text
stringlengths
1
148k
label
int64
0
2
__index_level_0__
int64
0
113k
Gracias là một thị xã/khu tự quản Honduras được thành lập năm 1536, là thủ phủ Lempira Department. Thị xã có dân số khoảng 25.000 người (12.000 ở trung tâm thành thị). Thị xã nằm ở trung tâm núi non phía tây Honduras. Độ cao khu vực từ 800 mét ở quảng trường trung tâm đến 2.870 mét ở đỉnh Montaña Celaque (cũng gọi là Cerro Las Minas). Khí hậu phần lớn ảnh hưởng bởi độ cao với khu vực thấp có khí hậu kiểu khô-ẩm gió mùa. Montaña Celaque là đỉnh cao nhất và có rừng trong mây lớn nhất ở Honduras, and và được bảo vệ trong vườn quốc gia núi Celaque.
1
null
Vladimir Volfovich Zhirinovsky (; 1946 - 2022) là một chính khách người Nga. Ông được nhiều người biết đến với tư cách nhà sáng lập và lãnh đạo của đảng Dân chủ Tự do Nga (LDPR), từng giữ chức Phó chủ tịch Duma Quốc gia và là một thành viên của Hội đồng Nghị viện của Ủy hội châu Âu. Cuộc đời và sự nghiệp. Zhirinovsky tên khai sinh là Vladimir Volfovich Eidelstein (), sinh 25 tháng 4 năm 1946. Ông từng tham gia binh nghiệp và thăng đến cấp Đại tá Lục quân Nga trước khi chuyển sang hoạt động chính trị. Ông thành lập và lãnh đạo của đảng Dân chủ Tự do Nga (LDPR), một trong những chính đảng đối lập lớn nhất với chính quyền Putin. Zhirinovsky được xem là một chính khách cực hữu và có đường lối chính trị theo chủ nghĩa dân túy, có xu hướng chống Chủ nghĩa Cộng sản. Mặc dù vậy, ông cũng được xem là có thiện cảm với Việt Nam, thường xuyên có những phát biểu đòi hợp pháp hóa và quyền lợi cho người Việt tại Nga, kể cả những người sinh sống bất hợp pháp. Tháng 2 năm 2022, ông bị nhập viện vì COVID-19 và phải điều trị cho đến ngày 25 tháng 3. Ông được thông báo đã qua đời vì hậu quả của chứng COVID-19 vào ngày 6 tháng 4 năm 2022.
1
null
Vật cưng hay thú kiểng, thú cảnh, thú cưng là những loài động vật được nuôi để làm cảnh để con người ôm ấp, nâng niu chăm sóc. Hai trong số những loài thú cưng phổ biến nhất là chó và mèo. Vai trò thú cưng trái ngược với động vật dùng để lao động (lấy sức kéo như trâu, bò, lừa, ngựa, chó kéo xe gọi là súc vật lao tác) trong thể thao (chó, bò, ngựa), trong phòng thí nghiệm (chuột bạch, thỏ nhà) hay những loài vật được nuôi để lấy thịt, trứng và sữa. Thú cưng mang lại cho chủ nhân của chúng, hoặc người giám hộ, cả lợi ích về thể chất lẫn tinh thần. Việc dạo chó có thể mang lại cho cả con người và chó sự tập luyện, không khí trong lành, và tương tác xã hội. Thú cưng có thể cung cấp sự đồng hành cho những người sống một mình hoặc người già không có đủ tương tác xã hội với người khác. Có một lớp thú trị liệu được chấp thuận y khoa được mang đến để thăm những người bị giam cầm, như trẻ em trong bệnh viện hoặc người già trong nhà dưỡng lão. Liệu pháp với thú cưng sử dụng động vật và người xử lý được đào tạo để đạt được các mục tiêu cụ thể về thể chất, xã hội, nhận thức, hoặc cảm xúc với bệnh nhân. Mọi người thường nhận thú cưng để làm bạn đồng hành, bảo vệ nhà cửa hoặc tài sản, hoặc bởi vì sự đẹp hoặc hấp dẫn được nhìn thấy từ động vật. Một nghiên cứu của Canada năm 1994 phát hiện rằng những lý do phổ biến nhất để không sở hữu thú cưng là thiếu khả năng chăm sóc thú cưng khi đi du lịch (34.6%), thiếu thời gian (28.6%), và thiếu nơi ở phù hợp (28.3%), với việc không thích thú cưng ít phổ biến hơn (19.6%). Một số học giả, nhà đạo đức học, và tổ chức quyền động vật đã đưa ra những mối quan ngại về việc nuôi thú cưng do sự thiếu tự chủ và việc đối tượng hóa động vật phi nhân loại. Sự phổ biến của thú cưng. Ở Trung Quốc, chi tiêu cho các động vật nuôi trong nhà đã tăng từ khoảng 3.12 tỷ đô la vào năm 2010 lên đến 25 tỷ đô la vào năm 2018. Người dân Trung Quốc sở hữu 51 triệu con chó và 41 triệu con mèo, và thường thích mua thức ăn cho thú cưng từ quốc tế. Tổng số thú cưng ở Trung Quốc là 755 triệu con, tăng từ 389 triệu con vào năm 2013. Theo một cuộc khảo sát được tổ chức bởi các hiệp hội gia đình Ý năm 2009, ước tính có khoảng 45 triệu thú cưng ở Ý. Con số này bao gồm 7 triệu con chó, 7.5 triệu con mèo, 16 triệu con cá, 12 triệu con chim và 10 triệu con rắn. Một cuộc khảo sát năm 2007 do Đại học Bristol thực hiện tại Vương quốc Anh đã phát hiện ra rằng 26% các hộ gia đình sở hữu mèo và 31% sở hữu chó, ước tính tổng số dân số thú cưng trong nước là khoảng 10.3 triệu con mèo và 10.5 triệu con chó vào năm 2006. Cuộc khảo sát cũng cho thấy rằng 47.2% các hộ gia đình có mèo thì có ít nhất một người đã đào tạo đạt bằng cấp đại học, so với 38.4% số hộ có chó. Sáu mươi tám phần trăm các hộ gia đình tại Hoa Kỳ, tương đương khoảng 85 triệu gia đình, sở hữu một con thú cưng, theo cuộc khảo sát Chủ sở hữu Thú cưng Quốc gia 2017-2018 do Hiệp hội Sản phẩm Thú cưng Hoa Kỳ (APPA) tiến hành. Con số này tăng lên từ 56 phần trăm các hộ gia đình tại Hoa Kỳ vào năm 1988, năm đầu tiên cuộc khảo sát được tiến hành. Hiện có khoảng 86.4 triệu mèo cưng và khoảng 78.2 triệu chó cưng ở Hoa Kỳ, và một cuộc khảo sát của Hoa Kỳ năm 2007-2008 cho thấy số hộ sở hữu chó vượt trội hơn so với mèo, nhưng tổng số mèo cưng lại cao hơn số chó cưng. Tình hình này cũng được duy trì vào năm 2011. Năm 2013, số lượng thú cưng vượt trội hơn gấp bốn lần so với số lượng trẻ em tại Hoa Kỳ. Tác động của thú cưng đến sức khỏe của người chăm sóc. Lợi ích về sức khỏe. Rộng rãi trong công chúng, và trong số nhiều nhà khoa học, có quan niệm rằng thú cưng có thể mang lại lợi ích về sức khỏe tinh thần và thể chất cho chủ sở hữu của chúng; một tuyên bố của NIH năm 1987 cẩn trọng cho rằng dữ liệu hiện có "gợi ý" về lợi ích đáng kể. Tuy nhiên, một nghi vấn gần đây đến từ một nghiên cứu của RAND năm 2017, đã phát hiện ra rằng ít nhất đối với trẻ em, việc nuôi thú cưng "per se" không cải thiện sức khỏe thể chất hay tinh thần một cách đáng kể dưới góc độ thống kê; thay vào đó, nghiên cứu này cho thấy những trẻ em có xu hướng khỏe mạnh từ trước sẽ có khả năng cao hơn để nuôi thú cưng từ đầu. Thực hiện các cuộc thử nghiệm ngẫu nhiên dài hạn để giải quyết vấn đề này sẽ tốn kém hoặc không khả thi. Kết nối với cộng đồng. Ngoài việc mang lại lợi ích sức khỏe cho chủ nhân, thú cưng cũng ảnh hưởng đến cuộc sống xã hội của chủ nhân và mối liên kết của họ với cộng đồng. Có một số bằng chứng cho thấy thú cưng có thể tạo điều kiện cho tương tác xã hội. Tiến sĩ trợ lý của Khoa xã hội học tại Đại học Colorado ở Boulder, Leslie Irvine đã tập trung chú ý đến thú cưng của dân số vô gia cư. Nghiên cứu của bà về sở hữu thú cưng trong số người vô gia cư cho thấy rất nhiều người điều chỉnh các hoạt động sống của họ vì lo sợ mất thú cưng. Việc sở hữu thú cưng thúc đẩy họ hành động có trách nhiệm, với nhiều người tự chọn không uống rượu hoặc sử dụng ma túy và tránh tiếp xúc với người lạm dụng chất hoặc có liên quan đến bất kỳ hoạt động tội phạm nào vì sợ bị tách ly khỏi thú cưng. Ngoài ra, nhiều người từ chối ở trong các trạm tạm trú nếu thú cưng của họ không được phép ở cùng họ. Những rủi ro về sức khỏe. Những rủi ro về sức khỏe liên quan đến thú cưng bao gồm: Tác động đến sức khỏe của thú cưng. Nuôi động vật như thú cưng có thể gây hại cho sức khỏe của chúng nếu không đáp ứng đúng các yêu cầu cần thiết. Vấn đề quan trọng là việc cung cấp thức ăn không đúng cách, điều này có thể gây ra tác động lâm sàng. Ví dụ, việc chó ăn sô cô la hoặc nho có thể gây tử vong. Một số loài cây trong nhà cũng có thể gây độc nếu được thú cưng ăn phải. Ví dụ bao gồm cây bạc hà và hoa loa kèn, có thể gây tổn thương nặng cho thận của mèo, và hoa poinsettia, hoa Begonia, và cây lô hội, có độc nhẹ đối với chó. Đối với chim, sô cô la có thể gây tử vong và các loại thực phẩm dành cho con người như bánh mì, bánh quy và các sản phẩm sữa có thể gây vấn đề sức khỏe. Thú cưng trong nhà, đặc biệt là chó và mèo ở các xã hội công nghiệp hóa, dễ bị béo phì. Thú cưng béo phì đã được chứng minh có nguy cơ cao mắc bệnh tiểu đường, vấn đề về gan, đau khớp, suy thận và ung thư. Thiếu tập luyện và chế độ ăn cao năng lượng được coi là những nguyên nhân chính gây béo phì cho thú cưng. Luật pháp. Hiệp định quốc tế. Hiệp định Châu Âu về Bảo vệ Động vật Cưng là một hiệp định năm 1987 của Hội đồng Châu Âu - nhưng việc gia nhập hiệp định này mở cửa cho tất cả các quốc gia trên thế giới - nhằm thúc đẩy phúc lợi cho động vật cưng và đảm bảo các tiêu chuẩn tối thiểu về điều trị và bảo vệ cho chúng (khách sạn chó mèo). Hiệp định này có hiệu lực từ ngày 1 tháng 5 năm 1992 và tính đến tháng 6 năm 2020, nó đã được 24 quốc gia chấp thuận. Luật pháp quốc gia và địa phương. Sở hữu hoặc bảo vệ. Trước đây, thú cưng thường được coi là tài sản riêng, do cá nhân sở hữu. Nhiều sự bảo vệ pháp lý đã tồn tại (lịch sử và hiện tại) với mục đích bảo vệ phúc lợi cho thú cưng và các loài động vật khác. Từ năm 2000, một số ít nhưng ngày càng tăng số lượng các khu vực tại Bắc Mỹ đã ban hành luật định lại "chủ sở hữu" của thú cưng như "người bảo hộ". Những ý định này đã được đặc trưng là đơn giản là thay đổi thái độ và nhận thức nhưng không có hậu quả pháp lý trong việc làm việc hướng tới việc nhận diện pháp lý cho chính thú cưng. Một số bác sĩ thú y và người chăn nuôi đã phản đối những chuyển động này. Câu hỏi về tình trạng pháp lý của thú cưng có thể xuất hiện liên quan đến việc mua hoặc nhận nuôi, quyền nuôi, ly hôn, di sản và thừa kế, thương tích, sự cố hỏng cơ sở, và như hành vi không đạo đức nghề nghiệp trong y học thú y. Hạn chế về loài động vật. Các tiểu bang, thành phố và thị trấn ở các nước phương Tây thường ban hành các nghị định địa phương để hạn chế số lượng hoặc loại thú cưng mà một cá nhân có thể nuôi cá nhân hoặc cho mục đích kinh doanh. Các loại thú cưng bị cấm có thể cụ thể đối với các giống chó như pit bull hoặc Rottweiler, chúng có thể áp dụng cho các danh mục chung của động vật (như đàn gia súc, động vật cưng kỳ lạ, động vật hoang dã và lai giống giữa loài Canid hoặc Felid), hoặc đơn giản chỉ dựa trên kích thước của động vật. Các quy tắc và quy định về chăm sóc bổ sung hoặc khác nhau cũng có thể áp dụng. Các tổ chức hội chủ và chủ sở hữu bất động sản cũng thường hạn chế hoặc cấm việc chú trọng thú cưng của người thuê nhà. Ở Bỉ và Hà Lan, chính phủ xuất bản các danh sách "trắng" và "đen" (gọi là danh sách 'tích cực' và 'tiêu cực') với các loài động vật được chỉ định phù hợp để nuôi làm thú cưng (danh sách tích cực) hoặc không phù hợp (danh sách tiêu cực). Bộ Công nghiệp và Chính sách Khí hậu Hà Lan ban đầu thành lập danh sách tích cực đầu tiên ("positieflijst") vào ngày 1 tháng 2 năm 2015 cho một tập hợp 100 loài động vật có vú (bao gồm mèo, chó và động vật sản xuất) được coi là phù hợp để nuôi làm thú cưng dựa trên những đề xuất của Đại học Wageningen. Những cuộc tranh luận của Quốc hội về danh sách thú cưng như vậy đã có từ những năm 1980, với những bất đồng liên tục về loài nào nên được bao gồm và cách thức thực hiện luật. Tháng 1 năm 2017, danh sách trắng đã được mở rộng lên 123 loài, trong khi danh sách đen được thiết lập đã được mở rộng (với các loài như gấu nâu và hai loài chuột túi lớn) chứa 153 loài không phù hợp để nuôi làm thú cưng, như con xà cừ, con lười, con thỏ châu Âu và con lợn rừng. Giết và ăn thịt thú cưng. Vào tháng 1 năm 2011, Cơ quan Liên bang Bảo vệ An toàn Thực phẩm của Bỉ đã tuyên bố rằng người dân không được phép giết các con mèo lang thang trong vườn của họ, nhưng "[k]hông nơi nào trong luật pháp nói rằng bạn không thể ăn thịt mèo, chó, thỏ, cá hoặc bất cứ thứ gì. Bạn chỉ cần giết chúng một cách thân thiện với động vật." Kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2014, việc giết mèo và chó nuôi làm thú cưng của chính các chủ nhân là bất hợp pháp ở Hà Lan. Những con vẹt, cừu guinea, chuột hamster và các loài động vật khác vẫn có thể bị chủ nhân giết, nhưng dù sao, khi chủ nhân ngược đãi thú cưng đồng hành của họ (ví dụ, trong quá trình giết chúng), chủ nhân vẫn có thể bị truy tố theo luật pháp Hà Lan. Ảnh hưởng đến môi trường. Thú cưng có một ảnh hưởng môi trường đáng kể, đặc biệt là ở các nước nơi chúng phổ biến hoặc được nuôi dưỡng với mật độ cao. Ví dụ, 163 triệu chó và mèo nuôi ở Hoa Kỳ tiêu thụ khoảng 20% lượng năng lượng dinh dưỡng mà con người tiêu thụ và ước tính là 33% năng lượng động vật. Chúng tạo ra khoảng 30% ± 13%, theo khối lượng, phân bón như người Mỹ và thông qua chế độ ăn uống của chúng, chiếm khoảng 25-30% của ảnh hưởng môi trường từ việc sản xuất động vật trong việc sử dụng đất, nước, nhiên liệu hóa thạch, phốt phát và chất diệt cỏ. Việc tiêu thụ sản phẩm động vật của chó và mèo góp phần giải phóng lên đến 64 ± 16 triệu tấn khí methane và nitrous oxide tương đương với CO2, hai khí nhà kính mạnh mẽ. Người Mỹ là những người nuôi thú cưng lớn nhất trên thế giới, nhưng việc sở hữu thú cưng ở Mỹ có chi phí môi trường đáng kể. Loại. Trong suốt lịch sử nhân loại, nhiều người đã nuôi nhiều loài động vật khác nhau trong điều kiện nhốt, nhưng chỉ có một số ít được nuôi đủ lâu để được coi là đã được thuần hóa. Các loài động vật khác, đặc biệt là khỉ, chưa bao giờ được thuần hóa nhưng vẫn được bán và nuôi làm thú cưng. Một số động vật hoang dã được nuôi như thú cưng, chẳng hạn như hổ, mặc dù việc này là bất hợp pháp. Có một thị trường cho thú cưng bất hợp pháp. Đã thuần hóa. Những thú cưng "đã thuần hóa" phổ biến nhất. Một "động vật đã thuần hóa" là một loài đã được làm thích hợp cho môi trường con người bằng cách liên tục bị nhốt và được lựa chọn lai tạo trong một khoảng thời gian đủ dài để nó có những khác biệt đáng kể về hành vi và diện mạo so với các người thân hoang dã của nó. Quá trình thuần hóa trái ngược với việc thuần dưỡng, chỉ đơn giản là khi một động vật hoang dã, chưa được thuần hóa, trở nên dung hòa với sự hiện diện của con người, và có thể thậm chí thích thú nó. Những loài động vật có kích thước lớn có thể được nuôi làm thú cưng bao gồm: alpaca, lạc đà, gia súc, lừa, dê, ngựa, lama, lợn, và cừu. Những loài động vật nhỏ có thể được nuôi làm thú cưng bao gồm: chồn ferr, nhím cúi, thỏ cúi, sugar glider, và gặm nhấm, bao gồm chuột, chuột nhà, chuột lang, chuột Guinea, chuột lĩnh vực, và chuột chinchilla. Các loài động vật khác bao gồm mèo, chó, khỉ, và cáo bạch thuần hóa. Chim được nuôi làm thú cưng bao gồm vẹt cảnh như chim cắt và chim cuống cùng với gia cầm như gà, gà tây, vịt, ngỗng, và cút, columbines, và chim sẻ, như chim sẻ hoàng gia và chim sẻ hót. Cá được nuôi làm thú cưng bao gồm: cá vàng, cá Koi, cá cảnh đá vảy (Betta), cá đuôi hồng, cá molly, cá cơm Nhật (Medaka), và cá Oscar. Côn trùng được nuôi làm thú cưng bao gồm ong, như ong mật và ong mật không gai, bướm tơ, và nhà kiến cưng. Bò sát và lưỡng cư được nuôi làm thú cưng bao gồm rắn, rùa, axolotl, ếch và salamander. Động vật hoang dã. Có những loài động vật hoang dã được nuôi làm thú cưng. Thuật ngữ "hoang dã" trong ngữ cảnh này đặc biệt áp dụng cho bất kỳ loài động vật nào chưa trải qua sự thay đổi cơ bản trong hành vi để tạo điều kiện sống gần gũi với con người. Một số loài có thể được nhân giống trong điều kiện nhốt trong một khoảng thời gian đáng kể, nhưng vẫn không được công nhận là "đã thuần hóa". Nói chung, động vật hoang dã không phù hợp để nuôi làm thú cưng, và việc này bị cấm hoàn toàn ở nhiều nơi. Tại các khu vực khác, một số loài được cho phép nuôi, và thường yêu cầu chủ sở hữu phải có giấy phép. Việc nuôi động vật hoang dã như thú cưng được coi là tàn ác với động vật, vì hầu hết thời gian, động vật hoang dã đòi hỏi chăm sóc chính xác và liên tục mà rất khó có thể đáp ứng trong điều kiện nhốt. Rất nhiều động vật lớn và có bản năng hung dữ cực kỳ nguy hiểm, và không ít lần chúng đã giết người nuôi chúng. Lịch sử. Thời tiền sử. Khảo cổ học cho thấy việc người sở hữu chó làm thú cưng có thể đã bắt đầu từ ít nhất 12.000 năm trước đây. Lịch sử cổ đại. Người Hy Lạp cổ đại và Người La Mã thường công khai thể hiện sự đau buồn vì mất đi một con chó, được thể hiện qua các bia đá để tưởng nhớ đến sự mất mát của chúng. Những câu epitaphs còn sót lại dành cho các con ngựa thì có thể thể hiện sự biết ơn về tình bạn từ những con ngựa tham gia chiến tranh hơn là những con ngựa thể thao. Các con ngựa thể thao có thể được tưởng nhớ chủ yếu như một cách để làm tăng danh tiếng và vinh quang cho chủ nhân. Trong Ai Cập cổ đại, chó và linh cẩu được nuôi như là thú cưng và chôn cất cùng với chủ nhân. Chó được đặt tên, điều này rất quan trọng vì người Ai Cập coi tên gọi có những tính chất ma thuật. Thời kỳ Victoria: Sự phát triển của việc nuôi thú cưng hiện đại. Xuyên suốt thế kỷ 17 và 18, việc nuôi thú cưng theo nghĩa hiện đại dần được chấp nhận trong toàn Vương quốc Anh. Ban đầu, các quý tộc nuôi chó vừa để tạo sự thân thiện vừa để đi săn. Do đó, việc nuôi thú cưng trở thành biểu hiện của sự tinh hoa trong xã hội. Vào thế kỷ 19, sự phát triển của tầng lớp trung lưu thúc đẩy việc nuôi thú cưng và nó đã trở thành một phần của văn hóa bá tước. Kinh tế. Khi sự phổ biến của việc nuôi thú cưng trong ý nghĩa hiện đại gia tăng trong thời kỳ thời đại Victoria, động vật đã trở thành một yếu tố không thể thiếu trong văn hóa đô thị như hàng hóa và đồ trang trí. Việc nuôi thú cưng đã tạo ra cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp. Vào giữa thế kỷ 19, gần hai mươi nghìn người bán hàng đường phố tại London kinh doanh động vật sống. Sự phổ biến của động vật cũng tạo ra nhu cầu cho các mặt hàng động vật như phụ kiện và hướng dẫn nuôi thú cưng. Chăm sóc thú cưng đã phát triển thành một ngành kinh doanh lớn vào cuối thế kỷ 19. Những kẻ tham vọng cũng tìm cách bắt cóc thú cưng để kiếm lợi kinh tế. Sử dụng tình cảm mà chủ nhân dành cho thú cưng của họ, những kẻ trộm chó chuyên nghiệp sẽ bắt giữ động vật và yêu cầu tiền chuộc. Việc phát triển của việc trộm chó phản ánh giá trị thú cưng tăng lên. Dần dần, thú cưng được định nghĩa là tài sản của chủ nhân. Luật pháp được tạo ra để trừng phạt những kẻ vi phạm việc trộm chó. Xã hội. Thú cưng và động vật cũng có những hệ quả xã hội và văn hóa trong suốt thế kỷ 19. Việc phân loại chó theo giống chó của chúng phản ánh trật tự xã hội phân cấp của thời đại Victoria. "Huyết thống" của một con chó đại diện cho địa vị cao cấp và dòng họ của chủ nhân và củng cố sự phân lớp xã hội. Chủ nhân tầng lớp trung lưu đánh giá cao khả năng liên kết với tầng lớp thượng lưu thông qua việc nuôi thú cưng của họ. Khả năng chăm sóc thú cưng cho thấy tính tôn trọng và khả năng tự cung cấp của người nuôi. Theo Harriet Ritvo, việc nhận dạng "động vật ưu tú và chủ nhân ưu tú không phải là việc xác nhận địa vị của chủ nhân mà là một cách để định nghĩa lại nó." Giải trí. Sự phổ biến của việc nuôi chó và thú cưng đã tạo ra ngành "thú cưng tình nhân". Những người đam mê nuôi thú cưng thể hiện sự hăng hái trong việc sở hữu thú cưng, nuôi giống chó và tham gia các cuộc triển lãm chó. Cuộc triển lãm chó đầu tiên đã diễn ra vào ngày 28 tháng 6 năm 1859 tại Newcastle và tập trung chủ yếu vào chó thể thao và chó săn. Tuy nhiên, chủ thú cưng tạo ra sự hăng hái để trưng diễn thú cưng của họ cũng như có một kênh để cạnh tranh. Do đó, động vật cưng dần dần được bao gồm trong các cuộc triển lãm chó. Cuộc triển lãm lớn đầu tiên, với hơn một nghìn đăng ký, đã diễn ra tại Chelsea vào năm 1863. "Kenel Club" được thành lập vào năm 1873 để đảm bảo công bằng và tổ chức trong các cuộc triển lãm chó. Việc phát triển "Stud Book" bởi Kenel Club đã định nghĩa các chính sách, trình bày một hệ thống đăng ký quốc gia về chó thuần chủng và thực chất hóa các cuộc triển lãm chó. Sở hữu thú cưng bởi động vật không phải người. Sở hữu thú cưng bởi động vật trong tự nhiên, như một tương tự của hiện tượng con người, chưa được quan sát và có lẽ không tồn tại trong tự nhiên. Một nhóm khỉ đuôi dài đã được quan sát với dấu hiệu chăm sóc một con khỉ marmoset, một loài khỉ mới thế giới khác, tuy nhiên các quan sát về đười ươi dường như "chơi đùa" với các con vật nhỏ như cầy đá đã kết thúc với việc đười ươi giết chết các con vật và tung xác chúng xung quanh. Một nghiên cứu năm 2010 cho biết mối quan hệ giữa con người và động vật có một yếu tố nhận thức độc quyền của con người và việc nuôi thú cưng là một đặc điểm cơ bản và cổ điển của loài người. Sự nhân cách hóa, hoặc sự chiếu cầu cảm xúc, suy nghĩ và đặc điểm của con người lên động vật, là một đặc điểm xác định của việc nuôi thú cưng của con người. Nghiên cứu xác định nó là cùng một đặc tính trong quá trình tiến hóa làm cho đã thuần hóa và quan tâm đến phúc lợi động vật. Ước tính nó đã xuất hiện ít nhất từ 100.000 năm trước đây ("Homo sapiens"). Có tranh cãi về việc sự chuyển hướng của hành vi chăm sóc của con người về động vật không phải người, dưới hình thức nuôi thú cưng, có phải là không thích ứng, do có chi phí sinh học cao, hay nó có được được chọn lọc tích cực không. Hai nghiên cứu cho thấy khả năng của con người để thuần hóa và nuôi thú cưng đến từ cùng một đặc điểm tiến hóa cơ bản và đặc điểm này đã tạo lợi ích vật chất dưới hình thức thuần hóa đủ để được chọn lọc tích cực. Một nghiên cứu năm 2011 cho rằng các chức năng thực tế mà một số loài thú cưng cung cấp, chẳng hạn như giúp săn bắt hoặc tiêu diệt sâu bệnh, có thể đã dẫn đến lợi thế tiến hóa đủ để cho phép việc duy trì hành vi này ở con người và vượt qua gánh nặng kinh tế do nuôi thú cưng vì phần thưởng cảm xúc tức thì. Hai nghiên cứu khác cho thấy hành vi này đại diện cho một lỗi, hiệu ứng phụ hoặc việc áp dụng sai của các cơ chế tiến hóa tiếp nhận tình cảm và lý thuyết về tâm lý của con người đối với động vật không phải người mà chưa ảnh hưởng đủ lớn đến lợi thế tiến hóa trong thời gian dài. Những con vật trong điều kiện tù nhân, với sự giúp đỡ của người chăm sóc, đã được coi là có "thú cưng". Ví dụ cho điều này bao gồm Koko đười ươi, người đã nuôi một số con mèo làm thú cưng, Tonda đười ươi cùng một con mèo làm thú cưng và Tarra voi cùng một con chó tên là Bella. Hai nghiên cứu cho thấy khả năng của con người để thuần hóa và nuôi thú cưng đến từ cùng một đặc điểm tiến hóa cơ bản và đặc điểm này đã tạo lợi ích vật chất dưới hình thức thuần hóa đủ để được chọn lọc tích cực. Một nghiên cứu năm 2011 cho rằng các chức năng thực tế mà một số loài thú cưng cung cấp, chẳng hạn như giúp săn bắt hoặc tiêu diệt sâu bệnh, có thể đã dẫn đến lợi thế tiến hóa đủ để cho phép việc duy trì hành vi này ở con người và vượt qua gánh nặng kinh tế do nuôi thú cưng vì phần thưởng cảm xúc tức thì. Hai nghiên cứu khác cho thấy hành vi này đại diện cho một lỗi, hiệu ứng phụ hoặc việc áp dụng sai của các cơ chế tiến hóa tiếp nhận tình cảm và lý thuyết về tâm lý của con người đối với động vật không phải người mà chưa ảnh hưởng đủ lớn đến lợi thế tiến hóa trong thời gian dài. Những con vật trong điều kiện tù nhân, với sự giúp đỡ của người chăm sóc, đã được coi là có "thú cưng". Ví dụ cho điều này bao gồm Koko đười ươi, người đã nuôi một số con mèo làm thú cưng, Tonda đười ươi cùng một con mèo làm thú cưng và Tarra voi cùng một con chó tên là Bella.
1
null
Cá chép kính là một loại cá, thường được tìm thấy trong Vương quốc Anh và châu Âu. Tên "Cá chép kính" bắt nguồn từ sự tương đồng của vảy của chúng với gương.Chúng có thể phát triển vượt quá 60 lb. Sự khác biệt giữa cá chép gương và cá chép thông thường là di truyền và trực quan của cả hai sinh học là tương tự. Cá chép gương là đột biến đầu tiên của cá chép thông thường, do hai gen thay thế, S allele và N allele. Thuật ngữ di truyền cho một con cá chép kính là "ssnn". Cá chép thông thường có một mẩu vảy đều, thường xuyên, trong khi cá chép gương có tỉ lệ bất thường và không đồng đều, làm cho loài cá độc đáo và có thể xác định bằng mắt thường, dẫn đến hầu hết cá chép gương ở Anh hơn £ 40 có biệt danh. Sự thiếu vảy này được nhiều người tin rằng đã được nhân giống bởi một nhà sư để làm cho cá dễ dàng hơn cho chế biến trên bàn ăn. Kỷ lục của Anh hiện nay (tính đến ngày 13 tháng 12 năm 2009) là một con cá chép được gọi là 'Two tone' do màu sắc của nó, bắt từ hồ Conningbrook ở Kent và nặng 67 lb 14 oz (30,45 kg). 'Two Tone' đã được tìm thấy chết trong hồ của mình vào ngày 14 tháng 8 năm 2010. Kỷ lục thế giới hiện nay (tính đến tháng 6 năm 2012) đứng ở mức 101 lb 4oz, bắt từ hồ Aqua ở Hungary Roman Hanke.
1
null
Valdis Dombrovskis (sinh ngày 5 tháng 8 năm 1971) là một nhà chính trị, đồng thời ông còn là thủ tướng Latvia từ năm 2009 đến năm 2013.. Ngày 27 tháng 11 năm 2013, ông đã từ chức sau khi xảy ra vụ sập trần siêu thị Riga. Valdis Dombrovskis đã giữ chức vụ Bộ trưởng tài chính giai đoạn 2002 đến 2004 và là một đại biểu Nghị viện châu Âu đại diện cho Đảng kỷ nguyên mới Tiểu sử. Sinh ở Riga trong một gia đình gốc Ba Lan, Dombrovskis tốt nghiệp cử nhân kinh tế dành cho các kỹ sư từ Đại học Kỹ thuật Riga vào năm 1995 và có bằng thạc sĩ vật lý từ Đại học Latvia năm 1996. Ông đã làm trợ lý phòng thí nghiệm tại Viện Vật lý của Đại học Mainz ở Mainz, Đức, từ năm 1995 đến năm 1996, và một trợ giảng tại Viện vật lý trạng thái rắn của Đại học Latvia năm 1997, và trợ lý nghiên cứu tại Trường Công nghệ công trình A. James Clark tại Đại học Maryland, College Park, năm 1998.
1
null
Ruộng bậc thang vùng Cordillera, Philippines (; Ifugao: "Payew")là Di sản thế giới được UNESCO công nhận vào năm 1995. Đây là di sản thế giới đầu tiên được công nhận với tư cách là cảnh quan văn hóa, bao gồm 5 địa điểm là: Ruộng bậc thang Batad, Ruộng bậc thang Bangaan (bao gồm cả ở Banaue), Ruộng bậc thang Mayoyao, Ruộng bậc thang Hungduan và Ruộng bậc thang Nagacadan, tất cả đều nằm ở tỉnh Ifugao, thuộc Vùng Hành chính Cordillera, Philippines. Chúng được xây dựng cách đây 2.000 năm và được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác, các ruộng bậc thang ở Ifugao đạt được một độ cao cao hơn và được xây dựng trên sườn dốc hơn so với nhiều ruộng bậc thang khác. Người ta sử dụng đá hoặc tường bùn và cẩn thận làm những bậc ruộng bậc thang theo những đường viền tự nhiên của đồi núi, cùng với đó là các hệ thống thủy lợi tưới tiêu phức tạp. Nước được lấy từ các ngọn núi, dẫn qua các ống tre xuống các ruộng bậc thang, tạo ra hệ thống canh tác phức tạp. Tất cả chúng minh họa một sự kiên trì của truyền thống văn hóa, liên tục, vượt trội và bền bỉ. Các bằng chứng khảo cổ cho thấy kỹ thuật này đã được sử dụng trong khu vực này trong 2.000 năm, hầu như vẫn không thay đổi. Ruộng bậc thang tại Ifugao minh họa khả năng vượt trội của văn hóa con người để thích ứng với xã hội và khí hậu cũng như thực hiện và phát triển các ý tưởng và công nghệ mới. Mặc dù được UNESCO liệt kê là di sản thế giới được cho là nó đã có lịch sử trên 2.000 năm, nhưng có một số nghiên cứu gần đây mâu thuẫn khi cho rằng chúng có thể chỉ có tuổi đời dưới 1.000 năm. Lịch sử. Các ruộng bậc thang của Cordillera là di tích duy nhất ở Philippines không bị ảnh hưởng bởi nền văn hóa thuộc địa. Do địa hình khó khăn, các bộ lạc Cordillera là một trong số ít các dân tộc của Philippines đã phản kháng thành công sự thống trị của thực dân thuộc địa và đã bảo tồn văn hóa dân tộc của họ. Lịch sử của ruộng bậc thang được đan xen với văn hóa và tập quán truyền thống của họ.
1
null
Cá béo hay cá dầu là cá có chứa dầu cá trong các mô của chúng và trong khoang bụng ở xung quanh ruột. Philê cá béo có chứa đến 30% dầu, tuy nhiên tỉ lệ này thay đổi tùy thuộc vào từng loài cá và từng cá thể trong cùng loài. Ví dụ trong cá mồi, chẳng hạn như cá mòi, cá trích và cá cơm, và trong các loài cá đại dương khác, chẳng hạn như cá hồi, cá thu và cá cháy Hilsa. Các loại cá béo thường sống gần mặt nước, tương phản với các loài cá sống gần đáy hoặc dưới đáy. Các loài cá sống cận đáy như cá tuyết, cá êfin, cá bơn chỉ chứa dầu trong gan. Cá béo là một nguồn cung cấp vitamin A và D, và rất giàu axit béo omega-3; các loại cá sống gần đáy (cá thịt trắng) cũng có chứa các chất này nhưng ít hơn cá béo nhiều. Vì lý do này, việc tiêu thụ cá béo thay vì các loại cá thịt trắng có thể có lợi hơn đối với con người, đặc biệt là đối với những bệnh nhân tim mạch; tuy nhiên, cá béo thường chứa các chất độc (như thủy ngân hay dioxin) nhiều hơn so với cá thịt trắng. Trong những mặt lợi ích khác, các nghiên cứu cho thấy axit béo omega-3 trong cá béo có thể giúp cải thiện những tình trạng viêm, chẳng hạn như viêm khớp.
1
null
Tập đoàn công nghiệp Arta (tiếng Anh: "Arta Industrial Group") là một tập đoàn đa quốc gia có trụ sở tại Tehran, Iran. Về vốn hóa thị trường và các khoản thu, Arta là một trong những tập đoàn tư nhân lớn nhất ở Iran. Arta đã hoạt động tại trên 5 quốc gia và các sản phẩm và dịch vụ của tập đoàn này đã xuất khẩu sang 30 quốc gia. Arta bao gồm 12 công ty con và các công ty này hoạt động trong nhiều lĩnh vực kinh doanh (dệt may, năng lượng, chế biến gỗ, điện tử, công nghiệp đóng gói, hóa dầu, xây dựng và ô tô). Tên của tập đoàn được lấy tên từ tên cũ của thành phố được gọi là "Arta ville".
1
null
Vùng nhận dạng phòng không (tiếng Anh: "Air Defense Identification Zone", viết tắt là : ADIZ) là vùng bầu trời do một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ tự ấn định ra và bắt buộc mọi máy bay dân sự xâm nhập vùng này phải nhận dạng, xác định vị trí và chịu sự kiểm soát của quốc gia, vùng lãnh thổ đó. Vùng nhận dạng phòng không không đồng nghĩa với không phận mà là khu vực song hành với an ninh quốc phòng. Các máy bay bay ngang vùng nhận dạng của một quốc gia và vùng lãnh thổ phải tuân thủ các yêu cầu chung,chẳng hạn như các máy bay khi vào ADIZ đều phải nộp trước lộ trình bay; thiết lập liên lạc hai chiều đối đáp trong thời gian sớm nhất và chính xác nhất với nước quản lý ADIZ; thông báo vị trí, lắp thiết bị nhận dạng radar thứ cấp, tuân thủ hành lang bay mà nước đó quy định và khi bay qua các điểm báo cáo, bắt buộc đều phải báo cáo với cơ quan đang quản lý ADIZ. Nếu máy bay nào không tuân thủ các yêu cầu của quốc gia đặt ra vùng nhận dạng thì có thể chịu sự can thiệp của máy bay quân sự của nước lập ra ADIZ yêu cầu nhận dạng và buộc phải rời khỏi khu vực này ngay lập tức và những biện pháp khác nếu cần thiết. Lịch sử. Khái niệm "Vùng nhận dạng phòng không" là sản phẩm của Chiến tranh Lạnh: vào thập niên 1950, Hoa Kỳ công bố vùng nhận dạng phòng không đầu tiên nhằm giảm rủi ro của một cuộc tấn công bất ngờ từ Liên Xô. Ngày nay, Hoa Kỳ có năm vùng (Bờ Đông, Bờ Tây, Alaska, Hawaii, và Guam) và có hai vùng chung với Canada bao phủ phần lớn Bắc Mỹ châu. Những nước khác có ADIZ bao gồm Ấn Độ, Nhật Bản, Na Uy, Pakistan, Hàn Quốc, Đài Loan, và Vương quốc Anh. Bắc Mỹ. Bắc Mỹ bao gồm Canada, Hoa Kỳ và México. Hiện tại, không có thông tin cụ thể về việc có "vùng nhận dạng phòng không riêng" cho Bắc Mỹ. Tuy nhiên, cả Canada và Hoa Kỳ đều có các khu vực cấm bay như vùng nước biển xung quanh những địa điểm quan trọng, như cơ sở quân sự, các sân bay quan trọng và khu vực giới hạn về không gian hàng không. Mọi quy định và thông tin cụ thể về vùng nhận dạng phòng không trong khu vực này nên được tham khảo từ các cơ quan quản lý hàng không tại từng quốc gia. Nhật Bản. Vùng ADIZ của phía Nhật đưa ra bao trùm hầu hết vùng đặc quyền kinh tế của họ. Ranh giới phía Đông của nó được quân đội Mỹ thiết lập sau Chiến tranh thế giới thứ 2 ở 123° kinh độ đông. Ngày 25 tháng 6 năm 2010 Nhật Bản mở rộng vùng ADIZ xung quanh đảo đảo Yonaguni 22 km về phía tây của đảo này. Do đó nó chồng lấn với ADIZ của Trung Hoa Dân quốc (ROC) và chính phủ ROC bày tỏ sự "đáng tiếc" về hành động của Nhật Bản. Về bờ biển đất liền của Trung Quốc, ADIZ của Nhật cách điểm gần nhất là 130 km. Trung Quốc và Nga không công nhận vùng ADIZ của Nhật Bản. Trung Quốc. Vùng nhận dạng phòng không của Trung Quốc ở biển Hoa Đông được Bộ quốc phòng Cộng hòa nhân dân Trung Hoa xác lập trên bầu trời biển Hoa Đông và công bố vào ngày 23 tháng 11 năm 2013, bao trùm lên cả quần đảo Senkaku mà Trung Quốc tuyên bố có tranh chấp chủ quyền với Nhật Bản và không phận của Hàn Quốc. Một bài nhận định của ban biên tập tờ "the Washington Post" cho rằng, Trung Quốc phải hủy bỏ vùng nhận dạng phòng không trên những vùng đất còn đang tranh cãi, bởi vì vài năm trước, các lãnh tụ của nước này đã cam đoan một lần nữa với thế giới, là một nước đang trở thành siêu cường về kinh tế, không có nghĩa là Trung quốc cũng sẽ biểu dương sức mạnh quân sự của mình. Bất thình lình lập nên một giới hạn về hàng không trong một lãnh thổ rộng lớn như vậy thì không phải là sự trỗi dậy của một thế lực yêu chuộng hòa bình, cũng không cho thấy dấu hiệu chịu dàn xếp. Bộ Giao thông Đại Hàn dân quốc nói các hãng hàng không của họ sẽ không công nhận vùng ADIZ của Trung Quốc. Phía Nhật Bản cũng tuyên bố tương tự.
1
null
Hồ Attabad hay còn được biết đến với tên gọi là Hồ Gojal là một hồ nước được hình thành vào tháng 1 năm 2010 bởi một vụ sạt lở đất. Hồ nước này nằm ở Gojal, một vùng thung lũng phía Bắc Pakistan. Hồ Attabad được hình thành do một vụ sạt lở lớn tại ngôi làng Attabad ở Gilgit-Baltistan, 14 km (9 dặm) về phía thượng nguồn của Karimabad, vào 04 tháng 1 năm 2010. Vụ sạt lở giết chết 20 người và làm chặn dòng chảy của sông Hunza trong 5 tháng. 6.000 người tại các làng thượng nguồn của sông đã phải di dời, nhưng vẫn còn 25.000 mắc kẹt, hơn 19 km (12 dặm) của đường cao tốc Karakoram đã bị ngập. Hồ có chiều dài 21 km (13 dặm) và sâu hơn 100 mét (330 ft) trong tuần lễ đầu tiên của tháng 6 năm 2010, nhấn chìm hoàn toàn làng Shishkat và một phần của làng Gulmit. Hồ nước này nhấn chìm hơn 170 ngôi nhà và 120 cửa hàng, khiến người dân trong tình trạng thiếu lương thực và các mặt hàng khác thiết yếu do sự tắc nghẽn của tuyến đường cao tốc Karakoram. Đến ngày 4 tháng 6, lượng nước đổ vào hồ đã tăng lên 100 m3 / s (3.700 cu ft / s).
1
null
Lâu đài Frederiksborg () là một quần thể cung điện ở Hillerød, Đan Mạch. Nó được xây dựng như một nơi cư trú của hoàng gia cho Vua Christian IV của Đan Mạch-Na Uy vào đầu thế kỷ 17, thay thế cho một lâu đài lâu đời được Frederick II mua lại và trở thành nơi cư trú thời Phục Hưng lớn nhất ở Scandinavia. Nó nằm trên ba hòn đảo của Slotssøen (hồ lâu đài), tiếp giáp với lâu đài Frederiksborg là một khu vườn lớn mang phong cách kiến trúc Baroque. Lịch sử. Lâu đài ban đầu thuộc sở hữu của nhà Gøyes. Năm 1550, vua Frederick II của Đan Mạch và Na Uy mua lại lâu đài. Năm 1560, ông đã tiến hành mở rộng lâu đài và đặt tên "Frederiksborg" (nghĩa đen là "lâu đài của Frederik"). Vào thời trị vì của Christian IV của Đan Mạch, ông quyết định xây dựng lại nó hoàn toàn theo phong cách Phục hưng Flemish và Hà Lan (Chủ nghĩa phương Nam). Tòa nhà cũ đã bị phá hủy vào năm 1599 và kiến trúc sư Flemish Hans van Steenwinckel the Elder được giao nhiệm vụ lên kế hoạch cho tòa nhà mới. Sau khi ông qua đời năm 1601, hai con trai của ông là Hans và Lorenz đã hoàn thành nhiệm vụ. Tòa nhà bốn tầng chính với ba cánh được hoàn thành vào khoảng năm 1610 nhưng công việc vẫn tiếp tục ở Nhà nguyện cho đến năm 1618. Toàn bộ khu phức hợp đã hoàn thành vào khoảng năm 1620. Vào năm 1659 trong Chiến tranh Thụy Điển - Đan Mạch (1658 - 1660), lâu đài đã bị người Thụy Điển kiểm soát và đã lấy hầu hết các tác phẩm nghệ thuật làm tiền bồi thường chiến tranh. Vào những năm 1850, lâu đài một lần nữa được sử dụng làm nơi ở của vua Frederik VII của Đan Mạch. Kiến trúc. Lâu đài được xây dựng theo phong cách phục hưng của Flemish và Hà Lan. Một số công trình nổi bật như
1
null
Bay Psalm Book là một cuốn sách được những người di cư Thanh giáo in tại thành phố Cambridge, Massachusetts, năm 1640. Đây là cuốn sách đầu tiên được in ở thuộc địa Bắc Mỹ thuộc Anh. Được in năm 1640 ở khu vực nay là Cambridge, bang Massachusetts với 1.700 ấn bản, sách thơ Kinh Thánh "Bay Psalm Book" ngày nay chỉ còn lại 11 bản lưu hành trên toàn thế giới. Đây là một trong hai cuốn từng được mang bán đấu giá trong 100 năm qua. Nội dung sách được xem là tuyên ngôn độc lập xứ New England khỏi Giáo hội Anh giáo. Cuốn sách trước đây được đấu giá năm 1947 với mức giá kỷ lục thời đó là 151.000 USD. Các cuốn sách còn lại không được bán đấu giá mà chỉ tập trung chủ yếu ở Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ và Đại học Harvard. Ngày 26/7/2013, Bay Psalm Book được bán với giá 14,2 triệu USD tại nhà đấu giá Sotheby's ở Thành phố New York chỉ trong chưa đầy 5 phút.
1
null
Tĩnh điện là hiện tượng mất cân bằng điện tích trên bề mặt của một vật liệu. Điện tích sẽ được lưu giữ ở đó cho đến khi nó có thể truyền đi nơi khác thông qua một dòng điện hoặc sự phóng điện. Khái niệm "tĩnh" trong tĩnh điện ý nói đến sự tương phản với dòng điện, hình thức mà điện được truyền qua vật dẫn và mang theo năng lượng. Một điện tích tĩnh điện được tạo ra khi hai bề mặt tiếp xúc với nhau rồi tách ra, và ít nhất một trong các bề mặt này có điện trở suất cao (có xu hướng cách điện hoặc cản trở dòng điện). Những ảnh hưởng của tĩnh điện rất quen thuộc với cuộc sống thường ngày vì hầu hết mọi người đều có thể cảm thấy, nghe thấy và nhìn thấy các tia lửa điện khi một điện tích thừa bị trung hòa khi ở gần một vật dẫn lớn (ví dụ như dây nối đất). Nguyên nhân. Vật chất được cấu thành từ các nguyên tử trung hòa về điện tích vì chúng chứa số lượng bằng nhau về điện tích dương (proton trong hạt nhân) và điện tích âm (điện tử trong vỏ). Hiện tượng tĩnh điện yêu cầu sự tách rời các điện tích dương và âm này. Khi hai vật liệu tiếp xúc nhau, điện tử sẽ di chuyển từ vật này sang vật kia, gây ra sự dư thừa điện tích dương trên một vật liệu, và sự thừa điện tích âm ở bên còn lại. Khi các vật liệu được tách ra, sự mất cân bằng điện tích này vẫn được duy trì. Ứng dụng. Tĩnh điện thường được sử dụng trong xerography, bộ lọc không khí (đặc biệt là lọc bụi tĩnh điện), máy phun sơn, thử nghiệm bột. Chống tĩnh điện. "Bài chi tiết: Chống tĩnh điện" Sự phóng tĩnh điện (ESD – Electrostatic Discharge) Tương tự như hiện tượng sét trong tự nhiên. Tĩnh điện sẽ tìm cách "phóng", "xả" nhằm trở lại trạng thái trung hòa. Khi các bạn thấy bị giật bởi tay nắm cửa, thì thực chất là có 1 sự phóng tĩnh điện từ tay của bạn vào tay nắm cửa. Mức phóng tĩnh điện trên 3000V, sẽ đủ để bạn thấy "giật". Với mức trên 5000V, bạn có thể nghe thấy âm thanh, và với mức trên 10,000V, bạn có thể nhìn thấy tia phóng (như sét). Có những trường hợp sự phóng tĩnh điện đủ lớn, xảy ra trong môi trường có nhiều hơi dung môi cháy nổ (xăng, gas...) có thể làm phát sinh ngọn lửa gây hỏa hoạn. Sự bám hút (ESA – Electrostatic Attraction) Tĩnh điện trên bề mặt của vật thể, khi lớn đến mức độ thích hợp (khoảng 2000 volt) sẽ tạo ra trường tĩnh điện, trường này sẽ gây ra sự phân cực đối với các vật thể lọt vào trường tĩnh điện. Lực hút tĩnh điện, hay lực Coulomb, sẽ hút các vật thể này vào bề mặt của vật mang tĩnh điện (với điều kiện lực này thắng được các lực khác đang đặt lên vật thể đó, như trọng lực chẳng hạn). Tác hại Đối với con người Các vật thể bị nhiễm tĩnh điện lớn sẽ tạo ra một điện trường cực mạnh ở môi trường xung quanh. Điện trường này có tác hại về lâu dài với sức khỏe con người, trong đó, ảnh hưởng nhiều nhất là hệ thần kinh, hệ sinh dục, hệ tuần hoàn. Đặc biệt phóng tĩnh điện có khả năng giật người thao tác, gây ra tai nạn lao động.[cần dẫn nguồn] Trong sản xuất Có hai dạng tác hại cơ bản. Thứ nhất là Phóng tĩnh điện (ESD) gây hỏng hóc, trục trặc, suy giảm chất lượng các phần tử điện tử, các cụm (như bản mạch), hay cả 1 thiết bị hoàn chỉnh. Cách thức gây hại thông thường là thông qua dòng điện, hoặc thông qua các sóng điện từ trường sinh ra trong quá trình phóng. Thứ hai là bám hút tĩnh điện ESA. Trong không khí có rất nhiều bụi, mà mắt thường có thể không nhìn thấy được. Một hạt bụi có cỡ 1 micro-met đủ sức gây chập hỏng 1 mạch bán dẫn, khi mà node-pitch đang chỉ tính bằng vài chục nano-met (2015). Hiện tượng bám hút bụi do tĩnh điện này ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng của các quá trình sản xuất cần sạch bề mặt như: In ấn, lắp ráp quang học, đóng gói thực phẩm, dược phẩm, tráng phủ, sơn, xi mạ, bán dẫn…v.v.. Giải quyết vấn đề tĩnh điện Các chất liệu khác nhau sẽ có những giải pháp khác nhau. Đối với các chất liệu dẫn điện thì phương pháp thường gặp nhất là nối đất trực tiếp. Đối với những chất liệu không dẫn tĩnh điện như vật liệu tự nhiên, hỗn hợp thì chỉ có một giải pháp duy nhất là dùng ionizer SMC. Đây là phương pháp tạo ra các ion trung hoà những vùng bị tĩnh điện, nếu không được trung hòa bởi những điện tích tự do, tĩnh điện mất đi rất chậm. Những vật liệu cách điện cho phép những nhóm điện tích âm và điện tích dương hình thành. Khi những điện tích không thể di chuyển trên bề mặt của vật liệu này, việc nối đất không thể loại bỏ những điện tích này. Sự ion hóa là phương tiện duy nhất để loại bỏ tĩnh điện ở những vật liệu cách điện. Sự ion hoá các điện tử tự do trong không khí bằng phương pháp phân cực điện áp cao tạo ra liên tục luồng điện tích âm và điện tích dương. Những điện tích này sẽ kết hợp với những điện tích trái dấu trên bề mặt của vật liệu do đó triệt tiêu được tĩnh điện trên bề mặt cách điện. Các thiết bị chống tĩnh điện có thể khử được các ion bằng cách trung hoà chúng. Một số thiết bị chống tĩnh điện thông dụng là: thanh khử tĩnh điện, vòi phun chống tĩnh điện, súng chống tĩnh điện, dao khí, quạt thổi ion, bộ nạp tĩnh điện, vòng tay tĩnh điện, dây nối đất... (antistatic bar, ionizing nozzle, ionizing gun, air knife, ionizing blower, charging, wrist trap...). Các sản phẩm, linh kiện điện tử dễ dàng bị hư hỏng bởi tĩnh điện. Để bảo vệ các sản phẩm này, người ta sử dụng các loại túi có khả năng chống tĩnh điện. Để chống tĩnh điện cho một hệ thống máy in, người ta gắn những thanh khử tĩnh điện lên một số vị trí để nó trung hoà các ion tạo ra từ giấy trong quá trình cọ xát, xả cuộn, sấy khô... Để chống tĩnh điện trong quá trình sơn, người ta sử dụng quạt ion hoặc thanh khử tĩnh điện gắn ở vị trí gần nơi phun sơn để những thiết bị này khử ion trong các hạt sơn. Do không bị nhiễm tĩnh điện, các hạt sơn bám chắc chắn vào bề mặt hạt cần sơn, tạo nên lớp sơn thẩm mỹ hơn. Và còn nhiều ứng dụng nữa của các dụng cụ chống tĩnh điện trong việc chống lại tĩnh điện gây thiệt hại cho sản xuất và cuộc sống con người.[cần dẫn nguồn]
1
null
Paysandisia archon là một loài bướm đêm trong họ Castniidae. Loài này sinh sống ở Uruguay và Argentina. Loài này tình cờ được du nhập vào châu Âu và đã phát tán nhanh chóng. Loài này được xem là loài duy nhất trong chi Paysandisia. Nhà tự nhiên học người Đức Hermann Burmeister đã mô tả loài này năm 1879 với danh pháp "Castnia archon". Sải cảnh dài 90–110 mm. Cánh trước màu xanh lá cây đậm với các dải nâu, cánh sau màu đỏ tươi với những mảng màu đen và trắng đậm. Những con cái, thường lớn hơn con đực, có thể dễ dàng được công nhận bởi cơ quan đẻ trứng nổi bật. Giống như các loài castniidae khác, loài này bay vào ban ngày và đã đập râu và có thể dễ dàng bị nhầm lẫn với một con bướm ngày. Bướm trưởng thành bay từ tháng Sáu đến tháng Chín.
1
null
Gioan Henricô Newman (21 tháng 2 năm 1801 - 11 tháng 8 năm 1890), còn được gọi là Hồng y Newman, là một nhân vật quan trọng trong lịch sử tôn giáo của Anh trong thế kỷ 19, đến năm 1830 thì ông được biết đến trên toàn đất nước này. Vốn là một viện sĩ Đại học Oxford và là một linh mục của Giáo hội Anh theo khuynh hướng Phúc âm, Newman dần bị thu hút theo truyền thống thượng giáo hội của Anh giáo rồi trở thành lãnh đạo và nhà biện hộ của Phong trào Oxford, một nhóm các tín hữu Anh giáo chống lại chủ nghĩa duy tự do đang lan mạnh, đồng thời vận động phục hồi các niềm tin và nghi thức phụng vụ trước khi xảy ra cuộc Cải cách Tin Lành. Đến năm 1845, Newman rời bỏ Giáo hội Anh và ông được đón nhận vào Giáo hội Công giáo Rôma; sau này ông được Giáo hoàng Lêôn Thập Tam Thế vinh thăng làm hồng y. Ngày 19 tháng 9 năm 2010, trong chuyến viếng thăm Vương quốc Anh, Giáo hoàng Bênêđíctô Thập Lục Thế cũng đã cử hành lễ tuyên chân phước cho ông. Hồng y Newman là người sáng lập ra Viện Đại học Công giáo Ireland (sau này phát triển thành University College Dublin), viện đại học lớn nhất ở Ireland ngày nay. Ông cũng được biết đến trong vai trò là nhà văn và nhà sáng tác thánh ca, nổi bật trong số đó là "Lead, Kindly Light" và "Praise to the Holiest in the Height".
1
null
Cá mập vây rộng (tên khoa học Lamiopsis temminckii) là một loài cá mập của họ Carcharhinidae, được tìm thấy trong vùng biển nhiệt đới của Ấn Độ-Thái Bình Dương giữa vĩ độ 24 ° N và 4 ° S, từ bề mặt tới 50 m. Chiều dài của nó lên đến khoảng 1,7 m. Nó là loài đẻ con, và không được biết gây nguy hiểm cho con người.
1
null
Lâu đài Hohenzollern là một lâu đài ở trong quận Bisingen thuộc huyện Zollernalbkreis, Đức, cách khoảng về phía nam Stuttgart và Hechingen, nằm trên đỉnh núi hình nón cô lập, cao 855 mét của dãy Hohenzollern. Lâu đài được xem là nơi tổ tiên của gia đình nhà Hohenzollern, nổi lên ở thời Trung Cổ và cuối cùng trở thành Kaiser (tước hiệu hoàng đế trong tiếng Đức).
