text
stringlengths
1
148k
label
int64
0
2
__index_level_0__
int64
0
113k
Zingiber intermedium là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được John Gilbert Baker mô tả khoa học đầu tiên năm 1892. Mẫu định danh. Một mẫu định danh là "Clarke C.B. 44443"; thu thập ngày 6 tháng 8 năm 1886 tại Bhorlasa, lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K). Từ nguyên. Tính từ định danh "intermedium" (giống đực: "intermedius", giống cái: "intermedia") là tiếng La tinh, nghĩa là trung gian, giữa. Phân bố. Loài này có tại đông bắc Ấn Độ (phía bắc khu vực Khasi Hills, tại các bang Meghalaya, Assam, Nagaland, Arunachal Pradesh). Môi trường sống là rừng, ở cao độ khoảng 1.100 m. Phân loại. Baker (1892) và Schumann (1904) xếp "Z. intermedium" trong tổ "Lampuzium" / "Lampugium" (= tổ "Zingiber"). Mô tả. Thân lá cao tới 1m. Lá không cuống, hình mác hoặc mác ngược nhọn thon, đáy hẹp, mặt trên nhẵn nhụi, mặt dưới gần đường giữa thưa thớt các hột nhỏ dạng viên tròn. Lưỡi bẹ dài tới 4 cm, dạng màng, nhẵn nhụi, nhọn thon. Cuống cụm hoa thanh mảnh, dài 5-15-(24) cm, có vảy hình mác bao bọc. Cụm hoa hình cầu kết đặc, đường kính 5 cm. Lá bắc hình mác, dạng màng, xoắn, dài 3,7 cm. Ống tràng dài như lá bắc; các thùy tràng hoa gần đều, hình mác, màu đỏ nhạt, dài 2,3-2,5 cm. Cánh môi hình gần tròn, dài 2,3-2,5 cm, màu đen ánh đỏ với các đốm nhỏ màu vàng nghệ, các tai ở đáy (thùy bên) thuôn dài. Bao phấn màu trắng, với mỏ màu đỏ sẫm. Phần phụ liên kết màu đen.
1
null
Zingiber junceum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được François Gagnepain miêu tả khoa học đầu tiên năm 1906. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Pierre J.B.L. s. n."; thu thập tháng 9 năm 1873 ở tọa độ khoảng , Angkor Wat (khi đó thuộc Xiêm La), tỉnh Siem Reap, Campuchia. Mẫu này lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia Pháp ở Paris (P). Từ nguyên. Tính từ định danh "junceum" (giống đực: "junceus", giống cái: "juncea") là tiếng Latinh nghĩa là bấc ("Juncus"); ở đây là để nói tới phiến lá hẹp của loài này trông giống như lá của các loài bấc. Phân bố. Loài bản địa khu vực từ miền đông Thái Lan (các tỉnh Sakon Nakhon, Ubon Ratchathani) qua Campuchia (tỉnh Siem Reap), miền nam Lào (tỉnh Salavan) tới khu vực Tây Nguyên ở miền trung Việt Nam (tỉnh Đắk Lắk). Môi trường sống là rừng, như trong rừng khộp (Dipterocarpaceae), ở cao độ 50–482 m. Phân loại. "Z. junceum" được Gagnepain xếp trong tổ "Lampuzium" (= tổ "Zingiber"), và được xác nhận trong Theerakulpisut "et al." (2012). Mô tả. Cây thảo thanh mảnh, cao 0,5 m, gốc rộng 5 mm; thân rễ màu vàng tươi, thơm, rễ hình chỉ có củ, các củ hình trứng-hình thoi. Thân lá thanh mảnh, có sọc, nhẵn nhụi, bò lan. Các bẹ thấp nhất không phiến lá; bẹ lá nhẵn nhụi, mép khô xác; lưỡi bẹ 2 thùy, nhỏ, dài 1–4 mm, nhẵn nhụi. Cuống lá từ không có tới có cuống rất ngắn và nhẵn nhụi. Phiến lá thẳng, gần hình chỉ, hẹp, 12-18 × 0,4–1 cm, nhẵn nhụi, rắn chắc, sau đó xoắn lại, đỉnh nhọn thon. Cụm hoa hoặc là đầu cành trên chồi lá hoặc là từ thân rễ trên cuống cụm hoa, thẳng đứng, dài 10–20 cm hiếm khi dài hơn. Cuống cụm hoa cao tới 15 cm, thanh mảnh, không lá, có vảy; các vảy thấp nhất 1,5 × 0,8–1 cm, xếp lợp; các vảy giữa và trên lớn, 2,3 × 1,2-1,5 cm; tất cả nhẵn nhụi, hình mác, có sọc, màu xám tro hoặc xám bột khi khô, có đốm nhỏ. Cành hoa bông thóc hình thoi, 10-15 × 2–3 cm, 7-8 hoa, đỉnh nhọn tới nhọn thon. Lá bắc hình mác-hình trứng hoặc hình trứng hay hình elip tới hình trứng ngược, giống như vảy nhưng rộng hơn, 2-2,5 × 1,5-1,8 cm, màu đỏ, nhẵn nhụi, với gai nhọn ở đỉnh. Lá bắc con hình elip, 2,5 × 1-1,5 cm, dạng màng, nhẵn nhụi, khô xác, bao 1 hoa. Hoa dài 3,5 cm, hầu như không thò ra, có đốm nhỏ, đốm hình elip. Đài hoa hình ống, dài 1,5-1,7 cm, ngắn hơn lá bắc con, 3 răng, nhẵn nhụi, các răng tù, hình tam giác, có lông rung. Tràng hoa dài 3,5 cm, màu vàng với ống tràng màu ánh đỏ; ống tràng thanh mảnh, hầu như không dài hơn đài hoa; các thùy dài gần bằng nhau, hình mác, gần nhọn; thùy tràng lưng 1,5 × 0,6 cm, rộng hơn các thùy tràng bên, các thùy tràng bên dài 1,3 cm. Nhị không cuống, dài 1,7 cm. Bao phấn thuôn dài, đáy cắt cụt, lưng có đốm màu đen; các ngăn song song; mô liên kết hình chỉ, dài bằng ngăn bao phấn, dài 7 mm. Nhị lép 0. Cánh môi hình elip rộng, màu vàng; thùy giữa 1,2-1,5 × 0,8-1,2 cm, đỉnh chia 2 thùy, nhiều đốm; các thùy bên ngắn, thuôn tròn. Nhụy lép hình chỉ. Vòi nhụy hình chỉ, đầu nhụy hình phễu, miệng có lông rung. Bầu nhụy ít lông. Quả nang hình elipxoit, 2 × 1 cm, nhẵn nhụi. Ra hoa tháng 7-9, tạo quả cuối tháng 9. Dễ dàng nhận ra nhờ các lá rất hẹp giống như lá cỏ, lá lúa của nó. Kiểu phát triển là tương tự như "Z. officinale", "Z. gramineum" và "Z. porphyrosphaerum" nhưng lá của nó ít nhất là 2 lần hẹp hơn so với các loài này. "Z. junceum" khác biêt rõ nét với "Z. gramineum" ở chỗ cành hoa bông thóc hình thoi với các lá bắc khô xác, trong khi ở "Z. gramineum" giống hình đầu hơn và các lá bắc có lông. Nó cũng khác với "Z. porphirosphaerum" ở chỗ loài kia có cành hoa bông thóc hình trứng với các lá bắc có lông ở mặt ngoài.
1
null
Zingiber kawagoii là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Bunzô Hayata miêu tả khoa học đầu tiên năm 1921. Các tên gọi thông thường có: 三奈 (sam nāi, tam nại), 冬粉草 (đông phấn thảo), 台灣山薑 (Đài Loan sơn khương), 台灣蘘荷 (Đài Loan nhương hà), 恆春薑 (hằng xuân khương), たいわんみようが, 毛姜 (mao khương). Mẫu định danh. Mẫu định danh như sau: Phân bố. Loài đặc hữu đảo Đài Loan. Phổ biến rộng ở các cao độ từ thấp tới trung bình trên khắp đảo, thường mọc trong bụi rậm trong rừng lá rộng. Ghi nhận tại các huyện thị Đài Bắc, Nam Đầu, Đài Nam, Cao Hùng, Bình Đông, Đài Đông. Phân loại. "Z. kawagoii" được xếp trong tổ "Cryptanthium". Mô tả. Thân rễ bò lan, thanh mảnh, gần thon búp măng, đường kính 1 cm. Thân giả cao 30-60 cm. Phiến lá thuôn dài hoặc thuôn dài-hình mác, 15-30 × 4-8 cm, đáy tù, đỉnh nhọn thon, từ có lông tơ mỏng tới gần như nhẵn nhụi trên cả hai mặt, cuống lá ngắn; lưỡi bẹ 2 thùy, hình tai, dạng màng. Cụm hoa 1-3, nhiều hoa, mọc từ thân rễ, dài 4-5 cm; cuống cụm hoa dài 2-10 cm; lá bắc hình mác, dài 2 cm, đáy giống như bẹ; đài hoa hình ống, 1 cm, đỉnh 3 răng, đáy rậm lông; ống tràng thanh mảnh, 2-3 cm; các thùy màu đỏ hay tía, 2 cm, thùy tràng lưng rộng tới 1 cm, lõm, hơi rộng hơn các thùy tràng bên; cánh môi hay thay đổi, hình trứng ngược, gần hình thoi, 2,2 × 2 cm, 3 thùy, thùy giữa hình trứng ngược-thuôn dài, dài 1-1,5 cm, rộng 1,2 cm, đỉnh thuôn tròn tới có khía răng cưa, mép nguyên, màu đỏ hay tím sẫm, các thùy bên nhỏ hơn, thuôn dài, lệch, đỉnh cắt cụt, đỉnh và mép màu tím, đáy màu ánh vàng; nhị 1, không cuống; bao phấn thẳng, từ gần thon búp măng tới gần hình trụ, dài 1 cm, 2 ngăn; phần phụ liên kết thẳng, dài 1 cm, cong; vòi nhụy hình chỉ, màu trắng; bầu nhụy rậm lông. Quả nang thuôn dài, hình tam giác với lá bắc và lá bắc con bền, nứt theo ngăn, vỏ quả ngoài mọng, bên trong màu đỏ da cam hoặc đỏ tía. Hạt màu đen hoặc nâu sẫm; áo hạt màu trắng, giống như túi. Moo (1978) đã không chỉ định mẫu holotype từ 2 mẫu mà ông trích dẫn khi mô tả "Z. koshunense". Wu "et al." (2000) đã chỉ định mẫu holotype cho loài này là "T. Kawakami & S. Sasaki s.n. [6461?]" thu thập ngày 2 tháng 1 năm 1911 (hay 1910?) tại Abei (Apei) huyện Đài Đông và coi "Z. koshunense" là loài độc lập, với các khác biệt được liệt kê là thường có 2 hoặc 3 cụm hoa (so với 1); quả nang màu đỏ-cam, thuôn dài (so với màu nâu sẫm, hình tam giác); hạt màu nâu (so với đen) với áo hạt giống như túi (so với giống như tấm đệm). Tuy nhiên, 3 đặc trưng này là dễ thay đổi và hiện tại người ta coi chúng chỉ là cùng một loài.
1
null
Zingiber kelabitianum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Ida Theilade và Hanne Christensen miêu tả khoa học đầu tiên năm 1998. Tên gọi trong tiếng Kerabit là "tubuh berak sia[h]" nghĩa là gừng lợn lớn. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Apu & Christensen H. 313"; thu thập ngày 7 tháng 8 năm 1993 ở cao độ 1.100 m, tọa độ (tọa độ này thiếu chính xác, theo bản đồ Google thì tọa độ này nằm trong tỉnh Bắc Kalimantan, Indonesia, tọa độ của Pa Dali[h] là khoảng ), gần Pa Dali[h], khoảng 30 km phía nam Bario, huyện Marudi, tỉnh số 4 (nay là tỉnh Miri), bang Sarawak, Malaysia. Mẫu holotype lưu giữ tại Đại học Aarhus (AAU), mẫu isotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K). Từ nguyên. Tính từ định danh "kelabitianum" lấy theo người Kelabit sinh sống trên cao nguyên Kelabit ở đông bắc bang Sarawak. Phân bố. Loài bản địa khu vực đông bắc đảo Borneo, từ cao nguyên Kelabit ở đông bắc bang Sarawak tới bang Sabah (Malaysia) và tây bắc tỉnh Bắc Kalimantan (Indonesia). Môi trường sống là rừng mưa thường xanh gần miền núi, cao độ 900-1.200 m; tại cao nguyên Kelabit, Vườn quốc gia Gunung Mulu, Vườn quốc gia Pulong Tau, Vườn quốc gia Kayang Mentarang, dãy núi Crocker và dãy núi Trus Madi. Phân loại. Loài này thuộc tổ "Zingiber". Mô tả. Chồi lá cao 3–4 m. Cá bẹ lá có lông dài, mềm, màu nâu-vàng che phủ, đặc biệt là về phía các rìa xù lông màu nâu hạt dẻ. Lưỡi bẹ 2 thùy, dài 3–4 cm, được lông dài, mềm, màu nâu-vàng che phủ, màu nâu hạt dẻ. Cuống lá có lông tơ dài. Lá thuôn dài, 45-55 × 8–10 cm, mặt trên nhẵn nhụi, mặt dưới thưa lông lụa áp ép, gân giữa mặt dưới rậm lông tơ, đáy thon nhỏ dần, đỉnh nhọn thon. Cụm hoa mọc từ thân rễ, thẳng đứng nhiều hay ít. Cán hoa mập, dài 20–25 cm; các bẹ dài 7 cm, màu đỏ tươi. Cành hoa bông thóc hình trứng hoặc hình trụ, 12-15 × 7-8,5 cm, đỉnh thuôn tròn rộng. Lắc hình elip, 5,5-6,5 × 3,3-3,5 cm, chứa chất nhầy, rậm lông tơ, màu đỏ tươi, đỉnh cong xuống, nhọn. Lá bắc con hình mác, 3 × 1 cm. Đài hoa dài 3 cm, màu trắng. Tràng hoa dài 7,2 cm, màu trắng-kem; thùy tràng lưng 3 × 1,3 cm; các thùy tràng bên 2,1 × 0,9 cm, rời. Cánh môi dài 6,4 cm, màu trắng-kem; thùy giữa thuôn dài, 1,3 × 0,9 cm, cắt cụt; các thùy bên thuôn dài, 0,9 × 0,6 cm. Bao phấn 12 mm, màu kem. Phần phụ 1,5 cm, màu trắng-kem. Ra hoa tháng 8. Có quan hệ gần với "Z. pachysiphon" ở chỗ lưỡi bẹ dài, lá to và cụm hoa mập hình trụ với các lá bắc cong xuống. Nó khác ở chỗ rậm lông màu nâu-vàng trên bẹ lá và lưỡi bẹ, các lá thuôn dài to hơn, lá bắc có lông tơ màu đỏ tươi, lá bắc con dài hơn, các thùy bên của cánh môi rời và khá phát triển. Ở "Z. pachysiphon" thì lá bắc con ngắn hơn đáng kể so với đài hoa còn cánh môi thì 3 thùy nông. Sử dụng. Người Kelabit dùng các chồi lá non có hương thơm làm rau (ăn như rau sống lẫn rau chế biến). Cụm hoa dùng làm thuốc chữa bệnh cho chó, bằng cách cho một cụm hoa vào ấm nước đun sôi rồi để nguội khoảng 1 h, sau đó vắt cụm hoa lấy dịch chiết chấy nhầy cho chó uống. Tiềm năng nông học của loài này thấp do cây lớn chậm, nhưng có thể sử dụng làm cây cảnh với các cụm hoa mập, đẹp, màu đỏ.
1
null
Zingiber kerrii là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Lịch sử phân loại. "Z. kerrii" được William Grant Craib miêu tả khoa học đầu tiên năm 1912 theo mẫu vật thu thập tại Chiang Mai, Thái Lan. Năm 1987, Shao Quan Tong (童绍全, Đồng Thiệu Toàn) miêu tả 2 loài theo các mẫu vật thu thập tại Vân Nam, Trung Quốc là "Z. menghaiense" và "Z. stipitatum". Hai loài này được công nhận trong Flora of China (2000). Năm 2015, Bai "et al." cho rằng 2 loài này với "Z. kerrii" chỉ là một loài và gộp chúng lại dưới danh pháp "Z. kerrii". Mẫu định danh. Các mẫu định danh bao gồm: Tên gọi. Các tên gọi thông thường bao gồm: Phân bố. Loài này có trong khu vực từ miền đông Ấn Độ (bang Manipur), qua Myanmar, tới Lào (các tỉnh Louangphabang, Phôngsali, ngoại ô thủ đô Viêng Chăn), miền bắc Thái Lan (các tỉnh Chaiyaphum, Chiang Mai, Chiang Rai, Loei, Phitsanulok), tây nam Trung Quốc (các châu/địa cấp thị Đức Hoành, Tây Song Bản Nạp, tỉnh Vân Nam). Phân loại. Craib xếp loài này trong tổ "Lampujium" (= tổ "Zingiber"). Mô tả. Cây thảo lâu năm có thân rễ, cao 1,2-1,6 (-2,5) m, màu xám tro phủ khắp (không rõ nét khi già). Thân rễ mọng, phân nhiều nhánh, đường kính 1–2 cm, vỏ màu nâu sáng, ruột màu hồng-tía khi non và màu vàng-da cam khi già, các củ rễ hình trứng tới hình thoi, ~2 × 1 cm, vỏ màu nâu ánh trắng, ruột màu xám nhạt. Chồi lá tới 15, mọc thành bụi, đến 44 lá khi nở hoa, ít hơn từ bẹ không phiến lá; các bẹ lá có sọc dọc, hình ống tại đáy; lưỡi bẹ dài 1-4(-6) mm, 2 thùy, đỉnh hình tam giác tù, đáy màu xanh lục chuyển thành ánh đen và như da khi già, với các gân nổi rõ nét, phần trên như thủy tinh, dạng màng, rậm lông tơ, nhẵn nhụi khi già. Phiến lá thẳng tới hình trứng hẹp, 15-34 × 1,8-3(-4,5) cm, nhẵn nhụi và màu xám tro cả hai mặt, đáy tù tới thon nhỏ dần, đỉnh nhọn thon. Cụm hoa 1-3, mọc từ thân rễ; cuống cụm hoa dài 12–20 cm, thẳng đứng, với các vảy màu hồng trên phần đáy. Cành hoa bông thóc hình thoi hoặc hình trụ, đỉnh nhọn, 10-15 × 5–6 cm, lá bắc hữu sinh đỡ 1 hoa, hình trứng ngược rộng hoặc hình thìa rộng, hơi dài hơn ống hoa, màu xanh lục với đỉnh màu đỏ tía, 3-4,5 × 2–4 cm, đỉnh thuôn tròn, toàn bộ cành hoa chuyển thành màu đỏ tươi khi ra quả. Lá bắc con hình trứng hẹp, đỉnh nhọn, ~3 × 0,6 cm, nửa trong mờ, mặt ngoài thưa lông tơ, mặt trong nhẵn nhụi. Hoa dài 5–6 cm; đài hoa hình ống, dạng màng, dài ~1 cm, chẻ một bên tới 4 mm, đỉnh hơi có răng hoặc gần như cắt cụt, mặt ngoài thưa lông tơ, mặt trong nhẵn nhụi, nửa trong mờ; ống hoa màu trắng kem, dài ~3 cm; thùy tràng lưng hình trứng hẹp, ~1,8 × 0,9 cm, màu trắng-kem, lõm, nhẵn nhụi, đỉnh có mấu nhọn; các thùy tràng bên hình trứng hẹp, ~1,8 × 0,7 cm, màu kem, nhẵn nhụi; cánh môi hình trứng ngược với đáy thon nhỏ dần rõ nét, ~2,6 × 1,2 cm, màu kem với vệt màu đỏ tía trên đáy, đỉnh có khía răng cưa hoặc chẻ đôi, mép cuốn ngoài; các nhị lép bên hình trứng ngược hẹp, thuôn dài hẹp hoặc hình tam giác hẹp, ~1,8 × 0,4 cm, ~1/5 đáy (hoặc ít hơn) hợp sinh với cánh môi, màu kem với 2 vệt màu đỏ-tía trên đáy, đỉnh thuôn tròn tới thon nhỏ dần. Nhị dài ~1,7 cm; chỉ nhị tiêu giảm dài dưới 1 mm; bao phấn dài ~1,1 cm; mô liên kết màu vàng nhạt; mô vỏ bao phấn dài 1,1 cm, nứt dọc theo toàn bộ chiều dài; phấn hoa màu vàng nhạt; mào bao phấn dài ~0,6 cm, màu vàng nhạt. Vòi nhụy hình chỉ, màu trắng, nhẵn nhụi; đầu nhụy hình phếu, màu trắng, lỗ nhỏ có lông rung. Bầu nhụy hình trụ, màu vàng nhạt, 3 ngăn, noãn đính tâm, ~20 noãn mỗi ngăn, ~5 × 3 mm, rậm lông tơ; tuyến trên bầu 2, màu vàng nhạt, dài ~4 mm, đường kính 0,3 mm, đỉnh tù. Quả nang hình trứng ngược tới gần hình cầu hoặc hình tam giác tù, ~2,2 × 1,8 cm, thưa lông, mặt ngoài màu kem ánh lục với vết đỏ, mặt trong màu đỏ; hạt hình trứng ngược, ~5 × 4 mm, màu nâu sẫm, bóng, với rốn hạt màu trắng dễ thấy ở đáy; áo hạt màu trắng, giống túi, đỉnh với mép không đều, che phủ phần lớn hạt. "Z. kerrii" tương tự như "Z. laoticum" ở chỗ toàn cây bề ngoài có màu xám tro, đặc biệt rõ nét ở các chồi non, trở thành khó thấy hơn khi cây già, các lá bắc màu xanh lục nhạt với mép màu hồng-đỏ, thân rễ và thân giả bên trong màu đỏ-tía. Tuy nhiên, "Z. laoticum" khác ở chỗ có cánh môi rộng hơn với nhiều đốm màu tía-nâu sẫm, lưỡi bẹ dài hơn (~1,5 cm), nguyên, dạng màng. Sử dụng. Người Khơ Mú tại Louangphabang sử dụng loài này như một loại rau rừng. Các cụm hoa non và chồi lá non được dùng bằng cách luộc, hấp hoặc rán với ớt và cá khô.
1
null
Zingiber kunstleri là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Henry Nicholas Ridley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1899 dựa theo hình vẽ số "Kunstler 2219" của Hermann H. Künstler (1837-1887) trong bộ sưu tập mẫu cây của George King (1840-1909). Mẫu định danh. Mẫu định danh: Mẫu holotype là hình minh họa số 00828 lưu giữ tại Vườn Thực vật Singapore (SING). Mẫu "Ridley 11449" do Ridley thu thập tháng 12 năm 1902 tại Taiping Hills, Perak với isotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K), nhưng Ida Theilade cho rằng mẫu này có lectotype lưu giữ tại SING. Phân bố. Loài bản địa Malaysia bán đảo, được tìm thấy tại các bang Perak và Terengganu. Môi trường sống là rừng ở cao độ 600–790 m. Phân loại. Schumann (1904) xếp loài này trong tổ "Lampugium" = tổ "Zingiber"). Mô tả. Cây thảo giống như cây bụi, cao 1-1,5(-2) m. Màu của thân rễ và gốc thân khi cắt ra là tím hoa cà ánh tía. Gốc thân hơi phồng, màu tím hoa cà nhạt. Lá nhiều, mọc sát nhau, mỏng, hình mác, nhọn thon, dài 30–45 cm, rộng 6-7,5 cm, đỉnh thon dần và thu hẹp thành điểm nhọn dài, đáy cũng dần thu hẹp, hình nêm, nhẵn nhụi; gần như không cuống lá khác biệt tới có cuống ngắn, cuống lá dài dưới 5 mm; lưỡi bẹ 2 thùy, các thùy thuôn tròn rộng, mỏng, nhẵn nhụi, dài ~4 mm. Cán hoa cao trên 30 cm, khá mập, màu nâu sáng và hồng, được che phủ bởi các lá có bẹ, các bẹ phía trên lớn hơn và trên cùng nhất với phiến hình trứng, dài 5–8 cm, rộng 2,5 cm, nhẵn nhụi trừ phần gần đỉnh. Cành hoa bông thóc ngắn và rộng (hình đầu) tới hình trứng, dài 7,5–14 cm, rộng 7,5–9 cm, trục cành hoa dài ~9 cm. Lá bắc hình mác tới hình elip, màu hồng, dài ~6 cm, các lá bắc thấp nhất rộng tới 3 cm, các lá bắc còn lại rộng ~2 cm, có lông gần đáy và đỉnh, đỉnh hẹp, điểm nhọn tù, đỉnh cong ra ngoài hoặc uốn xuống. Lá bắc con dài gần 5 cm. Hoa thò ra ngắn, màu trắng nhạt ánh đỏ và nâu bên trong. Đài hoa ngắn hơn lá bắc con. Ống tràng thanh mảnh, thon búp măng, các thùy hình mác hẹp, dài ~3,5 cm, nhọn, nhạt màu. Cánh môi hẹp, ngắn và không rộng hơn các thùy, hình mác, nhọn, các thùy bên không khác biệt, hầu như không nâng cao, màu ánh đỏ và nâu. Bao phấn dài hơn cánh môi, các ngăn thuôn dài hẹp, mỏ dài tương đương bao phấn, hẹp. Ra hoa từ cuối tháng 7 đến tháng 8, tạo quả tháng 11.
1
null
Zingiber lambii là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được John Donald Mood và Ida Theilade miêu tả khoa học đầu tiên năm 1997. Mẫu định danh. Mẫu định danh "Mood J.D. 848"; thu thập ngày 18 tháng 2 năm 1994 tại tọa độ , Guning Rara, khoảng 1h chạy xe về phía tây từ nhà nghỉ trung tâm thuộc Trung tâm Nghiên cứu thực địa thung lũng Danum, bang Sabah, Malaysia. Mẫu holotype lưu giữ tại Trung tâm Nghiên cứu Rừng Malaysia ở Sandakan, Sabah, Malaysia (SAN). Nó cũng được trồng tại trung tâm Lan thuộc Vườn Nông nghiệp tại Tenom (huyện Tenom, tỉnh Pedalaman (Nội địa, Interior), bang Sabah). Từ nguyên. Tính từ định danh "lambii" là để vinh danh Anthony Lamb, quản lý của Vườn Nông nghiệp tại Tenom vì những đóng góp của ông trong bảo tồn các loài gừng ở Sabah. Phân bố. Loài bản địa đảo Borneo, đặc hữu Gunong Rara, huyện Lahad Datu, tỉnh Tawau, bang Sabah, Malaysia. Môi trường sống là vùng đồi trên đất ultramafic trong rừng nguyên sinh vùng đất thấp. Mô tả. Thân có lá cao tới 60 cm. Các bẹ lá hơi có lông tơ. Lưỡi bẹ 2 thùy, 2 mm, rậm lông tơ. Cuống có lông tơ. Các lá không cuống, hình elip tới hình trứng, 15-18 × 5,5-7,5 cm, nhẵn nhụi trừ gân giữa và mép về phía đáy ở mặt dưới, mặt trên màu xanh lục ánh bạc, nổi gân dọc theo các gân bên, mặt dưới màu xanh lục, đáy thon nhỏ dần, đỉnh nhọn. Cán hoa mọc từ rễ, bò sát mặt đất, dài 2 cm, màu ánh hồng. Cành hoa bông thóc hình thoi, 10-12 × 2 cm, đỉnh nhọn. Lá bắc hình mác ngược, 2,5-3 × 2-2,5 cm, màu da cam tới ánh lục về phía đỉnh, chuyển thành hồng khi già, hơi có lông tơ. Lá bắc con 2 × 1 cm, hơi có lông tơ. Đài hoa dài 2,5 cm, hơi có lông tơ. Tràng hoa dài 5 cm, màu vàng; thùy tràng lưng 2,4 × 1,4 cm. Cánh môi dài 4,5 cm, màu vàng nhạt; thùy giữa hình elip, 1,5 × 0,7 cm, nguyên; các thùy bên 0,4 cm, hình elip, tỏa rộng tới 1,2 cm khi ép dẹt. Quả không rõ. "Z. lambii" giống "Z. argenteum" ở chỗ có các lá mặt trên màu xanh lục ánh bạc nhưng khác ở chỗ kích thước nhỏ hơn, các bẹ lá có lông, bề mặt lá nổi gân, đài hoa dài hơn và thùy giữa của cánh môi tù. Rất có thể là kích thước nhỏ và màu ánh bạc của lá gắn với loại đất của môi trường sống. Cả hai loài này giống với "Z. coloratum" ở cành hoa bông thóc hình thoi tới hình trứng nằm ngay trên mặt đất. Tuy nhiên, cả hai loài này khác "Z. coloratum" ở chỗ kích thước nhỏ hơn, mặt trên phiến lá màu xanh lục ánh bạc và cụm hoa màu da cam của chúng. Cùng với "Z. flammeum" chúng tạo thành nhóm các loài với lá bắc màu da cam cho đến thời điểm đó chưa được thông báo là có trên đảo Borneo. Loài với lá bắc màu da cam tương tự là "Z. gracile" ở miền tây Malaysia.
1
null
Zingiber laoticum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được François Gagnepain miêu tả khoa học đầu tiên năm 1907. Tên gọi tại Trung Quốc là 梭穗姜 (thoa tuệ khương), nghĩa là gừng cành hoa hình thoi. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Thorel C. s.n."; thu thập trong chuyến thám hiểm sông Mê Kông giai đoạn 1866-1868, tọa độ khoảng , huyện Paklay (Parklai), tỉnh Xayabury. Mẫu isotype (MNHN-P-P00289156) lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia Pháp ở Paris (P). Phân bố. Loài này được tìm thấy ở Lào (các tỉnh Xayabury, Xiengkhuang), Thái Lan (các tỉnh Chiang Mai, Chaiyaphum) và Trung Quốc (tỉnh Vân Nam). Môi trường sống là rừng thông và rừng lá sớm rụng, ở cao độ 400-1.200 m. Phân loại. "Z. laoticum" thuộc tổ "Zingiber". Mô tả. Cây thảo thân rễ, cao 0,8-1,4 m? Lá 10-25, lá non hình mác-thẳng, hai mặt nhẵn nhụi, đốm nhỏ thưa thớt màu nâu vàng ánh đỏ, có sọc, lá trưởng thành thẳng-hình mác, 10-25 × 3–6 cm, nhẵn nhụi, đáy thon nhỏ dần, đỉnh hình đuôi; lưỡi bẹ dài 7–12 mm, nguyên, khô xác, nhẵn nhụi; bẹ lá dài 2–9 cm, nhẵn nhụi. Cụm hoa mọc từ thân rễ. Cán hoa dài 15-25(-35) cm, mập, có vảy dài 2-4,5 cm, đỉnh nhiều lông, vảy ở đáy xếp lợp, nhẵn nhụi, hình ống, dạng bẹ bao, có sọc, hơi nhọn, cứng tại đỉnh, vảy phần trên không xếp chồng, dần dần có hình dạng của lá bắc; cành hoa bông thóc hình thoi, dài 8-12(-15) cm, rộng 2–5 cm, nhẵn nhụi, nhiều màu sắc; lá bắc màu xanh lục-tía tới đỏ khi tạo quả, 3-4 × 1,5-2,5 cm, hình thoi tới hình trứng, đỉnh nhọn thon-tù, mép dạng màng, gần đỉnh màu xanh lục tới đỏ; lá bắc con thẳng-hình mác, nhẵn nhụi, dài 3 cm. Đài hoa hình ống, 3 răng, răng rất nhỏ, thuôn tròn gần như cắt cụt, phần dưới nhiều lông. Ống tràng thanh mảnh, không dài hơn lá bắc, dài 3-3,5 cm; các thùy tràng hoa dài 2 cm, hình mác-nhọn, có 3-5 sọc màu nâu, thùy lưng hầu như không rộng hơn. Cánh môi hình gần tròn, 1,9-2 × 2-2,1 cm, 3 thùy, thùy giữa 2 lần dài hơn và rộng hơn, tổng thể tù, màu ánh vàng với sọc nâu, khi khô có sọc nâu; nhị lép 0 hoặc tạo thành các thùy bên của cánh môi. Bao phấn không cuống, dài ~1 cm, dài hơn phần phụ liên kết một chút. Phần phụ liên kết cong vào, dài ~1 cm. Bầu nhụy rậm lông; nhụy lép hình dùi, dài 4 mm. Hạt hình elip, màu nâu-đen. Ra hoa tháng 4. "Z. laoticum" thoạt nhìn dường như là một thứ của "Z. parishii"; nhưng nó rất dễ phân biệt với loài kia ở một số đặc điểm đáng chú ý sau: lưỡi bẹ không màu xanh lục mà khô xác, không 2 thùy mà rất nguyên; lá non thẳng rất hẹp, gợi ý rằng lá trưởng thành sẽ không có dạng hình trứng-hình mác như ở lá trưởng thành của "Z. parishii"; lá bắc luôn luôn tù nhọn thon; bầu nhụy rậm lông và đài hoa có lông ở nửa dưới; các thùy tràng hoa không đồng nhất màu trắng ánh vàng mà có các sọc màu nâu khác biệt; các thùy tràng hoa hầu như dài bằng cánh môi mà không dài hơn so với nó, như ở "Z. parishii". Cuối cùng, cánh môi có lẽ không phải kẻ ô vuông màu nâu mà dường như là sọc dọc theo hướng của các gân.
1
null
Zingiber larsenii là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Ida Theilade miêu tả khoa học đầu tiên năm 1999. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Larsen K. et al. 46280"; thu thập ngày 10 tháng 9 năm 1995 ở cao độ 1.400-1.700 m, rừng thường xanh sườn núi Doi Wao, tỉnh Nan, Thái Lan. Mẫu holotype lưu giữ tại Đại học Aarhus, Đan Mạch (AAU), mẫu isotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Singapore (SING). Phân bố. Loài này được tìm thấy ở miền bắc Thái Lan (các tỉnh Chiang Mai, Chiang Rai, Loei, Nan, Phayao, Phitsanulok, Tak). Môi trường sống là rừng, ở cao độ 600-1.800 m. Mô tả. Thân rễ nằm ngang. Chồi lá cao tới 1m. Các bẹ lá hơi có lông về phía cuống lá. Lưỡi bẹ dài 1 cm, 2 thùy, có lông. Cuống lá dài 5 mm, có lông. Lá hình elip tới trứng ngược-thuôn dài, 25-30 × 7-10 cm, mặt trên nhẵn nhụi, mặt dưới màu đỏ burgundy với lông lụa áp ép về phía gân giữa, đỉnh nhọn. Cuống cụm hoa mọc từ thân rễ, phủ phục, dài 5-15 cm. Cụm hoa hình trứng, 6-7 × 3-4 cm, đỉnh cắt cụt. Lá bắc sắp xếp lỏng lẻo, hình mác, 3,2 × 0,7 cm, thưa lông về phía đỉnh, màu đỏ. Lá bắc con hình mác, 2,7 × 1 cm, thưa lông. Đài hoa dài 1, 8 cm. Tràng hoa dài 7,5 cm, màu hồng nhạt; thùy tràng lưng 3,3 × 1 cm; các thùy tràng bên 2 × 0,7 cm. Cánh môi dài 7 cm, màu đỏ sẫm với sọc sáng màu; thùy giữa thuôn dài, 2 × 1,4 cm, đỉnh cắt cụt; các thùy bên thuôn tròn rộng, 0,8 × 0,5 cm. "Z. larsenii" tương tự như "Z. recurvatum" ở chỗ có mặt dưới phiến lá màu đỏ sẫm có lông tơ, bẹ lá có lông tơ, lưỡi bẹ 2 thùy có lông và hình dạng cũng như màu sắc của cánh môi; nhưng "Z. recurvatum" cao tới 2-3 m, thân mập, lá, lá bắc và lá bắc con to hơn cũng như cụm hoa rộng hơn.
1
null
Zingiber latifolium là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Ida Theilade và John Donald Mood miêu tả khoa học đầu tiên năm 1997. Mẫu định danh. Mẫu định danh "Mood J.D. 163A"; thu thập ngày 10 tháng 2 năm 1991 tại tọa độ , cao độ 1.680 m, dãy núi Crocker, đường Sinsuran trên Tambunan, huyện Tambunan, tỉnh Pedalaman (Nội địa, Interior), bang Sabah, Malaysia. Mẫu holotype lưu giữ tại Trung tâm Nghiên cứu Rừng Malaysia ở Sandakan, Sabah, Malaysia (SAN). Nó cũng được trồng tại trung tâm Lan thuộc Vườn Nông nghiệp tại Tenom (huyện Tenom, tỉnh Pedalaman, bang Sabah). Phân bố. Loài bản địa đảo Borneo, đặc hữu dãy núi Crocker, bang Sabah, Malaysia. Môi trường sống là các sườn dốc trong rừng thứ sinh dày dặc và thoát nước tốt, ở cao độ tới 1.680 m. Mô tả. Thân có lá cao tới 100 cm, dày, tạo ra bề ngoài mập mạp. Các bẹ lá rậm lông mềm màu nâu ánh vàng. Lưỡi bẹ 9 mm, rậm lông, các thùy thuôn tròn rộng. Cuống 1 mm, rậm lông. Các lá hình elip, 22-25 × 10-11 cm, mặt trên nhẵn nhụi trừ về phía đáy, mặt dưới với lông lụa màu trắng, mép rậm lông tơ màu nâu ánh vàng. Cán hoa mọc từ rễ, bò sát mặt đất, dài tới 7 cm. Cành hoa bông thóc hình elipxoit-hình trứng, màu đỏ, từ hơi phủ phục tới thẳng đứng, 8-13 × 4,5-5 cm. Lá bắc hình trứng ngược, lõm, 3-4 × 2-3 cm, màu hồng chuyển thành đỏ tươi, đỉnh thuôn tròn rộng, khép kín. Lá bắc con 3 × 0,8 cm, màu trắng trong mờ. Đài hoa dài 2,5 cm, chẻ gần như tới đáy, màu trắng. Tràng hoa dài 6 cm, màu trắng; các cánh hoa với ánh vàng; thùy tràng lưng (cánh lưng) 2,7 × 0,8 cm; các cánh bên 2,7 × 0,4 cm, hợp sinh nửa dưới với cánh môi. Cánh môi dài 5,7 cm, màu trắng; thùy giữa và các thùy bên với chóp đỉnh màu vàng; thùy giữa 1,5 × 0,6 cm, hình elip hẹp, chẻ đôi; các thùy bên 0,4 × 0,4 cm, thuôn tròn. Bao phấn màu trắng. Phần phụ bao phấn màu trắng với đỉnh màu vàng. Quả không rõ. "Z. latifolium" giống "Z. coloratum" ở chỗ có lông lụa màu trắng ở mặt dưới phiến lá, cán hoa bò sát mặt đất và cụm hoa có lá bắc màu đỏ; nhưng khác ở chỗ có bẹ lá có lông khắp phần thân, lưỡi bẹ dài hơn, phiến lá hình elip rộng với mép có lông, cụm hoa hình trứng với các lá bắc lõm và đài hoa chẻ gần như tới đáy. "Z. latifolium" về mặt sinh dưỡng là khác biệt với các loài khác ở chỗ có phiến lá rất rộng với mép rậm lông tơ và tầm vóc mập mạp của cây. Các lá mới hơi có ánh màu đỏ burgundy ở mặt dưới nhưng nhanh chóng chuyển thành xanh lục hoàn toàn khi trưởng thành. Phần lớn các mẫu vật đã quan sát chỉ có 2 thân giả cùng một thời điểm và phát triển rất chậm. Các lá bắc lõm với đỉnh khép kín tạo cho cụm hoa bề ngoài giống như quả mâm xôi. Các hoa hẹp định vị theo chiều thẳng đứng bên trong các lá bắc dạng túi giống như ở "Z. coloratum". Người ta vẫn chưa quan sát thấy cụm hoa ở các cá thể mọc hoang dã còn các cây gieo trồng cũng ra ít hoa.
1
null
Zingiber leptorrhizum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Fang Ding (方鼎, Phương Đỉnh) miêu tả khoa học đầu tiên năm 1982. Tên gọi trong tiếng Trung là 细根姜 (tế căn khương), nghĩa là gừng rễ nhỏ. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Liu D.Y. 65724"; thu thập ngày 13 tháng 8 năm 1978, tọa độ khoảng , trấn Vọng Cao (望高, Wanggao), huyện Chung Sơn (nay thuộc quận Bình Quế), địa cấp thị Hạ Châu, khu tự trị Quảng Tây, Trung Quốc. Mẫu holotype lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Trung y dược Quảng Tây (广西中医药研究院) ở địa chỉ số 20-1 đường Đông Cát (东葛路), quận Thanh Tú, Nam Ninh (GXMI). Từ nguyên. Tính từ định danh "leptorrhizum" bắt nguồn từ "lepto-" từ tiếng Hy Lạp "λεπτός" (leptós) nghĩa là mỏng, hẹp, nhỏ, thanh mảnh và tiếng Hy Lạp cổ "ῥίζα" (rhíza) nghĩa là rễ; ở đây để nói tới thân rễ nhỏ và thanh mảnh của loài này. Phân bố. Loài này được tìm thấy ở Hạ Châu, phía đông khu tự trị Quảng Tây, Trung Quốc. Cũng ghi nhận tại tây bắc tỉnh Quảng Đông và cực nam tỉnh Hồ Nam. Môi trường sống là nền rừng. Mô tả. Thân rễ thuôn dài và bò lan, đường kính 1,5-3(-6) mm, thanh mảnh. Thân giả 30-150 cm. Bẹ lá màu xanh lục nhạt. Lưỡi bẹ chẻ đôi sâu tới 2 thùy, 3-13 mm, có lông nhung; cuống lá rất ngắn; phiến lá hình mác, 20-30 × 4,7-6 cm, mặt gần trục nhẵn nhụi, mặt xa trục thưa lông nhung áp ép, đáy hình nêm, đỉnh nhọn thon. Cụm hoa mọc từ thân rễ, hình trứng hẹp, 4,5-7 × 1,5-2 cm, có 7-12 hoa; cuống cụm hoa 5-14 cm, được bẹ giống vảy hình mác, dài 3-5 cm bao bọc; lá bắc màu tía sẫm, hình mác, 4-4,5 × 1-1,2 cm, mặt xa trục có lông nhung; lá bắc con hình mác, 3,2-3,5 × ~1,2 cm, đỉnh 2 thùy. Hoa màu trắng, mặt xa trục có lông nhung. Đài hoa dài ~2,5 cm, đỉnh gần cắt cụt. Ống tràng dài 3-3,7 cm; các thùy hình mác, giống như nắp, 2,6-3 × ~0,7 cm. Cánh môi màu trắng, sọc khó thấy với màu vàng, dài ~3 cm; thùy trung tâm hình trứng rộng, dài ~2 cm, đỉnh có khía răng cưa hoặc thuôn tròn; các thùy bên hình tam giác, 4-8 mm, đỉnh nhọn. Chỉ nhị rất ngắn; bao phấn dài ~1,5 cm; phần phụ kết nối dài ~1,5 cm. Bầu nhụy rậm lông nhung. Quả nang màu đỏ. Ra hoa tháng 8-9, tạo quả tháng 10-11.
