text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
Abelia engleriana là một loài thực vật có hoa trong họ Kim ngân. Loài này được Karl Otto Robert Peter Paul Graebner mô tả khoa học đầu tiên năm 1900 dưới danh pháp "Linnaea engleriana". Năm 1911 Alfred Rehder chuyển nó sang chi "Abelia".
Loài này nằm trong tổ hợp loài "Abelia uniflora", vì thế năm 2013 khi chuyển các loài trong chi "Abelia" sang chi "Linnaea" thì Maarten Christenhusz tạm thời gộp toàn bộ các loài trong tổ hợp loài "Abelia uniflora" thành một loài duy nhất là "Linnaea uniflora". Tuy nhiên, dù chấp nhận quan điểm mở rộng chi "Linnaea" nhưng Plants of the World Online vẫn công nhận "Linnaea engleriana" như là một loài tách biệt, có tại miền trung Trung Quốc.
Thực vật chí Trung Hoa (Flora of China) gộp loài này trong "A. macrotera". Tên tiếng Trung: 梗花 (ngạnh hoa). | 1 | null |
Abelia forrestii là một loài thực vật có hoa trong họ Kim ngân. Loài này được Friedrich Ludwig Emil Diels mô tả khoa học đầu tiên năm 1912 dưới danh pháp "Linnaea forrestii". Năm 1916 William Wright Smith chuyển nó sang chi "Abelia".
Phân bố.
Loài này có tại tây nam tỉnh Tứ Xuyên và tây bắc tỉnh Vân Nam ở Trung Quốc. Nó được gọi là 细瘦糯米条 (tế sấu nhu mễ điều).
Mô tả.
Cây bụi, lá sớm rụng, cao tới 2 m. Các cành có lông tơ dày dặc. Phiến lá hình elip hẹp đến hình mũi mác, 3-7 × 1–2 cm, gốc tù, mép nguyên, đỉnh nhọn. Hoa đơn độc và mọc ở nách lá, đôi khi hình chùy; cuống hoa 3–4 mm; bầu nhụy với 4 lá bắc thẳng ở gốc. Đài hoa ánh đỏ ở quả; lá đài 5, hình mác ngược, 6-8 × 1–2 mm, 3 gân, có lông tơ thưa thớt. Tràng hoa màu trắng đến hồng, hai môi, bên ngoài có lông tơ hay lông tuyến, bên trong lông nhung thưa thớt; ống tràng đến 45 mm, mở rộng ở phần trên, lồi ở đáy; thùy 5, hình cầu, 4–5 mm; môi không có bất kỳ đốm nào. Nhị 4; chỉ nhị dài xấp xỉ tràng hoa; bao phấn hình elip, đến 2 mm. Vòi nhụy lông tơ thưa thớt; đầu nhụy hình đầu, hơi thò ra. Quả bế đến 7 mm, chỏm với 5 lá đài bền và phình to. Ra hoa tháng 5-9, tạo quả tháng 10.
Môi trường sống.
Nơi nhiều nắng trên sườn núi, bụi rậm; ở cao độ 1.900-3.300 m. | 1 | null |
Abelia macrotera là một loài thực vật có hoa trong họ Kim ngân. Loài này được Karl Otto Robert Peter Paul Graebner công bố mô tả khoa học đầu tiên năm 1900 dưới danh pháp "Linnaea macrotera", dựa theo mô tả trước đó của ông và Johannes Buchwald. Năm 1911 Alfred Rehder chuyển nó sang chi "Abelia".
Loài này nằm trong tổ hợp loài "Abelia uniflora", vì thế năm 2013 khi chuyển các loài trong chi này sang chi "Linnaea" thì Maarten Christenhusz tạm thời gộp toàn bộ các loài trong tổ hợp loài "Abelia uniflora" thành một loài duy nhất là "Linnaea uniflora". Tuy nhiên, dù chấp nhận quan điểm mở rộng chi "Linnaea" nhưng Plants of the World Online vẫn công nhận "Linnaea macrotera" như là một loài tách biệt, có tại miền trung và miền nam Trung Quốc.
Thực vật chí Trung Hoa (Flora of China) gộp cả "Abelia engleriana" trong "A. macrotera". Tên tiếng Trung: 二翅六道木 (nhị sí lục đạo mộc). | 1 | null |
Abelia parvifolia là một loài thực vật có hoa trong họ Kim ngân. Loài này được William Hemsley mô tả khoa học đầu tiên năm 1888.
Tên tiếng Trung: 小叶六道木 (tiểu diệp lục đạo mộc). Thực vật chí Trung Hoa (Flora of China) gộp loài này trong "A. uniflora".
Tổng quan.
Tên chi "Abelia" là để vinh danh bác sĩ Clarke Abel, một nhà thực vật học và bác sĩ phẫu thuật đã đến Trung Quốc vào khoảng năm 1816-1817 với tư cách là giám đốc y tế (theo lời giới thiệu của Tôn ông Joseph Banks) kiêm nhà tự nhiên học của Đại sứ quán Anh. Tuy nhiên, "Abelia parvifolia" đã không được gieo trồng tại các khu vườn ở phương Tây cho đến gần một thế kỷ sau. Như là "A. schumannii" trong "Plantae Wilsonae", nó là một trong nhiều loài cây được Ernest Wilson (còn gọi là Wilson 'Ba Tàu') thu thập trong các cuộc thám hiểm vào năm 1907, 1908 và 1910, và gửi cho Vườn ươm cây Arnold ở Hoa Kỳ. "A. schumannii" hiện được coi là từ đồng nghĩa của "A. parvifolia", một loài rất hay biến đổi.
Schumann abelia là một loại cây bụi tao nhã với thân uốn cong, mang những chùm hoa màu hồng - tím hoa cà quyến rũ trong suốt mùa hè.
Địa lý và phân bố.
Loài này có nguồn gốc từ miền trung Trung Quốc (phía tây tỉnh Tứ Xuyên), nơi nó được tìm thấy ở cao độ 1.200-3.600 m trên mực nước biển. Môi trường sống là các bụi cây, thung lũng khô và ven sông.
Mô tả.
Là loài cây bụi lá sớm rụng, cao tới khoảng 2 m, với các cành cây mảnh dẻ và uốn cong. Các cành non màu tía và phủ đầy lông tơ. Lá màu xanh lục, hình trứng, thuôn tròn ở đỉnh và dài tới khoảng 3 cm, rộng khoảng 1 cm. Những bông hoa hình phễu, màu hồng với những đốm màu da cam và dài tới khoảng 1,5 cm, nở từ tháng 5 đến tháng 8.
Sử dụng.
"A. parvifolia" được trồng làm cây cảnh. Nó đã được nhận Giải thưởng Phẩm chất Làm vườn (Award of Garden Merit) từ Hiệp hội Làm vườn Hoàng gia (dưới tên đồng nghĩa "A. schumannii").
Gieo trồng.
"A. parvifolia" sinh sống tốt nhất dưới ánh nắng đầy đủ, trong đất ẩm nhưng thoát nước tốt. Nó có thể được nhân giống bằng cách giâm cành. Tại Vườn thực vật Hoàng gia ở Kew, "A. parvifolia" (hiện được gán nhãn "A. schumannii") được trồng ở phía nam của Stable Yard. | 1 | null |
Abelia uniflora là một loài thực vật có hoa trong họ Kim ngân. Loài này được Nathaniel Wallich công bố mô tả khoa học đầu tiên năm 1829, dựa theo mô tả trước đó của Robert Brown.
Phân bố.
Loài này có tại Trung Quốc (Phúc Kiến, Cam Túc, Quảng Tây, Quý Châu, Hà Nam, Hồ Bắc, Hồ Nam, Thiểm Tây, Tứ Xuyên, Vân Nam); thường được gieo trồng. Tên tiếng Trung: 蓪梗花 (thông ngạnh hoa).
Thực vật chí Trung Hoa (Flora of China) gộp cả "Abelia parvifolia" trong "A. uniflora".
Loài này nằm trong tổ hợp loài "Abelia uniflora", vì thế năm 2013 khi chuyển các loài trong chi "Abelia" sang chi "Linnaea" thì Maarten Christenhusz tạm thời gộp toàn bộ các loài trong tổ hợp loài "Abelia uniflora" thành một loài duy nhất là "Linnaea uniflora". Tuy nhiên, dù chấp nhận quan điểm mở rộng chi "Linnaea" nhưng Plants of the World Online vẫn công nhận 4 loài của tổ hợp loài "Abelia uniflora" như là các loài tách biệt, và giới hạn khu vực phân bố của loài (theo nghĩa hẹp) này chỉ ở đông nam Trung Quốc. | 1 | null |
Dipelta elegans là một loài thực vật có hoa trong họ Kim ngân. Loài này được Alexander Theodorowicz Batalin mô tả khoa học đầu tiên năm 1895.
Mô tả.
Cây bụi, lá sớm rụng, cao tới 2 m. Phiến lá hình elip, 5-10 × 2-5 cm, có lông tuyến, lông tơ trên gân và mép lá, đáy nhọn đến thuôn tròn, mép nguyên hoặc có răng cưa thưa thớt ở nửa trên, đỉnh nhọn dài đến nhọn hoắt dài. Bầu nhụy với 4 lá bắc; 2 lá bắc ngoài lớn hơn, hình khiên, cùng phát triển ở quả và không che khuất đài hoa khi nở. Đài hoa hình ống-hình chuông, 5 thùy, lông thưa; các thùy tù, dài khoảng 1/3 ống đài. Tràng hoa hai môi, có lông tơ rậm, hình trụ hẹp ở gốc, loe và hình chuông ở phần trên; môi dưới có lông nhung. Bầu nhụy có lông tơ; vòi nhụy từ nhiều lông đến lông tơ thưa thớt; đầu nhụy hình đầu. Quả bế với 2 lá bắc bền hình khiên rất lớn, rộng đến 40 mm. Ra hoa tháng 5-6, tạo quả tháng 9.
Phân bố.
Có tại các tỉnh Cam Túc,Tứ Xuyên và có thể có tại tỉnh Thiểm Tây. Tên tiếng Trung: 优美双盾木 (ưu mĩ song thuẫn mộc).
Môi trường sống.
Rừng lá rộng; ở cao độ đến 2.000 m. | 1 | null |
Dipelta floribunda là một loài thực vật có hoa trong họ Kim ngân. Loài này được Carl Johann Maximowicz mô tả khoa học đầu tiên năm 1877 (in năm 1878).
Mô tả.
Cây bụi hoặc cây gỗ nhỏ, cao tới 6 m, lá sớm rụng. Các cành có lông tuyến, dần trở thành nhẵn nhụi. Cuống lá 6–14 mm; phiến lá hình trứng tới hình mũi mác, 4-10 × 1,5–6 cm, gân giữa có lông tơ trắng, đáy hình nêm hoặc tù, mép nguyên, đôi khi 2 hay 3 răng cưa rất nhỏ ở đỉnh, đỉnh nhọn hay nhọn hoắt dài. Cuống hoa đến 10 mm; bầu nhụy với 4 lá bắc hợp sinh chặt ở gốc; 2 lá bắc ngoài lớn hơn, hình khiên, che khuất các lá đài khi nở hoa, đồng phát triển tới rộng 20 mm khi thuần thục, có màng khô, với các gân dễ thấy; 2 lá bắc trong nhỏ hơn, không đều, một hình trứng, một nhỏ hơn và hình elip hẹp. Đài hoa 5 thùy, có lông tuyến; các thùy thẳng, 5 – 7 mm. Tràng hoa màu trắng đến hồng, hai môi, hình trụ hẹp ở gốc, loe và hình chuông ở phần trên, 25–40 mm; môi dưới với vết màu hình lưới màu vàng cam. Bầu nhụy có lông tơ; vòi nhụy hình chỉ, từ nhẵn nhụi đến có lông thưa thớt. Quả bế ở đỉnh có đài hoa bền, được bao bọc trong 2 lá bắc hình khiên, giống như cánh, có màng, đồng phát triển. Ra hoa tháng 4-7, tạo quả tháng 8-9.
Môi trường sống.
Rừng hỗn hợp, cây bụi; ở cao độ 600-2.200 m. Có tại các tỉnh Cam Túc, Quảng Tây, Hồ Bắc, Hồ Nam, Thiểm Tây, Tứ Xuyên. Tên gọi trong tiếng Trung là 双盾木 (song thuẫn mộc). | 1 | null |
Dipelta wenxianensis là danh pháp khoa học để chỉ một loài thực vật có hoa trong họ Kim ngân. Loài này được Yi F. Wang và Y. S. Lian mô tả khoa học đầu tiên năm 1994.
Lưu ý.
Mẫu vật của "D. wenxianensis" thu thập tại trấn Bích Khẩu, huyện Văn, địa cấp thị Lũng Nam, tỉnh Cam Túc cũng như mẫu vật trong hình minh họa (mẫu vật điển hình lại không xác định vị trí lấy mẫu) trong bài báo công bố với lá bắc hình khiên, vòi nhụy nhiều lông, đài hoa xẻ tới gốc và ống tràng hoa ngắn đều thể hiện các đặc trưng trung gian giữa "D. floribunda" và "D. yunnanensis". Cũng không loại trừ là các mẫu vật trung gian khác có tồn tại. Hiện tại Plants of the World Online coi nó là loài lai ghép, với danh pháp "Dipelta × wenxianensis". | 1 | null |
Dipelta yunnanensis là một loài thực vật có hoa trong họ Kim ngân. Loài này được Adrien René Franchet mô tả khoa học đầu tiên năm 1891.
Mô tả.
Cây bụi, lá sớm rụng, cao tới 4 m. Các cành có lông tơ. Cuống lá đến 5 mm; phiến lá hình elip đến hình mũi mác, 5-10 × 2–4 cm, phía xa trục có lông trắng trên gân giữa, lông rung dọc theo mép lá, phía gần trục lông tơ thưa thớt, đáy hình nêm đến thuôn tròn, mép lá nguyên hoặc hiếm khi có răng cưa nhỏ, đỉnh nhọn hoắt đến nhọn hoắt dài. Bầu nhụy có 4 lá bắc; 2 lá bắc ngoài lớn hơn, hình thận, đồng phát triển ở quả và không che khuất đài hoa khi nở hoa; 2 lá bắc trong nhỏ hơn, không đều, một hình trứng, một nhỏ hơn và hình elip hẹp. Đài hoa 5 thùy, có lông tơ; các thùy chia 1/2-2/3, tỏa rộng ở quả. Tràng hoa màu trắng đến hồng sẫm, hai môi, 20–40 mm, hình ống rất ngắn và hẹp ở gốc; môi dưới có lông tơ với các vết màu hình lưới màu vàng cam. Bầu nhụy có lông tơ; vòi nhụy chèn, nhẵn nhụi. Quả bế hình trứng với cổ ngắn, có lông tơ, ở đỉnh với đài hoa bền, được bao bọc trong 2 lá bắc hình thận, giống như cánh, có màng, đồng phát triển. Ra hoa tháng 5-7, tạo quả tháng 7-11.
Môi trường sống.
Rừng hỗn hợp, cây bụi; ở cao độ 800-2.400 m. Có tại các tỉnh Cam Túc, Quý Châu, Hồ Bắc, Thiểm Tây, Tứ Xuyên, Vân Nam. Tên gọi trong tiếng Trung là 云南双盾木 (Vân Nam song thuẫn mộc). | 1 | null |
Kolkwitzia amabilis là một loài thực vật có hoa trong họ Kim ngân. Loài này được Karl Otto Robert Peter Paul Graebner mô tả khoa học đầu tiên năm 1901. Năm 2013, trên cơ sở chứng cứ phát sinh chủng loài phân tử cho thấy nhánh "Linnaea" là đơn ngành nên Maarten Christenhusz đề xuất mở rộng chi "Linnaea" để bao gồm tất cả các loài thuộc các chi "Abelia" (trừ tổ "Zabelia"), "Diabelia", "Dipelta", "Vesalea" và "Kolkwitzia", đổi danh pháp của nó thành Linnaea amabilis. Đề xuất này được một số nguồn thứ cấp chấp nhận, như "Plants of the World Online" (POWO). Tuy nhiên, điều này bị phần lớn các tài liệu khoa học và thực vật chí sau đó từ chối và các tài liệu này vẫn duy trì các chi truyền thống, trên cơ sở các khác biệt về hình thái, sinh địa lý học và duy trì sự ổn định danh pháp.
Tên gọi tiếng Trung là 蝟实/猬实 (vị thật).
Mô tả.
Cây bụi, mọc thẳng, cao đến 3 m. Các cành cây non rậm lông, dần trở thành nhẵn nhụi. Cuống lá 1–2 mm; phiến lá hình elip đến hình trứng, 3-8 × 1,5-2,5 cm, cả hai bề mặt có lông tơ thưa thớt, lông tơ và lông mịn dày đặc lan rộng trên các gân và mép lá, đáy thuôn tròn hoặc hình nêm rộng, mép lá nguyên, hiếm khi có răng cưa xẻ nông, đỉnh nhọn đến nhọn hoắt. Cụm hoa hình chùy; hoa đơn hoặc cặp đôi (hoa nở kế tiếp nhau) trong cùng một cụm hoa; cuống hoa 10–15 mm; lá bắc hình mác, hợp sinh chặt chẽ vào đáy bầu nhụy. Lá đài 5, hình mác, đến 5 mm, có lông tơ. Tràng hoa màu trắng điểm hồng, 15–25 mm, bên ngoài có lông tơ, đáy rất hẹp, phình to đột ngột phía trên điểm giữa; môi dưới 3 thùy, có râu, có đốm hình lưới màu da cam; môi trên 2 thùy. Bầu nhụy hình chai có cổ dài; vòi nhụy có lông tơ; đầu nhụy hình đầu, chèn vào. Quả bế được bao trong các lá bắc xốp, dạng gỗ và cứng, đỉnh thuôn dài, bao quanh ở đỉnh là các lá đài bền, không cùng phát triển. Ra hoa tháng 5-6, tạo quả tháng 8-9. Số nhiễm sắc thể 2n = 32.
Phạm vi phân bố.
Dốc núi, vệ đường, bụi rậm; ở độ cao 300-1.300 m. Tại Trung Quốc có tại các tỉnh An Huy, Cam Túc, Hà Nam, Hồ Bắc, Thiểm Tây, Sơn Tây và có thể có ở tỉnh Hà Bắc. Loài này rất hiếm gặp trong tự nhiên nhưng được gieo trồng rộng rãi. | 1 | null |
Kim ngân lá to (danh pháp khoa học: Lonicera hildebrandiana) là một loài thực vật có hoa trong họ Kim ngân. Loài này được Collett & Hemsl. mô tả khoa học đầu tiên năm 1890.
Phân bố.
Phân bố chủ yếu ở cao nguyên Shan, Myanmar ở độ cao 1500 m. | 1 | null |
Chủ nghĩa thế giới là hệ tư tưởng rằng tất cả các nhóm dân tộc loài người thuộc về một cộng đồng duy nhất dựa trên một nền luân lý được chia sẻ. Một người luôn tôn trọng các ý tưởng của chủ nghĩa thế giới trong bất kỳ hình thức nào được gọi là có tính quốc tế hay công dân thế giới.
Tên gọi của chủ nghĩa thế giới trong tiếng Anh (cosmopolitanism) bắt nguồn từ hai từ tiếng Hy Lạp là "κόσμοσ" (chuyển tả Latin: kósmos̱), ý chỉ vũ trụ và thế giới, và "πολίτησ" (chuyển tả Latin: políti̱s̱), ý chỉ thành thị và thành bang, hai từ này ghép lại ý là thành thị thế giới hoặc thành bang thế giới. | 1 | null |
Chính trị toàn cầu là một nguyên tắc nghiên cứu các mô hình chính trị và kinh tế của thế giới. Nó nghiên cứu các mối quan hệ giữa các thành phố, quốc gia dân tộc, các tập đoàn đa quốc gia, các tổ chức phi chính phủ và tổ chức quốc tế.
Có lập luận cho rằng chính trị toàn cầu cần được phân biệt với các lĩnh vực chính trị quốc tế, tìm kiếm để hiểu các mối quan hệ chính trị giữa các quốc gia, và do đó có một phạm vi hẹp hơn. Tương tự như vậy, quan hệ quốc tế, mà tìm để hiểu các mối quan hệ kinh tế và chính trị chung giữa các quốc gia, là một lĩnh vực hẹp hơn so với chính trị toàn cầu. | 1 | null |
Ampelozizyphus amazonicus là một loài thực vật có hoa trong họ Táo. Loài này được Adolpho Ducke mô tả khoa học đầu tiên năm 1935.
Phân bố.
Loài này được tìm thấy ở vùng nhiệt đới Nam Mỹ; bao gồm miền bắc Brasil, Colombia, Guiana thuộc Pháp, Guyana, Peru, Suriname, Venezuela. | 1 | null |
Berchemia floribunda là một loài thực vật có hoa trong họ Táo. Loài này được Nathaniel Wallich mô tả khoa học đầu tiên năm 1824 dưới danh pháp "Ziziphus floribunda". Năm 1826 Adolphe Theodore Brongniart chuyển nó sang chi "Berchemia".
Tên gọi trong tiếng Việt là biệt sâm nhiều hoa, biệt sâm Girald; trong tiếng Trung là 多花勾儿茶 (đa hoa câu nhân trà).
Phân bố.
Loài này được tìm thấy trong khu vực Ấn Độ (ven Himalaya), Bangladesh, Bhutan, Lào, Myanmar, Nepal, Nhật Bản (cả Lưu Cầu), Thái Lan, bán đảo Triều Tiên, Trung Quốc, Việt Nam. Môi trường sống là rừng miền núi, tầng dưới tán trong rừng và bụi rậm trên sườn núi, bìa rừng, thung lũng; cao độ dưới 2600 m.
Mô tả.
Cây bụi leo bám hoặc mọc thẳng. Các cành non màu xanh lục-vàng, nhẵn nhụi, bóng. Các lá kèm hình mác hẹp, 1-2 mm, bền; cuống lá 1-2 cm, hiếm khi tới 5 cm, nhẵn nhụi; phiến lá mặt xa trục màu nâu sẫm khi khô, mặt gần trục màu xanh lục, hình trứng hoặc hình trứng-elip đến hình elip, 4-9(-11) × 2-5(-6,5) cm, dạng giấy, mặt xa trục nhẵn nhụi hoặc thưa lông tơ trên các gân lá, mặt gần trục nhẵn nhụi, gân bên 9-12 đôi, nổi rõ ở cả hai mặt, đáy thuôn tròn đến hình tim, mép nguyên, đỉnh tù đến thuôn tròn, hoặc nhọn đến nhọn thon. Cụm hoa đến 15 cm; các nhánh bên nhỏ hơn 5 cm; trục cụm hoa nhẵn nhụi hoặc thưa lông tơ mịn. Hoa nhiều, nhẵn nhụi, ít hoa mọc thành chùm, ở các chùy hoa dạng xim ở đầu cành hoặc các cành hoa dạng xim ở nách lá. Cuống hoa 1-2 mm. Ống đài hoa dạng xương bánh chè nông, nhẵn nhụi; các thuỳ hình tam giác hẹp, mặt gần trục có gờ khác biệt lên tới đoạn giữa. Cánh hoa hình thìa, bao quanh nhị hoa. Đĩa hoa dày, mọng thịt, lồi ở trung tâm rõ rệt. Bầu nhụy gần như chìm hoàn toàn trong đĩa; vòi nhụy hình trụ, không phân chia; đầu nhụy 2 hoặc 3 thùy. Quả hạch màu đỏ, khi thuần thục màu đen ánh xanh lam, hình trụ-elip đến hình trứng-thuôn dài, 7-10 × 4-5 mm, với đĩa hình chén bền; hạch 2 ngăn; cuống quả 2-3 mm, nhẵn nhụi. Ra hoa tháng 7-10, tạo quả tháng 4-tháng 7 năm sau.
Sử dụng.
Rễ được sử dụng trong y học để giảm đau. Lá non được dùng thay thế trà.
Chú thích.
| 1 | null |
Berchemiella berchemiifolia là một loài thực vật có hoa trong họ Táo. Loài này được Tomitaro Makino mô tả khoa học đầu tiên năm 1898 dưới danh pháp "Rhamnella berchemiaefolia". Năm 1923 Takenoshin Nakai chuyển nó sang chi "Berchemiella".
Tên gọi tại Nhật Bản: "yokogura-no-ki", theo tên núi Yokogura trên đảo Shikoku (theo T. Makino).
Phân bố.
Loài này được tìm thấy từ miền trung và miền nam Nhật Bản cũng như tại phía nam bán đảo Triều Tiên (Hàn Quốc).
Mô tả.
Cây gỗ nhỡ lá sớm rụng. Các cành màu nâu sẫm ánh tía. Lá mọc so le, có cuống, thuôn dài, 3-12 × 1,7-5 cm, nguyên nhưng hơi quăn khó thấy, mép rất hẹp, nhọn thon ở đỉnh, tù hoặc nhọn ở đáy, nhẵn nhụi nhưng hơi có lông tơ với các lông mịn màu trắng dọc theo các gân nổi cao ở mặt dưới, dạng giấy, màu xanh lục sẫm nhưng gần xanh xám ở mặt dưới; gân giữa thanh mảnh, thẳng; gân phụ 6-10 đôi, đều, thẳng đứng-rõ và vươn tới mép lá; các gân con rất nhỏ và gần nhau; cuống lá nhẵn nhụi, dài 6-14 mm; lá kèm nhỏ, hình dùi, bền với phần đỉnh nhọn thon dài sớm rụng. Cụm hoa hẹp, ngắn hơn lá; trục cụm hoa thanh mảnh, với cuống cụm ngắn và lỏng lẻo và các lá bắc với các lá bắc con nhỏ dạng vảy sớm rụng. Hoa nhỏ, có cuống, màu ánh xanh lục, hình tán. Đài hoa hợp sinh phía dưới tạo thành ống hình chuông ngắn đính vào đĩa hoa rất mập ở bên trong; thùy 5, có mảnh vỡ ở nụ, hình tam giác-hình trứng, tù, mập. Cánh hoa 5, hình tròn-hình trứng, xen kẽ với lá đài nhưng nhỏ hơn và ngắn hơn. Nhị hoa 5, không thò ra, nằm trên mép đĩa hoa, đói diện với cánh hoa; bao phấn hình tròn-hình trứng, hướng trong; chỉ nhị ngắn, hình dùi. Bầu nhụy rất ngắn, với vòi nhụy ngắn và mập ở phía trên, thẳng đứng ở tâm đĩa hoa; đầu nhụy rất nhỏ, không cuống, trên đỉnh của vòi nhụy mập, chẻ đôi ngắn. Quả hạch ít, có cuống ngắn, hình trụ-thuôn dài, thuôn tròn ở đỉnh, dài 6-7 mm, nhẵn nhụi, bóng, viền bằng ống đài bền, phẳng, 5 góc tại đáy, màu da cam khi thuần thục; hạch 1, thuôn dài, màu ánh vàng, gần như nhẵn bóng, cứng, 1 sọc dài ở mỗi bên, 1 ngăn và 1 hạt.
Chú thích.
| 1 | null |
Berchemiella wilsonii là một loài thực vật có hoa trong họ Táo. Loài này được Camillo Karl Schneider mô tả khoa học đầu tiên năm 1914 dưới danh pháp "Chaydaia wilsonii" theo mẫu vật số 3388 thu thập tháng 7 năm 1907 trong bụi rậm ở cao độ 1.300 m tại huyện Hưng Sơn, tỉnh Hồ Bắc. Năm 1923 Takenoshin Nakai chuyển nó sang chi "Berchemiella".
Tại Trung Quốc nó được gọi là 小勾儿茶 (tiểu câu nhi trà).
Phân bố.
Loài này được tìm thấy tại các tỉnh An Huy, tây Hồ Bắc, Chiết Giang. Môi trường sống là rừng trên núi và trong thung lũng; cao độ 500-1.500 m.
Mô tả.
Cây bụi lá sớm rụng, cao 3-6 m. Các cành con màu nâu, nhẵn nhụi, với các lỗ bì hình hạt đậu dày đặc, dễ thấy và các khe nứt dọc; các cành già màu xám. Lá kèm hình tam giác rộng, mặt xa trục hợp sinh, bao quanh nụ; cuống lá 4-5 mm, nhẵn nhụi hoặc có lông; phiến lá mặt gần trục màu trắng xám, hình elip, 7-10 × 3-5 cm, dạng giấy, mặt xa trục rậm lông tơ hoặc các nách gân có râu, mặt gần trục nhẵn nhụi, gân bên 8-10 đôi, đáy thuôn tròn, không đối xứng, đỉnh tù, có mấu nhọn nhỏ. Cụm hoa ~3,5 cm, nhẵn nhụi. Hoa màu ánh xanh lục, nhẵn nhụi, trong các cành hoa dạng xim đầu cành hoặc một ít ở các xim hoa nách lá; nụ hoa hình cầu, đường kính ~1,5 mm, ngắn hơn cuống hoa. Ống đài hình chén; các thùy hình tam giác, mặt gần trục hơi gồ lên với mỏ nhỏ ở đáy. Cánh hoa hình trứng ngược rộng, rất ngắn, ~1 mm, đỉnh có khía, có nắp. Đĩa hoa mỏng, lót ống đài, hơi dày ở mép và nổi rõ. Bầu nhụy hình cầu, được bao quanh ở đáy nhưng không chìm vào trong đĩa hoa; vòi nhụy hình trụ, ngắn, không phân chia; đầu nhụy hình đầu, 2 hoặc 3 thùy khác biệt. Quả khi non màu đỏ, lúc chín gần như đen, hình trụ đến hơi hình trứng ngược. Ra hoa tháng 7, tạo quả tháng 8-9. | 1 | null |
Berchemiella yunnanensis là một loài thực vật có hoa trong họ Táo. Loài này được Chen Yi Ling (陈艺林, Trần Nghệ Lâm) và Chou Pan Kai (周邦楷, Chu Bang Khải) mô tả khoa học đầu tiên năm 1979 theo mẫu vật "C.W.Wang 87099" thu thập trên dốc đá ở cao độ 1.000 m tại huyện Phú Ninh, tỉnh Vân Nam.
Tại Trung Quốc nó được gọi là 滇小勾儿茶 (Điền tiểu câu nhi trà).
Phân bố.
Loài này được tìm thấy tại đông nam tỉnh Vân Nam. Môi trường sống là dốc núi, khe kẽ đá; ở cao độ khoảng 1.000 m.
Mô tả.
Cây gỗ cao đến 5 m, gần như nhẵn nhụi. Các cành con màu nâu sẫm, thô ráp, với các khe nứt dọc. Lá kèm hình trứng-hình mác, ngắn, sớm tàn; cuống lá 4–5 mm; phiến lá mặt xa trục màu ánh xanh lục, mặt gần trục màu xanh lục sẫm, hình elip, hiếm khi thuôn dài, 4-8 × 2–3 cm, dạng giấy, mặt xa trục thường với các nách gân có râu, gân bên 6 hoặc 7 đôi, đáy gần thuôn tròn, thường không đối xứng, mép nguyên, đỉnh tù hoặc nhọn thon ngắn, hiếm khi nhọn hoặc gần thuôn tròn. Hoa 3-9 ở các cành hoa dạng xim lỏng lẻo ở đầu cành, 2–3 cm; cuống cụm hoa 1–5 mm; nụ hoa màu xanh lục, hình cầu. Cuống hoa 1–2 mm. Lá đài hình tam giác, mặt gần trục có gờ ở giữa với mỏ nhỏ ở đáy. Cánh hoa hình trứng ngược. Đĩa hoa ngũ giác, dày. Bầu nhụy chìm tới một nửa trong đĩa, 1 hoặc 2 ngăn, 2 noãn; vòi nhụy ngắn, có khía. Không thấy quả. Ra hoa và tạo quả chưa rõ. | 1 | null |
Blackallia nudiflora là một loài thực vật có hoa trong họ Táo.
Blackallia.
Năm 1942, Charles Austin Gardner mô tả chi Blackallia với 2 loài là "Blackallia biloba" và "Blackallia connata"; trong đó "B. biloba" là mô tả mới còn "B. connata" nguyên được chính Gardner mô tả trong chi "Cryptandra" với danh pháp "C. connata" năm 1928.
Gardner không chỉ định loài điển hình cho chi này, nhưng có lẽ thiên về "B. connata" do ông liệt kê nó đầu tiên, tiếp theo mới là mô tả chi tiết cho loài mới "B. biloba" của mình. Trong bản dự thảo viết tay của ông được lưu giữ tại Perth thì Gardner coi "Blackallia" là chi đơn loài chỉ bao gồm "B. connata". Tuy nhiên, "B. connata" rõ ràng thuộc về "Cryptandra" trên cơ sở hình thái (Rye, 2007) và dữ liệu phân tử (Kellermann "et al.", 2005). Vì thế, "B. biloba" được chọn làm lectotype cho chi này. "Blackallia connata" bị loại khỏi chi và được chấp nhận với danh pháp "Cryptandra connata".
Từ nguyên.
"Blackallia" được đặt tên theo bác sĩ kiêm nhà thực vật học Tây Úc là William E. Blackall (1876–1941).
Lịch sử phân loại.
Năm 1862 Ferdinand von Mueller mô tả khoa học đầu tiên loài với danh pháp "Cryptandra nudiflora".
Năm 2007, Barbara Lynette Rye và Jürgen Kellermann xác định rằng các danh pháp "B. biloba" và "C. nudiflora" là cùng một loài và nó không thuộc về chi "Cryptandra". Vì thế họ duy trì chi "Blackallia" của Gardner và tổ hợp cho loài duy nhất của nó danh pháp mới thành "B. nudiflora".
Phân bố.
Loài đặc hữu khu vực tây nam Tây Úc.
Mô tả.
Cây bụi nhỏ thường xanh, thường có gai, sau trở thành nhẵn nhụi với các lông hình sao và đơn giản trên các lá non. Các lá kèm hợp sinh ở đáy giữa cuống lá và thân, bền. Các lá mọc xen kẽ-tụ lại thành chùm, có cuống, bạc màu, nguyên, gập đôi khi non, mép phẳng. Cụm hoa bao gồm một vài hoa trong các xim hoa co lại dày đặc với các lá bắc dạng xim. Hoa lưỡng tính, mẫu 5, màu trắng hoặc kem đến hồng nhạt khi còn non, cuống hoa dài. Chén hoa hình ống dài, thường hơi nở rộng ở đáy. Đài hoa thẳng đứng nhiều hay ít, bền ở quả. Cánh hoa thẳng đứng, dạng nắp, có vuốt ngắn, nhẵn bóng; vuốt không hợp sinh với đáy của chỉ nhị. Các nhị hoa được bao bọc trong và ngắn hơn hoặc gần bằng các cánh hoa, thẳng tới cong vào trong. Đĩa mật tạo thành một vòng hẹp, gợn sóng xung quanh đáy bầu nhụy, rời, nhẵn nhụi, trở thành vòng tròn ở quả. Bộ nhụy 3 lá noãn; bầu nhụy thượng hoặc chủ yếu là như vậy; vòi nhụy nguyên, nhẵn nhụi, bóng, đầu nhụy hơi chia 3 thùy. Quả là quả nang nẻ (quả phát triển từ nhiều lá noãn và chia tách thành nhiều ngăn vách chia quả, mỗi ngăn vách chứa một hạt), thượng hoặc chủ yếu là như vậy, hình trứng ngược; các tiểu quả dạng vảy cứng, chẻ dọc theo bề mặt bên trong của chúng và trên đỉnh để giải phóng hạt. Hạt có áo hạt; phần thân có màu đồng nhất phía trên phần đáy sẫm màu; áo hạt to khá lớn, trong mờ, 3 thùy.
Chú thích.
| 1 | null |
Rhamnella tonkinensis là một loài thực vật có hoa trong họ Táo. Loài này được Charles-Joseph Marie Pitard mô tả khoa học đầu tiên năm 1912 dưới danh pháp "Chaydaia tonkinensis". Năm 1973, Takashi Yamazaki chuyển nó sang chi "Rhamnella".
Tên gọi.
Pitard ghi tên bản địa của nó là chay daï, trong khi trên mẫu lectotype lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia Pháp thì ghi tên bản địa là chay dai. Phạm Hoàng Hộ (1999) ghi tên bản dịa là chạy da.
Phân bố.
Loài đặc hữu Việt Nam, được tìm thấy trong khu vực rừng núi thuộc tỉnh Ninh Bình. | 1 | null |
Spyridium buxifolium là một loài thực vật có hoa trong họ Táo. Loài này được Eduard Fenzl mô tả khoa học đầu tiên năm 1837 dưới danh pháp "Cryptandra buxifolia". Năm 2004 Kevin R. Thiele chuyển nó sang chi "Spyridium" thành "Spyridium buxifolium".
Phân bố.
Loài này có tại New South Wales, Australia. | 1 | null |
Cryptandra australis là một loài thực vật có hoa trong họ Táo. Loài này được Christiaan Hendrik Persoon mô tả khoa học đầu tiên năm 1805.
James Edward Smith thiết lập chi "Cryptandra" năm 1798 nhưng không đặt tên cho loài nào. Tới năm 1808 ông mới mô tả 2 loài là "C. ericoides" và "C. amara". Hiện nay người ta xác định rằng "C. ericoides" của Smith chính là "C. australis" của Persoon.
Phân bố.
Loài này được tìm thấy ở New South Wales, Queensland.
Mô tả.
Lá thẳng, nhọn. Tràng hoa hình phễu, bên ngoài có nhiều lông cứng. Cây dạng cây bụi, phân nhiều cành, thanh mảnh; các cành nhiều lá, khi còn non có lông lụa hoặc lông cứng. Lá dài 6,5 mm, thành chùm, mọc đối, nhẵn bóng, thẳng, nhọn, có gờ, trên cuống ngắn. Hoa dày dặc trong đầu hoa nhiều lá ở đầu cành, dường như có màu hơi ánh đỏ, được bao phủ bên ngoài bằng lông cứng màu trắng, mượt, dày. | 1 | null |
Cryptandra minutifolia là một loài thực vật có hoa trong họ Táo. Loài này được Nicolai Stepanowitsch Turczaninow mô tả khoa học đầu tiên năm 1858 dưới danh pháp "Cryptandra parvifolia". Năm 1995 Barbara Lynette Rye cho rằng danh pháp của Turczaninow thiết lập sau "Cryptandra parvifolia" của Joseph Dalton Hooker, vì thế nó là "nom. illeg." và đổi loài này thành "Cryptandra minutifolia".
Phân bố.
Loài này được tìm thấy ở miền nam Tây Úc. | 1 | null |
Doerpfeldia cubensis là một loài thực vật có hoa trong họ Táo. Loài này được Nathaniel Lord Britton mô tả khoa học đầu tiên năm 1920. Năm 1924 Ignatz Urban mô tả chi mới Doerpfeldia và cung cấp mô tả bằng tiếng Latinh cho loài với danh pháp "Doerpfeldia cubensis", đồng thời cho rằng nó là "Sarcomphalus cubensis" của Britton (...fortasse "Sarcomphalus cubensis" Britton huc spectat).
Việc xếp chi này vào tông Doerpfeldieae dường như là thừa thãi, do nó chỉ chứa 1 chi duy nhất với 1 loài duy nhất. Hiện nay, website của APG gộp cả 3 tông Ampelozizipheae (1 chi, 3 loài), Bathiorhamneae (1 chi, 7 loài) và Doerpfeldieae (1 chi, 1 loài) trong nhóm gọi là Ampeloziziphoids (hay nhóm Ampelozizyphoid).
Chi có quan hệ họ hàng gần nhất với "Doerpfeldia" là "Ampelozizyphus" ở vùng nhiệt đới miền bắc Nam Mỹ.
Phân bố.
Loài này được tìm thấy ở miền đông Cuba. Môi trường sống là những bụi rậm ven biển, các tỉnh Oriente, Santa Clara. Mẫu điển hình thu thập từ Punta Piedra, vịnh Nipe, tỉnh Oriente ("Britton & Cowell 12486").
Mô tả.
Cây gỗ nhẵn nhụi cao khoảng 10 m, các cành khá mập, cứng, có phần góc cạnh. Lá mọc trên các cựa ngắn, hình elip hoặc hình trứng ngược-hình elip, hơi mọng, dài 1,5-3,5 cm, thuôn tròn hoặc có khía răng cưa ở đỉnh, tù hoặc hơi hẹp ở đáy, gân lá hình lông chim mờ nhạt với cặp gân phía dưới là rõ nhất, gân giữa khá nổi rõ ở mặt dưới, các cuống lá thanh mảnh dài 3-5 mm; cuống quả rất thanh mảnh, dài 8-12 mm; quả hình trứng, dài 6-8 mm, đỉnh nhọn ngắn, dài khoảng 3 lần đài hoa. | 1 | null |
Rhamnella rubrinervis là một loài thực vật có hoa trong họ Táo. Loài này được Augustin Abel Hector Léveillé miêu tả khoa học đầu tiên năm 1912 dưới danh pháp "Embelia rubrinervis". Năm 1934 Alfred Rehder chuyển nó sang chi "Rhamnella".
Tại Trung Quốc gọi là 苞叶木 (bao diệp mộc).
Từ nguyên.
Tính từ định danh "rubrinervis" là để nói tới các gân lá có màu hung đỏ của loài này.
Phân bố.
Loài này được tìm thấy tại miền nam Trung Quốc và Việt Nam. Môi trường sống là trong khe núi có bóng râm, độ cao khoảng 800 mét.
Mô tả.
Cây bụi nhẵn nhụi hoặc các cành non thưa lông tơ, cao khoảng 3 m, các cành thon búp măng, thanh mảnh, có sọc màu xám, khi khô nhạt màu, các cành non màu xanh nâu ôliu, đường kính khoảng 1 mm. Lá dạng giấy, thuôn dài-hình elip, 3,5-8 × 1,5-3,4 cm, các lá phía dưới nguyên, các lá trên khía tai bèo khó thấy, nhẵn bóng, màu xanh nâu ôliu nhạt, đáy nhọn rộng tới gần thuôn tròn, đỉnh khác biệt và nói chung tù-nhọn thon, gân lá ở hai bên 5, thanh mảnh, có màu hung đỏ khác biệt. Cuống lá dài 3–5 mm, có lông tơ. Cuống hoa có lông tơ. Hoa dạng tán; lá đài và cánh hoa dài bằng nhau, có lông tơ mịn khó thấy; bao phấn không thò ra, nhọn thon. Quả nói chung đơn độc, thuôn dài-hình trứng, 1 ngăn, dài ~1 cm và đường kính khoảng 5mm, nhọn; cuống quả dài khoảng 8 mm. | 1 | null |
Karwinskia pluvialis là một loài thực vật có hoa trong họ Táo. Loài này được Paul Carpenter Standley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1929 dưới danh pháp "Rhamnidium caloneurum".
Năm 2014, Amy Pool chuyển nó sang chi "Karwinskia", nhưng do danh pháp "Karwinskia caloneura" đã được Ignatz Urban sử dụng từ năm 1926 để chỉ một loài khác có tại Hispaniola nên tác giả đã đổi danh pháp thành "Karwinskia pluvialis".
Mẫu định danh.
Mẫu định danh: "G. P. Cooper 434"; thu thập năm 1928 tại trang trại Daytonia, vùng Almirante, tây bắc Panama. Lưu giữ tại phòng mẫu cây của Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Field dưới số 579, 347.
Phân bố.
Loài này được tìm thấy tại Costa Rica và miền tây Panama.
Mô tả.
