text
stringlengths
1
148k
label
int64
0
2
__index_level_0__
int64
0
113k
Minecraft là trò chơi điện tử sandbox được phát triển và phát hành bởi Mojang Studio. Trò chơi được tạo bởi Markus "Notch" Persson bằng ngôn ngữ lập trình Java. Sau khi thử nghiệm một số phiên bản riêng tư ban đầu, trò chơi được công khai rộng rãi lần đầu tiên vào tháng 5 năm 2009 trước khi phát hành đầy đủ vào tháng 11 năm 2011 với việc Notch từ chức và Jens "Jeb" Bergensten tiếp quản công việc phát triển. Kể từ đó "Minecraft" được chuyển sang một số nền tảng khác và trở thành trò chơi điện tử bán chạy nhất mọi thời đại với hơn 238 triệu bản được bán ra và gần 140 triệu người dùng hoạt động hằng tháng tính đến năm 2021. Trong "Minecraft", người chơi khám phá thế giới 3D hình khối được tạo ngẫu nhiên với địa hình gần như vô hạn, đồng thời có thể khám phá và khai thác các nguyên liệu thô, chế tạo công cụ và vật phẩm, xây dựng các công trình và máy móc đơn giản. Tùy thuộc vào chế độ chơi, người chơi có thể chiến đấu với các mob được điều khiển bởi máy tính cũng như hợp tác hoặc cạnh tranh với các người chơi khác trong cùng một thế giới. Trò chơi có các chế độ bao gồm chế độ sinh tồn trong đó người chơi cần tài nguyên để xây dựng thế giới và duy trì sức khỏe (thanh máu và thanh thức ăn) và chế độ sáng tạo cho phép người chơi sử dụng nguồn tài nguyên không giới hạn và có thể bay. Người chơi có thể sửa đổi trò chơi để tạo các cơ chế chơi, vật phẩm và nội dung mới. "Minecraft" nhận được sự hoan nghênh của giới phê bình, giành được một số giải thưởng và được coi là trò chơi điện tử hay nhất mọi thời đại. Các phương tiện truyền thông xã hội, parody, các chuyển thể, sản phẩm và quy ước Minecon hằng năm đóng vai trò lớn trong việc phổ biến trò chơi. Trò chơi cũng đã được sử dụng trong môi trường giáo dục để giảng dạy hóa học, thiết kế được sự hỗ trợ bởi máy tính và khoa học máy tính. Vào năm 2014, Mojang và IP "Minecraft" đã được mua lại bởi Microsoft với . Một số trò chơi spin-off cũng đã được thực hiện bao gồm "", "Minecraft Dungeons", Minecraft Legends và "Minecraft Earth". Lối chơi. "Minecraft" là một trò chơi thế giới mở mà không có mục tiêu cụ thể cho người chơi để thực hiện, cho phép người chơi có thể tự do lựa chọn chơi như thế nào. Tuy nhiên, Minecraft vẫn sẽ có một hệ thống thành tích mặc định. Góc nhìn mặc định của trò chơi là góc nhìn thứ nhất, nhưng người chơi có thể lựa chọn chơi ở góc nhìn thứ ba hoặc ở góc nhìn ngay trước mặt mình. Thế giới trong trò chơi được tạo ra cho người chơi chủ yếu là các khối lập phương 3D nằm trong bản đồ và tượng trưng cho các vật liệu khác nhau (ví dụ như đất, đá, các loại quặng, dung nham, nước, gỗ...) Người chơi có thể di chuyển tự do trên toàn thế giới, các khối chỉ có thể được đặt ở một vị trí cố định nào đó. Người chơi có thể thu thập các khối vật chất và đặt chúng ở những nơi khác để xây dựng công trình khác nhau. Vào lúc bắt đầu trò chơi, người chơi được tạo trên bề mặt của một thế giới hoang sơ và hầu như vô hạn. Thế giới được chia thành nhiều quần xã sinh vật khác nhau (sa mạc, rừng cho tới vùng đất tuyết). Người chơi có thể đi lại trên các địa hình đồng bằng, núi, rừng, hang động, khe nứt, đầm lầy và các vùng nước khác nhau. Thời gian ở trong trò chơi được hệ thống theo một chu kỳ ngày đêm, với một chu kỳ đầy đủ kéo dài 20 phút thời gian thực. Trong suốt quá trình chơi, người chơi sẽ được gặp nhiều sinh vật được gọi là "mobs" bao gồm các loài động vật, dân làng và các quái vật. Những động vật như bò, bò nấm, lợn, gà, cừu, ngựa, gấu Bắc Cực, thỏ, cá heo, rùa, mực, dê núi có thể được săn bắt để ăn hay chế tạo vật phẩm và vật liệu, được sinh ra vào ban ngày hoặc bằng các loại trứng spawn ở chế độ sáng tạo. Kỳ giông Mexico, Iron Golem, Snow Golem... là những mobs tiện ích có thể giúp người chơi tấn công một số quái vật. Ngược lại, những quái vật như nhện, skeleton và thây ma được sinh ra vào ban đêm hoặc trong những nơi tối tăm như hang động, khe vực và thù địch với người chơi. Một số sinh vật trông đặc biệt và nguy hiểm chỉ có trong Minecraft như Creeper, một sinh vật nổ lén đằng sau người chơi, và Enderman, một sinh vật có khả năng dịch chuyển và nhặt khối tự do. Creeper có thể xuất hiện vào ban đêm, tuy nhiên không giống như những quái vật khác, Creeper không bị cháy khi tiếp xúc với nắng. Thế giới trong trò chơi được tạo ra một cách ngẫu nhiên trong lúc người chơi khám phá nó, bằng cách sử dụng một tọa độ (gọi là seed, cùng nghĩa với từ hạt giống, chính điều này khiến nhiều người lầm tưởng chúng là hạt giống) được tạo ra từ hệ thống, trừ khi người chơi muốn tạo tọa độ theo ý mình. Mặc dù có những hạn chế về di chuyển lên và xuống, "Minecraft" cho phép tạo ra một thế giới vô cùng lớn hoàn toàn là một mặt phẳng nằm ngang. Trò chơi đạt được điều này bằng cách chỉnh sửa dữ liệu trong thế giới đang chơi thành các phần nhỏ hơn gọi là "khối", mà chỉ được tạo ra hoặc được nạp vào bộ nhớ khi người chơi đang chơi. Hệ thống vật lý của trò chơi thường được mô tả bởi các nhà phê bình là không thực tế. Hầu hết các khối rắn không bị ảnh hưởng bởi lực hấp dẫn. Chất lỏng chảy ra từ một nguồn nằm trong một khối có thể dừng dòng chảy bằng cách đặt một khối vững chắc ở nguồn của nó, hoặc bằng cách múc nó bằng một cái xô. Các hệ thống phức tạp có thể được xây dựng bằng cách sử dụng các thiết bị cơ khí thô sơ, mạch điện, và các cánh cổng tự động được xây dựng bởi một vật liệu trong trò chơi được gọi là Đá đỏ "(Redstone)". "Minecraft" có hai thế giới khác ngoài thế giới chính ("Overworld)" là Nether "(Địa Ngục)" và The End ("Thế giới Tận Cùng" hay "Thế giới Kết Thúc"). Nether là một thế giới được đi tới bằng một cánh cổng được người chơi xây bằng hắc diện thạch có diện tích ít nhất là 2×3 và diện tích trung bình là 3×4 (Obsidian và khởi động bằng dụng cụ đánh lửa, cầu lửa, Ghast...) nơi này chứa nhiều tài nguyên độc đáo, quái vật lạ, pháo đài, Tàn tích Bastion, rừng và dung nham. Nether cũng rộng lớn như thế giới thực. The End là một chiều không gian bóng tối bao gồm các hòn đảo riêng biệt trong khoảng không được làm từ đá end, quê hương của những Enderman, Shulker (trong các End City) được boss cuối của game là Rồng Ender (tiếng Anh: "Ender Dragon") cai quản. Sau khi hạ gục Rồng Ender, thế giới sẽ tạo ra cổng end cho phép người chơi đi đến các hòn đảo ngoài chứa những End City, kích hoạt cổng thoát, văn bản kết thúc và các điều khoản của trò chơi được viết bởi Irish Julian Gough sẽ hiện ra khi người chơi vào cổng. Người chơi sau đó được cho phép dịch chuyển trở lại điểm hồi sinh của họ hoặc điểm hồi sinh của thế giới, và sẽ nhận được thành tích "Free the End". Ngoài ra còn có một boss thứ hai được gọi là "The Wither" hay "Wither Boss" ("Quái vật khô héo"), khi đánh bại nó, rơi ra một vật phẩm là sao Nether mà khi dùng nó có thể chế tạo ra "đèn hiệu"(tiếng Anh:Beacon), một khối có thể dùng để đánh dấu vị trí hoặc giúp cho người chơi nhận được những hiệu ứng trong phạm vi nhất định dựa theo những khối sắt, vàng, ngọc lục bảo, kim cương hoặc Netherite được xây dựng thành hình kim tự tháp và đèn hiệu được đặt trên đỉnh. Trò chơi chủ yếu bao gồm bốn chế độ chơi: chế độ sinh tồn, chế độ sáng tạo, chế độ phiêu lưu, và chế độ khán giả. Nó cũng có một hệ thống độ khó có thể thay đổi gồm bốn cấp độ, từ khó đến dễ với dễ nhất là bình yên và khó nhất là Hardcore. Chế độ chơi. Minecraft có 3 chế độ chơi chính: Sinh tồn, Phiêu lưu và Sáng tạo. Chế độ Khán giả chỉ cho phép tham quan, không cho phép tương tác với thế giới trong trò chơi nhưng có thể đi xuyên khối. Chế độ Phiêu lưu được thiết lập cho những thế giới được thiết kế sẵn nhằm bổ trợ cho một cốt truyện hoặc mục tiêu khác của bên thứ ba ngoài tuyến cốt truyện chính của Minecraft. Chế độ sinh tồn (Survival). Người chơi phải tìm kiếm tài nguyên thiên nhiên như gỗ, và đá để tạo các khối và vật phẩm khác. Tùy thuộc vào độ khó, quái vật sẽ được sinh ra ở khắp nơi, khiến người chơi phải tìm hoặc xây dựng nên một nơi trú ẩn. Chế độ này có thanh máu và thanh đói, nguyên nhân chết trong trò chơi được hiển thị sau khi chết trong khuông lệnh. Trong Minecraft, người chơi chỉ được mang đồ với số lượng hạn chế, với trên tay chính là 9, tay phụ là 1. Thanh kinh nghiệm giúp bạn cường hóa dụng cụ và vũ khí, lấy kinh nghiệm bằng nhiều hoạt động khác nhau (trao đổi, khai khoáng, đánh quái). Mục tiêu chính của chế độ theo hệ thống thành tích trong trò chơi là đánh thắng Wither, sau đó là Rồng Ender. Sau khi đánh bại Rồng Ender, trò chơi được coi là hoàn thành, bạn vẫn có thể quay lại thế giới cũ để tiếp tục chơi. Chế độ sáng tạo (Creative). Trong chế độ sáng tạo, người chơi có nguồn cung cấp vật phẩm và vật liệu vô hạn, có gần như tất cả các tài nguyên và dụng cụ trong trò chơi. Họ có thể đặt hoặc phá bỏ chúng ngay lập tức. Người chơi còn có khả năng bay lượn tự do trên khắp thế giới trong trò chơi, không bị tấn công hay chết vì các nguyên nhân khác (vẫn có thể chết bởi nhảy xuống The Void ở Java Edition). Chế độ này chủ yếu để người chơi sáng tạo và làm nên các công trình lớn. Chế độ khán giả (Spectator). Chế độ này cho phép người chơi bay xuyên qua các khối và nhìn mọi vật trong trò chơi nhưng không thể tương tác với chúng. Bạn cũng có thể xem từ điểm nhìn của một người chơi khác hoặc các sinh vật khác. Một số thứ có thể trông khác nhau từ góc nhìn của sinh vật khác.(VD: Creeper: Creeper sẽ nhìn thấy toàn màu xanh lá.) Chế độ phiêu lưu (Adventure). Chế độ phiêu lưu đã được thêm vào Minecraft từ phiên bản 1.3.1; nó được tạo ra đặc biệt để người chơi có thể trải nghiệm sử dụng các bản đồ được tạo ra tùy chỉnh và đi phiêu lưu. Cách chơi tương tự như chế độ sinh tồn nhưng có hạn chế cho người chơi về các cách đặt, phá khối khác nhau, có thể được sử dụng cho một thế giới trong game bởi các tác giả của bản đồ. Điều này là để người chơi có thể chơi và cuộc phiêu lưu đúng như những người tạo ra bản đồ dự định. Một bổ sung được thiết kế cho việc tùy chỉnh các bản đồ là khối lệnh; khối này cho phép tạo ra bản đồ và mở rộng sự tương tác với người chơi thông qua các lệnh máy chủ nào đó. Chế độ siêu khó (Hardcore). Chế độ siêu khó cho người chơi trải nghiệm như Survival (Sinh tồn) nhưng lại giống ngoài đời thật, bạn chỉ có 1 lần sống duy nhất. Nếu chết thì kết thúc trò chơi, bạn không thể hồi sinh nhưng vẫn có thể lựa chọn xóa thế giới hoặc tham quan lại qua chế độ Khán giả. Chế độ này chỉ có sẵn trên Minecraft: Java Edition. Vào ngày 24 tháng 4 năm 2019, một youtuber tên Ph1LzA đã lập kỉ lục thế giới với thời gian sống sót trong một thế giới Hardcore lâu nhất với thời gian là 5 năm kể từ bắt đầu vào tháng 3 năm 2014. Điều này đã thu hút BBC làm phỏng vấn cùng với anh vào ngày 29 tháng 4 năm 2019. Nhiều người chơi (Multiplayer). Chế độ này cho phép người chơi có thể kết nối với các máy chủ khác để cùng xây dựng các công trình trong một thế giới duy nhất. Nhưng bạn cần IP (Internet Protocol), tạo máy chủ riêng hoặc dùng mạng LAN ảo Hamachi, Radmin VPN hoặc có thể tạo máy chủ trên các trang web khác, chỉ cần sao chép liên kết và vào "Chơi mạng" và nhập địa chỉ máy chủ vào. Ở phiên bản Bedrock Edition thì người chơi có thể sử dụng tài khoản Microsoft để đăng nhập Xbox. Chế độ LAN. Trong cùng nhiều mạng Wi-Fi, bạn bè có thể kết nối các thiết bị với nhau để chơi cùng 1 thế giới. Cần 1 người làm host để duy trì. Chế độ Realms (Cõi). Chế độ này là một chế độ có trên cả Java Edition và Bedrock Edition , cũng giống như chế độ bạn bè nhưng mà bạn sẽ có thể chơi với nhau mà không cần cùng mạng Wi-Fi, nhưng để chơi chế độ này bạn cần bỏ ra một số tiền nhất định hàng tháng để chơi chế độ này. Độ khó. Trò chơi có 4 độ khó (nếu tính cả Hardcore sẽ là 5): Bình yên, Dễ, Bình thường và Khó. Trừ ba độ khó phía sau thì Bình yên có vài ưu điểm cho người chơi mới. Độ khó Bình yên. Độ khó này cho phép người chơi không cần ăn ở chế độ Sinh tồn trong Minecraft vì thanh thức ăn không giảm, ngoài ra độ khó này còn loại bỏ một số sinh vật thù địch và trung lập. Các mobs lành tính (như sói, cá heo, gấu trúc) nếu bị tấn công và tấn công người chơi, người chơi sẽ không nhận bất kỳ sát thương nào. Đồng thời, tốc độ hồi lại thanh máu của độ khó này cũng rất nhanh khi bị nhận sát thương. Phát triển. Markus "Notch" Persson đã bắt đầu phát triển Minecraft như một dự án. Ông đã được truyền cảm hứng bởi một số trò chơi khác như war Fortress, Dungeon Keeper và sau đó là Infiniminer. Vào thời điểm đó, ông đã hình dung một trò chơi xây dựng 3D. Infiniminer ảnh hưởng nhiều đến phong cách của trò chơi, bao gồm cả các khía cạnh người chơi, các "khối ô vuông" và các nguyên tắc cơ bản để xây dựng. Tuy nhiên, không giống như Infiniminer, Persson muốn Minecraft có yếu tố "RPG". Minecraft lần đầu tiên được phát hành cho công chúng vào ngày 17 tháng 5 năm 2009, như là một phiên bản phát triển trên diễn đàn "TIGSource", sau đó trở nên nổi tiếng như là phiên bản cổ điển. Bản cập nhật lớn đầu tiên, được gọi là phiên bản "alpha", đã được phát hành vào ngày 28 tháng 6 năm 2010. Persson duy trì công việc với Minecraft bằng toàn bộ thời gian sau khi phiên bản alpha của trò chơi phát triển. Persson tiếp tục cập nhật những phiên bản mới của trò chơi cho người dùng một cách tự động. Những bản cập nhật bao gồm các tính năng như các mặt hàng mới, khối mới, quái vật mới, chế độ, và thay đổi hành vi của trò chơi (như cách hoạt động của nước). Để phát triển của Minecraft, Persson lập một công ty trò chơi tên là Mojang. Vào ngày 11 tháng 12 năm 2010, Persson thông báo rằng Minecraft đã bước vào giai đoạn thử nghiệm beta của nó ngày 20 tháng 12 năm 2010. Trong quá trình phát triển, Mojang đã thuê một số nhân viên mới để làm việc trên dự án. Âm nhạc. Âm nhạc và các hiệu ứng âm thanh trong Minecraft chủ yếu được sản xuất bởi nhà thiết kế âm thanh người Đức Daniel "C418" Rosenfeld. Ngày 4 tháng 3 năm 2011, Rosenfeld phát hành một album mang tên "Minecraft – Volume Alpha"; nó bao gồm hầu hết các âm thanh đặc trưng trong Minecraft, cũng như nhạc âm khác không có trong game. Blog video game Kotaku đã chọn âm nhạc trong Minecraft là một trong những album nhạc game hay nhất của năm 2011. Ngày 9 tháng 11 năm 2013, Rosenfeld đã phát hành album chính thức thứ hai, mang tên "Minecraft - Volume Beta", trong đó bao gồm các bản nhạc được thêm vào trong phiên bản mới của trò chơi. Tính đến thời điểm hiện tại trò chơi đã chính thức có thêm 04 đĩa nhạc mới không phải do C418 sản xuất, bao gồm: Pigstep, Otherside - Lena Raine; Disc 5 - Samuel Åberg; Relic - Aaron Cherof. Các phiên bản. Phiên bản Minecraft: Java Edition là phiên bản đầu tiên được phát hành của trò chơi được phát hành vào ngày 17 tháng 5 năm 2009. Nó được thiết kế để dành cho các máy tính chạy hệ điều hành Windows, MacOS hay Linux. Nó hiện là phiên bản duy nhất có một Launcher riêng để chạy game, đi kèm với Java phiên bản 1.8.0_51 và là phiên bản Java mặc định của Minecraft: Java Edition, tuy nhiên người chơi cũng có thể thay đổi phiên bản Java đang sử dụng. Minecraft: Legacy Console Edition. Minecraft: Legacy Console Edition từng là một nhóm phiên bản Minecraft dành cho các hệ máy game console, từng được phát triển bởi Mojang và 4J Studios. Bản Digital - Marketplace lần đầu tiên được phát hành cho hệ máy Xbox 360 vào ngày 9 tháng 5 năm 2012, và bản Retail - DVD đã được phát hành 1 năm sau đó. Hiện tại, bản Legacy Console Edition đã bị ngưng phát triển, do số lượng người chơi hiện nay quá thấp. Tuy nhiên, những bản cập nhật vẫn được phát hành cho hệ máy PlayStation 4, còn hệ máy Xbox One và Nintendo Switch thì được nhận các bản cập nhật qua phiên bản Minecraft độc lập khác, Minecraft: Bedrock Edition. Minecraft: Legacy Console Edition bao gồm các phiên bản sau đây: Minecraft: New Nintendo Switch 3DS Edition. Đây là phiên bản Minecraft dành cho hệ máy New Nintendo 3DS, New Nintendo 3DS XL và New Nintendo 2DS XL, phiên bản này lần đầu tiên được phát hành trên Nintendo eShop ở khu vực Bắc Mỹ và Nhật Bản vào ngày 13 tháng 9 năm 2017. Sau đó, phiên bản này đã được phát hành toàn cầu vào ngày 20 tháng 9 năm 2018, chỉ một năm và bảy ngày từ ngày phát hành đầu tiên. Mặc dù phiên bản gốc chỉ là một phiên bản khác của Minecraft: Pocket Edition Alpha 0.15.4, nó có thêm vài tính năng mới và những sửa đổi mới so với Pocket Edition, và được phát triển chỉ dành riêng cho hệ máy New Nintendo 3DS. Nó không có mối liên hệ nào với Minecraft: Legacy Console Edition và khá tương đương với Minecraft: Pocket Edition 1.1.5.1. Phiên bản này đã bị ngưng phát triển với phiên bản mới nhất là 1.9.19 vào ngày 15 tháng 1 năm 2019. Minecraft: Bedrock Edition. Là một phiên bản Minecraft được lập trình lại nhằm tránh sự phân rã quá nhiều phiên bản trên nhiều thiết bị giống nhau như Legacy Edition, viết bằng ngôn ngữ C++, người chơi có thể mua/tải về các DLC qua Minecraft Marketplace hoặc cài mod như Java Edition (Chỉ hỗ trợ trên điện thoại). Bedrock Edition được viết nhằm hỗ trợ chơi trực tuyến đa nền tảng (cross-platform multiplayer). Ngoài ra, phiên bản Bedrock Edition có thể chạy trên máy tính nhưng với cái tên "Windows 10 Edition" Minecraft: Education Edition. Đây là phiên bản Minecraft dành cho giáo dục dành cho giáo viên và học sinh. Nhiều nước đã áp dụng phiên bản này như một môn học bắt buộc (Trong đó có cả Việt Nam nhưng chưa được phổ biến rộng rãi). Ở phiên bản này, chế độ PVP đã bị loại bỏ và thêm vào các items, block và mob mới và các tính năng liên quan đến lập trình, đặc biệt là áp dụng với môn Hóa học. Minecraft: Raspberry Pi Edition. Đây là phiên bản Minecraft được Mojang phát triển dành riêng cho bo mạch nhúng Raspberry Pi dựa trên một phiên bản cực kì cũ của Minecraft: Pocket Edition. Ở phiên bản này, người chơi có thể sửa đổi thế giới của mình thông qua các dòng lệnh, thậm chí là thay đổi mã nguồn của game. Phiên bản này được phát hành chính thức vào ngày 11 tháng 2 năm 2013 Minecraft: Chinese Edition. Đây là phiên bản Minecraft dành riêng cho thị trường Trung Quốc, được phát hành bởi Mojang AB, NetEase và Microsoft Studio, hiện đã bước qua giai đoạn Closed Beta Minecraft Earth. Minecraft Earth lần đầu được giới thiệu vào ngày 17 tháng 5 năm 2019, nhân kỉ niệm 10 năm lập trình ra Minecraft. Dự kiến sẽ ra mắt bản chính thức vào cuối năm 2019 trên nền tảng Android và iOS (theo sự kiện Minecoin Live 2019). Minecraft Earth đã được ra mắt chính thức và có thể chơi trên IOS 13 và Android 7 trở lên (cần có AR để chơi). Tuy nhiên theo nguồn tin chính thức từ Microsoft, đến ngày 30/6/2021, Minecraft Earth đã chính thức bị khai tử và xóa khỏi tất cả cửa hàng ứng dụng, những ai đã mua Ruby (hồng ngọc) sẽ được tặng lại Minecoins và một bản sao của Minecraft (phiên bản Bedrock). Minecraft Dungeons. Minecraft Dungeons được giới thiệu lần đầu vào tháng 10 năm 2018 và được phát hành chính thức vào ngày 26 tháng 5 năm 2020 trên nền tảng Windows, hiện Double Eleven đang làm việc cho Minecraft Dungeons để trò chơi được chuyển sang các hệ máy cầm tay. Minecraft Legends. Minecraft Legends là một trò chơi chiến lược hành động. Nó được dự kiến sẽ phát hành cho Microsoft Windows, Nintendo Switch, PlayStation 4, PlayStation 5, Xbox One và Xbox Series X/S vào ngày 18 tháng 4 năm 2023 phát triển bởi Mojang Studios và Blackbird Interactive, được xuất bản bởi Xbox Game Studios. Phát hành. Mojang phát hành phiên bản đầy đủ của Minecraft vào ngày 18 tháng 11 năm 2011. Trò chơi đã được cập nhật liên tục kể từ khi phát hành, với những thay đổi khác nhau, từ nội dung mới đến các host máy chủ mới. Vào ngày 28 tháng 2 năm 2012, Mojang thông báo rằng họ đã thuê được nhà phát triển của nền tảng máy chủ phổ biến "CraftBukkit" để hỗ trợ thay đổi máy chủ Minecraft. Mojang dường như nắm quyền sở hữu đầy đủ cho việc sửa đổi CraftBukkit. Ngày 15 tháng 9 năm 2014, Microsoft đã công bố một thỏa thuận mua Minecraft với giá 2,5 tỷ đô la Mỹ, cùng với quyền sở hữu trí tuệ về Minecraft. Thỏa thuận này đã được đề xuất bởi Persson khi anh đăng một tweet trên Twitter hỏi một công ty mua cổ phần của mình và hiện tất cả phiên bản nâng cấp của Minecraft đều thuộc Microsoft. Đón nhận. Các phiên bản đầu tiên của "Minecraft" đã nhận được sự hoan nghênh của giới phê bình, họ ca ngợi sự tự do mà tựa game mang lại cho người chơi cũng như sự dễ dàng trong việc tiếp nhận các lối chơi mới. Các nhà phê bình đã ca ngợi hệ thống chế tạo phức tạp của "Minecraft", nhận xét rằng đó là khía cạnh quan trọng trong lối chơi kết thúc mở của trò chơi. Hầu hết các ấn phẩm đều bị ấn tượng bởi đồ họa "khối vuông" của trò chơi, IGN đã mô tả chúng là "điều đáng nhớ ngay lập tức". Những nhà phê bình cũng thích các yếu tố phiêu lưu của trò chơi, họ lưu ý rằng trò chơi tạo ra sự cân bằng tốt giữa khám phá và xây dựng. Tính năng nhiều người chơi của game nhìn chung được đón nhận tích cực, IGN nhận định rằng "mọi chuyến phiêu lưu đều vui hơn khi có bạn bè". Jaz McDougall của PC Gamer đã chia sẻ Minecraft là một trò chơi "hấp dẫn về mặt trực giác và dễ dàng lan tỏa niềm vui, với phạm vi sáng tạo vô biên cùng với những trải nghiệm đáng nhớ". Trò chơi này được cho là đã giới thiệu thế giới kỹ thuật số đến với hàng triệu trẻ em trong phạm vi tư duy bởi vì cơ chế cơ bản của trò chơi tương tự với các lệnh máy tính về mặt logic. IGN thì thất vọng và cho rằng việc thiết lập máy chủ nhiều người chơi là "bất tiện" vì cần quá nhiều bước lắp đặt rắc rối. Các nhà phê bình cũng nói rằng tình trạng hình ảnh bị nhiễu xảy ra theo chu kỳ. Mặc dù đã phát hành bản beta vào năm 2011, GameSpot cho biết trò chơi tạo cảm giác "chưa hoàn thiện", họ cũng bổ sung rằng một vài yếu tố trong game có vẻ "chưa hoàn chỉnh hoặc được kết hợp một cách vội vàng". Trong một bài đánh giá phiên bản alpha của mình trên báo "Daily Record", Scott Munro gọi trò chơi là "một thứ gì đó đặc biệt" và kêu gọi độc giả mua nó. Jim Rossignol của Rock, Paper, Shotgun cũng đề xuất phiên bản alpha của trò chơi và gọi nó là "một loại trò chơi Lego "" 8-bit có khả năng tự sinh". Ngày 17 tháng 9 năm 2010, trang web truyện tranh trực tuyến về trò chơi điện tử Penny Arcade bắt đầu một bộ truyện tranh và bài đăng về tính gây nghiện của trò chơi. Phiên bản Xbox 360 nhìn chung được giới phê bình đón nhận tích cực nhưng không được khen ngợi nhiều bằng phiên bản trên máy tính. Mặc dù những người đánh giá trò chơi thấy thất vọng vì phiên bản trên máy tính thiếu các tính năng hỗ trợ mod và nội dung, nhưng họ đánh giá cao việc bổ sung cổng hướng dẫn, mẹo trong trò chơi và các công thức chế tạo, giúp cho trò chơi thân thiện hơn với người dùng. "Minecraft: Phiên bản bỏ túi" ban đầu nhận được nhiều đánh giá trái chiều từ giới phê bình. Mặc dù các nhà phê bình đánh giá cao cách điều khiển trực quan của trò chơi, nhưng họ lại thất vọng vì phiên bản này thiếu nội dung. Họ đặc biệt bị chỉ trích việc phiên bản này không có tính năng thu thập tài nguyên và vật phẩm chế tạo, cũng như sự hạn chế các loại khối vật chất và thiếu mob thù địch. Sau khi cập nhật và thêm vào nhiều nội dung hơn, "Phiên bản bỏ túi" bắt đầu nhận được nhiều lời đánh giá tích cực hơn. Những người đánh giá khen ngợi cách điều khiển và đồ họa nhưng họ vẫn cho rằng thiếu nội dung.
1
null
Chất lượng hay đúng ra phẩm chất là một phạm trù phức tạp và có nhiều định nghĩa khác nhau. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về chất lượng. Hiện nay có một số định nghĩa về chất lượng đã được các chuyên gia chất lượng đưa ra như sau: " Chất lượng là sự phù hợp với nhu cầu" (theo Juran - một Giáo sư người Mỹ). " Chất lượng là sự phù hợp với các yêu cầu hay đặc tính nhất định" Theo Giáo sư Crosby. " Chất lượng là sự sự thoả mãn nhu cầu thị trường với chi phí thấp nhất" Theo Giáo sư người Nhật – Ishikawa. Trong mỗi lĩnh vực khác nhau, với mục đích khác nhau nên có nhiều quan điểm về chất lượng khác nhau. Tuy nhiên, có một định nghĩa về chất lượng được thừa nhận ở phạm vi quốc tế, đó là định nghĩa của Tổ chức Tiêu chuẩn hoá Quốc tế. Theo điều 3.1.1 của tiêu chuẩn định nghĩa chất lượng là: "Mức độ đáp ứng các yêu cầu của một tập hợp có đặc tính vốn có" Chất lượng là khái niệm đặc trưng cho khả năng thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Vì vậy, sản phẩm hay dịch vụ nào không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng thì bị coi là kém chất lượng cho dù trình độ công nghệ sản xuất ra có hiện đại đến đâu đi nữa. Đánh giá chất lượng cao hay thấp phải đứng trên quan điểm người tiêu dùng. Cùng một mục đích sử dụng như nhau, sản phẩm nào thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cao hơn thì có chất lượng cao hơn. Yêu cầu của khách hàng đối với sản phẩm hay dịch vụ thường là: tốt, đẹp, bền, sử dụng lâu dài, thuận lợi, giá cả phù hợp.
1
null
PDCA hay Chu trình PDCA (Lập kế hoạch – Thực hiện – Kiểm tra – Cải tiến) là chu trình cải tiến liên tục được Tiến sĩ Deming giới thiệu cho người Nhật trong những năm 1950. Mặc dù lúc đầu ông gọi là Chu trình Shewart để tưởng nhớ Tiến sĩ Walter A. Shewart - người tiên phong trong việc kiểm tra chất lượng bằng thống kê ở Mỹ từ những năm cuối của thập niên 30. Tuy nhiên Người Nhật lại quen gọi nó là chu trình Deming hay vòng tròn Deming. Nội dung của các giai đoạn của chu trình này có thể tóm tắt như sau: Plan: Lập kế hoạch, xác định mục tiêu, phạm vi, nguồn lực để thực hiện, thời gian và phương pháp đạt mục tiêu. Do: Đưa kế hoạch vào thực hiện. Check: Kiểm tra lại kế hoạch và kiểm tra kết quả thực hiện kế hoạch. Act: Dựa trên kết quả kiểm tra, tiến hành cải tiến chương trình. Với hình ảnh một đường tròn lăn trên một mặt phẳng nghiêng (theo chiều kim đồng hồ), chu trình PDCA cho thấy thực chất của quá trình quản lý chất lượng là sự cải tiến liên tục và không bao giờ ngừng. Trên thực tế việc thực hiện chu trình PCDA phức tạp hơn nhiều so với tên của nó. Tuy nhiên, chu trình PDCA là nền tảng cho các chu trình cải tiến trong ISO 9001. Khi một tổ chức thực hiện được chu trình PDCA cũng sẽ làm chủ được hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001. Đâu là khâu quan trọng nhất trong chu trình PDCA: Trong quy trình PDCA, các giai đoạn Plan, Do, Check, và Act là 4 yếu tố trụ cột của mô hình và cần phải thực hiện các bước này một cách chính xác và theo một trình tự để mang lại sự thành công của quy trình cải tiến. Tuy nhiên, nói về sự quan trọng thì bước Plan (lập kế hoạch) được xem là quan trọng nhất vì bước này được xem là bước xây dựng nền móng cho toàn bộ chu trình PDCA. Trong khâu Plan, doanh nghiệp cần phải xây dựng các mục tiêu và chỉ tiêu đo lường hiệu quả cụ thể của quá trình cải tiến để có được những đánh giá chính xác nhất. Nếu doanh nghiệp không thực hiện đúng bước này thì toàn bộ quy trình cải tiến liên tục có thể không mang lại hiệu quả như mong muốn. Liên kết ngoài. ]
1
null
Đảm bảo chất lượng (QA) là một cách thức ngăn ngừa lỗi hoặc khuyết tật trong sản xuất và hạn chế các vấn đề khi cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ tới khách hàng. Theo ISO 9000 định nghĩa, đây là "một phần trong quản lý chất lượng, tập trung vào việc mang tới sự tin tưởng rằng các yêu cầu về chất lượng sẽ được đáp ứng". Việc ngăn ngừa khuyết tật trong đảm báo chất lượng có những điểm khác biệt với việc phát hiện và loại bỏ khuyết tật trong kiểm soát chất lượng. Công việc này được coi là nghiêng về bên trái trong quá trình thực hiện sản xuất vì nó tập trung vào chất lượng sớm hơn (ví dụ như tập trung ở phần bên trái của sơ đồ tuyến tính đọc từ trái sang phải). Hai thuật ngữ "đảm bảo chất lượng" và "kiểm soát chất lượng" thường được sử dụng thay thế cho nhau để chỉ những cách bảo đảm chất lượng của dịch vụ hoặc sản phẩm. Đảm bảo chất lượng bao gồm các hoạt động hành chính và thủ tục được thực hiện trong một hệ thống chất lượng để các yêu cầu và mục tiêu đối với sản phẩm, dịch vụ hoặc hoạt động sẽ được đáp ứng. Việc đo lường có hệ thống, so sánh với tiêu chuẩn, giám sát các quá trình và phản hồi theo vòng lặp của quá trình này sẽ giúp ngăn ngừa lỗi. Điều này trái ngược với kiểm soát chất lượng, vốn chỉ tập trung vào đầu ra của quá trình.
1
null
Xung đột Trung-Xô năm 1929 (1929年 中東路事件) là một cuộc xung đột quân sự nhỏ giữa Liên Xô và quân phiệt Trương Học Lương của Trung Hoa Dân Quốc quanh tuyến đường sắt Mãn Châu Đông Trung Hoa. Vào ngày 25 tháng 7 năm 1919, Trợ lý Chính ủy Ngoại giao của chính phủ Liên Xô, Lev Karakhan đã ban hành một bản tuyên ngôn với chính phủ Trung Quốc hứa sẽ trao trả lại đường sắt phía đông Trung Quốc cho Trung Quốc kiểm soát mà người Trung Quốc không phải bồi thường. Bản tuyên ngôn của Nga đề nghị từ bỏ các quyền khác nhau mà nước Nga Sa hoàng đã đạt được bằng những hiệp ước bất bình đẳng đối với Trung Quốc, bao gồm cả quyền lực ở nước ngoài, nhượng bộ kinh tế và phần bồi thường Nga được nhận do loạn Nghĩa Hòa Đoàn. Bản tuyên ngôn đã tạo ra một ấn tượng tốt đẹp về nước Nga và chủ nghĩa Marx ở Trung Quốc nhưng khi người Trung Quốc lấy lại tuyến đường sắt Đông Trung Quốc năm 1929, Liên Xô lập tức can thiệp quân sự, nhanh chóng chấm dứt cuộc khủng hoảng và buộc Trung Quốc chấp nhận phục hồi sự quản lý chung giữa Trung Quốc và Liên Xô đối với tuyến đường sắt. Khi Nhật Bản xâm chiếm Mãn Châu vào năm 1931 và cũng chiếm vùng ảnh hưởng của Liên Xô, Liên Xô vẫn chưa đủ mạnh ở phương Đông để chống lại người Nhật. Stalin đã thông qua chính sách trung lập nghiêm ngặt và Liên Xô đã bán quyền của mình cho Đường sắt phía đông Trung Quốc cho chính phủ Mãn Châu Quốc vào ngày 23 tháng 3 năm 1935.
1
null
, là ca sĩ của nhóm nhạc nữ thần tượng Nhật Bản AKB48. Nơi cô là nhóm trưởng của Team K, đồng thời là thành viên của sub-unit Not Yet. Ngoài single liên quan đến Janken Taikai, cô từng hát các ca khúc chủ đề từ khi ra mắt single "Aitakatta" vào tháng 10 năm 2006. Là một trong những thành viên được yêu thích nhất AKB48, cô luôn nằm trong top 2 trong các kì tổng tuyển cử của nhóm và đạt hạng 1 vào các năm 2010 và 2012. Ngày 31/12/2013, tại Kouhaku Uta Gassen lần thứ 64, cô đã tuyên bố tốt nghiệp. Ngày 30/3/2014 là buổi diễn tốt nghiệp của cô. 2/6 là stage cuối cùng và 8/6 là concert cuối cùng của cô với tên gọi Oshima Yuko. Thứ hạng trong các cuộc tổng tuyển cử của AKB48. Hạng 2 trong cuộc tổng tuyển cử năm 2009. Hạng một trong cuộc tổng tuyển cử năm 2010. Hạng 2 trong cuộc tổng tuyển cử năm 2011. Hạng một trong cuộc tổng tuyển cử năm 2012. Hạng 2 trong cuộc tổng tuyển cử năm 2013.
1
null
USS "Ramsay" (DD–124) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau cải biến thành một tàu rải mìn hạng nhẹ với ký hiệu lườn DM-16 và tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, rồi lại được xếp lại lớp thành AG-98. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Chuẩn đô đốc Francis Ramsay (1835-1914). Thiết kế và chế tạo. "Ramsay" được đặt lườn vào ngày 21 tháng 12 năm 1917 tại xưởng tàu của hãng Newport News Shipbuilding & Dry Dock Company ở Newport News, Virginia. Nó được hạ thủy vào ngày 8 tháng 6 năm 1918, được đỡ đầu bởi cô Mary Virginia Ramsay, cháu nội Chuẩn đô đốc Ramsay, và được đưa ra hoạt động vào ngày 15 tháng 2 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân H. H. Norton. Lịch sử hoạt động. Giữa hai cuộc thế chiến. Được phân về Đội 12 thuộc Lực lượng Khu trục, Hạm đội Đại Tây Dương, "Ramsay" hoàn tất việc chạy thử máy ngoài khơi vùng biển Cuba trong tháng 3, tham gia các cuộc cơ động hạm đội vào đầu tháng 4, rồi lên đường đi New York. Nó khởi hành vào tháng 5, đi đến khu vực quần đảo Azore để phục vụ như cột mốc dẫn đường và trinh sát thời tiết cho chuyến bay vượt đại dương lần đầu tiên của thủy phi cơ NC. Di chuyển từ Azore đến Bồ Đào Nha từ ngày 16 đến ngày 25 tháng 5, nó quay trở về Hoa Kỳ vào ngày 6 tháng 6. Trong tháng tiếp theo, nó thực hiện các cuộc thực tập chiến thuật dọc theo bờ Đông Hoa Kỳ, vào ngày 6 tháng 7 đã đi đến Norfork để chuẩn bị được chuyển sang vùng Thái Bình Dương. "Ramsay" đi đến San Diego vào ngày 7 tháng 8, và sau khi được đại tu tại Xưởng hải quân Mare Island, đã phục vụ trong hai năm tiếp theo cùng Lực lượng Khu trục, Hạm đội Thái Bình Dương. Vào ngày 17 tháng 7 năm 1920, nó được đặt ký hiệu lườn tàu DD-124. Vào mùa Xuân năm 1922, nó được chuẩn bị để xuất biên chế; và đến ngày 30 tháng 6 năm 1922, nó được cho xuất biên chế và neo đậu tại San Diego như một đơn vị của Hạm đội Dự bị. "Ramsay" nhập biên chế trở lại tám năm sau đó, vào ngày 2 tháng 6 năm 1930, và xếp lại lớp như một tàu rải mìn hạng nhẹ với ký hiệu lườn DM-16 vào ngày 13 tháng 6, được đặt cảng nhà tại Trân Châu Cảng. Được cải biến tại Xưởng hải quân Trân Châu Cảng, nó hoạt động cùng Hải đội Rải mìn trực thuộc Lực lượng Chiến trận, chủ yếu tại vùng biển Hawaii cho đến năm 1937 khi nó quay trở về San Diego và được cho xuất biên chế lần thứ hai vào ngày 14 tháng 12 năm 1937. Nhập biên chế trở lại lần nữa vào ngày 25 tháng 9 năm 1939, nó gia nhập Đội 5, Hải đội Rải mìn thuộc Lực lượng Chiến trận, và trong năm tiếp theo đã thực hiện tuần tra, tham gia thực tập tác xạ và đổ bộ cũng như huấn luyện quân nhân dự bị dọc theo bờ biển Thái Bình Dương. Thế Chiến II. Vào ngày 10 tháng 12 năm 1940, "Ramsay" quay trở lại Trân Châu Cảng, và trong suốt năm tiếp theo đã hoạt động cùng các đội rải mìn 5 và 2. Neo đậu tại Trân Châu Cảng vào sáng ngày 7 tháng 12 năm 1941, khi máy bay từ tàu sân bay của Hải quân Nhật bất ngờ tấn công, nó đã nổ súng lần đầu tiên trong chiến tranh chống trả cuộc không kích, vốn khai mào chiến tranh tại Thái Bình Dương. Khởi hành ra khỏi cảng ngay trước 09 giờ 00 để tuần tra ngoài khơi, "Ramsay" bắt gặp một tàu ngầm lúc 11 giờ 20 phút. Nó đã thả 10 quả mìn sâu, và quan sát thấy những vết tràn dầu tại khu vực tấn công, xác nhận đã gây hư hại hoặc có thể đã đánh chìm một tàu ngầm bỏ túi được Nhật Bản sử dụng trong cuộc tấn công. Tám ngày sau, đang khi hộ tống một tàu buôn ngoài khơi Kauai, nó lại bắt gặp tàu ngầm đối phương. Sau hai lượt tấn công bằng mìn sâu bên trên đối thủ, kết quả được xác nhận bởi những vệt dầu loang lớn trên mặt biển, chứng tỏ đối phương đã bị hư hại. Cho đến tháng 2 năm 1942, "Ramsay" tiếp tục phục vụ tuần tra tại khu vực Hawaii. Đến ngày 22 tháng 2, nó lên đường cùng với Lực lượng đặc nhiệm 19 đi Samoa. Đi đến Pago Pago vào ngày 4 tháng 3, nó rải các bãi mìn phòng thủ ngoài khơi Tutuila và Apia, rồi chuyển đến Suva cho các hoạt động rải mìn tại khu vực quần đảo Fiji. Vào ngày 3 tháng 5, nó rời Suva để đi quần đảo New Hebride, vào ngày 11 tháng 6 đã cùng rải các bãi mìn phòng thủ tại Efate. Ngày hôm sau, nó rời Port Vila, về đến Trân Châu Cảng vào ngày 3 tháng 7. Trong hai tháng tiếp theo sau, "Ramsay" lại thực hiệm nhiệm vụ hộ tống và tuần tra tại vùng biển Hawaii; và đến ngày 14 tháng 9, nó lên đường để đi quần đảo Aleut. Cùng với "Montgomery", nó đi đến đảo Adak vào ngày 22 tháng 9, và ba ngày sau lại bắt đầu các hoạt động rải mìn. Đến tháng 11, nó quay trở về California, được đại tu tại xưởng tàu Hunters Point; vào ngày 13 tháng 1 năm 1943 lại lên đường quay trở lại khu vực quần đảo Aleut. Trong 9 tháng tiếp theo, nó làm nhiệm vụ tuần tra và hộ tống trải rộng từ Unalaska ở phía Đông cho đến đảo Attu về phía Tây. Vào ngày 17 tháng 9, "Ramsay" đi về phía Nam, đi ngang qua Trân Châu Cảng, nó về đến San Francisco vào ngày 4 tháng 10 cho một đợt đại tu khác. Ra khỏi xưởng tàu vào ngày 20 tháng 12, nó lên đường vào ngày 24 tháng 12, gia nhập lực lượng tại Trân Châu Cảng vào ngày 2 tháng 1 năm 1944, rồi đến ngày 21 tháng 1 lại khởi hành hướng đến quần đảo Gilbert. Sau một chặng dừng ngắn tại Tarawa, nó gia nhập Đội đặc nhiệm 50.15 vào ngày 30 tháng 1 để hộ tống tàu tuần dương hạng nặng trong cuộc bắn phá Wotje xế trưa ngày hôm đó. Ngày hôm sau, nó hộ tống tàu tuần dương trong cuộc bắn phá, vào ngày 2 tháng 2, nó đi đến Majuro, tiến hành hoạt động tuần tra chống tàu ngầm cho đến ngày 14 tháng 3. Một chuyến đi hộ tống đến quần đảo Gilbert được tiếp nối, vào ngày 19 tháng 2, nó lên đường quay trở về Trân Châu Cảng, đến nơi vào ngày 27 tháng 2 và được giao nhiệm vụ hộ tống vận tải. Cho đến giữa tháng 9, nó đã hộ tống các đoàn tàu đi đến Majuro, San Francisco và Eniwetok. Vào tháng 10, nó phục vụ cùng Lực lượng Huấn luyện Tàu ngầm, rồi sang tháng 11, nó quay trở lại khu vực quần đảo Marshall cho nhiệm vụ hộ tống và huấn luyện ngoài khơi Majuro. Bước sang năm mới 1945, hướng về phía Đông, và trong tháng 2 lại hoạt động cùng Lực lượng Huấn luyện Tàu ngầm. Vào cuối tháng, nó khởi hành đi San Pedro, nơi mà sau khi được đại tu, nó được xếp lại lớp như một tàu phụ trợ với ký hiệu lườn mới AG-98, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 5 tháng 6. Đến ngày 15 tháng 6, một lần nữa nó khởi hành đi Trân Châu Cảng, và trong ba tháng tiếp theo sau, đã phục vụ như tàu bảo vệ cho các tàu sân bay đang tiến hành huấn luyện tại vùng biển Hawaii. Vào ngày 24 tháng 9, nó quay trở lại San Pedro chờ đợi để được xuất biên chế lần thứ ba, cũng là lần sau cùng. "Ramsay" được cho ngừng hoạt động ngày 19 tháng 10 năm 1945; tên của nó được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 13 tháng 11 năm 1945; và lườn tàu được bán để tháo dỡ vào ngày 21 tháng 11 năm 1946. Phần thưởng. "Ramsay" được tặng thưởng ba Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
1
null
MGCP (viết tắt của cụm từ tiếng Anh "Media Gateway Control Protocol") là giao thức cho phép điều khiển lệnh các GW thông qua các thành phần điều khiển nằm bên ngoài mạng. MGCP sử dụng mô hình kết nối tương tự như SGCP dựa trên các kết nối cơ bản giữa thiết bị đầu cuối và GW. Các kết nối có thể là kết nối điểm-điểm hoặc kết nối đa điểm. Ngoài chức năng điều khiển như SGCP, MGCP còn cung cấp thêm các chức năng sau:
1
null
Zootaxa là một tập san khoa học bình duyệt dành cho các nhà phân loại sinh vật. Tập san này do Magnolia Press (Auckland, New Zealand) xuất bản. Tập san được Trương Trí Cường (张智强) thành lập năm 2001 với các ấn phẩm mới được xuất bản nhiều lần trong tuần. Tính đến cuối năm 2012, đã có 26,373 đơn vị phân loại đã được miêu tả trong tập san khoa học này.
1
null
Fatin Shidqia Lubis (sinh ngày 30 tháng 7 năm 1996) là một ca sĩ Indonesia. Cô là nhà vô địch của cuộc thi tài năng "X Factor Indonesia". Fatin Shidqia thử giọng cho mùa giải đầu tiên của X Factor Indonesia với phần biểu diễn ca khúc "Grenade" của Bruno Mars. Ngày 25 tháng 5 năm 2013, Fatin trở thành người chiến thắng trong mùa giải đầu tiên của X Factor Indonesia.
1
null
Thời đại quân phiệt là một giai đoạn trong lịch sử Trung Hoa Dân quốc khi quyền kiểm soát đất nước bị phân chia giữa các bè cánh quân sự cũ thuộc Quân đội Bắc Dương và các phe phái địa phương khác từ năm 1916 đến năm 1928. Theo ghi chép lịch sử, Thời đại quân phiệt mở ra vào năm 1916 sau cái chết của Viên Thế Khải, nhà độc tài thực tế của Trung Quốc kể từ khi Cách mạng Tân Hợi lật đổ nhà Thanh rồi thành lập Trung Hoa Dân quốc vào năm 1912. Cái chết của Viên Thế Khải tạo ra một khoảng trống quyền lực lan rộng khắp Trung Quốc đại lục gồm các tỉnh Tứ Xuyên, Sơn Tây, Thanh Hải, Ninh Hạ, Quảng Đông, Quảng Tây, Cam Túc, Vân Nam và Tân Cương. Chính phủ Quốc dân đảng theo chủ nghĩa dân tộc của Tôn Dật Tiên, có trụ sở tại Quảng Châu, bắt đầu đấu tranh với Chính phủ Bắc Dương của Viên Thế Khải để trở thành chính phủ Trung Quốc chính danh. Thời đại quân phiệt đặc trưng bởi những cuộc nội chiến liên miên giữa nhiều phe phái khác nhau, lớn nhất trong số đó là Đại chiến Trung Nguyên, với hơn một triệu binh lính tham chiến. Thời đại quân phiệt kết thúc vào năm 1928, khi Quốc dân đảng dưới quyền Tưởng Giới Thạch, chính thức thống nhất Trung Quốc thông qua Chiến dịch Bắc phạt, đánh dấu sự khởi đầu của Thập niên Nam Kinh. Tuy nhiên, một vài quân phiệt vẫn tiếp tục duy trì ảnh hưởng và cát cứ tại nhiều địa phương trong suốt những năm 1930 và 1940. Các quân phiệt chống đối chính phủ trung ương đã trở thành vấn đề khó giải quyết đối với Chính phủ Quốc dân đảng trong cả Chiến tranh Trung–Nhật lẫn Nội chiến Trung Quốc. Thuật ngữ. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, lãnh đạo Phong trào Tân văn hóa, Trần Độc Tú, đã đưa ra thuật ngữ "Quân phiệt" (軍閥), khởi phát từ thuật ngữ "gunbatsu" trong tiếng Nhật vốn lại có nguồn gốc từ tiếng Đức. Thuật ngữ "Quân phiệt" không được sử dụng rộng rãi cho đến những năm 1920, khi các nhóm cảnh tả bắt đầu dùng nó để chỉ trích những người theo chủ nghĩa quân quốc địa phương. Trước đây, những nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa quân quốc được gọi là "Đốc quân" (督軍), do chế độ mà Viên Thế Khải đưa ra sau khi tập trung hóa quyền lực. Nguồn gốc. Nguồn gốc của các lực lượng quân đội và nhà lãnh đạo thống trị chính trị sau năm 1912 đến từ các cải cách quân sự vào cuối thời nhà Thanh. Trong Cuộc nổi dậy Thái Bình Thiên Quốc (1850–64), nhà Thanh buộc phải cho phép các tổng đốc thành lập lực lượng quân đội riêng, gọi là "Hương binh", để chiến đấu chống lại quân Thái Bình nổi dậy; nhiều lực lượng trong số này không bị giải tán ngay cả khi Cuộc nổi dậy Thái Bình Thiên Quốc đã kết thúc, chẳng hạn như Hoài quân của Lý Hồng Chương. Mối liên kết bền chặt, ràng buộc gia đình và sự đối đãi tôn trọng trong quân đội được nhấn mạnh. Sĩ quan không bao giờ bị luân chuyển, tướng lĩnh tự chọn lọc chỉ huy và chỉ huy thì tự chọn lọc binh lính. Do đó, không như Lục doanh và Bát kỳ, những mối liên kết trung thành cá nhân đã được hình thành giữa các sĩ quan địa phương và quân đội. Thông qua những cải cách cuối triều đại, nhà Thanh không thành lập lực lượng quân đội quốc gia mà thay vào đó, tổng động viên lực lượng quân đội và dân quân địa phương, vốn thiếu sự tiêu chuẩn hóa cũng như tính kiên định. Các sĩ quan trung thành với cấp trên, thành lập bè cánh dựa trên địa vị xuất thân và gia cảnh. Mỗi đơn vị bao gồm những người đàn ông đến từ cùng một tỉnh thành. Chính sách này nhằm giảm thiểu tình trạng nhầm lẫn trong giao tiếp do phương ngữ, nhưng lại có tác dụng phụ là khuyến khích khuynh hướng địa phương. Mặc dù các tổng đốc hậu Cuộc nổi dậy Thái Bình Thiên Quốc thường không được công nhận là những người tiền nhiệm trực tiếp của các quân phiệt, nhưng thẩm quyền quân–dân sự kết hợp và quyền lực có phần to lớn hơn so với các tổng đốc thời trước của họ, đã cung cấp một hình mẫu cho các nhà lãnh đạo cấp tỉnh thời Cộng hòa. Sự phân mảnh sức mạnh quân sự do nhà Thanh thiếu một lực lượng quân sự thống nhất, trầm trọng hơn bởi chủ nghĩa địa phương tỉnh lẻ giữa cuộc cách mạng, cũng là một nhân tố mạnh mẽ đứng sau sự sinh sôi nảy nở của các quân phiệt. Ngoài những trở ngại về hành chính và tài chính, chính phủ Thanh mạt dường như còn dựa vào cấu trúc quân sự chia rẽ này để duy trì quyền kiểm soát chính trị. Sự khinh miệt mà Nho giáo dành cho quân đội bị gạt sang một bên bởi sự cần thiết ngày càng gia tăng của chủ nghĩa chuyên nghiệp quân sự, với việc các quan chức trở nên quân sự hóa mạnh mẽ, và nhiều sĩ quan không có xuất thân Nho sĩ, vươn lên nắm quyền chỉ huy cấp cao, thậm chí giữ các chức vụ quan trọng trong bộ máy dân sự. Ở thời điểm này, quân sự lấn át công vụ. Ảnh hưởng từ quan niệm của Đức và Nhật Bản về ưu thế quân sự đối với quốc gia, cùng với sự thiếu vắng tính thống nhất quốc gia giữa các bè cánh khác nhau trong tầng lớp sĩ quan, đã dẫn đến tình trạng phân mảnh quyền lực trong Thời đại quân phiệt. Lực lượng quân đội khu vực mạnh nhất là quân Bắc Dương đóng ở phía bắc, nằm dưới sự chỉ huy của Viên Thế Khải, được huấn luyện tốt và trang bị vũ khí tối tân nhất. Cách mạng Tân Hợi năm 1911 kéo theo nhiều cuộc binh biến lan rộng khắp miền nam Trung Quốc. Cách mạng bắt đầu vào tháng 10 năm 1911, với cuộc binh biến quân đội tại Vũ Xương (Vũ Hán ngày nay). Những binh lính từng trung thành với chính quyền nhà Thanh bắt đầu đào tẩu sang phe đối lập. Lực lượng cách mạng thành lập một chính phủ lâm thời ở Nam Kinh ngay trong năm sau, dưới quyền bác sĩ Tôn Dật Tiên, người vừa trở về sau khoảng thời gian dài tha hương để lãnh đạo cách mạng. Rõ ràng là quân cách mạng không đủ mạnh để đánh bại quân Bắc Dương và nếu tiếp tục chiến đấu thì gần như chắc chắn họ sẽ phải nhận thất bại. Thay vào đó, Tôn Dật Tiên thương lượng với chỉ huy Bắc Dương Viên Thế Khải để đặt dấu chấm hết cho nhà Thanh và tái thống nhất Trung Quốc. Đổi lại, Tôn Dật Tiên sẽ bàn giao chức tổng thống của mình và tiến cử Viên Thế Khải lên làm tổng thống nước cộng hòa mới. Viên Thế Khải từ chối chuyển đến Nam Kinh và khăng khăng tiếp tục duy trì thủ đô là Bắc Kinh, nơi cơ sở quyền lực của ông được đảm bảo. Phản ứng trước chủ nghĩa chuyên chế đang manh nha của Viên Thế Khải, các tỉnh miền nam nổi dậy vào năm 1913, nhưng bị lực lượng Bắc Dương đè bẹp hiệu quả. Các thống đốc dân sự bị thay thế bởi các thống đốc quân sự. Tháng 12 năm 1915, Viên Thế Khải cho thấy rõ ý định trở thành Hoàng đế Trung Quốc và thành lập một triều đại mới. Các tỉnh phía nam lại một lần nữa nổi dậy trong Chiến tranh hộ quốc; nhưng lần này, tình hình nghiêm trọng hơn nhiều vì hầu hết chỉ huy Bắc Dương đều từ chối công nhận chế độ quân chủ. Viên Thế Khải từ bỏ khôi phục chế độ quân chủ để tranh thủ trở lại sự ủng hộ từ các thuộc cấp của mình, nhưng tới thời điểm ông qua đời vào tháng 6 năm 1916, nền chính trị Trung Quốc đã hoàn toàn vỡ vụn. Tình trạng phân chia Bắc–Nam tồn tại dai dẳng trong suốt Thời đại quân phiệt. Chế độ chính trị quân phiệt. Viên Thế Khải cắt giảm nhiều tổ chức chính quyền vào đầu năm 1914, bằng cách đình chỉ quốc hội, sau đó là các hội đồng cấp tỉnh. Nội các dưới quyền Viên Thế Khải sớm từ chức, khiến ông trở thành nhà độc tài của Trung Quốc. Sau khi Viên Thế Khải tước đi nhiều quyền tự do cơ bản, đất nước nhanh chóng rơi vào vòng xoáy hỗn loạn và bước vào thời kỳ chủ nghĩa quân phiệt. "Chủ nghĩa quân phiệt không thay thế lực lượng quân sự cho các thành phần chính quyền khác; nó chỉ đơn thuần là cân bằng chúng theo cách khác. Sự thay đổi cán cân này một phần đến từ sự phân rã của các biện pháp trừng phạt và các giá trị thuộc về chính quyền dân sự Trung Quốc truyền thống." Nói cách khác, trong Thời đại quân phiệt, đã có một sự chuyển dịch đặc trưng từ một bộ máy quan liêu do nhà nước chi phối, nằm trong tay chính quyền trung ương sang nền văn hóa quân sự chi phối nằm trong tay nhiều nhóm, với quyền lực chuyển từ quân phiệt này sang quân phiệt khác. Một đề tài đáng chú ý về chủ nghĩa quân phiệt đã được C. Martin Wilbur xác định. "Ông chỉ ra rằng phần lớn những người theo chủ nghĩa quân quốc khu vực ở trạng thái 'tĩnh', tức là mục đích chính của họ chỉ xoay quanh việc đảm bảo và duy trì quyền kiểm soát một vùng lãnh thổ cụ thể mà thôi." Quân phiệt, theo cách nói của nhà khoa học chính trị người Mỹ Lucian Pye, là những người "do bản năng nghi ngờ mà nhanh chóng nghi ngại rằng lợi ích của họ có thể bị đe dọa, vô cùng cứng đầu, cống hiến cho những mục tiêu ngắn hạn, và không thể thấm nhuần sự trừu tượng duy tâm." Các quân phiệt Trung Quốc thường xuất thân từ nền tảng quân sự nghiêm ngặt, đối xử tàn bạo với cả binh lính dưới quyền lẫn thường dân. Năm 1921, tờ "North China Daily News" đưa tin rằng ở tỉnh Thiểm Tây, cướp bóc và bạo lực phổ biến, trở thành một vấn nạn nghiêm trọng, khiến nông dân vô cùng kinh hãi. Ngô Bội Phu của Trực hệ được biết đến là người đàn áp các cuộc đình công của công nhân đường sắt dưới hình thức khủng bố bằng hành quyết. Một nhà ngoại giao người Anh ở tỉnh Tứ Xuyên đã chứng kiến hai kẻ nổi loạn bị chém công khai tới chết, với trái tim và lá gan bị treo lên; hai người khác thì bị thiêu chết công khai; có những kẻ còn bị cắm nến đang cháy vào những vết thương hở trên khắp cơ thể, trước khi bị chặt thành từng mảnh. Tuy các quân phiệt đặt nặng vấn đề lòng trung thành cá nhân, các sĩ quan cấp dưới vẫn thường phản bội chỉ huy để đổi lấy khoản hối lộ gọi là "đạn bạc", và chính các quân phiệt cũng thường phản bội đồng minh. Sự thăng tiến hầu như không liên quan đến năng lực, thay vào đó, các quân phiệt cố gắng tạo ra một mạng lưới liên khóa giữa quan hệ gia đình, thể chế, khu vực, quan hệ thầy trò cùng với tư cách thành viên trong hội anh em kết nghĩa hay hội kín. Cấp dưới phản bội chỉ huy có thể phải gánh chịu cực hình. Tháng 11 năm 1925, Quách Tùng Linh, tướng lĩnh hàng đầu trung thành với Nguyên soái Trương Tác Lâm – "Đại soái" Mãn Châu – làm một giao kèo với Phùng Ngọc Tường để nổi loạn, và gần như đã lật đổ được "Đại soái", khiến ông này phải hứa tăng lương cho binh lính nổi loạn; cùng với dấu hiệu cho thấy người Nhật vẫn ủng hộ Trương Tác Lâm, binh lính nổi loạn rốt cuộc lại quay trở lại trung thành với chỉ huy. Quách Tùng Linh và vợ đều bị bắn chết công khai, thi thể của họ thì bị bêu ba ngày tại một khu chợ ở Thẩm Dương. Sau khi Phùng Ngọc Tường phản bội đồng minh Ngô Bội Phu để chiếm lấy Bắc Kinh cho riêng mình, Ngô Bội Phu đã phàn nàn rằng "quốc gia này chẳng có chế độ gì cả; tình trạng vô chính phủ và hành vi làm phản phổ biến khắp mọi nơi. Phản bội lãnh đạo là chuyện thường như cơm bữa..." "Nền chính trị liên kết" ngăn cản bất kỳ một quân phiệt nào thống trị chế độ. Khi một quân phiệt bắt đầu trở nên quá mạnh, những người còn lại sẽ liên minh để ngăn chặn ông ta, sau đó quay ra tấn công lẫn nhau. Mức độ bạo lực trong những năm đầu được kiềm chế, vì không nhà lãnh đạo nào muốn tham gia vào một cuộc giao tranh quá nghiêm trọng. Chiến tranh sẽ đem đến nguy cơ thiệt hại cho chính lực lượng của họ. Ví dụ, khi Ngô Bội Phu đánh bại đội quân của Trương Tác Lâm, ông cung cấp hai chuyến tàu hỏa đưa những kẻ chiến bại về nhà, biết rằng trong tương lai, nếu có bị Trương Tác Lâm đánh bại thì ông cũng có thể trông cậy vào một phép lịch sự tương tự. Hơn nữa, không một quân phiệt nào có đủ tiềm lực kinh tế hoặc sức mạnh hậu cần để tung một đòn nốc ao quyết định; điều họ có thể hi vọng nhiều nhất là giành được một số vùng lãnh thổ. Không ai có thể chinh phục toàn bộ đất nước và áp đặt một chính quyền trung ương. Tuy nhiên, tới những năm 1920, tình trạng bạo lực ngày càng trở nên khốc liệt và tàn bạo, khi mục tiêu của các quân phiệt là gây sát thương cho kẻ thù và cải thiện quyền mặc cả trong "nền chính trị liên kết". Do cơ sở hạ tầng ở Trung Quốc rất nghèo nàn, việc kiểm soát các tuyến đường sắt và đầu máy xe lửa là vô cùng quan trọng để duy trì phạm vi ảnh hưởng. Đường sắt là con đường quân vận nhanh nhất và rẻ nhất, hầu hết các trận chiến trong Thời đại quân phiệt đều diễn ra trên khoảng cách đường sắt ngắn. Năm 1925, người ta ước tính khoảng 70% đầu máy chạy trên các tuyến đường sắt nối Vũ Hán với Bắc Kinh và 50% đầu máy chạy trên các tuyến đường sắt nối Bắc Kinh với Thẩm Dương, được sử dụng để chuyên chở quân đội cùng tiếp tế. Tàu hỏa bọc thép mang đầy súng máy và đại pháo, yểm trợ hỏa lực cho quân đội vào trận. Những cuộc giao tranh liên tục diễn ra xung quanh các tuyến đường sắt, gây nhiều thiệt hại về kinh tế. Năm 1925, ít nhất 50% đầu máy được sử dụng trên tuyến đường sắt nối Nam Kinh với Thượng Hải đã bị phá hủy, với việc binh lính của một quân phiệt dùng tới 300 toa chở hàng làm chỗ ngủ, tất cả đều đỗ trực tiếp một cách bất tiện trên đường ray. Để cản trở truy kích, các đội quân bại trận phá nát nhiều tuyến đường sắt khi tháo chạy, gây thiệt hại tới 100 triệu bạc đô la Mexico riêng trong năm 1924 (thời điểm đó, đồng đô la Mexico là đơn vị tiền tệ chính được sử dụng ở Trung Quốc). Từ năm 1925 đến năm 1927, giao tranh ở miền đông và miền nam Trung Quốc đã khiến lưu lượng đường sắt phi quân sự giảm 25%, khiến giá cả hàng hóa tăng vọt còn hàng tồn thì chất đầy kho. Hồ sơ quân phiệt. Rất ít quân phiệt có hệ tư tưởng. Diêm Tích Sơn, "Tỉnh trưởng kiểu mẫu" Sơn Tây, tuyên xưng một dạng đức tin hổ lốn, trộn lẫn các yếu tố dân chủ, chủ nghĩa quân quốc, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa phổ quát, chủ nghĩa vô chính phủ, và chủ nghĩa gia trưởng Nho giáo vào làm một. Một người bạn đã mô tả Diêm Tích Sơn là "một người đàn ông da ngăm đen, râu ria mép, tầm thước, hiếm khi cười và luôn giữ thái độ hết sức dè dặt; Diêm không bao giờ để lộ tâm can." Diêm Tích Sơn giữ khổ đường sắt Sơn Tây khác với các địa phương còn lại để gây khó dễ cho việc xâm chiếm lãnh địa của ông, dù chiến thuật này cũng cản trở hoạt động xuất khẩu than và sắt, hai nguồn tài nguyên chính ở Sơn Tây. Phùng Ngọc Tường, "Tướng Cơ đốc", thúc đẩy Phong trào Giám lý cùng với một loại chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc thiên tả mơ hồ, giúp ông nhận được sự ủng hộ từ Liên Xô trong một khoảng thời gian. Phùng Ngọc Tường cấm rượu, sống giản dị và mặc loại quân phục bộ binh thông thường để thể hiện sự quan tâm dành cho cấp dưới. Ngô Bội Phu, "Tướng triết gia", từng là một viên quan đỗ đạt khoa cử, tự nhận mình là người bảo vệ các giá trị Nho giáo, thường xuất hiện trong các bức ảnh với chiếc bút lông trên tay (bút lông là biểu tượng của văn hóa Nho giáo). Tuy nhiên, nhiều người nghi ngờ chỉ ra rằng chất lượng thư pháp của Ngô Bội Phu có phần giảm sút sau khi thư ký của ông qua đời. Ngô Bội Phu thích có mặt trong những bức ảnh chụp tại văn phòng của ông, với chân dung người hùng George Washington ngay phía sau, để phản ánh thứ được cho là chủ nghĩa quân quốc dân chủ mà ông đang cố gắng đưa về Trung Quốc. Ngô Bội Phu nổi tiếng với khả năng hấp thụ một lượng lớn rượu nhưng vẫn có thể uống tiếp. Khi Ngô Bội Phu gửi cho Phùng Ngọc Tường một chai rượu mạnh, Phùng Ngọc Tường đáp lễ bằng cách gửi lại một chai nước, một thông điệp mà Ngô Bội Phu không thể hiểu. Là người ủng hộ chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc mãnh liệt, Ngô Bội Phu từ chối đi vào vùng tô giới nước ngoài, lập trường khiến ông phải trả giá bằng chính mạng sống của mình khi từ chối đến Công giới Thượng Hải hay Pháp giới Thượng Hải để chữa bệnh. Điển hình hơn là Nguyên soái Trương Tác Lâm, tốt nghiệp "Đại học Lục Lâm" (nghĩa là làm nghề ăn cướp), tuy mù chữ nhưng với tính cách mạnh mẽ, đầy tham vọng, đã vươn mình trỗi dậy từ thân phận thủ lĩnh của một băng cướp, được người Nhật thuê tấn công người Nga trong Chiến tranh Nga–Nhật (1904–1905) và trở thành quân phiệt Mãn Châu vào năm 1916. Ông làm việc công khai cho người Nhật khi họ cai trị Mãn Châu. Trương Tác Lâm chỉ quản lý 3% dân số Trung Quốc nhưng kiểm soát 90% ngành công nghiệp nặng nước này. Sự giàu có của Mãn Châu, sự hỗ trợ của người Nhật và lực lượng kỵ binh mạnh mẽ, nhanh nhẹn của Trương Tác Lâm biến ông trở thành quân phiệt hùng mạnh nhất. Những người Nhật bảo trợ cho Trương Tác Lâm đòi hỏi ông phải đảm bảo môi trường kinh tế ổn định để tạo điều kiện thuận lợi cho nguồn đầu tư Nhật Bản, khiến Trương Tác Lâm trở thành một trong số ít quân phiệt theo đuổi tăng trưởng kinh tế thay vì chỉ cướp bóc. Trương Tông Xương mang biệt danh "Tướng thịt chó" vì ham đánh bài cửu (người vùng đông bắc gọi bài cửu là "thịt chó"), được miêu tả là có "vóc dáng của một con voi, não của một con lợn và tính khí của một con hổ". Nhà văn Lâm Ngữ Đường gọi Trương Tông Xương là "nhà cai trị nhiều màu sắc, nhiều giai thoại, cổ lỗ, vô liêm sỉ nhất Trung Quốc hiện đại". Cựu hoàng Phổ Nghi nhớ về Trương Tông Xương như "một con quái vật bị cả thế giới căm ghét", có khuôn mặt xấu xí, húp híp, "tái mét vì nghiện thuốc phiện nặng". Là một người tàn bạo, Trương Tông Xương khét tiếng với sở thích dùng kiếm đập mạnh vào đầu các tù nhân, mà ông gọi là "đập dưa". Trương Tông Xương thích khoe khoang kích cỡ dương vật của mình, điều đã trở thành một phần huyền thoại về ông. Nhiều người tin rằng Trương Tông Xương là người đàn ông "trời phú" nhất Trung Quốc, có biệt danh "Tướng tám mươi sáu" vì dương vật khi cương cứng của ông được cho là dài bằng một cọc 86 đồng bạc đô la Mexico. Dàn hậu cung của Trương Tông Xương đến từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Nga, hai trong số đó là người Pháp. Vì không thể nhớ tên, Trương Tông Xương đánh số cho những người phụ nữ của mình và sau đó cũng thường quên luôn số. Những thông tin đáng chú ý khác về vài quân phiệt lớn kể trên: Sự linh hoạt tuyệt vời về mặt tư tưởng của các quân phiệt và chính trị gia trong Thời đại quân phiệt, có thể được minh chứng rõ ràng qua các hoạt động của Bạch Lãng, một thủ lĩnh băng cướp. Mặc dù ban đầu chiến đấu ủng hộ nhà Thanh cùng những người theo chủ nghĩa quân chủ cực đoan và các quân phiệt, Bạch Lãng sau đó đã liên minh với phe cộng hòa, tuyên bố trung thành với Tôn Dật Tiên rồi thành lập một "Đội quân trừng phạt của công dân" hòng cứu Trung Quốc khỏi bàn tay của tất cả quân phiệt. Quân đội quân phiệt. Nhiều binh lính trong quân đội quân phiệt là những tên cướp từng phục vụ cho một chiến dịch rồi lại quay trở lại làm cướp khi chiến dịch kết thúc. Một chính trị gia đã nhận xét rằng, cướp trở thành binh lính khi các quân phiệt gây chiến với nhau, và khi chiến tranh kết thúc, lại quay trở lại làm cướp. Quân đội quân phiệt thường xuyên hãm hiếp nhiều phụ nữ hoặc ép họ làm nô lệ tình dục. Chế độ cướp bóc được thể chế hóa vì nhiều quân phiệt thiếu tiền để trả cho quân đội. Một số quân phiệt bắt cóc và gửi yêu cầu kèm theo ngón tay bị chặt đứt của con tin, như một cách thúc giục người nhà nhanh chóng giao tiền chuộc. Bên cạnh những tên cướp, binh lính phục vụ trong quân đội quân phiệt có xu hướng lấy từ chế độ quân dịch làng xã. Họ có thể phục vụ trong một đội quân, bị bắt, sau đó gia nhập đội quân của chính những kẻ đã bắt giữ mình trước khi lại bị bắt thêm một lần nữa. Các quân phiệt thường tích hợp luôn tù nhân vào lực lượng quân đội của họ; ít nhất 200.000 người phục vụ trong lực lượng quân đội của Ngô Bội Phu là tù nhân. Khảo sát tại một đồn trú quân phiệt vào năm 1924 cho thấy 90% binh lính mù chữ. Năm 1926, sĩ quan quân đội Hoa Kỳ Joseph Stilwell kiểm tra một đơn vị quân phiệt và quan sát thấy 20% binh lính chỉ cao dưới 1,37 m, có tuổi trung bình là 14 và hầu hết đi chân đất. Stilwell gọi "đại đội bù nhìn" này là một đơn vị quân sự vô giá trị. Một vị khách từ quân đội Anh thì nhận xét rằng, với điều kiện cần là một lãnh đạo thích hợp, những người đàn ông ở miền bắc Trung Quốc là "nguyên liệu thô phương Đông tốt nhất với vóc dáng vô song, và một thể chất sắt thép." Tuy nhiên, thường không có nhiều các đơn vị người miền bắc chất lượng. Tài chính. Năm 1916, có khoảng nửa triệu binh lính ở Trung Quốc. Đến năm 1922, con số trên đã tăng gần gấp ba lần, sau đó lại tăng gấp ba lần nữa vào năm 1924; vượt quá khả năng chu cấp của các quân phiệt. Ví dụ, Nguyên soái Trương Tác Lâm, cai trị Mãn Châu công nghiệp hóa, thu được 23 triệu đô la tiền thuế vào năm 1925 trong khi phải chi khoảng 51 triệu đô la. Quân phiệt ở những khu vực khác thậm chí còn khốn đốn hơn. "Ly kim" là một con đường gây quỹ, loại thuế này thường bị xung công và gây thiệt hại kinh tế. Ví dụ, ở tỉnh Tứ Xuyên, có 27 loại thuế muối khác nhau và một chuyến tàu chở giấy đi trên sông Dương Tử đến Thượng Hải, đã bị các quân phiệt đánh thuế tới 11 lần, với tổng tiền thuế lên đến 160% giá trị chuyến tàu. Một quân phiệt đã đánh thuế 100% đối với hàng hóa đường sắt, bao gồm cả thực phẩm, mặc dù nạn đói đang hoành hành ở tỉnh của ông ta. Thuế trên tem và muối của chính quyền trung ương thường do chính quyền khu vực thu. Bất chấp sự giàu có của Mãn Châu và sự hỗ trợ của quân đội Nhật Bản, Trương Tác Lâm vẫn phải tăng thuế đất lên 12% từ năm 1922 đến năm 1928 để chi trả cho các cuộc chiến của mình. Quân phiệt yêu cầu các khoản vay từ ngân hàng. Ngoài thuế, cho vay và cướp bóc, nguồn thu chính còn đến từ hoạt động kinh doanh thuốc phiện, quân phiệt bán quyền trồng và buôn thuốc phiện trên địa bàn tỉnh của họ cho các tập đoàn xã hội đen. Mặc cho lập trường chống thuốc phiện bề ngoài, Phùng Ngọc Tường, "Tướng Cơ đốc", kiếm được khoảng 20 triệu đô la mỗi năm từ việc bán thuốc phiện. Lạm phát cũng là một cách quân phiệt chi trả cho binh lính của mình. Vài quân phiệt chỉ đơn giản là vận hành máy in tiền, một số còn dùng máy nhân bản để phát hành đồng đô la Trung Quốc mới. Quân phiệt cai trị Hồ Nam đã in 22 triệu đô la Trung Quốc, với một lượng bạc dự trữ chỉ đáng giá 1 triệu đô la Trung Quốc, trong vòng một năm. Cùng trong năm đó, Trương Tông Xương ở Sơn Đông cho in 55 triệu đô la Trung Quốc, với một lượng bạc dự trữ chỉ trị giá 1,5 triệu đô la Trung Quốc. Nguyên soái mù chữ Trương Tác Lâm, người tham gia in liều lĩnh đô la Trung Quốc, không hiểu rằng chính mình mới là người gây ra lạm phát ở Mãn Châu, và cách khắc phục của ông ta chỉ đơn thuần là triệu tập những thương nhân hàng đầu Thẩm Dương, buộc tội họ tham lam vì luôn luôn tăng giá hàng hóa, có năm người trong số đó được chọn ngẫu nhiên để xử bắn công khai, nhằm răn đe những người còn lại. Mặc cho luôn có nhu cầu tiền bạc, các quân phiệt sống rất xa hoa. Trương Tác Lâm sở hữu viên ngọc trai lớn nhất thế giới, trong khi Ngô Bội Phu có cho mình viên kim cương lớn nhất thế giới. "Đại soái" Trương Tác Lâm sống trong một cung điện xa hoa ở Thẩm Dương cùng năm bà vợ, sách Nho học củ, một hầm đầy rượu vang Pháp, và cần tới bảy mươi đầu bếp trong bếp để phục vụ đủ thức ăn cho ông, các bà vợ và những vị khách. Trương Tông Xương, "Tướng thịt chó", ăn một bữa tối gồm bốn mươi món Bỉ. Một nhà báo Mỹ đã mô tả về bữa tối cùng Trương Tông Xương: "Ông ấy mời tôi một bữa tối. Một lượng lớn đồ ăn xa hoa tội lỗi được dọn lên bàn ở một đất nước đói khát. Có cả sâm banh Pháp lẫn rượu mạnh." Trang bị. Các quân phiệt mua súng máy và đại pháo từ nước ngoài, nhưng những binh lính thất học và mù chữ của họ không thể vận hành hoặc bảo quản những loại vũ khí hiện đại này. Năm 1923, một lính đánh thuê người Anh đã phàn nàn rằng Ngô Bội Phu có khoảng 45 khẩu đại pháo châu Âu không thể hoạt động vì không được bảo dưỡng đúng cách. Trong trận Urga, quân đội của tướng Từ Thụ Tranh, đã chiếm được Ngoại Mông, bị tấn công bởi một liên quân Nga–Mông Cổ do tướng Roman von Ungern-Sternberg chỉ huy. Người Trung Quốc có thể đã ngăn chặn được Ungern nếu biết bắn súng máy sao cho đúng cách, điều chỉnh được độ giật hướng lên khi khai hỏa. Họ không làm điều này và để đạn bay quá xa khỏi mục tiêu. Việc không biết sử dụng súng máy hợp lý đã khiến người Trung Quốc phải trả giá đắt: sau khi chiếm Urga vào tháng 2 năm 1921, Ungern tiếp tục điều quân Cossack của mình cùng kỵ binh Mông Cổ truy lùng tàn quân của Từ Thụ Tranh khi họ đang cố tháo chạy về phía nam trên đường trở về Trung Quốc. Các lực lượng khác. Bởi vì binh lính dưới quyền không có khả năng sử dụng hoặc chăm sóc đúng cách vũ khí hiện đại, các quân phiệt thường phải thuê lính đánh thuê nước ngoài, những người chiến đấu hiệu quả nhưng cũng rất dễ dàng bán mình theo lời đề nghị khác. Dân Bạch Nga chạy trốn sang Trung Quốc sau chiến thắng của phe Bolshevik, được tuyển dụng rất rộng rãi. Theo lời một phóng viên, lính đánh thuê Nga xuyên qua quân Trung Quốc dễ dàng như dùng dao thái bơ. Đơn vị lính Nga được trả lương cao nhất do tướng Konstatin Nechaev chỉ huy, người chiến đấu cho Trương Tông Xương, "Tướng thịt chó" cai trị tỉnh Sơn Đông. Nechaev cùng người của mình vô cùng đáng sợ. Năm 1926, họ lái ba tàu hỏa bọc thép qua vùng nông thôn, bắn hạ bất cứ ai gặp trên đường và lấy đi mọi thứ có thể di chuyển được. Hành vi bạo lực chỉ dừng lại khi nông dân chặn đường ray tàu hỏa dẫn Nachaev sang thị trấn gần nhất cướp phá. Để tự vệ trước những cuộc tấn công từ các phe phái và lực lượng quân đội quân phiệt, nông dân tự tổ chức hội kín dân quân và hiệp hội làng xã, đóng vai trò như những lực lượng dân quân tự vệ hay nhóm bảo an. Vì nông dân thì không có tiền mua súng và không được huấn luyện quân sự, những hội kín kể trên chiến đấu dựa vào võ thuật, vũ khí tự chế như gươm, giáo, và niềm tin kiên định vào phép thuật hộ thân. Niềm tin đao thương bất nhập vô cùng quan trọng, vì nó là "một vũ khí mạnh mẽ để củng cố quyết tâm cho những người sở hữu ít nguồn lực thay thế bảo vệ gia tài ít ỏi." Nghi lễ phép thuật mà nông dân thực hiện rất đa dạng, từ những thực hành khá đơn giản như nuốt bùa, đến những thực hành cầu kỳ hơn nhiều. Ví dụ, thành viên Hồng Thương Hội thực hiện các nghi lễ bí mật ban khả năng chống đạn để chuyển đổi sức mạnh của khí và luôn khỏa thân ra trận, trét đất sét đỏ được cho là có khả năng chống đạn lên cơ thể. Tang Phục Hội thì khấu đầu ba lần và gào khóc thật to trước mỗi lần ra trận. Thất vọng với Trung Hoa Dân quốc và tuyệt vọng vì bị quân phiệt tước đoạt của cải, nhiều hội kín nông dân áp dụng chủ nghĩa hoài cổ, chủ trương khôi phục chế độ quân chủ cũ, được dẫn dắt bởi cựu triều Minh. Quá khứ được lãng mạn hóa rộng rãi, và nhiều người tin rằng một vị hoàng đế nhà Minh sẽ mang lại một "triều đại hạnh phúc và công bằng cho tất cả mọi người". Bắc. Cái chết của Viên Thế Khải chia quân Bắc Dương thành hai phe chính. Trực hệ và Phụng hệ liên minh với nhau, trong khi Hoán hệ một mình một phe. Sự công nhận quốc tế phụ thuộc vào sự hiện diện tại Bắc Kinh, và mọi bè cánh Bắc Dương đều cố gắng khẳng định mình đang thống trị thủ đô để tuyên bố tính hợp pháp. Đoàn Kỳ Thụy và sự thống trị của Hoản hệ (1916–20). Trong khi Lê Nguyên Hồng ngồi vào vị trí tổng thống sau cái chết của Viên Thế Khải, quyền lực chính trị lại nằm trong tay Thủ tướng Đoàn Kỳ Thụy. Chính phủ hợp tác chặt chẽ với Trực hệ do Phó Tổng thống Phùng Quốc Chương cầm đầu, để duy trì tính ổn định cho thủ đô. Những ảnh hưởng quân sự tiếp theo lên Chính phủ Bắc Dương khiến các tỉnh thành khắp đất nước từ chối chấp nhận phục tùng. Cuộc tranh luận giữa tổng thống và thủ tướng về việc liệu Trung Quốc có nên tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất hay không, được tiếp nối bởi tình trạng bất ổn chính trị ở Bắc Kinh. Cả Lê Nguyên Hồng và Đoàn Kỳ Thụy đều yêu cầu tướng Bắc Dương là Trương Huân, đang đóng quân ở An Huy, can thiệp quân sự vào Bắc Kinh. Khi Trương Huân hành quân đến Bắc Kinh vào ngày 1 tháng 7, ông nhanh chóng giải tán quốc hội và tuyên bố khôi phục chính quyền Mãn Thanh. Chính quyền mới sớm rơi vào tay Đoàn Kỳ Thụy khi ông trở về Bắc Kinh cùng quân tiếp viện từ Thiên Tân. Cùng một chính phủ song song ở Bắc Kinh, những bất đồng cơ bản về các vấn đề quốc gia giữa Đoàn Kỳ Thụy với tân tổng thống Phùng Quốc Chương dẫn đến việc Đoàn phải từ chức vào năm 1918. Trực hệ liên minh với Phụng hệ do Trương Tác Lâm lãnh đạo, và đánh bại Đoàn Kỳ Thụy trong Chiến tranh Trực–Hoản vào tháng 7 năm 1920. Tào Côn và sự thống trị của Trực hệ (1920–24). Sau khi Phùng Quốc Chương chết vào năm 1919, Trực hệ do Tào Côn lãnh đạo. Trực hệ liên minh với Phụng hệ chỉ đơn thuần vì lợi ích nhất thời, và chiến tranh giữa hai bè cánh này sớm nổ ra vào năm 1922, với kết quả là Trực hệ đẩy Phụng hệ về Mãn Châu. Tiếp theo, Trực hệ muốn củng cố tính hợp pháp của mình và thống nhất đất nước bằng cách đưa Lê Nguyên Hồng trở lại vị trị tống thống và khôi phục Quốc dân đại hội. Họ đề xuất Từ Thế Xương và Tôn Dật Tiên nên đồng thời từ chức tổng thống để ủng hộ Lê Nguyên Hồng. Không thể chịu đựng được những yêu cầu ngặt nghèo của Tôn Dật Tiên, Trực hệ thuyết phục tướng Quốc dân đảng Trần Quýnh Minh trở cờ bằng cách công nhận ông là Tổng đốc Quảng Đông. Với việc Tôn Dật Tiên bị đuổi khỏi Quảng Châu, Trực hệ đã khôi phục một cách hời hợt chính phủ hợp hiến tồn tại trước khi Trương Huân đảo chính. Tào Côn mua chức tổng thống vào năm 1923, bất chấp sự phản đối của Quốc dân đảng, tàn dư Phụng hệ, Hoản hệ, một số thuộc cấp của ông và công chúng. Mùa thu năm 1924, Trực hệ dường như đang trên đà chiến thắng tuyệt đối trong Chiến tranh Trực–Hoản lần thứ hai cho đến khi Phùng Ngọc Tường phản bội bè cánh, chiếm lấy Bắc Kinh và bỏ tù Tào Côn. Các lực lượng Trực hệ bị đánh cho tan tác từ phía bắc nhưng vẫn giữ lấy khu vực trung tâm. Đoàn Kỳ Thụy trở lại trong vai trò tổng thống lâm thời (1924–26). Việc Phùng Ngọc Tường trở cờ khiến Ngô Bội Phu cùng Trực hệ bị đánh bại, buộc phải rút lui về phía nam. Trương Tác Lâm bất ngờ chiến thắng, bổ nhiệm Đoàn Kỳ Thụy làm tổng thống lâm thời mới vào ngày 24 tháng 11 năm 1924. Chính phủ mới của Đoàn Kỳ Thụy được Trực hệ miễn cưỡng công nhận, vì Đoàn Kỳ Thụy không sở hữu quân đội riêng nên được coi là một lựa chọn trung lập. Ngoài ra, thay vì "tổng thống", Đoàn Kỳ Thụy chỉ là tống thống lâm thời, một vị trí tạm thời và do đó rất yếu về mặt chính trị. Đoàn Kỳ Thụy kêu gọi Tôn Dật Tiên cùng Quốc dân đảng ở miền nam tái khởi động đàm phán theo hướng thống nhất đất nước. Tôn Dật Tiên yêu cầu bãi bỏ "các hiệp ước bất bình đẳng" với liệt cường nước ngoài và thành lập một quốc hội mới. Trước áp lực dư luận, Đoàn Kỳ Thụy buộc phải hứa sẽ tổ chức một quốc hội mới trong ba tháng; tuy nhiên, ông không thể đơn phương hủy bỏ các hiệp ước bất bình đẳng, vì sự công nhận mà liệt cường nước ngoài dành cho chế độ của ông được xác định bởi chính những hiệp ước này. Tôn Dật Tiên qua đời vào ngày 12 tháng 3 năm 1925 và các cuộc đàm phán hoàn toàn đổ vỡ. Với sức mạnh quân sự bè cánh đang trong tình trạng hỗn loạn, chính phủ Đoàn Kỳ Thụy phụ thuộc một cách vô vọng vào Phùng Ngọc Tường và Trương Tác Lâm. Biết hai quân phiệt không ưa nhau, Đoàn Kỳ Thụy liền tìm cách theo người này, chống người kia. Ngày 18 tháng 3 năm 1926, một cuộc tuần hành phản đối đã được tổ chức, lên án hành động xâm phạm chủ quyền của liệt cường nước ngoài và một vụ việc gần đây ở Thiên Tân, liên quan tới một tàu chiến Nhật Bản. Đoàn Kỳ Thụy điều động quân cảnh giải tán người biểu tình. Trong hỗn chiến, 47 người biểu tình đã thiệt mạng, hơn 200 người khác bị thương, trong đó có Lý Đại Chiêu, đồng sáng lập Đảng Cộng sản Trung Quốc. Sự kiện trên được gọi là Thảm sát ngày 18 tháng 3. Tháng sau, Phùng Ngọc Tường lại nổi dậy, lần này chống lại Phụng hệ, phế truất Đoàn Kỳ Thụy, người phải đến náu nhờ Trương Tác Lâm để được bảo vệ. Trương Tác Lâm, ngán ngẩm với tính hai mang của Đoàn Kỳ Thụy, từ chối khôi phục lại vị trí cho ông ta khi chiếm lại thủ đô Bắc Kinh. Phần lớn thành viên Hoản hệ đứng về phía Trương Tác Lâm. Đoàn Kỳ Thụy đành phải đến Thiên Tân lánh nạn rồi sau đó chuyển đến Thượng Hải, nơi ông qua đời vào này 2 tháng 11 năm 1936. Trương Tác Lâm và Phụng hệ (1924–28). Trong chiến tranh Trực–Phụng lần thứ hai, Phùng Ngọc Tường đã chuyển sự ủng hộ của mình từ Trực hệ sang Phụng hệ và thực hiện cuộc đảo chính Bắc Kinh, khiến Tào Côn phải ngồi tù. Phùng Ngọc Tường sớm tách khỏi Trực hệ, thành lập Quốc dân quân và liên minh với Đoàn Kỳ Thụy. Năm 1926, Ngô Bội Phu của Trực hệ phát động Chiến tranh chống Phụng hệ. Trương Tác Lâm lợi dụng tình hình, tiến vào Sơn Hải quan từ phía đông bắc và chiếm được Bắc Kinh. Phụng hệ vẫn nắm quyền kiểm soát thủ đô cho đến khi Chiến dịch Bắc phạt do Quốc quân của Tưởng Giới Thạch dẫn đầu, tước quyền lực của Trương Tác Lâm vào tháng 6 năm 1928. Nam. Các tỉnh phía nam Trung Quốc đối kháng với chính phủ Bắc Dương ở phía bắc, đứng lên chống lại hành động khôi phục chế độ quân chủ của Viên Thế Khải và cả chính phủ kế tục ra đời sau cái chết của ông ở Bắc Kinh. Tôn Dật Tiên cùng các nhà lãnh đạo miền nam khác đã thành lập một chính phủ ở Quảng Châu để chống lại sự cai trị của các quân phiệt Bắc Dương, chính phủ này được coi như một phần của Chiến tranh bảo vệ hiến pháp. Tôn Dật Tiên và Chính phủ quân quản "Bảo vệ hiến pháp" ở Quảng Châu (1917–22). Tháng 9, Tôn Dật Tiên trở thành tổng tư lệnh của chính phủ quân quản bảo vệ hiến pháp lâm thời 1912. Các quân phiệt phía nam hỗ trợ chế độ của Tôn Dật Tiên để hợp pháp hóa các tiểu quốc của mình và thách thức Bắc Kinh. Trong một nỗ lực nhằm giành lấy sự công nhận từ cộng đồng quốc tế, họ còn tuyên chiến với Liên minh Trung tâm nhưng không thu được kết quả. Tháng 7 năm 1918, những người theo chủ nghĩa quân quốc ở miền nam cho rằng Tôn Dật Tiên được trao quá nhiều quyền và buộc ông phải tham gia một ủy ban quản trị. Những trở lực ập đến liên tục buộc Tôn Dật Tiên tự ly khai khỏi chính phủ quân quản. Ông tái thành lập Quốc dân đảng, với sự giúp đỡ của Trần Quýnh Minh, Sầm Xuân Huyên, Lâm Bảo Dịch và Lục Vinh Đình vừa bị trục xuất trong Chiến tranh Quảng Đông–Quảng Tây năm 1920. Tháng 5 năm 1921, Tôn Dật Tiên được bầu làm "tổng thống bất thường" bởi một nghị viện thiểu số bất chấp sự phản đối của Trần Quýnh Minh và Đường Thiệu Nghi vì tính vi hiến. Đường Thiệu Nghi bỏ đi trong khi Trần Quýnh Minh mưu đồ với Trực hệ hòng lật đổ Tôn Dật Tiên vào tháng 6 năm 1922, để đổi lấy chức Tổng đốc Quảng Đông. Tái tổ chức chính phủ quân quản ở Quảng Châu (1923–25). Sau khi Trần Quánh Minh bị đuổi khỏi Quảng Châu, Tôn Dật Tiên trở lại nắm quyền lãnh đạo vào tháng 3 năm 1923. Đảng được tái tổ chức dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ, và liên minh với Đảng Cộng sản Trung Quốc, theo chiến lược Liên Nga dung Cộng. Chính quyền Quảng Châu tập trung đào tạo sĩ quan quân đội thông qua Học viện quân sự Hoàng Phố mới thành lập. Năm 1924, Trực hệ mất quyền lực, Tôn Dật Tiên đến Bắc Kinh để đàm phán các điều khoản thống nhất với lãnh đạo Quốc dân quân, Phụng hệ và Hoản hệ. Tôn Dật Tiên không thể tiếp tục đảm bảo các điều khoản khi qua đời vào tháng 3 năm 1925 vì bệnh tật. Ngay sau cái chết của Tôn Dật Tiên, các cuộc tranh giành quyền lực nổ ra trong nội bộ Quốc dân đảng. Chiến tranh Vân Nam–Quảng Tây bùng phát khi Đường Thiệu Nghi cố gắng giành quyền lãnh đạo đảng. Ở phía bắc, các cuộc đấu tranh do Quốc dân quân lãnh đạo, chống lại liên minh Trực–Phụng kéo dài từ tháng 11 năm 1925 đến tháng 4 năm 1926. Thất bại của Quốc dân quân đặt dấu chấm hết cho quyền cai trị của họ ở Bắc Kinh. Tái thống nhất. Tưởng Giới Thạch nổi lên với tư cách là người được Tôn Dật Tiên bảo hộ sau Sự cố tàu chiến Trung Sơn. Mùa hè năm 1926, Tưởng Giới Thạch và Quốc quân bắt đầu Chiến dịch Bắc phạt với hy vọng thống nhất Trung Quốc. Ngô Bội Phu và Tôn Truyền Phương của Trực hệ sau đó bị đánh bại ở miền trung và miền đông Trung Quốc. Trước tình hình cấp bách, Quốc dân quân và Diêm Tích Sơn thành lập liên minh với Tưởng Giới Thạch để cùng nhau tấn công Phụng hệ. Năm 1927, Tưởng Giới Thạch khởi xướng một cuộc thanh trừng bạo lực nhằm vào những người Cộng sản trong Quốc dân đảng, đánh dấu chấm hết cho chiến lược Liên Nga dung Cộng. Mặc dù Tưởng Giới Thạch đã cũng cố quyền lực của Quốc dân đảng ở Nam Kinh, vẫn cần phải chiếm Bắc Kinh, qua đó khẳng định tính hợp pháp cần thiết để quốc tế công nhận. Thay cho lòng trung thành, Diêm Tích Sơn đến và chiếm Bắc Kinh sau cái chết của Trương Tác Lâm vào năm 1928. Người kế nhiệm Trương Tác Lâm, Trương Học Lương, chấp nhận quyền lực của lãnh đạo Quốc dân đảng, Chiến dịch Bắc phạt chính thức kết thúc. Nền chính trị Trung Quốc trong Thập niên Nam Kinh do Quốc dân đảng lãnh đạo, được định hình sâu sắc bới những thỏa hiệp với các quân phiệt đã giúp Chiến dịch Bắc phạt thành công. Hầu hết các nhà lãnh đạo cấp tỉnh là các chỉ huy quân sự chỉ tham gia Quốc dân đảng trong Chiến dịch Bắc phạt, khi các quân phiệt và người quản lý của họ đều bị Tưởng Giới Thạch thuyết phục. Mặc dù là một nhà độc tài, Tưởng Giới Thạch không nắm quyền tuyệt đối vì luôn bị các đối thủ trong đảng và quân phiệt địa phương thách thức. Dù Trung Quốc đã thống nhất, vẫn có những cuộc xung đột diễn ra trên khắp đất nước. Các quân phiệt đồng ý hợp tác nhưng vẫn nảy sinh bất đồng với Chính phủ Quốc dân đảng, và giữa họ sớm bùng phát Đại chiến Trung Nguyên vào năm 1930. Từ năm 1931 đến năm 1937, một loạt cuộc chiến nổ ra ở Tân Cương. Sau Sự biến Tây An năm 1939, mọi nỗ lực quân sự chuyển sang trạng thái chuẩn bị đương đầu Đế quốc Nhật Bản. Các quân phiệt tiếp tục đặt ra nhiều vấn đề cho Chính phủ Quốc dân đảng mãi cho tới khi phe cộng sản giành chiến thắng vào năm 1949. Nhiều quân phiệt quay lưng với Quốc dân đảng và đào tẩu sang Đảng Cộng sản Trung Quốc, chẳng hạn như quân phiệt Vân Nam Lư Hán, người cùng quân đội của mình từng chịu trách nhiệm giải giáp quân Nhật ở Hà Nội và tham gia cướp bóc diện rộng. Dù Tưởng Giới Thạch thường không bị đánh giá là một nhà lãnh đạo đồi bại, quyền lực của ông ta phụ thuộc vào tính cân bằng giữa nhiều quân phiệt. Kể cả khi đã thấu hiểu và căm ghét thực tế rằng nạn tham nhũng trong nội bộ Quốc dân đảng đang đẩy công chúng đến với phe cộng sản, Tưởng Giới Thạch vẫn tiếp tục tập trung đối phó với các quân phiệt, dung túng cho sự bất tài và nạn tham nhũng, đục khoét cấp dưới khi họ đang mạnh lên, làm tất cả chỉ để duy trì sự thống nhất. Sau khi Nhật Bản đầu hàng, các quân phiệt quay sang chống Quốc dân đảng.
