text
stringlengths
1
148k
label
int64
0
2
__index_level_0__
int64
0
113k
Cornus sericea là một loài thực vật có hoa trong họ Cornaceae. Loài này được L. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1771. Đây là loài bản địa trên khắp miền bắc và phía tây Bắc Mỹ từ Alaska đến đông Newfoundland, phía Nam đến Durango và Nuevo León ở phía tây, và Illinois và Virginia ở phía đông.
1
null
Davidia involucrata là một loài thực vật có hoa trong họ Cornaceae. Loài này được Baill. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1871. Đôi khi loài này được đặt trong họ Nyssaceae, nhưng đôi khi cùng với dogwood trong họ Cornaceae, và vẫn chưa xác định tình trạng họ của nó là Davidiaceae. Đây là loài bản địa của Trung Nam và Tây Nam Trung Quốc từ Hồ Bắc đến miền Nam Cam Túc, về phía nam đến Quý Châu, Tứ Xuyên và Vân Nam. Lịch sử. Chi "Davidia" được đặt theo tên Armand David (1826–1900), ("Père David"), một nhà truyền giáo và tự nhiên học dòng họ Vincentian người pháp sống ở Trung Quốc. David mô tả cây này năm 1869, cây đơn độc được tìm thấy ở độ cao hơn , và gởi tiêu bản khô đến Paris; năm 1871, Henri Baillon đã mô tả nó thành một chi và loài mới.
1
null
Jollydora duparquetiana là một loài thực vật có hoa trong họ Connaraceae. Loài này được Henri Ernest Baillon mô tả khoa học đầu tiên năm 1867 dưới danh pháp "Connarus duparquetianus". Năm 1896 Jean Baptiste Louis Pierre chuyển nó sang chi "Jollydora". Phân bố. Loài này có tại tỉnh Cabinda (Angola), Cameroon, Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Gabon, Guinea Xích Đạo, nam Nigeria.
1
null
Rourea adenophora là một loài thực vật có hoa trong họ Connaraceae. Loài này được Sidney Fay Blake miêu tả khoa học đầu tiên năm 1923. Phân bố. Loài này có tại Costa Rica, Panama, Colombia và Ecuador. Mô tả. Cây gỗ nhỏ hoặc dây leo thân gỗ. Lá chét 3-7, hình elip đến hình bầu dục hoặc bầu dục-hình trứng, dài 2,5-13 cm, đuôi nhọn, thuôn tròn ở đáy, giống giấy da, bóng và có gân mắt lưới nổi ở cả hai mặt, có lông tơ rất mịn trên gân lá ở cả hai mặt và trên các gân chính ở mặt dưới, những chỗ khác nhẵn nhụi. Các chùy hoa rậm tuyến có cuống và lông tơ. Hoa nhỏ. Lá đài từ hình trứng rộng tới gần tròn. Quả đại đơn độc, nhẵn nhụi, dài 1,2-1,6 cm. Các cành có lông tơ, hơi nhẵn, cành non màu nâu ánh tía; cuống lá dài 2,5-4,5 cm và trục lá dài 2,2-5,5 cm khá rậm lông tơ tỏa rộng, thường với các lông tuyến ngắn trộn lẫn; các cuống lá chét dài 2-4 mm; lá chét chủ yếu hình elip, chóp đỉnh dài 3-12 mm, tù, các lá chét bên (giảm dần kích thước về phía gốc lá) dài 2,5-10,2 cm, rộng 1,3-4,5 cm, lá chét đầu cùng dài 8,5-13 cm, rộng 3,5-5 cm; gân chính 4-6 cặp; chùy hoa kiểu gần giống chùm xim, dài 9-10 cm; lá bắc nhỏ, hình mũi mác, dài khoảng 1 mm; các nhánh 5-10 hoa, cuống hoa thanh mảnh, dài 2-3 mm, có khớp nối gần gốc. Thùy đài 5, xếp lợp; các thùy ngoài hình trứng rộng đến gần tròn-hình trứng, hơi nhọn hoặc nhọn; các thùy trong gần tròn, tù hay thuôn tròn, dài 1,5-2 mm, rộng 1,5-1,8 mm, khoảng 2 lần dài hơn ống, tuyến hình cuống, lông rung nhỏ, và đặc biệt về phía đỉnh có lông tơ rất mịn. Cánh hoa hình bầu dục, tù, dài như thùy đài; nhị 10, nhẵn nhụi; chỉ nhị giãn rộng, hợp sinh tại gốc. Lá noãn 5, có lông thưa; đài đồng phát triển ở quả, dài 4 mm, các thùy hình bầu dục hay bầu dục - hình trứng, bền. Quả không cuống, gồm cả đài ở gốc, cong, nhẵn nhụi, có sọc nhỏ khó thấy; hạt dài 1 cm; áo hạt dài 3 mm.
1
null
Rourea amazonica là một loài thực vật có hoa trong họ Connaraceae. Loài này được John Gilbert Baker miêu tả khoa học đầu tiên năm 1871 dưới danh pháp "Rourea glabra" var. "amazonica". Năm 1886 Ludwig Adolph Timotheus Radlkofer nâng cấp nó thành loài riêng biệt. Phân bố. Miền nam nhiệt đới châu Mỹ, bao gồm Bolivia, Brasil (bắc, trung tây), Colombia, Ecuador, Peru, Venezuela.
1
null
Rourea araguaensis là một loài thực vật có hoa trong họ Connaraceae. Loài này được Enrique Forero miêu tả khoa học đầu tiên năm 1976. Phân bố. Loài này có tại Venezuela (bang Aragua). Lưu ý. IPNI liệt kê 2 danh pháp là "Rourea araguaensis" và "Rourea araquaensis". Tuy nhiên, trong sách của Forero không có danh pháp "Rourea araquaensis".
1
null
Rourea asplenifolia là một loài thực vật có hoa trong họ Connaraceae. Loài này được Gustav August Ludwig David Schellenberg miêu tả khoa học đầu tiên năm 1938 dưới danh pháp "Roureopsis asplenifolia". Năm 1989 Carel Christiaan Hugo Jongkind chuyển nó sang chi "Rourea". Phân bố. Loài này có tại Malaysia bán đảo và Sumatra.
1
null
Rourea blanchetiana là một loài thực vật có hoa trong họ Connaraceae. Loài này được August Progel miêu tả khoa học đầu tiên năm 1877 dưới danh pháp "Eichleria blanchetiana". Năm 1934 João Geraldo Kuhlmann chuyển nó sang chi "Rourea". Phân bố. Loài này có tại đông bắc Brasil (bang Bahia).
1
null
Rourea calophylla là một loài thực vật có hoa trong họ Connaraceae. Loài này được Gustav August Ludwig David Schellenberg công bố hợp lệ đầu tiên năm 1910 trong "Mitteilungen aus dem Botanischen Museum der Universitat Zürich", dưới danh pháp "Paxia calophylla" theo mô tả trước đó của Ernest Friedrich Gilg và năm 1919 bổ sung thêm mô tả khoa học. Năm 1989 Carel Christiaan Hugo Jongkind chuyển nó sang chi "Rourea". Phân bố. Loài này có tại Angola (tỉnh Cabinda), Cameroon, Gabon, và miền đông Nigeria. Môi trường sống là rừng mưa vùng đất thấp. Mô tả. Dây leo thân gỗ hay cây bụi. Cuống lá tới 11 cm; trục lá tới 12 cm; cuống lá chét 2–6 mm; lá chét 3-7, hình trứng tới hình elip, thường với 3-5 gân bên dài hình cung, nhẵn nhụi, dai bóng như da mỏng, nhọn hoắt ở đỉnh; lá chét tận cùng 8-22 × 3-10,5 cm; các lá chét bên gần như đối xứng, 5-9 × 3–10 cm. Cụm hoa là cành hoa mọc thành chùm ở nách lá, dài tới 20 cm, với nhiều lông tuyến nổi bật màu ánh đỏ. Chồi hoa hình cầu. Cuống hoa trên khớp 1–3 mm, Lá đài 3-4 × 1–2 mm, mặt ngoài có lông tuyến che phủ, mặt trong với lông thông thường. Cánh hoa 7-10 × 2-2,5 mm, có lưỡi bẹ, cuốn trong chồi, rời. Nhị dài 1,8-5,5 mm, nhị ngắn 1-3,5 mm; chỉ nhị cong vào trong. Nhụy dài 1,2-4,5 mm; vòi nhụy nhẵn nhụi hoặc với một số lông; bầu nhụy rậm lông. Quả đại 1-2 mỗi hoa, hiếm khi nhiều hơn, khoảng 30 × 15 mm, có mỏ, có nhiều lông tuyến màu ánh đỏ che phủ, mở theo đường ráp mặt bụng. Lá đài 5-7 × 3-4,5 mm ở quả, dai bóng như da. Áo hạt trong khoảng 1/3 là mọng thịt; phần mỏng của vỏ hạt có lẽ có màu đỏ rất sẫm và bóng. Rễ mầm ở mặt bụng.
1
null
Rourea calophylloides là một loài thực vật có hoa trong họ Connaraceae. Loài này được Gustav August Ludwig David Schellenberg miêu tả khoa học đầu tiên năm 1938. Năm 1989 Carel Christiaan Hugo Jongkind chuyển nó sang chi "Rourea". Phân bố. Loài này có tại miền nam Gabon. Môi trường sống là rừng mưa vùng đất thấp. Mô tả. Dây leo thân gỗ lớn. Cuống lá tới 12 cm; trục lá tới 30 cm; cuống lá chét 2–6 mm; lá chét 3-7, hình elip tới hình trứng ngược, nhẵn nhụi, dai bóng như da mỏng, nhọn hoắt ở đỉnh; lá chét tận cùng 18-19 × 10–12 cm; các lá chét bên 10-12 × 6–10 cm. Cụm hoa dài tới 10 cm, với nhiều lông tuyến nhỏ, thường mọc trên thân cây hay gần như mọc trên thân cây. Chồi hoa thuôn dài. Cuống hoa trên khớp dài 3–5 mm. Lá đài 5-9 × 2–3 mm, cả hai mặt với lông thông thường, mặt ngoài với nhiều lông tuyến nhỏ. Cánh hoa 12-13 × 1,5–2 mm, có lưỡi bẹ, dính liền gần đáy, cuốn trong chồi, nhẵn nhụi. Nhị dài 3,5–6 mm, nhị ngắn 2–4 mm. Nhụy dài 2–7 mm; vòi nhụy nhiều lông; bầu nhụy rậm lông. Quả đại có lông nhung mịn ngắn, có mỏ, thường hơn 1 mỗi hoa, mở theo đường ráp mặt bụng. Lá đài 6-9 × 2,5–4 mm ở quả, mặt ngoài khá dày lông tuyến che phủ. Áo hạt trong khoảng 1/4 là mọng thịt. Rễ mầm ở mặt bụng.
1
null
Rourea cassioides là một loài thực vật có hoa trong họ Connaraceae. Loài này được William Philip Hiern miêu tả khoa học đầu tiên năm 1896. Phân bố. Loài này có tại Angola, Cameroon, Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Gabon, Guinea Xích Đạo và Cộng hòa Trung Phi. Môi trường sống là rừng mưa vùng đất thấp. Mô tả. Dây leo thân gỗ. Các cành nhẵn nhụi, không có mô xốp hình hột đậu trên thân; các cành nhỏ có lông tơ. Cuống lá 2,5–4 cm; trục lá 7–35 cm; cuống lá chét 1–2 mm; lá chét 13-31, giống như giấy, có nhú ở dưới, từ nhẵn nhụi tới có lông tơ, thuôn tròn ở đỉnh; lá chét tận cùng thuôn dài-hình trứng đến hình elip, 3-7 × 1–3 cm; các lá chét bên rất bất đối xứng, hình elip tới thuôn dài, 1,4-7 × 0,8-2,5 cm. Cụm hoa dài tới 6 cm, có lông tơ, ở nách các lá non hay lá suy giảm trên các cành non đang phát triển. Cuống hoa trên khớp dài 1-3,5 mm. Lá đài 3-4 × 1,5-2,5 mm, mặt ngoài có lông tơ, mặt trong gần như nhẵn nhụi. Cánh hoa 5-8 × 1,5–2 mm, phần trên trong chồi đôi khi gập nếp khác biệt, rời. Nhị dài 3,5-5,5 mm, nhị ngắn 2,8-4,5 mm. Nhụy dài 1,5–4 mm; vòi nhụy với một vài lông dài; bầu nhụy rậm lông. Quả đại 1 mỗi hoa, hiếm khi nhiều hơn, khoảng 13-16 × 7–8 mm, đối xứng, với đỉnh tròn, nhẵn nhụi, mở theo đường ráp mặt bụng. Lá đài 4-5 × 3–4 mm ở quả, với một số lông thưa thớt mặt ngoài. Hạt với rễ mầm ở đỉnh; vỏ hạt mọng thịt.
1
null
Rourea caudata là một loài thực vật có hoa trong họ Connaraceae. Loài này được Jules Émile Planchon miêu tả khoa học đầu tiên năm 1850. Phân bố. Loài này có tại Trung Quốc (các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam), và Ấn Độ (Assam). Môi trường sống là rừng miền núi lộ thiên, ở cao độ dưới 800 m. Mô tả. Dây leo thân gỗ hay cây bụi leo bám, cao khoảng 3 m. Các cành nhỏ màu nâu, thon búp măng, nhẵn nhụi hoặc có lông khi non. Lá kép lông chim lẻ. Cuống lá, trục lá và cuống lá chét thường nhẵn nhụi; lá chét 3-4 đôi, phiến lá chét bóng phía gần trục, hình mũi mác hay thuôn dài- hình mũi mác, 2,5-10 × 0,8-3,5 cm, gần giống như giấy, nhẵn nhụi cả hai mặt, gân bên 5-6 đôi, nối gần mép, gân giữa và các gân lưới khác biệt phía xa trục, đáy hình nêm, đều cạnh, mép nguyên, đỉnh có đuôi dài với chóp tù. Cụm hoa ở nách lá, hình chùy với 1-3 trục, dài 3,5–6 cm, trục cán hoa và cuống hoa có lông tơ. Lá đài hình trứng, 2-2,5 × 1,5–2 mm, nhẵn nhụi. Cánh hoa màu ánh vàng, hình mác ngược đến hình thìa, 5-6 × 2–3 mm, nhẵn nhụi, có sọc dọc. Nhị khoảng 10, xếp xen kẽ nhị dài với nhị ngắn. Lá noãn 5, rời. Quả đại màu ánh lục, khi khô màu nâu sẫm, cong hoặc thẳng, khoảng 1-2 × 0,5–1 cm, với lá đài bền dài tới 5 mm. Hạt 0,6-1,6 × 0,4-0,9 cm, có áo hạt che phủ.
1
null
Rourea chrysomalla là một loài thực vật có hoa trong họ Connaraceae. Loài này được Gustav August Ludwig David Schellenberg miêu tả khoa học đầu tiên năm 1938, dựa theo danh pháp "Rourea chrysomala" do Auguste François Marie Glaziou công bố năm 1906, nhưng không có mô tả khoa học kèm theo. Phân bố. Loài này có tại đông bắc và miền trung Brasil, trong vùng sinh thái trảng cỏ nhiệt đới (Cerrado).
1
null
Rourea coccinea là một loài thực vật có hoa trong họ Connaraceae. Loài này được Heinrich Christian Friedrich Schumacher và Peter Thonning miêu tả khoa học đầu tiên năm 1827 dưới danh pháp "Byrsocarpus coccineus". Năm 1849 Joseph Dalton Hooker và George Bentham chuyển nó sang chi "Rourea". Phân bố. Nguyên chủng của loài này phân bố trong khu vực phía tây vùng nhiệt đới châu Phi cho tới miền tây Tanzania và Zam bia. Cụ thể bao gồm Angola (gồm cả tỉnh Cabinda), Benin, Burkina Faso, Cameroon, Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Cộng hòa Trung Phi, Gabon, Ghana, Guinea, Guinea-Bissau, Bờ Biển Ngà, Liberia, Niger, Nigeria, Senegal, Sierra Leone, Tanzania, Togo, Zambia. Môi trường sống là các khu vực lộ thiên trong rừng thưa và ven rừng rậm, ở cao độ 0-1.500 m. Về phân bố của các phân loài và thứ khác, xem Phân loài và thứ. Mô tả. Dây leo thân gỗ hay cây bụi bò lan um tùm hoặc leo bám, chiều cao đến 3 m. Các cành màu nâu hung đỏ với nhiều mô xốp hình hột đậu trên thân, hình trụ, đôi khi với lớp li e (bần) khác biệt. Cuống lá dài 0,9-7,5 cm. Trục lá dài 4-12 cm, rậm lông còn non, dần chuyển thành nhẵn nhụi. Lá kép lông chim lẻ. Cuống lá chét 0,5-5 mm. Lá chét 0-11 cặp (thường là 5-6 cặp), hình trứng tới hình trứng ngược, hình elip hoặc thuôn dài, giống giấy hay dai bóng như da mỏng, đỉnh thuôn tròn tới có khía tới nhọn hoắt, đáy thuôn tròn nhiều hay ít tới hình nêm; lá chét tận cùng 1,6-15 × 1-8 cm, các lá chét bên xiên, từ đối xứng đến bất đối xứng rõ nét, kích thước 0,7-10 × 0,6-5,5 cm; mặt dưới của lá chét non rậm lông, đặc biệt là trên gân giữa, sau chuyển dần thành nhẵn nhụi. Trục cụm hoa dài tới 4 cm, thanh mảnh, nhẵn nhụi nhiều hay ít. Cụm hoa dài tới 11 cm, ít hoa, từ nhẵn nhụi tới có lông tơ. Cuóng hoa trên khớp nối dài 1-10 (-30) mm. Hoa thơm. Lá đài hình trứng rộng, dài 1,5-4 mm, rộng 1,5-3 mm, thường rộng hơn dài, mép có lông rung. Cánh hoa màu trắng đến vàng nhạt, hình elip hẹp, dài đến 6-11,5 mm, rộng 1,5-3,5 mm. Nhị hoa 10, thường dính liền gần đáy, xếp lợp và không xếp nếp trong chồi, đỉnh từ có khía tới nhọn, đôi khi có ít lông ở đỉnh; gồm 2 loại là hoa nhị dài và hoa nhị ngắn. Hoa nhị dài: 5 nhị đối diện lá đài dài tới 6 mm, 5 nhị đối diện cánh hoa dài tới 4,5 mm. Hoa nhị ngắn: 5 nhị đối diện lá đài dài tới 2,5 mm, 5 nhị đối diện cánh hoa dài tới 2 mm. Ống chỉ nhị rất ngắn. Bầu nhụy dài 1,7-9 mm, rậm lông; vòi nhụy với lông nhiều hay ít, vòi nhụy của hoa nhị dài đến 1,5 mm, vòi nhụy của hoa nhị ngắn đến 6 mm. Quả đại 1-2 mỗi hoa, hiếm khi nhiều hơn, khi thuần thục có màu đỏ, hình elipxoit với đỉnh thuôn tròn hay nhọn, dài 1,5-2 cm, đường kính 0,7-1 cm, nhẵn nhụi, mở theo đường ráp mặt bụng; các lá đài ban đầu ôm chặt vào đáy quả, sau đảo ngược. Hạt dài đến 1,5 cm, đường kính đến 8 mm, giả áo hạt mọng thịt, màu đỏ hay vàng hoặc da cam, có thùy, bao quanh hạt gần như tới đỉnh; để lộ vỏ hạt màu đen; các lá mầm màu xanh lục; rễ mầm ở bụng; cây non mọc dưới mặt đất, trụ dưới lá mầm không thuôn dài, hai lá đầu tiên mọc đối.
1
null
Rourea cuspidata là một loài thực vật có hoa trong họ Connaraceae. Loài này được John Gilbert Baker miêu tả khoa học đầu tiên năm 1871 dựa theo mô tả trước đó của George Bentham. Phân bố. Loài này có tại Colombia, Venezuela, bắc Brasil. Phân loài, thứ. Các thứ dưới đây lấy theo Plants of the World Online.
1
null
Rourea erythrocalyx là một loài thực vật có hoa trong họ Connaraceae. Loài này được Gustav August Ludwig David Schellenberg miêu tả khoa học đầu tiên năm 1910 dưới danh pháp "Roureopsis erythrocalyx" theo mô tả trước đó của Ernest Friedrich Gilg. Năm 1989 Carel Christiaan Hugo Jongkind chuyển nó sang chi "Rourea". Phân bố. Loài này có tại Angola (tỉnh Cabinda), Cameroon, Cộng hòa Dân chủ Congo, Gabon. Mô tả. Dây leo thân gỗ lớn, dài tới 20 m. Các cành nhỏ có lông tơ rất mịn. Cuống lá 1-8 cm; trục lá 2,5-12 cm; cuống lá chét 1-3 mm; lá chét 3-11, hình trứng đến hình elip, nhẵn nhụi hoặc có lông tơ rất mịn ở mặt dưới, nhiều tế bào nhầy ở mặt trên; đỉnh nhọn hoắt; phần nhọn có khía; lá chét tận cùng 3,5-10 × 1,5-6 cm; các lá chét bên 2,5-9 × 1,5-4,5 cm., hơi bất đối xứng. Cụm hoa dài tới 6 cm, có lông tơ rất mịn, các lá bắc con gần tràng hoa. Cuống hoa có khớp nối tại đỉnh. Lá đài 3-5 × 1,5 mm, mặt trong gần như nhẵn nhụi. Cánh hoa 11-14 × 1-1,5 mm, rời, cuộn vào trong ở chồi. Nhị hai loại, loại dài 1,5-4,5 mm, loại ngắn 1-3 mm. Nhụy dài 1,2-5 mm, vòi nhụy có lông thưa; bầu nhụy rậm lông. Quả đại 1-5 mỗi hoa, 14-22 × 6-8 mm, nhẵn nhụi, mở theo đường ráp mặt bụng. Lá đài ở quả 13-15 × 4-7 mm, màu ánh đỏ, dai bóng như da mỏng, có lông thưa hoặc nhẵn ở mặt ngoài. Khoảng 1/4 áo hạt mọng thịt, phần còn lại của vỏ hạt màu đen bóng. Rễ mầm ở mặt bụng.
1
null
Rourea fluminensis là một loài thực vật có hoa trong họ Connaraceae. Loài này được George Gardner miêu tả khoa học đầu tiên năm 1842 dưới danh pháp "Connarus fluminensis". Năm 1989 Carel Christiaan Hugo Jongkind chuyển nó sang chi "Rourea". Phân bố. Loài này có tại miền bắc và miền đông Brasil.
1
null
Rourea foreroi là một loài thực vật có hoa trong họ Connaraceae. Loài này được Gerardo Antonio Aymard Corredor và Paul Edward Berry miêu tả khoa học đầu tiên năm 1996 tại trang 580 số 48 tạp chí "Brittonia". Phân bố. Loài này có tại bang Amazonas ở miền nam Venezuela.
1
null
Rourea gardneriana là một loài thực vật có hoa trong họ Connaraceae. Loài này được Jules Émile Planchon miêu tả khoa học đầu tiên năm 1850. Tên gọi "gardneriana" là để vinh danh George Gardner (1812-1849), nhà thực vật kiêm nhà thám hiểm người Scotland, đã thu thập nhiều mẫu vật thực vật ở miền bắc Brasil giai đoạn 1836-1841, sau đó là người quản lý Vườn thực vật Hoàng gia tại Peradeniya (Sri Lanka). Mẫu vật định danh thu tại bang Pernambuco, số 963 trong phòng mẫu cây của William Jackson Hooker (1785-1865). Phân bố. Loài này có tại đông bắc và đông nam Brasil.
1
null
Rourea glabra là một loài thực vật có hoa trong họ Connaraceae. Loài này được Carl Sigismund Kunth miêu tả khoa học đầu tiên năm 1824. Phân bố. Loài này có trong khu vực từ Mexico đến nhiệt đới châu Mỹ. Các quốc gia có mặt bao gồm: Belize, Brasil (bắc, đông nam), Colombia, Costa Rica, Cuba, El Salvador, Guatemala, Honduras, Jamaica, Mexico, Nicaragua, Panamá, các đảo tây nam biển Caribe, Trinidad-Tobago, Venezuela. Thứ "Rourea glabra" var. "jamaicensis" là đặc hữu Jamaica.
1
null
Rourea glazioui là một loài thực vật có hoa trong họ Connaraceae. Loài này được Gustav August Ludwig David Schellenberg miêu tả khoa học đầu tiên năm 1938. Tên gọi là để vinh danh người đã thu thập mẫu năm 1877 là M. Glaziou. Phân bố. Loài này có tại đông nam Brasil (các bang Espírito Santo, Rio de Janeiro).
1
null
Rourea krukovii là một loài thực vật có hoa trong họ Connaraceae. Loài này được Paul Carpenter Standley công bố miêu tả khoa học bằng tiếng Latinh của Julian Alfred Steyermark lần đầu tiên vào năm 1940 theo mẫu vật số 8556 của B. A. Krukoff thu thập năm 1936. Tên loài là để vinh danh Boris Alexander Krukoff (1898-1983) - nhà thực vật học hệ thống kiêm nhà tư vấn thực vật học (cho Merck & Co từ 1935) người Mỹ gốc Nga. Phân bố. Loài này có tại miền bắc Brasil, Colombia, Peru, Venezuela.
1
null
Khế rừng hay còn gọi cơm xôi, dây lửa, dây khế rai, quai xanh (danh pháp khoa học: Rourea microphylla) là một loài thực vật có hoa trong họ Connaraceae. Loài này được William Jackson Hooker và George Arnott Walker Arnott mô tả khoa học đầu tiên năm 1833 dưới danh pháp "Connarus microphyllus". Năm 1850 Jules Émile Planchon chuyển nó sang chi "Rourea". Mô tả. Dây leo thân gỗ hay cây bụi leo, phân nhiều cành, cao 1–4 m. Các cành nhỏ màu nâu, nhẵn nhụi hoặc có lông tơ thưa thớt khi còn non. Lá kép lông chim lẻ, hiếm khi 1-lá chét; cuống lá, trục lá và cuống lá chét nhẵn nhụi; lá chét 3-8-13 đôi; phiến lá chét có màu xanh lá cây-phấn xám phía xa trục, bóng phía gần trục, hình trứng hoặc hình mũi mác đến hình mũi mác thuôn dài, 1,5-4 × 0,5–2 cm, giống như giấy đến dai láng gần giống như da, nhẵn nhụi cả hai mặt, gân phụ 4-7 đôi, tỏa rộng, nối lại gần mép lá, đáy hình nêm đến thuôn tròn, thường xiên lệch, mép nguyên, đỉnh tù và nhọn. Cụm hoa ở nách lá ở các nách lá phía xa hoặc giả đầu cành, hình chùy với 1-5 trục, thường 3–6 cm, các trục trung tâm thường dài hơn, các trục khác ngắn hơn; trục hoa và cuống hoa nhẵn nhụi; lá bắc và lá bắc con không khác biệt. Hoa đường kính 4–5 mm, thơm. Lá đài hình trứng, 2–3 mm, rộng tương đương với dài, nhẵn nhụi hoặc có lông măng nhỏ dọc theo mép phía xa trục. Cánh hoa màu trắng, ánh vàng, hoặc hồng, hình elip, 4-5 × 1–2 mm, nhẵn nhụi, có sọc theo chiều dọc, đỉnh nhọn. Nhị hoa khoảng 10; chỉ nhị không đều, các nhị dài hơn đến 6 mm, các nhị ngắn hơn đến 4 mm; bao phấn có thùy theo chiều dọc. Lá noãn rời, 3–5 mm; bầu nhụy hình trụ. Quả đại màu đỏ khi thuần thục, hình trụ hoặc hình trứng ngược xiên-hình trụ, hơi cong, 1,2-1,5 × 0,5–1 cm, mở dọc theo đường ráp phía gần trục, có sọc dọc, gốc có các lá đài bền, đỉnh nhọn. Hạt màu da cam, thuôn dài, khoảng 1 cm, với áo hạt có màng ở đáy. Ra hoa tháng 3- tháng 9, tạo quả tháng 5 - tháng 3 năm sau. Phân bố. Loài này có tại Trung Quốc (các tỉnh Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam), Ấn Độ, Indonesia, Lào, Sri Lanka, Việt Nam. Có quan hệ họ hàng gần và rất giống với "Connarus mimosoides". Sử dụng. Theo Phạm Hoàng Hộ (1999) thì tại Việt Nam có trong các rừng hậu lập vùng duyên hải, từ Hải Ninh đến Phú Quốc. Dùng làm thuốc sắc cho phụ nữ sau sinh kém ăn, trị tiểu khó hay nước tiểu vàng.