Cây gỗ cao tới 23 m, không rễ bạnh, thân thẳng, đường kính tới 30 cm, với các cành thanh mảnh, gần thon búp măng, màu nâu sẫm, thưa lông tơ mịn hoặc nhẵn nhụi, lóng dài 2-3 cm, chia nhiều nhánh/cành con; lá mọc đối, cuống lá dài 8-11 mm, thanh mảnh, thưa lông tơ mịn hoặc nhẵn nhụi; phiến lá hình elip hoặc hình elip-thuôn dài, dài 6-11 cm, rộng 3-4,5 cm, nhọn thon đột ngột ở đỉnh, với phần nhọn dài 1 cm, tù, có mấu nhọn, đáy tù hoặc thuôn tròn, dạng giấy, mặt trên màu xanh lục, bóng láng, không lông, với các gân ngang nổi rõ, mặt dưới nhạt màu, gần gân thưa lông tơ mịn, gân giữa nổi rõ, thanh mảnh, các gân bên ở mỗi bên gân giữa ~13, nổi rõ, song song, cong, hướng lên, vươn tới mép, mép cuốn ngoài; các xim hoa dạng tán, ở nách, ít hoa, cuống dài 6 mm, cuống hoa mập, dài 5-7 mm, thưa lông tơ hoặc nhẵn nhụi; đài hoa rộng 6 mm, nhẵn nhụi, thùy 5, hình tam giác, nhọn, hở; quả hình gần cầu, dài 1 cm và gần như dài rộng bằng nhau, thuôn tròn ở đáy và đỉnh, bóng láng, nhẵn nhụi; hạt 1, ép dẹp. Quả màu đỏ ánh xanh lục. Gỗ dễ đánh bóng; có mùi như của lạc. | 1 | null |
Sageretia thea là một loài thực vật có hoa trong họ Táo. Loài này được Pehr Osbeck miêu tả khoa học đầu tiên năm 1757 dưới danh pháp "Rhamnus thea". Năm 1968 Marshall Conring Johnston chuyển nó sang chi "Sageretia".
Tên gọi.
Tại Việt Nam, người ta gọi nó là chanh châu thơm trà, xích chu, tước mai, quanh. Tại Trung Quốc người ta gọi là 雀梅藤 (tước mai đằng).
Phân bố.
Loài này được tìm thấy tại Afghanistan, Ả Rập Xê Út, Ấn Độ (Tây Himalaya), các tiểu quốc vùng Vịnh, Eritrea, Ethiopia, Đài Loan, Iran, Malaysia bán đảo, Myanmar, Lưu Cầu, Nepal, Nhật Bản, Oman, Pakistan, Somalia, Tajikistan, Thái Lan, bán đảo Triều Tiên,Trung Quốc (trung bắc, trung nam, đông nam), Turkmenistan, Uzbekistan, Việt Nam, Yemen. Du nhập vào Texas. Môi trường sống là rừng núi, bụi rậm, đồi núi; ở cao độ dưới 2.100 m.
Mô tả.
Cây bụi leo bám hoặc mọc thẳng, cao tới 3 m, phân nhánh. Các cành thanh mảnh, mọc cách hoặc gần đối diện, màu ánh nâu, kết thúc bằng các gai, có lông măng mịn khi non. Các lá mọc đối tại các mắt ở đáy tới mọc cách; cuống lá 2-7 mm, có lông tơ mịn; phiến lá mặt xa trục màu xanh lục nhạt, mặt gần trục màu xanh lục, thông thường hình elip, thuôn dài hoặc hình trứng-elip, hiếm khi hình trứng hoặc gần như tròn, 2-4,5 × 0,7-2,5 cm, dạng giấy, mặt xa trục nhẵn nhụi hoặc có lông tơ trên các gân, đôi khi có lông măng sau trở thành nhẵn nhụi, mặt gần trục nhẵn nhụi, gân bên 3-5(-7) cặp, nổi rõ ở mặt xa trục, đáy thuôn tròn hoặc gần hình tim, mép có răng cưa nhỏ, đỉnh nhọn, tù hoặc thuôn tròn. Hoa màu vàng, không cuống, có mùi thơm, thường có 2 đến vài chùm ở đầu cành hoặc cành hoa bông thóc lỏng lẻo ở nách lá hoặc cành hoa bông thóc hình chùy; trục cành hoa 2-5 cm, thưa lông tơ mịn. Ống đài hoa thưa lông tơ, hình chén nông; lá đài hình tam giác, ~1 mm. Cánh hoa hình thìa, ngắn hơn lá đài, đỉnh chẻ đôi, thường đảo ngược. Đĩa hoa mọng, nhẵn nhụi, dày lên khác biệt xung quanh bầu nhụy. Bàu nhụy 3 ngăn, mỗi ngăn 1 noãn; vòi nhụy rất ngắn; đầu nhụy chẻ ba. Quả hạch màu đen hoặc tía đen khi thuần thục, hình từ gần cầu đến trứng ngược, đường kính ~5 mm, với 1-3 hạch; vỏ quả giữa mọng thịt, vị chua. Hạt dẹt, có khía răng cưa ở cả hai đầu. Ra hoa tháng 7-9, tạo quả tháng 3-tháng 5 năm sau.
Các thứ.
Hiện tại người ta công nhận các thứ sau: | 1 | null |
Scutia arenicola là một loài thực vật có hoa trong họ Táo. Loài này được Giovanni Casaretto miêu tả khoa học đầu tiên năm 1844 dưới danh pháp "Rhamnus arenicola". Năm 1861, Siegfried Reissek chuyển nó sang chi "Scutia".
Phân bố.
Loài này có tại miền nam và đông nam Brasil. | 1 | null |
Scutia buxifolia là một loài thực vật có hoa trong họ Táo. Loài này được Siegfried Reissek miêu tả khoa học đầu tiên năm 1861.
Phân bố.
Loài này được tìm thấy tại Argentina (đông bắc, tây bắc), Bolivia, Brasil (nam, đông nam), Uruguay.
Lưu ý.
Danh pháp "Scutia buxifolia" mà John Hutchinson và Marion Beatrice Moss đề cập năm 1928 trong "Bulletin of Miscellaneous Information, Royal Botanic Gardens, Kew" là đồng nghĩa của "Scutia myrtina".
Chú thích.
| 1 | null |
Scutia myrtina là một loài thực vật có hoa trong họ Táo. Loài này được Nicolaas Laurens Burman miêu tả khoa học đầu tiên năm 1768 dưới danh pháp "Rhamnus myrtinus". Năm 1875 (xuất bản năm 1876) Wilhelm Sulpiz Kurz chuyển nó sang chi "Scutia".
Phân bố.
Loài này được tìm thấy tại: | 1 | null |
Scutia spicata là một loài thực vật có hoa trong họ Táo. Loài này được Alexander von Humboldt và Aimé Jacques Alexandre Bonpland miêu tả khoa học đầu tiên năm 1819 theo hồ sơ để lại của Carl Ludwig Willdenow (1765-1812) dưới danh pháp "Colletia spicata", công bố trong "Systema vegetabilium" của Johann Jacob Römer và Josef August Schultes. Năm 1930, Augusto Weberbauer chuyển nó sang chi "Scutia".
Phân bố.
Loài này được tìm thấy tại Ecuador (gồm cả quần đảo Galápagos), Peru. | 1 | null |
Pseudoziziphus parryi là một loài thực vật có hoa trong họ Táo. Loài này được John Torrey miêu tả khoa học đầu tiên năm 1859 dưới danh pháp "Ziziphus parryi". Năm 2016 Frank Hauenschild chuyển nó sang chi "Pseudoziziphus".
Phân bố.
Loài này có tại California ở tây nam Hoa Kỳ và tây bắc Mexico. | 1 | null |
Dietmar Hopp (sinh ngày 26 tháng 4 năm 1940 tại Heidelberg) là một doanh nhân người Đức và cũng là một trong những người sáng lập ra hãng phần mềm SAP AG. Hopp là một trong những người giàu nhất nước Đức và được đưa vào danh sách những người giàu nhất thế giới của tạp chí "Forbes Magazine". Tài sản của ông được phỏng đoán nhiều hơn 4 tỷ euro. Ông được biết tới nhiều là người đỡ đầu về tài chính cho đội bóng đá chuyên nghiệp Đức TSG 1899 Hoffenheim.
Tiểu sử.
Là con trai của một giáo viên đồng thời là nhóm trưởng SA (một tổ chức bán quân sự của NSDAP) Emil Hopp ông lớn lên cùng 2 anh chị em tại Hoffenheim. Sau khi đậu tú tài, ông vào trường đại học kỹ thuật Karlsruhe ngành kỹ thuật viễn thông, và tốt nghiệp vào năm 1966. Sau đó ông làm việc cho hãng IBM tại Stuttgart.
SAP.
Cùng với 4 người cũng làm việc tại IBM, Hasso Plattner, Claus Wellenreuther, Hans-Werner Hector và Klaus Tschira, ông sáng lập lên hãng SAP vào năm 1972. Khi SAP trở thành một AG vào năm 1988, ông trở thành tổng giám đốc và giữ chức vụ này tới năm 1998. Sau đó cho tới năm 2003 là chủ tịch hội đồng quản trị và tới tháng 5 năm 2005 thành viên của hội đồng này. Hopp cho tới 2006 vẫn giữ 9,96 % cổ phần của SAP.
Quỹ Dietmar Hopp.
Quỹ Dietmar Hopp được thành lập 1995 để thực hiện những chương trình xã hội về các phương diện thể thao, Y học, và học vấn chủ yếu trong vùng đô thị Rhein-Neckar.
Những hoạt động doanh nghiệp hiện tại.
Sau khi không còn trực tiếp làm việc tại SAP, Hopp đầu tư vào các hãng ngành kỹ nghệ sinh học, và là chủ chính của 2 hãng "Actris" và "InterComponentWare AG".
Đỡ đầu trong ngành thể thao.
Ông đỡ đầu cho nhiều môn thể thao trong vùng. Chẳng hạn như giúp đỡ tài chánh xây sân SAP-Arena, cũng như hỗ trợ các tài năng trong môn Golf tại (Golf Club St. Leon-Rot), môn Eishockey (Adler Mannheim), Handball (Rhein-Neckar Löwen) và Fußball (tới giờ đã đầu tư tổng cộng khoảng 240 triệu Euro bei der TSG 1899 Hoffenheim, và cả đội FC Astoria Walldorf). | 1 | null |
Mong đợi Tình yêu (Hàn tự: 연애를 기대해 (Yeon-ae-reul Gi-dae-hae), tên tiếng Anh: Waiting for Love) là bộ phim truyền hình ngắn Hàn Quốc được sản xuất năm 2013. Chỉ bao gồm 2 tập, phim được phát sóng trên kênh KBS2 trong 2 ngày 11 và 12/9/2013. Bộ phim có sự tham gia của nữ ca sĩ K-pop kỳ cựu Kwon Bo-a, nam diễn viên Choi Daniel, thành viên nhóm nhạc thần tượng Lim Si-wan và nữ diễn viên trẻ Kim Ji-won.
Bộ phim được giới thiệu là "một câu chuyện chân thực nhất về tình yêu của giới trẻ."
Cốt truyện.
Nội dung của bộ phim xoay quanh quan hệ của 4 nhân vật chính:
Ju Yeon-ae, một cô gái 25 tuổi, tên của cô đồng âm với từ ""tình yêu". Vào một đêm mưa bão, cô xách xô bạch tuộc sống tới nhà hàng 5 sao nơi bạn trai cô đang ăn tối cùng một cô gái khác để trừng trị anh ta. Vụ việc này trở nên nổi tiếng khi nhiều người tại nhà hàng quay lại bằng di động và tải lên mạng. Nhanh chóng, cô được mệnh danh "Nữ hoàng Bạch tuộc". Tuy nhiên, không ai biết đó chính là cô. Và tình cờ thay, tại trường Đại học, cô phát hiện một "giáo sư tình yêu" sử dụng "Nữ hoàng Bạch tuộc" làm ví dụ để giảng dạy về quan hệ tình yêu trong một buổi tư vấn khi cô đi cùng bạn thân của mình - Kang Do-yun. Quá phẫn nộ, cô phản bác lại ý kiến của ông và trở thành tâm điểm của bài học hôm ấy. Do-yun lén đăng ký và trả tiền cho khóa học về tình yêu cho Yeon-ae để mong cô sớm tìm được người phù hợp.
Cha Gi-dae, anh chàng 27 tuổi, mới tốt nghiệp chuyên ngành Nha khoa, chưa kiếm được việc làm. Tên của anh đồng âm với từ "mong đợi". Anh là đàn em của Philip, tay "giáo sư tình yêu" đã thuyết giảng về "Nữ hoàng Bạch tuộc"". Để bảo vệ cho Philip, anh có màn khẩu chiến bí mật với Yeon-ae. Philip nhờ Gi-dae quản lý phần tư vấn trên mạng xã hội của lớp học của anh ta. Nhờ đấy, anh có quan hệ trên mạng xã hội với Yeon-ae.
Jeong Jin-guk, chàng trai 25 tuổi, ngây thơ, có vẻ khá ngờ nghệch, mặc dù là bạn cùng lớp với Yeon-ae nhưng cô lại không hề biết đến anh. Anh cũng tham gia buổi tư vấn miễn phí kia của Philip. Tình cờ thấy Yeon-ae làm rơi điện thoại trên tàu điện ngầm, Jin-guk nhặt được và đuổi theo. Từ đấy, anh làm quen được với Yeon-ae.
Choi Sae-rom, cô nàng 25 tuổi, yêu thích mua sắm, là bạn gái của Gi-dae. Cô rất biết cách nắm bắt và điều khiển tình huống theo hướng có lợi cho mình. Sae-rom là kiểu cô nàng thông minh và láu cá. | 1 | null |
Giải Alfred P. Sloan, Jr. (tiếng Anh: Alfred P. Sloan, Jr. Prize) là một trong 3 giải thưởng của "Quỹ nghiên cứu Ung thư của hãng General Motors" dành cho công trình nghiên cứu xuất sắc về bệnh ung thư.
Giải này được trao từ năm 1979 tới năm 2005, với khoản tiền thưởng là 250.000 dollar Mỹ cho người đoạt giải. Sau đó vì ngân sách của hãng General Motors bị eo hẹp, nên hãng đã hợp nhất giải này cùng Giải Kettering và Giải Charles S. Mott thành một giải duy nhất gọi là "Giải nghiên cứu Ung thư của hãng General Motors" với cùng khoản tiền thưởng là 250.000 dollar Mỹ.
Năm 2006, người đoạt "Giải nghiên cứu Ung thư của hãng General Motors" là Napoleone Ferrara.
Sau năm 2006, giải thưởng nói trên của hãng General Motors đã bị bãi bỏ.
Trong số 37 người đoạt giải này, đã có 15 người đoạt tiếp Giải Nobel Sinh lý học và Y khoa hoặc Giải Nobel Hóa học. | 1 | null |
Giải Charles S. Mott (tiếng Anh: Charles S. Mott Prize) là một giải thưởng của "Quỹ nghiên cứu Ung thư của hãng General Motors" dành cho công trình nghiên cứu xuất sắc về nguyên nhân hay cách phòng ngừa bệnh ung thư.
Giải này cùng với Giải Kettering và Giải Alfred P. Sloan, Jr. là một trong 3 giải thưởng của "Quỹ nghiên cứu Ung thư của hãng General Motors", được trao hàng năm - từ năm 1979 đến năm 2005 - với khoản tiền thưởng là 250.000 dollar Mỹ. Sau đó vì ngân sách của hãng General Motors bị eo hẹp, nên hãng đã hợp nhất giải này cùng Giải Kettering và Giải Alfred P. Sloan, Jr. thành một giải duy nhất gọi là "Giải nghiên cứu Ung thư của hãng General Motors" với cùng khoản tiền thưởng là 250.000 dollar Mỹ.
Năm 2006, người đoạt "Giải nghiên cứu Ung thư của hãng General Motors" là Napoleone Ferrara.
Sau năm 2006, giải thưởng nói trên của hãng General Motors đã bị bãi bỏ. | 1 | null |
Yim Si-wan (Hangul: 임시완, Hán-Việt: Nhậm Thời Hoàn) (sinh ngày 1 tháng 12 năm 1988), được biết đến nhiều hơn với nghệ danh Siwan là một ca sĩ, diễn viên người Hàn Quốc. Anh là thành viên của nhóm nhạc nam và nhóm nhỏ ZE:A FIVE. Với tư cách diễn viên, anh được công chúng biết đến qua các bộ phim: Người luật sư (2013), Cuộc chiến ngầm (2017) và đặc biệt là Misaeng (2014).
Sự nghiệp.
ZE:A.
Khi tham dự lễ hội âm nhạc Chin Chin ở Busan, anh đã được công ty Star Empire chiêu mộ trở thành thực tập sinh. Sau khi được đào tạo trong 3 năm, anh trở thành thành viên của nhóm nhạc 9 thành viên tên gọi là "Children of Empire" và bắt đầu có một vài buổi biểu diễn nhỏ ở vài nơi. Ngày 7 tháng 1 năm 2010, nhóm chính thức ra mắt công chúng với một mini-album mang tên "Nativity". Anh cũng là thành viên của một nhóm nhỏ, mang tên ZE:A-Five.
Diễn xuất.
Siwan bắt đầu sự nghiệp diễn xuất trong bộ phim "Mặt trăng ôm mặt trời" (2012), trong vai Heo Yeom lúc nhỏ. Bộ phim nhanh chóng chạm mốc rating 40% và được gọi là "drama quốc dân", Siwan bắt đầu trở nên nổi tiếng sau đó. Một năm sau, Siwan nhận lời tham gia drama chính kịch mang tên "Người đàn ông đến từ xích đạo", trong vai một chàng trai lạnh lùng mang hoàn cảnh ngang trái. Theo sau đó là sitcom "Hậu trường vui nhộn" (2012), cùng drama đặc biệt "Waiting for Love" (2013).
Năm 2013, anh bắt đầu tham gia bộ phim điện ảnh đầu tiên - "Người luật sư", trong vai một sinh viên bị cáo buộc tội phản quốc đầy oan uổng. Bộ phim được rất nhiều nhà phê bình đánh giá cao và đạt được vô số thành công, bán được hơn 11 triệu vé và đứng thứ 8 phim điện ảnh nội có doanh thu cao nhất xứ Kim Chi. Siwan thắng giải Diễn viên mới xuất sắc nhất tại Max Movie Awards và the Marie Claire Film Festival.
Siwan trở lại với phim truyền hình vào năm 2014 và bắt đầu với 2 bộ phim. Trong "Triangle", trong vai em út trong gia đình có ba anh em bị thất lạc từ nhỏ, sau đó lớn lên thành một chaebol.
Tiếp nối sự thành công của bản gốc webtoon, Siwan đóng vai chính trong Misaeng, trong vai một cựu tuyển thủ cờ vây đã từ bỏ sự nghiệp và bắt đầu cuộc sống của nhân viên văn phòng. "Misaeng" đã trở thành một hiện tượng văn hoá, với rating xấp xỉ 8.4%, tỉ suất gấp 10 lần phim truyền cáp lúc bấy giờ. Siwan đoạt giải thưởng Xuất sắc trong diễn xuất tại APAN Star Awards lần thứ 4, cùng Diễn viên mới xuất sắc nhất tại Cable TV Broadcasting Awards lần thứ 9, và Baeksang Arts Awards lần thứ 51.
Siwan đã có vai chính đầu tiên ở màn ảnh rộng qua bộ phim "A Melody to Remember" (2016), trong vai một anh lính có tình yêu âm nhạc.
Thoát khỏi hình tượng "trai ngoan" ở các vai diễn trước, Siwan trong vai một kẻ lừa đảo trong phim điện ảnh "One Line" (2017) và một cảnh sát ngầm trong phim điện ảnh "Cuộc chiến ngầm" (2017). Qua bộ phim này, Siwan đã nhận được lời mời đến LHP Cannes. Cùng năm, Siwan nhận lời đóng vai chính cho phim tình cảm cổ trang "Khi nhà vua yêu".
Năm 2019, Siwan đóng vai chính trong drama kinh dị "Người lạ đến từ địa ngục", dựa trên nguyên tác webtoon cùng tên. Đánh dấu dự án đầu tiên của anh sau quãng thời gian nhập ngũ. Cùng năm, anh nhận lời đóng vai chính trong phim điện ảnh "Boston 1947".
Năm 2020, Siwan nhận vai chính trong Run On. Nội dung bộ phim nói về tình yêu giữa cựu tuyển thủ điền kinh quốc gia Ki Seon-Gyeom, người sau này sẽ trở thành đại diện thể thao chuyên nghiệp và thông dịch viên Oh Mi-Joo.
Học vấn.
Anh tốt nghiệp trường "Trung học Busan Gudeok", sau đó, anh theo học tại "Đại học Quốc gia Pusan" nhưng đã ngừng học. Tiếp đó, anh chuyển tới học tại trường "Đại học Nghệ thuật Truyền hình Phương Đông", nhưng do không đáp ứng đủ thời gian học tập vì lịch trình làm việc dày đặc, anh bị buộc thôi học. Hiện tại, anh đang theo học tại trường "Cao đẳng Thông tin Woo-song".
Đời tư cá nhân.
Nghĩa vụ quân sự.
Ngày 11 tháng 7 năm 2017, Siwan bắt đầu thực hiện nghĩa vụ quân sự bắt buộc. Anh được thăng làm trợ giảng cho tân binh bởi các thành tích tốt đã đạt được. Anh xuất ngũ vào ngày 27 tháng 3 năm 2019. | 1 | null |
Giải thưởng Úc (tiếng Anh: Australia Prize) là một giải thưởng quốc tế của Úc dành cho nghiên cứu khoa học. Trong số 28 người đoạt giải này, có 10 người không phải là công dân Úc.
Giải này được trao từ năm 1990 tới năm 2000, sau đó được thay thế bằng Giải thưởng của thủ tướng Úc cho Khoa học ("Prime Minister's Prizes for Science"). | 1 | null |
Suzanne Cory, sinh ngày 11 tháng 3 năm 1942 tại Melbourne là nhà sinh học người Úc và là chủ tịch Viện hàn lâm Khoa học Úc.
Tiểu sử.
Suzanne Cory đậu bằng cử nhân năm 1964, bằng thạc sĩ năm 1965 ở Đại học Melbourne, bằng tiến sĩ ở Đại học Cambridge (Anh), sau đó bà sang nghiên cứu sau tiến sĩ ở Đại học Genève (Thụy Sĩ). Năm 1972 bà làm phụ tá nghiên cứu ở "Viện nghiên cứu Y học Walter và Eliza Hall" ("Walter and Eliza Hall Institute of Medical Research", viết tắt là WEHI) ở Parkville, bang Victoria. Bà làm giám đốc của Viện này từ năm 1996 tới ngày 30.6.2009. Từ năm 1993 tới 1996 bà làm giáo sư ở Đại học Melbourne.
Suzanne Cory được bầu làm chủ tịch Viện hàn lâm Khoa học Úc và là phụ nữ đầu tiên làm chủ tịch của viện này. Bà đã nhậm chức chủ tịch Viện hàn lâm này ngày 7.5.2010 cho một nhiệm kỳ 4 năm.
Đời tư.
Suzanne Cory kết hôn với giáo sư Jerry Adams, bạn đồng nghiệp ở "Viện nghiên cứu Y học Walter và Eliza Hall", người mà bà gặp khi học bằng tiến sĩ ở Đại học Cambridge. Họ có hai người con gái. | 1 | null |
Lý Lăng Dung (chữ Hán: 李陵容, 351 - 400), thường được gọi Hiếu Vũ Văn thái hậu (孝武文太后) là phi tần của Tấn Giản Văn Đế Tư Mã Dục (vua thứ 12) và mẹ ruột của Tấn Hiếu Vũ Đế (vua thứ 13) của nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc.
Tiểu sử.
Lý Lăng Dung xuất thân hàn vi, có thân thể cường tráng và nước da đen. Lúc còn nhỏ, bà được gửi vào phủ của Thừa tướng Cối Kê vương Tư Mã Dục làm tì nữ dệt vải. Bấy giờ các con trai của Tư Mã Dục đều mất sớm, nên Cối Kê quốc không còn người kế vị mà Tư Mã Dục đã cao tuổi.
Tư Mã Dục hết lòng tìm cách để có con trai, nên mời bốc giả Hỗ Chiêm giúp đỡ. Hỗ Chiêm dự đoán trong phủ của Tư Mã Dục có một tì nữ có số sinh hai đứa con trai quý làm hưng thịnh nhà Tấn. Tuy nhiên mấy lâu sau đó chỉ thấy sủng thiếp Từ thị sinh ra một người con gái, Tư Mã Dục lại hi vọng Từ thị có thể giúp mình nối dõi, nhưng mãi rất lâu Từ thị vẫn không mang thai lần nữa. Sốt ruột Tư Mã Dục hỏi Hỗ Chiêm đó là người nào nhưng Hỗ Chiêm từ chối vì không đoán được. Đến hơn một năm sau vẫn không có tì thiếp nào thụ thai, Tư Mã Dục bèn sai tất cả tì thiếp trong nhà đến cho Hỗ Chiêm xem tướng. Lý Lăng Dung cũng ở trong số đó. Khi bà đến, Hỗ Chiêm thất kinh nói:"Chính là người này".
Tư Mã Dục bèn nạp bà làm thiếp. Quả nhiên không bao lâu sau, bà mơ lấy hai con rồng quỳ lạy mình, cho đó là điềm lành. Đến năm 362, Lý Lăng Dung hạ sinh vương tử Tư Mã Diệu rồi sang năm 364 thì hạ sinh vương tử thứ hai, đặt tên là Tư Mã Đạo Tử, sau đó lại sinh ra một người con gái là Bà Dương công chúa.
Năm 371, Tư Mã Dục được tướng Hoàn Ôn lập làm hoàng đế, tức Tấn Giản Văn Đế. Tuy sinh dục hai hoàng tử song Lăng Dung không được phong một tước vị nào. Đến năm 372, Giản Văn Đế mất, Tư Mã Diệu lên ngôi, tức Tấn Hiếu Vũ Đế, tôn bà làm Thục phi, còn danh hiệu Hoàng thái hậu đã thuộc về Chử thị, Hoàng hậu của Tấn Khang Đế (cháu gọi Giản Văn Đế bằng chú ruột).
Mãi đến năm 378, Lý Lăng Dung mới được tôn làm Quý nhân và sang 384, thì được phong làm Phu nhân. Ba năm sau, bà được thăng làm Hoàng thái phi và được ban nghi phục giống với Thái hậu. Tháng 8 ÂL năm 391, theo thỉnh cầu của Tư Mã Đạo Tử, Tấn Hiếu Vũ Đế chính thức lập bà làm Hoàng thái hậu, xưng Sùng Huấn cung (崇训宫).
Năm 396, Hiếu Vũ Đế chết, Tấn An Đế kế vị, thăng bà làm Thái hoàng thái hậu. Do An Đế không biết nói, quyền hành trong triều rơi vào tay người con trai thứ của bà, Tư Mã Đạo Tử. Năm 400, Lý Lăng Dung qua đời ở điện Hàm Chương, thọ 51 tuổi, được truy tôn là Văn Hoàng thái hậu (文皇太后) và được an táng ở Mục Bình Lăng (修平陵). | 1 | null |
Khâu nhục (扣肉 Bính âm: kòuròu, Việt bính: kau3 juk6) là món thịt kho có nguồn gốc từ Quảng Đông, Trung Quốc. Khâu nhục được du nhập vào Bắc Việt qua sự biến tấu của người dân tộc Tày, Nùng, Ngái (gọi là Nằm khâu), qua thời gian đã trở thành món ăn Đặc sản nổi tiếng của huyện Tiên Yên, Quảng Ninh và Lạng Sơn, được dùng trong những dịp gia đình có chuyện vui như lễ Tết, cưới hỏi. Theo truyền thống, khâu nhục được chế biến khá cầu kì từ thịt ba chỉ sau khi đã được ướp kỹ các loại gia vị và chưng cách thủy trong thời gian dài. Người Hoa ở Sài Gòn có những quán xôi khâu nhục gia truyền nức tiếng.
Nguồn gốc.
Khâu nhục bắt nguồn từ món ăn của người Quảng Đông (Trung Quốc) và người Khách Gia. Khâu nhục được du nhập từ Trung Quốc đến Việt Nam. Cái tên "khâu nhục" xuất phát từ phiên âm tiếng Trung: chữ Hán 扣 ("Khâu") có nghĩa là "hấp đến mềm rục", còn chữ 肉 ("nhục") có nghĩa là "thịt", do đó nếu dịch đúng có thể hiểu là "Thịt được hấp rục" - Hay hấp đến chín nhừ.
Người Trung Quốc, đặc biệt là người Quảng Đông coi khâu nhục là món ăn dân dã nhưng lại mang ý nghĩa tinh thần rất lớn, cách bài trí miếng thịt lên đĩa theo hình dạng một quả đồi nhỏ đang nhô cao thể hiện ý chí và sự lớn mạnh trong tương lai. Do đó, đây là món ăn gần như không thể thiếu trong các ngày lễ quan trọng của cộng đồng dân tộc Tày-Nùng hay người Hoa ở Sài Gòn.
Phương pháp chế biến.
Chuẩn bị một miếng thịt lợn ba chỉ khoảng 500gr. Tùy thích chọn thịt quay là phần thịt mông, thịt nọng hay ba chỉ. (Có người thích sử dụng một miếng thịt tươi và tẩm ướp với xì dầu, ngũ vị hương, hành tỏi rồi chiên vàng để thay cho thịt quay) thái thịt thành miếng nhỏ cỡ ngón tay út.
Chuẩn bị: 100 – 250gr cây môn ngọt. Tước vỏ, rửa sạch, cắt ngang thành miếng dày bằng miếng thịt quay: Kỹ thuật cắt miếng môn cho đẹp mắt là cắt ngang ở phần cuống lớn nhưng ở đoạn mà thân cây môn nhỏ lại thì cắt dọc lại cho miếng môn đều hơn. Nếu miếng môn cắt đều tay thì khi trình bày, món ăn sẽ đẹp mắt hơn. Môn ngọt là loại cây giống như dọc mùng mà người ta hay dùng kèm canh chua. Nhưng môn ngọt cây nhỏ và thấp; thân môn ngọt chắc, có mô xốp kín và có vị ngọt hơn dọc mùng. chủng loại cây môn này tùy theo vị, theo dáng và màu cây được phân loại đại khái như môn ngọt, môn Tàu, chột nưa v.v... Các bạn có thể dùng dọc mùng để thay thế cho môn ngọt, món ăn không vì vậy mà dở đi.
Một ít rau cải cúc lặt lấy phần lá, không lấy cọng, rửa sạch để ráo. Pha hỗn hợp gia vị: Phân lượng gia vị dùng trong hỗn hợp này không tuyệt đối đúng, các bạn hãy nếm thử thịt quay trước để thăm chừng vị thịt mặn lạt rồi gia giảm chút ít lượng gia vị theo khẩu vị riêng của mình. Nhất là ở phần chao, nếu bạn chọn loại chao nào, đỏ, trắng hay nâu gì đó…thì món ăn sẽ đậm mùi vị chao đó. Cẩm Tuyết sử dụng loại chao mình thích là chao trắng của VN, trong khi món ăn này có nhiều người sử dụng chao Tàu của Hồng Kông, Đài Loan hay Trung Quốc sản xuất để làm phụ gia.
muỗng súp xì dầu ngon + 1 muỗng súp đường + 3gr bột ngũ vị hương + ½ muỗng súp hành tỏi băm nhuyễn + 1 hoặc 2 miếng chao chừng 20gr đánh nhuyễn + 1 muỗng súp dầu ăn + 1 chén nước khoảng 100cc + ¼ muỗng cà phê muối. Cho hỗn hợp gia vị vào một cái chảo, bắc lên bếp, nhỏ lửa khuấy đều cho tan đường, nếm lại, tùy thích thêm chút đường hoặc nước cho hỗn hợp có vị mặn ngọt rất nhẹ là được vì trong quá trình hấp, vị thịt còn tiết ra sẽ làm cho món ăn ăn đậm đà hơn. Cho phần môn cắt nhỏ và thịt vào chảo đảo nhẹ tay, quan sát thấy môn sẽ hút nước xào làm cho nước cạn bớt và khi thấy tất cả môn hút đều nước xào và vẫn còn nguyên miếng thì tắt lửa ngay, nếu xào lâu, môn sẽ teo tóp đi và nhả phần nước xào ra lại.
Hấp thịt: Chuẩn bị xửng hấp nhiều nước. Một cái tô bằng sứ hoặc thủy tinh vừa đủ chứa 300gr thịt mà chỉ chiếm ½ thể tích tô.- Gắp từng miếng thịt và từng miếng môn sắp vào lòng tô xen kẽ đều nhau cho đầy đến 2/3 tô. Trải đều lá tần ô cho thật đầy vun lên khỏi miệng tô, để khi hấp rau sẽ mềm xuống bằng mặt tô là vừa, cho tô thịt vào xửng hấp khoảng 5 –7 phút sau khi nước sôi, mở nắp xửng quan sát thấy lớp rau tần ô chín mềm là được, dùng đũa vén lại lớp rau cho gọn, mang tô thịt ra để nguội bớt. Dùng một dĩa sâu lòng (vì có nước hấp khá nhiều trong tô thịt) úp lên mặt tô thịt rồi lật ngửa lại để trút thịt ra, rắc thêm chút tiêu bột lên mặt thịt. Dọn kèm chén xì dầu pha chút dấm đỏ, ớt tươi cắt lát để chấm kèm nếu thích. Món ăn này thích hợp với tiết trời lạnh. Khi ăn người ta thường gắp một đũa có cả thịt và hai loại rau để thưởng thức cho nên khi chặt thịt, cắt khoai môn chỉ nên làm miếng nhỏ.
Khâu nhục có thể ăn với cơm hoặc xôi, nhưng ngon nhất vẫn là ăn với bánh gật gù. | 1 | null |
Saltarello là một điệu nhảy, phong cách vui vẻ, sinh động vào thế kỷ 14. "Saltarello" phổ biến trong các triều đình của thời trung cổ châu Âu.
Các nguồn của "saltarello" thời trung cổ Ý là bản thảo Add MS 29987 ở Toscana, có niên đại từ cuối thế kỷ 14 hoặc đầu thế kỷ 15 và bây giờ ở trong thư viện Anh.
Tham khảo.
Blatter, Alfred (2007). "Revisiting music theory: a guide to the practice", p. 28. ISBN 0-415-97440-2. | 1 | null |
Nguyễn Hồng Phong (1929 - 1998) tên thật là Trịnh Công Hồng, là một Giáo sư sử học Việt Nam. Ông từng là Viện trưởng Viện Sử học Việt Nam. ông đã cùng các GS. Văn Tân, Nguyễn Đổng Chi, Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh biên soạn bộ Sơ thảo lịch sử Văn học Việt Nam gồm 5 tập, đặt nền móng cho việc nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam.
Tiểu sử.
Ông Nguyễn Hồng Phong sinh tại làng Văn Ấp, xã Bồ Đề, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, xuất thân trong một gia đình công chức nhỏ. Cuối năm 1948 sau khi học xong trung học phổ thông, ông trở thành hội viên Hội Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Liên khu I. Sau một thời gian làm công tác truyền bá, giảng dạy về chính trị và triết học, năm 1956, ông chuyển về công tác tại Ban Nghiên cứu Văn Sử Địa, tiền thân của Viện Sử học, Viện Văn học và Viện Khoa học xã hội ngày nay.
Nhận xét.
Theo GS. Phan Huy Lê thì Nguyễn Hồng Phong đã đưa Triết học đến gần với Sử học hay như GS. Phong Lê nói, ông đã đưa chất thơ vào Sử học, bôi trơn cho lĩnh vực này làm cho nó trở nên mềm mại hấp dẫn hơn. GS. Vũ Khiêu có nhận xét rằng, ở Việt Nam tuy không có triết gia, nhưng Văn - Sử - Triết bất phân. Các nhà thơ lớn của Việt Nam đều là những triết gia: Nguyễn Gia Thiều với Cung oán ngâm khúc, Nguyễn Du với Truyện Kiều... đầy những suy nghĩ triết học. Có lẽ Nguyễn Hồng Phong đã vận dụng được đặc điểm này để làm điểm tựa cho phương pháp luận của mình trong nghiên cứu khoa học. Uyên bác và tài hoa là hai phẩm chất nổi trội trong con người ông. | 1 | null |
Giáo sư, viện sĩ, nhà giáo nhân dân Phạm Minh Hạc (sinh năm 1935) là một nhà nghiên cứu tâm lý học, giá trị học và ; đồng thời cũng là một công chức thuộc bộ máy nhà nước Việt Nam, ông là nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục Việt Nam, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam.
Tiểu sử.
Phạm Minh Hạc sinh năm 1935 tại Đông Mỹ, Thanh Trì, Hà Nội.
Năm 1954, ông tốt nghiệp trường THPT Nguyễn Thượng Hiền tại Liên khu 3, sau đó theo học trường Đại học Văn khoa Hà Nội trong các năm 1954-55. Năm 1962, ông tốt nghiệp ngành tâm lý học tại Đại học Tổng hợp Moskva; cũng tại đại học này, năm 1971, ông hoàn thành luận án tiến sĩ "Cơ chế não của trí nhớ", năm 1977, ông hoàn thành luận án tiến sĩ khoa học "Hành vi và hoạt động". Ông được Đại học Tổng hợp Moskva phong làm giáo sư tâm lý học vào năm 1984 và được Viện Hàn lâm Khoa học chính trị Nga công nhận là viện sĩ vào năm 1999.
Song hành với hoạt động nghiên cứu, ông tham gia giảng dạy và quản lý tại Đại học Sư phạm Hà Nội vào các năm 1971-72. Năm 1977-81, ông chuyển sang làm việc tại Viện Khoa học giáo dục (thuộc Bộ Giáo dục) với chức danh phó trưởng ban và trưởng ban Tâm lý học. Năm 1980, ông được thăng chức làm phó viện trưởng và từ năm 1981-87 là viện trưởng.
Các năm 1987-90, ông được bầu giữ chức Bộ trưởng Bộ Giáo dục thay bà Nguyễn Thị Bình. Sau đó tiếp tục đảm nhiệm chức vụ thứ trưởng thường trực dưới quyền bộ trưởng kế nhiệm Trần Hồng Quân.
Trong các năm 1991-2005, ông tham gia chủ nhiệm nhiều chương trình khoa học cấp nhà nước, cũng trong khoảng thời gian này, ông tham gia thành lập và là viện trưởng đầu tiên của Viện Nghiên cứu Con người (1999-2007, thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam).
Sự nghiệp khoa học.
Trong sự nghiệp hoạt động nghiên cứu của mình (1970-2007), Phạm Minh Hạc đã xuất bản 18 cuốn sách với tư cách là tác giả và 40 cuốn sách với tư cách là đồng tác giả, chủ biên, đồng chủ biên về các đề tài tâm lý học, giáo dục học, nghiên cứu con người, giá trị học; trong đó có một cuốn xuất bản tiếng Nga tại Moskva, 3 cuốn bằng tiếng Anh tại Hà Nội và một cuốn bằng tiếng Pháp. Song song với đó, ông là tác giả của hơn 100 bài báo khoa học, phổ biến khoa học được đăng trên các tạp chí, báo trong và ngoài nước.
Giải thưởng.
Ông đã được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng các huân, huy chương sau: | 1 | null |
Thanh trà hay xoài mút tức Bouea macrophylla là một loài thực vật có hoa trong họ Đào lộn hột. Loài này được Griff. mô tả khoa học đầu tiên năm 1841. Bản địa thanh trà là bán đảo Mã Lai và Java.
Canh tác.
Thanh trà tương đối dễ trồng, ưa nắng. Tại Việt Nam thanh trà mọc hoang ở vùng Bảy Núi, đến thập niên 1950 thì bắt đầu có mặt ở Cần Thơ sau được trồng nhiều suốt từ An Giang xuôi xuống Vĩnh Long, Cần Thơ và được coi là đặc sản Miền Tây Nam Bộ. Cây từ 3 tuổi trở lên bắt đầu có trái. Từ khi ra bông đến khi chín là khoảng ba tháng. Mùa thu hoạch là từ tháng 12 đến tháng 4 là mùa rộ.
Công dụng.
Thanh trà là một loại cây ăn trái, có hai loại: ngọt và chua. Thanh trà ngọt trái màu vàng lợt, vỏ dày. Thanh trà chua màu vàng sẫm, vỏ mỏng. Vị thanh trà khi ngọt tương tự như xoài chín (hoặc vị cóc chín, tuỳ theo cảm nhận của mỗi người). Loại chua thường dùng nấu canh, làm gỏi, dầm muối ớt hay ngào đường ăn như mứt, ăn ngay quả đang chín không cần chế biến. | 1 | null |
Gluta wrayi là một loài thực vật có hoa trong họ Đào lộn hột. Loài này được King mô tả khoa học đầu tiên năm 1896.
Tên gọi trong tiếng Việt của nó là sơn quả hay trâm mộc Wray.
Mô tả.
Cây gỗ cao tới 30 m, đường kính tới 85 cm, đôi khi với các rễ bạnh dựng đứng cao tới 3 m. Vỏ thân màu nâu, lục hay nâu cam, nhăn nheo và bám nông. Lá dày, kiểu gần dai láng như da, hình elip tới elip-mũi mác, hiếm khi mũi mác ngược, kích thước khoảng 6-26 cm x 1,75-9 cm (thường 10 cm x 3,5 cm), nhẵn nhụi. Cuống lá 3-4cm. Cánh hoa 5 hoặc 6, màu trắng, xếp lợp, hình mũi mác ngược hẹp, kích thước 10-13 x 2,5mm, có lông tơ mềm ngắn ở mé ngoài, nhú ở mé trong. Nhị 5 (6), dài 7mm. Chùy hoa dài tới 8cm, có lông tơ. Bầu nhụy hình trứng ngược và rộng, dài 2mm, nhiều lông tơ. Quả nhân cứng, nâu, láng, kích thước 3x6cm. Mủ độc, gây ngứa.
Phân bố.
Tây Malesia, bao gồm miền nam Thái Lan và Malaysia bán đảo. Cũng có ở khu vực từ miền trung Việt Nam trở vào nam.
Sử dụng.
Gỗ màu đỏ sẫm đẹp với các dải đồng tâm màu đen. | 1 | null |
Xoài (tên khoa học Mangifera indica) là một loài xoài trong họ Đào lộn hột. Nó được tìm thấy trong tự nhiên ở Ấn Độ và canh tác giống đã được đưa vào khu vực ấm áp khác trên thế giới. Đây là cây ăn quả lớn nhất thế giới, có khả năng đạt chiều cao một trăm mét và có chu vi trung bình 12–14 feet, đôi khi đạt hai mươi.
Loài này dường như đã được thuần hóa khoảng 24.000 năm trước đây ở Ấn Độ. Loài này đã được đưa đến khu vực Đông Á khoảng 400-500 trước Công nguyên từ Ấn Độ; tiếp theo, vào thế kỷ 15 đến Philippines, và sau đó, thế kỷ thứ 16 đến châu Phi và Brazil bởi người Bồ Đào Nha. Loài này đã được mô tả cho khoa học bởi Linnaeus năm 1753. Xoài là loại trái cây quốc gia của Ấn Độ, Pakistan và Philippines. | 1 | null |
Pistacia terebinthus là một loài thực vật có hoa thuộc họ Đào lộn hột (Anacardiaceae), bản địa quần đảo Canaria, và vùng Địa Trung Hải từ vùng miền tây Maroc, và Bồ Đào Nha đến Hy Lạp, tây và đông nam Thổ Nhĩ Kỳ. Ở bờ đông Địa Trung Hải – Syria, Liban và Israel – một loài tương tự, "Pistacia palaestina", sống ở hốc sinh thái tương đồng với loài này. | 1 | null |
Schinus terebinthifolia là một loài thực vật có hoa trong họ Đào lộn hột. Loài này được Raddi miêu tả khoa học đầu tiên năm 1820.
Loài này có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới Nam Mỹ (đông nam Brazil, bắc Argentina, và Paraguay). Nó được tìm thấy ở các bang này của Brazil: Alagoas, Bahia, Espírito Santo, Mato Grosso do Sul, Minas Gerais, Pernambuco, Paraná, Rio de Janeiro, Rio Grande do Norte, Rio Grande do Sul, Santa Catarina, São Paulo và Sergipe.
