text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
Vũ Soạn (1922) là một nhà hoạt động cách mạng và chính khách Việt Nam, Đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã có nhiều cống hiến trong 2 cuộc chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ góp phần cho công cuộc thống nhất đất nước. Ông nguyên là quyền Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Quảng Trị, nguyên Khu ủy viên Khu ủy Trị Thiên Huế và nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình Trị Thiên.
Tiểu sử và sự nghiệp.
Vũ Soạn tên thật là Võ Hữu Kim , ông sinh ngày 1 tháng 10 năm 1922 tại xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ông hiện đang ngụ tại Phường Vĩnh Ninh, Thành phố Huế
Tháng 6 năm 1939 ông bắt đầu tham gia hoạt động Cách mạng trong tổ chức Thanh niên Dân chủ, Thanh niên Phản đế tại xã Triệu Quang (nay là Triệu Long), huyện Triệu Phong, Tỉnh Quảng Trị.
Tháng 5 năm 1940 ông vào Đảng Cộng sản Đông Dương, là Chi ủy viên thuộc Chi bộ Đâu Kênh. Xã Triệu Quang (Nay là Triệu Long), huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị
Từ tháng 10 năm 1942 đến tháng 3 năm 1945 là Tổ trưởng tổ Đảng nhà lao Quảng Trị, sau đó Nhật đảo chính Pháp thoát tù.
Từ năm 1945 đến năm 1946 ông là Ủy viên Thường vụ Ủy ban Việt Minh tổng Bích La, Thường vụ Ủy ban Thanh niên cứu quốc Triệu Phong. Tỉnh Quảng Trị.
Từ năm 1946 đến năm 1948, huyện ủy viên, Trưởng Ban Trinh sát Huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Từ năm 1948 đến năm 1950 là Trưởng Tiểu ban Dân vận tỉnh Quảng Trị. Tỉnh ủy Quảng Trị.
Tháng 11 năm 1950, Khu ủy Khu III và Khu IV trao đổi cán bộ để trao đổi kinh nghiệm chiến tranh du kích, ông trở thành Phó Bí thư Huyện ủy kiêm Chính trị viên Huyện đội huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình.
Từ tháng 3 năm 1951 đến tháng 5 năm 1954 là Bí thư Huyện ủy, Tỉnh ủy viên kiêm Chính trị viên Huyện đội huyện Quỳnh Côi, Tỉnh Thái Bình.
Từ tháng 5 năm 1954 đến tháng 10 năm 1954 cuộc chiến thay đổi, ông được bố trí về lại Miền Nam để lãnh đạo phong trào Triệu Phong và giữ chức Bí thư Huyện ủy Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Tử tháng 10 năm 1954 đến 1961 Trung ương đề bạt lên Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy Triệu Phong, rồi Thường vụ Tỉnh ủy, tỉnh Quảng Trị
Từ năm 1961 đến năm 1962, ông được bầu làm phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy Quảng Trị trong Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Trị năm 1961.
Từ năm 1962 đến năm 1965 ông là quyền Bí thư Tỉnh ủy trong lúc Bí thư Trương Chí Công đi chữa bệnh tại miền Bắc, đồng thời là Trưởng ban Quân sự, Trưởng Ban An ninh, kiêm Chính trị viên Tỉnh đội Quảng Trị.
Năm 1965 đến 1966 ông đảm nhiệm lại chức vụ phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy kiêm Chính trị viên Tỉnh đội, Trưởng ban An ninh tỉnh Quảng Trị khi đồng chí Trương Chí Công đi chữa bệnh trở về.
Từ năm 1966 đến năm 1967, phó Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị kiêm Trưởng ban tổ chức, Trưởng ban An ninh tỉnh Quảng Trị.
Từ năm 1967 đến năm 1969, theo đề nghị của Khu ủy, Trung ương chỉ định ông đảm nhiệm Ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ của Đặc khu Trị Thiên Huế (Khu ủy viên Khu ủy Trị Thiên Huế), đồng thời tham gia Đảng ủy Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị (Mặt trận B5), kiêm Bí thư Ban cán sự liên huyện Bắc đường 9, Chính ủy Trung đoàn 31 (Mặt trận B5) và Chính ủy Đoàn 7 (Quân khu Trị Thiên).
Từ năm 1969 đến năm 1971, là Khu ủy viên, Trưởng ban kiểm tra Đảng kiêm Trưởng ban Dân vận thuộc Khu ủy Trị Thiên Huế.
Từ năm 1972 đến năm 1975, là Khu ủy viên, Trưởng ban kiểm tra Đảng kiêm Trưởng ban Tổ chức, Trưởng ban Tuyên huấn, Trưởng ban Dân vận, Trưởng ban Thi đua, Trưởng ban Binh vận thuộc Khu ủy Trị Thiên Huế.
Từ tháng 4 năm 1975 đến tháng 5 năm 1976, giải phóng toàn miền Nam, Khu ủy Trị Thiên Huế giải thể. Ông trở về cương vị phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy, phụ trách Ban tổ chức, Ban kiểm tra Đảng và Trưởng Tiểu ban hợp nhất 3 tỉnh Bình Trị Thiên thuộc Tỉnh ủy Quảng Trị.
Từ tháng 5 năm 1976 đến năm 1982, 3 tỉnh Bình Trị Thiên hợp nhất, ông là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, kiêm Trưởng ban kiểm tra Đảng và Trưởng ban nghiên cứu lịch sử Đảng thuộc Tỉnh ủy Bình Trị Thiên.
Từ năm 1983 đến năm 1984, hết tuổi đảm nhiệm cấp ủy. Trưởng ban nghiên cứu lịch sử Đảng. Tỉnh ủy Bình Trị Thiên.
Tháng 4 năm 1984 ông về hưu.
Ngày 26 tháng 5 năm 2021 (nhằm ngày rằm tháng 4 năm Tân Sửu), do tuổi cao sức yếu, ông Vũ Soạn đã qua đời tại nhà riêng, hưởng thọ 100 tuổi.
Quá trình hoạt động Cách mạng.
Năm 1942, Vũ Soạn bị Thực dân Pháp bắt và kết án khổ sai tại nhà lao Quảng Trị. Khi ở trong tù, ông đã chịu các cuộc tra tấn dã man, kiên trung một lòng với Đảng, là tổ trưởng tổ Đảng trong Chi bộ nhà lao Quảng Trị, tham gia lãnh đạo thành công các cuộc đấu tranh của tù nhân chính trị, đặc biệt là cuộc "đấu tranh đòi nghỉ chiều thứ Bảy" ở nhà lao Quảng Trị.
Năm 1946, ông đảm nhận chức vụ Huyện ủy viên phụ trách Trưởng ban trinh sát của huyện ủy Triệu Phong. Ông đã cùng Công an Tỉnh bắt trọn được toàn bộ ban Tỉnh ủy Quốc dân Đảng trong một hội nghị của tổ chức này tại thôn Nhan Biều, huyên Triệu Phong.
Từ năm 1950, khi ra Thái Bình, thấy căn cứ huyện chỉ nằm trong 3 xã, thế rất khó khăn, ông đề nghị và được huyện đồng ý mở rộng sang phía Tây, vùng giải phóng được mở ra rộng hơn, đưa vùng chiến tranh vào lãnh thổ phía quân Pháp, tránh các cuộc càn quét vào căn cứ của Việt Minh.
Cuối năm 1951, khi Đại đội Hổ Xám của quân Pháp từ Nam Định qua càn quét theo đường đê sông Luộc đánh vào huyện Quỳnh Côi, trên cương vị Chính trị viên Huyện đội ông đã trực tiếp chỉ đạo 2 Trung đội của Đại đội 217 (Huyện đội Quỳnh Côi) dùng chiến thuật chặn đầu phía trước, nhưng chủ yếu Trung đội một đánh bọc phía sau vào vị trí chỉ huy, khống chế Đại đội trưởng làm toàn bộ Đại đội Hổ Xám tan rã, thu được nhiều vũ khí.
Cũng trong năm 1951, tại xã Khắc Vinh thuộc Quỳnh Côi, Đại đội trưởng Ngắm (Đại đội 3) của tỉnh Kiến An tìm đến ông hỏi cách tìm nguồn vũ khí cho bộ đội. Ông đã bố trí chỗ ăn ở cho đại đội, bàn bạc cách dàn trận, sau đó đưa đại đội đến cạnh đường 10 tấn công khi khi quân Pháp hành quân ngang qua, thu giữ toàn bộ số vũ khí. Tuy làm Chính trị viên, nhưng trận đánh nào của bộ đội ông cũng có mặt. Nghe tiếng ông hô truy kích giọng miền Trung, quân Pháp ngờ rằng có quân chủ lực của QĐNDVN nên trở nên dè dặt và dễ dao động hơn. Đại tướng Văn Tiến Dũng rất quý trọng và thường mời đến đàm đạo thế trận mỗi khi có cơ hội.
Mùa mưa năm 1951, đê Quỳnh Côi sắp bị vỡ, ông huy động hàng nghìn người để bảo vệ đê, và cùng với sức mạnh của quần chúng, ông gửi thư buộc quân Pháp không được hành quân trên đê để dân hộ đê, làm phía Pháp phải ngừng hành quân cho đến khi nước rút, huyện Quỳnh Côi xa Tỉnh, nên vũ khí của bộ đội lúc ấy rất thiếu thốn, ông đã chỉ đạo bộ đội chủ yếu là tự đánh chiếm để trang bị cho mình.
Năm 1952, xong mùa hoạt động ông đã chỉ đạo lấy được vũ khí thừa để trang bị cho một Đại đội khác. Việc này rất được Khu ủy Tả Ngạn khen ngợi.
Thời ấy, cống Trà Linh là một cống cung cấp nước cho vùng Trà Linh, huyện Thuỵ Anh (thuộc Thái Thụy ngày nay). Quân Pháp khi đóng ở đó đã đóng cửa cống không cho nước chảy qua, làm thất bại mùa màng nên nhân dân nổi dậy đấu tranh, ông huy động nhân dân Quỳnh Côi kéo đến đấu tranh cùng với nhân dân Trà Linh buộc quân Pháp phải mở cống. Ông đã nói: "Nếu dân Thụy Anh bị đói thì Quỳnh Côi cũng không thể làm ngơ!"
Sau những hoạt động thắng lợi, ông được tỉnh Thái Bình đề bạt Bí thư huyện ủy, được cử là đại biểu của Tỉnh đi dự Hội nghị tổng kết chiến tranh du kích tại căn cứ địa Việt Bắc tháng 8 năm 1952 do Bộ Quốc phòng tổ chức. Chiến công của ông và đồng đội đã góp phần vào nội dung chính của hội nghị về chiến thuật chống càn quét ở đồng bằng, tránh lối đánh chính diện mà phải đánh vu hồi (đánh bọc phía sau), cách đánh này dễ thắng lợi mà tránh thiệt hại cho dân. Trong hội nghị, ông đã được cử làm Tổ trưởng tổ địch hậu. Trực tiếp đàm đạo với Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác dân vận.
Khi ông đến chào tạm biệt để trở về Nam, đồng chí Lê Tự, Bí thư Tỉnh ủy Thái Bình lúc ấy đã nói: "Tôi rất phục tác phong làm việc của anh, luôn đi sát bộ đội, đi sát với quần chúng!"
Năm 1964, trong thời gian đảm nhiệm cương vị quyền Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Quảng Trị: Trong Đồng khởi 1964, sức của phong trào Quảng Trị từ chỗ yếu, ông đã tranh thủ được thời cơ chỉ đạo phong trào tỉnh, chuyển thành mạnh kịp với các tỉnh, góp phần đánh bại chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của Mỹ.
Năm 1966, sau khi Trung đoàn 6 (quân chủ lực Quân khu Trị Thiên Huế) rút quân ở đồng bằng Triệu Hải, quân Giải phóng mất thế liên hoàn chiến đấu giữa 3 vùng chiến lược ở Quảng Trị bao gồm: miền núi, đồng bằng và thị xã Quảng Trị. Nhằm cứu vãn tình hình, ông tìm cách chiếm lĩnh vùng trung tâm đồng bằng giữa 2 huyện Triệu Phong và Hải Lăng biên giới giữa 2 huyện bằng cách chỉ đạo đánh thông đường giao thông chiến lược từ trên núi xuống đồng bằng, rồi đưa lực lượng xuống vùng này để xây dựng căn cứ vững mạnh, từ căn cứ ấy đánh ra phía Bắc và đánh vào phía Nam, mở rộng vùng giải phóng. Nhờ vậy quân Giải phóng đã giành lại được thế liên hoàn ở khu vực này mặc dù không có Trung đoàn 6, vùng giải phóng được mở rộng, mối liên hoàn giữa 3 vùng chiến lược được hình thành trở lại để chuẩn bị phối hợp với chiến dịch Mậu Thân năm 1968.
Từ năm 1967 đến năm 1968 trên cương vị Khu ủy viên, ông được cử làm đại diện cho Khu ủy Trị Thiên Huế tham gia Đảng ủy Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị (B5) chỉ đạo 3 huyện phía Bắc đường 9 là Hướng Hóa, Cam Lộ và Gio Linh huy động quân dân phối hợp với chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam đánh sập hệ thống phòng ngự Đường 9 của liên quân Mỹ và VNCH, mở đường cho quân chủ lực của QĐNDVN tiến quân vào Huế. Trong thời gian đó, ông cũng đã chỉ đạo cho lực lượng bộ đội địa phương phối hợp với quân chủ lực và nhân dân thực hiện một cuộc chiến của quân và dân trên sông Hiếu (thường được gọi là "trận Bạch Đằng trên Sông Hiếu"), cắt đứt đường giao thông đường thủy của Mỹ và VNCH trong 4 ngày, làm các tàu địch bị thiệt hại không chở được đạn dược và lương thực cho mặt trận Tà Cơn và Khe Sanh. Góp phần vào thắng lợi của chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh.
Ông đã chỉ đạo phát động được phong trào quần chúng làm công tác binh vận thành công tại Bắc Cam Lộ làm cho 2 trung đội dân vệ của Cam Thanh và Cam Giang nổi dậy làm binh biến.
Để cho sự lãnh đạo của Đảng nhanh chóng đến với nhân dân, ông chủ trương giải thể 2 huyện Cam Lộ- Gio Linh, lập liên huyện Gio-Cam và vạch ra nghị quyết của Huyện ủy sát đúng với đặc điểm của Cam Lộ, Gio Linh là một chiến trường vũ trang là chủ yếu. Chiến lược của ông luôn là dành thế áp đảo nhưng tránh thương vong. Cuối năm 1969, ông trở về cơ quan Khu ủy Trị Thiên Huế, được phân công liên tục phụ trách 6 Ban của Khu ủy. Ông hoàn thành nhiệm vụ được giao và góp phần xây dựng mối đoàn kết trong nội bộ Khu ủy.
Năm 1972, được sự phân công của Khu ủy Trị Thiên Huế, ông đã trực tiếp chỉ đạo phong trào địa phương tại Phong Điền và Quảng Điền để phối hợp với chủ lực tấn công Quảng Trị, góp phần giải phóng Quảng Trị mùa hè 1972.
Năm 1975 ông tham gia chỉ đạo phong trào trong chiến dịch Huế - Đà Nẵng ở khu vực Bắc Thừa Thiên Huế (3 huyện Phong Điền, Quảng Điền và Hương Trà). | 1 | null |
Karl Heinrich Hermann Ludolf Bonaventura Graf von der Goltz (19 tháng 11 năm 1803 tại Groß-Teschendorf, huyện Riesenburg – 27 tháng 1 năm 1881 tại Potsdam) là một Trung tướng quân đội Phổ, từng tham chiến trong cuộc Chiến tranh Đức-Đan Mạch (1864) và phục vụ trong nước vào thời gian Chiến tranh Áo-Phổ (1866) và Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871).
Tiểu sử.
Thân thế.
Karl Heinrich sinh vào tháng 11 năm 1803, trong gia đình quý tộc cổ Von der Goltz. Ông là con trai của Karl Anton Ferdinand Graf von der Goltz (20 tháng 2 năm 1760 – 27 tháng 7 năm 1837 tại Penken) và người vợ cua ông này là Elisabeth Cornelia Helene Marianne, nhũ danh von Katzler (21 tháng 11 năm 1775 – 21 tháng 3 năm 1834).
Sự nghiệp quân sự.
Thời trẻ, Goltz đi học tại Trường Trung học Chính quy Joachimsthaler tại Berlin và vào ngày 20 tháng 9 năm 1823, ông nhập ngũ quân đội Phổ với vai trò là lính bắn súng hỏa mai ("Füsilier") trong Trung đoàn Bộ binh Cận vệ số 1. Trong trung đoàn này, ông được phong cấp hàm Chuẩn úy vào ngày 21 tháng 7 năm 1824 rồi được thăng quân hàm Thiếu úy vào ngày 15 tháng 5 năm 1825. Với cấp bậc này, Goltz là sĩ quan phụ tá của Tiểu đoàn Bộ binh Giảng dạy ("Lehr-Infanteriebatailons"). Sau này, ông được bổ nhiệm làm sĩ quan phụ tá trung đoàn và trên cương vị này, ông được lên quân hàm Trung úy vào ngày 14 tháng 4 năm 1841. 5 năm sau, vào ngày 19 tháng 4 năm 1846, Goltz được thăng cấp Đại úy đồng thời lãnh một chức Đại đội trưởng.
Sau khi tướng Karl von Prittwitz được bổ nhiệm làm Tổng chỉ huy Tối cao Quân đội Liên minh Đức trong cuộc Chiến tranh Schleswig-Holstein chống Đan Mạch, Goltz nhậm chức sĩ quan phụ tá của Prittwitz vào ngày 22 tháng 3 năm 1849. Sau khi chiến tranh chấm dứt, Goltz trở lại Trung đoàn Bộ binh Cận vệ số 1 và tại đây ông được lên cấp hàm Thiếu tá vào ngày 13 tháng 11 năm 1851. Tiếp theo đó, kể từ ngày 6 tháng 9 năm 1852 cho tới ngày 6 tháng 10 năm 1854, Goltz là Giám đốc Trường Sư đoàn của Quân đoàn Vệ binh và vào ngày 16 tháng 7 năm 1855, ông được giao quyền chỉ huy Tiểu đoàn Giảng dạy. Sau đó, với cấp bậc Thượng tá, Goltz được phong danh hiệu của Trung đoàn Bộ binh Cận vệ số 1 vào ngày 12 tháng 1 năm 1858 và trở thành trấn thủ Minden.
Sau đó, ông được đổi làm trấn thủ Frankfurt am Main vào ngày 27 tháng 2 năm 1858, trước khi trở lại phục vụ tiền tuyến vào ngày 22 tháng 3 năm 1859 và được lãnh nhiệm chức Trung đoàn trưởng Trung đoàn Bộ binh Cận vệ số 1. Trên cương vị này, Goltz được phong hàm Đại tá vào ngày 31 tháng 5 năm 1859 và được tặng Huân chương Đại bàng Đỏ hạng III kèm theo chuỗi dây chuyền vào ngày 15 tháng 10 năm 1859. 2 năm sau đó, vào ngày 18 tháng 10 năm 1861, trong khi vẫn giữ chức vụ Trung đoàn trưởng, ông được Vua Wilhelm I bổ kiêm nhiệm là sĩ quan hầu cận của nhà vua. Đến ngày 4 tháng 3 năm 1863, ông rời chức vụ này, sau đó thoạt tiên ông được giao tạm quyền chỉ huy ("Führung") Lữ đoàn Bộ binh số 16 và vào ngày 17 tháng 3 năm 1863, ông được thăng hàm Thiếu tướng đồng thời được bổ nhiệm làm Lữ đoàn trưởng. Vì những thành tích của mình trong việc chỉ huy đơn vị, Goltz được trao tặng Thập tự Chỉ huy ("Komturkreuz") hạng I của Huân chương Gia tộc Sachsen-Ernestine vào ngày 13 tháng 11 năm 1863. Sau đó, Goltz trở về Berlin vào ngày 4 tháng 1 năm 1864 và được ủy nhiệm làm Tư lệnh Lữ đoàn Bộ binh Cận vệ số 3. Chẳng bấy lâu sau, khi chiến tranh chống Đan Mạch bùng nổ năm 1864, ông chỉ huy trung đoàn của mình tham chiến trong thời gian binh lửa, ông được bổ nhiệm làm Chỉ huy tạm quyền của Sư đoàn Bộ binh Cận vệ thay thế cho Trung tướng Otto von der Mülbe bị ốm. Sau khi Mülbes khỏi bệnh, Goltz được giao quyền chỉ huy Lữ đoàn Cận vệ tổng hợp. Để ghi nhận những công trạng của Goltz, đồng minh Áo đã tặng thưởng cho ông Thập tự Chỉ huy của Huân chương Leopold kèm theo Phần thưởng chiến tranh ("Kriegsdekoration"). Sau khi Hòa ước Viên được ký kết và Đan Mạch phải nhượng Schleswig-Holstein cho Áo và Phổ, Goltz lại được ủy nhiệm làm Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn Bộ binh Cận vệ số 3 vào ngày 17 tháng 12 năm 1864. Đến ngày 10 tháng 7 năm 1865, Goltz được xuất ngũ ("zur Disposition", không phục vụ tại ngũ nữa nhưng sẽ được triệu hồi khi có chiến tranh) với một khoản lương hưu, đồng thời được tặng Huân chương Đại bàng Đỏ hạng II đính kèm bó sồi và thanh gươm trên chiếc nhẫn.
Trong cuộc tổng động viên khởi đầu cuộc Chiến tranh Bảy tuần với Áo vào năm 1866, Goltz được triệu hồi và được giao quyền chỉ huy mọi lực lượng Bộ binh Cận vệ không động binh ở địa phương trong khu vực của Quân đoàn III. Sau khi chiến tranh kết thúc với thắng lợi của Phổ, ông được thải hồi đồng thời nhận cấp hàm Danh dự ("Charakter") Trung tướng vào ngày 22 tháng 9 năm 1866.
Trong thời gian Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871), ông lại được vời làm trấn thủ Potsdam. Tại đây, ông từ trần vào tháng 1 năm 1881.
Gia quyến.
Vào ngày 4 tháng 11 năm 1839, tại Gnadenfrei, Goltz đã thành hôn với Natalie Theophile Josephine Gräfin von Roedern (25 tháng 8 năm 1813 tại Munsterberg – 8 tháng 7 năm 1902 tại Potsdam). Cuộc hôn nhân này đã mang lại cho họ những người con sau đây: | 1 | null |
Tiếng Sumer ( ) là ngôn ngữ được nói tại miền nam Lưỡng Hà (Iraq ngày nay) ít nhất là từ thiên niên kỷ thứ 4 trước Công nguyên. Thiên niên kỷ thứ 3 TCN chứng kiến sự nảy sinh và phát triển mối quan hệ cộng sinh văn hóa hết sức mật thiết giữa người Sumer và người dân Đế quốc Akkad, trong đó bao gồm việc sử dụng song ngữ Sumer và Akkad một cách rộng rãi. Tiếng Sumer sự ảnh hưởng rõ ràng lên tiếng Akkad (và ngược lại) ở mọi khía cạnh, từ sự vay mượn từ vựng trên quy mô lớn đến sự hội tụ cú pháp, hình thái và âm vị. Điều này khiến các học giả xem tiếng Sumer và tiếng Akkad ở thiên niên kỷ thứ 3 TCN thuộc cùng một "vùng ngôn ngữ" ("sprachbund").
Theo thời gian, tiếng Akkad dần thay thế tiếng Sumer để trở thành ngôn ngữ giao tiếp vào khoảng năm 2000 TCN (thời gian chính xác hiện vẫn là vấn đề tranh luận). Tuy vậy, tiếng Sumer vẫn tiếp tục giữ vai trò là ngôn ngữ thiêng liêng, ngôn ngữ trong nghi lễ, trong văn học và trong khoa học tại vùng Lưỡng Hà cho đến mãi thế kỷ 1.
Từ đó, tiếng Sumer bị quên lãng cho đến thế kỷ 19 khi những nhà Assyria học bắt đầu giải mã các văn khắc chữ hình nêm và khai quật các bản ghi do những người nói tiếng Sumer bỏ lại. Tiếng Sumer là một ngôn ngữ biệt lập.
Biến thể.
Các giai đoạn.
Lịch sử phát triển của chữ viết Sumer có thể được chia thành các giai đoạn như sau:
Giai đoạn Sumer cổ xưa bắt đầu với thời kỳ Jemdet Nasr (Uruk III) khoảng từ thế kỷ 31 đến thế kỷ 30 TCN. Giai đoạn này nối tiếp giai đoạn Trước chữ viết ("protoliterate") trải dài phỏng chừng từ thế kỷ 35 đến thế kỷ 30 TCN.
Một số cách chia giai đoạn có thể bỏ qua giai đoạn Sumer muộn và xem tất cả các văn bản được viết sau năm 2000 TCN là thuộc giai đoạn Hậu Sumer. Thuật ngữ "Hậu Sumer" dùng để chỉ thời gian mà ngôn ngữ này đã "tuyệt chủng" và chỉ còn được người Babylon và người Assyria bảo tồn như một ngôn ngữ tế lễ và cổ điển (dùng trong tôn giáo, nghệ thuật và học thuật). Từ trước đến nay, sự tuyệt chủng này thường được cho là diễn ra vào khoảng cuối Triều Ur thứ ba (quốc gia cuối cùng có đa số là người Sumer, nằm ở vùng Lưỡng Hà) khoảng năm 2000 TCN. Tuy nhiên, thời điểm này chỉ mang ý nghĩa ước chừng do có những học giả cho rằng tiếng Sumer đã chết hoặc đang tàn tạ ngay từ khoảng năm 2100 TCN, trước khi giai đoạn Ur III bắt đầu, trong khi những học giả khác lại tin rằng tiếng Sumer vẫn duy trì vai trò ngôn ngữ giao tiếp ở một vùng nhỏ thuộc miền nam Lưỡng Hà (Nippur và vùng phụ cận) cho đến tận năm 1700 TCN. Cho dù tình trạng sử dụng tiếng Sumer trong giao tiếp có như thế nào đi nữa trong giai đoạn 2000-1700 TCN thì cũng từ giai đoạn này trở đi, một lượng đặc biệt lớn các văn bản văn chương và các danh sách từ vựng song ngữ Sumer-Akkad vẫn tồn tại, đặc biệt là từ trường pháo Nippur. Điều này - cùng với việc sử dụng hết sức rộng rãi tiếng Sumer tại các nhà nước nói tiếng Akkad trong cùng khoảng thời gian - là cơ sở căn bản để phân biệt giai đoạn Sumer muộn và các giai đoạn về sau.
Các phương ngữ.
Người ta ghi nhận được hai biến thể (phương ngữ hay phương ngữ xã hội) của tiếng Sumer. Biến thể chuẩn được gọi là "eme-ĝir" ("ĝ" phát âm là ). Biến thể kia được gọi là "eme-sal" ( EME.SAL, có lẽ mang nghĩa là "tiếng nói hay" hoặc giọng nói cao., mặc dù hay được dịch là "ngôn ngữ của đàn bà". (gốc từ "sal" có thể mang nhiều nghĩa). "Eme-sal" được dùng riêng bởi nhân vật nữ trong một số văn bản văn chương. Ngoài ra, "eme-sal" cũng chiếm ưu thế trong một số thể loại ca khúc nghi lễ nhất định. Điểm đặc biệt của "eme-sal" chủ yếu nằm ở mặt âm vị (chẳng hạn, "m" dùng thay cho "ĝ" trong "me", khác với cách chuẩn là "ĝe26", nghĩa là "tôi"). Tuy nhiên, các từ vựng khác hẳn với ngôn ngữ chuẩn cũng được dùng (chẳng hạn là "ga-ša-an", so với ngôn ngữ chuẩn là "nin", nghĩa là "quý bà"). | 1 | null |
Phêrô Võ Thành Trinh (1916-1991) là một linh mục Công giáo Việt Nam. Ông là Đại biểu Quốc hội Việt Nam từ khóa V đến khóa VIII. Ông cũng nguyên là Phó Chủ tịch Quốc hội khóa VII và Chủ tịch Ủy ban đoàn kết Công giáo Việt Nam.
Thân thế.
Linh mục Phêrô Võ Thành Trinh sinh ngày 1 tháng 8 năm 1916 trong một gia đình Công giáo đông con ở họ đạo Cái Đôi, xã Hòa Bình, huyện Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên (nay là An Giang), thuộc giáo xứ Cái Đôi, giáo hạt Chợ Mới, giáo phận Long Xuyên. Ông là con thứ 6 trong gia đình nên ông còn được gọi bằng thứ Bảy theo thông lệ của người miền Nam.
Năm 14 tuổi, ông vào học Tiểu chủng viện Cù Lao Giêng, 10 năm sau vào học Đại chủng viện Xuân Bích (Liễu Giai, Hà Nội).
Ông đã hưởng ứng và tham gia phong trào Việt Minh từ những ngày đầu Cách mạng tháng Tám.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, ông cùng nhiều chủng sinh ở Đại chủng viện Xuân Bích tham gia buổi lễ Độc lập tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội.
Tháng 09 năm 1946, ông được phong linh mục tại Cần Thơ.
Tháng 10 năm 1946, ông làm Phó xứ ở các họ đạo Hòn Chông, Rẫy Mới, Rạch Đông (tỉnh Hà Tiên).
Từ tháng 01 năm 1952, ông phụ trách các nhà thờ Huyện Sử, Tân Lộc, Cái Rắn, Cái Cấm thuộc vùng căn cứ kháng chiến tại tỉnh Bạc Liêu. Ông làm Hội trưởng Hội Công giáo kháng chiến và Cố vấn Uỷ ban Kháng chiến hành chính tỉnh Hà Tiên, Hội trưởng Hội Công giáo kháng chiến và Phó Chủ tịch Mặt trận Việt Minh - Liên Việt tỉnh Bạc Liêu
Năm 1954, linh mục Võ Thành Trinh phụ trách các xứ đạo Hòn Gai, Cẩm Phả, Cửa Ông (tỉnh Quảng Ninh), đồng thời ông là đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh, Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc tỉnh, Chủ tịch Uỷ ban liên lạc Công giáo tỉnh Quảng Ninh và Uỷ viên thường trực Uỷ ban liên lạc Toàn quốc những người Công giáo Việt Nam yêu Tổ quốc, yêu hòa bình.
Ông là đại biểu Quốc hội liên tục các khóa V, VI, VII, VIII (của tỉnh Quảng Ninh); Uỷ viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội các khóa V, VI; Phó Chủ tịch Quốc hội khóa VII; Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Chủ tịch Uỷ ban đoàn kết Công giáo yêu nước Việt Nam kiêm Chủ tịch Uỷ ban đoàn kết Công giáo Thành phố Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Tổ chức Kitô giáo thế giới vì hòa bình (CPC).
Ông qua đời ngày 21 tháng 8 năm 1991 tại Bệnh viện Chợ Rẫy, Thành phố Hồ Chí Minh.
Vinh danh.
Linh mục Phêrô Võ Thành Trinh được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng:
Hiện có một nhà lưu niệm Linh mục Võ Thành Trinh tại xã Hòa Bình, quê hương của ông, lưu giữ những hiện vật trong cuộc đời ông.
Đặt tên cho trường học.
Theo Nghị quyết Số: 09/NQ-HĐND tại kì họp lần thứ 11 của Hội đồng nhân dân tỉnh An Giang khóa VIII đã thông qua việc đổi tên trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Long Xuyên và huyện Chợ Mới trong đó trường THPT Hòa Bình đổi thành Trường THPT Võ Thành Trinh. | 1 | null |
Cá thòi lòi Đại Tây Dương (danh pháp khoa học: Periophthalmus barbarus) là một loài cá thuộc họ cá Oxudercidae, phổ biến tại các bờ biển Đại Tây Dương thuộc châu Phi từ Senegal đến Angola, bao gồm cả đa số các đảo xa bờ như Bioko, São Tomé và đảo Príncipe. Loài này cũng có ở Guam. | 1 | null |
Bộ Cá tráp mắt vàng (tên khoa học: Beryciformes) là một bộ cá vây tia. Cho tới năm 2013 thì nó được coi là chứa 7 họ. Phần lớn các loài sống ở vùng nước biển sâu và tránh ánh sáng, đến gần hơn vào bề mặt nước vào ban đêm.
Một số tác giả khác, như Ricardo Betancur-R "et al." (2013), lại mở rộng bộ Beryciformes để chứa cả hai bộ Stephanoberyciformes nghĩa hẹp và Cetomimiformes, nhưng xếp họ Holocentridae sang một bộ riêng, gọi là Holocentriformes. Trong trường hợp này định nghĩa và giới hạn của bộ gần giống như bộ Trachichthyiformes "sensu" Moore, 1993, ngoại trừ việc Moore loại họ Berycidae ra khỏi bộ này cũng như công nhận họ Megalomycteridae gồm 4 chi "Ataxolepis", "Cetomimoides", "Megalomycter", "Vitiaziella" (hiện nay coi là một phần họ Cetomimidae).
Phân loại.
Patterson (1964) chia Beryciformes thành 3 phân bộ là: Polymixioidei (chứa "Polymixia" và vài chi tuyệt chủng); Dinopterygoidei (chứa nhóm đa dạng các loài tuyệt chủng) và Berycoidei (chứa ít nhất 11 họ cá dạng beryciform còn sinh tồn, bao gồm cả Berycidae và Holocentridae). Patterson cho rằng cá dạng stephanoberycoid đại diện cho một bộ tách rời.
Năm 1966, Greenwood "et al." bổ sung phân bộ Stephanoberycoidei vào Beryciformes.
Theo định nghĩa của Greenwood "et al." thì bộ Beryciformes (Xenoberyces, Berycomorphi, một phần Berycoidei, một phần Stephanoberyciformes) chia ra như sau:
Bộ này thời điểm 2013-2014 được coi là chứa 7 họ:
Khi bao gồm cả Stephanoberyciformes nghĩa hẹp và Cetomimiformes như định nghĩa phiên bản 1 tới 3 trong giai đoạn 2013-2016 của Betancur-R "et al." thì bộ này bao gồm 13 họ sau:
Trong phiên bản 4 năm 2017, Betancur-R "et al." định nghĩa bộ này như sau:
đồng thời phục hồi bộ Trachichthyiformes "sensu" Moore 1993 với các họ sau:
Phát sinh chủng loài.
Phát sinh chủng loài trong phạm vi Acanthopterygii vẽ theo Betancur-Rodriguez "et al." 2017.
Phát sinh chủng loài trong phạm vi Acanthopterygii vẽ theo Borden "et al." (2019):
Phát sinh chủng loài nội bộ bộ Beryciformes vẽ theo Betancur "et al." (2017): | 1 | null |
Nguyễn Khắc Đạm (1918-2006) là một nhà nghiên cứu sử học người Việt Nam. Dù khởi đầu sự nghiệp với tư cách là nhà quân sự, nhưng ông được biết nhiều với tư cách nhà nghiên cứu lịch sử với nhiều tác phẩm có giá trị nghiên cứu cao và là một dịch giả chuyển thể nhiều tài liệu và tác phẩm từ Hán văn, Pháp văn ra Việt ngữ.
Thân thế.
Ông sinh ngày 7 tháng 3 năm 1918, quê quán tại xã Song Khê, huyện Yên Dũng tỉnh Bắc Giang. Ông là con thứ ba của nhà chí sĩ yêu nước Nguyễn Khắc Nhu - một lãnh tụ của Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Năm 1930, sau khởi nghĩa Yên Bái, cha ông tựu nghĩa vì nước, cuối năm, mẹ ông cũng qua đời, ông mồ côi cha mẹ năm 13 tuổi và được 2 anh trai đưa ra Hà Nội để nuôi dạy.
Thời thanh niên, ông có tiếng xuất sắc các môn thể thao. Năm 1938, ông giành được chức vô địch Quyền Anh Bắc Kì (boxing). Năm 1944, đoạt chức vô địch bơi thuyền Pê-rít-xoa tại hồ Tây Hà Nội.
Về học tập, ông thường thuộc top đầu trong lớp, đỗ tú tài năm 1939 tại trường Bưởi (nay là trường THPT Chu Văn An).
Tháng 8 năm 1940, ông tốt nghiệp trường sĩ quan dự bị của Pháp cấp bậc chuẩn ủy với mức lương tương đương hơn 10 tạ gạo thời đó. Sau đó, ông được điều công tác tại Viêng Chăn - Lào. Với chí tiến thủ cao, ông thi đỗ tham tá tại Lào.
Hoạt động quân sự cách mạng.
Cuối năm 1942, ông được điều về Hà Nội làm tham tá Sở Nông Lâm Đông Dương, cũng trong thời gian đó, ông cùng bạn là Nguyễn Đắc Lộc mở các lớp huấn luyện quân sự, và đã thành công được 2 khoá huấn luyện cho các thanh niên yêu nước dưới sự lùng sục gắt gao của hiến binh Nhật.
Tháng 7 năm 1945, tại Bắc Bộ phủ, các lãnh đạo Việt Minh ra lời kêu gọi sĩ quan quân đội Pháp gia nhập quân cách mạng. Tuy đang được thực dân Pháp đãi ngộ rất tốt, nhưng ông lập tức hưởng ứng lời kêu gọi này.
Năm 1947, ông đưa vợ và hai con rời Hà Nội lên Tuyên Quang, Bắc Cạn (vùng tự do). Được ít lâu cơ quan chuyển tới Cao Vân ông xin cho vợ nhập ngũ vào Cục Quân huấn. Từ cuối 1948 - đầu 1950, tham gia giảng dạy khoá 4 của trường Lục quân và khoá 4 trường Trung cấp và các lớp quân sự khác... Ông đã biên soạn khá công phu một số giáo trình để phục vụ cho công tác huấn luyện cho lực lượng Quân đội Quốc gia Việt Nam.
Đầu năm 1950, ông được cử tham gia các đơn vị chuyển vũ khí từ Trung Quốc về Việt Nam để phục vụ chiến dịch biên giới năm 1950, rồi được trường Lục Quân cử đi học quân sự tại Trung Quốc. Sau khi tốt nghiệp, ông được phong quân hàm Thiếu tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, một cấp bậc khá cao thời bấy giờ.
Trở thành nhà nghiên cứu lịch sử.
Sau khi chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiểm soát hoàn toàn miền Bắc, ông giải ngũ và chuyển ngành, trở thành một nhà nghiên cứu sử học, công tác tại Viện Sử học dưới sự bảo trợ của Trần Huy Liệu (1955).
Năm 1959, ông thường được phân công phụ trách đưa các đoàn nghiên cứu sinh Liên Xô đến các vùng dân tộc: Sơn La, Điện Biên, Hồng Quảng, Lào Cai, Mường Khương...
Được đánh giá là một người đầy nhiệt huyết, ông thường có bài đăng trên các tạp chí: Văn Sử Địa, Nghiên cứu Lịch sử... như Viết về chế độ nô lệ ở Việt Nam, về thành luỹ phố phường con người Hà Nội, về hành quân thần tốc của Nguyễn Huệ...
Ông về hưu năm 1978 tiếp tục tham gia các công tác xã hội tại địa phương.
Ông mất ngày 28 tháng 2 năm 2006, thọ 89 tuổi. Di hài ông được gia đình đưa về an táng tại quê nhà Song Khê, nay thuộc thành phố Bắc Giang.
Đời tư.
Năm 1942, ông lập gia đình với bà Từ Thị Nghĩa (khi đấy bà mới 17 tuổi), con gái ông Từ Hữu Long, một nhà đại thầu khoán giàu có vào hạng nhất nhì trong số người Việt tại Viêng Chăn (Lào).
Năm 1966, bà Nghĩa ốm nặng rồi mất. Một tay ông nuôi dạy 6 người con nên người dù cực kỳ khó khăn và vất vả. Một người con gái tên Nguyễn Thị Việt Nhân, sinh năm 1944, từng công tác ở Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, nay đã nghỉ hưu.