1
null
Dây khế cánh nhọn, dây lửa cánh hoa nhọn, độc chó, óc chó, tróc cẩu, dây độc (tại Hòn Tre), danh (tại Bảo Lộc) hay hồng diệp đằng (红叶藤) (danh pháp khoa học: Rourea minor) là một loài thực vật có hoa trong họ Connaraceae. Loài này được Joseph Gaertner miêu tả khoa học đầu tiên năm 1788 dưới danh pháp "Aegiceras minus". Năm 1931 Arthur Hugh Garfit Alston chuyển nó sang chi "Rourea". Mô tả. Dây leo thân gỗ hoặc cây bụi leo hay cây gỗ nhỏ, cao đến 25 m, đường kính thân cây tới 15 cm. Các cành nhỏ màu nâu sẫm, thon búp măng, nhẵn nhụi hoặc có lông tơ thưa thớt khi còn non, thường với lớp li e (bần) giữa các lớp xylem. Lá thường xanh, kép lông chim lẻ, hiếm khi 1 lá chét; cuống lá 2–9 cm, trục lá 0–17 cm, cuống lá chét 1–4 mm, tất cả đều nhẵn nhụi; lá chét 1-11(19), tại châu Á thường là 1 đôi; phiến lá chét hình trứng hoặc hình elip đến hình mũi mác, 3-12 × 2–5 cm (lá chét tận cùng hình trứng hay elip thuôn dài và to hơn), dạng giấy hay dai bóng như da mỏng, nhẵn nhụi và mượt trên cả hai mặt, thường có lớp sáp che phủ mặt dưới, các gân bên 5-10 đôi, nói lại gần mép lá, gân giữa và gân mắt lưới nổi rõ phía xa trục, đáy hình nêm rộng tới thuôn tròn, đều cạnh hoặc hơi xiên, mép nguyên, đỉnh nhọn tới nhọn hoắt, chiều dài phần nhọn tới 2,5 cm, không có mấu nhọn. Cụm hoa mọc ở nách lá hoặc giả đầu cành, hình chùy lỏng lẻo hoặc tựa như cành hoa với 1-6 trục, 3–9 cm, nhiều hoa, trục trung tâm dài hơn nhiều so với các trục khác; trục xim và cuống hoa nhẵn nhụi. Cuống hoa trên khớp nối dài 3–7 mm. Hoa đường kính khoảng 1 cm, có hương thơm. Lá đài hình trứng, 1,5-4 × 1-3,5 mm (rộng hơn dài), mép có lông rung ở đỉnh, chỗ khác nhẵn nhụi. Cánh hoa màu trắng hoặc vàng, hình elip dài, 4-8 × 1–4 mm, thường chụm lại ở phần sát gốc, nhẵn nhụi, có sọc theo chiều dọc, xếp lợp trong chồi, đỉnh thuôn tròn. Nhị hoa 2–6 mm, gồm 2 loại: nhị dài 3,5–6 mm, nhị ngắn 2,5-4,5 mm. Bao phấn hình tim ngược. Lá noãn rời, khoảng 4 mm, nhẵn nhụi. Vòi nhụy có lông thưa hoặc nhẵn nhụi. Bầu nhụy có lông thưa thớt phía gần trục. Quả đại 1 mỗi hoa, hiếm khi nhiều hơn, màu xanh lục sẫm, chuyển thành màu đen khi khô, hình elipxoit xiên, hơi cong, 1,0-2,5 × 0,5-1,5 cm, có sọc nhỏ mịn theo chiều dọc, mở dọc theo đường ráp phía gần trục hoặc đường vòng nhiều hay ít gần gốc, với đài hoa bền ở quả, kích thước khoảng 4 × 3 mm (rộng hơn dài), đỉnh nhọn. Hạt màu đỏ, hình elipxoit hay hình trứng với đỉnh nhọn, 1,5-2 × 0,6–1 cm, gốc được bao phủ bởi lớp áo hạt dạng màng hay mọng thịt; áo hạt mọng thịt về cơ bản rời với các phần khác của hạt, che phủ phần mỏng của vỏ hạt gần như hoàn toàn. Rễ mầm ở gần đỉnh. Ra hoa tháng 4-10, tạo quả tháng 5-3 năm sau. Cây non mọc dưới mặt đất; hai lá đầu tiên mọc đối. Phân bố. Loài này có tại vùng nhiệt đới Cựu Thế giới. Các quốc gia và vùng lãnh thổ có mặt bao gồm: Môi trường sống. Rừng hỗn hợp rậm rạp, rừng tre, bụi cây, đồi núi, rừng mưa, trảng cỏ; ở châu Á ở cao độ dưới 800 m, tại châu Phi đến cao độ 1.500 m.
1
null
Rourea myriantha là một loài thực vật có hoa trong họ Connaraceae. Loài này được Henri Ernest Baillon miêu tả khoa học đầu tiên năm 1868. Trong sửa đổi của Schellenberg, tác giả tách loài này thành 6 loài trong chi "Paxia", hoàn toàn là theo hình dạng của lá chét. Mô tả. Dây leo thân gỗ dài tới 40 m. Các cành nhẵn nhụi và thường màu xám bạc; các cành nhỏ có lông tơ mịn. Cuống lá dài 5–10 cm; trục lá 0–15 cm; cuống lá chét 1–5 mm; lá chét 1-11, rất hay thay đổi về hình dạng, từ hình trứng, hình elip đến thuôn dài hay hình trứng ngược, dai bóng như da, hiếm khi giống giấy, gần như nhẵn nhụi; đỉnh nhọn tới nhọn hoắt, có mấu nhọn; lá chét tận cùng 4-18 × 2-8,5 cm; các lá chét bên 3-4 × 1,5-6,5 cm, gần như đối xứng. Cụm hoa dài tới 15 cm, có lông tơ mịn hoặc nhẵn nhụi; lá bắc và lá bắc con tương tự các lá đài nhỏ. Cuống hoa trên khớp nối dài 0–2 mm. Chồi hoa hình cầu. Lá đài 3-4 × 1,5-2,5 mm, có lông tơ mịn mặt ngoài, gần như nhẵn nhụi mặt trong, phần lộ ra trong nắng có màu đỏ, phần bị che khuất có màu trắng (thường hai màu có trên một hoa); cánh hoa 10-15 × 1–3 mm, thường dính liền ở sát đáy, gập trong chồi. Nhị hai loại, với loại dài 2–6 mm, loại ngắn 1,5–3 mm, chỉ nhị cong vào trong. Nhụy dài 1,5–5 mm; vòi nhụy với một số lông; bầu nhụy rậm lông. Quả đại 1 mỗi hoa, đôi khi nhiều hơn, 25-45 × 15–20 mm, có mỏ, nhẵn nhụi, thường có giả mô xốp hình hột đậu. Lá đài ở quả 6-12 × 4–6 mm, dai bóng như da, gần như nhẵn nhụi. Áo hạt mọng thịt khoảng 1/3, phần còn lại của vỏ hạt mỏng, bóng và có màu từ đỏ rất sẫm tới đen. Rễ mầm ở mặt bụng. Phân bố. Loài này có tại Angola (tỉnh Cabinda), Cameroon, Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Cộng hòa Trung Phi, Gabon, các đảo trong vịnh Guinea, Nigeria. Môi trường sống là rừng mưa nhiệt đới ở cao độ tới 500 m.
1
null
Rourea neglecta là một loài thực vật có hoa trong họ Connaraceae. Loài này được Gustav August Ludwig David Schellenberg miêu tả khoa học đầu tiên năm 1938, trên cơ sở thứ "Rourea glabra" var. "coriacea" được John Gilbert Baker mô tả năm 1871. Phân bố. Loài này có tại miền bắc Brasil, Guiana thuộc Pháp và Venezuela.
1
null
Rourea obliquifoliolata là một loài thực vật có hoa trong họ Connaraceae. Loài này được Ernest Friedrich Gilg miêu tả khoa học đầu tiên năm 1891. Mô tả. Dây leo thân gỗ lớn dài tới 25 m hoặc cây bụi. Các cành nhỏ có lông tơ mịn. Cuống lá 0-0,5 cm, trục lá 3,5–28 cm, có lông tơ mịn; cuống lá chét 0,5–3 mm; lá chét 13-41, hình trứng đến hình elip hoặc hình thoi tới hình thận, có lông tơ mịn mặt dưới trên gân giữa hoặc nhẵn nhụi, giống như giấy; đỉnh từ thuôn tròn tới gần nhọn hoắt, có mấu nhọn; lá chét tận cùng 1,7-9 × 1–5 cm; lá chét bên 0,7-8,5 × 0,4-3,5 cm, bất đối xứng rõ nét. Cụm hoa dài tới 1,2 cm, tựa hình cầu, thường nhiều cùng nhau ở cuối cành có lá tựa như cụm hoa đầu cành. Cuống hoa trên khớp nối dài 0–1 mm. Lá đài 3-6 × 1,5-2,5 mm, gần như nhẵn nhụi mặt trong. Cánh hoa 11-14 × 1,5–2 mm, dạng lưỡi bẹ, rời, cuộn vào trong khi nằm trong chồi. Nhị hai loại, loại dài 2,5–7 mm, loại ngắn 1,5–5 mm. Nhụy 1,5–6 mm; vòi nhụy với ít lông; bầu nhụy với lông chỉ trên các bề mặt cận kề các lá noãn. Quả đại 1-5 mỗi hoa, 15-24 × 7–10 mm, nhẵn nhụi, mở theo đường ráp mặt bụng. Lá đài ở quả 6-8,5 × 2,5–3 mm, màu ánh đỏ, từ giống như giấy tới giống như da, gần như nhẵn nhụi. Áo hạt mọng thịt khoảng 1/4, phần còn lại của vỏ hạt mỏng, bóng và đen; rễ mầm ở mặt bụng. Phân bố. Loài này có tại Angola (gồm cả tỉnh Cabinda), Cameroon, Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Cộng hòa Trung Phi, Gabon, Guinea Xích đạo, Nigeria. Môi trường sống là rừng mưa nhiệt đới và rừng dọc bờ sông ở cao độ tới 1.000 m.
1
null
Rourea orientalis là một loài thực vật có hoa trong họ Connaraceae. Loài này được Henri Ernest Baillon miêu tả khoa học đầu tiên năm 1867. Mô tả. Cây bụi, cây bụi nhỏ có thân rễ, cây gỗ nhỏ hay cây bụi dạng dây leo thân gỗ, thường là với lá sớm rụng, nhưng tại đông nam Cộng hòa Dân chủ Congo lại là thường xanh. Các cành có mô xốp hình hột đậu, thon búp măng và thường có lớp li e (bần) khác biệt; các cành nhỏ từ có lông tơ mịn đến có lông măng. Cuống lá dài 1,5–7 cm; trục lá dài 6–30 cm; cuống lá chét 0,5–2 mm; lá chét 13-33, từ thuôn dài đến thuôn dài-hình trứng, từ giống như giấy đến giống như da mỏng, từ nhẵn nhụi đến có lông măng; đỉnh thuôn tròn đến nhọn; lá chét tận cùng 1-5,5 × 0,5–3 cm, đôi khi hình trứng ngược; các lá chét bên 0,8-5 × 0,3-2,5 cm, gần như đối xứng. Cụm hoa dài tới 7 cm, từ nhẵn nhụi tới có lông măng. Cuống hoa trên khớp nối dài 1–5 mm. Lá đài 1,5-3 × 1,5–3 mm. Cánh hoa 7-12 × 3–4 mm, dính liền ở gần đáy, đôi khi gập nếp ở đỉnh, đặc biệt là trong chồi. Nhị hai loại, nhị dài 1,5–7 mm, nhị ngắn 1-4,5 mm. Nhụy 1,5–4 mm; vòi nhụy có lông thưa thớt; bầu nhụy rậm lông. Quả đại 1 mỗi hoa, hiếm khi hơn, 15-23 × 5–12 mm, đối xứng, đỉnh tròn, mở theo đường ráp mặt bụng, nhẵn nhụi. Lá đài ở quả 3,5-5 × 3–4 mm, xếp lợp. Áo hạt mọng thịt, màu đỏ thắm, rễ mầm xuất hiện từ áo hạt mọng thịt tại đỉnh. Hoa và lá thường mọc đồng thời trên cây trần trụi. Phân bố. Loài này có tại Angola, Botswana, Cộng hòa Dân chủ Congo, đông nam Kenya, Madagascar, Malawi, Mozambique, Namibia (dải Caprivi), Tanzania, Zambia, Zimbabwe. Môi trường sống là các rìa bụi cây cạnh trảng cỏ và rừng lá bán sớm rụng, ở cao độ tới 2.500 m, thường thấy trên các tổ mối.
1
null
Rourea parviflora là một loài thực vật có hoa trong họ Connaraceae. Loài này được Ernest Friedrich Gilg miêu tả khoa học đầu tiên năm 1891. Mô tả. Dây leo thân gỗ lớn, dài tới 35 m và đường kính tới 15 cm. Các cành xẻ rãnh sâu, thường với lớp li e (bần) liên xylem; các cành nhỏ từ có lông tơ đến nhẵn nhụi. Cuống lá dài 2,5-7 cm; trục lá dài 6-22 cm; các cuống lá chét dài 1-2 mm; lá chét 5-19, hình trứng đến thuôn dài hay thuôn dài-hình trứng ngược, gần như nhẵn nhụi; đỉnh thường nhọn hoắt; phần nhọn thường có khía; lá chét tận cùng 5-15 × 2-6 cm; các lá chét bên 2-14 × 1-5 cm, từ bất đối xứng đến gần như đối xứng. Cụm hoa dài tới 2 cm, có lông tơ. Cuống hoa trên khớp nối dài 1,5-4 mm. Lá đài 2 × 1,5 mm. Cánh hoa 5-6 × 1,5-2,5 mm, chụm lại gần đáy, xếp lợp và chỉ hơi gập trong chồi. Nhị dài 2,5-5 mm, nhị ngắn 2-4 mm. Nhụy hoa dài 2-5 mm; vòi nhụy với một ít lông; bầu nhụy rậm lông. Quả đại 1 mỗi hoa, hiếm khi hơn, 25-32 × 10-15 mm, hình trứng, nhọn ở đỉnh, nhẵn nhụi ngoại trừ có một ít lông ở đỉnh, mở theo đường ráp mặt bụng. Lá đài ở quả 4-6 × 4-6 mm. Hạt kích thước tới 22 × 12 mm, vỏ hạt khoảng 1/3 mọng thịt và màu vàng, phần còn lại mỏng, rất sẫm màu (đỏ?) và bóng, rễ mầm ở đỉnh, trụ dưới lá mầm ở hạt dài khoảng 1mm. Cây non mọc trên mặt đất; trụ dưới lá mầm thuôn dài mạnh. Không có rễ chính sơ cấp. Các lá mầm trải rộng và mọng. Các lá đầu tiên hình lông chim, gần như mọc vòng. Phân bố. Loài này có tại Angola (tỉnh Cabinda), Cameroon, Cộng hòa Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Gabon, các đảo trong vịnh Guinea, Nigeria, Cộng hòa Trung Phi. Môi trường sống là các rừng mưa, ở cao độ tới 1.000 m.
1
null
Roureopsis pinnata là một loài thực vật có hoa trong họ Connaraceae. Loài này được George King miêu tả khoa học đầu tiên năm 1897 dưới danh pháp "Agelaea pinnata". Năm 1910 Gustav August Ludwig David Schellenberg chuyển nó sang chi "Taeniochlaena" với danh pháp mới là "Taeniochlaena pinnata". Danh pháp này hiện tại được Plants of the World Online coi là chưa đặt đúng chỗ (unplaced). Năm 1958 Pieter Willem Leenhouts chuyển nó sang chi "Roureopsis". Danh pháp này hiện nay được The Plant List công nhận là loài hợp lệ. Năm 1989 Carel Christiaan Hugo Jongkind chuyển nó sang chi "Rourea" và đổi danh pháp thành "Rourea dictyophylla", do danh pháp "Rourea pinnata" đã được Jan Frederik Veldkamp sử dụng trước đó từ năm 1968 để chỉ một loài khác ở phía đông bắc đảo Borneo, nhưng không chỉ ra lý do tại sao đổi tính từ định danh thành "dictyophylla" (nghĩa đen là lá có cấu trúc mắt lưới). Phân bố. Mẫu vật của loài này được tìm thấy tại bang Perak, Malaysia bán đảo, trong bộ sưu tập của King, số 5425. Mô tả. Dây leo thân gỗ dài tới 9–12 m (30–40 ft), các cành non có lông tơ mịn màu gỉ sắt, có sọc. Lá chét 3-5, dai và bóng như da mỏng, không đều (các lá chét ở giữa là to nhất), hình elip, rộng và có đỉnh nhọn hoắt ngắn, gốc thuôn tròn hay gần hình nêm, mặt trên nhẵn nhụi, trừ gân giữa có lông tơ nhỏ; mặt dưới có lông tơ nhỏ gần áp ép, các gân ngang khác biệt, gân giữa có lông măng; gân chính 7-10 đôi, trải rộng và cong lên trên, rõ nét ở mặt dưới, hơi chìm ở mặt trên; chiều dài lá chét tận cùng là 6-8 inch, rộng 3-3,5 inch; cuống lá chét này khớp nối vào trục lá và không dài hơn cuống của các lá chét bên (hơi nhỏ hơn lá chét tận cùng). Chùy hoa dài khoảng 1 inch, tạo cụm dày dặc ở nách lá, nhiều hoa, có lông măng nhỏ. Hoa dài 3 inch, cuống hoa dài khoảng 1,5 inch. Đài hoa chia tới tận đáy thành 5 đoạn lộn ngược thẳng nhọn, dài bằng nửa cánh hoa, có lông măng mặt ngoài. Cánh hoa thẳng, nhọn hơn, nhẵn nhụi, màu trắng bên trong và màu tía bên ngoài. Nhị 5, ngắn hơn nhụy, bao phấn gần hình cầu. Nhụy 5, bầu nhụy có lông măng mềm; vòi nhụy tỏa rộng, uốn ngược; đầu nhụy chẻ đôi. Quả chưa rõ.
1
null
Laurent Fabius (; sinh ngày 20 tháng 8 năm 1946) là một chính trị gia người Pháp. Fabius tham gia Đảng Xã hội vào năm 1974 và trở thành dân biểu vùng Seine-Maritime. Dưới thời Tổng thống François Mitterrand, ông lần lượt trở thành bộ trưởng Bộ Tài chính Pháp (1981–1983), bộ trưởng Bộ Công nghiệp và Nghiên cứu (1983–1984) rồi Thủ tướng trẻ nhất nền Đệ ngũ Cộng hòa vào tháng 6 năm 1984 ở tuổi 37. Tuy nhiên, Đảng Xã hội mất đa số ghế Quốc hội sau cuộc bầu cử lập pháp năm 1986, và Fabius trở về làm dân biểu của Seine-Maritime. Sau khi Đảng Xã hội giành chiến thắng trong cuộc bầu cử lập pháp năm 1988, ông được chọn là Chủ tịch Hạ viện Pháp. Sau khi không thể giải quyết triệt để vụ bê bối quản lý y tế liên quan tới nhiễm trùng máu, Fabius được miễn trừ truy tố nhưng thanh danh ông cũng bị ảnh hưởng đáng kể. Năm 1992, ông từ chức Chủ tịch Hạ viện Pháp để trở thành Chủ tịch Đảng Xã hội, nhưng cũng nhanh chóng từ chức sau khi đảng của ông thất bại thảm hại trong cuộc bầu cử lập pháp năm 1993. Ông trở thành Chủ tịch Hạ viện vào năm 1997 sau chiến thắng tại kỳ bầu cử lập pháp và tới năm 2000, ông nhậm chức bộ trưởng Bộ Thương mại, Tài Chính và Công nghiệp của Thủ tướng Lionel Jospin. Ông không có nhiều đóng góp trong Đảng Xã hội khi chỉ là phe thiểu số nói "không" cho cuộc Trưng cầu dân ý về Hiến pháp Châu Âu 2005. Năm 2006, ông tranh cử vị trí ứng cử viên Tổng thống Pháp của Đảng Xã hội, tuy nhiên chỉ về thứ 3 sau Dominique Strauss-Kahn và Ségolène Royal. Sau khi François Hollande đắc cử Tổng thống Pháp vào năm 2012, ông được Thủ tướng Jean-Marc Ayrault chỉ định làm bộ trưởng Bộ Ngoại giao (2012–2014), rồi sau đó trở thành bộ trưởng Bộ Ngoại giao và Phát triển quốc tế (2014-2016) dưới thời Thủ tướng Manuel Valls. Fabius từ chức bộ trưởng vào tháng 2 năm 2016 để trở thành Chủ tịch Hội đồng Hiến pháp thay thế Jean-Louis Debré.
1
null
Tắc kè đính cườm (danh pháp khoa học: Lucasium damaeum) là một loài tắc kè trong chi Lucasium. Chúng sống về đêm, ăn côn trùng, và là loài bản địa của khu vực xung quanh bán đảo Eyre ở Nam Úc - đặc biệt trong vùng khí hậu khô cằn như Vườn quốc gia Gawler Ranges.
1
null
Họ Nhông (Agamidae) là một họ gồm hơn 300 loài bò sàt phân bộ Kỳ nhông bản địa ở châu Phi, châu Á, Úc, và một số ít ở Nam Âu. Nhiều loài thường được gọi là rồng hay thằn lằn rồng. Trang web của The Reptile Database tra cứu ngày 25 tháng 9 năm 2014 cho số lượng loài thuộc họ này là 445. Tại Việt Nam, có khoảng 24 loài thuộc họ Nhông, với các tên gọi phổ biến là nhông, nhông cát, thằn lằn bay, rồng đất, v.v.. Tổng quan. Về mặt phát sinh chủng loài, Agamidae có thể là nhóm có quan hệ chị em với Iguanidae "sensu lato", và chúng có bề ngoài khá giống nhau. Các loài Agamidae thường có các chân khỏe và khá phát triển. Đuôi của chúng không thể rụng và tái sinh như ở các loài tắc kè, mặc dù sự tái sinh phần nào được thấy ở một vài loài. Nhiều loài nhông có khả năng thay đổi hạn chế màu sắc bề ngoài của chúng để điều chỉnh thân nhiệt. Ở một số loài, con đực có màu sắc sặc sỡ hơn con cái, và màu sắc có một phần vai trò trong việc đánh tín hiệu cũng như trong các tập tính sinh sản. Nói chung họ Agamidae sinh sống trong các khu vực môi trường ấm, từ các hoang mạc nóng bức tới các rừng mưa nhiệt đới, nhưng ít nhất có 1 loài là rồng núi Australia ("Rankinia diemensis") lại sinh sống trong khu vực lạnh hơn. Nhóm các loài thằn lằn này bao gồm một vài loài được biết đến khá nhiều, như các loài rồng râu ("Pogona") đã được thuần hóa ở Australia và thằn lằn đuôi gai ("Uromastyx") ở Bắc Phi và Trung Đông. Một trong những đặc trưng cơ bản để phân biệt của họ Agamidae là răng của chúng, mọc trên gờ ngoài của miệng (răng dính liền), chứ không phải trên mặt trong của quai hàm (răng dính bên). Đặc trưng này chia sẻ chung với các loài tắc kè hoa, nhưng nói chung vẫn là bất thường ở các loài thằn lằn. Thằn lằn Agamidae nói chung là các loài hoạt động ban ngày, với thị lực tốt, và bao gồm chủ yếu là các loài sống trên mặt đất hay trong kẽ đá cũng như một ít loài sống trên cây. Thức ăn của chúng chủ yếu là côn trùng (Insecta) và các loài động vật chân khớp (Arthropoda) khác như nhện, mặc dù một số loài to lớn có thể ăn thịt cả các loài bò sát nhỏ khác hay các động vật có vú nhỏ, chim làm tổ, hoa hay các loại thực vật. Phần lớn các loài nhông là noãn sinh (đẻ trứng). Phân loại và phân bố. Có rất ít nghiên cứu về họ Agamidae. Đánh giá bao hàm toàn diện đầu tiên do Moody thực hiện năm 1980, tiếp theo là đánh giá mang tính tổng thể hơn của Frost và Etheridge năm 1989. Các nghiên cứu sau đó dựa trên các đoạn gen DNA ti thể của Macey "et al." năm 2000 và Honda "et al." năm 2000 cũng như bằng việc lấy mẫu trong khắp họ Agamidae của Joger năm 1991. Một số ít nghiên cứu khác tập trung vào các nhánh trong họ, và Agamidae chưa từng được điều tra kỹ càng như đối với họ Iguanidae. Họ Agamidae thể hiện một sự phân bố kỳ lạ. Chúng được tìm thấy trên phần lớn các khu vực của Cựu thế giới, bao gồm châu Phi lục địa, Australia, Nam Á, Đông Nam Á và thưa thớt hơn tại khu vực nóng ấm ở châu Âu. Tuy nhiên, chúng không có mặt ở Madagascar và Tân thế giới. Sự phân bố này là trái ngược với sự phân bố của Iguanidae, với các loài được tìm thấy trong các khu vực này nhưng lại không có mặt trong các khu vực nơi Agamidae được tìm thấy. Sự phân chia hệ động vật tương tự cũng được thấy giữa hai họ trăn là Boidae và Pythonidae. Phát sinh chủng loài. Biểu đồ nhánh chi tiết vẽ theo Pyron et al. (2013).
1
null
Leiosauridae là một họ thằn lằn dạng nhông (Iguania). Họ này chứa khoảng 32 loài thằn lằn Nam Mỹ đã biết trong 6 chi, như phân loại sau đây. Phân loại. Phân loại lấy theo Frost et al (2001) và Pyron et al. (2013) Phát sinh chủng loài. Cây phát sinh chủng loài vẽ theo Pyron et al. (2013).
1
null
Dòng vi xử lý đồ họa Adreno được phát triển bởi Qualcomm dưới dạng tích hợp trong chip xử lý SoCs. Ban đầu dòng này được đặt tên là "Imageon" do ATI Technologies phát triển, sau đó được AMD mua lại từ năm 2006. Tiếp theo vào năm 2008, Qualcomm mua lại Imageon và đổi tên thành Adreno. Tên mới Adreno được hình thành bằng cách đảo chữ từ tên Radeon. Tham số kỹ thuật. Các phiên bản. Adreno được tích hợp trong chip xử lý Snapdragon SoCs: Hỗ trợ hệ điều hành. Adreno chỉ có trình điều khiển (driver) hỗ trợ Android do Qualcomm cung cấp. Không có trình điều khiển cho các hệ điều hành họ Linux khác. Tới nay đã được áp dụng trên Windows Phone.
1
null
Huy chương Gottschalk (tiếng Anh: Gottschalk Medal) là một giải thưởng của Viện hàn lâm Khoa học Úc, dành cho các nhà khoa học Úc, có cống hiến xuất sắc trong nghiên cứuY học. Huy chương này được đặt theo tên viện sĩ A. Gottschalk thuộc Viện hàn lâm Khoa học Úc, được trao hàng năm cho các nhà nghiên cứu dưới 40 tuổi, không là viện sĩ của Viện hàn lâm này. Ngoài huy chương, còn có khoản tiền thưởng là 1.000 dollar cho người đoạt giải.