1
null
Zingiber leptostachyum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1908. Phân bố. Loài bản địa đảo Borneo, có tại bang Sarawak, Malaysia và ở Kalimantan, Indonesia. Môi trường sống là rừng vùng đất thấp, ở cao độ 15–150 m. Mô tả. Thân lá cao 1,5–2 m. Lá cách nhau ~5 cm, có cuống rất ngắn, hình elip, dài, đỉnh nhọn tới nhọn thon, đáy lệch tù, 20 × 7,5 cm, nhẵn nhụi, không mùi. Cuống lá dài 2–3 mm, mập, nhạt màu. Lưỡi bẹ rất ngắn, cắt cụt, hầu như không tù, góc thuôn tròn, trải phẳng rộng 8 mm, cao 0,75 mm, màu xanh lục, có đốm đen, không gân. Cuống cụm hoa dài 40 cm, dày 1 cm, màu đỏ, nhẹ; vảy nhẵn nhụi ~6, đỉnh thuôn tròn có mấu nhọn màu xanh lục mềm dài 1–6 mm, kết thúc gần như lá. Cành hoa bông thóc màu nâu ánh đỏ, dài 15 cm, trung bình rộng 1,8 cm. Lá bắc dưới thấp nhất bằng phần còn lại. Lá bắc giữa thuôn dài-hình elip, dài 4-4,5 cm, rộng 1,4–2 cm, đỉnh màu đỏ, đáy [được che phủ] màu trắng [phần không che phủ hình phỏng thoi ở cành hoa trung bình dài 2 cm, rộng 1,5 cm], mép rất thưa lông rung, đỉnh hầu như không tù, có mấu nhọn mập, hai mặt của mấu nhọn có lông tơ, những phần khác nhẵn nhụi. Lá bắc con như thủy tinh, đỉnh màu ánh đỏ, dài 1,8 cm. Hoa dài ~7 cm, đồng màu vàng nhạt. Đài hoa như thủy tinh, cộng bầu nhụy dài 2,4 cm, nhẵn nhụi. Ống tràng dài 4 cm. Cánh hoa lưng có gờ, nhọn, dài 2,5 cm; các cánh trước dài 2 cm, hợp sinh ~5 mm tại đáy, nhọn thon, nhô lên phía trước cánh môi. Cánh môi hình trứng rộng, 3 thùy, dài 2,4 cm và rộng ở đáy 2 cm [khi trải phẳng]; thùy giữa thuôn tròn; các thùy bên nửa thuôn tròn, dài 1,2 cm, rộng 0,2 cm, tách rời khỏi thùy giữa, đỉnh hơi tù, thẳng đứng, chụm lại sau khi nở hoa. Phần phụ bao phấn dài 1,2 cm.
1
null
Zingiber ligulatum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được William Roxburgh miêu tả khoa học đầu tiên năm 1810. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Hardwicke T. s. n."; do Thomas Hardwicke (1756-1835) thu thập tại Ấn Độ. Phân bố. Loài bản địa miền đông Ấn Độ, Myanmar nhưng đã du nhập vào Lào và Thái Lan dưới dạng cây trồng. Phân loại. Baker (1892) và Schumann (1904) xếp "Z. ligulatum" trong tổ "Cryptanthium". Mô tả. Thân rễ có đốt, chạy ngang dưới mặt đất; các rễ mập, dài mọc từ các đốt. Thân lá cao 60 cm, mọc từ các đốt thân rễ, uốn cong đáng kể sang một bên. Bẹ nhẵn nhụi; lưỡi bẹ lớn, thuôn dài, 2 thùy, khô xác khi già. Lá gần nhau, mọc so le, xếp thành 2 dãy, không cuống, trên các bẹ của chúng, từ hình tim phía dưới tới thuôn dài-hình mác phía trên, (7,5-)25-30 × 5-7,5(-10) cm, hai mặt nhẵn nhụi, mặt trên xanh lục, mặt dưới xanh lục nhạt hơn, các gân song song thấy rõ. Cuống cụm hoa dài 5-7,5 cm, nửa chìm trong đất, có vảy. Cành hoa bông thóc xếp lợp từ lỏng lẻo tới kết đặc, hình trứng ngược tới gần hình cầu, đường kính 3 cm, đỉnh nằm ngang bằng trên đất. Lá bắc ngoài hình trứng, bên trong hình mác, dài 2-2,5 cm, màu hồng tới đỏ, mép hồng, đỡ 1 hoa. Đài hoa thượng, 1 lá, hình thìa, dài khoảng một nửa ống tràng, 3 răng không đều. Ống tràng thanh mảnh, dài như lá bắc, cuộn trong, các thùy gần đều, thẳng, nhọn, nhẵn bóng, dài 1,8-1,9 cm, màu hồng tới ánh đỏ. Cánh môi thuôn dài, tù, gần hình kích tới hình trứng ngược-hình nêm, màu trắng ánh vàng tới vàng nhạt, không đốm, dài 1,9 cm, mép nhăn, có khía răng cưa không khác biệt; các tai ở đáy nhỏ, hình trứng, nhọn. Nhị màu vàng, ngắn hơn cánh môi. Chỉ nhị ngắn. Bao phấn 2 thùy, thẳng. Mỏ [mào bao phấn] cong, có rãnh, dài, thon. Bầu nhụy hình xoan, có lông nhung, 3 ngăn, mỗi ngăn nhiều noãn đính tâm. Vòi nhụy rất thanh mảnh, kéo dài tới đầu nhụy hình phễu có lông rung nằm ngang đỉnh của chỉ nhị. Các tuyến mật dài, thanh mảnh, bao quanh đáy vòi nhụy ở đáy của ống tràng. Quả nang hình trứng-thuôn dài tới hình elip, dài 2-2,5 cm hoặc hơn, 3 ngăn, 3 mảnh vỏ, 3 mặt, mở từ đỉnh xuống các góc, bên trong màu đỏ tươi tới đỏ thắm, vỏ như da, có sọc, màu ánh vàng rơm xỉn. Hạt nhiều, hình xoan (elipxoit), màu từ nâu ánh đen tới đen-nâu hạt dẻ, hơi nhăn nheo, áo hạt màu trắng, đỉnh xé rách, dài 5 mm, thuần thục tháng 11-12. Ngoại nhũ phù hợp với hạt, màu xám tro. Phôi hình trụ, ở tâm, dài gần như ngoại nhũ. Ra hoa trong mùa mưa.
1
null
Zingiber lingyunense là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Fang Ding (方鼎, Phương Đỉnh) miêu tả khoa học đầu tiên năm 1980. Tên gọi thông thường trong tiếng Trung là 乌姜 (ô khương), nghĩa đen là gừng đen. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "D.H. Qin et al. 19803"; thu thập tại huyện Lăng Vân, địa cấp thị Bách Sắc, tây bắc khu tự trị Quảng Tây. Mẫu holotype lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Trung y dược Quảng Tây (广西中医药研究院) ở địa chỉ số 20-1 đường Đông Cát (东葛路), quận Thanh Tú, Nam Ninh (GXMI). Lưu ý là tại trang 224 trong bài báo gốc Phương Đỉnh ghi cụm từ viết tắt HGM là "Herb. Guangxi. Inst. Med. Pharm. Sci." (Viện Khoa học Y Dược Quảng Tây), không phải mã quốc tế của Phòng mẫu cây thuộc Institut Menorquí d'Estudis ở Mahón, Tây Ban Nha. Từ nguyên. Tính từ định danh "lingyunense" hay "linyunense" lấy theo tên địa danh Lăng Vân (凌云, Língyún). Phân bố. Loài này có tại huyện Lăng Vân, địa cấp thị Bách Sắc, tây bắc khu tự trị Quảng Tây. Môi trường sống là giữa các khối đá trồi lên trong rừng. Phân loại. "Z. lingyunense" được xếp trong tổ "Cryptanthium". Mô tả. Cây thảo. Thân rễ mập, đường kính 2,5 cm, vỏ màu trắng, ruột màu từ tía-lam sẫm tới tím, mọng, có củ, vị hơi ngọt, đỉnh rễ có củ mập hình thoi. Thân giả 0,5-1,7 m, đường kính 4-6 mm. Lưỡi bẹ 2 thùy hoặc chẻ đôi, dài 1-5 mm, dạng màng, thường nhẵn nhụi; cuống lá 1-5 mm, đôi khi có lông; phiến lá ở phần dưới hình trứng, phần còn lại hình mác hẹp, 15-27 × 1,8-3,5 cm, mặt gần trục nhẵn nhụi, dày các tuyến màu tía tối màu, mặt xa trục thưa lông áp ép, đáy thuôn tròn-hình nêm rộng, đỉnh nhọn thon. Cụm hoa mọc từ thân rễ, dài 5,5-27 cm; cành hoa bông thóc hình trứng đến hình trứng-hình elipxoit hay thuôn dài, 3-5,5 × 1-3 cm, chứa 5-20 hoa; cuống cụm hoa 2-24 cm, thanh mảnh, được bao bọc trong các bẹ giống như vảy màu tía, thuôn dài hoặc hình mác mác, 1-4,5 cm, ngầm dưới đất, cùng trục cành hoa nhiều lông; lá bắc màu tía, thuôn dài-hình elip hay thuôn dài-hình mác ngược, 2,5-4 × 0,6-1,4 cm, mặt xa trục có lông, đỡ 1 hoa. Lá bắc con hình elip, 2,4-3 × 1-1,3 cm, mặt ngoài có lông. Hoa màu trắng, dài 5 cm, không cuống. Đài hoa dài 1,1-1,4 cm, đường kính 5 mm, mặt ngoài phần đáy có lông, đỉnh 2 hoặc 3 răng. Ống tràng hoa dài ~2,5 cm, thưa lông; các thùy hình mác, 1,5-2 × ~0,5 cm, nhẵn nhụi; thùy tràng lưng hơi rộng hơn. Cánh môi màu trắng, dài ~2 cm; thùy giữa hình trứng ngược, ~1 × 1,2 cm, đỉnh có khía răng cưa hoặc thuôn tròn; các thùy bên nhỏ, đường kính ~3 mm. Bao phấn dài ~1 cm; mào dài ~1 cm, tuyến trên bầu dài 5 mm. Bầu nhụy rậm lông nhung, 3 ngăn. Ra hoa tháng 8-9, tạo quả tháng 10-11. Tương tự như "Z. integrilabrum" ở chỗ phiến lá hẹp và hoa ngắn, nhưng khác ở chỗ thân rễ mập có củ, ruột màu tía-lam sẫm, cuống cụm hoa thanh mảnh, mặt ngoài lá bắc có lông, cánh môi 3 thùy với thùy giữa hình trứng ngược.
1
null
Zingiber loerzingii là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1918. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Lörzing J.A. s.n."; do Julius August Lörzing (1872-1945) thu thập ở cao độ 350 m, tọa độ khoảng , khe núi Lan Klewang, phó huyện Sibolangit, huyện Deli Serdang, tỉnh Bắc Sumatra, Indonesia. Mẫu holotype lưu giữ tại Trung tâm Nghiên cứu Sinh học Indoneasia ở Cibinong (BO). Phân bố. Loài đặc hữu đảo Sumatra; có ở chân núi Sinabung, Sibolangit, miền bắc Sumatra, Indonesia. Loài cây thảo thân rễ này mọc trong rừng, ở cao độ 600-1.000 m. Mô tả. Cây thảo mập, cao 1,5-2,5 m. Thân rễ ruột màu trắng ánh xám. Lá có cuống, hình mác- thuôn dài, tới 63 × 15 cm, đỉnh tù thon nhỏ dần nhọn thon, đáy nhọn lệch, gân giữa mặt dưới rải rác có lông áp ép. Cuống lá dài 4 cm, có rãnh sâu, phần đáy phình to. Lưỡi bẹ khô xác, ngắn?, sớm tàn lụi. Bẹ hầu như không lông. Cụm hoa trông tương tự như bông hoa cúc thúy ("Callistephus chinensis") lớn do các lá bắc tỏa ra và cong xuống, 15 × 12 cm, các phần non của cụm hoa màu trắng, các phần già hơn màu đỏ thắm tươi. Cành hoa bông thóc có cuống dài, lớn, gần hình cầu, có vảy, có lông nhỏ áp ép. Cuống cụm hoa mọc thẳng, cao 10 cm. Lá bắc hình thuyền, đỉnh nhọn, móc cong xuống, khi khô hình mác. Lá bắc con hình trứng, nhọn, quấn ngang bằng ống tràng, 4 × 1,6 cm. Hoa lớn (7 cm) màu vàng nhạt, cánh môi màu da cam. Đài hoa dài 2 cm, gần cắt cụt, 3 răng ngắn, gần đều. Thùy tràng lưng hình mác, nhọn hoắt, dạng nắp; các thùy tràng bên thuôn dài tù. Ống tràng dài 3,3 cm. Cánh môi màu từ da cam sẫm tới đỏ san hô với lốm đốm vàng, cùng các nhị lép hợp sinh ở đáy, thuôn tròn, vết chẻ ngắn và răng ngắn, thuôn tròn. Bao phấn dài 1,5 cm, màu như màu cánh môi; mỏ dài bằng bao phấn. Bầu nhụy có lông. Nhụy lép hình dùi-hình trụ, dài 7 mm. Quả nang lớn, 4 × 1,5 cm, phần trên thon nhỏ và phẳng, có lông nhỏ. "Z. loerzingii" gần giống với "Z. kunstleri" và "Z. inflexum". Một phân tích phát sinh chủng loài phân tử năm 2012 cho rằng "Z. loerzingii" gần với "Z. rubens", "Z. orbiculatum" và "Z. fragile".
1
null
Zingiber longibracteatum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Ida Theilade miêu tả khoa học đầu tiên năm 1999. Tên thông thường tiếng Thái: "kaput chang". Mẫu định danh. Mẫu định danh bao gồm: Phân bố. Loài này được tìm thấy ở tây nam và phần bán đảo của Thái Lan (các tỉnh Chumphon, Krabi, Phang Nga, Phuket, Prachuap Khiri Khan, Ranong, Surat Thani, Trang) cũng như ở tây bắc Malaysia bán đảo (bang Perlis). Môi trường sống là trong rừng thường xanh (thường là nguyên sinh), tại những khu vực có bóng râm, trên sườn dốc gần suối, cao độ 50–150 m. Phân loại. "Z. longibracteatum" được xếp trong tổ "Cryptanthium". Mô tả. Chồi lá cao 80–200 cm. Các bẹ lá nhẵn nhụi với mép màu nâu hạt dẻ. Lưỡi bẹ 2 thùy, dài tới 2 cm, màu nâu hạt dẻ, đáy thường thưa lông, mép khô xác, đỉnh thuôn tròn. Cuống lá 0,5–1 cm, màu nâu hạt dẻ về phía đáy. Lá thuôn dài, 45-60 × 10–12 cm, mặt dưới có lông lụa áp ép, đáy hình nêm, thường cuốn trong ở trạng thái khô làm cho cuống lá dường như dài hơn, đỉnh nhọn thon. Cuống cụm hoa mọc từ thân rễ, phủ phục, dài 5–15 cm, nhẵn nhụi. Cụm hoa lỏng lẻo, hình elipxoit, 7-10 × 3 cm, đỉnh nhọn. Lá bắc xếp lợp lỏng lẻo, thẳng tới hình mác, 5-7 × 1–2 cm, màu đỏ, từ nhẵn nhụi tới thưa lông, đỉnh nhọn. Lá bắc con thẳng tới hình mác, 4-6 × 1-1,5 cm, màu đỏ, cuốn trong khi khô. Đài hoa dài 2,5 cm, màu đỏ nhạt. Tràng hoa dài 7 cm, ống tràng màu ánh hồng ánh trắng, các thùy màu ánh đỏ; thùy tràng lưng 3 x 1,3 cm; các thùy tràng bên 2,5 × 1 cm. Cánh môi 7 cm, màu tía ánh vàng nhạt với đốm màu nâu hạt dẻ nhiều hay ít; thùy giữa hình elip, 1,5 × 0,8 cm, ngắn hơn hoặc bằng các thùy tràng bên, màu ánh vàng sáng hơn so với các thùy bên của cánh môi; các thùy bên thuôn tròn, 0,8 cm. Bao phấn màu kem tới vàng sáng. Phần phụ bao phấn màu nâu hạt dẻ. Quả nang hình elipxoit, dài 4–5 cm, màu xanh lục chuyển thành da cam, nhẵn nhụi tới thưa lông, mặt trong của vỏ quả ngoài màu da cam. Ra hoa tháng 7-8, tạo quả tháng 9-10. "Z. longibracteanum" tương tự như "Z. pardocheilum" ở Ấn Độ ở chỗ có lưỡi bẹ dài, 2 thùy, lá thuôn dài, cuống cụm hoa phủ phục, lá bắc, đài hoa và các thùy tràng hoa màu đỏ, cánh môi màu tía nhưng khác ở chỗ các chồi lá cao hơn, lá to hơn, cuống cụm hoa dài hơn, cụm hoa hình elipxoit với các lá bắc và lá bắc con thẳng-hình mác dài hơn cũng như phần phụ bao phấn màu nâu hạt dẻ. "Z. longibracteanum" tương tự như "Z. newmanii" ở chỗ có chồi lá cao, cuống cụm hoa phủ phục và cánh môi màu tía nhưng khác ở chỗ lưỡi bẹ của nó dài màu nâu hạt dẻ, các lá to hơn với long lụa mặt dưới và cụm hoa nhỏ hơn với các lá băc và lá bắc con thẳng-hình mác.
1
null
Zingiber longiglande là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Fang Ding (方鼎, Phương Đỉnh) và Qin De Hai (覃德海, Đàm Đức Hải) miêu tả khoa học đầu tiên năm 1996. Tên gọi thông thường trong tiếng Trung là 长腺姜 (trường tuyến khương), nghĩa đen là gừng tuyến dài. Phân bố. Loài này có tại khu tự trị Quảng Tây. Môi trường sống là sườn dốc đồi núi, ở cao độ khoảng 700 m. Mô tả. Thân rễ ruột màu vàng, dạng củ; rễ với củ hình thoi ở chóp. Thân giả ~1,3 m. Bẹ lá với mép dạng màng; lưỡi bẹ 2 thùy, 1-6 mm, dạng màng; cuống lá từ không có đến dài tới 5 mm với lông tơ áp ép; phiến lá hình elip hẹp, hiếm khi hình mác, 8-30 × 1,5-5 cm, mặt gần trục nhẵn nhụi, mặt xa trục thưa lông tơ áp ép, đáy thon nhỏ dần, đỉnh nhọn thon. Cụm hoa mọc từ thân rễ, hình trứng hoặc hình elipxoit hẹp, 5-6,6 × 2-3,5 cm; lá bắc màu tía, hình trứng hẹp, ~4,5 × 1,3(-2) cm, mặt xa trục thưa lông tơ áp ép, đỉnh nhọn thon ngắn; lá bắc con hình trứng hẹp, 3,4-4 × ~1 cm, đỉnh tù. Đài hoa nhẵn nhụi, dài 2,3-2,5 cm, chẻ một bên, đỉnh gần cắt cụt, 3 răng tròn. Ống tràng hoa 3-4 cm; các thùy màu vàng, thùy giữa hình trứng, ~3 × 1,4 cm, các thùy bên hình mác, ~2,5 × 0,8 cm. Cánh môi màu vàng với các đốm màu hồng, hình trứng rộng, ~3,5 × 3 cm, mép hơi gợn sóng, đỉnh rộng đầu; không có thùy bên. Bao phấn không cuống, ~1,4 cm; phần phụ kết nối ~1,8 cm. Bầu nhụy rậm lông tơ áp ép. Vòi nhụy 6-6,7 cm; đầu nhụy có lông rung. Nhụy lép hình kim, ~8 mm. Ra hoa tháng 7.
1
null
Zingiber longiligulatum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Shao Quan Tong (童绍全, Đồng Thiệu Toàn) miêu tả khoa học đầu tiên năm 1987. Tên gọi thông thường trong tiếng Trung là 长舌姜 (trường thiệt khương), nghĩa là gừng lưỡi bẹ dài. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "S.Q.Tong & C.J.Liao 24873"; thu thập ngày 10 tháng 8 năm 1983 ở cao độ 850 m, tọa độ khoảng tại huyện Doanh Giang, tỉnh Vân Nam. Mẫu holotype lưu giữ tại Viện Thực vật Nhiệt đới Vân Nam (YNTBI), tức Vườn Thực vật Nhiệt đới Tây Song Bản Nạp, Vân Nam (HITBC). Từ nguyên. Tính từ định danh "longiligulatum" có nguồn gốc từ tiếng Latinh, bao gồm phó từ "longe" nghĩa là dài và tính từ "ligulatum" (giống đực: "ligulatus", giống cái: "ligulata") nghĩa là lưỡi, hình lưỡi; ở đây để nói tới lưỡi bẹ dài của loài này. Phân bố. Loài này có trong khu vực từ miền tây tỉnh Vân Nam (huyện Doanh Giang, châu tự trị Đức Hoành), Trung Quốc tới miền bắc Thái Lan (tỉnh Mae Hong Son) và Myanmar (vùng Sagaing). Môi trường sống là nền rừng ở những nơi ẩm ướt nhiều lá, ở cao độ khoảng 200-900 m. Phân loại. "Z. longiligulatum" được xếp trong tổ "Cryptanthium". Mô tả. Cây thảo thẳng đứng. Thân giả cao 80-100 cm, đường kính 0,8-1 cm, gốc có bẹ không phiến lá màu tía-đỏ. Lưỡi bẹ nguyên, 4-5 cm, màu ánh xanh lục tới đỏ, có lông tơ màu trắng, dạng màng, khô xác; bẹ lá màu ánh xanh lục tới đỏ có sọc dọc; cuống lá 5-10 mm; phiến lá hình mác hoặc hình mác hẹp-hình elip, 40-50 × 10-11 cm, mặt gần trục nhẵn nhụi màu xanh lục, mặt xa trục màu ánh xanh lục, có lông tơ màu trắng, đáy hẹp thon nhỏ dần, đỉnh nhọn thon. Cụm hoa mọc từ thân rễ, thuôn dài; cành hoa bông thóc 4-4,5 × 2-2,4 cm; cuống cụm hoa 2-6 cm, vảy màu ánh xanh lục, có lông tơ; lá bắc xếp lợp lỏng lẻo, hình mác hẹp, 4-4,5 × 0,8-0,9 cm, màu từ ánh xanh lục tới vàng, hồng hay đỏ sẫm, có lông tơ màu trắng, đỉnh nhọn thon; lá bắc con hình ống, 3,8-4,2 cm. Đài hoa hình ống, 2-2,3 cm, dạng màng màu trắng, có lông măng, đỉnh 3 răng. Ống tràng hoa 3,8-4,2 cm, phần trên đỉnh màu ánh vàng rậm lông tơ, phần dưới có lông măng màu gần trắng; các thùy dài bằng nhau, màu ánh vàng, nhẵn nhụi; thùy tràng lưng thẳng-hình mác, 2,8-3,2 × ~0,3 cm, các thùy tràng bên rộng 2 mm. Cánh môi màu ánh vàng, giống lưỡi bẹ, ~3 × 1 cm, đỉnh nguyên; không có thùy bên (nhị lép bên). Nhị dài ~2,4 cm, không chỉ nhị. Bao phấn không cuống, màu trắng tới vàng, mô vỏ bao phấn dài ~1,7 cm; phần phụ liên kết màu da cam, nhẵn nhụi, dài ~8 mm. Bầu nhụy rậm lông tơ màu nâu; vòi nhụy thẳng màu trắng; đầu nhụy màu gần trắng, có lông rung. Tuyến trên bầu thẳng, dài ~4 mm. Quả màu đỏ. Ra hoa tháng 8. Tương tự như "Z. atrorubens", nhưng khác ở chỗ lưỡi bẹ dài (4-5 cm so với 0,6 cm) với đỉnh nguyên (so với 2 thùy), lá bắc hình mác hẹp (so với hình trứng thuôn dài hoặc hình mác) và cánh môi giống như lưỡi bẹ (so với cánh môi hình mác-hình xoan).
1
null
Zingiber longipedunculatum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Henry Nicholas Ridley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1908. Mẫu định danh. Các mẫu định danh bao gồm: Từ nguyên. Tính từ định danh "longipedunculatum" có nguồn gốc từ tiếng Latinh, bao gồm phó từ "longe" nghĩa là dài và tính từ "pedunculatum" (giống đực: "pedunculatus", giống cái: "pedunculata") nghĩa là cuống cụm hoa; để nói tới cuống cụm hoa dài của loài này. Phân bố. Có trên đảo Borneo, ở cả phần thuộc Malaysia lẫn phần thuộc Indonesia cũng như tại Brunei. Loài cây thảo thân rễ này phỏ biến trong các rừng thứ sinh đầm lầy, ở cao độ 20-1.210 m. Phân loại. Loài này được xếp trong tổ "Zingiber". Mô tả. Cây thảo cao 1-1,5 m. Thân lá mập, tới 21 lá mỗi thân. Cuống lá ngắn, dài tới 5 mm. Phiến lá từ thuôn dài tới hình mác, đỉnh nhọn thon hình đuôi, phần nhọn dài tới 1,5 cm, đáy hẹp tới hình nêm, rộng nhất ở gần đoạn giữa, hơi có lông tơ ở đáy, những phần khác nhẵn nhụi, dài 30 cm, rộng 5-6,5 cm. Lưỡi bẹ thuôn tròn tới 2 thùy nông, dài 3–5 mm, có lông tơ, mép mỏng, đôi khi có lông rung. Bẹ dài 10 cm, từ thưa lông tơ đến nhẵn nhụi nhưng hơi rậm lông phía dưới các lưỡi bẹ gần mép, mép các phần khác dạng màng. Cụm hoa mọc từ thân rễ, màu đỏ tươi. Cuống cụm hoa dài 30–40 cm, mập, phủ phục trên mặt đất; được che phủ bằng khoảng 5 bẹ dạng vảy thuôn dài, dài 5–6 cm, cắt cụt, hình ống ở đáy tới 1,2 cm, có lông tơ cả hai mặt, thưa lông hơn ở mặt trong. Cành hoa bông thóc từ hình trứng tới hình trụ nhọn thon, đáy không hẹp, dài 5,5–15 cm, đường kính 2,5-4,5 cm. Lá bắc hình trứng tù tới thuôn dài, 2,5–4 cm × 1,3-1,8 cm, mép phía dưới dạng màng khô xác, mép phía đỉnh rậm lông rung đặc biệt khi non, mặt ngoài có lông tơ và rậm lông ở đáy, mặt trong từ nhẵn nhụi tới có lông tơ, đỉnh tù hoặc đôi khi nhọn thon rất ngắn và có lông rung, từ phẳng tới uốn ngược mạnh. Lá bắc con ~2,6 × 0,7 cm, thuôn dài, hở tới đáy, có lông tơ mặt ngoài, nhẵn nhụi mặt trong trừ đỉnh có lông rung. Hoa mọc đơn lẻ, màu trắng. Đài hoa dài ~2,2 cm, hình ống, chẻ một bên ở nửa trên, có lông tơ ở 5 mm phía dưới mặt ngoài, những phần khác nhẵn nhụi, đỉnh nhọn hoặc 2 thùy dài 3 mm, có lông rung nhỏ. Ống tràng dày, dài 3,5–4 cm, nhẵn nhụi mặt ngoài, có lông ở họng mặt trong; các thùy tràng nhẵn nhụi; thùy tràng lưng ~2,5 × 1 cm, hình mác; các thùy bên ~2,6 × 0,45 cm, thẳng, hợp sinh với cánh môi và với nhau trong khoảng 8 mm ở đáy. Cánh môi rộng, ~2 × 1,75 cm, 3 thùy; thùy giữa ~1,5 × 1 cm, hình trứng, 2 thùy nông ở đỉnh; các thùy bên ~0,4 × 0,3 cm, thuôn dài và nguyên, nhẵn nhụi. Nhị không dài hơn tràng hoa. Bao phấn dày, với chỉ nhị dài ~1 mm, có phần phụ, cong hẹp thành điểm nhọn dài. Các mô vỏ bao phấn dài 1,2 cm, rộng 2,5 mm, nhẵn nhụi, nứt dọc theo toàn bộ chiều dài. Mào bao phấn dài 8 mm, hình tam giác, bao quanh vòi nhụy. Vòi nhụy mập, dài ~6 cm, nhẵn nhụi. Đầu nhụy rộng ~0,7 mm, hình chén, khi ép dẹp hình tam giác, với các lông dài viền trên mép, nằm hơi cao hơn đỉnh mào bao phấn. Bầu nhụy ~4 mm, có lông. Tuyến trên bầu ~7 mm, thẳng, 2 thùy. Không thấy quả. Hoa nở vào khoảng buổi trưa, được các loài ong "Amegilla" thu thập phấn hoa. Shoko Sakai và Hidetoshi Nagamasu (2006) công nhận thứ "lambirense" ở Lambi Hills, nhưng các khác biệt chỉ là mặt trong lá bắc có lông và các lá lá bắc phẳng không uốn ngược, khó có thể được coi là một thứ riêng biệt.
1
null
Zingiber longyanjiang là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Zhu Zheng Yin (祝正银, Chúc Chính Ngân) miêu tả khoa học đầu tiên năm 1992. Tên gọi thông thường trong tiếng Trung là 龙眼姜 (long nhãn khương), nghĩa là gừng mắt rồng. Từ nguyên. Tính từ định danh "longyanjiang" là bính âm của các từ trong tên gọi tiếng Trung 龙 (lóng) 眼 (yǎn) 姜 (jiāng). Phân bố. Có ở núi Nga Mi, miền trung tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Môi trường sống là rừng, ở cao độ 600-3.200 m. Mô tả. Thân rễ ruột màu trắng ánh vàng, dạng củ. Thân giả 1-1,8 m, gốc màu nâu ánh tía. Lưỡi bẹ 2 thùy, 4–11 mm; cuống lá màu tía hoặc xanh lục ánh vàng, 4–10 mm, có lông nhung màu trắng; phiến lá thuôn dài hoặc thuôn dài-hình mác, 25-40 × 5–11 cm, mặt gần trục gần như nhẵn nhụi, mặt xa trục có lông nhung áp ép và đốm tuyến, đáy hình nêm rộng, đỉnh nhọn thon. Cụm hoa mọc từ thân rễ, hình trứng ngược hoặc hình trứng hẹp, 3-5 × 2–4 cm; cuống cụm hoa 1–3 cm; lá bắc màu trắng ánh lục hoặc trắng ánh vàng, hình trứng hoặc thuôn dài, 2,5-3 × 2–3 cm, đỉnh thuôn tròn, các lá bắc trong hình mác ngược hoặc hình mác, 2,5-3,8 × 0,8-1,5 cm, mặt xa trục hơi có lông nhung, đỉnh có khía răng cưa hoặc nhọn. Đài hoa màu trắng, dài 8–10 mm, có lông nhung màu trắng, đỉnh cắt cụt hoặc gợn sóng. Ống tràng hoa màu trắng ánh vàng, dài 3-4,2 cm, có lông nhung màu trắng; thùy tràng giữa hình mác, 2,5-2,9 × 0,6-0,9 cm; các thuỳ tràng bên hẹp hơn thuỳ tràng giữa, đỉnh 2 khe. Cánh môi màu tía nhạt với đáy màu trắng ánh vàng, ~2,5 cm, họng nhẵn nhụi; thùy giữa hình lưỡi bẹ hoặc thuôn dài hẹp, 1,3-1,6 cm; các thùy bên thuôn dài, 6-8 × 3–5 mm, đỉnh 2 khe. Bao phấn màu trắng ánh vàng, ~1,1 cm; phần phụ liên kết màu tía ở đỉnh, ~1,5 cm. Bầu nhụy rậm lông nhung. Quả nang màu tía, thuôn dài, 3-4 × 1,5–2 cm, 3 góc tù, hơi có lông nhung. Hạt màu nâu ánh tía, hình elipxoit hoặc hình trứng. Ra hoa tháng 8-9, tạo quả tháng 10-11. Sử dụng. Được sử dụng làm thuốc trong y học cổ truyền Trung Hoa.
1
null
Zingiber macradenium là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Karl Moritz Schumann miêu tả khoa học đầu tiên năm 1899. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Beccari O. 10983"; do Odoardo Beccari (1843-1920) thu thập tháng 9 (ZRC ghi là tháng 8) năm 1878 ở tọa độ khoảng , Sungei Bulu, Padang, tỉnh Tây Sumatra. Mẫu holotype lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Italia ở Firenze (FI). Hai mẫu lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Edinburgh là "Beccari O. 10983" và "Beccari O. 10983b" (cùng ngày và địa điểm thu mẫu holotype). Phân bố. Loài này là đặc hữu đảo Sumatra; có tại các tỉnh Bắc Sumatra, Tây Sumatra, Indonesia. Phân loại. Schumann (1904) xếp "Z. macradenium" trong tổ "Lampugium" (= "Zingiber"). Mô tả. Cây thảo lâu năm, mập, mọc cao 0,75-1,5 m. Thân lá đường kính 1 cm. Lá có bẹ cao, bẹ rất rộng, tới 1,5 cm ở đỉnh, mép đỉnh dạng màng-mỏng, có sọc, nhẵn nhụi; lưỡi bẹ mỏng mảnh, dạng màng, thuôn tròn, dài 10 mm; cuống lá gần như không có. Phiến lá thẳng lớn, dài 45–50 cm, rộng 4–5 cm ở đoạn giữa, đỉnh thon nhỏ dần-nhọn thon đáy thuôn tròn, hai mặt nhẵn nhụi. Cụm hoa mọc từ thân rễ; cuống cụm hoa dài; cành hoa bông thóc hình trụ, tù, dài 20 cm, đường kính 7 cm, tương tự như cành hoa ở tổ "Hitcheniopsis" của chi "Curcuma". Lá bắc lớn, thuôn dài-hình trứng ngược, dài 5–6 cm, rộng 2–3 cm, đỉnh thuôn tròn, nhẵn nhụi, màu vàng khi khô chuyển thành nâu hạt dẻ-nâu đỏ. Lá bắc con lớn, dài 5,5–6 cm, xoắn. Bầu nhụy dài 4 mm, nhẵn nhụi. Đài hoa dạng mo, dài 2,5–3 cm, chẻ một bên, mỏng mảnh. Ống tràng dài 3-5,5 cm. Các thùy tràng hoa mỏng mảnh, hình mác, gần dài bằng nhau khoảng 3 cm, màu vàng-trắng; cánh môi hình trứng ngược rất rộng, có khía răng cưa, màu máu sẫm tới tía đen hay tím sẫm, đỉnh có đốm màu ánh vàng, 3 thùy; thùy giữa ngắn, chia 2 thùy con, các thùy bên ngắn, tù. Bao phấn dài 1,5 cm; phần phụ liên kết dài bằng bao phấn; các tuyến mật hình dùi, dài 10 mm. Ra hoa khoảng tháng 9.
1
null
Zingiber macrocephalum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Heinrich Zollinger và Alexandre Moritzi miêu tả khoa học đầu tiên năm 1845 dưới danh pháp "Donacodes macrocephala". Năm 1899, Karl Moritz Schumann chuyển nó sang chi "Zingiber". Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Zollinger H. 2293"; thu thập tháng 10 năm 1844 ở tọa độ khoảng , gần Malang, tỉnh Đông Java. Các mẫu syntype lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Italia ở Firenze (FI) và Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia Pháp ở Paris (P). Phân bố. Loài này có tại đảo Java, Indonesia. Môi trường sống là rừng ẩm ướt vùng đất thấp ở đông nam đảo Java. Phân loại. Schumann (1904) xếp "Z. macrocephalum" trong tổ "Lampugium" (= "Zingiber"). Mô tả. Thân lá mập. Lá không cuống, thuôn dài-hình mác tới thẳng-hình mác, đỉnh hình đuôi thon nhỏ dần-nhọn thon, đáy hẹp, tù, dài 50–55 cm, rộng 6,5 cm, mặt trên nhẵn nhụi, mặt dưới gân giữa và mép có lông tơ như mạng nhện, lông màu nâu đỏ. Bẹ nhiều lông, phần trên khía răng cưa. Cuống cụm hoa cao, vảy bao bọc có lông tơ. Cành hoa bông thóc trên cuống cụm hoa, dài 12 cm, rộng 6 cm, xếp lợp chặt, hình trứng-thuôn dài; lá bắc hình trứng rộng (ở phần dưới hình tròn), thuôn tròn, tù, đường kính ~5 cm, có mấu nhọn nhỏ. Đài hoa thanh mảnh, dạng màng. Bao phấn màu trắng thạch cao, dài 10 mm. Phần phụ liên kết dài bằng.
1
null
Zingiber macroglossum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1918. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Lörzing J.A. 5235"; do Julius August Lörzing (1872-1945) thu thập ở cao độ 300 m, tọa độ khoảng , Sibolangit, huyện Deli Serdang, tỉnh Bắc Sumatra. Mẫu holotype lưu giữ tại Trung tâm Nghiên cứu Sinh học Indonesia ở Cibinong (BO), mẫu isotype lưu giữ tại Naturalis, Leiden, Hà Lan (L). Từ nguyên. Tính từ định danh "macroglossum" bao gồm tiền tố macro- (tiếng Hy Lạp: "μακρός" (makrós)) nghĩa là dài, lớn và tiếng Hy Lạp: "γλῶσσα" (glôssa) nghĩa là lưỡi; ở đây để nói tới lưỡi bẹ dài và rộng của loài này. Phân bố. Loài này là đặc hữu đảo Sumatra; có tại tỉnh Bắc Sumatra, Indonesia. Môi trường sống là rừng nhiệt đới ẩm ướt vùng đất thấp, ở cao độ tới 300 m. Mô tả. Cây thảo cao 2-3,5 m, hơi rủ xuống. Lá to (tới 0,5 m), không cuống lá, hình mác, đáy thon rất nhỏ và có rãnh, đỉnh nhọn hơi nhọn thon, mặt trên nhẵn nhụi, mặt dưới có lông nhỏ áp ép, lông rung, 40-50 × 11 cm (khi khô). Lưỡi bẹ to, dài 5–7 cm, rộng 2–3 cm, dạng giấy, như thủy tinh, đỉnh gần nguyên, lưng và bẹ có lông nhỏ. Cành hoa bông thóc có cuống, cuống cụm hoa dài 20–40 cm, cuối cùng phủ phục hoặc cong-cong xuống; vảy thuôn dài rộng, 7 × 2 cm, như da, có lông măng, phần trên xếp lợp. Cành hoa bông thóc hình trứng-thuôn dài, hơi tù, 13 × 4,5 cm. Lá bắc áp ép chặt, thuôn dài hoặc hìn elip rộng, thuôn tròn, mấu nhọn không có hoặc khó thấy, mép rộng (3–4 mm khi khô), có lông măng mỏng, mép có lông nhung, các lá bắc ở phần dưới và giữa cành hoa kích thước 6,5 × 3,5 cm. Hoa tổng thể màu trắng. Các lá bắc màu vàng xám, mép màu nâu-đỏ hoặc tổng thể màu nâu-đỏ. Bao phấn màu vàng nhạt.
1
null
Zingiber macrorrhynchus là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Karl Moritz Schumann miêu tả khoa học đầu tiên năm 1904. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Forbes H.O. 1756 A"; do Henry Ogg Forbes (1851-1932) thu thập tại Sumatra. Mẫu holotype lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Anh, London (BM). Phân bố. Loài này là đặc hữu đảo Sumatra, Indonesia. Phân loại. Schumann (1904) xếp "Z. macrorrhynchus" trong tổ "Lampugium" (= "Zingiber"). Mô tả. Cây thảo lâu năm không cao. Thân lá cao tới 60 cm; đáy có bẹ thông thường che phủ. Bẹ 3, thẳng, tù, dài 2–13 cm, nhẵn nhụi. Lá có cuống lá dài 2–3 cm theo tỷ lệ với chiều dài tổng thể, cuống lá rộng cuộn lại dần dần thành phiến lá. Lưỡi bẹ dài 5–6 mm, như da, đỉnh khía răng cưa, nhẵn nhụi. Phiến lá thuôn dài, đỉnh thon nhỏ dần-nhọn thon, đáy hẹp, cả hai mặt nhẵn nhụi, 22-26 × 8-9,5 cm. Cuống cụm hoa ngoằn ngoèo, dài 9 cm, có vảy che phủ; vảy ít (~4), hình elip, nhọn, sắp xếp lỏng lẻo, nhẵn nhụi. Cành hoa bông thóc 7-7,5 × 1,8-2,2 cm, hình thoi. Lá bắc phía dưới vô sinh, hình elip rộng, nhọn, đỉnh có lông tơ nhỏ, chẻ, dài 3–4 cm; các lá bắc hữu sinh hơi ngắn hơn, hình dạng tương tự. Hoa to lớn theo tỷ lệ. Bầu nhụy ….. Đài hoa ….. Ống tràng dài 2-2,5 cm; các thùy tràng thuôn dài, tù, dài 1 cm. Cánh môi hình trứng ngược, tù, dài 2,2 cm, các thùy bên khó thấy. Bao phấn dài 1,1 cm, đáy được bao bọc trong ống tràng, phần phụ liên kết dài 1,1 cm, thẳng.
1
null
Zingiber malaysianum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Lim Chong Keat (林蒼吉, Lâm Thương Cát) mô tả khoa học đầu tiên năm 2002. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Lim C.K. L 2843"; thu thập năm 1999 ở tọa độ khoảng , Khu bảo tồn rừng Labis, bang Johor, Malaysia. Mẫu holotype lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Rừng Malaysia ở Kepong, Selangor (KEP), mẫu isotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K). Phân bố. Loài này là đặc hữu Malaysia bán đảo; chỉ được tìm thấy trong Khu bảo tồn rừng Labis ở bang Johor.
1
null
Zingiber marginatum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được William Roxburgh miêu tả khoa học đầu tiên năm 1810. Phân bố. Loài bản địa vùng đồi núi Khasi, đông bắc Ấn Độ. Môi trường sống là rừng, ở cao độ khoảng 900 m. Phân loại. Baker (1892) và Schumann (1904) xếp "Z. marginatum" trong tổ "Dymczewiczia". Mô tả. Thân lá cao 90-120 cm. Lá 10-15 × 2,5 cm, không cuống, thuôn dài-hình mác, hai đầu nhọn, mặt dưới có lông tơ. Lưỡi bẹ rất lớn, hình mác, tù, màu nâu, dạng màng. Cành hoa bông thóc đầu cành, không cuống, dài 2,5-5 cm, đường kính dưới 1,3 cm; trục cành hoa rậm lông. Lá bắc hình trứng ngược, 0,8-0,9 cm, xếp lợp chặt, có lông, màu nâu khi khô, tù, 1 hoa; mép rộng, dạng màng, trong suốt. Tuyến mật 3 thùy.
1
null
Zingiber martinii là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Rosemary Margaret Smith miêu tả khoa học đầu tiên năm 1988 (xuất bản năm 1989). Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Burtt B.L. & Martin A.M. B 5302"; thu thập ngày 29 tháng 9 năm 1967 trên đảo Borneo, ở tọa độ khoảng , ven suối gần trại số 3 trên đường từ Bakelalan tới núi Murud, trên ranh giới giữa tỉnh số 4 và số 5 (tương ứng hiện nay là các tỉnh Miri và Limbang), bang Sarawak, Malaysia. Mẫu holotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Edinburgh (E). Phân bố. Loài bản địa đảo Borneo, được tìm thấy tại bang Sarawak, Malaysia. Môi trường sống là rừng, ở cao độ tới 1.700 m.
