text
stringlengths
1
148k
label
int64
0
2
__index_level_0__
int64
0
113k
của Nhật Bản là một hội đồng gồm có nhiệm vụ cố vấn cho Thủ tướng Nhật Bản đối với các vấn đề quân sự và ngoại giao. Hội đồng này được cho là theo mô hình Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ. Chủ tịch Hội đồng là Thủ tướng. Cơ quan này được lập ngày 4/12/2013 nhằm đối phó với các thách thức an ninh trong bối cảnh Trung Quốc các hành động khiêu khích trên biển lẫn trên không trong bối cảnh tranh chấp quần đảo Senkaku cũng như thách thức từ chương trình hạt nhân của Bắc Triều Tiên. Hội đồng An ninh Quốc gia ra làm tăng cường vai trò lãnh đạo của Văn phòng Thủ tướng Nhật Bản trong chỉ đạo chính sách đối ngoại và quốc phòng. Trụ sở chính của Hội đồng dự kiến sẽ được thành lập trực thuộc Ban Thư ký Nội các vào đầu năm 2014. Hội đồng này sẽ thu thập thông tin từ các bộ và các cơ quan nhằm tránh chủ nghĩa cục bộ trong hoạt động phân tích thông tin. Trụ sở Hội đồng sẽ gồm khoảng 60 quan chức, được điều động chủ yếu từ Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng Nhật Bản. Dự kiến Cố vấn Chính sách đối ngoại của Thủ tướng Shinzo Abe, ông Shotaro Yachi, sẽ đảm nhiệm vị trí người đứng đầu cơ quan này. Lịch sử. Ngày 1 tháng 7 năm 1954 (Chiêu Hòa thứ 29) Hội nghị Quốc phòng Nội các quyết định thiết lập,nhưng do điều 43 của Hiến pháp nên Hội nghị Quốc phòng bị xóa bỏ. Ngày 1 tháng 8 năm 1957 (Chiêu Hòa thứ 32) Do sự sửa đổi của Luật,Hội đồng Quốc phòng đã được thành lập và đặt dưới sự chỉ đạo của Văn phòng Nội các. Ngày 1 tháng 7 năm 1986 (Chiêu Hòa thứ 61) Hội đồng Quốc phòng được bãi bỏ,trên cơ sở Hiến pháp Hội đồng An toàn Bảo vệ Quốc gia được thành lập. Ngày 4 tháng 12 năm 2013 Hội đồng An toàn Bảo vệ được thiết lập thành Hội đồng An ninh Quốc gia. Tổ chức. Cấu thành Hội đồng. Hội đồng An ninh Quốc gia (NSC) được thành lập gồm 4 thành viên chủ chốt là Thủ tướng, Chánh Văn phòng Nội các, Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng Quốc phòng. Các thành viên NSC sẽ 2 tuần nhóm họp một lần thảo luận về các vấn đề quan trọng của an ninh quốc gia và đưa ra các nguyên tắc cơ bản đối phó với các vấn đề quan trọng của đất nước như vấn đề hạt nhân; tên lửa đạn đạo của CHDCND Triều Tiên; quan hệ với Trung Quốc và các vấn đề liên quan đến lãnh thổ của quốc gia… Trong trường hợp đặc biệt cần tập trung thu thập, nghiên cứu, phân tích, đánh giá tình hình, Thủ tướng – Chủ tịch NSC sẽ triệu tập 5 Bộ trưởng gồm Chánh Văn phòng Nội các, Bộ trưởng Ngoại giao, Quốc phòng, Giao thông và quốc thổ và chủ tịch Ủy ban Cảnh sát Quốc gia. So với Hội đồng An ninh Quốc gia (NSC) Mỹ, phiên bản NSC của Nhật Bản có một số nét khác biệt. Về tổ chức, NSC là một tổ chức hoạt động mang tính chất hội nghị, tổ chức các cuộc họp theo yêu cầu của Thủ tướng – Chủ tịch NSC. Ban Thư ký NSC nằm trong Văn phòng Nội các với số nhân viên chuyên trách khoảng 60 người. Trong khi đó, NSC của Mỹ có số nhân viên chuyên trách khoảng 200 người, phân tích đánh giá và cung cấp thông tin hàng ngày cho Tổng thống. Việc chỉ định nhân viên cho NSC, Nhật Bản lấy từ Văn phòng Nội các, Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng. Phần lớn nhân viên được chỉ định trên cơ sở chuyên môn ở các cơ quan và lĩnh vực khác nhau nên việc đảm bảo bí mật là yêu cầu rất quan trọng. Chức năng. Về chức năng, theo dự luật, NSC của Nhật Bản được kiến nghị việc thảo luận các vấn đề quốc phòng cần thiết và các vấn đề khẩn cấp quan trọng theo yêu cầu của Thủ tướng nhưng không được công bố công khai nội dung cuộc họp. Còn NSC của Mỹ, theo luật định có chức năng tư vấn cho Tổng thống trong việc điều chỉnh chính sách an ninh, tuy nhiên trên thực tế nhiều trường hợp, NSC đã tự xây dựng và quyết định thực hiện chính sách (có trường hợp thực hiện bí mật). Việc hoạch định và thực hiện các chính sách trong NSC Mỹ thường phụ thuộc vào cá tính của Tổng thống, cố vấn an ninh quốc gia hay nhân viên chuyên trách. Về hệ thống chính trị, ở Mỹ, Trợ lý Tổng thống phụ trách an ninh quốc gia (còn được gọi là Thư ký riêng) có khả năng dẫn dắt việc thảo luận và kết luận cuộc họp theo yêu cầu của Tổng thống. Còn ở Nhật Bản mặc dù những năm gần đây tính chủ động của Thủ tướng và nội các đã được nâng lên, nhưng với chế độ nội các nghị viện, NSC sẽ phải chịu những rào cản nhất định không thể phát huy được chức năng như của NSC Mỹ. Việc thành lập NSC cùng với việc thông qua dự luật bảo vệ bí mật (thứ ba ngày 26/12/2013), Thủ tướng Abe đã có trong tay đầy đủ công cụ cần thiết để đối phó kịp thời, hiệu quả các mối đe dọa đến an ninh quốc gia Nhật Bản, đặc biệt trong thời điểm hiện nay, môi trường an ninh xung quanh Nhật Bản diễn biến hết sức phức tạp, tình trạng đối đầu Nhật – Trung đang rất căng thẳng sau khi Trung Quốc tuyên bố thiết lập khu vực xác định phòng không bao trùm cả quần đảo Senkaku. Việc thông qua dự luật bảo vệ bí mật là một điều kiện tiên quyết cho việc ra đời phiên bản tiếng Nhật của NSC nhằm trao đổi thông tin với các quốc gia khác nhất là Mỹ, nên đây có thể nói thắng lợi kép của Đảng Dân chủ Tự do và của Thủ tướng Abe trong quá trình khẳng định và tìm lại vị thế xứng đáng của Nhật Bản ở khu vực Đông Á. Vấn đề đặt ra là liệu NSC có thể thu thập đủ thông tin từ các Bộ và các cơ quan chức năng như một Trung tâm chỉ huy thực sự. Văn phòng Thủ tướng đã học được một bài học hết sức giá trị về việc thu thập dữ liệu trong cuộc khủng hoảng con tin Nhật Bản ở Algeria vào tháng 1/2013, khi thông tin rải rác trong một bộ máy "quan liêu" đã cản trở việc nhanh chóng ra quyết định can thiệp của chính phủ. Dự luật thành lập NSC có quy định về việc chia sẻ thông tin, nhưng hiệu quả của nó phụ thuộc vào sự lãnh đạo của Thủ tướng và Chánh văn phòng Nội các. Cân bằng mối quan tâm an ninh ngoại giao và quốc gia với quyền được biết thông tin của công chúng cũng là một vấn đề. Hiện tại, mặc dù dự luật bảo vệ bí mật đã được Hạ viện thông qua trong đó tăng cường áp dụng các biện pháp trừng phạt nghiêm khắc đối với công chức và những người làm lộ bí mật, tuy nhiên, nó đang vấp phải những tranh luận gay gắt, ý kiến phản đối từ Thượng viện và dư luận Nhật Bản. Theo các chuyên gia, cấu trúc mới cũng cần nhân viên đủ điều kiện để thành công, hiện có rất ít người có kinh nghiệm trong cả lĩnh vực ngoại giao và an ninh để tuyển chọn và Ban Thư ký của NSC. Kỳ họp. Hai lần mỗi tháng, thủ tướng, chánh văn phòng nội các, bộ trưởng quốc phòng, ngoại trưởng sẽ đến NSC thảo luận các vấn đề an ninh. Kỳ họp đầu tiên. Ngày 4 tháng 12 năm 2013,Các bộ trưởng nội các đã thảo luận cách thức đối phó với Vùng Nhận dạng Phòng không (ADIZ) mới thành lập của Trung Quốc và các thách thức an ninh khác trong khu vực.[1] Trong phiên họp các bộ trưởng khẳng định hội đồng an ninh mới của Nhật Bản sẽ tăng cường hợp tác với các NSC của Mỹ và Anh. Theo các quan chức chính phủ, trong phiên họp diễn ra tại văn phòng thủ tướng này, các bên cũng thảo luận về diễn biến mới ở Triều Tiên. Các bộ trưởng xác nhận NSC của Nhật sẽ tăng cường hợp tác với các cơ quan đồng cấp của Mỹ và Anh, đồng thời thảo luận quan điểm về kế hoạch biên soạn chiến lược an ninh toàn diện đầu tiên của Nhật Bản. Họp báo sau khi NSC nhóm họp, Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Itsunori Onodera cho biết cuộc họp kết thúc tốt đẹp vì các bộ trưởng đã "trao đổi quan điểm khá thẳng thắn."
1
null
Prelude FLNG là một dự án tàu nổi dùng để khai thác khí đốt hoá lỏng của Royal Dutch Shell. Khi hoàn thành, đây sẽ là con tàu lớn nhất từng được đóng. Tàu dài 488 mét, rộng 74 mét và làm từ 260.000 tấn thép. Khi đưa vào sử dụng, tàu này sẽ nặng hơn 600.000 tấn, nặng hơn năm lần tàu sân bay lớn nhất. Thân tàu đã được hạ thủy tháng 12 năm 2013.
1
null
Bão Pongsona (tên quốc tế: 0226, JTWC: 31W) là cơn bão cuối cùng trong mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2002, và là cơn bão mạnh thứ hai tại Hoa Kỳ xảy ra trong năm 2002, chỉ sau siêu bão Lili. Tên gọi "Pongsona" được lấy từ Bắc Triều Tiên cho danh sách cơn bão nhiệt đới Thái Bình Dương và là tên Hàn Quốc được lấy từ Phượng tiên hoa. Pongsona phát triển về khu vực thời tiết bị xáo trộn vào ngày mùng 2 tháng 12, và đều đặn mạnh dần lên thành bão vào ngày mùng 5. Ngày 8 tháng 12, nó đi qua Guam và quần đảo Bắc Mariana trong khi sức gió đã gần đạt mức đỉnh điểm là 175 km/h (110 mph 10 - phút). Cuối cùng, nó đổi hướng về phía đông bắc, suy yếu dần và trở thành áp thấp nhiệt đỡi vào ngày 11 tháng 12 năm 2002. Lịch sử khí tượng. Trong thời gian cuối tháng 11, một khu vực đối lưu lớn hình thành, cách Pohnpei khoảng 625 km (390 dặm) về phía Đông-Đông nam. Hình ảnh vệ tinh cho thấy chuyển động xoáy rộng trong bầu khí quyển. Nó đã phát triển hình thành những cơn mưa và dần dần mạnh lên. Ngày 2 tháng 12, 6 giờ sáng giờ địa phương, cơ quan Khí tượng Nhật Bản (JMA) phân loại hệ thống như một áp thấp nhiệt đới nằm cách 735 km (450 mi) về phía Đông-Đông bắc Pohnpei. Một thời gian ngắn sau đó, Trung tâm Cảnh báo Bão Liên hợp (JTWC) đã đưa ra ra cảnh báo về việc hình thành một cơn bão nhiệt đới. Pongsona di chuyển về phía Tây-tây bắc, và sang tới ngày 3 tháng 12 thì JTWC phân loại nó là một cơn bão nhiệt đới. Những thiệt hại. Bão Pongsona gây ra những cơn gió giật tới 278 km/h (173 mph/1 phút), khiến toàn bộ đảo Guam mất điện và phá hủy khoảng 1.300 ngôi nhà. Với tiêu chuẩn xây dựng tốt của những ngôi nhà và kinh nghiệm từ việc ứng phó nhiều cơn bão trước đó, không có trường hợp tử vong có liên quan trực tiếp đến bão Pongsona, mặc dù đã có một vài người đã thiệt mạng gián tiếp từ những mảnh thủy tinh vỡ. Thiệt hại trên đảo ước tính là hơn 700 triệu USD (vào năm 2002, tương đương 909 USD 2013), khiến cho bão Pongsona là một trong những cơn bão gây thiệt hại nặng nề nhất trên đảo. Cơn bão cũng gây thiệt hại nặng trên đảo Rota và các nơi khác trong Quần đảo Bắc Mariana.
1
null
Xavier Bettel (; sinh ngày 3 tháng 3 năm 1973) là một luật sư và chính khách người Luxembourg hiện là giữ chức Phó Thủ tướng Luxembourg và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao từ năm 2023. Ông từng giữ chức Thủ tướng Luxembourg từ năm 2013 đến năm 2023. Ông từng là nghị sĩ Hạ viện (1999–2013) và Thị trưởng thành phố Luxembourg (2011–2013). Bettel cũng là thành viên Đảng Dân chủ (DP). Sau cuộc tổng tuyển cử năm 2013, ông nhậm chức Thủ tướng và kế nhiệm Jean-Claude Juncker của Đảng Nhân dân Xã hội Kitô giáo (CSV). Bettel trở thành thủ tướng đồng tính công khai đầu tiên trên thế giới tái đắc cử nhiệm kỳ thứ hai vào năm 2018, khi nhiệm vụ của ông được gia hạn. Ông được bổ nhiệm làm Phó Thủ tướng vào năm 2023 trong Chính phủ Frieden-Bettel. Đầu đời. Bettel sinh ngày 3 tháng 3 năm 1973 tại thành phố Luxembourg. Cha ông Claude Bettel là một nhà buôn rượu vang. Bettel cho biết ông có người ông là người Nga theo Chính thống giáo và người ông là người Do Thái gốc Ba Lan, trong khi cha mẹ ông là người Công giáo. Mẹ ông Aniela là cháu gái của nhà soạn nhạc nổi tiếng Sergei Rachmaninoff. Sau khi tốt nghiệp trung học tại Lycée Hélène Boucher ở Thionville, Bettel nhận bằng thạc sĩ về Luật công và châu Âu và một bằng DEA về Chính trị học và Luật công từ trường đại học Nancy 2 tại Nancy, Pháp, ông cũng nghiên cứu luật hàng hải và luật giáo hội tại đại học Aristotle ở Thessaloniki, Hy Lạp. Ông còn là thành viên tham dự chương trình Erasmus. Trong bốn năm vào đầu thập niên 2000, ông đã tổ chức "Sonndes em 8", một talkshow hàng tuần trên kênh truyền hình cá nhân hiện đã dừng hoạt động là T.TV. Năm 2017, ông cũng nhận bằng tiến sĩ danh dự của đại học Sacred Heart Luxembourg. Sự nghiệp chính trị. Chính trị địa phương. Trong cuộc bầu cử năm 1999, Bettel được bầu vào hội đồng thành phố Luxembourg và đứng thứ sáu trong danh sách của DP. Hai năm sau khi được bầu vào hội đồng địa phương, vào ngày 12 tháng 7 năm 2001, ông được chứng nhận là luật sư. Vào ngày 28 tháng 11 năm 2005, sau cuộc bầu cử thành phố mà ông đứng thứ tư trong danh sách DP, Bettel được bổ nhiệm làm "échevin" (ủy viên) trong hội đồng thành phố Luxembourg. Sau cuộc bầu cử thành phố vào ngày 9 tháng 10 năm 2011, Bettel tuyên thệ nhậm chức Thị trưởng Luxembourg vào ngày 24 tháng 11 năm 2011. Ông từ chức lãnh đạo DP tại Hạ nghị viện mà ông nắm giữ từ năm 2009. Chính trị quốc gia. Bettel tranh cử Hạ nghị viện trong cuộc tổng tuyển cử 1999, và kết thúc thứ 10 trong các ứng viên DP tại khu tuyển cử Trung tâm, với bảy người đầu được bầu. Tuy nhiên, DP đã vượt qua Đảng Công nhân Xã hội Chủ nghĩa Luxembourg thành đảng lớn thứ hai, các thành viên của đảng chiếm đa số trong chính phủ mới với tư cách đối tác liên minh của Đảng Nhân dân Xã hội Kitô giáo. Do đó khi Lydie Polfer và Anne Brasseur rời ghế để đảm nhận vai trò trong chính phủ, và Colette Flesch cũng không nhận ghế để tập trung làm thành viên Nghị viện châu Âu, Bettel đã được bổ nhiệm vào Hạ nghị viện bắt đầu từ 12 tháng 8 năm 1999. Vào thời điểm diễn ra cuộc tổng tuyển cử năm 2004, Bettel đã củng cố đáng kể vị trí của mình; ông đứng thứ tư (trong số năm thành viên DP được bầu), đảm bảo cho ông một ghế trong Hạ nghị viện. Thủ tướng. Nhiệm kỳ đầu tiên. Năm 2013, Bettel được bầu làm lãnh đạo Đảng Dân chủ. Trong cuộc tổng tuyển cử năm 2013, ông lãnh đạo đảng giành vị trí thứ ba trong các ghế quốc hội. Vào ngày 25 tháng 10, Bettel được Đại công tước Henri chỉ định làm formateur cho chính phủ tiếp theo. Ông nhậm chức Thủ tướng Luxembourg vào ngày 4 tháng 12 năm 2013. Trong liên minh chính phủ gồm Đảng Dân chủ (DP), Đảng Công nhân Xã hội Chủ nghĩa Luxembourg (LSAP) và Đảng Xanh, ông lãnh đạo nội các cùng với các đồng Phó Thủ tướng Etienne Schneider và Félix Braz. Trong nhiệm kỳ đầu tiên, ông cũng giữ các chức vụ Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ trưởng Bộ Văn hóa và Bộ trưởng Bộ Tôn giáo. Nhiệm kỳ thứ hai. Sau cuộc bầu cử năm 2018, ông trở thành thủ tướng đồng tính công khai đầu tiên trên thế giới tái đắc cử nhiệm kỳ thứ hai. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai khi chính phủ của ông được thành lập vào ngày 5 tháng 12 năm 2018, ông hiện đang lãnh đạo cùng với các đồng Phó Thủ tướng François Bausch và Dan Kersch. Chính phủ là sự tiếp nối giữa Đảng Dân chủ, Đảng Công nhân Xã hội chủ nghĩa Luxembourg và Đảng Xanh từ chính phủ Bettel I, với những thay đổi nhỏ. Vào ngày 16 tháng 9 năm 2019, sau một cuộc họp song phương ngắn về tình trạng đàm phán Brexit, Bettel tiếp tục họp báo mà không có Thủ tướng Anh Boris Johnson, sau khi Johnson đột ngột rút lui do cuộc biểu tình chống Brexit của các công dân Anh sống ở Luxembourg tổ chức. Bettel chỉ về phía bục trống của Johnson và xác nhận rằng Chính phủ Vương quốc Anh đã không đưa ra bất kỳ đề xuất cụ thể nào về việc sửa đổi Thỏa thuận rút của Vương quốc Anh, đặc biệt là "điểm dừng của Ireland" mà Johnson muốn thay thế. Điều này xảy ra bất chấp những tuyên bố công khai của Thủ tướng Johnson và ngày Anh rời EU đang đến rất gần. Phương tiện truyền thông Pro-Brexit Vương quốc Anh báo cáo vấn đề như một cuộc phục kích, trong khi các cơ quan truyền thông khác của Vương quốc Anh và quốc tế phần lớn đã xem vụ việc, cũng như phản ứng của các cơ quan truyền thông ủng hộ Brexit của Vương quốc Anh đối với nó, như xác nhận sự nhạy cảm ngày càng tăng của các chuyên gia và chính khách ủng hộ Brexit trước những lời chỉ trích. Vào ngày 29 tháng 2 năm 2020, tất cả các phương tiện giao thông công cộng của Luxembourg được miễn phí do thỏa thuận liên minh của chính phủ Bettel II. Đời tư. Bettel là một người đồng tính công khai, tuyên bố rằng ở Luxembourg ngày càng "nhiều người không xem xét rằng người ta có đồng tính hay không". Bettel là thủ tướng đồng tính công khai đầu tiên của Luxembourg. Lãnh đạo chính phủ công khai đồng tính thứ ba trên thế giới, sau Thủ tướng Iceland Jóhanna Sigurðardóttir (2009–2013) và Thủ tướng Bỉ Elio Di Rupo (2011–2014). Tính đến năm 2020, ông là một trong hai nhà lãnh đạo thế giới đồng tính công khai tại vị, người còn lại là Ana Brnabić, Thủ tướng Serbia. Bettel kết hôn với Gauthier Destenay từ năm 2015, cùng năm mà hôn nhân cùng giới được thực hiện tại Luxembourg.
1
null
Paraponera clavata là một loài kiến, thường được gọi là Kiến thợ săn khổng lồ nhỏ, hoặc kiến đạn, lý do là vì nọc độc cực mạnh của chúng. Kiến đạn sinh sống tại rừng nhiệt đới đất thấp ẩm từ Nicaragua và tận cùng phía đông của Honduras, và phía nam tới Paraguay. Kiến đạn được gọi là " Hormiga veinticuatro " hoặc " kiến 24 (giờ) " theo người dân địa phương, đề cập đến 24 giờ đau đớn theo sau khi bị cắn. Kiến thợ dài . Khi bị kiến đạn đốt, nó tiêm vào cơ thể một chất độc cực mạnh, khiến nạn nhân cảm thấy cực kỳ đau đớn và gặp phải ảo giác. Sau khi hết đau, nọc độc sẽ xâm nhập vào các cơ gây hoại tử, nhiễm trùng. Nếu không được chữa trị kịp thời, nạn nhân có nguy cơ cao phải cắt bỏ bộ phận cơ thể hoặc nghiêm trọng hơn là dẫn tới tử vong.
1
null
Họ Cá sơn (danh pháp khoa học: Apogonidae) là một họ nhà cá phân bố ở các vùng biển thuộc Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Họ này chủ yếu là cá biển, nhưng một vài loài là cá nước lợ hay cá nước ngọt (chi "Glossamia"). Một số loài được nuôi trong bể cá cảnh và là cá nhỏ, đầy màu sắc và hiền lành. Họ này bao gồm khoảng 357 loài trong 40 chi. Họ này nói chung là các loài cá nhỏ, với phần lớn các loài ngắn hơn , và thường có màu sắc sặc sỡ. Chúng được phân biệt bằng các miệng lớn (so với kích thước cơ thể), và sự phân chia vây lưng thành 2 vây tách biệt. Phần lớn các loài sinh sống trong các vùng nước nhiệt đới hay cận nhiệt đới, nơi chúng sinh sống trong các rạn san hô và các đầm phá. Chúng là cá hoạt động ban đêm, với thời gian ban ngày ẩn nấp trong các kẽ nứt tối tăm trong các ran san hô. Có một số loài ấp trứng trong miệng của cá bố. Phân loại. Họ này theo truyền thống xếp trong bộ Perciformes, tuy nhiên gần đây người ta đã xem xét lại phát sinh chủng loài của cá và đề xuất tách họ này sang bộ Kurtiformes . Các chi. Phân loại thành 2 hoặc 3 phân họ. Chi tiết như sau: Ấn bản lần thứ 5 của "Fishes of the World" chỉ công nhận 2 phân họ của Apogonidae là Apogoninae (gộp cả Amioidinae) và Pseudaminae.
1
null
Chindesaurus ( ) là một chi khủng long sống khoảng 216 triệu năm trước trong phần sau của kỷ Trias tại những nơi bây giờ là Tây Nam Hoa Kỳ. Chindesaurus là loại khủng long nhỏ, hai chân, ăn thịt, có thể đạt chiều dài . Tên. Tên chi "Chindesaurus" nghĩa là "thằn lằn hồn ma", xuất phát từ tiếng Navajo, chindi là "hồn ma" và tiếng Hy Lạp, "sauros" (σαυρος) nghĩa là "thằn lằn". Tên loài, "bryansmalli" dùng để vinh danh người phát hiện, Bryan Small. "Chindesaurus" được mô tả và đặt tên bởi R.A. Long và P.A. Murry, năm 1995 với loài điển hình là "Chindesaurus bryansmalli". Khi mẫu vật mới được phát hiện, nó có biệt danh là "Gertie".
1
null
Hươu Florida (Danh pháp khoa học: "Odocoileus virginianus clavium") là một là một phân loài của hươu đuôi trắng (Odocoileus virginianus) chỉ sống trong vùng Florida Keys ở Hoa Kỳ. Đây là động vật đang bị đe dọa tuyệt chủng. Hươu Florida, loài nằm trong danh sách động vật có nguy cơ tuyệt chủng với khoảng 1.000 cá thể trên toàn thế giới. Phân bố. Phạm vi sống của con nai ban đầu bao trùm tất cả các vùng thấp ở Florida Keys (nơi hồ nước đọng tồn tại), nhưng bây giờ được giới hạn trong một đoạn của Florida Keys từ khoảng Sugarloaf Key đến Bahia Honda Key. Nai sống trong tất cả các đảo trong mùa mưa khi nước uống nói chung là có sẵn ở đây và chúng tản mác khỏi đảo khi nguồn cung cấp lâu năm của nước ngọt trong mùa khô. Nai này sống sống gần như tất cả môi trường sống trong phạm vi của chúng, bao gồm cả vùng đồi thông, rừng thông, trảng cây phong, rừng ngập mặn và đất ngập nước. Chúng có thể ăn hơn 150 loại thực vật nhưng ở những khu rừng ngập mặn thì quả cọ tranh tạo nên một phần quan trọng nhất của chế độ ăn uống của chúng. Môi trường sống ở đồi đá rừng thông là tốt cho chúng vì nó thường xuyên cung cấp nước ngọt (hươu này ít khi uống nước lợ) Việc phá hủy môi trường sống do sự xâm lấn của con người gây ra nhiều sự suy giảm số lượng của loài nai. Đặc điểm. Hươu Florida này có thể được công nhận là một phân loài riêng rẽ bởi kích thước đặc trưng của nó. Chúng nhỏ hơn so với tất cả các hươu đuôi trắng khác. Con đực trưởng thành (tiếng địa phương gọi là Bucks) thường nặng khoảng từ 25-34 kg (55-75 lb) và chiều cao khoảng 76 cm (30 in) tính đến chiều cao ở vai. Con cái trưởng thành thường nặng từ 20 đến 29 kg (44 đến 64 lb) và có chiều cao trung bình 66 cm (26 in) tính đến vai. Những con hươu có một màu nâu đỏ chuyển sang màu xám - nâu, Những con nai dậy thì thường có một màu vàng nhạt. Gạc được xuất hiện ở những con nai đực vào giữa tháng hai và tháng ba và tái sinh vào tháng Sáu. Khi gạc đang phát triển, chúng được phủ một lớp nhung màu trắng. Nai Florida bơi rất giỏi, chúng dễ dàng bơi qua lại giữa các đảo. Chúng sống gần gũi với con người tuy nhiên nhiều con nai có chút sợ hãi tự nhiên cố hữu của nó. Những con nai này thường được tìm thấy trong sân của cư dân và hai bên đường nơi cây ngon và hoa phát triển, chúng thường bứt cây trồng của con người. Do sống bên đường nên điều này thường dẫn đến những vụ tai nạn giao thông va chạm xe, chẹt xe và những con hươu này vào ban đêm thì rất khó cho người tài xế có thể tránh né khi bất chợt. Lịch sử. Con nai Florida được cho là một phân loài của hươu đuôi trắng đã di cư đến Florida Keys từ đất liền qua một dãi đất trong thời kỳ băng hà Wisconsin. Sự ghi nhân sớm nhất được nêu đến tài liệu tham khảo bằng văn bản từ các tác phẩm của Hernando de Escalante Fontaneda, một thủy thủ Tây Ban Nha bị đắm tàu ​​ở Florida Keys và bắt giữ người Mỹ bản địa trong những năm 1550. Do sự gần gũi, hầu hết loài nai đã mất nỗi sợ hãi với con người. Hiện nay, bên cạnh việc mất môi trường sống là lý do chính tại sao chúng đang trở nên tuyệt chủng. Loài nai bị săn đuổi như một nguồn cung cấp thực phẩm của các bộ tộc bản địa, các thủy thủ và người định cư. Việc săn bắn chúng đã bị cấm vào năm 1939, nhưng nạn săn bắn tràn lan và phá hủy môi trường sống gây ra các phân loài giảm mạnh đến gần tuyệt chủng vào những năm 1950. Một tổ chức bảo vệ chúng được thành lập vào năm 1957. Ước tính dân số gần đây đưa dân số của chúng có từ 300 đến 800 và đưa nó vào danh sách các loài nguy cấp. Tai nạn giao thông cũng là một mối đe dọa lớn, trung bình từ 30 đến 40 bị giết chết mỗi năm do tai nạn và trên 70% tỷ lệ tử vong hàng năm. Tuy nhiên, dân số đã có một sự gia tăng đáng khích lệ kể từ năm 1955 và dường như đã ổn định trong những năm gần đây. Tuy nhiên, sự xâm lấn của con người gần đây vào môi trường sống mong manh và tỷ lệ tương đối thấp của nai sinh sản. Người ta đã dành riêng cho loài nai này một khu vực trong đó bao gồm khoảng 8.500 mẫu Anh (34 km2) trên vùng đất Big Pine, No Name Key, và một số hòn đảo nhỏ hơn không có người ở. Không phải tất cả các vùng đất nơi trú ẩn được bảo vệ như vùng đất công cộng, bất chấp những nỗ lực lớn để trưng mua những vùng đất dành môi trường sống riêng tư và bảo vệ nơi trú ẩn, khoảng 5.000 mẫu Anh (20 km2) hiện vẫn còn trong sở hữu tư nhân và có khả năng có thể được phát triển. Khoảng 1.000 mẫu Anh (4,0 km2) đất tư nhân đó là những khu dân cư trung tâm cho những con nai. Trong năm 2006, một kế hoạch bảo tồn môi trường sống của chúng đã được ban hành bởi Monroe County. Nơi trú ẩn cũng có sự kiểm soát của những con chó hoang mà chúng thường tấn công con nai. Nguy cơ. Hiện nay có những con ruồi ăn thịt chưa rõ nguồn gốc đang tấn công loài hươu Floria ở thành phố Key West, quận Monroe, bang Florida, Mỹ, khiến ít nhất 60 con hươu chết trong đau đớn. Những ấu trùng ruồi ăn thịt đang tấn công loài hươu ở bang Florida, Mỹ và biến chúng thành các xác sống nhanh chóng tử vong sau 7-14 ngày. Trứng ruồi nở ra dòi, chúng bám trên các vết thương hở của động vật. Hươu Florida là đối tượng rất dễ bị tấn công bởi loài ruồi này, vào mùa động dục của loài hươu. Chúng thường xuyên đánh nhau, gây ra các vết thương, thu hút ruồi bay tới. Khi đã nhiễm bệnh, tỷ lệ tử vong của hươu rất cao. Những con ruồi cái đẻ trứng trên vết thương hở của con vật, đặc biệt là trên đầu. Trứng ruồi nở thành dòi, chúng ăn các mô sống từ vật chủ, biến những con hươu thành xác sống với phần đầu bị tổn thương nghiêm trọng. Những con bị lây nhiễm rời khỏi đàn và nếu không được chữa trị, nó sẽ chết trong vòng 7–14 ngày. Sau đó, các con dòi rơi xuống, chui sâu vào lòng đất và trở thành ruồi trong vài ngày. Một con ruồi cái có thể đẻ hàng nghìn trứng trong vòng đời của mình. Phương pháp giải quyết tình trạng này là thả những con ruồi đực vô sinh vào quần thể, khiến ruồi cái không thể đẻ trứng mới, từ đó làm giảm số lượng ruồi.
1
null
Hiến pháp Xô viết năm 1936 (), thông qua ngày 5 tháng 12 năm 1936, và còn được gọi là hiến pháp "Stalin", thiết kế lại chính phủ Liên Xô. Bắt đầu từ năm 1936, ngày 05 tháng 12 đã được tổ chức là ngày hiến pháp ở Liên Xô cho đến khi hiến pháp Liên Xô 1977 của chuyển ngày này sang ngày 07 tháng 10. Trước năm 1936, không có Hiến pháp ngày Liên Xô. Hiến pháp này lần đầu tiên đề cập đến Đảng cộng sản Liên Xô (không có trong hiến pháp Xô viết 1924). Hiến pháp này tồn tại trong 41 năm. Các quy định cơ bản. Hiến pháp bãi bỏ hạn chế về quyền bầu cử và quyền đầu phiếu phổ thông và quyền làm việc để đảm bảo quyền của hiến pháp trước đó. Translation Ngoài ra, Hiến pháp công nhận quyền kinh tế xã hội tập thể bao gồm cả quyền làm việc, nghỉ ngơi và giải trí, bảo vệ sức khỏe, chăm sóc lúc tuổi già và bệnh tật, nhà ở, giáo dục và các quyền lợi văn hóa. Hiến pháp cũng quy định cho các cuộc bầu cử trực tiếp đối với tất cả các cơ quan chính phủ và tổ chức lại của các cơ quan này thành một hệ thống thống nhất. Bản hiến pháp được soạn thảo bởi một ủy ban đặc biệt của 31 thành viên trong đó Joseph Stalin làm chủ tịch. Kỷ niệm. Cho đến năm 1977, nó được tổ chức vào ngày 5 tháng 12 hàng năm như một ngày lễ chính thức của nhà nước là Ngày Hiến pháp.
1
null
Miracles in December (tiếng Hàn: 12월의 기적; tiếng Trung: 十二月的奇迹) là mini-album thứ hai của nhóm nhạc nam Hàn-Trung Quốc EXO, được S.M. Entertainment phát hành với hai phiên bản tiếng Hàn và tiếng Trung vào ngày 9 tháng 12 năm 2013. Giới thiệu. Với tư cách nghệ sĩ có tuổi nghề nhỏ nhất S.M. Entertainment vào thời điểm hiện tại, để chuẩn bị cho tuần lễ sự kiện hòa nhạc nhân mùa Giáng sinh - SMTOWNWEEK 2013 - EXO được phép ra mắt album đặc biệt dành cho mùa lễ này với nhan đề "Miracles in December". Ngày 28 tháng 11 năm 2013, S.M. Entertainment tiết lộ bìa album "Miracles in December" (phiên bản Trắng trên Twitter và phiên bản Đỏ trên trang chủ) và ngày phát hành trên các phương tiện thông tin. Ngày 2 tháng 12 năm 2013, S.M. Entertainment đăng tải 2 đoạn video giới thiệu về MV ca khúc chủ đề "Miracles in December". Một ngày sau đó, ngày 3 tháng 12 năm 2013, 2 đoạn video khác bao gồm một bản mix các ca khúc trong album cũng được đăng tải trên kênh YouTube của công ty này. Cùng ngày hôm đó, 1 đoạn video phỏng vấn các thành viên về sự kiện SMTOWNWEEK 2013 được đăng tải, các thành viên hé lộ về các màn biểu diễn của họ. Ngày hôm sau, 5 tháng 12 năm 2013, S.M. Entertainment chính thức đăng tải MV của 2 phiên bản tiếng Hàn và tiếng Quan Thoại của "Miracles in December", đồng thời phát hành trước ca khúc chủ đề "Miracles in December" trực tuyến. Sau đó, trên trang chủ của S.M. Entertainment, tracklist của "Miracles in December" được công bố và màn trình diễn trở lại của nhóm được trình bày trên sân khấu mnet M! Countdown lần đầu tiên.