1
null
Thỏ sư tử hay còn gọi là thỏ mèo là một giống thỏ nhà được nuôi để làm vật cưng ưa thích vì chúng có vẻ bề ngoài trông giống như một con sư tử đực với bộ lông xù. Thỏ sư tử có xuất xứ từ Tây Âu ở các nước Hà Lan, Mỹ, Bỉ và là một trong những vật nuôi rất có giá trị và độc đáo. Nguồn gốc. Về nguồn gốc, thỏ sư tử là loài thỏ mới, thỏ sư tử đa phần có nguồn gốc ở Bỉ, thuộc giống châu Âu, phối giống của chúng là từ thỏ Angora xuất hiện ở các nước Anh, Pháp rồi kết hợp với thỏ lùn để lai tạo ra thỏ sư tử. Cụ thể là chúng được lai tạo bởi cáo Thụy Sĩ và thỏ lùn Bỉ đồng thời chúng còn có huyết thống của thỏ Jersey lông dài, có ý kiến cho rằng chúng có thể là từ một con thỏ lùn Angora biến dạng trở thành thỏ sư tử. Sau khi lai tạo thành công, với ngoại hình độc đáo của mình, thỏ sư tử đã nhanh chóng trở nên phổ biến. Thỏ sau đó tiếp tục được phổ biến ở khắp châu Âu làm say mê nhiều trẻ con thích sở hữu một con thú cưng dễ thương độc độc đáo, và nó tìm thấy con đường của chúng đến Hoa Kỳ vào cuối năm 1990. Tại Vương quốc Anh, Hội đồng Anh đã công nhận Thỏ giống Lionhead từ năm 2002. Tại Mỹ, các loài này là trong "Giấy chứng nhận phát triển" trạng thái với Hiệp hội các tác giả và Rabbit Mỹ '(ARBA). Đặc điểm. Hình dạng. Thỏ sư tử có hình dạng đặc biệt khác so với các giống thỏ thường thấy, thỏ sư tử trông mập mạp hơn, tai ngắn như tai mèo, và đặc biệt là có lông rậm và xù như bờm sư tử, đây cũng là nguyên nhân chúng có tên gọi thỏ sư tử thâm chí nhiều chú thỏ xù tới mức trông không khác gì một quả bông di động. Đặc điểm lớn nhất của chúng là có bộ lông dày rậm và xù, nhất là phần đầu. Nhìn vào đầu thỏ lông và lông mày xù ra trông giống một cái đầu sư tử, mỗi khi chúng dựng lông trông y hệt một chú sư tử con. Một số thỏ sư tử có bộ lông tuyệt đẹp, ở giữa cổ và đầu lông xù ra và phần lông đó tương đối dài hơn chỗ khác. Nhưng không phải con thỏ nào cũng có bộ lông như vậy, phải có một trong hai con bố mẹ thỏ có bộ lông đẹp thì thỏ con mới thừa hưởng được gen di truyền đó. Ngoài ra thỏ sư tử có hình giáng giống con mèo nhỏ nên chúng còn có tên khác là thỏ mèo. Chúng có nhiều màu lông khác nhau như trắng, nâu, xám hay khoang, màu sắc lông của thỏ sẽ thay đổi theo tuổi tác và theo xu hướng đẹp dần Kích thước. Về kích thước cơ thể, thỏ sư tử được coi là thỏ dạng trung, cân nặng tiêu chuẩn từ 2,2 kg trở xuống. Chiều dài cơ thể khoảng 35 cm, tai thẳng đứng và chỉ có lông tơ, tai dài khoảng từ 7-9 cm. Khuôn mặt và thân hình chúng tròn, mũi hơi dẹt, chi trước dài hơn chi sau, Mặc dù vậy, trên thế giới có nhiều giống thỏ khác nhau, có loại lúc trưởng thành có thể đạt tới chiều dài gần một thước trong khi đó thỏ sư tử tại Việt Nam thuộc dòng thỏ nhỏ. Tập tính. Trong hầu hết các trường hợp, các con thỏ sư tử là một con vật cưng thân thiện và cũng lịch sự nhẹ nhàng, chúng dịu dàng, yên lặng để người chủ ôm ấp và cũng là giống thỏ thân thiện với trẻ em. Nó có thể được đào tạo thì một con thỏ sư tử như là những sinh vật rất thông minh. Chúng có thể hiểu mệnh lệnh nhất định của người chủ như thế đi, chơi, và ăn uống. Nhìn chung, chúng dễ thương và được ưa chuộng để nuôi làm thỏ cưng. Chúng có ngoại hình rất dễ thương, màu sắc phong phú, đa dạng. Giống thỏ này có tập tính sinh hoạt tương tự thỏ thường. Chúng khá dễ nuôi, với thức ăn là các loại rau, củ, quả. Đây là một giống thú nuôi độc lạ ở Việt Nam.
1
null
EF Education First (viết tắt là EF) là tổ chức giáo dục quốc tế hoạt động trong lĩnh vực đào tạo ngôn ngữ, du lịch kết hợp giáo dục, trao đổi văn hóa cũng như các chương trình học thuật khác. Tổ chức được thành lập năm 1965 bởi Bertil Hult tại thị trấn đại học Lund, Thụy Điển dưới cái tên Europeiska Ferieskolan (European Holiday School). Công ty được điều hành bởi gia đình Hult, đặt trụ sở tại Lucerne, Thụy Sĩ. EF là trường tư lớn nhất thế giới với hơn 400 trường học, 34,000 nhân viên làm việc cho 16 công ty con và các tổ chức phi lợi nhuận có mặt trên 50 quốc gia trên thế giới. EF là nhà cung cấp chính thức các chương trình đào tạo ngôn ngữ cho thế vận hội Olympic 2008 tại Bắc Kinh và thế vận hội mùa đông 2014 tại Sochi. Nhằm chuẩn bị cho thế vận hội 2014, 70,000 nhân viên, tình nguyện viên và nhân viên du lịch được đào tạo bởi hệ thống giáo dục Tiếng Anh trực tuyến. EF English First là phân nhánh chuyên đào tạo Tiếng Anh của EF Education First. EF English First cung cấp các khóa học cho người lớn và trẻ em tại Trung Quốc, Indonesia và Liên bang Nga. Hult International Business School liên kết với EF và được đặt theo tên của người sáng lập Bertil Hult. Trường cung cấp các chương trình học cử nhân và thạc sĩ (MBA, Executive MBA). Trường có mặt tại 7 thành phố lớn trên thế giới: San Francisco, London, Dubai, Shanghai, New York, và Sao Paulo. Hult là nhà tài trợ và là đơn vị tổ chức giải thưởng Hult Prize thường niên (được biết đến với tên gọi Hult Global Case Challenge), nhằm khuyến khích và động viên các cử nhân kinh doanh trẻ giải quyết những vấn đề toàn cầu thông qua giải pháp kinh doanh. Cultural Care Au Pair là một phần của EF chuyên tuyển dụng người nước ngoài và sắp xếp họ sống cùng gia đình địa phương tại Mỹ với vai trò như người giữ trẻ. Đây là một trong số 14 tổ chức tài trợ cho thị thực J-1 tại Mỹ. EF Education First đã cho ra mắt EF English Proficiency Index (EF EPI) – bảng xếp hạng khả năng nói tiếng Anh của các nước. Ấn bản mới nhất được công bố vào tháng 11/2013.
1
null
Cá nhám chó râu (Leptocharias smithii) là một loài của bộ Carcharhiniformes và là thành viên duy nhất của họ Leptochariidae. Loài cá đáy được tìm thấy trong vùng nước ven biển phía đông Đại Tây Dương từ Mauritanie đến Angola, ở độ sâu 10–75 m (33–246 ft). Nó thích hợp với môi trường sống bùn lầy, đặc biệt là xung quanh cửa Cá nhám chó râu đặc trưng bởi một cơ thể rất thanh mảnh, râu mũi, rãnh dài ở các góc của miệng, và răng dị hình lưỡng tính. Chiều dài tối đa của nó được biết đến là 82 cm (32 in). Có khả năng bơi mạnh và sống cơ hội, cá nhám chó râu đã được biết đến ăn loài cá xương, không xương sống, trứng cá, và thậm chí cả đối tượng không ăn được. Nó là loài đẻ trứng với con cái mang ít nhất bảy lứa con non, và phát triển phôi được duy trì thông qua một hình cầu nhau thai độc đáo. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) đánh giá cá nhám chó râu là gần bị đe dọa, áp lực khai thác nặng xảy ra trong suốt phạm vi sinh sống của nó và nó được sử dụng để lấy thịt và da. Phân bố và môi trường sống. "Cá nhám chó râu" dọc theo bờ biển phía tây của châu Phi từ Mauritanie tới miền bắc Angola, mặc dù nó có thể dao động xa về phía bắc tới biển Địa Trung Hải. Loài này sinh sống ven bờ 10–75 m (33–246 ft), với nhiệt độ 20-27 °C (68-81 °F), độ mặn 35-36 ppt, và oxy hòa tan mức độ 3-4 ppm. Nó thường được tìm thấy gần đáy trên bùn, đặc biệt là xung quanh cửa sông.
1
null
Cá mập đèn lồng đuôi ngắn (tên khoa học Etmopterus brachyurus) là một loài cá mập của họ Etmopteridae tìm thấy ở phía tây Thái Bình Dương giữa vĩ độ 37 ° N và 30 ° S, ở độ sâu từ 450 đến 900 m (1.480 và 3.000 ft). Chiều dài của nó lên đến 50 cm (20 in). Sinh sản là đẻ thai trứng.
1
null
Cá mập đèn lồng Caribe, tên khoa học Etmopterus hillianus, là một loài cá mập của họ Etmopteridae tìm thấy ở phía đông và phía tây Đại Tây Dương ở độ sâu giữa 180 và 720 m. Chiều dài của nó lên đến 50 cm. Sinh sản là đẻ thai trứng.
1
null
USS "Leary" (DD-158) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nhập biên chế vào năm 1919, nó tham gia một số cuộc tập trận hạm đội và các chuyến đi huấn luyện, cùng một giai đoạn xuất biên chế từ năm 1922 đến năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến Hoa Kỳ đầu tiên được trang bị sonar, và cũng lần đầu tiên phát hiện một con tàu Đức bằng thiết bị này. Khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ, nó hộ tống một số đoàn tàu vận tải đến Iceland, biển Caribe và Tây Phi, rồi được nâng cấp để phục vụ trong chiến tranh chống tàu ngầm. Vào ngày 24 tháng 12 năm 1943, đang khi bảo vệ chiếc tàu sân bay hộ tống đi qua vùng biển Bắc Đại Tây Dương bão tố, nó bị tàu ngầm Đức "U-275" phóng ngư lôi đánh chìm với tổn thất nhân mạng 98 thành viên thủy thủ đoàn. Thiết kế và chế tạo. "Leary" là một trong số 111 chiếc tàu khu trục thuộc lớp Wickes được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo từ năm 1917 đến năm 1919. Nó cùng với 9 tàu chị em khác được chế tạo tại xưởng đóng tàu của hãng New York Shipbuilding Corporation ở Camden, New Jersey, theo những đặc tính kỹ thuật và bản vẽ chi tiết do Bath Iron Works thiết kế. Nó có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn , chiều dài chung , mạn thuyền rộng và mớn nước sâu . Khi chạy thử máy, "Leary" đạt được tốc độ tối đa . Nó được trang bị bốn khẩu pháo /50 caliber, hai khẩu /23 caliber và mười hai ống phóng ngư lôi ngư lôi. Thành phần thủy thủ đoàn bao gồm 122 sĩ quan và thủy thủ. Con tàu được vận hành bởi hai turbine hơi nước Curtis và bốn nồi hơi Yarrow. Chi tiết về tính năng thể hiện của "Leary" không được biết rõ, nhưng nó nằm trong nhóm tàu khu trục lớp "Wickes" được gọi không chính thức là "Kiểu Liberty" để phân biệt với nhóm được chế tạo dựa trên bản vẽ chi tiết do hãng Bath Iron Works thiết kế, vốn sử dụng turbine Parsons hay Westinghouse. Những chiếc nhóm Liberty bị xuống cấp nhanh chóng trong phục vụ, và cho đến năm 1929 tất cả 60 chiếc trong nhóm này được Hải quân cho nghỉ hưu. Đặc tính thể hiện thực sự của các con tàu này thấp hơn nhiều so với tính năng được kỳ vọng, đặc biệt là khía cạnh hiệu suất nhiên liệu, khi hầu hết chỉ đi được ở tốc độ thay vì ở theo thiết kế tiêu chuẩn. Lớp cũng gặp vấn đề khi bẻ lái và trọng lượng. "Leary" được đặt lườn vào ngày 6 tháng 3 năm 1918 và được hạ thủy vào ngày 18 tháng 12 năm 1918, được đỡ đầu bởi bà Anne Leary, mẹ của Trung úy Hải quân Clarence F. Leary, và được đưa ra hoạt động vào ngày 5 tháng 12 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân F. C. Martin. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Trung úy Leary, người được truy tặng huân chương Chữ thập Hải quân trong Thế Chiến I. Nó được tiếp nối bởi chiếc , một tàu khu trục lớp "Gearing" hoàn tất vào năm 1945. Lịch sử hoạt động. Giữa hai cuộc thế chiến. "Leary" khởi hành từ Boston vào ngày 28 tháng 1 năm 1920 cho chuyến đi chạy thử máy tại vùng biển Caribe, rồi tiến hành các hoạt động huấn luyện dọc theo bờ Đông Hoa Kỳ. Vào tháng 1 năm 1921, nó gia nhập Hạm đội Thái Bình Dương, và cho đến tháng 2 đã tham gia cuộc tập trận quy mô lớn ngoài khơi bờ biển Peru. Sang tháng 3, "Leary" băng qua kênh đào Panama và trình diện để hoạt động tại Căn cứ Hải quân vịnh Guantánamo, Cuba. Sau đó nó tham gia giám sát các cuộc thử nghiệm ném bom xuống các mục tiêu hải quân do Không lực Lục quân Hoa Kỳ dưới sự chỉ đạo của Billy Mitchell. Nó quay lại các hoạt động thực tập huấn luyện tại vùng biển Caribe cho đến tháng 6 năm 1922. Nhằm tuân thủ những điều khoản hạn chế vũ trang của Hiệp ước Hải quân Washington, nó được cho xuất biên chế tại Xưởng hải quân Philadelphia và đưa về lực lượng dự bị. Được cho nhập biên chế trở lại vào ngày 1 tháng 5 năm 1930 với cảng nhà được đặt tại Newport, Rhode Island, "Leary" luân phiên các hoạt động cùng với Hạm đội Thái Bình Dương và Hạm đội Đại Tây Dương, tiến hành các cuộc cơ động huấn luyện và tham gia nhiều cuộc tập trận Vấn đề Hạm đội. Sau năm 1935, hầu hết thời gian của nó dành cho các chuyến đi huấn luyện quân nhân dự bị và học viên mới. Vào tháng 4 năm 1937, nó trải qua một đợt đại tu, bao gồm việc trang bị radar; "Leary" là chiếc tàu chiến Hoa Kỳ đầu tiên được lắp thiết bị này. Đến tháng 9 năm 1939, "Leary" và tiến hành tuần tra liên tục ngoài khơi bờ biển New England chống lại tàu ngầm U-boat Đức. Vào ngày 9 tháng 9 năm 1941, nó bắt đầu các nhiệm vụ hộ tống đến tận Iceland. Nó cũng là chiếc tàu chiến Mỹ đầu tiên phát hiện một tàu ngầm U-Boat Đức đang khi hộ tống một đoàn tàu vận tải Anh vượt Bắc Đại Tây Dương vào ngày 9 tháng 11 năm 1941. Thế Chiến II. Với việc Hoa Kỳ chính thức tham gia Chiến tranh Thế giới thứ hai sau khi Nhật Bản bất ngờ tấn công Trân Châu Cảng, "Leary" đảm trách nhiệm vụ hộ tống vận tải. Từ ngày 26 tháng 2 năm 1942, nó trải qua một năm hộ tống các đoàn tàu vận tải từ một điểm hẹn giữa đại dương đến các cảng Iceland. Vào ngày 7 tháng 2 năm 1943, nó lên đường quay trở về Boston, trải qua một giai đoạn đại tu tại Xưởng hải quân Boston đồng thời được cải biến thành một tàu chống tàu ngầm. Vào ngày 1 tháng 3, nó rời Boston đi vịnh Guantánamo thực tập chống tàu ngầm cùng với chiếc . Sau đó, nó tiếp tục nhiệm vụ hộ tống vận tải, thực hiện nhiều chuyến đi đến Trinidad cùng nhiều cảng tại vùng biển Caribe. Quay trở về New York vào ngày 25 tháng 6, nó bắt đầu hộ tống các đoàn tàu vượt đại dương, bảo vệ thành công hai đoàn tàu đi qua Aruba đến Algiers và Casablanca. Sau đó, nó gia nhập Đội đặc nhiệm 21.41 dưới quyền chỉ huy của Đại tá Hải quân Arnold J. Isbell để bảo vệ cho tàu sân bay hộ tống . Vào ngày 24 tháng 12 năm 1943, đội đặc nhiệm gặp phải một cơn bão tại Bắc Đại Tây Dương, và lúc 01 giờ 58 phút, "Leary" dò được tín hiệu sonar của một chiếc U-boat đối phương bên mạn phải. Chỉ huy con tàu James E. Kyes ra tín hiệu báo động, nhưng trước khi chiếc tàu khu trục kịp phản ứng, nó trúng một quả ngư lôi G7es phóng từ tàu ngầm "U-275". Quả ngư lôi đánh trúng mạn phải con tàu, phát nổ trong phòng động cơ phía sau, làm thiệt mạng mọi người tại đây và làm hỏng cả hai trục chân vịt. Nó nhanh chóng bị nghiêng 20 độ sang mạn phải, và không thể di chuyển trong hoàn cảnh biển động nặng. Hoàn toàn không bị đội tìm-diệt phát hiện, một chiếc U-boat thứ hai, "U-382", cũng khai hỏa nhắm vào "Leary" nhưng bị trượt. Không lâu sau đó, Kyes ra lệnh cho thủy thủ đoàn bỏ tàu. Hai quả ngư lôi khác phóng từ "U-275" lại đánh trúng, làm rung động mạnh con tàu, và nó chìm nhanh chóng với đuôi chìm trước. Nó mang theo cùng với nó 98 thành viên thủy thủ đoàn, bao gồm chỉ huy Kyes. Những người sống sót được tàu chị em cứu vớt. Phần thưởng. "Leary" được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Do hành động dũng cảm để đảm bảo an toàn cho thủy thủ đoàn dưới quyền, hạm trưởng James E. Kyes được truy tặng Huân chương Chữ thập Hải quân. Chiếc tàu khu trục thuộc lớp "Gearing" sau này được đặt tên nhằm tôn vinh ông.
1
null
Cá huỳnh quang hay còn gọi là cá huỳnh quang biến đổi gen (GloFish) là một trong các loại cá cảnh nước ngọt được hình thành do công nghệ biến đổi gen (GMO). Cá ngựa vằn là GloFish là đầu tiên và có sẵn trong các cửa hàng vật nuôi, và bây giờ được bán với màu đỏ tươi, màu huỳnh quang màu xanh lá cây, màu vàng cam, xanh dương và tím. Mặc dù không được phát triển cho việc buôn bán cá cảnh, nó là một trong những động vật biến đổi gen đầu tiên để trở thành công khai như một con vật cưng. Nó chỉ được bán tại Hoa Kỳ, nơi mà nó vẫn là vật nuôi biến đổi gen và chỉ được công bố công khai.
1
null
Nai sừng xám Mãn Châu (Danh pháp khoa học: Cervus canadensis xanthopygus) là một phân loài của loài nai sừng xám Cervus canadensis. Đây là một loài bản địa của vùng Đông Bắc Á, phân bố ở các quốc gia như Nga, Trung Quốc và Triều Tiên. Mô tả. Các con hươu Mãn Châu có màu nâu đỏ trong mùa hè và màu xám nâu vào mùa đông để thích nghi với khí hậu khi tiết trời trở nên giá lạnh. Nó có lông đen trên cổ và phần dưới thì màu tối hơn, tiếp theo là mông màu sáng. Hươu Mãn Châu có kích thước nhỏ hơn so với nai sừng tấm Bắc Mỹ (Cervus canadensis canadensis) với gạc nhỏ hơn. Gạc hươu đực tương đối nhỏ. Nai cái có màu đỏ hơn hươu đực và thiếu bờm cổ. Hươu này được thích nghi với môi trường rừng rụng lá ở Mãn Châu, Yakutia, phía Bắc Trung Quốc và Bắc Triều Tiên. Giống như nhiều hươu đỏ, hươu trưởng thành có thể có một số điểm có thể nhìn thấy trong bộ da vào mùa hè Phạm vi. Phân loài nai này được tìm thấy ở miền Đông Nam Siberia (phía đông của hồ Baikal), Đông Bắc Mông Cổ, Mãn Châu, Bắc Triều Tiên và đông bắc Trung Quốc. Các dạng tương tự từ Alxa, Cam Túc, Sơn Tây và phía nam Mông Cổ ban đầu được mô tả như là một phân loài riêng biệt, loài Nai Alashan (Cervus canadensis alashanicus). Tuy nhiên nghiên cứu di truyền gần đây chỉ ra rằng con nai này thuộc phân loài Mãn Châu. Sừng hươu. Chúng là một trong ba loài thường được nuôi để lấy nhung. Gạc giống hươu trắng là sản phẩm được lấy từ loài hươu tuyết toàn thân hươu có màu trắng được cho là loại đặc biệt quý hiếm. Được coi là vị thuốc bổ dùng trong các trường hợp cơ thể suy nhược, thần kinh suy nhược, lao động chân tay và trí não quá tải… Những con nai trắng được sinh ra một màu nâu hoặc nâu với một mẫu trắng đốm. Đôi khi những nai tơ có thể được sinh ra với một màu xám khi xuất hiện điều này làm cho chúng trông có vẻ bẩn thỉu. Bộ lông của chúng sau đó trở thành màu trắng tinh khôi ở vào giữa năm thứ hai và đôi khi bị nhầm lẫn với hươu bị bạch tạng. Gạc hươu trắng là loại đặc biệt khác gạc hươu đỏ ở chỗ nhẵn hơn, ít nhánh hơn và có màu trắng ngà toàn thân, dài 70–120 cm và đường kính khoảng 3–5 cm, gạc hươu trắng được cho là có tác dụng tốt hơn hươu thường, có thể do cấu trúc thành phần vi chất, khoáng chất trong gạc hươu tuyết khác gạc hươu thường. Chính vì vậy mà gạc hươu trắng có giá trị cũng như bổ dưỡng hơn được nhiều người lựa chọn dùng hơn. Trong gạc hươu tuyết có chứa khoảng 25% chất keo (keratin) 50-60% calci photphát, calci cacbonat, một ít chật đạm và ít nước. Gạc hươu tuyết có tác dụng tốt hơn hươu thường gấp nhiều lần về giá trị dinh dưỡng cũng như công dụng với sức khoẻ con người. Theo y học cổ truyền Việt Nam, gạc hươu nai có tác dụng sinh tinh, bổ tủy, ích huyết; chữa các chứng hư tổn cơ thể, di tinh, liệt dương, vô sinh, bệnh lậu, giúp khỏe gân xương, kéo dài tuổi thọ. gạc hươu giúp tăng sức mạnh cơ bắp, sảng khoái tinh thần, vết thương mau lành, ăn ngủ tốt, lợi niệu và tăng nhu động dạ dày – ruột, chuyển hóa tốt protid và glucid… Liều mạnh gây hạ huyết áp, làm tim co bóp mạnh, đập nhanh, giật cơ, co giật hay đông huyết. Trong ẩm thực. Loài nai Mãn Châu này có những ý nghĩa trong ẩm thực Trung Quốc. Gân nai lấy từ Giống nai đực có sừng (gạc). Vào mùa hạ nai đực rụng sừng. Sừng non của nai gọi là lộc nhung, là một vị thuốc tráng dương, bổ thận, tăng sinh lực. Gân nai được dùng để chế biến món ăn. Khi làm thịt, dùng lửa thui đùi nai, cạo sạch lông. Cho vào nước luộc mềm. Dùng dao nhọn xẻ tách gân ra khỏi phần bắp thịt. Cho gân nai ngâm trong nước có pha muối và giấm cho mềm. Khi gân đã mềm, cắt khúc, hầm chung gân nai trong nước luộc gà (chicken broth) với tôm khô, măng, củ đậu, chả lụa. Ngoài ra còn sừng non trên đầu hươu ngựa đực hoặc hươu hoa mai thuộc họ Hươu chưa xương hóa và mọc lông nhung dày đặc. Nhung hươu hoa mai thường gọi là nhung hươu hoa còn nhung hươu ngựa đực gọi là nhung hươu ngựa. Các loài hươu này thường sinh trưởng ở vùng Cát Lâm, Liêu Ninh, Hắc Long Giang, Tân Cương, Thanh Hải thuộc Trung Quốc. Cưa nhung hươu vào mùa hạ và thu, sau khi gia công thì phơi khô hoặc sấy khô. Khi dùng đốt bỏ lông, cạo sạch, thái lát mỏng ngang hoặc bổ thành miếng vụn, nghiền thành bột để dùng. Theo Đông Y, nhung hươu có tính ấm, vị ngọt mặn, tốt cho thận, gan, có tác dụng bổ thận tráng dương, ích tinh huyết, cường gân cốt, điều xung nhiệm, trị độc ở vết thương. Trong Tám món ăn hay mười món ăn quý nhất Trung Hoa (Bát trân), có món gân hươu Liêu Ninh. Gân hươu Liêu Ninh là gân con hươu ở Liêu Ninh làm món ăn. Hươi ở miền núi Liêu Ninh có tiếng là quý. Vì hươu ở đây được ăn ngon một giống nhân sâm mọc trong rừng. Gân hươu có thể làm ra nhiều món ăn. Gân hươu khô đem ngâm với nước tro bếp một đêm. Hôm sau cho vào nồi nước, đun sôi trong hai giờ. Khi nào gân mềm sẽ đem ra, rửa sạch rồi cắt thành từng khúc nhỏ, lại chẻ hai đầu ra làm bốn năm miếng. Lấy thịt gà nạc, thịt bắp đùi heo, hành, nấm hương, của mã thày, đậu xanh, mướp hương, sáng sấu (chanh hay muốn tiêu), mì chính, muối rang và bốn vị thuốc bắc là khởi tử, hoài sơn, đại táo, hùng kỳ, cho gân hươu vào nấu chín mềm là thành món ăn ngon và bổ.
1
null
Dương Bài Phong(杨排风) là một nhân vật trong giai thoại Dương gia tướng thời Bắc Tống. Cô là con gái nuôi của Dương Nghiệp và Xa Tái Hoa. Trong Hỏa Soái Dương Bài Phong, giúp Mộc Quế Anh cầm quân ra trận lập nhiều chiến công nên Dương Bài Phong được hoàng thượng sắc phong Đại Nguyên Soái. Từ nhỏ đã được Dương gia yêu thương cuộc sống cũng không phải khó khăn; chồng là Phan Thiếu Xuân (cháu nội Phan Nhân Mỹ). Trong Mộc Quế Anh - Đại phá thiên môn trận, cô đã yêu hậu nhân của Bắc Hán - Lưu Hạo Nam (Gia Luật Hạo Nam).
1
null
Khỉ đuôi sóc hay còn gọi là Khỉ Marmoset là các loài khỉ nhỏ thuộc về giống loài thuộc bộ linh trưởng và nằm trong 22 loài khỉ Tân Thế giới, sinh sống hầu hết ở khu vực Nam Mỹ. Loài khỉ Marmosets lùn được tìm thấy trong rừng nhiệt đới của Brazil, Ecuador, Peru và Columbia. Hầu hết các loại khỉ này đều có nguy cơ tuyệt chủng cho đến khi có phong trào nuôi loài khỉ này như thú cưng (thú nuôi độc lạ) thì chúng mới thoát nạn, mặc dù vậy, đây là động vật hoang dã nên không thể thuần hóa. Đặc điểm. Marmosets là loài ăn tạp như trái cây, lá, ăn côn trùng và loài bò sát nhỏ hay nhấm nháp cả nhựa cây, sống chủ yếu trên những tán cây. Có 11 loại khỉ Marmosets pygmy khác nhau được ghi nhận nhưng tất cả chỉ dài từ 5-6 inch, chưa bao gồm đuôi, có móng vuốt thay vì móng tay, có lông xúc giác trên cổ tay và thiếu răng khôn, nặng 130 gam. Điều đó cho thấy chúng nguyên thủy hơn so với một số loài khỉ khác. Chúng có chiếc răng cửa đặc biệt có thể gặm xuyên qua lớp vỏ cây một cách dễ dàng để tìm nhựa cây, nguồn thực phẩm mà chúng rất ưa thích. Trong môi trường tự nhiên Marmosets pygmy di chuyển rất nhanh nhẹn, vì thế rất khó để có thể bắt gặp được loại khỉ này. Trong môi trường nuôi nhốt, Khỉ Marmoset có dáng vẻ nhỏ và khá xinh xắn, đáng yêu nên người nuôi rất thích nâng niu, vuốt ve chúng trên tay, cho khỉ con bú bình... Thức ăn chủ yếu của khỉ Marmoset là côn trùng, lá cây, trái cây chín. Trong khi nuôi nấng thì người ta không thể lường trước được lúc chúng tấn công chủ, đặc biệt trong thời kỳ giao phối chúng sẽ trở nên dữ tợn, nguy hiểm ngay với cả chủ nhân của chúng. Khỉ đuôi sóc đực không chỉ bế con mà còn cho ăn và bắt rận cho chúng. Ngoài ra, khi những con cái sinh nở, khỉ đuôi sóc đực còn làm vệ sinh cho con bằng cách liếm sạch cơ thể chúng. Sự tận tụy của khỉ đực bắt nguồn từ việc khỉ cái phải hy sinh rất nhiều trong quá trình mang thai và sinh con. Bào thai của khỉ sóc thường chiếm tới 25% khối lượng của con mẹ. Người nuôi thường tách khỉ bé ra khỏi mẹ sau khi chúng được 3 đến 5 ngày tuổi, vì thế chúng cần được giữ ấm bằng đèn và rất cần bú sữa thường xuyên để tăng sức đề kháng cho cơ thể. Khi mới sinh, khỉ con đã mở mắt, lông nhiều, miệng đã có đầy răng, và rất khỏe mạnh, tứ chi và đuôi đã đủ cứng cáp để chúng bám vào cơ thể bố mẹ. Khả năng giao tiếp. Loài khỉ được cho có những cử chỉ, hành động giống với loài người nhất trong giới động vật, chúng có một đặc tính giao tiếp vô cùng độc đáo. Chúng biết phân chia lượt nói để tránh chen ngang, cướp lời. Đặc tính này đậm chất giao tiếp của con người, luôn thân thiện, hoạt ngôn. Việc trò chuyện theo lượt đã giúp cho loài khỉ này có thể lĩnh hội được các thông tin một cách đầy đủ nhất, đặc biệt là trong những khu rừng kém yên tĩnh. Điều này không chỉ diễn ra giữa những con vốn thân quen với nhau mà còn giữa chú khỉ xa lạ. khỉ Marmoset đã liên lạc với nhau bằng cách gọi "phee" - tên gọi riêng cho cách giao tiếp của Marmoset, ám chỉ một kiểu huýt sáo thật lớn và được sử dụng ở khoảng cách xa. Đặc điểm này hoàn toàn khác biệt với nhiều loài động vật như chim, cóc, dế vốn chỉ giao tiếp trong mùa sinh sản hoặc để bảo vệ lãnh thổ. Thú cưng. Được xem là loài khỉ tí hon trên thế giới, Marmosets pygmy đang được chọn làm loại thú cưng đối với con người cũng bởi khả năng dễ thuần hóa của chúng. Ở Trung Quốc, rộ lên thú chơi khỉ siêu nhỏ Marmosets pygmy đang trở thành mốt trong giới trẻ, với tên gọi tiểu Tôn Ngộ Không, Dù giá thành của những chú khỉ này không hề rẻ nhưng vẫn có không ít người sẵn sàng bỏ ra một khoản tiền để được sở hữu. Phong trào này cũng xuất hiện ở một số giới ở Việt Nam. Nhu cầu nuôi khỉ Marmosets pygmy đang lên cao mà những chú khỉ trong tự nhiên đã bị bắt khá nhiều, thậm chí có những trang trại đã cố gắng nhân giống khỉ này để phục vụ cho việc thương mại hóa. Thế nhưng tỷ lệ thành công trong việc nhân giống Marmosets pygmy vẫn chưa cao vì thế loài khỉ này vẫn đang phải đối mặt với nguy bị mất tự do khi bị bắt và trở thành vật nuôi.
1
null
Reichenbachbrücke là một cầu vòm bắc ngang qua sông Isar tại München và nối Isarvorstadt ở bên trái sông Isar với khu vực Au bên phải sông Isar. Cầu này cũng như con đường tiếp nối về phía Bắc Reichenbachstraße được đặt tên theo nhà sáng chế và kỹ sư Georg Friedrich von Reichenbach. Lịch sử. Ban đầu là cầu gỗ. Từ năm 1832 tại đây một cây cầu bằng gỗ với 15 cột chống được cho xây bởi giám đốc xây cất thành phố Karl Muffat, để nối vùng ngoại ô Au với München. Sau khi một cột sụp vào năm 1840, năm 1842/43 một cây cầu mới được dựng lên bởi Muffat và kiến trúc sư Friedrich von Gärtner mà không hề bị hư hại bởi lụt lội, ngay cả trận lụt thế kỷ vào tháng 9 năm 1899, mà cả cầu sắt Bogenhausener và cầu Luitpold đã bị hư hại nặng. Cầu bê tông. Cầu mới được xây vào mùa hè 1902. Bởi vì cầu được xây tại vị trí cũ, và việc lưu thông nên được tiếp tục bình thường, cho nên cầu gỗ cũ được dời 25 m về phía Nam. Việc vận chuyển này mất 1 tiếng 40 phút, được thực hiện bằng cách kéo cầu cũ trên những quả cầu sắt có đường kính 14 cm trên đường dốc trơn. Cầu được khánh thành vào ngày 17 tháng 7 năm 1903, những tượng đá tuy nhiên mãi tới 1925 mới được dựng. Năm 1964 cầu được sửa chữa và mở rộng ra.
1
null
Nếp cẩm Hồng Phúc được phát triển từ đề tài nghiên cứu cấp nhà nước của các giáo sư Khoa Công nghệ Hóa học của Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội với mong muốn mang lại những sản phẩm chất lượng cao cho người tiêu dùng. Nguyên liệu. Thành phần chính là gạo nếp cẩm thuần chủng Tây Bắc, men rượu đặc biệt,và nước đã được xử lý theo qui chuẩn nước sạch của Bộ Y tế Việt Nam. Các nghiên cứu. Nếp cẩm là vị thuốc đông y chữa một số bệnh ung thư tuyến tính, trực tràng, những người yếu bao tử,hạ huyết áp với những người huyết áp cao, bổ sung protein, lipid các nguyên tố vi lượng và vitamin cho người gầy, bổ sung dưỡng chất cho da giúp da hồng hào, tươi sắc hơn. Ngoài ra nó có khả năng làm hạ cholesterol,mỡ máu. Một nghiên cứu của Giáo sư David Capuzzi tại Philadenphia, Mỹ, đã nghiên cứu trong 5 năm với khoảng 5.000 bệnh nhân bị tai biến tim mạch ở độ tuổi từ 18 đến 70 tại hơn 60 bệnh viện ở Trung Quốc. Số bệnh nhân này được cho dùng một loại thuốc có tên là Xuezhikang, được bào chế từ men của gạo nếp cẩm, chủ yếu chứa chất lovastatine và ergosterol.Kết quả sau 5 năm điều trị cho thấy, tỷ lệ tai biến tim mạch đối với số bệnh nhân này đã giảm 45%. Sau phẫu thuật thông mạch, tỷ lệ tái tạo mạch máu tăng khoảng 30%. Việc sử dụng thuốc XZK đã giúp khoảng 33% số bệnh nhân tim mạch tránh khỏi tử vong. Đặc biệt, nếu so với số bệnh nhân tim mạch không được sử dụng, thì tỷ lệ tử vong trong số bệnh nhân được điều trị bằng loại thuốc trên thấp hơn khoảng 66%.
1
null
Chủng viện Đức Mẹ Vô Nhiễm – Bùi Chu hay Đại Chủng viện Bùi Chu (Immaculate Conception Major Seminary in Bùi Chu - ICSB), tọa lạc tại xã Xuân Ngọc, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, là Chủng viện Giáo phận Bùi Chu, được Cố giám mục chính tòa giáo phận Bùi Chu Giuse Hoàng Văn Tiệm thiết lập ngày 2 tháng 2 năm 2010, chiếu theo Giáo luật các điều 51 và 237-239, như đã được hướng dẫn và khích lệ bởi Văn thư số 5202/09 của Hồng y Ivan Dias, Tổng trưởng Bộ Loan báo Tin Mừng (LBTM) cho các Dân tộc. Cho đến nay, Chủng viện đã hoạt động được bảy năm và đang cung cấp chương trình huấn luyện cho hơn một trăm chủng sinh. Giới thiệu khái quát. Lịch sử hình thành. Ngay khi nhận trọng trách giám mục chính tòa Giáo phận Bùi Chu vào năm 2001, Giám mục Giuse Hoàng Văn Tiệm đã nghĩ đến việc xây cơ sở đại chủng viện. Trước hết là ý tưởng về một ngôi nhà dành cho các ứng sinh muốn theo đuổi ơn gọi linh mục. Lý do là vì Bùi Chu lúc ấy đang thiếu trầm trọng các linh mục để có thể đáp ứng nhu cầu mục vụ ngày càng tăng của Giáo phận, trong khi đầu vào tại Đại chủng viện Thánh Giuse Hà Nội lại rất hạn chế. Năm 2007, giám mục Hoàng Văn Tiệm đã làm phép và đặt viên đá đầu tiên khởi công ngôi nhà đại chủng viện, trong khi đó, Tổng giám mục Tổng giáo phận Hà Nội Giuse Ngô Quang Kiệt gửi đơn xin Bộ Loan báo Tin Mừng cho các Dân tộc để xin lập đại chủng viện mới dành cho các địa phận Dòng (Đaminh): Bùi Chu, Hải Phòng, Bắc Ninh và Lạng Sơn. Ngày 14 tháng 2 năm 2008, Giám mục Giuse Tiệm gửi đơn thư và các tài liệu liên quan lên Bộ Loan Báo Tin Mừng trực thuộc Tòa Thánh. Bộ đã trả lời bằng số 1308/08 với những chỉ dẫn và đề nghị cho việc sửa đổi và bổ sung cần thiết để dự án được chấp nhận. Ngày 1 tháng 6 năm 2009, Giám mục Hoàng Văn Tiệm một lần nữa gửi lại đơn xin và bổ sung tất cả những tài liệu cần thiết lên Bộ Loan báo Tin Mừng. Ngày 7 tháng 12 năm 2009, Bộ Loan báo Tin Mừng ra văn thư số 5202/09 phê chuẩn việc thành lập Đại Chủng viện Đức Mẹ Vô Nhiễm – Bùi Chu. Với sự phê chuẩn chính thức này, sau khi đã thảo luận với các đại diện của các Giáo phận Hải Phòng, Giáo phận Bắc Ninh và Giáo phận Thái Bình, ngày lễ Đức Mẹ dâng Con vào Đền Thánh, ngày 2 tháng 2 năm 2010, Giám mục Giuse Hoàng Văn Tiệm chính thức ban hành sắc lệnh thiết lập Đại Chủng viện mới. Hiện tại có 172 chủng sinh đang theo học, chia làm 8 lớp. Ngoài phần lớn các chủng sinh đến từ giáo phận Bùi Chu, còn có các chủng sinh đến từ các giáo phận lân cận, như Hải Phòng, Hưng Hóa, Lạng Sơn và một số hội dòng. Khẩu hiệu. Khẩu hiệu được thể hiện nơi logo của Đại Chủng viện: Chương trình đào tạo. Ba tiêu chí đào tạo nhắm tới:. - Đào tạo toàn diện: nhân bản, thiêng liêng, tri thức, mục vụ; - Đào tạo có chiều sâu: hướng tới đời sống nội tâm gắn bó mật thiết với Chúa; - Đào tạo hướng tới truyền giáo: sống tinh thần nghèo khó Tin Mừng và hăng say truyền giáo. Định hướng và Chương trình đào tạo. CVBC theo hướng dẫn của HĐGM Việt Nam qua văn bản “ĐÀO TẠO LINH MỤC – Định hướng và chỉ dẫn” ("Ratio institutionis sacerdotalis & Ratio studiorum") ban hành ngày 11 tháng 4 năm 2012. Áp dụng vào hoàn cảnh Bùi Chu, Đại Chủng viện được cố gắng xây dựng thành “Ngôi Nhà”: nhà Chúa, nhà chung và nhà trường, với mục đích đào luyện các chủng sinh thành người của Thiên Chúa, sống vì mọi người, có tri thức vững chắc và tâm hồn tông đồ nhiệt thành. -  Người của Thiên Chúa: chiều kích thiêng liêng (PDV 45-50, Ratio 256-261, 287-307, 381-385); -  Người vì mọi người: chiều kích nhân bản  (PDV 43-44, Ratio 254-255,  273-287, 263-280). -  Người có tri thức: chiều kích tri thức và mục vụ (PDV 51-62, Ratio 262-263, 308-335, 386-420). Chương trình huấn luyện tại chủng viện bao gồm 8 năm: 1 năm tu đức, 2 năm triết học, 1 năm thử và 4 năm thần học. Cơ quan xuất bản. - Tạp chí Ra Khơi, phát hành theo chủ đề, 3-4 lần trong năm, với các bài viết do các giáo sư chủng viện và chủng sinh đóng góp. - Tủ sách Ra Khơi: tái bản sách cũ và ấn hành sách mới. Điều kiện gia nhập Đại Chủng viện Đức Mẹ Vô Nhiễm Bùi Chu. Trúng tuyển. Kết quả của Kỳ Thi Tuyển Sinh sẽ được gửi về quý Giáo phận. Các thí sinh được coi là trúng tuyển vào Đại Chủng viện Bùi Chu phải đạt số điểm trung bình tất cả các môn thi từ 6/10 trở lên và không có môn nào bị điểm liệt (dưới 3 điểm). Những người đã trúng tuyển mà chưa thể nhập học ngay thì được lưu điểm cho năm sau. Hình ảnh khác. Nguồn:
1
null
Ocypode convexa hay "cua ma vàng" trong tiếng Anh là một loài cua bản bờ biển địa Tây Úc. Loài cua này được tìm thấy từ Broome đến Perth. Chúng là loài cua khá lớn với mai dài đến 45 mm và rộnh đến 52 mm. Dễ dàng nhận ra chúng với màu vàng. Giống như nhiều loài cua ma khác, loài cua này có thân trông giống cái hộp với hai càng bằng nhau. Chúng có các cuống mắt lớn với giác mạc chiếm phần lớn phần dưới. Cua ma vàng thường sinh sống ở những bãi biển cát mở, sống trong hang ở vùng triều và trên khu vực ngập thủy triều. Chúng chủ yếu hoạt động vào ban đêm và sinh sống cả trên mặt đất và trong hang.
1
null
Edmund Joseph Dejanicz von Gliszczynski (17 tháng 3 năm 1825 tại Breslau – 15 tháng 10 năm 1896 tại thái ấp "Rittergut" Kostau gần Kreuzburg, tỉnh Schlesien) là một chủ điền trang, đại diện Đảng Trung tâm ("Zentrumspartei") tại Viện Đại biểu Phổ đồng thời là Thiếu tướng quân đội Phổ. Ông đã từng tham gia ba cuộc chiến tranh thống nhất nước Đức kể từ năm 1864 cho đến năm 1871. Gia đình. Ông sinh vào tháng 3 năm 1825 ở thủ phủ tỉnh Schlesien, trong gia đình quý tộc cổ Glisczynski có nguồn gốc từ Pomerellen. Cái tên Glisczynski của dòng họ này được đặt theo tên địa danh Gliśno Wielkie, nơi sự tồn tại gia đình được đề cập đến lần đầu tiên vào năm 1374. Ông đã thành hôn với bà "Therese Gräfin von Schmackowsky". Tiểu sử. Thời trẻ, ông học tập quân sự trong quân đoàn Thiếu sinh quân của Vương quốc Phổ và nhập ngũ vào năm 1842. Ban đầu, ông phục vụ trong Trung đoàn Phóng lựu Cận vệ số 2 Hoàng đế Franz với cấp hàm Thiếu úy. Ông đã tham chiến trong cuộc Chiến tranh Đức-Đan Mạch lần thứ nhất năm 1848. Kể từ năm 1850 cho đến năm 1852, ông là tư vấn quân sự cho Vương công kế vị Heinrich IV xứ Reuß-Gera ở Đại học Bonn. Ông đi học ở Học viện Quân sự tại Berlin kể từ năm 1854. Từ năm 1860, ông giữ một chức đại đội trưởng trong Trung đoàn Phóng lựu Cận vệ số 4 (Vương hậu). Bốn năm sau, vào năm 1864 ông chiến đấu trong cuộc Chiến tranh Đức-Đan Mạch lần thứ hai. Trong trận đột chiếm Düppel, ông bị trọng thương. Về sau, ông cũng tham chiến trong các cuộc chiến tranh với Áo năm 1866 và với Pháp từ năm 1870 đến năm 1871. Vào tháng 7 năm 1870, ông là Đại tá và Chỉ huy trưởng Trung đoàn Dân quân Phóng lựu Cận vệ số 2. Đế tháng 8 năm đó, ông trở thành Trung đoàn trưởng Trung đoàn Bắn súng hỏa mai số 90 Mecklenburg, trên cương vị này ông một lần nữa bị thương ở phía trước Orleans. Hai năm sau khi chiến tranh chấm dứt, ông được bổ nhiệm làm trấn thủ Stralsund vào năm 1873. Đến năm 1875, với quân hàm Thiếu tướng, Glisczynski giã từ binh nghiệp và chú tâm vào việc cai quản điền trang của mình. Glisczynski là chủ điền trang Kostau với nông trang "Vorwerk" Antonienhof rộng 827 hecta. Kể từ năm 1879 cho đến năm 1896, ông là thành viên Viện Đại biểu Phổ, ban đầu là đại biểu cho khu vực bầu cử quận trực thuộc trung ương Oppeln 6 (Pleiß - Rybnik) và từ năm 1894 ông là đại biểu khu vực bầu cử Oppeln 1 (Kreuzburg - Rosenberg). Ông từ trần vào tháng 10 năm 1896 tại điền trang của mình.
1
null
Atelecyclus rotundatus là một loài cua có kích thước trung bình được tìm thấy ở tây châu Âu và châu Phi cũng như hầu hết các vùng biển Địa Trung Hải và trên Cape Verde và quần đảo Canary. Nó có nhiều tên gọi thông thường, bao gồm cua tròn, cua tròn và cua khuôn mặt ông già. Nó có kích thước ngang mai màu nâu hơi đỏ gần như hình tròn là 40 mm.
1
null
Le nozze di Figaro, ossia la folle giornata (bằng tiếng Ý, tạm dịch là "Đám cưới của Figaro, ngày điên rồ") là vở opera buffa gồm bốn hồi với phần nhạc do nhà soạn nhạc người Áo Wolfgang Amadeus Mozart sáng tác năm 1786 và phần lời do nhà thơ người Ý Lorenzo Da Ponte đặt dựa trên vở hài kịch "La folle journée, ou le Mariage de Figaro" (1784) của Pierre Beaumarchais. "Le nozze di Figaro" là một trong những vở opera hay nhất của Mozart, đặc biệt là bản overture. Nhà soạn nhạc đã viết nhạc cho vở opera này với những giai điệu đầy chất thơ. Ông còn kết hợp tài tình hát và hát nói. Ông còn phát triển duet thành trung tâm cho những tình huống kịch tính của cả tác phẩm. Ấy là còn chưa kể ông sử dụng rất thành thạo các hợp ca từ terzet và septet, những chất liệu không xuất hiện trong các vở opera trước đó của ông.
1
null
Il barbiere di Siviglia (bằng tiếng Ý, tạm dịch tiếng Việt:"Người thợ cạo thành Sevilla") là một trong những vở opera hay nhất của thiên tài opera người Ý Gioachino Rossini. Đây là vở opera hài (tiếng Ý: opera buffa) 2 màn, có lời của Cesare Sterbini. Chủ đề của vở opera này được lấy từ hài kịch của Beaumarchais (tác phẩm được sáng tác vào năm 1775). Tác phẩm của Rossini được trình diễn lần đầu tiên tại Roma, thủ đô nước Ý vào năm 1816 với cái tên hoàn toàn khác là "Almaviva, o sia L'inutile precauzione" (tạm dịch:"Almaviva, sự phòng ngừa vô ích") để khỏi trùng tên với vở opera của Giovanni Paisiello. Năm 1818, nó vượt qua biên giới nước Ý và xuất hiện tại Luân Đôn, Anh. Năm 1819, tác phẩm đến bờ bên kia của Đại Tây Dương, có mặt trên sân khấu opera của thành phố New York, Mỹ. Chủ đề của nó cũng là chủ đề của nhiều vở opera khác.
1
null
USS "Schenck" (DD-159) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và được cải biến thành tàu phụ trợ APD-8. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Chuẩn đô đốc James F. Schenck (1807–1882). Thiết kế và chế tạo. "Schenck" được đặt lườn vào ngày 26 tháng 3 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng New York Shipbuilding Corporation ở Camden, New Jersey. Nó được hạ thủy vào ngày 23 tháng 4 năm 1919, được đỡ đầu bởi cô Mary Janet Earle, và được đưa ra hoạt động vào ngày 30 tháng 10 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân N. H. Goss. Lịch sử hoạt động. Giữa hai cuộc thế chiến. "Schenck" được phân về Hạm đội Đại Tây Dương, và sau khi hoàn tất chạy thử máy, đã hoạt động tại khu vực giữa New York và vịnh Chesapeake. Từ tháng 7 đến tháng 9 năm 1920, nó tuần tra ngoài khơi bờ biển phía Đông của México, và đầu năm 1921 đã tham gia các cuộc tập trận hạm đội tại vùng biển Caribe. Từ ngày 7 tháng 11 năm 1921, biên chế thủy thủ đoàn của nó bị cắt giảm 50% tại Charleston, South Carolina, và nó được cho xuất biên chế tại Philadelphia vào ngày 9 tháng 6 năm 1922. "Schenck" được cho nhập biên chế trở lại vào ngày 1 tháng 5 năm 1930, và tiến hành huấn luyện quân nhân dự bị vào mùa Hè năm đó. Sang tháng 1 năm 1931, nó gia nhập hạm đội tại vùng biển Caribe cho cuộc tập trận Vấn đề Hạm đội XII; rồi trong năm tiếp theo cũng tham gia cuộc tập trận Vấn đề Hạm đội XIII ngoài khơi Hawaii. Do tình trạng căng thẳng gia tăng tại Viễn Đông do các hoạt động quân sự của Nhật Bản tại Mãn Châu và Thượng Hải, Trung Quốc, nó tiếp tục ở lại khu vực Thái Bình Dương cùng Hạm đội Tuần tiễu cho đến tháng 6 năm 1932. "Schenck" một lần nữa quay trở lại khu vực Thái Bình Dương vào tháng 2 năm 1933 cho cuộc tập trận Vấn đề Hạm đội XIV và ở lại đây cho đến tháng 4 năm 1934, khi nó đi đến vùng biển Caribe cho các cuộc thực tập khác. Sau đó, xen kẻ giữa các giai đoạn đại tu và lui về tình trạng dự bị luân phiên tại Norfolk, nó tham gia huấn luyện cho quân nhân dự bị cũng như học viên sĩ quan của Học viện Hải quân Hoa Kỳ, thực hiện các chuyến đi dọc theo bờ biển Đại Tây Dương và vịnh Mexico từ tháng 5 năm 1935 cho đến khi chiến tranh nổ ra tại Châu Âu. Thế Chiến II. Từ ngày 9 tháng 9 năm 1939, "Schenck" thực hiện nhiệm vụ Tuần tra Trung lập ngoài khơi vùng bờ Đông Hoa Kỳ; và sau một đợt đại tu, nó đi đến Key West cho các hoạt động tuần tra. Trong mùa Hè năm 1940, nó thực hiện hai chuyến đi huấn luyện học viên sĩ quan từ Annapolis. Sau đó, nó tiến hành các đợt hoạt động tuần tra tại vùng biển Caribe từ ngày 22 tháng 8 đến ngày 8 tháng 12 năm 1940, từ ngày 15 tháng 1 đến ngày 18 tháng 3 năm 1941, và từ ngày 27 tháng 6 đến ngày 14 tháng 7 năm 1941, xen kẻ với các hoạt động huấn luyện và sửa chữa trong giai đoạn này. Vào ngày 15 tháng 9 năm 1941, "Schenck" đi đến Argentia, Newfoundland làm nhiệm vụ hộ tống các đoàn tàu vận tải chở các nguồn tài nguyên sống còn sang Anh Quốc. Nó rời Argentia cùng đoàn tàu vận tải đầu tiên vào ngày 29 tháng 9, và cho đến khi Hoa Kỳ chính thức tham gia Chiến tranh Thế giới thứ hai, chiếc tàu khu trục đã hộ tống hai đoàn tàu đi đến một điểm hẹn giữa đại dương ngoài khơi Iceland để gặp gỡ các tàu hộ tống của Hải quân Hoàng gia Anh, rồi hộ tống đoàn tàu ngược chiều quay trở lại Argentia. Nó tiếp tục hộ tống vận tải trên tuyến giữa Argentia và Iceland cho đến tháng 4 năm 1943, chống chọi lại thời tiết khắc nghiệt cũng như tàu ngầm U-boat Đức. Trong hai đợt kéo dài, từ ngày 19 tháng 2 đến ngày 9 tháng 5 năm 1942 và từ ngày 18 tháng 8 năm 1942 đến ngày 23 tháng 3 năm 1943, nó đặt căn cứ tại Iceland để hộ tống các đoàn tàu ra vào các cảng Iceland. Trong hai dịp, các đoàn tàu mà nó hộ tống bị tấn công, vào ngày 15 tháng 8 năm 1942 và từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 2 năm 1943. Thời tiết khắc nghiệt cũng gây thiệt hại, thường là những hư hại nhẹ cho cấu trúc con tàu cũ; và vào ngày 13 tháng 3 năm 1943, một cơn cuồng phong đã khiến nó bứt dây neo và va chạm với chiếc SS "Exterminator" trong một cảng Iceland. "Schenck" được gửi về Boston để sửa chữa. Được điều về các tuyến đường phía Nam, "Schenck" tiếp nối nhiệm vụ hộ tống vận tải vào ngày 28 tháng 4 năm 1943, và trong mùa Hè đã hộ tống các đoàn tàu giữa các cảng duyên hải đến vùng biển Caribe và Bắc Phi. Nó quay trở lại vịnh Chesapeake cùng một đoàn tàu vào ngày 26 tháng 10 năm 1943, và sau một đợt đại tu và huấn luyện đã tham gia một đội tìm diệt được hình thành chung quanh tàu sân bay hộ tống . Đội tiến hành các cuộc tuần tra chống tàu ngầm đối phương tại khu vực phụ cận quần đảo Azores từ ngày 24 tháng 11 năm 1943 đến ngày 2 tháng 1 năm 1944. Cao điểm trong các hoạt động của "Schenck" là trong đêm Giáng Sinh 1943, khi đội phát hiện một lực lượng tập trung tàu ngầm U-boat đối phương. Lần theo dấu vết radar và sonar đối phương suốt đêm và thực hiện sáu đợt tấn công, nó thành công trong việc tiêu diệt "U-645". Hầu như cùng lúc đó, tàu chị em trúng ngư lôi đối phương. "Schenck" thành công trong việc ngăn chặn cuộc tấn công của "Bầy sói" nhắm vào "Card" cũng như cứu vớt những người sống sót của "Leary". Trong tháng 2 và tháng 3 năm 1944, "Schenck" thực hiện một chuyến khứ hồi khác từ bờ Đông đến Casablanca, và từ ngày 17 tháng 4 đến ngày 10 tháng 6, nó hộ tống cho chiếc trong việc vận chuyển binh lính dọc theo vùng bờ Đông. Từ ngày 10 tháng 7 đến ngày 29 tháng 8, nó giúp vào việc huấn luyện tàu ngầm tại Bermuda, rồi đi vào Xưởng hải quân Brooklyn nơi nó được tháo dỡ mọi vũ khí. Sau đó, nó được chuyển thộc quyền Tư lệnh Không lực Hạm đội Đại Tây Dương như một tàu huấn luyện ngư lôi cho máy bay. Được xếp lại lớp với ký hiệu lườn AG-82 từ ngày 25 tháng 9 năm 1944, nó phục vụ như mục tiêu cho học viên phi công ngoài khơi Quonset Point, Rhode Island cho đến khi chiến tranh kết thúc. Đây không phải là một nhiệm vụ an toàn, khi con tàu hai lần bị ngư lôi thực tập đâm thủng do chúng không lặn ở đúng độ sâu được cài đặt, và một lần nó bị mạy bay bay thấp va phải. "Schenck" được cho ngừng hoạt động tại Xưởng hải quân Boston vào ngày 17 tháng 5 năm 1946. Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 5 tháng 6 năm 1946; và lườn tàu được bán cho hãng Boston Metals Company ở Baltimore, Maryland vào ngày 25 tháng 11 năm 1946 để tháo dỡ. Phần thưởng. "Schenck" được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
1
null
USS "Herbert" (DD-160) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được cải biến thành tàu vận chuyển cao tốc APD-22 trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Hilary A. Herbert (1834–1919), Bộ trưởng Hải quân Hoa Kỳ từ năm 1893 đến năm 1897. Thiết kế và chế tạo. "Herbert" được đặt lườn vào ngày 9 tháng 4 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng New York Shipbuilding Corporation at ở Camden, New Jersey. Nó được hạ thủy vào ngày 8 tháng 5 năm 1919, được đỡ đầu bởi bà Benjamin Micou, con gái Bộ trưởng Herbert, và được đưa ra hoạt động vào ngày 21 tháng 11 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân E. A. Logan. Lịch sử hoạt động. Giữa hai cuộc thế chiến. Sau chuyến đi chạy thử máy tại vùng biển Nam Đại Tây Dương, "Herbert" tiến hành huấn luyện tại vùng biển Caribe cho đến ngày 1 tháng 5 năm 1920, rồi quay lại đây vào ngày 20 tháng 7 cùng với hải đội khu trục của Hạm đội Đại Tây Dương. Nó tham gia các cuộc thực hành ngư lôi, thực tập phòng không và tập trận tầm ngắn dọc theo bờ Đông Hoa Kỳ. Nó được cho xuất biên chế tại Philadelphia vào ngày 27 tháng 6 năm 1922. "Herbert" được cho nhập biên chế trở lại vào ngày 1 tháng 5 năm 1930, và gia nhập Hạm đội Tuần tiễu tại Newport, Rhode Island. Trong bốn năm tiếp theo, nó hoạt động tại cả vùng biển bờ Đông lẫn bờ Tây Hoa Kỳ, đóng vai trò quan trọng trong các cuộc tập trận Vấn đề Hạm đội hàng năm. Từ ngày 16 tháng 1 năm 1935 cho đến tháng 8 năm 1939, nó phục vụ như một tàu huấn luyện cho nhân sự Hải quân Dự bị Hoa Kỳ và học viên sĩ quan. Khi chiến tranh bùng nổ tại Châu Âu, nó đi ngang qua quần đảo Azore để đến Bồ Đào Nha vào ngày 2 tháng 10 năm 1939, và ở lại đây cho đến tháng 7 năm 1940. Quay trở về Hoa Kỳ, chiếc tàu khu trục được đại tu, và đến ngày 10 tháng 10, nó đi đến New London để phục vụ cùng Trường huấn luyện Thủy âm. Nó trải qua phần lớn thời gian của năm 1941 trong việc tập trận, thực hành ngư lôi và chống tàu ngầm. Thế Chiến II. Khi Hoa Kỳ chính thức tham gia Chiến tranh Thế giới thứ hai, "Herbert" hoạt động trong vai trò hộ tống vận tải dọc theo bờ biển Hoa Kỳ kéo dài từ Key West, Florida đến tận Halifax, Nova Scotia và Iceland. Hộ tống cho các tàu buôn hầu như không được bảo vệ đi qua các vùng biển đầy dẫy tàu ngầm U-boat Đức, chiếc tàu khu trục thường xuyên tiến hành các cuộc tấn công bằng mìn sâu vào các con tàu đối phương. Từ tháng 4 đến tháng 6 năm 1943, nó viếng thăm Gibraltar và Bắc Phi vào giai đoạn cao điểm tích lũy lực lượng cho cuộc tấn công đổ bộ lên Sicily, tiếp nối bằng một đợt tuần tra tìm-diệt. Sau đợt tuần tra thứ hai, nó hộ tống một đoàn tàu vận tải đi từ Bermuda đến Casablanca, rồi quay trở về Charleston vào ngày 22 tháng 11 năm 1943 để được cải biến thành một tàu vận chuyển cao tốc. Được xếp lại lớp với ký hiệu lườn mới APD-22, "Herbert" lên đường đi sang Thái Bình Dương, đi đến San Diego, California tiến hành huấn luyện đổ bộ, rồi tiếp tục đi đến mũi Sudest, New Guinea ngang qua Trân Châu Cảng, đến nơi vào ngày 23 tháng 3 năm 1944. Nó cho đổ bộ lực lượng cho đợt tấn công ban đầu lên vịnh Humboldt, New Guinea vào ngày 22 tháng 4, rồi trải qua một tháng tiếp theo làm nhiệm vụ hộ tống vận tải cho đến khi tiến hành đổ bộ lực lượng chiếm đóng đảo Biak vào ngày 27 tháng 5. Cuộc đổ bộ lên Warsai tại khu vực mũi Sansapor vào ngày 30 tháng 7 tiếp nối sau một giai đoạn tuần tra và hộ tống, và đến ngày 15 tháng 9 nó có mặt ngoài khơi Morotai. Nó cho đổ bộ lực lượng dưới hỏa lực hỗ trợ của hải quân để chiếm đóng sân bay vốn nằm trong tầm hoạt động hiệu quả đến Philippines, bước quan trọng tiếp theo trong cuộc chiến tranh nhảy cóc băng qua Thái Bình Dương. Vào ngày 17 tháng 10, hai ngày trước cuộc đổ bộ chính lên vịnh Leyte, chiếc tàu khu trục cho đổ bộ lực lượng biệt kích lên đảo Homonhon vốn kiểm soát lối ra vào vịnh. Nó tiếp tục ở lại khu vực Philippines trong suốt thời gian còn lại của năm 1944 dưới áp lực không kích thường xuyên của quân Nhật, và đến tháng 1 năm 1945 cho đổ bộ lực lượng hỗ trợ lên vịnh Lingayen. Từ Philippines, "Herbert" lên đường đi lên phía Bắc cho nhiệm vụ hộ tống vận tải đến Iwo Jima, và quay trở về Leyte vào ngày 18 tháng 3 năm 1945 nhằm chuẩn bị cho cuộc tấn công chiếm đóng Okinawa, chiến dịch đổ bộ lớn nhất tại Thái Bình Dương. Đi đến ngoài khơi Okinawa vào ngày 31 tháng 3, một ngày trước ngày đổ bộ, làm nhiệm vụ tuần tra và hộ tống vận tải. Các cuộc tấn công cảm từ kamikaze gây hư hại cho nhiều con tàu chung quanh, nhưng bản thân nó được an toàn. Sau hai lượt hộ tống đoàn tàu vận tải đi và đến khu vực chiến sự, chiếc tàu khu trục lên đường quay trở về nhà, về đến San Diego vào ngày 19 tháng 6. "Herbert" được cho ngừng hoạt động tại đây vào ngày 25 tháng 9 năm 1945; tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 24 tháng 10 năm 1945, và lườn tàu bị bán cho hãng Boston Metal Company ở Baltimore, Maryland vào ngày 23 tháng 5 năm 1946 để tháo dỡ. Phần thưởng. "Herbert" được tặng thưởng sáu Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
1
null
Cá thanh ngọc hay cá bãi trầu, cá bảy trầu (Danh pháp khoa học: Trichopsis) là một chi cá thuộc họ Cá sặc phân bố ở vùng Đông Nam châu Á, từ Myanma, Thái Lan tới Việt Nam và bán đảo Mã Lai. Ghi chép về sự có mặt của loài này tại các đảo Sumatra, Borneo và Java ở Indonesia có lẽ là thuộc về loài khác. Loài này cũng phân bố tới nhiều quốc gia khác qua con đường buôn bán cá cảnh. Đặc điểm. Cá thanh ngọc chấm dài khoảng 4 – 7 cm. Gai vây hậu môn: 6-8. Có 24-28 tia mềm vây hậu môn phân nhánh; 13 hàng vảy nằm ngang; và từ 2 trở lên các sọc sẫm màu nằm dọc theo thân. Vây hậu môn với một ít tia vây mềm giống như sợi chỉ thuôn dài, mở rộng về phía sau gần như tới chỏm vây đuôi; có vết đen phía trên gốc ngực. Cá có mõm nhọn và thân dẹt. Hành vi. Cá thanh ngọc nuôi thả chung thường khá nhát nên bấn loạn và suốt ngày không ngó ngàn gì nhau. Tuy nhiên khi được nuôi cách ly trong thời gian khoảng 1 tháng trở lên, bản tính bảo vệ lãnh thổ của cá được phát triển, nên khi cho vào chung bể thì chúng có biểu hiện vờn nhau, các động tác nối đuôi lượn xoay vòng quanh nhau rồi phồng mang và quạt đuôi vào nhau. Chúng bắt đầu lao vào cắn nhau và một điều đặc biệt là chúng phát ra tiếng kêu rột rột như loài ếch nhái. Khi chọi nhau, chúng cắn nhau rất mạnh làm nước sánh (văng, bắn) ra ngoài bể, thỉnh thoảng chúng câu (chu) mỏ. Trong cuộc chiến, hai con ngửa bụng lên có khi hàng giờ liền... Vào mùa sinh sản, cá quẫy nước tạo thành tiếng kêu rất to. Theo các nhà khoa học thì vây ngực của chúng có khả năng phát ra âm thanh khi quẫy nước và đây là phương thức giao tiếp rất quan trọng giữa các cá thể của các loài này. Khi sinh sản, trứng chìm xuống đáy và sau đó được cá bố mẹ thu thập lại và gắn vào tổ bọt. Môi trường sống. Là cá sống đáy, sinh sống trong các môi trường nước sâu, ít phèn, nước trong hoặc vùng nước ngọt nông, chảy chậm (cá thường không nhiều và nhỏ con) hoặc nước tù với thảm thực vật thủy sinh dày. Là loài phổ biến trong khu vực hạ lưu sông Salween cũng như trung lưu và hạ lưu sông Mekong, phía dưới thác Khone. Cũng tìm thấy trong các khu đồng ruộng ngập nước ở trung lưu Mekong. Thức ăn là động vật phiêu sinh, động vật giáp xác và ấu trùng côn trùng. Giá trị. Cá thanh ngọc chấm được nuôi làm cảnh. Thường không phải cá có giá trị thương mại, đôi khi được mua bán như là một bộ phận của các mẻ đánh bắt hỗn tạp tại các khu chợ. Nói chung hay được thấy trong buôn bán cá cảnh. Cá thanh ngọc cũng được dùng để giải trí bằng cách cho cá đực chọi nhau sau khi được cách ly một thời gian dựa vào hành vi của chúng.
