớn.
Mô tả.
Cây thảo thân rễ sống lâu năm, cao 0,7–1 m. Thân rễ phân nhánh, mập, mọng thịt, đường kính ~2 cm, vỏ màu nâu sáng, ruột màu hoàng thổ, mùi thơm nồng. Các chồi lá thẳng đứng, với 11–17 phiến lá phát triển tốt khi nở hoa, đường kính 1,2 cm ở gốc, 1 cm ở phần giữa, có lông tơ; bẹ không phiến lá 3–4, có sọc, màu đỏ sẫm, nhẵn nhụi, mép dạng màng; lưỡi bẹ hình trứng, dài 0,8–2 cm, màu ánh đỏ, có lông tơ, đỉnh tù, 2 thùy, mép nguyên, trong mờ; cuống lá dài 3–4 mm, chỉ gồm gối, màu xanh lục sáng, rậm lông tơ; phiến lá hình trứng-hình elip đến hình elip-thuôn dài, dài (4–)10–23 cm, rộng 5–10 cm, nhọn thon ở đỉnh, thon nhỏ dần ở đáy, mặt gần trục màu xanh lục tươi, có hoặc không có vệt màu ánh bạc dọc theo gân giữa, nhẵn nhụi, uốn nếp rõ nét, mặt xa trục màu đỏ burgundy, có hoặc không có lông tơ. Cụm hoa mọc từ thân rễ gần với gốc của thân giả; cuống cụm hoa dài đến 5 cm, phủ phục; cành hoa bông thóc hình thoi, dài 11,5–13 cm, rộng ~2,5 cm, gồm 10–24 lá bắc; lá bắc sinh sản, mỗi lá bắc đỡ 1 hoa, hình trứng, dài 3–4 cm, rộng 3–3,5 cm khi dẹt, màu cam đến đỏ, nhẵn nhụi, đỉnh tù; lá bắc con hình elip, dài 3 cm, rộng ~1,5 cm; hoa dài 5–6,5 cm; đài hoa hình ống, có răng cưa không đều ở đỉnh, màu trắng mờ, dài ~1,5 cm, đường kính 1 cm ở đáy, hơi rộng hơn về phía đỉnh; ống tràng hoa dài ~3,5 cm, hình phễu hẹp, phần trên hơi cong, đường kính ~2 mm ở đáy, ~4 mm ở đỉnh; thùy tràng lưng thuôn dài, với các gân dọc nổi rõ, dài 2,3–2,5 cm, rộng 1–1,2 cm, màu trắng mờ, hơi ánh đỏ, đỉnh tù; các thùy tràng bên hình mác hẹp, với các gân dọc nổi rõ, dài 1,8–2 cm, rộng 5–6 mm, màu trắng mờ, hơi ánh đỏ; cánh môi hình tam giác, dài ~2 cm, rộng ~1 cm, màu vàng kem, khảm màu tía sẫm, nhẵn nhụi cả hai mặt, lượn sóng ở mép; nhị lép bên khá phát triển, hợp sinh với cánh môi ở đáy, hình elip, dài 0,6–0,8 cm, rộng 1,5–1,7 cm ở đáy, màu vàng kem, hai mặt nhẵn nhụi, với đỉnh thuôn tròn. Nhị dài ~5 cm; bao phấn dài ~2,5 cm (với mào), đỉnh nguyên; mô liên kết bao phấn màu vàng kem, nhẵn nhụi; mào bao phấn hình mỏ, dài ~1,5 cm khi kéo giãn, màu tía sẫm với ánh vàng sáng ở đáy. Bầu nhụy hình trụ, dài ~3,5 mm, rộng ~3 mm, có lông tơ; tuyến trên bầu 2, hình nón hẹp, dài 2,5–3 mm, màu vàng sáng, đỉnh nhọn; vòi nhụy màu trắng, nhẵn nhụi; đầu nhụy dày hơn vòi nhụy, màu trắng mờ, lỗ nhỏ hướng về phía trước, mép có lông rung. Không thấy quả. Ra hoa từ sau buổi trưa đến buổi chiều, trong tháng 8-9. | 1 | null |
Zingiber coloratum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Nicholas Edward Brown miêu tả khoa học đầu tiên năm 1879.
Mẫu định danh.
Có hai mẫu như dưới đây:
Phân bố.
Loài này có trên đảo Borneo, tại bang Sabah, Malaysia. Môi trường sống là rừng miền đồi, ở cao độ dưới 700 m.
Phân loại.
Schumann (1904) xếp nó vào tổ "Lampugium" (= "Zingiber").
Mô tả.
Thân cao 90–200 cm, dày khoảng 1,25 cm tại gốc, thon búp măng phía dưới, ép dẹp phía trên; nửa dưới với vài bẹ xa nhau, rất tù, có mấu nhọn rất ngắn, ôm chặt lấy thân, không gờ, có lông rung, với các lông trắng ngắn ở mép và đỉnh, các bẹ thấp nhất gần như hoặc hoàn toàn nhẵn nhụi, các bẹ trên có lông tơ; nửa trên là thân mang lá. Lá không cuống, xếp thành 2 dãy, thẳng đứng, tỏa rộng vuông góc, thẳng-hình mác nhọn thon gần hình đuôi, kết thúc bằng điểm hình dùi nhỏ, hẹp phía dưới thành đáy hình nêm, dài 23–25 cm, rộng 3,8-4,5 cm, màu xanh lục và nhẵn nhụi mặt trên, nhạt màu hơn và được lông lụa áp ép che phủ ở mặt dưới, màu các bẹ của chúng giống như các bẹ phía dưới nhưng có gờ ở lưng và được lông tơ áp ép che phủ; lưỡi bẹ rất ngắn, cắt cụt-rộng đầu, rậm lông. Cán hoa mọc từ rễ, dài 3,5-7,5 cm, dày ~1,2 cm. Cành hoa bông thóc hình thoi nhọn, dài 9–10 cm, dày ~2,1 cm ở đoạn giữa. Cán hoa lỏng lẻo và cành hoa bông thóc được che phủ bởi các lá bắc xếp lợp chặt màu đỏ thắm tới tía, dài 3,5-3,8 cm, rộng 2,2-2,5 cm, hình nêm-thuôn dài tù, hầu như không nhọn đột ngột, mặt trong nhẵn nhụi, mặt ngoài có lông lụa áp ép cho tới gần nơi có lá bắc xếp chồng che phủ, viền đỉnh như lụa hẹp. Các lá bắc trong dài 2,3-2,5 cm, thuôn dài hình mác nhọn, xoắn chặt xung quanh đài hoa, dạng màng, màu ánh trắng với đỉnh màu đỏ thắm. Đài hoa dài 2,3-2,7 cm, hình ống, chẻ một bên tới nửa chiều dài, đỉnh cắt cụt, 3 răng khó thấy, dạng màng, màu ánh trắng, với 3 sọc màu ánh tía ngắn tại đỉnh. Ống tràng dài 2,8-3,2 cm, các phần bao hoa ngoài hình mác nhọn thon, gần bằng nhau, dài 2,1 cm, phần lưng rộng nhất. Cánh môi 3 thùy; các thùy bên nhỏ, dài khoảng một nửa thùy giữa, thuôn dài hoặc hơi cong lưỡi liềm, tù; thùy giữa hình elip hoặc thuôn dài thuôn tròn, tù. Bao phấn lớn, với đỉnh hình dùi, dài 1,1 cm, xuyên qua đó là đỉnh của vòi nhụy và đầu nhụy thò ra. | 1 | null |
Zingiber corallinum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Henry Fletcher Hance miêu tả khoa học đầu tiên năm 1880. Tên gọi trong tiếng Trung là 珊瑚姜 (san hô khương), nghĩa là gừng san hô.
Mẫu định danh.
Lectotype "Hancock W. 20747"; thu thập tháng 12 năm 1878 ở tọa độ , tại đảo Hải Nam, Trung Quốc. Mẫu này được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Anh ở London (BM).
Phân bố.
Loài này có tại Trung Quốc (Hải Nam, Quảng Tây, Quảng Đông), Lào, Thái Lan. Môi trường sống là rừng rậm.
Phân loại.
Schumann (1904) xếp nó vào tổ "Lampugium" (= "Zingiber"). Nó là một thành viên của nhóm "Z. montanum"; bao gồm "Z. corallinum", "Z. griffithii", "Z. idae", "Z. montanum", "Z. neesanum", "Z. purpureum", "Z. tenuiscapus".
Mô tả.
Thân giả ~1 m. Lá không cuống; bẹ lá thưa lông hoặc nhẵn nhụi; lưỡi bẹ 2-4 mm; phiến lá thuôn dài-hình mác hoặc hình mác, 20-30 × 4-6 cm, mặt gần trục nhẵn nhụi, mặt xa trục thưa lông hoặc nhẵn nhụi. Cụm hoa mọc ra từ thân rễ, thuôn dài 15-30 cm; cuống cụm hoa 15-20 cm, bẹ hình vảy 4-5 cm; lá bắc màu đỏ, hình trứng, dài 3-4 cm, đỉnh nhọn. Đài hoa 1,5-1,8 cm, chẻ tới giữa. Ống tràng hoa ~2,5 cm; các thùy với sọc tía, thuôn dài, ~1,5 cm, đỉnh nhọn, thùy giữa lớn hơn các thùy bên. Thùy giữa của cánh môi hình trứng ngược, ~1,5 cm; các thùy bên ~8 mm, đỉnh nhọn. Bao phấn không cuống, ~1 cm; phần phụ liên kết giống mỏ, cong, ~5 mm. Bầu nhụy 2-2,5 mm, như lụa. Hạt màu đen, bóng. Ra hoa tháng 5-8, tạo quả tháng 8-10. "2n" = 22.
Mu Mu Aung (2016) mô tả loài mới "Zingiber neomontanum" ở Myanmar và cho rằng nó khác với "Z. corallinum", nhưng tới nay vẫn chưa được công nhận.
Mô tả loài này như sau: Cây thảo thân rễ sống lâu năm, cao tới 2 m. Thân rễ vỏ màu nâu ánh trắng, ruột màu trắng kem, mùi thơm nhẹ. Thân lá thẳng đứng, màu xanh lục, nhẵn nhụi hơi có lông tơ ở gần đỉnh bẹ. Lá 10–12 cặp, sắp xếp thưa dọc theo các lóng dài, màu xanh lục; phiến lá thẳng tới hình mác, dài 45–50 cm, rộng 4–4,5 cm, đỉnh nhọn thon, đáy hình nêm hẹp, mép hơi gợn sóng, mặt gần trục nhẵn nhụi, mặt xa trục thưa lông tơ; lưỡi bẹ 2 thùy, dài 2 mm, dạng màng như thủy tinh, rậm lông tơ, đỉnh cụt; cuống lá rất ngắn, có lông tơ, gối khác biệt. Cụm hoa thường 1, mọc từ thân rễ; cuống cụm hoa từ thân rễ, thẳng đứng, dài ~20 cm, lá bắc bẹ màu xanh lục, thuôn dài tới hình trứng hẹp, dài 5–6 cm, rộng 1 cm, đỉnh thuôn tròn, rậm lông tơ; cành hoa bông thóc hình thoi, dài 18–28 cm, rộng ~5 cm, đỉnh tù hơi thon búp măng. Lá bắc hình trứng, dài ~4,5 cm, rộng 2–2,5 cm, màu đỏ tươi, đỉnh từ nhọn đến nhọn thon, rậm lông tơ áp ép, lông lụa rất mịn về phía đáy. Lá bắc con thuôn dài, dài 3 cm, màu trắng, rậm lông tơ áp ép ở mặt ngoài, mặt trong nhẵn nhụi, đỉnh khía răng cưa. Hoa dài ~8,3 cm, thò ra từ lá bắc; đài hoa hình ống, dài ~2,2 cm, màu trắng, dạng màng, nhẵn nhụi, đỉnh 3 răng; ống hoa hình trụ đến hình phễu ở đỉnh, màu trắng kem, dài 4,5 cm, nhẵn nhụi; thùy tràng hoa 3, màu kem đến vàng nhạt, nhẵn nhụi; thùy tràng lưng hình trứng, dạng thuyền, cuốn trong, dài 3 cm, rộng 1,5 cm; các thùy tràng bên thẳng-hình mác, dài 2,6 cm, rộng 9 mm; cánh môi 3 thùy, màu trắng đến kem hoặc vàng nhạt; thùy giũa hình trứng ngược, dài ~3,4 cm, rộng 1,5 cm, đỉnh có khe hở, mép nhăn; các nhị lép bên hình trứng đến hình trứng ngược với đỉnh thuôn tròn, dài ~1,5 cm, rộng 8 mm. Nhị dài ~2,4 cm; chỉ nhị không cuống; bao phấn màu trắng, có đốm đen dày đặc trên cả mào lẫn phần phụ (chỉ nhìn thấy ở vật liệu ngâm cồn); mào bao phấn dài ~1,1 cm, cong mạnh; mô vỏ bao phấn dài 1,3 cm với phần phụ liên kết. Bầu nhụy màu trắng, gần hình elipxoit, rậm lông tơ, 3 ngăn với nhiều noãn đính trụ; vòi nhụy dài, hình chỉ; đầu nhụy màu trắng, có lông rung; tuyến trên bầu 2, thẳng, dài ~7 mm, màu trắng. Quả nang không rõ. | 1 | null |
Zingiber curtisii là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Richard Eric Holttum miêu tả khoa học đầu tiên năm 1950.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Curtis C. s.n."; thu thập tháng 8 năm 1898 ở tọa độ khoảng , núi Bujang Melaka, bang Perak, Malaysia. Mẫu holotype được lưu giữ tại Vườn Thực vật Singapore (SING).
