text
stringlengths
1
148k
label
int64
0
2
__index_level_0__
int64
0
113k
là tên tiểu thuyết phát hành năm 1985 của nhà văn người Nhật Murakami Haruki. Cũng như nhiều tác phẩm khác của mình, ở đây Murakami sử dụng song song và luân phiên hai tuyến truyện với hai người kể chuyện khác nhau. Sơ lược cốt truyện. "Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới" khai thác vấn đề lý trí con người lúc tỉnh táo và trong lúc vô thức (ở đây tác giả sử dụng sai chữ "tiềm thức"). Xứ sở diệu kỳ tàn bạo. Người kể chuyện xưng "tôi" (watashi) là một "Calcutec", con người hệ thống xử lý / mã hoá dữ liệu được huấn luyện để sử dụng tiềm thức để khoá dữ liệu. Những Calcutec làm việc cho Hệ thống, đối lập với những Semiotec làm việc cho Nhà Máy. Nhìn chung các liên kết giữa hai tổ chức là: Hệ thống bảo vệ dữ liệu, Nhà Máy đánh cắp chúng. Nhân vật chính được đưa đến gặp một nhà bác học già đang nghiên cứu về việc khử âm thanh để giúp ông ta làm thí nghiệm của mình. Nhưng cuối cùng, anh lại phát hiện ra mình chỉ còn sống được một ngày rưỡi trước khi bị chìm vào thế giới tiềm thức của chính mình. Chốn tận cùng thế giới. Trong thế giới này, nhân vật thứ hai xưng "tôi" (boku) đang trong quá trình hoà nhập Thị Trấn, một nơi bị bao bọc bởi bức tường kiên cố, sau khi anh bị tách khỏi cái Bóng của mình. Ở Thị Trấn, không ai có bóng, và cũng không ai có linh hồn. Anh được giao nhiệm vụ đọc giấc mơ để xoá sổ mọi dấu vết của linh hồn còn hiện hữu khỏi Thị Trấn và được cô Thủ Thư trợ giúp học cách đọc giấc mơ. Anh dần yêu cô. Khi anh biết được bí mật của Thị Trấn và về những con quái vật chết vào mùa đông, anh cùng với Bóng của mình lên kế hoạch chạy thoát. Phát hành. Tiểu thuyết được phát hành ngày 15 tháng 6 năm 1985 bởi nhà xuất bản Shinchosha. Năm 2009, Lê Quang chuyển ngữ tác phẩm sang tiếng Việt từ bản tiếng Đức của Annelie Ortmanns, tham khảo bản tiếng Anh của Alfred Birnbaum và được Nhã Nam xuất bản. Ảnh hưởng. Murakami Haruki thường bày tỏ niềm đam mê dành cho văn chương phương Tây và sự ngưỡng mộ dành cho người tiên phong cho dòng hard-boiled (chín ép) Raymond Chandler. Tiểu thuyết này cũng mang nhiều yếu tố của văn học trinh thám hard-boiled và khoa học giả tưởng. Phần "Chốn tận cùng thế giới" có nhiều điểm tương đồng với tiểu thuyết "Lâu đài" của Franz Kafka. Theo đó, nhân vật chính là một người đến với một nơi mới, bàng hoàng và ngỡ ngàng trước hành xử kỳ lạ của cư dân ở đó. Ta có thể thấy hình ảnh mất đi cái bóng của mình trong tiểu thuyết "Victoria" của nhà văn người Na Uy Knut Hamsun hay truyện ngắn năm 1814 "Peter Schlemihls wundersame Geschichte" của Adelbert von Chamisso.
1
null
Trong hóa sinh, hóa tổng hợp là sự chuyển đổi sinh học của một hoặc nhiều phân tử chứa carbon (thường là cacbon dioxide hoặc mêtan) và các chất dinh dưỡng thành chất hữu cơ bằng cách sử dụng quá trình oxy hóa khử các hợp chất vô cơ (ví dụ: khí hydro, Hydro sulfide) hoặc các ion sắt làm nguồn cung cấp năng lượng chứ không phải là ánh sáng mặt trời như trong quang hợp. Nhiều vi sinh vật trong các vùng tối của đại dương sử dụng quá trình hóa tổng hợp để tạo ra sinh khối từ các phân tử cacbon đơn lẻ. Có hai loại khác nhau. Ở những nơi hiếm hoi có các phân tử hydro (H2), năng lượng sẵn có từ phản ứng giữa CO2 và H2 (dẫn đến sản sinh metan, CH4) có thể đủ lớn để thúc đẩy sản xuất sinh khối. Còn trong hầu hết các môi trường đại dương khác, năng lượng cho quá trình hóa tổng hợp bắt nguồn từ các phản ứng trong đó các chất như Hydro sulfide hoặc amonia bị oxy hóa. Điều này có thể xảy ra khi có hoặc không có oxy. Nhiều vi sinh vật hóa tổng hợp là thức ăn của các sinh vật khác trong đại dương, và các mối quan hệ cộng sinh giữa sinh vật hóa tổng hợp và sinh vật dị dưỡng hô hấp là khá phổ biến. Các quần thể động vật lớn có thể được cấp dưỡng bởi quá trình sản xuất thứ cấp hóa tổng hợp tại các miệng phun thủy nhiệt, mêtan hyđrat, lỗ phun lạnh, kình lạc và nước trong hang động bị cô lập. Người ta đã đưa ra giả thuyết rằng quá trình hóa tổng hợp kỵ khí có thể hỗ trợ sự sống bên dưới bề mặt Sao Hỏa, vệ tinh Europa của Sao Mộc và các hành tinh khác. Hóa tổng hợp cũng có thể là kiểu trao đổi chất đầu tiên phát triển trên Trái đất, dẫn đường cho hô hấp tế bào và quang hợp phát triển sau này. Quá trình hóa tổng hợp hydro sulfide. Giun ống khổng lồ sử dụng vi khuẩn trong bộ dưỡng sinh của chúng để cố định cacbon dioxide (sử dụng Hydro sulfide làm electron và oxy hoặc nitrat làm nguồn năng lượng) và sản xuất đường và amino acid. Một số phản ứng tạo ra lưu huỳnh: Thay vì giải phóng khí oxy trong khi cố định cacbon dioxide như trong quá trình quang hợp, quá trình hóa tổng hợp hydro sulfide sản sinh ra các hạt lưu huỳnh rắn. Ở các vi khuẩn có khả năng hóa tự dưỡng (một dạng hóa tổng hợp), chẳng hạn như vi khuẩn lưu huỳnh tía, có thể nhìn thấy các giọt lưu huỳnh màu vàng hiện diện trong tế bào chất. Phát hiện. Năm 1890, Sergei Winogradsky đề xuất một loại quá trình sống mới được gọi là "anorgoxydant". Khám phá của ông gợi ra rằng một số vi sinh vật có thể chỉ sống bằng vật chất vô cơ và xuất hiện trong quá trình ông thực hiện cuộc nghiên cứu sinh lý vào những năm 1880 ở Strasbourg và Zürich về vi khuẩn lưu huỳnh, sắt và nitơ. Năm 1897, Wilhelm Pfeffer đặt ra thuật ngữ "hóa tổng hợp" để chỉ quá trình sản xuất năng lượng bằng cách oxy hóa các chất vô cơ, liên quan đến quá trình đồng hóa cacbon dioxide tự dưỡng — cái mà ngày nay được đặt tên là hóa vô cơ tự dưỡng. Sau này, thuật ngữ này sẽ được mở rộng bao gồm cả sinh vật thực dưỡng, là những sinh vật sử dụng chất nền năng lượng hữu cơ để đồng hóa cacbon dioxide. Do đó, hóa tổng hợp có thể được xem như là một từ đồng nghĩa của hóa tự dưỡng. Thuật ngữ "hóa dưỡng" có ít hạn chế hơn thì được đưa ra vào những năm 1940 bởi André Lwoff nhằm mô tả việc sản xuất năng lượng bằng quá trình oxy hóa các chất cho electron, hữu cơ hay không hữu cơ, liên quan đến tự hoặc dị dưỡng. Miệng phun thủy nhiệt. Đề xuất của Winogradsky được xác nhận gần 90 năm sau khi các miệng phun đại dương thủy nhiệt được dự đoán là tồn tại vào những năm 1970. Những suối nước nóng và những sinh vật kỳ lạ được "Alvin", người lặn dưới đáy biển sâu đầu tiên trên thế giới, phát hiện vào năm 1977 tại Khe Galapagos. Cùng lúc đó, người lúc đó vẫn đang học sau đại học Colleen Cavanaugh đã đề xuất rằng vi khuẩn hóa tổng hợp oxy hóa sulfide hoặc lưu huỳnh nguyên tố chính là cơ chế giúp giun ống có thể tồn tại gần các miệng phun thủy nhiệt. Cavanaugh sau đó đã xác nhận được rằng đây thực sự là phương pháp sinh tồn của loài giun này, và ông thường được ghi nhận là người đã phát hiện ra quá trình hóa tổng hợp. Một loạt phim truyền hình năm 2004 do Bill Nye dẫn chương trình đã gọi hóa tổng hợp là một trong 100 khám phá khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại. Vỏ đại dương. Vào năm 2013, các nhà nghiên cứu đã báo cáo về việc phát hiện ra vi khuẩn sống trong đá của vỏ đại dương bên dưới lớp trầm tích dày, và nằm cách xa các miệng phun thủy nhiệt hình thành dọc theo rìa của các mảng kiến tạo. Họ phát hiện sơ bộ rằng những vi khuẩn này tồn tại nhờ hydro được tạo ra bằng cách khử hóa học olivin bởi nước biển lưu thông trong các mạch nhỏ thấm qua lớp bazan tạo nên lớp vỏ đại dương. Vi khuẩn tổng hợp mêtan bằng cách kết hợp hydro và cacbon dioxide.
1
null
Valencia hispanica hay Cá chép răng Valencia là một loài cá nước ngọt trong họ Valenciidae đặc hữu cho cộng đồng Valencia, Tây Ban Nha. Môi trường sống tự nhiên của nó là đầm lầy, suối nước ngọt, đầm phá nước ngọt ven biển. Nó bị đe dọa bởi ô nhiễm và mất môi trường sống. Mô tả. Nó là một con cá nhỏ có màu sắc giữa màu nâu nhạt vàng. Con đực trưởng thành dao động từ 4–8 cm và có thể được phân biệt với con cái trong đó các vành vây là màu cam. Ngoài ra, con cái lớn hơn một chút so với con đực ở cùng độ tuổi.
1
null
Búp bê (bắt nguồn từ từ tiếng Pháp "poupée" /pupe/; phương ngữ miền Nam: cúp bế) là mô hình phỏng theo hình dáng của con người và thường làm đồ chơi của trẻ em. Từ lâu búp bê đã được dùng trong các nghi thức ma thuật và tôn giáo khắp nơi trên thế giới. Người ta tìm thấy búp bê truyền thống được làm từ chất liệu đất sét, gỗ ở châu Á, châu Âu, châu Mỹ và châu Phi. Búp bê sớm nhất đã ra đời từ thời Ai Cập cổ đại, Hy Lạp cổ đại và La Mã cổ đại. Tài liệu Hy Lạp cho biết búp bê được dùng làm đồ chơi khoảng năm 100. Búp bê có nhiều loại, từ búp bê thô sơ đến búp bê tinh xảo đầy tính nghệ thuật. Ngành sản xuất búp bê hiện đại phát xuất từ nước Đức vào thế kỷ 15. Càng ngày búp bê càng được sản xuất ở quy mô lớn nhờ công nghiệp hóa và sự ra đời của các chất liệu mới như sứ và chất dẻo. Trong thế kỷ 20, búp bê dần trở thành đồ sưu tập phổ biến Lịch sử, phân loại và vật liệu. Lịch sử ban đầu và búp bê truyền thống. Những con búp bê đầu tiên được làm từ các vật liệu có sẵn như đất sét, đá, gỗ, xương, ngà, da hoặc sáp. Bằng chứng khảo cổ học cho thấy búp bê là ứng cử viên hàng đầu cho món đồ chơi lâu đời nhất được biết đến. Búp bê mái chèo bằng gỗ đã được tìm thấy trong các ngôi mộ Ai Cập có niên đại từ đầu thế kỷ 21 trước Công nguyên. Búp bê với chân tay có thể di chuyển và quần áo có thể tháo rời có niên đại ít nhất là 200 TCN. Các nhà khảo cổ đã phát hiện ra những con búp bê Hy Lạp làm bằng đất sét và khớp nối ở hông và vai. Búp bê Rag và thú nhồi bông có lẽ cũng rất phổ biến, nhưng không có ví dụ nào được biết đến trong số này còn tồn tại cho đến ngày nay. Câu chuyện từ Hy Lạp cổ đại khoảng năm 100 cho thấy búp bê được các bé gái sử dụng làm đồ chơi. Ở Rome cổ đại, búp bê được làm từ đất sét, gỗ hoặc ngà voi. Búp bê đã được tìm thấy trong các ngôi mộ của trẻ em La Mã. Giống như trẻ em ngày nay, các trẻ em của nền văn minh La Mã sẽ mặc quần áo cho búp bê Pháp theo thời trang mới nhất. Ở Hy Lạp và La Mã, theo thông lệ, các cậu bé sẽ dành đồ chơi của mình cho các nam thần khi họ đến tuổi dậy thì và các cô bé sẽ dành đồ chơi của họ cho các nữ thần khi họ kết hôn. Theo truyền thống, búp bê giẻ rách được làm tại nhà từ phế liệu dự phòng của vật liệu vải. Búp bê giẻ rách La Mã đã được tìm thấy có niên đại từ 300 BC. Búp bê truyền thống đôi khi được sử dụng làm đồ chơi của trẻ em, nhưng chúng cũng có thể có giá trị tâm linh, ma thuật và nghi thức. Không có ranh giới xác định giữa búp bê tinh thần và đồ chơi. Trong một số nền văn hóa, búp bê đã được sử dụng trong các nghi lễ đã được trao cho trẻ em. Chúng cũng được sử dụng trong giáo dục trẻ em và là các đồ vật mang di sản văn hóa. Trong các nền văn hóa khác, búp bê được coi là có quá nhiều sức mạnh ma thuật nên trẻ em không được phép chơi với chúng. Búp bê châu Phi được sử dụng để dạy và giải trí; chúng là những trung gian siêu nhiên, và chúng bị thao túng cho mục đích nghi lễ. Hình dạng và trang phục của chúng khác nhau tùy theo khu vực và tùy chỉnh. Búp bê thường xuyên được truyền lại từ mẹ sang con gái. "Akuaba" là búp bê sinh sản nghi lễ bằng gỗ từ Ghana và các khu vực lân cận. Các "akuaba" được biết đến nhiều nhất là những người Ashanti, mà "akuaba" có đầu to, giống như cái đĩa. Các bộ lạc khác trong khu vực có nhiều loại "akuaba" với phong cách đặc biệt. Có một lịch sử phong phú của những con búp bê Nhật Bản có niên đại từ thời Dogu (8000-200 TCN). và các hình nhân của Haniwa (300-600). Đến thế kỷ thứ mười một, búp bê đã được sử dụng làm đồ chơi cũng như để bảo vệ và trong các nghi lễ tôn giáo. Trong Hinamatsuri, lễ hội búp bê, búp bê hina được trưng bày. Chúng được làm bằng rơm và gỗ, sơn, và mặc quần áo dệt nhiều lớp phức tạp. Búp bê Daruma là búp bê hình cầu có thân màu đỏ và khuôn mặt trắng không có con ngươi. Các búp bê này đại diện cho Bồ đề đạt ma, người Đông Ấn, người sáng lập ra Thiền tông và được sử dụng như bùa may mắn. Búp bê Kokeshi bằng gỗ không có tay hoặc chân, nhưng đầu to và thân hình trụ, tượng trưng cho các bé gái. Việc sử dụng một hình nộm để thực hiện một câu thần chú trên một ai đó được ghi lại trong các nền văn hóa châu Phi, người Mỹ bản địa và châu Âu. Ví dụ về các thiết bị ma thuật này bao gồm hình múa rối châu Âu và "nkisi" hoặc "bocio" tại Tây Phi và Trung Phi. Trong ma thuật và phù thủy dân gian châu Âu, búp bê poppet được sử dụng để đại diện cho một người dùng phép thuật trên người nào đó. Mục đích là bất kỳ hành động nào được thực hiện khi hình nộm hoạt động sẽ được chuyển đến đối tượng thông qua phép thuật thông linh. Việc thực hành gắn đinh ghim trong "búp bê voodoo" có liên quan đến phép thuật dân gian Hoodoo của người Mỹ gốc Phi. Búp bê Voodoo không phải là một đặc trưng của tôn giáo Vodou Haiti, nhưng đã được mô tả như vậy trong văn hóa phổ biến, và búp bê voodoo khuôn mẫu được bán cho khách du lịch ở Haiti. Có khả năng khái niệm búp bê voodoo trong văn hóa đại chúng bị ảnh hưởng bởi các con búp bê châu Âu. Một phù thủy nhà bếp là một con búp bê có nguồn gốc ở Bắc Âu. Nó giống như một khuôn mẫu phù thủy hay bà già và được hiển thị trong nhà bếp khu dân cư như một phương tiện để tạo may mắn và xua đuổi tà ma. Búp bê Hopi Kachina là hình nộm được làm từ gỗ cây bông thể hiện các đặc điểm của nghi lễ Kachina, linh hồn đeo mặt nạ của bộ lạc người Mỹ bản địa Hopi. Búp bê Kachina là những đồ vật được trân trọng và nghiên cứu để tìm hiểu đặc điểm của từng Kachina. Búp bê Inuit được làm từ đá xà phòng và xương, những vật liệu phổ biến cho người Inuit. Nhiều người được mặc bằng lông động vật hoặc da. Trang phục của họ nói lên phong cách ăn mặc truyền thống cần thiết để sống sót qua mùa đông lạnh, gió và tuyết. Những con búp bê trà của người Innu chứa đầy trà cho các cô gái trẻ mang theo trong những chuyến đi dài. Búp bê táo là loại búp bê truyền thống của Bắc Mỹ với phần đầu được làm từ táo khô. Trong thần thoại Inca, Sara Mama là nữ thần ngũ cốc. Nữ thần này được liên kết với ngô phát triển theo bội số hoặc là các sự kiện tương tự kỳ lạ. Những cái cây kỳ lạ này đôi khi được hóa trang thành búp bê của Sara Mama. Búp bê trấu là búp bê truyền thống của người Mỹ bản địa được làm từ lá khô hoặc vỏ trấu của một cây ngô. Theo truyền thống, các búp bê này không có khuôn mặt. Việc tạo ra búp bê vỏ trấu được những người định cư châu Âu đầu tiên ở Hoa Kỳ áp dụng. Những người định cư ban đầu cũng làm búp bê giẻ rách và búp bê bằng gỗ được chạm khắc, được gọi là "Pennywoods". La última muñeca, hay "con búp bê cuối cùng", là một truyền thống của "Quinceañera", lễ kỷ niệm sinh nhật lần thứ mười lăm của một cô gái ở các vùng của Mỹ Latinh. Trong nghi lễ này, "quinceañera" từ bỏ một con búp bê từ thời thơ ấu để biểu thị rằng cô không còn cần một món đồ chơi như vậy nữa. Ở Hoa Kỳ, nghề làm búp bê đã trở thành một ngành công nghiệp vào những năm 1860, sau cuộc Nội chiến. Búp bê Matryoshka là búp bê truyền thống của Nga, bao gồm một bộ các hình bằng gỗ rỗng mở ra và làm tổ bên trong nhau. Chúng thường miêu tả người nông dân truyền thống và bộ đầu tiên được chạm khắc và vẽ vào năm 1890. Ở Đức, búp bê đất sét đã được ghi nhận từ thế kỷ 13 và búp bê bằng gỗ được làm từ thế kỷ 15. Bắt đầu từ thế kỷ 15, những con búp bê ngày càng phức tạp đã được tạo ra để trưng bày cảnh thiên nhiên, chủ yếu ở Ý. Những con búp bê với quần áo chi tiết, thời trang đã được bán ở Pháp vào thế kỷ 16, mặc dù cơ thể của chúng thường được xây dựng thô sơ. Búp bê gỗ peg của Đức và Hà Lan có giá rẻ, được làm đơn giản và là đồ chơi phổ biến cho trẻ em nghèo ở châu Âu từ thế kỷ 16. Gỗ tiếp tục là vật liệu chủ đạo cho búp bê ở châu Âu cho đến thế kỷ 19. Trong suốt thế kỷ 18 và 19, gỗ ngày càng được kết hợp với các vật liệu khác, chẳng hạn như da, sáp và sứ và các cơ thể được làm rõ hơn. Không biết khi nào mắt thủy tinh của búp bê xuất hiện lần đầu tiên, nhưng màu nâu là màu mắt chủ đạo cho búp bê cho đến thời Victoria khi mắt xanh trở nên phổ biến hơn, lấy cảm hứng từ Victoria của Anh. Búp bê, con rối và mặt nạ cho phép người bình thường nói ra những điều không thể trong tình huống thực tế; Ở Iran chẳng hạn trong thời kỳ Qajar, người ta chỉ trích chính trị và điều kiện xã hội của triều đại Ahmad-Shah thông qua múa rối mà không sợ bị trừng phạt. Theo các quy tắc của đạo Hồi, hành động nhảy múa ở nơi công cộng đặc biệt là đối với phụ nữ, là một điều cấm kỵ. Nhưng búp bê hoặc con rối có bản sắc tự do và độc lập và có thể làm những gì không khả thi cho người thật. Layli (búp bê Lurish) là một búp bê nhảy múa có bản lề, rất phổ biến đối với người Lur ở Iran. Cái tên Layli có nguồn gốc từ truyện dân gian và tình yêu Trung Đông, Layla và Majnun. Layli là biểu tượng của người yêu mà có vẻ đẹp tâm linh. Layli cũng đại diện và duy trì một truyền thống văn hóa, đang dần dần biến mất trong cuộc sống đô thị. Kỷ nguyên công nghiệp. Trong thế kỷ 19, đầu của búp bê thường được làm bằng sứ và kết hợp với thân bằng da, vải, gỗ hoặc vật liệu tổng hợp, chẳng hạn như papier-mâché hoặc thành phần, hỗn hợp bột giấy, mùn cưa, keo và các vật liệu tương tự. Với sự ra đời của vật liệu polymer và nhựa trong thế kỷ 20, búp bê làm cho phần lớn chuyển sang các vật liệu này. Chi phí thấp, dễ sản xuất và độ bền của vật liệu nhựa cho phép các loại búp bê mới có thể được sản xuất hàng loạt với giá thấp hơn. Các vật liệu đầu tiên là cao su và celluloid. Từ giữa thế kỷ 20, vinyl mềm đã trở thành vật liệu chủ đạo, đặc biệt là với búp bê trẻ em. Bắt đầu từ thế kỷ 20, cả búp bê bằng sứ và nhựa đều được sản xuất trực tiếp cho thị trường sưu tập dành cho người lớn. Nhựa tổng hợp như polyurethane giống như sứ trong kết cấu và được sử dụng cho búp bê sưu tập. Thông thường các thuật ngữ "búp bê sứ", "búp bê" "bisque" và "búp bê Trung Quốc" đôi khi được sử dụng thay thế cho nhau. Nhưng các nhà sưu tập tạo ra sự khác biệt giữa búp bê Trung Quốc, làm bằng sứ tráng men và búp bê bisque, làm bằng sứ bisque hoặc sứ bích quy không tráng men. Một con búp bê Trung Quốc cổ điển hình có một cái đầu bằng sứ tráng men màu trắng với mái tóc được sơn vẽ và một cơ thể làm bằng vải hoặc da. Chữ china chỉ "Trung Quốc" hiện đang được sử dụng để chỉ các vật liệu làm bằng sứ. Chúng được sản xuất hàng loạt ở Đức, đạt mức phổ biến từ năm 1840 đến 1890 và bán được hàng triệu. Búp bê Parian cũng được sản xuất tại Đức, từ khoảng năm 1860 đến 1880. Chúng được làm bằng sứ trắng tương tự như búp bê Trung Quốc nhưng đầu không được nhúng men và có một kết thúc mờ. Búp bê Bisque được đặc trưng bởi vỏ ngoài giống như da thật của chúng. Các loại búp bê này có mức độ nổi tiếng cao nhất từ năm 1860 đến 1900 với búp bê Pháp và Đức. Búp bê bisque cổ của Đức và Pháp từ thế kỷ 19 thường được làm như đồ chơi của trẻ em, nhưng búp bê bisque đương đại chủ yếu được sản xuất trực tiếp cho thị trường sưu tập. Cho đến giữa thế kỷ 19, búp bê châu Âu chủ yếu được sản xuất để đại diện cho những người trưởng thành. Búp bê trẻ con và búp bê trẻ em phổ biến sau này không xuất hiện cho đến khoảng năm 1850. Nhưng, vào cuối thế kỷ 19, búp bê trẻ con và trẻ con đã vượt qua thị trường. Búp bê sáp giống như thật, rất phổ biến ở Anh thời Victoria. Búp bê giấy được cắt bằng giấy, với quần áo riêng biệt thường được giữ trên búp bê bằng cách gấp giấy. Chúng thường phản ánh phong cách đương đại, và búp bê giấy ballerina thế kỷ 19 là một trong những búp bê nổi tiếng sớm nhất. Búp bê Shirley Temple năm 1930 đã bán được hàng triệu đô la và là một trong những búp bê nổi tiếng thành công nhất. Búp bê Kewpie từ celluloid nhỏ, dựa trên hình minh họa của Rose O'Neill, đã phổ biến vào đầu thế kỷ 20. Madame Alexander đã tạo ra con búp bê sưu tập đầu tiên dựa trên một nhân vật được cấp phép - Scarlett O'Hara từ "Cuốn theo chiều gió". Nhà búp bê đương đại có nguồn gốc từ các trường hợp trưng bày "nhà trẻ" châu Âu từ thế kỷ 17. Những ngôi nhà búp bê ban đầu đều được làm thủ công, nhưng, sau Cách mạng Công nghiệp và Thế chiến II, chúng ngày càng được sản xuất hàng loạt và trở nên có giá cả phải chăng hơn. Nhà búp bê của trẻ em trong thế kỷ 20 đã được làm bằng thiếc, nhựa và gỗ. Những ngôi nhà hiện đại cho người sưu tập trưởng thành thường được làm bằng gỗ. Đồ chơi nhồi bông hiện đại sớm nhất được sản xuất vào năm 1880. Chúng khác với những búp bê giẻ rách trước đó ở chỗ chúng được làm bằng vải lông thú sang trọng và thường miêu tả động vật hơn là con người. Gấu bông xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1902-1903. Búp bê da đen đã được thiết kế để giống với những người có làn da sẫm màu khác nhau, từ khuôn mẫu cho đến chân dung chính xác hơn. Búp bê giẻ rách được những nô lệ Mỹ làm ra dùng để làm trò chơi cho trẻ em nô lệ. Golliwogg là một nhân vật búp bê giẻ rách sách vào cuối thế kỷ 19 được tái sản xuất rộng rãi như một món đồ chơi. Con búp bê có làn da rất đen, đôi mắt viền trắng, đôi môi chú hề và mái tóc rối bù, và được mô tả là một bức tranh biếm họa người da đen. Những con búp bê đen được sản xuất hàng loạt ban đầu thường là phiên bản tối của các đối tác màu trắng của chúng. Những con búp bê đen đầu tiên của Mỹ có đặc điểm khuôn mặt châu Phi thực tế được sản xuất vào những năm 1960. Búp bê thời trang được thiết kế chủ yếu để mặc quần áo để phản ánh xu hướng thời trang và thường được mô phỏng theo các cô gái tuổi teen hoặc phụ nữ trưởng thành. Những con búp bê thời trang sớm nhất là búp bê bisque của Pháp từ giữa thế kỷ 19. Búp bê thời trang đương đại thường được làm bằng nhựa vinyl. Barbie, từ công ty đồ chơi Mattel của Mỹ, chiếm lĩnh thị trường từ khi thành lập vào năm 1959. Bratz là con búp bê đầu tiên thách thức sự thống trị của Barbie, đạt bốn mươi phần trăm thị trường vào năm 2006. Nhân vật hành động bằng nhựa, thường đại diện cho các siêu anh hùng, đặc biệt phổ biến ở các bé trai. Búp bê thời trang và nhân vật hành động thường là một phần của nhượng quyền truyền thông có thể bao gồm phim, TV, trò chơi video và các hàng hóa liên quan khác. Búp bê Bobblehead là những con búp bê bằng nhựa có thể thu thập được với các đầu được nối với cơ thể bằng lò xo hoặc móc để cho đầu của chúng có thể lắc lư. Chúng thường miêu tả các cầu thủ bóng chày hoặc các vận động viên khác. Búp bê có những khớp nối dùng để trưng bày chủ yếu là cửa hàng thời trang gọi là Mannequin.
1
null
Juan Martín Maldacena (sinh ngày 10 tháng 9 năm 1968) là nhà vật lý học sinh ra ở Buenos Aires, Argentina. Ông làm việc ở Đại học Harvard vào năm 1997 với vai trò là phó giáo sư và nhanh chóng thăng lên giáo sư vật lý vào năm 1999. Từ năm 2001, ông là một giáo sư tại Viện nghiên cứu cao cấp Princeton, New Jersey.
1
null
Thiết bị đầu ra là một bộ của thiết bị phần cứng máy tính được sử dụng để hiển thị kết quả của một quá trình xử lý dữ liệu được thực hiện bởi một hệ thống xử lý thông tin (chẳng hạn như một máy tính) và chuyển đổi thông tin điện tử này thành một dạng mà con người có thể đọc được. Màn hình hiển thị. Một thiết bị màn hình hiển thị là một thiết bị đầu ra truyền tải văn bản, hình ảnh, và video một cách trực quan. Thiết bị hiển thị bao gồm màn hình CRT, màn hình LCD, màn hình plasma và TV.
1
null
Gói Bali là một thỏa thuận của Tổ chức Thương mại Thế giới thông qua trong kỳ họp thứ 9 tổ chức tại Bali, Indonesia. Kỳ họp dự kiến kéo dài từ 3-6/12/2013 nhưng đã kéo dài thêm một ngày đến 7/12. Kỳ họp nhằm nới lỏng cách rào cản thương mại. Đây là thỏa thuật đầu tiên WTO đạt được sau khi được các nước thành viên phê chuẩn. Gói Bali tạo thành một phần của Vòng phát triển Doha. Theo một ước tính của Viện kinh tế học quốc tế Peterson, nếu các biện pháp hải quan của thỏa thuận được thực thi phù hợp, chúng có thể tạo ra 1000 tỷ USD hoạt động kinh tế toàn cầu, và 21 triệu việc làm mới và làm giảm chi phí thương mại quốc tế 10–15%.. Đàm phán. Ban đầu Ấn Độ không đồng ý bỏ trợ cấp nông nghiệp do muốn tạo ra nông sản giá rẻ cho người dân Ấn Độ. Trung Quốc và Indonesia cũng có thách thức tương tự như Ấn Độ khi phải đảm bảo an ninh lương thực cho dân số của họ. Tuy nhiên, 2 quốc gia này đã đồng ý thỏa hiệp với Hoa Kỳ về vấn đề này. Trong khi Cuba, Bolivia, Nicaragua và Venezuela phản đối việc loại bỏ các văn bản liên quan đến lệnh cấm vận của Hoa Kỳ đối với Cuba. Cuối cùng, Ấn Độ và Hoa Kỳ đạt một thỏa hiệp nơi một giải pháp lâu dài để các khoản trợ cấp của Ấn Độ sẽ được quyết định trong các cuộc đàm phán riêng biệt tương lai trong vòng bốn năm, trong khi Cuba đạt đến một thỏa hiệp kiềm chế không phủ quyết thỏa thuận.
1
null
Gambusia affinis là một loài cá nước ngọt, còn được gọi phổ biến, như đơn giản chỉ là Cá muỗi hay còn gọi bằng tên chi nó Gambusia, hoặc bằng tên gọi chung gambezi. "Cá muỗi" nhỏ so với các loài cá khác, với con mái đạt tổng chiều dài 7 cm (2,8 in) và con trống ở chiều dài 4 cm (1,6 in). Con mái có thể được phân biệt với con trống bởi kích thước của chúng và một vị trí mang trứng ở sau bụng của chúng. Tên "Cá muỗi" đã được đưa ra bởi vì chế độ ăn của loài cá này đôi khi bao gồm một lượng lớn ấu trùng muỗi, so với kích thước cơ thể. Gambusia thường ăn động vật phù du, bọ cánh cứng, cánh phù du, bộ Cánh lông, ve bét và các loài không xương sống; ấu trùng muỗi chỉ chiếm một phần nhỏ trong chế độ ăn uống của chúng. "Cá muỗi" còn được gọi là cá tuế, có tên khoa học là Gambusia affinis. Cùng với loại cá bảy màu, đẻ noãn thai sinh (tức là đẻ con), chúng thuộc họ Poecillidae. Miệng cá được cấu tạo phù hợp với việc tìm kiếm thức ăn trên mặt nước. Loài cá này có nguồn gốc từ Trung Mỹ nhưng do đặc điểm diệt ấu trùng muỗi rất hiệu quả nên chúng đã được đưa đến nhiều vùng khác nhau ở các nước trên thế giới. Cá muỗi có khả năng chịu đựng được sự thay đổi lớn về môi trường như: nhiệt độ, độ ô nhiễm của nguồn nước nhưng thực tế chúng phát triển tốt ở các vùng nước sạch và nhiệt độ ổn định.
1
null
Động vật ăn thịt người dùng để chỉ về những động vật săn bắt và ăn thịt con người như là một con mồi. Thuật ngữ này không chỉ về những kẻ ăn xác thối vì thường bao gồm hành vi tấn công và giết chết con người. Sự thật là con người có thể bị tấn công bởi nhiều loại động vật vì con người trong tự nhiên cũng là một trong những con vật yếu ớt, dễ bị tấn công và thường nằm trong chế độ ăn uống bình thường của các loài dã thú. Thuật ngữ này khác với động vật nguy hiểm chỉ về những loài động vật tuy không ăn thịt người nhưng với sự hung hãn, gây hấn và tính khí thất thường thì có thể tấn công và gây nguy hiểm lớn cho con người chẳng hạn như hà mã, voi, trâu rừng. Những trường hợp ghi nhận về động vật ăn thịt người có liên quan đến hổ, báo, sư tử và cá sấu, đặc biệt là hổ. Tuy nhiên, chúng không phải là những kẻ săn người như con mồi duy nhất mà sẽ tấn công con người nếu có cơ hội. Một loạt các loài khác cũng đã được biết đến có thể tấn công và ăn thịt con người như con mồi, bao gồm cả gấu, rồng Komodo, linh cẩu, báo sư tử, những con sói và cá mập. Thông thường những động vật ăn thịt người này chính là các loài động vật ăn thịt hoặc động vật ăn tạp. Những động vật ăn thịt người còn được gọi với thuật ngữ thông tục là những kẻ ăn thịt người hay những kẻ giết người trong đó, thuật ngữ "những kẻ ăn thịt người" được nhắc đến trong tác phẩm nổi tiếng của Jim Corbett với tựa đề "Những kẻ ăn thịt người ở Kumaon", một câu chuyện tập hợp về những con dã thú ăn thịt người tại Ấn Độ bị chính ông này bắn hạ. Trong văn hóa đại chúng, động vật tấn công và ăn thịt người được phản ánh qua nhiều truyền thuyết dân gian đối với từng con thú, nhìn chung người ta nhắc đến chúng với sự ghê sợ và huyền hoặc chúng thành những con quái vật, yêu tinh, ma quỷ chuyên hại người gắn với những câu chuyện và niềm tin hoang đường. Họ mèo. Các loài thú họ mèo, đặc biệt là mèo lớn, đều là những động vật rất hung dữ, đầy sức mạnh và nguy hiểm, chúng là mối đe dọa và khủng bố cho con người tiêu biểu là các loài hổ, báo, sư tử. Chỉ tính riêng trong một thập kỷ qua, các loài động vật họ mèo đã giết hại khoảng 100 người ở khu vực Mumbai ở Ấn Độ. Hổ. Hổ là một trong những loài giết người tàn bạo nhất trong vương quốc động vật. Việc hổ vồ và ăn thịt người đã được ghi nhận từ lâu trong lịch sử đặc biệt là đối với các nước châu Á nơi phân bố của loài hổ. Nhiều sự kiện đã đi vào văn hóa dân gian của các nước như một nỗi ám ảnh khiếp đảm đến mức nhiều vùng miền có tục thờ hổ vì sợ bị hổ dữ làm hại. Ngày nay, nhiều vụ việc hổ tấn công con người do những sự cố, tai nạn xảy ra trong các vườn thú, rạp xiếc gây ra những vụ việc nổi cộm gây kinh hoàng trong dư luận. Chúng hội tụ đầy đủ những yếu tố của một kẻ săn mồi hung ác, bao gồm sức mạnh, khéo léo, tốc độ, kiêu ngạo và sự xảo quyệt. Với đặc tính hung hãn, táo tợn, tinh ranh và phàm ăn của mình, hồ tấn công nhiều động vật trên rừng cho đến gia súc, gia cầm và khi quá đói, nó sẽ rình và ăn thịt con người như một nguồn thực phẩm cung cấp cho chúng. Không giống như báo hoa mai và sư tử, hổ hiếm khi xâm nhập vào lãnh thổ của con người để săn người. Phần lớn nạn nhân được báo cáo là ở trong lãnh thổ của hổ khi cuộc tấn công của chúng diễn ra. Hầu hết những vụ hổ tấn công thường xảy ra vào ban ngày, không giống như cách thức của báo hoa mai và sư tử. Những thống kê cho thấy hổ là con vật tấn công và gây thiệt mạng cho con người nhiều hơn bất kỳ loài mèo lớn nào khác, và hổ đã chịu trách nhiệm cho nhiều cái chết của con người thông qua tấn công trực tiếp hơn bất kỳ động vật có vú hoang dã nào. Khoảng 1.000 người đã bị giết mỗi năm ở Ấn Độ vào đầu những năm 1900, với trường hợp đáng chú ý nhất là con hổ ở Champawat từng giết chết 430 người ở Ấn Độ. Hổ đã giết 129 người trong rừng ngập mặn Sundarbans từ năm 1969 đến 1971. Người ta thậm chí ước tính rằng ít nhất đã có 373.000 người bị thiệt mạng do hổ vồ từ giai đoạn năm 1800 đến năm 2009. Chỉ tính riêng giữa năm 1876 và năm 1912, những con hổ giết chết 33.247 người ở Ấn Độ lúc này là thuộc địa của Anh. Điều này đã khiến cho hổ được coi là loài giết người ghê rợn nhất. Phần lớn các cuộc tấn công xảy ra ở Nam Á và Đông Nam Á, ở Đông Nam Á, các cuộc tấn công giảm dần sau khi đạt đỉnh trong thế kỷ XIX, nhưng các cuộc tấn công ở Nam Á vẫn ở mức cao, đặc biệt là ở Sundarbans, nơi sinh sống của khoảng 600 con hổ Bengal. Tại đây hàng năm các con hổ đã vồ và giết chết khoảng 50 đến 250 người. Một lý thuyết được đưa ra để giải thích điều này cho thấy rằng vì thông thường hổ chỉ uống nước ngọt nhưng độ mặn của nước trong khu vực đóng vai trò là yếu tố gây bất ổn trong chế độ ăn uống và cuộc sống của hổ Sundarbans, khiến chúng luôn khó chịu và cực kỳ hung dữ. Các lý thuyết khác bao gồm việc chia sẻ môi trường sống của chúng với con người và việc chúng thường xuyên ăn xác người chết trong các trận lũ lụt. Vào năm 2008, việc mất môi trường sống do bão lốc xoáy Sidr đã dẫn đến sự gia tăng số vụ hổ tấn công con người ở địa phận Ấn Độ của Sundarbans, khi những con hổ đã xâm nhập vào Ấn Độ từ Bangladesh. Sư tử. Ở châu Phi, sư tử đồng nghĩa với cái chết, ước tính hàng trăm nạn nhân thiệt mạng mỗi năm vì chúng. Một thống kê cụ thể cho thấy, mỗi năm, có khoảng từ 500 đến 700 vụ sư tử tấn công người. Sư tử thường chủ động đột nhập vào những ngôi làng gần rừng cả ngày lẫn đêm để săn con người. Sự quyết đoán lớn hơn này thường làm cho sư tử trở thành kẻ ăn thịt người dễ dàng hơn hổ. Tuy nhiên, sư tử chỉ săn người khi chúng quá khan hiếm thức ăn. Sư tử thường trở thành kẻ ăn thịt người vì những lý do tương tự như hổ: đói, già và bệnh tật giống như sư tử Tsavo, mặc dù một số cá thể ăn thịt người được báo cáo là vẫn có sức khỏe tốt. Mặc dù những con sư tử đói có thể tấn công con người đi lại trong lãnh thổ của nó, nhưng đa số những cá thể tấn công người thường là những con đực già nua, chỉ sống nhờ gặm nhấm, côn trùng, không thể săn những con mồi ưa thích của chúng. Một số trường hợp tấn công con người đã biết là ở Tsavo và Mfuwe. Trong cả hai trường hợp, những người thợ săn đã giết chết chúng đều viết sách về cuộc săn lùng của họ (Sư tử bóng ma và sư tử bóng tối). Trong dân gian, những con sư tử ăn thịt người đôi khi được nhắc đến như những con ác quỷ. Những sự việc ở Mfuwe và Tsavo là tương tự nhau. Những con sư tử trong cả hai sự kiện là to lớn hơn bình thường, không có bờm và dường như đang bị sâu răng. Một số người cho rằng chúng thuộc về một phân loài sư tử chưa được phân loại hay chúng dường như đang ốm và không dễ dàng săn mồi. Năm 1898, người Anh bắt đầu công trình xây dựng cây cầu đường sắt bắc qua sông Tsavo ở Kenya. Trong suốt 9 tháng, các công nhân xây dựng tuyến đường sắt này liên tiếp trở thành mục tiêu săn đuổi của hai con sư tử ăn thịt người mà sau này người ta mới biết rằng chúng là hai anh em. Những con sư tử này được mô tả rằng rất to lớn. Chúng dài độ hơn 3m hơn những con sư tử thường ở Tsavo. Đêm đêm, chúng mò tới lều của những người công nhân xây dựng, kéo họ đến những bụi cây xa xa và thực hiện "một bữa ăn thịnh soạn". Nhưng một thời gian sau, chúng trở nên dạn dĩ hơn. Chúng không phải lén ăn con mồi từ các bụi rậm mà tiến hành ngay tại khu vực cách lều chỉ một vài ba mét. Những người bản địa bắt đầu tin rằng những con sư tử này thực sự là quỷ được gửi đến từ địa ngục để ngăn cản người Anh xâm lược vùng đất của họ. Người Đông Phi cũng tin rằng sư tử là sự tái sinh của những vị Vua đã khuất. Khi con số nạn nhân đã lên tới hàng trăm, nhiều người công nhân bắt đầu sợ hãi và bỏ chạy khỏi công trường xây dựng. Cuối cùng, việc xây dựng tuyến đường sắt buộc phải dừng lại bởi không ai muốn trở thành nạn nhân tiếp theo của "con quỷ" trên. Con sư tử ở Mfuwe dài 10 ft đã làm kinh hãi người dân Zambia năm 1991. Sau khi giết người lần thứ sáu, con sư tử này đi vênh váo vào giữa phố, mang theo túi giặt ủi của nạn nhân, thách thức bất kỳ ai dám đối mặt với nó. Một người đến từ California đi săn chờ đợi trong 20 đêm trước khi bắn gục nó. Tuyên ngôn của sư tử đối với việc ăn thịt người đã được kiểm tra một cách có hệ thống. Các nhà khoa học của Mỹ và Tanzania báo cáo rằng hành vi ăn thịt người ở các vùng nông thôn của Tanzania đã tăng lên rất nhiều từ năm 1990 đến năm 2005. Ít nhất 563 dân làng đã bị tấn công và nhiều người đã bị sư tử ăn thịt trong thời kỳ này, một số lượng vượt xa các sự cố "Tsavo" nổi tiếng của một thế kỷ trước đó. Vụ việc xảy ra gần Công viên Quốc gia Selous ở quận Rufiji và tỉnh Lindi gần biên giới Mozambique. Trong khi việc mở rộng địa bàn của dân làng vào khu vực bụi rậm là một mối quan tâm, các tác giả cho rằng chính sách bảo tồn phải giảm thiểu nguy hiểm bởi vì, trong trường hợp này, bảo tồn góp phần trực tiếp vào cái chết của con người. Các trường hợp ở Lindi đã được ghi nhận nơi sư tử bắt giết con người từ sâu trong những ngôi làng là rất đáng kể. Ước tính có hơn 250 người bị sư tử giết mỗi năm. Các nghiên cứu về sư tử ăn thịt người chỉ ra rằng sư tử châu Phi ăn thịt người như một chất bổ sung cho thực phẩm khác, không phải là phương sách cuối cùng. Vào tháng 7 năm 2018, một trang web của Nam Phi đã báo cáo rằng 3 kẻ săn trộm tê giác đã bị sư tử phục kích ăn thịt tại Khu bảo tồn Sibuya Game ở tỉnh Eastern Cape, Nam Phi. Báo hoa mai. Cũng giống sư tử, báo hoa mai khá hung dữ và rất chủ động khi săn người. Đây là dã thú liều lĩnh, táo tợn khi nó còn dám xông vào các ngôi làng, phá cửa trong quá trình tìm thịt người. Các cuộc nghiên cứu gần đây cho thấy, mỗi năm báo gây ra 30-35 vụ tấn công. Mặc dù có kích thước nhỏ nhưng báo hoa mai cũng là những kẻ săn mồi có khả năng giết người như những mãnh thú khác. Những con báo ăn thịt người nhìn chung chỉ nằm ở một tỷ lệ nhỏ trong tất cả các loài báo, nhưng không thể phủ nhận là mối đe dọa ở một số khu vực; một con báo Ấn Độ đã giết chết hơn 200 người. Thợ săn Jim Corbett được ghi nhận đã tuyên bố rằng không giống như hổ, thường trở thành kẻ ăn thịt người vì bệnh tật, báo thường thường làm như vậy sau khi ăn xác người chết. Ở khu vực mà Corbett biết rõ, người chết thường được hỏa táng hoàn toàn, nhưng khi có dịch bệnh trầm trọng, tỷ lệ tử vong vượt qua nguồn cung gỗ hỏa táng nên người ta chỉ đốt xác một chút và ném ra bìa rừng. Ở châu Á, những con báo ăn thịt người thường tấn công vào ban đêm, và đã được báo cáo là phá cửa và lợp mái nhà để tiếp cận con người. Các cuộc tấn công ở châu Phi được báo cáo ít thường xuyên hơn, mặc dù đã có những lần các cuộc tấn công xảy ra vào ban ngày. Cả hai thợ săn Corbett và Kenneth Anderson đều cho rằng việc săn lùng những con báo ăn thịt người mang đến nhiều thách thức hơn bất kỳ loài động vật nào khác. Hai con báo nguy hiểm nhất trong lịch sử là báo hoa mai ở Rudraprayag được cho là giết chết hơn 125 người và con báo ở Panar được cho là giết tới 400 người sau khi bị thương bởi những kẻ săn trộm và vì thế không còn khả năng săn các con mồi bình thường. Cả hai con này cuối cùng đã bị giết chết bởi nhà săn thú vĩ đại và tác giả nổi tiếng Jim Corbett. Có ghi nhận những ngôi làng hẻo lánh trên dãy Himalaya ở Ấn Độ, khi một con báo ranh mãnh sát hại 12 người trong 2 năm qua, điều đặc biệt là con báo chỉ tấn công những người say rượu, lảo đảo bước về nhà trong bóng tối sau khi tàn cuộc nhậu. Sự ranh mãnh của con vật reo rắc nỗi kinh hoàng đối với người dân trong khu vực. Có ghi nhận một con báo tấn công làng Karad ở Ấn Độ tháng 1 năm 2011 khiến 6 thường dân bị thương. Người làng phát hiện con báo trên mái nhà, sau đó con báo chạy vào một căn nhà trống nhưng bị người dân ném đá, khiến nó tức giận nhảy ra ngoài và cào xé bất kỳ ai gần đấy. Báo đốm. Những vụ báo đốm tấn công con người ngày nay rất hiếm. Trong quá khứ, điều này thường xuyên hơn, ít nhất là sau sự xuất hiện của Conquistadors ở Châu Mỹ. Nguy cơ bị tấn công đối với con người sẽ tăng lên nếu có ít chuột lang nước, con mồi chủ yếu của báo đốm. Vào năm 2013, một con báo đốm vồ và cắn một nữ nhân viên trong vườn thú ở thành phố Novosibirsk, Tây Siberia khiến cô tử vong. Cảnh sát địa phương cho hay, tai nạn xảy ra khi người phụ nữ dọn chuồng của một báo mẹ 5 tuổi và báo con 7 tháng tuổi. Vách ngăn giữa nơi con vật và phía ngoài không khoá. Vì vậy, báo mẹ nhảy vào và cắn nạn nhân. Người phụ nữ 48 tuổi chết ngay tại chỗ. Báo sư tử. Báo sư tử tấn công lên con người thì rất ít vì khả năng nhận biết con mồi của báo sư tử là một hành vi học được và chúng thường không nhận ra con người là con mồi. Tấn công vào người, gia súc và vật nuôi có thể xảy ra khi chúng quen với con người hoặc đang trong tình trạng bị đói nghiêm trọng, đặc biệt khi con người xâm lấn các vùng đất hoang và tác động tới nguồn thức ăn của chúng. Do dân số ngày càng mở rộng, phạm vi báo sư tử ngày càng chồng chéo với các khu vực có người ở. Đã có khoảng 100 vụ tấn công của báo sư tử đối với con người ở Mỹ và Canada trong giai đoạn từ năm 1890 đến tháng 1 năm 2004, với 16 người tử vong; các con số cho California là 14 vụ và 6 người chết. Sự tấn công của báo sư tử lên con người và vật nuôi gắn với các khu vực dân cư nằm ở các khu vực pha trộn đất đô thị-đất hoang như khu vực Boulder, Colorado là nơi có các con mồi truyền thống của báo sư tử, như nai tai la ("Odocoileus hermionus") đã quen sống gần khu vực dân cư và các vật nuôi. Báo sư tử trong những hoàn cảnh đó có thể không sợ con người và chó nữa và coi đây cũng là con mồi của chúng. Các cuộc tấn công thường xảy ra nhất vào cuối mùa xuân và mùa hè, khi những con báo sư tử rời khỏi mẹ và tìm kiếm lãnh thổ mới. Không giống như những con mèo lớn ăn thịt người khác, báo sư tử không giết người do tuổi tác già yếu hoặc sở thích thịt người mà để bảo vệ lãnh thổ của chúng. Vào ngày 8 tháng 1 năm 2004 báo sư tử đã giết và ăn một phần xác một người đi xe đạp trên núi ở công viên Whiting Ranch Wilderness thuộc quận Cam, California; và được coi là tấn công lên một người khác ngày hôm sau tại công viên này, nhưng người này đã được cứu thoát bởi một người đi xe đạp khác. Sau đó con báo sư tử đực trẻ này đã bị bắn hạ gần khu vực đó trong cùng ngày. Báo săn. Báo săn là loài khá hiền lành và nói chung là không tấn công con người, thậm chí là con vật được thuần hóa để phục vụ cho săn bắn. Nhưng trong điều kiện nuôi nhốt có ghi nhận trường hợp báo săn tấn công người, xảy ra trong một công viên hoang dã ở Nam Phi. Nạn nhân thoát chết khi bị hai con báo săn vật lăn ra đất, máu chảy đầm đìa quanh đầu và cổ, chúng vật ngã xuống đất và cắn tới tấp vào chân và đầu. Ban đầu khi nạn nhân đang vuốt ve những con báo, chúng bắt đầu bắt đầu tấn công một bé gái 8 tuổi, lao vào cào chân cô bé, rồi sau đó lại quay sang đến cậu em 7 tuổi đang cố trốn chạy. Khi bà tiến lại can thiệp thì lập tức chúng chồm lên từ phía sau, và một con nữa vật bà xuống đất. Người quản lý lôi một con báo đi thì một con khác nhảy vào, ghìm cô xuống đất và cắn chân người phụ nữ này. Họ chó. Sói xám. Sói xám là động vật khá hung dữ. Con thú này hay về bản làng bắt gia súc và gây thiệt hại cho gia súc khá nhiều. Nhưng thường thì nó ít khi tấn công người trừ lúc bị khiêu khích. Trái ngược với các động vật có vú ăn thịt khác được biết là tấn công con người để kiếm thức ăn, tần suất sói được ghi nhận để giết người là khá thấp, cho thấy, mặc dù có khả năng nguy hiểm, nhưng sói là loài ít đe dọa nhất về kích thước và khả năng săn mồi của chúng, ngoại trừ cá thể gây nguy hiểm chết người vì những lý do khác hơn là săn mồi. 90% nạn nhân của các cuộc tấn công và ăn thịt là trẻ em dưới 18 tuổi, đặc biệt là ở độ tuổi dưới 10. Trong những trường hợp hiếm hoi mà người lớn thiệt mạng thì nạn nhân là hầu như luôn luôn là phụ nữ. Điều này phù hợp với chiến lược săn mồi của sói, trong đó nó nhắm vào các loại con mồi yếu nhất và dễ bị tổn thương nhất. Thói quen là một yếu tố được biết đến góp phần vào một số cuộc tấn công và có thể ăn thịt người của sói, kết quả từ việc sống gần với môi trường sống của con người, khiến sói mất đi nỗi sợ hãi con người và do đó tiếp cận gần hơn, giống như những cá thể sói thành thị. Thói quen cũng có thể xảy ra khi mọi người cố tình khuyến khích sói tiếp cận họ, thường là bằng cách cho chúng ăn, hoặc vô ý, khi mọi người không đủ sức đe dọa chúng. Điều này được chứng thực bằng các nguồn chứng minh rằng những con sói trong khu vực được bảo vệ có nhiều khả năng thể hiện sự táo bạo đối với con người hơn những con ở những khu vực chúng bị săn lùng ráo riết. Sói đồng cỏ. Thông thường, sói đồng cỏ Bắc Mỹ rất sợ người, hiếm khi chúng xuất hiện và tấn công con người, sói đồng cỏ cũng gây rất ít phiền toái đối với con người, trừ khi chúng ăn vụng thức ăn của các loài vật khác trong các nhà máy dẫn đến xung đột. Một số con sói già, yếu bệnh hoạn còn thâm nhập vào các trang trại và tấn công vào các con gia súc như cừu, dê và gây nên hoảng loạn cho con người về truyền thuyết quái vật quỷ hút máu dê. Tuy vậy loài vật này được ghi nhận là đã gây ra một số vụ tấn công nhằm vào con người, đặc biệt là ở nước Mỹ. Tuy nhiên một sự kiện đau thương được ghi nhận là Tài năng âm nhạc người Canada là Taylor Mitchell vào năm 19 tuổi đã bất ngờ bị hai con sói đồng cỏ tấn công trong lúc đi dạo và đã qua đời do vết thương quá nặng, một trong hai con chó sói đã bị nhân viên bảo vệ bắn hạ, con kia chạy thoát. Tại vùng Chicago, trong vòng những năm 1990, liên tục xảy ra tình trạng những người hoặc những con vật khác bị làm phiền bởi loài sói này, nguyên nhân là do một số con chó sói bị lạc đường nên gây rối với con người. Chó Dingo. Những vụ tấn công vào con người của chó Dingo rất hiếm, chỉ có hai trường hợp tử vong được ghi nhận ở Úc. Dingo thường nhút nhát và thường cố tránh phải chạm trán với con người. Vụ việc nổi tiếng nhất về một cuộc tấn công của Dingo là sự mất tích của Azaria Chamberlain, 9 tuần tuổi. Cha mẹ cô bé báo cáo rằng cả hai đã nhìn thấy một con Dingo đưa Azaria ra khỏi lều của họ khi cô và gia đình ra ngoài trong chuyến đi cắm trại ở Uluru. Sói đỏ. Sói lửa là động vật ăn thịt tươi sống thật sự. Thức ăn của loài sói đỏ là các loài động vật như nai, hươu, hoẵng, lợn rừng, gia súc, vật nuôi và các loài chim lớn, gia cầm v.v. Nhiều khi loài sói này còn tấn công vào các bản làng để kiếm thức ăn, chúng tấn công vào cả trâu, bò, lợn, gà, dê, ngựa và thậm chí cả người, gây thiệt hại nặng nề cho nông nghiệp. Thực tế, thịt người không phải món ưa thích của loài này. Chúng là thú ăn đêm, nhưng hoạt động tích cực vào lúc sáng sớm và chiều tối (có khi cả ban ngày) và thường sống ở rừng, thường cư trú và hoạt động ở rừng già, những lúc săn đuổi mồi có thể về gần bản làng. Chó. Mặc dù chó có nhiều đặc điểm của gấu và mèo lớn được biết đến là kẻ ăn thịt người, nhưng chúng không có khả năng tự hành động như một con thú ăn thịt người. Tuy nhiên, hành động ăn thịt của chó đối với con người đã xảy ra và nhiều sự cố như vậy là kết quả từ hành vi sai trái của con người. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, các lính canh tù của Đức Quốc xã như Irma Grese và Kurt Franz báo cáo đã cho chó tấn công các phạm nhân còn sống trong các trại tập trung của Đức Quốc xã với những con chó giết chết các nạn nhân và nuốt chửng một phần xác chết. Linh cẩu. Loài này được biết đến nhiều nhất nhờ một trong số các tiếng kêu của nó, nghe tương tự như âm thanh do tiếng cười cuồng loạn ở con người. Là loài thú hoang dã, song chúng thích sống gần môi trường sống của con người. Chúng là loài cực kỳ hung dữ, nên không sợ con người. Ngược lại, con người phải nể loài thú hoang này vài phần. Chúng được coi là loài vật ăn thịt tham lam nhất hành tinh, khi vừa ăn tạp, ăn khỏe, lại có thói quen cướp mồi. Mặc dù linh cẩu dễ dàng ăn xác chết của người, nhưng nhìn chung chúng rất cảnh giác với con người và ít nguy hiểm hơn những con mèo lớn có lãnh thổ chồng chéo với chúng. Tuy nhiên, cả linh cẩu đốm và linh cẩu vằn nhỏ hơn đều là những kẻ săn mồi đáng sợ có khả năng giết chết một người trưởng thành và được biết là sẽ tấn công con người khi thức ăn khan hiếm. Giống như hầu hết các loài săn mồi, các cuộc tấn công của linh cẩu có xu hướng nhắm vào phụ nữ, trẻ em và đàn ông ốm yếu, mặc dù cả hai loài đều có thể tấn công đàn ông trưởng thành khỏe mạnh. Linh cẩu đốm là loài nguy hiểm nhất do có kích thước lớn hơn, thường xuyên săn mồi sống và tính tình hung dữ hơn linh cẩu vằn. Linh cẩu nâu và chó sói đất không được biết đến là có khả năng săn người. Gấu. Mặc dù là thường là những động vật nhút nhát và thận trọng, gấu đen châu Á tích cực tấn công con người hơn so với gấu nâu ở lục địa Á-Âu. Gấu nâu hiếm khi tấn công con người và thường tránh người. Tuy nhiên chúng không thể đoán trước trong tính khí, và sẽ tấn công nếu chúng bị kích động hay cảm thấy bị đe dọa. Ở châu Âu và ở Mỹ, rất hiếm khi gấu nâu giết chết hay gây thương tích cho con người, nhưng đã có một số trường hợp đáng tiếc xảy ra. Ở khu vực Scandinavia trong 100 năm gần đây có 3 trường hợp bị giết chết bởi gấu nâu. Trong một số khu vực của Ấn Độ và Miến Điện, loài gấu lười khiến người ta có nhiều lo sợ hơn hổ, do tính khí thất thường và không thể đoán trước của chúng. Các vụ tấn công xảy ra khi gấu bị thương hay đang nuôi con. Ngoài ra, có thể các loài gấu khác, chẳng hạn gấu trắng Bắc Cực đã tấn công người khi chúng đi kiếm thức ăn. Gấu Bắc Cực khi sống gần nơi cư trú của con người sẽ dần quen với sự hiện diện của người và do đó không có sự sợ hãi ăn sâu vào chúng, dẫn đến việc sẽ săn người để kiếm thức ăn, mặc dù với các biện pháp phòng ngừa đúng đắn, chúng dễ dàng bị răn đe. Mặc dù gấu hiếm khi tấn công con người, nhưng gấu tấn công thường gây ra những thiệt hại tàn khốc do kích thước và sức mạnh to lớn. Như với loài sói, mục đích săn người rất hiếm ở gấu; tranh chấp lãnh thổ và bảo vệ đàn con có thể thường là nguyên nhân chính dẫn đến cái chết của con người do gấu tấn công. Các cuộc tấn công mà gấu ăn thịt người thực sự là không phổ biến, nhưng được biết là xảy ra khi chúng bị bệnh hoặc con mồi tự nhiên khan hiếm, thường dẫn đến chúng tấn công và ăn bất cứ thứ gì chúng có thể giết. Vào tháng 7 năm 2008, hàng chục con gấu đói đã giết chết hai nhà địa chất làm việc tại một trại sản xuất cá hồi ở Kamchatka. Sau khi phát hiện ra một phần hài cốt của hai người này, nhà chức trách đã phản ứng bằng cách phái thợ săn đến tiêu diệt hoặc giải tán những con gấu sống gần đó. Theo một nghiên cứu từ năm 2011, những con gấu đen Bắc Mỹ đơn độc, chịu trách nhiệm cho hầu hết các cuộc tấn công của con người ở Hoa Kỳ và Canada. Không giống như gấu cái, có động cơ tấn công con người để bảo vệ đàn con, gấu đen đực thực sự xem con người là con mồi của chúng, coi như là một nguồn thực phẩm tiềm năng. Gấu xám Bắc Mỹ (một chi của loài gấu nâu) là loài có trọng lượng trung bình lên đến 1,2 tấn, chiều cao 2,4 m nếu đứng bằng hai chân. Mặc dù trông loài này có vẻ cồng kềnh nhưng chúng có thể chạy với tốc độ lên tới 56 km/h, cùng với tính khí ưa bạo lực khiến nhiều loài khác phải khiếp vía. Gấu nâu có thể giết chết người chỉ bằng một cú tát của nó. Dự án nghiên cứu gấu Scandinavia liệt kê các tình huống sau như là những mối nguy hiểm tiềm ẩn của gấu với con người: Nếu có việc phải đi trong rừng thì luôn nhớ cầm theo chuông vì thông thường gấu sẽ cố tránh con người. Nếu gặp chúng, hãy bình tĩnh và đi chậm theo hướng ngược lại với nó, tuyệt đối không nên bỏ chạy vì điều này kích thích gấu tấn công. Quan trọng là không được đe dọa nó hay kêu la. Nếu bị gấu tấn công và không có đường tẩu thoát, hãy nhớ bảo vệ tốt nhất cho đầu mình. Bò sát. Trong số nhiều loài bò sát, các loài có thể gây nguy hiểm cho con người gồm cá sấu (các loài cá sấu có kích thước lớn, hung dữ như cá sấu nước mặn hay cá sấu sông Nile), rắn (các loài trăn lớn và rắn độc), và rồng Komodo. Các loài bò sát nhỏ khác không đáng ngại đối với con người. Cá sấu. Cá sấu tấn công người là phổ biến ở những nơi cá sấu có nguồn gốc. Cá sấu nước mặn và cá sấu sông Nile chịu trách nhiệm cho nhiều cuộc tấn công và nhiều cái chết hơn bất kỳ loài săn mồi hoang dã nào khác tấn công con người để kiếm thức ăn. Mỗi năm, có hàng trăm vụ tấn công chết người ở tiểu vùng Sahara châu Phi vì những con cá sấu sông Nile. Do người dân làng sống trong nghèo khổ, cơ sở hạ tầng nghèo nàn, nhà ở gần nơi sinh sống của cá sấu nên việc đối đầu với con vật nguy hiểm là không thể tránh khỏi. Ở Australia mỗi năm chết vài chục người vì cá sấu nước mặn tấn công. Cá sấu Mugger là một loài ăn thịt người khác giết chết nhiều người ở châu Á mỗi năm, mặc dù không ngang tầm với cá sấu nước mặn và cá sấu sông Nile. Rất nhiều loài cá sấu khác cũng nguy hiểm đối với con người, nhưng hầu hết những loài khác thường sẽ không chủ động cố gắng săn người. Tại Burundi thuộc châu Phi tồn tại câu chuyện thực về con cá sấu sông Nile khổng lồ, đã cướp đi mạng sống của hàng trăm người. Nó được gọi với cái tên là cá sấu Gustave. Con cá sấu này dài 6 m và nặng cả tấn, được mệnh danh là sinh vật ăn thịt người vĩ đại nhất mọi thời đại. Nó là con cá sấu sông Nile lớn nhất còn sống, cũng như là con săn mồi đơn độc lớn nhất trên toàn lãnh thổ châu Phi. Theo những người địa phương, tới nay nó đã giết tới 300 người. Những người bản địa tin rằng, nó giết người như một thú vui tiêu khiển, chứ không phải vì đói. Nó giết nhiều người cùng lúc trong một lần tấn công, sau đó biến mất hàng tháng, thậm chí cả năm, chỉ để xuất hiện ở một chỗ khác và lại giết người. Gustave đã trên 60 tuổi, chính vì vậy nó có nhiều kinh nghiệm và khôn ngoan để không bị lừa. Tại Philippines, người ta đã phát hiện một con cá sấu khổng lồ dài 6,17 mét và nặng hơn 1 tấn (chính xác là 1,075 kg) và là thủ phạm của 02 vụ giết người, có vụ sát hại một trẻ em vào năm 2009 và khiến một dân chài mất tích. Tuy nhiên, Chỉ có sáu trong số 23 loài cá sấu được coi là nguy hiểm cho con người trưởng thành và chỉ có cá thể dài đến 2 mét (6,6 ft) hoặc nhiều hơn mới đại diện cho một mối nguy hiểm nghiêm trọng cho con người, những con cá sấu nhỏ hơn được coi là không có khả năng giết chết một người. Cá sấu mõm ngắn. Mặc dù có khả năng giết chết con mồi tương đương hoặc lớn hơn con người về kích thước và sự phổ biến của chúng trong khu vực định cư dày đặc của con người (phía đông nam Hoa Kỳ, đặc biệt là bang Florida), cá sấu mõm ngắn Mỹ hiếm khi săn người. Thậm chí, đã có một vài trường hợp đáng chú ý của cá sấu mõm ngắn tấn công cơ hội vào con người, đặc biệt là trẻ em bất cẩn, trẻ nhỏ và người già. Không giống như cá sấu nước mặn và cá sấu sông Nile nguy hiểm hơn nhiều, phần lớn cá sấu mõm ngắn tránh tiếp xúc với con người nếu có thể, đặc biệt là nếu chúng đã từng bị săn bắt. Trăn và Rắn. Với khả năng tấn công chớp nhoáng và sức mạnh phi thường, một số loài trăn và rắn, như trăn Miến Điện, trăn đá châu Phi và trăn anaconda thậm chí có thể nuốt được cả một người. Nhưng thông thường rắn không tấn công con người, trừ khi bị giật mình hay bị thương. Nói chung phần lớn các loài rắn cố gắng tránh tiếp xúc khi đối mặt với con người. Ngoại trừ rắn hổ có thể chủ động tấn công người nhưng trên thực tế, phần lớn các trường hợp bị rắn cắn là do con người chủ động bắt rắn hoặc trêu rắn (vô tình hoặc cố ý làm cho rắn cảm thấy bị đe doạ). Ngoại trừ các loài trăn lớn, các loài rắn không có nọc độc không phải là mối đe dọa đối với người. Những vết cắn của rắn không nọc thường là vô hại do răng của chúng không được thiết kế để xé rách hay gây ra những vết thương sâu. Tuy vậy vẫn có khả năng xảy ra tổn thương mô và nhiễm trùng từ những vết do rắn không nọc cắn. Ngược lại, rắn có nọc độc (rắn độc) lại tiềm ẩn nguy hiểm lớn hơn nhiều cho con người, cho dù những ca tử vong do rắn cắn không phải là quá phổ biến. Những vết cắn không dẫn tới tử vong do rắn độc gây ra có thể vẫn dẫn tới hậu quả là phải cắt cụt một phần chân tay. Trong số khoảng 725 loài rắn có nọc độc trên toàn thế giới thì chỉ khoảng 250 loài có thể giết chết con người chỉ bằng một nhát cắn. Ở châu Phi có loài rắn mamba đen nổi tiếng với nọc độc đủ sức giết một lúc nhiều người. Ở châu Á có loài rắn hổ mang chúa với cú cắn của nó có thể dẫn đến tử vong nhanh chóng cho nạn nhân chỉ sau 30 phút, thậm chí được ghi nhận có khả năng giết chết một con voi trưởng thành trong vòng vài giờ. Theo ước tính, lượng nọc độc tiết ra trong một vết cắn của rắn hổ mang có khả năng gây tử vong cho khoảng 20 – 30 người trưởng thành nếu không được chữa trị. Tại Australia trung bình chỉ một lần rắn cắn gây tử vong mỗi năm, nhưng tại Ấn Độ có tới 250.000 lần rắn cắn được ghi nhận trong năm, gây ra tới 50.000 vụ tử vong. Ở Mỹ, có 5,5 người chết ở Mỹ thường khi họ leo núi hoặc cắm trại nhưng bị rắn đuôi chuông cắn. Trong văn hóa, rắn chất liệu cho những bộ phim kinh dị, Hollywood không bao giờ bỏ qua điều này. Trong hầu hết phim về rắn, cuối cùng chiến thằng thuộc về con người. Tuy nhiên cảm giác chiến thắng này không xua tan được nỗi sợ hãi đầy ám ảnh. Mặc dù những loài như trăn đất và trăn gấm đủ khỏe để giết người, chúng không được xem là loài động vật nguy hiểm cho con người và trường hợp người bị chúng tấn công rất ít khi xảy ra. Mặc dù loài trăn này rất ít khi tấn công người, tuy nhiên đã có một số trường hợp những con trăn gấm (trong hoang dã và trong điều kiện nuôi nhốt) đã tấn công, giết chết người và thậm chí ăn thịt người. Nếu xét kích thước tối đa của các con mồi của loài trăn gấm, trên lý thuyết một con trăn trưởng thành hoàn toàn có đủ khả năng ăn thịt trẻ em, người vị thành niên, hoặc thậm chí người lớn; mặc dù bờ vai rộng của con người có thể khiến những con trăn nhỏ (dài dưới 6 mét) gặp khó khăn khi nuốt. Khi con trăn bắt đầu nuốt nạn nhân thì trong phần lớn các trường hợp, người bị nuốt đã chết. Thằn lằn. Loại thằn lằn duy nhất có trong danh sách ăn thịt người là rồng Komodo. Con vật có nguồn gốc ở Indonesia này có thể tấn công và ăn thịt người. Chúng lớn nhanh, có thể dài tới 3m. Rồng Komodo là một trong những kẻ săn mồi đáng sợ đối với con người, chúng không gần ngại tấn công khi gặp con người và hay tấn công con người, một vụ việc được ghi nhận vào năm 2013, một con rồng Komodo trong khu bảo tồn thiên nhiên hoang dã tại phía đông Indonesia đã tấn công làm 2 người đàn ông bị thương. Con rồng komodo dài đến 2m bò vào phòng của một nhân viên khu bảo tồn thiên nhiên hoang dã. Một nhân viên khác xông vào cứu đồng nghiệp cũng bị con vật này cắn. Bởi vì chúng sống trên các hòn đảo xa xôi, các cuộc tấn công không thường xuyên và có thể không được báo cáo. Mặc dù có kích thước lớn, các cuộc tấn công vào người thường không thành công và các nạn nhân đã trốn thoát được dù với những vết thương nghiêm trọng. Cá. Cá mập. Những loài cá lớn như cá mập trắng thông thường sẽ không săn người và cách duy nhất chúng khám phá một vật hoặc một cơ thể là cắn, và thường chúng sẽ bơi đi sau khi cắn. Tuy nhiên, một lần cắn của cá mập có thể khiến một người bị thương và cũng có vài ngoại lệ khi cá mập tấn công người. Mỗi năm khoảng 100 vụ cá mập tấn công được báo cáo trên toàn thế giới. Có 17 nạn nhân tử vong bởi các cuộc tấn công cá mập trong năm 2011, trong số 118 vụ tấn công được ghi nhận. Nhiều người lo sợ các cuộc tấn công cá mập sau khi các cuộc tấn công nối tiếp thường xuyên, chẳng hạn như Các vụ cá mập tấn công ở Jersey Shore năm 1916, và tiểu thuyết kinh dị và bộ phim kinh dị Hàm cá mập, bộ phim biển xanh sâu thẳm và cá mập lên bờ. Cá mập thật sự rất đáng sợ. Nhưng chúng chưa phải là nguy hiểm nhất bởi vì có nhiều loài vật khác gây tỉ lệ tử vong lớn hơn nhiều lần so với chúng. Trong số hơn 480 loài cá mập, chỉ có ba loài phải chịu trách nhiệm về những vụ tấn công này là cá mập trắng lớn, cá mập hổ cá mập vây trắng đại dương và cá mập bò mắt trắng. Cá mập trắng, tuy là loài cá hiếu chiến, nhưng chúng rất ít khi tấn công con người. Ngoài trừ khi chúng lầm tưởng con người là một món ăn thường nhật (hải cẩu, rùa biển...) hoặc lúc chúng quá đói. Trên thực tế, cá mập trắng lớn cũng thỉnh thoảng tấn công con người, nhưng chủ yếu là để tự vệ. Bởi vì, con người không phải là món ăn ưa thích của nó. Bộ phim "Jaws" (tạm dịch: Hàm cá mập) của đạo diễn Steven Spielberg đã làm cho người ta có phần hiểu sai về loài động vật này. Trên thực tế, con người không phải con mồi ưa thích của cá mập trắng. Những vụ cá mập tấn công người thường xảy ra do chúng nhầm lẫn. Theo những khảo sát thì số người chết vì bị ong chích, rắn cắn và ngay cả sét đánh cũng còn nhiều hơn cả số người bị cá mập trắng giết hại (tính theo trung bình 1 năm). Các vụ cá mập tấn công rất nguy hiểm nhưng hiếm khi gây chết người. Trung bình hàng năm có khoảng 65 vụ cá mập tấn công người trên thế giới nhưng chỉ có khoảng 2 đến 3 vụ gây chết người. Tỷ lệ số người Australia bị cá mập cắn hai lần trong đời là khoảng 1/10 tỷ Đặc biệt là vụ cá mập tấn công ở New Jersey. Trong 6 ngày đầu tiên của tháng 7 năm 1916, hai người đàn ông bị cá mập giết chết khi đang bơi ở vùng biển New Jersey, bởi những gì mà người chứng kiến kể lại là một con cá mập dài 9 ft nặng 500 lb. Những cái chết thương tâm này tạo thành tin tức trang bìa lan rộng khắp nước. Vào ngày 12 tháng bảy, ở Matawan, New Jersey, Lester Stillwell, 12 tuổi, đang bơi trên sông thì bị cá mập kéo xuống nước. Stanley Fisher, một thợ giặt khô địa phương, lặn xuống nước tìm Lester, bị cá mập cắn đùi phải mất xấp xỉ 10 lb da và thịt. Trong vài tuần, hàng đoàn những tay săn cá mập nghiệp dư đã giết chết rất nhiều con cá lớn ở New Jersey. Vào ngày 14 tháng bảy, một con cá mập trắng lớn dài 7 ft bị dính bẫy – bao tử của nó được kể là có chứa "những chất bị nghi là thịt và xương". Thực tế thì mỗi năm chỉ có một người bị giết mỗi năm ở Mỹ và ít hơn 6 người bị giết trên thế giới. Từ năm 2006 đến 2010 chỉ có 3 trường hợp tử vong do cá mập tấn công tại Mỹ. Piranha. Cá piranha đáng sợ, ăn tạp nổi tiếng có những cái răng sắc bén và thèm thịt. Thuộc loài cá dữ, có thể ăn thịt các loài cá khác, thậm chí cả động vật lớn, cũng như có thể gây nguy hiểm cho con người. Trong cuốn sách Băng qua vùng hoang dã Brazil 1914, Teddy Roosevelt nổi tiếng đã mô tả những con cá piranha đói ăn đã rỉa một con bò tới xương trong vòng chưa đầy 60 giây. Bãi tắm Daveron ở thành phố Caceres, bang Mato Grosso (phía tây Brazil) đang bị hàng ngàn con cá ăn thịt piranha hung dữ xâm nhập. Ít nhất đã có 15 du khách bị tấn công trong lúc tắm biển. Tại Trung Quốc, ở sông Liễu Giang cũng xảy ra vụ việc cá hổ tấn công một người đàn ông cùng con chó của ông ta. Ngoài ra một họ hàng khác của chúng là loài cá Pygocentrus palometa cũng là thủ phạm của cuộc tấn công làm khoảng 70 người bị thương khi họ đang ngâm mình tại bãi tắm ở thành phố Rosario, đông bắc Argentina, một số người bị mất ngón tay hoặc ngón chân. Loài cá đáng sợ này xuất hiện trong phim kinh dị Piranha vào năm 2008 và được làm lại nhiều lần. Một bể cá đầy piranha cũng được sử dụng bởi tên tội phạm Blofeld trong phim James Bond 1967 để giết người có tên You Only Live Twice. Cá tăm. Cá tăm hay cá ma cà rồng (Candiru) là một loại cá da trơn nước ngọt sống ký sinh chỉ xuất hiện ở sông Amazon. Nó có hình dạng như một con lươn và gần như trong suốt khiến cho nó khó để nhận biết khi ở trong nước, nó có khả năng sống ký sinh trong cơ thể người, ăn mòn màng nhầy và các mô cho đến khi chủ nhân bị xuất huyết đến chết. Những loài nhỏ hơn được biết là có xu hướng xâm nhập và ký sinh trong niệu đạo của người. Mặc dù có những giai thoại khủng khiếp về các cuộc tấn công con người, nhưng rất ít trường hợp đã được xác nhận, và một số đặc điểm cáo buộc như huyền thoại hay mê tín dị đoan. Cá chiên sông. Một quái thú ăn thịt người có mang nữa là Goonch, một loài cá da trơn dài 6 ft, nặng 150 lb, sống ở sông Great Kalicon sông biên giới giữa Nepal và Ấn Độ ở dưới chân của dãy núi Himalaya. Con cá khổng lồ này được thuật lại là đã kéo rất nhiều người xuống nước trong hơn 20 năm qua, làm họ chết đuối và ăn thịt họ. Có giả thuyết con cá có được mùi vị thịt người là do sau khi ăn phần còn lại sau khi hỏa táng được quăng xuống sông. Một thanh niên 18 tuổi người Nepal mất tích sau khi bị kéo xuống sông bởi một con gì được mô tả là giống một con heo dài. Nạn nhân đầu tiên được phỏng đoán là nạn nhân của vụ cá goonch tấn công là một thanh niên 17 tuổi, cũng người Nepal;. Anh bị chết sau khi tắm sông vào tháng 4 năm 1988. Những người chứng kiến nói họ thấy người thanh niên trẻ bị kéo xuống nước bởi một con gì đó rất mạnh mẽ trong nước. Ba tháng sau sự việc này, một cậu bé bị kéo xuống nước, trong khi người cha chỉ biết đứng nhìn trong tuyệt vọng. Cá hổ kình. Cá hổ kình hoang dã thường không được xem là mối đe dọa đối với con người. Tuy nhiên, có một số ghi nhận cá biệt về cá hổ kình trong môi trường nuôi nhốt tấn công người điều khiển tại các thủy cung. Linh trưởng. Tinh tinh được biết như là loài thú thông minh và thân thiện nhưng đôi khi chúng là những sinh vật đáng sợ. Khi vui sướng hay tuyệt vọng, chúng có thể trở nên hung dữ và có những hành động thú tính như người ví dụ, hiếp dâm, giết hại và giết trẻ em. Tại châu Phi, tinh tinh đói nổi tiếng là hay bắt cóc trẻ em và lấy đó làm thức ăn, ở châu Phi, nhưng con tinh tinh đói khát do rừng bị tàn phá thường bắt cóc trẻ em để làm thức ăn. Có những trường hợp báo cáo tại vùng Đông Phi cho biết một bầy tinh tinh đã tấn công và giết chết 10 người dân, đặc biệt là vụ việc năm con tinh tinh giết một cô bé 2 tuổi. Nhiều lời kể của dân địa phương cho biết tinh tinh thường nhạy với mùi của đàn bà và hay rình bắt những phụ nữ để hiếp dâm, tuy nhiên có những bác sĩ thú y bác bỏ điều này. Tháng 2 năm 2009, con tinh tinh có tên là Travis cắn xé cô Charla Nash, bạn của người trông nom nó, khiến cô Nash mất mắt, mũi, mặt và tay. Con vật này bị cảnh sát Connecticut (Mỹ) bắn chết ngay tại chỗ. Nữ nhà báo Tristane Banon khi mô tả cụ thể cho báo giới chi tiết về vụ hiếp dâm mình và việc ông Dominique Strauss-Kahn làm thế nào để hiếp mình thì cô đã so sánh những hành vi thú tính của ông này "như một con tinh tinh động dục". Ngoài ra có những người hợp ghi nhận được về việc khỉ tấn công và giết người như con mồi, từng có vụ tấn công kinh hoàng được cho là xảy ra ở công viên vườn thú ở tỉnh Quý Châu, miền Nam Trung Quốc, khi bà đang thay tã lót cho con trai tại vườn thú, bất ngờ một con khỉ chạy đến tấn công hai mẹ con, nó cắn đứt tinh hoàn của em bé trước khi để rơi bộ phận này xuống đất, một người đàn ông khác đã nhanh chóng nhặt phần tinh hoàn của nạn nhân lên nhưng không may một con khỉ khác vồ lấy từ tay ông, sau đó nó bỏ đi và ăn phần tinh hoàn đó. Tại một vườn thú ở Ratlam tại Madhya Pradesh (Ấn Độ), khỉ nhảy vào tấn công cậu bé khiến nhân viên vườn thú và cha cậu phải xông vào cứu, Con khỉ nhảy chồm lên lưng cậu bé khiến cậu bị thương, chảy máu ở mặt và tay sau khi được giải cứu con khỉ mới chịu buông nhưng vẫn gầm ghè hung dữ. Lợn. Mặc dù không phải là động vật ăn thịt thực sự, lợn là loài săn mồi có năng lực và có thể giết và ăn thịt những người bất lực không thể thoát khỏi chúng. Nhiều thử nghiệm trên động vật trong thời trung cổ liên quan đến những con lợn bị buộc tội ăn thịt trẻ em. Năm 2019, một người phụ nữ đã bị tấn công và giết chết bởi một bầy lợn hoang ở vùng nông thôn Texas. Cô ấy chết vì vết thương do vết cắn. Bộ Gặm nhấm. Mặc dù kích thước cá thể nhỏ, chuột cống với số lượng lớn có thể giết chết những người không có khả năng tự vệ bằng cách ăn thịt người. Mặc dù vết cắn của một con chuột không có khả năng giết chết một người ngoại trừ bệnh tật, nhưng thiệt hại tập thể của hàng chục con chuột có thể gây ra cái chết do sốc và thiệt hại cho các cơ quan quan trọng. Mặc dù không phải là động vật ăn thịt thực sự, chuột là loài ăn không cầu kỳ và là những kẻ săn mồi xã hội nên nguy cơ này có thể phát sinh. Tra tấn phạm nhân bằng chuột đã được sử dụng cho các tù nhân chính trị, là việc sử dụng đàn chuột để tra tấn nạn nhân bằng cách khuyến khích chúng tấn công và ăn sống nạn nhân. Chuột túi Gambia chính là thủ phạm gây ra cái chết thương tâm cho 2 em bé ở hai thị trấn tồi tàn của Nam Phi vào khoảng tháng 5 năm 2011. Bé Lunathi Dwadwa, 3 tuổi đã bị loại chuột khổng lồ châu Phi cắn chết khi ngủ trong căn lều của gia đình ở Khayelisha, ngoại ô thành phố Cape Town. Bố mẹ em cho biết, họ không hề thấy con mình la hét, khi thức giấc, họ thấy con mình đã chết rất thương tâm: mắt bị móc ra ngoài, từ chân mày xuống má đều bị chuột ăn chỉ còn trơ hốc mắt. Một bé gái khác ở Soweto gần Johannesburg cũng chết vì lý do tương tự, trong cùng một ngày. Tuy nhiên trường hợp này là do bà mẹ để con ở nhà đi chơi với bạn bè nên đã bị cảnh sát bắt giữ vì tội “lơ đễnh”. Tháng 4 năm 2011, cụ bà 77 tuổi, Nomathemba Joyi cũng đã chết sau khi những con chuột khổng lồ gặm mất một nửa khuôn mặt phải. Số nạn nhân tử vong. Số nạn nhân tử vong bởi những động vật ăn thịt người đáng chú ý: Số lượng không chắc chắn - Sói Ansbach (thời đế quốc La Mã) và Các cuộc tấn công của cá mập USS Indianapolis (Biển Philippines)
1
null
Gambusia holbrooki, là một loài cá nước ngọt, liên quan chặt chẽ đến cá muỗi phía tây, Gambusia affinis. Nó là một thành viên của họ Poeciliidae của bộ Cyprinodontiformes. Nó có nguồn gốc ở miền đông và miền nam Hoa Kỳ, và phát triển đến chiều dài 3,5 cm. Sinh sản. Nhiệt độ đã được chứng minh có thể thay đổi độ dài của thời gian chúng cần để đạt được sự trưởng thành sinh sản và kích thước cơ thể. Mùa sinh sản của Gambusia holbrooki là giữa mùa xuân và nữa mùa đông, với thời gian sinh sản cao điểm là khoảng mùa hè. Con cái có thể đẻ tới chín lứa một mùa giao phối, với kích thước khu vực trung bình từ năm đến 100. Nhiệt độ cao đã được chứng minh là làm tăng khả năng sinh sản của loài này. Thời kỳ mang thai cho loài này là giữa 22 và 25 ngày.
1
null
Hồ Ammer là một hồ ở Oberbayern, Đức, nằm về phía Tây Nam của München giữa thành phố Herrsching và Dießen am Ammersee. Với một diện tích khoảng , nó là hồ lớn thứ sáu tại Đức. Hồ này cao hơn mặt nước biển , và có một độ sâu tối đa là . Cũng như các hồ thiên nhiên khác tại Oberbayern, Ammersee hình thành là kết quả của các tảng băng bị tan ra trong thời kỳ Băng hà. Hồ Ammer nhận nước từ sông Ammer, và chảy ra sông Amper. Tương tự như hồ Starnberg ở bên cạnh, có với cỡ lớn và dạng tương tự, nó rất được ưa chuộng trong các môn thể thao dưới nước.
1
null
Thủ tướng Pháp () trong Đệ Ngũ Cộng hòa Pháp là người đứng đầu chính phủ và cộng hòa pháp tổng thống pháp và là người đứng đầu lãnh đạo bộ trưởng . Dưới thời Đệ Tam và Đệ Tứ Cộng hòa Pháp, vị trí đứng đầu chính phủ được gọi là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (), thường gọi tắt là Chủ tịch Hội đồng (). Thủ tướng đệ trình một danh sách các bộ trưởng lên Tổng thống Pháp. Các sắc lệnh và nghị quyết của Thủ tướng là đề tài giám sát của hệ thống tòa án hành chính. Một số sắc lệnh được đưa ra sau khi có sự tham vấn từ Hội đồng Quốc gia. Bổ nhiệm. Thủ tướng được bổ nhiệm bởi Tổng thống Pháp. Tổng thống có quyền chọn bất cứ người nào mình muốn, điều này trái ngược với các thể chế Đại nghị nơi mà nguyên thủ quốc gia phải chỉ định lãnh đạo của đảng lớn nhất trong cợ quan lập pháp. Trên thực tế, chỉ có số ít các thủ tướng là người lãnh đạo đảng của mình trong lúc tại nhiệm. Mặc khác trong khi thủ tướng thường được chọn từ những người nắm chức vụ cao trong Quốc hội, trong một số trường hợp hiếm hoi, Tổng thống lựa chọn một người không nắm giữ chức vụ nhưng người đó có kinh nghiệm trong bộ máy chính quyền hoặc trong ngành ngoại giao, hoặc thành công trong quản lý kinh doanh; ví dụ cựu thủ tướng Dominique de Villepin nắm quyền từ 2005 đến 2007 khi chưa từng giữ một chức vụ được bầu. Trái lại, bởi vì Hạ viện Pháp có quyền buộc chính phủ từ chức, việc chọn lựa thủ tướng phải được số đông các nghị sĩ đồng tình. Ví dụ, ngay sau cuộc bầu cử năm 1986, Tổng thống François Mitterrand đã chỉ định Jacques Chirac làm thủ tướng, Chirac là thành viên của Tập hợp vì nền Cộng hoà (RPR) và cũng là một đối thủ chính trị của Mitterrand, và mặc dù Đảng Xã hội Pháp của Mitterrand vẫn là đảng lớn nhất trong Quốc hội, RPR có đồng minh trong Liên minh vì Dân chủ Pháp (UDF) nên họ trở thành đa số. Trong trường hợp này, Tổng thống bị buộc phải làm việc với thủ tướng là đối thủ của mình. Đến nay, Édith Cresson là phụ nữ duy nhất từng làm thủ tướng Pháp. Lịch sử. Dưới thời vương triều, vua Pháp nắm quyền chuyên chế với sự trợ giúp của các đại thần. Trong số các đại thần, một số cá nhân được ghi nhận giữ vai trò quan trọng, có tác động đến quyết sách của nhà vua, được mệnh danh là Tể tướng hay Đại thần đầu triều (tiếng Pháp: "Principal ministre d'État"). Người đầu tiên được ghi nhận giữ vai trò này là Maximilien I de Béthune, Công tước Sully, được bổ nhiệm vào năm 1598, dưới thời vua Henri IV. Vị trí này được xem là tương đương với chú vụ Thủ tướng Pháp ngày nay.
1
null
Experimental, hay âm nhạc thể nghiệm, là thể loại âm nhạc phổ biến từ giữa thế kỷ 20, nở rộ đặc biệt tại Bắc Mỹ khi nói tới những thể loại âm nhạc chưa từng biết tới. Một trong những nghệ sĩ nổi tiếng nhất và có ảnh hưởng nhất có lẽ là John Cage. Theo nghĩa hẹp hơn, experimental được dành để miêu tả thể loại âm nhạc vượt qua mọi biên giới và định nghĩa, hay là tiền đề cho một thể loại hoàn toàn khác biệt, hoặc kiểu pha trộn không chính thống, mới, phân biệt với việc sử dụng những chất liệu đặc trưng. Tương tự, nó cũng dùng để miêu tả âm nhạc không tôn giáo, hay là thứ âm nhạc hỗn tạp. Định nghĩa rõ ràng hơn chỉ đến vào cuối những năm 1950 với sự xuất hiện của các sáng tác sử dụng máy móc, và đôi khi experimental bị cho là gần với nhạc điện tử hay musique concrète. Khái niệm này cũng thường được các nhà báo sử dụng nhằm miêu tả một thể loại âm nhạc mới không nhất quán với hình mẫu cơ bản.
1
null
Vương quốc xe hơi 2 (tên gốc tiếng Anh: Cars 2) là một bộ phim hoạt hình hành động hài đồ họa 3D bằng máy vi tính, được Pixar Animation Studios sản xuất và Walt Disney Pictures phát hành vào năm 2011. "Cars 2" là phần tiếp theo của phim "Cars" năm 2006. Trong phim, xe đua Lightning McQueen (Owen Wilson lồng tiếng) và xe tải kéo Mater (Larry the Cable Guy lồng tiếng) bay đến Nhật Bản và châu Âu để tham gia tranh tài trong giải đua toàn cầu World Grand Prix, nhưng Mater bị lạc đường và từ đó cùng với các điệp viên quốc tế thực hiện nhiệm vụ vạch trần bộ mặt kẻ thao túng giải đua xe ở Anh Quốc . Bộ phim được John Lasseter đạo diễn, đồng đạo diễn Brad Lewis, kịch bản của Ben Queen, và Denise Ream sản xuất. "Cars 2" đã được phát hành tại Hoa Kỳ vào ngày 24 tháng 6 năm 2011 (5 năm sau khi bộ phim đầu tiên ra mắt). Bộ phim đã được trình chiếu theo định dạng Disney Digital 3D và IMAX 3D, đồng thời cũng theo các định dạng hai chiều và IMAX truyền thống. Bộ phim được công bố lần đầu tiên vào năm 2008, cùng với "Up", "Newt", và "Brave" (trước đây tên là "The Bear and Bow"), và là bộ phim hoạt hình thứ 12 từ xưởng phim. Mặc dù bộ phim đã nhận được các ý kiến ​​trái chiều từ các nhà phê bình, nó được xếp hạng một trong tuần đầu công chiếu tại Hoa Kỳ và Canada với doanh thu 66.135.507 USD và vượt trên các tác phẩm khác của Pixar thành công quốc tế trước đó như "Toy Story", "A Bug's Life", "Toy Story 2", "Monsters, Inc.", "Cars", và "WALL-E". Nội dung. Bộ phim được lấy theo thời điểm năm 2006 của Vương quốc xe hơi đến với năm 2011. Mở đầu là một đoạn video do chiếc xe gián điệp tên là Leland Turbo trong nhiệm vụ thất bại và tình thế lúc này đang cực kỳ nguy cấp, cập nhật thông tin cho Finn McMissile khi ông đang trên đường đi theo dõi một băng đảng tội phạm gồm toàn những chiếc xe lởm ở một giàn khoan dầu giữa Thái Bình Dương cùng với âm mưu xấu xa của chúng. Finn nhìn thấy chiếc camera do tay giáo sư người Đức Zündapp thiết kế và phát minh, ông liên tục chụp hình gửi về cơ quan tình báo. Nhưng bọn chúng đã phát hiện ra Finn đang theo dõi ý đồ xấu xa của bọn chúng, Finn bị bọn xe lởm truy đuổi sát nút, ông chạy lên phía đỉnh giàn khoan dầu và cố gắng chặn đám xe lởm. Đến đường cùng thì ông quyết định nhảy xuống biển để rút chạy, bọn chúng dùng khinh hạm đuổi theo ông, chúng bắn tên lửa để tấn công Finn, rất may là ông không hề hấn gì nhờ có một quả tên lửa của Finn đã bảo vệ ông khỏi việc bị trúng tên lửa của bọn xe lởm. Ông biến thành tàu lặn và lặng lẽ chuồn đi, ông cũng không quên thả bốn chiếc lốp xe mồi bẫy lên mặt biển để đánh lừa đám xe lởm khiến chúng nghĩ rằng Finn đã chết. Ở thị trấn Radiator Springs, người bạn thân của Lightning McQueen là Mater đang kéo Otis - một chiếc xe cũ nát - về sửa chữa thì thấy McQueen đã quay lại thăm thị trấn và mọi người sau khoảng thời gian đi tham gia giải đua xe Piston Cup lần thứ tư cùng Mack và Sally, Mater đã rất vui mừng vì cuối cùng cũng được gặp lại McQueen sau 1 thời gian dài, bất chấp việc anh đang kéo theo Otis. Sau đó, McQueen và Sally quyết định tổ chức một buổi hẹn hò đầy lãng mạn ở Wheel Well, nhưng đang lúc thi vị lãng mạn thì Mater lại xuất hiện và phá đám cặp đôi trong trang phục bồi bàn, và anh đi lấy đồ uống theo yêu cầu của McQueen và Sally. Tại đây, Guido thể hiện tài năng thiên bẩm của 1 bartender chuyên nghiệp trước những người bạn của mình. Trong buổi tiệc, đài truyền hình giới thiệu ông Miles Axlerod là người đã cầm cố hết tài sản của mình, biến mình thành chiếc ô tô điện đầu tiên đi vòng quanh thế giới mà không cần bản đồ, và ông giới thiệu loại nhiên liệu mới mang tên Allinol, được đánh giá là thân thiện với môi trường - và còn tổ chức một giải đua xe toàn cầu mang tên World Grand Prix. Rồi trên truyền hình có cuộc gọi từ một tay đua người Ý tên là Francesco Bernoulli, anh ta thách thức McQueen tại giải đua sắp tới. Và rồi McQueen, Mater, Luigi, Guido, Fillmore và Sarge cùng "tân trang" bằng cách đồng loạt dán miếng dán số 95 - con số đua xe của McQueen - tại tiệm sơn của Ramone, đồng thời McQueen cũng được sở hữu ngoại hình mới ngầu hơn hẳn, rồi cả 6 người cùng lên đường đi tham dự sự kiện khai màn giải đua thế giới tại Nhật Bản, tại đó họ cùng nhau đi tham quan Thủ đô Tokyo vào buổi tối, đến xem những lễ hội truyền thống của Nhật Bản như múa geisha và đấu vật sumo. Sau cùng thì họ đã đến nơi tổ chức sự kiện khai mạc Giải đua Toàn cầu World Grand Prix, và tại đó McQueen và Mater đã gặp được Francesco Bernoulli. Trong sự kiện ở Tokyo, Finn đang đi dò máy quay tội phạm thì gặp nữ điệp viên Holley Shiftwell, cũng là một gián điệp người Anh. Finn yêu cầu cô phải đi gặp một tay gián điệp người Mỹ. Tay gián điệp này đã bị lộ và phải chiến đấu với bọn xe lởm, trong khi anh ta đang bị dồn vào thế bí thì Mater cũng vừa chui ra khỏi nhà vệ sinh nên đã cứu anh ta một mạng. Đáng lẽ ra là phải là Rod "Torque" Redline cuối cùng thì bị đánh bom bởi tay giáo sư điên rồ Zündapp tuy trông hiền lành và không dữ dằn nhưng cực kỳ có ý đồ xấu. Khi cuộc đua bắt đầu, thì bọn xe lởm nhắm mục tiêu đi tìm Mater để tra hỏi nhưng Holley có gắn thiết bị phát thanh trong đầu khiến Mater cứ thế nói chuyện với cô mà quên không ngắt bộ đàm với McQueen nên thành ra Mater cứ nói lảm nhảm và la hét vào tai Lightning McQueen trong lúc anh đang đua. Lúc Mater đi ra ngoài, Finn liền chặn bọn xe lởm đang có ý định tấn công nhằm bảo vệ Mater, sau đó thì Mater đã chứng kiến tận mắt màn đấu tay đôi hoành tráng giữa Finn và bọn xe lởm. Khi cuộc đua kết thúc thì Francesco là người chiến thắng, McQueen về thứ nhì. Về điểm pit-stop, McQueen hỏi tại sao Mater lại la hét vào tai của anh thì Mater trả lời là gặp bạn gái, xem karate, bắn pháo hoa và múa lửa thì thật là vô nghĩa đối với McQueen, và McQueen không cần Mater giúp nữa. Ở Sân bay Quốc tế Tokyo, Mater đã tháo miếng dán số 95 và chuẩn bị quay về Radiator Springs trong tâm trạng buồn chán, bật ngờ anh gặp phải một viên cảnh sát trông khá giống Finn, nhưng thực ra đó chính là Finn đang cải trang để tránh tai mắt của bọn xe lởm. Finn và Mater cùng nhau chạy trốn khỏi bọn xe lởm đang truy đuổi họ ở sân bay và tất cả cùng chạy hết tốc lực lên chiếc máy bay phản lực tên là Siddeley, Holley đã chờ họ sẵn ở đó. Sau đó họ đã tới Paris, Pháp để thăm dò. McQueen, Luigi, Guido, Fillmore và Sarge đọc được nội dung thư do Mater viết lúc đó. Trên máy bay, Holley tháo thiết bị định vị gắn ở đuôi xe của Mater và lắp nó vào máy tính thăm dò thì phát hiện trong bức ảnh có loại động cơ ô tô tồi tệ nhất lịch sử, và họ đã thấy một phụ tùng khả nghi, cả ba người đến Pháp và truy bắt một tên chuyên bán phụ tùng xe hơi cũ tên là Tomber ở một khu chợ và tra hỏi thì hắn mới cho biết phụ tùng đó là chính hắn rao bán nhưng khách hàng "ngon" nhất luôn đặt hàng qua điện thoại. Tại Porto Corsa, Ý, Luigi và Guido vui mừng vì được trở về quê nhà sau nhiều năm xa cách và mọi người tổ chức tiệc tùng. Tại đó, một ông bác tên là Topolino cho McQueen một lời khuyên chân thành là anh nên làm hòa với Mater. Trên chuyến tàu cao tốc thẳng hướng đến Porto Corsa, Finn và Holley đã thăm dò một đoạn ngã tư có lắp đặt camera theo dõi bí mật thì thấy một chiếc xe móc tên là Ivan nên họ đã giúp Mater cải trang thành chiếc xe kéo Ivan, tay sai của chiếc xe lởm tên là Hugo để thâm nhập cuộc họp của lũ xe lởm. Tại cuộc đua, bọn xe lởm đã dùng chiếc camera laser điện từ liên tục chiếu vào ba tay đua khiến bánh xe và động cơ của họ bị phát nổ và những xe đua khác tông vào nhau gây ra tai nạn. Finn tới chỗ của 2 tên xe lởm đang bắn tia laser điện từ thông qua camera của chúng, nhưng ông đã bị nam châm của chúng hút lên trong khi đang chuẩn bị tấn công lũ xe lởm. Trên đường đua, lần lượt các tay đua đã bị thương và không thể đua tiếp, trừ Francesco và McQueen. Holley đã bị bắt bởi lũ xe lởm. Trong lúc đó, tại cuộc họp của bọn xe lởm, thì Mater trong bộ dạng chiếc xe tải kéo Ivan, đã nghe thấy ông chủ của lũ xe lởm qua TV đã nói rằng, chúng cần tiêu diệt Allinol để hạ thấp giá trị của nhiên liệu thay thế. Như vậy chúng sẽ giàu to vì chúng còn 1 mỏ dầu lớn chưa khai thác ở Thái Bình Dương, có trữ lượng dầu lớn nhất thế giới. Kết thúc cuộc đua, McQueen về nhất, Francesco về nhì nhưng họ rất hoang mang khi thấy các tay đua khác bị tai nạn. Trong bài phát biểu, McQueen nói rằng anh vẫn muốn tham gia vòng đua cuối với nhiên liệu Allinol, và bọn xe lởm đã lên kế hoạch để giết McQueen. Mater đã bị lộ, cố gắng bỏ trốn và tới chỗ McQueen để cảnh báo nhưng thất bại và anh bị bọn chúng bắt. Trong giấc mơ của Mater là những hình ảnh về việc anh liên tục bị chê là kẻ ngốc và bị chế giễu. Khi Mater tỉnh lại thì anh phát hiện ra rằng, họ bị tóm gọn và bị giam bên trong Tháp đồng hồ Big Ben ở London, Anh. Nếu Tháp đồng hồ tiếp tục quay, Finn và Holley sẽ bị nghiền nát bởi bánh răng xoay chiều kim đồng hồ cực kỳ lớn và nặng. Mater thoát ra được và tới trạm sửa xe của McQueen để cảnh báo mọi người về một quả bom, vì trước đó có 2 tên xe lởm nói rằng, ở đó có 1 quả bom và chúng muốn giết McQueen cùng những người khác. Finn và Holley phát hiện ra là Mater đánh rơi vỉ lọc khí, và họ biết rằng quả bom mà bọn xe lởm nhắc tới đang được cài trong bộ lọc khí của Mater. Holley đã tự giải thoát cho cô và Finn, họ nhanh chóng tới và cảnh báo Mater. Trong lúc đó, McQueen không biết về quả bom và vui mừng khi thấy Mater, Mater chạy trốn và cố giải thích nhưng McQueen không hiểu. Lúc giáo sư Zündapp định kích nổ quả bom thì Mater kích hoạt động cơ hỏa tiễn để thoát thân, lôi theo cả McQueen vì anh tự mắc một bánh của mình vào chiếc móc của Mater, khiến quả bom nằm ngoài vùng phủ sóng, hắn rất cay cú và định chạy trốn ra cảng, nhưng Finn đã tiêu diệt chiếc khinh hạm của hắn và ông đã bắt được Zündapp. Khi Finn và Holley quay lại, thì họ đã yêu cầu Zündapp vô hiệu hóa quả bom. Nhưng ngặt nỗi, quả bom này được kích hoạt bằng giọng nói, nó chỉ có thể bị hủy kích hoạt bởi giọng của chính người đã kích hoạt nó, thế nhưng Zündapp lại không phải là kẻ đã kích hoạt quả bom. Cảm thấy quá phí sức để tiếp tục tra hỏi nên Holley chích điện vào Zündapp khiến hắn bất tỉnh. Quả bom bắt đầu đếm ngược sau khi tên giáo sư dùng giọng để hủy kích hoạt sau 5 phút và họ bị bao vây bởi lũ xe lởm. Tuy nhiên những người khác đã giúp đỡ họ tiêu diệt lũ xe lởm. Mater đưa McQueen tới Cung điện Buckingham và gặp Nữ hoàng Anh. Axlerod bị dồn vào đường cùng, đành phải hủy kích hoạt quả bom chỉ vài giây trước khi nó phát nổ, và quả bom đã thực sự ngừng hoạt động, màn hình đếm ngược của nó hiện ra dòng thông điệp ""Chúc một ngày tốt lành, Ngài Axlerod :)". Mater cuối cùng cũng lật tẩy được rằng Axlerod chính là tên trùm thực sự của lũ xe lởm và vạch trần mọi tội ác của hắn khi anh dùng chiếc móc kéo xe của mình lật nắp capô của hắn lên và phát hiện ra khối động cơ bên trong hoàn toàn trùng khớp với bức ảnh mà Holley đã lưu về từ thiết bị định vị gắn trên đuôi xe của Mater trước đó. Nhờ lòng dũng cảm và sự mưu trí của mình, Mater được Nữ hoàng Anh sắc phong chức Hiệp sĩ đầy danh dự. Trở về Radiator Springs, Mater hào hứng kể lại cho mọi người câu chuyện đầy li kì vừa qua của mình khi anh trở thành điệp viên bất đắc dĩ. Đúng lúc đó, Finn và Holley xuất hiện, Holley phân tích cho mọi người rằng: "Chúng tôi điều tra được rằng Allinol chính là xăng, và Axlerod đã thay đổi nó để khi bị chiếu tia laser, thì Allinol sẽ nổ"". McQueen thắc mắc rằng tại sao mình lại không bị nổ, và Fillmore đã giải thích rằng: do anh chưa bao giờ tin tưởng Axlerod cũng như Allinol, cho nên anh và Sarge đã tráo nhiên liệu Allinol bằng nhiên liệu hữu cơ sinh học của mình, hoàn toàn trong sạch và đã được chứng minh là không thể nổ được, nhờ vậy mà cứu được McQueen khỏi lưỡi hái của Tử thần. Ngay tại thị trấn nhỏ bé này, mọi người cùng tổ chức 1 giải đua không chính thức có tên là "Radiator Springs Grand Prix" và các tay đua chưa hoàn thành chặng cuối Giải đua toàn cầu World Grand Prix được mời đến tham gia, mọi người cùng có một suy nghĩ rằng đó là giải đua được tổ chức thay cho chặng cuối của World Grand Prix, không giải thưởng, không thành tích, chỉ có đua cũng đã quá đủ để thỏa niềm đam mê đua xe luôn rực cháy bên trong mình. Finn và Holley tặng Mater bộ hỏa tiễn thay cho lời cảm ơn vì sự giúp đỡ nhiệt tình của Mater trong cuộc chiến với bọn xe lởm, và cả hai điệp viên Anh quốc tiếp tục lên đường làm nhiệm vụ của mình. Trên đường đua, Mater khởi động bộ hỏa tiễn kéo theo Lightning sánh vai nhau lái thẳng về phía vạch đích.