1
null
Apink (, romaja: eipingkeu, ) là một nhóm nhạc nữ Hàn Quốc được thành lập vào năm 2011 bởi công ty IST Entertainment (trước đây là A Cube Ent., Plan A Ent. và Play M Ent.). Nhóm ban đầu gồm 7 thành viên: Chorong, Bomi, Eunji, Naeun, Namjoo, Yookyung và Hayoung. Thành viên Yookyung rời nhóm vào tháng 4 năm 2013 để tập trung cho việc học và thành viên Naeun rời nhóm vào tháng 4 năm 2022 sau 11 năm đồng hành với 5 năm thành viên, với lý do xung đột lịch trình với công ty quản lý mới. Kể từ khi ra mắt đến nay, Apink đã phát hành 9 mini-album và 3 album phòng thu. Nhóm ra mắt lần đầu tiên, vào ngày 19 tháng 4 năm 2011 với bài hát "I Don't Know" () trích từ mini-album đầu tiên "Seven Springs of Apink" trong chương trình M Countdown của Mnet. Apink đã giành được nhiều giải thưởng dành cho các nhóm nhạc mới như Golden Disc Awards lần thứ 26, Seoul Music Awards lần thứ 21 và Mnet Asian Music Awards lần thứ 13. Chương trình âm nhạc đầu tiên mà Apink giành thắng lợi là M Countdown vào ngày 5 tháng 1 năm 2012 sau 9 tháng ra mắt cùng ca khúc "My My" nằm trong mini-album thứ 2, "Snow Pink". Mỗi năm, Apink luôn cố gắng phát hành một fansong - bài hát dành cho người hâm mộ của nhóm, vào ngày kỉ niệm ra mắt: April 19th (2012), Good Morning Baby (2014), Promise U (2015), The Wave (2016), Always (2017), Miracle (2018), Everybody Ready? (2019), Moment (2020), Thank You (2021) và I want you to be happy (2022). Lịch sử. Trước khi ra mắt. Vào tháng 2 năm 2011, A Cube Entertainment đã công bố Son Na-eun là thực tập sinh đầu tiên cho nhóm nhạc nữ mới, Apink, người đã góp mặt trong video âm nhạc "Soom" (; "Breath"), "Beautiful" và "Niga Jeil Joha" (; "I Like You the Best") của Beast vào cuối năm 2010. Park Cho-rong, người xuất hiện ở cuối video âm nhạc tiếng Nhật "Shock" của Beast, tham gia tiếp theo với tư cách trưởng nhóm. A Cube đã công bố Oh Ha-young là thành viên thứ ba. Vào tháng 3, Jung Eun-ji được giới thiệu là thành viên thứ tư trên tài khoản Twitter của A Cube thông qua một đoạn video cô biểu diễn "Love You I Do" của Jennifer Hudson. Hong Yoo-kyung cũng được thông báo tương tự thông qua một video trực tuyến nơi cô đang chơi đàn piano. Hai thành viên cuối cùng, Yoon Bo-mi và Kim Nam-joo, đã được giới thiệu thông qua chương trình thực tế của nhóm, "Apink News". Trước khi nhóm ra mắt, bộ phim tài liệu "Apink News" đã phát sóng trên kênh truyền hình cáp Hàn Quốc Trend E. Chương trình đã ghi lại quá trình ra mắt của Apink. Các tập được dẫn chương trình bởi nhiều người nổi tiếng, bao gồm G.NA, Mario, Seung Ho và G.O của MBLAQ, Beast, 4minute, Jinwoon của 2AM, Sunggyu và Sungjong của Infinite, Sunhwa và Hyoseong của Secret. Một tuần trước khi Apink chính thức ra mắt, họ đã phát hành quảng cáo truyền hình đầu tiên cho Ceylon Tea. 2011: Ra mắt, "Seven Springs of Apink" và "Snow Pink". Vào ngày 13 tháng 4, một teaser video âm nhạc cho EP đầu tay của Apink đã được phát hành với sự trong sáng của các cô gái cho mùa xuân tươi sáng, EP mang tên "Seven Springs of Apink". Sau đó vào ngày 19 tháng 4, nhóm đã phát hành album và MV của ca khúc chủ đề mang tên "Mollayo" ("I Don't Know") trong MV có sự tham gia của thành viên nhóm Beast Gikwang. Vào ngày 21 tháng 4, Apink đã lần đầu tiên biểu diễn trên sân khấu ở Mnet M! Countdown với ca khúc Mallayo để quảng bá cho album đầu tay. Apink biểu diễn thêm tiếp hai ca khúc "I Don't Know" và "It Girl" trên các chương trình âm nhạc hàng tuần. Apink cũng đã thu âm ca khúc 'Let Us Just Love" cho bộ phim "Protect the Boss" của đài SBS. Trong tháng 11, Apink đã ghi hình cho một chương trình truyền hình thực tế mới được gọi là "Birth Of A Family" với nhóm Infinite. Chương trình theo cuộc hành trình của hai thần tượng trong việc chăm sóc động vật bị bỏ rơi và ngược đãi. Chương trình được lên sóng vào ngày 12 tháng 11. Vào ngày 22 tháng 11, nhóm phát hành EP thứ hai mang tên Snow Pink và bài hát chủ đề "My My". Trước đó một ngày, nhóm đã phát hành teaser cho MV "My My". Tiếp đó 3 ngày, ngày 25 tháng 11, nhóm bắt đầu quảng bá EP này trên sân khấu KBS Music Bank. Bài hát đặc biệt gợi nhớ tới những giai điệu của những nhóm nhạc tiền bối S.E.S và Fin.K.L những năm 90. Vào ngày 29 tháng 11, Apink đã được trao giải thưởng nghệ sĩ mới xuất sắc nhất tại Mnet Asian Music Awards (MAMA). Apink phát hành một bài hát quảng cáo đồng phục cùng với Beast với tiêu đề Baby Skinny. 2012: Chiến thắng đầu tiên, "Une Annee". Vào ngày 5 tháng 1, nhóm đã lần đầu tiên chiến thắng trên show truyền hình Mnet M Countdown.Ngày 14 tháng 3, Eunji và Yoseob phát hành MV Love Day trong dự án mang tên "A Cube For Season #Green", và đã biểu diễn trên MBC Music Core. Vào ngày 21 tháng 3, nhóm đã diễn tại Toronto, Canada với khoảng 1600 người hâm mộ. Vào ngày 19 tháng 4, nhóm đã cho phát hành đĩa đơn "April 19th" () như một món quà dành tặng cho người hâm hộ nhân kỷ niệm một năm thành lập nhóm. Bài hát được sản xuất bởi Kim Jinhuan với lời bài hát được viết bởi trưởng nhóm Chorong. Bài hát được đưa vào album phòng thu đầu tiên "Une Annee" của nhóm vào ngày 9 tháng 5. Album này được quảng bá trên các chương trình âm nhạc hàng tuần với ca khúc chủ đề Hush. Vào ngày 6 tháng 6, "BuBiBu" là đĩa đơn thứ ba trong album được phát hành. Đĩa đơn được lựa chọn bởi người hâm mộ qua trang web chính thức của Mnet. Và bắt đầu quảng bá ca khúc vào ngày 7 tháng 6. Người hâm mộ có sự tôn trọng tuyệt vời cho Apink khi biểu diễn trước đám đông bấp chấp cơn mưa tầm tã trong Mnet One Asia Tour 2012 tại Thái Lan vào ngày 4 tháng 10. 2013: "Secret Garden", gia tăng độ phổ biến. Vào ngày 3 tháng 1, thành viên Eunji và Namjoo cùng với Hyunseung của Beast phát hành đĩa đơn cho dự án "A Cube For Season #White" và để kỷ niệm chiến thắng của hai nhóm trong năm trước. Sau đó, Apink tiếp tục hợp tác lần thứ hai với Beast với video âm nhạc " 5! My baby (Oh! My baby). Trong tháng 5, Apink đã xuất hiện tại AIA K-POP 2013 ở Hong Kong và trình diễn một số bản hit của nhóm cùng với 4Minute và Beast. Vào ngày 23 tháng 4, A Cube thông báo thánh viên Yookyung sẽ rời nhóm để tập trung cho việc học và có thể thêm một thành viên mới vào nhóm. Ngày 31 tháng 5, Eunji và nghệ sĩ cùng công ty Huh Gak phát hành một khúc cho dự án "A Cube For Season #Blue" với tựa đề "Short Hair" và đã "all-kill" bảng xếp hạng trực tuyến. Ngày 23 tháng 6, A Cube tiết lộ teaser cho EP "Secret Garden". Vào ngày 3, EP đã được tiết lộ trên kênh youtube của A Cube với ca khúc chủ đề sẽ mang tên là NoNoNo, phát hành vào ngày 5 tháng 7 với sáu thành viên. Video âm nhạc của NoNoNo cùng với EP sẽ được phát hành sau một ngày khi họ trình diễn trên Mnet M! Countdown vào ngày 4 tháng 7. Ca khúc đã thu về cho nhóm rất nhiều chiến thắng trên các show âm nhạc, các thứ hạng cao trên bảng xếp hạng và đưa nhóm tới thời kì hoàng kim. Vào ngày 11 tháng 7, Apink được bổ nhiệm làm đại sứ danh dự của hội chợ Seoul năm 2013. Vào ngày 17, Apink đã chiến thắng trên Show Champion với NoNoNo và sau đó là Music Bank. Chương trình quảng bá ca khúc NoNoNo kết thúc vào ngày 16 tháng 8 năm 2013. Nhóm đã phát hành MV cho hai ca khúc cùng album là "Secret Garden" và "U You". Bomi trở thành MC cho chương trình Weekly Idol. Ngày 22 tháng 10 năm 2013, Apink đã tham dự Mnet Asian Music Awards lần thứ 15, nơi họ nhận được giải thưởng "Ngôi sao toàn cầu thế hệ mới". Ngày 2 tháng 12, Apink hợp tác với đồng nghiệp Cube Entertainment là BEAST, 4Minute, BTOB, G.NA, Roh Ji-hoon, Shin Ji-hoon và Kim Kiri phát hành "Christmas Song". Cũng trong tháng đó, Apink ghi một đơn phối hợp với B.A.P cho thương hiệu đồng phục học sinh Skoolooks có tên là "Mini". 2014: "Pink Blossom, Pink LUV". Ngày mùng 9 tháng 1, Apink đã đăng hình ảnh của họ trên Fancafe chính thức, tiết lộ rằng Apink sẽ phát hành một digital single để kỉ niệm 1000 ngày kể từ khi nhóm debut và cũng như gửi lời cảm ơn sâu sắc tới những người hâm mộ luôn ủng hộ nhóm. Đĩa đơn mang tên "Good Morning Baby" đã được phát hành vào ngày 13 tháng 1 lúc 12:00 AM KST. Vào ngày 14 tháng 3, Apink được bổ nhiệm làm đại sứ truyền thông của quân đội Hàn Quốc. Apink là nhóm nhạc nữ đầu tiên trở thành đại sứ. Vào ngày 17 tháng 3, A Cube đã phát hành teaser cho Mini album thứ tư của Apink - "Pink Blossom". A Cube còn tiết lộ thêm rằng Apink sẽ comeback vào ngày 31 tháng 3. Vào ngày 26 tháng 3, A Cube đã tung ra teaser cho Apink, và cũng đã tung ra MV ca khúc chủ đề "Mr.Chu" trên Youtube ngày 31 tháng 3. Bài hát chủ đề đã nhận được rất rất nhiều phản ứng tích cực và nhanh chóng leo lên vị trí số 1 của chín bảng xếp hạng lớn của Hàn Quốc ngay sau khi "Mr.Chu" được phát hành. Apink cũng đã biểu diễn lần đầu tiên vào ngày 4 tháng 4 trên sân khấu Music Bank của đài KBS. Mr.Chu cũng đã giành hạng nhất trên tất cả các chương trình âm nhạc lớn cuối tuần. Vào ngày 19 tháng 4, Apink sẽ tổ chức buổi fanmeeting lần thứ 2 để kỉ niệm 3 năm debut. Apink sẽ biểu diễn trước 2000 fan hâm mộ tại trường Đại học Kwangwoon. Một đại diện của A Cube cho biết "Sự kiện Apink Picnic đã bán được 1,300 vé trong vòng vẻn vẹn có 5 phút trong lần bán vé đầu tiên vào ngày 20 tháng 3 và vé sẽ được bán ra một lần nữa vào lần bán vé thứ 2". Apink cũng sẽ tổ chức một mini concert cùng một talk show cho buổi họp mặt fan sắp tới và họ sẽ biểu diễn NoNoNo, Mr.Chu, Good Morning Baby, April 19 và nhiều những bài hát khác. Đến 6 năm 2014, hai thành viên là Bomi và Namjoo đã thành lập nhóm nhỏ đầu tiên của Apink là "Apink BnN", sau đó họ phát hành single đầu tiên là "My Darling" để kỉ niệm 10 năm thành lập công ty của nhà sản xuất Brave Brothers". "My Darling "sau đó đã được đưa vào album "Pink Luv" của nhóm phát hành vào tháng 11 cùng năm. Vào ngày mùng 8 tháng 7, Eunji đang tham gia dự án "A Cube For Season #Sky Blue" cùng với nghệ sĩ cũng công ty Huh Gak để ra single "Break Up to Make Up" sau đó bài hát đã thống trị tất cả các bảng xếp hạng âm nhạc lớn của Hàn Quốc Trong tháng 8, Apink đã được lựa chọn để để tham gia show thực tế của đài MBC, là "Apink's Showtime", và được bắt đầu phát sóng vào ngày 07 tháng 8 năm 2014, với 8 tập được phát định kỳ hàng tuần. Ngày 4 tháng 8, Apink đã ra mắt tại Nhật Bản với một showcase tại Tokyo và tại Osaka vào ngày 15 với 6.000 fan tham dự. A Cube đã thông báo rằng họ sẽ phát hành single tiếng Nhật là "NoNoNo", và bao gồm cả "My My" vào ngày 22. Single đã đứng thứ 4 trên bảng xếp hạng single hàng tuần của Oricon. Hơn 20.000 người hâm mộ được báo cáo cho sự kiện ra mắt của họ được tổ chức tại ba thành phố của Nhật Bản. Từ tháng 9 đến tháng 11 năm 2014, Apink đã gây quỹ từ thiện cho Seungil Hope Foundation để xây dựng một bệnh viện cho bệnh nhân ALS. Trong tháng 11, câu lạc bộ fan hâm mộ trực tuyến Fancafe của Apink đã vượt qua 100.000 thành viên, đây là thành tích đáng tự hào khi mà điều này hiếm khi xảy ra đối với một nhóm nhạc nữ Hàn Quốc. Vào ngày 13 tháng 11, Apink đã nhận được giải thưởng Best Female Dance tại MelOn Music Awards lần thứ 6 cho bài hát "Mr Chu". Vào tháng 11, nhóm đã phát hành EP thứ 5 "Pink Luv", cùng với bài hải chủ đề "LUV", được sáng tác bởi Shinsadong Tiger. Bài hát đã giành No.1 tất cả các bảng xếp hạng hàng đầu của Hàn Quốc. Cả album và "LUV" đều đạt vị trí thứ nhất trên Gaon Chart. Vào ngày 20 tháng 11, trong showcare giới thiệu album, nhóm đã trình diễn LUV cùng các bài hát mới trong album. Nhóm đã quảng bá ở KBS Music Bank vào ngày hôm sau, trước khi phát hành album. Nhóm đã dành tất cả 17 cúp trên tất cả các chương trình âm nhạc lớn của Hàn Quốc, là nhóm nhạc nữ của Hàn Quốc duy nhất có thể đạt được thành tích này.. Bên cạnh The Show, nhóm cũng giành được cúp thứ ba trên Inkigayo, trước khi bài hát bị xóa khỏi bảng xếp hạng. Cuối năm đó Gaon Chart cũng công bố Apink là nhóm nhạc nữ có lượng tiêu thụ album và single xếp thứ 3 năm 2014. 2015: "Pink Paradise, Pink Memory, Pink Island, Pink Season". Ngày 10 tháng 1, Apink đã trở thành nhóm đầu tiên giành được năm Cúp liên tiếp trên Music Core. Cũng trong tháng đó, nhóm đã nhận giải "Digital Bonsang" và "Best Female Performance Group" của Golden Disk Awards lần thứ 29 tại Bắc Kinh, "Bonsang" và " Popularity " tại lễ trao giải Seoul Music Awards, "Best Female Group" của Korean Culture and Entertainment Awards và "Best Single of December" của Gaon Chart K-Pop Awards. Concert đầu tiền của Apink mang tên "Pink Paradise" được tổ chức tại Hội trường Olympic, Olympic Park, vào ngày 30 và 31. Và đã bán hết 7.200 vé trong vòng hai phút sau khi bán. Vào ngày 18 tháng 2, nhóm phát hành phiên bản tiếng Nhật của "Mr Chu", cùng với phiên bản tiếng Nhật của "Hush". Đĩa đơn này đã đứng thứ 2 trên bảng xếp hạng single hàng tuần của Oricon, với 54.000 bản được bán ra trong tuần đầu tiên phát hành. Cũng trong tháng 2, Forbes Korea đã xếp Apink đứng thứ 18 trong 40 nghệ sĩ nổi tiếng nhất Hàn Quốc. Cũng trong tháng đó, nhóm đã nhận giải "Best 3 New Artists (Asia)" tại Disc Awards Japan, được tổ chức bởi Hiệp hội Công nghiệp ghi âm của Nhật Bản. Vào ngày 22 tháng 3, Apink tiếp tục tổ chức "Pink Paradise" ở Singapore tại The MAX Pavilion. Nhóm cũng đến Thượng Hải để tổ chức "Pink Paradise" vào ngày 30 tháng 5. Ngày 28 tháng 3 Apink đã đến Việt Nam để trình diễn cho chương trình "Music Bank in Ha Noi". Vào ngày 19 tháng 4, nhóm cho phát hành bài hát kỉ niệm bốn năm thành lập nhóm với "Promise U" để tặng Fan hâm mộ. Bài hát này được Eunji sáng tác. Đĩa đơn này đã đạt được vị trí cao ở hậu hết bảng xếp hạng âm nhạc của Hàn Quốc dù không được quảng bá. Phiên bản tiếng Nhật của "LUV" dự kiến ​​sẽ phát hành vào ngày 20 tháng 5 sẽ là đĩa đơn tiếng Nhật thứ ba của họ, với "Good Morning Baby" là B-side. Nhóm biểu diễn bài hát lần đầu tiên tại "Girls Award 2015 Spring/Summer" tại Tokyo vào ngày 29 tháng 4 trước khi phát hành. Trong tháng 7, Apink đã trở lại sân khấu với album phòng thu thứ hai mang tên "Pink Memory" sản xuất bởi  Shinsadong Tiger. Apink tung MV Remember làm bài hát chính và sau đó là Petal. Các bài hát đều rất thích hợp với mùa hè. Vào ngày 22 và 23 tháng 8, concert thứ hai của Apink mang tên "Pink Island" đã được tổ chức tại Jamsil Arena. Hơn 9.000 vé đã được bán ra trong một thời gian ngắn. Ngày 26 tháng 8, album phòng thu đầu tiên tại Nhật của Apink đã được ra mắt với tên gọi "Pink Season" Ngày 9 tháng 12, single tiếng Nhật của bài hát Sunday Monday được phát hành tại thị trường Nhật Bản. 2016: Tour diễn tại Bắc Mỹ, "Pink Summer, Pink Revolution, Pink Aurora, Pink Party, Pink Doll, Dear". Apink bắt đầu tour diễn Bắc Mỹ tại Vancouver vào ngày 5 tháng 1, tiếp theo đó là Dallas, San Francisco và Los Angeles. Cũng trong tháng, nhóm nhận giải Bonsang tại lễ trao giải Seoul Music Awards và Disk Bonsang tại Golden Disk Awards. Ngày 24 tháng 1, nhóm được mời tham dự KKBOX Music Awards được tổ chức ở Đài Loan. Ngày 25 tháng 2, nhóm phát hành video âm nhạc cho bài hát tiếng Nhật "Brand New Days". Bài hát cũng được chọn làm bài mở đầu cho anime Rilu Rilu Fairilu ~Yousei No Door~. Nhóm cũng đã trình diễn tại Asian Film Awards vào ngày 17 tháng 3. Ngày 2 tháng 4, Apink tổ chức một mini-concert mang tên Pink Memory Day" tại Singapore. Ngày 19 tháng 4, nhóm phát hành đĩa đơn "The Wave", với lời bài hát được viết bởi Park Cho-rong nhằm kỷ niệm 5 năm thành lập đồng thời phát hành một sách ảnh mang tên "Girls' Sweet Repose". Vào ngày 25/5, công ty giải trí Plan A Entertainment tiết lộ nhóm nhạc nữ Apink đã nhận được lời mời tham dự sự kiện âm nhạc “MTV Music Evolution”, tổ chức tại thủ đô Manila (Philippines) vào ngày 24/6 sắp tới. Theo công ty Plan A Entertainment, lời mời này có ý nghĩa đặc biệt với các cô gái Apink vì họ sẽ trở thành nghệ sĩ Hàn Quốc đầu tiên được mời đến dự sự kiện âm nhạc có quy mô lớn, dự kiến sẽ được phát sóng tại hơn 160 quốc gia trên toàn thế giới. Nhóm cũng đã trình diễn chung với các nghệ sĩ quốc tế như Maroon 5, Beyoncé, Adele, OneRepublic, Far East Movement, Bebe Rexha và nghệ sĩ Philippines Gary Valenciano cùng con trai Gabriel, bộ đôi James Reid và Nadine Lustre. Vào tháng 7, Apink đã tổ chức concert thứ hai của nhóm tại Nhật Bản, bắt đầu tại Sapporo vào ngày 7 tháng 7. Nhóm đã trình diễn trước hàng chục nghìn người hâm mộ trong suốt sáu concert tại 5 thành phố, đồng thời lên lịch phát hành đĩa đơn tiếng Nhật thứ sáu mang tên "Summer Time", vào ngày 3 tháng 8. Để quảng bá cho ca khúc này, Apink đã tổ chức nhiều sự kiện tai 7 thành phố, từ ngày 1 đến 7 tháng 8, bắt đầu ở Fukuoka, tiếp theo đó là Hiroshima, Nagoya, Osaka, Kobe, Tokyo và Niigata. Ngày 26 tháng 9, Apink đã cho ra mắt album phòng thu thứ ba mang tên "Pink Revolution", sau một năm hai tháng kể từ lần trở lại trước đó. Bài hát chủ đề, "Only One" (내가 설렐 수 있게), được sử dụng để quảng bá cùng với các bài hát phụ như "Boom Pow Love" và "Ding Dong". Vào cùng ngày, nhóm cũng đã tổ chức buổi showcare giới thiệu album và được phát sóng trực tuyến trên V-live. Apink đã làm việc với Black Eyed Pilseung cho bài hát chủ đề, cùng Shinsadong Tiger và Dsign Music với các bài B-sides. "Only One" đã đứng đầu các bảng xếp hạng âm nhạc Hàn Quốc chỉ vài giờ sau khi phát hành. Trong suốt buổi showcase, trường nhóm Chorong đã nói rằng "Pink Revolution" sẽ mang lại một cảm giác mới về sự trưởng thành của Apink, trong khi Eunji giải thích rằng Apink sẽ tập trung vào sự phức tạp và sâu lắng của âm nhạc thay vì những bài hát "chỉ đơn giản, thú vị." Nhóm đã quảng bá cho "Only One" và "Pink Revolution" trong một tháng, album đã bán được hơn 50.000 bản. Vào tháng 11, Apink bắt đầu tour diễn châu Á "Pink Aurora", với các điểm dừng chân Đài Loan, Singapore, Hong Kong. Plan A Entertainment cũng đã thông báo rằng nhóm sẽ tổ chức concert thứ 3 tại Hàn Quốc mang tên "Pink Party" vào ngày 17, 18 tháng 12 tại Seoul. Cũng trong thời gian này, Apink tiếp tục quảng bá tại Nhật Bản với album tiếng Nhật thứ hai, "Pink Doll", được phát hành vào ngày 21 tháng 12. Vào ngày 30 tháng 11, Plan A Entertainment thông qua trang tin tức Naver đã đăng tải một thông báo rằng Apink sẽ phát hành album đặc biệt đầu tiên của nhóm mang tên "Dear" vào ngày 15 tháng 12 dù cho lịch trình dày đặt cuối năm. Album này một món quà gửi tặng nguồi hâm mộ, những người đã đi cùng với sự phát triển của nhóm. Album "Dear" có 5 bài hát mới, trong đó 3 bài hát là các bản song ca và tự sản xuất của các thành viên. Video âm nhạc của bài hát chủ đề, "Cause You're My Star," được đăng tải lên các trang Youtube của 1theK và trang chính thức của nhóm. Album này cũng bao gồm các phiên bản ballad, R&B và instrumentals các bài hit của nhóm như "Mr. Chu", "NoNoNo", "Luv", "April 19th". 2017: "Pink Up, Asian Tour, Pink Stories, 3rd Live Japan Tour". Vào ngày 21 tháng 3, Apink đã phát hành đĩa đơn tiếng Nhật thứ bảy với tên gọi "Bye Bye". EP thứ hai của Eun-Ji, "The Space" cùng bài hát chủ đề, "The Spring", được phát hành vào ngày 10 tháng 4. Ngày 19 tháng 4, bài hát dành tặng người hâm mộ nhân kỷ niệm 6 năm thành lập "Always" được phát hành. Concert cá nhân đầu tiên của Eunji được tổ chức từ ngày 3 đến ngày 5 tháng 6. Vào ngày 26 tháng 6, "Pink Up" được phát hành cùng bài hát chủ đề "Five", viết bởi Shinsadong Tiger. Vào tuần đầu tiên của đợt trở lại này, "Pink Up" đã giành vị trí thứ nhất trên bảng xếp hạng Gaon Album Chart, lần đầu tiên kể từ "Pink Luv". "Five" cũng giành vị trí thứ tư trên bảng xếp hạng đĩa đơn. 2018: "Pink Space, Pink Cinema, ONE & SIX", Tour diễn tại châu Á. Như thông báo đã đưa vào tháng 12, Apink sẽ có 2 đêm concert mang tên "Pink Space" lần lượt vào ngày 12 và 13 tháng 1 năm 2018 tại SK Olympic Handball Gymnasium. Vé sau đó cũng được bán sach chỉ sau 3 phút. Vào ngày 19 tháng 4, đúng 7 năm sau ngày ra mắt của nhóm, Apink đã cho ra mắt một ca khúc đặc biệt dành tặng cho người hâm mộ mang tên "Miracle" cùng ca khúc cùng tên. Tuy không đặc kì vọng quá nhiều vào nó, nhưng single này thật sự là một món quà vô cùng ý nghĩa đối với các Pandas, những người đã theo chân Apink suốt 7 năm hoạt động. Vào ngày 21 tháng 4, nhóm tổ chức buổi họp người hâm mộ lần thứ 5 với tên gọi "Pink Cinema" để kỉ niệm 7 năm ra mắt cùng với các fan hâm mộ. Sau khi Plan A Entertainment xác nhận nhóm sẽ tham gia vào đường đưa tháng 7 đầy khốc liệt. Vào ngày 2 tháng 7, như dự kiến. Apink đã cho khán giả thấy một hình ảnh khác của Apink, đầy quyến rũ, giai điệu mạnh mẽ qua ca khúc chủ đề "I'm So Sick (1도 없어)" thuộc album "ONE & SIX". Ca khúc lần này thuộc thể loại "Tropical House", là lần hợp tác thứ 2 với Black Eyed Pilseung sau ca khúc "Only One" phát hành vào năm 2016. Ca khúc thể hiện sự thành công với doanh số album cao, đạt hạng 1 trên Gaon Album Chart, đạt hạng cao trên các trang âm nhạc nổi tiếng của Hàn Quốc với thứ hạng 3 tại tuần thứ 2 trên Gaon Digital Chart. Bài hát giúp Apink đem về 5 chiếc cúp quý giá, cho thấy tên tuổi của Apink sau 8 năm vẫn không sụt giảm. Nhờ bài hát này, Apink đã vinh dự đem về giải thưởng Top 10 (Bonsang Awards) tại Melon Music Awards năm 2018. 2019: "Pink collection: Red&White, [Percent] %". Sau năm 2018 khá thành công, Chorong, trong màn phát biểu tại lễ trao giải Melon Music Awards, cho biết họ sẽ trở lại vào đầu năm 2019. Sau đó, công ty chủ quán là Plan A Entertainment xác nhận Apink sẽ trở lại vào ngày 7 tháng 1 năm 2019. Chưa có tiết lộ gì nhiều, chỉ biết họ đã hoàn thành việc chụp ảnh cho album. Nhưng trong Music Bank Christmas Special 2018, họ đã trình diễn bài hát I'm so sick, và họ đã hé lộ ít nhiều về vũ đạo sắp tới cho ca khúc mới. Ngoài ra, 2 đêm concert mang tên "Pink Collection: Red & White" sẽ được tổ chức tại SK Olympic Handball Gymnasium vào 2 ngày: 5 tháng 1 và 6 tháng 1 năm 2019. Bài hát chủ đề sắp tới của Apink cũng sẽ được trình làng trước các fan ngay trong đêm concert này, trước 1 ngày ra mắt chính thức mini album và bài hát chủ đề. Điều này khiến các Panda vô cùng thích thú. Vào lúc 0h00 (KST) ngày 27 tháng 12 năm 2018, nhóm tung ra danh sách bài hát có trong mini album thứ 8 "[Percent] %" lần này. Đứng đầu là bài hát chủ đề "%% [응응]" tiếp tục do "phù thủy tạo hit" Black Eyed Pilsung sản xuất, tiếp theo là các bài hát "Hug me, Tug of War, Enough, A King of Feeling và Piling Memories". Ngày 19 tháng 4, Apink phát hành bài hát "Everybody Ready?", do Eunji viết lời, để kỉ niệm 8 năm hoạt động nghệ thuật của nhóm cũng như tỏ lòng biết ơn và trân trọng những người đã ủng hộ, cổ vũ họ suốt thời gian qua. 2020: "Welcome to PINK WORLD, LOOK". Đầu năm 2020 kể từ một năm với Album Percent, PlayM thông báo Apink tổ chức concert thứ 6 mang tên "Pink World" tổ chức tại Hội trường Olympic trong 2 ngày: 1 tháng 2 và 2 tháng 2 năm 2020. Thông qua concert, Apink đã chia ra 2 nhóm nhạc biểu diễn 2 ca khúc chưa từng được phát hành và hứa hẹn sau concert sẽ có thật nhiều tin tốt lành mang đến cho người hâm mộ. Ngày 1 tháng 4, Play M thông báo Apink sẽ trở lại với mini album thứ 9 của nhóm vào ngày 13 tháng 4, mang tên "LOOK". Album "LOOK" gồm bài hát chủ đề là Dumhdurum, 2 bài hát của các nhóm nhỏ là "Be Myself" (Apink JOOJIRONG) và "Love is blind" (Apink YOS), bài ballad nhẹ nhàng "So Overwrite" và cuối cùng là 2 bài hát dành cho người hâm mộ: "Moment" và "Everbody Ready?". Trở lại với "Dumhdurum" sau 1 năm 3 tháng, Apink đã không làm người hâm mộ thất vọng, bài hát chủ đề hết sức gây nghiện, kèm thao âm synth kết hợp cùng nhau đã tạo ra bản nhạc dance vô cùng catchy, pha lẫn chút âm hưởng phương tây. Một lần nữa Apink khẳng định được tên tuổi của một nhóm nhạc 10 năm nhưng vẫn giữ được sự nổi tiếng và độ nhận diện công chúng cao. Ngày 19 tháng 4, nhân dịp kỉ niệm 9 năm hoạt động của nhóm, Apink đã tung ra MV cho "Moment", fansong của năm nay được viết lời bởi Chorong, với thông điệp vô cùng cảm động: hãy nắm tay và cùng nhau trân trọng mọi khoảnh khắc, dù là niềm vui hay nỗi buồn. 2021: Kỷ niệm 10 năm ra mắt, Naeun rời Play M Entertainment, thông báo trở lại vào năm 2022. Vào ngày 19 tháng 4, nhóm cho phát hành bài hát kỉ niệm 10 năm ra mắt để tặng người hâm mộ với tựa đề "Thank You". Bài hát này được thành viên Yoon Bomi tham gia viết lời. Vào ngày 29 tháng 4 năm 2021, Play M Entertainment thông báo rằng thành viên Naeun quyết định không gia hạn hợp đồng với công ty, trong khi năm thành viên còn lại gia hạn với công ty chủ quản. Với việc thay đổi công ty quản lý, nhóm sẽ không bị tan rã và vẫn là nhóm sáu thành viên. Vào tháng 12 năm 2021, IST Entertainment thông báo rằng Apink sẽ trở lại vào tháng 2 năm 2022. 2022–nay: Phát hành album thứ tư Horn, Sự ra đi của Naeun, kỷ niệm 11 năm ra mắt và thành lập nhóm nhỏ thứ 2. Vào ngày 14 tháng 2 năm 2022, Apink phát hành album thứ tư có tên "Horn," cùng với bài hát "Dilemma". Vào ngày 8 tháng 4 năm 2022, có thông tin rằng Son Na-eun sẽ rời nhóm do khó cân bằng giữa công việc vừa là diễn viên vừa là thần tượng. Điều này sau đó đã được IST Entertainment xác nhận thông qua fancafe của nhóm. Vào ngày 19 tháng 4 năm 2022, Apink sẽ phát hành một đĩa đơn kỹ thuật số mới để kỷ niệm 11 năm hoạt động. Vào tháng 6 năm 2022, IST Entertainment thông báo rằng Chorong và Bomi sẽ thành lập nhóm nhỏ thứ 2 của Apink mang tên "ChoBom" và sẽ phát hành đĩa đơn đầu tiên Copycat vào ngày 12 tháng 7. Hình tượng và phong cách âm nhạc. Hình tượng và phong cách âm nhạc của nhóm thừa hưởng từ các nhóm nhạc giai đoạn đầu như S.E.S. và Fin.K.L. Apink được biết đến với sự ngây thơ và nữ tính, một điều không bình thường trong giai đoạn các nhóm nữ ra mắt công chúng với phong cách sexy những năm 2010 - 2011. Vào năm 2012, thành viên Oh Hayoung đã trở lời với báo giới rằng, "Dù các nhóm nữ ngày nay theo trào lưu làm nổi bật vũ đạo cũng dáng vẻ sexy của họ, nhưng chúng tôi vẫn duy trì hình ảnh ngây thơ và trong sáng như những ngày đầu. Tôi nghĩ đó là lý do mà khán giả có thể thoải mái với các màn trình diễn của chúng tôi." Tuy nhiên với những bài hát được phát hành gần đây như "Luv" vào năm 2014 và "Remember" vào năm 2015, nhóm đã mang đến sự trưởng thành hơn, chính chắn hơn. Nhóm đã cho công chúng thấy được sự thay đổi cảm xúc của những người trưởng thành. Âm nhạc của Apink thuộc thể loại bubblegum pop, với lời bài hát ngọt ngào, đầy tính cổ vũ tinh thần. Jeff Benjamin của "Billboard" nhận xét rằng "My My" làm ta liên tưởng đến bubblegum pop những năm 2000, "NoNoNo" chịu ảnh hưởng bới synth-pop những năm 1980 và "Luv" là ta nhớ tới những năm 1990 với những bài hát hip hop pha với sự ư buồn của ballad, một bài hát mùa thu nói về những mối tình bị tan vỡ. "Mr Chu", được phát hành năm 2014, tiếp tục khẳng định phong cánh bubblegum một cách 'rất Apink'. Trong khi đó, "Remember" phát hành năm 2015 là một bài hát với 'giai điệu cheery synth-pop vui vẻ, khiến người ta hồi tưởng về tình yêu vào những ngày hè,' và 'cùng với nhịp điệu nhanh và những âm thanh cổ điển nhằm đánh bay cái nóng những ngày hè'. Bài hát chủ đề năm 2016, "Only One" được mô tả như một sự trưởng thành trong âm nhạc của nhóm, bài hát là sự pha trộn giữ nhịp điệu R&B cùng với dance-pop và sự tinh tế của hip hop; "Boom Pow Love" lại cho khánh giả thấy được chất urban-pop của Apink, với sự tràn đầy năng lượng và lời bài hát dồn dập khác hoàn toàn những bài hit trước đây của nhóm.. Tháng 6 năm 2017, Apink quyết định trở lại với hình ảnh cũ với "FIVE" trong mini album thứ 6 "Pink Up". Năm 2018, Apink trở lại với hình tượng hoàn toàn mới trong mini Album thứ 7 "ONE&SIX" với ca khúc củ đề "I'm So Sick", trong lần trở lại này Apink đã cho thấy một hình tượng mới không còn là những cô gái với những điệu bubblegum pop nữa mà đã là những cô gái 'Girl crush' chính hiệu. Đầu tháng 1/2019 Apink trở lại với phiên bản nâng cấp 'PinkCrush', đây là concept girl crush được phát triển từ hình tượng trong sáng ban đầu của Apink, với bài hát chủ đề "%%" trong mini album thứ 8 "PERCENT" là ca khúc có âm hưởng và giai điệu của thập niên 70s với âm điệu tươi sáng, dance rythm nhịp nhàng. Concept vừa trưởng thành, vừa nữ tính lại pha một chút mạnh mẽ, sexy được Apink tiếp tục áp dụng cho lần trở lại của nhóm trong năm 2020 với "Dumhdurum", mang âm hưởng city-pop của những năm 80s cùng phần dance break ấn tượng. Giải thưởng và đề cử. Kể từ khi ra mắt cho đến nay, Apink đã giành được nhiều giải thưởng quan trọng của nền âm nhạc Hàn Quốc như: Mnet Asian Music Awards, MelOn Music Awards, Seoul Music Awards, Golden Disc Awards. Trên các chương trình âm nhạc hàng tuần, Apink cũng đã giành được hơn 50 cúp hạng nhất và tổng hợp 100 giải thưởng. Tính đến 2020, với lần trở lại hoành tráng và tạo được tiếng vang lớn cùng “Dumhdurum”, Apink chính thức đem về 8 cúp trên các show âm nhạc hàng tuần, nâng tổng số cúp trên show âm nhạc của nhóm là 51. Phim ảnh và chương trình truyền hình. Ngoài hoạt động âm nhạc, nhóm còn tham gia vào các chương trình truyền hình như Weekly Idol, Apink's Showtime, Apink News. Các thành viên Apink còn tham gia đóng các bộ phim, tiêu biểu như Hồi đáp 1997, Lọ Lem và bốn chàng hiệp sĩ, Gió đông năm ấy.
