text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
Pteropepon monospermus là một loài thực vật có hoa trong họ Cucurbitaceae. Loài này được José Mariano da Conceição Vellozo minh họa đầu tiên năm 1831 với danh pháp "Feuillaea monosperma". Năm 1916 Célestin Alfred Cogniaux thiết lập chi "Pteropepon" và chuyển nó sang chi này.
Phân bố.
Loài đặc hữu Ecuador. | 1 | null |
Sicydium tamnifolium là một loài thực vật có hoa trong họ Cucurbitaceae. Loài này được Carl Sigismund Kunth miêu tả khoa học đầu tiên năm 1825 tại trang 175 quyển VII trong sách "Nova genera et species plantarum" dưới danh pháp "Fevillea tamnifolia". Năm 1881 Célestin Alfred Cogniaux chuyển nó sang chi "Sicydium". | 1 | null |
Siolmatra brasiliensis là một loài thực vật có hoa trong họ Cucurbitaceae. Loài này được Célestin Alfred Cogniaux mô tả khoa học đầu tiên năm 1878 dưới danh pháp "Alsomitra brasiliensis". Năm 1885, Henri Ernest Baillon chuyển nó sang chi "Siolmatra".
Phân bố.
Loài bản địa tây bắc Argentina, Bolivia, Brasil, Paraguay, Peru. | 1 | null |
Solena amplexicaulis, là một loài thực vật trong họ Bầu bí ("Cucurbitaceae"), có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới Nam Á. Quả, lá, rễ và chồi non được dùng trong thực phẩm và làm thuốc y học cổ truyền. Loài này được (Lam.) Gandhi miêu tả khoa học đầu tiên năm 1976.
Mô tả.
"Solena amplexicaulis" là một loại cây leo lâu năm, có rễ củ dày. Thân cây phân nhánh không có lông, có tua cuốn mảnh. Lá mọc kiểu xen kẽ, cuống lá mảnh dài . Phiến lá có nhiều lông, hình oval hoặc thuôn dài, phần gốc lá hình trái tim và ngọn lá nhọn, dài và rộng . Mép lá có khía cùn, mặt trên và dưới phiến lá có lông hoặc nhẵn.
Cây phân tính (doecy), tức là mỗi cá thể cây chỉ mọc hoặc là hoa đực hoặc là hoa cái. Hoa mọc ở nách lá, hoa đực nhỏ và mọc thành chùm có cuống ngắn gồm 10-12 bông, mỗi bông có một đài hoa hình ống mà từ đó các đầu cánh hoa hình tam giác nhô ra. Chúng có màu vàng kem. Hoa cái khá lớn và thường mọc đơn độc, có 3 đầu nhụy và các bầu nhụy có hình trứng. Quả khi phát triển có thể dài lên đến và chuyển sang màu nâu đỏ khi chúng chín. Hạt có màu trắng xám, hình trứng hoặc tròn.
Phân bố và sinh cảnh.
"Solena amplexicaulis" được tìm thấy ở Sri Lanka, Pakistan, Ấn Độ, Nepal, Bangladesh, Myanmar, Indonesia, Việt Nam và Trung Quốc ở độ cao lên tới . Loài cây phát triển trong môi trường sống đa dạng, chẳng hạn như rừng hỗn hợp nhiệt đới, bụi rậm, khu vực đồi núi, khu vực bán nông nghiệp và ven đường.
Sử dụng.
Ở Ấn Độ, quả của cây "Solena amplexicaulis" được hái khi chưa chín, dùng để làm món salad và chế biến món cà ri, chồi, lá và củ cũng được ăn ở một số vùng. Ở Chhattisgarh, trái và rễ giúp hỗ trợ quá trình tiêu hóa thịt rừng. "Solena amplexicaulis" có thể thu hái từ tự nhiên hoặc trồng trên đồng ruộng.
Trong y học cổ truyền, rễ củ "Solena amplexicaulis" được dùng để điều trị chứng chán ăn, các vấn đề về tiêu hóa, đầy hơi, hen suyễn, lậu và di tinh. Chiết xuất của lá được sử dụng rộng rãi để điều trị viêm. Ngoài ra, chiết xuất ethanol của rễ củ có đặc tính chống oxy hóa, kháng khuẩn và giảm đau, nhưng có độc tính ở mức độ vừa phải. | 1 | null |
Thiết bát hay lục lạc dây (danh pháp khoa học: Zanonia indica) là một loài thực vật có hoa trong họ Cucurbitaceae. Loài này được Carl Linnaeus mô tả khoa học đầu tiên năm 1759.
Tên gọi tại Trung Quốc là 翅子瓜 (sí tử qua), nghĩa đen là dưa quả cánh.
Mô tả.
Dây leo thân gỗ dài 4–15 m; thân có đường kính 3–5 mm, nhẵn nhụi hoặc có lông, thường với bì khổng, các cành già có sẹo lá nhô cao. Các tua cuốn dài 5–15 cm, ở các cây non tại đỉnh với các miếng đệm dính có hình dạng không đều đường kính tới 5mm. Lá: phiến lá dạng màng hoặc gần như dạng da, hình trứng (rộng)-hình elip, 8–20 × 5–12 cm, đáy thuôn tròn rộng hoặc hình tim hoặc đôi khi hình mác, đỉnh tù hoặc gần tù, có mấu nhỏ, cả hai mặt nhẵn nhụi hoặc có lông; 2–5 gân lông chim và một cặp gân ở đáy, gân mắt lưới khác biệt ở mặt dưới; cuống lá dài 1,5–3 cm.
Cụm hoa đực: nhẵn nhụi hoặc có lông, dài (10)15–60 cm, phân nhánh ít hay nhiều (đôi khi cũng phân nhánh từ gốc), các nhánh bên dài tới 15 cm, hoa thường mọc thành chùm tới 5, các chùm cách nhau ít hay nhiều, các cụm hoa lớn hơn thường từ phần thân gỗ già hơn. Hoa đực: cuống hoa khá dày, dài 1–3(–5) mm, khớp nối ở khoảng giữa; các chồi đường kính 2–4 mm; lá đài dạng màng, gần như rời, hình gần tam giác, dài ~2 mm; cánh hoa hình trứng đến hình elip hẹp, dài 2,5–3,5 hoặc 5–7 mm, đỉnh hẹp, gần nhọn, có nhú ở mặt gần trục; nhị hoa xếp trên một đĩa mọng, để trống phần trung tâm, chỉ nhị dài 0,5–1 mm, mọng thịt, bao phấn hình elipxoit nằm ngang, dài (0,5 –)1 mm.
Cụm hoa cái: dài 5 – 40 cm, chùy hoa dạng chùm hoặc phân nhánh, ít hoặc nhiều hoa, hoa đơn độc (hoặc 2 hoa). Hoa cái: lá đài hình tam giác, dài 2–4 mm; cánh hoa hình trứng-hình elip hẹp, dài 3–8 mm, gần nhọn, có lông-nhú mịn; bầu nhụy hình gần trụ-hình nón ngược, 5–12 × 2–3 mm, nhẵn nhụi hoặc có lông; vòi nhụy rất ngắn, đầu nhụy với 2 sừng cong vào nằm ngang, có nhú.
Quả: rủ xuống, từ ít đến nhiều quả trên mỗi chùm quả, kích thước rất biến động, (4–)5–10 × 1,5–4,5(–5) cm, nhẵn nhụi, có lông hoặc có lông sau trở thành nhẵn nhụi.
Hạt: nhạt màu, hình elip, phẳng, không trang trí, 15(–20) × 8(–10) mm, có cánh xung quanh, cánh dạng da, thuôn dài và tròn ở cả hai đầu, 4–6(–8) × 1,3– 1,5(–2) cm.
Phân bố.
Loài bản địa khu vực từ Ấn Độ, Sri Lanka ở phía tây tới Trung Quốc, Đông Nam Á và New Guinea ở phía đông. Hiện được công nhận gồm 2 phân loài và 1 thứ như sau: | 1 | null |
Huy chương lớn của Viện hàn lâm Khoa học Pháp (tiếng Pháp: "La grande médaille de l’Académie des Sciences") là một giải thưởng cao quý của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp, dành cho các nhà khoa học có những đóng góp quyết định vào việc phát triển khoa học.
Huy chương này được thiết lập năm 1997, do việc tập hợp Giải Lalande thiết lập năm 1802 với Giải Benjamin Valz thiết lập năm 1970 cùng 122 Quỹ giải thưởng khác của Viện hàn lâm Khoa học và Institut de France trong năm 1997.
Huy chương này được trao hàng năm cho các nhà khoa học thuộc mọi quốc gia và mỗi năm thay đổi một chuyên ngành khác nhau
Những người đoạt huy chương lớn.
Dưới đây là danh sách các người đoạt huy chương lớn
Liên kết ngoài.
http://www.academie-sciences.fr/activite/prix/grande_medaille.htm | 1 | null |
Lá dâng hoa Nhật, cây hoa trên lá hay hen vin Nhật (tên khoa học: Helwingia japonica) là một loài thực vật có hoa trong họ Helwingiaceae. Loài này được (Thunb.) F.Dietr. mô tả khoa học đầu tiên năm 1817.
Mô tả.
Cây gỗ nhỏ hoặc cây bụi, cao 1 – 2 m. Vỏ cây màu nâu sẫm hay đen ánh xám, nhẵn. Cành non màu xanh, không lông, nhẵn, với các vảy lá rõ nét. Cuống lá 1 – 5 cm. Lá kèm dạng chỉ, chia ở đỉnh. Lá mọc cách, hình trứng hay bầu dục - trứng, cỡ (3)8 - 13 x (1,5)5 – 9 cm, chóp lá thành mũi nhọn, gốc lá hình nêm hoặc gần tròn, mép có răng cưa nhỏ, gân bên 5 - 7 đôi, mép lá hơi cuộn xuống. Hoa đơn tính khác gốc. Hoa đực chụm thành xim 5 - 12 hoa, có (3)4(5) cánh hoa hình trứng, nhị (3)4(5), mọc xen kẽ với cánh hoa. Hoa cái có cuống, mọc đơn độc hay thành cụm 2 - 3 hoa ở trên gân chính của cành hình lá (diệp chi) hoặc ở gần gốc lá; bầu nhụy hạ, 3 ô; vòi ngắn với núm nhụy xẻ thành ba nhánh. Quả hạch gần hình cầu, đường kính 4 – 8 mm, có 3 - 5 cạnh, khi chín màu đen, chứa 3 - 5 hạt. Mùa hoa tháng 4 - 5, tạo quả tháng 7 - 10. Cây chịu bóng, mọc rải rác trong rừng nguyên sinh hoặc rừng thưa vùng núi đá vôi, ở độ cao 100 - 3.400 m.
Phân bố.
Có tại Bắc Myanma, Bhutan, Trung Quốc, Nhật Bản, Nam Triều Tiên, miền Bắc Việt Nam. Tại Việt Nam có tại Lào Cai (Bắc Hà), Hà Giang (Đồng Văn), Hoà Bình (Mai Châu: Pà Cò).
Sử dụng.
Quả và lá làm thuốc chữa kiết lị, ung độc và đại tiện ra máu. | 1 | null |
Ilex paraguariensis là một loài thực vật có hoa trong họ Aquifoliaceae. Loài này được A.St.-Hil. mô tả khoa học đầu tiên năm 1822. Đây là loài bản địa Nam Mỹ. Loài này được đặt danh pháp bởi nhà thực vật học người Pháp Augustin Saint-Hilaire. Lá của cây có thể được ngâm trong nước nóng để tạo ra một loại đồ uống được gọi là "mate". Được ủ lạnh, nó được dùng để làm "tereré". Cả loài cây này và đồ uống đều chứa caffeine.
Người Guaraní bản địa và một số cộng đồng Tupi bản địa (có lãnh thổ bao gồm Paraguay ngày nay) lần đầu tiên trồng và tiêu thụ "yerba mate" trước khi người châu Âu thuộc địa hóa châu Mỹ. Việc tiêu thụ lá cây này chỉ dành riêng cho người bản địa ở hai vùng lãnh thổ mà ngày nay là Paraguay, cụ thể hơn là các tỉnh Amambay và Alto Paraná. Sau khi những người Dòng Tên phát hiện ra tiềm năng thương mại hóa của nó, yerba mate đã trở nên phổ biến khắp tỉnh và thậm chí ở những nơi khác trong Vương quốc Tây Ban Nha.
Theo truyền thống, Mate được tiêu thụ ở các khu vực miền trung và miền nam của Nam Mỹ, chủ yếu ở Paraguay, cũng như ở Argentina, Uruguay, Nam Brazil, Gran Chaco của Bolivia và miền nam Chile. Nó cũng đã trở nên phổ biến trong cộng đồng Druze và Alawite ở Levant, đặc biệt là ở Syria và Lebanon, nơi nó được nhập khẩu từ Paraguay và Argentina, nhờ người nhập cư Syria vào thế kỷ 19 đến Argentina. Yerba mate hiện có thể được tìm thấy trên toàn thế giới trong nhiều loại nước tăng lực cũng như được bán dưới dạng trà đá đóng chai hoặc đóng hộp. | 1 | null |
Ilex verticillata là một loài thực vật có hoa trong họ Aquifoliaceae. Loài này được (L.) A. Gray mô tả khoa học đầu tiên năm 1856. Đây là một loài cây nhựa ruồi có nguồn gốc từ miền đông Bắc Mỹ ở Hoa Kỳ và đông nam Canada, từ đảo Newfoundland về phía tây đến Ontario và Minnesota, và về phía nam đến Alabama.
Loài này còn được gọi là "winterberry" (cây quả mọng mùa đông) trong tiếng Anh. Tại Việt Nam, cây còn được gọi là "hoa đào đông, đông đào đỏ, đào Ilex, hoa Trân Châu Ilex, hoa Trân Châu đỏ", và từ khoảng năm 2012, cây được du nhập về Việt Nam như một loại hoa trưng bày Tết.
Mô tả.
"Ilex verticillata "là một loại cây bụi cao tới 1–5 m (3–16 ft). Đây là một trong số những cây rụng lá, rụng lá vào mùa thu. Ở những nơi ẩm ướt, nó sẽ lan rộng để tạo thành một bụi cây rậm rạp, trong khi ở những nơi đất khô, nó vẫn là một loại cây bụi chặt kín. Các lá có màu xanh bóng, dài 3,5–9 cm (1+3⁄8–3+1⁄2 in), rộng 1,5–3,5 cm (5⁄8–1+3⁄8 in), mép có răng cưa và đỉnh. Những bông hoa nhỏ, thường mọc vào mùa hè, có đường kính 5 mm (0,20 in), với năm đến tám cánh hoa màu trắng.
Quả là một quả hạch màu đỏ hình cầu có đường kính 6–8 mm (0,24–0,31 in), thường tồn tại trên cành suốt mùa đông, khiến cây có tên tiếng Anh là "winterberry" ("cây quả mọng mùa đông", "cây dâu mùa đông"). Giống như hầu hết các loài nhựa ruồi chi Bùi, loài này có cây đực và cây cái riêng biệt; cần có ít nhất một cây đực gần gũi những cây cái để thụ phấn và để đơm hoa kết trái.
Loài này đặc biệt xuất hiện ở môi trường đất ngập nước, nhưng cũng có trên cồn cát khô và đồng cỏ. Quả mọng là nguồn thức ăn quan trọng cho một số loài chim, trong đó có chim cổ đỏ Mỹ. Cây cũng thường được trồng làm cây cảnh trong vườn. Những cành trơ trụi phủ đầy quả mọng vào mùa đông cũng rất phổ biến để cắt và sử dụng trong việc cắm hoa trang trí.
Cây cảnh.
Là loại cây dễ trồng, rất ít bệnh tật hay sâu bệnh. Mặc dù đất chua và ướt là tối ưu, cây "Ilex verticillata" sẽ phát triển tốt trong khu vườn bình thường. Có nhiều giống cây trồng có sẵn, khác nhau về kích thước, hình dạng của cây và màu sắc của quả mọng. Ít nhất một cây đực phải được trồng gần một hoặc nhiều cây cái để chúng đơm hoa kết trái. Bởi vì cả giống cái và giống đực đều có giống ra hoa sớm và muộn, nên những cây đực phải được chọn để có cùng thời điểm với những cây cái mà được dự định thụ phấn.
"Ilex verticillata" được đánh giá cao như một loại cây cảnh trong vườn vì màu sắc tươi sáng giữa mùa đông từ những quả mọng dày đặc, có khả năng nổi bật hơn do mất tán lá vào mùa rụng lá; do đó, cây được trồng ngay cả ở những nơi mà các loại cây thường xanh khác cũng được trồng. Những cành trơ trụi phủ đầy quả mọng cũng rất phổ biến để cắt và sử dụng trong việc cắm hoa trang trí. Vào mùa thu, những chiếc lá chuyển sang màu vàng đôi khi có pha chút đỏ và cam. | 1 | null |
Hiệp định giữa chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và chính phủ Vương quốc Thái Lan về phân định ranh giới trên biển giữa hai nước trong vịnh Thái Lan được ký kết vào ngày 9 tháng 8 năm 1997 tại Bangkok. Những người đặt bút ký hiệp định là Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm và Bộ trưởng Ngoại giao Thái Lan Prachuab Chaiyasan. Hiệp định đã chấm dứt một phần tư thế kỷ tranh cãi giữa Việt Nam và Thái Lan về giải thích và áp dụng luật biển trong phân định vùng chồng lấn giữa hai quốc. Đây là hiệp định phân định biển đầu tiên đạt được trong vịnh Thái Lan, là hiệp định phân định biển đầu tiên được ký kết tại khu vực Đông Nam Á sau khi Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 có hiệu lực, đồng thời cũng là hiệp định về phân định toàn bộ các vùng biển đầu tiên trong khu vực. Đối với Việt Nam, đây là Hiệp định phân định biển đầu tiên đạt được với các nước láng giềng. Theo hiệp định, đảo Thổ Chu được hưởng 32,5% hiệu lực, Việt Nam được hưởng 1/3 diện tích và Thái Lan được hưởng 2/3 diện tích của 6.074 km² vùng biển chồng lấn.
Nội dung.
Đường phân chia thoả thuận là một đường thẳng kẻ từ điểm C () tới điểm K (). Điểm C là điểm cực bắc của Vùng phát triển chung Thái Lan - Malaysia trong vịnh Thái Lan, được hai quốc gia này ký kết ngày 21 tháng 2 năm 1979, trùng với điểm 43 của đường yêu sách thềm lục địa của Malaysia năm 1979. Điểm K nằm trên đường thẳng cách đều giữa đảo Thổ Chu của Việt Nam và Poulo Wai của Campuchia. Đường biên giới trên biển này sẽ là ranh giới thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế giữa Việt Nam và Thái Lan. Trong trường hợp có cấu trúc dầu hoặc khí duy nhất hoặc mỏ khoáng sản nằm vắt ngang đường biên giới, hai quốc gia phải trao đổi thông tin, tìm kiếm thoả thuận để phân chia khai thác và lợi tức công bằng. Trong hiệp định, Việt Nam và Thái Lan cam kết tiến hành đàm phán với Malaysia về khu vực yêu sách thềm lục địa chồng lấn giữa ba nước. | 1 | null |
Lý Tả Xa (chữ Hán: 李左车), năm sinh năm mất không rõ, người Bách Nhân , mưu sĩ nước Triệu cuối đời Tần, từng khuyên tướng Hán là Hàn Tín chiêu dụ thay vì phát binh tiến đánh 2 nước Yên, Tề, kết quả thành công.
Cuộc đời và sự nghiệp.
Ông là cháu nội của Lý Mục – danh tướng nước Triệu thời Chiến Quốc. Cuối đời Tần, 6 nước tái khởi, Tả Xa giúp việc cho Triệu vương Hiết, được phong làm Quảng Vũ quân .
Tháng 10 năm 204 TCN, bọn tướng Hán là Hàn Tín, Trương Nhĩ đưa mấy vạn quân vượt núi Thái Hành, đông tiến đánh Triệu, lúc này đang phụ thuộc nước Sở . Tả Xa theo Thành An quân Trần Dư tập trung binh lực ở cửa Tỉnh Hình , chiếm giữ địa hình có lợi, chuẩn bị cùng Hàn Tín quyết chiến . Ông cho rằng quân Hán đi xa thiếu lương, sĩ tốt đói mệt, vả lại Tỉnh Hình đường sá chật hẹp, ngựa xe không dùng được, nghiêm thủ thì khó lòng thất bại; tự xin nắm 3 vạn quân, theo đường nhỏ cắt đứt đường vận lương của quân Hán. Trần Dư không nghe, kiên quyết đón đánh quân Hán .
Hàn Tín bày "trận Bối thủy" dọc theo bờ đông sông Bí, đánh cho quân Triệu đại bại . Tín treo thưởng ngàn vàng bắt Tả Xa. Không lâu sau, có người trói ông đưa đến trước trướng. Tín lập tức cởi trói, đãi theo lễ bậc thầy , hỏi phương lược bình định Yên – Tề. Tả Xa cho rằng quân Hán mỏi mệt, gặp phải quân Yên – Tề kiên cường chống trả, thắng bại khó đoán. Không bằng xếp giáp dừng binh, vỗ về dân Triệu, phái người dùng binh uy khuyên hàng, Yên – Tề có thể bình định. Hàn Tín dùng kế của ông, Yên quả nhiên không đánh mà hàng .
Không còn sử liệu nào khác về Tả Xa. Trong dân gian ông rất có tiếng tăm, được tôn làm Bạc thần (thần làm mưa đá). Liêu Trai chí dị - Bạc thần truyện thuật lại cố sự Tả Xa giáng mưa đá xuống huyện Chương Khâu, đầy cả khe ngòi, nhưng ruộng nương chỉ hư hại chút ít. | 1 | null |
Xbox One là một dòng máy chơi trò chơi điện tử gia đình do Microsoft phát triển. Ra mắt tháng 5 năm 2013, máy là phiên bản kế thừa của Xbox 360 và là hệ máy cơ bản thứ ba trong Dòng máy chơi trò chơi điện tử Xbox. Đầu tiên, máy phát hành ở Bắc Mỹ, một số khu vực của Châu Âu, Úc và Nam Mỹ vào tháng 11 năm 2013 rồi ở Nhật Bản, Trung Quốc và các nước Châu Âu khác vào tháng 9 năm 2014. Đây là máy chơi game Xbox đầu tiên được phát hành ở Trung Quốc, đặc biệt là trong Khu thương mại tự do Thượng Hải. Microsoft tiếp thị thiết bị này như một "hệ thống giải trí tất cả trong một", tạo thành tên gọi "Xbox One". Thuộc thế hệ thứ tám, máy chủ yếu cạnh tranh với PlayStation 4 của Sony và sau đó là Switch của Nintendo.
Lịch sử.
Xbox One là kế thừa của Xbox 360, máy chơi trò chơi điện tử trước đây của Microsoft, được giới thiệu vào năm 2005 và thuộc thế hệ thứ bảy. Trong những năm qua, 360 đã có thêm một số sửa đổi phần cứng nhỏ để giảm kích thước của thiết bị và cải thiện độ tin cậy của nó. năm 2010, Chris Lewis của Microsoft tuyên bố 360 đã đi được khoảng "nửa vòng đời"; điều này được hỗ trợ bởi sự ra đời của cảm biến chuyển động Kinectvào cùng năm, dẫn đến việc Lewis tuyên bố sẽ kéo dài vòng đời thêm 5 năm.
Công bố và khởi chạy ban đầu.
Trước khi ra mắt chính thức, có tin đồn cho rằng thế hệ máy chơi game Xbox tiếp theo sẽ là một hệ thống "luôn bật", đòi hỏi phải kết nối Internet liên tục, mặc dù Microsoft chưa bao giờ lên tiếng xác nhận. Điều này đã thu hút một số lo ngại từ người tiêu dùng, và càng tăng cao hơn khi nhân viên của Microsoft Studios là Adam Orth tuyên bố trong một thông báo trên Twitter vào tháng 4 năm 2013 rằng: "Xin lỗi, tôi không hiểu những yếu tố bi hài kịch xung quanh việc có hệ máy nào đó 'luôn bật' ... Mọi thiết bị giờ đây đều 'luôn bật'. Đó là thế giới chúng ta đang sống. #Dealwithit ". Thông điệp của Orth càng khiến Microsoft phẫn nộ hơn, với những lo ngại về quản lý quyền kỹ thuật số và các hoạt động chống lại việc bán các trò chơi đã qua sử dụng với thiết bị "luôn bật". Orth quyết định rời Microsoft vài ngày sau đó do vấp phải phản ứng dữ dội. Bất chấp những tuyên bố của Microsoft sau tình hình, phủ nhận những tin đồn, tâm trạng u ám mà nó tạo ra vẫn kéo dài trong vài tháng tiếp theo.
Microsoft đã kết thúc sản xuất dòng Xbox One trong năm 2020 để chuẩn bị cho việc sản xuất phần cứng thế hệ tương lai.
Phần cứng.
Bên trong.
Xbox One được trang bị CPU gồm 8 nhân x86-64 sản xuất bởi AMD, RAM 8GB. Bộ nhớ trong 500GB và ổ đĩa Blu-ray. GPU cũng được sản xuất bởi AMD với tổng cộng 768 lõi. Về kết nối, nó có Gigabit Ethernet, Wifi và Wifi Direct.
Xbox One có khả năng chơi video độ phân giải 4K và hỗ trợ âm thanh vòm 7.1.
Xbox One chạy trên 3 hệ điều hành, một là Xbox OS, và một hệ điều hành khác chỉ có chức năng cho phép máy tương tác với 2 hệ điều hành ảo. Máy có chức năng điều khiển bằng giọng nói, và Xbox Live cho phép chơi trực tuyến với nhau. | 1 | null |
sinh ngày 22 tháng 12 năm 1960 tại Tokyo, Nhật Bản, là cựu CEO và Chủ tịch của Tập đoàn Sony. Ông còn là thành viên hội đồng quản trị của Sony Computer Intertainment. Là người đứng đầu ở Sony, ông được Entertainment Weekly đánh giá là một trong những người quyền lực nhất trong ngành công nghiệp giải trí.
Sự nghiệp.
Tháng 8 năm 1995, ông được tuyển dụng vào mảng trò chơi điện tử của Sony tại Sony Computer Entertainment America. Ông đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo nên thành công cho hệ máy PlayStation tại Mỹ.
Ngày 3 tháng 7 năm 2006, ông trở thành phó chủ tịch điều hành của Sony Computer Entertainment. Ngày 30 tháng 11 năm 2006, ông được bổ nhiệm làm Chủ tịch của Sony Computer Entertainment, thay thế cho Kutaragi Ken, người được coi là cha đẻ của PlayStation. Ngay sau đó, ông giữ luôn chức CEO của công ty này. Ông thôi giữ chức Chủ tịch của Sony Computer Entertainment vào ngày 25 tháng 6 năm 2012.
Hirai được bổ nhiệm chức CEO và Phó Chủ tịch Điều hành của mảng Thiết bị và Dịch vụ mạng của Sony. Tại đây, ông phụ trách các sản phẩm và dịch vụ quan trọng như VAIO, Walkman, Xperia và các trò chơi.
Năm 2011, Hirai nhậm chức CEO đại diện và Phó chủ tịch Điều hành của Tập đoàn Sony.
Ngày 1 tháng 2 năm 2012, Sony thông báo rằng Hirai sẽ trở thành CEO và Chủ tịch của Tập đoàn Sony. Ông chính thức được bổ nhiệm vào ngày 1 tháng 4 năm 2012.
Tháng 4 năm 2016, ông chấm dứt nhiệm kỳ CEO của mình sau 5 năm đảm nhiệm. Người thay thế ông trên cương vị CEo của Sony là Kenichiro Yoshida. Sau khi rời vị trí CEO, Kazuo Hirai giữ vị trí Chủ tịch của Tập đoàn Sony . | 1 | null |
Hệ đo lường chiều dài của La Mã.
Đây là hệ đo lường được dùng chính thức ở Đế quốc La Mã(31 TCN - 476 SCN)và sau đó được tiếp tục sử dụng ở khu vực Tây Âu một thời gian dài trong thời kỳ Trung Cổ.Thậm chí ở một số nơi như nước Anh,các đơn vị này vẫn được sử dụng đến tận cuối thời Phục Hưng.
Học giả La Mã Balbus(mất năm 100) đã tóm tắt hệ đo lường này trong cuốn"Trình bày và tính toán đo lường" của ông:
Trước thời Vespasian giá trị của 1 pes = 29,6 cm.Theo nghiên cứu từ congius của William Smith trong thời Vespasian thì từ sau năm 75 giá trị của 1 pes = 30 cm
Ngoài các đơn vị đo độ dài ở trên, người La Mã thỉnh thoảng cũng thêm các tiền tố như semi(một nửa), bi(đôi)... để mô tả chính xác chiều dài một vật nào đó; chẳng hạn như trong cuốn Lịch sử La Mã, Livius đã dùng "bipalme" mô tả 1 mũi tên có đầu nhọn dài 2 palm (14,8 cm) và "semicubitalus" cho chiều dài nửa cubit (22,2 cm) của cán mũi tên. | 1 | null |
Chiến dịch bình định Đài Loan của Hà Lan là một chuỗi các hành động quân sự và ngoại giao do chính quyền thuộc địa Hà Lan tiến hành vào các năm 1635 và 1636 tại Formosa (Đài Loan ngày nay), nhằm mục đích chinh phục các ngôi làng thổ dân thù địch ở khu vực tây nam của hòn đảo. Trước chiến dịch, người Hà Lan đã có mặt tại Formosa được 11 năm, song không kiểm soát được nhiều lãnh thổ trên đảo bên ngoài pháo đài chính của họ tại Tayouan, và một liên minh với làng Sinkan. Các ngôi làng thổ dân khác trong khu vực tiến hành nhiều cuộc tiến công nhằm vào người Hà Lan và đồng minh của họ, lực lượng tham chiến chính là làng Mattau, vào năm 1629, họ đã phục kích và sát hại một nhóm gồm 60 lính Hà Lan.