1
null
Người Minh Hương (chữ Hán: 明香; 明鄉) là một bộ phận người Hoa ở vùng Nam Bộ, Việt Nam. Tên Minh Hương có nguồn gốc từ tên triều đại mà những người này đã sinh sống: nhà Minh. Đến khi nhà Thanh thay thế nhà Minh ở Trung Quốc, xáo trộn chính trị khiến họ phải lưu vong sang đàng Trong. Cùng với người Việt, người Minh Hương là một bộ phận người Hoa có công rất lớn trong công cuộc khai phá vùng đất phía nam. Trong đó có tướng Mạc Cửu. Trải qua nhiều đời người Minh Hương đã hòa huyết với người Việt, ngày nay con cháu của người Minh Hương là phần lớn đã là người Việt và chỉ nói tiếng Việt, tuy vẫn có một số ít vẫn còn giữ được phong tục của người Hoa, khác nhiều với bộ phận người Hoa qua Việt Nam từ cuối thời Thanh, đầu thời Dân quốc. Ban đầu chữ "hương" dùng chữ 香 có nghĩa là "hương hỏa" (香火), đến năm 1827 đổi sang chữ 鄉 nghĩa là "làng". Như vậy Minh Hương có thể hiểu là "làng của người Minh" và cũng có thể hiểu là "làng sáng sủa", sau được dùng để gọi cộng đồng người Hoa. Năm 1698, ở vùng Phiên Trấn - Bến Nghé - Sài Gòn đã hình thành nên làng Minh Hương ở Gia Thạnh, Chợ Lớn cũ. Tấm biển khắc 4 chữ "thiện tục khả phong" do vua Tự Đức ban tặng năm 1863 nay vẫn còn treo trước chính điện đình "Minh Hương Gia Thạnh". Có thể nói đây là làng duy nhất hoặc hiếm hoi có hương ước ở Nam Bộ thời nhà Nguyễn: "Minh Hương xã hương ước khoán văn". Ca dao có câu nói về phong hóa làng Minh Hương:
1
null
Alfa Romeo Automobiles S.p.A. () là một hãng chế tạo ô tô của Ý. Được thành lập ngày 24 tháng 6 năm 1910 tại Milan với tên gọi A.L.F.A. (Anonima Lombarda Fabbrica Automobili), công ty đã tham gia các giải đua ô tô kể từ 1911, và giành được nhiều tên tuổi trong việc sản xuất xe hơi thể thao đắt tiền. Từ 1932 đến 1986 công ty thuộc sở hữu của công ty quốc doanh Istituto per la Ricostruzione Industriale và trở thành một phần của tập đoàn Fiat và từ tháng 2 năm 2007 thuộc Fiat Group Automobiles S.p.A.
1
null
Sanyang Motor Co., Ltd. (, viết tắt SYM) là công ty được thành lập tại Đài Bắc vào năm 1954 bởi Hoàng Kế Tuấn và Trương Quốc An, có trụ sở tại Tân Trúc, Đài Loan và có ba cơ sở sản xuất chính đặt ở Trung Quốc, Đài Loan và Việt Nam. Công ty chế tạo và buôn bán xe mô tô, xe tay ga và xe mô tô địa hình (ATV) dưới thương hiệu SYM. Trước ngày 12 tháng 1 năm 2015, tên giao dịch tiếng Anh cũ là SYM Sanyang Motor Co., Ltd.
1
null
là một viên tướng của Lục quân Đế quốc Nhật Bản, có vai trò quan trọng trong việc xâm lược và chiếm đóng Philippines trong thế chiến thứ hai. Với 43.110 lính của phương diện quân số 14, Homma đã chỉ huy trận chiến khốc liệt nhất khi xâm lược Philippines, trận Bataan mở đầu vào tháng 12 năm 1941. Những binh lính dưới quyền ông chịu trách nhiệm thực hiện cuộc hành quân chết chóc Bataan ở Philippines năm 1942. Do đó, Homma đã bị xử bắn sau khi tòa án quân sự Hoa Kỳ buộc tội ông đã phạm các tội ác chiến tranh tại Philippines.
1
null
Trường cao đẳng là một loại hình cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam. Đây là trường đào tạo trình độ sau trung học nhưng thấp hơn bậc đại học, gọi là bậc cao đẳng, hệ cao đẳng, hay giáo dục cao đẳng. Các trường cao đẳng tuyển những người có bằng trung học phổ thông hoặc tương đương, và có chương trình đào tạo dài khoảng ba năm. Sinh viên học xong cao đẳng có thể tham gia thi tuyển để được chọn vào học "liên thông" lên bậc đại học ở một số trường đại học. Tên gọi. Tên gọi "trường cao đẳng" có thể có từ thời Pháp thuộc. Các "école" (tiếng Pháp, có nghĩa là "trường") của "Université Indochinoise", tức là Viện Đại học Đông Dương, thường được gọi là "trường cao đẳng"; ví dụ: "École des Beaux-Arts de l'Indochine" là Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, có khi còn được gọi là Trường Mỹ thuật Đông Dương. Ở miền Nam thời Việt Nam Cộng hòa, một số trường thành viên của Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật Phú Thọ cũng được gọi là trường cao đẳng; ví dụ: Trường Cao đẳng Công chánh, Trường Cao đẳng Điện học, v.v... Trường cao đẳng hiện nay ở Việt Nam. Trường Cao đẳng Cộng đồng Đồng Tháp Trường Cao đẳng Cơ điện và Nông Nghiệp Nam Bộ Xem thêm. cao đẳng Y Danh sách các trường cao đẳng tại Việt Nam
1
null
Sông Amper (phần trên của nó cho tới Ammersee gọi là Ammer) là một con sông ở miền Nam Bayern, Đức. Nó là sông nhánh lớn nhất của sông Isar. Sông Amper chảy vào sông Isar tại Moosburg, từ nguồn với lưu lượng là 45 m³/s. Nó chảy vào hồ Ammer. Sông nhánh chính của nó là Glonn (bắt nguồn gần Augsburg), sông Würm (chảy ra từ hồ Starnberg), và Maisach. Các thành phố dọc theo sông Amper bao gồm Fürstenfeldbruck, Dachau và Moosburg.
1
null
Trần Lý (chữ Hán: 陳李; 1151 - 1210), hay Trần Nguyên Tổ (陳元祖), là ông của Trần Thái Tông, người sáng lập ra triều đại nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông chính là người khởi đầu sự nghiệp cai trị Đại Việt gần 200 năm của nhà Trần. Thân thế. Trần Lý là con trai Trần Hấp (陳翕), cháu nội của Trần Kinh (陳京) làm nghề đánh cá ở Hải Ấp, Long Hưng phủ, (nay thuộc xã Canh Tân, Hưng Hà, Thái Bình). Trần Lý thuộc thế hệ thứ ba. Họ Trần giàu có và có thế lực trong vùng, bên dưới có nhiều thuộc hạ. Theo suy diễn của Trần Xuân Sinh, nguyên tên trong dân dã của ông gọi là Chép (tên loài cá, gọi theo chữ Hán là "lý ngư" - những người họ Trần thời gian đầu nhiều người có tên đặt theo các loài cá). Sự nghiệp. Trần Lý lấy vợ là Tô Phong, là chị của đại thần Tô Trung Từ nhà Lý, người làng Lưu Gia. Có ý kiến lý giải rằng, vùng Tức Mặc quê ông và Lưu Gia quê vợ ông lúc đó đều là ven biển nên đều được gọi là Hải Ấp. Ông bà sinh được hai người con trai là Trần Thừa và Trần Tự Khánh, một con gái là Trần Nhị Nương. Năm 1209, loạn Quách Bốc nổ ra do Lý Cao Tông giết oan đại thần Phạm Bỉnh Di. Bộ tướng của Bỉnh Di là Quách Bốc đánh vào kinh thành, lập con nhỏ của Lý Cao Tông là Lý Thẩm làm Hoàng đế. Lý Cao Tông chạy lên Quy Hóa, còn Hoàng thái tử Lý Sảm cùng An Toàn hoàng hậu và 2 em gái chạy về Hải Ấp nương nhờ Trần Lý. Một thủ hạ của Thái tử là Lưu Thiệu đi theo Trần Lý. Nghe theo lời khuyên của Phạm Ngu, Trần Lý và Tô Trung Từ bèn đón thái tử Sam về Lỵ Nhân lập làm Hoàng đế, giáng Lý Thầm làm Vương. Thấy con gái của Trần Lý là Trần Nhị Nương có nhan sắc, Thái tử bèn lấy làm Phi và phong Trần Lý làm Minh Tự, Phạm Ngu làm Thượng phẩm phụng ngự, Tô Trung Từ làm Điện tiền chỉ huy sứ. Trần Lý và Tô Trung Từ bèn mang quân đánh về kinh thành dẹp Quách Bốc để lập công với nhà Lý. Cuối năm 1209, loạn Quách Bốc bị dẹp. Sử sách chép rất sơ lược về việc dẹp loạn Quách Bốc, chỉ ghi nhận chiến thắng của phe Trần Lý. Theo ghi nhận của Đại Việt sử ký toàn thư: Có ý kiến đánh giá rất cao lực lượng của Trần Lý qua việc dẹp loạn Quách Bốc. Khi nhiều sứ quân đương thời không làm gì được Quách Bốc mà Trần Lý và Tô Trung Từ có thể đánh bại lực lượng này chứng tỏ thực lực của Trần Lý không nhỏ. Kết cục. Quách Bốc bị dẹp, đầu năm 1210, Lý Cao Tông trở về Thăng Long. Trần Lý không kịp nhận phong thưởng của Cao Tông thì bị một lực lượng nổi dậy khác giết hại mà sử không rõ là lực lượng nào. Vì vậy người con thứ của ông là Trần Tự Khánh thay ông cầm quân. Cuối năm đó Cao Tông hoàng đế băng hà, con trưởng là Hoàng thái tử Sảm lên nối ngôi, tức là Lý Huệ Tông. Truy tôn. Sau này đích tôn của ông là Trần Cảnh lên ngôi, lập ra nhà Trần, truy tôn Trần Lý miếu hiệu Nguyên Tổ (元祖), thụy hiệu Chiêu vương (昭王). Đến đời Trần Anh Tông, ông mới được truy tôn thụy hiệu là Chiêu Hoàng đế (昭皇帝). Phu nhân của ông là Tô Phong (蘇蜂), được truy tôn làm Thánh Từ hoàng hậu (聖慈皇后). Năm 1232, nhà Trần ban bố các chữ quốc húy và miếu húy. Lợi dụng việc kiêng tên húy của Trần Lý, mới đổi triều Lý làm triều Nguyễn, đồng thời cũng để dứt bỏ lòng mong nhớ của dân chúng đối với nhà Lý.
1
null
Sir Ian Murray McKellen (sinh ngày 25 tháng 5 năm 1939) là một nam diễn viên sân khấu, điện ảnh nổi tiếng người Anh. Ông từng giành được 1 giải Quả cầu vàng, 6 giải Laurence Olivier, 1 giải Tony, 2 đề cử giải Oscar, 4 đề cử giải BAFTA và 5 đề cử giải Emmy... Các vai diễn đáng chú ý của ông là vai pháp sư Gandalf trong bộ ba phần phim Chúa tể của những chiếc nhẫn và The Hobbit, vai Sherlock Holmes trong Mr Holmes, vai dị nhân Magneto trong X-Men, vai Leigh Teabing trong Mật mã Da Vinci... Ian McKellen sinh ra tại Burnley, Lancashire, và lớn lên tại Wigan. Năm 18 tuổi, ông vào học trường Cao đẳng St Catharine, Cambridge. Ông bắt đầu xuất hiện trong một số vở kịch như Herry IV, Doctor Faustus... Và từ đó, ông bắt đầu thành công với các vai diễn chuyển thể từ kịch của đại văn hào Shakespeare. Vai diễn điện ảnh đầu tiên của McKellen là vai George Matthews trong bộ phim A Touch of Love năm 1969. Ông được đề cử giải Oscar đầu tiên năm 1998 với vai chính trong bộ phim Gods and Monsters. McKellen được đạo diễn Bryan Singer chọn vào vai Magneto trong bộ phim chuyển thể từ loạt truyện tranh nổi tiếng X-men. Ông tiếp tục tham gia 2 phần tiếp theo (2003) và (2006). Trong khi quay X-men, ông được chọn vào vai pháp sư Gandalf trong loạt phim điện ảnh Chúa tể của những chiếc nhẫn và The Hobbit, vai diễn nổi tiếng này đem lại rất nhiều thành công cho ông, giúp ông lần thứ 2 được nhận 1 đề cử Oscar dành cho nam diễn viên phụ xuất sắc nhất... Với những đóng góp về nghệ thuật của mình, Ian McKellen đã được Nữ hoàng Anh phong tước hiệp sĩ năm 1991. Đời tư. Ian McKellen là một người vô thần. Vào cuối những năm 1980, McKellen chuyển sang chế độ ăn kiêng thịt động vật ngoại trừ hải sản. Năm 2001, Ian McKellen nhận giải Artist Citizen of the World Award (Pháp). McKellen được trao bằng Tiến sĩ danh dự của Đại học Cambridge vào ngày 18 tháng 6 năm 2014. Năm 1988, Ian McKellen công khai mình là người đồng tính. Ông rất nhiệt tình tham gia các hoạt động đòi quyền lợi cho cộng đồng LGBT. Ngoài ra, McKellen cũng đóng góp tích cực cho các công tác từ thiện.
1
null
Sông Loisach là một sông nhánh của sông Isar, dài 114 km, chạy qua Tirol, Áo và Bayern, Đức. Địa lý. Nguồn của sông Loisach ở gần xã Biberwier, Tirol, Áo. Sông này khi vào Đức chạy ngang Grainau, tới Garmisch-Partenkirchen, rồi chạy giữa Ammergauer Alpen ở phía Tây và dãy núi Ester ở phía Đông về hướng Bắc. Sau khi đi ngang qua Farchant, Oberau, Eschenlohe, Ohlstadt, Murnau, và Großweil, tại Schlehdorf nó chạy vào hồ Kochel. Sau đó nó chảy ngang qua Benediktbeuern, Penzberg, Eurasburg và nhập vào sông Isar tại phía Bắc của thành phố Wolfratshausen ở Rừng nước Puppling.
1
null
Sijo (Hangul: 시조; Hanja: 時調 (thời điệu)) là một trong những hình thức thi ca Triều Tiên thời Trung thế kỷ. Còn tên gọi khác là Đoản ca hoặc Thời tiết ca. Sijo hình thành vào cuối thế kỷ 14 (cuối nhà Cao Ly), bắt nguồn từ ca dao Cao Ly và hương ca Tân La. Về hình thức, Sijo chia ra làm Bình thời điệu, Liên thời điệu, Dư ất thời điệu và Từ thuyết thời điệu. Bình thời điệu là đoản thi sáu câu ba dòng, chia ra làm Sơ chương, Trung chương và Chung chương. Một chương trên thực tế tương ứng với một dòng. Sơ chương và Trung chương, câu trước do 3, 4 âm tiết, câu sau do 3(4), 4 âm tiết tổ thành. Chung chương, câu trước do 3, 4 âm tiết, câu sau do 4, 3 âm tiết tổ thành. Đây là hình thức chủ yếu của Sijo cuối thế kỷ 14 và thế kỷ 15. Có những khúc điệu cố định thì có thể ngâm vịnh được. Điệu của Sijo chậm và trầm.
1
null
Sông Inn (; ) là một sông bắt nguồn từ Thụy Sĩ, rồi chảy qua Áo và Đức. Nó là chi lưu phía hữu ngạn của sông Donau, có chiều dài . Sông bắt nguồn tại Malojapass, Engadin với một độ cao 2484 m gần Lunghinsee. Địa lý. Sông Inn chạy ngang qua những thành phố sau đây: Tại Passau sông Inn cuối cùng nhập vào sông Donau (cũng như sông Ilz). Sông Inn là con sống duy nhất bắt nguồn từ Thụy Sĩ lại chảy ra Biển Đen (qua sông Donau).
1
null
Joseph Desha (sinh ngày 9 tháng 12 năm 1768 - mất ngày 11 tháng 10 năm 1842) là thành viên của Hạ viện Hoa Kỳ và là Thống đốc thứ 9 của bang Kentucky, Hoa Kỳ. Khi ông hết hạn nhiệm kỳ thống đốc, Desha đã rút khỏi đời sống cộng đồng và chuyển về sinh sống tại trăng trại của ông ở Quận Harrison. Trong những năm cuối đời, Desha cùng vợ là Margaret đã chuyển đến sống ở Georgetown, Kentucky, nơi mà một trong những người con trai của ông sinh sống. Desha mất tại nhà riêng ở Georgetown, Kentucky vào ngày 11 tháng 10 năm 1842. Nhà nước đã xây dựng một tượng đài trên ngôi mộ của ông. Vào năm 1880, thi thể và tượng đài của ông đã được di chuyển đến Nghĩa trang Georgetown.
1
null
Chó chống tăng ( "sobaki-istrebiteli tankov" hoặc "protivotankovye sobaki"; hay "Hundeminen", "mìn chó") là những con chó được huấn luyện để có thể mang thuốc nổ đến chỗ xe tăng, phương tiện chiến đấu bọc thép và các mục tiêu quân sự khác. Quân đội Liên Xô và Nga đã huấn luyện rộng rãi chó nghiệp vụ từ 1930 đến 1996 và sử dụng chúng vào các năm 1941–1942 để chống lại xe tăng Đức trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại. Triển khai bởi Liên Xô. Lịch sử. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, chó có nhiệm vụ chủ yếu là tìm kiếm, cứu nạn và cảnh báo binh sĩ về các cuộc tấn công bằng khí độc hoặc pháo binh sắp diễn ra. Đến thập niên 1920, Liên Xô ngày càng coi trọng việc sử dụng chó trong công tác liên lạc, tìm kiếm cứu hộ. Năm 1919, nhà khuyển học V. Yazykov đã đề xuất ý tưởng sử dụng chó cho các mục đích quân sự. Năm 1924, trường huấn luyện quân khuyển đầu tiên được thành lập tại tỉnh Moskva. Không chỉ dạy chó, trường còn đào tạo cả những sĩ quan, chiến sĩ sử dụng quân khuyển trong thực tiễn về sau. Với 11 khoa đào tạo, huấn luyện chó vận tải (kéo xe trượt tuyết), chó cứu thương (mang bông băng, thuốc men đến với các chiến sĩ bị thương đang nằm trên trận địa), chó liên lạc (mang thư từ, mệnh lệnh đến các đơn vị chiến đấu), chó dò mìn, chó biệt kích (đeo mìn, bộc phá đến các mục tiêu cần tấn công), chó trinh sát, thám báo... và đặc biệt nhất trong số đó là chuyên ngành đào tạo chó chống tăng. Không lâu sau đó, mười hai trường khu vực đã được mở ra, ba trong số đó đào tạo chó chống tăng. Năm 1930, trung sĩ Ivan Shoshin - một học viên sử dụng quân khuyển đề xuất ý tưởng dùng chó đeo mìn lao vào xe tăng địch. Thời bấy giờ, biện pháp chống tăng phổ biến nhất là rải mìn chống xe bánh xích. Tuy nhiên, chiến thuật này hiệu quả không cao - lượng mìn hao tốn rất nhiều mà xác suất xe tăng trúng mìn rất thấp, và một số nhược điểm khác. Vì vậy Shoshin suy nghĩ: "“Tại sao mìn phải nằm một chỗ chờ xe tăng? Tại sao không chế tạo một loại mìn di động, có thể tự tìm đến xe tăng để tiêu diệt?”". Từ ý tưởng này của Shoshin, Sergey Nitz cũng là một học viên sử dụng quân khuyển chế tạo loại mìn đặc biệt dành cho chó chống tăng. Vỏ thép gầm xe tăng rất mỏng, vì vậy chỉ cần một lượng chất nổ không lớn (vừa với sức mang của 1 chú chó) vẫn đủ để phá hủy chiếc xe tăng và tiêu diệt hoàn toàn tổ lái. Đào tạo, huấn luyện. Đào tạo, huấn luyện chó chống tăng là một quá trình lâu dài, đòi hỏi sự kiên trì và phương pháp khoa học. Thời bình, một khóa đào tạo kéo dài trung bình 6 tháng. Thời chiến chó chống tăng được đào tạo cấp tốc trong vòng ba tháng. Loài chó rất sợ tiếng nổ. Vì thế, không phải con chó nào được chọn đưa vào huấn luyện cũng vượt qua được mọi thử thách. Ý tưởng ban đầu là dùng một khối thuốc nổ TNT nặng khoảng 12 kg buộc vào thân chó, sau đó để chúng chạy thẳng về phía xe tăng địch. Quả bom được kích hoạt bằng thiết bị hẹn giờ hoặc kích nổ từ xa khi con chó tiếp cận mục tiêu. Tuy nhiên trong thực tế, quá trình này không thành công. Liên Xô đã thử nghiệm phương thức này trong vòng sáu tháng mà không thu được kết quả như mong muốn bởi chó chỉ có thể tấn công được một xe tăng. Nếu trên chiến trường xuất hiện cùng lúc nhiều xe tăng, lũ chó sẽ trở nên bối rối, không biết tấn công chiếc nào, cuối cùng chạy trở về chỗ huấn luyện viên cùng quả bom chưa phát nổ. Điều này có thể khiến cả chó lẫn huấn luyện viên thiệt mạng. Phương pháp huấn luyện chủ yếu dựa trên cơ chế phản xạ bản năng đối với thức ăn. Ban đầu, chó được cho ăn ngay bên cạnh xe tăng, sau đó là dưới gầm xe tăng, rồi dưới gầm xe tăng có nổ máy, gầm rú. Xe tăng dùng để huấn luyện chó chống tăng được thiết kế có những ngăn chứa thức ăn bên dưới gầm; người ta để cho chó thật đói rồi thả ra, chúng tự khắc chui vào gầm xe tăng để tìm kiếm thức ăn. Nhưng khi chui được vào gầm xe, chó phải thực hiện thao tác giật dây nụ xòe thì các ngăn thức ăn mới mở ra. Bài học ngày càng khó dần theo mỗi giai đoạn huấn luyện, cho đến khi chó có thể chui vào gầm xe tăng đang chạy để kiếm thức ăn, cuối cùng là chui vào gầm những chiếc xe tăng đang vừa chạy vừa bắn đạn đại liên và nã pháo. Tham chiến. Khi chiến tranh Vệ quốc vĩ đại mới bắt đầu, đã có 60.000 con chó phục vụ trong các đơn vị Hồng Quân. Hưởng ứng lệnh tổng động viên sức người sức của, rất nhiều gia đình hiến tặng những con chó của mình, cho chúng "tòng quân, nhập ngũ" tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Nhu cầu sử dụng chó chống tăng gia tăng trong những năm 1941-1942, khi Hồng Quân phải thực hiện mọi nỗ lực để kìm chân Wehrmacht (quân đội của Đức Quốc xã) trên mặt trận phía Đông. Trong giai đoạn này, các trường huấn luyện chó nghiệp vụ chủ yếu tập trung đào tạo chó chống tăng. Khoảng 40.000 con chó đã được triển khai cho nhiều nhiệm vụ khác nhau trong quân đội Liên Xô. Có tất cả 168 trung đoàn quân khuyển, trong đó có 12 tiểu đoàn chó chống tăng, được biên chế theo phương thức "một chó một chủ", nghĩa là mỗi con chó đều có riêng một chiến sĩ chuyên chăm sóc, huấn luyện và sử dụng trong chiến đấu. Ngoài ra, ở mỗi đại đội bộ binh đều có khoảng 50 - 60 con chó chống tăng. Những con chó chống tăng của tiểu đoàn đặc biệt số 1 (212 con chó và 199 huấn luyện viên) lần đầu tiên được triển khai trong trận chiến gần Moscow. Cuộc tấn công lớn đầu tiên của những con chó bị thất bại hoàn toàn. Vì không có sự che chở yểm trợ của bộ binh Liên Xô, quân Đức dễ dàng bắn hạ những chú chó cảm tử này. Ngoài ra, chó được huấn luyện với xe tăng Liên Xô chạy bằng động cơ diesel và đã quen với mùi dầu diesel, nhưng xe tăng Đức sử dụng xăng. Vì thế, những chú chó hoàn toàn bối rối trên chiến trường, không biết đâu là mục tiêu để tấn công. Những lần sau, chiến thuật đã được thay đổi và chó vẫn được tiếp tục huấn luyện. Đến cuối năm 1941, hơn 1.000 chú chó đã chiến đấu ở mặt trận và năm sau con số này vượt quá 2.000. Vào ngày 21-7-1942, những chú chó cảm tử đã giúp quân đội Liên Xô đánh thắng một trận chiến lớn gần Taganrog trên Biển Azov. Khi 40 xe tăng của quân Đức tấn công lữ đoàn bộ binh hải quân Liên Xô, 56 chú chó chống tăng của đại đội 4 đã thực hiện một trận tấn công và phá hủy nhiều xe tăng của Đức, buộc quân Đức phải rút lui. Ngày 22-7-1942, tại mặt trận Tây Nam thành phố Rostov trên sông Đông, 64 chó chống tăng đã xung phong và tiêu diệt được 34 xe tăng Đức. Suốt thời gian chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, có hơn 300 xe tăng chiếc xe tăng Đức bị tiêu diệt bởi chó chống tăng của Hồng Quân. Tính về thành tích chiến dịch, có 18 cuộc tấn công quy mô lớn bằng xe tăng của quân Đức bị chặn đứng nhờ công phần lớn của chó chống tăng. Lính xe tăng Đức rất sợ chó chống tăng của Liên Xô, vì dù có trông thấy cũng không thể bắn hạ bằng pháo tầm xa, nếu mở nắp tháp pháo ngoi lên để bắn bằng súng tiểu liên thì không khéo bản thân mình sẽ trúng đạn của đối phương. Ngoài ra, do chó chạy nhanh, chạy ngoằn ngoèo nên rất khó bắn trúng. Hơn nữa, trên địa hình đồng cỏ hay đồng lúa mì, chó chạy ở dưới thấp, rất khó phát hiện. Quân đội của Đức Quốc xã rất sợ thứ "vũ khí bốn chân" này của Hồng Quân nên chủ trương tiêu diệt tất cả chó trong vùng đóng quân hay trên đường hành quân, bất kể chó hoang hay chó nhà. Họ còn có sáng kiến dùng vỉ lưới thép che chắn đằng trước và đằng sau gầm xe tăng để chó chống tăng không thể chui được vào gầm. Nhưng biện pháp này không mấy hiệu quả, vì khi xe di chuyển trên địa hình không bằng phẳng thì các vật cản có thể làm méo mó, biến dạng, cong vênh vỉ lưới, như vậy chó vẫn chui vào được. Chó chống tăng hoạt động rất hiệu quả trong những trận chiến nội thành, vì chúng có thể luồn lách qua các đống đổ nát khiến kẻ thù trở tay không kịp. Trong chiến dịch Stalingrad, tiểu đoàn chó chống tăng số 28 do thượng úy Anatoly Kunin chỉ huy đã tiêu diệt được 63 xe tăng và gần 100 xe bọc thép của quân đội của Đức Quốc xã, cùng với đó là khoảng 500 tên địch. Anatoly Kunin được phong Anh hùng ngay trong chiến dịch. Tuy nhiên, mức tổn thất của đơn vị cũng rất lớn: chỉ trong vòng 3 tháng, đã có 148 chú chó chống tăng phải hi sinh để tiêu diệt địch. Tuy nhiên, tổng quan nhìn nhận đây không phải là một chiến thuật hiệu quả bởi những con chó thường tỏ ra sợ hãi trên chiến trường thực sự, làm hỏng kế hoạch. Lý do là trong quá trình huấn luyện, Liên Xô đã cố gắng mô phỏng điều kiện chiến trường sát với thực tế nhưng vẫn có sai sót. Những con chó được huấn luyện với Xe tăng T-34 sử dụng động cơ dầu diesel, trong khi xe tăng Đức lại dùng động cơ xăng. Sự khác biệt rõ rệt giữa mùi và âm thanh của hai loại xe này khiến những con chó không thể phân biệt được mục tiêu để tấn công. Trong 30 chiến binh chó đầu tiên tham chiến, chỉ có bốn con kích nổ bom gần xe tăng. Những con chó không được làm quen với mọi tình huống trên chiến trường, chúng không chạy vào gầm xe địch như dự kiến. Thay vào đó, chúng chạy dọc xe tăng và bị bắn chết, hoặc bị tiêu diệt trước khi đến gần xe. Việc sử dụng chó làm vũ khí chống tăng giảm dần sau một năm. Chúng vẫn được dùng trong chiến đấu nhưng không được chú trọng như trước. Vào giai đoạn cuối chiến tranh, chó được huấn luyện cho nhiệm vụ hậu cần thay vì diệt tăng. Đến giữa năm 1943, tình hình trên mặt trận đã thay đổi, Hồng quân Liên Xô đã có đủ vũ khí chống tăng, do đó họ đã ngừng sử dụng chó cho các nhiệm vụ cảm tử chống xe tăng của quân Đức. Những chú chó được huấn luyện để làm nhiệm vụ khác, như đánh hơi dò mìn, tìm kiếm những người lính Liên Xô bị hy sinh hoặc bị thương vẫn còn sống sót trên chiến trường. Vinh danh. Do chiến tranh nên không thể thống kê đầy đủ số chó chống tăng đã chết vì đánh bom xe tăng tự sát trong những trận đánh góp phần làm nên chiến thắng của Hồng Quân. Thậm chí tên gọi của chúng cũng không được ghi chép lại - trong hồ sơ phiên chế các đơn vị chó chống tăng, mỗi chiến sĩ bốn chân ấy chỉ được ghi nhận bằng những số hiệu. Trong Thế chiến 2, khoảng 60.000 chú chó đã được đưa vào quân đội Liên Xô. Gần 700.000 binh sĩ bị thương đã được kéo về từ chiến trường nhờ những chú chó quân y. Chú chó tên Julbars đã tìm được 7.000 quả mìn và đạn pháo trên chiến trường. Trong cuộc diễu hành Chiến thắng ở Moscow vào tháng 6-1945, chú chó này được một người lính ẵm trên tay để cùng diễu binh. Năm 2010, tại quảng trường Chiến sĩ ở thành phố Volgograd, người ta đã dựng tượng đài tôn vinh, tưởng niệm những chú chó chống tăng anh dũng trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, với hình mẫu là chú chó mà Trung tướng Vasily Ivanovich Chuikov - tư lệnh chiến dịch Stalingrad đích thân trao tặng thượng úy anh hùng Kunin. Các quốc gia khác sử dụng. Đức Quốc xã. Phát xít Đức được cho là huấn luyện khoảng 25.000 con chó để tham chiến, bao gồm cả mục đích chống tăng. Đế quốc Nhật Bản. Lục quân Đế quốc Nhật Bản đã nhận khoảng 25.000 con chó từ đồng minh Đức và thành lập một số trường huấn luyện chó ở Nhật Bản và một trường mở tại Nam Kinh, Trung Quốc. Một số con chó được đào tạo cho nhiệm vụ phá hủy, nhưng thay vì đeo thuốc nổ lên con chó, thuốc nổ được đặt trên xe chó kéo. Việc này ít có hiệu quả, chủ yếu vì thiếu sự huấn luyện. Vào cuối thập niên 1940, lực lượng Việt Minh đã sử dụng chó chống tăng trong chiến đấu tại Đông Dương. Hoa Kỳ. Năm 1943, quân đội Hoa Kỳ đã tính đến việc sử dụng chó nghiệp vụ để đánh công sự. Mục đích là để một con chó mang bom hẹn giờ chạy vào boong ke. Những chú chó trong chương trình bí mật này được huấn luyện ở pháo đài Belvoir. Những con chó đó được gọi là "chó sói hủy diệt", được dạy chạy đến boong ke, chui vào trong và ngồi xuống đợi một vụ nổ giả định. Mỗi con chó được đeo bom quanh mình trong những túi vải bạt, giống như cách làm của Nga. Chương trình này chấm dứt vào ngày 17 tháng 12 năm 1943 do lo ngại thiếu an toàn. Trong lúc huấn luyện, những con chó thường chạy ngược lại chỗ người huấn luyện mà không đi vào boong ke hoặc không đợi ở đó đủ thời gian cần thiết, điều này có thể dẫn đến thương vong cho đồng đội trong trường hợp thực chiến. Người ta lo ngại rằng trên chiến trường những con chó sẽ chạy ngược lại nhiều hơn vì sợ hỏa lực kẻ thù. Những cố gắng tiếp tục chương trình này trong các năm 1944 và 1955 đều thất bại. William A. Prestre, một công dân Thụy Sĩ sống tại Santa Fe, New Mexico đã đề xuất việc sử dụng những con chó lớn để giết lính Nhật. Ông đã thuyết phục quân đội dành ra một hòn đảo trên sông Mississippi để làm nơi huấn luyện. Tại đó quân đội kỳ vọng sẽ đào tạo được hai triệu con chó. Mục đích là dùng cho việc xâm nhập các đảo: tàu đổ bộ thả ra hàng ngàn con chó chống lại lính Nhật phòng thủ, quân Mỹ sẽ được triển khai khi quân Nhật chạy toán loạn. Một trong những vấn đề lớn nhất gặp phải là tìm ra lính Nhật để huấn luyện những con chó, khi mà có rất ít lính Nhật đang bị bắt. Cuối cùng những người lính Mỹ gốc Nhật tình nguyện tham gia đóng giả. Vấn đề lớn nhất ở đây là những con chó, hoặc chúng quá ngoan ngoãn, không phản ứng lại việc huấn luyện dạy chúng xông qua bãi biển, hoặc quá sợ hỏa lực. Sau khi đã tiêu tốn hàng triệu đô la, người ta từ bỏ chương trình này. Ngoài ra, những con chó đeo thuốc nổ đã được dùng trong cuộc nổi loạn ở Iraq những năm 2000 nhưng không thành công.
1
null
USS "Howard" (DD–179) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được cải biến thành tàu quét mìn cao tốc DMS-7 rồi thành một tàu phụ trợ AG-106 trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Charles W. Howard, một sĩ quan hải quân tử trận trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ trên chiếc . Thiết kế và chế tạo. "Howard" được đặt lườn vào ngày 9 tháng 12 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng Union Iron Works ở San Francisco, California. Nó được hạ thủy vào ngày 26 tháng 4 năm 1919, được đỡ đầu bởi cô Marion Filmer, và được đưa ra hoạt động tại Xưởng hải quân Mare Island vào ngày 29 tháng 1 năm 1920 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân B. M. Stewart. Lịch sử hoạt động. Giữa hai cuộc thế chiến. "Howard" khởi hành từ San Francisco vào ngày 1 tháng 3 năm 1920 để gia nhập Lực lượng Khu trục trực thuộc Hạm đội Thái Bình Dương tại San Diego, California. Sau các hoạt động thực tập chiến thuật và huấn luyện tác xạ ban đầu, nó rời San Diego vào ngày 3 tháng 5 để đi Topolobampo, México. Nó gia nhập trở lại chi hạm đội vào ngày 17 tháng 5 để tham gia các hoạt động tại khu vực San Diego, bao gồm thực hành ngư lôi, tuần tra, tập trận và huấn luyện cùng tàu ngầm. "Howard" được cho xuất biên chế vào ngày 27 tháng 5 năm 1922. Được cho nhập biên chế trở lại vào ngày 29 tháng 8 năm 1940, "Howard" được cải biến thành một tàu quét mìn và được xếp lại lớp với ký hiệu lườn mới DMS-7. Nó khởi hành từ San Diego vào giữa tháng 10, đi đến Norfolk, Virginia vào ngày 29 tháng 10, và tiếp tục lên đường vào ngày 19 tháng 11 để nhận nhiệm vụ tại vùng biển Caribe. Nó ở lại khu vực này cho đến ngày 17 tháng 5 năm 1941, thực hiện các nhiệm vụ quét mìn và tuần tra nhằm thực thi Tuần tra Trung lập. Nó quay trở về Norfolk vào ngày 19 tháng 5, tham gia các cuộc thực tập dọc theo vịnh Chesapeake cho đến khi Nhật Bản bất ngờ tấn công Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, thúc đẩy Hoa Kỳ trực tiếp tham gia chiến tranh. Thế Chiến II. "Howard" lên đường vào ngày 8 tháng 12 làm nhiệm vụ hộ tống vận tải, và trong những tháng tiếp theo đã bảo vệ các tàu vận tải và tàu chở dầu tại vùng biển Caribe và Tây Đại Tây Dương khỏi các cuộc tấn công của tàu ngầm U-boat Đức. Được huy động vào chiến dịch đổ bộ lên Bắc Phi vào cuối năm 1942, nó tham gia vào Lực lượng Đặc nhiệm Hải quân phía Tây dưới quyền Chuẩn đô đốc Henry Kent Hewitt tại Norfolk. Nó lên đường vào ngày 24 tháng 10 bảo vệ cho chiếc soái hạm trong hành trình vượt Đại Tây Dương. Trong khi binh lính đổ bộ vào ngày 8 tháng 11, nó thực hiện nhiệm vụ quét mìn và bảo vệ. Trong giai đoạn đầu của cuộc Hải chiến Casablanca diễn ra ngày hôm đó, "Howard" đã hộ tống cho "Augusta" khi chiếc tàu tuần dương hạng nặng đối đầu với các khẩu đội pháo duyên hải và đấu pháo tay đôi với thiết giáp hạm Pháp "Jean Bart". Chiếc tàu khu trục sau đó tiếp tục ở lại ngoài khơi Casablanca và Safi trong khi binh lính Lục quân cũng cố các bãi đổ bộ và cùng các đơn vị hải quân chiếm đóng thành công Casablanca vào ngày 16 tháng 11 năm 1942. Sau khi thực hiện các nhiệm vụ tuần tra chống tàu ngầm, nó quay trở về Norfolk vào ngày 29 tháng 12. Trong hầu hết thời gian của năm 1943, "Howard" tiếp tục làm nhiệm vụ hộ tống vận tải tại vùng biển Caribe và Tây Đại Tây Dương. Phạm vi hoạt động của nó trải rộng đến Tây Ấn, Panama, Newfoundland và Iceland, và mục tiêu chính là bảo vệ các tàu chở dầu chuyên chở nhiên liệu tối cần thiết cho chiến tranh. Nó được điều động sang mặt trận Thái Bình Dương sau đó, khởi hành từ Norfolk vào ngày 21 tháng 11 năm 1943 và đi đến San Diego vào ngày 7 tháng 12. Sau khi được sửa chữa và huấn luyện, nó lên đường vào ngày 25 tháng 3 năm 1944 hộ tống tàu bè đi đến Trân Châu Cảng và Majuro, rồi hộ tống một đoàn tàu quay trở lại Trân Châu Cảng, đến nơi vào ngày 24 tháng 4 và bắt đầu chuẩn bị cho đợt tấn công lớn sắp tới lên quần đảo Mariana. Gia nhập Lực lượng đặc nhiệm đổ bộ dưới quyền Đô đốc Richmond Turner, "Howard" khởi hành vào ngày 29 tháng 5 và đi đến ngoài khơi Saipan ngang qua Eniwetok vào ngày 13 tháng 6. Nó tiến hành hoạt động quét mìn vào ban ngày và tuần tra bắn phá quấy rối vào ban đêm cho đến khi cuộc đổ bộ diễn ra vào ngày 15 tháng 6. Sau đó nó làm nhiệm vụ bảo vệ các tàu vận chuyển, và thực hiện hai chuyến đi con thoi khứ hồi đến Eniwetok trước khi quay trở về Trân Châu Cảng vào ngày 10 tháng 8 năm 1944. Hoạt động lớn tiếp theo của "Howard" là chiến dịch tái chiếm Philippines được chờ đợi đã lâu. Dự định tiến hành vào tháng 10 lên đảo Leyte, chiếc tàu chiến được huấn luyện tại khu vực quần đảo Hawaii, rồi đi đến Eniwetok vào ngày 24 tháng 9 và lên đường hướng đến vịnh Leyte vào ngày 17 tháng 10. Một lần nữa nó thi hành nhiệm vụ quét mìn đầy nguy hiểm, dọn sạch các tuyến luồng trong eo biển Surigao và vịnh Leyte bất chấp thời tiết xấu. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, nó lên đường vào ngày 24 tháng 10 đi đến đảo Manus trong khi cuộc đổ bộ diễn ra, và vì thế đã lỡ mất dịp tham gia vào một trong những trận hải chiến lớn nhất lịch sử, hải chiến vịnh Leyte. Các hoạt động huấn luyện được tiếp nối tại quần đảo Admiralty khiến con tàu bận rộn suốt hai tháng tiếp theo, nhưng nó lại khởi hành từ Manus vào ngày 23 tháng 12 để tham gia giai đoạn tiếp theo của chiến dịch giải phóng Philippines, cuộc đổ bộ lên Luzon. Nó gia nhập lực lượng tại vịnh Leyte vào ngày 30 tháng 12, và khởi hành cùng với đoàn tàu vào ngày 2 tháng 1 năm 1945 để hướng đến vịnh Lingayen. Trong suốt hành trình băng qua bờ biển Philippines, phía Nhật Bản liên tiếp tung ra các cuộc tấn công cảm tử kamikaze, khi "Howard" bắn rơi một máy bay đối phương và trợ giúp vào việc tiêu diệt nhiều chiếc khác. Không gặp những ngăn trở khác, lực lượng đi đến mục tiêu vào ngày 6 tháng 1. Các tàu quét mìn bắt đầu làm nhiệm vụ của nó dưới sự không kích hầu như liên tục của đối phương; và cho đến khi lực lượng đổ bộ vào ngày 9 tháng 1, ba tàu đồng đội của "Howard" đã bị mất. Dù vậy, cuộc tấn công vẫn không bị ngăn trở; và sau khi chiến thắng đã được đảm bảo, chiếc tàu quét mìn quay trở lại vịnh Leyte vào ngày 15 tháng 1 năm 1945 và về đến Ulithi vào ngày 5 tháng 2. Khi các chiến dịch đổ bộ của Hoa Kỳ ngày càng đến gần Nhật Bản, "Howard" khởi hành từ Tinian vào ngày 13 tháng 2 cùng với lực lượng tấn công chiếm đóng Iwo Jima. Đảm nhiệm vai trò thường lệ chuẩn bị cho các cuộc đổ bộ, nó càn quét ngoài khơi hòn đảo trong ngày 16 tháng 2, chống trả nhiều đợt không kích. Sau khi cuộc đổ bộ diễn ra vào ngày 19 tháng 2, nó hoạt động trong vai trò bảo vệ, rồi đi đến Saipan vào ngày 2 tháng 3. Sau một lượt làm nhiệm vụ canh phòng ngoài khơi Iwo Jima trong tháng 3, nó quay trở về Trân Châu Cảng ngang qua Guam vào ngày 4 tháng 4 năm 1945. Các con tàu mới hơn giờ đây sẵn có thay thế cho chiếc cựu binh đã 25 năm tuổi trong các hoạt động trên tuyến đầu. Vì vậy, sau khi được xếp lại lớp như một tàu phụ trợ với ký hiệu lườn AG-106 vào ngày 5 tháng 6 năm 1945, "Howard" đảm nhiệm vai trò hộ tống tàu ngầm tại vùng biển Hawaii và như một tàu canh phòng máy bay cho các hoạt động của tàu sân bay, trước khi lên đường quay trở về Hoa Kỳ vào ngày 2 tháng 10. Băng qua kênh đào Panama, nó về đến Philadelphia, Pennsylvania vào ngày 2 tháng 11, và được cho ngừng hoạt động tại đây vào ngày 30 tháng 11 năm 1945. Sang năm 1946, nó bị bán cho hãng Northern Metals Company ở Philadelphia, Pennsylvania để tháo dỡ. Phần thưởng. "Howard" được tặng thưởng sáu Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
1
null
Hai tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được mang cái tên USS "Howard"; chiếc thứ nhất được đặt nhằm vinh danh Charles W. Howard, một sĩ quan hải quân tử trận trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ trên chiếc , trong khi chiếc thứ hai được đặt theo Jimmie E. Howard (1929-1993), một hạ sĩ quan Thủy quân Lục chiến từng được trao tặng Huân chương Danh dự trong Chiến tranh Việt Nam:
1
null
Euglandina rosea, tên gọi thông thường là Ốc sên sói hoa hồng hay "ốc ăn thịt đồng loại", là một loài ốc ăn thịt kích thước trung bình đến lớn trong họ Spiraxidae. Mô tả. Ốc sên sói hoa hồng có vỏ màu nâu nhạt dài và màu nâu sáng. Súc tu của nó thấp và gần như chạm đất. Vỏ thường là 40 đến 50 mm trong kích thước tối đa nhưng đôi khi có thể lớn như 60 hoặc thậm chí 70 mm. Thói quen ăn uống. Loài này là một động vật ăn thịt nhanh và phàm ăn, săn và ăn các loài ốc và sên khác. Các loài nhỏ hơn được ăn toàn bộ. Điều này đã cho nó biệt danh "ốc ăn thịt đồng loại".