Từ nguyên.
Tính từ định danh "curtisii" là để vinh danh nhà thực vật học người Anh Charles Curtis (1853-1928), giám quản đầu tiên của Vườn Thực vật Penang giai đoạn 1884-1903.
Phân bố.
Loài này có tại Malaysia (núi Bujang Melaka trong Khu bảo tồn rừng Sungai Salu Melaka, bang Perak). Môi trường sống là rừng nhiệt đới vùng đất thấp.
Phân loại.
Có quan hệ họ hàng gần với "Z. chrysostachys" - loài được Schumann (1904) xếp trong tổ "Lampugium" (= tổ "Zingiber"). Holttum gợi ý rằng nó rất có thể chỉ là một thứ của "Z. chrysostachys".
Mô tả.
Thân lá tương tự như "Z. chrysostachys". Cán hoa dài 10 cm hoặc hơn, bẹ màu tía bao quanh. Cụm hoa dài 10 cm, rộng 3 cm, gần hình trụ, đỉnh tù. Lá bắc màu vàng-xanh lục nhạt, dài 3-3,5 cm, rộng 1,5 cm, gần hình elip, đỉnh tù và hơi cụp trong, nhẵn nhụi hoặc gần nhẵn nhụi, mỏng. Lá bắc con hơi ngắn hơn lá bắc. Đài hoa cộng bầu nhụy dài ~2 cm. Ống tràng hơi dài hơn lá bắc con, các thùy dài ~2 cm, màu trắng. Cánh môi hiếm khi dài bằng thùy tràng hoa, màu trắng hoặc xỉn xám nhạt, tổng thể (bao gồm cả các thùy bên) nhiều đốm màu tía, hình dáng tương tự như cánh môi của "Z. chrysostachys". Mào bao phấn màu tía sẫm. | 1 | null |
Zingiber cylindricum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được George Henry Kendrick Thwaites miêu tả khoa học đầu tiên năm 1861, dựa theo tên gọi và mô tả rất ngắn (spike cylindrical, nghĩa là cành hoa bông thóc hình trụ) năm 1824 của Alexander Moon.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "C.P 2287"; thu thập ở tọa độ khoảng , tỉnh Trung Bộ, Sri Lanka. Mẫu isotype được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Pháp ở Paris (P).
Phân bố.
Loài này có tại Sri Lanka. Môi trường sống là rừng, tại tỉnh Trung Bộ.
Phân loại.
Baker (1892) và Schumann (1904) xếp nó trong tổ "Lampuzium" / "Lampugium" (= tổ "Zingiber").
Mô tả.
Cây cao 90–180 cm hoặc hơn. Lá thuôn dài-hình mác hoặc thẳng-hình mác, dài 12–20 cm, rộng 2,5–5 cm, thon nhỏ-nhọn thon, đáy nhọn, dạng màng, gần như không cuống, mặt trên nhẵn nhụi, gần gân mặt dưới đôi khi nhiều lông tơ. Bẹ tại đỉnh hình ống, không chẻ. Lưỡi bẹ ngắn, cắt cụt, dài 1 mm, dạng màng, tù, mặt ngoài nhiều lông. Cành hoa bông thóc mọc từ rễ, dài 7,5–10 cm, đường kính 3,8 cm, gần hình trụ đến thuôn dài-hình trụ, có cuống. Cuống cụm hoa dài 7–22 cm, mọc thẳng đứng, vảy 2,5 cm, tù, tại đoạn giữa bẹ hình ống. Lá bắc xếp lợp, thuôn tròn hoặc thuôn dài, dài 2,3-2,5 cm, màu hung đỏ hoặc nhạt màu, các lá bắc trên gần nhọn, các lá bắc thấp nhất tù. Ống tràng dài bằng lá bắc, các phần gần đều, hình mác, màu xanh lục. Cánh môi hình trứng ngược, 3 thùy, màu trắng ánh vàng không đốm, các tai ở đáy nhỏ và tù; các thùy thẳng, cắt cụt, thùy giữa rộng hơn. Quả nang gần hình cầu, màu từ hung đỏ tới đỏ. Hạt màu đen, áo hạt trắng.
Rất giống với "Z. officinale", các bẹ hình ống không chẻ của các lá là đặc điểm phân biệt nó với loài kia. | 1 | null |
Zingiber densissimum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Tong Shao Quan (童绍全, Đồng Thiệu Toàn) và Xia Yong Mei (夏永梅, Hạ Vĩnh Mai) miêu tả khoa học đầu tiên năm 1987. Tên gọi trong tiếng Trung là 多毛姜 (đa mao khương), nghĩa là gừng nhiều lông.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Tong S.Q. & Xia Y.M. 24998"; thu thập ngày 7 tháng 10 năm 1986 ở cao độ 1.400 m, tọa độ khoảng , huyện Mãnh Hải, châu Tây Song Bản Nạp, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Mẫu holotype được lưu giữ tại Vườn Thực vật Nhiệt đới Tây Song Bản Nạp (HITBC), mẫu isotype được lưu giữ tại Viện Thực vật Côn Minh (KUN).
Từ nguyên.
Tính từ định danh "densissimum" (giống đực: "densissimus", giống cái: "densissima") là tiếng Latinh, nghĩa là rậm nhất, rất rậm, rất chen chúc, rất dày đặc; ở đây để nói tới mặt dưới phiến lá rất rậm lông nhung của loài này.
Phân bố.
Loài này có tại tây nam Trung Quốc (cực nam tỉnh Vân Nam), miền bắc Lào (tỉnh Xiengkhuang) và Thái Lan (các tỉnh Chiang Mai, Mae Hong Son, Phitsanulok) cũng như tại miền trung Myanmar (vùng Mandalay). Môi trường sống là rừng hỗn hợp, ở cao độ 700-1.900 m.
Phân loại.
"Z. densissimum" thuôc tổ "Cryptanthium".
Mô tả.
Thân giả cao 40-70 cm, đường kính 0,8-1,2 cm. Lá tụ tập ở đỉnh thân giả; bẹ lá có lông nhung màu trắng bạc; lưỡi bẹ 2 thùy, các thùy thuôn tròn, dài 0,6-1(-2) cm, rậm lông nhung màu trắng bạc; cuống lá 2-5 cm, rậm lông nhung màu trắng bạc, đáy phồng thành khớp; phiến lá hình mác hoặc hình mác hẹp, 22-47 × 4-9 cm, mặt gần trục nhẵn nhụi, mặt xa trục rất rậm lông nhung màu trắng bạc, đáy hình nêm hoặc thon nhỏ dần, đỉnh nhọn thon ngắn. Cụm hoa 1-3, mọc từ thân rễ, nhạt màu hoặc màu đỏ nhạt ở đỉnh; cành hoa bông thóc hình trứng hẹp hoặc hình trứng, 4,5-5 × 3,4-4,5 cm; cuống cụm hoa thanh mảnh, chìm trong lòng đất, dài 3-13 cm, vảy nhạt màu có lông tơ; lá bắc màu đỏ ở đỉnh, đỉnh có mấu nhọn, lá bắc ngoài hình elip rộng, 3,8-4,2 × 2,6-2,8 cm, lá bắc trong hình elip hoặc hình elip hẹp, 3,8-4,1 × 1,4-2,3 cm; lá bắc con 2,4-2,6 cm × 4-6 mm, có lông nhung màu trắng bạc, chẻ một bên tới đáy, đỉnh nguyên. Hoa màu trắng. Đài hoa hình ống, 1,3-1,5 × 0,4-0,5 cm, có lông nhung màu trắng bạc, đỉnh 3 răng không đều. Ống tràng hoa 4,5-5 cm, đường kính ~3 mm, nhẵn nhụi; các thùy hình mác, không đều, nhẵn nhụi; thùy giữa hình mác, 2,8–3,1 × 0,8–1 cm; các thùy bên hình mác hẹp, 2,2–2,5 × 0,5–0,6 cm. Cánh môi hình quạt, nhẵn nhụi; thùy giữa hình trứng ngược rộng, 2,5-3 × 2-2,5 cm, đỉnh lõm rõ nét, có khía răng cưa; các thùy bên (nhị lép bên) hẹp hơn thùy giữa, hình trứng ngược hẹp, 2-2,4 × 1-1,2 cm. Nhị dài ~2,5 cm, nhẵn nhụi; chỉ nhị dài ~2 mm, nhẵn nhụi; bao phấn màu vàng, mô vỏ dài ~1,3 cm; phần phụ kết nối dài ~9 mm, màu vàng. Bầu nhụy màu trắng, có lông nhung màu trắng bạc. Vòi nhụy nhẵn nhụi; đầu nhụy có lông rung; tuyến trên bầu thẳng, dài ~3 mm. Quả nang non hình trứng 3 góc, ~3 × 2 cm, nhạt màu, có lông nhung màu trắng bạc, với đài bền có lông tơ trắng dài che phủ ở đỉnh. Hạt nhạt màu, hình gần trứng ngược, dài ~3 mm; áo hạt dạng màng, màu trắng. Ra hoa tháng 7.
"Z. densissimum" giống với "Z. orbiculatum" ở chỗ có hoa màu trắng, nhưng khác ở chỗ lá tụ tập trên đỉnh thân giả, có cuống, mặt dưới phiến lá rất rậm lông nhung màu trắng bạc, lưỡi bẹ 2 thùy rõ nét, cuống cụm hoa dài tới 13 cm, thùy giữa cánh môi hình trứng ngược rộng với đỉnh lõm rõ nét. | 1 | null |
Gừng Eberhardt (danh pháp khoa học: Zingiber eberhardtii) là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được François Gagnepain miêu tả khoa học đầu tiên năm 1907.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Eberhardt P.A. s.n."; do nhà thực vật học người Pháp Philippe Albert Eberhardt (1874-1942) thu thập tại Bắc Bộ, Việt Nam, có lẽ khoảng năm 1905-1906.
Phân bố.
Loài này có tại Việt Nam.
Mô tả.