1
null
Cá thanh ngọc chấm (Danh pháp khoa học: "Trichopsis vittata") là một loài cá thuộc họ Cá tai tượng (Osphronemidae) thuộc chi Trichopsis (cá thanh ngọc hay cá bã trầu) phân bố ở vùng Đông Nam châu Á, từ Myanma, Thái Lan tới Việt Nam và bán đảo Mã Lai. Ghi chép về sự có mặt của loài này tại các đảo Sumatra, Borneo và Java ở Indonesia có lẽ là thuộc về loài khác. Loài này cũng phân bố tới nhiều quốc gia khác qua con đường buôn bán cá cảnh. Cá thường được nuôi làm cảnh. Hoặc được dùng để giải trí bằng cách cho cá đực chọi nhau sau khi được cách ly một thời gian dựa vào hành vi của chúng. Đặc điểm. Cá có chiều dài khoảng 4–7 cm. Gai vây hậu môn: 6-8. Có 24-28 tia mềm vây hậu môn phân nhánh; 13 hàng vảy nằm ngang; và từ 2 trở lên các sọc sẫm màu nằm dọc theo thân. Vây hậu môn với một ít tia vây mềm giống như sợi chỉ thuôn dài, mở rộng về phía sau gần như tới chỏm vây đuôi; có vết đen phía trên gốc ngực. Cá đực to khi ở trong trạng thái sung mãn thì có màu xanh ngọc. Cá có mõm nhọn và thân dẹt. Hành vi. Cá thanh ngọc nuôi thả chung thường khá nhát nên bấn loạn và suốt ngày không ngó ngàn gì nhau. Tuy nhiên khi được nuôi cách ly trong thời gian khoảng 1 tháng trở lên, bản tính bảo vệ lãnh thổ của cá được phát triển, nên khi cho vào chung bể thì chúng có biểu hiện vờn nhau, các động tác nối đuôi lượn xoay vòng quanh nhau rồi phồng mang và quạt đuôi vào nhau. Chúng bắt đầu lao vào cắn nhau và một điều đặc biệt là chúng phát ra tiếng kêu rột rột như loài ếch nhái. Khi chọi nhau, chúng cắn nhau rất mạnh làm nước sánh (văng, bắn) ra ngoài bể, thỉnh thoảng chúng câu (chu) mỏ. Trong cuộc chiến, hai con ngửa bụng lên có khi hàng giờ liền. Vào mùa sinh sản, cá quẫy nước tạo thành tiếng kêu rất to. Theo các nhà khoa học thì vây ngực của chúng có khả năng phát ra âm thanh khi quẫy nước và đây là phương thức giao tiếp rất quan trọng giữa các cá thể của các loài này. Khi sinh sản, trứng chìm xuống đáy và sau đó được cá bố mẹ thu thập lại và gắn vào tổ bọt. Môi trường sống. Là cá sống đáy, sinh sống trong các môi trường nước sâu, ít phèn, nước trong hoặc vùng nước ngọt nông, chảy chậm (cá thường không nhiều và nhỏ con) hoặc nước tù với thảm thực vật thủy sinh dày. Là loài phổ biến trong khu vực hạ lưu sông Salween cũng như trung lưu và hạ lưu sông Mekong, phía dưới thác Khone.ref name="IUCN" />. Cũng tìm thấy chúng trong các khu đồng ruộng ngập nước ở trung lưu Mekong. Thức ăn là động vật phiêu sinh, động vật giáp xác và ấu trùng côn trùng. Trứng chìm xuống đáy và sau đó được cá bố mẹ thu thập lại và gắn vào tổ bọt. Thường không phải cá có giá trị thương mại, đôi khi được mua bán như là một bộ phận của các mẻ đánh bắt hỗn tạp tại các khu chợ. Nói chung hay được thấy trong buôn bán cá cảnh.
1
null
Nhà thờ lớn Strasbourg hay Nhà thờ Đức Mẹ Strasbourg (tiếng Pháp: Cathédrale Notre-Dame de Strasbourg, tiếng Đức: Liebfrauenmünster zu Straßburg), cũng có tên Strasbourg Minster, là một nhà thờ lớn Công giáo Rôma ở Strasbourg, Alsace, Pháp. Mặc dù một phần đáng kể của nhà thờ vẫn còn theo phong cách kiến trúc Romanesque, mọi người đều xem nhà thờ này là một trong những ví dụ đẹp nhất của kiến trúc Gothic cao hoặc cuối. Erwin von Steinbach được ghi nhận là người có đóng góp lớn từ năm 1277 cho đến khi ông qua đời vào năm 1318. Với chiều cao 142 mét (466 foot), tòa nhà thờ này đã là tòa nhà cao nhất thế giới từ năm 1647 đến năm 1874 (227 năm), khi độ cao của nó bị vượt qua bởi nhà thờ St. Nikolai, Hamburg. Ngày nay nó là nhà thờ Công giáo cao thứ sáu trên thế giới và là cấu trúc vẫn còn đứng vững cao nhất được xây hoàn toàn vào thời Trung cổ. Victor Hugo mô tả nhà thờ này là "kỳ công khổng lồ và tinh tế",[6] còn Goethe mô tả nhà thờ này là "cây của Chúa cao uy nghi, vươn rộng ra",[2] nhà thờ này có thể nhìn thấy từ xa bên đồng bằng Alsace và có thể nhìn thấy từ xa tận các núi Vosges hay Rừng Đen phía bên kia của sông Rhine. Sa thạch từ Vosges sử dụng trong xây dựng khiến cho nhà thờ này đặc trưng màu hồng.
1
null
Tuyên úy là chức vụ của các giáo sĩ thuộc các tôn giáo như Phật giáo, Kitô giáo, Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo được bổ nhiệm làm đại diện, hướng dẫn tâm linh cho một tổ chức, đoàn thể thế tục như bệnh viện, nhà tù, đơn vị quân sự, cảnh sát, lính cứu lửa, trường đại học hoặc nhà nguyện tư nhân. Tuyên úy không có quyền quản trị như giáo sĩ giáo phẩm (ví dụ như các giám mục giáo phận hoặc linh mục giáo xứ trong Công giáo). Mặc dù ban đầu, Tuyên úy là hệ phái đại diện cho đức tin Kitô giáo, ngày nay, một vài tôn giáo khác cũng đã có thêm chức vụ tuyên úy như Kitô giáo. Ví dụ như trường hợp các tuyên úy đi nghĩa vụ lính tráng cho các lực lượng quân sự và ngày càng nhiều tuyên úy sinh sống tại các trường đại học Mỹ. Trong thời gian gần đây, nhiều giáo dân đã được đào tạo chuyên nghiệp về nghề nghiệp tuyên úy và bây giờ được bổ nhiệm làm tuyên úy ở các trường học, bệnh viện, công ty, trường đại học, nhà tù và những nơi khác để làm việc cùng hoặc thay vào đó là các thành viên chính thức của tầng lớp tăng lữ. Các khái niệm về tuyên úy đa sắc tộc, thế tục, chung chung và/hoặc nhân văn cũng đang được hỗ trợ ngày càng tăng, đặc biệt là trong các môi trường y tế và giáo dục. Các thể loại tuyên úy. Tuyên úy quân đội. Tuyên úy quân đội là một giáo sĩ hỗ trợ mục vụ và tinh thần cho các binh sĩ, thực hiện các nghi lễ tôn giáo tại khu vực đóng quân. Chức tuyên úy quân đội đã tồn tại từ lâu, các tuyên úy quân sự đầu tiên của Anh là các linh mục trên các ba tàu hải quân nguyên thủy trong thế kỷ thứ 8. Các nhà nguyện trên đất liền xuất hiện dưới triều đại Vua Edward I. Tổ chức hiện đại có từ thời Chiến tranh thế giới thứ nhất. Lính tuyên úy được đề cử, bổ nhiệm, hoặc ủy nhiệm theo nhiều công thức khác nhau ở các quốc gia khác nhau. Một tuyên úy quân đội có thể là một người lính được đào tạo trong quân đội với chương trình đào tạo bổ sung là nền tảng thần học vững chắc hoặc một người được phong chức bởi các cơ quan tôn giáo chỉ định trong quân đội. Ở Vương quốc Anh, Bộ Quốc phòng sử dụng các nhà nguyện nhưng thẩm quyền của họ đến từ giáo hội. Các giáo sĩ Hải quân Hoàng gia thực hiện một khóa huấn luyện đặc biệt trong thời gian là 16 tuần, bao gồm một khóa học ngắn hạn tại trường Cao đẳng Hải quân Hoàng gia Anh quốc và khóa huấn luyện hạm đội chuyên gia trên biển cùng với một tuyên úy có kinh nghiệm bề dày lâu năm. Các tuyên hải ý được kêu gọi phục vụ trong lực lượng Thủy quân lục chiến Hoàng gia cùng học và được huấn luyện đào tạo trong một khóa học Commando dài 5 tháng, và nếu thành công, sẽ đeo mũ Bê Rết Xanh Lá Cây. Tuyên ý quân sự Anh phải được đào tạo trong bảy tuần tại Trung tâm Vũ trang Lực lượng Vũ Amport House và Học viện Quân sự Hoàng gia Sandhurst. Hoàng gia không quân tuyên úy phải hoàn thành một khóa học chuyên nghiệp trong 12 tuần Entrant tại trường Cao đẳng RAF Cranwell và tiếp theo là khóa học mở đầu tuyên úy tại Trung tâm lực lượng vũ trang tuyên úy Amport House trong hơn hai tuần nữa. Hải quân Hoa Kỳ thường xuyên huấn luyện các tuyên úy cho các sinh viên theo trường phái thần học trong quân đội. Ngoài ra, tuyên úy được ưu đại nhiều lợi ích cá nhân như được hỗ trợ cung cấp công ăn việc làm ngay lập tức với vai trò là một tuyên úy Hải quân khi sau khi đã được phong chức. Ngoài ra, trong quân đội Hoa Kỳ, các tuyên úy phải được xác nhận có giấy tờ hợp pháp bởi sự liên kết tôn giáo của bản thân họ để được đặc quyền phục vụ trong bất kỳ khía cạnh nào của quân đội. Mỗi quốc gia có cách bổ nhiệm hoặc đề cử tuyên úy quân đội khác nhau. Một tuyên úy quân đội có thể là một binh sĩ tại ngũ đã được đào tạo về thần học hoặc một linh mục. Mặc dù Công ước Genève không nêu rõ việc tuyên úy có thể mang vũ khí hay không nhưng nó chỉ định rằng tuyên úy là người không tham chiến. Trong bất kỳ trường hợp nào, tuyên úy không bị coi là tù nhân chiến tranh và họ phải được trả về quốc gia của họ ngoại trừ giữ họ lại để làm công tác tôn giáo cho tù nhân chiến tranh. Năm 2006, tài liệu đào tạo do cơ quan tình báo Mỹ thu thập cho thấy các tay súng bắn tỉa chiến đấu ở Iraq của phe địch được thủ lãnh phe địch chỉ huy các xạ thủ phải tách ra khỏi nhóm để ẩn nấp lén lút rình rập tấn công các kỹ sư, bác sĩ và tuyên úy, theo mặt lý thuyết thì chiến lược của địch này sẽ làm mất đi hoàn toàn tinh thần chiến đấu toàn bộ quân đội Mỹ. Tuyên úy môi trường. Tuyên úy môi trường là một lĩnh vực mới nổi trong giáo hội. Các tuyên úy môi trường (còn được gọi là các tuyên úy sinh thái, các tuyên úy địa cầu, các tuyên úy thiên nhiên) cung cấp sự chăm sóc tinh thần theo cách tôn vinh mối liên kết sâu sắc của nhân loại với trái đất. Tuyên úy môi trường giữ nhiều vai trò. Họ có thể hỗ trợ những người làm việc trên tiền tuyến của các vấn đề như biến đổi khí hậu hoặc các vấn đề môi trường khác hoặc họ có thể hỗ trợ những người bị ảnh hưởng bởi thiên tai công nghiệp hoặc thiên tai khác bằng cách chăm sóc nạn nhân, giúp đỡ nạn nhân và làm các nghi lễ mục vụ. Các tuyên úy về môi trường cũng có thể làm chứng cho bản thân Trái đất và đại diện cho sự hợp nhất của khoa học và tâm linh. Vai trò của họ có thể là "mở ra một lương tâm và ý thức mới để tìm thấy sự hài lòng, sự đánh giá cao sự giàu nội tâm hơn sự giàu có vật chất, chất lượng vượt qua số lượng" bằng cách sử dụng các giá trị được đánh giá cao, chẳng hạn như trung thực và tầm nhìn. Tuyên úy chữa hỏa. Các tuyên úy làm việc trong các cơ sở cứu hỏa thì có nghĩa vụ hành lễ trong các giờ cầu nguyện trong cơ quan hành chính làm việc theo tiêu chuẩn thực thi pháp luật, và đôi khi các tuyên úy đối mặt với nguy hiểm to lớn rình rập, tuyên úy phải làm việc với những người bị thương thì môi trường xung quanh thường rất nguy hiểm. Tại hiện trường vụ tấn công ngày 11 tháng 9 nhắm vào Trung tâm Thương mại Thế giới ở thành phố New York, ví dụ, Sở Cứu Hỏa Thành phố New York, Cha. Mychal F. Judge đã bị giết bởi những mảnh vụn bay phọt ra từ tháp phía Nam khi Cha trở lại sảnh đợi của Tháp phía Bắc của Trung tâm Thương mại Thế giới, ngay sau khi Cha điều hành nghi thức cuối cùng cho một lính cứu hỏa bị thương. Tuyên úy nghị viện. Một số quốc gia, bao gồm Hoa Kỳ và Vương quốc Anh, có các tuyên úy được bổ nhiệm làm việc với các cơ quan nghị viện, chẳng hạn như Ban tuyên ngôn của Thượng viện Hoa Kỳ, Ban tuyên giáo của Hạ viện Hoa Kỳ, và Ban tuyên bố với Chủ tịch Hạ viện chung. Ngoài việc mở đầu các thủ tục với lời cầu nguyện, các tuyên úy này cung cấp tư vấn mục vụ cho các thành viên quốc hội, nhân viên của họ và gia đình của họ; phối hợp lập kế hoạch cho các khách mời, những người cung cấp những lời cầu nguyện mở đầu; sắp xếp và đôi khi tiến hành các cuộc hôn nhân, các dịch vụ tưởng niệm và các dịch vụ tang lễ cho đại hội, nhân viên và gia đình của họ; và thực hiện hoặc điều phối các dịch vụ tôn giáo, các nhóm học tập, các buổi họp cầu nguyện, các chương trình nghỉ lễ, và các chương trình giáo dục tôn giáo. Tuyên úy gác ngục. Tuyên úy gác ngục có thể là một "van an toàn, thông qua việc lắng nghe và can thiệp tích cực cho xã hội" trong các tình huống có khả năng bùng nổ dư luận. Họ cũng giảm thiểu khả tái phạm tù tội vi phạm luật pháp bằng cách liên kết người phạm tội với các nguồn động lực mang tính cộng đồng tích cực, và trong công việc của họ làm để giúp tù nhân thay đổi trái tim, tâm trí và phương hướng của phạm nhân. Tại Canada vào năm 2013, một hợp đồng trị giá 2 triệu đô la cho các nhà tù liên bang đã được trao cho Kairos Pneuma Chaplaincy Inc., một công ty mới được thành lập bởi năm nhà tù hiện tại và cựu tù nhân liên bang. Khoảng 2.500 tình nguyện viên, nhiều người trong số họ là các tín hữu thiểu số, cũng sẽ tiếp tục cung cấp dịch vụ. Tuyên úy ca nhạc. Một số tuyên úy sử dụng nhạc sống như một công cụ trị liệu. Âm nhạc có thể hỗ trợ chữa bệnh, tiếp cận niềm tin và cảm xúc cốt lõi, và giúp xây dựng mối tình cảm trong mối quan hệ truyền giáo. Tuyên úy y tá. Nhiều bệnh viện, nhà điều dưỡng, cơ sở sinh hoạt tuyển dụng các tuyên úy để hỗ trợ các nhu cầu tâm linh, tôn giáo và tình cảm của bệnh nhân, gia đình và nhân viên. Các tuyên úy thường được tuyển dụng tại các cơ sở chăm sóc nội trú cho người già (RCFE) và các cơ sở điều dưỡng chuyên môn (SNF). Các buổi lễ chăm sóc cho mọi người thuộc mọi môn phái. Tại Hoa Kỳ, các tuyên úy chăm sóc sức khỏe được chứng nhận bởi hội đồng quản trị đã hoàn thành tối thiểu bốn đơn vị đào tạo giáo dục mục vụ lâm sàng thông qua Hiệp hội các cố vấn mục vụ Hoa Kỳ, Hiệp hội Giáo dục mục vụ lâm sàng, Bộ Hiệp hội tuyên úy y tá, Viện đào tạo mục vụ lâm sàng, hoặc Trường giám sát mục vụ và tâm lý trị liệu và có thể được chứng nhận bởi một trong các tổ chức sau: Hiệp hội các cố vấn mục vụ người Mỹ, Hiệp hội ban tuyên giáo chuyên nghiệp, Hiệp hội Công giáo Quốc gia, Neshama: Hiệp hội các tuyên úy người Do thái (trước đây là Hiệp hội quốc gia Do Thái), Hiệp hội chứng nhận Kito tuyên úy, hoặc Trường giám sát mục vụ và tâm lý trị liệu. Chứng nhận thường đòi hỏi bằng Thạc sĩ Thần Thánh (hoặc tương đương), sự phong chức hoặc ủy thác nhóm đức tin, chứng thực nhóm đức tin và bốn đơn vị (1600 giờ) của Giáo dục mục vụ lâm sàng (Hiệp hội tuyên úy quân sự của Hoa Kỳ yêu cầu nhiều hơn, nhưng họ là một nhóm hỗ trợ quân sự theo luật dod2088 501c-3 được thành lập năm 1954 bởi các Cơ quan Quân sự). Tuyên úy đường thủy. Làm việc trên tàu du lịch trên ba tàu, tuyên úy hành trình cung cấp hỗ trợ mục vụ và tinh thần cho cả hành khách và thành viên phi hành đoàn. Với sự hợp tác của các công ty du lịch, các tuyên úy thường ở lại trên tàu trong thời gian cụ thể của một hành trình. Công sứ biển từ thiện Apostleship của các thuyền viên Công giáo hiện đang tuyển dụng các nhà tuyên úy cầu nguyện trên tàu của hãng đường thủy P & O Cruises và Cunard Line trong thời gian Giáng sinh và Phục sinh. Trong khi làm lễ phục vụ cho hành khách là một phần của các sứ đồ của Biển Apostleship trọng tâm chính của họ là phúc lợi của phi hành đoàn, những người thường có thể dành nhiều ngày tháng trên biển long đon xa nhà. Tuyên úy doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp, lớn hay nhỏ, sử dụng tuyên úy cho nhân viên và khách hàng của họ. Các dịch vụ được cung cấp có thể bao gồm dịch vụ trợ giúp và tư vấn cho nhân viên; hội thảo về sức khỏe; quản lý xung đột và hòa giải; phát triển nhân sự lãnh đạo và quản lý; và những chấn thương phản ứng sau sự cố nghiêm trọng. Trong năm 2007, 4.000 tuyên úy doanh nghiẹp đã được báo cáo làm việc tại Hoa Kỳ, với đa số là nhân viên của các công ty chuyên gia như Chaplains Marketplace và Corporate Chaplains of America. Trong năm 2014, Marketplace Chaplains USA đã báo cáo tuyển dụng hơn 2.800 nhà nguyện tại 44 tiểu bang và hơn 960 thành phố. Tổ chức này đã bổ sung thêm một nhánh quốc tế vào năm 2006; Chợ Tuyên úy đa cấp phục vụ Canada, Vương quốc Anh, Mexico và Puerto Rico.
1
null
Tháp Thượng Hải (Giản thể: 上海中心大厦, Bính âm: Shànghǎi Zhōngxīn Dàshà) là một tòa nhà chọc trời tọa lạc tại Lục Gia Chủy, Phố Đông, Thượng Hải. Tòa tháp cao tương đương 128 tầng. Tháp Thượng Hải hiện là công trình cao thứ ba thế giới sau khi tòa nhà Merdeka 118 được khánh thành năm 2022, chỉ sau tháp Merdeka 118 tháp Burj Khalifa và đồng thời cũng là tòa nhà cao nhất Trung Quốc. Việc xây dựng tòa tháp được bắt đầu từ tháng 11 năm 2008 và hoàn thành vào mùa hè năm 2015. Mặc dù tòa nhà ban đầu dự kiến sẽ mở cửa vào tháng 11 năm 2014 nhưng thực tế ngày mở cửa bị lùi lại khá lâu so với dự định. Đài quan sát của tòa tháp thử nghiệm mở cửa cho khách tham quan từ tháng 7 năm 2016. Bắt đầu từ ngày 26 tháng 4 năm 2017, đài quan sát ở tầng thứ 118 của tòa tháp đã được mở cửa. Kể từ khi mở cửa, tòa tháp gặp phải nhiều vấn đề về công tác bảo trì cũng như việc có ít người thuê và sử dụng. Kế hoạch. Các bản quy hoạch cho khu tài chính Lujiazui có từ năm 1993, là kế hoạch xây dựng cụm 3 tòa nhà chọc trời. Tòa nhà đầu tiên trong số này được xây dựng là Tháp Kim Mậu, được hoàn thành vào năm 1999. Tiếp nối là Trung tâm Tài chính Thế giới Thượng Hải, mở cửa vào năm 2008. Tháp Thượng Hải thuộc sở hữu của Yeti Construction and Development. Kinh phí xây dựng được lấy từ các cổ đông, các khoản vay ngân hàng và chính quyền thành phố Thượng Hải. Tòa tháp này có tổng chi phí xây dựng ước tính là 2,4 tỷ đô la Mỹ. Thiết kế. Tháp Thượng Hải được thiết kế bởi công ty kiến trúc Gensler của Mỹ, với trướng nhóm thiết kế là kiến trúc sư người Thượng Hải tên là Jun Xia. Tòa tháp có hình dạng của 9 tòa nhà hình trụ xếp chồng lên nhau với 128 tầng. Tất cả được bao bọc bằng kính. Sau xây dựng. Tòa tháp đã phải đối mặt với tình trạng không thu hút người thuê do không có đủ các giấy phép cần thiết từ sở cứu hỏa địa phương, do đó không thể xin được giấy phép lưu trú chính thức (sau đó đã được cấp vào cuối tháng 6 năm 2017). Theo một báo cáo vào tháng 6 năm 2017, khoảng 60% diện tích văn phòng đã được cho thuê, nhưng mới chỉ 33% trong số đó đã chuyển đến đây để sử dụng khiến toàn bộ các tầng của tòa tháp bị trống. Những người thuê văn phòng tại tòa tháp này có thể kế đến như Alibaba. Đến năm 2019, tòa tháp có 55 tầng còn trống. Sử dụng. Sau đây là bảng thống kê mục đích sử dụng mỗi tầng của tháp Thượng Hải.
1
null
Caenorhabditis elegans () là một loài giun tròn sống tự do (không ký sinh), trong suốt, chiều dài khoảng 1 mm sống trong môi trường đất ôn đới. Tên khoa học của nó là một sự pha trộn của tiếng Hy Lạp (caeno- gần đây, rhabditis - giống que) và tiếng Latin (elegans - thanh lịch). Năm 1900, Maupas ban đầu đặt tên cho nó là Rhabditides elegans, Osche đặt nó trong phân chi "Caenorhabditis" vào năm 1952, và Dougherty đưa nó lên đơn vị chi vào năm 1995. Năm 1974, Sydney Brenner đã bắt đầu nghiên cứu về phân tử và sinh học phát triển của "C. elegans", mà từ đó nó đã được sử dụng rộng rãi như một sinh vật mô hình. Giải phẫu. "C. elegans" có cơ thể không phân đốt, hình giun và đối xứng hai bên. Nó có một lớp biểu bì, bốn dây biểu bì chính và một pseudocoelom chứa đầy chất lỏng (khoang cơ thể). Chúng cũng có một số các hệ thống cơ quan tương tự như động vật lớn. Hầu như tất cả các cá thể "C. elegans" là con cái lưỡng tính và có một thiểu số nhỏ, khoảng một trên một ngàn, con đực thật sự. Giải phẫu cơ bản của "C. elegans" bao gồm miệng, họng, ruột, tuyến sinh dục, và biểu bì collagen. Con đực có một tuyến sinh dục đơn thùy, một ống dẫn tinh, và một cái đuôi chuyên cho giao phối, trong đó kết hợp với gai nhỏ. Con lưỡng tính có hai buồng trứng, ống dẫn trứng, túi nhận tinh, và một tử cung đơn. Sinh thái. Khác với các loài "Caenorhabditis" chiếm các môi trường dinh dưỡng và vi khuẩn phong phú. "Caenorhabditis elegans" ăn các vi khuẩn phát triển trong các vật chất hữu cơ. Đất thiếu chất hữu cơ, đủ để hỗ trợ chúng. "C. elegans" có thể tồn tại trên một chế độ ăn uống một loạt nhiều loại vi khuẩn, nhưng hệ sinh thái tự nhiên của nó chưa được biết đến. Hầu hết các chủng phòng thí nghiệm được lấy từ môi trường nhân tạo như vườn hay phân. Gần đây hơn, "C. elegans" đã được tìm thấy phát triển mạnh trong các loại chất hữu cơ, đặc biệt là trái cây chín nẫu. Động vật không xương sống như cuốn chiếu, côn trùng, chân đều và chân bụng thể vận chuyển ấu trùng Dauer (ấu trùng của nhiều loài giun tròn), đến các địa điểm thích hợp khác nhau. Ấu trùng cũng đã được phát hiện ăn vật chủ của chúng khi vật chủ chết.
1
null
Everyman's War là một bộ phim hành động - chiến tranh - tâm lý Mỹ, đạo diễn bởi Thad Smith, phát hành năm 2009. Phim có dàn diễn viên Cole Carson, Lauren Bair, Michael J. Prosser, Sean McGrath và Eric Martin Reid. Bộ phim dựa trên một câu chuyện có thật về một người lính Mỹ tên Don Smith thuộc Sư đoàn Bộ binh 94 còn sống sót sau trận đánh trong rừng tuyết Đức vào thời Chiến tranh thế giới thứ hai. Nội dung. Bộ phim là cuộc hồi tưởng của người cựu chiến binh Don Smith, năm xưa ông từng là lính Mỹ thuộc Sư đoàn Bộ binh 94 tham gia Thế chiến thứ hai. Năm 1944, cuộc Thế chiến thứ hai vẫn đang diễn ra căng thẳng. Don Smith - một người lính trong Sư đoàn Bộ binh 94 - cùng đơn vị của anh đang đóng quân ở Pháp. Tại đây họ bị quân Đức tấn công, nhưng họ đã cố gắng chiến đấu đẩy lùi quân Đức. Sau trận này Smith mất đi một người bạn tốt là Hạ sĩ Starks. Đơn vị của Smith sau đó được đưa đến một thị trấn nhỏ ở Nennig, Đức. Với cái lạnh khắc nghiệt, quân Mỹ không ngờ rằng quân Đức sẽ mở đợt tấn công. Từng người đồng đội của Smith đã hi sinh trong trận chiến này. Smith liền chạy đi báo tin cho các đội lính Mỹ còn lại. Về sau Smith tham gia vào đơn vị khác và vẫn chiến đấu đến ngày chiến tranh kết thúc. Anh quay trở về Mỹ và gặp lại Dorrine - cô bạn gái của anh.
1
null
Wittelsbacherbrücke, được đặt tên theo dòng họ vua chúa Wittelsbach, là một cầu vòm bắc ngang qua sông Isar tại München. Vị trí. Wittelsbacherbrücke nối Isarvorstadt bên trái sông Isar với khu vực Au và Untergiesing bên phải sông Isar. Lịch sử. Cầu gỗ mà được sử dụng để xây cầu đường sắt Braunauer, sau khi xây xong vào năm 1871, được dùng tạm thời để bắc ngang qua sông Isar tại đây. Năm 1875 nó được thay thế bởi một cầu giàn bằng sắt. Theo chương trình xây cầu được đề nghị bởi hãng Sager & Woerner năm 1904 một cầu bê tông được dựng lên. Về khía cạnh kỹ thuật thì cầu Wittelsbacher được phỏng theo cầu Reichenbach. Cầu giàn bằng sắt trước đó được chuyển về Thalkirchen. Kỹ thuật. 4 vòng cầu thấp bằng bê tông với chiều dài 44 m, 28 m, 27 m und 26 m bắc ngang qua sông. Vòng cầu dài nhất bắc qua mặt sông bình thường. 3 vòng cầu còn lại bắc qua cả khi mực nước dâng cao. Cả bốn vòng cầu được bọc bằng đá vôi khảm vỏ sò. Tượng. Người cưỡi ngựa trong tượng là ông Otto von Wittelsbach được hoàn thành bởi Georg Wrba. Phần dưới của tượng là cột cầu, có thang bắc xuống bờ sông.
1
null
Mysis relicta là một loài giáp xác giống tôm trong bộ Mysida, có nguồn gốc từ các hồ phía Bắc Âu và biển Baltic. Phân bố. Sự phân bố của Mysis relicta được giới hạn khu vực sông băng trước đây ở Bắc Âu, bao gồm Tây Bắc Nga, Phần Lan, Thụy Điển, phía đông nam của Na Uy, và các bộ phận của Đức, Ba Lan và Litva.
1
null
Cuộc bắt cóc khỏi Hậu cung Seraglio (tiếng Đức: Die Entführung aus dem Serail) hay còn gọi là Il Seraglio là một trong những vở opera xuất sắc nhất của nhà soạn nhạc người Áo Wolfgang Amadeus Mozart. Ông cho ra đời tác phẩm này vào năm 1782, khi ông không trở về quê hương Salzburg một lần nữa (ông sống từ đó cho đến cuối đời tại thủ đô Viên). Trong vở opera này, Mozart đã đưa nghệ thuật singspiel (tiếng Đức: hát và diễn), một loại hình opera mang chất Đức, lên một đỉnh cao. Có thể nói đây là một bước tiến không nhỏ của singspiel (và nó lên đến đỉnh cao nhất với vở opera khác của Mozart: The Magic Flute). Một điều đáng nói là sau vài ngày công diễn Cuộc trốn thoát khỏi hậu cung, Mozart cưới Constanze Weber là vợ và cả hai người cùng những đứa con của mình bắt đầu những ngày tháng sống khó khăn tại thành Viên.
1
null
Thịt nai là thịt của một con nai được giết sau một cuộc săn bắn (còn gọi là thịt rừng) hoặc thịt con nai được giết mổ. Thịt nai có thể ăn như một món thịt nướng, thịt quay, xúc xích, thịt băm... Thịt nai có hương vị nhắc tới thịt bò, tuy nhiên, thịt nai tươi khác thịt bò ở chỗ ít gân, mỡ màu trắng ngà, mềm hơn cả thịt bê non. Thịt nai có vị ngọt, thơm chứ không gây như thịt bò, thịt dê và một số loại thịt khác. Từ nguyên. Trong tiếng Anh, thịt nai không đơn thuần chỉ dùng để chỉ về thịt của một con nai mà dùng để chỉ về thịt thú rừng của những con thú bị xẻ thịt sau khi săn bắn. Từ xuất phát từ tiếng Latin "vēnor" (săn hoặc theo đuổi), thuật ngữ này thâm nhập vào tiếng Anh thông qua người Norman vào thế kỷ 11, sau cuộc xâm lược Norman của nước Anh. Thịt nai ban đầu được mô tả thịt của động vật bị giết bởi săn bắn và được áp dụng cho các loại động vật từ họ hươu nai, thỏ rừng và lợn rừng và một số loài thuộc chi dê, ở Bắc bán cầu sử dụng của nó hiện nay gần như hoàn toàn bị hạn chế thịt của các loài hươu. Ở Nam Phi, thịt nai là thịt linh dương. Ở Mỹ, có ý kiến cho rằng nhiều khả năng người Mỹ sử dụng loại thịt thông dụng trong Lễ Tạ ơn là thịt hươu. Nhưng vì làm thịt hươu mất thời gian hơn làm thịt gà tây. Bởi trung bình người ta sẽ mất 5 giờ đồng hồ để nướng chín một con hươu do đó thịt gà tây mới thay thế thịt hươu trở thành món chính trong bữa tiệc thịnh soạn này. Các món. Có rất nhiều món ăn ngon được chế biến từ thịt nai tươi như: nai xào lăn, thịt nai nấu rô ti, nai xào củ quả, thịt nai xào đậu và bắp non, thịt nai nướng vỉ, thịt nai nướng ngũ vị, nai nhúng giấm, nai lúc lắc… Các món nai nướng, nai xào làn, nai nhúng giấm nai lúc lác, sườn nai rán, cháo bao tử và sau cùng là nai khô hợp lại đủ bảy món như thịt bò hay thịt nai xào sả ớt. Nhưng với nai thì nai nướng, nai nhúng giấm, và nai khô lại là những món tiêu biểu nhất. Thịt nai nướng thái mỏng ướp mở nước và gia vị rồi cắt mấy lát gừng nướng riêng để ăn nóng cùng lúc với nai nướng. Nai nướng không cần nước chấm, cũng không cần muối tiêu, miếng thịt nai nướng chín ngọt, mềm. Thịt nai nhúng giấm vừa có vị thơm ngọt của thịt nai, vừa có mùi vị rất đặc trưng của những loại rau ăn kèm. Nai sừng tấm. Nai sừng tấm Á-Âu bị săn bắt như một thú săn bắn trong rất nhiều các quốc gia nơi chúng được tìm thấy. Thị hiếu với thịt nai sừng tấm, đã được Henry David Thoreau viết lại trong "The Maine Woods", theo đó ông này mô tả thịt nai sừng tấm giống như thịt bò mềm, với hương vị có lẽ nhiều hơn, đôi khi giống như thịt bê. Trong khi thịt chúng có hàm lượng protein tương tự như của các loại thịt đỏ khác tương đương (ví dụ như thịt bò, thịt hươu và nai sừng xám), nó có hàm lượng chất béo thấp, và các chất béo đó là hiện nay bao gồm một tỷ lệ cao hơn các chất béo không bão hòa đa dạng chứ không phải là chất béo bão hòa. Mức độ chất cadmium cao ở gan nai sừng tấm ở Phần Lan và thận, với kết quả là tiêu thụ của những bộ phận từ nai sừng tấm hơn một tuổi đã bị cấm ở Phần Lan. Lượng Cadmium đã được tìm thấy sẽ được nâng lên trong số tất cả người tiêu dùng thịt nai sừng tấm, mặc dù thịt nai sừng tấm đã được tìm thấy để chỉ đóng góp một chút với lượng cadmium hàng ngày. Tuy nhiên việc tiêu thụ gan hoặc thận nai sừng tấm Á-Âu tăng đáng kể lượng cadmium, với việc nghiên cứu tiết lộ rằng người tiêu dùng các cơ quan nai sừng tấm Á-Âu có một biên độ an toàn tương đối hẹp dưới mức mà có lẽ sẽ gây ra các tác hại cho sức khỏe. Tiến sĩ Valerius Geist, người di cư sang Canada từ Liên Xô, đã viết vào năm 1999 cuốn sách của ông "Nai sừng tấm Á-Âu: Hành vi, thái, bảo tồn": Ở Thụy Điển, không có thực đơn vào mùa thu là không có một món ăn nai sừng tấm Á-Âu như một món ăn thường nhật.
1
null
Manuel Maria de Falla y Matheu (còn được gọi là Manuel de Falla) (sinh 1876 tại Cádiz, mất năm 1946 tại Alta Gracia de Córdoba, Argentina) là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ đàn piano người Tây Ban Nha. Ông là một trong những nhà soạn nhạc lớn của âm nhạc Tây Ban Nha. Cuộc đời và sự nghiệp. Manuel de Falla được bà vú nuôi người vùng Andalousie hát ru với tất cả các giai điệu dân ca trong vùng nên sớm có tình yêu với âm nhạc và năm 13 tuổi được học piano. Thiên hướng sáng tác chỉ xuất hiện rõ rệt lúc ông 17 tuổi khi ông được nghe một bản giao hưởng của Beethoven. Sau khi theo học âm nhạc 3 năm ở Madrid, ông đã sáng tác nhiều vở zarzuela, một loại ca kịch nhỏ của Tây Ban Nha, nhưng không thành công. Và rồi ông có một nhận định quan trọng với cuộc đời: Paris là trung tâm lớn về âm nhạc, để có cơ sở âm nhạc vững chắc thì phải sang đó. Ông sang thủ đô của Pháp vào năm 1907, mang theo vở opera "Cuộc đời ngắn ngủi", một thử nghiệm mới trong lĩnh vực của nhà soạn nhạc Tây Ban Nha, làm tấm giấy giới thiệu. Ông được học ở đó từ những nhà soạn nhạc xuất sắc nhất của Pháp lúc đó. Ông cũng được kính trọng bởi hoài bão phát triển nền âm nhạc chuyên nghiệp Têy Ban Nha. Thời gian ở đất nước Pháp là lúc ông làm việc say sưa và những tác phẩm được sáng tác khi còn ở trong nước như opera "Cuộc đời ngắn ngủi", "4 tiểu phẩm Tây Ban Nha", "7 ca khúc Tây Ban Nha" được nâng thêm một tầm cao mới. Trong lúc đó, ông bắt đầu những dự đinh sáng tác mới. Năm 1914, Thế chiến I nổ ra, Falla phải trở về quê nhà. Đây là lúc ông có những tác phẩm xuất sắc nhất: vở ballet "Tình yêu phù thủy" có điệu "Múa lửa" khá nổi tiếng, "Chiếc mũ ba sừng", "Nhà hát của thầy Pedro", "Đêm trong các khu vườn Tây Ban Nha", "Concerto cho đàn clavecin". Năm 1926, ông bắt đầu viết một bản cantata sân khấu đồ sộ có tên "Atlándia" nhưng lại bị bỏ dở, sau được E. Halffter viết nốt. Năm 1939, sau khi chỉ huy 4 buổi hòa nhạc tại Buenos Aires, ông định cư tại Argentina và mất đây. Các tác phẩm. Ông viết các vở opera "Cuộc đời ngắn ngủi" (1904-1905), "Nhà hát của thầy Pedro" (1919-1922); các vở ballet "Tình yêu phù thủy" (1915), "Chiếc mũ ba sừng" (1919); bản cantata "Átlandia"; "Đêm trong các khu vườn Tây Ban Nha" cho piano và dàn nhạc giao hưởng (1909-1915); 2 tổ khúc trích từ "Chiếc mũ ba sừng"; các tác phẩm dành cho piano, nổi bật có "Pedrelliana" (1938), "Tưởng nhớ Debussy" (1920, chuyển soạn cho dàn nhạc năm 1939), "Tưởng nhớ Paul Dukas" (1935, chuyển soạn cho dàn nhạc năm 1939); "concerto cho đàn clavecin" được biều bởi sáo, oboe, clarinet, violin và cello (1926); "Fantasia Bética" (1919); tổ khúc "7 dân ca Tây Ban Nha" được cải biên; các bản romance, ca khúc.
1
null
Hồ Đồng Đò là một hồ nước ngọt nhân tạo nằm trên địa bàn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Đặc điểm địa lý. Hồ Đồng Đò nằm cách trung tâm Hà Nội khoảng 40 km về phía Bắc, thuộc địa phận xã Minh Trí, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Hồ chỉ cách khu du lịch hồ Đại Lải khoảng 7 km, cách sân golf Hà Nội khoảng 2 km. Hồ rộng khoảng 45 ha, dài hơn 2 km theo hướng Đông Bắc-Tây Nam với sức chứa khoảng 900.000m³. Đặc biệt đây là nơi có vàng sa khoáng, hiện tại không còn được khai thác. Đập hồ Đồng Đò được xây dựng năm 2000, chặn dòng đầu nguồn của sông Đồng Đò để cung cấp nước tưới cho khoảng 200 ha đất canh tác tại xã Minh Trí. Hồ nằm trong thung lũng dưới chân núi Hàm Lợn, hai bên là núi cao, được trồng toàn bộ là rừng thông cách đây hơn 30 năm. Hồ được thả cá, nơi sâu nhất có thể trên 20 m. Nơi đây có phong cảnh đẹp và rất thuận tiện cho du lịch, cắm trại vì có rừng thông, hồ nước rất sạch và gần nội thành Hà Nội. Đây là địa điểm được quy hoạch là khu du lịch sinh thái của thành phố Hà Nội. Hiện nay đây là điểm du lịch dã ngoại mới của Hà Nội được nhiều bạn trẻ ưa thích. Lịch sử. Trong lịch sử, nơi đây năm 1592, sau khi thất thủ Thăng Long, nhà Mạc quyết định dời đô lên Cao Bằng, để sẵn sàng tiến hành một cuộc chiến đấu lâu dài. Đoàn thiên đô phải bao gồm cả triều đình, trong đó lại có hoàng hậu, công chúa, người già, trẻ em là bộ phận khó cơ động. Ngoài ra còn có thư tịch, ấn tín, bảo vật v.v. Triều đình không thể đi đường quan lộ lên Cao Bằng, mà một bộ phận phải đi đường tắt, bí mật, vượt qua đỉnh núi Hàm Lợn gần Đồng Đò. Hiện nay tại khu vực đền Giõng Mai có đào được một số hiện vật là sành sứ thời nhà Mạc. Khảo cổ. Năm 2005, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã phát hiện di tích cự thạch còn khá nguyên vẹn tại suối Đồng Đò, thôn Minh Tân, xã Minh Trí. Nguyên trước đây người dân quanh vùng nhìn thấy những phiến đá được sắp xếp một cách kỳ lạ và như có chủ ý, với một phiến bazan khá bằng phẳng màu xanh đặt trên mấy hòn đá dài tựa như những chiếc chân bàn, nên gọi nôm na là bàn đá. Các nhà khảo cổ đã xác định đây là 2 cự thạch loại hình Trác thạch (Dolmen). Di tích cự thạch ở Minh Tân dài 5m, khoảng rộng nhất 2,2m, có 3 chân nhưng một chân đã đổ. Cho đến nay, việc xác định ý nghĩa của các kiến trúc này còn nhiều ý kiến khác nhau. Theo đánh giá, di tích này có thể liên quan đến tục thờ Thần Đá của các cư dân tiền sử nơi đây. Hiện tại người dân địa phương tiếp tục thờ cúng tại đây, hy vọng di tích cự thạch tiếp tục được nghiên cứu và bảo vệ. Di tích cự thạch 2000 năm tuổi tương tự cũng được phát hiện ở chân núi Tam Đảo năm 2009.
1
null
Cầu Thalkirchen là một cầu đường ở miền Nam München, bắc ngang sông Isar và Isar-Werkkanal chạy song song theo. Cầu được xây vào năm 1904, và được tu bổ từ năm 1989 tới 1991. Đây là lần đầu tiên một kiến trúc giàn khối (Raumfachwerk) được dùng để xây cầu. Nó tựa trên các cột bằng bê tông. Giàn này làm bằng gỗ thông dán lại và được nối với nhau bằng các nút thép. Tổng cộng khoảng 520 m³ gỗ được dùng. Cầu Thalkirchen được sách kỷ lục Guinness ghi vào năm 1994 là cầu gỗ dài nhất thế giới. Phía Tây của cầu là trạm đường ngầm xe lửa U3 Thalkirchen (Tierpark). Phía Đông của cầu là cổng vào sở thú Hellabrunn.
1
null
Cicadomorpha là phân thứ Bộ của bộ Cánh nửa bao gồm ve sầu, rầy, bọ nhảy cây, và spittlebug. Có khoảng 35,000 loài được mô tả trên thế giới. Được phân tán khắp nơi, tất cả thành viên của nhóm này đều ăn cây cỏ, và nhiều loài trong số này phát sinh ra âm thanh có thể nghe được hay rung động để giao tiếp với nhau. Phân loại. Như đã đề cập dưới phân Bộ Auchenorrhyncha, nhiều tác giả dùng tên Clypeorrhyncha để thay thế cho Cicadomorpha.
1
null
Derbidae là họ côn trùng trong bộ Hemiptera, một bộ Cánh nửa. Nó là một trong những họ lớn nhất và là họ Bọ Nhảy cây đa dạng. Họ này phân tán khắp nơi trên thế giới, đặc biệt ở khu vực nhiệt đới, và nhiều loài ở các vùng cận nhiệt đới và ôn đới. Họ Derbidae chứa gần 1700 loài thuộc 159 chi. Có 3 phân họ chính là:
1
null
Bản giao hưởng này đôi khi được đánh số 7 thay vì 8 để tạo sự thống nhất giữa Bản Mục lục sắp xếp lại bằng ltiếng Đức và Danh sách mới Các tác phẩm của Schubert-Neue Schubert Ausgabe. Tác phẩm được nhạc sĩ Schubert bắt tay vào sáng tác năm 1822, chỉ có hai chương mặc dù sau đấy ông sống được thêm sáu năm nữa. Chương Scherzo của bản giao hưởng gần được hoàn thành trên tổng phổ đàn piano nhưng chỉ có hai trang cho tổng phổ dàn nhạc. Và cho đến ngày nay nó vẫn còn tồn tại. Nhiều người đã đặt giả thuyết rằng có lẽ Schubert đã phác thảo ý tưởng cho chương cuối nhưng thay vào đó nó đã trở thành phần Nhạc chuyển cảnh ( entr'acte) cung Si thứ cho tác phẩm Rosamunde từ sự ngẫu nhiên. Nhưng mọi bằng chứng cho điều này chỉ là sự suy diễn. Có một bằng chứng đáng tin cho việc vì sao Schubert bỏ dở việc sáng tác bản giao hưởng này: sự lặp lại của cùng một loại nhịp ba ( chương I nhịp 3/4, chương II nhịp 3/8, chương III nhịp 3/4. Về mặt căn bản, ba chương nối tiếp nhau thuộc cùng một loại số chỉ phách là trường hợp hiếm gặp trong giao hưởng, sonata, nhạc thính phòng của các nhạc sĩ lớn thuộc Trường phái Cổ điển Wien. Giao hưởng số 8 của Schubert đôi khi được gọi là bản giao hưởng đầu tiên của Chủ nghĩa Lãng mạn bởi sự phát triển nhấn mạnh tính trữ tình bên trong cấu trúc của thể thức Sonata Cổ điển. Ngoài ra, tác phẩm không phải là sự chắp nối mang tính công việc đơn điệu mà là sự kết nối đặc biệt giữa âm sắc của các loại nhạc cụ và còn là một lời báo trước về Chủ nghĩa Lãng mạn sau này. Sự xuất hiện đột ngột của nó như một điển hình về sự bắt đầu của quá trình phát triển của chủ nghĩa này. Cho đến nay, các nhà nghiên cứu âm nhạc vẫn còn những sự bất đồng về lí do mà Schubert bỏ dở việc sáng tác bản giao hưởng. Một số cho rằng, ông ngừng sáng tác khi đang viết chương III nửa chừng vào mùa thu năm 1822 trong hoàn cảnh biểu hiện những triệu chứng ban đầu của căn bệnh giang mai , hoặc vì ông được giải khuây bởi nguồn cảm hứng cho Độc tấu Dương cầm Wanderer Fantasy. Nó chiếm lấy thời gian và nguồn năng lượng của ông ngay sau đó. Đây có thể là sự nối tiếp của hai tác phẩm. Lịch sử ban đầu. Năm 1823, Hiệp hội Âm nhạc Graz trao tặng Schubert một văn bằng danh dự. Ông cảm thấy mình phải gửi tặng một bản giao hưởng cho họ để đáp lễ. Và ông đã gửi cho bạn mình là Anselm Hüttenbrenner-một thành viên lãnh đạo của Hiệp hooijmootj quyển tổng phổ cho dàn nhạc mà ông viết vào năm 1822. Tổng phổ gồm hai chương hoàn thành của Giao hưởng Dở Dang cùng với ít nhất hai trang đầu tiên của chương Scherzo. Điều mà người ta không thể biết là Schubert thực sự đã viết bao nhiêu giao hưởng và ông đã gửi cho Hüttenbrenner bao nhiêu điều mà ông đã viết. Người ta đã phát hiện: -Tổng phổ hoàn thành của hai chương đầu -Hai trang tổng phổ đầu tiên của chương Scherzo. Chương ba bị đứt quãng do phần biến tấu thứ hai nằm trong bộ ba biến tấu bị mất. Người ta đã phát hiện nó trong một bản thảo rời nằm trong một quyển tổng phổ ngắn. (Nó đã không được gửi đến cho Hüttenbrenner nhưng được tìm thấy trong các bản sao chép của Schubert sau khi ông qua đời và được giữ gìn cần thận bởi người được tặng, người bạn giáo viên Ferdinand của ông. Nhưng đã không có bất kì chương IV nào cả. Có thể đã có một chương IV kết (finale) được đặt vào trong một giao hưởng khác cũng được viết trong thời gian này nhưng không có bằng chứng chỉ dẫn nào cho thấy Schubert đã từng bắt đầu với nó. Tuy nhiên, nó đã từng được phỏng đoán là phần nhạc chuyển cảnh dài nhất trong Rosamunde cũng trong cung Si thứ với phong cách giống như chương I và cũng với các nhạc cụ như thế. Chương IV đã được Schubert sử dụng lại bằng cách đưa nó vào trong nhạc Rosamunde được sáng tác đầu năm 1823 chỉ sau Wanderer Fantasy. Nhà nghiên cứu về Schubert là Brain Newbould đã tiến hành hòa âm, ghi tổng phổ cho dàn nhạc nhạc và hoàn thành chương Scherzo bằng sự phỏng đoán của mình. Ông tin rằng đây là một điều đúng đắn nhưng tất cả học giả khác đều không đồng ý. Những trang sau phần bắt đầu của chương Scherzo đã bị xé đi bằng mọi giá. Hüttenbrenner đã không cho trình diễn bản giao hưởng và cũng không cho Hiệp hội Graz biết rằng mình sở hữu bản thảo. Đó là một bí ẩn và đã xuất hiện nhiều giả thuyết khác nhau. Tuổi già và sự cận kề cái chết có vẻ như đã khiến Hüttenbrenner tiết lộ nó với một nhân vật quan trọng và tử tế vào năm 1865-ba năm trước khi qu đời, và lúc này ông đã 76 tuổi. Nhạc trưởng Johann von Herbeck chính là người đã ttrinhf diễn giới thiệu hai chương còn sót lại tại Wien vào ngày 17/12/1865. Sự bổ sung chương cuối trong Giao hưởng số 3 cùn Rê trưởng nhộn nhịp, rực rỡ nhưng không phải trống rỗng, vô nghĩa như một chương kết không thể hòa hợp với hai chương đầu. Dẫu sao thì buổi biểu diễn cũng nhận được sự ủng hộ nồng nhiệt từ phía thính giả. Nhạc phổ của hai chương đầu đã không được xuất bản trước năm 1867. Trong danh sách mới Các tác phẩm của Schubert (New Schubert Edition), Giao hưởng Dở Dang được đánh số 7 thay vì số 8. Vì các tác phẩm được gán cho như Giao hưởng số 7 của Schubert cũng chưa hoàn thành. Nhưng khác một điều là ít ra nó còn có những trang nhạc phổ rời do chính Schubert viết. Phần tác phẩm hoàn thiện. "Hai chương đầu là tất cả nhũng gì được trình bày trong các lần biểu diễn": ===Chương I: Allegro Moderato Chương nhạc được sáng tác trong thể thức sonata với phần mở đầu của dàn nhạc dây diễn tấu nhỏ nhẹ và mềm mại. Theo sau là chủ đề thứ nhất được diễn tấu bởi kèn oboe và clarinet. Tiếp đó là một sự chuyển tiếp giản ước đặc biệt của Schubert với chỉ 4 nhịp cho 2 kèn horn dẫn đến chủ đề phụ trong cung Son trưởng (từ nhịp 38 đến nhịp 41). Chủ đề thứ hai mang đầy tính chất lãng mạn xuất hiện trong cung này. Bắt đầu với đàn cello, sau đó là violon diễn tấu. Chủ đề đã được Sigmud Spaeth đặt những lời ca ngộ nghĩnh (nguyên văn tiếng Anh: "This is the symphony that Schubert wrote but never finished"-"đây là bản giao hưởng Schubert viết nhưng đã không bao giờ hoàn thành"). Chủ đề trên từ từ lịm tắt dần một cách êm đềm. Sau đó, một chuỗi các câu nhạc bi thảm luân phiên xuất hiện đan xen giữa ngừng lại và biến đổi tiến hành trong cung Son trưởng. Phần trình bày của chương I kết thúc. Một khoảnh khắc quan trọng xuất hiện ở nhịp 109 và lập lại ở phần Tái hiện ở nhịp 327. Ở các nhịp này, Schubert đã giữ basson II ở cung Si trưởng làm bàn đạp phát triển và kèn horn ở hợp âm F điều này gợi nhớ lại đoạn kết của phần phát triển trong Giao hưởng số 3 của Beethoven. Đây là một ý tưởng hay nhưng thật không may đã bị các tác giả thiếu kinh nghiệm bỏ qua bằng việc thay đổi vai trò của bassoon II và kèn horn I. Các nhạc trưởng cần kiểm tra kĩ càng để đảm bảo sự nguyên vẹn cho cung Si trưởng lấy đà này. Một thể sonata bất thường: phần phát triển bắt đầu với cũng phụ Mi trưởng (thường thì cung phụ được dành cho đoạn nhạc gần với đoạn kết trong thể sonata hoặc ở một phần tái hiện hay kết đoạn(coda)) và phát triển đến phần kịch tính kéo dài trong cùng một cung. Bắt đầu với những biến đổi bi thảm trong giai điệu mở ra bằng cả dàn nhạc với sự nổi trội của kèn trombone. Cung Rê trưởng-cung song song Si thứ xuất hiện lần đầu tại phần cuối của đoạn cao trào, và lần thứ hai tại chủ đề chính của phần tái hiện (trong cung Si trưởng) thay vì sớm hơn trong chủ đề thứ hai của phần trình bày như một thói quen. Sáo và oboe tiếp tục vai trò đi giai điệu sau đoạn nhạc trên.Chuyển tiếp đến phần tái hiện. Phần tái hiện-nhắc lại chủ yếu được viết theo thể sonata truyền thống với sự nhắc lại của các chủ đề. Ngoại trừ việc Schubert nhắc lại chủ đề thứ hai ở cung Rê trưởng thay vì ở cung Si trưởng (cung song song với Si thứ). Tuy nhiên, phần kết thúc bi thảm hoàn tất ở cung Si trưởng và dẫn đến phần kết chương trong cung Si thứ. Nó gợi nhắc lại chủ đề mở đầu-tạo đà cho đoạn nhạc kết chương mạnh mẽ. Chương II: Andante con moto. Chương II là sự luân phiên giữa hai chủ đề tương phản trong thể thức sonatia (một thể sonata không có phần phát triển) với đoạn coda bi thương và da diết có thể đóng vai trò như một phần kết luận của sự phát triển. Chủ đề ( câu nhạc đầu tiên được giới thiệu bởi kèn horn, bè dây trầm, bộ đồng và bè dây cao chơi đối âm. Chủ đề buồn thứ hai trong cung phụ sau bốn nốt nhạc không có hòa âm, giai điệu được chuyển sang cung Đô thăng thứ với bè violon I. Chủ đề này khởi đầu với clarinet độc tấu trong cung Đô thăng thứ và được tiếp tục với oboe độc tấu trong cung Đô giáng trưởng là một điển hình về sự đồng hành giữ cung trưởng với cung thứ trong ngôn ngữ hòa âm của Schubert. Một kết thúc với giai điệu mang tính bi kịch được diễn tấu bởi toàn dàn nhạc. Nó trở về trong cung Đô thăng thứ. Nó trở về trong cung Đô thăng thứ nhưng lại kết thúc ở Rê thăng trưởng (để hòa âm được cân bằng với Đô giáng thứ). Một chuyển tiếp ngắn trở về với cung chính Mi trưởng. Đi theo phần tái hiện, nó bắt đầu lại chủ đề thứ hai trong cung phụ La thứ thay vì ở cung song song Mi trưởng. Bắt đầu với oboe và tiếp nối bằng clarinet (tiếp tục vai trò của mình như trong phần trình bày). Đoạn kết chương nhạc bắt đầu với một chủ đề mới, đó đơn giản là sự diễn tấu hai nhịp âm hình ở đầu chương trong cung Mi trưởng. Nó mở đường cho sự chuyển tiếp đến bộ ba diễn tấu ngắn của bè violon thứ nhất, dẫn đến sự nhắc lại chủ đề đầu tiên được thực hiện bởi bộ gỗ trong cung có khoảng cách xa với Mi trưởng là La giáng trưởng . Theo sau bởi sự diễn tấu lại dẫn đến quay về cung Mi trưởng để diễn tấu mở rộng lần cuối cùng chủ đề thứ nhất. Dẫn đến giới hạn của sự dàn trải. điều kiện Dẫn đến Kết thúc chương hai == Chương III và chương IV Chủ đề Scherzo được dự định đưa vào chương III trở về chơi ở cung Si thứ, với phần biến tấu ở cung Son trưởng. Ba mươi nhịp đầu tiên của nó được lưu giữ đến ngày nay nằm trong quyển tổng phổ chính thức. Nhưng mọi thứ sau đhỉ nằm tong tổng phổ phác thảo. Chỉ có phần biến tấu đầu tiên là tồn tại. Hai phần biến tấu còn lại chỉ nằm trong tổng phổ nháp. Phần biến tấu đầu tiên như một phần tô điểm không có hòa âm. Phần biến tấu thứ hai hoàn toàn không có mặt trong tổng phổ chính thức. Sau sự tiết lộ của Hüttenbrenner cho Herbeck về hai chương hoàn thành trong tác phẩm, một số nhà nghiên cứu lịch sử âm nhạc và học giả đã tìm cách chứng minh rằng bản giao hưởng đã hoàn thành mặc dù với cấu trúc chỉ có hai chương. Thêm nữa, cấu trúc riêng biệt ấy đã lôi cuốn công chúng yêu âm nhạc với niềm tin rằng đấy là tác phẩm mà Schubert ấp ủ nhất trong đời mình. Có một sự thật là truyền thống Âm nhạc Cổ điển không đồng tình chấp nhận một giao hưởng có thể kết thúc ở một cung khác với cung mà nó bắt đầu. Thêm một sự thật không thể chối cãi nữa là Schubert đã bắt đầu với chương III ở cung Si thứ (30 nhịp bỏ dở trong tổng phổ chính thức và 112 nhịp nối tiếp trong tổng phổ phác thảo). Tất cả những luận điểm trên đã bác bỏ quan điểm cho rằng bản giao hưởng đã hoàn thành chỉ với hai chương. Sự đón nhận của công chúng. Nhìn lại buổi trình diễn năm 1865, Nhà phê bình Âm nhạc Eduard Hanslick đã viết: "Khi ấy, sau một vài ô nhịp giới thiệu, clarinet và oboe đã vẽ nên một giai điệu ngọt ngào trên tiếng thì thầm của bộ vĩ. Ngay cả một đứa bé cũng sẽ nhận ra hình ảnh bản thân của nhạc sĩ và sự ngân lên giáng đoạn mang chất Schubert bao trùm cả thính phòng. Nhạc sĩ khó mà nhập đề nhưng ta biết được những bước đi của ông-đang rất gần với cánh cửa chủ đề. Rốt cuộc, chương nhạc là một dòng suối giai điệu ngọt ngào mặc dù sự mạnh mẽ và quảng đại vui tươi của nó thật trong trẻo đến mức người ta có thể được mọi hòn sỏi nằm tận dưới đáy. Và ở tất cả mọi nơi chốn, mặt trời và những tia nắng ấm áp làm cho những hạt giống nảy mầm. Chương Andante đã tự khơi mở bản thân nó một cách rộng rãi và đầy kì diệu hơn cả phần mở đầu của chương Allegro. Những âm điệu của sự phiền muộn hay giận dữ ít khi chen vào bản nhạc với đầy đủ sự gần gũi, hạnh phúc này. Những đám mây của cơn sấm âm nhạc định hướng cho hiệu quả âm nhạc hơn là những cảm giác nguy hiểm. Tiếng vang đẹp đẽ của cả hai chương là nguồn cảm hứng. Với một vài đoạn cho kèn horn, những đoạn solo ngắn của clarinet hoặc oboe thỉnh thoảng xuất hiện với vẻ giản dị, sự gắn kết tự nhiên của dàn nhạc, Schubert đã đạt đến hiệu ứng âm thanh mà không một nhạc cụ nào của Wagner có thể đạt đến được. Trí tuệ nhân tạo. Gần 200 năm sau, Huawei, nhà soạn nhạc từng đoạt giải Emmy Lucas Cantor và trí tuệ nhân tạo (A.I.) bên trong smartphone Mate 20 Pro đã làm được điều mà nhà soạn nhạc lừng danh bỏ dở. Chiếc Mate 20 Pro được dùng để soạn 2 chương còn lại tương tự như những chiếc khác bán trên thị trường, Huawei chỉ thêm vào một AI model để máy có thể hiểu và phát triển âm nhạc. Khi AI soạn nhạc xong đúng theo phong cách của Schubert thì Lucas Cantor sửa lại sao cho có cảm xúc hơn, thứ mà AI chưa làm được. Bản giao hưởng hoàn chỉnh này sẽ được Huawei phát hành chính thức tại MWC 2019 tại Barcelona sắp tới.