Hai năm sau, ông tái hôn với bà Nguyễn Thị Quy, công tác tại thư viện Quốc gia. Hai người được xem là đôi bạn hợp nhau về thơ văn. | 1 | null |
Trận hùng chiến xứ sở lá cây (tên gốc tiếng Anh: Epic) là một bộ phim hoạt hình 3D thuộc thể loại phiêu lưu - kỳ ảo của điện ảnh Hoa Kỳ. Nội dung phim dựa trên quyển sách dành cho thiếu nhi của William Joyce mang tên "The Leaf Men and the Brave Good Bugs". Bộ phim được sản xuất bởi hãng Blue Sky Studios, và đạo diễn bởi Chris Wedge, ông từng thành công với phim "Ice Age" (2002) và "Robots" (2005). Các diễn viên lồng tiếng cho các nhận vật trong phim phải kể đến Amanda Seyfried, Josh Hutcherson, Colin Farrell, Christoph Waltz, Aziz Ansari, Chris O'Dowd, Pitbull, Jason Sudeikis, với Steven Tyler và Beyoncé Knowles. Bộ phim được công chiếu vào ngày 24 tháng 5 năm 2013. | 1 | null |
Bài viết sau đây là tóm tắt của các trận đấu ở vòng 5, vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2014 khu vực châu Á.
Thể thức.
Vòng 5 sẽ xác định hai đội xếp thứ ba từ vòng 4 trong hai trận play-off. Đội thắng trong vòng đấu này sẽ giành quyền tham dự trận tranh vé vớt với đội xếp thứ năm của khu vực Nam Mỹ.
Trận đấu.
Lễ bốc thăm thứ tự của cặp đấu được tổ chức tại Zurich vào ngày 19 tháng 3 năm 2013 trong các cuộc họp của Ban Tổ chức Vòng chung kết World Cup. Trận lượt đi diễn ra vào ngày 6 tháng 9 năm 2013, và trận lượt về diễn ra vào ngày 10 tháng 9 năm 2013.
Lượt về.
Tổng tỉ số sau 2 lượt trận là 2-2. thắng 9-8 trên chấm 11m. | 1 | null |
Star Trek là một bộ phim hành động thuộc thể loại khoa học viễn tưởng được sản xuất năm 2009 của điện ảnh Hoa Kỳ đạo diễn bởi J. J. Abrams, biên kịch Roberto Orci và Alex Kurtzman với nhà sản xuất là hãng Paramount Pictures. Đây là bộ phim thứ 11 trong loạt phim về Star Trek và đây cũng là phần phim tái khởi động khi kể câu chuyện về các nhân vật chính ở độ tuổi trẻ hơn như trong loạt phim truyền hình tuy nhiên với sự diễn xuất của dàn diễn viên hoàn toàn mới. Bộ phim theo dấu "James T. Kirk" (Chris Pine) và "Spock" (Zachary Quinto) lên con tàu "USS Enterprise", tại đây họ phải chống lại "Nero" (Eric Bana), một người "Romulan" đến từ tương lai của họ đang cố đe dọa sự toàn vẹn của "United Federation of Planets" ("Liên hiệp các Hành tinh"). Câu chuyện diễn ra ở một thực tại khác, thế giới song song nơi mà cả Nero và Spock lúc già (Leonard Nimoy) sống. Việc sáng tạo và đưa vào yếu tố "dòng thời gian song song tồn tại" là một nỗ lực trong việc sáng tạo ra các cốt truyện mới mà vẫn không ảnh hưởng tới tính logic và sự kiện đã diễn ra ở các tập phim gốc.
Bộ phim tồn tại nhân vật "Spock" do cả hai diễn viên là Leonard Nimoy và Zachary Quinto cùng thủ diễn. Leonard Nimoy là diễn viên duy nhất của loạt phim cũ tiếp tục xuất hiện trong loạt phim mới này, đồng thời vẫn giữ vai trò cũ của mình.
Nội dung.
Ở thế kỷ thứ 23, một phi thuyền của Liên bang mang tên USS "Kelvin" đang điều tra một "cơn bão sét" kỳ lạ trong không gian. Một tàu của người Romulan mang tên "Narada" , xuất hiện từ trong cơn bão và tấn công tàu "Kelvin". Sĩ quan cao cấp của tàu "Narada" là Ayel, yêu cầu thuyền trưởng tàu "Kelvin "là Robau đi lên tàu để đàm phán về một thỏa thuận ngừng bắn. Thuyền trưởng Robau được hỏi về "ngày sao hiện tại" và tông tích của ""Đại sứ Spock" ", người mà ông không xác định được là ai. Thuyền trưởng tàu "Narada "là Nero quyết định giết chết ông, và ra lệnh tấn công tàu "Kelvin". George Kirk, quyền thuyền trưởng tàu "Kelvin "hiện tại đã ra lệnh cho toàn bộ phi hành đoàn, bao gồm vợ đang mang thai Winona, rời bỏ tàu. Kirk quyết định ở lại tàu và lái tàu va chạm với "Narada". Kirk hy sịnh để đảm bảo sự tồn tại Winona và 800 người trên tàu. Trong lúc này cô cũng chuyển dạ và sinh ra James T. Kirk.
Mười bảy năm sau trên hành tinh Vulcan, một Spock trẻ được chấp nhận tham gia Học viện Khoa học Vulcan. Nhận thấy rằng Học viện xem mẹ con người của mình, Amanda như là một "thiệt thòi", ông gia nhập Starfleet để thay thế. Trên Trái Đất, Kirk trở thành một người trưởng thành trẻ tuổi liều lĩnh nhưng thông minh. Sau một trận đánh nhau ở quán bar với học viên Starfleet kèm Nyota Uhura, Kirk gặp thuyền trưởng Christopher Pike, người khuyến khích ông để gia nhập Học viện Starfleet, nơi Kirk gặp và kết bạn với bác sĩ Leonard McCoy. Tại Học viện, Kirk gặp Spock và vượt qua bài kiểm tra do Spock thiết lập, vốn không thể vượt qua. Kirk bị cáo buộc gian lận và bị buộc phải ở lại mặt đất trong khi các bạn cùng khóa học đều được cử lên các con tàu của Liên bang. Nhờ sự giúp đỡ của McCoy, Kirk trốn lên tàu Enterprise thành công, và phát hiện ra rằng Liên bang đang mắc bẫy của Nero khi cử 6 phi thuyền đến thăm dò một khu vực xuất hiện "cơn bão sét" y hệt như những gì đã xảy ra với cha mình. Nhờ lỗi của Sulu, một phi công trẻ người Nhật Bản, tàu Enterprise xuất phát muộn hơn các tàu khác và may mắn thoát khỏi thảm họa. Các phi thuyền khác đều bị tàu của người Romulan phục kích và tiêu diệt, và Nero tỏ ra bất ngờ khi tàu Enterprise xuất hiện sau trận chiến. Hắn yêu cầu thuyền trưởng Pike lên tàu đàm phán giống như những gì hắn đã làm với thuyền trưởng Robau, và yêu cầu ông khai ra tần số của Hệ thống Phòng thủ Trái Đất.
Spock được trao quyền thuyền trưởng và tống Kirk xuống một hành tinh băng giá ở gần đó. Tại đây, Kirk gặp Spock già, và được biết về nguyên nhân dẫn đến sự thù địch giữa Romulan và Liên bang: Ngôi sao lân cận với hành tinh Romulan sắp phát nổ thành siêu tân tinh và Spock già được cử đi giải cứu hành tinh bằng cách sử dụng vật chất đỏ để tạo ra một hố đen hút toàn bộ vật chất của siêu tân tinh nhưng Spock không đến kịp, Romulan bị hủy diệt cùng phần lớn dân cư của có, chỉ có nhóm của Nero thoát nạn do đang ở trên tàu vũ trụ. Sau khi Romulan bị hủy diệt, Nero truy bắt Spock già, cả hai đi qua một vùng không gian song song để quay lại quá khứ 129 năm trước, chính là thời kì của Spock trẻ và Kirk, với mục đích phá hủy tất cả các hành tinh gia nhập Liên bang để báo thù. Nero ném Spock xuống hành tinh băng giá để ông ta phải chứng kiến cảnh hành tinh của mình bị phá hủy.
Kirk tìm đến một tiền đồn của Liên bang trên hành tinh băng giá và gặp được Scott. Kirk được Scott đưa lên tàu Enterprise và khiêu khích Spock trẻ để đoạt quyền thuyền trưởng. Kirk và Spock trẻ đột nhập lên tàu của người Romulan để giải cứu thuyền trưởng Pike, sau đó đánh cắp phi thuyền của Spock già và vật chất đỏ, sau đó thoát về tàu Enterprise. Nero tức giận và quyết định bắn vào tàu của Spock già, bất chấp trên đó có vật chất đỏ. Con tàu trúng đạn nhưng 3 người đã kịp thời được đưa về tàu Enterprise, và vật chất đỏ phát nổ tạo ra một hố đen phá hủy con tàu Narada. Nero kiên quyết không đầu hàng, và chết cùng con tàu của mình. Tàu Enterprise thoát khỏi lực hút của hố đen sau một nỗ lực của phi hành đoàn
Hành tinh Vulcan bị phá hủy cùng 6 tỉ dân cư của nó, và chỉ có hơn 10000 người được cứu thoát. Spock trẻ quyết định đến Trái Đất, còn Spock già đi cùng những người Vulcan còn lại đi xây dựng cuộc sống trên một hành tinh mới. James Kirk được bổ nhiệm là thuyền trưởng tàu Enterprise thay thuyền trưởng Pike.
Phần tiếp theo.
Sau phần đầu của loạt 4 phim.Star Trek sẽ tiếp tục với phần Star Trek:Into Darkness(2013) và Star Trek:Beyond(2016) và đang có dự kiến làm phần 4 vào khoảng năm 2018-2020 | 1 | null |
Sống không dối trá (hay Không sống bằng lời dối trá) (tiếng Nga: Жить не по лжи) là tiểu luận của nhà văn nổi tiếng từng đạt giải Nobel Văn học 1970 người Nga Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn. Đây là tiểu luận cuối cùng mà Solzehnitsyn viết trên quê hương mình trước khi Liên Xô sụp đổ, và được lưu truyền trong giới trí thức Moskva thời gian đó. Tiểu luận này được viết ngày 12 tháng 2 năm 1974, là ngày mà cảnh sát mật đột nhập vào căn phòng của ông và bắt giam ông, và cũng là ngày xuất bản cuốn sách "Quần đảo Gulag". Ngày hôm sau ông bị trục xuất sang Tây Đức.
Ngay sau đó tiểu luận này đã được dịch ra tiếng Anh và đăng trên The Washington Post vào ngày 18 tháng 2 năm 1974.
Đây còn gọi là bản tuyên ngôn của người trí thức Nga trong giai đoạn dưới chế độ XHCN.
Nội dung tiểu luận.
Tiểu luận có đoạn viết "Chúng ta đã bị phi nhân tính hóa một cách kinh khủng tới mức ngày nay, chỉ vì một khẩu phần thực phẩm nhỏ nhoi, chúng ta cũng sẵn lòng từ bỏ tất các nguyên tắc của mình, linh hồn của mình, những cố gắng của tiền nhân và cơ hội dành cho hậu thế. Chúng ta chỉ cần làm sao để sự tồn tại mỏng manh của mình không bị phá vỡ. Chúng ta thiếu sự vững vàng, lòng kiêu hãnh và nhiệt huyết. Thậm chí chúng ta còn chẳng sợ cái chết vì vũ khí hạt nhân cho toàn thế giới, và chúng ta không sợ thế chiến thứ ba. Chúng ta trú ẩn trong những kẽ tường. Chúng ta chỉ sợ hãi những hành động can đảm công dân."
"Chúng ta chỉ sợ hãi rằng mình sẽ tụt ở đằng sau bầy đàn, sẽ phải bước đi một mình và đột nhiên nhận ra mình không còn bánh mỳ trắng, khí đốt và hộ khẩu Moscow.
Chúng ta đã bị nhồi sọ bởi các khóa học chính trị, và cũng tương tự thế, bị nhồi sọ bởi ý tưởng rằng hãy sống thật thoải mái và rồi tất cả sẽ tốt đẹp. Bạn không thể nào né tránh được môi trường và các điều kiện xã hội quanh bạn. Cuộc sống hàng ngày đòi hỏi phải có sự tỉnh táo. Việc đó thì có liên quan gì tới chúng ta chứ? Chúng ta đâu có thể thay đổi được điều gì?" | 1 | null |
"Roar" (tạm dịch: "Tiếng gầm") là một bài hát của ca sĩ - nhạc sĩ thu âm người Mỹ Katy Perry và nó là đĩa đơn mở đường cho album phòng thu thứ ba sắp phát hành của cô mang tên "Prism" (2013). Bài hát được sáng tác bởi Perry, Lukasz "Dr Luke" Gottwald, Max Martin, Bonnie McKee, và Henry "Cirkut" Walte. "Roar" là một bài hát nhạc pop điện tử có nhịp trung bình, được phát hành chính thức vào ngày 10 tháng 8 năm 2013 trên sóng radio và phát hành trên iTunes, Youtube và Amazon.com hai ngày sau đó. Video âm nhạc cho lời bài hát (lyric video) cũng được phát hành cùng ngày trên iTunes. "Roar" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc và nhiều người đã so sánh nó với đĩa đơn phát năm 2010 của Perry là "Firework"; tuy nhiên phần giai điệu của nó bị phần đông cho là khá giống với bài hát "Brave" của nữ danh ca Sara Bareilles. Vào ngày 4 tháng 9 năm 2013, "Roar" đạt được vị trí quán quân tại bảng xếp hạng Billboard Hot 100 cũng như nhiều bảng xếp hạng khác tại Vương Quốc Anh, Úc, Canada, Hàn Quốc và New Zealand.
Vào tháng 7 năm 2015, video âm nhạc của Roar đã được chứng nhận X10Certified của Vevo với hơn 1 tỷ lượt xem giúp Katy Perry trở thành nghệ sĩ đầu tiên có 2 video đạt 1 tỷ lượt xem trên hệ thống này (video đạt 1 tỷ lượt xem trước đó của Katy là Dark Horse). MV cũng lọt vào danh sách những video được nhiều nhất mọi thời đại trên YouTube. Hiện video âm nhạc đang là video có nhiều lượt views nhất của Perry với hơn 3,6 tỉ lượt xem.
Bối cảnh thực hiện.
Perry mô tả bài hát như sau: "Bài hát như một lời động viên, thúc đẩy bản thân bạn và có lẽ chính bản thân là kẻ bắt nạt lớn nhất cuộc đời bạn. Và bài hát đã lên tiếng cho bản thân và nó thực sự có sức mạnh". Khi được hỏi nếu "Roar" cũng chỉ dừng lại ở những thành công của các sản phẩm trước, cô ấy trả lời: "Bạn không bao giờ có thể quả quyết chắc chắn bởi vì mọi việc không phải luôn luôn diễn ra theo cách mà bạn nghĩ; nhưng đối với tôi, mọi thứ tôi làm đều dựa nhiều vào cảm giác trực quan - và nếu có một thứ gì đó thực sự khiến tôi có cảm giác như "nổi da gà" hoặc như bị "thủy đậu" thì tôi biết chắc rằng thứ đó đã đánh trúng vào tâm lý, tình cảm của tôi".
Phát hành và quảng bá.
Vào ngày 29 tháng 7 năm 2013, Perry thông báo album thứ tư của cô - "Prism" - sẽ được phát hành vào ngày 22 tháng 10 năm 2013 bằng việc dùng chiếc xe tải mạ vàng đi khắp thành phố Los Angeles để giới thiệu tên album và ngày phát hành ở 2 mặt của nó. Bài hát được phát sóng chính thức trên các đài phát thanh vào ngày 10 tháng 8 năm 2013. Trên iTunes, bài hát được chính thức phát hành vào ngày 12 tháng 8 năm 2013 và cùng với đó Perry đã tiến hành thúc đẩy việc phát hành tại thành phố New York.
Trước khi phát hành "Roar", Perry đã cho ra mắt người hâm mộ 4 teaser quảng bá cho bài hát và tất cả đã thông báo ngày phát hành chính thức vào ngày 12 tháng 8 năm 2013, mặc dù bài hát được ra mắt sớm hơn 2 ngày so với dự kiến. Đoạn teaser đầu tiên (tiêu đề: Burning Baby Blue) cho thấy hình ảnh Perry đốt mái tóc giả màu xanh dương mà cô đã sử dụng trong video bài hát "California Gurls", rồi sau đó hiện lên tên bài hát và ngày phát hành dự kiến. Đoạn teaser thứ 2 (tiêu đề: The Third Coming) cho thấy hình ảnh Perry trong một đám tang khi cô cùng những người xung quanh đang làm lễ tang cho "chiếc váy kẹo ngọt"; trong khi mọi người khóc tiếc thương thì Perry có vẻ rất lạnh lùng, cô còn nhoẻn miệng cười ở cuối đoạn video. Hình ảnh hai cô bé đội tóc giả màu tím được cho là đại diện cho những người hâm mộ đang xót xa, nuối tiếc khi phải chia tay album Teenage Dream. Đoạn teaser thứ 3 (tiêu đề: From A Meow To A Roar) cho thấy hình ảnh của một con mèo trắng đang ăn một món đồ chơi làm bằng lông chim và sau đó gầm lên. Đoạn teaser thứ 4 (tiêu đề: Satin Cape) là hình ảnh Perry bước vào phòng thu, mặc một chiếc áo khoác thêu hình đầu hổ và đứng trước micro. Hai đoạn teaser sau có chứa một đoạn nhỏ của bài hát.
Đoạn teaser chính thức cho video bài hát dài 21 giây được ra mắt vào ngày 25 tháng 8 năm 2013 thông qua Shazam cho thấy hình ảnh của Perry mang đậm chất người hùng Tarzan. Sau đó nó được đăng lên kênh Vevo chính thức của cô với tựa đề: "Queen of the Jungle". Maeve Keirans đến từ MTV đã rất ấn tượng với đoạn teaser trên và nói rằng:
"Katy Perry có một cách tiếp cận rất mới, rất khác với teaser "Roar": Cô ấy sống trong rừng xanh, đánh đu trên các cành cây, và giới thiệu những người bạn trong rừng của cô ấy cụ thể là một chú khỉ và một chú voi, và cô ấy đã sẵn sàng để gầm lên, Đoạn teaser dài 20 giây không có sự xuất hiện nhiều của Katy nhưng tất cả những gì chúng ta thấy được là cảnh cô ấy đu dây leo băng qua màn hình với trang phục áo da hổ và một chiếc váy làm từ lá cọ. Cô ấy đã chuyển từ hình ảnh "Killer Queen" sang hình ảnh "Jungle Queen"; rõ ràng là Katy đã chuyển mình từ việc che giấu bản thân trở thành việc tự tin thể hiện, thay đổi cái tôi như hình ảnh một người phụ nữ của núi rừng."
Ngoài ra, Nokia cũng đã đăng một tấm ảnh ghi lại cảnh quay hậu trường video "Roar" vào ngày 4 tháng 9 năm 2013.
Lyric video.
Vào ngày 12 tháng 8 năm 2013, một lyric video cho "Roar" được phát hành, sử dụng một ứng dụng mang tên WhatsApp. Video mô tả hình ảnh của Perry trong các hoạt động hàng ngày như ăn uống, đi vệ sinh, làm việc, tắm rửa và cùng lúc cô sử dụng iPhone để nhắn tin, nói chuyện cùng bạn bè; và những đoạn tin nhắn đó chính là lời của bài hát được gửi bởi nhiều cá nhân khác nhau. Hơn nữa những ký tự Emoji (ký tự vui) được sử dụng để thay thế một số từ ngữ trong bài hát.
Nhưng ý tưởng video lồng đoạn chat trên iPhone đã bị nhà sản xuất âm nhạc Dillon Francis cáo buộc là đạo ý tưởng đĩa đơn "Messages". Qua Twitter, Francis tuyên bố Katy đã "ăn cắp" ý tưởng của ông. Tuy nhiên, nữ ca sĩ không có phản hồi với thông tin này.
Sáng tác.
Bài hát mang âm hưởng tempo trung, một bài hát pop giàu năng lượng; bài hát cũng mang trong nó những yếu tố của Folk rock, Arena rock và Glam rock. Về phần lời, bài hát như một "tuyên ngôn quyền lực" mà trong đó Perry đã tự thúc đẩy, nâng cao bản thân mình; cô đã "tìm thấy sức mạnh trong chính bản thân mình". Phần điệp khúc, Perry hát: "I got the eye of the tiger, a fighter / Dancing through the fire, ’cause I am a champion / And you’re gonna hear me roar / Louder, louder than a lion" trong phần nhịp điệu mạnh mẽ và dồn dập. Perry đã giải thích nguồn cảm hứng đằng sau bài hát trong cuộc phỏng vấn với Mirror:
"Tôi viết bài hát khi tôi đã mệt mỏi với việc giấu kín tâm tư của mình mà không dám cất tiếng nói, điều đó gây ra nhiều nỗi bực bội. Kể từ album gần nhất (Teenage Dream), tôi phải đi điều trị tâm lý và bài hát này (Roar) nói về tâm trạng của tôi lúc đó"."
Tiếp nhận.
Sau khi phát hành, "Roar" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc. Gerrick D. Kennedy của tờ Los Angeles Times đã gọi bài hát là "sự ngọt ngào, một viên kẹo gây nghiện đã bị cắn mất một phần" và đồng thời ông cũng ca ngợi giọng hát của Perry. Rolling Stone cũng đưa ra những nhận xét tích cực cho bài hát, họ nói: "Với một giai điệu dễ gây nghiện và sự lặp đi lặp lại của câu hát 'You held me down but I got up' và 'You're gonna hear me roar', đĩa đơn mở đường này đã là một đòn tấn công quyết định từ album mới". James Montgomery của MTV News mô tả bài hát như là "một sự thật không thể chối cãi" ("undeniably genuine"), ông viết: "Đó là một cá nhân, đó là một nguồn sức mạnh và với sự kết hợp của giọng hát vang xa và một tình cảm nồng cháy, nó chắc chắn là một trong những ca khúc pop hoàn hảo và nó sẽ còn được yêu thích trong một thời gian dài". Michael Cragg của The Guardian gọi đó là "một đĩa đơn cỡ lớn từ một ngôi sao nhạc pop cỡ lớn và ai biết chính xác được những gì cô ấy đang làm".
Andrew Hampp từ tạp chí Billboard đã có đánh giá tích cực cho "Roar", nói rằng đó là một "phong cách trở lại của công thức đã làm nên album đầu tiên của cô ấy One of the Boys" nhưng có sự chỉ trích về phần lời của bài hát, họ cho rằng: "Trong bài hát xuất hiện những từ ngữ mang ý nghĩa trống rỗng và có lẽ vần điệu như vậy là để phù hợp với độ dậm nhịp (BPM) của nó".
Jon OBrien của Yahoo! ca ngợi bài hát với "phần điệp khúc gào rống" của nó và khen ngợi Perry cho sự "chỉ đạo rõ ràng phần còn lại của cảnh EDM đã được các đồng nghiệp của cô nghe theo"; tuy nhiên anh lưu ý rằng bài hát mang trong nó vài dấu vết của 'âm thanh tối' mà Perry đã hứa trước đó. Melinda Newman của HitFix gọi bài hát là một "sự quyết liệt, tuyên ngôn của niềm vui" và khen bài hát là "một sự thay đổi lớn theo đà đi lên" của Perry.
Nhiều ý kiến cho rằng có điểm tương đồng của "Roar" với bài hát phát hành năm 2010 của Perry, "Firework". Charley Rogulewski đến từ Vibe nhận xét bài hát "chắc chắn một bản hit trên radio (sure-to-be radio hit) với chủ đề nâng cao vị thế bản thân tương tự như bài hát "Firework" của cô ấy". Trang Digital Journal phát biểu: "Ca khúc là hơi thở trong lành để lắng nghe". Katie Aktinson từ tờ Entertainment Weekly cũng đã so sánh "Roar" với "Firework" và còn tuyên bố rằng những ca từ của bài hát thật thích hợp để trở thành một bài hát cổ vũ bóng đá; hơn nữa họ còn nói đùa rằng "Cincinnati Bengals (một đội bóng đá chuyên nghiệp của Mỹ) nên gửi cho cô ấy một lời đề nghị ngay bây giờ". Chiderah Monde từ New York Daily News thì đề cập đến phần điệp khúc bài hát "thật bắt mắt" và nói bài hát là "một chứng nhận khác" dành cho Perry. James Shotwell từ Under the Gun Review cho biết bài hát có một "cách tiếp cận mạnh mẽ hơn" so với những sản phẩm trước đây của Perry.
Diễn biến xếp hạng.
"Roar" tiêu thụ được 557.000 bản trong tuần đầu tiên phát hành nhờ vào lượng tải kỹ thuật số, giúp Perry trở thành nghệ sĩ có doanh thu tuần đầu tiên cao nhất tính trong năm 2013. Bài hát cũng trở thành bài hát có lượng tiêu thụ nhiều nhất trong tuần đầu của Perry từ trước đến nay, phá vỡ kỷ lục của "Firework" với lượng tiêu thụ 509.000 bản vào tháng 12 năm 2010. Sau khi ra mắt tại vị trí thứ 85 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 vào trung tuần tháng 8 thì bài hát đã vươn lên vị trí á quân ngay tuần sau đó, trở thành bài hát thứ 12 của Perry lọt được vào top 10 tại Hoa Kỳ và là đĩa đơn thứ 9 liên tiếp lọt vô được top 3 trên Hot 100. Sau khi đạt vị trí á quân, "Roar" cuối cùng cũng đã vươn lên được vị trí quán quân sau khi bán thêm được 448.000 bản và điều này đã giúp Perry có được quán quân thứ 8 trong sự nghiệp tại Hot 100. "Roar" cũng đã lọt vô được top 40 của bảng xếp hạng US Pop Songs và Adult Pop Songs. Trong ba ngày đầu tiên sau khi phát hành, bài hát đã tiêu thụ được hơn 272.000 bản; và theo thống kê tính đến tháng 9 năm 2013, "Roar" đã bán được 1.397.000 bản chỉ tính riêng tại Hoa Kỳ.
"Roar" vươn lên vị trí quán quân tại New Zealand Singles Chart chỉ sau 4 ngày phát hành, trở thành bài hát thứ 9 của Perry quán quân, thứ 2 quán quân trong tuần lễ đầu tiên và thứ 11 lọt vào top 10.
Tại Brasil, bài hát đã phá vỡ kỷ lục iTunes tại đây với 3.569 bản được bán ra ngay trong tuần lễ đầu tiên. Kỷ lục trước đây thuộc về "Heart Attack" của Demi Lovato với 2.526 bản được bán trong tuần đầu.
Tại úc, bài hát có mặt tại vị trí thứ 3 trong tuần đầu tiên tại bảng xếp hạng ARIA Singles Chart. Nó đạt vị trí quán quân ngay tuần sau đó, trở thành bài hát quán quân thứ ba của Perry tại đây.
Tại Vương Quốc Anh, "Roar" vươn lên vị trí quán quân trong tuần đầu tiên tại UK Singles Chart vào ngày 8 tháng 9 năm 2013; bán được 179.500 bản trong tuần đầu và chiếm ngôi đầu của "Burn" của Ellie Goulding khi mà bài hát này đã giữ quán quân được 3 tuần. Bài hát trở thành đĩa đơn thứ tư của Perry quán quân tại đây, sau "Part of Me" quán quân tháng 3 năm 2012, "California Gurls" quán quân tháng 6 năm 2010 và "I Kissed a Girl" quán quân tháng 8 năm 2008.
Video âm nhạc.
Video được quay trong vòng 3 ngày tại Los Angeles County Arboretum và tại Vườn Bách Thảo (Botanic Garden), được đạo diễn bởi Grady Hall và Mark Kudsi. Video âm nhạc chính thức cho "Roar" được phát hành vào ngày 5 tháng 9 năm 2013. Trong video, Perry và bạn trai cô (do Brian Nagel đóng) đang bị mắc kẹt trong một khu rừng già và họ đã thoát nạn sau một vụ tai nạn máy bay. Khi đêm xuống, anh chàng đã bị một con hổ tấn công khi mà cả hai người đang khám phá khu rừng. Cô gái vì quá sợ hãi đã bỏ chạy và dần dần qua năm tháng cô đã làm bạn với những loài vật ở xung quanh. Từ một cô gái nhút nhát, sợ sệt thì cô ta đã trở thành "nữ hoàng của rừng xanh" và cô đã gọi con hổ là "Kitty Purry" sau khi thuần hóa được nó.
Tranh cãi.
Sau khi phát hành "Roar", đã có nhiều cáo buộc cho rằng Perry đã đạo nhạc bài hát "Brave" của Sara Bareilles. Bareilles đã phát biểu: "Katy là một người bạn của tôi và chúng tôi đã là biết nhau được một thời gian dài, vì thế cô ấy đã nhắn tin cho tôi về việc này và chúng tôi đã trao đổi về nó"; "Thật sự xấu hổ khi mà việc này đã trở thành một vở kịch. Nó ảnh hưởng tiêu cực đến hai nghệ sĩ đã dùng tin nhắn để trao đổi với nhau". Cô còn nói thêm: "Nếu tôi không bị điên thì tôi không biết lý do gì để ai đó trở nên khó chịu. Hãy thư giãn đi, hãy ăn mừng khi chúng ta có thể thoát khỏi những rắc rối đó và hãy khuyến khích mọi người mạnh mẽ lên".
Theo Twitchy Entertainment, Dr. Luke, nhà sản xuất cũng như tác giả của "Roar" đã đăng lên Twitter vào ngày 14 tháng 8 năm 2013 để đáp trả các cáo buộc, anh nói "Roar" được sáng tác và thu âm [vào tháng 3 năm 2013] trước khi "Brave" ra mắt.
Trước những phản ứng của dư luận thì "Brave" đã gây được sự chú ý, và Epic Records đã quyết định phát hành "Brave" trên đài phát thanh quốc gia.
Thêm nữa ý tưởng video lồng đoạn chat trên iPhone đã bị nhà sản xuất âm nhạc Dillon Francis cáo buộc là đạo ý tưởng đĩa đơn "Messages". Qua Twitter, Francis tuyên bố Katy đã "ăn cắp" ý tưởng của ông.
Biểu diễn trực tiếp.
Katy Perry biểu diễn trực tiếp "Roar" lần đầu tiên tại MTV Video Music Awards 2013 như là tiết mục kết thúc chương trình. Màn biểu diễn đặc biệt với hình ảnh võ sĩ quyền anh của Perry được biểu diễn dưới chân cầu Brooklyn. | 1 | null |
Áo sơ-mi (bắt nguồn từ tiếng Pháp: "chemise") là loại hàng may mặc bao bọc lấy thân mình và hai cánh tay của cơ thể. Ở thế kỷ 19, "sơ mi" là một loại áo lót bằng vải dệt mặc sát da thịt. Ngày nay, sơ mi có cổ áo, tay áo và hàng nút phía trước. Phiên bản dành cho nữ được gọi là sơ mi nữ (tiếng Pháp: "chemisier"). Sơ mi được đặc trưng bởi loại vải dệt nên nó. Vải bông ("cotton") là vật liệu được dùng nhiều nhất, ngoài ra còn có vải lanh, lụa và vật liệu thuần tổng hợp hay có pha lẫn sợi bông.
Tùy theo mốt và phép lịch sự mà có thể chọn lựa cho áo sơ mi vào quần ("đóng thùng") hay không. Có thể mặc sơ mi kèm cà vạt ở cổ áo.
Lịch sử.
Sơ mi vẫn đóng vai trò là một món đồ lót của nam cho đến tận thế kỷ 20. Mặc dù "sơ mi" dành cho nữ có quan hệ gần gũi với áo cho nam nhưng áo của nam mới là loại áo biến đổi trở thành chiếc sơ mi hiện đại. Vào thời Trung Cổ, sơ mi là loại áo trơn, không nhuộm, mặc sát da thịt và dưới các lớp áo khác. Trong các tác phẩm hội họa thời kỳ này, người ta chỉ vẽ sơ mi lộ ra khi người mặc nó trong tác phẩm là những nhân vật hèn mọn như người chăn cừu, tù nhân và người biết sám hối. Trong thế kỷ 17, sơ mi nam được phép thể hiện trong hội họa, cũng giống như các tác phẩm gợi dục vẽ đồ lót ngày nay. Vào thế kỷ 18, thay vì mặc quần trong thì nam giới "dựa vào phần đuôi dài của sơ mi... để thay cho quần đùi". Nhà sử học nghiên cứu về trang phục thế kỷ 18 là Joseph Strutt tin rằng đàn ông nào không mặc sơ mi khi đi ngủ là đàn ông không đứng đắn. Ngay cả đến tận năm 1879, việc mặc độc sơ mi trên người cũng còn được xem là không phù hợp.
Sau Chiến tranh Trăm Năm và nạn dịch hạch, các kỹ thuật dệt và nhuôm được người Flanders - thu lợi nhờ sự trung lập của họ trong cuộc chiến - phát triển, đáp ứng cho dân số đang tăng, điều kiện sống tốt lên và nhu cầu hàng xa xỉ của giới quý tộc. Vào thế kỷ 15, người ta bổ sung cổ áo và sơ mi bắt đầu trở thành loại trang phục của phái nam. Ở thế kỷ 16, sơ mi cho nam thường có họa tiết thêu trang trí và đôi khi có thêm diềm xếp nếp hay đăng ten ở cổ áo và cổ tay áo; xuyên suốt thế kỷ 18, sơ mi có diềm xếp nếp dài ở cổ áo hoặc đăng ten trên cổ áo được xem là mốt thời thượng. Việc trang trí cổ áo cầu kỳ cũng là để tượng trưng cho địa vị xã hội của người mặc. Áo sơ mi nhuộm màu bắt đầu xuất hiện vào đầu thế kỷ 19. Chúng được xem là loại áo thông thường và cho đến thế kỷ 20, áo này chỉ dành riêng cho tầng lớp công nhân ở địa vị thấp trong xã hội. Một quý ông "mặc sơ mi màu xanh da trời là điều không tưởng vào năm 1860, nhưng điều đó đã trở thành tiêu chuẩn ở năm 1920 và phổ biến ở hầu hết các sự kiện thông thường vào năm 1980."
Phụ nữ Mỹ và châu Âu bắt đầu mặc áo sơ mi vào năm 1860 khi sơ mi Garibaldi - một loại sơ mi màu đỏ do những người đấu tranh vì quyền tự do dưới sự lãnh đạo của Giuseppe Garibaldi mặc - trở nên phổ biến nhờ công của Nữ hoàng Eugénie nước Pháp. Vào cuối thế kỷ 19, cuốn từ điển "Century Dictionary" miêu tả sơ mi thông thường là loại áo "làm bằng vải bông, với ngực áo bằng vải lanh, cổ tay áo được làm cứng bằng hồ, cổ áo và cổ tay áo thường có thể tách rời ra và có thể điều chỉnh được."
Bộ phận.
Áo sơ mi có các bộ phận là thân áo, cổ áo, tay áo, cổ tay áo, túi áo.
Cổ áo là phần quan trọng của sơ mi. Có các loại cổ khác nhau:
Có thể là tay ngắn hoặc tay dài (kéo đến cổ tay).
Có đường mở áo nằm dọc phía trước áo với hàng nút hay khóa kéo.
Một số loại cổ tay áo khác nhau là:
Có thể có hoặc không có túi áo; túi áo có thể hở hoặc có nắp hoặc có nút hay khóa cài.
Chất liệu làm áo.
Có hai loại sợi chính dùng để dệt áo là sợi thiên nhiên và sợi nhân tạo (sợi tổng hợp). Về sợi thiên nhiên, có sợi lanh (dùng đầu tiên trong lịch sử), sợi bông (dùng phổ biến), sợi gai, len, lụa. Về sợi tổng hợp, có polyester, tencel, viscose...Ngoài ra người ta còn dùng polyester pha sợi bông (poly-cotton). | 1 | null |
Chase XCG-20, còn gọi là XG-20 và định danh công ty MS-8 Avitruc, là một loại tàu lượn chiến đấu cỡ lớn, được phát triển ngay sau Chiến tranh thế giới II bởi công ty Chase Aircraft Company cho không quân Hoa Kỳ, đây cũng là tàu lượn lớn nhất từng được chế tạo ở Hoa Kỳ. XG-20 không được đưa vào sản xuất do những thay đổi của không quân, nhưng với bản sửa đổi thành máy bay vận tải hai động cơ Fairchild C-123 Provider, nó được chấp nhận trang bị và được sử dụng rộng rãi trong Chiến tranh Việt Nam. | 1 | null |
Bệnh tụ máu ở tai chó, một số tài liệu còn nói là bệnh vỡ mạch lâm ba tai, phồng tai, xoăn tai, linessanter ở chó
Biểu hiện.
Tai chó có biểu hiện căng dần, lúc đầu mềm sau đó căng lên, sờ vào cảm giác căng cứng
Chó có thể bị 1 bên tai hoặc cả hai bên tai. lúc đầu có thể ở phần vành tai, bệnh nặng hơn có thể lan xuống cả phần đầu của chó.
Khi bệnh đã lan đến phần đầu của chó có thể gây kế phát một số bệnh ở não bộ có thể gây ra tử vong
Nguyên nhân.
Do ký sinh trùng cắn, đốt: Ve, ong
Do tổn thương vật lý: Va đập mạnh phần tai gây vỡ mạch máu trong
Điều trị.
Phẫu thuật ngoại khoa
Dùng kháng sinh chống nhiễm khuẩn sau khi phẫu thuật.
Penicillin, cefortaxime
Phòng bệnh.
Diệt ký sinh trùng
Vệ sinh tai chó định kỳ | 1 | null |
Bộ Giáo lý Đức tin (Latinh: Congregatio pro Doctrina Fidei viết tắt C.D.F., trước đây gọi là "Thánh Bộ Tòa án Dị giáo Tối cao của Rôma và Hoàn vũ", gọi ngắn gọn là "Tòa án Dị giáo Rôma") là cơ quan lâu đời nhất trong Giáo triều Rôma của Tòa Thánh. Được thành lập bởi Giáo hoàng Phaolô III vào năm 1542, mục tiêu duy nhất bộ này là "phổ biến Giáo lý Công giáo và bảo vệ những quan điểm truyền thống Kitô giáo nếu nó gặp nguy hiểm trước các học thuyết mới không thể chấp nhận được". Văn phòng của bộ này đặt tại Điện Thánh Bộ, ngoại thành Vatican. Ban cố vấn của bộ gồm các hồng y, Giám mục, linh mục, giáo dân là những nhà thần học và giáo luật. Trong các nước Công giáo, tên gọi thông thường của Bộ này là Thánh Bộ (Santo Oficio).Ngày 14/2/2022, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã ban hành Tự sắc “Fidem servare” - bảo vệ Đức tin - trong đó ngài sửa đổi cơ cấu nội bộ của Bộ Giáo lý Đức tin. Cụ thể Đức Giáo Hoàng thành lập hai phân bộ phụ với thẩm quyền riêng biệt về giáo lý và kỷ luật, và bổ nhiệm Tổng Thư ký cho mỗi phân bộ.
Lịch sử.
Ngày 21 tháng 7 năm 1542, Giáo hoàng Phaolô III công bố Tông Hiến "Licet ab initio", thiết lập Thánh Bộ Tòa án Dị giáo Tối cao của Rôma và Hoàn vũ. Các viên chức gồm các hồng y và các giao sĩ có nhiệm vụ "duy trì và bảo vệ sự toàn vẹn của đức tin, kiểm tra và chống lại các học thuyết sai trái". Nó được coi là tòa án tối cao xét xử các vụ việc mà giáo hội cho là dị giáo và là một phần quan trọng của Phong trào chống cải cách. Năm 1904, Giáo hoàng Piô X đổi tên cơ quan này thành Thánh bộ Nhiệm Thánh Tối cao. Tại nhiều quốc gia có truyền thống Công giáo, người ta gọi đơn giản là Thánh Bộ.