Sau khi nhận được tiếp viện từ đại bản doanh thuộc địa ở Batavia, người Hà Lan phát động một cuộc tiến công vào năm 1635 với kết quả là đè bẹp thế lực đối địch, đưa khu vực quanh Đài Nam hiện này nằm hoàn toàn dưới quyền cai quản của họ. Sau khi thấy cảnh những ngôi làng mạnh nhất trong vùng là Mattau và Soulang thất bại hoàn toàn, nhiều làng khác ở xung quanh cầu hòa với người Hà Lan và từ bỏ chủ quyền cho thực dân châu Âu. Do đó, trong một thời gian ngắn, người Hà Lan có thể mở rộng phạm vi lãnh thổ kiểm soát, và tránh việc phải tiếp tục giao tranh. Chiến dịch kết thúc vào tháng 2 năm 1636, khi các đại diện từ 28 làng tham dự một buổi lễ tại Tayouan để củng cố chủ quyền của Hà Lan.
Với việc củng cố vững chắc sự cai trị ở tây nam, người Hà Lan sau đó có thể mở rộng các hoạt động của họ thay vì chỉ giới hạn trong việc trung chuyển. Việc mở rộng lãnh thổ cho phép họ tiếp cận việc buôn bán hươu, lĩnh vực mà sau này rất sinh lời, và đảm bảo an ninh đối với cung cấp lương thực. Người Hà Lan có được những vùng đất đai phì nhiêu, họ nhập khẩu lao động người Hán đến canh tác. Các ngôi làng bản địa cũng cung cấp các chiến binh cho người Hà Lan trong những thời điểm khó khăn, đặc biệt là trong thảm sát đảo Lamey vào năm 1636, đánh bại người Tây Ban Nha vào năm 1642 và sự kiện Quách Hoài Nhất vào năm 1652. Có được các ngôi làng liên minh, các nhà truyền giáo người Hà Lan có cơ hội để truyền bá đức tin của họ. Chiến dịch bình định được xem là hòn đá nền tảng cho việc gây dựng nên các thành công sau này của thuộc địa.
Bối cảnh.
Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC) đến nam bộ Formosa vào năm 1624, và sau khi xây dựng nên pháo đài Zeelandia trên bán đảo Tayouan, họ bắt đầu tiếm kiếm cơ hội hình thành các liên minh với các làng bản địa. Mặc dù mục đích ban đầu của thuộc địa này chỉ là để duy trì một cảng trung chuyển, song người Hà Lan sau đó quyết định rằng họ cần kiểm soát vùng nội địa để đảm bảo được một phần an ninh. Ngoài ra, một tỷ lệ lớn nguồn tiếp tế cho những thực dân Hà Lan được chở đến từ Batavia với chi phí rất cao và thời gian không ổn định, chính quyền thuộc địa non trẻ trở nên quan tâm đến nguồn thực phẩm và các nguồn cung cấp khác tại địa phương. Công ty quyết định liên minh với làng gần nhất, song tương đối nhỏ là Sinkan, làng này có thể cung cấp cho họ củi, thịt hươu và cá. Tuy nhiên, quan hệ với các làng khác thì không quá hữu nghị. Các khu dân cư của người bản địa trong vùng ít nhiều đều tham gia vào các cuộc chiến tranh quy mô nhỏ liên tục với nhau (tiến công săn đầu người và cướp bóc tài sản), và một liên minh với Sinkan khiến người Hà Lan ở vào thế đối địch với các kẻ thù của làng này. Năm 1625, người Hà Lan mua một mảnh đất của người Sinkan với giá mười lăm "cangans" (một loại vải), tại đó họ xây dựng nên đô thị Sakam cho các thương nhân người Hà Lan và người Hán.
Ban đầu, các làng khác trong khu vực, chủ yếu là Mattau, Soulang và Bakloan, cũng bày tỏ mong muốn chung sống hòa bình với người Hà Lan. Các làng nhận thấy rằng họ có lợi ích khi duy trì quan hệ hữu hảo với những người mới đến, song lòng tin này suy giảm sau một loạt sự kiện từ năm 1625 đến năm 1629. Sự kiện sớm nhất là một vụ tiến công của người Hà Lan vào năm 1625 nhằm vào hải tặc người Hán ở vịnh Wancan, không xa Mattau. Hải tặc có thể đẩy lui được lính Hà Lan, khiến người Hà Lan bị mất thể diện đối với các làng Formosa. Được khuyến khích từ thất bại này của người Hà Lan, các chiến binh từ Mattau tập kích Sinkan, với niềm tin rằng người Hà Lan quá yếu để có thể bảo vệ bằng hữu. Thời điểm này, người Hà Lan trở về Wancan và đã có thể đánh tan hải tặc, phục hồi lại danh tiếng. Mattau sau đó bị những thực dân buộc phải trao trả các tài sản cướp được từ Sinkan và bồi thường hai con lợn. Tuy nhiên, hòa bình ngắn ngủi, do đến tháng 11 năm 1626 thì dân làng Sinkan tiến đánh Mattau và Bakloan, sau đó họ đến chỗ người Hà Lan yêu cầu được bảo vệ trước việc sẽ bị báo thù. Mặc dù người Hà Lan có thể buộc các đối thủ của Sinkan thoái lui trong trường hợp này, song vào các sự cố sau đó, họ lại tỏ ra bất lực trong việc bảo vệ đầy đủ đồng minh Formosa của mình.
Thất vọng trước sự bất lực của người Hà Lan trong việc bảo vệ mình, dân làng Sinkan quay sang các thương nhân người Nhật, những người không có quan hệ hữu nghị với Công ty Đông Ấn Hà Lan. Năm 1627, một phái đoàn từ làng đến thăm Nhật Bản để yêu cầu sự bảo hộ của Nhật Bản và dâng chủ quyền cho Tướng Quân Tokugawa Iemitsu của Nhật Bản. Tướng Quân từ chối hội kiến, song khi những người này trở về Formosa, dân làng Sinkan cùng với các cựu thù từ Mattau, Bakloan và Soulang, đến gặp Trưởng quan Nuyts để yêu cầu Công ty trả một khoản cống nạp hàng năm cho những hoạt động diễn ra trên lãnh địa của họ. Trưởng quan từ chối. Không lâu sau, chính sách biệt lập "tỏa quốc" loại bỏ sự ủng hộ của người Nhật đối với người Formosa, khiến Sinkan một lần nữa lại liên minh với Hà Lan, khiến nhà truyền giáo George Candidius viết rằng "làng Sinkan này cho đến nay nằm dưới sự bảo hộ của người Hà Lan, không có nó thì làng này sẽ không chống cự được đến một tháng." Tuy nhiên, vào năm 1629 người Hà Lan không thể bảo vệ được cả bản thân và các đồng minh của họ. Trưởng quan Nuyts đến Mattau trong một chuyến thăm chính thức (hữu nghị) cùng với một đội bảo vệ gồm 60 lính ngự lâm, họ được tiếp đón khi đến. Sau khi dời khỏi làng này vào sáng hôm sau, các lính ngự lâm bị các chiến binh Mattau-Soulang tập kích trong khi băng qua một dòng suối và bị đồ sát không trừ một ai. Trưởng Quan may mắn thoát nạn do ông trở về pháo đài Zeelandia vào tối hôm trước.
Không lâu sau vụ đồ sát, Trưởng quan Nuyts bị Toàn quyền của Công ty Đông Ấn Hà Lan triệu hồi vì phạm nhiều tội lỗi khác nhau, bao gồm cả trách nhiệm trong quan hệ yếu kém với người Nhật. Hans Putmans thay thế Nuyts làm trưởng quan, và ngay lập tức muốn tiến công những đầu sỏ tại Mattau, song làng này quá mạnh để có thể tiến công trực tiếp. Do đó, người Hà Lan chuyển sang chống làng Bakloan yếu hơn, người Hà Lan tin rằng làng này hỗ trợ cho vụ đồ sát. Người Hà Lan bắt đầu tiến công vào ngày 23 tháng 11 năm 1629 và trở về trong cùng ngày sau khi "sát hại nhiều người và phóng hỏa đốt hầu hết làng." Dân làng Bakloan thỉnh cầu hòa bình, và Mattau cũng ký một hòa ước chín tháng với Công ty. Tuy nhiên, trong những năm sau đó, dân làng Mattau, Bakloan và Soulang tiếp tục tiến hành một chiến dịch phối hợp để quấy nhiễu các nhân viên của Công ty, đặc biệt là những người trùng tu các cấu trúc bị Mattau phá hủy ở Sakam. Tình hình không có dấu hiệu cải thiện đối với người Hà Lan cho đến khi mối quan hệ giữa Mattau và Soulang trở nên căng thẳng vào cuối năm 1633 và đầu năm 1634. Hai làng giao chiến vào tháng 5 năm 1634, và mặc dù Mattau chiến thắng, Công ty vẫn vui mừng khi thấy cảnh các làng bị chia rẽ, họ cảm thấy có thể khai thác được điều này.
Người Hà Lan trả đũa.
Mặc dù cả Trưởng quan Nuyts và sau đó là Trưởng quan Putmans đều muốn chống Mattau, song đồn trú tại pháo đài Zeelandia chỉ có 400 người, trong đó 210 là binh lính – không đủ để tiến hành một chiến dịch lớn mà không ảnh hưởng đến việc phòng thủ pháo đài. Sau một thời gian không nghe theo thỉnh cầu từ hai Trưởng quan, vào năm 1635, Batavia cuối cùng đã quyết định phái một đội quân gồm 475 binh lính đến Formosa, để "báo thù cho vụ tàn sát vào năm 1629, để tăng cường thanh thế của Công ty, để giành được sự tôn trọng và quyền uy, bảo hộ người Hán đến từ Trung Quốc, để canh tác đất đai."
Vào giai đoạn này, quan hệ giữa người Hà Lan với các làng xấu đến nỗi mà ngay cả Sinkan cũng âm mưu nổi dậy dù trước đây luôn rằng buộc chặt chẽ với người Hà Lan. Nhà truyền giáo Robert Junius sống ở chỗ dân bản địa, ông viết rằng "phiến quân tại Sinkan âm mưu chống lại nhà nước của chúng ta... và [lên kế hoạch] tàn sát và đánh đến chết các nhà truyền giáo và binh sĩ tại Sinkan." Trưởng quan tại Tayouan nhanh chóng dập tắt cuộc nổi dậy, phái 80 binh sĩ đến làng và bắt giữ một số nhân vật chủ chốt trong âm mưu. Với tai họa tiềm tàng ở Sinkan nay bị đẩy lui, người Hà Lan lại nhận được tin tức rằng các đối thủ chính Mattau và Soulang đang bị bệnh đậu mùa tàn phá, trong khi Sinkan lại không bị dịch - điều này được họ nhìn nhận là một dấu hiệu thiêng liêng thể hiện rằng người Hà Lan là chính nghĩa.
Ngày 22 tháng 11 năm 1635, các lực lượng mới đến bắt đầu lên đường hướng đến Bakloan, đứng đầu là Trưởng quan Putmans. Nhà truyền giáo Junius tham gia cùng với một nhóm các chiến binh bản địa từ Sinkan, họ bị giáo sĩ thuyết phục tham gia để tạo mối quan hệ tốt hơn giữa họ với Công ty Đông Ấn Hà Lan. Kế hoạch ban đầu là nghỉ tại Bakloan vào ban đêm, trước khi tiến công Mattau vào sáng hôm sau, song quân Hà Lan nhận được tin rằng dân làng Mattau biết được rằng kẻ địch đang tiến đến gần và lên kế hoạch chạy trốn. Do đó, người Hà Lan quyết định tiến công trong đêm đó, khiến các chiến binh Mattau ngạc nhiên, kết quả là chinh phục được làng mà không cần chiến đấu. Người Hà Lan hành quyết 26 người trong làng, trước khi phóng hỏa đốt các căn nhà và trở về Bakloan.
Trên đường về pháo đài Zeelandia, đội quân dừng lại tại Bakloan, Sinkan và Sakam, ở mỗi nơi họ đưa ra lời cảnh báo các tù trưởng của làng về cái giá phải trả cho việc chọc giận Công ty Đông Ấn Hà Lan, và thu được lời cam đoan về hành vi hữu nghị trong tương lai. Làng Soulang cử hai đại diện đến chỗ người Hà Lan khi họ đang nghỉ ngơi ở Sinkan, dâng một cái giáo và một cái rìu như một biểu tượng chứng tỏ rằng họ sẽ liên minh với người Hà Lan. Cũng dâng đồ thể hiện sự hữu nghị là những người đến từ Tevorang, một tập hợp gồm ba làng ở vùng núi trước đó nằm ngoài tầm ảnh hưởng của người Hà Lan. Cuối cùng, hai tù trưởng từ Mattau đến nơi, khấu đầu trước các quan chức người Hà Lan và thỉnh cầu vì hòa bình.
Người bản địa thể hiện sự đầu hàng của họ bằng cách gửi đến chỗ người Hà Lan một vài trong số các vũ khí tốt nhất của họ, và sau đó đem một cây nhỏ (thường là cau) được trồng trên đất từ làng họ, một dấu hiệu của việc giao chủ quyền cho Công ty Đông Ấn Hà Lan. Trong vài tháng sau đó, khi tin tức về chiến thắng của người Hà Lan lan rộng, có thêm nhiều làng cử người đến để thể hiện sự kính trọng của họ tại pháo đài Zeelandia và cam đoan ý định hữu nghị của họ với Công ty Đông Ấn Hà Lan. Tuy nhiên, các chủ nhân mới của Mattau cũng kế thừa các địch thủ của làng này, khi cả Favorlang và Tirosen thể hiện sự thù địch với Công ty Đông Ấn Hà Lan.
Sau chiến thắng trước Mattau, Trưởng quan quyết định sử dụng các binh sĩ để thị uy với các làng ngoan cố khác, bắt đầu từ Taccariang, dân làng này trước đây từng sát hại cả nhân viên của Công ty và dân làng Sinkan. Các dân làng Taccariang chiến đấu với quân tiên phong người Sinkan, song đến khi nhận một loạt phát súng từ các lĩnh ngự lâm người Hà Lan thì các chiến binh Taccariang quay lại và chạy trốn. Quân Công ty Đông Ấn Hà Lan tiến vào làng mà không gặp phải kháng cự, phóng hỏa đốt thành bình địa. Từ Taccariang, họ tiến đến Soulang, tại đây họ bắt giữ các chiến binh từng tham gia vào vụ đồ sát năm 1629 và đốt nhà của họ. Điểm dừng chân cuối cùng của chiến dịch là Tevorang, làng này trước đó che chở cho những người bị người Hà Lan lùng bắt từ những làng khác. Đến lúc này, Trưởng quan quyết định sử dụng củ cà rốt thay vì cây gậy, trao quà tặng và đảm bảo hữu nghị. Người Tevorang nắm bắt gợi ý, bày tỏ không phản đối sự cai trị của người Hà Lan.
Hòa bình kiểu Hà Lan.
Biết về việc người Hà Lan biểu dương lực lượng, các bộ lạc bản địa từ những nơi xa hơn cũng quyết định quy phục dưới quyền cai trị của người Hà Lan, họ lo sợ những gì mà quân Hà Lan có thể tiến hành hoặc hy vọng rằng một liên minh như vậy sẽ có ích cho bộ lạc. Các đại diện đến từ Pangsoia, cách đó 100 km về phía nam, cũng liên minh với Công ty Đông Ấn Hà Lan. Người Hà Lan quyết định tổ chức một "Landdag" (một đại hội) để nghênh đón các làng đi vào tầm kiểm soát và gây ấn tượng với họ bằng sự hào phóng và sức mạnh của người Hà Lan. Sự kiện diễn ra vào ngày 22 tháng 2 năm 1636, với 28 làng đại diện cho nam bộ và trung bộ Formosa. Trưởng quản xuất hiện trước những người với áo choàng và các cán bộ nhà nước để tượng trưng cho địa vị của họ, và Robert Junius viết rằng "thật thú vị khi trông thấy sự thân mật của mọi người khi họ gặp mặt lần đầu, để thấy cách họ hôn người khác và nhìn chằm chằm vào người khác. Một điều tương tự như vậy chưa từng xuất hiện trước đó tại quốc gia này, khi các bộ lạc gần như luôn giao chiến kình chống nhau."
Kết quả của chiến dịch là "hòa bình kiểu Hà Lan", đảm bảo quyền kiểm soát của Hà Lan ở tây nam hòn đảo. Người Hà Lan gọi khu vực họ mới kiểm soát là "Verenigde Dorpen" ("các làng liên hiệp"), ám chỉ có chủ ý đến Các tỉnh liên hiệp của quê hương họ. Chiến dịch có vai trò quan trọng đối với sự thành công và phát triển của thuộc địa, vốn khi đó đang hoạt động như một trạm giao thương thay vì một thuộc địa thực sự. | 1 | null |
Bộ Cánh dài, tên khoa học Mecoptera (từ tiếng Hy Lạp: Meco- = "dài", -ptera = "cánh"), là một bộ côn trùng với khoảng 550 loài trong chín họ trên toàn thế giới. Mecoptera đôi khi được gọi ruồi bọ cạp vì con đực của họ lớn nhất của bộ là Panorpidae có bộ phận sinh dục to mà trông giống như ngòi của một con bọ cạp. Bittacidae, hoặc ruồi treo cổ, là một họ nổi tiếng được biết đến với nghi lễ giao phối phức tạp, trong đó những con cái chọn bạn tình dựa trên chất lượng của món quà con mồi được cung cấp bởi những con đực khác nhau. | 1 | null |
Thành bang (, ), thị quốc (), thành quốc () hay thành phố-quốc gia (, hay ) là một thực thể độc lập hoặc tự trị, không do một chính quyền địa phương khác quản lý cho dù lãnh thổ của chính quyền đó bao gồm thực thể này và có thể là vùng lãnh thổ bao quanh nó. "Encyclopædia Britannica" định nghĩa thành bang là một hệ thống chính trị bao gồm một thành phố độc lập có chủ quyền đối với lãnh thổ tiếp giáp và đóng vai trò là trung tâm và nhà lãnh đạo đời sống chính trị, kinh tế và văn hóa. Thuật ngữ tiếng Anh "city-state" bắt nguồn từ xứ Anh và được sử dụng lần đầu vào năm 1847.
Trong lịch sử từng tồn tại nhiều thành bang. Cổ xưa nhất phải kể đến các thành bang Uruk và Ur của người Sumer; Thebes và Memphis của người Ai Cập cổ đại; Týros và Sidon của người người Phoenicia; Garamantes của người Berber; các thành bang Hy Lạp như Athens, Sparta, Thebes và Korinthos; Cộng hòa La Mã (từ một thành bang mà vươn lên thành siêu cường); các thành bang của nền văn minh Maya, Aztec và các nền văn minh ở Trung Bộ châu Mỹ giai đoạn tiền Colombo, có thể kể ra đây là Chichén Itzá, Tikal, Monte Albán và Tenochtitlan; các thành bang nằm dọc Con đường tơ lụa ở Trung Á; Venezia; Ragusa... Các học giả cũng đã phân loại các thành phố thuộc địa thời Trung cổ của người Viking tại đảo Ireland - trong đó quan trọng nhất là Dublin - là thành bang.
Bên trong lãnh thổ của Đế quốc La Mã Thần thánh ở bên kia dãy Anpơ là Các thành phố Đế quốc Tự do. Đây là những thực thể được hưởng quyền tự trị đáng kể, chưa kể lại còn được luật Lübeck tạo cơ sở về mặt pháp lý. Vào thế kỷ 19, một số thành phố tuy là thành viên của các liên minh khác nhau nhưng vẫn chính thức trở thành thành bang, chẳng hạn Bang Thành phố Basel (1833–48), Thành phố tự do hanse Bremen, (lần đầu: 1806–11, lần sau: 1813–71), Thành phố tự do Frankfurt (1815–66), Bang Genève (1813–48), Hamburg (lần đầu: 1806–11, lần sau: 1814–71) và Thành phố tự do và hanse Lübeck (lần đầu: 1806–11, lần sau: 1813–71). Một thành bang khác (tuy không có chủ quyền) là Tây Berlin (1948–1990), vốn là một bang hợp pháp và độc lập với các bang khác, do Các đồng minh phương Tây cai trị). Các đồng minh phương Tây cho phép Tây Berlin được tổ chức nội bộ dưới dạng một bang đồng thời là một thành phố với tên gọi chính thức là Berlin (Tây). Mặc dù Tây Berlin duy trì quan hệ chặt chẽ với Tây Đức nhưng trong giai đoạn này nó không phải là một bộ phận hợp pháp của Tây Đức.
Hiện nay, nhiều thành bang - mặc dù biên giới có phần đã thay đổi - vừa nhắc đến ở trên vẫn tiếp tục là thành bang bên trong Cộng hòa Liên bang Đức và Liên bang Thụy Sĩ hiện đại.
Khi nhắc đến hình mẫu về nền văn hóa thành bang trong lịch sử loài người, có thể kể đến các thành bang Hy Lạp cổ đại và các thành bang thương mại ở nước Ý Phục hưng. Tuy nhiên, các thực thể chính trị nhỏ bé này thường chỉ tồn tại trong giai đoạn ngắn do chúng thiếu nguồn tài nguyên để tự vệ trước sự tấn công của các nước lớn hơn.
Thành bang độc lập.
Monaco.
Thân vương quốc Monaco là một thành bang độc lập. Thân vương quốc Monaco và thành phố Monaco (mỗi thực thể có quyền lực cụ thể) quản lý cùng một lãnh thổ. Ngày 28 tháng 6 năm 1919, Pháp và Monaco ký một hiệp ước, theo đó chính sách của Monaco sẽ định hướng cho phù hợp với lợi ích chính trị, quân sự và kinh tế của Pháp. Năm 1993, Monaco trở thành thành viên của Liên Hợp Quốc với quyền bỏ phiếu đầy đủ. Năm 2002, Pháp và Monaco ký hiệp ước mới nêu rõ rằng nếu Monaco không có người thừa kế làm chủ triều đình thì công quốc này vẫn tồn tại với tư cách quốc gia độc lập thay vì trở về với Pháp như điều khoản của hiệp ước cũ quy định. Tuy vậy, Pháp vẫn đảm trách nhiệm vụ bảo vệ Monaco. Ngày 16 tháng 2 năm 2006, Monaco tiếp nhận đại sứ Pháp đầu tiên.
Singapore.
Singapore là một thành bang ở Đông Nam Á. Với 5,2 triệu dân sống và làm việc trong lãnh thổ có diện tích chỉ khoảng 700 km², nước này là một trong những quốc gia có mật độ dân số cao hàng đầu thế giới, chỉ đứng sau Monaco. Trước thế kỷ 19, Singapore là một phần nhỏ bé của nhiều vương quốc khác nhau, bao gồm các vương quốc Srivijaya, Majapahit, Malacca và Johor. Từ 1826 đến 1942, Singapore là thủ phủ Các khu định cư Eo biển do Anh thiết lập tại vùng eo biển Malacca. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Singapore trở thành một thuộc địa lẻ loi sau khi hai thuộc địa còn lại sáp nhập với nhau để thành lập Liên bang Mã Lai. Năm 1963, Singapore cùng Liên bang Mã Lai, Sabah và Sarawak thành lập Malaysia. Tuy nhiên, do hàng loạt vấn đề nảy sinh mà Singapore đã bị khai trừ khỏi liên bang vào năm 1965 và trở thành nước cộng hòa độc lập.
Sau ngày độc lập, Singapore nhảy vọt về kinh tế và trở thành một trong "Bốn con hổ châu Á". Cả hòn đảo có chức năng như một vùng đô thị. Bao quanh trung tâm thành phố là các đô thị vệ tinh, công viên, hồ chứa nước và khu công nghiệp, tất cả kết nối lẫn nhau qua hệ thống đường giao thông, đường cao tốc và tàu điện ngầm hiện đại. Singapore là nhà nước tập quyền và đơn nhất với quốc hội độc viện. Nước này cũng duy trì một lực lượng vũ trang đáng kể và mạnh tay chi tiêu cho quốc phòng. Singapore là thành viên của Liên Hợp Quốc, Khối thịnh vượng chung Anh và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á.
Thành Vatican.
Cho đến năm 1870, thành phố Roma vẫn do Giáo hoàng kiểm soát như một phần của Lãnh thổ Giáo hoàng. Khi Vua Vittorio Emanuele II của Ý chiếm thành phố vào năm 1870, Giáo hoàng Piô IX từ chối công nhận Vương quốc Ý vừa thành lập. Do Piô IX không thể đi đâu mà lại không công nhận quyền hành của nhà vua nên ông và người kế vị đều tự tuyên bố xem mình là "Tù nhân trong Vatican" nên không thể rời nội phi địa ("enclave") có diện tích 0,44 km² của Giáo hoàng một khi đã lên ngôi.
Thế bế tắc này được giải quyết vào năm 1929 nhờ Hiệp ước Latêranô giữa Vua Vittorio Emanuele III của Ý và Giáo hoàng Piô XI, dưới sự thương thuyết của nhà độc tài Benito Mussolini. Theo hiệp ước này, Vatican được công nhận là một nhà nước độc lập có nguyên thủ là Giáo hoàng. Thành Vatican có công dân riêng, có đoàn ngoại giao, có quốc kỳ và có tem thư. Đây được xem là quốc gia nhỏ nhất thế giới.
Thành bang không độc lập.
Một số thành phố hoặc khu vực đô thị dù không phải là các nhà nước độc lập nhưng vẫn hưởng quyền tự trị cao độ. Chúng là "thành bang" trong quốc gia có chủ quyền mà chúng thuộc về.
Thành phố do quốc tế giám sát.
(là thành bang tự trị hoặc bán tự trị)
Thành phố là bang cấu thành liên bang.
Một số thành phố hoặc vùng đô thị là các bang cấu thành liên bang. Chẳng hạn như:
Thành phố do liên bang quản lý.
Một liên bang có thể có một hoặc nhiều thành phố do liên bang quản lý:
Thành phố tự trị của quốc gia có nhà nước đơn nhất.
Tại những quốc gia không tổ chức nhà nước theo mô hình chính quyền liên bang - tức là theo mô hình nhà nước đơn nhất - thì một số thành phố thi thoảng được hưởng quyền tự trị cao, chẳng hạn:
Do lịch sử lâu dài là thuộc địa của Đế quốc Anh và Đế quốc Bồ Đào Nha, cộng thêm chính sách độc đáo "Một quốc gia, hai chế độ" của Trung Quốc mà Hồng Kông và Ma Cao tiếp tục được hưởng quyền tự trị cao độ sau khi được trả về Trung Quốc. Hồng Kông theo hệ thống pháp luật Thông luật của Anh còn Ma Cao theo hệ thống luật dân sự Bồ Đào Nha. Cảnh sát, tiền tệ, ngôn ngữ chính thức, hệ thống bưu chính, hệ thống giáo dục...đều khác biệt so với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. | 1 | null |
Huy chương Émile Picard (tiếng Pháp: Médaille Émile Picard) là một giải thưởng toán học của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp, được trao mỗi 6 năm cho một nhà toán học xuất sắc, do Viện hàn lâm Khoa học Pháp chọn lựa.
Huy chương này do "Quỹ Émile Picard" được bà quả phụ của nhà toán học Émile Picard (1856 – 1941) lập ra năm 1943 – hai năm sau cái chết của ông - bảo trợ, và được trao lần đầu vào năm 1946. | 1 | null |
"Đây là loại sao giả thiết hình thành từ sao lùn đỏ. Đối với các định nghĩa khác xem Sao lùn xanh (định hướng)."
Sao lùn xanh là một lớp sao giả thiết hình thành từ sao lùn đỏ sau khi nó đã cạn kiệt phần lớn nhiên liệu hiđrô bên trong. Do các sao lùn đỏ tổng hợp các hạt nhân hiđrô rất chậm và quá trình vận chuyển năng lượng từ lõi sao ra bên ngoài hoàn toàn là quá trình đối lưu (quá trình này cho phép một phần lớn proton được tổng hợp), tuổi của Vũ trụ hiện tại không đủ để có thể hình thành một sao lùn xanh nào cả. Sự tồn tại của chúng là dựa trên các mô hình lý thuyết.
Các sao có độ sáng tăng lên khi chúng dần già đi, và ngôi sao càng sáng càng cần phát ra nhiều năng lượng hơn để duy trì trạng thái cân bằng. Các sao lớn hơn sao lùn đỏ đạt được điều này bằng cách tăng kích thước và trở thành sao khổng lồ đỏ với diện tích bề mặt lớn hơn. Tuy nhiên, không thể gia tăng kích thước, các sao lùn đỏ với khối lượng nhỏ hơn 25% khối lượng Mặt Trời theo tính toán lý thuyết sẽ tăng tốc độ bức xạ bằng cách tăng nhiệt độ bề mặt và trở lên "xanh hơn". Điều này bởi vì các lớp bề mặt của sao lùn đỏ không trở lên mờ đục đáng kể hơn khi nhiệt độ tăng.
Sao lùn xanh cuối cùng tiến hóa thành sao lùn trắng một khi nhiên liệu hiđrô cạn kiệt hoàn toàn. Và sao lùn trắng cuối cùng tiến hóa thành sao lùn đen. | 1 | null |
Phra Bat Somdet Phra Poramintharamaha Prajadhipok Phra Pok Klao Chao Yu Hua (; 8 tháng 11 năm 1893 – 30 tháng 5 năm 1941), hay Rama VII, là quân chủ thứ bảy của vương triều Chakri tại Xiêm. Ông là vị quân chủ chuyên chế cuối cùng, cũng là vị quân chủ lập hiến đầu tiên của quốc gia. Triều đại của ông là một thời kỳ sóng gió tại Xiêm với các biến đổi to lớn về chính trị và xã hội trong cuộc cách mạng năm 1932. Ông là vị quân chủ duy nhất của Xiêm thoái vị cho đến nay.