1
null
Viber là một phần mềm nhắn tin nhanh dựa trên giao thức VoIP đa nền tảng do Viber Media phát triển cho điện thoại thông minh dùng để nhắn tin và thực hiện cuộc gọi qua internet. Cùng với tin nhắn văn bản, người dùng có thể trao đổi hình ảnh, video và âm thanh. Phần mềm này có thể dùng được cho Mac OS, Android, BlackBerry OS, iOS, Series 40, Symbian, Bada, Windows Phone và Microsoft Windows và một phiên bản Linux đang được phát triển. Viber kết nối được với cả mạng 3G/4G và Wi-Fi. Ngày 7 tháng 5 năm 2013, Viber đạt tới hơn 200 triệu người dùng. Đến ngày 14 tháng 2 năm 2014, Viber được Rakuten, một công ty kinh doanh trực tuyến của Nhật Bản, mua lại với giá 900 triệu USD. Lịch sử. Viber lần đầu tiên ra mắt cho iPhone ngày 2/12/2010 để cạnh tranh trực tiếp với Skype. Phiên bản beta dành cho Android xuất hiện vào tháng 5 năm 2011 nhưng chỉ giới hạn cho 50.000 người, một phiên bản không giới hạn được phát hành ngày 19/7/2012. Viber cho các thiết bị của BlackBerry và Windows Phone ra mắt ngày 8/5/2012. Khi đạt được 90 triệu người dùng ngày 24/7/2012, dịch vụ nhắn tin nhóm và công cụ HD Voice được thêm vào cả úng dụng của Android và iPhone. Ứng dụng cho nền tảng Series 40, Symbian của Nokia và Bada của Samsung cũng được công bố cùng ngày đấy.. Ngày 14/2, Viber được sáp nhập với Rakuten với giá 900 triệu USD. Đây được coi như một bước đệm để Rakuten bước vào thị trường viễn thông và cạnh tranh với Line, một ứng dụng tán gẫu tương tự rất thành công toàn cầu. Công ty. Viber Media là một công ty đóng tại Israel và có trung tâm phát triển tại Belarus và Cộng Hòa Síp. Công ty do một doanh nhân người Israel gốc Mỹ tên là Talmon Marco. Công ty hiện đang không tạo ra doanh thu nhưng tuyên bố sẽ bắt đầu tạo doanh thu trong năm 2013 thông qua một "cửa hàng Sticker". Công ty được tài trợ bởi các nhà đầu tư cá nhân. Tính đến tháng 5 năm 2013, 20 triệu USD đã được đầu tư vào công ty này. Bê bối. Ngày 24/7/2013, hệ thống hỗ trợ của Viber bị Syrian Electronic Army (Quân đội Điện tử Syrian) tấn công. Theo Viber, không có thông tin người dùng nhạy cảm nào bị truy cập.
1
null
Friedrich Rabod Freiherr von Schele (15 tháng 9 năm 1847 tại Berlin – 20 tháng 7 năm 1904 cũng tại Berlin) là ột sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng đến cấp Trung tướng. Ông từng tham chiến trong các cuộc Chiến tranh Áo-Phổ (1866), Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871), và là Toàn quyền Đông Phi thuộc Đức kể từ năm 1893 cho đến năm 1895. Ông còn là một sủng thần của Hoàng đế Wilhelm II của Đức. Tiểu sử. Friedrich von Schele sinh vào tháng 9 năm 1847, là con trai của Kiểm lâm Hoàng gia ("Hofjägermeisters") và Trưởng nhóm Thị thần ("Hofkanmmer") Phổ Werner von Schele (1814 – 1869) với người vợ của ông này là bàn Gemahlin Marie, nhũ danh Eichhorn (1822 – 1861). Sau khi học tập trong quân đoàn Thiếu sinh quân Phổ, Schele gia nhập Trung đoàn Long kỵ binh số 6 Magdeburg vào ngày 18 tháng 4 năm 1865 với quân hàm Thiếu úy. Năm sau (1866), trong cuộc Chiến tranh Bảy tuần ới Áo, ông được cắt cử vào Bộ Tham mưu của Lữ đoàn Kỵ binh tổng hợp dưới quyền Thiếu tướng Moritz von Flies thuộc Tập đoàn quân Main với chức vụ sĩ quan quân nhu. Sau đó, vào ngày 2 tháng 11 năm 1867, ông được đổi vào Trung đoàn Thương kỵ binh Cận vệ số 3 ở Potsdam. Vào ngày 3 tháng 7 năm 1870, Schele trở thành sĩ quan tham mưu phó của Lữ đoàn Kỵ binh Cận vệ số 2, và cùng đơn vị này ông đã tham chiến trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871). Cũng trong lữ đoàn này, ông được cử làm sĩ quan quân nhu cá nhân của Vương thân Albrecht của Phổ trong các trận đánh kể từ ngày 30 tháng 8 năm 1870 cho đến ngày 15 tháng 2 năm 1871. Sau khi ông được thăng cấp hàm Trưởng quan kỵ binh vào năm 1877, ông được đổi làm chỉ huy một đội kỵ binh trong Trung đoàn Long kỵ binh số 16 Hannover số 2 vào năm 1877. 7 năm sau (1884), ông lên quân hàm Thiếu tá, rồi được chuyển vào Trung đoàn Long kỵ binh số 3 "Hoàng đế Alexander II của Nga" (số 1 Brandenburg) và vào năm 1891, ông được lãnh nhiệm chức Trưởng khoa Kỵ binh của Bộ Chiến tranh. Vào năm 1892, Schele được đi làm phái viên của Toàn quyền Đông Phi, và sau khi ông được phong cấp hàm Đại tá vào năm 1893, ông được phong làm Toàn quyền Đông Phi đồng thời được giao chỉ huy Lực lượng Bảo hộ ("Schutztruppe") của Đức. "Một người đàn ông đẹp trai có tài năng thường được mô tả là xoàng xĩnh", nhưng ông đã tiến hành một số chiến dịch quân sự để thảo phạt các dân tộc thiểu số bản địa, bao gồm người Massai dưới quyền tù trưởng Meli ở núi Kilimanjaro và người Hehe dưới sự cai trị của tù trưởng Mkwawa. Cuộc thảo phạt người Massai của Đại tá Schele đã khởi đầu vào tháng 8 năm 1893, và sau khi đẩy lui các cuộc tấn công lẻ tẻ, ông đã đánh bại hoàn toàn người Massai. Đến tháng 12 năm đó, ông thúc quân tấn công Umbunga, đánh bại quân bản xứ và treo cổ một thủ lĩnh quan trọng của họ. Sau đó, vào ngày 26 tháng 10 năm 1894, với 609 lính dã chiến askari và 3 khẩu súng máy, ông tiến đánh cao nguyên Iringa, và không còn cơ hội để mai phục, người Hehe buộc phải chạy vào "pháo đài" Kalenga ở Iringa. Đến ngày 30 tháng 10 năm 1894, Schele đè bẹp cuộc kháng cự của người Hehe trong pháo đài Kalenga, tiêu diệt 250 chiến binh Hehe. Sau khi tới một khoảng cách an toàn, Mkwawa ngồi khóc. Từ một ngọn đồi gần đó, Mkwawa theo dõi quân Đức cho đến khi họ rút lui vào ngày 3 tháng 11. Trên đường rút, quân Đức đã đập tan một cuộc mai phục do Mkwawa thực hiện. Do chiến thắng của ông trước người Hehe, dân tộc được xem là kẻ thù nguy hiểm nhất của sự thống trị của thực dân Đức tại Đông Phi vào thập niên 1890, Schele được tặng thưởng Huân chương Quân công cao quý nhất của Phổ vào ngày 20 tháng 11 năm 1894. Tuy nhiên, thắng lợi này cũng chấm dứt thời kỳ cầm quyền của ông tại Đông Phi. Những người chủ hòa trong Quốc hội Đức đả kích chính sách của ông và theo chỉ dụ vào ngày 12 tháng 12 năm 1894, chính phủ đặt hoàn toàn bộ máy hành chính thuộc địa dưới sự điều khiển của Ban Thuộc địa thuộc Bộ Ngoại giao ở Berlin. Từng là một sĩ quan trong một trung đoàn thương kỵ binh tinh nhuệ, ông không chấp nhận bị đặt dưới quyền các viên chức của Bộ Ngoại giao thay vì quân vương. Ông đe dọa từ chức nếu không được trực thuộc dưới quyền Wilhelm II. Vị hoàng đế ngạc nhiên đã chấp nhận đơn từ chức của Schele vào năm 1895. Sau đó, ông trở lại phục vụ quân đội Đức, vào ngày 14 tháng 4 ông được ủy nhiệm chức sĩ quan hầu cận của Đức hoàng Wilhelm II và không lâu sau đó ông được bổ nhiệm làm Lữ đoàn trưởng ngày 13 tháng 5 năm 1895. Trong khi vẫn giữ chức vụ sĩ quan hầu cận của Hoàng đế, ông được nhậm chức Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn Kỵ binh số 2 vào ngày 1 tháng 6 năm 1896. Một tháng sau, Schele rời cương vị sĩ quan hầu cận và vào ngày 22 tháng 3 năm 1897, ông được thăng cấp hàm Thiếu tướng. Tiếp theo đó, vào ngày 10 tháng 6 năm 1899, ông được giao trông coi Cục Thanh tra Kỵ binh số 3 ở Münster (Westfalen). Cùng ngày, Schele được ban tặng Ngôi sao đính kèm Huân chương Vương miện hạng II kèm theo Thanh kiếm. Vào ngày 22 tháng 5 năm 1900, ông được thăng hàm Trung tướng, đồng thời được phong chức Cục trưởng ("Inspekteur"). Sau một năm điều hành Cục Thanh tra Kỵ binh số 3, Schele được thuyên chuyển làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn số 16, đóng quân tại Trier. Ông chỉ huy sư đoàn này cho đến ngày 16 tháng 2 năm 1903 rồi được bổ nhiệm làm Thống đốc thành Mainz. Vì lý do sức khỏe, vào ngày 1 tháng 5 năm 1904, ông xuất ngũ ("zur Disposition, không phục vụ tại ngũ nữa nhưng sẽ được triệu hồi khi có chiến tranh). Đồng thời, vì những thành tích của ông, vua Wilhelm II trao tặng cho ông Huân chương Đại bàng Đỏ hạng I đính kèm Bó sồi, Thanh gươm và Vương miện hoàng gia, đồng thời bổ nhiệm ông làm Viện trưởng Viện Phế binh Berlin. Chẳng mấy lâu sau, Schele từ tần vào ngày 20 tháng 7 năm 1904 do bệnh tình trầm trọng, và được mai táng ở nghĩa trang Invalidenfriedhof tại Berlin. Vào ngày 1 tháng 11 năm 1879, Schele thành hôn với Emma, nhũ danh Freiin von Hammerstein-Equord (1855 – 1918). Cuộc hôn nhân đã mang lại cho họ một số người con.
1
null
Lâu đài Trakai hay Lâu đài đảo Trakai ("tiếng Litva": "Trakų salos Pilis") là một lâu đài nằm trên hòn đảo có tên là Trakai của Litva ở hồ Galvė. Lâu đài này đôi khi được gọi là "Little Marienburg ". Lâu đài được xây dựng bằng đá, nó được bắt đầu khởi công trong thế kỷ 14 do Kęstutis thiết kế và đã được hoàn thành bởi con trai của Vytautas Đại đế, người đã qua đời ngay trong lâu đài này vào năm 1430. Trakai là một trong những trung tâm chính của Đại công quốc Lietuva. Hiện nó là một điểm thu hút du lịch lớn. Giai đoạn đầu tiên. Lâu đài được xây dựng trong nhiều giai đoạn. Trong giai đoạn đầu vào nửa sau của thế kỷ 14, lâu đài được xây dựng trên ba hòn đảo lớn nhất của hồ theo lệnh của đại công tước Kęstutis. Kęstutis đã chọn đây là chỗ ở của ông và dành toàn bộ ngân quỹ của mình để xây cất lâu đài. Lâu đaì sau đó bị tàn phá nặng nề trong một cuộc tấn công của các Hiệp sĩ dòng Teuton vào 1377. Sau vụ ám sát Kęstutis, một cuộc tranh giành quyền lực giữa Jogaila và Vytautas Đại đế cho danh hiệu Đại Công tước của Lithuania đã bắt đầu. Lâu đài bị bao vây bởi cả hai bên. Ngay sau khi hòa giải giữa Jogaila và Vytautas, giai đoạn hai xây dựng bắt đầu và tiếp tục cho đến 1409. Giai đoạn này được coi là sự phát triển quan trọng trong lịch sử lâu đài. Giai đoạn thứ hai. Hai nhánh của lâu đài đã được thêm vào ở phía Nam một khu vực có 6 tầng (cao đến 35 mét hoặc 115 tính từ móng). Để chắc cú trong việc phòng thủ thì Tháp canh đã được cho xây dựng. Các Tháp canh đã được sử dụng cho một số nhiệm vụ nhất định, như là một cấu trúc phòng thủ, trên tháp này đã có một nhà nguyện và khu nhà ở trong đó có một sân trong. Sân bên trong có phòng trưng bày bằng gỗ những phòng trưng bày được sử dụng để đưa đồ đạc đi mà không đi bên trong cung điện. Toàn bộ cánh phía nam của cung điện phía Nam đã được sử dụng cho các Đại sảnh Ducal. Sảnh này khoảng 10,21 mét. Sảnh Ducal đã lưu giữ một số trang trí ban đầu. Vật liệu xây dựng chủ yếu được gọi là gạch Gothic đỏ. Đá khối chỉ được sử dụng khi xây nền và các bộ phận trên của tòa nhà tháp và các bức tường. Lâu đài được trang trí theo nhiều cách khác nhau, bao gồm ốp lát bằng kính ở mái nhà. Phong cách tổng thể của nó sau khi giai đoạn xây dựng thứ hai có thể được mô tả như Gothic với một kiểu cách La Mã. Giai đoạn thứ ba. Bắt đầu bằng việc mở rộng trong đầu thế kỷ 15 đánh dấu giai đoạn thứ ba của sự phát triển của Lâu đài. Các bức tường đã được tăng cường với độ dày 2,5 m và bố trí thêm tháp bắn. Ba tòa tháp phòng thủ lớn đã được xây dựng trên các góc chiến lược của lâu đài. Tháp phía tây nam cũng đã được sử dụng như một nhà tù. Một cổng nhà chính cũng đã được xây dựng. Gần các bức tường bên trong một số tòa nhà được xây dựng, bao gồm cả chuồng ngựa, nhà bếp, và các công trình phụ trợ khác. Khi lâu đài đã trải qua mở rộng này trong thế kỷ 15, mực nước của hồ Galvė cao hơn vài mét so với ngày nay. Lâu đài đã mất tầm chiến lược quân sự ngay sau khi trận Grunwald khi kẻ thù chính của Đại Công tước của Lithuania đã bị đánh bại bởi quân đội Lithuania - Ba Lan. Lâu đài đã trở thành một nơi cư trú và được trang trí mới từ bên trong. Bức bích họa mới được vẽ trên các bức tường của nó đã được bảo quản một phần. Sứ giả nước ngoài đã được chào đón trong Cung điện Ducal. Đại Công tước Vytautas Vĩ Đại đã chết trong lâu đài mà không được trao vương miện vua của Lithuania ngay trong 1430. Dưới sự cai trị của Sigismund Augustus, lâu đài được trang trí lại theo phong cách Phục hưng, và nó được dùng như là nơi nghỉ hè của hoàng gia. Sau đó, lâu đài được sử dụng như là một nhà tù. Trong cuộc chiến tranh với Muscovy trong thế kỷ 17, lâu đài đã bị hư hỏng và không xây dựng lại một lần nữa. Nó dần dần rơi vào tình trạng xuống cấp. Giai đoạn cuối. Vào thế kỷ 19, kế hoạch xây dựng lại lâu đài đã được chuẩn bị. Năm 1905, các cơ quan chức hoàng gia Nga đã quyết định khôi phục lại một phần các di tích lâu đài. Trong Thế chiến thứ nhất, Đức đưa vào các chuyên gia những người đã thực hiện nhiều nỗ lực để khôi phục lại lâu đài. Từ năm 1935 đến năm 1941, các bộ phận của các bức tường được tăng cường và tháp forecastle đông nam được xây dựng lạibao gồm cả các phần của bức tường của nó. Sau Thế chiến II, một dự án tái thiết chính được bắt đầu vào năm 1946 tích cực bắt đầu xúc tiến từ năm 1951-1952. Phần chính của việc tái thiết đã được hoàn thành trong năm 1961. Lâu đài này được xây dựng lại theo một phong cách thế kỷ 15.
1
null
Pavlos (tiếng Hy Lạp: Παύλος, Pávlos; 14 tháng 12 năm 1901 - 6 tháng 3 năm 1964) là Vua của Vương quốc Hy Lạp từ ngày 1/04/1947 cho đến khi ông qua đời vào năm 1964. Ông được kế vị bởi con trai của mình, Konstantinos II. Pavlos là anh em họ đầu tiên của Philippos của Hy Lạp và Đan Mạch, Vương tế Anh và là ông ngoại của Felipe VI, người đang trị vì Tây Ban Nha. Cuộc sống đầu đời. Pavlos sinh ngày 14/12/1901 tại Cung điện Tatoi ở Athens, là con trai thứ 3 của Vua Konstantinos I của Hy Lạp và vợ, Sophie của Phổ. Ông được đào tạo như một sĩ quan quân đội tại Đại học Quân sự Hoàng gia, Sandhurst và sau đó là tại Học viện Quân sự Hy Lạp ở Kypseli, Athens. Pavlos là một sĩ quan quân đội trong Trung đoàn vệ binh "Coldstream Guards" của Vương quốc Anh và là Trung uý của đơn vị bộ binh hạng nhẹ Evzones. Từ năm 1917 đến năm 1920, Pavlos cùng cha mình sống lưu vong, từ năm 1923 đến năm 1935, ông một lần nữa sống lưu vong cùng anh trai, Georgios II của Hy Lạp tại Vương quốc Anh. Pavlos làm việc trong một thời gian ngắn tại nhà máy sản xuất máy bay với bí danh, và thông qua Evan Morgan, Tử tước thứ 2 của Tredegar, ông đã gặp và kết bạn với Denham Fouts, một người đàn ông hành nghề mại dâm người Mỹ, người mà sau này bị cáo buộc là ngoại tình với Pavlos. Tuy nhiên, John B. L. Goodwin, bạn của Fouts cho biết rằng Fouts thường bịa ra những câu chuyện về cuộc đời của mình, và nhà phê bình văn học Katherine Bucknell cho rằng nhiều câu chuyện về Fouts trên thực tế mang tính chất hư cấu. Đối với người thân trong gia đình, Pavlos được gọi với cái tên thân mật là Palo. Hôn nhân và con cái. Ngày 9/01/1938, Pavlos kết hôn Friederike Luise của Hannover ở Athens. Họ có ba người con: Chiến tranh Thế giới II. Trong phần lớn thời gian của Thế chiến thứ hai, từ năm 1941 đến năm 1946, khi Hy Lạp bị Đức chiếm đóng, Pavlos đã ở cùng chính phủ Hy Lạp lưu vong ở London và Cairo. Từ Cairo, nhà vua phát đi những thông điệp tới người dân Hy Lạp. Di sản. Vào tháng 3/2014, một lễ tưởng niệm đã diễn ra trong khuôn viên của Cung điện Tatoi ở Athens nhân kỷ niệm 50 năm ngày mất của vua Pavlos I, với sự hiện diện của các thành viên của hoàng gia Hy Lạp và Tây Ban Nha.
1
null
Nhân cách hóa quốc gia là thuyết hình người của một cộng đồng hay thành viên trong đó; nó có thể xuất hiện cả hoạt hình chính trị và tuyên truyền. Chú thích. Lionel Gossman. "Making of a Romantic Icon: The Religious Context of Friedrich Overbeck's 'Italia und Germania.'" American Philosophical Society, 2007. ISBN 0-87169-975-3.
1
null
Vương nữ Eirini của Hy Lạp và Đan Mạch (tiếng Hy Lạp: Πριγκίπισσα Ειρήνη της Ελλάδας και Δανίας) (sinh ngày 11 tháng 05 năm 1942) là con út của vua Pavlos I của Hy Lạp và vợ là Friederike Luise của Hannover. Cô là em gái của Sophia, Vương hậu Tây Ban Nha và vi Vua bị phế truất Konstantinos II của Hy Lạp. Cô chính thức là thành viên trong hoàng gia Đan Mạch, được gọi là Vương nữ Irene của Hy Lạp và Đan Mạch. Sinh thời. Cô sinh ra tại Cape Town, Nam Phi, ngày 11 tháng 05 năm 1942. Cô ấy là một học trò của nghệ sĩ dương cầm Gina Bachauer và cô cũng từng là một nghệ sĩ piano. Năm 1962 cô là một phù dâu trong đám cưới của Vua Juan Carlos I của Tây Ban Nha và chị gái cô, Sophia của Hy Lạp và Đan Mạch.
1
null
Cư dân mạng hay công dân mạng (tên tiếng Anh: netizen) là một thuật ngữ có nguồn gốc bằng từ ghép của các từ tiếng tiếng Anh là Internet và citizen (công dân). Cư dân mạng được định nghĩa là một thực thể hay cá nhân tích cực tham gia vào cộng đồng mạng (online) và người dùng (user), thành viên của những mạng xã hội, thông qua các hình thức như giao lưu trực tuyến, trao đổi trực tuyến, trò chuyện trực tuyến, liên lạc trực tuyến và các hình thức khác của mạng xã hội. Thuật ngữ này cũng có thể bao hàm sự quan tâm trong việc cải thiện Internet, đặc biệt là liên quan đến việc mở trong truy cập mạng và tự do ngôn luận. Trong tiếng Anh, cư dân mạng cũng thường được gọi là cybercitizens tức cư dân ảo, cộng đồng ảo trong đó có ý nghĩa như nhau. Hiện trạng. Mạng xã hội có những tính năng như chat, thư điện tử (e-mail), phim ảnh, chat voice, chia sẻ tập tin, blog và xã luận. Mạng đổi mới hoàn toàn cách cư dân mạng liên kết với nhau và trở thành một phần tất yếu của mỗi ngày cho hàng trăm triệu thành viên khắp thế giới. Các dịch vụ này có nhiều phương cách để các thành viên tìm kiếm bạn bè, đối tác: dựa theo nhóm (ví dụ như tên trường hoặc tên thành phố), dựa trên thông tin cá nhân (như địa chỉ e-mail hoặc screen name), hoặc dựa trên sở thích cá nhân (như thể thao, phim ảnh, sách báo, hoặc ca nhạc), lĩnh vực quan tâm: kinh doanh, mua bán... Ở Việt Nam nhiều người trong giới giải trí như ca sĩ, diễn viên, người mẫu và những người nổi tiếng khác thường có nhiều chiêu trò đánh bóng tên tuổi của mình thông qua việc phát ngôn gây tranh cãi, gây sốc, tung ảnh khỏa thân, phát tán ảnh hoặc clip về cảnh giường chiếu, cảnh đánh nhau viết tâm thư đặng lên mạng, giả gái, ăn mặc hở hang, tuyên bố đồng tính, nói xấu đời tư người khác và nhiều chiêu trò khác thông qua các mạng xã hội gây xôn xao, sửng sốt cho cư dân mạng từ đó tạo hiệu ứng xã hội rất lớn và qua làm nổi bật tên tuổi của mình.
1
null
Konstantinos II của Hy Lạp GCRR, RE (tiếng Hy Lạp: Κωνσταντῖνος Β, Konstantinos Β, 2 tháng 6 năm 1940 – 10 tháng 1 năm 2023) là vua của Hy Lạp từ năm 1964 cho đến khi chế độ quân chủ bị bãi bỏ vào năm 1973. Từ lúc sinh ra ông cũng được xem là một Hoàng tử Đan Mạch. Konstantinos gặp nhiều vấn đề về sức khỏe trong những năm cuối đời, bao gồm bệnh tim và giảm khả năng vận động. Ngày 6 tháng 1 năm 2023, Konstantinos được đưa vào phòng chăm sóc đặc biệt của bệnh viện tư nhân Hygiea ở Athens trong tình trạng nguy kịch sau khi bị đột quỵ. Ông mất ngày 10 tháng 1 năm 2023, hưởng thọ 82 tuổi. Theo quyết định của chính phủ Hy Lạp, Konstantinos không được tổ chức tang lễ cấp nhà nước. Tang lễ diễn ra vào ngày 16 tháng 1 tại Nhà thờ Chính tòa Athens, với sự hiện diện của Đức Tổng Giám mục và sự tham dự của 200 người tham dự và chín vị vua châu Âu, bao gồm Felipe VI của Tây Ban Nha, Juan Carlos I của Tây Ban Nha và Sophia của Hy Lạp, Margrethe II của Đan Mạch và Carl XVI Gustaf của Thụy Điển và cả các thành viên của vương thất Bỉ, Jordan, Liechtenstein, Luxembourg, Monaco, Hà Lan, Na Uy, Vương quốc Anh và cả những hoàng gia không trị vì, chẳng hạn như Bulgaria, Iran, Romania, Nga và Xéc-bi-a. Chính phủ Hy Lạp được đại diện bởi Bộ trưởng Bộ Văn hóa Lina Mendoni và Phó Thủ tướng Panagiotis Pikrammenos. Ông được chôn cất tại Tatoi bên cạnh cha mẹ mình cùng ngày hôm đó.
1
null
Cộng đồng mạng (viết tắt: CĐM), hay còn được gọi là cộng đồng trực tuyến hoặc cộng đồng Internet, là một cộng đồng ảo có các thành viên tương tác với nhau chủ yếu thông qua Internet. Đối với nhiều người, các cộng đồng trực tuyến mang lại cảm giác của một ngôi nhà chung, một "gia đình gồm những người bạn vô hình" . Những người muốn trở thành một phần của cộng đồng trực tuyến thường phải trở thành thành viên thông qua một trang web cụ thể và nhờ đó có được quyền truy cập vào nội dung hoặc liên kết cụ thể. Một cộng đồng trực tuyến có thể hoạt động như một hệ thống thông tin, nơi các thành viên có thể đăng bài, nhận xét về các cuộc thảo luận, đưa ra lời khuyên hoặc cộng tác cùng người khác. Thông thường, mọi người giao tiếp thông qua các trang mạng xã hội, phòng trò chuyện, diễn đàn, danh sách email và chủ đề thảo luận. Mọi người cũng có thể tham gia cộng đồng trực tuyến thông qua các trò chơi video, blog và thế giới ảo. Sự gia tăng phổ biến của các trang Web 2.0 đã cho phép giao tiếp và kết nối tại thời điểm thực tế dễ dàng hơn với những người khác và tạo điều kiện cho việc giới thiệu những cách thức mới để trao đổi thông tin. Một định nghĩa học thuật về cộng đồng trực tuyến là: "một cộng đồng ảo được định nghĩa là tập hợp của các cá nhân hoặc đối tác kinh doanh tương tác xung quanh lợi ích chung, trong đó tương tác ít nhất được hỗ trợ hoặc qua trung gian bởi công nghệ (hoặc cả hai) và được dẫn dắt bởi một số giao thức hoặc định mức ". Danh mục. Một cộng đồng không phải là một khái niệm xa lạ. Trên điện thoại, trong đài phát thanh và trong thế giới trực tuyến, các tương tác xã hội không còn phải dựa trên sự gần gũi; thay vào đó nó có thể xảy ra với bất cứ ai ở bất cứ đâu. Những nghiên cứu về cộng đồng đã phải thích nghi cùng với sự phát triển công nghệ mới. Nhiều nhà nghiên cứu đã sử dụng dân tộc học để cố gắng hiểu mọi người làm gì trong không gian trực tuyến, cách họ thể hiện, điều gì thúc đẩy họ, cách họ tự quản lý, điều gì thu hút họ và tại sao một số người thích quan sát hơn là tham gia. Các cộng đồng trực tuyến có thể xoay quanh một sở thích chung và được trải rộng trên nhiều trang web. Một số dấu hiệu của các cộng đồng trực tuyến là: Phát triển. Có một tập hợp các giá trị được gọi là netiquette (hoặc lễ nghi trên Internet - Internet etiquette) để đánh giá khi cộng đồng trực tuyến phát triển. Một số giá trị này bao gồm: cơ hội, giáo dục, văn hóa, dân chủ, dịch vụ con người, bình đẳng trong nền kinh tế, thông tin, tính bền vững và truyền thông. Mục đích của cộng đồng trực tuyến là để phục vụ như một nền tảng chung cho những người có cùng sở thích. Các cộng đồng trực tuyến có thể được sử dụng để xây dựng kế hoạch nhằm theo dõi các sự kiện như các cuộc gặp gỡ sắp tới hoặc các sự kiện thể thao. Chúng hình thành xung quanh các hoạt động và sở thích. Nhiều cộng đồng trực tuyến liên quan đến chăm sóc sức khỏe giúp thông báo, tư vấn và hỗ trợ bệnh nhân và gia đình họ. Sinh viên có thể tham gia các lớp học trực tuyến và họ có thể giao tiếp với các giáo sư và đồng nghiệp của họ trên mạng. Các doanh nghiệp cũng đã bắt đầu sử dụng các cộng đồng trực tuyến để liên lạc với khách hàng về sản phẩm và dịch vụ của họ, cũng như để chia sẻ thông tin về doanh nghiệp. Các cộng đồng trực tuyến khác cho phép nhiều chuyên gia đến với nhau để chia sẻ suy nghĩ, ý tưởng và giả thuyết. Fandom (cộng đồng người hâm mộ) là một ví dụ về những gì cộng đồng trực tuyến có thể phát triển thành. Các cộng đồng trực tuyến đã phát triển ảnh hưởng trong việc "định hình các hiện tượng xung quanh mà họ tổ chức" theo công trình của Nancy K. Baym.  Cô nói rằng: "Hơn bất kỳ lĩnh vực thương mại nào khác, ngành văn hóa phổ biến dựa vào các cộng đồng trực tuyến để công khai và cung cấp lời cam kết chứng thực cho các sản phẩm của họ." Sức mạnh của sức mạnh cộng đồng trực tuyến được thể hiện qua buổi ra mắt phần 3 của Sherlock của BBC. Hoạt động trực tuyến của người hâm mộ dường như đã có một ảnh hưởng đáng chú ý đến cốt truyện và hướng của tập mở màn mùa giải. Mark Lawson của The Guardian kể lại cách người hâm mộ, ở một mức độ nào đó, chỉ đạo kết quả của các sự kiện trong tập phim. Ông nói rằng "Sherlock luôn là một trong những chương trình được nhận biết trên nhiều trang mạng nhất, là một trong số những chương trình đầu tiên tìm thấy một cách thỏa mãn người hâm mộ về việc thể hiện cuộc trò chuyện điện tử trên màn hình." Các cuộc thảo luận - nơi các thành viên có thể đăng phản hồi của họ là điều cần thiết cho sự phát triển của một cộng đồng trực tuyến. Các cộng đồng trực tuyến có thể khuyến khích các cá nhân liên kết với nhau để dạy và học hỏi lẫn nhau. Họ có thể khuyến khích người học thảo luận và tìm hiểu về các vấn đề/ tình huống trong thế giới thực cũng như tập trung vào những thứ như làm việc nhóm, suy nghĩ hợp tác và kinh nghiệm cá nhân. Blogs. Blogging liên quan đến một trang web được cập nhật theo thứ tự thời gian đảo ngược về chủ đề hoặc cuộc sống của một người. Có nhiều loại blog khác nhau bao gồm cả Microblogging, trong đó lượng thông tin của một yếu tố nhỏ hơn như trên trang mạng xã hội phổ biến Twitter và Liveblogging khi một sự kiện đang diễn ra trong thời gian thực, điều này đã được sử dụng để cập nhật trực tiếp các câu chuyện quan trọng trên toàn thế giới trong đó có một người dùng Twitter vô tình viết blog trực tiếp về cuộc đột kích đã giết chết Osama bin Laden. Sự dễ dàng và thuận tiện của việc viết blog đã cho phép sự phát triển của nó với các nền tảng như Twitter và Tumblr kết hợp phương tiện truyền thông xã hội và viết blog cùng với các giải pháp khác như WordPress cho phép lưu trữ nội dung trên máy chủ của chính họ hoặc cho người dùng tải xuống và cài đặt phần mềm trên chúng máy chủ riêng nơi người dùng thực hiện sửa đổi có thể được thêm vào. Điều này đã trở nên phổ biến đến mức vào tháng 10 năm 2014, 23,1% trong số 10 triệu trang web hàng đầu được lưu trữ hoặc hoạt động trên WordPress. Bảng thông báo (bulletin boards). Bảng thông báo hoặc diễn đàn trên mạng (Internet forum) là các trang web cho phép người dùng đăng các topic - còn được gọi là chủ đề để thảo luận với những người dùng khác, tạo thành cuộc hội thoại. Diễn đàn tuân theo cấu trúc phân loại với nhiều giải pháp phần mềm phổ biến để phân loại dựa trên mục đích của chúng với nhiều diễn đàn khác có khả năng chứa các diễn đàn phụ liên quan đến chủ đề. Ngày càng có nhiều tính năng nâng cao được thêm vào các diễn đàn như khả năng đính kèm tệp, nhúng video từ YouTube và nhắn tin riêng hiện là nơi phổ biến. Hiện tại diễn đàn lớn nhất Gaia Online chứa hơn 2 tỷ bài đăng. Các thành viên thường được chỉ định vào các nhóm người dùng kiểm soát quyền truy cập và quyền của họ với hai cấp độ truy cập nhân viên phổ biến: Mạng xã hội. Mạng xã hội là nền tảng cho phép người dùng thiết lập hồ sơ của riêng họ và xây dựng kết nối với những người có cùng chí hướng hay theo đuổi sở thích tương tự thông qua tương tác. Ví dụ được biết đến đầu tiên của một trang web như vậy là SixDegrees.com, được thiết lập vào năm 1997 bao gồm danh sách bạn bè và khả năng gửi tin nhắn đến các thành viên được liên kết với bạn bè và xem các nhóm người dùng khác. Trong hơn một thập kỷ, sự phổ biến của các mạng xã hội tương tự đã tăng lên với Friendster, mạng xã hội đầu tiên thu hút sự chú ý của truyền thông đại chúng, tuy nhiên đến năm 2004 nó đã bị Myspace vượt qua, sau đó đã bị Facebook vượt qua, cho đến nay là mạng xã hội phổ biến nhất hiện đang thu hút 1.23 tỷ người dùng hàng tháng trong năm 2013, tăng nhanh từ 145 triệu người trong năm 2008. Điều này dường như cho thấy một chu kỳ sinh và tử với các mạng xã hội mới đang phát triển nhanh chóng và vượt qua người tiền nhiệm của họ và khiến các mạng cũ bị suy giảm. Xu hướng hiện nay tập trung vào việc tăng cường sử dụng mạng xã hội trên thiết bị di động, thống kê từ Statista cho thấy vào năm 2013, 97.9 triệu người dùng truy cập mạng xã hội từ một thiết bị di động ở Mỹ với dự kiến ​​sẽ tăng lên 160,5 triệu vào năm 2017. Mục đích. Cộng đồng mạng cung cấp nền tảng cho một loạt các dịch vụ cho người dùng. Chúng cho phép tương tác xã hội trên toàn thế giới giữa những người thuộc các nền văn hóa khác nhau, những người có thể không gặp gỡ tại các cuộc họp trực tiếp, cũng trở nên phổ biến hơn. Một cách sử dụng chính yếu khác của cộng đồng mạng là truy cập và trao đổi thông tin. Với ngay cả các cộng đồng dành cho thiểu số hay thị trường ngách, người dùng có thể tìm thấy những người cùng quan tâm đến một vấn đề và tìm kiếm và chia sẻ thông tin về một chủ đề trong trường hợp họ không thể ngay lập tức có mặt ở đó. Điều này đã tạo nên một loạt các trang web phổ biến dựa trên các lĩnh vực như y tế, việc làm, tài chính và giáo dục. Các ứng dụng không ngờ tới đầy sáng tạo của cộng đồng mạng cũng đã xuất hiện khi các mạng xã hội được sử dụng trong các cuộc xung đột để cảnh báo người dân về các cuộc tấn công sắp xảy ra, Liên Hợp Quốc coi các trang web và các mạng xã hội cụ thể là một công cụ quan trọng trong các cuộc xung đột và khẩn cấp. Độ nổi tiếng. Cộng đồng mạng đã trở nên phổ biến với 6 trong số 20 trang web hàng đầu hiện nay bởi lượng truy cập là các trang web dựa trên cộng đồng.  Lượng truy cập vào các trang web này dự kiến sẽ tăng do vào cuối năm 2015, ước tính 42% dân số thế giới sẽ truy cập internet so với 17,6% vào năm 2006 theo Ủy ban Du lịch Châu Âu khi Chủ tịch hiện tại của Google - Eric Schmidt tuyên bố niềm tin của mình rằng đến năm 2020, toàn bộ thế giới sẽ có thể truy cập vào internet. Phân loại. Các cộng đồng trực tuyến rất năng động, do đó cần các nhà nghiên cứu và tổ chức để phân loại chúng. Họ cần phải biết các yêu cầu về bảo mật, quyền truy cập và công nghệ của một loại cộng đồng nhất định vì nó có thể phát triển từ một diễn đàn mở thành đóng kín (riêng tư). Một số tác giả đã nghiên cứu các cộng đồng trực tuyến để hiểu rõ hơn về cách chúng được cấu trúc. Người ta đã lập luận rằng các khía cạnh kỹ thuật của các cộng đồng trực tuyến, chẳng hạn như liệu có tồn tại nhiều trang có thể được tạo và chỉnh sửa hay không, như trường hợp của wiki bao gồm Wikipedia, hay chỉ một số người dùng nhất định có thể đăng bài và chỉnh sửa chúng, như trường hợp với hầu hết các blog, có thể đặt các cộng đồng trực tuyến vào các danh mục theo loại phong cách. Một cách tiếp cận khác cho rằng "cộng đồng trực tuyến" là một phép ẩn dụ còn những người đóng góp tự xây dựng ý nghĩa của thuật ngữ này, bao gồm các giá trị và chuẩn mực xã hội. Một số nghiên cứu đã xem xét người dùng của các cộng đồng trực tuyến. Amy Jo Kim đã phân loại các nghi thức và giai đoạn tương tác cộng đồng trực tuyến và gọi đó là 'Vòng đời của tư cách thành viên' (Membership Life Cycle). Clay Shirky  nói về cộng đồng thực hành nơi các thành viên hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau để làm cho một điều gì đó tốt hơn hoặc cải thiện một kỹ năng nhất định. Điều làm cho các cộng đồng này gắn kết là "tình yêu" một cái gì đó được thể hiện bởi các thành viên, luôn cố gắng giúp đỡ mà không có bất kỳ lợi ích tài chính nào. Campbell et al. đã phát triển một lý thuyết nhân vật để phân tích các cộng đồng trực tuyến, dựa trên hệ thống các loại hình của bộ lạc. Trong cộng đồng đó, họ đã điều tra và xác định ra ba loại tính cách: Một nghiên cứu của McKinsey & Company vào năm 2001 cho thấy chỉ có 2% khách hàng của trang giao dịch quay trở lại sau lần mua đầu tiên, trong khi 60% người dùng cộng đồng trực tuyến mới bắt đầu sử dụng và truy cập trang web thường xuyên sau những trải nghiệm đầu tiên của họ. Cộng đồng trực tuyến đã thay đổi cuộc chơi đối với các công ty bán lẻ, buộc họ phải thay đổi chiến lược kinh doanh. Các công ty phải kết nối nhiều hơn, điều chỉnh các tính toán và thay đổi cấu trúc tổ chức của họ. Điều này dẫn đến những thay đổi trong giao tiếp của một công ty với các nhà sản xuất của họ, bao gồm thông tin được chia sẻ và có thể truy cập để có năng suất và lợi nhuận cao hơn. Do người tiêu dùng và khách hàng trong tất cả các lĩnh vực đã trở nên quen thuộc với nhiều tương tác và tham gia trực tuyến hơn, các điều chỉnh phải được xem xét để giữ cho người xem luôn tò mò. Một thuật ngữ được mô tả bởi Ray Oldenberg gọi là "vị trí thứ ba" (the third place) để giúp phân loại các cộng đồng trực tuyến nói rằng "vị trí thứ ba là một chỉ định chung cho rất nhiều địa điểm công cộng tổ chức các cuộc tụ họp thường xuyên, tự nguyện, không chính thức và vui vẻ dự đoán của các cá nhân ngoài vương quốc về nhà và nơi làm việc "(Oldenburg, trang 16). Một cộng đồng trực tuyến có thể đảm nhận vai trò của một vị trí thứ ba. Vị trí thứ ba có các đặc điểm mà nhiều cộng đồng trực tuyến thể hiện, ví dụ: họ cung cấp nền tảng trung lập cho tất cả các bên; họ là những người trung lập, dễ dàng tiếp cận và có sức chứa cao; hội thoại là hoạt động chính; họ cho phép mọi người không đưa ra thông tin cá nhân, và một vài điều khác. Mặc dù đây có thể là các đặc điểm để giúp phân loại các cộng đồng trực tuyến, nhưng tất cả có thể không áp dụng cho một cộng đồng trực tuyến cụ thể cũng như cộng đồng trực tuyến không cần phải thể hiện từng đặc điểm này. Bốn yêu cầu của việc "thương lượng ảo" bao gồm: tính tương tác, một loạt các nhà truyền thông, một nền tảng công cộng nơi các thành viên có thể gặp gỡ và tương tác và duy trì tư cách thành viên theo thời gian. Dựa trên những cân nhắc này, có thể nói rằng các blog nhỏ như Twitter có thể được phân loại là cộng đồng trực tuyến. Xây dựng các cộng đồng. Theo Dorine C. Andrews, tác giả của Thiết kế cộng đồng trực tuyến dành riêng cho người xem (Audience-Specific Online Community Design), có ba phần để xây dựng một cộng đồng trực tuyến: bắt đầu cộng đồng trực tuyến, khuyến khích tương tác trực tuyến sớm và chuyển sang môi trường tương tác tự duy trì. Khi bắt đầu một cộng đồng trực tuyến, có thể hiệu quả để tạo các trang web thu hút các sở thích cụ thể. Các cộng đồng trực tuyến với các chủ đề rõ ràng và dễ dàng truy cập có xu hướng hiệu quả nhất. Để có được sự tương tác sớm của các thành viên, đảm bảo quyền riêng tư và những cuộc thảo luận về nội dung là rất quan trọng. Các cộng đồng trực tuyến thành công thường có xu hướng hoạt động tự túc. Sự tham gia. Có hai loại người tham gia chính trong cộng đồng trực tuyến: tham gia cộng đồng và tham gia ngoài công cộng, hay còn được gọi là ẩn nấp. Lurker (kẻ ẩn nấp) là những người tham gia cộng đồng ảo nhưng không đóng góp. Ngược lại, những người tham gia công khai, hay còn gọi là người đăng bài, là những người tham gia cộng đồng ảo và công khai bày tỏ niềm tin và ý kiến của họ. Cả người ẩn và người đăng bài thường xuyên vào cộng đồng để tìm câu trả lời và thu thập thông tin chung. Ví dụ, có một số cộng đồng trực tuyến dành riêng cho công nghệ. Trong các cộng đồng này, người đăng thường là những chuyên gia trong lĩnh vực có thể cung cấp cái nhìn sâu sắc về công nghệ và trả lời câu hỏi, trong khi những người ẩn giấu có xu hướng là người mới sử dụng công nghệ sử dụng cộng đồng để tìm câu trả lời và học hỏi. Nhìn chung, sự tham gia của cộng đồng ảo bị ảnh hưởng bởi cách người tham gia nhìn nhận bản thân trong xã hội cũng như các chuẩn mực xã hội và cộng đồng trực tuyến. Những người tham gia cũng gia nhập vào các cộng đồng trực tuyến để kết bạn và hỗ trợ. Theo một nghĩa nào đó, các cộng đồng ảo có thể lấp đầy khoảng trống xã hội trong cuộc sống ngoại tuyến của người tham gia. Nhà xã hội học Barry Wellman trình bày ý tưởng "toàn cầu hóa" - khả năng của Internet để mở rộng kết nối xã hội của người tham gia với mọi người trên khắp thế giới đồng thời giúp họ gắn kết hơn nữa với cộng đồng địa phương. Yếu tố hình thành nên các cộng đồng trực tuyến thành công. Một bài báo có tựa đề "Giá trị thực sự của các cộng đồng trực tuyến", được viết bởi A Armstrong và John Hagel của Tạp chí Harvard Business Review, nhắc đến một số yếu tố là chìa khóa cho sự phát triển của một cộng đồng trực tuyến và thành công của nó trong việc thu hút các thành viên. Trong ví dụ này, bài viết có sẵn trên mendeley.com tập trung cụ thể vào các cộng đồng trực tuyến liên quan đến kinh doanh, nhưng quan điểm của nó có thể được chuyển giao và áp dụng cho bất kỳ cộng đồng trực tuyến nào. Bài viết đề cập đến bốn loại cộng đồng trực tuyến dựa trên kinh doanh chính, nhưng nói rằng một cộng đồng thực sự thành công sẽ kết hợp các phẩm chất của từng nhóm: cộng đồng giao dịch, cộng đồng quan tâm, cộng đồng giả tưởng và cộng đồng quan hệ. Anubhav Choudhury, từ hoibiblogger.net, cung cấp các mô tả cơ bản về bốn loại cộng đồng trực tuyến này. Vòng đời của tư cách thành viên (Membership Life Cycle). Vòng đời thành viên của Amy Jo Kim nói rằng các thành viên của cộng đồng trực tuyến bắt đầu cuộc sống của họ trong một cộng đồng với tư cách là khách truy cập hoặc người ẩn danh. Sau khi vượt qua một rào cản, mọi người trở thành người mới và tham gia vào cuộc sống cộng đồng. Sau khi đóng góp trong một thời gian bền vững, họ trở thành nhà quản lý. Nếu họ vượt qua một rào cản khác, họ trở thành nhà lãnh đạo, và một khi họ đã đóng góp cho cộng đồng một thời gian, họ sẽ trở thành người lớn tuổi. Vòng đời này có thể được áp dụng cho nhiều cộng đồng ảo, rõ ràng nhất là cho các hệ thống bảng thông báo, nhưng cũng cho các blog, danh sách gửi thư (danh sách phục vụ) và các cộng đồng dựa trên wiki như Wikipedia. Một mô hình tương tự có thể được tìm thấy trong các tác phẩm của Lave và Wenger. Nó minh họa một chu kỳ về cách người dùng hòa nhập vào cộng đồng ảo bằng cách sử dụng các nguyên tắc tham gia ngoại vi hợp pháp. Họ đề xuất năm loại quỹ đạo trong cộng đồng học tập: Dưới đây là mối tương quan giữa các quỹ đạo học tập và sự tham gia của cộng đồng Web 2.0 bằng cách sử dụng ví dụ về YouTube. Peripheral (Lurker) – Quan sát cộng đồng và xem nội dung. Không thêm vào nội dung cộng đồng hoặc thảo luận. Người dùng thường truy cập YouTube.com để xem video mà ai đó đã dẫn họ đến. Inbound (Novice) – Chỉ vừa bắt đầu tham gia vào cộng đồng. Bắt đầu cung cấp nội dung. Dự kiến sẽ ​​tương tác trong một vài cuộc thảo luận. Người dùng nhận xét về video của người dùng khác. Có khả năng đăng một video của riêng mình. Insider (Regular) – Liên tục tham gia vào các cuộc thảo luận và nội dung cộng đồng. Tương tác với người dùng khác. Thường xuyên đăng video. Hoặc là video họ đã tìm thấy hoặc tự làm. Làm cho một nỗ lực phối hợp để bình luận và đánh giá video của người dùng khác. Boundary (Leader) – Được công nhận là một người tham gia kỳ cựu. Kết nối với các thành viên thường xuyên để thực hiện các ý tưởng khái niệm cao cấp hơn. Cộng đồng cho ý kiến của họ xem xét lớn hơn. Người dùng đã được công nhận là một người đóng góp để xem. Có thể các video của họ là các podcast bình luận về trạng thái của YouTube và cộng đồng của nó. Người dùng sẽ không xem xét việc xem video của người dùng khác mà không nhận xét về họ. Thường sẽ sửa một người dùng trong hành vi mà cộng đồng cho là không phù hợp. Sẽ tham chiếu các video của người dùng khác trong các nhận xét của họ như một cách để liên kết chéo nội dung. Outbound (Elders) – Rời khỏi cộng đồng. Lợi ích của họ có thể đã thay đổi, cộng đồng có thể đã đi theo hướng mà họ không đồng ý hoặc họ có thể không còn thời gian để duy trì sự hiện diện liên tục trong cộng đồng. Người mới đến (Nội bộ). Người mới đến rất quan trọng đối với cộng đồng trực tuyến. Cộng đồng trực tuyến dựa vào sự đóng góp của tình nguyện viên và hầu hết các cộng đồng trực tuyến phải đối mặt với tỷ lệ doanh thu cao là một trong những thách thức chính của họ. Ví dụ, chỉ một số ít người dùng Wikipedia đóng góp thường xuyên và chỉ một số ít những người đóng góp đó tham gia vào các cuộc thảo luận cộng đồng. Trong một nghiên cứu được thực hiện bởi Đại học Carnegie Mellon, họ đã phát hiện ra rằng "hơn hai phần ba (68%) người mới tham gia nhóm Usenet không bao giờ xuất hiện lại sau bài đăng đầu tiên của họ". Thực tế trên đã phản ánh một điểm rằng việc tuyển dụng và các thành viên mới còn lại đã trở thành một vấn đề rất quan trọng đối với các cộng đồng trực tuyến: các cộng đồng cuối cùng sẽ nhỏ dần mà không thay thế các thành viên rời đi. Những người mới đến là thành viên mới của cộng đồng trực tuyến và do đó thường gặp nhiều rào cản khi đóng góp cho các chủ đề, và những rào cản họ gặp phải có thể khiến họ từ bỏ dự án hoặc thậm chí rời khỏi cộng đồng. Bằng cách tiến hành đánh giá dữ liệu có hệ thống hơn 20 nghiên cứu chính liên quan đến các rào cản mà những người mới gặp phải khi đóng góp cho các dự án phần mềm nguồn mở, Steinmacher et al. đã xác định 15 rào cản khác nhau và họ phân loại các rào cản đó thành năm loại như mô tả dưới đây. Do các rào cản được mô tả ở trên, các cộng đồng trực tuyến rất cần thu hút người mới và giúp họ thích nghi với môi trường mới. Từ phía cộng đồng trực tuyến, những người mới đến có thể vừa có lợi vừa có hại cho cộng đồng trực tuyến. Một mặt, những người mới đến có thể mang đến cho cộng đồng trực tuyến những ý tưởng và tài nguyên sáng tạo. Mặt khác, hành vi sai trái của họ do thiếu kinh nghiệm cũng có thể gây hại cho cộng đồng. Kraut et al. và cộng sự đã xác định năm vấn đề cơ bản mà cộng đồng trực tuyến gặp phải khi giao dịch với người mới và đề xuất một số yêu cầu thiết kế cho từng vấn đề trong cuốn sách "Xây dựng Cộng đồng Trực tuyến Thành công". - Tuyển dụng giữa các cá nhân: tuyển dụng thành viên mới bằng mối quan hệ cá nhân của các thành viên cũ - Tuyển dụng truyền miệng: các thành viên mới sẽ tham gia vào cộng đồng vì ảnh hưởng truyền miệng từ thành viên hiện tại - Quảng cáo cá nhân: mặc dù hiệu quả trực tiếp yếu hơn so với hai chiến lược trước đó, quảng cáo cá nhân có thể làm tăng hiệu quả số lượng người tham gia giữa các thành viên tiềm năng với ít kiến thức về cộng đồng. - Tự chọn: đảm bảo rằng chỉ những thành viên phù hợp tốt mới chọn tham gia. - Chọn lọc: đảm bảo rằng chỉ những thành viên phù hợp tốt mới cho phép tham gia. - Rào cản đầu vào: Rào cản gia nhập cao hơn sẽ có nhiều khả năng xua đuổi các thành viên mới, nhưng những thành viên sống sót sau quá trình khởi xướng nghiêm trọng này nên có cam kết mạnh mẽ hơn so với những thành viên có rào cản gia nhập thấp hơn. - Tương tác với các thành viên hiện tại: giao tiếp với thành viên hiện tại và nhận được phản hồi từ họ trong môi trường thân thiện khuyến khích cam kết của thành viên mới. Các thành viên hiện có được khuyến khích đối xử với người mới một cách nhẹ nhàng. Một nghiên cứu đã được thực hiện bởi Halfaker et al. được đề cập trong cuốn sách đề nghị hoàn lại nguyên vẹn công việc của các thành viên mới trong Wikipedia có thể sẽ khiến họ rời khỏi cộng đồng. Do đó, các thành viên mới có nhiều khả năng ở lại và phát triển cam kết nếu sự tương tác giữa thành viên hiện tại và thành viên mới thân thiện và hòa nhã. Cuốn sách đã đề xuất những cách khác nhau, bao gồm cả "giới thiệu chủ đề" trong cộng đồng, "giao trách nhiệm có những tương tác thân thiện với người mới để thiết kế bộ đếm thời gian cũ" và "không khuyến khích sự thù địch đối với người mới mắc lỗi". Các vai trò trong cộng đồng trực tuyến. Mặc dù xã hội trực tuyến khác nhau về nội dung so với xã hội thực nhưng vai trò mà mọi người đảm nhận trong cộng đồng trực tuyến của họ khá giống nhau. Elliot Volkman đã chỉ ra một số loại người đóng vai trò trong vòng tròn mạng lưới xã hội, bao gồm: Động lực và rào cản tham gia. Main article: Motivations for online participation Cộng đồng trực tuyến thành công thúc đẩy sự tham gia trực tuyến. Các phương pháp thúc đẩy sự tham gia trong các cộng đồng này đã được điều tra trong một số nghiên cứu. Có nhiều yếu tố thuyết phục thu hút người dùng vào cộng đồng trực tuyến. Các hệ thống ngang hàng và các trang web mạng xã hội phụ thuộc rất nhiều vào sự đóng góp của thành viên. Động lực cơ bản của người dùng để tham gia vào các cộng đồng này đã được liên kết với một số lý thuyết thuyết phục về xã hội học. Một trong những điểm thu hút lớn nhất đối với các cộng đồng trực tuyến là ý thức kết nối người dùng xây dựng giữa các thành viên. Sự tham gia và đóng góp bị ảnh hưởng khi các thành viên của một cộng đồng trực tuyến nhận thức được đối tượng toàn cầu của họ. Phần lớn mọi người học bằng ví dụ và thường làm theo người khác, đặc biệt là khi tham gia một cộng đồng nào đó. Các cá nhân thường thụ động về việc đóng góp cho một cộng đồng trực tuyến vì nhiều lý do bao gồm nhưng không giới hạn ở nỗi sợ bị chỉ trích hoặc không chính xác. Người dùng có thể giữ lại thông tin mà họ không tin là đặc biệt thú vị, có liên quan hoặc trung thực. Để thách thức những rào cản đóng góp này, các nhà sản xuất của các trang này chịu trách nhiệm phát triển niềm tin dựa trên tri thức và dựa trên nền tảng trong cộng đồng. Nhận thức của người dùng về đối tượng là một lý do khác khiến người dùng tham gia vào các cộng đồng trực tuyến. Kết quả cho thấy người dùng thường đánh giá thấp lượng người theo dõi của họ trong cộng đồng trực tuyến. Người dùng phương tiện truyền thông xã hội đoán rằng khán giả của họ là 27% kích thước thật của nó. Dù tồn tại sự đánh giá thấp này, nó cho thấy lượng khán giả ảnh hưởng đến việc tự trình bày của người dùng và cả sản xuất nội dung có nghĩa là mức độ tham gia cao hơn. Có hai loại cộng đồng trực tuyến ảo (VOC): VOC phụ thuộc và tự duy trì. Các VOC phụ thuộc là những người sử dụng cộng đồng ảo làm phần mở rộng của chính họ, họ tương tác với những người họ biết. Các VOC tự duy trì là các cộng đồng nơi mối quan hệ giữa các thành viên tham gia được hình thành và duy trì thông qua các cuộc gặp gỡ trong cộng đồng trực tuyến. Đối với tất cả các VOC, tạo bản sắc riêng và danh tiếng trong cộng đồng là một vấn đề được quan tâm. Mọi người có thể tạo bất kỳ danh tính nào mà họ muốn thông qua tương tác của họ với các thành viên khác. Tên người dùng là yếu tố để các thành viên xác định lẫn nhau nhưng cho ta biết rất ít về người đứng sau nó. Các tính năng chính trong cộng đồng trực tuyến thu hút mọi người là môi trường giao tiếp chung, các mối quan hệ được hình thành và nuôi dưỡng, ý thức thuộc về một nhóm, cấu trúc bên trong của nhóm, không gian chung được chia sẻ bởi những người có cùng ý tưởng và sở thích. Ba vấn đề quan trọng nhất là sự thuộc về, bản sắc và lợi ích. Để một cộng đồng trực tuyến phát triển, cần có sự tham gia, quan tâm và động lực nhất quán. Nghiên cứu được thực hiện bởi Helen Wang đã áp dụng Mô hình công nghệ về việc chấp nhận cho sự tham gia của cộng đồng trực tuyến. Sự tự túc hiệu quả của Internet dự đoán tích cực nhận thấy rằng nó khá dễ sử dụng. Nghiên cứu cho thấy niềm tin của người tham gia vào khả năng sử dụng internet và các công cụ dựa trên mạng đã xác định mức độ nỗ lực được mong đợi. Môi trường cộng đồng dự đoán tích cực nhận thấy sự dễ sử dụng và hữu ích. Động lực nội tại dự đoán tích cực nhận thấy sự dễ sử dụng, tính hữu dụng và sử dụng thực tế. Mô hình chấp nhận công nghệ dự đoán tích cực khả năng một cá nhân sẽ tham gia vào một cộng đồng trực tuyến. Tương tác giữa người tiêu dùng và nhà cung cấp. Thiết lập mối quan hệ giữa người tiêu dùng và người bán đã trở thành một lĩnh vực khoa học mới nhờ sự xuất hiện của các cộng đồng trực tuyến. Đây là một thị trường mới được khai thác bởi các công ty và để làm như vậy, đòi hỏi sự hiểu biết về các mối quan hệ được xây dựng trên các cộng đồng trực tuyến. Cộng đồng trực tuyến tập hợp những người xung quanh lợi ích chung và những lợi ích chung này có thể bao gồm thương hiệu, sản phẩm và dịch vụ. Các công ty không chỉ có cơ hội tiếp cận một nhóm người tiêu dùng mới trong cộng đồng trực tuyến, mà còn khai thác thông tin về người tiêu dùng. Các công ty có cơ hội tìm hiểu về người tiêu dùng trong một môi trường mà họ cảm thấy có một sự ẩn danh nhất định và do đó, cởi mở hơn để cho phép một công ty thấy những gì họ thực sự muốn hoặc đang tìm kiếm. Để thiết lập mối quan hệ với người tiêu dùng, một công ty phải tìm cách xác định cách thức các cá nhân tương tác với cộng đồng. Điều này được thực hiện bằng cách hiểu các mối quan hệ của một cá nhân với cộng đồng trực tuyến. Có sáu trạng thái mối quan hệ có thể xác định: trạng thái được xem xét, trạng thái đã cam kết, trạng thái không hoạt động, trạng thái mờ dần, trạng thái được công nhận và trạng thái không được nhận dạng. Tình trạng không được công nhận có nghĩa là người tiêu dùng không biết về cộng đồng trực tuyến hoặc chưa quyết định cộng đồng là hữu ích. Tình trạng được công nhận là nơi một người nhận thức được cộng đồng, nhưng không hoàn toàn liên quan. Một trạng thái được xem xét là khi một người bắt đầu sự tham gia của họ với trang web. Việc sử dụng ở giai đoạn này vẫn còn rất rời rạc. Trạng thái cam kết là khi mối quan hệ giữa một người và cộng đồng trực tuyến được thiết lập và người đó được tham gia đầy đủ với cộng đồng. Tình trạng không hoạt động là khi một cộng đồng trực tuyến không liên quan đến một người. Trạng thái mờ dần là khi một người đã bắt đầu mờ dần khỏi một trang web. Điều quan trọng là có thể nhận ra nhóm hoặc trạng thái nào mà người tiêu dùng nắm giữ, bởi vì nó có thể giúp xác định cách tiếp cận nào sẽ sử dụng. Các công ty không chỉ cần hiểu làm thế nào một người tiêu dùng hoạt động trong một cộng đồng trực tuyến, mà còn là một công ty "nên tìm hiểu tính cộng đồng của một cộng đồng trực tuyến" Điều này có nghĩa là một công ty phải hiểu được sự năng động và cấu trúc của cộng đồng trực tuyến để có thể thiết lập mối quan hệ với người tiêu dùng. Các cộng đồng trực tuyến có văn hóa của riêng họ và để có thể thiết lập mối quan hệ thương mại hoặc thậm chí tham gia, người ta phải hiểu các giá trị và quyền sở hữu của cộng đồng. Nó thậm chí đã được chứng minh là có lợi khi coi các mối quan hệ thương mại trực tuyến nhiều hơn là tình bạn hơn là giao dịch kinh doanh. Thông qua sự tham gia trực tuyến, vì màn hình khói ẩn danh, nó cho phép một người có thể tương tác xã hội với người lạ theo cách cá nhân hơn nhiều. Kết nối cá nhân mà người tiêu dùng cảm thấy này ảnh hưởng đến cách họ muốn thiết lập mối quan hệ trực tuyến. Họ phân tách những gì là thư thương mại hoặc thư rác và những gì là từ các mối quan hệ. Quan hệ trở thành những gì họ liên kết với tương tác của con người trong khi thương mại là những gì họ liên kết với tương tác kỹ thuật số hoặc không phải con người. Do đó, cộng đồng trực tuyến không nên được xem là "chỉ là một kênh bán hàng". Thay vào đó, nó nên được xem như một mạng lưới để thiết lập liên lạc cá nhân với người tiêu dùng. Chu kỳ tăng trưởng. Hầu hết các cộng đồng trực tuyến phát triển chậm lúc đầu, một phần là do sức mạnh của động lực đóng góp thường tỷ lệ thuận với quy mô của cộng đồng. Khi quy mô của đối tượng tiềm năng tăng lên, sự hấp dẫn của văn bản và đóng góp cũng vậy. Điều này, cùng với thực tế là văn hóa tổ chức không thay đổi chỉ sau một đêm, có nghĩa là người sáng tạo có thể mong đợi tiến độ chậm lúc đầu với một cộng đồng ảo mới. Tuy nhiên, khi nhiều người bắt đầu tham gia, các động lực nói trên sẽ tăng lên, tạo ra một chu kỳ đạo đức trong đó nhiều người tham gia hơn sẽ tham gia nhiều hơn. Việc áp dụng cộng đồng có thể được dự báo với mô hình khuếch tán Bass, ban đầu được Frank Bass nghĩ ra để mô tả quá trình các sản phẩm mới được chấp nhận như một sự tương tác giữa những người chấp nhận sớm đổi mới và những người theo dõi chúng. Cộng đồng học tập trực tuyến. Học trực tuyến là một hình thức của cộng đồng trực tuyến. Các trang web được thiết kế để giáo dục. Các trường cao đẳng và đại học có thể cung cấp nhiều lớp học trực tuyến cho sinh viên của họ; điều này cho phép mỗi học sinh tham gia lớp học theo tốc độ của riêng mình. Theo một bài báo được xuất bản trong tập 21, số 5 của Tạp chí European Management Journal có tiêu đề "Học trong các diễn đàn trực tuyến", các nhà nghiên cứu đã thực hiện một loạt các nghiên cứu về học tập trực tuyến. Họ nhận thấy rằng mặc dù kế hoạch học trực tuyến tốt rất khó để xây dựng, nhưng nó khá thuận lợi cho việc học tập giáo dục. Học trực tuyến có thể tập hợp một nhóm người đa dạng và mặc dù đó là học không đồng bộ, nếu diễn đàn được thiết lập bằng cách sử dụng tất cả các công cụ và chiến lược tốt nhất, nó có thể rất hiệu quả. Một nghiên cứu khác được đăng trong tập số 55, bản 1 của tạp chí Computers and Education và tìm thấy kết quả hỗ trợ những phát hiện của bài báo đã đề cập ở trên. Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng động lực, sự thích thú và đóng góp của nhóm vào kết quả học tập đã thúc đẩy học sinh học tập và học sinh cảm thấy họ đã học tốt với cộng đồng này. Một nghiên cứu được công bố trên cùng một tạp chí điều tra cách mạng xã hội có thể thúc đẩy hạnh phúc cá nhân và phát triển các kỹ năng có thể cải thiện trải nghiệm học tập. Những bài viết này xem xét một loạt các loại học tập trực tuyến khác nhau. Họ đề nghị rằng học trực tuyến có thể khá hiệu quả và giáo dục nếu được tạo ra và duy trì đúng cách. Một đặc điểm của cộng đồng trực tuyến là chúng không bị hạn chế bởi thời gian do đó mang lại cho các thành viên khả năng di chuyển qua các giai đoạn hoạt động thường xuyên đến không thường xuyên trong một khoảng thời gian. Bản chất năng động này duy trì sự mới mẻ và đa dạng mà các phương pháp học tập truyền thống có thể không thể cung cấp. Dường như các cộng đồng trực tuyến như Wikipedia đã trở thành một nguồn học tập chuyên nghiệp. Chúng là một môi trường học tập tích cực trong đó người học trò chuyện và tìm hiểu. Trong một nghiên cứu dành riêng cho giáo viên trong các cộng đồng trực tuyến, kết quả cho thấy rằng tư cách thành viên trong cộng đồng trực tuyến đã cung cấp cho giáo viên một nguồn học tập chuyên nghiệp phong phú làm hài lòng từng thành viên của cộng đồng. Saurabh Tyagi mô tả lợi ích của việc học tập cộng đồng trực tuyến bao gồm: Những thuật ngữ này được lấy từ Edudemia, một trang web về giảng dạy và học tập. Bài viết "Cách xây dựng cộng đồng học tập trực tuyến hiệu quả" cung cấp thông tin cơ bản về các cộng đồng trực tuyến cũng như cách kết hợp việc học trong cộng đồng trực tuyến. Cộng đồng y tế trực tuyến. Cộng đồng y tế trực tuyến là một ví dụ về cộng đồng trực tuyến được người dùng internet sử dụng nhiều. Một lợi ích chính của cộng đồng y tế trực tuyến là cung cấp quyền truy cập của người dùng cho những người dùng khác có vấn đề hoặc trải nghiệm tương tự có ảnh hưởng đáng kể đến cuộc sống của các thành viên của họ. Thông qua sự tham gia của mọi người, cộng đồng y tế trực tuyến sẽ có thể cung cấp cho bệnh nhân cơ hội để hỗ trợ về mặt cảm xúc và cũng sẽ cung cấp cho họ quyền truy cập vào thông tin dựa trên kinh nghiệm về vấn đề cụ thể hoặc các quá trình điều trị có thể áp dụng. Ngay cả trong một số nghiên cứu, người ta thấy rằng người dùng tìm thấy thông tin dựa trên kinh nghiệm có liên quan nhiều hơn thông tin được quy định bởi các chuyên gia. Hơn nữa, việc cho phép bệnh nhân cộng tác ẩn danh trong một số cộng đồng y tế trực tuyến giúp người dùng có một môi trường không phán xét để chia sẻ các vấn đề, kiến thức và kinh nghiệm của họ. Khó khăn. Cộng đồng trực tuyến là khu vực tương đối mới và chưa được khám phá. Họ quảng bá một cộng đồng hoàn toàn mới mà trước đó Internet không có sẵn. Mặc dù họ có thể thúc đẩy một loạt các phẩm chất tích cực, chẳng hạn như các mối quan hệ mà không liên quan đến chủng tộc, tôn giáo, giới tính hoặc địa lý, chúng cũng có thể dẫn đến nhiều vấn đề. Giả thuyết về nhận thức rủi ro, sự không chắc chắn khi tham gia vào một cộng đồng trực tuyến, khá phổ biến, đặc biệt khi trong các trường hợp trực tuyến sau: Clay Shirky giải thích một trong những vấn đề như hai chiếc vòng hoola-hoops. Với sự gia tăng của các cộng đồng trực tuyến, có một hoola-hoop "đời thực" và "cuộc sống trực tuyến" khác. Hai vòng này từng hoàn toàn tách biệt nhưng bây giờ chúng đã vung lên và chồng lên nhau. Vấn đề với sự chồng chéo này là không còn sự phân biệt nữa giữa các tương tác trực diện và tương tác ảo; Họ là một và giống nhau. Shirky minh họa điều này bằng cách giải thích một cuộc họp. Một nhóm người sẽ ngồi trong một cuộc họp nhưng tất cả họ cũng sẽ được kết nối vào một thế giới ảo, sử dụng các cộng đồng trực tuyến như Wiki. Một vấn đề nữa là sự hình thành danh tính với sự pha trộn giữa đời thực và ảo mơ hồ. Sự hình thành danh tính trong thế giới thực bao gồm "một cơ thể, một danh tính", nhưng cộng đồng trực tuyến cho phép bạn tạo ra "nhiều nhân vật điện tử" như bạn muốn. Điều này có thể dẫn đến việc lừa đảo về danh tính. Hành động tự xưng là ai đó mà bạn không thể gây rắc rối với những người dùng cộng đồng trực tuyến khác và cho chính bạn. Tạo một danh tính giả có thể gây nhầm lẫn và mơ hồ về danh tính đúng. Sự thiếu tin tưởng liên quan đến thông tin cá nhân hoặc chuyên nghiệp là vấn đề với các câu hỏi về cá tính hoặc tính tương hỗ thông tin. Thông thường, nếu thông tin được cung cấp cho người dùng khác của cộng đồng trực tuyến, người ta mong đợi thông tin bình đẳng được chia sẻ lại. Tuy nhiên, đây có thể không phải là trường hợp hoặc người dùng khác có thể sử dụng thông tin được cung cấp theo những cách có hại. Việc xây dựng cá tính của một cá nhân trong một cộng đồng trực tuyến đòi hỏi phải tự trình bày. Tự trình bày là hành động "viết cái tôi thành hiện thực", trong đó bản sắc của một người được hình thành bởi những gì người đó nói, làm hoặc thể hiện. Điều này cũng đặt ra một vấn đề tiềm ẩn vì sự tự đại diện như vậy có thể bị giải thích sai. Mặc dù danh tính trực tuyến của một cá nhân có thể được xây dựng hoàn toàn với một vài câu nói từ chính họ, nhận thức về danh tính này có thể hoàn toàn sai và không chính xác. Các cộng đồng trực tuyến trình bày các vấn đề bận tâm, mất tập trung, tách rời và giải mẫn cảm với một cá nhân, mặc dù hiện tại tồn tài các nhóm hỗ trợ trực tuyến. Cộng đồng trực tuyến hiện có những rủi ro tiềm ẩn và người dùng phải nhớ cẩn thận và nhớ rằng chỉ vì cộng đồng trực tuyến cảm thấy an toàn không có nghĩa là nó nhất thiết phải như vậy. Quấy rối và khiêu khích. Cyber bullying, bắt nạt trên mạng,"sử dụng các hành vi gây hấn, cố ý, lặp đi lặp lại lâu dài của một hoặc nhiều cá nhân, sử dụng các phương tiện điện tử, chống lại một nạn nhân gần như bất lực" đã tăng trưởng tần suất cùng với sự phát triển liên tục của các cộng đồng mạng với một nghiên cứu từ đại học mở (Open University) cho thấy 38% những người trẻ tuổi đã trải qua hoặc chứng kiến bắt nạt trên mạng. Nó đã nhận được sự chú ý của truyền thông đáng kể do các sự cố tai tiếng như cái chết của Amanda Todd người trước khi chết đã kể chi tiết thử thách của cô trên YouTube. Một tác dụng chính của bắt nạt như vậy là nó cho phép nạn nhân bị quấy rối mọi lúc, điều không thể điển hình với bắt nạt ngoài đời thật. Điều này đã buộc Chính phủ và các tổ chức khác thay đổi cách tiếp cận điển hình của họ là bắt nạt với Bộ Giáo dục Vương quốc Anh hiện đang đưa ra lời khuyên cho các trường về cách xử lý các trường hợp bắt nạt trên mạng. Vấn đề phổ biến nhất với cộng đồng trực tuyến có xu hướng là quấy rối trực tuyến, có nghĩa là nội dung đe dọa hoặc xúc phạm nhằm vào bạn bè hoặc người lạ được biết thông qua các cách thức của công nghệ trực tuyến. Trường hợp đăng bài như vậy được thực hiện "for the lulz" (nghĩa là cho niềm vui của nó), thì nó được gọi là trolling. (khiêu khích). Đôi khi trolling được thực hiện để gây hại cho người khác vì sự hài lòng của người đăng. Động lực chính cho các áp phích như vậy, được biết đến trong lý thuyết nhân vật là "snerts", là cảm giác về sức mạnh và sự tiếp xúc mà nó mang lại cho họ. Quấy rối trực tuyến có xu hướng ảnh hưởng đến thanh thiếu niên nhiều nhất do hành vi chấp nhận rủi ro và quá trình ra quyết định của họ. Một ví dụ đáng chú ý là Natasha MacBryde, người bị Sean Duffy hành hạ, sau đó đã bị truy tố. Năm 2010, Alexis Pilkington, một người New York 17 tuổi đã tự sát. Những kẻ khiêu khích xuất hiện trên trang chia buồn của cô đăng tải những hình ảnh vô cảm và đau đớn về những thứ noos và biểu tượng tự tử khác. Bốn năm trước đó, một thanh niên 18 tuổi chết trong một vụ tai nạn xe hơi ở California. Kẻ khiêu khích đã lấy những hình ảnh về cơ thể dị dạng của cô mà chúng tìm thấy trên internet và dùng chúng để tra tấn cha mẹ đau buồn của cô gái. Nghiên cứu tâm lý đã chỉ ra rằng sự ẩn danh làm tăng hành vi phi đạo đức thông qua cái được gọi là hiệu ứng giải tỏa ức chế trên mạng (online disinhibition effect ). Nhiều trang web và cộng đồng trực tuyến đã cố gắng để chống lại trolling. Không có một phương pháp hiệu quả duy nhất nào để ngăn chặn sự ẩn danh và các lập luận cho rằng việc xóa ẩn danh của người dùng Internet là xâm phạm quyền riêng tư của họ và vi phạm quyền tự do ngôn luận. Julie Zhou, viết cho tờ Thời báo New York, bình luận rằng "Không có cách nào để thực sự loại bỏ Internet ẩn danh. Rốt cuộc, tên và địa chỉ email có thể bị làm giả. Và trong vài trường hợp, nhiều người bình luận viết những điều thô lỗ dưới tên thật của họ ". Do đó, một số kẻ lừa gạt thậm chí không thèm che giấu hành động và tự hào về hành vi của mình. Tỷ lệ quấy rối trực tuyến được báo cáo ngày càng tăng do đã có sự gia tăng 50% trong các tài khoản về quấy rối trực tuyến thanh thiếu niên từ những năm 2000. Một hình thức quấy rối phổ biến trực tuyến khác được gọi là flaming (chọc tức).Theo một nghiên cứu được thực hiện bởi Peter J. Moor, flaming được định nghĩa là thể hiện thái độ thù địch bằng cách lăng mạ, chửi rủa hoặc sử dụng ngôn ngữ xúc phạm. Flaming có thể được thực hiện theo định dạng kiểu nhóm (phần bình luận trên YouTube) hoặc ở định dạng một đối một (nhắn tin riêng tư trên Facebook). Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng flaming rõ ràng hơn trong cuộc trò chuyện qua trung gian máy tính hơn là tương tác mặt đối mặt. Ví dụ, một nghiên cứu được thực hiện bởi Kiesler et al. nhận thấy rằng những người gặp trực tuyến đánh giá nhau gay gắt hơn những người gặp mặt trực tiếp. Nghiên cứu tiếp tục nói rằng những người giao tiếp bằng máy tính "cảm thấy và hành động như thể thiết lập là vô lý hơn, và hành vi của họ không bị ngăn cản. Những phát hiện này cho thấy giao tiếp qua máy tính... gợi ra hành vi xã hội hoặc không được kiểm soát". Các cộng đồng không được kiểm soát được thiết lập khi người dùng trực tuyến giao tiếp trên một trang web mặc dù không có điều khoản sử dụng lẫn nhau. Không có cơ quan quản lý. Các nhóm sở thích trực tuyến hoặc blog ẩn danh là ví dụ về các cộng đồng không được kiểm soát. Bắt nạt trên mạng cũng rất phổ biến. Bắt nạt trên mạng được định nghĩa là tác hại cố ý và lặp đi lặp lại gây ra cho người khác thông qua các phương tiện công nghệ thông tin. Nạn nhân của đe doạ trực tuyến đã lên hàng đầu trong chương trình nghị sự công cộng sau khi một số câu chuyện tin tức đã xuất hiện về chủ đề này. Lấy ví dụ tân học sinh Rutgers, Tyler Clementi đã tự sát vào năm 2010 sau khi bạn cùng phòng của anh ta bí mật quay phim anh ta trong một cuộc gặp gỡ thân mật và sau đó phát trực tiếp video qua Internet. Nhiều tiểu bang, như New Jersey, đã tạo ra và thông qua các luật không cho phép bất kỳ hành vi quấy rối nào tại, gần hoặc ngoài sân trường làm gián đoạn hoặc can thiệp vào hoạt động của trường hoặc quyền của các học sinh khác. Trolling và bắt nạt trên mạng trong cộng đồng trực tuyến rất khó ngăn chặn vì một số lý do: Cộng đồng trực tuyến là một nhóm người có chung sở thích sử dụng Internet (trang web, email, tin nhắn tức thời, v.v.) để liên lạc, làm việc cùng nhau và theo đuổi sở thích của họ theo thời gian. Làm nhục. Một vấn đề ít được biết đến là hazing (làm nhục) trong cộng đồng trực tuyến. Các thành viên cấp cao của một cộng đồng trực tuyến sử dụng hazing để thể hiện sức mạnh của họ, tạo ra sự bất bình đẳng và gia tăng lòng trung thành với người mới. Mặc dù hazing trực tuyến không gây ra tình trạng khó khăn về thể chất, "các giá trị trạng thái của sự thống trị và sự phụ thuộc cũng được truyền đi một cách hiệu quả". Các thành viên ưu tú trong nhóm có thể gây ám ảnh bằng cách sử dụng các thuật ngữ xúc phạm để chỉ người mới đến, sử dụng trò lừa dối hoặc chơi trò chơi trí tuệ hoặc tham gia đe dọa, trong số các hoạt động khác. "Qua phương thức hazing, các thành viên sáng lập ngầm nói với những người mới đến rằng họ phải có khả năng chịu đựng một mức độ hung hăng, thô lỗ và đáng ghét nhất định để phù hợp và được cộng đồng BlueSky chấp nhận". Sự riêng tư. Các cộng đồng trực tuyến như các trang web mạng xã hội có sự phân biệt rất không rõ ràng giữa thông tin riêng tư và công khai. Đối với hầu hết các mạng xã hội, người dùng phải cung cấp thông tin cá nhân để thêm vào hồ sơ của họ. Thông thường, người dùng có thể kiểm soát loại thông tin mà người khác trong cộng đồng trực tuyến có thể truy cập dựa trên mức độ quen thuộc của người dùng với mức độ thoải mái của người dùng. Những hạn chế này được gọi là "cài đặt quyền riêng tư". Cài đặt quyền riêng tư đưa ra câu hỏi về cách cài đặt quyền riêng tư và điều khoản dịch vụ ảnh hưởng đến sự mong đợi quyền riêng tư trên phương tiện truyền thông xã hội. Dù gì thì mục đích của một cộng đồng trực tuyến vẫn là chia sẻ một không gian chung với nhau. Hơn nữa, thật khó để có hành động pháp lý khi người dùng cảm thấy rằng quyền riêng tư của mình đã bị xâm phạm vì về mặt kỹ thuật họ biết những gì cộng đồng trực tuyến đòi hỏi. Người sáng lập trang mạng xã hội Facebook, Mark Zuckerberg, nhận thấy một sự thay đổi trong hành vi của người dùng từ khi anh ấy ra mắt Facebook lần đầu tiên. Dường như "sự sẵn sàng chia sẻ của xã hội đã tạo ra một môi trường nơi mối quan tâm riêng tư ít quan trọng hơn đối với người dùng mạng xã hội ngày nay so với khi mạng xã hội bắt đầu". Tuy nhiên, mặc dù người dùng có thể giữ kín thông tin cá nhân của mình, hoạt động của họ vẫn mở cho toàn bộ trang web để truy cập. Khi người dùng đăng thông tin lên một trang web hoặc bình luận hoặc phản hồi thông tin được đăng bởi người khác, các trang mạng xã hội sẽ tạo ra một hồ sơ theo dõi hoạt động của người dùng. Quyền riêng tư trên Internet (Internet privacy) liên quan đến việc truyền và lưu trữ dữ liệu của một người và quyền ẩn danh của họ khi trực tuyến với Liên Hợp Quốc vào năm 2013 thông qua quyền riêng tư trực tuyến như một quyền của con người bằng một cuộc bỏ phiếu nhất trí. Nhiều trang web cho phép người dùng đăng ký tên người dùng không phải là tên thật của họ, điều này cho phép mức độ ẩn danh, trong một số trường hợp như người dùng hình ảnh từ 4chan - trang web không cần tài khoản để tham gia thảo luận. Tuy nhiên, trong những trường hợp này tùy thuộc vào chi tiết thông tin về một người được đăng, vẫn có thể tìm ra danh tính người dùng. Ngay cả khi một người thực hiện các biện pháp để bảo vệ sự ẩn danh và tiết lộ quyền riêng tư của họ nhờ Edward Snowden, một nhà thầu trước đây của Cơ quan Tình báo Trung ương Central Intelligence Agency về các chương trình giám sát hàng loạt được thực hiện bởi các dịch vụ tình báo Hoa Kỳ liên quan đến việc thu thập dữ liệu hàng loạt trên cả người dùng trong nước và quốc tế của các trang web phổ biến bao gồm Facebook và YouTube cũng như việc thu thập thông tin trực tiếp từ cáp quang mà không có sự đồng ý xuất hiện cho thấy quyền riêng tư của cá nhân không phải lúc nào cũng được tôn trọng. Nhà sáng lập facebook Mark Zuckerberg tuyên bố công khai rằng công ty chưa được thông báo về bất kỳ chương trình nào như vậy và chỉ bàn giao dữ liệu người dùng cá nhân khi pháp luật yêu cầu ngụ ý rằng nếu các cáo buộc là đúng thì dữ liệu thu hoạch đã được thực hiện mà không có sự đồng ý của công ty. Sự phổ biến ngày càng tăng của các mạng xã hội nơi người dùng sử dụng tên thật của họ là tiêu chuẩn cũng mang đến một thách thức mới với một cuộc khảo sát với 2.303 người quản lý tìm thấy 37% ứng viên điều tra hoạt động truyền thông xã hội trong quá trình tuyển dụng với một nghiên cứu cho thấy 1 trong 10 lần từ chối đơn xin việc cho những người từ 16 đến 34 tuổi có thể là do kiểm tra phương tiện truyền thông xã hội. Sự phụ thuộc vào thông tin. Cộng đồng mạng có thể là một công cụ dễ dàng và hữu ích để truy cập thông tin. Tuy nhiên, thông tin có chứa cũng như thông tin xác thực của người dùng không phải lúc nào cũng đáng tin cậy, với việc internet cung cấp một phương tiện tương đối ẩn danh để một số người lừa đảo yêu cầu bất cứ điều gì từ trình độ của họ hoặc trong trường hợp hiếm hoi, giả vờ là một người cụ thể. Các tài khoản giả mạo độc hại được tạo ra với mục đích lừa gạt nạn nhân bằng tiền đã trở nên cao cấp hơn với bốn người đàn ông bị kết án từ 8 năm đến 46 tuần vì lừa đảo 12 phụ nữ £250.000 bảng Anh bằng cách sử dụng tài khoản giả trên trang web hẹn hò. Nói về đến độ chính xác, một khảo sát dựa trên Wikipedia đã đánh giá 50 bài báo cho thấy 24% không có sự chính xác, mặc dù trong hầu hết các trường hợp, hậu quả có thể chỉ là sự lan truyền thông tin sai lệch, tin giả trong các lĩnh vực như sức khỏe, hậu quả có thể gây tổn hại lớn hơn nhiều dẫn đến Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ cung cấp trợ giúp về đánh giá thông tin y tế trên web. Mất cân bằng. Quy tắc 1% nêu rõ rằng trong cộng đồng trực tuyến dưới dạng quy tắc chỉ có 1% người dùng đóng góp tích cực vào việc tạo nội dung. Các biến thể khác cũng tồn tại như quy tắc 1-9-90 khi tính đến chỉnh sửa. Điều này đặt ra vấn đề cho các cộng đồng trực tuyến với hầu hết người dùng chỉ quan tâm đến thông tin mà cộng đồng đó có thể chứa thay vì quan tâm đến việc đóng góp tích cực có thể dẫn đến sự cứng nhắc trong thông tin và suy giảm trong cộng đồng. Điều này đã khiến các cộng đồng dựa vào việc chỉnh sửa nội dung của người dùng để thúc đẩy người dùng trở thành những người đóng góp tích cực cũng như giữ chân các thành viên hiện có thông qua các dự án như Dự án cải thiện sáng tạo tài khoản Wikimedia. Vấn đề pháp lý. Tại Hoa Kỳ, hai trong số các luật quan trọng nhất liên quan đến các vấn đề pháp lý của cộng đồng trực tuyến, đặc biệt là các trang mạng xã hội là Mục 512c của Đạo luật bản quyền thiên niên kỷ kỹ thuật số (Digital Millennium Copyright Act) và Mục 230 của Đạo luật chính xác về truyền thông (Communications Decency Act). Mục 512c xóa trách nhiệm đối với vi phạm bản quyền khỏi các trang web cho phép người dùng đăng nội dung, miễn là có cách mà chủ sở hữu bản quyền có thể yêu cầu xóa nội dung vi phạm. Trang web có thể không nhận được bất kỳ lợi ích tài chính nào từ các hoạt động vi phạm. Mục 230 của Đạo luật về Thông tin liên lạc cung cấp sự bảo vệ khỏi mọi trách nhiệm do kết quả của việc xuất bản do một bên khác cung cấp. Các vấn đề phổ biến bao gồm phỉ báng, nhưng nhiều tòa án đã mở rộng nó để bao gồm cả các khiếu nại khác. Các cộng đồng trực tuyến thuộc nhiều loại khác nhau (trang mạng xã hội, blog, trang chia sẻ phương tiện truyền thông, v.v.) đang đặt ra những thách thức mới cho tất cả các cấp thực thi pháp luật trong việc chống lại nhiều loại tội phạm bao gồm quấy rối, trộm danh tính, vi phạm bản quyền, v.v. Luật bản quyền đang bị thách thức và tranh luận với sự thay đổi trong cách các cá nhân hiện phổ biến tài sản trí tuệ của họ. Các cá nhân đến với nhau thông qua các cộng đồng trực tuyến trong nỗ lực hợp tác để tạo ra. Nhiều người mô tả luật bản quyền hiện tại là không được trang bị đầy đủ để quản lý lợi ích của các cá nhân hoặc nhóm liên quan đến những nỗ lực hợp tác này. Một số người nói rằng những luật này thậm chí có thể ngăn cản loại hình sản xuất này. Luật điều chỉnh hành vi trực tuyến đặt ra một thách thức khác đối với các nhà lập pháp ở chỗ họ phải làm việc để ban hành luật bảo vệ công chúng mà không vi phạm quyền của họ đối với tự do ngôn luận. Có lẽ vấn đề được bàn tán nhiều nhất của loại này là vấn đề đe doạ trực tuyến. Một số học giả kêu gọi nỗ lực hợp tác giữa phụ huynh, nhà trường, nhà lập pháp và thực thi pháp luật để ngăn chặn bắt nạt trực tuyến. Luật pháp phải liên tục thích ứng với bối cảnh luôn thay đổi của phương tiện truyền thông xã hội dưới mọi hình thức; một số học giả pháp lý cho rằng các nhà lập pháp cần có cách tiếp cận liên ngành để tạo ra chính sách hiệu quả cho dù đó là quy định, vì an toàn công cộng, hay nói cách khác. Các chuyên gia về khoa học xã hội có thể làm sáng tỏ các xu hướng mới xuất hiện trong việc sử dụng phương tiện truyền thông xã hội bởi các phân khúc khác nhau của xã hội (bao gồm cả giới trẻ). Được trang bị dữ liệu này, các nhà lập pháp có thể xây dựng và thông qua luật bảo vệ và trao quyền cho các thành viên cộng đồng trực tuyến khác nhau.
1
null
Friederike Luise của Hannover ("," ; 18 tháng 04 năm 1917 - 06 tháng 02 năm 1981) là vương hậu của Hellenes, vợ vua Pavlos I của Hy Lạp. Sinh thời. Sinh ra là Friederike, Vương nữ Hannover, Vương nữ của Liên hiệp Anh và Ireland, và Công nữ xứ Braunschweig-Lüneburg, sinh ngày 18 tháng 04 năm 1917 tại Blankenburg am Harz, Công quốc Braunschweig, Đế quốc Đức. Bà là con gái của Ernest Augustus III, Công tước xứ Braunschweig và Công chúa Viktoria Luise của Phổ, con gái duy nhất của Hoàng đế Đức Wilhelm II và Auguste Viktoria xứ Schleswig-Holstein. Xét theo phả hệ hoàng gia, Frederica còn mang trong mình dòng máu của Vương thất Anh, với tư cách một chắt của Hoàng đế Đức Friedrich III và Vương nữ Victoria, con gái cả của Nữ vương Anh Victoria vàAlbrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha. Tuy nhiên, cả cha và ông ngoại của bà đều thoái vị vào tháng 11 năm 1918 sau thất bại của Đức trong Thế chiến thứ nhất, và ông nội của bà bị Hoàng gia Anh tước bỏ địa vị Công tước xứ Cumberland vào năm sau đó, với cáo buộc vì đã đứng về phía Đức để chống lại Anh.
1
null
Linda Lê (20 tháng 7 năm 1963 – 9 tháng 5 năm 2022), là nhà văn nữ người Pháp gốc Việt. Tiểu sử. Linda Lê sinh tại Đà Lạt. Cha của bà là một kỹ sư người Bắc Việt Nam, mẹ bà là người xuất thân từ một gia đình khá giả có quốc tịch Pháp. Linda Lê sống thời niên thiếu ở Đà Lạt. Năm 1969, sau cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968, gia đình bà di chuyển về Sài Gòn để tránh chiến tranh. Linda Lê theo học trường trung học Pháp ở Việt Nam và rất thích những tác phẩm của Victor Hugo và Honoré de Balzac. Năm 1977, Lê cùng mẹ và các chị em rời Việt Nam sang định cư ở Pháp và cư ngụ ở Le Havre, còn người cha ở lại Việt Nam. Năm 1981, bà lên cư ngụ ở Paris, theo học các "Lớp dự bị văn học" ("Classes préparatoires littéraires") ở lycée Henri-IV, sau đó vào học ở đại học Sorbonne. Năm 1995, người cha dự định sang Pháp thăm gia đình, nhưng đã qua đời tại Việt Nam. Dịp này Linda Lê đã trở về Việt Nam để tiễn đưa người cha tới nơi an nghỉ cuối cùng. Sự nghiệp sáng tác. Tiểu thuyết đầu tay của bà, quyển "Un si tendre vampire", được nhà xuất bản La Table Ronde xuất bản năm 1986; tuy nhiên phần lớn tác phẩm của bà đều được nhà xuất bản Christian Bourgois ấn hành, ngoại trừ quyển "Les Évangiles du crime", rất được chú ý được nhà xuất bản Fayard phát hành năm 1992 và sau đó được nhà xuất bản Christian Bourgois tái bản. Một số tác phẩm của bà đã được dịch sang tiếng Anh, tiếng Hà Lan, tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Việt. Linda Lê cũng là nhà phê bình văn học cho Magazine Littéraire ("tạp chí Văn học") và là người viết bài tựa. Năm 2006, bà đã viết bài tựa giới thiệu tác phẩm của Panaït Istrati do Nhà xuất bản Phébus ấn hành. Giới phê bình cho rằng các tác phẩm của Linda Lê đi vào văn học cách lặng lẽ, không ồn ào . Văn phong của bà mang dấu ấn "một sức mạnh phân tích và một khoảng cách hùng biện dường như kế thừa từ thế kỷ thứ 17". Marine Landrot xác định tác phẩm của bà giống như một "bài điếu văn khổng lồ mà mỗi phần dường như là sự phản ánh của phần khác - với một sự sáng suốt ngày càng sắc bén và dịu dàng". Bà qua đời tại Paris, Pháp vào ngày 9 tháng 5 năm 2022, không lâu sau sinh nhật thứ 59 tuổi của bà. Giải thưởng và Vinh danh. Linda Lê là một tác giả ít được công chúng biết đến mặc dù được giới phê bình đánh giá cao, tuy nhiên các tác phẩm của bà đã nhiều lần được tưởng thưởng: Sống kín đáo, Linda Lê thường trốn các phương tiện truyền thông và tự giới thiệu mình là "một con gấu núp trong hang ".
1
null
Sữa bắp hay còn gọi là sữa bột bắp là một loại thực phẩm ở dạng lỏng (có thể ở mức độ lỏng bỏng hoặc sệt hơn) được chế biến từ nguyên liệu là bắp bằng phương pháp nghiền nghiền nhỏ hạt ngô để thu bột bắp và thu thập các dư lượng sữa từ ngô sau đó nấu chín. Giới thiệu. Đây là một chế phẩm gần như dạng lỏng của ngô ngọt, nhưng không giống như các chế phẩm khác của ngô ngọt, sữa bắp chỉ được xay nhuyễn một phần, đường và tinh bột có thể được thêm vào và chế biến trong môi trường trong nước, và có thể chế thêm một số loại sữa. Sữa bắp có ưu điểm là nguyên liệu dễ tìm và giá lại rẻ đồng thời dễ chế biến nên nhiều người có thể tự tay chế biến ở nhà. Xuất phát nguyên thủy của sữa bắp là từ nước Mỹ, tại đây, sữa bắp là các sản phẩm từ ngô ngọt và được chế phẩm ở dạng lỏng, sệt, nó được chế biến như là một món xúp hoặc nước sốt và là một phần quan trọng của ẩm thực miền Trung Tây Hoa Kỳ, thường được bán theo các đóng hộp (các công ty như Del Monte Foods). Ở Việt Nam, việc chế biến sữa bắp tương tự như cách chế biến sữa đậu nành và là sản phẩm xuất hiện trên thị trường trong thời gian gần đây. Công dụng. Sữa bắp dễ uống và thơm ngon, bổ dưỡng, không chứa cholesterol đồng thời sữa bắp không có lactose nên không có mùi hôi như sữa bò. Sữa bắp từng được quảng cáo rộng rãi ở Thái Lan trong năm 1998, như một thức uống bổ dưỡng và có khả năng chống lão hoá tế bào. Sữa bắp có thể được dùng nóng hoặc lạnh. Khuyến cáo. Theo những chuyên gia ủng hộ sử dụng ngũ cốc trong các bữa ăn thì nên sử dụng bắp nguyên hạt thay vì ở dạng sữa việc sử dụng bắp ở dạng nguyên hạt là thích hợp nhất, vì nó chứa đầy đủ các thành phần dinh dưỡng có lợi. Còn sữa bắp đã bị loại bỏ một phần chất dinh dưỡng, xơ và vitamin, vì vậy chỉ nên thỉnh thoảng vài ngày uống một ly sữa bắp (200ml). Sữa bắp tốt cho sức khoẻ, nhưng theo các chuyên gia về dinh dưỡng, có mười điều cần cân nhắc cho những người kiên trì uống sữa bắp ngọt mỗi ngày dễ mắc các chứng như dễ béo phì, dễ sâu răng, tăng đường huyết, tăng lượng cholesterol và triglyceride, tăng nguy cơ các bệnh tim mạch, thiếu máu, suy giảm sức đề kháng, chán ăn, mệt mỏi, tăng sự dung nạp (không thể cắt giảm được). Nếu tự chế biến sữa bắp tại nhà, cần chú ý khi đun phải quậy liền tay, không nên để lửa lớn và vừa sôi thì tắt bếp. Chỉ có thể dùng ngay hoặc bảo quản trong tủ lạnh hai ngày. Nhiều nơi khi chế biến có gia thêm các chất bảo quản để giữ được lâu hơn.
1
null
Điệp vụ cá đuối (tên gốc tiếng Anh: Body of Lies) là phim điện ảnh điệp viên giật gân của Hoa Kỳ năm 2008 do Ridley Scott đạo diễn và sản xuất, William Monahan viết kịch bản, với sự tham gia diễn xuất của Leonardo DiCaprio, Russell Crowe và Mark Strong trong các vai chính. Lấy bối cảnh ở Trung Đông, phim theo sau nỗ lực của CIA và Cục Tình báo Jordan để bắt tên khủng bố "al-Saleem". Dàn diễn viên phụ gồm Oscar Isaac và Golshifteh Farahani trong vai nữ chính. Kịch bản phim – dựa trên tiểu thuyết cùng tên năm 2007 của David Ignatius – xem xét căng thẳng giữa xã hội phương Tây và Ả Rập. Phim được quay chủ yếu tại Hoa Kỳ và Maroc sau khi chính quyền Dubai từ chối cho phép dự án ghi hình vì chủ đề chính trị của kịch bản. Các nhà phê bình ca ngợi hướng đi và phong cách hình ảnh của Scott, nhưng chỉ trích cách xử lý câu chuyện của tác phẩm. Phim được phát hành tại Hoa Kỳ vào ngày 10 tháng 10 năm 2008 và thu về 118 triệu USD toàn cầu. Nội dung. Thành phố Manchester rúng động vì vụ nổ bom khủng bố nhằm vào chính lực lượng cảnh sát. Tại Iraq, Roger Ferris là nhân viên của CIA đặc trách khu vực Trung Đông. Cùng một đồng sự người bản địa, anh đang truy tìm dấu vết tên thủ lĩnh của nhóm khủng bố gây ra các vụ đánh bom. Cơ hội lần ra kẻ cầm đầu rơi vào tay Ferris khi một thành viên của nhóm khủng bố tự tìm gặp và xin được cộng tác. Hắn chẳng thân thiện với người Mỹ tới mức muốn được họ bảo vệ. Chỉ vì hắn là kẻ sợ chết nhưng lại vừa được giao nhiệm vụ đánh bom liều chết. Ferris muốn chấp nhận giao kèo: nhận thông tin từ kẻ phản bội và giúp hắn tới Mỹ. Nhưng sếp trực tiếp của anh – Ed Hoffman – lạnh lùng từ chối. Ferris trở thành kẻ nói dối và buộc phải giết người để bịt đầu mối. Từ mẩu thông tin có được từ kẻ đã chết, Ferris biết được ngôi nhà bí ẩn có thể là nơi tập trung của các thành viên khủng bố. Nhưng cuộc đụng độ tại ngôi nhà bí ẩn đã khiến Ferris mất đồng sự trung thành. Không thể cô độc đối phó với kẻ thù, Ferris được Ed giới thiệu với Hani – người đứng đầu cơ quan tình báo Jordan, còn được coi là vua tra tấn. Hani buộc Ferris hứa một điều trước khi cộng tác: không bao giờ được nói dối. Nhưng trong lúc Ferris và Hani cùng lên kế hoạch vạch mặt kẻ đứng đầu nhóm khủng bố, Ed âm thầm thực hiện những dự định riêng. Cũng trong thời gian này, một quả bom phát nổ ngay một khu chợ đông đúc ở Hà Lan. Hani nổi giận vì nghĩ rằng Ferris lén hành động sau lưng mình, đồng nghĩa với việc nói dối. Không thể ở lại Iraq khi không còn đồng minh, Ferris buộc phải trở về Mỹ. Trong lúc tưởng như không còn hy vọng tiếp tục công việc, mang tiếng phản bội và có một ông sếp chỉ thích làm theo ý mình, Ferris nảy ra một kế hoạch táo bạo. Đó cũng là lúc anh được bật đèn xanh để trở lại Iraq – sự cảm mến tính cách đặc biệt của Ferris làm Hani xóa bỏ mọi khúc mắc và cho phép anh tiếp tục công việc. Nhưng những lời nói dối giống như công cụ thiết yếu, trong khi việc đối phó với nhóm khủng bố càng trở nên khó khăn và nguy hiểm. Hơn thế, một bóng hồng lại xuất hiện và xen giữa cuộc chiến khốc liệt. Ngay giữa cuộc chiến luôn cận kề cái chết, Ferris lại đem lòng yêu một y tá xinh đẹp và cá tính.
1
null
Dinh Tổng thống, danh xưng chính thức là Phủ Tổng thống Trung Hoa Dân quốc là tòa nhà Văn phòng Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc. Tòa nhà đặt tại quận Trung Chính, Đài Bắc, Đài Loan. Nơi đây là trụ sở chính cho các cơ quan giúp việc cho Tổng thống và Phó tổng thống Trung Hoa Dân quốc. Lịch sử. Khi Hiến pháp Trung Hoa Dân quốc 1947 được ban hành, một cơ quan giúp việc cho Tổng thống và Phó tổng thống cũng được thiết lập, được gọi là Tổng thống phủ. Trụ sở ban đầu của Tổng thống phủ được đặt tại Nam Kinh. Tuy nhiên, khi khả năng kiểm soát Đại lục gần như không còn, chính quyền Trung Hoa Dân quốc dời các cơ quan về Đài Loan, kể cả Tổng thống phủ. Dinh Tổng thống hiện nay, ban đầu được kiến trúc sư Uheiji Nagano thiết kế trong suốt thời kỳ Đài Loan thuộc Đế quốc Nhật Bản (1895–1945). Ban đầu nó là nơi đặt Văn phòng Tổng đốc Đài Loan. Bị hư hại trong vụ đánh bom của quân Đồng minh trong Thế chiến thứ hai, tòa nhà đã được khôi phục sau cuộc chiến tranh của Trần Nghi, toàn quyền của tỉnh Đài Loan. Nó trở thành Phủ Tổng thống vào năm 1950 sau khi Trung Hoa Dân Quốc mất quyền kiểm soát Trung Quốc đại lục và di chuyển thủ đô của quốc gia đến thành phố Đài Bắc vào cuối cuộc nội chiến Trung Quốc.
1
null
, được biết đến với tên tiếng Anh là Venusaur (/ ˈviːnəˌsɔːr /), là một loài Pokémon thuộc hệ Cỏ / Độc trong nhượng quyền Pokémon của Nintendo và Game Freak. Được tạo bởi Ken Sugimori, Fushigibana lần đầu tiên xuất hiện trong các trò chơi video "Pokémon Red" và "Blue" và các phần tiếp theo, sau đó xuất hiện trong nhiều mặt hàng khác nhau, tựa đề spinoff và phim hoạt hình và chuyển thể bản in của nhượng quyền thương mại. Fushigibana có khả năng Tiến Hóa Mega, cho phép nó biến thành Mega Fushigibana. Nó tiến hóa từ Fushigisou và là dạng tiến hóa cuối cùng của Fushigidane. Fushigibana là linh vật của hai bản game Pokémon Green và LeafGreen, xuất hiện trên bìa game của cả hai.
1
null
Giải Wepler (tiếng Pháp: Prix Wepler) là một giải thưởng văn học được thiết lập năm 1998 theo sáng kiến của Hiệu sách Abbesses, với sự hỗ trợ của Quỹ La Poste (hãng Bưu điện Pháp) và hãng sản xuất bia Wepler (quảng trường Clichy, Quận 18, Paris). Giải Wepler dành cho các nhà văn hiện đại có tác phẩm xuất sắc, không nhằm mục đích thương mại. Giải được trao trong tháng 11 hàng năm tại trụ sở hãng bia Wepler, với một ban giám khảo thay đổi. Hạng đặc biệt (Mention Spéciale). Hạng đặc biệt của Giải Wepler dành cho một tác phẩm có tính táo bạo, tính độc đáo, thoát khỏi mọi ý đồ thương mại.
1
null
Bão Utor (số thứ tự bão: 1311, JTWC: 11W, tên PAGASA: Labuyo) là một cơn bão nhiệt đới nằm trong Mùa bão Thái Bình Dương năm 2013. Bão hình thành từ một xoáy thuận nhiệt đới ở ngoài khơi Philippines vào ngày 8 tháng 8 năm 2013, sau khi bão Mangkhut đổ bộ Việt Nam. Ngày 14 tháng 8, bão đã đổ bộ vào Quảng Đông, Trung Quốc. Bối cảnh hình thành. Bão Utor (Việt Nam gọi là bão số 7) hình thành trong bối cảnh đầu tháng 8 có hai cơn bão liên tiếp đổ bộ Biển Đông vào Việt Nam là Jebi và Mangkhut. Hình thành và phát triển. Ngày 8 tháng 8, trung tâm cảnh báo bão Hoa Kỳ phát hiện một xoáy thuận nhiệt đới hình thành, cách đảo Yap Trong ngày hôm đó, nó đã mạnh dần lên thành Áp thấp nhiệt đới. Ngày 10, nó đã mạnh lên thành bão. Nó được đặt tên quốc tế là Utor. Sau khi đi sâu vào miền nam Trung Quốc, bão Utor đã nhanh chóng suy yếu thành một vùng áp thấp. Ảnh hưởng. Philipppines. Tất cả các trường hợp mất tích đều là các ngư dân ra khơi ở bờ đông của đảo lớn Luzon, nơi nằm trên hướng di chuyển của bão Utor, AFP dẫn thông tin từ giám đốc cơ quan đối phó thảm họa quốc gia Philippines. Với sức gió lên tới 200 km/h, Utor là cơn bão mạnh nhất đổ vào Philippines kể từ đầu năm 2013. Nó gây ra lở đất tại khu vực đồi núi ở phía bắc đảo Luzon lúc 3 giờ sáng 12 tháng 8 theo giờ địa phương. Khoảng 8h30, cơn bão quét qua tỉnh miền bắc Nueva Vizcaya. Tại thủ đô Manila, cách tâm bão khoảng 200 km về phía đông, bão Utor cũng gây mưa lớn vào đêm 11 tháng 8 nhưng không xảy ra hiện tượng lũ lụt. Nhiều ngôi trường trên khắp Manila đã đóng cửa vào ngày 12 tháng 8. Ít nhất 7 người thiệt mạng và 4 ngư dân mất tích. Ước tính thiệt hại 438,27 triệu peso (211 tỷ đồng VN) về nông nghiệp. Thiệt hại về nhà cửa ước tính khoảng 69,2 triệu peso (33 tỷ đồng VN). Trung Quốc. Chiều 14 tháng 8, bão Utor đã đổ bộ vào tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Tại Dương Giang, tất cả các cơ quan chính phủ, doanh nghiệp, trường học đã đóng cửa trong chiều 14 tháng 8 vì các lý do an toàn. Vào khoảng trưa ngày 14 tháng 8, một người đi xe máy tại Dương Giang bị cây bật gốc do gió mạnh đã đổ trúng xe của ông, khiến ông này bị ngất. Người đàn ông này sau đó đã bình phục với sự giúp đỡ của các nhân viên một cửa hiệu. Một số con đường ở thị trấn Shapa của huyện Dương Giang đã bị chặn do cây đổ, trong khi một số tuyến đường khác bị ngập. Sau cơn bão, giá rau trung bình tại Quảng Châu, đã tăng 15%. Hồng Kông. Ngày 14 tháng 8, bão Utor đã đổ bộ vào Hồng Kông, nhấn chìm một tàu chở hàng cỡ lớn, đi từ Indonesia tới Trung Quốc. Hai trực thăng cứu hộ Hồng Kông đã cứu sống 19 người, trong khi một con tàu của Trung Quốc cứu hai người còn lại. Yip, một phi công cứu hộ, cho hay hầu hết thủy thủ là người Trung Quốc. Tại Hồng Kông, các văn phòng, trường học và tòa án cũng tê liệt, thị trường chứng khoán ngừng giao dịch, khiến trung tâm thương mại sôi động bậc nhất ở nam Trung Quốc rơi vào cảnh vắng lặng khác thường. Hơn 350 chuyến bay đã bị hoãn hoặc hủy. Dịch vụ đi lại bằng phà và xe buýt bị ngưng trệ. Lực lượng cứu hộ và trực thăng từ Hồng Kông và tỉnh Quảng Đông đã cứu sống 21 thuyền viên của Trans Summer, một tàu chở hàng bị sóng biển đánh chìm ở tây nam đảo Hồng Kông. Sáu người ở đặc khu hành chính đã bị thương khi gió mạnh quật đổ 21 cây xanh ở đây. Việt Nam. Trước khi bão đổ vào Trung Quốc, nó đã hút hết một áp thấp nhiệt đới ở khu vực Nam Biển Đông. và đã gây ra nắng nóng ở Bắc và Trung bộ Việt Nam.
1
null
Tư Mã Nguyên Hiển (chữ Hán: 司馬元顯, 382 - 402), tức Cối Kê Trung thế tử, tên tự là Lãng Quân (朗君), là tông thất và đại thần chấp chính dưới thời Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Thân thế. Tư Mã Nguyên Hiển là cháu nội thuộc ngành thứ của Tấn Giản Văn Đế, vua thứ 12 của nhà Tấn. Cha ông là Tư Mã Đạo Tử, con trai út của Giản Văn Đế. Sử sách không ghi rõ mẹ của ông là ai và không nói rõ trực tiếp tuổi của ông, nhưng cả Tấn thư và Tư trị thông giám đều thừa nhận rằng năm 397, lúc thảo phạt Vương Cung thì Tư Mã Nguyên Hiển được 16 tuổi. Như vậy có thể đoán được rằng ông chào đời vào năm 382. Dẹp loạn Vương Cung. Những năm cuối thời Tấn Hiếu Vũ Đế và đầu thời Tấn An Đế, Tư Mã Đạo Tử được giao trọng trách điều hành triều chính và nắm được quyền lực trong triều đình. Tuy nhiên do Đạo Tử tin dùng gian thần Vương Quốc Bảo nên dẫn đến việc bị các quan lại địa phương bất bình, trong đó có Vương Cung, thứ sử hai châu Thanh, Duyện. Năm 397, Vương Cung khởi binh tiến đánh Kiến Khang, ép buộc Tư Mã Đạo Tử phải giết chết Vương Quốc Bảo. Lúc bấy giờ Tư Mã Nguyên Hiển được 16 tuổi, được phong chức Thị trung. Ông lo sợ thế lực của Vương Cung lấn át triều đình nên thường khuyên Tư Mã Đạo Tử cất quân thảo phạt. Tư Mã Đạo Tử cũng rất tin tưởng về con trai, nên phong cho ông lên chức Chinh Lỗ tướng quân, giao cho nhiệm vụ canh giữ kinh thành. Năm 398, Vương Cung một lần nữa xuất quân nhằm tiêu diệt thế lực của Tiều vương Tư Mã Thượng Chi chống đối mình. Lần này ông ta liên kết cùng Thứ sử Kinh châu Ân Trọng Kham, Thứ sử Quảng châu Hoàn Huyền và Thứ sử Dự châu Dữu Giai, tạo nên thanh thế lớn. Tư Mã Nguyên Hiển và Tư Mã Thượng Chi và Tạ Diễm được giao nhiệm vụ dẫn quân chống trả. Ông được bái làm Chinh thảo đô đốc, Giả tiết, đưa quân ra giao chiến cùng Tư Mã Thượng Chi. Trong trận ra quân, Tư Mã Thượng Chi đánh thắng được quân của Dữu Giai, buộc Giai phải bỏ chạy, theo về với Hoàn Huyền. Tư Mã Nguyên Hiển sau đó cùng Vương Khải, Hoàn Phóng Chi và Ôn Tường tiến đánh Thạch Đầu thành, đối phó với Hoàn Huyền, đồng thời phái Vương Nhã và Tạ Diễm đưa quân lên phía bắc để phòng bị từ xa. Tuy nhiên cũng vào lúc đó, Tư Mã Nguyên Hiển biết được việc thủ hạ của Vương Cung là Lưu Lao Chi đang giữ chức Bắc phủ tướng quân xảy ra hiềm khích với Cung, bèn sai thái thú Lư Giang là Cao Tố khuyên Lưu Lao Chi bỏ Vương Cung, đầu hàng triều đình, hứa sau khi diệt được Vương Cung sẽ cho Lao Chi tiếp nhận chức vị đó. Lưu Lao Chi bằng lòng, dẫn quân theo về với triều đình rồi sau đó tiến đánh Vương Cung và bắt sống được ông ta. Cuối cùng Vương Cung bị xử tử. Nghe tin Vương Cung đã chết, Ân Trọng Kham rút quân về Tầm Dương, không chịu nhận lệnh triều đình. Tư Mã Nguyên Hiển được lệnh rút quân về cung phòng vệ, sau đó gia phong cho ông lên làm Tán kị thường thị, Trung thư lệnh, lãnh Trung lĩnh quân, Trì tiết. Cùng năm đó Ân Trọng Kham và Hoàn Huyền lại quy phục. Cuộc nổi loạn chấm dứt. Đoạt quyền triều chính. Năm 399, Tư Mã Đạo Tử bị bệnh nặng và ngày càng lún sâu vào nghiện ngập, thường uống rượu say khướt suốt ngày. Biết cha không thể tiếp tục tiếp quản triều chính, Tư Mã Nguyên Hiển bèn dùng kế đoạt lấy quyền lực về tay mình. Ông ép triều đình giải trừ các chức vụ Tư đồ và Thứ sử Dương châu, rồi tự mình thay thế vào các chức đó, đồng thời nắm được quyền nhiếp chính. Tư Mã Đạo Tử biết được sự việc tuy rất tức giận nhưng cũng không làm được gì. Từ đó quyền lực trong triều rơi vào tay Tư Mã Nguyên Hiển. Chấp chính. Tư Mã Nguyên Hiển tuổi còn nhỏ, cảm thấy mình chưa đủ năng lực để nắm nhiều chức vụ cùng một lúc, bèn dùng Lang Nha vương Tư Mã Đức Văn (em trai hoàng đế) làm Tư đồ. Do tuổi trẻ hiếu thắng, ông bắt đầu dự định diệt trừ thế lực các phiên trấn để khẳng định quyền lực. Theo lời thái thú Lư Giang Trương Pháp Thuận, Tư Mã Nguyên Hiển cho đưa nhiều người thân tín vào triều và chi ngân khố một cách lãnh phí khiến người dân bất mãn. Năm 398, Tư Mã Đạo Tử lệnh cho Tư Mã Nguyên Hiển bắt giết Tôn Thái do nghi có mưu đồ phản nghịch. Cháu Tôn Thái là Tôn Ân bất bình, chạy ra Đảo Chu San, tập hợp quân mã chuẩn bị phục thù. Năm 399, Tôn Ân đưa quân từ hải đảo tiến công vào vùng Thượng Ngô rồi tiến sang Cối Kê và nhanh chóng chiếm được toàn bộ Dương Châu, vùng duy nhất mà triều đình nhà Tấn còn quản lý rồi tiến về kiến Khang. Tư Mã Nguyên Hiển sai Tạ Diễm và Lưu Lao Chi suất quân kháng cự, đánh thắng quân Tôn Ân, bình định được 8 quận. Nhờ đó ông được gia phong làm Lục thượng thư sự (cùng đảm nhận chức vụ với Tư Mã Đạo Tử). Đường thời, tuy vẫn là người nhiếp chính trên danh nghĩa, nhưng Tư Mã Đạo Tử thường uống rượu suốt ngày, còn hoàng đế thì bị dị tật không thể nói được nên mọi việc trong triều đều do Tư Mã Nguyên Hiển quyết đoán. Ông được tôn xưng là "Tây lục", trong khi Tư Mã Đạo Tử được gọi là "Đông lục". Cũng từ khi nắm quyền lớn, Tư Mã Nguyên Hiển bắt đầu gần gũi tiểu nhân gian nịnh rồi trở nên kiêu ngạo. Ông ép các quan mỗi khi vào triều phải bái lạy mình, đồng thời tôn mẹ mình là Cối Kê phu nhân, ban cho nhiều vàng bạc. Việc Tư Mã Nguyên Hiển xài tiền hoang phí trong lúc chiến tranh nổ ra liên miên làm cho quốc khố cạn kiệt, lòng dân oán hận. Sang năm 400, Tôn Ân lại đưa quân tiến công vào Cối kê, giết được Tạ Diễm. Tư Mã Nguyên Hiển được triều đình phong làm Thứ sử Từ châu, Thị trung, Hậu tướng quân, Khai phủ nghi đồng tam ti, Đô đốc quân sự các châu Từ, Duyện, Thanh, U, Ký, Tịch, Kinh, Giang, Tư, Ung, Lương, Ích, Giao, Quảng, tổng cộng 16 châu. Sang tháng 2 ÂL, Tư Mã Nguyên Hiển bỏ chức Lục Thượng thư sự và tự đổi mình làm Trung thư lệnh. Đương thời Lại bộ thượng thư Xa Dận bất mãn việc Tư Mã Nguyên Hiển kiêu ngạo làm bại hoại triều đình, bèn đến gặp Tư Mã Đạo Tử, khuyên Tư Mã Đạo Tử nên tìm cách lấy lại quyền lực. Tư Mã Nguyên Hiển biết chuyện, đến hỏi Tư Mã Đạo Tử, rồi lấy việc Xa Dận li gián mình với cha, bức Xa Dận tự sát. Thảo phạt Hoàn Huyền. Năm 401, Tôn Ân một lần nữa tiến quân đánh Dương châu, bị Lưu Lao Chi đán bại phải rút về Kinh Khẩu. Tư Mã Nguyên Hiển đưa quân truy kích, nhưng không ngờ ra trận bất lợi, Tôn Ân nhân đà thắng lợi lại đánh tới Kiến Khang. May thay cùng lúc đó tướng quân dưới quyền Lưu Lao Chi là Lưu Dụ (người sau này cướp ngôi nhà Tấn) đã đẩy lùi được Tôn Ân, buộc Tôn Ân rút chạy. Trong trận chiến lần đó với triều đình, Tôn Ân nhận được sự giúp đỡ của Thứ sử Kinh châu Hoàn Huyền. Sau khi Tôn Ân rút lui, Tư Mã Nguyên Hiển bèn chuẩn bị kế hoạch thảo phạ Hoàn Huyền. Ông nhân danh Tấn An Đế xuống chiếu kể tội, buộc Hoàn Huyền thần phục và bãi binh. Nhưng cũng vì thế, Tư Mã Nguyên Hiển bắt đầu lo ngại về thế lực của Hoàn Huyền. Nghe lời Trương Pháp Thuận, ông kể tội Hoàn Huyền mưu phản, xuất binh thảo phạt. Ông phái Trương Pháp Thuận sang liên kết với Lưu Lao Chi tính kế đánh Kinh châu. Sau khi trở về, Trương Pháp Thuận dự đoán Lưu Lao Chi không phải là người đáng tin tưởng nên khuyên Tư Mã Nguyên Hiển giết đi nhưng ông không chấp nhận. Tháng giêng năm Nguyên Hưng thứ nhất (402), Tư Mã Nguyên Hiển tự thăng mình làm Phiêu kị đại tướng quân, Chinh Thảo đại đô đốc, Đô đốc quận sự 18 châu, hàm Thị trung, Hoàng Việt, đồng thời được ban ngư kiếm 20 phân, đưa quân thảo phạt Hoàn Huyền và lấy Lưu Lao Chi làm Tiền phong đô đốc. Trương Pháp Thuận lại khuyên Tư Mã Nguyên Hiển sai Lưu Lao Chi giết Hoàn Khiêm, tướng dưới trướng Hoàn Huyền để nắm lấy ưu thế trước. Tư Mã Nguyên Hiển lại thấy rằng Lưu Lao Chi không thể nào đối địch với Hoàn Huyền nên không chấp nhận. Khi quân của Tư Mã Nguyên Hiển vừa chuẩn bị xuất phát, Phiêu kị đại tướng quân Hoàn Thạch Sanh đã thông báo mọi việc cho Hoàn Huyền. Hoàn Huyền nghe tin, truyền hịch kể tội trạng của Tư Mã Nguyên Hiển. Ngày Bính Ngọ tháng 2 cùng năm (26 tháng 3 năm 402), Tư Mã Nguyên Hiển ra quân, Tấn An Đế thân hành đến Tây Đường đưa tiễn, nhưng ông nhiều lần chần chừ chưa quyết định tiến. Nhân đó, Hoàn Huyền đưa quân đến Tầm Dương, giao tranh với quân đội triều đình. Triều đình sai Tề vương Tư Mã Nhu Chi đến thuyết phục Hoàn Huyền rút lui, bị Huyền giết chết. Ngày Đinh Mão tháng 2 (16 tháng 4 năm 402), Hoàn Huyền tiến đến Cô Thục, đánh bại và bắt sống Tiều vương Tư Mã Thượng Chi, buộc em Thượng Chi là Tư Mã Hưu Chi bỏ thành mà chạy. Cùng lúc đó, Lưu Lao Chi quay sang phản lại Tư Mã Nguyên Hiển, đầu hàng Hoàn Huyền. Đại bại, bị giết. Nhờ có sự giúp đỡ của Lưu Lao Chi, Hoàn Huyền nhanh chóng đưa quân đến thành Kiến Khang. Lúc bấy giờ Tư Mã Nguyên Hiển vẫn chưa đưa quân ra khỏi thành, nghe được Hoàn Huyền đến nơi liền lui về quốc tử học đường. Ngày 20 tháng 4 năm 402, Hoàn Huyền tiến vào thành. Tư Mã Nguyên Hiển dẫn quân về cung. Ông đến gặp Tư Mã Đạo Tử hỏi kế, nhưng Tư Mã Đạo Tử cũng không có cách gì, chỉ biết khóc mà thôi. Sau đó Hoàn Huyền sai quân đến bắt Tư Mã Nguyên Hiển. Hoàn Huyền nhanh chóng vào cung, chấp chưởng toàn bộ triều chính, cho sát hại Tư Mã Nguyên Hiển cùng sáu người con. Các tướng Tư Mã Thượng Chi, Dữu Giai, Trương Pháp Thuận, Mao Thái đều bị xử tử. Năm đó ông mới được 21 tuổi. Về sau Hoàn Huyền cướp ngôi hoàng đế rồi bị sát hại. Đại tướng quân Tư Mã Tuân nắm giữ triều đình, cho phục hồi danh dự cho Tư Mã Nguyên Hiển cùng Tư Mã Đạo Tử, truy tặng ông chức vị Thái úy, thụy hiệu là Cối Kê Trung thế tử.
1
null
"Quốc kỳ ca" (chữ Hán: 國旗歌; bính âm: Guó Qí Gē) của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) được phát trong lúc thượng và hạ quốc kỳ Trung Hoa Dân Quốc. Bài này cũng được vang lên tại các sự kiện thể thao quốc tế như Thế vận hội, nơi đội tuyển Trung Hoa Dân Quốc tham dự với tên gọi "Trung Hoa Đài Bắc" (Chinese Taipei) do chính sách Một Trung Quốc. Nguồn gốc. Sau khi Đảng ca Quốc dân Đảng được chọn là Quốc ca Trung Hoa Dân quốc vào năm 1930, để tránh sự phản đối của các đảng phái đối lập vì họ cho rằng bài này dùng biểu tượng của đảng đại diện cho toàn quốc gia, Bộ Giáo dục Quốc gia Trung Hoa Dân quốc đã tổ chức cuộc thi sáng tác quốc ca mới. Phần nhạc do Hoàng Tự sáng tác đã được lựa chọn vào năm 1936, tuy nhiên Chính phủ Quốc dân của Tưởng Giới Thạch từ chối chấp nhận nó là quốc ca. Sau một cuộc thỏa hiệp, bài Đảng ca Quốc dân Đảng vẫn được giữ làm Quốc ca, còn phần nhạc của Hoàng Tự kết hợp với phần lời do Đới Quý Đào sáng tác được sử dụng làm Quốc kỳ ca Trung Hoa Dân quốc và được sử dụng đến 1949 ở Trung Quốc Đại lục (do thua trận Nội chiến và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập vào ngày 1 tháng 10 năm 1949), và ở Đài Loan từ 1949 cho đến nay. Cách sử dụng. Bài này được sử dụng trong các lễ chào cờ hằng ngày, hay trong lễ kỷ niệm ngày Quốc khánh (ngày Song Thập - ngày 10 tháng 10) ở Đài Loan. Trong lễ chào cờ đó, khi hát Quốc ca Trung Hoa Dân quốc, hai người kéo cờ không được phép kéo cờ lên, chỉ được giương rộng lá cờ cho mọi người nhìn lên và hát với lòng tự hào yêu nước. Còn khi bài Quốc kỳ ca vang lên thì người chỉ huy báo chào cờ, người kéo cờ phải kéo từ từ Quốc kỳ Trung Hoa Dân Quốc cho đến khi hết giai điệu của bài này. Ở các trường từ tiểu học cho đến các trường đại học trên khắp Đài Loan, thì bài này thường sử dụng trong lễ chào cờ thứ Hai đầu tuần (thời gian giống như của Việt Nam) và các ngày lễ trọng đại lớn như Ngày Song Thập, v.v... Ở các quảng trường lớn ở Đài Loan như Quảng trường Đài tưởng niệm Tưởng Giới Thạch, hay gần Đài tưởng niệm Tôn Trung Sơn, thì bài này được sử dụng trong lễ chào cờ diễn ra vào lúc 6h (lễ thượng cờ) và 18h (lễ hạ cờ) sau khi xong bài Quốc ca Trung Hoa Dân quốc.
1
null
Quốc kỳ ca là một bài hát yêu nước của quốc kỳ của thế giới hiện đại. Hầu hết các bài hát quốc kỳ chỉ là những bài hát yêu nước cho quốc kỳ. Chúng không phải là những bài hát thay thế quốc ca khi quốc kỳ được giương lên. Tuy nhiên, bài hát quốc kỳ của Trung Hoa Dân Quốc khá đặc biệt. Đây là bài hát duy nhất trên thế giới có thể được chơi cho quốc ca. Đây là một trong những bài hát có địa vị gần với quốc ca.
1
null
Sữa công thức hay còn gọi là sữa bột trẻ em là các loại sữa được sản xuất dành riêng làm thức ăn cho trẻ sơ sinh và trẻ em dưới 12 tháng tuổi trong đó thành phần mô phỏng công thức hóa học của sữa mẹ và dùng để thay thế hoàn toàn hoặc một phần cho sữa mẹ Sữa công thức cũng có thể được hiểu là những loại thực phẩm tốt (nghĩa rộng) dành cho những đứa trẻ thường chuẩn bị cho bú bình hoặc ăn thức ăn từ bột (trộn với nước) hoặc chất lỏng (có hoặc không có nước bổ sung). Đây là một thực phẩm mà dành sử dụng chế độ ăn uống đặc biệt như một loại thức ăn cho trẻ sơ sinh. Thành phần. Sữa công thức có những thành phần mô phỏng giống như sữa mẹ, nó có công thức gần giống với sữa mẹ trong việc vừa giúp trẻ có một cơ thể khỏe mạnh với sự tăng trưởng về chiều cao, cân nặng vừa phát triển trí não, thị lực, cảm xúc, kỹ năng giao tiếp, giải quyết vấn đề, hệ miễn dịch, ngoài đạm, đường, chất béo và các vitamin, khoáng chất thiết yếu, còn cần có một số dưỡng chất bổ sung đặc biệt (choline, DHA, ARA, beta-glucan, prebiotic...). Dù mang nhiều nhãn hiệu thì sữa công thức nhìn chung là có thành phần giống hệt nhau do sữa bột công thức phải tuân theo quy định của các cơ quan quản lý thực phẩm, chẳng hạn Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA), đòi hỏi các nhà sản xuất cung cấp 29 chất dinh dưỡng cụ thể trong mỗi khẩu phần. Trong khi các nhãn hiệu khác nhau có tên gọi, bao bì, giá cả khác nhau, không ai trong số họ được phép thay đổi các thành phần cần thiết. Có ba loại sữa công thức cơ bản: Trong đó, sữa bột là phổ biến và ít tốn kém nhất, sữa nước lỏng là tốn kém nhất. Ngoài ra, cũng có các loại sữa công thức hữu cơ trên thị trường, có thành phần tương tự sữa công thức bình thường nhưng sữa này được lấy từ những con bò không được dùng bất kỳ loại kháng sinh nào. Đối với sữa công thức bột gồm nhiều loại: Trẻ uống sữa công thức thường sẽ no lâu hơn trẻ bú sữa mẹ vì sữa mẹ và hầu hết các loại sữa bột công thức có chứa các loại protein whey và casein nhưng trong sữa mẹ, whey nhiều hơn casein nên dễ dàng tiêu hóa, trong khi sữa bột công thức chứa nhiều casein khiến trẻ tiêu hóa chậm hơn. Sữa bột công thức mất nhiều thời gian để tiêu hóa hơn sữa mẹ. Vai trò. Sữa công thức, với hình thức đặc thù giúp cung cấp tối đa dưỡng chất cho trẻ đang là một trong những giải pháp tốt nhất để trẻ đạt được nhu cầu dinh dưỡng cần thiết. Đối với trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, thì sữa mẹ là tốt nhất. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân mà ngay từ đầu có một số bà mẹ đã không thể duy trì việc cho con bú sữa mẹ thì giải pháp cung cấp dinh dưỡng cho con bằng sữa công thức là phù hợp nhất. Một lời khuyên cho rằng khi trẻ em đang ở vào giai đoạn "vàng" (từ 3-10 tuổi), là giai đoạn chiếm đến 60% tiềm năng phát triển chiều cao nên bên cạnh các bữa ăn, việc bổ sung thêm sữa đóng vai trò rất quan trọng và nên chọn sữa công thức cho trẻ vì hệ dưỡng chất khoa học trong các loại sữa công thức sẽ bổ sung cho bé đầy đủ các chất thiết yếu, quan trọng, giúp bé đạt đến chiều cao tối ưu, đây là điều mà sữa tươi sẽ gặp hạn chế. Nên cho bé uống 2-3 ly sữa công thức mỗi ngày và duy trì điều này suốt trong giai đoạn từ 3-10 tuổi. Mặc dù vậy, sữa công thức vẫn không thể thay thế hoàn toàn cho sữa mẹ. Ở Việt Nam, có việc cấm quảng cáo sữa công thức cho trẻ dưới 24 tháng, các sản phẩm dinh dưỡng với mục đích thay thế sữa mẹ cho trẻ 0 đến 24 tháng sẽ đều bị cấm quảng cáo, các sản phẩm dinh dưỡng công thức với mục đích thay thế sữa mẹ cho trẻ dưới 12 tháng, sản phẩm bổ sung cho trẻ dưới 6 tháng đều bị cấm quảng cáo. An toàn thực phẩm. Trung Quốc. Năm 2008, tại Trung Quốc phát hiện sữa bột trẻ em đã bị lẫn hóa chất melamine. Vụ bê bối này đã ảnh hưởng đến nhiều nước khác bởi các sản phẩm chứa sữa nhiễm bẩn nhập từ Trung Quốc. Đến ngày 22 tháng 9, người ta đã thống kê được gần 53.000 trẻ em đã bị bệnh, hơn 12.800 trẻ phải nằm viện, và 4 trẻ bị chết, với nguyên nhân là sỏi thận và suy thận. Chất hóa học đã được trộn vào sữa để làm cho sữa có vẻ có độ đạm cao hơn. Cũng chất hóa học này đã có liên quan đến chuỗi các vụ thu hồi thức ăn cho thú cảnh vào năm 2007. Trong một vụ khác, sữa chất lượng kém đã gây ra cái chết do suy dinh dưỡng của 13 trẻ sơ sinh tại Trung Quốc năm 2004. Hiện tượng sữa nhiễm bẩn đã bị phát hiện ở 22 công ty Trung Quốc, trong đó có Sanlu (Tập đoàn Tam Lộc), Mengniu, Yili, và Yashili. Sự kiện này đã gây nên những mối lo ngại về an toàn thực phẩm và tham nhũng chính trị ở Trung Quốc, và gây thiệt hại cho danh tiếng của thực phẩm do Trung Quốc xuất khẩu; ít nhất 11 quốc gia đã ngừng nhập khẩu sản phẩm sữa từ Trung Quốc. Tổ chức Y tế Thế giới coi vụ bê bối này là một trong những sự kiện an toàn thực phẩm lớn nhất mà tổ chức này phải đối phó trong những năm gần đây. Tổ chức này nói rằng khủng hoảng lòng tin của người tiêu dùng Trung Quốc sẽ khó vượt qua. Sau đó, Lo ngại các sản phẩm sữa trong nước không đảm bảo chất lượng, ngày càng nhiều người Trung Quốc đổ xô tới Hồng Kông mua sữa ngoại cho con, Sữa công thức nhập khẩu cho trẻ em là mặt hàng đặc biệt được ưa chuộng bởi người dân đại lục vẫn chưa hết lo ngại về vấn đề an toàn thực phẩm, thậm chí còn được xem là món quà tặng xa xỉ đối với nhiều gia đình đại lục. New Zeland. Một vụ bê bối khác liên quan đến sữa của Tân Tây Lan đó là sữa bột nhiễm khuẩn của công ty Fonterra. Chính phủ New Zealand ra thông báo cho biết nguyên liệu sữa đặc, sữa bột khô của công ty Fonterra đã bị nhiễm khuẩn và nhiều sản phẩm sử dụng nguyên liệu này đã được xuất khẩu sang Australia, Trung Quốc, Malaysia, A-rập Xê-út, Thái Lan và Việt Nam. Triệu chứng ngộ độc ban đầu do vi khuẩn gây ra gồm nôn mửa và tiêu chảy, sau đó có thể dẫn tới liệt, thậm chí tử vong nếu không được điều trị kịp thời. Nga, Pháp và Trung Quốc đã đồng loạt cho thu hồi tất cả các sản phẩm sữa có sử dụng nguyên liệu sữa bột do công ty Fonterra của New Zealand cung cấp để tránh nguy cơ lây lan vi khuẩn gây ngộ độc thực phẩm nghiêm trọng. Tập đoàn thực phẩm lớn của Pháp Danone đã phải ra lệnh thu hồi các sản phẩm sữa của mình khỏi thị trường Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan và New Zealand. Mátxcơva đã thu hồi các sản phẩm sữa của Fonterra, bao gồm sữa công thức dành cho trẻ em và khuyến cáo người tiêu dùng nước này không mua các sản phẩm của hãng trên. Thủ tướng New Zealand John Key đã sắp xếp một chuyến đi tới Bắc Kinh trong để xin lỗi người tiêu dùng nước này về bê bối sữa nhiễm vi khuẩn gây liệt cơ của hãng Fonterra nhằm tạo niềm tin do thị trường sữa công thức của Trung Quốc đang đem về cho New Zealand khoảng 2,4 tỷ USD mỗi năm. Ngoài ra, Sau khi chính phủ New Zealand ra thông cáo về nguyên liệu đạm sữa cô đặc của Fonterra, người tiêu dùng Việt Nam đã quay trở lại mua sữa này. Bộ Công nghiệp cơ bản New Zealand khẳng định vi khuẩn được tìm thấy trong Whey Protein Concentrate (WPC) do công ty Fonterra sản xuất không phải là vi khuẩn Clostridium botulinum (CB) như đã cảnh báo, mà là vi khuẩn Clostridium sporogenes (CS). Đây là khuẩn lành tính, hoàn toàn không gây hại và có mặt phổ biến trong môi trường.
1
null
Liên hoàn họa (chữ Hán giản thể: 连环画; chữ Hán phồn thể: 連環畫; bính âm: Liánhuánhuà) là thuật ngữ để gọi những bộ truyện tranh cổ truyền trong xã hội Trung Quốc. Liên hoàn họa xuất hiện vào đầu thế kỉ 20 và được coi như là tiền thân của manhua. Thuật ngữ. Trong tiếng Hoa, từ này có nghĩa là "Hình ảnh liên kết", người dân gọi những quyển sách này là "Liên hoàn họa" hoặc "Liên hoàn đồ họa". Tuy nhiên, nghĩa gốc của từ này đã không còn được sử dụng kể từ năm 1927. Thay vào đó, Liên hoàn họa lại theo từng vùng khác nhau mà mang những nghĩa khác nhau: Lịch sử. Năm 1880, trên những tạp chí tiếng Trung như Dianshizhai Pictorial bắt đầu xuất hiện những hình ảnh vẽ tay. Năm 1884, 10 biểu trưng ủng hộ cuộc khởi nghĩa ở Triều Tiên có thể coi như là minh chứng đầu tiên về sự xuất hiện của Liên hoàn họa. Năm 1889, Wenyi Book Company ở Thượng Hải xuất bản "The Story of the Three Kingdoms" do Zhu Zhixuan vẽ. Tác phẩm này được gọi là "huihui tu" hoặc chapter pictures (chương ảnh???). Đến năm 1916, nhật báo Caobao xuất hiện những bức vẽ để thu hút độc giả thuộc tầng lớp trung và hạ lưu. Đến những năm 1920, báo ảnh ở Thượng Hải đã xuất hiện nhiều bức vẽ nói về các câu chuyện cổ, những thần thoại và truyền thuyết Trung Quốc. Những tờ báo ảnh này phát triển và lưu thông trong những năm 20 và 30 thế kỉ trước tại đường Beigongyili tại quận Zhabei. Năm 1935, quầy tranh ở đây xuất bản "Shanghai Lianhuan Tuhua Promotion Society" - một thể loại truyện tranh đơn giản cho trẻ con. Trong những năm 20 đầu thế kỉ 20, Liên hoàn họa cũng bắt đầu xuất hiện ở Hồng Kông và tiếp tục phát triển ngay cả dưới thời kì bị ảnh hưởng của Nhật những năm 1940. Đến những năm 1980, sau cuộc Đại cách mạng văn hóa, Liên hoàn họa dần mất đi vai trò của mình do bị coi là không mang tính giáo dục và không có tính triết lý. Hiện tại. Hiện tại, Liên hoàn họa có lẽ chỉ còn tồn tại trong một số viện bảo tàng để mọi người có thể nhớ về một thể loại truyện tranh lâu đời ở Trung Quốc những năm đầu thế kỉ 20. Đọc thêm. 阿英(Tháng 8 năm 2008). "中国连环图画史话 (Lịch sử Liên hoàn họa ở Trung Quốc)". 山东画报出版社. ISBN 978-7-80713-490-9.
1
null
Ngũ tộc cộng hòa là một trong những nguyên tắc quan trọng khi Trung Hoa Dân Quốc được thành lập năm 1911 cùng thời điểm diễn ra cách mạng Tân Hợi. Mô tả. Nguyên tắc này nhấn mạnh sự chung sống hài hòa của năm dân tộc lớn nhất Trung Quốc mà được đại diện bằng những sọc màu trên quốc kỳ ngũ sắc của nền cộng hòa: người Hán (đỏ), người Mãn Châu (vàng), người Mông Cổ (xanh), người Hồi (tức người Hồi giáo) (trắng) và người Tây Tạng (đen). Tuy nhiên rất nhiều người cho rằng học thuyết này thực chất vẫn lấy người Hán làm trung tâm. Thuật ngữ "Hồi giáo" trong văn cảnh này (kể cả thuật ngữ 回, "Hồi" trong tiếng Trung) chủ yếu đề cập đến những người Turk theo đạo Hồi ở miền tây Trung Quốc kể từ khi cái tên "Hồi Cương" (回疆; "Huijiang") được đổi thành Tân Cương dưới thời nhà Thanh.. Lịch sử. Sau khởi nghĩa Vũ Xương, nhà Thanh chuyển giao quyền lực cho Trung Hoa Dân Quốc. Đã có một số lá cờ được Đồng Minh Hội sử dụng. Các đơn vị quân sự của Vũ Xương muốn dùng cờ 9 sao có thái cực đồ. Còn Tôn Dật Tiên lại muốn sử dụng cờ Thanh Thiên Bạch Nhật để vinh danh Lục Hạo Đông. Mặc dù mục tiêu chung của các khởi nghĩa là chống người Mãn Châu, Tôn Trung Sơn, Tống Giáo Nhân và Hoàng Hưng đều nhất trí hòa hợp chủng tộc phải được đặt lên hàng đầu; do đó các màu khác nhau được sử dụng trong lá quốc kỳ. Ý kiến chung là tất cả các dân tộc ngoài người Hán cũng là người Trung Quốc mặc dù những người không phải người Hán chỉ chiếm tỉ lệ dân số tương đối nhỏ. Cờ "ngũ tộc cộng hòa" không còn được sử dụng nữa từ sau cuộc Bắc phạt (1926-1928). Một biến thể của lá cờ này đã được dùng bởi Đế quốc Trung Hoa của Viên Thế Khải và chính phủ bù nhìn thân Nhật của Mãn Châu Quốc. Tại Mãn Châu Quốc, khẩu hiệu "Ngũ sắc cộng hòa" cũng được sử dụng nhưng với năm dân tộc khác là người Nhật (đỏ), người Hán (xanh), người Mông Cổ (trắng), người Tây Tạng (đen) và người Mãn Châu (vàng).
1
null
Thái Nguyên Bồi () (11 tháng 1, 1868 – 5 tháng 3 năm 1940) là một nhà tuyên truyền quốc tế ngữ, nhà giáo dục người Trung Quốc, giám đốc đại học Bắc Kinh và đồng thời là nhà sáng lập Academia Sinica. Ông nổi tiếng với những đánh giá phê bình về văn hóa Trung Quốc và việc tổng hợp các tư tưởng của cả phương Tây và Trung Quốc, trong đó có cả chủ nghĩa vô chính phủ. Tại đại học Bắc Kinh ông đã tập hợp được những nhân vật có ảnh hưởng trong phong trào Tân Văn hóa và phong trào Ngũ Tứ. Tiểu sử. Sinh ra tại Thiệu Hưng, Chiết Giang, năm 26 tuổi tức năm Quang Tự 18 (1892), do đậu nhị giáp tiến sĩ (tức Hoàng giáp), nên theo luật triều đình thời Thanh, ông được bổ vào Hàn Lâm Viện, nhậm chức Thự các sĩ (庶吉士, Hanlin Bachelor). Năm Quang Tự 20 (1894), ông được bổ chức Hàn lâm viện Biên tu (編修, Junior Compiler). Năm 1898, vì việc chính phủ Thanh sát hại Đàm Tự Đồng, người mà ông rất ngưỡng mộ, Thái Nguyên Bồi quyết rời khỏi Hàn lâm viện, xuống miền Nam, tham gia vào việc quản lý các viện sau và trở thành: Năm 1904 ông thành lập Quang Phục Hội rồi một năm sau ông gia nhập Đồng Minh Hội. Sau khi học triết học, tâm lý học và lịch sử nghệ thuật tại đại học Leipzig của Đức năm 1907, ông giữ chức bộ trưởng Giáo dục lâm thời Trung Hoa Dân Quốc vào tháng 1 năm 1912 nhưng sau đó từ chức khi Viên Thế Khải lên làm tổng thống. Cuối cùng ông trở lại Đức rồi sau đó sang Pháp. Thái Nguyên Bội quay về Trung Quốc năm 1916 rồi năm sau làm giám đốc Đại học Bắc Kinh. Trong nhiệm kỳ của mình tại đại học Bắc Kinh, ông đã tuyển vào trường những nhà tư tưởng nổi tiếng (và cũng là những nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc tương lai) như Lý Đại Chiêu và Trần Độc Tú và các nhà tư tưởng khác như Hồ Thích, bạn thân của ông và Lương Thấu Minh. Tư tưởng. Ông chủ trương năm thứ quan trọng như nhau trong cuộc sống là đức, trí, thể, quần, mỹ (德、智、體、群、美), những giá trị cốt lõi mà ngày nay vẫn được giảng dạy trong các trường học tại Đài Loan, Hồng Kông và Ma Cao.