Đến ngày 7 tháng 12 năm 1965, khi bế mạc Công đồng Vatican II, cơ quan này được đổi tên thành Thánh bộ Giáo lý Đức tin. Từ năm 1983, khi Bộ Giáo Luật ra đời và có hiệu lực thì chữ "Thánh" đã bị loại bỏ trong tên của tất cả các bộ thuộc Giáo triều Rôma và do đó, Thánh bộ Giáo lý Đức tin ngày nay có tên là Bộ Giáo lý Đức tin. | 1 | null |
Dưới đây là bài chi tiết về Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2014 khu vực châu Phi (vòng 2).
Thể thức.
Ở vòng loại này, 28 đội được xếp hạng vừa của khu vực châu Phi sẽ thi đấu cùng với 12 đội xuất sắc của vòng 1. Các đội đã được rút ra thành mười nhóm bốn đội, lễ bốc thăm chia bảng diễn ra tại Marina da Glória ở Rio de Janeiro, Brasil vào ngày 30 tháng 7 năm 2011.
Trận đấu diễn ra từ ngày 1 tháng 6 năm 2012 đến ngày 10 tháng 9 năm 2013. 10 đội đứng đầu mỗi bảng được đặc cách tiến vào vòng 3.
Hạt giống.
Kết quả bốc thăm hạt giống dựa trên bảng xếp hạng FIFA được công bố vào tháng 7 năm 2011.
† Đội thắng cuộc ở vòng 1 có danh tính không được biết đến tại thời điểm công bố
Liên kết ngoài.
</noinclude> | 1 | null |
Giải thưởng Bravo là một giải thưởng thường niên của tờ báo Ý Guerin Sportivo được trao cho các cầu thủ xuất sắc của bóng đá châu Âu. Người đầu tiên giành được giải thưởng này là cầu thủ người Anh Jimmy Case. Tới năm 1992 chỉ những cầu thủ có độ tuổi dưới 23 chơi cho các đội bóng giành quyền tham dự cúp châu Âu (UEFA Champions League, UEFA Cup, UEFA Cup Winners' Cup) và những cầu thủ dưới 21 tuổi chơi cho tất cả các đội bóng được quyền tham gia.
Người chiến thắng được chọn là cầu thủ chơi hay nhất trong khoảng thời gian từ mùa thu năm nay-mùa xuân năm sau. | 1 | null |
Giải thưởng Âm nhạc Hàn Quốc (Hangul: 한국대중음악상) là một giải thưởng âm nhạc lớn được tổ chức hàng năm ở Hàn Quốc để công nhận những thành tựu của các nghệ sĩ trong lĩnh vực âm nhạc. Lễ trao giải đầu tiên diễn ra vào năm 2004. Người chiến thắng được xác định bởi một hội đồng thẩm định bao gồm các nhà phê bình âm nhạc, đạo diễn các chương trình âm nhạc cũng như những chuyên gia khác trong ngành. Đây là giải thưởng mang tính hàn lâm duy nhất tại Hàn Quốc.
Danh sách hạng mục.
Giải thưởng Âm nhạc Hàn Quốc bao gồm 24 hạng mục.
Giải thưởng chính.
Nghệ sĩ âm nhạc của năm
"Nghệ sĩ âm nhạc của năm" từ 2004 đến 2007 được chia ra làm 3 hạng mục cho Nghệ sĩ Nữ xuất sắc nhất, Nghệ sĩ Nam xuất sắc nhất và Nhóm nhạc xuất sắc nhất. Nhưng từ 2008 trở đi chỉ còn 1 hạng mục là Nhạc sĩ xuất sắc nhất. | 1 | null |
Bell XP-52 và đoi sau của nó XP-59 là những mẫu thiết kế máy bay tiềm kích bởi tập đoàn hàng không Bell của Mỹ.
Cả hai mẫu đều mang thiết kế cánh xà dọc đôi, động cơ lắp phía sau điều chỉnh bộ cánh quạt quay ngược của nó.
Khi mẫu XP-59 bị huỷ bỏ thì ký hiệu XP-59A đã được dùng làm giả danh cho một nguyên mẫu máy bay chiến đấu phản lực bí mật, sau đã bắt đầu sản xuất là máy bay Bell P-59 Airacomet | 1 | null |
Đại học Lodz (University of Łódź) được thành lập vào ngày 24 tháng 5 năm 1945 tại thành phố Łódź, Ba Lan. Trường được coi là một sự chuyển tiếp của các cơ sở giáo dục tại Łódź trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, bao gồm: — Viện Đào tạo Giáo viên (1921–1928), Trường Đại học Khoa học Xã hội và Kinh tế (1924–1928) và một bộ phận của trường Đại học Tự do Ba Lan (1928–1939).
Đại học Lodz là trường Đại học công lập, hoàn toàn thuộc sở hữu nhà nước. Đây là một trong mười tám Đại học Công lập ở Ba Lan.
Đại học Lodz có hơn 47 nghìn sinh viên theo học ở 12 khoa với hơn 60 ngành học và 170 chuyên ngành. Tổng số giảng viên của trường là 2370 trong đó 632 có trình độ Tiến sĩ trở lên.. Đại học Lodz có các chương trình đào tạo BA, MA và các khóa học sau đại học được giảng dạy bằng tiếng Anh cho sinh viên Ba Lan và sinh viên quốc tế.
Đại học Lodz có quan hệ hợp tác với 385 trường đại học, viện nghiên cứu trên toàn thế giới., trong đó có các trường Đại học lớn như Université Jean Moulin Lyon 3, Université François – Rabelais (Tours), University of Texas at Austin, Westfälische Wilhelms – Universität Münster, University of Baltimore, R. H. Smith School of Business, University of Maryland, Centria University of Applied Sciences (Kokkola, Finland), và Towson University. Sinh viên của Đại học Lodz có thể tốt nghiệp với chứng chỉ kép của cả hai trường. | 1 | null |
Cá nóc nhím chấm vàng, hay cá nóc gai thô ngắn, tên khoa học là Cyclichthys spilostylus, là một loài cá biển thuộc chi "Cyclichthys" trong họ Cá nóc nhím. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1982.
Từ nguyên.
Từ định danh "spilostylus" được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: "spílos" (σπίλος, "chấm") và "stûlos" (στῦλος, "cái cột"), hàm ý đề cập đến các đốm có màu tương phản với gai trên thân của loài cá này.
Phạm vi phân bố và môi trường sống.
Từ Biển Đỏ, cá nóc nhím chấm vàng được phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, trải dài về phía đông đến Philippines, ngược lên phía bắc đến Nhật Bản, giới hạn phía nam đến Nam Phi, Úc và Nouvelle-Calédonie; xa về phía đông, cá nóc nhím chấm vàng đã được ghi nhận tại quần đảo Galápagos (Ecuador).
Thông qua kênh đào Suez mà cá nóc nhím chấm vàng đã tiến sâu vào Địa Trung Hải, khi sự xuất hiện của chúng được ghi nhận ngoài khơi Israel, vịnh Mersin (Thổ Nhĩ Kỳ) và Liban.
Cá nóc nhím chấm vàng sống trên các thảm cỏ biển, gần các rạn san hô hay những khu vực có nhiều bọt biển (hải miên) phát triển, được thu thập ở độ sâu khoảng từ 3 đến 90 m.
Mô tả.
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở cá nóc nhím chấm vàng là 34 cm. Tuy nhiên, cá thể duy nhất được thu thập ở Thổ Nhĩ Kỳ có chiều dài tổng thể đạt đến 46,5 cm.
Chúng có màu nâu xám sẫm, bụng trắng, được phủ đầy các gai nhỏ và cứng. Thân nổi bật với các đốm màu vàng cam ở gốc các gai trên lưng, còn đốm ở gai dưới bụng có màu đen. Các vây màu xám.
Số tia vây ở vây lưng: 11–13; Số tia vây ở vây hậu môn: 10–12; Số tia vây ở vây ngực: 20–22; Số tia vây ở vây đuôi: 8.
Sinh thái học.
Theo kết quả khảo sát ở Việt Nam vào năm 2004–2005 thì chưa thấy độc tính ở cá nóc nhím chấm vàng, nhưng điều này không có nghĩa là trong tương lai chúng hoàn toàn không có độc.
Cá nóc nhím chấm vàng có thể hoạt động cả về đêm. Thức ăn của chúng là các loài thủy sinh không xương sống có vỏ cứng. Mặc dù cá trưởng thành sống ở tầng đáy, cá bột lại sống ở gần mặt nước. | 1 | null |
Giải Guizot (tiếng Pháp: Prix Guizot) là một giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp được thiết lập năm 1994, dành cho những tác giả có tác phẩm xuất sắc về môn lịch sử nói chung.
Giải này được đặt theo tên François Pierre Guillaume Guizot (4.10.1787 - 12.9.1874), nhà sử học và cựu viện sĩ Viện hàn lâm Pháp. | 1 | null |
Cá nóc ba răng, tên khoa học Triodon macropterus, là một loài cá nóc, các loài còn sống duy nhất trong chi Triodon và họ Triodontidae. Các thành viên khác trong họ được biết đến từ các hóa thạch kéo dài trở lại Eocene.
Nó có nguồn gốc ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, nơi nó được tìm thấy ở độ sâu đến 300 mét (980 ft). Tên của nó xuất phát từ tiếng Hy Lạp Tria có nghĩa là "ba" và odous có nghĩa là "răng", và đề cập đến ba răng hợp nhất tạo nên một cấu trúc mỏ.
Nó đạt chiều dài tối đa 54 cm (21 in). Nó có hình dạng đặc biệt, với một nắp bụng lớn bằng hoặc lớn hơn cơ thể của nó, nó bơm phồng với nước biển khi bị đe dọa. | 1 | null |
Giải thưởng Tiểu luận (tiếng Pháp: Prix de l'Essai) là một giải thưởng văn học hàng năm của Viện hàn lâm Pháp, được thành lập năm 1971 với sự hỗ trợ của Quỹ Broquette-Gonin.
Giải thưởng này dành cho một tác phẩm hoặc toàn bộ tác phẩm tiểu luận của một tác giả. | 1 | null |
Kyle Andrew Walker (sinh ngày 28 tháng 5 năm 1990), là một cầu thủ bóng đá người Anh hiện đang thi đấu cho câu lạc bộ Manchester City và Đội tuyển Anh ở vị trí hậu vệ cánh phải và trung vệ. Được coi là một trong những hậu vệ cánh xuất sắc nhất trong thế hệ của mình, Walker nổi tiếng với tốc độ, sức mạnh và tầm nhìn.
Walker bắt đầu sự nghiệp của mình tại câu lạc bộ thời niên thiếu Sheffield United khi mới 7 tuổi. Anh ra mắt đội một ở tuổi 18 sau thời gian cho mượn ở Northampton Town . Anh ấy đã gây ấn tượng khi chơi cho United và chơi trong trận chung kết play-off Championship năm 2009 . Màn trình diễn của anh ấy đã giúp anh ấy chuyển đến câu lạc bộ Premier League Tottenham Hotspur , trước khi ngay lập tức được cho Sheffield United mượn lại. Sau khi được cho mượn thêm ở Queens Park Rangers và Aston Villa , Walker đã củng cố vị trí của mình trong đội một Tottenham. Anh là một phần của đội hình Tottenham được dẫn dắt bởi huấn luyện viên Mauricio Pochettino đã về nhì ở Premier League mùa giải 2016–17 và Carabao Cup 2014-15.
Walker gia nhập Manchester City vào năm 2017 với mức phí 45 triệu bảng. Trong suốt sự nghiệp ở Man City, anh đã được huấn luyện bởi Pep Guardiola. Khi ở City, anh đã giành được 5 chức vô địch Premier League, 4 Cúp EFL, 2 FA Cup, và 1 UEFA Champions League vào năm 2023 như một phần của cú ăn ba châu lục. Anh ấy đã ba lần có tên trong Đội hình PFA của năm , vào các mùa giải 2011–12, 2016–17 và 2017–18.
Walker đã chơi cho Đội tuyển Anh ở cấp độ và trước khi ra mắt đội tuyển quốc gia chuyên nghiệp vào tháng 9 năm 2011. Anh ấy đã đại diện cho Anh tại hai UEFA Euro, vào năm 2016 và 2020, và tại hai kỳ FIFA World Cup, vào năm 2018 và 2022.
Sự nghiệp câu lạc bộ.
Sheffield United.
Walker gia nhập học viện Sheffield United khi mới bảy tuổi sau khi nhận được lời đề nghị từ Football Unites, Racism Divides,anh được chọn vào đội hình chính thức vào năm 2008.Tháng 11 năm đó anh gia nhập câu lạc bộ Northampton Town theo một bản hợp đồng cho mượn.
Sau khi trở lại câu lạc bộ,Walker có trận đấu đầu tiên cho Sheffield United vào ngày 13 tháng 1 năm 2009,tại vòng 3 cúp FA đấu với Leyton Orient và đã thi đấu rất xuất sắc.
Tottenham Hotspur.
Vào ngày 22 tháng 6 năm 2009, Walker gia nhập câu lạc bộ Tottenham Hotspur cùng với hậu vệ Kyle Naughton với mức phí chuyển nhượng 9 triệu £,nhưng đã được cho mượn lại tới câu lạc bộ vùng Yorkshire trong mùa giải 2009–10 như một phần của hợp đồng.Sau khi trở lại, Walker có trận đấu đầu tiên cho Tottenham vào ngày 27 tháng 3 năm 2010, trong trận thắng 2–0 trước Portsmouth.
Manchester City.
Vào ngày 14 tháng 7 năm 2017, Walker đã ký một hợp đồng 5 năm với câu lạc bộ Manchester City trị giá 50 triệu bảng.
Danh hiệu.
Manchester City
Cá nhân | 1 | null |
Giải thưởng lớn của Cộng đồng Pháp ngữ (tiếng Pháp: Grand prix de la francophonie) là một giải thưởng do Viện hàn lâm Pháp trao hàng năm cho một tác phẩm của một nhân vật có đóng góp xuất sắc vào việc phát triển ngôn ngữ Pháp trong quốc gia mình hoặc trên toàn thế giới.
Giải này được "Quỹ quốc tế" ("Fondation internationale"), do chính phủ Canada mở ra năm 1986, được chính phủ Pháp, công quốc Monaco, vương quốc Maroc cùng nhiều khoản tặng dữ tư nhân khác bổ sung.
Có sự khác biệt về khoản tiền thưởng mỗi năm. Ngoài ra Viện hàn lâm Pháp cũng trao thêm huy chương bạc mạ vàng của Viện cho những người khác | 1 | null |
Hóa thực vật (), một thuật ngữ tạo bởi tiếp đầu ngữ "phyto" có nghĩa là thực vật (plant) trong tiếng Hy Lạp và "chemical" có nghĩa là hóa học, là những hợp chất tự nhiên có sẵn trong các loài thực vật. Một số chịu trách nhiệm cho màu sắc và các thuộc tính cảm quan khác, chẳng hạn như màu tím thẫm của quả việt quất và mùi của tỏi.
Thuật ngữ này tuy thường được sử dụng để chỉ những hợp chất có thể có ý nghĩa sinh học, ví dụ như chất chống oxy hóa, nhưng không được xem như là các chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể. Chúng có tính chất như thực phẩm chức năng trong việc duy trì và tăng cường sức khỏe con người. Các chất này hiện diện trong rau quả và hoạt động như dược liệu với mục đích ngăn ngừa hoặc điều trị bệnh và bảo vệ cơ thể.
Các nhà khoa học ước tính có khoảng 10000 chất phytochemical khác nhau có khả năng tác động đến các bệnh như ung thư, đột quỵ hoặc hội chứng chuyển hóa.
Vài Phytochemical tiêu biểu.
Ngoài những kiến thức cụ thể về những tác dụng hoặc cấu tạo tế bào của chúng, các phytochemical đã được coi là những loại thuốc thiên niên kỷ. Ví dụ, Hippocrates có thể kê đơn lá cây liễu để trị sốt. Salicin, có đặc tính chống viêm và giảm đau, ban đầu được chiết xuất từ vỏ của cây liễu trắng và sau đó sản xuất tổng hợp đã trở thành thuốc aspirin được bán tại quầy hoặc "không kê đơn" (over-the-counter - OTC) chủ yếu. Có bằng chứng từ các nghiên cứu phòng thí nghiệm các phytochemiacl trong trái cây và rau có thể làm giảm nguy cơ ung thư, có thể do chất xơ, chất chống oxy hóa polyphenol và tác dụng chống viêm. Phytochemical cụ thể, chẳng hạn như chất xơ lên men, được phép sử dụng theo tuyên bố có giới hạn về sức khỏe bởi Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA).
Một loại thuốc điều trị ung thư quan trọng, Taxol (paclitaxel), là một phytochemical ban đầu chiết xuất và tinh chế từ các cây thủy tùng ở Thái Bình Dương.
Một số phytochemical với các đặc tính sinh lý có thể là các nguyên tố hóa học đơn giản chứ không phải là phân tử hữu cơ phức tạp. Ví dụ, chất Selen, một nguyên tố phong phú trong nhiều loại trái cây và rau quả, có liên quan đến những cách thức chuyển hóa chủ yếu trong cơ thể, bao gồm cả quá trình chuyển hóa hoóc môn tuyến giáp và hệ thống miễn dịch. Đặc biệt, nó là một chất dinh dưỡng và đồng yếu tố thiết yếu cho sự tổng hợp enzyme như glutathione, một chất chống oxy hóa nội sinh.
Thử nghiệm lâm sàng.
Hiện tại có rất nhiều hóa chất thực vật trong các thử nghiệm lâm sàng cho một loạt các bệnh. Ví dụ, Lycopene trong cà chua, đã được thử nghiệm trong các nghiên cứu trên người đối với các bệnh tim mạch và ung thư tuyến tiền liệt.
Tuy nhiên những nghiên cứu này đã không đạt được đầy đủ sự đồng thuận mang tính khoa học để kết luận ảnh hưởng đến bất cứ loại bệnh nào. Quan điểm của cục FDA cho rằng: "Vài nghiên cứu khoa học với số lượng rất hạn chế và sơ bộ cho thấy ăn một nửa đến một cốc cà chua và/hoặc nước sốt cà chua một tuần có thể làm giảm nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt. Cục thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ kết luận rằng có rất ít bằng chứng khoa học ủng hộ cho tuyên bố này."
Tương tự như vậy, mặc dù lutein và zeaxanthin bị nghi ngờ về tác dụng ức chế thoái hóa điểm vàng và đục thủy tinh thể, đã có bằng chứng khoa học đầy đủ từ các thử nghiệm lâm sàng về những tác dụng hoặc yêu cầu sức khỏe cụ thể.
Bảo tồn phytochemical trong thực phẩm khi chế biến.
Mỗi loại phytochemical, thực phẩm khác nhau thì cần những cách chế biến thực phẩm phù hợp để bảo tồn. Đa số các chất phytochemical trong các loại nông sản vừa thu hoạch có thể bị phá hủy hoặc bị loại bỏ bằng các công nghệ chế biến hiện đại như xử lý ở nhiệt độ cao như nấu ăn Vì vậy
Cũng có ngoại lệ như Lycopene, không những không bị phá hủy, mà nồng độ càng tăng (cô đặc thêm), giúp cơ thể có thể dễ dàng hấp thu và hoạt tính sinh học xuất hiện khi đã qua chế biến như nấu cà chua với một ít dầu, hoặc chế biến thành cà chua cô đặc (tomato paste). | 1 | null |
Giuse Nguyễn Năng (sinh 1953) là một Giám mục người Việt Nam của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông hiện đảm nhận vai trò Tổng giám mục Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam và là Tổng Giám mục Trưởng của Giáo tỉnh Sài Gòn. Ông cũng từng đảm nhận vai trò Giám mục Chính tòa và Giám quản Tông Tòa Giáo phận Phát Diệm, Phó chủ tịch Hội đồng Giám mục hai nhiệm kì (2016–2019; 2019–2022). Khẩu hiệu giám mục của ông là "Hiệp Thông – Phục Vụ".
Giám mục Năng sinh năm 1953 tại Ninh Bình, sau đó năm 1954 di cư cùng gia đình vào Đồng Nai. Sau quá trình tu học dài hạn kéo dài từ năm 1963 đến năm 1978, vì hoàn cảnh thời thế, ông tạm ngừng việc tu học và đến phụ giúp Tu hội Tông Đồ Nhỏ tại Bạch Lâm, Thống Nhất, Đồng Nai và hỗ trợ mục vụ tại xứ Thuận Hòa, Biên Hòa trong vòng một năm trước khi truyền chức linh mục tháng 6 năm 1990.
Giai đoạn đầu đời linh mục, linh mục Nguyễn Năng được bổ nhiệm làm linh mục chính xứ Thuận Hoà, sau đó được cử đi du học Roma năm 1998. Bốn năm du học kết thúc, linh mục Năng trở về với bằng Tiến sĩ Thần học Tín lý. Từ năm 2003, ông đặc trách chủng sinh Giáo phận Xuân Lộc và từ năm 2006 là Giám đốc Đại chủng viện Xuân Lộc.
Cuối tháng 7 năm 2009, Tòa Thánh bổ nhiệm linh mục Giuse Nguyễn Năng làm giám mục chính tòa Giáo phận Phát Diệm. Lễ tấn phong cho tân giám mục cử hành tại Nhà thờ chính tòa Phát Diệm vào ngày 8 tháng 9 năm 2009. Ngày 19 tháng 10 năm 2019, Tòa Thánh công bố thông tin bổ nhiệm Giám mục Năng làm Tổng giám mục Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh. Ông chính thức nhậm chức Tổng giám mục tại Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn vào ngày 11 tháng 12.
Trong Đại hội lần thứ 15 của Hội đồng Giám mục Việt Nam diễn ra đầu tháng 10 năm 2022 tại Hà Nội, các Giám mục trong Hội đồng đã bầu chọn Tổng giám mục Nguyễn Năng đảm nhận chức vụ Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam nhiệm kỳ 2022–2025.
Thân thế và tu tập.
Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Năng sinh ngày 24 tháng 11 năm 1953 tại giáo xứ Phúc Nhạc, xã Khánh Nhạc, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, thuộc Giáo phận Phát Diệm. Từ năm 1954 đến năm 1973, gia đình cậu bé Năng định cư tại Giáo xứ Bạch Lâm, thuộc xã Gia Tân, quận Kiệm Tân, tỉnh Long Khánh, nay thuộc xã Gia Tân 2, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai, thuộc Giáo phận Xuân Lộc. Nguyễn Năng là cháu của linh mục Antôn Vũ Sĩ Hoằng (1937-2023;<ref> | 1 | null |
Dân tộc biển (Sea Peoples hay Peoples of the Sea) được cho là một liên minh hải tặc xuất hiện vào cuối thời kỳ đồ đồng, có thể có nguồn gốc từ phía tây Anatolia (phần đất thuộc châu Á của Thổ Nhĩ Kỳ) hoặc từ phía nam châu Âu, cụ thể là khu vực Biển Aegea. Họ là những người di chuyển quanh vùng Địa Trung Hải và đã từng tấn công Thổ Nhĩ Kỳ, Syria, Canaan, Síp và Ai Cập cổ đại. Tuy nhiên các nhà sử học có rất ít thông tin về Dân tộc biển, do các thông tin có được từ các thư tịch cổ và qua nghiên cứu khảo cổ học là rất ít, vì vậy danh tính thực của họ vẫn chỉ là phỏng đoán.
Các tài liệu về Dân tộc biển chủ yếu được ghi chép vào giai đoạn cuối của Vương triều thứ 19 và trong 8 năm trị vì của Pharaon Ramesses III thuộc Vương triều thứ 20, khi họ cố gắng xâm lược lãnh thổ Ai Cập. Pharaon Merneptah nhắc đến Dân tộc biển bằng cụm từ "các quốc gia (hay dân tộc) ngoại bang của biển" (tiếng Ai Cập "n3 ḫ3s.wt n<.t> p3 ym") trên bức chạm khắc lớn tại khu vực đền Karnak. Hầu hết các học giả đều cho rằng Dân tộc biển đã xâm lược cả khu vực Hatti và khu vực Levant.
Các Dân tộc biển được người Ai Cập cổ ghi nhận bao gồm tộc Ekwesh, có thể là một nhóm người Hy Lạp cổ đại; tộc Teresh; tộc Tyrrhenians, có thể là tổ tiên người Etruscans; tộc Lukka, một dân tộc vùng Anatolia có thể là tiền thân của người Lycia và tiếng Lycian; tộc Sherden, có thể là một dân tộc vùng Sardinia; tộc Shekelesh, có thể là dân tộc Sicels thuộc đảo Sicily, Italia; tộc Peleset, có thể là biến âm Ai Cập của tộc Philistines đến từ đảo Crete, và là tộc lớn duy nhất thuộc Dân tộc biển đã tới định cư tại khu vực Levant. | 1 | null |
Hương thảo(香草)hay Mê điệt hương (迷迭香), tên khoa học Rosmarinus officinalis, là một loài thực vật có hoa trong họ Hoa môi. Loài này được L. mô tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Mô tả.
Theo trang Y học cổ truyền Tuệ Tĩnh, hương thảo là loài cây nhỏ cao 1-2m, phân nhánh và mọc thành bụi. Lá nhiều, hẹp, hình dải, dai, có mép gập xuống, không cuống, màu xanh sẫm và nhẵn ở trên, phủ lông rải rác màu trắng ở mặt dưới. Hoa xếp 2-10 ở các vòng lá, dài cỡ 1 cm, màu lam nhạt hơi có màu hoa cà với những chấm tím ở phía trong các thuỳ. Toàn cây có mùi rất thơm.
Phân bổ.
Cây bản địa vùng Địa Trung Hải, được trồng nhiều ở Nam Âu châu, Tây Á và Bắc Phi trước đây. Tại Việt Nam cây được nhập trồng ở một số tỉnh miền Trung và miền Nam (theo A. Pételot). Thường trồng bằng cách giâm cành hay gieo hạt.
Cây thích hợp với khí hậu nhiều nắng, khô ráo nhưng không quá nóng. Đất trồng phải thoát nước tốt.Ngoài ra,hương thảo còn được dùng để làm thức ăn,thuốc và tinh dầu.
Thành phần hóa học.
Cây chứa tinh dầu và tanin. Tinh dầu (0,5% ở cây khô, 1,1-2% ở lá, 1,4% ở hoa) mà thành phần gồm có a-pinen (tới 80%), terpen, borneol, acetat bornyl, camphor, cineol và một sesquiterpen (caryophyllen). Nếu mới cất, tinh dầu là một chất lỏng không màu hay vàng vàng, về sau sẫm dần và cứng lại, có thể hòa tan vào rượu theo bất kỳ tỷ lệ nào. Cây chứa choline, một glucosid không tan trong nước, một saponosid acid, các acid hữu cơ (citric, glycolic, glyeeric) và hai heterosid là romaside và romarinoside; còn có acid rosmarinic.
Ứng dụng.
Hương thảo tỏa mùi hương nồng,có mùi the the như bạc hà. Bộ phận sử dụng được của hương thảo là ngọn cây với lá. Khi thu hoạch ở quy mô lớn, người ta có thể cắt các ngọn cây có hoa đem phơi hay sấy khô, đập lấy lá. Cũng có thể cắt các cành tươi không hoa hoặc tỉa lá để dùng ở quy mô nhỏ. Hương thảo dùng để trang trí, cải thiện sức khỏe, nấu ăn, ngăn muỗi, đặc biệt hương thảo còn giúp loại bỏ căng thẳng, tăng cường trí nhớ, giúp tinh thần sảng khoái, tinh dầu của cây kích thích phát triển trí não của con người, giúp con người làm việc tốt hơn, trẻ hoạt bát hơn, học tốt hơn và nhanh thuộc bài hơn,và lá cây còn được dùng để làm thức ăn.
Ẩm thực.
Lá tươi hay lá khô đều được dùng làm gia vị trong ẩm thực. Cành cây được sử dụng làm que xiên trong các món nướng BBQ, lá được gia vào món beefsteak, đặc biệt thích hợp khi khử mùi các loại thịt đỏ như thịt cừu, thịt bò thậm chí các loại thịt rừng có mùi như thịt nai, heo mọi. Các món thuần Âu như cừu nướng áp chảo, đút lò, nướng nguyên tảng, đến cừu hầm đều có thể sử dụng hương thảo. Các loại thịt trắng như thịt lợn, thịt gà, các loại rau củ quả như khoai tây, cà rốt cũng có thể sử dụng hương thảo cho ra các món rất thơm ngon. Ở Việt Nam, hương thảo còn dùng cho món luộc, sốt, nấu, hấp.Ở nước Úc, họ dùng hương thảo để rắc lên cá hồi và cho vào lò nướng.
Y tế.
Hương thảo có vị chát, nóng, mùi thơm nồng, hơi se, có tính tẩy uế và chuyển máu. Dùng với liều thấp, nó gây sự dồn máu ở các cơ quan vùng bụng và kích thích sự tiết dạ dày và ruột; nó cũng lợi tiểu. Với liều cao, nó gây co thắt và chóng mặt. Tinh dầu có tác dụng thông ruột, lợi mật và lợi tiểu. Người ta biết được tác dụng của hương thảo là do sự có mặt của acid rosmarinic và các flavonoid, nó cũng có những tính chất chống oxy hóa cũng do có acid rosmarinic. Hương thảo còn được biết với công dụng giúp con người tư duy và ghi nhớ tốt hơn. Nhóm hợp chất terpene trong tinh dầu hương thảo ngăn chặn sự phân hủy của acetylcholine (C7H17NO3) – một chất truyền dẫn thần kinh. Acetylcholine tham gia vào quá trình truyền dẫn xung thần kinh trong cơ thể, chất này tồn tại càng lâu thì khả năng ghi nhớ, tư duy của con người càng tăng.
Ở châu Âu người ta cũng dùng lá hương thảo làm pommat và thuốc xoa trị thấp khớp và đau nửa đầu. Nước hãm (nấu một nắm lá trong ½ lít nước để chiết hết thuốc) dùng rửa các vết thương nhiễm trùng và lâu khỏi. Dùng trong nước hãm này dùng lợi tiểu và gây tiết mật. | 1 | null |
Hatti là tên một vùng đất cổ thuộc khu vực trung tâm Anatolia, Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay. Đây là nơi sinh sống của nhóm người Hattians, nhóm người cổ đại đã định cư tại Hatti từ trước thời vương triều Akkadian của vua Sargon Đại đế (thế kỷ 23 trước Công Nguyên). Tới khoảng năm 2000-1700 trước Công Nguyên, nhóm người Hattians dần dần bị sáp nhập vào dân tộc Ấn-Âu Hittites, dân tộc sau đó gắn liền với vùng đất Hatti. | 1 | null |
Ioannes VIII Palaiologos hoặc Palaeologus (, "Iōannēs VIII Palaiologos", 18 tháng 12, 1392 – 31 tháng 10, 1448), là vị Hoàng đế Đông La Mã áp chót, trị vì từ năm 1425 đến 1448.
Tiểu sử.
Ioannes VIII Palaiologos là con trưởng của Hoàng đế Manuel II Palaiologos và Hoàng hậu Helena Dragaš- con gái của hoàng thân Serbia Konstantinos Dragaš. Ông liên hợp với cha mình khi là đồng hoàng đế từ trước năm 1416 và trở thành hoàng đế duy nhất vào năm 1425.
Tháng 6 năm 1422, Ioannes VIII Palaiologos trực tiếp giám sát việc bảo vệ kinh thành Constantinopolis trong một cuộc bao vây của Murad II, nhưng phải chấp nhận việc để mất Thessaloniki mà anh trai của ông Andronikos đã trao cho Venezia vào năm 1423. Để đảm bảo cho việc bảo vệ chống lại Đế quốc Ottoman, ông đã tới thăm Đức Giáo hoàng Eugene IV và đồng ý hợp nhất cả hai giáo hội Công giáo La Mã và Chính Thống giáo Đông phương. Sự hợp nhất này đã được phê duyệt tại Hội đồng Florence năm 1439 mà Ioannes đã tham dự với 700 người theo hầu gồm Thượng phụ Joseph II thành Constantinopolis và George Gemistos Plethon, một nhà triết học phái Tân Plato có ảnh hưởng đến các viện nghiên cứu của Ý. Tuy vậy sự hợp nhất đã thất bại do sự phản đối ở Constantinopolis, nhưng nhờ hành vi thận trọng của mình đối với Đế quốc Ottoman mà ông đã thành công trong việc giữ được quyền kiểm soát thành phố.
Ioannes VIII Palaiologos đã đặt người em Konstantinos XI, từng giữ chức nhiếp chính ở Constantinopolis từ năm 1437-1439, làm người kế nhiệm. Bất chấp những mưu đồ soán vị của người em út Demetrios Palaiologos mà ngôi vị của Konstantinos XI vẫn được đảm bảo, ít lâu sau thì Ioannes VIII qua đời ở Constantinopolis vào năm 1448, Konstantinos XI dưới sự phò trợ của triều thần đã chính thức kế thừa ngôi vị, trở thành vị hoàng đế cuối cùng của Đế quốc Đông La Mã.
Hôn nhân.
Ông từng kết hôn ba lần. Cuộc hôn nhân đầu tiên là với Anna xứ Moskva, con gái của Đại Công tước Basil I xứ Moskva (1389-1425) và Sophia của Lithuania vào năm 1414. Bà mất vào tháng 8 năm 1417 vì bệnh dịch hạch.
Cuộc hôn nhân thứ hai được sự sắp đặt của cha ông Manuel II và Đức Giáo hoàng Martin V với Sophia xứ Montferrat vào năm 1421. Cô là con gái của Theodore II, Hầu tước xứ Montferrat và người vợ thứ hai của ông Joanna xứ Bar. Joanna là con gái của Robert I, Công tước xứ Bar và Marie Valois. Ông bà ngoại của cô là Jean II của Pháp và Bonne của Bohemia.
Cuộc hôn nhân thứ ba của ông được sự sắp đặt của vị Hồng y tương lai Bessarion với Maria xứ Trebizond năm 1427. Cô là con gái của Alexios IV xứ Trebizond và Theodora Kantakouzene. Bà qua đời vào mùa đông năm 1439 cũng vì bệnh dịch hạch. Cả ba lần kết hôn của ông đều không có con.
Ảnh hưởng văn hóa.
Ông nổi tiếng vì được một số họa sĩ vẽ chân dung nhân dịp chuyến thăm Ý. Có lẽ một trong những bức chân dung nổi tiếng nhất của ông là bức tranh của họa sĩ Benozzo Gozzoli, treo trên bức tường phía nam Nhà nguyện Magi, tại Palazzo Medici-Riccardi, ở Florence. Theo một số giải thích, Ioannes VIII có thể được vẽ chân dung trong bức Đánh roi của Piero della Francesca. Một bức chân dung của Ioannes còn xuất hiện trong một bản thảo tại Tu viện Thánh Catherine ở Núi Sinai. | 1 | null |
Andronikos V Palaiologos (hoặc Andronicus V Palaeologus) () (1400 – 1407) là đồng hoàng đế của Đế quốc Đông La Mã với cha mình Ioannes VII Palaiologos.
Tiểu sử.
Andronikos V Palaiologos được biết là đứa con trai duy nhất của Hoàng đế Ioannes VII Palaiologos và Irene Gattilusio, con gái của Francesco Gattilusio. Vào lúc cậu bé vừa sinh ra đời thì Ioannes VII đã là nhiếp chính của Đế quốc Đông La Mã cho người chú Manuel II Palaiologos. Vào một ngày không rõ, có lẽ sau khi cha của cậu định cư ở Thessaloniki, Andronikos V được tuyên bố là đồng hoàng đế trên danh nghĩa vào khoảng năm 1403/1404. Tuy nhiên ấu đế lại mất sớm hơn cha mình có lẽ vào khoảng năm 1407. Tình hình chính sự của cả hai cha con Ioannes VII và Andronikos V là hoàn toàn danh dự và họ phải là đồng hoàng đế có tài trị quốc (mặc dù Ioannes VII đã trị vì khi là hoàng đế vào năm 1390 và là nhiếp chính vương ở Constantinopolis từ năm 1399 đến 1403). | 1 | null |
Hoàng đế quân nhân (còn gọi là "Hoàng đế chiến binh") là một Hoàng đế La Mã chiếm được quyền lực nhờ vào việc chỉ huy quân đội. Những hoàng đế quân nhân đặc biệt phổ biến trong khoảng thời kỳ từ năm 235-284, trong cuộc khủng hoảng của thế kỷ thứ ba. Có khoảng mười bốn hoàng đế quân nhân cầm quyền trong 33 năm, tạo ra một triều đại trung bình mỗi người khoảng từ một đến gần hai năm. Kết quả là tạo nên sự bất ổn trong bộ máy chính quyền và các cuộc nội chiến đẫm máu và bạo loạn liên miên đã gần như đe dọa hủy hoại Đế quốc La Mã từ bên trong và dễ bị tấn công từ bên ngoài.
Tổng quan.
Không giống như các hoàng đế trước đây lên nắm quyền trong các cuộc đảo chính quân sự (như Vespasianus và Septimius Severus, cả hai đều xuất thân từ tầng lớp hiệp sĩ trung lưu truyền thống), những hoàng đế quân nhân đều xuất thân từ tầng lớp bình dân cấp thấp (thường đến từ các vùng đất xa xôi của đế chế); vị hoàng đế quân nhân đầu tiên là Maximinus Thrax đã bắt đầu theo đường binh nghiệp của mình từ khi còn là một người lính nhập ngũ. Một hoàng đế quân nhân không thể tự hào về cái tên gia đình nổi bật hoặc một sự nghiệp thành công như một quý tộc hay công chức; đúng hơn là ông chỉ có lấy binh nghiệp ra để tự tiến cử. và ảnh hưởng duy nhất của ông chính là những hàng gươm giáo của binh sĩ dưới trướng. Một số các vị hoàng đế sĩ tốt là thành viên của tầng lớp hiệp sĩ đã tìm cách leo lên đến một vị trí đủ ảnh hưởng trong binh đoàn của họ rằng các binh sĩ sẽ ủng hộ cái giá của một chiếc hoàng bào, dù cho đây là một công việc nguy hiểm bởi vì những người lính có thể rút sự ủng hộ của họ bất cứ lúc nào và có thể chuyển nó đến một nhà lãnh đạo quân sự trông có vẻ hứa hẹn hơn vào thời điểm đó.
Bởi vì các hoàng đế quân nhân thường là những viên chỉ huy đóng quân ở biên giới, hành động lật đổ hoàng đế trị vì và tự mình thâu tóm quyền hành để lại những khoảng trống lớn trong việc phòng thủ biên giới của đế chế, khoảng trống này rất dễ bị kẻ thù của La Mã khai thác, dẫn đến sự xâm nhập của các bộ tộc German vào lãnh thổ của đế chế trong thập niên 260, vì thế chính quyền đã cho xây dựng dãy tường thành Aurelianus xung quanh Roma nhằm ngăn ngừa hiểm họa ngoại xâm. Các hoàng đế quân nhân còn sử dụng tiền nhà nước để chi trả lương cho quân đội của mình, không hoàng đế nào nắm quyền bằng sức mạnh của binh sĩ đủ sức cho phép binh sĩ của mình trở nên bất mãn, như những chiến binh sống chết là nhờ thanh kiếm và hậu quả là những công trình công cộng và cơ sở hạ tầng rơi vào đống đổ nát. Để đáp ứng nhu cầu mua chuộc binh sĩ của họ ngày càng lớn, nhà nước thường chỉ đơn giản là tịch thu tài sản riêng, gây tổn hại nền kinh tế và đẩy lạm phát lên cao.