Cây thảo mọc thành bụi. Thân rễ có nhiều mắt, ngoằn ngoèo, mùi hơi thơm hoặc gần giống mùi hồ tiêu. Thân giả thanh mảnh, nhẵn nhụi, dài ~120 cm nhưng rủ xuống lên chiều cao chỉ tới 100 cm. Các bẹ ở gốc màu xanh lục ánh tía sẫm. Lá khoảng 25 mỗi thân, cách nhau 2-8 cm, không cuống, thẳng-hình mác, đáy nhọn, đỉnh nhọn thon có mấu nhọn và có lông rung, 10-15 × 2-3,5 cm, hai mặt nhẵn nhụi, mặt trên nhẵn bóng; lưỡi bẹ khô xác, dễ gãy, cắt cụt-có khía răng cưa, ít sọc màu đen, đáy mặt ngoài nhiều lông; đỉnh bẹ nhiều lông, hầu hết có sọc. Cán hoa ngắn, thẳng đứng, mọc từ thân rễ, gần thân lá, nhẵn nhụi, màu đỏ, có vảy (bẹ cuống cụm hoa); vảy hình mác, xếp lợp rồi sau đó lỏng lẻo, màu đỏ sẫm; cụm hoa hình trứng-hình trụ, lá bắc xếp lợp chặt, hình elip, đỉnh thuôn tròn, phần lộ ra màu ánh đỏ, mép nhạt màu, nhẵn nhụi, phần bị che lấp màu xanh lục; lá bắc con ôm hoa, có khía răng cưa, màu đỏ. Đài hoa hình ống, dài 1,2 cm, nhẵn nhụi, cắt cụt, răng khó thấy, chẻ một bên, màu trắng. Ống tràng thò ra, màu trắng; các thùy hình mác-tù, dài 1,7 cm, màu kem tới vàng nhạt, thùy lưng 2 lần rộng hơn. Bao phấn thẳng-hình elip, mô liên kết hình dùi, dài bằng. Cánh môi hình trứng-tam giác, 3 thùy; các thùy bên ngắn, tù, nhạt màu hơn; thùy giữa dài rộng hơn nhiều, hình elip, nguyên, màu đỏ tới đỏ sẫm với các đốm màu kem. Nhị lép bên màu kem, có lẽ hợp sinh tại đáy với cánh môi, tạo thành các thùy bên. Bầu nhụy nhẵn nhụi; nhụy lép hình trụ, đỉnh có khía răng cưa; quả nang nhẵn nhụi, hình trứng, 3 ngăn, các ngăn thuôn tròn thuôn tròn rất rõ; noãn hữu thụ chủ yếu ở trên. Quả nang không lông; hạt màu nâu tới đen, bóng, áo hạt xé rách, ôm lấy phần đỉnh hạt. | 1 | null |
Zingiber eborinum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được John Donald Mood và Ida Theilade miêu tả khoa học đầu tiên năm 1997.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Mood J.D. 432"; thu thập năm 1989 ở tọa độ khoảng , vùng đồi Paling Paling, bang Sabah, Malaysia. Mẫu holotype được lưu giữ tại Trung tâm Nghiên cứu Rừng ở Sandakan, Sabah (SAN).
Từ nguyên.
Tính từ định danh "eborinum" có nguồn gốc từ danh sở hữu cách từ tiếng Latinh "eboris", tới lượt nó là danh từ "ebur" nghĩa là ngà voi, màu ngà voi; ở đây để nói tới các lá bắc màu trắng ngà của loài này.
Phân bố.
Loài này có trên đảo Borneo, đặc hữu vùng đồi Paling Paling, bang Sabah, Malaysia. Môi trường sống là rừng thứ sinh vùng đồi ở cao độ dưới 300 m.
Mô tả.
Thân lá cao 0,75–1 m. Các bẹ lá có lông tơ về phía cuống lá. Lưỡi bẹ 2 thùy, dài 7 mm, dạng giấy, nhẵn nhụi. Cuống lá dài 2 mm, có lông tơ. Lá hình trứng, 17-23 × 6-9,5 cm, màu xanh lục sẫm, như sáp với kết cấu dày, mặt trên nhẵn nhụi, với lông lụa mịn mặt dưới, gân giữa về phía đáy mặt dưới có lông mịn, mép rậm lông tơ màu ánh nâu. Cán hoa mọc từ thân rễ, ngầm dưới đất, dài 5–6 cm. Các bẹ cán hoa màu ánh đỏ nhạt. Cụm hoa mọc thẳng đứng hay hơi phủ phục, hình trứng, 7-8 × 3-3,5 cm, màu ánh trắng. Lá bắc hình trứng ngược, 2,6-3 × 1,5-2,5 cm, nhẵn nhụi, màu trắng ngà, các lá bắc phía dưới với ánh hơi hồng, rìa màu nâu, hơi gợn sóng. Lá bắc con hình trứng ngược, 1,5 × 1 cm, màu ánh trắng. Đài hoa màu da cam nhạt, dài 2 cm, dài hơn lá bắc con. Tràng hoa dài 5,2 cm, màu da cam; thùy tràng lưng 2,3 × 0,8 cm; các thùy tràng bên 1,8 × 0,4 cm. Cánh môi dài 5 cm; thùy giữa thuôn dài với 2 gờ dọc theo phần dưới đường giữa, 1,8 × 1,2 cm, màu da cam nhạt với sọc màu da cam tươi hơn ở tâm; các thùy bên thuôn dài ra, 0,6 × 0,4 cm. Bao phấn dài 1 cm, màu da cam tươi. Phần phụ bao phấn 0,7 cm, màu da cam nhạt. Quả không rõ. Ra hoa tháng 4-5 hoặc sau khi có mưa lớn.
"Z. eborinum" gần giống với "Z. puberulum" var. "borneense" và "Z. acuminatum" var. "borneense" ở chỗ mép lá rậm lông tơ và cụm hoa ở gốc. Hình dạng cánh môi rất giống với của "Z. puberulum" var. "borneense". Tuy nhiên, nó khác với 2 loài trên ở chỗ các lá bắc hình trứng nhỏ hơn, cụm hoa hình cầu nhỏ hơn với các lá bắc màu trắng ngà và cánh môi màu da cam với 2 gờ dọc theo đường giữa. Nó là loài duy nhất với lá bắc màu trắng đã biết có tại Borneo. | 1 | null |
Zingiber elatius là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Ida Theilade nâng cấp thành loài độc lập năm 1998 với danh pháp "Zingiber elatior"; dựa trên thứ "Zingiber gracile" var. "elatior" do Henry Nicholas Ridley mô tả năm 1899.
Từ nguyên và lưu ý.
Tính từ Latinh giống đực/giống cái: "elatior", giống trung: "elatius"; nghĩa là cao hơn. Danh từ "Zingiber" là giống trung nên danh pháp chính xác là "Z. elatius" (như ghi nhận của IUCN, POWO, IPNI, WCSP, ZRC), không phải "Z. elatior" như ghi nhận trong các bài báo gốc hoặc trong The Plant List, TROPICOS. Ở đây là để nói tới thân cây cao hơn của nó so với dạng nguyên chủng của loài mà ban đầu nó được coi là một thứ trong đó là "Z.gracile".
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Ridley H.N. 9340"; thu thập tháng 6 năm 1898 ở cao độ 760–762 m, tọa độ khoảng , tại Richmond Pool, Penang Hill, Penang, Malaysia bán đảo. Mẫu lectotype được lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K). Lưu ý rằng thông tin về lectotype và isotype của Theilade (1998) là thiếu chính xác (tháng 4 năm 1896, lectotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Singapore - SING, isotype tại K).
Các mẫu khác có "Burkill SFN 3312", "Burkill SFN 1529", "Fox W. 61" (tháng 8 năm 1899) tại Penang; "King's Coll. 7954" (= "Kunstler H. 7954"), "Burkill & Haniff SFN 12712" tại Perak.
Các mẫu "Ridley 7954" (tháng 8 năm 1904), "Hume 8717" tại Selangor; "Ridley H.N. s.n." (tháng 12 năm 1905) tại Johor.
Phân bố.
Loài này có tại các bang Penang (Penang Hill trên đảo Penang), Perak (Bukit Larut, tên cũ Maxwell Hill) thuộc Malaysia bán đảo. Môi trường sống là rừng, ở cao độ 600-1.150 m.
Các bang Johor và Selangor theo thông tin của Theilade (1998) không được IUCN ghi nhận.
Phân loại.
Thuộc nhóm "Zingiber gracile" trong tổ "Zingiber", bao gồm "Z. aurantiacum", "Z. elatius", "Z. gracile", "Z. kelantanense", "Z. petiolatum", "Z. raja", "Z. singapurense" và "Z. sulphureum".
Mô tả.
Chồi lá cao tới 1,5–2 m. Lưỡi bẹ 2 thùy, dài 2–10 mm, có lông tơ. Lá màu xanh lục sẫm, không cuống, thẳng hẹp tới hình mác nhọn thon, 20-30 x 2-2,8 cm, mặt dưới và gân giữa về phía đáy có lông tơ. Cán hoa dài 30-40(-45) cm. Cành hoa bông thóc hình thoi thanh mảnh, dài 10-20(-25) cm và rộng 2-2,5 cm. Lá bắc màu da cam chuyển thành đỏ hay đỏ-tía, có lông tơ dọc theo mép. Lá bắc con 2,5–3 cm, khá cứng. Đài hoa dài ~2,5 cm. Tràng hoa 6 cm, màu kem. Cánh môi chẻ đôi sâu, màu vàng, đôi khi với vài đường nhỏ, ngắn, màu đỏ và đen (mẫu "Burkill SFN 3312").
Về mặt sinh dưỡng, giống với "Z. montanum" ở Ấn Độ ở chỗ có lá thẳng, nhưng khác ở chỗ phiến lá hẹp hơn và cụm hoa hình thoi thanh mảnh với các lá bắc màu từ da cam tới đỏ. | 1 | null |
Zingiber elatum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được William Roxburgh đề cập lần đầu tiên năm 1814, nhưng miêu tả khoa học chỉ được công bố năm 1820 sau khi ông mất, và in lại năm 1832 không kèm chú giải của Nathaniel Wallich.
Phân bố.
Loài này có tại khu vực nội địa Bengal, Ấn Độ và Đông Himalaya.
Phân loại.
Baker (1892) xếp "Zingiber capitatum" var. "elatum" (= "Z. elatum") trong tổ "Dymczewiczia".
Mô tả.
[Thân] rễ dạng củ, ruột vàng, từ đó mọc ra các rễ thật sự, nhiều trong số này kết thúc bằng các củ thuôn dài, ruột nhạt màu – như ở "Curcuma". Thân thảo, thẳng, cao 120-150 cm, bao gồm cả cành hoa bông thóc. Lá xếp thành hai dãy, thẳng, uốn ngược lại, mặt trên nhẵn nhụi, mặt dưới nhiều lông trắng mềm ngắn áp ép, dài 30-45 cm, rộng 2,5 cm. Bẹ hơi có lông; miệng với bướu dạng màng rất hẹp. Cành hoa bông thóc đầu cành, đơn độc, hình mác hẹp, dài 15 cm, chu vi 7,5 cm, xếp lợp kết đặc với các lá bắc hình mác, dài 3,8 cm, mặt ngoài với ít lông, đỡ 1 hoa. Lá bắc trong hay bao hoa hạ ngắn hơn và rộng hơn lá bắc ngoài, nhưng giống như lá bắc ngoài ở chỗ cứng và có ít lông. Đài hoa thượng, màu trắng, nhẵn; miệng có răng không đều, dài khoảng trên một nửa chiều dài lá bắc. Tràng hoa dài hơn đáng kể, màu vàng tươi. Nhị với chỉ nhị ngắn, với mỏ cong rất dài nằm trên đỉnh của bao phấn 2 thùy thẳng. Tuyến mật hình dùi. Bầu nhụy hình xoan, có lông, 3 ngăn, với nhiều noãn trong mỗi ngăn, noãn đính trụ. Đầu nhụy có lông rung. Quả nang hình xoan, kích thước cỡ quả ô liu, 3 ngăn, 3 mảnh vỏ. Hạt nhiều, bóng, màu đen, bao bọc trong áo hạt lớn màu trắng xé rách. Phôi gần hình mác, đáy cắt cụt, được ngoại nhũ bao bọc; nửa trên bởi noãn hoàn. Trong vườn thực vật nở hoa tháng 7-8 và hạt chín tháng 9-10.
Tương tự như "Z. capitatum" nhưng cao hơn, cành hoa bông thóc mập hơn và hoa lớn hơn. | 1 | null |
Zingiber ellipticum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Tong Shao Quan (童绍全, Đồng Thiệu Toàn) và Xia Yong Mei (夏永梅, Hạ Vĩnh Mai) miêu tả khoa học đầu tiên năm 1987 dưới danh pháp "Plagiostachys elliptica". Năm 1996, Wu Qi Gen (吴七根, Ngô Thất Căn) và Wu Te Lin (吴德邻, Ngô Đức Lân) chuyển nó sang chi "Zingiber". Tên gọi trong tiếng Trung là 侧穗姜 (trắc tuệ khương), nghĩa đen là gừng cành hoa bên.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Tong S.Q., Xia Y.M. & Yin S.H. 32994"; thu thập ngày 10 tháng 11 năm 1985 tại huyện Mã Quan, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Mẫu holotype được lưu giữ tại Vườn Thực vật Nhiệt đới Tây Song Bản Nạp (HITBC).
Phân bố.
Loài này có tại huyện Mã Quan, châu tự trị Văn Sơn, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Môi trường sống là rừng; ở cao độ ~600 m.
Phân loại.
"Z. ellipticum" được xếp trong tổ "Pleuranthesis".
Mô tả.