1
null
Mỏ khí đốt Xuân Hiểu (, Nhật Bản còn gọi là mỏ khí đốt Shirakaba - 白樺) là một mỏ khí thiên nhiên ở biển Hoa Đông được cho là nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, nằm cách trung tuyến phân chia vùng đặc quyền kinh tế Nhật-Trung do Nhật Bản vạch ra khoảng 4 km. Mỏ khí đốt Xuân Hiểu là mỏ đầu tiên trong năm mỏ khí ở trũng Tây Hồ () do Trung Quốc thăm dò; bốn mỏ còn lại là Bình Hồ (平湖), Thiên Ngoại Thiên (天外天), Tàn Tuyết (残雪) và Đoạn Kiều (断桥). CNOOC ước tính trữ lượng thuần của mỏ Xuân Hiểu là 3,8 triệu thùng dầu và 168,6 BCF khí thiên nhiên. Mỏ khí nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc mặc dù Nhật Bản tin rằng có sự nối kết giữa mỏ này với các mỏ khí ở phía bên kia đường trung tuyến trong biển Hoa Đông do Nhật Bản đòi hỏi. Nhiều người Nhật Bản lo lắng Trung Quốc có thể hút về mình cả phần khí nằm bên phía Nhật Bản. Sau nhiều bàn bạc, hai bên đã đồng ý cùng khai thác mỏ này. Lịch sử. Năm 1995, Trung Quốc phát hiện mỏ khí thiên nhiên dưới biển Hoa Đông. Tháng 5 năm 2003, Nhật Bản tuyên bố do mỏ Xuân Hiểu chỉ cách trung tuyến (do Nhật Bản vạch ra trên vùng chồng lấn của vùng đặc quyền kinh tế hai nước) chỉ có 5 km nên nếu Trung Quốc khai thác quy mô lớn thì có thể xảy ra tình trạng nước này hút cả phần khí ở bên phía Nhật Bản, gây phương hại lợi ích của họ. Do vậy, Nhật Bản phản đối hành động đơn phương của Trung Quốc và yêu cầu Trung Quốc dừng phát triển mỏ này. Tuy nhiên, Trung Quốc không công nhận "trung tuyến Nhật-Trung" () mà cho rằng đường phân giới biển nên là trũng Okinawa. Ngày 19 tháng 8, CNOOC, Sinopec, Royal Dutch Shell và Unocal ký hợp đồng cùng khai thác dầu khí biển Hoa Đông, bao gồm cả mỏ Xuân Hiểu. Ngày 22 tháng 6 năm 2004, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lý Triệu Tinh đề xuất với Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nhật Bản Kawaguchi Yoriko về việc hợp tác khai thác dầu khí biển Hoa Đông. Tuy nhiên thay vì đồng ý thì Kawaguchi yêu cầu Trung Quốc phải cung cấp dữ liệu chính xác về vị trí, độ sâu... của những giếng dầu nước này đang khoan ở biển Hoa Đông, và Lý không cho biết thêm điều gì. Tháng 7, Nhật Bản điều tàu khảo sát đến khu vực nằm bên phía Nhật Bản của đường trung tuyến để thăm dò tài nguyên. Tháng 8, Hyundai Heavy Industries (Hàn Quốc) bắt đầu lắp đặt đường ống cho dự án với tổng chiều dài 470 km. Tháng 2 năm 2005, một lần nữa Nhật Bản hối thúc Trung Quốc ngừng tiến hành khai thác nhưng bị Trung Quốc thẳng thừng từ chối. Tháng 4, Chính phủ Nhật đồng ý cho các công ty tư nhân thăm dò dầu khí ở biển Hoa Đông. Hoạt động khai thác của Trung Quốc bắt đầu từ ngày 28 tháng 1 năm 2006. Sau khi Unocal và Royal Dutch Shell rút lui vào năm 2004 thì CNOOC và Sinopec đồng sở hữu mỏ khí Xuân Hiểu. Ngày 18 tháng 6 năm 2008, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Khương Du tuyên bố hai nước đã đạt được đồng thuận về mặt nguyên tắc: ngoài việc Nhật Bản được chọn một lô dầu khí để cùng khai thác ở biển Hoa Đông thì các công ty Nhật Bản sẽ tuân thủ pháp luật Trung Quốc để cùng hợp tác khai thác mỏ Xuân Hiểu.
1
null
Phạm Thị Quỳnh Nga (sinh ngày 7 tháng 9 năm 1988), thường được biết đến với nghệ danh Quỳnh Nga, là một nữ diễn viên, ca sĩ kiêm người dẫn chương trình truyền hình người Việt Nam. Cô nổi tiếng với tên gọi "cá sấu chúa" sau khi tham gia bộ phim truyền hình "Lập trình cho trái tim". Trước khi bước chân vào làng giải trí Việt, cô từng tham gia cuộc thi Miss Audition và giành được giải nhất của cuộc thi. Tiểu sử và sự nghiệp. Quỳnh Nga sinh ra và lớn lên tại Bát Tràng, thành phố Hà Nội. Gia đình cô làm kinh doanh cho thuê ô tô. Nhà cô có căn biệt thự 300m² nằm tọa lạc tại Bát Tràng. Năm 2010, cô tốt nghiệp ngành Đại học Văn hóa và ngành Quản lý văn hóa. Sau đó, cô đăng kí tham gia cuộc thi Miss Audition. Trong suốt quá trình cuộc thi, cô là thí sinh đã gây ấn tượng mạnh mẽ đối với khán giả. Và may mắn đã đến với cô khi bất ngờ cô được khán giả bình chọn nhiều nhất tại đêm Gala Miss Audition 2007. Chính nhờ sự yêu mến của khán giả dành cho cô mà Quỳnh Nga đã trở thành quán quân của Miss Audition 2007. Bước ra từ "sân chơi" Miss Audition, cô được mời tham gia bộ phim "Lập trình cho trái tim" do công ty FPT Media sản xuất. Sau khi bộ phim kết thúc, cô được khán giả đặt biệt danh cho cô là "cá sấu chúa". Từ đó, cô càng được công chúng biết đến và ngày càng được nổi tiếng hơn bởi vai diễn đổi đời của mình. Sau khi bộ phim kết thúc, "thừa thắng xông lên", cô tiếp tục khẳng định tên tuổi của mình trong giới giải trí bằng việc lấn sân sang lĩnh vực ca hát. Cô cùng nam ca sĩ Khánh Phương kết hợp "ăn ý" với nhau trong nhiều sản phẩm âm nhạc và đã tạo ra nhiều bản hit "đình đám" như: "Tình yêu không đắn đo", "Hình bóng của mây", "Gió đông ấm áp", "Lời hứa mùa đông", "Ngàn lần khắc tên em"... Ngoài hát song ca cùng với anh, Quỳnh Nga còn thử sức mình với vai trò là ca sĩ solo. Các MV của cô cũng tương tự như lần cô song ca cùng anh cũng "làm mưa làm gió" trong nền âm nhạc V-pop thời bấy giờ như: "Đành nói lời chia tay, Không được khóc để quên anh, Có lẽ, Quên đi thói quen, Quá khứ không thể quên, Em tin, Điều anh lựa chọn..." Nhờ chất giọng vô cùng ngọt ngào kèm theo những ca từ nhẹ nhàng, trẻ trung, "bắt mắt" người nghe cùng với khuôn mặt đầy xinh xắn, thùy mị và nết na, cô đã không ngừng chiếm được nhiều tình cảm từ khán giả dành cho cô. Tháng 11 năm 2012, cô cho phát hành album phòng thu "True Love" đánh dấu "bước ngoặt" trong chặng đường sự nghiệp ca hát của cô và những sự yêu quý của khán giả đã và đang suốt bên cạnh cô trong suốt thời gian vừa qua. Ngoài thành công với vai trò là diễn viên và ca sĩ, cô còn thành công hơn với vai trò là MC. Năm 2014, cô phát hành ca khúc "Điều anh lựa chọn" và gây ra nhiều tiếng vang lớn. Năm 2016, sau 2 năm vắng bóng, Quỳnh Nga đã "tái xuất" showbiz với hình ảnh vô cùng quyến rũ, sexy và cô dường như đã hoàn toàn "lột xác". Với lần trở lại này, cô đã ấp ủ trong mình nhiều bài học kinh nghiệm kể từ sau nhiều sự việc không tốt đặc biệt là sau vụ việc cô lộ hát nhép khi vô tình "lỡ tay" rơi mic mà cô đã phải hứng chịu nhiều "gạch đá" từ phía dư luận trong suốt thời gian qua. Tháng 1/2016, cô cho ra mắt first single "Nhật kí ngày ngủ yên" do nhạc sĩ Bảo Thạch sáng tác dành riêng cho cô. Đây là ca khúc đánh dấu chặng đường trở lại "đường đua Vpop" sau hơn 2 năm vắng bóng và kết hôn. Tháng 5 năm 2017, cô đã tự ý sử dụng ca khúc "Là con gái phải xinh" của nữ ca sĩ Bảo Thy mà chưa có sự cho phép của cô. Sau đó, cô lại tiếp tục hứng nhiều "gạch đá" từ phía dư luận một lần nữa. Phía Bảo Thy cũng đã lên tiếng xác nhận việc Quỳnh Nga đã "hát chùa" ca khúc của Bảo Thy. Người quản lý của Bảo Thy cho biết đây là ca khúc mà Bảo Thy đã dành rất nhiều tâm huyết nhất. Bảo Thy hy vọng ca khúc mà cô dành nhiều công sức sẽ được khán giả yêu thích. Từ sau scandal ấy, Quỳnh Nga bẵng đi một thời gian và không còn xuất hiện trên mọi phương tiện truyền thông. Năm 2018, cô chính thức nói lời chia tay với showbiz để tập trung vào công việc kinh doanh. Năm 2019, cô trở lại phim truyền hình qua vai Nhã trong "Về nhà đi con" đang phát sóng trên VTV1. Cũng trong năm này, cô còn đảm nhận vai Quỳnh Trinh trong "Sinh tử" cũng được phát trên VTV1. Năm 2022, cô trở lại phim truyền hình với vai diễn Minh Minh trong phim "Chồng cũ,vợ cũ,người yêu cũ" đang phát trên VTV3. Bộ phim đánh dấu sự trở lại của cô sau 3 năm vắng bóng màn ảnh nhỏ. Tranh cãi. Tháng 5 năm 2010, Quỳnh Nga và một người đàn ông có vợ đã "đầu mày cuối mắt" trước cửa soát vé máy bay. Theo lời một số hành khách cùng chuyến, khi máy bay gần đến Nga, một khách người Nga phải đứng chờ rất lâu trước cửa toilet mới thấy Quỳnh Nga đi ra. Người đàn ông Việt cô gặp trước đó vẫn còn trong phòng vệ sinh. Cùng lúc ấy, vợ anh ta xông vào đánh ghen, cào cấu chồng và chửi bới cô. Tháng 5 năm 2011, một đoạn clip dài chừng 45 giây của Quỳnh Nga thể hiện ca khúc Người tình mùa đông của nữ ca sĩ Như Quỳnh được phát tán cho thấy Quỳnh Nga đã hát nhép. Khán giả đã rất bức xúc sau khi xem clip này. Trên trang Facebook được cho là của Quỳnh Nga, cũng như trên các trang mạng tồn tại vô số phản ứng gay gắt dành cho cô. Có người còn kêu gọi giới trẻ nên tẩy chay những ca khúc do Quỳnh Nga thể hiện. Tháng 5 năm 2017, cô bị dư luận "ném đá" dữ dội trên mạng xã hội vì đã tự ý sử dụng ca khúc "Là con gái phải xinh" của nữ ca sĩ Bảo Thy. Đời tư. Vào ngày 23 tháng 11 năm 2014, Quỳnh Nga kết hôn với nam người mẫu Doãn Tuấn tại Hà Nội. Tháng 4 năm 2019, cô và Doãn Tuấn đã ly hôn sau gần 5 năm gắn bó với nhau.
1
null
Trũng Tây Hồ () là một miền trũng ở biển Hoa Đông, chạy dọc bờ biển nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, cách Thượng Hải và Ninh Ba 400 km về phía đông. Trung Quốc cho rằng toàn bộ trũng Tây Hồ đều thuộc vùng đặc quyền kinh tế của mình. Vốn là nơi giàu khí thiên nhiên, trũng Tây Hồ có những mỏ khí đã được Trung Quốc thăm dò như Xuân Hiểu, Thiên Ngoại Thiên, Tàn Tuyết, Đoạn Kiều và Bình Hồ. Cả miền trũng dài xấp xỉ 500 km. Ngày 19 tháng 8 năm 2003, có thông báo về việc Sinopec, CNOOC, Royal Dutch Shell và Unocal lập liên doanh cùng khai thác khí thiên nhiên ở trũng Tây Hồ, và dự kiến hoạt động khai thác sẽ bắt đầu từ giữa năm 2005. Tuy nhiên vào ngày 29 tháng 9 năm 2004, hai đối tác ngoại quốc là Shell và Unocal tuyên bố rút lui do lo ngại tính khả thi về mặt thương mại cũng như tình trạng tranh chấp trong khu vực.
1
null
Guillaume Tell (viết bằng tiếng Pháp; tiếng Ý: Guglielmo Tell; tiếng Anh: William Tell) là vở opera cuối cùng và là một trong những vở opera hay nhất của nhà soạn nhạc người Ý Gioachino Rossini. Vở opera được sáng tác vào năm 1829, lấy đề tài là người anh hùng Guillaume Tell của đất nước Thụy Sĩ thế kỷ XIV. Vở opera này được viết tại thủ đô Paris của Pháp. Đây là vở opera mang phong cách sôi nổi vốn là phong cách âm nhạc của ông. Tác phẩm này là tiền đề cho một thể loại của nền opera Pháp: opéra grande. Còn tại sao sau vở opera này, Rossini lại không sáng tác nữa thì đó lại là dấu hỏi lớn. Có thể vì Rossini nghĩ rằng opera của mình đang dần đi vào lỗi thời nên ông không viết một vở opera nào nữa. Cũng có thể Rossini không thích sự ái mộ của công chúng Paris đối với Giacomo Meyerbeer. Còn một lý do nữa có thể có là Rossini bất bình với chính phủ Pháp khi hủy hợp đồng với ông sau khi lật đổ thành công vua Charles X. Thậm chí có người còn cho rằng sự lười nhác đã khiến nhà soạn nhạc Ý này lánh xa opera.
1
null
Tổng công ty Dầu khí Ngoài Khơi Trung Quốc (, - CNOOC) là một công ty dầu khí quốc gia của Trung Quốc. CNOOC chuyên tìm kiếm và khai thác dầu mỏ và khí thiên nhiên ngoài khơi Trung Quốc. CNOOC có số vốn đăng ký là 50 tỉ nhân dân tệ và tạo công ăn việc làm cho hơn 98.750 người. Ủy ban Giám sát và Quản trị Tài sản nhà nước của Quốc vụ viện đại diện Quốc vụ viện nắm quyền và nghĩa vụ cổ đông của CNOOC. Công ty con CNOOC Limited có niêm yết tại Sở giao dịch Hồng Kông. Công ty con China Oilfield Services niêm yết ở cả Sở giao dịch Hồng Kông và Sở giao dịch chứng khoán New York. Tranh cãi. Giàn khoan HD-981. Ngày 2 tháng 5 năm 2014, giàn khoan dầu cỡ lớn của CNOOC được đưa vào khu vực biển mà Trung Quốc cho là thuộc quần đảo Hoàng Sa đang do họ kiểm soát còn Việt Nam cho là thuộc vùng đặc quyền kinh tế của mình. Sự việc này đưa đến một số va chạm giữa các tàu cảnh sát biển và kiểm ngư Việt Nam với tàu Trung Quốc khi Việt Nam cố tìm cách ngăn các tàu Trung Quốc bảo vệ giàn khoan.
1
null
Nội tạng động vật hay còn gọi là phủ tạng đề cập đến các cơ quan nội tạng bên trong và bộ phận ruột của một con vật bị xẻ thịt không bao gồm thịt và xương. Bộ phận nội tạng được định nghĩa là ruột và cơ quan nội tạng của động vật bị xẻ thịt. Từ này không đề cập đến một danh sách cụ thể của các cơ quan sinh học, nhưng bao gồm các cơ quan bên trong khác của động vật ngoài bắp cơ và xương. Nội tạng là nguồn nguyên liệu cho các món ăn trong ẩm thực nhiều nước. Những bộ phận nội tạng không sử dụng trực tiếp cho con người hoặc động vật thì thường được xử lý trong nhà máy sản xuất phân bón, hoặc nhiên liệu. Danh từ "nội tạng" không ấn định là bộ phận đó có ăn được hay không. Việc lựa chọn ăn thứ này hay bỏ thứ khác thì tùy thuộc vào văn hóa. Một số nội tạng thông dụng là gan, tim, ruột, lòng, mề, phèo, phổi, cật, lá lách, thận, nầm, tràng... Trong tiếng Việt nội tạng của lợn gọi chung là "nầm lợn". Còn "tràng" thì gồm cả bộ phận sinh dục của lợn cái. Nói chung, tất cả phủ tạng của động vật, từ tim, gan, cật, lòng, mề đến ruột non, ruột già, tràng, trứng, đều được sử dụng. Một số món ăn từ bộ phận nội tạng có tiếng như gan ngỗng, pa tê gan và lá lách, phần ruột (ruột non, ruột già) được sử dụng làm vỏ bọc cho xúc xích hoặc món dồi. Nội tạng động vật là món ăn khoái khẩu của nhiều người, đặc biệt là nhiều người có thói quen và sở thích ăn nội tạng động vật. Người phương Tây nói chung thường chỉ ăn thịt và da động vật, phần nội tạng bên trong hoàn toàn bị vứt bỏ hay làm thức ăn cho gia súc. Tùy vào bối cảnh văn hóa ở các vùng miền, khu vực khác nhau của khắp các châu lục trên thế giới, bộ phận nội tạng có thể được coi là chất thải phải vứt bỏ, hoặc như món ăn ngon đặc sản cho vùng miền hoặc là vị thuốc có giá trị trong y học cổ truyền Trung Hoa và các nước có nền y học phương đông khác. Đối với ẩm thực nhiều nước Á Đông trong đó có Việt Nam thì nhiều món ăn được chế biến từ nội tạng. Người Việt cho rằng nội tạng động vật bổ dưỡng hơn nhiều phần thịt và da, với những phương thức chế biến sáng tạo, các món nội tạng động vật hiện nay đã trở nên phổ biến. Những món ăn từ nội tạng là món khoái khẩu của người Việt Nam, với hệ thực vật đa dạng tạo ra nhiều nguyên liệu, gia vị nồng khử mùi nên trong việc chế biến, khử mùi, loại bỏ chất tanh của phủ tạng không quá khó khăn như các nước châu Âu vốn không có nhiều nguyên liệu, gia vị cay nồng để xử lý, khử mùi tanh nên thường thi khi chế biến sẽ vứt bỏ phần nội tạng. Phân tích. Nhiều người cho rằng nội tạng động vật chứa nhiều chất đạm, chất béo và được coi là thực phẩm bổ dưỡng Phần lớn các loại phủ tạng đều chứa nhiều chất đạm, chất béo, vitamin, vì vậy đặc biệt tốt cho bà mẹ mang thai và trẻ em đang trong giai đoạn phát triển Đa số các loại nội tạng đều chứa nhiều chất đạm, nhưng trong đó có chứa nhiều chất béo, đặc biệt cholesterol rất cao, đặc biệt là óc, gan và cật. Nội tạng có hàm lượng calo tương tự như thịt nạc (từ 100-150 calo mỗi 100 gram), chúng có cùng hàm lượng protein (khoảng 16-22% trọng lượng, trừ não và tủy) và hàm lượng chất béo tương tự (trung bình từ 5-7%) chủ yếu là chất béo bão hòa và lượng cholesterol rất cao, muối vô cơ hay vitamin đều rất phong phú. Các Vitamin tan trong chất béo chỉ có ở trong gan, thận. Một điểm chung ở gan, thận, tim, não có nhiều cholesterol và photphatit. Gan có nhiều vitamin A và D, quan trọng nhất là hàm lượng sắt rất cao, có thể phòng ngừa bệnh thiếu máu, mù màu, còi xương. Tim có hàm lượng natri thấp và rất nhiều chất Sắt. Nó cũng chứa Selen, Kẽm, Phosphor, Niacin, và Riboflavin. Óc giàu Niacin, Phosphorus, B12, và Vitamin C. Huyết động vật cũng có rất nhiều chất dinh dưỡng, có Protein, Sắt và các loại Vitamin. Dạ dày bò chứa Vitamin B12 và một lượng đáng kể Protein. Lòng bò cũng thường được sử dụng trong việc đưa ra các loại thịt chế biến như xúc xích... Có thời gian người ta cho rằng ăn gan rất độc vì gan là nơi thải lọc độc tố trong cơ thể. Sự thực ăn gan rất tốt. Với các hàm lượng đạm, sắt, vitamin đáng kể như vậy, gan đặc biệt tốt cho trẻ em thiếu máu suy dinh dưỡng. Tuy nhiên, nội tạng động vật cũng như trong gia cầm gia súc đều có hàm lượng cholestorol xấu rất cao. Như trong óc của động vật lượng cholesterol xấu có thể cao hơn tới hàng chục lần so với hàm lượng cholesterol mà cơ thể con người cần. Chế biến. Một số món ăn bộ phận nội tạng được coi là thực phẩm cho người sành ăn trong ẩm thực quốc tế. Điều này bao gồm gan ngỗng, gan xay và lá lách. Món ăn bộ phận nội tạng khác vẫn là một phần của món ăn truyền thống trong khu vực và có thể được tiêu thụ đặc biệt là trong các ngày lễ. Ruột hay lòng theo truyền thống được sử dụng như vỏ cho món xúc xích hoặc món dồi hay lạp xưởng. Trong Đông y, các loại nội tạng được kết hợp với các vị thuốc có thể tạo nên những món ăn cho người bệnh. Cần biết chọn mua gan hay nội tạng của những con vật khoẻ mạnh, không bị bệnh. Gan màu đỏ sẫm tươi, không có nốt sần trên mặt gan, khi mua về cắt lát mỏng rửa sạch bằng nước lạnh rồi lấy giấy thấm khô hết máu ứ trong gan, như vậy các chất độc có trong máu của gan đã bị loại bỏ, chỉ còn các tế bào gan giàu chất dinh dưỡng. Các loại phủ tạng khác nói chung nên mua khi còn tươi, màu đỏ sẫm, ấn vào bề mặt thấy đàn hồi tốt, nhẵn, không nốt sần, nổi cục hoặc có mùi hôi. Để lựa chọn được nội tạng động vật tươi ngon, đảm bảo an toàn thực phẩm cần lưu ý nhìn màu sắc của sản phẩm (như tim, gan, bầu dục) phải đỏ tươi, bóng, khi ấn tay vào thấy có độ dẻo dính và đàn hồi. Nội tạng nên được chế biến trong ngày. Để tránh mùi hôi, tanh của tim, gan bầu dục nên cắt bỏ thành phần gây hôi rồi trần qua nước sôi trước khi sử dụng, và tránh mùi hôi của dạ dày, lòng cần bóp muối kỹ và trần qua nước sôi. Khuyến cáo. Nhìn chung nội tạng động vật gồm thận, dạ dày, ruột, tim, lưỡi, và gan có chứa lượng chất béo bão hòa và cholesterol cao hơn so với thịt và nếu tiêu thụ nhiều sẽ làm tăng mỡ máu có hại cho tim mạch, đặc biệt đối với người cao tuổi, người béo phì và người mắc bệnh rối loạn chuyển hóa: tiểu đường, huyết áp cao, béo phì, bệnh gút.. Tuy nhiên, ăn quá nhiều nó có thể gây hại cho sức khỏe do đó không nên ăn quá nhiều loại thực phẩm này. Mỗi tuần chỉ nên ăn nhiều nhất 2-3 lần, mỗi lần từ 50-70g đối với người lớn, còn trẻ em chỉ ăn từ 30-50g/bữa. Các loại phủ tạng đều chứa nhiều cholesterol nên không phù hợp với người cao tuổi, người mắc các bệnh rối loạn chuyển hoá như tăng cholesterol máu, xơ vữa động mạch, tăng huyết áp, đái tháo đường, bệnh gout, bệnh thận, người thừa cân, béo phì...do hàm lượng cholesterol trong phủ tạng rất cao, cao nhất là trong óc, gan và bầu dục, do đó, ăn phủ tạng động vật có thể tốt với người này nhưng lại không tốt với người khác. Đối với những người cao tuổi, thừa cân - béo phì nên hạn chế, người mắc các bệnh tăng mỡ máu, tăng huyết áp, đái tháo đường, bệnh gout, thận hư nhiễm mỡ, suy tim... thì không nên ăn các loại phủ tạng. Rất nhiều người có sở thích ăn nội tạng của động vật. Đặc biệt là nội tạng của gà. Thận gà là bộ phận nội tạng mà rất nhiều nam giới thích ăn. Gần đây, có cảnh báo rằng ăn nội tạng động vật khiến cho tinh trùng của nam giới bị suy giảm. Về vệ sinh an toàn thực phẩm, cần hết sức lưu ý với các loại nội tạng không rõ nguồn gốc trên thị trường, được nhập khẩu từ Trung Quốc, hoặc các loại nội tạng trắng và những nội tạng liên quan đến vấn đề thịt thối, những loại hàng hóa này đều được tẩm ướp các loại gia vị, khử mùi hôi rồi mới tuồn vào các nhà hàng, quán ăn bán cho thực khách. Có khuyến cáo cho rằng việc sử dụng các món ăn từ nội tạng động vật còn có nhiều nguy cơ như nội tạng động vật hấp dẫn như ruột già, đặc biệt là lòng non như lòng heo, lòng gà, lòng bò chứa nhiều cholesterol và hàm lượng chất béo rất cao. Nội tạng chứa các ký sinh trùng như giun, sán... đồng thời có nguy cơ nhiễm khuẩn gây ra các bệnh thương hàn, tả, lỵ và các vi trùng kỵ khí gây nhiễm trùng đường ruột. Ngoài ra không nên ăn gan động vật vì gan là bộ phận lọc chất độc của cơ thể, chất độc tích tụ nhiều trong gan và rằng tuy gan chứa nhiều vitamin A và chất sắt, nhưng gan động vật rất dễ nhiễm các loại ký sinh trùng như sán lá gan, độc tố của vi khuẩn, virút và nấm mốc như độc tố aflatoxin gây ung thư gan, các chất độc khác có thể tích lại ở gan trong quá trình khử độc như thuốc kháng sinh sử dụng trong chăn nuôi. Đối với người gầy, chỉ nên ăn nội tạng vừa phải, tốt nhất ăn một đến hai lần/tuần. Các nội tạng động vật không rõ nguồn gốc tiềm ẩn nhiều nguy cơ nhiễm vi khuẩn,vi rút, ký sinh trùng (giun, sán) lây bệnh sang người. Các loại bệnh có thể mắc phải khi ăn nội tạng gồm: ăn óc bò không rõ nguồn gốc, mô hệ thống thần kinh có thể bị truyền bệnh não xốp bò "bệnh bò điên" (bovine spongiform encephalopathy). Gan động vật chăn nuôi không vệ sinh(do ăn thức ăn chăn nuôi nhiễm nấm mốc) nguy cơ ô nhiễm độc tố vi nấm Aflatoxin cao vốn là chất có khả năng gây ung thư gan ở người. Nếu lợn nhiễm liên cầu khuẩn lợn Streptococcus suis (S.suis) (kể cả lợn bệnh và lợn lành mang trùng không phát bệnh), trong máu (tiết), lòng ruột nội tạng và thịt lợn sẽ chứa một lượng lớn vi khuẩn. Khi ăn các sản phẩm từ lợn này như tiết canh, lòng, nem chua, cháo lòng... chưa được nấu chín thì liên cầu khuẩn từ thức ăn đó sẽ xâm nhập vào cơ thể người và gây bệnh. Ở Việt Nam, trên 70% bệnh nhân mắc bệnh liên cầu khuẩn lợn là do ăn tiết canh lòng lợn. Một số ruột động vật có lượng rất lớn vi khuẩn E. Coli & các vi khuẩn gây bệnh tiêu chảy, tả, lỵ, thương hàn..cho người khi ăn phải lòng, nội tạng nấu không chín kỹ hoặc ô nhiễm chéo sang các thức ăn nước uống khác trong quá trình chế biến.
1
null
Lòng ("Tripe") hay còn gọi là cỗ lòng hay ruột, phèo là bộ phận mô dạ dày của động vật dùng làm thức ăn thông thường chỉ về các động vật trang trại như các loài gia súc, vật nuôi, phổ biến như ở bò và ở lợn (lòng lợn), ở gia cầm người ta cũng ăn bộ phận lòng và thường gọi là lòng mề. Cỗ lòng là một bộ phận nội tạng được coi là một món ngon ở nhiều nơi trên thế giới và là một thành phần đặc trưng trong nhiều món ăn Mỹ Latinh, châu Á, Caribbean và Trung Đông. Mô tả. Cỗ lòng hay lòng chính là mô dạ dày đặc biệt là động vật nhai lại (như bò) dùng làm thức ăn, lòng còn non thì được gọi là phèo. Phèo thực chất là phần ruột non của lợn, bò đã làm thịt. Đây là một phần của hệ tiêu hóa sau dạ dày và trước ruột già. Đây là nơi diễn ra quá trình tiêu hóa và hấp thụ chất dinh dưỡng của phần lớn thức ăn được đưa vào cơ thể. Ruột non hay phèo gồm 4 lớp cơ bản: màng bọc, lớp cơ, lớp dưới niêm mạc, lớp niêm mạc, trong đó lớp cơ được phân làm cơ dọc và cơ vòng. Còn dạ dày bò có cấu tạo phức tạp bao gồm 4 túi dạ cỏ, dạ tổ ong, dạ lá sách và dạ múi khế. Sách bò còn được gọi là khăn lông bò, bầu dục, lá lách, bìa sách, tức niêm mạc dạ dày thuộc 1 trong 4 túi dạ dày của bò, dạ lá sách gồm nhiều lá to nhỏ khác nhau như những trang sách để dễ ép thức ăn nửa lỏng xuống dạ dày cuối cùng của bò là dạ múi khế. Cỗ lòng là một loại nội tạng, hay thịt nội tạng, được tìm thấy trong dạ dày của động vật nhai lại như bò, cừu, dê và trâu. Những động vật này có nhiều ngăn trong dạ dày giúp tiêu hóa thức ăn của chúng, và mô cơ được tìm thấy giữa các ngăn này được gọi là da cơ dạ dày. Hương vị của món cổ lòng trung tính, và nó có thể dễ dàng mang hương vị của các thành phần nào khác mà nó nấu với, nó kết hợp đặc biệt tốt với các loại thảo mộc và rau thơm, hương vị, bao gồm tỏi và hành tây. Kết cấu bắt của lòng sẽ bắt đầu mềm dần khi nấu trong vòng hai đến ba giờ, do đó nó thường được tìm thấy trong các món ăn nấu chín chậm, nấu sôi như súp và món hầm. Ở phương Tây, món lòng bò (tripe) còn gọi là lá sách (sách bò), tổ ong, khăn lông được phân loại phổ biến nhất dựa trên buồng dạ dày mà nó tìm thấy, mỗi loại có một hương vị, kết cấu và hình dạng riêng biệt. Sách bò chính là một bộ phận, một túi trong dạ dày bò, sách bò ngon và có vị đậm hơn thịt bò. Các bộ phận khác gồm chăn dạ dày được làm từ lớp lót của khoang dạ dày đầu tiên, hay dạ cỏ, loại này phẳng và mịn, giống như một tấm chăn. Dạ dày tổ ong được làm từ khoang dạ dày thứ hai và có hình dáng độc đáo giống như tổ ong nó kết cấu mềm và hương vị độc đáo. Loại hỗn hợp Thường được mô tả như một hỗn hợp của chăn và tổ ong, loại này được tìm thấy trong ngăn thứ ba của dạ dày, phần lót được làm từ buồng dạ dày thứ tư và được coi là loại ít được tiêu thụ nhất. Giá trị. Giống như các loại nội tạng khác, cỗ lòng là một nguồn phong phú chất đạm, đóng gói một lượng lớn 12 gram vào mỗi khẩu phần 3,5 ounce. Chúng còn chứa nguồn Selenium tốt, các nguyên liệu cho món lòng có giả cả phải chăng, bình dân so với thịt đắt tiền, chẳng hạn như bít tết. Tuy vậy, cỗ lòng là một thành phần khó chuẩn bị và tiêu thụ, và hương vị và kết cấu của nó thường có thể là một sự khó chấp nhận cho một số người tiêu dùng ở phương Tây, bởi vì kết cấu của nó, nó cũng là một thành phần tốn nhiều công sức, có thể mất vài giờ để chuẩn bị đầy đủ. Ngoài ra khi chế biến món này phải có đầy đủ gia vị mới khử được mùi tanh. Hơn nữa, mặc dù nó là một nguồn tốt của một số chất dinh dưỡng, bao gồm protein, selen và vitamin B12, nhưng nó cũng tương đối cholesterol cao. Có khuyến cáo cho rằng việc sử dụng các món ăn từ nội tạng động vật còn có nhiều nguy cơ như nội tạng động vật hấp dẫn như ruột già, đặc biệt là lòng non như lòng heo, lòng gà, lòng bò chứa nhiều cholesterol và hàm lượng chất béo rất cao. Nội tạng chứa các ký sinh trùng như giun, sán đồng thời có nguy cơ nhiễm khuẩn gây ra các bệnh thương hàn, tả, lỵ và các vi trùng kỵ khí gây nhiễm trùng đường ruột. Do đó, dù là món khoái khẩu những cũng cần đảm bảo yếu tố vệ sinh an toàn thực phẩm.
1
null
là một kỹ sư người Nhật và phi hành gia của JAXA. Ngày 30 tháng 8 năm 2012 Hoshide đã trở thành nhà du hành vũ trụ thứ ba của Nhật Bản bay vào không gian. Thông tin cá nhân. Hoshide Akihiko sinh năm 1968 tại Setagaya, Tokyo, Nhật Bản, nhưng lớn lên ở New Jersey. Giáo dục. Ông đã nhận bằng tú tài quốc tế từ trường Cao đẳng Liên hiệp Thế giới Đông Nam Á năm 1987, bằng cử nhân kỹ thuật cơ khí từ Đại học Keio năm 1992 và một bằng Thạc sĩ Khoa học ngành kỹ thuật hàng không vũ trụ của đại học Houston năm 1997. Kinh nghiệm. Ông đã gia nhập Cơ quan Phát triển Không gia Quốc gia Nhật Bản (NASDA) năm 1992 và làm tại bộ phận phát triển phương tiện phóng H-II trong 2 năm. Từ 1994 đến 1999, ông là kỹ sư phụ tá phi hành gia cho Văn phòng Phi hành gia NASDA, hỗ trợ phát triển chương trình đào tạo phi hành gia. Ông đã hỗ trợ Wakata Kōichi trong lúc Wakata được đào tạo và thực hiện nhiệm vụ trên STS-72. Sự nghiệp phi hành gia. Tháng 2 năm 1999 Hoshide đã được NASDA (giờ là JAXA) lựa chọn để trở thành một trong ba ứng viên phi hành gia Nhật Bản đến Trạm Không gian Quốc tế (ISS). Ông bắt đầu chương trình Cơ bản Đào tạo Phi hành gia của ISS tháng 4 năm 1999 và nhận chứng chỉ phi hành gia tháng 1 năm 2001. Từ tháng 1 năm 2001, ông đã được đào tạo nâng cao ISS, cũng như hỗ trợ phát triển phần cứng và điều hành mô đun thí nghiệm Nhật Bản Kibō và phương tiện vận chuyển H-II (HTV). Tháng 5 năm 2004, ông hoàn thành khoá đào tạo kỹ sư phi đội Soyuz TMA tại Trung tâm Huấn luyện Nhà du hành vũ trụ Yuri Gagarin ở thành phố Star, Nga, và sau đó được chuyển đến Trung tâm Không gian Lyndon B. Johnson. Ông đã hoàn thành khóa huấn luyện ứng viên phi hành gia của NASA và được bổ nhiệm vào đội bay STS-124, chuyến thứ 2 trong 3 chuyến bay đưa các bộ phận hợp thành lên Trạm Không gian Quốc tế để hoàn thiện phòng thí nghiệm Kibō của Nhật Bản tháng 5 năm 2008.
1
null
Dương Không Lộ (楊空路, 1016-1094), húy Dương Minh Nghiêm, hiệu Khổng Lồ đọc tránh Không Lộ pháp hiệu là Thông Huyền chân nhân, quê gốc làng Giao Thủy (sau đổi là làng Hộ Xá), phủ Hải Thanh (đời Trần đổi là Thiên Thanh, sau lại đổi là Thiên Trường) tỉnh Nam Định, quê mẹ có một nguồn nói ở mạn Duyên Hà (Thái Bình), lại có nguồn khác nói ở quê mẹ là làng Hán Lý, phủ Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Tiểu sử. Không Lộ sinh ngày 13 tháng 9 năm Bính Thìn niên hiệu Thuận Thiên thứ 7 (1016) đời Lý Thái Tổ, tại đất sau này được gọi là làng Lại Trì, phủ Kiến Xương (Thái Bình). Ông xuất thân làm nghề chài lưới, nhưng giỏi văn chương và mộ đạo Phật. Không Lộ là một Thiền sư triều nhà Lý được phong làm Quốc sư, đã từng tu ở các chùa: Hà Trạch, Diên Phúc (sau đổi Viên Quang), Nghiêm Quang (sau đổi Thần Quang - chùa Keo), Chúc Thánh. Không Lộ vừa được coi là thiền sư thuộc dòng thiền Vô Ngôn Thông vừa được cho là thuộc thiền phái Thảo Đường. Ngày mùng 3 tháng 6 năm Giáp Tuất, niên hiệu Hội Phong 3 (1094), thiền sư Không Lộ hóa thọ 79 tuổi. Hành trạng. Gia đình Dương Không Lộ sống ở làng Lại Trì, chuyên nghề chài lưới ven sông. Khi lớn lên, ông lấy việc câu cá, quăng chài làm vui và thường du ngoạn nhiều nơi danh lam thắng cảnh, tùy hứng ngâm vịnh và sáng tác thơ ca. Năm Giáp Thân (1044) triều Lý Thái Tông, ông 29 tuổi, bỏ nghề đánh cá để theo học đạo thiền. Ban đầu ông theo học Noãn cư sĩ làng Bảo Tài (chưa rõ nay ở đâu). Sau ông đắc đạo, trở thành Tổ thứ 10 của thiền phái Vô Ngôn Thông, một thiền phái được thành lập ở nước ta vào đầu thế kỷ thứ IX. Năm Đinh Dậu (1057) ông chuyển sang theo học thiền phái Thảo Đường. Thảo Đường thiền sư từng nhận xét về học trò Không Lộ của mình: "Chú này cốt cách phi phàm, sau này tất làm pháp tự." Quả nhiên về sau, Không Lộ trở thành Tổ đời thứ 3 của thiền phái Thảo Đường. Năm Kỷ Hợi (1059), Không Lộ tu tại chùa Hà Trạch, rồi chuyển về tu ở chùa Duyên Phúc (tức chùa làng Hộ Xá) sau đổi là chùa Viên Quang (Xuân Ninh - Nam Định). Năm Nhâm Dần (1062) Không Lộ cùng Giác Hải và Đạo Hạnh đi Tây Trúc cầu kiến Phật Tổ, được Phật Tổ giác ngộ và truyền cho phép lạ. Năm Quý Mão (1063) Không Lộ dựng chùa Nghiêm Quang (sau đổi là Thần Quang - chùa Keo) tại làng Dũng Nhuệ. Sau do đất lở xuống sông Hồng, chùa được chuyển sang làng Dũng Nghĩa (Vũ Thư, Thái Bình). Năm Nhâm Tý (1072), Không Lộ cùng Giác Hải chữa khỏi bệnh sợ tắc kè kêu cho vua Lý Nhân Tông. Ông được phong làm Quốc sư. Ngày 3 tháng 6 năm Giáp Tuất (1094), Không Lộ thiền sư viên tịch, thọ 79 tuổi. Ngày 10 tháng 8 năm Ất Hợi (1095) thiền sư Giác Hải thu thập xá lợi của Không Lộ, xây tháp để chôn cất, tạc tượng để thờ tại chùa Nghiêm Quang. Vua Lý Nhân Tông xuống chiếu tu sửa chùa, cắt 3.000 hộ (có tài liệu 20 hộ) hương khói phụng thờ ông. Chữa bệnh sợ tắc kè kêu cho vua Lý Nhân Tông. Sách "Thiền uyển tập anh" chép: Thời vua Lý Nhân Tông, thiền sư Giác Hải thường cùng Thông Huyền chân nhân, bị triệu vào nhà hóng mát hầu hạ, bỗng có tiếng cắc kè kêu nhau chối tai, đáng ghét. Vua khiến Huyền làm cho nó đừng kêu. Huyền bèn lâm râm niệm chú, làm rơi trước một con. Huyền cười Sư, Sư bảo "Đang còn một con, để đó cho Sa môn". Sư chú mục nhìn, trong giây lát, nó cũng rơi theo. Vua lấy làm lạ, làm một bài thơ khen: Từ đó, tiếng tăm Sư vang khắp thiên hạ, tăng tục ngưỡng chuộng. Vua thường đối đãi Sư như bậc thầy. Mỗi lần ra chơi hành cung Hải Thanh, vua tất đến chùa Sư trước. Câu đối ở chùa Keo Hành Thiện (Xuân Hồng, Xuân Trường, Nam Định) nơi thờ Không Lộ thiền sư: Pháp thị thiên tiên tâm thị phật Hương vi thánh tổ quốc vi sư. Dịch: Phép là tiên trời, tâm là phật Quê tôn thánh tổ, nước tôn thầy. Phép là tiên trời, tức là phép của đạo sĩ. Tâm mới từ bi như phật. Đây cũng chính là giáo lý của phái Không Lộ: tu tiên và lấy đức theo phật, chứ không phải tu phật. Không Lộ thiền sư là vị thánh tổ của đạo phù thủy nước Đại VIệt. Vấn đề Không Lộ và Minh Không. Không Lộ được suy tôn là bậc thánh, một nhân vật siêu phàm nổi bật trong văn hóa của một vùng cư dân hạ lưu sông Hồng. Suốt một vùng Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Hà Nam, lên cả đến Bắc Ninh, Bắc Giang ngày nay. Văn hóa dân gian đan cài trong các lễ tiết nhà chùa, có không ít tình tiết hoang đường để tô vẽ cho tài đức một nhà tu hành có thật trong lịch sử. Cho nên đã có nhiều bản in khắc gỗ nói về sự tích Không Lộ lầm lẫn đến nỗi người ta khó phân biệt được Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không là một hay hai nhà tu hành của đạo Phật ở thời Lý. Sự tích của Dương Không Lộ thường bị lẫn lộn với thiền sư Nguyễn Minh Không, vì cùng là thiền sư giỏi chữa bệnh và đều được phong Lý Quốc Sư. Quan điểm: Hai người là một. Các tài liệu "Án cổ tích Đại Bi tự Thiền uyển thực lục" ở chùa Đại Bi xã Nam Giang, huyện Nam Trực (Nam Định), "Đại Việt sử ký toàn thư", bài viết của Nhà nghiên cứu Lê Xuân Quang và một số sắc phong từ thời Lê về sau... Sách "Lĩnh Nam chích quái" chép rằng "chùa Không Lộ ở làng Giao Thủy có nhà sư Minh Không". Có ý kiến rằng Dương Không Lộ thực chất là tên lấy theo họ mẹ của Minh Không ghép với hiệu Không Lộ. "Sách "Nam ông mộng lục"" của Hồ Nguyên Trừng chép truyện Không Lộ thần dị đồng nhất Không Lộ và Minh Không Theo sách "Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược" (Phòng Địa chí - Thư viện tỉnh Nam Định chế bản) tại trang 146, trong mục chùa Keo thì: Không Lộ tên chính là Nguyễn Chí Thành người xã Điềm Xá huyện Gia Viễn cùng Nguyễn Viết Y người xã Loa Điền Hải Thanh kết bạn với nhau, Chí Thành đạo hiệu là Không Lộ, Viên Y đạo hiệu là Giác Hải, sau gặp sư Từ Đạo Hạnh người Yên Lãng cùng sang Tây Trúc học đạo đều thành. Các bài báo sau này của một số nhà nghiên cứu: "Đức Thánh Nguyễn Minh Không" của Đỗ Danh Gia (Tạp chí Văn nghệ Ninh Bình, số 59 năm 2008) "Bái Đính – Ngàn năm tâm linh và huyền thoại" của Trương Đình Tưởng (Nxb. Thế giới, 2008) "Thiền sư Dương Không Lộ – Nguyễn Minh Không là hai hay là một" trên Tạp chí Văn nhân số 62 năm 2008 Theo quan điểm này nhà sư đã chữa bệnh hóa hổ cho vua Lý Thần Tông. Quan điểm: Hai người khác nhau. "Thiền uyển tập anh" do Thông Biện (? – 1134) khởi thảo, đến Biện Tài, Thường Chiếu và cuối cùng là Ẩn Không (đầu thời Trần) hoàn chỉnh. Phần nói về Không Lộ tài liệu này viết rõ rằng ông họ Dương quê ở Hải Thanh (nay thuộc tỉnh Nam Định). Đồng thời sách lại có riêng một truyện viết về Minh Không (1066 – 1141) họ Nguyễn, quê ở Đàm Xá (nay thuộc tỉnh Ninh Bình). "Quỳnh Côi dư địa chí của Ngô Vi Liễn", nhà in Lê Văn Tân, Hà Nội, 1933. Phần viết về xã La Vân, trang 63, mục mười, nói về đình chùa, có đoạn ông viết: "Phụng khảo bia làng này là phụng sự đức Minh Không thiền sư, cũng có người nói hai người tức là một, nên thánh tích của làng này thì sự tích hai ngài chép lẫn nhau, nhưng xét trong quốc sử và sự tích các nơi khác phụng sự thì đức Minh Không họ Nguyễn, đức Không Lộ họ Dương, ngày sinh ngày hoá khác nhau, vậy dịch thuật ra sau này để tiện khảo cứu". Sau đó, Ngô Vi Liễn đã viết thứ tự sự tích của cả bốn nhà sư nổi tiếng ở thời Lý: Không Lộ, Minh Không, Giác Hải và Đạo Hạnh. "Thánh tổ hành thực diễn âm ca" của Đặng Xuân Bảng, ký hiệu VHv.2380 trong kho sách Hán Nôm do Viện nghiên cứu Hán Nôm quản lý viết vào tháng 10 năm Mậu Tuất, niên hiệu Thành Thái, tức là tháng 11 năm 1898, bằng chữ Nôm theo thể lục bát, có chú thích tỉ mỉ bằng chữ Hán và "Quốc sư bảo lục" Hoàng triều Bảo Đại tam niên (1928) Mậu Thìn mạnh thu phụng tu, Lại Trì xã phụng tự nội dung sách hoàn toàn giống sự tích Không Lộ chép trong sách Quỳnh Côi dư địa chí Bài Thiện Đình, Tuần Phủ Đặng tiên sinh khảo bạt như sau: "Chùa làng ta phụng sự đức Không Lộ. Khi còn nhỏ, tôi thường thấy các bậc cố lão nói rằng đức Không Lộ tức là đức Minh Không. Tôi lấy làm ngờ. Nhân có dịp xem sách nhà chùa, tôi thấy có hai tập: một tập là Tiền lục nói rằng: Đức Không Lộ họ Dương, húy Minh Nghiêm, quán phủ Hải Thanh; một tập là Hậu lục nói rằng: đức Không Lộ họ Nguyễn, húy Chí Thành, quán làng Đàm Xá, biệt hiệu Minh Không. Tôi càng ngờ." "Khi xem sách Lĩnh Nam chích quái của ông Vũ Quỳnh thì sự tích thành tổ hợp với Tiền lục, nhưng tôi lại ngờ rằng hoặc là Hậu lục đã có khảo cứu chăng? Khi đi du lãm các nơi, tôi thường hỏi thánh tích và so sánh sách Chích quái với quốc sử thì Không Lộ họ Dương, Minh Không họ Nguyễn, Không Lộ huý là Minh Nghiêm. Minh Không huý là Chí Thành. Họ và tên đều khác nhau. Không Lộ quê ở phủ Hải Thanh, Minh Không quê ở Đàm Xá, quê quán cũng khác nhau. Không Lộ sinh năm Bính Thìn niên hiệu Thuận Thiên thứ 7 (1016) triều Lý Thái Tổ. Minh Không sinh năm Bính Ngọ niên hiệu Long Chương Thiên Tự nguyên niên (1066) triều Lý Thánh Tông. Không Lộ mất năm Giáp Tuất, niên hiệu Hội Phong thứ 3 (1094) triều Lý Nhân Tông. Minh Không mất năm Tân Dậu, niên hiệu Đại Định thứ 2 (1141) triều Lý Anh Tông. Khi sinh cách nhau 51 năm, khi mất cách nhau 48 năm. Ngày sinh ngày mất không giống nhau. Như thế Tiền lục đúng Hậu lục sai. Các bậc cố lão làng ta không khảo cứu Tiền lục nên lầm. Vả lại, Hậu lục nói sau, có lẽ vì chùa Diên Phúc nguyên là nơi Không Lộ tu hành, về sau Minh Không cũng tu ở đây. Và do pháp thuật hai vị đều nổi tiếng nên Hậu lục chép lầm cũng vì cớ đó." ""Đại việt sử ký toàn thư" "Đại Nam nhất thống chí", "Hoàng Việt thi văn tuyển", "Hành Thiện xã chí""... cũng dẫn quan điểm hai người khác nhau. "Địa chí Nam Định 2003" mục nói về tiểu sử Không Lộ cũng cho rằng có sự lẫn lộn giữa Không Lộ và Minh Không "Sự tích Không Lộ, Minh Không" trên Nghiên cứu Hán Nôm - 1984, "về một tập sách Quốc sư bảo lục của Đặng Xuân Bảng" viết khoảng 1898 Nhà nghiên cứu Phạm Đức Duật và nhà nghiên cứu Trần Mỹ Giống đã tập hợp các tư liệu chứng minh hai người khác nhau Di văn. Không Lộ có hai bài thơ là "Ngôn hoài" và "Ngư nhàn". "Ngôn hoài" (Nói nỗi cảm hoài)  là bài kệ khi vui mừng khi chọn được đất tốt để xây chùa Nghiêm Quang làm nơi trụ trì, bộc lộ tình cảm bất tận của tác giả đối với đồng quê, thiên nhiên, tạo vật, đất nước "Phiên âm" "         Trạch đắc long xà địa khả cư" "         Dã tình chung nhật lạc vô dư" "         Hữu thời trực thượng cô phong đỉnh" "         Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư." "         "(Chọn đất long xà tới nghỉ ngơi          Lòng quê vui thích thú thảnh thơi          Núi cao có lúc trèo lên đỉnh          Thét một tiếng vang lạnh cả trời.) "Ngư nhàn" cũng là một bài thơ đặc sắc của Không Lộ. Bài thơ là một bức tranh phong cảnh sơn thủy sinh động và tuyệt đẹp:Bài thơ mang cảm xúc thiền học tinh tế, tâm hồn trong cõi không hư, huyền ảo:          "Vạn lý thanh giang, vạn lý thiên," "         Nhất thôn tang giá, nhất thôn yên," "         Ngư ông thuỵ trước vô nhân hoán" "         Quá ngọ tỉnh lai tuyết mãn thuyền."          (Bát ngát sông xanh, bát ngát trời,          Một thôn mây khói, một dâu gai.          Ông chài ngủ tít không người gọi,          Tỉnh dậy thuyền trưa ngập tuyết rơi).                                            (Ngọc Liên dịch)          Năm 62 tuổi, một hôm Không Lộ đang tĩnh toạ thì chú tiểu hỏi: ""Từ khi tôi đến đây chưa được thầy dạy cho tâm yếu". Không Lộ trả lời: "Chú đem kinh cho ta thì ta tiếp, đem nước cho ta thì ta nhận, lúc nào ta cũng dạy tâm yếu chú"" rồi cười và đọc bài kệ sau: "         Đoàn luyện tâm thâm thủy đắc tinh" "         Sâm sâm trực thượng đối hư đình" "         Hữu nhân lai vấn không không pháp" "         Thân toạ bình biên ảnh tập hình." "         "(Tu luyện bao phen phép đã tinh          Muốn lên đối phó chốn hư đình          Không không nhẽ đó nào ai biết          Ngồi tựa bình phong, bóng ẩn hình.) Trong cuốn "Thiên tiên Phật Thánh lục" có chép bài thơ sau đây của Không Lộ, khi ông gặp Giác Hải. Bài thơ rất lạ, đặc biệt là nghệ thuật sử dụng từ ngữ: "         Thiên liên bích thụ, thụ liên thiên," "         Yên toả thanh sơn, sơn toả yên," "         Thụ nhiễu tùng la, la nhiễu thụ," "         Xuyên thông vu giáp, giáp thông xuyên," "         Tửu mê tuý khách, khách mê tửu," "         Thuyền tống hành nhân, nhân tống thuyền," "         Hội đắc tri âm, âm đắc hội," "         Truyền kim đáo cổ, cổ kim truyền." "         "(Da trời giòng biếc nhuộm màu cây          Một giải non xanh toả khói mây          Cây quấn cây tùng, cây rậm rạp          Nước quanh đỉnh giáp, nước vơi đầy          Rượu mê người, người mê rượu đấy          Khách giục thuyền, thuyền giục khách đây          Liệu được tri âm, nào được mấy          Xưa nay vẫn nhớ mãi xưa nay.)                                      (Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng dịch) Hoặc khi gặp Từ Đạo Hạnh, ông cũng làm bài kệ trả lời Đạo Hạnh như sau:          "Ngọc nang bí quyết nghĩ chân kim" "         Cá chung mãn nguyệt lộ thần tâm" "         Hà sa cách thị Bồ đề đạo" "         Nghĩ hướng Bồ đề mãn liễu cầm."          (Túi ngọc bí truyền rõ thực vàng          Tháng qua mưa móc dạ xốn xang          Hà sa thu gót Bồ đề đạo          Tìm gặp được nhau mấy đoạn trường.) Một buổi chiều thu, trời trong mây đẹp, ngồi trên thuyền câu, ông cảm hứng đọc thơ: "         Ngọc phái chi trường, không sơn hà vạn lại" "         Dung toạ ngư, ngư khiếp điểu" "         Dương cung tiễu hạc, hạc nghi cung" "         Quang phóng vân tiêu ngoại" "         Phong quang đô hảo đạo khoái lạc."          (Ngọc Phái dẫu dài, không bằng núi sông muôn trùng ngọn gió          Thung dung ngồi câu cá, nhưng cá lại sợ chim          Dương cung bắn hạc, hạc ngờ cung          Vút bay rẽ mây lên tít trời cao          Thời tiết đẹp trên đường đi vui vẻ) Bài thơ tác giả tự sự về bản thân:          "Lão hỷ yên hà tẩu"          "Na tri lợi lộc mến"          "Thuỳ điểu đương liễu ngạn" "         Tán võng địch hoá thôn" "         Bả trạo ngân phong tuyết" "         Đặc ngư thí tửu tôn" "         Sơn tiều thời ngộ ngã" "         Kim cổ mạn tương luân".          (Yên hà mùi vẫn thích          Danh lợi tính không ưa          Bến liễu buông câu sớm          Làn lau vãi lưới trưa          Gác mái ca phong nguyệt          Được cá chén say sưa          Kiếm củi người đi lại          Vui cùng dở chuyện xưa.)                              (Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng dịch)
1
null
Thịt tươi hay thịt tươi sống hay thịt tươi ngon là tên gọi chỉ chung cho các loại thịt được sử dụng khi vừa qua giết mổ, thông dụng đó là các loại thịt gia súc (thịt đỏ) và thịt gia cầm (thịt trắng). Thịt tươi là nguyên liệu cho món thịt tái. Một số loại thịt phổ biến vẫn thường được sử dụng để chế biến các món ăn thường ngày là thịt bò, thịt heo, thịt gà, thịt cừu, trên thị trường, nhìn màu sắc và sờ là hai cách chính giúp người nội trợ tránh mua nhầm thịt cũ hay thịt ôi. Đặc điểm. Bề ngoài. Miếng thịt tươi nhìn chung thì có bề ngoài khô, sáng, không ướt, không nhớt. Thịt có độ mềm vừa phải, không quá cứng chắc cũng không được mềm nhão, sờ tay vào thịt thấy có độ dẻo dính do miếng thịt tươi thường có độ rắn chắc, đàn hồi cao. Khi dùng ngón tay ấn vào miếng thịt sẽ thấy không để lại vết lõm, không bị dính, sớ thịt săn chắc, Thịt tươi ngon có các thớ thịt mịn đều. Thịt tươi khi ngửi có mùi thơm của thịt. Đối với miếng thịt tươi lát cắt bình thường, sáng, khô còn miếng thịt đã hỏng lát cắt màu sắc tối và hơi ướt. Thịt càng tươi thì mặt cắt càng bóng và căng. Màu sắc. Thịt heo tươi thường phần nạc có màu hồng đều, phần mỡ màu trắng. Riêng đối với thịt lợn, những miếng thịt tươi sẽ có màng ngoài khô, màu sắc đỏ tươi hoặc đỏ sẫm, óng ả. Mỡ có màu sắc, độ rắn bình thường. Ngược lại, nếu miếng thịt đã bị ôi thì sẽ có màu hơi thâm, hoặc xanh nhạt, không bóng. Mặt khác, miếng thịt khi đã ôi, còn có thể có nhớt, mùi khó chịu. Thịt bò tươi có màu hồng hoặc đỏ nhạt, mỡ có màu vàng nhạt những miếng thịt có màu đỏ tươi hay còn gọi là màu đỏ anh đào. Nếu thịt bò tươi, còn tốt sẽ có màu đỏ tươi tự nhiên đặc trưng, mỡ màu vàng nhạt, độ đàn hồi tốt (ấn tay vào miếng thịt và bỏ ra không để lại vết tay), bề mặt khô, mịn, ráo nước, mùi bình thường đặc trưng của thịt bò. Cách chọn. Để chọn thịt tươi ngon, sạch cần lưu ý nên mua thịt tại những nơi có cửa hàng cụ thể để bảo đảm trước tiên về nguồn thịt được cung cấp. Nên chọn nơi có quầy bán thịt cao ráo, sạch sẽ. Không nên mua thịt những nơi bày bán thấp hoặc để sát đất gần cống rãnh, hố chứa rác... Để giữ thịt tươi lâu, một số người bán thịt ướp hàn the hoặc urea vào thịt do đó thịt sẽ bị thịt cứng đanh, không mềm dẻo vừa phải, không có mùi thơm của thịt mà màu vẫn tươi đẹp. Những miếng thịt thối rữa sẽ trở nên tươi ngon khi chúng được ngâm trong hóa chất độc hại.