1
null
Petrel (tên đầy đủ Petrel E&P Software Platform) là một bộ phần mềm dùng trong ngành công nghiệp dầu khí. Các chức năng của Petrel rất đa dạng, từ lập mô hình địa chất, minh giải tài liệu địa vật lý, liên kết giếng khoan, vẽ bản đồ cấu trúc, thiết kế giếng khoan, đánh giá rủi ro địa chất cho đến mô phỏng các vỉa chứa, tính toán trữ lượng, dự đoán khả năng khai thác v.v... Petrel có cả hai phiên bản 32 bit và 64 bit, chạy trên nền tảng Microsoft Windows, phiên bản mới nhất hiện nay là Petrel 2015, tính đến tháng 4 năm 2016. Là một phần mềm phức tạp với nhiều chức năng, nhưng Petrel được thiết kế với giao diện giống các sản phẩm quen thuộc của Microsoft, và nó có các tiến trình công việc (workflow) được thiết kế sẵn, làm việc như những hàm hay macro giúp cho những người dùng ít kinh nghiệm cũng có thể dễ dàng sử dụng. Lịch sử. Petrel được tạo ra bởi Technoguide AS, một công ty Na Uy thành lập vào năm 1996 từ những thành viên cũ của công ty Geomatic AS, với sự góp mặt của một số lập trình viên chủ chốt từng tham gia viết phần mềm IRAP RMS Suite. Petrel được bán ra thị trường vào năm 1998. Năm 2002, Schlumberger, một người khổng lồ trong lĩnh vực dịch vụ dầu khí đã mua lại Technoguide và tiếp tục phát triển phần mềm này. Chức năng. Petrel bao gồm các nhóm chức năng chính sau:
1
null
Săn hươu nai là các hình thức săn bắt, săn bắn các loại hươu, nai. Hình thức này tồn tại từ hàng chục nghìn năm qua với rất nhiều loại hươu nai được săn bắn trên toàn thế giới. Việc săn bắn hươu nai xuất phát từ việc đáp ứng một phần nhu cầu thực phẩm (thịt nai), nhất là đối với một số dân tộc có đời sống gắn bó với rừng rú, cũng như việc tiêu diệt hươu nai phá hoại mùa màng, kiểm soát quần thể hươu, nai. Săn bắn hươu nai còn là một thú vui, một trò giải trí của tầng lớp quý tộc, hoàng gia, vương giả trên thế giới. Trong văn hóa một số nước Á Đông, việc săn hươu là ám chỉ của hoạt động tranh đoạt thiên hạ ở Trung Quốc (Trục lộc Trung Nguyên) xuất phát từ điển tích chém rắn, đuổi hươu của Lưu Bang, cũng đồng thời được nhắc đến trong tác phẩm Lộc đỉnh ký của nhà văn Kim Dung. Trên thế giới. Ở Châu Âu. Tại Vương quốc Anh có sáu loài hươu ở Anh được săn bắn gồm hươu đỏ, Capreolus capreolus, hươu hoang, hươu sao, mang, hươu nước Trung Quốc, cũng như các giống lai của những con nai. Tất cả đều bị săn bắt đến một mức độ phản ánh về số lượng một cách tương đối của chúng, hoặc như một môn thể thao hoặc cho các mục đích tiêu diệt các loài phá hoại mùa màng. Mùa cấm săn hươu khác nhau tùy theo loài. Tục săn hươu bắt đầu từ thời Trung Cổ khi nó thường kéo dài từ tháng sáu đến tháng Chín Rình bắn hươu là hình thức được sử dụng rộng rãi như là một môn thể thao ở Anh và Ireland để biểu thị gần như tất cả các hình thức săn bắn bằng súng thể thao, thường là dùng để săn hươu đỏ, đặc biệt là ở cao nguyên Scotland. Ở châu Âu, hươu thường được săn bắn trong rừng. Ở Anh và Ái Nhĩ Lan, thuật ngữ săn nai có lịch sử được dành riêng cho việc theo đuổi hươu với những con chó săn mùi hương (chó săn hươu), với những người theo không mang vũ khí thông thường cưỡi trên lưng ngựa. Ở châu Âu trong lịch sử đã thực hiện việc săn nai sừng tấm làm thực phẩm. Bản vẽ đá châu Âu và bức tranh hang động cho thấy con nai sừng tấm đã bị săn đuổi từ thời kỳ đồ đá bởi con người. Các cuộc khai quật ở Alby, Thụy Điển, tiếp giáp với Stora Alvaret đã mang lại những gạc nai trong túp lều bằng gỗ từ 6000 TCN, chỉ ra một việc săn nai sớm nhất ở Bắc Âu. Ở phía Bắc Scandinavia ta vẫn có thể tìm thấy dấu tích của các hố bẫy dùng để săn nai. Những hố, mà có thể được rộng lên đến 4×7 m và sâu 2 m, có thể đã được ngụy trang với cành và lá. Chúng sẽ có mặt dốc được lót bằng ván, làm cho nó không thể cho con nai để thoát khỏi một khi nó rơi vào đó. Các hố thường được tìm thấy trong các nhóm lớn, băng qua những con đường thông thường của con nai sừng tấm và kéo dài trên vài km. Còn lại của hàng rào bằng gỗ được thiết kế để hướng các con vật về phía hố (vẻ đường cho hươu chạy) đã được tìm thấy trong các đầm lầy và than bùn. Tại Na Uy, một ví dụ của các thiết bị bẫy đã được tìm thấy khoảng 3.700 trước Công nguyên. Bẫy nai sừng tấm trong hầm lò là một phương pháp cực kỳ hiệu quả trong săn bắn, và vào đầu thế kỷ 16, chính phủ Na Uy đã cố gắng để hạn chế việc sử dụng chúng. Tuy nhiên, phương pháp này đã được sử dụng cho đến thế kỷ thứ 19. Ở Châu Mỹ. Những con hươu phát triển với số lượng nhiều nhất sau khi du nhập vào Bắc Mỹ đặc biệt là phía đông của dãy núi Rocky phân bố nhiều nhất là những con hươu đuôi trắng, tronh khi đó, phía tây của dãy núi này thì những con hươu đuôi đen là loài hươu chiếm ưu thế. Nai đuôi đen (Black-tailed deer) thì lại chiếm ưu thế dọc theo bờ biển phía tây (phía tây của dãy Cascade) từ Bắc California đến Đông Nam Alaska. Sự khác biệt đáng chú ý nhất giữa những con nai là sự khác biệt về tai, đuôi, hình dạng nhung, và kích thước cơ thể. Mỗi con hươu trưởng thành thường to lớn hơn mỗi năm miễn là có nguồn thực phẩm tốt cung ứng cho nhu cầu của chúng, sự tăng trưởng nhung phụ thuộc vào nguồn thức ăn. Nếu thức ăn không tốt trong một năm, thì gạc sẽ nhỏ hơn. Nhiều con hươu còn bị chết bởi tai nạn giao thông như Nai Florida, và các loài nai khác như nai Sitka, hươu đuôi đen Califonia... Ở Hawaii, loài hươu Axis được đưa vào môi trường tự nhiên ở đây trong những năm 1950. Không có động vật ăn thịt chúng làm thiên địch nên con số của chúng nhanh chóng phát triển và chúng được coi là một loài xâm lấn, đặc biệt là trên các đảo Lanai và Maui và gần đây đã có dấu hiệu của chúng trên đảo lớn của Hawaii. Nai và nai sừng tấm cũng là động vật bị săn phổ biến. Tuy nhiên, săn bắn chúng thường không được gọi là săn hươu. Ở Canada và Alaska, tuần lộc được săn lùng một cách rộng rãi. Mùa săn hươu khác nhau trên khắp nước Mỹ, một số mùa ở Florida bắt đầu càng sớm từ tháng Chín và có thể kết thúc cho đến tháng hai như ở Texas. Thời lượng của mùa giải săn thường dựa trên sức khỏe và dân số của đàn hươu, ngoài số lượng thợ săn dự kiến sẽ được tham gia vào cuộc săn nai. Tại Mỹ, Nai sừng tấm Alaska là loài bị săn bắt làm thực phẩm và phục vụ cho nhu cầu thể thao giải trí mỗi năm trong mùa thu và mùa đông. Người sử dụng cả hai súng và bẫy để săn nai sừng tấm, nhưng chúng rất khó để bị sập bẫy và bắn hạ, ngay cả với một khẩu súng trường có công suất cao. Con nai Alaska lớn nhất đã bị bắn ở phía tây Yukon trong tháng 9 năm 1897, nó nặng 820 kg (£ 1800), và nó cao đến 233 cm (92 in) tính đến vai. Trong khí đó, với số lượng khoảng 950.000 cá thể, Nai sừng tấm phía Tây bị săn bắt mỗi mùa thu và mùa đông ở cả Canada và Hoa Kỳ. Hạn ngạch (mức săn bắn) hàng năm thay đổi tùy theo ước tính người dân địa phương và thợ săn đã thành công từ mùa săn trước. Bên cạnh đó, Nai sừng tấm phía Đông cũng bị săn bắt để làm thực phẩm và như một trò thể thao giải trí trong mùa thu và mùa đông. Trong quá khứ, dân số của chúng đã tăng lên nhanh chóng, gây ra một vấn đề cho người dân trong môi trường sống của họ, và việc săn bắn đã giúp kiểm soát dân số Nai sừng tấm phía Đông. Hàng năm chính quyền tỉnh bang Newfoundland cho phép săn 8.000 con nai sừng tấm, tuy nhiên nhiều người đang đề nghị chính quyền cho phép được săn gấp đôi lên khoảng 15.000 con mỗi năm. Thợ săn sử dụng cả hai cung và mũi tên và súng săn để săn chúng và chỉ được phép săn nai sừng tấm đực vì những con nai cái có thể mang thai khi bị giết. Ở Châu Úc. Tại New Zealand đã có 10 loài hươu (Cervidae) là đối tượng săn bắn. Từ những năm 1850, hươu đỏ và tiếp theo là hươu hoang, nai, hươu Bắc Mỹ, hươu sao, các loài hươu trong chi Rusa, và hươu đuôi trắng, các loài khác là hươu đốm và nai sừng tấm châu Âu là những loài đã bị tuyệt chủng. Trong trường hợp không bị kiểm soát bởi quần thể động vật ăn thịt, nai được cho là một loài nguy hại do ảnh hưởng của chúng đối với thảm thực vật bản địa. Từ những năm 1950 chính phủ đã sử dụng các thợ săn chuyên nghiệp để tiêu diệt các loài nai. Săn hươu bây giờ là một hoạt động giải trí. Tại Úc, có sáu loài nai mà có sẵn để săn bắn. Đây là những con hươu hoang, nai, hươu đỏ, Rusa, hươu đốm, và hươu lợn. Những con nai lần đầu tiên được du nhập đến Úc giữa những năm 1800 và 1803. Tất cả các quốc gia và vùng lãnh thổ có hươu phân bố bao gồm nhiều hòn đảo ven biển. Săn hươu ở Úc chủ yếu là thực hiện ở phía đông của đất nước này. Phương pháp. Có năm phương pháp phổ biến của săn bắn hươu, trong đó phương pháp đầu tiên là ngắm bắn. Đây thường là phương pháp phổ biến nhất, tùy thuộc vào địa hình. Kiểu săn bắn này được thực hiện bằng cách chờ đợi nơi con nai có khả năng đi đến vị trí đó, người săn bắn thường núp bên một cây cao, hay một ụ đất. Khoảng cách cây thường được đặt 8-30 bộ trên mặt đất. Trạm phục kích thường được đặt ở rìa của trảng cây trồng như ngô, lúa mì, lúa mạch, cỏ linh lăng, cỏ ba lá, đậu tương, bông. Thông thường, thợ săn cố tình trồng các cây cây trồng mà hươu nai ưa thích tại các địa điểm chiến lược chỉ nhằm mục đích thu hút hươu nai. Các trạm phục kích cũng được đặt trong rừng trên các cạnh của con đường mòn con nai hay đi lại. Một số tiểu bang cho phép mồi săn để được đặt gần những trạm săn để thu hút những con nai. Điều này khác với việc trồng cây. Mồi phổ biến nhất là ngô.Phương pháp thứ hai thường được gọi là săn bắn, tức là đi bộ dọc qua những khu rừng hoặc dọc theo các mé của một trảng cây và tìm kiếm một con nai. Các thợ săn thường dừng lại và chờ đợi một vài phút, sau đó di chuyển và lặp đi lặp lại chu kỳ này. Một phương pháp khác là dùng chó săn. Phương pháp này sử dụng chó để đuổi theo những con nai. Phương pháp này sử dụng súng săn bắn với đạn chì. Tuy nhiên, ở một số bang như Wisconsin, việc này được coi là bất hợp pháp để sử dụng phương pháp này nhằm săn hươu đuôi trắng. Một phương pháp khác là sử dụng các thủ đoạn khêu gợi hươu nai trong mùa động đực, người ta là sử dụng mùi hương và mồi nhử để thu hút con nai đực đang vào mùa động đực để vào tầm ngắm, hoặc sử dụng các hương thơm esterous để khêu gợi sự quan tâm và mồi nhử của con nai đực. Có những thứ khác liên quan đến săn hươu mà sẽ dẫn đến một cuộc săn thành công. Một đàn nai khỏe mạnh là một trong những yếu tố quan trọng nhất đóng góp cho một mùa săn bắn thành công. Chuẩn bị là một khâu quan trọng, một thợ săn sẽ trinh sát khu vực họ có kế hoạch để săn vài tháng trước khi mùa giải sẽ diễn ra.
1
null
Thời kỳ cấm rượu ở Hoa Kỳ là một lệnh cấm toàn quốc về việc bán, sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển các đồ uống có cồn giai đoạn 1920-1933. Mục đích của luật cấm rượu là muốn tạo một xã hội không bị ảnh hưởng bởi những tệ nạn do rượu gây ra. Tuy nhiên, việc cấm rượu đã dẫn tới việc giá rượu tăng cao và buôn bán rượu mang lại lợi nhuận lớn, các băng nhóm mafia buôn lậu rượu, rượu được nhập lậu vào Hoa Kỳ từ một số quốc gia trong khu vực châu Mỹ. Những người buôn rượu lậu bắt đầu đưa rượu Rượu được đưa vào Hoa Kỳ qua các đường biên giới Canada và Mexico, và dọc theo đường biển. Rượu được vận chuyển đến Hoa Kỳ bằng đường biển đến từ các đảo quốc như Bahamas, Cuba, các đảo thuộc Pháp như St. Pierre và Miquelon ngoài khơi Canada.
1
null
Isartor là cổng thành phố về phía Đông của phố cổ München và có chứa viện bảo tàng Valentin. Vị trí. Cổng Isar nằm ở ranh giới giữa Graggenauer Viertel và Angerviertel ở cuối đường Tal, một phần của Salzstraße. Như vậy Cổng Isar phân chia biên giới giữa phố cổ và khu vực Isarvorstadt và Lehel. Trước cổng Isar là công trường Isartor, bây giờ là một phần của đường vòng phố cổ (Altstadtring). Lịch sử. Khi München được Ludwig der Bayer cho nới rộng ra, từ 1285 cho tới 1347 hình thành một bức tường thứ hai của thành phố. Cổng Isar là cổng cuối cùng của bức tường này được xây. Cổng này, được xây xong vào năm 1337 có một tháp cao 40m. Vào đầu thế kỷ 19 hội đồng thành phố quyết định cho giật sập cổng này. Nhưng sau đó vua Ludwig I ủy nhiệm cho Friedrich von Gärtner vào năm 1833 xây lại cổng này y hệt như ngày xưa. Sử dụng. Từ năm 1959 viện bảo tàng Valentin nằm ở đây, cũng như quán cà phê "Turmstüberl". Nhà ga S-Bahn Isartor. Isartor cũng là tên nhà ga S-Bahn, mà là một phần của quãng đường S-Bahn chính.
1
null
Diên Sầm (chữ Hán: 延岑, ? – 36), tự Thúc Nha, người huyện Trúc Dương, quận Nam Dương, Kinh Châu . Ban đầu ông quy thuận chính quyền Canh Thủy; sau đó nổi lên như một thủ lĩnh quân phiệt độc lập, hoạt động ở một dải Hán Trung, Kinh Châu, Nam Dương, rồi bị quân Hán đánh bại, phải nương nhờ Thành Gia đế Công Tôn Thuật ở đất Thục; sau khi Thuật tử thương, Sầm xin hàng nhưng ông và gia quyến vẫn bị Đại tư mã Ngô Hán tàn sát. Giai đoạn 23 – 25? Năm 23, Diên Sầm bị tướng Lưu Gia (dưới quyền Canh Thủy đế) đánh bại ở huyện Quan Quân thuộc quận Nam Dương, bèn xin hàng. Ông có lẽ đã khởi nghiệp tại Quan Quân, nhưng không rõ là thủ lĩnh hay bộ tướng của quân phiệt nào!? Cũng không có ghi chép về Sầm khi còn phục vụ chính quyền Canh Thủy (cho đến năm 25?). Giai đoạn 26 – 28. Năm 26, Sầm đánh bại Lưu Gia, chiếm lĩnh Nam Trịnh thuộc quận Hán Trung (có lẽ ông theo Lưu Gia vào Hán Trung). Tháng 2, tự xưng Vũ An vương. Sầm đuổi theo Lưu Gia, theo hướng tây bắc vào quận Vũ Đô, bị Trụ Công hầu Lý Bảo (thuộc chính quyền Canh Thủy) đánh bại, chạy về hướng quận Thiên Thủy. Lưu Gia, Lý Bảo giành lại Nam Trịnh từ tay Công Tôn Thuật, đến đóng đồn ở Hà Trì thuộc Vũ Đô, rồi tiến xuống Biện, cùng Sầm giao chiến. Ông vào Tán Quan đến Tam Phụ, bị Lưu, Lý bắt kịp ở Trần Thương thuộc quận Phù Phong. Sầm thua trận ở phía tây Trường An, chạy theo hướng đông đến Đỗ Lăng thuộc Kinh Triệu Doãn. Lưu, Lý quay sang tấn công quân khởi nghĩa Xích Mi ở phụ cận Trường An. Tháng 9, Sầm và Lý Bảo liên hiệp đánh bại tướng Xích Mi là Bàng An ở Đỗ Lăng. Sau đó ông đẩy lui Đại tư đồ Đặng Vũ ở Lam Điền thuộc Kinh Triệu Doãn. Tháng 4 năm sau (27), Sầm bị tướng Hán là Phùng Dị đánh bại ở Thượng Lâm Uyển thuộc quận Hữu Phù Phong. Sau đó Dị lại liên hiệp với Đặng Diệp, Vu Khuông đánh bại ông ở huyện Tích thuộc quận Hoằng Nông. Tháng 6, tướng Hán là Cảnh Yểm đánh bại Sầm ở huyện Nhương thuộc quận Nam Dương. Mặc dù ông chưa thua trận nào quá nặng, không rõ vì sao lại quy thuận thủ lĩnh quân phiệt ở huyện Kỵ (hoặc Kỳ, xem bài viết Tần Phong) thuộc Nam quận là Sở Lê vương Tần Phong, cùng thủ lĩnh quân phiệt ở Di Lăng thuộc quận Nam Dương là Điền Nhung được Phong gả con gái. Cuối năm, Sầm cùng bộ tướng của Tần Phong là Trương Thành bị Chu Hỗ, Sái Tuân đánh bại ở Đông Dương tụ (làng), huyện Dục Dương thuộc quận Nam Dương, Thành tử trận, ông chạy về chỗ Tần Phong. Tháng 2 năm 28, Sầm đánh Thuận Dương thuộc quận Nam Dương, ở huyện Đặng giao chiến với Đặng Diệp, Vu Khuông dưới sự chỉ huy của Đặng Vũ, thất bại. Ông chạy đến phía bắc Vũ Đương thuộc quận Nam Dương thì bị bắt kịp, lại thua, trốn đi Hán Trung. Giai đoạn 29 – 34. Tháng 6 năm 29, quân phiệt Tần Phong bị quân Hán tiêu diệt, Sầm, Nhung đều xin hàng Công Tôn Thuật ở đất Thục. Ông được nhiệm chức Đại tư mã, Nhữ Ninh vương. Năm 30, Kỵ mã đô úy của chính quyền Thành Gia là Kinh Hàm đề nghị lấy Sầm, Nhung chia hương bắc, đông tiến đánh quân Hán, anh em của Thuật và quan viên người Thục can ngăn, Thuật đối với bọn Sầm cũng có điểm nghi kỵ, nên không theo kế hoạch này. Mùa hạ năm ấy, bọn tướng Hán là Lý Thông, Vương Bá, Hầu Tiến tiến đánh Hán Trung, viện quân của Thuật bị phá, nhưng Sầm lại được Ngôi Hiêu giúp đỡ, đẩy lui quân Hán. Năm 34, con Hiêu là Ngỗi Thuần đầu hàng nhà Hán, quân Hán tập trung tấn công chính quyền Thành Gia ở đất Thục. Giai đoạn 35 – 36. Tháng 8 năm 35, Sầm cùng Lã Vị, Vương Nguyên, Công Tôn Khôi đón đánh tướng Hán là Sầm Bành ở khoảng giữa 2 quận Quảng Hán, Kiền Vi. Sầm Bành sai Tang Cung đón đánh quân Thục ở chính diện, còn mình vu hồi tập kích, ở Hoàng Thạch Than, huyện Phù Lăng thuộc Ba quận đánh bại tướng Thục là Hầu Đan, chiếm được Vũ Dương thuộc quận Kiền Vi ngay sau lưng bọn Sầm. Kỵ binh Hán đánh hạ Quảng Đô thuộc Thục quận, tiền quân cách Thành Đô mấy chục dặm. Ban đầu, Thuật nghe nói Bình Khúc thuộc Ba quận có quân Hán, phái Sầm đi đón đánh, nay Sầm Bành xuất hiện ở hậu phương của ông, Thuật cả sợ nói: "Là thần hay sao!?" Đồng thời, Sầm lại bị Tang Cung đánh bại trong trận Trầm Thủy. Tháng 9 năm 36, Sầm khuyên Thuật rằng: "Nam nhi nên tìm sống trong chết, sao lại ngồi chịu trận! Tiền tài dễ kiếm lắm, không nên tiếc rẻ." Thuật đem tài sản ra mộ được 5000 quân cảm tử, giao cho ông. Sầm tập kích Đại tư mã Ngô Hán ở Thị Kiều, Hán ngã xuống nước, nhờ nắm được đuôi ngựa mới thoát chết. Tháng 11, ông ở cửa bắc Thành Đô giao chiến với Tang Cung, thắng liền 3 hiệp, nhưng Thành Gia đế Công Tôn Thuật lại bị trọng thương. Sau khi vào thành, Thuật giao lại quân đội cho Sầm rồi chết. Hôm sau, ông mở cửa đầu hàng Ngô Hán, nhưng Ngô Hán lại diệt tộc của Thuật và Sầm. Tham khảo. "Hậu Hán thư" không lập liệt truyện dành riêng cho Duyên Sầm. Sự tích về ông được chép phụ vào "Công Tôn Thuật truyện" và liệt truyện của các nhân vật khác: liệt truyện 3 - "Công Tôn Thuật truyện"; bản kỉ 1 - "Quang Vũ đế kỷ thượng, hạ"; liệt truyện 1 - "Lưu Bồn Tử truyện"; liệt truyện 4 - "Lưu Gia truyện"; liệt truyện 5 - "Lý Thông truyện"; liệt truyện 6 - "Đặng Vũ truyện"; liệt truyện 7 - "Phùng Dị truyện", "Sầm Bành truyện"; liệt truyện 8 - "Ngô Hán truyện", "Tang Cung truyện"; liệt truyện 9 - "Cảnh Yểm truyện"; liệt truyện 12 - "Chu Hữu truyện".
1
null
Hươu đuôi đen (tiếng Anh: "black-tailed deer" hoặc "blacktail deer") (danh pháp ba phần: "Odocoileus hemionus columbianus") là một phân loài của hươu la (Odocoileus hemionus). Phân bố tại rừng mưa ôn đới duyên hải Tây Bắc Thái Bình Dương. Chúng đôi khi được xem là một loài riêng biệt, nhưng hầu như cả giới khoa học gần đây xếp chúng là một phân loài. Hươu đuôi đen Columbia ("Odocoileus hemionus columbianus") được tìm thấy ở miền tây Bắc Mỹ, từ Bắc California vào đến Tây Bắc Thái Bình Dương và duyên hải British Columbia. Hươu Sitka ("Odocoileus hemionus sitkensis") phân bố duyên hải British Columbia, Đông Nam Alaska và Trung tâm phía nam Alaska (xa về phía đảo Kodiak). Phạm vi. Hươu đuôi đen ít nhất từ sống xa về phía đông của Wyoming. Trong tác phẩm "The Oregon Trail" của Francis Parkman, ông từng chứng kiến cuộc di cư năm 1846 dọc về phía Tây, trong một chuyến đi hai ngày từ Fort Laramie, Parkman viết về cuộc săn bắn mà ông tin đó là một con hươu Elk, chỉ đến khi khám phá ra rằng ông đã giết một con hươu đuôi đen. Hươu đuôi đen hiện nay phổ biến ở miền bắc California, phía tây Oregon, Washington, ven biển và nội địa British Columbia, và phía bắc vào trong vùng cán xoong Alaska. Đây là một loài động vật săn bắn phổ biến. Ở Đông Nam Alaska, hươu Sitka và hươu đuôi đen là con mồi chủ yếu của chó sói Quần đảo Alexander (Canis lupus ligoni), là loài đặc hữu của khu vực và hiếm. Phân loại. Mặc dù từng được cho là một loài riêng biệt, nhưng hầu như cả giới khoa học gần đây xếp hươu đuôi đen là một phân loài của hươu la ("Odocoileus hemionus"). Nói đúng hơn, nhóm hươu đuôi đen bao gồm hai phân loài, cũng như gồm có "O. h. sitkensis" (Hươu đuôi đen Sitka). Cho nhóm hươu đuôi đen và nhóm hươu la ("sensu stricto") lai giống, kết quả cho thấy hươu la dường như tiến hóa từ hươu đuôi đen. Mặc dù vậy, DNA ty thể của hươu đuôi trắng và hươu la tương tự nhau, nhưng có sự khác biệt với hươu đuôi đen. Đây có thể là kết quả của sự pha trộn gen, mặc dù con lai giữa hươu la và hươu đuôi trắng rất hiếm trong tự nhiên (dường như phổ biến hơn tại địa phương phía tây Texas), tỷ lệ sống con lai thấp ngay cả trong điều kiện nuôi nhốt. Sinh thái. Loài này phát triển mạnh vùng các bìa rừng, như khu rừng sâu thẳm thiếu tầng cây thấp và đồng cỏ cung cấp thức ăn cho hươu, hoàn toàn là khu vực rộng mở thiếu điểm ẩn nấp và chỗ trú khi thời tiết khắc nghiệt. Một trong những loại cây mà hươu đuôi đen ăn chồi non là sồi độc phương tây, mặc dù thành phần kích thích hươu. Loài hươu này thường hoạt động nhiều nhất lúc bình minh và hoàng hôn, thường xuyên va chạm với xe ô tô. Tập tính. Khẩu phần. Hươu ăn chồi non. Trong suốt mùa đông và đầu mùa xuân, chúng ăn lá cây thông linh sam, tuyết tùng đỏ phương Tây, việt quất đỏ, thạch nam bản địa, dương xỉ bản địa, địa y mọc trên cây. Cuối mùa xuân đến mùa thu, hươu tiêu thụ các loại cỏ, mâm xôi, táo, hoa liễu thảo tím, cúc trường sinh ánh ngọc, hoa thân thảo, mâm xôi hồi, lá thạch nam, và cây thích. Mùa giao phối hoặc 'phát dục' xảy ra trong tháng 11 và đầu tháng 12. Hươu đực chạy lại và tiến dọc theo con đường đuổi bắt hươu cái. Sau khi động dục, hươu đực xu hướng ẩn nấp và nghỉ ngơi, thường chăm sóc vết thương. Chúng bị gãy sừng gạc, và bị sụt cân. Chúng gãy sừng giữa tháng Giêng và tháng Ba. Sừng hươu trên sàn rừng là nguồn cung cấp calci và chất dinh dưỡng khác cho sinh thái rừng. Hươu đực mọc sừng bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 8. Sinh sản. Thai kỳ từ 6 đến 7 tháng, hươu con được sinh ra vào cuối tháng 5 hoặc trong tháng 6. Song sinh là nguyên tắc, mặc dù hươu cái trẻ thường chỉ mang đơn thai. Sinh ba cũng có thể xảy ra. Hươu non nặng và không có mùi hơi trong tuần đầu tiên, hay như vậy. Điều này cho phép hươu mẹ để lại hươu non ẩn trong khi nó đi tìm chồi non và bổ sung năng lượng cơ thể sau khi sinh. Hươu cái cũng phải ăn đầy đủ nhằm tiết đủ sữa nuôi hươu con. Mặc dù là bà mẹ tuyệt vời, nhưng tỷ lệ tử vong hươu con là 45-70%. Hươu cái rất bảo vệ hươu con và loài người được xem như đối tượng săn thịt hươu chủ yếu. Giao tiếp. Hươu giao tiếp với sự trợ giúp của mùi hương và pheromone từ một số tuyến nằm trên chân thấp. Xương bàn chân (bên ngoài cẳng chân) tạo ra một mùi hương báo hiệu, xương cổ chân (bên trong khuỷu chân) phục vụ nhận biết lẫn nhau và khoảng giữa các ngón chân lưu lại vệt mùi hơi khi hươu đi qua. Hươu có thị giác và khứu giác tuyệt vời. Đôi tai lớn có thể chuyển động độc lập với nhau và tiếp nhận bất kỳ âm thanh khác thường nào báo hiệu nguy hiểm. Lúc bình minh, hoàng hôn và những đêm trăng sáng, hươu được phát hiện bên lề đường. Khu vực nhiều cây có rừng trên cả hai bên đường và nơi thông thoáng, thảm cỏ, cũng tức sân golf, thu hút hươu. Thận trọng khi lái xe là khuyến cáo vì thường một con hươu chạy dọc ra, một hoặc hai con theo sau. Tranh cãi. Tại Đông Nam Alaska, hươu đuôi đen Sitka là con mồi chính của sói đảo Alexander quý hiếm ("Canis lupus ligoni"), là loài đặc hữu của khu vực. Vào giữa những năm 1990, Cục Hoang dã và Cá Hoa Kỳ đánh giá một bản kiến ​​nghị vào danh sách loài sói bị đe dọa, và quyết định một danh sách không ủy quyền trong tháng 8 năm 1997, chủ yếu trên cơ sở các quy định của Sở Lâm nghiệp, gồm có bảo vệ sự sống còn loài sói trong Kế hoạch rừng tại rừng quốc gia Tongass, được thông qua 3 tháng trước đó. Rừng Tongass quan trọng trong việc bảo tồn sói vì bao gồm khoảng 80% diện tích đất của khu vực. Biện pháp bảo vệ sói gồm một tiêu chuẩn và hướng dẫn nhằm giữ lại, khi đối mặt với tổn thất khai thác gỗ, đủ môi trường sống cung cấp thức ăn cho hươu trong mùa đông nhằm đảm bảo khả năng tồn tại của chó sói đảo Alexander và cung cấp nguồn hươu cho thợ săn. Cần số lượng đủ ban đầu được xác định là 13 con hươu cho mỗi dặm vuông, nhưng đã được sửa lại trong năm 2000 lên 18. Sử dụng một con hươu mẫu được quy định để xác định số lượng đủ, và là công cụ duy nhất có sẵn cho mục đích này. Tuy nhiên, việc thực hiện Sở lâm nghiệp trong việc cung cấp hươu đủ tiêu chuẩn chó sói Tongass và hướng dẫn đã gây tranh cãi trong nhiều năm, và đã dẫn đến một vụ kiện của Greenpeace và Cascadia Wildlands trong năm 2008, hơn bốn dự án khai thác gỗ. Kho dữ liệu của Sở Lâm nghiệp đã được sử dụng hươu mẫu, biết đến thông qua nghiên cứu riêng của cơ quan (thực hiện năm 2000) nhằm đánh giá phổ biến số lượng hươu đủ và đánh giá thấp tác động của khai thác gỗ. Nghiên cứu cho thấy bộ dữ liệu (gọi là Vol-Strata) không tương quan đến chất lượng môi trường sống. Ngoài ra, một yếu tố chuyển đổi, được gọi là "hươu cấp số nhân" (được sử dụng trong việc tính toán số lượng đủ) áp dụng không chính xác, gây ra - bởi chính nó - một đánh giá quá cao 30% số hươu khu vực và đánh giá thấp tác động tương ứng. Hiệu ứng kết hợp của hai lỗi biến thiên vì Vol-Strata không tương quan đến chất lượng môi trường sống. Về dự án "Traitors Cove Timber Sales", trong năm 2011, nguyên đơn đã nêu trong phần tranh tụng trước khi tòa án phúc thẩm quận 9 cho đó là sự khác biệt giữa một tuyên bố 21 con hươu cho mỗi dặm vuông số lượng đủ trong dự án EIS, và 9,5 hươu mỗi dặm vuông (khoảng một nửa yêu cầu Kế hoạch rừng Tongass) theo sự điều chỉnh chưa được công bố của cơ quan thực hiện trong năm 2008. Ban hội thẩm khu vực 9 thẩm quyền nhất trí vào ngày 02 Tháng Tám 2011 trong sự có lợi của nguyên đơn, gửi trả quyết định bốn dự án gỗ cho Sở Lâm nghiệp và đưa ra hướng dẫn cho những gì cần thiết trong quá trình phân tích lại tác động tới hươu. Phán quyết này nói trong phần: Trong một tuyên bố với báo chí, một phát ngôn viên nguyên đơn cho biết sai sót trong vụ kiện này áp dụng cho mọi quyết định bán gỗ Tongass đáng kể giữa năm 1996 đến 2008, trước khi Sở lâm nghiệp sửa chữa sai sót hươu mẫu khi cơ quan này đã ban hành Kế hoạch rừng Tongass sửa đổi trong năm 2008. Tuy nhiên, ông cho biết mặc dù có điều chỉnh, cơ quan này vẫn không giải quyết các tác động tích lũy để hươu, đặc biệt là trên đảo Prince of Wales, như đang bị thách thức trong vụ kiện giá gỗ tắc nghẽn, bằng cách bỏ qua khai thác gỗ lớn trên đất không thuộc liên bang. Vào tháng 9 năm 2013, dưới sự tranh tụng tương tự, Tòa án Mỹ Quận ở Anchorage đã gửi trả lần thứ hai để Sở Lâm nghiệp vì công việc tiếp theo của cơ quan trực thuộc gửi trả đầu tiên đã không được giải quyết vấn đề mô hình hóa. Hoạt động bốn dự án gỗ liên quan kiện tụng bị đình chỉ kể từ năm 2008.
1
null
Nai đầu đinh hay còn biết đến với tên gọi Quang khem là một loài nai được phát hiện tại vườn quốc gia Pù Mát ở Việt Nam bởi ông Nguyễn Ngọc Chính, ông này công bố trên tạp chí Lâm nghiệp. Phát hiện. Trong đợt điều tra khu rừng Pù Mát (Nghệ An) tháng vào tháng 12 năm 1992. Đoàn khảo sát hỗn hợp giữa Viện điều tra quy hoạch rừng và Chi cục kiểm lâm Nghệ An có thu thập được một mẫu vật gồm cặp gạc và mảng sọ của một loài thú móng guốc lạ mà các thợ săn ở địa phương này gọi là Quang khem. Mẫu vật đã được gửi đến một số chuyên gia đầu ngành về thú của Việt Nam và nước ngoài để giám định. Các chuyên gia đều khẳng định đây là mẫu vật của một loài có những điểm sai khác với tất cả các loài của chi Nai (Cervus) và Hoẵng (Muntiacus) thuộc họ Hươu nai hiện đã biết ở Việt Nam và trên thế giới. Đây là một loài mới thuộc họ Hươu nai. Nhiều bằng chứng cũng xác định ở Lâm Đồng cũng còn loài thú này, đây là loài nai lạ bắt gặp ở Di Linh, Bảo Lộc, Cát Tiên (Lâm Đồng) và được các thợ săn gọi là Nai đầu đinh do cặp gạc của nó không phân nhánh, tựa như hai cái đinh to cắm vào đầu. Trọng lượng cơ thể của Nai đầu đinh khoảng 90–100 kg đối với con đực trưởng thành. Do màu lông của Nai đầu đinh giống với Nai Cervus unicolor nên rất khó phân biệt giữa Nai đầu đinh với Nai khi chúng ăn cỏ ở ven rừng mà đầu chưa có gạc.
1
null
Kid A là album phòng thu thứ tư của ban nhạc rock người Anh, Radiohead, được phát hành vào tháng 10 năm 2000 bởi hãng Parlophone. Album là một sản phẩm thành công toàn cầu, với chứng chỉ Bạch kim ngay trong tuần đầu tiên phát hành tại Anh. Cho dù không có bất cứ đĩa đơn hay video ca nhạc nào quảng cáo, "Kid A" vẫn là album đầu tiên của Radiohead đạt vị trí quán quân trong bảng xếp hạng tại Mỹ. Thành công này có thể được giải thích với một chiến dịch quảng bá đặc biệt chưa từng có, cùng với việc rò rỉ các ca khúc thông qua internet cũng như danh tiếng của ban nhạc kể từ sản phẩm "OK Computer" (1997). "Kid A" được thu âm rải rác tại Paris, Copenhagen, Gloucestershire và Oxford cùng nhà sản xuất Nigel Godrich. Phần sáng tác và thu âm được thực hiện toàn bộ bởi Radiohead khi họ quyết định thay thế thứ rock đặc trưng của mình bằng một thứ âm nhạc giàu tính điện tử hơn. Ảnh hưởng từ Krautrock, jazz và âm nhạc cổ điển thế kỷ 20, Radiohead đã từ bỏ đội hình 3-guitar của mình và thay thế bằng nhiều nhạc cụ mới, trong đó có keyboard, Martenot và trong vài ca khúc có cả dàn dây và kèn hơi. Phần thiết kế được thực hiện bởi Stanley Donwood và Thom Yorke, ngoài ra nhiều đoạn phim hoạt hình ngắn có tên "blips" cũng được sản xuất kèm album. "Kid A" được trao giải Grammy cho Album Alternative của năm, cùng với đó là đề cử cho Album của năm. Album cũng được đánh giá cao cho việc giúp người nghe tiếp cận với những hình thức mới của âm nhạc underground. Cho dù phong cách mới của ban nhạc đã làm mất lòng nhiều người hâm mộ và cả giới chuyên môn, các bài viết vẫn đánh giá rất cao "Kid A". Hầu hết các đánh giá đều cho rằng đây là album xuất sắc nhất của thập niên 2000 và là một trong những album vĩ đại nhất mọi thời đại. Cho tới hiện tại, album đã bán được ít nhất 4 triệu bản trên toàn cầu.
1
null
Sendlinger Tor là cổng phía Nam của phố cổ ở München. Vị trí. Sendlinger Tor (Sendlinger Str. 49) nằm ở khu Hackenviertel cuối đường Sendlinger Straße. Cổng này chia cách phố cổ với Isarvorstadt. Lịch sử. Theo chương trình mở rộng thành phố của Ludwig der Bayern một bức tường thứ hai được hình thành từ năm 1285 cho tới 1337, cổng Sendling được xây lên. Năm 1319 nó được nhắc tới lần đầu, mặc dù đã có trước đó. Năm 1808 tháp giữa bị giật sập. Thay thế vào đó một bức tường với 3 cổng vào được dựng lên. Năm 1906 vì vấn đề lưu thông xe cộ nên nó được thay thế bởi một vòng cầu lớn. Giao thông công cộng. Tại công trường Sendlinger-Tor có trạm xe lửa đường ngầm (U-Bahnhof Sendlinger Tor) với 4 tuyến đường. Ngoài ra còn có 4 tuyến đường xe điện.