Thân rễ ruột màu tía đỏ sẫm. Thân giả 60-100 cm. Bẹ lá màu nâu; lưỡi bẹ 2 thùy, 1-3 cm, màu nâu, có lông tơ; cuống lá 1-9 cm; phiến lá hình elip hoặc hình elip-hình mác, 40-55 × 14-16 cm, mặt gần trục thưa lông, mặt xa trục rậm lông tơ, đáy hình nêm hoặc thon nhỏ dần, mép có lông rung, đỉnh nhọn thon ngắn. Cụm hoa xuyên qua các bẹ lá trên mặt đất 20-50 cm, không cuống, hình elipxoit đến thuôn dài, 11-18 × 4-5,5 cm; lá bắc màu trắng ánh vàng hoặc xanh lục ánh vàng nhạt, hình trứng ngược, 4-4,5 × 3-4,5 cm, có lông tơ, nhiều chất nhớt. Đài hoa màu ánh vàng, dài 1,5-2 cm, chẻ 1 bên, có lông tơ. Ống tràng hoa màu ánh vàng, 4-4,5 cm; thùy giữa hình trứng hẹp, 2-3 × 0,8-1 cm; các thùy bên hình mác, rộng 5-7 mm. Cánh môi 2,4-2,8 cm; thùy giữa màu tía với 2 vạch song song, màu vàng và các đốm màu vàng ở đáy, hình trứng ngược-thuôn dài, 1,5-2 × 0,7-0,9 cm; các thùy bên màu vàng với các vết đốm màu tía, hình elip, 1,2-1,6 × 0,6-0,8 cm. Chỉ nhị 5-10 mm; bao phấn màu vàng, 1,3-1,4 cm; phần phụ liên kết màu tía, 1-1,3 cm. Bầu nhụy nhẵn nhụi. Quả nang màu vàng-xanh lục, hình trứng ngược, 3 góc, đỉnh với đài bền. Hạt 4-6 mỗi ngăn, màu đen ánh nâu, bao bọc trong áo hạt màu trắng. Ra hoa tháng 8, tạo quả tháng 10. "2n" = 22. | 1 | null |
Zingiber flagelliforme là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được John Donald Mood và Ida Theilade miêu tả khoa học đầu tiên năm 1999.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh như dưới đây, được lưu giữ tại Trung tâm Nghiên cứu Rừng, Sandakan, Sabah (SAN):
Phân bố.
Loài này có trên đảo Borneo, tại bang Sabah, Malaysia. Được tìm thấy trong rừng, ở cao độ 600-1.400 m. Loại cây thảo lâu năm này có các chồi lá cao trên 2 m, được ghi nhận ở cao độ 200–220 m. Nó mọc trên các ngọn đồi trên sa thạch trong các khu rừng nguyên sinh vùng đất thấp hoặc trong đồn điền trồng cacao.
Mô tả.
"Z. flagelliforme" thể hiện kiểu sinh sản kỳ dị ở chỗ các chồi lá thon búp măng của nó uốn cong xuống để bám vào mặt đất, nơi các cây con sinh ra ở trục lá mọc rễ. | 1 | null |
Zingiber flammeum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Ida Theilade và John Donald Mood miêu tả khoa học đầu tiên năm 1997.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Mood J.D. 178"; thu thập ở tọa độ khoảng , vùng đồi Paling Paling, gần Tenom, bang Sabah, Malaysia. Mẫu holotype được lưu giữ tại Trung tâm Nghiên cứu Rừng ở Sandakan, Sabah (SAN); mẫu isotype lưu giữ tại Đại học Aarhus, Đan Mạch (AAU).
Từ nguyên.
Tính từ định danh "flammeum" (giống đực: "flammeus", giống cái "flammea") là tiếng Latinh, nghĩa là màu lửa; ở đây để nói tới các lá bắc và hoa màu da cam giống như màu lửa của loài này.
Phân bố.
Loài này có trên đảo Borneo, đặc hữu vùng đồi Paling Paling, bang Sabah, Malaysia. Môi trường sống là rừng nguyên sinh vùng đồi đất thấp, ở cao độ 300–500 m.
Mô tả.
Thân lá cao 45–75 cm. Các bẹ lá có lông. Lưỡi bẹ dài 1-1,5 cm. Cuống lá dài 2 mm, có lông tơ. Lá hình elip, 20-27 × 7–9 cm, mặt trên nhẵn nhụi, mặt dưới với ít với lông lụa. Cụm hoa mọc từ thân rễ, phủ phục. Cán hoa dài 4–5 cm, màu đỏ xỉn. Cành hoa bông thóc hình thoi đến hình elip, 8-10 × 2,5–3 cm, đỉnh nhọn. Lá bắc hình trứng ngược, 2 × 1,5 cm, màu da cam, chuyển thành da cam xỉn khi thuần thục, các lá bắc sát gốc với màu ánh đỏ. Lá bắc con hình elip, 1,4 × 0,7 cm. Đài hoa dài 1,4 cm. Tràng hoa dài 5,4 cm, màu da cam; thùy tràng lưng 2,2 × 1 cm; các thùy tràng bên 2,2 × 0,5 cm, rời gần tới đáy. Cánh môi dài 5 cm, màu da cam tươi; thùy giữa thuôn dài, 1,5 × 0,8 cm; các thùy bên 0,5 × 0,4 cm. Bao phấn dài 1 cm, màu da cam. Phần phụ bao phấn dài 0,8 cm. Quả không rõ.
"Z. flammeum" gần giống với "Z. coloratum" nhưng khác ở chỗ các lưỡi bẹ dài hơn, mặt dưới phiến lá ít lông hơn, các lá bắc màu da cam và hoa màu da cam tươi. | 1 | null |
Zingiber flavomaculosum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Shao Quan Tong (童绍全, Đồng Thiệu Toàn) miêu tả khoa học đầu tiên năm 1987. Tên gọi thông thường trong tiếng Trung là 黄斑姜 (hoàng ban khương), nghĩa là gừng đốm vàng.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Tong S.Q. 24806"; thu thập ngày 6 tháng 8 năm 1981 ở cao độ 580 m, tọa độ , huyện Mãnh Lạp, châu tự trị Tây Song Bản Nạp, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Mẫu holotype lưu giữ Vườn Thực vật Nhiệt đới Tây Song Bản Nạp, Vân Nam (YNTBI / HITBC).
Từ nguyên.
Tính từ định danh "flavomaculosum" là tiếng La tinh, bao gồm "flavo-" nghĩa là màu vàng, màu vàng kim, màu hung vàng với tính từ "maculosum" (giống đực: "maculosus", giống cái: "maculosa") nghĩa là lốm đốm, đốm, vết; ở đây để nói tới phần đỉnh cánh môi màu lốm đốm vàng của loài này.
Phân bố.
Loài này có tại Myanmar (bang Shan), Thái Lan (các tỉnh Chiang Mai, Mae Hong Son, Phetchaburi) và Trung Quốc (tây nam tỉnh Vân Nam). Môi trường sống là rừng, ở cao độ tới 600 m.
Mô tả.
Thân giả cao 1-1,5 m, đường kính 1,5–2 cm. Bẹ lá màu ánh lục. Lưỡi bẹ 2 thùy, dài 4–5 cm, dạng màng, nhẵn nhụi; cuống lá có trên các lá ở đầu gần; phiến lá hình mác hẹp hoặc hình elip hẹp, 40-55 × 9–11 cm, mặt gần trục xanh lục, mặt xa trục màu ánh lục, có lông tơ màu trắng, đáy hình nêm hoặc hẹp như vậy, đỉnh nhọn thon ngắn. Cụm hoa mọc từ thân rễ, hình đầu, ~6 × 4,5 cm; cuống cụm hoa 2–5 cm, các bẹ hình vảy màu đỏ nhạt; lá bắc màu đỏ nhạt, hình trứng-hình tròn hoặc thuôn dài, 3-3,2 × 1,7–2 cm, có lông tơ; lá bắc con hình ống, dài ~2,8 cm, màu gần trắng, có lông tơ màu trắng, nứt một bên tới đáy. Đài hoa hình ống, dài ~1,6 cm, đỉnh 3 răng, dạng màng, có lông tơ. Ống tràng hoa dài ~3,5 cm, các thùy dài bằng nhau, màu vàng nhạt; thùy tràng lưng hình mác, ~2,2 × 1,1 cm; các thuỳ tràng bên hẹp hơn, rộng 0,6 cm. Các thùy của cánh môi màu xám với đỉnh lốm đốm vàng, thùy giữa gần giống như lưỡi bẹ, ~2,5 × 1 cm, đỉnh nguyên, các thùy bên hình tai, ~1,5 × 0,8 cm. Nhị dài ~2,5 cm, không chỉ nhị. Mô vỏ bao phấn không cuống, dài ~1,3 cm; phần phụ liên kết màu tía, dài ~7 mm. Bầu nhụy màu xanh lục nhạt, rậm lông màu nâu. Vòi nhụy thẳng, màu trắng. Đầu nhụy màu gần trắng, có lông rung. Tuyến trên bầu thẳng, màu gần trắng. Ra hoa tháng 8. | 1 | null |
Zingiber flavovirens là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Ida Theilade miêu tả khoa học đầu tiên năm 1999.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Dixen 70HD1449"; thu thập ở tọa độ , tại Fang, tỉnh Chiang Mai, Thái Lan. Mẫu holotype lưu giữ tại Đại học Aarhus (AAU), mẫu isotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K).
Từ nguyên.
Tính từ định danh "flavovirens" là tiếng Latinh, kết hợp giữa "flavus" nghĩa là màu vàng, màu vàng kim, màu hung vàng với "virens" nghĩa màu xanh lục; ở đây là để nói tới các lá bắc màu vàng-xanh lục của loài này.
Phân bố.
Loài này là đặc hữu miền bắc Thái Lan, chỉ được tìm thấy tại các tỉnh Chiang Mai, Mae Hong Son.
Mô tả.
Chồi lá cao tới 2 m. Các bẹ lá màu xanh lục sáng, nhẵn nhụi. Cuống lá dài 3 mm, nhẵn nhụi. Lưỡi bẹ 2 thùy, dài 5 mm, màu xanh lục sáng với mép dạng giấy màu trắng. Lá thẳng, 27-35 × 2,5-3 cm, nhẵn nhụi, đáy hình nêm, đỉnh nhọn thon. Cuống cụm hoa từ thân rễ, thẳng đứng, thanh mảnh, dài 15-25 cm. [Cụm hoa] hình trụ, 6-9 × 2,5-3,5 cm, đỉnh thuôn tròn. Lá bắc hình trứng ngược, tới 3 × 2,3 cm, màu xanh lục chuyển thành vàng, nhẵn nhụi, lồi gần mép trên, đỉnh hơi cuốn trong, thuon tròn với điểm nhọn. Lá bắc con hình mác ngược, 2,5 × 1 cm, màu ánh vàng. Đài hoa dài 1,5 cm, màu ánh vàng. Tràng hoa dài 5 cm, màu vàng chanh, thùy lưng 2,5 × 1 cm, các thùy bên 2 × 0,5 cm. Cánh môi dài 4,5 cm, màu vàng chanh; thùy giữa 1,3 × 1 cm, thuôn dài, nguyên; các thùy bên 0,5 × 0,5 cm.
"Z. flavovirens" tương tự như "Z. parishii" (tổ "Zingiber") ở chỗ các lá thẳng, nhẵn nhụi, cụm hoa hình trụ với lá bắc màu xanh lục – vàng có mép cuốn trong. Nó khác ở chỗ cụm hoa nhỏ hơn với các lá bắc màu vàng-xanh lục hoàn toàn và nhỏ hơn, lá bắc con ngắn hơn, tràng hoa ngắn hơn và cánh môi màu vàng chanh không đốm tía. | 1 | null |
Zingiber fragile là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Shao Quan Tong (童绍全, Đồng Thiệu Toàn) miêu tả khoa học đầu tiên năm 1987. Tên gọi thông thường trong tiếng Trung là 脆舌姜 (thúy thiệt khương), nghĩa là gừng lưỡi bẹ dễ gãy.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Tong S.Q. 24814"; thu thập ngày 7 tháng 7 năm 1981 ở cao độ 560 m, tọa độ , huyện Mãnh Lạp, châu tự trị Tây Song Bản Nạp, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Mẫu holotype lưu giữ Vườn Thực vật Nhiệt đới Tây Song Bản Nạp, Vân Nam (HITBC).
Từ nguyên.
Tính từ định danh "fragile" (giống đực/giống cái: "fragilis") là tiếng La tinh, nghĩa là dễ vỡ, dễ gãy; ở đây để nói lưỡi bẹ dễ gãy của loài này.