Hệ thống của đế chế sắp sửa trên bờ vực sụp đổ hoàn toàn vào năm 284 khi xuất hiện một hoàng đế quân nhân khác, một viên chỉ huy kỵ binh có tên Diocletianus lên nắm quyền và khoác hoàng bào. Diocletianus đã cho tiến hành một số cải cách nhằm ổn định đế quốc và bộ máy chính quyền, bao gồm cả một hệ thống bộ tứ các hoàng đế gọi là Tứ đầu chế, dẫn đến chấm dứt cuộc khủng hoảng thế kỷ thứ ba và mở ra kỷ nguyên độc tôn hoàng đế trong lịch sử La Mã. Mặc dù các hoàng đế vẫn mặc hoàng bào dựa trên cơ sở sức mạnh quân sự (ví dụ như Constantinus I, Valentinianus I và Theodosius I), hiện tượng các hoàng đế quân nhân lần lượt nối nhau qua đời dần được các quyền thần và tướng lĩnh thay thế vào cuối thời đế quốc như StIlyicho, Constantius III, Flavius Aëtius, Avitus, Ricimer, Gundobad, Flavius Orestes và cuối cùng là Odoacer, mới thực sự là những người nắm đại quyền quân sự trong tay và trị vì đế chế như một vị tướng quân trong triều khống chế vị vua bù nhìn yếu kém thay vì tự mình lên ngôi hoàng đế. | 1 | null |
Thiết đậu hay còn gọi đậu lăng (danh pháp khoa học: Lens culinaris), là một loài thực vật có hoa trong họ Đậu. Loài này được Friedrich Kasimir Medikus miêu tả khoa học đầu tiên năm 1787.
Thiết đậu là một phần của chế độ ăn của con người từ thời kỳ đồ đá mới tiền gốm, là một trong những cây họ đậu đầu tiên được thuần hóa ở vùng Cận Đông. Bằng chứng khảo cổ cho thấy con người đã ăn đậu lăng 9.500 đến 13.000 năm trước đây.
Loài này có quả đậu ăn được. Nó là cây mọc thành bụi rậm rạp, sống một năm, cao khoảng với các hạt hình thấu kính. Mỗi quả đậu thường chứa 2 hạt.
Các giống thiết đậu gieo trồng có nguồn gốc từ phân loài hoang dã "L. culinaris" subsp. "orientalis", mặc dù các phân loài khác cũng có thể đóng góp một số gen. Không giống như tổ tiên hoang dại, thiết đậu thuần hóa có quả đậu không nứt và hạt không ngủ đông.
Sản xuất.
Năm 2016, sản xuất đậu lăng toàn cầu là 6,3 triệu tấn, với Canada chiếm 51% và Ấn Độ chiếm 17% sản lượng toàn cầu (xem bảng).
Saskatchewan là khu vực sản xuất lớn nhất tại Canada (95% sản lượng toàn Canada). Năm 2016, Thống kê Canada thông báo sản lượng đạt 3,2 triệu tấn, thu hoạch từ diện tích .
Nghiên cứu thêm.
Tôi cũng không rành lắm về đậu lăng, chỉ biết đậu lăng ăn rất ngon | 1 | null |
Hóa thực vật (phytochemical), là những hóa chất tự nhiên (natural substances) có nguồn gốc và tồn tại trong thực vật (trái cây, rau, đậu, ngũ cốc và các loại hạt) được chứng minh là có những tác dụng dược lý, ích lợi khác nhau đối với sức khỏe dựa trên nhiều kết quả, báo cáo nghiên cứu về những lợi ích sức khỏe đem lại từ chế độ ăn nhiều thực vật. Dựa trên cơ sở đó, các nghiên cứu y học hiện nay tập trung vào việc xác định xem liệu các chất dinh dưỡng hoặc các hóa thực vật cần thiết cụ thể có những tác dụng cụ thể gì đối với sức khỏe.
Dưới đây là danh sách các hóa thực vật có mặt trong các thực phẩm tiêu dùng phổ biến:
Terpenoid (isoprenoid).
Carotenoid (Các tetraterpenoid).
Carotene.
Màu da cam.
Xanthophyll.
Màu vàng.
Các hợp chất Phenol.
Polyphenol.
Flavonoid.
Sắc tố đỏ, xanh, tím
Lignan.
Gồm các phytoestrogen .
Tannin.
Tannin thủy phân.
Còn gọi là hydrolysable tannin
Tannin ngưng tụ.
Còn gọi là condensed tannin | 1 | null |
Phạm Nam Tào là một Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam. Ông sinh tại Xã Tịnh Minh, huyện Sơn Tịnh, Quảng Ngãi. Ông nguyên là Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát, Bộ Công an Việt Nam.
Năm 2007, ông được thăng quân hàm từ Thiếu tướng lên Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam cùng 11 người khác là Trần Đại Quang, Trương Hòa Bình, Đặng Văn Hiếu, Trịnh Lương Hy, Hoàng Đức Chính, Sơn Cang, Lê Văn Thành, Phạm Văn Đức, Nguyễn Xuân Xinh, Vũ Hải Triều, Nguyễn Văn Thắng. | 1 | null |
"Blow Me (One Last Kiss)" là một bài hát của ca sĩ - nhạc sĩ thu âm người Mỹ Pink, được phát hành làm đĩa đơn mở đường cho album phòng thu thứ sáu của cô, "The Truth About Love". Bài hát được lên kế hoạch phát hành vào ngày 9 tháng 7 năm 2012 nhưng sau đó được dời lịch phát hành lên trước một tuần vì bị rò rỉ trên mạng. Được sản xuất bởi Greg Kurstin, bài hát được đánh giá chuyên môn cao và thể hiện phong cách cổ điển của Pink. Cùng với "Blow Me (One Last Kiss)", tại thời điểm đó Pink đã trở thành nghệ sĩ nữ thứ ba có nhiều bài hát lọt top 10 nhất tính từ năm 2000, chỉ sau Rihanna và Beyonce, với 12 bài hát lọt top 10 tại Hoa Kỳ. Nó cũng đã có một bước nhảy lớn tại bảng xếp hạng Hot 100 khi nhảy từ vị trí 58 lên vị trí 9 chỉ trong hai tuần sau khi được quảng bá và phát hành trên iTunes Store. Video âm nhạc chính thức cho "Blow Me (One Last Kiss)", một video đen trắng, được đạo diễn bởi Dave Meyers, người đã cộng tác lâu năm với Pink và đạo diễn cho hơn một nửa trên tổng số 33 video trong sự nghiệp của cô. Nó được ra mắt chính thức vào ngày 26 tháng 7 năm 2012 trên MTV và Vevo.
Vào tháng 3 năm 2013, trong một cuộc thăm dò trực tuyến của tạp chí "Billboard" cho danh hiệu "Bài hát của tháng 3" ("March Madness") thì "Blow Me" về hạng 3, đứng sau "Scream & Shout" của will.i.am & Britney Spears và "Stronger (What Doesn't Kill You)" của Kelly Clarkson. Nó cũng trở thành bài hát mở đầu cho lần phát hành thứ 44 của album "Now That's What I Call Music!", tên gọi của loạt album được phát hành tại Mỹ và nhiều nước khác trên toàn thế giới.
Bối cảnh.
Ngày 7 tháng 10 năm 2011, RCA Music Group thông báo rằng hãng đĩa Jive Records sẽ tan rã cùng với Arista và J Records. Cùng với sự tan rã này, Pink cùng những nghệ sĩ thu âm khác đã ký hợp đồng với các hãng thu âm, trong tương lai sẽ phát hành mọi sản phẩm âm nhạc thông qua RCA Records. Năm 2011, Joe Riccitelli, giám đốc của hãng đĩa, đã thông báo rằng Pink đang chuẩn bị bước vào phòng thu để bắt tay thực hiện album thứ sáu của cô ấy và nó sẽ được phát hành vào tháng 9 năm 2012. Ngày 29 tháng 2 năm 2012, trên trang cá nhân Twitter của mình, Pink khẳng định rằng hiện cô đang trong quá trình viết lời cho những bản thu âm mới. Ngày 19 tháng 6 năm 2012, Pink công bố thông qua một đoạn video trên Twitter rằng đĩa đơn đầu tiên sắp phát hành của cô mang tên "Blow Me (One Last Kiss)" và rằng nó sẽ được phát hành chình thức vào ngày 9 tháng 7 năm 2012. Cô nói thêm: "Tôi nghĩ bạn sẽ thích nó bởi vì tôi thực sự thích nó và tôi nghĩ nó đủ cho tất cả chúng ta". Tuy nhiên, phiên bản nghe thử của bài hát bị rò rỉ trực tuyến vào ngày 1 tháng 7 năm 2012, trước một tuần so với ngày phát hành dự kiến. Ngày hôm sau, 2 tháng 7 năm 2012, bài hát được phát hành chính thức trên trang web của Pink và tài khoản Youtube của cô ấy. Ngày 4 tháng 7 năm 2012, Pink thông báo album phòng thu thứ sáu của cô sẽ mang tên The Truth About Love.
Trong cuộc phỏng vấn với tạp chí "Billboard" vào tháng 8 năm 2012, Greg Kurstin đã tiết lộ rằng anh và ca sĩ đã gắp một vài rắc rối về việc đặt tên cho các bài hát trong album. Nhà sản xuất làm việc với Pink đã làm việc với cường độ cao trong vòng 9 ngày và kết quả thu được là 6 bài hát. Trong đó một bài hát với chủ đề chia tay, nó như là sự trao quyền trong phong cách của "So What"; bài hát đã được sáng tác và thu âm trong vòng một ngày nhưng nó cần một tiêu đề. "Cô ấy không ngừng nhắc tới cụm từ "Hãy ném vào trong chiếc khăn" và đó là một trong những điều chúng tôi trao đổi, "Đó có phải thật sự là lời bài hát?". Kurstin nhớ lại: "Và thế là tôi trở lại với cái tên Blow Me… One Last Kiss và chúng tôi thật sự vui mừng. Hầu hết thời gian làm việc với Pink, cô ấy có một cá tính mạnh mẽ và sự mạnh mẽ ấy được cô ấy đưa vào trong lời bài hát và tôi thực sự không muốn ảnh hưởng đến cô ấy. Tôi để cô ấy làm những gì cô ấy muốn. Và đó có thể là lần duy nhất tôi làm như vậy".
Sáng tác.
"Blow Me (One Last Kiss)" là một bài hát nhạc electropop và dance-pop với nhịp tempo nhanh. Bài hát mang âm hưởng của thể loại nhạc dance và có độ dài 4 phút 16 giây, được sản xuất bởi Greg Kurstin. Bài hát bắt đầu bằng giai điệu nhạc điện tử trước khi chuyển sang pop rock; về cơ bản giai điệu bài hát được lấy mẫu từ bài hát "Float On" của ban nhạc indie rock người Mỹ, Modest Mouse. Jessica Sager nhận xét: "từ sự hòa âm,phong cách tiếng trống rock đến giọng hát mang đậm chất 'Raise Your Glass' xuyên suốt chiều dài bài hát thật sự là một thứ rượu gây nghiện" và nói rằng bài hát là "sự đặc sắc của Pink". Bài hát cũng được gọi là "Pink cổ điển" với một "điệp khúc swear-jar-worthy" và một sự thay đổi đột ngột tông mà chỉ có những ca sĩ như cô ấy mới làm được". Tuy nhiên, về nhạc lý, bài hát không đổi khóa; nó vẫn giữ nguyên khóa chính là khóa sol (G) trong suốt bài nhạc. "Blow Me (One Last Kiss)" được viết bằng khóa chính là khóa sol với một nhịp độ vừa phải là 114 nhịp trên phút (BPM). Giọng hát của Pink kéo dài trong khoảng từ E3 đến G5, và bài hát theo sau là một dãy nốt G–G–Bm–Em–C.
Tiếp nhận.
"Blow Me (One Last Kiss)" nhận được nhiều lời khen ngợi từ các nhà phê bình âm nhạc và một số người đã so sánh sự tương đồng của nó với bài hát "Stronger (What Doesn't Kill You)" của Kelly Clarkson cũng được sản xuất bởi Greg Kurstin. Andrew Hampp từ tạp chí Billboard đã đưa ra đánh giá tích cực cho bài hát khi cho nó số điểm 85 trên 100 và nói rằng: "bài hát như là sự trao quyền trong phong cách của "So What" và coi đó là "lời chào đón sự quay trở lại hình mẫu của Pink trong thời gian mà mọi người từ Adam Lambert đến Clarkson đang lựa chọn thể loại nhạc của cô". Danielle Levy đến từ một ấn phẩm âm nhạc đã viết: "Năng động và đầy hận thù hơn bao giờ hết, "Blow Me (One Last Kiss)" thật sự là một nụ hôn đầy năng lượng mạnh mẽ đến từ một ngôi sao nhạc pop kỳ cựu". Jessica Sager đến từ PopCrush cũng đã đưa ra nhiều nhận xét tích cực cho bài hát, đánh giá bài hát 4.5/5 sao và nói rằng "một ca khúc lý tưởng cho danh sách bài hát với chủ đề chia tay và nó làm cho những trái tim tan vỡ cảm thấy tốt hơn"..
Kathy McCabe từ tờ Herald Sun đưa ra nhiều ý kiến tích cực cho bài hát: "Nếu Pink cần bất kỳ bằng chứng nào chứng minh cô ấy là một ngôi sao nhạc pop quốc tế thì cô ấy đã có được nó khi đĩa đơn mới nhất của cô bị rò rỉ trên phạm vi toàn cầu một tuần trước khi được phát hành". Tanner Stransky từ tờ "Entertainment Weekly" thì xem bài hát như "một cái gì đó mà Kelly Clarkson có thể sử dụng trong album của cô ấy" và với "những chấn động, những góc cạnh trên khuôn mặt" là những "đặc điểm riêng của Pink". Contessa Gayles của AOL Music cũng nhận xét bài hát một cách tích cực, viết rằng giọng hát của Pink như "dấu ấn trên một đĩa nhạc gây nghiện, một viên thuốc gây nghiện thực sự". Robbie Daw từ trang web Idolator nhận xét rằng Pink "luôn luôn ở trong một trạng thái tuyệt nhất, hoàn hảo nhất khi cô kết hợp giọng hát mạnh mẽ của mình với lời của bài hát. Ông ấy hoàn thành những đánh giá của mình bằng cách ghi nhận bài hát "là sản phẩm được sản xuất bởi Max Martin - nhà sản xuất âm nhạc của Pink".
Diễn biến xếp hạng.
"Blow Me (One Last Kiss)" xuất hiện đầu tiên bảng xếp hạng của Úc ngày 16 tháng 7 năm 2012 ngay tại vị trí quán quân. Bài hát đạt hạng 8 tại bảng xếp hạng New Zealand Top 40. Nó xuất hiện lần đầu tại Canadian Hot 100 ở vị trí thứ 13. Tại Ireland, bài hát xuất hiện ở vị trí 23 trong tuần đầu tiên tại bảng xếp hạng Ireland. Tại Vương Quốc Anh, vào ngày 9 tháng 9 năm 2012, bài hát có mặt tại vị trí thứ 3 ngay trong tuần đầu tiên nhờ vào lượng tiêu thụ hơn 70.000 bản, đứng sau "Let Me Love You (Until You Learn to Love Yourself)" của Ne-Yo và "Hall of Fame" của ban nhạc The Script. Mặc dù không giành được quán quân tại thị trường Anh quốc nhưng tại thị trường Scotland bài hát đã dành vị trí quán quân ngay tuần đầu tiên.
Tại Hoa Kỳ, bài hát xuất hiện đầu tiên tại vị trí 58 tại bảng xếp hạng Billboard Hot 100 và vươn lên cao nhất tại vị trí thứ 5. Tính đến tháng 7 năm 2012, Pink trở thành nữ nghệ sĩ thứ ba có nhiều đĩa đơn top 10 nhất tại Mỹ tính từ sau năm 2000, cô chỉ đứng sau Rihanna (24 đĩa đơn) và Beyoncé (14 đĩa đơn). Bài hát vươn lên ngôi đầu tại German Airplay Chart và trở thành đĩa đơn liên tiếp thứ 10 của Pink quán quân và đã phá vỡ kỷ lục cho nghệ sĩ có nhiều No.1 nhất tại Đức. Ở Nam Phi, bài hát cũng xuất hiện tại South African Airplay Chart với vị trí á quân. Tại Billboard's Dance/Mix Show Airplay, bài hát đã mang về cho Pink quán quân thứ 4 tại bảng xếp hạng này. Tính đến tháng 7 năm 2013, bài hát đã tiêu thụ 2.164.000 bản chỉ tính riêng tại thị trường Mỹ.
Video âm nhạc.
Video âm nhạc cho "Blow Me (One Last Kiss)" được ra mắt vào lúc 19h50' ngày 26 tháng 7 năm 2012 thông qua MTV và Vevo. Video được đạo diễn bởi Dave Meyers, người từng cộng tác lâu năm với Pink trong hầu hết các sản phẩm âm nhạc của cô. Phiên bản có màu chính thức của video bị rò rỉ trực tuyến vào ngày 31 tháng 8 và nó chính thức được đăng trên kênh Vevo của Pink vào ngày 5 tháng 9 năm 2012. Video được hoàn thành chỉ với hai màu đen trắng và những dòng chữ dùng trong video được viết bằng tiếng Pháp.
Video bắt đầu với hình ảnh Pink cùng người yêu của mình (Sebastian de la Forza) đang tận hưởng một chuyến picnic bên nhau. Khi họ chuẩn bị hôn nhau thì bất ngờ bị gián đoạn khi chàng trai nghe máy điện thoại của một cô gái khác. Pink hất ly rượu vang đỏ vào mặt anh ta và bỏ đi. Sau đó cô gặp một người đàn ông (Alexander Ercheverria) đi trên chiếc xe máy và cô theo anh ta về nhà. Ở tại đó, anh ta vẽ chân dung của Pink, còn cô thì nhìn qua cửa sổ thấy rất nhiều khách đến dự bữa tiệc mà người đàn ông tổ chức. Trong bữa tiệc, cô khiêu vũ với một cô gái khác cho đến khi bị người đàn ông đã đưa cô về nhà làm gián đoạn. Trong phân đoạn này, Pink mặc một bộ đồ vest với mái tóc được chải chuốt. Người đàn ông kia quỳ xuống trước mặt Pink và cô gái kia (Mosh) để cầu hôn. Pink chấp nhận lời cầu hôn và chìa ngón tay ra nhưng cuối cùng trở nên thất vọng khi lời cầu hôn của người đàn ông là dành cho cô gái kia. Trong lễ cưới của họ, Pink mặc một bộ đồ màu đen như thể cô đang đi dự một đám tang. Bỗng nhiên một chiếc xe đạp bay xuất hiện và mang theo đó một quả bóng hình trái tim. Khi quả bóng nổ, một thứ chất lỏng màu đỏ rơi xuống, dính lên cơ thể những người tham gia lễ cưới còn Pink thì múa hát vui vẻ. Đoạn cuối, Pink leo lên chiếc xe đạp và họ bay cùng nhau đến hết video; băng qua các cánh đồng, qua hoàng hôn và qua một ngọn đồi trên chiếc xe đạp bay với đôi cánh đại bàng.
Một phiên bản màu của video cũng đã được phát hành. James Montgomery của MTV đã động viên những người hâm mộ của Pink rằng: "Dù Pink nói cô ấy đã thay đổi nhưng video 'Blow Me' đã chứng minh điều ngược lại. Nó vẫn mang sự giận dữ lại có tính hài hước với mức độ gần ngang những video trước kia của cô".
Biểu diễn trực tiếp.
"Blow Me (One Last Kiss)" được Pink biểu diễn trực tiếp lần đầu tiên tại lễ trao giải MTV Video Music Awards 2012 diễn ra tại Trung tâm Staples, Los Angeles. Trong phần biểu diễn, Pink đã mặc quần đen, áo sơ mi trắng và có mái tóc ngắn màu bạch kim. | 1 | null |
Mạc Vân thi xã hay Tùng Vân thi xã là một tao đàn thơ văn do Tuy Lý Vương Nguyễn Phúc Miên Trinh và Tùng Thiện Vương Nguyễn Phúc Miên Thẩm nhà Nguyễn đồng sáng lập. Đây là một hội thơ nổi tiếng của Cố đô Huế ngày xưa. Hội thơ này thường họp tại Ký Thưởng Viên (hiện nay là phủ Tuy Lý Vương trong Thành phố Huế).
Người đứng đầu thi đàn này là Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, còn được gọi là "Tao đàn nguyên súy". Ông Miên Thẩm là người nổi tiếng tấm lòng chân thực, khiêm tốn, phóng khoáng; không hề phân biệt địa vị, tuổi tác hay sang hèn. Nhờ vậy Tùng Vân xã (còn được gọi là Mặc Vân thi xã) tập hợp được nhiều danh sĩ đương thời, trong đó có Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, Hà Tôn Quyền, Phan Thanh Giản, Nguyễn Đăng Giai... và nhiều hoàng thân quý tộc, các anh em của Tùng Thiện Vương như Thọ Xuân Vương Miên Định, Hàm Thuận Quận Công Miên Thủ, Tuy Lý Vương Miên Trinh, Tương An Quận Vương Miên Bửu, Hoằng Hóa Quận Vương Miên Triện...
Tao đàn hoạt động khá sôi nổi, có nhiền áng thơ văn hay. Nhiều người đương thời đã so sáng nó với Hội Tao Đàn của vua Lê Thánh Tông triều Hậu Lê. Nhân Sùng Khánh, là một danh sĩ cũng Trung Quốc, từng đến thăm" Mạc Vân Thi Xã" ở "Ký Thưởng Viên"; ông có viết mấy đoạn thơ tặng ông Nguyên Thẩm như sau:
Dịch nghĩa: | 1 | null |
Northrop F-15 Reporter (sau là RF-61) là một loại máy bay trinh sát không ảnh không vũ trang. Dựa trên loại tiêm kích đêm Northrop P-61 Black Widow, đây là loại máy bay trinh sát không ảnh sử dụng động cơ piston cuối cùng được thiết kế chế tạo cho Không quân Hoa Kỳ. | 1 | null |
Giải Maurice Genevoix của Viện hàn lâm Pháp (tiếng Pháp: Prix de l'Académie française Maurice-Genevoix) là một giải thưởng văn học hàng năm của Viện hàn lâm Pháp được thành lập năm 2004.
Giải này dành cho một tác phẩm minh họa những giá trị đạo đức và nhân bản đã hướng dẫn Maurice Genevoix – thư ký vĩnh viễn của Viện hàn lâm Pháp – trong cuộc sống và trong các tác phẩm của ông. | 1 | null |
Józef Warszewicz Ritter von Rawicz (8 tháng 9 (?) 1812, Vilnius - 29 tháng 12 năm 1866, Cracow) là một nhà thực vật học, nhà sưu tập động và thực vật và là người làm vườn người Ba Lan.
Các phân loại tiêu biểu.
Các chi "Warscewiczella" Rchb.f., "Warszewiczia" và "Warscaea" Szlach. (đồng nghĩa của "Cyclopogon") được đặt theo tên ông cũnh như nhiều loài khác, như: | 1 | null |
Cá chó phương nam (tên khoa học: Esox flaviae) là một loài cá nước ngọt có môi trường sống hạn chế ở vùng nước ngọt Nam Âu. Như cá chó phương bắc, cá chó phương nam là một loài cực kỳ quan trọng cho nghề cá giải trí và thương mại, và vai trò của nó như là động vật ăn thịt hàng đầu trong các hệ sinh thái nước ngọt.
Loài này được miêu tả khoa học bởi hai nhóm nghiên cứu độc lập. Miêu tả của Bianco & Delmastro được công bố sớm hơn, vì vậy được thừa nhận, trong khi miêu tả của Lucentini, Esox flaviae, được xem là đồng nghĩa. Họ kiểm tra rõ ràng giả thuyết rằng những kiểu hình khác nhau của cá chó, bị cô lập về mặt địa lý ở châu Âu, có thể đại diện cho hai thực thể tiến hóa khác nhau. Cụ thể, các tác giả phân tích sự khác biệt về kiểu hình và di truyền bằng cách lấy mẫu một số cá thể từ các quần thể khác nhau của cá chó châu Âu. Họ đã thử nghiệm các khác biệt thống kê về biểu hiện chung của các mẫu da và các đặc trưng định lượng, như số lượng vảy ở đường bên. Họ đã áp dụng phương pháp tiếp cận hợp nhất đối với phát sinh chủng loài mtADN và đánh giá mức độ pha trộn lịch sử, thử nghiệm các khác biệt di truyền tổng thể từ tính đa hình của chiều dài đoạn khuếch đại (AFLP).
Các tác giả đề nghị ngừng nuôi cá chó ở miền nam châu Âu với cá giống là cá chó phương bắc du nhập từ các nước châu Âu khác, vì điều này có thể tác động đáng kể tới sự sinh tồn của loài mới được phát hiện này trong phạm vi bản địa của nó. | 1 | null |
Cá chó phương bắc (tên khoa học Esox lucius), gọi đơn giản là cá chó ở Anh, Ireland, hầu hết các vùng của Hoa Kỳ, hoặc jackfish tại Canada hoặc chỉ đơn giản là "Northern" tại vùng Trung Tây Thượng của Hoa Kỳ), là một loài cá ăn thịt của chi Esox. Chúng là loài điển hình của vùng nước lợ và nước ngọt ở Bắc bán cầu. | 1 | null |
Bộ Cá dây (danh pháp khoa học: Zeiformes) là một bộ cá vây tia sinh sống ngoài biển. Bộ bao gồm khoảng 33 loài trong 6 họ, chủ yếu là các loại cá biển sâu.
Miệng lớn, với hàm có thể làm căng phồng, và không có xương bướm ổ mắt. Các vây chậu có 5-10 tia vây mềm, 5-10 gai vây lưng và 4 gai vây hậu môn. Chúng có kích thước dao động từ nhỏ ở cá dây lùn ("Macrurocyttus acanthopodus") chỉ dài 43 mm (1,7 inch), tới lớn ở cá dây Cape ("Zeus capensis"), dài tới 90 cm (35 inch).
Phân loại.
Phân loại dưới đây lấy theo James "et al." (2003)
Phát sinh chủng loài.
Bộ Zeiformes bao gồm các họ sau: Zeidae, Parazenidae, Zeniontidae, Oreosomatidae, Grammicolepidae. Trong bài báo năm 1966 về mối quan hệ phát sinh chủng loài của cá xương thật sự, P. H. Greenwood "và ctv" đã gộp cả cá thoi (Caproidae) vào Zeiformes, nhưng họ không đưa ra chứng cứ hỗ trợ cho việc gán ghép này. Heemstra loại Caproidae khỏi bộ Zeiformes trong sửa đổi phân loại năm 1980 của ông đối với các loài cá dây ở Nam Phi, và trong sách "Smiths' Sea Fishes" năm 1986 (, Margaret M. Smith, Phillip C. Heemstra), Heemstra đã gộp Caproidae vào bộ Perciformes.
Các mối quan hệ phát sinh chủng loài của Zeiformes được Johnson và Patterson diễn giải trong bài báo công bố năm 1993 về các mối quan hệ phát sinh chủng loài của cá dạng cá vược (percomorph). Họ công nhận Zeiformes như một đơn vị phân loại đơn ngành.
Johnson và Patterson coi Zeiformes là đơn vị phân loại chị em với nhóm bao gồm Beryciformes và một tổ hợp lớn các loài cá tia vây gai được biết đến như là "percomorpha", bao gồm Perciformes, Pleuronectiformes, Tetraodontiformes, Scorpaeniformes, Dactylopteriformes, Synbranchiformes, Elassomatidae, Gasterosteriformes, Mugiloidei và Atherinomorpha (Atheriniformes, Beloniformes, Cyprinodontiformes) .
Phân tích trình tự ADN gần đây cho thấy họ hàng gần của cá dây là bộ Cá tuyết (Gadiformes). | 1 | null |
U nang vú là một túi chứa đầy dịch, trông giống như một bọng nước, phát triển ở giữa mô tuyến vú, với mặt ngoài nhẵn và có rãnh ở mặt trong. Điển hình gặp ở phụ nữ tầm 30, 40, đầu 50 tuổi và phổ biến nhất ở phụ nữ tiền mãn kinh. Chúng thường xuất hiện ngay trước thời kỳ mãn kinh và biến mất ở thời kỳ mãn kinh.
U nang thường không có hại hay nguy hiểm nhưng nó có thể gây khó chịu và đau.
Nguyên nhân.
Nguyên nhân gây ra u nang vú vẫn chưa biết rõ. Một số bằng chứng cho thấy estrogen thừa trong cơ thể có thể kích thích các mô vú và do đó nó đóng vai trò nhất định trong việc phát triển u nang vú.
Những phụ nữ sử dụng liệu pháp hormone thay thế thường dễ bị u nang.
Triệu chứng.
• Một khối u, cục tròn hoặc bầu dục, mịn, dễ dàng di chuyển.
• Thường thấy ở một vú, nhưng có thể ảnh hưởng đến cả hai vú cùng một lúc.
• Đau ngực hoặc đau ở khu vực có các khối u vú.
• Tăng kích thước khối u vú và đau vú ngay trước kì kinh nguyệt
• Giảm kích thước khối u vú và giảm các dấu hiệu và triệu chứng khác sau kì kinh nguyệt.
• Có một hoặc nhiều u nang vú không làm tăng nguy cơ ung thư vú. Nhưng sự có mặt của u nang vú có thể cản trở khả năng phát hiện các khối u vú mới hoặc thay đổi bất thường khác.
Chẩn đoán.
• Khám vú.
Kiểm tra thể chất các khối u vú và kiểm tra các vùng có vấn đề khác ở vú. Tuy nhiên khám vú vẫn không thể kết luận khối u đó là một u nang, do vậy,cần làm một thử nghiệm khác, hoặc là một bài kiểm tra hình ảnh hoặc chọc hút bằng kim nhỏ.
• Nhũ ảnh.
Là hình ảnh tia X của vú. Chụp nhũ ảnh có thể chỉ ra tổn thương rất nhỏ khoảng 0.5 cm. Nên chụp nhũ ảnh khi thấy 1 khối u hoặc những khó chịu khác ở vú.
• Siêu âm.
Kỹ thuật này hầu hết được dùng để quan sát vùng đặc biệt, nếu chúng ta biết có khối u ở vú, thì có thể dùng siêu âm để có thêm thông tin về khối u. Siêu âm giúp xác định u chứa đầy dịch(u nang) hay u rắn(u tuyến xơ, giả u vú, ung thư vú).
• Sinh thiết.
Có 4 phương pháp sau
– Sinh thiết hút kim nhỏ: sử dụng 1kim rất nhỏ để lấy chất dịch hoặc tế bào trực tiếp từ khối u để đánh giá.
– Sinh thiết kim lõi: sử dụng 1 ống kim lớn hơn, có thể lấy một xi lanh mô từ khối u để phân tích.
– Rạch sinh thiết: lấy đi một phần của khối u để đánh giá.
– Sinh thiết cắt bỏ: phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ khối u để đánh giá
Điều trị.
Thông thường, các u nang không cần điều trị hay theo dõi. Nhiều nang tự biến mất và không phải lo lắng. Nếu u nang gây khó chịu nhiều thì mới tiến hành điều trị.
• Sinh thiết và thoát dịch.
Đầu tiên, bác sĩ xác định vị trí u nang và giữ nó ổn định. Tiếp đến, chèn một kim nhỏ vào khối u vú và rút dịch u nang. Thông thường, sinh thiết kim được thực hiện bằng cách sử dụng siêu âm để hướng dẫn vị trí chính xác của kim.
• Sử dụng hormone.
Sử dụng thuốc tránh thai để điều chỉnh chu kỳ kinh nguyệt có thể giúp làm giảm sự tái phát của u nang vú. Ngừng liệu pháp hormone thay thế trong những năm sau mãn kinh sẽ làm giảm sự hình thành các khố u nang.
Hiện nay, có rất nhiều các vị thuốc thiên nhiên có tác dụng điều hòa kinh nguyệt, tác dụng kiểu estrogen như đương quy, hương phụ, xuyên khung (Nhũ ngọc)...
• Phẫu thuật.
Phẫu thuật cắt bỏ u nang vú là cần thiết đối với một số trường hợp bất thường.
Chú thích.
Tham khảo.
• Cẩm nang Vú và các bệnh về Vú, Susan Love, 2010
• 100 câu hỏi và câu trả lời về ung thư vú, Zora K. Brown
• http://www.mayoclinic.com/health/breastcysts/DS01071/DSECTION=causes
• http://www.thewomens.org.au/.../BreastCare/cysts_English.pdf
• http://www.cpmc.org/services/women/breast/breast_cyst.html
• http://www.breastcancercare.org.uk/breast-cancer-information/benign-breast-conditions/breast-cysts | 1 | null |
Chùa Thiên Bửu (thượng) là một ngôi chùa cổ tọa lạc tại thôn Điềm Tịnh, xã Ninh Phụng, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Chùa do Hòa thượng Tế Hiển - Bửu Dương khai sơn vào khoảng triều Lê Cảnh Hưng, trước năm 1763 (1)
Kiến trúc.
Chùa được kiến trúc theo kiểu chữ "Môn" gồm Chánh điện, Đông lang, Tây lang. Chánh điện có 3 gian, bài trí tôn nghiêm. Gian giữa ngôi chánh điện đặt pho tượng Phật Thích Ca ngồi cao lớn sơn son thếp vàng, cùng nhiều tượng Phật khác như Phật A Di Đà, Phật Di Lặc... Gian bên trái thờ đức Quán Thế Âm Bồ Tát, gian bên phải thờ Ông, tức Quan Công. Nhà Tây thờ vị sơ Tổ Thiền tông Bồ Đề Đạt Ma, cùng bài vị của Tổ khai sơn và các vị trụ trì.
Các câu đối trong chùa.
Trong chùa có các câu đối:
Trước tiền đường của Tổ Phước Tường:
Thiên đạo hoằng khai, thiên cá tu hành thiên cá đắc
Bảo vân quảng nhuận thất trùng lan thuẫn thất trùng tu.
Tạm dịch:
Trước sân:
Điềm lãng phất khai kim thế giới
Tịnh trần lộ xuất ngọc lâu đài.
Tạm dịch:
Trước cổng tam quan:
Thiên nhân cung kính Thế Tôn, phước huệ viên dung khai giác lộ.
Bửu địa trang nghiêm Phật tổ. nhân duyên thành tựu khải từ môn
Tạm dịch
Cổng bên phải "Bồ Đề Viện" có câu đối "Đáo thử thiền môn yếu dĩ từ bi khởi niệm"
Cổng bên trái: "Bát Nhã Môn" với câu đối "Đăng ư giác địa duy kỳ hỉ xả vi tâm"
Đúng là:
Tháp Bửu Dương.
Tháp Bửu Dương là nơi an nghỉ của tổ sư khai sơn Hoà thượng Tế Hiển - Bửu Dương, cấu trúc hình chữ kim bát giác đứng trên bệ đế tám cạnh. Tháp cao 5,5m, trên đỉnh có mô hình hoa sen đỡ bầu rượu, tất cả có 7 tầng vị chi 56 mặt và 56 góc, 56 góc của tháp gắn 56 đầu rồng. Chung quanh tháp bao bọc bờ thành cao 1m rộng 6 tấc, bốn góc thành xây đắp 4 hoa sen. Tầng trên cùng, ba mặt trước trang trí hình lưỡng long tranh châu, các mặt chung quanh còn lại đắp hình những linh vật kỳ lân phụng hoàng. Kế dưới là tầng có 40 mặt chạm trổ chữ bùa, hình mai lan cúc trúc… Tầng dưới cùng phía trước đặt tấm bia, 7 mặt còn lại khắc các bài kệ bài tán bằng thể ngũ ngôn hay bát cú. | 1 | null |
Gobiesociformes là một bộ cá vây tia, bao gồm một họ duy nhất là Gobiesocidae với 47 chi và khoảng 160 loài đã biết. Phần lớn các loài là cá biển, được tìm thấy trong vùng nước nông của Đại Tây Dương, Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Chúng là những loài cá sống ở tận đáy, một số nơi trú ẩn trong các loài nhím biển hoặc huệ biển. Trong phân loại của Betancur "et al." (2014) thì họ Gobiesocidae/bộ Gobiesociformes (trong vai trò của phân bộ Gobiesocoidei) được xếp trong bộ Blenniiformes, nhưng trong phân loại năm 2017 thì các tác giả lại công nhận bộ này.
Phân họ và chi.
Danh sách lấy theo FishBase:
Phân họ Cheilobranchinae
Phân họ Gobiesocinae
Phát sinh chủng loài.
Biểu đồ sau đây vẽ theo Betancur "et al." (2013, 2014, 2017): | 1 | null |
Ngày xửa ngày xưa ở Xứ sở thần tiên (tiếng Anh: Once Upon a Time in Wonderland) là một bộ phim truyền hình cổ tích của Mỹ, sáng lập bởi Edward Kitsis, Adam Horowitz, Zack Estrin và Jane Espenson của hãng ABC Studios. Đây là một bộ phim dẫn xuất của phim gốc "Ngày xửa ngày xưa", phát sóng chính thức trên ABC vào lúc 8 giờ tối vào các ngày Thứ năm hàng tuần, bắt đầu từ ngày 10 tháng 10 năm 2013.
Bộ phim được dựa trên truyện cổ tích của Lewis Carroll "Cuộc phiêu lưu của Alice vào Xứ sở thần tiên" nhưng với một phong cách pha trộn biến tấu khác với những dị bản khác và diễn ra trong cùng một thế giới quan tương đồng với "Ngày xửa ngày xưa" tại Xứ sở thần tiên, cùng với những cảnh hồi tưởng trước Lời Nguyền Hắc Ám.
Vì thế, bộ phim dự kiến sẽ được thực hiện theo các thiết lập tương tự với những loạt phim đi trước, bao gồm cả việc sử dụng những thành tố vay mượn từ Disney và "Mất tích". Thêm vào đó, loạt phim sẽ có những tập phim bắt chéo với "Ngày xửa ngày xưa" cùng với một sự liên kết với những nhân vật đang bị kẹt tại Storybrooke, Maine.
Vào 27 tháng 3, năm 2014, ABC thông báo hủy bỏ bộ phim, và loạt phim sẽ kết thúc trọn vẹn trong một mùa phim duy nhất bao gồm 13 tập, với tập cuối phát sóng vào ngày 3 tháng 4 năm 2014. Vào ngày 1 tháng 4 năm 2014, Michael Socha trong cuộc phỏng vấn tường thuật rằng anh sẽ tiếp tục vai diễn Will Scarlet/Cơ Hiệp ở kế hoạch Mùa phim thứ tư của bộ phim chính "Ngày Xửa Ngày Xưa".
Nội dung.
ở Luân Đôn, Anh Quốc, một cô gái trẻ xinh xắn tên là Alice kể một câu chuyện về một vùng đất mới lạ kỳ bí tồn tại phía bên kia của một hố thỏ. Một chú mèo biết tàng hình, một con sâu bướm già đang hút và nhả khói thuốc và những lá bài thẻ đang nói chuyện với nhau về những điều thần kỳ mà cô đã nhìn thấy trong một chuyến phiêu lưu không tưởng. Cho rằng cô đang mắc chứng rối loạn tâm thần, những người bác sĩ mở một cuộc điều trị để làm cho cô quênyrus trong khi đối đầu với những âm mưu của Hồng Hậu và Jafar.
Sản xuất và lựa chọn diễn viên.
Vào tháng 2 năm 2013, Kitsis và Horowitz cùng với những nhà sản xuất Zack Estrin và Jane Espenson đã phát triển một dẫn xuất tập trung vào Xứ sở thần tiên của Lewis Carroll. Bộ phim bao gồm nhiều nhân vật mới được giới thiệu như "Amahl, một nhân vật kỳ lạ, giàu tình cảm và lạc quan; và Cơ Hiệp, một kẻ phiêu lưu mạo hiểm sành đời, một thanh niên hành động, một kẻ cô độc và thất tình". Vào 28 tháng 3 năm 2013, nhà sản xuất thông báo rằng sẽ thể hiện vai diễn chủ đạo là Alice, đồng thời Peter Gadiot sẽ vào vai Cyrus, người yêu của Alice. sẽ vào vai Cơ Hiệp. , Nữ hoàng Quân Cơ Cora trong loạt phim chính, cũng sẽ xuất hiện trong bộ phim dẫn xuất này với vai diễn tương tự. Trong tháng 4, được chọn làm diễn viên lồng tiếng cho Thỏ Trắng và được chọn với vai diễn phản diện Hồng Hậu.