Cuộc sống ban đầu.
Somdet Chaofa Prajadhipok Sakdidej () sinh ngày 8 tháng 11 năm 1893 tại Bangkok, Xiêm (tức Thái Lan ngày nay), là con của Quốc vương Chulalongkorn và Vương hậu Saovabha Bongsri. Vương tử Prajadhipok là út trong số chín người con giữa quốc vương và vương hậu, song là người con áp út trong tổng số 77 người con, là con trai thứ 33 và nhỏ nhất của Quốc vương Chulalongkorn.
Không chắc chắn có thể kế vị, Vương tử Prajadhipok lựa chọn theo nghiệp quân nhân. Giống như nhiều người con của phụ vương, ông được gửi ra ngoại quốc để học tập, đến Trường nội trú Eton vào năm 1906, sau đó là Học viện quân sự Woolwich và tốt nghiệp năm 1913. Ông nhận một nhiệm vụ tại Trung đoàn Royal Horse Artillery của Lục quân Anh Quốc đóng tại Aldershot. Năm 1910, Chulalongkorn qua đời, người kế vị là Thái tử Vajiravudh (cũng do Vương hậu Saovabha sinh), tức Quốc vương Rama VI. Vương tử Prajadhipok được phong sĩ quan trong cả Lục quân Anh Quốc và Lục quân Vương thất Xiêm. Do Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ và Xiêm tuyên bố trung lập, Quốc vương Vajiravudh lệnh cho Prajadhipok phải từ bỏ chức sĩ quan Anh Quốc và trở về Xiêm ngay lập tức, khiến Vương tử bối rối do ông muốn cùng những binh sĩ của mình phục vụ trên Mặt trận phía Tây. Khi về đến quê hương, Prajadhipok trở thành một quan chức quân đội cấp cao của Xiêm. Năm 1917, ông tạm thời xuất gia làm tu sĩ Phật giáo, theo tục lệ của toàn bộ nam giới tại Xiêm.
Vào tháng 8 năm 1918, Vương tử Prajadhipok kết hôn với người bạn từ thuở nhỏ, cũng là em họ là Mom Chao Rambhai Barni, một hậu duệ của Quốc vương (cũng là ông nội của Prajadhipok) và Vương phi Piam. Họ kết hôn tại Cung điện vương thất Bang Pa-In và được Quốc vương chúc phúc.
Sau khi chiến tranh tại châu Âu kết thúc, ông đến École Superieure de Guerre tại Pháp, rồi trở về Xiêm phục vụ trong quân đội Xiêm. Trong thời gian này, ông được ban thêm tước hiệu "Krom Luang Sukhothai" (Sukhothai vương). Prajadhipok sinh sống một cách khá yên tĩnh với vương phi tại dinh thự của họ là Cung điện Sukhothai, bên cạnh sông Chao Phraya, song họ không có con. Prajadhipok có thứ bậc kế vị tăng lên nhanh chóng do các anh trai của ông đều qua đời trong một thời kỳ tương đối ngắn ngủi. Năm 1925, Quốc vương Vajiravudh cũng qua đời ở tuổi 44, Prajadhipok trở thành quân chủ ở tuổi 32. Ông tiến hành nghi lễ tức vị quốc vương Xiêm vào ngày 25 tháng 2 năm 1926.
Tôn hiệu.
Khi là quân chủ, Prajadhipok được đề cập đến với tôn hiệu "Phrabat Somdet Phra Pokklao Chao Yuhua" (พระบาทสมเด็จพระปกเกล้าเจ้าอยู่หัว) và trong các tài liệu chính thức là "Phrabat Somdet Phra Poraminthramaha Prajadhipok Phra Pokklao Chao Yuhua" (พระบาทสมเด็จพระปรมินทรมหาประชาธิปก พระปกเกล้าเจ้าอยู่หัว). Người Thái hiện nay thường gọi ông là "Ratchakan thi Chet" ("rức." 'Triều đại thứ bảy') hay thông tục hơn là, Phra Pok Klao (พระปกเกล้า).
Quân chủ chuyên chế cuối cùng.
Chưa chuẩn bị nhiều cho nhiệm vụ mới, song Prajadhipok là người thông minh, có tài ngoại giao với người khác, khiêm tốn và hiếu học. Tuy nhiên, ông phải kế thừa các vấn đề nghiêm trọng từ người tiền nhiệm, trong đó cấp bách nhất là vấn đề kinh tế. Quốc khố thâm hụt nặng nề, và tài chính của vương thất rất gay go, trong khi đó trên thế giới đang diễn ra Đại khủng hoảng.
Trong vòng nửa năm, chỉ ba trong số 12 bộ trưởng dưới thời Vajiravhud tiếp tục phụng sự tân quốc vương, những người còn lại bị thay thế bằng các thành viên trong vương thất. Mặc dù những người được bổ nhiệm có tài năng và kinh nghiệm, song điều này cũng là dấu hiệu của nền chính trị đầu sỏ vương thất. Quốc vương rõ ràng có ý thể hiện rằng muốn đoạn tuyệt với triều đại thứ sáu mất tín nhiệm, và sự lựa chọn nhân sự cho các vị trí cấp cao của ông thể hiện ước muốn khôi phục một chính phủ theo kiểu Chulalongkorn.
Trong khi tiến hành cải cách để khôi phục lòng tin đối với quân chủ và chính phủ, Prajadhipok trong hành động gần như là đầu tiên trên địa vị quốc vương, đã công bố thiết lập Hội đồng Tối cao Nhà nước Xiêm. Hội đồng cơ mật này được hình thành từ một số thành viên có kinh nghiệm và rất có thẩm quyền của vương thất, bao gồm nguyên Bộ trưởng Nội vụ (và là cánh tay phải của Quốc vương Chulalongkorn), Vương tử Damrong Rajanubhab. Các vương tử này dần củng cố quyền lực cho bản thân, giữ độc quyền toàn bộ các vị trí bộ trưởng chủ yếu và bổ nhiệm con hoặc em vào các chức vụ hành chính và quân sự. Nhiều người trong số họ cảm thấy đó là nhiệm vụ mà họ phải thực hiện để sửa đổi những sai lầm của triều đại trước, song các hành động của họ nói chung không được đánh giá cao, do chính phủ thất bại trong việc truyền đạt với công chúng về mục đich của các chính sách mà họ theo đuổi là nhằm khắc phục phung phí tài chính dưới thời Vajiravhud.
Không giống như người tiền nhiệm, Prajadhipok cần mẫn đọc hầu như toàn bộ các văn thư quốc gia, từ những đệ trình của bộ trưởng cho đến thỉnh cầu của thần dân. Quốc vương tiếp nhận bình luận và gợi ý từ một loạt các chuyên gia và nghiên cứu chúng một cách cẩn thận, lưu ý đến những điểm tốt trong mỗi đệ trình, song khi có sẵn nhiều lựa chọn khác nhau thì ông hiếm khi có thể chọn ra một và loại bỏ những phương án khác. Ông cũng thường dựa vào Hội đồng Tối cao để có thể đưa ra hướng giải quyết cụ thể.
Năm 1932, quốc gia đắm chìm trong đình trệ, Hội đồng Tối cao lựa chọn cách tiền hành cắt giảm chi tiêu công, bảng lương dân sự, ngân sách quân sự. Quốc vương đã nhìn thấy trước rằng các chính sách có thể gây nên bất mãn, đặc biệt là trong quân đội, và do đó ông đã triệu tập một cuộc họp đặc biệt gồm các quan chức để giải thích tại sao việc cắt giảm lại cần thiết. Trong bài nói chuyện, ông mở đầu:
"Bản thân trẫm không biết gì về tài chính, và toàn bộ những gì Trẫm có thể làm là lắng nghe ý kiến của người khác và lựa chọn điều tốt nhất... Nếu Trẫm có sai sót, Trẫm thực đáng được người dân Xiêm thứ lỗi."
Nhiều người giải thích những lời của ông không phải là một lời kêu gọi thẳng thắn để thông cảm và hợp tác, mà là một dấu hiệu cho sự yếu kém của ông và chứng minh rằng hệ thống cai trị chuyên quyền có thể sai lầm nên bị thủ tiêu.
Quốc vương Prajadhipok chuyển sự chú ý sang vấn đề chính trị tương lai của Xiêm. Lấy cảm hứng từ Anh Quốc, Quốc vương muốn cho phép thường dân có tiếng nói trong các vấn đề của quốc gia bằng việc thiết lập một nghị viện. Một hiến pháp dự trù được lệnh soạn thảo, song các ước muốn của Quốc vương bị các cố vấn bác bỏ. Đứng đầu trong số họ là Vương tử Damrong và Francis B. Sayre, cố vấn của Xiêm trong các vấn đề đối ngoại, họ cảm thấy rằng cư dân Xiêm chưa chín chắn về chính trị và chưa sẵn sàng cho dân chủ - một kết luận mà những người sáng lập Đảng Nhân dân cũng chủ trương.
Đảo chính năm 1932.
Một nhóm nhỏ các binh sĩ và công chức bắt đầu bí mật lên kế hoạch lập nên một chính phủ lập hiến cho vương quốc. Các nỗ lực của họ lên đến cực điểm trong cuộc "cách mạng" gần như không đổ máu diễn ra vào sáng ngày 24 tháng 6 năm 1932 của những người tự xưng là Khana Ratsadon ("Khana Ratsadorn" - คณะราษฎร). Trong khi Prajadhipok đang ở tại Cung điện Klaikangworn xa tận Hua Hin, những người âm mưu kiểm soát được Ngự hội quán Ananda Samakhom tại Bangkok và bắt giữ một số quan chức chủ chốt (chủ yếu là các vương thân). Đảng Nhân dân yêu cầu Prajadhipok trở thành một vị quân chủ lập hiến và trao cho người dân Thái một hiến pháp. Quốc vương chấp thuận ngay lập tức, và hiến pháp "vĩnh viễn" đầu tiên được ban hành vào ngày 10 tháng 12.
Việc Prajadhipok trở về Bangkok vào ngày 26 tháng 6 xua tan các suy nghĩ rằng những người âm mưu có thể tuyên bố hình thành một nền cộng hòa. Sau đó, một trong những hành động đầu tiên của Quốc vương là tiếp đón những người lãnh đạo cuộc đảo chính trong một buổi hội kiến trọng thể. Khi những người này bước vào phòng, Quốc vương chào đón họ, trái với truyền thống Xiêm là các quân chủ vẫn ngồi khi thần dân cúi chào, Prajadhipok biết rằng hoàn cảnh nay đã thay đổi.
Quân chủ lập hiến đầu tiên.
Mối quan hệ giữa Quốc vương với Đảng Nhân dân nhanh chóng xấu đi, đặc biệt là sau khi lãng đạo Đảng Nhân dân là Phraya Phahol Phonphayuhasena lật đổ chức vụ Thủ tướng của Phraya Manopakorn Nititada.
Vào tháng 10 năm 1933, nguyên Bộ trưởng Quốc phòng-Vương thân Boworadej đã lãnh đạo một cuộc nổi dậy vũ trang chống lại chính phủ. Trong cuộc nổi dậy, Vương thân huy động một số đơn vị đồn trú ở các tỉnh và tiến về Bangkok, chiếm sân bay Don Muang. Vương thân Boworadej cáo buộc chính phủ bất kính với quân chủ và đề xướng chủ nghĩa cộng sản, yêu cầu các nhà lãnh đạo chính phủ phải từ chức. Boworadej hy vọng rằng các đơn vị đồn trú tại Bangkok sẽ ủng hộ mình, song các chỉ huy của họ quyết định vẫn trung thành với chính phủ. Hải quân Vương thất Thái Lan tuyên bố trung lập và rời đến các căn cứ ở phía nam. Sau khi xảy ra giao tranh ác liệt gần Don Muang, đội quân được trang bị kém của Boworadej bị đánh bại và Vương thân phải chạy sang lưu vong ở Đông Dương thuộc Pháp.
Không có bằng chứng cho thấy Prajadhipok có bất kỳ ủng hộ nào cho cuộc nổi dậy. Tuy thế, cuộc nổi dậy vẫn khiến thanh thế của Quốc vương bị suy giảm. Khi cuộc nổi dậy bắt đầu, Prajadhipok ngay lập tức thông báo với chính phủ rằng ông lấy làm tiếc về xung đột và nội loạn. Cặp đôi vương thất sau đó đi ẩn náu tại Songkhla, nằm ở cực nam đất nước. Sự rút lui của Quốc vương khỏi vấn đề bị Đảng Nhân dân xem là một thất bại trong việc thi hành bổn phận của ông. Do ông không hoàn toàn ủng hộ chính phủ, lòng tin của họ vào ông đã xói mòn.
Năm 1934, Nghị viện bỏ phiếu sửa đổi các bộ luật về hình sự dân sự và quân sự. Một trong những thay đổi được đề xuất là cho phép án tử hình được thi hành mà không cần Quốc vương phê chuẩn. Quốc vương phản đối, và trong hai lá thư gửi đến Nghị viện, ông trình bày rằng chấm dứt tập quán lâu đời sẽ khiến người dân nghĩ rằng chính phủ muốn có quyền ký lệnh tử hình để loại bỏ những đối thủ chính trị. Như một sự thỏa hiệp, ông đề nghị tổ chức trưng cầu dân ý về vấn đề này. Nhiều người trong Nghị viện tức giận, họ cảm thấy Quốc vương ngụ ý rằng Nghị viện không thực sự đại diện cho ý nguyện của nhân dân và tiến hành bỏ phiếu để tái khẳng định những thay đổi về luật hình sự.
Quan hệ với Đảng Nhân dân xấu đi trong một thời gian, Prajadhipok đi kinh lý châu Âu trước khi viếng thăm Anh để điều trị y tế. Ông tiếp tục trao đổi thư tín với chính phủ, tập trung vào các điều kiện để ông có thể tiếp tục phụng sự, cũng như giữ lại một số đặc quyền vương thất truyền thống, chẳng hạn như lệnh ân xá, ông muốn giảm thiểu tính chất ngày càng dân chủ của chế độ mới. Hiệp định đạt được trên vấn đề luật hình sự, song Prajadhipok cho biết ông không muốn trở về quê hương trước khi có sự đảm bảo nhất định đối với an toàn của bản thân, và hiến pháp được sửa đổi để Nghị viện trở thành một thể chế hoàn toàn được hình thành bầu cử. Chính phủ từ chối tuân theo, và vào ngày 14 tháng 10, Prajadhipok tuyên bố ý định sẽ thoái vị trừ khi yêu cầu của ông được đáp ứng.
Thoái vị.
Đảng Nhân dân bác bỏ tối hậu thư, và vào ngày 2 tháng 3 năm 1935, Prajadhipok thoái vị, thay thế là Ananda Mahidol. Prajadhipok đưa ra một tuyên bố ngắn gọn để chỉ trích chế độ. Là một nhà dân chủ duy tâm, cựu vương được cho là có lý do hợp lý để than phiền. Cho đến nay, Prajadhipok là vị quân chủ duy nhất từng thoái vị trong lịch sử Thái Lan.
Phản ứng đối với sự kiện Quốc vương thoái vị là im lặng, mọi người đều lo sợ những gì có thế xảy ra tiếp theo. Chính phủ kiềm chế trước tuyên bố thoái vị của Quốc vương do lo sợ sẽ kích động thêm tranh cãi. Những người phản đối chính quyền giữ im lặng vì họ cảm thấy bị đe dọa và bị Quốc vương bỏ rơi, trong khi Quốc vương là người duy nhất mà họ cho là có thể đứng lên khởi xướng. Nói theo cách khác, chế độ quân chủ chuyên chế bị Đảng Nhân dân thay thế, với quân đội thể hiện vai trò mờ nhạt là người phân xử quyền lực cuối cùng.
Cuộc sống sau khi thoái vị.
Ông dành thời gian còn lại trong cuộc đời cùng Vương hậu Rambhai Barni tại Anh. Vào thời điểm thoái vị, cặp đôi sống tại Knowle House, Surrey, ngay bên ngoài Luân Đôn. Tuy nhiên, căn nhà này không thực sự phù hợp cho sức khỏe của ông, do vẫn ông chuyển đến Glen Pammant cũng tại Surrey, một căn nhà nhỏ hơn song có nhiều không gian hơn để đi dạo. Họ ở lại đây trong hai năm. Cặp đôi không có con cái, song nhận nuôi một cháu trai của một trong các em ruột của Quốc vương Chulalongkorn. Người con nuôi này là Vương tử Jirasakdi, sau đó trở thành một phi công trong Air Transport Auxiliary của Anh Quốc, song qua đời trong tai nạn máy bay vào năm 1942.
Sau đó họ chuyển đến Vane Court, ngôi nhà cổ nhất tại làng Biddenden ở Kent, có một cuộc sống thanh bình tại dây, làm vườn vào buổi sáng và viết tự truyện vào buổi chiều. Năm 1938, cặp đôi vương thất chuyển đến Compton House, tại làng Wentworth ở Virginia Water, Surrey.
Do Quân Đức oanh tạc Anh Quốc vào năm 1940, cặp đôi lại phải di chuyển, đầu tiên là đến một căn nhà nhỏ tại Devon, và sau đó là đến Lake Vyrnwy Hotel tại Powys, Wales, nơi cựu vương bị nhồi máu cơ tim. Cặp đôi trở về Compton House do ông bày tỏ muốn được lìa đời tại đó. Quốc vương Prajadhipok qua đời vì suy tim vào ngày 30 tháng 5 năm 1941.
Lễ hỏa táng được tổ chức tại Hỏa táng trường Golders Green ở Bắc Luân Đôn. Nó là một sự kiện đơn giản, chỉ với sự tham gia của Vương hậu Ramphai và một số người thân thiết. Vương hậu Ramphaiphanni ở tại Compton House thêm tám năm trước khi trở về Thái Lan vào năm 1949, mang theo tro hỏa táng của Quốc vương.
Cuốn tự truyện của ông chỉ mới được viết đến phần năm 25 tuổi. | 1 | null |
Bộ Cánh úp, tên khoa học Plecoptera, là một bộ côn trùng, thường được gọi là ruồi đá. Có 3.500 loài trên toàn thế giới đã được mô tả, với các loài mới vẫn đang được khám phá. Ruồi đá được tìm thấy trên toàn thế giới, ngoại trừ Nam Cực. Ruồi đá được cho là một trong những nhóm Neoptera nguyên thủy nhất, với đồng minh được xác định từ kỷ Cacbon và Hạ Permi, trong khi ruồi đá thực sự được biết đến từ các hóa thạch chỉ là một chút nhỏ. Sự đa dạng hiện đại tuy nhiên rõ ràng là nguồn gốc đại Trung sinh.
Plecoptera được tìm thấy ở cả hai miền Nam và Bắc bán cầu, và dân số là khá khác biệt mặc dù bằng chứng tiến hóa cho thấy loài này có thể đã vượt qua đường xích đạo một số lần trước khi một lần nữa bị cô lập về mặt địa lý.
Tất cả các loài Plecoptera không xuất hiện nguồn nước ô nhiễm và sự hiện diện của chúng trong một dòng suối hoặc nước tĩnh lặng thường là một chỉ số về chất lượng nước tốt hoặc rất tốt.
Phân loại.
Dòng cơ bản ("Antarctoperlaria")
Phân bộ Arctoperlaria | 1 | null |
Dinocras ferreri là một loài ruồi đá thuộc họ Perlidae bộ Plecoptera, một trong những loài côn trùng lâu đời nhất(khoảng 220 triệu năm trước).
Loài này hiện diện trong Pháp, Ý và Thụy Sĩ, nó bị giới hạn ở rìa phía nam của dãy Alps và bộ phận nhỏ của miền Bắc Apennines.
Con trưởng thành có thể đạt khoảng 40 mm (1.6 in) chiều dài và chủ yếu có thể gặp phải trong tuyến đường thủy nhỏ.
Các màu sắc cơ bản của cơ thể là màu nâu nhạt, bao gồm cả đầu và chân. Cánh có màng và mờ, với tĩnh mạch màu nâu rõ ràng. Phần còn lại được gấp trên cơ thể. Đầu có sợi râu và các đốm màu vàng ở hai bên. Bụng có màu vàng.
Cả hai giới đều có cánh, nhưng những con trưởng thành bay kém và không bao giờ rời khỏi vùng nước lạnh. Ấu trùng phẳng thường ở dưới những tảng đá chỉ nổi lên từ các vùng nước. | 1 | null |
Gà rừng Sri Lanka hay Gà rừng Tích Lan, tên khoa học Gallus lafayetii, là một thành viên của bộ Galliformes là loài đặc hữu của Sri Lanka, nơi mà nó là loài quốc điểu.Nó liên quan chặt chẽ đến gà rừng lông đỏ (G. gallus), từ đó gà nhà được thuần hóa.Trong tiếng Sinhala nó được gọi là වළි කුකුළා (Wali Kukula) và trong tiếng Tamil nó được gọi là இலங்கைக் காட்டுக்கோழி.
Hành vi.
Như những loài gà rừng khác, Gà rừng Sri Lanka chủ yếu là trên mặt đất. Nó dành phần lớn thời gian của mình tìm kiếm thức ăn bằng cách bới đất tìm hạt, trái cây và côn trùng.
Nó đẻ 2-4 trứng trong một tổ hoặc trên nền rừng trong vùng đồi núi dốc hoặc trong các tổ bị bỏ rơi của các loài chim khác và sóc. Như Gà rừng lông xám và Gà rừng lông xanh, Gà rừng Sri Lanka trống đóng một vai trò tích cực trong việc bảo vệ tổ và chăm sóc con non. | 1 | null |
Gà rừng lông xám, tên khoa học Gallus sonneratii, còn được gọi là Gà rừng Sonnerat, là loài đặc hữu của Ấn Độ. Loài này được tìm thấy chủ yếu trong bán đảo Ấn Độ và nơi mà nó trùng lặp với sự phân bố của Gà rừng lông đỏ, nó được biết đến là hình thước lai. Có tiếng gáy lớn và đặc biệt là bị săn bắt để lấy thịt và có lông cổ dài được tìm để làm mồi câu cá.
Phân bố.
Các loài chủ yếu là ở bán đảo Ấn Độ, nhưng kéo dài vào Gujarat, Madhya Pradesh và Rajasthan ở phía nam. Loài này và gà rừng lông đỏ chồng lên nhau một chút dọc theo ranh giới phân bố phía bắc mặc dù phạm vi chủ yếu là không chồng chéo. | 1 | null |
Choc7 (chữ Hán phồn thể: 超克7; bính âm: Chao Ke Qi; Hán-Việt: Siêu Khắc Thất) là một nhóm nhạc nam của Đài Loan do A Bổn làm trưởng nhóm và là nhóm nhạc spin-off thứ hai của chương trình truyền hình tạp kỹ Đài Loan Mô phạm Bổng Bổng Đường (模范棒棒堂).
Sự nghiệp.
Một năm sau khi Bổng Bổng Đường được thành lập, Channel V đã sẵn sàng tạo ra nhóm nhạc hàng loạt thứ hai của chương trình tạp kỹ "Bổng Bổng Đường". Sau một vòng của cuộc thi tạo ban nhạc, mười chàng trai được giữ lại.
Năm 2010, Mao Đệ và đồng thành viên Vị Ngư (吳俊諺) ký hợp đồng với công ty A Legend Star Entertainment, và tin đồn về sự tan rã của Choc7 được lan rộng. Tuy nhiên nó vẫn chưa được xác nhận từ năm 2012 đến nay. | 1 | null |
Gà rừng lông xanh, tên khoa học Gallus varius, còn được gọi là Gà rừng Java hoặc Gà rừng xanh Java là một loài chim kích thước trung bình, dài đến 75 cm, trong họ Phasianidae. Phân tích phân tử gần đây (Kimball et al., Barrowclough) đã tiết lộ rằng gà rừng và trĩ là không đơn ngành. | 1 | null |
Chelidae là một trong ba họ còn sinh sống của rùa phân bộ Pleurodira và thường được gọi là Rùa cổ bên Úc-Nam Mỹ. Họ này được phân bố tại Úc, New Guinea, một phần của Indonesia, và hầu hết Nam Mỹ. Đó là một họ lớn với một lịch sử hóa thạch quan trọng có niên đại từ kỷ Phấn trắng.
Phân loại.
Họ Chelidae có chứa khoảng 60 loài trong khoảng 20 chi:
Phân bộ Pleurodira | 1 | null |
Gustavia augusta là một loài thực vật có hoa trong họ Lecythidaceae. Loài này được L. mô tả khoa học đầu tiên năm 1775.
Mô tả.
Gustavia augusta thuộc cây thân gỗ , là một loài cây phân nhánh , đôi khi xuất hiện dưới dạng cây bụi , thường cao tới 22m ,nhánh mang lá thường có đường kính khoảng 3-9 mm,phiến lá hình trứng thuôn đến hình mác, 16-48 x 4-13 cm, nhẵn, có dạng biểu đồ, có 14-22 cặp gân bên; đỉnh nhọn đến nhọn dài;các mép hoàn toàn có răng cưa hoặc hiếm khi có răng cưa, răng cưa đặc biệt rõ rệt ở nửa trên của phiến.Cuống lá dài 40 mm, dày 2-6 mm, mặt cắt ngang hình bán nguyệt.Cụm hoa thường mọc ở trên tán lá, hiếm khi mọc ở nách lá hoặc ở nách lá, dạng chùm, có lông đến giai đoạn trưởng thành, có từ 1-8 hoa,trục lá 4-cuống lá 15-75 mm, phụ bởi một lá bắc hình bầu dục hình mác hình mác 2-7 x 3-4 mm và mang ở các điểm khác nhau dọc theo chiều dài 2 lá bắc hình trứng đến hình trứng rộng hoặc lá bắc hình mác từ 2-8 x 2,5-7 mm.Hoa có đường kính từ 9-20 cm;đài hoa thường có vành gợn sóng sâu từ 1-2,5 mm. | 1 | null |
Adinandra javanica là một loài thực vật có hoa trong họ Pentaphylacaceae. Loài này được Choisy mô tả khoa học đầu tiên năm 1855.
Phạm vi bản địa của loài này là từ vùng Jawa đến Quần đảo Lesser Sunda. Nó phát triển chủ yếu trong quần xã sinh vật nhiệt đới ẩm ướt. | 1 | null |
Darlingtonia californica , còn gọi là Nấp ấm California, Loa kèn hổ mang hay Cây hổ mang là một loài thực vật có hoa ăn thịt, thành viên duy nhất của chi "Darlingtonia" trong họ Sarraceniaceae. Nó là loài bản địa Bắc California và Oregon, phát triển trong đầm lầy và nước lạnh chảy rỉ ra.
Tên "Loa kèn hổ mang" bắt nguồn từ sự tương đồng của lá hình ống của nó với một con rắng hổ mang lồng lên, hoàn chỉnh với một lá chia hai - từ vàng tới tía-lục- tương tự như những chiếc răng nanh hoặc lưỡi của một con rắn.
Cây được phát hiện vào năm 1841 bởi nhà thực vật học William D. Brackenridge ở Mount Shasta. Năm 1853 nó được mô tả bởi John Torrey, người đã đặt tên chi "Darlingtonia" sau nhà thực vật học Philadelphian William Darlington (1782-1863). | 1 | null |
Heliamphora chimantensis là một loài thực vật có hoa trong họ Sarraceniaceae. Loài này được Wistuba, Carow & Harbarth mô tả khoa học đầu tiên năm 2002. Loại cây này mọc trên đỉnh núi (có địa hình bằng phẳng, hay còn gọi là ) Chimanta và Apacara ở Venezuela, nơi mà chúng phát triển ở những khu vực trống trải, thoát nước kém giữa thảm thực vật thưa thớt. Nó được ghi nhận là mọc thành những bụi khổng lồ gồm nhiều cá thể được xếp chặt với nhau và trải rộng hơn vài mét. Hình dáng của mọc thẳng đứng, khi trưởng thành có màu vàng xanh chuyển sang đỏ. Một khe hình chữ V lớn hiện diện ở phía trước giúp chúng giảm bớt nước thừa trong ấm. Ở trên đầu mỗi ấm có một bộ phận hình cái muỗng/thìa dựng lên theo chiều dọc và có màu đỏ tươi với các tuyến mật ngọt. Mặc dù mẫu cây hoang dã ghi nhận có thể cao tới 50cm và một bụi đơn lẻ có thể rộng tới 6 mét, nhưng khi được con người nuôi trồng, kích thước chúng giảm đi nhiều, hiếm khi đạt được chiều cao hơn 20cm nhưng về độ rộng bao phủ vẫn có thể đạt được như ngoài tự nhiên. | 1 | null |
Trà hoa petelot hay Trà hoa vàng Tam Đảo (tên khoa học: Camellia petelotii Var) là một loài thực vật có hoa trong họ Theaceae. Loài này được Elmer Drew Merrill mô tả khoa học lần đầu tiên năm 1924 dưới danh pháp "Thea petelotii". Năm 1949, Joseph Robert Sealy chuyển loài này sang chi "Camellia" mở rộng như là "Camellia petalotii" Var.
Đặc điểm.