1
null
Núi Zwiesel hay núi Zwieselberg là một núi cao chỉ có 1348 m ở Bayerischen Voralpen. Có thể lên núi này một cách dễ dàng từ núi Blomberg. Dưới đỉnh núi Zwiesel ở độ cao 1245 m có một nông trại tên là Zwieselalm (hay còn gọi là Schnaiteralm). Từ đỉnh đi tới Blomberghaus có một quán ăn trên núi, khoảng gần 30 phút. Từ đây xuống chân núi khoảng 1 tiếng, nơi có trạm ghế treo trên dây cáp để lên tới đỉnh Blomberg. Giữa đường (đi khoảng nửa tiếng) có trạm xe trượt núi mùa hè (Sommerrodelbahn) dài nhất Âu châu (1286 m), khoảng cách độ cao 200 m, độ dốc là 17%.
1
null
, tên chính thức là và còn được gọi là , là một sự kiện thể thao đa môn quốc tế được tổ chức từ ngày 23 tháng 7 đến ngày 8 tháng 8 năm 2021 ở Tokyo, Nhật Bản. Ban đầu được dự kiến diễn ra từ ngày 24 tháng 7 đến ngày 9 tháng 8 năm 2020, sự kiện này đã bị hoãn lại vào tháng 3 năm 2020 do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 và sẽ không cho phép khán giả quốc tế cũng như khán giả trong nước dự khán. Mặc dù được dời lại vào năm 2021, sự kiện này vẫn giữ tên "Tokyo 2020" cho mục đích tiếp thị và xây dựng thương hiệu. Đây là lần đầu tiên Thế vận hội đã bị hoãn lại và lên lịch lại, thay vì hủy bỏ. Tokyo đã được chọn là thành phố chủ nhà trong phiên họp IOC lần thứ 125 ở Buenos Aires, Argentina vào ngày 7 tháng 9 năm 2013. Thế vận hội 2020 sẽ đánh dấu lần thứ hai Nhật Bản tổ chức Thế vận hội Mùa hè, lần đầu tiên cũng ở Tokyo vào năm 1964, đánh dấu việc đây là thành phố đầu tiên ở châu Á tổ chức Thế vận hội Mùa hè hai lần và đồng thời đây là lần thứ tư Thế vận hội Mùa hè được tổ chức tại châu Á. Tính cả Thế vận hội Mùa đông vào năm 1972 (Sapporo) và năm 1998 (Nagano), đây là Thế vận hội thứ tư được tổ chức ở Nhật Bản. Thế vận hội 2020 cũng là Thế vận hội thứ hai trong ba kỳ Thế vận hội liên tiếp được tổ chức ở Đông Á, lần đầu tiên ở huyện Pyeongchang, Hàn Quốc vào năm 2018 và Thế vận hội tiếp theo ở Bắc Kinh, Trung Quốc vào năm 2022. Thế vận hội 2020 sẽ chứng kiến sự xuất hiện của các môn thi mới bao gồm bóng rổ 3x3, BMX tự do và xe đạp Madison, cũng như các sự kiện hỗn hợp tiếp theo. Theo các chính sách mới của IOC cho phép ban tổ chức chủ nhà thêm các môn thể thao mới vào chương trình Olympic để tăng cường các sự kiện cốt lõi vĩnh viễn, các Thế vận hội này sẽ chứng kiến karate, leo núi thể thao, lướt sóng và trượt ván có màn ra mắt tại Olympic, cũng như sự trở lại của bóng chày và bóng mềm lần đầu tiên kể từ năm 2008. Quá trình đấu thầu. Tokyo, Istanbul, và Madrid là ba thành phố ứng cử viên. Các thành phố ứng cử viên của Baku (Azerbaijan) và Doha (Qatar) đã không được thăng cấp lên vị trí ứng cử viên. Một gói thầu từ Roma đã bị rút lui. Bầu cử thành phố chủ nhà. IOC đã bỏ phiếu để lựa chọn thành phố đăng cai Thế vận hội Mùa hè 2020 vào ngày 7 tháng 9 năm 2013 tại phiên họp IOC lần thứ 125 tại Buenos Aires Hilton ở Buenos Aires, Argentina. Một hệ thống bỏ phiếu đầy đủ đã được sử dụng. Không có thành phố nào giành được hơn 50% số phiếu trong vòng 1, Madrid và Istanbul đồng vị trí thứ hai. Một cuộc bỏ phiếu giữa hai thành phố này đã được tổ chức để xác định thành phố nào sẽ bị loại. Trong cuộc bỏ phiếu cuối cùng giữa Tokyo và Istanbul, Tokyo đã được chọn với 60 phiếu bình chọn so với 36 phiếu của Istanbul, cao hơn số phiếu tối thiểu cần có là 49 phiếu. Phát triển và chuẩn bị. Chính quyền thành phố đô thị Tokyo dành một khoản vay 400 tỷ JP¥ (trên 3,67 tỷ đô la Mỹ) để trang trải chi phí chủ nhà Thế vận hội. Chính phủ Nhật Bản đang xem xét tăng sức chứa suất vé tại cả hai các sân bay Haneda và Narita bằng cách giảm bớt các hạn chế không phận. Một tuyến đường sắt mới được lên kế hoạch để kết nối cả hai sân bay thông qua việc mở rộng Ga Tokyo, cắt giảm thời gian di chuyển từ Ga Tokyo đến Haneda từ 30 phút đến 18 phút và từ Ga Tokyo đến Narita từ 55 phút đến 36 phút; tuyến sẽ có giá 400 tỷ yên và sẽ được tài trợ chủ yếu bởi các nhà đầu tư tư nhân, nhưng Công ty Đường sắt Đông Nhật Bản (Đông JR) đang lên kế hoạch cho một tuyến đường mới gần Tamachi đến sân bay Haneda. Tài trợ cũng được lên kế hoạch để đẩy nhanh việc hoàn thành Tuyến đường vòng tròn Trung tâm, Đường cao tốc Tokyo Gaikan và Đường cao tốc Ken-Ō và tân trang lại các đường cao tốc lớn khác trong khu vực. Ngoài ra còn có kế hoạch mở rộng tuyến vận chuyển tự động Yurikamome từ nhà ga hiện có tại ga Toyosu đến nhà ga mới tại ga Kachidoki, đi qua địa điểm của Làng Olympic, mặc dù Yurikamome vẫn không đủ sức chứa để phục vụ các sự kiện lớn trong khu vực Odaiba của riêng mình. Ban tổ chức Tokyo được lãnh đạo bởi cựu Thủ tướng Mori Yoshirō. Bộ trưởng Olympic và Paralympic Hashimoto Seiko đang thay mặt chính phủ Nhật Bản giám sát việc chuẩn bị. Tác động của đại dịch COVID-19. Năm 2020, đại dịch COVID-19 đã gây lo ngại về tác động tiềm tàng của nó đối với các vận động viên và du khách đến Thế vận hội. Không giống như trường hợp virus Zika trong Thế vận hội Mùa hè 2016 Rio de Janeiro, SARS-CoV-2 có thể lây truyền giữa người với người, đặt ra những thách thức khó khăn hơn cho các nhà tổ chức Tokyo để chống lại bệnh truyền nhiễm và tổ chức một đại hội an toàn và an ninh. Trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 2 năm 2020 với "City A.M.", ứng cử viên thị trưởng Luân Đôn của đảng Bảo thủ Shaun Bailey đã lập luận rằng Luân Đôn sẽ có thể tổ chức Thế vận hội tại các địa điểm Olympic Luân Đôn 2012 cũ, đại hội cần phải được di chuyển do sự bùng phát của virus corona. Thống đốc Tokyo Koike Yuriko chỉ trích nhận xét của Bailey là không phù hợp. Vào ngày 3 tháng 3 năm 2020, một phát ngôn viên của IOC tuyên bố rằng Thế vận hội sẽ diễn ra theo đúng kế hoạch. Kể từ ngày 18 tháng 3 năm 2020, IOC vẫn hoàn toàn cam kết cho sự thành công của Thế vận hội mà không bị trì hoãn hoặc hủy bỏ. Các cuộc tham vấn liên tục đang được IOC tiến hành với Tổ chức Y tế Thế giới, các vận động viên và Ủy ban Olympic Quốc gia về sức khỏe và sự an toàn của tất cả các bên liên quan. Vào ngày 22 tháng 3, IOC đã thông báo rằng một quyết định sẽ được đưa ra trong vòng bốn tuần tới về việc Thế vận hội có bị hoãn hay không. Ba quốc gia, Canada, và sau đó là Úc và Vương quốc Liên hiệp Anh, sau đó nói rằng họ sẽ rút khỏi Thế vận hội nếu họ không bị hoãn lại một năm. Vào ngày 23 tháng 3, Thủ tướng Abe Shinzo tuyên bố rằng ông sẽ ủng hộ đề nghị hoãn, với lý do đảm bảo an toàn cho vận động viên là "hết sức". Cùng ngày hôm đó, thành viên IOC và cựu phó chủ tịch Dick Pound tuyên bố với "USA Today" rằng "trên cơ sở thông tin mà IOC có, việc hoãn đã được quyết định." Vào ngày 24 tháng 3 năm 2020, thủ tướng Nhật Bản Abe Shinzo đã thông báo rằng Thế vận hội mùa hè sẽ bị hoãn lại cho đến năm 2021. Thế vận hội mùa hè và Paralympic 2020 cũng bị đẩy lùi sang năm 2021 do đại dịch COVID-19. Vào ngày 30 tháng 3 năm 2020, IOC đã thông báo thế vận hội mùa hè 2020 sẽ khởi tranh từ ngày 23 tháng 7 đến 8 tháng 8 năm 2021. Lần Thế vận hội mùa hè này chính thức cấm toàn bộ các khán giả nước ngoài nhập cảnh vào Nhật Bản để hạn chế sự lây lan của đại dịch COVID-19 và thay vào đó chỉ đón một số ít khán giả trong nước. Tuy nhiên đến gần khai mạc Thế vận hội thì số ca mắc COVID-19 ở Tokyo tăng mạnh trở lại nên chính phủ Nhật Bản một lần nữa cấm toàn bộ các khán giả trong nước vào sân xem các nội dung thi đấu ở Thế vận hội này và khuyến cáo người dân Nhật Bản cũng như cổ động viên trên khắp thế giới cổ vũ cho các đoàn thể thao qua màn ảnh truyền hình. Đại hội. Lễ khai mạc. Lễ khai mạc được tổ chức vào ngày 23 tháng 7 năm 2021 tại Sân vận động Quốc gia Nhật Bản ở Tokyo. Nó bao gồm cuộc diễu hành truyền thống của các quốc gia trên nền nhạc của các trò chơi video nổi tiếng của Nhật Bản. Nhật Hoàng Naruhito chính thức khai mạc Thế vận hội, và vào cuối lễ rước đuốc, ngọn lửa Olympic được thắp sáng bởi vận động viên quần vợt Nhật Bản Osaka Naomi. Môn thể thao. Chương trình chính thức cho Thế vận hội Mùa hè 2020 đã được ban điều hành IOC phê duyệt vào ngày 9 tháng 6 năm 2017. Chủ tịch IOC Thomas Bach tuyên bố rằng mục tiêu của Thế vận hội Mùa hè Tokyo là mang lại cho nó diện mạo "trẻ trung" và "thành thị" hơn, và tăng số lượng đội tuyển nữ tham gia. Thế vận hội này sẽ có 339 nội dung thi đấu trong 33 môn thể thao khác nhau, bao gồm tổng cộng 50 phân môn. Bên cạnh 5 môn thể thao mới dự kiến sẽ được giới thiệu ở Tokyo, 15 nội dung thi đấu mới trong các môn thể thao hiện có cũng được lên kế hoạch, bao gồm bóng rổ 3x3, BMX tự do và sự trở lại của xe đạp Madison, cũng như các nội dung thi đấu hỗn hợp mới trong một số môn thể thao. Trong danh sách dưới đây, số lượng nội dung thi đấu trong mỗi phân môn được ghi chú trong dấu ngoặc đơn. Các Ủy ban Olympic Quốc gia tham dự. Macedonia đã thi đấu dưới cái tên tạm thời "Cộng hòa Macedonia thuộc Nam Tư cũ" trong mỗi Thế vận hội Mùa hè và Mùa đông kể từ khi ra mắt vào năm 1996 vì tình trạng tranh chấp tên gọi chính thức. Tranh chấp này với Hy Lạp đã kết thúc vào năm 2018 bằng việc ký kết Hiệp định Prespa và nước này đã chính thức đổi tên thành Bắc Macedonia vào tháng 2 năm 2019. Tên gọi mới ngay lập tức được IOC công nhận, mặc dù Ủy ban Olympic Bắc Macedonia (NMOC) đã không chính thức được thông qua cho đến tháng 2 năm 2020. NMOC đã gửi một phái đoàn đến Thế vận hội Trẻ Mùa đông 2020 vào tháng 1 năm 2020, nhưng Thế vận hội Tokyo sẽ là lần xuất hiện đầu tiên của Bắc Macedonia tại Thế vận hội Mùa hè dưới tên mới. Vào ngày 9 tháng 12 năm 2019, Cơ quan phòng chống doping thế giới (WADA) đã cấm Nga tham gia tất cả các môn thể thao quốc tế trong thời gian bốn năm, sau khi chính phủ Nga bị phát hiện đã giả mạo dữ liệu phòng thí nghiệm mà họ cung cấp cho WADA vào tháng 1 năm 2019 như một điều kiện cần giúp cho Cơ quan phòng chống doping Nga được khôi phục. Do lệnh cấm, WADA có kế hoạch cho phép vận động viên Nga được tách riêng tham gia Thế vận hội Mùa hè 2020 dưới một biểu ngữ trung lập, như đã thực hiện tại Thế vận hội Mùa đông 2018, nhưng họ sẽ không được phép thi đấu các môn thể thao đồng đội. Tiêu đề của biểu ngữ trung lập vẫn chưa được xác định; Người đứng đầu Ủy ban Đánh giá Tuân thủ WADA Jonathan Taylor tuyên bố rằng IOC sẽ không thể sử dụng "Vận động viên Olympic từ Nga" (OAR) như đã thi đấu vào năm 2018, nhấn mạnh rằng các vận động viên trung lập không thể được miêu tả là đại diện cho một quốc gia cụ thể. Sau đó Nga đã đệ đơn kháng cáo lên Tòa án trọng tài thể thao (CAS) chống lại quyết định của WADA. Sau khi xem xét vụ kiện về kháng cáo, CAS đã ra phán quyết vào ngày 17 tháng 12 năm 2020 để giảm hình phạt mà WADA đã đưa ra đối với Nga. Thay vì cấm Nga tham gia các nội dung thi đấu thể thao, phán quyết cho phép Nga tham gia Thế vận hội và các sự kiện quốc tế khác, nhưng trong khoảng thời gian hai năm, đội không thể sử dụng tên, cờ hoặc quốc ca Nga và phải thể hiện mình là "Vận động viên trung lập" hoặc "Đội trung lập". Phán quyết cho phép đồng phục đội hiển thị "Nga" trên đồng phục cũng như sử dụng màu cờ Nga trong thiết kế của đồng phục, mặc dù tên phải được ưu tiên như chỉ định "Vận động viên/Đội trung lập". Vào ngày 19 tháng 2 năm 2021, có thông báo rằng Nga sẽ thi đấu dưới từ viết tắt "ROC" theo tên của Ủy ban Olympic Nga mặc dù tên của ủy ban đầy đủ không thể được sử dụng để chỉ phái đoàn. Nga sẽ được đại diện bởi lá cờ của Ủy ban Olympic Nga. Vào ngày 6 tháng 4 năm 2021, Bắc Triều Tiên tuyên bố sẽ không tham gia Thế vận hội Mùa hè 2020 Tokyo do lo ngại về COVID-19. Đây là lần vắng mặt đầu tiên của Bắc Triều Tiên tại Thế vận hội Mùa hè kể từ năm 1988. , 162 Ủy ban Olympic quốc gia sau đây đã đủ điều kiện (ngoài các vị trí phổ quát trong vận động viên, theo đó tất cả 206 NOC có thể gửi đối thủ cạnh tranh bất kể vòng loại). Phát sóng. Sony và Panasonic đang hợp tác với NHK để phát triển các tiêu chuẩn phát sóng cho truyền hình độ phân giải màn hình 8K, với mục tiêu phát hành các thiết lập truyền hình 8K đúng lúc cho Thế vận hội 2020. Đài truyền hình RAI của Ý tuyên bố ý định triển khai phát sóng 8K cho Thế vận hội. Tại Hoa Kỳ, Thế vận hội Mùa hè 2020 sẽ được phát sóng bởi NBCUniversal như một phần của thỏa thuận 4,38 tỷ USD bắt đầu tại Thế vận hội Mùa đông 2014 ở Sochi. Tại châu Âu, đây sẽ là Thế vận hội Mùa hè đầu tiên theo thỏa thuận bản quyền châu Âu độc quyền của IOC với Eurosport, bắt đầu tại Thế vận hội Mùa đông 2018 và diễn ra đến năm 2024. Bản quyền cho Thế vận hội 2020 bao gồm hầu hết toàn bộ châu Âu, ngoại trừ Pháp do một thỏa thuận quyền hiện có sẽ hết hạn sau các Thế vận hội này có lợi cho Eurosport và Nga do thỏa thuận có sẵn với một nhà tiếp thị đến năm 2024. Eurosport sẽ cấp phép bảo hiểm cho các mạng không dây miễn phí ở mỗi lãnh thổ và các kênh khác của Discovery Inc. Tại Vương quốc Liên hiệp Anh, đây sẽ là Thế vận hội cuối cùng có bản quyền chủ yếu thuộc sở hữu của BBC, mặc dù là một điều kiện của một thỏa thuận cấp phép phụ sẽ được đưa vào Thế vận hội 2022 và 2024, Eurosport giữ bản quyền truyền hình trả tiền độc quyền. Tại Việt Nam, Thế vận hội Mùa hè được phát sóng bởi Đài Truyền hình Việt Nam. Đơn vị này cho biết đã mua thành công bản quyền Thế vận hội Mùa hè trên lãnh thổ Việt Nam vào ngày 21 tháng 7 năm 2021. Ngay sau đó, Truyền hình cáp Việt Nam và Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh cũng tuyên bố có được quyền phát sóng Thế vận hội.
1
null
Trong toán học, một quan hệ hai ngôi "R" trên tập hợp "X" được gọi là có tính bắc cầu (hay còn đựoc gọi là tính chuyển tiếp, tính truyền ứng) khi và chỉ khi điều kiện sau đây được thỏa mãn: nếu một phần tử "a" có quan hệ với một phần tử "b", và phần tử "b" có quan hệ với phần tử "c;" thì phần tử "a" có quan hệ với phần tử "c". Định nghĩa. Quan hệ thuần nhất trên tập hợp là "quan hệ bắc cầu" nếu: Nếu viết theo ngôn ngữ logic bậc nhất thì: Các ví dụ. Ví dụ không dùng toán học sau: quan hệ "là tổ tiên của" là quan hệ bắc cầu. Ví dụ, nếu An là tổ tiên của Bình, và Bình là tổ tiên của Cường, thì An cũng là tổ tiên của Cường. Mặt khác, "là người đẻ ra" không phải là quan hệ bắc cầu, vì kể cả An đẻ ra Bình, Bình đẻ ra Cường, thì không có nghĩa An là người đẻ ra Bình. Hơn nữa, tính chất này còn được gọi là phản bắc cầu bởi An sẽ "không bao giờ" đẻ ra Cường. Các quan hệ "lớn hơn", "lớn hơn hoặc bằng", và "bằng với" là các quan hệ bắc cầu trên rất nhiều tập, trong đó bao gồm tập số thực và số hữu tỉ: Các ví dụ khác về tính bắc cầu: Các ví dụ của quan hệ không bắc cầu là: Quan hệ rỗng trên bất cứ tập formula_2 đều có tính bắc cầu bởi không có 3 phần tử formula_3 sao cho formula_4 và formula_5. Quan hệ chỉ chứa duy nhất một cặp được sắp cũng được coi là có tính bắc cầu bởi: nếu cặp đó có dạng formula_6 với formula_7 thì chỉ có đúng một bộ formula_3 có quan hệ là formula_9, và do vậy formula_10, nếu cặp đó không có dạng formula_6 thì không có bộ formula_3 sao cho formula_4 và formula_5, do vậy quan hệ đó vẫn được coi là tính bắc cầu vì chưa đủ số phần tử để xét. Tính chất. Các tính chất khác. Quan hệ bắc cầu bất đối xứng khi và chỉ khi nó hoàn toàn không phản xạ. Quan hệ bắc cầu không nhất thiết phải phản xạ. Nhưng khi nó có, thì nó được gọi là tiền thứ tự. Ví dụ chẳng hạn, trên tập "X" = {1,2,3}: Mở rộng bắc cầu và bao đóng bắc cầu. Gọi là quan hệ hai ngôi trên tập hợp . Mở rộng bắc cầu của , được ký hiệu là , là quan hệ hai ngôi nhỏ nhất trên sao cho chứa , và nếu và thì . Lấy ví dụ sau, giả sử là tập hợp các xã được nối với nhau bởi các đường đi. Gọi là quan hệ nếu có đường đi giữa xã và xã . Quan hệ này không nhất thiết phải bắc cầu, mở rộng bắc cầu của nó được định nghĩa như sau: nếu ta có từ di chuyển từ xã sang xã tối đa hai đường. Mở rộng này không nhất thiết phải bắc cầu. Nếu quan hệ có tính bắc cầu thì mở rộng bắc cầu của nó là chính nó, nghĩa là, nếu là quan hệ bắc cầu thì . Mở rộng bắc cầu của sẽ là , và cứ tiếp tục như vậy, mở rộng bắc cầu của sẽ là . Bao đóng bắc cầu của , ký hiệu bởi hay là hợp của các tập , , , ... . Bao đóng bắc cầu của quan hệ luôn có tính bắc cầu. Ví dụ: quan hệ "là cha mẹ của" trên tập con người không phải là quan hệ bắc cầu. Tuy nhiên, trong sinh học ta thường cần phải xét tính chất tổ tiên qua nhiều thế hệ và do đó ta thường dùng quan hệ "là tổ tiên của". Quan hệ này có tính bắc cầu và là bao đóng bắc cầu của quan hệ "là cha mẹ của". Đối với ví dụ dùng các xã và đường ở trên, có nghĩa là ta có thể di chuyển từ sang dùng bất kỳ số đường nào. Đếm số quan hệ bắc cầu. Chưa tìm được công thức chung để đếm số quan hệ bắc cầu trên tập . Tuy nhiên, có các công thức có thể đếm số quan hệ vừa phản xạ, đối xứng và bắc cầu, hay nói cách khác đếm số quan hệ tương đương – , và đếm số quan hệ đối xứng và bắc cầu, số quan hệ đối xứng, bắc cầu toàn phần, bắc cầu và phản đối xứng.Pfeiffer là người tiến bộ nhiều nhất theo hướng này bằng cách biểu diễn các quan hệ trên tổ hợp các tính chất bằng các phần tử của mỗi tính chất đó, song việc tìm ra công thức để tính ra chúng vẫn còn nhiều trở ngại. Xem thêm cả Brinkmann và McKay (2005). Mala đã chứng minh rằng không có đa thức hệ số nguyên có thể biểu diễn thành công thức đếm số quan hệ bắc cầu trên một tập hợp , và tìm một số hàm đệ quy cho biết cận dưới của số đó.
1
null
Gustav Franz Wilhelm von Kleist (19 tháng 9 năm 1806 tại Körbelitz – 26 tháng 3 năm 1882 tại Berlin) là một sĩ quan kỹ thuật Phổ, đã được thăng đến hàm Trung tướng. Ông đã ừng tham chiến trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ (1866) và cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871). Tiểu sử. Thân thế. Gustav Franz Wilhelm là con ngoài giá thú của Wilhelm Franz von Kleist (1765 – 15 tháng 6 năm 1817 tại Wittenberg), một Thượng tá trong quân đoàn Công binh của quân đội Phổ. Thân mẫu ông là một bà có nhũ danh Fleischer. Cuộc hôn nhân của thân sinh ông với góa phụ Henriette Dorothea Tetzmar, nhũ danh Lilien, không mang lại cho họ một người con nào. Vì vậy, về sau người cha của Franz von Kleist đã nhận ông làm con hợp pháp, tuy nhiên ông không được thừa hưởng địa vị quý tộc. Sự nghiệp quân sự. Thời trẻ, Kleist đi học Trường Dòng Magdeburg và vào ngày 1 tháng 10 năm 1823, ông nhập ngũ trong Cục Công binh 3 tại Magdeburg. Kể từ ngày 1 tháng 10 năm 1824 cho đến ngày 15 tháng 7 năm 1827, ông được cử vào học tại Trường Tổng hợp Pháo binh và Kỹ thuật ("Vereinigte Artillerie- und Ingenieurschule"). Hai năm sau khi học xong (1829), ông được phong quân hàm Thiếu úy và được gia nhập Quân đoàn Kỹ thuật. Từ năm 1829 tới năm 1832, ông phục vụ trong Cục Công binh 2. Sau khi phục vụ tại pháo đài Küstrin từ năm 1833 đến năm 1839, ông được điều sang Spandau và phục vụ ở đây kể từ năm 1840 cho tới năm 1842. Vào năm 1843, ông được thăng cấp hàm Trung úy và sau đó ông là sĩ quan phụ tá Cục Thanh tra Pháo đài 2 từ tháng 5 năm 1843 cho đến tháng 10 năm 1847. Vào ngày 26 tháng 10 năm 1847, ông được lên chức Đại úy. Kể từ năm 1848 cho đến năm 1850, ông phục vụ tại thành lũy Stettin. Cuối năm 1850, ông được bổ nhiệm làm Kỹ sư Khu vực ("Platz-Ingenieur") ở Stettin và Alt-Damm. Vào năm 1852, Kleist trở thành Giám đốc pháo đài ở Swinemünde, tại đây ông được thăng hàm Thiếu tá trong Bộ Tham mưu của Quân đoàn Kỹ thuật vào năm 1856. Ông quản nhiệm pháo đài Swinemünde cho đến năm 1857, rồi được đổi sang làm chức vụ tương tự ở Königsberg tại Đông Phổ. Vào ngày 1 tháng 7 năm 1860, ông được lên quân hàm Thượng tá. Ở Swinemünde và Königsberg, ông đã áp dụng thành công các nguyên tắc của phong cách pháo đài "Tân Phổ". Để tưởng thưởng công trạng của ông trong thời gian phục vụ ở hai pháo đài này, vua Friedrich Wilhelm IV đã phong hàm quý tộc cho ông vào ngày 8 tháng 10 năm 1860. Năm sau, vào tháng 10 năm 1861, ông được lãnh chức Thanh tra ("Inspektor") của Cục Thanh tra pháo 7 và chẳng bấy lâu sau ông được thăng hàm Đại tá. Vào tháng 11 năm đó, ông là Thành viên Ủy ban Chấm thi Sĩ quan Quân đoàn Kỹ thuật ("Prüfungskommission für Offiziere des Ingenieurkorps"). 4 năm sau (1865), ông được đổi làm Thanh tra của Cục Thanh tra pháo đài 2. Đến ngày 8 tháng 6 năm 1866, ông được lên cấp hàm Thiếu tướng và cùng năm đó, ông được ủy nhiệm làm Sĩ quan Công binh Thứ nhất của Bộ Tổng chỉ huy Quân đoàn V do lão tướng Steinmetz chỉ huy trong cuộc Chiến tranh Bảy tuần với Áo vào năm 1866. Ông đã chiến đấu trong các trận đánh tại Nachod, Schweinschädel cuối tháng 6 cùng với trận đánh quyết định ở Königgrätz-Sadowa vào ngày 3 tháng 7. Vì những thành tích của mình trong chiến tranh, ông được phong tặng Huân chương Đại bàng Đỏ hạng II đính kèm Bó sồi và Thanh kiếm trên Chiếc nhẫn vào ngày 20 tháng 9 năm 1866. Năm sau (1867), ông được lãnh chức Thanh tra tại Cục Thanh tra 1 ở kinh đô Berlin vào tháng 10 và được đổi làm Thanh tra Trường Tổng hợp Pháo binh và Kỹ thuật vào tháng 11. Đến ngày 18 tháng 7 năm 1870, Kleist được phong chức Phó Tướng thanh tra của Quân đoàn Công binh và Kỹ thuật tại Đại bản doanh ("Großen Hauptquartier"). Trên cương vị này, ông được thăng chức Trung tướng vào ngày 26 tháng 7 năm 1870. Không lâu sau đó, ông tham gia trận Gravelotte vào ngày 18 tháng 8 năm 1870, trận đánh đẫm máu nhất của cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871). Sau đó, ông thoạt tiên thay mặt cho tướng Georg von Kameke trong cuộc điều quân đến vây hãm Metz và trận Sedan vào ngày 2 tháng 9. Rồi ông chỉ đạo các công trình cần thiết cho việc bao vây thủ đô Pháp cho đến khi tướng Kameke trở lại và lãnh toàn quyền chỉ huy các hoạt động kỹ thuật trong cuộc vây hãm Paris vào ngày 23 tháng 12 năm 1870. Trong thời gian này, Kleist được trao Huân chương Thập tự Sắt hạng II vào ngày 7 tháng 10 năm 1870 rồi được tặng Đại Thập tự ("Großkomtur") của Huân chương Chiến công Bayern vào ngày 19 tháng 11 năm 1870. Một tháng sau, ông được phong làm Tướng công binh trực thuộc dưới quyền Đức Vua ("Ingenieurgeneral zur Verfügung des Königs"). Đến tháng 3 năm 1871, ông trở về Berlin vì lý do sức khỏe. Tại đây, ông được thưởng Đại Thập tự của Huân chương Friedrich với Thanh kiếm cùng tháng đó. Đến ngày 29 tháng 3 năm 1871, Kleist trở lại đảm nhiệm cương vị của ông trước chiến tranh. Vào tháng 5 năm ấy, ông được rời ngũ 3 tháng để phục hồi sức khỏe. Sau đó, Kleist không thể trở lại phục vụ quân đội, thay vào đó ông được xuất ngũ ("zur Disposition, không phục vụ tại ngũ nữa nhưng sẽ được triệu hồi trong chiến tranh) với một khoản lương hưu vào ngày 16 tháng 9 năm 1871. Ông từ trần vào tháng 3 năm 1882 ở Berlin, tại nhà của người con rể ông là tướng Hans Alexis von Biehler và vào ngày 29 tháng 3 năm 1882, ông được mai táng trong nghĩa trang quân sự ở Hasenheide (Berlin). Gia quyến. Vào ngày 4 tháng 6 năm 1835, ở Küstrin, Kleist đã thành hôn với bà Charlotte Emilie Gundelach (20 tháng 11 năm 1819 tại Küstrin – 16 tháng 4 năm 1877 tại Berlin). Bà là con gái của dược sĩ Georg Wilhelm Gundelach với người vợ của ông này là Charlotte Wilhelmine, nhũ danh Weigelt.
1
null
USS "Tattnall" (DD–125/APD-19) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau cải biến thành một tàu vận chuyển cao tốc mang ký hiệu lườn APD-19 và tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Thiếu tướng Hải quân Josiah Tattnall (1794–1871). Thiết kế và chế tạo. "Tattnall" được đặt lườn vào ngày 1 tháng 12 năm 1917 tại xưởng tàu của hãng New York Shipbuilding Corporation ở Camden, New Jersey. Nó được hạ thủy vào ngày 5 tháng 9 năm 1918, được đỡ đầu bởi cô Sarah Campbell Kollock, và được đưa ra hoạt động vào ngày 26 tháng 1 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân Gordon Wayne Haines. Lịch sử hoạt động. Giữa hai cuộc thế chiến. Sau các đợt chạy thử máy ngoài khơi bờ biển New England, "Tattnall" lên đường đi sang khu vực Đông Địa Trung Hải. Nó đi đến Constantinople vào ngày 27 tháng 7, và trong gần một năm đã hoạt động tại vùng biển Thổ Nhĩ Kỳ. Trong thời gian đó, nó cũng viếng thăm các cảng Ai Cập, Hy Lạp, Nga và Syria, vận chuyển hành khách và thư tín. Đến tháng 1 năm 1920, chiếc tàu khu trục bắt đầu hành trình quay trở về Hoa Kỳ; ghé qua các cảng Ý và Pháp trước khi về đến New York vào ngày 22 tháng 7. Vào lúc này "Tattnall" được đặt ký hiệu lườn DD-125 vào ngày 17 tháng 7 năm 1920, khi Hải quân Hoa Kỳ bắt đầu áp dụng việc xếp lớp tàu chiến bằng số hiệu. Sau một đợt đại tu, "Tattnall" được điều động để gia nhập Hạm đội Thái Bình Dương. Ghé qua các cảng dọc bờ biển phía Nam Hoa Kỳ cùng Cuba, Nicaragua, México và vùng kênh đào Panama, nó đi đến San Diego vào ngày 17 tháng 12. Chiếc tàu chiến hoạt động dọc theo bờ biển California cho đến ngày 15 tháng 1 năm 1922, khi nó được cho xuất biên chế và đưa về lực lượng dự bị tại San Diego. Vào ngày 1 tháng 5 năm 1930, "Tattnall" nhập biên chế trở lại dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân A. M. R. Allen. Chiếc tàu khu trục phục vụ cùng Lực lượng Chiến trận dọc theo vùng bờ Tây Hoa Kỳ cho đến năm 1931. Vào ngày 1 tháng 7, nó được chuyển sang vùng bờ Đông để phục vụ cùng Lực lượng Khu trục Tuần tiễu như một đơn vị của Đội khu trục 7. Một năm sau, "Tattnall" được đưa về chế độ dự bị luân phiên với biên chế được tinh giản. Vào ngày 1 tháng 1 năm 1934, nó quay trở lại hoạt động thường trực cùng hạm đội với một năm phục vụ cùng Hải đội Huấn luyện Lực lượng Tuần tiễu. Sau một giai đoạn ở tình trạng dự bị luân phiên khác hầu như không hoạt động, nó gia nhập trở lại Hải đội Huấn luyện vào cuối năm 1935. Vào nữa sau của năm 1937, Ban huấn luyện của Hạm đội Hoa Kỳ được thành lập, và "Tattnall" cùng các đơn vị khác của Hải đội Huấn luyện Lực lượng Tuần tiễu gia nhập tổ chức mới này. Chiếc tàu khu trục tiếp tục nhiệm vụ huấn luyện cho đến tháng 11 năm 1938. Thế Chiến II. Vào ngày 17 tháng 11 năm 1938, "Tattnall" cùng tàu chị em thay phiên cho các tàu khu trục và như các đơn vị thường trực của Hải đội Đặc Vụ. "Tattnall" đặt căn cứ tại vùng kênh đào cho đến khi hải đội được giải tán vào ngày 17 tháng 9 năm 1940. Chiếc tàu khu trục tiếp tục hoạt động tại vùng vịnh Mexico và biển Caribe từ cảng nhà ở Panama. Sau khi Hoa Kỳ tham gia chiến tranh, "Tattnall" bắt đầu hộ tống các đoàn tàu vận tải duyên hải tại khu vực hoạt động, thường băng qua eo biển Windward giữa Cuba và Hispaniola, một khu vực nguy hiểm giữa cao trào tấn công của tàu ngầm U-boat tại khu vực Caribe. Cho dù đã nhiều lần phát hiện tàu ngầm đối phương qua sonar và tấn công bằng mìn sâu, "Tattnall" không ghi được chiến công nào được xác nhận. Vào đầu tháng 7 năm 1943, chiếc tàu khu trục hộ tống đoàn tàu vận tải Caribe cuối cùng trước khi đi qua eo biển Windward lên phía Bắc đến Charleston, South Carolina. Nó đến nơi vào ngày 10 tháng 7, bắt đầu được cải biến tại xưởng hải quân thành một tàu vận chuyển cao tốc, và được mang ký hiệu lườn mới APD-19 vào ngày 24 tháng 7. Nó hoàn tất việc cải biến vào ngày 6 tháng 9 năm 1943, một ngày sau dịp kỷ niệm 25 năm ngày hạ thủy; và hoàn tất chuyến đi chạy thử máy vào giữa tháng 9. Hoàn thành nốt các thay đổi và sửa chữa sau cùng vào cuối tháng 9, nó bắt đầu các đợt huấn luyện đổ bộ, thoạt tiên là ở Cove Point, Maryland, và sau đó là ở Fort Pierce, Florida. Vào tháng 4 năm 1944, "Tattnall" được đặt làm soái hạm của Đội vận chuyển 13, đơn vị vận chuyển cao tốc duy nhất tại khu vực mặt trận Đại Tây Dương. Vào ngày 13 tháng 4, nó rời vùng bờ Đông hướng sang Oran, Algérie cùng với , , và . Đội vận chuyển 13 gia nhập Hạm đội 8 vào cuối tháng 4, và "Tattnall" di chuyển đến Corsica để thao dượt cho nhiệm vụ đầu tiên: chiếm các đảo Elba và Pianosa trong biển Tyrrhenia. Tuy nhiên, trong quá trình huấn luyện trước khi cuộc đổ bộ diễn ra, nó được giao nhiệm vụ thực hiện một cuộc đổ bộ gần Civitavecchia, Ý, về phía Bắc Roma để đánh lạc hướng, thu hút các lực lượng Đức Quốc xã tăng cường đang hướng về phía Nam nhằm trợ giúp cho lực lượng Hoa Kỳ đang vượt qua Monte Cassino. Đòn nghi binh tỏ ra thành công, lực lượng tăng cường của đối phương không đến được Monte Cassino, và sang ngày hôm sau Đức thừa nhận quân Đồng Minh đã tấn công lên phía Bắc Roma. Vào ngày 17 tháng 6, binh lính được cho đổ bộ lên bờ tại Elba và Pianosa. Các xuồng của "Tattnall" phải chịu đựng hỏa lực súng máy đối phương, nhưng không bị hư hại nào đáng kể. Sau các cuộc đổ bộ tại biển Tyrrhenia, chiếc tàu vận chuyển cao tốc bắt đầu nhiệm vụ vận tải giữa các cảng Ý, Sicily và Bắc Phi, rồi tiếp tục các hoạt động đổ bộ, lần này là cùng Lực lượng đặc nhiệm 1 Hoa Kỳ-Canada. Nhiệm vụ của họ là phải chiếm đóng quần đảo Hyeres được phòng thủ rất mạnh về phía Đông Toulon, và trấn giữ tại đây trong khi diễn ra cuộc đổ bộ chính vào miền Nam nước Pháp. Ngày 15 tháng 8, năm tàu thuộc Đội vận chuyển 13 đã nhanh chóng cho đổ bộ 1.600 binh lính lên bờ, và quần đảo Hyeres được kiểm soát hoàn toàn ba ngày sau đó. Trong hai tuần tiếp theo, "Tattnall" và các tàu chị em vận chuyển lực lượng tăng cường và tiếp liệu đến khu vực phía Nam nước Pháp, đồng thời triệt thoái binh lính Đồng Minh bị thương và tù binh Đức. Trong thời gian còn lại của năm, chiếc tàu vận chuyển cao tốc đã hộ tống các đoàn tàu vận tải đi lại giữa các cảng trong Địa Trung Hải. "Tattnall" quay trở về Hoa Kỳ, về đến Norfolk vào ngày 21 tháng 12, và trải qua một tháng nghỉ ngơi trước khi lên đường hướng sang Thái Bình Dương. Nó rời Hampton Roads vào ngày 31 tháng 1 năm 1945, và sau khi băng qua kênh đào Panama vào đầu tháng 2, cùng các chặng dừng tại San Diego, Trân Châu Cảng, Eniwetok và Ulithi, đã đi đến khu vực Okinawa vào ngày 19 tháng 4. Chiếc tàu vận chuyển cao tốc tiếp tục ở lại khu vực Ryukyu cho đến hết tháng. Trong thời gian này, nó làm nhiệm vụ canh gác và tuần tra chung quang Okinawa bảo vệ các đơn vị hạm đội chống các cuộc tấn công cảm tử của máy bay kamikaze. "Tattnall" đã nhiều lần nổ súng vào máy bay đối phương vào trước đêm 29 và 30 tháng 4. Ba đợt báo động trước 02 giờ 00 không diễn biến gì thêm. Tuy nhiên, lúc khoảng 02 giờ 15 phút, máy bay đối phương tiếp cận từ hướng Tây. Một máy bay hai động cơ băng ngang phía đuôi "Tattnall" cách khoảng và các khẩu pháo phòng không 40 mm của nó đã khai hỏa. Kẻ tấn công né tránh qua mạn phải với một động cơ bốc cháy, chỉ để tìm cách quay lại. Lần này các xạ thủ hoàn thành được nhiệm vụ, bắn nó rơi xuống biển. Ngay sau đó, một máy bay kamikaze tiến đến gần bên mạn phải. "Tattnall" phải đi hết tốc độ và bẻ lái gắt sang mạn trái để né tránh; kẻ tấn công đâm xuống sát cạnh mạn phải mũi tàu. Một cơn mưa mảnh vụn rơi xuống trên con tàu, và lườn tàu bị thủng phía trên mực nước, tuy nhiên con tàu không chịu thương vong hay hư hại đáng kể gì khác. Ngày hôm sau, "Tattnall" rời Okinawa hướng đến khu vực quần đảo Mariana làm nhiệm vụ hộ tống vận tải. Nó đi đến Saipan vào ngày 3 tháng 5, rồi quay trở lại Okinawa với một đoàn tàu vận tải vào ngày 20 tháng 5. Chiếc tàu chiến tiếp tục làm nhiệm vụ canh phòng, nhưng không gặp sự kiện nào có thể so sánh với hoạt động vào đêm 29 và 30 tháng 4. Vào ngày 25 tháng 5, lệnh báo động trực chiến được đưa ra suốt 18 giờ; trong ngày hôm đó "Barry" và "Roper" bị máy bay kamikaze đánh trúng. "Barry" chìm sau đó, còn "Roper" được cho rút lui về hậu tuyến để sửa chữa. Vào đầu tháng 6, "Tattnall" được lệnh trình diện để hoạt động tại khu vực biển Philippine. Nó ghé qua Saipan vào ngày 13 tháng 6 và đi đến Leyte vào ngày 17 tháng 6. Cho đến hết chiến tranh và gần một tháng tiếp theo sau, nó thực hiện tuần tra tại khu vực Philippine và hộ tống các đoàn tàu vận tải đi đến Ulithi và Hollandia. Vào ngày 13 tháng 9, "Tattnall" quay trở về Hoa Kỳ. Sau các chặng dừng tại Eniwetok và Trân Châu Cảng, nó về đến San Francisco vào ngày 30 tháng 10. Từ đây, "Tattnall" được chuyển đến Xưởng hải quân Puget Sound và đặt dưới quyền Tư lệnh Quân khu Hải quân 13. Nó được cho xuất biên chế tại Puget Sound vào ngày 17 tháng 12 năm 1945; tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 8 tháng 1 năm 1946, và xác tàu được bán cho hãng Pacific Metal Salvage Company tại Seattle, Washington vào ngày 17 tháng 10 năm 1946. Lườn tàu được cho kéo đến Royston, British Columbia và đánh đắm làm một đê chắn sóng; một phần của nó vẫn còn nhìn thấy được vào năm 2009. Phần thưởng. "Tattnall" được tặng thưởng ba Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
1
null
Cá nhám búa vây đen hay cá mập đầu búa vỏ sò, tên khoa học Sphyrna lewini, là một loài cá nhám búa, họ Sphyrnidae. Nó chủ yếu sống ở vùng nước ven biển ôn đới và nhiệt đới, giữa vĩ độ 46 ° Tây và 36 ° Đông, xuống tới độ sâu 500 mét (1.600 ft). Nó là loài cá mập đầu búa phổ biến nhất. Chúng không được xem là nguy hiểm và thường không tấn công con người. Phân loại. Cá nhám búa đầu tiên được đặt tên là "Zygaena lewini", sau đổi tên thành "Sphyrna lewini" bởi Edward Griffith và Hamilton Smith năm 1834. Nó cũng được đặt tên là "Cestracion leeuwenii" bởi Day năm 1865, "Zygaena erythraea" bởi Klunzinger năm 1871, "Cestracion oceanica" bởi Garman năm 1913, and "Sphyrna diplana" bởi Springer năm 1941. Mô tả. Trung bình, con đực dài và nặng khi chúng trưởng thành sinh sản, con cái lớn hơn có chiều dài tới và cân nậng khi trưởng thành sinh sản. Chiều dài tối đa là và cân nặng tối đa , theo FishBase. Một con cái bị bắt ở Miami dài và nặng , mặc dù nó đang có bầu tại thời điểm đó. Chế độ ăn uống. Loài cá mập này ăn chủ yếu là cá như cá mòi, cá thu và cá trích, và đôi khi thân mềm như mực và bạch tuộc. Mẫu vật lớn cũng có thể ăn các loài cá mập nhỏ hơn như Cá mập vây đen. Tương tác của con người. Tính đến năm 2008, cá nhám búa được xem là "bị đe dọa toàn cầu". Nghiên cứu cho thấy tại một phần của Đại Tây Dương, số lượng cá nhám búa đã giảm trên 95% trong 30 năm qua. Trong số các lý do sụt giảm này có đánh bắt quá mức và sự gia tăng nhu cầu đối với vi cá mập. Cá nhám búa là một loài cá nhám thường bị lấy vây. Phim. Nhân vật Anchor trong phim "Đi tìm Nemo" và "Đi tìm Dory" Trong seri phim "Hyakujuu Sentai Gaoranger" cá mập búa là cánh tay phải của Gao Hunter
1
null
Nhân dân hay còn gọi là người dân, quần chúng, dân là thuật ngữ chỉ về toàn thể những con người sinh sống trong một quốc gia, và tương đương với khái niệm dân tộc. Nhân dân còn có khái niệm rộng hơn và được sử dụng trong chính trị, pháp lý, tư tưởng chính trị. Trong lĩnh vực chính trị pháp lý, nhân dân còn tương đồng với thuật ngữ công dân là những con người mang quốc tịch và được bảo hộ của một nhà nước nơi họ đang sinh sống và thông thường là không bao gồm những người trong bộ máy cai trị. Trong lịch sử khi chưa có khái niệm dân chủ thì người dân dưới chế độ phong kiến còn được gọi là dân đen, thảo dân (không có chức vị gì) để phân biệt với vua là thiên tử và quan là bậc cha mẹ (phụ mẫu). Nhân dân có vai trò quan trọng trong lịch sử là người làm ra lịch sử và là những người sản xuất ra của cải vật chất chính cho xã hội, trong thời kỳ phong kiến có tư tưởng lấy dân làm gốc, dĩ dân vi bản đề cao vai trò của nhân dân. Trong thời kỳ sau này những tư tưởng về tự do, dân chủ và nhân quyền đã đề cao vai trò của nhân dân nói chung cũng như những cá nhân cụ thể.
1
null
Thường dân hay còn gọi là dân thường, dân đen hoặc thứ dân, theo cách dùng cũ chỉ đến một người bình thường trong cộng đồng hay trong một quốc gia mà không có nổi một địa vị xã hội đáng kể nào, đặc biệt là người không phải thành viên của Hoàng gia, Hoàng tộc, quý tộc hay cũng chẳng phải một phần của tầng lớp quý tộc. Tùy thuộc vào từng nền văn hóa và giai đoạn khác nhau mà những con người cao quý khác (ví dụ như giáo sĩ) có thể tự mình có được địa vị xã hội cao hơn, hoặc bị coi là thường dân nếu thiếu đi dòng dõi quý tộc. Phân tầng xã hội ở các nền văn minh phi Tây phương. Nhà sử học người Đức là Oswald Spengler đã tìm ra sự phân chia xã hội thành giới quý tộc, linh mục/thầy tu và thường dân vốn xảy ra lặp đi lặp lại ở rất nhiều nền văn minh khác nhau mà ông đã quan sát và nghiên cứu (mặc dù sự phân chia này có thể không tồn tại đối với xã hội tiền văn minh). Lấy ví dụ, ở nền văn minh Babylon, Bộ luật Hammurabi đã đưa ra điều khoản về sự trừng phạt bằng búa nghiền đối với hành vi gây hại cho quý tộc hơn là cho thường dân.
1
null
Trào lưu Nhật Bản hay Nhật lưu là một từ được dùng để chỉ sự lan toả tiểu văn hoá và văn hóa đại chúng Nhật Bản, chủ yếu tại các nước Á Đông như Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc và Việt Nam, trong đó manga là trọng tâm chủ yếu. Tổng quan. Trong xu hướng thời hiện đại ngày nay, nhiều quốc gia ở Đông Á đặc biệt là Hàn Quốc, Đài Loan và Hong Kong đã và đang hấp thụ văn hóa đại chúng Nhật Bản như âm nhạc và video trong nhiều năm sau sự phát triển lớn mạnh của nền kinh tế Nhật những năm 1980 - 1990. Nhiều bộ phim Nhật Bản, đặc biệt là phim truyền hình thì rất phổ biến ở Hàn Quốc, Đài Loan và Trung Quốc trong thế hệ trẻ hơn sau khi các bộ phim được dịch sang ngôn ngữ bản địa. Các sản phẩm điện tử và đồ ăn Nhật Bản có thể tìm thấy trên khắp khu vực Đông Á (ngoại trừ Bắc Triều Tiên) cũng như là Việt Nam và Singapore. Tại Hồng Kông. Kể từ thập niên 1980, loạt phim "Siêu chiến đội" (Super Sentai) của Nhật Bản được dịch và phát sóng đều đặn ở Hồng Kông. Các cửa hiệu nhập khẩu của Nhật như chuỗi cửa hàng bách hóa Sogo ở Vịnh Đồng La đã đưa nhân vật Hello Kitty trở thành một biểu tượng văn hóa. Vào đầu thập niên 1990, văn hóa Nhật Bản có tác động đáng kể đến văn hóa Hồng Kông thông qua nền văn hóa đại chúng bao gồm âm nhạc và diễn xuất. Nhiều công ty giải trí của Nhật đã mở rộng hoạt động kinh doanh sang Hồng Kông để nhắm tới đối tượng chủ yếu là tầng lớp trung lưu và thế hệ thanh thiếu niên - những người mê mệt văn hóa, ẩm thực và lối sống của người Nhật, kết quả là Hồng Kông trở thành một trong những địa điểm chính dành cho việc xuất khẩu văn hóa phẩm Nhật Bản. Phương pháp tiếp cận thành công bằng marketing và hiệu quả quảng bá của những người đại diện tài năng là hai trong số các tác nhân chính góp phần lan tỏa văn hóa Nhật Bản ra đại chúng Hồng Kông trong suốt những năm 1990. Tại Đài Loan. Trong thập niên 1990, sau khi chính quyền Đài Loan bãi bỏ lệnh cấm văn hóa đại chúng Nhật Bản thì phim truyền hình, trò chơi điện tử, phim hoạt hình và truyện tranh Nhật Bản tiến vào Đài Loan với số lượng lớn, tạo thành ảnh hưởng to lớn đối với xã hội Đài Loan. Tại Hàn Quốc. Nền văn hóa Hàn Quốc từng bị các sản phẩm văn hóa của Nhật Bản như manga, phim và tiểu thuyết lấn át. Đến khi kiểm duyệt truyền thông Nhật Bản tại Hàn Quốc được nới lỏng, nhiều bộ phim Nhật cũng đã được công chiếu tại đây. Từ tháng 2 năm 2011, nhà xuất bản truyện tranh Haksan Culture ở Hàn Quốc bắt đầu phát hành tập đầu tiên của bộ truyện tranh "Đại chiến Titan" bằng tiếng Hàn. Một kênh truyền hình cáp ở Hàn Quốc cũng đã phát sóng phim hoạt hình được dàn dựng theo bộ truyện tranh này. Sau khi phim phát sóng, bộ truyện đã tiêu thụ được 434.000 cuốn ở Hàn Quốc. Cách đó vài năm, bộ truyện tranh Nhật Bản "Les Gouttes de Dieu" đã trở thành một hiện tượng văn hóa, song lượng sách bán ra của "Đại chiến Titan" trong thời gian đầu còn vượt cả "Les Gouttes de Dieu". Ở thị trường Hàn Quốc, những đầu sách mới chỉ tiêu thụ được khoảng 3.000 cuốn trong những ngày đầu phát hành, tuy nhiên "Đại chiến Titan" đã bán được hơn 50.000 cuốn. Cơn sốt "Đại chiến Titan" đã khiến một số kênh truyền hình Hàn Quốc dàn dựng nhiều chương trình hài nhái theo bộ truyện này, như Infinite Challenge trên kênh MBC. Trong khi đó, tiểu thuyết mới của nhà văn Nhật Bản Murakami Haruki là "Tazaki Tsukuru không màu và những năm tháng hành hương" cũng thu hút được lượng độc giả đáng kể ở Hàn Quốc. Cuốn sách này đã chiếm vị trí đầu trong danh sách các tiểu thuyết bán chạy nhất Hàn Quốc suốt 5 tuần liền, kể từ khi được phát hành hồi tháng 7. Trước khi sách được xuất bản ở Hàn Quốc, nhiều nhà xuất bản nội địa đã giành nhau bản quyền in tác phẩm này, với số tiền đặt cọc lên tới 150 triệu yên. Khi sách được tung ra thị trường, người hâm mộ Hàn Quốc đã xếp hàng nhiều giờ ở các cửa hàng sách lớn ở trung tâm Seoul để có được những cuốn sách đầu tiên. Đến nay "Tsukuru Tazaki" đã bán được hơn 6 triệu cuốn, cao gấp 3 lần so với cuốn tiểu thuyết trước của Murakami Haruki là 1Q84.
1
null
Gustav Adolf Golz, từ năm 1896 là von Golz (19 tháng 8 năm 1833 tại Wittenberg – 19 tháng 7 năm 1908) là một Thượng tướng Bộ binh Phổ, Chỉ huy trưởng Quân đoàn Kỹ thuật và Công binh, Tướng Thanh tra pháo đài. Ông đã từng tham chiến trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ (1866) và cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871). Gia đình. Golz sinh vào tháng 8 năm 1833, là con trai của chính tòa án Tối cao Phổ "Ludwig Leopold Golz" (mất năm 1845) tại Breslau (Hạ Schlesien). Vào ngày 10 tháng 5 năm 1896, tại Frankfurt am Main, ông được phong địa vị quý tộc Phổ. Tiểu sử. Vào năm 1850, Golz gia nhập Cục Công binh 5 ở Glogau, sau đó ông học ở Trường Tổng hợp Pháo binh và Kỹ thuật kể từ năm 1851 cho đến năm 1854. Vào năm 1852, ông được phong quân hàm Thiếu úy và lãnh một chức Đại đội trưởng trong Tiểu đoàn Công binh Cận vệ. Trên cương vị này, ông đã tham gia cuộc Chiến tranh Bảy tuần với Áo năm 1866 và năm sau (1867), ông được đổi vào Bộ Chiến tranh. Trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871), ông hoạt động tại Bộ Tham mưu của Bộ trưởng Chiến tranh Albrecht von Roon. Trong năm đầu của cuộc chiến tranh, ông được thăng cấp hàm Thiếu tá. 4 năm (1874), Golz nhậm chức Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Công binh số 10 Hannover. Không lâu sau đó, năm 1875 ông được giao thi công công trình mới của Tiểu đoàn 2 thuộc Trung đoàn Hỏa xa. Vào năm 1876, ông đến Bắc Mỹ để học về hệ thống đường sắt và phòng ngự bờ biển ở đây. Sau khi trở về nước, ông được lãnh nhiệm chức Trung đoàn trưởng Trung đoàn Hỏa xa vào năm 1877. Sau đây là những bước đường kế tiếp trên con đường binh nghiệp của ông: Vào năm 1897, Golz từ nhiệm. 11 năm sau, ông từ trần ngày 19 tháng 7 năm 1908. Theo tên ông, pháo đài hiện đại nhất tại hệ thống lũy thành Metz được đặt tên là "Pháo đài von der Golz".
1
null
Hàn lâm viện (翰林院, Hanlin Academy) là một tổ chức trong các triều đại quân chủ Á Đông xưa gồm các học sĩ uyên thâm Nho học, văn hay chữ tốt, chuyên trách việc soạn thảo văn kiện triều đình như chiếu, chỉ, sắc, dụ, chế. Quan viên của Hàn lâm viện cũng là nguồn nhân lực cung cấp cho Quốc sử quán trong việc biên soạn quốc sử, thực lục, điển lễ. Ngoài ra, Hàn lâm viện cùng với các cơ quan học thuật khác đảm nhiệm trọng trách nghiên cứu, giảng dạy kinh truyện, phụ trách việc khoa cử, thị tùng văn học, và khi cần, đảm nhận trách nhiệm Khâm sai. Hàn lâm viện và Quốc tử giám (tức trung tâm giáo dục giữ trọng trách đào tạo nhân tài cho quốc gia) là hai cơ quan học thuật rất được trọng vọng trong quan chế triều đình xưa. Tên gọi. Hàn lâm. Theo sách "Dật Châu Thư", quyển sách ghi chép biên niên sử triều Tây Chu Trung Hoa, "Hàn" nguyên là danh từ Đại Hàn, được dùng để chỉ về một giống gà thần Thiên Kê có lông đỏ 5 màu do người Thục cống nạp cho Chu Thành Vương. Về sau, danh từ "Hàn" còn có nghĩa là lông chim dài và cứng, tức bút viết vì thời xưa bút viết được làm từ những lông chim dài và cứng. Danh từ "Lâm" nghĩa là rừng. Hàn Lâm (翰林) nghĩa đen là rừng bút với nghĩa bóng chỉ văn đàn, học thuật. Hàn lâm viện có ý nghĩa là viện học thuật, nơi văn đàn mà các học sĩ tụ họp. Hàn lâm viện còn được biết đến với tên là Ngọc Đường hoặc Ngọc Đường viện do từ tích vua Tống Thái Tông (976-978) viết bốn chữ màu trắng là Ngọc Đường chi thự (玉堂之署, Jade Hall Office) trên tấm lụa hồng ban tứ cho Hàn lâm học sĩ Tô Dịch Giản. Tên chức Hàn lâm hay Hàn lâm viện. Trong các bài viết hoặc sách vở, khi viết về một vị quan Hàn lâm, chức thường được viết tắt là "Hàn lâm + tên chức vụ" như Hàn lâm học sĩ (翰林學士) hoặc Hàn lâm thị độc (翰林侍讀) dùng trong câu như "quan Hàn lâm học sĩ, quan Hàn lâm thị độc, hoặc quan Hàn lâm hiệu lý". Thời Minh, khi các Trực học sĩ viện tại các học viện khác được bổ vào Hàn lâm viện, chức Trực học sĩ được đổi thành chức Trực học sĩ viện (直學士院, Auxiliary Hanlin Academician). Nhưng trong sách sử Việt, ngoại trừ một vài trường hợp viết như trên, phần lớn chức trong Hàn lâm viện đều được viết với tên đầy đủ là "Hàn lâm viện + tên chức vụ" ví dụ Hàn lâm viện học sĩ (翰林院學士) hoặc Hàn lâm viện kiểm thảo (翰林院檢討), ví dụ Hàn lâm viện Biên tu Phan Huy Chú. Vì vậy, trong tiếng Việt văn nói, ta có thể viết hoặc nói "quan Hàn lâm Biên tu Phan Huy Chú", nhưng trong văn viết, nhất là khi viết về sử Việt từ thời Hồng Đức trở về sau, cần viết cùng chữ "viện", như dùng trong câu "Phan Huy Chú được phong chức Hàn lâm viện biên tu" hoặc "quan Hàn lâm viện Biên tu là Phan Huy Chú...". Ngoài ra, trong sách báo, đôi khi danh từ "Hàn lâm học sĩ" được dùng để chỉ chung tất cả các quan viên đương hoặc trước đây được sung vào Hàn lâm viện. Việc này có thể gây khó khăn trong việc nghiên cứu, tìm hiểu vì danh từ Hàn lâm học sĩ còn là một chức đã tồn tại, rồi lại bị bãi bỏ, rồi lại được phục hồi trong các triều đại Việt Nam. Ví dụ như trong câu "..."có bề tôi cũ của họ Mạc là Hàn lâm học sĩ Nguyễn Thì Dự" có thể gây ngộ nhận Nguyễn Thì Dự được bổ chức Hàn lâm học sĩ thời Mạc nhưng thời này Hàn lâm viện mô phỏng biên chế thời Hồng Đức, nên không có chức vị Hàn lâm học sĩ. Vì vậy, khi nghiên cứu về thời Mạc, câu văn trên có thể dẫn đến ngộ nhận đây là câu văn chứng minh thời Mạc đặt chức Hàn lâm học sĩ, khác với thời Hồng Đức về sau. Để tránh sự ngộ nhận, nếu viết để đại khái cho độc giả biết vị quan đương hoặc trước đây được sung vào Hàn lâm viện mà không biết rõ là chức gì, cần tránh dùng danh từ Hàn lâm học sĩ như trên, mà nên dùng câu ví dụ như "có bề tôi cũ của họ Mạc là thuộc viên Hàn lâm viện Nguyễn Thì Dự", hoặc nếu biết rõ tên chức "có bề tôi cũ của họ Mạc là Hàn lâm viện thị độc Nguyễn Thì Dự" ", hoặc nếu chỉ chung các vị học sĩ thuộc Hàn lâm viện, dùng ""...là các quan học sĩ thuộc Hàn lâm viện", tránh dùng "...là các Hàn lâm học sĩ thời..." để tránh việc ngộ nhận sau này khi bài viết, sách báo được dùng để tham khảo. Dùng Hàn lâm học sĩ như một danh từ thậm xưng để độc giả hiểu vị quan ấy là học sĩ thì không cần thiết vì Hàn lâm viện vốn đã là chốn văn đàn của các học sĩ. Ngộ nhận. Ngộ nhận về Hàn Lâm. Ngày nay, khi nói hoặc viết về danh từ "Hàn lâm" tại các triều đại quân chủ Á Đông xưa, Hàn lâm thường được hiểu là một danh từ dùng để chỉ Hàn lâm viện tức nhóm văn đàn trong triều đình gồm các quan Hàn lâm học sĩ là những vị quan văn hay chữ tốt, uyên thâm kinh truyện, chuyên soạn thảo văn kiện triều đình. Tuy vậy, trong rất nhiều những bài viết, sách, hoặc thảo luận hiện thời, Hàn lâm còn được biết đến là danh từ để chỉ những chức quan tầm thường, như hầu trà, bói toán, y sĩ, v.v. Đây là một ngộ nhận. Thật ra, từ khi bắt đầu được dùng vào những năm 700 thời Đường, danh từ Hàn lâm thường được hiểu là một danh từ dùng để chỉ các chức vụ, cơ quan với ý nghĩa là các thuộc viên hoặc người giữ chức Hàn lâm có trình độ cao hoặc có tay nghề chuyên môn uyên thâm, dù các chuyên môn này có thể không liên quan đến văn học, nghệ thuật, kinh truyện. Vì lý do trên mà tên Hàn lâm còn được gắn trước các chức không thuộc văn học như Hàn lâm y khoa viện (翰林醫官院, Medical Institute). Năm Khai Nguyên 26 (738), vua Đường Huyền Tông lệnh đặt Hàn lâm viện với các Hàn lâm học sĩ để phân biệt với các hạng Hàn lâm hoặc học sĩ khác. Hàn lâm học sĩ là các vị học sĩ văn hay chữ tốt, uyên thâm kinh truyện, chuyên soạn thảo văn kiện triều đình, không liên quan đến các chuyên ngành khác như y dược, bói toán, binh bị, v.v. Danh từ Hàn lâm với ý nghĩa uyên thâm kinh sách, văn hay chữ tốt thường được hiểu ngày nay là chức Hàn lâm học sĩ này. Ngoài ra, thời Tống, Hàn lâm viện còn được biết là cơ quan chuyên trách các thú vui tao nhã triều đình (xem thêm tại mục Lịch sử - thời Tống). Việc này đã gây nên ngộ nhận Hàn lâm không còn là nơi văn đàn với các Hàn lâm học sĩ uyên thâm. Đây lại là một ngộ nhận khác. Thời Tống, Hàn lâm viện (翰林院, Artisans Institute) thuộc Nội sử sảnh (內侍省, Department of Service) không liên quan đến Hàn lâm viện (翰林院, Hanlin Academy) thuộc Học sĩ viện (學士院, Institute of Academicians). Các vị Hàn lâm học sĩ thời Tống thuộc về Hàn lâm viện (翰林院, Hanlin Academy) thứ 2 này. Ngộ nhận về Học Sĩ. Trái lại với ngộ nhận về Hàn Lâm, danh từ Học sĩ lại được hiểu là danh từ chỉ giới hạn trong Hàn lâm viện. Đây là một ngộ nhận. Học sĩ nguyên là danh từ đã được đặt thời Chiến Quốc, khi nước Tề triệu tập các học giả giảng dạy học trò, thảo luận học thuật, tham gia chính sự. Thời Ngụy Tấn, triều đình triệu tập những quan có học vấn cao để định chế điển lễ, biên soạn quốc sự, thực lục, gọi chung là Học sĩ. Năm Khai Nguyên 26 (738), vua Đường Huyền Tông lệnh đặt Học sĩ viện để điều hành các quan học sĩ, nhưng đồng thời, lập riêng Hàn lâm viện là tổ chức gồm các học sĩ thật uyên thâm trong triều đình, chuyên soạn thảo các văn kiện quan trọng, khác với các chức học sĩ khác do Học sĩ viện điều hành. Vì vậy, danh từ Học sĩ bao gồm cả Hàn lâm học sĩ tại Hàn lâm viện lẫn các chức học sĩ khác như Tường chính học sĩ (詳正學士, Academician Editor) tại Hoằng văn quán (弘文館, Institute for the Advancement of Literature). Tất cả các chức học sĩ đều liên quan đến việc soạn thảo văn kiện triều đình và có các cấp bậc khác nhau. Riêng Hàn lâm học sĩ chuyên trách việc soạn thảo văn kiện quan trọng trong triều đình. Hàn lâm học sĩ là một chức vụ chưởng quan như thời Minh, Thanh hoặc là nhóm học sĩ đứng đầu Hàn lâm viện với các thuộc quan Trực học sĩ, Thị độc học sĩ, Thị giảng học sĩ, Thị thư học sĩ, Tu soạn, Biên soạn, v.v. Các học sĩ khác ngoài Hàn lâm học sĩ được sử dụng trong Trung thư sảnh (中書省, Secretariat), Tập hiền viện (集賢院, Academy of Scholarly Worthies), Chiêu văn quán (昭文館, Institute for the Glorification of Literature) hoặc các bộ như Binh bộ phụ trách việc soạn thảo văn thư. Tại các triều đại Trung Hoa, trong quan chế Hàn lâm viện, Học sĩ là một hàm cao quý nên một chức được gắn hàm Học sĩ cao quý hơn chức không được gắn hàm này và có thể có phẩm trật cao hơn. Ví dụ, chứcThị độc học sĩ (侍讀學士, Academician Reader-in-waiting) là chức cao quý hơn Thị độc (翰林, Reader-in-waiting). Tại các triều đại Việt Nam, trước thời Hồng Đức, việc phong hàm Học sĩ được áp dụng tương tự như tại Trung Quốc. Từ thời Hồng Đức (1470) đến thời Nguyễn Minh Mạng (1820), chức Học sĩ được bãi bỏ như Hàn lâm học sĩ thừa chỉ được đổi thành Hàn lâm thừa chỉ, "mặc dù vẫn thấy trong sử Việt có 1 lần nhắc đến chức này thời chúa Trịnh" Hàn lâm viện xưa và nay. Tại các triều đại quân chủ Á Đông xưa, với Nho giáo là rường cột trong thể chế chính trị quốc gia, Hàn lâm viện là chốn văn đàn tượng trưng cho tinh hoa Nho học toàn quốc. Vì vậy, Hàn lâm viện tại các triều đại này là một tổ chức Nho học với các quan Hàn lâm uyên thâm kinh truyện, Tứ thư, văn hay chữ tốt chuyên trách việc soạn thảo văn kiện triều đình, phụ trách việc biên soạn quốc sử, thực lục, điển lễ, giảng dạy kinh sử cho vua, hoàng tử và triều đình, là mẫu quan viên mà mọi tầng lớp trong xã hội xưa đều trọng vọng. Các lãnh vực khác như thiên văn, y tế, khoa học, kỹ thuật thường do các viện hoặc các cơ quan chuyên môn khác chuyên trách. Ngày nay, cùng với việc Nho giáo không còn là rường cột tại các quốc gia Á Đông và với các thể chế chính trị, giáo dục khác nhau, Hàn lâm viện không còn là nơi chuyên trách việc soạn thảo văn thư, biên soạn quốc sử. Danh từ Hàn lâm ngày nay còn được dùng để chỉ các hiệp hội khoa học, có thể bao gồm hoặc không bao gồm văn học như Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ, Viện Hàn lâm Khoa học Nga, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, hoặc các viện như viện Hàn lâm Pháp với một trong các chuyên trách của viện là chuẩn hóa ngôn ngữ Pháp, làm cho tiếng Pháp trong sáng và dễ hiểu đến mọi tầng lớp. Danh từ Viện Sĩ tại Việt Nam. Tại các triều đại Việt Nam xưa, các quan Hàn lâm thường được gọi bằng các chức tước mà họ được bổ như quan Hàn lâm học sĩ, quan Hàn lâm thị độc học sĩ, quan Hàn lâm thị giảng học sĩ. Ít hoặc chưa thấy có sách báo hoặc trang mạng nào dùng danh từ Viện sĩ cho các quan Hàn lâm xưa. Thường, các sách báo, trang mạng viết "Nguyễn Trãi, quan Hàn lâm học sĩ thừa chỉ thời Lê", ít hoặc chưa thấy sách báo hoặc trang mạng viết "Nguyễn Trãi, viện sĩ viện Hàn lâm thời Lê." Đến nay, các cơ quan Hàn lâm tại Việt Nam đều không có hoặc không hề phong chức Viện sĩ (士院, Academician). Các chức Viện sĩ thường được dùng cho các giáo sư, tiến sĩ Việt Nam đều do các viện Hàn lâm tại các quốc gia ngoài Việt Nam phong tặng. Ngoài ra, tại Việt nam (tên gọi chính thức Cộng Hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam), việc không tồn tại một cơ quan Hàn lâm viện chuyên trách việc chuẩn hóa ngôn ngữ Việt trong đó có việc chuẩn hóa các danh từ dịch thuật, đưa ra những quy tắc ngữ pháp, làm cho tiếng Việt trong sáng và dễ hiểu đến mọi tầng lớp và áp dụng bởi người Việt trên toàn thế giới, đã góp phần không nhỏ vào việc tranh cãi trong việc dịch thuật hàm Viện sĩ trong tiếng Việt. Việc giáo sư Phan Huy Lê, chủ tịch Hội sử học Việt nam, được phong tặng hàm "Correspondant étranger" bởi Viện Hàn lâm Pháp là một ví dụ. Quan điểm ủng hộ (và là chức danh chính thức trong bài viết về Phan Huy Lê tại Wikipedia) cho rằng hàm trên cần được dịch là "Viện sĩ thông tấn" trong khi ngược lại, quan điểm chống đối (từ bài viết của Lê Mạnh Chiến) cho rằng cần được dịch là "Thông tín viên." Việc các báo chí tại Việt Nam chúc mừng giáo sư Phan Huy Lê với câu văn "Lần đầu tiên có một người của ngành Khoa học Xã hội Việt Nam trở thành viện sĩ viện Hàn lâm Pháp"" đã đem đến ngộ nhận từ độc giả đại chúng, không chuyên ngành cho rằng giáo sư Phan Huy Lê, với tước "Correspondant étranger," được xem như là viện sĩ chính thức ("Académicien)", nhưng chức "Académicien" là một tước cao quý nhất và không dành cho các ứng cử viên không có Pháp tịch. Trong bài viết về Phan Huy Lê tại Wikipedia, việc dịch chức sang tiếng Việt là "Viện sĩ thông tấn" nhưng lại để thêm chức vụ trong tiếng Pháp kèm theo là "Correspondant étranger" mà không có lời chú thích, dẫn nguồn về việc dịch danh từ Viện sĩ thông tấn này có được chấp nhận từ Viện hàn lâm Pháp hay các cơ quan chính thức tại Việt Nam hay không lại càng làm cho các nhà nghiên cứu, độc giả nghi ngờ về tính xác thực, thổi phồng tước phong của việc dịch danh thuật này. Biên chế Hàn lâm viện. Quan viên. Hàn lâm viện thời Tự Đức gồm các quan viên được liệt kê theo cấp bậc cao thấp như sau: Trách nhiệm. Soạn thảo văn từ, sắc mệnh. Phàm những việc biên soạn, ngành từ hàn, thảo luận kinh điển, cùng hết thảy mọi sự văn từ, sắc mệnh, đều thuộc vào viện Hàn lâm cả. Chưởng viện Học sĩ coi về việc văn từ chế cáo, ra vào chầu hầu nhà vua để phòng khi vua hỏi. Trực học sĩ làm việc sự vụ trong viện, nhưng quyền cũng như chưởng viện học sĩ. Thị độc học sĩ, Thị giảng học sĩ, Thị độc, Thừa chỉ và Thị giảng, đều coi về việc biên soạn, trước thuật để giúp vào việc từ hàn. Tu soạn, Biên tu, Kiểm thảo đều coi về việc phiên duyệt thư tịch, và kiểm duyệt từ hàn. Điển bạ coi việc phát, nhận văn thư. Đãi chiếu coi việc hiệu đính và đối chiếu văn sử. Giảng dạy, thảo luận kinh điển. Thị độc học sĩ, Thị giảng học sĩ, Thị độc, Thừa chỉ và Thị giảng đều là các quan uyên thâm Nho học, nên còn chuyên trách việc thảo luận kinh truyện cùng vua, cùng Kinh diên giảng quan trong các buổi thiết triều giảng dạy kinh sử cho các quan cấp cao trong triều đình. Đôi khi, chuyên trách việc giảng dạy kinh sử cho Thái tử (nếu Đông cung cần phụ quan) và các hoàng tử. Biên soạn quốc sử, thực lục, điển lễ. Cùng Quốc sử quán biên soạn quốc sử, thực lục, điển lễ theo lệnh vua hoặc triều đình Đảm nhận trách nhiệm Khâm sai. Khi cần, vua bổ các vị quan cấp cao trong Hàn lâm viện giữ chức Khâm sai, giúp vua và triều đình giải quyết các vấn đề ngoại giao hoặc nội chính trong một thời gian ngắn Lịch sử. Thời Đường. Bắt đầu từ những năm 700, danh từ Hàn lâm được dùng để chỉ các chức vụ, cơ quan với ý nghĩa là các thuộc viên hoặc người giữ chức Hàn lâm có trình độ cao hoặc có tay nghề chuyên môn uyên thâm, dù các chuyên môn này có thể không liên quan đến văn học, nghệ thuật, kinh truyện. Thời này, Hàn lâm có thể được đặt trước tên chức của các học sĩ, y sĩ, các nhà bói toán, các quan viết thư pháp, v.v. Khoảng năm 666 hoặc 667, triều đình lập văn phòng Bắc Môn (北門, North Gate), hợp các học sĩ văn hay chữ tốt chuyên trách việc soạn thảo chiếu chỉ, tác phẩm mà triều đình giao cho. Các học sĩ này ngoài các Nho học gia ra, còn có những học sĩ với chuyên môn trong Tứ thư, trong thơ ca, hoặc trong Phật học hoặc Lão học, v.v. Năm Tiên Thiên nguyên niên (712) thời Đường Huyền Tông, triều đình xóa tên văn phòng Bắc Môn, lấy tên chức Hàn lâm đãi chiếu (翰林待詔, Academicians Awaiting Orders) để chỉ các vị Bắc Môn học sĩ xưa, bắt đầu sắp xếp quy tụ những học sĩ uyên thâm chữ nghĩa. Năm này, Trung thư sảnh (中書省, Secretariat) nhiều việc, nên tuyển người văn hay chữ tốt, bổ chức Hàn lâm cung phụng (翰林供奉, Academician in Attendance), phụ giúp các học sĩ tại các viện văn học như Tập hiền viện, Chiêu văn quán trong việc chế cáo thư sắc. Thời này, hai chức Hàn lâm đãi chiếu và Hàn lâm cung phụng đều là chức Sai khiển (差遣, Duty Assignment), là những chức với trách nhiệm được giao không liên quan đến chức vụ chính thức của vị quan được giao. Việc soạn thảo văn kiện cần người văn hay chữ tốt, nên các quan có ưu điểm này đều được tuyển dụng từ các bộ, cơ quan khác nhau. Vì việc cần người ở các cấp khác nhau, nên số lượng hai hạng Học sĩ trên tùy lúc cao thấp khác nhau. Hai chức này không bổ phẩm trật và không trả lương. Các quan giữ hai chức này được trả lương theo chức vụ chính thức mà họ đã nắm giữ trong triều đình trước khi nhậm một trong hai chức Hàn lâm này. Năm Khai Nguyên 26 (738), triều đình gộp 2 chức Hàn lâm cung phụng và Hàn lâm đãi chiếu lại thành một và gọi chức mới là Hàn lâm học sĩ (翰林學士, Hanlin Academician), phân biệt với các hạng học sĩ khác. Hàn lâm học sĩ làm việc cho Hàn lâm viện. Các học sĩ khác ngoài Hàn lâm viện được gọp lại và điều hành bởi cơ quan cũng lập cùng năm là Học sĩ viện (學士院, Institute of Academicians). Vào những năm đầu của Hàn lâm viện, do đơn thuần là cơ quan soạn thảo văn kiện nên viện không là một cơ quan với nhiều ảnh hưởng đến chính sự triều đình. Nhưng những năm sau, nhất là vào những năm 800 sau cuộc loạn An Lộc Sơn, mức ảnh hưởng của Hàn lâm viện tăng lên đáng kể khi những việc bổ hay miễn quan văn võ, sách lập Thái tử, tuyên bố chinh phạt, hoặc các sắc lệnh vua ban đều do các vị Hàn lâm viện học sĩ khởi thảo, các Hàn lâm học sĩ dần dần trở thành cố vấn riêng của vua trong các vấn đề chính sự. Cũng như hai chức Hàn lâm cung phụng và Hàn lâm đãi chiếu trước đây, chức Hàn lâm học sĩ thời Đường không có ngạch nhất định, không có giới hạn quan được bổ phải từ cấp hoặc phẩm nào. Mức lương được trả là mức lương theo chức vụ chính thức mà vị quan được đã nắm giữ trước khi nhậm chức Hàn lâm học sĩ. Sau khi làm việc 1 năm tại Hàn lâm viện, quan Hàn lâm học sĩ sẽ được phong hàm (không phải là chức mà là hàm) Tri chế cáo (知制誥, Participant in the Drafting of Proclamations). Quan Hàn lâm học sĩ chưa được thăng hàm Tri chế cáo không được khởi thảo văn thư, chỉ được thị tùng văn học. Được bổ vào chức Hàn lâm học sĩ đồng nghĩa với việc khi yến tiệc được ngồi dưới Tể tướng, trên quan Nhất phẩm, nên các quan Hàn lâm học sĩ còn được biết đến là quan "Nội tướng (内相, Inner Counsellor-in-chief)". Vì chức vụ kề cận và cố vấn vua, dù cho chức vụ chính thức cao thấp ra sao, Hàn lâm học sĩ thăng tuyển dễ dàng trong quan trường, thường thăng đến Tể tướng. Biên chế. Thời Đường, các chức Học sĩ chính thức trong Hàn lâm viện như Hàn lâm học sĩ thừa chỉ, Hàn lâm học sĩ, Hàn lâm thị độc học sĩ, Hàn lâm thị giảng học sĩ đều là các chức Sai khiển (差遣, Duty Assignment), không lương và không phẩm trật, được xem là cao quý hơn chức danh Học sĩ thông thường tại các viện khác dù tất cả các chức Học sĩ đều không được trả lương. Số học