1
null
MBK Entertainment (), là một công ty giải trí của Hàn Quốc được thành lập vào năm 2007 bởi Kim Kwang-soo. Trước đây, công ty này có tên là Core Contents Media , được thành lập vào ngày 9 tháng 1 năm 2007 với tư cách là công ty con của CJ E&M Music. Vào ngày 1 tháng 10 năm 2014, thông báo rằng Core Content Media đã được MBK Co., Ltd. (trước đây là CS ELSOLAR Co., Ltd.) mua lại và đổi tên thành MBK Entertainment. MBK là tên viết tắt của "Music Beyond Korea". Nhãn hiệu này là nhà của các nghệ sĩ như HIGHBROW, DIA, và trước đây là nhà của các nghệ sĩ như T-ara, SG Wannabe, Seeya, Davichi và Shannon. Vào tháng 5 năm 2018, nhà sản xuất điều hành nhãn hiệu Kim Kwang-soo tiết lộ rằng ông đã bí mật hợp tác với PD Han Kyeong-cheon để thành lập chương trình sinh tồn The Unit: Idol Reb Reb Project phát sóng trên KBS. Ông xác nhận rằng ông sẽ được tập trung làm nhà sản xuất để chiến thắng nhóm UNB và UNI.T. [3] [4] Vào tháng 10 năm 2018, MBK và MBC đã phát động một chương trình tài năng mang tên Under Nineteen, một cuộc thi dành cho các thực tập sinh nam dưới 19 tuổi để cạnh tranh cho một vị trí trong nhóm nhạc thần tượng Kpop mới 1THE9. Những người chiến thắng cuối cùng sẽ ký hợp đồng 12 tháng theo MBK sau hợp đồng 5 tháng với MBC. [5] Ngoài ra MBK cũng bắt tay với đài TVChosun để tạo nên chương trình Miss Trot. Và người thắng cuộc cuối cùng là Song Ga In. Cũng có tin rằng MBK cùng với JTBC tạo nên chương trình Superband. Maroo Entertainment (công ty con của MBK Entertainment). Nghệ sĩ thu âm. Diễn viên
1
null
Con trai là đứa con mang giới tính nam, tức đứa bé trai hoặc người đàn ông trong mối quan hệ với cha mẹ của cậu ta hoặc anh ta. Ngược với con trai là con gái. Vấn đề xã hội liên quan. Trong các xã hội tiền công nghiệp và một số quốc gia hiện có nền kinh tế dựa trên nông nghiệp, người ta đánh giá con trai cao hơn so với con gái, nói cách khác là trao địa vị xã hội cao hơn cho con trai do họ có sức vóc tốt hơn và có thể làm việc đồng áng hiệu quả hơn. Ở Trung Quốc, chính sách một con được thực hiện nhằm đối phó với tình trạng tăng dân số quá nhanh. Kể từ khi thi hành chính sách này, số liệu thống kê chính thức về số trẻ sinh ra cho thấy có sự gia tăng của tỷ lệ trẻ trai/trẻ gái. Điều này là do nhiều yếu tố, bao gồm nạn phá thai chọn lựa giới tính bất hợp pháp và tình trạng giấu giếm thông tin về việc sinh con gái. Trong các xã hội theo chế độ phụ hệ, theo lệ thường thì con trai sẽ được thừa hưởng gia sản trước con gái. Trong một số nền văn hóa, người con trai cả có những đặc quyền. Chẳng hạn như vào thời Kinh thánh, đứa con trai đầu lòng sẽ được nhận hầu hết tài sản từ người cha. Một số quy phạm xã hội ở Nhật Bản liên quan đến người con trai cả là: "cha mẹ thường sống với người con trưởng nếu nó là con trai" và "cha mẹ thường sống với con trai lớn nhất ngay cả dù cho nó không phải là người con trưởng." Cách dùng riêng đối với thuật ngữ "con trai". Biểu tượng Ki-tô giáo. Trong cộng đồng Kitô giáo, cụm từ "Con trai" hoặc Con trai của Chúa là để chỉ Giê-su. Những tín đồ theo thuyết Ba Ngôi xem Giê-su là hiện thân của người thứ hai trong Ba Ngôi đó, và ông được gọi là "Con trai của Chúa". Trong các sách Phúc Âm, Giê-su thỉnh thoảng tự gọi mình là Con trai của loài người. Trong tên riêng Semit. Từ trong tiếng Ả Rập dùng để chỉ con trai là "ibn.". Do gia đình và tổ tiên là những giá trị văn hóa quan trọng của thế giới Ả Rập nên người Ả Rập thường dùng từ "bin" - một dạng của "ibn" - trong tên đầy đủ của họ. "Bin" ở đây có nghĩa là "con trai của". Ví dụ, tên Ả Rập "Saleh bin Tarif bin Khaled Al-Fulani" có thể dịch thành "Saleh, con trai của Tarif, con trai của Khaled; của gia đình Al-Fulani". Ngược lại với "ibn"/"bin" là "abu", nghĩa là "cha của". Đây là một "retronym" được đặt khi con trai của người đó mới ra đời và được dùng làm tên lóng để chỉ cương vị làm cha mà người đó mới đạt được, thay cho việc dùng họ. Ví dụ, nếu con trai đầu của Mahmoud được đặt tên là Abdullah thì có thể gọi Mahmoud là "Abu Abdullah". Từ "bin" nêu trên có cùng nguồn gốc với từ "ben" trong tiếng Hebrew; ví dụ, "Judah ben Abram HaLevi" có nghĩa là "Judah, con trai của Abram, nhà Levite". Ben cũng có thể là một tên gọi đứng riêng rẽ.
1
null
Con gái là đứa con mang giới tính nữ, tức đứa bé gái hoặc người phụ nữ trong mối quan hệ với cha mẹ của cô ta. Ngược với con gái là con trai. Trong các xã hội theo chế độ phụ hệ, con gái trong gia đình thường được hưởng ít quyền hơn hoặc hưởng quyền khác biệt so với con trai. Nhiều gia đình thường thích có con trai hơn con gái, và con gái là đối tượng của nạn giết trẻ gái. Có những xã hội còn có tục "bán" con gái cho người trả tiền mua dâu. Ngược lại với tục này là tục gia đình nhà gái trả một khoản tiền để bồi thường cho gánh nặng tài chính mà cô dâu mang tới cho nhà chồng trong những xã hội mà ở đó phụ nữ không ra ngoài làm việc; khoản tiền đó được gọi là của hồi môn. Thông thường, tỷ số giới tính khi sinh là cứ 100 bé gái thì có 104 đến 106 bé trai. Tuy nhiên, tại một số nước ở châu Á, tỷ lệ này cao hơn hẳn. Từ cuối thập niên 1970, con số này bắt đầu tăng lên tại Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ...khi các cặp vợ chồng biết giới tính thai nhi trước khi sinh nhờ kỹ thuật mới. Tỷ số giới tính khi sinh của Trung Quốc tăng đến 122,8 trẻ trai/100 trẻ gái vào năm 2010. Trong khi đó, tỷ số này ở Việt Nam năm 2012 là 112,3, tăng liên tục so với mức 110,5 theo Tổng điều tra dân số 2009, 107 (1999), 106 (1989) và 105 (1979).
1
null
The Bourne Legacy (tạm dịch là Di sản của Bourne) là một phim điện ảnh điệp viên của Mỹ năm 2012 do Tony Gilroy đạo diễn, thay cho Greengrass. Đây là phần ngoại truyện của Jason Bourne nhưng lấy thời gian song song với phần 3 của loạt phim. Các nhân vật trong loạt phim Bourne được dựa trên tiểu thuyết Jason Bourne của Robert Ludlum. "The Bourne Legacy" là phần thứ tư trong loạt phim này. Các diễn viên là Jeremy Renner, Rachel Weisz và Edward Norton. Nhân vật danh nghĩa Jason Bourne không xuất hiện trong "The Bourne Legacy" vì nam diễn viên Matt Damon, người đóng vai Bourne trong ba bộ phim đầu tiên, quyết định không trở lại cho bộ phim thứ tư. Tuy nhiên, có những hình ảnh khác nhau của Damon vai Bourne thể hiện trong suốt bộ phim và tên anh được nhắc đến nhiều lần. Tony Gilroy, đồng biên kịch của ba bộ phim đầu tiên, tìm cách tiếp tục câu chuyện của loạt phim Bourne, không thay đổi những sự kiện quan trọng của nó, và các nhân vật khác của "The Bourne Legacy" cũng tương tự như phim trước đó "The Bourne Ultimatum" (2007). The Bourne Legacy, với sự tham gia của Jeremy Renner trong vai Aaron Cross, một đặc vụ hoạt động ngầm cũng đang bị chứng mất trí nhớ. Phần phim tiếp nối mang tên "Siêu điệp viên Jason Bourne" được phát hành vào năm 2016, với Damon và Greengrass đều trở lại. Nội dung phim. Phim lấy bối cảnh sau thất bại của Jason Bourne, CIA phải đối mặt với một mối đe dọa tương tự khi một nhóm đặc vụ bị ly gián khác xuất hiện. Aaron Cross (Renner) là một đặc vụ bí mật của CIA, được đào tạo trong một chương trình gọi là Treadstone, giống như Bourne. Cross được đào tạo để trở thành một "cỗ máy giết người di động", và anh ta có khả năng chiến đấu, bắn súng và sử dụng các loại vũ khí khác. Một ngày nọ, Cross được thông báo rằng chương trình Treadstone đã bị đóng cửa và anh ta phải bị loại bỏ. Cross trốn thoát và bắt đầu tìm kiếm những người khác đã bị đào tạo trong chương trình Treadstone. Cross gặp Nicky Parsons (Weisz), một nhà khoa học của CIA, người giúp anh ta tìm hiểu thêm về chương trình Treadstone. Cross cũng gặp Dr. Marta Shearing (Keach), một nhà khoa học khác của CIA, người đang cố gắng tìm cách ngăn chặn việc sử dụng các đặc vụ bị ly gián. Cross và Parsons hợp tác để ngăn chặn một cuộc tấn công hạt nhân do các đặc vụ bị ly gián thực hiện. Họ thành công trong việc ngăn chặn cuộc tấn công, nhưng Cross bị thương nặng trong cuộc chiến. The Bourne Legacy nhận được đánh giá tích cực từ các nhà phê bình, với sự ca ngợi cho diễn xuất của Renner, Weisz và Norton, cũng như các cảnh hành động. Phim cũng thành công về mặt thương mại, thu về hơn 214 triệu USD trên toàn thế giới.
1
null
Tự do học thuật là quyền tự do giảng dạy, học tập, và theo đuổi tri thức và nghiên cứu của giảng viên và sinh viên mà không bị can thiệp vô lý hay bị giới hạn bởi luật pháp, các quy định của cơ sở giáo dục, hoặc áp lực của công chúng. Những yếu tố cơ bản của tự do học thuật bao gồm quyền tự do của giảng viên trong việc tìm hiểu bất cứ chủ đề tri thức nào mà mình quan tâm; quyền trình bày những khám phá của mình cho sinh viên, đồng nghiệp, và những người khác biết; quyền công bố bằng cách xuất bản những số liệu và kết luận của mình mà không bị kiểm soát hay kiểm duyệt; và quyền giảng dạy theo cách mà mình thấy phù hợp về mặt chuyên môn. Đối với sinh viên, những yếu tố cơ bản bao gồm quyền tự do học tập và nghiên cứu những gì mình quan tâm và quyền đưa ra những kết luận của chính mình, cũng như quyền biểu đạt những ý kiến của mình. Các nước không có tự do học thuật thường được cai trị bằng cách gieo rắc nỗi sợ hãi trong xã hội và giới hàn lâm trong khi tại các nước phát triển quyền tự do học thuật được nhà nước bảo vệ vì nó được coi là nền tảng thiết yếu để phát triển tri thức và phụng sự xã hội, và do đó là trụ cột quan trọng của mọi xã hội dân chủ và văn minh. Tại các nước phát triển chính quyền kiềm chế can thiệp vào quyền tự chủ đại học và tự do học thuật vì họ biết rằng tri thức là nền tảng của sức mạnh quốc gia, đồng thời họ có niềm tin vào bản chất lành mạnh, năng lực tự quản và tự sửa sai của cộng đồng học thuật. Theo những người ủng hộ tự do học thuật thì quyền tự do này ra đời không phải để giảng viên và sinh viên có được sự tiện lợi hay dễ chịu mà vì lợi ích của xã hội; nghĩa là, những lợi ích lâu dài xã hội được phục vụ tốt nhất khi quá trình giáo dục dẫn đến sự tiến bộ về mặt tri thức, và tri thức có thể đạt được sự tiến bộ cao nhất khi việc tìm hiểu tri thức không bị những ràng buộc từ phía nhà nước, giáo hội, những định chế hay tổ chức khác, hay từ phía các nhóm lợi ích. Tự do học thuật không nhằm bảo vệ những hành động vi phạm luật pháp hoặc vô đạo đức trong các cơ sở học thuật. Lịch sử. Thời trung cổ từ thế kỷ 12-15, tại Châu Âu, các cơ sở giáo dục đại học có quyền tự quản mang tính hiệp hội nghề nghiệp, gồm quyền thành lập, kết nạp và khai trừ thành viên, cũng như tự do bầu chọn người đại diện. Những quyền tự do này được bảo trợ bởi Giáo hoàng, và sau đó là bởi các ông vua. Từ thế kỷ 17, các tác giả như Spinoza, Putendorf, Collins hay Gundling đòi hỏi "tự do triết học" (libertas philosophandi), thoát khỏi sự khống chế của thần học. Tự do học thuật bắt đầu được áp dụng tại cải cách đại học ở Halle (Đức) năm 1694, sau đó là điều lệ của phân khoa triết. Cho đến thế kỷ 18, Công giáo và Tin lành vẫn kiểm duyệt tại các trường đại học hoặc tại các khoa thần học. Tương tự ở thế kỷ 18 và 19 những nhà nước dân tộc mới xuất hiện ở Châu Âu cũng đe dọa đến quyền tự trị của các trường đại học. Các giáo sư chịu sự kiểm soát của chính quyền và chỉ được dạy những gì nhà nước cho phép, tạo ra một sức ép lên giới học thuật kéo dài đến tận ngày nay. Cũng có một vài nhà nước cho phép và khuyến khích tự do học thuật. Chẳng hạn trường đại học Leiden ở Hà Lan (thành lập năm 1575) đã cung cấp một sự tự do rất lớn khỏi những ràng buộc chính trị và tôn giáo cho giáo viên và sinh viên của họ. Đại học Göttingen (Đức) năm 1737 trở thành một ngọn hải đăng của tự do học thuật trong thế kỷ 18. Cách mạng Pháp (1789) có sự pha trộn, rồi hòa quyện giữa ý thức đặc quyền của tầng lớp ưu tú với ý thức tự do chính trị của quần chúng. Theo Kant "Trong đại học phải có một chuyên khoa giảng dạy độc lập với mệnh lệnh của nhà nước. Nó không ra lệnh, nhưng có quyền tự do phán đoán về tất cả những gì liên quan đến mối quan tâm khoa học là đi tìm chân lý". Với việc thành lập đại học Berlin năm 1811, những nguyên tắc cơ bản của tự do dạy (Lehrfreiheit) và tự do học (Lernfreiheit) đã được thiết lập vững chắc và trở thành mô hình truyền cảm hứng cho các trường đại học ở mọi nơi tại Châu Âu và Châu Mỹ.
1
null
Adam Baworowski (; sinh ngày 9 tháng 8 năm 1913 tại Vienna – mất năm 1943 tại Stalingrad) là tay vợt người Áo-Ba Lan. Tiểu sử. Đầu đời và gia đình. Bá tước Adam Baworowski là hậu duệ của gia đình quý tộc Ba Lan "Baworowski". Ông là con trai của bá tước Rudolf Baworowski và nữ bá tước Maria Chorynsky. Ông có ba chị em gái và ba em trai là Emil, Stefan, Rudolf, Matylda, Marya and Franciszka. Ông đã học tại Viên. Ông bắt đầu chơi quần vợt từ rất sớm và tham gia các câu lạc bộ quần vợt ở Prater. Năm 1927, Ông đã có một chuyến thắng trước Henner Henkel tại Thế vận hội Thanh niên. Năm 1929, ở độ tuổi 13, ông đã đánh bại nhà vô địch Ba Lan Maximilian Stolarow.Năm 1931, Ông đã giành được giải vô địch quần vợt Áo cũng như giải vô địch quốc tế của Berlin ở nội dung đơn và đôi khá hay. Như vậy ông được xếp hạng thứ 10 trong bảng xếp hạng của Áo. Năm sau đó ông được xếp hạng 5. Trong khi vào năm 1934 ông được xếp thứ tư trong cùng một danh sách. Năm 1935 ông giành được chiến thắng trong giải quốc gia trong thể loại đơn. Ông vương lên vị trí thứ hai sau Matejka. Sau đó ông trở thành thành viên của Wiener Park Club.
1
null
Finlandia, Op. 26 là bản giao hưởng thơ nổi tiếng của nhà soạn nhạc người Phần Lan Jean Sibelius. Đây là một tác phẩm ngắn dành cho dàn nhạc, được ra đời vào năm 1899 và chỉnh sửa vào năm 1900. Nó được biểu diễn cho phần kết thúc của một vở kịch lịch sử mang tên "Phần Lan hãy thức tỉnh". Vở kịch này được diễn ở ngoài trời để quyên tiền cho quỹ trợ cấp báo chí, ủng hộ báo chí trong cuộc đấu tranh chống lại sự áp bức bóc lột của Nga hoàng đối với dân tộc mình. Cái tên Finlandia chỉ xuất hiện vào năm 1900 và trong năm đó, nó được biểu diễn độc lập lần đầu tiên tại thủ đô Helsinki. Bởi lòng yêu nước nồng nàn thấm đượm trong tác phẩm, dù Sibelius không sử dụng chất liệu âm nhạc dân gian như nhiều tác phẩm khác, Finlandia đã trở thành biểu tượng cho những khát vọng của nhân dân Phần Lan.
1
null
Trường luật Beirut là một trung tâm giáo dục luật La Mã được La Mã thành lập tại Beirut, Liban. Được sự bảo trợ của các hoàng đế La Mã, trường đã trở thành một cơ sở giáo dục quan trọng của La Mã ở khu vực và có chức năng như trung tâm ưu việt của đế chế La Mã về luật học cho đến khi nó bị phá hủy vào năm 551 CE. Các trường luật của Đế chế La Mã thành lập kho chứa có tổ chức để lưu trữ các hiến pháp đế quốc và thể chế hóa việc nghiên cứu và thi hành luật học để làm giảm nhẹ cho các tòa án hoàng gia bận rộn. Việc lưu trữ các hiến pháp của đế chế tạo điều kiện thuận lợi cho công việc của các nhà luật học khi tham chiếu các tiền lệ pháp lý. Nguồn gốc của trường luật này không rõ lắm. Văn bản ghi chép đầu tiên về trường này có từ năm 239, khi danh tiếng của nó đã được thiết lập. Trường thu hút các công dân La Mã giàu có trẻ, và các giáo sư của trường đã có những đóng góp lớn cho Codex của Justinian. Trường đạt được công nhận rộng rãi như vậy trong suốt triều đình mà Beirut được gọi là "Mẹ của pháp luật ". Beirut là một trong số ít các trường được phép tiếp tục giảng dạy luật học khi hoàng đế Byzantine Justinian I đóng cửa các trường luật tỉnh khác. Các khoá học ở trường luật Beirut kéo dài trong năm năm và bao gồm trong việc rà soát, phân tích các văn bản luật pháp lý cổ điển và hiến pháp của đế quốc, ngoài các cuộc thảo luận các trường hợp. Justinian thể hiện sự quan tâm của mình trong quá trình giảng dạy, giao nhiệm vụ cho giám mục của Beirut, thống đốc của Phoenicia Maritima và giáo viên duy trì trì kỷ luật trong trường này. Cơ sở vật chất của trường đã bị phá hủy do hậu quả của một trận động đất lớn đã xảy ra ở bờ biển Phoenicia. Trường đã được chuyển đến Sidon nhưng không qua được cuộc chinh phục Ả Rập vào năm 635. Văn bản cổ chứng thực rằng trường đã nằm bên cạnh nhà thờ Anastasis cổ, di tích của nó nằm bên dưới Nhà thờ lớn Chính thống Hy Lạp Saint George trong trung tâm lịch sử của Beirut.
1
null
Người đẹp ngủ trong rừng hay Người đẹp say ngủ ( ) là vở ballet nổi tiếng của nhà soạn nhạc người Nga Pyotr Ilyich Tchaikovsky. Bản nhạc được hoàn thành vào năm 1889, và là vở thứ hai trong số ba vở ballet của ông. Kịch bản ban đầu được Ivan Vsevolozhsky hình thành và dựa trên "La Belle au bois dormant "củaCharles Perrault's. Biên đạo sản xuất ban đầu là Marius Petipa. Buổi biểu diễn đầu tiên diễn ra tại Nhà hát Mariinsky ở St. Petersburg vào ngày 15 tháng 1 năm 1890. Tác phẩm đã trở thành một trong những vở ballet cổ điển nổi tiếng nhất. Lịch sử. Tchaikovsky đã được Giám đốc của Nhà hát Imperial ở St. Petersburg là Ivan Vsevolozhsky tiếp cận vào ngày 25 tháng 5 năm 1888 để bàn về khả năng chuyển thể vở ba lê lấy về chủ đề câu chuyện "Undine." Sau đó, họ quyết định "La Belle au bois "của "Charles Perrault" là câu chuyện mà Tchaikovsky sẽ chuyển thể thành vở ba lê. Tchaikovsky đã không ngần ngại chấp nhận, mặc dù ông biết rằng vở ba lê duy nhất trước đây của ông là Hồ thiên nga đã được đón nhận một cách lạnh lùng trong giai đoạn đó của sự nghiệp. Tchaikovsky đã tạo ra tác phẩm dựa trên phiên bản 'Dornröschen' của Anh em Grimm lấy cảm hứng từ Perrault. Trong phiên bản đó, cha mẹ của Công chúa sống sót sau giấc ngủ 100 năm để tổ chức lễ cưới của Công chúa với Hoàng tử. Tuy nhiên, Vsevolozhsky đã kết hợp các nhân vật khác của Perrault từ những câu chuyện của ông vào vở ba lê, chẳng hạn như Puss in Boots, Little Red Riding Hood, Cinderella, Bluebird , Bluebeard, Ricky of the Tuft và Tom Thumb. Các nhân vật khác trong truyện cổ tích của Pháp được giới thiệu là Người đẹp và quái vật,Pretty Goldilocks và The White Cat. Bất chấp điều đó, Tchaikovsky hào hứng khi thông báo với Giám đốc Nhà hát Hoàng gia rằng ông rất vui khi nghiên cứu tác phẩm và có đầy đủ cảm hứng để thực hiện nó một cách công bằng. Biên đạo múa là Marius Petipa, bậc thầy ba lê của Imperial Ballet, ông đã viết một danh sách hướng dẫn rất chi tiết về các yêu cầu trong phần âm nhạc. Tchaikovsky nhanh chóng làm quen với công việc mới tại Frolovskoye; ông bắt đầu với các bản phác thảo vào mùa đông năm 1888 và dàn dựng tác phẩm vào ngày 30 tháng 5 năm 1889. Không thể phủ nhận trọng tâm của vở ba lê là vào hai lực lượng xung đột chính của cái thiện (Nàng tiên tử đinh hương) và cái ác (Carabosse); mỗi người có một nét chủ đạo đại diện riêng biệt chạy xuyên suốt toàn bộ vở ba lê, đóng vai trò như một sợi dây quan trọng cho cốt truyện cơ bản. Tuy nhiên, màn III của tác phẩm hoàn toàn tách rời hai mô-típ và thay vào đó, tập trung vào các nhân vật riêng lẻ của các điệu múa hoàng gia khác nhau. Buổi ra mắt vở ba lê nhận được nhiều lời tán thưởng từ báo chí hơn là" Hồ thiên nga "nhưng Tchaikovsky chưa bao giờ chứng kiến ​​tác phẩm của ông thành công ngay lập tức tại các rạp bên ngoài nước Nga. Ông mất năm 1893. Đến năm 1903, Người đẹp ngủ trong rừng là vở ba lê nổi tiếng thứ hai thuộc Imperial Ballet (Petipa/Pugni "The Pharaoh's Daughter "là vở đầu tiên), được thực hiện 200 lần chỉ trong 10 năm. Việc dàn dựng tại La Scala ở Milan không gây được nhiều sự quan tâm và mãi đến năm 1921, ở London, vở ba lê mới được hoan nghênh rộng rãi và cuối cùng là chiếm một vị trí thường xuyên trong các tiết mục cổ điển. Năm 1999, Mariinsky Ballet đã dựng lại bản sản xuất ban đầu năm 1890, bao gồm các bản sao của bộ và trang phục gốc. Mặc dù bản Kirov sản xuất năm 1951 của Konstantin Sergeyev đã có trên DVD Video, nhưng phiên bản "đích thực" năm 1999 chưa bao giờ được phát hành thương mại. "Người đẹp ngủ trong rừng" là vở ballet dài nhất của Tchaikovsky, kéo dài gần 4 giờ đồng hồ (tính cả các đoạn). Phiên bản hoàn chỉnh thực tế tới trong 3 giờ nhưng gần như luôn luôn bị cắt giảm. Tại buổi ra mắt, Sa hoàng Alexander III đã triệu Tchaikovsky đến cung điện. Sa hoàng đưa ra nhận xét đơn giản là 'Rất tốt', điều này dường như đã khiến Tchaikovsky phát cáu khi ông mong đợi một phản ứng nhiệt tình hơn. Dù sao đi nữa thì Sa hoàng ngay lập tức đã trả cho Tchaikovsky một khoản tiền thưởng đáng kể. Liên kết ngoài. Đoạn trích. Sleeping Beauty, Kirov Ballet, 1965 Corinth Films
1
null
Didier Burkhalter (sinh ngày 17 tháng 4 năm 1960 tại Neuchâtel) là chính trị gia Thụy Sĩ của đảng Dân chủ tự do (FDP). Ông là thành viên của Hội đồng Liên bang Thụy Sĩ, người được bầu chọn vào ngày 16 tháng 9 năm 2009 và được kế vị bởi Pascal Couchepin vào ngày 1 tháng 11 năm 2009 khi ông trở thành Bộ trưởng Bộ Nội vụ Liên bang. Vào ngày 16 tháng 12 năm 2011, Hội đồng liên bang thông báo rằng kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2012, Burkhalter sẽ giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ ngoại giao. Ông đảm nhiệm vai trò Tổng thống Liên bang Thụy Sĩ từ năm 2014.
1
null
Ông bà là cha mẹ của cha mẹ một người. Nếu là cha mẹ của mẹ thì gọi là ông bà ngoại; nếu là cha mẹ của cha thì gọi là ông bà nội. Mỗi sinh vật được sinh sản hữu tính (trừ trường hợp thể hợp khảm - "chimera") đều có tối đa là hai ông và hai bà theo di truyền. Ngoài ông bà ruột thì còn có ông bà kế. Một ông kế hoặc bà kế có thể là cha ruột hoặc mẹ ruột của cha dượng hoặc mẹ kế của một người, hoặc có thể là cha dượng hoặc mẹ kế của cha dượng hoặc mẹ kế của một người, hoặc là cha dượng hoặc mẹ kế của cha ruột hoặc mẹ ruột của một người. Trong một gia đình nề nếp, ông bà là tấm gương cho cháu noi theo (Bùi 2012). Ông bà có thể giữ vai trò quan trọng trong việc định hướng tương lai của cháu mình thông qua quan sát và giao tiếp của cháu đối với ông bà. Trong trường hợp những người làm cha làm mẹ không muốn hoặc không có khả năng chăm lo đầy đủ cho con cái thì ông bà thường là người đảm nhận trách nhiệm này. Tất nhiên cũng có các ngoại lệ, tuy nhiên trong văn hóa truyền thống thì ông bà thường có vai trò rõ ràng và trực tiếp trong hoạt động chăm sóc và nuôi nấng trẻ em. Ảnh hưởng của ông bà lên cháu. Theo Wise (2007), có nhiều bằng chứng cho thấy ông bà là tác nhân có sức ảnh hưởng rất mạnh mẽ lên cuộc sống của người cháu. Theo Roberto & Stroes (1992), sức ảnh hưởng của ông bà thể hiện mạnh nhất ở lĩnh vực quan niệm gia đình, niềm tin đạo đức và đạo đức trong công việc ("work ethic"). Ngược lại, nghiên cứu của Roberto & Skoglund (1996) cho thấy ông bà là tác nhân ảnh hưởng nhiều nhất lên niềm tin tôn giáo, giá trị giới tính, quan niệm gia đình của cháu họ, trong khi lại ảnh hưởng ít nhất lên niềm tin chính trị, đạo đức trong công việc và niềm tin đạo đức. Ngoài ra, nhiều nghiên cứu cũng xác nhận ông bà có ảnh hưởng mạnh trong hoạt động truyền đạt lịch sử gia đình. Theo Tomlin (1998), tác động của ông bà lên cháu có thể đi theo đường trực tiếp hoặc gián tiếp. Chẳng hạn, ông bà có thể trực tiếp truyền đạt giá trị gia đình, kỹ năng cho cháu hoặc gián tiếp qua cha mẹ, sau đó cha mẹ tác động lên con. Ông bà không chỉ có thể tác động trực tiếp lên cuộc sống của đứa trẻ mà còn có thể tác động gián tiếp thông qua tác động lên cuộc sống của cha mẹ nó, chẳng hạn ủng hộ tình cảm, hỗ trợ tài chính cho họ hay giúp chăm sóc bọn trẻ, nhất là khi gia đình đứa trẻ xảy ra khủng hoảng. Đánh giá ảnh hưởng. Khảo sát của Đại học Oxford và Viện Giáo dục (Luân Đôn) trên 1.596 trẻ em 11-16 khắp Anh Cách Lan và Wales cho thấy mối quan hệ thân thiết giữa ông bà với cháu có tác dụng như tấm đệm cho các biến cố bất lợi trong cuộc sống của trẻ, chẳng hạn cha mẹ ly dị. Trong giai đoạn khủng hoảng gia đình đó, ông bà giúp giữ ổn định cho cháu và giúp làm tấm đệm trước khó khăn của gia đình. Tuy nhiên theo Tomlin (1998), ảnh hưởng của ông bà lên cháu không phải lúc nào cũng tốt, ví dụ như khi mà một người bà can thiệp quá sâu vào công việc nuôi dạy cháu của con bà ta. Phong cách làm ông bà. Theo nghiên cứu trên những ông bà từ 70 gia đình trung lưu sống tại vùng đô thị Chicago, Hoa Kỳ của Neugarten & Wienstein, có năm phong cách làm ông bà: Vai trò của ông bà. Vai trò của ông bà đối với cháu là hết sức đa dạng. Các tác giả đã dùng hàng loạt từ ngữ đa dạng nhằm diễn đạt vai trò của ông bà, chẳng hạn như: "người canh gác", "người phân xử", "đệm stress", "nguồn cội", "người già được quý trọng", "người thầy thông thái", "người mang theo di sản và văn hóa gia đình", "vị cứu tinh thầm lặng của trẻ nhỏ khỏi những gia đình bất ổn", "cha mẹ thay thế"... Phân loại. Wykle, Whitehouse & Morris (2005) phân loại ông bà như sau:
1
null
Nồi hầm hay nồi nấu chậm, còn được gọi là Crock-Pot (một nhãn hiệu sử dụng chung ở Hoa Kỳ, Canada, Úc và New Zealand) là một thiết bị nấu ăn bằng điện được sử dụng để duy trì âm ỉ một nhiệt độ tương đối thấp (so với các phương pháp nấu ăn khác như nướng, luộc và chiên), có thể giúp cho việc nấu ăn mà không phải trông chừng trong nhiều giờ, sử dụng để nấu các món hầm, súp, và các món ăn thích hợp khác.
1
null
Béla I (trước 1020-11/9/1063) là vua Hungary giai đoạn từ 1060 đến khi băng hà. Ông xuất thân từ một nhánh trẻ hơn của nhà Árpád. Tên thánh của ông là Adalbert. Ông rời Hungary cùng với anh em của mình, Levente và Andrew sau khi cha họ là Vazil bị hành quyết trong năm 1031. Béla định cư ở Ba Lan, nơi kết hôn với một cô con gái của vua Mieszko II của Ba Lan.
1
null
Người Scotland (tiếng Gael Scotland: "Albannaich") là dân tộc có nguồn gốc từ Scotland. Về mặt lịch sử dân tộc này xuất phát từ một sự pha trộn của hai sắc dân Celt: người Pict và người Gael, sau này kết hợp với người Briton láng giềng ở phía nam cũng như với các sắc dân German là Anglo-Saxon và Norsemen. Trong sử dụng hiện đại, "người Scotland" được dùng để chỉ bất cứ ai có nguồn gốc ngôn ngữ, văn hóa, gia đình tổ tiên hoặc di truyền là từ các nước Scotland. Từ Latin Scotti ban đầu áp dụng cho một bộ lạc Goidelic đặc biệt, thế kỷ thứ 5, sinh sống Ireland. Mặc dù đôi khi được coi cổ xưa hay miệt thị, từ Scotch hạn cũng đã được sử dụng cho những người Scotland, mặc dù việc sử dụng này hiện nay chủ yếu là bên ngoài Scotland.
1
null
Karlstor (tới năm 1791 được gọi là cổng Neuhauser) là cổng phía Tây của phố cổ ở München. Vị trí. Karlstor nằm ở cuối đầu phía Tây của đường Neuhauser tại khu Kreuzviertel, là một phần của Salzstraße. Cổng này là ranh giới giữa phố cổ và Ludwigsvorstadt. Trước Karlstor là công trường Karl (Stachus), bây giờ là một phần của đường vòng phố cổ (Altstadtring). Lịch sử. Từ 1285 cho tới 1347 một bức tường thứ 2 được dựng lên ở München trong chương trình mở rộng thành phố, Karlstor, lúc đó được gọi "Neuhauser Tor", được hình thành. Karlstor được nhắc tới trong văn kiện lần đầu tiên vào năm 1302. Năm 1791 hai tháp ở hai đầu cổng được xây lại bởi Graf Rumford, hồi đó chỉ huy quân đội Bayern của tuyển hầu tước (Kurfürst) Karl Theodor. Trong năm đó cổng Neuhauser được đổi tên thành "Karlstor". Karlstor bên cạnh cổng Isar và cổng Sendling là một trong 3 cổng thành phố mà còn tồn tại. Lưu niệm. Ở mặt Bắc của vòng cổng chính có một tượng kỷ niệm cho ông Herbert Jensen (1900-1968), người mà đề nghị xây một khu đi bộ ở đây.
1
null
Bảng đen hay bảng phấn là loại bảng dùng để viết hay vẽ bằng viên phấn viết bằng thạch cao hay calci cacbonat. Ban đầu nó làm bằng phiến đá bảng mỏng, mượt, màu thâm đen. Bảng đen hiện nay thường màu xanh lục để dễ nhìn hơn. Tiếng phấn hay móng tay rít trên bảng đen làm phần nhiều người rất khó chịu.
1
null
Tháp phòng thủ là một tháp được xây để phòng thủ chống tấn công trong chiến tranh. Mô tả. Vào Thời cổ điển cũng như Trung cổ tháp phòng thủ được xây vì lợi thế cao hơn là vùng đất bên dưới. Đạn được phóng từ trên cao sẽ có sức tàn phá mạnh hơn. Các tên bắn từ đây cũng có hiệu quả hơn.
1
null
Ếch vàng Panama, tên khoa học Atelopus zeteki, là một loài cóc thuộc họ Bufonidae. Đây là loài đặc hữu của Panama. Chúng từng được coi là một phân loài của A. varius. Môi trường và phân bố. Môi trường sống tự nhiên của chúng là trong dòng suối dọc theo sườn núi của rừng mây Cordilleran ở Tây trung bộ Panama. Chúng cũng sống trong các khu rừng nhiệt đới trên núi ở vùng lân cận núi lửa El Valle de Antón và Cerro Campana, ở độ cao 335-1.315 mét. Tập tính. Ếch vàng Panama là một loài sống trên cạn trong rừng mây Cordilleran và rừng nhiệt đới. Sự sinh sản và phát triển của nòng nọc thường xảy ra ở các suối trong rừng. Những con đực thường sẽ đứng ở trên những tảng đá để bảo vệ lãnh thổ. Các sợi trứng được đẻ theo dòng nước chảy và bám vào đá. Loài này tạo ra zetekitoxin mạnh để tự vệ nhưng đọc tố sẽ bị giảm đi hoặc mất mất đi trong điều kiện nuôi nhốt và có thể bắt nguồn từ con đường vi sinh vật cộng sinh liên quan đến chế độ ăn uống của chúng. Chiều dài 1 thế hệ của chúng là 7 năm. Dân số. Loài này từng rất phổ biến ở một vài địa phương nhưng hiện nay đã tuyệt chủng trong tự nhiên. Cá thể hoang dã cuối cùng đã được ghi nhân vào năm 2009, cho đến nay chúng vẫn chưa được ghi nhận tiếp. Loài này đã hoàn toàn biến mất khỏi Cerro Campana và thung lũng trung tâm ở El Valle de Antón, có thể là do việc thu thập quá mức để cung cấp cho việc buôn bán động vật lưỡng cư sống làm vật nuôi. Các quần thể con còn lại bị xóa sổ do sự suy giảm liên quan đến bệnh chytridiomycosis. Sau đó, dự án Atelopus được thành lập để theo dõi quần thể, nhưng không tìm thấy bất kỳ quần thể con nào, nhưng cần phải theo dõi thêm. Nếu một quần thể vẫn tồn tại, nó được cho là có ít hơn 50 cá thể trưởng thành.
1
null
Atelopus varius là một loài cóc thuộc họ Bufonidae. Đây là loài đặc hữu của Panama và Costa Rica. Chúng từng sinh sống từ Costa Rica đến Panama. A. varius hoạt động vào ban ngày thường được tìm thấy trên đá hoặc ở các khe dọc suối trong vùng thấp ẩm và rừng núi (Crump và Pounds 1985). Nó chủ yếu là một loài trên cạn, chỉ xuống nước vào mùa sinh sản.
1
null
The Heist là album thứ hai của rapper người Mỹ Macklemore và nhà sản xuất Ryan Lewis. Sản xuất độc lập, ghi âm và phát hành bởi bộ đôi, album đạt số 1 trên iTunes trong vòng vài giờ được phát hành vào ngày 09 tháng 10 năm 2012 mà không có quảng cáo chính thức hoặc hỗ trợ. Album được thu âm tại Seattle từ năm 2009 đến năm 2012 và được phát hành vào Macklemore LLC. Một loạt các đĩa đơn được phát hành trước khi phát hành album từ cuối năm 2010 trở đi, với đĩa đơn thứ năm "Thrift Shop" là thương mại thành công nhất - đạt đỉnh trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 ở vị trí thứ 1 và đứng trong top 40 ở nhiều nước ngoài, đạt đỉnh vị trí số một trong New Zealand và Úc. Đĩa đơn thứ ba của album "Can't Hold Us" cũng đạt được thành công thương mại lớn - đạt số 1 tại Hoa Kỳ, Australia, và Thụy Điển. Album đã bán được 78.000 bản trong tuần đầu tiên, và đứng vị trí số 2 trên bảng xếp hạng US Billboard, nhưng đứng vị trí số 1 trên bảng xếp hạng R&B/Hip-Hop Albums and Top Rap Albums, trong Album Canada Chart tại số 4. Tính đến tháng 11 năm 2013, album đã bán được hơn 1.132.000 bản tại Mỹ và đã nhận được đánh giá tích cực từ các nhà phê bình.