Cây bụi hoặc cây gỗ nhỏ, cao 3–5 m, cành non màu xám nhạt, nhẵn. Lá có cuống, dài 1,3–2 cm, lõm phía trên, nhẵn, lá dạng da, dày, hình bầu dục thuôn, đôi khi hình bầu dục hoặc thuôn, dài 13,5–17 cm, rộng 5–6 cm, mặt trên phiến lá màu xanh đậm, mặt dưới xanh sáng với nhiều điểm tuyến màu nâu nhạt, nhẵn, gốc lá hình nêm hoặc nêm rộng, chóp lá có mũi nhọn. mép lá có răng cưa nhọn nhưng cách nhau không đều, gân bên 10-12 cặp. Hoa trà vàng petelotii màu vàng, mọc đơn độc ở đầu các cành non, đường kính khi nở khoảng 4,7 cm. Cuống hoa to, dài 1-1,2 cm, trên mang khoảng 9-10 lá bắc con xếp sít nhau, hình vẩy hoặc hình trứng rộng, cao 1,5–3 mm, rộng 3–5 mm, mép và mặt trong có lông. Lá đài 5, hình trứng rộng ngược, cao 6–8 mm, rộng 5–9 mm, có lông như ở lá bắc, lá bắc và lá đài tồn tại khi quả chín. Cánh hoa gồm 14 cánh, hình trứng rộng ngược, bầu dục, dài 1,7–3 cm, rộng 1,5-1,8 cm. cánh hoa bên ngoài có lông mịn màu trắng ở mặt ngoài, tất cả hợp với nhau và với bộ nhị khoảng 8 mm ở gốc. Bộ nhị nhiều, cao khoảng 2,3 cm, hợp vòng ngoài khoảng 1,3 cm, chỉ nhị bên trong rời, có lông. Bộ nhụy gồm 3 lá noãn hợp thành bầu 3 ô, cao 2–3 mm, không lông, vòi nhụy 3, rời, dài 1,5–2 cm, không lông. Quả trà hoa vàng petelotii hình cầu dẹt, đường kính 4–5 cm, cao 2,8-3,2 cm. Hạt dài 1–2 cm, có lông.
Mùa ra hoa: Mùa đông tới đầu mùa xuân năm sau.
Sinh thái: Loài trà hoa vàng này mọc trong rừng thường xanh ở độ cao 950-1.100 m.
Phân bố: Vĩnh Phúc, VQG Tam Đảo. Loài đặc hữu của Việt Nam.
Năm 2000, nghiên cứu của Đỗ Đình Tiến về đặc điểm hình thái, sinh thái, và khả năng nhân giống bằng hom loài trà hoa vàng Tam Đảo. Tác giả đã đánh giá được các đặc điểm hình thái, sinh thái, sinh trưởng của loài này cũng như các điều kiện môi trường tác động tới sự sinh trưởng phát triển của loài, và thử nghiệm nhân giống vô tính thành công phục vụ trong công tác bảo tồn, phát triển trồng rừng và làm cảnh.
Phân bố.
Tại Việt Nam, loài chỉ thấy có ở Vườn quốc gia Tam Đảo với cá thể loài còn rất ít. Đây là loài bản địa và quý hiếm, với phân bố rất hẹp của Việt Nam trong khu vực Tam Đảo, Vĩnh Phúc.
Trên thế giới, loài trà hoa vàng này trong tự nhiên được cho là sinh sống trong các khu rừng có độ cao từ 100 – 900m tại khu vực miền nam Quảng Tây (Trung Quốc) và một số địa phương thuộc các tỉnh miền núi phía bắc Việt Nam như: Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Ba Chẽ (Quảng Ninh), Ba Vì (thành phố Hà Nội). Tuy nhiên, tại Ba Vì và Ba Chẽ người ta vẫn chưa tìm thấy loài này. Trong đó, Tam Đảo được các nhà nghiên cứu đánh giá là địa phương có điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng rất phù hợp với sự sinh trưởng và phát triển của loại cây này. Quá trình điều tra tại Vườn Quốc gia Tam Đảo đã phát hiện và thống kê được có 16 loài trà, thuộc chi Chè trong họ Chè. Trong đó trà hoa vàng Tam Đảo có dạng thân bụi đến gỗ nhỏ, cao từ 2 – 15 m, mùa hoa từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Hoa của loại cây này có màu vàng tự nhiên rất đặc trưng, phân bố rải rác trong các khu vực rừng tự nhiên, ven khe suối, đặc biệt tại độ cao 900 đến 1.200 mét so với mặt nước biển xuất hiện loài petelotii ("Camellia petelotii" (Merrill) Sealy, Kew Bull. 4: 219. 1949. 金花茶 - kim hoa trà) là loài có giá trị nhất trong các loài trà hoa vàng ở Việt Nam nhưng cá thể còn không nhiều
Sử dụng.
"Camellia petelotii" theo các nghiên cứu của y học phương Tây, các hợp chất được chiết xuất từ lá và hoa của loại cây này có khả năng kiềm chế 33,8% sự sinh trưởng của các khối u, giúp giảm đến 35% hàm lượng cholesterol trong máu, giảm triệu chứng xơ vữa động mạch do máu nhiễm mỡ, điều hòa huyết áp, hạ đường huyết, chữa kiết lỵ, đại tiện ra máu, điều trị tốt các bệnh về hô hấp, bài tiết. Hoạt chất của trà hoa vàng Tam Đảo dùng trong điều chế thuốc kháng sinh, thanh nhiệt giải độc, tăng cường sức khỏe, tái tạo tế bào, làm tươi mới cơ thể. Ngoài ra, hạt của loại cây này có thể chiết xuất tinh dầu, dùng làm mỹ phẩm cao cấp, thực phẩm chức năng;
Trà hoa vàng Tam Đảo là loài cây quý phái nên cũng có giá trị làm cây cảnh rất cao và giá trị, gỗ cứng có thể làm hàng mỹ nghệ hoặc đồ dùng gia đình. Với hàng loạt công dụng, trà hoa vàng Tam Đảo có giá bán rất cao trên thị trường. Hoa khô có giá trung bình là 15 triệu đồng/kg. Sau khi chế biến, đóng gói ở Trung Quốc, loại hoa này có thể được bán với giá 120 triệu đồng/kg, gấp nhiều lần so với giá thu mua tại Việt Nam. | 1 | null |
Franz Friedrich Szeliga von Zychlinski (27 tháng 3 năm 1816 tại Allenburg – 17 tháng 3 năm 1900 tại Berlin) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng đến cấp Thượng tướng Bộ binh. Ông đã từng tham chiến trong ba cuộc chiến tranh thống nhất nước Đức kể từ năm 1864 cho đến năm 1871, trong đó ông cũng tham gia các trận đánh quyết định ở Königgrätz-Sadowa vào ngày 3 tháng 7 năm 1866 và Sedan vào ngày 1 tháng 9 năm 1870.
Tiểu sử.
Franz sinh vào tháng 3 năm 1816, là con trai của cựu Trưởng quan kỵ binh Heinrich Wilhelm von Zychlinski (1755 – 1838) với người vợ của ông này là Wilhelmine, nhũ danh von Lietzen (1777 – 1829).
Thời trẻ, Zychlinski học tại các trường thiếu sinh quân ở Kulm và Berlin, sau đó ông gia nhập Trung đoàn Bộ binh số 24 với cấp hàm Thiếu úy vào ngày 5 tháng 8 năm 1833. Kể từ ngày 1 tháng 10 năm 1842 cho đến ngày 30 tháng 9 năm 1843, ông là sĩ quan phụ tá tiểu đoàn, sau đó ông đảm nhiệm chức sĩ quan phụ tá trung đoàn kể từ ngày 1 tháng 3 năm 1847 cho tới ngày 1 tháng 7 năm 1852 và trong thời gian này ông được thăng quân hàm Trung úy vào ngày 6 tháng 1 năm 1849. Chẳng bấy lâu sau, trong cơn bão Cách mạng Đức năm 1849, ông tham gia giao chiến trên đường phố ở Iserlohn cùng với các chiến dịch trấn áp quân nổi loạn tại Rheinpfalz và Baden. Đến ngày 22 tháng 6 năm 1852, Zychlinski được lên quân hàm Đại úy và vào ngày 20 tháng 7 năm 1855, ông trở thành Đại đội trưởng trong Trung đoàn Bộ binh số 24. Đến ngày 1 tháng 2 năm 1858, ông được đổi sang Trung đoàn Bộ binh số 33. Vào ngày 18 tháng 1 năm 1859, ông được thăng cấp bậc Thiếu tướng, đồng thời được ủy nhiệm làm Chỉ huy trưởng Tiểu đoàn II của Trung đoàn Dân quân Cận vệ số 3 ở Breslau. Sau đó, từ ngày 10 tháng 5 tới ngày 30 tháng 6 năm 1860, ông lãnh tạm quyền chỉ huy ("Führung") Tiểu đoàn II của Trung đoàn Phóng lựu Cận vệ số 3 Vương hậu Elisabeth, trước khi Zychlinski được thụ phong Tiểu đoàn trưởng. Trong khi đảm nhiệm cương vị này, ông được thăng cấp Thượng tá vào ngày 17 tháng 3 năm 1863, rồi 9 tháng sau đó, ông được nhậm chức Chỉ huy trưởng Tiểu đoàn Bắn súng hỏa mai vào ngày 17 tháng 12. Không lâu sau, ông chỉ huy tiểu đoàn của mình chiến đấu trong cuộc Chiến tranh Đức-Đan Mạch (1864), trong đó ông tham gia các trận đánh như ở Horsens và cuộc pháo kích Fredericia.
Hai năm sau, ngày 3 tháng 4 năm 1866, ông được thăng chức Trung đoàn trưởng Trung đoàn Bộ binh số 27 "Vương tử Louis Ferdinand của Phổ (số 2 Magdeburg), rồi được lên cấp bậc Đại tá hai tháng sau đó. Cùng năm đó, ông chỉ đạo trung đoàn của mình tham gia trận Münchengrätz trong cuộc Chiến tranh Bảy tuần với Áo, trong đó trung đoàn ông là một phần thuộc Lữ đoàn số 14 dưới quyền chỉ huy của tướng Helmuth von Gordon. Trong trận Münchengrätz, ông được lệnh đánh chiếm phía đông nam thị trấn này với ngọn đồi dốc đứng Musky, nơi có các vị trí phòng ngự quan trọng của quân Áo. Sau khi hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của mình, ông tham gia trận đánh quyết định ở Königgrätz-Sadowa vào ngày 3 tháng 7. Trước trận đánh, ông cùng với Thiếu tá Ernst von Unger là hai người có công phát giác ra vị trí phòng thủ của quân Áo. Đêm ngày 1 tháng 7 năm 1866, tiền quân của Sư đoàn số 7 (tướng Fransecky) do ông chỉ huy đã hạ trại tại lâu đài Cerekwitz, tại bờ sông cách Sadowa 8 km về hướng bắc. Zychlinski để ý thấy rất nhiều ánh lửa trên các cao điểm ở phía đông, và ngày hôm sau, sau khi báo cáo những gì mà ông nhìn thấy cho Bộ Chỉ huy, ông cử một đội kỵ binh đi thám sát. Các kỵ mã đã lăn xả vào một toán bộ binh Áo, bắt được một binh sĩ Áo rồi trốn thoát. Bị tra khảo tại Cerekwitz, tù binh này nói với Zychlinski rằng Quân đoàn III của Áo đang đóng quân trên các cao điểm Clum và Lipa. Buổi trưa ngày 2 tháng 7, Zychlinski đưa tin đến Bộ Chỉ huy Tập đoàn quân số 1 của Vương thân Friedrich Karl tại Kamenetz. Vương thân vốn đã xác định rằng các báo cáo ban đầu của Zychlinski đòi hỏi sự điều tra và ông phái Thiếu tá Unger trong bộ tham mưu của mình dò la thung lũng Bistritz, phát hiện ra ít nhất 4 quân đoàn Áo đang đóng trại tại khu vực giữa Bistritz và Königgrätz, chứ không phải là một.
Trong trận chiến Königgrätz, ông có nhiệm vụ kéo quân từ Cerekwitz qua Benatek tới Cistowes. 4 tiểu đoàn của ông tấn công làng Benatek và sau một đợt giao tranh ngắn ngủi, họ chiếm được Benatek vào khoảng 8 giờ sáng. Sau đó, họ định đánh ra ngoài làng nhưng lo ngại trước các lực lượng được bố trí dày đặc của Áo trong các khu rừng ở sườn trái của họ. Sư đoàn trưởng Fransecky xuống lệnh dừng chân cho đến khi các Trung đoàn 26 và 66 có cơ hội đến ứng chiến rồi ra lệnh cho Lữ đoàn số 14 đổ vào rừng "Swiepwald". Trước khi xung phong, để động viên tinh thần của quân sĩ, Zychlinski đã hô khẩu lệnh quen thuộc các Thống chế Blücher và Wrangel ngày trước, cùng với câu "Vượt lên!" ("Durch") như nhà thơ Carl Theodor Körner thời Chiến tranh Giải phóng đã hát. Cùng với hai tiểu đoàn bắn súng hỏa mai thuộc Trung đoàn số 26 ở cánh trái, các tiểu đoàn bắn súng hỏa mai thuộc các trung đoàn số 27 và 67 ở cánh phải dưới quyền Zychlinski dễ dàng đánh bật quân Áo. Sau đó, được Tiểu đoàn II của Trung đoàn số 27 được tăng viện, Zychlinski đánh Cistowes, nơi được lữ đoàn của Appiano phòng ngự rắn chắc. Sau khi tập trung hỏa lực khốc liệt, giết chết Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn I của Trung đoàn số 27 – Thượng tá von Sommerfeld, Tiểu đoàn IV Jäger và hai tiểu đoàn thuộc trung đoàn Đại Công tước Heinrich của Áo phản công đẩy lùi quân Phổ. Mặc dù bị sứt đầu mẻ trán, Trung đoàn số 27 giờ đây nhận được sự tiếp viện từ Trung đoàn số 66 và tiếp tục giao chiến. Bất chấp chiến thuật dùng cây cối để yểm trợ khéo léo của lính Jäger Áo, và sự tăng viện của Quân đoàn IV của Áo, quân đội Phổ quét sạch quân Áo ra khỏi khu rừng, buộc quân Áo phải rút chạy về đồi núi ở Cistowes. Quân Phổ cũng chiếm được làng Cistowes. Chỉ trong vòng một tiếng đồng hồ giao tranh, 6 tiểu đoàn Phổ của Zychlinski và Gordon đã đập tan hơn 10 tiểu đoàn Áo, tiêu diệt Lữ đoàn Brandenstein và giết chết viên lữ đoàn trưởng. Trong những diễn biến sau của trận đánh, Các lực lượng của Zychlinsky cũng giữ vững được khu vực mà mình đã chiếm sau suốt 6 tiếng đồng hồ giao chiến.
Trong trận chiến này, Zychlinski đã bị thương ở bắp vế và chỉ từ bỏ quyền chỉ huy trung đoàn của mình theo mệnh lệnh khẩn cấp từ Thái tử. Vì lòng dũng cảm trong chiến đấu, ông được tặng thưởng Huân chương Quân công cao quý nhất của Phổ vào ngày 20 tháng 9 năm 1866. Sau khi phục hồi sức khỏe, Zychlinski tiếp tục chỉ huy trung đoàn của mình trong vòng 4 năm. Ngay sau cuộc chiến năm 1866, nhà văn hào Theodor Fontane đã trao đổi thư từ với các tư lệnh như Zychlinski để thu thập kinh nghiệm viết về cuộc chiến, và về sau hai người trở thành bạn thân. Vào ngày 14 tháng 8 năm 1870, không lâu trước khi cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871), ông được lãnh nhiệm chức Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn Bộ binh số 14 đồng thời được phong danh hiệu à la suite. Trong trận Beaumont ngày 30 tháng 8 năm 1870, quân lính dưới quyền ông thu giữ 22 khẩu pháo của Pháp. Trong trận Sedan vào đầu tháng 9, lữ đoàn của ông bị thiệt hại nặng trong cuộc đột chiếm các cao điểm về phía đông bắc Yoncq và núi Brune, với thương vong lên tới 14 sĩ quan và 382 binh lính. Trong những diễn tiến kế tiếp của cuộc chiến, ông tham gia cuộc vây hãm Paris, trận pháo kích Toul cũng như các trận đánh ở Mouzon và Epinay.
Vào ngày 26 tháng 1 năm 1875, Zychlinski được thăng hàm Trung tướng và được ủy nhiệm chức Sư đoàn trưởng Sư đoàn số 15, đóng quân tại Köln, và chỉ huy sư đoàn này cho đến khi rời ngũ. Với cấp bậc Danh dự ("Charakter") Thượng tướng Bộ binh, vào ngày 18 tháng 10 năm 1890, Zychlinski được xuất ngũ ("zur Disposition", không còn phục vụ tại ngũ nhưng sẽ được điều động khi có chiến tranh) với một khoản lương hưu theo yêu cầu của ông.
Sau khi về hưu, ông dời đến Berlin và trong những năm sau đó, ông là tác giả một vài cuốn lịch sử quân sự, ngoài ra ông cũng viết các bài báo đăng trên Tuần báo quân sự ("Militär-Wochenblatt"). Vào ngày 14 tháng 7 năm 1891, Zychlinski trở thành Chủ tịch của Ủy ban Quỹ Phế binh Quốc gia Viktoria ("Ausschusses der Viktoria-National-Invalidenstiftung"). Vào tháng 3 năm 1900, Zychlinski từ trần ở Berlin và được an táng theo nghi thức quân sự tại nghĩa trang Invalidenfriedhof, Berlin.
Vào ngày 15 tháng 11 năm 1836, ông thành hôn với Auguste Wilhelmine Ernestine Johanna, nhũ danh Scherz (1815 – 1899), echị gái của Hermann Scherz (1818 – 1888), một người bạn thời trẻ của Theodor Fontane. Về sau, Von Zychlinski trở thành một trong số nhiều bạn hữu của Fontane ở Berlin như đã nêu. Trong thời gian đó, chính Fontane đã trung gian cho Zychlinski làm quen với nhà nghiên cứu về Max Stirner John Henry Mackay vào năm 1897.
Vào thập niên 1840, khi còn là một sĩ quan trẻ, Zychlinski cũng gia nhập nhóm trí thức Hegel trẻ (hay "Hegel cánh tả") của Bruno Bauer, một trong ba nhóm Hegel trẻ tại Berlin khi ấy. Dưới nặc danh "Franz Szeliga", ông xuất bản bài viết trên các tờ báo như nguyệt san "Allgemeinen Literatur-Zeitung" (1843/44) của Bauer và "Norddeutschen Blättern für Kritik, Literatur und Unterhaltung" (1844/45), cùng với "Beiträgen zum Feldzuge der Kritik". Bài phê bình cuốn "Les Mystères de Paris" của nhà văn Pháp Eugène Sue do Zychlinski thực hiện trên báo "Allgemeinen Literatur-Zeitung", trong đó ông coi tác phẩm của Sue như một "bí ẩn" xã hội và mỹ học, đã trở thành mục tiêu chỉ trích của Marx và Engels, những người khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản như là lực lượng tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa tương lai, trong cuốn "Heiligen Familie" vào năm 1845. Ngoài ra, Zychlinski cũng bình luận chi tiết về cuốn "Der Einzige und sein Eigenthum" của Max Stirner (trong: "Norddeutsche Blätter", 1845, Tập 2, Quyển 9, các trang 1-34).. | 1 | null |
Họ cá Psychrolutidae (tiếng Anh có tên là "Fatheads") có khoảng 40 loài được nhận dạng thuộc 9 chi cá. Họ cá ít được biết này bao gồm các loài (cá bống biển) sống ở đáy đại dương có hình dạng như nòng nọc, với đầu lớn và mình nhỏ với đuôi dẹt. Con trưởng thành sống ở đáy biển, giữa độ sâu và . Tên của nó có từ tiếng Hy Lạp "psychrolouteo", có nghĩa là "tắm lạnh". | 1 | null |
Khi mộc Nepal (Xích dương Nepal) , có bí danh là hạn đông qua thụ/ thủy đông qua thụ (đông qua thụ 冬瓜树 đọc như tống quá sủ, tống quán sủi), còn gọi là Tống quá sủ (danh pháp hai phần: Alnus nepalensis) là một loài thực vật có hoa trong họ Betulaceae. Loài này được D.Don mô tả khoa học đầu tiên năm 1825. Cây này mọc khắp dãy Himalaya ở độ cao 500–3000 m, từ Pakistan qua Nepal, Bhutan đến Vân Nam (Trung Quốc) và bắc Việt Nam (Lào Cai, Hà Giang, Điện Biên, Lai Châu...). Loài cây này đang được các nhóm dân tộc như H'mông, Nùng, Thù Lao ở Si Ma Cai, Lào Cai lựa chọn làm cây trồng phủ xanh, phục hồi và làm giàu rừng bằng tri thức địa phương với sự hỗ trợ của Viện SPERI và Viện CENDI. | 1 | null |
Cáng lò (danh pháp khoa học: Betula alnoides) là một loài thực vật có hoa trong họ Betulaceae. Loài này được Buch.-Ham. ex D.Don mô tả khoa học đầu tiên năm 1825. Cây gỗ nhỏ, thân có mùi thơm, vỏ thân láng trắng. Lá có phiến hình trái xoan, đầu lá nhọn, đuôi lá tròn hoặc hơi tim. Phiến lá dài 8–14 cm, rộng 4–6 cm. Mép lá có răng cưa nhọn. Hệ gân lá hình lông chim có 8-10 cặp gân phụ. Phiến lá khi khô có màu nâu đỏ. Quả nhỏ, hình bầu dục hoặc tròn, có cánh. Sinh thái phân bổ ở rừng có độ cao trên 1.000m. | 1 | null |
Betula occidentalis là một loài thực vật có hoa trong họ Betulaceae. Loài này được Hook. mô tả khoa học đầu tiên năm 1838.
Bạch dương đỏ là một loài cây bạch dương bản địa Tây Bắc Mỹ, ở Canada từ Yukon về phía đông Ontario và phía Nam, và ở Hoa Kỳ từ đông Washington đến Đông Bắc North Dakota, và phía Nam đến Đông California, Bắc Arizona và phía Bắc New Mexico và tây nam Alaska. Nó thường xuất hiện dọc theo các con suối ở miền núi.
Đây là cây bụi rụng lá hoặc cây cối sớm phát triển chiều cao đến 10 m, thường có nhiều thân cây. Vỏ cây có màu nâu đậm đến đen, mịn màng nhưng lột vỏ chết ra. Các cành cây có màu xám hoặc mỏng và không mùi khi cạo. Các lá là xen kẽ, hình bầu dục đến hình hoạ, dài 1–7 cm và rộng 1-4.5 cm, có lề sâu và hai đến sáu cặp tĩnh mạch, và một con petiole ngắn lên Đến 1,5 cm (0,59 in) dài. Những bông hoa như đuôi chồn được thụ phấn nhờ gió dài 2–4 cm, hoa đực như đuôi chồn lõm xuống xòn hoa cái dựng đứng lên. Quả dài 2–3 cm và rộng 8–15 mm, bao gồm nhiều hạt nhỏ có cánh được lèn chặt giữa các cuộn đuôi chồn. | 1 | null |
Betula papyrifera là một loài thực vật có hoa trong họ Betulaceae. Loài này được Marshall mô tả khoa học đầu tiên năm 1785.
Bạch dương giấy là một loài bạch dương có tuổi thọ không lâu năm ở Bắc Mỹ. Bạnh dương giấy được đặt tên là do vỏ cây mỏng màu trắng mà thường lột vỏ từng lớn tư thân cây trông như giấy. Bạch bạch giấy thường là một trong những loài đầu tiên chiếm lĩnh ở một khu vực bị đốt trong vĩ độ phía bắc và một loài quan trọng để tìm kiếm Nai sừng tấm Á-Âu. Gỗ thường được sử dụng làm giấy và củi đốt.
Mô tả.
Cây có kích thước trung bình cao đến 20 mét, và đặc biệt là tới 40 m với đường kính thân lên đến 76 cm. Trong rừng, nó thường phát triển với một thân cây đơn nhưng khi được trồng như một cây cảnh, nó có thể phát triển nhiều thân cây hoặc nhánh gần mặt đất.
Bạch dương giấy là một loài sống không lâu năm. Chúng chịu đựng nhiệt và độ ẩm kém và chỉ có thể sống được 30 năm ở các khu vực từ 6 trở lên, trong khi các loài cây ở những vùng khí hậu lạnh hơn có thể phát triển hơn 100 năm. "B. papyrifera" mọc trên nhiều loại đất, từ những tảng đá nổi lên đá tới những chiếc muskegs phẳng của rừng nhiệt đới. Sự tăng trưởng tốt nhất xảy ra ở sâu hơn, tốt cho đất khô tùy thuộc vào vị trí. | 1 | null |
Corylus americana là một loài thực vật có hoa trong họ Betulaceae. Loài này được Walter mô tả khoa học đầu tiên năm 1788.
Corylus americana là một loài cây lá rụng phát triển dưới dạng cây bụi; Nó có nguồn gốc ở miền đông Bắc Mỹ, ở phía đông Canada và phía Đông Hoa Kỳ; Nó đã được phân loại trong chi Corylus.
Mô tả.
Cây trồng phát triển đến độ cao khoảng 2,5 m đến 5 m (8-16 feet), với tán cây lan rộng từ 3 m đến 4,5 m. Đây là cây bụi từ trung bình đến lớn, trong một số điều kiện có thể giống như một cây nhỏ. Nó thường có nhiều nhánh với các nhánh phát triển ra ngoài dài tạo thành hình dạng dãn rộng hoặc hình cầu.
Quả có hạt ăn được đã trưởng thành vào khoảng thời gian từ tháng 7 đến tháng 10, chúng được bọc trong những cuống có lá giống như lá phủ.
Sinh thái học.
Các loại hạt của loài này là thức ăn của sóc, hươu, gà tây, chim gõ kiến, bồ nông và các động vật khác. Hoa đực là thức ăn của Bonasa umbellus
suốt mùa đông. | 1 | null |
Cây trăn châu Âu (歐榛 - Âu trăn) (danh pháp hai phần: Corylus avellana), là một loài thực vật có hoa trong họ Bạch dương (Betulaceae). Loài này được Carl von Linné mô tả khoa học đầu tiên năm 1753. Phỉ là loài bản địa châu Âu và Tây Á, từ Đảo Anh đến Iberia, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ và Síp, phía bắc đến trung tâm Scandinavia, và phía đông đến dãy núi Ural miền Trung, vùng Caucasus và Phía tây bắc Iran. Đây là một thành phần quan trọng của hàng rào phòng hộ là các ranh giới hiện trường truyền thống ở vùng đất thấp của nước Anh. Gỗ được trồng theo truyền thống như gai, các cọc cắt được sử dụng phên nứa và đất trong xây nhà và hàng rào nông nghiệp.
Loài này thường được trồng để làm hạt. Tên hazelnut trong tiếng Anh áp dụng đối với các loại hạt của bất kỳ loài nào thuộc chi "Corylus". Hạt dẻ hoặc hạt dẻ nâu, hạt nhân của hạt, có thể ăn được và sử dụng nguyên liệu hoặc rang, hoặc xay thành bột nhão. Xương rồng tròn, so sánh với hạt dài hơn.
Mô tả.
Loài này thường là cây bụi có độ cao 3–8 m, nhưng có thể đạt đến 15 m. Lá rụng lá, tròn, dài 6–12 cm, lông mềm trên cả hai bề mặt, và có lề song song. Hoa ra rất rất sớm vào mùa xuân, trước khi lá, và là đơn tính với catkins thụ phấn gió duy nhất. Hoa đuôi chồn đực có màu vàng nhạt và dài 5–12 cm, trong khi hoa cái rất nhỏ và được che giấu trong chồi với chỉ những màu đỏ sáng 1–3 mm. Quả hạch, được ra thành các nhóm từ một đến năm lần với nhau, mỗi quả được giữ trong một vỏ bọc ngắn bao quanh khoảng ba phần tư hạt. Hạt có dạng hình cầu với hình bầu dục, dài 15–20 mm và dài 12–20 mm (lớn hơn, dài đến 25 mm, ở một số lựa chọn trồng trọt), màu nâu vàng với vết sẹo nhạt ở đáy. Vỏ hạt rơi ra khỏi môi trường khi chín, khoảng 7-8 tháng sau khi thụ phấn.
Phân loại.
Tên khoa học tên Avellana xuất phát từ thị trấn Avella ở Ý và được Linnaeus lựa chọn từ "De historia stirpium commentarii insignes" (1542) của Leonhart Fuchs, nơi loài được miêu tả là"Avellana nux sylvestris" ("hạt hoang dã Avella").. Tên này được lấy từ cuốn Bách khoa toàn thư Naturalis Historia. từ năm 1992 của Pliny Già. | 1 | null |
Corylus chinensis là một loài thực vật có hoa trong họ Betulaceae. Loài này được Franch. mô tả khoa học đầu tiên năm 1899.
Corylus chinensis được tìm thấy trên những sườn núi ẩm của rừng ở độ cao từ 1200 đến 3500 mét. Chúng cũng được ghi nhận từ Tây Tạng, Tân Cương, Cam Túc, Quý Châu, Hồ Bắc, Thiểm Tây, Tứ Xuyên và Vân Nam.
Cả dầu và hạt của Corylus chinensis đều ăn được. | 1 | null |
Corylus colchica là một loài thực vật có hoa trong họ Betulaceae. Loài này được Albov mô tả khoa học đầu tiên năm 1895.
Là liài đặc hữu Armenia và Gruzia ở vùng Caucasus. Nó có thể chịu được băng giá hơn nhiều các loài khác của chi của nó. Nó có hạt nhỏ ăn được vào tháng Chín. Nó không được trồng thương mại cho thực phẩm bởi vì hạt có kích thước nhỏ. Vỏ của quả hạch là hình bầu dục và hạt tròn. Cây đôi khi được lai với cây hazel thông thường để tạo ra một cây lai có thể phát triển trong điều kiện khí hậu lạnh hơn. | 1 | null |
Corylus colurna là một loài thực vật có hoa trong họ Betulaceae. Loài này được L. mô tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Đây là loài cây rụng lá có nguồn gốc từ Đông Nam Âu và Tây Nam Á, từ vùng Balkan qua miền bắc Thổ Nhĩ Kỳ tới phía bắc Iran.