1
null
Zingiber matutumense là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được John Donald Mood và Ida Theilade mô tả khoa học đầu tiên năm 2001. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Hepton T. W83P754" thu thập năm 1982 ở cao độ 830 m, tọa độ , núi Matumum, phía trên Bario Pollo, tỉnh Nam Cotabato, Philippines. Holotype lưu giữ tại Đại học Aarhus, Đan Mạch (AAU). Từ nguyên. Tính từ định danh "matutumense" lấy theo tên núi Matumum, nơi mẫu điển hình được thu thập. Phân bố. Loài này có tại miền nam đảo Mindanao, trong tỉnh Nam Cotabato, Philippines.
1
null
Gừng Mê Kông (danh pháp khoa học: Zingiber mekongense) là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được François Gagnepain miêu tả khoa học đầu tiên năm 1907. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Thorel C. 2198"; thu thập trong chuyến thám hiểm sông Mê Kông giai đoạn 1866-1868, tọa độ khoảng , trên đường giữa Stung Treng và đảo Don Khong. Mẫu holotype (MNHN-P-P00088652, ZRC ghi là syntype) lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia Pháp ở Paris (P). Theo website của MNHN, thì isotype là mẫu UM-MPU-MPU011597 lưu giữ tại Viện Thực vật học thuộc Đại học Montpellier (MPU) còn các type bao gồm MNHN-P-P00088651 (ZRC ghi là syntype), MNHN-P-P00450942 và MNHN-P-P00686602. Phân bố. Loài này có tại Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam. Tại Việt Nam: Ghi nhận tại các tỉnh Bình Thuận, Thanh Hóa, Nghệ An. Môi trường sống là rừng thứ sinh thường xanh hay bán rụng lá trên núi thấp, nơi ẩm ở các hốc núi đá vôi và núi đất, ở độ cao 10-600 m. Mùa hoa tháng 4-12; mùa quả tháng 6 đến tháng 2 năm sau. Phân loại. "Z. mekongense" thuộc tổ "Cryptanthium". Mô tả. Cây thân thảo lâu năm, mọc thành bụi 2-10 thân giả, cao 50-150 cm. Thân rễ phân nhánh ngắn, nằm ngang cách mặt đất khoảng 5 cm, nhiều lóng, các lá vảy dạng ống rụng sớm bao bọc, lóng 1-1,5 × 1,2-1,6 cm, vỏ nâu, ruột vàng nhạt, có mùi thơm nhẹ; các rễ bên màu nâu, dài ~25 cm, mang nhiều rễ tơ, phình ở giữa hay ở đầu thành các củ hình trứng hay elip, ~1,8-2,2 × 1-1,3 cm, vỏ nâu, ruột trắng. Thân giả với 3-4 bẹ lá ở sát gốc, 7-15 lá trưởng thành phía trên; bẹ lá dài 2,5-12 cm, màu đỏ tía đến tía xanh hay xanh, có sọc mờ, không lông, mép nâu, khô và rách sớm; lá bẹ phía trên xanh, có lông măng thưa, mép trắng mờ hay nâu nhạt, nhanh khô và rách. Cuống lá gần như không có hoặc rất ngắn, 2-3 mm; lưỡi bẹ dạng màng, dài 2,2-3,4 cm, màu trắng mờ, có lông thưa, chẻ đến 1/2-1/3 từ đỉnh, đỉnh tù, mép nâu nhạt, dạng giấy, khô xác, dễ rách; phiến lá thuôn dài hay hình trứng ngược-thuôn dài, 35-62 × 5,5-12 cm, mặt trên xanh sáng, nhẵn nhụi, mặt dưới trắng-xanh nhạt, có lông trắng mịn; đáy thon nhỏ dần-hình nêm, đỉnh nhọn thon với đuôi thanh mảnh. Cụm hoa 2-3, mọc từ gốc thân giả; cuống cụm hoa nằm ngang dưới mặt đất, 3,5-11 × 0,8-1,2 cm, mang 5-7 lá dạng vảy hình trứng rộng đến thuôn, 1-3,7 × 1,3-2,5 cm, màu trắng hay trắng hồng, không lông; cụm hoa hướng lên, nằm ngang mặt đất hay nhô lên một phần, hình trứng hoặc hơi thon dài, 5-10 × 2,5-4 cm; lá bắc hình trứng thon, 35-41 × 5-18 mm, màu trắng hay trắng hồng phía dưới, màu đỏ nhạt phía trên, có lông nâu thưa, nhiều hơn ở phần trên, đỉnh nhọn; lá bắc con hình trứng hẹp, 35-38 × 5-8 mm, màu trắng hồng hay kem nhạt, có lông thưa, đỉnh nhọn, bao 1 hoa. Đài hoa dạng ống, 21-25 × 5-6 mm, màu trắng, mỏng, có lông thưa, chẻ xiên một bên khoảng 8 mm, đầu 3 thùy thấp, các thùy không đều nhau. Tràng hoa hình ống, 35-38 × 2,5-3 mm, màu trắng, có lông mịn ở phần đỉnh, thưa dần về phía đáy; thùy tràng hình trứng hẹp, màu đỏ hay vàng kem, có ít lông ở gốc và mũi, thùy tràng lưng 25-27 × 9-10 mm, các thùy tràng bên 22-25 × 5-7 mm. Cánh môi hình trứng ngược thuôn hay rộng, 22-26 × 15-22 mm, nửa dưới màu trắng, nửa trên màu vàng với các đốm tía, không lông, mép nguyên, uốn xuống, đỉnh tròn; nhị lép hợp sinh với cách môi khoảng 1/3 ở đáy, tạo thành các thùy bên của cánh môi, hình trứng ngược-thuôn hay hình elip, 15-22 × 5-10 mm, nửa dưới màu trắng, nửa trên màu vàng nhạt với các sọc hay đốm tía, đỉnh tròn, không lông. Chỉ nhị rất ngắn, 2,5-3 × 2,2-2,5 mm, màu trắng, có lông thưa ở mặt lưng. Bao phấn 12-15 × 1,5 mm, màu vàng kem, có đốm tía ở mặt lưng, không lông, nứt dọc; hạt phấn màu kem. Phần phụ liên kết bao phấn dài 12-15 mm, đầu cong hướng vào cánh môi, màu trắng ở gốc, trắng tía nhạt về phía đầu, không lông. Vòi nhụy hình chỉ, dài 5,8-6,2 cm, nửa dưới màu trắng, nửa trên màu trắng tía, không lông; nuốm nhụy hình ống, 3,5-4 × 1-1,5 mm, trắng, không lông, có lông tơ. Bầu nhụy hình trụ, 5 × 3 mm, nhiều lông nâu mịn. Núm nhụy 2, dạng mũi kim, dài ~6 mm, màu kem, không lông. Quả nang trưởng thành 3 cạnh, hình trứng, 3,5-5 × 1,3-2 cm, màu đỏ tía, bóng, thưa lông ở nửa trên, chứa 10-15 hạt. Hạt hình cầu, có cạnh mờ, 4-5 × 3-4 mm, màu đỏ, bóng, gần 3 cạnh, không lông, được bao bọc hoàn toàn trong áo hạt; áo hạt dài 6-7 mm, màu trắng, chia 3-4 thùy.
1
null
Zingiber mioga là một loài gừng. Tên gọi thông thường. Các tên gọi thông thường của nó trong các ngôn ngữ khu vực bản địa là: Lịch sử phân loại. Đề cập đầu tiên của người châu Âu về loài gừng này có lẽ là của Engelbert Kaempfer (1651-1716) khi ông viết về 蘘荷 (dsjooka) tại trang 826 sách "Amoenitatum exoticarum politico-physico-medicarum" in khoảng năm 1712. Năm 1783, Carl Peter Thunberg định danh cho loài này là "Amomum mioga" trong "Nova acta Regiae Societatis Scientiarum Upsaliensis", nhưng với mô tả chỉ rất ngắn là ""Amomum mioga": scapo brevissimo, capsula ovata, foliis ensiformibus" ("Amomum mioga": cán hoa rất ngắn, quả nang hình trứng, lá hình kiếm). Mô tả chi tiết hơn được ông viết trong sách "Flora Japonica" năm 1784. Năm 1807, William Roscoe chuyển nó sang chi "Zingiber". Schumann (1904) xếp nó trong tổ "Cryptanthium". Mô tả. Cây thảo lâu năm, lá sớm rụng, cao 40–200 cm (dạng ngũ bội không quá 100 cm). Thân rễ màu ánh vàng. Thân lá có 5-6 bẹ ở gốc; bẹ có sọc, nhẵn nhụi, dạng màng. Lưỡi bẹ 2 thùy, nhọn thon, dài 3–12 mm (các lá phía dưới có lưỡi bẹ dài hơn so với các lá phía trên), dạng màng; cuống lá từ không có tới có cuống dài 0,5-1,7 cm; phiến lá hình mác-hình elip hoặc thẳng-hình mác, 20-37 × 2,8–6 cm, nhẵn nhụi hoặc mặt xa trục có lông, đỉnh hình đuôi. Cụm hoa mọc từ thân rễ, hình elipxoit, dài 5–9 cm; cuống cụm hoa từ không có tới dài đến 1,5–5 cm, ngầm dưới đất; các bẹ dạng vảy hình trứng-thuôn dài hoặc thuôn dài, nhọn, nhẵn nhụi; lá bắc màu xanh lục ánh đỏ với các gân màu tía, hình elip, dài 2,5–3 cm. Đài hoa hình ống, 2,5–3 cm, nhọn thon, dạng mo, chẻ. Ống tràng hoa hơi dài hơn đài hoa, dài 3 cm; các thùy tràng màu ánh vàng, hình mác hoăc thuôn dài-hình mác, 2,7-3 × ~0,7 cm; thùy tràng lưng lộng hơn. Cánh môi hình trứng tới trứng ngược, nguyên, dài ~3 cm; thùy giữa màu vàng với mép màu trắng, ~2,5 × 1,8 cm; các thùy bên ~1,3 × 0,4 cm, màu vàng. Bao phấn dài ~1 cm; phần phụ kết nối dài ~1 cm, màu xanh lục ánh trắng. Vòi nhụy chạy dọc theo rãnh trên nhị được tạo bởi phần phụ liên kết bao phấn và kết thúc bằng đầu nhụy dạng búi. Quả nang hình trứng ngược tới gần hình trứng, tù, 3 mảnh vỏ, nứt theo ngăn; vỏ quả ngoài với phần bên noài màu xanh lục xỉn và phần bên trong màu đỏ. Hạt màu đen; áo hạt màu trắng. Ra hoa tháng 8-10. Số nhiễm sắc thể "2n" = 22 (lưỡng bội, Trung Quốc), 44 (tứ bội, Hàn Quốc), 55 (ngũ bội, Nhật Bản). Như thế, loài này có lẽ có nguồn gốc từ vùng đông nam Trung Quốc. Phân bố. Loài này là bản địa miền trung và miền nam Trung Quốc (các tỉnh An Huy, Chiết Giang, Giang Tô, Giang Tây, Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam), Đài Loan và từ quần đảo Lưu Cầu tới Nhật Bản (không có trên đảo Hokkaido), cũng như du nhập vào miền nam bán đảo Triều Tiên. Một tài liệu năm 2008 ghi nhận "Z. mioga" cũng được tìm thấy tại huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang, Việt Nam với tên gọi tại đó là cây lu công, củ giàng hôi. Tại Nhật Bản, một vài quần thể mọc tự nhiên trong vùng núi, nhưng chúng không được tìm thấy ở bất kỳ đâu ngoài những nơi mà con người từng sinh sống cũng như không có quần thể hoang dại. Với số nhiễm sắc thể "2n" của quần thể ở Nhật Bản là 55 (số cơ sở "x" = 11, "2n" = "5x" = 55), thì chúng là dạng ngũ bội, ít khi ra quả - trừ khi nhiệt độ trong mùa hè và mùa thu cao, và chủ yếu được nhân giống bằng phương pháp sinh dưỡng, thông qua các thân rễ. Người ta cho rằng quần thể ở Nhật Bản là do con người đem đến từ châu Á đại lục để trồng tại đây. Người ta cũng đưa ra giả thuyết rằng chủng ngũ bội ở Nhật Bản có nguồn gốc từ sự thụ phấn của các giao tử giảm phân của chủng lưỡng bội và các giao tử không giảm phân của chủng tứ bội. Nó được trồng để lấy nụ hoa (cụm hoa) và chồi cây non ăn được ở Nhật Bản, cũng như dùng làm rau ăn và làm thuốc ở Trung Quốc. Tuy nhiên, ở bán đảo Triều Tiên thì chỉ thỉnh thoảng nó mới được trồng và tự nhiên hóa, chủ yếu ở miền nam bán đảo và trên đảo Jeju. Sử dụng. Loài này có cụm hoa chưa nở hoa và chồi cây non ăn được. Tại Nhật Bản, người ta sử dụng cả cụm hoa chưa nở hoa (花みょうが, "hanamyoga"; hay đơn giản là みょうが "myoga") và thân giả non (みょうがたけ, 茗荷竹, "myogatake") làm thức ăn. Mùa thu hoạch thân giả non (chồi lá non/chồi cây non) là mùa xuân còn cụm hoa chưa nở hoa (còn gọi là chồi hoa/nụ hoa) là cuối mùa hè đến đầu mùa thu. Người ta cũng thu hoạch cả cụm hoa non ngay từ khi nó chưa trồi lên mặt đất (みょうがの子, "myoganoko") trong mùa hè để làm thức ăn. Người Nhật thường thái nhỏ nụ hoa và dùng để trang trí các món ăn truyền thống của mình, ví dụ trong món canh miso (Miso là một loại gia vị, thực phẩm quen thuộc của người dân Nhật Bản, được làm từ gạo, lúa mạch, đậu nành cho lên men trộn cùng với muối và nấm kōjikin). Canh miso là món canh truyền thống của Nhật Bản, được nấu bằng nước súp dashi. Nguyên liệu làm món này tuỳ thuộc từng vùng, thường dùng chủ yếu là tôm, đậu hũ, tảo wakame, hành lá (loại to như boa-rô). Nếu món canh có thêm thịt heo thì món này được gọi là tonjiru, nghĩa là "canh thịt heo", gỏi sunomono (Namasu hay còn gọi là sunomono, namasu-kiri, là một món gỏi Nhật Bản dùng nguyên liệu là hải sản tươi sống trộn cùng với rau củ đã ngâm chua và thái mỏng. "Namasu" có nguồn gốc từ Trung Quốc, được du nhập vào Nhật Bản thời Nại Lương (710-794)) hay món "cà tím nướng". Thành phần tạo mùi cho myoga là α-pinen (C10H16), thành phần tạo màu đỏ là malvidin, một loại anthocyanin không bào hòa tan trong nước. Trong thân cây, nó kết hợp với một phân tử glucose và tồn tại dưới dạng malvidin 3-O-glucoside. Myōga đã được du nhập và trồng tại Australia và New Zealand để xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản. Myōga cần một số điều kiện đặc biệt để sinh trưởng và phát triển, ví dụ như chúng có thể chịu được nhiệt độ ở -18 °C (0 °F), hoặc có thể lạnh hơn; sống trong bóng râm.
1
null
Zingiber molle là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Henry Nicholas Ridley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1909 dưới danh pháp "Zingiber mollis". Tuy nhiên, do "Zingiber" là danh từ giống trung nên danh pháp đúng quy tắc chính tả là "Zingiber molle". Năm 1915, Adolph Daniel Edward Elmer mô tả loài "Zingiber sylvaticum" với đặc điểm chùm quả mọc trên cuống từ thân rễ (nghĩa là cụm hoa mọc từ thân rễ, tương tự var. "β" của Ridley), nhưng hiện nay nó được coi là đồng nghĩa của "Z. molle". Mẫu định danh. Mẫu định danh bao gồm: Ngoài ra, Ridley còn đề cập tới các mẫu "Elmer 8133" thu thập tại núi Banajao (núi Banahaw), tỉnh Tayabas (nay thuộc tỉnh Quezon), đảo Luzon và mẫu "Foxworthy s.n." thu thập tại núi Abu, tỉnh Pampanga khi mô tả var. "β" của "Z. mollis". Phân bố. Loài bản địa Philippines, được tìm thấy trên các đảo Luzon và Negros. Môi trường sống là rừng trên các dốc núi, ở cao độ 700-1.400 m, nơi ẩm ướt có nhiều bóng râm. Mô tả. Thân lá từ đơn độc tới một vài trên mỗi thân rễ, thanh mảnh, yếu, uốn ngược mạnh hoặc gần như phủ phục và tỏa rộng, dài 60–200 cm, nhẵn nhụi, mềm, thon búp măng, màu xanh lục, nửa gần đáy có lá bắc; thân rễ ngắn. Lá sắp xếp so le, mềm, dạng màng, phẳng, hình mác hẹp tới hình elip (var. "β"), 10-17 × 2-2,5 cm, đỉnh nhọn thon hình đuôi, hẹp tới gần thon nhỏ dần tại đáy, không cuống lá, mặt trên nhẵn nhụi màu xanh lục, mặt dưới rải rác lông trắng màu xanh lục nhạt; lưỡi bẹ từ gần dạng màng tới dạng giấy, dài tới 5 mm, thuôn tròn hay cắt cụt hoặc khía chữ V rộng ở đỉnh, nguyên, từ nhẵn nhụi tới rậm lông (var. "β"), đốm ánh tía khi non; bẹ từ thưa lông tới rậm lông (var. "β"), mép mỏng hơn và có đốm đỏ. Cành hoa bông thóc đầu cành hoặc trên cuống cụm hoa không lá mọc từ thân rễ với cuống cụm hoa dài 10–15 cm với bẹ hình ống ở phần xa (var. "β"), hình trụ, dài 6 cm. Lá bắc màu vàng, thuôn dài hẹp, đỉnh thuôn tròn, dài 2 cm, rộng ~1 cm tại đáy. Lá bắc con hẹp, thuôn dài, đốm tuyến trên mép. Bầu nhụy nhẵn nhụi. Đài hoa dạng mo mỏng, hình ống, chẻ đôi thành 2 thùy hình mác, dài 2 cm. Ống tràng hình trụ, dài 2,5 cm, các thùy hình mác, nhọn thon, nhọn, dài 1,5 cm. Cánh môi 3 thùy, khá lớn, các thùy bên gần dài bằng thùy giữa, thùy giữa nguyên và tù. Phần kết nối nhị hoa như mỏ, thanh mảnh, cong. Chùm quả 7 × 3,5 cm. Quả nang thuôn dài, màu đỏ, nứt, bên trong màu vàng. Hạt màu đen.
1
null
Zingiber monglaense là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Chen Sen Jen (陈升振, Trần Thăng Chấn) và Chen Zhong Yi (陈忠毅, Trần Trung Nghị) miêu tả khoa học đầu tiên năm 1988. Tên gọi thông thường trong tiếng Trung 斑蝉姜 (ban thiền khương), nghĩa đen là gừng ve sầu cánh đốm, do cánh môi màu màu nâu đen ánh tía với các đốm vàng trông tương tự như màu cánh của loài ve sầu "Gaeana maculata" phổ biến ở miền nam Trung Quốc, với tên gọi tại đây là ban thiền (斑蝉). Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Chen S.J. & Chen Z.Y. 58093"; thu thập ngày 20 tháng 6 năm 1985 ở cao độ 800 m, tọa độ tại huyện Mãnh Lạp, châu tự trị Tây Song Bản Nạp, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Holotype lưu giữ tại Viện Thực vật Hoa Nam (SCBI), từ năm 2003 là Vườn Thực vật Hoa Nam ở Quảng Châu, Quảng Đông (IBSC). Từ nguyên. Tính từ định danh "monglaense" lấy theo tên huyện Mãnh Lạp (勐腊, Latinh hóa: Mengla, Mongla, Meungla), nơi thu thập mẫu định danh. Phân bố. Loài bản địa tây nam Trung Quốc và miền bắc Thái Lan, được tìm thấy tại Tây Song Bản Nạp và Chiang Mai. Môi trường sống là rừng, ở cao độ 500-1.300 m. Mô tả. Cây thảo lâu năm, cao 1,6–2 m. Thân giả vững chắc, đường kính 2-2,5 cm. Lá 10-26; bẹ lá màu xanh lục; lưỡi bẹ 2 thùy, dài 4,5–8 cm, dạng màng, các thùy 0,7–2 cm hoặc chạm tới giữa lưỡi bẹ; cuống lá 0–2 cm; phiến lá hình elip hoặc thuôn dài-hình elip, 30-70 × 6–15 cm. Cụm hoa mọc từ thân rễ, ~1/2 chìm trong lòng đất, hình cầu hoặc elipxoit, đường kính 3,5-4,3 cm; lá bắc màu đỏ, với màu đỏ ánh trắng ở đáy và mép, hình trứng ngược, 3-4 × 1,3-1,5 cm, mặt xa trục có lông, đỉnh có lông măng, đỡ 1 hoa; lá bắc con màu trắng hoặc đỏ, hình ống, 2,7-3 × ~1,3 cm, mặt gần trục nhẵn nhụi, mặt xa trục có lông tơ. Đài hoa màu trắng, 1,5–2 cm, chẻ một bên dạng mo chẻ, có lông tơ, đỉnh 3 răng. Ống tràng hoa màu trắng, dài ~2,7 cm, có lông tơ; các thùy màu hung đỏ; thùy tràng lưng 2,5-2,7 × 0,9 cm; các thùy tràng bên ~2,4 × 0,5 cm. Cánh môi hình lưỡi thuôn dài, bên trong có lông tơ, lưng nhẵn nhụi, đáy màu vàng, giữa màu nâu đen ánh tía nhạt, đỉnh màu nâu đen ánh tía với dày đặc các đốm màu vàng nhạt; thùy giữa thẳng-thuôn dài, 1,7-2,4 × 0,7-0,8 cm, đỉnh nguyên hoặc có khía răng cưa; các thùy bên (nhị lép bên hợp sinh ở đáy cùng thùy giữa cánh môi) dài ~1,4 cm, đáy màu vàng, những phần khác có đốm tía và đốm vàng nhạt. Bao phấn không cuống, màu da cam, 1,3-1,5 cm; chỉ nhị ngắn hoặc teo đi; phần phụ liên kết màu xanh lam đen nhạt, hình mỏ, dài 1,1-1,4 cm. Bầu nhụy và đầu nhụy màu trắng, dài 5 mm. Tuyến trên bầu 2, màu trắng, dài 3 mm. Ra hoa tháng 6-7. "2n" = 22. Có quan hệ gần với "Z. nudicarpum", nhưng khác ở chỗ cành hoa bông thóc hình cầu hoặc elipxoit ngắn hơn (so với cụm hoa hình thoi dài 7–14 cm ở "Z. nudicarpum"), lá khoảng 2-3 lần dài hơn, các gân bên rõ nét.
1
null
Gừng một lá (danh pháp khoa học: Zingiber monophyllum) là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được François Gagnepain miêu tả khoa học đầu tiên năm 1902 (xuất bản năm 1903). Mẫu định danh. Mẫu định danh: ZRC ghi nhận 2 mẫu syntype là "Balansa B. 4214" và "Bon H-F. 3234", nhưng theo thông tin trong mô tả gốc của Gagnepain thì ông dựa theo 3 mẫu và chúng là tương tự như các thông tin tại MNHN. Theo thông tin tại MNHN thì mẫu "Balansa B. 4214" (MNHN-P-P00289159) là holotype và 2 mẫu thu thập khác với địa điểm và ngày thu thập khác nhau đều là "Bon H-F. 3024" và là mẫu syntype, tương ứng là MNHN-P-P00450953 và MNHN-P-P00450954. Tất cả đều được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia Pháp ở Paris (P). Từ nguyên. Tính từ định danh "monophyllum" (giống đực: "monophyllus", giống cái: "monophylla") là tiếng Latinh; nghĩa là một lá. Ở đây để nói thực tế là loài này hầu như chỉ có một lá. Phân bố. Loài này có tại miền bắc Việt Nam (IUCN ghi nhận các điểm là Vườn quốc gia Cúc Phương và các huyện Yên Thủy, Tam Nông) và đông bắc Lào (tỉnh Xiengkhuang). Môi trường sống là rừng, tại những nơi có bóng râm trong hỗn hợp lá rộng thường xanh; ở cao độ 150–600 m. Môi trường sống tại các địa điểm lấy mẫu syntype (Kiện Khê, Lạt Sơn) đã bị phá hủy do hoạt động nông nghiệp và công nghiệp hóa. Phân loại. Schumann (1904) xếp "Z. monophyllum" trong tổ "Lampugium" (= tổ "Zingiber"), nhưng theo Souvannakhoummane và Leong-Škorničková (2017) thì nó thuộc tổ "Pleuranthesis". Mô tả. Cây thảo lâu năm, gần như không có thân lá, cộng lá cao 1,1 m. Thân rễ dày đặc đốt, nằm ngang; bẹ dưới 2-3, kích thước 8 × 2 cm, lỏng lẻo, rộng, hầu như không uốn nếp, không phiến lá, có sọc, nhẵn nhụi; bẹ trên rất lớn, dài 35 cm, đỉnh tổng thể phủ đầy phấn hoặc có lông tơ. Lá 1 (hoặc hiếm khi 2, với lá phía dưới rất nhỏ), có cuống lá; cuống lá dài 22 cm, có rãnh, có sọc, nhẵn nhụi; phiến lá to, 35-52 × 17–18 cm, hình mác-hình trứng tới hình trứng thuôn dài, đáy thon nhỏ dần, men xuống hai bên cuống lá, đỉnh tù hầu như không có mấu nhọn, mặt trên nhẵn nhụi, mặt dưới thưa lông hoặc nhẵn nhụi, rất nhiều đốm nhỏ màu đen, có lông măng ở mép. Cán hoa có lông, dài 2–5 cm, xuất hiện ở gốc thân giữa các bẹ lá, khoảng 2–3 cm từ gốc. Cụm hoa gần mọc từ thân rễ, hình chóp, 9-12 × 2–4 cm; lá bắc hình xoan, thuôn tròn hoặc cắt cụt, có sọc, xếp lợp chặt, mép rậm lông nhung nhỏ; lá bắc dưới đường kính 2,5–3 cm; lá bắc hoa ở phía trên, dài tới 4 cm và hẹp. Hoa màu trắng hồng. Đài hoa …. Ống tràng thanh mảnh, dài tới 4 cm; các thùy hình mác nhọn, dài 1,7 cm, các thùy tràng bên rộng 2–3 mm, thùy tràng lưng rộng tới 6–7 mm. Nhị dài 18 mm, rộng 3,5 mm. Bao phấn không cuống, các ngăn song song, dài 10 mm, mô liên kết là phần phụ dài hơn bao phấn, hình mỏ, phát triển. Cánh môi từ thuôn dài tới hình mác-cắt cụt, 1,6 × 0,5-0,6 cm, đỉnh 3 thùy hay 3 răng, thùy giữa/răng giữa nhỏ và ngắn hơn; nhị lép bên hình mác nhọn, dài 10 mm, rộng 3–4 mm, nhọn, rẽ ra, đáy có vuốt nhỏ và hợp sinh với đáy cánh môi trong khoảng 2–3 mm từ đáy. Vòi nhụy hình chỉ; đầu nhụy hình ống, miệng nở rộng, có lông rung. Đĩa … Bầu nhụy hình trứng, hầu như không lông, hạt ít (5-7), thuôn dài, hơi cong, 8 × 3–4 mm; áo hạt mọng, gần nguyên, bám quanh hạt. Ra hoa tháng 7-8. "Z. monophyllum" và "Z. ellipticum" từng bị nghi ngờ là đồng loài dựa trên các hồ sơ vật liệu phòng mẫu cây, nhưng quan sát gần đây với vật liệu đang ra hoa của "Z. monophyllum" tại Vườn quốc gia Cúc Phương xác nhận rằng chúng là hai loài khác biệt.
1
null
Zingiber montanum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Một trong các tên gọi trong tiếng Trung là 光果姜 (quang quả khương), nghĩa đen là gừng quả nhẵn bóng. Lịch sử phân loại. Loài này được Johann Gerhard König mô tả năm 1783 dưới danh pháp "Amomum montanum". Năm 1792, Paul Dietrich Giseke mô tả chi "Jaegera" với loài duy nhất là "Jaegera montana" với dẫn chiếu tới "A. montanum" của König. Dựa theo mô tả trước đó cho "Zingiber montanum" của Johann Heinrich Friedrich Link, năm 1831 Albert Gottfried Dietrich chuyển "A. montanum" sang chi "Zingiber". Baker (1892) và Schumann (1904) cho rằng "Z. cassumunar" (= "Z. purpureum") có các danh pháp đồng nghĩa là "Z. montanum" / "A. montanum". Tuy nhiên, một số tác giả khác lại coi "Z. purpureum" / "Z. cassumunar" là khác biệt với "Z. montanum". Năm 1998, Theilade định nghĩa lại "Z. montanum" như là danh pháp chính thức của loài có các danh pháp đồng nghĩa bao gồm "A. montanum" , "Z. purpureum" , "Z. cassumunar" , do mẫu "Koenig J.G. s. n." thu thập tại Phuket, Thái Lan mà trước đây tưởng đã mất trên biển nhưng khi đó được phát hiện là lưu giữ tại Đại học Copenhagen (C) và nó từng được coi là holotype của "Amomum montanum" , mặc dù trong mô tả của König ghi rất rõ là lá bắc màu đỏ thắm và cánh môi màu máu lốm đốm trắng ("Amomum montanum strobilo coccineo ... Bracteae integerrimae, leviter striatae, subcoriaceae, coccineae ... Lacinia quarta ... maculis lineolisque sanguineis et albis marmoris instar picta..."), khác với mẫu vật này; trong khi mẫu vật thì giống với "Z. pupureum". Tuy nhiên, điều này đã được công nhận cho tới gần đây, mặc dù trong mô tả của "Z. montanum" với "Z. purpureum" / "Z. cassumunar" có nhiều điểm khác biệt. Như thế, trong khoảng thời gian 20 năm gần đây người ta cho rằng "Z. purpureum" là đồng nghĩa của "Z. montanum". Năm 2019, sau khi xem xét lịch sử các tên gọi, các mẫu vật có liên quan, Lin Bai "et al." cho rằng mẫu "Koenig J.G. s. n." không phải là mẫu gốc và nó là của "Z. purpureum". Các tác giả đã tách hai loài này ra khỏi nhau, đồng thời xác định lại mẫu neotype cho "A. montanum". Từ nguyên. Tính từ định danh "montanum" (giống đực: "montanus", giống cái: "montana") có nghĩa là miền núi, thuộc về miền núi. Phân bố. Loài này là bản địa khu vực từ miền nam Trung Quốc (trung nam, đông nam, Hải Nam), Lào, Thái Lan, Việt Nam. Môi trường sống là nền rừng ở cao độ 150-400 m. Phân loại. "Z. montanum" thuộc về tổ "Zingiber". Nó là một thành viên của nhóm "Z. montanum"; bao gồm "Z. corallinum", "Z. griffithii", "Z. idae", "Z. montanum", "Z. neesanum", "Z. purpureum", "Z. tenuiscapus". Mô tả. Thân rễ ruột màu trắng, đường kính 1,5-2,5 cm. Thân giả 1,2-2,5(-3) m, đường kính 1,8 cm. Lá 29-37; bẹ có sọc, gần như nhẵn nhụi hoặc có lông; lưỡi bẹ dài 2-10 mm, đỉnh khía răng cưa hoặc 2 thùy, gần như nhẵn nhụi hoặc có lông; cuống lá 3-5 mm, cùng gân lá mặt dưới gần như nhẵn nhụi hoặc có lông tơ; phiến lá hình mác tới hình elip-thuôn dài, 18-46 × 4-11 cm, đáy hẹp tới thon nhỏ dần, đỉnh nhọn tới nhọn thon, mặt trên nhẵn nhụi, mặt dưới gần như nhẵn nhụi hoặc đôi khi có lông tơ ở gân giữa. Cán hoa 1-2, mọc từ thân rễ gần gốc thân lá, dài 33-38 cm, màu đỏ thắm; cành hoa bông thóc hình thoi tới hình trứng, 7-16 × 2,5-3-(6) cm, đỉnh thuôn tròn; cuống cụm hoa thẳng đứng hoặc đôi khi hơi uốn cong tới phủ phục, dài (5-)10-25 cm, đường kính 3,5-8 mm, gần như nhẵn nhụi, ở trên mặt đất; các bẹ dạng vảy, dài 1-4,5 cm, gần như nhẵn nhụi, màu ánh đỏ tới đỏ thắm; lá bắc hình trứng ngược, 3,7-5 × 1,5-6 cm, xếp lợp, đỉnh tù tới thuôn tròn, gần như nhẵn nhụi, màu từ đỏ tươi đến đỏ thắm, chuyển thành màu ánh đỏ khi khô, đỡ 1 hoa; lá bắc con hình trứng-thuôn dài, 2,5-3,3 × 0,5-1,7 cm, dạng màng, đỉnh tù, gần như nhẵn nhụi. Hoa màu trắng hoặc ánh vàng, dài 7-8 cm, nhẵn nhụi. Đài hoa dài 2,5-3,3 cm, hơi dài hơn lá bắc con, dạng màng, trong suốt, đỉnh 3 răng khó thấy. Ống tràng hoa dài ~4,5 cm, màu trắng tới trắng kem; các thùy bên hình mác, dài 1,8-2 cm, rộng 5-7 mm, dạng nắp; thùy giữa lớn hơn, dài 2-2,5 cm, rộng 0,7-1,3 cm. Cánh môi màu tía tới tía sẫm hay màu máu lốm đốm màu trắng tới trắng kem, dài ~2,5 cm; thùy giữa hình trứng, dài 1,3 cm, rộng 1-1,5 cm, đỉnh 2-4 thùy; các thùy bên hình trứng, dài 6-8 mm, rộng 5-7 mm, đỉnh khía răng cưa. Chỉ nhị dài ~2 mm, màu đỏ thắm; bao phấn dài 1,3-1,5 cm, màu kem; phấn hoa hình cầu-hình trứng; phần phụ liên kết (mào) hình chỉ, nhẵn nhụi, đỉnh 2 rãnh, dài 1,2-1,4 cm, màu từ tía tới tía sẫm. Các tuyến trên bầu dạng vỏ trấu, dài 7 mm. Bầu nhụy nhẵn nhụi, 3 ngăn. Đầu nhụy hình chuông, có lông rung, màu trắng. Quả nang trần trụi, 2 ngăn, nhiều hạt; hạt nhiều góc cạnh. Ra hoa tháng 3-6. "2n" = 22. "Z. montanum" khác với "Z. purpureum" ở chỗ các lá bắc của cụm hoa có màu đỏ thắm và hoa với cánh môi và nhị lép bên màu đỏ ánh tía sẫm như màu máu khô và lốm đốm màu trắng-kem trong khi ở "Z. purpureum" thì các lá bắc của cụm hoa có màu từ đỏ sẫm tới nâu hạt dẻ, ánh tía hoặc hầu như màu nâu, thường với mép màu ánh xanh lục, cũng như hoa với cánh môi và nhị lép bên màu kem trắng không đốm. Sử dụng. Khác với "Z. purpureum" được trồng rộng khắp trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Á để dùng làm thuốc thì "Z. montanum" không được trồng và chưa có ghi nhận nào về việc dùng làm thuốc.
1
null
Zingiber multibracteatum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Richard Eric Holttum miêu tả khoa học đầu tiên năm 1950. Mẫu định danh. Các mẫu định danh bao gồm: Phân bố. Loài này là bản địa khu vực Malaysia bán đảo (các bang Pahang, Perak). Môi trường sống là rừng thường xanh ẩm ướt miền núi với tầng tán kín. Phân loại. Bao gồm 2 thứ là: Mô tả. Thân lá cao tới 3m, mọc thành bụi dày đặc, màu xanh lục. Phiến lá màu xanh lục sẫm, hơi mọng, mặt dưới có lông lụa (ít nhất là ở lá non) che phủ, dài 40 cm, rộng 10 cm, hình elip, đỉnh hình đuôi ngắn, đáy hình nêm. Không cuống lá. Lưỡi bẹ dài ~4 mm, rậm lông cứng; bẹ lá đoạn gần phiến lá và đáy gân giữa rậm lông cứng. Cán hoa khỏe, dài 60 cm, bẹ dài 5–8 cm, không xếp lợp, đỉnh và đáy có lông cứng. Cụm hoa hình trứng, dài 12 cm, đường kính 6 cm; lá bắc nhiều hình dạng. Lá bắc kết đặc, xếp lợp, hơi lồi, mép không cụp trong, dài 3,5–4 cm, rộng 2–3 cm (các lá bắc trên ở phần đáy hẹp hơn), hình trứng ngược, đỉnh thuôn tròn rộng, mép rất mỏng, khô xác rộng ~1,5 mm, khi khô mỏng, như lụa về phía đáy, màu tía sẫm. Lá bắc con dài 3-3,5 cm, rộng 1,3 cm, nhẵn nhụi, mỏng. Đài hoa cộng bầu nhụy dài 3 cm, có lông cứng. Ống tràng dài 5 cm, các thùy tràng dài 3 cm, trong suốt, ửng đỏ rất nhạt; thùy tràng lưng đỉnh màu tươi hơn; các thùy tràng bên hợp sinh về phía đáy. Cánh môi màu tía sẫm đốm trắng nhỏ, đặc biệt gần mép, hơi ngắn hơn các thùy tràng hoa; các thùy bên thuôn tròn rộng, dài 1,5 cm, khe giữa các thùy bên và thùy giữa ngắn; thùy giữa thuôn tròn, mép cuốn trong, đỉnh rộng đầu. Mô vỏ bao phấn dài 1,5 cm, mào dài bằng. Nhụy lép mỏng, dài 6 mm. "Z. multibracteatum" gần với "Z. puberulum" về mặt sinh dưỡng, nhưng cụm hoa và màu cánh môi thì gần với "Z. spetabile" và "Z. ottensii". Nó dường như cũng gần với "Z. odoriferum" ở Java, nhưng có cụm hoa ngắn hơn và rộng hơn, các lá bắc ngắn hơn còn các lá bắc con thì dài hơn.
1
null
Zingiber neesanum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được John Graham miêu tả khoa học đầu tiên năm 1839 dưới danh pháp "Alpinia neesana". Năm 1976, Thennilapuram Parasuraman Ramamoorthy chuyển nó sang chi "Zingiber". Phân loại. Baker (1892) và Schumann (1904) đặt "Z. neesanum" trong tổ "Lampuzium" / "Lampugium" (= tổ "Zingiber"). Nó là một thành viên của nhóm "Z. montanum"; bao gồm "Z. corallinum", "Z. griffithii", "Z. idae", "Z. montanum", "Z. neesanum", "Z. purpureum", "Z. tenuiscapus". Phân bố. Loài này có tại miền nam Ấn Độ và Myanmar. Môi trường sống là nền rừng trong các khu rừng hỗn hợp lá sớm rụng khô, ở cao độ 200–630 m. Mô tả. Cây thảo thân rễ sống lâu năm, cao 0,7–1,1 m. Thân rễ ruột màu vàng, rễ mọng với nhiều củ rễ màu trắng hình thoi, mùi thơm nồng, thơm hơn "Z. cernuum" và "Z. nimmonii". Thân lá màu xanh lục ánh đỏ, có lông tơ. Lá 7 cặp; phiến lá thẳng-thuôn dài hình mác, dài 22–45 cm, rộng ~2-7,5 cm, mặt gần trục nhẵn nhụi, màu xanh lục sẫm, mặt xa trục có lông tơ, nhạt màu hơn, đỉnh nhọn tới nhọn thon, đáy tù tới nhọn, mép gợn sóng nhiều hay ít; lưỡi bẹ hình tam giác, dài 2–3 cm, rộng 3–4 mm, màu ánh trắng, dạng màng, có lông tơ; cuống lá dài 5–6 mm, màu xanh lục. Cụm hoa 1-2, mọc từ thân rễ, cách thân lá một khoảng cách nhỏ, hình trụ thuôn dài, dài 15–30 cm, rộng 3–6 cm; cành hoa bông thóc hình thoi hẹp, màu đỏ ánh xanh lục; cuống cụm hoa dài 30–60 cm, thanh mảnh, có nhiều bẹ lớn, tù, khô xác, màu ánh xanh lục hoặc ánh đỏ bao bọc. Lá bắc từ hình trứng ngược tới hình trứng rộng, nhọn tới tù, các lá bắc phía trên nhọn, dài 2,5–3,8 cm, rộng 1,8–2 cm, màu từ nâu đỏ gỉ sắt tới đỏ ánh tía, hình thuyền, rậm lông màu ánh đỏ. Lá bắc con hình mác, dài 2,5–3 cm, rộng 1,5 cm, chẻ tới đáy, màu xanh lục với các đốm tía ở mặt ngoài, có lông tơ nhỏ. Hoa màu trắng; đài hoa hình ống, dài 1,6–1,7 cm, rộng 1–1,3 cm, màu trắng, dạng màng, nhẵn nhụi, đỉnh hơi 3 răng; ống hoa dài 3–3,3 cm; tràng hoa 3 thùy, màu trắng ánh xanh lục, thùy tràng lưng hình mác, dài 2,3–3 cm, rộng 1–1,1 cm, lõm, các thùy tràng bên dài 2–3 cm, rộng 8–9 mm; cánh môi 3 thùy, màu trắng ánh vàng với sọc đỏ ánh tía tỏa hình quạt, nhẵn nhụi; thùy giữa dài 2,2–2,5 cm, rộng 2,4–2,6 cm, hình tròn tới hình trứng ngược-hình nêm, khía răng cưa ở đỉnh; các nhị lép bên dài 1 cm, rộng 0,6 cm, thuôn dài-hình trứng, màu trắng. Nhị dài 2,2–2,5 cm, màu trắng ánh vàng; chỉ nhị dài 4–6 mm; bao phấn màu vàng nhạt, dài 1,8–1,9 cm; mào bao phấn dài 8–9 mm, màu vàng nhạt, thuôn dài, hình trụ, uốn ngược. Bầu nhụy màu trắng, dài 7–8 mm, gần thuôn dài, có lông tơ, noãn đính trụ với hai hàng noãn ở mỗi ngăn; vòi nhụy hình chỉ, dài 5,8–6 cm; đầu nhụy màu trắng, mép có lông rung; tuyến trên bầu 2, thẳng, dài 4–5 mm, màu trắng ánh vàng. Quả nang hình trứng ngược tới elipxoit, màu nâu xỉn tới đỏ, có lông tơ, kích thước và hình dáng giống như quả trứng chim sẻ, dài 1,2 cm; hạt hình elipxoit ngắn, màu tía sẫm, bề ngang có rãnh ánh xám tro; áo hạt màu trắng, dạng sợi dài bao quanh toàn bộ. Ra hoa và tạo quả tháng 7-11, thời gian nở hoa là ban ngày.