sĩ Hàn lâm viện lúc đầu tăng hoặc giảm tùy theo nhu cầu. Đời Đường Huyền Tông, triều đình chỉ định giới hạn Hàn lâm học sĩ là 6 người. Sau năm 800, trong 6 quan Hàn lâm học sĩ, lại một quan được chọn làm chưởng quan Hàn lâm viện với chức vụ là Hàn lâm học sĩ thừa chỉ (翰林學士承旨, Hanlin Academician Recipient of Edicts). Sau khi làm việc 1 năm tại Hàn lâm viện, quan Hàn lâm học sĩ sẽ được phong hàm (không phải là chức mà là hàm) Tri chế cáo (知制誥, Participant in the Drafting of Proclamations). Quan Hàn lâm học sĩ chưa được thăng hàm Tri chế cáo không được khởi thảo văn thư, chỉ được thị tùng văn học. Ngoài hai chức Hàn lâm học sĩ và Hàn lâm học sĩ thừa chỉ ra, triều Đường còn có các chức Sai khiển giúp cho các Hàn lâm học sĩ như sau: Các chức Hàn lâm học sĩ thừa chỉ, Hàn lâm học sĩ, Hàn lâm Trực học sĩ, Hàn lâm Thị độc học sĩ, Hàn lâm Thị giảng học sĩ là các chức được gắn thêm chữ Hàn lâm và hàm Học sĩ để phân biệt với các chức cùng tên nhưng được bổ vào các viện khác như Tập hiền viện. Các chức khác trong Hàn lâm viện tùy theo trường hợp mà được chuyển sang Hàn lâm viện và gắn thêm mỹ tự Hàn lâm để phân biệt với chức không thuộc Hàn lâm viện, chỉ phụ giúp viện. Dưới các chức này là các chức Hàn lâm Thị độc (翰林侍讀, Hailin Reader-in-waiting), Hàn lâm Thị giảng (翰林侍講, Hailin Expositor-in-waiting). Ngoài ra, Hàn lâm viện còn được phụ giúp bởi 2 quan Ngũ kinh Bác sĩ (五經博士, Erudite of the Five Classics), là chức chính thức có trật phẩm (không phải chức Sai khiển), đã được lập từ thời Hán, được trao các quan uyên thâm chuyên nghiên cứu về Ngũ kinh, để dạy các sĩ tử tại Quốc tử giám, trật Chánh ngũ phẩm. Ngoài những chức điều hành và thuộc viên trong Hàn lâm viện trên ra, còn có các chức phụ giúp đến từ các viện học thuật khác như Tập hiền viện hoặc Chiêu văn quán. Các chức như Thị độc, Thị giảng, Hiệu lý (校理, Subeditor) (Hiệu lý được bãi bỏ vào năm Trinh Nguyên 8 (792) thay bằng chức Hiệu thư (校書, Editing Clerk)), Chính tự (政字, Clerk), Kiểm thảo (檢討, Examining Editor), Trước tác lang (著作郞, Editorial Director), Tu soạn (修撰, Senior Compiler), Trước tác (著作, Editorial Clerk), Hiệu khám (校勘, Proofreader), v.v. Các chức này tùy theo trường hợp mà được chuyển sang chính thức thuộc Hàn lâm viện và gắn thêm mỹ tự Hàn lâm hoặc chỉ đơn thuần phụ việc Hàn lâm viện trong một thời gian ngắn. Thời này, việc giới hạn 6 Hàn lâm học sĩ không có nghĩa là chỉ có 6 vị học sĩ tại triều đình. Trong triều đình ngoài Hàn lâm học sĩ ra, vì chức Học sĩ là một chức Sai khiển, có khá nhiều các học sĩ khác làm việc tại các bộ, cấp khác nhau, đều dưới sự điều hành của Học sĩ viện. Hàn lâm viện (hay Hàn lâm Học sĩ viện) và Học sĩ viện đã hoạt động song song cùng nhau cho đến hết thời Tống, mặc dù thời nay khi nhắc đến học sĩ, người ta lại nhớ đến các vị học sĩ thuộc Hàn lâm viện nhiều hơn là các vị học sĩ đến từ Học sĩ viện. Ngoài ra, còn có chức Trực học sĩ (直學士, Auxiliary Academician), trật thường từ Lục phẩm trở xuống, phụ giúp việc soạn thảo giấy tờ tại các viện văn học như Hàn lâm viện, Tập hiền viện, Chiêu văn quán hoặc trong các bộ như bộ Binh. Thời Đường, trọng trách soạn thảo chiếu thư, văn kiện triều đình được phân định theo biên chế Lưỡng Chế (兩制, Two Drafting Groups) tức hai văn phòng soạn thảo chiếu thư, văn kiện triều đình được phân định như sau: Các loại chiếu thư, văn kiện này tùy theo mức quan trọng mà dùng các loại giấy đay khác nhau. Theo "Hàn lâm chí", những chiếu lập Thái tử, bổ miễn quan lại cấp cao, chiếu tuyên bố chinh phạt, chiếu khen ngợi Thanh cung Đạo quán (清宮道觀, một quán đạo Lão nổi tiếng thời Đường) thì dùng loại giấy đay trắng tên Bạch Ma (白麻, White rattan paper). Các loại chiếu khác như chiếu ủy lạo, an ủi binh lữ dùng loại giấy đay vàng tên Hoàng Ma (黃麻, Yellow rattan paper). Chiếu tiến cáo (dùng trong tế lễ) dùng tại Thanh cung Đạo quán dùng mực son (tức mực màu đỏ) viết trên giấy màu xanh dương gọi thanh đằng (青藤, Blue rattan paper), v,v... Việc lập biên chế Lưỡng chế đảm bảo sự bí mật trong việc soạn thảo những chiếu, chỉ quan trọng mà đôi khi chỉ vua là người biết duy nhất trước khi tuyên bố. Theo Kiến văn tạp lục của "Lê Quý Đôn": "Thời nhà Tống, Bắc Môn giữ Nội chế, Tây dịch giữ Ngoại chế, gọi là Lưỡng chế. Khi thảo chế văn phong chức cho quan văn, quan võ, thì trước hết viên Trung thư dâng tờ trình về việc ban phong, tới hôm ấy, nhà vua truyền lệnh đóng cửa viện để khởi thảo; duy thảo chế văn phong hậu phi, Thái tử và tể tướng thì không cho viện này biết, mà sai nội sứ truyền lệnh triệu viên quan học sĩ đến tiện điện nhà vua đương đường dụ bảo về ý nghĩa ban phong, cho phép viên quan ấy ngồi và ban cho uống trà, trước mặt vua bày đồ kim khí gần ba trăm lạng, khi đã viết xong tờ chế, liền đem ban cho. Như Vương Luân thảo tờ chế phong Lưu quý phi, Cao Tông ban cho tiền nhuận bút gần một vạn quan, sao mà hậu đãi thế? Tờ chế thảo đến trống canh ba mới xong, khi dâng bản thảo, vua vẫn chưa đi nằm, để đợi, kịp đến sáng tuyên bố chế văn, cũng không cho viên quan khác thay đổi đính chính, sao mà trọng đãi thế? Nhà Minh trở về sau, không có thể lệ ấy." Thời Tống. Các thay đổi tại Hàn lâm viện. Thời Tống, các chức các Hàn lâm học sĩ thường phụ trách những buổi thiết triều thảo luận về kinh truyện cùng vua và triều đình. Đây chính là thời kỳ Hàn lâm viện chuyển đổi từ một tổ chức cố vấn chính trị không chính thức thành một cơ quan chuyên phụ trách việc học thuật và văn hóa như được biết đến ngày nay. Thời Tống Thần Tông (1067-1085), chức Hàn lâm học sĩ không còn là chức Sai khiển (差遣, Duty Assignment), được quy định trở thành chức quan chính thức với trật Chánh tam phẩm. Bắt đầu từ lúc này, chính sách Lưỡng chế được xóa và toàn bộ việc soạn thảo văn kiện đều do Hàn lâm học sĩ đảm giữ. Hàn lâm học sĩ chính thức thời này được giới hạn lại là 2 người. Ngoài ra: Thời này, tương tự thời Đường, biên chế Lưỡng chế trong việc soạn thảo chiếu thư, văn kiện vẫn được áp dụng cho đến thời Tống Thần Tông. Hàn lâm học sĩ vẫn giới hạn là 6 người nhưng khi cần có thể tăng thêm 1 vị Hàn lâm học sĩ thứ 7 gọi là Viên ngoại học sĩ (員外學士, Auxiliary Hanlin Academician). Thời này, chỉ những học sĩ uyên thâm mới chính thức là Hàn lâm học sĩ và có hy vọng làm Tể tướng, còn thấp hơn thì chỉ gọi là Trực học sĩ hoặc Trực học sĩ viện nếu được bổ sung vào Hàn lâm viện. Biên chế. Tương tự thời Đường, Hàn lâm viện thời Tống có các quan Hàn lâm học sĩ được điều hành bởi 1 vị quan Hàn lâm học sĩ thừa chỉ (翰林學士承旨, Hanlin Academician Recipient of Edicts), trật Chánh tam phẩm. Dưới các quan Hàn lâm học sĩ vẫn là các quan đã được đặt từ thời Đường cộng với các chức được đổi tên hoặc thêm như Trực học sĩ viện, Quyền trực học sĩ viện hoặc Quyền Hàn lâm học sĩ. Một chức mới được đặt ra là chức Biên tu quan (編修官, Junior Compiler), trật Chánh bát phẩm, giữ việc soạn quốc sử và thực lục, thuộc Quốc sử viện (國史院, Historiography Academy) và Thực lục viện (實錄院, True Records Institute). Ngoài ra, thời này còn có thêm chức Tả, Hữu Thuyết thư (說書, Lecturer), coi việc giảng nghĩa kinh sách. Riêng chức Thị thư: Việc hợp nhất Hàn lâm viện vào Nội thị sảnh. Thời Tống lại là thời mà danh từ Hàn lâm viện đã bị ngộ nhận nghiêm trọng qua việc dùng Hàn lâm viện để làm cơ quan chuyên trách các thú vui tao nhã trong triều đình. Do các vua Tống đều là những vị hoàng đế yêu thích nghệ thuật, Hàn lâm viện lại được biết đến là một cơ quan chuyên về văn hóa nghệ thuật hơn là cơ quan cố vấn việc quốc sự học học viện như thời Đường. Hàn lâm viện này (khác với Hàn lâm viện tương tự Học sĩ viện) được đặt dưới quyền điều hành của Nội thị sảnh (內侍省, Department of Service")." Thời này, Hàn lâm viện "("翰林院, Artisans Institute")" được biết đến với tên gọi là Tứ sở (四局, Four Artisan Services) do trong biên chế của viện, gồm bốn sở là sở thiên văn (天文局, Astrologer Service), sở đồ họa (圖畫局, Painter Service), sở thư nghệ (書藝局, Calligrapher Service), và sở Vụ Trá (騖笮局, Games & Tea Service). Việc làm này đã tạo nên những ngộ nhận ngày nay đánh đồng việc các Hàn lâm học sĩ thời này kiêm chức quan bói toán, hầu rượu, đãi trà, v.v. Thật ra, thời Tống, Hàn lâm viện có 2 ý nghĩa khác nhau. Hàn lâm viện (翰林院, Hanlin Academy) là Hàn lâm viện, như Học sĩ viện, chỉ về văn học, về các quan văn cao chữ tốt gồm 6 người rồi sau đó là 2 người dưới thời Tống Thần Tông. Còn Hàn lâm viện (翰林院, Artisans Institute), như Tứ sở (四局, Four Artisan Services) thì lại là một cơ quan của Nội thị sảnh, chuyên trách các hoạt động thú vui nghệ thuật trong cung đình, những cơ quan này lẫn các thuộc viên, chưởng quan không phải là Hàn lâm học sĩ. Thời Liêu, Kim, Nguyên. Thời Liêu, Kim, Nguyên, Hàn lâm viện được đổi thành Hàn lâm Quốc sử viện (翰林國史院, Hanlin and Historiography Academy), chuyên trách các việc học thuật Hàn lâm và biên soạn quốc sử, không liên quan đến các việc hành pháp và lập pháp. Các triều đại này đều lập Hàn lâm học sĩ nhưng địa vị thấp hơn thời Đường Tống. Thời Liêu, Kim, tương tự thời Đường, Tống, Hàn lâm viện có các quan Hàn lâm học sĩ được điều hành bởi 1 vị quan Hàn lâm học sĩ thừa chỉ (翰林學士承旨, Hanlin Academician Recipient of Edicts). Sau năm 1318 thời Kim, thăng trật Chánh nhị phẩm.] Thời Nguyên, Hàn lâm viện được điều hành bởi 6 quan Hàn lâm học sĩ thừa chỉ, trật Tòng nhất phẩm. Ngoài ra, triều đình còn cho lập một viện khác là Mông Cổ Hàn lâm viện (蒙古翰林院, Mongolian Hanlin Academy), là một cơ quan riêng biệt, chuyên trách việc soạn thảo các văn thư triều đình bằng tiếng Mông Cổ hoặc dịch thuật các văn thư bằng tiếng Mông Cổ qua các ngôn ngữ khác hoặc ngược lại. Thời này, Mông Cổ Hàn lâm viện và Hàn lâm Quốc sử viện là hai viện độc lập và có các trọng trách khác nhau. Thời Minh. Các thay đổi tại Hàn lâm viện. Thời Minh, Hàn lâm viện được tổ chức và chính thức nâng cấp thành một cơ quan với đầy đủ các chức vụ trong Hàn lâm viện như được biết đến ngày nay. Hàn lâm viện thời Minh có mối quan hệ rất chặt chẽ với việc thi cử, bộ Lễ, cùng vua và triều đình và vì vậy, tham gia vào việc chính sự xuyên suốt cả triều đại Minh. Thời này, Hàn lâm viện là nơi mà các tiến sĩ kỳ thi Đình đều nhắm đến và là bàn đạp quan trọng để các tiến sĩ gia nhập và thăng tiến mau chóng trong quan trường. Tuy vai trò của Hàn lâm viện giới hạn hơn trong việc hành pháp và lập pháp vào thời Minh so với thời Đường và Tống, nhưng bắt đầu từ đây, khi Hàn lâm viện, bộ Lễ, và Nội các là 3 cơ quan quan trọng kề cận các vị hoàng đế thời Minh, thì Hàn lâm viện là bàn đạp quan trọng cho các tiến sĩ trong những khoa thi cử gia nhập vào và thăng tiến mau trong quan trường. Thời này, Hàn lâm viện là điểm được bổ đến đầu tiên của các tiến sĩ đậu các khoa thi Đình. Theo luật nhà Minh: Thời này các quan trong Hàn lâm viện được vào tham khảo tài liệu trong Văn Uyên Các (文淵閣, Hall of Literary Profundity) là nơi văn phòng của các Đại học sĩ (大學士, Grand Secretaries), cũng là nơi mà các tài liệu bí mật quốc gia được lưu giữ. Biên chế. Hàn lâm viện thời này được điều hành bởi 1 vị quan Học sĩ (學士, Chancellor of the Hanlin Academy), trật Chánh tam phẩm, rồi Tòng tam phẩm, rồi Chánh ngũ phẩm Chức Hàn lâm học sĩ thừa chỉ từ thời Đường đến thời Nguyên không còn được dùng bắt đầu từ thời Minh sơ Chức Hàn lâm đãi chế được đặt năm 712 thời Đường đã được xóa bỏ thời Minh năm 1381 Dưới vị quan Hàn lâm học sĩ vẫn là các quan đã được đặt từ thời Đường như Thị độc học sĩ, Thị giảng học sĩ, Tu soạn, Biên tu, v.v.. Chức Trực học sĩ (直學士, Auxiliary Academician) đã có từ thời Đường được xóa bỏ vào thời sơ Minh năm 1381. Thời này, chức Điển Bạ (典簿, Manager of Registration) từ một chức quan nữ xem xét sổ sách phi tần trong hậu cung đổi thành chức thuộc quan lưu trữ văn kiện (典簿, Archivist), gia nhập Hàn lâm viện. Cùng thời, chức Ngũ kinh Bác sĩ (五經博士, Erudite of the Five Classics) được thay đổi gọi là Thế tập Ngũ kinh Bác sĩ (世襲五經博士, Hereditary Erudite of the Five Classics) do chức này bắt đầu từ thời Minh là chức tước ấm (爵蔭, Hereditary Nobility) bổ cho con cháu của các thánh hiền Nho học như con cháu đức Khổng tử. Chức Ngũ kinh Bác sĩ thời Đường trật Chánh ngũ phẩm, thời này đổi lại Chánh hoặc tòng tam phẩm. Số quan Thế tập Ngũ kinh Bác sĩ cũng tăng từ 2 lên 5 người. Thời Thanh. Các thay đổi tại Hàn lâm viện. Thời Thanh là thời mà số thuộc viên Hàn lâm viện tăng đáng kể. Tổng số thuộc viên làm việc tại Hàn lâm viện thời Thanh được biết đến là 6472 người. Thời này, Hàn lâm viện vẫn là một cơ quan học thuật danh vọng, nhưng không còn tham gia nhiều vào các việc quốc gia đại sự. Hàn lâm viện thời Thanh được giao giữ việc biên soạn quốc sử, ghi chép các câu, lời nói vua, điều hành việc giảng kinh truyện, thảo văn kiện liên quan đến nghi lễ. Như thời Minh, Hàn lâm viện thời Thanh là nơi mà các tiến sĩ bắt đầu xuất thân trên quan trường và hầu hết các trọng thần đều xuất thân từ Hàn lâm viện. Đến nỗi thời Đạo Quang, Hàm Phong, các thuộc quan Hàn lâm viện có thể từ chức Biên tu, Kiểm thảo trong vòng 10 năm thăng đến chức Thị lang (侍郎, Vice Minister) là chức điều hành một viện hoặc phủ, chỉ đứng dưới Thượng thư. Biên chế. Tương tự thời Minh, Hàn lâm viện thời Thanh được điều hành bởi Học sĩ. Nhưng vào thời Thanh, Hàn lâm học sĩ được chia cho 2 quan thay vì chỉ một quan như thời Minh. Chức Hàn lâm học sĩ thời Thanh được biết đến nhiều hơn với tên gọi chính thức là Hàn lâm viện Chưởng viện học sĩ (翰林院掌院學士, Academicians in Charge) Hai quan học sĩ này được lựa chọn từ Đại học sĩ hoặc Thượng thư, chọn 1 quan người Mãn, 1 quan người Hán, bổ chức Học sĩ kiêm hàm Lễ bộ Thị lang, trật Chánh nhị phẩm. Chức Học sĩ này được thành lập năm 1644, rồi lại nhập vào với Nội các đến 1670 đồng nghĩa với việc không có chức Học sĩ hoặc Chưởng viện học sĩ trong những năm này. Năm 1670,chức Chưởng quan được lập lại cho đến khi Hàn lâm viện bị bãi bỏ. Dưới 2 quan Hàn lâm học sĩ vẫn là các thuộc viên như Thị độc học sĩ, Thị giảng học sĩ, Thị độc, Tu soạn, Kiểm thảo, Điển bạ, Thự các sĩ, v.v. Thời này, cũng như thời Minh, Hàn lâm viện là nơi mà các tiến sĩ có thể thăng chức mau chốc trên quan trường. Theo luật thời Minh, Thanh: Chức Thị độc học sĩ thường được khảo lại sau 4 hoặc 5 năm. Những quan Thị độc học sĩ rớt sẽ bị xóa tên khỏi Hàn lâm viện. Chấm dứt. Năm Quang Tự 31 (1905), triều Thanh chính thức xóa bỏ khoa cử tại Trung Quốc, Hàn lâm viện cũng được bãi bỏ sau hơn cả ngàn năm được trọng vọng trong các triều đại Trung Hoa. Tại Trung Quốc. Dịch thuật. Năm Vĩnh Lạc 5 (1407) thời Minh, sau chuyến Tây Dương lần 1 của Trịnh Hòa, để giúp đỡ trong việc phiên dịch các thư từ, quà cống, cùng việc đón tiếp các sứ giả đến từ các nước sau chuyến Tây Dương, và để huấn luyện cho một bộ phận quan viên mới chuyên môn trong ngành dịch thuật, triều đình đặt ra một cơ quan chuyên dịch thuật với tên gọi là Tứ Di Quán (四夷館, lit. "Institute of the Four Barbarians," Translators Institute) bao gồm các ngôn ngữ tại các nơi mà đoàn tàu trong chuyến đi này đã đến, trong đó có cả tiếng Chăm. Tứ Di quán thời này trực thuộc Hàn lâm viện. Năm Hoằng Trị 9 (1496) thời Minh, Tứ Di quán tách rời khỏi Hàn lâm viện và được điều hành bởi Thái thường tự do quan phó Thái thường tự là Thái thường Thiếu khanh điều hành. Năm Càn Long 13 (1748), Tứ Di quán gộp lại cùng với Hội đồng quán (會同館, Interpreters Institute) thành một cơ quan riêng tên Hội đồng Tứ dịch quán (會同四譯館, Interpreters and Translators Institute, do quan Lang trung ty Chủ khách (主客司, Bureau of Receptions) cùng quan phó Hồng lô tự (鴻臚寺, Court of State Ceremonial), đồng điều hành. Trong quyết định thay đổi tên này, vua Càn Long đã đổi lại tên Tứ Di (四夷, rợ bốn phương) với ý nghĩa khinh miệt các sắc tộc khác ngoài Trung nguyên thành Tứ Dịch (四譯, dịch thuật các ngôn ngữ bốn phương) với ý nghĩa dịch thuật. Trong chữ Hán Quan thoại, cả Di và Dịch đều được phát âm giống nhau nên việc thay đổi không ảnh hưởng đến phát âm của tên viện, nhưng trong ngôn ngữ để viết, hai từ này đều có 2 nghĩa hoàn toàn khác nhau, việc thay đổi từ này là một thay đổi lớn và có ý nghĩa tôn trọng những sắc tộc khác ngoài Trung nguyên thời Thanh. Vụ hỏa hoạn Hàn lâm viện năm 1900. Trong cuộc bao vây khu vực Đại sứ quán các nước tại Bắc Kinh, việc nổi lửa của nghĩa quân Nghĩa Hòa Đoàn để đốt cháy khu đại sứ quán Anh đã dẫn đến việc thiêu cháy những tòa nhà của Hàn lâm viện trong cùng khu vực, thiêu hủy rất nhiều tài liệu quý giá xưa được lưu giữ tại Hàn lâm viện thời này. Trong cuộc hỏa hoạn này, phần lớn bản in duy nhất của bộ bách khoa toàn thư đồ sộ Vĩnh Lạc đại điển đã bị thiêu mất. Tại Việt Nam. Vị Hàn lâm học sĩ người Việt được biết đến sớm nhất trong lịch sử Việt Nam là Khương Công Phụ, người châu Ái quận Cửu chân. Ông vốn đã đậu tiến sĩ năm Quảng Đức 2 (764) thời Đường và được ban chức Hiệu thư lang (校書郎, Editor) trật Chánh cửu phẩm thượng, giúp việc soạn thảo văn kiện, làm việc tại kinh đô Trường An. Năm Kiến Trung nguyên niên (780) thời Đường, nhân vua Đường Đức Tông mở ân khoa tìm người hiền tài, hiến kế cải cách đất nước, ông đỗ khoa này, được thăng chức Hữu Thập di (右拾遺, Reminder) thuộc Trung thư sảnh (中書省, Secretariat) chỉnh sửa văn kiện, trật Tòng bát phẩm. Dịp này, ông còn được bang chức Hàn lâm học sĩ (翰林學士, Hanlin Academician) thuộc Hàn lâm viện. Thời Lý. Thời Lý, danh từ Hàn lâm được biết đến lần đầu tiên trong các triều đại Việt Nam. Theo "Kiến văn tiểu lục" của Lê Quý Đôn, chức Hàn lâm học sĩ đã được đặt vào thời Lý Thái Tông (1028-1054) cùng các chức vụ quan trọng khác Năm Quảng Hựu 2 (1086) thời Lý Nhân Tông, triều đình mở khoa thi cử tuyển lấy những người có học vấn cao, sung vào Hàn lâm viện. Trong kỳ thi này, Mạc Hiển Tích đỗ đầu và được bổ chức Hàn lâm học sĩ , "điều hành Hàn lâm viện". Số Hàn lâm học sĩ được phân định trong Hàn lâm viện thời này không rõ là bao nhiêu người. Thời Trần. Theo Lịch triều Hiến chương loại chí, mục "Quan chức chí", quan chế đời Trần có chức Hàn lâm học sĩ phụng chỉ và chức Hàn lâm viện học sĩ. "Việc này đồng nghĩa với chức Hàn lâm học sĩ phụng chỉ là chức chưởng quan, trên chức Hàn lâm viện học sĩ. Đây là 2 chức riêng biệt. Trường hợp Hồ Tông Thốc từ chức Hàn lâm viện học sĩ thăng Hàn lâm học sĩ phụng chỉ 14 năm sau là một ví dụ" Thời Trần Thánh Tông (1258-1279), mùa Xuân, tháng giêng, Hàn lâm viện học sĩ kiêm Giám tu quốc sử Lê Văn Hưu vâng sắc chỉ soạn xong bộ Đại việt sử ký từ Triệu Vũ đế đến Lý Chiêu Hoàng, gồm 30 quyển, dâng lên. Vua xuống chiếu khen ngợi. Năm Thiệu Long 10 (1267) thời Trần Thánh Tông, Đặng Kế (鄧薊) làm Hàn lâm viện học sĩ, Đỗ Quốc Tá làm trung thư sảnh trung thư lệnh, đều là nho sĩ văn học. Việc bổ nhiệm này là một sự kiện quan trọng trong các triều đại Việt Nam vì bắt đầu từ đây, người có văn học được giữ quyền bính trong triều đình Năm Thiệu Bảo 4 (1282) tháng 6 thời Trần Nhân Tông, nhà Nguyên Trung Quốc, trong chiến lược xâm lăng Việt Nam, phong chú vua Trần Nhân Tông là Trần Di Ái làm vua Trần, bổ Lê Mục làm Hàn lâm học sĩ, Lê Tuân làm Trung thư lệnh, về lại Đại Việt, nhưng nhà Trần sai binh đánh dẹp tại biên giới, bắt được tất cả, tha chết, xử vào tội đồ làm lính Cùng năm này tháng 10, thái sư Đinh Củng Viên được kiêm bổ chức Hàn lâm học sĩ phụng chỉ (翰林學士奉旨, Hanlin Academician Recipient of Edicts), "điều hành các quan Hàn lâm học sĩ cùng viện" Năm Hưng Long 14 (1305) thời Trần Anh Tông, vua sai Hàn lâm học sĩ Lê Tông Nguyên, Trung thị đại phu Bùi Mộc Đạc sang Nguyên đáp lễ Năm Hưng Long 16 (1308) thời Trần Anh Tông, Trương Hán Siêu được bổ chức Hàn lâm học sĩ Năm Thiệu Long 8 (1348) thời Trần Dụ Tông, mùa xuân, tháng giêng, lấy ngự tiền học sinh Đỗ Tử Bình làm thị giảng Năm Đại Trị 2 (1359) thời Trần Dụ Tông, bổ Lê Quát chức Hàn lâm học sĩ phụng chỉ Năm Thiệu Khánh 3 (1372) thời Trần Nghệ Tông, bổ Hồ Tông Thốc làm Hàn lâm học sĩ Năm Xương Phù 10 (1386) thời Trần Phế Đế, quan Hồ Tông Thốc được thăng chức Hàn lâm học sĩ phụng chỉ Năm Quang Thái 2 (1389) thời Trần Thuận Tông, lấy cựu Hàn lâm học sĩ Trần Tôn làm Thiếu bảo cùng gia thần là Nguyễn Khang làm phụ tá Thời Hồ. Năm Thiệu Thành nguyên niên (1401) thời Hồ Hán Thương, quan Nguyễn Phi Khanh (thân phụ Nguyễn Trãi) được bổ chức Hàn lâm học sĩ. Thời thuộc Minh. Năm Bình Định Vương 10 (1427), Bình Định Vương (tức vua Lê Thái Tổ sau này) lệnh bổ thuộc lại Hàn lâm viện và bốn đạo gồm 515 người. Cũng vào năm này, Bình Định Vương lấy Hàn lâm viện thừa chỉ học sĩ Nguyễn Trãi làm Triều liệt đại phu, Nhập nội hành khiển, Lại bộ thượng thư kiêm hành Khu mật viện sự. Việc phong này đồng nghĩa với việc nhà Lê dùng chức Hàn lâm viện thừa chỉ học sĩ (翰林院承旨學士) thay cho Hàn lâm học sĩ phụng chỉ (翰林學士奉旨) thời Trần. Cuối năm này, Bình Định Vương bổ Hàn lâm đãi chế (翰林待制, Hanlin Compiler-in-waiting) Lê Thiếu Dĩnh cùng 3 vị quan khác chức Thẩm hình viện sứ. Thời Lê Sơ. Biên chế. Các điểm cần lưu ý. Thời Lê sơ, từ thời Bình Định Vương đến hết thời Lê Trung Hưng, Hàn lâm viện được cải thiện từ các triều trước đó, dần dần được tổ chức hoàn chỉnh vào năm Hồng Đức nguyên niên (1470) thời Lê Thánh Tông, và được áp dụng đến hết thời Lê Trung Hưng. Dưới đây là các điểm cần lưu ý về Hàn lâm viện thời Lê sơ: Việc phong chức Chưởng viện từ thời Hồng Đức. Những năm về sau khoảng từ 1485 trở đi, triều Lê thường phong chức Hàn lâm viện "Chưởng viện sự" (翰林院掌院事, Chancellor of the Hanlin Academy) tức quan đứng đầu Hàn lâm viện cho các quan Hàn lâm viện thị độc hoặc Hàn lâm viện thị giảng, là 2 chức với trật Chánh, Tòng ngũ phẩm. Hai chức Hàn lâm viện thị độc, Hàn lâm viện thị giảng này nguyên là hai chức dưới chức Hàn lâm viện thừa chỉ, trật Chánh tứ phẩm thời Hậu Lê, đã được đặt từ thời Đường. Nhưng những năm về sau bắt đầu từ năm 1485, sử Việt ghi chép nhiều vị quan Hàn lâm viện thị độc, Hàn lâm viện thị giảng làm chưởng quan Hàn lâm viện. Việc phong chức này đưa đến những nghi ngờ về việc chức quan nào là chức chưởng quan Hàn lâm viện bắt đầu từ thời Hồng Đức trở đi cho đến hết thời Lê Trung Hưng. Các sách sử Việt đều không nhắc đến về vấn đề này. Ngay cả Lịch triều hiến chương lại chí của Phan Huy Chú, bộ sách được dùng bởi các học giả tra cứu về chức phẩm, xã hội thời Hồng Đức cũng không hề viết về vấn đề xung quanh việc phong chức chưởng viện này. Các câu hỏi được đặt ra: Đây là những câu hỏi nên được giải đáp thỏa đáng nhưng đến nay, dường như chưa có sách vở hoặc bài viết nào giải đáp các câu hỏi trên. Theo "Đại Việt sử ký toàn thư", chức Hàn lâm viện chưởng viện sự đã được nhắc đến qua các sự kiện sau: Theo suy luận từ dữ liệu trên từ Đại Việt sử ký toàn thư và từ dữ liệu về việc cải tổ thời Hồng Đức nguyên niên (1470) từ Lịch triều hiến chương loại chí, mục Quan chức chí: Tóm lại, việc phong chức chưởng viện sau năm 1485 là việc có thể suy đoán như trên dù chưa có sử sách hoặc bài viết nào viết về việc này. Cần lưu ý là dù có nhắc đến tên Hàn lâm viện chưởng viện sự, nhưng sử Việt như "Lịch triều hiến chương loại chí" không hề nhắc đến chức này trong phẩm trật thời Hồng Đức và thời Bảo Thái về sau. Dường như đây là chức Sai khiển (差遣, Duty Assignment), đã được áp dụng tại các triều đại Trung Hoa từ rất xưa. Tên chức trong Hàn lâm viện thời Lê sơ. Dưới đây là các tên chức với tiếng Việt, chữ Hán và tiếng Anh cùng với những giải thích về các chức này thời Lê sơ. Để biết thêm chức có hay không trong các triều Lê sơ, xem thêm tại các mục dưới thuộc các triều. Các chức Hàn lâm viện này được sắp xếp theo cấp bậc quan trọng của chức trong Hàn lâm viện, từ cấp cao nhất đến chức thấp nhất. Lưu ý: Tại Việt Nam, Hàn lâm viện được dùng gắn vào tên chức, khác với cách dùng tại Trung Quốc. Vì vậy, các chức dưới đều gắn Hàn lâm viện ngoại trừ các chức không kể đến như Chủ thư lệnh sử hoặc Nội lệnh sử. Ngoài ra, còn có các chức không thuộc Hàn lâm viện, nhưng liên quan đến viện: Hàn lâm viện trước năm 1470. Thời này, không rõ phẩm hàm các chức ra sao. Hàn lâm viện từ năm 1470. Lưu ý, thời Hồng Đức về sau (tức khoảng 1485 trở đi) còn có chức Hàn lâm viện chưởng phủ sự nhưng chức này không được phẩm trật thời Hồng Đức và thời Bảo Thái sau này. Dường như đây là chức Sai khiển (差遣, Duty Assignment). Theo Lịch triều hiến chương loại chí, mục Quan chức chí, chức vụ Hàn lâm viện thời này được viết rất rõ là: "Phàm các bài chế, biểu, thơ ca, văn thư, đều phụng mệnh sửa chữa; cùng là sự bầu cử ở triều đường chưa được hợp, đều được làm tờ trình lên" Ngoài ra, bắt đầu từ thời Hồng Đức, Hàn lâm viện còn có 3 quán trông coi về việc giáo dục: Năm Hồng Đức 23 (1492) thời Lê Thánh Tông, mùa đông, tháng 10, sai quan Hàn lâm làm khảo quan trong kỳ thi hương tại 4 ty thừa tuyên là Hải Dương, Sơn Nam, Tam Giang, Kinh Bắc, mỗi ty 4 viên. Quan Hàn lâm làm khảo quan thi hương bắt đầu từ đây. Quan trọng hơn hết, thời Lê Thánh Tông, mô phỏng biên chế thời Minh, đã ban các chức vụ trong Hàn lâm viện cho các vị tiến sĩ đệ nhất giáp (tam khôi) trong kỳ thi Đình. Sau này, thời Lê Trung Hưng, các tiến sĩ đệ nhị giáp và tam giáp trong kỳ thi Đình cũng được ban các chức vụ. Việc này đồng nghĩa với việc cuốn hút thêm các nhân tài từ tầng lớp sĩ tử qua việc gia nhập và thăng chức trong quan trường một cách nhanh chóng. Theo "Kiến văn tạp lục" của Lê Quý Đôn: "Khoảng niên hiệu Hồng Đức... Tiến sĩ vinh quy rồi lại trở về Kinh, lúc ấy triều đường mới bảo cử trao cho quan chức, trao chức lần đầu: Trạng nguyên được trao chức Thị giảng, Bảng nhãn chức Thị thư, Thám hoa chức đãi chế"", Hoàng giáp chức Hiệu lý; còn Tiến sĩ thì từ sau khi Trung Hưng, bắt đầu giao cho chức Giám sát, đến niên hiệu Bảo Thái lại theo chế độ cũ, bắt đầu trao cho chức Cấp sự trung; một người ít tuổi nhất được trao chức Hiệu thảo; người nào ứng thí chế khoa được trúng cách, cũng trao cho chức Hiệu thảo" Hàn lâm viện thời Lê Trung Hưng. Tương tự thời Hồng Đức nguyên niên (1470). Thời này, chức vụ Học sĩ tại các điện, viện được bãi bỏ, ngoại trừ chức Đông các học sĩ vẫn còn được giữ. Việc xóa bỏ chức Học sĩ này tại các điện, viện không liên quan đến Hàn lâm viện vì thời Hồng Đức, chức Học sĩ tại Hàn lâm viện đã được bãi bõ. Thời trước Lê Thánh Tông. Năm Thuận thiên 6 (1433) thời Lê Thái Tổ, mùa đông, tháng 11, Nguyễn Trãi vâng lệnh soạn văn bia Vĩnh Lăng, Hàn lâm viện đãi chế Vũ Văn Phỉ vâng lệnh viết chữ Năm Thiệu Bình 4 (1437) thời Lê Thái Tông, lấy Hàn lâm viện hiệu khám Nguyễn Khắc Trung làm Tây đạo đại tư mã nha chủ bạ Năm Thiệu Bình 4 (1437) thời Lê Thái Tông, lấy An phủ phó sứ lộ Nam Sách Thượng là Nguyễn Trực làm Hàn lâm viện thị giảng Năm Đại Bảo 3 (1442) thời Lê Thái Tông, sai Hàn lâm viện thị độc học sĩ kiêm tri ngự tiền học sinh cục cận thị chi hậu Nguyễn Thiên Tích soạn bài văn bia Hựu Lăng Năm Thái Hòa nguyên niên (1443) thời Lê Nhân Tông, sai Hàn lâm viện trực học sĩ Nguyễn Khắc Hiếu và các quan khác sang nhà Minh tạ ơn việc sách phong Năm Thái Hòa 6 (1448) thời Lê Nhân Tông, lấy Hàn lâm viện trực học sĩ Nguyễn Khắc Hiếu làm Thị giảng phụng thị kinh diên. Cùng năm, lấy Trạng nguyên Nguyễn Nghiêu Tư và Tiến sĩ Trịnh Kiêm làm Hàn lâm viện trực học sĩ và lấy Hàn lâm viện Trực học sĩ Nguyễn Khắc Hiếu làm Thị giảng phụng thị kinh diên Năm Thái Hòa 6 (1448) thời Lê Nhân Tông, lấy tiến sĩ Nguyễn Bá Ký làm Hàn lâm tri chế cáo Năm Thái Hòa 7 (1449) thời Lê Nhân Tông, sai Thượng thư Trình Dục, Hàn lâm viện trực học sĩ Trịnh Kiên đi sứ Chiêm Thành, mang thư sang dụ và đòi lại người nước ta trước ở Chiêm Thành. Cùng năm, lấy An phủ phó sứ lộ Nam Sách Thượng là Nguyễn Trực làm Hàn lâm viện thị giảng; An Phủ sứ lộ Quy Hóa là Nguyễn Như Đổ và An phủ phó sứ lộ Quốc Oai Hạ là Lương Như Hộc cùng làm Hàn lâm trực học sĩ; lộ giáo thụ Trình Bá Cung, Đào Phục Lễ cùng làm Giám sát ngự sử; Hàn lâm viện trực học sĩ Nguyễn Nghiêu Tư làm An phủ sứ lộ Tân Hưng; Thượng trung thư xá nhân Trịnh Thiết Trường làm An phủ sứ lộ Tân Hưng Hạ; Quốc tử giám giáo thụ Nguyễn Nhữ Bật làm An phủ phó sứ lộ Kiến Xương. Giáo thụ được bổ chức An phủ bắt đầu từ Nhữ Bật. Năm Thái Hòa 8 (1449) thời Lê Nhân Tông, sai Hàn lâm viện trực học sĩ Nguyễn Như Đổ và Quốc tử giám trợ giáo Đồng Hanh Phát làm phó sứ, sang nhà Minh nộp cống hàng năm. Năm Thái Hòa 11 (1452) thời Lê Nhân Tông, sai sứ sang nhà Minh. Chánh sứ Thẩm hình viện Phạm Du, phó sứ Hàn lâm viện trực học sĩ Nguyễn Bá Ký và Lễ bộ viên ngoại lang Chu Xa sang mừng việc lập Hoàng thái tử. Thời Lê Thánh Tông và về sau. Năm Quang Thuận 4 (1463) thời Lê Thánh Tông, sai Môn hạ sảnh ty tả gián nghị đại phu tri Bắc đạo quân dân bạ tịch kiêm Hàn lâm viện thừa chỉ học sĩ Nguyễn Như Đổ; Hàn lâm viện thừa chỉ học sĩ tri Đông đạo quân dân Nguyễn Vĩnh Tích; Quốc tử giám tế tửu Nguyễn Bá Ký làm độc quyển. Năm Quang Thuận 7 (1466) thời Lê Thánh Tông, sai Sùng tiến nhập nội tả đô đốc kiêm thái tử thiếu bảo Lê Cảnh Huy và quyền Chính sự viện thượng thư kiêm Cẩn Đức điện đại học sĩ thái tử tân khách Nguyễn Như Đổ làm đề điệu, Hàn Lâm viện đại học sĩ quyền ngự sử đài đô ngự sử đại phu Trần Bàn làm giám thí. Hàn lâm viện thừa chỉ Nguyễn Trực, Hàn lâm viện thừa chỉ quyền Hộ bộ hữu thị lang kiêm Cẩn Đức điện đại học sĩ nhập thị kinh diên tả xuân phường thái tử tả dụ đức Nguyễn Cư Đạo, Hàn lâm viện học sĩ hành Hải Tây đạo Tuyên chính sứ ty tham tri kiêm bí thư giám học sĩ Vũ Vĩnh Trinh làm độc quyển. Năm Quang Thuận 8 (1467) thời Lê Thánh Tông, Hàn lâm viện trực học sĩ quyền Công khoa cấp sự trung Lương Thế Vinh hặc tội Trấn điện tướng quân Bùi Huấn. Cùng năm này, bắt đầu đặt Ngũ kinh bác sĩ. Bấy giờ các giám sinh học Kinh Thi, Kinh Thư thì nhiều, học Lễ Ký, Chu Dịch, Xuân Thu thì ít, cho nên đặt chức Ngũ kinh bác sĩ, mỗi người chuyên nghiên cứu một kinh để dạy học trò. Năm Quang Thuận 8 (1467) thời Lê Thánh Tông, ngày Mậu Dần 14, lấy Hàn lâm viện thị độc học sĩ hành Lại khoa đô cấp sự trung Trịnh Thiết Trường làm Hàn lâm thị giảng học sĩ quyền Công bộ hữu thị lang, quyền Quốc Oai đẳng xứ tán trị thừa tuyên sứ ty tham chính Năm Quang Thuận 8 (1467) thời Lê Thánh Tông, lấy Hàn lâm viện thị độc học sĩ quyền Ngự sử đài phó đô ngự sử Đào Tuấn làm Thái học tự khanh quyền An Bang đẳng xứ tán trị thừa tuyên sứ ty tham chính trị bản vệ quân sự Năm Quang Thuận 10 (1469) thời Lê Thánh Tông, Hàn lâm viện trực học sĩ Nguyễn Đức Trinh, Quách Đình Bảo làm độc quyển. Cùng năm này, lấy Thân Nhân Trung làm Hàn lâm viện thị độc; Đàm Tông Lễ làm Hàn lâm viện hiệu lý; Đinh Thức Thông làm Hàn lâm viện trực học sĩ. Sai Thái bảo bình chương quân quốc trọng sự kiêm Đề điệu Quốc tử giám Lê Niệm và nguyên Lại bộ thượng thư Nguyễn Như Đổ làm đề điệu; Đại lý tự khanh quyền Hình bộ hữu thị lang Dương Chấp Trung làm giám thí; Hàn lâm viện thừa chỉ Nguyễn Trực, Hàn lâm viện đại học sĩ thự viện sự kiêm Quang lộc tự khanh đồng tri kinh diên sự Vũ Vĩnh Ninh; Hàn lâm viện trực học sĩ Nguyễn Đức Trinh, Quách Đình Bảo làm độc quyển. Năm Hồng Đức 15 (1484) thời Lê Thánh Tông, bọn từ thần là Hàn lâm viện thừa chỉ Đông các đại thần học sĩ Thân Nhân Trung, Hàn lâm viện thị độc Đông các hiệu thư Đào Cử, Đàm Văn Lễ, Ngô Luân, Hàn lâm viện thị thư kiêm Tú lâm cục tư huấn Nguyễn Đôn Hậu, Hàn lâm viện thị thư kiêm Sùng văn quán Tú lâm cục tư huấn Lương Thế Vinh, Đông các hiệu thư Lê Tuấn Ngạn, Hàn lâm viện thị độc kiêm Tú lâm cục tư huấn Nguyễn Xung Xác chia nhau soạn văn bia. Bọn Trung thư giám chính tự Nguyễn Tủng và Thái Chúc Liêm cùng điển thư Phạm Lý vâng sắc chỉ viết chữ. Kim quang môn đãi chiếu Tô Ngai vâng sắc chỉ viết chữ triện. Năm Hồng Đức 16 (1485) thời Lê Thánh Tông, lấy Lê Quảng Chí làm Lễ bộ tả thị lang kiêm Hàn lâm viện chưởng viện sự. Năm Hồng Đức 20 (1489) thời Lê Thánh Tông, lấy Lưu Hưng Hiếu làm Hàn lâm viện thị giảng tham chưởng Hàn lâm viện sự Năm Cảnh Thống 2 (1502) thời Lê Hiến Tông, sai Lễ bộ thượng thư kiêm Hàn lâm viện thị độc, trưởng Hàn lâm viện sự Nguyễn Bảo và các quan khác làm độc quyển Năm Đoan Khánh 2 (1506) thời Lê Uy Mục, khởi phục Đỗ Nhân là Lễ bộ hữu thị lang kiêm Hàn lâm viện thị độc, Tham chưởng Hàn lâm viện sự, vì nhân về nghỉ tang mẹ vừa hết trở Năm Hồng Thuận 2 (1510) thời Lê Tương Dực, cho Hàn lâm viện thị độc tham chưởng Hàn lâm viện sự Lương Đắc Bằng làm Lại bộ tả thị lang Năm Hồng Thuận 8 (1516) thời Lê Tương Dực, Trịnh Duy Sản giết vua và quan Hàn lâm thừa chỉ Nguyễn Vũ Năm Quang Thiệu 20 (1520) thời Lê Chiêu Tông, lấy Nguyễn Hữu Nghiêm làm Hàn lâm viện chưởng viện sự Thời Mạc. Thời Mạc, Hàn lâm viện dường như được tổ chức tương tự thời Hồng Đức (1470) Dù việc khoa cử rất thịnh hành thời Mạc, là triều đại với 11 trên tổng số 45 vị Trạng nguyên qua các đời Trần, Lê, Mạc, các sách vở về tổ chức hành chính về triều Mạc gần như không có hoặc không còn. Nếu có, những sách vở này đều là chữ Hán hoặc nằm trong giới hạn cộng động nghiên cứu sử học Việt Nam. Ngày nay, khi nhắc đến tổ chức hành chính triều Mạc, phần lớn đều cho rằng tổ chức hành chính của triều đại này tương tự thời Lê Thánh Tông, mặc dù triều Mạc có bề dày trên 150 năm, trong đó có 65 năm tại Kinh đô Thăng Long và những năm còn lại tại Cao Bằng Thời Trịnh - Nguyễn phân tranh. Tại Đàng Ngoài. Tại Đàng Ngoài, Hàn lâm viện dường như được tổ chức tương tự thời Hồng Đức (1470). Thời này tương tự thời Hồng Đức, tiếp tục không đặt chức Học sĩ Năm Cảnh Trị 9 (1671) thời Lê Huyền Tông, lệ cũ từ thời Hồng Đức (1470), Hàn lâm viện thừa chỉ Chánh tứ phẩm, Hàn lâm viện thị độc Chánh ngũ phẩm, giờ thăng cả hai chức này dưới chức thị lang, đồng trật Tòng tam phẩm Thời Bảo Thái (1720-1729) thời Lê Dụ Tông, chúa Trịnh Cương nắm quyền, quan chế Hàn lâm viện được quy định phẩm trật như sau: Theo bảng phẩm trật trên, các chức dưới đây là những chức thay đổi / xoa bỏ hoặc chưa có từ thời Hồng Đức (1470) Một điều đáng để ý về phẩm trật thời Bảo Thái là không có chức Hàn lâm viện chưởng viện sự. Chức Hàn lâm viện chưởng viện sự cuối cùng được biết tại Đàng Ngoài là vào năm Vĩnh Thọ 4 (1661) thời Lê Thần Tông, khi Hàn lâm thị giảng chưởng Hàn lâm viện sự Dương Trí Trạch về trí sĩ. Không biết từ đây (1661) đến hết thời Trịnh (1789), chức Hàn lâm viện chưởng viện sự còn không. Ngoài ra, mặc dù thời Bảo Thái có bang phẩm trật chức Hàn lâm viện Thừa chỉ, nhưng từ thời Lê Chiêu Tông (1516) trở về sau đến hết thời Trịnh, không còn thấy sử Việt chép về một Hàn lâm viện thừa chỉ nào nữa, ngoại trừ vào năm Cảnh Hưng 24 (1764) thời chúa Trịnh Doanh, có Bùi Trọng Huyến giữ chức hàn lâm viện thừa chỉ, vì phạm tội, bị bãi chức Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Theo bản dịch tiếng Việt quyển Đại Việt sử ký toàn thư, năm Quang Hưng 18 (1595) thời Lê Thế Tông, có bề tôi cũ của họ Mạc là "Hàn lâm học sĩ" Nguyễn Thì Dự người huyện Đông Ngàn, dấy quân chiếm giữ huyện. Tuy nhiên, chức Hàn lâm học sĩ đã được bãi bỏ thời Hồng Đức (1470), có lẽ chữ đáng dùng là quan Hàn lâm thời Mạc là Nguyễn Thì Dự. Nếu thật sự nhà Mạc tái lập chức Hàn lâm học sĩ như được viết trong bản chữ Hán, đây là một khám phá thú vị về triều đại đầy tranh cãi này Năm Đức Long 4 (1632) thời chúa Trịnh Tráng, triều đình gia thăng Lễ bộ thượng thư kiêm Hàn lâm viện thị độc chưởng Hàn lâm viện sự, Đông các học sĩ, quốc lão tham dự triều chính, Thiếu uý Lan quận công Nguyễn Thực làm thái bảo Năm Vĩnh Thọ 4 (1661) thời chúa Trịnh Tạc, gia phong Hộ bộ thượng thư kiêm Hàn lâm viện thị giảng chưởng Hàn lâm viện sự Thiếu bảo Bạt quận công Dương Trí Trạch làm Lại bộ thượng thư quốc lão thái bảo cho về trí sĩ Năm Cảnh Trị 3 (1665) thời chúa Trịnh Tạc, lấy Hàn lâm viện thị giảng Đặng Công Chất làm Công bộ hữu thị lang, Vũ Công Bình, Ngô Sách Dụ làm Hàn lâm viện hiệu thảo Năm Cảnh Trị 6 (1668) thời chúa Trịnh Tạc, cho Quốc tử giám tư nghiệp Tuy lộc bá Nguyễn Quang Nhạc thăng Hàn lâm viện thị độc, về trí sĩ Năm Long Đức 3 (1734) thời chúa Trịnh Giang, sai Hàn lâm viện thị giảng "học sĩ", và Lý Học Dụ. Binh khoa cấp sự trung, sang sách phong và dụ bảo việc ban lễ tế Dụ Tông Năm Cảnh Hưng 36 (1775) thời chúa Trịnh Sâm, khởi phục Ngô Thì Sĩ giữ chức hiệu lý trong viện Hàn lâm Tại Đàng Trong. Tại Đàng Ngoài, Hàn lâm viện dường như được tổ chức tương tự thời Hồng Đức (1470). Thời này tương tự thời Hồng Đức, tiếp tục không đặt chức Học sĩ. Hàn lâm viện thời này có lẽ chỉ một hoặc vài quan. Những năm đầu từ khi tách rời khỏi Đàng Ngoài vào năm 1558, các chúa Nguyễn tránh tiếng tiếm quyền vua nên không lập Hàn lâm viện, lập chức Văn chức là chức thay mặt cả cơ quan Hàn lâm viện tại Đàng Trong. Năm Hoằng Định 19 hoặc Vĩnh Tộ nguyên niên (1619), có Nguyễn Hữu Dật, 16 tuổi, vì có văn học được bổ làm văn chức. Thời này, Văn chức là cơ quan lẫn tên chức duy nhất tương tự Hàn lâm viện tại Đàng Trong. Năm Cảnh Hưng 5 (1744) thời chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát, đổi văn chức làm Hàn lâm viện Bắt đầu từ đây đến hết thời Nguyễn Gia Long (1820), chức Hàn lâm viện (cũng là tên cơ quan Hàn lâm viện) là tên chức chung đặt cho các quan khi được sung vào Hàn lâm viện, không có chức nào khác trong Hàn lâm viện. Sau này thời Nguyễn Gia long, chức Hàn lâm viện (cũng là tên cơ quan Hàn lâm viện) vẫn là tên chức chung đặt cho các quan khi được sung vào Hàn lâm viện cho đến khi bổ một chức vụ khác trong Hàn lâm viện như Hàn lâm viện thị giảng hoặc được bổ thẳng vào chức Hàn lâm chế cáo không qua chức Hàn lâm viện. Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Năm Cảnh Hưng 7 (1746) thời chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát, lấy Nguyễn Quang Tiền làm Hàn lâm viện. Dùng Hàn lâm viện Nguyễn Quang Tiền làm Ký lục dinh Quảng Nam Năm Cảnh Hưng 28 (1767) thời chúa Định Vương Nguyễn Phúc Thuần, lấy Hàn lâm viện thị giảng Trần Phước Thành làm Ký lục Năm Cảnh Hưng 33 (1772) thời chúa Định Vương Nguyễn Phúc Thuần, lấy Hàn lâm viện Trần Đình Hiến (con Trần Đình Hý) làm Ký lục dinh Quảng Nam Thời Tây Sơn. Triều Tây Sơn là một triều đại ngắn, nhưng đầy oai hùng trong lịch sử Việt Nam với những trận đánh thần kỳ dẹp Thanh đuổi Xiêm. Nhưng tương tự triều Mạc, tổ chức hành chính thời Tây Sơn không được chép lại hoặc biết đến trong chính sử Việt. Phần lớn các quan văn thời Tây Sơn là các quan thời Lê Trung Hưng như Ngô Thì Sĩ, Phan Huy Ích. Trong hơn 20 năm liên tục chinh chiến, nhà Tây Sơn tổ chức được 1 khoa thi Hương năm 1789. Theo Đại Nam liệt truyện, quan chế thời Tây Sơn không thể xét được, sách dẫn "Dã sử tạp lý", suy đoán triều Tây Sơn có viện Hàn lâm và các cơ quan trung ương khác Theo bài nghiên cứu này từ Viện sử học Việt nam, từ những dữ liệu Viện sử học đã thu thập được và từ các sách hoặc bài viết khác về triều Tây Sơn, quan chế Lục bộ, sảnh, viện, v.v đã được lập thời này, trong đó có Hàn lâm viện với các Hàn lâm trực học sĩ như Ngô Vi Quỹ, Đoàn Nguyễn Tuấn, Ninh Tốn, Nguyễn Thế Lịch, Nguyễn Công, Nguyễn Thiện, Phan Tố Định, Bùi Dương Lịch. Tuy nhiên, bài viết chưa đưa ra các bằng chứng nghiên cứu như văn từ, sách sử để minh chứng cho việc nhận định triều Tây Sơn đã thành lập hoàn chỉnh một tổ chức chính quyền trung ương với đủ các Lục bộ, sảnh, viện, v.v. Theo "Khâm Định Việt sử thông giám cương mục", năm 1788, Nguyễn Huệ dùng Nguyễn Du và Nguyễn Bá Lan làm Hàn lâm trực học sĩ, để ở lại cùng làm việc với Ngô Văn Sở. Thời Nguyễn. Triều Nguyễn là triều đại quân chủ cuối cùng tại Việt Nam và cũng là triều đại có đầy đủ dữ liệu nhất về các chức quan và phẩm trật. Phần lớn các sách viết về triều Nguyễn đều lấy thời Minh Mạng (1820-1840) làm cột chuẩn vì thời này, quan chế và phẩm trật trong triều đình được cải tổ và chỉnh đốn rất hoàn chỉnh. Quan chế này đã được áp dụng đến cuối triều Nguyễn vào giai đoạn 1940-1945 sau này. Biên chế. Trước năm 1804. Trong thời nội chiến Tây Sơn - chúa Nguyễn (1787-1802), tại miền Nam Việt Nam, chúa Nguyễn Ánh cải tổ quan chế Hàn lâm viện được lập năm 1744 thời chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát. Thời này như các thời trước, không có hàm Học sĩ trong Hàn lâm viện. Không rõ phẩm trật. Các chức tại Hàn lâm viện từ cao đến thấp được biết đến như sau: Thời 1804 đến 1820. Năm Gia Long 3 (1804), triều đình đặt lại các chức và phẩm trật. Tức cả các chức trong Hàn lâm viện đều có chung trật là Chánh ngũ phẩm. Các chức được liệt kệ như sau: Thời Gia Long, tuy có chức Học sĩ, Trực học sĩ nhưng các chức này không thuộc Hàn lâm viện mà thuộc các viện, điện khác như Thị trung trực học sĩ, Thị trung học sĩ, Trực học sĩ các điện, Học sĩ các điện Lưu ý, theo "Từ điển chức quan Việt Nam", Đỗ Văn Ninh, 2002, chức Cống sĩ viện thuộc Hàn lâm viện tức Hàn lâm viện Cống sĩ viện, trật Tòng lục phẩm. Không hiểu dữ liệu này lấy từ đâu. Trong cuộc cải tổ trên (năm 1804), toàn bộ các chức trong Hàn lâm viện (chức thấp nhất là Hàn lâm viện) đều được bang trật Chánh ngũ phẩm, vì vậy việc chức Cống sĩ viện thuộc Hàn lâm viện lại được bang trật Tòng lục phẩm không giống trật dành cho các chức Hàn lâm viện trên là một việc có lẽ không đúng. Trong "Đại Nam thực lục", thời Gia Long, chưa bao giờ chức Cống sĩ viện được gắn thêm với cơ quan Hàn lâm viện (Hàn lâm viện Cống sĩ viện). Chức thấp nhất trong Hàn lâm viện thời này là Hàn lâm viện. Ngoài ra, vào năm Gia Long 13 (1814), triều đình còn có thêm chức Hàn lâm viện Trực giảng (翰林院直講, Hailin Lecturer). Chức Trực giảng nguyên là chức được đặt ra thời Đường, phụ trách việc giảng dạy, thường triều đình đặt 4 Trực giảng tại Quốc tử giám, chức được xem là thấp hơn chức Phụng chỉ (奉旨) hoặc Trợ giáo (助敎, Instructor). Theo "Đại Nam Thực Lục", ""năm Gia Long 15 (1816), Hàn lâm viện trực giảng là Phan Đắc Lân, Nguyễn Đăng Tài, Nguyễn Đăng Tuân và Hàn lâm viện Nguyễn Khánh đều sung chức Thị giảng", vậy có thể suy đoán theo cải tổ năm Gia Long 3 (1804) và việc sung chức này, chức Hàn lâm viện Trực giảng năm 1816 có lẽ cùng chung trật Chánh ngũ phẩm như các chức Hàn lâm viện khác. Tuy nhiên trước đó, năm Gia Long 13 (1814), triều đình "lấy Hàn lâm viện trực giảng là Hoàng Kim Hoán làm Thiêm sự Binh bộ, Tri huyện Bồng Sơn là Nguyễn Kim Truy làm Thiêm sự Công bộ"". Chức Thiêm sự các bộ thời này theo cải tổ năm Gia Long 3 (1804) là Chánh tứ phẩm. Vậy việc thuyên chuyển này có lẽ là việc thăng chức chăng? Thời Minh Mạng (1820-1840). Thời Minh Mạng, các cuộc cải tổ quan chế lẫn tổ chức hành chính từ trung ương đến địa phương được thực hành triệt để. Quan chế thời Minh Mạng là quan chế hoàn chỉnh nhất trong các triều đại Việt Nam. Những thay đổi trước cuộc cải tổ 1827. Hàn lâm viện từ năm Minh Mạng nguyên niên (1820) đến trước cuộc cải tổ năm Minh Mạng 8 (1827) đã có những thay đổi như sau: Những thay đổi trong cuộc cải tổ 1827. Hàn lâm viện trong cuộc cải tổ tháng 8 năm Minh Mạng 8 (1827) đã có những chuẩn định việc phẩm trật như sau: Lưu ý, trong cuộc cải tổ này, chức Hàn lâm viện Thừa chỉ, vốn là chức cao nhất trong Hàn lâm viện, giờ là chức hạng trung, dưới Hàn lâm viện Thị độc Ngoài ra, nếu để ý, ta có thể nhận định từ cuộc cải tổ này, các chức sau trong Hàn lâm viện có từ thời Gia Long đã được bãi bỏ: Về chức Điển tịch. Lưu ý, trong cuộc cải tổ này, chức Điển tịch không thuộc Hàn lâm viện. Chức điển tịch trong cuộc cải tổ này là chức Quốc tử giám điển tịch, không liên quan đến Hàn lâm viện. Theo "Đại Nam thực lục", Nhà xuất bản Giáo dục, 2001, tập 2, Điển tịch là chức thuộc Quốc tử giám. Sách ghi: "...Minh Mạng nguyên niên (1820), đặt Điển tịch (trật Tòng thất phẩm) và Phó điển tịch (trật Chánh bát phẩm) hiệu Lễ sinh ở Văn Miếu, mỗi chức một người..." "...Minh Mạng 8 (1827), bắt đầu đặt viên dịch ở Quốc tử giám: Giám thừa 2 người trật Chánh thất phẩm, Điển bạ 2 người trật Tòng bát phẩm, Điển tịch 2 người trật Tòng cửu phẩm, Vị nhập lưu thư lại 10 người..." Theo dẫn chứng từ "Đại Nam thực lục" trên, Quốc tử giám có 2 chức là Quốc tử giám Điển bạ và Quốc tử giám Điển tịch. Trong cuộc cải tổ năm Minh Mạng 8 (1827), chức Quốc tử giám Điển bạ được trật Tòng bát phẩm như chức Hàn lâm viện Điển bạ. Còn chức Quốc tử giám Điển tịch có trật là Tòng cửu phẩm như chức Hàn lâm viện Đãi chiếu. Tuy nhiên, trong bản dịch tiếng Việt "Đại Nam thực lục", Nhà xuất bản Giáo dục, 2001, tập 2, khi liệt kệ các chức trong cuộc cải tổ năm Minh Mạng 8 (1827), chức Quốc tử giám Điển tịch đã bị mất đi chữ tịch, nên câu lại trở thành "Tòng cửu phẩm: Hàn lâm viện Đãi chiếu, Quốc tử giám điển, Thái y viện ngoại khoa y sinh", gây nên sự ngộ nhận khi tra cứu. Hàn lâm viện Điển tịch là một trong số những quan viên tham gia vào việc chép bộ sử "Đại Nam thực lục". Vì vậy, chức Điển tịch thật sự thuộc Hàn lâm viện nhưng chức được phong là chức Hàn lâm viện từ thời nào sau cuộc cải tổ này thì vẫn chưa rõ. Thời Tự Đức (1847 - 1883). Thời này, tuy không thay đổi về việc thêm hoặc bãi bỏ chức tại Hàn lâm viện, nhưng lệnh bổ tiến sĩ trong những khoa thi cử vào Hàn lâm viện được thay đổi nhiều lần. "Lưu ý, nhiều bài viết, sách vở ghi chép thời Tự Đức các lệnh bổ những tiến sĩ vào trong các chức Thị độc, Thị giảng, v.v. là đồng nghĩa với việc bổ vào chức Hàn lâm viện Thị độc hoặc Hàn lâm viện Thừa chỉ, v,v. Việc nhận định này không đúng hoàn toàn. Các chức trên từ Thị độc học sĩ đến chức Kiểm thảo hoặc thấp hơn không chỉ được lập tại Hàn lâm viện mà còn ở những viện học thuật hoặc văn phòng khác như Tập hiền viện. Vì vậy, thời này, khi triều đình bổ một vị tiến sĩ hàm Thị độc, không có nghĩa là vị tiến sĩ ấy thụ hàm Hàn lâm viện Thị độc, mà có thể vị tiến sĩ với chức này sẽ được triều đình xem xét rồi bổ vào các cơ quan theo yêu cầu, trong đó có thể có Hàn lâm viện." Theo Đại Nam Thực Lục, thời Tự Đức, có 2 lần thay đổi lớn về lệnh bổ vào Hàn lâm viện cho các tiến sĩ như sau: Thời Tự Đức 18 (1865). Định rõ lại lệ bổ quan cho những cử nhân trúng các kỳ thi khoa cử Định rõ lại lệ cho các tôn sinh trúng các kỳ thi khoa cử ("khi đậu, được thụ hàm 1 trật cao hơn so với các cử nhân đậu cùng hạng") Đĩnh rõ lại lệ cho các Giáo thụ và các quan có trật chánh, tòng thất phẩm trúng các kỳ thi khoa cử Đĩnh rõ lại lệ cho các Huấn đạo và các quan có trật chánh, tòng bát phẩm trở xuống trúng các kỳ thi khoa cử Những lệ này được ghi trong "Đại Nam thực lục"", Nhà xuất bản Giáo dục, 2001, quyển 7" như sau: "Định rõ lại lệ bổ quan cho những viên tiến sĩ và phó bảng. (Cử nhân, giám sinh mà trúng nhất giáp, đệ nhất danh, [tức Đình nguyên]" "bắt đầu thụ hàm thị độc; đệ nhị danh [tức bảng nhãn], bắt đầu thụ hàm thừa chỉ, đợi Chỉ kén dùng; đệ tam danh [tức thám hoa] bắt đầu thụ hàm trước tác, lập tức bổ ngay tri phủ. Trúng nhị giáp, bắt đầu thụ hàm tu soạn, đầy 1 năm cho đi tri phủ. Trúng tam giáp, bắt đầu thụ hàm biên tu, đầy 1 năm thăng bổ chủ sự, cho đi thự tri phủ, lại đầy 1 năm nữa được thực thụ. Trúng phó bảng, thụ hàm kiểm thảo, đầy 1 năm thăng tri huyện, thự đồng tri phủ, hoặc thự đồng tri phủ lĩnh huyện đứng đầu trong tỉnh, lại đầy năm nữa được thực thụ." "- ấm sinh cùng với cử nhân, giám sinh giống nhau." "- Tôn sinh trúng nhất giáp đệ nhất danh, bắt đầu thụ hàm thị giảng học sĩ; trúng đệ nhị danh, bắt đầu thụ hàm thị độc; trúng đệ tam danh, bắt đầu thụ hàm thừa chỉ. Trúng nhị giáp, bổ thụ hàm trước tác, tức thì bổ tri phủ. Trúng tam giáp, cùng với cử nhân trúng nhị giáp giống nhau. Trúng phó bảng cùng với cử nhân trúng tam giáp giống nhau." "- Giáo thụ cùng với chánh, tòng thất phẩm, trúng nhất giáp, cùng với tôn sinh giống nhau. Trúng nhị giáp cùng với cử nhân trúng nhất giáp đệ tam danh giống nhau. Trúng tam giáp cùng với cử nhân trúng nhị giáp giống nhau. Trúng phó bảng, thăng thụ hàm tu soạn, đầy 1 năm bổ đồng tri phủ." "- Huấn đạo cùng chánh, tòng bát phẩm trở xuống trúng nhất giáp, nhị giáp, tam giáp, phó bảng, cùng với cử nhân, giám sinh dự trúng giống nhau)." Thời Tự Đức 30 (1877). Thời này, vua lệnh thăng thêm 1 trật cho các tôn sinh, công tử trúng các kỳ thi khoa cử. Ví dụ, trước đây khi tôn sinh trúng Đình Nguyên được thụ hàm Thị giảng học sĩ, thì bắt đầu từ đây, tôn sinh trúng Đình Nguyên được thụ hàm Thị độc học sĩ, cao hơn chức Thị giảng học sĩ một trật. Những lệ này được ghi trong "Đại Nam thực lục"", Nhà xuất bản Giáo dục, 2001, quyển 8" như sau: "Tháng 2, định lại lệ công tử và tôn sinh thi đỗ bổ quan. Dụ rằng: Nhà nước dùng khoa mục để lấy nhân tài, tuỳ thứ bậc mà cho phẩm hàm, tuy con của hoàng thân, vương công, cũng bắt phải học sách cổ rồi mới ra làm quan, mong cho không hư phụ giáo dục, công tử, tôn sinh thi đỗ bổ quan, chiểu theo lệ định (tôn sinh thi đỗ tú tài sơ thụ chánh bát phẩm, công tử sơ thụ kiểm thảo; tôn sinh đỗ cử nhân sơ thụ kiểm thảo, công tử sơ thụ biên tu; tôn sinh đỗ phó bảng sơ thụ biên tu, công tử sơ thụ tu soạn; tôn sinh đỗ tam giáp đồng tiến sĩ sơ thụ tu soạn, công tử sơ thụ trước tác; tôn sinh đỗ nhị giáp tiến sĩ sơ thụ trước tác, công tử sơ thụ thị giảng; đỗ nhất giáp thì: công tử đặc cách bổ dụng, tôn sinh thì tên thứ 3 sơ thụ thừa chỉ, tên thứ 2 sơ thụ thị độc, tên thứ nhất sơ thụ thị giảng học sĩ) đã ngụ ý khuyến khích, nhưng gần đây ít chăm nghiệp học, phần nhiều say đắm vui chơi, nếu không cổ vũ, thì không chịu cố gắng. Nay chiểu nghị trước đều cho lên một trật, để biết triều đình hậu đãi, tiến đức tu nghiệp, được thành tài nhiều là điều rất mong của trẫm." Thời Pháp thuộc (1885 - 1945). Từ đây đến hết năm 1945, triều Nguyễn, triều đại quân chủ cuối cùng tại Việt Nam, chỉ còn điều hành Trung Kỳ dưới sự bảo hộ của chính quyền thuộc Pháp. Hàn lâm viện vẫn tiếp tục việc soạn thảo văn kiện triều đình và phụ giúp việc biên soạn quốc sử, thực lục, điển lệ. Tại Bắc Việt, chính quyền thuộc Pháp lập Hàn lâm viện Bắc Kỳ (Académie Tonkinoise) năm 1886 nhưng bãi bỏ viện này sau khi thống sứ Bắc kỳ là Paul Bert qua đời vào cuối năm 1886. Chấm dứt. Năm Bảo Đại 20 (1945), hoàng đế triều Nguyễn là Bảo Đại tuyên bố thoái vị, chấm dứt chế độ quân chủ tại Việt Nam. Hàn lâm viện cũng được bãi bỏ sau hơn cả ngàn năm được trọng vọng trong các triều đại Việt Nam. Cống hiến. Là cơ quan với các học sĩ có trình độ học vấn cao nhất trải qua các triều đại, Hàn lâm viện đã để lại những cống hiến to lớn trong văn học, nghệ thuật trong các triều đại quân chủ Á Đông. Những chiếu lệnh ra quân oai hùng, các áng văn lịch sử vàng son đều phần lớn có sự giúp đỡ gián tiếp hoặc được trực tiếp soạn thảo bởi các học sĩ Hàn lâm viện. Tại Trung Quốc, những nhà thơ, văn, chính trị gia nổi tiếng đều phần lớn đã từng phụ trách các công việc trong Hàn lâm viện. Những tên tuổi của các vị học sĩ thời Đường như Lý Bạch, Bạch Cư Dị, Âu Dương Tu đã để lại cho đời những bài thơ Đường bất hủ. Tại Việt Nam, Nguyễn Trãi, vị đại thần triều Lê sơ, sau cuộc chiến thắng của người Việt trong cuộc kháng chiến chống Minh năm 1428, đã soạn thảo bài cáo Bình Ngô Đại Cáo oai hùng, với những câu mở đầu đầy tự hào mà người Việt Nam nào cũng đã từng ít nhất một lần trong đời đọc qua "Từng nghe: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, Quân điếu phạt trước lo trừ bạo, Như nước Đại Việt ta từ trước, Vốn xưng nền văn hiến đã lâu...". Trong công việc biên soạn quốc sử, thực lục, Hàn lâm viện cũng đã để lại những bộ sử đồ sộ mà cho đến nay, các bộ sử này vẫn còn giá trị trong việc nghiên cứu về kinh tế và xã hội xưa. Tại Trung Quốc, Hàn lâm viện đã cống hiến những bách khoa toàn thư như Vĩnh Lạc đại điển, Tứ khố toàn thư. Tại Việt Nam, Hàn lâm viện và sau này cùng với cơ quan Quốc sử quán, đã cống hiến những bộ sử rất giá trị như Đại Việt sử ký toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí, Đại Nam thực lục, Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ, Đồng Khánh dư địa chí, v.v.
1
null
Axit Wolframic (hay còn gọi là Axit Tungstic) là các dạng hydrat của wolfram trioxit, WO3. Dạng đơn giản nhất, Hydrat, là WO3·H2O, Hydrat WO3·2H2O cũng được biết đến. Cấu trúc rắn của WO3·H2O bao gồm các lớp của khối 8 mặt kết hợp với các đơn vị WO5(H2O) có cùng chung 4 đỉnh. Các dihydrat có cùng cấu trúc với các phân tử mở rộng H2O đan xen giữa các lớp. Dạng monohydrat là chất rắn màu vàng và không tan trong nước. Tên cũ của axit là 'axit wolframic'. Axit này được khám phá lần đầu bởi nhà khoa học Carl Wilhelm Scheele năm 1781. Tính chất hoá học. Axit wolframic có thể tác dụng với một số kim loại như kim loại kiềm, kim loại kiềm thổ, nhôm, sắt... Axit chỉ tồn tại trong dung dịch, khi đun nóng bị phân huỷ thành wolfram trioxit: Điều chế. Axit wolframic được điều chế bằng cách cho wolfram trioxit tác dụng với nước:
1
null
Tony Abbott (sinh ngày 4 tháng 11 năm 1957 tại Anh trong một gia đình, cha là người Anh và mẹ là người Úc) là một nhà chính trị Úc. Ông là lãnh đạo Liên đảng Tự do - Quốc gia. Trong cuộc bầu cử Quốc hội 2013 vào ngày 07 tháng 9 tại Úc, Liên đảng Tự do - Quốc gia dưới sự lãnh đạo của Tony Abbott (hình) giành đa số ghế. Ngày 14 tháng 9 năm 2015 thủ tướng Tony Abbott đã thất cử trong cuộc bỏ phiếu với Malcolm Turnbull. Thủ tướng đã bị Ông Malcolm Turnbull đánh bại với số phiếu áp đảo 54-44. Đảng Tự do của Tony Abbott đã giành được 45,4% trong số 76,3% phiếu bầu được kiểm, đảng Lao động chỉ giành được 33,8% số phiếu. Ông là dân biểu Quốc hội đại diện cho Warringah từ năm 1994. Ông đã tốt nghiệp cử nhân kinh tế và cử nhân luật Đại học Sydney và sau đó là thạc sĩ chương trình học bổng Rhodes tại Queen's College, Oxford. Abbott là một nhân vật rất bảo thủ. Lối cư xử của ông ta thì hung hăng và cũng từng theo học để trở thành mục sư cho nên ông còn có một tên gọi là "Nhà tu điên" („Mad Monk").
1
null
Sung Jae-ki hay Sung Jae-gi (Chosŏn'gŭl: 성재기, chữ Hán: 成在基, 11 tháng 9 năm 1967 - 26 tháng 7 năm 2013) là nhà hoạt động nhân quyền Hàn Quốc và là nhà hoạt động quyền công dân, triết học chủ nghĩa tự do, hội trưởng của Hiệp hội của nam giới (남성연대 男性連帶). Ông đã tranh luận về quyền của nam giới Hàn Quốc. biệt hiệu là Shimheon(심헌 心軒) và Shimheon(심헌 審軒), Chongjuk(청죽 靑竹). năm 1999 - năm 2013, ông được hoạt động của phong trào liberalism và các Gender liberation movement, anti-feminism movement, Phân biệt đối xử theo giới tính đối lập. also đối lập và phong trào bãi bỏ của Bộ người phụ nữ, luật cấm mại dâm(성매매 특별법). vào năm 2013, ông là một vụ tự sát, Sông Hán, Seoul. Protest of Hàn Quốc Phân biệt đối xử theo giới tính. Tiểu sử. Sung Jae-ki sinh ngày 11 tháng 9 năm 1967 tại Daegu, ở Province Gyeongsang Bắc, also ông được nghiên cứu Đại học Yeungnam(영남대학교), năm 1985 đến năm 1993. Năm 2000 - 26 Tháng 11 năm 2006, điều hành một Đầu tư và Bất động sản công ty "Thomas Mcfly Consulting & Headhunting Company"(토마스 맥플라이 컨설팅 & 헤드헌팅사). năm 2000, ông ấy cũng điều hành một phòng trà. đầu đời ông được bất kham chế độ gia trưởng, cửa quyền, cưỡng bức chịu trách nhiệm. hoạt động. Năm 1999 - 2013, ông phát động phong trào bãi bỏ của Bộ người phụ nữ(여성부 女性部). 26 tháng 11 năm 2006, ông đã được tìm thấy của Câu lạc bộ chống chủ nghĩa nữ quyền của nam giới giải phóng(반페미니즘 남성해방연대 anti feminism men's liberation Club), 24 tháng 1 năm 2007, câu lạc bộ phong trào bãi bỏ của Bộ người phụ nữ(여성부 폐지 운동본부 Club abolition movement of ministry of woman). ông là hoạt động cho phong trào chống đối của phụ nữ ưu đãi chính sách, Phân biệt đối xử theo giới tính. sau năm 1999 và cho đến khi ông qua đời, Sự ngưng Xóa bỏ la Bộ người phụ nữ, phân biệt đối xử giới tính đối lập. cũng có ông Nhu đòi bồi thường la quân nhân về hưu. ông được yêu cầu quân nhân về hưu một các bồi thường các Một trong những, tiền thưởng điểm thưởng của quân nhân(군 가산점). Năm 2002, he was demand to abolition of Bộ người phụ nữ for Hàn Quốc chính phủ. cũng có ông được đối lập phụ nữ chính sách ưu đãi. tháng 7 năm 2013, Chống cự thăm của "dùng cho nữ chỉ thư viện của Jecheon (제천여성도서관)". cũng có ông được Đối diện và các yêu cầu Xóa bỏ của dùng cho nữ chỉ ghế của Gyeonggi-xe buýt, Daegu Luyện tập. 19 tháng 12 năm 2007 - 24 tháng 2 năm 2008 he was demand to abolition of Bộ người phụ nữ for mới Hàn Quốc chính phủ. Cái chết. ông được cứ liên tục chống cự để của Hàn Quốc phân biệt đối xử giới, phụ nữ đặc huệ Chính sách. Sung đã tự vẫn vào ngày 26/7/2013 bằng cách nhảy từ một lan can cầu xuống Cầu Mapo ở Seoul, để lại một tờ ghi nội dung từ biệt. sau ba ngày, cảnh sát đã xác nhận vụ tự vẫn này. cuối cùng của ông cho biết, "Nam giới là một trong những con Người!(남자도 사람이다!)" Cái chết của ông đã được biết đến thậm chí ở nước ngoài. Sau khi chết, tưởng niệm cho một số Hoa Kỳ tổ chức nhân quyền.
1
null
Triệu Mạnh Phủ (; tên chữ Tử Ngang (子昂); bút hiệu Tùng Tuyết (松雪), Âu Ba (鸥波) và Thủy Tinh Cung đạo nhân (水精宫道人); 1254–1322) là một hậu duệ thuộc dòng dõi vua Huy Tông nhà Tống và đồng thời là một học giả, họa sĩ, nhà thư pháp nổi tiếng Trung Quốc thời nhà Nguyên. Ông có gốc gác ở Hồ Châu, tỉnh Chiết Giang. Ông được coi là một trong những thư-họa gia kiệt xuất và toàn tài nhất Trung Quốc từ trước tới nay. Triệu Mạnh Phủ tinh thông thư pháp, ngày nay thư pháp của ông vẫn là hình mẫu tiêu biểu để hậu thế học theo.Ông cũng có nhiều đóng góp to lớn với Trung Quốc họa.
1
null
Bênađêta Soubirous hay Maria Bênađa Soubirous (tiếng Gascon: "Bernadeta Sobiróus"; sinh ngày 7 tháng 1 năm 1844 - mất ngày 16 tháng 4 năm 1879) sinh ở Lourdes(Lộ Đức), Pháp và là một Thánh nữ Công giáo. Bà được biết đến từ hai sự kiện: Chứng kiến Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức và sau này khi mất, thân xác không hư nát mặc dù đã mất từ rất lâu, Giáo hội quyết định khám nghiệm thi hài Thánh nữ và thấy thi hài vẫn như người sống. Cuộc đời của bà đã được dựng thành phim, một bộ phim nhan đề "Bernadette" của Pháp, chiếu vào năm 1987 và chiếu lại 1988, người vào vai Bernadeta Sobiróus (Béc-na-đéc Su-bi-ru) là nữ diễn viên người Mỹ là Sydney Penny đến từ Nashville, Tennessee. Cuộc đời. Bernadette là con cả trong một gia đình thợ may ở Lourdes (Lộ Đức), thuộc miền Nam nước Pháp. Gia đình sống ở tầng hầm một trong khu dân cư tồi tàn. Cha của Bernadete là ông Francis Soubirou và mẹ là bà Louis Catero. Cô bị bệnh hen suyễn ngay từ nhỏ nên cơ thể chậm phát triển tuy vậy Bernadete cũng khá hoạt bát. Do bị bệnh nên Bernadete không học chữ được nhưng lại học đạo rất giỏi. Vào một ngày (được cho là ngày 11 tháng 2 năm 1858), Đức bà Maria hiện ra với Bernadette ở một hang động trên bờ sông Gave gần Lộ Đức, lúc đó Bernadette 14 tuổi, đang dọn mình chịu lễ lần đầu. Tin này được lan truyền nhanh chóng. Ngày 16 tháng 7 năm 1858, Bernadette lại báo cho mọi người là em lại thấy Đức Mẹ hiện ra với em. Như vậy trước sau cả thảy 18 lần, trong 5 tháng. Thời gian này ở Lourdes cũng xảy ra nhiều hiện tượng lạ và cũng từ đó Bernadette có ý định đi tu. Ngày 3 tháng 7 năm 1866, Bernadette vào dòng thánh Gildard. Sau một thời gian ở tu viện, Bernadette được mặc áo dòng và đổi tên là "Maria Bernard". Năm 1867 Bernard bị phong thấp nhưng vẫn cố gắng làm công việc của một y tá. Từ tháng 10 năm 1875 sức yếu dần, Bernard không thể làm việc được nữa. Năm 1877, bệnh tình trở nặng và hấp hối giữa tuần Phục sinh năm 1879. Cô mất lúc 35 tuổi. và được an táng trong hầm mộ tu viện. Và 30 năm sau (1909), vì một nghi lễ tôn giáo, nhà thờ đã khai quật mộ. Đại diện nhà thờ, bác sĩ phẫu thuật và những người chứng kiến đã vô cùng kinh ngạc khi thấy thi thể của bà vẫn nguyên vẹn, dường như đang trong một giấc ngủ dài. Bác sĩ phẫu thuật Tourdan đã ghi lại những gì ông quan sát được: "“Cỗ quan tài của bà được mở ra dưới sự chứng kiến của mọi người trong đó có tôi. Di hài của Thánh Bernadette trong trang phục nữ tu không hề có mùi xú uế. Khuôn mặt, bàn tay và cẳng tay lộ ra bên ngoài, đầu nghiêng sang một bên, miệng hé mở có thể nhìn thấy hàm răng trắng. Hai tay đặt trên ngực, vẫn giữ được lớp da hoàn hảo”". Gia đình Bernadette đã làm lễ tắm rửa, thay quần áo và quan tài mới rồi đặt vào một vị trí khác sâu trong nhà mồ. Năm 1913, Giáo hoàng Piô X chuẩn bị phong Thánh cho Bernadette. Để chứng nghiệm, quan tài của bà được yêu cầu mở ra một lần nữa nhưng do Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ nên việc này bị hoãn đến năm 6 năm sau. Năm 1919, lúc mở quan tài lần hai, di hài của bà vẫn nguyên vẹn. Năm 1925, Giáo hoàng Piô XI đã chính thức phong Thánh cho Bernadette. Lần cuối, mộ bà lại được mở ra, di hài được đưa vào quan tài pha lê đặt tại nhà nguyện của nhà thờ Lourdes để mọi người chiêm ngưỡng cho đến nay.