1
null
Bệnh paget vú là một dạng hiếm gặp của ung thư vú. Bệnh Paget bắt đầu từ núm vú và kéo dài đến vùng sẫm màu quanh núm vú. Bệnh Paget vú không liên quan đến bệnh Paget xương, một căn bệnh về chuyển hóa của xương. Bệnh Paget vú thường xảy ra ở phụ nữ lớn tuổi (trên 50 tuổi). Hầu hết phụ nữ bị Paget vú thường bị ung thư ống động mạch vú tiềm ẩn, hoặc tại chỗ - nghĩa là ở vị trí ban đầu của nó, hoặc ít phổ biến hơn là ung thư vú dạng xâm lấn. Chỉ trong một vài trường hợp hiếm hoi, bệnh Paget vú chỉ giới hạn ở núm vú đó. Lịch sử. Bệnh Paget của vú được đặt theo tên bác sĩ người Anh Sir James Paget. Năm 1874, Bác sĩ Paget đã ghi nhận mối quan hệ giữa sự thay đổi núm vú và ung thư vú. (Một số bệnh khác cũng được đặt theo tên của Sir James Paget, bao gồm bệnh Paget xương và bệnh Paget ở mí mắt. Các bệnh này không liên quan đến bệnh Paget vú.) Dịch tễ học. Bệnh vú Paget là một bệnh phổ biến, chiếm 1-4,3% trong các ung thư vú. Bệnh Paget phổ biến hơn ở phụ nữ vì sự thống trị của bệnh ung thư vú ở phụ nữ. Nó hay gặp nhất ở phụ nữ sau mãn kinh, trung bình 57 tuổi, nhưng cũng gặp ở những người trẻ tuổi hay người lớn tuổi hơn. Sinh lý học. Tế bào ác tính được gọi là tế bào Paget là một dấu hiệu của bệnh Paget của vú. Những tế bào này được tìm thấy trong lớp biểu bì (lớp bề mặt) của da ở núm vú và quầng vú. Tế bào Paget thường lớn, Dưới kính hiển vi có thể thấy các tế bào đơn lẻ hoặc thành nhóm nhỏ trong các tế bào lớp biểu bì. Triệu chứng. Bệnh vú Paget ảnh hưởng đến núm vú và thường là vùng da (quầng vú) xung quanh nó. Dễ bị nhầm lẫn với các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh viêm da hoặc bệnh khác không phải ung thư da (lành tính) Paget. Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh vú Paget có thể bao gồm: Các dấu hiệu và triệu chứng thường xảy ra trong chỉ có một vú. Bệnh thường bắt đầu trong núm vú và có thể lây lan sang quầng vú và các vùng khác của vú. Nguyên nhân. Nguyên nhân gây bệnh Paget vẫn chưa được biết rõ. Lý thuyết được chấp nhận rộng rãi nhất là các tế bào ung thư từ một khối u trong vú đi qua các ống dẫn sữa đến núm vú và quầng vú. Điều này giải thích tại sao bệnh Paget vú và các khối u trong vú gần như luôn tìm thấy cùng nhau. Một giả thuyết thứ hai là các tế bào trong các núm vú hoặc quầng vú trở thành các tế bào ung thư. Điều này sẽ giải thích tại sao một số người bị bệnh Paget của vú mà không có khối u trong vú đó. Chẩn đoán. Bệnh Paget có thể bị nhầm lẫn với bệnh ngoài da khác như eczema, viêm da và bệnh vẩy nến, bởi vì chúng nhìn rất giống nhau. Điều này có thể làm cho bệnh Paget khó chẩn đoán. Một số xét nghiệm có thể được thực hiện để chẩn đoán bệnh vú Paget. Chụp quang tuyến vú (X-quang vú). Chụp quang tuyến vú có thể được sử dụng để tìm những thay đổi ở vú bị ảnh hưởng và kiểm tra vú khác. Siêu âm. Thử nghiệm này là không gây đau đớn và chỉ mất vài phút. Sinh thiết. Đây là thử nghiệm chính cho tế bào ung thư bên dưới bề mặt da. Một mẫu nhỏ của da và mô vú cơ bản được thực hiện và gửi đến phòng thí nghiệm để được kiểm tra dưới kính hiển vi. Cạo tế bào học. Các tế bào từ các khu vực bị ảnh hưởng được cạo vào một bản thủy tinh, được kiểm tra dưới kính hiển vi. Điều trị. Phẫu thuật là phương pháp điều trị chính cho bệnh Paget. Điều trị khác phụ thuộc vào việc ung thư vú là DCIS hay ung thư lây lan. Một số người không cần tiếp tục điều trị sau khi phẫu thuật. Những người khác có thể kết hợp phương pháp điều trị, bao gồm xạ trị, liệu pháp hormone, hóa trị...
1
null
U xơ tuyến vú hay còn gọi là bướu sợi tuyến, là một dạng u lành tính phổ biến của tuyến vú. U tròn, nhẵn, tạo cảm giác như một u nang nhưng nó nhẵn, cứng giống như hòn bi rơi vào trong mô vú. U này di động dễ dàng trong mô vú và thường ở gần núm vú nhưng cũng có thể xuất hiện ở bất kỳ nơi nào trong vú và rất dễ phân biệt với mô vú còn lại. U tuyến xơ có thể xuất hiện ở bất kỳ tuổi nào cho tới khi mãn kinh như u xơ khi sắp mãn kinh, u tuyến xơ ở tuổi thanh niên hoặc đầu tuổi 20. Nguyên nhân. Yếu tố quan trọng nhất dẫn đến tình trang u xơ vú đó là sự thay đổi nội tiết tố bình thường trong chu kỳ hàng tháng của người phụ nữ. Các nội tiết tố như estrogen và progesteron trực tiếp ảnh hưởng đến các mô vú, nhân tế bào và tế bào tăng trưởng do sự thay đổi đó. Sự mất cân bằng nội tiết tố khác bao gồm prolactin (kích thích tuyến vú phát triển và bài tiết sữa), insulin, yếu tố tăng trưởng và hormon tuyến giáp. Các hormon được sản xuất trong tế bào vú gửi tín hiệu cho các tế bào lân cận chịu trách nhiệm cho sự tăng trưởng tế bào và phân chia. Nếu quá trình này bị cản trở, sự tăng trưởng tế bào bị dừng lại và kết quả là u xơ vú. Triệu chứng. Khoảng 1/3 số phụ nữ có u xơ vú sau tuổi 30. Họ có thể bị một số loại đau và khó chịu có thể gây ảnh hưởng đến hoạt động hàng ngày. Trong một số trường hợp phụ nữ bị đau rất nặng. Các triệu chứng của u xơ vú có thể xấu đi trong thời kỳ kinh nguyệt hoặc ngay trước đó. Khi hết kỳ kinh nguyệt thì các triệu chứng biến mất. Thông thường, phụ nữ bị u xơ vú có thể cảm thấy đau, rát, sưng và nhạy cảm. Cảm giác căng ngực hay xuất hiện, có thể thấy ngứa ở núm vú... Chẩn đoán. Khi kiểm tra thể chất, bác sĩ sẽ kiểm tra cục u và các vấn đề khác ở hai vú. Tùy thuộc vào độ tuổi của bạn và các đặc tính của khối u, bác sĩ có thể đề nghị một hay nhiều hơn các xét nghiệm sau đây: Chụp nhũ ảnh. Sử dụng tia X để tạo ra một hình ảnh (chụp quang tuyến vú) của khu vực nghi ngờ trong các mô vú của bạn. Một u tuyến xơ thường xuất hiện trên chụp quang tuyến vú là một khối vú mịn màng, các cạnh tròn, khác biệt với xung quanh mô vú. Để đánh giá một nghi ngờ u tuyến xơ, chụp nhũ ảnh thường được thực hiện cho phụ nữ 30 tuổi trở lên. Siêu âm vú. Nếu bạn dưới 30 tuổi, bác sĩ có thể lựa chọn một siêu âm vú thay vì chụp hình vú để đánh giá một khối u vú. Mô vú dày ở phụ nữ trẻ làm cho chụp nhũ ảnh khó giải thích. Siêu âm vú có thể giúp bác sĩ xác định một khối u vú là rắn hay chứa đầy chất lỏng. Một khối rắn có nhiều khả năng là một u tuyến xơ, và một khối chứa đầy dịch có nhiều khả năng là u nang. Chọc hút bằng kim. Thông qua một kim nhỏ đưa vào các khối u vú, bác sĩ cố gắng để rút dịch của các khối u vú. Nếu chất lỏng đi ra, khối u rất có thể là một u nang. Lõi kim sinh thiết. Để chắc chắn một khối u vú rắn là u tuyến xơ và không bị ung thư vú, bác sĩ có thể khuyên bạn nên làm sinh thiết lõi kim - sử dụng một cây kim lớn hơn để lấy các mẫu mô từ khối u và gửi để phân tích. Điều trị. Trong nhiều trường hợp, điều trị là không cần thiết. Tuy nhiên nhiều người chọn phẫu thuật để yên tâm. Phòng ngừa. U xơ vú có thể phòng ngừa bằng nhiều cách khác nhau như: thay đổi chế độ ăn uống, tập thể dục đều đặn... và dùng các chế phẩm bổ sung giúp điều hòa kinh nguyệt, điều hòa lượng hormone trong cơ thể. Các chế phẩm đó thường chứa các thành phần dược liệu như Hương phụ, Đương quy, Xuyên khung...(Nhũ ngọc) ngăn cản sự hình thành u cục do rối loạn nội tiết.
1
null
Michael Curtis Ford là một nhà văn chuyên viết tiểu thuyết lịch sử người Mỹ, các tác phẩm của ông thường lấy bối cảnh về La Mã cổ đại và Hy Lạp cổ đại. Ông từng làm nhiều nghề khác nhau như công nhân, tuần tra viên trượt tuyết, nhạc sĩ, nhà tư vấn, nhân viên ngân hàng, giáo viên tiếng Latinh và sau cùng là phiên dịch viên. Ông có bằng Kinh tế và Ngôn ngữ học và hiện đang sống tại Oregon, nơi ông cùng vợ mình dạy học tại nhà cho ba đứa con của họ. Ngoài ra ông còn viết nhiều bài báo về chủ đề quân sự thời cổ đại. Trái ngược với quan niệm phổ biến, ông đã không viết giống như các tác phẩm: "The Fire of Ares", "Birth of a Warrior" và "Legacy of Blood". Trên trang web của mình ông nói: "Đối với những sự kiện chủ thể trong 'quyển sách tiếp theo' của tôi, "": rất tiếc phải thất vọng, nhưng đó không phải là quyển sách tiếp theo của tôi! Sau khi một vài lần điều tra, tôi đã phát hiện ra rằng "Fire of Ares" rõ ràng là một tác phẩm dành cho người lớn trẻ tuổi được viết bởi một tác giả người Anh với một tên rối rắm giống như của tôi, Michael Ford."
1
null
Flavius Orestes (? - 476) là một vị tướng La Mã và chính trị gia gốc German đã nhanh chóng kiểm soát phần còn lại của Đế quốc Tây La Mã vào năm 475-476. Ngoài ra ông còn là cha của vị Hoàng đế Tây La Mã cuối cùng Romulus Augustulus. Tiểu sử. Thiếu thời. Sinh ra trong một gia đình quý tộc ở Pannonia Savia với chút gốc gác German. Ông là con trai của Tatulus, một người ngoại đạo và là con rể của Romulus, người từng giũ chức "comes" ở Đế quốc Tây La Mã. Sau khi vùng Pannonia được nhượng lại cho Attila rợ Hun, Orestes đã sớm theo về phụng sự dưới trướng của Attila rồi dần dần leo lên tới hàng đại thần ("notarius") vào năm 449 và 452. Năm 449 Orestes hai lần được Attila phái cử đến Constantinopolis làm sứ giả tại triều của Hoàng đế Theodosius II. Cầm quyền. Năm 475, Orestes được Hoàng đế Tây La Mã Julius Nepos bổ nhiệm làm Đại tướng quân ("magister militum") và quý tộc ("patricius"). Điều này đã được chứng minh là một phần sai lầm của Nepos. Đến ngày 28 tháng 8 năm 475, Orestes đang lãnh đạo các đạo quân "foederati" mới chiêu mộ đã bất ngờ chiếm quyền kiểm soát chính phủ ở Ravenna, vốn là thủ đô trên thực tế của Đế quốc Tây La Mã kể từ năm 402. Julius Nepos chẳng những không kháng cự mà còn chạy trốn tới Dalmatia rồi tiếp tục trị vì ở đây cho tới khi bị ám sát vào năm 480. Nhân cơ hội Nepos bỏ trốn và ngôi vị đang bỏ trống, Orestes đã phong cho đứa con của mình Romulus làm "Augustus", do đó vị Hoàng đế Tây La Mã cuối cùng đước biết đến với cái tên Romulus Augustulus có nghĩa là "tiểu Augustus" lên ngôi chỉ mới có 12 tuổi. Chính quyền mới đã không được cả hai vị Hoàng đế Đông La Mã là Zeno và Basiliscus công nhận, vì họ vẫn còn coi Julius Nepos là người đồng cấp hợp pháp trong chính quyền của đế chế. Nhưng khi họ tham gia vào một cuộc nội chiến với nhau, thì cả hai vị hoàng đế đều chuẩn bị binh mã để thảo phạt kẻ cướp ngôi hòng khôi phục lại Đế quốc Tây La Mã như xưa. Sau khi ổn định tình hình, Orestes đã hào phóng cho phát hành đồng tiền xu solidi mới trong các sở đúc tiền ở Arles, Milano, Ravenna và Roma, cho phép ông trả lương cho những lính đánh thuê man tộc vốn khá phổ biến trong quân đội La Mã vào thời ấy. Thất bại. Tuy nhiên Orestes lại từ chối yêu cầu được cấp đất đai ở Ý cho việc định cư của những lính đánh thuê người Heruli, Sciri và Torcilingi. Trước khi ông lật đổ Nepos, viên tướng La Mã đã hứa hẹn sẽ ban cho các binh sĩ man tộc của mình một phần ba lãnh thổ Ý để đổi lấy sự ủng hộ phế truất hoàng đế của họ. Thế nhưng sau khi nắm quyền thì Orestes lại lật lọng không thực hiện đúng lời hứa của mình, khiến đám lính đánh thuê bất mãn đã tiến hành binh biến dưới sự lãnh đạo của viên thủ lĩnh người German Odoacer, rồi ông được binh sĩ tôn làm vua nước Ý vào ngày 23 tháng 8 năm 476. Odoacer liền dẫn quân trở giáo chống lại chủ cũ, tàn phá các thị trấn và ngôi làng ở miền bắc nước Ý mà gặp rất ít kháng cự. Orestes bèn cùng vài người tùy tùng trốn sang thành phố Pavia và được viên giám mục thành phố che chở trong một thánh đường đằng sau dãy tường thành. Dù được sự bảo vệ của viên giám mục thành Pavia, Orestes đã buộc phải chạy trốn lần nữa để bảo toàn tính mạng của mình khi Odoacer và quân của ông chọc thủng tuyến phòng thủ thành phố và tràn vào phá hủy nhà thờ, cướp hết số tiền mà vị giám mục quyên góp được cho người nghèo và san bằng nhiều công trình trong thành phố thành đống đổ nát. Cái chết. Sau khi thoát khỏi thành phố Pavia, Orestes đã tập hợp một vài đơn vị còn sót lại của quân đội Tây La Mã đóng quân ở miền bắc nước Ý và điều động số quân nhỏ bé của ông đến thành phố Piacenza. Lực lượng của Odoacer và Orestes cuối cùng cũng gặp nhau trên chiến trường, thế nhưng viên tướng La Mã chẳng có kinh nghiệm quân sự và đội quân triều đình vốn đã ít ỏi và thưa thớt mà lại vô tổ chức và thiếu chuẩn bị, khiến họ không thể nào đương đầu nổi sự hiếu chiến và tàn bạo từ đội quân lính đánh thuê của Odoacer. Thế nên phần lớn quân Tây La Mã của Orestes đều thảm bại và bị giết gần hết, riêng ông thì bị bắt và xử tử gần thành phố vào ngày 28 tháng 8 năm 476. Chỉ trong vài tuần, Odoacer đã chiếm được Ravenna và mau chóng phế truất Romulus Augustus. Đế quốc Tây La Mã chấm dứt kể từ đấy. Nhà sử học Anh thế kỷ 18 Edward Gibbon đã gán ghép ý nghĩa quan trọng cho sự kiện này là do nguồn gốc ngoại tộc của Odoacer. Đoạn mô tả lãng mạn của Gibbon về sự kiện đánh dấu sự sụp đổ của Đế quốc Tây La Mã vào năm 476 đã để lại tầm ảnh hưởng lớn trong hai thế kỷ nhưng cũng khiến giới học giả đương đại phải nghi ngờ về luận điểm này. Tuy nhiên sự kiện Odoacer trừ diệt Orestes và phế truất con trai ông vẫn thường được giới sử học chính thống dùng để phân ranh giới cho sự chuyển đổi từ thời Cổ Điển sang thời Trung Cổ.
1
null
Zerotracer là một chiếc xe điện được dùng để dự giải đua vòng quanh thế giới Zero Emissions Race ("cuộc đua không khí thải") vào năm 2010-2011. Xe có hai chỗ ngồi trong một buồng lái khép kín trong khi bánh lái của nó giống như một chiếc xe máy. Cuộc đua bắt đầu dưới sự bảo trợ của UNEP vào ngày 16 tháng 8 năm 2010 và kết thúc vào ngày 24 tháng 2 năm 2011 ở phía trước cửa Cung các Quốc gia tại Genève, hoàn thành chuyến hành trình dài 80 ngày hiển nhiên là lấy cảm hứng từ cuốn tiểu thuyết của Jules Verne. Chỉ có ba chiếc xe là hoàn thành cuộc đua và Zerotracer đã giành chiến thắng cuộc đua nhờ đạt điểm số cao nhất. Lộ trình vòng đua. Genève - Bruxelles - Berlin - Kiev - Moskva - Chelyabinsk - Almaty - Ürümqi - Thượng Hải - Vancouver - Bờ Tây Hoa Kỳ - Hội nghị biến đổi khí hậu Hoa Kỳ 2010 ở Cancún - Casablanca - Genève. Hiệu suất và phát triển. Zerotracer bao phủ các tuyến đường từ Genève đến Thượng Hải mà không bị gián đoạn do sự cố kỹ thuật. Đây là mẫu concept được phát triển đầy đủ bắt nguồn từ chiếc Monotracer, một mẫu concept gần giống nhau như sử dụng một động cơ xăng. Nhà sản xuất Designwerk đã định giá thành sản phẩm của chiếc xe.
1
null
Hôn nhân đồng tính trở thành hợp pháp tại Pháp từ ngày 17 tháng 5 năm 2013. Đây là quốc gia thứ mười ba trên thế giới cho phép các cặp đồng tính kết hôn. Pháp luật này cũng áp dụng đối với các tỉnh hải ngoại và lãnh thổ hải ngoại thuộc Pháp. Đạo luật này vấp phải sự phản đối của đảng đối lập UMP, và đảng này nộp đơn kiện lên Hội đồng Hiến pháp. Tuy nhiên hội đồng này phán quyết đạo luật công nhận hôn nhân đồng tính. Nghi lễ đồng tính chính thức đầu tiên diễn ra vào ngày 29 tháng 5 năm 2013 tại thành phố Montpellier. Lịch sử. 2012-13. Gia tăng quyền hôn nhân đồng tính và cho phép họ xin con về nuôi là một trong những cam kết của Tổng thống Francois Hollande khi ông vận động tranh cử năm 2012. Ngày 12 tháng 2 năm 2013, các nhà làm luật ở Hạ viện thông qua đề luật 2013-404, theo đó các cặp đồng tính được quyền lấy nhau hợp pháp cũng như được xin con về nuôi. Đạo luật được thông qua với tỉ số 329 thuận trên 229 phiếu chống, với 10 phiếu khiếm diện. Sau đó chỉ chờ quyết định ở Thượng viện trước khi chính thức trở thành luật.
1
null
Nishapur hay Nishabur (, La Mã hoá là Nīshāpūr, Nīshābūr, và Neyshābūr từ tiếng Ba Tư trung cổ: "Thành phố mới của Shapur" hoặc "Perfect built of Shapur"), là một thành phố thuộc tỉnh Khorasan, thủ phủ của huyện Nishapur và từng là thủ phủ tỉnh Khorasan, ở phía đông bắc Iran, toạ lạc trên một thung lũng màu mỡ ở chân núi Binalud. Dân số ước tinh năm 2011 của thành phố là 239.185 người và cả huyện có 433.105 dân. Khu vực xung quanh có nhiều mỏ ngọc lam cung cấp ngọc cho thế giới ít nhất 2000 năm nay. Thành phố được thành lập vào thế kỷ thứ 3 bởi vua Shapur I để làm thủ phủ cho Satrap của Sassanid. Năm 830 thành phố được tu sửa và trở thành kinh đô của nhà Tahirid. Năm 1037 Tughril chọn thành phố làm kinh đô thứ nhất của nhà Seljuq. Từ thời Abbas cho đến khi Mông Cổ xâm lược Khwarezmia và Đông Iran, nơi đây đã phát triển thành một trung tâm văn hóa, kinh tế và giáo dục lớn của thế giới Hồi giáo. Khí hậu. Nishapur có khí hậu bán khô hạn lạnh ("BSk").
1
null
Sir William Henry Bragg (1862-1942) là nhà vật lý người Anh. Ông cùng với người con trai William Lawrence Bragg là những chủ nhân của Giải Nobel Vật lý năm 1915 nhờ việc chế tạo dụng cụ phân tích cấu trúc tinh thể bằng tia X. Với vinh dự này, cha con nhà Bragg trở thành cha con đầu tiên nhận Giải Nobel Vật lý trong cùng một năm. Tên của William Henry Bragg đã được dùng để đặt cho tiểu hành tinh 11150 Bragg.
1
null
Chấm dứt chiến tranh là một nghiên cứu về chiến tranh sẽ kết thúc như thế nào, bao gồm lý thuyết của việc chiến tranh có thể và nên được kết thúc. Trong so sánh với các khía cạnh khác của chiến tranh, sự nghiên cứu về chấm dứt chiến tranh tương đối hạn chế. Theo Fred Charles Iklé, "Các nhà sử học, chuyên gia đối ngoại, và nhà chiến lược quân sự đã cống hiến suy nghĩ xa hơn hơn với câu hỏi chiến tranh bắt đầu như thế nào và tại sao. Ý tưởng này được lặp lại bởi Gideon Rose, với câu nói: Tất cả các kịch bản tàn cuộc và tính quan trọng lịch sử nhận ít sự chú ý hơn những giai đoạn khác của chiến tranh. Một số sách xem các kết thúc của các cuộc chiến tranh cá nhân, và chỉ có phần nhỏ tài liệu học thuật về những gì mà các nhà khoa học chính trị gọi là chấm dứt chiến tranh. Nhưng nhìn chung, các kết thúc được bỏ quên bởi các học giả khi chúng đã được bởi các hoạch định chính sách. Trong việc nghiên cứu các yếu tố hạn chế và định hình hành động của các nhà hoạch định và các nhà chiến lược trong việc chấm dứt các cuộc chiến tranh, có ba trường phái tư tưởng chính: Các lý thuyết khác, chẳng hạn như chủ nghĩa hiện thực tân cổ điển, kết hợp các yếu tố này ở mức độ này hay cách khác.