1
null
Another (アナザー) là loạt tiểu thuyết thuộc thể loại kinh dị và huyền bí được viết bởi Ayatsuji Yukito và Kadokawa Shoten đã đăng trên tạp chí "Yasai Jidai" của mình từ tháng 8 năm 2006 đến tháng 5 năm 2009. Cốt truyện xoay quanh Sakakibara Kōichi, một nam sinh vừa chuyển đến trường trung học Yomiyama. Cậu đã gặp một cô gái bí ẩn tên Misaki Mei, người mà vì lý do nào đó mọi người xung quanh xem là không tồn tại. Kōichi bắt đầu nhận ra không khí kỳ lạ của lớp học mà cậu được chuyển đến mà mọi người đều tránh nói đến vì các học sinh trong lớp này luôn là nạn nhân của những tai nạn thảm khốc bắt đầu từ năm 1973 sau một tai nạn của một học sinh trong lớp, vì thế Kōichi và Mei bắt đầu tìm hiểu cũng như tìm cách ngăn chặn hiện tượng kỳ bí này trước khi đến lượt mình là nạn nhân. Tiểu thuyết đã được chuyển thể thành các loại hình truyền thông khác như manga, anime cũng như phim do người đóng. Ayatsuji Yukito và Kiyohara Hiro đã thực hiện chuyển thể manga của tiểu thuyết và đăng trên tạp chí Young Ace của Kadokawa Shoten từ tháng 5 năm 2010 đến tháng 1 năm 2012. P.A. Works đã thực hiện chuyển thể anime của tiểu thuyết và phát sóng từ ngày 10 tháng 1 đến ngày 27 tháng 3 năm 2012 tại Nhật Bản. Một tập ngoại truyện có tựa "Another: Episode S" đã phát hành vào ngày 31 tháng 7 năm 2013. Tổng quan. Sơ lược cốt truyện. 26 năm trước, tại lớp 9-3 (Do ở Nhật Bản, người ta tính từng cấp thì số năm học lại quay trở về con số 1) của trường sơ học Bắc Yomiyama, có 1 nam sinh tên Yomiyama Misaki (Do cách miêu tả được đồn về cậu nên nhiều người hiểu nhầm là nữ). Cậu rất nổi tiếng trong trường vì giỏi học hành, thể thao lẫn ngoại hình, lại là một học sinh rất tốt. Mọi người ai cũng yêu quý cậu. Rồi bỗng nhiên cậu ấy mất sau 1 vụ cháy nhà bất ngờ, cả gia đình cậu đều thiệt mạng. Không ai chấp nhận được sự thật này, mọi người đều cho rằng cậu ấy vẫn còn sống, tới buổi lễ tốt nghiệp, 1 chuyện kỳ lạ đã xảy ra, trong một bức ảnh kỉ niệm thì Misaki xuất hiện với gương mặt nhợt nhạt và nụ cười rất quái dị...Sau đó 1 năm khi Misaki chết thì cả lớp bị thiếu một bộ bàn ghế, mọi người nghĩ rằng đây chỉ là sự thiếu sót, đột nhiên bắt đầu có người chết, theo chu kì thì 1 tháng chết ít nhất 1 người. Khi về cuối năm thì một người đột nhiên biết mất một cách rất kì lạ và mọi người chẳng biết họ cả (trừ thủ thư là giáo viên chủ nhiệm lớp 9-3 năm 1973, vì sợ cái chết nên ra khỏi lớp 9-3). Mùa hè năm 1998, một học sinh tên Sakakibara Kouichi chuyển về lớp 9-3, sau một thời gian ngắn, cậu ấy bắt đầu tỏ ra nghi ngờ cái không khí bất thường ở lớp mình... Nhân vật. Chính. Là một cậu học sinh mới chuyển đến Yomiyama và học ở lớp 9-3. Cậu thấy kì lạ khi một bạn nữ trong lớp (Misaki) hầu như không hề tồn tại với mọi người trong lớp học. Cậu cố gắng làm thân với cô và bị cả lớp tẩy chay theo. Cậu và cô cố tìm ra lời nguyền của lớp học 9-3. Và sau khi biết rằng lớp có một hồn ma đang trà trộn, cậu rất ngạc nhiên khi biết rằng đó là dì của mình, người đã chết từ trước trong một vụ cướp. Rồi cậu và Misaki đã đem dì cậu về đúng chỗ và mọi thứ đi vào trật tự. Cô bị cả lớp tẩy chay vì tính cách cổ quái và chính sách bảo vệ lớp tạm thời là cần phải có một người hi sinh để bị coi như vô hình để không bị dính lời nguyền. Cô có người chị em song sinh khác cũng tên Misaki giống cô. Mẹ cô là người chế tạo búp bê và là mẹ nuôi của cô. Misaki bị ung thư võng mạc từ hồi còn bé, mẹ cô đã làm cho cô một con mắt búp bê có khả năng nhìn thấy hồn ma và những người sắp chết. Khi mọi người phát hiện ra cách phá lời nguyền, cô là người bị săn đuổi vì tưởng nhầm là hồn ma, Kouchi là người bảo vệ cô. Misaki là người chỉ ra dì của Kouchi là hồn ma và giúp lớp lập lại trật tự. Họ hàng Kouichi. Dì của Kouchi, cô đã chết cách đây hai năm trong một vụ cướp gần đập và được Misaki chứng kiến. Sau cô làm cô giáo ở lớp 9-3 và không ai biết cô là hồn ma ngoại trừ Misaki. Cô rất nhẹ nhàng dịu dàng. Những ngày sau cô có biểu hiện quên chuyện này chuyện kia và thường lang thang khắp nơi. Cô cũng đã từng học ở lớp 9-3. Họ hàng Mei. Em song sinh của Misaki Mei, bị bệnh bạch huyết chết cách ngày Kouchi chuyển về hai tuần. Cô và Mei bị cấm lại gần nhau và con mắt của Mei đã báo trước cho cô biết rằng em mình sắp mất. Truyền thông. Tiểu thuyết. Loạt tiểu thuyết 677 trang được viết bởi Ayatsuji Yukito và Kadokawa Shoten đã đăng đăng trên tạp chí "Yasai Jidai" của mình từ tháng 8 năm 2006 đến tháng 5 năm 2009 trước khi phát hành thành một tập ngày 29 tháng 10 năm 2009 còn phiên bản dạng light novel được phát hành thành hai bunkobon vào ngày 25 tháng 9 năm 2011. Phiên bản light novel do Sneaker Bunko tái bản phát hành vào ngày 01 tháng 3 năm 2012 thì có thêm các hình minh họa của Ito Noizi. Yen Press giữ bản quyền phiên bản tiếng Anh của loạt tiểu thuyết để tiến hành phân phối tại thị trường Bắc Mỹ. Một tập có cốt truyện diễn ra sau Another mang tựa "Another: Episode S" đã phát hành vào ngày 31 tháng 7 năm 2013. Tập nối tiếp có tựa "Another 2001" đã được Ayatsuji công bố là đang có kế hoạch viết. Manga. Kiyohara Hiro với phần minh họa đã thực hiện chuyển thể manga của tiểu thuyết và đăng trên tạp chí dành cho seinen là Young Ace của Kadokawa Shoten từ tháng 5 năm 2010 đến tháng 1 năm 2012. Các chương sau đó đã được tập hợp lại thành 4 tankōbon. Khi phiên bản DVD/BD của bộ anime được phát hành thì 1 tập ngoại truyện đã được thực hiện và phát hành đính kèm chung với tập OVA vào tháng 5 năm 2012. Yen Press giữ bản quyền phiên bản tiếng Anh của loạt manga để tiến hành phân phối tại thị trường Bắc Mỹ. Anime. P.A. Works đã thực hiện chuyển thể anime của tiểu thuyết và phát sóng từ ngày 10 tháng 1 đến ngày 27 tháng 3 năm 2012 tại Nhật Bản với 12 tập trên kênh KNB sau đó là các kênh Chiba TV, CS Fuji TV TWO, GBS, KBS Kyoto, Mie TV, Sun TV, Tokyo MX TV, TV Kanagawa, TV Saitama và TVQ. Một tập OVA cũng đã được được thực hiện và phát hành vào ngày 26 tháng 5 năm 2012 khi phiên bản DVD/BD của bộ anime được phát hành và đính kèm chung với tập ngoại truyện của loạt manga. Sentai Filmworks đã đăng ký bản quyền phiên bản tiếng Anh của bộ anime để tiến hành phân phối tại trường Bắc Mỹ, Hanabee Entertainment thì đăng ký tại Úc và New Zealand còn Mighty Media thì đăng ký tại Đài Loan. Sách. P.A. Works cũng đã phát hành một quyển sách hướng dẫn có tựa "Anime Another Settei Shiryōshū" (アニメ「Another」 設定資料集) vào ngày 20 tháng 4 năm 2012 đính kèm với phiên bản DVD/BD giới hạn đầu và gửi hàng qua thư. Quyển sách này ghi tất cả thông tin đầy đủ của các nhân vật trong phiên bản anime cũng như các bài phỏng vấn đội ngũ làm phim. Một quyển artbook có tựa "Another 1998 Graduation Memories" đã được Newtype phát hành vào ngày 29 tháng 6 năm 2012. Quyển sách này cũng ghi tất cả thông tin đầy đủ của các nhân vật cùng nhiều hình ảnh khác. Ngoài ra trong quyển sách còn ghi chi tiết buổi đối thoại với Tsutomu Mizushima và Ayatsuji Yukito. Live Action. Kadokawa Pictures đã thực hiện chuyển thể Live Action do Furusawa Takeshi đạo diễn và công chiếu tại 230 rạp ở Nhật Bản vào ngày 04 tháng 8 năm 2012 và đã thu về 80 triệu yên trong dịp cuối tuần. Âm nhạc. Bộ anime có hai bài hát chủ đề, một mở đầu và một kết thúc. Bài hát mở đầu có tựa "Kyōmu Densen" (凶夢伝染) do ALI PROJECT trình bày, đĩa đơn chứa bài hát đã phát hành vào ngày 25 tháng 1 năm 2012 với phiên bản bình thường và đặc biệt, bản đặc biệt có đính kèm một DVD chứa đoạn phim trình bày nhạc phẩm. Bài hát kết thúc có tựa "anamnesis" do Annabel trình bày, đĩa đơn chứa bài hát đã phát hành vào ngày 8 tháng 2 năm 2012. Một album chứa các bài hát do các nhân vật trình bày đã phát hành vào ngày 11 tháng 7 năm 2012, album này có đính kèm một DVD chứa một đoạn phim ngắn. Album chứa các bản nhạc dùng trong bộ anime đã phát hành dưới dạng đĩa đính kèm với hộp DVD/BD thứ năm của bộ anime. Doujinshi. Tại Việt Nam, người hâm mộ đã thực hiện một chuyển thể visual novel của tác phẩm với ngôn ngữ tiếng Việt và phát hành vào ngày 16 tháng 10 năm 2014. Đón nhận. Loạt tiểu thuyết đã xếp ở vị trí thứ ba trong danh sách xếp hạng chuyên về tiểu thuyết giả tưởng Kono Mystery ga Sugoi! 2010 và Honkaku Mystery Best 10.
1
null
Reservoir Dogs là bộ phim đầu tay của đạo diễn Quentin Tarantino, được quay năm 1992. Đây được đánh giá là một trong những bộ phim độc lập vĩ đại nhất mọi thời đại. Đây được xem là tác phẩm kinh điển của dòng phim độc lập và là một bộ phim thiêng, đồng thời tạp chí "Empire" còn vinh danh "Reservoir Dogs" là "Bộ phim độc lập hay nhất mọi thời đại". Mặc dù gây tranh cãi dữ dội vì những cảnh bạo lực và lời thoại thô tục xuất hiện xuyên suốt tác phẩm, nhưng "Reservoir Dogs" nhìn chung vẫn được đón nhận nồng nhiệt, kèm theo đó là vô vàn lời khen nhắm vào sự xuất sắc trong việc khắc họa nhân vật của các diễn viên. Dù không được quảng bá rầm rộ trong thời gian ra rạp, nhưng bộ phim vẫn gặt hái được thành công vừa phải ở Hoa Kỳ khi thu về 2,8 triệu USD so với vốn kinh phí ít ỏi. Sau khi "Pulp Fiction" (tác phẩm tiếp theo của Tarantino) ra mắt và gây tiếng vang lớn, thì "Reservoir Dogs" ngày càng được nhiều người biết đến. Nội dung. Mở đầu phim là cảnh tám người đàn ông đang ăn sáng tại một quán ăn ở Los Angeles trước khi họ bắt đầu thực hiện kế hoạch đi cướp kim cương. Sáu người trong số họ sử dụng bí danh: Mr. Blonde (Michael Madsen), Mr. Blue (Eddie Bunker), Mr. Brown (Quentin Tarantino), Mr. Orange (Tim Roth), Mr. Pink (Steve Buscemi) và Mr. White (Harvey Keitel). Hai người còn lại là ông trùm xã hội đen Joe Cabot (Lawrence Tierney), người lập ra kế hoạch cướp kim cương và con trai ông, "Nice Guy Eddie" (Chris Penn). Sau khi rời khỏi quán ăn, cảnh phim bất ngờ chuyển đến đoạn một chiếc xe tăng tốc, trong đó Mr. White đang cố an ủi Mr. Orange, người đã bị bắn vào bụng. Một lúc sau, họ đến một nhà kho bỏ hoang và gặp Mr. Pink ở đó. Mr. Pink nghi ngờ trong nhóm của họ có nội gián của cảnh sát. Mr. White cho Mr. Pink biết Mr. Brown đã bị giết chết và họ cùng bàn bạc về trường hợp của Mr. Blonde, người đã giết nhiều người dân khi chuông báo động kêu. Mr. White rất tức giận, cho rằng Joe không nên sử dụng một kẻ tâm thần như vậy cho kế hoạch. Trong lúc đó, Mr. Pink cũng cho biết hắn đã trốn thoát thế nào khỏi nhóm cảnh sát và đã giấu những viên kim cương ở nơi an toàn. Họ tiếp tục thảo luận xem có nên đưa Mr. Orange đến bệnh viện không, trong khi Mr. White cho biết anh đã tiết lộ tên thật và quê quán của mình cho Mr. Orange biết. Khi Mr. White và Mr. Pink đang cãi nhau thì Mr. Blonde xuất hiện, Mr. White rất tức giận trước hành động của Mr. Blonde và chửi mắng hắn thậm tệ, Mr. Blonde bác bỏ lời chỉ trích của Mr. White và đổ lỗi cho những người đã bấm chuông báo động. Hắn cũng cho biết Eddie sắp đến để giải quyết mọi việc. Ngoài ra, hắn còn bắt được một viên cảnh sát (Kirk Baltz). Ba người tập trung tra tấn viên cảnh sát để buộc anh ta khai ra tên tay trong, nhưng viên cảnh sát nói anh ta hoàn toàn không biết việc này. Sau đó Eddie đến, giảng hòa và yêu cầu Mr. White và Mr. Pink cùng mình đi lấy kim cương. Chỉ còn Mr. Blonde, viên cảnh sát và Mr. Orange đang bị thương ở lại nhà kho. Mr. Blonde bắt đầu tra tấn viên cảnh sát rất dã man, và khi hắn chuẩn bị thiêu sống viên cảnh sát thì bất ngờ Mr. Orange tỉnh dậy và bắn chết hắn. Mr. Orange tiết lộ với viên cảnh sát rằng mình chính là cảnh sát chìm, và đang có một lực lượng cảnh sát lớn bao vây nơi này, chỉ chờ Joe đến là sẽ bắt hết bọn chúng. Mr. White, Mr. Pink và Eddie trở lại và thấy Mr. Blonde đã chết, Mr. Orange nói rằng chính Mr. Blonde định giết tất cả mọi người để lấy hết số kim cương nên anh đã giết chết hắn, nhưng Eddie không tin vì hắn cho rằng Mr. Blonde rất trung thành với bố mình. Sau đó, Joe đến và cho biết Mr. Blue cũng đã chết và khẳng định Mr. Orange chính là tên tay trong, nhưng Mr. White luôn tin tưởng Mr. Orange và cho rằng Joe đã nghi ngờ sai. Sự việc trở nên căng thẳng khi Joe chĩa súng vào Mr. Orange và đòi giết anh, Mr. White chĩa súng lại vào Joe để bảo vệ Mr. Orange, Eddie chĩa súng vào Mr. White, và cả ba đều bắn nhau. Joe và Eddie đều chết, trong khi Mr. White bị thương. Mr. Pink thấy thế bèn lấy túi đựng kim cương rồi bỏ trốn, lúc này Mr. Orange mới nói sự thật với Mr. White rằng mình đúng là cảnh sát chìm được cài vào nhóm. Hối hận, Mr. White bắn chết Mr. Orange, đúng lúc này cảnh sát cũng ập vào và bắn chết Mr. White. Đánh giá. Đây được xem là một trong những bộ phim xuất sắc về đề tài tội phạm, và là bước khởi đầu thành công cho Quentin Tarantino. Bộ phim được đánh giá rất cao từ các nhà phê bình và trên các trang web điện ảnh uy tín. "Reservoir Dogs" cũng tạo cảm hứng và được xem là dấu ấn quan trọng trong sự phát triển của dòng phim độc lập. Tuy nhiên tác phẩm cũng nhận không ít chỉ trích xung quanh nhiều cảnh bạo lực và các câu chửi thề trong phim, đặc biệt là cảnh Mr. Blonde cắt tai viên cảnh sát.
1
null
Kênh rạch tại München là một hệ thống nguyên thủy là tự nhiên sau này là các kinh đào từ sông Isar chảy ra. Nó đóng một vai trò quyết định trong việc phát triển kinh tế của München từ thời Trung cổ cho tới thế kỷ 19. Phần lớn kênh rạch trong phố hiện thời đã bị lấp lại hay bị xây che đi, tuy nhiên vẫn còn một số, chẳng hạn như những con suối chạy trong vườn Anh. Lịch sử. Vào thời đầu Trung cổ sông Isar tại München vẫn chạy tự nhiên và chia ra làm nhiều nhánh, mà hay thay đổi hướng nước chạy. Sau đó dần dần các nhà máy xay dùng sức nước của các nhánh này đã làm kiên cố các rạch này để định đoạt hướng chảy của chúng. Từ các rạch có sẵn, nước lại được chia ra cho cách rạch mới đào, sau này lại cho nhập vào với rạch cũ hay một rạch khác. Từ đó tạo ra một mạng lưới kênh rạch, các nhánh thường được đặt theo tên của nhà máy xay bên cạnh. Các nhà máy xay bên cạnh các dòng suối, không chỉ xay ngũ cốc thành bột. Sức nước của các suối còn được dùng để đập, nện, cưa, mài. Cả các hố đào trước các tường thành trong việc phòng thủ đã lấy nước từ các kênh rạch này. Cả thành phố cũng dùng nước từ đó. Tuy nhiên nước uống thì người ta lấy từ các giếng nước. Từ thế kỷ 16 người ta dùng sức nước để bơm nước từ dưới đất lên các tháp nước và dẫn từ đó qua các ống nước vào các nhà. Ngoài ra, các kênh rạch cũng được dùng để sa thải rác rưởi. Những rác và cây cối máng lại không trôi đi, làm cho nước chảy chậm, các nhà máy xay càng ít có năng lượng. Thế là họ phải làm cho các kênh khô đi, để có thể đào rộng lòng rạch trở lại. Với sự phát triển của kỹ thuật trong thế kỷ 19, các kênh đào mất đi các chức năng của chúng. Sau khi người ta xây xong hệ thống ống nước, và hệ thống cầu cống nhiều con rạch nhỏ bị lấp đi, hầu như tất cả kênh rạch bị xây che lại. Vào năm 1900 chỉ còn một vài khúc còn chạy trên mặt đất. 1966/67 từ 17,5 km từ các kênh rạch còn lại, khoảng 12 km bị lấp đi.
1
null
The SeeYa (더 씨야) là một nhóm nhạc nữ Hàn Quốc thể loại R&B gồm Song Minkyung, Heo Youngjoo, Oh Sung Yeongkyung và Yoojin. Nhóm là sự khởi đầu lại của nhóm nhạc SeeYa. Họ ra mắt trong ngày 12 tháng 11 năm 2012 với album "Good To Seeya" với ca khúc chủ đề "Be With You". Họ trình diễn lần đầu tiên vào 15 tháng 11 năm 2012 tại sân khấu M! Countdown.
1
null
Varsity Blues là một bộ phim thể thao năm 1999 của Hoa Kỳ do Brian Robbins làm đạo diễn, kể về một đội bóng đá của trường trung học tại một thị trấn nhỏ và vị huấn luyện viên độc đoán trong thời gian diễn ra mùa giải sôi động. Các cầu thủ phải đối mặt với cùng một lúc áp lực của tuổi thiếu niên và đến từ cộng đồng người hâm mộ cũng như vị huấn luyện viên khắt khe của mình. Trong một thị trấn nhỏ (tưởng tượng) của miền tây Canaan, Texas, bóng đá là một nghề để sống, và họ không có lựa chọn được từ bỏ nó. "Varsity Blues" có doanh thu toàn nước Mỹ đạt 52 triệu USD so với con số 16 triệu USD kinh phí ước tính, mặc dù các phản hồi chuyên môn chỉ ở mức trung bình. Phản hồi và đánh giá. Phản hồi dành cho phim chỉ ở mức trung bình, chỉ có 40% các nhà phê bình cho bộ phim đánh giá tích cực, theo trang Rotten Tomatoes tổng hợp từ 52 nhận xét. Nhạc phim. Là một sản phẩm của MTV Films, "Varsity Blues" rất phong phú về nhạc phim với đủ mọi nghệ sĩ tham gia từ những ban nhạc nổi tiếng tới những bài hát ít được biết tới hơn. Album nhạc phim do Hollywood Records phát hành gồm:
1
null
Ốc sên khổng lồ Tây Phi, tên khoa học Archachatina marginata, là một loài ốc đất nhiệt đới thở không khí, trong họ Achatinidae. Chúng có thể phát triển chiều dài lên đến 20 cm, và sống đến 10 năm. Phân bố. Loài này xuất hiện ở Tây Phi: Cameroon qua Cộng hòa Dân chủ Congo. Loài này vẫn chưa được xác minh tại Hoa Kỳ, nhưng nó được coi là đại diện cho một mối đe dọa nghiêm trọng như là một dịch hại, một loài xâm lấn có thể ảnh hưởng xấu đến sản xuất nông nghiệp, hệ sinh thái tự nhiên, sức khỏe con người, thương mại.
1
null
Chūshingura (忠臣蔵 - trung thần tạng, tạm dịch: kho chuyện trung thần) là tên thường gọi của Kana-dehon Chūshingura, một tiết mục biểu diễu của thể loại kịch múa rối Jōruri (Tịnh Lưu Ly, hay còn gọi là Bunraku) và kịch Kabuki. Trong thế giới Kabuki, kịch nói và điện ảnh thì cụm từ này còn được dùng để chỉ các tác phẩm có đề tài dựa trên sự kiện lịch sử các lãng sĩ thành Akō báo thù cho chủ (sự kiện Akō năm Genroku). Các tác phẩm phim ảnh, diễn kịch về Chūshingura còn được biết đến với những cái tên khác như: 47 Võ sĩ, 47 Rōnin, 47 Samurai... Tuy nhiên đây chỉ là những cách gọi không chính thống và thường bắt gặp ở các nước bên ngoài Nhật Bản. Giải thích. Danh từ Chūshingura xuất hiện khi vỡ kịch múa rối Bunraku "Kana-dehon Chūshingura" của ba tác giả Takeda Izumo đời thứ hai, Miyoshi Shōraku và Namiki Sōsuke thuộc gánh tuồng Ōmoto-za, hợp tác diễn lần đầu tiên ở Ōsaka vào tháng 8 năm Kan-en thứ nhất (1748). Tựa đề vỡ diễn bày tỏ sự cảm thông, ca ngợi lòng trung nghĩa của các lãng nhân (Rōnin, Võ sĩ Samurai vô chủ, còn gọi là lãng sĩ - Rōshi) thành Akō báo thù cho chủ và đây cũng là sự kiện làm chấn động cả xã hội Nhật Bản vào đầu thế kỷ 18. Khơi mào cho việc báo thù của các lãng nhân thành Akō là sự kiện Asano Naganori (Takumi-no-kami), chúa phiên Akō ở Harima, rút gươm chém viên quan coi sóc lễ nghi phép tắc của chính quyền Mạc phủ là Kira Yoshinaka tại hành lang lớn Matsuno (Matsuno Ōrōka) trong cung điện thành Edo vào ngày 14 tháng 3 năm Genroku thứ 14 (ngày 21 tháng 4 năm 1701 theo Tây lịch). Trong sự việc này, Asano Naganori bị bắt tội và xử mổ bụng (Seppuku) ngay trong ngày hôm đó, còn Kira Yoshinaka được cho là bên bị hại và không bị xử lỗi gì. Điều này dẫn đến sự bất bình của các gia thần của Asano ở Akō. Hơn một năm sau, ngày 14 tháng 12 năm Genroku thứ 15 (30 tháng 1 năm 1703), quan Gia lão của Asano là Ōishi Yoshio (tên thường gọi là Kura-no-suke) cùng 46 người đồng chí tập kích vào dinh thự Kira, lấy đầu Kira Yoshinaka. Sau đó 47 lãng sĩ này bị chính quyền Mạc phủ bắt tội, phải mổ bụng tập thể vào ngày mùng 4 tháng 2 năm Genroku thứ 16. Loạt sự kiện từ khi Asano Naganori chém Kira Yoshinaka trong thành Edo cho đến khi 47 lãng sĩ bị bắt tội được các sử gia ngày nay gọi là "sự kiện Akō năm Genroku" (元禄赤穂事件 - Genroku Akō jiken) và là một trong ba sự kiện báo thù lớn nhất trong lịch sử Nhật Bản. Nhóm lãng sĩ 47 người do Ōishi Yoshio cầm đầu được gọi là "lãng sĩ Akō" hay "47 lãng sĩ Akō". Sự kiện Akō năm Genroku này lần đầu tiên được đưa vào diễn kịch là vào tháng 1 năm Genroku thứ 16, trong vai trò là đoạn kết của vỡ diễn "Keisei Asama Soga" của gánh tuồng Yamamura ở Edo. Vỡ diễn này mở đầu bằng sự kiện báo thù của huynh đệ nhà Soga để dẫn dắt đến sự kiện báo thù của lãng sĩ Akō. Kể từ đó, sự kiện lịch sử này trở thành đề tài được ưa chuộng của kịch rối Jōruri (Tịnh Lưu Ly), Kabuki, và 4 năm sau (Hōei thứ 4 - 1706) thì vở kịch rối "Goban Taiheiki" có nội dung là sự kiện báo thù này, do Chikamatsu Mon-zaemon viết kịch được gánh tuồng Ōmoto diễn. Và đỉnh cao nhất của kịch rối đề tài Akō là "Kana-dehon Chūshingura" do Takeda Izumo đời thứ hai, Miyoshi Shōraku và Namiki Sōsuke hợp tác được diễn ở Ōsaka vào năm 1749. Đợt diễn đầu tiên của vỡ kịch này được ghi nhận là có lượng khách đến xem vô tiền khoáng hậu, và trong cùng năm thì đề tài này cũng trở thành một tiết mục diễn của kịch Kabuki. Kana-dehon về sau còn được gọi là "độc tham thang", tên một thang thuốc Bắc trị xuất huyết. Sở dĩ nó được gọi như vậy là vì hễ mỗi khi gánh tuồng ế khách, chỉ cần diễn lại vở này là khách lại kéo đến. Và trong thế giới Kabuki, Jōruri, kể chuyện Kōdan đã phát sinh rất nhiều tác phẩm về đề tài này, đến độ hình thành hẳn một thể loại gọi là "Chūshingura-mono". Trong số này, nổi tiếng nhất phải kể đến tác phẩm "Tōkaidō Yotsuya Kaidan" (thường gọi là Yotsuya Kaidan) của tác giả Tsuruya Namboku, đây là sự kết hợp giữa "Kana-dehon Chūshingura" và thể loại Kaidan (quái đàm, tức kể chuyện ma). Trong thời Edo, chính quyền Mạc phủ có lệnh cấm đưa các sự kiện xảy ra trong xã hội Võ gia vào văn học, diễn kịch nên sự kiện Akō năm Genroku khi lên sân khấu cũng được chuyển bối cảnh sang thời đại khác, mượn các nhân vật lịch sử thời đại khác để diễn đạt, như một kiểu lách luật. Trong vở kịch của Chikamatsu thì bối cảnh là thời Kamakura trong "Taihei-ki" (Thái Bình ký), nhân vật Asano Takumo-no-kami được chuyển thành En-ya Takasada còn Kira Kōzuke-no-suke trở thành Kō-no Moronao. Trong "Taihei-ki" thì sự kiện bắt đầu bùng nổ khi Moronao để mắt tới vợ của Takasada, và trong "Kana-dehon Chūshingura" cũng bắt đầu như vậy. Tuy nhiên, tác giả vở kịch đã dùng cách chơi chữ bóng gió khiến khán giả liên tưởng đến sự kiện thành Akō. Tên gọi Kana-dehon Chūshingura. Tên gọi "Chūshingura" (trung thần tạng) được giải thích là "một kho (tạng) đầy trung thần", tức khen ngợi 47 nghĩa sĩ Akō là trung thần liệt tử. Nhưng cũng có giải thích cho rằng chữ "tạng" ở đây nhằm chỉ đến Ōishi Kura-no-suke (大石内蔵助 - Đại Thạch Nội Tạng Trợ). Còn vì sao là "Kana-dehon" thì có nhiều giải thích như dưới đây. Từ thời Meiji trở đi, Mạc phủ Edo sụp đổ nên tên nhân vật xuất hiện trong các tác phẩm Chūshingura cũng trở về với tên nhân vật lịch sử, và Chūshingura vẫn được rất nhiều người ưa chuộng. Tháng 1 năm Shōwa thứ 9 (1934), vở kịch "Genroku Chūshingura" thuộc thể loại Shinkabuki của tác giả Mayama Seika với nhiều chi tiết sử liệu điều tra kỹ càng được trình diễn, cũng trong năm đó vở kịch này được đạo diễn Mizuguchi Kenji dựng thành phim điện ảnh vợi sự tham gia diễn xuất của dàn diễn viên Shinkabuki của vở kịch. Trong các thể loại văn nghệ khác như kể chuyện Kōdan, Rōkyoku (hát, kể chuyện với tiếng đệm của đàn Shamisen) thì đề tài Chūshingura cũng rất được ưa chuộng. Trong các tác phẩm này lại chia thành hai nhánh là "Akō gishi-den" (Akō nghĩa sĩ truyện) được xem như là "bổn truyện", nhánh chính, với nội dung là sự kiện lịch sử năm Genroku, và nhánh phụ "Gishi meimei-den" gồm các câu chuyện riêng biệt về từng nhân vật trong số 47 lãng sĩ Akō và những đoạn ngoại truyện. Sau đệ nhị Thế chiến, nước Nhật bại trận và chịu sự quản thúc của Liên Hợp quốc và tư tưởng, ngôn luận bị kiểm soát gắt gao. GHQ lo sợ rằng phong trào vận động tinh thần dân tộc lên cao nên đã cấm xuất bản, biểu diễn, công chiếu các tác phẩm có đề tài Chūshingura với lập luận "quan niệm đạo đức xã hội phong kiến cản trở quá trình dân chủ hóa" (chuyện báo thù), mãi đến năm Shōwa thứ 22 (1947) lệnh cấm mới được bãi bỏ. Các lãng sĩ Akō tập kích vào dinh thự Kira vào ngày 14 tháng 12 Âm lịch (chính xác là rạng sáng ngày hôm sau) và cho đến hiện nay, hằng năm khi đến gần ngày 14 tháng 12 Tây lịch thì các đài truyền hình cũng thi nhau phát sóng các bộ phim truyền hình, phim điện ảnh về đề tài Chūshingura. Việc này cho thấy sức nóng của Chūshingura chưa bao giờ nguội. Cho đến ngày nay, hằng năm đều có nhiều bộ phim điện ảnh, truyền hình về đề tài này được chế tác, nhiều vở kịch được viết mới và công diễn. Trong số đó có nhiều tác phẩm phản ánh sử liệu chân thật, trong khi một số khác lại đặt những góc nhìn khác với truyền thống, chẳng hạn xem các lãng sĩ Akō không phải người trung nghĩa, những góc nhìn khác về nhân vật phản diện Kira Kōzuke-no-suke. Các tác phẩm về Chūshingura. Mặc dù Chūshingura là đề tài phổ biến trong tất cả các loại hình văn nghệ ở Nhật, không chỉ giới hạn ở kịch Kabuki và phim ảnh mà còn lan rộng sang các loại hình khác như Rakugo, Kōdan, văn học, hát Ha-uta, Ko-uta, và vô số bài bình luận liên quan đến đề tài này. Ngoài ra, ngày nay còn thấy nhiều tác phẩm parody, game về đề tài này. Dưới đây là một vài tác phẩm chủ chốt. Văn học. Có rất nhiều tiểu thuyết về đề tài Chūshingura, trong đó có những tác phẩm được dựng thành phim ảnh như dưới đây. Phim điện ảnh. Dưới đây chỉ liệt kê một vài trong số rất nhiều phim điện ảnh về Chūshingura đã được dựng, kể từ bộ phim đầu tiên vào năm 1907. Phim truyền hình. Dưới đây chỉ liệt kê một vài trong số rất nhiều bộ phim truyền hình về Chūshingura đã được dựng.
1
null
Cepaea nemoralis là một loài ốc thở không khí. Nó là một trong những loài ốc đất phổ biến nhất tại châu Âu và đã được giới thiệu với Bắc Mỹ. "Cepaea nemoralis" là loài điển hình của chi Cepaea. Nó được sử dụng như một sinh vật mô hình trong dự án "citizen science". Hình dáng. "Cepaea nemoralis" là một trong những loài ốc lớn nhất và được biết đến nhiều nhất ở Tây Âu do sự đa dạng và có nhiều màu. Màu của vỏ ốc rất khác nhau, có màu đỏ, nâu, vàng hoặc trắng, có hoặc không có dải nâu sẫm. Bề mặt vỏ nửa láng, có từ 4½ đến 5½ vòng xoắn. Bề rộng vỏ 18–25 mm. Chiều cao vỏ 12–22 mm.
1
null
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 là bản Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2014. Bản Hiến pháp được Quốc hội Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua vào sáng ngày 28 tháng 11, và được Chủ tịch nước Trương Tấn Sang ký Lệnh công bố Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Nghị quyết quy định một số điểm thi hành Hiến pháp vào ngày 8 tháng 12 năm 2013. Hiến pháp có tổng cộng có 11 Chương với 120 Điều. So với bản Hiến pháp trước, có 12 điều mới được đưa vào Hiến pháp mới, đó là: các điều về Nhân quyền (Điều 19, 34, 41–43), Ngân sách nhà nước (Điều 55), Chính sách bảo vệ môi trường (Điều 63), Chính quyền địa phương (Điều 111), Hội đồng bầu cử (Điều 117), Kiểm toán Nhà nước (Điều 118)... Tổng quan. Ngày 2 tháng 1 năm 2013, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 chính thức công bố Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trên các phương tiện thông tin đại chúng để lấy ý kiến rộng rãi của các tầng lớp nhân dân. Thời gian lấy ý kiến từ ngày công bố đến hết ngày 31 tháng 3 năm 2013. Trong lần sửa Hiến pháp này, rất nhiều vấn đề hệ trọng của đất nước đã được nhân dân tham gia ý kiến, phản ánh qua các phương án khác nhau cho từng điều khoản Hiến pháp. Sau một năm thảo luận và nhận ý kiến từ các bên, Bản dự thảo sửa đổi cuối cùng được đệ trình lên kỳ họp Quốc hội thứ 6 khóa 13, tháng 10 và 11 năm 2013 để thông qua. Theo kết quả cuộc khảo sát "Chỉ số Công lý 2012" do Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tại Việt Nam, Hội Luật gia Việt Nam, Trung tâm Nghiên cứu phát triển và hỗ trợ cộng đồng, thì 42.4% dân chúng Việt Nam không biết gì về Hiến pháp hoặc chưa bao giờ nghe nói đến Hiến pháp. Với 57.6% còn lại – những người biết hiến pháp là gì hoặc đã từng nghe nói tới Hiến pháp thì có tới 23% không hề biết Việt Nam đang tổ chức góp ý sửa đổi Hiến pháp. Tuy nhiên, TS. Đặng Ngọc Dinh, Giám đốc CECODES giải thích rằng thời điểm thực hiện khảo sát là từ đầu năm 2012, khi việc lấy ý kiến người dân cho sửa đổi Hiến pháp 1992 chưa diễn ra mạnh mẽ nên mới có nhiều người dân chưa biết đến Hiến pháp. Các kiến nghị nổi bật. Lần đầu tiên trong lịch sử, việc góp ý sửa đổi Hiến pháp 1992 được chính quyền Việt Nam đưa đến từng hộ gia đình. Theo báo cáo của các cơ quan, tổ chức hữu quan, trong 5 tháng tính tới tháng 5/2013, đã có hơn 26 triệu lượt ý kiến góp ý của nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, với hơn 28.000 hội nghị, hội thảo, tọa đàm được tổ chức Nhiều nhân sĩ đã góp ý bỏ Điều 4 để đảng cầm quyền cạnh tranh chính trị cùng các đảng khác, sửa các điều khoản về quyền con người, sở hữu đất đai, tổ chức Nhà nước, lực lượng vũ trang, trưng cầu dân ý đối với Hiến pháp. Báo Quân đội Nhân dân trong thời gian này đưa ra bài viết nêu quan điểm rằng "đòi bỏ Điều 4 trong Dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992" là "mưu đồ xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam". Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đã phát biểu rằng một số góp ý cho Dự thảo, bao gồm đề xuất sửa đổi Điều 4, thể hiện "suy thoái chính trị". GS Nguyễn Minh Thuyết cho rằng bỏ hay giữ Điều 4 thực chất không thay đổi bản chất lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản, một khi Điều 2 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đã khẳng định "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa". Trong dự thảo Hiến pháp lần 3, có những vấn đề đã được ghi vào bản dự thảo (như đổi tên nước, bỏ quy định thu hồi đất vì mục đích kinh tế xã hội, trưng cầu dân ý về Hiến pháp…) Tuy nhiên, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp bản mới nhất trình Quốc hội tháng 5/2013: Một số nội dung trở lại như dự thảo lần đầu. Dự thảo mới không còn nêu phương án trở lại tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; giữ nguyên nền tảng liên minh giai cấp (Điều 2); không còn phương án diễn đạt gọn Điều 4; Lời nói đầu, dự thảo mới không ghi nhận "chủ quyền nhân dân" mà thay bằng "quyền làm chủ" – khi nói về mối quan hệ giữa nhân dân và HP. Kiến nghị 72. Tháng 1 năm 2013, theo RFA, 72 chính khách, trí thức đã cùng nhau ký một bản kiến nghị có tên là "Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992" (đề ngày 19 tháng 1 năm 2013), gọi tắt là Kiến nghị 72. Theo trang BBC tiếng Việt, 72 nhân sĩ còn bao gồm: nhà văn Nguyên Ngọc, Giáo sư Tương Lai, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, Tiến sĩ Nguyễn Quang A... Trong danh sách những người khởi xướng, có ít nhất một nửa là đảng viên Cộng sản, trong đó có những người đã từng giữ chức vụ cao hoặc đã từng làm cố vấn cho các nhà lãnh đạo cao cấp trong hệ thống chính trị hiện hành. Ngày 4 tháng 2, ông Nguyễn Đình Lộc nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp, cùng Nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Chu Hảo, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội Nguyễn Minh Thuyết, GS Hoàng Xuân Phú, nhà văn Nguyên Ngọc, GS Tương Lai, GS Hoàng Tụy, TS Nguyễn Quang A, bà Phạm Chi Lan nguyên thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, GS Hồ Uy Liêm, nguyên Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH & KTVN… đã đến Văn phòng Ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp trao bản kiến nghị sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Nội dung của kiến nghị cũng như bản dự thảo Hiến pháp đính kèm (được coi như một tài liệu để tham khảo và thảo luận) đã bày tỏ một số quan điểm về hiến pháp vượt ra khỏi khuôn khổ của hiến pháp hiện hành (tức Hiến pháp 1992 – bản sửa đổi năm 2001), Kiến nghị này đề nghị tam quyền phân lập, bỏ vai trò lãnh đạo độc quyền của Đảng Cộng sản, áp dụng quyền sở hữu cá nhân về đất đai, bỏ chức năng chính của quân đội là phục vụ đảng cầm quyển mà thay vào đó là phục vụ nhân dân, dành nhiều quyền dân chủ hơn cho nhân dân, trưng cầu dân ý đối với Hiến pháp. Theo RFA, kiến nghị gồm một số điểm chính sau: Tuy nhiên, cựu Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Đình Lộc, người được cho là dẫn đầu nhóm Kiến nghị 72, trong buổi phỏng vấn với VTV đã bác bỏ việc mình đóng vai trò đại diện cho nhóm này, nói rằng tư cách trưởng đoàn chỉ được trao cho ông vào phút chót vì "tín nhiệm", và rằng "trước đó thì thật ra những cái bản ấy tôi không tham gia, đến lúc đó thì mới giao cho tôi trao, trước đó không trao đổi kỹ". Báo Đại Đoàn Kết hôm 9/3/2013 đăng bài nói một cuộc điều tra của báo này cho thấy nhiều chữ ký trong bản kiến nghị này là "ngụy tạo". Nhóm Cùng viết Hiến pháp. "Nhóm Cùng Viết Hiến pháp" do các giáo sư Ngô Bảo Châu, Đàm Thanh Sơn và cựu Tổng Biên tập báo VietnamNet Nguyễn Anh Tuấn khởi xướng, Ban biên tập gồm có: Giáo sư Nguyễn Đăng Dung, Giáo sư chuyên ngành luật hiến pháp, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội; Ông Bùi Đức Lại, nguyên chuyên gia cao cấp Ban Tổ chức Trung ương; Khương Duy, luật gia, chuyên ngành luật hiến pháp; Nguyễn Ái Cần, luật gia. Nhóm Cùng Viết Hiến pháp đã tổ chức trưng cầu ý kiến thông qua trang mạng Cùng Viết Hiến pháp từ tháng 2/2013. Các đề xuất của nhóm Cùng Viết Hiến pháp liên quan tới sửa đổi 29 điều trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp và thêm một điều mới. Nhóm Cùng Viết Hiến pháp đã tập hợp được nhiều bài viết có giá trị của các tác giả có uy tín về Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp. Hội đồng Giám mục Việt Nam. Ngày 1 tháng 3 năm 2013, Hội đồng Giám mục Việt Nam đại diện cho giới Công giáo Việt Nam chính thức gửi thư nhận định và góp ý sửa đổi Hiến pháp cho Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Qua lá thư này, họ chất vấn chính quyền Việt Nam về việc làm sao có thể thực hiện quyền tự do ngôn luận và tự do sáng tạo văn học, nghệ thuật khi mà tư tưởng bị đóng khung trong một chủ thuyết là Chủ nghĩa Marx-Lenin và Tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ đề xuất nền tảng chủ thuyết để tổ chức và điều hành xã hội Việt Nam là truyền thống văn hóa phong phú của dân tộc chứ không phải bất kỳ một hệ ý thức nào khác. Thư này cũng cho rằng Hiến pháp Việt Nam không nên và không thể khẳng định sự lãnh đạo mặc nhiên, không thông qua bầu cử của bất kỳ đảng phái chính trị nào. Thư góp ý đề xuất nhà nước Việt Nam thực hiện mô hình quản lý theo kiểu tam quyền phân lập: lập pháp, hành pháp và tư pháp; phân biệt rõ vai trò của đảng cầm quyền và nhà nước pháp quyền. Nhìn chung, thư góp ý sửa đổi Hiến pháp này được sự ủng hộ của nhiều tín hữu và giới bất đồng chính kiến. Có ghi nhận rằng nhiều giáo xứ, tổ chức Công giáo trong và ngoài nước đã tổ chức lấy ý kiến ủng hộ cho thư góp ý đó. Kiến nghị khác. GS Nguyễn Minh Thuyết nêu lại một số thay đổi trong quy định tại Điều 4 của Hiến pháp năm 1980 đến Hiến pháp 1992 về vai trò lãnh đạo của Đảng CSVN: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" và toàn bộ mô hình tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước đã thể hiện tính chất xã hội chủ nghĩa trong một bản hiến pháp được toàn dân đồng tình qua trưng cầu ý dân rồi thì dù không có Điều 4 cũng không ai xóa bỏ được chế độ xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ được vai trò lãnh đạo của Đảng ở nước ta", ông Lê Tiến, hội viên Hội luật gia Việt Nam, đề nghị Hiến pháp sửa đổi nên có một chương riêng về Đảng, trong đó nêu rõ trách nhiệm cụ thể của Đảng với tư cách lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Nhiều ý kiến cần có cơ chế người dân giám sát Đảng Cộng sản. Nhiều người dân muốn thay tên nước là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Có phương án đưa ra không hiến định kinh tế nhà nước là chủ đạo. Theo ông Vũ Tiến Lộc, việc không nói đến vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong thành phần kinh tế là phù hợp vì nói cạnh tranh thì phải bình đẳng theo quy định pháp luật. Đại biểu Quốc hội Nguyễn Văn Tiên (Tiền Giang) đề nghị cần đưa quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và đất đai cương thổ vào phần lời nói đầu của Hiến pháp. Dự thảo cuối cùng. Bản dự thảo cuối cùng "Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992" đã được chính thức công bố đăng tải trên website Chính phủ. Dự thảo này là bản do Ban Biên tập Hiến pháp, Ủy ban Pháp luật của Quốc hội do ông Phan Trung Lý làm chủ nhiệm Ủy ban. Những vấn đề hệ trọng như: chế độ chính trị, tên nước, vai trò lãnh đạo duy nhất của đảng cầm quyền, bản chất lực lượng vũ trang, chế độ sở hữu toàn dân… đều không thay đổi so với dự thảo ban đầu. Theo đó, sẽ không đổi tên nước, không thành lập Hội đồng Hiến pháp, vẫn thu hồi đất cho dự án kinh tế - xã hội, vẫn giữ điều 4 về sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản, Kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo. Tuy vậy, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Nguyễn Phú Trọng nói: "Dự thảo lần này so với trước được ưu điểm là ngắn gọn, súc tích hơn, nhưng chuẩn xác thì chưa, hay thì lại càng chưa, chưa có sức vang vọng như lời hiệu triệu kêu gọi. Có đại biểu nói lời nói đầu tốt lắm rồi mà tôi thì còn băn khoăn". Ngày 14/11/2013, Văn phòng Quốc hội thông báo thay vì cùng thảo luận toàn thể hội trường về dự thảo hiến pháp, đại biểu Quốc hội chỉ có thể "góp ý trực tiếp" qua "phiếu góp ý". Các buổi thảo luận toàn thể hội trường của Quốc hội thường được truyền hình trực tiếp. Báo Người Việt cho rằng quyết định hủy buổi thảo luận cuối cùng của các đại biểu Quốc hội về dự thảo hiến pháp chỉ ra rằng nhóm cho thấy lãnh đạo không đủ tự tin về khả năng kiểm soát và chi phối Quốc hội Việt Nam. Ngày 15/11/2013, nhóm khởi xướng và hưởng ứng Kiến nghị 72 đã phát hành một thư ngỏ kêu gọi các đại biểu quốc hội dừng việc thông qua dự thảo hiến pháp. Nhóm này nhận định, dự thảo hiến pháp được trình cho Quốc hội Việt Nam xem xét để thông qua "về cơ bản vẫn như hiến pháp hiện hành, thậm chí có một số điểm còn thụt lùi hơn trước" và "điều đó có nghĩa là vẫn duy trì một nền tảng pháp lý lỗi thời của thể chế toàn trị, là nguồn gốc đã gây ra cho đất nước và nhân dân rất nhiều thảm họa, đặc biệt là cuộc khủng hoảng trầm trọng về chính trị – kinh tế – văn hóa – xã hội mà cả nước đang lâm vào và vẫn chưa có lối thoát". Ngày 28/11/2013, Quốc hội Việt Nam khóa 13 đã thông qua dự thảo Hiến pháp sửa đổi với tỷ lệ 97%, kết thúc Đợt sửa đổi Hiến pháp 2013. Trong số 488 đại biểu có mặt ở hội trường trong thời khắc thông qua, có 2 đại biểu đã không bấm nút thông qua. Ông Dương Trung Quốc là một trong hai người đó. Có 12 điều mới được đưa vào Hiến pháp mới, đó là: các điều về nhân quyền (Điều 19, 34, 41-43), ngân sách nhà nước (điều 55), Chính quyền địa phương, Hội đồng bầu cử, Kiểm toán Nhà nước. Công bố. Sáng ngày 9 tháng 12, Văn phòng Chủ tịch nước tổ chức họp báo công bố lệnh của Chủ tịch nước. Thừa ủy quyền của Chủ tịch nước, Phó Chủ nhiệm thường trực Văn phòng Chủ tịch nước Giang Sơn đã công bố Lệnh số 18/2013/L-CTN ngày 8 tháng 12 năm 2013 về việc công bố Hiến pháp và Lệnh số 19/2013/L-CTN ngày 8 tháng 12 năm 2013 về việc công bố Nghị quyết của Quốc hội. Quan tâm quốc tế. Murray Hiebert, Phó Giám đốc và Kyle Springer, Chủ tịch Sumitro về Nghiên cứu Đông Nam Á của Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược ở Washington (CSIS) nói Chính phủ Hoa Kỳ cần theo dõi Điều 19 của sửa đổi Hiến pháp về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Bởi vì điều này có thể trái với những điều khoản trong Hiệp định Thương mại Xuyên Thái Bình Dương, mà Việt Nam muốn tham gia. Theo đó các nước hội viện phải coi các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài như nhau. Tờ "Economist" cho rằng Trung Quốc khó có thể là nguồn tham khảo học tập cho việc thay đổi hiến pháp hiện nay, khi mà tình hình Đảng Cộng sản Việt Nam tương đối khủng hoảng, khác với láng giềng Trung Quốc. Trong một văn thư vừa gửi tới Chủ tịch Quốc hội, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền phát biểu rằng Quốc hội Việt Nam cần đảm bảo bản hiến pháp sửa đổi của Việt Nam đáp ứng được đầy đủ các tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền. Tổ chức này cho rằng các nghị viên Quốc hội đang đứng trước một ngã rẽ lịch sử và nên sử dụng thời cơ này để mang lại những thay đổi có ý nghĩa cho hệ thống hiến pháp và pháp luật: "Đây là cơ hội duy nhất trong cả một thế hệ để thay đổi hiến pháp Việt Nam sao cho các quyền tự do cơ bản của người dân được bảo đảm, ví dụ như quyền kêu gọi dân chủ hay thành lập các công đoàn độc lập và các tổ chức chính trị độc lập".
1
null
AllMovie là cơ sở dữ liệu mang tính thương mại chứa thông tin về các ngôi sao điện ảnh, phim và chương trình truyền hình. Hiện All Media Network, LLC là công ty sở hữu trang web AllMovie.com này. Lịch sử. AllMovie do nhà hoạt động văn hóa đại chúng Michael Erlewine thành lập. Ông cũng là người sáng lập AllMusic và AllGame. Cơ sở dữ liệu AllMovie được cấp phép cho hàng chục nghìn nhà phân phối và nhà bán lẻ tại các điểm bán hàng, website và ki-ốt. AllMovie bao quát toàn diện các thông tin, từ thông tin cơ bản về văn hóa phẩm, về đội ngũ sản xuất và diễn viên, nội dung kịch bản đến đánh giá từ phía chuyên gia, các liên kết web có liên quan... Người dùng có thể truy cập thông tin của AllMovie tại địa chỉ web AllMovie.com. Cuối năm 2007, Rovi Corporation mua lại AMG với giá được công bố là 72 triệu đô la Mỹ. Tháng 8 năm 2013, AllMusic.com, AllMovie.com và AllGame.com được bán cho All Media Network, LLC - một công ty có văn phòng ở San Francisco, California và Ann Arbor, Michigan, Hoa Kỳ.
1
null
Ngày pháp luật nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam hay gọi ngắn gọn là Ngày pháp luật là một ngày kỷ niệm tại Việt Nam vào ngày 09 tháng 11 hàng năm, bắt đầu từ năm 2013, ngày pháp luật được quy định cụ thể trong Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật Việt Nam. Đây là ngày trong năm để khẳng định vị trí thượng tôn của pháp luật trong đời sống xã hội, nâng cao ý thức chấp hành và bảo vệ pháp luật tại Việt Nam và thúc đẩy tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền. Ngày 09 tháng 11 chính là ngày bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được ban hành nên Việt Nam lấy đó làm Ngày Pháp luật. Về cơ sở pháp lý, ngày pháp luật được quy định tại Điều 8 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật và Nghị định số 28/2013/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật. Vào ngày 08 tháng 11 năm 2013, tại Hà Nội, Hội đồng phổ biến giáo dục trung ương và Bộ Tư pháp tổ chức Lễ Công bố Ngày pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngày pháp luật do đích thân Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng chính thức công bố. Trên thế giới có khoảng 40 quốc gia có Ngày Pháp luật, còn ở Việt Nam, ý tưởng tổ chức Ngày Pháp luật bắt nguồn từ sáng kiến của các địa phương, từ các tỉnh Hà Tây, Long An, Tiền Giang và các tỉnh thành khác. Ban đầu, ngày này chỉ được tổ chức trong các cơ quan, đơn vị cho cán bộ, công chức, viên chức như một ngày sinh hoạt pháp luật tập trung, để họ được phổ biến, quán triệt các văn bản pháp luật mới được ban hành trong lĩnh vực quản lý, hoạt động của mình, từ năm 2010, mô hình Ngày Pháp luật đã được lan tỏa ra hầu hết các Bộ, các ngành và tất cả 63 tỉnh, thành.