1
null
Carcharhinidae (Cá mập mắt trắng) là một họ cá mập trong bộ cá mập mắt trắng, như cá mập hổ, cá mập xanh, cá mập bò và cá mập sữa. Các thành viên họ này có những đặc điểm của bộ Cá mập mắt trắng. Đôi mắt tròn, và các vây ngực hoàn toàn nằm sau năm khe mang. Phần lớn các loài là linh hoạt, con non được sinh ra phát triển đầy đủ. Chúng khác nhau về kích thước, từ ít nhất là chiều dài 69 cm (2,26 ft) của Rhizoprionodon taylori, lên đến 5,5 mét (18 ft) chiều dài của cá mập hổ.
1
null
Armand Léon Baron von Ardenne (26 tháng 8 năm 1848 tại Leipzig – 20 tháng 5 năm 1919 tại Groß-Lichterfelde) là một Trung tướng và nhà sử học quân sự Phổ, người gốc Bỉ. Ông đã từng tham chiến trong các cuộc Chiến tranh Áo-Phổ (1866), Chến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871), và viết sách dưới bút danh "Bernays". Von Ardennelà là hình mẫu cho nhân vật hư cấu "Nam tước Geert von Innstetten" trong tác phẩm "Effi Briest" của văn hào Fontane. Tiểu sử. Von Ardenne sinh vào tháng 8 năm 1848, là con trai của Louis Célestin Prosper von Ardenne, Tổng lãnh sự Bỉ tại Sachsen. Ông được xem là có năng khiếu âm nhạc (chơi đàn dương cầm) và học tại trường nhân văn Thomas ở Leipzig cho đến năm 1866. Do đam mê quân sự, ông đã tham gia cuộc Chiến tranh Bảy tuần chống Áo vào năm 1866. Sau đó, trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871), ông bị thương do trúng đạn và được tặng thưởng Huân chương Thập tự Sắt hạng II. Kể từ năm 1871 cho đến năm 1875, ông học tại Học viện Quân sự ("Kriegsakademie") ở kinh đô Berlin. Trong thời gian đó, vào ngày 9 tháng 10 năm 1873, theo Chỉ dụ Tối cao của Triều đình Phổ, ông được phong hàm Nam tước ("Baron"). Viên Thiếu úy Von Ardenne, phục vụ trong Trung đoàn Khinh kỵ binh số 3 "von Zieten" trứ danh (đóng quân tại Rathenow) từ năm 1866 cho đến năm 1875, đã hứa hôn với Elisabeth von Plotho, nhũ danh Edle und Freiin von Plotho-Zerben, con gái của điền chủ Felix von Plotho vào ngày 7 tháng 2 năm 1871 tại Stechow. Trước đây, von Plotho vốn không mấy ưa thích Von Ardenne và bà từng từ chối lời cầu hôn đầu tiên của ông; tuy nhiên Plotho đã thay đổi quan điểm của mình trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức. Hai năm sau đó, hai người thành hôn với nhau vào ngày 1 tháng 1 năm 1873 ở Zerben, khi ông 24 tuổi và bà 19 tuổi. Đôi vợ chồng chuyển đến sống ở Lützow gần Thảo cầm viên ở Berlin, nơi ông làm việc với cấp hàm Đại úy của Bộ Tổng tham mưu kể từ năm 1875. Họ có với nhau ba người con. Vào năm 1879, ông được đổi làm sĩ quan phụ tá và Chỉ huy trưởng Lữ đoàn Kỵ binh gần Metz vào năm 1881, ông được phong chức Trưởng quan kỵ binh và điều đi làm đội trưởng kỵ binh ("Eskadronchef") trong Trung đoàn Khinh kỵ binh số 11 (Westfalen số 2) tại Düsseldorf. Tại đây, đôi vợ chồng sống ở Lâu đài Benrath. Vào ngày 1 tháng 10 năm 1884, von Ardenne được ủy nhiệm làm sĩ quan phụ tá của Bộ trưởng Chiến tranh Paul Bronsart von Schellendorff và là phát ngôn viên của Bộ Chiến tranh Phổ ở kinh đô Berlin. Vào tháng 11 năm 1886, một vụ việc xảy ra khi mối tình giữa vợ ông, Elisabeth von Plotho, với viên thẩm phán Emil Hartwich bị phát giác khi Von Ardenne phát hiện những bức thư giữa hai người. Plotho vốn đã yêu Hartwich ngay từ khi Ardenne đóng quân ở Düsseldorf và mối tình này kéo dài sau khi Ardenne trở về Berlin. Plotho cũng từng lên kế hoạch ly hôn Ardenne để lấy Hartwich. Tức giận, ông đã thách Hartwich đấu súng tại công viên Hasenheide ở Berlin vào mùa thu năm 1886, và Hartwich đã chết do vết thương chí tử của mình. Sau khi bị bắt giữ và giam cầm 18 ngày ở thành trì Magdeburg, ông được thả tự do và không những thế, ông còn được Đức hoàng Wilhelm I. phong chức Thiếu tá trong Trung đoàn Long kỵ binh Hộ vệ số 24 (số 2 Đại Công quốc Hessen). Vào năm 1887, ông được phong cấp hàm Thiếu tá. Vào tháng 3 năm đó, ông ly hôn với vợ mình và được giữ quyền nuôi con. Ông đã trả 32.000 Reichsmark bồi thường ly dị cho vợ cũ của mình. Về sau, Plotho chú tâm vào các hoạt động từ thiện cho đến khi qua đời năm 1952 ở tuổi 99. Về phía Ardenne, ông cưới cô nhài ("Soubrette") Julie Peters vào năm 1888. "Vụ Ardenne" là cảm hứng cho tiểu thuyết "Effi Briest" của nhà văn Theodor Fontane. Con đường binh nghiệp của Ardenne tiếp tục vào năm 1893 ông được lên cấp hàm Thượng tá. Kể từ ngày 18 tháng 4 năm 1897 cho đến ngày 18 tháng 5 năm 1901, ông lãnh một chức Trung đoàn trưởng ở Darmstadt. Trước đó, ông được thăng quân hàm Đại tá vào năm 1895. Năm 1897, ông được lãnh nhiệm chức Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn Kỵ binh số 9 và được thăng hàm Thiếu tướng. Năm 1901, ông được bổ nhiệm làm Thanh tra của Cục Thanh tra Kỵ binh 3 ở Münster (Westfalen). Đến năm 1902, ông được tướng von Hindenburg thăng cấp Trung tướng. Từ ngày 1 tháng 4 năm 1902 cho đến ngày 25 tháng 5 năm 1904, ông là Sư đoàn trưởng Sư đoàn số 7 tại Magdeburg. Sau đó, ông thoạt tiên xuất ngũ ("zur Disposition", không còn phục vụ tại ngũ nhưng sẽ được triệu hồi khi có chiến tranh), nhưng về sau, do mâu thuẫn với Đức hoàng Wilhelm II trong một cuộc giám định về sức giật của pháo vào năm 1906, ông đã bị vị Hoàng đế này thải hồi hoàn toàn. Trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ nhất, ông là bình luận viên báo "Berliner Tageblatt". Ông đã thực hiện nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử quân sự (trong đó có những tác phẩm ông cùng biên soạn với Hans Ferdinand Helmolt, Wilhelm von Voss và Rudolf von Caemmerer) và giảng dạy tại Học viện Quân sự Phổ. Trong số những người bạn của von Ardenne có nhà tư bản công nghiệp Friedrich Alfred Krupp và họa sĩ Max Liebermann. Ngoài ra, ông còn là ông nội của nhà vật lý học Manfred von Ardenne. Sau khi từ trần vào tháng 5 năm 1919, ông được mai táng tại nghĩa trang Parkfriedhof Lichterfelde.
1
null
Maria Mácđalêna thành Pazzi (hay Maria Mácđalêna de Pazzi; sinh ngày 2 tháng 4 năm 1566 mất ngày 25 tháng 5 năm 1607) là một nữ tu dòng Cát Minh và sau này là một vị nữ Thánh Công giáo. Cuộc đời. Magdalene sinh ra trong một gia đình quyền quý ở Florence của nước Ý. Vào thế kỷ 15, dòng họ Pazi đã nắm giữ một quyền lực chính trị to lớn, cô được giáo dục tốt từ nhỏ và được biết đã cảm nhận sâu sắc sự tồn tại của Chúa. Thực ra với địa vị và gia cảnh của mình, cô có thể lấy một người chồng và an hưởng cuộc đời nhàn hạ nhưng cô đã chọn con đường đi tu. Lúc 10 tuổi cô được rước lễ lần đầu và ngay sau đó một tháng cô có thề rằng sẽ giữ mình còn trinh. Khi 16 tuổi, cô gia nhập đan viện Đức Mẹ Các Thiên Thần của Dòng Cát Minh ở Florence. Vào dòng, Catarina lấy tên là Maria Mađalêna, trong thời gian này cô đã chống lại những cám dỗ là kiên trì cầu nguyện, hãm mình, phục vụ tha nhân và sau đó bất ngờ bị lâm bệnh nặng, vào năm 1604 cô bị bệnh nhức đầu và tê bại phải nằm liệt giường nhưng hai tháng sau đó qua khỏi như một phép lạ. Để giữ lại các điều đã chứng kiến, cha giải tội yêu cầu cô kể lại các điều được trải nghiệm để các nữ tu thư ký ghi chép lại và tập hợp thành sách. Sau ba năm mang bệnh, cô qua đời ngày 25 tháng 5 năm 1607 khi 41 tuổi. Giáo hoàng Urban VIII đã tôn phong cô lên bậc Chân Phước ngày 08 tháng 5 năm 1626 và Giáo hoàng Clement IX đã đôn cô lên hàng hiển thánh vào ngày 28 tháng 4 năm 1669.
1
null
Han Jae-suk (sinh ngày 12 tháng 8 năm 1973) là nam diễn viên Hàn Quốc được biết đến qua các phim truyền hình "Giày thủy tinh", "Người mẫu", "Người đàn bà đầu tiên", "Cô gái mặt trời", "Cặp đôi hoàn cảnh", "Nhân vật truyền kỳ", "Thuyết khách". Anh cũng từng thử sức tại thị trường Đại lục khi đóng cặp với Lâm Tâm Như trong phim "Tử Đằng Chi Luyến" và "Thiên thần tốc độ" cùng Trương Bá Chi năm 2011. Tiểu sử. Han Jae-suk là con trai của Han Seung-Jun(한승준), cựu phó chủ tịch Kia Motors. Ông Han gia nhập công ty năm 1977 sau khi tốt nghiệp ngành Luật của Đại học Quốc gia Seoul và trở thành CEO năm 1993. Cha của Han Jae-suk thôi đảm nhiệm chức vụ tại Kia Motors vào năm 1997. Ông Han Seung-Jun cùng cựu phó chủ tịch Park Jae-Huyk bị Ban điều tra Trung ương của Văn phòng Công tố tối cao bắt giữ vì cáo buộc gian lận năm 1998. Đời tư. Han Jae-suk hẹn hò với nữ diễn viên Park Sol-mi sau khi tham gia phim truyền hình "The Great Merchant" năm 2009. Sau 3 năm quen nhau, hai người đã tổ chức đám cưới tại khách sạn Sheraton Grande Walker Hill ở Seoul, Hàn Quốc vào ngày 21 tháng 4. Park Sol-mi xác nhận đang mang thai vào tháng 9 năm 2013 và cặp đôi rất mong chờ đầu lòng. Ngày 23 tháng 3 năm 2014, Park Sol-mi đã sinh con gái.
1
null
Cá mập mako vây dài (tên khoa học Isurus paucus) là một loài cá mập thu trong họ Lamnidae, với phân bố trên toàn thế giới trong vùng biển ôn đới và nhiệt đới. Đây là một loài không phổ biến, nó thường được gộp lại dưới cái tên "mako" với loài tương đối nổi tiếng hơn nó, là cá mập mako vây ngắn ("I. oxyrinchus"). Loài này sống ở nước sâu vừa, theo nghiên cứu báo cáo là độ sâu 220 m (720 ft). Cá mập mako vây dài phát triển đến chiều dài tối đa là 4,3 m (14 ft), vây mỏng và dài hơn, vây ngực rộng dài của loài này cho thấy nó có khả năng bơi lội chậm hơn và ít hoạt động hơn so với cá mập mako vây ngắn.
1
null
Cá tầm mũi xẻng sông Syr Darya, tên khoa học Pseudoscaphirhynchus fedtschenkoi, là một loài cá trong họ Acipenseridae. Chúng được tìm thấy ở Kazakhstan, Tajikistan, và Uzbekistan và hiện đang rơi vào tình trạng cực kỳ nguy cấp. Do sự mất mát của sinh sản và dự án xây đập trên tất cả các dòng sông, nó rất có thể bị tuyệt chủng, nhưng những nghiên cứu thêm là cần thiết để tìm bằng chứng thuyết phục.
1
null
Atractosteus tristoechus là một loài cá trong họ Lepisosteidae. Nó được tìm thấy ở Tây Cuba và Isla de la Juventud. "A. tristoechus" là loài cá nước ngọt nhiệt đới (nước có nhiệt độ 18 °C - 23 °C), nhưng cũng cư ngụ ở các con sông và hồ có nước nhiễm mặn, tại vùng đáy nước miền Tây Cuba và Isla de la Juventud. Chúng thường dài khoảng 100 cm, nhưng có thể phát triển đến 200 cm. Cá thể trưởng thành ăn cá nước ngọt và chim. Loài cá vược miệng rộng "(Micropterus salmoides)" được du nhập tới đây ăn "A. tristoechus" còn non. Trứng cá độc đối với người.
1
null
Hiodontiformes là một bộ cá tương đối mới, bao gồm hai loài cá nước ngọt ("Hiodon alosoides" và "Hiodon tergisus" ở Bắc Mỹ) còn sinh tồn của họ Hiodontidae cùng ba chi đã tuyệt chủng là "Plesiolycoptera", "Yanbiania" và "Eohiodon". Theo phân loại truyền thống thì nó thuộc bộ Osteoglossiformes, như nhiều cơ quan và tác giả vẫn thực hiện, nhưng nghiên cứu hóa thạch của chi tuyệt chủng "Yanbiania" cho thấy Hiodontidae tách ra khỏi bộ Osteoglossiformes từ khá sớm, và do đó thuộc về một bộ riêng. Phát sinh chủng loài. Cây phát sinh chủng loài vẽ theo Betancur và ctv (2013).
1
null
Giải Théophraste Renaudot, thường gọi là Giải Renaudot, là một giải thưởng văn học của Pháp, được 10 nhà báo và nhà bình luận văn học Pháp thành lập năm 1926, trong khi chờ đợi kết quả cuộc thảo luận của ban giám khảo Giải Goncourt. Giải này được đặt theo tên nhà văn Théophraste Renaudot (1586 – 25.10.1653), người sáng lập tờ báo đầu tiên ở Pháp: tuần báo La Gazette (1631) Lịch sử. Ban giám khảo đầu tiên của giải Renaudot gồm Raymond de Nys, Marcel Espiau, Georges Le Fèvre, Noël Sabord, Georges Martin, Odette Pannetier, Henri Guilac, Gaston Picard, Pierre Demartre, và Georges Charensol. Những nhà văn trên đã viết một quyển tiểu sử của Théophraste Renaudot gồm 10 chương, trong đó mỗi người viết một chương. Sách này đã được nhà xuất bản Gallimard phát hành năm 1929: "Cuộc đời của Théophraste Renaudot," do ********** viết (Bộ tập hợp "Cuộc đời những người nổi tiếng", 42). Không dính dáng gì với Viện văn học Goncourt về mặt tổ chức, nhưng có sự trùng hợp là ban giám khảo giải Renaudot cũng tuyên bố kết quả trao giải vào ngày thứ Ba đầu tiên của tháng 11 tại tiệm ăn Drouant ở Paris. Ngoài giải thưởng chính, từ năm 1992 ban giám khảo đã trao thêm một giải thưởng hàng năm cho tác phẩm của các học sinh trung học, từ năm 2003 thêm một giải thưởng cho "Tiểu luận" và từ năm 2009 một giải thưởng cho "Sách bỏ túi". Cuộc bút chiến năm 2007. Việc trao giải Renaudot năm 2007 đã gây ra một cuộc tranh cãi lớn. Ngày 7.11.2007 Christophe Donner đã cáo buộc Franz-Olivier Giesbert là đã «lèo lái» các cuộc thảo luận của ban giám khảo . Theo hãng thông tấn AFP, thì «người ta ngạc nhiên là ban giám khảo giải Renaudot đã trao giải năm 2007 cho Daniel Pennac, trong khi tác phẩm của ông ta không nằm trong danh sách những tác phẩm được lựa chọn ».
1
null
Cách mạng Hà Lan (1566/1568 – 1648) là cuộc khởi nghĩa của nhân dân Vùng đất thấp chống lại sự cai trị của Felipe II của Tây Ban Nha. Đây cũng là dấu mốc đánh dấu sự chuyển giao lịch sử giữa thời kỳ Trung cổ và Cận đại. Nguyên nhân. Cách mạng Hà Lan nổ ra là vì nguyên nhân là Vùng đất thấp (thuộc Bỉ và Hà Lan bây giờ, là một vùng đất thấp hơn mực nước biển nên có tên gọi như vậy) lệ thuộc vào Áo vào cuối thế kỷ XV, giữa thế kỷ sau lại chịu sự thống trị của Vương quốc Tây Ban Nha. Từ đầu thế kỷ này, vùng đất này là một trong những vùng kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển nhất châu Âu với nhiều thành phố và hải cảng, trong đó có những trung tâm thương mại nổi tiếng như Utrecht, Amsterdam... Sự phát triển kinh tế của Netherlands cũng trùng thời điểm Phong trào Kháng cách diễn ra trên khắp lục địa già. Đây là nơi mà tư tưởng Tân giáo, một trong hai xu hướng của phong trào trên, của Calvin phát triển. Thấy được những điều đó. Tây Ban Nha đã tìm mọi biện pháp để kiểm soát vùng đất này. Quốc vương Tây Ban Nha đã tăng cường kiểm soát và thu lợi tức bằng thuế nặng để kìm hãm sự phát triển của vùng đất này. Thêm vào đó, Quốc vương đã đàn áp những người theo Tân giáo. Điều thể hiện rõ nhất đó là quy định: hễ ai là tín đồ Tân giáo là đàn ông thì bị chặt đầu, đàn bà bị chôn sống hoặc bị thiêu và tài sản bị tịch thu, những người che giấu, giúp đỡ và nói chuyện với họ cũng bị tịch thu tài sản. Từ đây, mâu thuẫn giữa người dân Nederlands và Vương quốc Tây Ban Nha ngày càng gay gắt và nguy cơ của một cuộc chiến tranh là không thể tránh khỏi. Diễn biến. Tháng 8 năm 1566, nhân dân miền bắc Netherlands đã nổi dậy khởi nghĩa. Mục tiêu của họ là Giáo hội, chỗ dựa vững chãi của người Tây Ban Nha. Một năm sau, tháng 8 năm 1567, Tây Ban Nha đưa thêm quân sang, đàn áp dã man họ, nhưng không thể ngăn cản sự phản kháng của nhân dân thuộc địa. Tháng 4 năm 1572, quân khởi nghĩa đã làm chủ được phía bắc. Quý tộc tư sản hóa ở Netherlands vì bất mãn với Tây Ban Nha nên đã gia nhập lực lượng những người khởi nghĩa và vươn lên lãnh đạo phong trào đấu tranh. Tháng 1 năm 1579, đại biểu các tỉnh miền bắc nhóm họp tại Utrecht, tuyên bố những quyết định quan trọng. Trong hội nghị này, các đơn vị đo lường được thống nhất, chính sách về đối ngoại và quân sự được nêu ra, đạo Calvin được chọn là quốc giáo, quyền tự do tín ngưỡng được tôn trọng. Tháng 7 năm 1581, vua Felipe II của Tây Ban Nha đã bị phế truất. Hội nghị các đẳng cấp gồm đại biểu của các tỉnh miền bắc trở thành cơ quan quyền lực tối cao. Các tỉnh này thống nhất với nhau thành một nước Cộng hòa có tên Các tỉnh Liên hiệp hay Hà Lan. Sở dĩ có tên như vậy vì Hà Lan là tỉnh có vai trò quan trọng nhất trong cuộc đấu tranh này. Tuy nắm chắc thất bại, nhưng Tây Ban Nha chưa chịu công nhận sự độc lập của Hà Lan nên nhân dân Hà Lan tiếp tục đấu tranh. Kết quả là Hiệp định đình chiến giữa hai bên được ký kết vào năm 1609, nhưng mãi đến năm 1648 nền độc lập của Hà Lan mới được công nhận chính thức. Ý nghĩa. Cách mạng Hà Lan mang tính chất của một cuộc cách mạng tư sản dưới hình thức của một cuộc đấu tranh giành độc lập. Đây là tính chất chung của nhiều cuộc cách mạng lớn trong thời kỳ Cận đại. Cách mạng Hà Lan, về phương diện dân tộc, đã giải phóng Hà Lan khỏi sự thống trị của bên ngoài. Từ đây, Hà Lan trở thành một quốc gia độc lập và phát triển. Cách mạng Hà Lan là cuộc cách mạng đầu tiên trên thế giới đã dọn đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển, thể hiện sự thắng thế của giai cấp tư sản đối với giai cấp phong kiến, báo hiệu sự suy vong của giai cấp phong kiến. Về phương diện thế giới, cách mạng Hà Lan đã ảnh hưởng tới nhiều cuộc cách mạng nổi tiếng sau này như Cách mạng Anh, Cách mạng Pháp và Cuộc chiến tranh giành độc lập ở Bắc Mỹ.
1
null
Kiểm soát chất lượng (tiếng Anh: "quality control" hay viết tắt "QC") là một quá trình mà các chủ thể xem xét chất lượng của tất cả các yếu tố liên quan đến sản xuất. ISO 9000 định nghĩa kiểm soát chất lượng là "Một phần của quản trị chất lượng tập trung vào công việc đáp ứng các yêu cầu về chất lượng". Kiểm soát chất lượng nhấn mạnh vào ba khía cạnh (được quy định theo các tiêu chuẩn như ISO 9001): Giám sát là một bộ phận chính của kiểm soát chất lượng, khi sản phẩm vật chất được kiểm tra trực quan (hoặc kết quả cuối cùng của một dịch vụ được phân tích). Người giám sát sản phẩm sẽ được cung cấp danh sách và mô tả về các khuyết tật không thể chấp nhận được của sản phẩm chẳng hạn như vết nứt hoặc vết mờ trên bề mặt. Lịch sử. Các công cụ đá thời kì đầu như đe không có lỗ và không được thiết kế theo kiểu các bộ phận có thể hoán đổi. Sản xuất hàng loạt đã thiết lập các quy trình để tạo ra các bộ phận và hệ thống có kích thước và thiết kế giống hệt nhau, nhưng các quy trình này không đồng nhất và do đó một số khách hàng không hài lòng với kết quả. Kiểm soát chất lượng tách biệt hành động thử nghiệm sản phẩm để phát hiện ra các khuyết tật ra khỏi quyết định cho phép hoặc từ chối xuất xưởng sản phẩm vì các quyết định có thể bị quyết định bởi các ràng buộc tài chính. Đối với công việc theo hợp đồng, đặc biệt là công việc do các cơ quan chính phủ giao, các vấn đề về kiểm soát chất lượng là một trong những lý do hàng đầu để không gia hạn hợp đồng. Hình thức kiểm soát chất lượng đơn giản nhất là bản phác thảo mặt hàng mong muốn. Nếu bản phác thảo không khớp với mục đó, nó sẽ bị loại bỏ theo một quy trình Go/no go đơn giản. Tuy nhiên, các nhà sản xuất sớm nhận ra rằng việc chế tạo các bộ phận giống hệt như mô tả của chúng là rất khó và tốn kém; do đó khoảng năm 1840 giới hạn dung sai được đưa ra, trong đó một thiết kế sẽ hoạt động nếu các bộ phận của nó có các thông số nằm trong giới hạn. Do đó, chất lượng được xác định chính xác bằng cách sử dụng các thiết bị như calip đo lỗ và các dụng cụ đo vòng trong. Tuy nhiên, điều này không giải quyết được vấn đề của các mặt hàng bị lỗi; tái chế hoặc xử lý chất thải làm tăng thêm chi phí sản xuất, cũng như cố gắng giảm tỷ lệ sai sót. Nhiều phương pháp khác nhau đã được đề xuất để ưu tiên các vấn đề kiểm soát chất lượng và xác định xem có nên sử dụng các kỹ thuật đảm bảo chất lượng để cải thiện và ổn định sản xuất hay không. Trong quản lý dự án. Trong quản lý dự án, kiểm soát chất lượng yêu cầu người quản lý dự án và/hoặc nhóm dự án kiểm tra công việc đã hoàn thành để đảm bảo nó phù hợp với phạm vi dự án. Trong thực tế, các dự án thường có một nhóm kiểm soát chất lượng chuyên về lĩnh vực này.
1
null
Hệ thống quản lý chất lượng là hệ thống quản lý để định hướng và kiểm soát một tổ chức về mặt chất lượng. Có nhiều phương pháp xây dựng hệ thống quản lý chất lượng trong một tổ chức tùy theo quy mô, khả năng và tình trạng của tổ chức. Hiện nay nhiều tổ chức xây dựng hệ thống quản lý chất lượng dựa trên Bộ tiêu chuẩn ISO 9000. Mục đích của hệ thống quản lý chất lượng là cung cấp sản phẩm/dịch vụ có chất lượng ổn định, cải tiến liên tục kết quả thực hiện và tăng cao khả năng đáp ứng yêu cầu của khách hàng.
1
null
Seo In-guk (hangul: 서인국; sinh ngày 23 tháng 10 năm 1987) là nam ca sĩ kiêm diễn viên người Hàn Quốc. Anh bắt đầu sự nghiệp ca hát của mình sau khi trở thành quán quân của chương trình tìm kiếm tài năng Superstar K. Năm 2012, anh được công chúng biết đến rộng rãi với vai trò diễn viên trong "Reply 1997", một trong những series phim truyền hình ăn khách nhất. Cuộc đời và sự nghiệp. Những năm đầu đời. • Seo In Guk được sinh ra trong một gia đình nghèo khó ở Ulsan. Họ sống qua ngày nhờ vào công việc thu nhặt các vật liệu tái chế ở những con hẻm nhỏ. Gia đình anh gồm 4 thành viên: Cha, mẹ, anh và một em gái (Seo Bo-ram, hiện đã lập gia đình). - Mẹ của anh (Jang Si-ja, sinh 1955) là một nữ lao công: Bà thường xuyên đi thu gom bìa các tông và chất chúng lên xe đẩy. Sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, bà ở nhà để phụ giúp gia đình bằng những công việc nặng nhọc này, và vẫn tiếp tục làm đến ngày hôm nay (chỉ khác là thay bằng xe tải chứ không còn là xe đẩy). Mặc dù cậu con trai của bà đã có một sự nghiệp vẻ vang và rất thành đạt, nhưng bà dường như không muốn trở thành gánh nặng cho anh ấy. Bà cho rằng sống thì phải biết tự lực tự cường, không nên dựa dẫm vào ai. Lúc còn đang mang thai, bà đặc biệt rất thèm ăn gà nướng. Bởi vậy mà con trai bà khi lớn lên cũng thèm ăn cái món ăn này. Nhưng vì gia cảnh quá nghèo khó, không đủ tiền nên hai vợ chồng bà chỉ mua nửa con gà về để ăn, và sau đó còn giữ lại xương để hầm món súp. Bà là người ít khi nổi giận, và luôn gây ấn tượng với mọi người xung quanh bởi tính cách hoà đồng thân thiện và tấm lòng nhân ái. Bà cũng rất yêu thương hai đứa con của mình và luôn đồng hành, luôn ở bên cạnh họ cho dù họ có gặp phải nhiều khó khăn trong cuộc sống. - Cha của anh (sinh 1962) là thợ hàn kim loại và thỉnh thoảng là một nhân viên khách sạn; ông thường xuyên phải đi công tác xa nhà, vì vậy mà ông hiếm khi ở nhà dùng bữa với vợ con. Ông từng phản đối gay gắt việc con trai mình theo đuổi ước mơ làm ca sĩ, vì ông cho rằng In Guk là con trưởng nên anh ấy phải có trách nhiệm phụ giúp cha mẹ và em, chứ không nên học thói đua đòi như vậy. Vì vậy mà Seo In Guk đã phải nói dối ba mình là anh ấy lên thành phố để làm công việc bồi bàn trong một nhà hàng, nhưng ông không hề biết rằng con trai ông đã đến một trường dạy nhạc để xin đăng ký cho theo học. Sau này Seo In Guk chia sẻ rằng, ba của anh ấy không phải là không muốn anh ấy làm ca sĩ, mà ông đã luôn âm thầm dõi theo và ủng hộ ước mơ của anh ấy từ lúc đầu. Sau khi In Guk giành được vị trí quán quân trong Super star K, ông đã đến tận nơi để chúc mừng con trai nhưng ông lại từ chối nhận số tiền thưởng mà con trai dành tặng cho ông. Chỉ khi cần tiền, ông mới gọi điện cho In Guk để vay mượn và ông không bao giờ quên chi trả đủ tiền vay mượn cho con trai. • In Guk đã nuôi ước mơ làm ca sĩ từ khi lên 10 tuổi. Thần tượng và là người đã khơi gợi niềm đam mê âm nhạc trong anh đó chính là Kim Jung–min. Bằng việc tham gia góp vui văn nghệ trong những buổi họp gia đình và cuộc thi âm nhạc của trường, mặc dù là một cậu bé khá nhút nhát, Seo In Guk đã vượt qua được chính mình và dần khẳng định được niềm đam mê và tài năng âm nhạc. Anh theo học ngành Applied Music tại Đại học Daebul. Trong suốt những năm đại học, In Guk tiết lộ rằng anh thậm chí từng không có nổi 10.000 won (8,89 USD) trong ví của mình. Sự nghiệp. Năm 2009: quán quân Superstar K1. • Vì muốn theo đuổi ước mơ, dù bị gia đình phản đối quyết liệt, In Guk vẫn một mình bỏ nhà lên Seoul một mình từ năm 18 tuổi. Trong 3 năm đầu, anh phải luôn năn nỉ để được ở nhờ nhà bạn, liên tục thay đổi chỗ ở và bị mọi người dò xét. Sau đó, với sự giúp đỡ của mẹ, anh cuối cùng đã mua được một ngôi nhà. Đó là một nơi kinh khủng vì có nhiều côn trùng và chuột sinh sống. Dù vậy, In Guk đã tự động viên bản thân và bắt tay vào dọn dẹp để bắt đầu một cuộc sống mới trong "ngôi nhà của riêng mình". • Sau đại học, In Guk nhiều lần thử giọng ở một số công ty giải trí lớn nhất Hàn Quốc. Anh đã phải niếm trải rất nhiều thử thách và khó khăn để theo đuổi ước mơ, những điều tưởng chừng như không thể vượt qua. • Tại buổi thử giọng đầu tiên của mình, anh được nói rằng, sẽ tốt đẹp hơn nếu anh quay trở lại đây sau khi giảm bớt trọng lượng cơ thể (khoảng 86 kg). Sau khi nghe vậy, In Guk đã tự gây nên cho mình một nỗi ám ảnh về trọng lượng và mắc phải chứng "ăn vô độ tâm thần". Không bỏ cuộc, anh đã vật lộn với căn bệnh bằng cách tự móc họng để nôn mửa ra thức ăn tránh bị tăng cân làm dây thanh quản bị tổn thương nghiêm trọng.. Sau khi giảm trọng lượng, anh quay trở lại "JYP Entertainment" và thực hiện một buổi thử giọng nữa. Nhưng lần này anh lại được nhận xét là:"Bạn đã làm tốt trong việc giảm cân nhưng có vẻ bạn đã không nỗ lực luyện tập ca hát". Đó là do hệ quả của việc tổn thương dây thanh quản, và dù đã cố gắng làm hết khả năng của mình, cuối cùng In Guk đành phải ra về tay trắng. • Mặc dù gặp nhiều thất bại, Seo In Guk vẫn không bỏ cuộc và quyết tâm tiếp tục thử thách bản thân. Chính nhờ cá tính gan lì và mạnh mẽ của mình, cuối cùng, tháng 10 năm 2009, đánh bật hơn 720.000 thí sinh tham gia, anh đã trở thành quán quân của cuộc thi "Superstar K" lần thứ nhất của Hàn Quốc. • Cùng với số tiền chiến thắng Superstar K1, nam ca sĩ từng mong muốn được phụ giúp cha mẹ bằng cách mở một nhà hàng súp kim chi để họ quản lý. • Với chiến thắng vinh quang này, Seo In-guk được nhắc đến như là một "ngôi sao chớp nhoáng". Trong các buổi phỏng vấn sau đó, nam ca sĩ đã chia sẻ: "Có vẻ như mọi người chỉ biết đến tôi từ sau giây phút tôi được đăng quang "Superstar K", tuy vậy, họ không biết rằng quá trình tập luyện đằng sau sân khấu mới chính là nền tảng giúp tôi giành được ngôi vị này". Thật vậy, trước khi tham gia cuộc thi, nam ca sĩ đã giành rất nhiều thời gian và công sức để rèn luyện bản thân mình, và ngôi vị quán quân là thành quả mà anh xứng đáng nhận được. Đó là cả một quá trình bền bỉ lâu dài, chứ không chỉ là "chớp nhoáng". In Guk mong tên tuổi của anh không đơn thuần chỉ gắn liền với danh hiệu "Super star K" hay bất cứ thứ gì khác, anh muốn được công nhận như một người hết mình, chăm chỉ và sống vì đam mê. • Ngoài ra, không những giành được giải thưởng trị giá 100 triệu won (tương đương 1,7 tỉ đồng Việt Nam) mà Seo In Guk còn được "hit man" (người chuyên tạo các ca khúc đỉnh) Bang Si-hyuk "tặng" cho "Calling you" làm ca khúc chủ đạo trong album ra mắt của anh vào cuối năm 2009. • Mặc dù nam ca sĩ phải xoay xở với một lịch trình công việc bận rộn (thu âm, chụp quảng cáo, phỏng vấn, chương trình tạp kĩ), đổi lại album "Calling You" của anh đã nhanh chóng trở thành hit được yêu thích, đem lại cho anh những thành công bước đầu. Cụ thể, cùng với ca khúc chủ đạo "Calling You", 2 ca khúc "Young Love" và "Beautiful Farewell" đã chiếm lĩnh gần như toàn bộ các bảng xếp hạng âm nhạc của Hàn Quốc chỉ trong những ngày đầu ra mắt. Với thành tích ấn tượng đó, anh đã nhận được giải thưởng nam nghệ sĩ mới tại lễ trao giải Cyworld Digital Music Award. Năm 2012: lấn sân sang diễn xuất - đạt nhiều thành công với "Reply 1997". Tháng 2: • Seo In Guk vào vai Hyun Woo trong vở nhạc kịch hát lại (jukebox musical) "Gwanghwamun Love Song": nhân vật phải lòng người yêu của bạn thân nhưng không sao chối bỏ được tình cảm của mình. Ngoài ra anh còn luôn bảo vệ người anh trai ruột dù có phải hy sinh đánh đổi tất cả mọi thứ anh có. Tháng 3: • Debut làm diễn viên truyền hình khi đảm nhận một vai phụ trong bộ phim "Cơn mưa tình yêu (Love Rain)" của đài KBS: Kim Chang Mo là một sinh viên luật, chủ quán cà phê âm nhạc trong thập niên 70. Nhân vật này là một người lãng mạn, cực kỳ hâm mộ guitar và âm nhạc. Seo In Guk thậm chí phải tăng cân để vào vai một nhân vật lạc quan nhưng lười biếng này. • Ký hợp đồng với công ty giải trí Nhật Bản "Irving Entertainment" (2012) nhằm quảng bá tên tuổi ra thị trường nước ngoài. [tham khảo] Tháng 7: • Đảm nhận vai nam chính trong bộ phim truyền hình ăn khách "Lời hồi đáp (Reply 1997)" của đài TvN. Thuộc thể loại hài kịch tình huống, Reply 1997 lấy bối cảnh thập niên 90, thời hoàng kim của nhóm nhạc đình đám H.O.T. Phim kể về một fan cuồng nhóm H.O.T là Si Won (Apink Jung Eun Ji thủ vai), cô luôn mơ được kết hôn với thành viên của nhóm nhạc này nên thực hiện một kế hoạch chi tiết để được gặp thần tượng. Trong khi đó, Yoon Yoon-jea (vai của Seo In Guk) lại là người rất thích Si Won - cô bạn thân nối khố của mình. Bộ phim đã nhận được nhiều phản hồi rất tích cực từ phía người xem cũng như từ các nhà phê bình. [tham khảo] Tháng 9: • Vào vai một gã lăng nhăng chính hiệu trong "Rascal Sons" - dự án drama cuối tuần của đài MBC. Trong phim, nam ca sĩ đóng vai Yoo Seung Gi - con trai út trong 1 gia đình gồm 3 người con. Mặc dù đã kết hôn từ rất sớm và thậm chí có một đứa nhóc kháu khỉnh song anh chàng vẫn liên tục quyến rũ những người phụ nữ khác. Thói trăng hoa của Seung Gi đã khiến vợ anh - Mi Rim (Yoon Se In) - đau khổ không ít lần. In Guk cho biết lý do lựa chọn một bộ phim truyền hình 50 tập là vì muốn học hỏi nhiều hơn từ các thầy giáo và những tiền bối dày dặn kinh nghiệm diễn xuất. [tham khảo] Năm 2013: Trở lại vai trò ca sĩ và tham gia chương trình thực tế. Tháng 1: • Ký hợp đồng làm người mẫu cho hãng thời trang thể thao "Isenberg". Hợp tác với nhóm nhạc nữ Sistar trong bộ sưu tập xuân hè. Tháng 3: • Quay trở lại ca hát khi cho ra mắt Single " I Can't Live Because of you". Bài hát nhận được nhiều sự quan tâm từ phía người hâm mộ và nhanh chóng leo lên top các bảng xếp hạng âm nhạc. • Tham gia làm khách mời trong chương trình tạp kĩ "I Live Alone" của đài MBC. Anh đồng thời nhận lời tham gia hai dự án phim điện ảnh là "Police Family" và "No Breathing". [tham khảo] - "Police Family" là một câu chuyện lãng mạn và hài hước xoay quanh việc một cô gái sinh ra trong gia đình cảnh sát gặp gỡ và kết hôn với con trai của một gia đình tội phạm (vai của Seo In Guk). - "No Breathing", In Guk lần đầu tiên thử sức trong thể loại phim điện ảnh. Anh đảm nhận vai Won Il một tài năng bẩm sinh nhưng lại luôn né tránh việc bơi lội, cho đến một ngày anh ấy quyết định quay trở lại với môn thể thao này. Tháng 4: • Phát hành album mới tựa đề "With Laughter or With Tears". Đây là lần đầu tiên nam ca sĩ thử sức với thể loại nhạc trữ tình ballad. Với sự tham gia diễn xuất của nữ diễn viên kiêm đạo diễn đa tài Goo Hye Sun cùng những giai điệu nhẹ nhàng sâu lắng, bài hát miêu tả tâm trạng đau khổ và buồn phiền của một người đàn ông sau khi chia tay với người yêu [tham khảo]. Không dừng lại ở đó, Goo Hye Sun còn chủ động góp thêm một sáng tác của mình vào album mới nhất của nam ca sĩ. "Were we happy?" cũng là một bản ballad buồn cho thấy những tâm tư tiếc nuối sau khi đôi lứa tan vỡ. • Debut tại Nhật Bản với album "Fly Away". Nội dung bài hát phản ánh rất rõ những tâm tư phiền muộn của người đàn ông sau khi để người phụ nữ của mình ra đi. Bài hát có một ý nghĩa sâu sắc và giai điệu da diết khiến người nghe không khỏi xúc động. Tháng 5: • Được cử làm đại sứ danh dự cho cục cảnh sát Ulsan (Korea). Thời gian hoạt động trong 2 năm với chiến dịch nhằm "xóa bỏ 4 tệ nạn xã hội". • Tham gia thử thách "Midnight Challenge" Trekking của hãng thời trang "Isenberg". • Hợp tác với Sistar làm người mẫu độc quyền của thương hiệu thời trang thể thao "Isenberg" trong bộ sưu tập thu đông 2013. Tháng 6: • Tham gia drama của đài SBS mang tựa "Mặt trời của chàng Joo (The Master's Sun)", hợp tác với hai ngôi sao nổi tiếng So Ji Sub và Gong Hyo Jin. - Thuộc thể loại mới lạ: hài kịch lãng mạn kết hợp với yếu tố kinh dị, bộ phim được chắp bút bởi hai nhà biên kịch danh tiếng - chị em nhà Hong. Trong phim, Seo In Guk sẽ vào vai Kang Woo, đội trưởng đội an ninh của một trung tâm thương mại. Kang Woo là một nhân vật có lý lịch đặc biệt. Xuất thân là một quân nhân, sau khi xuất ngũ đã chọn công việc làm bảo vệ. Là một con người hiền lành và có tinh thần trách nhiệm cao, Kang Woo luôn cố gắng hết sức để hoàn thành nhiệm vụ được giao. - Sở hữu nhiều yếu tố hoàn hảo (sự phối hợp ăn ý của dàn diễn viên, kịch bản phong phú với những tình tiết khơi gợi sự tò mò, đạo diễn tài năng và nhiệt huyết dẫn dắt….), "The Master's Sun" đã chiếm lĩnh vị trí quán quân của bảng xếp hạng truyền hình khung giờ vàng ngày thứ 4 - 5 trong năm tuần liên tiếp sau khi ra mắt. Tháng 7: • Tổ chức buổi họp fan đầu tiên ~ HELLO! ~ tại Nhật. Sự kiện thu hút nhiều mối quan tâm của giới truyền thông. Tháng 10: • Ra mắt 2nd Japanese Single "We Can Dance Tonight". • Thử sức với bộ phim điện ảnh lần đầu tiên tựa "No Breathing" (Mỹ Nam Đại Chiến) về hai tuyển thủ bơi lộ, với sự hợp tác Lee Jong-suk và Kwon Yuri. Năm 2014-2016: Tiếp tục vai trò diễn xuất. Năm 2014 • Làm đại sứ danh dự (cùng với Apink Jung Eun-ji) cho "Hội nghị toàn quyền Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU)". • Thử sức vai trò kép trong bộ phim ngắn "Another Parting," 5 tập về một người đàn ông và một người phụ nữ gặp nhau trong những khoảnh khắc cuối cùng trong cuộc sống của họ. Được sản xuất bởi Loen Entertainment, phát sóng vào ngày 17 tháng 2 năm 2014 trên Taekwang Group - kênh truyền hình cáp thuộc Dramacube (cũng được phát sóng trên BTV và YouTube). • Muốn thử sức nhiều nhân vật khác nhau, In-guk xác nhận sẽ vào vai một tên cướp trẻ trong phim hành động "Wild Dog". Nhưng cũng giống như "Police Family", bộ phim gặp một số trục trặc và không thể tiến hành. Thay vào đó, In-guk nhận vai chính trong drama hai lãng mạn "High School King of Savvy" (Vua trường học), trong phim, In-guk là một học sinh triển vọng với bộ môn khúc côn cầu nhưng đột nhiên phải đóng vai thay anh trai mình trở thành giám đốc điều hành của một công ty. • Vào cuối năm, In-guk vào vai chính trong một drama cổ trang dài tập mang tên "The King's Face" (Diện mạo hoàng đế), trong vai hoàng tử Gwang-hae, người trở thành đối thủ của cha ông - Vua Seonjo trong chính trị và tình yêu. Năm 2015 • In-guk tham gia chương trình thực tế của đài SBS Law Of The Jungle từ tháng 3 đến tháng 5, cho chuyến đi ở Đông Dương. • Nhận vai một chuyên gia phân tích tội phạm thiên tài Lee Hyun trong series phim trinh thám lãng mạn Hello Monster/I Remember You phát sóng trên kênh KBS2. • Vào ngày 15 tháng 12, anh tái hợp các nghệ sĩ cùng công ty Jellyfish Entertainment trong một track mang tên “Love In The Air” (Hangul: 사랑난로) cho album Jelly Christmas 2015 – 4랑. Ca khúc ở thứ hạng 14 trên Gaon Digital Chart. Năm 2016 • Xác nhận vai nam chính trong 38 Revenue Collection Unit, drama do đài truyền hình cáp OCN sản xuất, anh trong vai Yang Jung-do một tay lừa đảo chuyên nghiệp, tính đến nay. Đây là drama có tỉ suất người xem cao nhất lịch sử nhà đài này nhận được. • In-guk trở lại Law Of The Jungle lần thứ 2 cho chuyến đi đến Mông Cổ. • Trở lại màn ảnh nhỏ vào cuối năm với drama hài lãng mạn Shopaholic Louis/Shopping King Louis, trong vai cậu ấm Louis được lớn lên trong sự nuông chiều và bảo bọc ở Pháp, tìm đến thú vui mua sắm nhằm giải tỏa sự cô đơn của mình. Sân khấu âm nhạc. Seo In Guk từng lần lượt giành chiến thắng trong các sân khấu âm nhạc Hàn Quốc - M! Countdown và Music Trangle - được phát sóng trên các kênh truyền hình cáp Mnet và KM. [nguồn tham khảo] Music Triangle. =Tham khảo=
1
null
Tên Nôm là tên dân dã trong tiếng Việt của một thực thể địa lý ở Việt Nam, thường là làng, xóm, thành quách nhưng cũng có khi là thực thể thiên nhiên như sông ngòi, núi, đèo, đầm, rừng. Một số đình và chùa cũng mang tên Nôm. Ở miền Bắc Việt Nam nhiều làng ở trung châu ngoài tên Nôm còn có tên chữ dùng song hành. Tên Nôm thường chỉ là một chữ trong khi tên chữ thường là hai chữ trở lên. Một số làng chỉ có tên Nôm mà không có tên chữ. Tên Nôm có lẽ có trước lấy cảnh quan hay sự kiện địa phương mà đặt. Tên chữ có lẽ xuất hiện sau do ảnh hưởng Hán Việt cùng ý hướng cầu tiến, niềm tự hào. Tương quan giữa tên Nôm và tên chữ có thể là do biến dạng phát âm, na ná gần giống nhau. Số khác là do dịch nghĩa. Nhưng cũng có không ít trường hợp hai danh hiệu không có liên hệ trực tiếp. Xem thêm. Chữ Nôm
1
null
là con gái thứ hai của Hoàng tự Fumihito và Hoàng tự phi Kiko. Tiểu sử. Kako sinh ngày 29 tháng 12 năm 1994. Nghi lễ ban kiếm được cử cùng ngày, nghi lễ mệnh danh được cử ngày 4 tháng 1 năm 1995. Tên húy Kako viết bằng Hán tự là 佳子 (Giai Tử), với chữ "Giai" (佳) như trong "giai nhân", nghĩa là con người xinh đẹp. Nội Thân vương còn có một người chị ruột là Komuro Mako và em trai ruột là Thân vương Hisahito, người đứng thứ hai trong danh sách kế thừa Hoàng vị. Cô là cháu gái thứ hai của đương kim Thái thượng Thiên Hoàng Akihito và Thượng Hoàng hậu Michiko. Tháng 4 năm 2001, Nội Thân vương Kako nhập học trường tiểu học Gakushuin (Học tập viện; 学習院), vốn là một hệ thống trường học dành cho con cháu các gia đình quý tộc Nhật, và ra trường tháng 3 năm 2007. Nội Thân vương vào học trường trung học nữ Gakushūin Tokyo tháng 4 năm 2007 và tốt nghiệp tháng 3 năm 2012. Năm 2012, Kako du học khóa tiếng Anh ở Đại học Trinity, Dublin. Tháng 4 năm 2013, Nội Thân vương dự lễ khai giảng đại học Gakushūin và bắt đầu trở thành sinh viên của trường này. Tháng 9 năm 2014, Nội thân vương thôi học tại Gakushuin, và thi đậu kỳ thi đầu vào của trường Đại học Quốc Tế Thiên Chúa Giáo (International Christian University, ICU), nơi chị cô là Mako từng theo học, với song ngành tâm lý học và nghệ thuật biểu diễn. Trong thời gian học tại đây, cô được học bổng du học trường Đại học Leeds, Anh quốc và hoàn tất khoá học năm 2018. Cô tốt nghiệp trường ICU năm 2019 và rất hạnh phúc vì có một thời sinh viên trọn vẹn. Nội thân vương được dân chúng quý mến vì sự tự tin, thông minh, xinh đẹp, chăm chỉ, năng động và thanh lịch. Cô có khả năng sử dụng thành thạo ngôn ngữ ký hiệu, giống như mẹ cô là Hoàng tự phi Kiko và chị gái là Komuro Mako. Ngoài ra, cô cũng rất có năng khiếu trong môn trượt băng nghệ thuật, đây cũng là môn thể thao cô rất yêu thích. Tham khảo. http://mainichi.jp/english/english/newsselect/news/20140912p2g00m0dm022000c.html
1
null
Cessna L-19/O-1 Bird Dog là một loại máy bay thám sát và liên lạc. Thiết kế và phục vụ. Quân đội Hoa Kỳ đang tìm kiếm một chiếc máy bay có thể điều chỉnh hỏa lực pháo binh, cũng như thực hiện nhiệm vụ liên lạc, và tốt nhất là được chế tạo bằng tất cả kim loại, vì máy bay liên lạc phủ vải được sử dụng trong Thế chiến II (chủ yếu là các sản phẩm Stinson và Piper) có thời gian phục vụ ngắn. Sau khi đặc điểm kỹ thuật cho một máy bay liên lạc và quan sát hai chỗ ngồi được ban hành, Công ty Máy bay Cessna đã đệ trình Cessna Model 305A, một sự phát triển của Cessna 170. Cessna 305A là một máy bay một động cơ, nhẹ, có thanh chống, cánh cao với bánh đáp bánh sau. Sự khác biệt lớn nhất so với Cessna 170 là 305A chỉ có hai chỗ ngồi, trong cấu hình song song (máy bay hai chỗ ngồi lớn nhất cessna từng được sản xuất), với cửa sổ bên góc để cải thiện quan sát mặt đất. Những khác biệt khác bao gồm thân sau được thiết kế lại, cung cấp một cái nhìn trực tiếp về phía sau (một tính năng sau này được gọi là "Omni-View", được chuyển sang máy bay một động cơ Cessna sau năm 1964), và các tấm trong suốt ở phần trung tâm của cánh trên buồng lái (tương tự như những gì được tìm thấy trên Cessna 140 và mô hình Cessna 150 "Aerobat" sau này), cho phép phi công nhìn trực tiếp trên đầu. Một cánh cửa rộng hơn đã được trang bị để cho phép một cánh được nạp nhiên liệu
1
null
McDonnell XV-1 là một loại gyroplane thử nghiệm, được phát triển theo chương trình nghiên cứu chung giữa Không quân Hoa Kỳ và Lục quân Hoa Kỳ. Chương trình này nghiên cứu phát triển một loại máy bay có thể cất hạ cánh giống trực thăng nhưng có vận tốc của máy bay.
1
null
Dòng máy bay Aero Commander 500 là một seri các máy bay động cơ piston và turboprop hạng nhẹ, do Aero Design and Engineering Company chế tạo cuối thập niên 1940, sau đó công ty này đổi tên thành Aero Commander năm 1950, và là một chi nhánh của Rockwell International từ năm 1965. Phiên bản sản xuất ban đầu là Aero Commander 520. Các phiên bản động cơ piston được sản xuất sau năm 1967 được biết đến với cái tên Shrike Commander.
1
null
Prism (cách điệu bằng PRISM, tạm dịch: "Lăng kính") là album phòng thu thứ tư của ca sĩ người Mỹ Katy Perry, phát hành bởi Capitol Records vào ngày 18 tháng 10 năm 2013. Bước đầu được dự đoán sẽ là một bản thu âm "tâm tối" hơn những sản phẩm trước của Perry, "Prism" lại là một album mang cảm hứng từ dòng nhạc dance. Cô tiếp tục hợp tác với nhà sản xuất người Thụy Điển Max Martin bên cạnh sự hỗ trợ của các cộng tác viên quen thuộc như Dr. Luke, Cirkut, Greg Wells, Benny Blanco, StarGate và những nhân tố mới bao gồm Klas Åhlund, Bloodshy & Greg Kurstin. Đa số bài hát trong "Prism" xoay quanh những vấn đề về cuộc sống hiện tại, những mối quan hệ và sự tự trao quyền của bản thân. Việc ghi âm cho album đã được thực hiện vào năm 2012, cùng khoảng thời gian cô quảng bá cho phiên bản tái phát hành của album thứ ba của cô - "Teenage Dream" - với nhan đề "The Complete Confection". Phần giai điệu của album được lấy cảm hứng từ nghệ sĩ nhạc dance người Thụy Điển Robyn. "Prism" đa phần nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ nhấn mạnh về "sự trưởng thành" và "sự nhạy cảm" của Pery. Ngoài ra, một số nhận xét khác cũng cho rằng "Prism" là một sự thất vọng lớn so với những sản phẩm âm nhạc trước của nữ ca sĩ, mô tả nó chỉ là một công thức dùng lại. Album ra mắt ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng "Billboard" 200 với 286.000 bản, trở thành album có doanh thu tuần đầu cao nhất từ trước đến nay của Perry. Album cũng đứng đầu tại Úc, Canada, Ireland, New Zealand và Vương Quốc Anh. Nó đã trở thành album bán chạy nhất trong sự nghiệp của Perry, album bán chạy thứ 1 tại Úc năm 2013, và là album bán chạy thứ 2 bởi một nghệ sĩ nữ ở Mỹ năm 2013. Liên đoàn Công nghiệp ghi âm quốc tế (IFPI) thông báo rằng "Prism" là album bán chạy thứ 6 trên thế giới trong năm 2013, cũng như album bán chạy nhất thế giới năm 2013 bởi một nghệ sĩ nữ, công nhận Perry là "Một hiện tượng toàn cầu". Tính đến tháng 8 năm 2015, nó đã bán được hơn 4 triệu bản trên toàn cầu. Sự thành công của album còn tiếp tục thể hiện trong suốt năm 2014 và giành được nặm đề cử giải Grammy cho Album giọng pop xuất sắc nhất tại lệ trao giải thường niên lần thứ 57. Đĩa đơn mở đường cho album, "Roar" được phát hành vào ngày 10 tháng 8 năm 2013 và đạt vị trí quán quân trên "Billboard" Hot 100, trở thành bài hát thứ 8 của Perry làm được điều này; nó cũng vươn lên top 10 tại 30 quốc gia khác. "Unconditionally" ra mắt vào ngày 16 tháng 10 năm 2013, và là một thành công tương đối trên toàn thế giới. Giữa việc phát hành hai đĩa đơn này, "Dark Horse" (kết hợp với rapper Juicy J) được phát hành vào ngày 17 tháng 9 năm 2013 trên iTunes như là đĩa đơn quảng bá đầu tiên từ album và "Walking on Air" trở thành đĩa đơn quảng bá thứ hai vào ngày 30 tháng 9 năm 2013. "Dark Horse" chính thức trở thành đĩa đơn thứ 3 vào ngày 17 tháng 12 năm 2013 và đã giành được vị trí số 1 trên "Bilboard" Hot 100 trong 4 tuần liên tiếp. Tiếp sau đó là "Birthday" và "This Is How We Do" là đĩa đơn thứ 4 và thứ 5. "Prism" được quảng bá rộng rãi bằng chuyến lưu diễn The Prismatic World Tour. "Prism" đã trở thành album đầu tiên và duy nhất đến nay có trên một video âm nhạc đạt 3 tỷ lượt xem trên YouTube. Bối cảnh thực hiện và thu âm. Sau vụ li hôn với nam diễn viên hài người Anh Russell Brand vào cuối tháng 12 năm 2011, Perry cảm thấy thực sự muốn làm một album "cực kỳ đen tối", đen tối hơn những sản phẩm âm nhạc trước đây của cô. Trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí L' Uomo Vogue vào tháng 6 năm 2012, nữ ca sĩ cho biết: "Đó là những điều không thể tránh khỏi sau những gì tôi đã trải qua. Nếu tôi có một cỗ máy thời gian thì tôi sẽ trở về quá khứ nhưng sự thật là tôi không thể, cho nên bạn sẽ khám phá thêm một phần nào đó từ con người của tôi". Perry tuyên bố rằng cô sẽ "không cho một chút ánh sáng nào lọt qua" khi cô bắt đầu thực hiện thu âm Prism từ tháng 11 năm 2012. Tuy nhiên quá trình sáng tạo đằng sau Prism biến nó thành một album khác xa với những gì Perry dự kiến: Nữ ca sĩ thật sự cảm thấy có hứng thú với một video dài 6 phút của Eckhart Tolle, tác giả của cuốn tự truyện The Power of Now. Cô nói: "Khi bạn mất một thứ gì đó có vẻ như gần như mọi thứ gắn liền với nó sụp đổ nhưng nó cũng để lại một lỗ hổng lớn để cho những thứ gì đó tuyệt vời đi qua. Perry cuối cùng cũng có những định hướng mới tích cực hơn cho album. Nữ ca sĩ tiết lộ với MTV News: " Không thực sự chắc chắn rằng có bất kỳ yếu tố đen tối nào trong album, cũng không có một sự chắc chắn nào về kết cấu cũng như màu sắc của nó nhưng tôi nghĩ tôi đã nói khi tôi đi qua những giai đoạn khác nhau thì có lẽ tôi đã thực sự cho ánh sáng len lỏi và đi qua". Cuối cùng Perry cũng miêu tả album sẽ "tự nhiên hơn, trung thực và nhạy cảm hơn Teenage Dream", nhưng cô cũng nói nó sẽ "có nhiều sự vui nhộn hơn". Johnny Wujek, nhà thiết kế trang phục cho Katy Perry ở tour diễn California Dreams, đã phát biểu trong một cuộc phỏng vấn: "Chúng tôi đã nghe một bài hát mới trong album sắp phát hành của Katy và tôi như là...'Chúa ơi', tôi đã thấy video bài hát và cô ấy cũng vậy; điều này cứ như thể tôi và cô ấy có chung suy nghĩ vậy". Trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí Billboard vào cuối năm 2012, Perry nói rằng cô ấy muốn tự thưởng cho mình một kỳ nghỉ ngơi trước khi bắt tay vào việc ghi âm các bài hát trong album mới; cụ thể: "Tôi là một người trưởng thành và những gì tôi làm không phải là sự vội vàng để dẫn đến thất bại, tôi sẽ không dùng súng để tự bắn vào chân mình. Tôi cần tận hưởng cuộc sống để nhìn lại những thứ giá trị trong những gì tôi hát. Đó luôn luôn là trường hợp của tôi... Tôi biết chính xác việc tôi cần làm với những đĩa nhạc tiếp theo. Tôi cũng biết cả bìa đồ họa, màu sắc cũng như giai điệu... Tôi còn biết hình ảnh của tour diễn tiếp theo của tôi sẽ như thế nào... Và tôi cũng thật sự vui nếu như những tầm nhìn trên của tôi trở thành hiện thực." Perry cũng nói rằng cô không muốn album mới của cô bị gọi là Teenage Dream 2.0, "Đó sẽ là một điều ngớ ngẩn. Tôi thực sự không có một lợi ích nào nếu tôi không cố gắng và vượt qua bản thân mình ở mọi góc độ". Hơn nữa, Perry nói thêm: "Tôi đang thực hiện những công việc nhỏ nhặt và ở đây tôi đang ở trong phòng thu với các nghệ sĩ khác và mọi thứ diễn ra rất ổn. Tôi đang bắt đầu "phủi bụi các bánh xe" một chút: [Tôi] đi với một số người trong nhóm trong tháng 11 [năm 2012] và có những sự hợp tác vui vẻ với họ mà có lẽ mọi người sẽ không tưởng tượng ra được". Nữ nghệ sĩ nói với L'Uomo Vogue rằng album sẽ chứa trong nó những yếu tố đen tối hơn (darker) so với những sản phẩm trước. Diplo, Emeli Sandé, Sia Furler, Klas Åhlund, Greg Kurstin, Dr. Luke, Max Martin, Greg Wells, Juicy J, Sarah Hudson, Cirkut, Stacie Orrico và Bonnie McKee là những nghệ sĩ đã hợp tác với Perry trong album. Trong khoảng thời gian diễn ra tour diễn California Dreams, Perry bắt đầu thu âm "từng mảnh nhỏ ý tưởng" trên điện thoại của mình. Cô bắt đầu bước vào studio vào tháng 11 năm 2013 cùng Greg Kurstin và Greg Wells, và cô cảm thấy mình như bước vào một nơi đen tối. Perry đã trải qua rất nhiều cuộc họp bàn ý tưởng bao gồm cả một chuyến đi đến Châu Phi và những cuộc họp bắt đầu lại từ tháng 3 năm 2013. Cô tiếp tục hợp tác với Dr. Luke, Bonnie McKee, và Cirkut tại quê nhà Santa Barbara, California. Còn tại Stockholm cô đã hợp tác với Max Martin, Stargate, Benny Blanco, Juicy J, Jonatha Brooke, Sia Furler, Bloodshy và Klas Åhlund. Perry cũng đã gợi ý rằng họ nên phát hành album vào quý IV năm 2013. Tháng 4 năm 2013, Perry tuyên bố rằng album đã hoàn thành xong một nửa và cô mô tả nó như album của chứng "tâm thần phân liệt" ("schizophrenic" album); cô còn thêm rằng: "Khi tôi ra ý kiến của mình về việc phát hành album đó cho các hãng đĩa thì cuộc đua đã thực sự bắt đầu, áp lực bắt đầu đè nặng lên bản thân". "Greg Wells cho phép tôi nói ra. Không phải là tôi không thể tìm thấy điều đó với những người khác nhưng ông chỉ cho phép tôi. Max [Martin] và [TS] Luke là 2 người thúc đẩy tôi nhiều nhất. Ở trong một nhóm, mỗi người chúng tôi có một thế mạnh nhất định; với Max đó là sự lựa chọn giai điệu, Luke là sản xuất và tôi đảm nhiệm phần lời xương sống của bài hát và giai điệu. Làm việc với Bonnie McKee giống như một phiên "hành hạ tình cảm" vậy, Bonnie và tôi tranh luận với nhau như trong một trận chiến để tìm ra lời hay nhất cho các bài hát." Tháng 7 năm 2013, McKee tiết lộ rằng cô và Perry đã cùng nhau viết 4 bài hát về quê hương Santa Barbara, California của Perry và nói thêm rằng họ đã trưởng thành lên rất nhiều. Tháng tiếp theo, McKeee nói: "Vâng, như bạn đã biết chúng tôi đang hợp tác cùng nhà sản xuất âm nhạc Dr.Luke và Max Martin, và tôi xem họ như những thiên tài của giai điệu...". Perry đã có một ý tưởng rất cụ thể về những gì cô ấy muốn. "[Luke] & [Max] trở lại với bài hát và chúng tôi đã tìm thấy những câu chuyện trong bài hát đó". Tháng 8 năm 2013, tại lễ trao giải MTV Video Music Awards 2013, Perry tiết lộ album sẽ rất "u tối" và cô giải thích rằng cô đang ở một nơi đen tối trong cuộc sống của cô ấy vào thời điểm ban đầu khi thực hiện album. Lý do mà album mang tên "Prism" là bởi vì sau khi hoàn thành album cô tự thấy nó như một sự phản ánh, đối chiếu sự làm việc của bản thân cô; cuối cùng "để ánh sáng xuyên qua thân mình" ("let the light in") và làm cho cô có cảm giác "như một chiếc lăng kính" ("very prismatic"). Cô nói rằng cô sẽ nhận lấy ánh sáng, làm chúng tán sắc thành nhiều màu, trải chúng ra từ bản thân mình thông qua những bài hát. Sáng tác và những bài hát trong album. "Roar" là một bài hát mang âm hưởng tempo trung, một bài hát pop giàu năng lượng; bài hát cũng mang trong nó những yếu tố của Folk rock, Arena rock và Glam rock. Về phần lời, bài hát như một "tuyên ngôn quyền lực" mà trong đó Perry đã tự thúc đẩy, nâng cao bản thân mình; cô đã "tìm thấy sức mạnh trong chính bản thân mình".. Perry mô tả bài hát như một "đĩa nhạc của sự tự phản ánh, tự trao quyền và tự học hỏi để đối phó với những quả bóng cuộc sống hằng ngày ném vào bạn". Hơn nữa Perry nói thêm: "Bài hát như một lời động viên, thúc đẩy bản thân bạn và có lẽ chính bản thân là kẻ bắt nạt lớn nhất cuộc đời bạn. Và bài hát đã lên tiếng cho bản thân và nó thực sự có sức mạnh". "Legendary Lovers" là một bài hát có "phần điệp khúc thú vị nhất" ("Take me down to the river / Underneath the blood-orange sun / Say my name like a scripture / Keep my heart beating like a drum"). Perry mô tả bài hát như "nó có một chút gia vị cà ri ở trong vậy"; trong khi đó cây bút James Montgomery đến từ MTV đã đánh giá bài hát là "một chút chậm chạp trước khi bùng nổ như sự phi nước đại của đất nước Ả Rập" Quảng bá. Vào ngày 29 tháng 7 năm 2013, một chiếc xe tải vàng lớn được diễu hành tại Los Angeles nhằm tiết lộ tựa đề của album là "Prism" và ngày phát hành là ngày 22 tháng 10 năm 2013. Chiếc xe tải đã dừng lại tại nhiều nơi ở nước Mỹ, tuy nhiên vào ngày 9 tháng 8 năm 2013, chiếc xe tải đã gặp tai nạn khi bị đâm bởi một người lái xe say rượu ở Pennsylvania. Sau khi nghe tin trên thì Perry đã tweet trên Twitter rằng: "Cô ấy là một nhà vô địch!. Cô ấy sẽ trở lại". Trước khi phát hành bài hát "Roar", Perry đã cho phát hành 4 đoạn quảng cáo (teaser) và cả bốn đều tuyên bố rằng ngày phát hành chính thức của đĩa đơn Roar là ngày 12 tháng 8 năm 2013, tuy nhiên sau đó bài hát đã được phát hành sớm hơn dự kiến trước 2 ngày. Đoạn teaser đầu tiên (tiêu đề: Burning Baby Blue) cho thấy hình ảnh Perry đốt mái tóc giả màu xanh dương mà cô đã sử dụng trong video bài hát "California Gurls", rồi sau đó hiện lên tên bài hát và ngày phát hành dự kiến. Đoạn teaser thứ 2 (tiêu đề: The Third Coming) cho thấy hình ảnh Perry trong một đám tang khi cô cùng những người xung quanh đang làm lễ tang cho "chiếc váy kẹo ngọt"; trong khi mọi người khóc tiếc thương thì Perry có vẻ rất lạnh lùng, cô còn nhoẻn miệng cười ở cuối đoạn video. Hình ảnh hai cô bé đội tóc giả màu tím được cho là đại diện cho những người hâm mộ đang xót xa, nuối tiếc khi phải chia tay album Teenage Dream. Đoạn teaser thứ 3 (tiêu đề: From A Meow To A Roar) cho thấy hình ảnh của một con mèo trắng đang ăn một món đồ chơi làm bằng lông chim và sau đó gầm lên. Đoạn teaser thứ 4 (tiêu đề: Satin Cape) là hình ảnh Perry bước vào phòng thu, mặc một chiếc áo khoác thêu hình đầu hổ và đứng trước micro. Hai đoạn teaser sau có chứa một đoạn nhỏ của bài hát. Vào ngày phát hành chính thức của bài hát trên iTunes, Perry đã thúc đẩy quá trình phát hành của bài hát tại thành phố New York. Vào ngày 20 tháng 8 năm 2013, người hâm mộ đã có thể mở khóa được tên bài hát, lời bài hát và 2 đoạn nhạc khác từ "Prism" bằng việc tweet #KATYNOW. Sau khi người hâm mộ nghe 2 đoạn nhạc trên, họ sẽ chọn ra đoạn nhạc mà họ muốn được mua trên iTunes vào ngày 17 tháng 9 năm 2013 trước khi album được phát hành. Hai đoạn nhạc đó là "Dark Horse" (kết hợp với rapper Juicy J) và "Walking on Air". Tại lễ trao giải MTV Video Music Awards 2013 được tổ chức vào ngày 25 tháng 8 năm 2013, Perry đã tuyên bố bài hát giành chiến thắng là "Dark Horse" (64% phiếu bầu chọn) và cô đã mô tả ngắn gọn mỗi bài hát sau đó. Cô nói rằng với "Walking on Air" cô ấy thật sự muốn mang trở lại thể loại nhạc deep house của những năm 90. Còn với "Dark Horse", Perry chia sẻ bài hát được cô và bạn cô, Sarah Hudson viết lời và mô tả bài hát như "một thứ hương vị của hip hop đường phố". Perry cũng mô tả lời bài hát như "lời của một mụ phù thủy cảnh báo cho bạn trai của bà ta rằng đừng nên yêu bà ấy và nếu anh ta không nghe thì anh ấy sẽ có một kết quả không tốt". Perry cũng tweet trên Twitter rằng: "Phiên bản của Dark Horse ft. Juicy J chỉ là một bản xem trước (PREVIEW) của #PRISM khi nó được phát hành vào ngày 17 tháng 9 năm 2013, chứ KHÔNG phải là đĩa đơn chính thức thứ hai". Ngày 5 tháng 9 năm 2013, một buổi tiệc nghe "Prism" đã được tổ chức, trong đó Perry đã cho phát tổng cộng 12 bài hát trong album tới cho khoảng 100 khán giả, chủ yếu là những người làm trong ngành công nghiệp và các nhà báo ở New York. Perry nói rằng không phải tất cả các bài hát đã được pha trộn và rằng album là đã được bàn giao nhãn hiệu của nó vào ngày 09 tháng 9 năm 2013. Các bài hát được phát trong đêm nhạc được tạp chí Billboard xác nhận là: "Roar", "Walking on Air", "Unconditionally", "Dark Horse", "Double Rainbow", "Legendary Lovers", "Birthday", "This Is How We Do", "International Smile", "Ghost", "Love Me" và "By the Grace of God". Bìa chính thức của album, được thực hiện bởi Ryan McGinley, được công bố vào đúng ngày hôm sau trên Good Morning America. Tour diễn. Vào ngày 12 tháng 8 năm 2012, trong chương trình "On Air", Perry đã trả lời phỏng vấn của Ryan Seacrest, khi được hỏi liệu cô ấy sẽ đánh mất bất cứ điều gì từ thời kỳ Teenage Dream, cô trả lời: "Tôi sẽ cố gắng tích hợp nó trong một cách thức mới đặc biệt khi tôi tiến hành tour tiếp theo vào năm sau. Nó sẽ là một phiên bản phát triển hơn của Teenage Dream. Và khi bạn nhìn thấy tôi trong tour diễn, bạn sẽ luôn luôn nhận được những bài hát mà bạn muốn nghe...Tôi không bỏ rơi bất cứ gì của nó". Đĩa đơn. Đĩa đơn đầu tiên của album có tựa đề là "Roar". Perry nói rằng bài hát là "một lời động viên, nâng cao bản thân vì có một khoảng thời gian trong cuộc sống, tôi đã không có thiện cảm với bất cứ điều gì, nên bây giờ tôi đang cố gắng cảm nhận mọi thứ... Đôi khi trong cuộc sống bạn bị đè nặng bởi những mối quan hệ và nó khiến bạn khó khăn với bản thân. Nhưng không, có vẻ điều này không tốt, vì thế tôi viết nhạc và có vẻ công việc này làm tôi mạnh mẽ hơn". Bài hát mang âm hưởng tempo trung, một bài hát pop giàu năng lượng; bài hát cũng mang trong nó những yếu tố của Folk rock, Arena rock và Glam rock. Bài hát được ra mắt vào ngày 10 tháng 8 năm 2013, và được phát hành trên iTunes và Youtube hai ngày sau đó. Katy Perry biểu diễn "Roar" trực tiếp lần đầu tiên vào ngày 25 tháng 10 năm 2013 tại MTV Video Music Awards 2013. Vào cùng ngày, một đoạn giới thiệu video chính thức của bài hát dài 21 giây được ra mắt. Ngày 4 tháng 9 năm 2013, theo công bố xếp hạng tuần của Billboard thì bài hát đạt số 1 tại Billboard Hot 100 sau 4 tuần có mặt trên bảng xếp hạng. Video âm nhạc chính thức của bài hát được phát hành chính thức vào ngày sau đó. Danh sách bài hát. Được trích từ chú thích trong "Prism".
1
null
Mihai Eminescu (15 tháng 1, 1850 - 15 tháng 6 năm 1889) là một nhà thơ và nhà tiểu thuyết người România. Ông được xem là nhà thơ nổi tiếng và có tầm ảnh hưởng nhất trong nền thi ca România. Ông sinh ra ở làng Ipoteşti thuộc vùng Moldavia Thượng. Tổ tiên vốn là nông dân, đến đời cha nhờ làm ăn khá giả nên trở thành một nhà quý phái cỡ nhỏ. Lúc bé, Eminescu học trường trung học Cernăuţi nhưng do tính ưa phiêu lưu nên khi 14 tuổi ông đã theo một đoàn hát rong lang thang khắp Transilvania ở miền tây România. Trong giai đoạn 1869-1873, ông theo học ở Wien (Áo), sau đó là ở Berlin (Đức) sau khi quay về Iaşi thủ phủ Moldova một thời gian ngắn. Các công việc Mihai Eminescu từng làm gồm có công tác thư viện, làm thanh tra giáo dục rồi làm báo. Năm 1883, ông mắc bệnh tâm thần, khi khỏi khi tái phát và qua đời không lâu sau đó thọ 39 tuổi. Thi hài ông được chôn cất tại Bucureşti.
1
null
Dân chủ hóa là một từ trong khoa học chính trị và xã hội học để chỉ những thay đổi về mọi mặt trong xã hội, với mục đích là để thay thế những cấu trúc xã hội độc đoán, tập trung quyền lực vào một nhóm người bằng một hệ thống mà người dân có thể kiểm soát quyền lực, góp tiếng nói, cùng quyết định một cách tự do và như vậy đưa tới một xã hội công bằng hơn. Dân chủ hóa theo nghĩa chính trị là việc chuyển đổi sang chế độ chính trị dân chủ hơn. Nó có thể là sự chuyển đổi từ một chế độ độc tài sang chế độ dân chủ, một quá trình chuyển đổi từ một độc tài sang một bán dân chủ hay chuyển đổi từ một bán độc tài thành một chế độ dân chủ. Dân chủ hóa từ bên dưới hay từ phía trên. Một ví dụ cho việc dân chủ hóa từ bên dưới (phát xuất từ người dân) còn gọi là "diễn tiến hòa bình" là sự sụp đổ của khối Đông Âu. Những cố gắng để dân chủ hóa nước Đức sau Đệ Nhị thế chiến, hay Afghanistan, Iraq gần đây,được xếp vào loại dân chủ hóa từ phía trên, từ những người năm giữ quyền lực. Ông Otfried Höffe, một triết gia Đức, khẳng định, cả hai loại chỉ đưa tới thành công, khi mà ngoài những cơ quan chính phủ còn có nhiều tổ chức xã hội dân sự từ nhiều phương diện được hình thành. Dân chủ hóa kiến thức. Kiến thức ngày nay ở phương Tây rất dễ dàng và nhanh chóng thu thập được và không phải khổ sở tìm kiếm từ các thư viện mà không phải ai cũng được phép vào. Nhờ Internet và những trang như tự điển bách khoa Wikipedia các kiến thức tổng quát dễ dàng được tiếp thu. Tuy nhiên sử gia Đức Hans-Ulrich Wehler nhận định rằng, người dân không làm được gì ích lợi với những tin tức tràn ngập, nếu họ không học cách, làm sao để ứng xử trong hoàn cảnh đó. Họ phải biết cách lựa chọn, và phân tích thông tin. Ở đây đòi hỏi những căn bản về trí tuệ, những điều mà hoàn toàn không liên quan tới những kỹ thuật để có thể tiếp nhận được tin tức. Dân chủ hóa lao động. Doanh nhân người Brasil Ricardo Semler đã đưa những cấu trúc dân chủ vào những hãng xưởng của mình, chẳng hạn như các nhân viên cấp dưới thường xuyên đánh giá cấp trên của mình, nhân viên tự quyết định, sắp xếp chỗ làm việc và cách làm việc theo ý của mình, hoặc là tự lựa chọn cấp khách sạn khi đi làm dịch vụ cho hãng. Hệ thống quản lý này được ông viết ra trong cuốn sách mà ấn bản tiếng Anh gọi là "Turning Your Own Table", in năm 1993. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình dân chủ hóa. Có cuộc tranh luận về các yếu tố ảnh hưởng đến dân chủ hóa. nhiều điều quan trọng, bao gồm cả kinh tế, văn hóa và lịch sử, đã được trích dẫn là ảnh hưởng đến quá trình này. Một số yếu tố thường xuyên hơn được đề cập là:
1
null
Nghệ leonid (danh pháp khoa học: Curcuma leonidii) là một loài nghệ được phát hiện tại Vườn quốc gia Bù Gia Mập thuộc tỉnh Bình Phước, Việt Nam năm 2005 và được mô tả, công nhận loài mới năm 2013, công bố trên tạp chí "Phytotaxa" số 126 tháng 8 năm 2013. Phát hiện. Mẫu vật nghệ leonid đầu tiên được (một nhà khoa học người Nga đã có nhiều nghiên cứu về thực vật Việt Nam) và cộng sự phát hiện ra trong cuộc khảo sát tại Vườn quốc gia Bù Gia Mập năm 2005. Lúc đầu, mẫu vật được nhận định là của loài địa liền lá hẹp ("Kaempferia angustifolia") được William Roscoe mô tả khoa học đầu tiên năm 1807. Tuy nhiên, những bức ảnh mẫu vật này sau đó đã chỉ ra những đặc điểm được xác định là một loài mới. Tên khoa học của loài được đặt theo tên của Leonid Vladimirovich Averyanov, người đầu tiên phát hiện ra loài này. Phân bố. Loài này có tại tỉnh Bình Phước, miền nam Việt Nam. Loài này là một loại địa thực vật sinh sống trong tầng dưới tán của các khu rừng thường xanh lá rộng vùng đất thấp, thường ven suối, ở cao độ 350–400 m. Mô tả. Tương tự như "C. harmandii" ở chỗ cụm hoa bao gồm các lá bắc màu xanh lục không có mào rõ ràng, nhưng khác với nó ở chỗ có cụm hoa thu gọn hơn (so với thuôn dài hơn ở "C. harmandii"), các thùy tràng hoa màu trắng (so với màu ánh lục), các nhị lép bên màu trắng hình mác ngược-hình thìa (so với màu trắng ánh lục gần như thẳng) và cánh môi màu trắng với đường giữa màu vàng đậm và rõ ràng, các bên của nửa đáy của đường giữa có lông tơ mềm, có vết màu đỏ và mép gần như phẳng (so với cánh môi màu trắng với đường giữa có lông tơ màu vàng được viền quanh với ánh hồng, đặc biệt về phía đỉnh và mép nhăn). Ra hoa tháng 4-5, tạo quả tháng 7.