1
null
USS "Palmer" (DD-161) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, được cải biến thành một tàu quét mìn với ký hiệu lườn DMS-5, và đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai cho đến khi bị máy bay Nhật Bản đánh chìm tại Philippines vào ngày 7 tháng 1 năm 1945. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Chuẩn đô đốc James Shedden Palmer (1810–1867). Thiết kế và chế tạo. "Palmer" được đặt lườn vào ngày 29 tháng 5 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng Fore River Shipbuilding Company ở Quincy, Massachusetts. Nó được hạ thủy vào ngày 18 tháng 8 năm 1918, được đỡ đầu bởi bà Robert C. Hilliard, và được đưa ra hoạt động vào ngày 22 tháng 11 năm 1918 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân R. R. Stewart. Lịch sử hoạt động. Được phân về Hạm đội Thái Bình Dương, "Palmer" tham gia các hoạt động hạm đội cho đến khi được cho xuất biên chế tại San Diego vào ngày 31 tháng 5 năm 1922, và nằm trong thành phần dự bị cho đến khi được cho nhập biên chế trở lại vào ngày 7 tháng 8 năm 1940. Được cải biến thành một tàu quét mìn với ký hiệu lườn DMS–5 vào ngày 19 tháng 11, nó quay trở lại khu vực Đại Tây Dương để gia nhập Đội quét mìn 19 ngoài khơi Norfolk cho nhiệm vụ hộ tống tại Đại Tây Dương và vùng biển Caribe. Nó lên đường vào ngày 24 tháng 10 năm 1942, hộ tống cho Lực lượng Đặc nhiệm 34 trong Chiến dịch Torch, cuộc đổ bộ lên Bắc Phi, đi đến ngoài khơi Fedala vào ngày 7 tháng 11, nơi nó thực hiện quét mìn chuẩn bị trước khi làm nhiệm vụ canh phòng chống tàu ngầm. Ngày hôm sau, "Palmer" chặn bắt chiếc tàu đánh cá Pháp "Joseph Elise", và đối đầu với một khẩu đội pháo duyên hải đối phương. "Palmer" hoạt động tuần tra và hộ tống ngoài khơi bờ biển Bắc Phi cho đến ngày 12 tháng 12, rồi quay trở lại nhiệm vụ hộ tống Đại Tây Dương trong suốt năm 1943 tại khu vực ven biển, Caribe và Tây Bắc Đại Tây Dương. Được lệnh đi sang khu vực Thái Bình Dương, nó tiến hành huấn luyện ngoài khơi San Diego, rồi gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 53 tại Trân Châu Cảng, lên đường cùng đơn vị này vào ngày 22 tháng 1 năm 1944 cho đợt tấn công lên Kwajalein. "Palmer" tiếp tục ở lại khu vực quần đảo Marshall cho đến ngày 12 tháng 2, tuần tra bảo vệ các tàu vận tải, rồi hộ tống các chuyến đi đến Trân Châu Cảng và Majuro. Đi trước lực lượng đổ bộ hai ngày, "Palmer" đi đến ngoài khơi Saipan cho một đợt càn quét kéo dài năm giờ vào ngày 13 tháng 6, rồi hộ tống các tàu vận tải trong khi đổ bộ. Nhiệm vụ hộ tống đến Eniwetok đã khiến nó lỡ mất Trận chiến biển Philippine, nhưng nó quay lại Saipan làm nhiệm vụ bảo vệ từ ngày 22 tháng 6 đến ngày 8 tháng 7. "Palmer" đi đến ngoài khơi Guam vào ngày 22 tháng 7, một ngày sau khi hòn đảo được chiếm đóng, để bảo vệ các tàu vận tải tại cảng Apra trong năm ngày. Quay trở về Trân Châu Cảng, "Palmer" chuẩn bị để đi đến Philippines, một chiến dịch lớn nơi các con tàu khu trục cũ được cải biến vẫn chứng tỏ được giá trị. Tập trung tại Manus, đội của nó đi đến vịnh Leyte vào ngày 17 tháng 10 càn quét các luồng chính và khu vực vận chuyển trong ba ngày trước cuộc đổ bộ. Sau khi hộ tống các tàu vận tải đi qua luồng an toàn, nó thực hiện một đợt càn quét nhanh trong eo biển Surigao rồi quay trở về Manus vào ngày 23 tháng 10, ngay trước trận chiến vịnh Leyte. Sau khi được tiếp liệu, "Palmer" rời Manus vào ngày 23 tháng 12 để đi vịnh Lingayen, nơi nó lặp lại các nhiệm vụ đã thực hiện thành công tại Leyte. Bị bắn phá trên đường đi bởi tàu chiến và máy bay đối phương, "Palmer" cùng đội của nó xâm nhập vịnh Lingayen thành công sáng sớm ngày 7 tháng 1 năm 1945, và bắt đầu quét mìn dưới hỏa lực không kích đối phương. Lúc khoảng 15 giờ 45 phút, một vụ nổ dữ dội làm hỏng turbine áp lực thấp bên mạn trái. Nó bắt đầu thu hồi thiết bị quét mìn và tách khỏi đội hình để sửa chữa. Đến 18 giờ 40 phút, một máy bay ném bom hai động cơ Nhật Bản bay thấp bên trên và thả hai quả bom trúng vào mạn trái. Một đám cháy lớn đe dọa hầm đạn, và "Palmer" nổ tung và chìm chỉ trong vòng sáu phút. Trong thành phần thủy thủ đoàn, tổn thất bao gồm 2 người thiệt mạng, 38 người bị thương và 26 người khác mất tích. Phần thưởng. "Palmer" được tặng thưởng năm Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
1
null
USS "Thatcher" (DD–162) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Canada và tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai như là chiếc HMCS "Niagara" (I-57). Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Chuẩn đô đốc Henry K. Thatcher (1806–1880). Thiết kế và chế tạo. "Waters" được đặt lườn vào ngày 8 tháng 6 năm 1918 tại xưởng tàu Fore River của hãng Bethlehem Shipbuilding Corporation ở Quincy, Massachusetts. Nó được hạ thủy vào ngày 31 tháng 8 năm 1918, được đỡ đầu bởi cô Doris Bentley, cháu gái họ của Chuẩn đô đốc Thatcher, và được đưa ra hoạt động vào ngày 14 tháng 1 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Henry M. Kieffer. Lịch sử hoạt động. USS "Thatcher". Vào ngày 25 tháng 1 năm 1919, Thiếu tá Francis W. Rockwell, người sau này là Tư lệnh Quân khu Hải quân 16 tại Philippines vào lúc nổ ra Thế Chiến II tại Thái Bình Dương, tiếp nhận quyền chỉ huy con tàu. Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy, "Thatcher" hoạt động cùng Hạm đội Đại Tây Dương Hoa Kỳ cho đến mùa Thu năm 1919. Vào lúc diễn ra chuyến bay lịch sử vượt đại dương của chiếc thủy phi cơ hải quân NC-4 vào tháng 5 năm 1919, chiếc tàu khu trục đã phục vụ như cột mốc dẫn đường số 9, một trong số 21 trạm dẫn đường trải dài từ Newfoundland đến quần đảo Azores, giữa các tàu chị em và . Đang khi giữa biển khơi, chiếc tàu khu trục trợ giúp vào việc định vị bằng mắt thường và vô tuyến cho các thủy phi cơ khi chúng bay ngang bên trên để hướng đến Lisboa, Bồ Đào Nha. Sau khi hoàn tất nhiệm vụ này, chiếc tàu khu trục, vốn được mang ký hiệu lườn DD-162 từ ngày 17 tháng 7 năm 1920, tiếp tục hoạt động huấn luyện thường lệ ngoài khơi bờ Đông Hoa Kỳ cho đến mùa Thu năm 1921, khi nó đi sang vùng bờ Tây Hoa Kỳ để gia nhập Hạm đội Thái Bình Dương. Nó hoạt động ngoài khơi San Diego, California, tiến hành các chuyến đi thực tập và huấn luyện dọc bờ biển cho đến khi được cho xuất biên chế tại San Diego vào ngày 7 tháng 6 năm 1922. "Thatcher" bị bỏ không tại San Diego cho đến mùa Hè năm 1939, khi chiến tranh nổ ra tại Châu Âu do việc Đức Quốc xã xâm chiếm Ba Lan vào ngày 1 tháng 9 năm 1939. Chiếc tàu khu trục được cho nhập biên chế trở lại tại San Diego vào ngày 18 tháng 12 năm 1939 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Henry E. Richter, và tiến hành chạy thử máy và huấn luyện ngoài khơi bờ Tây Hoa Kỳ cho đến khi được điều động sang khu vực Đại Tây Dương vào mùa Xuân tiếp theo. Băng qua kênh đào Panama vào ngày 1 tháng 4 năm 1940, một tháng trước khi tình hình tại châu Âu trở nên tồi tệ khi chiến lược tấn công Blitzkrieg của Đức nhanh chóng áp đảo nước Pháp và Hà Lan; vì vậy "Thatcher" được điều vào nhiệm vụ Tuần tra Trung lập cùng các hoạt động huấn luyện ngoài khơi bờ Đông và vùng vịnh Mexico suốt mùa Hè năm 1940. Bước ngoặt đáng kể của chiến tranh xảy ra khi Pháp thua trận vào tháng 6 năm 1940. Lực lượng tàu khu trục của Anh chịu tổn thất đáng kể sau thảm họa của chiến dịch Na Uy và việc triệt thoái khỏi Dunkirk, càng bị dàn mỏng hơn nữa sau khi Ý chính thức tham chiến theo phe Trục. Thủ tướng Winston Churchill đã phải cầu viện đến sự giúp đỡ của Hoa Kỳ, và Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã đáp ứng khi đề nghị chuyển cho Anh 50 tàu khu trục "quá hạn" theo Thỏa thuận đổi tàu khu trục lấy căn cứ, đổi lấy quyền thuê lại trong 99 năm các căn cứ chiến lược tại vùng Tây Bán Cầu. Theo đó, "Thatcher" được cho rút khỏi Đội khu trục 69 thuộc Hải đội Đại Tây Dương để chuyển cho Hải quân Hoàng gia Canada, vốn được phân bổ 6 trong số 50 tàu khu trục được chuyển giao. Nó cùng năm tàu chị em cùng lớp đi đến Halifax, Nova Scotia vào ngày 20 tháng 9, là nhóm tàu khu trục sàn phẳng thứ ba được chuyển giao. Chính thức xuất biên chế vào ngày 24 tháng 9 năm 1940, tên của "Thatcher"được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 8 tháng 1 năm 1941. HMCS "Niagara". Chiếc tàu khu trục được đổi tên thành HMCS "Niagara" (I57), theo thông lệ đặt tên các tàu khu trục Canada theo tên các con sông Canada, đồng thời do nguồn gốc từ Hoa Kỳ của nó, tên con tàu được đặt theo tên sông Niagara hình thành nên ranh giới giữa New York và Ontario. Nó rời Halifax vào ngày 30 tháng 11, hướng về phía Đông ngang qua St. John's, Newfoundland, và đi đến quần đảo Anh vào ngày 11 tháng 12. Vào đầu năm 1941, "Niagara" được phân về Đội hộ tống 4 trực thuộc Bộ chỉ huy tiếp cận phía Tây và đặt căn cứ tại Greenock, Scotland. Được chuyển sang Lực lượng Hộ tống Newfoundland sau đó, nó làm nhiệm vụ hộ tống vận tải cho đến mùa Hè 1941. Trong giai đoạn này, nó từng tham gia vào việc chiếm giữ tàu ngầm U-boat "U-570". Một máy bay ném bom Lockheed Hudson cất cánh từ Kaldaðarnes, về phía Đông Nam Reykjavík, Iceland, đã phát hiện ra "U-570" đang chạy trên mặt nước ngoài khơi bờ biển Iceland vào ngày 27 tháng 8 năm 1941. Chiếc Hudson đã tấn công chiếc tàu ngầm bằng mìn sâu, gây hư hại đến mức nó không thể lặn xuống. Không lâu sau, thủy thủ Đức xuất hiện trên boong với một lá cờ trắng, dấu hiệu của việc chấp nhận đầu hàng. Không có khả năng bắt giữ tàu ngầm, chiếc máy bay đã phát tín hiệu vô tuyến yêu cầu trợ giúp. "Niagara" đi đến hiện trường lúc 08 giờ 20 phút ngày 28 tháng 8; thời tiết xấu thoạt tiên làm ngăn trở việc tiếp cận, nhưng đến 18 giờ 00 một đội đổ bộ của "Niagara" đã lên được chiếc "U-570" và kéo chiếc tàu ngầm đi về Þorlákshöfn, Iceland. 43 thành viên thủy thủ đoàn của chiếc tàu ngầm bị bắt làm tù binh, và sau đó chiếc tàu ngầm U-boat được đưa vào phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh như là chiếc . Đến tháng 1 năm 1942, "Niagara" hộ tống chiếc tàu buôn Đan Mạch "Triton" bị hư hại do gặp bão tố ngoài biển quay về Belfast, Bắc Ireland an toàn. Sang tháng 3, nó cứu vớt những người sống sót từ chiếc tàu buôn Hoa Kỳ SS "Independence Hall", vốn bị mắc cạn ngoài khơi đảo Sable, Nova Scotia và bị vỡ làm đôi. Một tháng sau, nó vớt hai xuồng đầy những người sống sót từ chiếc SS "Rio Blanco" bị đánh đắm do trúng ngư lôi từ tàu ngầm "U-160" vào ngày 1 tháng 4 năm 1942 ở cách về phía Đông Cape Hatteras, North Carolina. Chiếc tàu khu trục sau đó được sửa chữa nồi hơi tại Pictou từ tháng 5 đến tháng 8 năm 1942 trước khi tiếp nối các hoạt động hộ tống vận tải ven biển giữa Halifax và New York cũng như tại khu vực Tây Đại Tây Dương. Một đợt tái trang bị khác tại Pictou diễn ra từ tháng 6 đến tháng 10 năm 1943, và nó lại tiếp tục các hoạt động hộ tống vận tải ven biển. "Niagara" trở thành một tàu mục tiêu thực hành ngư lôi, thoạt tiên là tại Halifax và sau đó tại St. John, New Brunswick, từ mùa Xuân năm 1945 cho đến khi Thế Chiến II kết thúc vào giữa tháng 8 năm 1945. Được cho xuất biên chế vào ngày 15 tháng 9, "Niagara" bị bán để tháo dỡ vào ngày 27 tháng 5 năm 1946 và bị tháo dỡ không lâu sau đó.
1
null
USS "Walker" (DD-163) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, xuất biên chế năm 1922 và được sử dụng như một lườn tàu huấn luyện kiểm soát hư hỏng trong Chiến tranh Thế giới thứ hai cho đến khi bị đắm vào năm 1942. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Đô đốc John Grimes Walker (1835-1907), người từng phục vụ trong cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ. Thiết kế và chế tạo. "Walker" được đặt lườn vào ngày 19 tháng 6 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng Fore River Shipbuilding Company ở Quincy, Massachusetts, theo một hợp đồng với hãng Bethlehem Steel Co.. Nó được hạ thủy vào ngày 14 tháng 9 năm 1918, được đỡ đầu bởi bà Francis Pickering Thomas, và được đưa ra hoạt động tại Xưởng hải quân Boston vào ngày 31 tháng 1 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Harold A. Waddington. Lịch sử hoạt động. "Walker" lên đường vào ngày 20 tháng 2 để gặp gỡ chiếc khi chiếc này quay trở về từ Pháp với Tổng thống Woodrow Wilson trên tàu. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ này, nó quay trở lại Boston, Massachusetts, nơi nó được phân về Đội 18 thuộc Lực lượng Khu trục không lâu sau đó. Con tàu tiếp tục đi đến Newport, Rhode Island để hoàn tất việc trang bị ngư lôi. Nó lên đường đi Tây Ấn vào ngày 6 tháng 3, và không lâu sau khi đi đến vùng biển Caribe đã tham gia các cuộc cơ động và tập trận thường lệ của hạm đội. Chiếc tàu khu trục tiến hành các cuộc thực tập chiến thuật ngoài khơi San Juan, Puerto Rico, và thực hành tác xạ ngoài khơi vịnh Guantánamo, Cuba cho đến cuối mùa Đông và đầu mùa Xuân năm 1919 trước khi quay trở lên phía Bắc. Sau khi đi vào cảng New York vào ngày 14 tháng 4, chiếc tàu khu trục quay về căn cứ của nó ở Newport. Đến đầu tháng 5, nó lên đường làm nhiệm vụ hỗ trợ cho chuyến bay vượt Đại Tây Dương của các thủy phi cơ. Thoạt tiên đặt căn cứ tại vịnh Trepassy, Newfoundland từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 5, nó sau đó hoạt động ngoài biển từ ngày 10 đến ngày 17 tháng 5 như một trong một chuỗi các tàu khu trục làm cột mốc dẫn đường cho các máy bay NC. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, nó quay về Newport vào ngày 20 tháng 5. Sau khi ghé thăm Annapolis, Maryland vào đầu tháng 6 trong hai ngày cho các cuộc thực tập tốt nghiệp của học viên sĩ quan thuộc Học viện Hải quân Hoa Kỳ, "Walker" đi về phía Nam và băng qua kênh đào Panama vào ngày 24 tháng 7, viếng thăm ngắn Acapulco, México trong hai ngày trước khi lên đường hướng đến Nam California, đi đến Coronado vào ngày 8 tháng 8. Đặt căn cứ tại San Diego, California, "Walker" thực hiện các hoạt động tại chỗ ngoài khơi vùng bờ Tây Hoa Kỳ cho đến cuối năm 1919, khi nó được phân về lực lượng dự bị. Nó đón lên tàu nhân sự Hải quân Dự bị Hoa Kỳ cho một chuyến đi huấn luyện vào ngày 27 tháng 10 năm 1920, và tiếp tục trong thành phần dự bị luân phiên, thực hiện các cuộc thực hành mục tiêu định kỳ, di chuyển hết tốc độ cũng như đại tu tại Xưởng hải quân Mare Island. "Walker" được cho xuất biên chế vào ngày 7 tháng 6 năm 1922 và neo đậu cùng hạm đội dự bị tại San Diego. Sau 16 năm bị bỏ không, "Walker" được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 28 tháng 3 năm 1938 và chờ đợi để được bán tháo dỡ. Tuy nhiên, nhu cầu vật chất của các quân khu hải quân ven biển khiến chiếc tàu khu trục đưa trở lại danh sách và dự định cải biến thành một đê chắn sóng. Được xếp lại lớp thành YW-57 vào ngày 1 tháng 4 năm 1939, con tàu bắt đầu được cải biến tại Xưởng hải quân Mare Island khi Hải quân một lần nữa quyết định thay đổi vai trò của con tàu. Với chiến tranh đã nổ ra tại Châu Âu làm tăng khả năng Hoa Kỳ sẽ can dự vào cuộc xung đột, nó được sử dụng như một lườn tàu kiểm soát hư hỏng. Được xếp lại lớp thành DCH-1 vào ngày 11 tháng 7 năm 1940, nó neo đậu tại Căn cứ Khu trục San Diego, nó được sử dụng như một lườn tàu dành cho việc huấn luyện thực hành và mô phỏng cải tiến các kỹ thuật kiểm soát hư hỏng mới. Nó được đổi sang ký hiệu lườn IX-44 vào ngày 17 tháng 2 năm 1941; nhưng cũng trong năm này, do căn cứ của Hạm đội Thái Bình Dương được chuyển từ San Diego đến Trân Châu Cảng, có dự định sẽ cho kéo IX-44 (vốn đã bị tháo dỡ động cơ trong quá trình cải biến thành YW-57) đến quần đảo Hawaii. Vào ngày 28 tháng 12 năm 1941, đang khi được chiếc tàu chở dầu kéo từ San Diego đến Trân Châu Cảng, nó bị trôi dạt và bị buộc phải đánh đắm bởi hỏa lực pháo của "Neches" ở tọa độ .
1
null
USS "Crosby" (DD–164/APD-17) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được cải biến thành tàu vận chuyển cao tốc APD-17 trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Chuẩn đô đốc Peirce Crosby (1824–1899), người từng phục vụ trong cuộc Chiến tranh Mexico-Hoa Kỳ và cuộc Nội chiến Hoa Kỳ. Thiết kế và chế tạo. "Crosby" được đặt lườn vào ngày 23 tháng 6 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng Bethlehem Shipbuilding Corporation ở Quincy, Massachusetts. Nó được hạ thủy vào ngày 28 tháng 9 năm 1918, được đỡ đầu bởi bà C. Tittman, và được đưa ra hoạt động vào ngày 24 tháng 1 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Fred Thomas Berry. Lịch sử hoạt động. Giữa hai cuộc thế chiến. Trình diện để hoạt động cùng Hạm đội Đại Tây Dương, "Crosby" tham gia các cuộc tập trận tại vịnh Guatánamo, Cuba, cho đến khi lên đường đi vịnh Trepassy, Newfoundland vào tháng 5 năm 1919, làm nhiệm vụ cột mốc dẫn đường cho chuyến bay lịch sử vượt Đại Tây Dương của các thủy phi cơ Hải quân NC. Đến ngày 1 tháng 7 năm 1919, nó được điều về Hạm đội Thái Bình Dương, và một tuần sau đã khởi hành từ New York để đi San Diego, California, đến nơi vào ngày 7 tháng 8. Nó viếng thăm Portland, Oregon và Seattle, Washington, rồi được đặt trong tình trạng dự bị với biên chế thủy thủ đoàn giảm thiểu tại San Diego từ ngày 30 tháng 1 năm 1920. Nó tiếp tục ở trong tình trạng dự bị cho đến khi được cho xuất biên chế vào ngày 7 tháng 6 năm 1922. Được cho nhập biên chế trở lại vào ngày 18 tháng 12 năm 1939, "Crosby" tham gia hoạt động Tuần tra Trung lập ngoài khơi San Pedro từ ngày 1 tháng 4 năm 1940. Đến ngày 1 tháng 7 năm 1940, nó được phân về Lực lượng Phòng thủ Quân khu Hải quân 11, và sau một chuyến đi huấn luyện quân nhân dự bị lại tiếp tục hoạt động tuần tra và phục vụ cho Căn cứ Khu trục San Diego trong việc huấn luyện thủy thủ đoàn tàu khu trục. Thế Chiến II. Sau khi Hoa Kỳ chính thức tham gia Chiến tranh Thế giới thứ hai do việc Nhật Bản bất ngờ tấn công Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, "Crosby" tiếp tục nhiệm vụ tuần tra tại vùng biển của Quân khu Hải quân 11 và hộ tống các đoàn tàu vận tải tại chỗ cho đến ngày 1 tháng 2 năm 1943, khi nó đi vào Xưởng hải quân Mare Island để được cải biến thành một tàu vận chuyển cao tốc. "Crosby" được xếp lại lớp với ký hiệu lườn mới APD-17 vào ngày 22 tháng 2 năm 1943. Rời San Francisco vào ngày 27 tháng 2 năm 1943, "Crosby" đi ngang qua Trân Châu Cảng, Samoa, Viti Levu, và Noumea để hướng đến Espiritu Santo, đến nơi vào ngày 27 tháng 3, và tiến hành thực tập huấn luyện cùng Sư đoàn 4 Thủy quân Lục chiến. "Crosby" lên đường vào ngày 29 tháng 4 để đi Guadalcanal trong thành phần hộ tống tàu vận tải. Nó thực hiện hai chuyến đi tương tự cho đến ngày 6 tháng 6, rồi trình diện để hoạt động tuần tra và hộ tống tại khu vực quần đảo Solomon. Nó hỗ trợ một cách hiệu quả trong các hoạt động bình định tại đây, cho đổ bộ binh lính lên đảo New Georgia từ ngày 30 tháng 6 đến ngày 5 tháng 7; lên đảo Treasury dưới hỏa lực nặng của đối phương và ngày 27 tháng 10 và lên đảo Bougainville vào ngày 6 và 17 tháng 11. Nó khởi hành đi Brisbane, Australia vào ngày 21 tháng 11 để đại tu, quay trở về vịnh Milne, New Guinea vào ngày 12 tháng 12. Nó huấn luyện nhân sự Lục quân và Thủy quân Lục chiến cho các hoạt động tác chiến đổ bộ, rồi đổ bộ lực lượng lên mũi Gloucester, New Britain từ ngày 24 đến ngày 29 tháng 12 năm 1943 và tại vịnh Dekays, New Guinea vào ngày 2 tháng 1 năm 1944. Rời vịnh Milne vào ngày 6 tháng 1 năm 1944, "Crosby" hộ tống các đoàn tàu vận tải từ Espiritu Santo đến quần đảo Solomon suốt tháng 1, và tiếp tục ở lại khu vực Solomon cho nhiệm vụ tuần tra và bảo vệ. Nó cho đổ bộ lực lượng lên đảo Green từ ngày 15 đến ngày 20 tháng 2, và lên đảo Emirau vào ngày 20 tháng 3. Quay trở lại các hoạt động tại khu vực New Guinea vào ngày 6 tháng 4, nó cho đổ bộ binh lính lên Aitape từ ngày 22 đến ngày 26 tháng 4, Hộ tống các đoàn tàu vận tải đi đến Hollandia, tham gia cuộc chiếm đóng đảo Biak vào ngày 27 tháng 5, và phục vụ như soái hạm các tàu đổ bộ tại vịnh Humboldt từ ngày 31 tháng 5 đến ngày 6 tháng 7. Sau một đợt tái trang bị ngắn tại đảo Manus, nó cho đổ bộ binh lính lên mũi Sansapor vào ngày 30 tháng 7, rồi lên đường đi Sydney, Australia để tiếp liệu và sửa chữa. Nó quay trở lại vịnh Humbolt vào ngày 30 tháng 8, và cho đổ bộ lực lượng lên Morotai vào ngày 15 tháng 9 để hoàn tất các hoạt động tại khu vực New Guinea. "Crosby" rời vịnh Humbolt vào ngày 12 tháng 10 năm 1944 để đưa binh lính của Tiểu đoàn Biệt kích 6 đổ bộ lên đảo Suluan, Leyte vào ngày 17 tháng 10 trong một nhiệm vụ trinh sát. Để chuẩn bị cho cuộc đổ bộ sắp đến, nó cho đổ bộ binh lính lên đảo Dinagat ở cửa ngỏ vịnh Leyte trong các ngày 19 và 20 tháng 10. Nhận thêm binh lính tại vịnh Humbolt, nó đưa họ lên bờ tại vịnh Ormoc vào ngày 7 tháng 12, rồi tiếp nhận những người sống sót từ tàu khu trục chị em sau khi chiếc này bị máy bay tấn công cảm tử kamikaze gây hư hại và bị hải pháo của tàu chiến Mỹ đánh đắm. Chiếc tàu khu trục tham gia cuộc đổ bộ lên Mindoro vào ngày 15 tháng 12, rồi quay trở lại vịnh Humbolt nhận thêm binh lính. Sau khi cho đổ bộ lực lượng lên vịnh Lingayen vào ngày 11 tháng 1 năm 1945, "Crosby" tiếp tục hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên Luzon, đổ bộ thành công lực lượng tại Nasugbu vào ngày 31 tháng 1, tại Mariveles vào ngày 15 tháng 2, và tại Corregidor vào ngày 17 tháng 2. Nó lên đường quay trở về Ulithi để được đại tu. "Crosby" đi đến Okinawa vào ngày 18 tháng 4, và trong các hoạt động tuần tra chống tàu ngầm và cột mốc radar đầy nguy hiểm đã suýt bị máy bay kamikaze đánh trúng vào ngày 13 tháng 5. Nó lên đường đi San Francisco vào ngày 18 tháng 5, đến nơi vào ngày 19 tháng 6. Cũ kỹ và bị hư hại qua quãng đời phục vụ kéo dài và căng thẳng, nó được cho là không thích hợp để sừa chữa. "Crosby" được cho ngừng hoạt động vào ngày 28 tháng 9 năm 1945 và bị bán vào ngày 23 tháng 5 năm 1946 cho hãng Boston Metals Co. tại Baltimore, Maryland để tháo dỡ. Phần thưởng. Ngoài danh hiệu Đơn vị Tưởng thưởng Hải quân, "Crosby" còn được trao tặng mười Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
1
null
Thịt đỏ trong cách hiểu ẩm thực truyền thống là các loại thịt mang sắc đỏ khi còn tươi và không đổi thành màu trắng khi nấu chín.Đây là loại thịt từ phần lớn các loài thú. Thịt đỏ được định nghĩa cụ thể là các loại thịt bò, thịt cừu, thịt heo, thịt bê, thịt ngựa, thịt trâu... Chính các chất oxy hóa chứa trong các heme (nhóm thay thế chứa các nguyên tố sắt màu đỏ) tạo màu đỏ cho thịt, nhưng quá nhiều các chất này sẽ làm thay đổi hoạt chất của mô dẫn tới ung thư. Các loại thịt đỏ được ghi nhận là chứa nhiều đạm và phù hợp cho sự phát triển của thể chất, loại thịt này chứa một hàm lượng đạm khá cao, rất tốt cho người ở tuổi thành niên. Tuy nhiên, nếu sử dụng thịt đỏ không hợp lý thì người tiêu thụ sẽ có nhiều nguy cơ về sức khỏe. Không nên ăn quá 300-500g thịt đỏ mỗi tuần, lý tưởng nhất là ăn 2 lần/tuần (khẩu phần mỗi lần ăn từ 100-150g) và ăn rau củ giúp tiêu hóa thịt đỏ. Lợi ích. Thịt đỏ là có chứa nhiều vitamin B12 (giúp sản sinh DNA, nuôi dưỡng các tế bào thần kinh và hồng cầu), niacin và vitamin B6. Thịt bò và thịt lợn dồi dào hàm lượng protein, sắt và kẽm. Đơn cử như thịt bò có chứa hàm lượng kẽm nhiều gấp 11 lần so với cá ngừ và gấp 3 lần lượng sắt so với cải bó xôi. Thịt đỏ còn chứa những axit béo có lợi cho sức khỏe như omega 3, omega 6. Ngoài ra, thịt đỏ có hàm lượng chất sắt cao, một thành phần mà các thiếu nữ hay phụ nữ ở độ tuổi sinh sản thường hay thiếu. Thịt đỏ không phải lúc nào cũng gây hại cho sức khỏe. Trái lại, thịt đỏ mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe nếu nó được chế biến đúng cách và tiêu thụ với số lượng hợp lý. Khi tiêu thụ thịt đỏ mang lại lợi ích cho sức khỏe, cụ thể là: Ngoài ra, ăn thịt đỏ ở mức độ vừa phải có thể giúp chống trầm cảm và lo lắng ở phụ nữ, một điều tra mối liên hệ giữa ăn thịt đỏ và sự hiện diện của chứng trầm cảm, lo lắng ở hơn 1.000 phụ nữ ở Mỹ đã bác bỏ quan điểm rằng thịt đỏ có thể không tốt cho sức khỏe tâm thần vì nhiều nghiên cứu từ các nước khác cho thấy ăn thịt đỏ có liên quan đến các rủi ro sức khỏe thể chất do đó những ai ăn ít thịt đỏ có nguy cơ bị trầm cảm, lo lắng cao gấp 2 lần so với những người ăn thịt đỏ ở mức vừa phải. Nguy cơ. Việc tiêu thụ nhiều thịt đỏ có thể gây hại cho sức khỏe. Ăn thịt đỏ làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim và ung thư, dễ gây chết sớm. Một nghiên cứu thực hiện trên hơn 120.000 người cho thấy việc ăn một phần thịt đỏ qua chế biến hàng ngày có thể làm tăng 20% nguy cơ chết trẻ, nguyên nhân do ăn thịt đỏ làm tăng nguy cơ bị bệnh tim và ung thư. một nghiên cứu đối với 37.698 đàn ông được theo dõi trong 22 năm và 83.644 phụ nữ được theo dõi trong 28 năm. những người ăn một miếng thịt đỏ to bằng lá bài chưa qua chế biến mỗi ngày có nguy cơ tử vong cao hơn 13% so với những người không ăn thịt đỏ thường xuyên. Ăn quá nhiều thịt đỏ cũng làm tăng nguy cơ bị trầm cảm, lo âu. Bệnh tim. Ăn nhiều thịt đỏ dễ mắc bệnh tim mạch. Ăn thịt đỏ thường xuyên có thể gây hại cho tim bởi vì loại thịt này chứa nhiều mỡ bão hòa. Một nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở tiến hành một cuộc khảo sát trên hơn 1,2 triệu người tại 10 quốc gia và cho kết quả rằng những người ăn 85 gram thịt đỏ mỗi ngày được liên kết với nguy cơ mắc bệnh tim mạch đến 42%. Nguyên nhân là trong thành phần thịt đỏ có chứa lượng lớn chất béo bão hòa. Một hóa chất được phát hiện trong thịt đỏ mới đây đã giúp giải thích tại sao ăn quá nhiều thịt nướng, thịt băm và thịt xông khói lại có hại cho sức khỏe tim mạch, chất cacnitin trong thịt đỏ bị phá vỡ bởi các vi khuẩn trong ruột. Điều này kích hoạt một phản ứng dây chuyền làm tăng lượng cholesterol trong máu và tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch. Ung thư. Có những nghiên cứu cho thấy bằng chứng về liên hệ giữa ung thư với thịt đỏ và thịt đã qua chế biến. Một theo dõi hàng nghìn người trưởng thành trong gần 20 năm và phát hiện những người ăn chế độ giàu protein động vật thì khả năng chết vì ung thư cao gấp 4 lần những người ăn ít đạm. Các nghiên cứu trước đây từng cho thấy mối liên quan giữa ung thư và thịt đỏ việc thêm chất nitơrát nhằm giữ cho thịt có màu đỏ cũng làm tăng nguy cơ ung thư. Chỉ cần ăn 80g thịt đỏ mỗi ngày cũng đủ tăng nguy cơ phát triển ung thư. Đại học Harvard cho thấy chế độ ăn nhiều thịt đỏ làm tăng 22% nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ. Nghiên cứu năm 2005 cho thấy những người thường xuyên ăn 160g thịt đỏ mỗi ngày có nguy cơ ung thư ruột tăng 1/3. Một chất sắc tố trong thị đỏ có thể gây tổn thương DNA của tế nào niêm mạc đường tiêu hóa. Cơ thể con người thường coi thịt đỏ là những tác nhân ngoại lai và khởi động đáp ứng miễn dịch độc hại để chống trả. thịt lợn, thịt bò và thịt cừu chứa một loại đường được sản sinh tự nhiên ở những động vật ăn thịt khác, nhưng không có ở người, ở những động vật ăn thịt khác, hệ miễn dịch không có phản ứng gì vì loại đường này vốn đã có sẵn trong cơ thể. Một nghiên cứu thực hiện trên thói quen ăn uống của hơn 500.000 người ở châu Âu trong 10 năm. Kết quả: Nguy cơ mắc ung thư ruột cao gấp 1/3 cho những người thường ăn hơn 160g thịt tươi hoặc thịt chế biến mỗi ngày, so với những người ăn chỉ một lượng như thế trong mỗi tuần. Việc ăn gia cầm không xảy ra sự khác biệt. Tuy nhiên, những ai ăn cá mỗi ngày thì giảm nguy cơ 1/3 so với những ai ăn cá một lần mỗi tuần, nghiên cứu còn chứng minh rằng nguy cơ ung thư ruột có thể giảm bớt bằng cách giảm ăn thịt đỏ. Do đó kkhông nên ăn quá 70g mỗi ngày, tương đương với 3 lát giăm bông, một dẻ sườn cừu hay 2 lát bít tết mỗi ngày. Đàn ông ăn nhiều thịt đỏ và thịt chế biến có thể phải chịu nguy cơ mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt cao. Một khảo sát chế độ ăn uống của 175.000 đàn ông tuổi từ 50 đến 71 ở Mỹ, kết quả là trong 9 năm theo dõi, 10.313 người mắc bệnh và 419 người tử vong. Kết quả nghiên cứu cho thấy 20% đàn ông ăn nhiều thịt đỏ nhất có nguy cơ mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt cao hơn 12% so với nhóm ăn ít nhất. Mối liên hệ giữa việc ăn thịt đỏ với bệnh ung thư tuyến tiền liệt cấp còn đáng kể hơn. Nguy cơ ở người ăn nhiều nhất cao hơn 30% so với người ăn ít nhất. Đặc biệt là ăn thịt đỏ chiên tăng rủi ro ung thư tuyến tiền liệt đến 40% vì khi thịt đỏ được nấu chín ở nhiệt độ cao, các hóa chất gây ung thư được hình thành, vì thế rủi ro mắc bệnh này sẽ càng cao. Qua theo dõi 2.000 nam giới khác, thì kết quả cho thấy hơn một nửa số người tham gia bị mắc phải căn bệnh này. Chế độ ăn uống mà ½ nam giới mắc phải bệnh này ưa chọn là thịt đỏ chiên hoặc gia cầm chiên. những người ăn hơn 1,5 khẩu phần ăn thịt đỏ chiên mỗi tuần tăng rủi ro ung thư tuyến tiền liệt đến 30%, con số này sẽ tăng lên 40% nếu ăn hơn 2,5 khẩu phần thịt đỏ được nấu ở nhiệt độ cao. Những người ăn hơn 1,5 khẩu phần ăn thịt đỏ chiên mỗi tuần tăng rủi ro ung thư tuyến tiền liệt đến 30%, con số này sẽ tăng lên 40% nếu ăn hơn 2,5 khẩu phần thịt đỏ được nấu ở nhiệt độ cao. Những người ăn trên 1,5 suất thịt đỏ mỗi ngày có nguy cơ bị ung thư vú cao hơn người ăn ít. Nguyên nhân giải thích sự liên quan chặt chẽ giữa việc ăn thịt đỏ và nguy cơ mắc ung thư vú. do quá trình nấu hay chế biến thịt đỏ gây ra những chất hóa học gây ung thư và việc sử dụng hormone tăng trưởng trong chăn nuôi. Một khảo sát cho thấy chế độ ăn uống của 35.000 phụ nữ tuổi từ 35 đến 69 trong 9 năm ở Mỹ cho kết quả rằng những phụ nữ trong giai đoạn hậu mãn kinh ăn nhiều thịt đỏ nhất, hơn 103g mỗi ngày, có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú cao hơn 64% so với những người không ăn. Tỷ lệ tương ứng ở những người ăn 57g mỗi ngày, kể cả đó là thịt cừu, heo hay bò, là 56%. Nguy cơ mắc bệnh cũng tăng lên ở những phụ nữ trẻ ở giai đoạn tiền mãn kinh. Một khảo cứu cho thấy, người dân sống tại Bỉ đang tiêu thụ quá nhiều thịt đỏ, trung bình, mỗi người Bỉ tiêu thụ 640g thịt đỏ/tuần trong khi đó lượng tiêu thụ tối đa cho phép chỉ là 500g. Nếu chỉ ăn 300g thịt/tuần sẽ làm giảm 20% nguy cơ mắc bệnh ung thư ruột. người tiêu dùng tránh ăn thịt nguội được làm từ thịt đỏ mà hãy chuyển sang sử dụng thịt gà, thịt đà điểu và các gia cầm khác là những thực phẩm không gây nguy hại về ung thư. Tiểu đường. Một nghiên cứu cho biết, thai phụ và người đang định thụ thai có thể giảm được nguy cơ mắc bệnh tiểu đường trong thai kỳ bằng cách hạn chế ăn thịt đỏ, có nhiều bằng chứng cho thấy ăn thịt đỏ liên quan với tỷ lệ cao bệnh tiểu đường ở thai phụ, những phụ nữ ăn nhiều thịt đỏ và thịt chế biến sẵn ngay cả trước khi mang thai cũng có nhiều nguy cơ mắc bệnh.
1
null
Cumacea là một bộ động vật giáp xác biển nhỏ của siêu bộ Peracarida, đôi khi được gọi là Tôm đội mão hay Tôm dấu phẩy. Bề ngoài và cấu trúc cơ thể dị thường của chúng làm cho chúng dễ phân biệt với các loài giáp xác khác. Chúng sống ở đáy mềm như bùn và cát, chủ yếu là trong môi trường biển. Hiện có hơn 1.500 loài cumacea được mô tả chính thức. Sự đa dạng loài Cumacea tăng theo chiều sâu. Phân loại. Cumacea thuộc về siêu bộ Peracarida, trong lớp Malacostraca. Bộ Cumacea được chia thành 8 họ, 141 chi, và 1.523 loài: Một loài cũng được đặt "incertae sedis" trong bộ.
1
null
Dinodontosaurus là một chi động vật ăn cỏ đã sinh sống ở châu Mỹ vào kỷ Trias. Loài động vật này có thân, nanh của hà mã và miệng của một con rùa. Loài ăn cỏ này có thân dài đến 2,4 m và nặng vài trăm pound. Chúng sinh sống vào giai đoạn Giữa Triat và biến mất vào giai đoạn cuối Triat.
1
null
Bodotria scorpioides là một loài giáp xác thuộc bộ Cumacea và chi Bodotria. Chúng được tìm thấy ở phía Đông Đại Tây Dương, Địa Trung Hải và Biển Đen. "B. scorpioides" không có một gai đuôi. Đốt ngực đầu tiên quá ngắn để được nhìn thấy từ trên cao, đốt thứ hai thì dài hơn.
1
null
Charles-Valentin Alkan (30 tháng 11 năm 1813 - 29 tháng 3 năm 1888) là một nhà soạn nhạc và nhạc công piano người Pháp gốc Do Thái. Ông sinh ra tại Paris, Pháp. Khi qua đời, ông được an táng tại nghĩa trang Montmartre. Tại thời điểm nổi tiếng nhất của ông vào thập niên 1830 và 1840, ông cùng những người bạn và đồng nghiệp của mình Frédéric Chopin và Franz Liszt là trong số các nhạc công piano virtuoso hàng đầu ở Paái. Ông thường xuyên biểu diễn cùng Chopin. Thành phẩm được cho là ấn tượng nhất của Alkan là bộ etude viết ở giọng Thứ (opus số 39) bao gồm 12 khúc nhạc. Tại Conservatoire de Paris, nơi Alkan nhập học lúc lên 6, ông đã nhận được nhiều giải thưởng. Tiểu sử. Xuất thân và thời thơ ấu. Charles-Valentin Alkan có tên thật là Charles-Valentin Morhange sinh ra trong một gia đình Do Thái sống ở Paris. (Sau này ông quyết định dùng tên của cha mình làm họ của bản thân). Nhà soạn nhạc là con thứ hai trong gia đình có sáu người con. Tất cả những người con trong gia đình này đều được thừa hưởng tài năng âm nhạc từ người cha của mình vốn là một người điều hành một trường nhạc tư nhân ở Le Marais. Khi còn rất nhỏ, con thứ hai nhà Morhange đã tỏ ra là một thần đồng âm nhạc hiếm có. Mới 6 tuổi, cậu đã được nhận vào Nhạc viện Paris. Tại đây, cậu được học piano và organ, những nhạc cụ gắn bó với cậu cho đến cuối đời. Thêm một tuổi nữa, cậu bé đã ra mắt trước công chúng. Điều đáng nói là nhạc cụ cậu biểu diễn không phải là piano là sở trường mà là violin. Khi 13 tuổi, Alkan đã hoàn thành khóa học hòa thanh tại nhạc viện. Khi chưa đầy 15 tuổi, năm 1828, cậu đã có sáng tác đầu tay. Cậu bé này là học trò cưng của thầy Pierre-Joseph-Guillaume Zimmermann. Điều này được thể hiện ở chỗ ông quý trọng Alkan hơn bất kỳ người học trò nào khác. Chính ông là người giới thiệu Alkan với tầng lớp thượng lưu và giới nghệ sĩ ở Paris. Và cũng chính ông là người chọn Alkan làm người phụ tá của mình. Thời thanh niên. Với tài năng của mình, sự nghiệp của Alkan lên như diều gặp gió. Tới thập niên 1830, Alkan trở thành một trong những nghệ sĩ piano điêu luyện bậc nhất ở thành Paris. Phải nói thêm rằng thành Paris khi đó đã trở nên rất "chật chội" khi có nhiều tài năng piano xuất hiện như Frédéric Chopin, Franz Liszt, Ferdinand Hiller... Trong đó, Chopin là con người đáng chú ý, bởi con người này vốn rất kiệm lời khi tán dương một ai đó. Vậy mà không chỉ gia nhập vào hàng ngũ trên, Alkan khiến cho Chopin cảm thấy rất ấn tượng về mình. Alkan và Chopin đã trở thành đôi bạn thân và chỉ một ít lâu sau đó, Alkan đã sống bên cạnh nhà của Chopin. Hai người thường dạy thay lớp học của nhau, điều này rất có ý nghĩa với Alan bởi học trò của Chopin là những người giàu có. Năm 1848, Alkan đã đạt đến đỉnh cao của sự nghiệp. Ông thường được biểu diễn cùng Chopin và mọi người ca ngợi ông, cho rằng ông sánh ngang với các "quỷ piano" thời đấy như Liszt, Sigismond Thalberg, Friedrich Kalkbrenner. Liszt đã không khỏi kinh ngạc khi cho rằng Alkan là người có kỹ thuật tinh tế nhất mà ông đã từng gặp. Thật không may, sự đánh giá của các đồng nghiệp lại tỷ lệ nghịch với lòng mến mộ của công chúng. Dù là một nghệ sĩ piano tài ba, Alkan cũng chú trọng đến việc giảng dạy âm nhạc nghiêm túc. Và công việc giảng dạy đã đến với ông khi vào năm 1848, ông có cơ hội nhận chức trưởng khoa piano. Tuy nhiên, vì bản tính nhút nhát, cộng thêm việc là người Do Thái, Alkan đã đành nhường vị trí đó cho một người học trò. Người đó là Antoine François Marmontel, một người xướng âm và chẳng biết chơi piano cho ra hồn. Chính sự bất công này đã khắc sâu vào vết thương tinh thần cho Alkan. Đó là lý do vì sao ông bỏ sự nghiệp biểu diễn và xa lánh khán giả tới tận 25 năm. Có nhiều lý do để Alkan thực hiện hành động như thế. Vốn ngưỡng mộ tài năng của người bạn Chopin, lại thêm tâm hồn quá nhạy cảm, nên khi người đàn ông yểu mệnh này qua đời vào năm 1849, Alkan cũng bị tác động. Alkan đã thu nhận các học trò của người bạn quá cố của mình. Ngoài ra, có một số ý kiến cho rằng, không hẳn Alkan chán ngấy xã hội thực tại nên mới đưa ra quyết định như vậy mà là bởi ông muốn chuyên tâm sáng tác. Bằng chứng là thỉnh thoảng ông vẫn cho xuất bản các tác phẩm âm nhạc của mình. Khi về già. Mặc dù chuyên tâm vào sáng tác và giảng dạy, (ấy là chưa kể ông cũng quan tâm đến tôn giáo), Alkan cũng có đôi lần trở lại biểu diễn. Tử 60 tuổi trở đi, ông đã tổ chức khá thường xuyên các buổi hòa nhạc ở Paris. Các tác phẩm được ông biểu diễn là những người như François Couperin, Jean-Philippe Rameau, Johann Sebastian Bach, Felix Mendelssohn, Chopin, Robert Schumann, Camille Saint-Saëns... Thời đó thì Alkan, một nghệ sĩ piano, được biết đến nhiều hơn Alkan, một nhà soạn nhạc. Những năm cuối đời, Alkan sống cuộc đời cô độc và buồn thảm. Ông không kết hôn và sống một mình làm ông tuyệt vọng hơn. Tâm trạng thất thường đến nỗi đôi khi âm nhạc cũng không thể cứu được ông. Trong bức thư viết vào năm 1861 gửi cho người bạn Hiller, Alkan không giấu nổi nỗi thất vọngː Qua đời. Cái chết đến với Alkan theo cái cách không ngờ đến. Vào một ngày nọ, ông với tay để lấy một cuốn sách trên cao. Bất ngờ giá sách đổ xuống người. Người ta cho rằng ông chết vì điều đó. Nhưng nếu bạn nghĩ ông chết ngay khi đó thì bạn đã sai. Sự thật là vì sống một mình nên ông không có người trợ giúp ngay lúc ấy, lại do sức khỏe yếu nên ông không kêu cứu được. Chính vì thế, mãi 24 giờ sau, ông mới được một người phát hiện và đưa đi bệnh viện. Nhưng không kịp nữa rồi. Ông qua đời vào năm 1888 khi đã 74 tuổi. Điều đáng nói là Alkan được chôn cất tại Nghĩa trang Montmartre đúng vào ngày 1 tháng 4 năm đó chính là chủ nhật của Lễ Phục sinh. Tính cách. Vì là người kín đáo, Alkan bị đồn đoán là người lập dị và khó ưa. Tuy nhiên, trên thực tế, ông là người hài hước, thông minh, những người bạn của ông kể lại. Cũng như nhiều nghệ sĩ, ông có nhiều mâu thuẫn nội tâmː cởi mở nhưng hay thất vọng trong tình bạn, có tài những ghét trình diễn. Quá nhút nhát, Alkan dễ bị tổn thương bởi dư luận. Không như Liszt, khi bị đồn thổi, Alkan chỉ có một giải pháp là trốn tránh. Chính điều này đã hủy hoại sự nghiệp và cuộc đời của ông. Phong cách âm nhạc. Sáng tác. Hầu hết các tác phẩm của Alkan thể hiện cảm xúc tiêu cực. Chúng mang màu sắc buồn thảm, kiểu như của một người trầm cảm hét lên một tiếng nào đó. Âm nhạc của ông có ma lực không kém gì Carl Maria von Weber và Liszt. Các tác phẩm của ông dường như khơi gợi những ước mơ thầm kín, những nỗi niềm phẫn uất, những ám ảnh đến cực độ. Tâm trạng thất thường của ông được khắc họa bởi những nốt nhạc mãnh liệt. Chúng như là những đoạn nhật ký có giai điệu kể về cuộc đời về tác giả của chúng. Tuy nhiên, Alkan không hẳn là một con người buồn thẳm thế. Ông cũng là một con người hài hước, hay lồng vào tác phẩm của mình những ẩn dụ thâm thúy. Đã có tin đồn rằng các tác phẩm dành cho piano của Alkan là "khó đến mức không thể chơi nổi". Đây là trở ngại lớn cho sự phổ biến của chúng vì phần đông các nghệ sĩ không muốn chọn những tác phẩm như vậy. Tuy nhiên, không hẳn là chúng cao siêu đến mức là hầu như không thể, các nghệ sĩ piano hàng đầu có thể biểu diễn được. Kỹ thuật trong những tác phẩm đó không nhiều như Chopin hay của Sergei Rachmaninov, một người trình độ vừa có thể chơi vài tác phẩm của nhà soạn nhạc gốc Do Thái này. Tuy nhiên, nói đi cũng phải nói lại, kỹ thuật trong một số tác phẩm của Alkan đúng là siêu đẳng. Bởi thế mới có chuyện nhiều nhà xuất bản e ngại việc xuất bản các tác phẩm của ông, bởi như thế thì mấy biểu diễn. Những khoảng lặng xuất hiện bất ngờ và cách sử dụng hợp âm đột phá là những đặc điểm nổi bật nhất ở âm nhạc của Alkan. Điều bí ẩn nhất đối với các nhà nghiên cứu là một con người khép mình như Alkan lại có thể mở ra xu hướng âm nhạc trong tương lai. Bằng chứng rõ ràng nhất là chủ nghĩa ấn tượng trong âm nhạc. Dấu ấn của Alkan được thể hiện rõ ở Claude Debussy và Maurice Ravel. Tuy âm nhạc của Alkan vẫn phảng phất đâu đó chất cổ điển, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc ông không vượt trước thời đại về nhạc điệu và cấu trúc. Vì vậy, không ít người ngỡ ngàng khi tiếp xúc với các tác phẩm của ông và biết được rằng nếu ông sống cùng thời với Chopin và Liszt thì tính hiện đại trong các tác phẩm của ông không thua kém gì những Bela Bartók, Henry Cowell, Gustav Mahler hay Olivier Messiaen. Rất đáng tiếc là công chúng thế kỷ 19 không đánh giá đúng giá trị của chúng. Tính chất tôn giáo cũng là một điểm nổi bật trong âm nhạc của Alkan. Ông đã từng có tham vọng đó là đem cả cuốn Kinh Thánh vào âm nhạc của mình. Tuy nhiên, ông mới chỉ dịch cuốn đó từ tiếng Hebrew sang tiếng Pháp. Ông có nhiều tác phẩm tôn giáo viết cho pedal piano, một nhạc cụ lai giữa hình dáng của piano và bộ pedal của organ (đây là nhạc cụ sở trường của Alkan). Biểu diễn. Đương thời, người ta nhớ đến Alkan là một nghệ sĩ piano hơn là một nhà soạn nhạc. Vincent d'Indy đã phải thốt lên sau khi Alkan chơi sonata cho piano số 31 của Ludwig van Beethovenː Còn một học trò của Liszt, người xem Alkan biểu diễn nhiều lần cho tới Alkan qua đời, đã kể rằng tiếng đàn của Alkan vẫn giữ được sức trẻ và sự thu hút bất chấp tuổi tác.