Phân bố.
Loài này có tại tây nam tỉnh Vân Nam (các huyện thị Mãnh Lạp, Cảnh Hồng, Hồng Hà), Trung Quốc và miền bắc Thái Lan (các tỉnh Chiang Rai, Nan). Môi trường sống là rừng, ở cao độ 560-1.500 m. Các loại môi trường sống chính là rừng mưa nhiệt đới; rừng mưa nhiệt đới gió mùa xen lẫn rừng mưa nhiệt đới; rừng mưa gió mùa nhiệt đới lẫn với rừng mua nhiệt đới; rừng thường xanh lá rộng gió mùa; rừng thường xanh lá rộng rêu; các hệ sinh thái nông nghiệp với lúa, ngô, mía và các hệ lâm nghiệp với cây cao su.
Mô tả.
Thân giả cao 0,8–3 m. Lá không cuống; lưỡi bẹ màu đỏ có đốm ở đáy, 2 thùy, dài 3–4 cm, dạng màng, dễ gãy; phiến lá hình mác hoặc hẹp như vậy, 40-50 × 9–11 cm, hơi có lông tơ ngoại trừ rậm lông tơ dọc theo các bên của gân giữa, đáy hình nêm, đỉnh nhọn thon. Cụm hoa mọc từ thân rễ, hình trứng hoặc hình đầu, 4-8 × 3-7,5 cm; cuống cụm hoa rất ngắn; lá bắc màu đỏ, hình trứng hoặc thuôn dài, 3-5 × 2,8-3,8 cm, có lông tơ màu nâu, đỉnh lồi, nhọn, các lá bắc trong hình tam giác, 3,8-4 × 1,1-1,3 cm, đỉnh thon nhỏ dần; lá bắc con màu đỏ nhạt, dài 2,8–3 cm, có lông tơ màu trắng. Đài hoa dài 1,9-2,2 cm, đỉnh 3 răng, có râu. Ống tràng hoa dài 3,1-4,2 cm, có lông tơ màu trắng; các thùy màu đỏ, hình mác, 2,3-3,2 × 0,8-0,9 cm, các thùy bên hẹp hơn. Cánh môi màu nâu với các đốm màu nâu ánh tía; thùy giữa giống lưỡi bẹ, 2-2,4 × 0,7-0,9 cm; các thùy bên hình tai, 1,3-1,5 cm. Chỉ nhị dài ~3 mm; bao phấn dài ~2 cm; phần phụ liên kết màu tía, dài ~1,3 cm. Bầu nhụy màu trắng, có lông tơ. Ra hoa tháng 7. | 1 | null |
Zingiber fraseri là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Ida Theilade miêu tả khoa học đầu tiên năm 1996 (xuất bản năm 1998).
Phân loại.
Loài bày bao gồm 3 thứ như sau:
Mẫu định danh.
Mẫu định danh như sau:
Phân bố.
Loài này có tại Malaysia bán đảo và Thái Lan bán đảo. Môi trường sống là rừng, ở cao độ 250-1.300 m.
Mô tả.
"Zingiber fraseri" var. "fraseri".
Thân lá thanh mảnh, dài tới 4 m với kiểu phát triển bò lan, các bẹ lá có lông mịn. Lưỡi bẹ dài 2 mm, có lông. Cuống lá dài 2 mm, có lông. Lá hình mác, 14-20 × 3,5–5 cm, nhẵn nhụi. Cụm hoa mọc từ thân rễ, phủ phục. Cán hoa dài tới 8 cm, màu ánh trắng. Cành hoa bông thóc hình trứng tới hình thoi, 12 × 3 cm, thon nhỏ thành đỉnh nhọn. Lá bắc hình mác, 4-5 × 1,5 cm, màu đỏ tươi, có lông, đỉnh nhọn thon. Lá bắc con 3,5 × 0,7 cm, màu ánh trắng. Đài hoa dài 3 cm. Hoa không rõ. Ra hoa tháng 8-9, tạo quả tháng 10.
Gần với "Z. griffithii" nhưng khác ở chỗ các thân lá dài, bò lan; các lá nhẵn nhụi, hình mác và hẹp hơn; cán hoa phủ phục; cụm hoa hình trứng thon nhỏ thành đỉnh nhọn và các lá bắc/lá bắc con dài hơn.
"Zingiber fraseri" var. "major".
Cây rất to lớn hơn thông thường (so với "Z. griffithii"), cao 1,5 m, thân mập; các lá hình elip thuôn dài nhọn thon, dài 45 cm, rộng 13 cm, cứng; các bẹ nhẵn nhụi, gần như không cuống lá. Cán hoa dài 5–10 cm. Cành hoa bông thóc hình trứng, nhẵn nhụi, mập, dài ~8 cm, đỉnh không nhọn. Các lá bắc rộng. Hoa dài 7,5 cm, ống tràng dài 5 cm. Tên địa phương: tepus merah, tepus kechil. | 1 | null |
Zingiber georgeae là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được John Donald Mood và Ida Theilade miêu tả khoa học đầu tiên năm 1999 như là "Zingiber georgeii".
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Lai Shak Teck 9100265"; thu thập ngày 4 tháng 5 năm 1991 ở tọa độ , Ulu Baleh, tỉnh Kapit, bang Sarawak, Malaysia. Holotype được lưu giữ tại Cục Lâm nghiệp bang Sarawak ở Kuching, Sarawak (SAR): Giống lấy từ mẫu định danh cũng được trồng tại Trung tâm Nghiên cứu Thực vật ở Semengoh, Hawaii.
Phân bố.
Loài này có trên đảo Borneo, bang Sarawak, Malaysia.
Mô tả.
Chồi lá cao tới 60 cm. Cụm hoa phủ phục với các lá bắc màu da cam. | 1 | null |
Zingiber gracile là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được William Jack miêu tả khoa học đầu tiên năm 1820.
Tên gọi địa phương tại Mallacca là "mempoyang".
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Curtis C. s.n."; thu thập tháng 4 năm 1890 ở tọa độ khoảng , tại một thác nước trên đảo Penang, bang Penang, Malaysia. Mẫu neotype (lectotype) được lưu giữ tại Vườn Thực vật Singapore (SING). Không còn mẫu xác thực của Jack đối với loài này.
Các mẫu khác gồm có "Burkill 16141", "Fox 12708", "Foxworthy & Burkill s.n." (tháng 11 năm 1921), "Mohd. Shah 2460", "Ridley 1640", "Ridley 7235", "Ridley 12700". Các mẫu "King’s Coll. 7954", "Hullett’s 854" mà Baker (1892) đề cập có lẽ là "Z. elatius" và "Z. aurantiacum".
Lịch sử phân loại.
Ridley (1899) bổ sung vào mô tả "Z. gracile" của Jack và thêm một thứ là "Z. gracile" var. "elatior". Holttum (1950) công nhận 4 thứ của "Z. gracile" là "Z. gracile" var. "gracile" (nguyên chủng), "Z. gracile" var. "elatior", "Z. gracile" var. "aurantiacum", "Z. gracile" var. "petiolatum"; nhưng Theilade (1998) đã nâng cấp 3 thứ đề cập sau thành 3 loài độc lập, tương ứng là "Z. elatior", "Z. aurantiacum" và "Z. petiolatum"; với kích thước tổng thể của các loài này là lớn hơn so với "Z. gracile".
Schumann (1904) xếp "Z. gracile" trong tổ "Lampugium" (= "Zingiber"). Thuộc nhóm "Zingiber gracile" trong tổ "Zingiber", bao gồm "Z. aurantiacum", "Z. elatius", "Z. gracile", "Z. kelantanense", "Z. petiolatum", "Z. raja", "Z. singapurense" và "Z. sulphureum".
Phân bố.
Loài này có tại Malaysia bán đảo; với các hồ sơ ghi chép về sự hiện diện tại Myanmar, Việt Nam và Thái Lan (trừ khu vực cực nam Thái Lan) và đảo Sumatra (Indonesia) là đáng nghi vấn, do "Z. gracile" và các loài có quan hệ họ hàng gần trong tổ hợp "Z. gracile" là cây thảo thường xanh, trong khi 3 quốc gia nghi vấn trên đây có khí hậu gió mùa, không phù hợp với cây thảo thường xanh. Theilade (1998) cho rằng loài này có tại các bang Penang, Johor, Malacca, Pahang, Perak, Selangor.
Mô tả.
Các mô tả của Baker (1892), Ridley (1899), Schumann (1904) và Holttum (1950) dường như là sự pha trộn các đặc trưng của 4 loài theo nghĩa của Theilade (1998).
Mô tả dưới đây lấy theo Jack (1820), Holttum (1950, phần dạng điển hình) và Theilade (1998):
Thân mọc thẳng đứng, hơi uốn ngược, thuôn tròn và nhẵn, cao 60–100 cm. Lá ~8, mọc so le, gần như không cuống trên bẹ của nó, thuôn dài-hình mác rộng tới hình mác, hình trứng-hình mác, dài 15-18(-25) cm, rộng 4 cm, đỉnh thon nhỏ nhọn thon, đáy hẹp hình nêm, nguyên, mặt trên nhẵn nhụi, bóng, mặt dưới và gân giữa hơi có lông tơ hay lông lụa, màu xanh lục từ nhạt đến tươi. Các bẹ nhẵn, với lưỡi bẹ 2 thùy, dài 1,5-1,8 cm, rất mỏng, khô xác, với các đốm đen, thường xé rách ở rìa. Cán hoa thẳng đứng, cao 10–30 cm, được các bẹ so le màu từ hồng tươi đến đỏ thắm bao bọc. Cành hoa bông thóc thuôn dài-hình trụ, thuôn dài, thanh mảnh, ~15 × 1,5 cm, nhiều màu sắc, với các lá bắc xếp lợp. Lá bắc hình trứng nhọn, 3,5-5 × 2 cm, màu từ hồng tươi tới da cam khi non, sau chuyển thành đỏ tươi hay đỏ thắm, ngắn hơn hoa, có lông tơ, đỉnh nhọn. Lá bắc trong (lá bắc con) hay tổng bao bao quanh đáy mỗi hoa, dài 1,8-2,5 cm, mỏng, ngắn hơn đài hoa. Đài hoa dài 2,5–3 cm, chỉ khoảng một nửa chiều dài tràng hoa, dạng màng, cong, chẻ một bên. Tràng hoa dài 6 cm, màu trắng ánh vàng tới màu kem, 3 thùy, mỗi thùy dài 1,5–2 cm; các phần nhọn thon, phần trên dài hơn và nằm đè lên; phiến trong dài tới 6 cm, một cánh môi; cánh môi 3 thùy, thùy giữa dài 2,2 cm, đỉnh tù hoặc chẻ đôi, với các mép đảo ngược; các thùy bên dài 0,2 cm, hình xoan. Bao phấn kết thúc bằng một sừng uốn cong vào. Phấn hoa hình cầu, có vân nổi như vỏ não. Bầu nhụy 3 ngăn. Vòi nhụy hình chỉ, dài hơn sừng của bao phấn, được 2 thể nhỏ thẳng ôm ở đáy. Quả nang dài 2,5 cm, nhẵn nhụi. Hạt nhiều, màu nâu hạt dẻ. | 1 | null |
Zingiber gramineum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Carl Ludwig Blume miêu tả khoa học đầu tiên năm 1827; theo danh pháp do Francisco Noroña đặt năm 1790.
Tên gọi thông thường trong tiếng Việt là gừng lúa hay ngải trặc.
Loài này có thể cũng được trồng tại Java (theo Gagnepain, còn theo Valeton thì không được trồng); dưới các tên gọi "al[e]a padie", "lireh asse", "lampujang wandie" (theo Valeton thì tên gọi cuối cùng này là dùng sai).
Mẫu định danh.
Mẫu định danh:
Từ nguyên.
Tính từ định danh "gramineum" (giống đực: "gramineus", giống cái: "graminea") là tiếng Latinh; nghĩa là cỏ, giống như cỏ. Ở đây để nói tới phiến lá thẳng, hình mác hẹp như lá cỏ, lá lúa của loài này.
Phân bố.
Loài này có tại Campuchia (dãy núi Krevanh trong tỉnh Battambang), Indonesia (Java, Sumatra), miền nam Myanmar (vùng Tenasserim), Thái Lan (các tỉnh Chanthaburi, Kanchanaburi, Prachinburi), Việt Nam (tỉnh Gia Lai). Môi trường sống là rừng, phổ biến trong các rừng thường xanh ẩm, rừng tếch, rừng lá sớm rụng hỗn hợp và các bụi tre; ở cao độ 150–800 m.