1
null
Huy chương Moran (tiếng Anh: Moran Medal) là một giải thưởng của Viện hàn lâm Khoa học Úc dành cho những đóng góp xuất sắc của các nhà khoa học Úc dưới 40 tuổi trong các lãnh vực xác suất ứng dụng, sinh trắc học, di truyền học định lượng, khoa đo tâm thần (psychometrics) và khoa học thống kê. Huy chương này được đặt theo tên nhà thống kê học nổi tiếng Pat Moran - người có những thành tựu nổi bật trong lãnh vực xác suất – và được trao mỗi 2 năm.
1
null
xkcd, đôi khi được viết là XKCD, là một truyện tranh trực tuyến do Randall Munroe vẽ. Truyện tranh có khẩu hiệu là "một truyện tranh Web về lãng mạn, châm biếm, toán học, và ngôn ngữ." Munroe viết rằng tên của truyện tranh không phải là từ viết tắt từ chữ đầu mà "chỉ là một từ không có ngữ âm". Các chủ đề của truyện tranh có thể tuyến bố về cuộc đời và tình yêu – một số truyện tình yêu chỉ là tranh ghép với bài thơ – hoặc đùa giỡn về toán học và khoa học. Một số truyện có hài hước đơn giản hoặc nhắc đến văn hóa đại chúng. Tuy truyện tranh có nhiều người que xuất hiện thường xuyên, nhưng truyện tranh thỉnh thoảng có thắng cảnh, mẫu toán học phức tạp như phân dạng (thí dụ số 17 "What If" có lưới Apollonius), hoặc mô phỏng kiểu vẽ của họa sĩ khác (thí dụ vào "Tuần nhại"). "xkcd" được phát hành theo Giấy phép Creative Commons Ghi công–Phi thương mại 2.5. Munroe ra số mới một tuần ba lần, vào thứ 2, thứ 4, và thứ 6; tuy nhiên truyện tranh từng được cập nhật mỗi ngày vào một số giai đoạn. Từ tháng 7 năm 2012 trở về sau, Munroe cũng viết mục "xkcd What-If" mỗi thứ 3. Mục này nhằm mục đích trả lời các câu hỏi bất thường về khoa học do độc giả gửi. Các bài này pha trộn lời giải thích chính xác về toán học hoặc vật lý học với tranh vẽ hài hước thường có người que của "xkcd". Những câu hỏi và trả lời này, sau này được tập hợp trong sách Nếu… thì? được phát hành tại Mỹ ngày 2 tháng 9 năm 2014.
1
null
Trần Quý là một nhạc sĩ, nhạc trưởng, nhà soạn nhạc của Việt Nam, ngoài ra ông còn nghiên cứu, giảng dạy và quản lý nghệ thuật. Ông được nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú năm 1983 và Nghệ sĩ Nhân dân năm 1993. Tiểu sử. Trần Quý sinh ngày 26 tháng 3 năm 1931, quê ở Mỹ Lộc, Nam Định; tuy không được theo học nhạc chính quy, nhưng ông đã được tiếp xúc với âm nhạc từ bé. Sự nghiệp. Tháng 11 năm 1946, Trần Quý làm liên lạc viên cho bộ đội và được vào học Trường Thiếu sinh quân Liên khu III đến năm 1949, chuyển sang hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp ở Đội Thiếu sinh quân Vệ quốc quân Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam. Trong thời gian này ông được học nhạc cơ bản từ đàn anh Đỗ Nhuận và các thầy như Bằng Cao, Trọng Loan, Canh Tuân. Với vốn tiếng Pháp tương đối, Trần Quý đã giúp Đỗ Nhuận biên dịch các tài liệu chuyên ngành của Albert Lavignac và Théodore Dubois. Năm 1953, Trần Quý là một trong những người đầu tiên được cử đi du học Đại học Âm nhạc tại Nhạc viện Léningrad, Liên Xô cũ. Vì trình độ còn thấp nên ông và hai bạn học khác phải gấp rút học chương trình của 4 năm Trung Cấp trong thời gian 2 năm học dự bị; phải trải qua kỳ thi sát hạch, đủ điểm mới chính thức được nhận vào đại học. Năm 1957 Trần Quý trở thành một trong những hội viên đầu tiên, khi hội Nhạc sĩ Việt Nam được thành lập. Năm 1963, ông tốt nghiệp, về nước và làm chỉ huy dàn nhạc ở Nhà hát Giao hưởng - Hợp xướng- Nhạc Vũ Kich Việt Nam. Năm 1971, ông làm Phó Giám đốc Nhà hát Ca Múa Nhạc Trung ương. Năm 1986, về làm chuyên viên cao cấp Cục Âm nhạc và Múa, Bộ Văn hóa - Thông tin. Trần Quý là người đầu tiên chỉ huy và dàn dựng các vở opéra: Cô Sao (Đỗ Nhuận), Bên bờ K'rông Pa (Nhật Lai), Núi rừng hãy lên tiếng (Triều Tiên) và nhiều tác phẩm giao hưởng khác. Tới năm 2006, khi tuổi đã cao, sức khỏe kém ông đã dừng hoàn toàn công việc chỉ huy và chuyển sang hoạt động trên lĩnh vực lý luận và đào tạo. Trần Quý tham gia giảng dạy tại Nhạc viện Hà Nội, đào tạo được hơn 20 chỉ huy nhạc Giao hưởng với trình độ Đại học. Ông sáng tác nhiều ca khúc, viết nhạc giao hưởng, sách báo chuyên ngành, là thành viên hội đồng xét giải thưởng Nhà nước, giải thưởng Hồ Chí Minh, xét duyệt danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú, Nghệ sĩ nhân dân - về phần âm nhạc.
1
null
Tư Mã Thượng Chi (chữ Hán: 司馬尚之, ? - 402), tức Tiều Trung vương (譙忠王), tên tự là Bá Đạo (伯道), là đại thần, tông thất nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Thân thế. Tư Mã Thượng Chi thuộc dòng dõi tông thất nhà Tấn. Tổ tiên của ông là Tư Mã Tốn, họ hàng xa với Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm, vua đầu tiên của nhà Tấn. Tư Mã Tốn nhận tước hiệu Tiều vương từ ngay sau khi Tấn triều thành lập (265), khi mất được truy tặng thụy là Cương vương. Cương vương truyền ngôi cho Định vương Tư Mã Tùy, Tùy truyền ngôi cho con là Tư Mã Thúy thì tuyệt tự. Triều đình lại phong cho con thứ của Tư Mã Tốn là Tư Mã Thừa làm Tiều vương, thụy là Mẫn. Thừa sinh ra Liệt vương Tư Mã Vô Kị, Vô Kị sinh ra Kính vương Tư Mã Điềm, giữ tước vương 40 năm (351 - 390), Điềm sinh ra Tư Mã Thượng Chi. Vào triều làm quan. Đến tuổi trưởng thành, Tư Mã Thượng Chi được bổ làm Bí thư lang trong triều đình. Sau đó ông được thăng lên chức Tán kị thị lang. Năm 388 đời Tấn Hiếu Vũ Đế, Tư Mã Điềm được phong làm Thứ sử hai châu Thanh Duyện và chuyển đến Kinh Khẩu, Tư Mã Thượng Chi cũng được phong làm Chấn Uy tướng quân, Quảng Lăng tướng. Đến năm 390, Tư Mã Điềm mất, Thượng Chi lên kế tập tước vương, nhưng phải thôi chức quan để chịu tang cha. Sau khi hết tang, Tư Mã Thượng Chi lại trở về triều đình giữ chức Phiêu kị tướng quân và làm Tham quân cho Cối Kê vương Tư Mã Đạo Tử người chấp chưởng triều chính. Sang đời Tấn An Đế, do Tư Mã Đạo Tử trọng dụng gian thần Vương Quốc Bảo nên năm 397, ngoại thích Vương Cung ở Kinh Khẩu khởi binh, muốn trừ Quốc Bảo. Trước sức mạnh của quân đội Vương Cung, Tư Mã Đạo Tử đành phải thuận ý, sai Tư Mã Thượng Chi tịch thu ấn quan của Quốc Bảo và ban chết cho Quốc Bảo để Cung lui quân. Lúc đó có Tán kị Thị lang Lưu Trấn Chi, Bành Thành nội sử Lưu Quyên và Từ châu biệt giá Từ Phóng Tịnh cũng bị bắt giam sắp đem ra xử tử. Thượng Chi khuyên Tư Mã Đạo Tử phóng thích đi. Đạo Tử nghe theo. Gây oán với Vương Cung. Vương Cung sau lần uy hiếp Kiến Khang, thế lực tăng lên rõ rệt khiến Tư Mã Đạo Tử rất lo lắng, do đó tin tưởng vào Tư Mã Thượng Chi và người em là Tư Mã Hưu Chi. Từ đó hai ông trở thành tâm phúc của Tử. Thượng Chi khuyên Đạo Tử nên tìm cách tăng cường quyền lực của Thừa tướng (tức chính Tư Mã Đạo Tử) bằng cách đưa thân tín đến trấn giữ các châu xa nhằm đề phòng họa phiên trấn. Đạo Tử bằng lòng, quyết định phái Tư mã Vương Du của mình làm Giang Châu thứ sử, cắt 4 quận thuộc Dự Châu của Dữu Giai giao cho Du, triệt bớt lãnh địa của Giai. Dữu Gia tức giận, sai con trai là Hồng đưa thư khuyên Cung cất quân tiêu diệt Tư Mã Thượng Chi. Trước quyết định của Tư Mã Đạo Tử đã làm Dữu Giai bất bình và căm hận Tư Mã Thượng Chi, bèn sai con trai là Hồng đưa thư khuyên Vương Cung cất quân tiêu diệt Tư Mã Thượng Chi. Vương Cung bằng lòng. Chống Vương Cung. Năm 398, Vương Cung liên kết cùng Dữu Giai, Kinh châu thứ sử Ân Trọng Kham, Quảng châu thứ sử Hoàn Huyền và tướng Nam quận Dương Thuyên Kì, mượn danh nghĩa thảo phạt anh em Tư Mã Thượng Chi, tiến binh Kiến Khang. Tháng 9 năm đó Tư Mã Đạo Tử sai cho con là Tư Mã Nguyên Hiển làm Chinh thảo đô đốc, cùng Tạ Diễm đưa quân chống trả. Tư Mã Thượng Chi được tham gia trong trận chiến và được cử đi giao tranh với Dữu Giai. Tư Mã Thượng Chi ra quân, tiến đến Đương Lợi và giao tranh với con trai Dữu Giai là Dữu Hồng. Hồng thua trận bỏ chạy, Tư Mã Thượng Chi giết được tướng của Dữu Giai là Đoàn Phương, buộc Giai bỏ trốn theo Hoàn Huyền. Sau trận đánh này, Tư Mã Thượng Chi được phong lên chức Kiến Uy tướng quân, Thứ sử Dự châu thay thế cho Dữu Giai. Nhưng cũng lúc đó, Hoàn Huyền và Dương Thuyền Kì suất quân tiến đến Bạch Thạch, đánh bại quân của Tấn triều. Tư Mã Thượng Chi nghe tin bèn rút quân. Về sau Vương Cung bị thủ hạ Lưu Lao Chi phản bội và bị bắt giết, Hoàn Huyền, Ân Trọng Kham và Dương Thuyên Kì đành phải lui quân, Kiến Khang được giải nguy. Tư Mã Thượng Chi lại được thăng lên làm Tiền tướng quân, các em ông là Tư Mã Doãn Chi làm Ngô quốc nội sử, Khôi Chi là Phiêu kị tư mã, Đơn Dương doãn, Hưu Chi làm thái thú Tương Thành, nắm các chức vụ quan trọng và nhiều quân mã, thế lực khuynh cả triều chính. Về sau con trai của Tư Mã Đạo Tử là Tư Mã Nguyên Hiển lên thay, nằm quyền triều chính, vẫn tiếp tục cất nhắc anh em của Tư Mã Thượng Chi. Khuyên Nguyên Hiển, cứu kinh sư. Năm 399, Tư Mã Nguyên Hiển đoạt lấy binh quyền của cha, trở thành nhiều nắm giữ triều đình. Do tin mưu kế của Trương Pháp Thuận, Tư Mã Nguyên Hiển lập kế hoạch đánh dẹp các thế lực địa phương cát cứ. Thượng Chi không vừa lòng, một lần cùng Nguyên Hiển dự yến tiếc đã lên tiếng chỉ trích Trương Pháp Thuận là tiểu nhân. Tư Mã Nguyên Hiển giận lắm, lại ra lệnh phân Dự châu ra làm hai nghìn người đến Dương châu phòng thủ, từ đó quân của Tư Mã Thượng Chi chỉ còn khoảng 1000, không đủ sức chiến. Ông đem việc ấy nói với Nguyên Hiển, làm Nguyên Hiển càng tức giận hơn. Từ đó Nguyên Hiển nảy ra ý chinh phạt Hoàn Huyền ở Kinh châu. Năm 401, thủ lĩnh nổi loạn Tôn Ân đưa quân từ đảo Chu Sơn, chinh phạt các tỉnh Giang Đông rồi tiến về Kiến Khang. Tấn triều hoảng sợ, ra lệnh giới nghiêm và triệu Tư Mã Thượng Chi về kinh. Thượng Chi dẫn binh, đóng ở Nỗ Đường. Cùng lúc đó Tôn Ân bị tướng Lưu Dụ (tức Vũ Đế nhà Lưu Tống về sau) đánh bại, nhưng lại tập hợp lại lực lượng, mưu đồ tập kích Kiến Khang, nhưng nghe tin Thượng Chi đến, đành phải rút quân. Kiến Khang được giải nguy, sau cùng phải bỏ về hải đảo. Thất bại, bị giết. Tháng 1 ÂL năm 402, Tư Mã Nguyên Hiển chính thức dẫn quân thảo phạt Hoàn Huyền (con trai danh tướng Hoàn Ôn) ở Kinh châu, lấy Lưu Lao Chi làm Tiên phong đô đốc, và Tư Mã Thượng Chi làm tiền phong, con ông là Tư Mã Văn Trọng làm Ninh Viễn tướng quân, Tuyên Thành nội sử, lệnh đưa quân theo đường sông tiến vào Kinh châu. Hoàn Huyền biết tin, truyền hịch kể tội trạng của Tư Mã Nguyên Hiển rồi tiến về Cô Thục, giao chiến với quân đội của Tư Mã Thượng Chi. Ông ta phái Phùng Cai tiến công Lịch Dương, giao chiến với thủy quân của Thượng Chi. Thuyền chiến của Thượng Chi bị thủy thủ của Hoàn Huyền đục hỏng. Ông bèn dẫn 9000 quân bộ tiến đến bố trận ở Phó Thượng và phái Thái úy Vũ Đô Dương Thu lập đồn bên bờ sông, tuy nhiên Dương Thu lại đầu hàng Hoàn Huyền. Quân đội của ông cũng hoang mang dao động, bị đánh tan tách. Tư Mã Thượng Chi bỏ chạy một mình đến Đồ Trung và ở đó hơn 10 ngày. Mười mất ngày sau, có người ở Tiếu quốc là Hàn Liên và Đinh Nguyên tố giác hành tung của ông với Hoàn Huyền, Hoàn Huyền bèn phái quân đến bắt Tư Mã Thượng Chi. Hoàn Huyền nhanh chóng tiến binh vào Kiến Khang, đánh tan quân Tấn và làm chủ kinh đô. Ông ta ra lệnh xử tử Tư Mã Thượng Chi và các trọng thần Tư Mã Nguyên Hiển, Dữu Giai, Trương Pháp Thuận, Mao Thái... Sau Huyền lấy cớ Tề Mẫn vương thời Chiến Quốc tuy vô đạo nhưng không tuyệt tự, bèn lập em Thượng Chi là Khang Chi lên thay chức Tiều vương. Năm 404, Hoàn Huyền thua trận bị giết, An Đế trở lại làm vua, ra lệnh truy tặng Thượng Chi làm Vệ tướng quân, thụy là Trung vương và lập Tư Mã Văn Tư, con của Tư Mã Hưu Chu em trai Thượng Chi làm Tiều vương. Về sau Hưu Chi và Văn Tư bị Lưu Dụ đánh bại, bỏ sang nhà Bắc Ngụy.
1
null
Huy chương Hannan (tiếng Anh: Hannan Medal) là một giải thưởng của Viện hàn lâm Khoa học Úc dành cho các nhà khoa học Úc có những đóng góp xuất sắc trong nghiên cứu ở các môn khoa học thống kê, toán học thuần túy, toán học ứng dụng và "toán học tính toán bằng máy tính" ("computational mathematics"). Huy chương này được đặt theo tên Edward James Hannan, giáo sư khoa học thống kê ở "Trường nghiên cứu Khoa học xã hội" thuộc Đại học Quốc gia Úc, viện sĩ Viện hàn lâm Khoa học Úc, và được trao mỗi 2 năm.
1
null
Edward James Hannan (1921 – 7.1.1994) là nhà khoa học thống kê người Úc, người đồng phát hiện Hannan–Quinn information criterion ("Tiêu chuẩn thông tin Hannan-Quinn"). Hannan học ở Đại học Melbourne dưới sự hướng dẫn của Patrick A. P. Moran. và làm việc gần như suốt đời ở Đại học Quốc gia Úc.
1
null
Kỳ giông Anderson, tên khoa học Ambystoma andersoni, là một loài kỳ giông từ Laguna de Zacapú tại bang Michoacán của México. Kỳ nhông này là một phát hiện tương đối gần đây, lần đầu tiên được mô tả bởi Brandon và Krebs trong năm 1984. Giống như tất cả các loài Ambystoma giữ tính ấu trùng khác. Kỳ giông Anderson giữ lại tính chất ấu trùng của nó vào tuổi trưởng thành. Kỳ nhông trưởng thành có kích thước mang ngoài trung bình với các sợi màu đỏ tươi, và một cái đuôi nổi bật. Nó có một cái đầu lớn và chi nhỏ, cũng như các ấu trùng. Màu sắc của nó là những vệt đen trên nền màu nâu đỏ. Nó là hoàn toàn sống dưới nước và dành toàn bộ cuộc sống của chúng dưới nước.
1
null
The Onion là một tờ báo trào phúng của Mỹ thường viết những bài báo mang tính châm biếm, trào phúng, tường thuật các tin tức quốc tế, quốc gia và địa phương xuất bản trên báo khổ nhỏ và trên mạng, cùng với đó nó còn sở hữu một tờ báo phi châm biếm là "The A.V. Club". Khởi đầu là báo in từ năm 1988 (đã đình bản từ tháng 12 năm 2013), The Onion tung ra trang web của mình vào năm 1996. The Onion có 90% độc giả trực tuyến thuộc độ tuổi 18-40 Từ năm 2007 tờ báo bắt đầu xuất bản video và audio tin tức trào phúng trực tuyến, gọi là "Onion News Network" (Mạng Tin tức Củ hành). Số lượng khách truy cập đơn nhất vào trang theonion.com trung bình hàng tháng lên đến 7,5 triệu người. Các bài báo của "The Onion" bình luận về các sự kiện đương thời, có thật hoặc hư cấu. Nó nhại lại báo chí truyền thống một cách hài hước với những câu chuyện, bài xã luận, mục op-ed (mục tranh luận của các ý kiến trái với quan điểm của ban biên tập trong một tờ báo, thường xuất hiện trong các ấn phẩm báo chí phương Tây), bài phỏng vấn người qua đường, được trình bày giống như một tờ báo truyền thống với một giọng biên tập nhái theo Associated Press. Tính hài hước của báo thường phụ thuộc vào cách trình bày trần tục những sự kiện hàng ngày như tin đáng đọc, siêu thực hay là đáng báo động.
1
null
Tiểu phẩm bát-nhã kinh (chữ Hán: 小品般若经, phiên âm tiếng Phạn: "Aṣṭasāhasrikā Prajñāpāramitā Sūtra"), còn được gọi là Ma-ha Bát-nhã-ba-la-mật kinh, Tiểu phẩm Bát-nhã-ba-la-mật kinh, Tiểu phẩm kinh, Bát thiên tụng Bát-nhã; là một nhóm kinh trong bộ Bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh ("Prajñāpāramitā Sūtra"). Đây là nhóm kinh cổ nhất, với 8.000 câu tụng Phật giảng cho nhiều đệ tử cùng nghe (vì vậy mới có tên là "bát thiên tụng"), là cơ sở cho tất cả bộ kinh Bát-nhã khác. Nội dung kinh chủ yếu bàn về lý luận "Bát-nhã" trong Phật giáo Đại thừa. Kinh chủ yếu giải thích hạnh Bát-nhã-ba-la-mật-đa của Bồ Tát, các pháp tam muội ("samādhi"), Bồ tát Ma-ha-tát ("Bodhisattva mahasattva"), chân như ("tathātā"), bất thối chuyển ("avaivartika")... Kinh cũng đề cập về mối quan hệ giữa Bát-nhã-ba-la-mật và Ngũ uẩn, các công đức khi tu tập Bát-nhã-ba-la-mật, cũng như tính "Không" ("Śūnyatā") của tất cả các pháp, của tam muội... Các phiên bản chữ Hán. Bản thảo cổ nhất bằng tiếng Phạn của kinh Tiểu phẩm được tìm thấy có niên đại ít nhất là vào khoảng năm 50 sau Công nguyên, làm cho nó trở thành bản thảo Phật giáo cổ nhất còn tồn tại. Nhóm kinh Tiểu phẩm đầu tiên được dịch từ Phạn văn qua chữ Hán vào khoảng năm 178, thời Hậu Hán, bởi Chi Lâu-ca-sấm, gồm 10 quyển, ban đầu với tên gọi "Đạo hành Bát-nhã kinh" (còn gọi là "Đạo hạnh Bát-nhã kinh"). Khoảng thế kỷ thứ 3, Chi Khiêm biên tập bộ "Đại minh độ vô cực kinh", gồm 6 quyển. Thời Tiền Tần, các sư Đàm-ma-tỳ và Trúc Phật Niệm dịch bộ Ma-ha Bát-nhã-ba-la-mật sao kinh, gồm 5 quyển. Đầu thế kỷ thứ 5, Cưu-ma-la-thập dịch bộ Ma-ha Bát-nhã-ba-la-mật kinh, trong đó có phần "Tiểu phẩm bát-nhã kinh" phổ biến, gồm 10 quyển, phân thành 29 phẩm. Đầu thế kỷ thứ 7, Huyền Trang khi du hành sang Ấn Độ, đã thu góp tất cả các kinh điển thuộc hệ thống Bát-nhã về Trung Quốc, dịch thành bộ Đại Bát-nhã 600 quyển chia ra tứ xứ lục thập hội, bao gồm cả phần Tiểu phẩm ở Đệ tứ hội (29 phẩm) và Đệ ngũ hội (24 phẩm) Thời Tống, đại sư Thi Hộ, dịch bộ Phật mẫu xuất sinh tam pháp tạng Bát-nhã-ba-la-mật kinh, gồm 25 quyển.
1
null
Epsilon là một loại tên lửa nhiên liệu rắn của Nhật Bản. Tên lửa loại mới Epsilon được sản xuất thay thế cho tên lửa M5 đã ngưng sử dụng vào năm 2006. Tên lửa Epsilon dài 24m và nặng 91 tấn đã được phóng lên không gian. Khoảng 14h ngày 14 tháng 9 năm 2013, tên lửa loại mới Epsilon số 1 đã rời bệ phóng tại Trung tâm Vũ trụ Uchinoura ở tỉnh Kagoshima, Nhật Bản. Epsilon đã đưa kính thiên văn SPRINT-A lên quỹ đạo cách mặt đất 1.000 km vào chiều 14 tháng 9 năm 2013.
1
null
Dinh dưỡng cho con người ("Human nutrition") đề cập đến việc cung cấp các chất dinh dưỡng thiết yếu trong thực phẩm cần thiết để hỗ trợ cuộc sống và sức khỏe con người. Trong đó, ăn uống lành mạnh là nói tới chế độ và thói quen ăn uống tạo và duy trì sức khỏe bền vững cho cơ thể con người. Ăn uống lành mạnh từ lâu đã là chủ đề nghiên cứu, tuyên truyền và giáo dục của các chính phủ, tổ chức và cộng đồng. Ăn uống lành mạnh không chỉ tạo ra cơ thể khỏe mạnh mà còn ngăn ngừa rất nhiều các loại bệnh nghiêm trọng cho cơ thể phổ biến trên thế giới, như béo phì, tim mạch, tiểu đường, ung thư. Vậy khi bạn bị ốm, việc lựa chọn thực phẩm [] cho chế độ ăn uống tốt cho sức khỏe tổng thể là vô cùng quan trọng. Ăn uống lành mạnh bao trùm cả chế độ ăn lành mạnh, ăn kiêng lành mạnh (healthy diet) và ăn uống vệ sinh an toàn thực phẩm (safe/hygiene eating). Mặc dù tùy theo thể trạng và hoạt động, chế độ ăn của từng người có thể khác nhau, tuy nhiên có những công thức chung cho chế độ ăn uống lành mạnh. Lịch sử nghiên cứu: Từ 3000 năm trước Công nguyên, đã có những tài liệu nhắc tới nghiên cứu khoa học về dinh dưỡng. Khoảng 400 năm trước Công nguyên, Hippocrates đã từng nói, "Hãy để thức ăn là thuốc và thuốc là thức ăn" (Let food be your medicine and medicine be your food.) Các thói quen và chế độ ăn uống gây hại: Mỗi năm Việt Nam có 75 nghìn người chết vì ung thư, với nguyên nhân chủ yếu từ ăn uống và ô nhiễm hóa chất. Ăn sạch rất quan trọng để hạn chế ung thư.
1
null
Thành phố duy nhất của Afghanistan có trên 1 triệu dân là thủ đô Kabul, còn lại là các thành phố và thị xã nhỏ hơn. Một cuộc điều tra toàn quốc mới đây của Tổ chức Thống kê Trung ương của Afghanistan ước tính tổng số người sống bên trong quốc gia này là 27,5 triệu. Trong đó có khoảng 6 triệu người sống tại đô thị còn lại sống ở nông thôn. Bảng dưới đây liệt kê 19 thành phố của Afghanistan xếp theo dân số: Tên cổ. Các tên cổ của các thành phố Afghanistan:
1
null
Herāt (; ) là thành phố tỉnh lỵ tỉnh Herat ở Afghanistan. Đây là thành phố lớn thứ 3 của Afghanistan, với dân số năm 2006 là 397.456 người. Herat tọa lạc trong thung lũng sông Hari, con sông chảy từ các núi của trung bộ Afghanistan đến sa mạc Karakum ở Turkmenistan. Thành phố được kết nối đường bộ với Kandahar và Mazar-e-Sharif qua quốc lộ 1 hay đường vành đai trải dọc theo đất nước. Nó cũng được kết nối với thành phố Mashad ở Iran thông qua thị trấn biên giới Islam Qala. Liên kết ngoài.