Đây là loài hazel lớn nhất, cao tới 25 m (82 ft), [1] với thân cây dày đến 1,5 m (4 ft 11 in); Tán lá là mảnh mai và hình nón ở những cây non, trở nên rộng hơn theo độ tuổi. Vỏ cây có màu xám nhạt, có kết cấu dày, xốp. | 1 | null |
Corylus cornuta là một loài thực vật có hoa trong họ Betulaceae. Loài này được Marshall mô tả khoa học đầu tiên năm 1785.
Được tìm thấy ở hầu hết Bắc Mỹ, từ Nam Canada Nam đến Georgia và California. Nó phát triển trong rừng khô và các rìa rừng và có thể đạt cao 4-8 mét (13–26 ft) với thân cây dày 10–25 cm (3.9-9.8 in) dày với vỏ cây xám mịn. Lá có hình tròn, tròn hai răng, dài 5–11 cm (2.0-4.3 in) và dài 3–8 cm (1.2-3.1 in) rộng, có lông dưới. Hoa như đuôi cáo hình thành vào mùa thu và thụ phấn vào mùa xuân tiếp theo. | 1 | null |
Corylus maxima là một loài thực vật có hoa trong họ Betulaceae. Loài này được Mill. mô tả khoa học đầu tiên năm 1768. Đây là loài bản địa đông nam châu Âu và tây nam châu Á, từ Balkan đến Ordu ở Thổ Nhĩ Kỳ.
Đây là loài cây bụi rụng lá cao 6–10 m, với thân dày tới 20 cm. Các lá hình tròn, dài 5–12 cm, rộng 4–10 cm, với mép có răng cưa kép. | 1 | null |
Corylus yunnanensis là một loài thực vật có hoa trong họ Betulaceae. Loài này được (Franch.) A.Camus mô tả khoa học đầu tiên năm 1929.
Nó là một cây nhỏ hoặc cây bụi. Các hoa có hình tam giác hình cánh hoa. Các hạt tròn được bao bọc trong vỏ hình bầu dục rất cứng cáp và có thể ăn được. Cây không được trồng thương mại để lấy hạt, thay vào đó chúng đôi khi được sử dụng làm cây cảnh. Chúng phân bố ở Tây Quý Châu, Hồ Bắc, Tây Nam Tây và Tây Tứ xuyên, và Tây Vân Nam. | 1 | null |
Allocasuarina ophiolitica là một loài thực vật có hoa trong họ Casuarinaceae. Loài này được L.A.S.Johnson mô tả khoa học đầu tiên năm 1989.
Đây là loài cây ây bụi khác gốc thường mọc đến độ cao từ 1 đến 3 mét (3 đến 10 ft). Loài này được tìm thấy trong cây bụi nhiệt độ cao trên bề mặt serpentinit ở đông bắc New South Wales. Loài cây này được tìm thấy ở rất hạn chế là của New South Wales: từ Bralga Tops đến Curricabark và Glenrock. | 1 | null |
Allocasuarina torulosa là một loài thực vật có hoa trong họ Casuarinaceae. Loài này được (Dryand. ex Aiton) L.A.S.Johnson mô tả khoa học đầu tiên năm 1982.
Loài cây này mọc ở các khu rừng cận nhiệt đới (ngay ngoài khu vực rừng chính) của Queensland và New South Wales, Australia. Ban đầu được mô tả với danh pháp "Casuarina torulosa" bởi William Aiton, loài này đã được chuyển đến chi hiện tại của nó vào năm 1982 bởi nhà thực vật học người Úc Lawrie Johnson. Nó là loài điển hình của chi "allocasuarina".
Gỗ có màu nâu đến hồng hơi đỏ. Gỗ được đánh giá cao được sử dụng trong nhiều vật dụng.
Loài cây này phát triển từ hạt giống, và cây bị chặt hoặc gãy thường sẽ mọc lại. | 1 | null |
Phi lao hay còn gọi xi lau, dương, dương liễu (danh pháp khoa học Casuarina equisetifolia) là một loài thực vật có hoa trong họ Casuarinaceae. Loài này được Carl Linnaeus đặt tên khoa học đầu tiên năm 1759.
Từ nguyên.
Tên khoa học của loài "equisetifolia" có nguồn gốc từ tiếng Latinh "equisetum", nghĩa là "lông đuôi ngựa" (vì chùm lá của nó giống như lông đuôi ngựa).
Phân bố và môi trường sống.
"Casuarina equisetifolia" được tìm thấy từ Ấn Độ, Myanmar và Việt Nam qua Malesia về phía đông đến Polynesia thuộc Pháp, New Caledonia, và Vanuatu, và về phía nam đến Australia (phần phía bắc của Lãnh thổ Bắc Úc, bắc và đông Queensland, và đông nam New South Wales, ở đây nó phát triển đến phía nam Laurieton.
Một quần thể cũng được tìm thấy ở Madagascar, trước đây nghi là loài bản địa, nhưng hiện nay người ta cho rằng nó được du nhập vào đây. Loài này được du nhập vào miền nam Hoa Kỳ và Tây Phi. Đây là loài xâm hại ở Florida và Nam Phi.
Cây sinh trưởng tốt nhất trên đất cát mới bồi tụ ven biển và đồng bằng; cũng có thể sống được trên đất cát nghèo, đất dốc tụ có tầng dày, thành phần cơ giới nhẹ, độ pH 5,5.
Phân loài.
Có 2 phân loài thuộc loài này:
"C. e." subsp. "equisetifolia".
Bản địa khu vực từ Ấn Độ ở phía tây qua Đông Nam Á tới New Guinea và miền đông Australia cùng một số đảo cận kề. Du nhập vào Pakistan, Sri Lanka, Madagascar, miền đông châu Phi, Italia, Tây Ban Nha, tây bắc châu Phi, Caribe, Venezuela, đông nam Hoa Kỳ, Mexico.
Các danh pháp đồng nghĩa bao gồm:
"C. e." subsp. "incana".
Bản địa New Caledonia, New South Wales, Queensland, Vanuatu. Du nhập vào Tây Ban Nha.
Các danh pháp đồng nghĩa bao gồm:
Mô tả.
"Casuarina equisetifolia" là cây thường xanh, cao đến . Cụm hoa đực hình đuôi sóc dài , cụm hoa cái đơn độc, mọc ở ngọn các cành bên, hoa cái cũng không bao hoa, đính vào nách của 1 lá bắc. Không giống hầu hết các loài khác trong chi "Casuarina", loài này có hoa đơn tính, cùng gốc. Quả là một cấu trúc gỗ có hình bầu dục dài và đường kính , bề ngoài giống như noãn hạt trần được cấu thành bởi nhiều lá noãn, mỗi lá noãn chứa một hạt với cánh nhỏ dài .
Giống như các loài khác trong chi "Casuarina", "Casuarina equisetifolia" là cây có khả năng cố định đạm trong khí quyển, nhưng khác với các cây thuộc họ đậu, "Casuarina" cộng sinh với xạ khuẩn "Frankia" spp.
Ứng dụng.
Phi lao cũng được dùng làm thuốc. Rễ cây dùng làm thuốc chữa ỉa chảy và lị. Do các cành và thân phi lao chịu cắt uốn nên còn dùng làm cây cảnh, cây bómg mát và cây bon sai. Gỗ dùng làm cột, đóng đồ dùng, trụ mở, bột giấy, dăm, than hầm, đun. Trồng rừng phòng hộ, chắn gió cố định cát ven biển. | 1 | null |
Hồ đào pêcan (Carya illinoinensis) là một loài thực vật có hoa thuộc chi Mạy ("Carya"), có nguồn gốc từ Mexico, cũng như các miền Trung Nam và Đông Nam Hoa Kỳ. Loài này được (Wangenh.) K.Koch mô tả khoa học đầu tiên năm 1869.
Liên quan.
Hồ đào pêcan được chính thức xem là cây tiêu biểu cho bang Hoa Kỳ Texas. Từ 1996, ngày 14 tháng 4 ở Hoa Kỳ được xem là ngày hồ đào pêcan quốc gia ("National Pecan Day"). | 1 | null |
Mạy châu (danh pháp khoa học: Carya tonkinensis), tên gọi khác: Hồ đào Bắc bộ, Hạnh đào bắc là một loài thực vật có hoa trong họ Juglandaceae. Loài này được Lecomte mô tả khoa học đầu tiên năm 1921. Cây gỗ nhỡ, rụng lá vào mùa đông, phân bổ ở đai cao 600-1.200m, ưa sáng. Thường gặp trong rừng á nhiệt đới thường xanh, rừng thứ sinh hoặc rừng phục hồi sau nương rẫy. | 1 | null |
Alan Riverstone McCulloch (sinh ngày 20 tháng 6 năm 1885, mất ngày 1 tháng 9 năm 1925) là nhà ngư loại học Úc nổi bật. Ông sinh ra ở Sydney, và bắt đầu công việc nghiên cứu ở tuổi 13 với tư cách là một trợ lý miễn phí cho Edgar Ravenswood Waite ở Bảo tàng Úc, ở đó Waite khích lệ McCulloch học động vật học. Ba năm sau, McCulloch là trợ lý cơ khí, và năm năm sau đó, ông là người chuyên trách nghiên cứu về cá cho đến khi mất. | 1 | null |
Cây óc chó (danh pháp khoa học: Juglans regia) là một loài thực vật có hoa trong Chi Óc chó họ Juglandaceae. Loài này được Carl von Linné mô tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Cây óc chó thuộc họ Juglandaceae, phân bố từ phía Đông khu vực Balkan qua dãy Himalayas đến phía Tây Nam Trung Quốc. Những khu rừng óc chó lớn nhất nằm ở Kyrgyzstan, ở độ cao từ 1,000 đến 2,000 m so với mực nước biển. Cây óc chó đã mang sang và trồng phổ biến ở Châu Âu trong thời kì cổ đại qua các hoạt động chinh phạt và thương mại.
Miêu tả.
"Cây óc chó" thuộc dạng cây lớn, cây trưởng thành có thể đạt độ cao 25–35 m, bán kính thân cây có thể lên đến 2m, thân cây mập, ngắn nhưng tán cây thì rất rộng để giành được lợi thế cạnh tranh về ánh sáng trong các khu rừng. Cây óc chó là loài cây ưa nắng và cần nhiều nắng để phát triển. | 1 | null |
Psychrolutes là chi cá biển sâu thuộc họ Psychrolutidae. Vào tháng 06 năm 2003, trong chuyến thám hiểm NORFANZ phía tây bắc New Zealand, các nhà khoa học đã phát hiện được một mẫu "P. microporos" ở độ sâu từ 1,013 mét đến 1,340 mét trên Norfolk Ridge.
Phân loài.
Hiện có 11 loài được nhận dạng trong chi: | 1 | null |
Myrica gale là một loài thực vật có hoa thuộc chi "Myrica", bản địa bắc và tây châu Âu cũng như mạn bắc Bắc Mỹ. Đây là một cây bụi rụng lá cao chừng 1–2 m. Lá đơn, mọc hình xoắn ốc, dài 2–5 cm. Bông hình đuôi sóc, với đông đực và cái mọc khác cây. Trái cây dạng hạch.
Loài này hay mọc trong những bãi lầy, và để chịu được điều kiện sinh trưởng nghèo nitơ, rễ cây có xạ khuẩn cố định đạm giúp cây kiếm được lượng nitơ cần thiết. | 1 | null |
Nothofagus fusca là một loài thực vật có hoa trong họ Nothofagaceae. Loài này được (Hook.f.) Oerst. mô tả khoa học đầu tiên năm 1873.
Đây là loài đặc hữu của New Zealand, nơi loài này mọc trên cả hai đảo Bắc và đảo Nam. Nói chung loài cây này được tìm thấy trên những ngọn đồi thấp và tầng thung lũng nội địa nơi đất màu mỡ và thoát nước tốt. Tên khoa học là "Nothofagus fusca" trước năm 2013.
Đây là một cây thường xanh cỡ trung bình cao đến 35 m. Các lá được sắp xếp xen kẽ, hình trứng rộng, dài 2–4 cm và rộng 1,5–3 cm, lề rất đặc trưng hai răng với mỗi thùy mang hai hàm răng.
Phấn hoa từ cây được tìm thấy gần bán đảo Nam Cực cho thấy loài này trước đây đã mọc ở Nam Cực từ thời kỳ Eocene. | 1 | null |
Dó đất đồng châu hay dương đài nấm (danh pháp hai phần: Balanophora fungosa) là một loài thực vật có hoa trong họ Balanophoraceae. Loài này được J.R.Forst. & G.Forst. mô tả khoa học đầu tiên năm 1775.
Loài này được công nhận là bao gồm 1 phân loài (loài phụ) và 2 thứ như sau: | 1 | null |
Cochlospermum fraseri là một loài thực vật có hoa trong họ Bixaceae. Loài này được Planch. mô tả khoa học đầu tiên năm 1847., có tên địa phương là "cây bông", "bụi kapok", và "cây kapok".
Phân loại.
Nhà thực vật học người Pháp Jules Émile Planchon đã mô tả loài này vào năm 1847 từ đảo Melville ngoài khơi bờ biển phía bắc của Úc. Hai phân loài được nhận biết: phân loài "fraseri", tìm thấy chủ yếu từ Katherine đến đảo Melville, có lá mịn và lá dài 2 mm và phân loài "heteronemum", từ Katherine về phía tây đến sông Ord, có lá mịn và lá dài 40–58 mm.
Mô tả.
"Cochlospermum fraseri" là cây rụng lá hoặc cây bụi có thể cao tới 7 m. Loài này nở hoa từ tháng 4 đến tháng 10 (tháng 3 đến tháng 8 ), cụm hoa là một cánh đồng đầu cuối. Hoa không đối xứng, có năm đài hoa trong hai whorls, với hai sepals bên ngoài ngắn hơn so với ba cái bên trong. Nó có nhiều nhị hoa. Những bông hoa thường xuất hiện khi cây không có lá. Chúng có quả từ tháng 6 đến tháng 3, với quả là một viên nang có từ 3 đến 5 van. Hạt được bao quanh bởi các sợi "bông", tạo nên tên gọi chung, "cây kapok".
Phân bố và sinh cảnh.
Nó được tìm thấy trong các vùng sinh thái của Trung bộ Kimberley, Dampierland, Gulf Fall and Uplands, Bắc Kimberley, Ord Victoria Plain, Pine Creek, Victoria Bonaparte ở Northern Territory.,
và các vùng sinh cảnh Trung bộ Kimberley, Dampierland, Great Sandy Desert, Northern Kimberley, Ord Victoria Plain, Victoria Bonaparte ở Tây Australia.
Sử dụng.
Thổ dân bắc Úc ăn hoa, hoặc sống hoặc nấu chín, và rễ của cây non. Họ cũng sử dụng lông tơ từ hạt giống như trang trí cơ thể.
Cây này là một cây "lịch" của người Jawoyn: hoa chỉ ra khi cá sấu nước ngọt đang đẻ trứng, thu hoạch thời gian để thu thập chúng. | 1 | null |
Cytinus hypocistis là một loài thực vật có hoa trong họ Cytinaceae. Loài này được (L.) L. mô tả khoa học đầu tiên năm 1764.
Cytinus hypocistis có bốn phân loài. Nó được tìm thấy chủ yếu ở các địa điểm bao quanh biển Địa Trung Hải, và là loài điển hình cho chi Cytinus. Định dạng nhị phân đã được bảo toàn.
Phân phối.
Cytinus hypocistis là loài bản đi ở Albania; Algeria; Crete; Croatia; Síp; Hy Lạp; Pháp (kể cả Corsica); Israel; Ý (bao gồm Sardinia và Sicily); Lebanon; Libya; Malta; Ma-rốc; Bồ Đào Nha; Tây Ban Nha (bao gồm cả quần đảo Balearic và Canary); Syria; Tunisia; Và Thổ Nhĩ Kỳ.
Phân loài macranthus có nguồn gốc ở Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha; Orientalis có nguồn gốc ở miền nam Hy Lạp và Crete; Và pityusensis là loài đặc hữu của Ibiza thuộc quần đảo Balearic.
Sử dụng.
Cytinus hypocistis đã được sử dụng trong y học cổ truyền để điều trị k dys và các khối u của cổ họng, và đã được sử dụng làm chất làm se. | 1 | null |
Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc () hay Quân đội Trung Hoa Dân Quốc hoặc Quân đội Đài Loan là lực lượng vũ trang của Trung Hoa Dân Quốc, bao gồm các nhánh Lục quân, Hải quân (bao gồm Thủy quân lục chiến), Không quân và Quân Cảnh
Cho đến những năm 1970 trước khi kết thúc thiết quân luật, nhiệm vụ chính của quân đội Trung Hoa Dân Quốc là chiếm lại Trung Quốc đại lục từ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa .Nhiệm vụ quan trọng nhất của quân đội Đài Loan là bảo vệ các hòn đảo :Bành Hồ, Kim Môn, Mã Tổ... để chống lại một cuộc xâm lược có thể xảy ra với Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc.
Lịch sử.
Tiền thân của quân đội Đài Loan là Quốc dân Cách mệnh Quân (國民革命軍), lực lượng này đổi tên thành Trung Hoa Dân Quốc Quốc quân vào năm 1947 để phù hợp với hiến pháp.
Trang bị.
Quân đội Đài Loan chủ yếu mua sắm, trang bị các loại vũ khí của Hoa Kỳ, như 150 máy bay chiến đấu F-16A/B Block-20 MLU, 6 máy bay E-2 Hawkeye, 63 trực thăng chiến đấu Bell AH-1 Cobra, 39 trực thăng do thám Bell OH-58 Kiowa, 30 trực thăng Apache AH-64E, 3 khẩu đội pháo MIM-104 Patriot và đã được Hoa Kỳ chuyển giao công nghệ chế tạo tàu frigate lớp Oliver Hazard Perry. | 1 | null |
Hương xuân (danh pháp hai phần: "Toona sinensis"; ; ; ) hay còn gọi tên khác là "mạy sao", "xoan hôi", "cây thịt bò hành tây", hay "tông dù" là một loài cây thuộc " Chi Hương xuân " có nguồn gốc ở phía đông và đông nam Châu Á, từ Bắc Triều Tiên ở phía nam qua hầu hết các miền đông, trung và tây nam Trung Quốc đến Nepal, đông bắc Ấn Độ, Myanmar, Thái Lan, Malaysia và phía tây Indonesia.
Sinh thái học.
Đây là loài cây rụng lá cao tới với thân cây có đường kính lên tới 70 cm. Vỏ cây có màu nâu, nhẵn trên cây non, trở nên bong vảy thành xù xì trên cây già.
Các lá xếp hình lông chim, dài 50–70 cm và rộng 30–40 cm, với 10–40 lá chét, lá ở cuối thường không xuất hiện (lá chét lông chim chẵn) nhưng thỉnh thoảng có (lá chét lông chim lẻ); các lá nhỏ riêng rẽ dài 9–15 cm và rộng 2.5–4 cm, với toàn bộ viền lá hoặc viền răng cưa nông.
Các bông hoa nở vào mùa hè có những khóm hoa dài từ 30–50 cm ở cuối mỗi nhánh; mỗi bông hoa nhỏ có đường kính 4–5 mm với 5 cánh hoa màu trắng hoặc hồng nhạt. Quả có dạng quả nang dài từ 2–3.5 cm chứa nhiều hạt có cánh.
Các nụ hoa có màu đỏ tía hoặc nâu đỏ và có mùi thơm đặc biệt. Thời kỳ ra hoa là tháng 7 hàng năm, với những bông hoa nhỏ màu trắng, những chùm hoa dài, 5 hoa lưỡng tính trên mỗi hoa, và những cành hoa thưa thớt. Sau khi ra hoa, quả hình bầu dục màu vàng được hình thành. Quả hương xuân tách ra sau khi chín, và hạt hình bầu dục của nó rơi xuống đất.
Về ngoại hình, cây hương xuân và ailanthus rất giống nhau, nhưng lá có mùi khác nhau, ngoài ra, toon có vỏ sần sùi và ailanthus tương đối mịn.
Trồng trọt.
Cây hương xuân có thể được nhân giống bằng cả phương pháp hữu tính và vô tính, bao gồm nhân giống bằng hạt, nhân giống cây vô tính (ramet), nhân giống cắt và nhân giống mô nhanh.
Nhân giống.
Trước đây, cây vô tính dùng để nhân giống và năng suất cây thấp, chỉ phù hợp cho canh tác phân tán, trong khi việc nhân giống có thể cung cấp một số lượng lớn cây giống, có thể thích ứng với nhu cầu thâm canh và phát triển cây hương xuân.
Khả năng nảy mầm của hạt hương xuân là khoảng 0,5a, và hạt trên 0,5a hầu như không nảy mầm. Do đó, cần phải chọn các quả nang tươi được thu thập trong năm qua, làm khô chúng và nghiền nát chúng, và phát tán chúng bằng gió.
Những điểm chính của việc nhân giống là: chọn một vườn ươm, ngâm hạt tỉ mỉ để thúc đẩy sự nảy mầm, gieo hạt kịp thời, chống rét và hạn hán, gieo hạt thấp, làm ẩm đáy mương, bón phân kịp thời theo từng giai đoạn;
Ngâm hạt và nảy mầm.
Gieo hạt hương xuân cần 371 kg mỗi ha, ngâm trong nước ấm ở 20-30 °C trong 1 đến 3 theo tỷ lệ của hạt và nước trước khi gieo trong 1 ngày đêm, loại bỏ và rửa sạch bằng nước sạch, và đặt nó xuống đáy mương không đọng nước. Trong chậu bùn, phủ 2 lớp gạc, đặt ở nơi ấm và tối để nảy mầm, nhiệt độ nên được kiểm soát ở mức 20 ~ 25oC, độ dày của hạt không được vượt quá 3 cm, hoặc bọc trong bao tải cũ ngâm trong nước để nảy mầm. Khi 30% hạt vỡ ra thành chồi trắng, trộn với cát mịn hoặc đất mịn và trải đều xuống mương.
Thời gian gieo.
Thời gian nảy mầm thường là từ cuối tháng ba đến đầu tháng tư. Gieo sớm vào đúng thời điểm, kết hợp với quản lý cẩn thận, cây giống có thể được cấy ghép với lá vào mùa xuân và mùa thu. Khoảng cách hàng để trồng là 40 cm, với 180.000 đến 300.000 cây trên một ha, độ sâu của mương trồng là 4 cm, và đất là 2 đến 3 cm sau khi gieo.
Nhân giống vô tính.
Còn được gọi là sinh sản phụ hoặc sinh sản gốc. Đây là một trong những phương pháp nhân giống hương xuân phổ biến nhất phù hợp cho canh tác lẻ tẻ sử dụng chồi gốc. Cây có sự nảy mầm mạnh mẽ, rễ bên được phân bố trong lớp đất mặt 10 cm, và hầu hết chúng phát triển theo chiều ngang, và dễ mọc lên, tạo thành các cụm. Sau khi lá rụng vào mùa thu hoặc trước khi nảy mầm vào mùa xuân, đào rãnh hoặc đào lỗ xung quanh cây mẹ có thể thúc đẩy sự nảy mầm của rễ, có thể được trồng vào mùa thu hoặc mùa xuân năm sau.
Giâm cành nhân giống (nhân giống gốc).
Ứng dụng các đặc tính của rễ cây hương xuân để hình thành rễ phiêu lưu dễ dàng để nhân giống.
Đây là một công nghệ vườn ươm dễ vận hành, đòi hỏi đầu tư ít, tỷ lệ sống cao, tăng trưởng cây giống nhanh và được sử dụng rộng rãi.
Những điểm chính là: Rải nhiều phân bón hữu cơ vào khu vực này để giữ cho đất trong vườn ươm luôn ẩm ướt, chọn những cây khôẻ và năng suất cao hoặc cây con khỏe trong đất ươm, và đào rễ với độ dày 0,5–1 cm.
Cắt thành các đoạn 15–20 cm để giâm, phủ lớp đất dày 2 ~ 3 cm, chọn một chồi mạnh để cố định cây con khi chiều cao của cây là 10 cm, phun urê 2 hoặc 3 lần trong giai đoạn cây con, sau đó phun phân lân và kali vào tháng 9 từ 2 đến 3 lần, thúc đẩy việc gieo hạt giống, thoát nước kịp thời và nới lỏng đất trong mùa mưa, không tưới nước cho rễ mới cắt để ngăn ngừa thối.
Giâm cành nhân giống.
Có hai phương thức là giâm cành mềm và cành cứng. Cành gỗ hoàn toàn khó ra rễ hoặc chậm ra rễ; Các cành quá mềm dễ hỏng sau khi cắm xuống. Cây nửa thân gỗ hoặc chủ yếu là thân gỗ có tỷ lệ sống cao đối với cành giâm. Dùng các mầm non mới nhú trên rễ thân cây sử dụng làm cành giâm, dễ dàng bén rễ và sống sót hơn so với các nhánh ở các tán.
Phương pháp cụ thể là: từ cuối tháng 6 đến đầu tháng 7, chọn các nhánh của thân cây cách mặt đất 20 cm và đã nhập vào lignation, và cắt chúng thành các đoạn 20 cm hoặc 10–15 cm. Đầu dưới được cắt thành một góc xiên, Phần trên của cành giâm giữ lại 1 đến 2 cặp lá chét ở gốc lá kép,
Những chiếc lá còn lại bị cắt đi. Cắt các phần cắt bằng dung dịch NAA hoặc vitamin D12 500 mg / L, chèn chúng vào đất lỏng lẻo và màu mỡ với mật độ 40 cm × 40 cm và thiết lập một vòm che phủ (拱棚) nhỏ. Duy trì độ ẩm tương đối 85% ~ 90% và nhiệt độ 20 ~ 30oC, ra rễ khoảng 50d.
Giâm cành cứng sau khi lá hương xuân rụng vào đầu mùa đông, Chọn các cành nhỏ từ 1~2 năm, cẳt thành các đoạn 15 ~ 20 cm, cắt phẳng phần trên
Cấy mô nhân giống nhanh.
Việc nuôi cấy mô và nhân giống nhanh chóng bắt đầu vào cuối những năm 1980. Nhà nghiên cứu sinh học Đàm Lan Anh người Trung Quốc và các công sự đã báo cáo rằng thân cây hương xuân non được trồng trên môi trường cơ bản MS được bổ sung IAA và BA, và được tiêm trong 2 đến 3 tuần để tạo chồi, có thể được sao chép với số lượng lớn sau 4-5 tuần, một lần trong 2-3 tuần.
Dương Kỳ Quang, giáo sư tại Đại học Nông nghiệp An Huy và những người khác đã lấy những cây hương xuân trưởng thành 1 năm tuổi không hoạt động, nảy mầm chúng bằng cách bảo quản lạnh và dung dịch nước BA0.1 mg / L, cấy chồi trên môi trường cây gỗ WPM với BA được thêm vào, và được trồng ở 25-27oC. Mầm, cắt cành vi mô và cắt vào WPM có chứa NAA hoặc IBA, tỷ lệ ra rễ có thể đạt 90%, cây giống ống nghiệm được cấy và cây tinh chế, phát triển tốt dưới ánh sáng tự nhiên trong nhà kính.
Từ năm 1989, Học viện Lâm nghiệp Hà Bắc, v.v đã thu thập các nhánh từ cây trưởng thành ở các khu vực khác nhau làm nguyên liệu thử nghiệm cho các chứng minh khác nhau, và thiết lập một bộ phương pháp hoàn chỉnh để sinh sôi chồi, cây con khỏe mạnh, ra rễ và cấy cây con, rất thích hợp cho nuôi cấy mô và nhân giống nhanh chóng các giống hương xuân lương phẩm với ít nguyên liệu.
Văn hoá.
Trong văn hoá Trung Quốc, "hương xuân" thường được sử dụng cho một phép ẩn dụ khá tuyệt đối, với một cây trưởng thành đại diện cho một người cha. Điều này thỉnh thoảng xuất hiện khi bày tỏ lời chúc đến cha mẹ của một người bạn trong lá thư, thường viết là "xuân huyên tịnh mậu" (ý nghĩa mong cha mẹ mạnh khoẻ an khang) (), trong đó "hương xuân" ẩn dụ cho cha và hoa hiên (huyên thảo) tương trưng cho mẹ.
Thu hoạch và công dụng.
Lá non của T. sinensis ("hương xuân") được sử dụng rộng rãi như một loại rau ở Trung Quốc; Chúng có hương vị hoa, do các hợp chất dễ bay hơi organosulfur.
Cây có lá non màu đỏ được coi là có hương vị tốt hơn so với những cây có lá non màu xanh lá.
Ở Trung Quốc và các nước Đông Nam Á như Malaysia, lá non hương xuân được sử dụng để làm sốt hương xuân, được dùng làm gia vị để ăn với cháo trắng như bữa sáng và bữa ăn đơn giản, hoặc để tăng cường hương vị của một món ăn hoặc súp. Các món ăn phổ biến được làm bằng sốt hương xuân là cơm chiên, tào phớ, canh nấm.
Gỗ cứng và ánh đỏ có giá trị, được sử dụng để làm đồ nội thất và chế tác thân của đàn ghita điện. Là một loại "gỗ gụ đích thực" (gỗ gụ khác với " Swietenia "), nó là một trong những thay thế phổ biến cho gỗ gụ " Swietenia " ("gỗ gụ chính hãng") hiện bị hạn chế về mặt thương mại.
Bên ngoài khu vực bản địa, thì cây hương xuân được đánh giá cao hơn như một cây cảnh lớn vì khía cạnh không thuần của nó. Cho đến nay, đây là loài chịu lạnh nhất thuộc họ Meliaceae và là thành viên duy nhất trong họ có thể được trồng thành công ở Bắc Âu.
Tính chất nguy hiểm tiềm tàng.
Vấn đề duy nhất là hàm lượng nitrit của lá hương xuân cao, đạt 157-160 mg/kg,Nhưng sau khi đun sôi với nước sôi, lượng nitrit chỉ còn khoảng 7 mg/kg,Vì vậy, nó là khá an toàn. Tuy nhiên, sau khi lưu trữ hương xuân lâu dài, hàm lượng nitrit cũng sẽ tăng lên, do đó không thích hợp để lưu trữ quá lâu.