Phân loại.
Schumann (1904) xếp "Z. gramineum" trong tổ "Lampugium" (= "Zingiber"), và được xác nhận trong Theerakulpisut "et al." (2012).
Mô tả.
Mô tả dưới đây lấy theo Gagnepain (1908), Valeton (1918), Phạm Hoàng Hộ (1999) và Theilade (1999):
Cây thảo cao 60 cm tới 1,5 m – đôi khi tới 2 m (thứ "validior"), thân thanh mảnh. Thân rễ bò lan, mọng. Cuống lá từ không có tới có cuống ngắn với lông nhung mịn màu ánh vàng. Các lá màu xanh lục sáng, xếp chặt, đặc biệt tại đỉnh, thẳng, hẹp, dạng lá cỏ, hơi thuôn tròn ở đáy, nhọn thon rất dài ở đỉnh như hình mỏ, mặt trên nhẵn nhụi, mặt dưới thưa thớt lông nhung về phía gân giữa, dài 25–45 cm, rộng 1,2-1,7 tới 3,8 cm (lá dài và rộng hơn ở thứ "validior"); các bẹ lá có lông nhung; lưỡi bẹ khía răng cưa-cắt cụt tới 2 thùy, có lông nhung mềm, dài 1–5 mm. Cụm hoa khi thì là đầu cành trên thân lá (không cuống cụm hoa, với ít lá bắc) khi thì có cuống cụm hoa dài và ở bên - trên cán hoa có bẹ bao bọc, dễ thay đổi hình dạng theo tuổi, cụm hoa non từ hình trứng tới hình trứng ngược hoặc hình thoi-hình trứng và được bao bọc trong 2 lá bắc rỗng lớn đè nén, đồng phát triển và trở thành hình trứng rộng hay gần hình cầu, tù, dài 6–9 cm, rộng 2,5-4,5 cm. Cuống cụm hoa dài 35–50 cm hoặc hơn (tới 1m), có lông, đặc biệt tại phần đỉnh; các bẹ dạng vảy bao bọc thẳng, hơi nhọn, có lông tơ, đặc biệt ở đỉnh và mép, dài 6–11 cm, không xếp lợp, nhưng phần đỉnh của vảy dưới che phủ phần đáy của vảy ngay phía trên. Lá bắc từ hình mác-hình trứng tới hình elip hay hình elip-hình mác, rậm lông mỏng, đặc biệt trên mép và ở đỉnh, với phần đỉnh hẹp hơn nhiều và cong có túm lông giống như cái bút vẽ làm cho cụm hoa có bề ngoài xồm xoàm lông, dài 2,5–4 cm, rộng 1–2 cm, xếp lợp từ lỏng lẻo với phần đỉnh hở rời tới rất chặt (thứ "validior"), xếp lợp chặt vào thời gian nở hoa, màu xanh lục, sau đó chuyển thành ánh đỏ tới đỏ-da cam; lá bắc con ~2,8 × 1 cm, hình dáng tương tự lá bắc nhưng thu hẹp lại và với đỉnh nhọn chứ không nhọn thon, nhiều lông tơ, đỡ 1 hoa. Hoa nhỏ, màu trắng tới vàng nhạt, dài 3,5 cm. Đài hoa dài 1,7-1,8(-2,7) cm, rộng ~0,8 cm, chẻ sâu tới đáy, hình mác, có lông mặt ngoài và thậm chí là lông cứng lởm chởm. Tràng hoa màu ánh trắng, dài 5,4 cm. Ống tràng dài 2,5 cm, các thùy thường có ánh hồng; thùy tràng lưng hình trứng nhọn, ~1,5-1,8 × 0,6 cm; các thùy tràng bên thuôn dài và nhọn, hợp sinh tại đáy, hơi ngắn hơn thùy tràng lưng. Cánh môi thuôn tròn, ~1,5-1,8 × 1,7 cm, nguyên, màu từ ánh vàng nhạt tới vàng ánh trắng, gân đều đặn; thùy giữa tròn, nguyên; các thùy bên thuôn tròn, dài 6 mm. Nhị lép teo đi hoặc rất nhỏ, hình elip, màu trắng, đối diện cánh môi và hợp sinh với nó ở phần đáy. Phấn hoa hình cầu với vân mắt lưới. Bầu nhụy có lông tơ. Quả nang được lá bắc và lá bắc con bao bọc, hình trứng, dài 1,8–2 cm, rộng ~1,5 cm, màu từ đỏ ánh nâu tới nâu sáng, có lông tơ áp ép màu hung đỏ, các ngăn bên trong màu đỏ. Hạt nhiều, dài 5 mm, hình trứng ngược, màu nâu hạt dẻ, được bao bọc trong áo hạt nhiều màu sắc. Ra hoa và tạo quả trong tháng 5.
Tại Việt Nam.
Theo Gagnepain thì tại miền nam Việt Nam loài này có mọc hoang dã cũng như được trồng. Theo Phạm Hoàng Hộ tại Việt Nam nó được trồng ở khu vực Biên Hòa, Châu Đốc; dùng để bó nơi trặc. | 1 | null |
Zingiber griffithii là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được John Gilbert Baker mô tả khoa học đầu tiên năm 1892.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh:
Lịch sử phân loại.
Ridley (1899) thêm một thứ là "Z. griffithii" var. "major", đồng thời mô tả loài "Z. citrinum".
Holttum (1950) coi "Z. citrinum" là đồng nghĩa của "Z. griffithii" nhưng coi "Z. griffithii" var. "major" là đồng nghĩa của "Z. puberulum". Hiện nay, "Z. griffithii" var. "major" được coi là đồng nghĩa của "Z. fraseri" var. "major". Quan điểm của Holttum về "Z. citrinum" được IPNI, WCSP, POWO công nhận, nhưng Theilade (1998) cho rằng nó là loài độc lập.
Schumann (1904) xếp "Z. griffithii" và "Z. citrinum" trong tổ "Lampugium" (= tổ "Zingiber").
Nó là một thành viên của nhóm "Z. montanum"; bao gồm "Z. corallinum", "Z. griffithii", "Z. idae", "Z. montanum", "Z. neesanum", "Z. purpureum", "Z. tenuiscapus".
Phân bố.
Loài này có tại Malaysia (cả ở miền nam phần bán đảo lẫn phần trên đảo Borneo), Singapore. Theilade (1998) cho rằng ở phần Malaysia bán đảo thì loài này có tại các bang Johor, Melaka, Negri Sembilan, Pahang, Selangor, Terengganu (?) cũng như tại miền nam Thái Lan (?) và Singapore. còn "Z. citrinum" có tại Johor, Negri Sembilan, Perak, Selangor.
Mô tả.
Các mô tả dưới đây tách riêng "Z. griffithii" nghĩa hẹp và "Z. citrinum".
"Zingiber griffithii".
Thân lá cao 50–120 cm, đường kính 0,6 cm, hơi có sọc dồn nén. Lá từ thuôn dài tới hình elip, hình trứng hay hình mác rộng, 15-20(-25) × 5–8 cm, đáy hình nêm từ hẹp tới rộng, đỉnh có mấu nhọn; mặt trên nhẵn nhụi, màu xanh lục sẫm; mặt dưới từ nhẵn nhụi tới có lông lụa, màu xanh lục nhạt hơn, gân giữa có lông lụa; các gân bên nổi rõ khi khô; các bẹ chẻ tới đáy, có lông tơ, lông tăng về phía cuống lá; lưỡi bẹ 2 thùy, các thùy thuôn tròn rộng, dài 3 mm, có khía răng cưa sâu, có lông tơ màu nâu, mép khô xác, lốm đốm; cuống lá mập, dài 2–6 mm, có lông tơ. Cán hoa mọc từ thân rễ, thẳng đứng nhiều hay ít, dài 4-10(-15) cm. Cành hoa bông thóc hình thoi khi non trở thành rộng hơn và gần như hình trụ khi tạo quả, dài 10–15 cm, đường kính 1,5-3,5 cm; bẹ dài tới 3,5 cm có lông mịn. Lá bắc hình từ trứng tới trứng rộng hay hình elip, tù, 2,5-4(-5) × 1,5-2,5 cm, mỏng, màu từ hồng tới đỏ chuyển thành đỏ tươi khi già, có lông mịn, mọng mỏng (không dai); các lá bắc phía dưới hình tròn, rộng 2,5 cm. Không có lá bắc con. Hoa đơn độc, màu trắng ánh vàng. Đài hoa rất mỏng, dạng giấy, dài 1,2-2,5 cm. Tràng hoa dài 5 cm, màu trắng tới kem; ống tràng dài ~2,5 cm; các thùy từ tù tới hình mác nhọn, dài 1,9–2 cm, các thùy dưới hợp sinh khoảng 1/2 chiều dài của chúng; thùy tràng lưng 2 × 1 cm. Cánh môi hơi ngắ hơn, màu từ trắng ánh vàng tới kem, 3 thùy; thùy giữa hình tam giác hay hình mác nhọn, 1,7 × 0,6 cm, đỉnh từ gần nhọn tới nhọn hoặc đôi khi có khe chẻ; các thùy bên hình trứng, 0,8 × 0,4 cm, đỉnh thuôn tròn. Bao phấn thuôn dài ~1,1 cm, màu nâu, mỏ cong màu vàng dài 9 mm. Bầu nhụy rậm lông. Đầu nhụy nằm ngang có lông viền xung quanh. Quả nang dài 2,2 cm, nhẵn nhụi với lá bắc bền trên đỉnh quả. Hạt màu nâu hạt dẻ. Phấn hoa hình cầu, có vân giống bề mặt não.
Có quan hệ họ hàng gần với "Z. puberulum" và "Z. gracile", nhưng lá rộng hơn, cụm hoa hình trụ nhiều hơn và lá bắc cũng ít dai hơn so với cả hai loài này.
Môi trường sống là rừng thường xanh vùng đất thấp hay rừng thứ sinh tại những khu vực ẩm thấp, nhiều bóng râm trên đất nhiều mùn. Phổ biến trong rừng vùng đất thấp ở miền nam Malaysia bán đảo. Có tại Singapor và Malaysia (các bang Johor, Malacca, Perak, Pahang, Negri Sembilan, Selangor, Terengganu trên bán đảo và Sarawak, Sabah trên đảo Borneo). Các tên gọi thông thường tại Malaysia: "tepus merah" (gừng đỏ), "tepus kechil" (gừng nhỏ), "tepus huma" (gừng rừng thưa miền núi). Có thể sử dụng làm thuốc đắp.
"Zingiber citrinum".
Thân mập, cao 30–60 cm, tràn ngập màu tía. Các bẹ lá thường nhẵn nhụi, mép khô xác. Lưỡi bẹ rất ngắn, nguyên, thuôn tròn, dài 2–4 mm, nhẵn nhụi. Lá màu xanh lục sẫm, thưa lông lụa mặt dưới, hình mác rộng tới hình trứng, đáy hình nêm, đỉnh từ nhọn thon tới gần nhọn, các gân chính rõ nét, 20-30 × 8–10 cm; cuống lá không có hoặc ngắn (dài tới 2 mm), thưa lông. Cán hoa mọc từ thân rễ, mập, màu xanh lục, dài 7-7,5 cm. Cành hoa bông thóc hình trụ thuôn dài tù, 10-15 × 4–5 cm, đỉnh nhọn. Lá bắc xếp lợp chặt, hình từ elip tới hình trứng, thuôn tròn rộng, 3,5-4 × 2-3(-4) cm, màu vàng chanh tươi, trở thành màu hồng xỉn tới đỏ khi tạo quả, nhẵn nhụi hoặc thưa lông, mép khô xác, đỉnh nhọn. Không có lá bắc con. Đài hoa nở ra, màu từ trắng trong suốt tới vàng trong mờ, đỉnh hơi nhọn, chẻ đôi, dài 1,9-2,5 cm. Tràng dài 5,4-5,6 cm, màu từ trắng tới vàng; ống tràng thanh mảnh, dài ~3 cm, thùy tràng lưng hình mác, gần nhọn, đỉnh cuốn trong, màu từ trắng tới kem hay ánh vàng, 1,8-2,4 × 0,8–1 cm; các thùy tràng bên hợp sinh với nhau và với cánh môi trong khoảng 2/3 chiều dài của chúng, dài 1,9 cm. Cánh môi dài 5,4 cm, màu từ trắng tới vàng, lớn, thuôn dài, thuôn tròn; thùy giữa hình từ elip tới mác tù, 1 × 0,6 cm, màu vàng, đỉnh chẻ đôi. Nhị lép bên 0,5 × 0,4 cm. Nhị dài, mỏ nhọn, các ngăn bao phấn màu xám, phấn hoa màu thịt. Ra hoa tháng 5-6.