Nó là một cây bụi nhỏ hoặc cây nhỏ, với hệ thống rễ cạn, đạt độ cao 7–10 m. Các cành có thể thẳng đứng, nằm lăn hoặc gần như giống như cây nho, tất cả đều nằm trên cùng một cây. Hình thái của nó cho phép nó phát triển mạnh trong tất cả các loại hệ sinh thái: từ những cồn cát đến đầm lầy, nơi nó phát triển như một cây bán thủy sinh. | 1 | null |
Toxicodendron radicans là một loài thực vật có hoa trong họ Đào lộn hột. Loài này được (L.) Kuntze miêu tả khoa học đầu tiên năm 1891.
Phân bố và môi trường sống.
"T. radicans" mọc trên khắp Bắc Mỹ, bao gồm các tỉnh ven biển của Canada, Quebec, Ontario, Manitoba, và tất cả các tiểu bang phía đông của dãy núi Rocky, cũng như ở các vùng núi của Mexico lên tới khoảng 1.500 m (4,900 ft). "Caquistle" hoặc "caxuistle" là thuật ngữ tiếng Nahuatl cho loài này. Nó thường được tìm thấy trong các khu vực rừng, đặc biệt là dọc theo các khu vực cạnh, nơi dòng cây phá vỡ và cho phép ánh nắng mặt trời để lọc qua. Loài này cũng phát triển trong các khu vực đá tiếp xúc, các cánh đồng mở và các khu vực bị xáo trộn.
Loài cây này có thể phát triển như một loại cây trồng trong rừng, mặc dù nó chỉ có khả năng chịu bóng râm. Loài cây này rất phổ biến ở các khu vực ngoại ô và ngoại thành của New England, Trung Đại Tây Dương và Đông Nam Hoa Kỳ. Các loài T. diversilobum tương tự (cây sồi độc Tây) và T. rydbergii (ivy độc Tây) được tìm thấy ở miền Tây Bắc Mỹ, và "T. orientale" ở Đài Loan, Nhật Bản, Triều Tiên và Sakhalin.
T. radicans hiếm khi phát triển ở độ cao trên 1.500 m (4.900 ft), mặc dù giới hạn độ cao thay đổi ở các vị trí khác nhau. Cây có thể mọc lên như một cây bụi cao tới 1,2 m (3,9 ft), cao 10–25 cm (3,9–9,8 in), hoặc như một cây leo leo trên nhiều loại cây khác nhau. Những cây nho già hơn trên những cây hỗ trợ đáng kể gửi các nhánh bên có thể bị nhầm lẫn với cành cây ngay từ cái nhìn đầu tiên. | 1 | null |
Sơn ta ("Rhus succedaneum", trước kia có tên là "Toxicodendron succedaneum") là một loài thực vật có hoa trong họ Đào lộn hột. Loài này được (L.) Kuntze miêu tả khoa học đầu tiên năm 1891.
Mô tả.
Cây sơn là một loại cây thân gỗ, khá lớn, cao từ 8 đến 10 mét. Khi trồng trong đồn điền để lấy nhựa thì cây mọc chỉ khoảng 3-4 mét.
Canh tác & sử dụng.
Ở Việt Nam vào đầu thế kỷ 20 cây sơn ta được trồng nhiều ở hai tỉnh Hưng Hóa, Phú Thọ. Ở Sơn Tây, Vĩnh Yên, và Tuyên Quang cũng có trồng nhưng ít hơn. Cây chỉ cho nhựa vào khoảng 6-9 tuổi.
Cách chế tạo nước sơn ta.
Phu lấy nhựa phải bắt đầu từ sớm trước khi mặt trời mọc bằng cách cứa vào vỏ cây cho chảy nhựa. Nhựa cây màu trắng đục. Hứng xong thì đổ vào thúng rồi phủ giấy dầu cho kín để nhựa lắng thành nhiều lớp nước sơn. Nếu không kín, sơn bị dưỡng hóa sẽ chuyển màu đen và khô lại.
Lớp sơn trên cùng gọi là "sơn thượng", có nhiều chất dầu nhất nên nhẹ, nổi thành váng ở trên. Thứ đến là sơn nhất, sơn nhì, và sơn ba. Nhựa sơn thượng này sau đem đánh đều với nhựa thông theo một tỷ lệ nhất định thì sẽ đổi từ màu đục thành trong và keo lại. Nếu dùng chậu sành thì thành phẩm là sơn cánh gián màu nâu ánh đỏ. Nếu dùng chậu sắt thì sẽ thành sơn then màu huyền vì phản ứng vớ acid tannic. Sơn cánh gián và sơn then có thể dùng làm nước sơn phủ ngoài các hàng và mỹ nghệ như tượng thờ, hoành phi, khay, tráp và tranh sơn mài.
Những lớp sơn nhứt, nhì, ba thì chỉ dùng làm sơn bó, dùng làm keo dính hay chét kín các thứ vật dụng gia dụng như thuyền thúng.
Vì sơn ta lâu khô nên một sản phẩm mỹ nghệ như sơn mài sau mỗi lần phủ sơn lại phải hong cho thật khô mới mài đi được. Công đoạn này lặp đi lặp lại nhiều đợt mới tạo được lớp sơn thật bóng. Nhưng vì cần nhiều thời gian nên nước sơn ta dần bị thay thế bằng sơn công nghiệp chóng khô hơn kể từ đầu thế kỷ 20. | 1 | null |
Toxicodendron vernix là một loài thực vật có hoa trong họ Đào lộn hột. Loài này được (L.) Shafer miêu tả khoa học đầu tiên năm 1908.
Loài thực vật này chỉ mọc trên đất rất ẩm ướt hoặc ngập nước, thường ở đầm lầy, ở đông Hoa Kỳ và Canada. | 1 | null |
Màn màn tím, hay còn gọi là màn ri tím, màn ri tía, mằn ri, rau mằn (danh pháp khoa học:"Cleome chelidonii") là một loài thực vật có hoa trong họ Màn màn. Loài này được L.f. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1782.
Cây thân thảo, cao 40 cm, thân màu xanh nhạt hoặc tía có 5 cạnh, ít lông. Lá kép chân vịt 3 lá chét mọc cách, lá chét ở giữa thường to hơn. Phiến lá có lông thưa. Hoa mọc đơn lẻ ở nách lá, đài 4, trành 4, nhị 6, nhụy ngắn.
Cây sử dụng nhiều trong Đông y và văn hóa ẩm thực. | 1 | null |
Màn màn, hay rau màn, màn ri, màn ri trắng (có danh pháp khoa học: Cleome gynandra) là một loài thực vật có hoa trong họ Màn màn. Loài này được Carl von Linné mô tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Cây thân thảo hàng năm, cao tới 80 cm. Lá kép chân vịt mọc cách, mỗi lá kép có 5 lá chét. Hoa thường mọc tập trung ở đầu ngọn, có lá chét ở nách cuống hoa, tràng hoa có màu trắng hoặc trắng phớt hồng, bầu hoa dài như dạng cuống.
Cây dùng nhiều trong y học phương Đông, cây cảnh và ẩm thực rau ăn. | 1 | null |
Xú xuân (danh pháp khoa học: Ailanthus altissima), còn gọi là thanh thất núi cao, càng hom cao, phượng nhỡn thảo, là một loài cây rụng lá trong họ Thanh thất ("Simaroubaceae"). Nó gốc ở miền trung và đông bắc Trung Quốc, cũng như Đài Loan. Không như các loài khác của chi "Ailanthus", nó được tìm thấy ở vùng ôn đới nhiều hơn nhiệt đới. Nó có thể đạt chiều cao trong 25 năm. Loài này có vòng đời ngắn và hiếm cá thể nào sống quá 50 năm. | 1 | null |
Amaroria soulameoides là một loài thực vật có hoa trong họ Thanh thất (Simaroubaceae). Loài này được Asa Gray mô tả khoa học đầu tiên năm 1854 và là loài duy nhất trong chi Amaroria.
Khu vực phân bố: Cây gỗ nhỏ trên quần đảo Fiji và một số đảo trên Thái Bình Dương. | 1 | null |
Khổ sâm nam hay còn gọi sầu đâu cứt chuột (danh pháp khoa học: Brucea javanica) là một loài thực vật có hoa trong họ Thanh thất. Loài này được Carl Linnaeus miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753 dưới danh pháp "Rhus javanica". Năm 1928 Elmer Drew Merrill chuyển nó sang chi "Brucea".
Mô tả.
"Brucea javanica" là cây bụi hay cây gỗ nhỏ cao tới . Các hoa nhỏ (đường kính 1,5–2 mm) màu từ trắng ánh lục tới đỏ ánh lục hay tía và mọc thành các chùy hoa. Hoa đực và hoa cái không mọc trên cùng một cây, làm cho nó là loài đơn tính khác gốc. Các bao phấn thường có màu đỏ. Ra hoa từ tháng 6 đến tháng 7 và tạo quả trong tháng 7 - 8. Mỗi quả là một quả hạch, dài tới . Khi chín nó từ màu xanh chuyển thành vàng rồi xám đen và nhăn nheo khi khô đi. Hạt màu vàng ánh trắng và được màng dầu che phủ. Nó có các lá kép với 3–15 lá chét (thông thường 7–9) hình trứng hay hình trứng-mũi mác với mép có khía. Mỗi lá chét dài khi phát triển đầy đủ và nhọn mũi. Các lá được che phủ bằng các lông mịn, dễ thấy nhất tại khu vực gân lá và mặt dưới của lá. Tất cả các bộ phận của cây đều rất đắng.
Phân bố và môi trường sống.
"Brucea javanica" mọc tự nhiên từ Sri Lanka và Ấn Độ tới Trung Quốc, Đông Dương, Malesia, New Guinea và Australia. Môi trường sống của nó bao gồm các khu vực thoáng đãng, rừng thứ sinh và đôi khi cả các cồn cát, ở độ cao dưới 1.000 m. Tại Australia nó mọc như là cây gõ của tầng dưới tán, ở cao độ từ sát mực nước biển đến .
Sử dụng y học.
Quả của "Brucea javanica" được nhắc tới như là một loại thuốc với tên gọi 鸦胆子 (ya dan zi, nha đảm tử) trong chuyên khảo y văn Trung Hoa Bản thảo cương mục năm 1578. Nó chứa các hợp chất quassinoid gọi là bruceolid có tác dụng chống ung thư và ký sinh. Theo y học cổ truyền nó được dùng để điều trị bệnh lị và sốt rét, dù chưa có thử nghiệm lâm sàng nào được công bố xác nhận tính hiệu quả của các tình trạng này, mặc dù các nghiên cứu trong ống nghiệm chỉ ra hoạt tính chống sốt rét. Dạng nhũ tương dầu có thể tiêm của loài này đã được nghiên cứu tại Trung Quốc trong các thử nghiệm được kiểm soát để điều trị cho các bệnh nhân ung thư phổi kết hợp cùng hóa trị liệu, với các kết quả nhiều hứa hẹn. Tuy nhiên, các thử nghiệm chất lượng cao hơn là cần thiết để xác nhận công dụng này. | 1 | null |
Simarouba amara là một loài thực vật có hoa trong họ Thanh thất ("Simaroubaceae"), sống ở rừng nhiệt đới và xavan ở Nam, Trung Mỹ và Caribbe. Nó được mô tả lần đầu tiên bởi Aublet tại Guiana thuộc Pháp năm 1775 và là một trong sáu loài của chi "Simarouba". Đây là cây thường xanh, nhưng thay lá một lần mỗi năm. Ở Panama, Nó nở hoa vào mùa khô vào khoảng tháng 2-3, ở Costa Rica, nơi không có mùa khô, nó nở hoa muộn hơn, vào giữa tháng 3-7. Chúng có cả hoa đực và hoa cái trên mỗi cây. Hoa nhỏ màu vàng thụ phấn nhờ côn trùng, quả được phát tán động vật (khỉ, chim, dơi quả).
Mô tả.
"Simarouba amara" phát triển đến chiều cao 35 mét, đường kính thân tối đa 125 cm và tuổi thọ ước tính 121 years. Nó có lá phức dài 60 cm, cuốn lá dài 4–7 cm và mỗi lá phức có 9–16 lá chét. Mỗi lá chét dài 2.5–11 cm và rộng 12–45 mm. Hoa đơn tính, nhỏ (dài dưới 1 cm) và có màu vàng nhạt. Hoa được thụ phấn bởi côn trùng như ong và ngài. Trên đảo Barro Colorado (BCI), Panama, nó có xu hướng nở hoa vào mùa khô từ cuối tháng 1-4, kéo dài 11 tới 15 tuần mỗi năm. Tại Costa Rica, nó nở hoa hơi muộn hơn từ giữa 3-7, đạt đỉnh vào tháng 4. Kết quả 1-3 tháng sau khi thụ phấn. Quả màu từ xanh lục nhạt tới hơi đỏ tía-đen, dài chừng 17 mm và có hạt lớn (10–14 mm), chúng mọc thành nhóm 3–5 quả hạch. Hạt được phát phát tán bởi động vạt. Mỗi hạt nặng khoảng 0.25 g.
Phân bố.
Phạm vi tự nhiên của "S. amara" là ở Neotropics, một vùng sinh thái Trung và Nam Mỹ. Mở rộng từ Guatemala ở phía bắc, tới Bolivia ở phía nam và từ Ecuador ở phía tây, tới bờ đông Brazil. Nó đã được đưa đến các đảo của Dominica và Puerto Rico tại vùng biển Caribbe. Ở BCI, cây trưởng thành (đường kính thân cây cao tới ngực trên 10 cm) được tìm thấy với mật độ 5/hécta, Ecuador là 0.7/hécta và Guiana thuộc Pháp là 0.4/hécta. "S. amara" luôn tương đối phổ biến trong phạm vi phân bố của nó. Nó mọc trong rừng nhiệt đới và vùng xavan. Trong rừng nguyên sinh có khá ít cây non do nhu cầu ánh sáng của cây non rất cao. | 1 | null |
Chùa Hưng Long tọa lạc tại thôn Đông Phù, xã Đông Mỹ, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội ngày nay, trước đây còn có tên gọi là chùa Long Hưng, chùa Hưng Hóa, chùa Nhót, chùa Phù Liệt, chùa Đông Phù. Chùa thuộc 2 làng Đông Phù Liệt và Đông Trạch.
Chùa được khởi dựng năm 1011, năm Thuận Thiên thứ 2 (Tân Hợi) do vua Lý Thái Tổ ban chiếu và cấp tiền xây dựng. Chùa có kiến trúc "nội công ngoại quốc, tiền Phật hậu Thánh".
Đời vua Lý Thánh Tông (1054-1072) Hoàng hậu Thượng Dương đã hạ sinh được nhị vị công chúa là Lý Từ Thục và Lý Từ Huy. Đến tuổi trưởng thành, nhị vị công chúa đã về chùa Hưng Long xuất gia đầu Phật và thu thần thị tịch tại Lăng Liên Hoa vào ngày 15 tháng 3 năm Ất Hợi, niên hiệu Hội Phong thứ 4, (1095) đời vua Lý Nhân Tông với đạo hiệu Đại Thánh Bồ Tát Lý Từ Thục và Đại Thánh Bồ Tát Lý Từ Huy, nhân dân địa phương thường gọi là Nhị vị Bồ Tát.
Hàng năm vào ngày 14,15 và 16 tháng 3 âm lịch, nhân dân các làng Đông Phù, Đông Trạch, Tương Trúc, Tự Khoát, Mỹ Ả, Tranh Khúc, Văn Uyên, Mỹ Liệt và Ninh Xá tổ chức mở hội tri ân công đức của nhị vị Bồ Tát đã có công hướng dẫn dạy nhân dân trong vùng làm nghề ruộng và nghề thủ công. Với lòng thành kính công hạnh của nhị vị Bồ Tát, nhân dân đã tạc tượng và thờ ở vị trí trang trọng tại chùa Hưng Long (Đông Phù), chùa Hưng Phúc (Tự Khoát) và chùa Phổ Quang (Ninh Xá).
Trải qua hàng nghìn năm tồn tại, chùa Hưng Long đã được các thế hệ Tăng ni trụ trì và nhân dân tín đồ Phật tử thập phương phát tâm công đức tôn tạo nhiều lần. Đặc biệt năm 1619, Quận chúa Thái phi Trịnh Thị Ngọc Thưởng đã phát tâm công đức toàn bộ kinh phí cho việc đại trùng tu.
Năm 2004, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội cấp ngân sách hơn 2 tỷ đồng để trùng tu tòa Tam bảo, gồm 7 gian tiền đường, hậu cung, 11 gian giải vũ bên trái thờ Đức Thánh Hiền và 3 gian nhà chương trước điện thờ Nhị vị Bồ Tát.
Tháng 9 năm 2008 Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Thành hội Phật giáo Hà Nội đã bổ nhiệm Đại đức Thích Minh Tiến – Ủy viên Thư ký Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam đảm nhiệm chức vụ trụ trì chùa Hưng Long.
Từ tháng Giêng đến tháng 12 năm Kỷ Sửu (2009), Đại đức trụ trì đã tiến hành trùng tu, phục chế các hạng mục công trình còn lại: hệ thống tượng thờ tại tòa Tam Bảo, tượng Thánh Mẫu, khám thờ, nhang án, hoành phi, câu đối, cửa võng và phục chế 3 gian điện thờ nhị vị Bồ Tát, 11 gian giải vũ bên phải (thờ Đức Ông), 10 gian điện thờ Thánh Mẫu, 14 gian Tổ đường, 12 gian nhà Tăng và phòng khách, tháp chuông, tháp trống và các công trình phụ trợ khác. Kinh phí cho đợt trùng tu này do Đại đức trụ trì vận động Phật tử thập phương và thân nhân của Đại đức phát tâm công đức.
Sau đợt trùng tu năm 2009, Đại đức trụ trì đã kiến nghị Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và Bộ Quốc Phòng trao lại một phần diện tích đất sát chùa do Binh chủng Đặc công sử dụng, để phục vụ cho việc mở rộng khuôn viên chùa. Đến đầu năm 2017, diện tích chùa Hưng Long đã được mở rộng thêm hơn 2,500m2 đất sau gần 6 năm hoàn tất thủ tục. Đại đức trụ trì đã tiến hành xây dựng giảng đường, trai đường và thư viện để phục vụ cho việc tu học của tăng ni, phật tử.
Chùa Hưng Long đã được Bộ Văn hóa – Thể thao – Du lịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia và Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội công nhận là di tích lịch sử Cách mạng. Năm 2010 Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đã gắn biển chùa Hưng Long là công trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. | 1 | null |
Twenty One Pilots (được viết cách điệu thành twenty one pilots hay twenty øne piløts) là một bộ đôi âm nhạc Mỹ từ Columbus, Ohio. Ban nhạc được thành lập vào năm 2009 bởi giọng ca chính Tyler Joseph cùng hai cựu thành viên Nick Thomas và Chris Salih trước khi họ rời nhóm năm 2011. Kể từ khi họ rời đi, đội hình bao gồm Joseph và tay trống Josh Dun. Nhóm đã có những thành công đầu tiên vào giữa thập niên 2010, sau vài năm lưu diễn và tự phát hành nhạc.
Họ đã tự phát hành hai album, "Twenty One Pilots" vào năm 2009 và "Regional at Best" vào năm 2011, trước khi ký hợp đồng với Fueled by Ramen vào năm 2012. Họ đã phát hành album dài đầu tiên bởi Fueled by Ramen "Vessel" vào năm 2013. Nhóm đánh dấu thành công đột phá với album phòng thu thứ tư "[[Blurryface]]", trong đó có hai đĩa đơn nổi bật "[[Stressed Out]]" và "[[Ride (bài hát của Twenty One Pilots)|Ride]]". Ngoài ra đĩa đơn "[[Heathens (bài hát)|Heathens]]" thu âm cho nhạc phim "[[Biệt đội cảm tử (phim)|Biệt đội cảm tử]]" cũng giúp nhóm trở thành nghệ sĩ alternative đầu tiên đồng thời có hai đĩa đơn lọt vào top 10 tại Hoa Kỳ. Nhóm được đề cử năm [[giải Grammy]] và đoạt một giải duy nhất cho [[Giải Grammy cho Trình diễn Song ca/Nhóm nhạc pop xuất sắc nhất|Trình diễn Song ca/Nhóm nhạc pop xuất sắc nhất]].
Lịch sử.
2009–2011: Thành lập và album cùng tên.
Ban nhạc được thành lập năm 2009 tại [[Columbus, Ohio]] bởi những người bạn đại học [[Tyler Joseph]], Nick Thomas và Chris Salih. Joseph nghĩ ra tên ban nhạc trong khi nghiên cứu "[[All My Sons]]" của [[Arthur Miller]], một vở kịch nói về một người đàn ông phải quyết định điều gì là tốt nhất cho gia đình mình sau khi gây ra cái chết của 21 phi công trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến hai]], bởi anh ta cố ý gửi họ những phụ tùng máy bay lỗi vì lợi ích kinh tế của doanh nghiệp mình. Joseph nói rằng vấn đề đạo đức về việc lựa chọn quyết định đúng hoặc sai của câu chuyện đã gây cảm hứng cho cái tên và sự thành lập của ban nhạc. Ngày 29 tháng 12 năm 2009, nhóm tự phát hành album đầu tay và cùng tên nhóm, "Twenty One Pilots" và bắt đầu tour diễn Ohio.
Năm 2010, ban nhạc phát hành hai ca khúc chưa được chính thức phát hành vào tài khoản [[SoundCloud]] của nhóm.. Trong đó bao gồm một spinoff từ bài hát gốc "Time to Say Goodbye" của [[Andrea Bocelli]] và [[Sarah Brightman]], và một bản cover bài "[[Jar of Hearts]]" của [[Christina Perri]]. Salih rời nhóm vào ngày 8 tháng 5 năm 2011, trong khi Thomas rời nhóm khoảng một tháng sau vào ngày 3 tháng 6; cả hai đều đăng ghi chú chia tay trên trang [[Facebook]] chính thức của ban nhạc. Sau đó Joshep đã tuyển [[Josh Dun]], cựu tay trống trực tiếp của [[House of Heroes]] để thay thế họ.
2011–2012: "Regional at Best" và hợp đồng thu âm với Fueled by Ramen.
Album tự phát hành thứ hai của nhóm, "Regional at Best" được phát hành vào ngày 8 tháng 7 năm 2011 với thành viên mới bao gồm Joseph và Dun. Album đi kèm một chương trình phát hành đĩa CD miễn phí trên sân của [[Trường trung học New Albany (Ohio)|trường trung học New Albany]]. Vào tháng 11 năm 2011, họ đã chơi một chương trình giá rẻ tại [[Đại sảnh âm nhạc Newport]] của Columbus, thu hút sự chú ý của hàng tá hãng đĩa. Mặc dù nhiều hãng đĩa tranh giành để có ban nhạc, quyết định cuối cùng là nhóm sẽ ký với Atlantic Records, hãng đĩa con của Fueled by Ramen. Đây là hãng đĩa nổi tiếng chịu trách nhiệm cho những thành công thương mại của những ban nhạc như [[Panic! at the Disco]], [[Paramore]] và nhiều nghệ sĩ alternative khác. Ngày 11 tháng 2 năm 2012, ban nhạc phát hành video âm nhạc trên Youtube cho một bài hát chưa phát hành gọi là "Goner". "Goner" đã được viết và thu âm lại để phát hành cùng "Blurryface" năm 2015.
2012–2014: "Vessel", ra mắt truyền hình và Quiet Is Violent World Tour.
[[Tập tin:Twenty one pilots 7.jpg|thumb|right|Twenty One Pilots trình diễn trực tiếp năm 2014.]]
Vào tháng 4 năm 2012, tại một chương trình sốt vé ở "[[Express Live!]]", nhóm công bố ký hợp đồng với Atlantic Records, hãng đĩa con của Fueled by Ramen. Ngày 17 tháng 6 năm 2012, họ phát hành sản phẩm thu âm đầu tay với Fueled by Ramen dưới hình thức 3 bài EP, lấy tên là Three Songs. Tháng 8 năm 2012, họ tham gia vào một chuyến lưu diễn ngắn với [[Neon Trees]] và [[Walk the Moon]]. Họ làm việc với [[Greg Wells]], nhà sản xuất của [[Adele]] và [[Katy Perry]] để thực hiện album dài đầu tiên với hãng đĩa Fueled by Ramen mang tên "Vessel". Album được phát hành ngày 8 tháng 1 năm 2013 và đạt vị trí thứ 21 trên "[[Billboard 200]]", thứ 9 trên Digital Albums chart, thứ 17 trên Internet Albums chart, thứ 15 trên Rock Albums Chart và thứ 10 trên Alternative Albums Chart. Nhóm đã có đĩa đơn đầu tiên xếp hạng trên bảng xếp hạng radio tại Hoa Kỳ với "[[Holding On to You]]", đứng thứ 11 trên bảng xếp hạng [[Alternative Songs|Billboard Alternative Songs]]; ngoài ra các đĩa đơn "[[Guns for Hands]]" và "Lovely" cũng lần lượt đứng thứ 21 và 67 trên [[Japan Hot 100]] sau khi "Lovely" được phát hành làm đĩa đơn quảng bá cho chuyến lưu diễn của nhóm đến Nhật Bản.
2015–2017: "Blurryface" và Emotional Roadshow World Tour.
[[Tập tin:Twenty One Pilots, Shepherds Bush Empire, London (22428148108).jpg|thumb|right|Twenty One Pilots biểu diễn tại [[Shepherds Bush Empire]] cuối năm 2015.]]
Ngày 16 tháng 3 năm 2015, ban nhạc công bố "Blurryface" sẽ được phát hành vào ngày 19 tháng 5. Nhóm cũng phát hành đĩa đơn đầu tiên gọi là "[[Fairly Local]]". Đĩa đơn thứ hai trong album là "[[Tear in My Heart]]" kèm theo video âm nhạc được phát hành ngày 5 tháng 4 năm 2015. Ngày 28 tháng 4, đĩa đơn thứ ba mang tên "[[Stressed Out]]" kèm theo video âm nhạc được phát hành. "Stressed Out" đạt vị trí thứ 2 trên "[[Billboard Hot 100]]" và giành ngôi quán quân ở cả bảng xếp hạng Alternative Songs và Hot Rock Songs. "Blurryface" được phát hành sớm hai ngày vào ngày 17 tháng 5 năm 2015 và tiêu thụ 134,000 bản ngay trong tuần đầu tiên tại Hoa Kỳ, trở thành album quán quân đầu tiên của ban nhạc tại "[[Billboard 200]]". Ngày 22 tháng 5 năm 2016, "Blurryface" tiếp tục thắng hạng mục "Top Rock Album" tại "[[Giải thưởng âm nhạc Billboard|giải âm nhạc Billboard]]", còn ban nhạc cũng đoạt giải "Top Rock Artist".
2018–nay: "Trench".
Vào tháng 4 năm 2018, một tin nhắn khó hiểu đã được phát hiện trên cửa hàng web của ban nhạc, trong đó tiết lộ một trang web. Người hâm mộ bắt đầu sử dụng manh mối và tìm thấy các phần khác của trang web này, gợi ý về sự trở lại của ban nhạc. Có nhiều hình ảnh được tải lên trang web, bao gồm các chữ cái của một nhân vật có tên "Clancy". I Vào tháng 7 năm 2018, Twenty One Pilots đã phá vỡ sự im lặng suốt một năm của họ, trước tiên gửi một email khó hiểu cho người hâm mộ và sau đó đăng video lên tất cả các nền tảng truyền thông xã hội và cập nhật logo và thương hiệu của họ. Tyler Joseph xuất hiện trên phương tiện truyền thông đầu tiên trong hơn một năm cho một cuộc phỏng vấn với Zane Lowe của Beats 1 từ phòng thu tại nhà riêng của anh ta ở Columbus, Ohio, trong đó anh ta nói về sự gián đoạn kéo dài một năm của ban nhạc, tạo ra album mới và chiến đấu chống lại nỗi sợ và bất an của mình.
Vào ngày 11 tháng 7 năm 2018, ban nhạc đã phát hành hai bài hát mới là "Jumpsuit" và "Nico and the Niners", cũng như video âm nhạc cho "Jumpsuit". Họ cũng đưa ra thông báo về album phòng thu thứ năm của họ, Trench, dự kiến phát hành vào ngày 5 tháng 10 năm 2018 và một tour diễn thế giới mới, mang tên "The Bandito Tour", bắt đầu từ ngày 16 tháng 10. Sau đó, vào ngày 26 tháng 7 năm 2018, video âm nhạc cho "Nico and the Niners" đã được phát hành. Bài hát "Levitate" sau đó đã được phát hành dưới dạng đĩa đơn thứ ba của album thông qua chương trình Beats 1 của Zane Lowe dưới dạng "World Record" trong ngày. Video âm nhạc cũng được phát hành, kết thúc loạt bộ ba.
Ngày 20 tháng 8 năm 2018, tại MTV VMAs, đoạn trích dài mười giây của bài hát "My Blood" đã được phát vào cuối quảng cáo quảng cáo album. Vào ngày 27 tháng 8 năm 2018, ban nhạc đã cung cấp "My Blood" trên các dịch vụ phát trực tuyến dưới dạng đĩa đơn chính thức thứ tư của album. Twenty One Pilots đã phát hành album thứ năm, Trench, vào ngày 5 tháng 10 năm 2018. Cùng ngày, họ đã phát hành video âm nhạc cho đĩa đơn "My Blood" trên kênh YouTube của họ. Trench xuất hiện ở vị trí số một trên bảng xếp hạng Album Rock hàng đầu và Album thay thế. Tất cả 14 bài hát trong album được xếp hạng trong top 25 của bảng xếp hạng Hot Rock, trong đó năm bài hát nằm trong top 10.
Ngày 12 tháng 9 năm 2018, Twenty One Pilots đã phát chương trình trực tiếp đầu tiên của họ trong hơn một năm, mang tên A Complete Diversion, tại Brixton's O2 Academy ở London. Họ đã biểu diễn bốn bài hát được phát hành từ Trench, cũng như một số bài hát trong album trước của họ, để quảng bá album và "The Bandito Tour" sắp tới.. Twenty One Pilots đã trình diễn "Jumpsuit" tại Lễ trao giải Âm nhạc Mỹ 2018 vào ngày 9 tháng 10, tại Nhà hát Microsoft ở Los Angeles. Vào ngày 1 tháng 11, ban nhạc đã trình diễn các phiên bản rút gọn của "My Blood" và "Ride", cũng như bản cover "9 Crimes" của Damien Rice, trong Live Lounge của BBC Radio 1. BBC Radio 1 đã đến thăm ban nhạc ở quê nhà của họ và quay phiên tại Hội trường âm nhạc Newport ở Columbus, Ohio, để khởi động Tháng Live Lounge, một loạt các buổi biểu diễn kéo dài một tháng từ các nghệ sĩ khác nhau.
Ngày 16 tháng 10, ban nhạc bắt đầu chuyến lưu diễn Bandito trên toàn thế giới, bắt đầu ở Hoa Kỳ và tiếp tục ở Châu Đại Dương và Châu Âu. Họ cũng đã công bố ngày lưu diễn bổ sung 2019 cho các chương trình tại Canada, Mexico và Hoa Kỳ. Gab Ginsberg của Billboard đã mô tả The Bandito Tour là một "màn trình diễn phải xem", lưu ý các pha nguy hiểm của ban nhạc trong suốt quá trình bao gồm nhảy, nhảy ngược, lướt đám đông theo chiều dọc, đi cầu treo và mở rộng giàn giáo.
Ngày 22 tháng 1 năm 2019, video âm nhạc cho "Chlorine" đã được tải lên YouTube khi phát hành bài hát dưới dạng đĩa đơn và được đạo diễn bởi Mark C. Eshman của reel Bear Media, có một sinh vật giống người ngoài hành tinh tên là "Ned". Ban nhạc dự kiến sẽ tiêu đề một số lễ hội vào mùa hè năm 2019, bao gồm Reading và Leeds và Lollapalooza.
Ngày 4 tháng 3 năm 2019, ban nhạc tiết lộ với NME rằng họ đã bắt đầu quá trình viết cho album phòng thu thứ sáu của mình, đề cập đến một nhân vật chưa xuất hiện trong bất kỳ tài liệu nào liên quan đến Twenty One Pilots.
Ngày 19 tháng 6 năm 2019, một phiên bản được tưởng tượng lại của "Clo", có tên "Clo (19.4326 ° N, 99.132 ° W)", đã được phát hành. Đây là bài hát đầu tiên được phát hành từ Løcatiøn Sessiøns. Các bài hát khác trong sê-ri sẽ bao gồm "Ride", "Smithereens", "My Blood" và "Cut My Lip". Năm 2019, Đại lộ Toàn quốc ở Columbus, Ohio đã tạm thời được đổi tên thành Đại lộ Twenty One Pilots để kỷ niệm hai chương trình quê hương tại Đấu trường Quốc gia ở Columbus, nơi ban nhạc cũng mở một cửa hàng có tên "Ned's Bayou".
Ngày 16 tháng 7 năm 2019, bài hát "The Hype" đã được gửi đến đài phát thanh thay thế Hoa Kỳ dưới dạng đĩa đơn thứ sáu trong album Trench.
Ngày 7 tháng 9 năm 2019, Joseph và vợ đã có đứa con đầu lòng của họ.
Thành viên ban nhạc.
Hiện tại
Trước đây
Liên kết ngoài.
[[Thể loại:Twenty One Pilots| ]]
[[Thể loại:Ban nhạc Mỹ]]
[[Thể loại:Ban nhạc hai người Mỹ]] | 1 | null |
"Acapella" là một bài hát của bộ đôi người Mỹ Karmin. Bài hát được Epic Records phát hành vào 9 tháng 7 năm 2013 dưới dạng đĩa đơn rút từ album đầu tay "Pulses" (2013) của Karmin. Ca khúc được sáng tác bởi hai thành viên của nhóm là Amy Heidemann và Nick Noonan, ngoài ra còn có Sam Hollander và thủ lĩnh nhóm Boys Like Girls là Martin Johnson (nhà sản xuất duy nhất).
Trình diễn.
Karmin lần đầu tiên trình diễn trực tiếp bài hát trong một bữa tiệc của Ryan Seacrest vào cuối tháng 6 năm 2013. Ngày 10 tháng 7 năm 2013, bộ đôi này đã biểu diễn bài hát trên chương trình "Jimmy Kimmel Live!", cùng với một số bài hát khác được giới thiệu trong album đầu tay, Pulkes. Cả hai cũng biểu diễn bài hát trong 2nd Indenosian Choice Awards. | 1 | null |
là kiểu xe tăng hạng trung được Lục quân Đế quốc Nhật Bản sử dụng trong Chiến tranh Trung-Nhật, Chiến tranh biên giới Xô-Nhật và trong suốt Chiến tranh thế giới thứ hai, thay thế cho xe tăng hạng trung I-Go Kiểu 89 đã lỗi thời. Mặc dù ngay từ khi mới sản xuất vào năm 1938, lớp giáp bảo vệ của nó chỉ được đánh giá là trung bình trong thập niên 1930, Chi-Ha vẫn là kiểu xe tăng hạng trung có số lượng sản xuất nhiều nhất của Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Đóng vai trò là xe tăng chủ lực của Lục quân Đế quốc Nhật Bản trong suốt Chiến tranh thế giới thứ hai tuy nhiên những đặc tính kỹ thuật của Chi-Ha về pháo chính, động cơ và lớp giáp bảo vệ đã khiến khả năng chiến đấu của nó không bằng các kiểu xe tăng chủ lực cùng loại của Đồng Minh, điển hình là M4 Sherman của Hoa Kỳ. Để cải tiến khả năng chiến đấu, từ năm 1941, pháo chính 57 mm của Chi-Ha, với vận tốc đạn thấp nên sức xuyên giáp đối với xe tăng đối phương không cao, đã được thay thế bằng pháo chính 47 mm có vận tốc đạn cao hơn. Xe tăng Kiểu 97 trang bị pháo chính này được gọi là phiên bản Kiểu 97 - "kai Shinhoto".
Khung xe của Chi-Ha Kiểu 97 đã được sử dụng để tạo ra nhiều thiết kế liên quan như xe công binh, pháo tự hành, pháo tự hành chống tăng, pháo tự hành phòng không. Các kiểu xe tăng được tạo ra để thay thế và dựa trên xe tăng Kiểu 97 như Chi-He Kiểu 1, Chi-Nu Kiểu 3, Chi-To Kiểu 4 đã được sản xuất quá trễ và do đó gần như không tham chiến trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Lịch sử phát triển.
Khi xe tăng hạng trung Chi-Ro Kiểu 89 được đánh giá lỗi thời từ năm 1935, đặc biệt là điểm yếu về tốc độ, Lục quân Đế quốc Nhật Bản bắt đầu chương trình phát triển một kiểu xe tăng hạng trung mới. Kiểu xe tăng hạng trung mới lấy ý tưởng từ xe tăng A6 của Anh được trang bị pháo 47 mm. Yêu cầu chính đối với kiểu xe tăng mới này là tốc độ phài ngang bằng với kiểu xe tăng hạng nhẹ mới như Ha-Go Kiểu 95. Trong khi đó, hỏa lực pháo 57 mm và lớp giáp bảo vệ tương đối mỏng của Kiểu 89 vẫn được giữ để đảm bảo khối lượng nhẹ và giá thành sản xuất thấp.
Tuy nhiên để trở thành xe tăng hạng trung chính thức của Lục quân Đế quốc Nhật Bản Chi-Ha Kiểu 97 vấp phải sự cạnh tranh từ một kiểu xe tăng hạng trung khác cũng của Mitsubishi, Chi-Ni, nhẹ hơn và rẻ hơn, cũng trang bị pháo chính 57 mm như Chi-Ha nhưng động cơ chỉ có 135 mã lực so với 170 mã lực của Chi-Ha.
Tuy nhiên khi Chiến tranh Trung-Nhật bùng nổ vào ngày 7 tháng 7 năm 1937, ngân sách dành cho chiến tranh của Nhật Bản được tăng cường nên cuối cùng Lục quân Nhật Bản đã chọn Chi-Ha, tuy có giá thành cao hơn nhưng có thiết kế tốt hơn trở thành xe tăng hạng trung Kiểu 97.
Tên gọi.
Từ "Chi" là viết tắt của chữ "Chu-Sensha" (xe tăng hạng trung trong tiếng Nhật). "Ha" trong danh pháp của Lục quân Nhật, có nghĩa là kiểu số 3. Kiểu xe tăng được đánh số 97 là hai số cuối của năm hoàng gia 2597, tương đương với năm 1937 theo lịch Gregorian. Do đó, "Chi-Ha Kiểu 97" có thể hiểu là "Xe tăng hạng trung ra đời năm 1937 kiểu số 3".
Thiết kế.
Phiên bản đầu.
Chi-Ha Kiểu 97 có khối lượng 15 tấn được trang bị động cơ diesel 12 xy-lanh làm mát bằng không khí, công suất 170 mã lực (127 kW) ở phía sau thân xe và truyền động thông qua trục chong chóng đến hộp số đầu xe; hộp số có bốn số tiến và một số lùi.
Toàn bộ thân xe của Kiểu 97 đều lắp ráp hoàn toàn bằng phương pháp tán đinh. Lớp giáp bảo vệ mỏng theo ý định của Lục quân Nhật để giảm giá thành và giữ khối lượng nhẹ. Chỗ giáp dày nhất là giáp nòng pháo dày 33 mm và hai bên tháp pháo dày 26 mm. Giáp thân dày 20 mm và nơi mỏng nhất là lớp giáp bên dưới thân chỉ có 12 mm. Mặc dù theo tiêu chuẩn xe tăng thập niên 1930, lớp giáp bảo vệ này không được xem là mỏng nhưng khi chiến tranh lan rộng vào năm 1941, nó trở thành điểm yếu lớn. Hậu quả là xe tăng Kiểu 97 dễ dàng bị tiêu diệt không chỉ bởi xe tăng đối phương mà còn bởi pháo chống tăng 37 mm, bazooka, lựu đạn chống tăng và trong một số trường hợp, bộ binh Mỹ còn có thể sử dụng cả súng máy M2 Browning để xuyên thủng lớp giáp dưới của Chi-Ha ở cự li gần. Bên trong khoang chiến đấu được phủ các tấm đệm amiăng được cho là để mục đích cách nhiệt.
Hỏa lực của Chi-Ha bao gồm pháo chính 57 mm, có thể nâng lên và hạ xuống dao động từ 11 độ đến -90 độ; một khẩu súng máy Kiểu 97 7,7 mm phía sau tháp pháo và một khẩu súng máy Kiểu 97 7,7 mm khác bên trái đầu thân xe. Chi-Ha có thể mang theo tổng cộng 120 quả đạn pháo 57 mm (80 đạn trái phá và 40 đạn xuyên thép) và cơ số đạn của hai khẩu súng máy là 2.350 viên. Tháp pháo có thể quay 360 độ cả trái lẫn phải. Pháo chính 57 mm được sử dụng cho mục đích yểm trợ bộ binh tấn công hơn là cho việc đấu tăng do vận tốc đạn thấp. Một số xe tăng Kiểu 97 còn được gắn thêm thiết bị tạo khói.
Tổ lái của Kiểu 97 có bốn người, bao gồm trưởng xe, xạ thủ tháp pháo, tài xế và xạ thủ súng máy ở thân xe. Tài xế ngồi ở bên phải đẩu thân xe, lái xe theo sự hướng dẫn của trưởng xe. Bên trái là xạ thủ súng máy, kiêm luôn nhiệm vụ thợ cơ khí. Tháp pháo dành cho trưởng xe và xạ thủ tháp pháo, trưởng xe làm nhiệm vụ kiểm soát hoạt động và liên lạc với những xe tăng khác bằng tín hiệu, cờ hoặc vô tuyến.
Hệ thống truyền động của Chi-Ha Kiểu 97 kế thừa từ Ha-Go Kiểu 95 nhưng có đến sáu bánh xe cao su thay vì bốn, với răng bánh xích ở phía trước và bánh đệm ở phía sau. Xe có ba bánh đỡ xích. Mỗi cặp bánh chịu tải ở giữa được gắn một đòn khuỷa gia cố bởi lò xo áp lực bằng thép và hai giá chuyển hướng cũng được gắn vào thân xe theo cách thức tương tự bằng đòn khuỷa.
Phiên bản cải tiến (Shinhoto Chi-Ha).
Chi-Ha Kiểu 97 với pháo chính 57 mm đã thể hiện rõ điểm yếu trong cuộc đối đầu với Hồng quân Liên Xô tại Nặc Môn Khâm, khi mà pháo tăng 45 mm của xe tăng Liên Xô BT-7 và xe bọc thép Ba-10 đã làm thiệt hại nặng các xe tăng Nhật. Do đó, pháo tăng Kiểu 1 47 mm đã được ra đời với thiết kế đối trọng với pháo tăng 45 mm của Liên Xô, với vận tốc đạn nhanh hơn pháo tăng 57 mm nên sức xuyên thép cũng được gia tăng.
Những chiếc Chi-Ha Kiểu 97 được trang bị pháo tăng mới này được đổi tên thành Kiểu 97-"Kai" (nâng cấp) "Shinhoto Chi-Ha" (Chi-Ha với tháp pháo mới). Việc sản xuất Chi-Ha nâng cấp bắt đầu từ năm 1942. Việc lắp đặt khẩu pháo mới dẫn đến phải thiết kế lại hình dạng tháp pháo, tuy nhiên các đặc điểm quan trọng khác vẫn được giữ nguyên, trong đó có lớp giáp bảo vệ.
Pháo tăng Kiểu 1 47 mm được trang bị đạn trái phá và đạn trái phá xuyên thép có khả năng chống tăng tốt hơn pháo 57 mm, nhưng bù lại có nhược điểm là đạn trái phá 47mm không có sức công phá bằng đạn trái phá 57 mm (chỉ bằng 1/3) dẫn dến kém hiệu quả khi đối đầu các mục tiêu không phải xe tăng. "Shinhoto" Chi-Ha có thể mang theo 104 đạn pháo 47 mm, bao gồm 38 viên đạn trái phá và 66 viên đạn trái phá xuyên thép. Một điểm mới nữa của Kiểu 97-kai là tổ lái được tăng thêm một người, làm nhiệm vụ nạp đạn và đứng phía sau pháo thủ tháp pháo.