1
null
Giáo dục trung học () là giai đoạn giáo dục diễn ra trong các trường trung học, theo sau giáo dục tiểu học. Ở hầu hết các quốc gia, giáo dục trung học thuộc giai đoạn giáo dục bắt buộc, trong khi ở một số quốc gia khác thì chỉ có giáo dục tiểu học hay giáo dục cơ bản mới mang tính chất bắt buộc. Ở Việt Nam, giáo dục trung học và giáo dục tiểu học nằm trong giai đoạn gọi là giáo dục phổ thông. Giáo dục trung học còn được chia ra làm hai bậc: trung học cơ sở và trung học phổ thông: Giáo dục trung học cơ sở kéo dài bốn năm học, từ lớp sáu đến lớp chín. Điều kiện để vào lớp sáu là học sinh phải hoàn thành chương trình tiểu học. Giáo dục trung học cơ sở nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục tiểu học; có trình độ học vấn phổ thông cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kĩ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động. Giáo dục trung học phổ thông có thời gian ba năm học, từ lớp mười đến lớp mười hai. Để vào lớp mười học sinh phải tốt nghiệp trung học cơ sở. Giáo dục trung học phổ thông nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và những hiểu biết thông thường về kĩ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề, hoặc đi vào cuộc sống lao động. Chương trình đại học thường kéo dài tối đa 4 năm học và chỉ kéo dài 1.5 năm khi đã học cao đẳng, cao đẳng học lâu hơn 1 năm khi không học bậc trung cấp, trung cấp học kéo dài lâu hơn tối đa 10 tháng sau khi tốt nghiệp bậc trung học phổ thông, tùy từng trường mà thời gian học sẽ kéo dài lâu hơn hoặc chậm hơn so với thời gian học của những trường học chuẩn quốc gia.. Định nghĩa. Giáo dục trung học ở hầu hết các quốc gia là một giai đoạn trong quá trình giáo dục liên tục bắt buộc, chịu trách nhiệm cho sự phát triển của trẻ trong độ tuổi thiếu niên, giai đoạn phát triển nhanh nhất về thể chất, tinh thần và cảm xúc. Cấp độ giáo dục này là nơi các giá trị và thái độ hình thành ở trường tiểu học đã ăn sâu hơn cùng với việc tiếp thu kiến thức và kỹ năng mới. —  Theo UNESCO, "Secondary Education Reform: Towards a Convergence of Knowledge Acquisition and Skills Development", 2005 Phân loại giáo dục tiêu chuẩn quốc tế năm 1997 (ISCED) mô tả bảy cấp độ có thể được sử dụng để so sánh về giáo dục quốc tế. Với mỗi quốc gia, những cấp độ này có thể được thực hiện theo những cách khác nhau, với các độ tuổi khác nhau: Trong hệ thống này, Cấp 1 và 2 - nghĩa là giáo dục tiểu học và trung học cơ sở - cùng nhau hình thành giáo dục cơ bản. Ngoài ra, các quốc gia có thể gắn nhãn giáo dục trung học từ cấp 2 đến cấp 4 với nhau, cấp 2 và cấp 3 hoặc cấp 2 một mình. Các định nghĩa cấp độ này được đặt cùng nhau cho mục đích thống kê và cho phép thu thập dữ liệu so sánh trong nước và quốc tế. Chúng đã được Đại hội đồng UNESCO phê chuẩn tại phiên họp thứ 29 vào tháng 11 năm 1997. Sự khởi đầu của giáo dục trung học cơ sở được đặc trưng bởi sự chuyển đổi từ một giáo viên quản lý một lớp (giáo viên cung cấp tất cả nội dung cho một nhóm học sinh) đến mỗi giáo viên phụ trách một môn học. Mục đích giáo dục của nó là hoàn thành việc cung cấp giáo dục cơ bản (từ đó hoàn thành việc cung cấp các kỹ năng cơ bản) và đặt nền móng cho việc học tập suốt đời. "Giáo dục trung học cơ sở có các tiêu chí sau:" Sự kết thúc của giáo dục trung học cơ sở thường trùng với sự kết thúc của giáo dục bắt buộc tại một số quốc gia. (Cao trung) giáo dục trung học phổ thông bắt đầu khi hoàn thành giáo dục cơ bản, cũng có nghĩa là hoàn thành giáo dục trung học cơ sở. Trọng tâm giáo dục rất đa dạng tùy theo sở thích và định hướng tương lai của học sinh. Giáo dục ở cấp độ này thường là tự nguyện. (Cao trung) giáo dục trung học phổ thông có các tiêu chí sau: Hoàn thành giáo dục trung học phổ thông (Cao trung) cung cấp các yêu cầu đầu vào cho giáo dục đại học cấp 5, các yêu cầu đầu vào cho giáo dục kỹ thuật hoặc dạy nghề (Cấp độ 4, khóa học đại học), hoặc trực tiếp vào nơi làm việc. Thuật ngữ cho các trường trung học thay đổi theo từng quốc gia khác nhau.Các trường trung học cũng có thể được gọi là học viện, cao đẳng, thể dục, trường trung học cơ sở, lyceums, trường trung học phổ thông, trường dự bị, trường trung học, hoặc trường dạy nghề... Để biết thêm thông tin về danh pháp, xem phần bên dưới theo quốc gia.
1
null
Robert I của Scotland hay Robert nhà Bruce () là vua của Scotland từ năm 1306 cho đến khi ông qua đời năm 1329. Robert là một trong những chiến binh nổi tiếng nhất của thế hệ của ông, cuối cùng đã lãnh đạo Scotland trong các cuộc chiến tranh độc lập Scotland chống lại nước Anh. Ông đã chiến đấu thành công dưới triều đại của mình để giành lại vị trí của Scotland là một quốc gia độc lập, và ngày nay được mọi người ở Scotland tưởng nhớ là một anh hùng dân tộc.
1
null
Trường nhạc (tiếng Anh: "music school") là một cơ sở giáo dục dành riêng cho việc học tập, đào tạo, và nghiên cứu về âm nhạc. Cơ sở giáo dục này còn có thể có tên gọi nhạc viện ("conservatory"), trường âm nhạc ("school of music"), học viện âm nhạc ("music academy"), phân khoa âm nhạc ("music faculty"), trường đại học âm nhạc ("college of music"), hay khoa âm nhạc ("music department"; thuộc một sở sở giáo dục lớn hơn). Các hoạt động ở trường nhạc bao gồm đào tạo học viên trong các lĩnh vực biểu diễn nhạc cụ, thanh nhạc, sáng tác nhạc, và điều khiển dàn nhạc, cũng như những lĩnh vực nghiên cứu và học thuật khác như nhạc học, lịch sử âm nhạc, và lý thuyết âm nhạc. Tiểu học và Trung học. Nhiều quốc gia có các trường chuyên biệt về âm nhạc (tiếng Anh: "specialist music school") với mục đích nhằm nhận diện và hỗ trợ những trẻ em có tiềm năng, thông qua chương trình đào tạo tiên tiến có thể giúp những trẻ em này có thể học lên và phát triển sự nghiệp trong lĩnh vực âm nhạc nếu muốn. Những trường này có thể chính thức hoặc không chính thức có mối quan hệ với một nhạc viện. Trẻ em vào hoặc thường nằm trong độ tuổi từ 8 đến 18, được chọn thông qua thi tuyển. Các trường này có thể là công lập hay độc lập; học sinh ở các trường độc lập có thể nhận được học bổng của chính phủ hay từ những quỹ tư nhân. Giống như ở các nhạc viện, một số trường có chương trình học rộng hơn và có thể bao gồm cả nghệ thuật trình diễn: nhạc, kịch, và múa. Đại học. Nhạc viện. Nhạc viện còn có các tên khác như học viện âm nhạc, trường quốc gia âm nhạc, trường đại học âm nhạc; tiếng Anh: "conservatory" (ở Hoa Kỳ), "conservatoire" (chủ yếu ở Anh), "conservatorium" (ở Úc), "academy", hay "college". Một số trường hay nhạc viện chỉ tập trung vào âm nhạc. Các cơ sở khác có cả âm nhạc, kịch, và múa. Nhạc viện thích hợp cho sinh viên muốn phát triển khả năng trình diễn, điều khiển dàn nhạc hay ban nhạc, hay sáng tác ở mức độ chuyên nghiệp. Thường thì các cơ sở này dành nhiều thời gian cho đào tạo thực hành, kết hợp với nghiên cứu học thuật và phát triển nghề nghiệp, cho những sinh viên muốn xây dựng sự nghiệp trong các ngành nghệ thuật sáng tạo. Sinh viên thường xuyên có cơ hội trình diễn, điều khiển, hay cơ hội để tác phẩm của mình được trình diễn, cả trong khung cảnh thân mật và trình diễn chính thức trước công chúng. Sinh viên có thể trình diễn một mình ("solo") hay trong dàn nhạc, ban nhạc, hay nhóm hát. Thường thì các nhạc viện tập trung vào nhạc cổ điển Tây phương. Tuy vậy, một số trường chú trọng vào các nhạc cụ truyền thống. Các trường khác có thể có các khoa âm nhạc truyền thống, đào tạo về cá các nhạc cụ truyền thống lẫn cổ điển Tây phương. Hoặc sinh viên có thể tập trung vào nhạc jazz, pop, hay world music. Thời gian để được cấp bằng thường không khác nhiều so với trong những lĩnh vực khác, tức là khoảng 3-4 năm để lấy bằng Cử nhân Âm nhạc (Bachelor of Music), 1–2 năm để lấy bằng Thạc sĩ Âm nhạc (Master of Music), và 3–5 năm cho bằng Tiến sĩ Nghệ thuật Âm nhạc (Doctor of Musical Arts) hay Tiến sĩ Âm nhạc (Doctor of Music). Bằng Tiến sĩ (Ph.D.) có thể được cấp trong các lĩnh vực như nhạc học, lý thuyết âm nhạc, sáng tác nhạc, hay giáo dục âm nhạc. Một số trường có thể có những bằng cấp không mang tính học thuật (non-academic degree) và chỉ tập trung vào kỹ năng trình diễn, như Artist Diploma (A.D.) ở Hoa Kỳ; bằng này có thể cấp ở bậc đại học và/hoặc sau đại học. Trường nhạc trong các viện đại học. Khoa âm nhạc trong các trường đại học và viện đại học trước đây nhấn mạnh hơn đến việc học mang tính học thuật về âm nhạc, thay vì trình diễn. Tuy nhiên, ngày nay sự phân chia không còn rạch ròi như xưa, nhiều khoa âm nhạc nhấn mạnh đến trình diễn hơn trước. Việc cân đối giữa đào tạo mang tính huấn nghệ (vocational training) và học tập mang tính học thuật (academic study) thay đổi tùy theo cơ sở giáo dục và tùy theo quốc gia. Ngoài các bằng cấp tương tự như những bằng cấp mà các nhạc viện cấp, một số viện đại học có các bằng cấp liên quan đến âm nhạc như Cử nhân Âm nhạc (Bachelor of Arts in Music) hay Cử nhân Giáo dục Âm nhạc (Bachelor of Arts in Music Education). Một số nhạc viện trước đây tồn tại độc lập thì nay trở thành một phần của viện đại học.
1
null
Linh dương mặt trắng (trong tiếng Anh gọi là "blesbok" hay "blesbuck", danh pháp khoa học: Damaliscus pygargus phillipsi) là một phân loài linh dương đặc hữu Nam Phi. Nó có mặt và trán màu trắng khác biệt, từ đó người ta lấy cảm hứng đặt tên cho chúng, vì thuật ngữ "bles" là từ trong tiếng của người Afrikaan để chỉ vết lang trắng như người ta có thể nhìn thấy trên trán của ngựa. Đây là một trong những loài linh dương được du nhập và nuôi nhiều ở các vườn thú trên thế giới, nó cũng là đối tượng cho những cuộc săn bắn thể thao. Đặc điểm. Mô tả. Một đặc điểm của linh dương mặt trắng là có một vết lang màu trắng nổi bật trên mặt và một sọc màu nâu nằm ngang phân chia vết lang này phía trên mắt. Cơ thể có màu nâu với phần mông có sự chuyển màu dần dần nhạt hơn. Các chân có màu nâu với mảng màu trắng phía sau phần trên các chân trước. Cẳng chân màu trắng. Cả hai giới đều có sừng, sừng ngoằn nghèo. Sừng của con cái thì mảnh mai hơn một chút. Những chiếc sừng con đực có xu hướng để cho ra một màu sáng hơn trong ánh nắng mặt trời. Bụng, mông và chân bên dưới đầu gối cũng có màu trắng. Cổ và phần trên của lưng nó có màu nâu. Khi hạ thấp đến hai bên sườn và mông thì màu trở nên sẫm hơn. Bụng bên trong mông và khu vực lên tới gốc đuôi có màu trắng. Chúng có thể dễ dàng phân biệt với các loài linh dương khác vì nó có khuôn mặt và trán với màu trắng khác biệt. Tập tính. Môi trường sống của linh dương mặt trắng nói chung là vùng đồng bằng cỏ mở, chúng có thể được tìm thấy trong các đàn hỗn hợp, chúng rất nhạy cảm với nhiệt, do đó di chuyển xung quanh nhiều hơn ở nhiệt độ thấp và có khuynh hướng nằm nghỉ giữa trưa nhiệt. Điều này cho thấy buổi sáng sớm và chiều muộn thời lý tưởng cho những cuộc săn linh dương. Một đàn có xu hướng đứng đối mặt với mặt trời. Chúng chủ yếu vật ăn cỏ, chúng tạo thành bầy gồm các con cái và con chưa thành niên, trong khi con đực có xu hướng sống đơn độc. Chúng khá nhút nhát và cảnh giác và dựa vào tốc độ và sức chịu đựng để trốn tránh kẻ thù. Chúng có thể duy trì tốc độ 70 km/h (43 mph) khi bị đuổi theo nhưng chúng không nhảy tốt lắm. Các động vật ăn thịt chúng là báo săn, sư tử, báo hoa mai, chó hoang châu Phi, linh cẩu, các loài trăn, chó rừng và đại bàng có thể tấn công những con bê. Người châu Phi cũng săn chúng để lấy da, thịt và coi như là một danh hiệu để ra oai. Linh dương mặt trắng là loài sinh sản theo mùa, với thời kỳ động dục từ tháng Ba đến tháng Năm. Cao điểm sinh sản trong tháng 11 và tháng 12 sau một thời gian mang thai khoảng 240 ngày (8 tháng). Một con cái sinh một con bê duy nhất cho mỗi mùa sinh sản. Phân bố. Linh dương mặt trắng châu Phi là họ hàng gần của trâu cỏ ("Damaliscus pygargus dorcas") và có thể lai ghép với nó, tuy vậy hai phân loài này không chia sẻ cùng một môi trường sống trong tự nhiên. Phân loài linh dương mặt trắng là đặc hữu Nam Phi và được tìm thấy với số lượng lớn trong các vườn quốc gia với đồng cỏ rộng lớn từ Highveld ở Transvaal đến phía nam cũng như Đông Cape. Đó là một vùng đồng bằng vì phân loài này không thích các khu vực rừng. Chúng lần đầu tiên được phát hiện vào thế kỷ 17 với số lượng rất nhiều từng đàn kéo dài hàng dặm. Linh dương mặt trắng có thể được tìm thấy trong vùng đồng bằng của Nam Phi. Môi trường sống ưa thích của chúng là đồng cỏ với nước. Chúng thường chiếm một vùng lãnh thổ tương đối nhỏ khoảng 2,5-6,0 ha. Chúng đã từng là một trong những loài linh dương nhiều nhất của vùng đồng bằng châu Phi, nhưng đã trở nên suy giảm kể từ năm 1893 do nạn săn bắn không ngừng để lấy da và thịt của chúng. Phạm vi cư trú lịch sử của chúng bao gồm các Đôn Nam Cape, Free State, phần phía nam của Transvaal cũ, KwaZulu-Natal dọc theo thượng nguồn sông Tugela và Lesotho, phía tây của dãy núi Maluti. Săn bắn. Phân loài này đã bị săn bắt gần đến mức tuyệt chủng vì số lượng lớn của nó, nhưng đã được bảo vệ từ cuối thế kỷ 19, sô lượng chúng đã tăng lên nhanh chóng và ngày nay nó là đủ nhiều để không được phân loại như là loài có nguy cơ tuyệt chủng. Vào đầu thế kỷ 21, số lượng của chúng ổn định, ước tính khoảng 235.000-240.000 cá thể. Tuy nhiên, có lẽ là may mắn khi 97% trong số này sinh sống bên ngoài các khu bảo tồn, và chỉ 3% trong các vườn quốc gia. Chúng cũng rất phổ biến trong các vườn thú mặc dù với số lượng nhỏ hơn rất nhiều. Săn linh dương mặt trắng trên các đồng bằng của có thể được thử thách, Loài linh dương đã gần như tuyệt chủng này đã được du nhập lại trên các trang trại săn bắn của miền nam châu Phi. Ở Mỹ người ta đi săn bằng súng trường đối với những con hươu đuôi trắng trong khi ở châu Phi người ta đi săn linh dương mặt trắng. Khi săn, các điểm mục tiêu là rất quan trọng.
1
null
Trong văn hóa bản địa châu Mỹ, một dreamcatcher hay lưới bắt giữ giấc mơ (tiếng Lakota bản địa: "iháŋbla gmunka", tiếng Ojibwa bản địa: "asabikeshiinh", trong ngôn ngữ thổ dân bản địa có nghĩa là "nhện" hay "bawaajige nagwaagan" (Ojibwa) mang nghĩa "lưới giấc mơ") là một vật dụng được làm thủ công từ nhánh của cây liễu sau đó được uốn cong thành vòng, từ một khung tròn người ta dệt các mạng lưới thưa ở ngoài và càng vào trong càng thắt chặt. Một lưới giấc mơ có thể được tô điểm thêm vài vật trang trí như lông vũ và chuỗi hạt. Nguồn gốc. Lưới giấc mơ nguyên bản là một vật dụng của người Ojibwe bản địa châu Mỹ và về sau này chúng được nhiều nền văn hóa tiếp thu qua hôn phối và thương mại. Thổ dân Ojibwe có một truyền thuyết cổ xưa về nguồn gốc của "lưới giấc mơ". Từ ngày xưa, trẻ em mới sinh thường rất yếu ớt, dễ bị nhiều bệnh tật và tỉ lệ sống sót khi đến tuổi trưởng thành là rất thấp. Người ta kể rằng có một người phụ nữ được biết đến như Asibikaashi (Spider Woman). Cô là người chuyên chăm sóc trẻ em và mọi người trong bộ tộc. Thời gian trôi qua, bộ tộc Ojibwe dần di cư và sống ở nhiều nơi khác nhau của Bắc Mỹ và Asibikaashi không thể nào chăm lo hết cho tất cả các trẻ em của bộ tộc mình. Chính vì thế mà các bà, các mẹ đã dệt các tấm mạng như một loại bùa may mắn cho con cháu mình. Họ dùng nhánh của cây liễu và tạo thành một chiếc vòng, và dùng cách loại dây leo làm từ thực vật để đan chúng. "Lưới giấc mơ" sẽ gạn lọc tất cả các giấc mơ xấu và chỉ cho phép các giấc mộng đẹp đi vào tâm trí trẻ thơ. Mỗi khi mặt trời ló dạng, tất cả các giấc mơ xấu sẽ tan biến theo từng ánh mặt trời xuyên qua. Chiếc vòng này sẽ dần khô héo và hoàn toàn không cần thiết khi đứa bé ngày càng lớn dần. Một phiên bản hiện đại mà hầu hết mọi người điều biết về vật dụng này đó chính là những món đồ chơi nhiều màu sắc và đôi khi là có thể chuyển động được thường được treo trên chiếc nôi của các đứa bé mới sinh.
1
null
Davao Occidental là tỉnh của Philippines, thuộc vùng Davao trên đảo Mindanao. Tỉnh lỵ đóng tại Malita. Phía đông của tỉnh giáp vịnh Davao. Về phía nam tỉnh này là đường biên giới trên biển với tỉnh Bắc Sulawesi của Indonesia. Davao Occidental là tỉnh thứ 81 của Philippines. Thành lập. Theo tinh thần Đạo luật Cộng hòa 10360 ban hành ngày 23 tháng 7 năm 2013, tỉnh mới nhất của Philippines sẽ được thiết lập trên cơ sở phần phía nam của tỉnh Davao del Sur. Luật được lưỡng viện Philippines thông qua lần lượt trong các ngày 28 tháng 11 và 5 tháng 12 năm 2012, và được Tổng thống Benigno Aquino III ký thông qua vào ngày 14 tháng 1 năm 2013. Một cuộc trưng cầu dân ý được thực hiện vào ngày 28 tháng 10 năm 2013 song song với các cuộc bầu cử barangay. Đa số phiếu của người dân là "Đồng ý". Hành chính. Tỉnh Davao Occidental gồm năm đô thị tự trị là:
1
null
Lãnh thổ Iowa (tiếng Anh: "Territory of Iowa") từng là một lãnh thổ hợp nhất có tổ chức của Hoa Kỳ, tồn tại từ ngày 4 tháng 7 năm 1838 cho đến ngày 28 tháng 12 năm 1846 khi phần đông nam của lãnh thổ được phép gia nhập vào liên bang để trở thành tiểu bang Iowa. Phần lãnh thổ còn lại không có chính quyền lãnh thổ cho đến khi Lãnh thổ Minnesota được tổ chức ngày 3 tháng 3 năm 1849. Lịch sử. Phần lớn khu vực này có nguồn gốc là một phần đất của vùng đất mua Louisiana và từng là một phần đất của Lãnh thổ Missouri. Khi Missouri trở thành tiểu bang năm 1821, khu vực này (cùng với Nam và Bắc Dakota) hiển nhiên trở thành lãnh thổ chưa tổ chức. Khu vực này bị ngăn cấm không cho người định cư da trắng đến đây cho đến thập niên 1830 sau khi Chiến tranh Black Hawk kết thúc. Nó được nhập vào Lãnh thổ Michigan ngày 28 tháng 6 năm 1834. Tại một phiêu họp phụ của Nghị viện Michigan lần thứ sáu tổ chức vào trong tháng 9 năm 1834, Địa khu Iowa được chia thành hai quận với đường phân định chạy về hướng tây từ phần hạ của Đảo Rock trong sông Mississippi. Lãnh thổ nằm phía bắc của đường phân định (bắt đầu từ phía nam của thành phố Davenport ngày nay) được đặt tên là Quận Dubuque. Tất cả phần còn lại ở phía nam được đặt tên là Quận Demoine. Khi Michigan trở thành một tiểu bang vào năm 1836, khu vực này trở thành Địa khu Iowa phía tây của Lãnh thổ Wisconsin—vùng phía tây của sông Mississippi. Các ranh giới ban đầu của lãnh thổ được thiết lập vào năm 1838 gồm có Minnesota và các phần đất của Nam và Bắc Dakota, có tổng diện tích đất khoảng . Burlington được chọn là thủ phủ tạm thời. Iowa City sau đó được đặt làm thủ phủ lãnh thổ chính thức vào năm 1841.
1
null
Pusphagiri hay Puspagiri Mahavihara (Đại tự viện Pusphagiri) là một trong những đại tự viện Phật giáo nằm trong khu vực các hạt Cuttack và Jajpur, ở Odisha (xưa là Kalinga), ra đời vào thế kỷ thứ 3 và phát triển rực rỡ cho đến thế kỷ 11 ở Ấn Độ. Ngày nay, phế tích Pusphagiri nằm trên các ngọn đồi "Langudi", cách vùng đồng bằng Mahanadi khoảng 90 km, ở hạt Jajpur và Cuttack ở Odisha. Khuôn viên thực sự của đại tự viện, trải dài trên ba ngọn đồi kế nhau (tạo nên ba khuôn viên thuộc đại tự viện có tên là Lalitgiri, Ratnagiri, Udayagiri), có một số tháp ("stupa"), tu viện, chùa, và các tác phẩm điêu khắc theo phong cách kiến trúc thời kỳ Gupta. Sông "Kelua", một nhánh sông "Brahmani" ở Odisha, chảy về phía đông bắc của các ngọn đồi Langudi, tạo nên không gian cảnh quan cho đại tự viện. Puspagiri cùng với các viện đại học Nalanda, Vikramshila, và Taxila là những trung tâm học tập bậc cao hàng đầu ở Ấn Độ cổ đại. Các địa điểm này được mô tả trong các ghi chép của hành giả người Trung Quốc nổi tiếng Huyền Trang, người đã đến thăm vào năm 639, cũng như được mô tả trong các văn bản ở Tây Tạng thời trung cổ. Tuy nhiên, không giống như Taxila và Nalanda, phế tích Puspagiri chỉ được phát hiện ra vào năm 1995, khi một giảng viên từ một trường đại học địa phương tình cờ tìm thấy. Nhiệm vụ khai quật khu phế tích Puspagiri, trải dài trên khoảng đất rộng , do Viện Nghiên cứu Hàng hải và Đông Nam Á Odisha ("Odisha Institute of Maritime and South East Asian Studies") thực hiện từ năm 1996 đến 2006. Công việc nay được Cơ quan Khảo cổ Ấn Độ ("Archaeological Survey of India", hay ASI) phụ trách. Các bia ký ở Nagarjunakonda cũng đề cập đến trung tâm học tập bậc cao này.
1
null
Vikramaśīla là một trong hai trung tâm học tập bậc cao của Phật giáo ở Ấn Độ trong thời Đế quốc Pala; trung tâm kia là Nalanda. Vikramaśīla do Vua Dharmapala thiết lập khi thấy chất lượng học thuật ở Nalanda bắt đầu suy giảm. Vikramasila (làng Antichak, hạt Bhagalpur, Bihar) cách Bhagalpur chừng 50 km về phía đông và cách Kahalgaon chừng 13 km về phía đông bắc. Lịch sử. Vikramaśīla do vua Dharmapala của Đế quốc Pāla thiết lập vào cuối thế kỷ thứ 8 hay đầu thế kỷ thứ 9. Trung tâm học thuật này phát triển rực rỡ trong khoảng thời gian bốn thế kỷ cho đến khi bị đạo quân của Bakhtiyar Khilji phá hủy trong cuộc chiến tranh với triều đại Sena, cùng với những trung tâm học thuật hàng đầu khác của Phật giáo ở Ấn Độ vào khoảng năm 1200. Những gì mà chúng ta biết được về Vikramaśīla chủ yếu có từ các tài liệu của Tây Tạng, đặc biệt là trước tác của Tāranātha, một sử gia và cũng là một nhà sư Tây Tạng trong thế kỷ 16 và 17.
1
null
Dannielle Kim (Hangul: 김다니; sinh ngày 23 tháng 12 năm 1999 ,) thường được biết đến với tên gọi Dani hay Kim Da-ni, là cựu thành viên của nhóm nhạc nữ T-ARA N4. Năm 2015, Dani được MBK đưa vào làm thành viên chính thức của nhóm nhạc nữ mới tên là DIA nhưng sau đó cô và một thực tập sinh khác lại bị loại khỏi dự án này. Năm 2016, cô tham gia chương trình truyền hình thực tế sống còn "PRODUCE 101" tuyển chọn nhóm nhạc nữ mới của kênh truyền hình Mnet cùng với hai thành viên của nhóm DIA là Heehyun và Chaeyeon. Tiểu sử. Dani sinh ngày 23 tháng 12 năm 1999. Tên khai sinh của cô là Dannielle Kim. Cô sống tại California kể từ năm 4 tuổi và thông thạo cả tiếng Hàn Quốc và tiếng Anh. Sự nghiệp. 2012 - Hiện tại: Tham gia T-ARA N4, ra mắt cùng F-ve Dolls. Dani được phát hiện bởi Giám đốc điều hành Kim Kwang Soo trên đường phố sau một lần đến Hàn Quốc trong kỳ nghỉ để gặp cha mẹ. Sau đó, cô trở thành thực tập sinh của CCM và cô được Core Contents Media (nay là MBK) xác nhận là thành viên thứ 9 của T-ara vào ngày 30 tháng 5 năm 2012. Cô diễn xuất lần đầu trên phim truyền hình School (2013). Sau khi Areum rời khỏi T-ara và nhóm nhỏ T-ara N4, Dani được chọn để thay thế Areum trong T-ara N4. Core Contents Media (nay là MBK) đã thông báo sẽ không có bất kỳ thành viên mới vào T-ara do scandal "bắt nạt" của nhóm, và Dani sẽ chỉ là thành viên của T-ara N4 và cô chỉ tham gia với nhóm vào các hoạt động ở nước ngoài. Vào 12 tháng 9, cô chính thức ra mắt với vai trò rapper và xuất hiện trong MV của nhóm F-ve Dolls với bài hát "Can You Love Me". Tháng 11 năm 2014, Dani xuất hiện trong M/V "Little Apple" của nhóm nhạc nữ cùng công ty T-ARA với thành viên cũ của nhóm F-ve Dolls (đã tan rã) là Seunghee. 2016: Tham gia Produce 101. Vào năm 2016, MBK xác nhận Dani, Ki Hee-hyun và Jung Chaeyeon (DIA) sẽ tham gia chương trình truyền hình thực tế sống còn của Mnet tên "PRODUCE 101 ". Dani luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của chương trình và là thực tập sinh được ngưỡng mộ nhất khi cô còn ở khối B, các huấn luyện viên luôn thích Dani và dành nhiều ưu ái cho cô. Cô đứng thứ 6 trong đợt bình chọn thứ 1.Tuy nhiên, cô bị loại ở tập 10 vì số vote điểm thưởng và số vote cá nhân.
1
null
Thomas Callister Hales (sinh ngày 4 tháng 6 năm 1958) là một nhà toán học người Mỹ làm việc với chương trình Langlands. Trong lĩnh vực này, ông đã chứng minh được một trường hợp đặc biệt của bổ đề cơ bản cho nhóm Sp4. Nhiều ý tưởng của ông sau này đã được sử dụng để hoàn thiện chứng minh cuối cùng do Ngô Bảo Châu tìm ra. Ông nổi tiếng vì chứng minh được giả thuyết Kepler, một bài toán hàng thế kỷ chưa có lời giải trong hình học rời rạc. Ông cũng là người chứng minh giả thuyết Tổ ong. Giáo dục. Hales nhận bằng tiến sĩ tại đại học Princeton. Sự nghiệp toán học. Hales, trước đây ở đại học Michigan, bây giờ là giáo sư Mellon về toán ở đại học Pittsburgh, ủng hộ việc hình thức hóa toán học để đảm bảo tính chặt chẽ trong một kỷ nguyên khi mà các chứng minh trở nên ngày càng phức tạp và máy tính dần trở nên cần thiết trong việc xác minh tính đúng đắn của các chứng minh. Dự án gần đây của Hales, có tên dự án Flyspeck, nhằm hình thức hóa chứng minh của ông cho giả thuyết Kepler sử dụng phần mềm chứng minh định lý HOL-Light. Vào năm 2012, ông trở nhà hội viên hội toán học Mỹ (fellow of the American Mathematical Society).
1
null
Priapus hay Priapos trong tiếng Hy Lạp là một vị thần trong thần thoại Hy Lạp. Đây là vì thần sinh sản và tình dục bảo vệ vật nuôi, cây ăn quả, vườn cây và cơ quan sinh dục nam. Vị thần này được khắc họa có dương vật cương cứng to quá khổ. Trong một số ngôn ngữ châu Âu, chứng cương đau (tiếng Anh: Priapism) được đặt tên dựa trên tên vị thần này. Tuy nhiên, theo một nghiên cứu mới công bố trên tạp chí Urology, "Dương vật bất cân xứng là dấu hiệu đặc trưng của bệnh hẹp bao quy đầu, cụ thể hơn là nghẹt bao quy đầu" và có thể là dấu hiệu của bệnh rối loạn quan hệ tình dục và vô sinh.
1
null
USS "Stansbury" (DD–180) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được cải biến thành tàu quét mìn DMS-8, rồi thành một tàu phụ trợ AG-107 trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo John Stansbury (1788-1814), một sĩ quan Hải quân Hoa Kỳ tử trận trong cuộc Chiến tranh 1812. Thiết kế và chế tạo. "Stansbury" được đặt lườn vào ngày 9 tháng 12 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng Union Iron Works ở San Francisco, California. Nó được hạ thủy vào ngày 16 tháng 5 năm 1919, được đỡ đầu bởi cô Mary Eleanor Trevorrow, và được đưa ra hoạt động tại Xưởng hải quân Mare Island vào ngày 8 tháng 1 năm 1920 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân J. W. Lewis. Lịch sử hoạt động. Giữa hai cuộc thế chiến. "Stansbury" phục vụ cùng Hạm đội Thái Bình Dương trong hơn hai năm, lúc nó được mang ký hiệu lườn DD-180. Vào ngày 27 tháng 5 năm 1922, nó được cho xuất biên chế và neo đậu tại San Diego, California trong thành phần hạm đội dự bị. Khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra tại Châu Âu vào tháng 9 năm 1939, nó được huy động trở lại cùng nhiều tàu chị em cùng lớp. "Stansbury" được cho nhập biên chế trở lại tại San Diego vào ngày 29 tháng 8 năm 1940 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân R. N. McFarlane, và di chuyển đến Xưởng hải quân Mare Island để được cải biến thành một tàu quét mìn cao tốc. Đến tháng 10, nó chuyển đến Norfolk, Virginia, nơi công việc cải biến được hoàn tất. Vào ngày 19 tháng 11, nó được xếp lại lớp như một tàu khu trục quét mìn với ký hiệu lườn DMS-8. Thế Chiến II. "Stansbury" được điều về Hạm đội Đại Tây Dương từ tháng 10 năm 1940 đến tháng 12 năm 1943. Nó trải qua năm đầu tiên thực tập quét mìn, hộ tống ven biển và thực hành cơ động tại vùng biển Caribe. Vào ngày 30 tháng 6 năm 1942, đang khi hộ tống chiếc đi từ Norfolk đến Bermuda, nó đã tấn công một tàu ngầm U-boat Đức với mìn sâu. Hoàn cảnh biển động cùng hoạt động cứu vớt những người sống sót từ chiếc tàu buôn bị đắm do trúng ngư lôi đã ngăn trở việc tấn công có kết quả. Tuy nhiên, các nỗ lực nhân đạo tỏ ra thành công, và vào ngày 1 tháng 7, nó đi vào Bermuda với 390 người được cứu vớt trên tàu. Chiếc tàu quét mìn khởi hành từ Norfolk vào ngày 24 tháng 10 năm 1942 để gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 34 cho Chiến dịch Torch, cuộc tấn công đổ bộ lên Bắc Phi. "Stansbury" được phân về Hải đội Quét mìn 7 thuộc Lực lượng Tấn công Trung tâm cho chiến dịch đổ bộ, đi đến khu vực tấn công ở Fedala dọc bờ biển cạnh Cassablanca vào ngày 7 tháng 11. Nó cùng các tàu quét mìn khác tiến hành quét mìn chuẩn bị các lối tiếp cận, rồi gia nhập lực lượng bảo vệ để tuần tra tại khu vực vận chuyển. Vào ngày 15 tháng 11, chiếc bị trúng ngư lôi, nhưng nhờ những nỗ lực của "Stansbury", và , nó tiếp tục nổi được suốt đêm và sau đó được cho mắc cạn tại bãi biển Cassablanca vào sáng hôm sau. Chiếc tàu quét mìn quay trở về Hampton Roads, Virginia vào ngày 26 tháng 12 năm 1942. Trong năm tiếp theo, nó tiếp nối nhiệm vụ hộ tống vận tải duyên hải dọc bờ biển Hoa Kỳ và tại Bắc Đại Tây Dương cho đến tận Iceland. Vào ngày 4 tháng 12 năm 1943, "Stansbury" băng qua kênh đào Panama để gia nhập Hạm đội Thái Bình Dương. Nó tiến hành các cuộc thực tập quét mìn ngoài khơi bờ biển California trong khoảng một tháng, rồi khởi hành từ San Diego vào ngày 13 tháng 1 năm 1944 hướng sang phía Tây cùng với Lực lượng Đặc nhiệm 53. Chúng đi đến Lahaina Roads thuộc quần đảo Hawaii vào ngày 22 tháng 1, rồi lại lên đường ngay ngày hôm sau hướng đến quần đảo Marshall. "Stansbury" hoạt động chống tàu ngầm cả trên đường đi đến Kwajalein lẫn trong lúc tấn công chiếm đóng đảo san hô này. Nó ở lại khu vực lân cận từ ngày 1 đến ngày 7 tháng 2, rồi gia nhập một đội đổ bộ để quay trở về Funafuti thuộc quần đảo Ellice. Vào ngày 13 tháng 2, nó lên đường đi Noumea, New Caledonia, đến nơi vào ngày 20 tháng 2. Trong gần bốn tháng tiếp theo, nó hoạt động tại khu vực Nam Thái Bình Dương, hộ tống nhiều đoàn tàu đổ bộ tiếp liệu, ghé qua quần đảo Solomon, New Hebrides và New Britain, hộ tống một phần lực lượng đổ bộ lên quần đảo Admiralty đến mục tiêu vào giữa tháng 4. Nó quay trở lại khu vực Trung tâm Thái Bình Dương ở Eniwetok vào tháng 5. Vào ngày 10 tháng 6, "Stansbury" cùng chín tàu quét mìn khác khởi hành từ Eniwetok, và sau ba ngày đã đến điểm hẹn ngoài khơi Saipan cùng Lực lượng Đặc nhiệm 58, lực lượng tàu sân bay nhanh dưới quyền Phó đô đốc Marc Mitscher. Các tàu quét mìn càn quét bờ biển phía Tây của hòn đảo trong khi lực lượng đặc nhiệm bảo vệ cho chúng; và sau năm giờ rà soát chúng rút lui để gia nhập một đội bắn phá bờ biển thuộc Lực lượng Đặc nhiệm 53. "Stansbury" đã giúp bảo vệ chống tàu ngầm cho các tàu chiến lớn cho đến khi lực lượng đổ bộ chính đến nơi vào ngày 15 tháng 6, rồi nó tham gia vào việc bắn phá Guam. Quay trở lại khu vực phụ cận Saipan và Tinian, nó bắn pháo hỗ trợ cho lực lượng trên bờ cho đến ngày 26 tháng 6, khi nó lên đường quay về Eniwetok. Vào ngày 21 tháng 7, sau gần bốn tuần vắng mặt, nó quay trở lại khu vực quần đảo Mariana cùng với Lực lượng Đặc nhiệm 53 để hỗ trợ cho việc chiếm đóng Guam. Trong một tuần, nó bảo vệ chống tàu ngầm cho các con tàu của lực lượng đặc nhiệm cũng như tuần tra canh phòng cho các đơn vị đổ bộ. Vào ngày 28 tháng 7, "Stansbury" quay trở lại Eniwetok trong thành phần hộ tống cho một đội vận chuyển. Đến ngày 7 tháng 8, nó khởi hành từ Eniwetok để đi San Francisco, ngang qua Trân Châu Cảng, đến nơi vào ngày 26 tháng 8, và đi vào ụ tàu của hãng General Engineering & Dry Dock Co. Khi việc đại tu hoàn tất vào ngày 17 tháng 1 năm 1945, chiếc tàu quét mìn lên đường đi San Diego, đến nơi vào ngày hôm sau, và trình diện để hoạt động cùng Đội thử máy San Diego. Trong thời gian còn lại của chiến tranh, nó phục vụ như tàu huấn luyện cho Bộ chỉ huy Huấn luyện Tác chiến Hạm đội thuộc Hạm đội Thái Bình Dương. Ký hiệu lườn của nó thay đổi từ DMS-8 sang AG-107 vào ngày 5 tháng 6 năm 1945. Đến tháng 9 năm 1945, nó lại băng qua kênh đào Panama và hướng đến Norfolk. "Stansbury" được cho ngừng hoạt động tại Xưởng hải quân Norfolk vào ngày 11 tháng 12 năm 1945; tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 3 tháng 1 năm 1946; và lườn tàu được bán cho hãng Luria Bros. Co. ở Philadelphia, Pennsylvania vào ngày 26 tháng 10. Việc tháo dỡ nó bắt đầu vào ngày 25 tháng 1 năm 1947. Phần thưởng. "Stansbury" được tặng thưởng ba Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
1
null
Tia âm cực là dòng electron "plasma" di chuyển trong các ống chân không. Nếu một ống kính chân không được trang bị với hai điện cực và dưới một mức điện áp nhất định, tia âm cực di chuyển từ cực âm sang cực dương, do các hạt electron phát ra từ và đi vuông góc với cực âm (điện cực kết nối với cực âm của thiết bị cấp điện áp). Trên đường đi của tia âm cực nếu đặt một chong chóng nhẹ thì chong chóng quay, chứng tỏ tia âm cực là chùm hạt vật chất có khối lượng và chuyển động với vận tốc rất lớn. Khi cho tia âm cực đi vào giữa hai bản điện cực mang điện tích trái dấu, tia âm cực lệch về phía cực dương, chứng tỏ tia âm cực là chùm hạt mang điện tích âm. Tia âm cực được nhà vật lý Đức Johann Hittorf quan sát thấy lần đầu vào năm 1869, và được đặt tên vào năm 1876 bởi Eugen Goldstein kathodenstrahlen, hay tia âm cực.Electron lần đầu tiên được phát hiện là các thành phần của tia âm cực. Năm 1897 nhà vật lý người Anh J.J. Thomson đã chỉ ra rằng các tia này được tạo ra bởi một loại hạt mang điện tích âm trước đó chưa được biết trước đó, sau này được đặt tên là electron. Các ống tia âm cực (CRT) sử dụng chùm electron tập trung bị lệch bởi điện trường hoặc từ trường để tạo ra hình ảnh trên màn hình tivi. Đặc điểm. Tia âm cực được đặt tên như vậy vì chúng được phát ra bởi điện cực âm, hay catốt, trong một ống chân không. Để giải phóng electron vào ống, trước tiên chúng phải được tách ra khỏi các nguyên tử của cực âm. Trong các ống chân không catốt lạnh đầu tiên, được gọi là ống Crookes, điều này được thực hiện bằng cách sử dụng điện thế cao hàng ngàn volt giữa cực dương và cực âm để ion hóa các nguyên tử khí còn lại trong ống. Các ion dương được gia tốc bởi điện trường về phía cực âm, và khi chúng va chạm với nó, chúng đánh bật các electron ra nếu bề mặt của nó; đây là những tia cực âm. Ống chân không hiện đại sử dụng phát xạ nhiệt, trong đó cực âm được làm bằng dây tóc mỏng được đốt nóng bởi một dòng điện riêng biệt đi qua nó. Chuyển động nhiệt ngẫu nhiên tăng lên của dây tóc đẩy các electron ra khỏi bề mặt dây tóc, vào không gian chân không của ống. Vì các electron có điện tích âm, chúng bị đẩy lại bởi cực âm và bị hút về cực dương. Họ đi theo đường thẳng qua ống rỗng. Điện áp đặt giữa các điện cực làm tăng tốc các hạt có khối lượng thấp này tăng lên vận tốc cao. Tia âm cực vô hình, nhưng sự hiện diện của chúng lần đầu tiên được phát hiện trong các ống chân không ban đầu khi chúng va vào thành kính của ống, kích thích các nguyên tử của thủy tinh và khiến chúng phát ra ánh sáng, phát sáng gọi là huỳnh quang. Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng các vật thể được đặt trong ống ở phía trước cực âm có thể tạo bóng trên bức tường phát sáng và nhận ra rằng một thứ gì đó phải đi theo đường thẳng từ cực âm. Sau khi các electron đến cực dương, chúng đi qua dây cực dương đến nguồn điện và trở lại cực âm, vì vậy các tia cực âm mang dòng điện qua ống. Dòng điện trong chùm tia âm cực qua ống chân không có thể được điều khiển bằng cách cho nó đi qua một màn hình kim loại của dây (lưới) giữa cực âm và cực dương, được đặt một điện áp âm nhỏ. Điện trường của dây dẫn làm lệch hướng một số electron, ngăn chúng tiếp cận cực dương. Lượng dòng điện đi qua cực dương phụ thuộc vào điện áp trên lưới. Do đó, một điện áp nhỏ trên lưới có thể được tạo ra để điều khiển điện áp lớn hơn nhiều trên cực dương. Đây là nguyên tắc được sử dụng trong các ống chân không để khuếch đại tín hiệu điện. Các triôt ống chân không phát triển từ năm 1907 đến năm 1914 là các thiết bị điện tử đầu tiên có thể khuếch đại, và vẫn còn được sử dụng trong một số ứng dụng như máy phát vô tuyến điện. Các chùm tia catốt tốc độ cao cũng có thể được điều khiển và điều khiển bằng các điện trường được tạo ra bởi các tấm kim loại bổ sung trong ống được đặt điện áp, hoặc từ trường được tạo ra bởi các cuộn dây (nam châm điện). Chúng được sử dụng trong các ống tia âm cực được tìm thấy trong TV và màn hình máy tính, và trong kính hiển vi điện tử. Lịch sử. Sau phát minh năm 1654 về máy bơm chân không của Otto von Guericke, các nhà vật lý bắt đầu thử nghiệm truyền điện cao áp qua khí loãng. Năm 1705, người ta đã lưu ý rằng tia lửa điện của máy phát tĩnh điện di chuyển một khoảng cách dài hơn qua áp suất không khí thấp hơn là qua áp suất khí quyển. Ống chân không. Năm 1838, Michael Faraday đặt một điện áp cao giữa hai điện cực kim loại ở hai đầu của một ống thủy tinh đã được sơ tán một phần không khí và nhận thấy một vòng cung ánh sáng kỳ lạ bắt đầu ở cực âm (điện cực dương) và đầu của nó nằm ở cực dương (điện cực âm). Vào năm 1857, nhà vật lý và thợ thổi thủy tinh người Đức Heinrich Geissler đã hút không khí ra nhiều hơn bằng một máy bơm cải tiến, đến áp suất khoảng 10 3 atm và thấy rằng, thay vì một vòng cung, một ánh sáng lấp đầy ống. Điện áp đặt giữa hai điện cực của các ống, được tạo ra bởi một cuộn dây cảm ứng, nằm ở giữa một vài kV và 100 kV. Chúng được gọi là ống Geissler, tương tự như các dấu hiệu về ánh sáng neon ngày nay. Các ống Geissler có đủ không khí trong đó mà các electron chỉ có thể di chuyển một quãng đường nhỏ trước khi va chạm với một nguyên tử. Các electron trong các ống này chuyển động trong một quá trình khuếch tán chậm, không bao giờ đạt được tốc độ lớn, vì vậy các ống này không tạo ra tia âm cực. Thay vào đó, họ tạo ra một luồng phát sáng đầy màu sắc (như trong ánh sáng neon hiện đại), gây ra khi các electron tấn công các nguyên tử khí, kích thích các electron quỹ đạo của chúng lên mức năng lượng cao hơn. Các electron giải phóng năng lượng này dưới dạng ánh sáng. Quá trình này được gọi là huỳnh quang. Ứng dụng. Tia âm cực đã được ứng dụng trong ti vi, thiết bị phát tia X, diode bán dẫn điện tử, thiết bị khuếch đại điện tử. Liên kết ngoài. 1
1
null
Helicidae, đôi khi được gọi là ốc điển hình, là một họ ốc đất, thở không khí. Một số loài trong họ này được đánh giá là mặt hàng thực phẩm, bao gồm Helix aspersa ốc vườn và Helix pomatia " Escargot ". Sinh học của hai loài đặc biệt này đã được nghiên cứu nhiều.
1
null
Johann Wilhelm Hittorf (27 tháng 3 năm 1824 – 28 tháng 11 năm 1914) là một nhà vật lý học người Đức, sinh tại Bonn và mất ở Münster, Đức. Hittorf là người đầu tiên tính toán công suất mang điện của các nguyên tử và phân tử tích điện (ion), một yếu tố quan trọng trong sự hiểu biết phản ứng điện hóa. Ông đã tính toán số vận chuyển ion và phương pháp đầu tiên cho phép đo đạc chúng.
1
null
USS "Hopewell" (DD–181) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, trong Chiến tranh Thế giới thứ hai được chuyển giao cho Anh Quốc dưới tên gọi HMS "Bath" (I-17), rồi chuyển cho Hải quân Hoàng gia Na Uy trước khi bị tàu ngầm U-boat Đức đánh chìm ngày 19 tháng 8 năm 1941. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Pollard Hopewell (1786-1813), một sĩ quan Hải quân Hoa Kỳ tử trận trong cuộc Chiến tranh 1812. Thiết kế và chế tạo. "Hopewell" được đặt lườn vào ngày 19 tháng 1 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng Newport News Shipbuilding ở Newport News, Virginia. Nó được hạ thủy vào ngày 8 tháng 6 năm 1918, được đỡ đầu bởi bà Orote Hutcheson, và được đưa ra hoạt động tại Portsmouth, Virginia vào ngày 22 tháng 3 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân R. E. Rodgers. Lịch sử hoạt động. USS "Hopewell". "Hopewell" khởi hành từ Norfolk vào ngày 19 tháng 4 năm 1919 để gia nhập Hải đội Khu trục 3 tại vùng biển New England, và đến tháng 5 đã tham gia nhiệm vụ làm cột mốc dẫn đường cho chuyến bay lịch sử vượt Đại Tây Dương của các thủy phi cơ NC. Nó quay trở về New York vào ngày 8 tháng 6 để hoàn tất việc trang bị đã gián đoạn, và gia nhập trở lại hải đội của nó vào tháng 8 để thử nghiệm tác xạ. Nó trải qua mùa Đông năm 1920 tiến hành huấn luyện và thực hành tác xạ tại vùng biển Caribe. Con tàu quay trở lại New England vào đầu tháng 5 và ở lại đây cho đến tháng 9, tiến hành huấn luyện quân nhân dự bị và cơ động hải đội. Đi đến Charleston vào ngày 22 tháng 9, nó tiến hành các hoạt động tương tự ngoài khơi các cảng South Carolina, rồi quay trở lại New York vào tháng 5 năm 1921 để huấn luyện quân nhân dự bị. Khởi hành từ Newport vào ngày 10 tháng 10, con tàu được đưa về thành phần dự bị tại Charleston cho đến ngày 10 tháng 4, khi nó khởi hành đi Philadelphia. "Hopewell" được cho xuất biên chế tại đây vào ngày 17 tháng 7 năm 1922. "Hopewell" được cho nhập biên chế trở lại vào ngày 17 tháng 6 năm 1940 sau khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra tại Châu Âu. Sau các hoạt động Tuần tra Trung lập ngoài khơi bờ biển New England, nó đi đến Halifax vào ngày 18 tháng 9. "Hopewell" được cho xuất biên chế tại đây vào ngày 23 tháng 9, và được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Anh theo những điều khoản của Thỏa thuận đổi tàu khu trục lấy căn cứ. HMS "Bath" (I17) - HNoMS "Bath". Được đổi tên thành HMS "Bath" (I17), con tàu có một thủy thủ đoàn thuộc lực lượng Hải quân Hoàng gia Na Uy lưu vong vào tháng 4 năm 1941. Dưới tên gọi HNoMS "Bath", nó bắt đầu hoạt động trong thành phần "Lực lượng Hộ tống Liverpool" vào đầu tháng 6, nhưng chỉ có một quảng đời phục vụ ngắn ngủi. "Bath" bị tàu ngầm U-boat Đức "U-204" đánh chìm vào ngày 19 tháng 8 năm 1941 đang khi hộ tống Đoàn tàu vận tải OG-71 hướng đến Gibraltar. Một quả ngư lôi đã đánh trúng ngay phòng động cơ, khiến con tàu bị gảy làm đôi và chìm chỉ trong vòng ba phút ở tọa độ . Trong số 128 thành viên thủy thủ đoàn, chỉ có 42 người sống sót.