"Z. citrinum" có quan hệ họ hàng rất gần với "Z. griffithii" nghĩa hẹp nhưng khác ở chỗ các lá to hơn, cụm hoa rộng hơn và các lá bắc màu vàng chanh.
Môi trường sống là trên đất màu mỡ, ở cao độ 120–180 m. Tại Malaysia bán đảo có tại Selangor, Perak, Johor, Negri Sembilan. Tên gọi thông thường tại Malaysia: "tepus tenok" (gừng heo vòi). | 1 | null |
Zingiber guangxiense là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Fang Ding (方鼎, Phương Đỉnh) miêu tả khoa học đầu tiên năm 1980. Tên gọi thông thường trong tiếng Trung là 桂姜 (quế khương), nghĩa đen là gừng Quảng Tây. Trong "Flora Reipublicae Popularis Sinicae" (FRPS) danh pháp được viết là "Zingiber kwangsiense".
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "X.P.Liao et D.Fang 22040"; thu thập tại huyện Bác Bạch, địa cấp thị Ngọc Lâm, đông nam khu tự trị Quảng Tây. Mẫu holotype lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Trung y dược Quảng Tây (广西中医药研究院) ở địa chỉ số 20-1 đường Đông Cát (东葛路), quận Thanh Tú, Nam Ninh (GXMI). Lưu ý là tại trang 224 trong bài báo gốc Phương Đỉnh ghi cụm từ viết tắt HGM là "Herb. Guangxi. Inst. Med. Pharm. Sci." (Viện Khoa học Y Dược Quảng Tây), không phải mã quốc tế của Phòng mẫu cây thuộc Institut Menorquí d'Estudis ở Mahón, Tây Ban Nha.
Từ nguyên.
Tính từ định danh "guangxiense" hay "kwangsiense" lấy theo tên địa danh Quảng Tây.
Phân bố.
Loài này có tại huyện Bác Bạch, địa cấp thị Ngọc Lâm, đông nam khu tự trị Quảng Tây, Trung Quốc. Môi trường sống là nền rừng.
Phân loại.
"Z. guangxiense" được xếp trong tổ "Cryptanthium".
Mô tả.
Cây thảo lâu năm. Thân rễ dạng củ, mập, đường kính ~1–3 cm. Thân giả 1-2, cao 0,5-1,5 m, đường kính tới 1,7 cm, với 18-26 lá. Bẹ lá có lông. Lưỡi bẹ dài 2–6 mm, có ít lông tơ mịn hay lông rung, đỉnh thường có khía răng cưa; cuống lá 1–4 mm; phiến lá hình mác hoặc thuôn dài-hình mác, 25-35 × 5–9 cm, rậm đốm tuyến màu nâu tía, mặt xa trục thưa lông nhung áp ép và đốm tuyến, đáy thuôn tròn-hình nêm đến hình nêm rộng, đỉnh nhọn thon. Cụm hoa mọc từ thân rễ, dài 5–26 cm; cành hoa bông thóc hình trứng ngược, 4-8 × 2–4 cm, 20-30 hoa; cuống cụm hoa 2,5–20 cm, thanh mảnh, gần như nhẵn nhụi, ngầm dưới đất; trục cành hoa rậm lông; lá bắc màu đỏ hoặc tía, hiếm khi màu xanh lục, thuôn dài-hình mác, 4-5 × 1-1,5 cm, mặt xa trục thưa lông, 1 hoa. Lá bắc con tương tự lá bắc, 4 × 1,1 cm. Hoa màu vàng nhạt, dài 8,5-10,5 cm, không cuống. Đài hoa dài 0,9-1,8 cm, mặt ngoài thưa lông áp ép. Ống tràng hoa dài ~4,5 cm, nhẵn nhụi; các thùy thẳng, 3,5-4 × ~0,5 cm, mặt ngoài thưa lông áp ép; thùy tràng giữa hình mác, 4,5 × 0,9 cm. Cánh môi màu ánh vàng, dài ~3 cm; thùy giữa thuôn dài, ~2 × 0,7 cm, đỉnh thường 2 khe hở hiếm khi nguyên; các thùy bên gần thuôn dài, ~1 × 0,5 cm. Bao phấn dài ~1,4 cm; phần phụ liên kết (mào) màu đỏ, dài ~1,8 cm. Tuyến trên bầu dài 5 mm. Bầu nhụy ~5 mm, rậm lông áp ép, 3 ngăn. Quả nang hình trứng, 3-4 × 1-1,5 cm, 3 góc tù, thưa lông. Hạt màu đỏ; áo hạt màu trắng. Ra hoa tháng 9-10, tạo quả tháng 10-11.
Tương tự như "Z. mioga" nhưng khác ở chỗ thân rễ mập, dạng củ, đài hoa ngắn hơn (dài 0,9-1,8 cm so với dài 2,5–3 cm), mặt ngoài các thùy tràng hoa thưa lông áp ép và thùy giữa của cánh môi thuôn dài. | 1 | null |
Zingiber gulinense là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Yong Mei Xia (夏永梅, Hạ Vĩnh Mai) miêu tả khoa học đầu tiên năm 1996. Tên gọi thông thường trong tiếng Trung là 古林姜 (cổ lâm khương), nghĩa đen là gừng Cổ Lâm.
Từ nguyên.
Tính từ định danh "gulinense" lấy theo tên địa danh hương Cổ Lâm Tinh (huyện Mã Quan, châu tự trị Văn Sơn, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc).
Phân bố.
Loài này có tại huyện Mã Quan, châu tự trị Văn Sơn, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Môi trường sống là rừng, ở cao độ khoảng 600 m.
Mô tả.
Thân giả 50-90 cm, gốc có các bẹ tía. Bẹ lá màu xanh lục, nhẵn nhụi; lưỡi bẹ 2 thùy, nhẵn nhụi; cuống lá 1-1,7 cm; phiến lá hình elip, 10-18 × 5,6-7 cm, mặt gần trục nhẵn nhụi, mặt xa trục thưa lông nhung, đáy hình nêm, đỉnh nhọn thon. Cụm hoa mọc từ thân rễ, hình đầu, 1,8-3 × 1,8-2,5 cm; cuống cụm hoa chìm trong lòng đất, 2-7 cm; lá bắc hình mác, 3-3,2 × ~1,1 cm; lá bắc con rậm đốm đỏ, hình ống, ~2,8 cm. Đài hoa màu trắng, ~1,4 cm, nhẵn nhụi, đỉnh khía răng cưa. Tràng hoa màu vàng, nhẵn nhụi; ống tràng ~2,6 cm; các thùy hình trứng, thùy giữa ~2,1 × 0,8 cm, đỉnh nhọn thon; các thùy bên ~1,7 cm × 0,6 cm, đỉnh nhọn. Cánh môi màu tía với các đốm trắng, đáy màu trắng; thùy giữa thuôn dài, ~1 × 0,2 cm; các thùy bên thẳng, ~1 × 0,2 cm. Nhị màu tía; chỉ nhị ~2 mm; bao phấn ~9 mm; phần phụ kết nối ~4 mm. Bầu nhụy màu xanh lục nhạt, nhẵn nhụi. Quả nang màu tía, hình trứng, ~2,3 × 1,2 cm, 3 góc. Ra hoa tháng 9. | 1 | null |
Zingiber idae là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Ida Theilade mô tả năm 1999 dưới danh pháp "Zingiber villosum", nhưng danh pháp này đã được Jonathan S. Stokes sử dụng năm 1812 khi chuyển "Amomum villosum" của João de Loureiro sang chi "Zingiber" (danh pháp chính thức hiện nay là "Wurfbainia villosa" ). Vì thế, danh pháp "Z. villosum" của Theilade trở thành không hợp lệ (nom. illeg.). Năm 2002, Pramote Triboun và Kai Larsen đổi danh pháp thành "Zingiber idae" và hiệu chỉnh, bổ sung một vài mô tả khoa học khác.
Tên địa phương: "khing khon", "khing son tha ya".
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Beusekom C.F.v., Phengklai C., Geesink R. & Wongwan B. 3531"; thu thập ở tọa độ ; tại Huang Bankan, huyện Sai Yok, tỉnh Kanchanaburi, Thái Lan. Mẫu holotype lưu giữ tại Naturalis ở Leiden, Hà Lan (L); các isotype lưu giữ tại Cục Vườn quốc gia và Bảo tồn Động vật hoang dã và Thực vật ở Chatuchak, Bangkok (BKF), Đại học Copenhagen (C), Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K) và Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia Pháp tại Paris (P).
Từ nguyên.
Tính từ định danh "idea" là để vinh danh tiến sĩ Ida Theilade vì những đóng góp của bà vào chi "Zingiber" ở Đông Nam Á.
Phân bố.
Loài này có từ vùng Sagaing ở tây bắc Myanmar cho tới tỉnh Kanchanaburi ở phía tây Thái Lan. Môi trường sống là rừng lá sớm rụng hỗn hợp và rừng với tre trúc trên đồi đá vôi, cao độ 250-800 m.
Phân loại.
Nó là một thành viên của nhóm "Z. montanum"; bao gồm "Z. corallinum", "Z. griffithii", "Z. idae", "Z. montanum", "Z. neesanum", "Z. purpureum", "Z. tenuiscapus".
Mô tả.
Cây thảo thân rễ với chồi lá (thân lá) cao tới 1,25-1,8 m. Các bẹ lá và cuống lá có lông nhung. Lưỡi bẹ 2 thùy, dài 2-3 mm, có lông nhung. Lá thẳng tới hình trứng hình mác, 30-35 × 3-6,5 cm, mặt dưới và gân giữa có lông, đáy hình nêm, đỉnh nhọn thon tới hình đuôi. Cuống lá rất ngắn, có lông nhung. Cuống cụm hoa mọc từ thân rễ, thẳng đứng, thanh mảnh, dài 15-30 cm, với 5-7 bẹ có lông nhung. Cụm hoa hình thoi hẹp, 15-20 × 2-3,5 cm, đỉnh nhọn thon. Lá bắc 25-40, xếp lợp lỏng lẻo, hình mác, 4-5 × 1,3-1,5 cm, màu xanh lục sẫm chuyển thành đỏ-da cam khi tạo quả, có lông nhung cả hai mặt, đỉnh nhọn thon. Lá bắc con hình mác, 3,5-4 × 1-1,4 cm, có lông nhung mặt ngoài, mặt trong nhẵn nhụi. Hoa màu kem ánh trắng. Đài hoa nhẵn nhụi hoặc thưa lông; ống đài dài ~1,5 cm, các thùy 1 × 0,6-0,7 cm, đỉnh 3 răng nông. Tràng hoa dài ~6 cm, ống tràng dài ~2,9 cm; thùy tràng lưng 2,6-3 × 1,1-1,3 cm; các thùy tràng bên 2,2-2,5 × 0,6-0,7 cm. Cánh môi có khía răng cưa; thùy giữa 1,4-1,5 × 1,6 cm, đỉnh chia gần tới giữa, thùy giữa thanh mảnh dài ~4 mm; các thùy bên tương tự nhiều hay ít về hình dạng và kích thước, 4-8 × 6-7 mm. Bao phấn 11-12 × 3 mm. Phần phụ bao phấn màu trắng, dài ~1,3 cm, ngắn hơn đầu nhụy. Phấn hoa hình phỏng cầu, không lỗ hổng, 60-70 μm, phần đỉnh như vỏ não. Bầu nhụy ~4 × 3 mm, có lông nhung, 3 ngăn, 11-13 noãn mỗi ngăn. Quả nang hình elipxoit, có lông, 4-6 hạt mỗi ngăn. Hạt màu đen với áo hạt trắng, hình cầu, đường kính ~4 mm. Ra hoa tháng 6-7, tạo quả tháng 8-11. Thời gian nở hoa vào lúc 4-5 h chiều.
Tương tự như "Z. montanum", nhưng khác biệt ở chỗ toàn thân cây có lông nhung và cụm hoa hình thoi hẹp, dài, thanh mảnh với các lá bắc nhọn thon, màu đỏ và các lá bắc cũng như lá bắc con dài hơn. | 1 | null |
Zingiber incomptum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Brian Laurence Burtt và Rosemary Margaret Smith miêu tả khoa học đầu tiên năm 1969. Tên bản ngữ (tiếng Iban): Ligun.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "C4328"; thu thập tháng 9 năm 1964 ở cao độ 1.066 m, tọa độ , tại Gunung Berumput, dãy núi Poi, tỉnh Kuching, bang Sarawak, Malaysia. Mẫu holotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Edinburgh (E), isotype lưu giữ tại Naturalis ở Leiden, Hà Lan (L).