Sản xuất.
Xe tăng hạng trung Kiểu 97 ban đầu được sản xuất tại ba nhà máy: xưởng vũ khí Sagami, nhà máy Tokyo-Kiki của Mitsubishi và nhà máy Kameari của Hitachi, sau đó được mở rộng sản xuất thêm bốn nhà máy nữa vào đầu năm 1942.
Số lượng sản xuất của xe tăng hạng trung Kiểu 97 và phiên bản nâng cấp:
Xe tăng Kiểu 97 (pháo 57 mm):
Tổng cộng: 1.162
Xe tăng Kiểu 97 nâng cấp (pháo 47 mm):
Tổng cộng: 930
Tuy nhiên tài liệu khác cho rằng con số sản xuất của xe tăng Kiểu 97 nâng cấp không thể xác định được. Có tổng cộng 958 khung xe được sản xuất từ tháng 4 năm 1942 (thời điểm bắt đầu sản xuất pháo chống tăng 47 mm) cho đến tháng 3 năm 1944 khi việc sản xuất kết thúc tại nhà máy Hitaichi. Tuy nhiên, chỉ có 272 pháo chống tăng 47mm sản xuất vào năm 1942 so với 366 Chi-Ha được sản xuất từ tháng 4 đến tháng 12 năm 1942, do đó số lượng xe tăng Kiểu 97 nâng cấp khoảng 860 chiếc. Số liệu bao nhiêu xe tăng Kiểu 97 cũ được nâng cấp lên cũng không rõ ràng, tuy nhiên có bằng chứng cho thấy đã có 115 chiếc được nâng cấp, diễn ra chủ yếu vào năm 1945.
Lịch sử chiến đấu.
Chiến tranh biên giới Xô-Nhật.
Tháng 5 năm 1939 tại mặt trận Khalkhin Gol (Nặc Môn Khâm), Quân đoàn Xe tăng số 1 Nhật Bản do Thiếu tướng Masaomi Yasuoka chỉ huy được trang bị bốn xe tăng Kiểu 97 mới. Một chiếc trong số đó được chọn làm xe tăng chỉ huy của trung đoàn trưởng Trung đoàn Xe tăng số 3 Thiếu tá Kiyotake Yoshimaru. Khi trung đoàn này tấn công một cứ điểm được bao bọc bởi dây thép gai dày đặc, bánh xích chiếc xe tăng Kiểu 97 chỉ huy của Yoshimaru bị mắc kẹt. Chiếc xe lùi về sau được khoảng hơn 30 mét thì bất động hoàn toàn, trở thành mục tiêu của những chiếc xe tăng BT-7 và pháo chống tăng Liên Xô. Đạn pháo Nga bắn trúng bánh răng truyền động, thân xe và khu vực động cơ, làm chiếc xe bốc cháy. Khi lửa tràn đến khu vực chứa đạn, chiếc xe tăng phát nổ và khiến cho tháp pháo nổ tung và văng ra xa. Xạ thủ xe tăng may mắn sống sót và chạy thoát trong khi Trung đoàn trưởng tử trận tại chỗ và xác đã được tìm thấy sau sau trận đánh.
Trong vòng bốn ngày tại Khalkhin Gol, 42/73 xe tăng Nhật Bản tại Khalkhin Gol đã bị loại khỏi vòng chiến, hầu hết do xe tăng được trang bị pháo 45 mm và pháo chống tăng của Liên Xô.
Chiến tranh Thái Bình Dương giai đoạn 1941-1942.
Trong trận chiến tại Mã Lai và Singapore, Quân đoàn 25 của tướng Yamashita Tomoyuki nhận được 211 xe tăng, biên chế vào ba Trung đoàn 1, 6 và 14. Ngày 11 tháng 12 năm 1941, Trung đoàn Xe tăng số 1 (có 40 xe tăng Chi-Ha Kiểu 97 và 12 xe tăng Ha-Go Kiểu 95) đã chọc thủng phòng tuyến Jitra. Gần một tháng sau đó vào ngày 7 tháng 1 năm 1942, một trận đấu tăng quan trọng đã diễn ra và cuối cùng Trung đoàn Xe tăng số 6 (có 10 xe tăng Chi-Ha Kiểu 97) được 100 bộ binh yểm trợ đã vượt qua sông Slim phía bắc Singapore. Singapore thất thủ vào ngày 15 tháng 2 và việc sử dụng xe tăng hiệu quả là một phần nguyên nhân chiến thắng của Nhật Bản.
Tại Philippines, quân Nhật bắt đầu tấn công tấn công tại vịnh Lingayen và Luzon từ tháng 12 năm 1941 với hai Trung đoàn Xe tăng số 4 và số 7. Đại tá Sonoda Seinosuke, Trung đoàn trưởng Trung đoàn Xe tăng số 7 đã gửi yêu cầu đặc biệt về Tokyo để xin cho các xe tăng được trang bị pháo 47 mm được đưa đến Philippines, vì các xe tăng mang pháo 57 mm không đủ sức xuyên thủng lớp giáp của xe tăng hạng nhẹ Hoa Kỳ M3 Stuart. Yêu cầu này được đưa đến xưởng vũ khí Sagami, trung tâm phát triển xe tăng chính của Nhật Bản rồi đưa đến Công ty Mitsubishi, nơi đang chuẩn bị cho ra đời nguyên mẫu của kiểu xe tăng hạng trung mới Chi-He Kiểu 1. Do Chi-He Kiểu 1 chưa thể đưa vào sản xuất nên Mitsubishi đã cho sửa đổi khung xe của xe tăng Kiểu 97 để gắn tháp pháo 47 mm mới lên và đã có mười khung xe được nâng cấp.
Một đại đội đặc biệt đã được thành lập dưới quyền Thiếu tá Matsuoka sử dụng lính tăng từ Trung đoàn Xe tăng số 2 và tiến hành huấn luyện trên kiểu xe tăng mới tại trường Chiba. Ngày 29 tháng 3 năm 1942, Đại đội Matsuoka đến Philippines. Xe tăng Kiểu 97-kai xuất hiện lần đầu tiên trên chiến trường với năm chiếc tham gia cuộc đổ bộ lên Corregidor vào rạng sáng ngày 5-6 tháng 5 năm 1942.
Chiến tranh Thái Bình Dương giai đoạn 1943-1945.
Tháng 10 năm 1942, Đại đội Xe tăng Độc lập trang bị 12 xe tăng Chi-Ha Kiểu 97 với tổ lái là cựu binh của Đại đội 4, Trung đoàn Xe tăng số 2 đã đổ bộ lên Guadalcanal để tham gia vào cuộc phản công tái chiếm hòn đảo. Những chiếc xe tăng này dẫn đầu cuộc tấn công của quân Nhật băng qua sông Matanikau trong Trận chiến sân bay Henderson đêm ngày 23 tháng 10 nhưng hầu hết số xe tăng này đã bị pháo chống tăng 37 mm của Mỹ tiêu diệt. Chỉ có 17 trong tổng số 44 người của Đại đội Xe tăng Độc lập còn sống sót sau trận đánh.
Trận Saipan là nơi lần đầu tiên xe tăng Shinhoto Chi-Ha chạm trán với xe tăng M4 Sherman của Hoa Kỳ. Rạng sáng ngày 17 tháng 6 đã diễn ra cuộc tấn công lớn nhất của các xe tăng Nhật trong Chiến tranh Thái Bình Dương thuộc Trung đoàn Xe tăng số 9 nhưng hỏa lực bazooka và pháo chống tăng 37 mm của Thủy quân lục chiến Mỹ đã nhanh chóng chặn đứng cuộc tấn công này. Một trung đội xe tăng Kiểu 97 bị mắc kẹt tại vùng đầm lầy và sau đó cũng bị xe tăng Mỹ tiêu diệt.
Dù được trang bị pháo chống tăng 47 mm, Chi-Ha Kiểu 97 vẫn không có đủ khả năng đối đầu với xe tăng chủ lực của quân Đồng Minh tại mặt trận Thái Bình Dương là M4 Sherman khi mà đạn pháo chống tăng của M4 Sherman có thể xuyên thủng lớp giáp của Kiểu 97 tại bất kỳ cự li chiến đấu thông thường nào trong khi ngược lại Chi-Ha Kiểu 97 chỉ làm được điều đó ở cự li gần hoặc nhắm vào lớp giáp hông mỏng. Do đó, các pháo thủ xe tăng Nhật luôn được lệnh tránh khai hỏa càng lâu càng tốt và xe tăng thường được bố trí thành các ụ pháo cố định hoặc trong trạng thái phục kích để có thể tấn công từ cạnh sườn xe tăng đối phương và thậm chí cả dùng màn khói.
Trong chiến dịch tái chiếm Philippines của Hoa Kỳ, lần đầu tiên và sau cùng quân đội Nhật điều cả một sư đoàn xe tăng (Sư đoàn 2) chống lại quân Mỹ. Sư đoàn 2 có hơn 200 xe tăng hạng trung Kiểu 97, 20 xe tăng hạng nhẹ Kiểu 95 và nhiều loại pháo tự hành mới. Trận chiến xe tăng đáng chú ý đầu tiên tại mặt trận này diễn ra vào ngày 24 tháng 1 năm 1945 tại San Manuel khi Trung đoàn Bộ binh số 161 Hoa Kỳ có pháo tự hành M7 và xe tăng M4 yểm trợ tấn công thị trấn có 40 xe tăng Chi-Ha Kiểu 97. Đạn pháo 105 mm đã làm mất lớp sơn ngụy trang của các xe tăng Nhật và bộ binh Mỹ dần chiếm được các vị trí. Sáng ngày 28 tháng 1, 10 chiếc xe tăng còn lại dẫn đầu cuộc tấn công tự sát mau chóng bị pháo chống tăng 37 mm tiêu diệt. Đến ngày 5 tháng 3, Sư đoàn Xe tăng số 2 Nhật Bản đã thiệt hại tổng cộng 203 xe tăng Kiểu 97 và 19 xe tăng Kiểu 95. Mặc dù bị thiệt hại nặng nhưng xe tăng Nhật không đóng góp được gì nhiều cho toàn chiến cuộc do chất lượng quá kém và không thể trở thành mối đe dọa với quân Mỹ.
Tại Iwo Jima, chỉ có một phần Trung đoàn Xe tăng số 26 tham gia bảo vệ hòn đảo và chỉ huy của đơn vị này, Đại tá Nishi Takeichi mong muốn được sử dụng những chiếc xe tăng Kiểu 97 để làm đơn vị hỏa lực cơ động nhưng sau đó đã buộc phải sử dụng làm các ụ pháo cố định. Cả ba đại đội 1, 2 và 3 của đơn vị này đều lần lượt bị tiêu diệt. Trong Trận Okinawa, quân Nhật chỉ có 13 chiếc xe tăng Kiểu 95 và 14 chiếc xe tăng Kiểu 97 thuộc Trung đoàn Xe tăng số 27 phải đối đầu với 800 xe tăng Mỹ. Hầu hết số xe tăng này đã mất trong cuộc phản công bất thành của quân Nhật ngày 4 và 5 tháng 5.
Trong Chiến dịch Bão tháng Tám, Hồng quân Liên Xô đã huy động hơn 5.000 xe thiết giáp, hơn cả Trận Kursk trong khi phía Nhật chỉ có 2 lữ đoàn tăng. Kết quả là Hồng quân đã chiếm được 369 xe tăng và 35 xe thiết giáp Nhật trong toàn bộ chiến dịch.
Chi-Ha Kiểu 97 cũng đã tham gia vào trận đấu tăng cuối cùng của quân đội Nhật vào ngày 18 tháng 8 năm 1945 khi 25 chiếc Ha-Go và 39 chiếc Chi-Ha thuộc Trung đoàn Xe tăng 11 đã kháng cự Hồng quân đánh chiếm đảo Shimushu thuộc Quần đảo Kuril. Mặc dù Nhật Bản đã đầu hàng nhưng chính quyền Tokyo vẫn cho phép lực lượng trên đảo phòng thủ nếu bị tấn công. Đại tá Ikeda, trung đoàn trưởng đã quyết định cho xe tăng tấn công ngay bãi biển, và bị pháo chống tăng của Liên Xô diệt 21 xe tăng nhưng Hồng quân cũng mất vài trăm lính. Chiến sự tại đây kéo dài cho đến ngày 20 tháng 8.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Các xe tăng Nhật Bản bị Liên Xô chiếm được vào năm 1945 đã được chuyển giao cho các đồng minh Liên Xô trong khu vực. Cuối năm 1949, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc có trong tay 349 xe tăng, chủ yếu là xe tăng Kiểu 95 và Kiểu 97 của Nhật. Một số lượng nhỏ xe tăng Nhật được chuyển đến cho Quân đội Nhân dân Triều Tiên để sử dụng cho huấn luyện.
Ghi chú.
a. Một thử nghiệm được tiến hành cho thấy đạn chống tăng của pháo chính 57 mm của xe tăng Kiểu 97 không thể xuyên thủng lớp giáp của M3 Stuart dù ở cự li nào hay ở góc bắn nào. Muốn tiêu diệt được M3, thử nghiệm cho thấy phải tập trung đạn trái phá tấn công và trong điều kiện lý tưởng.b. Ngày 6 tháng 4, Đại tá Sonoda Seinosuke, người đề nghị đưa xe tăng kiểu mới có pháo 47 mm đến Philippines đã tử trận và chính Thiếu tá Matsuoka thay thế ông chỉ huy Trung đoàn Xe tăng số 7. | 1 | null |
Bão số 8 năm 2013 (theo cách gọi của Việt Nam, tên chỉ định của JTWC: Áp thấp nhiệt đới 18W) là một cơn bão nhiệt đới không chính thức hình thành ở Biển Đông vào ngày 16 tháng 9 năm 2013 và kết thúc vào ngày 21 tháng 9 năm 2013. Đây là một cơn bão chưa có tên quốc tế, hầu hết tất cả các đài khí tượng trong khu vực cho rằng nó là một áp thấp nhiệt đới, chưa phát tin bão về nó và chỉ duy nhất đài Việt Nam công nhận nó là một cơn bão và phát tin bão về nó.
Đêm 18 tháng 9 năm 2013, bão số 8 suy yếu thành áp thấp nhiệt đới và đã đổ bộ vào đất liền các tỉnh từ Thừa Thiên Huế đến Quảng Nam, cùng với một đợt mưa vừa, mưa to và đợt lũ cho các tỉnh miền Trung Việt Nam, từ Nghệ An đến Khánh Hòa và khu vực Bắc Tây Nguyên. Bão số 8 cùng với lũ đã làm 10 người chết, 12 người mất tích, 6 người bị thương, ước tính thiệt hại ở Việt Nam là gần 400 tỷ đồng (18,7 triệu USD). Lũ lụt tại Lào cũng đã làm hơn 10.000 căn nhà bị hư hỏng và tổng thiệt hại tại Lào ước tính là 61 triệu đô la Mỹ. Tàn dư cuối cùng của nó là ở Phetchabun, một tỉnh của Thái Lan và cũng gây ra lũ lụt tại khu vực phía bắc, trung, đông của nước này.
Hình thành và phát triển.
Vào ngày 16, Cơ quan khí tượng Nhật Bản (JMA) và Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Trung ương (VNCHMF) đã thông báo rằng một áp thấp nhiệt đới đã phát triển trong phạm vi một khu vực có độ đứt thẳng đứng của gió từ thấp đến trung bình trên Biển Đông, cách Hà Nội khoảng 1.000 km (620 dặm) về phía Đông Nam. Sang ngày hôm sau, 17 tháng 9, trong khi JMA vẫn chưa ban hành cảnh báo nâng cấp xoáy thuận này thành bão nhiệt đới, Việt Nam đã nâng cấp áp thấp nhiệt đới này lên thành bão số 8. Đến đêm hôm đó, JTWC cũng nâng cấp nó thành áp thấp nhiệt đới và đặt số hiệu 18W..
Với tốc độ khoảng từ 10 đến 15 km/h, bão di chuyển về phía tây, và đêm ngày 18 tháng 9 nó đã suy yếu thành áp thấp nhiệt đới và đổ bộ vào đất liền các tỉnh Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam thuộc miền Trung Việt Nam, gây mưa lớn cho các tỉnh này. Sau khi đổ bộ vào Việt Nam, nó suy yếu nhanh thành một vùng thấp rồi đi sang hai nước láng giềng là Lào và Thái Lan. Tàn dư của 18W được ghi nhận lần cuối trên địa phận tỉnh Phetchabun của Thái Lan vào ngày 21 tháng 9.
Công tác phòng chống.
Ngày 17 tháng 9, một trong những Phó Thủ tướng chính của Việt Nam, Hoàng Trung Hải, yêu cầu Ban chỉ đạo Phòng chống lụt bão Việt Nam và Ủy ban Quốc gia Tìm kiếm Cứu nạn, chuẩn bị phòng chống trước khi bão bắt đầu ảnh hưởng đến Việt Nam. Ông cũng yêu cầu các chính quyền địa phương và quân đội kêu gọi tàu thuyền vào nơi trú ẩn ở các tỉnh từ Quảng Bình đến Phú Yên, sơ tán người dân ở những khu vực nguy hiểm đến nơi an toàn. Một số bộ, ngành, cơ quan được giao nhiệm vụ kiểm tra sự an toàn của đập và hồ chứa để phòng chống được lũ lụt.
Ảnh hưởng.
Việt Nam.
Mặc dù không mạnh, với sức gió chỉ ở cấp 8 giật cấp 9, nhưng bão số 8 và hoàn lưu của bão đã gây mưa cho các tỉnh từ Nghệ An đến Khánh Hòa và bắc Tây Nguyên, cùng với một đợt lũ làm 10 người chết và 12 người mất tích, 6 người bị thương. Đắk Lắk là tỉnh chịu thiệt hại nặng nề nhất về người và tài sản, với 5 người chết và 7 người mất tích. Hơn 2.000 ngôi nhà bị ngập, 2.100 hộ dân ở huyện Ea Súp phải di dời khẩn cấp. Hàng nghìn hecta lúa và hoa màu bị hư hỏng. Nhiều tuyến đường của huyện Ea Súp bị ngập gây chia cắt một số vùng.
Tại Hà Tĩnh, do ảnh hưởng của bão số 8 ở Hà Tĩnh có mưa lớn, gió giật mạnh cấp 6, cấp 7 và lốc xoáy gây ra nhiều thiệt hại cho người dân. Đến chiều 19 tháng 9 có 2 tàu cá bị mất liên lạc, 1 tàu hàng lớn mắc kẹt vào bãi đá và hàng chục ngôi nhà bị tốc mái. Tại xã Kỳ Anh, huyện Kỳ Anh đã xảy ra lốc xoáy làm 60 nhà dân bị tốc mái, hư hại một số loại hoa màu và nhiều cây cối bị đổ gãy... Tổng thiệt hại do lốc xoáy gây ra khoảng hơn 500 triệu đồng.
Tại Quảng Trị, 1 người chết, trên 3.000 ngôi nhà, 800 ha lúa và nhiều hoa màu chưa thu hoạch kịp cũng đã bị nhấn chìm. Tại huyện Đakrông, mưa cũng đã gây ngập úng nghiêm trọng nhiều khu dân cư, các bản làng vùng thấp trũng như các xã Ba Lòng, Hải Phúc, bị chia cắt do lũ. 1 người tại địa phương này bị nước cuốn trôi tử vong trên đường đi làm rẫy về, 1 người bị thương trong quá trình vật lộn với lũ.
Tại Thừa Thiên Huế, ở huyện Nam Đông tổng lượng mưa đo được là 441mm gây ra trận lũ lớn trên địa bàn huyện. Ước tổng thiệt hại bước đầu do cơn bão số 8 là 1,9 tỷ đồng. Tại Nghệ An, 13 người chết và thiệt hại gần 400 tỷ đồng.
Tại Đà Nẵng và Quảng Nam, Sở Giáo dục Đào tạo tại hai địa phương này đã cho học sinh nghỉ học tránh bão.
Các quốc gia khác.
Bão số 8 thành áp thấp và sang Lào, gây mưa to tại bốn huyện, rồi sau đó lan ra các tỉnh thuộc miền Nam Lào gây lũ nghiêm trọng trong các ngày 19 và 20 tháng 9. Có ít nhất 10.000 ngôi nhà bị hư hại và thiệt hại lên tới 61 triệu USD. Đây được cho là cơn lũ tồi tệ nhất trong 35 năm qua ở miền Nam Lào.
Ở Thái Lan đã có 13 người chết và 2,45 triệu người trong số 65 triệu dân bị ảnh hưởng do bão lũ. Ở trung tâm Thái Lan, dù mực nước tại huyện Baan Mi của tỉnh Lopburi vẫn ổn định, nhưng tại các trường bị ảnh hưởng vẫn phải đóng cửa cho đến khi có thông báo nước lũ rút. Khu vực dọc theo kênh đào Pasak - Chainat bị sụt lún, người dân địa phương bị ảnh hưởng đã được di tản đến khu vực an toàn. Ở tỉnh Ubon Ratchathani ở vùng Đông Bắc Thái Lan, 503 làng ở 16 huyện nằm trong tâm lũ, ảnh hưởng đến hơn 2.000 hộ gia đình và đất canh tác của địa phương, khiến nhiều hộ ven sông phải di dời. Lũ lụt cũng xảy ra ở các tỉnh Kamphang Phet, Tak, Nan, Phetchabun, Phitsanulok, Khon Kaen, Ubon Ratchathani, Surin, Si Sa ket, Nakhon Ratchasima, Amnat Charoen, Buri Ram, Nakhon Sawan, Lopburi, Kanchanaburi, Sa Kaeo, Prachin Buri và Nakhon Nayok.
Tranh cãi về dự báo bão.
Sau cơn bão, dư luận xôn xao đưa tin cơ quan khí tượng của Việt Nam báo bão sai, vì theo dự báo bão đổ bộ vào sáng 19 tháng 9 nhưng đêm 18 tháng 9 đã đổ bộ, gây ảnh hưởng đến công tác phòng chống ở các địa phương bị ảnh hưởng.
Tuy nhiên trong buổi họp chiều 20 tháng 9, NCHMF (Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Việt Nam) đã phủ nhận điều này. Ông Bùi Minh Tăng, giám đốc NCHMF đã khẳng định:
Ông Bùi Minh Tăng còn khẳng định việc thành phố Đà Nẵng cho toàn bộ học sinh nghỉ học sau khi bão tan vì bản tin của Trung tâm trong chiều 18 tháng 9 là hợp lý, bởi lúc này ở đây mưa rất to thế nhưng ngày 19 tháng 9 cho nghỉ học thì lại "hơi cẩn thận". | 1 | null |
Thái Lan phân chia các thành thị ("thesaban") thành ba cấp - thành phố ("thesaban nakhon"), thị xã ("thesaban mueang") và xã ("thesaban tambon"). Có 32 thành phố tính tới tháng 1 năm 2015.
Thủ đô Băng Cốc và thành phố tự quản Pattaya nằm ngoài sự phân chia trên.
Thành phố.
In đậm là các thành phố tỉnh lỵ.
Thị xã.
In đậm là tỉnh lỵ. | 1 | null |
Chử Toán Tử (chữ Hán: 褚蒜子, 324 - 384), là hoàng hậu dưới thời Tấn Khang Đế, vị vua thứ tư của nhà Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc.
Tiểu sử.
Chử Toán Tử xuất thân trong một gia đình vọng tộc, quê ở vùng Dương Địch, tỉnh Hà Nam. Phụ thân của bà là Chử Bầu, một quý tộc giàu có. Mẹ bà họ Tạ, vợ lẽ của Chử Bầu. Bà sinh vào khoảng năm 324.
Chử Toán Tử từ lúc nhỏ đã tỏ ra thông minh, có khí thức lại xinh đẹp. Đến tuổi trưởng thành, được gả cho Lang Nha vương Tư Mã Nhạc, em trai Tấn Thành Đế, trở thành vương phi. Năm 342, Thành đế mất, để lại di chiếu lập Lang Nha vương làm vua, tức Tấn Khang Đế. Khang Đế lập Chử Toán Tử làm hoàng hậu, còn mẹ của bà là Tạ thị được phong làm Tầm Dương hương quân. Năm 343, Chử Toán Tử sinh hoàng tử Tư Mã Đam, cũng là người con duy nhất của Khang Đế.
Năm 344, Tấn Khang Đế qua đời khi mới ở ngôi có 2 năm. Tư Mã Đam mới 1 tuổi nối ngôi, tức là Tấn Mục Đế. Chử Toán Tử trở thành Hoàng thái hậu. Do Mục Đế còn nhỏ, thái úy Hà Mô yêu cầu Chử Thái hậu làm nhiếp chính ("lâm triều xưng chế"), còn các đại thần Hà Sung, Thái Mô và Cối Kê vương Tư Mã Dục nắm quyền phụ chính. Từ đó Chử Toán Tử nắm quyền điều hành triều đình. Ít lâu sau, Hữu ti tấu lên Trử Thái hậu xin cũng nên truy phong tôn hiệu cho hai bà đích mẫu của thái hậu là Tuân thị và Biện thị, nhưng bà không đồng tình.
Chử Thái hậu nắm quyền trong triều 14 năm, nhưng phần lớn các quyết định đều do Thừa tướng Hà Sung (mất 346), Cối Kê vương Tư Mã Dục (ông chú Mục Đế), Thái úy Hoàn Ôn và Ân Hạo (sau bị Hoàn Ôn lật đổ)... Sang năm 357, Mục Đế lên 13 tuổi và tiến hành quan lễ (lễ trưởng thành), Chử Thái hậu hạ chiếu giao trả quyền lực cho hoàng đế, lui về Sùng Đức cung và không hỏi chính sự nữa.
Tuy nhiên Tấn Mục Đế yểu mệnh mất sớm vào năm 361, Trử Thái hậu quyết định lập con trưởng của Tấn Thành Đế là Lang Nha vương Tư Mã Phi lên ngôi, tức Tấn Ai Đế. Tuy không phải là mẹ của Ai Đế nhưng Chử hậu vẫn được làm Thái hậu và tiếp tục ở Sùng Đức cung do Ai Đế đã trưởng thành.
Tấn Ai Đế ham mê luyện đan dược trường sinh, lâu ngày trúng độc phát bệnh vào năm 364. Triều thần lại thỉnh Chử Toán Tử lâm triều nhiếp chính. Sang đầu năm 365, Ai Đế giá băng, thọ 24 tuổi. Chử Thái hậu hạ lệnh lập em trai Ai Đế là Lang Nha vương Tư Mã Dịch làm vua, sử xưng là Tấn Phế Đế và bà tiếp tục giữ quyền nhiếp chính.
Tuy nhiên lúc đó Chử Toán Tử cũng không nắm được quyền hành thực sự, mà quyền lực chủ yếu thuộc về Cối Kê vương Tư Mã Dục và Thái úy Hoàn Ôn. Năm 371, Hoàn Ôn phế đế, lập Tư Mã Dục lên ngôi, tức Tấn Giản Văn Đế. Chử Thái hậu theo thứ tự chỉ là cháu dâu của hoàng đế, nên bị đổi làm "Sùng Đức thái hậu".
Giản Văn Đế làm vua 8 tháng thì mất, con trai là thái tử Tư Mã Diệu kế vị, tức Tấn Hiếu Vũ Đế và Hoàn Ôn cũng chết không lâu sau đó. Triều đình lại thỉnh cầu Chử Thái hậu lâm triều chấp chính lần thứ ba vì Hiếu Vũ Đế lúc đó mới 10 tuổi. Bà lại lâm triều, đổi xưng Hoàng thái hậu. Sang năm 375, Hiếu Vũ Đế 14 tuổi, cử hành quan lễ. Chử Thái hậu lại trao trả quyền lực cho vua, trở lại xưng là Sùng Đức thái hậu.
Năm 384, Chử Thái hậu qua đời ở điện Hiển Dương, thọ 61 tuổi, được truy tôn là "Khang Hiến hoàng hậu". Từ lúc nhập cung thời Thành Đế, qua đời phu quân Khang Đế, con trai Mục Đế, cháu chồng Ai Đế, Phế Đế, chú chồng Giản Văn Đế rồi em họ của chồng là Hiếu Vũ Đế, tổng cộng bà trải qua tất cả bảy đời hoàng đế, trong đó có tới 4 vị lên ngôi tuổi nhỏ, nên Chử Thái hậu ba lần lâm triều nhiếp chính, lần thứ nhất từ 344 đến 357, lần thứ hai từ 364 đến 371, lần thứ ba từ 372 đến 375, tổng cộng 23 năm. Tấn Hiếu Vũ Đế thân hành mặc tang phục chịu tang bà. | 1 | null |
Coccoloba fastigiata là một loài thực vật có hoa trong họ Rau răm, bao gồm khoảng 120-150 loài thực vật có hoa. Loài này được Meisn. mô tả khoa học đầu tiên năm 1855.
Chi này bản địa ở các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới của Châu Mỹ, Nam Mỹ, khu vực Caribe và Trung Mỹ, với hai loài mở rộng phạm vi đến Florida. Các loài trong chi Coccoloba thường là cây bụi và cây gỗ, phần lớn là loại cây thường xanh. Lá của chúng mọc xen kẽ và thường có kích thước lớn, đôi khi rất lớn ở một số loài (ví dụ, Coccoloba pubescens có lá rộng tới 36 inch hay khoảng 90 cm), với lá non thường lớn hơn và khác biệt về hình dạng so với lá của cây trưởng thành.
Hoa của chi này mọc trên các cụm hoa hình gai. Quả của chúng là loại quả achene ba góc, được bao bọc bởi một bao hoa thịt, thường có màu sắc sặc sỡ và ở một số loài có thể ăn được, mặc dù thường chứa chất làm se. Chi Coccoloba không có tên gọi chung trong tiếng Anh, tuy nhiên nhiều loài riêng biệt trong chi này được biết đến với những tên gọi thông dụng. | 1 | null |
Karl Konrad Louis von Hanenfeldt (23 tháng 11 năm 1815 tại Labiau – 18 tháng 5 năm 1888 tại Dresden) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng đến cấp Trung tướng. Ông đã từng tham chiến trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866 trên cương vị là một lữ đoàn trưởng, sau đó ông tham gia cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871) với chức vụ Phó Tham mưu trưởng quân đội.
Tiểu sử.
Thân thế.
Karl Konrad Louis sinh vào tháng 11 năm 1815, trong một gia đình quý tộc cổ vùng Baltic. Ông là con trai của Leopold Konrad Konstantin von Hanenfeldt (14 tháng 6 năm 1775 tại Poduren – 3 tháng 7 năm 1828 tại Labiau) với người vợ của ông này là Luise, nhũ danh von Rogalla (4 tháng 11 năm 1780 – 9 tháng 5 năm 1873 tại Königsberg).
Sự nghiệp quân sự.
Thời trẻ, Hanenfeldt theo học trường thiếu sinh quân ở Kulm vào ngày 16 tháng 5 năm 1827. Hai năm sau đó, ông nhập học trường thiếu sinh quân Berlin vào tháng 8 năm 1829. Từ đây, ông được đổi vào Trung đoàn Bộ binh số 1 trong quân đội Phổ với cấp hàm Thiếu úy vào ngày 7 tháng 8 năm 1832. Sau đó, ông được cắt cử vào Trường Quân sự Tổng hợp ("Allgemeinen Kriegsakademie") để rèn luyện thêm từ tháng 11 năm 1832 cho đến tháng 10 năm 1836, rồi một lần nữa từ tháng 10 năm 1840 cho tới giữa tháng 6 năm 1841. Giữa hai lần học ở Trường Quân sự Tổng hợp, ông là Giảng viên Trường Sư đoàn ("Divisionsschule") của Sư đoàn số 1 kể từ tháng 9 năm 1838 đến ngày 30 tháng 6 năm 1840. Trong những năm kế tiếp, ông đã vài lần được cắt cử sang các bộ phận khác cua quân đội. Thoạt tiên, ông là giảng viên Trường Thiếu sinh quân Berlin, sau đó ông được đổi sang Bộ phận Đo đạc Địa hình của Bộ Tổng tham mưu rồi Bộ Tổng tham mưu. Ông được gia nhập Bộ Tổng tham mưu vào ngày 27 tháng 3 năm 1848, cũng chính là ngày ông được lên quân hàm Trung úy. Ba tháng sau, ông được chuyển vào Bộ Tham mưu của Quân đoàn II tại Stettin và được thăng hàm Đại úy vào ngày 6 tháng 1 năm 1849. Đến tháng 4 năm 1853, Hanenfeldt được phép tham gia một cuộc viễn chinh của Pháp vào Algiers. Tiếp theo đó, ông trở lại Bộ Tham mưu của Quân đoàn II, được lên cấp bậc Thiếu tá vào ngày 18 tháng 6 năm 1853 rồi lại được bổ nhiệm vào Bộ Tổng tham mưu vào ngày 28 tháng 3 năm 1854. Đến giữa tháng 5 năm 1855, ông vào Bộ Tham mưu của Sư đoàn số 13 tại Münster và làm việc ở đây tới cuối tháng 1 năm 1857, sau đó ông gia nhập Bộ Tham mưu của Quân đoàn I ở Königsberg. Năm sau, ngày 8 tháng 1 năm 1858, ông chuyển sang phục vụ tiền tuyến với chức vụ Tiểu đoàn trưởng trong Trung đoàn Bộ binh số 21, và tại đơn vị này ông được thăng cấp Thượng tá vào ngày 22 tháng 5 năm 1858. Tiếp sau đó, ngày 18 tháng 1 năm 1858, Hannenfeldt trở lại giữ một chức Chủ nhiệm Bộ phận trong Bộ Tổng tham mưu, và đảm nhiệm cương vị này cho đến ngày 28 tháng 10 năm 1859 rồi được đổi làm Tham mưu trưởng của Quân đoàn II. Vào ngày 1 tháng 7 năm 1860, ông được phong cấp hàm Đại tá, đồng thời được tặng thưởng Huân chương Vương miện hạng III, cùng với Thập tự Chỉ huy ("Kommandeurskreuz") của Huân chương Thánh Olav.
Vào ngày 5 tháng 3 năm 1863, Hanenfeldt được lãnh chức Trung đoàn trưởng Trung đoàn Phóng lựu số 11. Ông được phong danh hiệu vào ngày 13 tháng 8 năm 1864, đồng thời được bổ nhiệm làm Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn Bộ binh số 41 rồi được thăng chức Thiếu tướng vào ngày 18 tháng 4 năm 1865. Vào năm 1866, sau khi cuộc Chiến tranh Bảy tuần với Áo bùng nổ, ông đã chỉ huy lữ đoàn của mình tham chiến trong trận Königgrätz ngày 3 tháng 7. Tại đây, lữ đoàn của ông thu giữ 35 khẩu pháo và bắt được hơn 2.000 lính Áo làm tù binh. Vì chiến tích này, vào ngày 20 tháng 9 năm 1866, Hanenfeldt được trao tặng Thập tự Xanh (cũng có tể hiểu là "Huân chương Quân công"), phần thưởng quân sự cao quý nhất của Phổ. Sau khi cuộc chiến tranh chấm dứt, Hanenfeldt được ủy nhiệm làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn số 2 vào ngày 30 tháng 10 năm 1866, sau đó ông được thăng hàm Trung tướng vào ngày 18 tháng 4 năm 1867.
Vào ngày 21 tháng 4 năm 1868, tướng Hanenfeldt được xuất ngũ ("zur Disposition", giải ngũ nhưng sẽ được triệu hồi khi có chiến tranh), đồng thời được trao tặng Ngôi sao đính kèm vào Huân chương Đại bàng Đỏ hạng II. Khi cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871), ông được triệu hồi làm Phó Tham mưu trưởng quân đội vào ngày 23 tháng 7 năm 1870. Hanenfeldt giữ chức vụ này cho đến khi ông từ nhiệm vào ngày 23 tháng 5 năm 1871 và không lâu sau đó, ông được phong tặng Thập tự Đại Chỉ huy ("Großkomturkreuz") của Huân chương Chiến công Bayern. Ông từ trần vào ngày 18 tháng 5 năm 1888 tại Dresden.
Gia đình.
Vào ngày 19 tháng 5 năm 1860, Hanenfeldt đã thành hôn với Friederike Magdalene von Hanenfeldt (26 tháng 8 năm 1834 tại Sunzel – 6 tháng 4 năm 1909 tại Dresden). Cuộc hôn nhân này đã mang lại cho họ những người con sau đây: | 1 | null |
Koenigia islandica là một loài thực vật có hoa hàng năm thuộc chi Koenigia, họ Rau răm. Loài này có kích thước rất nhỏ, mọc trên bề mặt sỏi ẩm ướt ở các lãnh nguyên Bắc Cực và đồng cỏ núi cao. Nó được Carl Linnaeus mô tả khoa học lần đầu tiên năm 1767.
Miêu tả.
"Koenigia islandica" có một rễ cái mảnh. Loài này cao từ 1 đến 2 cm (0,4 đến 0,8 in) và là một trong những loài thực vật nhỏ nhất thế giới. Nó có thân đơn giản, thường hơi đỏ và có rễ ở các đốt dưới. Các lá mọc thành cặp đối nhau, hợp nhất ở gốc thành một màng bọc ngắn bao quanh thân. Phiến lá dài 3 mm (0,12 in), có hình trứng và đầu cùn. Cụm hoa có ít hoa với một số lá bắc. Các hoa riêng lẻ có màu xanh lục, trắng hoặc hơi hồng, lưỡng tính, với ba cánh đài, ba nhị và ba lá noãn hợp nhất. Quả có ba cạnh và chứa một hạt duy nhất. Loài thực vật này chỉ ra hoa vào tháng Bảy và tháng Tám.
Phân bố và môi trường sống.
"Koenigia islandica" phân bố ở môi trường Bắc Cực/núi cao. Phạm vi của nó bao gồm Bắc Âu, Trung và Bắc Á, Bắc Mỹ, Greenland, Nam Chile và Argentina. Loài cây này thường sinh trưởng trong lãnh nguyên Bắc Cực, các khu vực sỏi ướt gần hồ, ao tù và suối, trên đồng cỏ núi cao và bên cạnh những mảng tuyết tan. Những khu vực này có độ cao lên tới 4.000 m (13.000 ft). Tại Hoa Kỳ, nó được tìm thấy ở Alaska, Colorado, Montana, Utah và Wyoming. Ở Anh, "K. islandica" sống rải rác trên đảo Skye và đảo Mull.
Sinh thái.
Trên đảo Svalbard, "Koenigia islandica" được tìm thấy trên các trầm tích phù sa ẩm ướt, bờ hồ và khu vực trống trải, sinh trưởng trên bề mặt màu đen do rêu, tảo biển và vỏ tảo hình thành. Đây là một trong ba loài thực vật có mạch hàng năm trên đảo, đồng thời là loài phổ biến nhất. Với phạm vi mở rộng đến vùng lãnh nguyên Bắc Cực, nó được coi là loài thực vật hàng năm có sức chịu lạnh tốt nhất trên thế giới. Điều này có thể là do "K. islandica" chỉ phát triển tại các địa điểm ẩm ướt; qua đó điều hòa khí hậu, giúp nó ấm hơn khi thời tiết lạnh và mát hơn khi thời tiết khô nóng. Ngay cả khi bị chết do nắng nóng hoặc khô hạn sau khi ra hoa, quả của cây này vẫn có thể tạo ra hạt sống được. Hạt được phân tán bởi chim và nước, và chúng có thể nằm trong đất nhiều năm trước khi nảy mầm nhờ có điều kiện thích hợp. | 1 | null |
Lá lồm, thồm lồm, nghể Trung Quốc (danh pháp khoa học: Persicaria chinensis) là một loài thực vật có hoa trong họ Rau răm (Polygonaceae). Loài này được Carl Linnaeus mô tả khoa học đầu tiên năm 1753 dưới danh pháp "Polygonum chinense". Năm 1913 Hugo Gross chuyển loài này sang chi "Persicaria".
Loài này phổ biến rộng tại Trung Quốc, Nhật Bản, tiểu lục địa Ấn Độ, Indonesia, Malaysia và Việt Nam. | 1 | null |
Rêu đá (tiếng Thái: หินพืชไม่มีท่อลำเลียง) là một món ăn đặc sản của người Thái ở miền núi Tây Bắc, Việt Nam và các tỉnh Loei và Nakhon Ratchasima, Thái Lan. Cùng với măng chua, thịt gác bếp, rêu đá là món ăn không thể thiếu trong những bữa cơm đón tiếp khách quý của người Thái. Tuy nhiên, do số lượng có hạn, không thể vận chuyển đi xa và thời gian bảo quản ngắn nên rêu đá vẫn còn khá xa lạ với các địa phương khác.
Nguồn gốc.
Món rêu đá bắt nguồn từ truyền thuyết về một đôi trai gái yêu nhau nhưng lại gặp sự cản trở của vị Chúa đất nơi họ sinh sống, họ đã quyết định cùng nhau chạy trốn tới một đỉnh núi cao. Cô gái khóc nhiều đến nỗi nước mắt của nàng chảy thành dòng nước lớn đổ từ trên đỉnh núi. Cuối cùng, để được bên nhau mãi mãi, họ đã lao xuống dòng nước đó. Cơ thể của người thanh niên đó đã hoá thành những mảnh đá, còn mái tóc dài của cô gái lại biến thành một loại rêu mọc trên những tảng đá đó. Từ đó, món Rêu đá hay còn gọi là quẹ trở thành món rau đặc sản của người dân Tây Bắc.
Phân loại.
Thời điểm thường mọc của cây rêu đá lúc chớm thu khoảng vào tháng ba âm lịch. Rêu được chia ra ba loại:
Rêu đá mọc theo mùa từ tháng 9, tháng 10 âm lịch đến hết tháng 5.
Cách chế biến.
Rêu đá có thời hạn sử dụng rất ngắn, khoảng 2 đến 3 ngày và thường mọc ở nơi các nguồn nước chảy mạnh, chân thác, bám vào những tảng đá to giúp cho rêu dễ phát triển. Khi để lâu hơn, rêu sẽ bị khô và không ngon. Người Thái thường lấy rêu bằng cách đi dọc theo các khe suối, dùng dao tách những sợi rêu đang bám chặt vào đá, sau đó dùng chày gỗ đập rêu để làm bung lớp đất cát bám bên ngoài.
Để chế biến món ăn từ rêu đá có rất nhiều cách phổ biến như luộc, nộm, xào, nấu canh hay nướng.
Rêu đá nấu canh.
Đây là món đơn giản nhất. Lấy chày gỗ đập nát rêu cho hết tạp chất bám trên đó rồi rửa sạch. Cắt rêu thành các đoạn nhỏ, cho vào nước luộc gà hoặc xương hầm.
Nộm rêu đá.
Món này thường chế biến với rêu non. Rêu rửa sạch được đồ chín, sau đó trộn với súp, mì chính, gừng, mùi, hạt tiêu rừng, có thể thêm ớt nướng giã nhỏ.
Rêu đá nướng.
Món này đặc biệt thơm ngon so với các món rêu khác. Đầu tiên sơ chế rêu bằng cách để lên thớt đập nhiều lần cho sạch cát ở trong vì rêu lấy từ suối dính lẫn tạp chất. Sau đó đem rêu tẩm với các gia vị thông thường như mì chính, gừng, sả, hành, hạt sen... được bao bọc trong lá dong hoặc lá chuối rồi kẹp tre nướng trên than hoặc có thể vùi vào trong tro, ở trên là than. Để làm tăng thêm sự thơm ngon của món này, người dân thường nướng kèm với các loại thịt gà, thịt lợn và cá. Có những nơi, người ta sử dụng ống nứa non thay cho lá chuối nên rêu nướng có vị ngọt đặc trưng. | 1 | null |
Đập Sylvenstein là một hồ chứa nước nhân tạo ở khu Isarwinkel phía Nam thị trấn Lenggries, vùng đồi núi của khu vực Oberbayern. Trên con đường từ Bad Tölz tới Achensee. Nó được xây từ năm 1954 cho tới 1959 mục đích chính là để tránh nạn lụt tại vùng thung lũng sông Isar. Từ năm 1990 nó bảo đảm là ngay cả trong mùa khô cũng có đủ lượng nước quy định chảy xuống sông Isar.