1
null
Thegioididong.com là thương hiệu thuộc Công ty Cổ phần Thế giới di động, tên tiếng Anh là Mobile World JSC, (mã chứng khoán: MWG) là một tập đoàn bán lẻ tại Việt Nam với lĩnh vực kinh doanh chính là bán lẻ điện thoại di động, thiết bị số và điện tử tiêu dùng. Theo nghiên cứu của EMPEA, thống kê thị phần bán lẻ điện thoại di động tại Việt Nam năm 2014 thì Thế giới di động hiện chiếm 25% và là doanh nghiệp lớn nhất trong lĩnh vực của mình. Năm 2018, Thế giới Di Động lọt top 100 nhà bán lẻ lớn nhất khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Ngoài chuỗi cửa hàng điện thoại di động thegioididong.com, Công ty Cổ phần Thế giới di động còn sở hữu chuỗi cửa hàng điện máy Điện máy Xanh, Trần Anh và chuỗi siêu thị thực phẩm Bách hóa Xanh. Lịch sử. Khi thành lập vào tháng 3 năm 2004, Thế giới di động lựa chọn mô hình thương mại điện tử sơ khai với một website giới thiệu thông tin sản phẩm và 3 cửa hàng nhỏ trên đường Hoàng Văn Thụ, Thành phố Hồ Chí Minh để giao dịch. Tháng 10 năm 2004, công ty chuyển đổi mô hình kinh doanh, đầu tư vào một cửa hàng bán lẻ lớn trên đường Nguyễn Đình Chiểu và bắt đầu có lãi. Tới tháng 3 năm 2006, Thế giới di động có tổng cộng 4 cửa hàng tại Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2007, công ty thành công trong việc kêu gọi vốn đầu tư của Mekong Capital và phát triển nhanh chóng về quy mô, đạt 40 cửa hàng vào năm 2009. Cuối năm 2010, Thế giới di động mở rộng lĩnh vực kinh doanh sang ngành hàng điện tử tiêu dùng với thương hiệu Dienmay.com (nay đổi thành Dienmayxanh.com). Tới cuối năm 2012, Thế giới di động có tổng cộng 220 cửa hàng tại Việt Nam. Tháng 5/2013, Thế giới di động nhận đầu tư của Robert A. Willett- cựu CEO BestBuy International và công ty CDH Electric Bee Limited. Năm 2017, Công ty cổ phần Thế giới di động tiến hành phi vụ sáp nhập và mua lại hệ thống bán lẻ điện máy Trần Anh. Tháng 10, 2018, phi vụ sáp nhập hoàn thành. Tổng cộng 34 siêu thị Trần Anh sẽ được gỡ bỏ tên và thay bằng biển hiệu Điện máy Xanh, website của Trần Anh cũng đã chuyển hướng hoạt động về dienmayxanh.com. Cùng thời điểm, Thế giới di động chính thức hoạt động tại Campuchia khi mở cửa hàng điện thoại đầu tiên tại thủ đô Phnom Penh với tên gọi BigPhone, sau đó được đổi tên thành Bluetronics để kinh doanh điện thoại lẫn điện máy, nhưng đóng đóng cửa vào năm 2023. Tháng 3/2018. Thế giới Di Động mua lại 40% vốn của chuỗi dược phẩm Phúc An Khang. Sau đó đổi tên Thành Nhà Thuốc An Khang Tháng 12/2018. Thế giới Di Động đóng cửa trang thương mại điện tử Vuivui Tháng 1/2023, Thế Giới Di Động chính thức hoạt động tại Indonesia với thương hiệu Era Blue thuộc liên doanh PT Era Blue Elektronic (thương hiệu Era Blue), do Thế Giới Di Động hợp tác với đơn vị địa phương PT Erafone Artha Retailindo (Erafone) - một công ty con của Tập đoàn Erajaya. Hoạt động kinh doanh. Tính đến thời điểm tháng 11 năm 2017, Công ty Thế giới di động đã mở thêm 668 siêu thị mới, với 117 siêu thị thegioididong.com, 351 siêu thị Điện Máy Xanh và 200 siêu thị Bách hóa Xanh. Kết quả này đưa tổng số siêu thị đang hoạt động của công ty lên 1.923 siêu thị, tăng hơn 50% so với thời điểm đầu năm. Cũng trong 11 tháng của năm 2017, doanh thu của hệ thống đạt gần 59.000 tỷ đồng. Sang đến năm 2018, con số tổng cửa hàng đã lên đến 2.160 cửa hàng, có mặt trên tất cả 63 tỉnh thành. Hợp tác với BKAV của Trung tâm An ninh mạng Bkis, Thegioididong.com tiến hành phân phối độc quyền điện thoại Bphone 2017 của BKAV (thương hiệu điện thoại của Việt Nam). Theo nghiên cứu của Trường quản trị kinh doanh Haas thuộc đại học UC Berkeley, khoản đầu tư vốn cổ phần vào doanh nghiệp tư nhân chưa niêm yết - Private Equity của Mekong Capital vào Thế giới di động đã đóng vai trò quan trọng trong những bước phát triển ấn tượng của công ty này và sẽ được đưa vào chương trình giảng dạy bậc cao học tại Haas - UC Berkeley đồng thời là tài liệu tham khảo cho sinh viên trường kinh doanh Harvard và trường kinh doanh Tuck.. Chiều ngày 22/3/2019, CTCP Thế giới di động quyết định để cử ông Trần Kinh Doanh làm CEO thay ông Nguyễn Đức Tài rút khỏi vị trí Tổng giám đốc, chỉ còn giữ vai trò Chủ tịch HĐQT). TGDĐ hiện nay có giá trị thị trường đạt khoảng 1,7 tỷ USD. Đồng sáng lập ông Nguyễn Đức Tài là người giàu thứ 4 sàn chứng khoán Việt Nam Cơ cấu tổ chức. Công ty đặt trụ sở chính tại Tòa nhà MWG - Lô T2-1.2, Đường D1, Khu Công nghệ Cao, P. Tân Phú, Quận 9 (nay là Thành phố Thủ Đức), Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam với các công ty thành viên:
1
null
Tên thánh (hoặc tên rửa tội) là tên của mỗi cá nhân chọn khi nhận nghi thức rửa tội (Thanh Tẩy) trong một số giáo hội Kitô giáo. Tập tục này bắt nguồn từ Pháp và Đức ở thời Trung Cổ. Cho đến tận ngày nay, tại các quốc gia có truyền thống Kitô giáo, nhiều người vẫn coi tên thánh của mình cũng chính là tên gọi thông thường để xưng hô, còn tên họ là để phân biệt gia tộc. Ví dụ, Giáo hoàng Biển Đức XVI có tên thế tục là "Joseph Ratzinger", bản thân tên "Joseph" đã thể hiện tên thánh của ông là "Thánh Giuse" ("Joseph" theo tiếng Đức). Ở các quốc gia không có truyền thống Kitô giáo, ví dụ như Việt Nam, tên thánh thường đứng trước tên thế tục, nhưng người ta chỉ sử dụng tên thánh trong các nghi lễ tôn giáo, hoặc xưng hô mang tính cách kính trọng với chức sắc (theo tục kỵ húy). Ví dụ, Tổng giám mục Giuse Nguyễn Chí Linh thường được gọi là "Đức tổng giám mục Giuse", hoặc "Đức Tổng Giuse" trong bối cảnh tôn kính. Nguồn gốc. Theo truyền thống của người Do Thái, người ta sẽ đặt tên cho trẻ sơ sinh trong nghi lễ thánh hiến tại hội đường (và cắt bì đối với trẻ sơ sinh nam) vào ngày thứ tám sau khi sinh (Lc 01:59). Kitô giáo kế thừa hoặc dựa theo tập tục này để đặt tên mới khi một ai đó nhận phép rửa tội vì họ quan niệm rằng sau khi rửa tội thì sẽ trở thành một con người mới nên cần có tên mới. Năm 325, Công đồng Nicaea quyết định cấm tín hữu dùng tên các thần Thánh không phải của Kitô giáo để đặt tên cho mình. Đến thời Công đồng Tridentino họp năm 1563, Giáo hội Công giáo buộc giáo dân khi đặt tên phải chọn tên Thánh. Công đồng này lưu ý các linh mục khi cử hành bí tích rửa tội nếu gặp trường hợp ai đó cố tình đặt tên không hợp tinh thần Kitô giáo thì vị linh mục đó tự động thêm vào một tên Thánh khác, coi đó là tên thứ hai và ghi vào sổ rửa tội giáo xứ. Từ năm 1983, Giáo hội Công giáo đã bãi bỏ luật buộc người Công giáo phải lấy tên thánh, mà họ chỉ quy định tên riêng (tên thế tục) phải phù hợp với ý nghĩa Kitô giáo. Cụ thể, Điều 855 của Bộ Giáo Luật 1983 quy định: "Cha mẹ, người đỡ đầu và Cha Sở phải lo liệu để đừng đặt một tên không hợp với ý nghĩa Kitô giáo". Tuy nhiên, tập tục đặt tên thánh vẫn còn duy trì tại các nơi mộ đạo. Các tên này thường được cha mẹ của trẻ sơ sinh hoặc tự thân người nhận nghi thức (nếu trưởng thành) chọn theo tên các vị thánh nổi tiếng của giáo hội, nam theo thánh nam và nữ theo thánh nữ, cá biệt có trường hợp chọn cả tên thánh nam và nữ. Việc chọn tên thánh theo vị thánh nào thì họ tin rằng sẽ nhận được sự hướng dẫn và trợ giúp của thánh đó trong đời sống, và họ sẽ mừng lễ thánh quan thầy (hoặc thánh bổn mạng) theo ngày lễ kính của thánh đó. Nhìn chung, đối với những tín hữu mộ đạo, lễ kính thánh quan thầy khá quan trọng như ngày sinh nhật. Trong từ điển bách khoa Công giáo, cho rằng tục lệ đặt tên thánh bắt nguồn từ quan niệm tình trạng con người được thay đổi. Nhận lãnh bí tích rửa tội từ con người tội lỗi biến đổi sang con người mới. Do vậy, nhận tên thánh là chứng tích biến đổi về mặt tâm linh. Trường hợp cụ thể là vị tông đồ Paul của Kitô giáo, sống vào thế kỷ thứ I sau Công nguyên, trước đây có tên là Saul, khi cải đạo sang Kitô giáo thì ông đổi tên là Paul mà người Công giáo Việt Nam gọi là Thánh Phaolô. Ý nghĩa. Lấy tên của một vị Thánh mang một ý nghĩa rất quan trọng. Để cho người đó noi gương theo đức tính của một vị Thánh, và suy tôn vị Thánh đó làm Bổn mạng, vị bảo hộ, luôn luôn bảo vệ, giúp đỡ họ trong những lúc khó khăn. Cái tên đó sẽ theo con người này suốt cuộc đời, kể từ khi làm phép rửa tội và đến lúc chết. Tên Thánh của người Công giáo phương Tây. Trong tiếng Anh, có ba danh từ để chỉ tên riêng. Tên chính của người Tây Phương được đặt trong lễ rửa tội nên gọi là tên rửa tội. Và tên chính của người Tây Phương được gọi là tên Kitô Giáo vì các nước Tây Phương chịu ảnh hưởng văn minh Kitô Giáo, tuân theo lời khuyến cáo của Giáo hội, đã lấy tên các Thánh để đặt tên cho các cá nhân. Do vậy, mới có từ ngữ tên Thánh. Tên Thánh Việt hóa. Tên Thánh đối với người Việt cũng được Việt hóa, nhất là danh hiệu của các vị Giáo hoàng của Tòa Thánh.
1
null
Hồ Đức Phớc (sinh ngày 1 tháng 11 năm 1963) là một Tiến sĩ Kinh tế, chính khách người Việt Nam. Ông hiện là Bộ trưởng Bộ Tài chính Việt Nam, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XV. Trong Đảng Cộng sản Việt Nam, ông là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII. Ông từng là Tổng Kiểm toán Nhà nước, Bí thư Ban cán sự Đảng bộ Kiểm toán Nhà nước. Xuất thân. Hồ Đức Phớc quê tại xã Quỳnh Thạch, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Sự nghiệp. Ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 05/7/1993. Ông từng làm công tác kế toán, Kế toán trưởng Xí nghiệp Xây dựng Quỳnh Lưu, Nghệ An (01/1988-5/1993), Kế toán trưởng Xí nghiệp xây lắp 5, Công ty xây dựng 7, Nghệ An (5/1993-10/1994); Kế toán trưởng Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng thị xã Cửa Lò, Nghệ An (10/1994-10/1997). Sau đó ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã, Ủy viên Ủy ban nhân dân thị xã, Trưởng phòng Tài chính - Vật giá thị xã Cửa Lò, Nghệ An (10/1997- 9/2000); Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã Cửa Lò, Nghệ An (9/2000- 5/2004), Phó Bí thư Thị ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã Cửa Lò (5/2004-8/2007). Ủy viên Ban Chấp hành Tỉnh ủy, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An (8/2007 -10/2010); Phó Bí thư Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An (10/2010-12/2010); Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An (12/2010-5/2013). Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An từ 12 tháng 3 năm 2013 đến 16 tháng 4 năm 2016. Chủ tịch HĐND tỉnh Nghệ An từ 18/12/2015 đến 29/6/2016., Ủy viên Trung ương Đảng (26/01/2016-nay). Ngày 5/4/2016, tại kỳ họp cuối cùng của quốc hội khoá XIII, Hồ Đức Phớc được bầu giữ chức vụ Tổng Kiểm toán Nhà nước. Ngày 08/04/2021, ông được Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đề cử, Quốc hội khóa XIV phê chuẩn và Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã ký quyết định bổ nhiệm ông giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Tài chính Việt Nam nhiệm kỳ 2016 - 2021. Ngày 26/05/2021, tại Quyết định 767/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính quyết định cử ông Hồ Đức Phớc, Bộ trưởng Bộ Tài chính kiêm giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quản lý BHXH Việt Nam, thay ông Đinh Tiến Dũng đã được bổ nhiệm giữ chức vụ Bí thư Thành ủy Hà Nội. Ngày 28/07/2021, ông được Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đề cử, Quốc hội khóa XV phê chuẩn và Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã ký quyết định bổ nhiệm ông giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Tài chính Việt Nam nhiệm kỳ 2021 - 2026. Đại biểu Quốc hội Việt Nam nhiệm kì 2021-2026. Ông ứng cử Đại biểu Quốc hội khối Chính phủ.
1
null
Draco là một chi thằn lằn thuộc Họ Nhông gồm các loài được gọi là thằn lằn bay, rồng bay hay thằn lằn lượn. Những loài thằn lằn này có khả năng bay lượn; xương sườn và màng nối của chúng có thể được mở rộng để tạo thành "đôi cánh", các chi sau được làm phẳng và giống như cánh ở mặt cắt ngang, và một vạt trên cổ đóng vai trò như một bộ ổn định ngang và đôi khi là được sử dụng để cảnh báo. "Draco" là những loài ăn côn trùng sống trên cây.
1
null
Viện hàn lâm Khoa học Nhân văn Úc (tiếng Anh: Australian Academy of the Humanities) được thành lập bởi Royal Charter ("Hiến chương Hoàng gia") năm 1969 nhằm thúc đẩy sự tiến triển của khoa học nhân văn ở Úc. Viện là một tổ chức phi chính phủ, được chính phủ Úc tài trợ một phần, do một Hội đồng viện sĩ quản lý và một Nha thư ký điều hành. Viện có hơn 400 viện sĩ (và 71 viện sĩ danh dự) thuộc các môn khoa học nhân văn ở trong nước hoặc ở nước ngoài. Việc bầu cử viện sĩ diễn ra trong đại hội hàng năm, theo sự đề cử của Hội đồng quản trị dựa trên tư vấn của 10 tiểu ban. Chủ tịch Viện hiện nay là giáo sư Ian Donaldson, được bầu tháng 11 năm 2007. Tính tới ngày 31.12.2009, Viện có 515 viện sĩ, trong đó có 397 viện sĩ có quyền bỏ phiếu, 47 viện sĩ nước ngoài và 71 viện sĩ danh dự. Nhằm mục đích trên, Viện hàn lâm Khoa học Nhân văn Úc hỗ trợ: Dưới đây là 10 tiểu ban chuyên ngành của Viện:
1
null
Jung Hye-rim (Hangul: 정혜림, Hanja: 郑慧林, Hán-Việt: Trịnh Tuệ Lâm, sinh ngày 18 tháng 8 năm 1993), sau này mẹ cô đổi thành Jung Eun-ji (Hangul: 정은지, Hanja: 郑恩地, Hán-Việt: Trịnh Ân Địa), được biết đến với nghệ danh Eunji, là một nữ ca sĩ thần tượng, nhạc sĩ và diễn viên người Hàn Quốc. Cô là giọng ca chính của nhóm nhạc nữ Apink do công ty IST Entertainment quản lý. Jung Eun-ji đã debut với vai trò là diễn viên qua bộ phim "Lời hồi đáp 1997" (2012) và tạo được ấn tượng lớn với trong lòng người xem với vai diễn Sung Si-won. Sau đó cô tiếp tục tham gia các bộ phim như "Ngọn gió đông năm ấy" (2013), "Trot Lovers" (2014), "Vũ điệu tuổi trẻ" (2015) và "Untouchable" (2017). Cô cũng chính thức tham gia mảng điện ảnh qua phim điện ảnh đầu tiên 0.0MHz (2019) Tiểu sử. Jung Eun-ji tên khai sinh là Jung Hyerim, được sinh ra tại Haeundae, Busan, Hàn Quốc, vào ngày 18 tháng 8 năm 1993. Cô đã tốt nghiệp tại trường trung học nữ sinh Hyehwa. Vào năm 2004, Jung Eunji giành được giải thưởng trong chương trình "Exciting Day Enjoyable Day" (신나는 날 즐거운 날) được tổ chức bởi đài truyền hình KBS. Vào tháng 11 năm 2010, Jung Eunji đã vượt qua cuộc thi tuyển chọn để trở thành giọng ca chính của Apink. Cô là một trong những idol hiếm hoi có thời gian thực tập ngắn kỉ lục (khoảng 2 tháng) trau dồi kĩ năng để debut cùng Apink. Eunji đã nhiều lần ước mơ là trở thành một giảng viên thanh nhạc. Tuy nhiên, sau khi vượt qua buổi thử giọng là để làm giọng ca chính của Apink, cô thay quyết định theo đuổi sự nghiệp ca hát. Cô có một em trai tên là Jung Minki. Mặc dù tên khai sinh là Jung Hyerim, nhưng mẹ cô đã thay đổi tên của cô ấy thành Jung Eunji với ý nghĩa rằng cái tên đó sẽ mang lại may mắn cho gia đình của cô ấy. Sự nghiệp. Apink. Eunji đã được chọn là thành viên của Apink qua một buổi thử giọng. Cô được tiết lộ là thành viên thứ tư của nhóm qua một video trực tuyến. Video của Eunji là màn biểu diễn cover lại ca khúc "Love You I Do" của Jennifer Hudson. Cô đã được đào tạo chỉ 2 tháng trước khi ra mắt với nhóm. Jung Eunji cùng các thành viên khác trong nhóm tham gia Apink News (Chương trình thực tế của nhóm nhạc trước khi debut). Vào ngày 19 tháng 4 năm 2011, Apink phát hành đĩa đơn đầu tiên của nhóm mang tên "Mollayo (I don't know)" và ngày 21 tháng 4, Eunji chính thức được debut với tư cách là một thành viên Apink trên sân khấu ca nhạc M!Countdown đồng thời biểu diễn hai bài hát là " Mollayo" và "Wishlist" nằm trong "Seven Springs of Apink" của họ. Viết bài hát. Cô là giọng hát chính của nhóm nhạc nữ Apink. Cô đã sáng tác bài hát "Promise U" trong album Pink Memory để kỉ niệm 4 năm ra mắt của nhóm, bài "Hopefully Sky" là bài hát chủ đề trong Mini Album đầu tay của cô Dream (EP) cũng là bài cô tự sáng tác và 2 bài hát trong Mini Album thứ hai của cô The Space là "First Love" và "Full Moon" cũng là do cô tự tay sáng tác. 8 bài hát trong Mini Album thứ ba HyeHwa cô đều đồng sáng tác và viết lời. 6 bài hát trong Mini Album thứ 4 Simple do Eunji sáng tác và đồng sáng tác. Bài hát kỉ niệm 8 năm debut của Apink "Everybody Ready" cũng do cô đồng sáng tác
1
null
Giải L'Oréal-UNESCO cho phụ nữ trong khoa học (tiếng Anh: L'Oréal-UNESCO Awards for Women in Science) là một giải thưởng được thiết lập năm 1998 nhằm mục đích thăng tiến vị trí của phụ nữ trong khoa học bằng việc công nhận những thành tựu xuất sắc của các nữ khoa học gia trong nghiên cứu khoa học. Giải này là kết quả của sự hợp tác giữa Công ty mỹ phẩm L'Oréal của Pháp và Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) với khoản tiền thưởng là 100.000 đô la Mỹ cho mỗi người đoạt giải. Hàng năm, một ban giám khảo quốc tế luân phiên giữa khoa học đời sống và khoa học vật liệu sẽ tuyển chọn một người đoạt giải từ những khu vực sau đây: Ngoài giải thưởng này, L’Oréal và UNESCO cũng lập ra Quỹ Học bổng quốc tế UNESCO-L'Oréal ("UNESCO-l’Oréal International Fellowships"), với khoản học bổng là 40.000 đô la Mỹ trong 2 năm cho 15 nữ khoa học gia trẻ trong các dự án nghiên cứu đầy hứa hẹn. Những người đoạt giải L'Oréal-UNESCO Việt Nam. Ngoài giải thưởng quốc tế, từ năm 2009, L'Oréal Việt Nam và UNESCO cũng trao giải thưởng Nhà Khoa học nữ xuất sắc cấp quốc gia L'Oréal - UNESCO “Vì sự phát triển phụ nữ trong khoa học” cho các nhà khoa học nữ trong nước có đóng góp quan trọng cho sự tiến bộ của khoa học Việt Nam. 2015. Từ năm 2014 trở về trước, tiền thân của giải thưởng Nhà khoa học nữ xuất sắc là chương trình học bổng nghiên cứu L'Oréal- UNESCO Vì sự phát triển Phụ nữ trong khoa học
1
null
Máy tính bảng iPad có rất nhiều phụ kiện được chính Apple tạo riêng cho nó, đặc biệt là Smart Cover, và một số phụ kiện khác, giúp iPad có thể kết nối với nhiều thiết bị khác Smart Cover. Smart Cover là một phụ kiện đành cho iPad 2, iPad 3, iPad 4 và cả iPad Mini, được trình làng ở trong một sự kiện của hãng Apple, bởi CEO Steve Jobs. Nó được gắn vào bên hông của thiết bị và bao phủ bề mặt cảm ứng. Smart Cover có 3 rẵnh, chia bề mặt nó thành 4 mảnh, nên có thể xếp lại để dựng đứng iPad. Nó có thể dựng iPad lên cao để dễ coi phim, hoặc gọi FaceTime, hoặc nằm ngang để dễ đánh chữ. Nó được thiết kế rất mỏng, vì thế sẽ hoàn toàn không tăng thêm độ dày của thiết bị. Thêm nữa, khi Smart Cover đóng kín màn hình, nó sẽ tự động tắt thiết bị, giống như là đã nhấn nút "tắt/mở", nên người dùng hầu như không cần phải bấm nút "tắt/mở" này nữa khi sử dụng Smart Cover. Smart Cover có 1 phiên bản nhỏ hơn dành cho iPad Mini. Mặt trong của Smart Cover được làm bằng những sợi mịn (mặt tiếp xúc với màn hình) được thiết kế để làm sạnh bụi khi sử dụng iPad, và mặt ngoài thì được làm bằng polyurethane hay da. Smart Cover có 10 màu. Phiên bản polyurethane có màu hồng, xanh dương, xanh lá, xám trắng và xám đen; phiên bản da có màu kem, màu gạch, đen, xanh đậm và màu đỏ. Cũng như nhiều sản phẩm khác của Apple, phiên bản màu đỏ được bán ra sẽ ủng hộ một phần tiền cho tổ chức cứu trợ người AIDS (Product Red). Lúc đầu cũng có màu cam, nhưng về sau đã bị thay thế bằng màu xám đen. iPad Camera Connection Kit. iPad Camera Connection Kit mà một bộ kết nối gồm 2 cục riêng biệt:: 1 cục có cổng USB và một để đọc thẻ SD. Nó sẽ chép hình ảnh cử máy chụp hình hoặc thẻ SD vào iPad. Phụ kiền này sử dụng được cho tất cả các dòng iPad và chỉ chép được hình ảnh hoặc phim. iPad Dock. iPad Dock là một thiết bị để "đưa ra ngoài" các cổng kết nối của iPad như cổng sạc hoặc head-phone. Nó được thiết kế cho iPad 2. iPad 3 cũng có thể sử dụng được nhưng iPad 4 thì không vì sử dụng khác cổng kết nối.
1
null
Sir Chandrasekhara Venkata Raman (1888-1970) là nhà vật lý người Ấn Độ. Ông được trao Giải Nobel Vật lý vào năm 1930 vì đã tìm ra hiệu ứng Raman. Ông là một trong những người có công trong sự phát triển nền khoa học Ấn Độ thời kỳ thuộc Anh. Ngôi nhà của ông ở Tiruchirapalli đã được giữ gìn để trở thành một bảo tàng.
1
null
Brașov () là một hạt của România, ở vùng Transilvania, thủ phủ là Brașov. Nhân chủng học. Đến 20 tháng 10 năm 2011, hạt này có dân số 549.217 và mật dân số 100/km². Phân cấp hành chính. Hạt Brașov có 4 khu tự quản, 6 thị trấn và 48 xã:
1
null
Cám còn có tên cám bột, cám xay xát do trong quy trình xay xát và chế biến ngũ cốc, sau khi thu được sản phẩm chính là hạt thì còn một sản phẩm phụ có giá trị khá cao đó là cám. Từ lâu cám được các nhà máy xay xát thu hồi và bán như là một sản phẩm chính chỉ sau ngũ cốc đã tinh chế. Cám được thu hồi dưới hai dạng là cám khô và cám ướt. Cám khô sẽ được sấy thêm lần nữa để bảo quản được lâu hơn, còn cám ướt thường được bán cho các cơ sở nuôi cá da trơn sử dụng ngay. Cấu tạo. Cám gạo thường có dạng bột, mềm và mịn. Cám gạo chiếm khoảng 10-12% khối lượng lúa chưa xay xát. Cám là hỗn hợp của lớp vỏ ngoài của hạt gạo và lớp aloron. Những thành phần được thu hồi khi khi xay xát và chế biến gạo và được gọi chung là cám. Công dụng. Cám đóng vai trò là chất dinh dưỡng chính cho cá, cung cấp một lượng lớn vitamin, khoáng, chất béo và protein. Do cám có ít tinh bột nên khả năng kết dính thành khối thấp, vì vậy cần bổ sung thêm gạo tấm vì trong quá trình chế biến. Khi nấu hồ hóa gạo, các tinh bột trong gạo sẽ trương nở tăng độ dính giúp liên kết các nguyên liệu thành một khối trong quá trình trộn. Làm nguội trước khi cho cá ăn (FAO). Rau muống được bổ sung thêm với mục đích tăng thêm lượng chất xơ và sắt cho cá vì trong cám chứa sắt không nhiều. Cám có thể được nấu chín sau đó đem phơi khô thành bánh cám khô. Loại bánh này có thể giữ được lâu trên 6 tháng mà chất lượng cám ít thay đổi. Ngoài là thức ăn cho chăn nuôi, cám gạo có thể được sử dụng vào các lĩnh vực khác. Đây là một nguồn nguyên liệu rẻ và dồi dào với thành phần dinh dưỡng tốt. Cám chứa nhiều chất chống oxy hóa có lợi cho sức khỏe con người. Cám có chứa nhiều loại vitamin và chất béo chưa bão hòa rất tốt cho sức khỏe. Vì vậy ở các nước phát triển, cám được dùng trích ly dầu. Dầu cám sau khi thu được có rất nhiều ứng dụng như các loại dầu thông thường khác. Dầu cám cũng có thể được cho vào các loại thực phẩm với tác dụng bổ sung thêm các chất béo không no mà cơ thể không tự tổng hợp được. Với lượng vitamin E và nhóm B dồi dào, dầu cám cũng được ứng dụng trong lĩnh vực mỹ phẩm và y học làm các loại kem dưỡng da hoặc thực phẩm chức năng.
1
null
Tawari trong ngôp ngữ New Zealand, tên khoa học Ixerba brexioides, là một loài thực vật có hoa trong họ Strasburgeriaceae. Loài này được A.Cunn. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1839. Đây là loài duy nhất trong chi Ixerba, cũng như họ Ixerbaceae. Chúng chỉ được tìm thấy trên đảo North, giữa Waitomo và Kaitaia. Loài này được sử dụng để sản xuất một loại mật ong đặc biệt. Hệ thống APG III năm 2009 không công nhận họ Ixerbaceae mà gộp nó trong họ Strasburgeriaceae.
1
null
Akebia quinata là một loài thực vật có hoa trong họ Lardizabalaceae. Loài này được (Houtt.) Decne. mô tả khoa học đầu tiên năm 1839. Đây là loài bản địa Nhật Bản, Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên, được trồng ở đông Hoa Kỳ từ Georgia đến Michigan và Massachusetts. Cây cao hoặc hơn và có lá ghép năm lá nhỏ. Hoa cụm trong các cành hoa và có mùi sô cô la, với ba hoặc bốn đài hoa.