Vào 10 tháng 5 năm 2013, nhà sản xuất công bố bắt đầu bộ phim, cùng thông báo sẽ thay thế Reubens vào vai lồng tiếng cho Thỏ Trắng. Vào 14 tháng 5 năm 2013, ABC thông báo bộ phim dẫn xuất này sẽ phát sóng vào khung giờ tối Thứ Năm hàng tuần thay vì giờ phát sóng tương tự như các loạt phim đi trước. Ban đầu phim được thiết đặt với chuẩn 13 tập phim một mùa, sau đó được ABC thông báo lại vào nửa sau tháng 6 rằng sẽ mở thêm một vài tập bởi các nhà sáng lập Kitsis và Horowitz đã dự trù kế hoạch sẵn cho toàn bộ mùa phim thứ nhất. Edward Kitsis nói "Chúng tôi thực sự muốn kể câu chuyện mà không cần phải lo lắng về việc mở rộng nó trong vòng 5 năm." và "Nó không cần phải là một mùa phim gồm 22 tập. Bất cứ khi nào nó sẵn sàng kết thúc, bạn biết chúng tôi đã kể hết toàn bộ câu chuyện một cách hoàn chỉnh...". Tuy nhiên trong buổi họp báo mùa hè TCA vào tháng 8 đã thông báo sai là chỉ có 13 tập phim được thiết đặt. Edward Kitsis và Adam Horowitz bình luận rằng "Tuy rằng nhiều người chúng tôi đã xong việc cho mùa phim này, nhưng những gì chúng tôi đang lập kế hoạch là kể một câu chuyện hoàn chỉnh với khởi đầu, diễn biến và kết thúc" và nói thêm "Nếu nó làm tốt [và] mọi người thích nó, hi vọng thay chúng tôi sẽ trở lại và kể tiếp một chuyến phiêu lưu khác với cốt truyện này".
Tại Comic-Con 2013, nhà sản xuất thông báo siêu sao "Mất tích", sẽ tham gia dàn diễn viên chính với vai Jafar. Trong tháng 9, bộ phim thông báo rằng và cũng được chọn trong dàn diễn viên với vai trò lồng tiếng cho Chú Mèo Nhăn Nhở và Bác Sâu Bướm. Iggy Pop sẽ thay thế cho đã lồng tiếng cho Sâu Bướm với vai trò khách mời trong phim gốc "Ngày xửa ngày xưa".
Tập phim.
<onlyinclude>
</onlyinclude>
Tiếp nhận và đánh giá.
Những đánh giá cho bộ phim nói chung khá thuận lợi. Loạt phim đã nhật được số điểm 61/100 trên Metacritic dựa trên 21 cuộc khảo sát. Mary McNamara của tờ Los Angeles Times đã tặng cho bộ phim những lời phê bình tích cực và viết rằng, "Có rất nhiều thứ-- tuyệt vời, dễ thương, vân vân. Một số gợi nhớ đến phép thuật đồ họa [CG magic] (cung điện của Hồng Hậu trông lộng lẫy, và đôi tai của Thỏ Trắng là một kiệt tác), và một số thứ tuyệt vời chỉ với cách kể chuyện và các màn ứng biến linh hoạt, mà Lowe và Socha đã rất tài tình trong vấn đề này. Thêm vào đó là một ít lời đối thoại dí dỏm, cách xử trí biến tấu nhân vật thông minh và tất nhiên, khung cảnh phá cách động cơ hơi nước thời Victo, và ABC đã có một lý do để xác định lại giờ phát sóng dành cho gia đình." David Wiegand của tờ nói rằng trong khi cốt truyện có "một chút tồn trữ", thì ông viết rằng "các hiệu ứng đặc biệt, hướng sắc nét và màn trình diễn với chỉ số octan cao giúp chúng ta quan tâm đủ để theo cùng Alice rơi xuống hố thỏ." Brian Lowry của tạp chí tặng cho bộ phim một lời đánh giá pha trộn rằng "Xứ Sở Thần Tiên cũng không kém phần hấp dẫn [như "Ngày Xửa Ngày Xưa"], nhưng đằng sau những màn cảnh ẩn giấu nhiều sai sót tiềm năng. Một Alice hấp dẫn chắc chắn sẽ giúp vượt qua các vấn đề, nhưng hiệu suất trình diễn vừa rồi đã làm giảm khả năng của một câu chuyện cổ tích có hậu."
Phát sóng toàn cầu.
Ở Canada, kênh City được nhượng quyền phát sóng đồng thời với ABC khi bộ phim ra mắt vào tháng 10. Ở Australia, chương trinh được phát sóng trên . | 1 | null |
Họ Cá rìu vạch nước ngọt, tên khoa học Gasteropelecidae, là một họ cá trong Bộ Cá chép mỡ. Cá rìu vạch thông thường là thành viên nổi tiếng nhất trong họ. Họ này bao gồm ba chi: "Carnegiella" (4 loài), "Gasteropelecus" (3 loài), và "Thoracocharax" (2 loài).
Từ nguyên.
Tên gọi khoa học của họ này bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp "gaster" = dạ dày/bụng và "pelekis" = rìu.
Phân bố và môi trường sống.
Cá rìu vạch nước ngọt có nguồn gốc từ Panama và Nam Mỹ (mặc dù không có ở Chile). Chúng có xu hướng là cá tầng mặt, thường bơi ngay dưới mặt nước.
Các chi.
Có ba chi trong họ này: | 1 | null |
Cá rìu vạch thông thường hoặc Cá rìu vạch sông, tên khoa học Gasteropelecus sternicla, là một loài cá vùng nhiệt đới thuộc họ Gasteropelecidae. Có nguồn gốc ở Nam Mỹ tại Peru và giữa Amazon, Guiana và Venezuela, nó phát triển đến khoảng 2,5 inch (6,5 cm). Cá rìu vạch thường sẽ nhảy ra khỏi nước khi báo động, chúng cũng có thể nhảy để bắt côn trùng nhỏ trên không. | 1 | null |
Võ Quốc Thắng (sinh ngày 9 tháng 12 năm 1967) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 11, thuộc đoàn đại biểu Long An. Ông là Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Đồng Tâm. Ngoài ra, ông còn là Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần Bóng đá Chuyên nghiệp Việt Nam (VPF). Ông còn có biệt danh bầu Thắng, do có thời gian làm Chủ tịch CLB Bóng đá Đồng Tâm Long An.
Ông Thắng nguyên là chủ tịch ngân hàng Kiên Long (KienLongBank), có trụ sở tại tỉnh Kiên Giang, chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh tại đường Cách mạng tháng tám Quận 3. Ông đã từng là chủ tịch doanh nghiệp trẻ Việt Nam nhiệm Kì III. | 1 | null |
Giải thưởng lớn cho Thơ của Viện hàn lâm Pháp (tiếng Pháp: Grand prix de poésie de l'Académie française) là một giải thưởng văn học của Viện hàn lâm Pháp. Giải này được thành lập năm 1957 và được trao hàng năm cho toàn bộ tác phẩm của một nhà thơ viết tiếng Pháp. | 1 | null |
Best Selection 2010 là album tuyển chọn những bài hát hay nhất đầu tay của nhóm nhạc nam Hàn Quốc TVXQ (hay còn biết đến với tên Tohoshinki tại Nhật Bản). Album được phát hành ngày 17 tháng 2 năm 2010 tại Nhật bởi Rhythm Zone với 3 phiên bản: 2CD+DVD, CD+DVD và CD. | 1 | null |
Thiên (Hán tự: 天), nghĩa là "Trời", là một trong những từ Trung Quốc cổ xưa nhất và là một khái niệm quan trọng trong thần thoại, triết học và tôn giáo Trung Hoa. Thời nhà Thương (thế kỷ 17-11 TCN) người Trung Quốc gọi vị thần tối cao của mình là "Thượng Đế" (上帝) hoặc "Đế"; vào thời nhà Chu, khái niệm "Thiên" (Trời) bắt đầu được dùng như là từ đồng nghĩa với từ "Thượng Đế". Trước thế kỷ 20, thờ cúng Trời từng là quốc giáo của Trung Quốc.
Trong Đạo giáo và Nho giáo, "thiên" thường đi cùng với khái niệm "địa" (地 "đất"). Hai mặt này của vũ trụ học là đại diện cho thuyết nhị nguyên trong Đạo giáo. Chúng được coi là hai trong Tam Giới (三界) của thực thể, với giới ở giữa là "nhân" (人 "người"). Thiên thường chỉ nơi trên cao như thiên đường, thiên cung trong văn hóa theo quan niệm của các tôn giáo như công giáo liên quan tới các nhân vật như thiên thần, thiên sứ, thiên binh...
Cao đài thì có Thiên đạo, Thiên nhãn.
Ngoài ra Thiên còn có những từ như Thiên thời, Thiên văn, Thiên cổ, Thiên kim, Thiên sử, Thiên thư, Thiên hạ, Thiên luật (Thiên điều), Thiên điểu, Thiên Hà, Thiên Thể, Thiên Long. | 1 | null |
Ariana Grande-Butera (sinh ngày 26 tháng 6 năm 1993), thường được biết đến với nghệ danh Ariana Grande, là một nữ ca sĩ, nhạc sĩ và diễn viên, doanh nhân người Mỹ. Là một ca sĩ nổi tiếng có tầm ảnh hưởng và thường được coi là biểu tượng nhạc pop, cô được chú ý nhờ sở hữu quãng giọng 4 quãng tám và giọng sáo, cô đã nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới phê bình. Cô đã nhận được nhiều giải thưởng trong suốt sự nghiệp của mình, bao gồm 2 giải Grammy Awards, 1 giải Brit Awards, 1 giải Bambi Award, 2 giải "Billboard" Music Awards, 3 giải American Music Awards, 9 giải MTV Video Music Awards và 30 kỷ lục Guinness thế giới.
Grande bắt đầu sự nghiệp ở tuổi 15 trên sân khấu Broadway năm 2008 với vai Charlotte trong vở nhạc kịch "13". Cô trở nên nổi tiếng nhờ đóng vai Cat Valentine trong các phim hài kịch tình huống "Victorious", "ICarly" và "Sam & Cat" của hãng Nickelodeon.Grande đã kí hợp đồng với Republic Records vào năm 2011 sau khi giám đốc điều hành của hãng xem các video cover các bài hát trên YouTube của cô ấy. Album đầu tay của cô ấy mang âm hưởng pop và R&B chịu ảnh hưởng của doo-wop thập niên 1950,"Yours Truly" (2013), đứng đầu bảng xếp hạng "Billboard 200" của Hoa Kỳ, đĩa đơn chính của album "The Way" lọt vào top 10 trên bảng xếp hạng "Billboard Hot 100" của Hoa Kỳ. Giọng hát và cách cô ấy thể hiện đã được đánh giá rất cao trong album và được so sánh với Mariah Carey. Sau đó Grande đã nhận được giải thưởng nghệ đột phá của năm từ Music Business Association cho những thành tựu đạt được của mình trong suốt năm 2013.
Grande tiếp tục gắn liền với nhạc pop và R&B trong album phòng thu thứ hai và thứ ba, "My Everything" (2014) và "Dangerous Woman" (2016). "My Everything" đã mang phong cách EDM và đạt được thành công toàn cầu với các đĩa đơn "Problem", "Break Free" và "Bang Bang", trong khi đó "Dangerous Woman" trở thành album đầu tiên trong số 4 album quán quân liên tiếp của cô tại Anh. Album phòng thu thứ tư và thứ năm của cô ảnh hưởng bởi nhạc trap, "Sweetener" (2018) và "Thank U, Next" (2019), cả hai đều đạt thành công về mặt thương mại và phê bình, "Sweetener" giành giải Grammy cho Album giọng pop xuất sắc nhất và "Thank U, Next" đã phá kỉ lục về tuần phát trực tuyến lớn nhất cho một album nhạc pop và được đề cử giải Grammy cho Album của năm. Các đĩa đơn "Thank U, Next", "7 Rings" và "Break Up with Your Girlfriend, I'm Bored" đã đưa Grande trở thành nghệ sĩ solo đầu tiên đồng thời giữ ba vị trí hàng đầu trên Hot 100 và là người phụ nữ đầu tiên thành công đứng đầu UK Singles Chart. Sự hợp tác năm 2020 của cô "Stuck with U" với Justin Bieber và "Rain on Me" với Lady Gaga đã giúp cô ấy phá kỷ lục về số lần ra mắt quán quân nhiều nhất trên Hot 100, sau đó "Rain on Me" đã giành được giải Grammy cho Trình diễn song tấu hoặc nhóm nhạc giọng pop xuất sắc nhất. Grande tiếp tục phát triển nhạc trap với album thứ sáu của cô ấy, "Positions" (2020) cả album và đĩa đơn chính của cô đều đứng đầu ở Anh và Mỹ. Sự hợp tác của cô với The Weeknd trong các bản phối lại của "Save Your Tears" và "Die For You" lần lượt mang về cho cô đĩa đơn quán quân thứ sáu thứ và bảy tại Hoa Kỳ.
Grande là một trong những nghệ sĩ âm nhạc bán đĩa nhạc chạy nhất thế giới, cô ấy đã bán được hơn 90 triệu đĩa trên toàn thế giới và tất cả các album phòng thu của cô ấy đã được chứng nhận đĩa bạch kim hoặc cao hơn bởi RIAA. Cô ấy cũng phá vỡ nhiều kỷ lục của bảng xếp hạng "Billboard Hot 100", với các album, bài hát tư cách là một nghệ sĩ. Grande là nữ nghệ sĩ được phát trực tuyến nhiều nhất mọi thời đại trên Spotify và Apple Music, nữ nghệ sĩ được theo dõi nhiều nhất trên Spotify và là nữ nghệ sĩ solo được đăng kí trên YouTube. Chín bài hát và bảy video âm nhạc của Grande đạt 1 tỷ lượt nghe và xem trên Spotify và Vevo. Grande đã xuất hiện trong danh sách 100 người có ảnh hưởng nhất thế giới hàng năm của "Time" (2016 và 2019) và danh sách 100 người nổi tiếng quyền lực nhất thế giới theo Forbes (2019-2020). Grande được vinh danh là Người phụ nữ của năm (2018), Ngôi sao nhạc pop vĩ đại nhất của năm 2019 và là nữ nghệ sĩ thành công nhất ra mắt vào những năm 2010 bởi "Billboard". Hơn nữa, "Rolling Stone" đã xếp cô ấy vào danh sách 200 ca sĩ vị đại nhất mọi thời đại (2023). Bên cạnh âm nhạc, Grande đã làm việc với nhiều tổ chức từ thiện và những người ủng hộ quyền động vật, sức khỏe tâm thần và bình đẳng giới, quyền LGBT. Grande cũng lấn sang kinh doanh mỹ phẩm và thời trang. Grande có một lượng người theo dõi lớn trên mạng xã hội, cô ấy đã trở thành người phụ nữ được theo dõi nhiều nhất trên Instagram vào năm 2019 và có hơn 370 triệu người theo dõi tính đến năm 2023. Dòng nước hoa của cô ấy, được phát hành vào năm 2015, đã vượt doanh thu 1 tỷ đô la cho đến năm 2022.
Cuộc sống thời nhỏ.
Ariana Grande-Butera sinh ngày 26 tháng 6 năm 1993 tại Boca Raton, Florida.Cô là con gái Joan Grande sinh ra ở Brooklyn, CEO của Hose-McCann Communications, một nhà sản xuất thiết bị liên lạc và an toàn thuộc sở hữu của gia đình Grande từ năm 1964,và Edward Butera, một nhà thiết kế đồ hoạ chủ công ty ở Boca Raton.Grande là người gốc Ýtừ Silicia và Abruzzo.Cô có một anh trai cùng mẹ khác cha, Frankie Grande là một nghệ sĩ, nhà sản xuất âm nhạc, diễn viên và vũ công.Gia đình cô chuyển từ New York đến Florida trước khi cô sinh ra, và cha mẹ cô ly thân khi cô mới 8 hoặc 9 tuổi.Grande có mối quan hệ thân thiết với bà ngoại của cô, Marjorie Grande.
Khi bố mẹ cô là người giữ vé mùa giải Florida Panthers, cô đã vô tình bị những quả bóng khúc côn cầu đánh vào cổ tay vào hai lần khác nhau vào năm 1998, cả hai đều bị bầm tím nhẹ. Lần thứ hai xảy ra trong trận đấu khai mạc mùa giải thường xuyên của Panthers tại Trung tâm cho thuê ô tô quốc gia vào ngày 9 tháng 10 năm 1998, trong đó cô ấy là đứa trẻ đầu tiên cưỡi Zamboni trong đấu trường.Một bức ảnh của cô ấy trên Zamboni đã được đăng trên "South Florida Sunsentinal" vào ngày hôm sau.Vào năm 8 tuổi, cô đã hát "The Star-Spangled Banner" trong trận đấu trên sân nhà của Panthers với Chicago Blackhawks vào ngày 16 tháng 1 năm 2002.
Khi còn nhỏ, Grande đã biểu diễn với Nhà hát thiếu nhi tại Fort Lauderdale,đóng vai đầu tiên là nhân vật chính trong vở nhạc kịch "Annie". Cô cũng đã biểu diễn trong các tác phẩm là "The Wizard of Oz" và "Beauty and the Beast". Năm 8 tuổi, cô biểu diễn tại một phòng hát karaoke trên một con tàu du lịch với nhiều dàn nhạc khác nhau như South Florida's Philharmonic, Florida Sunshine Pops và Symphonic Orchestras.Trong thời gian này, cô theo học trường Pine Crest và sau đó là North Broward Preparatory.
Sự nghiệp.
2001–2012: Khởi đầu sự nghiệp và Nickelodeon.
Đến năm 13 tuổi, Grande bắt đầu nghiêm túc theo đuổi sự nghiệp âm nhạc, mặc dù cô vẫn tập trung vào sân khấu.Khi lần đầu tiên đến Los Angeles để gặp gỡ những người quản lý của mình, ô bày tỏ mong muốn thu âm một album R&B "Tôi đã nghĩ, tôi muốn làm một album R&B", họ nói "Um, đó là một mục tiêu khá tối tắm! Ai sẽ mua album R&B của một đứa trẻ 14 tuổi?!"Năm 2008, Grande được chọn vào vai hoạt náo viên Charlotte trong vở nhạc kịch Broadway"13." Khi tham gia vở nhạc kịch, Grande rời North Broward Preparatory School, nhưng vẫn tiếp tục được học tiếp, nhà trường đã gửi tài liệu cho cô ấy để học với gia sư.Cô cũng hát nhiều lần tại câu lạc bộ nhạc jazz Birdland tại thành phố New York.
Grande đã được chọn tham gia chương trình truyền hình của hãng Nickelodeon "Victorious" với bạn diễn cùng với vở nhạc kịch "13" Elizabeth Gillies vào năm 2009.Trong bộ phim sitcom lấy bối cảnh tại trường trung học nghệ thuật biểu diễn cô đóng vai Cat Valentine "đáng yêu".Cô phải nhuộm tóc đỏ hai tuần một lần cho vai diễn, khiến tóc cô bị hư tổn nghiêm trọng. Chương trình được công chiếu lần đầu vào tháng 3 năm 2010 với lượng khán giả lớn thứ hai đối với loạt phim người thật đóng ở Nickelodeon, với 5,7 triệu người xem.Vai diễn đã giúp Grande vụt lên thành thần tượng teen nhưng cô ấy quan tâm nhiều hơn đến sự nghiệp âm nhạc, cô nói rằng diễn xuất là "thú vị, nhưng âm nhạc luôn là ưu tiên hàng đầu đối với tôi". Vai diễn của cô được so sánh với "Màn diễn xuất bất hạnh tại "Clueless" của Brittany Murphy" và được mô tả là "rất dễ gây ấn tượng và dễ bị lay động" nhưng "nhìn chung là ngọt ngào".
Sau mùa đầu tiên của "Victorious" kết thúc, Grande muốn tập trung vào sự nghiệp âm nhạc của mình và bắt đầu thực hiện album đầu tay vào tháng 8 năm 2010.Để trau dồi giọng hát của mình, cô bắt đầu làm việc với huấn luyện viên thanh nhạc Eric Vetro.Phần thứ hai được công chiếu vào tháng 4 năm 2011 với 6,2 triệu người xem, trở thành phần phim có tỷ suất người xem cao nhất của chương trình.Tháng 5 năm 2011, Grande xuất hiện trong video của Greyson Chance cho bài hát "Unfriend You" từ album "Hold on 'til the Night" (2011) của anh, đóng vai người yêu cũ của anh. Cô xuất hiện lần đầu trong ca khúc "Give it Up" từ nhạc phim "Victorious" vào tháng 8 năm 2011. Grande đã thực hiện một số bản thu âm khi cô ấy hát lại các bài hát của Adele, Whitney Houston và Mariah Carey, rồi đăng chúng lên YouTube.Một người bạn của Monte Lipman, giám đốc điều hành của Republic Records, đã xem qua một trong các video. Ấn tượng với giọng hát của cô ấy, anh ấy đã gửi các video cho Lipman, người đã ký hợp đồng thu âm với cô ấy.Grande lồng tiếng cho vai chính trong bản lồng tiếng Anh của bộ phim hoạt hình tiếng Tây Ban Nha "Snowflake, the White Gorilla" vào tháng 11 năm 2011.Từ năm 2011 đến năm 2013, cô lồng tiếng cho vai nàng công chúa Diaspro của "Winx Club".
Vào tháng 12 năm 2011, Grande phát hành đĩa đơn đầu tiên "Put Your Hearts Up", được thu âm cho một album nhạc pop tiềm năng dành cho lứa tuổi thanh thiếu niên chưa từng được phát hành.Sau đó cô đã từ chối ca khúc này vì âm thanh bubblegum pop của nó, nói rằng cô ấy không có hứng thú với dòng nhạc thuộc thể loại đó.Bài hát sau đó được chứng nhận Vàng bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA).Trong phần nhạc phim thứ hai, "Victorious 2.0", phát hành vào ngày 5 tháng 6 năm 2012, như một đĩa mở rộng, cô góp giọng trong một phần trong dàn diễn viên của chương trình cho bài hát "5 Fingaz to the Face".Phần nhạc phim thứ ba cũng là cuối cùng, "Victorious 3.0", được phát hành vào ngày 6 tháng 11 năm 2012, trong đó có một bản song ca của Grande với Victoria Justice mang tên "LA Boyz", với một video âm nhạc đi cùng được phất hành ngay sau đó.Vào tháng 12 năm 2012, Grande hợp tác trong phiên bản đĩa đơn của "Popular Song", một bản song ca với ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Anh Mika.
Sau bốn mùa, "Victorious" không được đổi mới nội dung,với phần cuối được phát sóng vào tháng 2 năm 2013. Grande đóng vai Bạch Tuyết trong vở nhạc kịch theo phong cách kịch câm "A Snow White Christmas" với Charlene Tilton và Neil Patrick Harris tại Pasadena Playhouse.Cô đóng vai Amanda Benson trong "Swindle", một bộ phim năm 2013 của Nickelodeon chuyển thể từ cuốn sách thiếu nhi cùng tên.Trong khi đó, Nickelodeon tạo ra "Sam & Cat", "ICarly" và phần phụ "Victorious" có sự tham gia của Jennette McCurdy và Grande.Grande và McCurdy thể hiện vai diễn Cat Valentine và Sam Puckett của họ trong bộ phim sitcom về tình bạn, bộ phim ghép các nhân vật là bạn cùng phòng và lập lên công việc trông trẻ sau giờ học.Một đoạn phim ngắn được phát sóng vào ngày 8 tháng 6 năm 2013 và hãng ngay lập tức chọn bộ phim.Tháng tiếp theo, Nickelodeon tăng gấp đôi 20 tập ban đầu cho phần một, trở thành 40 tập.Mặc dù đạt thành công về mặt rating, loạt phim đã huỷ chiếu sau 35 tập.Tập cuối được phát sóng vào ngày 17 tháng 7 năm 2014.
2013–2015: "Yours Truly" và "My Everything".
Grande hoàn thành album phòng thu đầu tay của mình "Yours Truly", có tên ban đầu là "Daydreamin"', trong hơn ba năm.Album được phát hành vào ngày 30 tháng 8 năm 2013, ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng album "Billboard 200" của Hoa Kỳ, với 138.000 bản được bán ra trong tuần đầu tiên."Yours Truly" cũng ra mắt trong top 10 của một số quốc gia khác bao gồm Úc,Vương quốc Anh,Ireland,và Hà Lan.Đĩa đơn chính, "The Way", hợp tác với rapper Mac Miller, ra mắt ở vị trí ở vị trí thứ mười trên "Billboard Hot 100" của Hoa Kỳ,cuối cùng đạt vị trí thứ chín trong hai tuần.Grande sau đó bị Minder Music kiện vì sao chép câu "What we got do right here is go back, back in time" từ bài hát "Troglodyte (Cave Man)" năm 1972 của The Jimmy Castor Bunch.Đĩa đơn thứ hai của album "Baby I", được phát hành vào ngày 22 tháng 7 năm 2013.Đĩa đơn thứ ba của album "Right There", được hợp tác với rapper Big Sean, được phát hành vào tháng 8 năm 2013.Cả hai lần lượt đạt vị trí 21 và 84 trên bảng xếp hạng "Billboard Hot 100."
Grande đã thu âm bản song ca "Almost Is Never Enough" với Nathan Sykes của The Wanted, được phát hành dưới dạng đĩa đơn quảng cáo vào tháng 8 năm 2013. Cô cũng tham gia cùng Justin Bieber trong Believe Tour của anh ấy trong ba buổi biểu diễn và khởi động chuyến lưu diễn nhỏ gây chú ý của riêng cô, The Listening Sessions.Tháng tiếp theo, tạp chí "Billboard" xếp Grande ở vị trí thứ 4 trong danh sách "Music's Hottest Minors 2013", bảng xếp hạng thường niên dành cho những nhạc sĩ nổi tiếng nhất dưới 21 tuổi.Tại Giải thưởng Âm nhạc Mỹ năm 2013, đạt giải thưởng Nghệ sĩ mới của năm.Cô phát hành EP Giáng sinh gồm bốn bài hát, "Christmas Kisses" vào tháng 12 năm 2013.Grande đã nhận được giải thưởng Nghệ sĩ đột phá của năm từ Music Business Association, công nhận những thành tựu của cô trong suốt năm 2013.Vào tháng 1 năm 2014, Grande bắt đầu thu âm album phòng thu thứ hai của mình, với ca sĩ kiêm nhạc sĩ Ryan Tedder và các nhà sản xuất thu âm Benny Blanco và Max Martin.Cùng tháng đó, cô đạt giải thưởng Nghệ sĩ đột phá được yêu thích nhất tại People's Choice Awards 2014.Tháng 3 năm 2014, Grande hát một buổi hoà nhạc tại Nhà Trắng, "Women of Soul: In Performance at the White House" (tâm hồn của người phụ nữ: trong buổi biểu diễn ở Nhà Trắng).Tháng sau, Tổng thống Barack Obama và Đệ nhất phu nhân Michelle Obama mời Grande một lần nữa biểu diễn tại Nhà Trắng cho sự kiện Lăn trứng Phục sinh.
Grande phát hành album phòng thu thứ hai "My Everything" vào ngày 25 tháng 8 năm 2014 và ra mắt ở vị trí quán quân trên bảng xếp hạng "Billboard 200".Đĩa đơn chính "Problem" với sự góp mặt của rapper người Úc Iggy Azalea và được công chiều lần đầu tại 2013 Radio Disney Music Awards vào ngày 26 tháng 4 năm 2014.Bài hát ra mắt ở vị trí thứ ba (cuối cùng leo lên vị trí thứ 2) trên "Billboard Hot 100".Đĩa đơn thứ hai của album, "Break Free", hợp tác với nhạc sĩ kiêm nhà sản xuất người Đức Zedd, đạt vị trí thứ tư tại Hoa Kỳ.Cô ấy đã biểu diễn bài hát nay trong phần mở đầu của 2014 MTV Video Music Awards và giành giải Video Pop hay nhất cho "Problem"."Rolling Stone" xếp bài hát này ở vị trí 40 trong danh sách 50 bài hát LGBTQ truyền cảm hứng nhất mọi thời đại.Grande và Nicki Minaj với tư cách là khách mời góp giọng trong "Bang Bang", đĩa đơn chính từ album "Sweet Talker" của Jessie J,đạt vị trí số một tại Anh và đạt vị trí thứ ba tại Hoa Kỳ.Với các đĩa đơn "Problem", "Break Free" và "Bang Bang", Grande kết hợp với Adele với tư cách là nữ nghệ sĩ duy nhất có ba đĩa đơn lọt vào top 10 đồng thời trên "Billboard Hot 100" với tư cách là nghệ sĩ chính.
Grande là nghệ sĩ âm nhạc biểu diễn trên "Saturday Night Live", với Chris Pratt là người dẫn chương trình vào ngày 27 tháng 9 năm 2014.Cùng tháng đó, đĩa đơn thứ ba của "My Everything", "Love Me Harder", hợp tác với nghệ sĩ thu âm người Canada The Weeknd, được phát hành và đạt vị trí thứ bảy tại Hoa Kỳ.Bài hát trở thành đĩa đơn thứ tư trong top 10 của cô trong năm 2014, nhiều nhất của bất kỳ nghệ sĩ nào trong năm đó.Vào tháng 11 năm 2014, Grande góp giọng vào bài hát "All My Love" của Major Lazer từ album nhạc của bộ phim (2014).Cùng tháng, Grande phát hành một bài hát Giáng sinh có tựa đề "Santa Tell Me" dưới dạng đĩa đơn từ bản phát hành lại EP Giáng sinh đầu tiên của cô, "Christmas Kisses" (2014)."Billboard" đã liệt kê đĩa đơn này vào danh sách những bài hát hay nhất mọi thời đại dành cho ngày lễ.Tháng sau, cô xuất hiện trong album thứ ba của Nicki Minaj "The Pinkprint", với bài hát "Get On Your Knees".Sau đó, cô phát hành đĩa đơn thứ năm và cũng là đĩa đơn cuối cùng của "My Everything", "One Last Time", đạt vị trí thứ mười ba tại Hoa Kỳ.
Vào tháng 2 năm 2015, Grande bắt đầu chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới đầu tiên của mình, The Honeymoon Tour, để quảng bá cho "My Everything", với các buổi biểu diễn ở Bắc Mỹ, Châu Âu, Châu Á và Nam Mỹ.Grande xuất hiện trong bài hát "Adore" của Cashmere Cat, được phát hành tháng 3 năm 2015.Vào mùa xuân, cô ký hợp đồng độc quyền với Universal Music Publishing Group, bao gồm toàn bộ danh mục âm nhạc của cô.Grande đã quay một tập cho loạt phim truyền hình thực tế "Knock Kock Live" (2015) của Fox Broadcasting Company,nhưng chương trình đã bị huỷ trước khi tập của cô ấy được phát sóng.Cô cũng đóng vai khách mời trong một số tập của loạt truyền hình hài kinh dị của đài Fox "Scream Queens" (2015) trong vai Sonya Herfmann/Channel#2 từ tháng 9 đến tháng 11 năm 2015.Cô đã thu âm bản song ca "E Più Ti Penso" với nghệ sĩ thu âm người Ý Andrea Bocelli, được phát hành vào tháng 10 năm 2015 dưới dạng đĩa đơn chính trong album "Cinema" (2015) của Bocelli,và hát lại bài hát "Zero to Hero", ban đầu từ bộ phim hoạt hình "Hercules" (1997), cho album tổng hợp "We Love Disney" (2015).Grande cũng phát hành EP Giáng sinh thứ hai, "Christmas & Chill" vào tháng 12 năm 2015.
2015 - 2017: "Dangerous Woman".
Grande bắt đầu thu âm các bài hát cho album phòng thu thứ ba của cô, "Dangerous Wonman", với tên dự định ban đầu là "Moonlight", vào năm 2015.Vào tháng 10 năm đó, có phát hành đĩa đơn "Focus", ban đầu dự định là đĩa đơn chính trong album, bài hát ra mắt ở vị trí thứ bảy trên bảng xếp hạng "Billboard Hot 100".Tháng sau, ca sĩ người Mỹ Who Is Fancy đã phát hành đĩa đơn "Boys Like You", có sự góp mặt của Ariana Grande và Meghan Trainor.Cô góp giọng trong bản phối lại của "Over and Over Again", một bài hát của ca sĩ người Anh Nathan Sykes trong album solo đầu tay của anh "Unfinished Business", được phát hành vào tháng 1 năm 2016.Grande xuất hiện với tư cách là khách mời trong bộ phim hài "Trai đẹp lên sàn" với sự tham gia của Ben Stiller và Owen Wilson.Vào tháng 3 năm 2016, Grande phát hành "Dangerous Woman" là đĩa đơn chủ đạo mở đường cho album cùng tên.Đĩa đơn ra mắt ở vị trí thứ mười trên bảng xếp hạng "Billboard Hot 100", trở thành nghệ sĩ đầu tiên có đĩa đơn dẫn đầu trong ba album đầu tiên của cô lọt vào top 10.
2017: Dangerous Woman Tour, vụ đánh bom chấn động Manchester.
Grande khởi động Dangerous Woman Tour vào mùng 3 tháng 2 năm 2017. Theo lịch trình dự kiến, tour diễn sẽ trải dài khắp nước Mỹ rồi sau đó đến Châu Âu vào tháng 5 năm 2017.
Tháng 5, khi tour diễn ra tại châu Âu, cô đã hủy 4 đêm diễn tại Anh và Bỉ. Tháng 6, cô dừng ba đêm nhạc tại Ba Lan, Đức, Thụy Sĩ vì chấn động tâm lý sau vụ khủng bố đánh bom tại Manchester và tuyên bố có thể sẽ giải nghệ tuy nhiên sau vài ngày cô lại thông báo sẽ tiếp tục ca hát trở lại.
Khi tour diễn ra tại châu Á, Ariana có dừng chân tại Việt Nam vào ngày 23 tháng 8 tại Thành phố Hồ Chí Minh để diễn show tại SVĐ Quân khu 7. Nhưng trước 5 giờ lúc sắp biểu diễn, Ariana đã đột ngột hủy show do cô đột ngột sốt. Tuy nhiên, nhiều khán giả tại Việt Nam chỉ trích Ariana không chuyên nghiệp và coi thường fan Việt khi gửi thông báo hủy show qua chức năng story của mạng xã hội Instagram, bởi vì chức năng story chỉ xuất hiện trong vòng 24 tiếng đồng hồ và là chức năng ít được chú ý và coi trọng trong Instagram.
2018: Sweetener và vướng mắc đời tư với Mac Miller.
Năm 2018, Ariana Grande tiến hành thực hiện album mới lấy cảm hứng từ chính vụ khủng bố chấn động ngay tại concert của mình ở Manchester và hứa hẹn đó sẽ là album được trông ngóng nhất năm. Ngày 20 tháng 4 năm 2018, cô tung ra single mở màn "No Tears Left To Cry" cùng với video ca nhạc ngay sau đó. "No Tears Left To Cry" ra mắt ở vị trí thứ 3 trên Billboard Hot 100 và trở thành đĩa đơn thứ 9 của cô lọt vào top 10 tại Hoa Kỳ, giúp cô trở thành nghệ sỹ đầu tiên ra mắt single đầu tiên từ bốn album đầu tiên đạt top 10. Ca khúc này cũng được Grande trình diễn mở màn lễ trao giải Billboard Music Awards 2018 vào ngày 20 tháng 5 năm 2018 (theo giờ Việt Nam). Ngày 1 tháng 5 năm 2018, Grande tiết lộ tên album trong Tonight Show, nơi cô trình diễn "No Tears Left To Cry" cùng với đĩa đơn quảng cáo kết hợp với rapper Nicki Minaj có tên "The Light Is Coming". Single thứ hai, "God Is a Woman" được phát hành ngày 13 tháng 7 năm 2018 cùng với một MV đầy màu sắc, nghệ thuật cũng như ẩn chứa nhiều thông điệp sâu sắc về xã hội, nữ quyền cũng như về môi trường. Ngày 20 tháng 8 năm 2018 (giờ Việt Nam), Grande có màn trình diễn "God Is a Woman" được đánh giá cao tại lễ trao giải Video Music Awards tại Radio City Music Hall, cùng với sự góp mặt của bà, mẹ và chị họ của mình.
Album được chính thức phát hành ngày 17 tháng 8 năm 2018. Ngay trong ngày đầu tiên phát hành, "Sweetener" đã phá vỡ kỷ lục streaming ngày đầu tiên phát hành trên Spotify với 15,1 triệu lượt nghe và sau đó leo lên vị trí quán quân Billboard 200. Album cho thấy sự trưởng thành trong giọng hát và phong cách âm nhạc của Grande. Một số nhà phê bình cho rằng album này của Ariana Grande như một cú thoát xác khỏi những điều cũ kỹ của dòng nhạc pop đương đại và vương tới cái mới hơn.
Tuy nhiên khi album đang gây được tiếng vang lớn thì vụ tự tử chấn động của Mac Miller, bạn trai cũ của Grande, đã khiến một bộ phận cộng đồng mạng ném đá vào Grande, cho rằng việc cô đính hôn với Pete Davidson là nguyên nhân gây ra vụ tự tử. Grande bị suy sụp về tinh thần và phải tuyên bố tạm dừng sự nghiệp ca hát.
2019: "Thank U, Next," Don't Call Me Angel.
Ngày 3 tháng 11 năm 2018, đĩa đơn "Thank U, Next" được ra mắt. Sau đó nó đã đạt top 1 tại Mỹ, Anh, Úc, Canada, Estonia, Phần Lan, Hy Lạp, Ireland, Lebanon, Malaysia, New Zealand, Bồ Đào Nha và Singapore, top 10 tại Áo, Bỉ, Cộng hòa Séc, Đan Mạch, Hungary, Iceland, Hà Lan, Na Uy, Slovakia, Thụy Điển và Thụy Sĩ, top 20 tại Pháp và Đức.
"Thank U, Next" cũng đã phá vỡ một số kỷ lục của Youtube và Vevo. Trong vòng 35 phút, MV mới của Grande cán mốc 1 triệu lượt xem. Sau gần 12 tiếng, "Thank U, Next" đã vượt qua con số 32 triệu lượt xem. Đây cũng là đĩa đơn hạng nhất Billboard Hot 100 đầu tiên của Grande tại Mỹ.
Sau thành công của đĩa đơn "Thank U, Next", album cùng tên "Thank U, Next" được phát hành ngày 8 tháng 2 năm 2019.
"Break Up with Your Girlfriend, I'm Bored" cũng được phát hành cùng ngày với album, nó đã đạt vị trí số một ở Hy Lạp, Ireland, New Zealand, Slovakia và Vương quốc Anh. Ở Mỹ, "Break Up with Your Girlfriend, I'm Bored" đạt top 2 "Billboard" Hot 100.
Nối tiếp thành công, đĩa đơn "7 Rings" đạt top 1 "Billboard" Hot 100, nó trở thành đĩa đơn số 1 của cô và đã trải qua 8 tuần không liên tiếp ở vị trí số một. Bài hát này cũng đứng đầu các bảng xếp hạng ở một số quốc gia: Úc, Canada, Cộng hòa Séc, Estonia, Phần Lan, Hy Lạp, Hungary, Iceland, Ireland, Israel, Malaysia, New Zealand, Na Uy, Bồ Đào Nha, Singapore, Slovakia, Thụy Điển, Thụy Sĩ và Vương quốc Anh, và lọt vào top 10 tại Áo, Bỉ, Đan Mạch, Pháp, Đức, Ý, Lebanon, Mexico, Hà Lan và Tây Ban Nha.