Mô tả.
Hồ Sylvenstein được đặt theo tên một chỗ hẹp tại phần đầu thung lũng Isar, với cái cầu dài thường được chụp hình với bối cảnh là dãy núi Karwendel. Dưới hồ trước đây là làng Fall, đã bị giật sập trước khi nước tràn vào, và được xây lại vài chục mét cao hơn bên con đường phía sau của làng Vorderriß. Vì phong cảnh đẹp hồ này thường được viếng thăm, và cũng là nơi nghỉ mát.
Đập Sylvenstein.
Hồ Sylvenstein có 2 nhà máy thủy điện tại đập. Từ năm 1994 cho tới năm 2001 đập được nâng lên cao thên 3 m, để việc tránh nạn lụt được bảo đảm hơn. Tuy nhiên trong vụ lụt vào năm 2005 tại vùng Alpen hồ cũng đầy tràn vào ngày 23 tháng 8 năm 2005 phải mở cổng đập để nước thoát bớt ra.
Đập nước này cao khoảng 44 m, với chiều dài 180 m. Đập này không những chỉ chận nước sông der Isar mà cả phụ lưu Dürrach và Walchen.
Lịch sử.
Lý do xây đập.
Vào đầu thế kỷ 20 đoạn đầu của sông Isar dần dần bị lấy nước đi nhiều. Để gia tăng công xuất cho đập thủy điện Walchensee được xây xong vào năm 1924, một phần lớn nước của sông Isar bị dẫn tại đập nước "Krüner Wehr" vào hồ Walchensee. Từ năm 1949 nước từ suối Rißbach, mà trước đó chạy vào sông Isar, cũng bị dẫn vào hồ Walchensee. Nguyên thủy nước từ hồ Achensee cũng chảy vào suối rồi vào sông Isar. Khi nhà máy thủy điện Achensee được xây ở Jenbach vào năm 1927 thì sông Isar mất đi nguồn nước này, vì hồ Achensee từ đó chạy qua đập thủy điện vào sông Inn nằm thấp hơn khoảng 380 m. Sông Isar ở phần trên dần dần trở thành con sông không nước, nhất là vào mùa khô mực nước càng ngày càng thấp. Vì thế hồ Sylvenstein mới được xây mặc dù có nhiều tranh cãi về việc này, để có thể giữ được mực nước ở mức nhất định nào đó và một phần cũng để tránh được nạn lụt.
Khi nạn lụt xảy ra vào tháng 6 năm 2013 tại Trung Âu nhiều phần đất tại Bayern bị ngập lụt, nước tại hồ Sylvenstein dâng lên tới tận miệng hồ. Mực nước cao 13 m hơn là thường lệ.
Biện pháp hiện đại hóa.
Giữa năm 1994 và năm 2001 nhiều biện pháp hiện đại hóa đập được thực hiện. Một hệ thống kiểm soát đập, một hệ thống thứ 2 dẫn nước lụt và đập nước được nâng cao để có thể chứa thêm được nhiều nước được xây. Một nhà máy thủy điện thứ hai cũng được hoàn thành, có một máy Compact-Axial-Turbine với nămg xuất là 3,8 MW. | 1 | null |
Đường Cảnh Tùng (, tiếng Anh: "Tang Jingsong", 1841–1903) là một viên tướng nhà Thanh. Ông đã chỉ huy quân Vân Nam trong chiến tranh Pháp-Thanh (tháng 8, 1884 - tháng 4, 1885) và đã đóng góp tích cực vào các nỗ lực quân sự của nhà Thanh tại Bắc Kỳ bằng cách thuyết phục lãnh đạo quân cờ đen là Lưu Vĩnh Phúc hợp tác với quân Thanh. Vai trò lãnh đạo của Đường Cảnh Tùng trong cuộc vây hãm thành Tuyên Quang (tháng 11, 1884 - tháng 3, 1885) được đánh giá cao tuy rằng rốt cuộc nó thất bại. Sau đó ông làm tổng đốc tỉnh Đài Loan. Sau khi Đài Loan được Trung Quốc nhượng cho Nhật Bản khi kết thúc chiến tranh Thanh-Nhật (1894–1895) ông trở thành tổng thống Đài Loan Dân chủ quốc, một quốc gia độc lập tồn tại ngắn ngủi.
Chiến tranh Pháp-Thanh.
Đường Cảnh Tùng giữ vai trò quan trọng trong cuộc chiến tranh Pháp-Thanh cũng như các vụ xung đột trước đó. Năm 1882 ông được nhà Thanh cử sang Việt Nam để đánh giá khả năng phòng thủ của nhà Nguyễn trước việc bành trướng của Pháp ở Bắc Kỳ. Trong thời gian ở đây, ông đã thuyết phục được Lưu Vĩnh Phúc và quân Cờ Đen đứng trong hàng ngũ chống Pháp. Sự can dự của Lưu đã dẫn đến thất bại cho quân Pháp trong trận Cầu Giấy (ngày 19/5/1883). Trong trận này đại tá hải quân Henri Rivière thiệt mạng. Sau vụ này, chính phủ Jules Ferry đã đưa một số lượng đáng kể quân đội và hải quân đến Bắc Kỳ.
Đường Cảnh Tùng là chỉ huy cao cấp duy nhất của Trung Quốc trong trận Sơn Tây (tháng 12 năm 1883). Rốt cuộc thành Sơn Tây thất thủ. Tháng 9 năm 1884 Đường dẫn quân Vân Nam xuôi theo sông Hồng từ Lào Cai xuống đe dọa đồn quân Pháp ở Tuyên Quang và Lưu Vĩnh Phúc trở thành thuộc tướng của ông.
Mặc dù cuối cùng ông không thể đoạt được đồn địch, nhưng lối lãnh đạo thông minh và bài bản của ông trong trận Tuyên Quang đã được nhiều đồng liêu Trung Quốc của ông tán dương, trong đó có tổng đốc Lưỡng Quảng Trương Chi Động và tổng đốc Vân Nam và Quý Châu Sầm Dục Anh (岑毓英).
Qua đời.
Ông mất năm 1903 tại Quế Lâm thọ 63 tuổi. | 1 | null |
Trương Nhạc Hành (chữ Hán: 张乐行, 1811 – 28/2 ÂL tức 5/4/1863), còn có tên là Lạc Hành (洛行), tên lúc nhỏ là Hương Nhi, xước hiệu là Lão Nhạc, người thôn Trương Lão Gia, Bạc Châu, tỉnh An Huy , thủ lĩnh tối cao của giai đoạn đầu phong trào khởi nghĩa Niệp quân phản kháng nhà Thanh, từng tiếp nhận phong hiệu Ốc vương của Thái Bình Thiên Quốc.
Buổi đầu khởi nghĩa.
Ông sinh ra trong một gia đình địa chủ, thiếu thời từng mở tao phường (xưởng cất rượu), lương hành (tiệm bán lẻ lương thực), đổ cục (sòng bạc); rồi kết đảng đi buôn muối tư, làm Diêm tranh chủ (thủ lĩnh buôn muối). Trong lúc buôn muối thường phát sinh mẫu thuẫn với quan phủ, vào năm Hàm Phong thứ 2 (1852) Nhạc Hành cùng bọn Cung Đắc Thụ, Vương Quan Tam, Tô Thiên Phúc, Hàn Lãng Tử gia nhập Niệp đảng, tiến hành tự vệ, còn giúp nông dân chống lại thuế ruộng, chống sai dịch, đấu tranh với bọn phú hộ.
Năm thứ 3 (1853), bọn Nhạc Hành tụ tập hơn vạn người vây đánh Vĩnh Thành thuộc Hà Nam, cướp ngục cứu tù, thanh thế lớn dần. Tháng 11, bọn thủ lĩnh Phùng Kim Tiêu, Trương Phượng Sơn của 18 nhánh Niệp đảng tại Trĩ Hà Tập uống máu ăn thề, đề cử Nhạc Hành làm minh chủ, dựng cờ khởi nghĩa, gọi là "Thập bát phố tụ nghĩa". Năm sau (1854), các cánh quân Niệp khống chế một khu vực rộng lớn thuộc Hoài Bắc.
Tháng 8 năm thứ 5 (1855), các Niệp đảng các châu, huyện lân cận Vĩnh, Bạc hội họp ở Trĩ Hà Tập, đề cử Nhạc Hành làm thủ lĩnh, xưng là "Đại Hán Vĩnh vương" hay "Đại Hán Minh Mệnh vương", đặt ra quân chế của cờ vàng, trắng, đỏ, đen, chàm. Nhạc Hành tự nắm cờ vàng, Cung Đắc Thụ nắm cờ trắng, Hầu Thế Duy nắm cờ đỏ, Tô Thiên Phúc nắm cờ đen, Hàn Vạn nắm cờ chàm; ban bố "cáo thị" và "hành quân điều lệ". Niệp quân chính thức khởi nghĩa, phái binh đánh khắp các châu huyện chung quanh, khống chế khu vực nam đến Dĩnh Thượng, Hoắc Khâu, bắc phạm Nãng Sơn, Tiêu Sơn thuộc Chiết Giang, đông nối Hoài Viễn, tây liền phủ Quy Đức thuộc Hà Nam.
Gia nhập Thái Bình Thiên Quốc.
Ngày 19/6 năm thứ 6 (1856), Trĩ Hà Tập thất thủ, Nhạc Hành rút về phía nam. Ngày 16/7, ông đánh hạ trong trấn Tam Hà Tiêm . Nhạc Hành trở lên phía bắc, vào ngày 24/8 giành lại Trĩ Hà Tập.
Năm thứ 7 (1857), quân Niệp hội họp với quân Thái Bình của Trần Ngọc Thành, Lý Tú Thành ở giao giới Hoắc Khâu, Lục An, Nhạc Hành tiếp nhận sự lãnh đạo của Thái Bình Thiên Quốc, thụ phong làm Chính bắc chủ tướng. Từ đây, quân Niệp đổi dùng cờ xí của Thái Bình Thiên Quốc. Ngày 13/10, ông lui về Lục An.
Hạ tuần tháng 5 năm thứ 8 (1858), Nhạc Hành soái binh lên bắc, đi qua Chánh Dương Quan, Hạp Thạch Khẩu, chiếm lấy Hoài Viễn, Lâm Hoài và 2 huyện thuộc phủ Phượng Dương, khống chế tuyến giao thông sông Hoài, cắt đứt con đường vận chuyển muối đi Hoài Bắc. Tháng 11, Nhạc Hành cùng quân Thái Bình ở Lư Châu nam hạ, phối hợp với Trần Ngọc Thành, Lý Tú Thành đánh bại quân Tương trong chiến dịch Tam Hà.
Mùa hạ năm sau (1859), Nhạc Hành phái Cung Đắc Thụ đưa quân vượt sông Hoài, liên hiệp với tướng Thái Bình ở Lư Châu là Ngô Như Hiếu đánh hạ Hoài Viễn, nối liền khu vực hoạt động của hai phong trào khởi nghĩa. Tháng 11, ông lui về Định Viễn.
Năm thứ 10 (1860), Nhạc Hành phái Trương Tông Vũ soái 3 vạn quân Niệp chủ lực tấn công phía sau quân Thanh ở Tô Bắc, chiếm lãnh Thanh Giang Phổ , được Thái Bình Thiên Quốc phong làm Ốc vương.
Năm thứ 11 (1861), Nhạc Hành đông tiến đến Dĩnh Thượng. Tháng 2 năm sau (1862), ông cùng bộ tướng của Trần Ngọc Thành là bọn Trần Đắc Tài, Lại Văn Quang hiệp công phủ Dĩnh Châu . Tháng 5, Trần Ngọc Thành bị bắt, ông đơn độc kiên trì chiến đấu ở lưu vực sông Hoài.
Kết cục.
Năm Đồng Trị thứ 2 (1863), Nhạc Hành lại lui về Trĩ Hà Tập, chẹn giữ sông Doãn Gia. Ngày 23/3, ông soái 20 vạn quân tại phía bắc phố Trương Thôn thuộc Qua Dương, tựa lưng vào sông Phì bày trận, quyết chiến với Tăng Cách Lâm Thấm. Quân Niệp đại bại, Nhạc Hành đưa hơn 10 kỵ binh đột vây, đến Mã Gia Điếm thuộc Qua Dương, nhân đêm tối chạy đi Tây Dương Tập, muốn sang Sơn Đông. Niệp thủ ở Tây Dương Tập là Lý Gia Anh thuộc cờ chàm, đã hàng Thanh, giả ý khoản đãi, một mặt mật báo Anh Hàn. Ngày 4 tháng 4, Anh Hàn lập tức soái quân đến Tây Dương Tập bắt sống 3 cha con Nhạc Hành, do Ngưu Sư Hàn áp giải về đại doanh của Tăng Cách Lâm Thấm ở Nghĩa Môn Tập. Nhạc Hành cùng con trai Trương Hỷ, con nuôi Vương Uyển Nhi bất khuất mà bị giết ngay hôm sau. | 1 | null |
Sudden Strike (tạm dịch: "Đột kích") là một dòng trò chơi máy tính thuộc thể loại chiến thuật thời gian thực lấy bối cảnh Thế chiến II của Nga. Người chơi chọn một phe phái (ví dụ như Liên Xô, Đức hoặc Đồng Minh) và được quyền điều khiển nhiều đơn vị quân khác nhau như bộ binh, thiết giáp và pháo binh. Trò chơi tập trung chủ yếu vào chiến thuật và tránh đi theo lối chơi thu thập tài nguyên và phát triển căn cứ của chiến lược thời gian thực. Dòng game "Sudden Strike" được phát triển bởi hãng Fireglow có trụ sở tại Nga và được hãng CDV của Đức phát hành.
Các phiên bản.
Sudden Strike.
Phiên bản "Sudden Strike" đầu tiên được phát hành vào năm 2000 bao gồm ba chiến dịch (Liên Xô, Đức và Đồng Minh). Những trận chiến được thể hiện dưới khung cảnh đồ họa 2D và tầm nhìn cố định trải dài thiết thực. "Sudden Strike" giúp đi tiên phong trong thể loại chiến thuật thời gian thực, xây dựng dựa trên khái niệm được đưa vào trong tựa game "Counter Action" dành cho hệ điều hành DOS do hãng Mindscape/SSI phát hành vào năm 1996.
"Sudden Strike" sử dụng chính xác vật lý trong game với những ngôi nhà và các công trình che khuất hình ảnh, tầm nhìn và tầm bắn của đơn vị quân rong khi các lùm cây có thể dùng làm chỗ nấp để giảm bớt thiệt hại của đạn pháo xe tăng. Trò chơi cho phép các đơn vị quân đồn trú trong một công trình để có một vị trí khai hỏa mạnh hơn, đặc biệt là có giá trị cho bộ binh chống tăng. Các đơn vị quân có thể dừng trận đánh và triển khai do thám đối phương vốn rất cần thiết vào đầu màn chơi. Việc đánh giá thiệt hại cũng gần giống thực tế, xe tăng hoặc các loại xe khác nếu bị thiệt hại quá nặng thì sẽ bị rơi vào trang thái bất động trừ khi người chơi cho tiến hành sửa chữa ngay lập tức.
Sudden Strike Forever.
"Sudden Strike Forever" là một tiện ích chính thức cho "Sudden Strike" được phát hành vào năm 2001, trong đó giới thiệu nhiều đơn vị quân và trang thiết bị đúng về mặt lịch sử hơn, chẳng hạn như mẫu xe tăng T-34 cải tiến (phiên bản năm 1944). Các loại địa hình mới cũng được thêm vào như địa hình sa mạc cho các màn chơi phần chiến dịch phe Anh ở Tobruk và Tripoli và địa hình tuyết cho các màn chơi phần chiến dịch phe Liên Xô. Bản mở rộng còn trau chuốt game engine, làm cân bằng thiệt hại của các đơn vị nhất định và bổ sung thêm một công cụ biên tập kịch bản màn chơi và bản đồ. Tiện ích bao gồm bốn kịch bản liên kết với nhau của mỗi chiến dịch cho phe Đức, Mỹ, Anh và Liên Xô. Các đơn vị khác được bổ sung vào phần tiện ích gồm nhưng không giới hạn cho xe thiết giáp hạng nhẹ Universal Carrier của Anh; pháo BR-5, súng phóng lựu 160mm cho quân Liên Xô và nhiều hơn nữa. Hệ thống tiếp liệu cũng đã được tinh chỉnh như khẩu đội pháo sẽ tự động tái tiếp tế đạn dược bằng các thùng đạn gần đó thay vì nhờ vào xe tải tiếp tế như trước đây nhằm tăng tính cơ động. Tuy nhiên xe tải tiếp liệu vẫn còn cần thiết để sửa chữa những thiệt hại gây ra cho các đơn vị pháo binh.
Phần chiến dịch phe Đức đưa người chơi vào bối cảnh mùa đông ở vùng hậu phương của Nga với quân đội và quân tiếp viện có sẵn hạn chế, do đó phụ thuộc vào việc chiếm được các khẩu pháo của binh sĩ Liên Xô để làm trang bị. Chiến dịch của phe Anh thì lại bắt đầu từ việc bảo vệ một cảng biển vô danh từ các cuộc tấn công của quân Đức, trong khi chiến dịch của người Mỹ sẽ diễn ra tại Pháp trong mùa thu như những tán lá mọc trên cây cối. Chiến dịch của phe Liên Xô nói về một sư đoàn thiết giáp lớn phản công trên đất Nga và đột chiếm sân bay do Wehrmacht kiểm soát. Giống như các chiến dịch ban đầu trong bản "Sudden Strike" đầu tiên, những chỉ dẫn đều không giải thích bối cảnh lịch sử của chiến dịch, do đó chỉ có ra mệnh lệnh tiêu chuẩn cho người chơi ví dụ như xua tan các cuộc tấn công của kẻ thù hoặc chỉ đơn giản là đi qua một sân bay được chỉ định ở phía đông và như vậy. Tiện ích cũng bao gồm 5 kịch bản người chơi cá nhân mới cho phần chơi đơn.
Sudden Strike 2.
"Sudden Strike 2" cũng được phát triển bởi nhà phát triển Nga Fireglow và được CDV phát hành vào năm 2002. Trò chơi kể từ lúc chịu vài thay đổi nhỏ và có thêm tính năng thiết lập độ phân giải cao hơn và những thay đổi đồ họa khác. Phần chiến dịch vẫn còn liên quan đến Liên Xô và Đồng Minh cùng chống lại Đức Quốc xã và một quốc gia mới là Nhật Bản. Trong khi game cố gắng đạt đến độ chính xác về mặt lịch sử thì các màn chơi phần lớn là hư cấu. Các màn chơi chiến dịch của phe Mỹ trong khu vực sông Rhine và có xu hướng liên quan đến việc vay mượn trang thiết bị chiến tranh từ quân đội Đức thay vì sử dụng xe tăng và các vũ khí khác của riêng mình. Các màn chơi chiến dịch của phe Anh xoay quanh những sự kiện có thực trong lịch sử tại Wolfheze và Arnhem khi họ cố đánh chiếm cây cầu. Các màn chơi chiến dịch của phe Nhật thì lại tập trung dọc theo kiểu chiến tranh rừng rậm nhiệt đới và việc sử dụng các xe tăng có phần hạn chế trong khi các chiến dịch của phe Liên Xô dựa trên trận đánh chiếm thành phố Kharkov và những trận đánh khác dọc theo sông Dniepr do Hồng quân Liên Xô tiến hành.
Sudden Strike: Resource War.
Một phiên bản nâng cao của "Sudden Strike 2" được phát hành vào năm 2005. Trò chơi bổ sung thêm các chiến dịch mới cho tất cả các phe chơi được. Kèm theo một công cụ biên tập bản đồ dùng để tạo màn chơi và chiến dịch.
Sudden Strike 3: Arms for Victory.
"Sudden Strike 3" khác hẳn so với các bản khác trong dòng game ở chỗ nó là phiên bản duy nhất được dựng đồ họa 3D. Trò chơi được phát hành vào tháng 4 năm 2008 và hiện đang có một tiện ích miễn phí dành cho phiên bản này. Game bổ sung thêm phần chiến dịch Thái Bình Dương, cũng như các chiến dịch của Mỹ và Đồng Minh cùng phe Đức. Bên cạnh đó thì tính năng tạo màn cũng được cải tiến với nhiều chi tiết ví dụ như xây chiến hào.
Sudden Strike: The Last Stand.
"The Last Stand" được phát hành vào tháng 6 năm 2010 và là một phần tiếp theo của "Sudden Strike 3" với cam kết mang trở lại một vài tính năng từ "Sudden Strike 2". Giao diện người dùng được thiết kế lại để làm cho người chơi điều khiển các đơn vị quân và thực hiện chiến thuật của họ trong trò chơi được dễ dàng hơn. | 1 | null |
Lucius Iulius (Julius) Aurelius Septimius Vaballathus Athenodorus (266 – 273) là một vị vua của Đế quốc Palmyra. Vaballathus là tên kiểu Latinh của cậu bé theo tiếng Ả Rập là Wahb Allat hoặc món quà của Nữ thần. Vì nữ thần Ả Rập "Allāt" gần giống như Athena, nên cậu đã dùng cái tên "Athenodorus" làm tên kiểu Hy Lạp của mình.
Tiểu sử.
Cha của Vaballathus là tiểu vương xứ Palmyra, Septimius Odaenathus và mẹ là nữ hoàng Zenobia. Khi cha cậu bị người anh em họ của ông Maeonius ám sát vào năm 267, Vabalathus mới có 1 tuổi đã được quần thần cùng mẹ mình lập làm vua ("rex consul imperator dux Romanorum", "Vua của các vị vua lừng lẫy" và "người hiệu chỉnh totius orientis") của Đế quốc Palmyra. Do ấu đế còn quá nhỏ tuổi nên việc trị quốc đều do Zenobia đảm trách. Rồi sau đó nữ hoàng dẫn quân chinh phục các xứ Ai Cập, Syria, Palestine, Anatolia và Libăng để mở mang bờ cõi của đế chế.
Ban đầu Hoàng đế La Mã Aurelianus đã công nhận triều đình của Vaballathus có lẽ vì ông đang bận chinh chiến với Đế quốc Gallia ở phía tây và còn do dự trong việc kích động mở rộng chiến tranh với Đế quốc Palmyra nhằm tránh thế lưỡng đầu thọ địch. Việc công nhận lẫn nhau này đã được chứng minh từ những đồng tiền xu đầu tiên được đúc dưới thời Vaballathus. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa hai đế quốc ngày càng xấu đi và Aurelianus dần biến mất khỏi đồng tiền của mình, trong khi Zenobia và Vabalathus lần lượt công khai sử dụng danh xưng "Augusta" và "Augustus" đối chọi với Đế quốc La Mã.
Thế nhưng vương quốc của Zenobia và Vaballathus không tồn tại được lâu khi Aurelianus mang quân chinh phục và tàn phá kinh thành Palmyra vào năm 273 và bắt sống hai mẹ con Vaballathus mang về Roma làm con tin. Theo sử gia Zosimus cho biết thì Vaballathus đã mất trên đường đến Roma. Ngoài ra theo các nhà sử học khác thì Hoàng đế La Mã Aurelianus là một chiến thuật gia quân sự xuất sắc và là một nhà cai trị tài năng. Ông cũng là một trong những Hoàng đế La Mã nhân từ nhất trong lịch sử vì đã tha mạng cho cả hai mẹ con Vaballathus sau khi họ theo chân ông trong buổi lễ diễu hành ca khúc khải hoàn. Trên thực tế, Aurelianus đã ban cho Zenobia thân phận mệnh phụ La Mã và một ngôi biệt thự tráng lệ để bà được sống nốt quãng đời còn lại của mình. | 1 | null |
Lucius Septimius Odaenathus, Odenathus or Odenatus (tiếng Aram: ܐܕܝܢܬ / ; Greek: / "Hodainathos"; / ALA-LC: "Udhaynah") (? - 267), tên Latinh hóa theo kiểu Syria Odainath, là một vị vua xứ Palmyra, Syria và sau là Đế quốc Palmyra tồn tại trong thời gian ngắn vào nửa sau thế kỷ thứ 3, người đã thành công trong việc khôi phục phía Đông La Mã từ tay người Ba Tư và trả lại nó cho Đế quốc La Mã.
Tiểu sử.
Tên đầy đủ của ông là Lucius Septimius Odainath. một số ý kiến nói rằng tên của ông có nguồn gốc từ tiếng Aram, trong khi số khác nói rằng tên của ông có nguồn gốc từ tiếng Ả Rập "Odaina" có nghĩa là "Đôi tai nhỏ bé". Bảng phả hệ của Odaenathus cho thấy rằng ông là người gốc Ả Rập. Tên lót Septimius của ông cho thấy gia đình ông được nhận quyền công dân La Mã dưới thời một vị hoàng đế của nhà Severanus, và do đó trở thành gia tộc có thế lực nhất ở Palmyra kể từ thập niên 190. Ông là con trai của Lucius Septimius Herod (Hairān), một vị "nguyên lão và thủ lĩnh của Tadmor", con trai của Vaballathus (Wahballath) và là cháu của Nasor.
Không rõ khi nào mà Odaenathus trở thành người đứng đầu xứ Palmyra, nhưng đã có một bản khắc đề năm 258 mà ông được gọi là "ngài chấp chính quan lừng lẫy của chúng ta" (N.S.I. Số 126). Với người vợ Zenobia nổi tiếng trong lịch sử tích cực ủng hộ chính sách cai trị của chồng mình.
Sự kiện Hoàng đế Valerianus bị đánh bại và cầm tù vào năm 260 để lại các tỉnh phía đông chủ yếu ở lòng thương xót của người Ba Tư; triển vọng về uy thế của Ba Tư không phải là thứ mà vương quốc Palmyra mong muốn với bất kỳ lý do gì đi nữa. Lúc đầu, có vẻ như Odaenathus cố gắng làm lành với vua Ba Tư Shapur I; nhưng khi những món quà của ông bị từ chối một cách khinh khỉnh (Petr. Patricius, 10), ông quyết định rút lại lời tham gia làm đồng minh của mình viện cớ vì Roma. Tính trung lập đã khiến số phận của Palmyra bị bỏ rơi cho một chính sách quân thiết thực, vốn làm tăng thêm tiếng tăm của Odaenathus, trong một thời gian ngắn đưa thành phố quê hương của ông trở thành đống đổ nát. Quân của ông đại bại trước người Ba Tư đang ca khúc khải hoàn trở về nhà sau khi cướp phá tan tành Antioch và trước khi họ có thể vượt qua sông Euphrates thì Odaenathus đã chớp thời cơ giáng cho họ một trận thảm bại đáng kể.
Sau đó, khi hai vị hoàng đế phản loạn đã tiếm xưng đế hiệu ở phía Đông vào năm 261, Odaenathus bèn theo về phe của Gallienus là con trai và người kế vị của Valerianus, tấn công và giết chết kẻ cướp ngôi Quietus tại Emesa (nay là Homs) và được Gallienus tưởng thưởng cho lòng trung thành của ông bằng cách ban cho một vị trí đặc biệt vào năm 262. Ông có thể đã được hoàng đế thừa nhận tước hiệu vua từ trước; nhưng giờ đây ông đã trở thành "totius Orientis imperator", không hẳn là người đồng cai trị và cũng không phải là "Augustus", mà là một vị tướng độc lập của hoàng đế phụ trách các tỉnh phía Đông (Mommsen, Provinces, ii. p. 103).
Trong một loạt các chiến dịch nhanh chóng và thành công thì Odaenathus đã giao lại xứ Palmyra cho cấp phó của mình là Septimius Worod phụ trách (N.S.I. Nos. 127–129), rồi dẫn quân vượt qua sông Euphrates và giải vây cho Edessa, tái chiếm Nisibis và Carrhae (nay là Harran). Ông thậm chí còn đối chọi lại sức mạnh của người Ba Tư nhờ hai lần tiến quân công phá dãy tường thành thủ đô Ctesiphon của Ba Tư nhưng không chiếm được nó. Những thành công này đã giúp khôi phục sự cai trị của Đế quốc La Mã ở phía Đông; khiến Gallienus không dám khinh thường mà vội tổ chức một buổi lễ diễu hành mừng chiến thắng với những tù binh và chiến lợi phẩm của Odaenathus vào năm 264. Odaenathus còn kỷ niệm chiến thắng của mình ở phía Đông bằng việc chia sẻ với người con trưởng Hairan (Herodes) danh hiệu phương đông "vua của các vị vua".
Trong khi quan sát tất cả các nghi lễ từ phía vị chúa tể của mình, có bằng chứng đáng kể cho rằng Odaenathus đang định nhắm đến ngôi vị hoàng đế; nhưng trong suốt cuộc đời của ông hầu như không có ý định xung đột với Roma. Ông dự tính cùng Hairan quay lại Cappadocia để thảo phạt quân Goth đang xâm nhập bờ cõi đế chế thì đột nhiên hai cha con đều bị người cháu Maeonius ra tay ám sát. Đã có ý kiến cho rằng hành động bạo lực này là bị Roma xúi giục, nhưng không có chứng cứ trong các tài liệu lịch sử để làm chứng cho vụ án này.
Theo bộ sử không mấy tin cậy "Historia Augusta", Maeonius đã giết Odaenathus và Hairan trong một buổi lễ, thực ra là một âm mưu được tổ chức bởi Zenobia, người vợ thứ hai của Odaenathus nhằm đưa người con trai Vaballathus của họ lên kế thừa ngôi vị Odaenathus thay vì Hairan (là con trai của Odaenathus với một người phụ nữ khác). Phiên bản thường được chấp nhận, theo Gibbon thì vụ sát hại là để trả thù cho một khoảng thời gian ngắn bị Odaenathus giam giữ cũng do Maeonius đã tỏ thái độ bất kính với ông. Sau khi ông qua đời vào năm 267, Zenobia đóng vai trò nhiếp chính và nắm quyền trị vì xứ Palmyra thay mặt cho đứa con Vaballathus còn nhỏ tuổi. | 1 | null |
GAZ-69 là một xe tải hạng nhẹ bốn bánh được sản xuất bởi hãng GAZ (ГАЗ, hoặc "Gorkovsky Avtomobilnyi Zavod") từ năm 1953 đến 1954. Từ năm 1954 đến 1972 thì xe được sản xuất bởi hãng UAZ, gọi là UAZ-69, dù chúng thường được gọi là GAZ-69. Nó cũng được sản xuất theo giấy phép của ARO ở România, đầu tiên là IMS-57, sau đó là Muscel M59, rồi về sau được hiện đại hóa thành Muscel M461. Nhiều xe tải GAZ-69 đã được sử dụng ở Ba Lan trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
Các phiên bản cơ bản GAZ-69 có hai cánh cửa duy nhất và thường xuyên xuất hiện với loại vải bạt tiêu chuẩn hàng đầu và bên trên. Loại biến thể khác có GAZ-69A (UAZ-69A) với hai cặp cửa ra vào. Từ mẫu UAZ-69 đã được phát triển thành loại xe tải địa hình và xe tải hạng nhẹ UAZ-450 cùng mẫu xe jeep mới hơn UAZ-469.
GAZ-69 là chiếc xe địa hình hạng nhẹ cơ bản của quân đội Liên Xô, để thay thế GAZ-67 và Willys Jeep. GAZ-69 được tự thay thế bằng mẫu UAZ-469. Nó cũng được dùng làm cơ sở cho loại pháo tự hành chống tăng 2P26 và AT-1 Snapper cũng như cho chiếc GAZ 46 MAV, một loại xe lưỡng cư 4x4 hạng nhẹ, có thiết kế phần lớn được sao chép từ mẫu Ford GPA 'Seep' trong Thế chiến II. | 1 | null |
Nikka Graff Lanzarone (15 tháng 3 năm 1984) là một nữ diễn viên và vũ công. Cô sinh ra ở Los Angeles, California và là con gái của nữ diễn viên Ilene Graff và cháu gái của diễn viên và đạo diễn Todd Graff. Năm 3 tuổi, Graff chuyển đến sống ở New York và trở thành một vũ công.
Những phim tham gia.
Broadway | 1 | null |
Zhang Shaozeng (tiếng Trung: 張紹曾, Wade-Giles Chang Shao-ts'eng) (1879-21 tháng 3 năm 1928) là một tướng lĩnh quân Bắc Dương phụ trách Sư đoàn 20.
Tiểu sử.
Trương sinh tại tỉnh Trực Lệ và tốt nghiệp học viện quân sự của Nhật năm 1901. Ông là một người cấp tiến, tán thành chế độ quân chủ lập hiến và ủng hộ cuộc binh biến của Ngô Lôc Trinh trong cách mạng Tân Hợi. Ông là người đứng đầu đảng Tiến Bộ tại Thiên Tân.
Năm 1912, ông đã bảo đảm sự trung thành của các bộ lạc nội Mông Cổ với Viên Thế Khải. Tuy nhiên ông đã cắt đứt quan hệ với Viên khi diễn ra Hộ quốc chiến tranh và là một trong những người đầu tiên chống lại nỗ lực khôi phục nhà Thanh của Trương Huân năm 1917.
Ông đã gia nhập quân phiệt Trực Hệ của Tào Côn và cai trị Nhiệt Hà. Ông và Ngô Bội Phu ủng hộ sự trở lại của Quốc hội ban đầu. Năm 1923 ông làm thủ tướng của Lê Nguyên Hồng. Ông phản đối kế hoạch của Tào và Ngô đánh Quảng Đông để triệt hạ chính phủ đối chọi Tôn Dật Tiên và chủ trương đàm phán để hợp nhất. Trong thời gian làm thủ tướng chính phủ Bắc Dương, Trương Thiệu Lâm nổi tiếng là tham lam và tự phụ. Sau khi từ chức, ông buộc phải chạy trốn vào tòa công sứ Anh ở Thiên Tân.
Năm 1928, ông bị Trương Học Lương ám sát vì phát hiện ông có quan hệ với Quốc Dân Đảng và Quốc Dân Quân. | 1 | null |
Durex là một thương hiệu bao cao su từng có chủ sở hữu là Công ty SSL International của Anh. Tháng 7 năm 2010 công ty này đã được bán lại cho tập đoàn Reckitt Benckiser cũng của Anh. Bên cạnh mảng sản phẩm nổi tiếng của thương hiệu là bao cao su, thương hiệu cũng có những sản phẩm khác như chất bôi trơn và máy rung.
Lịch sử.
Durex là thương hiệu bao cao su và chất bôi trơn cá nhân thuộc sở hữu của Reckitt Benckiser. Bao cao su lần đầu tiên được sản xuất tại Paris vào năm 1908 trước khi được mua lại bởi công ty Colman’s của Anh hiện đã không còn tồn tại. Sau đó, nó được phát triển ở London dưới sự giám sát của Công ty Cao su London và British Latex Products Ltd, nơi nó được sản xuất từ năm 1932 đến năm 1994. Công ty Cao su London được thành lập vào năm 1915, và tên thương hiệu Durex ("Độ bền, Tính đảm bảo và Sự xuất sắc") được đưa ra vào năm 1929 mặc dù London Rubber không bắt đầu sản xuất bao cao su nhãn hiệu riêng cho đến năm 1932, với sự hợp tác của một sinh viên công nghệ cao su đến từ Ba Lan tên là Lucian Landau. Cuốn sách đầu tiên về Công ty Cao su London và lịch sử của bao cao su Durex, được viết bởi Jessica Borge, được xuất bản vào tháng 9 năm 2020 bởi Nhà xuất bản Đại học McGill-Queen. Nhãn hiệu này được Công ty cao su Luân Đôn đăng ký thương hiệu năm 1929 là chữ viết tắt của "Durability, Reliability, and Excellence" (Độ bền, Tính đảm bảo và Sự xuất sắc) mặc dù có vài người nhầm lẫn đó là "Durable Latex" (cao su bền bỉ).
Bao cao su Durex chiếm khoảng một phần tư thị phần toàn cầu về trang bị bảo vệ trong quan hệ tình dục. Bao cao su Durex bán chạy thứ hai tại thị trường Mỹ, sau thương hiệu Trojan.
Sản xuất.
Mỗi năm có hơn một tỉ sản phẩm được sản xuất bởi 17 nhà máy trên toàn cầu. Năm 2007, hệ thống sản xuất bao cao su Durex tại Anh đã được chuyển đến Trung Quốc, Ấn Độ và Thái Lan.
Các sản phẩm.
Các dòng sản phẩm của Durex bao gồm chín loại bao cao su latex, hai nhãn hiệu nổi tiếng nhất ở Bắc Mỹ là "Sheik "và "Ramses", và bao cao su "Avanti", loại bao cao su đầu tiên được chế tạo từ polyurethane. Bao cao su polyurethane không bị mục nhiều như bao cao su latex và thích hợp cả với những người bị dị ứng latex.
Những sự kiện liên quan.
Thế vận hội mùa hè 2012.
Tuy không phải là nhà tài trợ chính thức cho Thế vận hội, Durex đã tặng 150.000 bao cao su miễn phí cho hơn 10.000 vận động viên thi đấu tại Thế vận hội Mùa hè Luân Đôn 2012. | 1 | null |
Chu Vĩnh Khang (sinh 3 tháng 12 năm 1942) là một lãnh đạo cao cấp về hưu của Đảng cộng sản Trung Quốc (CCP), nguyên Bộ trưởng Bộ Công an, từng giữ chức trong Ban thường vụ bộ chính trị lần thứ 17 và chủ nhiệm Ủy ban Chính trị - Pháp luật trung ương từ năm 2007 đến năm 2012. Trên cương vị đó, Chu giám sát các lực lượng an ninh và các cơ quan thực thi pháp luật của Trung Quốc.
Chu từng là ủy viên Hội đồng Quốc vụ viện cho đến tháng 3 năm 2008 và là thành viên của Văn phòng Ủy ban trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc. Ông từng giữ chức thị trưởng thành phố Bàn Cẩm ở tỉnh Liêu Ninh từ năm 1983 đến 1985 và giữ chức bộ trưởng công an của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ năm 2002 đến 2007. Ông về hưu tại Đại hội Đảng lần thứ 18 năm 2012.
Trong thời gian còn đương chức, Chu Vĩnh Khang được cho là đã dính líu đến nhiều vụ tham nhũng, lạm dụng quyền hành và bị cáo buộc là một trong những thủ phạm chính trong cuộc đàn áp môn khí công Pháp Luân Công.
Ông là đồng minh thân cận của Bạc Hy Lai, một quan chức cấp cao bị cách chức vì các bê bối chính trị và tham nhũng.
Hiện tại Chu Vĩnh Khang cũng đang là đối tượng điều tra của chính phủ Trung Quốc trong chiến dịch bài trừ tham nhũng. Hơn nữa ông cũng bị bê bối vì dính tới các vụ án mua bán dâm và quan hệ tình dục bất chính với hàng trăm phụ nữ. Tờ China Times dẫn lời các điều tra viên cho rằng ông Chu có ít nhất 6 căn nhà riêng để “vui vẻ với phụ nữ” ở thủ đô Bắc Kinh.
Vào ngày 11 tháng 6 năm 2015, Chu bị kết án hối lộ, lạm dụng quyền lực và cố ý tiết lộ bí mật nhà nước bởi Tòa án Trung cấp ở Thiên Tân. Zhou và các thành viên trong gia đình ông bị buộc tội hối lộ 129 triệu nhân dân tệ (hơn 20 triệu đô la). Ông bị kết án tù chung thân.
Tiểu sử và sự nghiệp.
Sinh tháng 12 năm 1942, Chu Vĩnh Khang là người gốc Vô Tích, tỉnh Giang Tô. Năm 1964 Chu gia nhập Đảng cộng sản Trung Quốc, sau đó tham gia công tác khảo sát địa chất ở vùng đông bắc Trung Quốc năm 1966 khi Đại Cách mạng Văn Hóa nổ ra. Ông tốt nghiệp khoa khảo sát và thăm dò của Học viện dầu khí Bắc Kinh chuyên ngành khảo sát và thăm dò địa chất. Là một cử nhân đại học, ông giữ danh hiệu Kỹ sư cao cấp với cấp bậc tương đương giáo sư.
Trong những năm 1960 và 1970, ông dành hầu hết sự nghiệp của mình làm việc trong ngành công nghiệp dầu khí. Đến giữa những năm 1980, ông là Thứ trưởng ngành công nghiệp dầu khí, và từ năm 1996 giữ chức Tổng Giám đốc Tập đoàn dầu khí quốc gia Trung Quốc, công ty năng lượng lớn nhất Trung Quốc. Năm 1998, ông giữ chức Bộ trưởng Tài nguyên và môi trường, và năm 1999 là Bí thư Đảng ủy tỉnh Tứ Xuyên. Đến năm 2002, ông được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ công an nhiệm kỳ 2002-2007. Thời gian ông ở Tứ Xuyên và giữ chức Bộ trưởng Công an đã làm ông được lưu ý bởi chính quyền trung ương Đảng, và vào năm 2007, ông được cử thay thế vị trí của La Cán, người nghỉ hưu từ Ủy ban chính trị và hành pháp, và chịu trách nhiệm về tòa án, cảnh sát, các lực lượng bán quân sự và nhiều cơ quan an ninh và gián điệp của chính phủ. Do đó, mặc dù Chu Vĩnh Khang có thứ hạng thấp nhất trong Ban thường vụ Bộ chính trị, nhưng đó không phải là thước đo quyền lực thực tế của ông ta.
Một số thư điện tín ngoại giao bị rò rỉ của Mỹ từ trang Wikileaks đã khẳng định sự nhúng tay của Chu vào cuộc tấn công mạng của Bắc Kinh nhằm vào Google, mặc dù tính xác thực của lời tuyên bố này bị nghi vấn. Một số bức thư điện tín khác cho rằng cha con Chu Vĩnh Khang có ảnh hưởng lớn trong việc kiểm soát sự độc quyền của ngành công nghiệp dầu mỏ.
Vào tháng 5 năm 2012, tờ thời báo tài chính (Financial Times) tường thuật rằng Chu đã nhường quyền điều hành của ủy ban chính trị- tư pháp cho Bộ trưởng Công an Mạnh Kiến Trụ do sự ủng hộ của ông ta với cựu chính trị gia Bạc Hy Lai, và đã mất quyền lựa chọn người kế vị khi ông ta thôi việc khỏi Ban chính trị vào mùa thu năm 2012. Thời báo New York sau đó tường thuật rằng địa vị của Chu vẫn không thay đổi.
Vào tháng 8 năm 2013, Chính phủ Trung Quốc mở một cuộc điều tra nhắm vào Chu Vĩnh Khang như một phần của chiến dịch chống hối lộ tiếp sau vụ Bạc Hy Lai.
Ngày 5 tháng 12 năm 2014, Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị Trung Quốc công bố Chu Vĩnh Khang, cựu ủy viên của Bộ này đã bị khai trừ khỏi Đảng và sẽ bị khởi tố với các tội danh có phạm vi từ "nhận hối lộ đến làm lộ bí mật của Đảng và quốc gia”. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao Trung Quốc cũng đã chấp thuận lệnh bắt giữ Chu.
Sự cố Bạc Hy Lai và các diễn biến tiếp theo.
Vào ngày 7 tháng 3 năm 2012, trong phiên họp thứ hai của Ban Thường vụ Bộ Chính trị, Hồ Cẩm Đào, Ôn Gia Bảo, Lý Khắc Cường và những người khác quyết định trừng trị Bạc Hy Lai do sự dính líu ông ta đến Vụ Vương Lập Quân, chỉ có Chu Vĩnh Khang bỏ phiếu chống. Lý do Chu bỏ phiếu chống là vì Bạc Hy Lai là đồng minh thân cận của Chu, nếu Bạc bị điều tra thì những thông tin mật giữa hai người sẽ bị rò rỉ.