1
null
Zingiber neglectum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1904. Mẫu định danh. Mẫu định danh: Không số, thu thập ở tọa độ , tại Gunung Salak, tỉnh Tây Java. Mẫu holotype này lưu giữ tại Trung tâm Nghiên cứu Sinh học Indonesia tại Cibinong (BO). Từ nguyên. Tính từ định danh "neglectum" (giống đực: "neglectus", giống cái: "neglecta") là tiếng Latinh; nghĩa là bị lãng quên, bỏ quên. Phân bố. Loài này là bản địa/đặc hữu đảo Java; có tại tỉnh Tây Java (núi Salak) và tỉnh Trung Java (đảo Nusa Kambangan), Indonesia. Môi trường sống là rừng, ở cao độ tới 600 m. Phân loại. Valeton (1904) xếp "Z. neglectum" trong tổ "Lampuzium" (= "Zingiber"). Mô tả. Lá không cuống tới có cuống rất ngắn có rãnh, dày đặc, hình mác hẹp-thuôn dài, đỉnh nhọn thon, đáy nhọn hoặc tù, khi khô hơi dạng màng và màu gần ánh vàng, nhiều gân-sọc, gân gần thẳng đứng, mặt trên hơi rõ nét, dài 45 cm, rộng 5 cm, gần nhẵn nhụi (gân giữa có lông tơ tới đáy), bẹ có lông tơ. Lưỡi bẹ chẻ đôi gần tới đáy, các thùy thuôn dài thuôn tròn dạng màng, dài 13 mm, rộng 4 mm, đáy có lông tơ. Cán hoa thuôn dài màu xanh lục, cao khoảng 50 cm, đường kính 1,5 cm, bẹ dạng lá bắc gốc thuôn tròn, mép dạng màng, đỉnh hầu như không có mấu nhọn. Cụm hoa gần dạng vảy (khi khô tương tự như ở "Curcuma"), ban đầu hình cầu, sau thuôn dài và tới khi nở hoa thì thuôn dài-hình trứng, dài tới 16 cm, rộng tới 5 cm. Lá bắc hình trứng ngược, rộng cũng như dài, mép lá bắc trên cắt cụt rộng-cụp trong hoặc gần cuốn trong, lá bắc dưới dài 3 cm, rộng 4 cm, màu xanh lục với mép màu nâu ánh đỏ xỉn, tổng thể lồi và hơi hở, khe hở rời ở trên (nói chung nước có thể chảy vào trong mùa mưa). Lá bắc con dài bằng lá bắc, dài ~ 3m, dạng bẹ hình ống, đỉnh hơi có răng màu ánh đỏ, phần còn lại như thủy tinh. Đài hoa ngắn hơn lá bắc, dạng mo, như thủy tinh. Ống tràng được bao bọc trong lá bắc, dài 3 cm, các thùy tràng hoa dài ~1,5 cm. Cánh môi 3 thùy; thùy giữa hình trứng tới trứng rộng, nguyên, dài ~1,5 cm; các thùy bên nhỏ, thuôn dài, dài 6 mm, trên cả hai phần của nhị lép, thẳng đứng, khi nở hoa thì hở rộng, tổng thể màu tím đốm trắng. Nhị màu trắng; phần phụ liên kết thuôn dài, cong vào. Lá bắc con dưới quả hình trứng hơi nhọn, mép màu đỏ, cụp trong. Quả nang được lá bắc và lá bắc con bao quanh và ngắn hơn cả hai, mảnh vỏ mọng, mặt ngoài màu hồng nhạt, mặt trong màu trắng; các mảnh vỏ ở lưng, lá bắc con màu rượu nho, nhọn, áp ép trên mảnh vỏ. Các lá bắc hình túi với miệng hình bán nguyệt của nó tương tự như của "Z. macradenium"; nhưng nó khác với loài này ở tất cả các đặc trưng khác. Về hoa và các bộ phận sinh dưỡng thì nó rất gióng với "Z. inflexum" nhưng hình dạng lá bắc (với miệng hình xoan ở "Z. inflexum") thì nó rất khác, tới mức chỉ một đặc điểm này đã đủ để không thể gộp nó vào "Z. inflexum".
1
null
Zingiber negrosense là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Adolph Daniel Edward Elmer miêu tả khoa học đầu tiên năm 1915. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Elmer A.D.E. 10421"; thu thập tháng 6 năm 1908 ở tọa độ , dãy núi Cuernos, Dumaguete, tỉnh Negros Oriental, đông nam đảo Negros, Philippines. Các isotype lưu giữ tại Trung tâm Nghiên cứu Sinh học Indonesia ở Cibinong (BO), Đại học Copenhagen (C), Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Italia ở Firenze (FI), Nhà kính trồng cây và Vườn Thực vật thành phố Genève (G), Naturalis ở Leiden (L), Đại học Utrecht/Naturalis ở Leiden (U). Một mẫu khác cũng được Elmer đề cập khi mô tả loài này là "Elmer A.D.E. 11768"; thu thập tháng 9 năm 1909 tại tọa độ , Todaya, tỉnh Davao del Sur, đông nam đảo Mindanao, Philippines. Mẫu lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Thụy Điển ở Stockholm (S). Từ nguyên. Tính từ định danh "negrosense" (giống đực/giống cái: "negrosensis") là tiếng Latinh hóa, lấy theo tên đảo Negros. Phân bố. Loài này là đặc hữu Philippines; được tìm thấy trên các đảo Negros và Mindanao. Môi trường sống là những khu vực ẩm ướt dọc theo các con suối trong hẻm núi, ở cao độ ~1.100 m. Mô tả. Vài cụm thân mọc cùng nhau. Thân lá cao tới 2 m, màu xanh lục, nhẵn nhụi, đường kính 1,5 cm. Lá nhiều, mọc so le, như da, nhẵn nhụi, tỏa rộng thành 2 dãy, bóng, mặt trên màu xanh lục sẫm, mặt dưới nhạt hơn, cách nhau 5–8 cm hoặc gần hơn về phía đỉnh, các lá sát gốc tiêu giảm thành các lá bắc, mặt dốc xuống nhiều hay ít, hình mác rộng, đỉnh nhọn thon thanh mảnh uốn ngược, không cuống, đáy tù, khi khô mặt dưới màu nâu sáng hơn rõ nét, dài 30 cm, rộng 4–5 cm ở đoạn giữa, mép về phía đáy cuốn trong, nhẵn nhụi hoàn toàn. Bẹ lá chỉ bao quanh một phần thân lá, xép chồng nhau, nhẵn nhụi, mép màu ánh nâu. Lưỡi bẹ ngắn, thuôn tròn rộng, tại đáy men xuống dọc theo bẹ, cứng, thưa lông cả hai mặt sau trở thành nhẵn nhụi. Gân giữa có gờ mặt dưới, có rãnh mặt trên, mập tại nơi phiến lá đính vào bẹ. Cụm hoa mọc từ thân rễ; cuống cụm hoa dày 1,25 cm, cong, dài 5–8 cm, có lá bắc màu ánh đỏ. Lá bắc xếp lợp, gần như dạng màng, thuôn dài, dài 3–5 cm, nhẵn nhụi hoặc có lông rung dọc theo mép, đỉnh thuôn tròn tù hoặc khía chữ V; cành hoa bông thóc thẳng đứng, hình trứng tới elipxoit hay hình trứng ngược, dài bằng hoặc hơn cuống cụm hoa, dày 4 cm. Lá bắc nhiều và dày đặc, màu ánh xanh lục ngoại trừ phần lộ ra màu ánh đỏ, thuôn dài hình trứng ngược, dài 4 cm, khi non có lông tơ đặc biệt về phía đáy, sau trở thành nhẵn nhụi, rộng 1,5 cm ngang đỉnh cắt cụt; mép mỏng thường gập vào mặt trong, màu ánh đỏ và với các đốm đỏ sẫm hơn về phía đỉnh. Hoa 1 hoặc hơn từ nách các lá bắc lớn. Lá bắc con bên ngoài dài 4 cm, hình túi, dày 1 mm ngang qua phần giữa hoặc phần rộng nhất, gần như thủy tinh, nhẵn nhụi, có gân dọc, màu ánh trắng, đốm ánh tía về phía đỉnh tù, các mặt của khoảng 3/4 từ đáy xếp chồng lên nhau nhiều; lá bắc con bên trong khoảng 1 cm ngắn hơn và tương đối hẹp hơn, các đặc điểm khác tương tự. Ống tràng hoa dài 5 cm, nhẵn nhụi, với các sọc tía; tràng hoa ban đầu hình túi rộng, các phần dài 2 cm, như thủy tinh, có gân và đốm màu ánh tía, hình mác và đỉnh nhọn thon, thùy tràng lưng dài hơn và thuôn dài hơn về hình dáng; cánh môi thuôn dài hình trứng ngược, đậm đốm màu tía, gần nguyên hoặc 2 thùy. Chỉ nhị ngắn, dạng màng, đốm màu tía cũng như mô liên kết kéo dài thành mỏ cong dài 1,5 cm, đậm đốm màu đỏ. Các ngăn bao phấn màu vàng, nứt dọc, dài 1,5 cm, song song, nhẵn nhụi; vòi nhụy hình chỉ, sọc màu ánh đỏ, kéo dài qua mỏ; đầu nhụy nhỏ, hình phễu, có lông bao quanh phần gờ.
1
null
Zingiber neotruncatum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Tong Shao Quan (童绍全, Đồng Thiệu Toàn) mô tả khoa học đầu tiên năm 1987 dưới danh pháp "Zingiber truncatum". Tuy nhiên, danh pháp này là không hợp lệ do nó đã được Jonathan S. Stokes sử dụng từ năm 1812, (WCSP và POWO hiện nay coi nó là đồng nghĩa của "Zingiber zerumbet" subsp. "zerumbet"). Năm 2000, Wu Te Lin (吴德邻, Ngô Đức Lân), Kai Larsen và Nicholas J. Turland định danh lại cho loài của Tong là "Zingiber neotruncatum". Tên gọi trong tiếng Trung là 截形姜 (tiệt hình khương), nghĩa đen là gừng hình cắt cụt. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Tong S.Q. & Liu S. 24935"; thu thập ngày 12 tháng 8 năm 1984, cao độ 810 m, tọa độ , rừng ẩm ướt, Cảnh Hồng, Vân Nam. Mẫu holotype lưu giữ tại Viện Thực vật học Nhiệt đới Vân Nam (YNTBI) - tức Vườn Thực vật Nhiệt đới Tây Song Bản Nạp (HITBC), mẫu isotype lưu giữ tại Viện Thực vật học Côn Minh (KUN). Zingiberaceae Resource Centre coi "Zingiber phumiangense" là đồng nghĩa với "Z. neotruncatum" nên mẫu định danh của loài này cũng được gộp dưới tên gọi "Z. neotruncatum". Phân bố. Loài này là bản địa khu vực miền nam Trung Quốc (tây nam tỉnh Vân Nam), Ấn Độ (bang Arunachal Pradesh), Lào, Thái Lan và Việt Nam (tỉnh Kon Tum); tuy nhiên theo Nguyễn Danh Hùng "et al." (2021) thì loài này được ghi nhận như loài mới cho Hệ thực vật Việt Nam theo mẫu thu thập tại tỉnh Nghệ An. Môi trường sống là rừng thường xanh từ vùng đất thấp tới miền núi, ở cao độ 10-1.200 m. Phân loại. "Z. neotruncatum" thuộc tổ "Zingiber". Mô tả. Cây thảo nhiều năm, thẳng đứng. Thân rễ ngầm dưới đất, bò lan, mùi thơm dễ chịu, nhánh chính dày 1,5–2 cm, ruột vàng, nhiều rễ bên. Chồi lá một năm, cao 0,7-1,8 m; gốc có bẹ không phiến lá, nhiều lông, bẹ sát gốc màu đỏ ánh tía, bẹ phía trên màu xanh lục ánh đỏ với mép màu đỏ. Thân giả cao 0,7-1,5 m, đường kính 0,5–1 cm; được che phủ bằng các bẹ lá hình trụ khép kín. Bẹ lá màu ánh lục tới đỏ ánh tía, có sọc dọc, có lông tơ. Lưỡi bẹ dài 0,3-1,2 cm, rộng 1,6–2 cm, rậm lông tơ màu trắng, dạng màng, đỉnh cắt cụt tới 2 thùy. Lá 10-35, không cuống, mọc cách nhau 4–11 cm; phiến lá thẳng-hình mác hẹp, 30-45 × 3,5–6 cm; mặt gần trục màu xanh lục tới xanh lục sẫm, nhẵn nhụi ngoại trừ rậm lông tơ màu trắng ở đáy gân giữa; mặt xa trục màu ánh lục có lông tơ màu trắng đặc biệt dọc theo gân giữa; đỉnh nhọn thon hoặc hình đuôi; đáy hình nêm tới hình trứng ngược, gối 3-4 × 3 mm mập màu đỏ. Cụm hoa 1-3, mọc từ thân rễ. Cuống cụm hoa thẳng đứng, (3-)6–13 cm, tổng thể ở trên mặt đất, có lá bắc vô sinh dạng vảy bao bọc; lá bắc vô sinh 3,8-4,1 × 2-2,3 cm, hình mác nhọn đỉnh, màu từ lục ánh xám tới đỏ tía nhạt, mép dạng màng, mặt ngoài rậm lông tơ trắng. Cành hoa bông thóc thuôn dài-hình trứng hoặc hình elip hẹp, (6-)10-13 × 3-3,5 cm, khi non màu xanh lục, khi già màu hồng tới đỏ; lá bắc khi non màu xanh lục ánh trắng (cá lá bắc bên trong màu trắng ánh xanh lục) khi già màu hồng tới đỏ, hình trứng hoặc hình trứng rộng, 3-4 × 2,5-3,5 cm, rậm lông tơ màu trắng, viền mép trong như thủy tinh; lá bắc con hình trứng-hình trứng ngược, màu trắng với đỉnh màu đỏ trong mờ, 2,7-3,5 × 1,9-2,2 cm, nhẵn nhụi hoặc mép có lông mịn, dạng màng, chẻ một bên tới đáy. Hoa màu trắng kem tới vàng, dài 7-7,5 cm, 1-2 hoa nở cùng một lúc. Đài hoa hình ống, dài 1,5-2,5 cm, nhẵn nhụi, đỉnh từ cắt cụt tới 2 răng hoặc 2 thùy nông, dạng màng như thủy tinh. Tràng hoa thanh mảnh, hình ống trụ. Ống tràng hoa dài 4,3–5 cm, màu trắng tới vàng cam nhạt ở đáy, đỉnh màu hơi ánh vàng tới vàng cam sẫm, bên trong có lông tơ; các thùy dài gần bằng nhau, hơi có lông tơ, hình thuyền, màu vàng-da cam sáng về phía đỉnh, đỉnh có mỏ; thùy tràng lưng hình mác hẹp, 2,5-3 × 1-1,5 cm; các thùy tràng bên rộng 7–8 mm. Cánh môi hình trứng tới hình trứng ngược, đỉnh cắt cụt hơi có khía chữ V, mép uốn ngược, 3-3,5 × ~2,5 cm, màu da cam ở giữa, đốm màu vàng ở biên, màu vàng-da cam ở đỉnh; thùy giữa giống lưỡi bẹ, đỉnh khía răng cưa; các thùy bên (nhị lép bên) không dễ thấy, hình trứng ngược, ~3 mm, màu trắng, không lông, đầu tròn thấp, có khía nông. Nhị dài 2 cm, chỉ nhị từ không có tới 1–2 mm, màu trắng. Bao phấn gần như không cuống, màu vàng nhạt tới da cam sáng; mô vỏ 1,2-1,5 × 0,4 cm, màu trắng, không lông, hình trụ cong vào trong; phần phụ kết nối (mào) dài 5–13 mm, hình trụ, có nắp dài ~1 mm. Bầu nhụy màu từ trắng kem tới ánh xanh lục, thưa lông tơ màu trắng, hình trụ ngắn tới hình thùng, 0,5 × 0,4 cm, 3 ngăn, nhiều noãn xếp thành 2 dãy, đính trụ; vòi nhụy thẳng, dài, hình chỉ; đầu nhụy màu trắng kem, có lông rung; các tuyến trên bầu thẳng, dài ~ 4 mm. Tuyến trên bầu 2, dài ~0,5 cm, màu trắng kem. Quả nang hình trứng, 3 cạnh khó thấy, màu hơi vàng-da cam. Hạt nhiều, hình trứng, 4-5 × 3-3,5 mm, màu đen tới đỏ, bóng, nhẵn; áo hạt màu trắng, dài 6-6,5 mm, xé rách thành 8-12 thùy ở đầu. Ra hoa tháng 4-12, tạo quả tháng 5- tháng 3 năm sau. "Z. neotruncatum" có đặc điểm hình thái giống với "Z. zerumbet" – loài phân bố rộng từ Ấn Độ đến Thái Lan, Trung Quốc, Campuchia, Lào và Việt Nam. Tuy nhiên, lưỡi bẹ dài 0,3-1,2 cm, thùy giữa cánh môi dạng lưỡi bẹ và các thùy bên cánh môi không rõ/rất ngắn (~3 mm) của "Z. neotruncatum" là các đặc điểm khác biệt so với "Z. zerumbet" với lưỡi bẹ dài hơn (1,5–2 cm), thùy giữa cánh môi hình tròn hay hình trứng ngược, các thùy bên hình trứng, dài khoảng 1 cm và chẻ đến đáy. "Z. neotruncatum" cũng giống với "Z. phumiangense" ở Thái Lan (lá bắc xanh với mép trong mờ, bao phấn đính đáy và bầu nhụy nhẵn nhụi) nhưng phân biệt với loài sau ở chỗ có lá hình mác hẹp, ống đài trong và đỉnh cắt cụt, thùy tràng bên không rõ, bao phấn gần như không cuống, thò ra ngoài cánh môi.
1
null
Zingiber nigrimaculatum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Tong Shao Quan (童绍全, Đồng Thiệu Toàn) miêu tả khoa học đầu tiên năm 1989. Tên gọi trong tiếng Trung là 黑斑姜 (hắc ban khương), nghĩa đen là gừng đốm đen. Mẫu định danh. Mẫu địn danh: "S.Q.Tong 42405"; thu thập ngày 18 tháng 11 năm 1987 ở cao độ 1.800 m, trong rừng, huyện Mãnh Lạp, châu tự trị Tây Song Bản Nạp, tỉnh Vân Nam. Mẫu holotype lưu giữ tại Viện Thực vật học Côn Minh (KUN). Từ nguyên. Tính từ định danh "nigrimaculatum" là tiếng Latinh, bao gồm "nigri" (giống cái: "nigrae") - sở hữu cách giống đực/giống trung của tính từ "niger", nghĩa là màu đen và "maculatum" (giống đực: "maculatus", giống cái "maculata"), nghĩa là đốm; ở đây là để nói tới các đốm màu đen trên mặt xa trục (mặt ngoài) của phiến lá loài này. Phân bố. Loài này là bản địa khu vực miền nam Trung Quốc (tây nam tỉnh Vân Nam). Môi trường sống là rừng ở cao độ khoảng 1.800 m. Tìm thấy tại huyện Mãnh Lạp, tây nam tỉnh Vân Nam. Mô tả. Cây thảo thẳng đứng. Thân giả 0,8-1,2 m × 6–12 mm. Thân rễ khi già màu vàng nghệ, khi non màu gần trắng. Bẹ lá màu xanh lục, có lông tơ nhỏ màu trắng; lưỡi bẹ màu đỏ tươi tới đỏ ánh tía ở mép, 2 thùy (các lưỡi bẹ trên) hoặc nguyên, gần cắt cụt (các lưỡi bẹ dưới), dài ~6 mm, có lông tơ nhỏ màu trắng; cuống lá 3–10 mm; phiến lá hình elip hoặc hình mác hẹp, 15-40 × 3–9 cm, mặt gần trục màu xanh lục với các gân bên nổi rõ, mặt xa trục màu xanh lục dày đặc đốm màu đen, nhẵn nhụi ngoại trừ có lông tơ nhỏ dọc theo gân giữa, đáy hình nêm, đỉnh nhọn thon hoặc hình đuôi-nhọn thon. Cụm hoa mọc từ thân rễ. Hoa không rõ. Cụm quả 1-2, xuất hiện từ thân rễ, hình đầu, 3,5-5 × 5–6 cm; cuống cụm quả dài 2–6 cm, vảy màu trắng với đỉnh màu đỏ ánh tía, nhẵn nhụi; lá bắc con màu xanh lục với đỉnh màu đỏ ánh tía, hình mác, ~2,5 cm × 6 mm, nhẵn nhụi. Quả nang màu vàng nghệ ánh xanh lục (khi thuần thục), hình trứng, 3,5-4 × 2-2,2 cm, 3 góc, đỉnh với đài bền, đáy màu gần trắng. Hạt gần hình trứng, ~7 × 5 mm, hạt non màu trắng, sau chuyển thành đỏ, tổng thể màu đen ánh tía; áo hạt màu trắng, bao bọc toàn bộ hạt. Tạo quả tháng 11. Quả nang và hạt tương tự như ở "Z. recurvatum"; nhưng khác ở chỗ có thân cây thanh mảnh hơn với đường kính chỉ tới 1,2 cm, thân rễ già màu vàng nghệ, thân rễ non màu gần trắng, lưỡi bẹ phía trên 2 thùy, phía dưới gần cắt cụt, phiến lá với gân bên nổi rõ ở mặt trên, mặt dưới dày đặc đốm đen, quả nang thuần thục màu hơi vàng nghệ-xanh lục, áo hạt màu trắng bao bọc toàn bộ hạt.
1
null
Zingiber nimmonii là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được John Graham (1805-1839) mô tả khoa học đầu tiên năm 1839 dưới danh pháp "Alpinia nimmonii". Năm 1852, Nicol Alexander Dalzell chuyển nó sang chi "Zingiber". Từ nguyên. Tính từ định danh "nimmonii" hay "nimmoi" là để vinh danh Joseph Nimmo (?-1854), nhà thực vật học người Anh, bạn của John Graham, người đầu tiên quan sát và ghi chép về loài này tại tây nam Ấn Độ, đồng thời cũng là tác giả của một số phần trong "A catalogue of the plants growing in Bombay and its vicinity" sau khi Graham mất (ngày 28 tháng 5 năm 1839). Lưu ý rằng họ Nimmo còn có cách viết khác là Nimmon. Phân bố. Loài này có tại vùng duyên hải tây nam Ấn Độ (các bang Goa, Karnataka, Kerala, Maharashtra, Tamil Nadu). và có thể có ở Nepal và Myanmar. Môi trường sống là nền rừng lá sớm rụng ẩm ướt, trên nền đất đá ong tới đất sét, cũng như ở vùng đồng bằng, ở cao độ tới 700 m. Phân loại. Baker (1892) và Schumann (1904) đặt "Z. nimmonii" trong tổ "Cryptanthium". Mô tả. Cây thảo lâu năm. Thân rễ nhỏ, ruột màu tím hoa cà-ánh tía, thơm nồng. Rễ mọng, với các củ rễ mọng. Thân lá cao 0,5-1,5 m, thẳng đứng, nhẵn nhụi, một năm, thuôn tròn, mập cỡ cây gậy nhỏ, màu xanh lục ánh đỏ. Cuống lá từ không có đến gần như không cuống. Lưỡi bẹ dài 2–5 mm, như da, cắt cụt tới chẻ đôi. Lá mọc so le, hai dãy, không cuống; phiến lá thuôn dài hoặc thuôn dài-hình mác, (15-)30-45 × 5–9 cm, đỉnh nhọn thon, đáy nhọn lệch, trên các bẹ lá ôm thân, mặt trên màu xanh lục, nhẵn nhụi hoặc thưa lông tơ, mặt dưới nhạt màu hơn, rậm lông tơ. Cành hoa bông thóc mọc từ thân rễ, nổi lên trên mặt đất cách gốc thân giả chỉ một khoảng cách ngắn, hình trứng tới gần hình cầu. Cuống cụm hoa ngắn, đỉnh hầu như không thò trên mặt đất. Lá bắc thẳng-thuôn dài hoặc hình mác, 2,5-3,8 × 0,8-1,2 cm, đỉnh nhọn tới nhọn thon, nhẵn nhụi, màu xanh lục nhạt ánh đỏ, sọc đỏ bên trong, chẻ đôi. Lá bắc con ~2,5 × 1 cm, hình mác. Hoa dài 4,5–5 cm, 1 mỗi lá bắc. Đài hoa hình ống, dài 1-1,2 cm, chẻ một bên, dạng màng, màu trắng. Ống tràng dài như lá bắc, thanh mảnh, màu trắng, 3 thùy. Các thùy tràng dài gần bằng nhau, màu từ vàng nghệ ánh đỏ tới da cam ánh vàng, hình mác. Cánh môi 3 thùy, màu vàng nghệ tới vàng sáng với đốm hồng tía; thùy giữa hình trứng-thuôn tròn tới hình trứng ngược-hình nêm, 2,5 × 1,2 cm, từ hơi có khía răng cưa tới chẻ đôi ở đỉnh, các tai ở đáy nhỏ, thuôn tròn. Bao phấn màu vàng, không cuống. Đầu nhụy hơi nhô ra ngoài mào bao phấn. Tuyến trên bầu màu vàng, dài ~5 mm. Quả nang hình elipxoit, cỡ quả trứng chim sẻ, ~2-4 × 2 cm, 3 góc, màu ánh trắng khi non chuyển thành màu nâu sẫm hoặc ánh đỏ tới đỏ sẫm khi già, mọng, chen chúc, tương tự như "Lilium bulbiferum" khi nó bắt đầu đâm chồi trên mặt đất vào mùa xuân. Hạt 6-7 × 3–4 mm, màu nâu sẫm; áo hạt màu trắng. Ra hoa và tạo quả tháng 7-10. Gần giống với "Z. panduratum" ở Myanmar. Loài tại Myanmar. Mu Mu Aung (2016) cho rằng loài này có tại vùng Mandalay, Myanmar, dựa theo các mẫu vật và hình vẽ do Tin Tin Win "et al." thu thập/vẽ năm 1975, nhưng bản thân tác giả cũng chưa thu thập lại được mẫu vật của loài này. Mô tả của Mu Mu Aung cho mẫu vật của loài tại Myanmar được cho là "Z. nimmonii" như sau: Cây thảo thân rễ sống lâu năm, cao 1,2–1,5 m. Thân rễ vỏ màu nâu nhạt, mọng; rễ hình củ, dài 5–6 cm, màu trắng. Thân lá thon búp măng, mập, dài 0,9–1,2 m và đường kính 1,5–2,0 cm, non có lông sau nhẵn nhụi, dẹp, phía trên màu xanh lục, phía dưới màu hồng ánh đỏ. Lá mọc so le và xếp thành 2 dãy; phiến lá hình mác, 30–38 × 7–8 cm, đỉnh nhọn thon, đáy hình nêm, các gân bên nhiều, có lông tơ cả hai mặt; cuống lá dài 9–10 mm và rộng 4–5 mm, có lông tơ, màu nâu ánh đỏ; lưỡi bẹ hình tròn nhiều hay ít, dài 2–3 × 0,5–0,6 cm, màu đỏ nhạt, dạng màng, bẹ dài 10–11 × 2,2–2,5 cm, màu xanh lục ánh đỏ, có lông tơ. Cụm hoa là cành hoa bong thóc ở nách thân giả; cuống cụm hoa dài 3–4 cm và đường kính 1,2–1,5 cm, màu hồng nhạt, trước có lông sau nhẵn nhụi; cành hoa bông thóc hình trứng hoặc gần hình cầu, dài 8–8,5 cm và đường kính 3,8–4 cm, màu hồng ánh đỏ. Các lá bắc có thể thay đổi, các lá bắc phía dưới hình trứng rộng, 4–4,2 × 3,8–4 cm, nhẵn nhụi, màu hồng ánh đỏ, các lá bắc phía trên thẳng-thuôn dài đến hình mác, 4–4,4 × 1,7–2 cm, màu hồng ánh đỏ. Lá bắc con thuôn dài-thẳng, 3–3,2 × 0,7–0,8 cm, màu hồng nhạt, dạng màng. Hoa dài 5,3–5,5 cm, đường kính 1,3–1,5 cm, màu vàng ánh đỏ, không cuống, thường nở đơn lẻ; đài hoa hình ống, 1,8-2 × 1-1,2 cm, màu trắng, dạng màng, ống đài 1,7–1,9 × 1–1,2 cm, các thùy hình tam giác, ~1 × 2 mm; ống tràng 2,5–2,6 × 0,2–0,4 cm, màu trắng; các thùy tràng hoa không bằng nhau, hình mác, lõm, thùy tràng lưng 3,5–3,7 x 0,5-0,6 cm, màu vàng ánh đỏ; các thùy tràng bên 2–2,2 × 0,4–0,5 cm, màu trắng ánh hồng; cánh môi thuôn dài, 2,5–2,7 × 1,5–1,7 cm, màu vàng sáng với đốm đỏ, đỉnh rộng đầu, các nhị lép bên rất nhỏ, hình tròn. Nhị hoa hình vòng cung, dài 1,5–1,7 cm và đường kính 2–3 mm, màu vàng, chỉ nhị dài 1–2 mm và rộng ~1 mm, màu trắng, các thùy bao phấn hình elipxoit, 1,1–1,3 × 0,2–0,3 cm, màu trắng, không cựa, mào hẹp, dài và cong, 3–4 × 1 mm, màu vàng. Bầu nhụy gần thuôn dài, 6 × 3–4 mm, màu trắng ánh hồng, có lông tơ, 3 ngăn, noãn đính trụ với 3 hàng noãn mỗi ngăn, vòi nhụy 40–80 × 0,1 mm, đầu nhụy hình phễu, 2 × 0,5 mm, mép có lông rung, 4–5 × 1 mm, màu trắng. Quả nang gần thuôn dài, 2,8–3 × 1,5–1,7 cm, màu hồng ánh đỏ, có lông tơ. Ra hoa và tạo quả tháng 6-10. Môi trường sống là nền rừng, dưới tán các cây gỗ, ở cao độ 200-1.000 m.
1
null
Zingiber niveum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được John Donald Mood và Ida Theilade mô tả khoa học đầu tiên năm 2002. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Mood J.D. 1663"; là cây trồng số NNTG 9564 tại Vườn Nhiệt đới Nong Nooch, tỉnh Chonburi, Thái Lan; từ nguyên mẫu thu mua tháng 6 năm 1995 từ một nhà sưu tập thực vật Lào, với cây thu thập từ cao độ khoảng 250 m, tọa độ khoảng , miền đông tỉnh Savannakhet, Lào. Mẫu holotype lưu giữ tại Đại học Aarhus, Đan Mạch (AAU). Từ nguyên. Tính từ định danh "niveum" (giống đực: "niveus", giống cái "nivea") là tiếng Latinh, nghĩa là tuyết, trắng như tuyết; ở đây để nói tới các lá bắc chủ yếu là màu trắng của loài này. Phân bố. Loài này là bản địa miền nam Lào. Loài cây thảo thân rễ này mọc trên đất sét pha cát trong rừng khộp (Dipterocarpaceae) ở cao độ khoảng 150–250 m. Có thể có tại đông bắc Thái Lan, với mẫu "Triboun P. 1406" thu thập tại tỉnh Mukdahan. Phân loại. "Z. niveum" thuộc tổ "Zingiber". Mô tả. Lá màu xám ánh bạc. Cành hoa bông thóc màu trắng sữa, thuôn tròn, với các lá bắc màu trắng hoặc trắng hồng hay trắng xanh. Hoa màu vàng. Sử dụng. Loài này ở tình trạng nguy cấp do bị khai thác để bán sang Thái Lan. Cụm hoa non được dùng làm thực phẩm. Nó cũng được thu hoạch ở Lào để xuất khẩu sang Thái Lan làm cây cảnh. Loài này xuất hiện trong Khu bảo tồn quốc gia Dong Hua Sao (tỉnh Champasak). Nó cũng được trồng tại Vườn Thực vật Hoàng hậu Sirikit ở Thái Lan và tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Edinburgh. Nó cũng được bán làm cây cảnh tại Hoa Kỳ dưới tên gọi "Milky Way" (Ngân Hà).
1
null
Zingiber odoriferum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Carl Ludwig Blume miêu tả khoa học đầu tiên năm 1827. Mẫu định danh. Các mẫu định danh bao gồm: Lịch sử phân loại. Danh pháp "Z. aquosum" được bác sĩ kiêm nhà thực vật học người Tây Ban Nha Francisco Noroña (1748-1788) đề cập lần đầu tiên trong sách xuất bản năm 1790 (sau khi ông mất) với tên gọi thông thường "balacatoà", nhưng danh pháp này là không hợp lệ và trần trụi (nom. inval. nom. nud.), do chỉ có mỗi danh pháp Latinh kèm tên gọi thông thường trong tiếng Java. Năm 1827, Carl Ludwig Blume mô tả đồng thời hai loài là "Z. aquosum" (tên gọi thông thường trong tiếng Sunda: "belakatoa") và "Z. odoriferum" (tên gọi thông thường trong tiếng Sunda: "dongtak" hay "tongtak montjet". Hai loài này được công nhận trong Miquel (1859) và Schumann (1904); nhưng Valeton (1904 a, b, 1918) cho rằng chúng chỉ là một loài với danh pháp được ông công nhận là "Z. odoriferum". Schumann (1904) cũng mô tả loài "Z. tongtak" còn Valeton (1918) mô tả loài "Z. pachystachys". Hai danh pháp này hiện nay cũng như "Z. aquosum" đều được coi là đồng nghĩa của "Z. odoriferum" var. "odoriferum". Phân loại. Schumann (1904) và Valeton (1904) xếp "Z. odoriferum" trong tổ "Lampugium" / "Lampuzium" (= tổ "Zingiber"). Valeton (1918) chia "Z. odoriferum" thành 4 thứ là: Hiện nay người ta công nhận 2 thứ là: Phân bố. Loài này có tại Indonesia (trên các đảo Java, Borneo) và có thể có ở quần đảo Andaman (Ấn Độ). Mô tả. Thân lá cao 1–2 m. Lá từ không cuống tới có cuống rất ngắn, thuôn dài-hình mác, tới 40 × 9 cm, đỉnh nhọn thon, đáy nhọn hoặc thuôn tròn, gần mọng, mặt trên màu xanh lục, sáng bóng, mặt dưới nhạt màu hơn, đặc biệt về phía gân từ thưa tới rậm lông tơ hình mạng nhện áp ép lỏng lẻo. Cuống lá tại gân ở đáy phiến lá mập, mặt trên lõm, dài và rộng ~5 mm. Lưỡi bẹ có khía sâu hoặc chẻ đôi tới đáy, các thùy lớn hình trứng lệch-tam giác, đỉnh thuôn tròn, ở lá già dài 1-1,5 cm, ở lá non ngắn hơn, mép dạng màng, có lông măng. Cán hoa ngẩng cao, dài 40–100 cm, đường kính 1,5 cm, với các bẹ dạng vảy sẫm màu thuôn tròn bao bọc, các bẹ phía dưới đỉnh có mấu nhọn. Cành hoa bông thóc thuôn dài, hình thoi-hình trụ tù hay nhọn, dài tới 20 cm, rộng 2,5–4 cm, xếp lợp hơi chặt. Lá bắc xếp lợp chặt và áp ép, hình trứng ngược-thuôn dài hình mác, dài 4,5 cm, các lá bắc phía trên rộng 2,5 cm, đỉnh thuôn tròn hay nhọn hoặc tù kết thúc bằng đỉnh nhọn đột ngột nhỏ, các lá bắc phía dưới đỉnh có mấu nhọn ngắn, khi non rậm lông sau nhẵn nhụi, mép dạng màng rậm lông lụa, phần rời hình phỏng thoi, màu xanh lục cuối cùng chuyển thành nâu đỏ, hoa 1-2, nở cùng một lúc. Lá bắc con dài ~2 cm, dạng mo áp ép, bền và cùng phát triển. Hoa dài 6 cm, màu vàng nhạt. Đài hoa tương tự lá bắc con và hơi dài hơn, nhọn, dạng mo, hơi phồng phía trên điểm giữa. Ống tràng thanh mảnh, dài ~5 cm. Cánh hoa dài 2,5–3 cm, thò ra, hình mác nhọn; cánh lưng thẳng-tỏa rộng và rất lõm, tương tự như hình vòm, rất nhọn; các cánh trước hẹp hơn, tỏa rộng và nhô ra. Cánh môi 3 thùy, màu tía sẫm/tím sẫm; thùy giữa hình trứng rộng hay hình trứng thuôn dài, rộng đầu hoặc gần có khía, ngắn hơn cánh hoa khoảng 4 mm, màu tím dày đặc đốm màu vàng; các thùy bên (nhị lép bên) của cánh môi 2-3 lần ngắn hơn, hình trứng, hợp sinh trong khoảng 50% chiều dài tính từ đáy, mặt trong và mặt ngoài màu từ vàng nhạt tới vàng hoặc mặt trong có đốm màu tím, tỏa rộng, thuôn tròn hoặc cắt cụt có răng cưa, hiếm khi nhọn, thẳng đứng và nửa che phủ cánh lưng. Phần phụ của nhị hoa màu tím, cong vào, ở hoa mới nở thì đỉnh chạm vào đỉnh cánh môi (và cuối cùng thì thẳng đứng hơn?). Đầu nhụy hầu như không giãn rộng, có lông rung. Quả nang màu trắng, được bao trong lá bắc màu nâu đỏ, cuối cùng nứt và tỏa rộng.
1
null
Zingiber oligophyllum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Karl Moritz Schumann miêu tả khoa học đầu tiên năm 1904. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Henry A. 1605"; thu thập tháng 5 năm 1894, núi Bangk-wung (Bangkinseng, Vạn Kim Thánh sơn 萬金聖山?) thôn Vạn Kim (萬金, tọa độ ), hương Vạn Loan (萬巒), huyện Bình Đông (屏東), đông nam đảo Đài Loan. Mẫu holotype và isotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K), mẫu isolectotype lưu giữ tại Viện Smithsonian, Washington D.C., Hoa Kỳ (US). Các barcode tương ứng là K000815678, K000815679, 00092878. Từ nguyên. Tính từ định danh "oligophyllum" bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp "ὀλίγος" (olígos) nghĩa là nhỏ và "φύλλον" (phúllon) nghĩa là lá; ở đây để nói tới các lá nhỏ của loài này. Phân bố. Loài này là bản địa đảo Đài Loan, cũng như tại đông nam Trung Quốc đại lục, bao gồm cả Hồng Kông. Phân loại. Schumann (1904) xếp loài này trong tổ "Cryptanthium". Cùng với "Z. ventricosum", "Z. thorelii" và "Z. xishuangbannaense" chúng tạo thành tổ hợp "Z. oligophyllum". Mô tả. Cây thảo lâu năn, thanh mảnh. Thân lá dài 40–45 cm; với 5 bẹ không phiến lá dài 2–13 cm, tù, nhẵn nhụi. Lá thường 4, không cuống, thuôn dài, đỉnh nhọn thon hình đuôi, đáy nhọn, hai mặt nhẵn nhụi, dạng cỏ yếu, khi khô màu xanh lục xám tro, dài 10–25 cm, rộng 4–7 cm; bẹ lá hơi rộng, dạng màng, nhẵn nhụi; lưỡi bẹ rất ngắn, dài không quá 1 mm, nhẵn nhụi. Cành hoa bông thóc không hoa sau khi nở dài 8–9 cm, hình trứng; cuống cụm hoa dài 3–4 cm, nhẵn nhụi, với 4 vảy thuôn dài tù dạng màng. Lá bắc dài bằng nhau, dạng màng, thuôn dài hoặc hình mác nhọn thon, màu xanh lục sau đó có lẽ chuyển thành màu tá, dài 3-4,5 cm; lá bắc con hình mác, xoắn lại, dài 2,5 cm, nhẵn nhụi. Bầu nhụy có lông lụa; đài hoa dạng mo, đáy có lông tơ; ống tràng màu trắng; cánh môi có lẽ có màu sắc tương tự. Quả nang hình thoi, dài 2,2 cm, có đài dài 1 cm trên đỉnh, có lông tơ nhỏ, khi khô nhạt màu. Các ngăn 2-3 hạt. Loài tương tự như "Z. mioga", nhưng khác ở chỗ lá nhỏ và rộng. Flora of China từng coi "Z. oligophyllum" là đồng nghĩa của "Z. mioga".
1
null
Zingiber olivaceum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được John Donald Mood và Ida Theilade mô tả khoa học đầu tiên năm 2002. Từ nguyên. Tính từ định danh "olivaceum" (giống đực: "olivaceus", giống cái: "olivacea") nghĩa là màu xanh lục ô liu (màu xanh lục ánh vàng). Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Mood 97p86"; là cây trồng số T-7593 do Mark Collins thu thập năm 1993 ở cao độ 540 m, gần Ban Krung Ching, khoảng 50 km về phía tây bắc thành phố Nakhon Si Thammarat, tỉnh Nakhon Si Thammarat, được trồng tại Vườn ươm cây Lyon ở Hawaii và Vườn Nhiệt đới Nong Nooch, Thái Lan. Mẫu holytpe lưu giữ tại Đại học Aarhus (AAU). Phân bố. Loài này là bản địa miền nam Thái Lan, phần bán đảo.
1
null
Zingiber orbiculatum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Shao Quan Tong (童绍全, Đồng Thiệu Toàn) miêu tả khoa học đầu tiên năm 1987. Tên gọi thông thường trong tiếng Trung là 圆瓣姜 (viên biện khương), nghĩa là gừng cánh hoa tròn. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "S.Q.Tong 24804"; thu thập ngày 20 tháng 7 năm 1981, trong rừng, cao độ 620 m, tọa độ , huyện Mãnh Lạp, tỉnh Vân Nam. Mẫu holotype lưu giữ tại Viện Thực vật Nhiệt đới Vân Nam (YNTBI), tức Vườn Thực vật Nhiệt đới Tây Song Bản Nạp, Vân Nam (HITBC). Từ nguyên. Tính từ định danh "orbiculatum" (giống đực: "orbiculatus", giống cái: "orbiculata") là tiếng La tinh, nghĩa là tròn, thuôn tròn; ở đây để nói cánh môi hình tròn của loài này. Phân bố. Loài này có tại tây nam tỉnh Vân Nam (huyện Mãnh Lạp), Trung Quốc, miền bắc Thái Lan, Lào, Myanmar. Môi trường sống là rừng thường xanh, ở những nơi ẩm ướt, cao độ khoảng 600-800 m. Phân loại. "Z. orbiculatum" thuộc tổ "Cryptanthium". Mô tả. Thân giả cao 1,4-3,2 m, đường kính 1,8-3,5 cm. Lá không cuống; bẹ lá nhẵn nhụi; lưỡi bẹ màu trắng ánh xanh lục, 1,3-1,5 cm, nhẵn nhụi, đỉnh gần cắt cụt; phiến lá hình mác hẹp, 45-60 × 7-9 cm, nhẵn nhụi, gân giữa phình to ở đáy và dày đặc đốm đỏ ở hai bên, đáy hình nêm, đỉnh nhọn thon. Cụm hoa 1-2, mọc từ thân rễ, hình trứng hoặc hình đầu, 5-8 × 3,5-5 cm; cuống cụm hoa 2-5 cm, có vảy màu xanh lục; lá bắc hình trứng hoặc hình trứng rộng, 3-4 × 2,8-3,6 cm, màu đỏ, đỉnh có mấu nhọn hoặc nhọn thon ngắn; lá bắc con ở phần gần nhạt màu, ở phần xa màu đỏ, hình ống, dài 3,4-4,1 cm, đường kính 5-7 mm, có lông tơ màu trắng. Đài hoa dài 1,8-2,2 cm, đường kính 5-8 mm, có lông tơ và đặc biệt rậm lông tơ ở đáy, đỉnh 3 răng. Ống tràng hoa dài 3,4-3,6 cm, đường kính 3-4 mm, nhẵn nhụi; các thùy tràng màu trắng với đỉnh màu đỏ, hình mác; thùy tràng lưng dài 2,7-3 cm, rộng 0,9-1 cm, có lông tơ; các thùy tràng bên rộng 6-7 mm. Cánh môi màu trắng, hình tròn, 2,2-2,4 × 2-2,2 cm; thùy giữa hình bán nguyệt, mép nhăn, đỉnh khía răng cưa; các thùy bên (nhị lép bên) hình tai, ~1,4 × 0,5 cm. Nhị dài ~2,5 cm; chỉ nhị dài ~2 mm; mô vỏ bao phấn màu vàng, dài ~1,2 cm; phần phụ liên kết dài ~1,2 cm, màu vàng. Bầu nhụy nhạt màu ở phần gần, màu vàng ở phần xa, gần hình elipxoit, rậm lông tơ. Quả nang màu đỏ sẫm với phần đáy màu nâu nhạt, hình tam giác-thuôn dài, 4-5 × 2-2,5 cm, 3 góc, có lông tơ. Hạt màu đen, hình trứng ngược, ~6 × 5 mm, có áo hạt bao quanh; áo hạt màu trắng, dạng màng. Ra hoa tháng 7. "Z. orbiculatum" giống với "Z. barbatum" ở chỗ cánh môi và các thùy tràng hoa màu trắng, nhưng khác ở chỗ phiến lá nhẵn nhụi cả hai mặt, lưỡi bẹ cắt cụt, cánh môi hình tròn với thùy giữa hình bán nguyệt, các thùy bên hình tai dài 1,4 cm rộng 5 mm.