Ngày 13 tháng 9 năm 2019, Ariana Grande cùng Miley Cyrus, Lana Del Rey chính thức tung MV mới cho ca khúc Don't Call Me Angel"," MV được đạo diễn bởi Hannah Lux Davis - người đồng hành Ariana trong nhiều sản phẩm trước đó như Thank U, Next, 7 Rings, Into You...Ca khúc là lần đầu ba ca sĩ cùng hợp tác trong một dự án âm nhạc.
2020 -2021: "Positions".
Vào tháng 1 năm 2020, Grande nhận được nhiều đề cử tại Giải thưởng âm nhạc iHeartRadio 2020, bao gồm cả Nữ nghệ sĩ của năm.Tháng sau, cô là khách mời trong mùa thứ hai của loạt phim truyền hình Mỹ "Kidding," với sự tham gia Jim Carrey.Grande và Justin Bieber đã có màn hợp tác với bài hát có tựa đề "Stuck with U" vào ngày tháng 5 năm 2020, số tiền thu được từ bài hát được quyên góp cho First Responders Children's Foundation do Đại dịch COVID-19.Bài hát ra mắt với vị trí số một trên "Billboard" Hot 100, trở thành đĩa đơn đứng đầu bảng xếp hạng thứ ba của Grande. Cô cũng phát hành bản hợp tác với Lady Gaga là bài hát "Rain on Me", là đĩa đơn thứ hai trong album phòng thu thứ sáu của Gaga,Chromatica. Bài hát cũng ra mắt với vị trí số một trên "Billboard" Hot 100, trở thành đĩa đơn đứng đầu thứ tư của Grande và giúp Grande phá kỷ lục số lần ra mắt nhiều nhất trên bảng xếp hạng đó. Bài hát giành được Giải Grammy cho Trình diễn song tấu hoặc nhóm nhạc pop xuất sắc nhất tại lễ trao Giải Grammy lần thứ 63.Năm 2020, Grande trở thành người phụ nữ có thu nhập cao nhất trong lĩnh vực âm nhạc trong danh sách 100 người nổi tiếng năm 2020 của Forbes, đứng thứ 17 với 72 triệu đô la.Tại lễ trao giải Video âm nhạc của MTV năm 2020, cô được đề cử 9 giải thưởng cho cả "Stuck with U" (với Bieber), "Rain on Me" (với Gaga). Sau đó, Grande đã nhận được đề cử thứ ba liên tiếp cho Video âm nhạc của năm.Cô đã giành được bốn giải thưởng, bao gồm Bài hát của năm cho "Rain on Me".
Album phòng thu thứ sáu của Grande, "Positions" được phát hành vào ngày 30 tháng 10 năm 2020.Nó đứng đầu bảng xếp hạng "Billboard 200", trở thành album quán quân thứ năm của Grande. Đĩa đơn chính cùng tên được phát hành vào ngày 23 tháng 10.Nó ra mắt với vị trí đứng đầu trên bảng xếp hạng "Billboard Hot 100", trở thành đĩa đơn đứng đầu bảng xếp hạng thứ năm của Grande và phá vỡ nhiều kỉ lục. Cùng với việc phát hành "Positions", bài hát trong album "34 + 35" được coi là đĩa đơn thứ hai trong album. Bài hát ra mắt với vị trí số 8. Grande ra mắt bản remix "34 + 35" với sự góp mặt của các rapper người Mỹ Doja Cat và Megan Thee Stallion vào ngày 15 tháng 1 năm 2021. Bản remix đã giúp bài hát đạt vị trí thứ hai, bài hát có thứ hạng cao nhất được ghi nhận cho ba hoặc nhiều nữ nghệ sĩ solo trên Hot 100 kể từ "Lady Marmalade" của Christina Aguilera, Mýa, Pink và Lil' Kim vào năm 2001.Grande được vinh danh là nghệ sĩ có nhiều lượt phát nhất trên các đài của IHeartRadio vào năm 2021, đạt 2,6 tỷ khán giả.
Vào ngày 14 tháng 10 năm 2020, cô thông báo rằng sẽ xuất hiện cùng với Leonardo DiCaprio, Jennifer Lawrence và Meryl Streep trong phim Đừng nhìn lên của Adam McKay. Bộ phim được phát hành trên dịch vụ phát trực tuyến Netflix, vào ngày 24 tháng 12 năm 2021. Với lượng phát trực tuyến hơn 152 triệu giờ trong một tuần, bộ phim đã phá kỷ lục tuần có lượt xem lớn nhất trong lịch sử Netflix.Để quảng bá cho bộ phim, Grande đã phát hành bài hát "Just Look Up", hợp tác vơi rapper Kid Cudi, vào ngày 3 tháng 12 năm 2021.
Phong cách âm nhạc.
Chất giọng của Grande là giọng lirico soprano với âm vực gồm 4 quãng tám và 1 nốt D3-E7. Cô được xem là một ca sĩ linh hoạt với giọng hát cao và âm vang, sở hữu quãng giọng được so sánh với Mariah Carey và Whitney Houston. Âm nhạc của Grande chủ yếu thuộc thể loại pop và R&B với những yếu tố của funk, dance và hip hop.
Grande chủ yếu chịu ảnh hưởng từ Mariah Carey, India.Arie, Christina Aguilera và Whitney Houston, cũng như ca sĩ, nhạc sĩ người Anh Imogen Heap. Cô từng chia sẻ: "Tôi yêu Mariah Carey. Cô ấy là con người tôi yêu thích nhất trên hành tinh. Và dĩ nhiên cũng là Whitney [Houston]..."
Đời tư.
Từ năm 2012 đến mùa hè năm 2013, Grande đã hẹn hò với Jai Brooks, thành viên nhóm The Janoskians.
Tháng 5 năm 2018, Ariana tuyên bố chia tay với ca sĩ Mac Miller sau gần 2 năm hẹn hò từ tháng 8 năm 2016.
Ngày 11 tháng 6 năm 2018, Ariana Grande bất ngờ tuyên bố đính hôn với diễn viên Pete Davidson chỉ sau 12 ngày hẹn hò. Grande còn viết cả một ca khúc tên "Pete Davidson" trong album "Sweetener".
Ngày 15 tháng 5 năm 2021, Ariana Grande kết hôn với Dalton Gomez.
Hoạt động từ thiện.
Lúc 10 tuổi, Grande đồng sáng lập nhóm Kids Who Care tại Nam Florida để biểu diễn ở các sự kiện gây quỹ từ thiện. Nhóm đã quyên góp được 500,000 đô la Mỹ chỉ tính riêng trong năm 2007. Mùa hè năm 2009, với tư cách là thành viên của tổ chức từ thiện Broadway in South Africa, Grande biểu diễn và dạy nhạc cho trẻ em ở Gugulethu, Nam Phi cùng với anh mình. Grande cũng đang hợp tác với Kleenex trong chiến dịch "Shield Sneeze Swish". | 1 | null |
Hughes AIM-4 Falcon là loại tên lửa không đối không điều khiển đầu tiên của Không quân Hoa Kỳ. Việc phát triển bắt đầu từ năm 1946, vũ khí được thử nghiệm đầu tiên năm 1949. Tên lửa được đưa vào biên chế USAF năm 1956.
Xem thêm.
Thiết kế cùng sự phát triển: | 1 | null |
"Try" là một bài hát của ca sĩ - nhạc sĩ thu âm người Mỹ Pink, phát hành dưới dạng đĩa đơn thứ 2 trích từ album phòng thu thứ sáu của cô ấy, The Truth About Love (2012). Nó được sáng tác bởi Busbee và Ben West, và được sản xuất bởi Greg Kurstin. Bài hát là một bản ballad mang âm hưởng pop rock, nói về sự cố gắng tìm lại một tình yêu bị đánh mất.
"Try" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, họ cho rằng nó là một trong những bài hát hay nhất album và gọi nó là một bản hit lớn. "Try" đạt thành công về thương mại khi đạt vị trí quán quân tại Tây Ban Nha và lọt vào top 10 tại Úc, Áo, Canada, Đức, Ý, New Zealand, Ba Lan, Thụy Sĩ, Vương Quốc Anh và Hoa Kỳ; bài hát cũng lọt được vào top 20 của hầu hết các quốc gia. The Floria Sigismondi - đạo diễn của video âm nhạc đã định hướng hình ảnh của video là Pink cùng người bạn diễn của cô sẽ thực hiện tâm trạng thất vọng trong tình yêu bằng những động tác múa đương đại.
Bối cảnh thực hiện và phát hành.
Vào tháng 2 năm 2012, Pink khẳng định rằng cô đang viết nhạc cho album phòng thu thứ sáu của mình mang tên The Truth About Love. Một phiên bản của đĩa đơn đầu tiên trích từ album, Blow Me (One Last Kiss) đã bị rò rỉ trực tuyến vào ngày 1 tháng 7 năm 2012 và kết quả là việc phát hành đĩa đơn này được dời lên trước một tuần. Sau đó, Rachel Raczka từ tờ The Boston Globe đã thông báo rằng đĩa đơn thứ hai "Try" cũng đã bị rò rỉ trong tháng 9 năm 2012. Bài hát lúc đầu được trình bày bởi GoNorthToGoSouth, một ban nhạc với các thành viên Ben West và Michael Busbee. Phiên bản khác của Pink được phát sóng trên đài phát thanh vào ngày 6 tháng 9 năm 2012. "Try" cũng là một trong 5 bài hát được lựa chọn để phát hành lyric video và chúng được đăng tải vào ngày 12 tháng 9, bao gồm: "Slut Like You", "Just Give Me a Reason" (kết hợp với Nate Ruess của ban nhạc fun.), "How Come You're Not Here" và "Are We All We Are". Các nhà phê bình âm nhạc cũng đã chỉ ra sự tương đồng giữa bìa đĩa đơn "Try" với bìa album X của nữ nghệ sĩ người Úc Kylie Minogue.
Sáng tác.
"Try" được sáng tác bởi Ben West và Busbee trong khi đó đảm nhận việc sản xuất bài hát là Greg Kurstin, cũng đồng thời là người sản xuất cho đĩa đơn trước đó "Blow Me (One Last Kiss)". Theo Carl Willot từ trang web Idolator thì bài hát là "một bản ballad pha trộn âm hưởng pop rock, mô phỏng theo phong cách FM Rock của những năm 80 trong đó phần đoạn chính lắng đọng kết hợp với phần điệp khúc mạnh mẽ, âm vang". Về phần ca từ, bài hát như một bài thơ ca ngợi những rủi ro xảy ra trong tình yêu, không lo lắng về hậu quả mà một tình yêu tan vỡ mang lại. Nó cũng nêu những ước mơ, khát vọng mãnh liệt của những con người muốn được yêu dù đó là một tình yêu không bền vững. Câu hát ""Where there is desire there is gonna be a flame" hay đoạn điệp khúc "Where there is a flame someone's bound to get burned. But just because it burns doesn't mean you're gonna die. You gotta get up and try."" đã chứng minh được điều đó. Bài hát được viết bằng khóa Si (B minor) (gồm khóa sol và hai dấu thăng) với nhịp độ 104 nhịp trên phút (BPM). Giọng hát của Pink trong khoảng từ nốt D4 đến F5 và theo sau là dãy nốt Bm−G−D−D/A.
Tiếp nhận.
"Try" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc đồng thời ca ngợi người sản xuất bài hát. Andrew Hampp của tạp chí Billboard nhận xét "Với phần giai điệu gợi nhớ đến ca khúc "Whataya Want From Me" mà cô viết cho Adam Lambert vào năm 2009, thì đĩa đơn này đã sẵn sàng để lên kệ để tăng doanh số bán hàng cho Pink". Josh Langhoff của PopMatters gọi nó như là "một bài thơ lãng mạn ca ngợi sự kiên trì trong tình yêu với tiếng guitar sắc nét tương tự bài hát "Hysteria" của ban nhạc Muse". John Murphy của musicOMH đã viết rằng ""Try" đã chứng minh rằng Pink có một giọng hát mà không thiếu những người có thể công nhận nó. Và để miêu tả nó bằng một từ ngữ duy nhất, tôi sẽ miêu tả là một bản ballad giàu nội lực, với chủ đề liên quan đến một tình yêu lạc lối và điều mà bạn có thể tưởng tượng ra được một vài người như Kelly Clakson có thể bật ra trong giấc ngủ của cô ấy." Amy Sciarretto của PopCrush cũng cho thấy những sự tương đồng với Clarkson, cô ấy nói: "Một bài hát với giọng hát mềm mại, đầy cảm xúc và giọng hát ấy thật giống với Kelly Clarkson. Với nhịp tempo trung thì bài hát đã diễn tả sự đau khổ, than khóc và mơ màng của Pink với một mối quan hệ yêu đương đã bị phá hủy đến tận cốt lõi của nó. Tuy là đau khổ nhưng bài hát lại là một thứ thuốc xoa dịu vết thương".
Dean Piper đến từ Mirror Online đã viết rằng: "Một bản thu xuất sắc và phát sóng trên đài phát thanh quốc tế, đó chỉ có thể là "Try". Nghĩ thật tuyệt vời khi "Who Knew" và "Try" được phát trên cùng một bước sóng". Robert Copsey của Digital Spy mô tả bài hát như "một bản ballad được biểu trên sân vận động với những làn sóng vẫy tay nhẹ nhàng của khán giả". Lewis Corner từ Digital Spy đã đánh giá bài hát 4 trên 5 sao và nói rằng: "Mặc dù cô ấy không đặt trên lên vùng đất mới nhưng với niềm đam mê và sự quyết tâm cao thì chắc chắn cô ấy sẽ còn hiện diện trên các bảng xếp hạng - và sự thật là đúng như vậy". Sal Cinquemani của tạp chí Slant thì có đánh giá tiêu cực cho bài hát khi cho rằng "phần nhịp tempo trung của "Try" đã không giúp Pink tiến về phía trước và nó bị phá hỏng bởi chính lời bài hát". Greg Kot của Chicago Tribune cũng có đánh giá tương tự khi viết rằng: "Không một ai, kể cả Pink, có thể cứu chữa được lời của bài hát".
Diễn biến xếp hạng.
"Try" có mặt tại bảng xếp hạng Billboard Hot 100 tại vị trí thứ 56 vào ngày 6 tháng 10 năm 2012 sau khi album được phát hành. Bài hát cũng có mặt tại vị trí thứ 29 trong tuần đầu tại bảng xếp hạng Adult Pop Songs. Sau phần biểu diễn trực tiếp của Pink tại lễ trao giải American Music Awards 2012, thì bài hát đã vươn từ vị trí 50 lên vị trí 18 tại Hot 100. Bài hát đạt thứ hạng cao nhất là vị trí 9 trong tuần lễ thứ 15 của nó. Tính đến tháng 7 năm 2013, "Try" đã tiêu thụ trên 2 triệu bản tại Mỹ.
Tại Canada, bài hát xuất hiện lần đầu ở vị trí 26 tại bảng xếp hạng Canadian Hot 100 vào ngày 6 tháng 10 năm 2012. Tuần sau đó bài hát rớt xuống vị trí 86, trở thành bài hát rơi hạng nhanh nhất trong tuần. Sau khi rớt khỏi bảng xếp hạng một tuần thì bài hát đã trở lại tại vị trí 60 vào ngày 27 tháng 10 năm 2012. Đến ngày 10 tháng 11 năm 2012, bài hát vươn lên vị trí 25, trở thành bài hát tăng hạng trở lại nhanh nhất tuần. Cũng trong tuần đó bài hát đã nhảy lên vị trí 18 và ở vị trí đó trong hai tuần. Cuối cùng bài hát vươn lên được vị trí 12 vào ngày 1 tháng 12 năm 2012, lập lại thành tích "bài hát tăng hạng nhanh nhất tuần" một lần nữa.
Tại Vương Quốc Anh, "Try" có mặt đầu tiên ở vị trí 163 tại UK Singles Chart vào ngày 16 tháng 9 năm 2012 nhờ vào lượng tải kỹ thuật số sau khi album được phát hành. Vào ngày 11 tháng 11 năm 2012, "Try" có mặt tại vị trí 40 và đến ngày 9 tháng 12 năm 2012 bài hát có mặt trong top 10 ở vị trí thứ 8. Tại Đức, bài hát ra mắt tại vị trí thứ 5; sau màn biểu diễn của Pink tại show truyền hình lớn nhất châu Âu mang tên "Wetten, dass..?", tại Freiburg thì bài hát đã vươn lên vị trí á quân. Tại Pháp, "Try" có những bước tiến chậm chạp; xuất hiện đầu tiên tại vị trí 87 trước khi rơi xuống vị trí 173. Sau 2 tuần, bài hát trở lại tại vị trí 81, trước khi vươn lên thứ hạng cao nhất của nó tại vị trí 24. Tại Úc, bài hát xuất hiện lần đầu ở vị trí 80 tai ARIA Singles Chart. Một vài tuần sau đó, nó vươn lên vị trí thứ 6 và giữ chân tại đó được 2 tuần. Bài hát cũng trở thành đĩa đơn thứ 20 của Pink lọt vào top 10 tại đây. Bài hát xuất hiện tại bảng xếp hạng New Zealand Singles Chart tại vị trí 21 và tiến xa đến vị trí thứ 7 và giữ chân tại đây 2 tuần; "Try" cũng có thứ hạng cao hơn đĩa đơn trước đó là "Blow Me (One Last Kiss)" khi đĩa đơn này chỉ đạt được vị trí thứ 8.
Video âm nhạc.
Nền tảng thực hiện.
Video âm nhạc cho "Try" được bấm máy vào ngày 27 tháng 8 năm 2012. Pink nói rằng: "Thực hiện video này là trải nghiệm vui nhất tôi từng có trong sự nghiệp của mình. Tôi chẳng bao giờ mong nó kết thúc hết. Đây chính là video mà tôi yêu thích nhất". Video được phát hành vào ngày 10 tháng 10 năm 2012, được đạo diễn bởi Floria Sigismondi và phần vũ đạo được dàn dựng bởi Golden Boyz (người từng làm việc với Madonna và Britney Spears) và biên đạo múa Sebastien Stella. Phần vũ đạo của bài hát được lấy cảm hứng từ phong cánh nhảy Apache, một kiểu nhảy cách điệu được biểu diễn trên đường phố của Paris.
Pink cũng đã đăng lên trang Twitter những suy nghĩ của mẹ cô, bà Judith, về phần vũ đạo của video. Cô nói mẹ của cô đã rất sốc và đỏ mặt trước màn biểu diễn đó: "Mẹ tôi sau khi xem xong video mới một lúc sau mới nói chuyện với tôi: 'Con yêu à, mẹ thật không nói nên lời. Thật không dễ chịu chút nào. Ai mà chắc con sẽ được an toàn khi làm mấy cái động tác đó chứ?' Cảm ơn mẹ". Nhân vật người tình của Pink trong video được đảm nhiệm bởi Colt Prattes đến từ nhà hát Broadway.
Màn tái hiện video được Pink thực hiện trong màn biểu diễn trực tiếp tại American Music Awards 2012 nhận được rất nhiều lời tán thưởng và được ca ngợi là một bước tiến trong con đường nghệ thuật của cô ấy. Tạp chí Billboard đã xếp màn trình diễn này của Pink tại vị trí thứ 2 sau màn trình diễn bài hát "Gangnam Style" của nam ca sĩ PSY.
Sơ lược.
Video của bài hát diễn ra tại hai nơi là cảnh trong nhà, nơi mà Pink thực hiện những động tác múa đương đại ấn tượng với vũ công Colt Prattes và cảnh ngoài trời, khi họ nhảy và va chạm vào nhau ở giữa sa mạc. Video sử dụng bột màu rắc trên mình diễn viên để mỗi chuyển động lại vương ra trong không khí và phần trang phục được đơn giản hóa tối đa để làm nổi bật lên những động tác hình thể của cả hai người. Những động tác trong video mang nhiều ý nghĩa ẩn dụ, mô tả một bầu không khí u ám và mối quan hệ dằn vặt trong một tình yêu tan vỡ.
Tiếp nhận.
James Montgomery đến từ MTV News khen ngợi video và viết rằng: "Mặc dù gặp phải một số vấn đề nhưng video đã hạn chế được rất nhiều cảnh gân guốc mà cơ thể diễn viên tạo ra. Theo nhiều cách nó nhắc bạn nhớ lại phần hình ảnh trong video "Fjögur píanó" của ban nhạc Sigur Rós và bạn biết đấy hình ảnh khỏa thân của diễn viên Shia LaBeouf - là một cảnh quan trọng nhất. Đây là, điều đầu tiên và quan trọng nhất, một video nhạc pop, nó mong muốn được nhiều hơn. Và lại nói về vấn đề này thì đó chính là một video mà chỉ có Pink mới làm ra được. Cô ấy chắc chắn là một ngôi sao lớn và cô cảm thấy thích thú khi vượt qua những hạn chế của thể loại nhạc pop. 'Try' thật sự là một video nhạc pop đúng nghĩa và người ta cũng có thể thấy nó được biểu diễn trên sân khấu. Nó thật hoành tráng, thật đẹp và chắc chắn nó là một tác phẩm nghệ thuật; có lẽ nó là duy nhất và chúng ta không nghi ngờ gì về khả năng của Pink cả. Cô ấy thúc đẩy bản thân mình và thực sự đi đến giới hạn mà các video nhạc pop có thể làm được, đến giới hạn của sự nỗ lực".
Sam Lansky của trang web Idolator đã viết rằng: "Mặc dù các video của Pink thường hoạt động theo sự tự ý thức và sự châm biếm, mỉa mai nhưng cô đã thực sự diễn trong suốt toàn bộ video ["Try"]. Cô đưa người xem đến với những cung bậc của cảm xúc trong phần biểu diễn, tất cả gói gọn khi cô thực hiện những bước nhảy và nhào lộn ấn tượng". Jason Lipshut của Billboard nhận xét rằng Pink và Prattes đang "tham gia những bước nhảy biểu hiện sự tranh cãi của trái tim" và làm cho nó "dễ dàng để thấy tại sao những ngôi sao nhạc pop thích tận hưởng những cảnh quay". Katie Hasty của HitFix thì cảm nhận video bài hát đã cho phép Pink thể hiện "những cống hiến của cô ấy và khả năng thể chất của mình".
Biểu diễn trực tiếp.
Pink biểu diễn trực tiếp "Try" lần đầu tiên tại "The X Factor" Australia vào ngày 2 tháng 10 năm 2012. Màn tái hiện video được Pink thực hiện trong màn biểu diễn trực tiếp tại American Music Awards 2012 nhận được rất nhiều lời tán thưởng và được ca ngợi là một bước tiến trong con đường nghệ thuật của cô ấy. Tờ Entertainment Weekly viết: "Như thường lệ, Pink đã đưa đêm diễn lên một tầm cao mới" và dành cho màn biểu diễn điểm A. | 1 | null |
Ân Trọng Kham (chữ Hán: 殷仲堪, ? - 399), nguyên quán ở Trần quận, là đại thần, tướng lĩnh dưới thời nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc.
Xuất thân và thời trẻ.
Gia đình Ân Trọng Kham nhiều đời phục vụ cho nhà Tấn. Tổ phụ của Ân Trọng Kham là Ân Dung, giữ chức Thái thường, Lại bộ thượng thư; cha ông là Ân Sư cũng làm đến chức Phiêu kị tư nghị tham quân, thái thú Tấn Lăng.
Ân Trọng Kham từ lúc nhỏ đã nổi tiếng ăn nói và đàm luận, được nhiều người quý mến. Lúc lớn ông được bổ làm Tá trứ tác lang. Đến năm 379, Ân Trọng Kham đi theo Quan Quân tướng quân, thứ sử Từ châu Tạ Huyền, được bổ làm Tham quân, sau lại thăng ông lên chức trưởng sử. Trọng Kham rất được Tạ Huyền coi trọng. Ông thường khuyên Tạ Huyền nên tìm cách lấy lòng người dân ở phương bắc. Tạ Huyền rất nể phục.
Về sau Ân Trọng Kham được thăng lên làm thái thú Tấn Lăng. Trong thời gian cai trị Tấn Lăng, ông dùng chính sách giáo hóa dân chúng học theo điều lễ nghĩa, ra lệnh cấm những trường hợp sinh con mà không báo lên quan, người nhà chết không cử ai, làm lễ tang lâu mà không chịu hạ táng... Đối với phụ thân, ông cũng tỏ ra là người con có hiếu. Thấy Ân Dung bị bệnh lâu năm, tự trách vì sức mình không cứu chữa nổi, Ân Trọng Kham bèn tự nghiên cứu y thuật. Có lần vì quá lo cho sức khỏe của cha, Ân Trọng Kham trong lúc dùng thuốc gạt nước mắt, cuối cùng bị chột một mắt. Khi Ân Dung qua đời, Trọng Kham hết sức lo tang, đau buồn đến gầy yếu cả người.
Trấn giữ Kinh châu.
Về sau Ân Trọng Kham được bổ làm Thái tử Trung thứ tử, Hoàng môn thị lang và vào triều làm quan, rất được Tấn Hiếu Vũ Đế tín nhậm. Bầy giờ trong triều đình, Cối Kê vương Tư Mã Đạo Tử nắm nhiều quyền lực, trọng dụng gian thần Vương Quốc Bảo khiến hoàng đế rất bất mãn, bèn tìm cách bổ nhiệm các đại thần thân tín trong triều cai quản các châu quận để kiềm chế đi. Năm 392, thứ sử Kinh châu Vương Thầm qua đời, Hiếu Vũ Đế bèn bổ nhiệm Trọng Kham làm đô đốc quân sự ba châu Kinh, Ích, Ninh, Chấn Uy tướng quân, Thứ sử Kinh châu và giao cho nhiệm vụ trấn thủ Giang Lăng.
Ân Trọng Kham có tiếng là người anh minh, vì thế việc ông đến Kinh châu được nhiều người kì vọng sẽ làm nên thành tích. Khi đến châu, ông không thay đổi pháp độ nhưng vẫn được nhiều người tin cẩn và quy phục vì cách hành xử khéo léo. Một lần người quận Quế Dương là Hoàng Khâm đang có tang cha, nhưng không mặc đồ tang, lại lên tiếng nhục mạ trong lễ tang, bị tố giác đến chỗ Ân Trọng Kham, theo luật thì phải xử Hoàng Khâm tội chết. Nhưng ông cho rằng cha của Hoàng Khâm vừa chết, nếu như xử tử Khâm vì tội này sẽ làm người quá cố mang tiếng xấu, nên không xử chết Hoàng Khâm. Mấy năm sau, thứ sử Ích châu Quách Thuyên do bị phát giác có mưu phản, triều đình bèn giao cho Ân Trọng Kham xét xử. Trọng Kham cho giết chết Quách Thuyên.
Sau đó triều đình đổi Ân Trọng Kham làm Ưng Dương tướng quân. Ít lâu sau, vùng Giang Lăng bị lũ lụt, nhiều hộ bị thiệt hại, Ân Trọng Kham bị chỉ trích không nghiêm minh trong việc đắp đê phòng lụt nên bị giáng làm Ninh Viễn tướng quân. Đến năm 396, Tấn Hiếu Vũ Đế bị Trương Quý nhân sát hại, An Đế nối ngôi, thăng Trọng Kham làm Quan Quân tướng quân nhưng ông từ không nhận.
Hưởng ứng Vương Cung.
Năm 397, Thứ sử hai châu Thanh, Duyện là Vương Cung khởi binh kể tội gian thần Vương Quốc Bảo (kẻ nịnh hót được Tể tướng Cối Kê vương Tư Mã Đạo Tử yêu thích), đưa quân tiến đánh Kiến Khang. Ân Trọng Kham theo lời của Nam quận công Hoàn Huyền, cử quân theo giúp Vương Cung. Ông cũng khuyên anh họ là Ân Nghĩ và tướng ở Nam quận là Giang Tích, Thứ sử Ung châu Si Khôi hưởng ứng nhưng họ đều không đồng ý. Về sau Trọng Kham cũng do dự không còn giữ được ý kiến. Đúng lúc sử giả của Vương Cung đến nơi, yêu cầu Ân Trọng Kham giúp quân thảo phạt Vương Quốc Bảo, Trọng Kham đành phải chấp nhận. Về sau Tư Mã Đạo Tử giết Vương Quốc Bảo và Vương Tự, Trọng Kham và Vương Cung mới trở về Giang Lăng.
Sang năm 398, Vương Cung lại lấy lý do diệt trừ phe cánh của Tiều vương Tư Mã Thượng Chi kéo quân đánh Kiến Khang lần thứ hai. Ân Trọng Kham bèn quyết định trợ giúp ngay từ đầu, ý muốn chia thành công cùng với Vương Cung. Ông phái Dương Thuyên Kì dẫn 5000 thủy quân làm Tiên phong, còn mình đích thân dẫn 20000 quân đi sau. Khi Trọng Kham tiến tới Vu Hồ thì nghe tin Vương Cung đã bị triều đình giết chết. Dương Thuyên Kì và Hoàn Huyền hoảng sợ bỏ về Thái châu. Lúc bấy giờ triều đình không rõ về lực lượng của quân đội Kinh châu của Ân Trọng Kham; Tả vệ tướng quân Hoàn Tu hiến kế cho Tư Mã Đạo Tử nên lợi dụng Hoàn Huyền và Dương Thuyên Kì để chống lại ông. Đạo Tử bằng lòng, bèn phong Hoàn Huyền làm Thứ sử Giang Châu, Dương Thuyên Kì làm Thứ sử Ung châu, Hoàn Tu làm Thứ sử Kinh châu và biếm Trọng Kham xuống làm Thứ sử Quảng châu. Ân Trọng Kham bất mãn, không chịu lui binh, ý muốn tiếp tục dùng quân đội để tấn công Kiến Khang, lại hạ lệnh cho Hoàn Huyền mau chóng tiến binh, nhưng Huyền tơ tưởng đến chức vị của triều đình nên chần chừ không quyết định, còn Dương Thuyên Kì đã chấp nhận nhận chức của triều đình. Ân Trọng Kham được tin, lo sợ, đành phải lui quân.
Sau đó Ân Trọng Kham lập lại quan hệ với Hoàn Huyền và Dương Thuyên Kì, tôn Huyền làm minh chủ, không nghe theo mệnh lệnh của Tấn triều, đồng thời yêu cầu Tư Mã Đạo Tử giết chết Lưu Lao Chi, kẻ phản bội Vương Cung trước kia và Tư Mã Thượng Chi. Lúc đó Lưu Lao Chi bèn đưa quân từ Kinh Khẩu về Kiến Khang, Thuyên Kì và Huyền được tin cả sợ, bèn trở về Thái châu, Lao Chi cũng rút về Kinh Khẩu.
Dương Thuyên Kì trở về quản lý Ung châu, tiễn quan trấn thủ Ung châu trước đây là Si Khôi về kinh. Ân Trọng Kham bèn phái sát thủ giết hại Si Khôi.
Thất bại và qua đời.
Tuy kết minh cùng Hoàn Huyền, song Ân Trọng Kham và Dương Thuyên Kì không chịu thần phục. Thuyên Kì nhiều lần phát quân công phạt Huyền, có lần còn mua chuộc sát thủ định hại Huyền, nhưng Ân Trọng Kham thấy rằng Dương Thuyên Kì là kẻ dũng mãnh, nếu như giết được Hoàn Huyền sẽ còn lấn át tới mình, nên không chấp nhận.
Hoàn Huyền sau khi biết việc Dương Thuyên Kì muốn đối phó mình, liền dẫn quân chuẩn bị diệt Thuyên Kì, thượng biểu lên triều đình. Triều đình bèn dùng Huyền làm Đô đốc bốn quân ở Kinh châu, phong thuộc tướng Hoàn Vĩ làm Nam Man giáo úy. Giáo úy cũ là Dương Quảng bèn bị Ân Trọng Kham điều đi nơi khác. Dương Thuyên Kì biết việc, cực kì tức giận, bèn lấy cớ đem quân cứu thành Lạc Dương đang bị Hậu Tần bao vây, nhưng thực ra là tiến đánh Hoàn Huyền. Trọng Kham cũng không tin tưởng Dương Thuyên Kì, bèn phái Ân Duật đưa quân lên phía bắc đề phòng. Thuyên Kì đành phải lui quân.
Tháng 12 năm 399, Hoàn Huyền trở mặt, đem quân thảo phạt và Dương Thuyên Kì, cũng mượn cớ là cứu viện Lạc Dương, sai sứ đến gặp Ân Trọng Kham đề nghị kết giao. Trọng Kham cho bắt giữ Hoàn Vĩ (anh Hoàn Huyền), rồi sai em là Ân Duật đem hơn nghìn quân tiến vào Giang Tây Khẩu. Huyền sai Quách Thuyên và Phù Hoành chống lại, Duật thua trận bỏ trốn. Sau đó Hoàn Huyền dẫn quân đánh bại Dương Quảng. Trọng Kham lo sợ, bèn triệu Dương Thuyên Kì vào phủ bàn kế. Thuyên Kì bảo ông rằng Giang Lăng đã hết lương thực, không thể giữ được lâu và khuyên ông bỏ Giang Lăng đến Tương Dương cùng mình chống Hoàn Huyền. Nhưng Ân Trọng Kham muốn giữ Kinh châu, không muốn bỏ thành. Thuyên Kì bèn đưa quân lính và lương thực đến Giang Lăng hợp quân với ông, nhưng Ân Trọng Kham chỉ cho quân sĩ của Thuyên Kì ăn uống đạm bạc. Thuyên Kì thất vọng, không đến gặp Trọng Kham nữa.
Sau đó Dương Thuyên Kì một mình đưa quân đánh Hoàn Huyền, bị thua trận phải chạy về Tương Dương rồi tự tử. Ân Trọng Kham được tin bèn trốn sang Toản Thành, rồi định chạy lên Trường An, nhưng sau đó bị tướng của Hoàn Huyền là Phùng Cai bắt được. Ông bị Hoàn Huyền ép phải tự sát, không rõ bao nhiêu tuổi. Thi hài ông được chôn cất ở Đan Đồ. | 1 | null |
Các cuộc giao tranh tại tỉnh Quneitra bắt đầu vào đầu tháng 11 năm 2012, khi quân đội Syria bắt đầu các cuộc đụng độ với quân nổi dậy ở một số thị trấn và làng mạc ở tỉnh Quneitra. Các cuộc đụng độ nhanh chóng leo thang và lấn qua khu phi quân sự trung lập do Liên Hợp Quốc giám sát giữa Syria và Cao nguyên Golan do Israel kiểm soát, một chỉ dấu cho thấy cuộc chiến đẫm máu ở Syria đang lan ra các quốc gia láng giềng.
Giao tranh.
Ngày 24 Tháng Ba năm 2013, quân đội Israel loan tin tiêu diệt một ổ đại liên của Syria sau khi hai toán tuần tiễu của họ bị tấn công.
Tối ngày 2 tháng Tư, chiến xa của Quân đội Israel bắn vào lãnh thổ Syria để đáp trả việc phía Syria nổ súng bắn vào xe quân đội Israel trong vùng Golan. Phía Israel không có ai bị thương tích gì, nhưng vụ nổ súng của chiến xa là lần thứ nhì trong 10 ngày qua phía Israel bắn trả phía Syria. | 1 | null |
Jachen là một con sông tại Bayern, Đức.
Sông Jachen chảy từ hồ Walchensee ở làng Niedernach, tuy nhiên bị ngăn lại từ năm 1924 bởi một đập nước khi nhà máy thủy điện Walchensee được xây.
Cho tới thập niên 1950 sông Jachen được dùng để trôi gỗ được chặt chung quanh hồ Walchensee cũng như tại làng Jachenau. Sau khi sông bị ngăn lại tại Niedernach, chính quyền Bayern thỏa thuận, mỗi năm giữa mùa xuân và ngày 15 tháng 8, trong 60 ngày liên tiếp cấp đủ nước để gỗ có thể trôi xuống. Tuy nhiên quyền này không còn được ứng dụng nữa, vì ngày nay gỗ chặt được chuyển đi bằng xe vận tải.
Sông Jachen được nhiều rạch chung quanh 2 bên của thung lũng Jachen chạy vào, và nó lại chảy vào sông Isar tại Fleck và Langeneck gần thành phố Lenggries. | 1 | null |
Cá giọt nước (danh pháp hai phần: Psychrolutes marcidus, trong đó từ "psychroloutes" trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là "tắm lạnh") là loài cá biển sâu vùng ôn đới thuộc họ Psychrolutidae. Môi trường sống của nó là nơi biển sâu ngoài bờ biển lục địa Úc (vịnh Broken), New South Wales và Tasmania cũng như một số vùng nước sâu ở New Zealand (Norfolk Ridge).
Đặc điểm.
Cá có vẻ ngoài được so sánh với nhân vật trong phim Star Wars, màu da thường là màu trắng sữa hay hồng . Khuôn mặt của cá nhìn theo phương ngang từ đằng trước giống một người đàn ông béo phì có vẻ cáu gắt với cái mũi hình củ hành. Chiều dài tối đa của cá trưởng thành là 30 cm. Thịt cá chủ yếu là khối gelatin nhão nhẹ hơn nước; điều này cho phép cá nổi trên nền đáy biển mà không cần năng lượng để bơi và hơn nữa, chịu được áp suất lớn do độ sâu mà không bị nghiền nát. Cơ thể cá không thể thích ứng tốt với môi trường thiếu nước. Do cấu tạo cơ thể, cá có thể lười trong việc di chuyển.
Môi trường sống và thức ăn.
Loài cá này sống ở độ sâu giữa với độ mặn của nước biển là 33°S, nơi có áp suất cao hơn mặt nước biển hàng chục lần, có khả năng làm cho bong bóng cá không hiệu quả để duy trì sức nổi. Việc thiếu cơ bắp của cá không phải là một bất lợi khi nó chủ yếu hấp thụ các loài sinh vật ăn được nổi trên nó, ví dụ là các loài giáp xác biển sâu như cua và tôm.
Đánh bắt.
Loài cá vô hại với con người này thường được ngư dân đánh bắt bằng cách lướt vét dưới đáy khi họ đánh bắt tôm, cua. Điều này làm chúng rất dễ bị tổn thương. Các nhà khoa học lo ngại loài này có thể trở thành loài nguy cấp vì phương pháp đánh bắt. Tuy nhiên, tình trạng bảo tồn của loài này được các nhà khoa học đánh giá.
Bình chọn.
Vào ngày 12 tháng 09 năm 2013 , loài cá này được bình chọn không chính thức là "Loài động vật xấu nhất thế giới" và được thông qua là linh vật của Hiệp hội bảo tồn động vật xấu xí (UAPS), trong sáng kiến "để nâng cao hình ảnh những đứa con thiếu thẩm mỹ của Mẹ Thiên Nhiên". Theo bà Coralie Young, loài này đạt giải "Loài động vật xấu nhất thế giới" với 795 phiếu bình chọn trong tổng số hơn 3000 phiếu bình chọn trực tuyến; tuy nhiên theo nguồn từ BBC thì loài này có trên 10000 phiếu bình chọn. Các đối thủ cạnh tranh của loài cá này trong cuộc bình chọn là vẹt Kakapo, giông Axolotl, cóc Titicaca và khỉ vòi. | 1 | null |
Viện hàn lâm Khoa học Úc (tiếng Anh: Australian Academy of Science, viết tắt là AAS) được thành lập năm 1954 bởi một nhóm người Úc lỗi lạc, trong đó có Hội viên người Úc của Hội Hoàng gia Luân Đôn. Chủ tịch đầu tiên của Viện hàn lâm này là Sir Mark Oliphant.
Viện hàn lâm này được thành lập theo khuôn mẫu Hội Hoàng gia Luân Đôn và hoạt động trong khuôn khổ Royal Charter ("Hiến chương hoàng gia"); như vậy Viện là một cơ quan độc lập, nhưng có sự chấp thuận của chính phủ.
Trụ sở Viện hàn lâm Khoa học Úc nằm trong tòa nhà Shine Dome ở thành phố Canberra. Viện là thành viên quốc gia của Hội đồng Khoa học Quốc tế (ISC).
Mục dích của Viện là thúc đẩy khoa học tiến triển, thông qua một loạt hoạt động, trong đó có việc khuyến khích và công nhận những đóng góp xuất sắc vào khoa học. Viện đã xác định 4 lãnh vực chương trình chủ yếu:
Nguồn gốc.