1
null
Phân họ Suinae của họ Lợn là một phân họ của động vật có vú bao gồm ít nhất một số thành viên sinh hoạt trong họ Suidae và gần nhất với lợn nhà và các loài liên quan, chẳng hạn như babirusas. Một số loài tuyệt chủng trong phân họ Suidae được xếp vào phân họ khác hơn Suinae. Tuy nhiên, việc phân loại các thành viên đã tuyệt chủng của Suoidea-nhóm lớn hơn bao gồm các thành viên của Suidae, họ lợn lòi Pecari (Tayassuidae) và phân loại khác nhau khác nhau về số lượng các phân họ trong Suidae.
1
null
Quái vật lợn rừng (Monster Pig hay Pigzilla hay Hogzilla II) là biệt danh do người dân Alabama ở Mỹ tự đặt ra để mô tả về một con lợn hoang có kích thước khổng lồ và được coi là con lợn rừng lớn nhất hành tinh. Câu chuyện này xảy ra vào năm 2007, trên cơ sở những tường trình kèm theo hình ảnh cho thấy việc có một cậu bé 11 tuổi đã bắn hạ một con lợn hoang khổng lồ. Như vậy, đây là con lợn rừng to nhất hành tinh với biệt danh Hogzilla II. Mô tả. Đây là con lợn rừng già nua nặng gần nửa tấn, chính xác là con lợn này nặng gần 480 kg và dài khoảng 2,85 mét kể từ mõm cho tới cuống đuôi, với những cái răng sắc hểu dài cả gang tay, ước tính con lợn này cho đến 250 đến hơn 300 cân thịt. Bắp đùi của nó to ngang ngửa lốp xe tải. Điều này có nghĩa là còn nặng hơn cả quái thú huyền thoại Hogzilla vì theo truyền thuyết, quái vật Hogzilla là con lợn rừng khổng lồ ngót nghét 450 kg cân nặng và 3m74 chiều dài đã bị bắn chết năm 2004. Tuy nhiên khi các nhà khoa học thuộc tổ chức National Geographic phát hiện ra di hài của nó thì mới hay con vật chỉ nặng hơn 360 kg và dài chưa đến 2,5 m. Câu chuyện. Cậu thiếu niên 11 tuổi Jamison Stone ở bang Alabama miền nam nước Mỹ coi như đã làm nên chiến tích kỳ diệu tại khu rừng Pickensville là đã bắn hạ con lợn. Được biết, từ năm lên 3 tuổi, Jaminson đã có kinh nghiệm theo chân bố vốn là tay thợ săn thiện xạ của vùng đông Alabama, lên 5 tuổi, cậu đã hạ gục con hoẵng nhỏ đầu tiên, để rồi 6 năm sau lập nên thành tích này khi vừa tốt nghiệp lớp 6 tại ngôi trường làng Christian Heritage Academy. Khi săn con mồi này cậu cùng bố và 2 người thợ đã đuổi bắt nó khắp khu rừng trong suốt 3 giờ đồng hồ cho đến khi mệt lả và phải đến phát thứ tám con thú khổng lồ mới chịu ngã gục trước mũi súng 0.5 ly, tuy vậy lợn rừng nổi tiếng là sống dai, vì thế ngay cả khi quái thú khuỵu ngã đội thợ săn vẫn không dám bước ngay lại gần, chờ một lúc lâu sau, Mike Stone cùng 2 người thợ mới dò dẫm tiến vào, chuẩn bị bộc phá phòng trường hợp nó vùng dậy tấn công. Dân làng Pickensville đã phải sát phạt một khoảnh rừng lớn rồi dùng xe tải kéo nó về đến trang trại Clay ở Lineville.
1
null
LAM Mozambique Airlines (tiếng Bồ Đào Nha: LAM Linhas Aéreas de Moçambique) là hãng hàng không quốc gia Mozambique. Hãng hàng không này có trụ sở và trung tâm hoạt động ở Sân bay quốc tế Maputo ở thủ đô Maputo. Hãng hàng không này được những người thực dân Bồ Đào Nha lập năm 1936 làm một hãng hàng không bay thuê chuyến. Ban đầu có tên gọi là Direcção de Exploração de Transportes Aéreos và được đổi tên năm 1980 sau khi tổ chức lại. LAM Mozambique Airlines là một thành viên của Hiệp hội Vận tải Hàng không Quốc tế và Hiệp hội các hãng hàng không châu Phi từ năm 1976. Hãng có các tuyến bay thường lệ nam châu Phi và châu Âu. Hãng này nằm trong Danh sách các hãng hàng không bị Liên minh châu Âu cấm thời điểm tháng 4 năm 2011.
1
null
Khu bảo tồn xuyên biên giới Kavango-Zambezi (tiếng Anh: "Kavango-Zambezi Transfrontier Conservation Area" - KAZA TFCA) còn được gọi tắt là KAZA. KAZA là một khu bảo tồn xuyên biên giới 5 quốc gia ở khu vực phía nam châu Phi bao gồm: Angola, Botswana, Namibia, Zambia và Zimbabwe. Sáng kiến thành lập KAZA được đề xuất bởi sự hợp tác giữa quỹ Công viên Hòa bình (Peace Parks Foundation) và quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (World Wide Fund for Nature). Ngày 18 tháng 08 năm 2011, KAZA chính thức được thành lập khi có xác nhận của đại diện cơ quan Nhà nước và Chính phủ các nước tham gia. Sau đó, KAZA chính thức được mở cửa vào ngày 15 tháng 03 năm 2012 ở Katima Mulilo, Namibia. KAZA được thành lập với mục tiêu là: "To sustainably manage the Kavango Zambezi ecosystem, its heritage and cultural resources based on best conservation and tourism models for the socio-economic wellbeing of the communities and other stakeholders in and around the eco-region through harmonization of policies, strategies and practices." tạm dịch sang tiếng Việt là: "Quản lý bền vững hệ sinh thái Kavango Zambezi, di sản và các nguồn lực văn hóa dựa trên các mô hình du lịch và bảo tồn tốt nhất cho phúc lợi kinh tế xã hội của các cộng đồng và các bên liên quan khác ở trong và xung quanh khu bảo tồn bằng các chính sách hài hòa, chiến lược và thực tiễn." Thành phần. Các vườn quốc gia và khu vực bảo vệ nằm trong vùng: ở Angola: ở Namibia: ở Botswana: ở Zimbabwe: ở Zambia:
1
null
Shikishima (tiếng Nhật: しきしま) là lớp tàu tuần tra lớn nhất của Cảnh sát Biển Nhật Bản. Lớp này hiện có 2 tàu Shikishima (số hiệu PLH31) và Akitsushima (PLH32). Chữ P trong số hiệu của các con tàu chỉ đây là tàu tuần tra, L chỉ đây là tàu cỡ lớn và H chỉ đây là tàu có trang bị máy bay trực thăng. Các tàu lớp Shikishima dài 150 m, rộng 17 m, có lượng giãn nước tới khoảng 6.500 tấn, toàn tải 9.300 tấn - tương đương một tàu khu trục. Tàu được trang bị hai máy bay trực thăng loại nhỏ, hai khẩu pháo 20 mm và hai khẩu pháo 40 mm. Tàu Shikishima được hạ thủy năm 1990 và đưa vào sử dụng năm 1992. Tàu do hãng IHI (Ishikawajima-Harima Heavy Industries Co., Ltd) chế tạo tại xưởng ở Tokyo. Tàu Akitsushima được hạ thủy ngày 4 tháng 7 năm 2012 tại Yokohama và chính thức đưa vào sử dụng từ ngày 28 tháng 11 năm 2013. Tàu này do hãng IHI cùng với Japan Marine United Corporation đóng tại Yokohama với tổng chi phí khoảng 230 tỷ yên.
1
null
Đảng Cộng sản Tiệp Khắc là một đảng cộng sản theo chủ nghĩa Mác-Lenin tồn tại từ năm 1921-1992 từng nắm quyền Liên bang Tiệp Khắc. Đảng này bắt đầu cầm quyền sau cuộc đảo chính Tiệp Khắc năm 1948. Sau cuộc cách mạng Nhung, cùng với sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa tại hầu khắp các nước Đông Âu khác cũng như sức ép của quần chúng nhân dân ngày càng dâng cao, vào ngày 28 tháng 11 năm 1989, Đảng Cộng sản Tiệp Khắc đã tuyên bố từ bỏ quyền lực và giải tán chế độ độc đảng. Tháng 10 năm 1990, Đảng Cộng sản Tiệp Khắc trở thành một liên minh của Đảng Cộng sản Bohemia và Moravia và Đảng Cộng sản Slovakia. Trong một đạo luật được ban hành năm 1993 về tính bất hợp pháp của chế độ cộng sản và về sự chống đối đối với chế độ do chính đảng này lãnh đạo, đảng cộng sản Tiệp Khắc bị tuyên bố là một tổ chức tội phạm.
1
null
Coenobita brevimanus là một loài giáp xác đất có nguồn gốc từ bờ biển phía đông của châu Phi và phía tây nam Thái Bình Dương. Cá thể trưởng thành của loài này có thể lớn hơn một vài loài khác trong chi "Coenobita", khối lượng cơ thể lên đến 230 g.
1
null
hay Trung-Lưu giới câu (, nghĩa là "rãnh biên giới Trung Quốc-Lưu Cầu") là một bồn trũng sau cung ở biển Hoa Đông, hình thành do sự mở rộng của thạch quyển lục địa phía sau hệ thống cung-vực Ryukyu, nói cách khác là khi mảng Biển Philippines bị hút chìm dưới mảng Á-Âu. Trũng Okinawa có một khu vực rộng lớn sâu 1.000 mét và đạt độ sâu tối đa 2.716 m. Giải thích địa lý. Theo giáo sư Quý Quốc Hưng từ Khoa châu Á-Thái Bình Dương thuộc Đại học Nghiên cứu Quốc tế Thượng Hải thì sự tồn tại của trũng Okinawa khiến việc phân định ranh giới thềm lục địa biển Hoa Đông trở nên phức tạp. Theo cách diễn dịch địa lý của Trung Quốc, "...trũng Okinawa chứng tỏ rằng thềm lục địa của Trung Quốc và Nhật Bản không hề nối liền với nhau, tức là trũng này đóng vai trò đường biên giới giữa hai quốc gia, và không nên bỏ qua trũng đó...". Ngược lại, theo cách diễn dịch địa lý của Nhật Bản, "...trũng Okinawa chỉ là một miền trũng vô tình hiện diện tại rìa lục địa liên tục giữa hai quốc gia... và tức là nên bỏ qua các tác động pháp lý của trũng này..." Tiến trình pháp lý. Ngày 15 tháng 8 năm 2013, phái đoàn Trung Quốc thuyết trình trước Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa (CLCS) của Liên Hợp Quốc về đề xuất phân định ranh giới thềm lục địa ngoài phạm vi 200 hải lý trong biển Hoa Đông. Nước này cho rằng thềm lục địa của họ trong biển Hoa Đông mở rộng một cách tự nhiên đến trũng Okinawa, vượt ngoài phạm vi 200 hải lý tính từ đường cơ sở đất liền. Theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển, bất kì quốc gia nào đòi hỏi thềm lục địa vượt ngoài phạm vi 200 hải lý đều phải cung cấp các bằng chứng mang tính khoa học cho phía CLCS. Để thu thập dữ liệu thuyết phục, Trung Quốc cử 14 tàu khảo sát khoa học tiến hành nghiên cứu trên phạm vi 250.000 kilômét vuông, đo lường chiều dài trên 500.000 km.
1
null
"Counting Stars" là một bài hát của ban nhạc Mỹ OneRepublic nằm trong album phòng thu thứ ba của họ, "Native" (2013). Nó được phát hành như là đĩa đơn thứ ba trích từ album và đầu tiên ở Vương quốc Anh và một số thị trường khác vào ngày 14 tháng 6 năm 2013 bởi Mosley Music Group và Interscope Records. "Counting Stars" được viết lời bởi giọng ca chính của nhóm Ryan Tedder, và anh cũng tham gia đồng sản xuất nó với Noel Zancanella, cộng tác viên quen thuộc trong sự nghiệp của OneRepublic và đã hợp tác với nhóm trong nhiều đĩa đơn thành công trước đây như "Good Life" và đĩa đơn đầu tiên từ "Native" "Feel Again" (2012). Được sáng tác trong quá trình Tedder làm việc với ca sĩ người Mỹ Beyoncé và dự định sẽ do nữ ca sĩ thể hiện, bài hát là một bản folk pop mang nhiều âm hưởng từ disco và phúc âm với nội dung đề cập đến những áp lực trong cuộc sống hiện đại mà mỗi người phải đối mặt và so sánh việc đếm sao như là một cách để trấn an tinh thần, trong đó kết hợp nhiều loại nhạc cụ khác nhau như piano, đàn acoustic và đàn hạc. Sau khi phát hành, "Counting Stars" nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao nội dung lời bài hát cũng như quá trình sản xuất của nó, đồng thời gọi đây là một điểm nhấn nổi bật từ album. Ngoài ra, bài hát còn gặt hái nhiều giải thưởng và đề cử tại những lễ trao giải lớn, bao gồm một đề cử tại giải thưởng âm nhạc "Billboard" năm 2014 cho Top Bài hát nhạc số. "Counting Stars" cũng tiếp nhận những thành công vượt trội về mặt thương mại, đứng đầu các bảng xếp hạng ở Canada, Phần Lan, Ba Lan và Vương quốc Anh, và lọt vào top 10 ở hầu hết những quốc gia nó xuất hiện, bao gồm vươn đến top 5 ở nhiều thị trường lớn như Úc, Áo, Brazil, Đan Mạch, Đức, Ireland, New Zealand, Na Uy và Tây Ban Nha. Tại Hoa Kỳ, bài hát đạt vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100 trong hai tuần, trở thành đĩa đơn thứ ba của OneRepublic vươn đến top 10 và ngang bằng thành tích với "Apologize" (2007) như là đĩa đơn có thứ hạng trong sự nghiệp của nhóm trên Hot 100, đồng thời tiêu thụ được hơn 5.7 triệu bản tại đây. Video ca nhạc cho "Counting Stars" được đạo diễn bởi James Lees, trong đó bao gồm những cảnh ban nhạc trình diễn bài hát ở tầng trệt của một tòa nhà và bên dưới một hội thánh nhà thờ đang diễn ra ở tầng trên, trước khi trần nhà bị phá hủy và khiến một người rơi xuống sàn nhà ở căn phòng của ban nhạc, cũng như xen kẽ với hình ảnh một con cá sấu đang bò qua tầng trệt. Để quảng bá bài hát, OneRepublic đã trình diễn nó trên nhiều chương trình truyền hình và lễ trao giải lớn, bao gồm "Good Morning America", "Jimmy Kimmel Live!", "Today", "The Voice", giải thưởng âm nhạc "Billboard" năm 2014 và giải Sự lựa chọn của Công chúng lần thứ 40, cũng như trong nhiều chuyến lưu diễn của họ. Kể từ khi phát hành, "Counting Stars" đã được hát lại bởi nhiều nghệ sĩ khác nhau, như Little Mix, George Ezra, The Vamps, Lost Frequencies, Christina Grimmie và dàn diễn viên của "Glee", cũng như xuất hiện trong nhiều tác phẩm điện ảnh và truyền hình, bao gồm "Earth to Echo", "Golic and Wingo" và "Rookie Blue". Tính đến nay, nó đã bán được hơn 8 triệu bản trên toàn cầu, trở thành một trong những đĩa đơn bán chạy nhất mọi thời đại. Thành phần thực hiện. Thành phần thực hiện được trích từ ghi chú của "Native", Mosley Music Group và Interscope Records. Chứng nhận. !scope="col" colspan="3"| Streaming
1
null
Lợn rừng Thái Lan (Danh pháp khoa học: "Sus scrofa jubatus") là phân loài lợn rừng thuộc nhóm lợn rừng Ấn Độ phân bố tại miền Nam Thái Lan ở Eo đất Kra. Theo S.S Miler (1906) thì lợn rừng tại Thái Lan là phân loài Sus scrofa jubatus, trích lại bởi Kvisna Keo Sua Um và Phira Krai Xeng Xri, 2005, phân loài này cũng có tại Malaysia. Hiện nay, tại Thái Lan hầu như tất cả các vườn quốc gia của họ đều có lợn rừng như: Chea Son National Park, Chaloem Phrakiat Thai Prachan National Park, Doi Chong National Park, Doi Inthanon National Park, Doi Luang National Park, Doi Phu Nang National Park, Doi Suthep-Pui National Park, Erawan National Park, Kaeng Chet Khwae National Park. Đặc điểm. Ngoại hình. Lợn rừng Thái Lan có thân hình thon, mình mỏng, dáng cao, mặt nhọn hình tam giác, mõm dài, tai dựng đứng, nhỏ, mắt lồi trông dữ tợn, ở má có vệt lông màu trắng chạy vắt qua mũi. Mũi của lợn rừng Thái Lan rất thính, linh hoạt, mềm nhưng rất khỏe, chúng thường dùng mũi để đào bới, tìm thức ăn. Con đực có 4 nanh dài chĩa ra ngoài là phương tiện để kiếm thức ăn và là vũ khí thể hiện sức mạnh của chúng. Lông lợn rừng dài, cứng, màu lông nâu hoặc đen. Thường lỗ chân lông thành búi lông, mỗi búi có 3 gốc lông nhưng mỗi lỗ có một lông. Lông bờm màu đen đậm, mọc từ gáy dọc theo sống lưng cho đến mông. lợn rừng Thái có tai to, nằm ngang, mặt ngắn, gãy, thân tròn, mông nở, chân ngắn, móng chân choãi. Con cái trưởng thành nặng 90 – 100 kg, con đực nặng từ 100 – 120 kg. Đuôi chúng nhỏ, ngắn, chỉ dài đến khoeo chân. Chân lợn rừng nhỏ thon, móng nhọn. Vai cao hơn hông. Lợn rừng cái có 2 dãy vú, mỗi dãy 5 núm vú, da rất dày. lợn con có bộ lông giống trái dưa gang (vệt lông màu trắng chạy dọc thân trên nền da màu đen hoặc nâu). Lợn mới đẻ ra đều có sọc dưa đó là các sọc vàng đến nâu trên nền lông sẫm hơn (nâu – đen), kéo dài từ vai tới mông và thường có 6 sọc. Khi lợn trên 2 tháng tuổi, các vệt sọc này không còn nữa, xuất hiện đám lông bạc vùng mắt và dưới yết hầu, lông bờm đã xuất hiện, lông toàn thân đã trở nên màu hung mốc. Các sọc này sẽ phai dần và khoảng đến 3-4 tháng tuổi sẽ mất hẳn. Lợn hậu bị đã có vạt lông bạc trắng trên má, lông sống lưng từ cổ vai đến giữa lưng có màu đậm hơn, đoạn chân liền với móng có màu đen. Tại Thái Lan có 2 giống lợn rừng: nhóm giống mặt dài và nhóm mặt ngắn Lợn rừng mặt dài thì có tai to hơn, nằm ngang, mặt ngắn, gãy, thân tròn, mông nở, chân ngắn, móng chân choãi và mang một vài đặc điểm như thân to, tròn, tai ngang. Lợn mặt ngắn có đặc điểm là to con, màu đen, thân tròn, đẻ nhiều con. Loại này tương đối giống với con lai giữa lợn rừng Việt Nam hoặc lợn rừng Thái lai với các giống lợn đen ở vùng cao. Khi giao phối lợn rừng mặt dài và mặt ngắn, và sáu con đã đẻ ra, 3 trong đó là màu đen, và 3 là sọc dưa. Cho nên lợn Thái Lan mặt ngắn không phải là lợn rừng mà là là con của lợn rừng Thái với các giống lợn đen vùng núi Thái Lan. Lợn rừng Thái Lan trưởng thành ngoài các đặc điểm của lợn hậu bị, còn có các đặc điểm khá nổi bật là thân hình mảnh mai, chân cao, lông bờm dài, màu lông vàng – xám, lưng phẳng, bụng không sệ, tai bé, thẳng, mặt dài, mõm nhọn. Lợn già còn có răng nanh to. Lợn đực giống thì có dương vật bé, cà không to như các giống lợn trắng công nghiệp. Sinh sản. Tỷ lệ sinh sản cao: 2, 5 lứa đẻ/năm, từ 5 -10 con/ lứa. Lợn rừng Thái Lan 7 - 8 tháng tuổi có thể trọng từ 40 – 60 kg với lợn cái có thể cho phối giống Thời gian mang thai giống lợn nhà (khoảng 114 ngày). Thời gian đẻ từ con đầu đến con cuối thì mất khoảng 2 – 4 giờ. Quá trình đẻ diễn ra theo tự nhiên, không cần sự giúp đỡ hoặc can thiệp của con người. Lợn rừng đẻ 2-2, 5 lứa/ năm, lứa đầu (con so) đẻ 3 – năm con, lứa rạ đẻ nhiều hơn (7 – 12 con). Lợn rừng sơ sinh có tầm vóc nhỏ, khối lượng bình quân 0,5 – 0,9 kg/con. Lợn 1-2 tháng tuổi: 5 – 10 kg, 3 - 4 tháng tuổi: 15 kg-20 kg, 8-12 tháng: 60 – 70 kg, khi trưởng thành: trên 100 kg. Số lợn sơ sinh từ 6-10 con/ổ. có nhiều con hung dữ, đẻ ở bụi rậm, hoặc tự làm chuồng. Tập tính. Lợn rừng Thái Lan thường sống theo bầy đàn đông đến 50 con, sống dựa vào nhau để đảm bảo an toàn. Đây là loại lợn rừng khá hiền lành. Vì lợn rừng không chịu nắng nóng nên thường thích kiếm ăn về đêm, thích ngâm mình dưới bùn để thải nhiệt, đuổi côn trùng, ký sinh trùng trên da. Lợn rừng Thái Lan có khả năng thích ứng và đề kháng tốt với khí hậu nóng ẩm, ít bệnh tật, dễ thích ứng với điều kiện nuôi dưỡng và chăm sóc. Lợn rừng Thái Lan là loài ăn tạp, dạ dày đơn, hệ thống tiêu hóa của động vật hoang dã nên có khả năng lợi dụng thức ăn tốt, tiêu tốn thức ăn vì phải cho ăn thêm trên một kg tăng trọng chỉ bằng 1/5 so với lợn nhà. Lợn rừng trong điều kiện hoang dã còn ăn cả côn trùng, giun, xác động vật chết hoặc bất kỳ thứ gì trong môi trường tự nhiên mà nó kiếm được. Ở Thái Lan, người ta hay lấy lá keo dậu tươi cho lợn rừng ăn vì cho rằng, lá keo dậu còn giúp lợn rừng tẩy được giun, sán. Nhiều người vẫn vớt bèo tây lên cho chúng ăn sống. Ngoài ra, các loại rau, cỏ, củ, quả, ngô, đậu, khoai, sắn... đều là thức ăn tốt cho lợn rừng. Chúng là giống vật du cư sống theo bầy đàn cùng bộ lông sọc vằn màu xám nâu đặc trưng. Khi trưởng thành, những con đực tách bầy nhưng vẫn đi lẩn khuất, lầm lũi song song với bầy để bảo vệ. Vì sự tách bầy độc hành này chúng được là lục chiếc hay độc chiếc, theo Hán nghĩa, lục có nghĩa là chai sạn, chiếc có nghĩa là duy nhất. Heo lục chiếc thường mài nanh vào thân cây gỗ dầu chai. Để khi thân dầu chai tiết ra chất nhựa, heo lăn bộ lông cứng vào chất dẻo đó còn gọi là heo lăn chai. Khi nhựa dầu khô, bộ lông heo trở thành một thứ giáp cứng, để bảo vệ mình. Heo cái chỉ lo dẫn dắt heo con kiếm ăn, không quan tâm đến kẻ thù vì đã có heo lục chiếc bảo vệ từ xa. Heo lục chiếc có bộ dáng mông thấp, đầu to. Chiếc đầu quá khổ có cặp nanh cứng và sắc luôn dựng ngược lên chờ đối thủ. Khi đối diện với một con heo lục chiếc trưởng thành, con hổ đôi khi thường cụp đuôi chạy thẳng sau một trận tử chiến. Với cặp nanh chĩa ngược kỳ quái và độ lì đòn kinh dị, heo lục chiếc thường hung hãn tấn công bất ngờ bất kỳ con vật nào ngay khi vừa giáp mặt. Khi đã chiến đấu thì nó không bao giờ bỏ chạy trước bất kỳ đối thủ nào, chiến đấu đến chết. Thợ săn rừng khi gặp heo lục chiếc thường trèo nhanh lên cây rồi mới tìm cách bắn hạ. Nếu chậm chân, hiếm khi toàn mạng sau cú tấn công dũng mãnh đầu tiên của con heo hiếu chiến, lì lợm. Thợ rừng chuyên nghiệp không sợ cọp, beo mà chỉ sợ bất chợt đụng phải heo rừng một mình, độc hành lục chiếc. Lai giống. Lợn rừng Thái Lan lai nuôi lấy thịt được lấy giống từ quá trình lai tạo giữa lợn cái rừng Việt Nam với lợn đực rừng Thái Lan. Lợn rừng lai này dễ nuôi, có khả năng thích nghi với địa thế vùng đồi thấp, giống lợn này có nhiều ưu điểm hơn so với các giống lợn rừng thuần như số con sinh ra nhiều gấp 1,5 lần, tỷ lệ nuôi sống đến khi xuất chuồng đạt trên 90%. Mỗi năm lợn nái đẻ 2 lứa/con nái và mỗi lứa đẻ 6-7 con. Lợn thương phẩm được xuất chuồng sau 6 tháng, trọng lượng trung bình đạt khoảng 20 kg/con. Thịt lợn rừng lai có tỷ lệ nạc cao, chỉ có một lớp mỡ mỏng ngay dưới lớp bì, bì lợn giòn thơm. Con lai F2 giữa lợn rừng Việt Nam và Thái Lan có khả năng sinh trưởng phát triển tốt, đã khắc phục được một số nhược điểm như: hung dữ, thịt khô, cứng, đẻ ít ở lợn rừng Việt và tỷ lệ mỡ cao ở lợn rừng Thái và có những đặc điểm nổi trội so với giống lợn rừng thuần, chất lượng thịt vẫn giữ được đặc thù của thịt lợn rừng nên đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng, vì vậy đã mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người chăn nuôi. Lợn rừng lai có trọng lượng lớn, giá thành thịt cao hơn vì vậy hiệu quả kinh tế cao gấp 1,5 lần so với lợn rừng thuần. Trong văn hóa. Trong văn hóa, lợn rừng Thái Lan cũng được phản ánh, ở Thái Lan, nanh heo rừng là một trong những sản vật quý mang tính tâm linh. Người Thái Lan gọi nanh heo rừng là "Sukhoi ni Sunhk" nhưng nanh heo quý thì gọi là "Mụ Kheo". Mụ Kheo là những chiếc nanh của heo lục chiếc, còn gọi là heo lăn chai được các pháp sư ếm bùa vào. Theo tín ngưỡng phương Đông, nanh heo lục chiếc có công năng đem lại may mắn trong kinh doanh cho người đeo. Thời chiến tranh Đông Dương, nhiều người lính lùng tìm những chiếc nanh heo Mụ Kheo đeo trên cổ để đạn không xâm phạm. Họ tin rằng, ai đeo nanh heo Mụ Kheo, đạn bắn không trúng. Nhiều doanh nhân vẫn tin rằng, những chiếc nanh Mụ Kheo luôn đem lại những khoản hợp đồng kinh tế có lợi cho họ. Có Vòng tay nanh heo huyền thoại Ray A Mar hoặc Lay Mar của Khay Tha là tên một cao tăng nào đó tu luyện phép ở một đỉnh núi hiểm trở
1
null
Fueled by Ramen là một hãng thu âm Mỹ mà hoạt động như một công ty con của Warner Music Group, và được phân phối bởi Atlantic Records. Được thành lập tại Gainesville, Florida, có trụ sở tại thành phố New York. Allmusic đã gọi nó là một trong những "chấn tâm của phong trào emo-pop". Nghệ sĩ ký hợp đồng với Fueled by Ramen. Danh sách này được biên soạn dựa trên các thông tin tìm thấy trên trang web của Fueled by Ramen và đĩa nhạc của hãng đĩa.
1
null
Lợn rừng Malaysia hay Lợn rừng Mã Lai (Danh pháp khoa học: "Sus scrofa vittatus") là một giống lợn có kích thước tương đối nhỏ mặt ngắn, mỏ dài phân bố tại bán đảo Mã Lai và Indonesia từ đảo Sumatra và Java cho tới phía Đông đảo Komodo Đây là loại lợn có mặt ngắn, lông thưa thớt với vạch trắng trên mõm. Có mặt tại vịnh Malaysia, và Indonesia từ Sumatra và Đông Java đến Komodo. Các loài phụ này có thể là các loài tách biệt nhưng có một số đặc điểm giống các phân loài lợn rừng ở Đông Nam Á. Đặc điểm. Lợn Mã Lai khi trưởng thành trọng lượng lớn nhưng bụng không to, lưng thẳng, lông màu đen nâu và xám, mỏ dài. Chúng thường thích nghi với môi trường hoang dã và ăn tạp. Thức ăn hàng ngày của chúng có thể tận dụng các loại rau, củ, quả. Lợn rừng Mã Lai một năm đẻ 2 lứa, mỗi lứa 6-7 con, So với các loại gia súc, gia cầm khác thì loại giống heo rừng thuần mua về nuôi không hao hụt số lượng, Nuôi trong vòng 7-8 tháng thì trọng lượng heo rừng có thể đạt 20–25 kg, lợn rừng giống thuần này nuôi trọng lượng trên 10 kg là xuất bán được Lợn rừng Mã Lai tính tình khá thuần, tuy nhiên chúng là loài hung dữ, không thân thiện với con người và sẽ tấn công khi bị kích động. Ở Mã Lai người ta có thói quen tìm kiếm được vận may bằng cách sờ vào đầu những con lợn rừng xuống kiếm ăn, Những con lợn rừng cũng kén chọn người tiếp cận, những người kém may mắn không thể đến gần được đàn lợn vì chúng sẽ chống lại một cách hung hãn.
1
null
Yang Yo-seob (, sinh ngày 5 tháng 1 năm 1990) là một ca sĩ, diễn viên nhạc kịch và CEO người Hàn Quốc, thành viên của nhóm nhạc nam nổi tiếng BEAST/HIGHLIGHT. Yoseob được mệnh danh là một trong những giọng ca chính xuất sắc nhất tại Hàn Quốc. Anh là cựu thực tập sinh của M - BOAT Ent., JYP Ent., debut dưới trướng CUBE Ent., sau khi hợp đồng kết thúc, anh và bốn thành viên còn lại của BEAST cùng rời đi, thành lập công ty Around Us Ent. để tự quản lý hoạt động của mình. Tiểu sử. Từ bé Yoseob đã nhận được nhiều lời khen ngợi về giọng hát của mình và nuôi ước mơ trở thành một ca sĩ. Khi học cấp ba, anh đã tham gia vào ban nhạc rock khá nổi tiếng của trường (ca sĩ Lee Seung-gi cũng từng là thành viên của ban nhạc này). Bắt đầu từ năm thứ ba trung học, Yoseob đã bắt đầu tham gia các buổi thử giọng, anh ra vào nhiều công ty giải trí khác nhau nhưng vẫn không có cơ hội được ra mắt chính thức. Năm 2005, Yoseob trở thành thực tập sinh của JYP, tại đây anh đã lần đầu tiên gặp gỡ hai thành viên cùng nhóm là Lee Gikwang và em út Son Dongwoon. Sau sáu tháng thực tập, JYP thông báo Yoseob bị loại. Yoseob đã khóc rất nhiều vào ngày hôm đó và cả những ngày sau đó nữa, trên đường rời khỏi công ty, Yoseob đã bắt gặp 2AM Jo Kwon và Gikwang, họ đã ôm anh vào lòng và an ủi anh rất lâu. Anh cũng từng là thực tập sinh của M - BOAT Ent trong nhiều năm. Cùng các thực tập sinh khác, anh đã có nhiều màn trình diễn tại "Monday Concert" của công ty vào mỗi thứ hai hàng tuần. Anh thường song ca với Daniel, người sau này sẽ trở thành giọng ca chính của nhóm nhạc "DALMATIAN". Video dạy tiếng Anh mang tên "UCC Star" do cả hai tự sản xuất cũng khá phổ biến trên mạng tại thời điểm đó. Người hâm mộ của họ thậm chí đã lập nên một fancafe chính thức mang tên Soulmate để ủng hộ hoạt động của cả hai, khi Daniel trở về Mỹ, Soulmate trở thành fancafe của riêng Yoseob và vẫn hoạt động cho đến ngày nay. Đang khi Yoseob có ý định từ bỏ con đường ca hát của mình thì người bạn học cùng trường cấp ba, không ai khác đó là Lee Gikwang đã mời anh gia nhập một công ty chỉ mới được thành lập - "CUBE Entertainment". Tại CUBE, anh lại lần nữa nhận được thông báo mình bị loại vì lý do ngoại hình không phù hợp với phong cách của nhóm, nhưng may mắn thay, ca sĩ Bi Rain đã nhìn ra năng lực của anh và đề nghị công ty giữ anh lại. Bên cạnh đó, Yoseob đã giới thiệu Jang Hyunseung, người tham gia cùng lớp học nhảy với anh đến thử giọng và nhờ đó Hyunseung trở thành một mẩu của BEAST và Trouble Maker. Ngày 4 tháng 4 năm 2009, Gikwang debut trước tất cả các thành viên khác với vai trò là nghệ sĩ solo, Yoseob cùng với Yoon Doojoon, Yong Junhyung trở thành những backup dancer của Gikwang trong MV và trên sân khấu, sau này khi trả lời phỏng vấn, Yoseob đã thừa nhận đó là khoảng thời gian khó khăn nhất trong sáu năm làm thực tập sinh đầy vất vả của anh. Sự nghiệp. Ngày 25-11-2012, Yoseob đã phát hành album solo đầu tay là "The First Collage". Bài hát chủ đề là "Caffeine" đạt vị trí số một trên nhiều bảng xếp hạng, xuất sắc giành Tripple Crown trên Music Bank. Bài hát đã giúp tài năng ca hát của nam ca sĩ được rộng rãi công chúng công nhận, tên tuổi của anh càng trở nên nổi tiếng tại thời kỳ này. Cuối năm 2012 - đầu năm 2013, Yoseob trở thành thần tượng đầu tiên làm huấn luyện viên cho chương trình "The Voice Kid Hàn Quốc" và thành công dẫn dắt học trò của mình, “giọng ca buồn” Kim Myung Joo trở thành quán quân của chương trình. Ngày 19-02-2018, anh phát hành mini album "White", album solo thứ 2 sau 6 năm hoạt động. Ca khúc chủ đề với tên gọi "Where I Am Gone", lấy cảm hứng từ tiểu thuyết "Me Before You" (2012) của nữ nhà văn Jojo Moyes. Ca khúc phát hành đã đạt được vị trí số 1 trên MNET và Naver. Ca khúc "Star" trong album cũng dành được nhiếu sự yêu thích của khán giả. Ngày 9-4-2018, Yoseob trở thành DJ của chương trình "Dream Radio" cho đến trước khi nhập ngũ. Anh đã nhận được giải thưởng Tân binh hạng mục Radio năm 2018 do đài MBC trao tặng vì đã thực hiện xuất sắc vai trò DJ của mình. Vào đúng ngày lên đường nhập ngũ, ngày 24-01-2019, Yoseob phát hành đĩa đơn kỹ thuật số "20 Full Moons" bao gồm hai bài hát để gửi gắm những lời anh muốn nói đến 4 thành viên cùng nhóm và fan hâm mộ. Ngày 20-09-2021, sau gần 12 năm debut, Yoseob phát hành full album đầu tiên mang tên "Chocolate Box" bao gồm 12 bài hát, tên album được đặt dựa trên câu thoại vô cùng ý nghĩa trong bộ phim Forrest Gump: “Mẹ tôi luôn luôn nói: Cuộc sống như một hộp socola. Con sẽ không bao giờ biết mình sẽ lấy được cái gì.” ("“My mamma always said, Life was like a box of chocolates. You never know what you are gonna get.”"). Ca khúc chủ đề "Brain" đã đạt vị trí cao trên nhiều nền tảng âm nhạc, trụ vững vị trí số 1 trên bảng xếp hạng Bugs suốt 12 giờ. "Chocolate Box" cũng là album solo có số lượng bán ra trong tuần đầu tiên cao nhất từ trước đến nay của Yoseob. Ngày 29-11-2021, Yoseob trở thành người mở màn cho dự án tái hiện lại những kiệt tác của nhạc sĩ Jo Young Soo bằng việc phát hành bản remake ca khúc "First Snow", từng được hát bởi nhóm nhạc tiền bối SG Wannabe. Được biết, hitmaker Jo Young Soo đã quyết định mời Yoseob vì màn trình diễn cuối cùng của anh trên sân khấu "King of Mask Singer" với bài hát cũng mang tên First Snow, ông cũng nhận xét: ""Thay vì nói về điểm mạnh của Yoseob thì tôi cho rằng nên nói Yoseob là ca sĩ không có khuyết điểm nào"." King of Mask Singer. Ngày 30-08-2020, Yoseob chính thức hoàn thành quá trình thực hiện nghĩa vụ quân sự của mình. Một tuần sau ngày xuất ngũ, anh xuất hiện trên chương trình King of Mask Singer với vai trò là ca sĩ giấu mặt, tên gọi là "Chú mèo bên bếp lửa" "(Fireplace Cat)". Anh đã giành chiến thắng 8 lần liên tiếp trong chương trình này, là idol đầu tiên giành được chiến thắng ngay lần đầu tiên tham gia, đứng thứ hai về số lần thắng trong số toàn bộ người chơi và đứng thứ nhất trong số các idol tham gia thi đấu. Năm 2011, Yoseob gây được nhiều sự chú ý bởi màn trình diễn Mother đầy cảm xúc trên chương trình ca nhạc "Immortal Song 2". Năm 2013, nữ ca sĩ opera từng đạt giải Grammy - Jo Sumi đã rất ấn tượng khi xem được màn trình diễn của anh nên đã mời Yoseob hát lại bài Mother một lần nữa và song ca cùng cô tại buổi hòa nhạc "Part Concert 'La Fantasia của mình. Năm 2015, Yoseob được nghệ sĩ Jo Sumi mời tham gia vào mini album "“DRAW”" của cô. Năm 2016, Yoseob lần nữa song ca và còn biểu diễn solo hai ca khúc "“The night of 1991”" và "“When cold night blew”" của nghệ sĩ Park Hyo-shin tại buổi hòa nhạc đặc biệt của nghệ sĩ Jo Sumi do Bộ Quốc phòng Hàn Quốc tổ chức. Được biết, Yoseob là thần tượng duy nhất được giọng nữ cao nổi tiếng thế giới này mời hợp tác. Đời tư. Anh nhập ngũ vào ngày 24-01-2019, tham gia huấn luyện tại trại huấn luyện tập trung Non-san trong 4 tuần đầu và bắt đầu được đào tạo, phục vụ tại sở cảnh sát Kangdong với tư cách là "cảnh sát nghĩa vụ". Ngày 30-9-2020, sau một năm bảy tháng bảy ngày, anh chính thức xuất ngũ. Nhạc kịch. Yoseob đã giành được danh hiệu "Ngôi sao nhạc kịch mới nổi" từ giải thưởng "Golden Ticket Awards" năm 2011. Anh cũng thường được mời đóng vai chính trong các vở nhạc kịch. Sáng tác. Ba trong số bốn thành viên của Highlight đều có thể sáng tác nhạc. Trong đó, Yoseob thường xuyên hợp tác viết lời, sáng tác cùng người bạn học cùng cấp ba của mình là Gyuberlake. Yoseob thường theo đuổi thể loại ballad và có rất nhiều bài hát anh dùng để gửi gắm tâm tư đến người hâm mộ của mình.
1
null
Hoá thân () là truyện vừa xuất bản năm 1915 bởi Franz Kafka. Đây được xem là một trong những tác phẩm văn học hư cấu có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất thế kỷ 20 và đã được đưa vào chương trình giảng dạy, nghiên cứu ở nhiều trường đại học ở phương Tây. "Hoá thân" bắt đầu khi Gregor Samsa, một nhân viên bán hàng, thức dậy và thấy mình đã biến hình thành một sinh vật to lớn, giống như côn trùng. Từ đó, Gregor Samsa phải nỗ lực để thích nghi với hình thù mới và cuộc sống mới là gánh nặng cho gia đình anh - họ vì sự hoá thân này mà chết khiếp và trở nên tàn nhẫn cả với chính người thân của mình. Franz Kafka chưa bao giờ giải thích cho sự hoá thân này, cả ở trong hay ngoài tác phẩm. Sơ lược cốt truyện. Phần 3. Một buổi tối nọ, bà lao công đã để cửa phòng Gregor mở trong khi những người khách trọ đang ngồi trong phòng khách. Grete được mời chơi đàn violin cho họ, còn Gregor thường tránh gặp mặt với bất cứ ai trong căn hộ thì hôm nay bò ra để nghe em gái đàn. Những người khách trọ sau khi đã biết tay nghề Grete trở nên thất vọng nhưng Gregor thì vẫn chăm chú lắng nghe. Một người khách phát hiện Gregor và tất cả khách đều hoảng hốt. Cha của Gregor cố lùa những vị khách về phòng mình nhưng ba người khách đều phản đối, đoạn tuyên bố họ sẽ chuyển ra ngoài ngay mà không trả tiền trọ vì điều kiện căn hộ quá tồi tàn. Grete, lúc này đã phát nản chuyện chăm sóc ông anh dị hợm của mình, chợt nhận ra sự tồn tại của Gregor đã thành gánh nặng cho tất cả mọi người trong gia đình. Cô nói cha mẹ mình phải làm sao bỏ cái của nợ là Gregor đi, bằng không tất cả đều sẽ không được yên ổn. Người cha đồng ý, mong Gregor hiểu cho họ và hy vọng anh sẽ tự mình ra đi. Gregor thực chất hiểu tất cả và từ từ quay về phòng mình. Rồi từ đó, quyết tâm cứu rỗi gia đình mình, Gregor đã trút hơi thở cuối cùng. Khi phát hiện ra Gregor đã chết, cả gia đình ai nấy đều thấy nhẹ nhõm. Người cha đuổi đám khách trọ ra, nhân tiện sa thải luôn bà lao công - người đã thủ tiêu xác của Gregor. Cả nhà họ bắt chuyến xe về đồng quê chơi, và trên đường họ bàn bạc chuyện tiền nong. Họ quyết định dọn đến ở một căn hộ nhỏ hơn để tiết kiệm tiền, vì họ không thể làm vậy khi Gregor còn sống. Trong chuyến đi ngắn ngủi này, ông bà Samsa nhận ra cô con gái Grete của mình, dù khó khăn gian khổ, đã trưởng thành thành một cô gái xinh đẹp. Họ còn nghĩ đến việc chọn chồng cho cô. Nhân vật. Gregor Samsa. Gregor là nhân vật chính của truyện. Anh làm nghề bán hàng để nuôi gia đình. Sáng một ngày nọ, Gregor đã biến thân thành một con bọ. Sau khi biến hình, Gregor không còn khả năng lao động, buộc các thành viên khác phải tự thân làm việc. Cái tên "Gregor Samsa" xuất phát từ những tác phẩm văn học mà Kafka từng đọc. "Truyện chàng trai trẻ Renate Fuchs" của nhà văn Đức-Do Thái Jakob Wassermann (1873–1934) là chính một kiểu người như Gregor Samsa. Tác giả Leopold von Sacher-Masoch cũng có tầm ảnh hưởng đến Kafka. Trong truyện "Venus in Furs" của ông, có lúc mà nhân vật chính phải sử dụng tên Gregor. Trong "Hoá thân", "Venus in Furs" xuất hiện dưới hình thức là một bức tranh Gregor Samsa treo trên tường phòng ngủ. Chữ "Samsa" cũng giống "Kafka" về cách cấu tạo nguyên âm - phụ âm (chữ S đứng thứ nhất và bốn trong "Samsa", giống như chữ K trong Kafka; ở hai chữ, chữ A cùng đứng vị trí thứ hai và năm) Grete Samsa. Grete là em gái của Gregor Samsa. Cô trở thành người săn sóc anh trai mình sau khi anh bị biến thân thành bọ. Khi Gregor còn là con người, hai anh em rất gần gũi, quan tâm yêu thương nhau. Sau khi Gregor biến thân, tình anh em nhanh chóng phai nhoà. Thoạt đầu, Grete còn tình nguyện săn sóc anh trai và lau dọn phòng cho anh, nhưng về sau, càng ngày cô càng kinh tởm hình thù của anh trai và chỉ mong rời phòng Gregor cho nhanh vì ghê sợ. Cô có ước mơ được đi học ở nhạc viện, ước mơ mà Gregor đã định biến nó hành hiện thức. Gregor còn định tuyên bố dự định của mình vào hôm Giáng sinh. Khi Gregor không còn đi làm nữa, cô bắt đầu làm công việc bán hàng. Ông Samsa. Ông Samsa là cha của Gregor và Grete. Sau khi Gregor biến thân và không còn khả năng chu cấp cho gia đình, ông phải trở lại làm việc để phụ giúp gia đình. Thái độ của ông đối với con trai vô cùng tàn nhẫn: ông khinh rẻ, thô bạo với Gregor và thậm chí, có thể là sợ hãi anh. Ông Samsa được cho là dựa trên hình mẫu cha của Kafka. Bà Samsa. Bà Samsa là mẹ của Gregor và Grete. Thoạt đầu bà bị choáng váng trước sự biến hình của Gregor. Dẫu vậy, bà vẫn muốn vào phòng con trai song hoá ra nó lại vượt quá sức chịu đựng của bà. Thái độ của bà là sự mâu thuẫn giữa bản năng làm mẹ, sự cảm thông cho con và nỗi sợ hãi, ghê sợ hình hài mới của Gregor Samsa. Dịch thuật. Các dịch giả thường dịch từ "Ungeziefer" là "côn trùng", nhưng thực ra không hẳn vậy. Trong nhóm tiếng Đức Cao Trung, "Ungeziefer" có nghĩa là "con vật chưa thanh tẩy, không hợp để hiến tế". và tục được dùng với nghĩa là "bọ" – một từ chung chung, không mang tính học thuật như "côn trùng". Kafka không có ý cho Gregor là một con gì cụ thể, thay vào đó, chỉ muốn truyền tải nỗi khiếp sợ của Gregor trước sự biến thân của mình. Tuy vậy trong lá thư gửi nhà xuất bản của mình ngày 25 tháng 10 năm 1915 bày tỏ mối quan ngại về hình bìa cho ấn bản đầu tiên, Kafka đã sử dụng từ "côn trùng". "Không nên vẽ con côn trùng vào. Thậm chí không được cho ai thấy nó từ xa." "Ungeziefer" có lúc được dịch là "gián", "bọ hung", "bọ cánh cứng", và nhiều từ chuyên biệt khác. Từ "bọ hung" ("Mistkäfer") thực chất được bà lao công sử dụng ở gần cuối truyện nhưng không xuất hiện trong lời dẫn. "Ungeziefer" ám chỉ sự cách biệt giữa Gregor và môi trường quanh anh: anh không sạch sẽ, nên anh phải bị cách ly. Vladimir Nabokov, nhà văn, nhà phê bình văn học đồng thời cũng là một người nghiên cứu bướm, khẳng định Gregor Samsa không phải là một con gián, mà là một con bọ có cánh dưới lớp vỏ và có khả năng bay. Nabokov đã vẽ phác hoạ với ghi chú "chỉ dài hơn ba feet" ở trang đầu cuốn sách giảng dạy tiếng Anh của mình. Trong phần ghi chú về bài giảng đi kèm, Nabokov thảo luận Gregor đã bị biến hình thành con côn trùng nào và kết luận "Gregor chính xác ra không phải một con bọ hung. Anh ta chỉ là một con bọ cánh cứng lớn thôi." Các chủ đề chính. Sự chế ngự của đồng tiền. Trước khi biến thân, Gregor là người duy nhất lao động và kiếm tiền nuôi cả nhà. Gia đình anh không thực sự xem anh là thành viên mà giống như nguồn thu nhập hơn. Khi Gregor không còn khả năng lao động, cả gia đình nháo nhào và gần như không còn chút tôn trọng nào dành cho anh bất chấp việc anh đã từng làm việc cật lực để chu cấp cho họ. Và như thế, anh bị khinh rẻ, đối xử thô bạo và bị bỏ mặc. Khi nhà Samsa bắt đầu làm việc, họ khó để liên lạc với nhau hơn. Họ ăn tối trong im lặng và cãi vã nhau chuyện tiền nong. Điểm mấu chốt ở đây là, những mệt mỏi từ công việc cộng với việc con người chỉ được coi trọng khi họ làm ra tiền khiến cho ai lao động cũng trở nên xa cách và khó lòng thiết lập quan hệ với người khác. Nghĩa vụ với gia đình. Gregor căm ghét công việc của mình nhưng vẫn làm vì nghĩa vụ với gia đình. Sau khi Gregor biến thân, gia đình anh chỉ chăm sóc anh cầm chừng, đủ để anh còn sống và nhốt anh trong phòng. Nhưng đến cuối cùng, phòng anh chẳng ai chịu dọn và cô em gái thậm chí không quan tâm đến việc đem gì cho anh trai ăn, làm cốt để cho xong "nghĩa vụ". Khi không thể chịu đựng hơn nữa, cô tuyên bố gia đình đã làm xong nghĩa vụ với Gregor, do đó nên tống khứ anh đi. Sự xa lạ. Trước khi biến thân, Gregor xa lạ với công việc, nhân cách, gia đình và cả cơ thể của mình (hầu như không nhận ra bản thân đã biến hình). Cuối cùng, việc quan tâm gia đình mình cũng trở thành thứ gì đó xa lạ với Gregor. Sau khi biến thân, Gregor cảm thấy lạc lõng trong căn phòng mình và thế giới xung quanh. Vì thế, anh không còn thấy được con phố ngoài cửa sổ. "Hoá thân" đã chỉ ra sự xa lạ, lạc lõng do trật tự xã hội hiện đại đem đến. Cảm giác tội lỗi. Cảm giác tội lỗi là cảm giác rõ ràng nhất ở Gregor. Khi không còn lao động được thì dù không phải lỗi của anh, anh cảm thấy tội lỗi mỗi khi gia đình nhắc đến tiền và đau đớn khi mình đã không còn có thể chu cấp cho họ. Đến cuối truyện, anh chết cũng chỉ vì thấy tội lỗi vì mình là gánh nặng cho gia đình. Cầm tù và giải thoát. Gregor vì muốn trả hết nợ cho gia đình mà làm việc, nhưng anh có mơ đến một ngày nợ trả hết, còn anh thì nghỉ công việc đáng ghét. Việc hoá thân hoá ra lại là phương tiện giải thoát anh khỏi công việc. Nhưng sự giải thoát này cũng không đem lại tự do cho Gregor. Trước anh bị cầm tù bởi công việc, sau thì bị cầm tù trong phòng bởi chính gia đình mình. Anh luôn là một tên nô lệ không hơn không kém. Thứ thực sự giải thoát anh hoá ra lại chính là cái chết. Đánh mất nhân dạng. Trong căn phòng chỉ có một mình, Gregor cố gắng tìm lại nhân dạng mình đã đánh mất khi sống hoàn toàn cho người khác và bỏ mặc bản thân. Tuy vậy, anh không thể chạy trốn khỏi thứ mà anh xem là nghĩa vụ với gia đình, và do đó, dốc hết sức để không gây phiền toái cho gia đình. Dù những suy nghĩ của anh đã thấp thoáng sự oán trách cách gia đình đối xử anh, anh cũng không cho phép mình nhận ra điều đó. Ở chương cuối, cuối cùng anh đã tự nhận ra rằng gia đình đã bỏ rơi anh, điều mà anh luôn phủ nhận trước đó. Quá trình tìm kiếm nhân dạng của Gregor là vô vọng vì ngay từ đầu, anh không hề có nhân dạng nào cả. Khi nghe em gái đàn và nhớ lại ước mơ ngày xưa, anh được gợi nhắc lại tình yêu dành cho gia đình mình. Tình yêu ấy, cùng sự tự do, là những gì Gregor cần để xác lập lại danh tính của mình. Liên kết ngoài. Bản điện tử Bình luận
1
null
Dương Quân - Nhà thơ trào phúng. Tên thật là Dương Tự Cường. Ông sinh ngày 8 tháng 8 năm 1926 (Bính Dần) tại xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Mất ngày 3 tháng 7 năm 1985 (Ất Sửu) tại Hà Nội. Bút danh. Giải thích lấy tên Dương Quân (君), ông bảo chỉ có nghĩa anh chàng họ Dương (楊). Ông còn tâm đắc chữ quân (筠) trong tiếng Hán có nghĩa là cây tre, cật tre già. Ông còn nhiều bút danh khác như: Thanh Điểu, Dương Mạnh, Hoàng Dương, Chính Tâm, Tùng Tiết, Tân Sơn... Gia đình và cuộc đời. Ông là út trong gia đình có hai anh em. Dương Hành Kiện người anh ruột về sau này nguyên là phó chánh án Tòa án nhân dân thành phố Vinh- Nghệ An thập niên 1965-1975. Cha ông, một nho sĩ nghèo vừa dạy học, vừa bốc thuốc mất lúc ông còn nhỏ. Bà mẹ trẻ ngoài hai mươi tuổi góa chồng sớm ở vậy nuôi con ăn học. Sinh vào buổi thời tàn của nho học nhưng lại theo đòi Hán học, thông chữ Hán và thạo cả tiếng Pháp, Dương Quân là cháu bên nội của nhà thơ nổi tiếng Long Sơn - Dương Tri Tản và là chắt bên ngoại của tiến sĩ Đông Các đại học sĩ Hồ Sĩ Dương. Sớm tiếp thu cái gien văn chương của tổ tiên mình nên mới mười một tuổi ông đã tập làm thơ và tham gia nhóm Thiếu niên Ái hữu trong phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Trước Cách mạng tháng Tám, ông tham gia phong trào Việt Minh bí mật ở xã và huyện nhà. Tham gia khởi nghĩa, gia nhập Thanh niên rồi tham gia Cách mạng tháng 8 năm 1945, Xung phong đi bộ đội, sau đó chuyển sang làm việc ở công an huyện Quỳnh Lưu. Ở cương vị công tác nào thì ông cũng vẫn làm thơ. Năm 1953 xảy ra vụ Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam, gia đình ông bị quy oan địa chủ và một kẻ xấu vu cho ông từng tham gia Đại Việt, một tổ chức phản động thời Nhật thuộc, tuy gia đình ông những năm 1930 đã hăng hái tham gia cách mạng ủng hộ phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Năm 1955 ông phẫn nộ bỏ ra Hà Nội. Không đủ tiền lộ phí ông đi bộ, dọc đường làm thuê. Ông lên Đại Từ (Thái Nguyên) rồi Tuyên Quang tìm việc làm... Quay về Hà Nội lúc đó vừa mới giải phóng, ông đi bổ củi thuê, đi bán sách, bán báo ở Chợ giời, Phố Huế, Hai Bà Trưng... Sau khi tốt nghiệp khoa báo chí, đầu năm 1959 ông được giới thiệu vào làm phóng viên báo Lao động và bỉnh bút cho tờ báo lâu năm nhất, cũng là lớn nhất này tới lúc giã từ cuộc đời. Thời gian tại báo Lao động. Ông sống ngang tàng, khí khái, thích tự do, không tham gia bất cứ hội đoàn, đảng phái nào. Lương ông thấp lắm, đến lúc nhắm mắt xuôi tay mới ở mức "cán sự 2". Sau nhà thơ trào phúng Huyền Thanh, ông phụ trách chuyên mục thơ trào phúng châm biếm, và đây cũng là mảng đề tài mà ông gắn bó sáng tác trong suốt quãng đời cầm bút gian khó của mình, gian khó là vì thời ông viết chống tham nhũng, tham ô, hối lộ, quan liêu, cửa quyền, móc ngoặc, chống bệnh thành tích, huênh hoang phô trương, làm láo báo cáo hay không phải dễ dàng... Sau khi chấm dứt chiến tranh Việt Nam không thiếu những nhà thơ cùng thời viết ra chỉ để tung hứng chứ không dễ viết hết gan ruột của mình, thì lúc đó những bài thơ châm biếm phê phán nội bộ của ông viết ra kiên quyết không thỏa hiệp. Ông dũng cảm vạch trần chân tướng, bộ mặt, lòng dạ mưu mô xảo quyệt của những ông quan tham thời hiện đại như bài: "Ông đấm rồi ông lại xoa" báo Văn Nghệ tháng 8/1983. Phanh phui phơi bày đầy đủ những xấu xa, thối nát, ung nhọt, bệnh hoạn của một xã hội mà mọi giá trị văn hóa, nhân phẩm đang có nguy cơ rơi xuống vực thẳm. Hơn 500 bài thơ trào phúng châm biếm của ông được trình làng trên nhiều tờ báo ngoài Bắc trong Nam, Trung ương và địa phương như báo Lao động, Văn Nghệ, Nhân dân, Độc Lập, Báo Đại Đoàn Kết, Hà Nội mới, Thương Nghiệp, Sài Gòn Giải Phóng, Công nhân Giải Phóng... đã minh chứng điều đó. Ngoài ra ông còn cộng tác với nhiều nhà xuất bản, tạp chí, Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội. Có thể nói ông là cây bút viết thành công khá sớm ở thể loại chống tiêu cực này. Dù khả năng của ông còn viết được mạnh hơn thế, song tiếc rằng lúc đó sự kiểm duyệt báo chí gắt gao, bài vở bị cắt xén thêm bớt một cách tùy tiện, vô tội vạ, chỉ cho phép tác giả viết trong khuôn mẫu hạn định nên thơ ông chưa phát huy được hết sở trường của mình. Điển hình như bài thơ thứ 500 mang tên "Chuột và mèo" có minh họa của Bùi Xuân Phái đăng trên báo Lao động số xuân Giáp Tý (1984) đã từng bị công an văn hóa đến tòa soạn chất vấn. Sau chuyến công tác vào Nam mùa hạ năm 1985, ông bất ngờ qua đời vì bạo bệnh??? Phong cách thơ. Thơ ông ngôn ngữ mộc mạc, bình dân, dí dỏm, hài hước, rõ ràng và thông hoạt. Nhuần nhuyễn ca dao tục ngữ. Trong những bài thơ châm biếm thói hư tật xấu của xã hội, xảo quyệt thủ đoạn của những ông quan tham. Ông sử dụng câu từ mạnh bạo, dứt khoát. Ngòi bút châm của ông sắc nhọn. Ông có tài lẩy Kiều và tập Kiều vào trong thơ của mình. Thơ ông có duyên, cái duyên châm biếm từ bên trong mà người đọc bật cười và đồng ý với vấn đề ông đặt ra chứ không đơn thuần ở chữ nghĩa hay vần điệu. Lá rụng về cội. Ông mất tại nhà riêng khu tập thể Khương Thượng, Quận Đống Đa, Hà Nội trong cảnh bần hàn neo túng. Giống như khi ông sống cũng cảnh neo túng bần hàn. Suốt đời ông chưa đi hết bậc lương "cán sự". Gia đình, người thân, bạn bè đưa ông trở về nằm trên quê hương làng Quỳnh, tên gọi tắt làng Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An, một làng quê nghèo, nhỏ bé mà hiếu học. Mảnh đất ấy hàn sĩ nhiều hơn trọc phú, trong mộ địa họ Dương. Bên ông còn có bà Hoàng Thị Huê người vợ thủy chung theo ông suốt đời nhẫn nhục chịu đựng chia sẻ cùng ông những năm tháng dài cay cực nhất vì một thời sống và viết không đơn giản của ông. Vợ ông là con gái nhà cách mạng kháng chiến chống Pháp, liệt sĩ - Hoàng Văn Hợp, người dẫn đầu phong trào khởi nghĩa Xô-Viết Nghệ Tĩnh 1930 - 1931 nổi tiếng. Những con số 6 đi theo đời ông. 16 tuổi ông đã có bài thơ "Tự vịnh". Nhưng hãy bắt đầu năm sinh 1926. Năm 1956 ông dung thân tại đất Hà thành và quyết định lấy nơi đây là nơi "dụng võ" của mình. Ông thuê nhà ở số 6 phố 325 nay là phố Thể Giao (quận Hai Bà Trưng). Chuyển về tập thể Nhà hát Nhân dân 91 phố Trần Hưng Đạo (Quận Hoàn Kiếm) nay là Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội ông ở phòng 56. Chuyển về ở khu tập thể Khương Thượng (Quận Đống Đa) ông ở nhà A8 phòng 46. Năm 36 tuổi được nhận giải thưởng thơ trào phúng của Hà Nội 1962-1963. Năm 56 tuổi được nhận giải thưởng thơ trào phúng Văn Nghệ 1982-1983. Kể từ khi chính thức cầm bút viết cho tờ Lao động phải tới 16 năm sau ông mới được cất nhắc lên một thang lương "cán sự". Tháng 4 năm 1984 khi đưa tang bà Nguyễn Thị Thảo, vợ nhà cách mạng Hồ Tùng Mậu ra nằm ở khu A nghĩa trang Văn Điển ông đứng nhìn trời mây, thổ địa rồi đưa tay chỉ về một khu đất trống đầy nắng nói với mọi người: Khi nào chết chắc mình sẽ nằm chỗ đó. Không ngờ một năm sau ông lìa đời người ta táng ông đúng vào khu đất ông chỉ chỗ đó - khu mộ 16. Giỗ ông con cháu thắp hương không quên nhằm vào âm lịch tháng 5 ngày 16. Tâm tư. Tự nhạo: Mượn một câu của thi hào Nguyễn Du trong bài Độc Tiểu Thanh ký ông viết: Tự nhận: Ý nguyện: Tri ân: ""Kính tặng tất cả bà con cô bác, bạn hữu xa gần đã giúp đỡ về tinh thần và vật chất cho tôi trên con đường sự nghiệp sáng tác văn thơ: Câu nói: Bạn bè nhận xét. Thuở ông còn sống Hồ Mậu Đường người bạn thân viết tặng ông hai câu: Thi sĩ Phan Khắc Khoan bậc đàn anh khi nghe tin ông mất đã khóc ông bài thơ "Thành thực và thân mến viếng hương hồn Dương Quân" có đoạn: Nhận xét của nhà thơ Hoàng Trung Thông: Nhà thơ, nhà dịch thuật Ngô Linh Ngọc viết: "Nhớ Dương Quân" của Nhà văn Hoàng Tiến: Cũng vẫn Hoàng Tiến trong bài "Nhớ Dương Quân" kể lại:"Dương Quân từng dịch Thanh Hiên thi tập có bài thơ "Đối tửu" của Nguyễn Du đến nhà tặng bậc thầy Đặng Thai Mai trong một dịp sinh nhật thẩy, thơ có câu: Giáo sư họ Đặng khen trả nhuận bút 1000 Đồng một câu. (Một nghìn đồng mấy mươi năm trước to lắm). Hoàng Tiến trong một bài khác:"Cái dũng của người viết trào phúng". Những bài thơ hay nhất của Dương Quân hình như lại ở ngoài con số năm trăm bài đã in. Ở đây tác giả không phải ngó trước, ngó sau gò cương kìm hãm tứ thơ, che chắn cho thật kín võ trước khi ra chiêu. Ở đây tác giả tung chân vung tay ra những đòn hữu chiêu và vô chiêu một cách thoải mái tự tin. Xin trích một bài của Dương Quân để minh chứng: - Mừng thọ ông Hoàng Văn Hoan nhân dịp 70 tuổi.(Xem mục: Một vài bài thơ) Nhà thơ Thái Giang nhận xét: Có hai người làm việc cùng ông gắn bó lâu năm nhất là nhà văn, nhà báo, Tổng biên tập báo Nhà báo & Công luận Trần Đức Chính và nhà báo cự phách Nguyễn An Định biết khá nhiều chuyện về ông. Trong bài: Ông "một trong sáu" mà theo Trần Đức Chính thì Dương Quân là nhà thơ đả kích thành công khá sớm trong lĩnh vực châm biếm nội bộ. Còn Nguyễn An Định trong hai bài "Nhớ Dương Quân" cũng như "Thương nhớ một thời gian khó" ngậm ngùi: Dương Quân là nhà thơ trào phúng tài hoa và cũng là nhà báo nghèo nhất. Tuy vậy, những giai thoại về anh tôi tin lớp trẻ sẽ còn "nức nở" nhiều... Bài:"Một thể loại, một đội ngũ" của nhà văn Ân Nhu viết về đội ngũ thơ trào phúng mà một trong những đại diện tiêu biểu đó là Dương Quân cây bút trào phúng mạnh mẽ và mang nhiều khởi sắc. Một sự ngộ nhận thành giai thoại. Thời chiến tranh 1965 - 1975 độc giả thường hay bị nhầm lẫn giữa hai cái tên Xích Điểu và Thanh Điểu ký dưới các bài thơ đả kích, châm biếm. Việc này làm cho nhà thơ trào phúng Xích Điểu (Nguyễn Văn Tước) khó chịu không vui. Lúc đó Xích Điểu đương chức Phó tổng thư ký Hội Nhà báo Việt Nam và nổi tiếng với các tiểu phẩm cuối tuần đả kích Mỹ - Ngụy trên Đài Tiếng nói Việt Nam cùng các bài thơ đả kích Mỹ - Ngụy ở báo chí Trung ương, địa phương. Biết Thanh Điểu cũng là bút danh của Dương Quân (Dương Tự Cường). Ông đợi sẽ có dịp gặp Dương Quân để hỏi chuyện. Lần ấy Dương Quân tới tòa soạn Báo Nhân dân 71 phố Hàng Trống có việc thì gặp Xích Điểu cũng ở đó. Xích Điểu hỏi ngay vì sao anh lại lấy thêm bút danh Thanh Điểu. Ông đọc được ý nghĩ và nỗi niềm của Xích Điểu, Thanh Điểu húng hắng một câu xuất kỳ bất ý thay cho trả lời: Xích Điểu không dám hỏi thêm nữa. Ông muốn nhắc nhở Xích Điểu (con chim đỏ) chỉ chuyên đả kích Mỹ-Ngụy thôi, thơ vô thưởng, vô phạt. Còn Thanh Điểu (con chim xanh) khác đấy. Nhiều năm sau câu thơ này của Dương Quân đã trở thành "giai thoại".