1
null
Họ Cá trác (danh pháp khoa học: Priacanthidae) là một họ cá biển gồm 18 loài. Họ này theo truyền thống xếp trong phân bộ Percoidei của bộ Cá vược (Perciformes), nhưng gần đây được một số tác giả xem xét lại và đưa vào bộ Priacanthiformes của loạt Eupercaria. Từ nguyên. Tên khoa học của họ có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp "prioo"-: đâm; châm + "akantha": gai; sắc cạnh, là để chỉ đến các vảy rất thô nhám, có gai sắc cạnh của các loài cá trong họ này. Đặc điểm. Các loài trong họ này thường có mắt to, phù hợp với kiểu sống ăn thịt và sống về đêm của chúng. Họ Priacanthidae thường có màu đỏ tươi, nhưng một vài loài có bề ngoài màu trắng bạc, nâu tối màu hay đen. Phần lớn các loài có chiều dài tổng cộng tối đa khoảng 30 cm (12 inch), mặc dù một số loài có thể dài trên 50 cm (20 inch). Phần lớn các loài là bản địa của vùng biển nhiệt đới và cận nhiệt đới thuộc Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, nhưng 4 loài ("Cookeolus japonicus", "Heteropriacanthus cruentatus", "Priacanthus arenatus" và "Pristigenys alta") cũng sinh sống ở Đại Tây Dương, trong đó 2 loài chỉ sinh sống tại Đại Tây Dương là "Priacanthus arenatus" và "Pristigenys alta". Chúng có xu hướng sống gần các phần đá trồi lên hay các rạn san hô, mặc dù vài loài sống ngoài biển khơi. Nhiều loài được tìm thấy trong các vùng nước tương đối sâu, dưới độ sâu đạt được nhờ lặn có đeo bình dưỡng khí thông thường. Một vài loài có giá trị làm thực phẩm. Các hóa thạch sớm nhất được coi là thuộc họ Priacanthidae có niên đại tới Trung Eocen, hay khoảng 40-50 triệu năm trước. Các loài. Hiện tại, người ta ghi nhận 4 chi với 18 loài thuộc họ này. Có 18 loài gồm: Giá trị kinh tế. Trong các loài cá thuộc họ Cá trác, có loài Cá trác đuôi dài hay còn gọi là cá sơn thóc, cá bã trầu, cá thóc, cá thóc đỏ, cá mắt kiếng, cá mắt đỏ, cá trao tráo, cá thao láo là loài có giá trị kinh tế. Đây là một loại đặc sản của Miền Trung Việt Nam và phân bố cả ở vùng Nam Bộ và còn biết đến với tên gọi cá bã trầu. Chúng có mắt to, đôi mắt trong suốt, thân cá có màu hồng nhạt, thân to vừa phải, chúng dài khoảng 5 - 7 cm, nhỏ bằng ngón tay út, cá trống có vảy nhiều màu sắc hơn cá mái và thường là màu xanh nhợt nhạt, điểm vài chấm hồng ở đuôi, có sọc dưa hai bên thân. Thịt cá dai, ít mùi tanh, lớp da có cảm giác nhám, Đối với những con cá bã trầu ở biển có màu đỏ toàn thân, nặng khoảng từ 150 - 200 gram trở lên, đầu và thân dẹp, miệng rộng, thịt thơm, ngọt. Người ta hay chọn mang cá màu đỏ hồng, cỡ 200 gram/con trở lên, cá lớn thịt mới ngon. Cá bã trầu không ham đá nhau như cá thia thia. Đây là loại cá dùng nấu bánh canh. ây là món dân dã thường dùng trong gia đình và phần lớn để chiêu đãi những người thân quen từ xa đến ngoài ra, cá bã trầu thường được những bà nội trợ mua về nấu nồi canh chua giải nhiệt cho cả nhà hay nướng trên bếp than. Cá bã trầu tươi dong, mua về chỉ cần lấy mang cá bỏ đi, rửa sạch, để ráo rồi xẻ dọc một bên men theo đường xương cá, xẻ sao cho phía bên kia vẫn liền để gia vị không bị chảy ra sau đó đem nướng. Khi nấu bánh canh, người ta chọn những con cá còn tươi, sau khi làm sạch, cho cá vào nồi nước sôi luộc, cá chín vớt ra bóc hết lớp da bên ngoài bỏ đi, chỉ lấy phần thịt. Ướp thịt cá với hành tím bột ngọt, nước mắm, tiêu bột sau đó phi dầu nóng cho cá vào tao đều. Một điểm đặc biệt khi nấu bánh canh cá bã trầu là không nên đổ nước luộc cá đi mà dùng để nấu nước lèo sẽ có vị rất ngọt. Sau khi thịt cá đã săn và thấm gia vị, đổ nước luộc cá vào, đun sôi lên. Cà bã trầu thân thuộc với người dân cho nên có câu vè: Và có hẳn mô tả nhận dạng của cá bã trầu:
1
null
Vì sao đưa anh tới (tiếng Triều Tiên: 별에서 온 그대; Romaja quốc ngữ: "Byeor-eseo on geudae"; tiếng Anh: "My love from the star") là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc ra mắt vào năm 2013 với sự tham gia của Kim Soo-hyun, Jun Ji-hyun, Park Hae-jin và Yoo In-na. Bộ phim kể về một người ngoài hành tinh tới Trái Đất trong triều đại Joseon và đem lòng yêu một nữ diễn viên hàng đầu trong thế kỷ 21. Phim được phát sóng trên kênh SBS từ ngày 18 tháng 12 năm 2013 đến ngày 27 tháng 2 năm 2014 thứ Tư và thứ Năm lúc 21:55 cho 21 tập phim. Công ty sản xuất quyết định mở rộng 20 tập phim ban đầu với một tập phim theo nhu cầu từ người xem. Bộ phim đánh dấu sự trở lại màn ảnh nhỏ của Jun Ji-hyun (còn gọi là Gianna Jun) sau 14 năm, người đã từng làm việc cùng Kim Soo Hyun trong bộ phim điện ảnh bom tấn The Thieves. Nội dung. Do Min-joon là một người ngoài hành tinh tới Trái Đất năm 1609 vào triều đại Joseon. Khi anh cố gắng giúp một cô gái trẻ-mối tình đầu của anh, Yi-hwa, trốn thoát trong một vụ ám sát, anh đã bỏ lỡ chuyến đi trở lại hành tinh của mình và bị mắc kẹt trên Trái Đất trong bốn thế kỷ tiếp theo. Anh sở hữu một ngoại hình gần như hoàn hảo, luôn tăng cường khả năng thể chất bao gồm tầm nhìn, nghe và tốc độ cùng với thái độ hoài nghi và cái nhìn mệt mỏi về con người. Theo thời gian, Min-joon phải tạo một chứng minh mới mỗi 10 năm vì vẻ ngoài không bao giờ già của anh. Ở thời hiện đại, anh làm việc với tư cách là một giáo sư đại học và phát hiện ra rằng sẽ có một sao chổi sắp đến trong ba tháng tới, có nghĩa là anh sẽ có thể quay trở lại hành tinh quê hương của mình. Trong khi đó, anh tình cờ gặp nữ diễn viên nổi tiếng Cheon Song-yi, ngôi sao Hallyu hàng đầu tại Hàn Quốc, khi cô chuyển đến sống bên cạnh căn hộ cao cấp của anh và cũng là học viên lớp học của anh ở trường đại học. Song-yi là một cô gái không gây được thiện cảm, thích nhận được sự chú ý, một người đã trở thành một ngôi sao hàng đầu từ thời niên thiếu và không học được cách để sống một cuộc sống bình thường. Min-joon phát hiện ra rằng Song-yi trông giống như cô gái trẻ mà anh đã yêu trong thời đại Joseon. Anh cố gắng để giữ cho mình cách xa cô vì anh cần phải rời khỏi Trái Đất nhưng cuối cùng anh lại thất bại. Tuy nhiên, Song-yi bị vướng vào trò chơi nguy hiểm của Lee Jae-kyung, anh trai của Hwi-kyung, người đã là bạn của cô kể từ khi học trung học và đang yêu đơn phương cô ấy. Khi Jae-kyung cố gắng giữ cho Song-yi im lặng, Min-joon nhận ra mình đã từng cứu mạng cô ấy nhiều lần và hiển nhiên hai người họ đã yêu nhau. Nhưng Jae-kyung hóa ra là nhiều nguy hiểm hơn Min-joon nghĩ và lạ thay anh cũng bị mất khả năng kiểm soát siêu năng lực của mình một cách bí ẩn, làm cho người bạn tâm giao và duy nhất của mình, Luật sư Jang lo lắng về cuộc sống của anh và việc quay trở lại không gian. Rating. Ở bảng đánh giá sau, con số màu xanh biểu thị cho lượt xếp hạng thấp và con số màu đỏ biểu thị cho lượt xếp hạng cao. Tập 14 đã có trước chương trình TV Tết. Một tập đặc biệt A 70-phút được phát sóng vào 7 tháng 2 lúc 23:20 KST với tiêu đề "You Who Came from the Stars: the Beginning", tóm tắt lại từ tập 1 đến tập 15. Phiên bản làm lại. Phiên bản Philippines được phát sóng vào năm 2017 trên đài GMA Network, với sự tham gia của Jennylyn Mercado và Gil Cuerva. Bộ phim tạo nên sự thành công lớn và là một trong những bộ phim Philippines làm lại từ phim Hàn Quốc hay nhất, sở hữu tỷ suất người xem 11.1% theo kết quả đo lường của AGB Nielsen Media Research Philippines. Năm 2020, TodayTV mua bản quyền bộ phim và phát sóng lúc 20 giờ từ thứ hai đến thứ bảy từ ngày 18 tháng 5 năm 2020. Phiên bản Thái Lan với sự hợp tác Broadcast Thai Television Co., Ltd. và kênh Channel 3 (CH3) sản xuất, với sự tham gia của Nadech Kugimiya và Peeranee Kongthai, sẽ phát sóng vào ngày 17 tháng 9 năm 2019. Bộ phim đã hoàn tất việc quay phim vào ngày 31 tháng 1, dự kiến sẽ lên sóng trong tháng 5/2019 sau khi hoàn thành quá trình chỉnh sửa đồ họa và máy tính. Tuy nhiên, bộ phim tiếp tục bị rời lịch chiếu vì lý do cần thêm thời gian để phía bên Trung Quốc chỉnh sửa bản dịch, bộ phim sẽ được chiếu song song cả ở Thái và Trung. Đây là bộ phim mà CH3 lần đầu tiên remake phim của xứ sở Kim Chi. Tuy nhiên bộ phim thất bại về mặt rating chưa tới con số 2 và một phần là scandal của nữ chính Matt. Phim được phụ đề trên T-Zone Kites. Tại Việt Nam, hai đạo diễn Bảo Nhân và Nam Cito vừa xác nhận sẽ cầm trịch dự án "Vì sao đưa anh tới "phiên bản Việt. Dự án được Việt hóa dựa trên phiên bản gốc đình đám của Hàn Quốc và được BHD mua bản quyền sản xuất ở Việt Nam. Bộ phim dự kiến khởi quay vào tháng 3 năm 2018 và chiếu online miễn phí. Tuy nhiên cho tới hiện tại chưa có thông tin nào về phiên bản Việt.
1
null
HD 106906 b là một hành tinh ngoài hệ Mặt Trời lớn quay quanh ngôi sao HD 106.906, nằm trong chòm sao Nam Thập Tự cách Trái Đất khoảng 300 năm ánh sáng. Hành tinh này là một hành tinh khí khổng lồ được ước tính là khoảng mười lần khối lượng của Sao Mộc. và quay xung quanh ngôi sao của nó ở khoảng cách 97 tỷ km (60 tỷ dặm), hoặc khoảng 650 lần khoảng cách giữa Trái Đất và Mặt Trời. Sự tách biệt rất lớn của hành tinh này từ ngôi sao của nó đã thu hút sự chú ý đáng kể từ cộng đồng thiên văn, vì khoảng cách này là lớn hơn mức người ta tin có thể dựa trên sự hiểu biết hiện tại của thuyết tinh vân.
1
null
T-ara là nhóm nhạc nữ Hàn Quốc ra mắt vào ngày 29 tháng 7 năm 2009 bởi Core Contents Media, nay là MBK Entertainment. Cuối năm sau khi ra mắt, T-ara nhận giải Tân binh của năm tại Golden Disk Awards. Năm 2010, T-ara nhận giải Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất và Giải Bonsang tại Seoul Music Awards và MelOn Music Awards. Năm 2011, đĩa đơn "Roly-Poly" giúp T-ara mang về 3 giải thưởng âm nhạc lớn, gồm Giải âm nhạc kỹ thuật số, Video âm nhạc xuất sắc nhất và Đĩa đơn của năm. Năm 2012, T-ara cũng giành thêm 2 giải Đĩa đơn của năm cho "Lovey-Dovey" tại Gaon Chart K-Pop Awards và Golden Disk Awards, cùng 2 giải Bonsang tại Seoul Music Awards và MelOn Music Awards. Ngày 1 tháng 1 năm 2010, T-ara giành chiến thắng đầu tiên trên một chương trình âm nhạc với tiết mục "Bo Peep Bo Peep", đĩa đơn đã nhận tất cả năm cúp. Cùng năm, "I Go Crazy Because of You" mang cho T-ara thêm 3 cúp. Năm 2011, T-ara giành tổng cộng 5 cúp cho hai đĩa đơn "Roly-Poly" và "Cry Cry". Năm 2012, T-ara đạt thành công lớn khi "Lovey-Dovey" giúp nhóm nhận về 13 cúp trên bốn sân khấu âm nhạc, gồm 4 cúp trên Music Bank, 3 cúp trên Inkigayo, 2 cúp trên M! Countdown và 4 cúp trên Music on Top. Trên chương trình âm nhạc The Show ngày 20 tháng 6 năm 2017, T-ara đã có chiến thắng đầu tiên sau 5 năm với ca khúc "What’s My Name?", đây là chiếc cúp đầu tiên mà T-ara nhận được sau lần cuối cùng nhận cúp vào tháng 2 năm 2012 cho "Lovey-Dovey". Giải thưởng và đề cử. Hàn Quốc. Asia Artist Awards. "Asia Artist Awards" là giải thưởng đầu tiên chọn ra các nghệ sĩ chiến thắng trên cả hai lĩnh vực ca hát và diễn xuất, dựa vào hiệu suất xuất sắc của họ ở Hàn Quốc cũng như trong khu vực châu Á. !width="5%"| Ref Asia Jewelry Awards. !width="5%"| Ref Cyworld Digital Music Awards. "Giải thưởng âm nhạc kỹ thuật số Cyworld" là giải được tính bởi doanh số bán hàng kỹ thuật số cộng với sự lựa chọn nhạc nền từ người sử dụng mạng xã hội Cyworld ở Hàn Quốc. Giải thưởng được thành lập vào năm 2006 dựa trên bảng xếp hạng BGM. !width="5%"| Ref Gaon Chart K-Pop Awards. "Gaon Chart K-Pop Awards" là giải thưởng được tổ chức hàng năm tại Hàn Quốc dựa trên Bảng xếp hạng âm nhạc Gaon. !width="5%"| Ref Golden Disk Awards. Giải thưởng đĩa vàng "Golden Disk Awards" là một giải thưởng thành lập năm 1986 và được trao hàng năm bởi Hiệp hội công nghiệp âm nhạc Hàn Quốc cho những thành tựu nổi bật trong ngành công nghiệp âm nhạc nước nhà Hàn Quốc. !width="5%"| Ref Luxury Brands Model Awards. !width="5%"| Ref MelOn Music Awards. "MelOn Music Awards" là một trong bốn giải thưởng lớn nhất của Hàn Quốc. Giải được trao bởi LOEN Entertainment thông qua cửa hàng âm nhạc trực tuyến Melon. !width="5%"| Ref Mnet Asian Music Awards. "Mnet Asian Music Awards" giải thưởng âm nhạc lớn được tổ chức hàng năm của Hàn Quốc, được thành lập bởi công ty giải trí CJ E&M Music and Live. Đây là một trong bốn giải thưởng lớn nhất của Hàn Quốc. !width="5%"| Ref Mnet 20's Choice Awards. "Mnet 20's Choice Awards" là giải thưởng âm nhạc lớn được tổ chức hàng năm tại Hàn Quốc bởi CJ E&M. !width="5%"| Ref MTN Awards. "MTN (Money Today Broadcasting) Awards" được trao bởi Liên hoan phát sóng quảng cáo. !width="5%"| Ref Mwave K-Pop Star World Championship. "Mwave K-Pop Star World Championship" là sự kiện do Mwave tổ chức để người hâm mộ bình chọn cho thần tượng. !width="5%"| Ref SBS Awards Festival. "SBS Awards Festival (Lễ trao giải truyền hình SBS)" là sự kiện truyền thông lớn được tổ chức vào cuối năm bởi đài SBS. !width="5%"| Ref SBS MTV Best of the Best Awards. !width="5%"| Ref Seoul Music Awards. "Seoul Music Awards" là giải thưởng được thành lập năm 1990 và được trao hàng năm bởi Sports Seoul cho những nghệ sĩ có thành tựu đặc biệt trong ngành công nghiệp âm nhạc Hàn Quốc. !width="5%"| Ref Soribada Best K-Music Awards. "Soribada Best K-Music Awards (SOBA)" là giải thưởng được Soribada tổ chức nhằm tôn vinh những nghệ sĩ, tác phẩm có thành tích ấn tượng trên trang web và ứng dụng của mình. !width="5%"| Ref Giải thưởng khác. GSL Tour Awards. !width="5%"| Ref Korea Cultural & Entertainment Awards. !width="5%"| Ref The Show Special 100th Episode. !width="5%"| Ref Quốc tế. Billboard Japan Music Awards. !width="5%"| Ref Hong Kong Youth Music Awards. !width="5%"| Ref YinYueTai V-Chart Awards. !width="5%"| Ref
1
null
Thủy Tiên (sinh năm 1972) là một ca sĩ người Mỹ gốc Việt nổi tiếng khoảng đầu thập niên 90 tại Sài Gòn và từ thập niên 2000 tại hải ngoại. Trước đó, Thủy Tiên và Thế Sơn từng là một cặp song ca ăn ý tại Việt Nam. Tiểu sử. Thủy Tiên tên thật là Huyền Tôn Nữ Thủy Tiên, sinh 12/1/1972 tại Sài Gòn. Trong một dịp đến vũ trường Đại Thế giới tham dự sinh nhật một người bạn vào tháng 5 năm 1989, Thủy Tiên được mời lên hát giúp vui. Sau lần hát đó, Thủy Tiên được người phụ trách chương trình ca nhạc cho vũ trường này mời cộng tác. Khoảng 2 tháng sau, nhạc sĩ Nguyễn Ngọc Thiện trong một lần ghé chơi, đã để ý đến tiếng hát của cô nên mời cô thu băng một số nhạc phẩm của mình, cùng lúc giới thiệu cô với nhạc sĩ Lý Được. Cô gia nhập ban nhạc "Hi Vọng" với Lý Được, Sỹ Đan, Tùng Châu, mang tiếng hát đến với người nghe tại hầu hết những vũ trường và tụ điểm ca nhạc ở Sài Gòn. Những năm đầu thập niên 90, Thủy Tiên đã trở thành một tên tuổi gây được nhiều chú ý trong nước. Vào năm 1991, Thủy Tiên phối hợp với Thế Sơn thành một cặp song ca rất ăn ý, đặc biệt qua những nhạc phẩm đã gây được nhiều ấn tượng nơi người nghe như "Cô Bé Dỗi Hờn", "Vì sao","Mong Đợi Ngậm Ngùi". Cũng trong thời kỳ này, Thủy Tiên đã rất được khán thính giả ưa thích với những nhạc phẩm: "Phố Biển" của Thanh Tùng, "Hứa đi anh" của Nguyễn Ngọc Thiện, "Nụ Hôn" của Tôn Thất Lập, "Nguyệt Ca" của Trịnh Công Sơn, "Tuổi 18" của Từ Huy... Năm 2001, Thủy Tiên và 2 anh sang Mỹ định cư. Thời gian đầu ở Mỹ, Thủy Tiên cư ngụ tại Quận Cam, California, sau đó cô dời về San Diego. Cha cô - một thiếu tá từng bị giam cầm 7 năm trong tù cải tạo - từ năm 1994 đã cư ngụ tại Los Angeles theo diện HO. Về trường hợp đến với Trung tâm Thúy Nga vào tháng 7/2001, Thủy Tiên cho biết đã được một nhân vật trong ban giám đốc trung tâm này để ý khi đến nghe cô hát tại phòng trà Tiếng Tơ Đồng ở Sài Gòn. Những bài hát cô trình diễn thành công cho trung tâm này là "Đừng Trách Người Ơi", "Người tình trăm năm", "Anh Cho Em Mùa Xuân"... Gần đây, sau khi hết hợp đồng với Trung tâm Thúy Nga, cô tiếp tục hợp tác với Trung tâm Asia qua một số tiết mục như "Loan Mắt Nhung", "Men Tình Nồng", Medley "Người Về Từ Lòng Đất - Nơi Ấy Bình Yên - Trống Vắng" với Diễm Liên và Philip Huy.
1
null
FNC Entertainment (; từ viết tắt của "fish and cake") là một công ty giải trí của Hàn Quốc được thành lập vào năm 2006 bởi nam ca sĩ kiêm nhà sản xuất thu âm Hàn Quốc Han Seong-ho. Công ty hoạt động với tư cách là một hãng thu âm, công ty tài năng, công ty sản xuất âm nhạc, công ty tổ chức sự kiện và sản xuất buổi hòa nhạc, và nhà xuất bản âm nhạc. Công ty trước đây được gọi là FNC Music, chỉ quản lý các ca sĩ nhưng sau đó đổi tên thành FNC Entertainment vào năm 2012 và bắt đầu mở rộng lĩnh vực kinh doanh là giải trí. Nó đã có từ tháng 1 năm 2012, có trụ sở tại các văn phòng công ty riêng của mình tại Cheongdam-dong. Công ty quản lý các nghệ sĩ K-pop như F.T. Island, CNBLUE, AOA, N.Flying, SF9, Cherry Bullet (trực thuộc công ty con FNC W) và P1Harmony. Nó cũng quản lý một số nghệ sĩ giải trí, bao gồm Jeong Hyeong-don, Lee Guk-joo và Lee Se-young, và một số diễn viên, bao gồm Jung Hae-in, Jung Jin-young, Lee Dong-gun, Park Gwang-hyun, Sung Hyuk, Kim Won-hee và Yeon-seo. Vào tháng 2 năm 2021, FNC đã tạo ra 2 công ty con mới. Công ty con đầu tiên, FNC B, là liên doanh giữa FNC Entertainment và HOW Entertainment, tập trung vào nhạc trot. Công ty con thứ hai, FNC W, chuyên về quản lý các nhóm nhạc nữ của họ.
1
null
Cá trác đuôi dài hay cá sơn thóc, cá bã trầu, cá thóc, cá thóc đỏ, cá mắt kiếng, cá mắt đỏ, cá trao tráo, cá thao láo (Danh pháp khoa học: Priacanthus tayenus) là một loài cá thuộc họ Cá trác (Priacanthidae) phân bố ở vùng biển bắc Ấn Độ Dương và tây Thái Bình Dương. Đặc trưng. Thân sâu vừa phải, thuôn dài vừa phải và dẹp hai bên. Mặt cắt phần trước hơi bất đối xứng, đoạn tận cùng của phần lồi ra của hàm dưới thường nằm hơi cao hơn một chút so với đường chia đôi thân. Các răng nhỏ trên hàm dưới, xương lá mía, vòm miệng và xương hàm trên. Các gai khá phát triển ở góc về phía xương tiền nắp mang. Tổng số lược mang trên cung mang thứ nhất từ 21 tới 24. Vây lưng với 10 gai và 11-13 tia vây mềm. Vây hậu môn với 3 gai và 12-14 tia vây mềm. Vây đuôi bị cắt cụt nhiều hay ít ở các mẫu kích thước nhỏ, nhưng trở thành hình lưỡi liềm ở tất cả các mẫu kích thước lớn (có lẽ là cá đực). Tia vây ức: 17-19. Vảy nhỏ che phủ phần lớn thân, đầu và gốc vây đuôi. Vảy bị biến đổi; các vảy của khu vực giữa đường bên với miền phía sau nâng cao bị suy giảm và thiếu gai nhỏ ở các mẫu có kích thước lớn. Vảy trong dãy đường bên 56-73; vảy đường bên rỗng 51-67. Các hàng vảy đứng (từ gốc vây ngực tới hậu môn) 40-50. Bong bóng với các phần lồi ra ở cả phần trước và sau, phần lồi phía trước gắn với hốc bị biến đổi trong hộp sọ. Màu thân, đầu và đồng tử mắt màu từ hồng tới ánh đỏ hay trắng bạc nhuốm màu hồng; các vây màu ánh hồng; vây chậu với các đốm nhỏ màu tía sẫm hay mực đen đặc trưng ở các màng với 1 hoặc 2 đốm lớn hơn ở màng liên kết với bụng. Kích thước. Là loài cá nhỏ, chiều dài tổng cộng tối đa khoảng 29–35 cm. Chiều dài phổ biến khoảng 25 cm.. Môi trường sống, sinh học và nghề cá. Sinh sống trong vùng nước duyên hải ở cả gần rạn san hô đá (chủ yếu) và đôi khi là vùng biển khơi hơn, ở độ sâu 20–200 m (hoặc hơn) . Cá trưởng thành dường như chỉ đôi khi tụ tập và là tương đối phổ biến theo chu kỳ trong các mẻ lưới rê trên biển Andaman và biển Đông. Cá mới nhập bầy thường có chiều dài tổng cộng khoảng 12 cm, và đạt chiều dài tới 24 cm vào năm sau. Được đưa ra thị trường ở dạng cá tươi, cá khô cũng như dạng cá viên. Phân bố. Trong vùng nước mặn duyên hải miền bắc Ấn Độ Dương, từ vịnh Persia về phía đông và ở tây Thái Bình Dương từ miền bắc Australia, biển Arafura và quần đảo Solomon về phía bắc tới Đài Loan. Ẩm thực tại Việt Nam. Tại Việt Nam loài cá biển này chủ yếu được dùng làm thực phẩm chủ yếu ở dạng cá tươi. Đây là một loại đặc sản của Miền Trung Việt Nam. Đôi khi, do tên gọi "cá bã trầu" của nó mà người ta nhầm lẫn nó với một loài cá khác là cá nhỏ chỉ dài 4–7 cm, sống trong môi trường nước ngọt, với tên gọi chính thức là cá bãi trầu, chủ yếu chỉ được nuôi làm cá cảnh. Thịt cá dai, ít mùi tanh, lớp da có cảm giác nhám. Đối với những con cá bã trầu lớn có màu đỏ toàn thân, nặng khoảng từ 150 - 200 gam trở lên, đầu và thân dẹp, miệng rộng, thịt thơm, ngọt. Người ta hay chọn mang cá màu đỏ hồng, cỡ 200 gam/con trở lên, cá lớn thịt mới ngon. Đây là loại cá dùng nấu bánh canh, một món dân dã thường dùng trong gia đình và phần lớn để chiêu đãi những người thân quen từ xa đến ngoài ra, cá bã trầu thường được những bà nội trợ mua về nấu nồi canh chua giải nhiệt cho cả nhà hay nướng trên bếp than. Cá bã trầu tươi dong, mua về chỉ cần lấy mang cá bỏ đi, rửa sạch, để ráo rồi xẻ dọc một bên men theo đường xương cá, xẻ sao cho phía bên kia vẫn liền để gia vị không bị chảy ra sau đó đem nướng. Khi nấu bánh canh, người ta chọn những con cá còn tươi, sau khi làm sạch, cho cá vào nồi nước sôi luộc, cá chín vớt ra bóc hết lớp da bên ngoài bỏ đi, chỉ lấy phần thịt. Ướp thịt cá với hành tím bột ngọt, nước mắm, tiêu bột sau đó phi dầu nóng cho cá vào tao đều. Một điểm đặc biệt khi nấu bánh canh cá bã trầu là không nên đổ nước luộc cá đi mà dùng để nấu nước lèo sẽ có vị rất ngọt. Sau khi thịt cá đã săn và thấm gia vị, đổ nước luộc cá vào, đun sôi lên. Cà bã trầu thân thuộc với người dân cho nên có câu vè: Và có hẳn mô tả nhận dạng của cá bã trầu:
1
null
USS "Thomas" (DD–182) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được chuyển cho Anh Quốc dưới tên gọi HMS "St Albans" (I15), nhưng hoạt động trong hầu hết Chiến tranh Thế giới thứ hai như là chiếc HNoMS "St Albans với thành phần thủy thủ đoàn người Na Uy, trước khi được chuyển cho Liên Xô năm 1944 như là chiếc Dostoyny". Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Đại úy Hải quân Clarence Crase Thomas (1886-1917), người được biệt phái cùng đội vũ trang trên tàu buôn , và đã tử trận khi "Vacuum" bị tàu ngầm Đức phóng ngư lôi đánh chìm; Thomas trở thành sĩ quan Hải quân Hoa Kỳ đầu tiên tử trận trong Thế Chiến I, ông được truy tặng Huân chương Chữ thập Hải quân. Thiết kế và chế tạo. "Thomas" được đặt lườn vào ngày 23 tháng 3 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng Newport News Shipbuilding and Dry Dock Company ở Newport News, Virginia. Nó được hạ thủy vào ngày 4 tháng 7 năm 1918, được đỡ đầu bởi bà Evelyn M. Thomas, vợ góa Trung úy Thomas, và được đưa ra hoạt động vào ngày 25 tháng 4 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Harry A. McClure. Lịch sử hoạt động. USS "Thomas". "Thomas" hoạt động ngoài khơi bờ Đông Hoa Kỳ trong các chuyến đi huấn luyện và tập trận cho đến khi được cho xuất biên chế tại Philadelphia vào ngày 30 tháng 6 năm 1922. Vào lúc này, nó được mang ký hiệu lườn DD–182 khi Hải quân Hoa Kỳ áp dụng phương thức đánh số hiệu lườn tàu vào ngày 17 tháng 7 năm 1920. Con tàu bị bỏ không trong lực lượng dự bị tại Xưởng hải quân Philadelphia trong 18 năm tiếp theo. Được cho nhập biên chế trở lại vào ngày 17 tháng 6 năm 1940, khi Hải quân Hoa Kỳ cần tăng cường số lượng tàu chiến hoạt động thường trực nhằm đáp ứng yêu cầu Tuần tra Trung lập tại các vùng biển tiếp cận, "Thomas" được phân về Đội khu trục 79 trực thuộc Hải đội Đại Tây Dương. Nó hoạt động một thời gian ngắn trong nhiệm vụ huấn luyện và tập trận ngoài khơi bờ Đông cho đến khi được chọn để chuyển cho Anh Quốc theo Thỏa thuận đổi tàu khu trục lấy căn cứ. Nó đi đến Halifax, Nova Scotia vào ngày 18 tháng 9 năm 1940 trong đợt chuyển giao thứ hai, một phần trong số 50 tàu khu trục sàn phẳng bốn ống khói được chuyển giao để đổi lấy quyền thuê lại các căn cứ chiến lược tại vùng Tây bán cầu. Sau một giai đoạn làm quen và huấn luyện với thủy thủ đoàn người Anh, "Thomas" được chính thức chuyển giao vào ngày 23 tháng 9 năm 1940. Tên nó sau đó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 8 tháng 1 năm 1941. HMS "St Albans" (I15). Được đổi tên thành HMS "St Albans" (I15) và nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia Anh, chiếc tàu khu trục lên đường đi sang quần đảo Anh vào ngày 29 tháng 9. Sau một chặng dừng tại St. John's, Newfoundland, nó về đến Belfast, Bắc Ireland, vào ngày 9 tháng 10. Nó cùng với ba tàu chị em "St Mary's" (), "Bath" () và "Charlestown" () được phân về Hải đội Rải mìn 1 như lực lượng hộ tống thường trực. Hoạt động ngoài khơi bờ biển phía Tây Scotland, chúng tham gia các hoạt động rải mìn ban đầu tại eo biển Đan Mạch ngăn cách giữa Iceland và Greenland. Xen kẻ giữa các hoạt động rải mìn, "St Albans" còn tham gia hộ tống các đoàn tàu vận tải. Vào các ngày 17 và 18 tháng 1 năm 1941, nó tìm kiếm những người sống sót của chiếc , vốn bị đắm do trúng ngư lôi phóng từ tàu ngầm U-boat Đức "U-96" vào ngày 17 tháng 1. Nó trải qua một đợt sửa chữa tại Chatham trong tháng 2 nhằm chuẩn bị để được chuyển giao cho Hải quân Hoàng gia Na Uy lưu vong vào ngày 14 tháng 4. HNoMS "St. Albans". "St. Albans" chỉ vừa mới đi vào hoạt động với thủy thủ đoàn người Na Uy khi nó mắc tai nạn va chạm với , làm đắm chiếc tàu quét mìn và bản thân chịu hư hại đến mức phải được sửa chữa trong ụ tàu. Khi sẵn sàng để hoạt động trở lại, "St. Albans" gia nhập Đội hộ tống 7 và hoạt động từ Liverpool. Vào ngày 12 tháng 6, nó vớt những người sống sót của chiếc tàu hơi nước bị đắm do trúng ngư lôi từ tàu ngầm "U-48" và đưa họ quay về Liverpool an toàn. Trên đường hộ tống Đoàn tàu SL 81 từ Sierra Leone quay trở về Anh, nó đã phối hợp cùng tàu khu trục và tàu corvette lớp "Flower" trong việc đánh chìm tàu ngầm "U-401" vào ngày 3 tháng 8 năm 1941. Trong các hoạt động bảo vệ vận tải sau đó trên các tuyến đường giữa Tây Phi và quần đảo Anh, nó cũng nhiều lần tấn công nhắm vào tàu ngầm U-boat đối phương, nhưng không ghi nhận thêm chiến công nào. Trong mùa Thu tiếp theo, thời tiết khắc nghiệt đã gây hư hại nặng cho cấu trúc của "St. Albans" khi nó đang hộ tống Đoàn tàu ON 22 vào ngày 8 tháng 10; các thủy thủ Na Uy đã xoay xở đưa được nó đến Reykjavík, Iceland vào ngày hôm sau. Sau khi sửa chữa, nó tiếp tục nhiệm vụ hộ tống vận tải cùng Đội hộ tống 7 cho đến năm 1942. Vào tháng 3, nó hộ tống chiếc tàu sân bay bị hư hại đi từ Liverpool đến River Clyde, và trong tháng tiếp theo đã hộ tống cho Đoàn tàu PQ 15 chuyển vũ khí sang Nga, một chiến dịch chịu đựng áp lực tấn công bởi máy bay và tàu ngầm Đức nặng nề làm mất ba tàu Đồng Minh. Tuy nhiên, trong chiến tranh, lỗi lầm khi nhận diện cùng những sai sót dẫn đường đôi khi có thể đưa đến tai hại. Trong một trường hợp, sự kết hợp các yếu tố này đã dẫn đến thảm họa khi "St Albans" cùng với tàu quét mìn đã đánh chìm tàu ngầm Ba Lan OPR "Jastrząb" vào ngày 2 tháng 5, khiến năm thành viên thủy thủ đoàn thiệt mạng. Một tòa án đã khám phá rằng "Jastrząb" đang ở cách vị trí 100 dặm, tại một khu vực thường gặp tàu ngầm U-boat hoạt động, và cả hai vị chỉ huy đều không bị kết tội. Tuy nhiên, kết luận này bị các nguồn khác tranh cãi. Cuối tháng đó, "St. Albans" gia nhập Đội Hộ tống Đặc biệt Liverpool. Trong số các con tàu được nó bảo vệ vào đầu tháng 6 bao gồm chiếc tàu biển chở hành khách RMS "Queen Elizabeth" của hãng tàu Cunard-White Star khi nó đi từ vùng quần đảo Anh đến mũi Hảo Vọng chở binh lính trên đường hướng sang Trung Đông. Sau một đợt tái trang bị tại Falmouth từ tháng 7 đến tháng 10 năm 1942, "St Albans" lại hoạt động cùng Đội Hộ tống Đặc biệt cho đến cuối năm 1942. Đến tháng 1 năm 1943, nó phục vụ như là tàu mục tiêu trong việc huấn luyện phi công thuộc Bộ chỉ huy Duyên hải của Không quân Hoàng gia Anh. Vào tháng 2, "St. Albans" lên đường tiến vào Bắc Hải về phía bờ biển Scandinavia để truy tìm một tàu buôn Na Uy được báo cáo đang tìm cách thoát khỏi vùng biển do Đức kiểm soát. Trong nhiệm vụ này, chiếc tàu khu trục bị máy bay Đức tấn công nhưng thoát được mà không bị hư hại. Được chuyển sang Lực lượng Hộ tống Tại chỗ phía Tây không lâu sau đó, nó đặt căn cứ tại Halifax và làm nhiệm vụ hộ tống vận tải tại khu vực Tây Đại Tây Dương trong thời gian còn lại của năm 1943. Rời Halifax bốn ngày sau lễ Giáng Sinh, nó đi đến Tyne vào ngày 10 tháng 1 năm 1944, nơi nó được đưa về thành phần dự bị. "Dostoyny". Vào ngày 16 tháng 7 năm 1944, Anh Quốc chuyển "St. Albans" cho Hải quân Liên Xô, vốn đổi tên nó thành "Dostoyny" (tiếng Nga: Достойный). Con tàu phục vụ cùng Xô Viết cho đến khi được hoàn trả cho Anh vào ngày 28 tháng 2 năm 1949 tại Rosyth, Scotland. Cuối cùng, chiếc tàu chiến kỳ cựu từng treo cờ của bốn nước bị tháo dỡ tại Charlestown, Anh vào tháng 4 năm 1949.
1
null
USS "Haraden" (DD–183) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, trong Chiến tranh Thế giới thứ hai được chuyển cho Canada và đổi tên thành HMCS "Columbia" (I49). Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Jonathan Haraden (1744-1803), một thuyền trưởng tàu lùng trong Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ. Thiết kế và chế tạo. "Haraden" được đặt lườn vào ngày 30 tháng 3 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng Newport News Shipbuilding and Dry Dock Company ở Newport News, Virginia. Nó được hạ thủy vào ngày 4 tháng 7 năm 1918, được đỡ đầu bởi cô Mabel B. Stephens, cháu gái thuyền trưởng Haraden, và được đưa ra hoạt động tại Xưởng hải quân Norfolk vào ngày 7 tháng 6 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân R. H. Booth. Lịch sử hoạt động. USS "Haraden". "Haraden" được phân công phục vụ cùng Lực lượng Hải quân Hoa Kỳ tại vùng biển Châu Âu. Sau khi ghé qua Newport để tiếp liệu, nó rời New York vào ngày 30 tháng 6 năm 1919 để đi sang khu vực biển Adriatic, đi đến Split, Nam Tư (nay thuộc Croatia) vào ngày 28 tháng 7 năm 1919. Nó thực hiện các hoạt động hỗ trợ cho lực lượng hải quân trong việc thi hành thỏa thuận ngừng bắn, phục vụ như một tàu trạm tại Trieste và Rijeka, và tham gia các cuộc tập trận. Nhiệm vụ này kéo dài cho đến ngày 23 tháng 10 năm 1919, khi nó lên đường quay trở về Norfolk, Virginia, đến nơi vào ngày 18 tháng 11. Chiếc tàu khu trục rời Norfolk vào ngày 7 tháng 4 năm 1920 để đi Charleston, South Carolina, và hoạt động cùng một đội khu trục dự bị từ Charleston cho đến ngày 15 tháng 3 năm 1921. Sau một đợt tái trang bị kéo dài tại New York hoàn tất vào ngày 2 tháng 5, nó lên đường đi Newport cho các hoạt động huấn luyện ngoài khơi New England. Chiếc tàu khu trục quay trở về Charleston vào ngày 12 tháng 10 năm 1921 và đi đến Philadelphia vào ngày 10 tháng 4 năm 1922. Nó được cho xuất biên chế tại đây vào ngày 17 tháng 7 năm 1922 và đưa về lực lượng dự bị. Với tình hình quốc tế căng thẳng trở lại, "Haraden" được gọi trở lại để phục vụ thường trực và được cho nhập biên chế trở lại tại Philadelphia vào ngày 4 tháng 12 năm 1939. Sau khi chạy thử máy và huấn luyện tại khu vực vịnh Guantánamo, Cuba, chiếc tàu khu trục thực hiện Tuần tra Trung lập tại vùng biển Cuba một thời gian ngắn trước khi quay trở lại Newport vào ngày 6 tháng 3 năm 1940. Nó thực hiện tuần tra tại vùng biển ngoài khơi đảo Block và Nantucket Shoals, cùng thực hiện ba chuyến đi huấn luyện trong vịnh Chesapeake. Đi đến Xưởng hải quân Boston vào ngày 7 tháng 9 năm 1940, "Haraden" được chọn trong số 50 tàu khu trục cũ được chuyển cho Anh Quốc theo Thỏa thuận đổi tàu khu trục lấy căn cứ. Nó lên đường vào ngày 18 tháng 9 để đi Halifax, Nova Scotia, và được cho xuất biên chế tại đây để chuyển cho Anh vào ngày 24 tháng 9 năm 1940. Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 8 tháng 1 năm 1941. HMCS "Columbia". Được Anh Quốc chuyển cho Canada và đổi tên thành HMCS "Columbia". Theo thông lệ đặt tên các tàu khu trục Canada theo tên các con sông Canada, đồng thời do nguồn gốc từ Hoa Kỳ của nó, tên con tàu được đặt theo tên sông Columbia xuất phát từ British Columbia rồi chảy vào lãnh thổ Hoa Kỳ tại tiểu bang Washington và dọc theo biên giới Oregon. Chiếc tàu khu trục thoạt tiên được tái trang bị, rồi được phân nhiệm vụ hộ tống vận tải tại Đại Tây Dương. Hoạt động lớn đầu tiên của nó bắt đầu vào ngày 15 tháng 10 năm 1941, khi nó gia nhập Đoàn tàu SC-8 vốn đang bị tàu ngầm đối phương tấn công; nó cùng các tàu hộ tống khác đã chiến đấu cật lực, nhưng chín tàu buôn đã bị đánh chìm trước khi đoàn tàu đến được Anh. Sau khi Hoa Kỳ chính thức tham chiến, "Columbia" được giao nhiệm vụ hộ tống trên tuyến từ New York đến St. Johns, Newfoundland, chặng đầu tiên của quãng đường vượt đại dương. Nó làm nhiệm vụ hộ tống vận tải và chống tàu ngầm cho đến ngày 25 tháng 2 năm 1944, khi nó va phải một vách đá lúc thời tiết xấu ngoài khơi bờ biển Newfoundland. Nó không được sửa chữa toàn bộ sau sự cố này, nhưng được làm kín nước trở lại rồi phục vụ như một tàu kho chứa nhiên liệu và đạn dược tại Nova Scotia, cho đến khi được cho ngừng hoạt động vào tháng 8 năm 1945 và bị bán để tháo dỡ sau đó.
1
null
GIRLS’ GENERATION ~LOVE&PEACE~ Japan 3rd Tour là chuyến lưu diễn vòng quanh Nhật Bản thứ ba của Girls' Generation để quảng bá cho album tiếng Nhật thứ ba của họ, "Love & Peace". Trong suốt 3 tháng diễn ra chuyến lưu diễn, đã có khoảng 200.000 khán giả đến xem Girls' Generation biểu diễn. Lịch sử. Tour diễn này đã được công bố vào ngày 29 tháng 11 năm 2013 rằng Girls' Generation sẽ tham gia vào tour diễn trên toàn Nhật Bản thứ ba bắt đầu từ 26 tháng 4 năm 2014, với tổng số đêm diễn là 12 đêm để quảng bá cho album tiếng Nhật thứ ba của họ, "Love & Peace". Trong cùng một ngày đó, họ thông báo rằng chương trình "Love & Peace" "free live" sẽ diễn ra vào ngày 14 tháng 12 tại sân vận động Yokohama, với vé được phân phối thông qua xổ số dành cho những người mua album. Vào ngày 6 tháng 2 năm 2014, "Universal Music Japan" thông báo rằng sẽ có thêm 5 đêm diễn (1 tại Kobe, 1 tại Osaka và 3 tại Tokyo) nữa được bổ sung vào chuyến lưu diễn, nâng tổng số buổi diễn lên 17 buổi. Xuyên suốt 3 chuyến lưu diễn vòng quanh Nhật Bản từ năm 2011 của Girls' Generation, đã có tổng cộng khoảng 550,000 khán giả đến xem, lập nên một kỉ lục mới giữa các nhóm nhạc nữ Hàn Quốc. Trong 3 đêm diễn cuối cùng được diễn ra tại Tokyo vào ngày 11, 12 và 13 tháng 7, nhóm đã trình diễn trước những fan hâm mộ các ca khúc nổi tiếng của mình như "Gee", "I Got a Boy", "Mr.Mr." cũng như các bài hát "Motorcycle" và "Gossip Girls" nằm trong album tiếng Nhật thứ 3, "Love & Peace". Nhóm cũng tiết lộ ca khúc ballad mới mang tên "Indestructible" từ album tuyển tập "The Best" sẽ được phát hành tại Nhật Bản vào ngày 23 tháng 7 năm 2014. Danh sách bài hát. Danh sách chính thức <br> Danh sách đặc biệt
1
null
Ốc sên môi trắng ("Cepaea hortensis") là một loài ốc sên đất thở không khí kích thước trung bình. Nó là họ hàng của ốc sên lùm cây. Phân bố. Phân bố tự nhiên của loài này là Tây Âu và Trung Âu. Phạm vi của ốc sên môi trắng kéo dài gần hơn tới Bắc Cực ở Bắn Âu hơn phạm vi của Ốc sên lùm cây. Ốc sên môi trắng đã được giới thiệu đến một phần phía đông bắc của Hoa Kỳ, nhưng chính nó không được thích nghi như ốc sên lùm cây.
1
null
Timothy Francis "Tim" Robbins (sinh ngày 16 tháng 10 năm 1958) là một Diễn viên, đạo diễn, nhà sản xuất, nhà biên kịch, nhà hoạt động xã hội, nhạc sĩ người Mỹ. Ông nổi tiếng với vai diễn Nuke trong "Bull Durham", Jacob Singer trong "Jacob's Ladder", Griffin Mill trong "The Player", Andy Dufresne trong "The Shawshank Redemption" và vai Dave Boyle trong "Mystic River", với vai diễn này ông đã giành Giải Oscar cho nam diễn viên phụ xuất sắc nhất. Tuổi trẻ. Robbins sinh tại West Covina, California và lớn lên tại thành phố New York, là con trai của Mary Cecelia (tên thời con gái là Bledsoe), một nữ diễn viên, và Gilbert Lee Robbins (1931–2011), một nhạc sĩ, ca sĩ nhạc dân gian, diễn viên và cựu quản lý của The Gaslight Cafe. Robbins có 2 chị em gái, Adele và Gabrielle, và một anh em trai, David. Ông được dạy dỗ theo Công giáo. Gia đình ông đã chuyển đến làng Greenwich khi ông còn nhỏ, lúc đó cha ông đang theo đuổi sự nghiệp trong nhóm nhạc dân gian The Highwaymen. Robbins đã bắt đầu diễn kịch khi 12 tuổi và gia nhập câu lạc bộ kịch của trường trung học Stuyvesant. Ông đã học 2 năm tại Đại học tiểu bang New York tại Plattsburgh rồi sau đó quay lại California để học tại trường Điện ảnh UCLA.
1
null
Martin Marietta X-24B là một loại máy bay thử nghiệm của Hoa Kỳ, thuộc chương trình hợp tác chung giữa USAF-NASA có tên PILOT (1963–1975). Nó được thiết kế và chế tạo để thử nghiệm khái niệm thân nâng, sau này được sử dụng trong tàu con thoi. Tham khảo. Miller, Jay. The X-Planes: X-1 to X-45. Hinckley, UK: Midland, 2001. Rose, Bill, 2008. Secret Projects: Military Space Technology. Hinckley, England: Midland Publishing.
1
null
Thiếu hụt vitamin D hay hypovitaminosis D có thể là hậu quả của chế độ dinh dưỡng không đầy đủ vitamin D kết hợp với việc tiếp xúc với ánh sáng mặt trời không đủ (ánh sáng mặt trời với tia cực tím B), của những rối loạn làm hạn chế sự hấp thụ vitamin D, và những tình trạng làm suy yếu sự chuyển đổi của vitamin D thành các hoạt chất chuyển hóa; bao gồm những rối loạn ở gan, thận, và các rối loạn di truyền. Thiếu hụt vitamin D dẫn đến suy giảm khoáng hóa xương và làm xương mềm bao gồm bệnh còi xương ở trẻ em và nhuyễn xương, loãng xương ở người lớn. Phân loại. Hypovitaminosis D thường được chẩn đoán bằng cách đo nồng độ hợp chất 25-hydroxyvitamin D (calcidiol), là một tiền chất của hoạt chất 1,25-dihydroxyvitamin D (calcitriol), trong máu. Một báo cáo năm 2008 đã đề xuất phân hypovitaminosis D thành bốn loại sau: Lưu ý: 1.0 nmol/L = 0.4 ng/mL hợp chất này. Các tác giả khác cho rằng nồng độ 25-hydroxyvitamin D 75–80 nmol/L (30–32 ng/mL) có thể là đủ, mặc dù đa số những người trẻ tuổi khỏe mạnh tiếp xúc với ánh nắng mặt trời tương đối mạnh đã không đạt được mức này trong một nghiên cứu được thực hiện ở Hawaii.
1
null
Đảng Quốc gia Cấp tiến (Phak Xat Kao Na) là một đảng phái chính trị ở Lào hoạt động trong thập niên 1950. Đảng được thành lập vào năm 1950. Trong cuộc bầu cử Quốc hội Lào vào tháng 8 năm 1951, đảng này đã giành được 15 trên 39 ghế, vốn được coi là một chiến thắng vang dội vào lúc đó. Lãnh đạo của đảng là Souvanna Phouma đã chính thức trở thành Thủ tướng của Vương quốc Lào. Đảng Quốc gia Cấp tiến vẫn tồn tại cho đến năm 1958 thì bị giải thể vì sáp nhập vào một đảng mới là Đại hội Nhân dân Lào.
1
null
Lãnh thổ Minnesota (tiếng Anh: "Territory of Minnesota") từng là một lãnh thổ hợp nhất có tổ chức của Hoa Kỳ, tồn tại từ ngày 3 tháng 3 năm 1849 cho đến 11 tháng 5 năm 1858 khi phần phía đông của lãnh thổ được phép gia nhập vào liên bang thành tiểu bang Minnesota. Lịch sử. Ranh giới của Lãnh thổ Minnesota được vạch ra từ Lãnh thổ Iowa bao gồm vùng Minnesota hiện tại và phần lớn vùng đất mà sau đó trở thành Lãnh thổ Dakota nằm ở phía đông sông Missouri. Lãnh thổ Minnesota cũng bao gồm các phần đất của Lãnh thổ Wisconsin mà sau đó không trở thành một phần của tiểu bang Wisconsin sau này. Khu vực này nằm giữa sông Mississippi và Wisconsin bao gồm vùng Arrowhead. Vào lúc được thành lập, lãnh thổ này có ba thành phố: St. Paul, St. Anthony (hiện nay là một phần của Minneapolis) và Stillwater. Các cơ quan chính yếu của chính quyền được phân chia nằm khắp ba thành phố này: St. Paul được đặt làm thủ phủ; Minneapolis được chọn cho Đại học Minnesota; và Stillwater được chọn để xây Nhà tù Lãnh thổ Minnesota.