Phân bố.
Loài này có trên đảo Borneo, được tìm thấy tại bang Sarawak, Malaysia. Môi trường sống là rừng, ở cao độ 130-1.180 m.
Mô tả.
Địa thực vật thân thảo, cao tới 3,5 m, mọc thành cụm gồm 2 chồi lá, 46 lá mỗi chồi. Gốc màu ánh đỏ. Đôi khi tạo ra chồi dạng roi dài 4 m với các cây con mới. Phiến lá hẹp, hình mác. Cuống cụm hoa nằm ngang, dài 60–70 cm, các vảy màu ánh đỏ đến đỏ. Cụm hoa hình trụ hay hình đầu, mọc ngang ngay trên mặt đất, tới 10 × 8 cm. Lá bắc cứng, uốn ngược ở đỉnh, màu xanh lục nhạt ánh đỏ về phía đỉnh, lông tơ thưa và nhỏ trên cả hai mặt ở phần đỉnh. Lá bắc con màu hồng trong mờ. Hoa màu kem. Đài hoa tương tự lá bắc con, nguyên. Cánh hoa màu vàng da cam nhạt, cánh lưng rộng nhất với mép cuộn trong và đỉnh nhọn thon; các cánh hoa bên hợp nhất ở 1/3 phần dưới & hợp sinh (ở trung tâm) với cánh môi tại điểm nơi bản thân chúng hợp nhất. Các nhị lép màu vàng cam, mép nhăn, nhị lép trung tâm nguyên. Bao phấn màu trắng, đường rạch màu nâu sôcôla. Phấn hoa màu kem, vòi nhụy và đầu nhụy màu trắng, mô liên kết màu vàng; các tuyến dày gần 1 mm, bầu nhụy 3 ngăn. | 1 | null |
Zingiber inflexum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Carl Ludwig Blume miêu tả khoa học đầu tiên năm 1827.
Tên gọi thông thường trong tiếng Sunda là "tongtak", trong tiếng Java là "peseot idju" hay "penseot".
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: Không số, thu thập tại Java. Một mẫu khác là "Nagata K.M. 2311"; thu thập ngày 13 tháng 5 năm 1981 tại Vườn Thực vật miền núi tại Cibodas, tỉnh Tây Java, ở tọa độ khoảng . Mẫu này lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Edinburgh (E).
Từ nguyên.
Tính từ định danh "inflexum" (giống đực: "inflexus", giống cái: "inflexa") là tiếng Latinh; nghĩa là cong, uốn cong vào, cụp trong. Ở đây để nói tới các lá bắc với mép uốn cong vào trong, cụp trong của loài này.
Phân bố.
Loài này là bản địa/đặc hữu đảo Java; có tại tỉnh Tây Java (núi Pangrango và núi Gede ở Cibodas, huyện Cianjur) và tỉnh Trung Java (đảo Nusa Kambangan, Madjenang, núi Sindoro), Indonesia. Môi trường sống là rừng, ở cao độ 150–700 m.
Phân loại.
Schumann (1904) xếp "Z. inflexum" trong tổ "Lampugium" (= "Zingiber").
Mô tả.
Cây thảo lâu năm, cao trung bình. Thân rễ ngắn, có củ treo. Thân lá phẳng; bẹ có sọc, dạng màng, nhẵn nhụi; lưỡi bẹ chẻ tới đáy, các thùy lớn, hình trứng-thuôn dài thuôn tròn, thanh mảnh, dạng màng, có lông tơ, dài tới 13 mm. Lá từ không cuống tới có cuống ngắn, dài 8–12 mm, rộng, có rãnh, men xuống, thanh mảnh; phiến lá màu xanh lục nhạt, không mùi, thẳng-hình mác thon nhỏ dần, đỉnh nhọn thon, đáy nhọn hẹp, mặt trên nhẵn nhụi, mặt dưới (khi non) và dọc gân giữa có lông tơ nhỏ nhưng dài áp ép rải rác, dài 14-25(-32) cm, rộng 2-4,5-(8) cm, khi khô mặt trên màu nâu hạt dẻ mặt dưới màu nâu đỏ. Cán hoa mọc thẳng đứng, thuôn dài, dài 15–40 cm, có vảy. Cành hoa bông thóc hình trứng ngược tới hình cầu ép dẹp hoặc hình elipxoit, dài 10 cm, rộng 8 cm. Lá bắc thuôn dài-hình trứng ngược tới hình trứng, hình elip rộng, tới 4,5 cm × 3,5 cm, mép rộng, dạng màng, như thủy tinh, gần như có gờ, cụp trong, đỉnh thuôn tròn, uốn ngược, mập, màu xanh lục nhạt chuyển thành đỏ tươi khi tạo quả, khi khô màu vàng, hai mặt nhẵn nhụi, có sọc, dài 3-3,5 cm. Lá bắc con dài 4 cm, hình mác-hình trứng, mép xoắn, đỉnh nhọn có răng cưa nhỏ. Đài hoa hình ống, màu trắng thạch cao tuyết hoa, dài 2-2,7 cm, phần lưng nửa cố định, đỉnh gần rộng đầu tới tù 3 răng, các răng trung bình, ngắn. Ống tràng ngắn hơn lá bắc con, dài tới 3,2 cm, màu vàng. Cánh hoa dài ~2,2 cm, màu vàng, như thủy tinh, nhọn, khoảng 1/4 phía dưới hợp sinh. Cánh môi hình trứng, màu tím sẫm có đốm trắng, ngắn hơn cánh hoa, các thùy bên nhỏ hơn nhiều, hình trứng, bao quanh và gần như quấn xung quanh nhị hoa. Nhị hoa màu vàng. Bao phấn màu vàng nhạt. Phần phụ kết nối trên đỉnh cong, màu vàng nhạt, dài bằng bao phấn. Bầu nhụy nhẵn nhụi. Nở hoa tháng 2. Quả màu trắng. | 1 | null |
Zingiber integrilabrum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Henry Fletcher Hance miêu tả khoa học đầu tiên năm 1882. Tên gọi trong tiếng Trung là 全唇姜 (toàn thần khương); nghĩa đen là gừng cánh môi nguyên.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: Ford C. 21812; thu thập tháng 4 năm 1881 tại núi Gough, đảo Hồng Kông, Hồng Kông.
Từ nguyên.
Tính từ định danh "integrilabrum" là tiếng Latinh, bắt nguồn từ tính từ "integri" (sở hữu cách giống đực/giống trung của tính từ "integer") nghĩa là nguyên, toàn vẹn; và danh từ "labrum" nghĩa là môi. Ở đây để nói tới các cánh môi gần như nguyên ở hoa của loài này.
Phân bố.
Loài này là đặc hữu đảo Hồng Kông, Hồng Kông, Trung Quốc. Môi trường sống là rừng, ở cao độ tới 480 m.
Phân loại.
Schumann (1904) xếp "Z. integrilabrum" trong tổ "Cryptanthium".
Mô tả.
Cây thảo lâu năm, thanh mảnh, nhỏ. Thân rễ thanh mảnh, phân nhánh, vảy dạng bẹ chìa bao bọc, nhạt màu, không mùi, không vị. Thân giả 40-100 cm. Bẹ 3, dạng vảy, nhẵn nhụi,hình trứng hoặc thuôn dài, dạng màng màu trắng. Cuống lá từ không có đến dài 5 mm. Phiến lá hình mác nhọn thon, 13-18 × 2,7-3 cm, mặt gần trục nhẵn nhụi, mặt xa trục có lông tơ đến nhiều lông áp ép dọc gân giữa; bẹ nhẵn nhụi dạng màng; lưỡi bẹ thuôn tròn, 2 thùy, tới 1 mm. Cụm hoa là cành hoa bông thóc, dài 4-5 cm, đường kính 1-1,3 cm, mọc từ thân rễ, khoảng 1/2 chìm trong lòng đất, 4 hoặc 5 hoa. Cuống cụm hoa dài 1-2 × chiều dài cụm hoa, các bẹ giống vảy dài 2-3 cm, nhọn thon, nhẵn nhụi, dạng màng. Các lá bắc trở thành màu ánh nâu khi già, hình mác, nhọn, dài 2-3 cm, nhẵn nhụi. Lá bắc con ~2 cm, dạng màng. Đài hoa dài ~2 cm, chẻ 1 bên, nhẵn nhụi. Tràng hoa màu trắng ngà; ống tràng ~2,7 cm. Các thùy hình mác, dài ~1,8 cm; các thùy bên hình mác, nhọn thon, hẹp, uốn ngược; thùy lưng rộng hơn, nhọn, thẳng đứng. Cánh môi hình elip; các thùy bên tiêu giảm thành răng tròn nhăn hoặc không có. Nhị không cuống, dài 8 mm, hình mác. Bao phấn không cuống, dài ~8 mm; phần phụ kết nối dài ~7 mm, cong. Bầu nhụy dài 3 mm, nhiều lông màu vàng kim áp ép. Ra hoa tháng 4. | 1 | null |
Zingiber integrum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Shao Quan Tong (童绍全, Đồng Thiệu Toàn) miêu tả khoa học đầu tiên năm 1987. Tên gọi thông thường trong tiếng Trung là 全舌姜 (toàn thiệt khương), nghĩa là gừng lưỡi bẹ nguyên.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "Tong S.Q. & Liu S. 24918"; thu thập ngày 29 tháng 7 năm 1981 ở cao độ 900 m, tọa độ , huyện Cảnh Hồng (nay là thành phố cấp huyện Cảnh Hồng), châu tự trị Tây Song Bản Nạp, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Mẫu holotype lưu giữ Vườn Thực vật Nhiệt đới Tây Song Bản Nạp, Vân Nam (HITBC). Trong bài báo gốc các tác giả ghi là lưu giữ tại Viện Thực vật Nhiệt đới Vân Nam (YNTBI).
Từ nguyên.
Tính từ định danh "integrum" (giống đực: "integer", giống cái: "integra") là tiếng La tinh, nghĩa là nguyên, toàn bộ, trọn vẹn; ở đây để nói lưỡi bẹ nguyên của loài này.
Phân bố.
Loài này có tại tây nam tỉnh Vân Nam (thành phố cấp huyện Cảnh Hồng), Trung Quốc và miền bắc Thái Lan (các tỉnh Chiang Mai, Mae Hong Son). Môi trường sống là các hào rãnh trong rừng, ở cao độ 200-1.250 m.
Mô tả.
Thân giả 1,5–2 m. Lá không cuống; lưỡi bẹ màu tía nhạt, nguyên, 5–7 cm; phiến lá hình mác hoặc thuôn dài-hình mác, 40-70 × 8-9,5 cm, mặt gần trục thưa lông dọc theo hai bên gân giữa, mặt xa trục thưa lông, ngoại trừ rậm lông tơ dọc theo hai bên gân giữa, phần gốc gân giữa nở rộng và đậm các chấm màu đỏ ở hai bên, đáy gần thuôn tròn hoặc hình nêm, đỉnh nhọn thon. Cụm hoa mọc từ thân rễ, hình trứng hoặc hình đầu 5-7 × 4-4,5 cm; cuống cụm hoa 2–4 cm; lá bắc hình trứng hoặc thuôn dài rộng, 4-4,5 × 2-2,3 cm, các lá bắc trong thon nhỏ dần-hình tam giác, 3,4-4 × 0,4-0,5 cm, đỉnh nhọn; lá bắc con màu đỏ, dài 3,4–4 cm. Đài hoa màu trắng, 2,5–3 cm, 3 góc, đỉnh 3 răng. Tràng hoa màu trắng với đỉnh màu đỏ, 4-4,3 cm; các thùy màu đỏ, hình mác, thùy giữa 2,5-3 × 1,5–3 cm, các thùy bên hẹp hơn. Cánh môi màu nâu nhạt với các đốm đen; thùy giữa giống lưỡi bẹ, 2,8-3,2 × 0,9-1,1 cm; các thùy bên 1,6-1,9 × 1,1-1,3 cm. Bao phấn không cuống, màu trắng, dài ~1,3 cm; phần phụ kết nối dài ~1,4 cm. Bầu nhụy có lông tơ màu nâu nhạt. Ra hoa tháng 7. | 1 | null |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.