Hội đồng Nghiên cứu quốc gia Úc.
"Hội đồng Nghiên cứu quốc gia Úc" được thành lập năm 1919 nhằm mục đích đại diện nước Úc trong "Hội đồng Nghiên cứu quốc tế". Hội đồng ngưng hoạt động năm 1954, và được thay thế bởi "Viện hàn lâm Khoa học Úc".
Tòa nhà Shine Dome.
Tòa nhà Shine Dome (trước đây gọi là "Becker House") là một điểm mốc nổi tiếng của thành phố Canberra, có cấu trúc bất thường, và thường được coi như "The Martian Embassy" ("Tòa đại sứ của người Sao Hỏa"), một sự ám chỉ về hình dạng tòa nhà và về sự kiện vì là thủ đô của Úc, nên thành phố Canberra là nơi chứa các tòa đại sứ nước ngoài. Tòa nhà này do kiến trúc sư Roy Grounds thiết kế. Khi xây dựng hoàn thành vào năm 1959, mái vòm 45,75m đường kính của tòa nhà này là mái vòm lớn nhất nước Úc.
Ngày 1.12.1956, Ủy ban thiết kế tòa nhà của Viện hàn lâm Khoa học Úc họp ở Adelaide để xem xét các đồ án thiết kế do 6 kiến trúc sư nộp. Bản đồ án được chấp thuận có một mái vòm nặng 710 tấn bê tông cốt sắt, được chống đỡ bởi 16 cột chống mỏng. Lớp bê tông cốt sắt ở chân cột dày khoảng 60 cm, còn bên trên đầu vòm dày 10 cm. Chi phi xây dựng là 200.000 bảng Anh. Viên đá đầu tiên, được đặt ngày 2.5.1958 bởi thủ tướng Úc, Robert Menzies, nguyên là một phần của cột trụ của "Kính viễn vọng lớn của Melbourne" được xây dựng năm 1869 dưới sự giám sát của Hội Hoàng gia Luân Đôn và được chuyển giao cho Đài thiên văn Mount Stromlo trong thập niên 1940.
Tòa nhà này được đặt tên là "Becker House" vào năm 1962, theo tên của nhà từ thiện kiêm viện sĩ Sir Jack Ellerton Becker. Năm 2000, tòa nhà này được đặt tên lại để vinh danh viện sĩ John Shine, người đã tặng 1 triệu dollar để tân trang mái vòm.
Tòa nhà gồm 3 tầng lầu: tầng trệt gồm phòng chính dành cho khán thính giả của nhà hát có 156 ghế; "Phòng Jaeger" dành để hội họp và các hoạt động khác; "Phòng họp của hội đồng Becker" và các văn phòng; các tầng trên gồm một tầng lầu của nhà hát và thư viện Adolf Basser; còn các phòng ở tầng hầm dùng chứa các hồ sơ lưu trữ lịch sử khoa học Úc.
Các viện sĩ.
Viện hàn lâm Khoa học Úc gồm khoảng 420 nhà khoa học hàng đầu của Úc. Các nhà khoa học được các đồng nghiệp của mình đánh giá là có những cống hiến đặc biệt cho kiến thức trong lĩnh vực của mình thì có thể được bầu vào Viện hàn lâm.
Hai mươi viện sĩ mới có thể được bầu mỗi năm
Không quá 2 viện sĩ có thể được bầu vào Viện mỗi 3 năm, dựa trên những đóp góp nổi bật vào khoa học bằng các phương tiện khác hơn là nghiên cứu cá nhân.
Một số ít nhà khoa học nước ngoài nổi tiếng có những kết nối đáng kể với khoa học Úc cũng được bầu làm viện sĩ thong tấn của Viện
Những viện sĩ sáng lập Viện.
Khi Viện hàn lâm Khoa học Úc được thành lập năm 1954, có 24 viện sĩ sáng lập:
. [ 4 ]
Các giải thưởng.
Hàng năm Viện hàn lâm Khoa học Úc trao các huy chương sau đây: | 1 | null |
Trác Y Đình (Chữ Hán 卓依婷; tiếng Anh: Timi Zhuo Yi-Ting) (sinh 2 tháng 10 năm 1981), là một ca sĩ, nhạc sĩ và diễn viên người Đài Loan. Sinh ra tại Tân Trang, cô đã thu rất nhiều album và ca khúc bằng cả hai thứ tiếng Quan Thoại và Đài Loan. Đôi khi cũng có những album bằng tiếng Quảng Đông.
Tiểu sử.
Thời ấu thơ, Y Đình thường xem ca nhạc trên kênh MTV. Cứ mỗi ca khúc nghe được cô lại ngâm nga theo giai điệu của bài hát. Một ngày một người bạn của cha cô đến chơi nhà trong khi Y Đình đang ngâm nga theo từng giai điệu bài hát người bạn kia của cha cô nghe được liền kiến nghị cô tham gia vào giới giải trí, ông ấy cảm thấy Y Đình hát rất tuyệt, vì vậy kiến nghị cha cô để cô đi học hát
1994 cô ký hợp đồng với Tập đoàn Ước Hải Lệ, chính thức thành ca sĩ chính thức của công ty Hải Lệ
Năm 2000, trên mạng bỗng nhiên xuất hiện thông tin nữ ca sĩ nổi tiếng Trác Y Đình qua đời trong một tai nạn ô tô thảm khốc khiến dư luận Đài Loan vô cùng bàng hoàng.Tuy nhiên, vài ngày sau đó, người ta mới phát hiện ra, nạn nhân xấu số thật sự không phải là Trác Y Đình, mà là một nữ nghệ sĩ khác ít tên tuổi hơn là Trác Nhất Đình (Trác Nhất Đình được phát âm gần giống với Trác Y Đình).
Đời sống cá nhân.
Gia đình.
Gia đình của Trác Y Đình có: cha (đã khứ thế), mẹ, em trai, cha mẹ đều là người Tuyền Châu, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc.
Tình cảm.
Ngày 29 tháng 6 năm 2016, Trác Y Đình công bố trên mạng xã hội Tân Lãng Vi Bác của Trung Quốc rằng mình đã bí mật đăng kí kết hôn vào 3 năm trước. Ngoài việc quản lí sự nghiệp biểu diễn nghệ thuật, gia đình chính là thứ Trác Y Đình say đắm nhất, cô có gia đình hạnh phúc viên mãn với ông xã Chung Bỉnh Hạo (钟炳浩) và con gái Chung Vũ Đồng (钟雨彤). Ngày 24 tháng 07 năm 2016, hôn lễ cử hành tại Đài Bắc, và trên sân đài Trác Y Đình diễn xướng các ca khúc "Ít nhất còn có anh" (至少还有你), ca khúc Đài ngữ "Sau nhà" (家后). | 1 | null |
Đây là danh sách các bộ phim điện ảnh, phim truyền hình có sự tham gia của các thành viên TVXQ cũng như JYJ.
Phim điện ảnh.
Dating On Earth.
Đây là một phim với sự tham gia diễn xuất của cả năm thành viên. Tuy nhiên, bộ phim chủ yếu xoay quanh hai nhân vật chính do Jaejoong và Micky Yoochun đảm nhận. Ba thành viên còn lại chỉ đảm nhận những tuyến nhân vật phụ.
Vacation.
"Vacation" là một bộ phim truyền hình bao gồm 4 phần và một phần đặc biệt. Tuy nhiên, "Vacation" không được trình chiếu trên TV mà chỉ xuất hiện tại rạp chiếu (từ ngày 7 tháng 7 đến ngày 8 tháng 8 năm 2006 tại Đại học Yonsei). Sau đó, bộ phim này được phát hành dưới dạng DVD, tặng kèm theo album thứ ba của DBSK, "O"-Jung.Ban.Hap. Nhạc phim bao gồm hai bài hát và các bản nhạc âm cũng do chính TVXQ thể hiện.
Heaven's Postman.
Là một bộ phim hợp tác giữa Hàn Quốc và Nhật Bản với sự tham gia của một thành viên trong nhóm là Kim Jae Joong và diễn viên Han Hyo Joo. Phiên bản điện ảnh được công chiếu vào ngày 11 tháng 11 năm 2009 đã giành được nhiều lời khen ngợi từ các nhà phê bình và lập kỷ lục doanh thu phòng vé khi thu hút hơn 100000 lượt khán giả đến các rạp tính riêng tại Hàn Quốc. Bản truyền hình sẽ được phát sóng trong năm 2010. Bộ phim này cũng được chuyển thành sách giáo khoa dành cho người Nhật muốn học tiếng Hàn.
Fly With The Gold (Fly, Holding Gold).
Bộ phim điện ảnh này được chỉnh sửa từ tiểu thuyết về tội phạm đầu tay của nhà văn Nhật được yêu chuộng Takamura Kaoru. Nội dung phim nói về câu chuyện của 6 chàng trai lên kế hoạch đánh cắp vàng thỏi nén trị giá 24 tỷ yên, nhưng đó lại là thông tin không có thật được dựng lên trong thế giới ngầm của một liên minh ngân hàng ở Osaka. Vì kế hoạch đang được thi hành nên danh tính thật của những chàng trai này sẽ từng bước lộ diện rõ ràng.
Với sự tham gia của Shim Changmin (thủ vai Momo), Tsumabuki Satoshi, Asano Tadanobu, Kiritani Kenta, Mizobata Junpei, và Nishida Toshiyuki, phim sẽ được bắt đầu công chiếu vào tháng 11 năm 2012.
Phim truyền hình.
Banjun Theatre.
Banjun Theatre là một show truyền hình của SBS. Trong năm 2005 và 2006, các thành viên của TVXQ tham gia diễn xuất trong một số tập của Banjun như: First Love (Parts 1 and 2), The Masked Fencer, The King's Men, Yunho's Tokyo Holiday, Dangerous Love, Finding Lost Time, Uninvited Guest, The Most Unforgettable Girl in My Life với mục đích cho khán giả thấy được ngoài khả năng ca hát, các thành viên trong nhóm còn có cả khả năng diễn xuất.
Heading To The Ground.
Năm 2009, nhóm trưởng U-know Yunho chính thức bắt đầu nghiệp diễn viên dưới cái tên thật Jung Yunho trong bộ phim truyền hình "Heading to the ground" của MBC.
Paradise Ranch.
Bộ phim là sự hợp tác giữa Samhwa Networks và SM Entertainment Joint, có sự góp mặt của thành viên nhỏ tuổi nhất Max Changmin với vai trò là vai chính (cùng với Lee Yeon Hee và Joo Sangwook. Paradise Ranch là một thể loại kịch melo lãng mạn. Bộ phim được khởi quay vào tháng 11 năm 2009 tại đảo Jeju (Hàn Quốc).
素直になれなくて (Sunao ni Narenakute / Hard to say I love you).
Đây là bộ phim truyền hình của nhà biên kịch nổi tiếng 48 tuổi Eriko Kitagawa. Nội dung của "Sunaoni Narenakute" nói về một nhóm bạn có 5 thành viên quen nhau qua trang mạng xã hội Twitter. Cả năm người đều đã phải vượt qua nhiều hiểu lầm để có thể trở thành những người bạn chân chính của nhau. Bộ phim có sự tham gia của thành viên Hero Jaejoong. Nhân vật của Hero tên thật là Park Sung-soo, đến Nhật cách đây 5 năm cùng em gái. Trên Twitter, Park Sung Soo nói dối mình là bác sĩ nhưng thực ra anh chàng chỉ là một nhân viên bán thiết bị y tế tại một công ty đang gặp rắc rối về tài chính. Bộ phim bắt đầu phát sóng tập đầu tiên vào ngày 15/04 tại Nhật Bản. Theo Starnews, tập đầu tiên của Sunao Ni Narenakute đã đạt đến vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng rating với tỷ xuất 11,9%. Jaejoong cũng nhận được rất nhiều lời khen về diễn xuất cho bộ phim mới. Jaejoong xuất hiện trên phim với những ngôi sao nổi tiếng như Ueno Juri và Eita.
君がいれば (Kimi ga Ireba / Beautiful Love).
Trong phim, Yoochun sẽ đóng vai công tử nhà giàu, cậu ấm của một công ty tài chính lớn mạnh tại Hàn Quốc. Nữ diễn viên chính trong phim sẽ do Aya Oomasa đảm nhận, cô sẽ vào vai một phóng viên có mơ ước trở thành một tiểu thuyết gia. Bộ phim xoay quanh chuyện tình của hoàng tử và cô bé lọ lem thời hiện đại.
Sungkyunkwan Scandal.
Sungkyunkwan Scandal là câu chuyện về thế hệ thanh niên thời Joseon dựa trên cuốn tiểu thuyết rất nổi tiếng "The Lives of Sungkyunkwan Confucian Scholars" của tác giả Jung Eun Gweol. Câu chuyện diễn ra trong thời Joseon, tại một trường đại học dành riêng cho nam sinh, có một cô gái quyết định cải trang thành con trai và đóng giả là cậu em trai của mình để có thể đi học. Và sau nhiều tình huống xảy ra khi Lee Sun Joon (do Micky Yoochun nhận vai) đã phải lòng cô gái.
Tuy không đạt được tỉ suất người xem cao nhưng bộ phim đã mang lại nhiều lời khen cho thành viên Park Yoochun, đồng thời đem lại cho anh giải thưởng 'Nam diễn viên mới xuất sắc nhất' tại KBS Drama Award. Bộ phim cùng tên tuổi Park Yoochun, đã nhiều lần đứng đầu bảng xếp hạng Oricon về xếp hạng DVD trong ngày và trong tuần, thu hút nhiều sự chú ý của người hâm mộ Nhật Bản.
Miss Ripley.
Cốt truyện của Ripley như sau: Lời nói dối vô tình của một người phụ nữ đã dẫn đến một lời nói dối khác, và kết quả là người phụ nữ rơi vào hố sâu của sự dối trá, và cuối cùng phải đối mặt với nguy cơ mất tất cả mọi thứ vì lời nói dối đó. Bên cạnh đó là câu chuyện tình yêu đầy cuồng nhiệt mà trong đó hai người đàn ông đã rơi vào lưới tình với người phụ nữ mang trong mình lòng tham, khao khát đấu tranh và dung hòa giữa tình yêu và sự phá huỷ.
Yoochun đảm nhận vai diễn con trai CEO của tập đoàn resort nghỉ mát nổi tiếng của Nhật Bản, Yukata. Trong phim, Yukata đã tìm được tình yêu thật sự thông qua Zhang Miri nhưng cũng rơi vào số phận bi thảm trở thành đối tượng của những rủi ro phá–huỷ-hoàn-toàn của cô ấy.
Tại lễ trao giải MBC Drama Award diễn ra vào ngày 31/12/2011, Yoochun đã nhận được giải "Diễn viên mới xuất sắc nhất" qua bộ phim này
Protect The Boss.
Protect The Boss là bộ phim hài lãng mạn về câu chuyện của No Eun Seol (Choi Kanghee đóng), người luôn khổ sở vì không thể xin được việc làm, nay phải tới làm việc cho ông sếp chểnh mảng Cha Ji Heon (Ji Sung đóng) của một tập đoàn lớn sau không biết bao nhiêu lần thuyên chuyển. Ở công ty, cô lại vướng vào mối quan hệ với anh họ của Ji Heon, Cha Moo Won (Kim Jaejoong đóng), người đàn ông đầy tài năng đang muốn chiếm lấy công ty của em mình bằng cách tạo lập một "liên minh" với cả cô và Seo Na Yoon (Wang Jihye đóng), người đại diện tài năng cũng vừa là người thừa kế hợp pháp của công ty. Trợ giúp cho tham vọng của Cha Moo Won là người thư ký trung thành và hoàn hảo của anh, Yang Ha Young (Lee Heewon đóng), người có những cảm xúc thầm kín dành riêng cho ông chủ của mình.
Bộ phim này đã mang lại cho thành viên JaeJoong giải thưởng "Diễn viên mới xuất sắc nhất" tại lễ trao giải SBS Drama Award.
Rooftop Prince.
Đây là bộ phim truyền hình dài 20 tập của kênh SBS với vai chính do Park Yoochun và Han Jimin đảm nhận. Bộ phim kể về vị Thái tử Lee Gak thời Joseon có vợ là Thái tử phi đột nhiên chết đuối. Nghi ngờ người vợ của mình bị sát hại, Thái tử Lee Gak đã cùng ba cận vệ của mình bí mật điều tra về cái chết của thái tử phi. Trong một đợt truy đuổi của thích khách, khi sắp cận kề cái chết, cả bốn người đột ngột bị đưa vượt thời gian 300 năm sau tới Seoul thời hiện đại. Cả bốn rơi xuống căn hộ trên gác mái của Park Ha (Han Jimin đóng) - một cô gái trở về từ Mỹ để tìm kiếm người cha của mình. Tại nơi này, Lee Gak phát hiện một người phụ nữ giống với người vợ đã chết của mình trong quá khứ nhưng cũng đồng thời phát hiện ra một người đàn ông giống hệt mình. Với sự giúp đỡ của Park Ha, Lee Gak tìm kiếm sự tương đồng giữa quá khứ và hiện đại để giải quyết cái chết bí ẩn của vợ mình.
Time Slip Dr.Jin.
Bộ phim Time Slip Dr.Jin kể về câu chuyện một trong những vị bác sĩ giỏi nhất Hàn Quốc đã có chuyến du hành xuyên thời gian và không gian của năm 2012 để quay về thời đại Joseon, đây là bộ phim có sự kết hợp giữa thể loại cổ trang và phim thể loại y khoa. Nó dựa trên bộ truyện tranh nổi tiếng Nhật Bản của tác giả Murakami và đã từng được dựng thành phim cùng tên chiếu trên đài TBS Nhật Bản năm 2009. Tiếp nối thành công vang dội của phiên bản Nhật, giờ đây nhà sản xuất Hàn Quốc đang tự tạo nên một phiên bản hoàn toàn mới của phim.
Song Seung Heon vào vai bác sĩ Jin Hyuk - người bao quát tất cả những sai sót và thất bại của người khác trong khi vẫn giữ thái độ khắt khe và luôn tỉnh táo đánh giá người khác.
Kim Jae Joong tham gia với vai Kim Kyung Tak - một võ quan cốt cán với kĩ năng võ thuật tuyệt vời. Anh gặp bác sĩ Jin Hyuk và rồi cuộc đối đầu định mệnh đã xảy ra.
Park Min Young vào vai Hong Young Rae - cô tiểu thư thông minh xinh đẹp và tốt bụng.
Bộ phim hiện đang được chiếu trên đài MBC và Time Slip Dr.Jin cũng là bộ phim được mong đợi nhất ở nửa đầu năm 2012.
Queen of Ambition.
Câu chuyện nói về Joo Da Hae (Park Soo Ae thủ vai), người có tham vọng thoát khỏi cảnh nghèo đói để trở thành người đứng đầu và Ha Ryu (Kwon Sang Woo) là người sẽ hy sinh tất cả vì cô. Bộ phim khắc họa rõ nét về tình yêu của nhân vật chính, tình thương của những người ruột thịt trong gia đình, sự phản bội, lòng ham muốn, âm mưu toan tính và cái giá phải trả cho lòng tham vô đáy của con người.
Jung Yunho vào vai Baek Do Hoon, là con trai của Baek Chang Hak - chủ tịch tập đoàn Baekhak, anh là em trai của Baek Do Kyung. Nhưng thân phận thật sự của anh không đơn giản như vậy, đó cũng chính là lý do để Baek Do Kyung đồng ý cho cuộc hôn nhân giữa anh và Joo Da Hae. Được sống trong cuộc sống đầy đủ vật chất và sự quan tâm chu đáo của Do Kyung, Do Hoon dường như đã có mọi thứ trong tay, nhưng sau khi gặp Joo Da Hae và nhất là sau khi kết hôn với cô cuộc sống của anh dần suy sụp. Anh đã chết trong tình yêu và sự ghen tuông mù quáng của mình. Ha Ryu đã nói: "Do Hoon không có tội, tội duy nhất của cậu ta là đã quá yêu Joo Da Hae".
Bộ phim được đài truyền hình SBS sản xuất với 24 tập phim, bắt đầu khởi chiếu từ ngày 14-01-2013 | 1 | null |
Viện hàn lâm Khoa học Xã hội Úc (tiếng Anh: "Academy of the Social Sciences in Australia") là một tổ chức tự trị, phi chính phủ, nhằm thúc đẩy sự tiến triển của kiến thức và việc nghiên cứu trong lãnh vực khoa học xã hội
Viện hàn lâm Khoa học Xã hội Úc được thành lập năm 1971. Tiền thân của Viện là "Hội đồng nghiên cứu Khoa học Xã hội Úc" được thành lập năm 1942. Viện hàn lâm Khoa học Xã hội Úc có 350 viện sĩ. | 1 | null |
Bọ chét chó (danh pháp khoa học: Ctenocephalides canis) là một loài bọ chét sống ký sinh trên một loạt loài động vật có vú, đặc biệt là chó và mèo. Nó giống với bọ chét mèo ("Ctenophalides felis"), có thể sống trên một phạm vi rộng lớn các loài động vật hơn và nói chung là phổ biến hơn trên toàn thế giới.
Bọ chét chó gây rắc rối bởi vì nó có thể lây lan "Dipylidium caninum".
Mặc dù chúng hút máu của chó và mèo nhưng đôi khi chúng đốt cả con người. Chúng có thể sống mà không cần ăn trong vòng vài tháng; tuy nhiên, con cái cần phải ăn trước khi đẻ trứng. Chúng có thể đẻ khoảng 4.000 trứng trên lông các vật chủ. Từ những quả trứng, chúng nở ra và đi qua vòng đời gồm 4 giai đoạn: phôi, ấu trùng, nhộng và trưởng thành. Toàn bộ vòng đời từ trứng đến trưởng thành phải mất từ hai đến ba tuần, mặc dù điều này còn tùy thuộc vào nhiệt độ. Thời gian này có thể dài hơn trong điều kiện mát mẻ. | 1 | null |
Ephemera danica là một loài phù du trong chi Ephemera.
Loài này thường được tìm thấy trong các con sông và hồ nước trong với đáy cát hoặc sỏi khắp châu Âu và nước Anh. Chu kỳ cuộc sống là một hoặc hai năm. E. Danica, với những mảng màu và ba đuôi, là loài phù du thường thấy nhất của Anh. | 1 | null |
Yours Truly là studio album đầu tay của ca sĩ người Mỹ Ariana Grande, được Republic Records phát hành vào ngày 30 tháng 8 năm 2013 tại Đức và Hà Lan và ngày 3 tháng 9 năm 2013 tại Mỹ. Grande bắt đầu thực hiện album này vào năm 2011 khi đang tham gia bộ phim "Victorious". Nhiều nhà sản xuất âm nhạc đã tham gia vào quá trình thực hiện album này như Harmony Samuels, Kenneth "Babyface" Edmonds, Antonio Dixon, Khris Riddick-Tynes, Leon Thomas III, Matt Squire. Việc sáng tác có sự tham gia của Jordin Sparks, Sevyn Streeter và cả chính Grande.
"Yours Truly" nhận được những đánh giá tích cực từ giới phê bình về giọng hát của Grande cũng như âm hưởng nhạc R&B của thập niên 90. Ep đứng đầu bảng xếp hạng "Billboard" 200 trong tuần đầu tiên sau khi được phát hành, khiến Grande trở thành nghệ sĩ nữ thứ 15 làm được điều này với album đầu tay của mình.
Trước khi "Yours Truly" ra mắt, hai đĩa đơn "The Way" và "Baby I" đã được phát hành. Sau đó, đĩa đơn thứ ba, "Right There" được phát hành vào ngày 6 tháng 8 năm 2013.
Tổng quan.
"Yours Truly" là thành quả của một quá trình dài 3 năm và đã trải qua những thay đổi lớn về ý tưởng và thể loại trong khoảng thời gian đó. Grande bắt đầu thực hiện album này khi đang tham gia bộ phim "Victorious" và sau đó tiếp tục thu âm một cách chính thức sau khi ký hợp đồng với Republic Records vào ngày 10 tháng 8 năm 2011. Đến ngày 10 tháng 9 năm 2011, Grande đã chuẩn bị được 20 bài hát và đang trong quá trình chọn ra 13 bài để cho vào album. Đĩa đơn đầu tiên, "Put Your Hearts Up", được phát hành vào ngày 12 tháng 12 năm 2011. Trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 6 năm 2012, Grande cho biết album này "lấy cảm hứng từ nhạc doo-wop của thập niên 50, 60" và tiết lộ rằng hai đĩa đơn mới sẽ được phát hành trước khi album ra mắt, một trong số đó có tên là "Do You Love Me?" với sự tham gia của SkyBlu. Những bài hát khác nằm trong album mà Grande nhắc đến hoặc bị rò rỉ bao gồm "You're My Only Shawty", "Honeymoon Avenue", "Pink Champagne", "Boyfriend Material", "Tattooed Heart", "Daydreamin'", và "Voodoo Love".
Trong một vài cuộc phỏng vấn vào năm 2013, cô thú nhận rằng mình đã hoàn toàn không hài lòng với "Put Your Hearts Up" và không hề có hứng thú với thể loại âm nhạc này, đồng thời bày tỏ mong muốn theo đuổi thể loại âm nhạc mà cô đã từng nghe khi lớn lên, đó là "nhạc pop urban của thập niên 90." Sau đó album được thay đổi để chủ yếu mang âm hưởng của nhạc pop urban của cuối thập niên 90 đầu thập niên 2000. Hầu hết những bài hát đã hoàn thành cuối cùng bị loại, trừ "Daydreamin'", "Tattooed Heart" và "Honeymoon Avenue". Ban đầu album có tên là "Daydreamin"' nhưng sau đó được đổi lại thành "Yours Truly" sau khi Grande quyết định rằng album này giống như một bức thư tình mà cô muốn ký tên mình lên.
Đĩa đơn.
"The Way" với sự tham gia của rapper người Mỹ Mac Miller được phát hành với tư cách là đĩa đơn mở đường cho "Yours Truly" vào ngày 26 tháng 3 năm 2013. Bài hát đạt thứ hạng cao nhất ở vị trí thứ 9 trên bảng xếp hạng US "Billboard" Hot 100. Với 219,000 bản, "The Way" là bài hát có doanh số trong tuần đầu tiên cao thứ ba của năm 2013, sau "Suit & Tie" của Justin Timberlake và "Best Song Ever" của One Direction. Bài hát đã được RIAA chứng nhận bạch kim đôi.
"Baby I", đĩa đơn thứ hai của "Yours Truly", được phát hành vào ngày 22 tháng 7 năm 2013. "Baby I" đạt vị trí thứ 21 trên bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100 và trở thành bài hát thứ hai nằm trong album lọt vào Top 40.
Đĩa đơn thứ ba của "Yours Truly", "Right There", với sự tham gia của rapper người Mỹ Big Sean, được phát hành vào ngày 6 tháng 8 năm 2013. Bài hát đạt vị trí thứ 84 trên bảng xếp hạng US "Billboard" Hot 100.
Các bài hát khác.
Video âm nhạc cho bài hát "Almost is Never Enough" được đăng tải lên YouTube vào ngày 19 tháng 8 năm 2013 với mục đích quảng bá cho bộ phim "". Bài hát cũng nằm trong của bộ phim. "Almost is Never Enough" lọt vào vị trí thứ 84 trên bảng xếp hạng US "Billboard" Hot 100.
Đánh giá chuyên môn.
"Yours Truly" nhận được những phản hồi rất tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc. Trên Metacritic, album đạt 85 điểm dựa trên 6 bài đánh giá. Nick Cattuci của "Entertainment Weekly" cho album điểm A- và cho rằng đây là "một trong những album hay nhất của năm" đồng thời khen ngợi "giọng hát mềm mại được Broadway rèn dũa" của Grande. Lucas Villa của "Examiner" cho album 4 trên 5 sao và nhận xét rằng "giọng hát [của Grande] gây nên sự rung động ở rất nhiều chỗ trong album ngọt ngào của những bản tình ca này." "Huffington Post" gọi "Yours Truly" là một trong những album đầu tay xuất sắc nhất của năm Shamiyah Kelley của "The Daily Reville" cho album điểm A và nhận xét rằng "gần đây, rất khó để tìm ra một ca sĩ có giọng hát tuyệt vời, nhưng khi Grande hát, tôi hồi tưởng về "The Emancipation of Mimi" từ những ngày tháng huy hoàng của Mariah Carey" và kết luận rằng "album này rất được mong chờ và kỳ vọng, và Grande đã thành công."
Tuy nhiên, album cũng nhận được một vài ý kiến trái chiều. Gregory Hicks của The Michigan Daily nhận xét rằng "hầu hết các bài hát đều rất chất lượng về cả ca từ và giai điệu, nhưng việc sử dụng beat đôi khi trở nên quá mức." "The Honesty Hour" đánh giá "Tattooed Heart", "Piano" và "Honeymoon Avenue" là những bài hát nổi bật trong album nhưng cho rằng Grande cần rèn luyện giọng hát của mình hơn nữa và cho album 3.5 trên 5 sao.
Doanh số.
"Yours Truly" đứng đầu bảng xếp hạng album của iTunes Store tại hơn 30 quốc gia. Album xuất hiện lần đầu tiên trên bảng xếp hạng US "Billboard" 200 ở vị trí đầu bảng sau khi bán được 138,000 bản, giúp Grande trở thành nghệ sĩ nữ đầu tiên đứng đầu bảng xếp hạng này với album đầu tay của mình sau Ke$ha với album "Animal". "Yours Truly" cũng lọt vào top 10 tại nhiều quốc gia khác như Úc, Anh, Ireland và Hà Lan. | 1 | null |
Bộ Cánh vuốt, tên khoa học Strepsiptera (tạm dịch: "cánh xoắn", dẫn đến tên chung của côn trùng, ký sinh trùng cánh xoắn), là một bộ côn trùng với 9 họ còn tồn tại với khoảng 600 loài. Ấu trùng giai đoạn đầu và cá thể đực trưởng thành đoản thọ sống tự do, nhưng hầu hết thời gian chúng sống ký sinh trong côn trùng khác chẳng hạn như ong, ong bắp cày, bọ nhảy, bọ bạc và gián. | 1 | null |
Gọi vốn cộng đồng (tiếng Anh: Crowdfunding) là một hình thức gây quỹ tập thể mà theo đó những cá nhân đóng góp tiền của họ, thường là thông qua Internet, để hỗ trợ cho các dự án hoặc sáng kiến do người khác hoặc tổ chức khác khởi xướng. Gọi vốn cộng đồng là một hình thức huy động nguồn lực đám đông và hỗ trợ tài chính. Trong năm 2015, đã có được huy động trên toàn thế giới bằng cách huy động vốn từ cộng đồng.
Mặc dù các khái niệm tương tự cũng có thể được thực thi thông qua đăng ký đặt hàng qua thư, sự kiện mang tính lợi ích và các phương pháp khác, nhưng thuật ngữ huy động vốn từ cộng đồng thường đề cập đến các đăng ký qua trung gian internet. Mô hình huy động vốn từ cộng đồng hiện đại này thường dựa trên ba loại tác nhân - người khởi xướng dự án đề xuất ý tưởng hoặc dự án sẽ được tài trợ, các cá nhân hoặc nhóm ủng hộ ý tưởng và một tổ chức kiểm duyệt ("nền tảng").
Lịch sử.
Gây quỹ cộng đồng có một lịch sử lâu đời với nhiều nguồn gốc. Như sách đã được huy động vốn từ cộng đồng trong nhiều thế kỷ; các tác giả và nhà xuất bản sẽ quảng cáo các dự án sách trong các chương trình praenumeration hoặc đăng ký. Cuốn sách sẽ được viết và xuất bản nếu có đủ người đăng ký, báo hiệu rằng họ đã sẵn sàng mua cuốn sách khi sách ra mắt. Mô hình đăng ký kinh doanh không chính xác là huy động vốn từ cộng đồng, vì dòng tiền thực tế chỉ bắt đầu khi sản phẩm xuất hiện. Tuy nhiên, danh sách những người đăng ký có sức mạnh tạo ra niềm tin cần thiết giữa các nhà đầu tư mạo hiểm.
Hình thức.
Báo cáo tháng 5 năm 2014 của Trung tâm huy động vốn cộng đồng đã xác định hai loại huy động vốn cộng đồng chính:
Dựa trên phần thưởng.
Hình thức gây quỹ quần chúng được dùng để hỗ trợ cho rất nhiều các hoạt động, như cứu trợ thiên tai, gây quỹ cho các nghệ sĩ, thực hiện các chiến dịch chính trị, xúc tiến các dự án phim ảnh, phát triển phần mềm tự do, phát triển các sáng chế, nghiên cứu khoa học, và thực hiện các dự án phúc lợi.
Vốn chủ sở hữu.
Gây quỹ cộng đồng bằng vốn chủ sở hữu là nỗ lực tập thể của các cá nhân để hỗ trợ các nỗ lực do người hoặc tổ chức khác khởi xướng thông qua việc cung cấp tài chính dưới hình thức vốn chủ sở hữu. Tại Mỹ, luật được đề cập trong Đạo luật JOBS năm 2012 cho phép nhiều nhà đầu tư nhỏ ít bị hạn chế hơn sau khi đạo luật được thực hiện. Không giống như huy động vốn từ cộng đồng không cổ phần, huy động vốn từ cộng đồng cổ phần có chứa "sự bất cân xứng về thông tin". Người sáng tạo không chỉ phải tạo ra sản phẩm mà họ đang huy động vốn mà còn phải tạo ra vốn chủ sở hữu thông qua việc xây dựng một công ty. Huy động vốn từ cộng đồng bằng cổ phiếu, không giống như huy động vốn từ cộng đồng dựa trên quyên góp và phần thưởng, liên quan đến việc cung cấp chứng khoán bao gồm khả năng thu hồi vốn đầu tư. Các hiệp hội, bao gồm nhiều nhà đầu tư theo chiến lược của một nhà đầu tư chính duy nhất, có thể hiệu quả trong việc giảm sự bất cân xứng thông tin và tránh kết quả của sự thất bại thị trường liên quan đến huy động vốn từ cổ phần.
Vai trò.
Đầu vào của các cá nhân trong đám đông kích hoạt quá trình huy động vốn từ cộng đồng và ảnh hưởng đến giá trị cuối cùng của các dịch vụ hoặc kết quả của quá trình. Các cá nhân đóng vai trò là đại lý cung cấp, lựa chọn và quảng bá các dự án mà họ tin tưởng. Đôi khi, họ đóng vai trò nhà tài trợ nhằm giúp đỡ các dự án xã hội. Trong một số trường hợp, họ trở thành cổ đông và đóng góp vào sự phát triển và tăng trưởng của đợt chào bán. Các cá nhân phổ biến thông tin về các dự án mà họ hỗ trợ trong cộng đồng trực tuyến của họ, tạo thêm sự hỗ trợ (người quảng bá).
Lợi ích và rủi ro.
Lợi ích cho người gọi vốn.
Chiến dịch huy động vốn từ cộng đồng mang lại cho nhà sản xuất một số lợi ích, ngoài lợi nhuận tài chính nghiêm ngặt. Sau đây là những lợi ích phi tài chính của huy động vốn từ cộng đồng.
Rủi ro và rào cản đối với người gọi vốn.
Huy động vốn từ cộng đồng, trong khi trở nên phổ biến, cũng đi kèm với một số rủi ro hoặc rào cản tiềm ẩn. Đối với người gọi vốn, cũng như nhà đầu tư, các nghiên cứu cho thấy huy động vốn từ cộng đồng chứa "mức độ rủi ro cao, không chắc chắn và bất cân xứng thông tin.
Lợi ích cho nhà đầu tư.
Có một số cách mà một nền tảng huy động vốn từ cộng đồng được quản lý tốt có thể mang lại khả năng thu được lợi nhuận hấp dẫn cho các nhà đầu tư:
Rủi ro cho nhà đầu tư.
Trên các nền tảng huy động vốn cộng đồng, vấn đề bất cân xứng thông tin càng trở nên trầm trọng hơn do khả năng tiến hành thẩm định của nhà đầu tư bị giảm sút. Đầu tư giai đoạn đầu thường được bản địa hóa, vì chi phí tiến hành thẩm định trước khi đưa ra quyết định đầu tư và chi phí giám sát sau khi đầu tư đều tăng theo khoảng cách. Tuy nhiên, xu hướng này không được quan sát thấy trên các nền tảng huy động vốn cộng đồng - các nền tảng này không bị ràng buộc về mặt địa lý và thu hút các nhà đầu tư gần xa. Trên các nền tảng phi vốn chủ sở hữu hoặc dựa trên phần thưởng, các nhà đầu tư cố gắng giảm thiểu rủi ro này bằng cách sử dụng số vốn huy động được như một tín hiệu về hiệu suất hoặc chất lượng. Trên các nền tảng dựa trên vốn chủ sở hữu, tổ chức huy động vốn cộng đồng giảm sự bất cân xứng thông tin thông qua các kênh kép - thông qua đa dạng hóa danh mục đầu tư và thẩm định tốt hơn như trong trường hợp đầu tư ngoại tuyến giai đoạn đầu, nhưng cũng cho phép "các nhà đầu tư hàng đầu" truy cập nhiều thông tin hơn và mạng lưới tốt hơn để dẫn dắt "đám đông" những người ủng hộ đưa ra quyết định đầu tư.
Các vấn đề trong huy động vốn từ cộng đồng y tế.
Sự gia tăng huy động vốn từ cộng đồng cho các chi phí y tế phần lớn được coi là một triệu chứng của hệ thống chăm sóc sức khỏe không đầy đủ và đang thất bại ở các quốc gia như Mỹ. Chăm sóc sức khỏe thông qua huy động vốn cộng đồng dựa trên sự xứng đáng và giá trị được công nhận, điều này tạo ra các kết quả không bình đẳng trong việc tiếp cận. | 1 | null |
Raphidioptera là một bộ côn trùng bao gồm khoảng 210 loài còn tồn tại. Trước đây Raphidioptera cùng với Megaloptera được đặt trong Neuroptera nhưng hiện tại chúng được xem là hai bộ riêng biệt.
Raphidioptera trưởng thành lẫn ấu trùng đều ăn thịt. Chúng khá phổ biến ở các vùng ôn đới châu Âu và châu Á, nhưng tại Bắc Mỹ thì chỉ xuất hiện riêng ở miền Tây nước Mỹ, cụ thể là tại dãy Rocky và xa hơn về phía tây, bao gồm các sa mạc phía tây nam.
Phân loại.
Bộ Raphidioptera | 1 | null |
Actinostemma lobatum là một loài thực vật có hoa trong họ Cucurbitaceae. Loài này được Karl Maximovich mô tả khoa học đầu tiên năm 1859 theo mẫu thu thập tại khu vực Amur năm 1855 dưới danh pháp "Mitrosicyos lobatus". Năm 1873, Adrien René Franchet và Paul Amedée Ludovic Savatier chuyển nó sang chi "Actinostemma".
Phân bố.
Loài bản địa khu vực Viễn Đông Nga (Amur, Chita, Khabarovsk, Primorye), Nhật Bản, bán đảo Triều Tiên và đông bắc Trung Quốc (Mãn Châu). | 1 | null |
Xạ hùng mềm (danh pháp khoa học: Actinostemma tenerum) là một loài thực vật có hoa trong họ Cucurbitaceae. Loài này được nhà thực vật học người Anh William Griffith (1810-1845) mô tả khoa học đầu tiên năm 1845.
Phân bố.
Loài bản địa Ấn Độ (Assam, ven núi thuộc Đông và Tây Himalaya), Bangladesh, Bhutan, Campuchia, Nepal, bán đảo Triều Tiên, Lào, Đài Loan, Thái Lan, Trung Quốc, Việt Nam.
Các thứ.
Bao gồm 2 thứ như sau:
"A. tenerum" var. "tenerum".
"Actinostemma tenerum" var. "tenerum": Nguyên chủng. Rộng khắp trong vùng phân bố của toàn loài. Các danh pháp đồng nghĩa bao gồm:
"A. tenerum" var. "yunnanense".