1
null
"Can't Hold Us" là một bài hát của bộ đôi rapper và nhà sản xuất âm nhạc người Mỹ Macklemore & Ryan Lewis hợp tác với nghệ sĩ thu âm người Mỹ Ray Dalton nằm trong album phòng thu đầu tay của họ, "The Heist" (2012). Nó được phát hành vào ngày 16 tháng 8 năm 2011 như là đĩa đơn thứ tư trích từ album bởi Macklemore LLC, hãng đĩa độc lập của Macklemore dưới sự phân phối của Alternative Distribution Alliance (ADA), một công ty chi nhánh thuộc của Warner Music Group. Bài hát được đồng viết lời bởi ba nghệ sĩ, trong khi phần sản xuất được đảm nhiệm bởi Lewis, người cũng chịu trách nhiệm sản xuất cho toàn bộ những tác phẩm trong sự nghiệp của bộ đôi. "Can't Hold Us" là một bản hip hop và R&B mang nội dung đề cập đến khát khao của một người đàn ông trong việc khẳng định với thế giới rằng không điều gì có thể ngăn anh đạt được ước mơ. Nó bắt đầu thu hút sự chú ý của Sean Lynch, một nhà báo đến từ "The Source", người đã khởi xướng một cuộc phỏng vấn với Macklemore cho tạp chí vào năm 2012. Một phiên bản phối lại của bài hát mang tên "Just Can't Hold Us" hợp tác với Eminem đã được phát hành. Sau khi phát hành, "Can't Hold Us" nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao giai điệu hấp dẫn và quá trình sản xuất nó, cũng như gọi đây là một điểm nhấn nổi bật từ "The Heist". Ngoài ra, bài hát còn gặt hái nhiều giải thưởng và đề cử tại những lễ trao giải lớn, bao gồm chiến thắng tại giải thưởng âm nhạc "Billboard" năm 2014 cho Top Bài hát Rap. "Can't Hold Us" cũng tiếp nhận những thành công vượt trội về mặt thương mại, đứng đầu các bảng xếp hạng ở Úc, Ba Lan và Thụy Điển, đồng thời lọt vào top 10 ở hầu hết những quốc gia nó xuất hiện, bao gồm vươn đến top 5 ở những thị trường lớn như Áo, Bỉ, Canada, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Đức, Ireland, Hà Lan, New Zealand, Na Uy, Thụy Sĩ và Vương quốc Anh. Tại Hoa Kỳ, nó đạt vị trí số một trên bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100 trong năm tuần liên tiếp, trở thành đĩa đơn quán quân thứ hai liên tiếp của Macklemore & Ryan Lewis và đầu tiên của Dalton tại đây. Tính đến nay, nó đã bán được hơn 11 triệu bản trên toàn cầu, trở thành một trong những đĩa đơn bán chạy nhất mọi thời đại. Video ca nhạc cho "Can't Hold Us" được đồng đạo diễn bởi Lewis, Jason Koenig và Jon Jon Augustavo, với nội dung ghi lại toàn bộ hành trình của bộ đôi và Dalton đi khắp thế giới với ban nhạc của họ, trong đó quá trình ghi hình diễn ra trong 17 ngày, ở 2 lục địa và bao gồm 16 cảnh quay khác nhau. Nó đã nhận được một đề cử giải Grammy cho Video âm nhạc xuất sắc nhất tại lễ trao giải thường niên lần thứ 56 cũng như gặt hái bốn đề cử tại giải Video âm nhạc của MTV năm 2014 ở hạng mục Video Hip-Hop xuất sắc nhất, Quay phim xuất sắc nhất, Đạo diễn xuất sắc nhất và Biên tập xuất sắc nhất, và chiến thắng hai giải đầu. Để quảng bá bài hát, Macklemore & Ryan Lewis đã trình diễn nó trên nhiều chương trình truyền hình và lễ trao giải lớn, bao gồm "Conan", "Late Show with David Letterman", "Saturday Night Live" và giải thưởng Âm nhạc Mỹ năm 2013. Kể từ khi phát hành, "Can't Hold Us" đã xuất hiện trong nhiều tác phẩm điện ảnh và truyền hình, bao gồm "90210", "Grudge Match", "Horrible Bosses 2", ', ' và "Sesame Street". Chứng nhận. !scope="col" colspan="3"|Streaming
1
null
"Thrift Shop" là một bài hát của bộ đôi rapper và nhà sản xuất âm nhạc người Mỹ Macklemore & Ryan Lewis hợp tác với nghệ sĩ thu âm người Mỹ Wanz nằm trong album phòng thu đầu tay của họ, "The Heist" (2012). Nó được phát hành vào ngày 27 tháng 8 năm 2012 như là đĩa đơn thứ tư trích từ album bởi Macklemore LLC, hãng đĩa độc lập của Macklemore dưới sự phân phối của Alternative Distribution Alliance (ADA), một công ty chi nhánh thuộc của Warner Music Group. Bài hát được đồng viết lời bởi hai nghệ sĩ, trong khi phần sản xuất được đảm nhiệm bởi Lewis, người cũng đồng thời chịu trách nhiệm sản xuất cho toàn bộ những tác phẩm trong sự nghiệp của bộ đôi. "Thrift Shop" là một bản hipster hop và alternative hip hop mang nội dung đề cập đến mối quan tâm của một người đàn ông đối với việc mua quần áo giá rẻ ở những cửa hàng tiết kiệm, và thể hiện thái độ không quan tâm trước những nhãn hiệu lớn và xu hướng thiết kế đương thời. Ngoài ra, anh cũng tuyên bố rằng thích được tặng "những bộ quần áo của ông bà" và mua một bộ lông thú một cách bốc đồng chỉ vì trông có vẻ sắc sảo và "có giá 99 xu". Sau khi phát hành, "Thrift Shop" nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao nội dung lời bài hát mang tính châm biếm và phê phán xã hội cao, cũng như quá trình sản xuất nó. Ngoài ra, bài hát còn gặt hái nhiều giải thưởng và đề cử tại những lễ trao giải lớn, bao gồm chiến thắng hai giải Grammy cho Bài hát Rap xuất sắc nhất và Trình diễn Rap xuất sắc nhất tại lễ trao giải thường niên lần thứ 56. "Thrift Shop" cũng tiếp nhận những thành công ngoài sức tưởng tượng về mặt thương mại, đứng đầu các bảng xếp hạng ở Úc, Bỉ, Canada, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Ireland, Hà Lan, New Zealand, Na Uy, Thụy Sĩ và Vương quốc Anh, đồng thời lọt vào top 10 ở hầu hết những quốc gia nó xuất hiện, bao gồm vươn đến top 5 ở những thị trường lớn như Áo, Đức, Ý và Thụy Điển. Tại Hoa Kỳ, nó đạt vị trí số một trên bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100 trong sáu tuần không liên tiếp, trở thành đĩa đơn quán quân đầu tiên của Macklemore, Lewis và Wanz tại đây. Tính đến nay, nó đã bán được hơn 17 triệu bản trên toàn cầu, trở thành một trong những đĩa đơn bán chạy nhất mọi thời đại. Video ca nhạc cho "Thrift Shop" được đồng đạo diễn bởi Jon Jon Augustavo, Macklemore và Lewis, trong đó bao gồm những cảnh họ hát và vui vẻ trong những cửa hàng quần áo giá rẻ ở nhiều khu vực khác nhau. Nó đã nhận được nhiều lượt yêu cầu phát sóng liên tục trên những kênh truyền hình, như MTV, VH1 và BET, cũng như gặt hái một đề cử tại giải Video âm nhạc của MTV năm 2014 cho Video của năm. Để quảng bá bài hát, Macklemore & Ryan Lewis đã trình diễn nó trên nhiều chương trình truyền hình và lễ trao giải lớn, bao gồm "The Ellen DeGeneres Show", "Saturday Night Live" và giải thưởng âm nhạc "Billboard" năm 2013, cũng như trong nhiều chuyến lưu diễn của họ. Được ghi nhận là bài hát trứ danh trong sự nghiệp của bộ đôi, "Thrift Shop" đã được hát lại và sử dụng làm nhạc mẫu bởi nhiều nghệ sĩ, như "Weird Al" Yankovic, Ed Sheeran, Pentatonix, Bart Baker, Passenger, Andy Grammer, Madilyn Bailey, Tyler Ward và The Key of Awesome, cũng như xuất hiện trong nhiều tác phẩm điện ảnh và truyền hình, bao gồm "The Internship", "Pain & Gain", "Sesame Street", "Tammy" và "Waterloo Road". Danh sách bài hát. Tải kĩ thuật số Đĩa CD Chứng nhận. !scope="col" colspan="3"|Streaming
1
null
Benelli M4 Super 90 là súng shotgun bán tự động của Ý sản xuất bởi công ty Benelli. Lịch sử. Ngày 04/05/1998, Viện Nghiên cứu Phát triển Vũ khí Quân đội Hoa Kỳ và Trung tâm Kỹ thuật (ARDEC) tại Picatinny Arsenal, New Jersey đã yêu cầu có một khẩu shotgun bán tự động, bắn đạn 12 gauge mới để trang bị cho quân đội Mỹ. Để đáp ứng yêu cầu này, công ty sản xuất vũ khí lừng danh của nước Ý - Benelli Armi SPA đã thiết kế và sản xuất mẫu Benelli M4 Super 90 Combat Shotgun. Đến ngày 4/8 cùng năm, mẫu M4 được chuyển giao cho trung tâm Aberdeen Proving Ground ở Maryland. Sau một thời gian thử nghiệm cường độ cao, khẩu shotgun M4 đã đánh bại tất cả các đối thủ cạnh tranh trong chương trình này. Vào đầu năm 1999, ARDEC trao hợp đồng M1014 Joint Service Combat Shotgun cho Heckler & Koch - một công ty con của Mỹ để nhập khẩu của Combat Shotgun Benelli M4. Đơn vị đầu tiên được giao cho mẫu súng này là Thủy quân lục chiến Mỹ với số lượng 20.000 khẩu. Trong thời gian thử nghiệm tại Mỹ, khẩu súng này được đặt tên là XM1014 với một số cải tiến, nhưng sau khi thông qua, mẫu súng đã chính thức được đặt tên là M1014, còn được gọi là Benelli M4. Thiết kế. M4 có trọng lượng 3,82 kg, độ dài tổng cộng 885 mm với nòng dài 470 mm. Thiết kế khá dài và trơn so với các mẫu shotgun khác. M4 có báng dạng thanh, phần trên và phía cuối có lót cao su đặc giúp phản lực khi bắn ít tác động vào vai và má hơn. Báng súng của nó có thể thu gọn để tiện trọng việc di chuyển. Hệ thống ngắm tiêu chuẩn của M4 là thước ngắm thép - điểm ruồi, được trang bị 2 điểm phát sáng tự nhiên bằng phosphor, giúp định vị điểm ruồi trong đêm dễ dàng hơn. Ray Picatinny của M4 được làm ở phần trên, giúp M4 có thể dễ dàng gắn thêm các ống ngắm chuyên dụng. Ngoài ra, M4 cũng có thể được gắn thêm đèn pin hoặc đèn laser để tác chiến vào ban đêm. M4 là mẫu shotgun nạp đạn bằng khí nén đầu tiên của Benelli. Đặc biệt, M4 được phát triển một cơ cấu trích khí hoàn toàn mới với cơ chế "tự động điều chỉnh khí nén" hay được gọi với tên Argo. Thiết kế trích khí ngắn này sử dụng 2 pittong tự làm sạch bằng thép không gỉ nằm ngay trước buồng đạn, do đó loại bỏ các chi tiết không cần thiết như trên các mẫu shotgun khác. Argo chỉ có 4 chi tiết kết hợp lại với nhau: 2 tấm lót đặt đối xứng chứa hai pittong nhỏ làm bằng thép không gỉ. M4 bắn đạn shotgun 12 gauge phổ biến gồm có 12 viên bi chì được nén ở trong viên đạn. Shotgun này cũng được thiết kế để có thể tương thích với các loại đạn có độ dài và sức nén khác nhau. Súng có thể bắn đạn 2,75 hay 3 inch có sức nén cũng như khả năng công phá khác nhau mà không cần có sự thay đổi ở bất kì bộ phận nào. Ngoài ra, trong một số trường hợp, M4 có thể bắn đạn cao su ít khả năng gây chết người. Xạ thủ phải nạp đạn từng viên vào trong thân súng với sức chứa tối đa lên đến 7 viên. Tầm sát thương cao nhất của M4 là 50,2 m. Ở khoảng cách càng gần, sát thương của đạn 12 gauge sẽ được tăng lên càng cao nhờ 12 viên chì có động năng lớn. Các thử nghiệm của M4 cho thấy nó có độ tin cậy cao. Nó có thể bắn ít nhất 25.000 viên đạn mà không thay thế bất kỳ bộ phận chính nào.
1
null
Poecilia wingei, được biết đến như Cá bảy màu Endler hay Cá khổng tước Endler, trong chi Poecilia, có nguồn gốc ở bán đảo Paria tại Venezuela. Lai. "Cá bảy màu Endler" (P.wingei) có thể được lai với loài cá bảy màu khác (P.reticulata, P.obscura), và con lai có khả năng sinh sản. Đây được xem là để pha loãng gen và do đó tránh được bằng cách nuôi cá, những người muốn duy trì các giống thuần túy. Nhiều cá bán trong các cửa hàng vật nuôi như cá khổng tước Endler thực sự là các con lai của chúng. Ngoài ra, như P. reticulata đã được tìm thấy trong cùng vùng nước như P. wingei, lai tạo tự nhiên cũng có thể xảy ra trong tự nhiên.
1
null
John Logie Baird (; 14 tháng 8 năm 188814 tháng 6 năm 1946) là nhà vật lý, kỹ sư điện, nhà nghiên cứu tiên phong về vô tuyến điện và truyền hình. Ông là người Scotland. John Logie Baird sinh năm 1888 ở tại Dumbartonshire (Anh) trong một làng chài bên cửa sông Garloch. Cha của cậu là một giáo sĩ. Cậu John Logie yếu ớt, hay đau ốm vặt, cho nên buổi học buổi nghỉ, không thích thể thao, ưa thích máy móc. Năm mười hai tuổi, cậu và bốn người bạn lắp đặt một đường điện thoại nối các gác xép của nhau để chơi.
1
null
Đại đội anh hùng (tựa tiếng Anh: Company of Heroes) là một bộ phim hành động, chiến tranh Mỹ của đạo diễn Don Michael Paul thực hiện với sự tham gia của Tom Sizemore, Chad Michael Collins và Vinnie Jones. Nội dung. Năm 1944, trong khu rừng tuyết của nước Đức, một nhóm lính Mỹ đang trên đường đi hành quân thì bỗng đi lạc vào chiến tuyến của quân phát xít Đức. Trong lúc bị địch truy đuổi ráo riết, nhóm lính Mỹ tình cờ khám phá ra Hitler có sáng chế một quả bom siêu việt có thể làm Lực lượng Đồng Minh bị thua trận, họ lên kế hoạch đánh cắp nó trước khi quân Đức đem ra sử dụng.
1
null
Bão Xaver (ở Đan Mạch gọi là "Bodil" và ở Thụy Điển "Sven") là một cơn bão hình thành ở Bắc Đại Tây Dương. Với sức gió lên tới 228 km/h, bão Xaver đã gây ra thiệt hại không nhỏ cho khu vực Bắc Âu. Bão Xaver được nhận định là cơn bão mạnh nhât trong 60 năm qua đổ bộ vào Bắc Âu. Chuẩn bị. Anh. Bão Xaver đã buộc chính quyền phải do sơ tán người dân và tăng cường hệ thống đê chắn lũ tại các khu vực có địa hình thấp. Chính phủ Anh đã cho sơ tán và cảnh báo nguy hiểm đối với người dân tại Great Yarmouth, miền Đông nước này. Thủ tướng Anh David Cameron đã triệu tập một hội nghị của ủy ban khẩn cấp chính phủ nhằm thảo luận về các biện pháp ứng phó với bão. Hà Lan. Tại Hà Lan, hàng chục chuyến bay đã bị hủy hoặc hoãn, hoạt động đường sắt tại một số nước cũng bị đình trệ, trong khi hàng chục nghìn ngôi nhà tại các khu vực bão đi qua bị mất điện. Đức. Đức đã cho ủng hộ các dịch vụ cứu hộ tại trong và ngoài cảng Hamburg ở miền Bắc và cho đóng cửa một số trường học. Một số chuyến bay đã bị hủy hoặc hoãn, hoạt động đường sắt tại một số nước cũng bị đình trệ, trong khi hàng chục nghìn ngôi nhà tại các khu vực bão đi qua bị mất điện. Thuỵ Điển. Trong khi đó, Thụy Điển cũng ban hành cảnh báo lũ tại các khu vực bão quét qua.
1
null
Baltasar Gracián y Morales, SJ (sinh ngày 8 tháng 1 năm 1601 – mất ngày 6 tháng 12 năm 1658) là nhà văn xuôi dòng Baroque và là nhà triết học người Tây Ban Nha. Ông sinh ra ở Belmonte, gần Calatayud (Aragon). Gracián là một nhà văn tiêu biểu nhất trong phong cách văn học Baroque ở Tây Ban Nha, được biết đến như là "Conceptismo" (Conceptism). Làng Aragonese, nơi ông sinh ra (Belmonte de Calatayud), được đổi tên thành Belmonte de Gracian để vinh danh ông.
1
null
Chỉ số tử ngoại hay chỉ số UV là một chỉ số đo lường theo tiêu chuẩn quốc tế về cường độ của bức xạ tử ngoại từ mặt trời tại một địa điểm cụ thể vào một ngày cụ thể. Nó là một thang đo đầu tiên được sử dụng dự báo theo ngày cho công chúng được biết, hiện nay thì theo giờ. Mục đích của chỉ số này là để giúp mọi người bảo vệ mình khỏi tia cực tím, vì việc tiếp xúc quá nhiều với ánh sáng mặt trời sẽ gây bỏng nắng, tổn thương mắt như đục thủy tinh thể, lão hóa da, ức chế miễn dịch, và ung thư da. Các tổ chức y tế công cộng khuyến cáo người dân tự bảo vệ mình (ví dụ, bằng cách thoa kem chống nắng cho da và đội mũ) khi chỉ số tử ngoại đạt 3 hoặc cao hơn; xem bảng bên dưới.
1
null
Thư xin việc là một văn bản đính kèm, thường được yêu cầu trong các hồ sơ xin học bổng, tuyển dụng hay xin vào một chương trình học hoặc hoạt động ngoại khóa nào bên cạnh lý lịch trích ngang (résumé) hoặc hồ sơ xin việc (C. V.) để bày tỏ nguyện vọng của ứng viên về vị trí họ đang nhắm tới. Nội dung. Nếu như kinh nghiệm học tập, làm việc đều đã được thể hiện qua CV, thì thư xin việc sẽ thể hiện động cơ khiến bạn muốn được nhận vào vị trí mình đang ứng tuyển (một công việc, một chương trình học bổng). Thư xin việc cũng có thể nêu những thông tin cá nhân và kinh nghiệm, nhưng không phải là lặp lại những gì đã viết trong CV, mà bạn phải chọn những thông tin đắt giá nhất để làm nổi bật kinh nghiệm của mình và mong muốn vào làm việc tại công ty. Nói cách khác, thư xin việc giúp bạn làm rõ những gì chưa thể hiện được qua CV. Hình thức. Độ dài của thư nên nằm trong 1 trang A4. Có rất nhiều lý do và mục đích để viết thư, và mỗi nguyên cớ sẽ có cách đề cập khác nhau. Tuy nhiên, một thư xin việc thông thường được chia làm năm phần:
1
null
Nhượng địa Mexico (tiếng Anh: "Mexican Cession") năm 1848 là một cái tên lịch sử tại Hoa Kỳ để chỉ vùng đất Tây Nam Hoa Kỳ ngày nay mà xưa kia México đã nhượng lại cho Hoa Kỳ theo Hiệp định Guadalupe Hidalgo năm 1848. Vùng đất này không phải là một thành phần của các vùng đất nằm ở phía đông sông Rio Grande mà Cộng hòa Texas tuyên bố chủ quyền cho dù Nghị quyết Sáp Nhập Texas hai năm trước đó không có xác định rõ ràng biên giới phía nam và phía tây của Texas. Phạm vi của nhượng địa. Đa số khu vực này từng là lãnh thổ Alta California của Mexico trong khi đó dải đất tây nam nằm trong lưu vực Rio Grande từng là một phần của Santa Fe de Nuevo México. Phần lớn dải đất này và dân số của nó nằm ở phía đông Rio Grande bị Cộng hòa Texas tuyên bố chủ quyền từ năm 1835. Tuy nhiên Texas chưa bao giờ thực sự kiểm soát hay tiến quân sát đến khu vực này trong cuộc viễn chinh Texas Santa Fe. Mexico kiểm soát lãnh thổ mà sau này được biết đến với tên gọi là Nhượng địa Mexico và cho vùng đất này quyền tự trị đáng kể. Có một số cuộc nổi dậy tại đây và có ít binh sĩ chính phủ Mexico được phái đến trong thời kỳ từ 1821-2 sau khi Mexico giành được độc lập khỏi Tây Ban Nha cho đến qua năm 1846 khi các lực lượng quân sự Hoa Kỳ kiểm soát California và New Mexico sau khi bùng nổ chiến tranh Mexico-Mỹ. Ranh giới phía bắc vĩ tuyến 42 Bắc được ấn định theo Hiệp định Adams–Onís được Hoa Kỳ và Tây Ban Nha ký kết năm 1821 và được Mexico thông qua vào năm 1831. Ranh giới phía đông của Nhượng địa Mexico là nơi Texas tuyên bố chủ quyền tại Rio Grande và kéo dài lên phía bắc từ đầu nguồn Rio Grande, không tương ứng với các biên giới lãnh thổ của Mexico. Ranh giới phía nam được ấn định theo Hiệp ước Guadalupe Hidalgo, theo các đường biên giới của Mexico giữa Alta California (về phía bắc) và Baja California và Sonora (về phía nam). Chiến tranh và hiệp định. Việc nhượng lại vùng lãnh thổ này từ Mexico là mục tiêu chính của cuộc chiến tranh. Alta California và Santa Fe de Nuevo Mexico bị chiếm giữ ngay sau khi cuộc chiến tranh Mexico-Mỹ bùng nổ và cuộc kháng cự cuối cùng bị dập tắc vào tháng 1 năm 1847 nhưng Mexico vẫn không chấp nhận mất lãnh thổ. Vì thế trong suốt năm 1847 lực lượng Hoa Kỳ xâm nhập chính địa Mexico và chiếm giữ thủ đô Ciudad de México. Tuy nhiên không có chính phủ Mexico nào sẵn lòng chấp nhận việc chuyển nhượng các lãnh thổ phía bắc cho Hoa Kỳ. Việc này đưa đến tình trạng bất định không biết rõ rằng bất cứ hiệp định nào có thể giải quyết vấn đề. Thậm chí có một phong trào được gọi tên là "Phong trào toàn bộ Mexico" được các đảng viên Dân chủ miền Đông Hoa Kỳ đề nghị để thôn tính hoàn toàn Mexico nhưng bị người miền Nam Hoa Kỳ phản đối. Thí dụ như John C. Calhoun, ông chỉ muốn tìm thêm lãnh thổ cho dân da trắng miền Nam và người nô lệ của họ chớ không muốn có thêm dân số lớn của chính địa Mexico. Sau cùng Nicholas Trist thương thuyết Hiệp định Guadalupe Hidalgo, gần như tái phân định lại biên giới giữa Mexico và Hoa Kỳ vào đầu năm 1848 sau khi trước đó tổng thống Polk đã tìm cách gọi ông từ Mexico trở về vì coi như cuộc thương thuyết thất bại. Tuy nhiên, Mexico đã không công khai nhượng lại bất cứ lãnh thổ nào theo hiệp ước này mà chỉ chấp nhận tái phân định biên giới. Việc tái phân định biên giới thực sự có hiệu lực chuyển giao Alta California và Santa Fe de Nuevo Mexico sang cho Hoa Kỳ kiểm soát. Quan trọng không kém là biên giới mới cũng thừa nhận việc Mexico mất Texas. Cũng xin nhắc lại là phần đất cốt lõi phía đông của Texas và vùng đất Hoa Kỳ tuyên bố chủ quyền ở phía tây đều không được Mexico chính thức nhìn nhận mãi cho đến thời điểm này. Thượng viện Hoa Kỳ chấp thuận hiệp định này, bác bỏ tu chính án của Jefferson Davis đề nghị thôn tính phần lớn vùng Đông Bắc Mexico cũng như bác bỏ tu chính án khác của Daniel Webster đề nghị không chiếm Alta California và Santa Fe de Nuevo Mexico. Hoa Kỳ cũng trả $15.000.000 đô la ($298.310.309 theo tỷ giá năm 2005) cho vùng đất này và đồng ý nhận trách nhiệm đối với $3,25 triệu tiền nợ phải trả cho các công dân Hoa Kỳ. Trong khi lãnh thổ này được xem là do Hoa Kỳ mua lại nhưng số tiền $15 triệu đô la bị trừ ra từ số nợ khổng lồ mà Mexico thiếu Hoa Kỳ vào lúc đó. Nhượng địa Mexico theo như được biết (trừ phần đất bị Texas tuyên bố chủ quyền) có tổng diện tích là , hay 14,9% tổng diện tích Hoa Kỳ hiện tại. Nếu phần tranh chấp ở phía tây Texas cũng được tính thì tổng diện tích lên đến . Nếu toàn bộ Texas được tính (vì Mexico chưa từng thừa nhận mất bất cứ phần đất Texas nào) thì tổng diện tích bị nhượng lại cho Hoa Kỳ theo hiệp định là . Tính hết mọi lãnh thổ, kể cả toàn bộ Texas thì Mexico mất đến 55% lãnh thổ của mình đang có trước năm 1836 trong hiệp định Guadalupe Hidalgo. Trong khoảng thời gian 15 năm từ năm 1821 (khi Mexico giành được độc lập) và Cách mạng Texas năm 1836, Nhượng địa Mexico (trừ Texas) bao trùm khoảng 42% quốc gia Mexico. Trước thời gian đó, nó từng là một phần của thuộc địa Tân Tây Ban Nha của Tây Ban Nha trong khoảng 3 thế kỷ. Bắt đầu vào đầu thế kỷ 17, một loạt các đoàn truyền đạo và người di cư Tây Ban Nha đã di chuyển vào vùng New Mexico, đa số đi theo dòng chảy của Rio Grande từ khu vực El Paso đến Santa Fe. Tính đến năm 2012, các tiểu bang California, Nevada, Utah, Arizona và New Mexico có tổng dân số là 51.797.185 trong số tổng dân toàn quốc Hoa Kỳ là 313.000.000 hay khoảng 16,5% dân số Hoa Kỳ. Cấu địa Gadsden. Hoa Kỳ nhận rõ ngay sau đó rằng Nhượng địa Mexico đã không bao gồm một con đường khả dĩ để xây dựng một tuyến đường sắt liên lục địa nối với một hải cảng ở miền nam. Địa hình của Lãnh thổ New Mexico gồm có đồi núi chỉ cho phép xây dựng các tuyến đường sắt kéo dài từ phía nam duyên hải Thái Bình Dương đi về hướng bắc đến Kansas City, St. Louis, hay Chicago. Người miền nam rất trông mong có một tuyến đường sắt để di đến duyên hải Thái Bình Dương. Chính điều này đã thúc đẩy Hoa Kỳ mua thêm vùng đất tiện lợi cho việc xây dựng tuyến đường sắt ở miền nam và kết cuộc là Cấu địa Gadsden được Hoa Kỳ mua của Mexico vào năm 1853.
1
null
USS "Burns" (DD–171) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được cải biến thành tàu rải mìn với ký hiệu lườn DM-11 và hoạt động cho đến năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Otway Burns (1775-1850), một sĩ quan hải quân từng tham gia cuộc Chiến tranh 1812 sau là Nghị sĩ bang North Carolina. Thiết kế và chế tạo. "Burns" được đặt lườn vào ngày 15 tháng 4 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng Union Iron Works ở San Francisco, California. Nó được hạ thủy vào ngày 4 tháng 7 năm 1918, được đỡ đầu bởi cô Alice H. Palmer, và được đưa ra hoạt động vào ngày 7 tháng 8 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân W. H. Lee. Lịch sử hoạt động. "Burns" được phân về Lực lượng Khu trục trực thuộc Hạm đội Thái Bình Dương cho đến tháng 3 năm 1920, khi nó được điều sang nhiệm vụ đặc biệt là tàu tiếp liệu cho liên đội thủy phi cơ NC. Vào ngày 15 tháng 3 năm 1921, nó được xếp lại lớp như một tàu rải mìn với ký hiệu lườn DM-11, và đến ngày 5 tháng 5 được phân về Lực lượng Rải mìn Hạm đội Thái Bình Dương. Nó đang ở tại Xưởng hải quân Mare Island vào ngày 11 tháng 7 để cải biến và đại tu khi cảng nhà của nó được chuyển đến Trân Châu Cảng. Được phân về Hải đội Rải mìn 2, nó phục vụ chủ yếu tại khu vực lân cận quần đảo Hawaii ngoại trừ những đợt tập trung hạm đội tại các khu vực khác để cơ động và tập trận. Vào năm 1925, "Burns" gia nhập hạm đội cho một chuyến đi đến Australia và New Zealand. Vào mùa Hè các năm 1926, 1927 và 1928 nó thực hiện các chuyến đi huấn luyện cho nhân sự Hải quân Dự bị Hoa Kỳ. Vào năm 1927, nó đi đến San Diego, California cùng với hải đội của nó để được thanh tra, huấn luyện và nghỉ ngơi. Quay trở lại Trân Châu Cảng, nó tham gia các cuộc thực tập rải mìn và tác xạ, đồng thời phục vụ như một mục tiêu cao tốc cho việc huấn luyện tàu ngầm tại vùng biển Hawaii cho đến tháng 11 năm 1929. Đi đến San Diego vào ngày 26 tháng 12, "Burns" được cho ngừng hoạt động vào ngày 2 tháng 6 năm 1930. Đến ngày 11 tháng 6, nó được cho kéo đến Xưởng hải quân Mare Island nơi nó được sử dụng như một tàu trại binh. Cuối cùng nó bị tháo dỡ vào ngày 22 tháng 4 năm 1932.
1
null
Pascal-Emmanuel Sinamoyi Tabu (13 tháng 11 năm 1937 – 30 tháng 11 năm 2013), được biết đến với tên Tabu Ley Rochereau, là một ca sĩ, nhạc sĩ Rumba châu Phi hàng đầu của Cộng hòa Dân chủ Congo. Ông là nhạc trưởng của "Dàn nhạc Giao hưởng quốc tế Afrisa". và được mệnh danh là "African Elvis" của "Los Angeles Times". Sau sự sụp đổ của chế độ Môbutu, Tabu Ley cũng theo đuổi sự nghiệp chính trị. Khi Tổng thống Mobutu Sese Seko bị lật đổ vào năm 1997, Tabu Ley trở lại Kinshasa và giữ vị trí bộ trưởng nội các trong chính phủ của Tổng thống mới Laurent Kabila. Sau cái chết của Kabila, Tabu Ley tham gia vào quốc hội chuyển tiếp. Trong tháng 11 năm 2005 Tabu Ley được bổ nhiệm làm Phó Thống đốc Kinshasa. Ông được nói đến là cha của 68 trẻ em, với phụ nữ khác nhau. Tabu Ley Rochereau qua đời vào ngày 30 tháng 11 năm 2013 (76 tuổi), tại bệnh viện Saint-Luc ở thủ đô Brussels, nơi ông điều trị bị đột quỵ vào năm 2008. Trong suốt sự nghiệp của mình, Tabu Ley trình bài khoảng 3.000 bài hát với khoảng 250 album.
1
null
USS "Anthony" (DD–172) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được cải biến thành tàu rải mìn DM-12, hoạt động cho đến năm 1922 và bị loại bỏ năm 1936. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Thượng sĩ Thủy quân Lục chiến William Anthony (1853-1899). Thiết kế và chế tạo. "Anthony" được đặt lườn vào ngày 18 tháng 4 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng Union Iron Works ở San Francisco, California. Nó được hạ thủy vào ngày 10 tháng 8 năm 1918, được đỡ đầu bởi cô Grace Heathcote, và được đưa ra hoạt động vào ngày 19 tháng 6 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân D. A. Scott. Lịch sử hoạt động. Trình diện để phục vụ cùng Lực lượng Khu trục Thái Bình Dương, "Anthony" hoạt động dọc theo bờ Tây Hoa Kỳ giữa San Diego, California và Bremerton, Washington cho đến tháng 6 năm 1921. Nó khởi hành từ San Francisco vào ngày 8 tháng 9 năm 1919 để đi Port Angeles, Washington, nơi nó tham gia lễ hội nhân dịp Hạm đội Thái Bình Dương mới thành lập. Chiếc tàu khu trục viếng thăm Victoria, British Columbia vào ngày 11 tháng 9, rồi đưa Bộ trưởng Hải quân Josephus Daniels quay trở lại Bremerton vào ngày 12 tháng 9. Đến ngày 13 tháng 9, nó cùng các con tàu khác của hạm đội tham dự duyệt binh dưới sự thị sát của Tổng thống Woodrow Wilson bên trên thiết giáp hạm , và vào ngày 14 tháng 9 dưới sự thị sát của Bộ trưởng Hải quân. Vào ngày 16 tháng 11 năm 1920 "Anthony" được xếp lại lớp như một tàu rải mìn với ký hiệu lườn DM-12. Đến tháng 10 năm 1921, nó gia nhập Đội 1 trực thuộc Hải đội Rải mìn 2 và hoạt động tại khu vực Trân Châu Cảng cho đến khi được cho xuất biên chế vào ngày 30 tháng 6 năm 1922. Sau 15 năm bị bỏ không tại Trân Châu Cảng, nó được cho kéo đến San Diego vào năm 1937, được sử dụng như một mục tiêu, và bị đánh đắm tại bờ biển California vào ngày 22 tháng 7 năm 1937.
1
null
USS "Sproston" (DD–173) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được cải biến thành tàu rải mìn hạng nhẹ DM-13 trước khi ngừng hoạt động năm 1922. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Trung úy Hải quân John G. Sproston, một sĩ quan từng tham gia cuộc Nội chiến Hoa Kỳ. Thiết kế và chế tạo. "Sproston" được đặt lườn vào ngày 20 tháng 4 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng Union Iron Works ở San Francisco, California. Nó được hạ thủy vào ngày 10 tháng 8 năm 1918, được đỡ đầu bởi bà George J. Dennis, và được đưa ra hoạt động vào ngày 12 tháng 7 năm 1919. Lịch sử hoạt động. "Sproston" lên đường đi Hawaii và được phân về Hạm đội Thái Bình Dương vào mùa Thu năm 1919. Vào ngày 17 tháng 7 năm 1920, nó được xếp lại lớp từ tàu khu trục thành một tàu rải mìn hạng nhẹ với ký hiệu lườn DM-13, và tiếp tục hoạt động tại khu vực Trân Châu Cảng cho đến năm 1922. Vào ngày 15 tháng 8 năm 1922, "Sproston" được cho ngừng hoạt động tại đây và được đưa về Hạm đội Dự bị. Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 12 năm 1936, và sau đó lườn tàu bị đánh chìm như một mục tiêu vào ngày 20 tháng 7 năm 1937.
1
null
USS "Rizal" (DD–174) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được cải biến thành tàu rải mìn hạng nhẹ DM-13, và phục vụ chủ yếu tại Viễn Đông cho đến khi bị tháo dỡ vào năm 1932. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo José Rizal, một nhà yêu nước Philippines. Thiết kế và chế tạo. Được trao tặng cho Hoa Kỳ theo một quyết định của quốc hội Philippines, "Rizal"được đặt lườn vào ngày 26 tháng 6 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng Union Iron Works ở San Francisco, California. Nó được hạ thủy vào ngày 21 tháng 9 năm 1918, được đỡ đầu bởi bà Sofia R. de Veyra, và được đưa ra hoạt động vào ngày 28 tháng 5 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân Edmund S. Root. Lịch sử hoạt động. Gia nhập Hạm đội Thái Bình Dương sau khi nhập biên chế, "Rizal" hoạt động dọc theo vùng bờ Tây Hoa Kỳ trong các nhiệm vụ thực hành và huấn luyện cho đến năm 1920. Được cải biến để phục vụ như một tàu rải mìn hạng nhẹ, nó được xếp lại lớp với ký hiệu lườn DM-14 vào ngày 17 tháng 7 năm 1920. Nó khởi hành từ San Diego, California vào ngày 25 tháng 3 năm 1920 để đi sang Viễn Đông; đi ngang qua Honolulu, Midway và Guam trước khi đi đến Cavite, Philippines vào ngày 1 tháng 5 năm 1920 để đảm nhiệm vai trò soái hạm của Đội rải mìn trực thuộc Hạm đội Á Châu. Với một thủy thủ đoàn chủ yếu là người Philippine, "Rizal" tiếp tục ở lại Trạm Á Châu trong 10 năm, thường thả neo nhiều tháng tại các cảng Trung Quốc vào mùa Xuân, mùa Hè và mùa Thu. Các cảng nó thường viếng thăm bao gồm Thượng Hải, Yên Đài, Tần Hoàng Đảo và Hong Kong. Nó đi về phía Đông đến cảng Apra, Guam trong tháng 11 năm 1928; và đã viếng thăm Yokohama, Nhật Bản từ ngày 11 đến ngày 20 tháng 4 năm 1929. "Rizal" trải qua mùa Đông từ tháng 11 đến tháng 3 thả neo trong vịnh Manila. Nó vào ụ tàu hàng năm tại Olongapo để bảo trì, và khi quay lại hoạt động thường trải qua mùa Xuân tại vùng biển Philippine. Được lệnh quay về nhà, "Rizal" rời Manila ngày 11 tháng 12 năm 1930, đi qua Guam và Honolulu để đi đến San Diego. Nó được cho xuất biên chế vào ngày 20 tháng 8 năm 1931 tại San Diego, và được chiếc tàu quét mìn kéo lên phía Bắc đến Xưởng hải quân Mare Island vào ngày 31 tháng 8 năm 1931 để được đưa về lực lượng dự bị. Tên của "Rizal" được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 11 tháng 11 năm 1931, và lườn tàu được bán để tháo dỡ vào ngày 25 tháng 2 năm 1932 nhằm tuân thủ những điều khoản hạn chế vũ trang của Hiệp ước Hải quân London.
1
null
USS "MacKenzie" (DD–175) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, trong Chiến tranh Thế giới thứ hai được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Canada dưới tên gọi HMCS "Annapolis" (I04) và phục vụ cho đến năm 1945. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Alexander Slidell MacKenzie (1803–1849), một sĩ quan Hải quân Hoa Kỳ. Thiết kế và chế tạo. "MacKenzie" được đặt lườn vào ngày 4 tháng 7 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng Union Iron Works ở San Francisco, California. Nó được hạ thủy vào ngày 29 tháng 9 năm 1919, được đỡ đầu bởi bà Percy J. Cotton, và được đưa ra hoạt động vào ngày 25 tháng 7 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân E. T. Oates. Lịch sử hoạt động. USS "MacKenzie" (DD-175). Sau khi nhập biên chế và hoàn tất việc chạy thử máy, "MacKenzie" trở thành một đơn vị của Hạm đội Thái Bình Dương và hoạt động cùng các hải đội khu trục 2 và 4. Vào ngày 17 tháng 7 năm 1920, nó được mang ký hiệu lườn DD-175, và tiếp tục phục vụ cho đến khi được cho xuất biên chế tại Xưởng hải quân Mare Island vào ngày 27 tháng 5 năm 1922. "MacKenzie" bị bỏ không trong thành phần dự bị cho đến khi được cho nhập biên chế trở lại tại San Diego, California vào ngày 6 tháng 11 năm 1939. Vào năm 1940, "MacKenzie" nằm trong số 50 tàu khu trục cũ được trao đổi, theo các điều khoản của Thỏa thuận đổi tàu khu trục lấy căn cứ, cho các căn cứ chiến lược ngoài khơi bờ biển Bắc Mỹ. Nó đi đến Halifax, Nova Scotia vào ngày 20 tháng 9 năm 1940; và tại đây vào ngày 24 tháng 9, nó được cho xuất biên chế và chuyển giao cho Hải quân Hoàng gia Canada như là chiếc HMCS "Annapolis" (I-04). Tên của "MacKenzie" được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 8 tháng 1 năm 1941. HMCS "Annapolis" (I-04). Theo thông lệ của Canada đặt tên tàu khu trục theo tên các con sông của Canada, tên "Annapolis" được đặt theo sông Annapolis ở Nova Scotia, đồng thời liên hệ với nguồn gốc Mỹ của nó cũng trùng với tên thành phố Annapolis, Maryland, nơi đặt Học viện Hải quân Hoa Kỳ. Cho đến năm 1944, "Annapolis" hoạt động cùng các Lực lượng Hộ tống Tại chỗ phía Tây và Halifax trong khu vực từ phía Đông St. Johns, Newfoundland cho đến New York. Vào tháng 4 năm 1944, nó được phân về căn cứ HMCS "Cornwallis" gần Annapolis, Nova Scotia, nơi nó hoạt động như một tàu huấn luyện cho đến khi chiến tranh kết thúc. Vào ngày 4 tháng 6 năm 1945, nó được bán cho hãng Frankel Brothers, Ltd. ở Toronto để tháo dỡ.