Công dụng.
Trứng xào với lá hương xuân.
Sau khi đánh tan trứng, cho thêm muối, trần qua lá hương xuân đã thái nhỏ và khuấy đều. Sau đó cho dầu đến 70%, đổ trứng vào chảo và xào.
Tài liệu làm món "Trứng rán với hương xuân": Trứng gà 200 gram,chồi lá hương xuân non 50 gram (Thái nhỏ chồi lá hương xuân và trộn vào trứng, có mùi như hẹ, tránh chần qua nước sôi), 10 gram tinh bột, 150 gram dầu và 2 gram muối. | 1 | null |
Trichilia emetica là một loài thực vật thuộc họ "Meliaceae" (họ Xoan). Nó thường được gọi là Natal mahogany trong tiếng Anh. Loài cây này sinh sống những những nơi ven sông, có mặt rộng khắp từ tỉnh KwaZulu-Natal của Nam Phi đến châu Phi nhiệt đới.
Đây là cây thường xanh, với lá màu xanh sậm bóng. | 1 | null |
Bursera simaruba (thường được gọi là gumbo-limbo, copperwood, và chaca) là một loài trong họ Trám (Burseraceae). Đây là loài bản địa các khu vực nhiệt đới châu Mỹ từ cực đông nam Hoa Kỳ (nam Florida) qua Mexico và Caribbe đến Brazil, Jinotega và Venezuela. Một ví dụ về môi trường sống của nó là ở rừng ngập mặn Petenes ở Yucatán, nơi nó là một loài cây bán nổi trội. | 1 | null |
Ngày 4 Tháng Tư năm 2013, một tòa nhà sập đổ trên vùng bộ tộc ở Mumbra, một khu ngoại ô của Thane ở Maharashtra, Ấn Độ. Đây dược gọi là vụ sập nhà tệ nhất trong khu vực. 74 người chết, trong đó có 18 trẻ em, 23 phụ nữ và 33 nam giới, trong khi hơn 100 người sống sót. Việc tìm kiếm thêm những người sống sót kết thúc ngày 06 tháng 4 năm 2013.
Thảm họa.
Tòa nhà tám tầng xây bất hợp pháp trên một khu đất rừng thuộc ngoại ô Mumbai đổ sụp hoàn toàn vào chiều tối 4 tháng Tư.
Theo phát ngôn viên chính quyền địa phương, khi tai nạn xảy ra có khoảng từ 100 đến 150 người đang sinh sống ở bên trong, phần lớn họ là cư dân và công nhân xây dựng.
Sáu xe ủi đất cùng nhân viên cấp cứu với đủ loại dụng cụ được huy động đến hiện trường. Mãi đến chiều 5 tháng Tư vẫn còn hơn 20 người mất tích và ba tầng lầu vẫn chưa có thể kiếm nạn nhân được vì chúng nằm ép lên nhau như bánh mì kẹp.
Theo một bệnh viện ở gần bên, nạn nhân phần lớn bị thương ở đầu, cột sống và gãy xương. Ngoài ra một bé gái chỉ mới 10 tháng bị thương nhưng chưa biết cha mẹ là ai.
Bối cảnh.
Lúc tai nạn xảy ra, tòa nhà đang còn xây dở dang. Chỉ mới bốn tầng đã hoàn tất và có người dọn vào ở, còn ba tầng khác vừa mới xong, và tầng thứ tám đang xây thì bị sụp. Theo thanh tra cảnh sát, cấu trúc của tòa nhà rất yếu. Cảnh sát sau đó lùng kiếm các chủ xây dựng để bắt.
Sập cao ốc là chuyện xảy ra thường xuyên ở Ấn Độ vì chủ thầu thường dùng vật liệu tồi để xây, kể cả thiếu người chuyên môn giám sát. Nhu cầu nhà cửa quanh khu vực các đô thị lớn cùng với nạn tham nhũng khiến nhiều nhà thầu tự động xây thêm tầng lầu, hoặc có khi xây cả một cao ốc hoàn toàn bất hợp pháp. | 1 | null |
Vấp hay Vắp (danh pháp khoa học: Mesua ferrea) là một loài cây trong họ Cồng (Calophyllaceae), thường được trồng làm cây cảnh.
Đây là loài bản địa những vùng ẩm ướt của Sri Lanka, Ấn Độ, nam Nepal, Myanmar, Thái Lan, Đông Dương, Philippines, Malaysia và Sumatra. Chúng hay sống trong rừng thường xanh, nhất là cạnh các thung lũng sông. Ở đông Himalaya và Ghat Tây của Ấn Độ chúng mọc ở độ cao đến , còn ở Sri Lanka thì đến . Vấp là quốc thụ của Sri Lanka còn hoa vấp là hoa biểu tượng của bang Tripura.
Trong địa danh.
Cây vấp có trong tên của quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. | 1 | null |
Heike Kamerlingh Onnes (1853-1926) là nhà vật lý nổi tiếng người Hà Lan. Ông đoạt giải Nobel Vật lý vào năm 1913 khi là người nghiên cứu tính chất của vật chất tại nhiệt độ cực thấp dẫn đến việc tạo ra heli lỏng. Ông là người tìm ra hiện tượng siêu dẫn vào năm 1911. Heike Kamerlingh Onnes làm thí nghiệm với thủy ngân nhận thấy rằng sự phụ thuộc của điện trở thủy ngân vào nhiệt độ khác hẳn sự phụ thuộc đối với kim loại khác. Khi nhiệt độ thấp, điện trở thủy ngân không phụ thuộc vào nhiệt độ nữa, chỉ phụ thuộc vào nồng độ tạp chất. Nếu tiếp tục hạ nhiệt độ xuống tới Tc=4,1 độ K, điện trở đột ngột hạ xuống 0 một cách nhảy vọt. Hiện tượng nói trên gọi là hiện tượng siêu dẫn, và Tc là nhiệt độ tới hạn. Ông hạ nhiệt độ xuống còn 10 mK. Đó là còn chưa kể Onnes đưa ra từ "enthalpy" xuất phát từ từ tiếng Hy Lạp cổ "enthalpos", có nghĩa là đưa nhiệt vào để ám chỉ entanpi. | 1 | null |
Sơ ri hay còn gọi là kim đồng nam, acelora, sơ ri Barbados,sơ ri Tây Ấn hay xơ ri vuông (danh pháp hai phần: Malpighia emarginata), là một loài cây bụi hay cây thân gỗ nhỏ có quả nằm trong họ Sơ ri (Malpighiaceae), có nguồn gốc ở Tây Ấn và miền bắc Nam Mỹ.
Mô tả.
Nó có thể cao tới 3 m, với tán lá dày, có gai. Lá thường xanh, dạng đơn hình trứng-hình mác, dài 5–10 cm, với mép lá nhẵn. Các hoa mọc thành tán với 2-5 hoa cùng nhau, mỗi hoa có đường kính 1-1,5 cm, với 5 cánh hoa màu hồng hay đỏ. Quả chín có màu đỏ tươi, đường kính 1 cm, chứa 2-3 hạt cứng. Nó là loại quả mọng và có vị ngọt, chứa nhiều vitamin C và các chất dinh dưỡng khác. Mặc dù nó tương tự như quả anh đào, nhưng loài cây này không có quan hệ họ hàng gì với anh đào thực thụ (chi "Prunus"). Quả tương tự như quả chùm ruột, ăn được.
Trồng và sử dụng.
Tại những khu vực phân bố chủ yếu, nó được trồng rất nhiều và được tiêu thụ rộng rãi do chứa hàm lượng vitamin C cao.
Trong thập niên 1950, một công ty sản xuất thực phẩm trẻ em cho rằng đối với trẻ em thì nước táo dễ chịu hơn so với nước cam. Công ty cũng cho rằng việc cho thêm chỉ một giọt nước sơ ri vào 230 ml nước táo sẽ cung cấp lượng vitamin C ngang với lượng tương đương nước cam.
Hoa và lá sơ ri
Quả sơ ri còn xanh và chín
Tại Puerto Rico, sơ ri được coi trọng đến mức ngành hải quan đã áp dụng một số biện pháp phòng ngừa đáng kể để ngăn chặn việc xuất khẩu cây sơ ri.
Tại Việt Nam, cây sơ ri được trồng nhiều nhất ở khu vực Gò Công của tỉnh Tiền Giang và một số xã thuộc tỉnh Bến Tre. Tại khu vực Gò Công, các xã trồng nhiều sơ ri là Long Thuận (thuộc thị xã Gò Công), Bình Ân, Tân Đông, Bình Nghị, Kiểng Phước... (thuộc huyện Gò Công Đông); theo khảo sát của Trung tâm nghiên cứu cây sơ ri(*) trong năm 2012, diện tích trồng sơ ri của khu vực Gò Công là khoảng 276 ha, trong đó giống sơ ri chua truyền thống của Gò Công là 134 ha, giống sơ ri ngọt là 104 ha và giống sơ ri chua nhập nội là 38 ha (giống này được bắt đầu trồng thử nghiệm tại khu vực Gò Công từ năm 2007, được bà con nông dân gọi là: giống sơ ri chua mới, giống sơ ri chua Brazil...). Tại Bến Tre, giống sơ ri ngọt được trồng chủ yếu tại các phường Sơn Đông, Bình Phú, Phú Khương, Phú Nhuận (thành phố Bến Tre), Mỹ Thành, Sơn Hòa, Hữu Định, Tam Phước (thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre) và một ít ở xã Tân Lợi Thạnh thuộc huyện Giồng Trôm, tổng diện tích trồng sơ ri ngọt của tỉnh Bến Tre là 233 ha. | 1 | null |
USS "Badger" (DD–126) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ hoạt động trong cả hai cuộc Chiến tranh Thế giới thứ nhất và thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt nhằm vinh danh Thiếu tướng Hải quân Oscar C. Badger (1823–1899).
Thiết kế và chế tạo.
"Badger" được đặt lườn vào ngày 9 tháng 1 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng New York Shipbuilding Corporation ở Camden, New Jersey. Nó được hạ thủy vào ngày 24 tháng 8 năm 1918, được đỡ đầu bởi bà Henry F. Bryan, cháu nội Thiếu tướng Badger, và được đưa ra hoạt động vào ngày 29 tháng 5 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân Q. T. Swasey.
Lịch sử hoạt động.
Được gọi trình diện để hoạt động cùng Hạm đội Đại Tây Dương sau khi nhập biên chế, "Badger" lên đường đi sang Địa Trung Hải nơi nó hoạt động cho đến tháng 8 năm 1919. Sau khi quay trở về Hoa Kỳ, nó được điều động sang Hạm đội Thái Bình Dương, đi đến San Diego trong tháng 9. Nó phục vụ từ những căn cứ khác nhau cho đến khi "Badger" được cho xuất biên chế vào tháng 5 năm 1922, và đưa về lực lượng dự bị.
Khi được cho nhập biên chế trở lại vào ngày tháng 1 năm 1930, "Badger" phục vụ cùng Lực lượng Chiến trận và Lực lượng Tuần tiễu tại Thái Bình Dương. Vào tháng 4 năm 1933, nó quay trở lại khu vực Đại Tây Dương, tham gia các chuyến tuần tra dọc bờ biển và các chuyến đi huấn luyện quân nhân dự bị. Trong những năm 1938-1939, nó hoạt động cùng Hải đội Đặc vụ 4 đặt căn cứ tại Villefranche, Pháp. Sau khi quay trở về Norfolk, nó gia nhập Đội khu trục 53 thuộc Lực lượng Tuần tra, đồng thời thực hiện các chuyến đi huấn luyện mùa Hè dọc bờ biển cho các học viên sĩ quan.
Sau khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ, từ tháng 12 năm 1941 đến tháng 10 năm 1944, "Badger" hoạt động trong vai trò hộ tống các đoàn tàu vận tải tại Đại Tây Dương và vùng biển Caribe. Hai lần nó đã hộ tống các đoàn tàu vận tải đi đến Bắc Phi: từ ngày 15 tháng 10 đến ngày 28 tháng 11 năm 1943 và từ ngày 15 tháng 2 đến ngày 24 tháng 3 năm 1944; và trong một giai đoạn ngắn từ ngày 27 tháng 6 đến ngày 1 tháng 9 năm 1943, nó phục vụ trong thành phần các đội tìm và diệt tàu ngầm 21.12 và 21.16.
Vào tháng 10 năm 1944, "Badger" băng qua kênh đào Panama và tiến hành các hoạt động huấn luyện chống tàu ngầm ngoài khơi Balboa, Panama. Từ ngày 15 tháng 11 năm 1944 đến ngày 20 tháng 6 năm 1945, nó phục vụ cùng Chi đội Phát triển Chống tàu ngầm, Port Everglades, Florida, tiến hành các cuộc thực tập nhằm phát triển chiến thuật chống tàu ngầm. "Badger" Nó đi đến Philadelphia vào ngày 22 tháng 6 năm 1945 và được cho xuất biên chế tại đây vào ngày 20 tháng 7. Nó bị bán để tháo dỡ vào ngày 30 tháng 11 năm 1945.
Phần thưởng.
"Badger" được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. | 1 | null |
USS "Twiggs" (DD–127) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Anh trong Chiến tranh Thế giới thứ hai dưới tên HMS "Leamington, chuyển cho Hải quân Hoàng gia Canada, rồi chuyển cho Hải quân Liên Xô như là chiếc Zhguchi" trước khi hoàn trả cho Anh sau chiến tranh. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Thiếu tá Thủy quân Lục chiến Levi Twiggs (1793–1847).
Thiết kế và chế tạo.
"Twiggs" được đặt lườn vào ngày 23 tháng 1 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng New York Shipbuilding Corporation ở Camden, New Jersey. Nó được hạ thủy vào ngày 28 tháng 9 năm 1918, được đỡ đầu bởi cô Lillie S. Getchell, cháu Thiếu tá Twiggs;và được đưa ra hoạt động tại Xưởng hải quân Philadelphia vào ngày 28 tháng 7 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân Isaac C. Johnson, Jr..
Lịch sử hoạt động.
USS "Twiggs".
Sau chuyến đi chạy thử máy, "Twiggs" gia nhập Đội khu trục 16 thuộc Hải đội Khu trục 4, trực thuộc Hạm đội Thái Bình Dương vào cuối tháng 10 năm 1919 và hoạt động ngoài khơi San Diego, California, thực hiện các chuyến đi huấn luyện cho đến mùa Xuân năm 1922. Trong giai đoạn này, "Twiggs" được mang ký hiệu lườn DD-127 vào ngày 17 tháng 7 năm 1920 sau khi Hải quân Hoa Kỳ áp dụng cách đánh số xếp lớp tàu chiến. Sự kết hợp một số các yếu tố, bao gồm gia tăng chi phí hoạt động, thiếu hụt nhân lực, và xu hướng chung chống chiến tranh diễn ra sau Thế Chiến I, đã đưa đến việc cắt giảm hạm đội hiện dịch của hải quân. Vì vậy, "Twiggs" được cho xuất biên chế tại San Diego vào ngày 24 tháng 6 năm 1922.
Sau gầm tám năm bị bỏ không, "Twiggs" được cho nhập biên chế trở lại vào ngày 20 tháng 2 năm 1930 tại San Diego, dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Hải quân Thomas S. King II. Nó trở thành soái hạm của Đội khu trục 14 và tiến hành các hoạt động ngoài khơi San Diego cùng với Hạm đội Chiến trận cho đến cuối năm. Vào đầu tháng 2 năm 1931, nó khởi hành từ San Francisco đi về phía Nam cùng với Hạm đội Chiến trận để tham gia cuộc tập trung hạm đội hàng năm cùng với Hạm đội Tuần tiễu. Cuối lượt tập trận vào ngày 15 tháng 3 năm 1931, "Twiggs" được điều động về Hạm đội Tuần tiễu, mà không lâu sau đó được đổi tên thành Lực lượng Tuần tiễu do kết quả của việc tái tổ chức hạm đội vào ngày 1 tháng 4 năm 1931. Cảng nhà của "Twiggs" được chuyển đến Charleston, South Carolina, nơi nó trở thành soái hạm của Đội khu trục 7 cho đến cuối mùa Xuân năm 1933. Vào một lúc nào đó trong khoảng từ ngày 1 tháng 4 đến ngày 1 tháng 7 năm 1933, nó gia nhập trở lại Lực lượng Chiến trận tại vùng bờ Tây trong thành phần Đội 6 thuộc Hải đội Khu trục 2. Nó được đưa về Hải đội Dự bị Luân phiên 20 vào ngày 1 tháng 11 năm 1933 tại San Diego với một biên chế thủy thủ đoàn tối thiểu để bảo trì con tàu; và quay lại biên chế đầy đủ vào ngày 1 tháng 7 năm 1934 cùng với Đội 4 thuộc Hải đội Khu trục 2. Nó hoạt động ngoài khơi San Diego cùng với các tàu khu trục của Lực lượng Chiến trận cho đến cuối năm 1936, khi nó được cho chuẩn bị để xuất biên chế. "Twiggs" xuất biên chế vào ngày 6 tháng 4 năm 1937, và lại bị bỏ không tại San Diego.
Tình hình thế giới trở lại căng thẳng sau khi Đức Quốc xã xâm chiếm Ba Lan vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, làm bùng nổ Chiến tranh Thế giới thứ hai tại Châu Âu. Để tăng cường cho việc Tuần tra Trung lập mà Tổng thống Franklin Roosevelt bố trí dọc theo các cảng vùng bờ Đông và khu vực vịnh Mexico, Hải quân Hoa Kỳ nhanh chóng huy động trở lại 77 tàu khu trục và tàu rải mìn hạng nhẹ vốn đang trong lực lượng dự bị tại Philadelphia hoặc San Diego. "Twiggs" nằm trong số được tái huy động, và được nhập biên chế trở lại tại San Diego vào ngày 30 tháng 9 năm 1939 dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hải quân Lyman K. Swenson.
Đảm nhiệm vai trò soái hạm của Đội 64 thuộc Hải đội Khu trục 32; "Twiggs" thoạt tiên hoạt động ngoài khơi San Diego trong các chuyến đi thử máy và huấn luyện trong suốt tháng 11. Cùng với tám tàu chị em, nó băng qua kênh đào Panama vào đầu tháng 12; và không lâu sau khi đi đến cảng nhà mới ở Key West, Florida, "Twiggs" lại khởi hành để theo dõi chiếc tàu khu trục Anh . Cuối tháng đó, nó tham gia cùng tàu khu trục và tàu tuần dương hạng nặng theo dõi tàu tuần dương hạng nhẹ Australia , khi chiếc này canh phòng vịnh Yucatan để chặn bắt chiếc tàu biển chở hành khách Đức đang tìm cách vượt qua sự phong tỏa của Hải quân Anh để quay về Đức. Trong các hoạt động sau đó cùng với Đội khu trục 64, "Twiggs" tiến hành các cuộc tuần tra trung lập, các chuyến đi huấn luyện cho nhân sự của Hải quân Dự bị Hoa Kỳ, tập trận và thực hành suốt mùa Hè năm 1940.
Trong thời gian đó, cho đến mùa Xuân năm 1940, tình hình ngày càng bất lợi cho phe Đồng Minh. Na Uy bị Đức chiếm đóng do sự phòng thủ kém cỏi của quân Anh-Na Uy; Pháp và các nước vùng trũng thất bại do chiến lược tấn công chớp nhoáng blitzkrieg của Đức. Ngoài ra tàu ngầm Đức gây tổn thất nặng cho cả tàu hàng lẫn tàu hộ tống. Sau khi Pháp thua trận, Anh ở trong tình thế hầu như bị cô lập trong trận chiến chống lại Đức. Với số lượng tàu khu trục Anh bị tổn thất nặng tại Na Uy, Đại Tây Dương cũng như trong cuộc triệt thoái khỏi Dunkirk, Thủ tướng Anh phải nài đến sự trợ giúp của Hoa Kỳ. Đến mùa Hè năm 1940, Tổng thống Roosevelt tìm được một giải pháp giúp Anh mà vẫn không từ bỏ vị thế trung lập: Thỏa thuận đổi tàu khu trục lấy căn cứ sẽ trao 50 tàu khu trục thời Thế Chiến I cho Anh; đổi lại Hoa Kỳ được quyền thuê trong thời hạn 99 năm các căn cứ mang tính chiến lược tại vùng Tây bán cầu.
Nằm trong số tàu khu trục được thỏa thuận trao đổi, "Twiggs" được cho chuẩn bị để bàn giao. Nó đi đến Halifax, Nova Scotia vào ngày 16 tháng 10 năm 1940. Chiếc tàu khu trục được xuất biên chế khỏi Hải quân Hoa Kỳ ngày 23 tháng 10, và tên nó được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 8 tháng 1 năm 1941.
HMS "Leamington".
Được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Anh vào ngày 23 tháng 10 năm 1940, chiếc tàu khu trục được đổi tên thành HMS "Leamington" (G19) và đặt dưới quyền chỉ chuy của Trung tá Hải quân W. E. Banks, DSO. Nó được chuyển đến St. John's, Newfoundland and Labrador, nơi nó khởi hành vào ngày 4 tháng 11, trong thành phần Chi hạm đội Khu trục 4 hướng đến quần đảo Anh Quốc. Trên đường đi Belfast, Bắc Ireland, nó cùng các tàu chị em đã đi ngang nơi diễn ra trận chiến vào ngày 5 tháng 11 năm 1940, khi chiếc tàu buôn tuần dương vũ trang đã đối đầu với thiết giáp hạm bỏ túi Đức "Admiral Scheer" nhằm bảo vệ cho Đoàn tàu vận tải HX-84 đang quay trở về nhà. Hành động anh dũng của "Jervis Bay" đã giúp 32 trong số 37 chiếc của đoàn tàu vận tải chạy thoát, bất chấp bản thân nó bị đánh chìm trong chiến đấu. "Leamington" đã tìm kiếm những người sống sót nhưng không có kết quả.
"Leamington" ghé qua Belfast trước khi đi đến Plymouth, Anh vào ngày 15 tháng 11. Tại đây chiếc tàu khu trục được phân về Đội hộ tống 2 trực thuộc Bộ chỉ huy Tiếp cận phía Tây đặt căn cứ tại Derry. Nó thực hiện nhiều nhiệm vụ hộ tống vận tải suốt Đại Tây Dương cho đến năm 1941. Đang khi hộ tống cho Đoàn tàu vận tải SC-48 vốn bị tàu ngầm U-boat Đức tấn công hơn một tuần lễ, "Leamington" đã cùng với tàu khu trục đánh chìm tàu ngầm Đức "U-207" ngoài khơi bờ biển phía Đông Greenland vào ngày 11 tháng 9.
Vào ngày 27 tháng 3 năm 1942, "Leamington" ghi thêm một chiến công nữa khi nó cùng ba tàu khu trục khác đánh chìm tàu ngầm Đức "U-587" đang khi hộ tống Đoàn tàu vận tải WS-27 hướng sang Trung Đông. Mùa Hè năm đó, khi chiếc tàu khu trục di chuyển về phía Bắc nước Nga trong thành phần hộ tống cho Đoàn tàu vận tải PQ-17 bất hạnh, một báo cáo cho biết về mối đe dọa từ chiếc thiết giáp hạm Đức "Tirpitz". Vì tin rằng một đoàn tàu vận tải lớn, cho dù được thiết giáp hạm và tàu tuần dương hộ tống, bày ra một mục tiêu dễ dàng cho "Tirpitz", lực lượng hộ tống bảo vệ được cho rút lui còn các tàu hàng được lệnh phân tán, với hy vọng là chúng sẽ tự lực đến được cảng Murmansk của Nga, và đoàn tàu sẽ có cơ may sống só lớn hơn nếu "Tirpitz" tấn công. Tuy nhiên, việc phân tán đoàn tàu vận tải lại bộc lộ những con tàu đơn lẻ, không được hộ tống, trước một mối nguy cơ tấn công khác: bởi máy bay và tàu ngầm U-boat, giờ đây hoàn toàn rảnh tay vì không gặp bất kỳ sức kháng cự. Đoàn tàu PQ-17 bị mất 23 trong số 34 tàu; không có đoàn tàu đi đến Nga nào khác trong suốt cuộc chiến tranh chịu tổn thất nặng nề như thế.
"Leamington" được tái trang bị tại Hartlepool, Anh từ tháng 8 đến tháng 11 năm 1942, rồi tiếp tục nhiệm vụ hộ tống đoàn tàu vận tải tại Đại Tây Dương. Ngày 12 tháng 11, chiếc tàu buôn mang cờ Panama SS "Buchanan" trúng ngư lôi phóng từ tàu ngầm "U-224". Mười ba ngày sau đó, dưới sự trợ giúp của máy bay, "Leamington" tìm được chiếc cuối cùng trong số bốn bè cứu sinh của nó và vớt được 17 thủy thủ.
HMCS "Leamington".
Vào tháng 10 năm 1942, Hải quân Hoàng gia chuyển giao "Leamington" cho Hải quân Hoàng gia Canada để sử dụng vào việc bảo vệ tàu bè tại khu vực Tây Đại Tây Dương trong 14 tháng tiếp theo. Con tàu phải trải qua hoàn cảnh thời tiết băng giá khắc nghiệt khi hoạt động tại Bắc Đại Tây Dương vào cuối năm 1942 và đầu năm 1943. Trong một lần, con tàu về đến Halifax sau một cơn cuồng phong mạnh vào ngày 22 tháng 1 năm 1943, khi băng tuyết phủ từ mũi tàu cho đến cầu tàu với độ dày . Vào ngày 14 tháng 5 năm 1943, HMCS "Leamington" gặp tai nạn va chạm với tàu quét mìn Hoa Kỳ ; sau khi được sửa chữa tạm tại Halifax, nó lên đường đi Norfork để được sửa chữa toàn diện, đến nơi vào ngày 27 tháng 6, và công việc đại tu chỉ hoàn tất vào tháng 9.
Chuyển cho Hải quân Liên Xô và hoàn trả.
Rời Halifax ngày 22 tháng 12, "Leamington" quay trở về Anh; và sau một giai đoạn phục vụ ngắn đặt căn cứ tại Rosyth, Scotland, nó được đưa về lực lượng dự bị tại Tyne. Vào ngày 16 tháng 6 năm 1944, Anh chuyển giao con tàu cho Liên Xô, và nó được đổi tên thành Zhguchi (tiếng Nga: Жгучий). Con tàu đã phục vụ cùng Hải quân Liên Xô cho đến năm 1949 và được hoàn trả lại cho Anh vào năm 1950. Sau đó nó tham gia những cảnh quay trong cuốn phim "The Gift Horse" của Trevor Howard, thể hiện con tàu hư cấu "HMS "Ballantrae"" (nguyên là chiếc "USS "Whittier"" cũng hư cấu của Hoa Kỳ) và mô tả lại cuộc bắn phá St Nazaire. Cuối cùng nó bị tháo dỡ tại Newport, Wales vào ngày 26 tháng 7 năm 1951. | 1 | null |
USS "Babbitt" (DD–128) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất và đã tham gia hoạt động trong cả Chiến tranh Thế giới thứ hai; sau được xếp lại lớp với ký hiệu lườn AG-102. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Fitz Babbitt (1785-1815), một sĩ quan hải quân từng phục vụ trong cuộc Chiến tranh 1812.
Thiết kế và chế tạo.
"Babbitt" được đặt lườn vào ngày 19 tháng 2 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng New York Shipbuilding Corporation ở Camden, New Jersey. Nó được hạ thủy vào ngày 30 tháng 9 năm 1918, được đỡ đầu bởi cô Lucile Burlin, và được đưa ra hoạt động vào ngày 24 tháng 10 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân W. W. Eberle.
Lịch sử hoạt động.
Trình diện để hoạt động cùng Hạm đội Thái Bình Dương, "Babbitt" tham gia các hoạt động thực tập và cơ động cho đến khi được cho xuất biên chế tại San Diego vào ngày 15 tháng 6 năm 1922.
Khi được cho nhập biên chế trở lại vào ngày 4 tháng 4 năm 1930, "Babbitt" vẫn tiếp tục phục vụ cùng Hạm đội Thái Bình Dương dọc theo vùng bờ Tây cho đến tháng 2 năm 1931, khi nó được chuyển sang khu vực Đại Tây Dương. Từ tháng 2 năm 1931 đến tháng 5 năm 1932, nó hoạt động cùng Hải đội Khu trục thuộc Lực lượng Tuần tiễu dọc theo vùng bờ Đông, Tây Ấn, vịnh Mexico và vùng kênh đào Panama. Từ tháng 5 năm 1932 đến tháng 4 năm 1933, nó phục vụ tại Căn cứ Ngư lôi Hải quân Newport, và thực hiện một chuyến đi đến Chile để thực hành cùng các kiểu ngư lôi thử nghiệm. "Babbitt" được đưa về Hải đội Dự bị Luân phiên 19 tại Norfork từ ngày 25 tháng 5 đến ngày 20 tháng 10 năm 1933, rồi quay trở lại chế độ biên chế cắt giảm cho đến tháng 1 năm 1935. Đang khi trong tình trạng này, nó hoạt động cùng Hải đội Huấn luyện thuộc Lực lượng Tuần tiễu, làm nhiệm vụ huấn luyện quân nhân dự bị.
Trong một giai đoạn ngắn từ tháng 1 đến tháng 5 năm 1935, nó lại được đưa về Hải đội Dự bị Luân phiên 19. Được biên chế đầy đủ trở lại vào ngày 15 tháng 5 năm 1935, "Babbitt" phục vụ các chuyến đi huấn luyện học viên sĩ quan dọc bờ biển; và trong hai năm, cùng Hải đội Đặc vụ tại khu vực Cuba-Puerto Rico. Vào tháng 4 năm 1939, nó tham gia lễ khai mạc của Hội chợ Quốc tế New York; và sau đó nó được điều về Hải đội Khu trục 27 thuộc Lực lượng Tuần tra, thực hiện nhiệm vụ Tuần tra Trung lập và hộ tống các đoàn tàu vận tải dọc theo bờ biển Đại Tây Dương và biển Caribe.