"A. tenerum" var. "yunnanense": Miền tây tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). | 1 | null |
Alsomitra macrocarpa hay còn gọi là dưa chuột Java là một loài dây leo bầu bí thuộc họ bí đỏ được tìm thấy tại các khu rừng nhiệt đới châu Á thuộc Quần đảo Mã Lai và các đảo của Indonesia. "Alsomitra" là một chi gồm 34 loài dây leo được tìm thấy ở Đông Nam Á, Úc và Nam Mỹ.
Quả của nó thuộc dạng quả mọng có kích thước bằng quả bóng đá (đường kính khoảng 300mm) và hình chuông, lơ lửng trên tán rừng, dày đặc và có nhiều hạt. Điều đáng chú ý là hạt của nó có cánh to bằng giấy và khi chín sẽ rơi ra từ mặt dưới quả và lướt đi rất xa.
Loại cây này lần đầu tiên được mô tả dưới tên Zanonia macrocarpa vào năm 1825 bởi Carl Ludwig Blume từ vật liệu quả thể được thu thập trên núi Parang ở Java. Năm 1843, Max Joseph Roemer đã xuất bản nó dưới tên "Alsomitra macrocarpa", bao gồm 7 loài không phù hợp khác trong một chi mà ông không xác định. Năm 1881, Alfred Cogniaux đã phân loại loài này là "Macrozanonia macrocarpa". Tên được chấp nhận hiện tại là "Alsomitra macrocarpa" của Roemer.
Nhân giống.
Hạt giống có dạng quả cánh của loài này khác thường ở chỗ có hai lá bắc dẹt kéo dài ra hai bên hạt tạo thành hình dạng giống như đôi cánh, hạt được cắm dọc theo một cạnh dài và các cánh hơi nghiêng về phía sau. Khi hạt chín, cánh khô lại và mép dài xa nhất từ hạt hơi cong lên trên. Khi chín, hạt rơi ra và hình dạng khí động học của nó cho phép nó lướt ra khỏi cây. Cánh kéo dài khoảng 13 cm và có thể lướt đi với khoảng cách rất xa. Hạt giống di chuyển trong không khí như một con bướm đang bay - nó sẽ bay cao, chậm lại, nhào xuống và tăng tốc, một lần nữa tạo ra lực nâng, một quá trình được gọi là dao động phugoid. Trước đây nó thường được tìm thấy trên boong tàu trên biển.
Cảm hứng trong ngành hàng không sơ khai.
Sự ổn định tương đối của hạt giống của loài "Alsomitra macrocarpa" khi bay đã được Friedrich Ahlborn nghiên cứu vào những năm 1890. Được gọi chung là Zanonia, nó đã truyền cảm hứng cho một số nhà tiên phong của ngành hàng không thời kỳ đầu, đặc biệt là Igo Etrich.
Nhà tiên phong đương thời JW Dunne cũng đã nghiên cứu về hạt giống của loài "Alsomitra macrocarpa" nhưng loại bỏ không coi nó là một nguồn cảm hứng bởi vì mặc dù ổn định về cao độ và sự nhấp nhô nhưng nó không ổn định về mặt định hướng. | 1 | null |
Bayabusua clarkei là một loài thực vật có hoa trong họ Cucurbitaceae. Loài này được George King mô tả khoa học đầu tiên năm 1898 dưới danh pháp "Zanonia clarkei". Năm 1999, Willem Jan Jacobus Oswald de Wilde thiết lập chi "Bayabusua" và chuyển nó sang chi này. Tính từ định danh "clarkei" là để vinh danh nhà thực vật học người Anh Charles Baron Clarke (1832-1906).
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "King's Collector 7230"; lưu giữ tại Khảo sát Thực vật Ấn Độ (CAL) ở Howrah, Tây Bengal, Ấn Độ, n. v.; isotype: Vườn Thực vật Hoàng gia Anh tại Kew (K).
Mô tả.
Dây leo của loài này cao từ 20-40 m trên những cây gỗ cao. Cành thanh mảnh, đường kính 1,5-4 mm, có rãnh và nhẵn nhụi, ban đầu có lông nhỏ dạng phấn màu nâu đỏ, nhỏ hơn 0,1 mm. Cây non có 4 lá đầu tiên giống như lá mầm giả, có cuống, mọc vòng, sau đó vươn dài ra, với các lá phân tán, có lóng dài. Các tua cuốn trên nách lá, dài 10-15 cm, dày dưới 1 mm, các tay ở phần xa, dài (1-)1,5-2,5 cm, các đệm có đường kính 2-6 mm. Lá hơi mọng, bóng (khi khô xỉn màu, dạng màng và giòn); cuống lá 0,5-3 cm × 1-2 mm, sau khi rụng do lá khô để lại sẹo lồi; phiến lá hình trứng rộng, hơi có thùy bên về phía đáy, 3-15 × 2-12 cm, gốc thuôn tròn (rộng) hoặc hình tim nông với lõm gian thùy rộng, hở, đỉnh nhọn-nhọn thon ngắn; mép gần nguyên (nhưng lá non lượn sóng thô và có răng cưa-nhọn đột ngột); gân dạng chân vịt 5(-7), kiểu gân lỏng lẻo. Các chồi bên và cụm hoa phát triển từ nách giữa cuống lá và tua cuốn. Cụm hoa đực là chùy hoa giống như bông thóc, có lá bắc, vô hạn, mọc ở đỉnh, gần thẳng đứng, cuống dài 0,5-1 cm, cong lên, cán hoa dài 5-20 cm, có rãnh, dày ~2 mm, màu đỏ tía, dày gần bằng các chồi hỗ trợ màu xanh lục, rủ xuống; lá bắc 5-30, gần như sớm rụng, cách nhau 5-10 mm dọc theo cán hoa, mọc thẳng-tỏa rộng, hình elip-thuôn dài, nhọn, dài 5-15 mm, màu xanh lục ánh tía, mỗi lá bắc với nách lá có một chùm 2-5 hoa với các nụ ở các giai đoạn phát triển khác nhau, trong mỗi chùm hoa chỉ có một ít hoa đồng loạt nở hoa. Cụm hoa cái (theo cụm quả) nhỏ, dài chưa đến 5 mm, có 1 (hoặc ít) hoa. Các hoa đực hơi mọng-mọng nước, với tràng hoa màu đỏ tía; cuống hoa ngắn, thanh mảnh, hơi thon, ~4 × 0,5-1 mm; chén hoa hình chén nông, đường kính ~5 mm, dày ~0,5 mm, đĩa hoa chắc-mọng; đài hoa 5 thùy, gần như rời, ở chồi trưởng thành dài ~2 mm, đỉnh thuôn tròn, xếp lợp-hình nanh sấu, ở các hoa nở rộng hình tam giác tù, cùng với chén hoa lộ ra từ bên dưới giống như hình ngũ giác màu xanh lục nhạt, đường kính ~9mm; tràng hoa hình bánh xe, viền ngoài hình tròn, đường kính ~12 mm, thùy 5, gần như rời, xếp lợp-vặn xoắn, hình trứng ngược rộng, ~3,5 × 4 mm, đỉnh thuôn tròn rộng, uốn ngược lại, màu đỏ tía, bên trong có nhú; bên dưới mỗi lõm gian thùy giữa các thùy của tràng hoa, ở mặt trong của chén hoa là các vết hình tam giác dài, mọng cứng, nhợt nhạt, bóng, dạng hột cơm, với ở đỉnh, ngay trong mỗi lõm gian thùy, là phần phụ màu trắng kem hình cầu nhỏ, tương phản với tràng hoa màu đỏ tía; nhị 3, chỉ nhị rời, dài 1,2-1,5 mm, xếp sát nhau ở tâm đĩa hoa, hơi cong ra phía ngoài, hơi thon nhọn, màu ánh trắng, bao phấn 2 với 2 túi phấn hợp sinh ở khoảng nửa dưới và 1 bao phấn với 1 túi phấn đính đáy, thuôn dài rộng, dài ~2 mm, hướng ngoài, mỗi bao phấn với 1 mô liên kết màu trắng kem, phồng dễ thấy, với 1 mụn cóc màu nâu đường kính ~0,3 mm ở gần đỉnh, tương phản với tràng hoa màu đỏ tía. Không có vết tích của vòi nhụy. Hoa cái không rõ. Cây cái ra quả một lần (luôn luôn?); quả đơn, rủ xuống, là quả nang hình trụ-hình chùy, hình tam giác tù, 20-25 × 8-10 cm, đỉnh dẹt, đáy thuôn tròn, khi khô hẹp lại ít hay nhiều, gần nhọn, vỏ quả ngoài bên ngoài hóa gỗ, mỏng, dày ~0,5 mm, bên trong có lớp sợi xốp dày ~10 mm, mở ở đỉnh dẹt bằng 3 mảnh vỏ cong vào trong, đường mép của chén hoa cách mép cong của các mảnh vỏ 5-10(-15) mm; cuống quả ngắn, 10-12 × 2-3 mm. Hạt nhiều, xếp thành 3 hàng dày dặc bên trong quả, dẹt, hình gần elip, 15-20 × 10 mm, màu nâu xỉn, các mặt có mụn cóc nhỏ, mép với 8 (hoặc 9) gai thô, tù, dài 3-9 mm, đỡ một cánh hình gần tròn dạng màng màu ánh trắng dễ thấy, rộng 1-2,5 cm, đường kính ~5 cm.
Phân bố.
Loài này là đặc hữu bán đảo Mã Lai, ở hai bang duyên hải miền tây là Perak và Selangor.
Sinh thái.
Chân đồi và rừng miền núi thấp, cao độ 200-800 m; dường như khá hiếm do hiện tại người ta chỉ biết 5 bộ sưu tập. Ra hoa ghi nhận tháng 2, 6 và 8; tạo quả tháng 12-2 năm sau, hiếm thấy trong tháng 8. Trên thực địa dường như loài này với quả thuần thục đang khô dần, vì thế có khả năng là loài này chỉ ra quả một lần trong đời. | 1 | null |
Bolbostemma biglandulosum là một loài thực vật có hoa trong họ Cucurbitaceae. Loài này được William Hemsley mô tả khoa học đầu tiên năm 1899 và sau đó sửa đổi lại năm 1900 dưới danh pháp "Actinostemma biglandulosum", trong "Hooker's Icones Plantarum; or figures, with brief descriptive characters and remarks of new or rare plants" (các phần in năm 1899-1901). Năm 1930, Robert Fernand Franquet chuyển nó sang chi "Bolbostemma".
Phân bố.
Loài đặc hữu Trung Quốc (tỉnh Vân Nam). Môi trường sống là bìa rừng, bụi rậm trong rừng; cao độ 1.000-1.400 m. Nó được gọi là 刺儿瓜 (thích nhân qua). | 1 | null |
Bolbostemma paniculatum là một loài thực vật có hoa trong họ Cucurbitaceae. Loài này được Karl Maximovich mô tả khoa học đầu tiên năm 1859 dưới danh pháp "Mitrosicyos paniculatus". Năm 1930, Robert Fernand Franquet chuyển nó sang chi "Bolbostemma".
Nếu gộp trong chi "Actinostemma" thì danh pháp của nó là "Actinostemma paniculatum" .
Phân bố.
Loài đặc hữu Trung Quốc. Môi trường sống là dốc núi, tại các tỉnh Cam Túc, Hà Bắc, Hà Nam, tây bắc Hồ Nam, Thiểm Tây, Sơn Đông, Sơn Tây, đông và nam Tứ Xuyên. Tại đây nó được gọi là 假贝母 (giả bối mẫu). | 1 | null |
Citrullus colocynthis là một loài thực vật có hoa trong họ Cucurbitaceae. Loài này được (L.) Schrad. mô tả khoa học đầu tiên năm 1838.
Loài cây mọc trên sa mạc này là loài bản địa từ lưu vực Địa Trung Hải và châu Á, đặc biệt là Thổ Nhĩ Kỳ (đặc biệt là ở các vùng như İzmir) và Nubia.
Loài cây này trông giống như dưa hấu, nhưng mang những trái nhỏ, cứng với phần cùi đắng. Ban đầu nó có tên khoa học là "Colocynthis citrullus".
Quả giống quả dưa hấu, nhưng có một số điểm khác biệt. Loài này cần rất ít nước, quả không mọng nước cho dù đã chín. Phần thịt quả rất rỗng và xốp, màu trắng, còn có rất nhiều hạt, cứng hơn hạt dưa hấu. | 1 | null |
Cucumis melo, còn được gọi là dưa hấu, là một loài của họ "Cucumis" đã được phát triển thành nhiều loại cây trồng. Quả của nó thuộc loại pepo. Thịt quả có thể ngọt hoặc nhạt, có hoặc không có hương thơm hạt lạc, và vỏ quả có thể mịn (như dưa hấu), gân (như dưa lưới châu Âu), nhăn nhúm (như dưa vàng casaba), hoặc có mạng (như dưa trái xoan). Ở Bắc Mỹ, các loại hạt lạc thường được gọi chung là dưa lưới, bao gồm các loại vỏ mạng hạt lạc và các loại vỏ mịn không hương thơm, và "cantaloupe" thường chỉ đến loại hạt lạc đầu tiên. Tuy nhiên, trong nghĩa hẹp, "dưa lưới" chỉ ám chỉ loại vỏ mạng hạt lạc, trong khi "cantaloupe" thực sự là loại hạt lạc châu Âu với vỏ gân và thường có nhiều nốt đồi ít mọc ở Bắc Mỹ.
Người ta không biết nguồn gốc của loại dưa này. Nghiên cứu đã cho thấy rằng hạt lẫn gốc cây được giao dịch trên các tuyến đường lữ hành của thế giới cổ đại. Một số nhà thực vật học cho rằng dưa lưới là loại bản địa của vùng Levant và Ai Cập, trong khi người khác đặt nguồn gốc của chúng ở Iran, Ấn Độ hoặc Trung Á. Vẫn còn những ý kiến ủng hộ nguồn gốc từ châu Phi, và ở thời đại hiện đại, vẫn còn dưa hấu hoang dã ở một số quốc gia châu Phi.
Nền tảng.
Dưa gang là một loại thảo dược bò leo thuộc loại năm, phát triển tốt trong khí hậu cận nhiệt đới hoặc ấm áp, ôn hòa. Dưa gang thích đất ấm, giàu dinh dưỡng, thoát nước tốt, nhưng dễ bị mắc bệnh nấm mốc xám và bệnh đốm đen. Nguy cơ mắc bệnh có thể giảm bằng cách luân phiên canh tác với cây trồng không thuộc họ họ bầu bí, tránh trồng cây dễ bị nhiễm bệnh giống như dưa gang. Làm cảnh đã dẫn đến một số biến thể phát triển kháng bệnh nấm mốc trắng. Côn trùng hút dưa gang bao gồm bọ dưa gang, rận dưa gang, sâu cuốn cánh dưa gang và sâu bướm dưa.
Di truyền học.
Dưa gang là cây đơn tính. Chúng không lai giống với dưa hấu, dưa leo, bí ngô hoặc bí đỏ, nhưng các biến thể trong cùng loài thường lai giống với nhau.
Genom của "Cucumis melo" đã được giải mã lần đầu vào năm 2012. Một số tác giả xem "C. melo" có hai phân loại cụ thể, "C. melo agrestis" và "C. melo melo". Các biến thể trong các phân loại này thuộc vào các nhóm có di truyền phù hợp với các đặc điểm hiện trạng của chúng, chẳng hạn như khả năng kháng bệnh, cấu trúc vỏ, màu thịt và hình dạng trái cây. Các biến thể hoặc giống địa phương (một số trong số này ban đầu được phân loại là loài; xem danh sách đồng nghĩa bên phải) bao gồm "C. melo" var. "acidulus", "adana", "agrestis", "ameri", "cantalupensis", "chandalak", "chate", "chinensis", "chito", "conomon", "dudaim", "flexuosus", "inodorus", "makuwa", "momordica", "reticulatus" và "tibish".
Không phải tất cả các giống dưa gang đều có vị ngọt. Dưa lưới, còn được gọi là dưa chuột Armenia và dưa chuột rắn, là một loại dưa gang không ngọt được tìm thấy khắp châu Á từ Thổ Nhĩ Kỳ đến Nhật Bản. Nó có hương vị và diện mạo tương tự như dưa chuột. Bên ngoài châu Á, dưa lưới được trồng ở Hoa Kỳ, Ý, Sudan và một số khu vực ở Bắc Phi, bao gồm cả Ai Cập. Dưa lưới phổ biến hơn ở các nước Ả Rập.
Các giống dưa gang khác trồng ở châu Phi có vị đắng, được trồng vì hạt ăn được.
Đối với các giống trồng thương mại, những đặc điểm như lớp vỏ cứng bảo vệ và thịt đặc được ưa chuộng để đáp ứng các yêu cầu của thị trường thương mại khác nhau.
Dinh dưỡng.
Mỗi lượng 100 gram dưa gang cantaloupe cung cấp 34 calo và là nguồn giàu (định nghĩa là ít nhất 20% giá trị hàng ngày, hoặc DV) vitamin A (68% DV) và vitamin C (61% DV). Các chất dinh dưỡng khác ở mức không đáng kể. Dưa gang chứa 90% nước và 9% carbohydrate, với dưới 1% mỗi loại protein và fat.
Công dụng.
Ngoài việc được tiêu thụ tươi, dưa gang đôi khi còn được khô. Một số giống khác được nấu chín hoặc trồng vì hạt của chúng, sau đó được chế biến thành dầu dưa gang. Có một số giống dưa gang chỉ được trồng vì mùi thơm dễ chịu của chúng. Rượu Nhật Bản Midori có hương vị dưa gang.
Lịch sử.
Có sự tranh luận giữa các học giả về việc "abattiach" trong có phải là dưa gang hay dưa hấu. Cả hai loại dưa này đã được biết đến ở Ai Cập cổ đại và các khu vực định cư khác. Một số nhà thực vật học xem dưa gang là loại cây bản địa của Levant và Ai Cập, trong khi những người khác đặt nguồn gốc ở Ba Tư, Ấn Độ hoặc Trung Á, do đó nguồn gốc là không chắc chắn. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng hạt giống và củ gốc là một trong những hàng hóa được trao đổi theo các tuyến đường lữ hành của Thế giới Cổ đại. Một số nhà khoa học ủng hộ nguồn gốc châu Phi, và trong thời hiện đại, dưa gang hoang dã vẫn còn được tìm thấy ở một số quốc gia châu Phi như Ethiopia, Somalia và Tanzania.
Dưa gang được thuần hóa ở Tây Á và với thời gian, nhiều giống cây con phát triển với đa dạng hình dạng và độ ngọt. Iran, Ấn Độ, Uzbekistan, Afghanistan và Trung Quốc trở thành trung tâm sản xuất dưa gang. Dưa gang đã được tiêu thụ ở Hy Lạp cổ đại và La Mã cổ đại. | 1 | null |
Cucumis metuliferus là một loài cây leo sống một năm thuộc họ Bầu bí ("Cucurbitaceae"). Trái chín có vỏ ngoài màu cam, phần thịt trong màu xanh lá chanh với kết cấu giống với của chùm bao. "C. metuliferus" là loài bản địa của châu Phi hạ Sahara, nhưng ngày nay được trồng ở cả Hoa Kỳ, Bồ Đào Nha, Ý, Đức, Chile, Úc, New Zealand và Nhật Bản.
Đây là một loại cây ăn trái truyền thống ở châu Phi. Cùng với "Acanthosicyos naudinianus" và "Citrullus caffer", nó là một trong số ít nguồn nước có được ở hoang mạc Kalahari vào mùa khô. Ở bắc Zimbabwe, nó có tên "gaka" hay "gakachika", và thường được dùng để ăn tươi hay làm salad. Khi chín quá, trái cây tự bung ra để giải phóng hạt. Ở Nhật, nó gọi là kiwano. | 1 | null |
Cucurbita andreana là một loài thực vật có hoa trong họ Cucurbitaceae. Loài này được Naudin mô tả khoa học đầu tiên năm 1896.
Loài "Cucurbita maxima" có nguồn gốc từ Nam Mỹ từ "C. andreana" hoang dã hơn 4.000 năm trước. Hai loài lai tạo khá dễ dàng nhưng có mức calci khác nhau đáng kể. "C. andreana" có hoa màu vàng và quả sọc xanh sáng. Nó thích ánh nắng mặt trời đầy đủ và đất thoát nước tốt. | 1 | null |
Cucurbita ecuadorensis là một loài thuộc chi Bí, phát hiện năm 1965, mọc dại ở Ecuador. Nhiều nhiều loài bầu bí, đây là cây bò/leo, thường leo bám lên các loài cây khác. Nó hiện chỉ được ghi nhận ở hai tỉnh Guayas và Manabi miền tây Ecuador. Có bằng chứng về việc nó được thuần hóa khoảng 10.000 năm trước, có lẽ để lấy hạt, song hiện người ta không còn trồng loài này nữa. "C. ecuadorensis" có tính chống chịu với nhiều bệnh thường gặp ở các loài "Cucurbita", do vậy được dùng để lai giống nhằm tạo tính chống chịu ở nhiều loài bí thường gặp. IUCN xem "Cucurbita ecuadorensis" là loài dễ thương tổn. Loài này được bảo tồn trong vườn quốc gia Machalilla. | 1 | null |
Cucurbita maxima là một loài thực vật có hoa trong họ Cucurbitaceae. Loài này được Duchesne mô tả khoa học đầu tiên năm 1786. Đây là một trong ít nhất bốn loài bí ngô được trồng, là một trong những loài được thuần hóa đa dạng nhất. Loài này có nguồn gốc từ Nam Mỹ từ "Cucurbita andreana" hoang hơn 4000 năm trước. Hai loài lai khá dễ dàng nhưng có mức calci khác nhau đáng kể.
Sử dụng.
Quả loài bí này, một loài cây trồng phổ biến, có thể nấu nướng và nghiền thành súp, và nhiều cách chế biến khác nhau, giống như bí ngô. Nó cực kỳ phổ biến, đặc biệt là món súp, ở Brazil, Colombia và Châu Phi.
Tất cả các quả bí khổng lồ (hơn ) là thuộc loài này, bao gồm quả bí lớn nhất với trọng lượng .
Hạt của "C. maxima" được sử dụng trong điều trị ký sinh trùng ở động vật. | 1 | null |
Cucurbita radicans, ở México thường gọi là calabacilla ("bí nhỏ") hay calabaza de coyote ("bí sói đồng cỏ"), là một loài thuộc chi Bí bản xứ miền trung-nam México (chủ yếu ở ba bang Jalisco, México và Michoacán). Nó vừa mọc dại vừa là cây trồng. Mẫu vật điển hình được thu thập gần Guadalupe, trong vùng lân cận Thành phố México (vị tri chính xác không rõ). Loài này phổ biến khắp vùng, mọc cả trong ruộng bắp và sân vườn, vừa được trồng vừa là loài xâm lấn. Đây là họ hàng gần của "Cucurbita pedatifolia". | 1 | null |
Cyclantheropsis occidentalis là một loài thực vật có hoa trong họ Cucurbitaceae. Loài này được Ernest Friedrich Gilg và Gottfried Wilhelm Johannes Mildbraed đặt tên khoa học lần đầu tiên năm 1922 nhưng không kèm theo mô tả khoa học. Năm 1923 mô tả khoa học lần đầu tiên được Hermann August Theodor Harms đưa vào trong tiểu đoạn "Cucurbitaceae africanae" (Cucurbitaceae châu Phi) của phần "Beiträge zur Flora von Afrika" (Đóng góp cho Thực vật chí châu Phi) do Adolf Engler soạn và in trong số 58 tạp chí "Botanische Jahrbücher fur Systematik, Pflanzengeschichte und Pflanzengeographie" do Adolf Engler chủ biên.
Phân bố.
Loài dây leo nhỏ với hoa màu ánh trắng, đặc hữu các khu rừng miền nam Cameroon. | 1 | null |
Cyclantheropsis parviflora là một loài thực vật có hoa trong họ Cucurbitaceae. Loài này được Célestin Alfred Cogniaux mô tả khoa học đầu tiên năm 1881 dưới danh pháp "Gerrardanthus parviflorus". Năm 1896, Hermann August Theodor Harms chuyển nó sang chi "Cyclantheropsis" do ông mới thiết lập.
Phân bố.
Loài bản địa Angola, Ethiopia, Kenya, Malawi, Mozambique, Namibia, Tanzania, Zambia, Zimbabwe. | 1 | null |
Dendrosicyos socotranus là loài duy nhất trong chi Dendrosicyos, thuộc họ Bầu bí (Cucurbitaceae). Đây là loài đặc hữu của đảo Socotra, Yemen và là loài duy nhất trong họ Cucurbitaceae mọc thành cây gỗ. Tên ban đầu của loài này là "D. socotrana", nhưng tên loài đã được chuyển sang "socotranus" theo theo quy định của Mã Quốc tế về Danh pháp tảo, nấm và thực vật. | 1 | null |
Fevillea passiflora là một loài thực vật có hoa trong họ Cucurbitaceae. Loài này được José Mariano da Conceição Vellozo cung cấp hình vẽ minh họa lần đầu tiên năm 1831.
Loài này đôi khi được tách riêng trong chi "Anisosperma" với danh pháp "Anisosperma passiflora" hoặc được coi như là loài trong phân chi "Anisosperma" của chi "Fevillea".
Phân bố.
Loài đặc hữu Brasil. Môi trường sống là các khu rừng hành lang vùng duyên hải Brasil ở đông nam Bahia, Rio de Janeiro, đông Sao Paulo, đông Parana. | 1 | null |
Fevillea pergamentacea là một loài thực vật có hoa trong họ Cucurbitaceae. Loài này được Célestin Alfred Cogniaux đặt tên khoa học lần đầu tiên là "Feuillea pergamentacea", nhưng Otto Kuntze lại cung cấp mô tả khoa học đầu tiên năm 1898 dưới danh pháp "Nhandiroba pergamentacea", với dẫn chiếu tới "Feuillea pergamentacea" của Cogniaux. Năm 1916, Cogniaux mô tả nó như là "Fevillea pergamentacea" trong "Das Pflanzenreich: regni vegetablilis conspectus" của Adolf Engler.
Phân bố.
Loài bản địa Bolivia, Colombia, Ecuador, Peru. | 1 | null |
Gerrardanthus grandiflorus là một loài thực vật có hoa trong họ Cucurbitaceae. Loài này được Célestin Alfred Cogniaux mô tả khoa học đầu tiên năm 1916 dựa theo mô tả trước đó của Ernest Friedrich Gilg.
"G. grandiflorus" var. "lobata" của Cogniaux hiện nay là loài độc lập với danh pháp "Gerrardanthus lobatus".
Phân bố.
Loài bản địa khu vực từ đông nam Kenya tới đông bắc Tanzania. | 1 | null |
Gerrardanthus lobatus là một loài thực vật có hoa trong họ Cucurbitaceae. Loài này được Célestin Alfred Cogniaux mô tả khoa học đầu tiên năm 1916 dưới danh pháp "Gerrardanthus grandiflorus" var. "lobatus". Năm 1962, Charles Jeffrey nâng cấp nó thành loài độc lập với danh pháp "Gerrardanthus lobatus".
Phân bố.
Loài bản địa tây nam Ethiopia, Kenya, Malawi, Mozambique, Nigeria, Tanzania, Uganda, Cộng hòa Dân chủ Congo. | 1 | null |
Gerrardanthus macrorhizus là một loài thực vật có hoa trong họ Cucurbitaceae. Loài này được George Bentham và Joseph Dalton Hooker mô tả khoa học đầu tiên năm 1867, dựa theo tên do William Henry Harvey (1811-1866) đặt trước đó.
Phân bố.
Loài bản địa Nam Phi (các tỉnh Cape, KwaZulu-Natal), miền nam Mozambique, Swaziland. | 1 | null |
Gerrardanthus paniculatus là một loài thực vật có hoa trong họ Cucurbitaceae. Loài này được Maxwell Tylden Masters mô tả khoa học đầu tiên năm 1871 dưới danh pháp "Atheranthera paniculata". Năm 1916, Célestin Alfred Cogniaux chuyển nó sang chi "Gerrardanthus".
Tháng 11 năm 1871, Maxwell Tylden Masters mô tả "Atheranthera welwitschii" để vinh danh nhà thực vật người Áo là Friedrich Welwitsch (1806–1872), nhưng dẫn chiếu tới "Atheranthera paniculata" đã công bố trước đó, vì thế nó chỉ là danh pháp đồng nghĩa muộn và dư thừa của "Atheranthera paniculata".
Phân bố.
Loài bản địa Angola, Cameroon, Gabon, Ghana, Guinea, Bờ Biển Ngà, Liberia, Nigeria, Cộng hòa Dân chủ Congo. | 1 | null |
Chặng đường tôi đi (tiếng Hàn: 마이 웨이, tiếng Anh: My Way) là một bộ phim chiến tranh, hành động và tâm lý năm 2011 của Hàn Quốc do Kang Je-gyu đạo diễn kiêm biên kịch và sản xuất, vị đạo diễn này từng được biết đến qua bộ phim chiến tranh năm 2004 "Tae Guk Gi". Diễn viên của phim "Đường tôi đi" là Jang Dong-gun, nam diễn viên người Nhật Joe Odagiri và nữ diễn viên người Trung Quốc Phạm Băng Băng. Phim được gửi tham dự Liên hoan phim quốc tế Hà Nội lần thứ 2 ở hạng mục Chùm phim Hàn Quốc.
"Đường tôi đi" dựa trên một câu chuyện có thật về một anh chàng người Hàn Quốc mang tên Yang Kyoungjong, trong Chiến tranh thế giới thứ hai anh từng bị bắt tham gia quân đội Lục quân Đế quốc Nhật Bản, Hồng Quân Liên Xô và Wehrmacht.
Nội dung.
Kim Jun-shik và Hasegawa Tatsuo là đôi bạn thân từ nhỏ, một người Hàn Quốc và một người Nhật Bản, cả hai đều có tài chạy rất giỏi, nhưng sau này lớn lên thì họ lại ghét nhau và trở thành đối thủ nặng ký của nhau trong môn chạy điền kinh. Một lần nọ, do gây bạo động trong một cuộc thi chạy nên Jun-shik cùng nhiều người bạn Hàn Quốc khác bị chính phủ bắt phải gia nhập quân đội Lục quân Đế quốc Nhật Bản.
Tháng 7 năm 1939, đội quân của Jun-shik được lệnh đi đánh trận Khalkhyn Gol ở biên giới Mông Cổ, tại nơi đây Jun-shik gặp một cô nàng bắn tỉa người Trung Quốc tên Shirai bị lính Nhật bắt về tra tấn. Tatsuo đi đến doanh trại với chức Đại tá rồi nắm quyền chỉ huy binh lính ở đây, Tatsuo đưa ra nhiều luật lệ khắt khe không thể tả nổi. Jun-shik bị Tatsuo bắt nhốt vì dám từ chối tham gia lực lượng cảm tử. Đêm đó Jun-shik và Shirai được vài người bạn cứu thoát và tất cả họ liền bỏ trốn khỏi doanh trại. Sáng hôm sau, Jun-shik phát hiện hàng chục xe tăng Liên Xô ở bờ sông Khalkhyn Gol chuẩn bị tấn công, anh bảo bạn mình hãy trốn trước để anh quay lại báo quân Nhật hay tin, Jun-shik làm thế vì muốn cứu nhiều người bạn Hàn Quốc khác. Shirai chạy theo bắn nổ một chiếc máy bay Liên Xô để cứu Jun-shik trước khi cô bị đạn máy bay bắn chết. Tatsuo quyết không ra lệnh rút lui nên anh ta cùng Jun-shik và tất cả binh lính đều bị bắt.
Tháng 2 năm 1940, quân Liên Xô đưa Jun-shik và Tatsuo đến trại tù binh Kungursk, thuộc miền Bắc Perm, Liên Xô. Ở nơi này, tình trạng chết cóng và bạo lực xảy ra nhiều vô kể. Khi có tin Đức Quốc xã tuyên chiến với Liên Xô thì Jun-shik, Tatsuo cùng các tù binh bị bắt tham gia Hồng Quân đi đánh trận. Tháng 12 năm 1941, họ được đưa đến Hedosk để tấn công quân Đức, bất cứ ai tiến lên đều hứng chịu cơn mưa đạn của quân Đức, còn nếu ai dám chạy về cũng bị quân Liên Xô bắn chết. Jun-shik và Tatsuo đành nằm giả chết chờ cho tới khi cả hai phe đều rút đi thì mới cùng nhau bỏ trốn, họ dự định đi đến Đức nhưng trên đường đi sức Tatsuo bị yếu dần do vết thương trên người. Jun-shik để Tatsuo nghỉ ngơi trong căn nhà hoang để chờ anh ta đi tìm người giúp đỡ, tình cờ một tiểu đoàn Đức đi ngang qua, do không hiểu ngôn ngữ của Jun-shik nên chúng đã bắt anh đi, còn Tatsuo thì được một nhóm lính Đức của tiểu đoàn khác cứu.
Ba năm sau, tức là năm 1944, Jun-shik và Tatsuo gặp lại nhau ở bờ biển Omaha, Normandy, nước Pháp. Cả hai người giờ là lính Đức, họ lên kế hoạch đào ngũ để về nhà ở Hàn Quốc. Buổi sáng hôm đó, cả hai định bỏ đi thì đúng lúc Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ tấn công bờ biển, lính Đức tập hợp lại để chiến đấu, cả hai phe đánh nhau dữ dội, Jun-shik và Tatsuo cố gắng bỏ chạy khỏi các chiến hào. Trong lúc đang chạy vào rừng thì miểng bom văng trúng người Jun-shik, trước khi chết anh ta bảo Tatsuo rằng giờ Tatsuo là Kim Jun-shik và hãy nói tiếng Hàn Quốc với lính Mỹ, vì nếu cho họ biết mình là người Nhật thì Tatsuo có thể bị giết do trong thời gian này người Nhật đang là kẻ thù của người Mỹ. Sau ngày hôm đó, quân Mỹ chiếm được bờ biển Omaha, Tatsuo được họ tha mạng. Bộ phim kết thúc với cảnh Tatsuo tham gia một cuộc thi chạy điền kinh dưới cái tên Kim Jun-shik, cuộc thi được diễn ra tại Mỹ, lúc chạy Tatsuo đã nhớ lại ngày đầu tiên anh và Jun-shik chạy thi cùng nhau khi cả hai còn là trẻ con. | 1 | null |
Đài hái hay còn gọi beo, sén, huất sơn, du qua, dây mỡ lợn, dây hái, then hái, mướp rừng, (danh pháp khoa học: Hodgsonia macrocarpa) là một loài thực vật có hoa trong họ Cucurbitaceae. Loài này được (Blume) Cogn. mô tả khoa học đầu tiên năm 1881.
Mô tả.
Đài hái là một loại thực vật dây leo, mọc khỏe, có thân nhẵn và có thể dài đến hơn 30 m. Chúng có lá hình tim, phiến lá chia ra 3 hoặc 5 thùy, chiều rộng khoảng chừng từ 15 đến 25 cm. Mặt trên phiến lá có màu xanh lục, mặt dưới màu xanh nhạt hơn, dai và cứng nhẵn; hình dáng thùy thuôn dài và có đầu nhọn. Khi lá còn non, lá có thể không chia thùy hoặc chỉ chia ra 2 thùy.
Tua cuốn của đài hái to khỏe và quăn xoắn. Hoa đực mọc thành từng chùm với dạng ngù, hoa cái ngược lại mọc đơn độc ở kẽ lá. Khi ra quả, quả đài hái có hình cầu và to bằng đầu người, có đường kính lên đến 20 cm, trên bề mặt quả có khoảng 10 đến 12 khía trông không rõ, cùi màu trắng.
Mỗi quả có từ 6 đến 12 hạt, mỗi hạt rất to dài đến 8 cm và rộng 5 cm, có hình trứng dẹt, có lá mầm rất phát triển với một mặt phẳng một mặt khum.
Sinh thái.
Đài hái là một loại cây đẹp, chúng mọc hoang, leo lên trên các cây to khác trong rừng, phía trên chúng chia thành nhiều cành mọc xen kẽ nhau và phủ lên trên cây chủ tựa như những lá màu xanh thẫm, trông rất độc đáo.
Do hạt của cây nhẹ và có thể nổi trên mặt nước, vào mùa mưa, hạt có thể trôi theo dòng suối và sông ngòi ra tận ngoài bờ biển.
Quả có thể được thu hoạch vào các tháng 11, 12 hoặc tháng 1, 2 năm sau.
Phân bố.
Thế giới.
Phân bố ở một số tỉnh ở miền nam Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia và Nhật Bản.
Việt Nam.
Được tìm thấy ở các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và các tỉnh miền núi nói chung.
Thành phần hóa học.
Hạt của cây đài hái có chứa rất nhiều dầu, tỷ lệ có thể đạt từ tới 60% đến 70%. Dầu của hạt hơi đặc, có màu vàng nhạt, không mùi, không vị và tương tự như mỡ lợn, do đó còn có tên là cây mỡ lợn. Khi để cho dầu lắng, phân tách thành hai lớp, lớp ở trên chứa khoảng 20% panmitin, lớp dưới phần lớn là chất olein. Hạt không có tính độc.
Ứng dụng.
Có thể nướng quả và sử dụng như một loại thực phẩm. Ngoài ra, hạt có thể ép làm dầu ăn thay mỡ lợn hoặc dùng để thắp đèn. Tại đảo Borneo, Indonesia, người ta dùng dầu đài hái để xoa bụng những người phụ nữ vừa ở cữ cũng như trộn chung với tro lá địa liền và dầu dừa để bôi vào vú phụ nữ bị sưng. Lá có thể dùng để chữa bệnh loét mũi bằng cách sắc hay đốt lấy khói xông. Nước ép từ thân đài hái cũng dùng để chữa bệnh này.
Gieo trồng.
Cây đài hái có thể trồng bằng hạt hoặc giâm cành. Khi giâm cành, người ta cắt thân ra những mẫu khoảng từ 40 đến 50 cm, khoanh tròn, trồng vào những hố đã đào sẵn từ trước. Hố phải sâu từ 50 đến 60 cm, rộng chừng 35 đến 40 cm và đã đổ sẵn phân tro.
Sau hai năm, một cây có thể cho trung bình từ 50 đến 60 quả hoặc hơn tùy vào điều kiện chăm sóc. Đặc biệt có trường hợp lên đến 200 quả. | 1 | null |
Linnaeosicyos amara là một loài thực vật có hoa trong họ Cucurbitaceae sinh sống trong khu vực Caribe (đảo Hispaniola). Loài này được Carl Linnaeus mô tả khoa học lần đầu tiên năm 1753 trong chi "Trichosanthes" với danh pháp "Trichosanthes amara". Năm 2008, Hanno Schaefer, Alexander Kocyan và Susanne S. Renner chuyển nó sang chi do họ mới thiết lập là Linnaeosicyos với danh pháp như hiện tại. | 1 | null |
Chi Helwingia bao gồm các loài cây bụi và một số ít cây gỗ nhỏ có nguồn gốc từ Đông Á, dãy Himalaya và bắc Đông Dương. Đây là chi duy nhất trong họ Thanh giáp diệp Helwingiaceae.
Các loài.
Các loài trong chi Helwingia được ghi nhận từ World Checklist of Selected Plant Families bao gồm: | 1 | null |
Lâm mạo lá nguyên hay song mạo (danh pháp khoa học: Neoalsomitra clavigera) là một loài thực vật có hoa trong họ Cucurbitaceae. Loài này được Nathaniel Wallich mô tả khoa học đầu tiên năm 1831 dưới danh pháp "Zanonia clavigera". Năm 1942, John Hutchinson chuyển nó sang chi "Neoalsomitra".
Phân bố.
Loài dây leo này là bản địa khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới Nam Á, Đông Nam Á, miền nam Trung Quốc, Đài Loan tới các đảo tây nam Thái Bình Dương. | 1 | null |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.