1
null
Black Infinity là ban nhạc được thành lập bởi Nguyễn Tiến Hưng năm 2006, theo phong cách Gothic/Doom/Death metal. Vào thời điểm mới ra đời, nhóm chỉ gồm Hưng cùng hai khách mời. Nhóm hoạt động chủ yếu tại California, Mỹ với sản phẩm đầu tay là Mini CD Sorrow burned. Cũng trong năm 2006, Hưng quyết định trở về Việt Nam chiêu mộ thành viên. Hiện nhóm ổn định với đội hình 6 người: Nguyễn Tiến Hưng (vocalist), Nguyễn Tiến Mẫn (guitarist), Đặng Thái Sơn (guitarist), La Cẩm Mãn (keyboardist), Tiger Vũ (bassist), La Cẩm Cường (drummer). Vào thời điểm đó, Rock tại Việt Nam không còn quá mới mẻ, nhưng với phong cách chơi sáng tạo và những đầu tư chuyên nghiệp, Black Infinity đã có những bước tiến dài, trở thành một trong những ban nhạc chơi Metal hàng đầu Việt Nam và ghi danh Việt Nam trên bản đồ Rock thế giới. Thành lập. Ý tưởng về Black Infinity đến với Nguyễn Tiến Hưng khi anh đang học tập bên Mỹ. Trước khi đi du học, Hưng từng là tay trống trong ban nhạc Rock UnlimiteD. Khi ở Mỹ, Hưng tham gia với vai trò Lead vocal/Bass của ban nhạc Sorrow Decadence, vốn được thành lập bởi các du học sinh Việt Nam ở Mỹ có cùng đam mê dòng nhạc Symphony Death. Năm 2006, do một số lý do các nhân của các thành viên, Sorrow Decadence tạm ngừng hoạt động. Khi đó, Hưng quyết định thực hiện ý định đã nung nấu từ lâu là thành lập một ban nhạc mang phong cách Gothic/Doom/Death lấy tên là Black Infinity. "Black là màu đen, màu chủ đạo của nhạc Rock. Còn Infinty là một cái gì rất rộng lớn. Kết hợp hai từ đó lại thành sức mạnh của âm nhạc Rock." Hưng giải thích về cái tên của nhóm. Cũng trong năm 2006, sau khi tốt nghiệp xong, Hưng quyết định trở về Việt Nam sinh sống và tìm kiếm thành viên cho Black Infinity. Đầu tiên là Nguyễn Tiến Mẫn (Tiger Nguyen), em trai của Hưng, tham gia với vị trí guitar. Mẫn cũng từng là tay guitar của ban nhạc Unlimited. Anh là người gắn bó với guitar và những bản nhạc Rock từ ngày còn ngồi trên ghế nhà trường. Người tiếp theo tới với Black Infinity là Đặng Thái Sơn. Đây cũng là một thành viên cũ của Unlimited với vai trò guitar. Trước đó, Sơn và Hưng gặp nhau ở hội Mỹ thuật. Thấy Hưng đang nghe Rock, Sơn rủ Hưng tham gia câu lạc bộ Rock Sài Gòn, là tiền thân của RFC hiện nay. Ngày đó, hai người cũng lập một nhóm nhạc sinh viên. Ngoài vai trò chơi guitar, Sơn còn đảm nhiệm phần kỹ thuật thu âm của nhóm. Nguyễn Tiến Thịnh (Cường em) - Vocal của Titanium cũng gia nhập Black Infinity với vài trò chơi trống. Bassist Tiger Vũ đến với ban nhạc năm 2007 rất tình cờ. Anh là bạn của bạn Hưng, khi đó cũng đang du học tại Mỹ. Khi còn ở Việt Nam, Tiger là thành viên của 3Someblues và Firewall, những nhóm nhạc ở trường cấp 3 Lê Hồng Phong, Hồ Chí Minh. Sau nhiều lần trò chuyện qua lại, cảm thấy hợp với phong cách của mình, Tiger Vũ quyết định về Việt Nam để gia nhập nhóm. Trước khi Tiger Vũ về nước, Tiến Hưng vừa là vocal kiêm vị trí bass. Đây là đội hình ra mắt đầu tiên của Black Infinity. Tuy nhiên không lâu sau đó, Nguyễn Tiến Thịnh do bận bịu với nhóm nhạc Titanium nên rời Black Infinity, thay thế là Phạm Hoàng Mỹ (Phệ). Hoàng Mỹ sinh ra trong gia đình có truyền thống chơi nhạc. Mỹ cũng từng chơi guitar, bass, keyboard nhưng lại quyết định chọn trống bởi "con người của mình không phải là thuộc về giai điệu mà của tiết tấu." Cuối năm 2006, La Cẩm Mãn xuất hiện. Hưng tình cờ gặp gặp Mãn trong một đêm solo tại RFC bar. "Hưng đứng trên khán đài và nhìn xuống sân khấu, thấy một tay keyboard rất ngầu và nói chung là... không biết tả thế nào... một sức hút rất đặc biệt", vocalist của Back Infinity nhớ lại. Bị quyến rũ bởi lối chơi sáng tạo và thần thái cuốn hút, Hưng mời anh tham gia nhóm. La Cẩm Mãn trở thành keyboardist của Black Infinity và thổi vào chất Metal của nhóm thêm một luồng âm thanh đặc biệt, vừa dịu dàng vừa ma quái. Năm 2011, Phạm Hoàng Mỹ buộc phải rời nhóm vì sử dụng chất kích thích. Đây cũng là thông điệp chung của nhóm đối với tất cả các thành viên: nói không với chất kích thích. "Black Infinity chú trọng vào Âm nhạc và Nghệ thuật. Đó mới là vấn đề chính, là niềm đam mê thật sự," trưởng nhóm Tiến Hưng bày tỏ quan điểm. Không chỉ riêng vấn đề về chất kích thích, Black Infinity cũng hướng tới một môi trường Rock sạch, nơi Nghệ thuật được đặt lên hàng đầu chứ không phải những hành động quá khích. ""Chúng tôi có 1 lời nhắn nhủ đến những ai tham gia show của Black Infinity rằng chúng tôi không thích tiết mục Wall of Death hay Cricle of Death diễn ra trong đêm diễn. Với Black Infinity, mọi người đến là để thưởng thức âm nhạc. Chúng tôi không tán thành những hành động quá khích ảnh hưởng đến những cô gái và những người xung quanh." trưởng nhóm Black Infinity lên tiếng trước buổi ra mắt "Rising from the dark"" tại Hanoi Rock city. Đây cũng là tư tưởng chung của các nhóm nhạc Rock trên thế giới hiện nay. Rock là đam mê, là mạnh mẽ chứ không phải thứ điên loạn gây ảnh hưởng tới sức khỏe, mạng sống của bản thân và người khác. Tay trống mới là La Cẩm Cường (Cường Nhóc). Khi đó Cường mới 15 tuổi nhưng đã có thâm niên 8 năm đi diễn, được ví von là thần đồng trống của Việt Nam. Cường đồng thời cũng là em của La Cẩm Mãn. Tuy nhiên khán giả nhớ tới anh bởi những đoạn Riff máu lửa hơn là bởi mối quan hệ đặc biệt này. Đây là đội hình hoàn chỉnh của Black Infinity tính tới thời điểm hiện tại. Ngoài chơi cho Black Infinity, các thành viên cũng lập các nhóm nhỏ để trải nghiệm các hình thức âm nhạc mới, mang dấu ấn cá nhân. Đó là hai anh em La Cẩm Mãn và La Cẩm Cường với nhớm Ice Dragon. Sản phẩm âm nhạc của nhóm là sự kết hợp giữa tiếng trống của Metal và những giai điệu keyboard có hơi hướng Symphony và Jazz, tạo thành hợp âm vừa say đắm vừa kỳ bí. Hai thành viên khác Black Infinity là Tiger Nguyễn và Tiger Vũ kết hợp với nhau trong một dự án có tên TigerKlaw. Đây là sự kết khá ăn ý của hai người trong dòng Electro-Metal, với Tiger Nguyễn chuyên về Ambient và Metal, đồng thời kiêm luôn producer, trong khi Tiger Vũ chuyên Electro-Hop và Gangsta Rap, tạo ra âm thanh rất sôi động. Trong tương lai, hai người sẽ hợp tác với nhiều nhạc sĩ khác để thực hiện các dự án âm nhạc mới. Trưởng nhóm Tiến Hưng cũng mang tới dự án riêng mang tên Mr. Blackhearted. Mr. BlackheartedD thử nghiệm thể loại Electronic Trance Gothic. Anh chia sẻ ""Mr. Blackhearted là solo project chỉ để thoả mãn những sở thích cá nhân thôi. Tôi vẫn luôn giữ vai trò tốt của mình trong sáng tác và là vocal cho Black Infinity" Năm 2014, Bassist Tiger Vũ tạm rời nhóm để hoàn tất chương trình học vấn, thay vào đó Bassist Quách Triệu Khương của nhóm 9th Dimension sẽ đảm nhận vị trí thay cho Tiger Vũ. Với phong cách trình diễn máu lửa, Quách Triệu Khương đã tiếp thêm ngọn lửa phấn khích tại các show của Black Infinity. Mùa xuân 2015, Ca sĩ chính Hung BlackhearteD chính thức cho ra thương hiệu thời trang rock do chính anh sáng lập mang tên " The Black Clothing ". Cùng thời điểm đó Hung BlackhearteD cùng em trai của mình là guitar Tiger Nguyen cùng sáng lập ra hãng đĩa mang tên " Young Guns Records ". Phong cách. Phong cách của Black Infinity được hình thành từ sự hòa trộn đam mê giữa các thành viên nhưng linh hồn của nhóm vẫn là ca sĩ kiêm sáng tác chính Nguyễn Tiến Hưng. Bản thân Hưng cũng là người bị ảnh hưởng bởi nhiều dòng nhạc như Heavy Metal, Death, Black, Doom, Gothic, Classical, Alternative của các nhóm nhạc như Children of Bodom, Crade of Filth, Skid Row, Guns n' Roses, Type O Negative, Nightwish... Đĩa nhạc 666 Metal Black Infinity tung ra năm 2009 trộn lẫn các chất liệu metal truyền thống nhưng Hưng cho biết anh không muốn bó hẹp Black Infinity trong một thể loại nào. Hưng cũng không ngần ngại thể hiện sự thích thú với Lady Gaga. Black Infinity thậm chí đã cover lại ca khúc Poker face quen thuộc của Gaga theo phong cách Metal. Chỉ riêng cái tên album gần đây 666 Metal với khẩu hiệu "Novus ordo Seclorum" đã cho khuynh hướng Metal dữ dội của nhóm. Bên cạnh đó, nhóm cũng thử trải nghiệm với những bản ballad như "Dying with memories", "Embracing hearts", "You and I we'll the love tonight". Trong tiếng piano lãng đãng, vocal Tiến Hưng chứng minh vẫn có thể rock một cách say đắm mãnh liệt mà không cần gào thét. Đặc biệt trong album "666 Metal" còn xuất hiện một bản intrumetal mang tên "When her love on fire" được thể hiện bởi keyboardist La Cẩm Mãn. Đây có thể coi là nét chấm phá đặc biệt trong album lần này. Vẫn mang hơi hướng nổi loạn của rock nhưng xen vào những tiết tấu nhấn nhá rất jazz, cộng thêm một chút ma mị dễ khiến người ta liên tưởng tới tiếng đàn của Davy Jones. Một bản intrumental rất đáng nghe. "The Secret" là một trường hợp khác. Đây là ca khúc mang lại nhiều giải thưởng âm nhạc cho nhóm bởi sự hòa quyện độc đáo giữa tiếng đàn tranh giả trên phím keyboard và những đoạn Riff rất Metal. Tạo thành một dòng chảy âm nhạc từ trung cổ tới hiện tại, vừa róc rách ngân nga vừa dữ dội mãnh liệt, như con suối chảy ra thác nước dựng đứng. ""Thật ra ý tưởng đàn tranh, nhạc cụ dân tộc, Mãn rất thích nhưng chưa biết phải làm sao để kết hợp. Giữ ý tưởng trong đầu lâu rồi. Lâu...lâu...lâu lắm rồi. Sau này cũng viết lên một đoạn demo nhưng chưa hoàn chỉnh. Đến lúc chơi với Black Infinity thì cũng mạnh dạn đưa ra. Anh em cũng rất "phê" ý kiến này. Và mọi người cùng làm lại."" La Cẩm Mãn nhớ lại. "Ca khúc The Secret trong album 666 Meta là ca khúc tôi thích nhất. Lối đánh bass rất khác lạ so với các bài còn lại." Bassist Tiger Vũ chia sẻ. Tới năm 2013, nhóm bước vào phòng thu chuẩn bị cho ra đời album thứ 2, với phong cách chủ đạo là Electro Metal. Ngoài ra còn pha thêm Doom, Metal Core, cổ điển. Có thể thấy, Metal vẫn là chủ đạo trong âm nhạc của Black Infinity nhưng ban nhạc cũng không ngừng sáng tạo trong cách chơi để mang tới cho người nghe những sản phẩm mới lạ. Sản phẩm âm nhạc. Sorrow burned. Sản phẩm đầu tay của Black Infinity là Mini CD mang tên Sorrow burned, trong đó Hưng đảm nhiệm vai trò Vocal/Keyboard/Bass. Hai khách mời là tay guitar Lê Minh Đức (của Sorrow Decadence) và tay trống Tim Duong. 666 Metal. Đầu năm 2009, Black Infinity chính thức bước vào phòng thu để cho ra đời album đầu tay của nhóm mang tên 666 Metal. Gồm 11 tracks và 1 hidden track. Tất cả đều do các thành viên của nhóm sáng tác. "Đây là album đầu tay nên chúng tôi muốn dành hết những gì thuộc về Black Infinity", vocalist Tiến Hưng tâm sự. Album được phát hành bởi Music Faces của nhạc sĩ Đức Trí với 4000 bản sẽ chính thức ra mắt tại Việt Nam vào ngày 18/7/2009, tiếp đó là ở Pháp ngày 1/9 và Mỹ ngày 11/9. Nói về 666 Metal, vocal Tiến Hưng cho biết: "Ban nhạc nhận được nhiều sự hỗ trợ về âm thanh và kỹ thuật của những người bạn ở Mỹ, và hầu như các thành viên đều phải tạm ngừng công việc cá nhân đẻ thực hiện thu âm cho album, quay clip, tập nhạc, gần như kín cả tuần. Một trong những khó khăn đầu tiên là chọn nhà sản xuất cho album, đặc biệt là việc xin giấy phép phát hành album của Bộ văn hóa TT & DL vì đây là một album thuộc loại rock nặng và được sáng tác hoàn toàn bằng tiếng Anh." Deluxe "The 666 Metal Gods". Album Deluxe là một phiên bản đặc biệt của album debut 666 Metal 18 track được phát hành dưới dạng Digitaly/Online với những bản bonus không có trong album 666 Metal, đây có thể coi là một sự chuyển giao từ Album 1 qua Album 2 của Black Infinity. Electronic Death Metal sẻ là chủ đạo cho những sáng tác mới, các ca khúc Bonus đặc biệt không có trong album "666 Metal" đã phát hành của ban nhạc Black Infinity. Góp mặt trong album là những version đặc biệt như Poker Face (Lady Gaga cover), She Burns (Finch Cover/banned version), Dying with memories (Electronic Doom/New Age), … Như một sự tri ân tới những người hâm mộ, ngày 6/6/2010, Black Infinity đăng tải album Deluxe "The 666 Metal Gods" trên website của nhóm và cho phép tải xuống miễn phí. Rising from the dark. DVD Rising from the dark chính thức phát hành trên toàn quốc vào ngày 6/4/2012. Là sản phẩm tinh thần được chau chuốt kỹ càng của Black Infinity sau debut 666 Metal. DVD đánh dấu cột mốc 6 năm thành lập của ban nhạc. Tên gọi của DVD cũng mang khá nhiều ý nghĩa đánh dấu những bước thăng trầm, những khoảnh khắc đáng nhớ trong quá trình hoạt động âm nhạc của Black Infinity. Album là tập hợp 12 clip gồm những sáng tác yêu thích nhất của Black Infinity. Ngoài ra còn có những đoạn phim tài liệu chưa được ban nhạc công bố, nhiều cảnh quay Behind the scene thú vị. Đây là album đầu tiên của rock Việt được làm với đầy đủ các phần chính của một DVD chuyên nghiệp, thường được các ban nhạc rock danh tiếng trên thế giới thực hiện như music video, live videos, documentary. Người xem có thể thưởng thức hình ảnh và âm thanh tuyệt đẹp qua các music video như "This is our last dance", "Return for dying", "G.O.D"… hoặc sống lại không khí sôi động trong các rock show mà Black Infinity từng biểu diễn qua các live video như "Heaven downfall" (bản diễn live tại "Rock Storm" 2011 và bản diễn live tại RFC 2008 - Chương trình kỷ niệm 10 năm Rock fan club). Vocalist Tiến Hưng của Black Infinity chia sẻ sự hài lòng với album này: ""Nó là sự đúc kết, trong đó tái hiện thời gian đầu hình thành ban nhạc, những khoảnh khắc đẹp trong các chuyến lưu diễn của chúng tôi, cùng những thăng trầm đáng nhớ…"." Ngoài phần âm nhạc được Black Infinity trau chuốt, các clip trong album được SongNam Film thực hiện. Hai music video là "G.O.D" (Government of Devis) và "Return for Dying" có thể xem là điểm nhấn của DVD được đạo diễn trẻ Triệu Quang Huy thực hiện. Các clip này đưa người xem về lại không gian thật sự "chất" của rock, rõ sự công phu và tâm huyết của những người thực hiện. Các single. You and I we'll kill the love to night: ra mắt như một món quà nhân dịp Valentine. Forever 27: Là ca khúc tưởng nhớ những ca sĩ nhạc Rock thuộc 27 club. The Illuminati of Love and Death I & II. Vào mùa xuân 2014, 11/1/2014 Black Infinity chính thức phát hành Album thứ 2 mang tên " The Illuminati òf Love and Death I & II ". Album có 22 ca khúc nằm trong 2 Cds, Với tiêu chí là gợi nhớ và mang lại không khí của Heavy Metal thập niên 80'-90's, Black Infinity chú trọng nhiều trong Solo guitar, những cú Riff nặng được đồng thời kết hợp với nền electronic hiện đại của Keyboard. Theo ca sĩ Hung BlackhearteD chia sẻ thì đây có thể gọi là sự kết hơp của Judas Priest và Lady Gaga. Trong album này Black Infinity kết hơp làm việc với những tên tuôi quốc tế như Producer Tim Palmer (ông từng là producer của Ozzy, U2, Pearl Jam, Bon Jovi...), Producer Anssi Kippo (người từng làm việc với Children of Bodom, Norther, Blood Stain Child...) Và Album được Mástered tại Sterling Sound New York bơi Justin Shturtz (nơi đã từng mastered cho những nghệ sĩ tên tuổi như Lady Gaga, Guns n' Róses, Lamb of God...) Các tour diễn. Black Infinty bắt đầu trình diễn tại những câu lạc bộ ở Hồ Chí Minh. Sau đó, nhóm tham gia những show diễn lớn như Rock Storm, show Converse, show Jagermeister, show Nokia...và một số show nhỏ ở các quán BarRock tại Sài Gòn: 1. Jacktember - Mr. Jack's Birthday (2014) với sự tham gia của 2 nhóm nhạc trẻ là: After Eleven và Give Me An Air Conditioner tại Woodstock Bar. 2. Halloween Night (2014) với sự xuất hiện của After Eleven và 9th Dimension tại Woodstock Bar và Acoustic Ngô Thời Nhiệm. 3. Black Infinity minishow (2015) với sự tham gia của 9th Dimension tại RFC. Buổi diễn đánh dấu sự trở lại của ban nhạc vào năm mới. 4. Black Jack Night (2015) với sự ra mắt lần đầu của 3 band nhạc trẻ Another Think và Rotten Red Machine và 9th Dimension tại Woodstock Bar. Show diễn nhằm quảng bá thương hiệu Black Clothing (sáng lập bởi Nguyễn Tiến Hưng). Buổi biểu diễn khiến fan hâm mộ bất ngờ khi thể hiện lại ca khúc G.O.D - ca khúc mang chất Metal khá nặng và được fan ủng hộ nhiệt liệt. 5. Yan Beatfest (2015), sự kiện âm nhạc với sự góp mặt của hơn 100 ca sĩ cả nước. Black Infinity đã trình diễn 3 ca khúc: Before The Midnight, Burning All Sunday và The Secret, đặc biệt ban nhạc đã cover ca khúc Let It Go phối Rock mạnh mẽ trong thời lượng ít ỏi của chương trình. 6. We Are Legend (2015), sau khi hoàn thành phim ca nhạc We Are Legend với sự góp mặt của diễn viên Chi Pu và ca sĩ chính của ban nhạc 9th Dimension Thái Dương, Hung Blackhearted cho biết anh sẽ tổ chức tour diễn tại ba thành phố lớn Sài Gòn, Đà Nẵng và Hà Nội để quảng bá phim. Show diễn ngày 5/9/2015 tại Cargo Bar là show khởi động trong chuỗi tour We Are Legend năm 2015. Được biết, 4 ban nhạc khách mời gồm Rotten Red Machine (Metalcore) Razor Leaf (Hardcore) Bụi Gió (Alternative Rock) và 9th Dimension (Grunge Rock) đã khuấy động không khí của show diễn đến mức các crazy fan không thể ngồi yên. Black Infinity xuất hiện cuối cùng trong niềm háo hức của mọi người. Vocal Tiến Hưng gần như gục ngã trên sân khấu khi trình diễn mười mấy bài liên tiếp. Nhưng đó chỉ là độ phiêu của anh trong những ca khúc đậm chất metal như: G.O.D (Government of devils), War Of Souls, The Secret 2, Burning All Sunday...và các ca khúc Rock Ballad trầm lắng: Suicide Romance, Shadow Of Dreams, You and I We'll Kill The Love Tonight...Buổi diễn kết thúc trong sự thỏa mãn của fan hâm mộ cuồng nhiệt. Theo đánh giá, We Are Legend là show diễn thành công nhất của Black Infinity.
1
null
Hoa hậu Hoàn vũ 2013 là cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ lần thứ 62, được tổ chức vào ngày 09 tháng 11 năm 2013 tại Tòa Thị chính Crocus, Krasnogorsk, một vùng ngoại ô của Moskva, Nga. Hoa hậu Hoàn vũ 2012 Olivia Culpo đến từ Hoa Kỳ đã trao lại vương miện cho Hoa hậu Venezuela là Gabriela Isler vào cuối đêm chung kết. Cuộc thi có tổng cộng 86 thí sinh tranh tài đến từ các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Kết quả. Thứ hạng. §: Thí sinh được vào thẳng Top 16 vì nhận được nhiều phiếu nhất thông qua bình chọn online Thí sinh tham gia. Cuộc thi có 86 thí sinh tham gia: Thông tin về các cuộc thi quốc gia. Trở lại. Lần cuối tham gia vào năm 1961: Lần cuối tham gia vào năm 2004: Lần cuối tham gia vào năm 2011: Vấn đề tranh cãi. Vào ngày 15 tháng 8 năm 2013, Andy Cohen, người đồng tính công khai, đã từ chối đồng dẫn chương trình cuộc thi do việc áp dụng luật chống đồng tính gần đây của nước Nga. Một kiến ​​nghị trên Internet cũng đã được bắt đầu đề ra cho Tổ chức Hoa hậu Hoàn vũ về việc di dời cuộc thi khỏi Moscow vì những luật lệ này cũng như những lo ngại về quyền con người. Thomas Roberts của kênh MSNBC, người đã công khai đồng tính, nhận nhiệm vụ dẫn chương trình. Trong khi anh lên án Nga vì luật chống đồng tính, anh cũng tuyên bố niềm tin của mình rằng sự hiện diện của anh ở Nga sẽ đưa ra tình trạng hiệu quả hơn trong việc chống lại việc sợ đồng tính Nga hơn là tẩy chay. Nhiều năm sau sự kiện, chủ sở hữu lúc đó, Donald Trump, có liên quan đến một cuộc tranh cãi đang diễn ra có liên quan đến cuộc thi này ở Nga.
1
null
ADS (АДС, Автомат Двухсредный Специальный) là loại súng trường tấn công có thể dùng được cả dưới nước và trên cạn được phát triển cho các đơn vị đặc nhiệm trong lực lượng Hải quân Nga. Súng đã được thử nghiệm với đánh giá tích cực và đang đưa vào dùng thử, dự tính sẽ thay thế hoàn toàn các khẩu súng trường tấn công dưới nước APS cũng như thay thế một số lượng các khẩu AK-74M trong lực lượng hải quân cũng như của các lực lượng đặc nhiệm khác vốn cũng có thể phải chiến đấu dưới nước như an ninh, chống khủng bố... nếu được thông qua. Phát triển. Trong hàng thập kỷ các thợ lặn và đặc nhiệm dưới nước của Liên Xô và Nga đã được trang bị các loại vũ khí đặc biệt chuyên dụng cho việc tác chiến dưới nước như khẩu SPP-1 và APS. Các loại vũ khí này có một nhược điểm là nếu mang chiến đấu trên cạn thì hiệu quả không cao cũng như tuổi thọ bị giảm sút đáng kể so với khi dùng dưới nước. Hơn nữa các lực lượng đặc nhiệm như Spetsnaz có yêu cầu phải chiến đấu trong cả hai môi trường nên phải mang hai loại vũ khí khác nhau để dùng cho trên/dưới mặt nước. Vì thế yêu cầu cho một loại vũ khí dùng được trong cả hai môi trường đã được đặt ra. Mẫu thử nghiệm đầu tiên cho loại vũ khí này là ASM-DT do Konstruktorskoe Buro Priborostroeniya (Конструкторское бюро приборостроения) tại Tula thực hiện khoảng năm 2000 đã ra mắt. Nhưng nó có vấn đề là quá dài do được thiết kế để dùng loại đạn bắn dưới nước vốn dài giống như mũi tên cũng như phải dùng hai loại hộp đạn cho hai loại đạn khác nhau cho hai môi trường vì thế nó bị xem là không thích hợp cho việc chiến đấu. Việc chuyển sang sử dụng thiết kế bullpup cho loại đạn dài cũng không có kết quả khả quan. Việc nghiên cứu tiếp loại vũ khí này tiếp tục đến năm 2005 thì đã thành công trong việc phát triển một loại đạn bắn dưới nước có chiều dài tương đương loại đạn 5,45×39mm và có thể gắn vào hộp đạn AK-74 chuẩn và có thể bắn ngay trong nòng của các loại súng chuyên dùng để chiến đấu trên cạn. Loại đạn mới được biết với tên 5,45×39 PSP, nó trông bề ngoài giống như loại đạn 5,45×39mm nhưng phần đầu đạn nằm trong vỏ đạn hoàn toàn khác. Đầu đạn có chiều dài tổng thể đến 53mm ấn sâu vào vỏ đạn. Có hai loại đạn là PSP tiêu chuẩn làm bằng thép và PSP-U dùng cho việc tập luyện. PSP tiêu chuẩn có hiệu quả thay đổi theo độ sâu từ 25 m ở độ sâu 5 m đến 18 m ở độ sâu 20 m, với loại đạn dùng để luyện tập thì phạm vi hiệu quả chỉ bằng một nửa. Thiết kế. Với việc giải quyết được chiều dài của đạn thì cục thiết kế bắt đầu phát triển một thiết kế mới có thể phù hợp cho cả hai môi trường. Thiết kế của khẩu A-91M đã được chọn để phát triển với thiết kế bullpup, nạp đạn bằng khí nén và khóa nòng xoay. Một số chi tiết của thiết kế phải được điều chỉnh lại để phù hợp cho việc tác chiến dưới nước như việc nạp đạn khí nén sẽ được điều chỉnh là dùng khí hay nước bị nén, thay vì rãnh dẫn vỏ đạn bên phải súng dẫn vỏ đạn đến tay cầm cò súng để nhả xuống phía bên dưới giúp sử dụng thuận cả hai tay thì rãnh đẩy vỏ đạn ra phía trước súng. Ống phóng lựu gắn dưới nòng súng phóng loại lựu đạn 40 mm không vỏ VOG-25 và VOG-25P có thể gắn vào hay tháo ra tùy yêu cầu nhiệm vụ. Nòng súng có thể gắn bộ phận chống giật hay ống giảm thanh. Súng được làm hầu hết bằng vật liệu tổng hợp để giảm trọng lượng và chống ăn mòn. Hệ thống nhắm cơ bản của súng là điểm ruồi nhưng thân súng cũng có thanh răng để gắn các hệ thống nhắm khác thích hợp hơn. ADS có thể bắn tất cả các loại đạn 5,45×39mm như các loại súng dùng để chiến đấu trên cạn với độ chính xác và hiệu quả tương đương nếu chưa nói là tốt hơn so với AK-74 và AK-74M. Còn khi sử dụng loại đạn PSP dưới nước thì súng hiệu quả hơn APS về độ chính xác và dễ xoay sở.
1
null
USS "Guardian" (MCM-5) là một trục lôi hạm lớp Avenger của Hải Quân Hoa Kỳ. Vụ mắc cạn năm 2013. Ngày 17 tháng 1 năm 2013, "Guardian" bị mắc cạn ở bãi san hô Tubbataha tại Philippines, có thể vì lỗi lầm của hải đồ. Bãi san hô này được đưa vào danh sách Di Sản Thế giới của UNESCO, nằm trong biển Sulu, cách thủ đô Manila chừng 644 km về phía Tây Nam. Ngày 30 tháng Ba, một cần trục đưa phần thân sau nặng 250 tấn của chiến hạm ra khỏi bãi san hô. Ngày 31 tháng Ba, các nhân viên tháo gỡ tàu bè đưa phần thân sau cùng của "Guardian" ra khỏi nơi chiếc tàu. Sau đó là giai đoạn tìm hiểu sự hư hại của dải san hô. Các phần thân tàu tháo ra được chuyển đến một căn cứ hải quân Mỹ tại Sasebo, Nhật, để xem phần nào còn dùng lại được và phần nào bỏ đi. Sau đó, các nhân viên dọn dẹp khu vực tàu mắc cạn, nơi các chuyên gia Mỹ và Philippines khởi sự việc ước lượng sau cùng về các thiệt hại gây ra cho bãi san hô. Một ước tính sơ khởi nói rằng khoảng 4.000 thước vuông san hô bị hư hại nhưng sau đó con số chính thức lại là 2.345,67. Do tiền phạt là khoảng 24.000 peso (chừng $600) mỗi mét vuông, số tiền Washington phải trả vào khoảng $1,4 triệu.
1
null
Kenjutsu (Kiếm thuật Nhật Bản) là thuật ngữ tổng quát để chỉ những trường kiếm thuật truyền thống của Nhật Bản, cụ thể là những trường trước thời Minh Trị duy tân. Thuật ngữ Kenjutsu, có từ thời phong kiến Nhật Bản, gắn liền với tầng lớp Samurai. Kenjutsu có nghĩa là "phương pháp, hoặc kỹ thuật sử dụng kiếm". Định nghĩa này hoàn toàn trái ngược với kendo là "đạo của kiếm". Phương pháp tập luyện và huấn luyện kenjutsu là khác nhau tùy từng môn phái. Có hai phương pháp tập luyện đó là đơn luyện và đối luyện bằng các bài kata (có hai kiểu đối luyện tùy trường phái là được phép tấn công chạm cơ thể và không được cham cơ thể). Theo truyền thống, tùy môn phái mà người luyện tập có thể sử dụng mộc đao (bokuto), trúc đao (shinai), hoặc mặc giáp. Lịch sử. Thời Edo. Kiếm thuật Nhật Bản - Kenjutsu - trong thời kỳ Edo trước đã được khắc họa là một môn nghệ thuật mang tính hiếu chiến. Bản chất tự nhiên của kiếm thuật kenjutsu là tính thực tế. Nhưng nhiều chiến binh đã cống hiến cả cuộc đời để nghiên cứu thấu đáo về nghệ thuật này, nghiên cứu khía cạnh kỹ thuật của nó tới độ sâu triết học vĩ đại. Nhiều người trong số những chiến binh này đã phát hiện ra rằng việc tập luyện kenjutsu giúp họ có cảm giác bình tâm, thay đổi cách nhìn về cuộc sống và làm họ ghét cay ghét đắng việc giết hại đồng loại. Tôn chỉ thường thấy của kiếm thuật đều quan niệm "binh pháp là bình pháp". Katori Shintō-ryū là môn võ lâu đời nhất được chứng minh trong lịch sử võ truyền thống của Nhật Bản. Các makimono (văn bản cổ) dùng để ghi lại những lời dạy của "ryu" này đã nhấn mạnh rõ ràng về việc thực hiện đạo đức của một kiếm sĩ. Kenjutsu là một nghệ thuật được phát triển để đánh bại kẻ thù và không được sử dụng một cách bừa bãi. Ý nghĩa nhận thức đạo đức này là nội tại trong những lời dạy của người sáng lập Ryu - ngài Iizasa Chō-isai Inenao (1386-1488). Trong thời Edo, số lượng các môn phái kiếm thuật Nhật Bản lên đến hơn 500, và các kỹ thuật và dụng cụ tập luyện rất phát triển. Thế kỷ 19, bắt đầu pháp triển trường phái sử dụng kiếm tre ("shinai") và giáp bảo vệ ("bogu"). Phương pháp tập luyện truyền thống của kenjutsu bao gồm các bài đối luyện "kata" với binh khí sử dụng là kiếm gỗ ("bokuto") hoặc kiếm thật. Bắt đầu từ 1868, phong trào Minh Trị Duy Tân dẫn tới sự xóa bõ tầng lớp quân sự và Nhật Bản bắt đầu hiện đại hóa theo định hướng các nước công nghiệp phương Tây. Khi tầng lớp Samurai bị tan rã, Kenjutsu cũng bắt đầu suy tàn. Giai đoạn này kéo dài thêm khoảng 20 năm tiếp theo đến khi Nhật Bản bắt đầu khôi phục lại các giá trị truyền thống và kiếm thuật bắt đầu phát triển trở lại, nhất là trong quân đội và cảnh sát. Thời hiện đại. Vào năm 1886, lực lượng cảnh sát Nhật Bản đã lên kế hoạch kết hợp các bài kata từ nhiều trường đào tạo kiếm thuật Nhật Bản khác nhau để luyện tập cho các đơn vị bảo an của mình. Tiến trình tiêu chuẩn hóa này kéo dài đến khi tổ chức Dai Nippon Butoku Kai được thành lập năm 1895. Tổ chức này tiếp tục tiêu chuẩn hóa hệ thống các bài song luyện kiếm thuật Nhật Bản trong nhiều năm với sự trợ giúp của nhiều nhóm khác. Đến năm 1912, một sắc lệnh được ban ra từ Dai Nippon Butoku Kai nhấn mạnh sự thiếu hụt về các chương trình huấn luyện đồng nhất và giới thiệu một giáo trình giảng dạy cốt lõi dành cho các trường dạy kiếm thuật Nhật Bản để họ thêm vào hệ thống kỹ thuật của mình. Binh khí luyện tập. Để kiếm đạo - "Kendo" - có thể được chấp nhận hoàn toàn trong xã hội hòa bình thì các nguyên tắc về tính an toàn trong tập luyện phải được đưa ra. Vào thời bấy giờ, trong kenjutsu, kiếm sĩ sử dụng kiếm thật trong tập luyện các bài "kata". Việc này không chỉ nguy hiểm mà còn là phương thức tập luyện tốn kém., thanh kiếm chắc chắn sẽ bị hư hại và nếu không thể thay toàn bộ thì thanh kiếm phải được đánh bóng trước khi có thể tiếp tục sử dụng. Trong trường hợp này thì "bokken" ("bokuto" hay "bokto") hay kiếm gỗ được giới thiệu và sử dụng sẽ ít nguy hiểm hơn. Kiếm gỗ là một trong những võ khí được dùng trong các chương trình huấn luyện. Vì nhiều lý do, nhiều trường dạy kiếm đã thiết kế kiếm gỗ theo mục đích tập luyện của trường. Thế nhưng một lần nữa, việc an toàn trong tập luyện lại được nêu ra và để có thể tránh việc chấn thương các kiếm sĩ được thuyết phục sử dụng một loại võ khí khác an toàn hơn nhưng cũng đồng thời mang lại ít cảm giác thực tế hơn. Tuy nhiên, những nỗ lực của những người tiên phong đã mang lại tác động sâu rộng trong giới kiếm thuật Nhật Bản. Việc cải tiến thanh kiếm cho các mục đích huấn luyện bắt đầu trong thời kỳ tiền Edo. Cả Maniwa Nen Ryu và Shinkage Ryu cũng như Yagyu Shinkage Ryu, tìm thấy phương pháp thay thế "Shinai Fukuro" (thanh kiếm giả làm bằng tre bọc trong da hoặc vải nặng) cho lưỡi kiếm thật hoặc "bokken". Những trường dạy kiếm thuật nổi tiếng. Kashima Shinto ryu Tenshin Shoden Katori Shinto ryu Tham khảo. Otake, Risuke (1977). The Deity and the Sword - Katori Shinto-ryu Vol. 1, Japan, Japan Publications Trading Co. ISBN 0-87040-378-8 (original title volumes in Japanese is mukei Bunkazai Katori Shinto-ryu) Otake, Risuke (1977). The Deity and the Sword - Katori Shinto-ryu Vol. 2, Japan, Japan Publications Trading Co. ISBN 0-87040-405-9 Otake, Risuke (1977). The Deity and the Sword - Katori Shinto-ryu Vol. 3, Japan, Japan Publications Trading Co. ISBN 0-87040-406-7 Donn, Draeger (1975). Classical Budo (Martial Arts & Ways of Japan Series) - Vol. 2, Weatherhill New York & Tokyo. ISBN 0-83480-234-1 Liên kết ngoài. Kashima Shinto ryu Kiếm thuật Tenshin Shoden Katori Shinto ryu Hoa Kỳ Kiếm thuật Tenshin Shoden Katori Shinto ryu Việt Nam
1
null
Cơm 2000 đồng là những quán cơm tại Việt Nam bán dưới giá để giúp cho người nghèo có được một bữa ăn dinh đưỡng, đủ no, mà không cảm thấy là được bố thí và để lan tỏa lòng yêu thương giữa người với người. Xuất xứ và mục đích. Quán cơm 2.000 đầu tiên ra đời năm 2008 tại Lữ Gia (Phường 15, Quận 11, TPHCM), do chị Mai Anh là một thành viên của tổ chức từ thiện "Người tôi cưu mang" mở ra và quản lý. Mục đích là để giúp đỡ người nghèo có được một bữa ăn đàng hoàng trong thời buổi kinh tế khó khăn, mà không cả thấy là được bố thí. Anh Hồng Ánh, thành viên Ban quản trị, cho biết: Quán cơm thứ hai do nhóm "Người tôi cưu mang" tổ chức chính thức khai trương vào ngày 5 tháng 9 năm 2009. Sau đó, nhóm mở thêm những quán khác tại Cần Thơ và Lâm Đồng (Đà Lạt). Năm 2012, nhà báo Nam Đồng và những người bạn mở thêm vài quán nữa cùng một ý tưởng trên địa bàn TPHCM... Những người đang tổ chức bữa cơm 2.000 mong muốn có thể xây dựng mô hình này như một thương hiệu chung của cộng đồng Việt, của những người biết quan tâm, giúp đỡ và chia sẻ. Hậu quả. Tác dụng xấu. Ý kiến. Theo độc giả Nguyễn Quảng gửi bài lên cho BBC thì việc hình thành những quán phi vụ lợi kiểu này đưa đến tình trạng cạnh tranh bất bình đẳng đối với những quán cơm bình dân khác. Ngoài ra, nó tạo cơ hội cho người dân ở ngoài tỉnh vào kiếm việc, ăn ở bất hợp pháp, quá mức mà thành phố có thể tiếp nhận được. Phản biện. Tiến sĩ Nguyễn Hồng Nga, Phó trưởng Khoa Kinh tế ĐH Kinh tế – Luật (ĐHQG TP.HCM) cho là số quán cơm 2.000 Đồng quá ít không ảnh hưởng mấy đến những quán cơm bình thường. Theo ông có những tác động tốt về mặt kinh tế, là "giúp người nghèo tiết kiệm được một số kinh phí để họ có thể đầu tư thêm cho con cái họ học tập hoặc thêm thuốc men cho chữa trị bệnh tật", tạo được niềm tin là có người quan tâm đến những người nghèo khổ, điều cần thiết để xây dựng một xã hội phồn vinh.Thạc sĩ Xã hội học Nguyễn Thị Từ An, giảng viên Trường ĐH Bình Dương cho rằng, lao động ngoại tỉnh có một vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển kinh tế của thành phố. Những vấn đề xã hội liên quan nảy sinh, phải được xem xét từ nhiều phương diện khác nhau.
1
null
PlayStation 4 (viết tắt là PS4) là một máy chơi game gia đình do Sony Interactive Entertainment phát triển. Được công bố là thế hệ máy kế nhiệm PlayStation 3 trong một cuộc họp báo vào ngày 20 tháng 2 năm 2013, nó được ra mắt vào ngày 15 tháng 11 tại Bắc Mỹ, ngày 29 tháng 11 ở Châu Âu, Nam Mỹ và Úc; và ngày 22 tháng 2 năm 2014 tại Nhật Bản. Nó cạnh tranh với Wii U, Switch của Nintendo và Xbox One của Microsoft. Việc tiếp nhận mô hình PlayStation 4 ban đầu là tích cực, với các nhà phê bình khen ngợi Sony vì đã thừa nhận nhu cầu của người tiêu dùng, bao gồm phát triển trò chơi độc lập và không áp đặt các chương trình quản lý quyền kỹ thuật số hạn chế mà Microsoft đã tuyên bố trước đó cho Xbox One trước khi phát hành. Các nhà phê bình và các hãng phim bên thứ ba cũng đánh giá khả năng của PlayStation 4 so với đối thủ cạnh tranh của nó; các nhà phát triển mô tả sự khác biệt về hiệu suất giữa giao diện điều khiển và Xbox One là "đáng kể" và "rõ ràng". Nhu cầu tăng lên cũng giúp doanh số bán máy PS4 trên toàn cầu của Sony. Vào cuối năm 2016, hơn 53 triệu máy PS4 đã được bán trên toàn thế giới, với hơn 57 triệu chiếc được vận chuyển đến tay người sử dụng. Phần cứng. Thông số kỹ thuật. PS4 sử dụng vi xử lý được phát triển bởi AMD. CPU gồm 8 lõi x86-64, bộ nhớ RAM 8GB. Máy được trang bị đầu đọc Blu-ray, kết nối Wifi, Bluetooth và cổng USB 3.0. PS4 có bộ nhớ trong 500GB và có khả năng chơi phim và hình ảnh ở độ phân giải 4K. Bộ điều khiển. DualShock 4 là bộ điều khiển chính của PlayStation 4; nó duy trì một thiết kế tương tự như bộ điều khiển thế hệ trước đó của bộ điều khiển DualShock, nhưng có thêm các tính năng bổ sung và thiết kế lại. Một bổ sung chính cho DualShock 4 là một bảng chạm; nó có khả năng vuốt khi nhập bàn phím hoặc nhấn xuống dưới dạng nút. Các nút "Bắt đầu" và "Chọn" đã được thay thế bằng các nút "Tùy chọn" và "Chia sẻ"; thiết bị này được thiết kế để cho phép truy cập vào các tính năng mạng xã hội của PlayStation 4 (bao gồm phát trực tiếp, quay video và chụp màn hình). DualShock 4 được cung cấp bởi pin lithium-ion không thể tháo lắp được, có thể sạc bằng đầu nối micro USB. Bộ điều khiển cũng có loa nội bộ và một lỗ cắm tai nghe cho tai nghe. Để theo dõi chuyển động, DualShock 4 có cảm biến định hướng nhạy cảm hơn so với bộ điều khiển Sixaxis và DualShock 3 của PS3. Một "thanh ánh sáng" LED đã được bổ sung thêm vào mặt trước của bộ điều khiển; nó được thiết kế để cho phép phụ kiện PlayStation Camera tiếp tục theo dõi chuyển động của nó, nhưng cũng có thể được sử dụng để cung cấp hiệu ứng hình ảnh và thông tin phản hồi trong các trò chơi.Ví dụ:Trong trò chơi Grand Theft Auto V, thanh ánh sáng trên tay cầm sẽ bắt đầu nhấp nháy đèn hiệu cảnh sát khi người chơi bị cảnh sát truy nã. Mặc dù PS4 và DualShock 4 tiếp tục sử dụng Bluetooth cho kết nối không dây, nhưng bộ điều khiển không tương thích với bộ điều khiển PlayStation 3. Một ngoại lệ là bộ điều khiển chuyển động PlayStation Move ban đầu được phát hành cho PS3, được chính thức hỗ trợ để sử dụng với PlayStation Camera. Vào tháng 10/2013, Shuhei Yoshida tuyên bố trên Twitter rằng DualShock 4 sẽ hỗ trợ "các chức năng cơ bản" khi gắn máy tính cá nhân. Vào tháng 12 năm 2016, nền tảng Steam của Valve được cập nhật để cung cấp chức năng tùy chỉnh và điều khiển cho DualShock 4. PlayStation VR. Vào tháng 3 năm 2014, Sony giới thiệu "PlayStation VR", một máy thực tế ảo cho PlayStation 4 với màn hình OLED gắn trên đầu có độ phân giải 1080p và góc nhìn 100 độ. Phần mềm và dịch vụ. Phần mềm hệ thống PlayStation 4. PS4 chạy trên hệ điều hành có tên là "Orbis OS". Bộ điều khiển không yêu cầu kết nối Internet để sử dụng, mặc dù có nhiều tính năng hơn khi kết nối. Bộ điều khiển có giao diện trình đơn có tiêu đề "PlayStation Dynamic Menu", với nhiều màu sắc khác nhau. Nó hiển thị hồ sơ của người chơi, hoạt động gần đây, thông báo, và các chi tiết khác như các danh hiệu đã được mở khóa. Nó cho phép nhiều tài khoản sử dụng, và tất cả đều có mật mã của riêng họ. Mỗi tài khoản người chơi có tùy chọn để chia sẻ tên thật của họ với bạn bè, hoặc sử dụng biệt danh trong các tình huống khác khi ẩn danh là quan trọng. Hồ sơ trên Facebook có thể được kết nối với các tài khoản PlayStation Network, giúp bạn nhận ra bạn bè dễ dàng hơn. Màn hình chính mặc định có nội dung thời gian thực từ bạn bè. Nguồn cấp dữ liệu hoạt động "Những điểm mới" bao gồm phương tiện chia sẻ, trò chơi đã chơi gần đây và các thông báo khác. Các dịch vụ từ các nhà cung cấp bên thứ ba, như Netflix và Amazon Video, có thể truy cập được trong giao diện màn hình chính và thư viện. Trò chơi đa nhiệm có sẵn trong suốt quá trình chơi game, chẳng hạn như mở trình duyệt hoặc quản lý trò chuyện nhóm, và chuyển đổi giữa các ứng dụng được thực hiện bằng cách nhấn đúp vào nút "PS". PlayStation Camera hoặc micrô cho phép người dùng điều khiển hệ thống sử dụng micrô để điều khiển. Người chơi có thể chỉ định giao diện để bắt đầu trò chơi, chụp màn hình và lưu video. Hãy nói "PlayStation" bắt đầu vận hành ứng dụng hay thao tác bằng giọng nói, và "Tất cả các lệnh" hiển thị một danh sách các lệnh có thể có. Các tính năng đa phương tiện. Phần mềm hệ thống PlayStation 4 hỗ trợ đĩa Blu-ray và DVD và chức năng 3D. Đĩa CD không được hỗ trợ phát trên PS4, nhưng các tập tin nhạc và video tùy chỉnh có thể được phát từ máy chủ và ổ đĩa USB DLNA bằng ứng dụng Trình phát đa phương tiện. Màn hình thứ hai và chơi từ xa. Điện thoại thông minh và máy tính bảng có thể tương tác với PlayStation 4 như các thiết bị màn hình thứ hai và cũng có thể đánh thức bộ điều khiển từ chế độ ngủ. Một điện thoại thông minh Sony Xperia, máy tính bảng hoặc PlayStation Vita có thể được sử dụng để chơi các trò chơi từ bộ điều khiển đến máy cầm tay, cho phép chơi các trò chơi được hỗ trợ từ xa trong nhà hoặc ở xa nhà. Sony có tham vọng tạo ra tất cả các trò chơi PS4 có thể phát trên PlayStation Vita. Các nhà phát triển có thể thêm các điều khiển cụ thể cho Vita để sử dụng qua Remote Play. Tính năng này sau đó được mở rộng để cho phép chức năng Play Remote của PS4 trên máy tính Microsoft Windows và trên máy Mac Apple OS X. Bản cập nhật, được phát hành vào tháng 4 năm 2016, cho phép chức năng Remote Play trên các máy tính chạy Windows 8.1, Windows 10, OS X Yosemite, và OS X El Capitan. Remote Play hỗ trợ các tùy chọn độ phân giải 360p, 540p và 720p (1080p hiện có trên PS4 Pro), tùy chọn tốc độ khung hình 30-60 FPS và DualShock 4 có thể kết nối qua USB. Tính năng mạng. Sony tập trung vào các khía cạnh "xã hội" như một tính năng chính của bộ máy chơi game. Mặc dù PS4 đã cải thiện các tính năng mạng, nhưng các tính năng này có thể tắt tùy theo ý của người dùng. Tạo cộng đồng. Người dùng có thể tạo hoặc tham gia các nhóm cộng đồng dựa trên sở thích cá nhân. Các cộng đồng bao gồm bảng thảo luận, danh hiệu và khoảnh khắc nổi bật được chia sẻ bởi các thành viên khác, cộng với khả năng tham gia trò chuyện nhóm và tham gia phiên trò chơi. Sony nói rằng "cộng đồng là một cách hay để giao tiếp với những người chơi cùng chí hướng", đặc biệt khi "bạn muốn tham gia một trận đấu đội nhiều người chơi, nhưng không có đủ bạn bè". Chia sẻ ảnh và video. Bộ điều khiển DualShock 4 có nút "CHIA SẺ", cho phép người chơi ghi lại video clip trong 60 phút cuối của trò chơi và chụp ảnh màn hình để chia sẻ. Ảnh và video được tải liên tục từ máy chơi game PS4 đến người dùng PSN khác hoặc các trang mạng xã hội như Dailymotion, Facebook, Twitter và YouTube, hoặc người dùng khác có thể sao chép ảnh và video vào USB và tải lên mạng xã hội hoặc trang web theo ý muốn của họ. Người chơi cũng có thể sử dụng một ứng dụng chỉnh sửa video miễn phí có tên là ShareFactory để cắt và chỉnh sửa các video clip yêu thích của họ, thêm nhạc tùy chỉnh hoặc bình luận bằng giọng nói với các hiệu ứng màn hình xanh. Bản cập nhật tiếp theo đã thêm tùy chọn cho bố cục ảnh trong ảnh, khả năng tạo ảnh ghép và ảnh động GIF. Phát trực tiếp. Game thủ có thể xem trực tiếp các trò chơi mà bạn bè đang chơi thông qua giao diện PS4 hoặc phát trực tiếp cách chơi của riêng họ qua DailyMotion, Twitch, Ustream, Niconico hoặc YouTube Gaming, cho phép bạn bè và các thành viên của công chúng xem và bình luận từ các trình duyệt và thiết bị khác. Nếu người dùng không truyền màn hình, một người bạn có thể gửi cho họ thông báo "Yêu cầu xem". Chia sẻ Phiên chơi. Chia sẻ Phiên chơi cho phép người dùng mời một người bạn trực tuyến tham gia phiên chơi của họ thông qua phát trực tuyến, ngay cả khi họ không sở hữu bản sao của trò chơi. Người dùng có thể vượt qua quyền kiểm soát trò chơi hoàn toàn cho người dùng từ xa hoặc tham gia vào nhiều người chơi hợp tác như thể họ đã có mặt. Mark Cerny nói rằng sự hỗ trợ từ xa đặc biệt hữu ích khi đối mặt với một trở ngại có khả năng đánh bại game. "Bạn thậm chí có thể thấy rằng bạn của bạn đang gặp rắc rối và tiếp cận thông qua mạng để tiếp nhận bộ điều khiển và hỗ trợ họ thông qua một số phần khó khăn của trò chơi", ông nói. Chia sẻ Phiên chơi yêu cầu đăng ký PlayStation Plus và chỉ có thể sử dụng trong một giờ tại một thời điểm. Trò chơi. Các trò chơi PlayStation 4 được phân phối tại cửa hàng bán lẻ đĩa và dưới dạng tải xuống thông qua PlayStation Store. Trò chơi không bị khóa khu vực, do đó, các phiên bản game được mua ở một khu vực có thể được chơi trên máy chơi game ở tất cả các vùng và người chơi có thể đăng nhập vào bất kỳ máy PS4 nào để truy cập toàn bộ thư viện trò chơi của họ. Khả năng tương thích ngược. PlayStation 4 không tương thích với bất kỳ game nào dành cho hệ máy PlayStation cũ, bao gồm PlayStation 3 và PlayStation 2. Các phiên bản mô phỏng của các trò chơi PS2 và PlayStation Portable được chọn khả dụng để mua qua PlayStation Store, được nâng cấp lên độ nét cao và hỗ trợ các tính năng mạng của PS4. Trò chơi PS3 được chọn khả dụng để phát trực tuyến qua dịch vụ PlayStation Now có trả phí. PlayStation Now. Vào tháng 12 năm 2013, Andrew House đã chỉ ra rằng Sony đang lên kế hoạch triển khai dịch vụ chơi game trên nền tảng cho PS4 ở Bắc Mỹ trong quý 3 năm 2014, với sự ra mắt của châu Âu vào năm 2015. Vào tháng 12 năm 2013, Andrew House đã chỉ ra rằng Sony đang lên kế hoạch triển khai dịch vụ chơi game trên nền tảng cho PS4 ở Bắc Mỹ trong quý 3 năm 2014, với sự ra mắt của châu Âu vào năm 2015. Tại Consumer Electronics Show vào ngày 7 tháng 1 năm 2014, Sony ra mắt PlayStation Now, một dịch vụ phân phối kỹ thuật số ban đầu sẽ cho phép người dùng truy cập trò chơi PlayStation 3 trên PS4 thông qua hệ thống phát trực tuyến dựa trên đám mây, mua trò chơi riêng lẻ hoặc qua đăng ký. Đây là giải pháp cho việc không có khả năng tương thích ngược trên phần cứng của máy chơi game. Bản thử nghiệm mở rộng của Hoa Kỳ đã được phát hành vào ngày 31 tháng 7 năm 2014 và phát hành chính thức vào ngày 13 tháng 1 năm 2015. PlayStation Now đang ở phiên bản thử nghiệm giới hạn tại Vương quốc Anh. Phát hành. Doanh số. Nhu cầu về PlayStation 4 rất mạnh. Tháng 8 năm 2013, Sony đã thông báo về việc đã có hơn một triệu đơn đặt hàng trước cho máy chơi game chỉ tính riêng lần ra mắt ở Bắc Mỹ, một triệu máy PlayStation 4 đã bán ra. Tại Vương quốc Anh, PlayStation 4 đã trở thành máy chơi game bán chạy nhất khi ra mắt, với 250.000 máy trong vòng 48 giờ và 530.000 trong năm tuần đầu tiên. Ngày 7 tháng 1 năm 2014, Andrew House công bố trong một bài phát biểu quan trọng tại Consumer Electronics Show rằng 4,2 triệu máy PS4 đã bán sạch vào cuối năm 2013, với hơn 9,7 triệu đơn vị phần mềm bán ra. Ngày 18 tháng 2 năm 2014, Sony thông báo tính đến ngày 8 tháng 2, họ đã bán được hơn 5,3 triệu máy sau khi PS4 phát hành tại các thị trường Bắc Mỹ và Tây/Trung Âu. Trong vòng hai ngày đầu tiên phát hành tại Nhật Bản vào cuối tuần ngày 22 tháng 2 năm 2014, 322.083 máy đã bán hết. Doanh số game PS4 đã vượt 20,5 triệu ngày 13 tháng 4 năm 2014. Trong năm tài chính 2013 của Nhật Bản, nhu cầu tăng cao đối với PS4 đã giúp Sony đứng đầu bảng doanh thu bán máy chơi game toàn cầu, lần đầu tiên đánh bại Nintendo sau tám năm. Theo dữ liệu do Nielsen công bố vào tháng 8 năm 2014, chín tháng sau khi phát hành PS4 31% doanh số là từ những người đã mua Wii và Xbox 360, không ai trong số đó mua PS3. Tại Gamescom 2014, có thông báo rằng 10 triệu máy PS4 đã bán ra trên toàn thế giới, và ngày 13 tháng 11, PlayStation 4 được công bố là máy chơi game bán chạy nhất ở Mỹ tháng thứ 10 liên tiếp. Trong thông báo doanh thu đầu tiên năm 2015, ngày 4 tháng 1 Sony xác nhận họ đã bán 18,5 triệu máy PlayStation 4. Sony đã cập nhật số liệu bán ra trong suốt năm 2015: hơn 20 triệu máy tính đến ngày , hơn 30 triệu máy , và hơn 35 triệu vào cuối năm 2015. Tính đến ngày 22 tháng 5 năm 2016, tổng số lượng bán ra trên toàn thế giới đạt 40 triệu. Tính đến tháng 12 năm 2018, hơn 91 triệu máy và hơn 876 triệu trò chơi PlayStation 4 đã được bán ra trên toàn thế giới. Tính đến tháng 10 năm 2019, PS4 đã bán 102,8 triệu lần, trở thành máy chơi trò chơi điện tử gia đình bán chạy thứ hai mọi thời đại, chỉ sau PlayStation 2. PlayStation 4 ít nhất đã chiếm 70% thị phần ở tất cả các nước Châu Âu, tính đến tháng 6 năm 2015. Những phiên bản thay đổi phần cứng. PlayStation 4 có thêm nhiều kiểu máy khác nhau: bản gốc, bản Slim và Pro. Các phiên bản kế tiếp đã thêm hoặc xóa các tính năng khác nhau và mỗi mô hình có các biến thể của tay cầm Phiên bản Giới hạn. PlayStation 4 Slim. Ngày 7 tháng 9 năm 2016, Sony công bố một phiên bản sửa đổi phần cứng của PlayStation 4, model CUH-2000, thường gọi là PlayStation 4 Slim, không giống với mô hình ban đầu. Máy là một bản sửa đổi của phần cứng PS4 ban đầu với hệ số hình thức nhỏ hơn; Máy có thân hình bo tròn bốn góc với lớp hoàn thiện mờ ở phía trên cùng chứ không phải là lớp hoàn thiện hai tông màu, và kích thước nhỏ hơn 40% so với bản đầu. Hai cổng USB ở mặt trước đã được cập nhật lên chuẩn USB 3.1 mới hơn và khoảng cách giữa chúng xa hơn, cổng âm thanh quang học đã bị loại bỏ. Model này cũng có hỗ trợ USB 3.1, Bluetooth 4.0 và Wi-Fi 5,0 GHz. Máy phát hành ngày 15 tháng 9 năm 2016, mô hình 500 GB có cùng mức giá với PlayStation 4 bản gốc. Ngày 18 tháng 4 năm 2017, Sony thông báo rằng họ đã thay thế phiên bản này thành phiên bản 1 TB với cùng mức giá. PlayStation 4 Pro. PlayStation 4 Pro (tên mã Neo, số model CUH-7000) ra mắt ngày 7 tháng 9 năm 2016 và ra mắt trên toàn thế giới ngày 10 tháng 11 năm 2016. Đây là phiên bản nâng cấp của PlayStation 4 với phần cứng được cải tiến để có thể hiển thị 4K và cải tiến hiệu suất PlayStation VR, như nâng cấp GPU với sức mạnh xử lý 4,2 teraflop và hỗ trợ phần cứng để cho ra kết xuất bàn cờ, và xung nhịp CPU cao hơn. Như PS4 "Slim", mô hình này cũng hỗ trợ USB 3.1, Bluetooth 4.0 và Wi-Fi 5.0 GHz. PS4 Pro cũng có 1 GB bộ nhớ DDR3 dùng để hoán đổi các ứng dụng chạy nền không phải trò chơi, để cho các trò chơi có thể sử dụng thêm 512 MB bộ nhớ GDDR5 của máy. Mặc dù khả năng phát trực tuyến video 4K, PS4 Pro không hỗ trợ Ultra HD Blu-ray. Các game do Sony tiếp thị với tên gọi "PS4 Pro Enhanced" sẽ được tối ưu hóa khi chơi trên máy này, chẳng hạn như thể hiện đồ họa có độ phân giải 4K và/hoặc hiệu suất cao hơn. Đối với các trò chơi không được tối ưu hóa cụ thể, phần mềm hệ thống 4.5 có một tùy chọn gọi là "Chế độ tăng cường", có thể bật lên để ép tốc độ xung nhịp CPU và GPU mạnh hơn trên các game hiện có để cải thiện hiệu suất. Các kỹ thuật kết xuất khác nhau và các tính năng phần cứng cho ra các game chạy ở độ phân giải 4K. Giám đốc kỹ thuật PlayStation là Mark Cerny giải thích rằng Sony không thể "ép buộc bạo lực" 4K mà không gây ảnh hưởng lên yếu tố hình thức và chi phí, vì vậy máy chỉ có thể hỗ trợ "kỹ thuật kết xuất hợp lý" bằng cách sử dụng phần cứng tùy chỉnh, "khử răng cưa theo thời gian và không gian bằng các thuật toán", và "nhiều tính năng mới từ kiến ​​trúc AMD Polaris cũng như một số tính năng thậm chí còn xa vời hơn". Sử dụng kết xuất bàn cờ là kỹ thuật nổi bật nhất, máy chỉ hiển thị các phần của cảnh bằng cách sử dụng mẫu theo dạng bàn cờ, sau đó dùng các thuật toán để điền vào những phân đoạn không được hiển thị. Cuối cùng là làm mịn màn hình kẻ ô vuông bằng cách sử dụng bộ lọc khử răng cưa. Hermen Hulst của Guerrilla Games giải thích rằng PS4 Pro có thể hiển thị một cái gì đó "về mặt cảm quan gần [tới 4K] đến mức bạn sẽ không thể thấy sự khác biệt".
1
null
Lưu Lao Chi (chữ Hán: 劉牢之, ? - 402), tên tự là Đạo Kiên (道堅), nguyên quán ở huyện Bành Thành, là đại tướng dưới thời Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Xuất thân trong một gia đình nhiều đời phục vụ cho nhà Tấn, năm 377 Lưu Lao Chi đầu quân và nhanh chóng lập được nhiều chiến công nên được phong chức Ưng Dương tướng quân rồi Bắc phủ tướng quân. Sau đó ông tiếp tục khẳng định tài năng trong các trận chiến giữa quân Tấn với các nước phía bắc như trận Phì Thủy với Tiền Tần, chiến dịch bắc phạt của Tạ Huyền, đánh bại quân phản loạn của Lưu Lê, đánh thắng sự xâm lược của Tiền Tần... góp phần bảo vệ biên giới phía bắc. Tuy nhiên đến năm 394, do thất bại trong việc chống lại sự xâm lăng của Hậu Yên nên ông bị miễn chức quan, về sau lại được Vương Cung cất nhắc và trở thành tướng dưới quyền của Cung. Đến năm 398, Vương Cung do tranh chấp với Tư Mã Thượng Chi nên xuất quân thảo phạt Kiến Khang. Lưu Lao Chi do sự xúi giục của Cối Kê thế tử Tư Mã Nguyên Hiển nên quyết định đầu hàng triều đình và sau đó bắt sống Vương Cung rồi lui quân về Kinh Khẩu. Trong thời gian này ông tiếp tục tham gia đánh dẹp cuộc khởi nghĩa của Tôn Ân. Đến năm 402, khi Tư Mã Nguyên Hiển thảo phạt Hoàn Huyền ở Kinh châu, Lưu Lao Chi quay sang ủng hộ Hoàn Huyền và chống lại Tư Mã Nguyên Hiển. Đến khi Hoàn Huyền chiếm được Kiến Khang, lập tức đoạt lại binh quyền của ông. Bất mãn, Lưu Lao Chi tìm cách chống lại Huyền nhưng cuối cùng thất bại và bị bức tự sát vào cùng năm. Thi hài ông bị Hoàn Huyền đào lên và cho chém đầu. Xuất thân và đầu quân. Cụ bốn đời của Lưu Lao Chi tên là Lưu Hi, nhờ có tài thiện xạ nên theo phò Tấn Vũ Đế (265 - 291), vua đầu tiên của nhà Tấn, làm quan đến chức Nhạn Môn thái thú. Đến đời cha của ông tên là Lưu Kiến, nhờ giỏi võ nên được tham gia vào quân đội triều đình, làm tướng đến chức Chinh Lỗ tướng quân. Sử sách không nêu rõ Lưu Lao Chi chào đời vào năm nào và miêu tả ông có khuôn mặt đỏ, tính tình trầm tính, cương nghị và nhiều mưu kế. Năm 377, tướng quân Tạ Huyền được lãnh chức thứ sử Duyện châu, giữ nhiệm vụ trấn thủ vùng Quảng Lăng để đối phó với sự uy hiếp của nhà Tiền Tần ở phía bắc. Để củng cố lực lượng, Tạ Huyền cho tuyển mộ binh lính tăng cường thực lực. Lưu Lao Chi cùng với Hà Khiêm ở quận Đông Hải, Gia Cát Khản ở Lang Nha, Cao Hành ở quận Nhạc An, Lưu Quỹ ở quận Đông bình, Điền Lạc ở quân Tây Hà và Tôn Vô Chung ở quận Tấn Lăng đến ứng tuyển. Tạ Huyền bèn dùng Lưu Lao Chi làm tiên phong. Nhiều lần ra trận ông đều giành được chiến thắng, làm giặc phải khiếp sợ. Từ đó đội quân của Tạ Huyền còn được gọi là Bắc phủ quân. Năm 379, tướng Câu Nan của Tiền Tần đưa quân xuống phía nam, công đánh Vu Thai rồi cùng Bành Siêu, Mao Đương tiến công đến quận Hoàn Nam, vây khốn vùng Hu Dị, Quảng Lăng và Tam A, làm triều đình hoảng sợ. Tạ Huyền đích thân đưa quân cứu Tam A. Lưu Lao Chi cùng đi theo, nhanh chóng giải vây Tam A rồi tiến công Hu Dị, đại phá quân Tần. Lưu Lao Chi thu được thuyền chiến của quân Tần. Nhờ chiến công này, Tạ Huyền được phong làm Thứ sử Từ châu và dời sang Kinh Khẩu, còn Lưu Lao Chi được thăng làm Ưng Dương tướng quân, giữ chức Quảng Lăng tướng thay thế Tạ Huyền. Quân đội mà Tạ Huyền thống lãnh được xưng tụng là Bắc phủ quân.  Tham gia trận Phì Thủy. Từ năm 378, nước Tiền Tần sau khi thống nhất ở miền bắc đã liên tiếp mở các cuộc tấn công vào các thành phía bắc nhà Tấn như Tương Dương, Ngụy Hưng , Bành Thành, Hoài Âm, Vu Thai, uy hiếp nghiêm trọng đến sự tồn tại của nhà Tấn. Để đối phó, nhà Tấn sai Tạ Huyền lên phía bắc chống cự, tạm thời kéo dài được một thời gian. Đến năm 383, Lưu Lao Chi cùng với Thứ sử Kinh châu Hoàn Xung đưa 10 vạn quân tấn công Tiền Tần, được tướng giữ chức Tuyên Thành nội sử Hồ Bân đưa quân đến Thọ Dương tiếp thêm thanh thế. Lưu Lao Chi được lệnh dẫn 2000 quân đến chỗ Hồ Bân làm hậu kế, tuy nhiên đến tháng 7 Hoàn Xung rút quân. Sang tháng 8 cùng năm, vua Tần là Phù Kiên dẫn đại quân xuống phía nam hòng bóp nát nhà Tấn. Tướng tiên phong của Tiền Tần là Phù Dung (em trai Phù Kiên) mang 27 vạn quân đi trước, tiến đến Dĩnh Khẩu. Sang tháng 9, Phù Kiên đưa quân đánh Hạng Thành rồi tiếp tục tiến đánh Uy Dương, Bành Thành, Hán Giang. Tấn Hiếu Vũ Đế cử Tạ Huyền làm tiên phong, dẫn 8 vạn quân ra đương đầu với quân Tần. Sang tháng 10, tướng Tần là Mộ Dung Thùy đánh Vân Thành, Phù Dung đánh Hiệp Thạch và Lương Thành đánh Lạc Hà. Trước tình thế đó, Tạ Huyền cử Hồ Bân và Lưu Lao Chi mang quân kháng cự, nhưng ban đầu chưa thành công. Sang tháng 11, Tạ Huyền lại sai Lưu Lao Chi mang 5 nghìn quân sĩ đến Lạc Gián. Lưu Lao Chi dùng thủy quân và lục quân tiến công, nhân lúc quân Tần chưa qua sông hết, dùng kị binh đánh thẳng vào đội hình quân Tần, giết chết chủ tướng Lương Thành và Vương Hiển, Vương Vịnh cùng hàng chục viên tướng, giết được hơn vạn quân Tần và thu được nhiều khí giới. Thừa thắng ông kéo đến thành Hạp Thạch. Về sau, Tạ Huyền cùng Tạ Thạch đem quân đại phá Phù Kiên ở Phì Thủy, đánh tan cuộc xâm lược của Tiền Tần và bảo vệ vững chắc giang sơn nhà Tấn. Theo Tạ Huyền bắc phạt. Năm 384, Tiền Tần rối loạn. Các nước ở miền bắc liên tiếp nổi dậy li khai, tái lập lại thế chia cắt ở miền bắc. Lưu Lao Chi thừa cơ hội đó đánh vào Tiếu Thành ở miền bắc. Sau đó ông được triều đình thăng làm Long tướng quân, Bành Thành nội sử và được phong thực ấp 500 hộ ở phía nam huyện Vũ Cương. Cùng năm đó, triều đình nhà Tấn tiến hành bắc phạt, cử Tạ Huyền làm Tiên phong đô đốc chỉ huy đại quân. Lưu Lao Chi tham gia trong trận chiến này và được lệnh dẫn quân tiến công tướng Tần Trương Sùng đang giữ Duyện châu. Trước sự tấn công của Lưu Lao Chi, Trương Sùng thua trận bỏ chạy. Nhân đó Lao Chi tiến vào chiếm Quyên Thành, nắm giữ phần lớn thành ở phía nam Hoàng Hà. Cũng trong thời gian này, Mộ Dung Thùy ở miền bắc kiến lập nước Hậu Yên và ra sức khuếch trương thanh thế, cho quân tấn công Phù Phi ở Nghiệp Thành nhưng sau tạm lui. Ngay sau đó, quân Tấn tiến đánh Nghiệp Thành, thủ hạ của Phù Phi là Dương Ưng, Khương Nhượng và Tiêu Quỳ thay mặt Phi đầu hàng nhà Tấn. Về sau quân Yên trở lại tấn công, đánh tan quân Tấn, Mộ Dung Thùy bỏ thành mà chạy. Năm 385, Tạ Huyền sai Lưu Lao Chi tiến công Phương Đầu để cứu Phù Phi. Sau đó Lưu Lao Chi tiếp tục đưa quân tiến công thái thú Lưu Phủ của Hậu Yên ở Lê Dương, Mộ Dung Thùy đem quân cứu viện, đánh bại Lưu Lao Chi. Lao Chi đành phải rút về Lê Dương. Về sau, Mộ Dung Thùy một lần nữa tấn công và bao vây Nghiệp Thành. Đến tháng 4 cùng năm, Lưu Lao Chi lại đến Nghiệp Thành cứu viện, buộc Thùy phải lui quân về Tân Thành, sau lại lui về miền bắc. Lưu Lao Chi cùng thái thú Phái quận Điền Thứ dẫn quân theo truy kích, đuổi được hai trăm dặm đến Ngũ Trạch Kiều thì bị Mộ Dung Thùy đánh bại. Lưu Lao Chi thua trận, một mình một ngựa bỏ chạy, về sau thu thập lại tàn quân rồi rút lui về nam. Sau trận đánh này, Lưu Lao Chi được giao nhiệm vụ trấn thủ vùng Hoài Âm rồi được thăng làm Thái thú Bành Thành. Đánh dẹp bạo loạn. Năm 389, người quận Bành Thành là Lưu Lê làm phản xưng đế ở Hoàng Khâu, Lưu Lao Chi bèn đem quân tiến đánh và dẹp tan lực lượng của Lưu Lê. Sang năm 390 tướng Tiền Tần là Trương Ngô đưa quân tấn công nhà Tấn, đánh vào quận Thái Sơn. Lưu Lao Chi sai Hương Khâm dẫn quân cứu viện. Được tin đó phản tướng của Hậu Yên là Địch Liêu sai con trai là Địch Chiêu mang quân giúp Ngộ. Lưu Lao Chi đành tạm lui quân. Thấy tình hình yên ổn trở lại, Địch Chiêu cũng rút lui. Lưu Lao Chi được tin bèn quyết định trở lại tấn công, bình định lại quận Thái Sơn và cho quân truy kích Địch Chiêu, buộc Chiêu phải chạy về Hà Bắc. Đồng thời quân Tấn bắt sống được Trương Ngộ. Tiếp theo đó, ông đem quân đánh bại Địch Liêu ở Hoạt Đài và buộc Trương Nguyện đầu hàng. Sang năm 393, Tư Mã Huy tụ hợp dân chúng ở núi Mã Đầu bàn mưu phản loạn, Lưu Lao Chi cử tướng Trúc Lãng Chi tiến đánh và bình định thành công. Tuy nhiên sang năm 394, vua Hậu Yên Mộ Dung Thùy sai con là Ác Nô mở một cuộc xâm lược vào lãnh thổ Đông Tấn, tiến vào Lẫm Khâu, thái thú Cao Bình là Từ Hàm Viễn sai sứ cáo cấp với Lưu Lao Chi nhưng ông không thể đem quân cứu, vì thế bị miễn quan tước. Năm 397, Vương Cung dẫn quân vào kinh thành thảo phạt Vương Quốc Bảo, tiến cử Lưu Lao Chi trở về làm quan với chức vị là Nam Bành Thành nội sử và Phụ quốc tướng quân. Cùng năm, quan đại thần nhiếp chính là Cối Kê vương Tư Mã Đạo Tử sai giết chết Vương Quốc Bảo, Vương Cung mới lui về. Tuy nhiên đại thần Vương Nhã phản đối việc này, bèn dẫn quân truy kích đuổi theo. Vương Cung cử Lưu Lao Chi đem 5000 quân ra chống, đánh tan Vương Nhã. Nhờ công lao này, Lao Chi được thăng lên làm thái thú Tấn Lăng và theo phục vụ Vương Cung. Phản Vương Cung, theo triều đình. Mặc dù được trở lại chính trường nhưng địa vị của Lưu Lao Chi trong quân đội không còn được như trước, bị các tướng khác xem thường và không tiếp đãi đúng lễ. Điều này làm ông cảm thấy bị sỉ nhục và quyết tâm giành lại uy danh. Năm 398 đời Tấn An Đế, Vương Cung liên kết cùng Ân Trọng Kham và Hoàn Huyền tiến công Kiến Khang lần thứ hai nhằm tiêu diệt lực lượng của Tiều vương Tư Mã Thượng Chi và đại thần Vương Du. Trước sự tấn công của Vương Cung, Tấn triều cử Cối Kê thế tử Tư Mã Nguyên Hiển làm Chinh thảo đô đốc, đưa quân ra chống. Tư Mã Nguyên Hiển muốn đưa Lưu Lao Chi về phe mình, bèn sai thái thú Lư Giang là Cao Tố đến thuyết phục ông, hứa sẽ cho ông thay về vị trí thứ sử Thanh Duyện thay cho Vương Cung. Lưu Lao Chi đồng ý. Tuy nhiên việc này bị tham quân của Vương Cung là Hà Đạm, vốn có hiềm khích với Lưu Lao Chi phát giác. Đạm lại đem việc ấy nói với Vương Cung. Cung không nghe, lại còn mời Lao Chi vào trại, bái làm anh và giao cho ông làm tiên phong, dẫn đại binh tiến đánh thành Trúc Lý, đồng thời sai Nhan Diên đến phụ tá ông. Khi đến Trúc Lý, Lưu Lao Chi bèn giết chết Nhan Duyên, quay sang đầu hàng Tấn triều. Sau đó ông sai con trai là Lưu Kính Tuyên và con rể Cao Nhã Chi tiến đánh Vương Cung. Vương Cung bị bắt sống, không lâu sau bị xử tử. Sau cái chết của Vương Cung, Lưu Lao Chi được phong làm Đô đốc quân sự các châu Duyện, Thanh, U, Tịnh, Từ, Dương, thứ sử hai châu Thanh, Duyện và trấn thủ Kinh châu, đồng thời tiếp quản Bắc phủ quân. Nhưng bởi do là kẻ sĩ tốt đột nhiên vào triều, đứng trên mọi người nên Lưu Lao Chi không được lòng người. Về sau, Dương Thuyên Kì và Hoàn Huyền ra điều kiện nếu triều đình giết chết Lưu Lao Chi thì họ sẽ lui binh. Lúc đó Lưu Lao Chi bèn đưa quân từ Kinh Khẩu về Kiến Khang, Thuyên Kì và Huyền được tin cả sợ, bèn trở về Thái châu, Lao Chi cũng rút về Kinh Khẩu. Giao chiến với Tôn Ân. Năm 399, Tôn Ân từ đảo Chu San dẫn quân đánh vào các quận Cối Kê, được nhiều châu quận khác hưởng ứng, lực lượng đông tới 10 vạn, uy hiếp triều đình Kiến Khang. Lưu Lao Chi sai Hoàn Bảo và Lưu Kính Tuyên đem quân cứu viện các quận Cối Kê, Ngô và Ngô Hưng. Sau đó ông được tin nội sử Ngô quận Hoàn Khiêm bỏ thành mà trốn, bèn thượng biểu lên hoàng đế, yêu cầu thảo phạt Tôn Ân. Lưu Lao Chi nhanh chóng xuất phát và đến được Ngô Quận, cùng tướng khác được triều đình phái tới là Tạ Diễm nhiều lần đánh thắng quân Tôn Ân, rồi thừa thắng tiếp tục tấn công. Triều đình biết việc này, bèn thăng ông làm Tiền tướng quân, Đô đốc Ngô quận chư quân sự. Sau đó ông tiếp tục vượt sông tiến công Tôn Ân. Tôn Ân bỏ chạy, Lao Chi dẫn quân đuổi theo, quân của ông tranh nhau cướp đoạt của cải và bắt nhiều bá tánh, nên bị mọi người bất mãn. Cuối cùng Tôn Ân trốn về hải đảo, Lưu Lao Chi cũng trở lại Kinh Khẩu. Năm sau (400), Tôn Ân một lần nữa tiến đánh Cối Kê, giết chết Tạ Diễm. Lưu Lao Chi được thăng làm Trấn Bắc tướng quân, đô đốc quân sự năm quận Hội Kê, và được lệnh dẫn quân đánh dẹp. Tôn Ân bèn lui quân về Hải Đảo. Lưu Lao Chi đóng quân ở Thượng Ngu và phái các tướng giữ các huyện. Sang năm 401, Tôn Ân lại đưa quân tiến vào Kinh Khẩu, Lưu Lao Chi bèn tiến đánh, buộc Tôn Ân lui quân. Tuy nhiên ít lâu sau, Ân lại đánh Ngô quận, giết nội sử Viên Sơn Tùng rồi theo đường biển tiến lên phía bắc đánh vào Kinh Khẩu, uy hiếp Kiến Khang. Lưu Lao Chi được tin bèn đưa quân từ Sơn Âm đến Kinh Khẩu giao chiến với Tôn Ân nhưng không thắng, lại phái thủ hạ Lưu Dụ (tức Vũ Đế nhà Lưu Tống sau này) đưa quân từ huyện Hải Diêm ra giúp, tiến quân đến Đàn Đồ. Với tài cầm quân của Lưu Dụ, quân Tấn nhanh chóng giành chiến thắng nhiều trận. Tôn Ân sau thất bại đó liền chấn chỉnh đội ngũ và lại uy hiếp Kiến Khang. Triều đình nghe tin bèn đưa quân phô ra để uy hiếp, đồng thời Lưu Lao Chi cũng đưa quân về. Tôn Ân đến Tân Châu được tin hoảng sợ, lại thêm thời tiết bất lợi bèn rút lên phía bắc, sau bị Lưu Dụ đánh bại và phải rút về hải đảo. Phản Nguyên Hiển theo Hoàn Huyền. Sau khi giành lấy quyền lực từ tay cha, Tư Mã Nguyên Hiển thực hiện kế hoạch tiêu diệt thế lực quân phiệt Hoàn Huyền ở Kinh châu. Tháng giêng năm 402, Nguyên Hiển bắt đầu ra quân, lấy Lưu Lao Chi làm Tiên phong đô đốc, Chinh Tây tướng quân, Giang châu sử, giao phó việc này cho ông. Tuy nhiên Lưu Lao Chi thấy Hoàn Huyền tuy tuổi trẻ nhưng đã có công danh hiển hách, Nguyên Hiển không thể là đối thủ của Hoàn Huyền, nên muốn đầu hàng Hoàn Huyền. Bấy giờ Trương Pháp Thuận lại khuyên Tư Mã Nguyên Hiển sai Lưu Lao Chi giết Hoàn Khiêm, tướng dưới trướng Hoàn Huyền để nắm lấy ưu thế trước. Tư Mã Nguyên Hiển lại thấy rằng Lưu Lao Chi không thể nào đối địch với Hoàn Huyền nên không chấp nhận. Đến khi Hoàn Huyền đưa quân chống quân thảo phạt của triều đình, lại sai Hà Mục đến thuyết hàng Lưu Lao Chi. Nghe lời Hà Mục, Lưu Lao Chi đồng ý theo về với Hoàn Huyền, đồng thời nhiều lần sai sứ giả qua lại thư tín với Hoàn Huyền. Lúc bấy giờ có Hà Vô Kị rất mực khuyên can ông, nhưng Lưu Lao Chi không chịu nghe. Sang tháng 3 ÂL năm 402, Lưu Lao Chi sai con là Lưu Kính Tuyên đến doanh trại Hoàn Huyền đầu hàng. Hoàn Huyền muốn trừ Lao Chi, bèn nhân lúc Kính Tuyên ở trong doanh đem pháp thư và họa đồ cho Kính Tuyên xem, nhưng Tuyên không phát giác ra việc này. Nhờ sự giúp đỡ của ông, Hoàn Huyền nhanh chóng đánh bại quân Tấn, tiến về Kiến Khang, giết chết Tư Mã Nguyên Hiển, Tư Mã Thượng Chi, Trương Pháp Thuận... và khống chế triều đình. Phản Hoàn Huyền và tự sát. Sau khi làm chủ Kiến Khang, Hoàn Huyền phong cho Lưu Lao Chi làm Chinh đông tướng quân, thái thú Cối Kê nhưng lại tước hết binh quyền của ông. Lưu Lao Chi biết họa lớn sắp đến, bèn chuẩn bị tạo phản. Lúc đó Lưu Kính Tuyên khuyên ông nên bất ngờ tập kích vào phủ của Hoàn Huyền, nhưng ông do dự chưa quyết định. Sau đó ông sai sứ đến gặp Lưu Dụ ở Hạ Bi và Cao Nhã Chi ở Quảng Lăng cầu xin giúp đỡ, nhưng Lưu Dụ thấy không đủ thực lực chống lại vạn quân của Hoàn Huyền nên không đồng ý. Không được Lưu Dụ giúp đỡ, Lưu Lao Chi bèn hội các tướng tá dưới quyền bàn kế trấn thủ ở Giang Bắc phòng chống Hoàn Huyền. Bấy giờ có Tham quân Lưu Tập nói rằng Lưu Lao Chi đã ba lần phản chủ, không còn ai phục ông nữa. Lúc đó các tướng cũng bỏ trốn nhiều, nên Lưu Lao Chi cũng rất lo sợ, bèn sai Lưu Kính Tuyên về Kinh Khẩu đưa gia quyến của mình đến Quảng Lăng. Tuy nhiên Lưu Lao Chi thấy Kính Tuyên đi lâu không về, lại sợ Lưu Tập làm phản, bèn thắt cổ tự tử. Lưu Kính Tuyên biết việc cha đã chết, bèn trốn sang Quảng Lăng. Các tướng của ông đem thi thể đi mai táng ở Đan Đồ. Về sau, Hoàn Huyền đánh tới nơi, cho đào quan tài của ông lên chém đầu. Về sau Hoàn Huyền bị giết, Lưu Dụ khởi binh tiến về kinh, hạ lệnh khôi phục quan tước cho Lưu Lao Chi.