1
null
Zingiber ottensii là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1918. Tên gọi địa phương tại Indonesia "banglai-ideung", tại Malaysia là "lempoyang hitam" hoặc "bonglai hitam" (để nói tới thân rễ màu tía xám). Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Ottens A. 676"; do Arend Ottens (1871-1925) - trung sĩ trong quân đội Đông Ấn Hà Lan, từ năm 1911 là trợ lý và sau đó là người giám sát của Bảo tàng và Văn phòng Điều tra Thực vật học Kinh tế ở Buitenzorg - phát hiện, thu thập ở tọa độ tại Buitenzorg, tỉnh Tây Java. Mẫu lectotype lưu giữ tại Naturalis, Leiden (L); các mẫu isolectotype lưu giữ tại Trung tâm Nghiên cứu Sinh học Indonesia ở Cibinong (BO) và Vườn Thực vật Singapore (SING). Từ nguyên. Tính từ định danh "ottensii" là để vinh danh Arend Ottens. Phân bố. Loài bản địa Indonesia (Java, Sumatra), Malaysia bán đảo; du nhập vào Lào, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam. Môi trường sống là rừng thường xanh lá rộng thứ sinh trên granit, thường dọc vệ đường, những nơi thoáng đãng, bìa rừng, ở cao độ 25-1.100 m. Phân loại. "Z. ottensii" thuộc tổ "Zingiber", với cụm hoa bao gồm cành hoa bông thóc trên cuống cụm hoa dài mọc từ thân rễ. Mô tả. Cây thảo thân rễ, rắn chắc, cao 1-1,9 m, mọc thành bụi với 3-10 chồi lá mỗi bụi, khoảng cách mỗi chồi lá khoảng 0,5–2 cm. Thân rễ phân nhánh, đường kính 2,2–3 cm, vỏ màu nâu ánh vàng sáng, ruột từ màu xám ánh tía sáng tới tím sẫm, mùi thơm hăng, được các vảy hình tam giác màu nâu sáng ánh vàng che phủ, rậm lông, sớm rã. Thân lá hơi cong, gần nhẵn nhụi, dày 8 mm, nhiều lá (18-25 lá), các lóng ngắn, khoảng 1/5 đến 1/3 sát gốc không lá, gốc phồng đường kính 1,5-2,3 cm. Bẹ không phiến lá 5-6, dài tới 60 cm, màu xanh lục, các bẹ phía dưới màu đỏ tươi, bên ngoài thưa lông màu trắng, bên trong nhẵn nhụi. Bẹ lá màu xanh lục tới xanh lục ánh tía, từ nhẵn nhụi tới có lông trắng, rậm về phía cuống lá và đáy. Lưỡi bẹ dài 1,3-1,5 cm, rộng 1,3 cm, hơi dạng màng, màu trắng mờ xỉn với các đốm nhỏ màu đỏ, có lông trắng, đỉnh nguyên gần nhọn, dạng giấy, mép rộng, liên tục từ bẹ lá. Cuống lá gần như không có hoặc tiêu giảm thành gối dài 3–5 mm, lưng rậm lông tơ mịn màu trắng. Phiến lá 34-43 × 6–8 cm, hình elip tới hình mác ngược-thuôn dài, đỉnh thon nhỏ dần-nhọn thon, nhọn về phía đáy thường với đáy thuôn tròn tới tù, mặt trên màu xanh lục nhẵn nhụi, mặt lưng màu xanh lục sáng, thưa lông màu trắng dạng mạng nhện. Ở cây non lá hình mác rất nhọn tới nhọn thon, đáy thon nhỏ dần, 23 × 4 cm; lưỡi bẹ nhỏ hơn, dà 5–8 mm. Cụm hoa mọc từ thân rễ. Cuống cụm hoa gần với chồi lá, thẳng đứng, dài 25–29 cm, đường kính 1,2-1,3 cm; lá bắc che phủ 9-12, hình ống ~1/3 từ đáy, 4-4,5 × 2,5–4 cm (nhỏ hơn về phía đáy), mặt ngoài màu đỏ xỉn, màu đỏ ánh xanh lục về phía đỉnh, có lông tơ, đỉnh nguyên. Cành hoa bông thóc lớn, hình elipxoit tới hình elipxoit gần thuôn dài, tù hoặc hơi nhọn, 9-15 × 4,5-4,8 cm. Lá bắc 3,6-4 × 3–4 cm, xếp lợp chặt và áp ép vào nhau, rất lồi, đỉnh cuốn trong mạnh nhưng không phải dạng túi, hình trứng ngược hoặc các lá bắc phía dưới gần hình tròn, đỉnh gần cắt cụt, bên trong màu trắng, bên ngoài ban đầu màu nâu đỏ xỉn tới đỏ ánh lục với khoảng 1/3 đáy màu ánh trắng nhưng sau khi nở hoa thì chuyển thành màu đỏ tươi; mép ngắn, mỏng, khô xác, khi khô khó thấy, từ nhẵn nhụi tới có lông rất mỏng đặc biệt ở mép, đỉnh cắt cụt; đỡ 1 hoa. Lá bắc con hình trứng hẹp, 3-3,5 × 1,2-1,6 cm, bao quanh toàn bộ đài hoa, xoắn và rất phẳng, đỉnh thu hẹp thành nhọn ngắn và từ nguyên tới gần chẻ đôi, màu trắng trong mờ đỉnh màu ánh đỏ, mặt ngoài thưa lông màu trắng, mặt trong nhẵn nhụi. Hoa lớn, thò ra từ lá bắc, dài 5-6,5 cm, màu trắng hồng nhạt tới vàng nhạt hay da cam nhạt, dày đặc các đốm lớn hay nhỏ màu vàng nhạt. Đài hoa hình ống, khi ép dẹp hình elip rộng, dài 2-2,3 cm, rộng 0,7-1,4 cm, đỉnh cắt cụt (rộng 0,6 cm) và hơi rộng đầu hoặc 2 răng, gân giữa khác biệt, gân nhiều (3 ở mỗi bên của 4 gân giữa), màu trắng trong mờ với đỉnh màu ánh vàng nhạt. Ống tràng dài 3,5-4,2 cm, đỉnh dần nở rộng, màu trắng hoặc kem tới vàng với đỉnh màu ánh vàng nhạt; thùy tràng lưng hình trứng tới hình trứng hẹp, 2-2,5 × 0,7-1,3 cm, nhẵn nhụi, đỉnh tù tới nhọn, hơi dạng nắp, gân 7, trong mờ; các thùy tràng bên thuôn dài-hình trứng hẹp, 2-2,2 × 0,6 cm, tỏa rộng, hơi cứng và cong xuống, ngắn hơn cánh môi, nhẵn nhụi, đỉnh nhọn. Cánh môi dài 5,5 cm; thùy giữa từ thuôn dài tới hình trứng ngược-hình tròn, 2,1-2,6 × 1,5–2 cm, màu vàng nhạt với các đốm màu đỏ ánh nâu, đỉnh thuôn tròn tới hơi nhọn với khe chẻ ngắn khoảng 2mm, mép từ hơi khía răng cưa tới hơi gợn sóng, ở cây sống cong hình cung đỡ cánh hoa (hoặc hình trứng 2 thùy). Nhị lép bên lớn, hình trứng ngược, 1,5-2 × 0,6-1,1 cm, đỉnh thuôn tròn, ở cây sống thẳng đứng và gần đối diện cánh môi, ở hoa trải rộng thì hợp sinh khoảng 1/2 từ đáy với đáy cánh môi, màu vàng nhạt với các đốm màu đỏ ánh nâu nhạt. Nhị dài 2,4-2,5 cm; chỉ nhị không cuống; bao phấn 1-1,2 × 0,5-0,6 cm; mô liên kết màu vàng tươi, nhẵn nhụi; mô vỏ bao phấn dài 1-1,1 cm, nứt dọc; mào bao phấn dài 1-1,1 cm (khi không kéo thẳng), bao quanh đầu nhụy, màu vàng, nhẵn nhụi. Vòi nhụy dài tới 6,5 cm (khi kéo thẳng), màu trắng, nhẵn nhụi; đầu nhụy 1-2 × ~0,8 mm, màu trắng, lỗ nhỏ hướng xuống dưới, với vòng lông rung thẳng. Tuyến trên bầu 2, hình dùi, 7-9 × 0,6-0,8 mm. Bầu nhụy 5-6 × ~5 mm, hình tam giác-thuôn dài, màu kem nhạt, thưa lông, 3 ngăn, noãn đính tâm. Quả nang thuôn dài, dài 1,5 cm, màu đỏ. Ra hoa tháng 8, tạo quả tháng 11. Về ngoại hình "Z. ottensii" rất giống với "Z. zerumbet". Theo Valeton (1918) thì loài mà Ridley (1907) gọi là "Z. zerumbet" với dẫn chiếu tới "Zingiber" sp. của Griffith (1851) chính là "Z. ottensii". Ông cũng cho rằng "Z. ottensii" không thuộc về nhóm "Z. zerumbet" mà thuộc về nhóm "Z. spectabile" và điều này phù hợp với phân tích phát sinh chủng loài của Theerakulpisut "et al." (2012). Sử dụng. Tại khu vực núi Dầu (tỉnh Quảng Ngãi) được sử dụng thay thế cho "Alpinia galanga" làm gia vị. Tại khu vực bán đảo Mã Lai được sử dụng trong y học cổ truyền.
1
null
Zingiber pachysiphon là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Brian Laurence Burtt và Rosemary Margaret Smith miêu tả khoa học đầu tiên năm 1969. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Burtt B.L. & Martin A.M. B 4781"; thu thập ngày 5 tháng 8 năm 1967 ở cao độ 550 m, tọa độ , dãy núi Hose, bang Sarawak, Malaysia. Mẫu holotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Edinburgh (E). Phân loại. Có quan hệ gần với "Z. kelabitianum" trong tổ "Zingiber". Phân bố. Loài đăc hữu đảo Borneo, có tại các bang Sarawak và Sabah thuộc Malaysia và tỉnh Tây Kalimantan thuộc Indonesia. Loài cây thảo cao tới 1,75 m này có môi trường sống là rừng, ở cao độ 200-1.000 m.
1
null
Zingiber panduratum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được William Roxburgh đề cập lần đầu tiên năm 1814, nhưng miêu tả khoa học chỉ được công bố năm 1820 sau khi ông mất, và in lại năm 1832 không kèm chú giải của Nathaniel Wallich. Từ nguyên. Tính từ định danh "panduratum" (giống đực: "panduratus", giống cái "pandurata") là tiếng Latinh muộn, bắt nguồn từ "pandura"; tới lượt nó bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp "πανδοῦρα" (pandoûra) là một loại đàn luýt ba dây hình dạng giống như mandolin hay banjo; trong thực vật học được gọi là hình/dạng lá bưởi - là hình trứng ngược với một đôi vết lõm lượng sóng gần đáy. Ở đây để nói tới cánh môi dạng lá bưởi (panduriform) của loài này. Phân bố. Loài này là bản địa Myanmar. POWO cũng cho rằng nó có ở Thái Lan - dựa theo Larsen (1996), nhưng Theilade (1999) và Triboun "et al." (2014) không liệt kê loài này trong danh sách loài "Zingiber" tại Thái Lan. Môi trường sống là rừng lá sớm rụng ẩm ướt, những nơi ẩm ướt, ở cao độ ~65 m. Phân loại. Có quan hệ gần với "Z. roseum", "Z. ligulatum" và được xếp trong tổ "Cryptanthium". Mô tả. Cây thảo thân rễ, cao 0,6–1 m. Thân rễ ít vị và không mùi; rễ nhiều, dài, mọng, dạng sợi, một số phình to thành củ hình mác nhưng không có củ chân vịt như ở Curcuma. Thân lá thẳng đứng, nhẵn nhụi. Lá xếp thành 2 dãy. Phiến lá hình mác rộng tới thuôn dài-hình mác, 15–30 cm × 7–10 cm, 2 mặt nhẵn nhụi, đỉnh nhọn tới nhọn thon; lưỡi bẹ rất lớn và dài, tù, nhẵn nhụi, dạng màng, khô xác; cuống lá rất ngắn trên bẹ lá nhẵn nhụi. Cụm hoa từ xếp lợp lỏng lẻo tới rất kết đặc, mọc từ thân rễ, nửa dưới chìm trong lòng đất; cành hoa bông thóc thuôn dài, kết đặc, hình elipxoit, dài 5-10 cm, đỉnh nhọn; cuống cụm hoa rất ngắn. Lá bắc màu đỏ, lõm, đỡ 1 hoa, các lá bắc bên ngoài hình trứng, các lá bắc bên trong hình mác, dài 3,5-3,8 cm, đỉnh không có móc. Lá bắc con màu trắng ánh hồng, dài 2 cm. Hoa màu đỏ ánh trắng; đài hoa hình ống, dài ~2 cm, màu trắng, dạng màng, đỉnh 3 răng; ống tràng màu trắng ánh đỏ, dài 3,5-3,8 cm; các thùy tràng màu từ đỏ nhạt tới đỏ tươi, hình mác, đỉnh nhọn thon; thùy tràng lưng dài ~2,5 cm, các thùy tràng bên gần dài bằng, ~2,3 cm; cánh môi 3 thùy, màu từ vàng rất nhạt tới trắng ánh vàng, không đốm hay sọc, hình lá bưởi (hình trứng ngược với một đôi vết lõm lượng sóng gần đáy); thùy giữa dài ~2 cm, hình trứng ngược, rộng đầu, đỉnh cắt cụt hoặc khía răng cưa; các nhị lép bên (thùy bên của cánh môi) nhỏ, thuôn tròn. Nhị dài 2-3 cm; chỉ nhị rất ngắn nhưng rộng; bao phấn màu vàng nhạt, dài ~1,5 cm; mào bao phấn dạng mỏ, dài ~1,5 cm, hình trụ, uốn ngược. Bầu nhụy 3 ngăn, nhiều noãn đính trụ; vòi nhụy dài, hình chỉ; đầu nhụy hình phễu. Quả nang hình trứng, tam giác, nhọn với các bên dẹp, nhẵn bóng, nhạt màu, rộng đầu tại đáy, được nhiều lá bắc khô quắt bao quanh, to cỡ quả óc chó. Các mảnh vỏ dày và mọng, 3 góc, mặt trong gợn sóng, bóng, màu đỏ tươi; vỏ như da; thịt dạng xốp, nhợt nhạt màu; vách ngăn thuôn dài, phồng lên, hình tam giác, màu đỏ tươi, khi quả nang nổ thì dính vào góc trong của một trong các mảnh vỏ. Hạt hình trứng ngược, nằm ngang, mỗi ngăn khoảng 12, đính bằng các thực giá noãn nhỏ, mọng, màu trắng vào các bên của vách ngăn, mùi thơm nhẹ. Áo hạt màu trắng sữa, như da, lỏng lẻo bao quanh hạt, đục lỗ ở đỉnh với lỗ nhỏ có răng cưa. Vỏ hạt một lớp, màu tía sẫm, nhẵn bóng, bên trong xốp và chứa đầy dịch màu tím, tiến vào đáy hình rốn của hạt và đỡ phần đỉnh của rễ mầm; nội nhũ màu trắng, dạng hạt hạnh, phù hợp với hạt và chiếm chủ yếu nửa dưới của nó và gần như không có ở nửa trên. Ngoại nhũ màu trắng và mọng, hìn con quay, chiếm gần như hoàn toàn nửa trên của hạt, kết thúc phía dưới thành bẹ rất mỏng che phủ phôi mầm. Phôi mầm hình trụ hơi phồng, dài như hạt, thẳng đứng. Lá mầm gần hình trụ, gần như trần trụi. Rễ mầm dày, hơi phình tại đỉnh, hướng tâm. Ra hoa từ tháng 7, quả chín tháng 11-12. Ten gọi bản địa tại Myanmar là "taw thalin phu", "hpa la", "pha lar", "toukta".
1
null
Zingiber papuanum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Theodoric Valeton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1918. Mẫu định danh. Mẫu định danh gồm 3 syntype "XI B6 3", "XI B6 33" và "XI B6 136" (ZRC ghi là "XI B6 36"); là cây trồng tại Vườn Thực vật Bogor, thu thập từ đông bắc New Guinea. Các mẫu này đều lưu giữ tại Trung tâm Nghiên cứu Sinh học Indoneasia ở Cibinong (BO). Từ nguyên. Tính từ định danh "papuanum" (giống đực: "papuanus", giống cái: "papuana") là tiếng Latinh, nghĩa là liên quan tới Papua; ở đây là để nói tới Papua New Guinea trên đảo New Guinea. Phân bố. Loài đặc hữu đảo New Guinea; tìm thấy tại Papua New Guinea. Mô tả. Cây thân thảo nhỏ, yếu. Thân lá cao tới 0,5 m, đáy mập ~7 mm, đỉnh ~2 mm, hơi có lông lụa, màu xanh vàng ô liu sẫm. Thân rễ mỏng, gồm các nhánh hình trứng ngược, ruột màu vàng nhạt. Lá hình mác, đỉnh gần nhọn thon tới rất nhọn, đáy trên cuống lá ngắn (4-5 mm), mép men xuống, lá to 19-23 × 5,7-5 cm, lá nhỏ 11,5 × 3-4,2 cm, mặt dưới gần trụ rải rác lông áp ép; lưỡi bẹ thuôn tròn-hình trứng, thường rộng đầu, dài 5-10 mm, màu trắng. Cán hoa thanh mảnh, 15 × 0,5 cm; vảy che phủ 4, dài 3-4 cm, màu đỏ ánh nâu, phía dưới màu ánh trắng. Vảy tổng thể nhỏ, dài 2,5 cm, mọc ở hướng đối diện với lá bắc của cành hoa bông thóc, màu xanh vàng ô liu. Cán hoa và vảy có lông tơ. Cành hoa bông thóc hình elip thon nhỏ dần hoặc hình thoi ngắn, đáy và đỉnh thon nhỏ dần, nhọn, 3,5-6 × 1,7-2 cm, hầu như không phồng. Lá bắc thuôn tròn-hình trứng ngược, mép hẹp (0,25-0,5 mm) màu trắng, khi khô nổi rõ, cong vào trong nhiều hay ít, mấu nhọn nhỏ gần như không thấy, có lông tơ, phần còn lại ngoại trừ đáy nhẵn nhụi, nhẹ, mỏng, có sọc, khi tươi màu xanh lục, các lá bắc ở phía trên màu tía nhạt ở phần gần đỉnh, các lá bắc ngoài tạo thành khoang rỗng, có lông, phồng mạnh. Lá bắc con rộng, 2,5 × 1,5 cm, nhẵn nhụi. Hoa lớn, màu trắng kem, cánh môi giữa màu vành chanh nhạt, dài 4,5-5,4 cm (ống tràng 3,4 cm). Thùy tràng lưng hình trứng, nhọn, 2,4 × 0,9 cm; các thùy tràng bên hẹp, nhọn, 2 × 0,3 cm, hợp sinh với thùy tràng giữa. Cánh môi hình gần tròn, đáy có vuốt, thon nhỏ dần, đỉnh ở hoa trưởng thành có khe chẻ sâu tới giữa, 1,6 × 1,4 mm, các thùy hình nửa trứng, hơi rẽ ra. Nhị lép bên hình elip hoặc hình phỏng thoi nhọn, có vuốt, rời với cánh môi, 1,2 × 0,6 cm. Tương tự "Z. cassumunar" ở chỗ các hoa màu trắng kem lớn gần bằng cành hoa bông thóc, các nhị lép bên lớn, ít lệch, có vuốt, cánh môi chẻ đôi sâu. Phần còn lại có nhiều điểm chung với "Z. littoralis" ở các lá bắc và các nhị lép rời.
1
null
Zingiber pardocheilum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được John Gilbert Baker miêu tả khoa học đầu tiên năm 1892, mặc dù danh pháp này đã được Johann Otto Voigt đề cập từ năm 1845 nhưng chỉ với mỗi danh pháp trần trụi; dựa theo hình vẽ màu được thực hiện tại Phòng mẫu cây từ cây trồng tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Calcutta dưới sự giám sát của Nathaniel Wallich. Phân bố. Loài này có tại đông nam Myanmar và tây bắc Thái Lan. Môi trường sống là rừng lá sớm rụng ẩm ướt, những nơi ẩm thấp, cao độ khoảng 60 m. Được Nathaniel Wallich thu thập tại Burma, có lẽ từ Tenasseim (nay là vùng Tanintharyi) ở đông nam Myanmar. Triboun (2006) ghi nhận nó ở huyện Tha Song Yang, tỉnh Tak, tây bắc Thái Lan, gần với Mawlamyaing (bang Mon). Phân loại. Baker (1892) và Schumann (1904) xếp "Z. pardocheilum" trong tổ "Cryptanthium". Mô tả. Cây thảo thân rễ lâu năm, cao 0,4-1,5 m. Thân rễ nằm ngang, gồm một loạt các củ gần hình cầu nằm sát nhau với nhiều rễ mập. Thân lá mập mạp, đường kính 1,5 cm. Lá thuôn dài-hình mác, 28-30 × 7-10 cm, nhẵn nhụi cả hai mặt, đỉnh nhọn, mặt trên màu xanh lục sẫm, mặt dưới nhạt màu hơn. Miệng của bẹ lá là các tai (lưỡi bẹ) thuôn dài, tù, nhạt màu, dài 3,5 cm. Mặt ngoài bẹ lá màu xanh lục sẫm, nhẵn nhụi. Cụm hoa rất kết đặc, mọc từ thân rễ; cành hoa bông thóc hình cầu dài và rộng tới hình nón ngược hay gần hình con quay, 5-8 cm, dẹp hay thuôn tròn tại đỉnh; gần như không cuống cụm hoa. Lá bắc màu nâu đỏ, hình trứng ngược-hình nêm, cắt cụt hay có khía răng cưa, xếp lợp, các lá bắc bên ngoài dài ~2,5 cm. Hoa màu trắng ánh đỏ; đài hoa hình ống, dài 1,7-2 cm, màu trắng tới ánh đỏ với đỉnh màu đỏ sẫm, dạng màng, 3 răng; ống hoa màu trắng ánh đỏ, dài ~2,5 cm; tràng hoa 3 thùy, màu ánh đỏ, hình trứng hình mác, thùy tràng lưng dài ~2 cm, các thùy bên gần bằng nhau, ngắn hơn ống một chút so với ống tràng; cánh môi 3 thùy chẻ sâu, khảm các đường rộng màu tím hoa cà sẫm hoặc màu tía trên nền màu trắng ánh vàng tới vàng nhạt; thùy giữa thuôn dài rộng, dài 1,5-1,8 cm, hình trứng ngược-hình nêm; các nhị lép bên (các thùy bên của cánh môi) hình tròn. Nhị hoa dài ~3 cm; chỉ nhị rất ngắn; bao phấn thuôn dài hẹp, màu vàng nhạt, dài ~1,5 cm, gần như không cuống; các mô vỏ bao phấn gần, song song, hướng trong; mào bao phấn dài 0,5-1,5 cm, thẳng đứng, hình trụ tới hình mác hẹp, uốn ngược, màu xanh lam cô ban. Bầu nhụy 3 ngăn, rậm lông, gần hình con quay, nhiều noãn đính trụ; vòi nhụy dài, hình chỉ hơi nở rộng ở đỉnh, với một diềm lông ngắn bao quanh đầu nhụy; đầu nhụy hình phễu. Nhụy lép ngắn, tù. Ra hoa và tạo quả tháng 7-9.
1
null
Zingiber parishii là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Joseph Dalton Hooker miêu tả khoa học đầu tiên năm 1873. Tên gọi thông thường tại Sakon Nakhon là ขิงภูพาน (khing phu phan), tại Louangphabang là ີຂງ່ປາ (khing pa, nghĩa là gừng dại). Mẫu định danh. Mẫu định danh: Từ nguyên. Tính từ định danh "parishii" là để vinh danh Charles Samuel Pollock Parish, người đầu tiên phát hiện ra loài này và gửi thân rễ về cho Joseph Dalton Hooker để trồng tại Kew. Phân loại. Baker (1892) và Schumann (1904) xếp "Z. parishii" trong tổ "Lampugium" / "Lampuzium" (= tổ "Zingiber"). Năm 2014, Pramote và Kai Larsen mô tả bổ sung phân loài "Zingiber parishii" subsp. "phuphanense" từ mẫu thu thập tại Vườn quốc gia Phu Phan, tỉnh Sakon Nakhon ở đông bắc Thái Lan. Phân loài này phổ biến ở Lào. Phân bố. Loài này có tại Myanmar, Thái Lan và Lào. Phân bố theo từng phân loài như sau: Mô tả. Rễ mọc thành chùm trên thân rễ bò lan. Gần như hoàn toàn nhẵn nhụi. Thân lá thanh mảnh cao 90 cm, mập cỡ lông thiên nga, gần hình trụ. Bẹ lá thon búp măng, nhẵn nhụi, ngắn, màu xanh lục, các tai tù. Lưỡi bẹ dạng màng, 2 thùy, dài 8 mm. Phiến lá 10-17 × 2,5-3,8 cm, hình elip thuôn dài tới hình mác nhọn, mặt trên xanh lục sẫm, mặt dưới nhạt màu hơn và thưa lông tơ áp ép, đỉnh nhọn hoặc nhọn thon, đáy thuôn tròn và có tai rất ngắn, thu nhỏ thành cuống lá ngắn và hẹp. Cán hoa mập, cao 7,5–10 cm, có bẹ bao; bẹ bao màu xanh lục, thuôn dài, tù, có sọc, có gờ tù. Cành hoa bông thóc 9-15 × 3,5 cm, hình trụ-gần hình chùy rộng đầu. Lá bắc tới 20, thẳng đứng-hở, xếp lợp chặt, hình trứng ngược rộng tới gần hình tròn, 2-2,5 cm, dạng nắp, tù hoặc rộng đầu hoặc cắt cụt hoặc nhọn đột ngột tù, màu xanh lục tới xanh lục ánh vàng; mép rộng, màu đỏ tươi, cuộn trong. Hoa dài 2,5 cm, màu vàng rơm nhạt. Bao hoa ngoài (đài hoa) hình ống, dài 1,8-1,9 cm, tù, 3 thùy ngắn thuôn tròn, khoảng 2 lần ngắn hơn bao hoa trong (tràng hoa). Ống tràng thanh mảnh, màu trắng, dài 3-3,7 cm; các thùy màu trắng, hơi ngắn hơn ống tràng; thùy tràng lưng thẳng-thuôn dài, từ tù tới gần nhọn, cong hình cung, dạng nắp; thùy bên ngoài dài hơn, thẳng-thuôn dài, gần nhọn, uốn ngược; thùy bên trong ngắn hơn, thuôn dài, rộng, tù, thuôn tròn hay cắt cụt ở đỉnh. Cánh môi hình trứng ngược, ~2 cm, tù, màu vàng khảm vuông hình mắt lưới là các gân nhạt màu tía sẫm tới tía nâu; các nhị lép bên thẳng, tù, dài không quá 2 mm. Nhị màu vàng nhạt, dài gần bằng cánh môi, chúi xuống. Bao phấn từ thẳng-thuôn dài tới hình mác; mỏ hình dùi thẳng đứng, nhọn thon, các ngăn dài bằng nhau. Bầu nhụy ngắn. Đầu nhụy 2 thùy nhỏ có lông rung. Phân loài "phuphanense". Thân lá cao 0,9-1,1 m với 17-21 lá, 3-5 bẹ lá, các bẹ phía dưới màu đỏ ánh xanh lục sẫm, phiến lá tiêu giảm, các bẹ phía trên màu xah lục và có lông gần lưỡi bẹ. Phiến la thẳng, 20-32 × 1,8-2,6(-3) cm, đỉnh nhọn thon dài, mặt trên nhẵn nhụi, mặt dưới có lông tơ. Cuống lá dài ~5 mm, màu xanh lục sáng. Lưỡi bẹ 2 thùy; các thùy thuôn tròn, ~4 × 5 mm, màu xanh lục sáng, trong mờ, mép đỉnh có lông rung. Cụm hoa 1-2, thẳng đứng, từ gốc chồi lá. Cuống cụm hoa dài 6-9(-15) cm với 4-6(-9) bẹ, đỉnh thuôn tròn. Cành hoa bông thóc hình trứng ngược, 4-9 × 2,5–4 cm, đỉnh tù. Lá bắc hình trứng ngược tới gần tròn, 3,5-4 × 2,9-3,7 cm, đỉnh tù, uốn ngược, chóp có lông rung, màu xanh lục ánh vàng, có lông tơ ở mặt trên, nhẵn nhụi gần đáy, dạng màng dọc theo mép. Lá bắc con 2,8-3,0 × 1,7-1,8 cm, có lông tơ cả hai mặt. Đài hoa dài 1,3-1,5 cm; ống đài ngắn; các thùy 8-9 × 7 mm, đỉnh 3 răng, chóp có lông rung, đáy có lông tơ. Tràng hoa màu kem, dài ~6 cm; ống tràng dài 3,0-3,2 cm; thùy tràng lưng 2,7-3,2 × 1-1,3 cm; các thùy tràng bên 2,5-2,7(–3) × 0,6 cm. Cánh môi màu kem tới vàng nhạt; thùy giữa hình trứng tới thuôn dài, 1,5-1,7 × 1,2-1,5 cm, đỉnh tù, với các mảng màu hay sọc màu từ tía sẫm tới lam ánh tía nhỏ và thưa thớt ở đáy; các thùy bên bằng nhau hoặc hơi không bằng nhau, 7-10 × 6–8 mm. Bao phấn 1,2-1,3 × 0,4 cm; chỉ nhị dài ~5 mm; phần phụ dài ~1,9 cm, màu kem. Bầu nhụy ~5 × 5 mm, có lông nhung. Noãn 18-25 mỗi ngăn. Quả không rõ. Ra hoa tháng 6-9. Hoa nở buổi chiều. Nó được phân biệt với nguyên chủng ở chỗ cánh môi màu từ kem tới vàng nhạt, chỉ với các mảng màu/sọc màu từ tía sẫm tới lam ánh tía nhỏ và thưa thớt ở đáy so với các đốm lốm đốm phủ khắp mặt cánh môi ở nguyên chủng. Sử dụng. Tại Lào, lá non và cụm hoa non được người dân địa phương ưa chuộng vì mùi dễ chịu, và được dùng làm rau. Lá non nấu với măng chua và cá sông Mê Kông. Các cụm hoa non được luộc hoặc rán và ăn với salad thịt băm trộn gia vị. Nó thỉnh thoảng được trồng trong vườn. Thân rễ được sử dụng để chữa bệnh dạ dày.
1
null
Gừng bọc da (danh pháp khoa học: Zingiber pellitum) là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được François Gagnepain miêu tả khoa học đầu tiên năm 1906. Mẫu định danh. Mẫu định danh: Gồm 2 mẫu syntype như liệt kê dưới đây. Từ nguyên. Tính từ định danh "pellitum" là tiếng Latinh, bắt nguồn từ danh từ "pellis" nghĩa là tấm da lông; ở đây để nói tới đặc điểm toàn cây phủ đầy lông giống như bộ da lông thú của loài này. Phân loại. Với cụm hoa đầu cành, "Z. pellitum" thuộc về tổ "Dymczewiczia". Phân bố. Loài bản địa khu vực từ miền trung Thái Lan qua miền trung Campuchia, miền nam Lào tới khu vực Tây Nguyên và đông nam Việt Nam (tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu). Môi trường sống là rừng, chủ yếu trong các rừng khộp (Dipterocarpaceae) lá sớm rụng, ở cao độ 50-1.100 m. Mô tả. Cây thảo cao vừa phải, khoảng 0,8–1 m, tổng thể đầy lông dài. Các bẹ phía dưới không phiến lá, có sọc, lông nhiều hay ít, các bẹ phía trên mặt lưng phần đỉnh có lông dài, mép có lông rung. Lưỡi bẹ dài 7 mm, như tấm da lông nhỏ, 2 thùy, các thùy tỏa rộng, hình tam giác, nhọn. Lá không cuống; phiến lá hình mác-thẳng, 25 × 7 cm, đáy thon nhỏ dần-cắt cụt, gần như có tai, đỉnh nhọn thon, mặt trên có lông áp ép, lông ở đáy như mụn, mặt dưới rậm lông như lông thú, lông dài, màu trắng, áp ép, mép phần đỉnh rậm lông nhung. Cụm hoa đầu cành (trên ngọn), hình cầu hoặc hình trứng cong xuống, phát sinh từ phần cao nhất trên các bẹ, không cuống, tổng thể đầy lông dài. Cành hoa bông thóc đường kính 4 cm. Lá bắc dài 2,5–3 cm, đáy rộng 1,5 cm, hình trứng, đỉnh nhọn, mặt ngoài như tấm da lông mềm, mặt trong nhẵn nhụi và hơi có sọc màu nâu. Lá bắc con dài 2,5 cm, 1 hoa, có lông dài màu trắng. Đài hoa dạng mo, nhiều lông, dài 2 cm. Tràng hoa …. Nhị ….. Cánh môi …. Bầu nhụy rậm lông. Quả hình cầu hay hình trứng, 1,3 × 0,55 cm, có lông đỏ. Nhiều hạt hình trứng, ~3 mm, màu nâu sẫm. Áo hạt màu trắng. Gần giống với "Z. capitatum" nhưng khác ở các điểm sau: các lá có lông ở mặt trên; lưỡi bẹ dài hơn tới 5-6 lần; cành hoa bông thóc ngắn hơn và thuôn tròn; các lá bắc hình trứng rộng chứ không hình mác, đầy lông; đài hoa 2 lần dài hơn.
1
null
Zingiber pendulum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Mood & Theilade miêu tả khoa học đầu tiên năm 1997. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Mood J.D. 425"; thu thập ngày 15 tháng 3 năm 1993 ở cao độ 1.800 m, tọa độ khoảng , Gunung Alab, bang Sabah, Malaysia. Mẫu holotype lưu giữ tại Trung tâm Nghiên cứu Rừng ở Sandakan, Sabah (SAN). Phân bố. Loài đặc hữu đảo Borneo, tìm thấy tại Gunung Alab trong dãy núi Crocker, bang Sabah, Malaysia. Môi trường sống là rừng nguyên sinh với các loài sồi đá ("Lithocarpus") chi phối, ở cao độ khoảng 1.800 m. Mô tả. Chồi lá cao 1,65-1,8 m, rất thanh mảnh, đường kính 7 mm tại đáy và 3 mm tại đỉnh, lòng thòng chạm mặt đất nên cây cao không quá 1 m. Bẹ lá nhẵn nhụi với ít lông thưa thớt về phía cuống lá. Lưỡi bẹ dài 5–6 mm, cắt cụt, thưa lông. Cuống lá dài 3 mm, với lông mịn màu trắng. Lá hình mác, 18-25 × 3,5-4,5 cm, mặt bóng sáp với mùi hơi hăng, mặt trên chủ yếu nhẵn nhụi hoặc thưa lông dài màu trắng, mặt dưới với lông lụa mịn, gia tăng về phía phần đáy của gân giữa. Cụm hoa mọc từ thân rễ, từ phủ phục tới thẳng đứng; cán hoa dài 7 cm, mỏng, màu từ xanh lục tới đỏ xỉn. Cành hoa bông thóc hình thoi tới hình trứng, nhọn đỉnh, 10-12 × 2,5–3 cm. Lá bắc 2,3-2,5 × 2,5 cm, bóng sáp, màu xanh lục sáng với rìa màu đỏ ánh nâu. Lá bắc con dài 2 cm. Đài hoa dài 2,1 cm. Tràng hoa dài 6,2 cm, màu trắng với ánh màu vàng; thùy tràng lưng 2,8 × 1 cm; các thùy tràng bên 2,4 × 0,5 cm, hợp sinh ở mức bằng với các thùy bên của cánh môi. Cánh môi dài 6 cm, màu trắng; thùy giữa hình tròn, 2 × 1,8 cm, chẻ sâu tại đỉnh; các thùy bên rời, khá phát triển, 1,5 × 0,5 cm. Bao phấn màu vàng-trắng. Hoa với mùi hồ tiêu. Quả không rõ. Giống như "Z. albiflorum" ở chỗ có cụm hoa hình thoi, lá bắc màu xanh lục bóng sáp với rìa màu từ ánh nâu tới đỏ, chiều dài của lá bắc con và đài hoa và cánh môi màu trắng; nhưng khác ở chỗ thân lá dài hơn và thanh mảnh hơn, lòng thòng phủ phục trên mặt đất, lá dài hơn và hình mác hẹp hơn, cánh môi rộng chẻ sâu, các nhị lép bên khá phát triển, rõ nét, rời với thùy giữa cánh môi. Nó cũng sinh sống ở cao độ lớn hơn (1.800 m so với 1.300-1.400 m ở "Z. albiflorum").
1
null
Zingiber petiolatum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Ida Theilade nâng cấp thành loài độc lập năm 1998; dựa trên thứ "Zingiber gracile" var. "petiolatum" do Richard Eric Holttum mô tả năm 1950. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Corner E.J.H. SFN 31570"; thu thập ngày 10 tháng 7 năm 1936 ở cao độ 350 m, tọa độ , tại đèo từ Kroh tới Baling, bang Kedah, Malaysia. Holotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Singapore (SING); các isotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Edinburgh (E), Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K), Naturalis tại Leiden, Hà Lan (L). Từ nguyên. Tính từ định danh "petiolatum" (giống đực: "petiolatus", giống cái: "petiolata") là tiếng Latinh có nghĩa là có cuống lá; ở đây để nói tới cuống lá của nó dài hơn so với của các loài có quan hệ gần trong tổ hợp "Zingiber gracile" ("Z. aurantiacum", "Z. gracile", "Z. elatius"). Phân bố. Loài này có tại miền nam Thái Lan (tỉnh Narathiwat) và Malaysia bán đảo (các bang Kedah, Pahang, Perak). Được tìm thấy trong rừng thường xanh, ở cao độ 100–350 m. Phân loại. Thuộc nhóm "Zingiber gracile" trong tổ "Zingiber", bao gồm "Z. aurantiacum", "Z. elatius", "Z. gracile", "Z. kelantanense", "Z. petiolatum", "Z. raja", "Z. singapurense" và "Z. sulphureum". Mô tả. Thân cao tới 2,5 m, các bẹ ở đáy tràn đầy màu đỏ-nâu, gốc phồng màu ánh vàng nhạt. Lá hình mác, màu xanh lục sẫm, ~40 × 8 cm, gần như nhẵn nhụi. Cuống lá dài 5–15 mm. Lưỡi bẹ 2 thùy, 3–5 mm. Cán hoa cao tới 75 cm, các bẹ màu đỏ-nâu; cụm hoa dài tới 30–45 cm, hình thoi. Lá bắc hình mác, màu hồng, ~7 × 3 cm, dai, đỉnh nhọn. Lá bắc con dài tới 3 cm. Ống tràng 6 cm, các thùy dài 2 cm, màu kem. Cánh môi tới 6 cm, màu kem; thùy giữa thuôn dài, dài 2,5 cm, đỉnh rộng đầu hoặc chẻ đôi; các thùy bên dài 0,3 cm, hình xoan. Nó khác với các loài còn lại của tổ hợp "Zingiber gracile" ở chỗ lá to hơn, cuống lá dài hơn, cán hoa rất dài, cành hoa bông thóc dài và thanh mảnh với các lá bắc dai. Về các lá to và lá bắc dai thì "Z. petiolatum" gần với "Z. puberulum".
1
null
Zingiber phillippsiae là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được John Donald Mood và Ida Theilade miêu tả khoa học đầu tiên năm 1999 như là "Zingiber phillippsii". Mẫu định danh. Mẫu định danh như dưới đây, được lưu giữ tại Đại học Aarhus, Đan Mạch (AAU): Phân bố. Loài này có trên đảo Borneo, trên dãy núi Crocker, bang Sabah, Malaysia. Loại cây thảo này có các chồi lá cao tới 2,8 m, được ghi nhận ở cao độ 1.000 m trong các thung lũng nhỏ/hào rãnh trong rừng nguyên sinh miền núi. Mô tả. Thân màu tía, lá nhẵn nhụi. Cụm hoa tương tự như ở "Z. coloratum".