1
null
Lợn rừng Trung Hoa hay lợn rừng Bắc Trung Hoa (Danh pháp khoa học: Sus scrofa moupinensis) là một phân loài lợn rừng có ở Việt Nam, Tứ Xuyên, bờ biển Trung Quốc. Hiện nay có rất nhiều ghi nhận chỉ về sự đa dạng của các cá thể lợn trong phân loài này, hiện nay sự đa dạng này chưa được công nhận nhưng có thể những nhóm đa dạng này có thể là một phân loài riêng biệt Tại Việt Nam có Lợn rừng Việt Nam hay heo rừng Việt Nam là một giống lợn rừng phân bố tại Việt Nam, chúng thuộc nhóm lợn rừng Trung Quốc. Lợn rừng Việt Nam sống rất nhiều ở các vùng sinh thái khác nhau trong đó các loại lợn rừng vùng Đông Nam Bộ, miền Bắc và Lào có thể là một. Ngày trước tại Đà Lạt, lợn rừng có hai loại một loại có ít lông, thường thấy ở độ cao 1.000m và một loại hai bên má có những vạch màu trắng, nặng 150 kg hay hơn nữa. Hiện nay, giống lợn này đang được thuần hóa và lai giống phục vụ cho hoạt động chăn nuôi và chúng thường có hai nhóm giống: Nhóm giống mặt dài và nhóm giống mặt ngắn, đến nay theo xuất xứ có bốn loại lợn rừng được nuôi: Bên cạnh đó, còn có các loại lợn lai mang máu lợn rừng vì trong tự nhiên tại các bản làng dọc miền núi phía Bắc như Lai Châu, Hà Giang và ở dãy Trường Sơn như Thanh Hoá, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Gia Lai, vùng Bình Phước đều có con lai do người dân nuôi thả lợn nhà vào rừng và xảy ra giao phối giữa lợn rừng với lợn nhà và ngày nay ở Việt Nam có mô hình nuôi lợn rừng đạt hiệu quả kinh tế.. Đặc điểm. Đây là loại lợn sống ở rừng rất hung giữ và khó thuần hóa. Lợn rừng Việt Nam thuần chủng có thân hình cân đối, nhanh nhẹn, di chuyển linh hoạt, mình hơi gầy, dài đòn, lưng thẳng, bụng thon, chân dài, nhỏ và móng nhọn, cổ dài, đầu nhỏ, mõm dài và nhọn, tai nhỏ vểnh và thính, mũi rất thính và khỏe, da lông màu hung nâu, hung đen hay xám đen, một gốc chân lông có ba ngọn, lông dọc theo sống lưng và cổ dày, dài và cứng hơn. Vai chúng thường cao hơn mông, đuôi nhỏ, ngắn, chỉ dài đến khoeo. Con đực có răng nanh phát triển, con cái có 2 dãy vú, mỗi dãy 5 núm vú phát triển và nổi rõ Một số con có mõm dài, có da dày, lông nâu bạc, lúc nhỏ có sọc dưa, chân cao, có lông bờm, thân mảnh, ở tuổi trưởng thành lợn rừng có răng nanh, ba lông chụm. Chúng có sọc vàng hơn, lông lơ phơ, mọc thẳng đứng, tai nhọn bé như tai chuột, thân lép, mông tóp, chân cao, móng chân chụm. Khi trưởng thành lợn rừng Việt Nam còn có thêm đặc điểm mới là lông bờm phát triển hơn, lông cứng, dựng đứng. Thịt của lợn rừng Việt hầu như không có mỡ lưng, ít mỡ và đặc biệt là thịt rất thơm ngon bổ dưỡng. Loại lợn rừng ở Tây Yên Tử được gọi là con "quái vật của rừng già", chúng sống ở nơi có những rừng tre trúc rất lớn, thức ăn bổ dưỡng là măng có quanh năm, nên giống lợn rừng ở đây to lớn, hung dữ lạ lùng. Các thợ săn tại khu vực này săn được những con lợn rừng nặng đến cả tạ, nanh dài đến gang và cũng không ít người mang thương tật nặng vì loài vật này. Một con lợn khoảng 123 kg nếu bán nguyên con cho các quán được 40.000đ/1 kg, xẻ thịt được khoảng 50.000đ/1 kg. Con lợn rừng mẹ thường nhỏ, thường chỉ từ 35 – 50 kg, mõm dài và nhọn, đầu nhỏ, tai nhỏ, cổ dài thắt ngẫng, không có má, đẻ ít con, lợn chậm lớn, màu lông thường là hung đen, thịt cơ bản không có mỡ và 97% là thịt nạc. Tuy nhiên rừng thuần Việt đối với lợn con mới đẻ nuôi rất khó và hay bị chết do hay bị bệnh đi phân trắng. Lợn mẹ thường đẻ ít con khoảng 2-3 con/lứa. Chúng có lông lá xù xì phóng nhanh, trông thì hung dữ nhưng lũ lợn rừng nếu bị lai thì lại có bản tính hiền lành, giống lợn rừng lai lại có được tính hiền lành của mẹ nhưng lại phàm ăn Lợn rừng Việt Nam lai lợn rừng Thái Lan được coi là loại giống ưu việt, do con giống ở đời này đã loại bỏ được những nhược điểm ở lợn rừng Thái và phát huy được những ưu điểm của lợn rừng Việt Nam, lợn mẹ trưởng thành cũng chỉ khoảng 35 – 60 kg, mõm dài và nhọn, cổ dài thắt ngẫn, tai nhỏ, đầu nhỏ, không có má, dáng cao, thân dài, màu lông thường là hung đen, đẻ con vừa phải khoảng 5 – sáu con/lứa, thịt không có mỡ thì có 95% là thịt nạc. Tập tính. Phá phách. Lợn rừng rất thích và có khả năng đào bới, trong một khu bãi cỏ rậm rạp có cả những loại cây có gai cũng sẽ bị cày xới lên, cỏ cây nhỏ bị ăn sạch sau một vài ngày lợn đến, lợn thường gặm, cà mình vào cây để gãi ngứa, đái vào gốc cây làm cây chết. Chúng có đặc tính cực kỳ phàm ăn, gây hại cho những nương ngô, nương sắn khi còn sống hoang dã. Ở thôn Đại Bình thị trấn Trung Phước, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam nơi đây còn nổi tiếng là làng săn lợn rừng, do địa thế thuận lợi, phía sau núi dựng, trước mặt là sông nên lợm rừng sinh sống ở đây rất nhiều, do đó mùa săn lợn rừng chủ yếu vào tháng Chạp đến tháng Giêng, đây là thời điểm nhiều lợn rừng nhất, dân làng trồng khoai, sắn ở bìa rừng bị chúng tàn phá dữ dội. Là nơi tụ tập của lợn rừng, chúng đi thành đàn gần mấy chục con di chuyển từ vách núi ra sông uống nước. Trên đường đi, chúng phá sạch hoa màu người dân do đó bị người dân truy đuổi và tận diệt. Tại vùng U Minh Hạ, lợn rừng trong U Minh Hạ nhiều, chúng làm ổ bằng cây dớn to trong rừng. Chúng ủi đất tung tóe khắp nơi, chúng thường xuyên mò về ruộng vườn của đồng bào để phá trong đó khỉ và lợn rừng thì chỉ phá phách. Chúng ủi đất trốc cây, vặt quả nghịch chơi. Người ta đào những hố sâu gần 2m, sau đó ủ những nhánh cây và rải thức ăn lên trên để dẫn dụ heo rừng sụp bẫy, có nhiều hố những thợ bẫy còn đặt chông bên dưới, khi rơi xuống, heo rừng sẽ chết và họ dễ dàng mang về nhà. Sau những lần bị sập hố, những con lợn rừng càng trở nên tinh ranh hơn, chúng không bị sập nữa, một kiểu bẫy khác là sử dụng một chiếc bẫy có cấu tạo chiếc bẫy khá đơn giản, gồm sợi dây thòng lọng dùng trói chân con thú được làm bằng 8 bợi dây côn, phanh xe đạp, xe máy nối lại. Một đầu dây buộc vào thanh sắt dài khoảng 70 cm và một chiếc lẫy nhỏ để bật dây thòng lọng khi con thú đi lên, những chiếc hố nhỏ đường kính khoảng 15 cm - 20 cm được khoét sâu khoảng 5 cm và đặt lẫy xuống dưới, trên miệng hố những vòng tròn thòng lọng được đặt khéo léo. Khi trúng bẫy, người ta dùng thanh sắt đánh vào đầu, con lợn lồng lên rồi nằm im sau đó trói chặt con lợn rừng bằng những sợi dây cáp của chiếc bẫy khác. Những tay thợ săn không có kinh nghiệm mới đánh chết lợn, người có kinh nghiệm thì chỉ đập cho nó ngất đi rồi đem đến quán bán nó lại tỉnh lại như vậy bán mới được giá. Tại Hồng Kong có ghi nhận sự việc Một con lợn rừng lạc vào trung tâm thương mại ở Hong Kong, tót lên nóc một quầy hàng quần áo trẻ em, cắn hình nộm và khiến cảnh sát ra tay. Lợn đang là chủ đề tranh luận giữa các nhóm muốn bảo vệ và muốn tiễu trừ chúng ở đặc khu này. Trước đó một ngày, một con lợn rừng khác cũng bơi qua hồ nước lọt vào công viên. Cảnh sát đã phải mang khiên chống bạo động, đuổi theo con lợn, dồn nó vào một bãi đỗ xe và quây chặn, trước khi bắn thuốc mê rồi nhốt nó lại. Trong vòng 5 ngày, đã có ba con lợn lọt vào khu dân cư ở Hong Kong, vượt đèn đỏ, đi dạo trong công viên, lang thang trong trung tâm thương mại, khiến người dân Hong Kong xôn xao. Chúng hung tợn và không thân thiện. Số lượng lợn đực hoang đang tăng lên nhanh chóng, và chúng không sợ người. Một số người chủ trương tiễu trừ số lợn hoang này bởi e sợ chúng sinh sản nhanh và gây náo loạn. Tuy nhiên các nhóm bảo vệ quyền của động vật, trong đó có tổ chức bảo vệ lợn hoang, biện hộ cho chúng với lý do những con lợn này vô hại. Tấn công. Mặc dù là loài đào bới ăn củ quả và tính vốn không hung dữ nhưng lợn rừng ở Việt Nam do bị săn bắn quá nhiều nên chúng trở nên hung dữ, chống cự quyết liệt các đối thủ, thậm chí gây trọng thương cho thợ săn khi không còn đường chạy trốn. Chẳng hạn như ở hai huyện Hương Khê và Hương Sơn Hà Tĩnh có khoảng 100 nhóm thợ săn lợn rừng, và ngày nào cũng có vài con lợn rừng bị mổ thịt, ở vùng U Minh Hạ, lợn rừng cũng là nguồn thực phẩm dồi dào cung cấp cho người dân và người ta hay đặt bẫy và dùng chó săn để bắt lợn rừng. Lợn rừng Việt Nam mới được bắt từ rừng về rất nhạy cảm. Hễ có người lạ đến chúng gằm vào đối phương và luôn ở tư thế phòng thủ hoặc chúng bỏ chạy, sẵn sàng bay qua tường rào cao, lách cửa, chui chân tường hổng, lao cả đầu vào tường, rào và nếu là lợn đực chúng có thể quay lại đánh trả người, có những con lợn đực mặc dù đã được nuôi lâu, nhưng khi thấy người lạ đến, đều xông tới tấn công, kể cả những con lợn rừng Việt được sinh ra trong chuồng thì chúng vẫn khó tiếp xúc. Tại bản Ngân Văn Cảnh, bản Co Cài, Trung Lý, Mường Lát, Thanh Hóa là bạt ngàn đồi núi thường có đàn lợn lòi trên núi về bản phá tung hoa màu đặc biệt là lợn lòi thường về phá sắn những nương sắn bị chúng cày ủi thường xuyên. Ở đây có câu chuyện về một lần có người vác súng đi săn trên núi Pha Xiêng đỉnh cao của dãy núi Pù Dào, người thợ săn nằm phục một con lợn lòi nặng khoảng 80kg trong tiết trời giá rét, khi thấy tấm thân mốc thếch của con thú đi vào tầm bắn, người thợ săn bắn hạ con thú ngã vật xuống nhưng bỗng thấy nó vùng dậy, nhằm thẳng gốc cây nạn đang trú ẩn phóng tới với một tốc độ nhanh và dùng cả tấm thân đồ sộ, cùng cặp răng nanh đâm sầm vào và hất tung nạn nhân văng xuống sườn dốc, nạn nhân bất tỉnh và vết thương chí mạng đó hành hạ đến chết Tại Hà Tĩnh có câu chuyện về săn lợn rừng, khi lợn rừng trúng bẫy và thợ săn phát hiện một con lợn rừng đang nằm thở phì phò bên bụi cây, cuộc vật lộn cả đêm đã làm nó hết sức chống cự. Con lợn rừng gầm gừ dựng đứng hàng lông trên gáy, mắt gườm gườm nhìn thẳng vào đám người vây quanh. Nó loạng choạng cố đứng dậy cố tạo thế phòng thủ nhưng nó lại quỵ xuống ngay. Người thợ săn tưởng đã tóm được con lợn này, thấy nó nằm im tưởng nó đã hết sức chống đỡ, vừa đến gần con lợn vùng lên lao thẳng vào nạn nhân, sau cú tấn công bất ngờ này, nạh nhân phải nằm viện hơn 1 tháng trời với chằng chịt vết thương trên mình còn con lợi kéo theo cả chiếc bẫy chạy thoát. Một câu chuyện khác về dân bản đánh bẫy được một con lợn lòi nặng 120 kg đem về quẳng giữa sân để chờ xả thịt nhưng con lợn bứt dây thoát được và con thú bị thương đó lập tức lồng lên, xông thẳng vào một người phụ nữ khiến người này mình mẩy đầy máu, chỉ kêu khóc thảm thiết rồi gục xuống tắt lịm, chết tại chỗ, 31 người đàn ông quây lại mà không hạ nổi con thú đang cơn khát máu đó đến sáng hôm sau, khi đám thợ săn đem súng đến nhằm vào gốc lau nó đang trú ẩn, bắn 12 phát đạn thì mới hạ được con lợn lòi này Để săn được lợn rừng, ngoài người thợ săn bắn giỏi họ còn huấn luyện thêm một đội chó săn tinh luyện để cùng hỗ trợ. Mỗi lần đi săn lợn rừng, phường săn mang theo ít nhất ba con chó săn để đuổi bắt. Tuy nhiên, cũng có những khi chó săn bị lợn rừng húc chết. Tại vùng U Minh Hạ có con lợn rừng độc chiếc gọi là Ông Chảng, nặng tới 180 kg, vốn là một con lợn rừng đã trúng bẫy nhưng con này vô cùng hung dữ. Để thoát bẫy, nó tự cắn đứt chân mình và khi bị mất chân, nó càng hung dữ hơn, khi nó kiếm ăn ở khu rừng ven ấp và hễ gặp người là tấn công. Nhiều người chạy thục mạng khi gặp con lợn này. Con lợn độc chiếc tấn công, hai cái răng nanh sắc nhọn như lưỡi dao của nó vô cùng nguy hiểm. Nó đã giết 4 trong số 06 con chó săn, mó đã 4 lần dùng răng nanh húc lòi ruột chó, rồi ngoạm đứt họng chó, sau đó nó tiếp tục húc chết thêm một con chó săn đầu đàn, sau đó thì bị thợ săn giết chết bằng mũi giáo đã thọc ngập mang tai, cụ thể là khi phát hiện con heo rừng đang núp trong lùm mịt mùng chang đước và cây ráng. Bầy chó săn bao vây, sủa vang động báo hiệu thì con lợn từ trong bụi rậm đã nhảy phóc ra ngoài, trực diện tấn công con chó đầu đàn, nó đánh bằng nanh một phát lòi ruột con chó đầu đàn. Mới đây nhất, tại Nghệ An xảy ra vụ việc lợn rừng tấn công phóng viên, một phóng viên đang ngồi chơi ở sân nhà bất ngờ bị lợn rừng nặng hơn 80 kg tấn công, con lợn rừng vượt qua tường rào lao vào tấn công dữ dội, làm nạn nhân bị thương nhiều vết ở chân. Con lợn rưng đen trũi lao qua bờ tường, húc đổ giàn trầu, lao vào sân nhà và dùng hai răng nanh dài, nhọn hoắt của mình con vật hung hãn ngoạm một miếng rách từ bẹn đến quá đầu gối máu nạn nhân chảy xối xả. Sau khi tấn công vụ thứ nhất, con lợn rừng tiếp tục tấn công một số hộ dân khác, làm một phụ nữ 60 tuổi ở cùng xóm bị thương nặng phải nhập viện cấp cứu, lúc đó nạn nhân đang đi tiểu thì bất ngờ bị con lợn tấn công, nó cứ húc, ngoạm vào hai đùi, chỉ kịp kêu lên một tiếng rồi ngất lịm phải khâu 18 mũi vì vết thương quá sâu. Chính quyền địa phương đã huy động lực lượng vây bắt, gồm hàng trăm người với gậy gộc, lưới và chó săn đổ xô đến vây bắt và đến chiều cùng ngày lực lượng này mới bắt được con lợn hung hãn, dù vậy nó đã kịp tiếp tục quậy nát một số vạt lúa của nhiều hộ dân xóm 2 và cắn chết một con chó săn. Nguyên nhân do con lợn bị người dân dồn ép, đuổi bắt từ mấy ngày qua nên nó bức bí và trở nên hung hãn, hễ gặp người là tấn công. Nuôi lợn rừng. Hiện nay ở Việt Nam có nghề chăn nuôi lợn rừng để cung cấp thịt. Thịt lợn rừng được cho là ngon hơn nhiều so với lợn nhà, thịt heo rừng lai thơm, hàm lượng cholerteron thấp, đặc biệt là vào dịp Tết, Nhiều người quan niệm ăn thịt heo rừng vào đầu năm mới sẽ mang lại nhiều may mắn. Một số nơi chăn nuôi phương pháp nuôi lợn rừng bán hoang dã và sử dụng cây thuốc Bắc, thuốc Nam để làm thức ăn và phòng, chống dịch bệnh. Việc nuôi thành công lợn rừng theo kiểu bán hoang dã sẽ cho thu nhập cao vì lợn rừng là đặc sản, nuôi lợn rừng dễ, lợn rừng là động vật hoang dã nên không thể áp dụng phương pháp chăn nuôi như lợn nhà. Việc đầu tiên là phải xin giấy phép chăn nuôi. Chuồng trại làm đơn giản, tuy nhiên, phải nắm vững một số đặc điểm và tập tính của lợn rừng để bố trí chuồng trại, phân loại theo tuổi. Hàng ngày phải vệ sinh chuồng trại, dọn bỏ thức ăn thừa, rửa sạch máng ăn, máng uống… Tường rào phải chắc chắn, kiên cố. Chuồng trại của chúng được làm nơi đất cao thoáng mát, có chỗ thoát nước để vệ sinh; có nguồn nước sạch, không những cung cấp đủ cho lợn uống mà còn duy trì được hệ thực vật phong phú và giữ được độ ẩm thích hợp cho lợn rừng. Thả lợn trong 1 ha rừng thì chẳng khác gì lợn rừng hoang dã. Thức ăn cho lợn rừng, ngoài các loại cỏ, cây, mầm cây, rễ cây, hạt ngũ cốc, củ quả, bổ sung các loại cây, lá thuốc Nam, thuốc Bắc để tạo sức đề kháng và phòng, chống dịch bệnh cho lợn rừng. Thức ăn của lợn rừng chủ yếu là thực vật. Không nên lạm dụng thức ăn giàu dinh dưỡng để nuôi lợn rừng vì nó sẽ làm cho phẩm chất thịt bị biến đổi và nhiều khi làm cho lợn bị bệnh rối loạn tiêu hóa gây tiêu chảy. Thực tế cho thấy, heo rừng thường tìm đến nương rẫy mới đốt kiếm tro, đất sét để ăn...Khẩu phần thúc ăn cho heo rừng thông thường: 70% là rau, củ, quả các loại (có thể sản xuất tại trang trại), 30% là cám, gạo, ngũ cốc các loại, hèm bia, bã đậu... Mỗi ngày cho ăn 2 lần (sáng, chiều), một con heo lai trưởng thành tiêu thụ hết khoảng 2–3 kg thức ăn các loại. Khẩu phần ăn phải theo công thức để đảm bảo thành phần nạc mỡ của lợn. Cây làm tăng hàm lượng đạm, thịt lợn thơm hơn. Lợn rừng là động vật hoang dã mới được thuần hóa, nên sức đề kháng cao, ít dịch bệnh. Tuy nhiên, lợn rừng cũng thường bị một số bệnh như dịch tả, tiêu chảy, tụ huyết trùng, lở mồm long móng, bệnh sán lá, bệnh ghẻ lở và một số bệnh thông thường khác. Ứng dụng cây thuốc Nam và thuốc Bắc để làm thức ăn và điều trị bệnh nên đàn lợn luôn khỏe mạnh, chất lượng thịt tốt. Heo con một tuần tuổi cần chích bổ sung chất sắt. Một tháng tuổi thì tập heo con ăn bằng thức ăn tinh. Sau gần 2 tháng tuổi, heo con tách mẹ được đưa sang chuồng rộng gắn với sân vườn tạo điều kiện cho nó hoạt động thường xuyên.
1
null
Thỏ ta hay thỏ nội hay thỏ Việt Nam là các giống thỏ nhà thuần chủng tồn tại ở các địa phương thuộc Việt Nam để phân biệt với các giống thỏ ngoại. Quần thể thỏ ở Việt Nam được du nhập từ Pháp khoảng 70-80 năm trước đây. Chúng đã bị lai tạp nhiều giữa các giống khác nhau nên cũng có những biến hoá khác nhau về ngoại hình. Đặc điểm. Ở Việt Nam hiện nay có các giống thỏ gồm "thỏ mắt ngọc", "thỏ đen", "thỏ xám", "thỏ dé", "thỏ cỏ". Giống thỏ nội ở Việt Nam đang có xu hướng lai tạo với các giống thỏ ngoại để hình thành thế hệ con lai, nâng cao năng suất, tạo ra các giống cao sản và những năm trở lại đây, các giống thỏ ngoại dần khẳng định những ưu điểm vượt trội, mang lại hiệu quả kinh tế cao trong đó, thỏ đen giống, và thỏ xám thích hợp với điều kiện chăn nuôi gia đình các vùng ở Việt Nam và cũng là giống sử dụng con nái nền lai tạo với giống thỏ ngoại nâng cao năng suất chăn nuôi lấy thịt, lông da. Giống thỏ Việt Nam hiện nay lai tạp nhiều nên màu lông không thuần nhất. Tầm vóc thỏ nội bé hơn so với thỏ ngoại nhưng có khả năng chịu đựng được điều kiện kham khổ và dinh dưỡng thấp, khối lượng trưởng thành 3-5,5 kg. Trọng lượng con trưởng thành là 2–3 kg/con. Trọng lượng thỏ sơ sinh là 35-50g/con. Đặc tính nổi trội của các loại thỏ nội là chịu đựng kham khổ tốt. Tuy nhiên, trọng lượng con trưởng thành chỉ đạt từ 2,5 - 3,3 kg, thỏ thịt xuất chuồng nặng 1,5 - 2,0 kg, mỗi năm đẻ 5 - 6 lứa, mỗi lứa 5 - sáu con. Những năm gần đây giống thỏ Việt Nam tuy đã được lai tạo, song vẫn bị một số hạn chế, các giống thỏ cũ lâu ngày bị thoái hoá, thỏ nuôi chậm lớn, nhiều bệnh tật như bệnh viêm hô hấp, viêm ruột cấp tính, dẫn tới sự đột tử ở thỏ sau tách mẹ cao. Thỏ nội mắn đẻ, một năm có thể đẻ tới 6-7 lứa nếu nuôi dưỡng và chăm sóc tốt. Thời gian động dục lại sau khi để rất ngắn nên nếu nuôi dưỡng chăm sóc tốt và cho phối giống sớm sau khi đẻ thì khoảng cách hai lứa đẻ chỉ còn 40-45 ngày. Sinh sản cao là đặc điểm lớn nhất của thỏ nội. Khả năng liêu hoá thức ăn xanh làm cho chi phí nuôi thỏ trong dân thấp, dễ mở rộng sản xuất nếu được tiêu thụ tốt. Thỏ nội đẻ nhanh, nếu nuôi dưỡng tốt mỗi thỏ cái mỗi năm đẻ 6-7 lứa, mỗi lứa 6-7 con, sau 3 tháng nuôi khối lượng giết thịt 1,7–2 kg, một thỏ mẹ có thể sản xuất 70-80%kg thịt thỏ/ năm. Thỏ cho tỷ lệ thịt xẻ 46-49% tỷ lệ thịt lọc/ thịt xẻ là 85-86%. Thịt thỏ giàu và cân đối chất dinh dưỡng: tỷ lệ đạm 21%, mỡ 10%, khoáng 1,2%. Các giống lai. Có hai giống thỏ mới được lai tạo từ giống Việt Nam và của Pháp (2005 VNGB và 2006 VNGBF), chúng có nhiều ưu điểm, lớn hơn so với thỏ Việt Nam thuần chủng, thích nghi hơn với điều kiện khí hậu Việt Nam, tránh được các loại bệnh về tiêu hóa, hô hấp. Người cho lai thỏ Việt Nam và thỏ bướm (Pháp), lai thỏ vằn hung (Pháp) và thỏ Việt Nam. Sau khi thuần dưỡng hai loài thỏ lai được, người ta tiếp tục cho lai với nhau để tạo nên giống thỏ 2005 VNGB. Loài thỏ này có hình dáng đẹp như đầu nhỏ, nửa thân sau to, đùi to, lông mượt, thích nghi với khí hậu, nhưng vẫn còn nhược điểm là khá nhỏ so với thỏ nhập ngoại (đạt 5–6 kg), sau đó tiếp tục thuần dưỡng và cho lai tạo với thỏ khổng lồ Pháp, cho ra đời loài thỏ 2006-VNGBF, đạt trọng lượng 7 kg, các loài thỏ lai này cần rất ít cỏ, có thể dùng để nuôi công nghiệp mà vẫn bảo đảm được chất lượng thịt. Một giống thỏ lai khác là dòng nghiên cứu lai tạo thành công giống thỏ ngoại với thỏ Việt Nam như: Thỏ New Zealand, Califonia, BuocGon cho ra đời giống thỏ mới sạch bệnh, đầy đủ những tính năng, chọn 8 nòi thỏ (PenTaLaGus, Himalayan, Dutch, NewZeland, California, BuocGon, FlanDre, GuaDeLon pe) sau đó cho lai phức tạp (lai tạo chéo) giữa nhiều nòi để bổ sung ưu điểm qua lại, sau đó chọn lọc và đào thải theo tỷ lệ lai: 1: 2: 1, cho ra nòi thỏ mới, sạch bệnh và lớn nhanh tại Việt Nam, được viết tắt là 2008 VINA SB (Thỏ sạch bệnh Việt Nam 2008) Người ta cũng cho thỏ Tân Tây Lan phối giống với thỏ mắt ngọc ở địa phương, kết quả là đàn thỏ lai lớn nhanh lại ít bệnh so với giống thỏ mắt ngọc mà người dân trong thôn đang nuôi, thịt thỏ lai ngon hơn.
1
null
Vương quốc Bồ Đào Nha và Algarve (; ), là tên gọi chung của Bồ Đào Nha dưới chính thể quân chủ. Vương quốc nằm ở phía tây bán đảo Iberia thuộc châu Âu và tồn tại từ năm 1139 đến 1910. Chế độ quân chủ ở Bồ Đào Nha đã bị bãi bỏ và thay thế bằng nền Đệ nhất Cộng hòa Bồ Đào Nha từ sau cuộc Cách mạng ngày 5 tháng 10 năm 1910. Lịch sử. Nguồn gốc. Vương quốc Bồ Đào Nha có nguồn gốc từ Bá quốc Bồ Đào Nha (1093–1139). Bá quốc Bồ Đào Nha là một tỉnh bán tự trị của Vương quốc León. Việc giành độc lập từ León đã diễn ra trong ba giai đoạn: Sau khi Bồ Đào Nha giành được độc lập, con cháu của Afonso I, các thành viên của nhà Burgundy đã cai trị Bồ Đào Nha cho đến năm 1383. Ngay cả sau khi thay đổi triều đại, tất cả các vị vua của Bồ Đào Nha đều xưng là hậu duệ của Afonso I dù họ mang tính hợp pháp hay bất hợp pháp đi chăng nữa. Quân chủ sụp đổ. Vào đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa cộng hòa lớn dần về số lượng và sự ủng hộ từ các chính trị gia tiến bộ và giới báo chí có ảnh hưởng tại Lisboa. Tuy nhiên một thiểu số đối với phần còn lại của đất nước, đỉnh điểm của chủ nghĩa cộng hòa được hưởng lợi về mặt chính trị từ vụ ám sát nhà vua ở Lisboa vào ngày 1 tháng 2 năm 1908. Khi trở về từ Cung điện Ducal ở Vila Viçosa, vua Carlos I và Hoàng thái tử Luís Filipe đã bị những người cộng hòa sát hại tại quảng trường Terreiro do Paço ở Lisboa. Với cái chết của nhà vua và người thừa kế của ông, người con thứ hai của Carlos đã lên ngôi vua lấy hiệu là Manuel II của Bồ Đào Nha. Tuy nhiên triều đại của Manuel chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn rồi sau kết thúc bằng vũ lực với cuộc cách mạng ngày 5 tháng 10 năm 1910, Manuel II buộc phải thoái vị và sống lưu vong ở Anh nhường chỗ cho sự thành lập nền Đệ nhất Cộng hòa Bồ Đào Nha. Ngày 19 tháng 9 năm 1919, nền quân chủ miền Bắc được lập lại ở Porto. Chế độ quân chủ này cũng bị lật đổ một tháng sau đó và kể từ đó không còn xảy ra cuộc phản cách mạng nào của phe bảo hoàng ở Bồ Đào Nha nữa. Đế quốc Bồ Đào Nha. Theo thời gian, Vương quốc Bồ Đào Nha đã xây dựng nên những gì được gọi là Đế quốc Bồ Đào Nha. Bắt đầu với cuộc chinh phục Ceuta năm 1415, đế chế dần mở rộng với việc bổ sung thêm nhiều thuộc địa, lớn nhất trong số đó là Brasil (thành lập năm 1500 và giải thể vào năm 1822). Từ sau cuộc cách mạng cộng hòa năm 1910, các thuộc địa còn lại của đế chế đã trở thành các tỉnh hải ngoại của nước Cộng hòa Bồ Đào Nha cho đến cuối thế kỷ 20, khi các vùng lãnh thổ ở nước ngoài cuối cùng của Bồ Đào Nha đã được bàn giao (đặc biệt là xứ châu Phi thuộc Bồ Đào Nha bao gồm các tỉnh hải ngoại Angola và Mozambique vào năm 1975, và cuối cùng Macau vào năm 1999). Sau nhiều thế kỷ Bồ Đào Nha thống trị tại Angola, Vương quốc Kongo đã bị biến thành một nước chư hầu của vương quốc Bồ Đào Nha, quốc vương Kongo phải hứa trung thành với vua Bồ Đào Nha.
1
null
Vương quốc Brasil () là một vương quốc nằm trong khối Vương quốc Liên hiệp Bồ Đào Nha, Brasil và Algarves. Thành lập. Sư tồn tại hợp pháp của Vương quốc Brasil được tạo ra từ đạo luật của Nhiếp chính vương John của Bồ Đào Nha, Hoàng tử Brasil, Công tước xứ Braganza nhân danh mẹ mình là Nữ hoàng Maria I của Bồ Đào Nha vào ngày 16 tháng 12 năm 1815, giúp nâng Bang Brasil lên vị thế của một vương quốc trong khối Vương quốc Liên hiệp Bồ Đào Nha, Brasil và Algarves. Theo một sắc lệnh được ban hành ngày 22 tháng 4 năm 1821 trước khi rời Brasil đến Bồ Đào Nha vua John VI đã bổ nhiệm đứa con trai đầu lòng và người thừa kế của ông là Hoàng tử Pedro de Alcantara, Hoàng thái tử Vương quốc Liên hiệp làm nhiếp chính của Vương quốc Brasil với quyền hạn được ủy thác để thực hiện "chính phủ chung và quản lý toàn bộ Vương quốc Brasil" như nhà vua đã nắm giữ, vì vậy đã công nhận Vương quốc Brasil là một chính quyền phân cấp trong Vương quốc Liên hiệp. Hủy bỏ. Ngày 7 tháng 9 năm 1822, Hoàng tử Pedro, Hoàng thái tử của Vương quốc Liên hiệp Bồ Đào Nha, Brasil và Algarves, Nhiếp chính Brasil đã tuyên bố Brasil độc lập. Ngày 12 tháng 10 năm 1822, Hoàng tử Pedro trở thành vị Hoàng đế đầu tiên của một quốc gia mới độc lập, do đó sáng lập ra Đế quốc Brasil. Sự độc lập của Brasil chỉ được công nhận khi Hiệp ước Rio de Janeiro được ký kết vào năm 1825, theo đó thì Vương quốc Brasil nằm trong khối Vương quốc Liên hiệp Bồ Đào Nha, Brasil và Algarves lớn hơn đã chính thức giải thể và nền độc lập của Brasil mới được sự công nhận của Vương quốc Bồ Đào Nha. Theo một trong các điều khoản của Hiệp ước Rio de Janeiro, vua João VI của Bồ Đào Nha và Algarves, trước đây là vua John VI của Vương quốc Liên hiệp Bồ Đào Nha, Brasil và Algarves đã được ban tước vị danh nghĩa là Hoàng đế Brasil và do vậy cho phép ông giữ lại danh hiệu này cho đến khi qua đời vào năm 1826.
1
null
Vương quốc Algarve (tiếng Bồ Đào Nha: "Reino do Algarve", từ tiếng tiếng Ả Rập "Al-Gharb al-Andalus"), sau gọi là Vương quốc Algarves (tiếng Bồ Đào Nha: "Reino dos Algarves"), là một vương quốc được hợp nhất vào Vương quốc Bồ Đào Nha cho đến khi thành lập nền Cộng hòa Bồ Đào Nha vào ngày 5 tháng 10 năm 1910. Vương quốc là nước tự trị thứ hai của Bồ Đào Nha và được cho là một vương quốc với luật lệ nằm ngoài Bồ Đào Nha, dù trên danh nghĩa Vương quốc Algarve không có thể chế, ưu đãi đặc biệt hay quyền tự trị nào cả. Trong thực tế, nó chỉ là một danh hiệu kính cẩn dành cho Algarve về mặt lịch sử và rất giống với phần còn lại của các tỉnh Bồ Đào Nha. Lịch sử. Kiến tạo. Thành phố Silves lần đầu tiên bị vua Sancho I của Bồ Đào Nha chiếm vào năm 1189. Thế nhưng người Bồ Đào Nha đã không giữ Silves được lâu khi người Hồi giáo chiếm lại thành phố này vào năm 1191. Tái chinh phục. Trong cuộc "Reconquista" (Tái chinh phục), người Bồ Đào Nha và Castile đã tiến quân về phía nam đánh chiếm nhiều đất đai từ người Hồi giáo mà họ tuyên bố là của họ. Dưới thời vua Sancho II của Bồ Đào Nha, người Bồ Đào Nha còn chinh phục và củng cố các tuyến biên giới hiện nay ở phía nam vương quốc. Vua Niebla và Emir xứ Algarve đã cố gắng để chống lại những thành tựu đạt được của Bồ Đào Nha tại lãnh thổ của họ, bằng cách trở thành chư hầu vua Alfonso X của Castile (vì chư hầu của mình mà ông tự xưng là vua Algarve). Nhờ vậy mà Alfonso X mới có quyền thống trị xứ Algarve chưa bị người Bồ Đào Nha chinh phục. Để phản ứng đối với việc Alfonso X đòi hỏi xứ Algarve, Afonso III của Bồ Đào Nha đã tự xưng là "Vua của Bồ Đào Nha và Algarve" và được dùng để chứng minh quyền của vua Bồ Đào Nha vào khu vực có liên quan. Riêng danh hiệu "Vua của Silves" lần đầu tiên được sử dụng bởi Sancho I của Bồ Đào Nha từ sau cuộc chinh phục Silves đầu tiên vào năm 1189. Vì cuộc chinh phục không chiếm hết cả xứ Algarve nên Sancho chẳng bao giờ sử dụng danh hiệu Vua Bồ Đào Nha và Algarve, chỉ tới thời cháu của ông là Afonso III của Bồ Đào Nha mới dùng đến như là một phần của "các tước vị và chức danh của Hoàng gia Bồ Đào Nha". Vấn đề chủ quyền giữa Castile và Bồ Đào Nha cuối cùng cũng được giải quyết qua Hiệp ước Badajoz năm 1267, theo đó thì vua Alfonso X phải từ bỏ chủ quyền về xứ Algarve, ngược lại thì đứa cháu nội của ông là Dinis được chọn làm người thừa kế ngôi vị của Algarve, bức chế điều khoản sáp nhập Algarve vào vương quốc Bồ Đào Nha. Tuy nhiên hiệp ước lại cho phép sử dụng danh hiệu "Vua xứ Algarve" cho vua Alfonso X và con cháu của mình, kể từ khi Vua Alfonso X đã giành lại các vùng lãnh thổ của "Al-Gharb Al-Andalus" ở bên bờ sông Guadiana. Các vị vua của Castile và sau là Tây Ban Nha còn thêm vào danh hiệu này bên cạnh tước vị của họ cho đến khi Nữ hoàng Isabel II của Tây Ban Nha lên ngôi. Thời đại Khám phá. Trong thời đại Khám phá, Vương quốc Algarve đóng vai trò như là vị trí cập cảng cho nhiều chuyến thám hiểm, phần lớn đều do Hoàng tử Infante D. Henrique tài trợ. Hoàng tử Henry còn cho thành lập trường học nổi tiếng của ông về hàng hải ở Mũi đất Sagres, mặc dù ý tưởng của một trường học và khuôn viên trường thực sự vẫn còn tranh cãi kịch liệt. Hầu hết các chuyến thám hiểm đều xuất phát từ Lagos. Lãnh hải tại châu Phi. Tên gọi Vương quốc Algarve phải chịu một số thay đổi nhỏ do các cuộc chinh phục Bắc Phi của Bồ Đào Nha, được coi là một phần mở rộng của vương quốc Algarve. John I của Bồ Đào Nha còn thêm vào danh hiệu "Vua của Bồ Đào Nha và Algarve" và "Chúa đảo Ceuta", đến lượt cháu trai của ông là Afonso V của Bồ Đào Nha lại gọi là "Chúa đảo Ceuta và Alcacer-Ceguer ở châu Phi" (sau năm 1458). Cuộc chinh phục xứ Asilah, Tangiers và Larache vào năm 1471 cùng với xứ Bắc Phi chiếm được trước đây, dẫn đến việc tạo ra danh xưng "Algarves từ cả hai bờ biển châu Phi", bỏ chữ Algarve thuộc châu Âu thành "Algarve sau lưng biển". Do vậy phải đến năm 1471 từ "Vương quốc Algarve" dẫn đến "Vương quốc Algarves" là do gia tăng số lượng thuộc địa của Bồ Đào Nha ở Bắc Phi, đồng thời cũng là các thuộc địa của Vương quốc Algarve. Do đó các vị vua Bồ Đào Nha đã chấp nhận danh hiệu mà họ sẽ sử dụng cho đến khi chế độ quân chủ sụp đổ vào năm 1910. Danh hiệu "Vua của Bồ Đào Nha và Algarves ở hai bên bờ biển châu Phi" vẫn tiếp tục được sử dụng ngay cả sau khi bỏ rơi cứ điểm Bắc Phi cuối cùng tại Mazagan vào năm 1769. Xung đột thế kỷ 19. Vào thế kỷ 19, một cuộc xung đột nghiêm trọng giữa phái tự do và phe bảo hoàng ủng hộ vua Miguel đã khiến người dân từ các vùng nội địa của Algarve phải di cư đến các thành phố ven biển. Sau đó lãnh đạo du kích José Joaquim Sousa Reis có biệt danh Remexido đã dẫn binh sĩ tiến vào các vùng nội địa và tấn công các thành phố ven biển, khiến cư dân thành thị rơi vào tình trạng hỗn loạn. Sự rối loạn của Algarve tăng dần trong những năm từ 1834 đến 1838, khi cả xứ Algarve chứng kiến những trận ác chiến ở một mức độ chưa từng thấy bao giờ. Vào ngày 26 tháng 11 năm 1836, Miguel I của Bồ Đào Nha đã phong cho Remexido là "Thống đốc của Vương quốc Algarve và quyền Tổng Tư lệnh các Lực lượng Hoàng gia, Quân đội chính quy và không chính quy và các Chiến dịch ở miền Nam". Tuy nhiên ít lau sau đó Remexido đã bị bắn chết tại Faro vào ngày 2 tháng 8 năm 1838.