1
null
Barcelona là một đĩa đơn được Freddie Mercury, ca sĩ của ban nhạc Queen, và nữ ca sĩ opera giọng soprano Montserrat Caballé phát hành. Nó là một bài trong album Barcelona là album hợp tác của họ, và cũng xuất hiện trong album "Greatest Hits III" của Queen. Bài hát chứa đựng tình yêu của Mercury dành cho opera với những nốt cao của anh cùng với chất giọng opera của Caballé, được hỗ trợ bởi một dàn nhạc đầy đủ nhạc khí. Được phát hành vào năm 1987, bài hát là một trong những thành công lớn nhất trong sự nghiệp đơn ca của Mercury, đạt vị trí thứ 8 trong UK Singles Chart. Sau khi Mercury qua đời vào năm 1991, "Barcelona" đã được là bài hát đại diện tại Thế vận hội Mùa hè 1992, sau đó nó leo lên vị trí cao hơn trong các bảng xếp hạng, đạt hạng 2 ở Anh, Hà Lan và New Zealand. Năm 2004, BBC Radio 2 đưa "Barcelona" vào vị trí #41 trong danh sách "Sold On Song Top 100". Lịch sử. Mercury là một người hâm mộ opera từ rất lâu, đặc biệt ông rất ưu ái Montserrat Caballé. Năm 1986, ông đã từng đề cập trên truyền hình tiếng Tây Ban Nha rằng ông sẽ rất vui mừng nếu được gặp Caballé. Họ đã có buổi họp mặt thân thiện lần đầu ở Barcelona vào tháng 2 năm 1987. Sau đó, khi thành phố được chọn đăng cai Thế vận hội Mùa hè 1992, Caballé là một người Barcelona chính gốc, được yêu cầu giúp đỡ sản xuất một bài hát Thế vận hội. Bà đã mời Mercury cùng hợp tác. Mercury đã trở nên say mê dự án và thay vì chỉ thu âm một đĩa đơn, Caballé đã đề xuất thực hiện một album, và Mercury đã đồng ý. Bài hát "Barcelona" phải là bài ​​hát mở đầu cho album này, được hoàn thành vào năm 1988, và phải gửi ứng cử cho cuộc bầu chọn bài hát chính thức của Thế vận hội 1992 (dự kiến lựa chọn vào năm 1988, 4 năm trước khi Thế vận hội bắt đầu). Bản thu âm gặp rắc rối do lịch trình quá kín của Caballé. Vì vậy, để tiết kiệm thời gian của Caballé, Mercury đã thu âm bài hát, ông hát luôn phần của Caballé bằng giọng falsetto. Sau đó Mercury gửi bản thu này cho Caballé để chuẩn bị phần bè của mình cho lần thu âm chung. Bài hát. Bài hát được sáng tác bởi Mercury cùng với Mike Moran, người cũng xuất hiện trong video của bài hát và đệm piano cho bản thu âm trong phòng thu. Bài hát mở đầu bằng dàn nhạc, sau đó nhỏ dần và Mercury cùng Caballé hát luân phiên phần đơn ca của mình, thỉnh thoảng lại nhập chung thành song ca. Khi hát điệp khúc "Barcelona", Mercury hát lồng vào nhiều kiểu giọng khác nhau. Khi Mercury hát chính, Caballé bè "nền" bằng giọng soprano mạnh mẽ. Còn khi Caballé hát phần chính của mình bằng giọng soprano, Mercury bè bằng giọng baritone tự nhiên của mình chứ không phải là giả giọng tenor như các bài thu âm khác của mình. Bài hát đã được như là một ví dụ chuẩn mực hiếm hoi của sự kết hợp giữa pop và opera mà vẫn mang những nét đặc trưng riêng của từng loại nhạc. Mercury từng tỏ ra ngạc nhiên bởi khả năng kiểm soát giọng điêu luyện của Caballé; ví dụ, trong đoạn kết, Mercury phải bước ra xa micro để giảm cường độ giọng của mình, trong khi Caballé chẳng cần phải di chuyển đi đâu cả. Các phiên bản. Năm 2000, đĩa "Rarities 2" trong bộ hộp đĩa "The Solo Collection" có một phiên bản đầu tiên với lời ca khác dài 4:21, và một phiên bản sau dài 4:41 giống như trong đĩa đơn, và một phiên bản mở rộng kéo dài tới 7:07.
1
null
Anh em nhà Scholl (') là danh xưng dùng để chỉ hai anh em ruột Hans Scholl và Sophie Scholl"'. Cả hai là thành viên của nhóm Hoa Hồng Trắng ("Weiße Rose"), một nhóm mà nòng cốt là các sinh viên München, tích cực hoạt động chống lại Đảng Quốc xã, đặc biệt là rải truyền đơn chống lại chiến tranh và chống lại chế độ độc tài của Adolf Hitler. Cả hai bị bắt trong khi đang phát truyền đơn và bị chính quyền Đức Quốc xã tử hình. Ở nước Đức thời hậu chiến, Hans và Sophie Scholl được công nhận là biểu tượng của cuộc kháng chiến của người Đức chống lại chế độ độc tài Quốc xã. Thân thế. Hans Scholl và Sophie Scholl là hai anh em trong trong gia đình 6 anh chị em gồm: Inge (nữ; 1917–1998), Hans (nam; 1918–1943), Elisabeth (nữ; 1920–2020), Sophie (nữ; 1921–1943), Werner (nam; 1922–1944) và Thilde Scholl (nữ; 1925–1926). Họ là con của Robert Scholl (1891–1973) và Magdalena Scholl, nhũ danh Müller (1881–1958). Họ còn có một người anh cùng cha khác mẹ Ernst Gruele (1915–1991). Gia đình Scholl ban đầu sống ở Forchtenberg cho đến năm 1930, sau đó họ đến ở Ludwigsburg từ năm 1930 đến năm 1932, và ở Ulm (cả Württemberg) từ năm 1932. Cũng như nhiều thanh thiếu niên thời bấy giờ, Hans đã chọn gia nhập Đoàn Thanh niên Hitler vào ngày 15 tháng 4 năm 1933. Ông nhanh chóng trở thành một thành viên nhiệt thành và thăng dần lên các vị trí lãnh đạo. Tuy nhiên, đến năm 1935, thái độ của Hans đối với chế độ Quốc xã dần dần thay đổi. Một lý do quan trọng là ông ngày càng trở nên chán ghét với sự cuồng tín được phát huy trong Đoàn Thanh niên Hitler và sự phục tùng vô điều kiện đối với các cơ cấu quyền lực cai trị trong chế độ Quốc xã. Cũng như người anh trai của mình, Sophie cũng sớm gia nhập Liên đoàn Nữ Thanh niên Đức và cũng nhanh chóng thăng lên các vị trí lãnh đạo. Cô cũng sớm vỡ mộng với những tư tưởng của Đảng Quốc xã. Năm 1936, Hans và Sophie tham gia sinh hoạt trong nhóm của Liên đoàn Thanh niên Đức từ ngày 1 tháng 11 năm 1929 ("Deutsche Jungenschaft vom 1.11.1929", gọi tắt là "dj.1.11"), một tổ chức thanh niên nằm ngoài sự kiểm soát của Đảng Quốc xã. Vào mùa thu năm 1937, Sophie và các anh chị em của cô từng bị bắt trong vài giờ vì Hans bị buộc tội tham gia vào tổ chức mà Đảng Quốc xã xem là phi pháp. Nhóm Hoa Hồng Trắng. Mùa xuân năm 1939, Hans theo học y khoa tại Đại học Ludwig Maximilian München (LMU). Tại đây, ông đã tiếp xúc với các giáo sư và sinh viên ít nhiều mang tư tưởng tự do và phản đối chế độ Quốc xã. Trong kỳ nghỉ giữa học kỳ, ông được chuyển sang làm lính cứu thương phục vụ mặt trận và nhận cấp bậc trung sĩ quân y trong chiến dịch nước Pháp. Những trải nghiệm thực tế ở chiến trường đã củng cố lập trường cá nhân của ông chống lại những kẻ thống trị và chiến tranh nói riêng. Trở về LMU, từ một sinh viên y khoa, Hans đã bắt đầu thể hiện sự quan tâm đến các ngành tôn giáo, triết học và nghệ thuật. Tháng 5 năm 1942, Sophie đăng ký theo học ngành sinh học và triết học tại LMU. Cô nhanh chóng được Hans giới thiệu với những bạn bè đồng chí của mình tại LMU. Kết án tử hình. Hai anh em Hans và Sophie Scholl bị bắt gặp bởi giám thị LMU Jakob Schmid trong lúc rải truyền đơn vào ngày 18 tháng 2 năm 1943 và ông này đã báo cáo Gestapo bắt giữ. Thời điểm bấy giờ, sau những chiến thắng ban đầu, chế độ Đức Quốc xã rơi vào thế sa lầy trong chiến tranh. Người dân Đức ngày càng hiểu rõ hơn về những mất mát và thiệt hại của chiến tranh. Mùa hè năm 1942, Wehrmacht mở Chiến dịch Blau hòng giành lại thế chủ động sau thất bại trước đó ở gần Moskva. Sau khởi đầu rất thành công, đến mùa thu năm 1942, chiến dịch nhanh chóng đi vào thế bế tắc, thậm chí đối mặt với một thất bại lớn trong trận Stalingrad. Vì vậy, chế độ Quốc xã đã phản ứng một cách tàn bạo với các thành viên Hoa Hồng Trắng. Một "tòa án nhân dân" ("Volksgerichtshof") được nhanh chóng thành lập, xét xử bất chấp trình tự tố tụng, nhằm trấn áp triệt để những quan điểm không có lợi với tư tưởng Quốc xã. Ngày 22 tháng 2 năm 1943, anh em Scholl và các đồng chí đã bị đưa ra xét xử chóng vánh và bị quan tòa Roland Freisler kết án tử hình trong cùng ngày hôm đó. Bản án được đao phủ Johann Reichhart thực hiện bằng máy chém tại nhà tù Stadelheim ở München. Xác của họ được chôn ở ngôi mộ ở nghĩa trang Perlacher Forst (Grab Nr. 73-1-18/19). Ảnh hưởng. Trong thời gian tồn tại ngắn ngủi của mình, nhóm Hoa Hồng Trắng đã cho ra đời 6 tờ truyền đơn, được phát tán với tổng số khoảng 15.000 bản. Nội dung truyền đơn tố cáo tội ác và sự áp bức của chế độ Quốc xã, đồng thời kêu gọi phản kháng. Đặc biệt, trong tờ truyền đơn thứ hai, nhóm đã công khai tố cáo cuộc đàn áp và diệt chủng hàng loạt người Do Thái. Sau chiến tranh, "Anh em nhà Scholl" được tôn vinh và được xem là những nhân vật quan trọng trong cuộc đấu tranh dựa trên những giá trị nhân bản trong nước Đức chống lại chế độ Quốc xã độc tài toàn trị.
1
null
Vụ án Huỳnh Thị Huyền Như chiếm đoạt hơn 600.955 tỷ Việt Nam đồng xảy ra tại là vụ án lớn nhất trong lịch sử ngành Ngân hàng Việt Nam. Đây là một trong những vụ án kinh tế lớn nhất tại Việt Nam trong lịch sử hiện đại, với 23 bị cáo, và 47 luật sư bảo vệ cho bị cáo cũng như nguyên cáo. Nếu xét về số tiền thiệt hại, tuy không bằng Vụ án EPCO - Minh Phụng, nhưng mức độ thiệt hại thực tế thì lại là lớn nhất từ trước đến nay (nguy cơ mất trắng 3.300 tỷ). Thời gian phạm tội kéo dài từ năm 2003 đến thời điểm khởi tố (tháng 9/ 2009). Tổng số tiền các đối tượng đã huy động trong vụ án này lên đến hàng chục ngàn tỷ đồng. Diễn biến. Huỳnh Thị Huyền Như, nguyên là Phó phòng quản lý rủi ro Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (Vietinbank) chi nhánh TP.HCM, Quyền Trưởng phòng Giao dịch Điện Biên Phủ, đã lừa đảo chiếm đoạt tiền của 9 công ty, 4 ngân hàng, 3 cá nhân. Các ngân hàng bị lừa là Ngân hàng Công Thương (Vietinbank), Ngân hàng ACB, Ngân hàng Nam Việt và Ngân hàng TMCP Tiên Phong (TPB), Ngân hàng Quốc tế VIB chi nhánh TP.HCM 180 tỷ đồng. Công ty cổ phần chứng khoán SaigonBank - Berjaya (viết tắt là SBBS) bị gạt 210 tỷ đồng. Huy động vốn với lãi suất cao. Có con dấu giả, Như và đồng bọn đã trực tiếp dùng các hợp đồng giả và chữ ký giả huy động vốn từ các ngân hàng, doanh nghiệp, công ty chứng khoán để vay vốn với những lời mời hết sức hấp dẫn như: Ngoài lãi suất 14% theo quy định còn trả thêm ngoài hợp đồng 8 - 10%/năm. Nhiều doanh nghiệp đã sập bẫy. Các doanh nghiệp đều tin là Như dùng hợp đồng thật, con dấu thật. Vì vậy, họ đã gửi tài liệu xin mở tài khoản thanh toán tại Ngân hàng Công thương, chi nhánh TP HCM để Như mở hộ. Chính điều này đã tạo điều kiện cho Như làm giả chữ ký chủ tài khoản ngay từ khi mở tài khoản. Tiền cho vay gửi vào tài khoản thanh toán của doanh nghiệp cho phép Như tự trích. Sau khi tất toán hợp đồng thì tự hủy; hợp đồng tiền gửi có kỳ hạn được thế chấp vay vốn ở ngân hàng khác trừ Ngân hàng Công thương và chuyển tiền về những "địa chỉ" do Như sắp đặt. Ngay sau khi nhận được tiền vay, Như chuyển tiền mặt và chuyển khoản trả sòng phẳng cho các cá nhân đã "tạo điều kiện" cho Như tại các ngân hàng, doanh nghiệp theo thỏa thuận. Vì vậy, trong một thời gian dài Như có uy tín rất lớn. 3 công ty Phúc Vinh, Thịnh Phát và Công ty Hưng Yên bị Huỳnh Thị Huyền Như lừa với số tiền bị mất lên tới xấp xỉ 1.600 tỷ đồng. Đánh tráo hồ sơ mở tài khoản, giả chứng từ để chuyển tiền rút tiền. Là Giám đốc Phòng Giao dịch của Ngân hàng Công thương, hiểu biết rõ về nghiệp vụ ngân hàng, sau khi Ngân hàng Công thương nhận hồ sơ mở tài khoản của khách hàng, Huyền Như đã lập hồ sơ mở tài khoản giả, chữ ký giả, dấu giả để đánh tráo hồ sơ mở tài khoản do khách hàng lập. Sau khi khách hàng chuyển tiền vào tài khoản của khách hàng tại Ngân hàng Công thương, Huyền Như lập lệnh chi giả, lệnh chuyển tiền giả để chiếm đoạt tiền trên tài khoản tiền gửi của khách hàng tại Ngân hàng Công thương. Với thủ đoạn như vậy, Huyền Như đã làm giả 127 lệnh chi, chiếm đoạt 1.598 tỷ từ tài khoản tiền gửi của ba công ty Phúc Vinh, Thịnh Phát và Hưng yên, 50 tỷ đồng của hai cá nhân Nguyệt và Bé Năm. Giả chứng từ để chuyển tiền, rút tiền. Huyền Như đã dùng chữ ký giả, dấu giả lập các lệnh chi, chứng từ chuyển tiền, rút tiền chiếm đoạt tiền gửi tại Ngân hàng Công thương, chiếm đoạt 210 tỷ đồng từ tài khoản của Công ty CP CK Saigonbank-Berjaya (SBBS), chiếm đoạt 550,35 tỷ từ tài khoản của Công ty Phương Đông và Công ty An Lộc. Huyền Như còn tự ý lập 16 thẻ tiết kiệm với số tiền hơn 81 tỷ đứng tên khách hàng gửi tiền, làm giả 16 Lệnh chi, ký giả chữ ký của 9 chủ thẻ tiết kiệm này để rút tiền, chiếm đoạt. Chiếm đoạt. Từ tháng 3-2004 đến 9-2009, ACB của Bầu Kiên ủy thác cho 19 nhân viên gửi tổng cộng gần 719 tỷ đồng vào VietinBank (Chi nhánh Nhà Bè và Chi nhánh TP HCM) với lãi suất từ 17,8% - 18,5%/năm song bị Huyền Như chiếm đoạt toàn bộ. Huyền Như tự ý chuyển đi trên hệ thống máy tính, chiếm đoạt gần 125 tỷ đồng từ tài khoản của Công ty cổ phần bảo hiểm Toàn cầu. Huyền Như còn huy động rất nhiều tiền của các môi giới, nhà đầu tư cổ phiếu OTC (thị trường cổ phiếu chưa niêm yết), bất động sản với lãi suất 5%/tháng để thực hiện các dịch vụ đáo nợ ngân hàng, nhưng thực chất để lừa đảo, quỵt nợ. Dùng hồ sơ giả để vay tiền của Ngân hàng Công thương. Theo kết luận điều tra, Huyền Như tự ý giả chữ ký, lập 83 thẻ tiết kiệm do Ngân hàng Công thương phát hành trị giá 533,55 tỷ đồng đứng tên các khách hàng gửi tiền. trên cơ sở hợp đồng tiền ký gửi với Vietinbank, các nhân viên Ngân hàng ACB, ngân hàng Nam Việt đã chuyển tiền vào tài khoản của từng người mở tại Ngân hàng Công thương. Sau đó Huyền Như sử dụng trái phép các thẻ tiết kiệm này làm tài sản bảo đảm, lập hợp đồng vay tiền giả, ký giả chữ ký của chủ thẻ để vay 514,54 tỷ đồng tại 2 phòng giao dịch Điên Biên Phủ và Đinh Tiên Hoàng thuộc Ngân hàng Công thương TP.HCM. Các cán bộ của Phòng giao dịch Ngân hàng Công thương đã vi phạm quy định về cho vay, đề xuất lãnh đạo duyệt cho vay, ký hợp đồng cho vay mà không có mặt của người vay hoặc người bảo lãnh tại Ngân hàng. Sau khi biết bị Huyền Như lừa, Ngân hàng Công thương vẫn dùng số tiền từ thẻ tiết kiệm đã được cầm cố để thu hồi các khoản nợ đã cho vay sai mà không có sự đồng ý của chủ thẻ tiết kiệm. Nguyên nhân, mô hình Ponzi. Huyền Như đầu tư cổ phiếu với khối lượng rất lớn trên thị trường chứng khoán. Như là một trong những khách hàng VIP của nhiều công ty chứng khoán vì số vốn vài chục tỷ đồng và cũng có "danh" của chồng làm bảo chứng. Sau một thời gian giao dịch, giao dịch rất lớn, Như trở thành khách hàng thân thiết của các CTCK và được hưởng những đặc quyền như tăng tỷ lệ sử dụng đòn bẩy và chậm thanh toán. Tính từ tháng 5-2010 đến nay, TTCK giảm nhiều hơn tăng, khó khăn ngày càng chồng chất, càng đánh lớn, càng lỗ nặng. Thua lỗ, cộng với áp lực trả lãi với lãi suất khủng Như lại càng say máu hơn nữa. Bên cạnh đó từ đầu năm 2003, khi là cán bộ tín dụng VietinBank Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh, Như đã vay hơn 200 tỷ đồng của nhiều ngân hàng, tổ chức, cá nhân để kinh doanh bất động sản tại Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đà Lạt, Quảng Nam và An Giang. Đến năm 2006, do kinh doanh thua lỗ và phải trả lãi suất cao, Như không có khả năng thanh toán. Trong quá trình kinh doanh, do cần nguồn vốn nên Như đã vay nóng lãi suất cao của hàng chục cá nhân. Số tiền vay đến năm 2006 lên đến hàng trăm tỷ đồng, Như không có khả năng thanh toán. Nguyễn Thị Phương Hoàng Trung cho Như vay tiền với lãi suất cao gấp 10,66 lần so với lãi suất cao nhất của Ngân hàng Nhà nước quy định, đã hưởng tiền lãi trên 660 tỷ đồng. Để cần tiền chơi và tiền trả khoản thua lỗ, Huyền Như chiếm đoạt và lừa đảo các khách hàng của Vietinbank. Đây cũng là một vụ lừa đảo theo Mô hình Ponzi (Ponzi scheme), tiền lừa của người sau để trả lãi cho các khoản vay trước, vì vậy số tiền cần huy động ngày càng tăng. Ủy thác đầu tư. Một trong những lý do Huyền Như có khả năng huy động một lượng tiền lớn như vậy vì: Trong vòng 18 tháng, từ tháng 5-2010 đến tháng 11-2011 một số ngân hàng đã ủy thác cho nhân viên gửi tiền vào các ngân hàng khác với lãi suất cao hơn quy định. Theo cơ quan điều tra, ở ACB con số ủy thác là 36 ngàn tỷ đồng vào 29 ngân hàng khác. Thời điểm đó chính sách thắt chặt tiền tệ bắt đầu guồng quay nhanh, mặt bằng lãi suất được nâng lên qua việc tăng dần trần lãi suất huy động. Những ngân hàng yếu kém ngay lập tức gặp vấn đề thanh khoản và khi kênh liên ngân hàng trục trặc do yêu cầu của người cho vay đòi hỏi người vay phải có tài sản thế chấp (thường là vàng, ngoại tệ), huy động vốn từ dân cư, doanh nghiệp là con đường duy nhất để "chữa cháy" thanh khoản bấy giờ. Trần lãi suất huy động đã bị xé rào trên diện rộng. Ngân hàng lách đủ kiểu để trả cho người gửi tiền mức lãi suất cao hơn trần. Trên các bảng niêm yết lãi suất tiết kiệm của ngân hàng và trong số tiền gửi của người dân, lãi suất là một đường thẳng băng đồng loạt 14%, nhưng thực tế người ta nhận được lãi suất tới 17-19%/năm, thậm chí 20%/năm nếu số tiền lên tới hàng tỷ đồng. Nhiều ngân hàng dư thừa vốn, trong khi các ngân hàng yếu kém rất cần vốn, mà Ngân hàng nhà nước lại áp đặt mức lãi suất trần. Vì vậy, "kế sách" ủy thác cho nhân viên gửi tiền vào ngân hàng khác xuất hiện. Trong vụ vỡ nợ của Huỳnh Thị Huyền Như (Hà Nội), bà Như đã dùng các công ty "sân sau"... để ký hợp đồng uỷ thác đầu tư nhằm huy động vốn, sau đó lại chuyển toàn bộ số tiền về doanh nghiệp của bà Như (doanh nghiệp nhận vốn đầu tư). Với hình thức hợp đồng uỷ thác đầu tư và kẽ hở của các ngân hàng đã giúp bà Như huy động lên tới hàng ngàn tỷ đồng rồi chiếm đoạt. Hậu quả là các nhà đầu tư trót giao vốn uỷ thác đầu tư trắng tay. Trong vụ án Huyền Như, ACB đã gửi vào chi nhánh Nhà Bè và chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh của Ngân hàng Công Thương 719 tỷ đồng, Ngân hàng Hàng Hải, qua các bước dích dắc, cũng gửi vào chi nhánh Vietinbank Nhà Bè 2.500 tỷ đồng, Ngân hàng Nam Việt gửi 1.500 tỷ đồng, Ngân hàng Tiên Phong (TienPhongBank) gửi 1.860 tỷ đồng. Khuất tất sau vụ án. Có nhiều câu hỏi liên quan đến số tiền gần 5 ngàn tỷ đã đi đâu. Số tiền trả lãi vay không lớn đến như vậy. Theo đó, có nguy cơ mất trắng 3.300 tỷ đồng. Vietinbank tuyên bố không chịu trách nhiệm bồi hoàn các khoản lừa đảo của Huyền Như, nói rằng Huyền Như lừa đảo, dùng dấu giả. Vì vậy, Huyền Như chỉ mắc tội lừa đảo (án cao nhất là chung thân) chứ không phải là tham ô (án cao nhất là tử hình). Vì là vụ lừa đảo nên Vietinbank cho rằng mình vô can. Tòa sơ thẩm. Ngày 24 tháng 1 năm 2014, Huyền Như nhận án chung thân cho tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và 6 năm tù cho tội làm giả con dấu của cơ quan tổ chức, chị gái Huyền Như là Huỳnh Thị Mỹ Hạnh lĩnh án 14 năm tù, “nữ đại gia” Thiên Lý nhận án 2 năm (tổng hợp hình phạt trước đó 4 năm là 6 năm tù). VKSND TP HCM cho biết vừa ký quyết định kháng nghị yêu cầu cấp phúc thẩm xử theo hướng tăng hình phạt đối với Võ Anh Tuấn (nguyên cán bộ Văn phòng VietinBank Chi nhánh TP HCM) về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và Đào Thị Tuyết Dung (SN 1969, nguyên Giám đốc Công ty TNHH Dung Vân) về 2 tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “Cho vay nặng lãi”. Trong phiên sơ thẩm, đại diện VKS giữ quyền công tố đã đề nghị mức án từ 18,5 năm tù đến 21 năm tù đối với bị cáo Đào Thị Tuyết Dung và tù chung thân đối với Võ Anh Tuấn nhưng TAND cùng cấp chỉ xử phạt Dung 12 năm tù và Tuấn 20 năm tù. Tại phiên tòa mở lại ngày 20-5-2014, Thẩm phán Nguyễn Hữu Chính, Chủ tọa phiên tòa đã công bố các tài liệu liên quan đến sức khỏe của ông Trần Xuân Giá. Theo đó, các bác sỹ chẩn đoán ông Giá ung thư đại tràng, cùng nhiều bệnh nặng khác. Hiện sức khỏe yếu. các đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố tại tòa cho rằng ông Giá đã có các lời khai trong quá trình điều tra, do vậy, không nên để việc bị cáo Giá ảnh hưởng đến quá trình xét xử, do đó, đề nghị Hội đòng xét xử tạm đình chỉ vụ án đối với ông Giá vì lý do sức khỏe. khi này lý do đó không tồn tại sẽ xét xử sau. Luật sư của ông Trần Xuân Giá ủng hộ ý kiến này. Sau 10 phút hội ý, Hội đồng xét xử quyết định đình chỉ vụ án dối với bị can Trần Xuân Giá. Tòa phúc thẩm. Ngày 24.12.2014, phát biểu quan điểm trong phiên xét xử phúc thẩm Huỳnh Thị Huyền Như, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao nhận định bản án sơ thẩm sai sót nghiêm trọng và kiến nghị tòa hủy, sửa một phần để điều tra xét xử lại Huyền Như theo tội danh tham ô tài sản. Viện KSND tối cao cho rằng là người có trách nhiệm và quyền hạn của Ngân hàng VietinBank, Huyền Như đã chiếm đoạt 1.085 tỷ đồng của VietinBank mà trước đó bản án sơ thẩm xác định số tiền này do Huyền Như lừa đảo của các doanh nghiệp. Viện kiểm sát cho rằng Công ty Phương Đông là khách hàng của VietinBank từ trước. Tương tự là trường hợp của các khách hàng khác là Công ty Hưng Yên, An Lộc, SBBS, Hoàn Cầu. Toàn bộ số tiền của năm công ty này là 1.085 tỷ đồng đã được các công ty mở và gửi vào tài khoản hợp lệ, hợp pháp, tiền này cũng đã vào đến hệ thống của VietinBank và được thống kê kế toán của VietinBank. Hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi cho thấy Như chỉ chiếm đoạt sau khi tiền gửi hợp pháp đã vào VietinBank. Viện kiểm sát đề nghị hội đồng xét xử tuyên buộc VietinBank phải có trách nhiệm trả tiền cho các khách hàng khi đánh mất tiền của họ. Cùng gửi tiền vào VietinBank giống năm công ty, cùng bị chiếm đoạt, nhưng hai ngân hàng ACB và NaviBank đã bị viện kiểm sát đề nghị bác toàn bộ kháng cáo về trách nhiệm dân sự trong vụ án. Viện kiểm sát cho rằng hai ngân hàng này đã tự đặt mình vào tình trạng pháp lý để pháp luật không thể bảo vệ: “Việc mất tiền của ACB xuất phát từ lỗi của lãnh đạo ACB và Huỳnh Thị Bảo Ngọc và lỗi của nhân viên ACB tạo điều kiện thuận lợi cho Huyền Như chiếm đoạt. Chính ACB đã giao dịch trái pháp luật nên không được pháp luật bảo vệ, và vì lý do đó ACB phải chịu trách nhiệm về việc bị Huyền Như lừa đảo chiếm đoạt 718 tỷ đồng”. Về việc bác kháng cáo của NaviBank, đại diện viện kiểm sát cho rằng cũng giống ACB, NaviBank đã có hành vi trái pháp luật là gửi tiền vào VietinBank để hưởng lãi suất chênh lệch bằng cách lập các hợp đồng tín dụng giả tạo để lách luật cho vay. Ngày 7 tháng 1 năm 2015, Tòa phúc thẩm đã xử VietinBank phải bồi thường cho 5 công ty nêu trên, kiến nghị khởi tố vụ án đối với Trương Minh Hoàng, Nguyễn Thị Minh Hương (nguyên Phó giám đốc Vietinbank chi nhánh TP HCM) liên quan đến việc ký kết các hợp đồng tiền gửi của Ngân hàng ACB và một số công ty khác, tạo điều kiện để Như làm giả chữ ký chiếm đoạt tiền; kiến nghị xem xét trách nhiệm của ông Nguyễn Văn Sẻ (nguyên giám đốc Vietinbank chi nhánh TP HCM), điều tra làm rõ trách nhiệm về việc để xảy ra tình trạng sai phạm kéo dài ở Vietinbank. Vụ án 5 công ty đòi tiền VietinBank. Tại phiên tòa ngày 8-2-2018, đại diện của 5 doanh nghiệp gồm: Công ty CP Chứng khoán Saigonbank-Berjaya, Công ty CP Đầu tư Hưng Yên, Công ty CP Chứng khoán Phương Đông, Công ty CP Bảo hiểm Toàn Cầu, Công ty CP Đầu tư Thương mại An Lộc đòi VietinBank Việt Nam phải trả cho các doanh nghiệp này toàn bộ tiền gốc (số tiền bị Huỳnh Thị Huyền Như chiếm đoạt là trên 1.085 tỷ đồng) cộng với lãi suất theo quy định. Họ cho là, đã gửi tiền vào tài khoản của mình tại VietinBank theo đúng quy định của VietinBank, việc Huỳnh Thị Huyền Như tự rút tiền từ những tài khoản này là chuyện nội bộ của ngân hàng. Số tiền đòi bồi thường cụ thể là Công ty Hưng Yên hơn 400 tỷ đồng, Công ty CP chứng khoán Saigonbank-Berjaya hơn 220 tỷ đồng, Công ty Bảo hiểm Toàn Cầu hơn 149 tỷ đồng; Công ty Phương Đông gần 900 tỷ đồng và Công ty An Lộc 400 tỷ đồng.
1
null
Phú dưỡng hay phì dưỡng là một phản ứng của hệ sinh thái khi quá nhiều chất dinh dưỡng như nitrat và phosphat từ các loại phân bón hoặc nước cống rãnh bị thải vào môi trường nước. Thông thường, khi hàm lượng nitrogen (N) lớn hơn 300 µg/l và phosphorus (P) lớn hơn 20 µg/l trong nước được xem là phú dưỡng. Một ví dụ là nước "nở hoa" hoặc gia tăng đột biến các thực vật phù du trong vực nước khi gia tăng lượng chất dinh dưỡng trong nước. Tác hại. Hiện tượng này làm ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường như thiếu dưỡng khí, làm cạn kiệt oxy hòa tan trong nước, làm giảm số lượng các thể cá và các quần thể động vật khác. Các loài khác (như sứa Nomura trong các vực nước của Nhật Bản) có thể gia tăng số cá thể làm ảnh hưởng tiêu cực đến các loài khác.
1
null
Sứa Nomura, , tên khoa học Nemopilema nomurai, là một loài sứa rất lớn, có kích thước cùng nhóm với sứa sư tử, là cnidaria lớn nhất trên thế giới. Đây là loài ăn được nhưng không được xem là chất lượng cao. Tổng quan. Đường kính của nó khi bung ra hơi lớn hơn chiều cao của người bình thường. Loài này được đặt thheo tên ông Kan'ichi Nomura (C18–C19), tổng giám đốc Trung tâm thực nghiệm Cá tỉnh Fukui, ông là người đã gởi mẫu sứa này trong một bồn chứa bằng gỗ dung tích 72 lít vào đầu tháng 12 năm 1921 đến Kishinouye. Kishinouye đã nhận thấy rằng nó là một loài chưa được biết đến và đã mất nhiều thời gian để nghiên cứu tiêu bản sống này.
1
null
Neolucanus baongocae là một loài bọ cánh cứng thuộc họ Kẹp kìm được nhà khoa học thuộc khoa côn trùng và động vật y học, Viện Vệ sinh dịch tễ Quân đội tìm thấy tháng 5 năm 2013 tại vườn quốc gia Bidoup Núi Bà, tỉnh Lâm Đồng, Tây Nguyên, Nam Trung Bộ, Miền Trung Việt Nam và được công bố trên tạp chí Zootaxa số 3741, tháng 11 năm 2013. Phát hiện và đặt tên. Tháng 11 năm 2013, Thạc sĩ Nguyễn Quang Thái ( Viện Vệ Sinh phòng dịch Quân đội – Cục Quân y ) đã phát hiện và công bố một loài kẹp kìm mới cho khoa học, loài "Neolucanus baongocae". Loài kẹp kìm mới được đặt tên theo tên con gái 1 tuổi của tác giả, Nguyễn Bảo Ngọc. Loài kẹp kìm mới "Neolucanus baongocae" có màu sắc đặc biệt rực rỡ và hiếm thấy so với các loài kẹp kìm đã được phát hiện. Mô tả. "Neolucanus baongocae" có đôi cánh màu vàng nâu, viền đen và tấm ngực trước có màu đỏ mận, đầu và các chi có màu đen bóng, loài kẹp kìm mới N. baongocae được phát hiện ở Lâm Đồng này trở thành loài kẹp kìm Lucanidae có màu sắc rực rỡ nhất từng được biết tới ở Việt Nam. Đặc điểm về màu sắc cũng trở thành một trong số các đặc điểm đặc trưng để phân biệt N. baongocae với các loài khác trong giống Neolucanus. Về đặc điểm hình thái ngoài, loài N. baongocae rất gần với loài Neolucanus fuscus. Nhưng khi so sánh N. baongocae và mẫu vật N. fuscus thu được ở Vườn Quốc gia Tam Đảo – Vĩnh Phúc tác giả đã chỉ rõ: loài N. baongocae có một răng mập mọc lên trên hướng vào trong nằm ở chính giữa hàm trên, đây là đặc điểm quan trọng của loài và khác với các loài còn lại.
1
null
Ngân hàng thương mại trách nhiệm hữu hạn một thành viên Xây dựng Việt Nam (tên cũ Ngân hàng thương mại cổ phần Xây dựng Việt Nam, tên gọi tắt: Ngân hàng Xây dựng Việt Nam, tên tiếng Anh: "Vietnam Construction Bank", tên viết tắt: "VNCB") là một Ngân hàng thương mại đa chức năng tại Việt Nam. Tính đến cuối năm 2013, Ngân hàng có vốn điều lệ 7.500 tỷ đồng. Ngày 2 tháng 2 năm 2014, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát đi thông báo về việc xử lý đặc biệt đối với Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xây dựng Việt Nam, theo đó, Ngân hàng Nhà nước quyết định sẽ mua lại bắt buộc toàn bộ vốn cổ phần của VNCB với giá bằng 0 đồng/cổ phần (quốc hữu hóa) và trở thành chủ sở hữu (100% vốn điều lệ) của VNCB. Lịch sử hình thành và hoạt động. Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Tín. Năm 1989, VNCB được thành lập với tên gọi khai sinh là Ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn Rạch Kiến theo Quyết định số 1114/UB.QÐ ngày 21-7-1989 của UBND tỉnh Long An và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1 tháng 9 năm 1989. Thời điểm thành lập, Ngân hàng đối mặt với nhiều khó khăn trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam chuyển đổi từ kinh tế hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Chính phủ. Bằng sự nỗ lực, Ngân hàng đã vượt qua giai đoạn khủng hoảng hệ thống tín dụng vào đầu những năm 1990. Ngày 29 tháng 12 năm 1993, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp giấy phép số 0047/NH-GP về việc chấp thuận cho Ngân hàng TMCP nông thôn Rạch Kiến thành lập và hoạt động. Giai đoạn từ năm 1990 đến 1999, Ngân hàng ổn định hoạt động, bước đầu có sự tăng trưởng qua từng năm. Giai đoạn từ năm 1999 đến 2005: Ngân hàng giữ vững các chỉ tiêu tăng trưởng đều đặn qua từng năm. Ngày 17/08/2007, theo quyết định số 1931/QĐ-NHNN, VNCB được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc chuyển đổi mô hình hoạt động thành Ngân hàng thương mại cổ phần đô thị với tên gọi là Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Tín (TrustBank). Giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2010: Giai đoạn Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Tín tăng trưởng với tốc độ nhanh và ổn định. Đến 31/12/2010 vốn điều lệ Ngân hàng đạt 3.000 tỷ đồng, tổng tài sản đạt 19.762 tỷ đồng; lợi nhuận đạt 302 tỷ đồng, đạt 103 điểm trên toàn quốc. Giai đoạn từ năm 2011 đến 2012: Ngân hàng đối mặt với nhiều khó khăn thách thức do ảnh hưởng suy thoái chung của kinh tế toàn cầu cũng như tình hình khó khăn, khủng hoảng kinh tế tại Việt Nam, tỉ lệ nợ xấu tăng lên. Đại Tín khi đó thuộc nhóm 09 ngân hàng phải thực hiện tái cơ cấu theo yêu cầu của Chính phủ. Cuối năm 2012, đề án tái cơ cấu Ngân hàng TMCP Đại Tín với sự tham gia của nhóm cổ đông chiến lược mới được hoàn thiện và chính thức được Ngân hàng Ngân hàng Nhà nước phê duyệt. Ngân hàng thương mại cổ phần Xây dựng Việt Nam. Tháng 5/2013, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành quyết định số 1161/QĐ-NHNN về việc thay đổi tên gọi của Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Tín, theo đó, tên gọi mới chính thức là Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam (Tên viết tắt tiếng Việt và tiếng Anh là Ngân hàng xây dựng Việt Nam và Vietnam Construction Bank) với chiến lược phát triển đáp ứng nhu cầu thiết thực của nền kinh tế Việt Nam nói chung và của ngành xây dựng nói riêng. Theo đó, Ngân hàng Xây dựng Việt Nam là ngân hàng đa năng, tập trung hoạt động theo hướng cung cấp các dịch vụ ngân hàng đặc thù đến các khách hàng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng, xây dựng nhà ở xã hội, nhà trả chậm... Đồng thời, ngân hàng cũng triển khai thực hiện theo các chủ trương của Chính phủ tại các nghị quyết 01/NQ-CP và 02/NQ-CP trong việc đồng hành cùng các doanh nghiệp bất động sản, xây dựng, tháo gỡ khó khăn, giải phóng hàng hóa tồn đọng, hỗ trợ sự phát triển của thị trường... Qua đó, ông Phan Thành Mai, Tổng thư ký Hiệp hội bất động sản Việt Nam được giới thiệu với vai trò là phó tổng giám đốc thường trực Ngân hàng, tuy nhiên những thành viên HĐQT của Ngân hàng Xây dựng không được công bố công khai trên website ngân hàng này như những nhà băng khác vẫn làm. Theo nhận định của ông Nguyễn Xuân Thành, giám đốc Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, thì VNCB ra đời đứng đằng sau là một tập đoàn xây dựng và một nhóm cổ đông bất động sản. Theo tờ báo Kinh tế Sài Gòn Online, từ đầu tháng 2-2013 tập đoàn Thiên Thanh - cổ đông mới - đã chính thức tiếp quản Ngân hàng TMCP Đại Tín. Ngày 26/12/2013, VNCB có báo cáo chính thức vốn điều lệ đạt mốc 7.500 tỷ đồng. Ngày 13/05/2014, Ngân hàng Xây dựng Việt Nam (VNCB) cùng với 07 Ngân hàng khác gồm: Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Công thương Việt Nam (Vietinbank), Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank), Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long (MHB), Bưu điện Liên Việt và Sài Gòn - Hà Nội thuộc 8 ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước chỉ định thực hiện thí điểm gói sản phẩm tín dụng liên kết 4 nhà (ngân hàng, nhà đầu tư, nhà thầu, nhà cung cấp vật liệu) nhằm góp phần tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản, đẩy mạnh tiêu thụ hàng tồn kho bất động sản, hàng tồn kho vật liệu xây dựng... Mô hình sản phẩm liên kết này có thể tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có nợ quá hạn vay vốn, tháo gỡ khó khăn về vốn, hạn chế tình trạng đầu tư dang dở, lãng phí, nâng cao chất lượng tín dụng, giảm nợ xấu trong hoạt động ngân hàng.. Ngày 29/07/2014, tại VNCB có sự thay đổi nhân sự. Ba lãnh đạo Ngân hàng Xây dựng Việt Nam (ông Phạm Công Danh (nguyên Chủ tịch HĐQT), ông Phan Thành Mai (nguyên Tổng giám đốc, thành viên HĐQT) và ông Mai Hữu Khương (nguyên Giám đốc Chi nhánh Sài Gòn, thành viên HĐQT) bị bắt tạm giam để điều tra. Ngày hôm trước ban lãnh đạo mới đã được Ngân hàng bổ nhiệm thay thế. Tuy nhiên, việc thay đổi nhân sự này không ảnh hưởng đến hoạt động nghiệp vụ bình thường cũng như việc đảm bảo khả năng thanh khoản tại VNCB. Chiều ngày 1/8/2014, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Vietcombank và Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam – VNCB đã ký thỏa thuận hợp tác chiến lược toàn diện. Cụ thể, Vietcombank sẽ tham gia hỗ trợ VNCB thực hiện đề án tái cơ cấu ngân hàng, trong đó nội dung quan trọng nhất liên quan tới xử lý nợ xấu và hỗ trợ các vấn đề về thanh khoản. Ngân hàng thương mại trách nhiệm hữu hạn một thành viên Xây dựng Việt Nam. Tháng 3 năm 2015, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyết định chuyển đổi Ngân hàng thương mại cổ phần Xây dựng Việt Nam thành Ngân hàng thương mại trách nhiệm hữu hạn một thành viên Xây dựng Việt Nam do Nhà nước Việt Nam làm chủ sở hữu. Ngân hàng ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) quản trị ngân hàng này. Phó Tổng giám đốc Vietcombank Nguyễn Văn Tuân thôi các chức vụ ở Vietcombank và giữ chức vụ mới là Chủ tịch Ngân hàng thương mại trách nhiệm hữu hạn một thành viên Xây dựng Việt Nam. Cổ đông. Từ ngày 31/5/2013, Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam bao gồm 551 cổ đông, cụ thể: "Khối cổ đông pháp nhân": 06 cổ đông bao gồm: "Khối cổ đông thể nhân": gồm 545 cổ đông. Kể từ khi NHNN mua lại toàn bộ cổ phần với giá 0 đồng và chuyển đổi mô hình ngân hàng thành Ngân hàng TM TNHH MTV thì các cổ đông của ngân hàng chấm dứt tư cách của mình. Danh sách chi nhánh. Đến 31/10/2013, mạng lưới hoạt động của Ngân hàng Xây dựng Việt Nam đạt 112 điểm trên toàn quốc, dự kiến đạt 115 điểm vào cuối năm 2013. Hiện tại, mạng lưới gồm các Chi nhánh lớn: Tại mỗi Chi nhánh lớn bao gồm Chi nhánh và nhiều Phòng giao dịch phân bổ tại các địa bàn khu vực. Sản phẩm. Với Khách hàng cá nhân. Các sản phẩm chính mà VNCB đã, đang triển khai với khách hàng cá nhân: Khuyến mãi Sản phẩm tiền gửi Sản phẩm Tiền gửi thanh toán Cho vay Dịch vụ Với Khách hàng doanh nghiệp. Các sản phẩm chính mà VNCB đã, đang triển khai với khách hàng là doanh nghiệp: Cựu Lãnh đạo bị khởi tố và bắt giam. Ngày 29/07/2014, ba lãnh đạo Tập đoàn Thiên Thanh (cũng là cựu lãnh đạo VNCB) gồm ông Phạm Công Danh (nguyên Chủ tịch HĐQT), ông Phan Thành Mai (nguyên Tổng giám đốc, thành viên HĐQT) và ông Mai Hữu Khương (nguyên Giám đốc Chi nhánh Sài Gòn, thành viên HĐQT) đã bị khởi tố và bắt tạm giam để phục vụ điều tra vụ án Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (theo Điều 165 Bộ Luật hình sự) xảy ra tại Công ty TNHH Tập đoàn Thiên Thanh, TP Hồ Chí Minh. Ba ông này tham gia vào bộ máy quản trị Ngân hàng từ năm 2013 đến 28/07/2014 và một ngày trước khi bị bắt, cả ba ông đã bị Hội đồng quản trị VNCB bãi nhiệm chức vụ. Báo Đời sống & Pháp luật cho biết: "...những người này đã dùng sổ tiết kiệm của một doanh nghiệp để thế chấp 39 khoản vay tại VNCB; các chứng từ chuyển tiền không có chữ ký của chủ tài khoản... Khi quá hạn, không có khả năng thu nợ, gây thiệt hại cho VNCB hàng ngàn tỷ đồng...". Trước đó, ngày 28/7/2014, để bảo đảm hoạt động ổn định, an toàn và đúng pháp luật của VNCB, Hội đồng quản trị VNCB đã có các Quyết định miễn nhiệm các lãnh đạo của Tập đoàn Thiên Thanh có tham gia quản trị điều hành tại VNCB vừa bị bắt đồng thời thống nhất bầu, bổ nhiệm nhân sự thay thế. Ngân hàng Nhà nước đã phê chuẩn bà Vũ Bạch Yến - thành viên Hội đồng quản trị đồng thời là một cổ đông lớn của Ngân hàng làm Chủ tịch Hội đồng Quản trị và ông Đàm Minh Đức - Phó tổng giám đốc phụ trách chi nhánh Hà Nội của VNCB được bổ nhiệm làm Tổng giám đốc. Kể từ sau khi vụ việc xảy ra, Ngân hàng VNCB hoạt động dưới sự giám sát chặt chẽ của Tổ Giám sát do Ngân hàng Nhà nước thành lập. Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) cũng đã ký văn bản hợp tác toàn diện với mục đích hỗ trợ nhằm tái cơ cấu thành công Ngân hàng VNCB. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khẳng định sự thay đổi nhân sự trên không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của Ngân hàng Xây dựng Việt Nam, và mọi khoản tiền gửi của người dân đều được đảm bảo. Dưới sự chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước, VNCB đã có phương án nhân sự thay thế kịp thời đảm bảo công tác điều hành, ổn định tổ chức và các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng vẫn diễn ra bình thường. Thực tế cũng ghi nhận không có sự xáo trộn đáng kể nào tại VNCB sau sự việc trên, cũng không có hiện tượng rút tiền ồ ạt như đã diễn ra trước đó tại ACB. Ngân hàng Nhà nước khẳng định tiền gửi của khách hàng tại VNCB được bảo đảm an toàn. Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Phạm Đồng Tiến cho biết: "Đã có sự dự phòng các biện pháp hỗ trợ thanh khoản cho VNCB; đẩy mạnh tuyên truyền để người gửi tiền tại ngân hàng này yên tâm". Phó Thống đốc cũng khuyến cáo: Người gửi tiền không nên vội vàng rút tiền, ảnh hưởng đến quyền lợi của mình. Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước bảo đảm hoạt động của ngân hàng này an toàn, quyền lợi của khách hàng được bảo đảm".. Phó thống đốc khác, ông Phạm Phước Thanh cho biết thêm: "Ngân hàng Nhà nước chưa phải hỗ trợ về tiền cho VNCB - điều này cũng đồng nghĩa VNCB có tiềm lực tốt để đảm bảo thanh khoản, thanh toán đầy đủ cho khách hàng có nhu cầu rút tiền".. Ngày 30/6, Văn phòng Trung ương Đảng gửi các đơn vị liên quan Công văn số 1452-CV/VPTW, thông báo ý kiến chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đối với vụ án xảy ra tại Ngân hàng thương mại cổ phần xây dựng Việt Nam, yêu cầu Bí thư Đảng uỷ Công an Trung ương, Bí thư Ban cán sự đảng Toà án nhân dân tối cao, Bí thư Ban cán sự đảng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao chỉ đạo các cơ quan chức năng và phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan khẩn trương điều tra, sớm kết thúc để nhanh chóng đưa ra xét xử theo quy định của pháp luật..
1
null
Hội chứng Guillain-Barré (en:Guillain–Barré syndrome, viết tắt GBS) (, )), đôi khi còn gọi là chứng liệt Landry hoặc hội chứng Guillain-Barré-Strohl, là một bệnh đa dây thần kinh cấp, một rối loạn ảnh hưởng đến hệ thần kinh ngoại biên. Triệu chứng điển hình nhất là bàn chân và bàn tay bắt đầu yếu và liệt dần, sau đó lan dần vào trong thân. Một số dạng triệu chứng khác có thể làm thay đổi cảm giác, hoặc gây đau, cũng như làm rối loạn hệ thần kinh tự chủ (rối loạn hệ thần kinh thực vật; dysautonomia). Nó có thể gây những biến chứng nguy hiểm đến tính mạng, đặc biệt trong trường hợp các cơ của hệ hô hấp hoặc hệ thần kinh tự chủ bị ảnh hưởng. Bệnh thường do một nhiễm trùng gây ra. Việc chẩn đoán thường được thực hiện bởi các khảo sát dẫn truyền thần kinh và dịch não tủy. Nếu được điều trị kịp thời bằng truyền tĩnh mạch kháng thể miễn dịch liều cao (intravenous immunoglobulin - IVIG) hoặc lọc huyết tương (plasmapheresis), kết hợp với chăm sóc hỗ trợ, đa số sẽ được hồi phục hoàn toàn. Hội chứng Guillain-Barré rất hiếm gặp, khoảng 1-3 trường hợp trong 100.000 người mỗi năm, nhưng là nguyên nhân phổ biến nhất của tình trạng liệt cấp không liên quan đến chấn thương. Nam giới có khả năng mắc bệnh cao hơn phụ nữ 1,5 lần. Bệnh xảy ra ở mọi lứa tuổi. Hội chứng này được đặt theo tên của 2 thầy thuốc người Pháp Georges Guillain và Jean Alexandre Barré, những người đã mô tả nó vào năm 1916.
1
null
Temptastic là mini album đầu tiên của nhóm nhạc nữ Hàn Quốc T-ARA. Album đánh dấu sự xuất hiện đầu tiên của thành viên thứ 7 của nhóm: Hwayoung và trưởng nhóm thứ hai là Boram. Lịch sử. Ngày 15 tháng 11 năm 2010: T-ARA thông báo sẽ phát hành mini album đầu tiên của họ. Ngày 1 tháng 12 năm 2010: Temptastic được phát hành dưới dạng kỹ thuật số. Album vật lý ban đầu dự kiến phát hành vào cùng ​​ngày nhưng đã bị trì hoãn đến ngày 3 tháng 12 do vụ pháo kích Yeonpyeong. Quảng bá. Để quảng bá cho album, T-ARA phát hành hai ca khúc chủ đề. Một trong những ca khúc chủ đề: Why Are You Being Like This được phát hành để tải về dưới dạng kỹ thuật số vào ngày 23. Mini album và MV đầy đủ của Ya Ya Ya được phát hành vào ngày 01 tháng 12 năm 2010. Ca khúc chủ đề "Ya Ya Ya" được sản xuất bởi E-Tribe và các bài hát khác trong album là sự góp của các nhà sản xuất Shinsadong Tiger, Kim Do Hoon, Lee Sang Ho, và Choi Gyu Sung. T-ARA trở lại sân khấu trên Music Bank của đài KBS vào ngày 03 tháng 12 năm 2010.
1
null
True (cách điệu như TRUE) là album phòng thu đầu tay của DJ Thụy Điển Avicii. Nó được phát hành vào 13 tháng 9 năm 2013 thông qua PRMD Music / Universal Island và chi nhánh của Universal Music của nó. "True" có sự hợp tác với nghệ sĩ guitar và nhà sản xuất người Mỹ Nile Rodgers, nhạc sĩ nhạc đồng quê Mac Davis, Mike Einziger của ban nhạc rock Mỹ Incubus, ca sĩ nhạc Soul Mỹ Aloe Blacc, ca sĩ và nhạc sĩ Dan Tyminski của ban nhạc bluegrass Alison Krauss and Union Station,ca sĩ và nhạc sĩ Sterling Fox, và ca sĩ và nhạc sĩ người Mỹ Adam Lambert. Album đã thành công về mặt thương mại, cao nhất thuộc về top mười của ít nhất mười quốc gia, bao gồm cả vị trí số hai ở Vương quốc Anh.