1
null
USS "Renshaw" (DD–176) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Trung tá Hải quân William B. Renshaw (1816-1863), người tham gia cuộc Nội chiến Hoa Kỳ. Thiết kế và chế tạo. "Renshaw" được đặt lườn vào ngày 8 tháng 5 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng Union Iron Works ở San Francisco, California. Nó được hạ thủy vào ngày 21 tháng 9 năm 1918, được đỡ đầu bởi bà Frank Johnson, và được đưa ra hoạt động vào ngày 31 tháng 7 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân R. A. Hall. Lịch sử hoạt động. Sau khi nhập biên chế, "Renshaw" được phân về Lực lượng Khu trục trực thuộc Hạm đội Thái Bình Dương. Nó gia nhập hạm đội tại vịnh Monterey, và tham gia cuộc duyệt binh của Bộ trưởng Hải quân Hoa Kỳ thị sát trên chiếc thiết giáp hạm . "Renshaw" rời San Francisco vào ngày 16 tháng 9 để đi đến căn cứ hoạt động của nó là San Diego, đến nơi vào ngày 20 tháng 9. Chiếc tàu khu trục tham gia các cuộc tập trận ngoài khơi bờ biển California, thực hiện tuần tra và liên lạc, vận chuyển tù nhân cũng như thực hiện một chuyến đi huấn luyện cho quân nhân dự bị ngoài khơi Portland, Oregon. "Renshaw" thực hiện chuyến đi đến Hawaii từ ngày 25 tháng 3 đến ngày 28 tháng 4 năm 1920 cùng với Chi hạm đội Khu trục 11 để tiến hành trinh sát chi tiết quần đảo này, với ý định thiết lập một căn cứ hoạt động cho hạm đội. Trong giai đoạn từ ngày 16 tháng 12 năm 1920 đến ngày 4 tháng 4 năm 1921, con tàu đi vào Xưởng hải quân Puget Sound để đại tu, quay trở lại căn cứ của nó vào ngày 8 tháng 4 để gia nhập trở lại Lực lượng Khu trục. Vào tháng 1 năm 1922, "Renshaw" thực hiện hiệu chuẩn phương vị vô tuyến cho Quân khu Hải quân 12. Nó quay trở về San Diego vào ngày 28 tháng 1 và tiếp tục neo đậu tại đây, trừ một chuyến đi ngắn đến San Pedro từ ngày 20 đến ngày 24 tháng 2, cho đến khi được cho xuất biên chế vào ngày 27 tháng 5 năm 1922. Chiếc tàu khu trục bị bỏ không tại San Diego cho đến khi bị loại bỏ vào năm 1936 nhằm tuân thủ những điều khoản hạn chế vũ trang của Hiệp ước Hải quân London. Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 19 tháng 5 năm 1936, và nó bị bán cho hãng Schiavone Bonomo Corporation vào ngày 29 tháng 9 để tháo dỡ. Việc tháo dỡ được tiến hành từ ngày 2 tháng 12 năm 1936.
1
null
USS "O'Bannon" (DD-177) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Presley O'Bannon (1784–1850), một sĩ quan Thủy quân Lục chiến, anh hùng trong trận Derna. Thiết kế và chế tạo. "O'Bannon" được đặt lườn vào ngày 12 tháng 11 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng Union Iron Works ở San Francisco, California. Nó được hạ thủy vào ngày 28 tháng 2 năm 1919, được đỡ đầu bởi bà Henry O'Bannon Cooper, và được đưa ra hoạt động tại San Francisco vào ngày 27 tháng 8 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung úy Hải quân Robert F. Gross. Lịch sử hoạt động. "O'Bannon" khởi hành từ San Diego, California để thực tập và huấn luyện dọc theo bờ biển California và vùng biển Hawaii trong suốt quảng đời phục vụ. Vào mùa Xuân năm 1920, nó tiến hành các cuộc thử nghiệm ngư lôi, rồi được đặt trong tình trạng dự bị từ tháng 6 cho đến tháng 11, khi nó quay lại nhiệm vụ huấn luyện. "O'Bannon" được cho xuất biên chế tại San Diego vào ngày 27 tháng 5 năm 1922; tên nó được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 19 tháng 5 năm 1936, và lườn tàu bị bán để tháo dỡ vào ngày 29 tháng 9 năm 1936.
1
null
USS "Hogan" (DD-178) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được cải biến thành tàu quét mìn cao tốc DMS-6 trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, và cuối cùng là một tàu phụ trợ AG-105. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo thủy thủ Daniel Hogan, anh hùng trong cuộc Chiến tranh 1812. Thiết kế và chế tạo. "Hogan" được đặt lườn vào ngày 25 tháng 11 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng Union Iron Works ở San Francisco, California. Nó được hạ thủy vào ngày 12 tháng 4 năm 1919, được đỡ đầu bởi bà Magnus A. Anderson, em gái Bộ trưởng Nội vụ Franklin K. Lane, và được đưa ra hoạt động vào ngày 1 tháng 10 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân E. M. Williams. Lịch sử hoạt động. Giữa hai cuộc thế chiến. Sau khi hoàn tất chạy thử máy, "Hogan" đi đến San Diego vào ngày 21 tháng 11 để gia nhập Lực lượng Khu trục trực thuộc Hạm đội Thái Bình Dương. Từ ngày 23 tháng 11 năm 1919 đến ngày 6 tháng 2 năm 1920, nó lên đường cùng đội của nó để tham gia cơ động hạm đội, tuần tra, thực hành ngư lôi và tác xạ dọc theo bờ biển California. Vào ngày 25 tháng 3, nó khởi hành đi Hawaii và hoạt động tại đây trong một tháng tiếp theo. Chiếc tàu khu trục gia nhập trở lại đội của nó tại San Diego vào cuối tháng 4, và trải qua năm tháng tiếp theo thực hành tác xạ và thực tập tại khu vực này. Nó quay trở lại San Diego vào đầu năm 1921, và tham gia các cuộc thử nghiệm ngư lôi và tập trận hải đội cho đến ngày 9 tháng 12; trong giai đoạn này, vào tháng 10, "Hogan" trở thành chiếc tàu Hải quân Hoa Kỳ đầu tiên được tiếp nhiên liệu trên đường đi, được kéo phía sau bởi tàu chở dầu . Trong thời gian hoạt động còn lại, nó trợ giúp các thiết giáp hạm trong việc thực hành ngư lôi tại khu vực Thái Bình Dương. Nó được cho xuất biên chế tại San Diego vào ngày 27 tháng 5 năm 1922 và được đưa về lực lượng dự bị. Thế Chiến II. Được cho nhập biên chế trở lại vào ngày 7 tháng 8 năm 1940, "Hogan" trải qua việc cải biến thành một tàu quét mìn cao tốc tại Xưởng hải quân Mare Island, và được xếp lại lớp với ký hiệu lườn mới DMS-6. Hoạt động trước chiến tranh của nó chủ yếu là huấn luyện quét mìn và tuần tra tại vùng biển Caribe và dọc theo vùng bờ Đông Hoa Kỳ. Trong những tháng đầu tiên của chiến tranh, "Hogan" hoạt động trong vai trò hộ tống vận tải tại vùng biển Caribe và khu vực Đông Đại Tây Dương, bảo vệ tàu bè khỏi các cuộc tấn công của tàu ngầm U-boat. Chiến dịch chính mà nó tham gia là cuộc tấn công đổ bộ lên Bắc Phi vào cuối năm 1942, khi nó rời Norfolk vào ngày 24 tháng 10, và cùng với Lực lượng Trung tâm đi đến ngoài khơi Fedhala cho các đợt càn quét chuẩn bị vào ngày 7 tháng 11. Khi cuộc đổ bộ diễn ra vào sáng sớm ngày hôm sau, chiếc tàu quét mìn tiếp tục tuần tra tại khu vực vận chuyển. Ngay sau 05 giờ 00, nó được điều động đi xác minh một đối tượng đang di chuyển, và phát hiện chiếc tàu hơi nước Pháp "Victoria" cùng một tàu hộ tống. "Hogan" ra lệnh cho cả hai chuyển hướng, và khi mệnh lệnh không được tuân theo đã nổ một loạt súng máy cảnh cáo ngang mũi chiếc tàu hộ tống. "Victoria" bắn trả bằng hỏa lực của chính nó và tìm cách húc vào chiếc tàu quét mìn, nhưng "Hogan" né tránh được và hỏa lực 20 mm của nó đã buộc đối phương phải đầu hàng. Trong những ngày tiếp theo, "Hogan" tiếp tục tuần tra chống tàu ngầm ngoài khơi Fedhala, truy tìm các tàu ngầm đã tấn công các tàu vận tải vào ngày 11 tháng 11. Con tàu đi vào cảng vào ngày 18 tháng 11, kết thúc thành công chiến dịch, và sau các hoạt động tuần tra đã lên đường quay về Norfolk, đến nơi vào ngày 26 tháng 12. Sau đó nó tiếp nối nhiệm vụ hộ tống vận tải ven biển cho đến tháng 11 năm 1943. Nó khởi hành từ Norfolk vào ngày 13 tháng 11 để gia nhập Hạm đội Thái Bình Dương, băng qua kênh đào Panama, và đi đến Mare Island vào ngày 5 tháng 12. Chiếc tàu quét mìn đang được cần đến cho giai đoạn đầu tiên của chuỗi chiến dịch "nhảy cóc" hướng đến Nhật Bản: cuộc tấn công quần đảo Marshall. Nó lên đường ngày 16 tháng 1 năm 1944 để đi Trân Châu Cảng, rồi đến Kwajalein và tiến hành tuần tra chống tàu ngầm ngoài khơi đảo Roi trước khi khởi hành vào ngày 4 tháng 2 để đi Espiritu Santo, đến nơi vào ngày 27 tháng 2. Sau một giai đoạn làm nhiệm vụ hộ tống vận tải, "Hogan" đi đến vịnh Milne vào ngày 7 tháng 4 để chuẩn bị cho Chiến dịch Reckless và Persecution, cuộc đổ bộ lên Hollandia. Lực lượng tấn công khởi hành vào ngày 18 tháng 4, đi đến vịnh Humboldt bốn ngày sau đó. Nó cùng các tàu quét mìn khác dọn sạch lối ra vào cho lực lượng đổ bộ dưới quyền Chuẩn đô đốc Daniel Barbey. Sau đó con tàu tiến hành bắn phá bờ biển và hộ tống. Nó đi đến mũi Sudest cùng với chiếc vào ngày 25 tháng 4. "Hogan" khởi hành từ Eniwetok vào ngày 10 tháng 6 để càn quét chuẩn bị cho cuộc tấn công chiếm đóng sắp đến tại Saipan. Nó ở lại ngoài khơi Saipan khi cuộc đổ bộ diễn ra vào ngày 15 tháng 6, chịu đựng hỏa lực pháo duyên hải của đối phương, rồi di chuyển đến Guam vào ngày hôm sau. Khi hạm đội Nhật Bản di chuyển về hướng quần đảo Mariana cho một trận hải chiến mang tính quyết định, chiếc tàu quét mìn được lệnh quay trở lại Saipan để bảo vệ cho các tàu vận tải. Khi trận chiến biển Philippine diễn ra vào các ngày 19-20 tháng 6, phía Đồng Minh giành được một thắng lợi lớn, tiêu diệt hầu hết không lực hải quân Nhật và đảm bảo cho chiến dịch Mariana không bị ngăn trở. "Hogan" quay trở lại khu vực tập trung ở Eniwetok vào ngày 30 tháng 6, nhưng quay trở lại Guam ngay vào ngày 12 tháng 7, làm nhiệm vụ quét mìn và bảo vệ cho cuộc tấn công tại đây. Nó đi đến Espiritu Santo vào ngày 5 tháng 8 năm 1944. Sau một lượt phục vụ hộ tống đến khu vực quần đảo Solomon, "Hogan" lên đường đi ngang qua Trân Châu Cảng đến San Francisco để sửa chữa, đến nơi vào ngày 5 tháng 10. Khi chiến dịch nhằm giải phóng Philippines bắt đầu đi vào cao điểm, chiếc tàu quét mìn rời San Francisco vào ngày 6 tháng 11, đi đến khu vực tập trung tại Manus vào ngày 4 tháng 12 năm 1944. Di chuyển đến vịnh Leyte trước lễ Giáng Sinh, nó lên đường cùng lực lượng quét mìn và dò âm vào ngày 2 tháng 1 năm 1945. Các cuộc tấn công cảm tử kamikaze diễn ra liên tục sau đó, suốt chặng đường đi đến vịnh Lingayen. Chiếc tàu quét mìn đi đến khu vực tấn công vào ngày 2 tháng 1, và bắt đầu hoạt động quét mìn chuẩn bị. Bốn trong số các tàu quét mìn đã bị đánh chìm hay hư hại, và xạ thủ phòng không trên chiếc "Hogan" phải liên tục đối phó với các cuộc không kích không ngừng nghỉ. Khi chiến dịch diễn ra thuận lợi, con tàu quay trở về vịnh Leyte vào ngày 16 tháng 1. Sau khi rút lui về Tinian, "Hogan" một lần nữa khởi hành vào ngày 7 tháng 2 để tham gia cuộc tấn công quan trọng lên Iwo Jima. Trong chiến dịch này, nó thực hiện quét mìn, hộ tống tàu vận chuyển cũng như bắn phá bờ biển cho đến khi lên đường cùng một nhóm thiết giáp hạm và tàu hộ tống vào ngày 7 tháng 3. Đi đến Trân Châu Cảng ngang qua Ulithi vào ngày 13 tháng 4, nó tiếp tục đi San Diego vào ngày 3 tháng 5 năm 1945. Nó được sửa chữa và đại tu, được xếp lại lớp như một tàu phụ trợ với ký hiệu lườn AG-105 vào ngày 5 tháng 6 năm 1945. Con tàu chiến kỳ cựu sau cùng được sử dụng như một mục tiêu thử nghiệm ném bom, và bị đánh chìm ngoài khơi San Diego vào ngày 8 tháng 11 năm 1945. Phần thưởng. "Hogan" được tặng thưởng sáu Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
1
null
Khu di tích khảo cổ Gò Cây Thị nằm giữa một cánh đồng trồng lúa rộng lớn ở thị trấn Óc Eo, thuộc huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang, Việt Nam. Giới thiệu. Di tích Óc Eo đã được nhà khảo cổ người Pháp Louis Malleret ở Viện Viễn Đông Bác cổ phát hiện năm 1942 và được khai quật lần đầu tiên vào tháng 2 năm 1944 tại nhiều địa điểm khác nhau, trong đó có di tích khảo cổ Gò Cây Thị. Di tích khảo cổ phát hiện lúc bấy giờ là một nền móng kiến trúc có diện tích 488,88 m, nằm trên cánh đồng Óc Eo, cách Giồng Cát về phía Đông khoảng 500 m và cách di tích Nam Linh Sơn trên triền núi Ba Thê khoảng 1.600 m về phía Tây. Năm 1999, một cuộc khai quật khác lại được tiến hành ở khu vực này, và đã tìm thấy một nền móng khác có diện tích là 194,555 m (dài 16, 7 m x rộng 11,65 m), nằm cách di tích trên có 22 m về hướng Bắc. Cả hai đều là loại kiến trúc cung đình mang tính chất tôn giáo, và có niên đại vào khoảng thế kỷ 6 đến thế kỷ 7 sau Công nguyên. Để phân biệt, các nhà khảo cổ đã gọi nền móng phát hiện năm 1944 là di tích Gò Cây Thị A, và nền móng phát hiện năm 1999 là di tích Gò Cây Thị B. Nhằm bảo tồn và phát huy giá trị, Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã xếp hạng hai di tích kiến trúc A và B ở Gò Cây Thị là "di tích khảo cổ" theo Quyết định số 39/2002/QĐ-BVHTT ngày 30 tháng 12 năm 2002, và là 2 trong số các di tích thuộc di tích khảo cổ và kiến trúc nghệ thuật Óc Eo – Ba Thê được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng "Di tích quốc gia đặc biệt" theo Quyết định số 1419/QĐ-TTg ngày 27 tháng 9 năm 2012 .
1
null
Tổng hội Sinh viên Sài Gòn - Gia Định là một tổ chức hợp pháp đại diện cho quyền lợi của sinh viên, bao gồm các hội sinh viên các trường đại học khu vực Sài Gòn và Gia Định trước năm 1975. Trong giai đoạn Chiến tranh Việt Nam, có thời gian tổ chức này chủ trì và tập hợp sinh viên tham gia các phong trào và hoạt động chống lại chính quyền Việt Nam Cộng hòa và chống lại sự hiện diện của Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam. Nhiều lãnh đạo của tổ chức này thực chất là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, như chủ tịch hội Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Hiếu Đằng... vì vậy trong giai đoạn 1967-1971 Tổng hội chịu sự điều khiển của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Sau sự kiện 30-4-1975, Tổng hội Sinh viên bị giải tán, nhiều thành viên lãnh đạo thân cộng sản tham gia và giữ các vị trí khác nhau trong chính quyền mới. Cần phân biệt rõ phong trào học sinh sinh viên chống chính quyền và chống Mỹ (do Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đứng đằng sau) và Tổng hội Sinh viên Sài Gòn. Có những thời điểm, Tổng hội là thủ lĩnh các phong trào đấu tranh chống chính quyền và chống Mỹ (giai đoạn 1967-1971). Khi Tổng hội do những người thân chính quyền Sài Gòn lãnh đạo, Tổng hội không tham gia hoạt động chống chính quyền. Thời điểm này, phong trào học sinh - sinh viên chống chính quyền do các lãnh tụ sinh viên thân cộng sản, có thể là thành viên các hội sinh viên của các trường thành viên của Tổng hội, lãnh đạo. Ra đời và cơ cấu tổ chức. Tổng hội Sinh viên Sài Gòn được thành lập năm 1963, trong thời kỳ đấu tranh chống lại chính quyền của Ngô Đình Diệm. Trụ sở của Tổng hội Sinh viên Sài Gòn đặt bên cạnh Hồ Con Rùa (nay là Nhà Văn hóa Thanh Niên Thành phố Hồ Chí Minh) Tổng hội Sinh viên Sài Gòn quy tụ 17 phân khoa. Chủ tịch ban đại diện 17 phân khoa mỗi năm họp lại và bầu ra Ban đại diện Tổng hội. Hai bên, một là Chính quyền Sài Gòn, hai là Thành đoàn Sài Gòn đứng sau là Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam bằng nhiều cách muốn nắm lấy Tổng hội Sinh viên. Thường có ít nhất hai liên danh tranh cử. Mỗi phân khoa được bầu một phiếu. Liên danh nào đạt 9 phiếu là thắng cử. Muốn có được 9 phiếu, trước hết phải ra tranh cử ở các lớp, vào ban đại diện các phân khoa, tranh cử chủ tịch ban đại diện sinh viên nhà trường. Hoạt động đấu tranh của Tổng hội Sinh viên Sài Gòn chống Mỹ mạnh mẽ nhất trong các giai đoạn lãnh đạo của Hồ Hữu Nhựt (1966-1967), Nguyễn Đăng Trừng (1967-1968), Nguyễn Văn Quỳ (1968-1969), và Huỳnh Tấn Mẫm (1969-1970). Đến 1971, liên danh Lý Bửu Lâm (khuynh hướng thân chính quyền Sài Gòn) đắc cử. Huỳnh Tấn Mẫm sau đó được bầu là Chủ tịch của Tổng hội Sinh viên Nam Việt Nam mới ra đời tháng 7/1971. Các thành viên lãnh đạo khác của Tổng hội gồm: Lê Văn Nuôi (Chủ tịch Tổng đoàn học sinh Sài Gòn), Nguyễn Hoàng Trúc (Tổng thư ký Tổng hội sinh viên Sài Gòn), Hạ Đình Nguyên (phó chủ tịch Tổng hội sinh viên Sài Gòn), Võ Như Lanh, Trịnh Đình Ban, Cao Thị Quế Hương, Trần Thị Lan, Trần Thị Huệ, Nguyễn Thành Công, Nguyễn Xuân Lập, Cao Lập, Lê Hiếu Đằng. Khoảng thời gian 1969 - 1972 là giai đoạn phong trào học sinh - sinh viên lên cao trào. Khí thế đấu tranh lan tỏa khắp đường phố Sài Gòn, được sự ủng hộ của nhiều thành phần, nhiều giới trong xã hội, từ tăng ni Phật tử, các ba má phong trào, công đoàn, đội ngũ dân biểu đối lập… cho đến Phó Tổng thống Chính quyền Sài Gòn Nguyễn Cao Kỳ, đại tướng Dương Văn Minh. Ban Chấp hành Tổng hội Sinh viên đã tan rã từ giữa năm 1972, vì Chính quyền Sài Gòn tiến hành bắt hết các lãnh đạo sinh viên, song song với việc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tấn công Việt Nam Cộng hòa tại chiến trường Quảng Trị. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa cũng lấy lại trụ sở Tổng Hội. Từ đầu năm 1973, các phong trào sinh viên tranh đấu ở Sài Gòn do cộng sản tổ chức phần lớn đã bị dập tắt. Các "lãnh tụ sinh viên học sinh" như Huỳnh Tấn Mẫm, Trịnh Đình Ban, Trần Thị Lan, Lê Văn Nuôi, Võ Như Lanh, Nguyễn Xuân Lập... đã bị kết án và vừa được trao trả tù binh theo Hiệp định Paris. Từ năm 1973 đến 1975, các lãnh tụ phong trào sinh viên chống chính quyền phải hoạt động bí mật, hoặc bị cầm tù. Các hoạt động nổi bật. Các phong trào và hoạt động của Tổng hội mục đích là: đòi hòa bình, chống sự can thiệp của Mỹ, chống quân sự hóa học đường, đòi thả tù chính trị, ủng hộ chính phủ liên hiệp hòa giải dân tộc, ủng hộ tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Phong trào học sinh - sinh viên này từng khiến chế độ Sài Gòn mất ăn mất ngủ. Các hoạt động nổi bật: Đánh giá. "Người Mỹ khi ấy cho rằng phong trào đấu tranh của học sinh - sinh viên còn "nguy hiểm hơn Việt Cộng" Thế hệ học sinh - sinh viên trước năm 1975 được ví như những "ông trời con" Theo tham luận Thành đoàn TP.HCM tại một hội thảo 2010 nhấn mạnh: Khu đoàn, Thành đoàn Sài Gòn - Gia Định trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã nêu cao ngọn cờ tập hợp, phát triển đa dạng các phong trào đấu tranh của thanh niên, sinh viên, học sinh đã góp phần quan trọng vào thắng lợi chung. Một số cựu lãnh đạo phong trào sinh viên Sài Gòn sau này đã đánh giá lại Đảng CSVN, như Lê Hiếu Đằng, Hạ Đình Nguyên, Huỳnh Tấn Mẫm.
1
null
Phẫu thuật thẩm mỹ là một chuyên ngành phẫu thuật liên quan đến việc phục hồi, tái thiết hoặc thay đổi cơ thể con người. Nó có thể được chia thành hai loại. Đầu tiên là phẫu thuật tạo hình bao gồm phẫu thuật sọ não, phẫu thuật tay, phẫu thuật vi phẫu và điều trị bỏng. Loại thứ hai là phẫu thuật thẩm mỹ. Trong khi phẫu thuật tạo hình nhằm mục đích tái cấu trúc một bộ phận của cơ thể hoặc cải thiện chức năng của nó, phẫu thuật thẩm mỹ nhằm mục đích cải thiện vẻ ngoài. Cả hai kỹ thuật này đều được sử dụng trên toàn thế giới. Lịch sử. Phương pháp điều trị cho việc sửa chữa tính thẩm mỹ của mũi bị gãy lần đầu tiên được đề cập trong giấy cói Edwin Smith, một phiên mã của một văn bản cổ đại về y học Ai Cập, một trong những chuyên luận phẫu thuật được biết đến lâu đời nhất, ngày đến Old Kingdom 3000-2500 TCN. Kỹ thuật phẫu thuật tái tạo đã được thực hiện ở Ấn Độ vào năm 800 TCN. Sushruta là một bác sĩ có những đóng góp quan trọng trong lĩnh vực phẫu thuật thẩm mỹ và đục thủy tinh thể vào thế kỷ thứ 6 TCN. Các tác phẩm y tế của cả Sushruta và Charaka, ban đầu bằng tiếng Phạn, đã được dịch sang tiếng Ả Rập trong thời Abbasid Caliphate vào năm 750 TCN. Các bản dịch tiếng Ả Rập đã đến châu Âu thông qua các trung gian. Tại Ý, gia đình Branca ở Sicily và Gaspare Tagliacozzi (Bologna) đã trở nên quen thuộc với các kỹ thuật của Sushruta. Các bác sĩ người Anh đã tới Ấn Độ để xem phẫu thuật nâng mũi được thực hiện bằng phương pháp Ấn Độ. Các báo cáo về phẫu thuật nâng mũi Ấn Độ được thực hiện bởi Kumhar Vaidya đã được công bố trên "Tạp chí quý ông" vào năm 1794. Joseph Constantine Carpue đã dành 20 năm ở Ấn Độ để nghiên cứu các phương pháp phẫu thuật thẩm mỹ tại địa phương. Carpue đã có thể thực hiện cuộc phẫu thuật lớn đầu tiên ở thế giới phương Tây vào năm 1815. Các nhạc cụ được mô tả trong "Sushruta Samhita" đã được sửa đổi thêm trong thế giới phương Tây. Người La Mã cũng thực hiện phẫu thuật thẩm mỹ. Người La Mã đã có thể thực hiện các kỹ thuật đơn giản, như sửa chữa tai bị hư hỏng, từ khoảng thế kỷ 1 TCN. Vì lý do tôn giáo, họ không mổ xẻ con người hay động vật, do đó kiến thức của họ hoàn toàn dựa trên các văn bản của các bậc tiền bối Hy Lạp. Mặc dù vậy, Aulus Cornelius Celsus đã để lại một số mô tả giải phẫu chính xác đáng ngạc nhiên, một số trong đó - ví dụ, nghiên cứu của ông về cơ quan sinh dục và bộ xương - đặc biệt quan tâm đến phẫu thuật thẩm mỹ. Trong 1465, cuốn sách của Sabuncu, mô tả và phân loại hypospadias là thông tin mới hơn và cập nhật. Cách địa phương hóa của thịt vùng niệu đạo được mô tả chi tiết. Sabuncuoglu cũng mô tả chi tiết mô tả và phân loại cơ quan sinh dục mơ hồ. Ở giữa châu Âu giữa thế kỷ 15, Heinrich von Pfolspeundt đã mô tả một quy trình "tạo mũi mới cho một người thiếu nó hoàn toàn, vì những con chó đã nuốt nó" bằng cách gỡ da khỏi lưng cánh tay và khâu vết thương tại chỗ Tuy nhiên, vì những nguy hiểm liên quan đến phẫu thuật dưới mọi hình thức, đặc biệt là liên quan đến đầu hoặc mặt, phải đến thế kỷ 19 và 20, phẫu thuật như vậy mới trở nên phổ biến. Cho đến khi việc sử dụng thuốc mê được thiết lập, các cuộc phẫu thuật liên quan đến các mô khỏe mạnh tạo ra đau đớn lớn. Nhiễm trùng từ phẫu thuật đã giảm bớt bằng cách giới thiệu các kỹ thuật vô trùng và khử trùng. Việc phát minh và sử dụng kháng sinh, bắt đầu với sulfonamid và penicillin, là một bước nữa để có thể phẫu thuật lựa chọn. Năm 1793, François Chopart đã thực hiện thủ thuật phẫu thuật trên môi bằng một cái kẹp vào cổ. Năm 1814, Joseph Carpue đã thực hiện thành công thủ tục phẫu thuật cho một sĩ quan quân đội Anh bị mất mũi do tác dụng độc hại của phương pháp điều trị thủy ngân. Năm 1818, bác sĩ phẫu thuật người Đức Carl Ferdinand von Graefe đã xuất bản tác phẩm lớn của mình mang tên "Rhinoplastik". Von Graefe đã sửa đổi phương pháp của Ý bằng cách ghép da miễn phí từ cánh tay thay vì vạt bàn chân bị trì hoãn ban đầu. Bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ đầu tiên của Mỹ là John Peter Mettauer, người, vào năm 1827, đã thực hiện ca phẫu thuật hở hàm ếch đầu tiên với các dụng cụ do ông tự thiết kế. Năm 1845, Johann Friedrich Dieffenbach đã viết một văn bản toàn diện về phẫu thuật nâng mũi, có tựa đề là "hoạt động Chirurgie", và đưa ra khái niệm mở lại để cải thiện vẻ ngoài thẩm mỹ của mũi tái tạo. Năm 1891, bác sĩ tai mũi họng người Mỹ John Roe đã trình bày một ví dụ về công việc của mình: một phụ nữ trẻ mà ông đã cắt bỏ bướu mũi cho chỉ định thẩm mỹ. Năm 1892, Robert Weir đã thử nghiệm không thành công với xenogcraft (xương ức vịt) trong việc tái tạo mũi chìm. Năm 1896, James Israel, một bác sĩ phẫu thuật tiết niệu từ Đức, và vào năm 1889, George Monks của Hoa Kỳ từng mô tả việc sử dụng thành công phương pháp ghép xương tự do không đồng nhất để tái tạo khiếm khuyết mũi yên. Năm 1898, Jacques Joseph, bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình người Đức, đã công bố ghi chép đầu tiên của mình về phẫu thuật hạ mũi. Năm 1928, Jacques Joseph đã xuất bản tác phẩm "Nasenplastik und Sonstige Gesichtsplastik". Phát triển các kỹ thuật hiện đại. Cha đẻ của phẫu thuật thẩm mỹ hiện đại thường được coi là Sir Harold Gillies. Một bác sĩ tai mũi họng người New Zealand làm việc tại London, ông đã phát triển nhiều kỹ thuật phẫu thuật khuôn mặt hiện đại trong việc chăm sóc những người lính bị biến dạng khuôn mặt trong Thế chiến thứ nhất. Trong Thế chiến I, ông làm việc với tư cách là một cố vấn y tế với Quân đoàn Y tế Hoàng gia. Sau khi làm việc với bác sĩ phẫu thuật miệng và maxillofacial nổi tiếng của Pháp Hippolyte Morestin về ghép da, ông đã thuyết phục bác sĩ phẫu thuật trưởng của quân đội, Arbuthnot-Lane, thành lập một phòng điều trị chấn thương mặt tại Bệnh viện Quân đội Cambridge, Alderhot, sau đó nâng cấp lên một bệnh viện mới để sửa chữa khuôn mặt tại Sidcup năm 1917. Ở đó, Gillies và các đồng nghiệp đã phát triển nhiều kỹ thuật phẫu thuật thẩm mỹ; hơn 11.000 ca phẫu thuật đã được thực hiện trên hơn 5.000 người đàn ông (chủ yếu là binh sĩ bị thương ở mặt, thường là do vết thương do súng bắn).Sau chiến tranh, Gillies đã phát triển thực hành y tế tư nhân với Rainsford Mowlem, bao gồm nhiều bệnh nhân nổi tiếng và thực hiện đi du lịch rộng rãi để quảng bá các kỹ thuật tiên tiến của mình trên toàn thế giới. Vào năm 1930, anh em họ của Gillies, Archibald McIndoe, đã tham gia thực hành và tập trung vào phẫu thuật thẩm mỹ. Khi Thế chiến II nổ ra, việc thực hiện phẫu thuật thẩm mỹ phần lớn được phân chia giữa các dịch vụ khác nhau của các lực lượng vũ trang, và Gillies đã bị tách rời khỏi các người khác trong nhóm của ông. Bản thân Gillies đã được gửi đến Rooksdown House gần Basingstoke, nơi trở thành đơn vị phẫu thuật thẩm mỹ chính của quân đội; Tommy Kilner (người đã làm việc với Gillies trong Thế chiến thứ nhất, và hiện đang có một dụng cụ phẫu thuật mang tên ông, thiết bị căng má lò xo), đã đến Bệnh viện Queen Mary, Roehampton, và Mowlem đến St Albans. McIndoe, cố vấn của RAF, chuyển đến Bệnh viện Queen Victoria mới được xây dựng lại ở East Grinstead, Sussex và thành lập một Trung tâm Phẫu thuật Hàm thẩm mỹ. Ở đó, ông điều trị các vết bỏng rất sâu, và biến dạng nghiêm trọng trên khuôn mặt, chẳng hạn như mất mí mắt, điển hình của những trường hợp các phi công bị bỏng do nhiên liệu bị đốt cháy. McIndoe thường được công nhận không chỉ với phát triển các kỹ thuật mới để điều trị mặt và tay bị bỏng nặng mà còn nhận ra tầm quan trọng của việc phục hồi thương vong và đặc biệt là tái hòa nhập xã hội trở lại cuộc sống bình thường. Ông đã vứt bỏ "đồng phục nghỉ dưỡng" và để bệnh nhân sử dụng đồng phục riêng của họ. Với sự giúp đỡ của hai người bạn, Neville và Elaine Blond, ông cũng đã thuyết phục được người dân địa phương hỗ trợ bệnh nhân và mời họ đến nhà của họ để chăm sóc. McIndoe liên tục gọi họ là "chàng trai của mình" và các nhân viên gọi anh ta là "Ông chủ" hoặc "Maestro".   Công việc quan trọng khác của ông bao gồm phát triển phương pháp ghép da đi bộ và phát hiện ra rằng ngâm trong nước muối thúc đẩy quá trình chữa lành cũng như cải thiện tỷ lệ sống sót cho các nạn nhân bị bỏng rộng - đây là một khám phá tình cờ được rút ra từ việc quan sát tỷ lệ chữa lành khác biệt ở những người phi công khi họ rơi xuống đất và xuống biển. Các phương pháp điều trị thử nghiệm triệt để của ông đã dẫn đến sự hình thành Câu lạc bộ Guinea Pig tại Bệnh viện Queen Victoria, Sussex. Trong số các thành viên nổi tiếng của "câu lạc bộ" này có Richard Hillary, Bill Foxley và Jimmy Edwards.
1
null
Tần Phong (chữ Hán: 秦丰, ? – 29), người hương Lê Khâu, huyện Kỵ (hoặc Kỳ, chữ Hán: 邔) , Nam Quận, Kinh Châu , thủ lĩnh quân phiệt cuối đời Tân, đầu đời Đông Hán. Cuộc đời. Thiếu thời, Phong du học ở Trường An, học luật lệnh, hồi hương làm huyện lại. Năm Địa Hoàng thứ 2 (21), ông khởi binh, chiếm cứ hương Lê Khâu . Năm Canh Thủy thứ 2 (24), tự xưng Sở Lê vương . Năm Kiến Vũ thứ 2 (26), nắm giữ 12 huyện . Tháng 7 năm thứ 3 (27), Chinh nam đại tướng quân Sầm Bành tiến đánh Lê Khâu, Phong cùng bộ tướng Thái Hoành cố thủ huyện Đặng thuộc quận Nam Dương, quân Hán vài tháng không thể tiến quân. Bành ban lệnh tiến đánh Sơn Đô thuộc quận Nam Dương, rồi thả những tù binh vốn là binh sĩ của ông, để bọn họ quay về báo tin cho Phong. Trong lúc ông đưa quân sang phía tây, Bành ở phía đông đánh bại bộ tướng của Phong là Trương Dương đang phòng thủ ở núi A Đầu, huyện Tương Dương thuộc quận Nam Dương, sau đó tiến đến Lê Khâu, dẹp được tất cả các cánh quân đồn trú xung quanh nơi này. Ông vội đưa quân về cứu, Bành dựa Đông Sơn lập doanh trại. Phong và Thái Hoành trong đêm nổi trống tấn công, nhưng Bành đã có chuẩn bị, ông bị đánh cho đại bại, Thái Hoành tử trận; bộ tướng Triệu Kinh dâng Nghi Thành thuộc Nam Quận hàng Hán, hợp binh với Bành vây Lê Khâu . Cuối năm, bộ tướng của Phong là Trương Thành cùng thủ lĩnh quân phiệt vừa chạy từ Hán Trung đến Nam Dương là Duyên Sầm tấn công Đông Dương tụ, huyện Dục Dương thuộc quận Nam Dương, thất bại, Trương Thành tử trận, Sầm chạy đến chỗ Tần Phong. Trong thời gian này, thủ lĩnh quân phiệt ở Di Lăng thuộc Nam Quận là Điền Nhung đến cứu Lê Khâu, bị Sầm Bành đánh bại. Sử cũ chép ông gả con gái cho Sầm, Nhung, nhưng không nói rõ vào thời gian nào!? Bởi trước khi đi cứu Lê Khâu, Nhung đã có vợ khác . Tháng 2 năm thứ 4 (28), Phong phái Sầm tấn công Thuận Dương thuộc quận Nam Dương, Sầm bị tướng Hán là Đặng Vũ đánh bại, chạy đến Hán Trung . Tháng 11, Kiến nghĩa đại tướng quân Chu Hỗ thay Sầm Bành bao vi Lê Khâu, còn Bành thảo phạt Điền Nhung . Tháng 12, Quang Vũ đế thân chinh Lê Khâu, khuyên hàng Phong, nhưng ông không chịu đầu hàng. Quang Vũ đế mệnh cho Chu Hỗ phải giết Phong không tha, rồi quay về Lạc Dương. Chu Hỗ tận lực tấn công, đến tháng 6 năm sau (29), Phong khốn cùng, đưa mẹ cùng vợ con 9 người, cởi trần ra hàng. Hỗ không nỡ giết, bỏ xem tù đưa về Lạc Dương. Quang Vũ đế không bắt tội Hỗ, nhưng vẫn xử tử Phong.
1
null
Congo thuộc Bỉ (, , ) là thuộc địa của Bỉ ở Trung Phi, nay là Cộng hòa Dân chủ Congo. Ngày 15 tháng 11 năm 1908, do lâm vào hoàn cảnh bế tắc Vua Leopold II đã từ bỏ quyền kiểm soát Nhà nước Tự do Congo, đồng thời chính thức sáp nhập vào thuộc địa của Bỉ. Mãi đến ngày 30 tháng 6 năm 1960 quốc gia này mới được độc lập.