1
null
Zingiber phumiangense là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Arunrat Chaveerach và Piya Mokkamul mô tả khoa học đầu tiên năm 2007. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "P. Mokkamul & A. Chaveerach 318"; thu thập ngày 17 tháng 7 năm 2006 ở cao độ 1.400 m, núi Phu Miang (tọa độ khoảng ), Vườn quốc gia Klong Tron, tambon Nam Khrai, huyện Nam Pat, tỉnh Uttaradit, miền bắc Thái Lan. Mẫu holotype lưu giữ tại Cục Vườn quốc gia, Bảo hộ Động vật hoang dã và Thực vật ở Chatuchak, Băng Cốc (BKF), isotype tại Văn phòng Bảo hộ Các chủng Thực vật ở Băng Cốc (BK). Từ nguyên. Tính từ định danh "phumiangense" của loài này được đặt tên theo tên của núi Phu Miang, nơi thu mẫu định danh. Phân bố. Loài đặc hữu Thái Lan. Hiện tại nó chỉ được tìm thấy tại núi Phu Miang, Vườn quốc gia Klong Tron, tỉnh Uttaradit, miền bắc Thái Lan, gần biên giới Thái-Lào. Môi trường sống là trên sườn đồi dưới bóng râm của đồi núi trong các khu rừng thường xanh (khu sinh thái thường xanh đồi núi và thảm cỏ trên sa thạch thoáng đãng, gần đỉnh Phu Miang) và cao độ khoảng 1.400 m. Thảm thực vật núi Phu Miang rất khác biệt với thảm thực vật của những ngọn núi khác xung quanh khu vực này. Hầu hết các ngọn núi được che phủ bởi rừng thường xanh đồi núi, rừng thường xanh ẩm ướt hoặc rừng thông. Độ cao của đỉnh cao nhất núi Phu Miang là 1.674 m. Trên đỉnh núi thường có nhiều mây, sương mù và gió. Khu vực đỉnh núi Phu Miang là đồng cỏ trên sa thạch thoáng đãng với rải rác các cây bụi và cây thảo nhưng không có cây gỗ. Nhiều loài được tìm thấy ở núi này là thực vật quý hiếm và đặc hữu Thái Lan, như "Cautleya gracilis", "Cornukaempferia aurantiflora", "Hedychium ellipticum", "Zingiber kerrii", "Z. larsenii", "Caulokaempferia alba", "Lilium primulinum" var. "burmanicum", "Piper khasianum" và "P. umbellatum". Mô tả. Cây thảo sống lâu năm, thân rễ mập, rễ sợi, chồi lá cao 1-1,5 m, đường kính ~2 cm ở gốc. Bạ không phiến lá 7-9, nhẵn nhụi hoặc có lông ngắn, các bẹ sát gốc màu đỏ ánh tía, các bẹ phía trên màu xanh lục ánh đỏ với mép màu đỏ; bẹ lá màu xanh lục, có lông dài màu nâu; cuống lá rất ngắn, dài 2–3 mm, màu xanh lục ánh tía, có lông; lưỡi bẹ có lông, 2 thùy nông, dài 1-1,2 cm, các thuỳ cắt cụt không đều, dạng bẹ chìa, chẻ một bên dài ~1 cm, màu xanh lục với mép màu nâu. Phiến lá hình elip-thuôn dài, 29,5-33 × 6,6-6,8 cm, đỉnh nhọn thon, mép nguyên, đáy thuôn tròn, mặt dưới màu đỏ ánh tía hoặc xanh lục ánh đỏ, có lông, mặt trên màu xanh lục, nhẵn nhụi. Cụm hoa ở gốc, 1-3, mọc từ thân rễ; cuống cụm hoa dài 5–8 cm, với 5-8 bẹ, các bẹ phía dưới nhỏ hơn các bẹ phía trên, màu đỏ ánh tía sẫm, nhẵn nhụi. Cành hoa bông thóc thuôn dài, 8-10 × 4,5–6 cm; lá bắc xếp lợp, các lá bắc phía trên nhỏ hơn các lá bắc phía dưới, lá bắc lớn nhất hình trứng rộng, 3,5-4,2 × 3,5-3,8 cm, màu xanh lục với vệt màu đỏ ánh tía ở chóp, đỉnh nhọn hoặc tù, mép thường trong mờ và có lông rung, nhẵn nhụi, 1 hoa mỗi lá bắc; lá bắc con dạng màng, hình trứng, 3-3,5 × 1,8–2 cm, đỉnh nhọn, mép có lông rung, gấp nếp, nhẵn nhụi. Đài hoa 0,8-1 × 0,4 cm, đỉnh 3 thuỳ, đỉnh thùy nhọn, màu trắng ánh vàng; ống tràng dài 2-2,2 cm, màu vàng, nhẵn nhụi, đỉnh 3 thùy; thùy tràng lưng hình trứng đến hình elip, 1,8-2,3 × 1-1,3 cm, hình thuyền, đỉnh dạng nắp và nhọn, màu vàng, nhẵn nhụi; các thùy tràng bên hình trứng hẹp hoặc hình mác 2-2,2 × 0,5 cm, đỉnh nhọn, màu vàng, nhẵn nhụi. Cánh môi hình tròn-thuôn dài, 2,8-3 × 2-2,3 cm, đỉnh thuôn tròn, mép hơi gợn sóng, màu vàng, nhẵn nhụi, các thùy bên hình trứng không đều, 0,8-1 × 0,7-0,9 cm, đỉnh thuôn tròn, màu vàng. Chỉ nhị rất ngắn, dài ~2 mm và rộng ~4 mm, phẳng; bao phấn đính đáy, thuôn dài, 1,3-1,5 × 0,5-0,6 cm, màu vàng, nhẵn nhụi; phần phụ thẳng, 1,5-1,7 × 0,3-0,4 cm, uốn ngược, chóp hình tam giác dài hơn đầu nhụy, dài 2-2,5 mm, màu vàng. Đầu nhụy hình nón, đỉnh có lông rung, màu trắng; bầu nhụy 3,5 × 2,5 mm, nhẵn nhụi. Không thấy quả. Ra hoa tháng 7-8. Loài này tương tự như "Z. neotruncatum", nhưng khác ở các đặc điểm sau: bẹ lá có lông dài màu nâu; phiến lá hình elip-thuôn dài, mặt trên màu xanh lục, mặt dưới màu đỏ ánh tía hoặc xanh lục ánh đỏ, có lông; cuống lá rất ngắn, có lông; lưỡi bẹ dài 1,0-1,2 cm, dạng bẹ chìa, thường chẻ một bên. Cụm hoa 1-3, từ thân rễ, thẳng đứng, cuống cụm hoa dài 5–8 cm, các bẹ màu đỏ ánh tía sẫm; lá bắc màu xanh lục với vệt màu đỏ ánh tía ở chóp, mép thường trong mờ và có lông rung; lá bắc con hình trứng, đỉnh nhọn, mép có lông rung; đài hoa đỉnh 3 thùy, đỉnh các thùy nhọn; bao phấn đính đáy, bầu nhụy nhẵn nhụi.
1
null
Zingiber pleiostachyum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Karl Moritz Schumann miêu tả khoa học đầu tiên năm 1904. Tên gọi trong tiếng Trung là 多穗姜 (đa tuệ khương), nghĩa đen là gừng nhiều cành hoa. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Henry A. 147"; thu thập tháng 5 năm 1894, vùng núi và hẻm núi Bangkinsing (Bangkinseng, Vạn Kim Thánh sơn 萬金聖山?) thôn Vạn Kim (萬金, tọa độ ), hương Vạn Loan (萬巒), huyện Bình Đông (屏東), đông nam đảo Đài Loan. Các mẫu lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K) với barcode K000815681 và tại Viện Smithsonian, Washington D.C., Hoa Kỳ (US). Từ nguyên. Tính từ định danh "pleiostachyum" bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp "πλείων" (pleíōn) nghĩa là nhiều hơn và "στάχυς" (stákhus) nghĩa là cành hoa bông thóc; ở đây để nói tới nhiều cụm hoa mọc từ mỗi thân cây của loài này ("spicae perplurimae"). Phân bố. Loài này là bản địa đảo Đài Loan, cũng như từng ghi nhận tại tỉnh Quý Châu, miền nam Trung Quốc đại lục. Phân loại. Schumann (1904) xếp loài này trong tổ "Cryptanthium". Mô tả. Cây thảo lâu năm thanh mảnh. Thân giả cao tới 50 cm. Lưỡi bẹ 2 thùy, dài ~6 mm, nhẵn nhụi, các thùy nhọn, dạng màng; cuống lá 3-6 mm; phiến lá thuôn dài hoặc thuôn dài-hình mác, 9-15 × 3-4,5 cm, đỉnh nhọn thon không hình đuôi, đáy nhọn hoặc thuôn tròn, nhẵn nhụi, mặt trên màu xanh lục, mặt dưới màu xám tro; các lá phía dưới tiêu giảm, hình trứng, 2 × 1,2 cm. Cụm hoa nhiều, mọc từ thân rễ, mỗi cụm 4-6 hoa; cuống cụm hoa ngoằn ngoèo, dài 4-7 cm, nhẵn nhụi, với 5-6 bẹ thuôn dài-hình mác, tù hoặc nhọn, 0,5-2,2 cm, dạng màng che phủ; lá bắc thẳng-hình mác, nhọn thon, ~3 cm, nhẵn nhụi; lá bắc con dài 2,5 cm, hình mác hẹp, xoắn lại, nhẵn nhụi. Hoa màu đỏ. Cuống hoa dài 6-7 mm, gần như có lông lụa. Đài hoa dài ~1,8 cm, dạng mo, chẻ một bên. Ống tràng hoa dài ~3,8 cm, rất thanh mảnh; các thùy dài ~2 cm; thùy tràng lưng khoảng 2 lần rộng hơn các thùy tràng bên. Cánh môi gần hình thoi, dài ~2,4 cm; các thùy bên dài ~6 mm, đỉnh nhọn. Bao phấn hình mác, dài ~1,1 cm; phần phụ liên kết dài ~1,1 cm. Bầu nhụy hình cầu, có lông nhung-lông lụa.
1
null
Zingiber porphyrosphaerum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Karl Moritz Schumann miêu tả khoa học đầu tiên năm 1904. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Haviland G.D. 442"; do George Darby Haviland (1857-1901) thu thập năm 1891 ở, tọa độ , gần sông Rajang, tại Sibu, huyện Sibu, tỉnh Sibu, Sarawak, Malaysia. Mẫu holotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K). Phân bố. Loài này là đặc hữu đảo Borneo, được tìm thấy tại các tỉnh Sibu và Sri Aman (vườn quốc gia Batang Ai), bang Sarawak, Malaysia. Phân loại. Schumann (1904) xếp "Z. porphyrosphaerum" trong tổ "Lampugium" (= "Zingiber"). Mô tả. Cây thảo lâu năm. Lá không cuống hoặc cuống rất ngắn, thẳng hoặc thẳng-hình mác, đỉnh thon nhỏ dần-nhọn thon, đáy gần nhọn và thuôn tròn ngắn, mặt trên nhẵn nhụi, mặt dưới thưa lông nhỏ, dài 20–22 cm, rộng 2-2,5 cm. Bẹ lá nhẵn nhụi; lưỡi bẹ rất ngắn, dài không quá 1 mm, cắt cụt, gần như da. Cuống cụm hoa dài 16 cm, nhẵn nhụi, phần trên có lông măng mềm; vảy hình trứng-thuôn dài, nhọn, như da, sắp xếp lỏng lẻo, đáy gần như có lông măng, dài 3,5–5 cm che phủ. Cành hoa bông thóc hình trứng, dài 5 cm, đường kính gần đáy 4,5 cm. Lá bắc ngoài gần tròn, nhọn đột ngột, đáy có lông lụa, đỉnh nhẵn nhụi. Lá bắc con dài 2,5 cm, hình mác, nhọn thon, gần như có lông măng, đỉnh trở thành nhẵn nhụi. Bầu nhụy hình cầu, có lông lụa màu vàng kim. Tương tự như "Z. macrocephalum" nhưng khác ở chỗ phiến lá hẹp và lá bắc có lông lụa mịn.
1
null
Zingiber pseudopungens là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Rosemary Margaret Smith miêu tả khoa học đầu tiên năm 1988 nhưng xuất bản năm 1989. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Chew W.L., Corner E.J.H. & Stainton J.D.A. 1710"; thu thập ngày 10 tháng 8 năm 1961 trên đảo Borneo, ở cao độ 1.300 m, tọa độ khoảng , Ulu Langani, đường Mamut, vườn quốc gia núi Kinabalu, bang Sabah, Malaysia. Mẫu holotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K). Phân bố. Loài bản địa đảo Borneo, được tìm thấy tại các bang Sarawak và Sabah thuộc Malaysia cũng như tại Brunei và tỉnh Đông Kalimantan thuộc Indonesia. Môi trường sống là rừng, ở nơi có bóng râm, cao độ 1.000-1.300 m. Mô tả. Địa thực vật thân thảo, cao tới 2 m, mọc thành cụm. Phần không lá cao 1,2 m, phiến lá màu xanh lục cả hai mặt. Cuống cụm hoa nằm ngang, dài ~20 cm; cụm hoa với các lá bắc màu hồng. Tên bản ngữ ở Lundayeh: "baku talau"; ở Kelabit: "tubu kuri" (kuri là bệnh đỏ da) hoặc "tubu berak" (berak = lợn).
1
null
Zingiber puberulum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Henry Nicholas Ridley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1899. Mẫu định danh. Mẫu định danh như sau: Mẫu "Ridley H.N. s.n." thu thập tháng 8 năm 1891 với lectotype lưu giữ tại SING là lectotype của "Z. puberulum" var. "ovoideum", hiện nay được coi là "Z. fraseri" var. "major". Phân loại. Loài này bao gồm 3 thứ như sau: Ridley (1899) cho rằng "Z. puberulum" có quan hệ họ hàng gần với "Z. gracile" và "Z. griffithii", hai loài thuộc tổ "Zingiber". Phân bố. Loài này có tại Malaysia (bao gồm cả phần bán đảo và phần trên đảo Borneo), Singapore và Thái Lan bán đảo. Môi trường sống là rừng, ở cao độ tới 800 m. Mô tả. "Z. puberulum" var. "puberulum". Thân cao 1,8-2,4(-3) m, hơi dẹp, dày khoảng 1,3 cm, với nhiều lá. Lá thuôn dài-hình elip, đỉnh nhọn thon, đáy hình nêm, dài 25–40 cm, rộng 5-8,5 cm, mép có lông, mặt trên màu từ xanh lục xám tới xanh lục sẫm, nhẵn nhụi trừ gần đáy có lông, mặt dưới nhạt hơn, có lông mềm màu ánh nâu tới nâu ánh vàng, dài 1 mm hoặc hơn, đặc biệt về phía đáy gân giữa; cuống lá từ không có tới rất ngắn và mập, dài 6 mm, rộng, rậm lông len màu nâu; lưỡi bẹ hình trứng, 2 thùy hoặc không, thùy tù, dài 3–10 mm, rậm lông len màu nâu tới vàng che phủ; bẹ lá rậm lông nhiều hay ít, thường màu ánh vàng. Cuống cụm hoa dài 7,5-15(-30) cm, dày 1,9 cm, có lông; bẹ dài 4–7 cm có lông tơ che phủ tới đáy cành hoa. Cành hoa bông thóc nhiều, hình thoi, nhọn, dài 7,5-15(-20) cm, rộng 3–4 cm tại đáy, thon dần lên trên trừ khi già. Lá bắc xếp lợp, hình trứng tới hình trứng ngược hẹp, đỉnh tù hoặc thuôn tròn rộng, có lông tơ, mép khô xác với lông màu nâu, màu hồng tươi, kết cấu chắc chắn (gần như da khi khô). Các lá bắc phía dưới dài 4–6 cm, rộng 2–3 cm; các lá bắc phía trên nhỏ hơn. Lá bắc trong (lá bắc con) hình mác, nhọn, màu trắng nửa trong suốt, dài 1,2-1,5 cm, rộng 2,5 cm, rất mỏng. Đài hoa dạng mo, dài 2,5 cm, khe chẻ ngắn, đỉnh cắt cụt, màu trắng. Ống tràng dài 5 cm, thò ra ngoài lá bắc khoảng 3 mm, màu trắng; các thùy mỏng, màu từ vàng kem tới trắng kem (đôi khi ánh hồng?), hình mác, nhọn, dài 2,5-3,3 cm; thùy tràng lưng rộng 6-6,5 mm; các thùy tràng bên hẹp hơn và hợp sinh trong khoảng 1/4 chiều dài của chúng và hợp sinh với cánh môi. Cánh môi ngắn hơn cánh hoa, 3 thùy, màu trắng kem tới ánh vàng với các điểm màu vàng (hiếm hơn là điểm màu vàng hoàng yến tươi); các thùy bên thuôn dài thuôn tròn, dài tới nửa chiều dài cánh môi, đầu rời hình tam giác tù ngắn, khi ép dẹt tỏa rộng hơn thùy giữa (tổng bề rộng ~2,5 cm); thùy giữa dài hơn, thuôn dài tù tới hình tam giác với đỉnh thuôn tròn, 1,8 × 1,4 cm, không chẻ. Bao phấn thuôn dài hẹp, dài 1,3 cm, màu từ đỏ ánh nâu tới ánh vàng, với đường màu đỏ thắm ở mỗi bên; phấn hoa màu trắng kem; mỏ dài 1,3 cm, màu vàng. Đầu nhụy hẹp theo chiều ngang, gờ thuôn tròn với các nhú khá dài. Bầu nhụy có lông. Nhụy lép dài 6 mm, màu vàng, tù. Quả dài 2-2,5 cm, màu trắng, nứt khi còn bao bọc trong màng nhầy. Hạt dài 7 mm, màu đen, áo hạt màu trắng che phủ 3/4 chiều dài hạt. "Z. puberulum" var. "chryseum". Thân có búi, cao ~1,8 m, mập. Lá thuôn dài hình mác, đỉnh hình đuôi, đáy thuôn tròn rộng, mặt trên màu xanh lục sẫm, mặt dưới nhạt hơn, nhẵn nhụi, không cuống, dài 45 cm, rộng 9,5–10 cm; lưỡi bẹ rất ngắn, thuôn tròn, nguyên. Cuống cụm hoa dài 18 cm, có bẹ che phủ lỏng lẻo, màu vàng chanh tươi. Cành hoa bông thóc hình trụ nhọn thon, dài 18 cm. Lá bắc rộng 1,3-1,9 cm, thuôn tròn, nhẵn nhụi, màu vàng tươi. Lá bắc trong thuôn dài, nhọn, dài 5 cm. Đài hoa dạng mo, nguyên, miệng hình elip lệch, dài 2,5 cm. Ống tràng dài 5 cm, các thùy hình mác nhọn thon, dài trên 2,5 cm, màu trắng kem. Cánh môi 3 thùy; các thùy bên thẳng đứng, thuôn tròn; thùy giữa thuôn dài, tù, nguyên, cùng màu với cánh hoa, dài ~2,5 cm. Bao phấn dài 2,5 cm, phần phụ dài và cong.
1
null
Zingiber raja là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Chong Keat Lim và Kharukanant B. mô tả khoa học đầu tiên năm 2003. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Lim C.K. L 6371"; thu thập năm 2003, tọa độ , Khu bảo tồn rừng Belum, bang Perak, Malaysia. Mẫu holotype lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Rừng Malaysia ở Kepong, Selangor (KEP), mẫu isotype lưu giữ tại Cục Vườn quốc gia, Bảo tồn Động vật hoang dã và Thực vật ở Chatuchak, Băng Cốc (BKF). Phân bố. Loài này có tại miền nam Thái Lan (tỉnh Yala) và Malaysia bán đảo (bang Perak). Được tìm thấy trong vùng đồi núi, các khu rừng thường xanh rậm rạp trên đất nhiều cát, ở cao độ 150–400 m. Phân loại. Thuộc nhóm "Zingiber gracile" trong tổ "Zingiber", bao gồm "Z. aurantiacum", "Z. elatius", "Z. gracile", "Z. kelantanense", "Z. petiolatum", "Z. raja", "Z. singapurense" và "Z. sulphureum". Mô tả. Địa thực vật thân thảo lâu năm. Thân lá cao tới 2,5–3 m, nhẵn nhụi, với khoảng 9 cặp lá. Bẹ lá và cụm hoa nhẵn nhụi. Phiến lá hình elip tới hình trứng, rộng trên 9 cm, nhẵn bóng. Lưỡi bẹ 2 thùy, ngắn (~2 mm), có lông tơ. Cuống cụm hoa thẳng đứng, dài hơn cành hoa bông thóc. Cụm hoa mọc từ gốc, cao 50–62 cm. Cành hoa bông thóc hình trụ tới hình nón, dài tới 36 cm. Lá bắc màu da cam, nhạt hơn ở đáy, đỉnh hơi cong nhưng không uốn ngược. Cánh hoa màu da cam nhạt. Cánh môi màu vàng với nhiều đốm màu tía rất sẫm. Nhị lép với đốm màu vàng. Nhị hoa màu vàng ở đáy, màu tía sẫm ở đỉnh. Sử dụng. Sử dụng làm cây cảnh ở dạng hoa cắt cành.
1
null
Zingiber recurvatum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Shao Quan Tong (童绍全, Đồng Thiệu Toàn) và Yong Mei Xia (夏永梅, Hạ Vĩnh Mai) miêu tả khoa học đầu tiên năm 1987. Tên gọi trong tiếng Trung là 弯管姜 (loan quản khương), nghĩa là gừng ống [tràng hoa] cong. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "S.Q.Tong 24805"; thu thập ngày 4 tháng 7 năm 1981, trong rừng ẩm ướt trên sườn dốc, cao độ 700 m, tọa độ , huyện Mãnh Lạp, tỉnh Vân Nam. Mẫu holotype lưu giữ tại Viện Thực vật Nhiệt đới Vân Nam (YNTBI) tức Vườn Thực vật Nhiệt đới Tây Song Bản Nạp (HITBC), mẫu isotype được lưu giữ tại Viện Thực vật Côn Minh (KUN). Từ nguyên. Tính từ định danh "recurvatum" (giống đực: "recurvatus", giống cái: "recurvata") là tiếng Latinh có nghĩa là cong ngược; ở đây là để nói tới ống tràng hoa cong ngược của loài này ("Corollae tubus … sub angulo recto extrinsecus curvatus…"). Phân bố. Loài này có tại tây nam Trung Quốc (cực nam tỉnh Vân Nam), miền bắc Lào (tỉnh Louangphabang); và có thể có ở miền bắc Việt Nam. Môi trường sống là rừng thường xanh, nơi có độ ẩm cao và đất sét pha trộn với đá nhỏ, thường xuất hiện cùng các loài dương xỉ và "Piper umbellatum". Ở Trung Quốc, nó cũng xuất hiện trong rừng thường xanh ẩm ở cao độ khoảng 700 m. Phân loại. "Z. recurvatum" thuộc tổ "Cryptanthium", có quan hệ họ hàng gần với "Z. skornickovae". Mô tả. Thân giả 2-3 m × 2-3,5 cm, mập chắc. Lá không cuống; lưỡi bẹ 2 thùy, 8-11 mm, rậm lông tơ màu nâu nhạt; bẹ lông tơ màu trắng sớm rụng; phiến lá hình elip-hình mác hoặc hình elip-hình mác hẹp, 45-55 × 11-15 cm, mặt gần trục màu xanh lục sẫm, có lông ở hai bên gân giữa, mặt xa trục màu đỏ ánh tía, có lông tơ mịn ngoại trừ rậm lông tơ dọc theo hai bên gân giữa, đáy thuôn tròn, đỉnh nhọn thon hoặc hình đuôi. Cụm hoa 1-3, mọc từ thân rễ, màu đỏ máu, hình trứng hoặc hình đầu, 7-9 × 6-7 cm; cuống cụm hoa chìm trong lòng đất, dài 3-5(-15) cm, vảy che phủ nhạt màu; lá bắc đỉnh nhọn thon hoặc nhọn thon ngắn, lông tơ sớm rụng; các lá bắc ngoài hình trứng-hình tròn hoặc hình trứng rộng, 3,4-5 × 2,6-4 cm, các lá bắc trong hình elip hoặc hình elip hẹp, 5-5,6 × 1,6-2 cm, đỉnh nhọn thon ngắn; lá bắc con màu đỏ, dài ~4,5 cm, đỉnh lông tơ dài sớm rụng. Đài hoa dài ~1,9 cm, đường kính ~6 mm, đỉnh 2 răng hình dùi tới gần cắt cụt, có râu, hơi có đốm đỏ. Tràng hoa màu đỏ với đáy nhạt màu; ống tràng hơi 4 góc, cong uốn ngược, dài 4,6-5 cm, đường kính 4-5 mm, hơi có lông hơi trắng; các thùy màu đỏ, đỉnh có mấu nhọn; thùy tràng lưng hình mác, 3-3,2 × 1-1,2 cm; các thùy tràng bên hình mác hẹp, rộng 8-9 mm. Cánh môi dài 3,3-3,5 cm, rộng 3,2-3,3 cm, màu trắng với các đốm đỏ, nhẵn nhụi; thùy giữa hình trứng ngược rộng, đỉnh lồi; các thùy bên (nhị lép bên) hình tai, nhỏ. Nhị dài ~3,4 cm. Chỉ nhị dài ~1 mm; mô vỏ bao phấn dài ~1,5 cm; phần phụ kết nối dài ~1,7 cm, đáy màu vàng đỏ. Bầu nhụy màu vàng nhạt, rậm lông tơ trắng và mềm. Vòi nhụy nhẵn nhụi. Đầu nhụy nhạt màu, có lông rung. Các tuyến trên bầu thẳng, dài ~7 mm, màu vàng nhạt. Quả nang màu đỏ tía, hình trứng tam giác dài, 4,5-5 × 2,2-2,6 cm, 3 góc, đỉnh với đài bền. Hạt hình trứng ngược, hạt non màu xanh lục sau đó chuyển sang màu đỏ rồi cuối cùng màu đen, mặt trên có sọc mắt lưới; áo hạt dạng màng, màu trắng che phủ. Ra hoa và tạo quả từ tháng 7-11. Hoa nở buổi sáng.
1
null
Zingiber roseum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được William Roxburgh miêu tả khoa học đầu tiên năm 1800 dưới danh pháp "Amomum roseum". Năm 1807, William Roscoe chuyển nó sang chi "Zingiber" với dẫn chiếu tới hình tại tab. 126 trong Roxburgh (1800) - là hình minh họa trong bài này. Tên gọi thông thường. Tên gọi trong tiếng Telingas (từ để gọi khu vực miền đông Ấn Độ thời kỳ thuộc Anh) là "buma catchicay". Tên gọi trong tiếng Trung là 红柄姜 (hồng bính khương) nghĩa là gừng cuống đỏ. Mẫu định danh. Zingiberaceae Resource Centre (ZRC) hiện tại chưa ghi nhận mẫu vật hoặc hình ảnh nào là holotype/lectotype. Kai Larsen (1996) ghi vắn tắt như sau: "roseum Rosc., Trans. Linn. Soc. 8 (1807) 348. Type: ? Roxburgh. India (to be selected at K)". Từ nguyên. Tính từ định danh "roseum" (giống đực: "roseus", giống cái "rosea") là tiếng Latinh, nghĩa là màu hồng; ở đây là để nói tới các lá bắc của cành hoa bông thóc có màu đỏ nhạt hay màu ánh đỏ. Phân bố. Loài này có trong khu vực từ miền đông và miền nam Ấn Độ qua Bangladesh, Myanmar tới Thái Lan và tây nam Trung Quốc. ZRC cũng ghi nhận các mẫu thu thập tại Việt Nam và Campuchia. Cụ thể, tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia Pháp (MNHN) hiện tại lưu các mẫu sau: "Balansa B. 4215" (MNHN-P-P00289173, MNHN-P-P00289174), "Balansa B. 4216" (MNHN-P-P00289175), "Pételot P.A. 7513" (MNHN-P-P00289178) thu thập tại núi Ba Vì, "Evrard F. 1195" (MNHN-P-P00289176) thu thập tại thác Pongour gần Djiring (nay là Di Linh, tỉnh Lâm Đồng) và "Müller R. 486" (MNHN-P-P00289177) thu thập tại Phnom San-Kos (= Phnom Samkos), núi tại tỉnh Pursat, miền tây Campuchia. Lưu ý rằng các mẫu "Balansa B. 4215" và "Balansa B. 4216" thu thập tương ứng vào tháng 11 năm 1887 và tháng 9 năm 1886 ban đầu được định danh là "Zingiber rubens", nhưng cho tới nay chưa thấy tài liệu nào ghi nhận "Z. roseum" có ở Việt Nam. Phân loại. "Z. roseum" thuộc về tổ "Cryptanthium". Mô tả. Cây thảo thân rễ, cao 1,2–1,5 m. Thân rễ vỏ màu vàng nhạt, rễ có củ. Thân lá thon búp măng, thanh mảnh, nhẵn nhụi, màu xanh lục ở trên và màu nâu ánh đỏ ở dưới, có lông tơ. Phiến lá thuôn dài hoặc thuôn dài-hình mác, 30–40 × 3–5 cm, đỉnh nhọn thon, đáy hình nêm, mép gợn sóng nhiều hay ít, mặt gần trục nhẵn nhụi, mặt xa trục có lông tơ; cuống lá từ không có tới rất ngắn dạng gối, có lông tơ, phủ nhiều chấm đỏ; lưỡi bẹ 2 thùy, đỉnh gần thuôn tròn, dài 2-3,5 cm, dạng màng. Cụm hoa mọc từ thân rễ, phủ phục; cành hoa bông thóc hình elipxoit, dài 3–6 cm, kết rất đặc, màu đỏ ánh hồng; cuống cụm hoa rất ngắn. Lá bắc màu đỏ nhạt, dài 3,5–4,5 cm, đỡ 1 hoa, lá bắc ngoài hình trứng rộng, lá bắc trong hình trứng ngược-hình mác ngược. Lá bắc con hình mác, dài 3–3,2 cm, rộng 0,9–1 cm, dạng màng màu trắng. Hoa màu trắng; đài hoa hình ống, dài ~1,5 cm, dạng màng màu trắng; ống tràng hoa màu trắng, dài ~2 cm; các thùy tràng hoa màu đỏ nhạt, hình mác; cánh môi màu trắng ánh vàng, hình trứng đến thuôn dài-hình nêm, thùy giữa 2,4–2,6 × 1–1,2 cm, ngắn hơn các thùy tràng hoa, mép uốn ngược, nhăn, đỉnh khía răng cưa; các thùy bên (nhị lép bên) màu vàng, hình tròn, rất nhỏ. Nhị hình vòng cung, dài 2–2,5 cm và đường kính 2–3 mm, màu vàng; chỉ nhị dài 2 mm, màu trắng; các thùy bao phấn hình elipxoit, song song, dài 1-1,1 cm và đường kính 2–3 mm, màu trắng ánh vàng, không cựa; mào hẹp, dài và cong, dài 9–10 mm, màu vàng sẫm. Bầu nhụy gần thuôn dài, dài 6–7 mm và đường kính 3–4 mm, màu trắng, có lông tơ, 3 ngăn, noãn đính trụ với 3 hàng noãn ở mỗi ngăn; vòi nhụy dài 3,3–3,5 cm, đầu nhụy hình phễu, dài khoảng 2 mm, hình chén nông, màu trắng. Quả nang gần thuôn dài, 3,4–3,6 × 2,4–2,6 cm, màu đỏ.
1
null
Zingiber rubens là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được William Roxburgh miêu tả khoa học đầu tiên năm 1810. Mẫu định danh. Zingiberaceae Resource Centre (ZRC) hiện tại chưa ghi nhận mẫu vật hoặc hình ảnh nào là holotype/lectotype. Kai Larsen (1996) ghi vắn tắt như sau: "rubens Roxb., Asiat. Res. 11 (1810) 348. Type: Hook.f. & Thomson Herb. Ind. Or. 10. (to be selected at K)". Từ nguyên. Tính từ định danh "rubens" là động tính từ chủ động thời hiện tại trong tiếng Latinh, nghĩa là màu đỏ, ánh đỏ, hung đỏ; ở đây là để nói tới các lá bắc của cành hoa bông thóc có màu đỏ của loài này. Phân loại. "Z. rubens" thuộc về tổ "Cryptanthium". Phân bố. Loài này có trong khu vực từ miền đông Ấn Độ, Bhutan, Nepal qua Bangladesh, Myanmar tới Thái Lan, Lào. Môi trường sống là rừng lá sớm rụng ẩm ướt hay dưới tán trong các rừng tếch, nơi râm mát. POWO cho rằng nó có ở miền nam Trung Quốc, nhưng Flora of China không ghi nhận loài này có ở Trung Quốc. POWO cũng cho rằng nó có ở Việt Nam. Phạm Hoàng Hộ (1999) cũng ghi nhận điều này và gọi nó là gừng đỏ. Tại MNHN hiện tại lưu các mẫu sau: "Balansa B. 4215" (MNHN-P-P00289173, MNHN-P-P00289174), "Balansa B. 4216" (MNHN-P-P00289175), thu thập tương ứng vào tháng 11 năm 1887 và tháng 9 năm 1886 tại núi Ba Vì ban đầu được định danh là "Z. rubens" nhưng hiện tại đều được coi là "Z. roseum". Ngoài ra, hai mẫu do P. A. Eberhardt thu thập tại Việt Nam năm 1907 hiện vẫn được định danh là "Z. rubens" nhưng không có thông tin gì về điểm lấy mẫu là " Eberhardt P.A. s.n." (MNHN-P-P00451010 và MNHN-P-P00451011). Mô tả. Cây thảo thân rễ lâu năm, cao 1,8–2,5 m. Thân rễ ruột màu trắng kem, vỏ màu nâu sáng, mùi thơm nhẹ. Thân lá thon búp măng, nhẵn nhụi, màu xanh lục ở trên, màu hồng ánh đỏ ở dưới. Lá 7 cặp; phiến lá hình elip đến thuôn dài-hình mác rộng, 30–40 × 10–12 cm, mặt gần trục nhẵn nhụi, mặt xa trục có lông tơ, đỉnh nhọn, đáy tù, mép gợn sóng nhiều hay ít; lưỡi bẹ hình tam giác, dài 1 cm, nhẵn nhụi, màu trắng, dạng màng; cuống lá dài 3–5 mm, hơi có lông tơ. Cụm hoa mọc từ thân rễ, phủ phục, kết đặc; cành hoa bông thóc hình trứng, ~6 × 5,5–6,5 cm, đỉnh cắt cụt; cuống cụm hoa dài 6–7 cm. Lá bắc hình mác, dài ~6 cm, màu đỏ tươi, hơi có lông tơ. Lá bắc con thường thẳng, dài 5,5 cm, thưa lông tơ, màu đỏ nhạt, dạng màng. Hoa màu ánh trắng đến đỏ nhạt; đài hoa hình ống, dài 2,5 cm, màu trắng, dạng màng; ống tràng hoa dài ~4 cm, màu ánh trắng đến đỏ nhạt; các thuỳ tràng hoa chuyển thành màu đỏ tươi, có lông tơ; thùy tràng lưng 3,5 × 0,5 cm; các thùy bên ~3 × 0,6 cm; cánh môi nền màu ánh vàng kem điểm những đốm màu đỏ; thùy giữa thuôn dài, 3 × 1 cm, đỉnh thuôn tròn hiếm khi chẻ đôi; nhị lép bên rất nhỏ, thuôn tròn. Nhị dài 3,5 cm, hình vòng cung, màu đỏ sẫm; chỉ nhị dài 2 mm, màu trắng; các thùy bao phấn gần thuôn dài, song song, dài 2 cm, đường kính 4 mm, màu nâu hạt dẻ ánh vàng, mào dài và cong, dài 1,5 m, màu nâu hạt dẻ ánh hồng. Bầu nhụy thuôn dài, dài 5 mm và đường kính 3–4 mm, màu ánh nâu, có lông tơ, 3 ngăn, noãn đính trụ với 3 hàng noãn mỗi ngăn, vòi nhụy dài 5,8–6 cm, đầu nhụy hình phễu, dài ~1 mm, màu trắng, mép có lông rung; tuyến trên bầu 2, thẳng, dài 4–5 mm, màu vàng nhạt. Quả nang hình trứng ngược, ~2,6 × ~1 cm, màu trắng ánh hồng. Ra hoa và tạo quả tháng 8-10.
1
null
Gừng lông hung (danh pháp khoa học: Zingiber rufopilosum) là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được François Gagnepain miêu tả khoa học đầu tiên cuối năm 1902 nhưng xuất bản năm 1903. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Balansa B. 4228"; thu thập tháng 9 năm 1886, tọa độ , gần Tu Phap, núi Ba Vì, Hà Nội, Việt Nam. Mẫu này lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia Pháp (P) và được Gagnepain liệt kê khi mô tả loài này. Website của Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia Pháp coi mẫu này là isosyntype cùng với mẫu "Balansa B. 4229"; thu thập năm 1888, tọa độ , thung lũng Lankok, núi Ba Vì, Hà Nội, Việt Nam. Mẫu này cũng lưu giữ tại P. Từ nguyên. Tính từ định danh "rufopilosum" (giống đực: "rufopilosus", giống cái: "rufopilosa") là tiếng Latinh - bắt nguồn từ "rufus" nghĩa là hung đỏ và "pilosus" nghĩa là lông lá; ở đây là để nói tới lông màu hung đỏ che phủ thân ở giai đoạn phát triển ban đầu, mặt dưới lá và đỉnh các lá bắc phía dưới, những đặc điểm khác biệt nổi bật của loài này. Phân bố. Loài đặc hữu miền bắc Việt Nam (dãy núi Ba Vì). Phân loại. Với cụm hoa đầu cành thì "Z. rufopilosum" thuộc về tổ "Dymczewiczia". Mô tả. Cây thảo lâu năm, thân rễ mập. Thân giả cao 1-1,3 m. Bẹ dài, mặt ngoài có lông màu hung đỏ, phía dưới rậm, phía trên thưa dần; lưỡi bẹ dài 1–2 mm, cắt cụt, rậm lông màu hung đỏ. Lá rất gần nhau, xếp thành 2 dãy, cuống lá từ gần như không có tới có cuống rất ngắn, dài 2–3 mm; phiến lá hình mác, 15-20 × 2–3 cm, đáy thuôn tròn, đỉnh nhọn thon, bền chắc, mặt trên nhẵn nhụi, mép có lông màu hung đỏ, mặt dưới gần đáy có lông màu hung đỏ, những phần khác trụi lông, gân giữa gần bẹ men xuống rõ nét. Cụm hoa đầu cành không cuống, dạng nón thông (hình thoi), hình trứng-nhọn, ~6 × 3 cm; lá bắc xếp lợp dày đặc, hình xoan tới gần tròn, đường kính ~2 cm, rất nhẵn bóng, có sọc, mép khô xác, 5-6 lá bắc phía dưới cùng với đỉnh có lông màu hung đỏ; lá bắc hoa hầu như không lớn hơn. Đài hoa hình ống, dạng mo, có khe chẻ, cắt cụt, các răng khó thấy. Các thùy tràng hoa gần bằng nhau, hình mác, nhiều gân, màu ánh vàng. Bao phấn với phần phụ dài, dạng mỏ, các ngăn song song, rất nhẵn bóng, hình thoi. Cánh môi thuôn dài-tròn, chẻ đôi khác biệt, các thùy hình mác tù. Nhị lép bên ngắn, dạng phiến, tù, hợp sinh gần đáy cánh môi. Đầu nhụy hình ống, có lông rung. Tuyến mật 2, hình dùi. Bầu nhụy nhẵn nhụi. Vỏ quả ngoài mỏng; hạt ít (1-4), nén ép, gần hình cầu, 6 × 6 mm, sẫm màu, hơi có đốm, có áo hạt bao bọc. Áo hạt hình chuông, có thùy. Ra hoa và tạo quả khoảng tháng 9. Loài này không thể nhầm lẫn với các loài họ hàng gần trong tổ "Dimczewiczia" với cụm hoa đầu cành (trên ngọn). Rất dễ dàng phân biệt nó với "Z. marginatum" do nó không có lưỡi bẹ dài và phiến lá nhọn thon kép; với "Z. capitatum" do không có cành hoa bông thóc dài, bẹ lá nhẵn nhụi, lá bắc hình mác có lông nhung, nhị lép dài, cánh môi hình tròn thò ra. Nó cũng khác với "Z. gramineum" (thuộc tổ "Zingiber", với 2 kiểu cụm hoa hoặc là đầu cành không cuống hoặc là ở bên, từ thân rễ với cuống dài), ở chỗ loài kia có cành hoa bông thóc có thể xếp lợp lỏng lẻo và lá bắc rậm lông. Về mức độ xồm xoàm lông lá thì nó có thể so sánh với "Z. puberulum" (thuộc tổ "Zingiber"), nhưng khác ở nhiều đặc điểm quan trọng khác, như loài kia cao lớn hơn với cành hoa bông thóc mọc từ thân rễ trên cuống cụm hoa từ trung bình tới dài. "Z. rufopilosum" có phiến lá bền chắc tương tự như ở lá sậy ("Arundo"), với lông ngắn, màu hung đỏ, cứng, rậm, hơi dính che phủ thân ở giai đoạn phát triển ban đầu, mặt dưới lá và đỉnh các lá bắc phía dưới, là những đặc điểm khác biệt nổi bật.
1
null
Zingiber simaoense là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Qian Yi Yong (钱义咏, Tiền Nghĩa Vịnh) miêu tả khoa học đầu tiên năm 1998. Tên gọi trong tiếng Trung là 思茅姜 (Tư Mao khương), nghĩa là gừng Tư Mao. Mẫu định danh. Các mẫu bao gồm: "Qian Yi-yong 1818" (holotype), "Qian Yi-yong 1817" (isotype), "Qian Yi-yong 1815", "Qian Yi-yong 1874" và "Qian Yi-yong 1893"; Yunnan: Simao, thu thập ngày 7 tháng 9 năm 1988 trong rừng ở cao độ 1.200-1.600m, tọa độ , huyện Tư Mao, tỉnh Vân Nam. Mẫu holotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoa Nam ở Quảng Châu (IBSC), mẫu isotype lưu giữ tại Cục Lâm nghiệp Tư Mao (SMAO). Từ nguyên. Tính từ định danh "simaoense" lấy theo địa danh huyện Tư Mao, địa khu Tư Mao (Là huyện trong giai đoạn 1981-1993, nay là quận Tư Mao trong địa cấp thị Phổ Nhĩ. Địa khu Tư Mao tồn tại từ năm 1970 đến năm 2003), tỉnh Vân Nam. Phân bố. Loài này có tại tây nam Trung Quốc (tỉnh Vân Nam), miền bắc Thái Lan (các tỉnh Chiang Rai, Mae Hong Son). Môi trường sống là rừng, ở cao độ 1.200-1.600 m. Mô tả. Thân rễ mọng; rễ kết thúc bằng các củ nhỏ. Thân giả cao 30-65 cm. Lưỡi bẹ 2 thùy, 1-8 mm, rậm lông nhung. Lá 3-7 với 1-2 lá dưới cùng không cuống lá; cuống lá 0,3-1,5(-4,5) cm, có lông nhung màu từ xám tro sẫm tới nâu xám; phiến lá hình trứng ngược hoặc hình mác ngược hoặc thuôn dài, 1,5-34 × 1,2-7,5 cm, mặt xa trục có lông nhung, mặt gần trục nhẵn nhụi, đáy hình nêm, đỉnh nhọn thon. Cụm hoa mọc từ thân rễ, màu ánh xanh lục hoặc ánh đỏ, hình trứng ngược, 4-7 × 1,5-4 cm, 1-5 hoa; cuống cụm hoa màu trắng, 3-10 cm, có lông nhung, bẹ dạng vảy màu trắng dài 0,8-3,5 cm, thưa lông nhung; lá bắc màu ánh xanh lục hoặc trắng với đỉnh ánh hồng, hình trứng ngược hoặc hình elip, 3-5 × 1,3-2,6 cm, có lông nhung. Đài hoa 1-1,5 cm, màu trắng, có lông nhung. Ống tràng hoa 4-5 cm, màu trắng; các thùy màu trắng, hình trứng hẹp hoặc hình mác, 2,4-3 × 0,7-1,1 cm. Cánh môi hình quạt, nhẵn nhụi, 3 thùy; thùy giữa hình tròn, 1,7-2,5 × 2,2-3 cm, đỉnh cắt cụt hoặc thuôn tròn; các thùy bên hình trứng ngược, dài 1-1,5 cm. Bao phấn 1,1-1,2 cm; phần phụ liên kết 1,2-1,3 cm. Bầu nhụy có lông nhung. Quả nang màu đỏ, hình trứng, dài 2-3,5 cm. Hạt màu đen, hiếm khi màu đỏ. Ra hoa tháng 9. "Z. simaoense" tương tự như "Z. densissimum", nhưng khác ở chỗ phiến lá hình mác ngược hoặc hình trứng ngược hoặc thuôn dài, 1,5-34 × 1,2- 7,5 cm; cuống lá dài 0,3-1,5(-4,5) cm với lông nhung màu xám tro sẫm; các lá dưới cùng không cuống; cành hoa bông thóc hình trứng ngược màu ánh xanh lục hay ánh đỏ; thùy giữa cánh môi thuôn tròn đỉnh cắt cụt hoặc thuôn tròn; quả nang màu đỏ, hạt màu đen hiếm khi màu đỏ so với ở Z. densissimum là phiến lá hình mác hay hình mác hẹp, 22-45 × 4-9 cm; cuống lá 2-5 cm rậm lông nhung màu trắng bạc; cành hoa bông thóc hình trứng hẹp hoặc hình trứng, nhạt màu hoặc màu đỏ nhạt ở đỉnh; thùy giữa cánh môi hình trứng ngược đỉnh có khía răng cưa; quả nhạt màu; hạt nhạt màu. Sử dụng. Trong y học cổ truyền Thái Lan thân rễ được sử dụng làm thuốc chữa các rối loạn dạ dày.