Ngày 12 tháng 4 năm 2012, tại Đại Lễ Đường, Chu Vĩnh Khang đã gặp những người đứng đầu các nước thành viên của Tổ chức Hợp tác Thượng Hải và các đoàn đại biểu của cuộc họp Bộ trưởng Hội đồng Bảo An lần thứ bảy. Vào ngày 17 cùng tháng, Chu Vĩnh Khang tham dự hội nghị qua điện thoại về việc công nhận thành tích xây dựng hệ thống tư pháp quốc gia, và thay mặt Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc hội gửi lời chúc mừng đến các đơn vị. Phát biểu tại hội nghị, Chu Vĩnh Khang nói rằng các sĩ quan cảnh sát nên giữ một tư tưởng chính trị trong sạch, tuân thủ đường lối chính trị của Đảng. Lập trường chính trị của ông được cho là tương đồng với tổng bí thư Hồ Cẩm Đào.
Ngày 13 tháng 5 năm 2012, tờ Financial Times của Anh đưa tin rằng mặc dù Chu Vĩnh Khang vẫn giữ chức trong Ban Thường vụ Bộ Chính trị và Ủy ban Chính trị Pháp luật (PLAC), nhưng theo ít nhất ba quan chức Đảng cao cấp và nhà ngoại giao thì quyền lực của ông ta đã bị chuyển giao cho phó giám đốc PLAC là Mạnh Kiến Trụ. Việc chuyển giao quyền lực lần thứ nhất của Chu diễn ra chủ yếu sau khi cựu bí thư Trùng Khánh Bạc Hy Lai bị thất thế. Đảng cộng sản Trung Quốc đã phủ nhận việc Chu chuyển giao quyền lực.
Ngày 17 tháng 5 năm 2012, tại tỉnh Vân Nam, 16 đảng viên lâu năm đã kiến nghị lên Bộ chính trị trung ương, cáo buộc việc bao che Bạc Hy Lai của Chu Vĩnh Khang là "hành vi phạm tội" và yêu cầu loại trừ Chu Vĩnh Khang khỏi vị trí lãnh đạo Ủy ban Chính trị Pháp luật, Ban Thường vụ Bộ Chính trị và các chức vụ khác. Đồng thời họ cũng yêu cầu loại trưởng ban tuyên truyền trung ương Lưu Vân Sơn khỏi đại hộ Đảng lần thứ 18 và Ban Thường vụ Bộ Chính trị.
Trưa 17 tháng 7 năm 2012, trong thời gian diễn ra Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng, Chu Vĩnh Khang đã tham gia một cuộc hội nghị qua điện thoại tại Đài truyền hình quốc gia và làm một bài diễn văn về công tác ổn định trật tự xã hội. Ông nhấn mạnh sự cần thiết để thực thi một cách quyết tâm các chỉ thị của Trung ương, tự tin đối phó với các thách thức từ xã hội và làm tốt việc duy trì trật tự để tạo một môi trường ổn định và yên bình cho sự thắng lợi của Đại hội Đảng lần thứ 18.
Ngày 29 tháng 8 năm 2012, theo báo cáo của Reuters, thì Bộ Chính trị dự định sẽ giảm số ghế trong Ban Thường vụ Chính trị từ 9 xuống 7 và cắt giảm quyền lực của Ủy ban Chính trị Pháp luật. Người đứng đầu PLAC sẽ không còn là thành viên vĩnh viễn trong Ban Thường vụ.
Ngày 19 tháng 11 năm 2012, Ban Thường vụ Trung ương Bộ Chính trị ra quyết định Chu Vĩnh Khang thôi giữ chức trong Bộ Chính trị và Mạnh Kiến Trụ giữ chức bí thư Ủy ban Chính trị Pháp luật.
Thông tin báo chí.
Từ tháng 8 năm 2013, giới truyền thông đưa tin rằng tình trạng tham nhũng của gia đình Chu Vĩnh Khang đang bị điều tra. Tờ South China Morning Post của Hồng Kông vào ngày 21 tháng 10 năm 2013 đưa tin rằng tổng bí thư Tập Cận Bình đã thành lập một đội đặc biệt, dẫn đầu bới thứ trưởng Bộ công an và Cục trưởng cục an ninh Bắc Kinh Phó Chính Hoa để điều tra vụ bê bối tham nhũng của Chu Vĩnh Khang.
Tháng 12 năm 2013, truyền thông nước ngoài liên tục đưa tin rằng Chu Vĩnh Khang bị nghi ngờ tiến hành một âm mưu đảo chính chủ tịch nước Tập Cận Bình và thủ tướng Lý Khắc Cường tại Đại hội Đảng lần thứ 18. Đồng thời ông ta còn được cho là đã chỉ thị cho thuộc hạ của mình giết người vợ đầu. Theo các bản tin của RFA thì hai tài xế cũ của Chu đã thú nhận rằng Quách Vĩnh Tường, một tài xế cũ của Chu nay giữ chức bí thư đảng tỉnh Tứ Xuyên, đã sát hại người vợ cũ của Chu trong một vụ "tai nạn" theo lệnh của Chu Vĩnh Khang. Người vợ cũ của Chu bị hai hơi xe tông liên tiếp từ hướng đối diện. Cả hai tài xế đều là sĩ quan cảnh sát và bị kết án từ 15 đến 20 năm tù giam. Nhưng họ được thả ra ba bốn năm sau và làm việc cho một công ty dầu mỏ của nhà nước. Vài tháng trước, cả hai người ngày đã thú nhận về vụ giết người sau khi bị bắt .
Tờ Minh Kính của Hồng Kông đưa tin vào ngày 4 tháng 12 rằng chiều tối ngày 1 tháng 12 Lênh Chiến Thư, chủ nhiệm Văn phòng trung ương đã dẫn theo các nhân viên an ninh đến nhà Chu Vĩnh Khang đọc lệnh bắt của Trung ương. Vợ thứ hai của Chu là Giả Hiểu Diệp cũng bị bắt cùng chồng.
Ngày 29 tháng 7 năm 2014, Tân Hoa Xã đưa thông cáo ngắn công bố điều tra Chu Vĩnh Khang do nghi ngờ "vi phạm kỷ luật nghiêm trọng". Theo The Daily Beast: "Đây là lần đầu tiên trong 20 năm qua một thành viên ủy ban thường trực Bộ Chính trị bị điều tra hình sự. Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử của Đảng Cộng sản Trung Quốc, một thành viên Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị bị đưa ra tòa về tội giết người và tham nhũng."
Điều tra, tịch thu số tài sản do tham nhũng mà có của Chu Vĩnh Khang, gia đình và nhóm lợi ích
Theo bản “Thông báo nội bộ” của “Tổ chuyên án Chu Vĩnh Khang và gia đình” thuộc Ủy ban Chính trị - Pháp luật trung ương về “Danh mục kiểm kê khám nhà” đối với Chu Vĩnh Khang cho biết: Trong các ngày 02/12/2012, 10 và 22/01/2014, Viện Kiểm sát 7 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là Bắc Kinh, Liêu Ninh, Giang Tô, Sơn Đông, Thượng Hải, Quảng Đông đã ra lệnh khám xét 3 đợt đối với 29 khu nhà ở của gia tộc Chu Vĩnh Khang tại đây.
Kết quả: Chu Vĩnh Khang và những người thân (vợ con, anh em) có tổng cộng 326 căn nhà với tổng trị giá 1 tỷ 760 triệu tệ ở 12 thành phố: Bắc Kinh, Thẩm Dương, Đại Liên, Tế Nam, Yên Đài, Thành Đô, Nam Kinh, Vô Tích, Tô Châu, Thượng Hải, Quảng Châu, Thâm Quyến.
Qua khám xét đã thu giữ 47,850 kg vàng, bạc; số lượng rất lớn tiền mặt gồm hơn 150 triệu tệ, hơn 2 triệu 700 ngàn USD...
Ngoài số tiền, vàng, các nhân viên điều tra còn thu giữ số lượng lớn đồ cổ, 55 tranh, thư pháp quý tổng trị giá ước tính từ 800 triệu đến 1 tỷ tệ; 62 xe ô tô các loại trong đó có cả xe quân sự và nhiều siêu xe đắt tiền.
Nghiêm trọng hơn, đã phát hiện Chu Vĩnh Khang và người thân đã tàng trữ trái phép cả “kho vũ khí” 27 khẩu súng, gồm 15 khẩu súng ngắn K76, K96, K99 do Trung Quốc sản xuất, 12 khẩu súng ngắn của Đức, Nga, Anh, Bỉ và hơn 11 ngàn viên đạn các cỡ.
Các nhân viên điều tra đã phong tỏa 947 tài khoản nội tệ, 117 tài khoản ngoại tệ đặt tại ngân hàng. Người ta còn thu giữ số cổ phiếu các ngành dầu khí, hàng không, ngân hàng...
Theo thống kê bước đầu, tổng số của cải mà Chu Vĩnh Khang và gia tộc vơ vét được đã lên tới 100 tỷ tệ (16 tỷ USD - tương đương 10% lợi nhuận của tổng cộng 113 doanh nghiệp nhà nước trực thuộc trung ương).
Ngoài ra với nhóm lợi ích của Chu Vĩnh Khang: Thông tin được phương tiện truyền thông Trung Quốc tiết lộ ngày 03/09/2014, sau một tháng lập án điều tra, số tiền liên quan trong vụ án tham nhũng do cựu Ủy viên thường vụ Bộ Chính trị Trung Quốc Chu Vĩnh Khang đứng đầu hơn 500 tỉ nhân dân tệ (hơn 81,07 tỷ đô la Mỹ).
Sự cố Google rút khỏi Trung Quốc.
Theo thông tin tiết lộ từ Wikileaks thì việc Google rút khỏi Trung Quốc vào năm 2010 là có sự nhúng tay của hai thành viên trong Ban Thường vụ Chính trị là Lý Trường Xuân và Chu Vĩnh Khang.
Xét xử và Tuyên án.
Vào ngày 11/6/2015, tòa án Trung cấp Nhân dân số 1 Thiên Tân tuyên án Chu Vĩnh Khang tù chung thân do các tội nhận hối lộ, lạm dụng quyền hành và tiết lộ bí mật nhà nước. Tòa án đồng thời còn ra lệnh tịch thu tất cả các tài sản của ông. Chu Vĩnh Khang đã nhận tội và sẽ không kháng cáo.
Với bản án này, Chu Vĩnh Khang là mục tiêu lớn nhất cho đến nay bị hạ trong chiến dịch chống tham nhũng của chủ tịch nước Tập Cận Bình.
Gia đình.
Vợ cả: được cho là đã bị sát hại bằng cách giàn dựng vụ tai nạn giao thông
Vợ thứ hai: Giả Hiểu Hiệp.
Con trai cả: Chu Bân, người đang kiểm soát công việc kinh doanh của gia đình họ Chu. Theo Reuters thì có khả năng Chu Bân đang bị giam giữ để điều tra tham nhũng.
Con trai thứ hai: Chu Hàn
Em gái: Chu Linh Anh | 1 | null |
Đình Bến Thế hay đình Tân An tọa lạc tại khu phố 1, phường Tân An, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
Quá trình hình thành.
Đình được xây dựng vào năm 1820 bởi nhân dân của 4 xã: Tương Bình (Tương Bình Hiệp), Tương An (Tân An), Tương Hòa (Định Hòa) và Cầu Định. Ban đầu chỉ là mấy gian nhà lá đơn sơ lấy tên là Tương An miếu, thờ thần Thành Hoàng Bổn Cảnh.
Khoảng 30 năm sau đó, tổ tiên dòng họ Nguyễn tại địa phương đã đứng ra chủ trì xây dựng lại ngôi đình với quy mô lớn hơn và có hình dáng như bây giờ.
Ngày 21 tháng 01 năm Tự Đức thứ 21 (1869), vua Tự Đức ban sắc phong cho đình Tân An, công nhận ngôi đình và phong tước hiệu cho thần Thành Hoàng để nhân dân biết mà thờ cúng. Theo sắc phong của vua ban thì vị thần được thờ chính trong đình là Thành Hoàng Bổn Cảnh.
Ngày 26 tháng 04 năm 2004 đình Tân An được UBND tỉnh Bình Dương ký quyết định công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Hàng năm đình Tân An được nhà nước cấp kinh phí trùng tu, bảo quản.
Không gian kiến trúc.
Ngôi đình được xây dựng theo lối kiến trúc sắp đọi, 4 mái, gồm 3 khu chính.
Ngoài ra, ở phía Đông và phía Tây là khu nhà trú dùng để tổ chức yến tiệc trong những ngày tế lễ. Phía trước võ ca còn có hai miếu nhỏ với kiến trúc cổ kính thờ Bạch Mã Thái giám - phương tiện đi lại của thần và thần Hổ - thần cai quản núi rừng. Phía trước đình là "đài xã tắc", nơi thờ thần Đất và thần Lúa nếp.
Lễ hội.
Lễ hội đình Tân An được tổ chức theo định kỳ hàng năm cúng nhỏ, đáo lệ ba năm cúng lớn (tam niên đáo lệ kỳ yên) vào những năm Tý, Mão, Ngọ, Dậu. Lễ hội diễn ra 3 ngày 3 đêm từ 14 đến 16 tháng 11 âm lịch. Ban quý tế gồm 30 người được phân công thành các ban: ban tiếp tân có nhiệm vụ đón khách; ban trật tự giữ gìn an ninh trong những ngày diễn ra lễ hội; ban nấu nướng phụ trách mua sắm, làm tiệc; ban tài chính quản lý chi tiêu, ban lễ vật có nhiệm vụ nhận và trả lễ vật bà con dâng cúng.
Cửa hậu điền và tất cả các cánh cửa khác trong đình được mở rộng để đón mọi người đến tham dự.
Ngôi đình này đã từng là phim trường của các bộ phim như: Vó ngựa trời Nam, Lục Vân Tiên, Ván bài lật ngửa, Đất phương Nam. | 1 | null |
Cá chạch suối đuôi gai (danh pháp khoa học: Barbucca diabolica) là một loài cá chạch nhỏ thuộc chi "Barbucca", trước đây xếp trong họ Balitoridae, nhưng từ năm 2012 đã được tách ra thành một họ mới là Barbuccidae.
Từ nguyên.
Barbucca từ tiếng Latinh là barba,-ae: có nghĩa là râu, từ Latinh bucca là miệng. Tên gọi diabolica là để chỉ đặc trưng đôi mắt đỏ rực và đuôi nhọn của loài này.
Phân bố.
Có thể tìm thấy nó trong các con suối nhỏ trong rừng cũng như tại các vùng nước tù đọng, nơi nó ăn tảo, mảnh vụn và các động vật không xương sống nhỏ ở tầng đáy. Nó có thể dài tới 2,3 cm (0,91 inch).
Loài này được biết đến là có tại Borneo (từ Sarawak tới lưu vực sông Mahakam), Sumatra (sông Batang Hari và rất có thể là các lưu vực sông khác, như sông Musi), bán đảo Mã Lai về phía bắc tới Sungaikolok (Thái Lan), đông nam Thái Lan (vườn quốc gia Khao Wong tại Khao Chamao, tỉnh Rayong; khu bảo tồn sự sống hoang dã Khao Soi Dao trong tỉnh Chanthaburi), Campuchia (lưu vực phía tây Tonlé Sap) và có thể có ở Việt Nam (đảo Phú Quốc). | 1 | null |
Họ Cá may (danh pháp khoa học: Gyrinocheilidae) là một họ cá dạng cá chép (Cypriniformes) chỉ chứa một chi Gyrinocheilus với 3 loài cá sinh sống trong vùng nước ngọt thuộc các con suối miền núi có nước chảy nhanh ở Đông Nam Á, trong tiếng Việt gọi chung là cá may. Chiều dài tối đa khoảng 30–35 cm.
Chúng bám vào các vật cố định bằng miệng giống như một giác mút. Thức ăn của chúng là một loạt các loại mảnh vụn và tảo. Chủng cá may màu vàng kim có thể thấy ở nhiều cửa hàng bán chim, thú, cá cảnh và trang trại nuôi cá. | 1 | null |
Tại thủ phủ München của bang Bayern có tới hơn 1000 cái cầu. Những cái cầu mà thường được biết tới và cũng đóng phần tạo nên một bức ảnh của thành phố này là những chiếc cầu bắt ngang qua sông Isar cũng như qua những tuyến đường sắt rộng chạy từ München tới Augsburg.
Lịch sử.
Thời Trung cổ và Cận đại.
Chiếc cầu cổ nhất nằm trên lãnh thổ thành phố ngày nay là cầu Föhring bắt qua sông Isar, nằm gần đập nước Oberföhring. Nó được nhắc tới trong văn kiện Augsburger Schied từ năm 1158, trong khi đó cho tới bây giờ cũng chưa rõ, là lúc thành phố München được thành lập có cầu nào bắt qua sông Isar không? Cho tới năm 1180 thì một cầu mà bây giờ nằm ở vị trí cầu Ludwig mới được nhắc tới. Sau khi cầu Föhringer bị phá hủy bởi Heinrich Sư tử thì cầu đó là cầu Isar duy nhất từ thành phố Bad Tölz cho tới Freising mà có thể đi xe ngựa qua.
Vào thời Trung cổ thì nhiều cầu được dựng lên bắc qua các con suối trong thành phố. Trước những cổng thành của tường trong và tường ngoài thành phố có những cầu bắt qua những hố nước. Cuối thế kỷ thứ 15 trong danh sách các cầu của thành phố có 49 chiếu cầu, mà thành phố chịu trách nhiệm tu bổ, trong số đó chỉ có 1 chiếc cầu đá. Tuy nhiên đó là chưa kể các cầu trong các danh thự của công tước hay của tư nhân.
Những thế kỷ sau đó con số các chiếc cầu thay đổi rất ít, tuy nhiên dần dần các cầu gỗ được thay thế bằng cầu đá. Đầu tiên là các cầu qua các hào trước các cổng thành vào thế kỷ 16, đến thế kỷ thứ 18 thì thay cầu Isar từ gỗ thành đá.
Thế kỷ 19.
Năm 1804, một cây cầu thứ hai bắt ngang qua sông Isar được xây tại chỗ bây giờ gọi là cầu Max Joseph ở Bogenhausen, hồi đó còn ở ngoài phạm vi lãnh thổ thành phố, ban đầu chỉ là cầu gỗ, sau đó vào năm 1811 được thay thế bởi 1 cầu gỗ khác nhưng được chống bằng các cột trụ bằng gạch đá.
1813 một phần của cầu Schwanen bị sụp, đưa tới cái chết của khoảng 100 người tới cầu xem vì tò mò. Ban đầu người ta chỉ xây lại tạm bợ, mãi đến 1828 thì cầu Isar ngoài cùng mới được xây lại hoàn toàn và sau đó được đặt tên theo ông vua lúc bấy giờ là Ludwig I, tức là cầu Ludwig. Năm 1832, cầu Isar thứ ba là cầu Reichenbach được xây bằng gỗ. Theo bản kê khai các cầu thì München vào năm 1833 có tới 162 cầu, tuy nhiên đó là chưa kể tới vùng ngoại ô như Au nằm về phía bên kia của sông Isar, nơi mà tới năm 1854 mới trở thành một vùng của München và vì suối Auer Mühlbach với rất nhiều nhánh nên cũng có nhiều cầu.
Trong khuôn khổ xây những con đường rộng đẹp như đường Maximilian và Prinzregenten dẫn ra ngoài về hướng Đông, từ năm 1859–65 cầu Maximilian được xây như là một cầu đá vào năm 1891 cầu Luitpold là một cầu sắt với 3 vòng cầu. Vì phương tiện lưu thông xe lửa mới từ năm 1850–57 cầu Großhesseloher và 1869–71 Braunauer được xây thành cầu đường sắt. Từ năm 1874–76 để mà cải thiện phương tiện giao thông nối liền phố cổ với vùng Giesing, mà trở thành một phần của München vào năm 1854, người ta cho xây cầu Wittelsbacher và để thay thế cho cầu gỗ 1873 bị sập vì ngập lụt, vào năm 1876 một cầu khung sắt ở Bogenhausen cũng được xây mới. Trên quãng đường xe lửa rộng dẫn từ München tới Augsburg năm 1870 cầu Herbststraßenbrücke được hình thành, tuy nhiên vì phương tiện lưu thông càng ngày càng tăng nên 1891/92 đã được thay thế bởi một cầu mới, bây giờ là cầu Hacker, còn cái cầu cũ Herbststraßenbrücke thì được dùng để xây lại cầu mới một khoảng xa hơn, bây giờ gọi là cầu Donnersberger. Từ năm 1891 đến 1892 cầu Ludwig được thay thế bởi một cầu mới. Năm 1892 cầu Ludwig-Ferdinand bắt qua kênh đào Nymphenburger là cầu vòng đầu tiên, mà bê tông cốt thép được dùng làm nguyên liệu. Cuối thế kỷ 19 những chiếc cầu đầu tiên dành cho người đi bộ cũng được xây, đó là cầu Marianne (1888) và Kabelsteg (1898) để nối liền với đảo Praterinsel, cầu Wehrsteg (München) (1888) nối liền với 2 đảo nằm trên sông Isar và cầu Flauchersteg (1890) bắt ngang sông Isar ở miền Nam thành phố.
Đầu thế kỷ 20.
Trong trận lụt lớn mà cả trăm năm mới có một lần vào năm 1899 cầu Luitpold (München) và cầu (bây giờ được gọi là cầu Max Joseph) Bogenhausener bị hư hại hoàn toàn, tuy nhiên may thay là không có ai chết. Đầu tiên vào năm 1901 cầu Luitpold được xây trở lại, về tài chánh thì cũng như chiếc cầu nguyên thủy nhiếp chính Luitpold von Bayern chịu chi phí. Cầu Bogenhausener ban đầu chỉ được xây lại tạm bợ. Sau đó cơ quan hành chính thành phố quyết định thực hiện một chương trình xây cầu, theo như đề nghị của hãng Sager & Woerner mà đã xây lại cầu Luitpold. Theo đề nghị này sẽ xây 5 cầu mới bắt ngang qua sông Isar và cầu Wittelsbacher sẽ được xây lại ở Thalkirchen, vì khi quận này nhập vào München vào năm 1900 đã được hứa là sẽ xây cho quận một cây cầu riêng. Bởi vì những dàn chống để xây cầu và cái cầu tạm bợ có thể dùng lại khi xây cầu mới, nên chi phí giảm đi rất nhiều hơn là chỉ xây một chiếc cầu riêng biệt. Trước hết vào năm 1902 cầu Max Joseph được xây trở lại. 1903 tới phiên cầu Cornelius (München), một cầu mới giữa quận Isarvorstadt và quận Au, cũng như cầu Reichenbach. Trái với hoạch định ban đầu vào năm 1903/04 tại quận Thalkirchen một cầu gỗ có cột chống bằng thép bọc bê tông được xây. Một phần là nó hợp với phong cảnh chung quanh hơn, theo sự yêu cầu của người dân, phần khác là thành phố sẽ linh động hơn trong việc xây những kinh đào chẳng hạn Isar-Werkkanal và nhà máy thủy điện Isarwerk 1. Cái cầu Wittelsbacher cũ do đó được chuyển vào năm 1904 tới chỗ mà bây giờ là cầu Brudermühl, nhờ vậy quận Sendling cũng có nơi bắt ngang qua sông Isar tới quận Giesing. 1904/05 cầu Wittelsbacher và cầu Maximilian Ngoài được xây lại mới. Cầu Maximilian Trong thì chỉ được làm rộng ra.
Sau thế chiến thứ Hai.
Đa số những chiếu cầu bắt qua sông Isar trong thế chiến thứ Hai chỉ bị hư hại nhẹ và vẫn được tiếp tục dùng. Chỉ có cầu Thalkirchner và cầu Brudermühl, cũng như phần phía Tây cầu Leinthaler bị trúng bom, bị giật sập vào năm 1945. Những chiếc cầu bắt qua tuyến đường xe lửa thì bị hư hại nặng hơn, vì là mục tiêu chính của những cuộc thả bom của quân đội đồng minh. Bởi vì nhà cửa và đường sá cần được xây sửa trước, nên những cầu chỉ được vá víu tạm thời cho người đi bộ. Mãi đến năm 1953 cầu Hacker và cầu Brudermühl mới được sửa lại cho xe cộ đi qua.
Một số cầu.
Trong só trên 1000 cái cầu, mà có ở München, ở đây chỉ có thể giới thiệu một số cây cầu quan trọng, dựa vào cuốn sách "Lịch sử các cầu tại München" („Geschichte der Münchner Brücken") của Christine Rädlinger. Tuy nhiên ngoài 4 cây cầu đã đóng một lịch sử quan trọng, ở đây chỉ chú trọng tới các cầu còn tồn tại, và còn có thể nhận ra, thí dụ là không có các cầu của các con suối trong phố mà đã bị đổ lấp. Thêm vào đó là cầu Candid cũng như Isarbrücke Unterföhring vì sự quan trọng của nó trong vấn đề giao thông đường Vòng giữa phố Mittleren Ring cũng như đường cao tốc số 99 chạy bao quanh thành phố. | 1 | null |
Pes (hay pedibus) trong tiếng La-tinh nghĩa là bàn chân. Đây là đơn vị cơ bản sử dụng trong Hệ đo lường La Mã giống như đơn vị foot trong Hệ đo lường Anh hay thước trong Hệ đo lường cổ Trung Hoa. Từ giai đoạn Cổ La Mã cho đến trước thời Vespasian chiều dài của 1 pes = 29,6 cm nhưng từ thời Vespasian trở đi 1 pes = 30 cm.
Pes miliarium.
Đơn vị này bằng 1.000 pes và thường dùng để đo các chiều dài địa lý.Trong các tài liệu cổ, các học giả thường ký hiệu pes miliarium bằng p.
Dùng trong các tài liệu cổ.
Vì pes là đơn vị đo lường chính của người La Mã nên nó được các học giả sử dụng rất thường xuyên. Chẳng hạn: Vegetius viết rằng người La Mã thường tuyển những người cao 6 pes (1,8 m) cho cohort thứ nhất và kỵ binh hay Vitruvius cho rằng "chiều cao cơ thể của một người là 6 pes, hay 4 cubit" (1,77 m) | 1 | null |
Những người viết huyền thoại (tiếng Anh: The Legend Makers) là 1 bộ phim hành động - chiến tranh Việt Nam của đạo diễn Bùi Tuấn Dũng, công chiếu vào năm 2013. Phim lấy bối cảnh cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước thời kỳ những năm 1960, khi tình thế yêu cầu chi viện xăng dầu vào chiến trường miền Nam ngày càng tăng cao và cấp bách.
Nội dung.
Những người lính cần mẫn gùi xăng xuyên qua cánh rừng nhiệt đới phủ dầy mìn lá, những chiếc xe vận tải chở xăng nổ tung dưới hỏa lực oanh tạc cơ, những cái chết bất ngờ, những tổn thất triền miên hết mùa khô tới mùa mưa dai dẳng, một phuy xăng vào được chiến trường phải trả bằng máu xương hàng trăm hàng ngàn chiến sĩ… Một ngày trong cuộc chiến tranh mười ngàn ngày, những người chỉ huy cấp cao Hà Nội hiểu rằng, không thể kết thúc cuộc chiến tranh Việt Nam chỉ bằng những trận đánh du kích với khẩu AK-47. Muốn thắng trong cuộc chiến này, họ phải có những trận đánh lớn có tính chất quyết định với xe tăng, thiết giáp, pháo hạng nặng. Muốn vậy, họ phải có đủ xăng dầu. Và một trong những điều làm người Mỹ kinh ngạc là tuyến đường ống xăng dầu chiến lược xuyên dãy Trường Sơn… Thông qua một lát cắt dọc theo dãy Trường Sơn hùng vĩ là câu chuyện bi tráng về số phận của những con người đi tiên phong trong việc xây dựng đường ống dẫn dầu. Họ thực sự đã viết lên huyền thoại.
Năm 1969, cuộc Chiến tranh Việt Nam vẫn còn đang tiếp diễn. Những tướng lĩnh Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có cuộc họp về chuyện vận chuyển xăng vào miền Nam. Cán bộ của quân giải phóng miền Nam nói rằng xe tăng của họ không có xăng để chạy, do đó không thể tổ chức những trận đánh lớn. Tướng Lê Dinh nghĩ ra ý tưởng lắp đặt đường ống từ Lạng Sơn và Quảng Ninh dẫn xăng dầu vào tận Phước Long và Bù Gia Mập. Cặp đôi Đức và Mai xin bố mẹ cho gia nhập quân đội.
Ở chiến trường, Nghĩa là một người lính giỏi chuyên làm nhiệm vụ giao liên và dẫn đường. Trong một chuyến đi nọ, chỉ với khẩu AK-47, Nghĩa đã bắn hạ một máy bay trực thăng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Một đội biệt kích của địch cũng có mặt ở khu rừng này để theo dõi quân đội Bắc Việt. Nghĩa gặp và đem lòng yêu nữ chiến sĩ tên Hà. Tình yêu của Nghĩa và Hà vừa mới chớm nở thì Hà bị chết bởi những quả mìn đặt dưới con suối. Đức đi theo đoàn quân vận tải, còn Mai làm y tá trong một bệnh viện dã chiến. Đội của Nghĩa chạm trán đội biệt kích của địch, Nghĩa có màn đấu tay đôi với một tên địch và hạ gục hắn. Hằng ngày Tướng Dinh đi kiểm tra từng địa điểm lắp đặt đường ống xăng dầu. Tướng Dinh và Nghĩa trò chuyện với nhau thì mới biết được Nghĩa chính là anh trai của Mai, con dâu tương lai của Tướng Dinh.
Một lần nọ, Mai đi vào rừng một mình và chạm trán ba tên lính Việt Nam Cộng hòa. Cô sắp bị giết thì được Nghĩa cứu mạng kịp thời, hai anh em được đoàn tụ. Sau này Đức và Mai trở về quê nhà, chuẩn bị làm đám cưới. Làng của Tướng Dinh ở ngoại thành Hà Nội bị máy bay Mỹ ném bom, một cô bé thiếu niên liều lĩnh sử dụng súng phòng không sau khi những nữ chiến sĩ xung quanh đều hi sinh, cuối cùng cô bé đã bắn hạ chiếc máy bay Mỹ. Đường ống do Tướng Dinh sáng tạo vẫn tiếp tục chi viện xăng dầu cho chiến trường miền Nam đến ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. | 1 | null |
Capital Cities là một ban nhạc gồm hai thành viên theo dòng nhạc indie pop từ Los Angeles, California, Hoa Kỳ. Nhóm được thành lập bởi Ryan Merchant và Sebu Simonian. EP đầu tay được phát hành vào ngày 7 tháng 6 năm 2011 với đĩa đơn "Safe and Sound". Đĩa đơn tiếp theo - "Kangaroo Court" - được phát hành vào ngày 01 tháng 5 năm 2012. Bài hát "Safe and Sound" xếp vị trí quán quân trên "US Alternative Songs". Bài hát cũng đã được sử dụng tại hội chợ Vodafone Đức.
Album đầu tay "In a Tidal Wave of Mystery" được phát hành ngày 4 tháng 6 năm 2013, thông qua Capitol Records và Lazy Hooks. Nó đạt vị trí thứ 66 trên bảng xếp hạng album "Billboard 200". | 1 | null |
Horacio Quiroga (1878-1937) là một nhà văn Uruguay, ông đã sinh sống nhiều năm ở mạn rừng Paraná, phía Bắc Argentina, rồi về Buenos Aires và mất tại đó. Ông để lại độ 100 truyện ngắn rải thành nhiều tuyển tập. Văn của ông ít nhiều chịu ảnh hưởng của E. A. Poe. Tuyển tập truyện ngắn của ông được dịch dang tiếng Việt là "Những con thú đồng mưu". | 1 | null |
Jacques Vergès (5 tháng 3 năm 1925 – 15 tháng 8 năm 2013) là một luật sư người Pháp nổi tiếng liên tục từ thập niên 1950, ban đầu như là người chống chủ nghĩa thực dân, người cộng sản (1945-1957), sau đó là luật sư bảo vệ cho một loạt thân chủ nổi tiếng, như nhà đấu tranh người Algérie chống chủ nghĩa thực dân Djamila Bouhired (sau này trở thành vợ ông) trong thời gian 1957 – 1962 rồi nhà lãnh đạo Khmer Đỏ, chủ tịch Khieu Samphan trong năm 2008.
Các thân chủ của ông gồm những tên khủng bố thuộc cánh tả và cả cánh hữu, những người phạm tội ác chiến tranh và những người nổi dậy, trong đó có người chối bỏ Holocaust Roger Garaudy, người Đức Quốc xã phạm tội ác chiến tranh Klaus Barbie (1987), và tên khủng bố quốc tế Ilich Ramírez Sánchez còn có biệt danh là "Carlos Chó rừng" (1994).
Năm 2002, Vergès tình nguyện làm luật sư bảo vệ cho cựu chủ tịch Serbia Slobodan Milošević, mặc dù Milošević khước từ mọi cố vấn luật pháp từ mọi phía. Các phương tiện truyền thông đã thông tin giật gân về các hoạt động của Vergès bằng tên giễu "luật sư của quỷ sứ", và chính bản thân ông cũng góp phần vào việc làm cho mình trở thành người của công chúng có tiếng tăm xấu bằng cách đặt tên cho quyển tự truyện của mình là "The Brilliant Bastard" (tạm dịch: đứa con hoang xuất chúng) cùng đưa ra những câu trả lời khiêu khích trong các cuộc phỏng vấn. Ông nói rằng khi người ta hỏi (nếu được đề nghị) liệu ông có nhận bào chữa cho Hitler không, ông đã trả lời: "Tôi thậm chí còn muốn bảo vệ Bush! Nhưng chỉ khi ông ta đồng ý nhận là mình có tội".
Tiểu sử.
Vergès sinh tại Ubon Ratchathani, Xiêm, và lớn lên ở đảo Réunion, là con của Raymond Vergès, một nhà ngoại giao người Pháp, còn mẹ là một nữ giáo viên người Việt Nam. Năm 1942, với sự khuyến khích của người cha, ông đã đi tàu thủy tới Liverpool (Anh) để gia nhập Lực lượng Pháp tự do dưới sự lãnh đạo của Charles de Gaulle, chống lại Đức Quốc xã. Năm 1945 ông gia nhập đảng Cộng sản Pháp. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, ông vào học luật học ở Đại học Paris (trong khi người anh em sinh đôi Paul Vergès trở thành nhà lãnh đạo đảng Cộng sản đảo Réunion và là nghị viên của Nghị viện châu Âu).
Năm 1949 Jacques làm chủ tịch Hiệp hội sinh viên thuộc địa ("Association for Colonial Students"), tại đây ông gặp và trở thành bạn của Pol Pot.
Năm 1950, theo yêu cầu của các quân sư đảng viên đảng Cộng sản, ông sang Praha để lãnh đạo một tổ chức thanh niên trong 4 năm.
Phong trào đòi độc lập Algérie.
Sau khi trở về Pháp, Vergès trở thành luật sư và mau nổi tiếng vì sẵn lòng nhận bào chữa cho những vụ kiện gây tranh cãi. Khi ở Algiers ông đã bào chữa cho nhiều người bị chính phủ Pháp cáo buộc tội khủng bố. Ông là người ủng hộ cuộc đấu tranh võ trang của Algérie chống lại Pháp, so sánh cuộc đấu tranh này giống như cuộc kháng chiến của Pháp chống lại sự chiếm đóng của Đức Quốc xã trong thập niên 1940.
Vergès trở thành nhân vật nổi tiếng khắp nước sau khi bảo vệ cho người du kích Algérie chống Pháp Djamila Bouhired, thân chủ nữ đầu tiên của ông, về tội khủng bố: bà ta bị cáo buộc là đã đặt bom ở một tiệm cà phê, giết chết 11 người trong tiệm. Trong phiên tòa này, ông đã sử dụng rupture strategy (chiến thuật bẻ gãy), trong đó ông cáo buộc bên công tố đã phạm cùng một tội như bị cáo. Bouhired bị xử tử hình, nhưng được ân xá và trả tự do sau áp lực của quần chúng do những nỗ lực huy động của Vergès. Ít năm sau ông kết hôn với Djamila Bouhired.
Trong một nỗ lực nhằm hạn chế sự thành công của Vergès trong việc bảo vệ các thân chủ người Algérie, ông bị kết án tù 2 tháng trong năm 1960 và bị tạm tịch thu giấy phép hành nghề luật sư về tội có những hoạt động phản quốc. Sau khi Algérie giành được độc lập năm 1962, Vergès xin nhập quốc tịch Algérie dưới tên Mansour.
Những năm biệt tích.
Từ năm 1970 tới 1978, Vergès không xuất hiện trước công chúng mà không có lời giải thích. Ông đã từ chối bình luận về những năm đó, và nhận xét trong một cuộc phỏng vấn với báo Der Spiegel của Đức là "Rất thú vị là không một ai, trong nhà nước cảnh sát hiện đại của chúng tôi, có thể tìm ra nơi tôi ở đã gần mười năm". Người ta nhìn thấy ông lần cuối vào ngày 24 tháng 2 năm 1970. Ông xa vợ, Djamila, và cắt đứt mọi quan hệ với bạn bè và gia đình khiến họ lấy làm lạ là có lẽ ông đã bị giết. Nơi ông ta ở trong những năm này vẫn còn là một điều bí ẩn. Nhiều cộng sự viên thân cận của ông trong thời gian này cho rằng ông ở Campuchia với Khmer Đỏ, nhưng cả Pol Pot lẫn Ieng Sary đều bác bỏ. Cũng có tin đồn rằng người ta đã phát hiện Vergès ở Paris cũng như ở các nước Ả Rập cùng với các nhóm chiến binh Palestine.
Các vụ biện hộ sau thời biệt tích.
Sau khi trở về cuộc sống bình thường, Vergès lại tiếp tục hành nghề luật sư, bào chữa cho Georges Ibrahim Abdallah, phạm tội khủng bố, và Klaus Barbie, người phạm tội chiến tranh của Đức Quốc xã.
Năm 1999 Vergès đã kiện tổ chức Ân xá Quốc tế nhân danh chính phủ Togo. Năm 2001, Vergès đã thay mặt Idriss Déby, tổng thống Chad, Omar Bongo, tổng thống Gabon, và Denis Sassou-Nguesso, tổng thống Cộng hòa Congo, kiện François-Xavier Verschave tác giả quyển sách "Noir silence" trong đó ông này tố cáo tội ác của Françafrique về tội "xúc phạm nguyên thủ quốc gia ngoại quốc". Viên chưởng lý nhận xét rằng tội này khiến ta nhớ lại tội khi quân thời quân chủ; tòa án cho rằng điều này trái với Công ước châu Âu về Nhân quyền, do đó đã tha bổng Verschave.
Sau khi lực lượng liên minh do Hoa Kỳ lãnh đạo xâm chiếm Iraq trong tháng 3 năm 2003 và truất phế Saddam Hussein, nhiều nhà lãnh đạo cũ của chế độ Saddam đã bị bắt. Tháng 5 năm 2008, Tariq Aziz – cựu thủ tướng Iraq dưới thời Saddam Hussein đã tập hợp một toán luật sư gồm Vergès cùng một luật sư người Pháp gốc Liban và 4 luật sư người Ý để bảo vệ mình trước "Tòa án hình sự tối cao Iraq". Cuối năm 2003, Vergès cũng đã tình nguyện bào chữa cho Saddam Hussein nếu ông này yêu cầu. Tuy nhiên, gia đình Saddam đã không nhờ Vergès.
Tháng 4 năm 2008, cựu chủ tịch Khieu Samphan của Khmer Đỏ đã bị truy tố về tội diệt chủng, Vergès đã đại diện cho ông ta đã bào chữa rằng: Khieu Samphan không hề chối là nhiều người dân Campuchia đã bị giết, nhưng là nguyên thủ quốc gia ông ta không hề có trách nhiệm trực tiếp.
Đời tư.
Jacques Vergès kết hôn với Djamila Bouhired và cải sang theo Hồi giáo. Họ có ba người con: Jacquou Vergès, Meriem Vergès và Liess Vergès, sau đó có thêm một cháu gái, Fatima Nur Vergès-Habboub, con gái của Meriem và người chồng Fouad.
Từ trần.
Ngày 15 tháng 8 năm 2013, Jacques Vergès đã từ trần vì bị nhồi máu cơ tim, trong cùng căn phòng mà Voltaire đã từ trần.
Tang lễ của ông được cử hành ngày 20.8.2013 tại "Nhà thờ thánh Thomas Aquino" (Paris) do linh mục Alain de la Morandais, một trong số bạn thân cận của ông chủ trì. Jacques Vergès được an tang ở nghĩa trang Montparnasse, bên cạnh ngôi mộ giả của Charles Baudelaire. | 1 | null |
Họ Cá mòi đường ("Albulidae") là một họ cá thường được câu thể thao ở Florida, Bahamas và một số khu vực ở Nam Thái Bình Dương. Đây là một họ nhỏ, với 11 loài trong 3 chi. Hiện họ Cá mòi đường nằm trong bộ riêng: Albuliformes. Hai họ Halosauridae và Notacanthidae trước đây từng được đặt trong bộ này, nhưng nay, theo FishBase, đã chuyển sang bộ Notacanthiformes. Con cá mòi đường lớn nhất từng bắt được ở Tây Bán Cầu nặng 7,34 kg ngoài khơi Islamorada, Florida, vào ngày 19 tháng 3 năm 2007.
Mô tả.
Họ hàng gần nhất còn sinh tồn của họ Cá mòi đường là cá cháo biển và cá cháo lớn trong bộ Elopiformes. Khác với cá cháo lớn, mỏ cá mòi đường nằm dưới mỏm. Cá mòi đường có thể thở không khí nhờ vào bong bóng chuyên biệt hoá và sống ở cả vùng nước lợ. Ấu trùng cá mòi đường là leptocephalus.
Cơ thể các loài "Abula" màu bạc với mặt lưng ánh xanh. Ở nửa trên cơ thể có sọc tối màu. Mỏm dài, hơi chúc xuống. Vây lưng và vây đuôi màu đen. Chiều dài ở cá trưởng thành là 40–100 cm, tuỳ vào loài. Cân nặng trung bình là 1–2 kg với mẫu vật kỷ lục nặng 7,34 kg.
Các loài cá mòi đường trong chi "Abula" là cá nước lợ-nước mặn thường sống ở vùng cửa sông, bơi ra biển để sinh đẻ. Chúng kiếm ăn ở nơi nước nông đáy cát hay bùn, tiêu thụ sinh vật đáy chẳng hạn như giun, thân mềm, tôm, cua. Nó dùng cái mỏm hình nón kéo mồi khỏi đáy, đôi lúc người ta thấy đuôi chúng trồi lên trên mặt nước.
Hai chi "Nemoossis" và "Pterothrissus" tương tự "Albula", nhưng sống ở vùng nước sâu hơn. | 1 | null |
Bộ Cá rồng râu (Stomiiformes hay Stomiatiformes) là một bộ cá vây tia biển sâu rất đa dạng hình thái. Nó bao gồm các ví dụ cá rồng râu, cá đèn lồng, cá rìu vạch biển, và cá rắn Viper. Bộ này bao gồm 4 họ (5 theo một số tác giả) với 53 chi và 415 loài. Như thường lệ đối với cá biển sâu, có rất ít tên chung cho các loài của bộ này, nhưng các Stomiiformes như một khối tổng thể thường được gọi là Cá rồng râu và các đồng minh hoặc đơn giản là stomiiforms.
Phát sinh chủng loài.
Cây phát sinh chủng loài vẽ theo Betancur và ctv (2013). | 1 | null |
Mohamed Salah Hamed Mahrous Ghaly (tiếng Ả Rập: محمد صلاح حامد محروس غالي - "muhamad salah hamid mahrus ghali") (sinh ngày 15 tháng 6 năm 1992), hay cũng được biết đến với tên ngắn gọn Mo Salah, là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ai Cập hiện đang chơi ở vị trí tiền đạo cánh phải cho câu lạc bộ Liverpool tại Premier League và là đội trưởng của đội tuyển bóng đá quốc gia Ai Cập. Với biệt danh "Pharaoh", anh được coi là một trong những tiền đạo xuất sắc hay nhất hiện nay, anh được biết đến với khả năng dứt điểm, rê bóng và tốc độ. Anh là cầu thủ Ai Cập xuất sắc nhất mọi thời đại.