1
null
Nguyễn Hữu Thái (sinh 1940) là một kiến trúc sư, chủ tịch đầu tiên của Tổng hội Sinh viên Sài Gòn (1963 -1964), sau đó hoạt động cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Ông là người có mặt, nhân chứng, trong phòng tại đài phát thanh Sài Gòn thời khắc khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Ông và nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là những người lên tiếng sớm nhất trên đài phát thanh Sài Gòn để đón chào chiến thắng 30-4-1975 của quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong Chiến tranh Việt Nam sau khi tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Tiểu sử. Nguyễn Hữu Thái sinh tại Đà Nẵng, học Trường Kiến trúc và Luật khoa, Viện Đại học Sài Gòn. Ông hoạt động tích cực trong phong trào đấu tranh của thanh niên, sinh viên, học sinh miền Nam từ 1960 tới 1975 và được bầu làm Chủ tịch đầu tiên của Tổng hội Sinh viên Sài Gòn (1963 -1964). Thời kỳ này, Nguyễn Hữu Thái tổ chức và tham gia nhiều hoạt động sôi nổi: như kêu gọi sinh viên xuống đường, biểu tình phản đối Mỹ can thiệp vào nội bộ Việt Nam, phát động đấu tranh sinh viên chống tướng Nguyễn Khánh, đỉnh điểm la biểu tình chống tướng Nguyễn Khánh năm 1964. Ông từng đi tù 4 năm dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu. Sau 1975 mặc dù có liên hệ với Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam, nhưng do có nhiều mối quan hệ với người Mỹ, ông bị chính quyền Cộng sản nghi ngờ, sống rất vất vả. Mãi đến năm 2000, lý lịch của Nguyễn Hữu Thái mới được làm sáng tỏ. Từ năm 1990 đến 1995, ông sinh sống và nghiên cứu ở phương Tây, có quốc tịch Canada, sau đó quay về làm việc trong nước, nghiên cứu, viết sách báo. Thư mục. Sách đã in: -Hành trang bước vào thiên niên kỷ, 2001, Nhà xuất bản Trẻ, TP.HCM -Những vấn đề kiến trúc đương đại Việt Nam, 2002, Nhà xuất bản Xây dựng, Hà Nội -Xu hướng mới kiến trúc-đô thị thế giới và Việt Nam thời hội nhập, 2003, Nhà xuất bản Xây dựng, Hà Nội -Thư gửi bạn trẻ - khơi dậy nguồn lực để vươn lên, 2007, Nhà xuất bản Trẻ, TP.HCM -Chuyện ít biết về ngày giải phóng Sài Gòn 30/4/1975, 4/2013, Nhà xuất bản Lao động & Phương Nam Book, TP.HCM Đồng tác giả: -Nhà ở nông thôn Nam Bộ, 1984, Nhà xuất bản Tổng hợp TP.HCM -Thế hệ kiến trúc sư Việt Nam đầu tiên, 2008, Nhà xuất bản Văn hóa & Thông tin, Hà Nội -Nửa thế kỷ kiến trúc Việt Nam, 2010. Nhà xuất bản Thời đại, Hà Nội.
1
null
Jesse Woodson James (sinh ngày 5 tháng 9 năm 1847 - mất ngày 3 tháng 4 năm 1882) là người Mỹ sống ngoài vòng pháp luật, lãnh đạo băng đảng, cướp ngân hàng, cướp tàu và là kẻ giết người nổi danh trong giới giang hồ ở bang Missouri. Ông là thủ lĩnh của băng cướp James-Younger và ông là một tên cướp khét tiếng gây sợ hãi cho nhiều người giàu có trong thời loạn lạc của cuộc nội chiến nước Mỹ (1861–1865). Khi còn sống ông đã nổi tiếng, đến khi mất ông trở thành nhân vật huyền thoại ở miền Tây Hoa Kỳ
1
null
Girls' Generation World Tour Girls & Peace là chuyến lưu diễn thứ năm và là chuyến lưu diễn thế giới đầu tiên của nhóm nhạc Hàn Quốc Girls' Generation. Chuyến lưu diễn đã được chính thức công bố vào tháng 4 năm 2013 với hai đêm ở Hàn Quốc và kế hoạch trong tương lai là đi toàn thế giới. Lịch sử. Chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới này đã được chính thức công bố bởi công ty của họ SM Entertainment vào ngày 26 tháng 4 năm 2013, với hai ngày ở Seoul, Hàn Quốc tại sân vận động Olympic Park. Chuyến lưu diễn này là chuyến lưu diễn thế giới đầu tiên của Girls' Generation sau khi họ đã đi lưu diễn Châu Á và Nhật Bản năm lần trước và chỉ một tuần sau khi hoàn thành tour diễn vòng quanh Nhật Bản thứ hai của họ," Girls & Peace Japan 2nd Tour." Đêm diễn ở Seoul là lần đầu tiên nhóm thực hiện riêng cho mình đêm diễn ở Hàn Quốc trong hai năm tính từ tour diễn 2011 Girls' Generation Tour vào tháng 7 năm 2011. Vé cho đêm diễn ở Hàn Quốc được bán ở G-Market vào ngày 9 tháng 5. Kế hoạch cho tour diễn và vé của các buổi hòa nhạc dành riêng cho người hâm mộ ở nước ngoài đã được công bố đồng thời thông qua SM Entertainment "Culture & Content" website. Vào ngày 5 tháng 6, buổi biểu diễn tại Đài Loan được công bố diễn ra ở Nhà thi đấu Đài Bắc, vào ngày 20 và 21, 2013. Tại buổi họp báo vào ngày 8 tháng 6, SNSD đã công bố rằng họ sẽ được hướng đến Hoa Kỳ và Nam Mỹ sau buổi biểu diễn của nhóm tại Đài Bắc vào tháng Bảy. Vào ngày 22 tháng 6 năm 2013, nhóm công bố tại "2013 Asia Style Collection" được tổ chức tại Singapore rằng họ sẽ trở về thành phố này trong tour diễn. Vào ngày 2 tháng 8 năm 2013, Dyandra Entertainment, một nhà tài trợ ở Indonesia đã công bố buổi diễn ở Jakarta thông qua tài khoản Twitter của họ. Buổi hòa nhạc ở Indonesia được tổ chức vào ngày 14 tháng 9 năm 2013 tại sân vận động quốc tế Mata Elang, Alcohol, Bắc Jakarta. Đây là buổi diễn solo đầu tiên của Girls' Generation ở đất nước này. Vào ngày 15 tháng 8 năm 2013, Giám đốc điều hành của Running Into The Sun - Beatrice Chia-Richmond - thông báo rằng buổi diễn tại Singapore sẽ được tổ chức vào ngày 12 tháng 10 năm 2013. 8,000 tấm vé đã hết sạch chỉ sau một ngày bán ra. Vào ngày 01 tháng 11 năm 2013, Facebook chính thức của SM True, một nhà sáng lập của SM Entertainment ở Thái Lan thông báo rằng buổi biểu diễn tại Thái Lan sẽ được tổ chức vào ngày 11 tháng 1 năm 2014 tại Impact, Muang Thong Thani. Đêm diễn ở Bangkok, Thái Lan đã diễn ra thành công với 12,000 tấm vé được bán ra trong vòng 10 phút. Vào ngày 15 tháng 2 năm 2014, trong đêm diễn của nhóm ở Ma Cao, Taeyeon đã thông báo rằng Ma Cao là điểm dừng chân cuối cùng của chuyến lưu diễn, tuy nhiên một chuyến lưu diễn thế giới khác sẽ được bắt đầu sớm. Sooyoung nói thêm rằng sau chuyến lưu diễn vòng quanh Nhật Bản thứ ba của họ, GIRLS’ GENERATION ~LOVE&PEACE~ Japan 3rd Tour, sẽ có thêm một chuyến lưu diễn mới để quảng bá cho mini album Mr.Mr..
1
null
Thành phố tự do Danzig (; ) là một thành bang bán tự trị từng tồn tại giữa các năm 1920 và 1939, bao gồm hải cảng Danzig (ngày nay là Gdańsk) tại biển Baltic và gần 200 thị trấn ở khu vực xung quanh, ra đời ngày 15 tháng 11 năm 1920 chiếu theo Điều 100 (chương XI của phần III) của Hiệp ước Versailles 1919. Thành phố tự do này gồm có thành phố Danzig và các thị trấn, làng mạc và các khu định cư lân cận, những nơi trước đó bị chủng tộc Đức chiếm đóng. Theo như Hoà ước tuyên bố, khu vực này là tách biệt với nước Đức cũng như quốc gia Ba Lan mới độc lập, nhưng nó không phải một quốc gia độc lập. Thành phố tự do này được đặt dưới sự bảo vệ của Hội Quốc Liên và thuộc liên minh thuế quan bắt buộc với Ba Lan. Ba Lan được toàn quyền duy trì và phát triển ngành vận tải, truyền thông và các thiết bị hải cảng tại thành phố này. Thành phố tự ra đời nhằm cho phép Ba Lan tiếp cận một hải cảng tầm cỡ, trong khi 95% dân số thành phố là người Đức. Người Ba Lan thiểu số trong thành phố tiếp tục bị áp bức và Đức hoá bởi những nhà cầm quyền người Đức địa phương. Họ đối mặt với sự căm giận rất lớn từ người Đức và chính quyền địa phương duy trì những chính sách phân biệt đối xử và đàn áp người Ba Lan.. Năm 1933, chính quyền thành phố bị kiểm soát bởi Đảng Quốc xã địa phương, họ đàn áp phe dân chủ đối lập. Để tránh bị khủng bố và bức hại, nhiều người Do Thái đã chạy trốn. Sau khi Đức xâm lược Ba Lan năm 1939, Đức Quốc xã đã thủ tiêu Thành phố tự do và sáp nhập khu vực này vào Reichsgau mới thành lập của Reichsgau Danzig-Tây Phổ. Người Đức phân loại người Ba Lan và người Do Thái là hạ đẳng, bắt họ phải chịu sự phân biệt đối xử, lao động cưỡng bức và bị diệt chủng. Nhiều người đã chết trong các trại tập trung. Trong lúc Hồng quân tấn công thành phố đầu năm 1945, nhiều dân thường đã chạy trốn hoặc bị giết hại. Sau chiến tranh, nhiều người chủng tộc Đức còn sống sót đã bị đày và trục xuất sang phía Tây khi những người thiểu số Ba Lan quay lại nơi đây. Cuối cùng thành phố trở thành một phần của Ba Lan, là hệ quả của thỏa thuận Potsdam.
1
null
Aphyosemion australe là một loài cá nước ngọt thuộc họ Nothobranchiidae. Chúng được tìm thấy xung quanh Cape Lopez và trong khu vực xung quanh tại Gambon. Hình dáng. Cơ thể "A. australe" có nhiều màu. Phổ biến nhất là màu sô cô la, vàng và cam. Con đực có thể đạt đến chiều dài khoảng 6 cm, con cái thì hơi nhỏ hơn. Con cái cũng ít màu sắc; thường là màu nâu nhạt, và có vây tròn.
1
null
Aphyosemion bivittatum (Cá đuôi đàn lia hai sọc) là một loài cá nước ngọt thuộc họ Nothobranchiidae. Nó được tìm thấy ở những con sông ở đông nam Nigeria và Tây Nam Cameroon. Diện mạo. "A. bivittatum" có một cơ thể màu sắc rực rỡ kéo dài với hai sọc đen chạy dọc theo mỗi bên. Con đực có chiều dài cơ thể tối đa khoảng 5 cm. Nó có 10-13 gai ở vây lưng và 12-15 ở vây hậu môn của nó. Tập tính. Các cá thể loài thường được tìm thấy trong các vùng có nồng độ calci trong hơi nước hơi cao ở những khu rừng nhiệt đới ven biển phía đông nam Nigeria và tây nam Cameroon. Chúng thường sống trên mặt nước, và thích hợp với môi trường nước có độ pH 6-6,5 và nhiệt độ từ 22 đến 24oC. "A. bivittatum" chỉ mới được phát hiện sinh sống trong 5 khu vực, và dự đoán chúng không phổ biến nhiều hơn 10 vùng. Điều này cùng với những mối đe dọa đến môi trường sống của chúng chẳng hạn như nạn phá rừng, cho nên chúng được phân loại là loài dễ bị tổn thương.
1
null
Tổ chức BioLogos, do Francis Collins sáng lập năm 2007, quy tụ những tín hữu Tin Lành muốn đóng góp cho công luận về mối tương quan giữa khoa học với tôn giáo, đồng thời nhấn mạnh đến sự tương thích giữa khoa học và đức tin Cơ Đốc. Francis Collins phục vụ trong cương vị chủ tịch cho đến khi từ nhiệm ngày 16 tháng 8 năm 2009 để trở thành Giám đốc thứ 16 của Viện Y tế Quốc gia. Darek Falk kế nhiệm Collins cho đến cuối năm 2012. Ngày 28 tháng 1 năm 2013, Deborah Haarsma được bổ nhiệm tân chủ tịch với Jeffrey Scholoss phụ trách học thuật. Karl Giberson, nhà vật lý học cũng là học giả về thuyết tiến hóa và thuyết sáng tạo, từng phục vụ trong cương vị phó chủ tịch cho đến khi từ nhiệm để có thể dành nhiều thời gian hơn cho khảo cứu và viết sách. Mục tiêu. Sau khi xuất bản quyển Ngôn ngữ của Chúa trong năm 2006, Collins cho biết ông nhận hàng ngàn thư điện tử từ những người muốn tìm hiểu về mối quan hệ giữa Kinh Thánh với khoa học. BioLogos được thành lập nhằm cung cấp câu giải đáp cho những tra vấn này, đồng thời cổ xúy tinh thần hòa hợp giữa khoa học và đức tin. Mặc dù cộng đồng Tin Lành là thành phần độc giả chính của "BioLogos", Collins hi vọng rằng những người hoài nghi, những ai đang tìm hiểu, và những người thuộc các tôn giáo khác sẽ nhận thấy đây là một "website" hữu ích. Trang chủ. Trang chủ của BioLogos ra mắt ngày 28 tháng 4 năm 2009, cung cấp nguồn tra cứu và tham khảo cho những ai quan tâm đến sự tương thích giữa khoa học và tôn giáo. Tại đây người đọc có thể tìm thấy trong mục "Questions" những câu trả lời như là sự hồi đáp cho nhiều thư điện tử gởi đến Collins sau khi cuốn Ngôn ngữ của Chúa đến tay bạn đọc "bằng cách cung cấp những câu trả lời ngắn gọn nhưng chi tiết về các chủ đề được chú ý nhiều nhất trong lĩnh vực khoa học và đức tin", trong đó có những chủ đề như "Tiến hóa là gì?", và "Khoa học và chân lý Kinh Thánh có thể hòa hợp với nhau?" Có ít nhất là một học giả xem xét mỗi câu hỏi liên quan đến lĩnh vực chuyên môn của mình. Mục "Conversations" giới thiệu những cuộc phỏng vấn có ghi hình như "In Search of a Theology of Celebration" (tháng 11 năm 2009), trong đó những người tham dự bày tỏ ý kiến của họ về nhiều chủ đề, từ việc luận giải Sáng Thế Ký đến vấn đề làm thế nào để nhận ra sự hòa hợp giữa khoa học và đức tin. Tương tự, blog "Science and the Sacred" của Trang chủ trình bày những suy tưởng về khoa học, đức tin cũng như trải nghiệm hội nhập của các thành viên và của những người đóng góp. Phản hồi. Tổ chức BioLogos bị chỉ trích từ hai phía: nhóm theo thuyết sáng tạo và những người vô thần. Trả lời Tạp chí Time, Ken Ham, Chủ tịch tổ chức "Answers in Genenis" và Creation Museum – chủ trương quảng bá thuyết sáng tạo- nhận xét, "những người thỏa hiệp như Collins làm người khác nghi ngờ và mất niềm tin vào Kinh Thánh – khiến họ từ bỏ giáo hội." Trong khi đó, một giáo sư sinh học của Đại học Chicago và là một người vô thần, Jerry Coyne, gọi tổ chức này là "nỗ lực cuối cùng cố cưỡng bức khoa học hòa hợp với đức tin", và là "sự quyết tâm đáng thất vọng nhằm chứng minh rằng Cơ Đốc giáo bảo thủ và sự tiến hóa là bằng hữu với nhau." Trong số những người ủng hộ Tổ chức BioLogos có cây bút chính luận của tờ Washington Post, Kathleen Parker, nhận xét rằng mục tiêu của tổ chức là "giúp các tín hữu truyền thống trở nên cởi mở hơn, thì đó chỉ có thể là điều tốt cho nền văn minh", còn Timothy Keller, tác giả quyển The Reason for God và là Quản nhiệm Nhà thờ Trưởng Lão Redeemer ở Thành phố New York, phát biểu, "Tổ chức BioLogos đã cống hiến bước khởi đầu quan trọng hướng về một cuộc đối thoại sâu sắc giữa khoa học và đức tin".
1
null
Khủng hoảng Spunik là những phản ứng của Hoa Kỳ trước thành công của chương trình Sputnik. Đây là một sự kiện quan trọng trong Chiến tranh Lạnh bắt đầu từ ngày 4 tháng 10 năm 1957 khi Liên Xô phóng thành công Sputnik 1, vệ tinh nhân tạo đầu tiên của Trái Đất. Vụ phóng "Sputnik I" của Liên Xô và hai thử nghiệm dự án Vanguard thất bại của Mỹ đã gây xôn xao công chúng Hoa Kỳ, Tổng thống Dwight D. Eisenhower đã gọi đây là "Khủng hoảng Sputnik". Mặc dù bản thân Sputnik là vô hại, việc phóng nó đã nêu bật mối đe dọa liên tục mà Hoa Kỳ đã nhận thấy từ Liên Xô kể từ khi chiến tranh Lạnh nổ ra sau thế chiến thứ hai. Tên lửa đã đẩy Sputnik cũng có thể đưa một đầu đạn hạt nhân đến bất cứ đâu trên thế giới chỉ trong vài phút, chọc thủng chiến hào đại dương, thứ đã bảo vệ thành công Hoa Kỳ lục địa khỏi bị tấn công trong cả hai cuộc thế chiến. Trước đó, người Liên Xô đã chứng minh khả năng này vào ngày 21 tháng 8 bằng một chuyến bay thử nghiệm 6.000 km thành công của Tên lửa R-7; Cục Điện báo Liên Xô đã thông báo về vụ thử nghiệm 5 ngày sau đó và sự kiện này được truyền thông rộng rãi trên Aviation Week và các báo đài khác. Chưa đầy một năm sau sự kiện phóng Sputnik, Quốc hội Mỹ đã thông qua Đạo luật Giáo dục Quốc phòng (NDEA). Luật này là một chương trình 4 năm tiêu tốn hàng tỷ đô la vào hệ thống giáo dục Hoa Kỳ. Sau cú sốc dư luận ban đầu, cuộc chạy đua vào không gian bắt đầu, dẫn đến sự kiện con người lần đầu bay vào không gian, chương trình Apollo và những người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng năm 1969.
1
null
Trại Lao động Mã Tam Gia () là một trại cải tạo giáo dục thông qua địa điểm trại lao động ở huyện Vu Hồng (于洪) gần Trầm Dương, tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc. Cơ sở này đôi khi được gọi là "Trường giáo dục tư tưởng của tỉnh Liêu Ninh" Nó được thành lập đầu tiên vào năm 1956 dưới hình thức lao động giáo dưỡng, hoặc chính sách "lao giáo" của Trung Quốc và được mở rộng vào năm 1999 để bắt giữ và "giáo dưỡng" những học viên Pháp Luân Công. Theo các cựu tù nhân, các học viên Pháp Luân Công chiếm tới 50-80% các tù nhân trong trại. Các tù nhân khác bao gồm các tội phạm nhỏ, gái mại dâm, người nghiện ma túy, người khiếu kiện, và các thành viên của tôn giáo thiểu số không được chấp thuận khác, chẳng hạn như giáo hội Cơ Đốc ngầm. Những học viên Pháp Luân Công đã nhiều lần tìm cách công bố công khai về các vụ vi phạm nhân quyền ở trong những trại lao động, chúng được miêu tả giống như những nơi khét tiếng nhất ở Trung Quốc. Ngoài thực hiện lao động cưỡng bức, các tù nhân bị cáo buộc tra tấn bằng dùi cui điện, bức thực, bị biệt giam trong thời gian dài, và các hình thức lạm dụng khác. Những cáo buộc đã nhận được sự chú ý của quốc tế vào năm 2013 khi một tạp chí phơi bày về trại cưỡng bức Mã Tam Gia và sau đó nhanh chóng bị kiểm duyệt ở Trung Quốc. Sự thành lập. Trại Lao động Mã Tam Gia được thành lập vào ngày 9 tháng 3 năm 1956. Theo thông lệ của các trại cải tạo lao động ở Trung Quốc, các tù nhân có thể bị đưa vào trại mà không cần qua xét xử, thường là những tội nhỏ nhặt hoặc là tội phạm chính trị. Vào tháng 7 năm 1999, cựu chủ tịch Giang Trạch Dân khởi xướng một chiến dịch Đàn áp Pháp Luân Công, một môn khí công cổ truyền ở Trung Quốc, ước tính có hàng chục triệu người theo học. Những người đã từ chối từ bỏ tập luyện Pháp Luân Công sẽ bị đưa đến các trại lao động để tiến hành "chuyển hóa." Để thực hiện chiến dịch này, trại lao động Mã Tam Gia đã được mở rộng vào tháng 10 năm 1999, và Nữ sư đoàn 2 được thành lập để giam giữ các học viên Pháp Luân Công. Sau đó nó được sáp nhập với Nữ sư đoàn 1. Số lượng tù nhân. Theo tờ báo "New York Times" công bố tháng 6 năm 2003, Pháp Luân Công và các thành viên của Cơ đốc giáo dưới đất chiến số lượng lớn các tù nhân; cũng có gái mại dâm, kẻ nghiện ma túy và dân oan, những người dân kiên trì kêu oan hơn là nhẫn nại đối với chinh quyền địa phương. Các cựu tù nhân miêu tả cưỡng bức lao động và hành hạ rất những học viên Pháp Luân Công kiên trì không từ bỏ đức tin của họ, vì mục tiêu lâu dài và sâu rộng. Mặc dù chính quyền Trung Quốc không tiết lộ chính xác số lượng học viên Pháp Luân Công bị giam giữ trong các cải tạo giáo dục thông qua các trại lao động, họ đã xác nhận có ít nhất 470 học viên Pháp Luân Công đã bị bắt giữ vào tháng 1 năm 2001. Vào tháng 8 năm 2001, phương tiện truyền thông chính thức của Trung Quốc đã báo cáo các trại lao động đã "thành công trong việc ‘chuyển hóa’ hơn 90% trong số hơn 1,000 nữ học viên Pháp Luân Công". Theo trang web của Trung Quốc "Quyền Dân Sự và Dân sinh", Như năm 2010, đã có bốn đội trong trại với 200-300 tù nhân mỗi đội. Nhân chứng trong tuyên bố trại có khoảng 80% số các tù nhân Pháp Luân Công, phần còn lại là dân oan với khiếu nại chung chống lại chính phủ. Cáo buộc tra tấn. Đã có báo cáo liên tục sự tra tấn và vi phạm nhân quyền khác đã phạm phải tại trại lao động Mã Tam Gia. Theo cựu tù nhân phỏng vấn bởi tờ New York Times, sự hành hạ lâu nhất và nghiêm trọng nhất đã xảy ra đối với các học viên Pháp Luân Công, nhưng các nhóm khác cũng bị lạm dụng tương tự. Viên Linh, một nhà báo của Trung Quốc đã dành 7 năm để phỏng vấn các cựu tù nhân ở trại lao động Mã Tam Gia, nói rằng tra tấn thể xác ở trong trại là thường xuyên, và một số phụ nữ đã bị tàn phế. Một tiết lộ bởi Yuan ở tờ báo "Lens Magzine" ở Trung Quốc đã miêu tả các loại phương pháp tra tấn khác nhau được sử dụng trong trại, trong đó các tù nhân được báo cáo là bị shock bằng dùi cui điện vào mặt, "treo hai tay lên và bị đánh đập." Một phương pháp khác được miêu tả trong tạp chí là "Ghế Cọp", trong đó Cảnh sát tàn bạo sử dụng "ghế cọp" đối với các học viên Pháp Luân Công. Thường dùng dây nịt cột chặt chỗ đầu gối vào cái ghế dài, trong khi bàn chân kê cao lên, ghìm dây nịt mãi đến khi đứt cả dây. Học viên liên tục không ngừng bị hành hạ trong thời gian dài, thường bị đau đến ngất xỉu chết đi sống lại, đau đớn tột cùng. "Giường tử hình", giường căng thẳng bốn tay và chân bị kéo căng ra và xa nhau mà không thể cử động một thời gian dài. "không một lỗ hổng nào khiến bạn không thể đi vệ sinh được", theo tờ báo "International Herald Tribune". Các cựu tù nhân cũng miêu tả bị biệt giam vài tháng trong những phòng nhỏ rộng 2 mét vuông. Trong những phòng đó người phụ nữ không được tiếp cận với nhà vệ sinh và phải đi vệ sinh trên sàn. Vương Xuân Anh, người đã bị giam cầm ở Mã Tam Gia năm 2007, nói với tờ "[Japan Times]" rằng cô đã bị kéo căng ra và bị còng tay vào hai chiếc giường nhỏ, cô không được ăn, uống hoặc ngủ trong 16 giờ. Một cựu tù nhân khác nói rằng cô bị còng tay vào một cái cửa ở vị trí đứng yên trong vài tuần liên tiếp. Kinh tế của trại. Theo một báo cáo tổng hợp vào năm 2013, các sản phẩm, bao gồm quân phục được sản xuất cho thị trường nội địa, một số được sản xuất để xuất khẩu. những người lao động đôi khi là các tù nhân được mua ở các khu pháp lý địa phương. Tin tức được đưa ra trên truyền thông. Vào ngày 23 Tháng mười hai 2012, "The Oregonian" báo cáo rằng một người phụ nữ Mỹ, cô Julie Keith, đã tìm thấy một lá thư viết xen kẽ bằng tiếng Trung và tiếng Anh, nhét trọng một món quà trang trí Halloween, được bán tại một siêu thị của Kmart. Bức thư đã được xác thực và được minh chứng bởi CNN. Nội dung bức thư: ""Thưa ngài: Nếu quý ngài tình cờ mua sản phẩm này, làm ơn hãy chuyển bức thư này tới Tổ chức Nhân quyền Thế giới. Hàng nghìn người ở đây đang chịu sự đàn áp của nhà cầm quyền Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ vĩnh viễn nhớ ơn quý ngài." "Sản phẩm này được sản xuất tại Sở 2 Đại đội 8 Trại lao động cưỡng bức Mã Tam Gia, thuộc Thẩm Dương tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc." "Người làm ở đây phải lao động 15 giờ mỗi ngày, không được nghỉ cuối tuần, nếu không sẽ bị đánh và chửi, hầu như không có tiền công (chỉ nhận 10 nhân dân tệ/tháng [khoảng 33.000 VND])" "Người làm ở đây trung bình bị phạt 1-3 năm, nhưng không có phán quyết của tòa án, bị bắt giam và cưỡng bức lao động một cách phi pháp. Rất nhiều người trong số họ là học viên Pháp Luân Công, những người hoàn toàn vô tội, nhưng chỉ vì có tín ngưỡng khác với quan điểm của Đảng Cộng sản Trung Quốc mà họ thường phải chịu nhiều cực hình hơn những người khác."" Cô Julie Keith thấy rất chấn động. Cô cảm nhận được sự tuyệt vọng cùng dũng khí của người viết là thư này. Phải rất dũng cảm mới dám viết lá thư như vậy và đặt vào trong hộp đồ trang trí. Vì nếu bị phát hiện, hậu quả sẽ khó mà tưởng tượng được. Theo Luật của Mỹ, nhập khẩu hàng hóa từ các trại lao động là bất hợp pháp. Hiện nay, Bộ An ninh Quốc nội Hoa Kỳ đang tiến hành điều tra việc này. Kmart thông báo rằng không có khả năng biết nguồn gốc các sản phẩm, đồ nhựa làm từ trại lao động. Vào năm 2013, tác giả của những bức thư này xuất hiện ở Bắc Kinh. Người đàn ông, tên là Trương, một học viên của Pháp Luân Công đã từng bị đưa vào trại. Ông nói rằng đã viết khoảng hai chục lá thư và nhét chúng vào các sản phẩm với nội dung miêu tả bằng tiếng Anh. Vào tháng 4 năm 2013, tạp chí "Lens Magazine" của Trung Quốc bao gồm 14 trang phơi bày sự lạm dụng của trại Lao động Mã Tam Gia. 20,000 câu chuyện điều tra dựa trên khoảng 20 cựu tù nhân, những người đã bị đưa đến cưỡng bức lao động và phải chịu nhiều phương thức tra tấn trong trại. Báo cáo gây nóng bỏng trong nước và hồi sinh các cuộc kêu gọi cải cách hệ thống trại lao động cưỡng bức. Vào ngày mùng 8 tháng 4, hai ngày sau khi báo cáo được công bố, đã có ít nhất 420,000 người tham gia vào các cuộc thảo luận trực tuyến về báo cáo. Ngày hôm sau Ban tuyên huấn Đảng Cộng sản Trung Quốc đã ra chỉ thị cấm tất các cơ quan truyền thông "báo cáo lại, viết lại, hoặc thảo luận" về báo cáo của tạp chí Lens. Ngay sau khi tạp chí của Lens được xuất bản, nhà làm phim và cựu nhiếp ảnh gia của tờ báo "New York Times", ông Đỗ Tân đã phát hành một báo cáo về trại Lao động Mã Tam Gia với tựa đề "Người phụ nữ ở trên đầu ma". Tựa đề liên quan đến sự thật rằng trại lao động Mã Tam Gia được xây dựng trên một nghĩa địa, theo cựu tù nhân ông Lưu Hoa, Bộ phim đã bị cấm ở đại lục và ông Đỗ Tân đã bị bắt giữ
1
null
Park Ye-jin (sinh: 1 tháng 4 năm 1981) là một nữ diễn viên Hàn Quốc. Sự nghiệp. Park Ye-jin khởi nghiệp diễn xuất trong bộ phim kinh dị năm 1999 "Memento Mori", sau đó tham gia vào vai chính và vai phụ trong một số phim truyền hình và phim điện ảnh, đặc biệt là "What Happened in Bali" và "Hateful But Once Again" (còn gọi là "Again, My Love"). Tuy nhiên, cô trở nên nổi tiếng khi tham gia thường xuyên vào chương trình truyền hình tạp kỹ "Family Outing". Năm 2009, cô rời khỏi chương trình vì lịch trình quay bộ phim truyền hình "Queen Seondeok" và phim "Fortune Salon". Sau khi cô được chọn vào vai Khulan, vợ của Thành Cát Tư Hãn trong bộ phim võ thuật 3D của Hàn Quốc-Trung Quốc-Nhật Bản "Stop the Killing", cô đóng vai chính trong bộ phim lãng mạn "I Love Lee Tae-ri". Đời sống cá nhân. Cô kết hôn với nam diễn viên Park Hee-soon vào năm 2015.
1
null
Cá đuôi đàn lia xanh ("Fundulopanchax gardneri"), là một loài cá Killi từ Nigeria và Cameroon. Miêu tả. Cá đuôi đàn lia xanh là loài dị hình giới tính. Những con đực có màu sắc sặc sỡ hơn những con cái và có những đường lượn sóng có đốm đỏ dọc theo cơ thể của nó. Các mép ngoài của vây lưng, vây hậu môn và vây đuôi có màu vàng. Những con cái có màu sắc kém rực rỡ hơn và có những đốm nâu hơn là đỏ. Chúng phát triển đến tổng chiều dài tối đa là 6,5 cm. Phân bố. Cá đuôi đàn lia xanh sinh sống trong các dòng nhánh và đầm lầy của lưu vực sông Benue và Cross của Nigeria và Cameroon. Môi trường sống và sinh học. Cá đuôi đàn lia xanh sinh sống ở cả các vùng trảng cỏ và rừng. Con đực lớn hơn, nhiều màu sắc hơn và có các vây có thể mở rộng lớn hơn con cái. Con đực có tính lãnh thổ. Các thủy vực mà loài này sinh sống có tính chất không thể đoán trước được và nó đã phát triển một chiến lược sinh sản thường được gọi là chiến lược sinh sản "chuyển đổi" hoặc "nửa năm". Điều này có nghĩa là trứng có thể tồn tại trong một khoảng thời gian khô nhưng chúng cũng có thể tồn tại khi bị ngập nước vĩnh viễn. Trứng chìm thường nở trong khoảng 14-21 ngày tùy thuộc vào nhiệt độ của nước. Những quả trứng được đẻ ở phía dưới. Phân loại và phân loài. Có một vài phân loài được công nhận: "Fundulopanchax gardneri" được miêu tả là "Fundulus gardneri" vào năm 1911 bởi George Albert Boulenger với loại địa phương được đưa ra là Okwoga ở đầu nguồn sông Cross, Nigeria. Loại được sưu tập bởi Thuyền trưởng R.D. Gardner, người được vinh danh với cái tên cụ thể cho loài. Quan hệ với con người. Cá đuôi đàn lia xanh được bắt cho việc buôn bán cá cảnh. Chúng dường như dễ nuôi và sinh sản mặc dù con đực có thể gây hấn với các loài khác di chuyển chậm hơn.
1
null
"My Songs Know What You Did in the Dark (Light Em Up)" bài hát được viết và thu âm bởi ban nhạc rock người Mỹ Fall Out Boy, phát hành như đĩa đơn trong album phòng thu thứ năm của họ, Save Rock and Roll. Nó phục vụ như là đĩa đơn trở lại của ban nhạc sau ba năm vắng bóng và tạo ra vào đầu năm 2013. Ca khúc và video âm nhạc của nó được phát hành vào ngày 4 tháng 2 năm 2013 trên toàn thế giới và 5 tháng 2 năm 2013 ở Bắc Mỹ trùng hợp với những tin tức chính thức của thay đổi của ban nhạc. Video âm nhạc là phần 1 của The Young Blood Chronicles, một loạt liên tục trong đó một đoạn video sẽ được ghi lại cho mỗi bài hát trên Save Rock and Roll là một phần của câu chuyện."My Songs Know What You Did in the Dark (Light Em Up)" đạt mốc 2 triệu lượt tải kỹ thuật số vào tháng 7 năm 2013, là bài ​​hát thứ tư của Fall Out Boy làm được như vậy. Nó được đặt tên bởi BBC Radio 1 là một trong "Top 100 Tracks of the Past 5 Years".
1
null
Hươu Sitka hoặc Hươu đuôi đen Sitka (tên khoa học: Odocoileus hemionus sitkensis) là một phân loài của hươu la (Odocoileus hemionus) và tương tự như phân loài hươu đuôi đen Columbia ("Odocoileus hemionus colombianus"). Tên của chúng bắt nguồn từ địa danh Sitka, Alaska. Phân bố. Hươu Sitka sống trong rừng nhiệt đới ven biển phía bắc British Columbia, Canada và Đông Nam Alaska, Hoa Kỳ. Hươu cũng được tìm thấy trên các hòn đảo của Quần đảo Alexander, Prince William Sound, quần đảo Kodiak và Haida Gwaii (Queen Charlotte Islands), British Columbia. Hươu Sitka có thể di cư và dân số chúng phụ thuộc vào môi trường sống, trong những tháng mùa đông chúng chủ yếu cư trú tại rừng già hoặc rừng hỗn hợp dưới 1.500 feet (46,000 cm). Số lượng Hươu Sitka luôn dao động đáng kể do mùa đông khắc nghiệt ở Alaska. Tuy nhiên, đây là một loài phong phú và nhanh chóng phục hồi. Chúng là con mồi ưa thích của nhiều loài động vật ăn thịt tự nhiên như chó sói, gấu nâu và gấu đen Mỹ. Con người săn hươu dường như không xảy ra nhiều, tuy nhiên việc khai thác gỗ đã được chứng minh là ảnh hưởng xấu đến quần thể của chúng. Đặc điểm. Hình dạng. Những con hươu tơ được sinh ra trong đầu tháng sáu và cân nặng 6-8 kg (2,7-3,6 kg). Hươu đực trưởng thành có thể nặng tới 120-200 pounds (54-91 kg) và hươu cái có thể nặng 80-100 pounds (36–45 kg). Với trọng lượng trung bình từ 80 đến 120 cân Anh (từ 36 đến 54 kg), hươu Sitka có đặc trưng nhỏ hơn so với các phân loài của hươu la. Chúng có màu nâu đỏ vào mùa hè, lông của chúng trở thành màu xám nâu vào mùa đông. Loại nay này cũng là những kẻ bơi lội tốt, và đôi khi có thể được nhìn thấy chúng bơi qua các kênh sâu giữa các đảo. Tuổi thọ trung bình của chúng là khoảng 10 năm nhưng một số ít được biết đến đã đạt được 15 tuổi. Chế độ ăn. Hươu Sitka chủ yếu ăn thực vật màu xanh lá cây. Tuy nhiên trong mùa đông Alaska chúng cũng sẽ ăn thực vật thân gỗ và địa y. Hươu Sitka không có răng cửa phía trên và tiêu hóa thực vật thông qua nghiền nguyên liệu thực vật giữa răng hàm trên và hàm dưới của chúng. Tất cả các loài Odocoileus là động vật nhai lại, trong đó họ có một dạ dày bốn ngăn bốn cho phép họ nghiền ngẫm thức ăn, và có chứa vi khuẩn chuyên phân hủy Cellulose. Tuy nhiên từ những vi khuẩn này gây khó khăn rất lớn tiêu hóa vật chất lạ và một con hươu có thể chết vì đói với bụng đầy thức ăn. Hươu Sitka cũng thích ăn quả mọng, mâm xôi, lá dương xỉ sợi vàng, cây độc cần/tuyết tùng và các loại quả mọng từ cây bụi.