Sau khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ, "Babbitt" hoạt động như tàu hộ tống các đoàn tàu vận tải tại vùng biển ngoài khơi Iceland, dọc theo bờ Đông và vùng vịnh Mexico của Hoa Kỳ, và tại vùng biển Caribe. Từ ngày 10 tháng 3 năm 1943 đến ngày 21 tháng 3 năm 1944, nó còn hoàn tất năm chuyến đi hộ tống vượt Đại Tây Dương: một chuyến đến Anh Quốc và bốn chuyến đến Bắc Phi.
Vào ngày 2 tháng 2 năm 1945, "Babbitt" trình diện để hoạt động cùng Phòng thí nghiệm Thủy âm, New London, Connecticut, cho các công việc thử nghiệm kỹ thuật sonar. Đến ngày 10 tháng 6 năm 1945, nó được xếp lại lớp với ký hiệu lườn AG-102. Nó tiếp tục làm nhiệm vụ thử nghiệm cho đến tháng 12 năm 1945, khi nó đi vào Xưởng hải quân New York để chuẩn bị ngừng hoạt động. "Babbitt" được cho xuất biên chế vào ngày 25 tháng 1 năm 1946 và bị bán để tháo dỡ vào ngày 5 tháng 6 năm 1946.
Phần thưởng.
"Babbitt" được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. for the escort of Convoy SC-121 | 1 | null |
USS "DeLong" (DD–129) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Thiếu tá Hải quân George W. DeLong (1844–1881), một nhà thám hiểm Bắc Cực.
Thiết kế và chế tạo.
"Waters" được đặt lườn vào ngày 21 tháng 2 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng New York Shipbuilding Corporation ở Camden, New Jersey. Nó được hạ thủy vào ngày 29 tháng 10 năm 1918, được đỡ đầu bởi cô E. DeL. Mills, cháu nội Thiếu tá DeLong, và được đưa ra hoạt động vào ngày 20 tháng 9 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân J. S. Spore.
Lịch sử hoạt động.
"DeLong" khởi hành từ New York, New York vào ngày 3 tháng 11 năm 1919, và sau khi tham gia các cuộc thực tập tại vịnh Guantánamo và tuần tra ngoài khơi Honduras, nó được chuyển đến San Diego vào ngày 24 tháng 12. Nó thực hiện các cuộc cơ động và thực hành ngư lôi ngoài khơi Coronado Roads cho đến khi được đưa về lực lượng dự bị vào ngày 20 tháng 6 năm 1920. Sau khi được đại tu tại Xưởng hải quân Mare Island, nó quay trở lại San Diego vào ngày 26 tháng 6 năm 1921 và bắt đầu hoạt động từ cảng này vào ngày 21 tháng 10 với biên chế nhân sự bị cắt giảm một nửa. Vào ngày 1 tháng 12 năm 1921, nó bị mắc cạn tại vịnh Half Moon trong hoàn cảnh sương mù dày đặc. Các tàu khu trục và cùng một tàu kéo đã đi đến trợ giúp. Ngày 17 tháng 12, nó được trục vớt và được kéo đến Xưởng hải quân Mare Island.
"DeLong" được cho ngừng hoạt động vào ngày 18 tháng 3 năm 1922; xác tàu của nó bị bán để tháo dỡ vào ngày 25 tháng 9 năm 1922. | 1 | null |
A nặc nhĩ (danh pháp hai phần: Rafflesia arnoldii) hay Hoa xác thối là một loài thực vật có hoa trong họ Rafflesiaceae, được coi là hoa đơn tính lớn nhất trên Trái Đất. Nó có mùi hôi rất nồng nặc và khủng khiếp giống như mùi thịt rữa, vì thế nó có biệt danh là "hoa xác chết". Loài này đặc hữu ở rừng mưa Sumatra và có thể là cả Borneo. Loài này được R.Br. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1821.
"Rafflesia arnoldii" (), còn gọi là Kerubut (Hộp Betelnut của Quỷ) là một trong ba quốc hoa của Indonesia, hai hoa còn lại là nhài và "Phalaenopsis amabilis". Nó chính thức được công nhận là quốc "hoa hiếm" () trong Nghị định Quốc gia Số 4 năm 1993.
Khám phá.
Nhà thực vật học đầu tiên tìm thấy một mẫu của a nặc nhĩ là nhà thám hiểm người Pháp Louis Auguste Deschamps (1765-1842). Ông là thành viên trong đoàn thám hiểm khoa học Pháp sang Châu Á và Thái Bình Dương. Trong chuyến thám hiểm ông đã dành ba năm ở Java, nơi ông thu thập mẫu vật về thứ mà chúng ta gọi là "R. patma" ngày nay vào năm 1797. Trong chuyến trở về năm 1798, tàu của ông bị người Anh chiếm đoạt bởi nước này đang có chiến tranh với Pháp, toàn bộ giấy tờ và ghi chép của ông đều bị tịch thu. Năm 1954, chúng được tái phát hiện ở Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên London.
Tên gọi chung, "Rafflesia" (nhằm tôn kính Raffles), do Brown đề xuất (người ban đầu muốn gọi nó là "Arnoldii") sau Joseph Arnold, đã được S.F. Gray xác nhận trong bản báo cáo của mình trong cuộc họp vào tháng 6 năm 1820 của Hội đồng Linnean London, sau đó được xuất bản trong cuốn "Biên niên sử Triết học" vào tháng 9 cùng năm đó. Loài "Rafflesia" được Brown lần đầu tiên chính thức miêu tả năm 1821.
Miêu tả.
Hoa a nặc nhĩ thường phát triển đến đường kính khoảng một mét (3 ft), nhưng số đo lớn nhất từ một nguồn đáng tin cậy là 105 cm (3.4 ft) đối với một bông tại Khu bảo tồn tự nhiên Palupah gần Bukittinggi, Sumatra do Giáo sư Syabuddin của Đại học Andalas tiến hành đo. Hoa a nặc nhĩ nặng tới 11 kilogram (24 lb). Những bông hoa này mọc lên từ những nụ rất lớn giống như cải bắp, có màu nâu sẫm hoặc màu đỏ sậm rộng khoảng 30 cm (12 in), nhưng bông lớn nhất (và nụ hoa lớn nhất từng được ghi nhận) được phát hiện Mount Sago, Sumatra vào tháng 5 năm 1956 với đường kính 43 cm (17 in).
Tái sinh sản.
Khi hoa a nặc nhĩ sẵn sàng tái sinh sản, một chồi nhỏ xíu mọc lên bên ngoài rễ hoặc gốc của vật chủ và phát triển trong khoảng một năm. Đầu hoa giống như bắp cải cuối cùng nở để lộ hoa bên trong. Đầu nhụy hay nhị được gắn vào một đĩa có mấu nhọn bên trong hoa. Voi cũng có ảnh hưởng đến sự thụ phấn của hoa và loại thụ phấn này được gọi là "Elephophily". Theo Andreas Jürgens, nhà nghiên cứu tại Đại học KwaZulu-Natal ở Nam Phi, mùi hôi mà những loài a nặc nhĩ tỏa ra còn có khả năng thu hút những loài côn trùng như ruồi và bọ cánh cứng, sau đó côn trùng sẽ giúp hoa thực hiện việc thụ phấn. Theo ông Robert Raguso, nhà sinh thái hóa học tại Đại học Cornell, New York, hoa hôi thối còn có khả năng tạo ra nhiệt khi phát ra mùi hôi nhằm thu hút côn trùng, vì vậy chúng hoạt động như một cái bẫy ruồi để đảm bảo thụ phấn vẫn diễn ra bình thường. Hoa chỉ có khả năng sống khoảng một tuần (từ 5-7 ngày tuổi) sau đó sẽ khô và chết. | 1 | null |
Khổng Tường Hy () (11 tháng 9 năm 1881 – 16 tháng 8 năm 1967) hay còn gọi là tiến sĩ Dr. H. H. Kung là một chính trị gia kiêm chủ ngân hàng giàu có người Trung Quốc ở đầu thế kỷ XX. Ông rất có ảnh hưởng đến những quyết sách về kinh tế của chính quyền Quốc Dân Đảng vào những năm 1930 và 1940. Ông được coi là người giàu có nhất Trung Quốc thời điểm đó.
Tiểu sử.
Bộ trưởng trong nội các Quốc Dân Đảng.
Khổng đã sớm ủng hộ Tôn Trung Sơn và từng làm việc với Uông Tinh Vệ trước khi phục vụ trong chính phủ của Tưởng Giới Thạch. Khổng bắt đầu sự nghiệp trong chính quyền Trung Hoa Dân Quốc với chức vụ Bộ trưởng Công nghiệp, từ 1927-1928, trong chính phủ Quốc gia Vũ Hán của Uông Tinh Vệ. Sau khi chính phủ họ Uông sụp đổ, Khổng làm Bộ trưởng Công nghiệp và Thương mại từ 1928-1931 trong chính phủ Nam Kinh, rồi làm Bộ trưởng Tài chính từ 1933–1944. Sau đó Khổng Tường Hy giữ chức Thống đốc Ngân hàng Trung ương Trung Quốc từ 1933–1945. Năm 1927, một trong những hành động đầu tiên của ông là giữ cho ngân sách quốc gia cân bằng. Để tăng lượng vốn cần thiết, ông tăng thuế đánh vào thuốc lá thêm 50%. Một số nhà máy thuốc lá Thượng Hải đã đóng cửa và biểu tình phản đối các khoản thuế này. Khổng cũng đe dọa tăng thuế muối lên 28%.
Sau khi vào chính phủ trung ương, Khổng tiếp tục ủng hộ mối quan hệ tốt đẹp giữa Tưởng Giới Thạch và Diêm Tích Sơn. Việc Diêm phản đối Tưởng trong chiến tranh Trung Nguyên 1930 đã khiến ông phải chính thức từ bỏ tất cả các vị trí lãnh đạo tại Sơn Tây và chạy đến thành phố Đại Liên của Mãn Châu. Những cố gắng ủng hộ Diêm không biết mệt mỏi của Khổng trong chính quyền trung ương cuối cùng cũng đem lại kết quả, Tưởng đã cho phép Diêm quay lại Sơn Tây năm 1931. Tưởng đã công nhận Diêm là lãnh đạo trên thực tế của Sơn Tây năm 1934.
Khổng tham gia ban chấp hành trung ương Quốc Dân Đảng năm 1931. Ông làm thủ tướng Trung Hoa Dân Quốc từ 1 tháng 1 năm 1938 – 20 tháng 11 năm 1939. Khổng cũng đại diện cho Trung Quốc tại Hội nghị Tiền tệ và Tài chính Quốc tế năm 1944, tại đây ông đã ký Hiệp định Bretton Woods trong Hội nghị Bretton Woods diễn ra tại khách sạn Mount Washington, New Hampshire, Hoa Kỳ. Hội nghị này đã cho ra đời Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế (IBRD), ngày nay là một phần của nhóm Ngân hàng Thế giới.
Năm 1934, đáp lại việc Hoa Kỳ "quốc hữu hóa bạc", Khổng tuyên bố rằng "chúng tôi cũng muốn quốc hữu hóa bạc nhưng điều đó là không thể với Trung Quốc bởi chính phủ chúng tôi bị cản trở bởi nhiều hiệp ước bất bình đẳng. Chúng tôi không muốn giá cả tăng vọt vì bạc là quan trọng với đời sống quốc gia của chúng tôi."
Trong chiến tranh Trung Nhật.
Trước khi diễn ra chiến tranh Trung-Nhật (1937–1945), Khổng đã nổi danh là một nhân vật đầy quyền lực trong chính phủ quốc gia.
Tháng 1 năm 1938, Khổng Tường Hy, hậu duệ đời thứ 75 của Khổng Tử, đã đón tiếp người họ hàng, công tước Khổng Đức Thành, hậu duệ đời thứ 77 của Khổng Tử, khi Khổng Đức Thành chạy đến Hán Khẩu sau khi Nhật Bản xâm chiếm Sơn Đông. Sau khi Khổng Đức Thành chạy trốn, quân Nhật đã cho nổ tư dinh của ông ở Thái Sơn.
Sau hàng loạt các thất bại của Nhật Bản năm 1938, Khổng đã phát biểu trên đài phát thanh trong đó có câu: "Chúa trời đang giúp Trung Quốc". Bài phát biểu của Khổng ra đời sau khi có các báo cáo nói rằng Nhật Bản đã thất bại trong việc chiếm Hán Khẩu; và nhờ vào các hoạt động liên tục của du kích, quân Trung Quốc đã chiếm lại được lãnh thổ do Nhật chiếm đóng.
Sau khi Quốc Dân Đảng rút ra Đài Loan trong chiến tranh Quốc-Cộng, ông đã sang Hoa Kỳ. Ông mất năm 1967 tại thung lũng Locust, New York.
Cuộc sống cá nhân.
Khổng có thói quen hút xì gà. Tạp chí TIME nói rằng Khổng hút "15 điếu xì gà La Habana" một ngày.
Ông theo đạo Kitô.
Khổng Tường Hy là hậu duệ đời thứ 75 của Khổng Tử. Điều này thể hiện qua tự bối "Tường" (祥, bính âm: Xiáng). Cha của ông là Khổng Phồn Từ () (1861–1911), hậu duệ đời thứ 74 của Khổng Tử thể hiện qua tên đệm Phồn (繁).
Khổng Tường Hy cưới người vợ đầu năm 1910 nhưng bà qua đời năm 1913. Năm 1914, Khổng cưới người vợ thứ hai là Tống Ái Linh, chị cả trong ba chị em họ Tống. Cuộc hôn nhân này khiến ông trở thành anh rể của Tống Mỹ Linh, vợ của Tưởng Giới Thạch. Những người con của Khổng Tường Hy với Tống Ái Linh là:
Các con của ông đều có tên đệm là Lệnh (令) để cho biết rằng họ là hậu duệ đời 76 của Khổng Tử.
Cơ ngơi nhà họ Khổng ở Thái Cốc, Sơn Tây theo lối kiến trúc giữa đời nhà Thanh và được bảo quản khá tốt, có thể được mở cho du khách. | 1 | null |
Dà hay còn gọi dà quánh, dà quýnh, dà đen (danh pháp khoa học: Ceriops decandra) là một loài thực vật có hoa trong Họ Đước (Rhizophoraceae). Loài này được (Griff.) W.Theob. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1860. Đây là loài bản địa của Bangladesh, Ấn Độ, Malaysia, Myanmar, Thái Lan. | 1 | null |
Đưng hay còn gọi đước xanh, đước nhọn (danh pháp khoa học: Rhizophora mucronata) là một loài thực vật có hoa trong họ Rhizophoraceae. Loài này được Lam. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1804.
Phân bố.
Đưng phân bố ở Tây Phi, Madagascar, Mauritius, Đông Nam Á, Australia, Melanesia và Micronesia. Ở Việt Nam loài này được bắt gặp trong các rừng ngập mặn Trung Bộ và Nam Bộ (Cần Giờ, Bến Tre, Cà Mau). | 1 | null |
Rhizophora racemosa là một loài thực vật có hoa trong họ Rhizophoraceae. Loài này được G.Mey. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1818.
Loài cây này có phạm vi phân bố manh mún trên bờ biển Thái Bình Dương của Trung và Nam Mỹ, xảy ra ở những nơi trên bờ biển Đại Tây Dương của châu lục đó và có dải rộng hơn trên bờ biển Đại Tây Dương của Tây Phi. | 1 | null |
Đâng, Đước vòi, Đước chằng (danh pháp khoa học:"Rhizophora stylosa") là một loài thực vật có hoa trong họ Rhizophoraceae. Loài này được Griff. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1854.
Sử dụng.
Gỗ thường được dùng làm củi, làm các dụng cụ sản xuất muối; chủ yếu trồng làm cây chắn sóng, bảo vệ đê do có hệ rễ chống phát triển. Có thể khai thác tanin để nhuộm lưới. | 1 | null |
USS "Jacob Jones" (DD-130) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất và đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai cho đến khi bị đắm do trúng ngư lôi phóng từ tàu ngầm U-boat Đức "U-578" vào ngày 28 tháng 2 năm 1942. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Thiếu tướng Hải quân Jacob Jones (1768–1850).
Thiết kế và chế tạo.
"Jacob Jones" được đặt lườn vào ngày 21 tháng 2 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng New York Shipbuilding Corporation ở Camden, New Jersey. Nó được hạ thủy vào ngày 20 tháng 11 năm 1918, được đỡ đầu bởi bà Cazenove Doughton, chắt của Thiếu tướng Jones, và được đưa ra hoạt động vào ngày 20 tháng 10 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân P. H. Bastedo.
Lịch sử hoạt động.
Những năm giữa hai cuộc thế chiến.
Sau khi được trang bị tại Philadelphia, Pennsylvania, "Jacob Jones" khởi hành vào ngày 4 tháng 12 năm 1919 cho chuyến đi chạy thử máy tại Đại Tây Dương. Nó đi đến Pensacola, Florida, vào ngày 22 tháng 12, tiếp tục công việc huấn luyện, rồi lên đường vào ngày 3 tháng 1 năm 1920 để chuyển sang khu vực Thái Bình Dương. Đi đến San Diego vào ngày 26 tháng 1, nó hoạt động dọc theo bờ biển California trong các nhiệm vụ thực tập phòng không và tác xạ. Nó đi vào Xưởng hải quân Mare Island vào ngày 17 tháng 8 để sửa chữa và đại tu, rồi được đưa về biên chế dự bị. Quay trở lại nhiệm vụ cùng Lực lượng Khu trục trực thuộc Hạm đội Thái Bình Dương vào ngày 18 tháng 6 năm 1921, nó hoạt động từ San Diego cho đến khi được cho xuất biên chế vào ngày 24 tháng 6 năm 1922.
Được cho nhập biên chế trở lại vào ngày 1 tháng 5 năm 1930, "Jacob Jones" tiến hành huấn luyện tại vùng biển trải dài từ Alaska đến México như tàu hộ tống cho các tàu sân bay của Hải quân. Sau cuộc cơ động của Hạm đội Chiến trận vào tháng 8, nó đi vào Xưởng hải quân Mare Island vào tháng 11 để sửa chữa. Chiếc tàu khu trục lên đường vào ngày 4 tháng 2 năm 1931 hướng đến Panama, nơi nó tiếp tục nhiệm vụ hộ tống cho tàu sân bay . Nó băng qua kênh đào Panama ngày 22 tháng 3 để thực tập cơ động tại vùng biển Caribe, rồi khởi hành vào ngày 1 tháng 5 quay về Hoa Kỳ tham gia cuộc tập trận hỗn hợp Lục-Hải quân tại vịnh Chesapeake từ ngày 26 đến ngày 29 tháng 5. Trong thời gian còn lại của mùa Hè, nó hoạt động cùng Đội khu trục 7 dọc theo bờ biển New England trước khi quay về Xưởng hải quân Boston ngày 2 tháng 10 để đại tu.
"Jacob Jones" khởi hành từ Boston vào ngày 1 tháng 12, để thực tập cơ động ngoài khơi Haiti. Vào ngày 13 tháng 2 năm 1932, nó rời vùng biển Caribe bắt đầu một giai đoạn kéo dài 13 tháng phục vụ như tàu hộ tống phòng không và thực hành ngư lôi dọc theo bờ biển California. Nó quay trở lại vịnh Guantánamo, Cuba, vào ngày 1 tháng 5 năm 1933 để thực hành và tập trận, và vào ngày 26 tháng 5 đã lên đường đi Norfolk để bảo trì luân phiên.
Sau hai tháng được đại tu tại Charleston, "Jacob Jones" quay trở lại Guantanamo vào ngày 29 tháng 11, để tuần tra và thực hành tác xạ. Nó rời công việc thường xuyên đó vào ngày 29 tháng 6 năm 1934 để lên đường đi Port-au-Prince, Haiti, làm nhiệm vụ hộ tống cho chuyến viếng thăm hữu nghị Haiti của Tổng thống Franklin D. Roosevelt. Nó quay lại hoạt động thường lệ tại vùng biển Caribe vào tháng 7, tham gia các cuộc thực tập đổ bộ tại vịnh Guantánamo trong tháng 9. Nó rời vùng biển Caribe vào cuối tháng 11 và đi vào Xưởng hải quân Norfolk ngày 3 tháng 12 năm 1934 để bảo trì trong nhiều tháng. Vào tháng 5 năm 1935, "Jones" đón lên tàu các học viên sĩ quan thuộc Học viện Hải quân Hoa Kỳ cho một chuyến đi huấn luyện vượt Đại Tây Dương. Nó quay trở về Norfolk vào ngày 7 tháng 6 để tuần tra ven biển và thực tập cơ động trong ba tháng tiếp theo. Nó lên đường đi New York vào tháng 9 để tham gia các cuộc cơ động tàu khu trục và hoạt động ngoài khơi New York cho đến khi đi vào Xưởng hải quân Brooklyn vào tháng 1 năm 1936 để sửa chữa và kiểm tra.
Vào ngày 15 tháng 6 năm 1936, "Jacob Jones" rời New York cùng nhân sự sĩ quan dự bị cho một chuyến đi huấn luyện tại vùng biển Caribe vốn kéo dài cho đến tháng 9. Sang tháng 10, nó tham gia cuộc cơ động hỗn hợp Hải-Lục quân dọc bờ biển; và sau một đợt bảo trì thường lệ tại Norfork, nó tham gia các cuộc huấn luyện quét mìn vào tháng 2 năm 1937. Đến tháng 3, nó huấn luyện cho sĩ quan thuộc Hạm đội Dự bị 5, và sang tháng 6 lại tiếp nối chuyến đi huấn luyện cho học viên sĩ quan. "Jacob Jones" tiếp tục đảm nhiệm vai trò tàu thực hành cho sĩ quan trừ bị cho đến ngày 15 tháng 1 năm 1938, khi nó rời Norfork cho các cuộc tập trận đổ bộ hạm đội và cơ động chiến thuật tại vùng biển ngoài khơi Puerto Rico và quần đảo Virgin. Nó quay về Norfork vào ngày 13 tháng 3, để đại tu; và sang tháng 6 lại tiếp nối các hoạt động ngoài khơi Norfork, phục vụ như tàu hộ tống cho tàu sân bay đồng thời thực hành ngư lôi và tác xạ.
Sau khi tham gia một cuộc đua thuyền vào tháng 9, "Jacob Jones" chuẩn bị lên đường sang Châu Âu để gia nhập Hải đội 40-T tại Địa Trung Hải. Được tổ chức vào tháng 9 năm 1936 để bảo vệ và di tản công dân Hoa Kỳ khỏi Tây Ban Nha trong cuộc Nội chiến tại đây, hải đội được duy trì tại khu vực Tây Địa Trung Hải. Khởi hành từ Norfolk vào ngày 26 tháng 10, nó đi đến Gibraltar vào ngày 6 tháng 11, rồi đi đến Villefranche vào ngày 17 tháng 11. Nó hoạt động tuần tra từ cảng của Pháp trên bờ Địa Trung Hải này cho đến ngày 20 tháng 3 năm 1939; viếng thăm Algiers từ ngày 24 đến ngày 25 tháng 3 năm 1939; và trong bảy tháng tiếp theo đã đi đến nhiều cảng châu Âu trải từ Rotterdam đến Lisboa. Rời Lisbon ngày 4 tháng 10, nó lên đường quay về Hoa Kỳ, về đến Norfork vào ngày 14 tháng 10. Tiếp nối các hoạt động ven biển, chiếc tàu khu trục tuần tra phòng không tại khu vực từ Norfolk đến Newport và vào tháng 12 đã hộ tống cho tàu ngầm trong chuyến đi chạy thử máy tại vùng biển Caribe.
Thế Chiến II.
Sau hai tháng bảo trì và khảo sát tại Norfolk, "Jacob Jones" khởi hành đi vào Charleston ngày 4 tháng 4 năm 1940 để tham gia nhiệm vụ Tuần tra Trung lập. Được tổ chức vào tháng 9 năm 1939 nhằm đối phó lại cuộc xung đột tại châu Âu, việc tuần tra là nhằm theo dõi và báo cáo về sự di chuyển của các bên đối đầu tại các vùng biển thuộc Tây Bán Cầu, với mục đích căn bản là "nhằm nhấn mạnh sự sẵn sàng của Hải quân Hoa Kỳ trong việc phòng thủ Tây Bán Cầu". Đến tháng 6, sau hai tháng Tuần tra Trung lập, nó quay trở lại nhiệm vụ huấn luyện học viên sĩ quan.
Vào tháng 9, "Jacob Jones" khởi hành từ Norfolk đi New London, Connecticut, nơi thủy thủ đoàn của nó trải qua đợt huấn luyện dò âm chống tàu ngầm khẩn trương. Quay trở lại Norfork vào ngày 6 tháng 12 trong một thời gian ngắn, nó lên đường đi Key West tiếp tục hoạt động huấn luyện chống tàu ngầm; rồi quay trở lại nhiệm vụ Tuần tra Trung lập vào tháng 3 năm 1941, hoạt động trải rộng từ Key West cho đến eo biển Yucatan. Đến tháng 5, nó gia nhập cùng các con tàu đang canh gác tại các vùng biển dưới quyền kiểm soát của phe Vichy Pháp: các quần đảo Martinique và Guadeloupe thuộc Tiểu Antilles. Nó ở lại vùng Caribe suốt mùa Hè đó.
Ngày 30 tháng 9 năm 1941, "Jacob Jones" rời vịnh Guantanamo cùng Đội khu trục 54 để chuẩn bị cho nhiệm vụ hộ tống vận tải tại Bắc Đại Tây Dương. Nó trải qua hai tháng bảo trì và khảo sát tại Norfolk, và vào ngày 1 tháng 12 năm 1941 đã lên đường tiến hành huấn luyện hộ tống vận tải dọc theo bờ biển New England. Rời cảng Boston ngày 12 tháng 12, nó đi đến Căn cứ hải quân Argentia, Newfoundland bắt đầu nhiệm vụ hộ tống. Ngày 16 tháng 12, nó hộ tống các tàu ngầm và đi qua vùng biển động để đến Boston, rồi quay trở lại Argentia vào ngày 24 tháng 12; lại rời Argentia vào ngày 4 tháng 1 năm 1942 hộ tống và . Đang khi trên đường gia nhập Đoàn tàu vận tải SC 63 hướng sang quần đảo Anh, nó bắt được tín hiệu dò âm dưới nước của tàu ngầm đối phương và tấn công bằng mìn sâu, nhưng bị mất tín hiệu không lâu sau đó, và tiếp tục hộ tống các tàu gia nhận đoàn vận tải trước khi quay trở về Argentia vào ngày 5 tháng 1.
Khởi hành từ Argentia vào ngày 14 tháng 1 năm 1942, "Jacob Jones" gia nhập Đoàn tàu HX 169 để hướng đến Iceland. Đoàn tàu gặp phải một cơn bão mạnh; biển động mạnh và gió giật lên đến cấp 9 đã làm phân tán các con tàu trong đoàn tàu. Tách ra khỏi đoàn tàu, nó di chuyển độc lập đến Hvalfjörður, Iceland; cho dù gặp khó khăn do thiếu nhiên liệu, la bàn con quay không hoạt động, la bàn từ sai lệch và bị bão tố liên tục, nó vẫn đến nơi vào ngày 19 tháng 1. Năm ngày sau, nó hộ tống ba tàu buôn quay về Argentia. Một lần nữa, giông tốc và biển động lại làm phân tán các con tàu, và nó tiếp tục đi đến Argentia cùng một tàu buôn Na Uy. Nó phát hiện và tấn công một tàu ngầm đối phương vào ngày 2 tháng 2 năm 1942, nhưng cuộc tấn công bằng mìn sâu không đem lại kết quả rõ ràng. Về đến Argentia vào ngày 3 tháng 2, nó lại lên đường ngay ngày hôm sau gia nhập Đoàn tàu ON 59 hướng đến Boston. Đến nơi vào ngày 8 tháng 2, nó trải qua một tuần lễ sửa chữa, lên đường đi Norfork vào ngày 15 tháng 2, rồi ba ngày sau lại di chuyển từ Norfork đến New York.
Trong một nỗ lực nhằm giảm thiểu tổn thất tàu buôn Đồng Minh dọc theo bờ biển Đại Tây Dương, Phó đố đốc Adolphus Andrews, Tư lệnh Lực lượng Tiền duyên phía Đông, cho thành lập một lực lượng tuần tra chống tàu ngầm lưu động. Dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Hugh David Black, "Jacob Jones" khởi hành từ New York vào ngày 22 tháng 2 cho nhiệm vụ này. Đang khi tuần tra qua eo biển ngoài khơi tàu hải đăng Ambrose, nó phát hiện tín hiệu dường như của tàu ngầm đối phương, và đã lập tức tấn công. Trong vòng năm giờ, con tàu đã tiến hành mười hai lượt tấn công bằng mìn sâu, thả tổng cộng 57 quả. Những vệt dầu loang xuất hiện trong sáu lượt tấn công sau cùng, nhưng không có mảnh vỡ nào được phát hiện. Sau khi sử dụng hết đạn dược, nó phải quay về New York để tiếp đạn. Các cuộc điều tra sau này không thể kiểm chứng việc "Jacob Jones" đã đánh đắm tàu ngầm đối phương.
Số phận.
Sáng ngày 27 tháng 2 năm 1942, "Jacob Jones" rời cảng New York di chuyển về phía Nam dọc theo bờ biển New Jersey để tuần tra tại khu vực giữa Barnegat và Five Fathom Bank. Không lâu sau khi khởi hành, nó nhận được lệnh tập trung hoạt động tuần tra vào vùng biển ngoài khơi mũi May và Delaware Capes. Lúc 15 giờ 30 phút, nó trông thấy xác tàu đang cháy của chiếc tàu chở dầu "R. P. Resor" bị trúng ngư lôi ngày hôm trước về phía Đông Barnegat; chiếc tàu khu trục tìm kiếm những người sống sót chung quanh xác tàu đắm trong hai giờ trước khi tiếp tục hành trình về phía Nam. Di chuyển với tốc độ đều đặn ở vùng biển lặng, nó báo cáo vị trí lần sau cùng lúc 20 giờ 00 rồi giữ im lặng vô tuyến. Đêm đó có trăng tròn và tầm nhìn tốt.