1
null
Tuyến nước bọt ở động vật có vú thuộc loại tuyến ngoại tiết, có ống tuyến và nang tuyến, vai trò là sản xuất nước bọt. Chúng cũng chế tiết amylase, một enzym cắt tinh bột thành maltose. Mô học. Tuyến nước bọt được chia thành các thùy. Mạch máu và thần kinh đi vào tuyến ở rốn tuyến và dần dần chia nhánh vào các thùy. Nang tuyến. Các tế bào chế tiết hợp lại thành nang tuyến. Các nang tuyến sẽ đổ vào hệ thống ống tuyến. Có ba loại nang tuyến nước bọt, đó là nang nhầy, nang nước, và nang hỗn hợp tùy thuộc vào loại tế bào chế tiết của nang. Mỗi nang gồm một hàng tế bào, xung quanh là màng đáy, và bên ngoài là tế bào cơ - biểu mô, có nhiệm vụ co bóp để đẩy nước bọt vào ống tuyến. Ống tuyến. Các ống tuyến nhỏ sẽ hợp lại để tạo thành ống gian tiểu thùy, rồi ống gian thùy, cuối cùng đổ vào ống chính và đổ vào miệng. Thành ống tuyến lớn sẽ giống với biểu mô niêm mạc miệng, biểu mô lát tầng không sừng hóa. Nước bọt có pH kiềm, sẽ nhanh chóng bất hoạt trong môi trường acid của dịch vị Giải phẫu. Có rất nhiều tuyến nước bọt, gồm các tuyến nước bọt chính và các tuyến nước bọt phụ. Các tuyến nước bọt chính bao gồm: Tuyến mang tai: là tuyến lớn nhất, là tuyến nước bọt tiết thanh dịch, ống tiết là ống Stenon, chạy ở mặt ngoài cơ cắn, đổ vào miệng ở mặt trong má tương ứng vị trí răng số 7 hàm trên Tuyến dưới hàm: là tuyến nước bọt hỗn hợp, ống tiết là ống Wharton Tuyến dưới lưỡi: bao gồm rất nhiều tuyến nhỏ, là tuyến nước bọt hỗn hợp Chi phối thần kinh. Tuyến nước bọt hoạt động nhờ sự cân bằng giữa hệ thần kinh giao cảm và hệ thần kinh phó giao cảm. Các sợi phó giao cảm đến tuyến nước bọt trong các dây thần kinh sọ. Tuyến mang tai nhận các sợi đi trong dây thiệt hầu (dây sọ IX) qua hạch tai, trong khi tuyến dưới hàm và dưới lưỡi nhận các sợi đi trong dây mặt (sọ VII) qua hạch dưới hàm. Phần giao cảm chi phối cho tuyến nước bọt xuất phát từ các đốt Cổ 1 đến Cổ 3, các sợi tiền hạch đến synap ở các hạch cổ trên, các sợi hậu hạch sẽ đi đến tuyến nước bọt. Kích thích hệ giao cảm và phó giao cảm đều làm tăng tiết nước bọt. Dùng atropin (chất ức chế phó giao cảm) sẽ gây giảm tiết nước bọt. Vai trò. Vai trò nội tiết: mới được phát hiện ở tuyến nước bọt. Nó đảm bảo sự tăng sản những tổ chức trung mô như sụn, xương răng, sợi chun, hệ thống lưới nội mô, tổ chức liên kết và tạo máu. Hormon tuyến nước bọt là parolin Vai trò tiêu hóa: nước bọt làm ướt và tan thức ăn, củng cố vị giác, thủy phân tinh bột Vai trò bảo vệ: cuốn trôi vi khuẩn, tạo pH kiềm, hỗ trợ tái khoáng men răng, và có các chất diệt khuẩn, kháng thể Vai trò bài tiết: những chất ngoại lai đưa vào cơ thể có thể nhanh chóng tìm thấy ở nước bọt
1
null
Bần chua hay Bần sẻ (danh pháp khoa học: Sonneratia caseolaris) là một loài thực vật có hoa trong họ Lythraceae. Loài này được (L.) Engl. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1897. Đặc điểm và phân bố. Đây là loài thực vật ngập mặn, cây có thể cao đến 20m và có đường kính đến 50 cm. Chúng phát triển trên các bãi triều bùn từ châu Phi đến Indonesia, về phía nam đến đông bắc Úc và Nouvelle-Calédonie và về phía bắc đển đảo Hải Nam và Philippines. Loài này sống chủ yếu ở phần trên của cửa sông (không nằm gần cửa sông) trong vùng gian triều dưới. Nó có thể chịu mặn đến tối đa 35 ppt, tuy nhiên chúng tập trung chủ yếu ở những vùng có độ măn thấp hơn, nhiều bùn, có nước ngọt chuyển động. Thành phần hóa học. Trái cho 11% pectin (ZMB). Gỗ cho 52,7% brown pulp (8.5% lignin, 17.6% pentosan). Emodin và axit chrysophanic có thể là chất có màu trong thuốc thô. Vỏ cây lấy ở châu Phi cho 17,1% tanin, của lớp pyrogallol. Thân cây ở Ấn Độ cho 9–17%, vỏ cành cây cho 11-12%. Gỗ có hai màu cơ bản, archin (C15H10O5) và archinin (C15H14O12). Trong văn hóa. Trái của chúng là biểu tượng của văn hóa dân gian Maldives, "Kulhlhavah Falhu Rani". Sử dụng. Lá và trái có thể được dùng làm thức ăn ở một số khu vực. Ở Việt Nam, rễ thở của chúng được dùng làm nút chai, trong dân gian rễ này còn được gọi là "cặc bần". Vỏ chứa nhiều tanin có thể dùng cho thuộc da.
1
null
Bần ổi hay bần trứng (danh pháp khoa học: "Sonneratia ovata") là một loài thực vật có hoa trong họ Sonneratiaceae. Loài này được Backer mô tả khoa học đầu tiên năm 1920. Mô tả. Đây là một cây cao tới 20 m, có thân thẳng đứng cao tới 0,2 m, có rễ thở (tế bào thở) ở gốc. Rễ thở thẳng đứng ("pneumatophores") cao tới 0,2 m. Các lá đối diện của nó, có cuống ngắn, phiến lá có màu xanh đậm sáng bóng, thường có hình trứng rộng đến gần như hình tròn và dài 4–10 x 3–9 cm. Hoa non của nó được tìm thấy đơn lẻ hoặc có đến 3 bông cùng nhau, với mặt trong của các lá đài có màu đỏ. Hoa của nó nở vào lúc hoàng hôn, tỏa ra mùi sữa chua và tồn tại suốt một đêm. Quả màu xanh của nó có dạng quả lê, rộng 3–4,8 cm và chứa nhiều hạt. Các hạt nổi, phân tán trong nước của nó rất nhỏ, màu trắng, dẹt và nằm trong cùi thịt của quả.
1
null
Menyanthes trifoliata là một loài thực vật có hoa trong họ Menyanthaceae. Loài này được L. mô tả khoa học đầu tiên năm 1753. Menyanthes trifoliata mọc ở các đầm lầy và bãi lầy ở châu Á, châu Âu và Bắc Mỹ. Ở phía đông Bắc Mỹ. Đôi khi nó tạo ra các bãi lầy lớn với rễ dày của chúng. Nó có một hương vị mạnh và đắng đặc trưng.
1
null
Balbisia aphanifolia là một loài thực vật có hoa trong họ Vivianiaceae hoặc họ Francoaceae nghĩa rộng (s. l.). Loài này được August Heinrich Rudolf Grisebach miêu tả khoa học đầu tiên năm 1879 dưới danh pháp "Wendtia aphanifolia". Năm 1973 Armando Theodoro Hunziker và Luis Ariza Espinar chuyển nó sang chi "Balbisia". Phân bố. Loài này được tìm thấy tại tây bắc Argentina.
1
null
Balbisia calycina là một loài thực vật có hoa trong họ Vivianiaceae. Loài này được August Heinrich Rudolf Grisebach miêu tả khoa học đầu tiên năm 1874 dưới danh pháp "Viviania calycina". Năm 1973 Armando Theodoro Hunziker và Luis Ariza Espinar chuyển nó sang chi "Balbisia". Phân bố. Loài này được tìm thấy tại tây bắc Argentina.
1
null
Balbisia gracilis là một loài thực vật có hoa trong họ Vivianiaceae (hoặc trong họ Francoaceae nghĩa rộng). Loài này được Franz Julius Ferdinand Meyen miêu tả khoa học đầu tiên năm 1834 dưới danh pháp "Wendtia gracilis". Năm 1973 Armando Theodoro Hunziker và Luis Ariza Espinar chuyển nó sang chi "Balbisia". Phân bố. Loài này có từ miền trung Chile về phía nam tới Argentina.
1
null
Balbisia integrifolia là một loài thực vật có hoa trong họ Vivianiaceae. Loài này được Reinhard Gustav Paul Knuth miêu tả khoa học đầu tiên năm 1912. Phân bố. Loài này được tìm thấy từ miền nam Bolivia tới miền tây Argentina. Môi trường sống là vùng núi cao và Salinas Grandes ở Argentina, cao độ tới 3.500 m. Mô tả. Cây bụi cao đến 1 m, có cành hoặc các cành nhỏ; các cành mang hoa dày 1 mm, cũng như lá rậm lông tơ mịn như lụa màu trắng bạc; các cành giá nhẵn nhụi, màu đen ánh xám hoặc xám. Lá nhiều, mọc đối hoặc gần đối, cách nhau 0,5-1,5 cm, gần như không cuống với cuống lá dài 1-2 mm; phiến lá nguyên, hình mác hoặc hình trứng-hình mác, hơi nhọn hoặc hơi tù, dài 15-25 mm, rộng 3-5 mm. Hoa đầu cành, có cuống; cuống hoa dài 7-15 mm, mập tới 1 mm, có lông tơ màu trắng bạc mịn như lụa, dài gần bằng lá, nhưng khi tạo quả thì dài ra và hẹp hơn. Các lá bắc tổng bao dài 6-9 mm, thẳng-hình dùi, có lông tơ màu trắng bạc mịn như lụa, không nhiều. Lá đài dài hơn lá tổng bao 1-1,5 lần, dài 12-15 mm, rộng 4 mm, hình mác, dần dần nhọn thon, nhọn hoặc rất nhọn, có lông tơ màu trắng bạc mịn như lụa. Ống tràng đường kính 3,5 mm, màu đỏ sẫm; cánh hoa dài hơn lá đài 1-1,5 lần, dài 15-18 mm, rộng 11 mm, hình nêm rộng-hình trứng ngược, với đỉnh thuôn tròn, nguyên. Chỉ nhị dài hơn bầu nhụy 2 lần; bao phấn hình elipxoit hoặc thuôn dài; đầu nhụy 4, hiếm khi 3. Bầu nhụy rậm lông màu trắng tuyết. Quả nang có lông lụa màu ánh xám, dài 6-7 mm, thẳng đứng, khoảng 2 lần ngắn hơn đài hoa. Loài này là khác biệt ở chỗ mép lá nguyên với lớp lông màu trắng bạc mịn như lụa. Ra hoa tháng 11 đến tháng 2 năm sau.
1
null
Balbisia microphylla là một loài thực vật có hoa trong họ Vivianiaceae hoặc Francoaceae nghĩa rộng (s. l.). Loài này được Rodolfo Amando Philippi miêu tả khoa học đầu tiên năm 1891 dưới danh pháp "Ledocarpon microphyllum". Năm 1896 Karl Friedrich Reiche chuyển nó sang chi "Balbisia". Phân bố. Loài này được tìm thấy tại miền bắc Chile.
1
null
Balbisia miniata là một loài thực vật có hoa trong họ Vivianiaceae hoặc họ Francoaceae nghĩa rộng (s. l.). Loài này được Ivan Murray Johnston miêu tả khoa học đầu tiên năm 1928 dưới danh pháp "Wendtia miniata". Năm 1939 Horacio Raul Descole, Carlos Alberto O'Donell và Alicia Lourteig chuyển nó sang chi "Balbisia". Mẫu dịnh danh. Mẫu định danh: "L. R. Parodi 7821"; do giáo sư Lorenzo R. Parodi thuộc Đại học Buenos Aires thu thập ngày 30-1-1927, holotype lưu giữ tại Phòng mẫu cây Gray, Đại học Harvard. Phân bố. Loài này được tìm thấy tại miền tây Argentina (các tỉnh Salta, La Rioja, San Luis). Môi trường sống là các thung lũng khe sâu trên đồng cỏ khô Nam Mỹ, ở cao độ tới 2.300 m. Mô tả. Cây bụi cao tới 1 m, phân nhiều cành; các cành mang hoa mập tới 1 mm, thanh mảnh, thưa lông lụa; các cành già hóa gỗ thanh mảnh màu nâu; lá rất nhiều, mọc đối, bền chắc, cách nhau 3-5 mm, lá đơn, hình mác ngược, nguyên, khi non có lông nhung áp ép thưa và không dễ thấy, trở thành nhẵn nhụi khi già, dài 5-8 mm, rộng 1-2 mm, đỉnh nhọn rộng, đáy thon nhỏ dần thành cuống lá rất thanh mảnh dài 1 mm; hoa đầu cành có cuống dài ~1 cm; tổng bao dài 6–7 mm, thẳng, hơi phân thành thành các thùy, có lông tơ nhỏ; lá đài thuôn dài-hình mác, dài ~7 mm, rộng 2-2,5 mm, đỉnh nhọn thon thanh mảnh; cánh hoa hình trứng ngược, dài 14–15 mm, rộng ~8 mm, thuôn tròn hay tù ở đỉnh; nhị hoa 10, trong đó 5 nhị có chỉ nhị dài 3 mm, xen kẽ với 5 nhị có chỉ nhị dài 2 mm; bao phấn hình trứng; bầu nhụy hình cầu, rậm lông cứng màu trắng bạc; đầu nhụy 2 ( hoặc hiếm khi 4), dài ~3 mm, thẳng-hình lưỡi; quả nang dài 5 mm, với 3 hoặc hiếm khi 4 ngăn, nhẵn nhụi, nứt dọc kiểu chẻ ngăn, với 1 hoặc 2 hạt.
1
null
Balbisia peduncularis là một loài thực vật có hoa trong họ Vivianiaceae hoặc họ Francoaceae nghĩa rộng (s. l.). Loài này được John Lindley miêu tả khoa học đầu tiên trong tháng 3 năm 1831 theo mẫu do Mr. Rae gửi cho Hiệp hội Làm vườn Hoàng gia Anh năm 1825 dưới danh pháp "Ledocarpon pedunculare". Cũng trong tháng 3 năm 1831 William Jackson Hooker mô tả loài "Cruckshanksia cistiflora" theo mẫu mà Alexander Cruckshanks gửi về. Khoảng tháng 7 đến tháng 9 năm 1831 David Don chuyển nó sang chi "Balbisia" (ông dẫn chiếu tới "L. pedunculare" của John Lindley trước "C. cistiflora" của William Jackson Hooker) với danh pháp mới là "Balbisia peduncularis". Phân bố. Loài này được tìm thấy từ Peru tới miền trung Chile.
1
null
Balbisia stitchkinii là một loài thực vật có hoa trong họ Vivianiaceae hoặc họ Francoaceae nghĩa rộng (s. l.). Loài này được Mario Héctor Ricardi Salinas (1921-2005) miêu tả khoa học đầu tiên năm 1957. Mẫu định danh. Mẫu định danh: "M. Ricardi 3537"; do Mario Héctor Ricardi Salinas thu thập ở cao độ 3.800 m ngày 27-9-1955 tại Puquios, vùng Tarapacá, Chile. Từ nguyên. Tính từ định danh "stitchkinii" là để vinh danh David Stitchkin Branover (1912-1997), hiệu trưởng Đại học Concepción (tỉnh Concepción, Chile) từ năm 1956 tới năm 1962. Phân bố. Loài này được tìm thấy tại cực bắc Chile (vùng Tarapacá). Loài đặc hữu vùng núi cao, ở cao độ 3.800-4.000 m. Mô tả. Cây bụi cao 0,60-1,50 m, phân nhiều cành, thân phần gốc hóa gỗ, đường kính 0,5-1 cm, màu nâu ánh đỏ, cho tới phần cuối của các cành phía trên với các dải sọc màu nâu rời. Các cành non mọc hướng lên hoặc gần thẳng đứng, đường kính 2-5 mm, đoạn giữa gần như trần trụi, đoạn trên phân nhánh và nhiều lá về phía đỉnh; với các cành non mới dài 2-6 cm, có lông nhung, với các mắt lá, đỉnh một hoa. Lá chẻ 3 sâu, đối hoặc so le (khoảng cách 2–4 mm), không cuống, cả hai mặt màu xám trắng, dài 3–8 mm, dày ở đáy, mang các chồi ngắn, chồng chất với các lá ngắn chen chúc, dài ~1 mm, rậm lông lụa; phiến lá thẳng, dài 3-8 mm, rộng 1-2 mm, nhọn, mép nguyên, cuốn ngoài và rủ xuống. Hoa ở đầu cành đơn độc, cuống dài 5–8 mm, rậm lông, màu ánh đỏ. Tổng bao dài 5–8 mm, lá bắc chẻ đôi hoặc chẻ ba sâu; phiến 12-25, thẳng, rậm lông dài. Lá đài 5, xếp lợp, hơi không đều, thuôn dài-hình mác, dài 11-15 mm, rộng 4-8 mm, nhọn thon, có lông lụa, màu ánh đỏ tới vàng ánh đỏ, 3-(5) gân màu hồng, bên trong có lông lụa trắng bạc. Cánh hoa 5, xếp lợp, hình trứng ngược, nguyên, dài 1,7-2 cm, rộng 1,7-2 cm, đỉnh tù, nhẵn nhụi, màu vàng. Nhị hoa 10, trong đó 5 xen kẽ với cánh hoa có chỉ nhị dài 4 mm và 5 đối diện cánh hoa có chỉ nhị dài 2 mm; bao phấn thuôn dài, hơi không đều, dài ~5 mm, rộng 1,5 mm, đính đáy. Bầu nhụy hình cầu, cao ~2 mm, rậm lông lụa màu trắng bạc, 5 thùy, 5 lá noãn, 5 ngăn, noãn đính tâm; đầu nhụy 5, không cuống, hình lưỡi, dài ~2 mm. Quả nang hình elipxoit, dài 5-8 mm, rộng 4-6 mm, có lông lụa áp ép, với tổng bao và đài hoa bền ở đỉnh, chẻ ngăn, 5 mảnh vỏ nhọn, đỉnh nguyên. Hạt nhiều, hình tứ diện, dài 1-1,5 mm, rìa có cánh.
1
null
Balbisia verticillata là một loài thực vật có hoa trong họ Vivianiaceae hoặc họ Francoaceae nghĩa rộng (s. l.). Loài này được Antonio José Cavanilles miêu tả khoa học đầu tiên năm 1804. Theo Cavanilles thì Luis Née (1735-1807) là người châu Âu đầu tiên tìm thấy loài này tại vương quốc Peru trong khu vực giữa Obrajillo và Canta (miền trung Peru) tháng 10 năm 1793. Từ nguyên. Tính từ định danh "verticillata" (giống đực: "verticillatus", giống trung: "verticillatum") là tiếng Latinh để nói tới các lá mọc vòng - theo Cavanilles, khi ông viết mô tả bằng tiếng Latinh: "Foliis verticillatis, sublinearibus, subsericeis: floribus solitariis terminalibus" (Lá mọc vòng, gần thẳng, gần như lụa: hoa đơn độc, đầu cành). Phân bố. Loài này được tìm thấy tại nam miền trung Peru tới nam trung và nam Bolivia. Các danh pháp "Ledocarpon chiloense" và "Ledocarpon chilense" đều có nghĩa là liên quan tới Chile; tuy nhiên loài này không được tìm thấy ở Chile hiện nay. Nó được ghi nhận tại Tacna, tỉnh cực nam của Peru hiện nay và trong giai đoạn 1884-1929 thì tỉnh Tacna thuộc về Chile. Mô tả. Cây bụi cao 0,85-1,10 m, nhiều cành và cành con; các cành con ra hoa mập tới 1-1,5 mm, hơi có lông tơ-lông măng; các cành già nhẵn nhụi, màu đen ánh xám. Lá nhiều, mọc đối (Cavanilles cho là mọc vòng, mỗi vòng 6 lá), không cuống, chẻ 2–3 thùy tới đáy, mặt dưới các thùy chủ yếu có lông măng-lông lụa, hình mác-thẳng hoặc thẳng hơi nhọn, nguyên, dài 5–8 mm, rộng 1–1,5 mm. Hoa đầu cành, có cuống dài 0,75–1 cm (ở quả dài tới 2 cm), dày 0,5–0,75 mm, có lông tơ-lông măng, thường khoảng 2 lần dài hơn lá. Lá bắc tổng bao dài 6–10 mm; các thùy con hình chỉ, có lông nhung màu trắng tuyết nhiều hay ít. Các lá đài dài hơn rõ nét các lá tổng bao, dài 10–15 mm, rộng 3–4 mm, hình mác, nhọn thon nhiều hay ít tới nhọn, có lông lụa-lông măng màu ánh trắng. Tràng hoa đường kính 3-3,5 cm, màu vàng kim; cánh hoa khoảng 2-2,5 lần dài hơn lá đài, dài 20 mm, rộng 10 mm, hình nêm, đỉnh thuôn tròn nhiều hay ít hoặc tù, nguyên. Nhị hoa màu ánh vàng. Chỉ nhị dài tương đương bầu nhụy; bao phấn hình trứng-thuôn dài. Bầu nhụy rậm lông màu trắng tuyết hay trắng bạc. Quả nang có lông màu trắng tuyết nhiều hay ít, cao 4–8 mm, khoảng 0,67 lần ngắn hơn đài hoa. Hạt nhỏ màu nâu sẫm.
1
null
Billardiera fraseri là một loài thực vật có hoa trong họ Pittosporaceae. Loài này được (Hook.) F.Muell. mô tả khoa học đầu tiên năm 1862. Đây là loài đặc hữu Tây Úc. Mô tả. "B. fraseri" giống như các thành viên khác của chi, Billardiera, là một cây leo gỗ với lá so le. Phân loại. Loài thực vật này lần đầu tiên được mô tả bởi Hooker năm 1836 với danh pháp "Spiranthera fraseri", và được sửa đổi bởi Mueller năm 1862 thuộc chi "Billardiera". Mẫu được thu thập sớm nhất trong một nhà trẻ ở Úc là MEL 0065042A, được thu thập bởi J.A.L. Preiss trên đồng bằng Swan Coastal, trong cồn cát rừng gần Perth vào ngày 20 tháng 1 năm 1840.
1
null
Ruth Hurmence Green (1915-1980) là một nhà văn, nhà báo người Mỹ. Bà từng là một tín đồ Kitô phái Giám lý, tuy nhiên về sau đã trở thành người vô thần. Bà nổi tiếng với tác phẩm "Hướng dẫn về Thánh kinh của người Nghi ngờ vừa được tái sinh" ("The Born Again Skeptic’s Guide to the Bible") xuất bản năm 1979, và nó là quyền sách bán chạy nhất do tổ chức "Quỹ Tự do khỏi Tôn giáo" ("Freedom From Religion Foundation - FFRF") xuất bản với hơn 10.000 ấn phẩm được bán ra bởi FFRF. Bà cũng là tác giả của nhiều bài luận văn về sau được xuất bản trong tuyển tập "The Book of Ruth" vào năm 1982. Một trong những câu nói nổi tiếng nhất của bà là: "Từng có thời tôn giáo thống trị thế giới. Thời đại đó được biết đến là Thời đại Đen tối." Tiểu sử. Ruth Hurmence Green sinh năm 1915 tại một thị trấn nhỏ ở Sumner, Iowa trong một gia đình theo đạo Tin Lành thuộc phái Giám lý. Năm 1935 bà tốt nghiệp Đại học Công nghệ Texas ngành báo chí. Bà kết hôn với Truman Green, một kỹ sư và hai người có với nhau ba mặt con. Về sau, cả gia đình chuyển sang định cư hẳn ở Jefferson City, Missouri. Năm 1960, người chị em duy nhất của Ruth mất vì ung thư vú và bản thân Ruth cũng trải qua một ca phẫu thuật lớn ở vùng ngực. Ít năm sau, bà mắc bệnh ung thư da và đến năm 1975 bà được chẩn đoán là mắc bệnh ung thư vòm họng. Trong thời gian chữa trị ung thư vào đầu thập niên 1970, Ruth - tự nhận là "một tín đồ Giám lý nửa vời" trong thời điểm đó - bắt đầu bỏ thời gian tìm hiểu nội dung quyển Thánh kinh của Kitô giáo. Sau hai năm đọc Thánh kinh, Ruth từ bỏ Kitô giáo và trở thành một người vô thần kiên định. Năm 1981, bệnh ung thư vòm họng của bà tái phát, nhưng bà giấu kết quả chẩn đoán vì hiểu rằng căn bệnh mình mắc phải đã ở giai đoạn cuối. Ruth Hurmence Green mất ngày 7 tháng 7 năm 1981 sau khi uống một lượng quá liều thuốc giảm đau. Trong bức thư viết cho người bạn Annie Laurie Gaylor vào 3 ngày trước đó, Ruth viết "Tự do thoát khỏi tôn giáo phải phát triển và nảy nở. Tự do phụ thuộc vào những người có tự do tư tưởng." Ruth Hurmence Green tham gia một buổi thuyết giảng tại Đại học Nhất vị luận Columbia, MO vào tháng 11 năm 1980, chưa đầy 1 năm trước khi bà qua đời, nói về những gì bà phát hiện được khi tìm hiểu Thánh kinh. Bà cũng nói về thời gian bà là tín đồ Giám lý không hoàn toàn sùng đạo - từ lúc cha mẹ ép đi nhà thờ cho đến khi bà hiểu rõ bản chất cuốn Kinh thánh. Ruth nhận định rằng không có một trang nào của Kinh thánh mà không làm bà tức giận ở một khía cạnh nào đó, và bà cảm thấy rùng mình khi nhớ lại những lời thánh ca "tệ hại" mà bà từng rất thích hát hồi nhỏ. Ruth mô tả những gì bà phát hiện ra trontg thánh kinh là "vỡ mộng và giải thoát". Phim tài liệu "A Second Look at Religion". Ruth Hurmence Green được FFRF phỏng vấn trong bộ phim tài liệu "Cái nhìn thứ hai về Tôn giáo" ("A Second Look at Religion"), đây là bộ phim đầu tay của FFRF, sản xuất năm 1980. Đoạn phỏng vấn Ruth được phát sóng lần thứ hai trên trong một chương trình của "Đài phát thanh Tự do tư tưởng" ("Freethought Radio") sau khi bà qua đời. Trong buổi phỏng vấn này, Ruth bộc bạch rằng bà từng đều đặn đi lễ nhà thờ suốt hơn 50 năm cho đến khi một người thân khuyên bà rằng cuốn Thánh kinh không giống như bà nghĩ. Và sau khi tìm hiểu cuốn Thánh kinh, Ruth cũng nhận ra rằng quyển sách này thật sự đáng kinh tởm chứ không tốt đẹp như người ta thường dạy bà. Vỡ mộng và giận dữ trước sự thật này là động lực khiến Ruth quyết định bắt tay vào viết tác phẩm nổi tiếng "The Born Again Skeptic’s Guide to the Bible". Bà nói: ""Hành vi của Thiên chúa là thứ xúc phạm tôi nhiều nhất" và giải thích lý do cuốn Thánh Kinh không thể nào cho trẻ con đọc vì nó "đầy dẫy bạo lực và đồi trụy". Ruth cũng cho rằng cây thánh giá thật ra là biểu tượng của sự tra tấn và con người không thể nào chấp nhận việc trưng bày một dụng cụ hành hình ở nơi công cộng hay đeo nó ở cổ. Ruth thừa nhận rằng "có một số lời dạy tốt trong Thánh kinh"" nhưng người đọc phải lướt qua tất tần tật những trang sách bạo lực để tìm kiếm nó. Bà kết luận Thánh kinh là cuốn sách nguy hiểm, và Thiên chúa không phải là tình yêu mà là hận thù. Các tác phẩm khác. Bài luận của Ruth Hurmence Green được đăng trong tuyển tập "Women Without Superstition" do Annie Laurie Gaylor biên tập, bao hàm các bài viết của hơn 50 nhà hoạt động vì quyền lợi của phụ nữ, trong đó có những tên tuổi nổi tiếng như Elizabeth Cady Stanton và Margaret Sanger.