Salah bắt đầu sự nghiệp của mình với câu lạc bộ Cairo El Mokawloon tại Giải Ngoại hạng Ai Cập năm 2010, sau đó gia nhập Basel với một khoản phí không được tiết lộ. Ở Thụy Sĩ, anh đóng vai chính khi anh giúp câu lạc bộ giành chức vô địch trong mùa giải đầu tiên, giành giải thưởng Cầu thủ vàng SAFP. Những màn trình diễn của Salah sau đó đã thu hút câu lạc bộ Chelsea và anh ấy đã gia nhập câu lạc bộ với mức phí 11 triệu bảng vào năm 2014. Tuy nhiên, anh ra sân ít hơn trong mùa giải đầu tiên của mình và được cho mượn để tới các câu lạc bộ Serie A là Fiorentina và A.S. Roma, cuối cùng anh ký hợp đồng mua đứt bởi Roma với giá 15 triệu euro.
Sau màn trình diễn xuất sắc ở Rome để đưa họ xếp vị trí thứ hai và kỷ lục điểm giành được năm 2017, Salah trở lại Premier League để ký hợp đồng với Liverpool với mức phí kỷ lục của câu lạc bộ là 36,92 triệu bảng. Trong lần thi đấu thứ hai ở Anh, anh đã điều chỉnh lối chơi của mình từ một cầu thủ chạy cánh tự nhiên thành một tiền đạo hoàn chỉnh và nhanh chóng trở thành tâm điểm của đội. Salah tiếp tục phá vỡ kỷ lục ghi bàn của Premier League trong một mùa giải 38 trận, nhận Chiếc giày vàng Premier League sau khi ghi được 32 bàn thắng trong 36 trận đấu. Màn trình diễn của Salah giúp anh nhận được một số giải thưởng cá nhân, bao gồm Cầu thủ xuất sắc nhất năm của PFA. Anh cũng đứng thứ ba trong giải thưởng Cầu thủ FIFA xuất sắc nhất 2018. Ở mùa giải tiếp theo, anh đã là cầu thủ ghi bàn hàng đầu của Premier League và giúp câu lạc bộ giành chức vô địch UEFA Champions League.
Ở cấp độ quốc tế, Salah đại diện cho Ai Cập ở cấp độ trẻ, giành huy chương đồng tại Cúp bóng đá U-20 Các quốc gia châu Phi và tham gia FIFA World Cup U-20 2011, trước khi ra mắt cho đội bóng chính vào cuối năm đó. Sau màn trình diễn của anh tại Thế vận hội mùa hè 2012, anh được vinh danh là tài năng châu Phi triển vọng nhất của CAF. Kể từ đó, anh đã giúp Ai Cập lọt vào trận chung kết Cúp bóng đá châu Phi 2017 và là vua phá lưới trong vòng loại CAF để giúp đội bóng giành quyền tham dự FIFA World Cup 2018. Với màn trình diễn của mình, Salah được bầu chọn là Cầu thủ CAF xuất sắc nhất năm, Cầu thủ xuất sắc nhất châu Phi của BBC và được chọn vào Đội hình CAF của năm và Đội vô địch Cúp các quốc gia châu Phi.
Là một người ủng hộ quyền phụ nữ bình đẳng ở Trung Đông, anh nói rằng: "Chúng ta cần thay đổi cách đối xử với phụ nữ trong văn hóa của mình" - Salah được "Time" bầu chọn là 1 trong 100 người có ảnh hưởng nhất trên thế giới vào năm 2019 và là một trong sáu ngôi sao trên trang bìa tạp chí.
Năm 2020, Salah đã giành được chức vô địch Premier League cùng với Liverpool sau mùa giải 2019–20 vô cùng thành công.
Sự nghiệp câu lạc bộ.
El Mokawloon.
Salah chơi bóng ở đội trẻ của El Mokawloon. Anh đã có lần ra mắt đội hình chính đầu tiên tại Giải Ngoại hạng Ai Cập vào ngày 3 tháng 5 năm 2010 trong trận hòa 1-1 với El Mansoura. Trong mùa bóng 2010–11, Salah được ra sân khá nhiều và có một suất chính thức trong đội hình chính. Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho họ vào ngày 25 tháng 12 năm 2010 trong trận hòa 1-1 với Al Ahly. Anh xuất hiện thường xuyên cho El Mokawloon trong mùa giải 2011-12. Tuy nhiên, sau thảm hoạ sân vận động Port Said, đầu tháng 2 năm 2012, giải Ngoại hạng Ai Cập đã dừng lại và tất cả các trận đấu tiếp theo đều bị hoãn lại. Vào ngày 10 tháng 3 năm 2012, Liên đoàn Bóng đá Ai Cập đã thông báo quyết định hủy bỏ phần còn lại của mùa giải.
Basel.
Câu lạc bộ Super League Thụy Sĩ Basel đã theo dõi Salah một thời gian, và sau Giải Ngoại hạng Ai Cập, câu lạc bộ đã tổ chức một trận giao hữu với đội U-23 Ai Cập. Trận đấu này diễn ra vào ngày 16 tháng 3 tại Stadion Rankhof, ở Basel, và mặc dù Salah chỉ chơi trong hiệp hai, anh ghi hai bàn. Trận đấu kết thúc với tỉ số 4-3 cho đội U-23 Ai Cập. Basel sau đó đã mời Salah ở lại thành phố trong một tuần huấn luyện. Vào ngày 10 tháng 4 năm 2012, Salah đã ký hợp đồng với Basel trong hợp đồng bốn năm bắt đầu từ ngày 15 tháng 6 năm 2012.
2012–13: Phát triển và đột phá.
Salah ghi bàn trong trận ra mắt không chính thức vào ngày 23 tháng 6 năm 2012 với Steaua București trong một trận giao hữu, thua 4-2. Anh đã có trận ra mắt chính thức tại Basel tại vòng sơ loại UEFA Champions League với câu lạc bộ Na Uy Molde vào ngày 8 tháng 8, trở lại để thay thế ở phút 74. Anh đã có trận ra mắt trọn vẹn vào ngày 12 tháng 8 trước Thun. Anh ghi bàn thắng đầu tiên của mình một tuần sau đó trong chiến thắng 2-0 trên sân nhà trước Lausanne. Salah đã ghi bàn thắng đầu tiên của mình tại Europa League trong trận tứ kết vào ngày 11 tháng 4 năm 2013, khi Basel tiến vào vòng bán kết sau khi đánh bại Tottenham Hotspur 4-1 trên chấm phạt đền sau trận hòa 4-4. Trong trận bán kết vào ngày 2 tháng 5, Salah ghi bàn vào lưới Chelsea tại Stamford Bridge, mặc dù họ đã bị đánh bại 2-5 Bất chấp sự thất vọng muộn ở châu Âu, Basel đã giành được chức vô địch Thụy Sĩ mùa giải 2012-13 và ngôi Á quân tại Cúp Quốc gia Thụy Sĩ.
2013–14: Mùa giải cuối cùng và vô địch giải đấu.
Để bắt đầu Super League mùa giải 2013-14, Salah là thành viên của đội Basel giành được giải Uhrencup năm 2013. Salah ghi bàn trong trận đấu đầu tiên với Aarau vào ngày 13 tháng 7 năm 2013. Anh đã ghi bàn thắng đầu tiên tại Champions League một tháng sau đó với Maccabi Tel Aviv vào ngày 6 tháng 8 năm 2013 ở vòng loại thứ ba. Trước trận lượt đi vào ngày 30 tháng 7 năm 2013, Salah đã không bắt tay theo luật của UEFA với các cầu thủ Maccabi. Basel gọi vụ việc là "trùng hợp ngẫu nhiên" và nói rằng nó không được coi là một snub. Salah bị áp lực từ một số tiếng nói của Ai Cập đòi hỏi từ anh không đi du lịch đến Israel và sau đó chỉ trích chuyến thăm của anh. Trên chặng trở về ở Tel Aviv, anh bắt tay, nhưng lại giơ nắm đấm hơn với các cầu thủ Maccabi. Anh ghi hai bàn vào lưới đương kim vô địch Bulgaria PFC Ludogorets Razgrad vào ngày 21 tháng 8 năm 2013 ở vòng play-off. Vào ngày 18 tháng 9 năm 2013, Salah ghi bàn gỡ hòa với Chelsea trong chiến thắng 2-1 ở vòng bảng. Trong trận đấu lượt về vào ngày 26 tháng 11 tại sân nhà St. Jakob-Park, Salah đã ghi bàn thắng khi Basel đánh bại Chelsea 1-0.
Chelsea.
2013–14: Gia nhập đội hình chính.
Ngày 23 tháng 1 năm 2014, câu lạc bộ Chelsea thông báo đã đạt được thỏa thuận với câu lạc bộ Basel để đưa Salah về Luân Đôn với giá được tiết lộ khoảng 11 triệu bảng. Ngày 26 tháng 1 năm 2014, trang chủ Chelsea thông báo đã hoàn tất ký kết bản hợp đồng của Salah, đồng thời anh trở thành cầu thủ người Ai Cập đầu tiên gia nhập đội chủ sân Stamford Bridge.
Anh có trận đấu đầu tiên cho Chelsea trong trận thắng 3-0 trước câu lạc bộ Newcastle United sau khi được ra sân từ băng ghế dự bị vào ngày 8 tháng 2. Salah có bàn thắng đầu tiên cho Chelsea trong trận derby Luân Đôn thắng 6-0 trước câu lạc bộ Arsenal trên sân Stamford Bridge sau khi anh được vào sân từ băng ghế dự bị thay cho Oscar. Vào ngày 5 tháng 4, Salah đã mở tỷ số và sau đó giành một quả phạt đền trong chiến thắng 3-0 của Chelsea trước Stoke City.
2014–15: Thành công trong nước.
Trước mùa giải 2014-15, tương lai của Salah tiếp tục sau khi các báo cáo cho thấy anh ta có thể bị buộc phải quay trở lại Ai Cập để thực hiện nghĩa vụ quân sự sau khi đăng ký chương trình giáo dục của Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đại học Ai Cập. Anh đã được miễn nghĩa vụ quân sự sau cuộc gặp với thủ tướng Ai Cập lúc đó là Ibrahim Mahlab, Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đại học và nhà quản lý quốc gia Ai Cập Shawky Gharib. Salah đã thay đổi số áo từ 15 thành 17 vào đầu mùa giải và số 15 đã bị bỏ trống khi Eden Hazard chuyển sang áo số 10.
Salah hiếm khi được sử dụng trong mùa giải. Vào ngày 28 tháng 10 năm 2014, trong chiến thắng 2 -1 tại câu lạc bộ League Two Shrewsbury Town ở vòng bốn Cúp Liên đoàn, anh đã thực hiện cú sút từ xa trúng khung thành. Sau trận đấu, anh và cầu thủ chạy cánh André Schürrle đã bị chỉ trích bởi HLV José Mourinho. Mặc dù Salah chỉ xuất hiện ba lần trước khi cho mượn tới Fiorentina, Mourinho tuyên bố rằng anh sẽ nhận được huy chương từ câu lạc bộ nhờ những đóng góp của anh ấy mùa đó.
Fiorentina (cho mượn).
Về thời hạn chuyển nhượng, ngày 2 tháng 2 năm 2015, Chelsea xác nhận rằng Salah sẽ chơi cho câu lạc bộ Fiorentina của Ý theo dạng cho mượn 18 tháng cho đến khi kết thúc mùa giải 2015-16. Salah đã chọn chiếc áo số 74 để vinh danh các nạn nhân của cuộc bạo loạn ở sân vận động Port Said. Sáu ngày sau khi ký hợp đồng, anh ra mắt Fiorentina ở phút 65 trong tình huống thay anh ra sân thay cho Joaquín trong chiến thắng 3-2 trước Atalanta tại Sân vận động Artemio Franchi.
Salah đã có khởi đầu đầu tiên cho Fiorentina vào ngày 14 tháng 2 trước Sassuolo, ghi bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ vào phút thứ 30. Sau đó, anh kiến tạo cho Khouma Babacar chỉ hai phút sau khi ghi bàn; trận đấu kết thúc với chiến thắng 3-1 cho Fiorentina. 12 ngày sau đó, Salah đã ghi bàn thắng đầu tiên ở châu Âu cho Fiorentina, khi đội bóng của anh tiến vào Vòng 16 đội Europa League, đánh bại Tottenham tổng tỷ số 3-1. Salah đã ghi bàn thắng cho Fiorentina trước Inter Milan vào ngày 1 tháng 3, bàn thắng thứ ba của anh ở Serie A. Bốn ngày sau đó, Salah đã ghi cả hai bàn thắng của Fiorentina trong chiến thắng 2-1 trước Juventus trong trận bán kết lượt đi Coppa Italia. Vào cuối mùa giải, Fiorentina báo cáo đã kích hoạt việc cho mượn vĩnh viễn, nhưng Salah đã từ chối. Mặc dù hợp đồng cho mượn là 18 tháng, Salah đã từ chối trở lại Fiorentina và thay vào đó gia nhập câu lạc bộ Serie A A.S. Roma.
AS Roma (cho mượn).
Vào ngày 6 tháng 8 năm 2015, Salah gia nhập A.S. Roma với khoản cho mượn dài hạn 5 triệu euro. Anh mặc chiếc áo số 11. Anh ra mắt vào ngày 22 tháng 8, khi mùa giải mới bắt đầu với trận hòa 1-1 trước Hellas Verona. Vào ngày 11 tháng 9, ACF Fiorentina đã đệ đơn khiếu nại lên FIFA với tuyên bố rằng Chelsea cáo buộc vi phạm hợp đồng khi họ cho phép Salah gia nhập Roma theo dạng cho mượn. Vào ngày 20 tháng 9, Salah đã ghi bàn thắng đầu tiên trong mùa giải trước Sassuolo để giúp Roma cứu vãn một điểm khi trận đấu kết thúc với tỷ số hòa 2-2. Anh tiếp tục ghi bàn trong hai trận đấu sau đó, thua 2-1 trước Sampdoria và thắng 5-1 trước Carpi. Vào ngày 25 tháng 10, Salah trở lại Sân vận động Artemio Franchi, ghi bàn mở tỷ số trước Fiorentina tại Serie A để giúp kiếm được một chiến thắng thứ tư liên tiếp cho Roma. Sau đó Salah bị đuổi khỏi sân sau khi nhật thẻ vàng thứ hai trong những phút cuối trận, chỉ vài giây sau khi nhận thẻ vàng đầu tiên của mình. Vào ngày 4 tháng 11, anh đã ghi bàn thắng mở tỉ số với chiến thắng 3-2 trước Bayer Leverkusen tại UEFA Champions League.
Vào ngày 2 tháng 2 năm 2016, Salah đã ghi bàn trong chiến thắng 2-0 trên sân khách trước Sassuolo. 10 ngày sau, vào ngày 12 tháng 2, anh đã ghi bàn trong chiến thắng 3-1 trước Carpi. Vào ngày 21 tháng 2, anh đã ghi hai bàn thắng liên tiếp, trong chiến thắng 5-0 trên sân nhà trước Palermo. Vào ngày 4 tháng 3, Salah đã ghi hai bàn trong chiến thắng 4-1 trước câu lạc bộ cũ Fiorentina. Một tuần sau, vào ngày 11 tháng 3, anh ấy đã ghi bàn trong trận hòa 1-1 với Bologna. Vào ngày 2 tháng 5, anh đã ghi bàn trong chiến thắng 3-2 trên sân khách trước Genoa. Vào ngày 14 tháng 5, anh đã ghi bàn trong chiến thắng 3-1 trên sân khách trước Milan vào ngày cuối cùng của mùa giải. Cuối mùa giải, Salah được bầu là Cầu thủ xuất sắc nhất mùa, kết thúc với tư cách là vua phá lưới của câu lạc bộ với 15 bàn thắng trong tất cả các giải đấu (14 ở Serie A) và sáu pha kiến tạo.
Roma.
Ngày 6 tháng 8 năm 2015, Roma mượn thành công Salah từ Chelsea với phí 5 triệu Euro. Một năm sau, Roma kích hoạt điều khoản mua đứt Salah từ Chelsea. Vào ngày 20 tháng 8 năm 2016, Salah đã ghi bàn thắng đầu tiên của mùa giải trong chiến thắng 4-0 trước Udinese. Vào ngày 11 tháng 9, anh đã ghi bàn trong chiến thắng 3-2 trước Sampdoria. Mười ngày sau, vào ngày 21 tháng 9, anh đã ghi bàn trong chiến thắng 4-0 trước Crotone. Vào ngày 29 tháng 9, anh đã ghi bàn trong chiến thắng 4-0 trước Astra Giurgiu ở vòng bảng UEFA Europa League. Vào ngày 15 tháng 10, anh đã ghi bàn trong chiến thắng 3-1 trước Napoli. Vào ngày 6 tháng 11, Salah đã lập một hat-trick trong chiến thắng 3-0 trước Bologna, cú hat-trick đầu tiên trong sự nghiệp với câu lạc bộ. Vào ngày 9 tháng 3, anh đã ghi bàn mở tỷ số cho Roma trong trận thua 2-4 trước Lyon ở trận lượt đi vòng 16 tại UEFA Europa League. Vào ngày 19 tháng 3, anh đã ghi bàn trong chiến thắng 3-1 trước Sassuolo. Vào ngày 9 tháng 4, anh đã ghi bàn trong chiến thắng 3-0 trước Bologna. Vào ngày 24 tháng 4, anh ấy đã ghi hai bàn trong chiến thắng 4-1 ngay trên sân khách trước Pescara. Vào ngày 20 tháng 5, anh đã ghi bàn trong chiến thắng 5-3 với trận sân khách trước Chievo. Vào ngày 28 tháng 5, trong trận đấu cuối cùng của mùa giải, Salah được thay thế cho đội trưởng huyền thoại Francesco Totti, trong chiến thắng 3-2 trước Genoa.
Liverpool.
2017–18: Kỷ lục cá nhân thành công.
Vào ngày 22 tháng 6 năm 2017, Salah đã đồng ý chuyển đến Liverpool. Anh đã ký hợp đồng dài hạn với "the Reds" với mức phí 42 triệu euro ban đầu có thể tăng lên 50 triệu euro. Lệ phí là một kỷ lục của câu lạc bộ, làm lu mờ đi số tiền 35 triệu bảng đã chi cho Andy Carroll vào năm 2011. Anh được chỉ định chiếc áo số 11 trước đó thuộc về Roberto Firmino còn Firmino chuyển sang áo số 9. Anh ấy gia nhập câu lạc bộ vào ngày 1 tháng 7 khi kỳ chuyển nhượng mùa hè kết thúc, trở thành cầu thủ Ai Cập đầu tiên của Liverpool. Anh ấy đã ghi bàn trong trận ra mắt trước Watford trong trận hòa 3-3 vào ngày 12 tháng 8. Vào ngày 24 tháng 8, Salah đã ghi bàn thắng thứ hai cho Liverpool, trong trận đấu vòng play-off UEFA Champions League 2017-18 với trận thắng 4-2 (tổng tỷ số 6-3) trước Hoffenheim và cũng là bàn thắng đầu tiên của anh tại Anfield. Ba ngày sau, Salah ghi bàn và kiến tạo trong chiến thắng 4-0 trước Arsenal. Với màn trình diễn vào tháng 8, Salah đã được cổ động viên Liverpool trao tặng giải Cầu thủ xuất sắc nhất tháng. Vào ngày 17 tháng 10, Salah đã ghi hai bàn trong chiến thắng 7-0 tại UEFA Champions League trước Maribor, giúp Liverpool giành chiến thắng chung cuộc lớn nhất từ trước đến nay và là chiến thắng sân khách lớn nhất của một câu lạc bộ Anh.
Vào ngày 26 tháng 11, Salah đã ghi bàn mở tỷ số và từ chối ăn mừng trong trận hòa 1-1 với đội bóng cũ Chelsea vì sự tôn trọng với câu lạc bộ cũng như các nạn nhân của cuộc tấn công Nhà thờ Hồi giáo Bắc Sinai hai ngày trước đó. Salah đã đứng đầu bảng xếp hạng ghi bàn của Premier League bằng cách ghi hai bàn sau khi vào sân thay người ở Stoke City vào ngày 29 tháng 11 trong chiến thắng 3-0. Tháng tiếp theo, Salah ghi bàn trong chiến thắng 4-0 trước AFC Bournemouth; một kết quả khiến Liverpool trở thành đội bóng đầu tiên trong lịch sử Premier League giành chiến thắng bốn trận đấu trên sân khách liên tiếp với tỷ lệ ít nhất ba bàn thắng. Trong thời gian đó, anh cũng trở thành cầu thủ nhanh thứ hai đạt được 20 bàn thắng cho Liverpool với 26 lần ra sân, chỉ sau George Allan, người đã đạt được cột mốc sau 19 lần ra sân vào năm 1895.
Vào ngày 17 tháng 3 năm 2018, Salah đã ghi bốn bàn thắng trong chiến thắng 5-0 trước Watford, đó là cú hat-trick đầu tiên của anh ở Liverpool. Trong trận đấu này, anh cũng phá kỷ lục ghi bàn 36 lần trong mùa giải ra mắt Liverpool và cũng trở thành tay săn bàn ở năm giải đấu hàng đầu châu Âu - vượt qua Lionel Messi và tiền đạo của Tottenham, Harry Kane. Sau bàn thắng phá kỷ lục của Salah, cựu đội trưởng Liverpool Steven Gerrard tuyên bố "chúng ta đang chứng kiến sự khởi đầu tuyệt vời".
Vào ngày 22 tháng 4 năm 2018, Salah đã được trao giải thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất năm của PFA, trước đó đã được ghi tên vào Đội hình PFA của năm cho giải Ngoại hạng. Hai ngày sau, anh lập cú đúp trong trận thắng trận bán kết lượt về Champions League với đội bóng cũ Roma với tỷ số 5-2. Anh đồng thời trở thành cầu thủ đầu tiên đến từ châu Phi và là cầu thủ đầu tiên của Liverpool ghi được 10 bàn thắng trong giải đấu. Cú đúp của anh ấy cũng đưa anh ấy tới 43 bàn thắng trong cả mùa giải, vượt qua con số 42 của Roger Hunt và trở thành cầu thủ ghi bàn cao thứ hai của Liverpool trong một mùa, sau Ian Rush. Trước đây anh cũng đã phá vỡ kỷ lục của câu lạc bộ trong kỷ nguyên Premier League, vượt qua tổng số 36 bàn thắng của Robbie Fowler trong mùa giải 1995-96 và kỷ lục 33 trận của Fernando Torres về số bàn thắng nhiều nhất của một cầu thủ Liverpool trong mùa giải ra mắt. Sau hai bàn thắng của anh ấy và kiến tạo trong trận lượt đi với Roma, Salah nổi bật ở trận lượt về khi Liverpool đánh bại Roma với tổng số 6-7 để đủ điều kiện cho trận chung kết lần đầu tiên sau 11 năm. Sau đó, anh sẽ trở thành cầu thủ ghi 38 bàn cho mùa giải 38 trận ở Ngoại hạng Anh, sau chiến thắng 4-0 trước Brighton & Hove Albion và tiến gần đến Chiếc giày vàng Premier League.
Trong trận chung kết UEFA Champions League 2018 với Real Madrid, Salah bị chấn thương vai trái ở phút thứ 30. Sau đó anh rời sân trong nước mắt sau khi rời sân; trận đấu kết thúc với thất bại 3-1. Hiệp hội bóng đá Ai Cập tuyên bố rằng điều này sẽ không ảnh hưởng gì đến việc anh ấy chơi ở World Cup 2018 ở Nga và Salah vẫn sẽ có tên trong đội hình cuối cùng của đội vào ngày 4 tháng 6. Một ngày sau trận đấu, Ramos đã viết một tin nhắn và gửi cho anh những lời chúc tốt đẹp.
2018–19: Á quân Premier League, nhà vô địch châu Âu.
Vào ngày 2 tháng 7 năm 2018, Salah đã ký hợp đồng dài hạn mới với Liverpool. HLV Jürgen Klopp nói rằng tin tức này rất quan trọng như một tuyên bố về vị thế của Liverpool trong thế giới bóng đá khi Salah cam kết tiến xa hơn tới câu lạc bộ. Vào ngày 12 tháng 8, Salah đã ghi bàn thắng đầu tiên của mùa giải và bàn thắng chung cuộc đầu tiên của Liverpool trong mùa giải trong chiến thắng 4-0 trước West Ham United. Vào ngày 20 tháng 8, trong chiến thắng 2-0 trên sân khách trước Crystal Palace, Salah đã đóng một phần trong cả hai bàn thắng của Liverpool; giành được một quả phạt đền sau khi bị phạm lỗi và một kiến tạo cho Sadio Mané cho bàn thứ hai. Vào ngày 25 tháng 8, Salah đã ghi bàn thắng duy nhất trong chiến thắng 1-0 của Liverpool trước Brighton.
Vào ngày 30 tháng 8 năm 2018, Salah đã có tên trong danh sách rút gọn ba người cho Cầu thủ nam xuất sắc nhất năm của UEFA, anh đứng ở vị trí thứ ba và cũng được đưa vào danh sách rút gọn ba người cho Tiền đạo UEFA xuất sắc nhất mùa, anh đứng ở vị trí thứ hai. Vào ngày 3 tháng 9, anh được ghi tên vào danh sách rút gọn ba người cho Cầu thủ nam xuất sắc nhất của FIFA, đứng thứ ba. Giữa những tranh cãi, Salah đã nhận được Giải thưởng FIFA Puskás 2018. Vào ngày 24 tháng 10, Salah đã ghi hai bàn vào lưới Sao Đỏ Belgrade ở vòng bảng UEFA Champions League. Với 50 bàn thắng sau 65 trận, anh là cầu thủ ghi bàn nhanh nhất trong lịch sử Liverpool trong suốt nửa thế kỷ qua.
Vào ngày 8 tháng 12, Salah đã lập một hat-trick trong chiến thắng 4-0 trên sân khách trước Bournemouth, để đưa Liverpool lên top 1 trên bảng xếp hạng. Vào ngày 11 tháng 12, anh đã ghi bàn thắng trong chiến thắng 1-0 trước Napoli trong trận đấu cuối cùng tại vòng bảng Champions League, kết quả là giúp Liverpool lọt vào vòng 16 đội. Vào ngày 19 tháng 1 năm 2019, anh đã ghi bàn thắng thứ 50 tại Premier League với cú đúp trong chiến thắng 4-3 trước Crystal Palace, đạt được thành tích sau 72 lần ra sân. Anh trở thành cầu thủ nhanh thứ tư đạt được cột mốc cùng với Fernando Torres và chỉ sau Andy Cole, Alan Shearer và Ruud van Nistelrooy.
Vào tháng 2 năm 2019, West Ham cho biết họ đang điều tra một video được cho là cho thấy người hâm mộ phân biệt chủng tộc Salah, kể cả vì là người Hồi giáo. Vào ngày 5 tháng 4, anh ấy đã ghi bàn thắng thứ 50 tại Premier League cho Liverpool trong chiến thắng 3-1 trước Southampton và phá vỡ kỷ lục của Torres để trở thành cầu thủ nhanh nhất đạt được cột mốc cho câu lạc bộ sau 69 lần ra sân. Anh cũng trở thành cầu thủ nhanh thứ ba đạt được cột mốc cho một câu lạc bộ duy nhất trong kỷ nguyên Premier League, sau Shearer của Blackburn Rovers sau 66 lần ra sân và van Nistelrooy cho Manchester United sau 68 lần ra sân. Cuối tháng đó, anh đã ghi bàn thắng thứ hai trong chiến thắng 2-0 trước Chelsea, giúp Liverpool kiếm được chiến thắng thứ 26 cho chiến dịch Premier League và tốt thứ 2 sau kỷ lục 30 được thiết lập vào năm 1979. Vào ngày 26 tháng 4, anh ấy đã có 100 lần thi đấu trong màu áo Liverpool và phá vỡ kỷ lục do Roger Hunt và Sam Raybould cùng nắm giữ cho cầu thủ có nhiều bàn thắng nhất cho câu lạc bộ. Salah ghi hai bàn trong chiến thắng 5-0 trước Huddersfield để cán mốc con số 69. Vào ngày 1 tháng 6, anh đã ghi bàn thắng đầu tiên của Liverpool trong chiến thắng 2-0 trước Tottenham trong trận Chung kết UEFA Champions League 2019 từ một quả phạt đền. Bàn thắng của Salah mà anh ấy ghi được trong hai phút đầu trận đấu là bàn thắng nhanh thứ hai từng ghi được trong một trận chung kết Champions League, chỉ chậm hơn nỗ lực của Paolo Maldini cho A.C. Milan trong trận chung kết năm 2005. Vào tháng 9 năm 2019, Salah đã được đề cử cho giải thưởng FIFA FIFPro World11 trên tổng số 55 cầu thủ được đề xuất bởi liên minh các cầu thủ trên toàn thế giới, FIFPro và FIFA.
2019–20: Nhà vô địch nước Anh.
Vào ngày 9 tháng 8 năm 2019, Salah đã ghi bàn thắng thứ hai của Liverpool trong chiến thắng 4-1 trước Norwich City trong trận mở màn mùa giải Premier League 2019-20. Trong trận chung kết Siêu cúp châu Âu 2019 vào ngày 14 tháng 8, Salah đã ghi bàn thứ năm của Liverpool và cuối cùng là quả phạt đền trong chiến thắng 5-4 trên loạt sút luân lưu trước Chelsea, sau khi trận đấu kết thúc với 4 bàn chia đều hai đội sau 120 phút thi đấu.
Vào tháng 12, Salah về thứ năm trong cuộc bỏ phiếu cho danh hiệu Quả bóng vàng 2019, và có trận đấu thứ 100 tại Premier League vào cuối tháng, anh đánh dấu cột mốc này với một bàn thắng và một kiến tạo trong chiến thắng 3–0 của Liverpool trước Bournemouth. Cuối tháng đó, Liverpool đã giành chức vô địch FIFA Club World Cup 2019, và Salah nhận giải Cầu thủ xuất sắc nhất giải.
Vào ngày 19 tháng 1 năm 2020, Salah ghi bàn thắng đầu tiên của anh sau năm lần chạm trán với đối thủ truyền kiếp Manchester United với một pha chạy chỗ từ ngoài vòng cấm và dứt điểm thành bàn trong chiến thắng 2–0 của Liverpool tại Anfield ở Premier League. Vào ngày 29 tháng 1, Salah ghi bàn mở tỷ số cho Liverpool trong chiến thắng 2–0 trước West Ham United, chiến thắng giúp cho Liverpool lần đầu tiên trong lịch sử 127 năm của CLB giành chiến thắng trước mọi đối thủ trong một mùa giải Premier League. Vào ngày 7 tháng 3, Salah ghi bàn mở tỷ số trong chiến thắng 2-1 trước Bournemouth khi Liverpool lập kỷ lục 22 trận thắng liên tiếp trên sân nhà. Salah cũng trở thành cầu thủ Liverpool đầu tiên ghi được 20 bàn thắng trên mọi đấu trường trong ba mùa giải liên tiếp kể từ Michael Owen từ 2000–01 đến 2002–03. Với bàn thắng thứ 70 tại Premier League sau 100 lần ra sân cho Liverpool, anh ấy đã ghi nhiều hơn 7 bàn so với kỷ lục trước đó trong 100 trận đầu tiên của cho câu lạc bộ (63 bàn của Fernando Torres). Liverpool giành chức vô địch Premier League sớm 7 vòng đấu (một kỷ lục) và Salah kết thúc mùa giải với 19 bàn thắng. Tuy vậy Liverpool lại bị loại sớm ở vòng 16 đội UEFA Champions League bởi Atlético Madrid.
2020–22: Gia tăng thành tích cá nhân.
Vào ngày 12 tháng 9 năm 2020, Salah lập hat-trick trong trận đấu đầu tiên của mùa giải, bao gồm cả hai quả phạt đền, trong chiến thắng 4–3 trước Leeds United. Do đó, anh trở thành cầu thủ Liverpool đầu tiên ghi bàn trong 4 trận mở tỷ số liên tiếp từ mùa giải 2017–18 đến mùa giải 2020–21, và là cầu thủ thứ hai trong lịch sử Premier League, sau Teddy Sheringham từ mùa 1992–93 đến mùa 1995–96. Anh cũng trở thành cầu thủ đầu tiên ghi hat-trick cho Liverpool trong trận đấu đầu tiên tại giải đấu kể từ khi John Aldridge lập được thành tích này trước Charlton Athletic trong mùa giải 1988–89.
Vào ngày 17 tháng 10 năm 2020, anh ghi bàn thắng thứ 100 cho Liverpool trên mọi đấu trường trong trận hòa 2–2 trên sân khách trước Everton. Khi ghi bàn thắng thứ 100 trong trận đấu thứ 159, Salah trở thành cầu thủ đầu tiên kể từ Steven Gerrard năm 2008 đạt được cột mốc này, và nhanh thứ ba trong lịch sử Liverpool sau Roger Hunt (100 bàn sau 144 trận), và Jack Parkinson (153 trò chơi). Salah là cầu thủ nhanh nhất đạt 100 bàn thắng cho Liverpool trong khi ghi bàn hoàn toàn ở giải đấu hàng đầu nước Anh, vì cả Hunt và Parkinson đều ghi một số bàn thắng cho Liverpool ở Giải hạng hai Liên đoàn bóng đá.
Vào ngày 31 tháng 1 năm 2021, Salah ghi hai bàn vào lưới West Ham và trở thành cầu thủ Liverpool thứ năm ghi được hơn 20 bàn thắng trên mọi đấu trường trong bốn mùa giải liên tiếp, và bàn đầu tiên kể từ khi Ian Rush ghi được sáu bàn thắng trong giai đoạn 1981–82 đến 1986– 87. Ngoài ra, bàn thắng của anh ấy ở phút 68 trong trận đấu đó sau đó đã được bình chọn là Bàn thắng của tháng ở Premier League. Vào ngày 24 tháng 4, anh ghi bàn trong trận hòa 1-1 với Newcastle United, để trở thành cầu thủ Liverpool đầu tiên ghi 20 bàn trong ba chiến dịch Premier League khác nhau. Vào ngày 13 tháng 5, anh ghi một bàn thắng trong chiến thắng 4–2 trên sân khách trước Manchester United, đây là chiến thắng đầu tiên trên sân khách của đội anh tại Old Trafford kể từ tháng 3 năm 2014. Hơn nữa, anh cũng trở thành cầu thủ duy nhất ghi bàn tại Old Trafford cho Liverpool trong hai trận đấu khác nhau trong một mùa giải, ghi hai bàn trong thất bại 3–2 tại FA Cup, kể từ Harry Chambers ở mùa giải 1920–21.
Salah mở đầu mùa giải 2021–22 với một bàn thắng và hai đường kiến tạo trong chiến thắng 3–0 trước Norwich. Khi ghi bàn, Salah trở thành cầu thủ đầu tiên ghi bàn trong trận mở màn của 5 mùa giải Premier League liên tiếp. Vào ngày 12 tháng 9, Salah ghi bàn thắng thứ 100 tại Premier League trong chiến thắng 3–0 trước Leeds United. Vào ngày 25 tháng 9, Salah ghi bàn thắng thứ 100 tại Premier League cho Liverpool trong trận hòa 3–3 trước Brentford. Đạt 100 bàn thắng trong số trận đấu ít hơn bất kỳ cầu thủ nào trong lịch sử Liverpool, anh ấy đã đạt được cột mốc quan trọng trong 151 trận, ít hơn một trận so với Roger Hunt, người đạt kỷ lục ghi bàn sau 152 trận. Bàn thắng này cũng đưa Salah vào danh sách 10 cầu thủ ghi bàn nhiều nhất mọi thời đại của Liverpool.
Vào ngày 19 tháng 10, Salah trở thành cầu thủ đầu tiên trong lịch sử Liverpool ghi bàn trong 9 trận liên tiếp với 2 bàn thắng trong chiến thắng 3–2 trước Atlético Madrid tại UEFA Champions League. Bàn thắng thứ hai của anh ấy, thứ 31 của anh ấy ở Champions League, giúp anh ấy trở thành cầu thủ ghi bàn kỷ lục của Liverpool trong giải đấu, vượt qua 30 bàn thắng của huyền thoại Steven Gerrard. Trong trận đấu tiếp theo vào ngày 24 tháng 10, Salah tiếp tục phá kỷ lục với hat-trick vào lưới đối thủ truyền kiếp của Liverpool là Manchester United trong chiến thắng hủy diệt 5–0 tại Old Trafford. Khi ghi ba bàn, Salah trở thành cầu thủ châu Phi ghi nhiều bàn thắng nhất trong lịch sử Premier League (vượt qua 104 bàn thắng được ghi bởi Didier Drogba), và là cầu thủ Liverpool đầu tiên ghi bàn trong mười trận liên tiếp cũng như cầu thủ Liverpool đầu tiên ghi bàn tại Old Trafford ba trận liên tiếp. Anh cũng trở thành cầu thủ đối phương đầu tiên ghi hat-trick tại Old Trafford kể từ Ronaldo vào năm 2003, và là người đầu tiên làm được điều này trong lịch sử Premier League. Vào ngày 1 tháng 12, Salah ghi hai bàn trong chiến thắng 4–1 trên sân khách trước Everton ở Premier League khi Liverpool trở thành đội đầu tiên trong lịch sử các đội bóng hàng đầu nước Anh ghi ít nhất hai bàn trong 18 trận liên tiếp trong tất cả các cuộc thi.
Vào ngày 7 tháng 12, Salah ghi bàn mở tỷ số cho Liverpool trong chiến thắng 2-1 trên sân khách trước AC Milan tại San Siro khi Liverpool trở thành câu lạc bộ Anh đầu tiên thắng cả sáu trận vòng bảng Champions League trong lịch sử giải đấu. Bàn thắng thứ 20 của Salah trong mùa giải và anh trở thành cầu thủ Liverpool đầu tiên kể từ Ian Rush ghi được 20 bàn thắng trong 5 mùa giải liên tiếp. Vào ngày 16 tháng 12, Salah ghi bàn thắng thứ hai cho Liverpool trong chiến thắng 3–1 trên sân nhà trước Newcastle United, trận đấu thứ 15 liên tiếp ở Premier League anh ghi bàn hoặc kiến tạo, trong trận thắng thứ 2000 của Liverpool.
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia.
Salah đã có 11 lần ra sân cho đội U-20 Ai Cập và đội U-23 Ai Cập, đại diện cho Ai Cập trong U-20 FIFA World Cup 2011 và Olympic London 2012, ghi được cả ba trận đấu của đội tuyển trong giải đấu thứ hai, họ vào tứ kết.
Vào ngày 3 tháng 9 năm 2011, Salah ra mắt đội tuyển bóng đá quốc gia Ai Cập trong trận thua 2–1 trước Sierra Leone. Anh ghi bàn thắng đầu tiên của mình cho đội tuyển Ai Cập trong chiến thắng 3-0 trước Niger một tháng sau đó. Sau đó anh đã ghi bàn thắng ở phút 93 trong thời gian bù giờ với Guinea giúp Ai Cập giành chiến thắng quan trọng 3–2 tại vòng loại World Cup 2014.
Vào ngày 9 tháng 6 năm 2013, Salah đã lập hat-trick trong chiến thắng 4–2 trước Zimbabwe khi Ai Cập thắng trận thứ tư liên tiếp của vòng loại World Cup. Một tuần sau trong trận đấu sau, anh đã ghi bàn thắng duy nhất cho Mozambique, đưa Ai Cập vào vòng loại cuối cùng. Salah sau đó ghi bàn thắng thứ sáu của mình trong một trận đấu vòng loại cho cầu thủ ghi bàn hàng đầu trong số tất cả các đội châu Phi trong giai đoạn trình độ chuyên môn.
Salah góp mặt trong đội hình Ai Cập dự CAN 2017 được tổ chức tại Gabon. Vào ngày 25 tháng 1 năm 2017, anh ghi bàn trong chiến thắng 1–0 của Ai Cập trước Ghana để giành vị trí đầu bảng trong bảng D. Anh đã đi với người Ai Cập đến tận trận chung kết, ghi hai bàn và khiến tạo hai lần trong 6 trận, kiếm cho anh ấy một vị trí trong đội CAF của giải đấu.
Salah là cầu thủ ghi bàn hàng đầu cho Ai Cập với năm bàn thắng trong vòng loại World Cup 2018, bao gồm cả hai bàn thắng trong chiến thắng quyết định 2–1 trước Congo, một trong số đó là một quả penalty ở phút cuối cùng để Ai Cập giành vé dự World Cup lần đầu đầu tiên kể từ năm 1990.
Tại World Cup 2018, anh đã ghi được một bàn thắng trong trận thua của trước chủ nhà với tỉ số 1–3 và một bàn thắng trong trận thua của Ai Cập trước với tỉ số 1–2. Đội tuyển Ai Cập sau đó đã rời giải với 3 trận toàn thua, chỉ ghi được 2 bàn thắng và bị thủng lưới 6 bàn, tổng cộng anh đã có 2 bàn thắng cho giải đấu này.
Tại CAN 2019 tổ chức tại quê nhà Ai Cập, ở lượt trận thứ hai bảng A, Salah đã ghi bàn thắng cuối cùng giúp Ai Cập vượt qua với tỉ số 2–0. Ở lượt trận cuối cùng bảng A, anh đã ghi bàn thắng mở tỉ số giúp Ai Cập vượt qua với tỉ số 2-0.
Tại CAN 2021 diễn ra tại Cameroon, anh cùng đội tuyển Ai Cập lọt vào trận chung kết, chịu thất thủ trước ở loạt sút penalty, qua đó giành vị trí á quân, tổng cộng anh đã có 2 bàn thắng tại giải đấu này.
Phong cách thi đấu.
Phân tích.
Được đánh giá là một cầu thủ nhanh nhẹn, cơ động, chăm chỉ và có bộ óc chiến thuật, với kỹ thuật tốt và nhãn quan ghi bàn, Salah chủ yếu được biết đến với tốc độ, khả năng di chuyển, kỹ thuật dứt điểm thượng thừa, sự nhanh nhẹn, kỹ năng rê bóng, một chạm và kiểm soát bóng. Nhờ sử dụng kết hợp tốc độ và sự khéo léo của mình với trái bóng, anh thường đánh bại đối thủ và tạo cơ hội ghi bàn cho bản thân hoặc đồng đội. Một tiền đạo đa năng, anh ấy chủ yếu chơi ở cánh phải, một vị trí cho phép anh cắt vào trung tâm bằng chân trái mạnh hơn của mình, và sút vào khung thành hoặc chuyền bóng một chạm nhanh với các cầu thủ khác và chạy vào phía sau hàng thủ về phía khung thành. Anh ấy cũng có thể chơi ở trung tâm phía sau tiền đạo chính như một tiền vệ tấn công hoặc tiền đạo thứ hai.
Khi anh dần trở thành một mối đe dọa lớn trước khung thành kể từ khi gia nhập Liverpool, Salah chấp nhận yêu cầu của huấn luyện viên Liverpool Jürgen Klopp để anh ấy chiếm các vị trí trung tâm quan trọng hơn, thường hoạt động như một tiền đạo chính, khi anh nói với ESPN: "Tôi chơi gần khung thành hơn bất kỳ câu lạc bộ nào trước đây." Salah ban đầu bắt đầu sự nghiệp của mình ở vị trí hậu vệ trái, tuy nhiên, sau chiến thắng 4–0 trước đội trẻ của câu lạc bộ Ai Cập ENPPI, Salah đã rơi nước mắt vì không ghi bàn sau khi bỏ lỡ một số cơ hội rõ ràng; điều này khiến huấn luyện viên của anh ấy nhận ra niềm đam mê ghi bàn của anh ấy, buộc anh ấy phải chuyển anh ấy lên vị trí tiền đạo.