1
null
Zingiber smilesianum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được William Grant Craib miêu tả khoa học đầu tiên năm 1912. Năm 1987, Shao Quan Tong (童绍全, Đồng Thiệu Toàn) và Yong Mei Xia (夏永梅, Hạ Vĩnh Mai) miêu tả khoa học loài "Z. teres", hiện nay được coi là đồng nghĩa của "Z. smilesianum". Tên gọi trong tiếng Trung là 柱根姜 (trụ căn khương). Mẫu định danh. Mẫu định danh: Phân bố. Loài này có tại Lào, Thái Lan và tây nam Trung Quốc. Môi trường sống là rừng thường xanh, ở cao độ 1.200-1.900 m. Phân loại. Với các cụm hoa mọc từ thân rễ, bao gồm cành hoa bông thóc xuất hiện từ mặt đất với cuống cụm hoa phủ phục và ngắn, "Z. smilesianum" thuộc về tổ "Cryptanthium". Mô tả. Thân rễ hình trụ, phân nhánh, thơm. Cây thảo cao 20-40-100 cm, đường kính 6-10 mm. Phiến lá thẳng-hình mác hoặc hình mác, 9-25 × 1,5-4 cm, đỉnh nhọn thon dài tới nhọn hay hình đuôi, đáy hình nêm thon nhỏ dần thành cuống dài 2-5 mm, mặt trên nhẵn nhụi, mặt dưới hơi thưa lông tơ dọc theo gân giữa. Lưỡi bẹ thuôn dài, 2-4 mm, có lông tơ, 2 thùy, các thùy thuôn tròn tại đỉnh. Bẹ phía dưới 4-5, như các bẹ phía trên từ nhẵn nhụi tới hơi thưa lông tơ, màu xanh lục. Cụm hoa mọc từ thân rễ. Cành hoa bông thóc hình thoi hoặc hình trứng tới hình elip hẹp, 3-5 cm × 2-3 cm, cuống cụm hoa ngắn, thanh mảnh, một phần chìm trong lòng đất, phần mập hơn gần nằm ngang dài tới 7 cm chống đỡ cho phần nhô thẳng lên dài tới 5 cm, mỏng mảnh hơn và thưa vảy, vảy nhẵn nhụi. Lá bắc thuôn dài hoặc hình mác rộng tới hình elip, các lá bắc ngoài 2,5-4 × 1-2 cm, lưng từ nhẵn nhụi tới hơi thưa lông, màu trắng với đỉnh nhọn tới nhọn thon có lông tơ màu đỏ. Lá bắc con 2,5-3,5 × 0,3 cm, màu đỏ với đáy trắng, hình ống, chẻ một bên tới đáy. Đài hoa dài 1,3-1,6 cm, đường kính 5 mm, sát đáy có lông tơ áp ép màu nâu hung đỏ, đỉnh 3 răng khó thấy. Ống tràng màu vàng, dài 3-5 cm, nhẵn nhụi; các thùy tràng hình mác hoặc hình mác rộng, rất nhọn, màu vàng, nhẵn nhụi; thùy tràng lưng 2,6-3 × 0,6-1 cm; các thùy tràng bên hình mác hẹp, 2-2,2 × 0,5-0,7 cm. Cánh môi màu vàng tại đáy, các thùy màu tía với sọc vàng; thùy giữa hình elip (đỉnh rộng đầu?) tới hình trứng ngược nhọn thon, 1,8-2 × ~1,2 cm, đỉnh nhọn thon. Các thùy của nhị lép thuôn dài tới 1 cm, rộng 1,5 mm, tạo thành các thùy bên của cánh môi, hình tai. Nhị dài ~2,1 cm, nhẵn nhụi, không chỉ nhị. Bao phấn không cuống, dài 1,1-1,2 cm, phần phụ liên kết gần dài bằng, ~1 cm, màu vàng ở phần gần và màu đỏ tía ở phần xa. Bầu nhụy nhạt màu, cao 3,5 mm, rậm lông áp ép màu từ trắng tới nâu hung đỏ. Vòi nhụy nhẵn nhụi. Đầu nhụy có lông rung. Tuyến trên bầu thẳng, dài ~4 mm, nhạt màu. Quả nang (chưa thuần thục) màu trắng với đỉnh màu tía hay trắng, thuôn dài, ~5 × 1,8 cm, 3 góc. Hạt gần hình trứng ngược, ~5 mm, màu trắng, có áo hạt bao quanh. Áo hạt màu trắng, dạng màng. Ra hoa tháng 9-10, nở vào buổi chiều. Gần giống với "Z. rubens" nhưng kích thước tổng thể nhỏ hơn, lá hẹp hơn. Sử dụng. Tại Lào, chồi non và cụm hoa non được sử dụng làm rau. Các cụm hoa non cũng được sử dụng cùng các loại rau khác để nấu với thịt lợn hay với cá.
1
null
Zingiber spectabile là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được William Griffith (1810-1845) miêu tả khoa học đầu tiên, trong "Notulæ ad Plantas Asiaticas" do John McClelland (1805-1883) thu xếp in ấn năm 1851. Tên gọi thông thường. Tên gọi thông thường: Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Griffith W. 5762"; do William Griffith thu thập tại khu vực Malacca, Malaysia bán đảo, ở tọa độ khoảng . Mẫu lectotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K). Baker (1892) còn đề cập tới mẫu "Maingay 1567" tại K, trong khi Ridley (1899) và Schumann (1904) đề cập tới các mẫu "King's Sammler 3205" và "Curtis 1978". Từ nguyên. Tính từ định danh "spectabile" (giống đực / giống cái: "spectabilis") là tiếng Latinh, nghĩa là đáng chú ý, đáng ngưỡng mộ, trứ danh, tráng lệ, đẹp mắt, có thể thấy; ở đây là để nói tới các cành hoa bông thóc với màu sắc đẹp của loài này. Phân bố. Loài này là bản địa khu vực từ miền nam Thái Lan tới Malaysia bán đảo, nhưng đã du nhập vào khu vực quần đảo Andaman và Nicobar (Ấn Độ), các đảo Java và Sumatra (Indonesia) cũng như quần đảo Chagos trên Ấn Độ Dương. Môi trường sống là rừng, thường thấy ở cao độ tới 400m, nhưng cũng có thể gặp ở cao độ tới 660 m (mẫu "Droop A.J., Nurainas, Ardi W.H. & Anggaro A. 131" thu thập ngày 14 tháng 8 năm 2009 tại Sumatra). Phân loại. Baker (1892) và Schumann (1904) xếp "Z. spectabile" trong tổ "Lampugium" / "Lampuzium" (= tổ "Zingiber"). Mô tả. Thân cao 2,1 m, mập, dày khoảng 1,3 cm, nhẵn nhụi, hơi dẹt. Lá ~25, xếp thành gần như hai dãy; bẹ chẻ; lưỡi bẹ nguyên tới 2 thùy, thuôn tròn tới tù, nhẵn nhụi, mỏng, dạng màng, dài 6–7 mm. Phiến lá gần như không cuống, thẳng-hình mác tới thuôn dài-hình mác, 20-30 × 5–10 cm, đỉnh nhọn thon, màu xanh xám tới xanh lục xỉn mặt trên, mặt dưới thưa lông dài áp ép, nhạt màu hơn. Cán hoa mập, cao 30–45 cm, bẹ che phủ hoàn toàn; bẹ dạng vảy, màu xanh lục, hình elip, tù, nhẵn nhụi, đỉnh hầu như không xếp lợp. Cành hoa bông thóc thuôn dài-hình trụ, đỉnh thuôn tròn, dài khoảng 15-23(-30) cm, đường kính 6–7 cm, hình trứng thuôn dài. Lá bắc lớn, cứng, hình trứng tới gần tròn, 2,5-3,8 cm, thuôn tròn, từ dạng như sụn tới gần như da, ban đầu màu vàng (đôi khi ánh xanh lục) sau trở thành da cam tới đỏ tươi với mép màu nâu ánh đỏ, uốn ngược, tù, đỉnh uốn ngược, như bờ viền. Hoa 1, được bao bọc trong lá bắc nhọn ở phía sau xoắn lại. Đài hoa dạng mo, gần tù, chẻ ngắn, dài 3,5-3,8 cm, có sọc, màu trắng. Ống tràng dài 3,8 cm; các thùy tràng hình mác nhọn, màu trắng ánh vàng; thùy tràng lưng dài 3,8 cm, rộng 1,3 cm, lõm sâu; các thùy tràng bên hẹp hơn, hợp sinh với nhau tới 1/2 chiều dài tại đáy và hợp sinh với cánh môi. Cánh môi 3 thùy, rộng, hơi ngắn hơn cánh hoa, mép khía răng cưa; các thùy bên hình tai tới hình trứng, khoảng 2 lần ngắn hơn thùy giữa, rộng, thuôn tròn; thùy giữa hình trứng ngược, chẻ đôi ngắn tại đỉnh, đáy và phần giữa cánh môi có gờ dày, màu vàng chanh lốm đốm màu từ tía sẫm tới gần như đen ở đỉnh. Nhị dài gần bằng cánh môi. Bao phấn rộng, mọng, màu vàng hoàng thổ; phần phụ dài, cong, nhọn, màu tía. Đầu nhụy hình elip, viền xung quanh là các nhú trong suốt. Quả nang không cuống, dài 2,3 cm, đỉnh có lá bắc màu ánh đỏ xoắn lại, mặt ngoài nhầy, ép thuôn dài. Hạt màu đen tới đen bóng, đỉnh 3-5 phần; áo hạt màu trắng, xé rách. Ra hoa tháng 7-9, tạo quả tháng 11. Sử dụng. Được trồng ở nhiều nơi trên thế giới làm cây cảnh.
1
null
Zingiber squarrosum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được William Roxburgh miêu tả khoa học đầu tiên năm 1810. Mẫu định danh. Zingiberaceae Resource Centre (ZRC) hiện tại chưa ghi nhận mẫu vật hoặc hình ảnh nào là holotype/lectotype. Mu Mu Aung (2016) viết rằng lectotype sẽ được xem xét chỉ định trong số các mẫu vật của Roxburgh lưu giữ tại Cục Khảo sát Thực vật Ấn Độ tại Howrah, Tây Bengal (CAL), dựa theo các nghiên cứu danh pháp kế tiếp. Từ nguyên. Tính từ định danh "squarrosum" (giống đực: "squarrosus", giống cái: "squarrosa") là tiếng Latinh, nghĩa là dạng vảy; ở đây là để nói tới cành hoa bông thóc dạng vảy của loài này ("...spikes squarrose..."). Phân loại. "Z. squarrosum" thuộc về tổ "Cryptanthium". Phân bố. Loài này có tại Ấn Độ (bang Arunachal Pradesh ở đông bắc Ấn Độ cũng như tại quần đảo Andaman và Nicobar), Myanmar. Môi trường sống là rừng lá sớm rụng ẩm ướt, những nơi ẩm thấp, bìa rừng. Hoa nở vào buổi trưa, với 2-3 hoa nở mỗi cụm. Mô tả. Cây thảo thân rễ lâu năm, cao 0,6-1(-2) m. Thân rễ vỏ màu nâu ánh vàng, ruột màu vàng kem, thơm. Rễ dạng củ, mọng nhưng không có củ. Thân lá thẳng đứng hoặc uốn ngược đáng kể, thon búp măng, đà, màu đỏ sẫm phía dưới, màu xanh lục phía trên, ẩn hoàn toàn trong các bẹ lá. Cuống lá từ không có tới dài 2 cm. Lá 7-10 cặp, xếp thành 2 dãy; phiến lá thuôn dài-hình mác, 25-30(-50) × 7,5-10(-15) cm, mặt trên nhẵn nhụi, mặt dưới hơi có lông nhung, đáy hình nêm hoặc thon nhỏ dần, đỉnh nhọn tới nhọn thon, gân giữa phình to ở đáy. Lưỡi bẹ 2 thùy, thường dài ~1 cm nhưng dài nhất tới 3,5 cm, nhọn thon, hình ống, dạng màng, màu trắng ánh xanh lục. Cụm hoa mọc từ thân rễ, phủ phục. Cuống cụm hoa rất ngắn, mọc từ sát gốc thân, khoảng 3/4 ẩn trong lòng đất; bẹ hình trứng tới hình trứng rộng. Cành hoa bông thóc hình trứng tới gần hình cầu, xếp lợp từ lỏng lẻo đến kết đặc, dài 5-8 cm. Lá bắc nhiều, màu xanh lục, hình mác thẳng, dạng vảy, dài 4-6 cm, rộng 1-2 cm, màu xanh lục với màu ánh hồng nhạt về phía đỉnh, xếp lợp, đỉnh có móc, có lông tơ về phía đỉnh. Lá bắc con hình mác, 3 thùy, màu ánh trắng về phía đáy, dài ~3 cm, rộng ~0,6 cm, có lông tơ. Hoa khá lớn, màu trắng, không mùi, dài ~4,5 cm. Đài hoa hình ống, dài ~2,4 cm, có răng ngắn, chẻ một bên. Ống tràng thanh mảnh, dài ~2,4-2,5 cm, màu hồng nhạt tới trắng về phía đáy. Thùy tràng hoa 3; thùy tràng lưng hình trứng-hình mác, ~3 × 1,2 cm, nhọn, màu trắng trong mờ tại đáy, màu hồng ở đỉnh, hình thuyền; các thùy tràng bên ~2,7 × 0,7 cm, màu như thùy tràng lưng, uốn ngược, hợp sinh ở đáy với mặt bụng cánh môi ở ~1,2 cm tính từ đỉnh. Cánh môi 3 thùy, màu hỗn hợp lốm đốm của trắng ánh vàng hay vàng với tía, đỏ về phía đỉnh; thùy giữa hình trứng, nhẵn nhụi, ngắn hơn thùy tràng hoa, ~2,5 × 1,5 cm, đỉnh hơi chẻ đôi, khía răng cưa hay khía tai bèo ở đỉnh, mép hơi gợn sóng và cong xuống; 2 thùy bên (nhị lép bên) ở đáy tỏa rộng, nhỏ, ngắn, ~2 × 0,6 cm, thuôn tròn, màu đỏ với đốm trắng, hợp sinh với thùy giữa cánh môi. Nhị dài gần bằng cánh môi, màu vàng nhạt ở đáy và màu đỏ ánh hồng về phía đỉnh; chỉ nhị ngắn; bao phấn gần như không cuống, màu vàng nhạt, dài ~2,2 cm; mào dài ~0,7 cm; phần phụ liên kết dài ~1,5 cm; mô vỏ song song. Bầu nhụy có lông nhung, 3 ngăn, ~3 × 2 mm, nhiều noãn đính trụ. Vòi nhụy hình chỉ; đầu nhụy màu trắng, lỗ nhỏ hình tròn có lông cứng bao quanh; tuyến trên bầu dài ~4 mm, thẳng. Quả nang có cuống ngắn, màu từ xanh lục tới đỏ, hình trứng, hình nón, 3 ngăn, 3 mảnh vỏ, mở từ đỉnh, mặt trong các ngăn màu đỏ tươi khi còn tươi. Quả khô dài 6-7,5 cm, đường kính 2-2,5 cm. Hạt nhiều, màu đỏ sẫm, thuôn dài, có áo hạt, xếp thành 2 dãy, gắn vào gờ trong vách ngăn. Áo hạt màu trắng, mọng, xé rách, che phủ toàn bộ. Ngoại nhũ tương ứng với hạt. Noãn hoàng che phủ mọi phần của phôi, hình chùy, dài như hạt. Lưu ý. Mu Mu Aung (2016) cho rằng "Z. squarrosum" là loài này. Tuy nhiên, năm 1861 thì George Henry Kendrick Thwaites đã mô tả loài "Z. wightianum" dựa theo hình vẽ tại tab. 2204 của Robert Wight và ghi rõ là [hầu như] không Roxb. (vix Roxb.); và điều này được ghi nhận tiếp trong Baker (1892) và Schumann (1904).
1
null
Zingiber stenostachys là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Karl Moritz Schumann miêu tả khoa học đầu tiên năm 1904. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Korthals P.W. s. n."; thu thập tại núi Balacan và Sakumbang (nay là núi Salamban ở đông nam Banjarmasin), tỉnh Nam Kalimantan. Mẫu isotype lưu giữ tại Naturalis, Leiden, Hà Lan (L). Từ nguyên. Tính từ định danh "stenostachys" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ "στενός" (stenos) nghĩa là hẹp và "στάχυς" (stakhus) nghĩa là cành hoa bông thóc; ở đây là để nói tới đặc điểm khác biệt là cành hoa bông thóc hẹp của loài này. Phân bố. Loài này là đặc hữu đảo Borneo, tìm thấy trong tỉnh Nam Kalimantan, Indonesia. Phân loại. Schumann (1904) xếp "Z. stenostachys" trong tổ "Lampugium" (= "Zingiber"). Mô tả. Cây thảo lâu năm thanh mảnh. Thân lá cao 60–70 cm, gốc 4 bẹ thẳng nhọn hoặc tù và đỉnh nhọn đột ngột có lông rất nhỏ. Lá không cuống hoặc gần như không cuống, thuôn dài hoặc thuôn dài-hình mác, đỉnh nhọn thon không hình đuôi, mặt trên nhẵn nhụi, mặt dưới lúc ban đầu ở gân giữa và đáy thưa lông áp ép lỏng lẻo, 6-13 x 1,3-5,5 cm, khi khô màu xanh lục xám tro. Cành hoa bông thóc dài 10 cm, đường kính 1,5 cm, sau đó mập hơn một chút. Cuống cụm hoa dài 6–7 cm; vảy bao phủ 5, thuôn dài, hơi nhọn, có lông nhỏ, dài 2-2,5 cm, xếp lợp lỏng lẻo. Lá bắc thuôn dài, nhọn, dài 3 cm, có lông. Lá bắc con … Đài hoa …. Cánh môi …. Quả nang gần hình trứng thuôn tròn-3 góc, màu trắng, nhẵn nhụi, dài 1 cm, đường kính 0,5 cm; vỏ quả ngoài dạng màng, nhọn thon; hạt hình elipxoit, dài 5–6 mm, màu nâu hạt dẻ xám, có áo hạt hơi mọng bảo vệ ở đỉnh. Loài này khác biệt ở chỗ có cành hoa bông thóc hẹp và cuống cụm hoa ngắn hơn.
1
null
Zingiber striolatum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Tên gọi thông thường tiếng Trung là 阳荷 (dương hà). Lịch sử phân loại. Loài này được Friedrich Ludwig Diels miêu tả khoa học đầu tiên năm 1900. Ông viết rằng cán hoa cao tới 40-50 cm và xếp nó trong tổ "Lampuzium", mặc dù cho rằng họ hàng gần nhất của nó là "Z. mioga" - một loài thuộc tổ "Cryptanthium". Năm 1904, Karl Moritz Schumann xếp nó vào tổ "Cryptanthium"; đồng thời dựa theo mẫu "Henry 7104" mô tả loài "Z. didymoglossa" cùng tổ này. Năm 1910, Pampanini Renato mô tả loài "Z. hupehense" dựa theo mẫu "Silvestri Padre C. 265" thu thập tại tỉnh Hồ Bắc và viết rằng nó có quan hệ gần với "Z. didymoglossa". Năm 1984, Zhu Zheng Yin (祝正银, Chúc Chính Ngân) mô tả loài "Z. emeiense". Ông cho rằng nó gần giống với "Z. striolatum" nhưng khác ở chỗ có các đặc điểm sau: Lá bắc thuôn dài-hình mác hoặc hình mác; các thùy tràng hoa màu đỏ; cánh môi màu xanh lam-tía-ánh đỏ, thùy giữa gần thuôn tròn hoặc hình trứng ngược-thuôn tròn rộng 1,8-2,5 cm; cuống cụm hoa, quả nang và ống tràng có lông nhung; hạt màu đỏ ánh tía. Hiện nay, người ta cho rằng "Z. didymoglossa", "Z. hupehense" và "Z. emeiense" đều là đồng nghĩa của "Z. striolatum". Năm 1987, Zhu Zheng Yin mô tả loài "Zingiber liangshanense". Trong "Flora of China" (Wu & Larsen, 2000) nó được coi là đồng nghĩa của "Z. striolatum", Năm 2019, Chen "et al." xác định nó là đồng nghĩa của "Z. fallax". Mẫu định danh. Mẫu định danh: Từ nguyên. Tính từ định danh "striolatum" (giống đực: "striolatus", giống cái: "striolata") là tiếng Latinh nghĩa là có sọc, có khía, có rãnh; ở đây để nói tới lưỡi bẹ, cánh hoa và mặt ngoài lá bắc có sọc của loài này. Phân bố. Loài đặc hữu Trung Quốc, được tìm thấy tại Giang Tây, Hải Nam, Hồ Bắc, Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Trùng Khánh, Tứ Xuyên. Môi trường sống là nền rừng, ven suối; ở cao độ 300-1.900 m. Mô tả. Thân rễ màu trắng, mùi thơm nhẹ. Thân giả 1-1,5 m. Lưỡi bẹ cong vào, có sọc màu nâu sẫm, 2 thùy, các thùy thuôn tròn, 4-13 × 2,5 mm, dạng màng, nhẵn nhụi hoặc thưa lông nhung. Lá xếp thành 2 dãy; cuống lá 0,5-1,5 cm; phiến lá hình mác thuôn dài hoặc thẳng-hình mác tới hình elip-hình mác, 25-35 × 3-9 cm, nhiều gân, mặt gần trục nhẵn nhụi, mặt xa trục nhẵn nhụi hoặc thưa lông nhung sau trở thành nhẵn nhụi, đáy thon nhỏ dần thành cuống lá hẹp, đỉnh nhọn thon dài tới hình đuôi. Cụm hoa mọc từ thân rễ; cành hoa bông thóc gần hình trứng tới hình elip, dài (3,5-)6-7 cm, đường kính 2-3 cm, 13-28 hoa. Cuống cụm hoa dài 1,5-2(-17) cm hoặc dài hơn; bẹ che phủ 2-3, dạng vảy, hình trứng, dài 3,5-4 cm, rậm lông nhung. Lá bắc gần dạng da, màu đỏ hay đỏ ánh tía hoặc trắng ánh vàng, hình trứng rộng hoặc hình elip, dài 3-5 cm, rộng 1-2,5 cm, có sọc, mặt ngoài rất thưa lông tơ, không nhọn thon. Lá bắc con hình mác, 3,5 × 0,6 cm, màu trắng, có lông nhung. Đài hoa dài 2-5 cm, màu trắng, dạng màng. Ống tràng hoa màu trắng, dài 4-6 cm, nhẵn nhụi hoặc có lông nhung; các thùy màu trắng tới ánh vàng hoặc đỏ với các sọc thẳng màu nâu ánh tía; thùy tràng giữa hình trứng rộng, ~3 × 1,3 cm; các thùy bên hình mác-hình trứng, 2,7-3,5 × 0,5-2,6 cm. Cánh môi màu tía nhạt hoặc xanh lam-tía-ánh đỏ, lớn, hình tròn-hình trứng, 2,3-3 × 1,8-2,6 cm; các thùy bên ngắn, hình tai, dạng răng, dài 3-8 mm, rộng 2-5 mm. Nhị dài bằng tràng hoa; chỉ nhị rất ngắn; bao phấn hình mác, dài ~1,5 cm; phần phụ liên kết dài ~1,5 cm; tuyến trên bầu dài 5 mm. Bầu nhụy rậm lông. Quả nang nứt theo ngăn, gần hình elipxoit tù 3 góc, dài 3-4,5 cm, đường kính 1-2 cm; vỏ quả ngoài bên ngoài màu đỏ ánh tía, thưa lông tơ, bên trong màu đỏ. Hạt màu từ nâu đen tới đen hoặc đỏ ánh tía, ~ 4mm; áo hạt màu trắng hoặc phần dưới màu hung đỏ nhạt và phần trên màu vàng ánh trắng. Ra hoa tháng 7-9, tạo quả tháng 10-12. "2n" = 22.
1
null
Zingiber sulphureum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Ida Theilade miêu tả khoa học đầu tiên năm 1995. Lịch sử phân loại. Mẫu "Haniff M. & Hj. Mohamed Nur bin Mohamed Ghous SFN 8016" ban đầu được xác định là "Z. gracile" var. "aurantiacum"; sau đó được Isaac Henry Burkill (1870-1965) ghi tên là "Zingiber sulphureum" trên tiêu bản, nhưng ông không công bố loài này. Năm 1995, các tác giả Jill Cowley và Ida Theilade xem xét lại mẫu vật này và cung cấp thông tin mô tả khoa học cho loài này. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Haniff & Nur SNF 8016" = "Haniff M. & Hj. Mohamed Nur bin Mohamed Ghous SFN 8016"; do Mohamed Haniff và Mohamed Nur thu thập ngày 18 tháng 6 năm 1922, ở cao độ 3.500 ft (1.150 m), tọa độ , Gunung Tahan, bang Pahang, Malaysia. Mẫu holotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K), mẫu isotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Singapore (SING). Lưu ý rằng, trong bài báo của mình Jill Cowley và Ida Theilade cho rằng mẫu "Evans s.n" thu thập tháng 6 năm 1917 ở tọa độ tọa độ , Gunung Senyum, lưu giữ tại K và SING cũng là mẫu vật của "Z. sulphureum". Tuy nhiên, mẫu "Evans I.H.N. 13117" thu thập tháng 6 năm 1917 (không rõ tọa độ) tại Gunung Senyum lưu giữ tại K hiện nay được xác định chính xác là holotype của "Amomum cephalotes" . Từ nguyên. Tính từ định danh "sulphureum" (giống đực: "sulphureus", giống cái: "sulphurea"; cách viết khác: "sulfureus", "sulfurea", "sulfureum") là tiếng Latinh, với nghĩa là lưu huỳnh, chứa lưu huỳnh, màu vàng lưu huỳnh; ở đây để nói tới cành hoa bông thóc có màu vàng lưu huỳnh của loài này. Phân bố. Loài này là đặc hữu bang Pahang, Malaysia. Được tìm thấy tại Gunung Tahan, Gunung Senyum và Fraser's Hill. Môi trường sống là rừng mưa thường xanh, trên đất với nền móng granit hay đá vôi, ở cao độ 45-1.200 m. Phân loại. Thuộc nhóm "Zingiber gracile" trong tổ "Zingiber", bao gồm "Z. aurantiacum", "Z. elatius", "Z. gracile", "Z. kelantanense", "Z. petiolatum", "Z. raja", "Z. singapurense" và "Z. sulphureum". Mô tả. Thân rễ tỏa rộng, với vài sợi rễ ở các mắt. Thân lá cao tới 0,7–1 m, hơi uốn vòng cung, gốc phồng. Bẹ lá hình ống, xếp chồng, thưa lông. Khu vực sát gốc nhiều lá gốc với phiến lá tiêu giảm. Gối màu ánh vàng, có lông tơ, dài 1,5–5 mm. Lưỡi bẹ thuôn tròn, 2 thùy ở đỉnh, có lông khi non, dài 1–6 mm. Lá xếp thành 2 dãy, tập trung ở phần đỉnh thân lá. Phiến lá hình trứng, đỉnh nhọn thon ngắn, đáy thon nhỏ dần tạo thành cuống lá có cánh dài 0,4–2 cm, mặt trên nhẵn nhụi, lồi lên, mặt dưới có lông mềm, (4,5-)12-15 × (1,2-)4–5 cm, màu xanh lục sẫm, bóng. Cuống cụm hoa 5-10(-15) cm, ngầm dưới đất, mọc sát gốc. Cụm hoa nhiều, là cành hoa bông thóc, hình thoi, thanh mảnh, đỉnh nhọn thon, 8-14 × 1,5 cm. Lá bắc hình trứng tới hình trứng rộng, xếp lợp chặt, ban đầu màu vàng lưu huỳnh (màu vành kim tươi) sau chuyển thành màu hồng xỉn khi thuần thục, có lông tơ, đỉnh tù tới nhọn, có đốm mịn dọc theo mép khi khô, 3,5-4 × 1,5–2 cm, đỡ 1 hoa. Lá bắc con không có. Hoa dài 5,5 cm, nở 2 cùng một thời điểm. Đài hoa hình ống, hình trứng, màu vàng nhạt, 2-2,3 × 0,5-0,6 cm, thưa lông, hẹp về phía đáy, chẻ tới nửa chiều dài khi thuần thục, nhọn, 2 răng nông ở đỉnh. Tràng hoa màu vàng nhạt, ống tràng 3,6-3,7 × 0,2 cm; thùy tràng lưng cong, hơi dạng nắp, 2,3-2,6 × 0,4-0,8 cm, đỉnh nhọn; các thùy tràng bên 1,8-2,5 × 0,3 cm, hợp sinh cùng nhau ở 2–3 mm tại đáy và hợp sinh cùng cánh môi trong 4–5 mm từ đáy. Cánh môi 3 thùy, màu vàng nhạt, tổng dài 5 cm; thùy giữa thuôn dài, 1,3-1,8 × 0,4 cm, rộng đầu tới chẻ đôi ở đỉnh, khe chẻ 3–4 mm; các thùy bên (nhị lép bên) thuôn dài, 0,5-1 × 0,4 cm, tổng chiều rộng khi ép dẹt là 1,5 cm. Chỉ nhị dài 1 mm. Bao phấn màu vàng nhạt, mô vỏ 10-15 × 3,5-4,5 mm. Phấn hoa hình cầu với vân như màng não. Phần phụ liên kết thuôn dài, 1,2-1,4 cm, bao quanh phần trên của vòi nhụy. Đầu nhụy thò, có lông rung ở đỉnh. Tuyến trên bầu thanh mảnh, dài 4 mm. Bầu nhụy rậm lông tơ, 3-3,5 × 3–4 mm. Quả nang mọng. Hạt màu đen, áo hạt màu trắng, xé rách, 7-8 × 3,5–4 mm. Ra hoa tháng 6-8. Tương tự như "Z. griffithii" và "Z. gracile" var. "aurantiacum"; nhưng khác ở chỗ thân nhỏ hơn; phiến lá nhỏ, hình trứng; cành hoa bông thóc ngắn hơn; các lá bắc màu vàng lưu huỳnh; đài hoa ngắn hơn.
1
null
Zingiber thorelii là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Lịch sử phân loại. Loài này được François Gagnepain miêu tả khoa học đầu tiên năm 1907. Năm 1987, Tong Shao Quan (童绍全, Đồng Thiệu Toàn) mô tả loài "Z. xishuangbannaense" ở Vân Nam, Trung Quốc với tên gọi trong tiếng Trung là 版纳姜 (Bản Nạp khương) - nghĩa đen là gừng [Tây Song] Bản Nạp. Năm 2007, Triboun "et al." cho rằng "Z. xishuangbannaense" là đồng nghĩa của "Z. thorelii". Năm 2016, Bai "et al." lại cho rằng chúng là các loài khác biệt và phục hồi "Z. xishuangbannaense". Tuy nhiên, hiện tại cả WCSP và POWO đều coi "Z. xishuangbannaense" là đồng nghĩa của "Z. thorelii". Mẫu định danh. Mẫu định danh bao gồm: Phân bố. Loài này có tại Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan, Trung Quốc, và Việt Nam. Môi trường sống là rừng thường xanh vùng đất thấp, ở cao độ 500-1.000 m. Phân loại. "Z. thorelii" nghĩa hẹp và "Z. xishuangbannaense" đều thuộc tổ "Cryptanthium". Cùng với "Z. ventricosum" và "Z. oligophyllum" chúng tạo thành tổ hợp "Z. oligophyllum". Mô tả. Mô tả dưới đây pha trộn các mô tả của Gagnepain (1907), Tong (1987) và Flora of China (2000). Cây thảo trung bình, cao 50–100 cm, sát gốc thân lá có bẹ không phiến lá màu đỏ. Thân rễ nằm ngang, mập, nhiều mắt, phân nhiều nhánh, các nhánh mập. Bẹ nhẵn nhụi. Lưỡi bẹ gần như không có hoặc rất ngắn, 2 thùy, dài 2–4 mm, mép khía răng cưa, có lông tơ. Cuống lá dài nhiều hay ít hoặc không cuống, dài 5–30 mm. Lá xếp thành 2 dãy, chen chúc, có cuống, hình trứng ngược tới hình elip hoặc hình mác hẹp, 28-50 × 6–15 cm, đỉnh nhọn thon hoặc hình đuôi, đáy thuôn tròn hoặc thon nhỏ dần hoặc hình nêm, hai mặt nhẵn nhụi hoặc mặt trên thưa lông tơ dọc theo gân giữa còn mặt dưới từ thưa tới rậm lông dọc theo gân giữa; các lá sát gốc hình elip, 4-8 × 2,5–5 cm, đỉnh nhọn thon ngắn, đáy thuôn tròn, mặt gần trục màu xanh lục sẫm, mặt xa trục màu đỏ ánh tía ở các lá sát gốc. Cụm hoa 1-2, mọc từ thân rễ; cán hoa ngắn, nằm ngang sau đó thẳng đứng, dài 4–13 cm, có vảy che phủ. Vảy 4, hình ống-mo, phía dưới xếp lợp bao quanh trục, phía trên lỏng lẻo, dài hơn, nhẵn nhụi. Cụm hoa hình trứng nhọn thon tới elipxoit hay hình mác, lỏng lẻo, 3-9 × 2–4 cm, màu từ cam đỏ tới đỏ. Lá bắc hình mác tới hình trứng hay hình elip, 3-4,5 × 3-3,3 cm, nhẵn nhụi, xếp lợp, hầu như không che khuất trục cụm hoa. Lá bắc con nhỏ hơn, nhạt màu với đỉnh màu đỏ, hình mác tù, 2,4-2,6 × 0,5-0,6 cm, nhẵn nhụi. Đài hoa hình ống, dài 1-1,5 cm, đường kính 4–5 mm, nhẵn nhụi, đỉnh 2-3 răng, các răng ngắn hình tam giác. Ống tràng thanh mảnh, khoảng 2-4 lần dài hơn đài hoa, dài 4–6 cm, nhạt màu với đỉnh màu ánh vàng, các thùy tràng uốn ngược, nhẵn nhụi; thùy tràng lưng hình mác, 1,5-3 × 0,7-1,2 cm, nhọn, màu hồng tới đỏ, cong; các thùy tràng bên hẹp hơn, rộng 4–5 mm, đồng màu. Nhị lép bên không có hoặc tạo thành phần dưới cánh môi. Cánh môi hình trứng, 3 thùy, màu hồng ánh vàng hoặc vàng không đốm; thùy giữa giống như lưỡi bẹ, 1,5-2,5 × 0,6-0,7 cm, mép uốn ngược; các thùy bên ngắn hơn, hình tai, 1-1,5 × 0,7-0,8 cm. Nhị dài ~2,8 cm, không chỉ nhị. Mô vỏ bao phấn dài bằng phần phụ liên kết, ~1,4 cm; phần phụ liên kết rất hẹp, hình dùi, màu vàng tới vàng sẫm, bao quanh vòi nhụy. Bầu nhụy màu ánh xanh lục, nhẵn nhụi hoặc thưa lông. Vòi nhụy nhạt màu, nhẵn nhụi; đầu nhụy màu trắng, có lông rung. Quả nang hình thoi rộng tới hình quả lê ngược, 3 góc, 2,2-4,5 × 0,7-2,5 cm, nhẵn nhụi, với đài bền trên đỉnh, màu đỏ sẫm. Hạt hình elip thuôn dài, có sọc, ~5 × 2,5 mm, hạt non màu xanh lục dần chuyển thành màu đỏ rồi cuối cùng màu đen, phía trên có sọc hình mắt lưới. Áo hạt màu trắng ở đỉnh, dạng màng, xé rách. Ra hoa tháng 7. Trong số các loài của tổ "Cryptanthium" trong chi "Zingiber", nó có thể so sánh với "Z. roseum" nhưng khác ở chỗ không có cánh môi màu trắng, cánh môi không ngắn hơn các thùy tràng hoa cũng như không có lưỡi bẹ dài khô xác; với "Z. chrysanthum" nhưng khác ở chỗ lưỡi bẹ gần như không có và lá bắc nhẵn nhụi; với "Z. wightianum" nhưng khác ở chỗ đài hoa không có lông tơ dài, ống tràng có lông tơ, các thùy bên của cánh môi nhỏ và nhọn, quả thuôn dài và cong. Nó cũng có một số điểm giống với "Z. nimmonii", nhưng khác ở chỗ các lá phía trên có cuống dài; và với "Z. oligophyllum" ở chỗ quả nang hình thoi, nhưng khác ở chỗ lá có cuống.
1
null
Zingiber tuanjuum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Zhu Zheng Yin (祝正银, Chúc Chính Ngân) miêu tả khoa học đầu tiên năm 1984. Tên gọi trong tiếng Trung là 团聚姜 (đoàn tụ khương). Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Li D.Q. & Zhu Z.Y. 2602"; thu thập ở cao độ 900 m, hương Xuyên Chủ (川主, tọa độ khoảng ) - từ tháng 12/2019 là một phần của trấn Tuy Sơn (绥山), Nga Mi Sơn, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Mẫu holotype lưu giữ tại Trường Trung dược tỉnh Tứ Xuyên (四川省中药学校) ở Nga Mi Sơn, Lạc Sơn, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc (EMA). Lưu ý rằng tọa độ mà ZRC đưa ra nằm gần núi Nga Mi là thiếu chính xác, cách Xuyên Chủ khoảng 10 km về phía tây nam. Từ nguyên. Tính từ định danh "tuanjuum" là Latinh hóa tiếng Trung 团 (tuán, đoàn) và 聚 (jù, tụ), nghĩa đen là tụ họp, tụ tập; ở đây hàm ý chỉ cành hoa bông thóc với nhiều hoa tụ tập. Phân bố. Loài đặc hữu Trung Quốc, được tìm thấy tại miền trung tỉnh Tứ Xuyên (Nga Mi Sơn). Môi trường sống là rừng; ở cao độ khoảng 900 m. Phân loại. "Z. tuanjuum" thuộc tổ "Cryptanthium". Mô tả. Thân rễ phân nhánh không đều, ruột màu trắng ánh vàng. Thân giả 0,8-1,5 m. Bẹ có lông nhung áp ép. Lưỡi bẹ 2 thùy hoặc chẻ đôi, 1-2,8 cm, dạng màng, có lông nhung. Lá 7-21; cuống lá 0,5-1,5 cm; phiến lá hình mác, ít khi hình elip, 14-15 × 3,5-8,5 cm, mặt gần trục nhẵn nhụi, mặt xa trục có lông nhung áp ép, đáy hình nêm, đỉnh hình đuôi-nhọn thon. Cụm hoa mọc từ thân rễ, gần hình elipxoit, 5-7 × 2–3 cm, 12-20 hoa; cuống cụm hoa 2-6(-16) cm, có lông nhung; lá bắc màu nâu tía hoặc đỏ ánh tía, hình trứng rộng hoặc hình mác, 3,5-5,5 × 1–5 cm, thưa lông nhung áp ép, đỉnh nhọn thon, các lá bắc phía ngoài gần như xếp thành 2 dãy; lá bắc con dài bằng lá bắc, có lông nhung. Hoa không cuống. Đài hoa màu trắng, ~2,8 cm, dạng màng, chẻ 1 bên, có thùy rộng. Tràng hoa màu trắng ánh vàng; ống tràng 3,5–4 cm, họng thưa lông tơ; các thùy tràng màu trắng ánh vàng, với màu ánh đỏ ở đỉnh, hình mác, mép nguyên hoặc nhăn; thùy tràng lưng ~3,5 × 1,7 cm; các thùy tràng bên 2,5-3,5 × 0,8 cm. Cánh môi hình trứng rộng, 2,5-3,5 × 2,5-3,5 cm, màu vàng với các sọc sẫm màu, mép nguyên hoặc nhăn. Các thùy bên của cánh môi tiêu giảm, giống như răng xoăn hoặc không có. Chỉ nhị ~2 mm; bao phấn ~1,5 cm; phần phụ liên kết 1,8-2,2 cm, màu da cam; tuyến trên bầu dài 5 mm. Bầu nhụy rậm lông nhung. Tương tự như "Z. atrorubens", nhưng khác ở chỗ lưỡi bẹ và cuống cụm hoa dài hơn, cành hoa bông thóc hình elipxoit, nhiều hoa, hoa màu trắng ánh vàng, cánh môi hình trứng rộng, các thùy bên tiêu giảm hình răng xoắn hoặc không có, phần phụ liên kết dài hơn. Sử dụng. Được sử dụng như một loại rau.