1
null
The Animals là ban nhạc của Anh trong những năm 60 của thế kỉ 20, thành lập ở Newcastle và chuyển tới Luân Đôn để tìm kiếm thành công vào năm 1964. Ban nhạc có tên cũ là Alan Price Rhythm and Blues Combo được biết đến bởi chuyên chơi loại nhạc hỗn hợp của rock and roll, blues và pop cùng với chất giọng khàn của thủ lĩnh Eric Burdon, phong cách biểu diễn cuồng nhiệt, sôi động cộng với sự phóng khoáng. Nhóm nhạc nổi tiếng với những bài hát như "We Gotta Get out of This Place", "It's My Life", "I'm Crying", "Don't Let Me Be Misunderstood", Bring It On Home To Me, See See Rider, Don't Bring Me Down... và nổi bật nhất là ca khúc House of the Rising Sun. The Animals là một trong những ban nhạc tham gia vào trào lưu British Invasion cùng với những ban nhạc Anh khác như Chad & Jeremy, Peter and Gordon, The Beatles, Manfred Mann, Petula Clark, Freddie and the Dreamers, Wayne Fontana and the Mindbenders, Herman's Hermits, The Rolling Stones, The Kinks, The Troggs, Donovan, Them và The Dave Clark Five... Góp phần đưa âm nhạc Anh có vị trí trong rock cũng như trở thành trung tâm của âm nhạc thế giới, mở ra thời kỳ thành công vang dội cho vô vàn các nghệ sĩ Anh sau này The Animals cũng đã trải qua nhiều thay đổi nhân sự trong giữa những năm 1960 và quản lý kinh doanh hoạt động kém. Sau khi vượt qua khó khăn, ban nhạc trở lại hoạt động với tên Eric Burdon and the Animals, họ chuyển tới California và đạt được nhiều thành công về mặt thương mại với thể loại rock mạnh và rock phiêu diêu với những bài hát tiêu biểu "San Franciscan Nights", "When I Was Young" và "Sky Pilot". Trước khi chính thức giải thể, nhóm nhạc đã có khoảng 10 bài trong Top 20 bản hit của UK Singles Chart và Billboard Hot 100 The Animals quay trở lại với các thành viên cũ vào khoảng những năm 1975 đến 1983. Ban nhạc cũng được giới thiệu trong Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll vào năm 1994 Sự ra đời. Vào năm 1962, ở thành phố Newscastle, xuất hiện ban Kansas City Five, với các thành viên bao gồm: nghệ sĩ piano, organ Alan Price, tay trống John Steel, ca sĩ Eric Burden. Sau đó vào năm 1962, Price rời bỏ nhóm để gia nhập một ban khác tên là Kontours lúc đó do tay bass Bryan "Chas" Chandler dẫn đầu, còn ca sĩ Burden thì chuyển đến thủ đô London. Chandler nhanh chóng đổi tên nhóm thành Alain Price Rthym-and-blues Combo. Khi Alain Price Rthym-and-blues Combo tiếp nhận tay trống John Steel, (theo lời đề nghị của Price) Burden quay lại thành Newscastle vào đầu năm 1963 để tìm thêm thành viên hoàn thiện đội ngũ. Cuối cùng thành viên cần tìm chính là tay guitar High Valentine, người gia nhập đúng thời điểm ban nhạc mới này đang tiến hành thu album đầu tiên mang ngay cái tên mới của nhóm: The Animals. Nhờ đĩa thu này, nhóm gây sự chú ý tới nghệ sĩ blues rock tiên phong Anh Quốc, Graham Bond, ông này giới thiệu nhà tổ chức Giorgio Gomelsky cho nhóm. Ban nhạc được biết đến với tên gọi The Animals do phong cách chơi nhạc hoang dã và sôi động của các thành viên. Eric Burdon đã phủ nhận trong cuộc họp báo năm 2013, Animal là để tưởng nhớ một người bạn có tên là Hogg. Sau thành công tại quê nhà, The Animals đã gặp quản lý Giorgio Gomelsky để chuyển tới London sau sự kiện Beatlemania và sau đó là tham gia vào trào lưu Cuộc xâm lăng của nước Anh Trong thời kỳ đầu, The Animals có hát lại những bài của Jimmy Reed, John Lee Hooker, Nina Simone và nhiều ca sĩ khác. Họ ký hợp đồng với công ty Columbia Graphophone của EMI. Giorgio Gomelsky bố trí cho ban nhạc chơi tại CLB Clawdaddy Club của ông. Bài hát Baby Let Me Take You Home (bản rock của Baby Let Me Follow You Down là ca khúc đầu tiên của họ, leo lên top 21 trên bảng xếp hạng Anh. Năm 1964, The Animals hát lại ca khúc House of the Rising Sun - một bản dân ca quen thuộc về New Orleans. Ca khúc được nhóm chế biến lại và đã đứng đầu của cả hai bảng xếp hạng Anh và Mỹ đúng mùa hè năm đó - vốn được cho là sẽ chết yểu vì đã có rất nhiều ca sĩ, kể cả Bob Dylan hát lại. Thành công này mở đường cho mùa thu hoạch cho ban nhạc với album đầu tay. Single thứ ba của họ - I'm Crying - cũng leo lên hạng 8 ở Anh. Theo đà thắng lợi, nhóm biên soạn một album, Animals Track toàn các đĩa đơn lọt vào top 10 bao gồm những bài R&B kinh điển như Don't Let Me be Misunderstood, We've Gotta Get out of This Place. Tháng năm 1965, sau khi thu We've gotta get out of this Place. Price đột ngột rời nhóm với lý do sợ đi máy bay. Vị trí của Alan được thay thế từ Mick Gallagher và sau đó là Dave Rowberry. Vài tư liệu cho thấy, khi thu House of the Rising Sun, về cơ bản, cả nhóm được coi là cùng hợp lực phối lại, có nghĩa theo hợp đồng cho phép tất cả các thành viên đều có tên dưới mỗi tác phẩm với tư cách chính thức. Price nêu ra vấn đề, cho là lợi nhuận sẽ được chia đều. Nhưng chuyện đó không diễn ra và trục trặc bắt đầu: Price đột nhiên cảm thấy "sợ đi máy bay" và muốn rời khỏi ban. Theo tư liệu khác, thì do xung đột giữa Burden và Price để giành nhau địa vị thủ lĩnh toàn nhóm mới là lý do chính Sau sự ra đi của Price là đến lúc The Animals cảm thấy bức bối, chán nản với chất liệu bị ép thu theo quan điểm của nhà sản xuất Mickie Most. Không chỉ hầu hết các ca khúc quá thương mại với sở thích của họ, mà còn bởi vì họ bị giới thiệu với hình ảnh sai lệch. Mặc dù vẫn tạo thành công, điển hình là bản It's My Life vẫn leo lên top 7 ở Anh và đứng vị trí tương tự ở Mỹ, nhóm vẫn chấm dứt hợp tác với Most và hãng EMI. Cả ban chuyển sang hãng Decca và MGM Records và tiến triển đầy quyền năng mạnh mẽ hơn trước qua album Animalism và The Best of the Animals bán chạy nhất ở Mỹ. Đội ngũ nhóm tiếp tục thay đổi, cây trống Steel ra đi sau khi Animalism được thu (1966), thế chỗ vị trí này là Barry Jenkins, cựu thành viên của Nashville Teens. Đến giữa năm 1966, tay bass guitar Chandler cũng bỏ nhóm sau khi thu single Don't Bring Me Down và Valentine cũng cố gắng ở lại đến cuối năm. Single có cái tên trớ trêu ấy là đĩa cuối cùng của nhóm The Animals Nhóm chỉ còn là Eric và Barry. Eric hoạt động một mình với album Eric Is Here, với ca khúc Help Me, Girl đứng thứ 14 trong bảng xếp hạng tại Anh. Đó là lần cuối cùng The Animals hợp tác với Decca Record Nguyên nhân sụp đổ của Animals được cho là vấn đề tài chính, theo Chandler, nguyên nhân là do các thành viên quá chủ quan và ngây thơ trong tài chính, làm được ít tiền nên kinh doanh của ban nhạc ở trong một tình trạng rất hỗn độn, cộng với quản lý yếu kém. Đội ngũ The Animals ban đầu có 5 giờ chỉ còn lại một mình Eric Burdon Eric Burdon and The Animals. Eric Burdon cố gắng cải tổ lại nhóm cùng với Barry Jenkins, họ thu nạp được John Weider (chơi guitar/violin/bass), Vic Briggs (guitar/piano) và Danny McCulloch (bass) vào tháng 12 năm 1966 với cái tên mới là Eric Burdon and The Animals. Ban nhạc chơi thể loại mới là rock phiêu diêu và đạt được nhiều thành công như "San Franciscan Nights", "Monterey", "When I Was Young" và "Sky Pilot". Tháng 4 năm 1968, Mc Culloch ra đi, được thay thế bởi nghệ sĩ keyboard kiêm ca sĩ Zoot Money - bạn cũ của Burdon. Tháng 7 năm đó, Briggs ra đi và tay guitar Andy Summers, còn Weider chuyển sang chơi bass luân phiên với Summers. Tháng 12 năm 1968, The Animals lại giải thể, 2 bài hát "Ring of Fire" và "River Deep – Mountain High cùng với album Love Is được quốc tế phát hành. Rất nhiều lý do giải thể được đưa ra, nổi tiếng nhất là buổi trình diễn bị hủy bỏ ở Nhật Bản. Các tour đã được lên kế hoạch cho tháng 9 năm 1968 nhưng đã bị trì hoãn cho đến tháng 10, vì gặp trở ngại khi kiếm visa. Vài ngày trước tour du lịch, một người trong tổ chức mafia Yakuza bắt cóc quản lý, dọa bắt ông phải viết một thuế đầu tư $25000 gọi là để bù lỗ phát sinh do chậm trễ của tour diễn. Quản lý đã viết, nhưng vấn đề là không ai trong số những kẻ bắt cóc ông biết đọc tiếng Anh, và còn bị viết trong hoàn cảnh bị cưỡng ép. Những kẻ bắt cóc thả ông nhưng cảnh báo sẽ giết hại những thành viên trong nhóm nếu họ không rời khỏi Nhật Bản. Eric Burdon and The Animals phải rời khỏi Nhật Bản, để lại những đồ nghề đi trình diễn. Money và Summers rời nhóm với mong muốn đi biểu diễn riêng (sau bị hủy bỏ với trường hợp của Summesr, Weider bỏ nhóm gia nhập Family. Cuối cùng, vào năm 1969, Eric Burdon đành bỏ cuộc, gia nhập một nhóm nhạc War ở California Ngày về của The Animals. Năm 1975, Alan Price, Hilton Valentine, Bryan Chandler, và John Steel trở lại The Animals cùng với Eric Burdon. Eric nói rằng không có ai hiểu được vì sao lại có cuộc hội ngộ ngắn ngủi đó. Năm 1976, họ làm một tour trình diễn nhỏ và tung video "Lonely Avenue" và "Please Send Me Someone to Love". Năm 1977, họ làm album Before We Were So Rudely Interrupted, album được giới phê bình khen ngợi nhưng không được ăn khách và ít người biết đến, Eric cùng với Hilton có thu âm bản demo tại thời điểm đó, nhưng sau đó những bản thu âm này lại không bao giờ được phát hành. Tan rã. Tháng 12 năm 1982, Burdon cùng Price lên kế hoạch mới. Năm 1983, The Animals ra album Ark, với sự trở lại của Zoot Money, và sự giúp đỡ của Nippy Noya chơi bộ gõ, Steve Gregory chơi kèn saxophone và Steve Grant với guitar. Bài hát The Night đứng thứ 48 của US Pop Singles và 34 của Mainstream Rock Charts, nó cũng có vị thế lớn ở Hy Lạp. Họ ra bài hát tiếp theo là Love Is For All Time Tour trình diễn của họ có một phần ba bài hát từ thời 1960, hai phần ba từ album Ark. Ngoài ra còn có "Heart Attack", "No More Elmore", "Oh Lucky Man", "It's Too Late", "Tango", và "Young Girls". Họ có tour trình diễn đầu tiên ở New York và ngày 9 tháng 9 năm 1894, tại Trung tâm Hành chính Mid-Hudson, tại nhà hát Royal Oak vào ngày 21 tháng 11 năm 1983, tại Sân vận động Wembley vào 31 tháng 12 năm 1984 với album Greatest Hits Live (Rip It to Shreds). Sau đó do lịch diễn quá dày dặc, nhóm thấy rõ hoạt động theo kiểu tái hợp này không thể kéo dài. 5 người lại chia tay nhau lần nữa, đi tiếp vết xe đổ của sự nghiệp cầm ca. Chấm dứt sự tồn tại 22 năm của một trong những nhóm nhạc huyền thoại nước Anh. Có một bộ phim về sự trở lại của họ nhưng không bao giờ được phát hành, Chandler mất vào năm 1996, đồng nghĩa với việc không bao giờ có sự trở lại của nhóm The Animals ngày đầu như hồi năm 1975 Hậu The Animals. Sau khi The Animals tan rã. Suốt những năm 1990 và 2000, đã có một số nhóm nhạc mang tên Animals mà thành viên trong đó là những cựu viên của The Animals. Các thành viên trong the Animals tiếp tục sự nghiệp ca nhạc cho đến bây giờ Tranh chấp về quyền sở hữu của tên ban nhạc. Năm 2008, một tòa án xác nhận rằng John Steel sở hữu tên ban đầu của nhóm nhạc The Animals, Eric Burdon phản đối điều này, nhưng đã bị tòa án bác bỏ. Một trong những nguyên nhân ông bị từ chối do hồi năm 1976 ông đã đổi tên nhóm là Eric Burdon and The Animals, nó là đòn chí mạng khi cái tên thể hiện rằng ông đã tự tách uy tín của tên tuổi của mình với ban nhạc Di sản của The Animals. The Animals được vinh danh trong phần giới thiệu trong Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll vào năm 1994. Năm 2003, bài hát The House of the Rising Sun xếp thứ 122, bài hát We Gotta Get out of This Place xếp thứ 233 trong 500 bài hát vĩ đại nhất (danh sách của Rolling Stone). 2 bài hát cũng được vinh danh trong Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll. Ngoài ra thì Don't Let Me Be Misunderstood cũng xếp thứ 315 trong 500 bài hát vĩ đại nhất (danh sách của Rolling Stone). The House of the Rising Sun là ca khúc thành công nhất trong lịch sử hoạt động của The Animals và không có ca khúc nào sau đó của nhóm leo lên vị trí số 1. Ca sĩ Eric Burdon đứng thứ 57 trong top 100 Ca sĩ vĩ đại nhất mọi thời đại của Rolling Stone Vào ngày 15 tháng 3 năm 2012, trong một bài phát biểu với khán giả tại miền Nam bởi lễ hội âm nhạc Tây Nam, Bruce Springsteen có nói ảnh hưởng của The Animals vào âm nhạc của mình tại chiều dài, nói: "Với tôi, The Animals là một sự mặc khải. Họ được các hồ sơ đầu tiên với ý thức giai cấp toàn diện mà tôi từng nghe. "Ông nói "We Gotta Get out of This Place": "Đó là những bài hát mà tôi đã viết... Đó là" Born to Run ',' Born in the U.S.A., "tất cả mọi thứ mà tôi đã làm trong 40 năm qua bao gồm cả tất cả những cái mới, đó tác động vào tôi tôi quá sâu. Đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy tôi nghe một cái gì đó đi qua các đài phát thanh phản ánh cuộc sống gia đình của tôi, tuổi thơ của tôi. "Ông nói rằng Darkness on the Edge of Town của thị xã đã được "tràn đầy với The Animals", Springsteen chơi những đoạn riff mở của "Don't Let Me Be Misunderstood" và của "Badlands" của mình trở lại trở lại, sau đó ông nói: "Nghe này, các bạn trẻ. Đây là thành công của hành vi trộm cắp được thực hiện!" Sean Egan cũng từng nói "British Invasion như The Animals có ảnh hưởng lớn trên những người đàn ông của thế hệ mình. Mặc dù The Animals ban đầu đã không thường xuyên viết các tài liệu riêng của họ, họ thường chọn những bài hát của mang đặc trưng của giai cấp vô sản và chống độc tài, và bạn có thể thấy lý do tại sao các tài liệu như vậy sẽ thu hút tâm trí ai đó như của Springsteen. Điều này đặc biệt có thể thấy qua We Gotta Get out of This Place, một hoạt cảnh ảm đạm của đói nghèo và một tuyên bố của một quyết tâm thoát nghèo." The Animals hoạt động trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, họ cũng đã bắt thời cơ này để hát những bài nội dung phản chiến như We Gotta Get out of This Place,Sky Pilot, San Franciscan Nights rất được ưa chuộng. Đặc biệt We Gotta Get out of This Place rất được lính Mỹ ở miền nam Việt Nam yêu thích khi nó nói đúng tâm trạng chán nản và muốn trở về nước của quân Mỹ
1
null
Edith Minturn Sedgwick, hay được gọi ngắn gọn là Edie Sedgwick (20 tháng 4 năm 1943 – 16 tháng 11 năm 1971) là người mẫu, diễn viên, nhà hoạt động xã hội người Mỹ. Cô được biết tới nhiều nhất khi làm superstar cho đội hình của Andy Warhol trong những năm 1960. Cô là một đại diện điển hình của "It girl", trong khi tạp chí "Vogue" từng gọi cô là "Youthquaker". Tiểu sử. Gia đình. Edith sinh ra tại Santa Barbara, California, là con gái của Alice Delano De Forest và Francis Minturn Sedgwick. Cha của cô, Francis, một nhà hoạt động từ thiện và là một nhà điêu khắc, sở hữu một điền trang lớn và đã từng phải trải qua những tháng ngày điều trị giảm áp lực, bác sĩ đã từng khuyên ông không nên có con. Song cuối cùng, gia đình ông đã có tám người con. Edie được đặt tên theo người dì của cha cô là Edith Minturn – người rất nổi tiếng khi được họa sĩ John Singer Sargent vẽ chân dung mình cùng chồng Isaac Newton Phelps Stokes. Đại gia đình Sedgwick gắn liền với lịch sử của Massachusetts. Cụ cố của họ, Robert Sedgwick, sinh ra tại Anh và là người Quản lý đầu tiên của Vịnh thuộc địa Massachusetts vào năm 1635. Hầu hết gia đình Sedgwick đều được sinh trưởng tại Stockbridge, Massachusetts nơi mà cụ cố của cô là thẩm phán Theodore Sedgwick sống sau Cách mạng Hoa Kỳ. Theodore cưới Pamela Dwight từ dòng họ Dwight danh giá, cháu gái của Abigail (Williams) Dwight, vậy nên Ephraim Williams – người sáng lập ra trường Đại học Williams – cũng là cụ cố của Edie. Theodore Sedgwick chính là người đầu tiên đệ đơn và bảo vệ thành công một nguyên đơn da màu của lịch sử nước Mỹ, Elizabeth Freeman, chiếu theo việc Tuyên bố về Quyền con người của bang Massachusetts đã ghi mọi người sinh ra đều có quyền sống và bình đẳng. Mẹ của Edie là con gái của Henry Wheeler de Forest (chủ tịch của hãng vận tải Southern Pacific Railroad và là hậu duệ của Jessé de Forest, người đã thành lập nên Công ty Tây Ấn Hà Lan tại Tân Amsterdam). Những người khác trong gia đình Sedgwick còn có thể kể tới nhà văn, luật sư Henry Dwight Sedgwick III, bà cố Susanna Shaw – em gái của Robert Gould Shaw, một tướng trong thời kỳ Nội chiến Hoa Kỳ, ông cố Robert Bowne Minturn sở hữu chiếc thuyền Flying Cloud và là một trong những người xây dựng nên Công viên Trung tâm ở New York. Ngoài ra, còn phải kể tới một cụ cố khác trong gia đình cô là William Ellery – một trong những tác giả của Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ. Edie cũng là em họ của diễn viên Kyra Sedgwick. Kyra là con của Henry Dwight Sedgwick V, người là con trai của Robert Minturn Sedgwick và là anh ruột của Francis Minturn Sedgwick. Dù sinh ra trong một gia đình danh giá và giàu có, Edie không có một tuổi thơ hạnh phúc. Các anh em cô đều có mâu thuẫn sâu sắc với cha họ – một người tự cao, ít tình cảm, gia trưởng và bạo lực, thường được họ gọi bằng cái tên "Fuzzy". Chị cả Alice ("Saucie") tuyên bố từ gia đình, còn 2 trong số 3 người anh của cô thậm chí qua đời khi còn rất trẻ: Francis ("Minty"), vốn không chịu được tính cách của người cha, đã tự tử ở một khu điều trị tâm thần vào năm 1964; Robert ("Bobby") cũng phải chịu nhiều vấn đề tâm lý, đã qua đời trong một vụ tai nạn xe máy vào năm 1965. Edie cũng có một mối quan hệ rất khó khăn với cha khi ông có rất nhiều người đàn bà khác nhau. Có lần cô đã bắt gặp ông đang làm tình với một trong những nhân tình của mình. Cô đã rất giận dữ, song Fuzzy đã kể lại rằng cô tưởng tượng ra mọi chuyện. Cũng chính về những vấn đề tâm lý, Edie đã bắt đầu chứng biếng ăn ngay từ khi còn ở tuổi thành niên, rồi sau đó mắc chứng rối loạn ăn uống cho tới suốt cuộc đời. Giáo dục. Những đứa trẻ nhà Sedgwick được nuôi nấng tại California. Chúng bắt đầu đi học tại nhà qua việc dạy dỗ của người vú nuôi, và cũng là để cha mẹ dễ kiểm soát hơn. Chúng cũng bị tách biệt khỏi xã hội bên ngoài và điều đó khiến chúng cảm thấy mình thuộc tầng lớp cao hơn mọi người. Tới tận năm 13 tuổi, Edie mới được theo học tại ngôi trường Branson gần San Francisco, nhưng theo lời chị gái Saucie, Edie nhanh chóng bị trả về vì chứng biếng ăn. Năm 1958, cô bé Edie được nhận tại trường Thánh Timothy ở Maryland, song sau đó cũng sớm xin nghỉ học vì chứng bệnh trên. Mùa thu năm 1962, theo đề nghị của cha Fuzzy, Edie được gửi điều trị tại Bệnh viện Silver Hill ở New Canaan, Connecticut. Theo lời một bệnh nhân có tên Virginia Davis, việc điều trị ở đây vô cùng thoải mái, Edie và bạn thường ra ngoài vào mỗi buổi chiều để vào thành phố mua sắm, chi tiêu tới hàng ngàn $ tại các cửa hàng nơi đây. Vì vậy, gia đình đã buộc phải chuyển cô tới một cơ sở "khép kín" hơn có tên Bloomingdale Insane Asylum ở Quận Westchester, New York, trực thuộc Bệnh viện New York. Tại đây, với những phương pháp đặc biệt, bệnh tình của Edie có nhiều tiến triển. Trước khi ra viện, cô nảy sinh tình cảm với một sinh viên Harvard: cô mang bầu song đã đi phá thai với sự giúp đỡ của mẹ. Mùa thu năm 1963, Edie được tới Cambridge, Massachusetts theo học điêu khắc với chị họ và nghệ sĩ nổi tiếng Lilian Swann Saarinen, người đã kết hôn với một trong những nhà thiết kế và kiến trúc sư nổi tiếng nhất – Eero Saarinen. Lily sau này nói về Edie: "Cô ấy luôn cảm thấy bất an về đàn ông, cho dù người đàn ông nào cũng đều yêu cô ấy." Trong khoảng thời gian này, cô hay đi tiệc với một nhóm những người bohemia ưu tú theo học tại Havard mà trong đó có cả những người đồng tính. Sedgwick thực sự cảm thấy bị sốc khi 2 người anh trai của cô qua đời chỉ cách nhau đúng 18 tháng. Minty cũng có một cuộc đời vô cùng phức tạp: anh sớm sử dụng rượu ở tuổi thành niên, rồi ngày một nghiện nặng hơn cả rượu lẫn ma túy. Cuối năm 1963, anh bị suy nhược nghiêm trọng và phải đi cấp cứu tại Bệnh viện Bellevue trước khi bị chuyển tới Silver Hill. Theo lời của người bạn Ed Hennessy, Sedgwick đã nói với anh rằng Minty thực tế đã phát hiện ra cha mình là một kẻ đồng tính, và điều đó khiến Fuzzy nổi giận, từ đó không bao giờ nói chuyện với Minty nữa. Chỉ không bao lâu sau, vào tháng 5 năm 1964, Minty đã treo cổ tại cánh cửa một phòng tắm ở Silver Hill. Lúc Minty qua đời, Edie đang sống tại New York. Cô sống với bà trẻ tại một căn hộ ở Park Avenue trên phố 71, rồi sau đó cô chuyển ra ở một căn hộ tại East Sixties giữa đường 5 và đường Madison vốn được mẹ cô trang trí nội thất. Cô dấn thân vào các cuộc tiệc tùng và tiêu xài một cách đáng kinh ngạc; theo người bạn Tom Goodwin, cô tiêu tớin hơn 8.000$ chỉ trong vòng có 6 tháng và mua một lượng khổng lồ quần áo, đồ trang sức và mỹ phẩm. Sau khi người "tài xế riêng" làm hỏng chiếc Mercedes mà bố cô tặng, cô bắt đầu chuyển sang thuê limousine, thay đổi hết hãng này sang hãng khác mỗi khi cô hết tài khoản. Cô bắt đầu thử dùng ma túy và được giới thiệu chất LSD qua những bạn ở Cambridge – những người quen biết Timothy Leary và Richard Alpert (2 giáo sư tại Đại học Havard cho rằng LSD có tác dụng làm nhẹ tâm hồn). Người em út Bobby cũng mắc phải những vấn đề tâm lý nghiêm trọng, và vào cuối năm 1963, chỉ không lâu sau vụ tự sát của Minty, Bobby bắt đầu suy sụp và chị gái Saucie phải đề nghị chuyển cậu tới Bellevue. Song cậu bắt đầu việc tự hủy hoại cơ thể, làm hỏng chiếc xe máy và thường xuyên điều khiển chiếc Harley Davidson ở tốc độ cao mà không đội mũ bảo hiểm. Bobby cũng từng bị từ chối việc tham gia bữa tiệc Giáng sinh của gia đình Sedgwick tại California ngày 31 tháng 12 năm 1964 (theo Saucie, bố Fuzzy cho rằng việc Bobby xuất hiện sẽ làm hỏng không khí của bữa tiệc). Bobby dính chấn thương nghiêm trọng trong một tai nạn xe hơi khi anh bị va mạnh vào một chiếc xe bus trên Đại lộ số 8 tại New York. Anh rơi vào trạng thái vô thức sau đó, rồi qua đời 12 ngày sau ở tuổi 31. Edie đã từng nói với người bạn Gillian Walker rằng cô biết kiểu gì thì Bobby cũng sẽ sớm qua đời và có lẽ sẽ tự sát. Cũng theo quan điểm của Walker, sau hàng loạt thảm họa với gia đình, Edie đã thay đổi khi không còn bộc lộ cảm xúc nữa và quyết định vùi mình vào những bữa tiệc ở New York. Không lâu sau cái chết của Bobby, Edie bị tai nạn xe hơi tại California và bị gãy chân. Cô sợ rằng người cha của mình sẽ viện cớ này để gửi cô lại khu điều trị tâm thần, vậy nên với sự giúp đỡ của mẹ, cô đã bí mật rời California và quay trở về New York để bình phục. The Factory. Tháng 3 năm 1965, Edie lần đầu được tiếp xúc với nghệ sĩ avant-garde Andy Warhol tại căn hộ của Lester Persky. Kể từ đó, cô tham gia thường xuyên với The Factory cùng người bạn thân Chuck Wein. Trong 1 dịp như vậy, Warhol đã quay bộ phim "Vinyl", phỏng theo tiểu thuyết "A Clockwork Orange". Cho dù dàn diễn viên của "Vinyl" đều là nam, Warhol vẫn quyết định đưa Sedgwick vào bộ phim. Cô cũng tham gia trong vai phụ ở một bộ phim khác của Warhol có tên "Horse" khi cô xuất hiện chớp nhoáng ở những cảnh cuối. Một trong những bộ phim đầu tiên của họ, "Poor Little Rich Girl", vốn được Warhol thực hiện nhằm cho một dự án phim dành riêng cho Sedgwick mang tên "The Poor Little Rich Girl Saga", bao gồm bộ phim trên cùng "Restaurant" và "Face and Afternoon". Quá trình quay phim của "Poor Little Rich Girl" được bắt đầu vào tháng 3 năm 1965 ngay tại căn hộ của Sedgwick. Cảnh quay thực đầu tiên chính là cảnh Sedgwick thức giấc, dùng cà phê và nước cam rồi ngồi trang điểm với duy nhất một ca khúc của Everly Brothers làm nhạc nền. Ngày 30 tháng 4 năm 1965, Warhol đem Sedgwick, Chuck Wein và Gerard Malanga trong buổi khai mạc triển lãm tại phòng tranh Sonnabend Gallery ở Paris. Khi quay lại New York, ông có yêu cầu biên kịch Ronald Tavel viết cho Sedgwick "một thứ gì đó bếp núc – thứ gì đó trắng, sạch và giàu tính tạo hình." Yêu cầu của Warhol cũng là để cho bộ phim "Andy Warhol: A Documentary Film" thực hiện bởi Ric Burns. Chẳng bao lâu, thành quả có được là bộ phim "Kitchen" với sự tham gia của Sedgwick, Rene Ricard, Roger Trudeau, Donald Lyons và Elecktrah. Sau "Kitchen", Chuck Wein thay thế Tavel trong việc đạo diễn và viết kịch bản bộ phim "Beauty No. 2" mà Sedwick vào vai cùng Gino Piserchio. Bộ phim được công chiếu lần đầu vào ngày 17 tháng 7 tại rạp chiếu của hãng Film-Makers ở Astor Place Playhouse. Phim mà Warhol sản xuất không có những thành công thương mại, và nhìn chung chỉ được chiếu trong phạm vi của The Factory, nhưng vai trò của Sedgwick ngày một lớn, và nhiều kênh truyền thông bắt đầu để ý tới việc cô tham gia ngày một nhiều hơn trong các bộ phim trái lề của Warhol, cùng với đó là phong cách thời trang kỳ lạ của cô. Cũng trong quãng thời gian này, Sedwick đã xây dựng nên hình ảnh "thương hiệu": áo nịt đen, quần chẽn ngắn và khuyên tai lớn. Cô cũng cắt tóc ngắn và nhuộm mái tóc nâu của mình có ánh kim, gần giống với màu bộ tóc giả của Warhol. Warhol đưa cô vào trong Superstar và họ vẫn thường được chụp hình chung trong rất nhiều sự kiện. Cũng trong năm 1965, Sedgwick và Warhol còn thực hiện vài bộ phim nữa, bao gồm "Outer and Inner Space", "Prison", "Lupe" và "Chelsea Girls". Tuy nhiên, tới cuối năm, mối quan hệ giữa họ đột nhiên xấu đi, và Sedgwick đề nghị Warhol không làm phim cho cô nữa. Cô yêu cầu phần quay cảnh có cô trong "Chelsea Girls" phải được thay thế bởi Nico với đèn chiếu và nhạc nền của The Velvet Underground. Phần chỉnh sửa cắt ghép này được tổng hợp sau đó trong bộ phim "Afternoon". "Lupe" thường được coi là bộ phim cuối cùng của Sedgwick thực hiện cùng Warhol. Sau này cô còn tham gia quay bộ phim "The Andy Warhol Story" cùng Rene Ricard vào năm 1966. Đây cũng là một bộ phim không được phát hành và chỉ được lưu hành trong nội bộ The Factory. Rene Ricard trong phim vào vai Andy Warhol. Tới nay bộ phim này đã bị thất lạc, hoặc đã bị hủy. Bob Dylan và Bob Neuwirth. Theo hoạt động của nhóm Andy Warhol, Edie thường được nghỉ tại khách sạn Chelsea Hotel, nơi mà cô được làm quen và tiếp xúc với Bob Dylan. Những người bạn của Dylan thường thuyết phục cô ký hợp đồng với Albert Grossman, người quản lý của anh. Mối quan hệ giữa Dylan và Sedgwick chỉ chấm dứt khi cô biết được anh đã bí mật kết hôn với Sara Lownds qua lời của Warhol trong một bữa tiệc tại nhà hàng Gingerman Restaurant tháng 2 năm 1966. Theo Paul Morrissey, Sedgwick từng nói: ""Mấy người họ [bạn của Dylan] muốn làm phim và muốn tôi thủ vai chính cùng Bobby [Dylan]. Đột nhiên, có cả Bobby này và Bobby nọ, và họ nhận ra rằng cô ấy đang để ý tới anh ta. Họ nghĩ rằng anh ta cuốn hút cô ấy, cho tới cái ngày khi mà Andy nghe qua lời của luật sư tại văn phòng của mình rằng Dylan đã bí mật kết hôn từ vài tháng trước – với Sara Lownds vào tháng 11 năm 1965... Andy không thế không hỏi: "Này Edie, cô có biết rằng Dylan đã kết hôn rồi không?" Cô ấy rùng mình. Họ nhận ra rằng cô ấy từng muốn dấn thân vào mối quan hệ nghiêm túc với Dylan, và giờ điều đó cho thấy rằng anh ta không phải là người chân thực."" Tháng 12 năm 2006, chỉ vài tuần trước khi phát hành bộ phim "Factory Girl", hãng Weinstein Company và các nhà sản xuất đã phỏng vấn anh trai của Edie, Jonathan, người nói rằng Edie đã từng kể với anh việc cô phải phá thai đứa con của cô với Dylan. Jonathan Sedgwick, một cựu thiết kế hàng không, đã bay từ Idaho to New York để gặp diễn viên Sienna Miller, người vào vai em gái anh, cùng với đó là dành tới 8 giờ phỏng vấn để kể chi tiết về những điều chưa được biết tới về mối quan hệ giữa Edie và Dylan – những thông tin sau đó được nhà sản xuất công bố với truyền thông. Jonathan nói rằng việc phá thai của cô là từ sự kiện "Edie bị thương nặng trong một vụ tai nạn xe máy và buộc phải cấp cứu. Các bác sĩ đã chỉ định cô đến bệnh viện điều trị tâm thần nhằm tránh việc lạm dụng ma túy." Không có một hồ sơ bệnh án hay lời thừa nhận nào từ gia đình Sedgwick nhằm khẳng định lại câu chuyện trên. Mặt khác, Jonathan cũng kể thêm: "Đội ngũ y tế biết rằng cô ấy có thai, song vì sợ những ảnh hưởng xấu từ chứng biếng ăn cũng như việc sử dụng ma túy của cô mà họ đã quyết định thuyết phục cô phá thai." Tuy nhiên, theo bác sĩ riêng của cô và cũng theo lời tự sự về cuộc đời mình mà cô thu không lâu sau khi quay bộ phim cuối cùng "Ciao! Manhattan" thì cô chỉ có duy nhất 1 lần phá thai vào năm 1963 ở tuổi 20. Trong năm 1966, Edie còn có mối quan hệ thân thiết khá ồn ào với người bạn của Dylan là Bob Neuwirth. Cũng trong khoảng thời gian này, cô bắt đầu sử dụng nhiều hơn barbiturate. Cho dù lạm dụng ma túy, Sedgwick lại chưa từng sử dụng heroin. Tới năm 1967, không thể chấp nhận được tính khí thất thường và việc cô dùng quá nhiều ma túy, Neuwirth chủ động chia tay với Sedgwick. Những năm cuối và cái chết. Edie được mời đi thử vai cho bộ phim "The Deer Park" của đạo diễn lừng danh Norman Mailer, song ông cho rằng "cô ấy không thật sự xuất sắc... Cô ấy tự áp đặt mình vào từng dòng kịch bản tới mức chúng tôi dễ dàng nhận ra là phải từ chối cô ấy chỉ sau 3 lần thử vai." Tháng 4 năm 1967, Sedgwick bắt đầu ghi hình bộ phim "Ciao! Manhattan" – một bộ phim trái lề nữa. Sau vài cảnh tại New York, 2 đạo diễn John Palmer và David Weisman tiếp tục hoàn chỉnh bộ phim trong suốt 5 năm sau. Sức khỏe của Sedgwick nhanh chóng suy sụp sau chuyến đi thăm gia đình ở California, dẫn tới việc phải đi điều trị thường xuyên. Tháng 8 năm 1969, cô bị đưa tới bệnh viện Cottage Hospital để điều trị tâm thần sau khi bị bắt vì sử dụng ma túy tại một bốt điện thoại. Tại đây, cô gặp phu quân tương lai của mình, Michael Brett Post. Cô còn phải vào viện 1 lần nữa vào mùa hè năm 1970, nhưng được cho điều trị tại ngoại tại nhà của đạo diễn John Palmer cùng vợ Janet dưới sự quản lý của bác sĩ. Sau khi hoàn thiện "Ciao! Manhattan" với câu chuyện về mình, Sedgwick tiến hành thu âm một cuốn băng tự sự về cuộc đời bản thân, sau này được Weisman và Palmer xin phép đưa làm một phần cho bộ phim. Sedwick kết hôn với Michael Brett Post ngày 24 tháng 7 năm 1971. Vì anh mà cô bắt đầu giảm việc sử dụng ma túy và chứng nghiện rượu. Mọi chuyện vẫn diễn ra tốt đẹp cho tới tháng 10, khi có những vấn đề sức khỏe khiến cô cần phải nhờ tới một số loại thuốc. Cô được giám sát bởi bác sĩ Wells, một người sử dụng barbiturate trong điều trị, nhưng cô lại yêu cầu cần nhiều hơn định lượng (hoặc là cô đã nói dối rằng cô làm mất lượng thuốc đã đưa để được cấp nhiều hơn) và thường uống thuốc với rượu. Không lâu sau cô trở nên phụ thuộc vào các loại dược phẩm này. Mỗi tối cô phải uống tới 300 mg Methaqualone và 2 viên nén Tuinal, cùng với đó là rượu và có thể là nhiều loại ma túy mà không ai biết được. Đêm ngày 25 tháng 11 năm 1971, Sedgwick có đi xem một buổi diễn thời trang tại Bảo tàng Santa Barbara, vốn để quay một cảnh cho bộ phim "An American Family". Sau buổi diễn, cô có tham dự bữa tiệc mà tại đó, theo chồng và em rể cô, một gã say rượu đã liên tục quấy rầy bằng cách nói về heroin và việc gia đình cô sẽ tan vỡ. Sedgwick gọi điện cho Post, anh tới bữa tiệc và thấy cô đang bị choáng váng nặng nề. Họ cùng nhau trở về nhà vào khoảng 1 giờ sáng. Trên đường trở về, cô nói với chồng về những dự cảm xấu về cuộc hôn nhân. Trước khi đi ngủ, Post có để cho Sedgwick những loại thuốc đã được chỉ định. Anh kể lại rằng cô đã thiếp đi rất nhanh, song nhịp thở thì "rất tệ, như kiểu có một cái hang trong phổi cô ấy vậy", song anh cũng nhớ rằng cô đã hút thuốc rất nhiều trước khi ngủ. Khi Post thức giấc vào lúc 7.30 sáng, Sedgwick đã qua đời. Những báo cáo đã ghi lại rằng cái chết của cô thuộc dạng "không xác định/tai nạn/tự sát". Giấy chứng tử được hoàn tất vào lúc 9.20 và ghi nguyên nhân "có lẽ bị ngộ độc do quá liều barbiturate" do ngộ độc ethanol. Lượng cồn trong máu của Sedgwick được ghi 0.17% và lượng barbiturate là 0.48 mg%. Cô ra đi ở tuổi 28. Edie không được hỏa táng tại Sedgwick Pie của dòng họ mà tại nghĩa trang Oak Hill ở Ballard, California. Bia mộ có dòng chữ "Edith Sedgwick Post – Wife of Michael Brett Post 1943–1971". Mẹ cô, Alice Sedgwick cũng được hỏa táng và chôn cất kế bên vào năm 1988. Ảnh hưởng tới văn hóa đại chúng. Sedgwick xuất hiện nhiều trong các tác phẩm văn hóa và là niềm cảm hứng cho nhiều sáng tác nghệ thuật. 2 ca khúc "Just Like a Woman" và "Leopard-Skin Pill-Box Hat" trong "Blonde on Blonde" (1966) của Bob Dylan đều được viết trực tiếp về Sedgwick. Ca khúc huyền thoại, "Like a Rolling Stone", cũng được đồn đoán lấy cảm hứng từ cô. Ca khúc "Femme Fatale" của ban nhạc The Velvet Underground trích từ album đầu tay của họ, cũng được sáng tác theo hình tượng Sedgwick. Nhóm Edie Brickell & the New Bohemians viết ca khúc "Little Miss S" cho album "Shooting Rubberbands at the Stars" (1988) về những năm của Sedgwick ở New York. Năm 1989, ban nhạc The Cult cho phát hành đĩa đơn "Edie (Ciao Baby)" quảng bá cho album "Sonic Temple", đạt vị trí số 17 tại "Billboard". Nhóm Dream Academy cũng từng thu ca khúc "Girl in a Million (for Edie Sedgwick)" cho mặt B đĩa đơn "The Love Parade" (1985) của họ. Trong những năm 1980, Warren Beatty mua lại những câu chuyện về cô và dự định thực hiện bộ phim với Molly Ringwald thủ vai chính. Bộ phim cũng bị đồn đoán mang tên "The War at Home" được quay dựa trên cuộc sống của Edie những năm ở The Factory với Linda Fiorentino vào vai Sedgwick và phỏng theo một câu chuyện hư cấu của John Byrum về một chàng trai quá si mê cô. Tuy nhiên cuối cùng không có một sản phẩm nào được sản xuất.. Năm 1991, Oliver Stone cho ra mắt bộ phim "The Doors" với Jennifer Rubin trong vai Sedgwick. Năm 2002, trong bộ phim "Igby Goes Down", nhân vật Rachel được gọi là một "Edie Sedgwick" khi mặc chiếc váy giống hệt cô suốt cả bộ phim. Bộ phim "Closer" (2004) của đạo diễn Mike Nichols được coi là bộ phim tái hiện lại mối quan hệ giữa Warhol và Sedgwick với nữ diễn viên nổi tiếng Natalie Portman thủ vai chính. Sienna Miller cũng vào vai Sedgwick trong bộ phim "Factory Girl" của đạo diễn George Hickenlooper, phát hành vào năm 2006. Trong bộ phim này, Guy Pearce vào vai Warhol như người đã dẫn dắt Sedgwick vào trầm cảm và việc lạm dụng ma túy. Hayden Christensen vào vai "Billy Quinn", một nhân vật có nhiều nét tương đồng với Dylan (cuối năm 2006, Dylan dọa sẽ kiện khi cho rằng bộ phim đã quy kết anh cho việc khiến Sedgwick qua đời). Michael Post, chồng của cô, xuất hiện trong vai tài xế ở những cảnh cuối bộ phim. Một vở kịch broadway có tên "Andy & Edie" (2004) được viết bởi Peter Braunstein và được trình diễn trong 10 ngày. Diễn viên Misha Moore, người vào vai Sedgwick, bị nghi ngờ chính là cháu của cô. Theo yêu cầu của gia đình Sedgwick, tờ "New York Times" sau đó phải đưa ra lời đính chính. Trong bộ phim năm 2007," I'm Not There", nói về cuộc đời Bob Dylan, Michelle Williams được vào vai một nhân vật tưởng tượng mang tên Coco Rivington và có quan hệ tình cảm với Jude Quinn (nhân vật vốn được xây dựng theo Dylan những năm 1965–66). Rivington dựa nhiều trên hình tượng Sedgwick.
1
null
Khu di tích lịch sử Giàn Gừa ở ấp Nhơn Khánh, xã Nhơn Nghĩa, huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ, Việt Nam; là một di tích gắn với thời khai hoang mở cõi, và là một căn cứ của quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Lịch sử và giai thoại. Khu Giàn Gừa trước đây có diện tích rất lớn nhưng do sự tàn phá của bom đạn chiến tranh và sự tác động của môi trường nên hiện nay chỉ còn rộng khoảng 2.740 m². Hiện nay, diện tích khu di tích đã được mở rộng khoảng 4.000 m². Trong khu có một cây gừa (Ficus microcarpa), thuộc họ Dâu tằm (Moraceae), có tuổi đời hơn 150 năm, phát triển rất nhiều chi, cành, đan xen với nhau tạo thành giàn lớn nên người dân trong vùng quen gọi "Giàn Gừa". Hiện cây gừa này có diện tích tán hơn 2.700 m², chiều cao trung bình khoảng 12m. Đến nay chưa ai biết rõ nguồn gốc của Giàn Gừa. Nhiều lão làng trên 70 tuổi khẳng định lúc họ còn nhỏ, giàn gừa đã che phủ cả một vùng rộng lớn. Xuất phát từ tín ngưỡng dân gian, từ xưa người dân nơi đây đã dựng lên miếu thờ bà Thượng Động Cố Hỉ (hay Hỷ), vị nữ thần được nhiều người tôn kính như một ân nhân của dân làng. Ngôi miếu ấy nay đã không còn. Ngôi miếu hiện nay được lập năm 1996. Theo giai thoại từ xa xưa, có một gia đình họ Nguyễn đến vùng đất Nhơn Nghĩa lập nghiệp. Trong quá trình khai khẩn, không may giàn gừa bốc cháy khiến cảnh vật trở nên hoang tàn. Trong làng có nhiều người mắc bệnh lạ không chữa khỏi. Có một vị đạo sĩ từ xa đến bốc thuốc cứu độ dân làng. Ông cho biết giàn gừa này là vùng đất thiêng, nơi ngự của bà Thượng Động Cố Hỉ; giàn gừa bị cháy rụi nên Bà nổi giận do không còn chỗ đi về. Muốn an cư lạc nghiệp, người dân phải trồng lại hàng gừa và hằng năm làm lễ giỗ cúng Bà. Trải qua 6 thế hệ, con cháu họ Nguyễn vẫn sinh sống trên mảnh đất này và thay nhau giữ gìn, tôn tạo nơi thờ phụng. Hằng năm cứ đến ngày 28 tháng 2 âm lịch, bà con dòng họ Nguyễn và người dân gần xa long trọng dâng hương, làm lễ cúng Bà. Gần đây, chính quyền và nhân dân địa phương cũng vừa tạo lập đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh và 12 cô gái đã hy sinh tại ngã ba Đồng Lộc trong khuôn viên để tri ân, tưởng niệm... Trong thời chiến. Do địa hình hiểm yếu và hẻo lánh nên trong chiến tranh Đông Dương và chiến tranh Việt Nam, Khu di tích lịch sử Giàn Gừa từng là nơi diễn ra các cuộc họp quan trọng của Khu ủy Khu Tây Nam Bộ, Tỉnh ủy Cần Thơ; là nơi cất giấu vũ khí, tài liệu; là nơi huấn luyện, tập kết và chuyển quân. Đáng kể có: Di tích cấp tỉnh. Ngày 5 tháng 4 năm 2013, UBND TP. Cần Thơ ban hành Quyết định số 1225/QĐ-UBND xếp hạng Khu di tích lịch sử Giàn Gừa là di tích lịch sử – văn hóa cấp thành phố. Cây di sản Việt Nam. Ngày 13 tháng 6 năm 2013, cây gừa cổ thụ vừa kể đã được Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam công nhận là cây di sản Việt Nam. Việc công nhận này, vừa mang ý nghĩa bảo tồn gen cổ cho loại thực vật đặc trưng ở đồng bằng sông Cửu Long, và vừa mang ý nghĩa lịch sử.
1
null
Schwabinger Bach là dòng suối nằm ngoài cùng bên phía Tây của Vườn Anh. Nó bắt đầu từ đường Von-der-Tann-Straße và là đoạn tiếp nối của Köglmühlbach, một dòng suối mà hầu như chỉ chạy dưới mặt đất thuộc những dòng suối trong phố München, đụng với suối Eisbach tại một thác nhân tạo, rồi chạy ngang cánh đồng Schönfeld (Schönfeldwiese), mà được biết tới là khu vực cho ở chuồng tại vườn Anh. Sau khi Entenbach nhập vào, nó chạy theo phía Tây của vườn Anh bọc quanh hồ Kleinhesseloher. Tại Nordfriedhof kinh đào Nymphenburg-Biedersteiner cũng nhập vào. Tại Aumeister nó lại chia ra thành Schwabinger Bach và Mühlbach, cả hai chạy dọc theo sông và chảy vào sông Isar gần Garching bei München.
1
null
Cá mút đá phương bắc, Ichthyomyzon fossor, là một loài cá mút đá được tìm thấy ở Bắc Mỹ được tìm thấy khắp Ngũ Đại Hồ. Có dân số hạn chế trong lưu vực sông Mississippi. Chúng là động vật dài, thon giống cá, thiếu hàm dưới, kết quả là một cái miệng quay xuống. Cơ thể của nó không có vảy. Cá mút đá có những đoạn cơ rõ ràng (myomeres) giữa mang và hậu môn, một vây lưng liền, một vây đuôi hình trái soan, một lỗ mũi duy nhất và bảy lỗ mang.
1
null
Lãnh thổ Hoa Kỳ (tiếng Anh: "United States territory") là bất cứ vùng đất mở rộng nào nằm dưới thẩm quyền pháp lý của chính phủ liên bang Hoa Kỳ, trong đó gồm có tất cả những vùng nước (quanh các đảo hay thềm lục địa) và tất cả các con tàu của Hải quân Hoa Kỳ. Theo truyền thống, Hoa Kỳ luôn tuyên bố chủ quyền đối với việc khám phá, khai thác, bảo tồn và quản lý lãnh thổ của mình. Tầm mức lãnh thổ như thế bao gồm tất cả các khu vực thuộc sở hữu hay được đặt dưới quyền của chính phủ liên bang Hoa Kỳ (chúng bao gồm những mảnh đất nằm xa Hoa Kỳ) cho mục đích hành chính và các mục đích khác. Toàn bộ lãnh thổ Hoa Kỳ bao gồm tập hợp các phân cấp hành chính. Lãnh thổ của Hoa Kỳ. Lãnh thổ Hoa Kỳ bao gồm bất cứ địa dư nào nằm dưới quyền kiểm soát của chính phủ liên bang Hoa Kỳ. Nhiều phân cấp hành chính, khu vực và vùng khác nhau đều nằm dưới sự giám sát của chính phủ liên bang Hoa Kỳ. Lãnh thổ Hoa Kỳ bao gồm các khu vực địa dư có định nghĩa rõ rệt và ám chỉ đến một vùng đất, vùng không hay vùng biển nằm dưới thẩm quyền của chính phủ liên bang Hoa Kỳ (nhưng không chỉ giới hạn vào các vùng như vừa nói). Tầm mức lãnh thổ là tất cả các vùng sở hữu hay dưới thẩm quyền của chính phủ liên bang Hoa Kỳ (chúng bao gồm các vùng đất nằm xa Hoa Kỳ) cho mục đích hành chính hay mục đích khác. Hiến pháp Hoa Kỳ. Theo Điều khoản IV, Hiến pháp Hoa Kỳ, lãnh thổ là đối tượng và là sở hữu của Hoa Kỳ (nhưng không nhất thiết phải nằm bên trong biên giới quốc gia hay bất cứ tiểu bang các biệt nào). Điều này có nghĩa là lãnh thổ còn gồm có những mãng đất hay nước không nằm bên trong ranh giới của một tiểu bang và chưa được thu nhận vào liên bang với tư cách là một tiểu bang. Hiến pháp Hoa Kỳ có nói rằng: Quốc hội Hoa Kỳ. Quốc hội Hoa Kỳ sở hữu quyền lực sắp đặt các chính quyền lãnh thổ nằm bên trong địa giới của Hoa Kỳ. Quyền lực của quốc hội đối với một lãnh thổ như thế là độc nhất và toàn bộ. Pháp chế của quốc hội thì không thể bị kiềm chế trừ trường hợp lãnh thổ bị nhượng bỏ. Quốc hội được trao quyền độc nhất và toàn bộ để sắp đặt ra các phân cấp hành chính của lãnh thổ Hoa Kỳ. Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ. Tất cả lãnh thổ dưới quyền kiểm soát của chính phủ liên bang được xem là một phần của "Hoa Kỳ" cho mục đích luật pháp. Từ năm 1901–1905, Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ trong một loạt ý kiến được biết đến với tên gọi Các trường hợp Vùng quốc hải đã phán quyết rằng Hiến pháp Hoa Kỳ mở rộng "ex proprio vigore" đến các lãnh thổ. Tuy nhiên, toà án trong các vụ này cũng đã thiết lập ra học thuyết về "sự hợp nhất lãnh thổ". Theo học thuyết này, Hiến pháp Hoa Kỳ chỉ được áp dụng hoàn toàn đối với các lãnh thổ hợp nhất (hợp nhất có nghĩa là vĩnh viễn không tách rời khỏi Hoa Kỳ), thí dụ như Lãnh thổ Alaska và Lãnh thổ Hawaii trong khi đó nó chỉ được áp dụng một phần tại các lãnh thổ mới chưa được hợp nhất (chưa hợp nhất có nghĩa là có thể bị tách rời khỏi Hoa Kỳ) là Puerto Rico, Guam và Philippines. Bộ Nội vụ Hoa Kỳ. Bộ Nội vụ Hoa Kỳ có trách nhiệm điều hành các công việc của chính phủ liên bang bên trong các lãnh thổ của Hoa Kỳ. Bộ Nội vụ Hoa Kỳ có một phạm vi trách nhiệm rộng lớn (gồm có điều chỉnh và quy định về các chính phủ lãnh thổ và trông coi cơ bản các khu vực công thổ, et al.). Bộ Nội vụ Hoa Kỳ không có trách nhiệm trông coi chính quyền địa phương hay quản trị dân sự trừ trường hợp của các khu dành riêng cho người bản địa Mỹ qua Văn phòng Bản địa vụ. Các lãnh thổ được điều hành qua Văn phòng Quốc hải vụ. Phân cấp hành chính Hoa Kỳ. Đặc khu, tiểu bang, quận, thành phố, và xã. Các lãnh thổ được phân cấp thành các khu quản trị hợp pháp. Đó là các khu vực địa lý nằm dưới quyền lực của một chính quyền. Thí dụ, Samoa thuộc Mỹ là một lãnh thổ của chính phủ Hoa Kỳ. Các tiểu bang của Hoa Kỳ tạo ra chính phủ liên bang và Hiến pháp Hoa Kỳ và cùng nhau kết thành quốc gia có chủ quyền Hoa Kỳ. Hoa Kỳ, chớ không phải các tiểu bang cá biệt, thực thi các quan hệ ngoại giao dưới Hiến pháp Hoa Kỳ. Đặc khu Columbia nằm dưới thẩm quyền trực tiếp của Quốc hội Hoa Kỳ, và được thành lập từ lãnh thổ cắt nhượng của các tiểu bang Maryland và Virginia. Tuy nhiên sau này toàn bộ phần lãnh thổ do tiểu bang Virginia nhượng lại đã được giao trả lại cho tiểu bang. Hoa Kỳ lục địa, Hawaii, và Alaska được phân cấp thành các vùng hành chính nhỏ hơn. Các phân cấp này được gọi là quận (tiếng Anh gọi là "county" tại 48 trong số 50 tiểu bang, "borough" tại Alaska và "parish" tại Louisiana). Một quân có thể gồm có một số thành phố và thị trấn, hay chỉ một phần của hai loại đơn vị vừa kể (có nhiều thành phố hay thị trấn nằm lần sang các quận khác). Các quận này có các cấp độ pháp lý và chính trị khác nhau. Một xã tại Hoa Kỳ là một khu vực địa lý nhỏ. Thuật từ này được sử dụng hai cách khác nhau: một xã khảo sát chỉ đơn giản là một khu vực địa lý được dùng để định nghĩa vị trí của bất động sản trong khế ước hay giấy cấp quyền sử dụng đất; một xã dân sự là một đơn vị chính quyền địa phương, ban đầu được sử dụng cho các khu vực nông thôn. Các vùng biệt lập của liên bang, thí dụ như các căn cứ quân sự trong nước và các công viên quốc gia đều do chính phủ liên bang trực tiếp quản trị. Theo các cấp độ khác nhau, chính phủ liên bang thực thi quyền hạn thẩm quyền pháp lý song song cùng với các tiểu bang tại những nơi đất liên bang là một phần lãnh thổ trước đây được giao cho tiểu bang quản lý. Lịch sử lãnh thổ Hoa Kỳ. Theo thời gian, các lãnh thổ được tổ chức có lập pháp riêng biệt, dưới quyền của một thống đốc lãnh thổ và các viên chức khác do tổng thống bổ nhiệm và phải được Thượng viện Hoa Kỳ chấp thuận. Trong lịch sử, lãnh thổ thường được phân thành lãnh thổ có tổ chức (có chính quyền) và lãnh thổ chưa tổ chức. Một lãnh thổ chưa tổ chức xưa kia thường là lãnh thổ không có người ở hay là lãnh thổ được chính phủ liên bang dành riêng ra cho người bản địa Mỹ và các dân tộc bản địa khác cho đến một thời gian nào đó dân số phát triển tràn ngập các khu vực này. Trong thời hiện tại, các lãnh thổ "chưa tổ chức" được dùng để ám chỉ đến cấp độ chính quyền tự trị tại một lãnh thổ. Theo kết quả của một số vụ pháp lý tại Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ sau Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ, Hoa Kỳ phải quyết định cách xử lý các lãnh thổ vừa mới thu được của mình, thí dụ như Philippines, Puerto Rico, Guam, Đảo Wake, và các khu vực khác nữa không thuộc lục địa Bắc Mỹ và vì thế không nhất thiết phải được định đoạt thành một phần của liên bang Hoa Kỳ. Hậu quả từ các phán quyết của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ, Hoa Kỳ kể từ đó đã định nghĩa rõ rệt giữa các lãnh thổ hợp nhất và các lãnh thổ chưa hợp nhất. Theo bản chất thì một lãnh thổ hợp nhất là vùng đất đã được sáp nhập và không thể bị tách rời khỏi chủ quyền của Hoa Kỳ và vì thế Hiến pháp Hoa Kỳ được áp dụng hoàn toàn tại lãnh thổ hợp nhất. Một lãnh thổ chưa hợp nhất là vùng đất do Hoa Kỳ nắm giữ và là vùng đất mà Quốc hội Hoa Kỳ chỉ áp dụng một phần Hiến pháp có chọn lọc dành cho lãnh thổ này. Tại thời điểm hiện tại, lãnh thổ hợp nhất duy nhất của Hoa Kỳ là Đảo Palmyra không có người sinh sống và chưa được tổ chức. Vùng quốc hải. Hoa Kỳ hiện tại điều hành quản lý 16 lãnh thổ được gọi là các vùng quốc hải: Đảo Palmyra là "lãnh thổ hợp nhất" duy nhất còn lại, không có chính quyền nên được gọi là "chưa được tổ chức". Các vùng quốc hải còn là các lãnh thổ chưa hợp nhất của Hoa Kỳ. Puerto Rico và Quần đảo Bắc Mariana được xếp loại là thịnh vượng chung. Các khu vực phụ thuộc. Một vài đảo trong Thái Bình Dương và Biển Caribbe là các lãnh thổ phụ thuộc của Hoa Kỳ. Căn cứ Hải quân Vịnh Guantanamo nằm trong vịnh Guantanamo của Cuba do Hoa Kỳ quản lý theo khế ước thuê mướn vĩnh viễn, rất tương tự như Vùng Kinh đào Panama từng như thế trước khi ký kết Hiệp ước Torrijos-Carter. Chỉ khi nào có thỏa ước hổ tương về việc trao lại khu vực này thì mới chấm dứt khế ước thuê mướn. Từ ngày 18 tháng 7 năm 1947 cho đến ngày 1 tháng 10 năm 1994, Hoa Kỳ đã quản lý Lãnh thổ Ủy thác Quần đảo Thái Bình Dương nhưng lãnh thổ ủy thác này không tồn tại khi quốc gia thành viên cuối cùng là Palau giành được độc lập để trở thành Cộng hòa Palau. Kệnh đào Panama cùng với vùng kênh đào nằm quanh nó từng là lãnh thổ do Hoa Kỳ quản lý cho đến năm 1999 khi Hoa Kỳ từ bỏ chủ quyền về trao trả lại cho Panama. Hoa Kỳ không có tuyên bố chủ quyền tại Nam Cực nhưng giữ quyền làm thế. Vùng biển của Hoa Kỳ. Chính phủ Hoa Kỳ có tuyên bổ chủ quyền đối với đại dương dựa theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển, theo đó lãnh hải được xác định là vùng nước nằm gần vùng biển và vùng đất của một quốc gia. Hoa Kỳ bảo vệ môi trường biển này, tuy nhiên không can thiệp vào các hoạt động khác khi sử dụng vùng lãnh hải này một cách hợp pháp. Quyền pháp lý của Hoa Kỳ cũng được thiết lập trên các con tàu và các đảo nhân tạo (cùng với các công trình biển khác). Cơ quan thi hành luật pháp trên biển là Tuần duyên Hoa Kỳ. Chính phủ liên bang và chính quyền tiểu bang cùng chia sẻ quyền pháp lý về kinh tế và điều hợp đối với những vùng nước do quốc gia làm chủ. Luật quốc tế. Hoa Kỳ không bị ràng buộc bởi luật quốc tế trong việc làm luật để quản lý lãnh thổ của mình. Lãnh thổ Hoa Kỳ có thể bao gồm lãnh thổ bị chiếm đóng. Lãnh thổ Hoa Kỳ cũng có thể bao gồm lãnh thổ đang bị tranh chấp. Giống như đa số quốc gia, Hoa Kỳ đã giành thêm được lãnh thổ bằng vũ lực hay thu phục. Trên trường quốc tế (đặc biệt là theo Các công ước Den Haag 1899 và 1907), lãnh thổ Hoa Kỳ có thể bao gồm các khu vực bị Lục quân Hoa Kỳ chiếm đóng hay kiểm soát. Khi sự kiểm soát quân sự thực tế được duy trì và thi hành thì sự chiếm đóng (và như thế là sở hữu) được nới rộng đến lãnh thổ đó. Theo công ước, các lực lượng kiểm soát lãnh thổ phải có trách nhiệm cung cấp các nhu cầu thiết yếu của các cá nhân sống dưới sự kiểm soát của họ (các nhu cầu đó bao gồm lương thực, quần áo, nơi trú ẩn, chăm sóc sức khỏe, duy trì luật pháp, và trật tự xã hội). Để tránh sự lạm quyền có hệ thống của các chính phủ bù nhìn khi bị chiếm đóng, các lực lượng chiếm đóng phải thi hành luật pháp mà từng có tại lãnh thổ đó trước khi bị chiếm đóng. Khu vực quan thuế. Năm mươi tiểu bang, Đặc khu Columbia, và Puerto Rico hợp thành khu vực quan thuế chính của Hoa Kỳ. Những luật lệ đặc biệt được áp dụng cho các vùng ngoại thương ("foreign trade zone") nằm trong các khu vực này. Các khu vực quan thế riêng biệt được thiết lập bởi Samoa thuộc Mỹ, Guam, Quần đảo Bắc Mariana, các tiểu đảo xa của Hoa Kỳ và Quần đảo Virgin thuộc Mỹ. Các khu vực khác. Chủ quyền của Hoa Kỳ bao gồm không phận trên đất liền và các vùng nước của mình. Không có thỏa ước quốc tế nào tồn tại để xác định giới hạn chiều cao giữa không phận và không gian bên ngoài trái đất. Khu vực pháp lý liên bang gồm có các khu biệt lập liên bang như công viên quốc gia và các căn cứ quân sự trong nước mặc dù các khu vực này nằm bên trong lãnh thổ của một tiểu bang. Đa số tiểu bang thực thi quyền pháp lý song song theo một mức độ nào đó với chính phủ liên bang. Hoa Kỳ thực thi đặc quyền ngoại giao đối với các đại sứ quán và căn cứ quân sự của mình tại ngoại quốc trong đó có Căn cứ Hải quân Vịnh Guantanamo tại Cuba. Tuy thực thi đặc quyền ngoại giao nhưng các vị trí ngoại quốc này vẫn nằm dưới chủ quyền của các quốc gia chủ nhà. Chính phủ liên bang cũng thực thi quyền làm chủ tài sản nhưng không phải chủ quyền đối với các vùng đất nằm tại nhiều quốc gia ngoại quốc khác nhau. Các thí dụ gồm có "Đài tưởng niệm John F. Kennedy" được xây tại Runnymede ở Anh Quốc, và 13 hécta đất quanh Pointe du Hoc tại Normandy, Pháp.
1
null
Chuyến bay 470 của LAM Mozambique Airlines (TM470/LAM470) là một chuyến bay quốc tế vận hàng bởi LAM Mozambique Airlines. Chuyến bay cất cánh từ Mozambique lúc 11 giờ 26 phút ngày 29 tháng 11 năm 2013 (giờ địa phương), dự kiến hạ cánh xuống thủ đô Luanda của Angola lúc 14 giờ 10 phút. Tuy nhiên chiếc máy bay này đã không thể đến đích. Ngày 30 tháng 11 năm 2013, sau khi nhận tin báo có một vụ rơi máy bay, cảnh sát Cộng hòa Namibia đã phát hiện xác máy bay 470 và xác nhận không có ai sống sót. Tại thời điểm xảy ra tai nạn thời tiết được dự báo là nguy hiểm. Đây là vụ tai nạn chết người đầu tiên của hãng hàng không này kể từ năm 1970. Những điều tra ban đầu của Viện Hàng không Mozambique (IACM) cho thấy cơ trưởng đã chủ động gây tai nạn cho máy bay. Hiệp hội Kiểm soát không lưu Mozambique phản đối với kết luận này, trong khi Cơ quan điều tra tai nạn hàng không của Namibia đồng ý với báo cáo của IACM, cho rằng cơ trưởng đã có âm mưu tự sát dẫn tới tai nạn máy bay. Máy bay. Chiếc máy bay bị tai nạn là một chiếc Embraer E190 với số xê ri nhà sản xuất 581, đăng ký C9-EMC. Được lắp ráp trong tháng 10 năm 2012, nó đã được giao cho hãng LAM Mozambique Airlines vào tháng 11/2012. Hành khách và phi hành đoàn. Theo LAM Mozambique Airlines, có tổng cộng 34 người (28 hành khách và 6 thành viên đội bay) thiệt mạng, trong khi các nguồn khác là 33. Theo Phó Ủy viên Không lực Cảnh sát Namibia Willy Bampton, không ai trong số hành khách sống sót sau tai nạn và chiếc máy bay hoàn toàn bị phá hủy. Phi hành đoàn gồm 2 phi công, 3 tiếp viên và 1 kỹ thuật viên. Cơ trưởng Herminio dos Santos Fernandes(49 tuổi) đã có tổng cộng hơn 9.000 giờ bay (bao gồm 2.519 giờ trên Embraer E190) trong khi cơ phó đã tích lũy được khoảng 1.400 giờ bay (bao gồm 101 giờ trên Embraer E190). Phản hồi. Chính phủ Mozambique tuyên bố sẽ tuyên bố một thời kỳ quốc tang. Tổng thống Bồ Đào Nha Aníbal Cavaco Silva bày tỏ sự chia buồn với gia đình nạn nhân. LAM Mozambique Airlines báo cáo rằng họ đang cung cấp tư vấn và tư vấn pháp lý cho các gia đình ở cả Mozambique và Angola và đã thiết lập một đường dây nóng thông tin. Mô hình các mảnh vỡ chỉ ra rằng máy bay trượt dọc theo mặt đất trong vài trăm mét. Cả máy ghi âm chuyến bay - máy ghi âm buồng lái (CVR) và máy ghi dữ liệu chuyến bay (FDR) - đã được khôi phục từ vị trí máy bay trong vòng bốn ngày sau vụ tai nạn và sau đó được gửi đến Ủy ban An toàn Giao thông Quốc gia Hoa Kỳ (NTSB) để đọc. Điều tra. Vào ngày 21 tháng 12 năm 2013, người đứng đầu Viện Hàng không Dân dụng Mozambican ("Acaduto Moçambicano de Aviação Civil", IACM) đã trình bày báo cáo điều tra sơ bộ, cơ trưởng Herminio dos Santos Fernandes có "ý định rõ ràng" về việc làm hỏng máy bay phản lực và tự thay đổi máy bay, cài đặt tự động, mục đích để tự sát. Độ cao dự định của máy bay được báo cáo thay đổi 3 lần từ 38.000 feet (11,582 m) thành 592 feet (180 m), sau đó nằm dưới mặt đất và tốc độ cũng được điều chỉnh thủ công. Máy ghi âm buồng lái đã thu được một số báo động phát ra trong lúc hạ xuống, cũng như tiếng nổ lớn liên tục trên cánh cửa từ cơ phó, người đã bị cơ trưởng khóa trái bên buồng lái. Trái với quy định của LAM Mozambique, không có thành viên phi hành đoàn nào được triển khai trong buồng lái trong thời gian vắng mặt của cơ phó. Cuộc điều tra về phi công của chiếc máy bay tiết lộ rằng cơ trưởng Fernandes đã phải chịu một số đòn đau của số phận trước vụ tai nạn. Con trai ông đã chết trong một vụ nghi ngờ tự tử vào tháng 11 năm 2012; Fernandes tránh xa đám tang. Con gái ông đang ở bệnh viện để phẫu thuật tim vào thời điểm xảy ra vụ tai nạn, và thủ tục ly hôn của ông không được giải quyết trong hơn 1 thập kỷ. Bất chấp kết luận của IACM, Hiệp hội các nhà khai thác hàng không Mozambican (AMOPAR) đã tranh luận về báo cáo sơ bộ, giải thích rằng các thao tác của cơ trưởng Fernandes là từ hướng dẫn quy trình vận hành tiêu chuẩn do Embraer (nhà sản xuất máy bay bị rơi) đưa ra "Hành động trong tình huống khẩn cấp để ngăn chặn thảm họa". Theo tài liệu của AMOPAR, Chính phủ Mozambique đã không tuân thủ các tiêu chuẩn và khuyến nghị của Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế (ICAO) "về việc tiết lộ, nội dung và thủ tục liên quan đến báo cáo sơ bộ về vụ tai nạn của chuyến bay TM470. " Vào ngày 15 tháng 4 năm 2016, DAAI đã công bố báo cáo cuối cùng cho thấy đầu vào hệ thống máy bay tự động của người được cho là cơ trưởng, người vẫn một mình trong buồng lái khi người được cho là cơ phó yêu cầu đi vệ sinh, khiến máy bay khởi hành từ chuyến bay hành trình, chuyển sang một dòng dõi được kiểm soát duy trì và sau đó bị rơi. Kênh truyền hình. Vụ tai nạn đã truyền cảm hứng trong tập 8, mùa 20 của "Mayday" (Air Crash Investigation) trên kênh National Geographic, tập phim có tiêu đề "Cockpit Killer" ("tạm dịch": Kẻ giết người trong buồng lái), phát sóng ngày 27 tháng 2 năm 2020.
1
null