1
null
"The Phoenix" bài hát được thu âm bởi ban nhạc rock người Mỹ Fall Out Boy, phát hành như đĩa đơn trong album phòng thu thứ năm của họ, Save Rock and Roll (2013). Bài hát được viết bởi ban nhạc phối hợp với Butch Walker, người đã xử lý sản xuất. Sau khi được phát hành cho các cửa hàng kỹ thuật số vào ngày 24 tháng 3 năm 2013 trước khi phát hành album. Một video âm nhạc kèm theo cũng đã được phát hành như một phần của loạt đang diễn ra The Young Blood Chronicles, phục vụ như là một phần tiếp theo của video "My Songs Know What You Did in the Dark (Light Em Up)". Bài hát có những chất liệu giống Bản giao hưởng số 7 trên cung Đô thứ của nhà soạn nhạc người Nga Dmitri Shostakovich. Trước khi phát hành thành đĩa đơn, bài hát từng đạt vị trí thứ 80 trong bảng xếp hạng Billboard Hot 100 ở Hoa Kỳ nhờ vào doanh số bán nhạc số, và nó cũng được lọt vào bảng xếp hạng của các quốc gia khác như Úc, Canada và Vương quốc Anh. "The Phoenix" đã giành được giải "Kerrang!Giải for Best Single trong năm 2013. Video âm nhạc. "The Phoenix" là video thứ hai trong mười một video The Young Blood Chronicles. Video này là phần sau của video "My Songs Know What You Did in the Dark (Light Em Up)" và là phần trước của " Young Volcanoes. Bảng xếp hạng. This song is also in the Gameplay Trailer of the upcoming wrestling video game WWE 2K14
1
null
Hươu la California (tên khoa học Odocoileus hemionus subsp. californicus) là một phân loài của hươu la có phạm vi phân bố bao gồm nhiều tiểu bang California thuộc Hoa Kỳ. Tổng quan. Một trong những dấu hiệu chính chính của phân biệt hươu la liên quan và hươu đuôi trắng là thói quen phát triển của gạc của những con hươu đực. Trong trường hợp của con Hươu la California, gạc ba nhánh có tốc độ tăng trưởng nhiều, trong khi gạc các loài khác phát triển theo một hướng về phía trước. Từ thời tiền sử của người dân bản địa người Mỹ của California được biết là đã săn bắn Hươu California kể từ khoảng 12.000 trước Công nguyên. Trong kỷ nguyên hiện đại, kể từ khi thực dân châu Âu và Âu - Mỹ định cư tại California, áp lực săn bắn để tăng cường như dân số con người và săn bắn trở thành một hoạt động không chỉ liên quan đến nguồn cung cấp thực phẩm. Phân bố. Phân loài này (Odocoileus hemionus californicus) đang lan rộng khắp miền Bắc và miền Trung California trong đồng cỏ ven biển California cũng như phạm vi ven biển bên trong và ngọn núi nội địa, đặc biệt là khu vực Sierra Nevada. Hươu này sẽ ít hơn việc thường xuyên được nhìn thấy tại thung lũng nội địa, và sau đó chúng sẽ thường xuyên ra vùng ven sông là chủ yếu. Nói chung, hươu California có một sở thích đặc biệt cho địa hình đồi, đặc biệt là một môi trường sống trong rừng sồi. Nó thường sẽ dành hơn chín mươi phần trăm của chế độ ăn uống của chúng từ bụi cây của cây bụi và lá. Hươu la California thường sống gần hồ, suối cung cấp nguồn nước cho chúng. Từ đó tiêu điểm này của nơi tiêu thụ nước chúng có thể đi lang thang từ 1-2 dặm xoay quanh chu vi này, và thường phân bố trong khu vực cây cỏ bên dưới hàng cây trong đó bán kính khoảng cách một dặm. Vào những ngày hè nóng hươu con California thường tìm bóng mát để nghỉ ngơi vào giữa ngày. Tập tính. Vào mùa hè, hươu California chủ yếu ăn các lá cây nhỏ, cây bụi và cây thân thảo, nhưng cũng tiêu thụ nhiều loại quả mọng. Vào mùa đông, chúng có thể mở rộng thực đơn thức ăn đến cây lá kim (đặc biệt là cành của linh sam Douglas), dương, liễu, thù du, cây bách xù, và cây xô thơm, chúng cũng sẽ ăn sồi. Trong đó cỏ là một nguồn thực phẩm thứ cấp và nguồn thức ăn từ vùng ngoại ô hoặc vườn cây ăn trái. Có sự đa dạng hóa chế độ ăn uống của chúng với nguyên liệu thực vật vườn, với cây ăn quả, và đôi khi ngay cả với thức ăn vật nuôi. Thời gian động dục chỉ kéo dài trong một thời gian vài ngày. Những con đực biểu hiện hành vi hung hăng trong việc cạnh tranh dành bạn tình. Thời gian mang thai của hươu cái là khoảng 200 ngày và sẽ đẻ ra những con nai tơ vào mùa xuân, những hươu con sẽ ở lại với mẹ chúng trong suốt mùa hè và cai sữa vào mùa thu. Gạc của hươu đực của rụng vào mùa đông thời gian và bắt đầu phát triển một lần nữa vào mùa xuân. Những con nai tơ không có xu hướng ăn với nhau trong các nhóm gia đình trong khi đô có xu hướng đi ăn lẻ hoặc với những con hươu đực trưởng thành khác. Hươu California tích cực hoạt động nhất lúc bình minh và hoàng hôn, nhưng cũng sẽ tìm kiếm thức ăn vào ban đêm trong khu vực nông nghiệp hoặc khi gặp phải áp lực săn bắn.
1
null
Dự án RepRap là sáng kiến để phát triển máy tạo mẫu nhanh (máy in 3D) có thể tạo ra các bộ phận quan trọng của chính nó. RepRap là viết tắt của "replicating rapid prototyper". Bất kỳ ai với bộ linh kiện đầy đủ đều có thể lắp ráp thành công một chiếc máy RepRap. Điều đó cũng có nghĩa là nếu có một chiếc máy RepRap thì có thể tự in cho mình hoặc cho bạn bè một chiếc máy RepRap khác. Trên thực tế, RepRap còn được biết đến như máy in 3D mã nguồn mở, giá rẻ và phổ biến nhất trên thế giới. Lịch sử. RepRap được thành lập vào năm 2005 bởi Tiến sĩ Adrian Bowyer, một giảng viên cơ khí cao cấp tại Đại học Bath thuộc Vương quốc Anh. Ngày 23 tháng 3 năm 2005, Blog RepRap bắt đầu hoạt động. Mùa hè năm 2005, Tài trợ cho sự phát triển ban đầu tại trường Đại học Bath được lấy từ Hội đồng Nghiên cứu Kỹ thuật và Khoa học Vật lý thuộc Vương quốc Anh. Ngày 13 tháng 9 năm 2006, Những mẫu thử nghiệm thành công RepRap đầu tiên. Ngày 9 tháng 2 năm 2008, RepRap 1.0 có tên là "Darwin" đã tiến hành vận hành thử và thành công. Sau đó vào ngày 29 tháng 5 năm 2008, nhóm nghiên cứu đã cho ra đời một máy RepRap Darwin hoàn chỉnh. Đến ngày 30 tháng 11 năm 2008. Wade Bortz(đại học Hawaii, Mỹ) là người đầu tiên bên ngoài nhóm nghiên cứu tiến hành chế tạo mẫu máy riêng của mình. Vào ngày 20 tháng 4 năm 2009, Bảng mạch điện tử đầu tiên được sản xuất tự động với một RepRap. Sử dụng một hệ thống điều khiển tự động để tạo ra sản phẩm. Các mẫu thiết kế thế hệ thứ hai, gọi là "Mendel’’ ra đời vào ngày 2 tháng 10 năm 2009, có hình dạng giống như một lăng kính tam giác. Đến ngày 13 Tháng 10 Năm 2009, RepRap phiên bản 2.0 "Mendel" được hoàn thành. Ngày 27 tháng 1 năm 2010, Viện Foresight công bố giải "Kartik M. Gada Humanitarian Innovation Prize" để khuyến khích các nhà nghiên cứu. Đến ngày 31 tháng 8 năm 2010, Những mẫu thiết kế thế hệ thứ ba, "Huxley", được chính thức đặt tên. Phát triển dựa trên phiên bản Mendel với kích thước nhỏ hơn 30% ban đầu.
1
null
Họa Mi (tên khai sinh Trương Thị Mỹ, sinh ngày 1 tháng 5 năm 1955) là nữ danh ca nhạc vàng người Việt Nam. Bà cùng với ca sĩ Sơn Ca đều là học trò của nhạc sĩ nổi tiếng Hoàng Thi Thơ. Họa Mi được nhận xét có "giọng hát trong và thánh thót ở những nốt cao, ấm áp và tình cảm ở những nốt trầm". Họa Mi định cư tại Pháp từ năm 1988. Năm 2009, bà về thu âm ba album ở Việt Nam. Tiểu sử. Họa Mi sinh năm 1955 và đi hát từ năm 15 tuổi. Năm 1972, khi còn là nữ sinh trường Gia Long, bà được Đoàn Chính (em trai nhạc sĩ Đoàn Chuẩn) gợi ý thi vào lớp thanh nhạc tại Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ ở Sài Gòn. Bấy giờ bà chưa có ý định làm ca sĩ mà mơ ước làm bác sĩ. Trước khi có nghệ danh như hiện nay, Họa Mi từng lấy nghệ danh là Trường My khi hát ở đài truyền hình, trường học, nhạc viện. Họa Mi học trường âm nhạc đến năm thứ ba thì nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ đề nghị lăng-xê bà thành ca sĩ chuyên nghiệp. Hai tuần sau đó, bà lần đầu tiên lên sân khấu nhà hàng Maxim's với nhạc phẩm "Đưa em xuống thuyền" của Hoàng Thi Thơ. Chính tại sân khấu này, cái tên "Họa Mi" đã ra đời. Bà kể lại: bản chương trình ở Maxim's ghi tên ca sĩ là Họa Mi, khiến bà thắc mắc liệu có phải là nhầm lẫn. Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ đáp lại: "Bắt đầu từ hôm nay, cháu là Họa Mi chứ không phải là Trường My nữa." Sở dĩ như vậy là vì Hoàng Thi Thơ muốn đào tạo một số ca sĩ với nghệ danh toàn các loài chim quý, bắt đầu là từ Sơn Ca. Họa Mi tốt nghiệp trường nhạc năm 1974. Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, Họa Mi theo học ngành Luật, cho đến một ngày nhạc sĩ Ngọc Chánh mời bà đi hát lại ở đoàn ca nhạc hát chung với đoàn Kim Cương, nơi tụ hội Thanh Phong, Phương Đại, Thái Châu, Lệ Thu, Thanh Tuyền, Sơn Ca... Từ đó đến khi sang Pháp, Họa Mi đã đi lưu diễn khắp các miền của Việt Nam. Năm 1976, Họa Mi kết hôn với nghệ sĩ saxophone Lê Tấn Quốc. Chồng Họa Mi mắc bệnh mắt bẩm sinh và thị lực ngày càng kém đi, trong khi cuộc sống tại Việt Nam thập niên 1980 lại tràn đầy khó khăn. Trong một chuyến lưu diễn tại Pháp năm 1988, Họa Mi đã quyết định ở lại, nguyên nhân theo nhà văn Nguyễn Đông Thức giải thích là để tìm cách chữa mắt cho chồng. Đêm đêm bà đi hát ở nhà hàng người Hoa và có cộng tác với một trung tâm ca nhạc. Hai năm sau bà đưa chồng và ba con sang Pháp. Tuy nhiên, chồng Họa Mi chẳng những không chữa được bệnh mà còn mất không gian âm nhạc ở môi trường mới. Hai người ly hôn dù còn yêu nhau. Chồng về Việt Nam còn Họa Mi ở lại một tay chăm sóc ba đứa con. Thời gian này Họa Mi không dám đi diễn dài ngày nên sự trình diễn bị thu hẹp. Sau, Họa Mi tái giá với chồng là người Pháp gốc Sa Đéc và gần như nghỉ hát về giúp chồng kinh doanh cửa hàng bánh và kem. Vì sợ cảm xúc ùa về mà bà không dám nghe nhạc trong một thời gian dài. Hai vợ chồng có một đứa con chung. Trong khi rất nhiều bạn ca sĩ chọn định cư tại Hoa Kỳ thì Họa Mi vẫn ở lại Pháp bởi bà mang ơn đất nước đã cưu mang mình. Năm 2009, Họa Mi về Việt Nam ba tháng để thu âm liền một lúc ba album, lần đầu tiên kể từ cuốn băng "Hoàng Thi Thơ 3" do Hoàng Thi Thơ thực hiện trước 1975. Trong lời tựa cho album "Một thời yêu nhau", Họa Mi viết: "Ngày tháng đã qua đi trong chớp mắt, tóc đã điểm bạc. Có chăng là kỷ niệm, là hạnh phúc, là khổ đau. Tôi muốn giữ mãi những phút giây quý giá của hạnh phúc. Tôi muốn tôi quên đi những chuỗi ngày của buồn đau, của những vết thương lòng đã chôn chặt từ lâu."
1
null
Stone Music Entertainment (Hangul: 스톤뮤직엔터테인먼트) là một công ty giải trí tư nhân của Hàn Quốc thuộc CJ E&M và CJ ENM. Đây hiện là một trong những công ty đồng phát hành lớn nhất ở Hàn Quốc. Công ty hoạt động như một hãng thu âm, công ty quản lý tài năng, công ty sản xuất âm nhạc, quản lý sự kiện, công ty sản xuất concert, nhà xuất bản âm nhạc và nhà đầu tư. Từng là ngôi nhà của các nghệ sĩ như SeeYa, Lee Hyori, I.O.I, Park Bo-ram, Wanna One và X1, hiện tại công ty đang quản lý các nghệ sĩ như SG Wannabe, Davichi, Roy Kim, Son Ho-young, Eric Nam, Heize, Fromis 9, Kep1er, HEDY, Quankune và TO1 . Cái sau có lẽ sẽ được chuyển sang các nhãn khác sau tháng 4 năm 2021. Stone Music Entertainment (trước đây là CJ E&M Music) được vinh danh là "Nhà phân phối âm nhạc của năm" tại Giải thưởng K-Pop Gaon chart năm 2014. Lịch sử. Nguồn: Công ty được thành lập với tên Mediopia vào tháng 5 năm 1993 và sau đó được đổi tên thành Mediopia Technology Co., Ltd vào tháng 6 năm 1994, với tư cách là nhà sản xuất và phân phối các thiết bị điện tử. Vào tháng 1 năm 2002, công ty đã được niêm yết trên KOSDAQ. Vào tháng 8 năm 2004, Maekyung Hudson được thành lập như một công ty con. Vào tháng 7 năm 2006, cổ đông lớn nhất đã thay đổi từ Poibos Co., Ltd. thành CJ Corporation và được thành lập như một chi nhánh của CJ Corporation. Công ty sau đó trở thành một phần của CJ Media Co., Ltd. Vào tháng 9 năm 2006, công ty sau đó đã được thành lập lại với tên Mnet Media, sau khi hợp nhất với GM Agency, MaxMP3 và ID Icheon Entertainment. Vào tháng 1 năm 2007, công ty thành lập công ty giải trí Core Content Media, đứng đầu là nhà sản xuất Kim Kwang-soo. Vào tháng 5 năm 2007, CJ Music được sáp nhập vào Mnet Media, hoạt động trong các lĩnh vực phân phối và phát sóng âm nhạc. Vào tháng 1 năm 2011, Mnet Media được sáp nhập vào CJ E&M và được đổi tên thành CJ E&M Music. Sau khi sáp nhập, công ty đã bị thu hồi khỏi KOSDAQ vào tháng 3 năm 2011. Vào tháng 12 năm 2013, CJ E&M Music mua 19% cổ phần của Jellyfish Entertainment để hợp tác. Vào tháng 3 năm 2014, hệ thống hãng đĩa của CJ E&M được giới thiệu với Jellyfish Entertainment, The Music Works, MMO Entertainment và 1877 Entertainment tham gia hệ thống. Vào tháng 4 năm 2014, CJ E&M Music cho ra mắt một liên doanh với Victor Entertainment của Nhật Bản, được gọi là "CJ Victor Entertainment". Vào tháng 9 năm 2015, CJ E&M Music mua lại B2M Entertainment. Vào tháng 10 năm 2015, CJ E&M Music ký thỏa thuận hợp tác chiến lược với hãng đĩa hip hop Hi-Lite Records. Vào tháng 1 năm 2016, CJ E&M Music ký một thỏa thuận hợp tác chiến lược với hãng đĩa hip hop AOMG. Năm 2017, CJ E&M Music thành lập một hãng đĩa mới có tên Stone Music Entertainment. Hãng đĩa bắt đầu sản xuất âm nhạc cho các nghệ sĩ thuộc CJ E&M Music như Wanna One, Davichi và JBJ, và quản lý nhóm chiến thắng của Idol School, Fromis 9. Vào tháng 8 năm 2017, CJ E&M Music thành lập liên doanh High Up Entertainment với đội ngũ sản xuất Black Eyed Pilseung. Trong cùng tháng đó, CJ E&M đã mua thêm 32% cổ phần của Jellyfish Entertainment, vượt quá 19% cổ phần của hãng đĩa đã mua trước đó vào năm 2013, thực sự trở thành cổ đông lớn nhất của hãng đĩa này, với tổng số 51%. Vào tháng 11 năm 2017, CJ E&M Music mua lại Amoeba Culture. Vào tháng 4 năm 2018, Stone Music Entertainment chính thức được đăng ký và sau đó CJ E&M đã sáp nhập vào Stone Music Entertainment vào tháng 5 năm 2018. Vào tháng 6 năm 2018, Stone Music Entertainment thành lập hãng đĩa độc quyền Swing Entertainment để quản lý Wanna One kể từ khi nhóm kết thúc hợp đồng với YMC Entertainment, với Shin Dong-il (người quản lý cũ của YMC Entertainment) làm người đứng đầu hãng đĩa. Vào tháng 9 năm 2018, Stone Music Entertainment thành lập hãng đĩa độc quyền Off The Record Entertainment để quản lý những nghệ sĩ chiến thắng "Produce 48 và Idol School", lần lượt là IZ*ONE và Fromis 9. Vào tháng 10 năm 2018, Genie Music mua lại quyền phân phối cho các sản phẩm phát hành của Stone Music Entertainment ở định dạng kỹ thuật số sau khi Stone Music hợp nhất với công ty chị em của nó, CJ Digital Music. Hai công ty vẫn sẽ phát hành album vật lý một cách riêng biệt. Vào ngày 31 tháng 1 năm 2019, Stone Music Entertainment xác nhận việc thành lập hãng đĩa độc quyền LM Entertainment để quản lý Kang Daniel và Yoon Ji-sung kể từ ngày 1 tháng 2, sau khi kết thúc hợp đồng với MMO Entertainment. Người đứng đầu hãng đĩa lD Shin Dong-il, cũng là người đứng đầu hãng đĩa cũ của họ là Swing Entertainment trong suốt thời gian Wanna One hoạt động. Vào ngày 20 tháng 4 năm 2021, Sports Kyunghang thông báo rằng CJ ENM đã nộp đơn xin đóng cửa Stone Music Entertainment từ ngày 8 tháng 4. Theo tin tức, CJ ENM nói rằng họ đang “làm việc để tổ chức lại các nhãn phụ của mình cho hiệu quả. Vào tháng 5 năm 2021, CJ ENM thành lập hãng âm nhạc mới, Wake One Entertainment để quản lý TO1. Quan hệ đối tác và phân phối âm nhạc. Nguồn: Nghệ sĩ. Nghệ sĩ thu âm. Nguồn: Nhóm nhạc Nghệ sĩ solo Thực tập sinh đáng chú ý Nghệ sĩ độc lập. MMO Entertainment LM Entertainment Off The Record Entertainment Swing Entertainment Studio Blu Tranh cãi. Thao túng giá cả. CJ E&M Music (sau đó là Mnet Media) là một trong số 15 công ty bị Korean FTC phạt và kiện vì gian lận giá năm 2011.
1
null
Chó cỏ hay chó ta, chó nội (để phân biệt với các giống chó ngoại) chó mực, chó vện, chó dé hay còn gọi chung là chó Việt Nam là các giống chó thuần chủng có nguồn gốc tại Việt Nam. Hiện ở Việt Nam có bốn giống chó nội có giá trị và được gọi là tứ đại quốc khuyển gồm: chó Bắc Hà, chó Lài (tên khoa học: Canis lupus dingo), H'mông cộc đuôi và chó Phú Quốc. Những giống chó nội địa này đã tồn tại từ lâu trên bán đảo Đông Dương và ở Việt Nam từ hơn 6.000 năm nay, với quá trình gắn bó cùng con người do vậy hình tượng con chó ta đã đi vào lịch sử và văn hóa Việt Nam từ lâu đời, gắn bó với đời sống người Việt từ nông thôn đến thành thị (chẳng hạn như tục thờ chó đá). Chó cỏ dùng để trông nhà, huấn luyện làm chó săn . Trong các giống chó thì chó Đông Dương khá phổ biến, đây là giống chó nguyên thủy đặc trưng tại các vùng trung du và miền núi của Việt Nam. Giống này đang được người dân vùng cao tại Việt Nam nuôi rải rác khắp các vùng lãnh thổ có những con sông lớn chảy qua. Chó chủ yếu được người dân nuôi trông nhà và các hoạt động săn bắn hay đi rừng, chúng có bản năng trung thành với chủ, Hiện nay giống chó Đông Dương đang dần hiếm vì không được bảo tồn gen gốc. Ngoài ra giống chó Phú Quốc là giống chó duy nhất đến nay của Việt Nam được công nhận trên thế giới. Đặc điểm. Đặc trưng. Các giống chó Việt Nam nhìn chung có tầm vóc trung bình và nhỏ. Chó ta nặng khoảng từ 14 – 20 kg khi trưởng thành. Chó Đông Dương thì có tầm vóc trung bình, cân nặng từ 12 kg - 20 kg, chiều cao (tính từ mặt đất lên tới đỉnh vai) từ 45 cm - 65 cm. Cơ thể hơi dài hơn so với chiều cao, thông thường chó đực to hơn chó cái. Đặc điểm dễ nhận biết với loài này nếu là thuần chủng phải có bốn chân có màu bít tất trắng, đuôi bông lau và chóp đuôi trắng (đuôi bông lau), đuôi dài vừa phải, bình thường buông thõng (cụp đuôi), lúc hoạt động dựng hướng lên trên, hoặc cuộn trên lưng (cong đuôi). Chiều cao tới vai so với chiều dài cơ thể là 1:1,2 trong đó phần thân nằm trong hình chữ nhật nằm ngang, lưng thẳng, bụng thon gọn. Chiều dài toàn đầu so với chiều dài mõm là 2:1, đầu chúng thon, dài vừa phải và cân đối, Mặt có hình tam giác theo kiểu chó sói, mõm chó hình chữ V và ngắn, đầu mõm hơi nhọn, gốc mõm khá rộng. Mõm dài gần bằng nửa chiều dài toàn đầu. mũi có màu đen, lưỡi màu hồng hoặc có đốm màu đen. Tai nằm hai bên hộp sọ, dựng đứng như hình vỏ sò và hướng về phía trước. Tai to vừa phải, cân đối, không nhọn, phía trong tai ít lông. Nếu nhìn thẳng trực diện thì hai tai dựng đứng, vuông góc với đỉnh sọ. Các màu lông phổ biến là màu lông đỏ lửa, đen 4 mắt, trắng, đen tuyền, xám, đốm chó lụn, nâu, vện. Chó Việt Nam hay còn gọi là chó ta vì không phải chó rặt giống, đã gần như rất khó mắc bệnh (chỉ 20%) và khả năng kháng bệnh rất cao. Chó đẻ trên 10 con từ xưa đến nay rất hiếm, tuy vậy có một con chó mẹ chỉ là giống chó cỏ, màu xám, bụng khoang trắng, cân nặng gần 10 kg ở Quảng Nam đã đẻ 11 chó con. Đây không phải là lần đầu tiên con chó này đẻ trên 10 con. 3 lứa trước cũng đẻ rất đông, từ 9-10 con. Năm nay, chó đẻ 11 con là kỷ lục nhưng hai con đã chết do giành nhau bú sữa mẹ. Trong chín con chó con chỉ có một con là có màu xám còn lại là màu đen nhánh, lông mướt. chín con rất cân xứng nhau về cân nặng, trung bình trên nửa kg. Thậm chí còn có việc con chó nái làm bảo mẫu cho 5 chú chuột cống nhum khoảng 3 tháng tuổi, xã Vĩnh Thanh, huyện Phước Long ,tỉnh Bạc Liêu. Khi đi bắt chuột ngoài ruộng, một nưuời mang về mấy chú chuột con chưa mở mắt, không ngờ chó cái trong nhà lại tỏ ra quan tâm mấy chú chuột con này và chăm sóc chúng như con của mình. Ở Việt Nam còn ghi nhận trường hợp chó đực đẻ con ở xã Hưng Yên Bắc huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, con chó đực nuôi gần 7 năm thì chuyển dạ sinh con, nó được đặt tên là Đen, vì lông của nó màu đen. Quan sát bên ngoài có thể thấy rõ chú chó đực kì lạ đã tự nứt một lỗ nhỏ cạnh cơ quan sinh dục để đẻ. Sau khi đẻ được một con, hiện bụng con Đen vẫn phồng to, khi sờ nắn thấy có rất nhiều cục nhỏ bên trong. Ai cũng nhận định có thể bên trong đang còn có chó con. Con chó đặc biệt này còn có thể đổi màu mắt. Nó chỉ cần chớp mắt mắt nó sẽ từ màu xanh nước biển chuyển qua màu đen. Người nhà cho biết, màu mắt con chó này cũng sẽ thay đổi mỗi khi nó sủa hay tức giận. Tập tính. Phần đông chó Việt Nam sống cuộc sống bình thường, chủ yếu là ăn, ngủ, chạy rông. Chó nội còn được huấn luyện để làm giống chó săn. Chó săn ở Việt Nam ngày xưa gọi là mun săn. Việc mua và nuôi bầy chó săn phải là những gia đình có điều kiện, xuất thân từ tầng lớp trung nông, phú nông. Những chú chó ở đây được chọn cũng rất công phu, chúng phải là những con chó có máu mặt, tai nhỏ và sức rướn, biết đánh hơi và theo sát con mồi. Những chú chó được chọn thường là chó nhà phú nông, hoặc tầng lớp trung lưu thường bị xiềng xích để tạo tính hung dữ và khôn lanh. Người ta dẫn theo đàn chó săn 4 - 5 con chó săn để săn heo rừng ở vùng U Minh, đây là những con chó lai, mỗi con nặng 30 – 40 kg, được huấn luyện để săn thú rừng, nhiều nhất là heo, khi phát hiện con thú rừng, chó sẽ bao vây tấn công. từ năm 2010, người săn trộm huấn luyện chó săn, đàn chó khi ở nhà trông hiền lành nhưng khi vào rừng thì trở thành sát thủ đáng sợ. Những con chó săn dù thể hình nhỏ gọn nhưng khả năng đi rừng, săn thú của chúng rất đáng khâm phục. Đặc điểm của những chú chó săn đầu đàn là khi phát hiện ra con thú thì chúng lập tức báo cho chủ nhân và đồng loại của chúng biết và bắt đầu hành trình đuổi bắt. Tuy nhiên, cũng có những khi chó săn bị lợn rừng hoặc thú dữ húc chết hoặc bị các loại thú rừng cắn trọng thương. Để săn được lợn rừng, ngoài người thợ săn bắn giỏi họ còn huấn luyện thêm một đội chó săn tinh luyện để cùng hỗ trợ. Mỗi lần đi săn lợn rừng, phường săn mang theo ít nhất ba con chó săn để đuổi bắt. Tuy nhiên, cũng có những khi chó săn bị lợn rừng húc chết. Đó là trường hợp những con chó quá liều lĩnh khi tấn công trực tiếp vào heo rừng và bị nó dùng nanh đánh gục Các giống chó săn nội địa ở Việt Nam cũng giống như giống chó nhà là rất sợ hổ, khi thấy có mùi của hổ trong bán kính gần 1 km, giống chó săn cũng không có con nào dám đến gần những con chó săn khi đánh hơi thấy hổ là đã không dám đánh hơi tiếp nữa mà cứ quanh quẩn bên con người nhất là ở Miền Tây sông nước, khi đang đi rừng mà thấy đàn chó săn cụp đuôi, sợ sệt co cụm lại là dấu hiệu nhận biết con hổ đang ở gần và thợ săn thường chọn giải pháp là lùa bọn chó xuống xuồng và rời khu vực đó. Khi những con hổ xuất hiện, đàn chó thì chạy chui hết vào gầm, dưới sàn nhà, các xó xỉnh mà không dám ló mặt ra, chúng im hơi và chẳng con nào dám sủa cả đàn chó nhà khép nép vì sợ hãi núp ở trong góc sân và hổ quá dễ dàng vồ bắt lấy một con chó rồi cắp lấy đem xác lên rừng, một số con hổ ở làng bản nhiều lần mò vào bắt chó ăn thịt nên bén mùi Một số giống. Chó Đông Dương. Chó lài là một giống chó xù thuộc dòng chó cỏ ở vùng núi phía bắc Việt Nam với đặc trưng là bộ lông màu đen. Chó lài có dáng dài, chân to, đuôi dài, màu vàng pha chút đen hoặc đen tuyền từ đầu đến đuôi. Đặc biệt, tai hơi dài và cụp. Mõm dày. Chó lài trưởng thành nặng tới 40 kg, thậm chí 50 kg. Thậm chí, khi trưởng thành nặng tới 50, thậm chí 60 kg. Chú có cái lưỡi đốm, 6 huyền đề (móng treo). Người Mông quan niệm rằng chó lài chính là chó nhà của người Mông lai với chó sói mà thành do một số vùng phát âm không chuẩn, nên lâu ngày chú chó tên Lai (chó nhà lai với sói) biến thành Lài, một số vùng khác thì cho rằng chó lài chính là chó Tây lai với chó sói ở rừng Việt Nam. Người Pháp sang đây, đã lai tạo loài chó họ mang theo với chó sói, tạo ra một số giống chó khác nhau. Một con chó lài là vì gen trội của chó mẹ, hoặc chó bố từ tổ tiên. Hầu hết giống chó này đã thoái hóa. Đặc tính trung thành của chó nhà kết hợp với sự nhanh nhẹn, thông minh, sức mạnh và khả năng săn mồi của sói, tạo nên một giống chó quý hiếm. Đây là loài chó săn thông minh, thính nhạy, mạnh mẽ, hung dữ, người chủ có thể cầm cục đá ném qua mấy mái nhà nhưng nó có thể lao theo để tha cục đá đó về, hoặc chỉ cần chủ ra hiệu lệnh, nó sẽ lao nhanh quắp hai cánh con gà, tha về cho chủ. Người Mông cho rằng nếu gia đình nào có được con chó lài, thì khỏi phải lo miếng ăn, vì người chủ sai bảo, nó sẽ tự mò vào rừng, rồi tha về các loại thú, như bìm bịp, gà rừng, con sóc núi, con cầy hương, chuột núi, dúi... Chó lài còn là sát thủ của các loại rắn độc hoặc nó sẽ tìm dấu vết thú, lùa thú vào trước họng súng cho chủ bắn.. Khi chủ nghe thấy nó sủa ăng ẳng trong rừng, thì có nghĩa là nó đã bắt được rắn độc. Chó H' Mông. Loài chó H' Mông cộc đuôi là một trong những loài chó săn tốt, với những đặc tính độc đáo và sự thông minh tuyệt vời, chúng có thể lực tốt và bền bỉ. Về hình dáng bên ngoài, ngoại hình của chúng khá đặc trưng với vẻ chắc nịch, đầy cơ bắp và chiếc đuôi cụt ngộ nghĩnh. Loài chó H' Mông có nhiều điểm đặc biệt: gần như không có đuôi, nếu có thì cũng rất ngắn. Nanh của loài chó này thường có từ 6 đến 8 cạnh khác nhau (đây là đặc điểm của loài chó săn cổ xưa, theo kiểu cắn cổ con mồi và xé thịt). Tai có hình tam giác luôn dựng đứng, kiểu nằm hai chân sau luôn trong tư thế sẵn sàng tấn công. Chúng luôn lì lợm, ít cắn và luôn chỉ nghe theo một người chủ duy nhất. Đối với Người H' Mông, giống chó H' mông đuôi cộc luôn được đứng trong hàng ngũ những con vật mà họ yêu quý nhất, coi là báu vật trong nhà. người H' Mông nuôi loại chó này không nằm ngoài mục đích đi săn và trông coi nhà cửa. Tuy nhiên đến thời điểm này những cuộc săn lùng trong rừng sâu không còn nhiều, loài chó này chủ yếu được nuôi để trông nhà. Ở Lào Cai, ngoài chó lài, còn một số loài chó khác, to như con bê, có con nặng 50–60 kg, lông rậm như sư tử. Đây cũng là giống chó lai giữa chó Tây, chó ta và chó sói. Giống chó ở Y Tý to như con bê, nặng tới 50 kg, lông dày và xù như sư tử. Tuy nhiên, nó không thông minh như chó lài.
1
null
Giải bóng đá tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2013 diễn ra từ ngày 7 đến 21 tháng 12 năm 2013.. Đối với bóng đá nam chỉ tổ chức cho nam giữa các đội tuyển trẻ quốc gia U-23 (dưới 23 tuổi). Bóng đá nữ thì không giới hạn độ tuổi. Bóng đá nam. Tất cả các trận đấu sẽ được diễn ra tại Sân vận động Thuwunna, Yangon và Sân vận động Zayyarthiri, Naypyidaw. Lễ bốc thăm diễn ra vào ngày 10 tháng 11 năm 2013 ở Naypyitaw, Myanmar Naypyitaw, Myanmar. Vòng bảng. "Giờ thi đấu tính theo giờ địa phương – ." Bảng A. Vào ngày 6 tháng 11, Philippines ban đầu rút ra trúng Bảng A, đã được ban tổ chức chính thức xác nhận không tham gia tranh tài ở bộ môn này. Bóng đá nữ. Tất cả các trận đấu sẽ được diễn ra tại Sân vận động Mandalarthiri, Mandalay. Lễ bốc thăm diễn ra vào ngày 6 tháng 11 năm 2013 tại Naypyidaw, Myanmar. Vòng bảng. "Giờ thi đấu tính theo giờ địa phương – ." Bảng A. Vào ngày 8 tháng 12, Indonesia trước đó được xếp vào bảng A, đã được ban tổ chức xác nhận không tham gia tranh tài ở bộ môn này. Bảng B. Vào ngày 22 tháng 11, Đông Timor rút thăm ở Bảng B, đã được ban tổ chức chính thức xác nhận không tham gia tranh tài ở bộ môn này.
1
null
Nea Salamis Famagusta FC hay Nea Salamina Famagusta FC () là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp có trụ sở tại Ammochostos (còn được gọi trong tiếng Latinh là Famagusta), Síp. Năm 1974, khi Thổ Nhĩ Kỳ xâm lược Síp và chiếm phần phía bắc của đảo, câu lạc bộ có trụ sở tạm thời tại Larnaca. Thành tích đáng chú ý nhất của Nea Salamina là chiến thắng tại cúp quốc gia Síp và Siêu cúp quốc gia Síp năm 1990. Thứ hạng cao nhất mà đội đạt được tại Cypriot First Division là xếp hạng 3. Trong khoảng thời gian 5 năm đầu (1948–1953), câu lạc bộ thi đấu tại giải vô địch Liên đoàn bóng đá nghiệp dư Síp. Năm 1953 Nea Salamina gia nhập Liên đoàn bóng đá Síp (CFA) và tham gia thường xuyên vào các giải thi đấu, các giải đấu cúp của liên đoàn. Câu lạc bộ đã góp mặt trong hơn 50 mùa giải Cypriot First Division, đứng thứ 7 trong số các đội tham dự nhiều nhất. Đội bóng lần đầu tham dự giải đấu cấp châu lục năm 1990 tại UEFA Cup Winners' Cup. Thi đấu tại UEFA Intertoto Cup 1995, 1997 và 2000. Đội bóng là thành viên của câu lạc bộ thể thao Nea Salamina Famagusta - được thành lập năm 1948; ngoài ra câu lạc bộ này còn có 1 đội tuyển bóng chuyền nam. Sân vận động Ammochostos. Từ năm 1974 tới 1991 Nea Salamina đã sử dụng sân vận động GSZ tại Larnaca, sân vận động Dasaki ở Dasaki Achnas, Sân vận động thành phố tại Dherynia và Sân vận động Antonis Papadopoulos tại Larnaca. Năm 1991 đội bóng đã xây dựng sân vận động của riêng mình, Sân vận động Ammochostos. Sân vận động Ammochostos, thuộc sở hữu của Nea Salamina tại Larnaca, có sức chứa 5,000 chỗ ngồi và được sử dụng chủ yếu cho bóng đá. Quyết định xây dựng sân vận động được đưa ra vào năm 1989 và được khởi công vào tháng 12 năm đó, nhờ các cổ động viên của câu lạc bộ tại Síp và nước ngoài, Hiệp hôi thể thao Síp và các tình nguyện viên, sân vận động đã được hoàn thành đúng tiến độ. Trận đấu đầu tiên của Nea Salamina Famagusta trên sân đấu mới diến ra vào thứ 7, 12 tháng 10 năm 1991, gặp Evagoras Paphos. Nea Salamina giành chiến thắng 4–1. Sân vận động Ammochostos cũng là nơi tổ chức trận chung kết giải vô địch bóng đá U16 châu Âu vào ngày 17 tháng 5 năm 1992 giữa Đức và Tây Ban Nha, kết thúc với chiến thắng 2–1 của Đức. Biểu tượng và Màu sắc. Biểu tượng của Nea Salamina là sự kết hợp giữa ngọn đuốc Olympic, màu đỏ và 5 vòng tròn của Thế vận hội. màu sắc chủ đạo của đội trong 2 năm đầu là vàng và đỏ thẫm, khi đội còn là thành viên Liên đoàn bóng đá nghiệp dư Síp. Sau năm 1950, câu lạc bộ chuyển sang màu đỏ và trắng: màu đỏ tượng trưng cho sức mạnh, và màu trắng mang ý nghĩa hòa bình. Áo sọc đỏ trắng được lựa chọn vì chúng giống trang phục của câu lạc bộ Olympiakos Piraeus. Cựu cầu thủ. Danh sách các cầu thủ có hơn 100 lần thi đấu cho câu lạc bộ: <br>
1
null
Boeing X-20 Dyna-Soar ("Dynamic Soarer") là một chương trình của Không quân Hoa Kỳ (USAF) nhằm phát triển một máy bay không gian có thể được sử dụng cho nhiều nhiệm vụ quân sự khác nhau, bao gồm trinh sát, ném bom, cứu hộ không gian, bảo dưỡng vệ tinh và tiêu diệt vệ tinh đối phương. Chương trình này bắt đầu từ 24 tháng 10 năm 1957 tới 10 tháng 12 năm 1963 với chi phi lên tới 660 triệu USD (5,51 tỷ USD) và bị hủy bỏ ngay sau khi việc chế tạo máy bay được bắt đầu.