Sáng sớm ngày 28 tháng 2 năm 1942, không bị phát hiện, tàu ngầm Đức "U-578" bắn một loạt ngư lôi nhắm vào chiếc tàu khu trục. Các quả ngư lôi không bị phát hiện và hai hoặc ba quả ngư lôi đã liên tiếp đánh trúng vào mạn trái. Quả ngư lôi thứ nhất đánh trúng ngay phía sau cầu tàu và gây hư hại nghiêm trọng. Rõ ràng là nó đã kích nổ hầm đạn, thổi tung mọi thứ phía trước, phá hủy cầu tàu, phòng hải đồ và phòng nghĩ của sĩ quan và hạ sĩ quan. Khi con tàu chết đứng giữa biển và không có khả năng gửi tín hiệu cầu cứu, một quả ngư lôi thứ hai đánh trúng cách đuôi tàu , thổi tung toàn bộ phần phía sau tàu bên trên lườn tàu và trục chân vịt, phá hủy khoang nghĩ phía sau, chỉ để lại phần giữa tàu nguyên vẹn.
Ngoại trừ 25 đến 30 sĩ quan và thủy thủ, những người còn lại kể cả Thiếu tá Black đều bị thiệt mạng trong vụ nổ. Những người sống sót, bao gồm một sĩ quan liên lạc bị thương nặng và mê sảng, chuyển sang các xuồng cứu sinh. Phần còn lại của "Jacob Jones" tiếp tục nổi trong khoảng 45 phút, cho phép những người sống sót rời tàu trên bốn hoặc năm bè. Không đầy một giờ sau các vụ nổ ban đầu, nó chìm với đuôi chìm trước; và khi nó biến mất dưới làn nước Đại Tây Dương, các quả mìn sâu của nó phát nổ, làm thiệt mạng nhiều người sống sót trên chiếc bè lân cận, giống như điều đã xảy ra đối với chiếc vào năm 1917.
Đến 08 giờ 10 phút, một máy bay trinh sát Lục quân phát hiện những chiếc bè và đã báo cáo vị trí của chúng cho chiếc thuộc lực lượng tuần tra gần bờ. Đến 11 giờ 00, khi gió mạnh và biển động buộc phải hủy bỏ việc tìm kiếm, nó đã vớt được 12 người sống sót, nhưng có một người từ trần trên đường quay về mũi May. Việc tìm kiếm những người sống sót khác của "Jacob Jones" được máy bay và tàu chiến thực hiện trong hai ngày tiếp theo nhưng không mang lại kết quả. | 1 | null |
Lát ruối hay u hoa nhám (danh pháp khoa học: Aphananthe aspera) là một loài thực vật có hoa trong họ Cannabaceae. Loài này được Carl Peter Thunberg mô tả khoa học đầu tiên năm 1784 dưới danh pháp "Prunus aspera". Năm 1873 Jules Émile Planchon chuyển nó sang chi "Aphananthe". Loài cây này được tìm thấy trên các sườn núi và các bờ suối từ 100 đến 1.600 m. Là cây gỗ (hiếm khi là cây bụi) cao tới 25 m, đường kính ngang ngực tới 50 cm, lá sớm rụng. Là loài bản địa Trung Quốc (An Huy, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tô, Giang Tây, Thiểm Tây, Sơn Đông, Sơn Tây, Tứ Xuyên, Vân Nam, Chiết Giang), Đài Loan, Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc và Việt Nam.
Sử dụng.
Loài cây này được sử dụng như một cây cảnh trong khu vườn cổ điển Trung Hoa. "Aphananthe aspera" là một nguồn chất xơ và gỗ, và đã được sử dụng để làm giấy. Lá thu hoạch vào mùa thu được sử dụng như một loại giấy nhám mịn để đánh bóng gỗ và các vật liệu tương tự. | 1 | null |
Aphananthe cuspidata là một loài thực vật có hoa trong họ Cannabaceae. Loài này được Carl Ludwig Blume mô tả khoa học đầu tiên năm 1826 dưới danh pháp "Cyclostemon cuspidatus". Năm 1873 Jules Émile Planchon chuyển nó sang chi "Aphananthe".
Phân bố.
Sinh sống trên các sườn dốc đồi núi ở cao độ 100–900 m (đôi khi tới 1.800 m) ở miền nam Trung Quốc (trong các khu vực nam Quảng Đông, Hải Nam, nam Vân Nam), Bhutan, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Myanmar, Sikkim, Sri Lanka, Thái Lan và Việt Nam. | 1 | null |
Aphananthe philippinensis là một loài thực vật có hoa trong họ Cannabaceae. Loài này được Planch. mô tả khoa học đầu tiên năm 1848.
Ở Úc, loài cây này xuất hiện từ sông Manning ở New South Wales đến gần Herberton ở vùng nhiệt đới Queensland. Loài cây này lần đầu tiên được mô tả từ đảo Luzon ở Philippines, do đó tên loài. Loài cây này cũng xuất hiện trên quần đảo Solomon và Papua New Guinea
Môi trường sống của Úc bao gồm các khu rừng nhiệt đới khô. | 1 | null |
Cannabis sativa là một loài thực vật có hoa trong họ Cannabaceae. Loài này được Carl Linnaeus mô tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Loài thực vật thân thảo một năm này là bản địa Đông Á nhưng hiện nay phân bố toàn cầu do gieo trồng rộng khắp. Nó từng được gieo trồng xuyên suốt lịch sử được ghi chép, được sử dụng như một nguồn sợi công nghiệp, dầu hạt, thực phẩm, tiêu khiển, ảo giác tôn giáo và y tế. Mỗi một bộ phận của cây được thu hoạch theo kiểu khác nhau, phụ thuộc vào mục đích sử dụng nó. Từ "sativa" nghĩa là được gieo trồng. | 1 | null |
Celtis tala là một loài thực vật có hoa trong họ Cannabaceae. Loài này được (Klotzsch) Liebm. mô tả khoa học đầu tiên năm 1851. Đây là loài bản địa Arizona, Florida, New Mexico và Texas, và đến châu Mỹ Latinh ở phía Nam như miền bắc Argentina. Nó phát triển ở các vùng khô như sa mạc, cây cọ, hẻm núi, các núi đỉnh bằng và các đồng cỏ.
"Celtis ehrenbergiana" là loài duy nhất của Hoa Kỳ thuộc chi có gai. Ở Mỹ, đây là cây bụi hoặc cây nhỏ có chiều cao 3 m, có gai trên cành cây, mặc dù nó có thể phát triển cao hơn ở vùng nhiệt đới. Lá nhỏ với chi, dài dưới 3 cm và rộng 2 cm. Hoa được mọc ra trong các xim có 3-5 hoa. Quả hạch có màu cam, màu vàng hoặc đỏ, có vị ngọt, hình quả trứng, đường kính khoảng 7 mm, con người và động vật hoang dã có thể ăn được. | 1 | null |
Thanh đàn (danh pháp khoa học: Pteroceltis tatarinowii) là loài thực vật có hoa duy nhất thuộc chi Pteroceltis trong họ Cannabaceae. Loài này được Carl Johann Maximowicz miêu tả khoa học đầu tiên năm 1873.
Nó có quan hệ họ hàng gần với "Chaetachme".
Phân bố.
Loài đặc hữu Trung Quốc. Sinh sống trên nền đất đá vôi miền núi, ven bờ sông suối ở cao độ 100-1.500 m trong các tỉnh An Huy, Phúc Kiến, nam Cam Túc, Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Hà Bắc, Hà Nam, Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tô, Giang Tây, Liêu Ninh (Đại Liên), đông nam Thanh Hải, Thiểm Tây, Sơn Đông, Sơn Tây, Tứ Xuyên, Chiết Giang.
Sử dụng.
Trồng làm cảnh. Vỏ cây làm nguyên liệu trong sản xuất giấy Tuyên. | 1 | null |
Hu đay, hu đen, hu lá nhỏ, đay gỗ, trần mai đông (danh pháp khoa học: Trema orientalis) là một loài thực vật có hoa trong họ Cannabaceae. Loài này được Carl Linnaeus miêu tả đầu tiên năm 1753 với danh pháp "Celtis orientalis". Năm 1856, Carl Ludwig Blume chuyển nó sang chi "Trema" với danh pháp "Trema orientalis".
Loài này phân bố gần như toàn cầu ở các vùng nhiệt đới và ôn đới của cựu Thế giới, từ Cộng hòa Nam Phi, đến Trung Đông, Tiểu lục địa Ấn Độ và phía nam Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đến Đông Nam Á và Úc.
Công dụng chung.
Gỗ hu đay tương đối mềm, và cháy dễ dàng và nhanh chóng khô. Gỗ thích hợp để làm giấy, với độ bền cao và độ gấp tốt.
Vỏ cậy được dùng làm dây thừng, và được dùng như các dây câu cá chống thấm. Ở Ấn Độ và Tanzania, gỗ được dùng làm than.
Công dụng y học.
Cây được dùng làm thuốc thảo dược trong các nền văn hóa đa dạng khác nhau. Lá cây và vỏ dược dùng chữa ho, hen phế quản, lậu mủ, sốt vàng, đau răng và là chất giải độc cho tới chất độc phổ biến. | 1 | null |
Cây sui, còn được gọi là cây thuốc bắn, có tên khoa học Antiaris toxicaria, là một loài thực vật có hoa trong họ Moraceae. Loài này được Lesch. mô tả khoa học đầu tiên năm 1810.
Phân bố địa lý.
Cây sui mọc hoang khá nhiều ở các miền núi Việt Nam. Ngoài ra còn mọc hoang cả ở miền nam Trung Quốc (Hải Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, nam Vân Nam), Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Myanmar, Thái Lan và Sri Lanka.
Thu hái.
Nhựa sui thường được lấy bằng cách băm vỏ cây, thu nhập nhựa chảy ra, dùng để tẩm tên thuốc độc bằng tre hay bằng kim loại để săn bắn thú dữ lớn. vỏ cây sui được làm chăn đắp hay may quần áo hoặc làm túi đựng các đồ vật. | 1 | null |
Artocarpus camansi là một loài thực vật có hoa trong họ Moraceae. Loài này được Blanco mô tả khoa học đầu tiên năm 1837.
Đây là loài bản địa New Guinea, quần đảo Maluku và Philippines, nó là họ hàng của cây bánh mì và thường được sử dụng làm cây trồng chủ lực. Các tên gọi phổ biến khác của cây bao gồm "kluwih" ở Indonesia, "chataigne", "castaña" 'nhiệt đới' (tiếng Pháp và tiếng Tây Ban Nha cho hạt dẻ không liên quan nhưng tương tự nhau "), và "katahar" ở Guyana, "pana de pepita" ở Puerto Rico, "pan de fruta" ở Cộng hòa Dominica (Tây Ban Nha đối với bánh mì tương đối của nó, kamansi ở Philippines, kapiak ở New Guinea và "kos-del" (කොස්දෙල්) ở Sri Lanka. Đôi khi nó còn được gọi là bánh mì hạt giống, để phân biệt với "Artocarpus altilis". | 1 | null |
Diphlebiidae là một họ nhỏ chuồn chuồn kim, với hai loài trong hai chi. Hai chi là Diphlebia và Philoganga. Chi Diphlebia được tìm thấy ở Úc và chi Philoganga được tìm thấy trong khu vực Đông Nam Á. Chúng là chuồn chuồn kim thân lớn và dày. Diphlebiidae còn được gọi là Philogangidae. | 1 | null |
Artocarpus lakoocha là một loài thực vật có hoa trong họ Moraceae. Loài này được Roxb. mô tả khoa học đầu tiên năm 1832.
Đây là một loài cây thường xanh nhiệt đới thuộc họ Moraceae. Loài cây này được phân phối trên khắp Tiểu lục địa Ấn Độ và Đông Nam Á. Cây có giá trị cho gỗ của nó; quả của nó có thể ăn được và được cho là có giá trị dược liệu. Ở Đông Bắc Thái Lan, gỗ được sử dụng để làm "pong lang", một nhạc cụ truyền thống địa phương.
Chất oxyresveratrol có thể được phân lập từ gỗ của "A. lakoocha" cũng như ở Puag Haad, bột màu nâu nhạt thu được từ dịch chiết của dăm gỗ của "A. lakoocha" Roxb bằng cách đun sôi, sau đó bay hơi chậm, sau đó bay hơi chậm, sau đó bay hơi chậm, sau đó bay hơi chậm làm mát. Thuốc truyền thống này có hiệu quả chống lại sán lá ruột "Haplorchis taichui" hoặc chống lại bệnh lậu.
Cây này được đề cập trong "Arthashastra". | 1 | null |
Artocarpus nigrifolius là một loài thực vật có hoa trong họ Moraceae. Loài này được C.Y.Wu mô tả khoa học đầu tiên năm 1989. Là một họ thực vật lớn gồm khoảng 60 chi và hơn 1400 loài, phân bố chủ yếu ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Á. Trên thế giới chi này gồm khoảng 60 loài, phần lớn là cây thân gỗ, có nhựa mủ màu trắng. Hoa đơn tính cùng gốc. Hoa đực gồm hai hay bốn phiến, một nhị với chỉ nhị ở giữa với 2 bao phấn ở hai bên, mở bởi hai kẽ nứt. Hoa cái có màu hơi xanh, nhỏ phát triển thành gié nạc, ngắn. Sau khi thụ phấn chúng phát triển thành quả tụ, có thể phát triển rất to. Lá kèm từ nhỏ như ở Artocarpus integer (Thunb.) Merr (mít tố nữ) và nguyên cho tới lớn và xẻ thùy Artocarpus communis Forst. & Forst.f. (Xa kê). Một số loài trong chi có quả ăn được nên được trồng ở nhiều nước trên thế giới như Artocarpus heterophyllus, Artocarpus integer, Artocarpus rigidus, Artocarpus tokinensis. Theo Phạm Hoàng Hộ, chi Artocarpus ở Việt Nam có 15 loài và dưới loài | 1 | null |
Ficus altissima là một loài thực vật có hoa trong họ Moraceae: đa tía (đa rất cao). Loài này được Blume mô tả khoa học đầu tiên năm 1825.
Ficus altissima là loài bản địa ở Đông Nam Á và nhiều hòn đảo ở Thái Bình Dương. Phạm vi của nó bao gồm các quần đảo Andaman, Myanmar, Thái Lan, Việt Nam, Lào, Nam Trung Quốc và khu vực Malesia. Loài này lần đầu tiên được mô tả bởi nhà thực vật học người Hà Lan Carl Ludwig Blume năm 1826 từ Java. Nó đã được du nhập ở một số quận phía nam Florida. | 1 | null |
Ficus aurea, trong tiếng Anh được biết đến dưới các tên Florida strangler fig, golden fig, và higuerón, là một loài thực vật có hoa trong chi Sung ("Ficus"), họ Moraceae gốc ở bang Florida của Mỹ, bắc và tây Caribbe, miền nam Mexico và Trung Mỹ. Nó được mô tả lần đầu bởi nhà thực vật học Thomas Nuttall năm 1846.
Mô tả.
"Ficus aurea" là một loài cây có thể đạt chiều cao . Các loài sung thường là cây thường xanh, nhưng "F. aurea" gần như trụi lá vào mùa đông ở vùng Florida. Hình dạng và kích thước của lá có nhiều biến thể. Có thể nhỏ hay lớn hơn 10 cm (4 in).
Phân loại.
Với khoảng 750 loài, chi "Ficus" của họ Moraceae là một trong các cây hạt kín có số loài lớn nhất (David Frodin của Chelsea Physic Garden cho nó là chi lớn thứ 31). "Ficus aurea" được phân loại trong phân chi "Urostigma" và đoạn "Americana". Phân tích phân tử cho thấy phân chi "Urostigma" là nhóm đa ngành.
Thomas Nuttall mô tả loài này trong chương hai của tác phẩm "The North American Sylva" (1846) với tên loài "aurea" ('vàng' trong tiếng Latin). | 1 | null |
Đa trơn hay Đa trụi, danh pháp khoa học: Ficus glaberrima, là một loài thực vật có hoa trong họ Moraceae. Loài này được Blume mô tả khoa học đầu tiên năm 1825. Cây thuộc loại gỗ lớn nhiều năm, cành lá non không có hoặc rất ít lông phủ. Dạng thân hợp trục, vỏ màu xám nâu có nhiều vết bong mảng. Lá đơn mọc cách so le. Phiến lá dạng thuôn dài có chiều dài 15–20 cm. Gân lá mạng lông chim, đặc biệt cặp gân từ đuôi lá sẽ chạy lên hướng đầu lá cho đến 1/4 phiến lá. Cuống là dài 1,5–3 cm. Lá kèm búp sớm rụng, cao 1,5 cm. | 1 | null |
Ficus obliqua (còn có tên là sung lá nhỏ) là một loài thực vật có hoa trong họ Dâu tằm (Moraceae). Đây là loài bản địa thuộc vùng đông Úc, New Guinea, đông Indonesia, đảo Sulawesi và nhiều đảo thuộc vùng tây nam Thái Bình Dương. Đây là một loài cây thuộc chi "Sung", một chi chứa khoảng 750 loài đều sống ở nơi có khí hậu ấm áp, trong chi này bao gồm cả loài vả tây ("Ficus carica"). Khi mới mọc, các cây con bám trên các cây khác (thực vật biểu sinh) hoặc bám trên vách đá. Cây "F. obliqua" có thể cao đến 60 m (200 ft) với hệ thống rễ chống rộng, vỏ màu xám nhạt, lá màu xanh lá cây, bóng loáng.
Quả của cây tròn, nhỏ, màu vàng, khi chín có màu đỏ. Quả có thể chín bất cứ lúc nào trong năm, tuy nhiên phần lớn quả chín vào khoảng giữa mùa thu và mùa đông (từ tháng 4 đến tháng 7). Như những loài sung khác, bên trong quả có hoa mọc hướng vào trung tâm quả, tạo thành một khoang rỗng bên trong. Hoa "Ficus obliqua" được thụ phấn nhờ hai loài ong "Pleistodontes greenwoodi" và "P." xanthocephalus. Nhiều loài chim ăn quả, bao gồm chim bồ câu, vẹt và nhiều loài chim thuộc bộ Sẻ. Loài phân bố theo phạm vi dọc theo bờ biển phía đông từ Queensland đến New South Wales, mọc trong các rừng mưa nhiệt đới, trảng cỏ (xavan) và mọc bên sông. Cây được trồng trong công viên và các không gian công cộng để lấy bóng mát. Cây còn có thể trồng trong nhà, đặc biệt cây rất phù hợp để thỏa mãn thú chơi bonsai. Tất cả các bộ phận của cây đều được sử dụng làm dược liệu phục vụ ngành y học cổ truyền tại Fiji, Nhật Bản.
Phân loại.
Tên thông thường của loài cây này (theo cách gọi của dân bản địa) là sung lá nhỏ. Loài "Ficus obliqua" được nhà tự nhiên học người Đức Georg Forster mô tả năm 1786, dựa trên các mẫu vật thu thập được tại Vanuatu. Năm 1861, tại Đảo Albany thuộc Queensland, nhà thực vật học người Hà Lan Friedrich Miquel mô tả và đặt tên loài là "Urostigma eugenioides". Năm 1867, nhà thực vật học người Úc Ferdinand von Mueller đã sắp xếp lại, đặt tên loài là "Ficus eugenioides" và được chấp nhận trong thời gian dài. Tuy nhiên, vì tên loài của Forster tồn tại trong thời gian lâu hơn nên được ưu tiên đặt làm tên chính thức cho loài. Trong tiếng Latinh, tính từ ""obliquus" có nghĩa là "lá không đối xứng"". Đặt tên là vậy nhưng đặc điểm, thuộc tính lá vẫn chưa rõ ràng. Năm 1906, nhà thực vật học người Úc Frederick Manson Bailey mô tả loài và đặt tên là "Ficus tryonii", từ bộ sưu tập thu thập được trên Đảo Middle Percy thuộc quần đảo Whitsunday, ngoài khơi trung tâm Queensland, tuy nhiên "Ficus tryonii" chính là "F. obliqua". Năm 1770, nhà sinh vật học người Anh Joseph Banks và nhà tự nhiên học người Thụy Điển Daniel Solander đến đảo Booby thu thập và đặt tên cho loài là "Ficus virgineai", sau này được thực vật học người Anh William Philip Hiern xếp vào danh pháp đồng nghĩa của "F. obliqua".
"Ficus obliqua" được cho là loài đơn tính (theo hệ thống đơn vị phân loại, taxon). Cho đến năm 2001, tại bang Tây Úc, ba "thứ" của loài được xác nhận, đó là "F. obliqua" var. "petiolaris", "F. obliqua" var. "obliqua", và "F. obliqua" var. "puberula". Một cuộc sửa đổi của nhóm chuyên gia đã có một số thay đổi và kết luận rằng, thứ "F. obliqua" var. "petiolaris" gần gũi hơn với loài "F. rubiginosa", do đó được xếp chung với loài này. Thứ "F. obliqua" var. "puberula" được xác định là ít gần gũi với "F. obliqua", do đó "F. obliqua" var. "puberula" được tách thành loài riêng biệt, "Ficus brachypoda".
Với hơn 750 loài, chi "Sung" được coi là một trong những chi lớn nhất thuộc nhóm Thực vật có hoa. Dựa trên hình thái học, nhà thực vật học người Anh Edred John Henry Corner đã chia thành 4 "phân chi", sau đó được mở rộng thành 6. Theo cách phân loại này, "Ficus obliqua" được xếp vào "loạt Malvanthereae", thuộc "tổ Malvanthera," phân chi "Đa" ("Urostigma"). Nhà thực vật học người Úc Dale J. Dixon thay đổi các phân định của các "loạt" trong "tổ", tuy nhiên vẫn xếp "F. obliqua" trong "loạt Malvanthereae".
Trong một nghiên cứu thành lập năm 2008, nhà thực vật học người Đan Mạch Nina Rønsted và cộng sự tiến hành phân tích trình tự DNA từ các bộ đệm được sao chép bên trong và bên ngoài ribosome (ITS và ETS), và khu vực glyxerandehit-3-phosphat dehidrogenaza (G3pdh). Đây là lần đầu tiên "tổ Malvanthera" được thực hiện phương pháp phân tích phân tử này. Nhóm nghiên cứu đã tìm thấy "F. obliqua" có mối quan hệ gần gũi nhất với ba loài sống tại vùng đất khô cằn thuộc Lãnh thổ Bắc Úc ("F. platypoda", "F. subpuberula" và "F. lilliputiana") và xếp "F. obliqua" vào "phân tổ" "Platypodeae". Đây là một loài sống trong rừng mưa nhiệt đới, trong khi họ hàng của loài lại sống ở các vùng khô cằn. | 1 | null |
Ficus rubiginosa là một loài thực vật có hoa trong họ Moraceae. Loài này được Desf. ex Vent. mô tả khoa học đầu tiên năm 1805.
Nó có nguồn gốc Đông Úc trong chi Ficus. Bắt đầu là một cây mọc trên cây khác (hemiepiphyte) hoặc các loại đá (lithophyte), F. rubiginosa trưởng thành thành một cây 30 m (100 ft) cao và gần như rộng với một thân chắc có màu nâu hơi vàng. Các lá hình bầu dục và bóng màu xanh lá cây và có kích thước dài 4-19,3 cm và rộng 1,25-13,2 cm.
Quả nhỏ, tròn và màu vàng, và có thể chín và có màu đỏ ở bất kỳ thời gian của năm, đạt đỉnh điểm vào mùa xuân và mùa hè. Quả được biết đến như một syconium, một cụm hoa ngược với những bông hoa xếp một khoang bên trong. F. rubiginosa chỉ được thụ phấn bởi loài ong bắp cày vả "Pleistodontes imperialis", có thể bao gồm bốn loài crypto. Syconia là cũng là nơi có một mười bốn loài ong, một số trong đó có tạo mật, trong khi những loài khác ký sinh ong bắp cày thụ phấn, và ít nhất hai loài giun tròn. Nhiều loài chim, trong đó có chim bồ câu, vẹt và bộ sẻ khác nhau, ăn trái cây này. Phân bố dọc theo bờ biển phía đông của Úc từ Queensland tới Bega ở miền nam New South Wales, F. rubiginosa mọc ở mép rừng nhiệt đới và các mỏm đá. Nó được sử dụng như một cây bóng mát trong công viên và không gian công cộng, và khi trồng trong chậu là rất phù hợp để sử dụng như một nhà máy trong nhà hoặc trong cây cảnh. | 1 | null |
Đa bồ đề (tên khoa học: Ficus rumphii) <ins> có</ins> tên<ins> là Da mít (đa mít )</ins> một số địa phương còn gọi là lâm vồ, dân gian ta vẫn gọi là đa bồ đề vì có lá hơi giống lá bồ đề (tên khoa học của bồ đề là Ficus religiosa), tuy nhiên cây bồ đề có đuôi lá kéo dài thành dạng kim cong. Cây là một loài thực vật có hoa trong họ Moraceae. Loài này được Blume miêu tả khoa học đầu tiên năm 1825. | 1 | null |
Dâu quả dài, tên khoa học Morus macroura, hay dâu chùm dài, dâu Đài Loan là một giống dâu quả siêu dài thuộc loài thực vật có hoa trong họ Moraceae. Loài này được Miq. mô tả khoa học đầu tiên năm 1851.
Nguồn gốc.
Phân bố.
Cây dâu quả dài vốn là cây dâu dại nguyên sản vùng thung lũng độ cao 1.000 - 1.300 m của dãy Hymalaya, Tây Tạng và trong các rừng mưa nhiệt đới Đông Dương.
Lai tạo.
Được các nhà khoa học Đài Loan tuyển chọn trong quá trình lai tạo giống dâu quả thông thường với giống dâu quả dài dại.
Giá trị kinh tế.
Cây được du nhập vào Việt Nam phát triển thành cây trồng kinh tế năm 2013 ở tỉnh Hòa Bình, Hưng Yên (đăng trên NNVN số 69, ra ngày 7/4/2013) bởi cây có nguồn gốc từ cây dại nên khá dễ sống và chăm sóc. Cây dâu quả dài có tính thích ứng rộng, phù hợp với nhiều loại đất trồng, thích hợp nhất với khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, sai quả, cho năng suất cao. Cây dâu quả dài có thể ra quả ngay từ năm đầu, năm được mùa thì năng suất có thể đạt 100 kg quả trên 1 cây, mỗi chồi mới có 3 - 6 quả, bình quân quả đơn nặng 4,5 gram, dài 8 – 20 cm, đường kính 0,5 - 0,9 cm, khi chín màu đỏ hoặc đen tía, thịt quả có độ đường 22 độ. Cây sai quả nhất 4 năm tuổi đạt 26 kg quả/cây, năng suất quả đạt trên 45 tấn/ha/năm, năng suất kỷ lục có thể đạt 70 tấn/ha/năm. Trong điều kiện tự nhiên có thể ra quả một năm 2 lần vào vụ xuân và vụ thu, là giống dâu quả năng suất đặc biệt cao và ổn định.
Cây có thể vừa trồng lấy lá, vừa lấy quả vì năng suất lá cũng rất cao, đặc biệt lá vụ thu, năng suất trên 15 tấn/ha.
Canh tác.
Mùa vụ.
Cây dâu thẳng đứng, cành dài, nhiều cành nhánh. Trồng ở Quảng Đông (Trung Quốc) nảy chồi vào tháng 2, tháng 3 bật chồi, cuối tháng 4 bắt đầu có quả chín. Trồng ở Việt Nam nên trồng dâu vào tháng 2, tháng 3 đã có quả chín. Cây ra quả rải rác trong năm, nhưng vụ chính là mùa hè. | 1 | null |
Quăng lông hay còn gọi thôi ba lông xám (danh pháp khoa học: Alangium salviifolium) là một loài thực vật có hoa trong họ Sơn thù du. Loài này được (L.f.) Wangerin miêu tả khoa học đầu tiên năm 1910. Quăng lông cũng thường được gọi là Ankolam ở Malayalam, Ankola ở Kannada, Akola hoặc Ankol trong tiếng Hindi và Alanji ở Tamil. Ở Ấn Độ, nó chủ yếu được tìm thấy ở những vùng đồng bằng khô và đồi thấp, chúng cũng được tìm thấy dọc hai bên các con đường. | 1 | null |
Cornus drummondii là một loài thực vật có hoa trong họ Cornaceae. Loài này được C.A.Mey. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1845.
Đây là loài bản địa chủ yếu ở Đại Bình nguyên Bắc Mỹ và vùng Tây Trung bộ của Hoa Kỳ. Loài này cũng được tìm thấy xung quanh sông Mississippi. Chúng không phổ biến trong tự nhiên, và chủ yếu được tìm thấy xung quanh biên giới rừng. | 1 | null |
Cornus florida là một loài thực vật có hoa trong họ Cornaceae. Loài này được L. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Đây là loài bản địa miền đông và trung bộ Bắc Mỹ, từ phía nam Maine tây sang phía nam Ontario, Illinois, và đông Kansas, và phía nam xa đến miền bắc Florida và miền đông Texas, có quần thể biệt lập ở Nuevo León và Veracruz ở đông bắc Mexico. Trong Ontario, loài cây này đã được đánh giá và hiện nay nằm trong danh mục loài nguy cấp. Cây rất thường được trồng làm cảnh ở các khu vực dân cư và công cộng vì lá bắc hoa sặc sỡ của chúng.
Có hai phân loài được công nhận. | 1 | null |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.