1
null
Zingiber vanlithianum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Sijfert Hendrik Koorders miêu tả khoa học đầu tiên năm 1919. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Koorders S.H. 42910 β"; do Sijfert Hendrik Koorders và vợ là Anna Koorders-Schumacher thu thập ngày 21 tháng 7 năm 1916 ở sườn đông núi Idjen, cao độ 800 m, trên đường từ Litjin (Licin) tới cao nguyên Idjen, giữa Banjulinu và Kalibendo, Đông Java, Indonesia. Từ nguyên. Tính từ định danh "vanlithianum" là để vinh danh trung tá A. van Lith, nhà địa hình học của Công ty Đông Ấn Hà Lan, thành viên của "Idjen Kommission" (Ủy ban Idjen) kiêm thành viên điều hành của "Koninklijke Natuurkundige Vereeniging in Nederlandsch Indië" (Hiệp hội các nhà khoa học Hoàng gia tại Đông Ấn Hà Lan). Phân bố. Loài này có tại đảo Java, Indonesia. Mô tả. Cây thảo, mọc thẳng đứng, cao tới 1,3-1,5 m, tương tự như "Amomum maximum", nhưng khác ở chỗ các quả nhẵn nhụi, không cánh, nổ vỡ để phát tán hạt; các quả rất đáng để ý do có màu da cam đẹp mắt, mọc thành chùm quả lớn, rủ xuống mặt đất. Lưỡi bẹ mỏng, dạng da, 6 × 1,33 cm, nhẵn nhụi, khi khô như thủy tinh, màu xám. Lá mọc so le, có cuống. Cuống lá dài 6–10 cm, đáy có lông tơ ngắn, những phần khác nhẵn nhụi. Phiến lá hình mác hẹp-thuôn dài, 47-60 × 8–12 cm, nhiều gân dạng sọc, các gân gần thẳng đứng, đáy thon nhỏ dần, đỉnh nhọn, mặt trên màu xanh lục sẫm, không bóng, nhiều gân bên lồi lên, mỏng, song song, mặt dưới màu xanh lục rất nhạt, xỉn, gân giữa nổi cao, khi non thưa lông tơ mềm dài áp ép che phủ; khi cọ xát không mùi. Cán hoa ngầm dưới đất, ngắn, gần nằm ngang. Cành hoa bông thóc đơn độc, gần hình cầu, ~12 × 10 cm. Lá bắc áp ép, hình elip, đỉnh thuôn tròn, tù hoặc nhọn, dài ~4 cm. Lá bắc con khi gần tạo quả hình elip hoặc thuôn dài, đỉnh tù hoặc thuôn tròn, mép phẳng (hầu như không cụp trong). Hoa không rõ. Cụm quả có lá bắc tù và bền ở đỉnh, dài 12 cm và rộng 10 cm, hình elipxoit-hình cầu, trục cụm quả ngắn, ngầm dưới đất. Quả nang mọng, nhẵn bóng, không lông, thuôn dài, ngăn 3 mảnh vỏ, 4-5 × 1,5–2 cm. Vách ngoài và trong của quả nang màu da cam. Hạt ít, không hiếm khi chỉ 1, hơi hình trứng ngược, hơi nhẵn nhụi, dài ~7,5 mm, vỏ hạt khi non màu đỏ, khi thuần thục màu đen. Áo hạt mọng, màu trắng tuyết, bao phủ gần như toàn bộ hạt, đỉnh chia 3 phần, với các phần có diềm, dài ~1,33 cm.
1
null
Zingiber velutinum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được John Donald Mood và Ida Theilade miêu tả khoa học đầu tiên năm 1999. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Mood J.D. 999"; thu thập ngày 23 tháng 3 năm 1995 ở cao độ 500 m, Ulu Senogang tại nơi một con suối tiếp nước cho sông Senogang, bang Sabah, Malaysia. Mẫu holotype lưu giữ tại Trung tâm Nghiên cứu Rừng ở Sandakan, Sabah (SAN), mẫu isotype lưu giữ tại Đại học Aarhus, Đan Mạch (AAU): Phân bố. Loài này có trên đảo Borneo, tại bang Sabah, Malaysia. Loại cây thảo này có các chồi lá cao tới 3 m, được ghi nhận ở cao độ 500 m. Nó mọc trong các khu rừng thứ sinh cũng như trên đồng bằng ngập lụt lẫn với các loài Zingiberaceae khác và các loài tre, trúc. Mô tả. Cây cao tới 3 m với các cụm hoa hình trứng lớn, các lá bắc màu đỏ tươi và rậm lông.
1
null
Zingiber vinosum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được John Donald Mood và Ida Theilade miêu tả khoa học đầu tiên năm 1997. Mẫu định danh. Mẫu định danh "Gambating A. SAN 90413"; thu thập ngày 26 tháng 5 năm 1982 tại tọa độ , khu bảo tồn rừng Sepilok, bang Sabah, Malaysia. Mẫu holotype lưu giữ tại Vườn Thực vật Hoàng gia tại Kew (K). Phân bố. Loài bản địa đảo Borneo, trong huyện Sandakan, tỉnh Sandakan, bang Sabah, Malaysia. Môi trường sống là những nơi ẩm thấp trong rừng nguyên sinh vùng đất thấp. Thường xuyên được tìm thấy trong các đường mòn chính trong Khu bảo tồn rừng Sepilok và thung lũng Danum. Mô tả. Thân có lá cao 100–125 cm, màu đỏ burgundy sẫm ở đáy. Các bẹ lá nhẵn nhụi. Lưỡi bẹ 2–3 mm, nguyên, nhẵn nhụi. Cuống 2mm, có lông tơ. Các lá hình mác, 25-35 × 6-8,5 cm, mặt trên màu xanh lục, mặt dưới màu đỏ burgundy sẫm, gân giữa về phía đáy mặt dưới hơi có lông, đáy hình nêm, đỉnh nhọn thon. Cán hoa mọc từ rễ, thẳng đứng tới hơi cong, dài tới 30 cm, màu đỏ tươi; các bẹ dài tới 7 cm, có lông. Cành hoa bông thóc hình thoi, 15-30 × 2,5-3,5 cm, đỉnh nhọn. Lá bắc hình mác ngược, 3-5 × 2-2,5 cm, màu đỏ burgundy, mép khô xác, hơi có lông, đỉnh có mấu nhọn. Lá bắc con 2,7 × 1,3 cm, mép hơi có lông. Đài hoa dài 2,7 cm, dài bằng lá bắc con. Tràng hoa dài 6,8 cm, màu trắng tuyết; thùy tràng lưng 2,4 × 1,4 cm. Cánh môi dài 6,7 cm, màu trắng tuyết; thùy giữa hình elip, 2 × 1,3 cm, nguyên, mép gợn sóng; các thùy bên 0,5 × 0,5 cm, thuôn tròn, tỏa rộng tới 1,8 cm khi ép dẹt. Quả không rõ. "Z. vinosum" giống "Z. purpureum" ở chỗ có cụm hoa mọc thẳng đứng, hình thoi tới hình trứng với các hoa màu trắng, nhưng khác ở chỗ thân rễ ít dạng căn hành hơn với mùi ít hăng hơn, màu đỏ burgundy ở đáy các chồi lá, lưỡi bẹ nhẵn nhụi, hình hình mác lớn hơn với màu đỏ burgundy sẫm ở mặt dưới, cán hoa màu đỏ tươi thuôn dài hơn, các lá bắc màu đỏ burgundy và lá bắc con cùng đài hoa dài hơn. Ở "Z. purpureum" thì các lá bắc màu ánh nâu vào lúc ra hoa và chuyển thành đỏ tía chỉ ở các cụm hoa già đang tạo quả trong khi "Z. vinosum" có các lá bắc màu đỏ burgundy tươi ngay từ khi ra hoa.
1
null
Zingiber viridiflavum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được John Donald Mood và Ida Theilade miêu tả khoa học đầu tiên năm 1999. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Mood J.D. 342"; thu thập ngày 30 tháng 8 năm 1991 ở cao độ 550 m, tọa độ , Kallang, dãy núi Crocker, bang Sabah, Malaysia. Mẫu holotype được lưu giữ tại Đại học Aarhus, Đan Mạch (AAU): Các paratype bao gồm: "Mood J.D. 228A", "Mood J.D. 311", "Mood J.D. 313", "Mood J.D. 341", "Mood J.D. 445", "Mood J.D. 739", "Mood J.D. 978" và "Theilade I. 67" đều thu thập tại bang Sabah, Malaysia. Phân bố. Loài này có trên đảo Borneo, tại bang Sabah (bao gồm dãy núi Crocker, bồn địa Labang, Poring, cận kề Sandakan), Malaysia. Loại cây thảo này có các chồi lá cao tới 1,5-1,8 m, được ghi nhận ở cao độ 100–900 m trong các rừng mưa nguyên sinh vùng đất thấp. Mô tả. Cụm hoa hình thoi thanh mảnh với các lá bắc màu vàng-xanh lục.
1
null
Zingiber wandingense là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Tong Shao Quan (童绍全, Đồng Thiệu Toàn) miêu tả khoa học đầu tiên năm 1987. Tên gọi thông thường trong tiếng Trung là 畹町姜 (Uyển Đinh khương), nghĩa là gừng Uyển Đinh. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "S.Q.Tong & C.J. Liao 24823"; thu thập ngày 22 tháng 7 năm 1983 trong rừng ẩm ướt, ở cao độ 1.050 m, tọa độ , trấn Uyển Đinh, huyện Thụy Lệ (nay là thành phố cấp huyện Thụy Lệ), châu tự trị Đức Hoành, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Mẫu holotype lưu giữ Vườn Thực vật Nhiệt đới Tây Song Bản Nạp, Vân Nam (HITBC). Trong bài báo gốc các tác giả ghi là lưu giữ tại Viện Thực vật Nhiệt đới Vân Nam (YNTBI). Từ nguyên. Tính từ định danh "wandingense" (giống đực/giống cái: "wandingensis") là Latinh hóa địa danh Uyển Đinh (畹町, Wanding), nơi thu thập mẫu định danh của loài này. Phân bố. Loài này có tại miền tây tỉnh Vân Nam (thành phố cấp huyện Thụy Lệ), Trung Quốc. Môi trường sống là rừng ẩm ướt, ở cao độ khoảng 1.000 m. Mô tả. Thân giả 1,3-1,6 m × 1,3-2,2 cm, gốc có bẹ không phiến lá màu đỏ ánh tía nhạt. Bẹ lá có sọc dọc rõ nét; lưỡi bẹ 2 thùy, 1,2-1,5 cm, dạng màng, nhẵn nhụi; phiến lá hình mác hoặc hình mác-hình elip, 30-40 × 6-7,5 cm, mặt gần trục nhẵn nhụi màu xanh lục, mặt xa trục thưa lông màu xanh lục nhạt, gân giữa màu đỏ ánh tía và nở rộng ở đáy, đáy hình nêm hoặc thon nhỏ dần, đỉnh nhọn thon hoặc nhọn thon ngắn. Cụm hoa mọc từ thân rễ, hình elipxoit, 6-9 × 2,5-3,5 cm; cuống cụm hoa 3-7 cm, bẹ dạng vảy, nhẵn nhụi, màu từ đỏ nhạt tới sẫm; lá bắc ngoài thuôn dài, 3,5-4 × 1,6-2,1 cm, màu đỏ, nhẵn nhụi; lá bắc trong hình mác hẹp, 3,4-3,8 × 0,8-1 cm, màu trắng với đáy và đỉnh màu đỏ nhạt, nhẵn nhụi; lá bắc con hình ống, ngắn hơn lá bắc, dài 3-3,5 cm, màu trắng với đỉnh và đáy màu trắng ánh đỏ nhạt, có lông tơ. Đài hoa hình ống, màu trắng, dài 1,8-2 cm, đỉnh nguyên, dạng màng, có lông tơ trắng. Ống tràng hoa màu trắng, dài 3,5-4 cm, nhẵn nhụi; các thùy màu ánh vàng, dài bằng nhau, nhẵn nhụi, dạng màng; thùy tràng lưng hình mác hẹp, 2-2,2 × 0,6-0,8 cm, các thùy tràng bên hẹp hơn, rộng 0,5-0,6 cm. Cánh môi màu trắng, mép ánh vàng, hình elip hẹp, 2,8-3 × 1,6-1,8 cm, đỉnh nguyên; không có thùy bên (nhị lép bên). Nhị dài 2 cm, không chỉ nhị. Bao phấn không cuống, màu vàng, mô vỏ dài ~1,4 cm; phần phụ liên kết màu cam, dài ~8 mm, nhẵn nhụi. Bầu nhụy màu gần trắng, rậm lông tơ màu trắng; vòi nhụy thẳng, màu trắng; đầu nhụy màu gần trắng, có lông rung; tuyến trên bầu dài ~0,6 cm, thẳng. Ra hoa tháng 7. Tương tự như "Z. yingjiangense", nhưng khác ở chỗ lá không cuống, đỉnh đài hoa không khía răng cưa, cánh môi hình elip khoảng 33% dài hơn.
1
null
Zingiber wightianum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được George Henry Kendrick Thwaites miêu tả khoa học đầu tiên năm 1861. Mẫu định danh. George Henry Kendrick mô tả "Z. wightianum" dựa theo 2 mẫu sau: Phân bố. Loài này có tại miền nam Ấn Độ (Travancore, nay thuộc các bang Kerala, Tamil Nadu), Sri Lanka. Môi trường sống là rừng, ở cao độ tới 1.300 m. Phân loại. "Z. wightianum" thuộc về tổ "Cryptanthium". Mô tả. Cây cao 45–180 cm. Cuống lá ngắn, tới 4 mm. Lá thuôn dài hình mác hoặc hình mác, đỉnh thon nhỏ dần-nhọn thon, đáy nhọn, dài 15-30(-45) cm, rộng 6,5–10 cm, dạng màng, mặt trên nhẵn nhụi, mặt dưới có lông nhung; bẹ cho tới đỉnh rải rác các mấu nhỏ, không có mấu lớn hình nón ở đỉnh; lưỡi bẹ 2 thùy, các thùy dài 2–5 mm, dạng màng, thuôn tròn, cắt cụt, có lông. Cụm hoa thuôn dài hình elipxoit hoặc gần hình cầu; cuống cụm hoa rất ngắn, dài ~5 cm. Lá bắc màu xanh lục, có lông tơ; lá bắc ngoài hình trứng, dài 3,8 cm; lá bắc trong hình mác, dài 3 cm. Hoa màu đất son tới đỏ. Đài hoa 2 phần sâu, có lông tơ. Ống tràng dài như lá bắc, có lông tơ. Các thùy tràng hoa dài gần bằng nhau, dài 2-2,5 cm, hình mác nhọn thon, từ vàng nhạt màu tới đỏ. Cánh môi ngắn, hình trứng ngược-hình nêm, dài 2-2,5 cm, màu vàng nhạt tới vàng tới đỏ, đốm và gân màu tía, 3 thùy; thùy giữa lớn, hình trứng, tù, chẻ đôi, khía răng cưa; các thùy bên dạng tai, hình mác tới hình trứng, ngắn, nhọn, nhỏ. Nhị ngắn hơn cánh môi, cong phía trên nó. Quả nang hình elipxoit, dài 2,3-2,5 cm, vỏ màu đỏ tươi, bên trong màu đỏ. Hạt màu đen, áo hạt trắng.
1
null
Zingiber wrayi là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Henry Nicholas Ridley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1904 dựa theo mô tả trước đó của David Prain. Mẫu định danh. Mẫu định danh bao gồm: Từ nguyên. Tính từ định danh "wrayi" hoặc "wrayii" là để vinh danh nhà thực vật học người Anh Leonard Wray (1853-1942), người thu thập mẫu định danh loài. Phân bố. Loài này có tại Malaysia bán đảo (các bang Johor, Pahang, Perak, Terengganu), Thái Lan bán đảo (tỉnh Narathiwat). Môi trường sống là rừng, ở cao độ 90–300 m. Phân loại. Gồm 2 thứ là: Mô tả. Cây thảo cao 30–200 cm, màu ánh hồng ở gốc. Lá hình elip hình mác, nhẵn nhụi, 23-30 x 7,5–10 cm, đỉnh nhọn thon-hình đuôi, đáy hẹp hình nêm; cuống lá gần như không có hoặc rất ngắn, dài không quá 2 mm. Lưỡi bẹ 2 thùy sâu, các thùy mỏng, thuôn tròn rộng, dài tới 5 mm, nhẵn nhụi hoặc rất thưa lông. Cán hoa cao 7–30 cm, được các bẹ lớn dài tới 6 cm có lông ở đỉnh bao bọc lỏng lẻo. Cành hoa bông thóc cao 7,5–9 cm (trục cụm hoa tới 6 cm), rộng 6 cm, hình trứng tới hình nón ngược. Lá bắc mỏng nhưng mọng, hình elip, đỉnh thuôn tròn hoặc nhọn ngắn, màu ánh đỏ, dài ~4,2 cm, rộng 1,8–2 cm (các lá bắc thấp nhất rộng tới 2,5 cm), có lông ngắn, mép hơi cụp trong. Lá bắc con dạng mo, dài 4 cm, nhọn, hẹp, có lông áp ép ngắn, màu ánh hồng. Hoa đơn độc màu từ vàng nhạt tới vàng. Đài hoa với bầu nhụy dài ~2,8 cm, chẻ sâu một bên. Ống tràng dài ~4,3 cm; các thùy tràng dài ~2,1 cm, nhọn, mép hơi cụp trong về phía đỉnh, màu vàng nhạt; thùy tràng lưng rộng trên 1 cm gần đáy; các thùy tràng bên hẹp hơn, tiếp giáp với cánh môi nhưng không hợp sinh. Cánh môi màu vàng nhạt với điểm, đốm và gân không đều màu tía tới tía sẫm, 3 thùy, dài bằng thùy tràng hoa; thùy giữa hình trứng với mép hơi nhăn, đỉnh hầu như không rộng đầu, rộng khoảng 3/4 tổng chiều dài cánh môi; các thùy bên thuôn tròn, thẳng đứng hai bên bao phấn, dài không quá 1 cm từ đáy cánh môi tới đỉnh thùy bên và dài 6 mm từ điểm nối với thùy giữa tới đỉnh. Bao phấn thẳng hẹp, chỉ nhị rất ngắn; túi phấn dài gần 1,5 cm; phần phụ dài ~0,8-1,3 cm, màu tía sẫm, cong. Nhụy lép dài 7 mm. Không thấy quả. Hoa nở buổi chiều, vào khoảng 16h. Cụm hoa tương tự như ở "Z. kunstleri" nhưng nhỏ hơn và lá rộng hơn. Cũng tương tự như "Z. inflexum" nhưng có lá rộng hơn với cuống lá ngắn hơn, lá bắc hẹp hơn và hoa khác màu. Nó cũng gần với "Z. gramineum" nhưng rất khác ở chỗ lá rộng hơn.
1
null
Zingiber yingjiangense là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Tong Shao Quan (童绍全, Đồng Thiệu Toàn) miêu tả khoa học đầu tiên năm 1987. Tên gọi thông thường trong tiếng Trung là 盈江姜 (Doanh Giang khương), nghĩa là gừng Doanh Giang. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "S.Q.Tong & C.J. Liao 24862"; thu thập ngày 5 tháng 8 năm 1983 trong rừng ẩm ướt, ở cao độ 980 m, huyện Doanh Giang, châu tự trị Đức Hoành, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Mẫu holotype lưu giữ Vườn Thực vật Nhiệt đới Tây Song Bản Nạp, Vân Nam (HITBC). Trong bài báo gốc các tác giả ghi là lưu giữ tại Viện Thực vật Nhiệt đới Vân Nam (YNTBI). Từ nguyên. Tính từ định danh "yingjiangense" (giống đực/giống cái: "yingjiangensis") là Latinh hóa địa danh Doanh Giang (Yingjiang, 盈江), nơi thu thập mẫu định danh của loài này. Phân bố. Loài này có tại miền tây tỉnh Vân Nam (huyện Doanh Giang), Trung Quốc. Môi trường sống là rừng ẩm ướt, ở cao độ khoảng 1.000 m. Mô tả. Cây thảo mọc thẳng đứng. Thân giả 1-1,2 m, đường kính 1-1,5 cm, gốc có bẹ không phiến lá màu đỏ. Bẹ lá có sọc dọc, lông tơ màu trắng; lưỡi bẹ 2 thùy, 1,5-2,4 cm, dạng màng, có lông tơ màu trắng; cuống lá có lông tơ, mặt gần trục màu ánh đỏ, dài ~5 mm; phiến lá hình elip hoặc hình mác-hình elip, 25-45 × 9–11 cm, mặt xa trục màu ánh lục, có lông tơ, mặt gần trục màu xanh lục, gân giữa nổi cao ở mặt gần trục khi khô, đáy thon nhỏ dần, đỉnh nhọn thon hoặc nhọn thon ngắn. Cụm hoa mọc từ thân rễ, thuôn dài, 5-6 × 2,4–3 cm; cuống cụm hoa 2–6 cm, vảy che phủ màu đỏ nhạt, có lông tơ; lá bắc ngoài hình trứng hoặc thuôn dài, 3,5-5,5 × 2-2,5 cm, lá bắc trong hình mác hẹp, 4-4,5 × 0,7–1 cm, có lông tơ, đỉnh nhọn thon hoặc nhọn thon ngắn; lá bắc con màu đỏ ở mép, hình tam giác hẹp, dài bằng lá bắc, rộng 1,5 cm, nhẵn nhụi. Đài hoa hình ống, dài 1,6–2 cm, có lông tơ, đỉnh 2 răng nhỏ, dạng màng, màu trắng. Ống tràng hoa 3-3,3 cm, màu trắng, rậm lông tơ; các thùy dài bằng nhau, màu đỏ, hình mác, nhẵn nhụi; thùy tràng lưng 2,2-2,5 × 0,4-0,6 cm; các thùy tràng bên rộng 0,4-0,5 cm. Cánh môi màu da cam, thuôn dài, 1,8-2 × 0,9–1 cm, đỉnh nguyên; không có thùy bên. Nhị dài ~2,4 cm; chỉ nhị rất ngắn, màu trắng; bao phấn màu trắng, mô vỏ dài ~1,6 cm; phần phụ liên kết màu da cam, dài ~0,9 cm. Bầu nhụy rậm lông tơ màu nâu; vòi nhụy thẳng, màu trắng; đầu nhụy màu gần trắng, có lông rung; tuyến trên bầu thẳng, dài ~0,5 cm. Ra hoa tháng 8. Gần giống với "Z. longiligulatum" nhưng khác ở chỗ gân giữa nổi lên rõ nét ở mặt trên khi khô, lưỡi bẹ 2 thùy, lá bắc ngoài hình trứng hoặc thuôn dài, lá bắc trong hình mác hẹp, cánh môi thuôn dài.
1
null
Zingiber yunnanense là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Tong Shao Quan và Liu Xian Zhang miêu tả khoa học đầu tiên năm 1991. Tên gọi trong tiếng Trung là 云南姜 (Vân Nam khương), nghĩa là gừng Vân Nam. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "Tong S.Q. & Liu X.Z. 42412"; thu thập ngày 7 tháng 8 năm 1989 ở tọa độ khoảng , huyện Đằng Xung, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Mẫu holotype lưu giữ tại Viện Thực vật Côn Minh (KUN). Từ nguyên. Tính từ định danh "yunnanense" là Latinh hóa địa danh Vân Nam (云南, Yunnan), nơi thu mẫu định danh. Phân bố. Loài bản địa tây nam Trung Quốc, được tìm thấy tại miền tây tỉnh Vân Nam cho tới miền bắc Thái Lan (các tỉnh Kamphaeng Phet, Chiang Mai). Môi trường sống là rừng; ở cao độ khoảng 1.000 m. Phân loại. "Z. yunnanense" thuộc tổ "Cryptanthium". Mô tả. Thân giả 1-1,5 m, gốc có bẹ không phiến lá màu đỏ ánh tía. Bẹ lá màu đỏ rượu vang. Lưỡi bẹ 2 thùy, dài 4–7 mm, rậm lông tơ. Lá phía dưới có cuống ngắn, phía trên không cuống; các lá phía trên hình mác hoặc hình mác hẹp, 15-32 × 5-6,5 cm, mặt gần trục nhẵn nhụi, màu xanh lục, mặt xa trục màu ánh xanh lục, thưa lông, đáy hình nêm, đỉnh nhọn thon hoặc hình đuôi; các lá phía dưới hình elip, ~6,5 × 3,2 cm, đỉnh nhọn thon ngắn, đáy gần như thuôn tròn, mặt trên màu xanh lục sẫm, mặt xa trục màu đỏ ánh tía. Cụm hoa 1-3 (-4), mọc từ thân rễ, hình elip, ~5,7 × 3,5 cm; cuống cụm hoa chìm trong lòng đất, dài 4–12 cm; vảy che phủ màu trắng, nhẵn nhụi. Lá bắc hơi có lông; lá bắc ngoài rậm đốm màu đỏ ánh tía, màu xanh lục ánh vàng ở gốc, hình elip, đỉnh có mấu nhọn; lá bắc trong màu xanh lục, rậm đốm màu đỏ ánh tía ở đỉnh, hình ống, 4-4,5 × 0,6-0,8 cm. Lá bắc con hình ống, dài ~3 cm, đường kính 4 mm, gần đỉnh hơi đỏ, phần trong hơi xanh lục ánh đỏ tới hơi vàng ánh xanh lục. Đài hoa hình ống, màu trắng với đáy và đỉnh màu đỏ, dài ~1 cm, đường kính ~3,6 mm, thưa lông màu trắng. Ống tràng hoa màu trắng với đỉnh màu đỏ, dài ~3,7 cm, nhẵn nhụi; thùy tràng lưng màu đỏ với đáy màu xanh lục hơi ánh vàng, ~3,3 × 1,3 cm, đỉnh nhọn; các thùy bên rộng 0,8 cm. Cánh môi nhẵn nhụi; thùy giữa màu trắng với các sọc màu tía, hình elip, ~2,8 × 1,7 cm; các thùy bên hình tai, dài ~1/4 thuỳ giữa, màu trắng. Nhị dài ~2,5 cm, không chỉ nhị. Bao phấn màu ánh vàng, mô vỏ dài ~1 cm; phần phụ liên kết màu ánh tía, 2 khe hở, dài ~1,5 cm. Bầu nhụy màu xanh lục ánh vàng, rậm lông tơ màu trắng; vòi nhụy màu trắng, nhẵn nhụi; đầu nhụy màu trắng, có lông rung; tuyến trên bầu thẳng, dài ~5 mm, màu trắng. Ra hoa tháng 7. Tương tự như "Z. mioga", nhưng khác ở chỗ ống tràng dài hơn tràng hoa tới 3,7 lần, thùy giữa cánh môi hình elip, dài hơn các thùy bên (nhị lép bên) 2,5 lần, thùy tràng lưng rộng hơn thùy tràng bên 1,6 lần, phần phụ liên kết dài hơn mô vỏ bao phấn 1,5 lần.
1
null
Canna indica là một loài thực vật có hoa trong họ Cannaceae. Loài này được L. mô tả khoa học đầu tiên năm 1753. Đây là loài bản địa bản địa của Đông Nam Hoa Kỳ (Florida, Texas, Louisiana, South Carolina), Mexico, Trung Mỹ, Tây Ấn và phần lớn Nam Mỹ. Loài này cũng được du nhập vào Áo, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Azores, quần đảo Canary, Cape Verde, Madeira, hầu hết các vùng nhiệt đới châu Phi, Đảo Ascension, St Helena, Madagascar, Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, quần đảo Bonin, Ấn Độ, Assam, Nepal, Sri Lanka, quần đảo Andaman, Campuchia, Lào, Thái Lan, Việt Nam, Myanmar, Java, Malaysia, Philippines, đảo Christmas, quần đảo Bismarck, đảo Norfolk, New South Wales, Queensland, Fiji, Tonga, Vanuatu, Kiribati, quần đảo Cook, quần đảo Society, quần đảo Caroline và Hawaii. Canna indica là một cây lâu năm đạt chiều cao khoảng 0,5 m và 2,5 m, tùy thuộc vào sự giống. Những bông hoa lưỡng tính.
1
null
Chamaecostus cuspidatus là một loài thực vật có hoa trong họ Costaceae. Loài này được (Nees & Mart.) C.Specht & D.W.Stev. mô tả khoa học đầu tiên năm 2006. Đây là loài thân thảo bản địa đông Brazil (bang Bahia và Espirito Santo). Tại Ấn Độ, loài này được gọi là cây insulin do nó được sử dụng trong thuốc Ayurveda do các đặc tính chống tiểu đường. Hoa nở vào các tháng ấm. Và chúng trông như các đầu hình nón tại đầu các cành. Trong y học Siddha, loài này được gọi là Kostum. Loài này được trồng ở Kashmir và khu vực dãy núi Himalaya để lấy rễ.
1
null
Michel Floréal Chasles (1793-1880) là nhà toán học người Pháp. Chasles là sinh viên của Trường Bách khoa Paris. Ông là tác giả của hệ thức Chasles. Hệ thức này có nội dung như sau: "Với ba tia Ox, Oy, Oz tùy ý, ta có: sđ(Ox, Oy)+k2π=sđ(Ox, Oz)+sđ(Oz, Oy) với k thuộc Z" (số đo của cung tròn tạo bới Ox và Oy, dù có quay bao nhiêu vòng đi nữa, cũng bằng số đo cung tròn tạo bởi Ox và Oz và tạo bởi Oz và Oy). Đây là hệ thức quan trọng, giúp chúng ta có thể tính toán số đo của góc lượng giác. Nhờ những cống hiến cho toán học, ông giành được huy chương Copley năm 1865. Đồng thời tên của ông được ghi trên tháp Eiffel. Ngoài ra, tên ông còn được dùng để đặt tên cho tiểu hành tinh 18510 Chasles.
1
null
Costus spicatus là một loài thực vật có hoa trong họ Costaceae. Loài này được (Jacq.) Sw. mô tả khoa học đầu tiên năm 1788. Đặc điểm. Cây thân cỏ cao 3 m, đôi khi phân cành ở ngọn, gốc hóa gỗ. Lá dạng trái xoan, màu xanh bóng, thuôn dài, đầu nhọn, gốc thuôn có bẹ ôm thân, xếp xoắn ốc. Cụm hoa ở ngọn hình trụ dài 10 - 20 cm, lá bắc màu nâu đỏ xếp dày đặc sát nhau. Hoa nhỏ màu vàng cam. Có tốc độ sinh trưởng nhanh, ưa sáng hoặc chịu bóng bán phần, đất giàu dinh dưỡng, thoát nước tốt. Nhu cầu nước cao thích hợp làm cây cảnh. Cây nhân giống từ tách bụi. "Costus woodsonii" thường bị nhầm lẫn với "Costus spicatus." Phân bố. "Costus spicatus" có nguồn gốc từ vùng Caribe (bao gồm Dominica, Guadeloupe, Hispaniola, Martinique và Puerto Rico).
1
null
Phân loại học thực vật hay phân loại thực vật là ngành khoa học tìm kiếm, xác định, miêu tả, xếp loại và đặt tên cho thực vật. Ngành khoa học này là một trong những nhánh chính của phân loại học (khoa học về tìm kiếm, miêu tả, xếp loại, và đặt tên các sinh vật sống). Xác định và xếp loại. Hai mục tiêu chính của phân loại thực vật là xác định và xếp loại thực vật. Sự khác biệt giữa hai mục tiêu này là quan trọng và thường bị bỏ qua. Xác định thực vật là việc xác định danh tính của một thực vật chưa biết bằng cách so sánh với mẫu vật thu thập được trước đó hoặc với sự trợ giúp của sách hoặc hướng dẫn nhận dạng. Quá trình xác định sẽ liên kết mẫu với một tên xuất bản. Khi một mẫu thực vật đã được xác định, tên và thuộc tính của nó được biết đến. Xếp loại thực vật là việc đặt thực vật được biết đến vào nhóm hoặc thể loại để hiển thị một số mối quan hệ. Phân loại khoa học sau đó tuân theo một hệ thống các quy tắc được tiêu chuẩn hóa các kết quả, và tiếp tục gộp các thể loại đã được xếp vào một hệ thống phân cấp. Ví dụ, họ bao gồm các loài lili được xếp loại như sau: Sự phân loại thực vật tạo ra một hệ thống được cấu trúc để đặt tên và xếp danh mục cho các loài được phát hiện, và trong trường hợp lý tưởng nó phản ảnh các ý tưởng khoa học về mối quan hệ giữa các loài thực vật.
1
null
Calathea allouia hay cây củ lùn, năng tàu, khoai lùn (một vài nguồn tài liệu tiếng Việt ghi tên khoa học là "Calathea allovia") là một loài thực vật có hoa trong họ Marantaceae. Loài này được (Aubl.) Lindl. mô tả khoa học đầu tiên năm 1829. Đây là loài bản địa của miền nam Nam Mỹ và vùng Caribe, nó cũng được xem là bản địa của Cuba, Hispaniola, Puerto Rico, Tiểu Antilles, Trinidad & Tobago, Venezuela, Colombia, Ecuador, Peru và Brazil. Loài này được cho là có mặt tự nhiên ở Jamaica Loài này được trồng lấy củ với số lượng nhỏ ở nhiều vùng nhiệt đới. Mô tả. Cây mọc thành bụi cao đến 1m, thân khí sinh ngắn. Lá có bẹ và cuống đứng cao 40 – 50 cm; phiến dài 20 – 30 cm, không cân, mỏng, gân bên cách nhau 1 - 2mm; cuống có phần trên vàng vàng, có cấu tạo khác.
1
null
Cua ma hay cua ma cà rồng (vampire crab, Geosesarma sp) là một chi cua được tìm thấy ở Ấn Độ, vùng Đông Nam Á cho đến đảo quốc Solomon và Hawai, cua ma có nguồn gốc từ đảo Sulawesi của Indonesia. Ngày nay giống cua được nuôi với vai trò là một sinh vật cảnh với giá trị cao. Đặc điểm. Cua ma có vóc dáng giống cua đồng, một con cua ma cà rồng dài chỉ từ 1 inch, tương đương với gần 3 cm trở lên, trung bình chung những con cua nhỏ chỉ khoảng 3–4 cm. Cua ma có nhiều màu sắc khác nhau trong đó loài thân tím, mắt vàng trông đáng sợ nhất, mặc dù vậy đây là loài động vật khá nhút nhát có thể nuôi bán cạn Cua ma có đặc điểm nổi trội là màu mắt của cua ma với đôi mắt sáng rực như mắt ma với đôi mắt to mở trừng trừng. Cua ma sống tại những khu rừng gần nguồn nước ngọt, một nửa thời gian cua ma sống trên cạn, thời gian còn lại sống dưới vùng nước nông. Nhiệt độ nước lý tưởng với loài cua là khoảng 24 độ C Thức ăn của loài này là nhữngthứ gì kiếm được, từ giun, dế, các loại cá, côn trùng chết bị rữa cho tới những loại hạt như ngô, đậu… Cua ma là loại sinh vật cảnh hiếm du nhập vào Việt Nam. Trên thế giới được rao bán lên tới gần nửa triệu đồng, thậm chí cả triệu đồng ở thị trường sinh vật cảnh quốc tế. Một con cua ma đực được rao bán 15 USD, còn con cái 25 USD, tương đương với hơn 300.000 đồng đến hơn 500.000 đồng/con.
1
null
Donax canniformis là một loài thực vật có hoa trong họ Marantaceae. Loài này được (G.Forst.) K.Schum. mô tả khoa học đầu tiên năm 1892. Đây là loài duy nhất trong chi Donax , phân bố phổ biến từ quần đảo Andaman, Myanmar (Burma), nam Trung Quốc, Đông Nam Á, New Guinea, Melanesia và Micronesia.
1
null
Goeppertia là một chi thực vật có hoa trong họ Marantaceae. Chi này gồm khoảng 243 loài, trong đó có nhiều loài cho đến gần đây vẫn được gán cho chi "Calathea". Danh pháp khoa học. Chi này được Nees von Esenbeck mô tả lần đầu tiên vào năm 1831, tuy nhiên ông đã dựng nhầm sang một chi khác là "Goeppertia" vào năm 1836, hiện nay đã được đồng nghĩa với "Endlicheria". Năm 1862, August Grisebach mô tả một chi khác cũng dùng tên "Goeppertia"; về sau được đồng nghĩa với "Bisgoeppertia". Tên chi "Goeppertia" để vinh danh Heinrich Göppert (1800–1884), nhà thực vật học và cổ sinh vật học người Đức.
1
null
Schumannianthus dichotomus (lùm nước) là một loài thực vật có hoa trong họ Marantaceae. Loài này được (Roxb.) Gagnep. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1904. Loài này được dùng để sản xuất Shital pati, là một loài chiếu truyền thống ở Đông Ấn Độ và Bangladesh. Trong tiếng Assam, loài này có tên là "Pati Doi"; "Murta", "Mostak", và "Pati bet" "patipata" và "paitara" là tên gọi trong tiếng Bengal, nó được tìm thấy ở những vùng ven sông như đảo Majuli ở Assam, và các huyện Noakhali, Tangail và Sylhet của Bangladesh .
1
null
Chuối rừng hoa đỏ da cam (Musa paracoccinea) là một loài thực vật có hoa trong họ Musaceae. Loài này được A.Z.Liu & D.Z.Li mô tả khoa học đầu tiên năm 2002. Loài này tồn tại ở Việt Nam và là một trong bốn loài mang tên chuối rừng ở Việt Nam: "Musa acuminata" (chuối rừng, chuối hoang nhọn), "Musa balbisiana" (chuối rừng, chuối hột, chuối chát), "Musa coccinea" (chuối sen, chuối hoa rừng, chuối rừng hoa đỏ) và "Musa paracoccinea" (chuối rừng hoa đỏ da cam).
1
null
Abacá ( ; ) tên nhị thức Musa textilis, là một loài chuối có nguồn gốc từ Philippines, được trồng như một loại cây thương mại ở Philippines, Ecuador và Costa Rica. Loài thực vật này còn được gọi là "cây gai dầu Manila", có tầm quan trọng kinh tế lớn, được thu hoạch để lấy sợi, còn được gọi là cây gai dầu Manila, chiết xuất từ ​​thân lá. Abacá cũng là nguồn cung cấp sợi bóng truyền thống được dệt thủ công bằng tay trong nhiều loại vải dệt bản địa khác nhau ở Philippines như "t'nalak", cũng như các loại vải sheer sang trọng thời thuộc địa được gọi là "nipís". Chúng cũng là nguồn cung cấp sợi cho "sinamáy", một loại vật liệu cứng được dệt thô sử dụng cho hàng dệt cũng như trong các nhà máy truyền thống của Philippine. Cây phát triển đến , và trung bình khoảng . Sợi ban đầu được sử dụng để làm sợi xe và dây thừng; hiện nay hầu hết được nghiền thành bột và được sử dụng trong nhiều sản phẩm giấy chuyên dụng bao gồm túi trà, giấy lọc và giấy bạc. Cây được phân loại là sợi cứng, cùng với xơ dừa, henequin và sisal. Loài này được Née miêu tả khoa học đầu tiên năm 1801. Lịch sử. Trước khi hàng dệt tổng hợp được sử dụng, "textili" là nguồn cung cấp chính chất lượng sợi cao: mềm, mượt và mịn. Tổ tiên của abacá hiện đại được cho là có nguồn gốc từ miền đông Philippines, nơi có lượng mưa lớn quanh năm. Các giống abacá hoang dã vẫn có thể được tìm thấy trong các khu rừng nội địa thuộc hòn đảo Catanduanes, cách xa các khu vực canh tác.
1
null
Commelina lukei là một loài thực vật có hoa trong họ Commelinaceae. Loài này được Faden mô tả khoa học đầu tiên năm 2008. Nó đã được ghi nhận ở các vùng đất thấp của Kenya, Tanzania (bao gồm cả Zanzibar) và Madagascar trong nhiều môi trường sống khác nhau. Chúng bao gồm rừng, đồng cỏ và ven đường. Loài này trước đây bị nhầm lẫn với "Commelina mascarenica" và "Commelina imberbis". "C. lukei" được đặt tên để vinh danh nhà thực vật học W. Q. R. Luke, người có bộ sưu tập đầy đủ về loài thực vật này. Phân loại. Commelina lukei trước đây bị nhầm lẫn với loài "Commelina imberbis". Mặc dù một số đặc điểm hình thái có thể tách biệt hai loài này, nhưng những đặc điểm rõ ràng nhất thường không tồn tại trên mẫu vật thu thập được, đặc biệt là hạt, quả nang và hình dạng của các cơ quan hoa. "Commelina lukei" đã được coi là loài khác biệt trong một thời gian (không chính thức), đặc biệt là khi nó được quan sát trên thực địa vì các đặc điểm hoa có thể được nhận biết. Một nghiên cứu kỹ lưỡng về loài thực vật đã không được thực hiện cho đến thời điểm không lâu trước khi công bố loài. Phân bố và môi trường sống. "Commelina lukei" phân bố ở vùng nhiệt đới Đông Phi và đã được ghi nhận tại đông nam Kenya, đông bắc và trung nam Tanzania (bao gồm đảo Zanzibar) và Madagascar. Nó sống chủ yếu ở các khu vực ven biển, nhiều nơi trong số đó có mật độ dân cư đông đúc. Do sự phân bố tương đối rộng của loài "Commelina lukei", tình trạng bảo tồn toàn cầu của nó được coi là Ít quan tâm dựa trên Sách đỏ IUCN. Loài này được tìm thấy trong nhiều môi trường sống khác nhau, kéo dài từ mực nước biển đến 1000 mét. Nó đã được thu thập trong nhiều sinh cảnh rừng khác nhau, điển hình là ở các môi trường mở hơn như ven rừng, khoảnh rừng, đồn điền, và các khu vực trống của rừng núi. Ngoài ra, nó còn sống dọc theo các bờ sông và đôi khi bám vào đá nếu độ ẩm cao.
1
null
Stanley Lloyd Miller (1930-2007) là nhà hóa học người Mỹ gốc Do Thái. Ông là học trò nổi tiếng nhất của Harold Urey. Ông còn là một trong hai người đã tiến hành thí nghiệm nổi tiếng Urey-Miller (người còn lại chính là thầy Urey của ông) để chứng minh những giả thuyết về sự sống mà người thầy của ông đưa ra. Nhờ có thí nghiệm này, Miller và Urey đã chứng minh được giả thuyết của Urey đúng đắn khi phát hiện ra một số amino acid (điều kiện để chứng minh giả thuyết của Urey là đúng đắn). Trong số này, Stanley Miller đã nhận ra được vài loại.
1
null
Người Đài Loan tại hải ngoại (chữ Hán: 海外台灣人; Hán-Việt: Hải ngoại Đài Loan nhân) hay "Đài duệ" (chữ Hán: 台裔) là cộng đồng những người sống bên ngoài lãnh thổ Đài Loan nhưng có tổ tiên hoặc dòng dõi là người Đài Loan. Họ có thể sống tại những vùng lãnh thổ khác như Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, có thể hoặc không nhất tiết phải giữ quốc tịch Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Họ cũng không nhất thiết phải được sinh ra hay sống tại Đài Loan. Một vài trong số họ cũng tự coi mình là Hoa kiều. Một số nhân vật nổi tiếng: Triệu Tiểu Lan, Hà Đại Nhất, Dương Trí Viễn, Trương Đức Bồi, Liên Phảng, Lâm Thư Hào, Mạnh Chiêu Văn, Ông Thiến Ngọc, Ray Chen(Trần Duệ).
1
null
Hermann Klaus Hugo Weyl (1885-1955) là nhà toán học người Đức. Ông là nhà toán học đã áp dụng không gian vectơ để xây dưng hình học Euclid mới. Vẫn là loại hình học dùng phương pháp tiên đề, nhưng thay vì xét trên mặt phẳng, loại hình học này lại xét trong không gian. Đối tượng cơ bản được đưa ra trong hệ tiên đề của hình học này là điểm và vectơ (thay vì là đường thẳng). Đây là loại hình học được nhiều người tiếp nhận một cách thích thú và nó tỏ ra có ích cho toán học. Với nó, ta có thể mở rộng số chiều của không gian một cách dễ dàng và có thể sử dụng tốt lý thuyết tập hợp và lý thuyết phản xạ. Đồng thời các nhà hình học có thể áp dụng cấu trúc của đại số để phát triển hình học theo những hướng mới hơn.
1
null