1
null
Điền Nhung (chữ Hán: 田戎, ? – 36), người huyện Tây Bình, quận Nhữ Nam, Dự Châu , thủ lĩnh quận phiệt đầu đời Đông Hán. Cuộc đời. Năm Canh Thủy đầu tiên (23), Nhung và đồng hương Trần Nghĩa nổi dậy đánh chiếm Di Lăng thuộc Nam Quận, ông tự xưng Tảo địa đại tướng quân, Trần Nghĩa tự xưng Lê Khâu đại tướng quân. Lực lượng lên đến mấy vạn người, Nhung lại tự xưng Chu Thành vương, Nghĩa tự xưng Lâm Giang vương . Tháng 7 năm Kiến Vũ thứ 3 (27), Chinh nam đại tướng quân Sầm Bành soái quân Hán bao vây Lê Khâu của thủ lĩnh Sở Lê vương Tần Phong, Nhung lo sắp đến mình, muốn đầu hàng nhà Hán. Anh vợ Tân Thần can rằng: ""Nay hào kiệt tứ phương cát cứ các quận quốc, đất đai Lạc Dương (chỉ Quang Vũ đế) nhỏ như lòng bàn tay, không bằng xếp giáp chờ thời thế thay đổi." Ông nói: "Đến cường thịnh như Tần vương, còn bị Chinh nam vây khốn, nói gì đến ta? Hàng kế đã quyết rồi."" Mùa xuân năm sau (28), Nhung mệnh Tân Thần giữ Di Lăng, còn mình đi Lê Khâu hàng Hán. Nhưng Tân Thần lại trộm tài sản của ông, theo đường nhỏ xin hàng Sầm Bành, còn gởi thư khuyên hàng cho Nhung. Ông ngờ Tân Thần đã bán đứng mình, nên quay sang giúp Tần Phong. Sử cũ chép Nhung được Tần Phong gả con gái, nhưng không nói rõ là trước hay sau khi ông đi cứu Lê Khâu. Nhung bị Sầm Bành đánh bại, bộ tướng Ngũ Công hàng Hán, nên phải lui về Di Lăng . Năm thứ 5 (29), Quang Vũ đế sai Chu Hỗ thay Sầm Bành vây Tần Phong, còn Sầm Bành đi đánh Nhung. Tháng 3, ông bị Bành đánh bại ở Tân Hương, huyện Giang Lăng thuộc Nam Quận. Nhung buộc phải bỏ Di Lăng, đưa mấy chục kỵ binh chạy sang đất Thục. Bành đuổi theo đến Tỷ Quy mới về, bắt được vợ con và mấy vạn tướng sĩ của ông. Thành Gia đế Công Tôn Thuật ở đất Thục phong cho Nhung làm Dực Giang vương. Năm thứ 6 (30), Công Tôn Thuật bỏ qua đề xuất của Kinh Hàm: lấy Duyên Sầm, Điền Nhung làm tướng tiến đánh quân Hán. Sầm, Nhung cũng xin đi, nhưng không được chấp nhận. Tháng 3 năm thứ 9 (33), Thuật mệnh Nhung cùng Nhiệm Mãn, Trình Phiếm đem mấy vạn quân cưỡi bè xuống Giang Quan (đối diện thành Bạch Đế ở bờ bên kia Trường Giang), đánh phá Phùng Tuấn cùng bọn Điền Hồng, Lý Huyền. Quân Thục nhổ được Di Đạo, Di Lăng chiếm cứ Kinh Môn, Hổ Nha. Họ chắn ngang Trường Giang làm phù kiều (cầu nổi), đẩu lâu (lầu cao), cắm toàn trụ (rào cọc), cắt đứt đường thủy, đóng trại trên núi, để chống quân Hán. Sầm Bành tấn công mấy lần đều không thắng nổi. Mùa xuân năm thứ 11 (34), Sầm Bành tập hợp thủy quân tấn công Kinh Môn, gặp lúc gió lớn, thuyền của quân Hán xô vào cầu nổi, rồi bị mắc lại bởi rào cọc. Quân Hán liều chết xông lên, ném đuốc lên cầu. Gió to lửa dữ, cầu – lầu đều cháy rụi, Bành dốc quân ra đánh, quân Thục đại loạn, Nhiệm Mãn bị chém, Trình Phiếm bị bắt, còn Nhung chạy đi Bảo Giang Châu thuộc Ba Quận. Phùng Tuấn đuổi theo bao vây Bảo Giang Châu. Tháng 7 năm thứ 12 (36), thành vỡ, Nhung bị xử tử .
1
null
Plastic Beach là album phòng thu thứ ba của ban nhạc ảo Gorillaz, được phát hành vào ngày 3 tháng 3 năm 2010 bởi Parlophone và Virgin Records. Vốn là một dự án dang dở của Gorillaz mang tên "Carousel", album được thu trong khoảng từ tháng 7 năm 2008 tới tháng 11 năm 2009 và được sản xuất bởi trưởng nhóm Damon Albarn. Album cũng đánh dấu sự tham gia của rất nhiều nghệ sĩ như Snoop Dogg, Gruff Rhys, De La Soul, Bobby Womack, Mos Def, Lou Reed, Mick Jones, Mark E. Smith, Paul Simonon, Bashy, Kano, Little Dragon và Hypnotic Brass Ensemble. "Plastic Beach" bắt đầu với vị trí số 2 tại UK Albums Chart và bán được 74.000 bản chỉ ngay trong tuần đầu tiên. Tại Mỹ, album cũng có được vị trí tương tự trong tuần đầu tiên tại "Billboard" 200, với khoảng 112.000 bản được bán, ngoài ra cũng nằm trong top 10 tại nhiều quốc gia khác. "Plastic Beach" hầu hết nhận được rất nhiều đánh giá tích cực từ người hâm mộ và giới chuyên môn.
1
null
</ref> Sân vận động Mandalarthiri () là một sân vận động đa năng nằm ở Mandalay, Myanmar. Sân nằm ở phía đông của Mingalar Mandalay. Địa chỉ của nó là từ 68 đến 73, giữa Đường NguShwewar và Đường Thazin, bên cạnh Học viện bóng đá Mandalay. Sân vận động đã tổ chức giải bóng đá nữ của Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2013 và cũng là sân nhà của Yadanarbon F.C. Sân trở thành một trong những địa danh của Mandalay.
1
null
Đền Bà Kiệu, tên chữ là Thiên Tiên điện, là một ngôi đền ở ven phía đông hồ Gươm, Hà Nội, xế cửa đền Ngọc Sơn. Đền thờ ba vị nữ thần: Liễu Hạnh Công chúa, Quỳnh Hoa và Quế Nương. Lịch sử. Theo "Thăng Long cổ tích khảo" thì đền xây vào thời nhà Lê triều Vĩnh Tộ (1619-28), đến triều Cảnh Hưng thì mở rộng thêm. Vào thời Tây Sơn triều Cảnh Thịnh đền đúc quả chuông lớn. Triều vua Tự Đức ngôi đền được tu sửa lần nữa. Khi người Pháp chiếm lấy Hà Nội và mở rộng phố xá chung quanh hồ Gươm thì vị trí đền Bà Kiệu bị trưng dụng. Năm 1891 niên hiệu Thành Thái thứ hai, một phần đất của ngôi đền phải giao cho chính phủ để đắp "Boulevard Francis Garnier" (sau năm 1954 là đường Đinh Tiên Hoàng). Con đường cắt ngang khu đền ra làm đôi: cổng tam quan phía tây nằm ở phía bờ hồ còn nhà đại bái, phương đình và hậu cung thì nằm bên phía đông đường. Kiến trúc. Kiến trúc đền Bà Kiệu mang phong cách thời nhà Nguyễn. Cổ vật còn lưu lại đền là hương án, cửa võng, khám thờ cùng các sắc phong tiền triều.
1
null
"Manic Pixie Dream Girl" (MPDG) là một kiểu nhân vật thường thấy trong các phim nhựa. Nhà phê bình Nathan Rabin sau khi xem xong bộ phim "Elizabethtown" (2005) đã gọi nhân vật của Kirsten Dunst là một MPDG khi miêu tả đây là "thứ nhân vật sôi nổi và nông cạn chỉ có thể tồn tại duy nhất trong trí tưởng tượng quá nhạy bén của một vài đạo diễn hay biên tập viên, nhằm chỉ dạy những chàng trai trẻ giàu tâm hồn và đầy tham vọng biết cách hiểu cuộc sống cùng với những điều bí ẩn và những cuộc phiêu lưu bất tận của nó". Thông thường, MPDG được coi là để giúp những chàng trai trên thoát khỏi những thú vui riêng, và thường là kiểu nhân vật không chịu lớn, cụ thể hơn là những người đàn ông chưa trưởng thành về nhân cách. "Manic Pixie Dream Girl" là một kiểu nhân vật đặc trưng của điện ảnh cùng với "Magical Negro" – một kiểu nhân vật da màu thường xuất hiện chỉ để giúp đỡ những vấn đề hay tạo nên những điều kỳ diệu cho nhân vật da trắng thống khổ. Trong cả hai trường hợp, kiểu nhân vật đều không có liên hệ với thực tế, và thường được tạo ra chỉ để giúp cho nhân vật chính có thể hiểu được bài học từ cuộc sống. Một vài ví dụ. MPDG thường là một nhân vật khá nổi bật song có tính cách bất thường và là một cô gái rất bạo dạn. Họ được xây dựng để có một mối quan tâm với mức độ khác nhau tới nhân vật nam chính. Điển hình của cách tạo dựng nhân vật này là vai diễn của Natalie Portman trong bộ phim "Garden State" (2004), đạo diễn bởi Zach Braff. Rabin cho rằng nhân vật mà Katharine Hepburn đóng trong "Bringing Up Baby" (1938) là một trong những hình tượng đầu tiên của thể loại này, rồi sau đó là nhân vật của Audrey Hepburn trong "Breakfast at Tiffany's" (1961), nhân vật của Goldie Hawn trong "Cactus Flower" (1969) và "Butterflies Are Free" (1972) và cả nhân vật của Barbra Streisand trong "What's Up, Doc?" (1972). Gần đây, những vai diễn của Zooey Deschanel trong "Yes Man" (2008) và "(500) Days of Summer" (2009) cũng được gọi là MPDG. Kênh Filmspotting từng lập một danh sách có tên "Top 5 Manic Pixie Dream Girls". Rabin cũng tham gia vào chương trình và lập một danh sách của riêng mình. Danh sách này bao gồm cả Catherine (Jeanne Moreau) trong "Jules và Jim" (1962), Jean (Barbara Stanwyck) trong "The Lady Eve" (1941), Sugar (Marilyn Monroe) trong "Some Like It Hot" (1959), và Gerry Jeffers (Claudette Colbert) trong "The Palm Beach Story" (1942). Một vài ví dụ khác đã từng được truyền thông đề cập có thể kể tới nhân vật của Jean Seberg trong "Breathless" (1960), thậm chí cả nhân vật Belle trong bộ phim hoạt hình "Người đẹp và quái thú" (1991), Maude trong "Harold và Maude" (1971), Penny Lane trong "Almost Famous" (2000), và Jane Margolis trong serie phim "Breaking Bad". Phản biện. Nhân vật Clementine mà Kate Winslet đảm nhiệm trong bộ phim "Eternal Sunshine of the Spotless Mind" (2004) đã thừa nhận có khái niệm MPDG, song đã thẳng thừng bác bỏ điều đó khi tiếp xúc với nhân vật Joel (Jim Carrey): "Quá nhiều kẻ coi tôi là cô gái của đời họ, hay tôi có thể hoàn thiện họ, hay tôi có thể giúp họ tồn tại. Nhưng tôi chỉ là một đứa con gái bỏ đi đang cố đi tìm sự bình yên trong tâm hồn mình, vậy nên đừng có mong tôi thuộc về anh." Nhân vật nữ trong bộ phim "Annie Hall" (1977) cũng không phải là một MPDG cho dù cũng được nhiều người gọi như vậy bởi vì cô có một cuộc sống hoàn toàn độc lập với nhân vật nam chính. Phê bình và đánh giá. Trong buổi phỏng vấn với Vulture về bộ phim "Ruby Sparks", nữ diễn viên kiêm biên tập viên Zoe Kazan cho rằng khái niệm này còn khá hạn chế, mang tính quy chụp và kì thị nữ giới. Cô cũng không đồng ý với ý kiến cho rằng nhân vật của Hepburn trong "Bringing Up Baby" là một MPDG: "Tôi cho rằng không thể gom tất cả vào một mối được. Kiểu phụ nữ nước đôi được cho vào đây sẽ làm hỏng hết khái niệm thống nhất." Tháng 12 năm 2012, nhà phê bình Cammila Collar từ Allmovie đã gộp khái niệm này trong một khái niệm lớn hơn về những nhân vật nữ luôn quan tâm tới hạnh phúc của nhân vật nam, song không đề cập tới những vấn đề phức tạp của họ. Mặt hạn chế của định nghĩa này chính là việc nó hướng cho biên tập viên tạo dựng nên những nhân vật nữ không làm bất cứ việc gì khác ngoài động viên tinh thần của nhân vật nam mà họ quan tâm.
1
null
Nālandā (; , phiên âm Hán-Việt: Na-lan-đà) là một trung tâm học tập bậc cao thời cổ đại, một tu viện Phật giáo lớn nằm ở vương quốc cổ Magadha, ngày nay thuộc tiểu bang Bihar, Ấn Độ. Địa điểm này nằm cách Patna chừng về phía đông nam, gần thành phố Bihar Sharif. Nalanda vốn là một trung tâm học thuật quan trọng từ thế kỷ thứ 5 và phát triển rực rỡ từ triều vua Śakrāditya (danh hiệu chưa rõ, có thể là vua Kumara Gupta I hoặc Kumara Gupta II) cho đến cuối thế kỷ 12 (1197). Sau đó Nalanda bị phá hủy toàn phần. Ngày nay, Nalanda là một Di sản thế giới được UNESCO công nhận từ năm 2016. Tên nguyên thủy. Địa danh Nālandā thì sử sách giải thích khác nhau. Theo sư Huyền Trang vị cao tăng đời Đường khi sang Thiên Trúc tầm đạo thì ghi gốc chữ là ', có nghĩa là "Tài năng vô tận" hay "Lòng khoan dung vô tận". Còn theo sư Nghĩa Tịnh thì chữ gốc là ', tên một con rắn trong ao hồ địa phương. Còn theo nhà khảo cổ học Ấn Độ Hiranand Sastri từng giám đốc việc khai quật di tích thì Nalanda xuất phát từ "" tức cây sen. Sen mọc nhiều trong khu vực này và tên Nalanda là muốn nhắc đến biểu tượng cây sen. Lịch sử. Vua chúa Ấn Độ nhất là triều đại Đế quốc Gupta từng xuất tiền của bảo trợ cho trường Nalanda. Sau đến các vua chúa triều Pala như vua Harsha (thế kỷ thứ 6) vốn mộ đạo Phật lại càng ủng hộ nhiệt tình. Quần thể khu Nalanda chiếm diện tích 14 héc-ta (488×244 mét). Các công trình xưa đều xây bằng gạch đỏ, nay đã đổ nát chỉ còn phế tích. Nhưng trước thế kỷ 13 vào thời hoàng kim thì Nalanda là nơi thu hút hằng nghìn sĩ tử xa gần tận Tây Tạng, Trung Hoa, Hy Lạp, và cả Ba Tư đến tu học. Vậy mà nằm 1193 Nalanda bị quân Hồi giáo người Turk của Bakhtiyar Khilji tràn vào tàn phá thiêu hủy. Kho sách khổng lồ phải mất ba tháng mới cháy hết. Trường sở mất, các tu sĩ cũng phải ra đi, di tích Nalanda từ đó bị bỏ hoang. Năm 2006, một số quốc gia, trong đó có Singapore, Trung Quốc, Ấn Độ, và Nhật Bản công bố dự án trùng tu di chỉ này. Các nhân vật lịch sử liên hệ với Nalanda. Nhiều nhân vật tiếng tăm trong lịch sử từng đặt chân đến Nalanda trong đó có Phật Thích-ca và Mahavira khoảng thế kỷ 6 và 5 TCN.. Nó cũng là nơi sinh ra và nơi nhập niết bàn của Xá-lợi-phất (Sāriputta), một trong số các môn đồ nổi tiếng của Phật Thích Ca Ngoài ra Nalanda cũng là nơi hội tập nhiều học giả đủ mọi ngành như:
1
null
Chữ Khmer (; ) là hệ thống chữ cái dùng để viết tiếng Khmer. Loại chữ này cũng được dùng chép kinh Phật giáo Nam tông tiếng Pali dùng trong các nghi lễ cúng Phật ở Campuchia. Chữ Khmer xuất phát từ chữ Pallava, một biến thể của chữ Grantha mà nguyên thủy là chữ Brahmi ở Ấn Độ. Chứng tích cổ nhất của chữ Khmer là văn bia ở Angkor Borei thuộc tỉnh Takéo mang niên đại 611. Lối chữ ngày nay đã thay đổi ít nhiều so với dạng chữ cổ điển ở phế tích Angkor Wat.
1
null
Domino's Pizza là tên một chuỗi nhà hàng pizza Mỹ và cũng là tên công ty nhượng quyền kinh doanh quốc tế có trụ sở tại Domino Farms Office Park (hội sở thuộc sở hữu của nhà đồng sáng lập Domino's Pizza Tom Monaghan) tại xã Ann Arbor, Quận Washtenaw, Michigan, Hoa Kỳ, gần Ann Arbor, Michigan. Được thành lập năm 1960, Domino's là chuỗi nhà hàng pizza lớn thứ hai Hoa Kỳ (sau Pizza Hut) nhưng lớn nhất thế giới với hơn 10.000 cửa tiệm thành viên và nhượng quyền tại 70 quốc gia. Domino's Pizza được bán cho Bain Capital năm 1998 và ra công chúng năm 2004.
1
null
Linh vật là một người, con vật hoặc đồ vật được cho là mang lại may mắn, hoặc bất cứ điều gì được sử dụng làm hình ảnh nhận diện cho một nhóm người, chẳng hạn như trường học, đội tuyển thể thao chuyên nghiệp, đơn vị quân đội hoặc thương hiệu. Ở góc độ văn hóa thì linh vật là những con vật huyền thoại hoặc có thật được linh hóa, được con người sáng tạo và sử dụng như những biểu tượng văn hóa để truyền đạt ý tưởng và niềm tin tâm linh, tôn giáo. Khái luận. Theo thông tục (không chính thức) nó bao gồm bất cứ điều gì được sử dụng để đại diện cho một nhóm với một bản sắc cộng đồng phổ biến, chẳng hạn như một trường học, đội thể thao chuyên nghiệp, xã hội, đơn vị quân đội, hoặc tên thương hiệu và đặc biệt là các sự kiện lớn như thể thao. Linh vật cũng được sử dụng như hư cấu, phát ngôn viên đại diện cho các sản phẩm tiêu dùng. Linh vật thường được mô tả trong thần thoại, truyền thuyết và được biểu đạt trong nghệ thuật tạo hình. Người xưa tin rằng, linh vật là hiện thân của các lực lượng tự nhiên hoặc mang những đặc tính huyền bí, năng lực siêu nhiên có thể chi phối nhân sinh, vũ trụ. Trong các môn thể thao, linh vật cũng được sử dụng rất rộng rãi. Linh vật của đội thường bị nhầm lẫn với các biệt danh của đội, trong khi hai chủ đề này có thể được hoán đổi cho nhau nhưng chúng không phải luôn luôn giống nhau. Linh vật của đội có thể mang hình thức của một biểu tượng, người, động vật sống, đối tượng vô tri vô giác, hoặc một nhân vật trang phục, và thường xuất hiện ở các trận đấu đội và các sự kiện khác có liên quan, linh vật thể thao thường được sử dụng như một công cụ tiếp thị cho đội bóng đến người hâm mộ.
1
null
Gấu bông là một loại đồ chơi nhồi bông mang hình dạng con gấu. Món đồ chơi này được phát triển độc lập bởi nhà sản xuất đồ chơi Morris Michtom (Hoa Kỳ) và Richard Steiff (Đức) trong những năm đầu thế kỷ 20. Tên gọi "teddy bear" trong tiếng Anh được đặt theo biệt danh của Tổng thống Hoa Kỳ Theodore Roosevelt. Thời kỳ đầu, người ta cố gắng làm gấu bông sao cho giống gấu thật với mõm rộng và đôi mắt tròn nhỏ. Gấu bông thời nay thường có mắt to hơn, trán rộng hơn, mũi nhỏ hơn và có các đặc điểm giống em bé sơ sinh để tăng độ đáng yêu. Gấu bông cũng rất đa dạng về "loài", từ gấu Bắc Cực, gấu xám đến gấu trúc... Thời kỳ đầu gấu bông thường được phủ lớp lông bằng vải nỉ angora, về sau là lông tổng hợp, vải nhung, vải denim, vải bông, satanh và vải bạt. Kể từ khi ra đời đến nay, đồ chơi gấu bông đã trở nên phổ biến khắp nơi trên thế giới, là món quà tặng thường gặp dành cho trẻ em và cả người lớn. Tại nhiều quốc gia thậm chí còn có bảo tàng về gấu bông. Lịch sử. Ra đời tại Hoa Kỳ. Tổng thống Hoa Kỳ Theodore Roosevelt - có biệt danh Teddy - là người yêu thích hoạt động ngoài trời và đi săn. Tháng 11 năm 1902, ông có chuyến đi săn ở tiểu bang Mississippi qua lời mời của Thống đốc Andrew H. Longino. Trong khi đa số các bạn hữu đều bắn được con thú nào đó thì Roosevelt bị báo chí đưa tin là trong mấy ngày chẳng săn được thứ gì. Một ngày nọ, tùy tùng của ông dồn ép một con gấu đen Mỹ và chỉ cho ông thấy, tuy nhiên ông từ chối bắn con gấu đã bị thương và ra lệnh cho người khác giết nó vì mục đích nhân đạo. Câu chuyện này trở thành chủ đề cho bức vẽ chính trị của Clifford Berryman đăng trên tờ "The Washington Post" vào ngày 16 tháng 11 năm 1902. Ở Brooklyn, New York, một chủ cửa hàng là Morris Michtom xem tranh này và trào lên cảm hứng tạo ra một món đồ chơi mới. Đồ chơi hình dạng gấu con nhồi bông được ông trưng bày bên cửa sổ với bảng hiệu ghi "Teddy's bear". Thành công sớm đến với Michtom, và ông đã lập ra công ty Ideal Novelty and Toy Co. nhưng công ty này không còn tồn tại đến năm 1997. Ra đời tại Đức. Cùng thời gian đó tại Đức, công ty Steiff độc lập sản xuất ra gấu bông theo mẫu thiết kế của Richard Steiff. Tháng 3 năm 1903, khi Steiff trưng bày món đồ chơi tại Hội chợ đồ chơi Leipzig thì được Hermann Berg - người mua đến từ George Borgfeldt & Company ở New York - nhìn thấy. Berg đặt hàng 3.000 con gửi sang Hoa Kỳ. Mặc dù sổ sách của Steiff ghi nhận công ty có sản xuất số gấu này, tuy nhiên chúng không được ghi là đã cập bến Mỹ, đồng thời cũng chưa ai nhìn thấy loại gấu có mã số "55 PB" đó khiến người ta lan truyền câu chuyện cho rằng tàu chở số gấu bông trên đã bị đắm. Tuy vậy, Gunther Pfieffer - tác giả của bốn cuốn sách viết về gấu Steiff - cho hay thực ra câu chuyện này chỉ mới xuất hiện vào năm 1953, và có lẽ loại gấu 55 PB không đủ bền để tồn tại đến ngày nay. Tuy Michtom và Steiff cùng sản xuất gấu bông vào khoảng thời gian như nhau song cả hai đều không biết đến sáng tạo của người kia vì thông tin liên lạc đôi bờ Đại Tây Dương thời bấy giờ còn kém. Sản xuất. Gấu bông sản xuất thương mại hàng loạt chủ yếu để làm đồ chơi cho trẻ em và phải đáp ứng tiêu chuẩn khắt khe trước khi đến tay trẻ nhỏ tại các quốc gia phát triển. Phần lớn gấu bông được sản xuất tại các nước như Trung Quốc và Indonesia. Ở Đức có những công ty như Margarete Steiff GmbH sản xuất gấu bông thủ công bán trong cửa hàng hoặc bán trực tuyến trên Internet. Ở Anh, còn sót lại công ty nhỏ Merrythought có truyền thống sản xuất gấu bông kể từ khi thành lập vào năm 1930. Trong sản xuất, người ta dùng loại vải nỉ angora (được dệt thành vải, nhuộm và cắt tỉa), vải anpaca (làm từ lông con anpaca - một loại lạc đà không bướu ở Nam Mỹ) hoặc các loại lông tổng hợp. Gấu bông là thể loại yêu thích của những người làm đồ chơi không chuyên với nhiều vật liệu đa dạng, từ vải nỉ, vải bông đến vải nhung và gỗ dán. Họ làm chúng để làm quà tặng hoặc dành cho mục đích từ thiện. Đồ cổ. Gấu bông Michtom làm bằng vải nỉ - với các mối nối ở hông, cổ và vai - từng rất nổi tiếng trong xã hội xưa và trong giới sưu tập đồ cổ ngày nay. Vải sản xuất ra chúng thường là nỉ màu vàng hoặc màu be. Đôi mắt làm bằng nút hoặc thủy tinh; phần lông xung quanh mõm thường được cắt tỉa. Về sau, gấu có nhiều màu sắc và kiểu dáng hơn; lông cũng dài hơn. Một số loại gấu khác thường được người ta sưu tập là gấu sản xuất bởi công ty đồ chơi Knickerbocker (1924-1925, New York) với cơ thể dài, chân ngắn và thẳng; gấu của công ty Gund Manufacturing (1898) và gấu Hershey (dùng để quảng cáo cho thanh sô-cô-la của công ty Hershey). Bảo tàng gấu bông. Bảo tàng gấu bông đầu tiên trên thế giới được khánh thành tại Petersfield, Hampshire, Anh Cách Lan vào năm 1984. Năm 1990, một bảo tàng tương tự được thành lập ở Naples, Florida, Hoa Kỳ. Hai bảo tàng này bị đóng cửa tương ứng vào các năm 2006 và 2005. Gấu bông trong văn hóa đại chúng. Gấu bông trở thành nhân vật chính trong một số sách truyện, chẳng hạn như sách về Winnie-the-Pooh của nhà văn A. A. Milne hay loạt sách thiếu nhi "The Roosevelt Bears" của Seymour Eaton. Chúng cũng là nguồn cảm hứng cho nhạc sĩ John Walter Bratton viết nên giai điệu "The Teddy Bear Two Step" mà về sau Jimmy Kennedy đặt thêm lời và trở thành bài hát "The Teddy Bears' Picnic". Chú gấu bông Misha là linh vật của Liên Xô và Nga.
1
null
là tên tiểu thuyết kỳ bí phát hành năm 1982 của nhà văn người Nhật Murakami Haruki. Đây là cuốn thứ ba nằm trong tuyến truyện về "Chuột cống" và "tôi" của tác giả, nối tiếp "Lắng nghe gió hát" và "Pinball, 1973". "Cuộc săn cừu hoang" chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ tác phẩm "The Long Goodbye" của Raymond Chandler và tựa đề tác phẩm được xem là nhại theo cuốn của nhà văn Mishima Yukio. Sơ lược nội dung. Năm 1978, nhân vật chính li dị vợ sau 4 năm chung sống. Không lâu sau, anh có bạn gái mới, một người có đôi tai đẹp kỳ lạ và cũng là người đã tiên tri về "cuộc săn cừu hoang" của anh. "Cừu hoang" ở đây là con cừu có vết bớt hình ngôi sao xuất hiện trong tấm hình mà "Chuột" gửi anh trong bức thư liên lạc gửi từ Hokkaido. Tấm hình này sau đó được nhân vật chính sử dụng để P.R. cho một công ty bảo hiểm và từ đó, Ông Chủ biết chuyện. Ông sai viên thư ký đắc lực của mình đến đe doạ, buộc anh phải gỡ tấm hình kia xuống, đồng thời cung ứng kinh phí để anh tìm cho bằng được con cừu này. Và vì thế, anh nghỉ việc ở công ty, cùng với bạn gái mình khăn gói đến Hokkaido, tìm hiểu tất cả những gì có thể biết về cừu tại Nhật Bản. Trong quá trình lưu lại khách sạn Cá Heo ở Sapporo, nhân vật chính cho đăng tin liên lạc trên một tờ báo địa phương, gọi Chuột đến gặp anh ở khách sạn. Chuột không bao giờ liên lạc lại với anh nhưng tình cờ, ông chủ khách sạn đã tiết lộ rằng cha mình thực chất rất am hiểu về lĩnh vực mà hai người muốn tìm hiểu bởi vì ông được gọi là Giáo sư Cừu. Hai người được đưa đi gặp Giáo sư Cừu và vị giáo sư già, chịu chung một nỗi khổ "không cừu" với Ông Chủ kể từ khi con cừu ma thuật rời bỏ thân xác ông, đã kể tường tận về cuộc đời khốn khổ của mình. Ông hy vọng hai con người trẻ tuổi sẽ tìm ra con cừu mà hơn 40 năm nay ông đã tìm kiếm. Hai người sau đó đến Junitaki và được một người dắt đến biệt thự trên núi của ông chủ mới vùng này. Qua lời kể của ông, nhân vật chính đã xác nhận được rằng ông chủ mới không ai khác chính là Chuột. Anh quyết tâm đi đến căn biệt thự đó để tìm bạn mình hỏi cho ra lẽ. Tuy nhiên, khi đến nơi, "Chuột" không có ở đó. Và sau khi thức dậy từ một trận ốm, anh nhận ra cô bạn gái đã bỏ anh lại một mình trong khi chờ Chuột quay lại. Anh không phải ở một mình lâu vì sau đó một nhân vật mới xuất hiện, đó là Người Cừu. Kể từ khi Người Cừu xuất hiện, anh linh tính rằng người này có dính líu đến chuyện bạn gái anh bỏ đi và biết về cậu bạn Chuột. Nhưng anh không có thêm được thông tin nào từ nhân vật này vì ông từ chối trả lời. Anh bèn nhờ Người Cừu chuyển lời đến "Chuột" hộ anh. Bỗng một hôm, anh nhìn lên tủ sách của biệt thự và cầm lên cuốn sách chủ đề Á Châu chủ nghĩa có vẻ mới được giở ra gần đây. Anh nhìn ra phần phụ lục và bất ngờ tìm ra thông tin về Ông Chủ khiến anh choáng váng. Anh tự chủ động đi tìm gặp Người Cừu, chơi ghi-ta cho ông ta nhưng sau đó đập vỡ cây đàn thể hiện sự tức giận của mình. Vài ngày sau, Chuột đến tìm gặp anh và lúc này truyện được hé lộ rằng nhân vật chính đã biết cậu bạn Chuột thực chất đã chết; người đến gặp cậu đây chỉ là linh hồn và rằng Người Cừu cũng chỉ là một hoá thân của Chuột. Chuột chết để giết chết con cừu ma quái ngự trị thân xác cậu ta. Sau khi trùng phùng với bạn, nhân vật chính trở về gặp Giáo sư Cừu để thông báo về cái chết của con cừu hoang, gửi lời của Chuột đến J và bắt đầu cuộc sống mới. Phát hành. "Cuộc săn cừu hoang" được phát hành tại Nhật năm 1982 bởi nhà xuất bản Kodansha. Năm 2011, "Cuộc săn cừu hoang" được chuyển ngữ sang tiếng Việt bởi Minh Hạnh dựa trên bản tiếng Anh của Alfred Birnbaum xuất bản bởi Vintage và xuất bản bởi Nhã Nam và nhà xuất bản Văn học.
1
null
Trần Tuấn (chữ Hán: 陈俊, ? – 47), tự Tử Chiêu, người Tây Ngạc, Nam Dương , tướng lĩnh, khai quốc công thần nhà Đông Hán, một trong Vân Đài nhị thập bát tướng. Cuộc đời. Thiếu thời làm quận lại. Canh Thủy đế được lập (23), lấy người tông thất là Lưu Gia làm Thái thường tướng quân, Tuấn làm trưởng sử. Lưu Tú đi dẹp Hà Bắc, Gia gửi thư tiến cử Tuấn, Tú cho làm An Tập duyện. Tuấn theo quân đánh nghĩa quân Đồng Mã ở Thanh Dương, tiến đến Bồ Dương, được bái làm Cường nỗ tướng quân. Giao chiến với nghĩa quân Ngũ Hiệu ở An Thứ, Tuấn xuống ngựa, đưa bộ binh đi đánh, gặp đâu tan đấy, đuổi nà hơn 20 dặm, chém cừ soái của địch rồi về. Tú trông thấy thì than rằng: "Chiến tướng đến thế là cùng, còn lo gì nữa!" quân Ngũ Hiệu chạy vào Ngư Dương, đến đâu cướp phá đến đấy, ông đề nghị đưa khinh kỵ vượt mặt nghĩa quân, thông báo nhân dân địa phương cùng chống giặc, cắt đứt nguồn lương thực của nghĩa quân. Tú cho là phải, sai Tuấn thi hành. Ông thúc ép dân chúng xây tường rào, gom mọi người vào đấy để cố thủ. Nghĩa quân mất hết nguồn cung ứng, nên tan rã. Khi trở về, Tú nói với Tuấn rằng: "Làm bọn giặc này khốn cùng, là kế sách của tướng quân vậy!" Tú lên ngôi, là Quang Vũ đế, phong cho ông làm liệt hầu. Mùa xuân năm 26, Tuấn đánh nghĩa quân đất Khuông, hạ 4 huyện, tăng phong Tấn Xử hầu. Ông đưa quân đánh Đốn Khâu, thu hàng 3 thành. Mùa thu, Đại tư mã Ngô Hán thừa chế bái Tuấn làm Cường nỗ đại tướng quân, theo đường khác đánh nghĩa quân Kim Môn, Bạch Mã ở Hà Nội, đều phá được. Năm 28, Tuấn chuyển đi dẹp Nhữ Dương và đất Hạng, rồi hạ được Nam Vũ Dương. Khi ấy, hào kiệt Thái Sơn phần lớn ủng hộ và liên kết với Trương Bộ, Ngô Hán nói với Quang Vũ rằng: "Không phải Trần Tuấn thì không thể bình định được quận này." Vì thế đế bái làm Thái Sơn thái thú, coi việc Đại tướng quân. Trương Bộ nghe tin, điều quân tấn công, giao chiến ở Doanh hạ, ông đại phá được, đuổi đến Tế Nam, thu được hơn 90 ấn thụ, đánh hạ các huyện gần đó, rồi bình định Thái Sơn. Năm 29, Tuấn theo Kiến uy đại tướng quân Cảnh Yểm đánh dẹp Trương Bộ. Dẹp xong, còn Lang Da chưa yên, đế lấy Tuấn làm Lang Da thái thú, lãnh tướng quân như cũ. Đất Tề vốn đã nghe danh, khi ông vừa đến, giặc cướp đều giải tán. Tuấn đưa quân đánh phá Đổng Hiến ở Cống Du, rồi phá nghĩa quân Tôn Dương ở đất Cù, dẹp được. Năm 32, Trương Bộ bỏ Lạc Dương trốn về Lang Da, Tuấn đuổi bắt, chém đi. Đế khen công lao của ông, ban chiếu cho chuyên trách chinh thảo Thanh, Từ. Tuấn vỗ về kẻ nghèo khó, biểu dương người nhân nghĩa, kiềm chế quan binh không được quấy rối quận, huyện, được trăm họ ca ngợi. Tuấn mấy lần dâng thư xin đi đánh Lũng, Thục, đế ban chiếu an ủi, sai ông tiếp tục trấn định miền đông. Năm 37, được tăng ấp, định phong Chúc A hầu. Năm sau (38), được gọi về làm Phụng triều thỉnh. Năm 47, Tuấn mất. Con là Phù kế tự, dời phong Tân Xuân hầu.
1
null
Franciszek Duszeńko (sinh ngày 6 tháng 4 năm 1925 - mất ngày 11 tháng 4 năm 2008) là nhà điêu khắc Ba Lan, giáo sư của Học viện Mỹ thuật ở Gdańsk, đồng thời là hiệu trưởng của trường này trong những năm 1981–1987. Ông là một cựu tù nhân ở trại tập trung của Đức Quốc xã trong Thế chiến II.
1
null
còn gọi là Mua múa mùa là tên tiểu thuyết thứ sáu phát hành năm 1988 của Murakami Haruki và là phần tiếp theo của cuốn "Cuộc săn cừu hoang". Cùng với dàn nhân vật quen thuộc từ ba cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông nhưng đây không được nằm trong tuyến truyện về "Chuột" vì phong cách và nhân vật đã không còn có điểm chung. Năm 2001, Murakami Haruki nói rằng ông viết "Nhảy nhảy nhảy" là để tự trấn tĩnh bản thân sau thành công ngoài mong đợi từ tiểu thuyết "Rừng Na Uy" và vì thế, ông hài lòng khi viết nó hơn các tác phẩm khác. Sơ lược cốt truyện. Tiểu thuyết theo chân hành trình kỳ lạ của một nhân vật chính không tên kiếm sống bằng nghề copywriter. Anh bị thúc đẩy trở về Khách sạn Cá Heo, một khách sạn cũ kỹ mà anh từng sống với cô gái mà anh yêu dù thực tế anh không biết tên cô. Cô đã biến mất không để lại dấu vết nào. Lúc này, Khách sạn Cá Heo đã bị mua lại bởi một tập đoàn lớn và đã được chuyển đổi thành một khách sạn hiện đại theo phong cách phương Tây nhưng vẫn giữ tên gọi cũ. Nhân vật chính trải qua nhiều giấc mơ kỳ lạ trong đó anh gặp lại cô gái mình yêu cùng với Người Cừu - một người đàn ông trùm da cừu chuyên nói chuyện theo lối luyến chữ - cùng nhau họ dẫn dắt anh khám phá ra hai sự kiện kỳ lạ. Điều đầu tiên là một vấn đề trừu tượng trong tự nhiên, làm cách nào để sống sót trong môi trường không thể sống được. Điều thứ hai là về cái chết của một cô gái gọi, trong đó một người bạn cũ của anh, giờ đây đã là một diễn viên nổi tiếng, có liên quan mật thiết. Trong quá trình đó anh cũng gặp một cô bé 13 tuổi đang gặp rắc rối nhưng có tài tiên tri, gia đình nhiều rắc rối của cô, một nhà thơ cụt một tay và một cô gái tiếp tân đồng cảm chia sẻ nhiều điểm tương đồng với anh. Chủ đề chính. Nhiều nhân vật của cuốn tiểu thuyết mang dấu ấn trong cách viết của Murakami. "Nhảy nhảy nhảy" xoay quanh chủ đề giới tính, sắc dục, mất mát và sự cô lập, như nhiều các tiểu thuyết khác của ông. Thông thường, nhân vật nam chính diện trong một tác phẩm của Murakami sẽ mất mẹ, bạn đời hoặc bạn gái. Một số các chủ đề khác thường thấy trong các tác phẩm của Murakami được mang vào "Nhảy nhảy nhảy" là công nghệ, sự xa lánh, sự phi lý và khám phá về nguồn gốc mối liên hệ giữa con người với nhau. Có một nhân vật trong tiểu thuyết tên Hiraku Makimura, vốn dĩ là phép xáo chữ của "Haruki Murakami". Nhân vật này cũng là một nhà văn nổi tiếng. Khác biệt so với bản dịch tiếng Anh. Nhân vật huyền bí tên là "Người Cừu" có cách nói chuyện khác nhau giữa hai phiên bản. Trong bản gốc tiếng Nhật, nhân vật này nói chuyện bình thường. Tuy nhiên trong bản dịch tiếng Anh, các câu nói được thể hiện bằng các từ viết liên tiếp không có khoảng cách. Trong tiếng Nhật, không có khoảng cách giữa các ký tự trong văn viết. Tiếp nhận. "Nhảy nhảy nhảy" đạt điểm rating 69% từ công cụ thống kê iDreamBooks dựa trên bảy ý kiến đánh giá từ giới phê bình. Thông Tin Sách. "Dance Dance Dance" (bản tiếng Anh) được dịch bởi Alfred Birnbaum, và được chuyển ngữ sang tiếng Việt bởi Trần Vân Anh.
1
null