Nhận xét.
Khi còn chơi cho Al Mokawloon, huấn luyện viên người Mỹ Bob Bradley đã chứng kiến Salah thi đấu và ghi nhận tốc độ, sự bùng nổ và thông minh vượt trội của anh ấy trên sân cỏ, điều này được thể hiện rõ dù anh còn rất trẻ. Khi ký hợp đồng với Chelsea, José Mourinho đã nói về Salah: "Anh ấy trẻ, anh ấy nhanh, anh ấy sáng tạo, anh ấy nhiệt tình. Khi chúng tôi phân tích về anh ấy, anh ấy trông giống là loại người có tính cách khiêm tốn trên sân, sẵn sàng làm việc cho đội." Mourinho nói thêm rằng Salah có "những phẩm chất tương tự" với "những cầu thủ tài năng" mà ông đã từng làm việc, chẳng hạn như Gareth Bale và Arjen Robben. Kỹ năng kỹ thuật, tốc độ, chân trái, khả năng ghi bàn, vị trí và lối chơi trực tiếp khiến anh ấy được đặt biệt danh là "Messi", trên các phương tiện truyền thông Ý. Nhà vô địch World Cup người Brazil, Ronaldo - người mà Salah thần tượng khi lớn lên - đã nói, "Salah là một cầu thủ đáng kinh ngạc với một phẩm chất tuyệt vời. Anh ấy trông giống như Mesi vậy." Salah cũng nhận được lời khen ngợi vì từ chối ăn mừng trước các câu lạc bộ cũ của mình.
Đời tư.
Salah và vợ của anh, Maggi, kết hôn vào năm 2013. Con gái của họ, Makka, sinh năm 2014, được đặt tên để vinh danh thánh địa Hồi giáo Mecca. Anh ta có một cô con gái khác, Kayan, sinh năm 2020. Salah theo đạo Hồi và ăn mừng bàn thắng bằng cách thực hiện tư thế sujud. Trong kiểu ăn mừng bàn thắng này, Salah nói với CNN, "Đó là điều gì đó giống như cầu nguyện hoặc cảm ơn Chúa vì những gì tôi đã nhận được, nhưng đúng, đó chỉ là cầu nguyện và cầu nguyện cho một chiến thắng. Tôi đã luôn làm điều đó từ khi còn nhỏ, ở mọi nơi. . "
Vào tháng 11 năm 2020, Salah có kết quả xét nghiệm dương tính với COVID-19.
Ngoài bóng đá.
Các nhà tài trợ.
Salah có hợp đồng tài trợ với nhà cung cấp trang phục và thiết bị thể thao Adidas: anh ấy mang giày đá bóng Adidas X18. Anh ấy xuất hiện trong một quảng cáo về World Cup 2018 của Adidas cùng với các cầu thủ khác cũng có hợp đồng với Adidas, bao gồm David Beckham, Lionel Messi và Paul Pogba, và ca sĩ Pharrell Williams.
Vào tháng 3 năm 2018, Salah xuất hiện trong một quảng cáo cho Vodafone Ai Cập. Được quay tại một số địa danh của Merseyside, video ban đầu được phát hành bằng tiếng Ả Rập (nhưng cũng được dịch sang tiếng Anh). Một tháng sau, anh ấy đề cập rằng anh ấy đã bị "xúc phạm" sau khi hình ảnh của anh ấy được hiển thị trên máy bay của đội tuyển quốc gia mà không có sự cho phép của anh ấy trước khi bắt đầu World Cup năm đó, với tư cách là nhà tài trợ chính thức của đội tuyển quốc gia, WE, là một đối thủ của nhà tài trợ của mình.
Từ thiện.
Salah đang tích cực tham gia các dự án tái tạo ở Nagrig, quê hương của anh, nơi có 65% người dân sống trong cảnh nghèo khó, quyên góp tiền để giúp xây dựng trường học và bệnh viện. Dự án bao gồm việc xây dựng một viện Al-Azhar và một đơn vị cứu thương. Trong một cuộc phỏng vấn với "Al-Masry Al-Youm" , cha của Salah tuyên bố rằng con trai ông từ chối nhận bất kỳ hỗ trợ tài chính nào cho dự án.
Trong thời gian ở Ai Cập, gia đình của Salah đã từng bị cướp, tuy nhiên, tên trộm đã bị cảnh sát bắt giữ, khi cha của Salah chuẩn bị buộc tội anh ta, nhưng Mohamed đã thuyết phục ông ấy bỏ vụ án. Sau đó, Salah đã giúp đỡ tên trộm về mặt tài chính, cho anh ta một số tiền và cố gắng tìm cho anh ta một công việc. Vào tháng 2 năm 2018, sau trận đấu với Tottenham, Salah đã tặng một chiếc áo sao chép cho cổ động viên trẻ tuổi Mohamed Abdel Karim, người trước đó đã được hình dung mặc một chiếc áo đấu đọc tên và số áo của Salah. Hơn nữa, Mohamed Salah đã giúp đỡ hơn 450 gia đình bằng cách cho họ trợ cấp hàng tháng và anh ấy cũng giúp chính phủ bằng cách tặng khoảng 300.000 đô la khi đất nước đang trải qua khủng hoảng kinh tế.
Giá trị chuyển nhượng.
Tính đến 13 tháng 2 năm 2021, Salah được định giá 120 triệu Euro, là cầu thủ đắt giá thứ 4 thế giới, sau Mbappe, Neymar và Sadio Mané. | 1 | null |
Quả có múi là một loại trái cây có thịt tương tự như một biến thể của quả mọng nhưng có vỏ dai, giống như da. Đó là đặc trưng của các loại trái cây của một số loài trong họ Cửu lý hương, trong đó nổi tiếng nhất là những loài thuộc chi "Cam chanh" (chanh vàng, quýt, cam, bưởi, thanh yên, vv).
Mô tả.
Quả có múi có các đặc điểm sau:
Thành bên ngoài bầu nhụy trở thành lớp xốp dày của "vỏ", trong khi thành bên trong bầu nhụy trở nên rất mọng với một số hạt. Vỏ chứa các tuyến dầu dễ bay hơi trong các vết rỗ. Phần thịt bên trong bao gồm các phần riêng biệt, được gọi là lá noãn, chứa đầy các túi chứa chất lỏng là các "tế bào lông" chuyên biệt.
Sử dụng.
Cam, chanh, quýt và bưởi chùm đều là những ví dụ phổ biến của quả có múi. Không giống như hầu hết các quả mọng khác (ví dụ như cà chua, cà tím, v.v.), vỏ của quả có múi thường không được ăn tươi được vì nó dai và đắng. Một ngoại lệ phổ biến là kim quất được dùng toàn quả.
Ngoài cùng lớp vỏ (có sắc tố) chứa tinh dầu và được gọi là "flavedo." Khi cạo ra và được sử dụng như một thành phần ẩm thực, nó được gọi là zest. Ngoài ra, thịt quả có thể được ngào để tạo thành mứt. | 1 | null |
Ban nhạc KOP là một thành lập ngày 6 tháng 6 năm 2010.
Thành lập.
Trần Thái Châu (K-Hau) được biết đến khi còn là ca sĩ chính của ban nhạc Prophecy và đã cùng ban nhạc này phát hành album đầu tay Đôi cánh vô hình năm 2008. Anh cùng guitar Triệu Hoàng Anh Tuấn cùng ấp ủ thực hiện dự án riêng là một ban nhạc của hai người. Sau khi KOP được hình thành cùng các ca khúc mới được sáng tác, các thành viên khác lần lượt góp mặt trong đội hình là tay trống Mạnh Cương, bassist Đức Tâm và guitarist Gia Huy. Ngày 13 tháng 8 năm 2010 là thời điểm đánh dấu sự xuất hiện của KOP trên sân khấu rock qua liveshow Black Friday kỷ niệm 11 năm của RFC (Rockpassion.vn).
Năm 2011, lần đầu tiên KOP xuất hiện tại Rock Storm với tư cách là ban nhạc mở màn cho các đêm diễn tại Biên Hòa, Thành phố Hồ Chí Minh và Cần Thơ. KOP tiếp tục tham gia Rock Storm những năm 2012, 2013 sau đó.
Giải thưởng.
KOP tham gia Bài Hát Việt vào năm 2012 và đạt giải "Ca sĩ thể hiện hiệu quả" với ca khúc "Nhắm mắt" và ca khúc này của KOP đã lọt vào danh sách 15 ca khúc chung kết của chương trình và nhận được đánh giá cao của các thành viên Hội đồng thẩm định. | 1 | null |
Nữ thần lửa (Hangul: 불의 여신 정이, tiếng Anh: "Goddess of Fire") hay Nữ thần lửa Jung Yi là một bộ phim cổ trang do đài truyền hình MBC sản xuất năm 2013. Phim có sự hợp tác giữa biên kịch Kwon Soon Kyu và đạo diễn Park Sung Soo cùng dàn diễn viên nổi tiếng như Moon Geun Young, Kim Bum, Lee Sang Yoon...
Dựa vào hình mẫu có thật là Baek Pa-sun - nữ nghệ nhân làm gốm sứ đầu tiên dưới triều Joseon phim xây dựng câu chuyện về cuộc sống của cô gái Jung Yi đam mê nghề gốm sứ và chuyện tình giữa cô và Hoàng tử Quang Hải Quân (Kwang Hae) của vương triều Joseon. Hải Quân yêu Jung Yi tha thiết, hết lòng hết dạ nhưng đồng thời anh cô độc đấu tranh giành quyền lực tối cao.
Bộ phim được sự đón nhận nồng nhiệt từ khán giả và liên tục lọt vào top những phim có tỉ lệ người xem cao nhất
Kịch bản.
Sinh ra với thị giác, khứu giác, vị giác và thính giác hơn người, Yung Ji sử dụng tất cả khả năng của mình để tạo nên những sản phẩm gốm sứ tuyệt vời. Để tạo ra những sản phẩm đó, cô dùng mũi ngửi tìm nguyên liệu đất sét tốt nhất, nếm men để đảm bảo chất lượng cao nhất. Khi nung, cô sử dụng thính giác để cảm nhận và điều chỉnh nhiệt độ.
Cùng với một đôi tay khéo léo, Yung Ji đã cho ra đời những sản phẩm gốm sứ tinh tế và tuyệt hảo. Jung Yi có niềm đam mê và mơ ước trở thành thợ làm gốm sứ hàng đầu dưới thời Joseon - thời kỳ nổi tiếng với loại sứ trắng được cho là có chất lượng cao nhất châu Á thế kỷ 16.
Jung học nghề tại xưởng làm gốm Bunwon của triều đình ở Bunwon-ri, Gwangju - nơi thuật làm gốm là một tổng hòa của nghệ thuật và khoa học. Trước khi trở thành nghệ nhân, cô chỉ là một đứa trẻ thích nghịch đất sét. Xã hội bấy giờ không công nhận tài năng của phụ nữ. Nhưng bằng nghị lực và niềm tin mãnh liệt, cô đã trở thành thợ làm gốm giỏi nhất.
Về sau, Jung yêu Hoàng tử Quang Hải Quân - người về sau trở thành vua của Joseon với cuộc đời đầy bi kịch vì những âm mưu soán ngôi. Mặc dù Quang Hải Quân yêu say đắm Jung Yi nhưng cô đã bị bắt sang Nhật khi là một tù nhân chiến tranh trong cuộc xâm lược của Nhật Bản-Triều Tiên (1592–1598).
Phân vai.
Nhân vật chính.
Jung Yi (Moon Geun-young).
Với khiếu thẩm mỹ tinh tế và giác quan nhạy cảm khác thường, Jung Yi như được sinh ra chỉ để làm đồ gốm. Cô có thể phân biệt những sản phẩm gốm hảo hạng chỉ bằng thị giác, lựa chọn chất liệu đất sét bằng khứu giác, đánh giá chất lượng men bằng vị giác và kiểm tra nhiệt độ lò nung bằng thính giác. Dưới bàn tay tài hoa của Jung Yi, những mẩu đất vô tri bỗng hoá thành kiệt tác nghệ thuật. Người ta nói Thần Gốm đã nhập vào Jung Yi trong lúc cô được sinh ra tại một lò nung.
Quang Hải Quân (Lee Sang-yoon).
Có tư chất đế vương từ nhỏ và tài trí hơn người nhưng Hoàng tử Quang Hải Quân lại gặp không ít trắc trở trên con đường thừa kế ngai vàng trước sự chống đối quyết liệt của các thế lực đối lập trong triều. Hơn nữa, Hải Quân còn không nhận được sự ủng hộ của Triều Tiên Tuyên Tổ do luôn bị coi là nguyên nhân gây ra cái chết của ái phi - người qua đời trong lúc hạ sinh Hải Quân. Từ khi còn bé, Hoàng tử Quang Hải Quân đã sớm nhận ra rằng một người văn võ song toàn trước sau gì cũng sẽ mua thù chuốc oán. Trong một chuyến đi săn cùng cha, Hải Quân gặp người phụ nữ định mệnh - Jung Yi.
Lee Yook-do (Park Gun-hyung).
Yook-do là anh cùng cha khác mẹ với Jung Yi. Sinh ra trong một gia đình có truyền thống nghề gốm, Yook-do sớm trở thành một người thợ thủ công nức tiếng gần xa. Phần lớn cư dân trong vùng đều cho rằng Yook-do có năng khiếu làm gốm thiên bẩm mà không hề biết đó là kết quả của biết bao tháng ngày lao tâm khổ tứ của anh bên bàn xoay. Chỉ 1% thành công của Yook-do là nhờ tài năng.
Kim Tae-do (Kim Bum).
Dường như sự có mặt của Tae-do trên cõi đời này là để bảo vệ Jung Yi. Anh quý cô bé mồ côi mẹ như em ruột. Ngoài lúc giúp cha mẹ trông coi quán trọ và luyện võ, khoảng thời gian còn lại của Tae-do đều dành cho Jung Yi. Tae-do không biết rằng anh đã phải lòng Jung Yi mà chỉ đơn giản tin rằng chăm sóc cô là nhiệm vụ của mình.
Nhân vật phụ.
Lee Gang-chun (Jun Kwang-ryul).
Nhà tạo mẫu gốm sứ hoàng gia thế hệ thứ 6 và là cha ruột của Jung Yi. Gia đình ông nổi tiếng vì làm gốm nhưng ông ấy là người cố gắng ngăn cản Jung Yi trở thành một thợ thủ công và không nhận Jung Yi là con mình. Ông ấy làm bất cứ điều gì cho con trai mình Yukdo. Lee giúp người Nhật xâm chiếm Triều Tiên nhưng không thành công và sau đó ông chết trong tay của người Nhật. Tuy thế, trong lòng ông, Jung Yi vẫn không phải là người con ruột của mình. | 1 | null |
Các vườn quốc gia México bao gồm 67 vườn quốc gia được bảo vệ là các khu vực tự nhiên được quản lý bởi Ủy ban Quốc gia liên bang về Khu vực tự nhiên được bảo vệ (CONANP). Tổng diện tích các vườn quốc gia là 1.432.024 ha, chiếm 0,73% diện tích lãnh thổ của México.
Danh sách.
Dưới đây là danh sách các vườn quốc gia tại México: | 1 | null |
Cube Entertainment Inc. () là một công ty giải trí của Hàn Quốc hoạt động như một hãng thu âm, công ty tài năng, công ty sản xuất âm nhạc, công ty tổ chức sự kiện và sản xuất buổi hòa nhạc và nhà xuất bản âm nhạc. Cube được biết đến với thần tượng "tự sáng tác và tự sản xuất". Vào tháng 4 năm 2020, người sáng lập Cube, Hong Seung-sung, đã từ chức khỏi công ty do tranh chấp quyền sở hữu.
Lịch sử.
Cube Entertainment được thành lập vào năm 2002 bởi cựu chủ tịch công ty JYP Entertainment Hong Seung Sung (hay còn gọi là Simon Hong) và Monica Shin. Cube chính thức có công ty con đầu tiên vào năm 2011 là A Cube Entertainment. Khoảng đầu năm 2015, Cube bắt đầu đi xuống do Park ChungMin đứng đầu. Đỉnh điểm năm 2016, với sự tan rã của 4MINUTE và sự ra đi của Beast, Cube gặp khủng hoảng trầm trọng nhất. Sự thay áo vào giữa cuối năm 2016 - được xem như một cuộc cách mạng của Cube đã đưa công ty thoát khỏi sự trì trệ. Cùng với đó, Cube đẩy mạnh các hoạt động của BTOB, Hyuna, CLC và cho ra mắt PENTAGON (10/10/2016) làm doanh thu tăng. Đến đầu năm 2017, Cube hoàn toàn hết nợ. | 1 | null |
Christian Dannemann Eriksen (; sinh ngày 14 tháng 2 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Đan Mạch thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Manchester United tại Premier League và Đội tuyển bóng đá quốc gia Đan Mạch.
Eriksen khởi đầu sự nghiệp tại câu lạc bộ Hà Lan Ajax, nơi anh vô địch Eredivisie vào mùa giải 2010–11, 2011–12 và 2012–13. Vào năm 2014, Eriksen gia nhập Tottenham và được vinh danh là cầu thủ xuất sắc nhất năm của câu lạc bộ ở mùa giải đầu tiên của anh. Trong thời gian bảy năm tại câu lạc bộ, anh cũng được vinh danh là cầu thủ xuất sắc nhất năm của câu lạc bộ ở mùa giải 2016–17. Ở mùa giải 2018–19, Eriksen trở thành cầu thủ thứ hai sau David Beckham có kỷ lục hơn 10 pha kiến tạo ở bốn mùa giải Premier League liên tiếp và là thành phần quan trọng của đội hình đã vào đến trận chung kết UEFA Champions League 2019. Vào tháng 1 năm 2020, anh ký hợp đồng với câu lạc bộ Ý Inter Milan.
Eriksen có trận đấu ra mắt đội tuyển quốc gia Đan Mạch vào tháng 3 năm 2010 và là cầu thủ trẻ nhất của FIFA World Cup 2010. Trên con đường lọt vào FIFA World Cup 2018, Eriksen có vai trò quan trọng trong chiến dịch vòng loại của đội tuyển. Đan Mạch vào đến vòng 16 đội, nơi họ bị đánh bại bởi Croatia sau loạt sút luân lưu. Eriksen được vinh danh là Cầu thủ bóng đá xuất sắc nhất năm của Đan Mạch kỷ lục năm lần.
Sự nghiệp câu lạc bộ.
Middelfart và Odense.
Christian Eriksen bắt đầu chơi bóng đá tại quê nhà Middelfart ngay khi chưa được ba tuổi. Năm 2005, anh chuyển đến Odense Boldklub (OB) và cùng câu lạc bộ này tham dự giải bóng đá trẻ Đan Mạch. OB thua tại bán kết trước đội trẻ Brøndby IF nhưng Eriksen vẫn được chọn là cầu thủ có kỹ thuật tốt nhất giải đấu. Một năm sau đó, OB vô địch giải trẻ với Eriksen là người ghi bàn thắng duy nhất trong trận chung kết. Thành tích của anh trong màu áo của U-16 OB và sau đó là đội U-17 và U-19 Đan Mạch đã giúp anh trở thành mục tiêu của các câu lạc bộ lớn như Chelsea và Barcelona. Eriksen sau đó đã thử việc tại Barcelona, Manchester United, Chelsea và Milan nhưng cuối cùng lại bất ngờ chọn Ajax vì anh cho rằng thi đấu cho một câu lạc bộ lớn ngay từ đầu là có thể quá sức và bóng đá Hà Lan sẽ giúp cho anh phát triển tài năng.
Ajax Amsterdam.
2008-2011.
Ngày 17 tháng 10 năm 2008, Eriksen ký hợp đồng thời hạn hai năm rưỡi với Ajax Amsterdam. Phí chuyển nhượng mà OB nhận được là 1 triệu €. Sau hơn một năm ở đội trẻ, anh được đưa lên đội một vào tháng 1 năm 2010, với số áo 51. Ngày 17 tháng 1 năm 2010, anh có trận đấu chính thức đầu tiên ở câu lạc bộ AFC Ajax trong trận đấu tại Eredivisie với NAC Breda. Ngày 25 tháng 3 năm 2010, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Ajax trong trận đại thắng 6–0 trước Go Ahead Eagles tại Cúp quốc gia Hà Lan. Ngày 10 tháng 4 năm 2010, anh gia han hợp đồng với Ajax đến mùa hè 2014.
Ngày 6 tháng 5 năm 2010, Eriksen đã vào sân ở hiệp 2 trận chung kết Cúp quốc gia Hà Lan, nơi Ajax đánh bại Feyenoord 4-1 để giành chức vô địch với tổng tỉ số 6-1 sau hai lượt trận. Kết thúc mùa giải chuyên nghiệp đầu tiên cùng Ajax, Eriksen đã thi đấu 21 trận, ghi được 1 bàn. Từ mùa giải sau đó, anh được trao chiếc áo số 8.
Eriksen bắt đầu mùa giải 2010-11 bằng bàn thắng trong chiến thắng sân khách trước De Graafschap ngày 29 tháng 8 năm 2010. Ngày 11 tháng 11 năm 2010, Eriksen có bàn thắng đầu tiên tại sân Amsterdam ArenA trong chiến thắng 3-0 tại Cúp quốc gia trước BV Veendam. Trong tháng 12, anh nhận danh hiệu Cầu thủ trẻ Đan Mạch xuất sắc nhất năm. Sau khi nhận danh hiệu vài ngày, anh ghi bàn thắng duy nhất trong trận đấu với Vitesse. Ngày 17 tháng 2 năm 2011, Eriksen có pha lập công đầu tiên tại đấu trường châu Âu trong chiến thắng 3-0 của Ajax trước Anderlecht tại UEFA Europa League 2010–11. Ngày 13 tháng 3, anh có pha đi bóng giữa sân sau đó ghi bàn thắng ấn định tỉ số 3-1 trước Willem II.
2011-2013.
Với phong độ ấn tượng trong mùa giải 2010-11 và cùng Ajax giành danh hiệu Eredivisie lần đầu tiên sau 7 năm, Eriksen được chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất trong năm của câu lạc bộ này. Ngày 23 tháng 5 năm 2011, anh giành danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất năm của bóng đá Hà Lan, người Đan Mạch thứ hai giành được danh hiệu này sau tiền đạo Jon Dahl Tomasson năm 1996. Đứng đầu hội đồng bầu chọn cho danh hiệu này là huyền thoại Johan Cruyff, người đã khen Eriksen:"Chúng ta có thể so sánh cậu ấy với Brian và Michael Laudrup. Cậu ấy chỉ còn cần thời gian để đạt đến trình độ của những đàn anh ấy."
Ngày 18 tháng 10 năm 2011, Eriksen ghi bàn thắng đầu tiên tại UEFA Champions League khi Ajax đánh bại Dinamo Zagreb 2–0 ở vòng bảng, giúp anh trở thành cầu thủ trẻ nhất thứ hai ghi bàn tại mùa giải 2011–12. Trong trận lượt về với Dinamo Zagreb ngày 2 tháng 11, anh có hai đường chuyền thành bàn cho Gregory van der Wiel và Siem de Jong cũng như góp công vào bàn thắng thứ ba, giúp Ajax đánh bại đội bóng Croatia 4-0. Sau mùa giải thứ ba liên tiếp có được danh hiệu vô địch Giải vô địch bóng đá Hà Lan, anh từ chối gia hạn hợp đồng với Ajax. Sau ba mùa giải với câu lạc bộ Hà Lan, Eriksen có tổng cộng 113 trận đấu tại Eredivisie, ghi 25 bàn và kiến tạo thành bàn 41 lần. Tại Cúp KNVB, anh có 4 bàn và 4 pha kiến tạo sau 16 trận. Tại đấu trường châu Âu, anh có 30 trận cho Ajax và ghi được 3 bàn và có 9 đường chuyền thành bàn.
Tottenham Hotspur.
2013–14.
Ngày 30 tháng 8 năm 2013, Tottenham Hotspur thông báo đã hoàn tất việc chuyển nhượng Eriksen từ Ajax với phí chuyển nhượng 11,5 triệu bảng.
Ngày 14 tháng 9 năm 2013, anh có trận đấu đầu tiên tại Premier League với Norwich. Tottenham thắng 2-0 và anh đóng góp trong cả hai bàn thắng, trong đó có một đường chuyền thành bàn cho Gylfi Sigurðsson. Huấn luyện viên André Villas-Boas đã đánh giá màn ra mắt của Eriksen là tuyệt vời và anh xứng đáng với vị trí của một số 10 bằng sự sáng tạo và kỹ thuật cá nhân.
Ngày 19 tháng 9 năm 2013, Eriksen có bàn thắng đầu tiên cho Tottenham với một cú sút xa tuyệt đẹp trong chiến thắng 3–0 trước Tromsø IL tại Europa League. Đến ngày 26 tháng 12 năm 2013, anh mới có bàn thắng đầu tiên tại Premier League là một pha đá phạt trực tiếp đẹp mắt mở tỉ số trận đấu với West Bromwich Albion. Một tuần sau đó, trong trận đấu với đối thủ mạnh Manchester United, anh lập công lớn với một pha kiến tạo cho Emmanuel Adebayor và tự mình nâng tỉ số lên 2-0 đem về chiến thắng 2-1 cho Tottenham.
Ngày 23 tháng 3 năm 2014, trong trận đấu với Southampton khi mà Tottenham đã bị dẫn trước a 2–0 ở phút 28, Eriksen đã lập một cú đúp và kiến tạo cho Gylfi Sigurðsson ghi bàn thắng ấn định cuộc lội ngược dòng 3-2. Đến ngày 12 tháng 4, anh lại có pha lập công giúp Tottenham có được 1 điểm trước West Bromwich Albion sau khi đã bị đối thủ dẫn trước 3-0. Kết thúc mùa giải đầu tiên với Tottenham, Eriksen có được tổng cộng 7 bàn thắng tại giải bóng đá Ngoại hạng Anh 2013-14.
2014–15.
Eriksen có bàn thắng đầu tiên trong mùa giải 2014-15 trong trận hòa 2-2 với Sunderland vào ngày 13 tháng 9 năm 2014.
Ngày 28 tháng 1 năm 2015, Eriksen lập cú đúp, trong đó có một pha đá phạt trực tiếp đẹp mắt để đưa Tottenham vào chung kết League Cup với tổng tỉ số 3-2 trước Sheffield United sau hai lượt trận.
2015–16.
Tháng 1 năm 2016, Eriksen trở thành cầu thủ Đan Mạch đầu tiên ba lần liên tiếp giành danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Đan Mạch.
2016–17.
Ngày 26 tháng 11 năm 2016, Eriksen mở tỉ số trong trận đấu trên sân khách trước đội đầu bảng Chelsea bằng một cú sút xa đẹp mắt nhưng sau đó đội bóng của anh đã để thua ngược 1-2. Một tuần sau đó, anh có cú đúp trong chiến thắng 5-1 trước Swansea City.
Ngày 27 tháng 4 năm 2017, anh ghi bàn thắng duy nhất trong trận đấu với Crystal Palace để thu hẹp khoảng cách với Chelsea trong cuộc đua giành ngôi vô địch Giải ngoại hạng Anh xuống bốn điểm. Trong mùa giải 2016-17, anh có tổng cộng 15 đường chuyền thành bàn và là cầu thủ tạo ra nhiều cơ hội ăn bàn nhất châu Âu, với tổng cộng 112 lần đặt đồng đội vào thế ghi bàn.
2017–18.
Eriksen trở thành cầu thủ Đan Mạch ghi nhiều bàn thắng nhất tại Premier League khi đạt đến cột mốc 33 bàn, vượt qua kỷ lục cũ của Nicklas Bendtner trong chiến thắng 3–2 trước West Ham ngày 23 tháng 9 năm 2017. Ngày 14 tháng 10, bàn thắng duy nhất của Eriksen giúp Tottenham hạ Bournemouth ở vòng tám Ngoại hạng Anh và đây cũng là chiến thắng đầu tiên của Tottenham trên sân nhà Wembley ở mùa này. Ngày 9 tháng 12, anh có trận đấu thứ 200 cho Tottenham và đánh đấu cột mốc này bằng bàn thắng trong trận thắng 5-1 trước Stoke City.
Một tháng sau đó, anh có bàn thắng thứ 50 cho Spurs chỉ sau 11 giây trận đấu với Manchester United và chung cuộc đội bóng của anh giành chiến thắng 2-0. Bàn thắng này là bàn thắng nhanh thứ ba trong lịch sử Premier League, chỉ sau bàn thắng của Ledley King và Alan Shearer. Ngày 17 tháng 3 năm 2018, Eriksen lập cú đúp đưa Tottenham vào bán kết Cúp FA mùa giải thứ hai liên tiếp sau chiến thắng 3-0 trước Swansea City. Ngày 1 tháng 4 năm 2018, Ericksen lập siêu phẩm với cú vuốt bóng từ cự ly gần 30 mét giúp Tottenham đánh bại Chelsea ngay tại Stamford Bridge lần đầu tiên sau 28 năm. Bàn thắng này sau đó giúp anh có được Bàn thắng đẹp nhất tháng Giải bóng đá Ngoại Hạng Anh. Ngày 14 tháng 4, anh ghi bàn vào lưới đội bóng đầu bảng Manchester City trong trận thua 1-3.
Eriksen kết thúc mùa giải 2017-18 với việc lần đầu tiên có mặt trong Đội hình xuất sắc nhất giải Ngoại hạng Anh trong mùa của Hiệp hội Cầu thủ Chuyên nghiệp Anh (PFA), cùng với đồng đội Harry Kane và Jan Vertonghen.
Mùa giải 2018–19.
Trong mùa giải 2018–19, Eriksen ghi bàn thắng đầu tiên trong mùa giải trong trận đấu trên sân khách tại Champions League với Inter Milan. Trận đấu kết thúc với thất bại 2–1 cho Tottenham, nhưng trong trận đấu trên sân nhà với Inter, Eriksen lại ghi bàn trong bàn thắng duy nhất của trận đấu, giúp Tottenham giành chiến thắng 1–0. Anh ghi bàn thắng đầu tiên trong mùa giải ở Premier League vào ngày 15 tháng 12 năm 2018 trong trận đấu trên sân nhà với Burnley, bàn thắng muộn giúp Tottenham giành chiến thắng 1–0. Vào ngày 31 tháng 3, trong trận thua 2–1 trước Liverpool, anh trở thành cầu thủ thứ hai sau David Beckham có hơn 10 pha kiến tạo trong bốn mùa giải Premier League liên tiếp. Ba ngày sau, trong lần ra sân thứ 200 tại Premier League, anh đã kiến tạo cho Son Heung-min ghi bàn thắng đầu tiên trên sân Tottenham Hotspur mới trước khi tự mình ghi bàn trong chiến thắng 2–0 trước Crystal Palace. Vào ngày 23 tháng 4, anh ghi bàn thắng quyết định trong chiến thắng 1–0 trước Brighton & Hove Albion. Sau đó, Eriksen thi đấu trong trận Chung kết UEFA Champions League 2019, nhưng Tottenham thất bại 2–0 trước Liverpool.
Inter Milan.
Mùa giải 2019–20.
Vào ngày 28 tháng 1 năm 2020, khi hợp đồng của anh ấy tại Tottenham sẽ hết hạn sau sáu tháng, Eriksen đã ký hợp đồng 4 năm rưỡi với câu lạc bộ Serie A Inter Milan, với mức thu nhập 10 triệu euro mỗi mùa cho anh ấy. Anh có trận ra mắt câu lạc bộ vào ngày hôm sau, vào sân trong hiệp hai thay cho Alexis Sánchez trong chiến thắng 2-1 trên sân nhà trước Fiorentina ở tứ kết Coppa Italia. Vào ngày 20 tháng 2, Eriksen ghi bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ, ghi bàn mở tỷ số trong chiến thắng 2–0 trên sân khách trước Ludogorets Razgrad tại Europa League. Anh ghi bàn thắng đầu tiên tại Serie A vào ngày 1 tháng 7, trong chiến thắng 6–0 trước Brescia. Vào ngày 21 tháng 8, Eriksen thi đấu trong trận thua 2-3 của Inter trước Sevilla trong trận Chung kết Europa League 2020, trở thành cầu thủ đầu tiên để thua hai trận chung kết liên tiếp trong hai giải đấu lớn hiện tại của UEFA; trước đó, anh ấy đã thất bại trong trận Chung kết Champions League 2019 với Tottenham.
Mùa giải 2020–21.
Vào tháng 12 năm 2020, Giuseppe Marotta xác nhận rằng Eriksen đã được thêm vào danh sách chuyển nhượng cho năm 2021; tuy nhiên, đồng đội của anh, Romelu Lukaku trước đó đã ám chỉ rằng những khó khăn của Eriksen ở câu lạc bộ Ý là do bất đồng ngôn ngữ. Vào ngày 26 tháng 1 năm 2021, trong những phút cuối cùng của trận tứ kết Coppa Italia giữa Inter với đối thủ Milan, Eriksen được thay vào khi tỷ số là 1-1. Ở phút bù giờ thứ bảy và khi trận đấu tưởng như đã bước sang hiệp phụ, anh đã ghi bàn thắng đầu tiên trong mùa giải từ một quả đá phạt trực tiếp để mang về chiến thắng cho Inter và đưa họ vào bán kết. Sau trận đấu, huấn luyện viên Antonio Conte của Inter nói rằng Eriksen sẽ ở lại với câu lạc bộ, mặc dù có liên quan đến việc rời đi vào mùa đông. Vào ngày 1 tháng 5, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Inter trong chiến thắng quan trọng 2–0 trên sân khách trước Crotone, đưa câu lạc bộ tiến gần hơn đến chức vô địch đầu tiên kể từ mùa giải 2009–10. Inter được xác nhận là nhà vô địch giải đấu vào ngày hôm sau, sau khi đối thủ gần nhất Atalanta không thể thắng trong trận đấu với Sassuol. Nó kết thúc chuỗi 9 năm vô địch Serie A của Juventus.
Mùa giải 2021–22.
Vào ngày 29 tháng 10 năm 2021, đã có thông báo rằng Eriksen không được phép chơi cho Inter Milan do phải cấy máy khử rung tim sau khi bị ngừng tim tại Euro 2020. Gần nửa năm sau khi ngừng tim, Eriksen bắt đầu tập luyện cá nhân tại các cơ sở của đội trẻ Odense Boldklub ở Odense để chuẩn bị trở lại với bóng đá. Vào ngày 17 tháng 12, Inter Milan đồng ý thanh lý hợp đồng của tiền vệ này.
Brentford.
Vào ngày 31 tháng 1 năm 2022, Eriksen gia nhập câu lạc bộ Brentford ở Premier League với bản hợp đồng có thời hạn 6 tháng. Vào ngày 26 tháng 2 năm 2022, trận đấu ra mắt đầu tiên của anh là khi vào sân thay cho Mathias Jensen trong trận thua 0–2 trước Newcastle United.Anh có pha kiến tạo đầu tiên trong chiến thắng 2–0 trước Burnley FC.Anh ghi bàn thắng đầu tiên tại Premier League trong chiến thắng ấn tượng 4–1 trên sân khách trước đối thủ cùng thành phố Chelsea vào ngày 3 tháng 4.
Manchester United.
Vào ngày 15 tháng 7 năm 2022, Manchester United thông báo rằng họ đã đạt được thỏa thuận ký hợp đồng với Eriksen trong vòng ba năm. Vào ngày 28 tháng 7 năm 2022, người ta xác nhận rằng anh sẽ mặc áo số 14. Vào ngày 7 tháng 8, Eriksen ra mắt câu lạc bộ trong trận thua 2-1 trên sân nhà trước Brighton & Hove Albion. Anh có pha kiến tạo đầu tiên cho câu lạc bộ trong chiến thắng 3-1 trên sân nhà trước kình địch Arsenal khi kiến tạo cho Marcus Rashford ghi bàn thứ hai.
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia.
Đội trẻ.
Eriksen được gọi vào đội tuyển U-17 Đan Mạch vào tháng 7 năm 2007, và thi đấu xuất sắc ngay từ lần ra mắt ngày 31 tháng 7. Năm 2008, anh ghi 9 bàn trên 16 trận cho U-17 Đan Mạch và được bầu là cầu thủ xuất sắc nhất lứa tuổi U-17 Đan Mạch năm 2008 bởi Liên đoàn Bóng đá Đan Mạch. Anh còn được đề cử vào danh sách rút gọn 4 ứng cử viên cho danh hiệu cầu thủ trẻ Đan Mạch xuất sắc nhất năm 2008 và sau cùng người giành danh hiệu này là Mathias Jørgensen. Anh có 27 trận đấu cho U-17 Đan Mạch đến tháng 2 năm 2009. Trong năm 2009, anh có 8 trận đấu cho U-18 và U-19 Đan Mạch. Eriksen là thành viên U-21 Đan Mạch tham dự Giải vô địch bóng đá U-21 châu Âu 2011 ngay tại Đan Mạch nhưng đội chủ nhà bị loại sau vòng bảng và Eriksen ghi được một bàn vào lưới U-21 Belarus.
Đội tuyển quốc gia.
Anh được triệu tập vào đội tuyển Đan Mạch lần đầu tiên vào tháng 2 năm 2010, có trận ra mắt vào tháng 3 gặp Áo, và trở thành cầu thủ trẻ thứ tư khoác áo đội tuyển và là cầu thủ trẻ nhất kể từ thời Michael Laudrup.
Ngày 28 tháng 5 năm 2010, huấn luyện viên Morten Olsen đã đưa Eriksen vào danh sách 23 cầu thủ tham dự World Cup 2010 tại Nam Phi. Điều này giúp anh trở thành cầu thủ trẻ nhất tại giải đấu. Tại World Cup 2010, Eriksen thi đấu hai trận vòng bảng với Hà Lan và Nhật Bản, chung cuộc Đan Mạch bị loại sau trận thua 1-3 trước đội tuyển Nhật.
Ngày 9 tháng 2 năm 2011, trong trận giao hữu thua đội tuyển Anh 1-2, Eriksen được chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu và nhận được nhiều lời khen ngợi từ Frank Lampard, Rio Ferdinand (on Twitter), huấn luyện viên Morten Olsen và truyền thông Đan Mạch cũng như Anh. Ngày 4 tháng 6 năm 2011 Eriksen ghi bàn thắng đầu tiên cho đội tuyển trong chiến thắng 2-0 trước Iceland tại vòng loại Euro 2012. Bàn thắng này giúp anh trở thành cầu thủ Đan Mạch trẻ nhất ghi bàn tại vòng loại Euro, kỷ lục trước đó thuộc về Michael Laudrup năm 1983.
Ngày 7 tháng 11 năm 2011, anh được trao danh hiệu Cầu thủ Đan Mạch xuất sắc nhất năm sau khi giúp Ajax vô địch Eredivisie mùa giải 2010-11 và có một chiến dịch vòng loại Euro 2012 cực kỳ thành công với đội tuyển Đan Mạch. Eriksen nói trong lễ trao giải:"Tôi rất tự hào khi đứng ở bục trao giải tối nay. Tôi thực sự bất ngờ vì giải thưởng này và nó rất ý nghĩa với tôi. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các đồng đội ở tuyển quốc gia và ở Ajax"".
UEFA Euro 2012.
Eriksen tham dự Euro 2012 với sự đánh giá cao và kỳ vọng rất lớn sẽ tỏa sáng khi là cầu thủ đầu tiên trong lịch sử đội tuyển Đan Mạch đạt đến cột mốc 25 lần khoác áo đội tuyển quốc gia khi mới 20 tuổi. Tuy nhiên mặc dù đã được ra sân ở cả ba trận đấu tại bảng đấu tử thần, song chỉ có vỏn vẹn ba cú sút với không bàn thắng và không pha kiến tạo.
World Cup 2018.
Tại Bảng E Vòng loại World Cup 2018, Eriksen ghi được 8 bàn sau 10 trận để giúp Đan Mạch đứng nhì bảng giành quyền dự tranh play-off tham dự World Cup với Cộng hòa Ireland. Trong trận lượt đi hai đội hòa nhau 0-0 nhưng trong trận lượt về Eriksen đã lập hat-trick giúp Đan Mạch đánh bại Ireland 5–1. Với 11 bàn thắng, Eriksen là cầu thủ ghi bàn nhiều thứ ba tại vòng loại World Cup khu vực châu Âu, sau Robert Lewandowski (16 bàn) và Cristiano Ronaldo (15 bàn).
Tại World Cup 2018, anh chỉ có được một bàn thắng trong trận hòa 1-1 trước ở lượt trận thứ hai vòng bảng. Trước đó trong trận đấu đầu tiên ở giải đấu với , anh là người có đường chọc khe cho Yussuf Poulsen ghi bàn thắng duy nhất của trận đấu. Đội tuyển Đan Mạch sau đó lọt vào vòng 16 đội và thua ở loạt sút penalty sau 120 phút hòa 1-1, trong đó Eriksen đá hỏng quả penalty đầu tiên khi không đánh bại được thủ môn Danijel Subašić.
Sự cố ngưng tim tại UEFA Euro 2020.
Trong trận đấu mở màn Euro 2020 của Đan Mạch với vào ngày 12 tháng 6 năm 2021, Eriksen ngã xuống đất dù không va chạm với bất kỳ cầu thủ nào trên sân và được hồi sức tim phổi. Trận đấu bị tạm dừng. Ngay sau đó, Eriksen đã được chuyển đến Rigshospitalet và đã dần ổn định. Tuy nhiên sau khi xuất viện, anh vẫn phải về nhà nghỉ ngơi một thời gian dài Từ đó, Eriksen đã phải chia tay Euro 2020.
Vào ngày 26 tháng 3 năm 2022, Anh trở lại đội tuyển quốc gia sau một thời gian dài nghỉ thi đấu vì sự cố ở Euro 2020 trong trận thua 2–4 trước , anh vào sân ở hiệp 1 và ghi bàn thắng 2 phút sau đó. Ba ngày sau đó, anh đóng góp bàn thắng cuối cùng trong chiến thắng 3–0 trước .
Phong cách thi đấu.
Huấn luyện viên Ajax Martin Jol đã so sánh Eriksen với các thế hệ cầu thủ đi trước cũng trưởng thành từ Ajax là Wesley Sneijder và Rafael van der Vaart. Ông đánh giá cầu thủ người Đan Mạch đọc trận đấu rất tốt và là một số 10 cổ điển như hai tiền vệ kể trên và huyền thoại bóng đá Đan Mạch Michael Laudrup. Khả năng kiến tạo thành bàn là điểm mạnh nhất của Eriksen.
Tuy nhiên điểm yếu của Eriksen là phong độ trong những trận đấu lớn. Khi còn chơi bóng ở giải vô địch quốc gia Hà Lan, anh thường tỏa sáng khi Ajax chạm trán những đối thủ trung bình như nhưng cần tới 3 năm mới có thể chọc thủng lưới PSV Eindhoven, một đội bóng lớn tại Hà Lan.
Danh hiệu.
Câu lạc bộ.
Manchester United | 1 | null |
Quốc kỳ Cộng hòa Tchad (, ) là cờ tam tài với ba sọc màu thẳng đứng từ trái qua phải là xanh dương, vàng và đỏ. Màu xanh dương được thay thế cho màu xanh lá để phân biệt với quốc kỳ Mali. Về cơ bản lá cờ này có thiết kế giống với quốc kỳ România, Moldova và Andorra. Điểm khác biệt duy nhất giữa cờ Tchad và cờ Romania là độ đậm nhạt của màu xanh bên trái mỗi lá cờ, do đó hai lá cờ này hầu như giống hệt nhau.
Mô tả.
Màu xanh dương biểu tượng cho bầu trời, hy vọng và nước; vàng là mặt trời và sa mạc ở phía bắc đất nước; đỏ tượng trưng cho tiến bộ, thống nhất và hy sinh. Màu đỏ cũng gợi nhớ máu xương những người đã ngã xuống vì độc lập. Giá trị RGB của các màu này lần lượt là 12-28-140, 252-209-22 and 206-17-38. | 1 | null |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.