1
null
Căng thẳng, trong tiếng Anh là Stress, gốc là từ tiếng Latinh "stringere" nghĩa là "kéo căng". Ở người, căng thẳng thường được mô tả là một tình trạng tiêu cực hay tích cực có ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần và thể chất của người đó. Theo tâm lý học giải thích thì đây là một cảm giác căng thẳng và dồn ép. Áp lực với cường độ thấp có thể là một điều tốt và thậm chí có lợi ích trong công việc và sức khỏe. Stress tích cực giúp tăng hiệu suất vận động thể thao. Nó cũng có vai trò trong động lực, thích nghi và phản ứng với môi trường xung quanh. Tuy nhiên với một lượng áp lực quá nhiều có thể dẫn đến nhiều vấn đề đối với cơ thể và điều đó có thể cực kì có hại. Stress có thể từ bên ngoài và liên quan đến môi trường sống, nhưng cũng có thể được tạo ra từ sự nhìn nhận sinh bản thân dẫn đến lo âu hay các cảm xúc tiêu cực khác như dồn ép, không thoải mái quanh một tình huống mà sau đó họ sẽ cho là sự kiện áp lực. Theo sinh lý học và sinh học, căng thẳng là một phản ứng của cơ thể sống đối với stressor (nghĩa là "căng thẳng nguyên") như là điều kiện môi trường hay một kích thích tố ("stimulus"). Căng thẳng là một phương thức mà cơ thể đáp ứng với các thách thức. Sau một sự kiện áp lực, cách cơ thể đáp ứng với căng thẳng là thông qua sự kích hoạt hệ thần kinh giao cảm dẫn đến đáp ứng căng thẳng cấp hay còn gọi là phản ứng đánh-hay-chạy. Tác động. Tác động về mặt thể chất. Tình trạng stress kéo dài dẫn đến rối loạn chuyển hóa lipid, làm tăng cholesterol trong máu. Căng thẳng làm tăng tiết catecholamin mà chủ yếu là adrenalin, gây co mạch máu dẫn đến thiếu oxy ở tim và thành mạch, thiếu oxy ở các tổ chức. Tăng catecholamin trong những điều kiện nhất định gây tình trạng thiếu oxy tổ chức, loạn dưỡng và hoại tử cơ tim, thành mạch. "Stress có thể gây ra nhiều căn bệnh" Tác động về mặt tinh thần. Song song với tác động về mặt thể chất, căng thẳng gây ra tác động cả về mặt tinh thần. Các biểu hiện của nó là: Giảm căng thẳng. Để tránh căng thẳng, chúng ta làm những cách sau: Thực tập thiền. Thực tập hay thực hành-tập luyện thiền hằng ngày có thể giúp cho giảm stress, bình ổn thân và tâm, phòng ngừa nhiều bệnh tật.
1
null
Khởi nghĩa Vũ Xương là một cuộc khởi nghĩa phản Thanh của người Hán của Trung Quốc có tác dụng như chất xúc tác cho cách mạng Tân Hợi, chấm dứt triều đại nhà Thanh và hàng nghìn năm phong kiến, khai sinh ra Trung Hoa Dân Quốc. Bất mãn với cách xử lý một vụ khủng hoảng đường sắt, những người biểu tình biến nó thành một cuộc cách mạng chống lại quan chức chính quyền nhà Đại Thanh. Cuộc cách mạng sau đó nhận được sự hỗ trợ từ tân quân trong một cuộc đảo chính chống lại chính cấp trên của họ ở thành phố Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc ngày 10/10/1911. Trận Dương Hạ do Hoàng Hưng lãnh đạo là cuộc giao tranh lớn nhất của khởi nghĩa này. Khủng hoảng đường sắt Quảng Đông Tứ Xuyên. Sau phong trào Nghĩa Hòa Đoàn, nhiều quốc gia phương Tây xem Trung Quốc là mảnh đất tốt để đầu tư và xây dựng đường sắt. Đã tạo được ảnh hưởng tại Trung Quốc, các quốc gia như Anh và Pháp xây dựng rất nhiều tuyến đường sắt cho dù bị nhà Thanh phản đối. Đức bắt đầu xây đường sắt ở Sơn Đông, Anh ở thung lũng sông Trường Giang, Pháp ở Côn Minh Vân Nam, Nga ở Hắc Long Giang và người Nhật thành lập công ty đường sắt Nam Mãn Châu. Tuy nhiên, đến năm 1905, tuyến đường sắt Quảng Đông-Hán Khẩu và Tứ Xuyên-Hán Khẩu đoạn chạy qua Quảng Đông, Hồ Nam, Hồ Bắc và Tứ Xuyên do địa phương quản lý. Các tuyến này dùng để kết nối với phần còn lại của Trung Quốc. Tháng 5 năm 1911, nhà Thanh yêu cầu quốc hữu hóa các tuyến đường sắt nhằm bồi thường chiến phí theo điều ước Tân Sửu. Thông báo về việc quốc hữu hóa đường sắt và trả nợ chiến phí cho các nước thắng trận trong phong trào Nghĩa Hòa Đoàn (chủ yếu là Anh, Pháp, Đức và Mỹ) đã vấp phải nhiều phản đối. Các vụ phản kháng đã diễn ra ở thành phố Trường Sa và nhân dân Quảng Đông đã tẩy chay tiền giấy chính phủ. Đến 11 tháng 8 đã có nhiều cuộc biểu tình và đình công lớn tại Thành Đô. Tổng đốc Tứ Xuyên Triệu Nhĩ Phong trong con hoảng loạn đã ra lệnh bắt giữ nhiều quý tộc. Các đơn vị Tân Quân ở Vũ Hán khi đó đang đóng tại Võ Xương, Hán Khẩu, Hán Dương. Khởi nghĩa. Các nhóm cách mạng và vụ đánh bom. Cuộc khởi nghĩa thực chất bắt nguồn từ một sự cố. Tại thời điểm đó có hai nhóm cách mạng là Văn Học Xã (文學社) và Cộng Tiến Hội (共進會).. Hai nhóm này cộng tác với nhau, do Tưởng Dực Vũ (蔣翊武) và Tôn Vũ(孫武) lãnh đạo. Tháng 9 năm 1911, họ bắt đầu cộng tác với Đồng Minh hội (同盟會). Ngày khởi nghĩa dự kiến ban đầu là 6 tháng 10 nhằm vào Tết Trung thu. Tuy nhiên vài người chưa sẵn sàng cho ngày đó nên nó bị hoãn. Ngày 9 tháng 10 khi Tôn Vũ đang ở nơi chế tạo bom tại tô giới Nga tại Hán Khẩu thì một quả bom ngẫu nhiên phát nổ khiến ông bị thương nặng. Khi Tôn Vũ được đưa đến bệnh viên, các nhân viên y tế phát hiện ra đây là nhóm hoạt động cách mạng nên đã báo cho nhà Thanh. Binh biến Tân quân. Tổng đốc Hồ Quảng là Thụy Trừng (瑞澂) cố gắng lùng bắt những người cách mạng. Phải đối mặt với việc bị phát hiện và bắt bớ, những người cách mạng buộc phải hành động. Tưởng Dực Vũ và Văn Học Xã quyết định ra tay đêm hôm đó nhưng mưu đồ bị bại lộ. Một số thành viên bị bắt và hành quyết. Hùng Bỉnh Khôn (熊秉坤) sau đó quyết định nổi dậy vào 7 giờ tối ngày 10 tháng 10. Tân quân ở Vũ Xương tiến hành binh biến. Trong khi Tân binh là của nhà Thanh, họ đã bị ảnh hưởng bởi tư tưởng chống Thanh của Tôn Trung Sơn (khi đó đang bị trục xuất). Những người cách mạng đã chiếm lấy phủ của Thụy Trừng buộc ông ta phải chạy thoát thân qua đường hầm. Sau khi giao chiến ác liệt, Tân quân đã chiếm giữ những vị trí chiến lược trong thành phố. Càng lúc càng có nhiều người nổi dậy và quân triều đình đã bị đánh bại. Tế lễ. Chỉ một tuần sau khi khởi nghĩa Vũ Xương nổ ra, Lê Nguyên Hồng (黎元洪) đã làm lễ tế trời, đất và Hoàng Đế. Một đài rộng bằng đất được dựng lên, trên đó có bệ thờ đặt bát hương, rượu và một con bò, theo nghi thức truyền thống. Lê Nguyên Hồng và các sĩ quan khấu đầu bốn lần trong khi một bài tế được xướng lên, nói về việc người Hán bị người Mãn áp bức và kêu gọi Hoàng Đế giúp sức cho việc thành lập nước Cộng hòa. Sau cùng, các binh sĩ giơ cao súng của họ và hô "vạn tuế" ba lần. Buổi lễ kết thúc. Thành lập chính quyền quân sự Hồ Bắc. Ngày 11 tháng 10, Tân quân thành lập chính quyền quân sự tại Hồ Bắc và Lê Nguyên Hồng bị ép làm Đốc quân mới. Người ta đã phải thuyết phục ông "đồng ý" nhận chức vụ này, có báo cáo nói rằng ông đã trốn dưới giường để thoái thác cương vị này. Khi quân đội đã làm chủ thành phố, binh lính đã giương "cờ 18 sao Thiết Huyết" trên Hoàng Hạc lâu. Chính quyền quân sự mới thành lập kêu gọi các tỉnh khác ủng hộ cuộc cách mạng và tuyên bố thành lập Trung Hoa Dân Quốc. Chính phủ lâm thời này thường được gọi là "Hồ Bắc quân chính phủ"(湖北軍政府). Đến ngày 12 tháng 10, Hán Khẩu và Hán Dương cũng rơi vào tay của những người cách mạng. Sau khởi nghĩa. Bản thân Tôn Trung Sơn không đóng vai trò trực tiếp trong cuộc khởi nghĩa. Khi đấy ông đang ở Hoa Kỳ kêu gọi Hoa kiều ủng hộ vật chất. Cụ thể, ông đang ở Denver, ở chân dãy núi Rocky. Ông nhận được 1 bức điện từ Hoàng Hưng được gửi từ cách đấy 1 tuần nhưng ông không giải mã được nó vì thiếu công cụ. Sáng hôm sau ông đọc được trên báo rằng những người cách mạng đã chiếm được thành phố Vũ Xương. Sau khởi nghĩa, những người cách mạng gửi điện đến các tỉnh khác kêu gọi họ tuyên bố độc lập và đã có 15 tỉnh ở Nam Trung Hoa và Trung Trung Hoa hưởng ứng. Các đại diện đến từ các tỉnh ly khai đã họp mặt và tuyên bố thành lập Trung Hoa Dân Quốc ngày 1 tháng 1 năm 1912. Tôn Trung Sơn về nước tháng 12 năm 1911 và được bầu làm tổng thống lâm thời của Trung Hoa Dân Quốc. Ông cuối cùng đã nhượng bộ chức vụ tổng thống lâm thời của mình cho Viên Thế Khải, đổi lại Viên sẽ giúp sức gây áp lực ép vị hoàng đế cuối cùng thoái vị. Ngày 12 tháng 2 năm 1912, Phổ Nghi, vị Hoàng đế Trung Hoa cuối cùng, đã rời khỏi ngai vị. Nhà Thanh không còn quyền lực chi phối đất nước nữa vì nó gần như đã bị tước đi thiên mệnh. Sự kiện này đặt dấu chấm hết thời kỳ quân chủ. Văn hóa. Ngày diễn ra cuộc khởi nghĩa, 10 tháng 10, Ngày Song Thập (), được lấy làm ngày Quốc khánh () của Trung Hoa Dân Quốc. Đây là một trong những ngày lễ quốc gia quan trọng nhất ở Đài Loan. Ngày 10 tháng 10 không phải là quốc khánh tại Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc nhưng vẫn có những hoạt động kỷ niệm diễn ra tại Trung Quốc đại lục và ngày này thường được gọi là "Ngày kỉ niệm khởi nghĩa Vũ Xương" (). Lễ kỷ niệm tương tự thường được thực hiện vào ngày 1 tháng 10, Quốc khánh nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
1
null
Tiếng Akkad ("lišānum akkadītum", ak.kADû) - hay tiếng Accad, tiếng Assyria-Babylon - là một ngôn ngữ không còn tồn tại thuộc nhóm Ngôn ngữ Semit (thuộc ngữ hệ Phi-Á) từng được con người ở vùng Lưỡng Hà cổ đại dùng để nói. Ngôn ngữ này sử dụng hệ thống chữ viết hình nêm vốn được dùng trong tiếng Sumer cổ (một ngôn ngữ biệt lập không liên quan với tiếng Akkad). Tên gọi "tiếng Akkad" bắt nguồn từ tên thành phố Akkad - một trung tâm lớn của nền văn minh Lưỡng Hà Semit trong giai đoạn Đế quốc Akkad (khoảng 2334–2154 trước Công nguyên), mặc dù thực tế ngôn ngữ này đã ra đời từ trước khi thành phố Akkad thành lập. Sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa tiếng Sumer và tiếng Akkad đã khiến các học giả xếp các ngôn ngữ này vào chung một "vùng ngôn ngữ" ("sprachbund"). Danh xưng riêng bằng tiếng Akkad đã được chứng thực lần đầu trong các văn bản Sumeria niên đại khoảng cuối thế kỷ XXIX trước Công nguyên. Từ nửa sau thiên niên kỷ thứ ba trước Công nguyên (khoảng năm 2500 TCN) thì bắt đầu xuất hiện các văn bản viết hoàn toàn bằng tiếng Akkad. Tính đến nay, người ta đã khai quật được hàng trăm nghìn văn bản và mẩu văn bản viết bằng tiếng Akkad với nội dung bao quát các chủ đề như thần thoại, pháp luật, khoa học, thư từ, sự kiện chính trị và quân sự... Trước thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên, tồn tại hai dạng ngôn ngữ sử dụng ở Assyria và Babylon, lần lượt là tiếng Assyria và tiếng Babylon. Trong hàng thế kỷ, tiếng Akkad đã là lingua franca của vùng Lưỡng Hà và Cận Đông cổ đại. Tuy nhiên, ngôn ngữ này bắt đầu sa sút khoảng từ thế kỷ VIII trước Công nguyên và bị tiếng Aramaic đẩy khỏi nhịp điệu phát triển xã hội trong thời Đế quốc Tân Assyria. Đến thời kỳ truyền bá văn hóa Hy Lạp thì tiếng Akkad phần lớn bị giới hạn trong giới học giả và tăng lữ làm việc tại các đền thờ ở Assyria và Babylon. Văn bản cuối cùng có sử dụng chữ viết hình nêm Akkad có niên đại thế kỷ I. Một lượng kha khá từ mượn từ tiếng Akkad vẫn tồn tại trong các phương ngữ Tân Aramaic vùng Lưỡng Hà và được những người Assyria - theo Cơ Đốc giáo - bản địa sử dụng tại những vùng đất mà ngày nay thuộc Iraq và ven Iraq. Việc đặt tên, họ và tên bộ lạc bằng tiếng Akkad vẫn phổ biến trong cộng đồng người Assyria.
1
null
Ode (tiếng Hy Lạp cổ: ὠδή, nghĩa là bài ca) là một thể loại thơ, đặc biệt của nó là được trình bày rất oai nghiêm và trang trọng. Lịch sử. Thời Hy Lạp cổ bất kỳ loại thơ nào mà được trình bày với nhạc đệm được gọi là Ode. Những bài Ode đầu tiên của thời Cận đại từ khoảng giữa thế kỷ 16 bắt nguồn từ Pháp (Pierre de Ronsard, Joachim du Bellay), Ý (Torquato Tasso) và Anh (Abraham Cowley). Trong vùng nói tiếng Đức thì có Georg Rodolf Weckherlin ("Oden und Gesänge", 1618/19) và Martin Opitz là những người đầu tiên dùng lại thể loại này.
1
null
Konstantinos III (; 3 tháng 5, 612 – 20 tháng 4 hoặc 24/26 tháng 5, 641) là Hoàng đế Đông La Mã được bốn tháng vào năm 641. Ông là con trai cả của Hoàng đế Herakleios và người vợ đầu tiên Eudokia. Tên khai sinh của Konstantinos là Herakleios Novos Konstantinos (), cũng là tên chính thức cho triều đại của ông. Cái tên Konstantinos được đưa vào trong các thư tịch cuối thời Đông La Mã là viết tắt của Hoàng đế và đã trở thành tiêu chuẩn trong sử học hiện đại. Trong thuật ngữ về danh pháp hoàng đế chính thức, đế hiệu "Konstantinos III" trông hợp hơn cho con trai của ông là Konstans II (trị vì 641 - 668). Konstantinos được cha mình đưa lên làm đồng hoàng đế vào ngày 22 tháng 1 năm 613 và một thời gian ngắn sau khi đã đính hôn với người em họ Gregoria, con gái của Nicetas, người anh em họ đầu tiên của Heraclius. Khi hai vợ chồng là anh em họ thứ hai, hôn nhân về lý mà nói được xem là loạn luân, thế nhưng sự suy xét này lại bị đè nặng bởi những lợi ích của việc hôn nhân trong gia đình dòng tộc. Hơn nữa, bất hợp pháp của nó dần trở nên vô nghĩa so với việc Herakleios kết hôn với cô cháu gái Martina cùng một năm. Konstantinos và Gregoria kết hôn vào năm 629 hoặc có thể đầu năm 630, cả hai vợ chồng có với nhau hai đứa con trai, đứa đầu tiên Konstans II sinh vào cùng năm đó và đứa tiếp theo là Theodosios. Họ còn có một đứa con gái tên là Manyanh sau này kết hôn với vị vua Ba Tư cuối cùng của nhà Sassanid là Yazdgerd III. Konstantinos trở thành Hoàng đế lớn khi cha ông qua đời vào năm 641. Ông trị vì cùng với người em cùng cha khác mẹ Heraklonas, con trai của Martina. Những người ủng hộ hoàng đế thì sợ rằng nếu để hai mẹ con Martina cùng tham gia trị vì, có thể âm mưu loại trừ ông để độc chiếm ngôi vị và thao túng triều chính, khiến viên quan trông coi quốc khố Philagrius đã khuyên hoàng đế nên viết thư cho quân đội, thông báo cho họ rằng Konstantinos sắp chết và yêu cầu họ giúp đỡ trong việc bảo vệ các quyền lợi cho đứa con của hoàng đế. Ngoài ra ông còn gửi một khoản tiền lớn tới hơn hai triệu "solidi" (tiền vàng) cho một sĩ quan phụ tá của Philagrius là Valentinus, nhằm phân phát cho những người lính để thuyết phục họ đảm bảo sự kế thừa cho con trai của Konstantinos sau khi ông mất. Quả thực, ông chết vì bệnh lao chỉ sau bốn tháng, để lại Heraklonas là hoàng đế duy nhất. Khi có tin đồn rằng Martina đã đầu độc ông khiến phe chủ mưu liền tiến hành binh biến lật đổ Heraklonas và Martina rồi tôn Konstans II làm đồng hoàng đế, riêng số phận của hai mẹ con Martina thì được phe nổi dậy tha chết nhưng họ lại bị nhục hình và trục xuất ra đảo Rhodes.
1
null
Maximinus Thrax (; 173 – 238), còn được gọi là "Maximinus I", là Hoàng đế La Mã từ năm 235 đến 238. Maximinus được mô tả bởi một số nguồn tài liệu cổ xưa, dù chẳng còn gì đến nay ngoại trừ bộ "Lịch sử La Mã" của Herodianus. Maximinus là một trong những vị hoàng đế đầu tiên chưa bao giờ đặt chân đến Roma (sau Macrinus). Ông còn được sử sách gọi là người đầu tiên trong số các hoàng đế quân nhân vào thế kỷ thứ 3; triều đại của ông thường được xem là sự khởi đầu cho cuộc khủng hoảng của thế kỷ thứ ba. Ông qua đời tại Aquileia trong khi cố gắng trấn áp cuộc nổi dậy của Viện Nguyên lão. Nắm quyền. Nhiều khả năng Maximinus có gốc là người La Mã gốc Thracia (tin như vậy bởi Herodianus trong tác phẩm của ông). Theo bộ sử nổi tiếng là không đáng tin cậy "Historia Augusta", ông sinh ra ở Thrace hay Moesia có cha là người Goth và mẹ là người Alan, một giống dân Iran thuộc nhánh Scythia-Sarmatia; tuy nhiên giả thiết dòng dõi của ông rất khó mà xác thực, như sự hiện diện của người Goth trong khu vực sông Danube là chứng nhận đầu tiên sau khi bắt đầu cuộc khủng hoảng của thế kỷ thứ ba. Sử gia người Anh Ronald Syme, viết rằng "từ 'Gothia' có lẽ đủ để cho sự chỉ trích" các đoạn văn trong bộ "Historia Augusta", cảm thấy gánh nặng của bằng chứng từ Herodianus, Syncellus và các nơi khác chỉ cho biết Maximinus được sinh ra ở Moesia. Các tài liệu tham khảo cho tổ tiên "Gothic" của ông có thể có liên quan tới một người gốc Thracia Getae (cả hai người dân thường bị nhầm lẫn bởi các nhà văn về sau, đáng chú ý nhất là Jordanes trong tác phẩm "Getica" của mình), theo giả thuyết được đưa ra trong các đoạn văn mô tả làm thế nào "ông được một mình Getae yêu quý, hơn nữa, như thể anh là một trong số họ" và làm thế nào ông nói "gần như là người Thracia thuần chủng". Thân thế của ông dù gì đi nữa cũng đến từ một tỉnh lẻ thấp hèn và hay bị Viện Nguyên lão khinh bỉ coi như một kẻ mọi rợ, chứ không phải là một người La Mã thực thụ, bất chấp sắc lệnh của Caracalla là ban bố quyền công dân cho tất cả cư dân được kế thừa quyền tự do của Đế quốc. Bất luận thế nào thì Maximinus cũng tương tự như các vị hoàng đế người La Mã gốc Thracia vào thế kỷ thứ 3 đến thứ 5 (Licinius, Galerius, Aureolus, Leo I, v.v.), đều nắm quyền nhờ vào đường binh nghiệp từ lúc còn là một anh lính quèn của một trong những đạo quân lê dương La Mã đến khi nắm giữ các vị trí cao nhất của quyền bính. Lúc đầu ông gia nhập quân đội dưới thời Septimius Severus, nhưng chẳng được thăng lên vị trí có quyền thế lớn cho đến khi được hoàng đế Alexander Severus trọng dụng. Maximinus là tướng chỉ huy quân đoàn Legio IV "Italica", bao gồm các tân binh đến từ Pannonia, đã tức giận trước việc trả công người Alemanni của Alexander và sự lẩn tránh chiến tranh của ông. Quân đội trong đó có quân đoàn Legio XXII "Primigenia" đã bầu chọn vị tướng nghiêm khắc Maximinus, rồi nổi loạn giết chết thiếu đế Alexander và mẹ mình tại "Moguntiacum" (nay là Mainz). Đội Cấm vệ quân "Praetorian Guard" đã tôn ông làm hoàng đế, sự lựa chọn của họ buộc Viện Nguyên lão phải miễn cưỡng phê chuẩn, dù trong lòng họ rất bất mãn khi có một người nông dân lên làm hoàng đế. Con trai của ông Maximus cũng được phong làm "Caesar". Theo nhà sử học người Anh Edward Gibbon: Triều đại. Củng cố quyền hành. Maximinus ghét giới quý tộc và là tàn nhẫn đối với những ai mà ông nghi ngờ có âm mưu chống lại mình. Ông bắt đầu từ việc loại bỏ các cố vấn thân cận của Alexander. Sự ngờ vực của ông bắt nguồn từ hai cuộc mưu phản chống lại Maximinus đã thất bại thảm hại. Lần đầu là trong một chiến dịch quân sự trên sông Rhine, do một nhóm sĩ quan được hỗ trợ bởi những nghị viên có thế lực mưu tính phá hủy một cây cầu bắc qua sông, để dụ Maximinus ở lại và bị mắc kẹt phía bên kia sông. Sau đó họ lên kế hoạch để bầu nghị viên Magnus làm hoàng đế rồi từ đó thâu tóm quyền lực; Tuy nhiên mưu đồ đã bị thủ hạ của hoàng đế phát hiện kịp thời và những kẻ chủ mưu bị đem ra xử tử. Âm mưu thứ hai liên quan đến những cung thủ người Lưỡng Hà còn trung thành với Alexander. Họ dự tính bầu chọn Quartinus nhưng viên chỉ huy Macedo của họ đã thay lòng đổi dạ và thay vào đó đã ra tay sát hại Quartinus, dù vậy cũng không đủ để hoàng đế tha mạng sống cho ông. Bảo vệ biên giới. Từ khi Maximinus kế thừa ngôi vị đã mở đầu cho thời kỳ loạn lạc liên miên gọi là "cuộc khủng hoảng của thế kỷ thứ ba" (còn gọi là giai đoạn "Hỗn loạn Quân sự" hoặc "Cuộc khủng hoảng của Đế quốc La Mã"), tên thường gọi cho những đổ nát và gần sụp đổ của Đế chế La Mã từ năm 235 đến 284 do ba cuộc khủng hoảng xảy ra cùng lúc: ngoại tộc xâm lược, nội chiến trong nước và sự sụp đổ về kinh tế. Chiến dịch đầu tiên Maximinus là chống lại người Alamanni, mà hoàng đế đã đánh bại dù người La Mã cũng chịu tổn thất nặng nề trong một đầm lầy ở vùng Agri Decumates. Sau chiến thắng, Maximinus nhận danh hiệu "Germanicus Maximus", còn đưa con trai mình là Maximus giữ chức "Caesar" và "Princeps Iuventutis", và phong thần người vợ quá cố Paulina. Maximinus có thể đã phát động một chiến dịch thứ hai tiến sâu vào đất Germania, đánh bại một bộ tộc German vượt sông Weser trong trận Harzhorn. Củng cố tuyến biên giới German, ít nhất là trong một thời gian, Maximinus sau đó cho hạ trại đóng quân trú đông tại Sirmium ở Pannonia, và dùng căn cứ này để tiếp tế cho cuộc chiến với người Dacia và Sarmatia trong mùa đông năm 235-236. Cha con Gordianus I và II. Đầu năm 238, trên địa bàn tỉnh châu Phi, các quan chức trông coi ngân khố đã bòn rút qua những phán quyết sai lầm trong một triều đình tham nhũng từ một số chủ đất địa phương đã kích động một cuộc nổi loạn quy mô trên địa bàn tỉnh. Các địa chủ tự vũ trang cho hầu cận và nông nô của họ rồi tiến vào Thysdrus (nay là El Djem), ám sát các viên chức vi phạm cùng đám vệ binh thân tín rồi tuyên bố vị thống đốc tỉnh cao tuổi, Marcus Antonius Gordianus Sempronianus (Gordianus I) và con là Gordianus II làm đồng hoàng đế. Viện Nguyên lão ở Roma đã bị dao động và quyết định theo về phía cha con nhà Gordianus bằng cách ban cho họ danh hiệu "Augustus", đồng thời kêu gọi các tỉnh cùng lên tiếng ủng hộ họ. Thế nhưng khi Maximinus hay tin ấy, lúc đó đang trú đông ở Sirmium đã ngay lập tức tập hợp quân đội của mình và tiến về Roma, dưới sự dẫn đầu của quân đoàn lê dương Pannonia. Trong khi đó, ở châu Phi, cuộc nổi dậy đã không thuận buồm xuôi gió. Tỉnh châu Phi phía tây giáp tỉnh Numidia, mà thống đốc là Capellianus, vốn không mấy thiện cảm với nhà Gordianus nên đã khởi binh chống lại và chỉ kiểm soát được các đơn vị lính lê dương (III "Augusta") trong khu vực. Ông hành quân về Carthage và dễ dàng áp đảo lực lượng dân quân địa phương bảo vệ thành phố. Gordianus II cố sức chống trả nhưng bị tử trận ngay sau đó, và khi biết được tin này thì Gordianus I cũng lấy dây treo cổ tự sát. Cuộc nổi dậy của họ hoàn toàn thất bại. Pupienus, Balbinus và Gordianus III. Khi cuộc nổi dậy của châu Phi thất bại, Viện Nguyên lão thấy mình đang trong tình trạng nguy hiểm lớn. Từng thể hiện sự ủng hộ cho nhà Gordianus vì họ chẳng còn mong đợi sự khoan hồng nào từ phía Maximinus khi ông gần đến Roma. Trong lúc khó khăn này, họ quyết tâm thách thức Maximinus và bầu hai nghị viên trong số họ là Pupienus và Balbinus làm đồng hoàng đế. Khi đám đông dân chúng La Mã nghe nói rằng Viện Nguyên lão đã chọn hai người từ tầng lớp quý tộc Patricianus mà nhân dân vốn chẳng có thiện cảm gì mấy, nên họ đã phản đối dữ dội và chào đón đoàn diễu hành bằng một loạt gậy gộc và gạch đá. Một phe phái ở Roma đã tích cực vận động Viện Nguyên lão bầu chọn đứa cháu ngoại của Gordianus là Gordianus III làm hoàng đế, khiến cho tình trạng bạo động trên đường phố ngày càng nghiêm trọng. Cả hai vị đồng hoàng đế không còn sự lựa chọn nào khác nhưng để thỏa hiệp phe phái đối lập và xoa dịu sự bất mãn của dân chúng kinh thành, họ quyết định phong cậu bé làm "Caesar" với sự chấp thuận của Viện Nguyên lão. Cái chết. Maximinus mau chóng hành quân về Roma để ổn định tình hình tại kinh thành, nhưng cửa ngõ quan trọng là thành Aquileia lại đóng cửa từ chối quy hàng ông. Quân đội của ông bắt đầu trở nên bất mãn trong cuộc vây hãm thành phố bất ngờ, khiến họ phải chịu đựng nạn đói và bệnh tật trong thời gian đó. Vào tháng 4 năm 238, binh sĩ của binh đoàn lê dương II "Parthica" trong quân doanh đã ám sát ông và con trai cùng các vị triều thần của mình. Đầu của họ bị chặt ra rồi để trên những cái cọc và để cho kỵ binh mang đến Roma. Pupienus và Balbinus sau đó được Viện nguyên lão chỉ định làm đồng hoàng đế. Chính trị. Maximinus thường trả lương gấp đôi cho binh sĩ nên họ rất mực trung thành với ông; nhưng cùng với chiến tranh hầu như diễn ra liên miên thì hành động này lại cần phải gia tăng các loại thuế cao hơn. Những viên chức thu thuế bắt đầu sử dụng đến phương pháp bạo lực và tịch thu bất hợp pháp, khiến cho tầng lớp quan lại ngày càng chán ghét và oán thán chế độ. Maximinus cũng làm đảo lộn chính sách khoan hồng của Alexander đối với các tín đồ Thiên Chúa giáo, những người được ông xem là kẻ thù không thực lòng ủng hộ nhà nước và có thể trở thành mầm mống gây họa cho đế chế. Nên đã ra lệnh bắt bớ các tín đồ Thiên Chúa giáo một cách tàn nhẫn, trong số đó có giám mục thành Roma Pontianus cũng như người kế nhiệm ông Anterus được cho là đã tử vì đạo. Mà theo bộ sử "Historia Augusta" kể lại: "Việc người La Mã chịu được tính man rợ của ông không còn lâu — theo cách làm của ông là tung ra đám mật thám và khuyến khích tố cáo lẫn nhau, bịa ra hành vi phạm tội sai trái, giết người vô tội, lên án tất cả những ai đã ra xét xử, biến người giàu nhất thành nghèo đói nhất và không bao giờ kiếm tiền ở bất cứ nơi nào để cứu giúp sự phá sản của một số khác, khiến nhiều tướng lĩnh và quan chức chấp chính bị xử tử vì không có tội, chở một số người khác trong chiếc xe ngựa không có thức ăn và đồ uống, và giữ những người khác trong phòng giam bị bỏ bê một thời gian ngắn mà không có gì để ông có thể chứng minh tính hiệu quả của sự tàn bạo — và, không thể chịu đựng những điều này lâu hơn, họ đứng lên chống lại ông trong cuộc nổi dậy." Tướng mạo. Một số nguồn sử liệu cổ đại từ bộ sử nổi tiếng là không đáng tin cậy "Historia Augusta" đến các tác phẩm của Herodianus, đều nói về Maximinus như một người đàn ông có tầm vóc to lớn hơn nhiều so với những người đương thời. Hơn nữa ông còn được mô tả trong hình ảnh cổ xưa như một người có cái trán, mũi và hàm nhô lên; triệu chứng của một hình thức phát triển quá mức. Ngón tay cái của ông được cho là quá lớn khó mà đeo cái vòng tay của vợ mình như một chiếc nhẫn. Trong khi kích cỡ chính xác của Maximinus có thể sẽ không bao giờ được biết đến, dù gì đi nữa thì ông vẫn là một người đàn ông có vóc dáng cao to thời xưa. Theo "Historia Augusta", "vóc dáng của ông như vậy, nên theo lời Cordus kể lại thì ông cao đến tám phút, sáu inch [khoảng 2.5 m]". Tuy nhiên điều này là một trong nhiều "câu chuyện cao to' có trong "Historia Augusta", và ngay lập tức bị các học giả nghi ngờ do đã lấy trích dẫn của 'Cordus', một trong số các căn cứ hư cấu cho việc trích dẫn tác phẩm. Mặc dù không đi sâu vào các phần được cho là chi tiết của "Historia Augusta", nhà sử học Herodianus, sống cùng thời Maximinus, đã nhắc đến ông như một người đàn ông có vóc dang to cao, lưu ý rằng: "Ông ấy dù gì đi nữa cũng là một người đàn ông có ngoại hình đáng sợ như vậy và vóc dáng khổng lồ mà không gì sánh bằng được với bất kỳ lực sĩ Hy Lạp được huấn luyện tốt nhất và hoặc những chiến binh tinh nhuệ của man tộc." Một số nhà sử học giải thích những câu chuyện về chiều cao bất thường của Maximinus (cũng như các thông tin khác về tướng mạo của ông, kiểu như tập luyện quá mức và có sức mạnh như siêu nhân) như các hình mẫu có tính đại chúng mà chẳng gì hơn là cố tình biến ông thành một hiện thân cách điệu của tên cướp man rợ hoặc nhấn mạnh sự ngưỡng mộ và lo ngại rằng hình ảnh của người lính sẽ khơi dậy trong dân chúng. Bức chân dung phù hợp của Maximinus là như một người đàn ông có trán, mũi và hàm nhô lên, khiến một số nhà nghiên cứu nghi ngờ rằng ông có thể đã bị mắc bệnh to cực khiến cơ thể phát triển quá mức. Liên kết ngoài. <br>
1
null
Konstantinos Herakleios (), tên gọi theo kiểu tiếng Anh là Heraklonas, Heraclonas, hoặc Heracleonas (626 – 641), là con trai của Herakleios với người cháu gái Martina của mình, là Hoàng đế Đông La Mã một thời gian ngắn từ tháng 2 đến tháng 9 năm 641. Cậu được rửa tội và chính thức trị vì với tên gọi Konstantinos Herakleios, nhưng cái biệt danh nhỏ bé Heraklonas (), tức tiểu Herakleios, được đưa vào trong các thư tịch của Đông La Mã và đã trở thành tiêu chuẩn trong sử sách. Heraklonas có thể được sinh ra tại Lazica trong khi cha cậu đang bận tham gia chiến dịch chống lại vua Ba Tư Khosrau II của nhà Sassanid. Cậu có lẽ là con trai thứ tư của Martina và Herakleios, nhưng người đầu tiên sinh ra với cơ thể lành lặn nên đủ tư cách lên ngôi. Vào cuối triều đại Heraclius nhờ ảnh hưởng của mẹ mà cậu nhận được danh hiệu "Augustus" vào ngày 4 tháng 7 năm 638, sau khi Herakleios qua đời thì Heraklonas được tôn làm đồng hoàng đế với người anh họ Konstantinos III (Herakleios Konstantinos). Cái chết sớm của Konstantinos III vào tháng 5 năm 641, để Heraklonas trở thành hoàng đế duy nhất. Nhưng đã có lời đồn đại rằng chính hai mẹ con đã giết Konstantinos sớm dẫn đến một cuộc nổi loạn dưới quyền tướng Valentinus, người đã buộc Heraklonas phải chấp nhận đứa cháu của ông là Konstans II làm đồng hoàng đế. Martina nhằm cân bằng thất bại này đã định đưa người con út là "Caesar" David (Tiberios) kế thừa ngôi vị hoàng đế. Nhưng điều này chỉ đơn thuần là kích động những người ủng hộ Konstans II, làm cho Valentinus lan truyền tin đồn rằng Martina và Heraklonas có ý định loại bỏ Konstans và những người ủng hộ hoàng đế. Cuộc nổi dậy xảy ra sau đó đã lật đổ hai mẹ con Heraklonas và Martina. Đám loạn quân đã cho nhục hình Heraklonas và lưu đày đến Rhodes được ít lâu thì mất. Con của Konstantinos III là Konstans II trở thành hoàng đế duy nhất.
1
null
Matthaios Asanes Kantakouzenos hoặc Cantacuzenus (Hy Lạp: Ματθαίος Ασάνης Καντακουζηνός, "Matthaios Asanēs Kantakouzēnos", 1325 – 1383) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1353 đến 1357. Tiểu sử. Matthaios Asanes Kantakouzenos là con trai của Hoàng đế Ioannes VI Kantakouzenos và Hoàng hậu Irene Asanina. Để đổi lấy sự ủng hộ mà ông dành cho cha mình trong cuộc đấu tranh với Ioannes V Palaiologos, ông nhận được một phần xứ Thrace làm thái ấp vào năm 1347 và đã tuyên bố làm đồng hoàng đế vào năm 1353, khi cuộc nội chiến nổ ra mở một lần nữa với Johannes V. Từ lãnh địa Thracia của mình, mà trung tâm đóng ở Gratzianous, ông đã lãnh đạo nhiều cuộc chiến tranh chống lại người Serbia. Một cuộc tấn công mà ông chuẩn bị vào năm 1350 đã thất bại do sự đào ngũ của những binh lính đồng minh Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy chỉ còn lại năm ngàn quân Thổ, ông vẫn cố gắng tái lập thái ấp cũ của mình dọc theo biên giới Serbia-Đông La Mã bằng cách tấn công khu vực này nhưng không chiếm được Serres và sớm bị đánh bại trong trận chiến vào cuối năm 1356 hoặc đầu năm 1357 bởi một đội quân người Serb dưới quyền Vojvoda Vojihna, chủ nhân của Drama, một pháo đài lớn ở vùng lân cận. Người Serb đã bắt được Matthaios rồi sau định thả ông ra với điều kiện phải đưa các khoản tiền chuộc lớn mà họ yêu cầu. Tuy nhiên Ioannes V đã nhanh chóng tiến quân chiếm đất của Matthaios, rồi tặng cho Vojihna một số tiền lớn hơn để họ trao Matthaios lại cho ông. Sau một thời gian ngắn giam cầm Matthaios và buộc ông phải từ bỏ danh hiệu hoàng đế, sau đó Ioannes mới thả cho ông đến Công quốc Morea gia nhập cùng người em trai Manuel trị vì xứ này vào năm 1361. Sau khi Manuel mất vào năm 1380, Matthaios Asanes Kantakouzenos vẫn cai trị Morea cho đến khi việc bổ nhiệm viên tổng trấn mới Theodoros I Palaiologos vào năm 1381 và khi ông đến nhiệm sở năm 1382. Trước khi chuyển giao đầy đủ quyền lực ở Morea, từ gia tộc Kantakouzenos sang nhà Palaiologos, Matthaios đã trao quyền hành của mình ở Morea cho con trai là Demetrios I Kantakouzenos kế nhiệm. Gia đình. Với người vợ Irene Palaiologina, Matthaios Asanes Kantakouzenos có tất cả là năm người con gồm:
1
null
Outwars là trò chơi máy tính thuộc thể loại bắn súng góc nhìn thứ ba bối cảnh khoa học viễn tưởng do hãng SingleTrac phát triển và Microsoft phát hành vào năm 1998. Lối chơi. Trong phần chơi đơn, khi mặc vào người bộ giáp có động cơ đẩy bằng tên lửa (tên gọi là Light Scout, Medium Combat, Heavy Assault hay Heavy Dreadnaut), người chơi điều khiển một thành viên trang bị vũ khí nặng có thể là nam hoặc nữ thuộc đơn vị tinh nhuệ CDF Marine Jump Corps và phải chiến đấu người ngoài hành tinh có hình dạng côn trùng (đôi khi được gọi là "The Skulls") chỉ nhằm mục đích xâm chiếm thiên hà. Lối chơi đi theo hướng qua từng màn và người chơi có thể tùy chỉnh bộ giáp của mình cho phù hợp với vũ khí và trang bị khác nhau vào đầu mỗi màn chơi. Người chơi còn có thể ra lệnh cho một nhóm nhỏ các đồng đội do máy điều khiển. Cốt truyện trong game chủ yếu là chu du qua các hành tinh và bối cảnh khác nhau. Vũ khí và thiết bị sẽ dần dần được mở khóa trong quá trình chơi, như đôi cánh trượt gắn kèm bộ tên lửa và cho phép thao tác trên không được mở rộng khi người chơi triển khai. Một tính năng khá lạ của Outwars là hai chân và thân mình có thể được điều khiển riêng biệt. Chức năng thêm này tuy có thể bị vô hiệu hóa bằng cách cấu hình lại phần điều khiển. Ngoài ra, như trong nhiều game bắn súng, người chơi có thể chuyển đổi giữa nhiều loại vũ khí. Outwars hoàn thành tính năng này trong một khởi hành từ định mức, nó có thể ánh xạ đến từng vũ khí sẵn có cho người chơi qua các phím cá nhân trên bàn phím hoặc cần điều khiển. Điều này cho phép người chơi khai hỏa cùng lúc thay vì liên tục như trong một game bắn súng truyền thống. (Ví dụ, vai gắn tên lửa hành trình, súng trường xung cầm tay và mìn điều khiển từ xa đều cả có thể được bắn cùng một lúc.) Trò chơi còn có phần chơi qua mạng 8 người chơi cho phép người chơi cạnh tranh với và chống lại nhau trong các mục: Free for All (tự do), Assassin (ám sát), Smear the cyborg (hạ cyborg), Team War (đại chiến nhóm), Team Mission (nhiệm vụ nhóm) và Capture the flag (cướp cờ). Cốt truyện. Câu chuyện bắt đầu tại Thế giới của Mikhal đang bị đám sinh vật "The Skulls" tấn công. Chẳng mấy chốc mà bầy côn trùng này đã h tràn ngập khắp nơi và con người được lệnh di tản khẩn cấp. Người chơi có 02:00 phút để đến chỗ tàu đang đợi hoặc sẽ bị bỏ lại. Sau đó, người chơi bị rơi vào hành tinh Oasis và tham gia vào khóa huấn luyện tại đây. Nhưng khi mục tiêu huấn luyện đang trên đường đi thì bỗng "The Skulls" xuất hiện tấn công ngay tức khắc, đã buộc anh phải di tản ngay lập tức ra khỏi khu vực này. Chiến tranh bùng nổ trên toàn bộ hành tinh Oasis với phe loài người đang bị thiệt hại nặng. Nhóm của người chơi được gửi đi để lấy tất cả các nguồn tiếp tế từ Oasis (Trong sự trở lại màn chơi huấn luyện nhảy) và chuẩn bị dùng phi thuyền nhảy để di tản. Cuối cùng, một cuộc di tản toàn bộ được lệnh rời khỏi Oasis, nhưng người chơi từ chối rời khỏi cho đến khi lấy được "công nghệ đặc biệt" từ căn cứ quân sự bị bỏ lại trên Oasis. Ngay sau khi người chơi thoát kịp, Oasis bị một số công nghệ của người ngoài hành tinh tiêu diệt và theo lời Hackett, "đã biến nó thành một số loại hành tinh đến từ địa ngục". Loài người dự định tiến hành một nỗ lực cuối cùng để tiêu diệt 'The Skulls', nhưng ưu tiên hàng đầu của họ giờ đây là phải bảo vệ hành tinh Anubis, nơi các thợ mỏ đã phát hiện ra điều gì đó trong các hầm mỏ. Không tìm thấy được người nào còn sống, nhưng người chơi được lệnh phải phá hủy các hầm mỏ và bất cứ điều gì có thể trong đó. Người chơi đã sớm phát hiện ra rằng: 'Skulls' đang sống dưới lòng đất, nhưng bị bệnh và mệt mỏi trước các mối đe dọa liên tục của những người thợ mỏ, chúng bèn ra ngoài diệt trừ tất cả con người khỏi sự tồn tại. Nhưng trong khi di chuyển qua các hầm mỏ, người chơi rơi xuống tận trong hang ổ của Skulls. Ngay chính nơi đây mà người chơi đã gặp 'Nữ hoàng' đầu tiên của anh ở cấp độ này, và sau khi đánh bại nó, CDF đã tìm thấy một lối thoát cho người chơi và anh buộc phải sơ tán ngay lập tức. Họ chuẩn bị gửi nhóm của người chơi vào thành trì hiện tại của đối phương, Juggernaut, nhưng bị phục kích trên đường đi. Chiếc hạm Ulysses bị bắn hạ khiến người chơi bị bỏ rơi một cách tình cờ vào Ragnarok. Sau khi gặp gỡ với người sống sót khác, người chơi buộc phải tháo khẩu súng hơi của đối phương để giữ cho CDF giải cứu người chơi và đồng đội hiện tại của mình. Sau khi nó bị phá hủy, người chơi sẽ được gửi đến điều tra Ulysses để cứu viên chỉ huy Hackett, lấy dữ liệu lệnh từ anh ta và sau đó thì hỗ trợ các binh sĩ trong một cuộc chiến đấu tại khe núi. Nó đã quyết định rằng Ulysses là quá nguy hiểm để trụ vững được, do đó người chơi sẽ được gửi trở lại để tiêu diệt nó. Rồi sau đó người chơi rời khỏi Ragnarok, và lại tiếp tục sứ mệnh phá hủy Juggernaut. Đầu tiên họ chiếm được Mastermind để tìm ra những mã số cho các khóa bảo mật trên Juggernaut, và sau khi giết chết nữ hoàng thứ hai, người chơi lao ra khỏi Juggernaut trước khi nó phát nổ. Họ không may bị văng ra ngoài và Oasis (Bây giờ gọi là DeadWorld) đã được thành lập như là tổng hành dinh các hoạt động của 'The Skulls', và chúng được thiết lập để đánh bại nhân loại một lần và tất cả vì quê nhà đã bị tàn phá của họ - Trái đất. Một nỗ lực cuối cùng được tung ra nhằm vô hiệu hóa đòn tấn công của chúng và biến nó chống lại chúng, kết thúc mối đe dọa Skulls một lần và tất cả. Người chơi tìm cách vào bên trong nòng súng và chỉ nhận một số lượng thời gian hạn chế trước khi nó phát nổ. Trong khi vô hiệu hóa nòng súng thì bổng người chơi gặp được tên trùm của game - The King, con quái vật lớn nhất trong game (cao gấp 4 lần người chơi). Sau khi đánh bại nó, nó quay ra nói rằng ông là người điều khiển chính cho súng và nếu không có anh, Skulls sẽ bị tiêu diệt. Người chơi cho kích hoạt khẩu súng nhưng bắn mình ra khỏi vài giây trước khi hành tinh tự hủy diệt. Người chơi sau đó được trao một thông báo cuối cùng trước khi logo và credit xuất hiện: "Ở yên đó, Đội trưởng. Chúng tôi đến đón ngài đây."
1
null
Gorky 17 (phát hành ở Bắc Mỹ dưới cái tên Odium) là một trò chơi máy tính thuộc thể loại chiến thuật theo lượt được phát triển bởi nhà phát triển Ba Lan Metropolis Software và được phát hành bởi Monolith Productions cho Windows vào năm 1999. Trò chơi sau đó được hãng Hyperion Entertainment chuyển sang Linux và Linux Game Publishing phát hành vào năm 2006. Hyperion Entertainment còn công bố một phiên bản trên AmigaOS 4 của game nhưng đã chẳng còn nghe nói gì về việc chuyển thể kể từ đó. Cách chơi. Trò chơi có hai chế độ: Trong chế độ 'thăm dò' thời gian thực, người chơi điều khiển nhân vật của game bằng cách dùng chuột theo kiểu trỏ và nhấn để điều khiển các nhân vật của mình xuyên qua thành phố cũng như tương tác với các vật thể khác nhau trong thế giới game. Chiến đấu diễn ra trong cuộc chạm trán định sẵn nằm trong khu vực cụ thể của từng màn trong bản đồ. Trong chế độ chiến đấu, màn hình được chia thành các ô vuông với người chơi và các nhân vật do máy điều khiển qua từng lượt cố gắng tiêu diệt quân thù, tương tự như trong các tựa game chiến thuật theo lượt như "Tactics Ogre", "X-COM" và "Shining Force". Ở mỗi lượt đi nhân vật game có thể di chuyển bằng một số lượng ô vuông nhất định và sử dụng vũ khí một lần, hoặc chuyển sang yểm trợ hay phòng thủ. Các loại vũ khí có tác dụng chiến thuật khác nhau, ví dụ như khẩu súng lục chỉ có thể được bắn trực giao, trong khi súng trường có thể được bắn trực giao và theo đường chéo. Trò chơi kết thúc nếu bất kỳ nhân vật nào do người chơi điều khiển chết. Cốt truyện. Người chơi điều khiển một nhóm nhỏ lính NATO phải khám phá ra những bí ẩn đằng sau sự xuất hiện của những sinh vật lai trong một thị trấn nhỏ gần Lubin của Ba Lan. Thị trấn đang bị đe dọa bởi các sinh vật kỳ bí khiến khu vực này được vây quanh bởi quân đội NATO và phương tiện truyền thông từ khắp nơi trên thế giới, và nhóm đầu tiên được gửi vào thị trấn đã biến mất không một dấu vết. Nhân vật chính của câu chuyện là người lính trung niên 40 tuổi Cole Sullivan, chỉ huy nhóm đặc nhiệm với kiến thức khoa học rất rộng. Nhiệm vụ của đội là để tìm hiểu sự hiện diện của giống loài lai và đi tìm kiếm các thành viên mất tích của Nhóm Một. Phần tiếp theo. ' (2003) và ' (2005) đều tiếp tục với Cole Sullivan là nhân vật chính. Đón nhận phê bình. IGN đánh giá phiên bản Windows của "Gorky 17" khá "tốt", làm nổi bật sự kết hợp của thể loại chiến thuật theo lượt, phiêu lưu và nhập vai. Phần đồ họa, "các môi trường tự chúng được vẽ tỉ mỉ, hoạt cảnh nhân vật rất uyển chuyển và bầu không khí được giới thiệu là cực kỳ quyến rũ." Các lời phê bình gồm việc thiếu một cơ chế góc nhìn và một số sai sót trong giao diện.
1
null
Hành trình đến tận cùng Vũ trụ (tiếng Anh: "Journey To The Edge Of The Universe") là một bộ phim tài liệu được phát sóng trên kênh National Geographic và Discovery Channel. Phim dẫn chứng bằng tài liệu về một cuộc hành trình không gian từ Trái Đất đến tận cùng Vũ trụ của riêng mình. Phiên bản Mỹ được dẫn lời bởi Alec Baldwin và phiên bản Anh bởi Sean Pertwee. Bộ phim tài liệu bao gồm một tập phim 91 phút duy nhất và đã được phát sóng vào ngày 7 tháng 12 năm 2008. Nội dung. Bộ phim được kể dưới dạng của một cuộc hành trình ảo từ Trái Đất đến tận cùng Vũ trụ, như khoảng cách từ Trái Đất tăng dần từ tốc độ không gian cho đến tốc độ ánh sáng. Theo trình tự thời gian của các chuyến du hành hệ Mặt Trời sẽ được khắc phục trong một ngày (mỗi hành tinh trong hệ Mặt Trời được mô tả chi tiết, đôi khi làm nổi bật các vệ tinh của các hành tinh), cuộc hành trình năm năm ánh sáng để tới được ngôi sao gần nhất với Mặt Trời – Alpha Centauri. Ở khoảng cách mười năm ánh sáng từ Mặt Trời, các ngôi sao sẽ bắt đầu hợp nhất vào một điểm duy nhất. Sau 100.000 năm ánh sáng sẽ thấy vòng xoắn ốc của dải Ngân Hà. Rồi đến các Thiên hà tiếp theo, các lỗ đen, cụm thiên hà và thậm chí cả Vụ Nổ Lớn hình thành nên Vũ trụ hiện giờ. Đồ họa máy tính của phim dựa trên dữ liệu thu được từ Kính viễn vọng không gian "Hubble". Bộ phim đã nêu lên chủ đề có một cuộc sống trên các hành tinh khác nhau, và Trái đất có thể hỗ trợ một số vấn đề khác. Ngoài ra phim còn đề cập đến cả những vật thể khổng lồ trong vũ trụ, như thể tích của Mặt Trời có thể chứa đến hơn 1 triệu Trái đất, thế nhưng Mặt Trời vẫn còn nhỏ bé so với những ngôi sao lớn hơn nó cả triệu lần. Hay những sao lùn trắng nơi mà vật chất bị nén ở mức độ khủng khiếp, chỉ một thìa cafe vật chất cũng nặng đến 1 tấn. Nhưng chẳng là gì so với các sao neutron mật độ vật chất cô đặc đến độ chỉ 1 lượng vật chất bằng đầu cây kim cũng nặng cỡ hàng triệu tấn. Truyền thông. Cả bản Blu-ray và DVD của bộ phim tài liệu đều được phát hành vào ngày 31 tháng 3 năm 2009.
1
null
Martin Behaims Erdapfel còn gọi là Behaimscher Erdapfel là một quả địa cầu được Martin Behaim (nhà thám hiểm người Đức, được phong tước Hiệp sĩ) làm ra vào năm 1492 và hiện được xem là quả địa cầu mặt đất xưa nhất còn giữ được đến nay. Quả địa cầu Erdapfel có đường kính 50 cm, gồm hai nửa được bọc bằng những lá vải lanh và được gia cố bằng gỗ. Phần bản đồ trên bề mặt quả cầu do Georg Glockendon vẽ. Trục quả cầu nghiêng nhằm phản ánh trục nghiêng của Trái Đất. Trên quả cầu có ghi 2.000 địa danh, 100 hình minh họa và hơn 50 câu ghi dài. Quả địa cầu Erdapfel chưa thể hiện châu Mỹ. Bản đồ trên mặt quả cầu bao gồm một lục địa Á-Âu lớn và một khoảng đại dương trống trải nằm giữa châu Âu và châu Á. Hòn đảo Saint Brendan huyền thoại cũng được vẽ trên quả cầu. Nhật Bản và các đảo thuộc châu Á được thể hiện với kích cỡ không cân đối. Từ khi ra đời cho đến đầu thế kỷ 16, quả địa cầu Erdapfel nằm trong phòng tiếp khách của tòa thị chính Nürnberg (Nuremberg). Sau đó quả cầu nằm trong tay gia đình Behaim. Năm 1937, gia đình Behaim chuyển giao quả cầu này cho Bảo tàng Đức (tiếng Đức: "Germanisches Nationalmuseum") cũng ở Nürnberg.
1
null
Xperia Z là một chiếc điện thoại thông minh chạy hệ điều hành Android đến từ Sony Mobile, thuộc tập đoàn Sony. Xperia Z được giới thiệu tại CES 2013 và được phát hành đầu tiên tại Nhật Bản vào ngày 9 tháng 2 năm 2013. Nó chạy hệ điều hành Android 4.1.2 (Jelly Bean), có khả năng chống nước, chống bụi với chứng chỉ IP55 và IP57 (có thể ngâm trong nước ở độ sâu 1m trong vòng 30 phút). Xperia Z mang trên mình thiết kế hoàn toàn mới của Sony mang tên 'Omni-Balance'. Xperia Z có nhiều biến thể, gồm Xperia ZL cùng cấu hình nhưng không có khả năng chống nước, bên cạnh đó là chiếc điện thoại lai máy tính bảng có tên Xperia Z Ultra, với màn hình rộng 6.44 inch và một cấu hình mạnh hơn. Phần cứng. Xperia Z (139 x 71 x 7.9) sở hữu màn hình rộng 5 inch độ phân giải fullHD (1920x1080), trang bị công nghệ Mobile Bravia Engine 2. Bên trong máy là bộ vi xử lý Qualcomm Snapdragon S4 Pro, RAM 2GB, bộ nhớ trong 16GB và có thể mở rộng bộ nhớ bằng thẻ MicroSD. Máy được trang bị cảm biến ExmorRS 13,1 megapixel, có khả năng zoom 16x và nhiều tính năng cao cấp. Camera trước có độ phân giải 2,2 megapixel. Cả hai camera đều có khả năng quay phim fullHD 1080p. Đón nhận và đánh giá. Xperia Z đã nhận được giải thưởng Điện thoại thông minh tốt nhất tại CES 2013. Theo Sony, doanh số của Xperia Z là rất tốt, với 150 000 máy được bán ra trong tuần đầu tiên tại quê nhà Nhật Bản. Xperia Z được giới chuyên môn đánh giá rất cao.
1
null
Adolf Albert Ferdinand Karl Friedrich von Bonin (11 tháng 11 năm 1803 tại Heeren – 16 tháng 4 băm 1872 tại Berlin) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng đến cấp Thượng tướng Bộ binh. Ông đã tham chiến trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866 và là Toàn quyền Lorraine trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871). Tiểu sử. Thân thế. Adolf sinh vào tháng 11 năm 1803, trong một gia đình quý tộc lâu đời vùng Đông Pommern, đã được đề cập lần đầu tiên vào năm 1294. Ông là con trai của Gustav Ferdinand von Bonin (26 tháng 3 năm 1773 tại Elvershagen – 17 tháng 1 năm 1837 tại Berlin), một cựu Thiếu tá Phổ đã từng phục vụ trong Trung đoàn Khinh kỵ binh số 8 và được phong tặng Huân chương Quân công cao quý. Thân mẫu của ông là bà Anna Elisabeth Adolfine Karoline, nhũ danh Freiin von Plettenberg (24 tháng 6 năm 1776 tại Heeren – 19 tháng 2 năm 1843 tại Berlin). Người anh trai của ông là Gustav von Bonin (1797 – 1878), một Luật sư hành chính và chính trị gia Phổ. Sự nghiệp quân sự. Vào năm 1817, Bonin trở thành một thiếu sinh quân ở Berlin, sau đó ông được đổi vào Trung đoàn Bộ binh Cận vệ số 2 với quân hàm Thiếu úy vào ngày 28 tháng 7 năm 1821. Kể từ ngày 1 tháng 10 năm 1824 cho đến ngày 30 tháng 6 năm 1826, ông được cử vào học tại Trường Quân sự Tổng hợp ("Allgemeine Kriegsschule") để rèn luyện thêm. Vào năm 1828, ông được lên chức sĩ quan phụ tá trung đoàn và hai năm sau, vào ngày 2 tháng 12 năm 1830, ông nhậm chức sĩ quan phụ tá của Bộ Tổng chỉ huy ("Generalkommando") của Quân đoàn Vệ binh. Đến ngày 24 tháng 1 năm 1833, ông được bổ nhiệm làm sĩ quan phụ tá của Vương thân Adalbert của Phổ. Sau khi được thăng cấp hàm Trung úy, ông trở thành sĩ quan hầu cận của Vua Friedrich Wilhelm III vào năm 1838. Sau khi Friedrich Wilhelm III băng hà, ông tiếp tục đảm đương chức vụ tương tự cho Friedrich Wilhelm VI và Wilhelm I Ông tiếp tục theo đuổi sự nghiệp quân sự của mình, và được phong chức Đại tá vào năm 1851, Thiếu tướng vào năm 1854, Trung tướng và Tướng phụ tá của Đức Vua vào năm 1858, Tướng tư lệnh Quân đoàn I rồi Thượng tướng Bộ binh vào năm 1864. Trong cuộc Chiến tranh Bảy tuần năm 1866, Quân đoàn I tinh nhuệ đến từ Đông Phổ của ông là một phần thuộc biên chế của Tập đoàn quân số 2 do Thái tử Friedrich Wilhelm thống lĩnh. Trong thời điểm ấy, Bonin là một đình thần và không hề có kinh nghiệm thực chiến. Trong cuộc hành binh của mình qua dãy Riesengebirge ở Böhmen. Ông mang trọng trách đánh chiếm thị trấn Trautenau từ tay Quân đoàn X của Áo dưới sự chỉ huy của viên tướng tài giỏi Gablenz và đánh thọc đến làng Pílnikau, nơi ông có thể hy vọng hội quân với các đơn vị tiền vệ của Tập đoàn quân số 1 do Vương tử Friedrich Karl chỉ huy. Do quá chú tâm vào mục tiêu của mình, ông quên phòng bị sườn trái của quân mình hoặc đánh chiếm ba cao điểm Galgenberg, Johannesberg và Hopfenberg để yểm trợ cho sườn trái. Chính từ hướng này, lữ đoàn tiên phong của Gablenz tấn công quân của Bonin và một cuộc hội chiến ác liệt diễn ra, trong đó quân Áo bị đánh bật khỏi các cao điểm. Sau đó, vốn không hề thám sát về hướng nam, Bonin ra lệnh cho quân tạm nghỉ và một số binh lính rời khỏi các vị trí mà họ đã chiếm được với không ít thiệt hại. Chớp lấy thời cơ, Gablenz tung hai lữ đoàn vào trận, đè bẹp tiền tuyến của quân Phổ rồi giành lại Galgenberg và Johannesberg, cắt ngang đường tiếp tế của đối phương. Tuy vậy, quân Áo bị đánh thiệt hại nặng trong giao chiến ở cao điểm, và họ chỉ chiếm được Hopfenberg sau khi được tăng viện. Tiếp theo đó, trong khi một lữ đoàn Áo khác khởi đầu một vận động bọc sườn, quân Áo bắt đầu tiến công từ cao điểm buộc Bonin phải rút chạy về bên kia dãy núi. Mặc dù quân của Gablenz chịu tổn thất gần gấp 3 lần Bonin, thất bại ở Trautenau là mối đe dọa lớn đến kế hoạch chiến tranh của Moltke và khiến cho Quân đoàn V (tướng Steinmetz) bị cô lập. Mặc dù theo kế oạch, Bonin phải dồn toàn bộ quân đoàn của mình trong trận Königgrätz vào ngày 3 tháng 7, ông chỉ nhổ trại ra quân vào lúc 9:30 sáng, sau khi phần còn lại của Tập đoàn quân số 2 đã xuất trận ừ lâu. Do vậy, ông chỉ triển khai thành công một lữ đoàn, chiếm một nửa Sư đoàn số 1. Lữ đoàn này kéo đến Chlum và để hỗ trợ cho quân Cận vệ đang chịu áp lực lớn và đến 3:00 chiều, họ mới tập kết trên cao nguyên Masloved, đúng vào lúc cuộc tấn công cuối cùng của lữ đoàn Gondrecourt của Áo bắt đầu. Nói về sự chậm trễ của Quân đoàn I trong trận đánh quyết định này, Tổng tham mưu trưởng Moltke coi Bonin là bất tài. Sau khi hòa bình được lập lại, Bonin được phái đến làm Chỉ huy Tối cao các lực lượng Phổ ở Vương quốc Sachsen vào năm 1867. Ông từ nhiệm vào ngày 28 tháng 5 năm 1867. Sau vài tháng vắng mặt, Bonin được bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng Quân đoàn Quân cảnh "Reitenden Feldjägerkorps" và Chủ tịch Ủy ban chung về Huân chương chiến tranh ("General-Ordenskommission"). Trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871), ông không giữ một chức vụ chỉ huy quân sự nào. Thay vì đó, Bonin ban đầu được bổ nhiệm làm Toàn quyền các quận ở tỉnh Brandenburg và Sachsen. Vào ngày 14 tháng 8 năm 1870, Triều đình Phổ đặt ra chính quyền cai trị các vùng Alsace và Lorraine, trong đó Bonin được ủy nhiệm làm Toàn quyền Lorraine, đặt trụ sở ở Nancy. Sau chiến thắng vang dội của người Đức trong cuộc chiến, ông về nước giữ chức vụ Tướng phụ tá của Đức vua và Chủ tịch Ủy ban chung về Huân chương chiến tranh, đồng thời tiếp tục đảm đương cương vị Chỉ huy trưởng Quân cảnh. Ngoài, ông còn là Trưởng Đại tá ("Chef") của Trung đoàn Bộ binh số 41 "von Boyen" (số 5 Đông Phổ) cho đến khi từ trần vào tháng 4 năm 1872. Gia đình. Vào ngày 23 tháng 10 năm 1838, tại Bariskow, Bonin thành hôn với Marie Sophie von Zieten (29 tháng 6 năm 1820 ở Potsdam – 17 tháng 10 năm 1846 ở Berlin), con gái của Trung tướng Phổ Ernst Ludwig Otto von Zieten. Sau khi bà mất, ông tái giá vào ngày 26 tháng 9 năm 1850 với Elisabeth Klara Natalie Emilie Charlotte von Oppen (25 tháng 8 năm 1827 tại Siede – 17 tháng 11 năm 1890 tại Berlin), con gái của Trung tướng Phổ Adolf Friedrich von Oppen. Cặp đôi này đã sản sinh những người con sau đây: Liên đoàn Sinh viên. Bonin là thành viên của các Liên đoàn Sinh viên Pomerania Greifswald và Pomerania Halle (II).
1
null
Patrik Lê Giang (sinh ngày 8 tháng 9 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Slovakia gốc Việt thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Thành phố Hồ Chí Minh theo dạng cho mượn từ câu lạc bộ Công an Hà Nội. Patrik từng là thành viên của đội tuyển U-19 và U-21 Slovakia. Anh trai của Patrik là Emil Lê Giang cũng là một cầu thủ nhưng hiện đã giải nghệ. Sự nghiệp câu lạc bộ. Patrik sinh ra tại Lučenec, có cha là người Việt (tên là Lê Giang Nam), mẹ là người Slovakia. Anh khởi đầu sự nghiệp tại FTC Fiľakovo. 15 tuổi, anh gia nhập hệ thống đào tạo trẻ của câu lạc bộ MŠK Žilina. Năm 2011, anh được đưa lên đội một của MŠK Žilina. Tháng 7 năm đó, anh đến chơi cho MFK Zemplín Michalovce theo hợp đồng cho mượn một năm. Patrik lần đầu ra sân trong màu áo Michalovce trong trận gặp FK LAFC Lučenec ngày 23 tháng 7 năm 2011. Tháng 6 năm 2012, anh quay lại MŠK Žilina sau khi hợp đồng cho mượn hết hạn. Patrik có trận đấu đầu tiên cho Žilina trong trận gặp FC ViOn Zlaté Moravce ngày 15 tháng 5 năm 2013. Vào kì chuyển nhượng mùa hè 2019, anh đã chuyển đến câu lạc bộ Bohemians 1905 chơi tại giải bóng đá vô địch quốc gia Séc. Anh được lọt vào đội hình tiêu biểu ̣ở vòng 17 của giải. Năm 2023, anh trở về Việt Nam thi đấu cho Câu lạc bộ Công an Hà Nội sau khi đội bóng này đổ bể thương vụ Filip Nguyễn. Giữa mùa giải, anh chuyển đến Câu lạc bộ Thành phố Hồ Chí Minh dưới dạng cho mượn vì Filip Nguyễn đồng ý gia nhập Công an Hà Nội nhưng cũng chưa có quốc tịch Việt Nam (mỗi đội bóng tại V.League chỉ được đăng kí duy nhất một cầu thủ Việt kiều chưa có quốc tịch Việt Nam). Gia đình. Patrik Lê Giang có bố là người Việt Nam và mẹ người Slovakia. Bố của anh là ông Lê Giang Nam du học ở Slovakia và sau đó kết hôn với bà Katarína. Anh trai của Patrik, Emil Lê Giang cũng là một cầu thủ bóng đá. Cả hai anh em từng là đồng đội của nhau tại Žilina.
1
null
Miami Masters tên chính thức, Miami Open presented by Itaú (được đặt tên theo nhà tài trợ) là giải quần vợt ngoài trời được tổ chức hằng năm tại Miami, Florida, USA. Miami Masters, trong đó đã có nhiều tài trợ, ban đầu được biết đến như là Lipton International Players Championships và là một sự kiện hàng đầu của Tour Tennis Grand Prix từ năm 1985 đến năm 1990 như là một phần của giải Grand Prix Championship Series. Năm 2000, sự kiện này được đổi tên thành Ericsson Open. Trong năm 2002, sự kiện này được gọi là NASDAQ-100 Open. Năm 2007, giải đấu được đổi tên thành Sony Ericsson Open, theo một thỏa thuận mà theo đó các nhà tài trợ sẽ trả $ 20 triệu trong vòng bốn năm tới. Năm 2013 được chính thức đặt tên là Sony Open Tennis. Giải đấu được tổ chức vào tháng 3 hàng năm. Giải nằm trong hệ thống 9 giải Masters 1000 thuộc ATP World Tour Masters 1000. Năm 2013 giải đấu được diễn ra từ ngày 18 đến ngày 31 tháng 3 với chức vô địch đơn nam thuộc về Andy Murray và vô địch đơn nữ thuộc về Serena Williams Tham khảo. http://www.atpworldtour.com/Tennis/Tournaments/Miami.aspx
1
null
Indian Wells Masters tên chính thức, BNP Paribas Masters (được đặt tên theo nhà tài trợ là ngân hàng BNP Paribas) là giải quần vợt ngoài trời được tổ chức hằng năm tại Indian Wells, California, Hoa Kỳ. Giải đấu được chơi trên sân cứng và là giải đấu quần vợt đông khán giả nhất ngoài bốn giải Grand Slam, với hơn 450 000 lượt khán giả (năm 2015). Giải thi đấu trên sân vận động quần vợt lớn thứ hai thế giới với hơn 16 100 chỗ ngồi. Từ tháng 12 năm 2009, Larry Ellison, Giám đốc điều hành và đồng sáng lập của Oracle, mua BNP Paribas Open và Indian Wells Tennis Garden để trở thành chủ sở hữu chính thức của giải. Giải đấu là sự kiện quần vợt nằm trong hệ thống 9 giải Masters 1000 thuộc ATP World Tour Masters 1000. Năm 2014 giải đấu được diễn ra từ ngày 6 đến ngày 17 tháng 3 với chức vô địch đơn nam thuộc về Novak Djokovic và vô địch đơn nữ thuộc về Flavia Pennetta. Danh sách vô địch đơn nam. Dưới đây là danh sách nhà vô địch đơn nam từ năm 1974.
1
null
Hoàng hôn ở Montmajour là một bức tranh phong cảnh sơn dầu được họa sĩ người Hà Lan Vincent van Gogh vẽ năm 1888. Nó được sáng tác trong lúc ông đang ở Arles và miêu tả cảnh truông với những cây sồi bị xoắn và bụi cây, với tàn tích của Tu viện Montmajour thuộc tỉnh Bouches-du-Rhône, vùng Provence-Alpes-Côte d'Azur, Pháp ở phía sau. Bức tranh có kích thước và hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Van Gogh ở Amsterdam. Lịch sử. Theo van Gogh, người em của Vincent van Gogh, đã kiểm kê tác phẩm này trong bộ sưu tầm các tác phẩm của anh mình vào năm 1890 và bán nó vào năm 1901. Năm 1970, bức tranh được hiện diện trong một cuộc bán gia sản của nhà tư bản công nghiệp người Na Uy vừa quá cố là Christian Nicolai Mustad. Mustad đã từng được đại sứ Pháp tại Thụy Điển cho biết rằng đây không phải là tác phẩm của Vincent van Gogh vì thế ông bỏ mặc bức tranh tại gác nhà mình ở Na Uy. Tái khám phá và nhận dạng. Bức tranh không có chữ ký và trước kia đã bị Bảo tàng Van Gogh bỏ qua vào thập niên 1990. Với các kỹ thuật điều tra nghiên cứu mới, viện bảo tàng đã bỏ ra hai năm để điều tra xuất xứ của bức tranh, và cuối cùng tháng 9 năm 2013 đã đưa ra kết luận rằng đây là một tác phẩm của chính Vincent van Gogh. Người ta khám phá rằng bức tranh đã được van Gogh miêu tả trong một bức thư gửi cho Theo, trong đó ông cho biết đã vẽ bức tranh vào ngày hôm trước, tức ngày 4 tháng 7 năm 1888. Đây là bức tranh nguyên cỡ đầu tiên của Vincent van Gogh mà người ta tìm thấy được kể từ năm 1928.
1
null
Sư đoàn 2 Bộ binh (tiếng Anh: "2nd Infantry Division", 2nd ID) là một trong ba đơn vị chủ lực quân trực thuộc Quân đoàn I và Quân khu 1 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, tồn tại từ 1955 đến 1975, hoạt động và trách nhiệm bảo vệ an ninh khu vực các tỉnh phía nam của lãnh thổ Quân khu 1. Sư đoàn đã được tuyên dương công trạng 16 lần trước quân đội và đã được nhận lãnh giây biểu chương màu tam hợp trên quân kỳ Sư đoàn. Lịch sử hình thành. Tiền thân Sư đoàn 2 Bộ binh là "Liên đoàn 32 Lưu động" thuộc Quân đội Liên hiệp Pháp, thành lập vào ngày 3 tháng 11 năm 1953 tại Mỹ Côi, Ninh Bình. Đến đầu tháng 1 năm 1955 Quân đội Pháp bàn giao Liên đoàn cho sĩ quan người Việt chỉ huy và người đầu tiên chỉ huy Liên đoàn là Trung tá Tôn Thất Đính. Ngày 16 tháng 1 năm 1955, Liên đoàn 32 Lưu động được lệnh giải tán và dùng làm nòng cốt đến ngày 4 tháng 2 năm 1955 thành lập "Sư đoàn 32 Bộ binh," và Đại tá Đính tiếp tục làm Tư lệnh. Đến ngày 1 tháng 8 tháng năm 1955, một lần nữa đổi tên thành "Sư đoàn 2 Dã chiến". Sau khi chính thể Đệ Nhất Cộng hòa được thành lập. Ngày 22 tháng 11 năm 1956 Đại tá Tôn Thất Đính bàn giao Sư đoàn lại cho Trung tá Đặng Văn Sơn và nửa năm sau, ngày 16 tháng 4 năm 1957 Trung tá Lê Quang Trọng thay thế đảm nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn. Đến ngày 1 tháng 12 năm 1958 Sư đoàn 2 Dã chiến đổi tên lần cuối, chính thức trở thành "Sư đoàn 2 Bộ binh". Bộ tư lệnh Sư đoàn đặt tại bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng. Tháng 5 năm 1965 Bộ Tư lệnh di chuyển về Quảng Ngãi và nhận trách nhiệm Khu 12 chiến thuật gồm 2 tỉnh Quảng Tín và Quảng Ngãi. Đến năm 1971 Bộ Tư lệnh Sư đoàn lại chuyển về căn cứ Chu Lai, tiếp nhận căn cứ của Sư đoàn 23 Bộ binh Hoa Kỳ. Mùa hè năm 1972 Trung đoàn 4 Bộ binh do Đại tá Lê Bá Khiếu làm Trung đoàn trưởng đã được điều động tăng cường để giải tỏa áp lực đối phương tại vùng giới tuyến. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ ở giới tuyến, Trung đoàn 4 vẫn do Đại tá Khiếu làm Trung đoàn trưởng được điều từ Quảng Trị trở về để phối hợp cùng Trung đoàn 5 và Trung đoàn 6. Trung đoàn 5 do Trung tá Võ Vàng làm Trung đoàn trưởng và Trung đoàn 6 do Đại tá Phạm Văn Nghìn chỉ huy, đã mở cuộc hành quân tái chiếm các quận Quế Sơn, Tiên Phước thuộc tỉnh Quảng Tín. Đồng thời, Sư đoàn 2 phối hợp với các lực lượng Địa Phương Quân, Nghĩa Quân giải tỏa áp lực đối phương tại khu vực cao nguyên phía nam Quảng Ngãi. Từ chiến công phá tan mật khu Đỗ Xá năm 1970 cùng một số thắng lợi khác, các tỉnh Quảng Tín và Quảng Ngãi tạm thời yên tĩnh. Sư đoàn 2 tạm ngừng bắn từ năm 1973. Trước tình hình chính trị, với áp lực của Quân đội Bác Việt tại miền Trung nên ngày 27 tháng 3 năm 1975 toàn bộ Quân khu cũng như Sư đoàn 2 tan hàng di tản ra Đà Nẵng. Và tại đây Sư đoàn 2 Bộ binh bị xóa phiên hiệu. Ngày 25/3/1975 sư đoàn được lệnh di tản ra đảo Lý Sơn để chuẩn bị ra chiếm lại Đà Nẵng. Cuối tháng 3/1975, sư đoàn được tay hải quân đưa về Hàm Tân để tái trang bị vũ khí và quân số. Giữa tháng 4/1975, sư đoàn ra tái chiếm Phan Rang. Sư đoàn tan hàng sau khi bị tràn ngập và tướng Nghi bị bắt sống. Số quân nhân còn lại về tập trung ở Vũng Tàu cho đến khi có lệnh của Dương văn Minh ra lệnh buông súng. Ngày 25/3/1975, khi đường từ Tam Kỳ về Chu Lai bị cắt đứt, một đố đơn vị đang hành quusn ở trong Tiên Phước cùng lực lượng Biệt Động Quân thuộc Liên đoàn 2 theo đường bộ ra Đà Nẵng và tan hàng tại đây.
1
null