1
null
Tống Gia Thụ (, tên tiếng Anh: Charles Jones Soong) (tháng 2 năm 1863 – 3 tháng 5 năm 1918), tên chữ: Diệu Như (耀如 "Yàorú") là một doanh nhân người Trung Quốc tại Thượng Hải. Ông là bạn thân của Tôn Dật Tiên và cũng là người đóng vai trò quan trọng trong các sự kiện dẫn đến cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911. Con cái của ông nằm trong số những người xuất chúng nhất trong lịch sử của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Trung Hoa Dân Quốc. Tuổi trẻ. Tống Gia Thụ có tên khai sinh là Hàn Giáo Chuẩn (韓教準), được sinh ra tại vùng ngoại ô phía tây thành phố Văn Xương, Hải Nam, Trung Quốc khoảng giữa các năm 1863 và 1866 và là con trai thứ ba của Hàn Hồng Dực (韓鴻翼 "Hán Hóngyì"). Ông là một người Hải Nam Văn Xương có tổ tiên là người Khách Gia. Khi 15 tuổi, ông cùng chú của mình đi tàu buồm đến Boston, Hoa Kỳ và trở thành những công nhân nhập cư. Sau một thời gian làm việc cho chú của mình, ông ra làm riêng và nhanh chóng được một nhóm những người truyền giáo phong trào Giám Lý thu nhận. Ngay sau đó ông cải sang đạo Kitô hữu và được đặt tên đạo là Charlie Jones Soon. Charlie Soon có thể là tên được Anh hóa từ Chiao-Shun (Giáo Chuẩn) nhưng cái tên đệm Jones được lấy từ đâu thì vẫn chưa rõ. Mãi đến nhiều năm sau, ông mới thêm chữ cái "g" vào họ của mình thành Soong. Những tín hữu Giám Lý sắp xếp cho Tống đến sống cùng nhà tư bản công nghiệp và cũng là một người hảo tâm Julian Carr tại Bắc Carolina. Carr đã đóng góp rất nhiều cho trường Chúa Ba Ngôi (nay là đại học Duke và sau đó đã giúp được người thanh niên Trung Quốc mà mình bảo trợ vào học năm 1880 mặc dù Tống Gia Thụ không có một bằng cấp nào để đủ tiêu chuẩn vào đại học. Triển vọng có một người Trung Quốc bản địa làm truyền giáo tại Trung Quốc đã làm xúc động một số mục sư ở đó. Họ dạy cho cậu tinh thông tiếng Anh và học kinh Thánh. Một năm sau, cậu chuyển sang đại học Vanderbilt, tại đây cậu đã lấy bằng Thần học năm 1885. Năm 1886, Tống được cử đến Thượng Hải truyền giáo. Từ nhà truyền giáo đến nhà cách mạng. Sự nghiệp truyền giáo của ông kéo dài không lâu. Vào cuối thập niên 1880, Tống Gia Thụ bắt đầu mệt mỏi với việc truyền giáo và cảm thấy mình có thể làm nhiều hơn cho người dân của mình nếu ông không bị ràng buộc với những hạn chế và phương pháp của nhà thờ. Năm 1894 Tống Gia Thụ đã có được mối kết giao được coi là quan trọng nhất cuộc đời ông khi ông gặp Tôn Dật Tiên trong buổi hành lễ chủ nhật tại nhà thờ Giám Lý Thượng Hải. Giữa hai người có nhiều điểm chung, cùng đi học ở Tây, sinh cùng vùng, cùng phương ngữ, cùng đức tin Thiên chúa và đều có khát khao cháy bỏng thay đổi Trung Quốc. Có lẽ quan trọng nhất là cả hai đều là thành viên của Hội Tam Hoàng chống nhà Thanh. Họ nhanh chóng trở thành bạn thân và Tống bắt đầu tài trợ cho các chiến dịch của Tôn. Xây dựng Tống gia. Trong những năm chuẩn bị cho cuộc cách mạng 1911, Tống Gia Thụ đã xây dựng gia đình ở Thượng Hải với người vợ Nghê Quế Trân (倪桂珍 "Ni Kwei-Tseng"). Người con đầu của hai người ra đời năm 1890 là Tống Ái Linh. Người con gái thứ hai là Tống Khánh Linh (sinh năm 1893) và một năm sau đó thì Tống Tử Văn, con trai đầu của họ ra đời. Năm 1897, Quế Trân sinh Tống Mỹ Linh, người con gái út, và cuối cùng là hai con trai Tống Tử Lương (宋子良 "Sòng Zǐliáng") và Tống Tử An (宋子安 "Sòng Zǐān"). Rạn nứt với Tôn Dật Tiên. Khi ở Tokyo, Tống Ái Linh đã cưới ông chủ ngân hàng giàu có Khổng Tường Hy, và do đó cô không còn phù hợp để làm thư ký cho Tôn Dật Tiên. Thay vào đó, Tống Khánh Linh đã nhận công việc này khi đang ở Tokyo. Mối quan hệ giữa Khánh Linh và Tôn sớm nảy sinh tình cảm. Khi Tống Gia Thụ đưa gia đình trở về Thượng Hải năm 1916, họ vẫn bí mật giữ liên lạc với nhau. Tuy nhiên, việc theo đuổi mối quan hệ này dẫn đến nhiều vấn đề vì Tôn đã kết hôn. Do vậy, Gia Thụ thấy bị xúc phạm khi Khánh Linh xin trở lại Nhật để tham gia với Tôn. Rồi Khánh Linh bất chấp cha mình ngăn cản và giữa đêm khuya trốn lên thuyền để tới Tokyo, điều này đã khiến Gia Thụ cắt đứt mọi liên hệ với Tôn và đoạn tuyệt với con gái mình. Cái chết. Tống Gia Thụ mất ngày 3 tháng 5 năm 1918. Nguyên nhân được cho là ung thư dạ dày.
1
null
Đảo Gò Găng là một địa điểm tọa lạc tại địa phận xã Long Sơn, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, Việt Nam. Địa lý. Đảo Gò Găng nằm cách trung tâm thành phố Vũng Tàu khoảng 3 km về phía Tây Nam. Tổng diện tích 30 km² cùng với việc 3 mặt giáp sông và 1 mặt giáp biển tạo nên hệ thống mạng lưới giao thông đường thủy khá hoàn thiện, đảo Gò Găng được thiên nhiên ưu đãi tạo nên một vị thế chiến lược trong việc phát triển nền kinh tế biển. Bên cạnh đó, Gò Găng không chỉ có biển mà còn có hệ thống rừng, ao hồ. Điều này mang lại mang lại một lợi thế không nhỏ đến sự phát triển du lịch phía Tây Nam của Vũng Tàu. Hiện trạng. Trước đây, Gò Găng là một vùng đất tương đối hoang hóa, người dân muốn sang đảo thì phải di chuyển bằng thuyền bè, sống trong cảnh không điện không nước tiêu xài. Nhưng tính đến thời điểm năm 2005, tình hình có phần khả quan hơn nhờ việc dự án cầu Gò Găng được xây dựng. Cầu Gò Găng được xây dựng nối với quốc lộ 51 đi qua đảo, tạo sự thuận tiện cho việc đi lại ra và vào đảo. Đồng thời vào tháng 9/2011, việc hỗ trợ điện gió đã được một số danh nghiệp giúp đỡ. Điều này đem đến sự hy vọng một cuộc sống tươi sáng hơn nhiều tích cực hơn cho 160 hộ dân cư mà trong đó chỉ có 20% hộ có điều kiện kinh tế khá giả đang cư trú trên đảo. Cơ hội. Và cũng vào năm 2011, dự án quy hoạch Gò Găng đã được tổ chức thành cuộc thi thiết kế và kết quả là một công ty của Pháp đã giành chiến thắng. Với ý tưởng xây dựng Gò Găng trở thành một đô thị thân thiện với môi trường với những đặc trưng vốn có của nó chẳng hạn như xây dựng dựa trên các đặc điểm địa hình, mặt nước và cảnh quan thiên nhiên của Gò Găng. Với diện tích đảo là 1.350 ha (13,5 km²), khu đô thị chỉ chiếm 743 ha, còn lại là diện tích mặt nước 127 ha và 480 ha rừng ngập mặn. Quy mô dân số khoảng 53.000 người hình thành 4 phân khu chức năng chính gồm khu mậu dịch tự do gắn liền với sân bay, khu trung tâm thương mại văn phòng, khu cửa ngõ và vùng lõi bố trí công ty ứng dụng. Hiện tại, Gò Găng chỉ hấp dẫn khách du lịch bởi làng nuôi cá bè. Còn về các mặt khác, Gò Gằng chưa đem đến sự thu hút mà chỉ đạt ở mức tiềm năng chưa được khai thác như du lịch sinh thái, du lịch sông nước, biển, đảo và rừng ngập mặn...
1
null
"Chùa Minh Thành" nằm cách trung tâm thành phố Pleiku khoảng 2Km tọa lạc ở số 348 đường Nguyễn Viết Xuân, phường Hội Phú, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. "Chùa Minh Thành" được xem là điểm tham quan hấp dẫn của thành phố Pleiku - Gia Lai. Chùa Minh Thành lấy phong cách kiến trúc chùa chiền Nhật Bản. Chùa được xây dựng từ năm 1964 bởi Hòa thượng Thích Giác Đạo và trở thành nơi thờ cúng, dâng hương của Phật tử trong vùng. Khái quái lịch sử xây dựng. Chùa Minh Thành do Đại đức Thích Tâm Mãn làm trụ trì. Đai Đức xuất gia và tu học từ 6 tuổi và ở Pleiku, tỉnh Gia Lai, năm 1987 Thầy vào chùa Niết Bàn núi Thị Vải, năm 1989 Thầy lên Sài Gòn và ở chùa Long Bửu, Khánh Hội quận 04 trong khoảng thời gian thầy ở chùa Long Bửu 11 năm và du học Đài Loan được 7 năm, Đại đức Thích Tâm Mãn đã tốt nghiệp thủ khoa cao học mỹ thuật học Phật giáo, kiến trúc chùa tháp Phật giáo, nghệ thuật Phật giáo, là người tu sĩ đầu tiên ở Việt Nam tốt nghiệp khoa này. Đại đức đang là giảng viện của Phật học viện Phật giáo. Ngôi chánh Điện có hai tầng, Đại Hùng Bửu Điện và Đại Bi Điện. Kiến trúc. Kiến trúc chùa ngay tại chánh điện được xây dựng theo một hình thức đơn giản của mạn-đà-la (maṇḍala). Vòng tròn tượng trưng như một đóa hoa sen nở trọn - là căn bản của vũ trụ luận Mật giáo. Kiến trúc chùa lấy phần lớn từ kiến trúc chùa Nhật Bản. Với đặc điểm phức tạp và hoa mỹ mang tính nghệ thuật cao, kết cấu bền vững tỉ mỉ từng chi tiết như con sơn, khớp mộng đòi hỏi những người thợ lành nghề nhất nắm được những kỹ thuật mới có thể thực hiện được. Thông thường, có hai bộ mạn-đà-la là: Kim cang giới mạn-đà-la (vajradhātu-maṇḍala) và Thai tạng giới mạn-đà-la (garbhadhātu-maṇḍala), là đại biểu tượng trưng cho trí tuệ sở chứng của Phật và biểu tượng cho phương tiện độ sinh của Ngài. Mỗi mạn-đà-la đều dựa trên một số chủ điểm tư tưởng của Đại thừa giáo. Những tác phẩm nghệ thuật chạm khắc tượng ở nơi đây, dựa trên nền tảng của triết học Mật giáo. Nó bao hàm cả hai khía cạnh văn chương và triết lý, gần như tất cả tinh hoa của tư tưởng và văn học Phật giáo Đại thừa Mật tông. Cửa chánh điện chiều cao 6m, khung cửa dày 4 tấc với 6 cánh cửa dày 2 tấc, được chạm khắc 6 vị đại Bồ Tát trên hệ thống cửa. Bộ lư và đèn được làm bằng chất liệu gốm, phục chế theo phong cách đời Lê mạt. Bàn thờ Phật tại chánh điện lớn nhất, với chiều dài 6m và cao 1,2m. Bộ chuông mõ lớn nhất. Kế đến là cặp bảo cái, cặp tràng phan, bệ hoa sen được đưa từ Nhật về. Các tượng Phật và Bồ tát thì được đưa từ Đài Loan về. Chánh điện chùa cao 16m, trần nhà làm bằng gỗ pơ-mu, và sập gụ, bên trong chánh giữa điện tôn trí tượng "Tỳ Lô Giá Na Phật", cao 6m, nặng 16 tấn, mỗi cách sen có chạm khắc nổi những vị Phật, và vách phía sau là bát thập bát Phật (88 vị Phật). Ngũ phương Phật (5 vị Phật) Đông, Tây, Nam, Bắc, bát bộ kim cang (8 vị Hộ pháp), tượng Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, ngoài ra còn có các tượng Văn Thù, Phổ Hiền, Hai bên tả hữu, tôn trí tượng Thập nhị Duyên Giác (12 vị đại bồ tát), mỗi tượng cao ba mét làm bằng gỗ mít, sơn son thiếp vàng, Hai bên vách chánh điện có 30 ngàn vị Phật. Tất cả các bức tượng này được chạm nổi vào tường rất công phu. Đại Bi đường thờ Quan Thế Âm Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn, mà theo cách gọi dân dã đó là Phật nghìn mắt nghìn tay, theo phong cách Việt Nam, cao 7,5m, thờ hai bên tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn là 2 tượng Hộ pháp cao 3m, ba pho tượng được chạm khắc bằng gỗ thờ tại tầng dưới theo hướng tây của chánh điện. Tháp Từ Ân thờ tổ khai sơn, tháp có ba tầng mái, lợp ngói âm dương, trang trí rồng và hoa sen cách điệu. Bên trái chánh điện là tháp chuông, tôn trí đại hồng chung nặng 4 tấn thờ bên trái chánh điện. Trước sân chùa Tượng đức Phật A Di Đà bằng đá, cao 7,5m, nặng 40 tấn được tôn trí uy nghiêm giữa hồ nước Liên Trì ao sen với hoa nở ánh hồng cả mặt nước. Một công trình khác đang được thi công và sắp hoàn thành đó là ngôi bảo tháp thờ Xá Lợi 9 tầng cao 72m, được tôn trí bên trong bảo tháp là 4 vị Thiên thủ Thiên nhãn, cao 8m và ngang 3,5m, được chạm khắc rất tinh tế sống động từng chi tiết bằng gỗ mít. Tầng 1 và các tầng khác sẽ là nơi thờ thất Phật và Xá lợi của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Trước "ao Liên Trì" là lư hương bằng đồng lớn nhất, cao 4m, nặng 4 tấn. Bên phải chánh điện là khu tăng phường (gồm trai đường, giảng đường, thiền đường và tàng kinh các) có diện tích hàng ngàn mét vuông, và những công trình khác như; phương trượng đường; khách đường. Những công trình đang sắp hoàn thành, xây cổng tam quan; nhà Tổ; nhà tăng; Điện thờ 500 vị La hán được làm bằng gỗ mít. Giới đường, đang chuẩn bị thi công, điện thờ Tứ Đại Thiên Vương.
1
null
Love, Lust, Faith and Dreams (viết cách điệu: LOVE LUST FAITH + DREAMS) là album phòng thu thứ tư từ ban nhạc rock Mỹ Thirty Seconds to Mars. Concept album đã được phát hành thông qua Virgin Records vào ngày 17 tháng năm 2013. Sau khi phát hành, nó đạt vị trí số 6 trên bảng xếp hạng Billboard 200. Khái niệm. Love, Lust, Faith and Dreams là một concept album xoay quanh các chủ đề album được đặt tên. Album này được chia thành bốn phần, mỗi phần là Tình yêu, Dục vọng, Đức tin và Những giấc mơ, với sự khởi đầu của mỗi đoạn được thông báo bằng một giọng nữ loan báo tên của phân khúc này trước khi bắt đầu một bài hát hoặc ở cuối một phân khúc giới thiệu phân khúc tiếp theo của album. Một album concept cụ thể hơn có thể được tìm thấy trong đĩa CD. Nó được chia làm bốn màu sắc, với màu đỏ ứng cho tình yêu, màu xanh lá cây cho Dục vọng, màu vàng cho Đức Tin và màu xanh / tím cho những giấc mơ. TÌNH YÊU có "Birth" và "Conquistador". DỤC VỌNG chứa "Up in the Air", "City of Angels", "The Race", "End of All Days" và "Pyres of Varanasi". ĐỨC TIN chứa "Bright Lights", " Do or Die " và "Convergence". NHỮNG GIẤC MƠ chứa "Northern Lights", và "Depuis Le Début". Tiếp nhận phê bình. Love, Lust, Faith and Dreams nhận được đánh giá tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc. Metacritic, album nhận được trung bình 62 điểm, dựa trên 11 đánh giá. Thực hiện biểu đồ. Love, Lust, Faith and Dreams đứng vị trí số 6 trên bảng xếp hạng Billboard 200 và bán được 52.000 bản trong tuần đầu tiên phát hành.
1
null
"Up in the Air" là một đĩa đơn do ban nhạc rock người Mỹ Thirty Seconds to Mars thu âm, rút từ album phòng thu thứ tư "Love, Lust, Faith and Dreams". Đĩa đơn phát hành vào ngày 19 tháng 3 năm 2013. "Up in the Air" đã được đề cử cho giải Video xuất sắc nhất tại Kerrang!Giải năm 2013. Video nhạc. Video được quay tại một tòa nhà sản xuất hàng không vũ trụ lớn, bây giờ không còn tồn tại, tại Los Angeles, California vào ngày 7 đến ngày 09 tháng 2 năm 2013, dưới sự chỉ đạo của ca sĩ Jared Leto. Leto là nhà sản xuất, đạo diễn và là người chỉnh sửa bộ phim ngắn. Emma Ludbrook và Jett Stieger lần lượt là nhà điều hành sản xuất và dây chuyền sản xuất. David Devlin là đạo diễn hình ảnh, trong khi Floyd Albee góp phần thiết kế sản xuất. Video nhạc chính thức được phát hành trên YouTube vào ngày 19 tháng 4 năm 2013. Trước khi đoạn video âm nhạc bắt đầu, thông điệp cảnh báo rằng nó đã được xác định có khả năng gây ra cơn động kinh cho những người có động kinh cảm quang. Các khía cạnh của tình yêu (amor), ham muốn (страсть), đức tin (信念), và những giấc mơ (Reves) được thể hiện trong suốt video. Video được đề cử cho video xuất sắc nhất tại Kerrang! Giải thưởng năm 2013. Vào ngày 25 tháng 8 năm 2013 nó đã giành giải thưởng "Video Rock xuất sắc nhất" tại 2013 MTV Video Music Awards. Bảng xếp hạng và giải thưởng. Giải thưởng. !Năm !Lễ trao giải !Hạng mục !Kết quả
1
null
Dương đào Trung Quốc (danh pháp khoa học: "Actinidia chinensis") là một loài thực vật có hoa trong họ Dương đào, phát triển rộng ở phía đông nam Trung Quốc. Loài này được Planch mô tả khoa học đầu tiên năm 1847. "Actinidia chinensis" có mối quan hệ gần gũi với "Actinidia deliciosa", là nguồn quả kiwi thương mại phổ biến nhất. Màu quả có thể màu xanh là đến vàng chanh hoặc vàng kim, tùy theo giống cây trồng. Môi trường sống. Trong môi trường sống tự nhiên của "Actinidia chinensis" mọc trong các bụi cây, rừng rậm (sồi) (ví dụ "Quercus aquifolioides", "Quercus oxyodon", "Quercus lamellosa"), và các khu rừng thứ sinh và rừng rậm. "A. chinensis" ưa thích sườn dốc và cũng thích phát triển trong khe núi, độ cao hàng đầu 200-230m, so với vi khí hậu địa phương. Trong các khu vườn phương Tây, nó có thể rộng 30 feet theo mọi hướng, khiến nó không phù hợp với tất cả trừ những không gian lớn nhất trừ khi được cắt tỉa cứng vào cuối mỗi mùa sinh trưởng. Nguồn gốc và canh tác. Nguồn gốc của "Actinidia chinensis" là từ Hồ Bắc hoặc Tứ Xuyên, Trung Quốc xuất khẩu sang New Zealand vào năm 1904. Ở Trung Quốc, Actinidia chinensis phân tán ở toàn bộ phía đông nam của đất nước. Nó được trồng lần đầu tiên ở New Zealand, nơi nó được lai tạo thương mại như giống, "Actinidia deliciosa". Tập mẫu cây đã được chuyển đến Hiệp hội trồng trọt Hoàng gia Anh, Robert Fortune, từ đó Jules Émile Planchon đặt tên cho chi mới trong Tạp chí Botany của London, 1847. Charles Maries, thu thập cho Messrs Veitch Nhật Bản, nhưng giới thiệu về nghề làm vườn phương Tây là từ EH Wilson, người đã gửi hạt giống được thu thập ở Hupeh đến Veitch vào năm 1900.
1
null
Actinidia deliciosa là một loài thực vật có hoa trong họ Dương đào. Loài này được (A.Chev.) C.F.Liang & A.R.Ferguson mô tả khoa học đầu tiên năm 1984. Đây là loài bản địa miền nam Trung Quốc, trái cây đã được tuyên bố là trái cây quốc gia của quốc gia đó. Các loài Actinidia khác cũng được tìm thấy ở Trung Quốc và nằm ở phía đông đến Nhật Bản và phía bắc vào các khu vực phía nam của Viễn Đông Nga. Loài này mọc tự nhiên ở độ cao từ 600 đến 2.000 m. Lịch sử. Năm 1847, mẫu vật của nhà máy được thu thập bởi đại lý của Hiệp hội trồng trọt Hoàng gia, London. Tu luyện lan rộng từ Trung Quốc vào đầu thế kỷ 20 khi hạt giống được giới thiệu đến New Zealand bởi Isabel Fraser, hiệu trưởng trường đại học nữ Wanganui, người đã đến thăm các trường truyền giáo ở Trung Quốc. Những hạt giống được trồng vào năm 1906 bởi một người mẫu giáo Wanganui, Alexander Allison, với những cây nho đầu tiên ra hoa vào năm 1910. Những người nếm thử trái cây nghĩ rằng nó có hương vị của quả lý chua lông, vì vậy bắt đầu gọi nó là quả lý chua lông Trung Quốc, nhưng thuộc chi Actinidia, nó không liên quan đến họ "Grossulariaceae". Giống cây trồng quen thuộc "Actinidia deliciosa" 'Hayward' được phát triển bởi Hayward Wright ở Avondale, New Zealand, vào khoảng năm 1924. Đây là giống cây được trồng rộng rãi nhất trên thế giới. Cây ngỗng Trung Quốc ban đầu được trồng trong vườn trong nước, nhưng trồng thương mại bắt đầu từ những năm 1940. Vào năm 1959, Turners and Growers đã đặt tên cho nó là quả kiwi, theo tên loài chim quốc gia của New Zealand, kiwi nâu và lông. Tính đến năm 2006, Ý là nhà sản xuất quả kiwi hàng đầu thế giới, tiếp theo là New Zealand, Chile, Pháp, Hy Lạp, Nhật Bản và Hoa Kỳ. Ở Trung Quốc, nó được trồng chủ yếu ở khu vực miền núi ở thượng nguồn sông Dương Tử. Nó cũng được trồng ở các khu vực khác của Trung Quốc, bao gồm cả Tứ Xuyên. Năm 2016, sản lượng quả kiwi toàn cầu là 4,3 triệu tấn, dẫn đầu là Trung Quốc với 56% tổng sản lượng của thế giới. Ý và New Zealand là những nhà sản xuất lớn khác. Trong năm 2010 và 2011, cây nho kiwi trên toàn thế giới, ở Ý, Pháp và New Zealand, đã phải chịu những cuộc tấn công tàn khốc bởi một bệnh do vi khuẩn do "Pseudomonas syringae" pv. "actinidiae" gây ra. Actinidiae, với một số cuộc tấn công ở New Zealand bởi chủng độc lực PSA-V. Bệnh lần đầu tiên được chú ý ở Nhật Bản vào những năm 1980 và sau đó là ở miền bắc Italy (1992) và Hàn Quốc.
1
null
Actinidia polygama là một loài thực vật có hoa trong họ Dương đào. Loài này được (Siebold & Zucc.) Maxim. mô tả khoa học đầu tiên năm 1859. Loài này mọc ở các khu vực miền núi của Nhật Bản và Trung Quốc ở độ cao từ 500 đến 1900 m. Cây có thể cao tới 5-6 m khi trưởng thành. Đây là một loài cây leo rụng lá và chịu được nhiệt độ xuống tới −30°C. Lá cuống lá có màu bạc và trắng và dài 6-13 cm và rộng 4-9 cm. Những dấu hiệu đầy màu sắc này làm cho cây có thể nhận dạng từ xa, cho đến mùa hoa khi lá chuyển sang màu xanh hoàn toàn. Mùa ra hoa kéo dài từ cuối tháng 6 đến đầu tháng 7, trong đó cây mang hoa trắng đường kính khoảng 2,5 cm. Tuổi thọ của một bông hoa riêng lẻ là 2-3 ngày, khi cây cũng bắt đầu phát triển các quả nhỏ, màu vàng đến màu vàng đỏ, hình trứng, thịt và nhiều quả, trưởng thành từ tháng 9 đến tháng 10. Quả rộng khoảng 1,5 cm và dài 3.0 .4.0 cm. Bên trong của trái cây giống như quả kiwi thông thường, nhưng nó có màu cam chứ không phải màu xanh lá cây. Loài cây này đòi hỏi đất ẩm, thoát nước tốt, và một phần bóng râm để ánh nắng mặt trời đầy đủ. Cây phát triển nhanh này làm cho che phủ tốt trên hàng rào hoặc lưới mắt cáo. Nó đang trở nên ngày càng phổ biến như một loại cây ăn quả.
1
null
Ốc sên nướng là một món ăn bắt nguồn từ dân tộc Mường. Món này thường được dùng với nước chấm là nước mắm. Cách làm. Khi thực hiện món ăn này, ốc sên phải làm sạch và chế biến thật kĩ để tránh còn sót các ký sinh trùng và ấu trùng giun trong thịt ốc sên, có khả năng gây viêm màng não. Ốc sên phải được làm thật sạch trước khi chế biến. Chỉ sử dụng phần thịt cứng và dùng giấm hoặc chanh, muối hạt chà xát cho sạch nhớt. Thông thường người ta thường làm sạch ốc sên ở ngoài suối do có nước chảy. Sau khi làm sạch, ốc sẽ đem đi nướng thật kĩ và có mùi thơm, khi đó chúng có thể được chế biến thành những món khác như ốc xào... Sau khi hoàn tất, người ta rắc lá chanh đã thái rồi và rắc lên. Có thể dùng chung với nước chấm như nước mắm, tương ớt... (tùy khẩu vị của người thưởng thức). Tác dụng. Thịt ốc sên có khá nhiều chất đạm so với những loài sò, trai, hến. Nó chiếm 11% chất đạm và có 6.2% đường và nhiều loại amino acid. Khá tốt cho sức khỏe nhưng phải ăn chín để tránh bệnh về sau.
1
null
Zabelia angustifolia là một loài thực vật có hoa trong họ Kim ngân. Loài này được Louis Édouard Bureau và Adrien René Franchet mô tả khoa học đầu tiên năm 1891 dưới danh pháp "Abelia angustifolia". Năm 1948 Tomitarô Makino chuyển nó sang chi "Zabelia". Loài này phân bố ở phía nam miền trung Trung Quốc. Một số tác giả coi loài này là đồng nghĩa của "Zabelia buddleioides".
1
null
Lục đạo mộc Trung Quốc hay trà điều thụ (danh pháp khoa học: Abelia chinensis) là một loài thực vật có hoa trong họ Kim ngân nghĩa rộng. Loài này được Robert Brown mô tả khoa học đầu tiên năm 1818. Lưu ý rằng tại Trung Quốc loài này được gọi là 糯米条 (nhu mễ điều), trong khi tên gọi 六道木 (lục đạo mộc) chủ yếu dành cho các loài thuộc chi "Zabelia". Đặc điểm. Là một trong những loài chịu lạnh tốt nhất trong chi "Abelia". Cây bụi, có thân màu ánh đỏ với lá từ sớm rụng tới bán thường xanh, cao tới 2 m, ra nhiều cành. Các cành non thanh mảnh và có lông tơ. Lá nhỏ, bóng, mọc đối, đôi khi mọc vòng 3; phiến lá hình trứng, 2-5 × 1-3,5 cm, có lông tơ thưa thớt ở phía xa trục, lông măng trắng rậm ở gốc gân giữa và gân bên, gốc lá thuôn tròn hay hình tim, mép có khía tai bèo-khía răng cưa thưa, nhọn mũi. Cụm hoa là một chùy hoa lớn ở đầu cành gồm các hoa cặp đôi (các hoa nở kế tiếp nhau). Lá trở thành màu nâu ánh đỏ vào đầu mùa thu. Hoa có mùi thơm, với 6 lá bắc thuôn dài hay hình mác ở gốc của các bầu nhụy cặp đôi. Đài hoa gồm 5 lá đài, hình elip, 5–6 mm, chuyển thành màu đỏ khi tạo quả. Tràng hoa 5 thùy, màu từ trắng tới hồng, hình ống, 10–12 mm, khoảng 2 lần chiều dài lá đài, phía ngoài có lông tơ và lồi tại gốc ống tràng. Nhị và vòi nhụy dài thò ra ngoài; chỉ nhị thanh mảnh, dài tương đương, gài vào gốc ống tràng. Bầu nhụy hình trụ, hơi bị ép, có lông tơ, có sọc theo chiều dọc; núm nhụy hình đầu. Quả bế với các lá đài không rụng và hơi phình to phía trên đỉnh. Ra hoa tháng 8-9, tạo quả tháng 10-11. Số nhiễm sắc thể 2n = 32. Phân bố. Loài sinh trưởng trong khu vực miền núi ở cao độ 200-1.500 m. Có tại một số tỉnh của Trung Quốc (như Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Hà Nam?, Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tô?, Giang Tây, Tứ Xuyên, Vân Nam, Chiết Giang); Đài Loan, Nhật Bản và miền bắc Việt Nam. Loài được trồng phổ biến tại Trung Quốc.
1
null
Abelia chowii là một loài thực vật có hoa trong họ Kim ngân. Loài này được Gin Hoo mô tả khoa học đầu tiên năm 1951. Tên gọi trong tiếng Trung: 泰宁六道木 (Thái Ninh lục đạo mộc), 福建六道木 (Phúc Kiến lục đạo mộc), 周氏六道木 (Chu thị lục đạo mộc). Theo Plants of the World Online thì loài này có ở đông nam Trung Quốc.
1
null
Zabelia dielsii là một loài thực vật có hoa trong họ Kim ngân. Loài này được Karl Otto Robert Peter Paul Graebner mô tả khoa học đầu tiên năm 1900 dưới danh pháp "Linnaea dielsii". Năm 1948 Tomitarô Makino chuyển nó sang chi "Zabelia". Loài này có tại trung bắc và trung nam Trung Quốc (An Huy, Phúc Kiến, đông nam Cam Túc, Quý Châu, Hà Nam, Hồ Bắc, Giang Tây, nam Ninh Hạ, Thiểm Tây, Sơn Tây, Tứ Xuyên, Tây Tạng, Vân Nam, Chiết Giang), bán đảo Triều Tiên, Primorye (Nga). Tên gọi tại Trung Quốc là 南方六道木 (nam phương lục đạo mộc). Là cây bụi, sống trong rừng và đồng cỏ ở cao độ 800-3.700 m. Một số tác giả coi "Zabelia brachystemon", "Zabelia onkocarpa" và có thể cả "Zabelia umbellata" là đồng nghĩa của "Z. dielsii".
1
null