1
null
Wae Ireoni ("왜이러니", "Why Are You Being Like This?") là một bài hát của nhóm nhạc nữ Hàn Quốc T-ara. Nó là bài hát mở đầu trong album Temptastic (2010). Bài hát đánh dấu sự xuất hiện lần đầu tiên của thành viên thứ 7 của nhóm Hwayoung. Bài hát được sản xuất bởi Yangpa, Kim Do hoon và Lee Sang-ho, bài hát lấy bối cảnh giống những năm 1980 và có sử dụng guitar điện trong giai điệu. Bài hát đạt vị trí số 4 trên bảng xếp hạng "Gaon" hàng tuần, thứ 9 trong bảng xếp hạng hàng tháng, và thứ 155 trong bảng xếp hạng hàng năm với 1,058,623 bản được bán ra. MV của "Wae Ireoni", được đạo diễn bởi Lee Dae-jin, mô tả nhóm tham gia một bữa tiệc, các thành viên khích lệ Jiyeon đến gần với người yêu của cô. Music video. Video âm nhạc của "Wae Ireoni" ra mắt vào ngày 23 tháng 11 năm 2010 cùng ngày với đĩa đơn được phát hành. Đạo diễn của MV là Lee Dae-jin, và vũ đạo được biên đạo bởi YAMA&HOTCHICKS. Nội dung. Video bắt đầu với thành viên Jiyeon đi về phía một tấm gương trong khi điệp khúc của " Wae Ireoni " đang chạy nền. Các thành viên Hyomin, Qri, Soyeon và Boram đi bộ lên cầu thang gia nhập vào một bữa tiệc. Jiyeon được cả nhóm kéo vào tham gia, họ trang điểm và hát trước gương. Một trong những vị khách được bịt mắt (có thể là người yêu của Jiyeon) trong một trò chơi với nhiều người vây xung quanh. Jiyeon được EunJung cố tình đẩy vào anh ta, cô ấy tỏ ra xấu hổ, ngượng ngùng. MV tiếp diễn với hình ảnh Jiyeon tiếp tục thân mật với vị khách trong khi những người xung quanh tiếp tục nhảy múa. Video kết thúc với hình ảnh T-ara đi bộ qua hành lang tòa nhà, tay trong tay vui vẻ cười đùa với nhau. Trình diễn Live. T-ara bắt đầu quảng bá cho mini-album Temptastic ngày 03 tháng 12 năm 2010, biểu diễn "Wae Ireoni" cùng Yayaya trên KBS Music Bank. Nhóm biểu diễn trên các sân khấu M! Countdown, Music Bank, Show! Music Core, và Inkigayo trong bảy tuần, chương trình quảng bá kết thúc ngày 16 tháng 1 năm 2011 trên Inkigayo. Ngày 09 tháng 12 trên M! Countdown, T-ara đã nhận được giải thưởng đầu tiên cho "Wae Ireoni". Trong thời gian biểu diễn này, ban đầu bộ trang phục biểu diễn của T-ara không tuân thủ đúng quy định trang phục trong các chương trình âm nhạc do mặc quần short ngắn. Nhân viên của họ phải vội vàng ra ngoài và mua thêm vớ, xà cạp vào phút chót.
1
null
Human Again là một bài hát đã bị cắt khỏi phim Người đẹp và quái thú và sau đó đã được khôi phục trở lại trong phiên bản đặc biệt phát hành năm 2002 theo định dạng IMAX và phiên bản DVD Bạch kim đặc biệt (cũng được đưa vào phiên bản đĩa Blu-ray Kim cương năm 2010). Lần đầu tiên bài hát này xuất hiện trước công chúng là trong vở nhạc kịch sân khấu "Người đẹp và quái thú". Bài hát miêu tả lại cảnh những đồ vật bị phù phép đang dọn dẹp lâu đài chuẩn bị cho phân cảnh mang tính biểu tượng của phim trong phòng kiêu vũ, bởi họ đều cho rằng Belle và Beast sẽ thổ lộ tình cảm của mình tại đó. Bài hát cũng đã mở rộng thêm vai trò của nhân vật Chiếc tủ quần áo khi nó có một màn đơn ca của riêng mình. Ở phân cảnh khi bài hát được cất lên, Belle và Quái thú đang cùng nhau đọc Romeo & Juliet (trong bộ phim) và đọc Vua Arthur (King Arthur) (trong vở nhạc kịch). Theo dòng thời gian của phim, bài hát xuất hiện giữa hai ca khúc Something There và Beauty and the Beast. Bài hát này do nhà soạn nhạc Alan Menken viết nhạc và Howard Ashman viết lời. Trong phim, ca khúc chủ yếu do Lumière (Jerry Orbach), Cogsworth (David Ogden Stiers), Mrs. Potts (Angela Lansbury), và Chiếc tủ quần áo (Jo Anne Worley). Sản xuất. Bài hát ban đầu được viết cho bộ phim phát hành năm 1991, nhưng bị cắt do các vấn đề liên quan đến tiến trình phát triển của cốt truyện cũng như độ dài của ca khúc. Bài hát sau đó đã được đưa vào vở nhạc kịch Broadway năm 1994, và cuối cùng được khôi phục trong phiên bản đĩa DVD phát hành năm 2002 của phim. Don Hahn giải thích: "Kirk và Gary và tôi ngồi lại với nhau thảo luận về Phiên bản đặc biệt của Chiến tranh giữa các vì sao vừa mới ra mắt và Kirk gợi ý một cách hài hước rằng, 'chẳng phải sẽ rất hay nếu chúng ta làm một phiên bản đặc biệt của "Người đẹp và quái thú" có thêm bài hát Human Again hoặc với một vài chất liệu mới sao?' Khi giám đốc của Feature Animation nói rằng ông nghĩ đó là một ý tưởng hay, chúng tôi thôi nói đùa mà bắt đầu suy nghĩ thực sự xem chúng tôi sẽ thực hiện nó như thế nào. Chúng tôi đã vẽ bảng truyện cho phân cảnh này từ hồi làm bộ phim gốc, nhưng vẫn phải hoàn toàn làm lại từ đầu cho phiên bản đặc biệt này. Kirk Wise (đạo diễn bộ phim gốc) cũng đã đạo diễn phân cảnh hoạt hình bổ sung cho bài hát này, cùng với vị đồng đạo diễn của Người đẹp và quái thú trước kia, Gary Trousdale. Wise giải thích, "chúng tôi có khá nhiều họa sĩ hoạt hình, họa sĩ nền, và một số nghệ sĩ ngày xưa cùng tham gia với phân cảnh này". Ca khúc. "Show Biz Training" miêu tả bài hát là một "điệu waltz tuyệt đẹp". Bị cắt khỏi phim. Human Again phần nào được coi là một bài hát gây tranh cãi trong phim "Người đẹp và quái thú". DigitalMediaFX nói "có một lý do vì sao ca khúc "Human Again" lại không được đưa vào bộ phim Người đẹp và quái thú ban đầu - có vẻ nó không hợp lắm", và trích dẫn lại lời của chính Disney, "...bài hát gây ra một số vấn đề với cốt truyện mà chúng tôi không kịp giải quyết. Ban đầu được định là một tác phẩm âm nhạc dài 11 phút, bài hát cuối cùng đã bị thay thế bằng một ca khúc khác ngắn hơn và sát với cốt truyện hơn là 'Something There'". "Show Biz Training" giải thích rằng bài hát đã bị cắt "bất chấp mong muốn của các nhạc sĩ và các nhà làm phim được giữ lại nó". Họ cuối cùng chấp nhận theo cốt truyện chủ quan và miễn cưỡng cắt bỏ nó. Kirk Wise giải thích động lực đằng sau việc cắt bỏ bài hát khỏi phim và việc phục hồi lại nó trong phiên bản sân khấu: "Quay trở lại khi bài hát được viết và sắp xếp trong phim, ban đầu nó có độ dài 11 phút, khá nhiều trong hoàn cảnh một bộ phim hoạt hình chiếu rạp vốn đã có khá nhiều ca khúc. Độ dài là một chuyện nhưng cấu trúc của bài hát vào thời điểm đó cũng là một vấn đề bởi nó nhấn mạnh vào sự chảy trôi của thời gian, từng tháng qua đi, và lá vàng rụng xuống. Điều đó gây ra một vài vấn đề về cốt truyện với chúng tôi bởi chúng tôi luôn tự đặt câu hỏi, 'Thế nào? Có phải suốt thời gian đó Maurice chỉ đi lang thang trong khu rừng không? Có phải Gaston chỉ ngồi trong quán rượu và uống bia suốt ngày đến khi bộ râu mọc dài trắng xoá?' Chúng tôi không biết phải làm gì với các nhân vật còn lại trong thời gian này khi Belle ở lâu đài mà vẫn đẩy cốt truyện tiếp tục diễn tiến. Đó là những lý do vào thời điểm đó chúng tôi cắt bỏ bài hát này. Cho đến khi chúng tôi xem phiên bản Broadway mà Alan đã biên tập kỹ càng về âm nhạc và phát hiện ra một chỗ hơi khác có thể đưa bài hát này vào, từ đó chúng tôi nhận ra có một cách để làm được. Trở ngại về dòng chảy thời gian không còn... thế là vấn đề đã được giải quyết. Và Alan cũng đã sửa chữa thêm một chút cho chúng tôi khi chúng tôi có ý định đưa ca khúc này vào phim, và giờ mọi thứ rất hoàn hảo. Giờ đã có một bộ nhạc rất tốt cho phim, bắt đầu với "Something There," ca khúc mà Belle và Quái thú hát khi họ đang chơi ném bóng tuyết, rồi chuyển dần sang "Human Again" nói về suy nghĩ của các đồ vật bị phù phép, những hi vọng của họ khi Belle và Quái thú yêu nhau, tiếp đến là bản ballad "Beauty and the Beast", đỉnh cao trong tình yêu của họ. Và giờ, đã có một câu chuyện nhỏ rất đẹp nằm trong câu chuyện lớn của phim." Đánh giá. DigitalMediaFX viết "Nửa đầu bài hát (cùng với phần giới thiệu) có vẻ hơi yếu một chút, mặc dù sau đó mọi thứ trở nên tốt hơn. Sau đó, ba phần tư chiều dài ca khúc là phân cảnh Belle dạy Quái thú đọc. Riêng phân cảnh này đã làm tăng chiều sâu cho câu chuyện và mối quan hệ giữa hai người. Chắc chắn đây là một sự bổ sung tuyệt vời cho bộ phim. Ngoài ra tôi cũng phải công nhận rằng thật thú vị khi có cái gì đó "mới" để xem. Nhưng cùng với đó, "Human Again" cũng làm người xem cảm thấy có vẻ như "có quá nhiều" ca khúc trong bộ phim cổ điển này, đặc biệt là khi nó xuất hiện chỉ một lúc sau "Something There." Tôi nghĩ bộ phim sẽ xuất sắc hơn nếu phân cảnh "học đọc" được thêm vào mà không có bài hát này".
1
null
Fernanda Lima là một người mẫu, diễn viên và người dẫn chương trình nổi tiếng của Brasil. Cô sinh ngày 25 tháng 06 năm 1977 tại Porto Alegre, một thành phố ở phía nam Brasil, thủ phủ của bang Rio Grande do Sul. Hôn nhân. Fernada Lima đã kết hôn với Rodrigo Hilbert, một nam diễn viên kiêm người mẫu Brasil. Họ đã có với nhau hai đứa con sau khi Lima sinh một cặp con trai sinh đôi là John và Francis vào tháng 4 năm 2008.
1
null
Chu Hoàn (chữ Hán: 朱桓, 176 - 238), tên tự là Hưu Mục, người huyện Ngô, quận Ngô , tướng lãnh nhà Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Cuộc đời. Cứu giúp nạn dân, dẹp tan giặc cướp. Ban đầu, Hoàn làm Cấp sự trong Mạc phủ của Tôn Quyền, được nhận chức Dư Diêu (huyện) trưởng. Trên đường gặp bệnh dịch, lương thực thiếu thốn, ông sai các viên lại dưới quyền, giấu trong mình thuốc men, cơm cháo để cứu giúp, binh dân đội ơn ông. Thăng làm Đãng khấu hiệu úy, nhận 2000 quân, sai đi thu lấy binh sĩ ở 2 quận Ngô, Cối Kê, tập hợp những người đang sống tản mác, trong năm ấy, tìm được hơn vạn. Sau đó giặc núi ở hậu Đan Dương, Bà Dương nổi lên, công chiếm thành quách, cướp giết trưởng lại, nơi nơi cát cứ. Hoàn đốc lãnh chư tướng, đánh dẹp khắp cả, nên bình định xong. Ít lâu thăng làm Bì tướng quân, phong Tân Thành đình hầu. Cố thủ Nhu Tu, đẩy lui Tào Nhân. Hoàn thay Chu Thái làm Nhu Tu đốc. Năm Hoàng Vũ đầu tiên (222), Đại tư mã Tào Nhân của Ngụy đưa mấy vạn bộ kỵ nhắm đến Nhu Tu; Nhân muốn chiếm lấy thượng du của Kinh Châu, vờ đánh Tiện Khê ở phía đông, ông chia binh tướng đi Tiện Khê, vừa lên đường, được tin Nhân tiến quân còn cách Nhu Tu 70 dặm. Hoàn sai sứ gọi quân đi Tiện Khê về, quân chưa về thì địch đã đến. Khi ấy ông chỉ có 5000 bộ binh, các tướng đều tỏ ra sợ hãi. Ông dụ rằng: ""Phàm là đôi bên giao tranh, thắng bại ở tướng, chẳng ở nhiều – ít. Các ông nghe nói (khả năng) dùng binh làm việc của Tào Nhân, so được với Hoàn ư? Binh pháp sở dĩ nói khách nhiều gấp mấy lần chủ, là nói đến (trường hợp) đều ở chỗ đất bằng. Trong tay không có thành trì, thì đem tướng sĩ dũng cảm – hèn nhát so với nhau vậy! Nay Nhân không phải kẻ trí dũng, lại thêm sĩ tốt rất nhút nhát, còn phải ngàn dặm rong ruổi, người ngựa mỏi mệt. Hoàn với các ông, cùng ở thành cao, nam nhìn Đại Giang, bắc dựa Sơn Lăng, dĩ dật đãi lao, làm chủ chế ngự khách, đây là thế bách chiến bách thắng đấy. Dẫu Tào Phi có đến, còn không đáng lo, nữa là bọn Nhân!" Hoàn vì thế cuốn cờ trống, ra vẻ yếu kém, để dẫn dụ Nhân. Nhân quả nhiên sai con trai là Thái đánh thành Nhu Tu, còn sai tướng quân Thường Điêu đốc bọn Gia Cát Kiền, Vương Song, cưỡi du thuyền theo lối riêng tập kích Trung Châu. Trung Châu là nơi ở vợ con bộ khúc của Hoàn. Nhân đem 1 vạn người ở lại Thác Cao, làm hậu viện cho bọn Thái. Ông điều quân chiếm lấy du thuyền, rồi tấn công bọn Điêu; tự mình đón đánh Thái, đốt doanh trại địch rồi lui về. Quân Ngô bêu đầu Điêu, bắt sống Song đưa về Vũ Xương; quân Ngụy tử trận và đuối nước hơn ngàn người. Quyền khen công lao của Hoàn, phong Gia Hưng hầu, thăng Phấn vũ tướng quân, lãnh Bành Thành tướng. Đòi lấy Thọ Xuân, đoạn hậu Lư Giang. Năm Hoàng Vũ thứ 7 (228), Bà Dương thái thú Chu Phường lừa dối Đại tư mã Tào Hưu của Tào Ngụy, Hưu đem 10 vạn bộ kỵ đến Hoàn Thành để đón Phường. Khi ấy Lục Tốn làm nguyên soái, Toàn Tông và Hoàn làm tả, hữu đốc, đưa 3 vạn quân đánh Hưu. Hưu nhận ra bị lừa, đang quay về, nhưng tự phụ nhiều quân, quay ra giao chiến. Hoàn tiến kế rằng: "Hưu vốn là thân thích nên được dùng, không phải danh tướng trí dũng vậy. Trận này (hắn) ắt thua, thua ắt chạy. Chạy sẽ theo lối Giáp Thạch, Quải Xa; 2 đường này đều hiểm trở, nếu đem vạn binh chẹn đường, thì bọn chúng tận số, còn có thể bắt sống Hưu. Thần xin đem bộ hạ cắt đường về (của quân Ngụy). Nếu nhờ oai trời, bắt Hưu được thành công, thì có thể thừa thắng tiến quân, lấy ngay Thọ Xuân, cắt đi Hoài Nam, để mưu tính vùng Hứa, Lạc; đây là cơ hội muôn đời có một, không thể bỏ lỡ." Tôn Quyền bàn với Tốn, Tốn nói không thể, nên kế này không được thi hành. Năm Hoàng Long đầu tiên (229), nhà Ngô bái Hoàn làm Tiền tướng quân, lãnh Thanh Châu mục, giả tiết. Năm Gia Hòa thứ 6 (237), Lư Giang chủ bộ Lữ Tập của Ngụy mời quân Ngô, muốn mở cửa làm nội ứng. Hoàn và Vệ tướng quân Toàn Tông cùng đem quân đi; đến nơi thì việc bại lộ, nên phải đưa quân về. Ngoài thành có sông Khê, cách thành 1 dặm, rộng hơn 30 trượng, chỗ sâu 8, 9 thước, chỗ nông bằng một nửa như thế. Quân Ngô lặng lẽ vượt sông, Hoàn tự đi đoạn hậu. Khi ấy Lư Giang thái thú Lý Ưng sắp kỵ binh chỉnh tề, chờ quân Ngô vượt sông một nửa, nhân đó xông ra đánh. Đến lúc trông thấy cờ lọng của Chu Hoàn ở phía sau thì không dám ra. Cao ngạo hung tàn, được vuốt râu hùm. Bấy giờ Toàn Tông làm đốc, Tôn Quyền lại lệnh Thiên tướng quân Hồ Tống tuyên truyền chiếu mệnh, tham gia việc quân. Tông cho rằng ra quân không có kết quả, bàn việc sắp xếp các tướng, có ý muốn đánh úp (quân Ngụy). Hoàn vốn cao ngạo, xấu hổ việc bị xem là bộ hạ (của Tông), nên khi đến gặp Tông, hỏi ý định hành quân, kích động mà nổi giận, cùng Tông tranh luận. Tông muốn thoái thác, mới nói rằng: "Hoàng thượng tự lệnh Hồ Tống làm Đốc, ý của Tống nên làm thế này." Ông càng oán giận, quay về sai người gọi Tống. Tống đến cửa trướng, Hoàn ra đón, nói với tả hữu rằng: "Ta buông thõng tay, bọn mày hãy bỏ đi." (để Hoàn ở lại một mình với Tống). Có người bên cạnh ra ngoài, nói Tống về đi. Ông ra, không thấy Tống, biết tả hữu đã làm, nên đòi giết họ. Tá quân của Hoàn đến can, ông đâm chết tá quân, rồi vờ phát cuồng, về Kiến Nghiệp chữa trị. Quyền tiếc công lao và tài năng của Hoàn, không bắt tội; sai con ông là Dị thay lãnh bộ khúc , lệnh cho thầy thuốc chăm nom; mấy tháng sau lại đưa Hoàn về Trung Châu. Quyền tự mình ra xa để tiễn, nói: "Nay giặc giã vẫn còn, vương nghiệp chưa thành, trẫm phải cùng ngài bình định thiên hạ, muốn lệnh (cho ngài) đốc 5 vạn người chuyên trách một mặt, mưu đồ tiến thủ, mong bệnh của ngài đừng tái phát nữa!" Ông đáp: "Trời cho bệ hạ cái tư chất của thánh nhân, nên soi khắp bốn bể, ủy nhiệm trọng trách cho thần, để trừ gian nghịch, bệnh của thần sẽ tự khỏi." Hoàn dâng chén rượu, xin được vuốt râu Quyền, Quyền ngồi tựa vào cái kỷ trước chỗ ngồi (của ông), Hoàn tiến đến vuốt râu của ông ta rồi nói: "Thần hôm nay có thể nói là vuốt râu hùm vậy!"" Quyền cả cười. Tính cách. Hoàn tính cao ngạo, xấu hổ vì ở dưới người, mỗi khi lâm trận giao chiến, bị kiềm hãm không được tự do, liền cáu giận phẫn khích. Nhưng ông khinh tài quý nghĩa, lại có trí nhớ tốt, gặp mặt một người, mấy chục năm không quên, bộ khúc có vạn người, biết hết vợ con của họ. Yêu mến đùm bọc sĩ tốt, kể cả thân nhân (của họ); bổng lộc sản nghiệp, đều chia cho mọi người. Khi Hoàn có bệnh, cả doanh lo lắng. Năm Xích Ô đầu tiên (238), ông mất. Quan binh nam nữ, không ai không kêu khóc. Trong nhà không có tài sản, Quyền ban cho 5000 hộc muối để lo tang sự. Con là Dị kế tự. Đánh giá. Trần Thọ đánh giá: "Hoàn nhờ tính cách mạnh mẽ mà nổi danh, vượt qua khó khăn mà có kết cục tốt đẹp." Tôn Thịnh nói (về việc Hoàn giết tá quân): "Kinh Thư chép rằng bề tôi không được làm oai làm phúc; làm oai làm phúc, ắt gây dữ ở nhà, gây hại cho nước. Sự tàn nhẫn của Hoàn, đáng sợ như hùm sói ấy, bậc quân chủ mà còn không thể, huống hồ kẻ làm tướng? Luận ngữ nói, được 1 người mà mất 1 nước, tha tội lỗi bớt hình phạt, cái mất lớn nhất vậy!"
1
null
Robert J. Lang (sinh ngày 4 tháng 5 năm 1961) là một nhà vật lý người Mỹ đồng thời cũng là một trong những nghệ sĩ origami và nhà nghiên cứu lý thuyết hàng đầu thế giới. Trong lĩnh vực origami, ông được biết đến với nhiều sáng tác phức tạp và ấn tượng, đặc biệt là những mẫu về động vật và côn trùng. Ông cũng một trong những nhà nghiên cứu toán học origami và đạt được những thành công to lớn trong ứng dụng toán học origami để giải quyết các vấn đề thực tế. Học vấn và khởi nghiệp. Lang sinh tại Dayton, Ohio nhưng lớn lên tại Atlanta, Georgia. Ông từng tham gia thiết kế điện tại Học viện kỹ thuật California trước khi tốt nghiệp. Cũng tại đây, ông đã quen người vợ tương lai của mình, bà Diane. Lang lấy bằng thạc sĩ lĩnh vực thiết kế điện tại Stanford năm 1983, sau đó quay lại Học viện kỹ thuật California để lấy bằng tiến sĩ chuyên ngành Vật lý ứng dụng với luận văn "Bán dẫn laze: Cấu trúc mới và các tính chất phổ." Năm 1988, ông bắt đầu làm việc tại phòng nghiên cứu động cơ phản lực của NASA đồng thời đảm nhiệm công việc nghiên cứu viên phòng nghiên cứu phổ diode của San Jose, California, và sau đó tại JDS Uniphase,cũng của San Jose. Ông là tác giả và đồng tác giả của hơn 80 phát minh trong lĩnh vực bán dẫn laze, quang học và quang điện tử tích hợp. Ông cũng đang giữ 46 bằng sáng chế trong những lĩnh vực này. Năm 2001, Lang từ bỏ công việc thiết kế điện và chuyển sang làm một nghệ sĩ origami chuyên nghiệp kiêm nhiệm cố vấn. Tuy nhiên, ông vẫn tiếp tục hoạt động trong lĩnh vực truyền thống của mình: ông nhận lời làm tổng biên tập "Tạp chí điện tử học lượng tử" từ năm 2007 tới năm 2010 và cố vấn bán thời gian cho hãng bán dẫn Cypress. Hiện nay, ông đang định cư tại Alamo, California. Origami. Robert J.Lang biết đến nghệ thuật gấp giấy từ năm 6 tuổi nhờ một giáo viên của ông sau khi đã thử mọi phương pháp khác giúp ông hứng thú trong học tập. Từ thời niên thiếu, Lang đã bắt đầu tự sáng tác những mẫu gấp riêng của mình. Origami cũng là môn nghệ thuật giúp ông giải tỏa những áp lực khi còn đang học đại học. Từ những năm học tập tại học viện kỹ thuật California, Lang đã làm quen với những bậc thầy origami như Michael LaFosse, John Montroll, Joseph Wu, và Paul Jackson tại Trung tâm Origami Hoa Kỳ, giờ đổi tên thành OrigamiUSA. Khi đang tiến hành các nghiên cứu chuyên sâu luận án tiến sĩ tại Đức, Lang và vợ ông bắt đầu sáng tác mẫu đồng hồ cuckoo Black Forest, và hứng thú với nghệ thuật gấp giấy từ khi ông hoàn thành mẫu này sau 3 tháng thiết kế và 6 tiếng gấp. Lang tận dụng tối đa công nghệ hiện đại trong các tác phẩm của mình, bao gồm cả việc sử dụng máy cắt laze để tạo nếp trong những mẫu gấp phức tạp. Lang được công nhận là một trong những nhà lý thuyết toán học origami hàng đầu. Ông đã phát triển một bộ quy tắc sáng tác các mẫu origami mới, đồng thời là người hoàn thiện các bằng chứng của tiên đề Huzita–Hatori. Lang đặc biệt chú trọng đến việc ứng dụng các đinh luật của origami trong thực tế ví dụ như thiết kế cách gập túi khí cho các hãng sản xuất Đức. Ông cũng hợp tác với phòng thí nghiệm quốc gia Lawrence Livermore tại Livermore, California, để phát triển một kinh viễn vọng không gian công suất lớn với ống ngắm dài 100 m (328 ft) dưới dạng màng mỏng. Lang cùng các cộng sự tìm cách gấp gọn thấu kính khổng lồ (Eyeglass) này vào một tên lửa nhỏ, đồng thời có khả năng mở ra trong không gian mà không để lại một bất kì một dấu vết hay vết gấp nào. Ông là tác giả cũng như đồng tác giả của tám quyến sách và rất nhiều bài báo trong lĩnh vực origami. Ông cũng thiết kế biểu tượng của google trong sinh nhật lần thứ 101 của Akira Yoshizawa vào ngày 14 tháng 3 năm 2012. Giải thưởng và vinh dự. Năm 2012, Lang vinh dự được bầu chọn thành hội viên của Hội toán học Mỹ.
1
null
Gà chín cựa hay gà nhiều cựa là tên gọi chỉ về một giống gà tại Việt Nam với đặc trưng là có nhiều cựa. Loại gà này được nuôi xã Mẫu Sơn của huyện Lộc Bình tỉnh Lạng Sơn và vùng Thanh Sơn, xã Xuân Sơn, huyện Tân Sơn của Phú Thọ. Gà chín cựa được nhắc đến trong truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh như là một sính lễ mà Vua Hùng đòi hỏi để cầu hôn nàng Mỵ Nương cùng với voi chín ngà và ngựa chín hồng mao. Việc nuôi loại gà này cho hiệu quả kinh tế cao. Đặc trưng. Giống gà chín cựa có kích cỡ nhỏ và nặng thông thường không quá 1,5kg. Mào gà đỏ tươi như máu, đuôi cong vút tựa cầu vồng và rất mảnh. Giống gà này còn có đôi mắt sáng quắc và không tỏ ra hoảng hốt ngay cả khi bị giữ chặt, chúng cũng có đặc điểm hiếu chiến và hung dữ. Gà khi đủ lông đủ cánh, chúng bay như chim, bởi chân ngắn và sải cánh rất rộng, gà trưởng thành có thân hình rắn chắc có năm màu ngũ hành đỏ son của mào, vàng rơm của chân, đen trắng xen xanh cánh trả của lông. Giống gà này có khả năng kháng bệnh rất tốt, chúng cũng rất khôn, có thể trông nhà thay chó gà chín cựa thông minh tới mức có thể trông nhà khi chủ đi vắng, gà chín cựa cũng chỉ ăn ngô, ăn thóc như giống gà khác. Điểm đặc trưng của giống gà này là chúng có đặc điểm chân to, chắc và mọc đều 3, 4 cựa mỗi bên. Mỗi cựa dài, ngắn khác nhau, mọc nối theo hàng. Đặc biệt, cựa trên cùng hoàn toàn chỉ là sừng, cong vút như lưỡi câu liêm hay nanh lợn rừng. Gà có đầy đủ chín cựa thì khá hiếm và rất quý, chủ yếu là gà bảy, tám cựa. Gà chín cựa từ khi còn nhỏ đã có thể nhận thấy rõ các cựa ở khuỷu chân, mỗi bên có thể mọc từ 3-4 cựa tùy vào thời gian gà trưởng thành. Trong cùng một lứa gà, không phải lúc nào cũng có thể nhân được giống gà chín cựa, có con chỉ có bảy hoặc tám cựa, có con không có cựa nào. Gà nhiều cựa có hai dòng, mỗi chân có ba cựa hình tam giác gọi là lục đinh còn mỗi chân có năm cựa nhưng một cựa lép chính là giống chín cựa. Loại này cựa hình tròn chứ không phải tam giác. Gà giống chín cựa đất thủy tổ là một con gà chọi chính cống với đặc điểm hiếu chiến và hung dữ. Tuy có chín cựa nhưng nó chưa đủ để thành một yêu quái trong truyền thuyết vì vóc dáng xấu, lông ngắn, chân chì. Nguồn gốc. Về nguồn gốc, nhìn chung chưa có thông tin chính thức về xuất xứ của giống gà này, có ý kiến cho rằng đây là giống gà rừng nhưng thông minh và thích gần gũi với con người nên về sống với con người từ xa xưa. Có ý kiến cho rằng giống gà này là gà nhà, được người Dao ở Xuân Sơn nuôi dưỡng như gia cầm, và là gà lai rừng thì nuôi bán tự nhiên. Vì sức vóc cũng như sự tinh anh đã khiến nó rất được coi trọng. Bản Cõi chính là nơi xuất hiện giống gà đầu tiên. Người ta thấy một con gà rừng khá lạ. Lông nó màu trắng toát, tiếng gáy gần giống gà nhà và bay như chim. Đặc biệt, chân giống gà này có 9 ngón, chen chúc trên khẩu chân ngắn và rất nhỏ. Sau đó chúng đạp mái với cánh gà nhà sau vườn và gà nhà ấp trứng nở ra giống gà có tám cựa, tuy chúng ăn khỏe nhưng lớn rất chậm, con nào con nấy chỉ đến khoảng 1,5 kg là dừng lại. Nuôi nhốt. Tại Lạng Sơn, gà chín cựa được người dân Mẫu Sơn nuôi theo phương thức chăn thả tự nhiên, chủ yếu thả lên đồi cho chúng tự đào bới tìm giun, dế, sâu bọ làm thức ăn chính. Vì thế gà nuôi rất chậm lớn, trung bình phải từ 6 tháng trở lên mới được trên 1 kg thịt, con to có thể lên tới 3 kg nhưng phải nuôi từ 2 năm trở lên và cũng vì thế gà có chất lượng thịt thơm ngon như gà rừng. Thịt gà có mùi vị đặc biệt và rất thơm ngon, đậm đà, Thịt thường được đặt trên mẹt tre hấp cách thủy, ăn cùng bánh dầy đây là một đặc sản của Phú Thọ. Chính quyền địa phương đang tìm cách giúp người dân bảo tồn gà chín cựa. Nhiều bản thí điểm mô hình bảo tồn gà chín cựa. Các gia đình này sẽ được hỗ trợ tiền làm chuồng trại, được hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc và phòng bệnh cho gà để tăng gia sản xuất vừa có thể chắt lọc để bảo tồn nguồn gen quý. Đến nay, Trung tâm Nghiên cứu gà chín cựa do tập đoàn Dabaco Việt Nam đầu tư với 63.000 con gà chín cựa các loại trong đó có một số được bán ra thị trường phục vụ Tết nguyên đán.
1
null
Trận Pindus diễn ra ở dãy núi Pindus, nằm giữa Eripus và Tây Macedonia, Hy Lạp, kéo dài từ ngày 28.10 đến 13.11, trong mùa thu năm 1940. Quân đội Hy Lạp đã giao tranh với Sư đoàn sơn chiến số 3 Julia, trong giai đoạn đầu của Chiến tranh Hy Lạp-Ý. Sư đoàn sơn chiến số 3 Julia đã tiến hành xâm lược Hy Lạp từ khu vực núi Pindus. Nhưng quân Hy Lạp nhanh chóng bao vây sư đoàn Julia và xoá sổ gần hết sư đoàn này, sau khi sư đoàn Julia đạt được một số thành công ban đầu. Người Hy Lạp nhanh chóng đẩy lùi người Ý ra khỏi lãnh thổ, và tiến sâu vào lãnh thổ Albania. Bối cảnh. Sau khi Ý xâm lược Albania năm 1939, Bộ Tổng Tham mưu Hy Lạp đã cảnh báo một cuộc tấn công tiềm tàng của Ý vào Hy Lạp từ lãnh thổ Albania, mà cuối cùng đã xảy ra vào ngày 28-10. Mục tiêu của Ý là triển khai sư đoàn sơn chiến Julia chiếm các con đèo chiến lược của dãy núi Pindus càng nhanh càng tốt. Trong Hội đồng Chiến tranh ở Rome; Tướng Visconti Prasca, chỉ huy trưởng các lực lượng Ý ở Albania nói rằng dãy núi Pindus sẽ không phải là trở ngại đáng kể gì với các lực lượng Ý, đồng thời tuyên bố rằng quân của ông ta sẽ tiến thẳng tới Athens một cách dễ dàng, như một Hunnibal của thời hiện đại. Về phía Hy Lạp, họ liên kết các lực lượng đồn trú ở Eripus và Tây Macedonia, vốn bị ngăn cách bởi dãy Pindus làm hai bộ phận lại thành "Quân khu Pindus". Đại tá Kontantinos Davakis, chỉ huy của Quân khu Pindus đã triển khai quân đội dọc theo 35 km phòng tuyến theo dãy Pindus. Trận chiến. Mục tiêu chính của Sư đoàn Julia là tiến nhanh qua dãy núi Pindus và chiếm giữ vị trí chiến lược là thị trấn Metsovo. Nếu thị trấn Mestovo bị người Ý chiếm giữ thì sẽ gây ra ảnh hưởng lớn tới kết quả của cuộc chiến, vì con đường cung cấp hâu cần của người Hy Lạp sẽ bị phá vỡ và các lực lượng Hy Lạp ở Eripus sẽ bị chia cắt với vùng Macedonia. Sư đoàn Julia đã hành quân vượt 40 km đường núi trong điều kiện mưa băng và xoay xở chiếm được ngôi làng Vovousa, cách Mestovo 30 km về phía bắc nhưng thị trấn này thì vẫn tiếp tục đứng vững. Ngày 2 tháng 11, Đại tá Davakis đã bị thương nặng trong một nhiệm vụ do thám gần Fourka. Nhưng rõ ràng là người Ý đang bị thiếu hụt nhân lực và đồ tiếp tế nghiêm trọng để có thể tiếp tục đối mặt với các lực lượng dự bị Hy Lạp đang trên đường đến đây. Ngày 3 tháng 11, các đội quân Ý sau những thành công ban đầu, đều bị bao vây tứ phía. Chỉ huy Sư đoàn Julia đã kêu gọi Bộ Tổng Chỉ Huy tăng viện và gửi hàng tiếp tế đến càng sớm càng tốt. Sư đoàn 47 Bari được điều sang. Tuy nhiên, quân tiếp viện từ Albania không thể thay đổi kết cục. Những ngày tiếp theo, Sư đoàn Julia đã phải chiến đấu dũng cảm dưới thời tiết khắc nghiệt và bị tổn thất nghiêm trọng. Trong khi đó, quân tiếp viện Hy Lạp đã tiến tới dãy Pindus, và được sự giúp đỡ nhiệt thành của người dân; cả đàn ông, phụ nữ và trẻ em, những sự giúp đỡ vô giá. Tình hình đã trở nên vô cùng tồi tệ với người Ý, và lực lượng của họ đang bị áp đảo bởi các đơn vị Hy Lạp đang đổ tới khu vực này. Sư đoàn Julia gần như bị tiêu diệt hoàn toàn. Các ngôi làng bị quân Ý chiếm đóng trong những đợt tấn công đầu tiên, bao gồm cả Samarina và Vovousa, đã được quân Hy Lạp giành lại trong những ngày 3 và 4 tháng 11. Chưa đầy một tuần sau, quân Ý co cụm lại tại vị trí vốn bị họ chiếm đóng trước khi tuyên bố chiến tranh. Ngày 13 tháng 11, biên giới Hy Lạp hoàn toàn sạch bóng quân Ý, kết thúc trận Pindus với chiến thắng tuyệt đối của người Hy Lạp. Một yếu tố đáng kể ảnh hưởng tới thành công của người Hy Lạp là sự yếu kém của không quân Ý, đã không thể làm gián đoạn việc huy động và triển khai của quân đội Hy Lạp. Do yếu tố này cũng như những trở ngại về địa hình và kỹ thuật, khiến cho người Hy Lạp có đủ thời gian để khắc phục khó khăn trong việc vận chuyển quân đội và hàng hoá tới chiến trường. Hệ quả. Thất bại trong cuộc xâm lược Hy Lạp, Sư đoàn sơn chiến Julia mất tới 5,000 binh lính. Trong khi đó, nhờ thắng lợi tuyệt đối ở Pindus và Elea-Kalamas, các lực lượng Hy Lạp đã đẩy lùi người Ý, rồi tổ chức phản công tiến sâu vào Albania. Nhiều người cho rằng sự hỗ trợ của những người phụ nữ địa phương có ảnh hưởng lớn tới cục diện của cuộc chiến. Người dân ở các làng quanh vùng chiến sự, đặc biệt là phụ nữ đã hỗ trợ những đơn vị Hy Lạp bằng nhiều cách. Mà quan trọng nhất là họ đã vận chuyển súng đạn, quân trang và thực phẩm ra tiền tuyến, khi mà xe cộ không thể tiếp cận chiến trường do thời tiết xấu và đường thô.
1
null
Ong bắp cày phương Đông, tên khoa học Vespa orientalis, là một loài côn trùng xã hội trong họ Vespidae trông rất giống ong bắp cày Châu Âu. Đừng nhầm lẫn loài này với loài ong bắp cày khổng lồ châu Á ("Vespa mandarinia"). Loài này được tìm thấy trong khu vực Tây Nam Á, Đông Bắc Phi, đảo Madagascar (nhưng không có báo cáo nào được đưa ra về sự hiện diện của nó trên đảo trong nhiều năm), Trung Đông, Trung Á và một phần của Nam Âu. Ong bắp cày phương Đông cũng đã được tìm thấy ở một số địa điểm biệt lập như Mexico và Chile do con người du nhập Ong bắp cày phương Đông sống trong các quần thể theo mùa bao gồm chế độ đẳng cấp do ong chúa thống trị. Chúng xây tổ dưới đất và giao tiếp với nhau bằng âm thanh rung cánh. có một sọc màu vàng trên lớp biểu bì của nó (bộ xương ngoài lớp cuticule), có thể hấp thụ ánh sáng mặt trời để tạo ra một hiệu điện thế nhỏ và điều này có thể giúp cung cấp năng lượng cho quá trình đào. Ong bắp cày trưởng thành ăn mật hoa và trái cây, đồng thời tìm kiếm côn trùng và protein động vật để làm thức ăn cho con non của chúng. Bởi vì chúng là loài ăn xác thối, ong bắp cày cũng có thể đóng vai trò là vật truyền bệnh sau khi tiêu thụ thực vật bị nhiễm bệnh. Ong bắp cày là loài gây hại chính cho ong mật, tấn công các đàn ong để lấy mật và protein động vật. Vết đốt của ong bắp cày phương Đông có thể khá đau đối với con người và một số người bị dị ứng với vết đốt. Phân loại và phát sinh loài. Ong bắp cày phương Đông (V. orientalis) thuộc họ "Vespa" trong họ "Vespidae". "V. orientalis" có khả năng thích nghi độc đáo với khí hậu khô cằn, điều này che giấu mối quan hệ sinh vật thực vật của nó với các loài khác thuộc chi Vespa, gây khó khăn cho việc lập bản đồ chỉ dựa trên dữ liệu hình thái học. Do đó, việc sử dụng dữ liệu phân tử là rất quan trọng để lập bản đồ chính xác các mối quan hệ phát sinh loài của nó. Dựa trên phát sinh loài phân tử, "V. orientalis" có quan hệ họ hàng gần nhất với "Vespa affinis" và "Vespa mocsaryana". Trong khi lịch sử tồn tại về việc công nhận các loài phụ trong nhiều loài ong bắp cày, bao gồm cả "V. orientalis", bản sửa đổi phân loại gần đây nhất của chi coi tất cả các tên phụ cụ thể trong chi Vespa là từ đồng nghĩa, chỉ cho chúng thành tên không chính thức cho các dạng màu khu vực.
1
null
Ong bắp cày châu Âu, tên khoa học Vespa crabro, là một loài ong bắp cày. Đây là loại tò vò có tính xã hội cao lớn nhất và có nguồn gốc từ châu Âu, và wasp lớn nhất ở Bắc Mỹ. Ong chúa có chiều dài 25 đến 35 mm, ong thợ dài 18–24 mm. Đây cũng là loài ong bắp cày thực sự (chi Vespa) duy nhất được tìm thấy ở Bắc Mỹ, được những người định cư từ châu Âu đưa vào từ những năm 1800. Tò vò, chẳng hạn như "V. crabro" này , được biết đến với việc tạo ra những chiếc tổ phức tạp giống như giấy từ các vật liệu thực vật xung quanh và các loại sợi khác. Không giống như hầu hết các loại tò vò khác, ức chế sinh sản liên quan đến việc giám sát ong thợ hơn là kiểm soát pheromone của ong chúa, như người ta vẫn nghĩ trước đây.
1
null
"Galaxy Supernova" (tạm dịch: "Siêu tân tinh thiên hà") là đĩa đơn tiếng Nhật thứ tám của nhóm nhạc nữ Hàn Quốc Girls' Generation, được phát hành vào ngày 18 tháng 9 năm 2013 tại Nhật Bản. Sau khi đứng đầu bảng xếp hạng đặt trước của Tower Record, đĩa đơn đạt vị trí thứ 4 trên bảng xếp hạng đĩa đơn hàng ngày của Oricon một ngày trước khi được phát hành và sau đó vươn lên vị trí thứ nhất. Lịch sử. Việc phát hành "Galaxy Supernova" được công bố vào ngày 11 tháng 8 năm 2013. Đĩa đơn được phát hành dưới hai phiên bản: phiên bản thông thường chỉ bao gồm CD và phiên bản giới hạn bao gồm cả CD và DVD. Trang web tiếng Nhật của Girls' Generation cũng cho biết rằng "Galaxy Supernova" sẽ được sử dụng trong một chiến dịch quảng cáo cho Samantha Thavasa Jeans, nhãn hiệu quần jeans đầu tiên của Samantha Thavasa, một công ty thời trang Nhật Bản. Video âm nhạc. Phiên bản vũ đạo và phiên bản chính thức của video âm nhạc cho "Galaxy Supernova" được ra mắt lần lượt vào ngày 4 và ngày 5 tháng 9 năm 2013. Quảng bá. Girls' Generation đã biểu diễn "Galaxy Supernova" và "Gee" tại Tokyo trong ngày phát hành của đĩa đơn này và tổ chức sự kiện "Premium Talk" vào ngày 19 tháng 9 năm 2013 tại Osaka. Nhóm cũng có một sự kiện dành cho 500 người đã mua đĩa đơn vào ngày 4 tháng 11 năm 2013 tại Tokyo. Doanh số. "Galaxy Supernova" đạt vị trí thứ nhất trên bảng xếp hạng đặt trước của Tower Record. Bài hát lọt vào vị trí thứ tư trên bảng xếp hạng đĩa đơn hàng ngày của Oricon trong ngày đầu tiên phát hành, but rose to the number one spot afterwards. sau đó vươn lên vị trí đầu bảng trong ngày thứ hai với 14,564 bản. Trên hai bảng xếp hạng Hot 100 và Adult Contemporary Airplay của "Billboard" Nhật Bản, "Galaxy Supernova" xuất hiện lần đầu tiên lần lượt ở các vị trí thứ 38 và 75.
1
null
Trương Quang Nghĩa (sinh ngày 19 tháng 8 năm 1958) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông được người dân tỉnh Sơn La bầu làm Đại biểu Quốc hội khóa XIV nhiệm kì 2016-2021, nhưng được chuyển làm đại diện cho cử tri ở Đà Nẵng. Ông từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải, Tổng Giám đốc Tổng Công ty Cổ phần Xuất nhập Việt Nam (Vinaconex) trực thuộc Bộ Xây dựng. Trong Đảng Cộng sản Việt Nam, ông nguyên là Ủy viên Trung ương Đảng khóa XI, XII, nguyên Bí thư Thành ủy thành phố Đà Nẵng, nguyên Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Sơn La, nguyên Bí thư Đảng ủy khối Doanh nghiệp Trung ương. Xuất thân. Ông sinh ngày 19 tháng 8 năm 1958, quê quán ở xã Cẩm Kim, Hội An, tỉnh Quảng Nam. Ông có hai người anh ruột từng giữ những chức vụ cao cấp trong chính quyền và quân đội là là ông Trương Quang Được (1940-2016), nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Quốc hội Việt Nam và Trương Quang Khánh (1953-), Thượng tướng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam. Sự nghiệp. 10/1976 – 9/1979: Nhập ngũ tại E34, F473. 10/1979 – 9/1980: Học văn hóa tại Binh đoàn 12. 10/1980 – 9/1985: Học viên ngành xây dựng công trình quốc phòng Học viện kỹ thuật Quân sự. 10/1985 – 12/1991: Công tác tại D25, Cục Tham mưu, Bộ tư lệnh Quốc phòng, cấp bậc Đại úy. 01/1992 – 7/1994: Công tác tại Phòng Xuất nhập khẩu, Tổng công ty Vinaconex. 8/1994 – 10/1996: Giám đốc Chi nhánh Vinaconex tại Đà Nẵng. 11/1996 – 9/2006: Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Công ty Cơ giới lắp máy và xây dựng thuộc Tổng công ty Vinaconex. 10/2006 – 4/2008: Tổng Giám đốc, Phó Bí thư Đảng ủy Tổng công ty Vinaconex. 5/2008 – 9/2010: Phó Bí thư Thành ủy Đà Nẵng. 10/2010 – 11/2010: Phó Bí thư Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương. 11/2010 – 12/2010: Bí thư Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương. 01/2011 – 6/2012: Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI), Bí thư Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương. 7/2012 – 01/2015: Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI), Bí thư Tỉnh ủy Sơn La. 02/2015 – 4/2016: Ủy viên Trung ương Đảng (khóa XI, XII), Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương. 4/2016 – 10/2017: Ủy viên Trung ương Đảng (khóa XII), Bí thư Ban Cán sự đảng, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải./. Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải. Ngày 9 tháng 4 năm 2016, ông được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải. Ngày 25 tháng 10 năm 2017, tại kỳ họp thứ tư của Quốc hội Việt Nam khóa XIV ông được 465/465 đại biểu Quốc hội có mặt đồng ý cho miễn nhiệm chức vụ Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải. Chiều ngày 26 tháng 10 năm 2017, Chủ tịch nước Trần Đại Quang kí quyết định số 2182/QĐ-CTN miễn nhiệm ông khỏi chức vụ Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải, quyết định có hiệu lực từ ngày kí. Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV nhiệm kì 2016-2021. Ngày 22 tháng 5 năm 2016, ông được bầu làm đại biểu Quốc hội Việt Nam thuộc đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Sơn La. Ông đã trúng cử ở đơn vị bầu cử số 3 tỉnh Sơn La gồm các huyện: Mộc Châu, Vân Hồ, Phù Yên, Bắc Yên, được 180.811 phiếu, đạt tỷ lệ 81,88% số phiếu hợp lệ. Ngày 8 tháng 6 năm 2017, ông cho rằng phương án mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất về phía Bắc là hoàn toàn không khả thi vì chi phí giải phóng mặt bằng cao và ô nhiễm tiếng ồn. Ngày 9 tháng 10 năm 2017, ông Nguyễn Tuấn Anh - phó trưởng ban Công tác đại biểu Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết "theo quy định hiện hành, ông Trương Quang Nghĩa đã nhận nhiệm vụ đứng đầu Đảng bộ TP Đà Nẵng, nên sẽ chuyển từ đoàn ĐBQH Sơn La về đoàn ĐBQH Đà Nẵng để đáp ứng yêu cầu công tác." Ngày 25 tháng 10 năm 2017, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 438/NQ-UBTVQH14 về việc chuyển sinh hoạt Đoàn đại biểu Quốc hội đối với ông Trương Quang Nghĩa từ Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Sơn La đến Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Đà Nẵng. Như vậy, tỉnh Sơn La sẽ bị thiếu một đại biểu Quốc hội (còn 5 đại biểu, cơ cấu 7 đại biểu, thiếu nhưng đã không bầu bổ sung), còn thành phố Đà Nẵng bị thừa một đại biểu Quốc hội (tổng 7, hơn 1 đại biểu so với cơ cấu). Đơn vị bầu cử số 3 tỉnh Sơn La gồm các huyện: Mộc Châu, Vân Hồ, Phù Yên, Bắc Yên sẽ chỉ còn một đại biểu Quốc hội duy nhất là bà Tráng Thị Xuân. Hoạt động trong Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 4/2/1983. Tháng 9 năm 2008, ông được Ban Bí thư điều động làm Phó Bí thư Thành ủy Đà Nẵng. Tháng 1 năm 2011, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI. Ngày 20/11/2010, Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương đã kết thúc sau 3 ngày làm việc. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 37 người. Ông Trương Quang Nghĩa, nguyên Phó Bí thư Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương được bầu giữ chức Bí thư Đảng bộ Khối nhiệm kỳ 2010-2015. Ngày 23 tháng 6 năm 2012, ông được Bộ Chính trị điều động giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Sơn La thay ông Thào Xuân Sùng chuyển sang nhận nhiệm vụ khác. Ngày 9/3/2015, ông Tô Huy Rứa, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương đã công bố quyết định của Bộ Chính trị về việc điều động ông Trương Quang Nghĩa, Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Sơn La giữ chức Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Tháng 1 năm 2016, ông tiếp tục được Đại hội Đảng khóa XII bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII. Ngày 7 tháng 10 năm 2017, ông Trương Quang Nghĩa được Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII phân công giữ chức Bí thư Thành ủy Đà Nẵng thay ông Nguyễn Xuân Anh bị cách chức Bí thư thành ủy Đà Nẵng và cho thôi Ủy viên Trung ương Đảng. Câu nói. Tại buổi làm việc với Sở Tài chính, Cục thuế thành phố Đà Nẵng sáng ngày 12/1/2018, Bí thư Thành uỷ Trương Quang Nghĩa nói về thất thu thuế đất từ điều chỉnh quy hoạch, ăn chia giữa người nộp, thu thuế và giám sát thu thuế: Về chống tham nhũng, ông Trương Quang Nghĩa cho rằng, chưa có nhiệm kỳ nào Việt Nam làm mạnh và đạt được nhiều kết quả như vậy đối với công tác chống tham nhũng.
1
null
Học viện hay Akademia (; ), còn gọi là Học viện Platon ("Ἀκαδημία Πλάτωνος"), được triết gia Platon (428/427–348/347 trước công nguyên) thành lập vào khoảng năm 387 trước công nguyên ở Athena cổ đại. Triết gia Aristoteles (384–322 trước công nguyên) học ở đây trong 20 năm (367–347 trước công nguyên) trước khi lập ra ngôi trường của mình, gọi là "Lyceum". Học viện tồn tại suốt thời Hy Lạp cổ đại như là một trường học mang tính hoài nghi về mặt học thuật, cho đến khi chấm dứt hoạt động sau cái chết của triết gia Philo (ở Larissa) vào năm 83 trước công nguyên. Mặc dù các triết gia tiếp tục giảng dạy triết học Platon ở Athena trong thời La Mã, đến năm 410 thì Học viện mới được tái lập như là một trung tâm học tập theo phái Tân Platon, và tồn tại cho đến năm 529 khi cuối cùng bị Hoàng đế La Mã Justinianus I đóng cửa.
1
null
Phố cổ München là khu vực lâu đời nhất của thủ đô bang Bayern. Nó cùng với khu vực Lehel lập thành quận 1 Altstadt-Lehel. Toàn cả khu vực được ghi vào danh sách di sản kiến trúc cũng như di sản đất đai (di sản khảo cổ) của tiểu bang. Vị trí. Khu vực Phố cổ của München tương đương với phần đất trung tâm lịch sử phố München, có từ thời Trung cổ cho tới thế kỷ 18 mà được một tường thành bao quanh. Biên giới của Phố cổ chủ yếu được hình thành bởi vòng đai phố cổ (Altstadtring). Ngoại lệ ở phía Bắc là quãng đường Galeriestraße - Odeonsplatz - Brienner Straße trong phạm vi vòng đai phố cổ và ở vùng Đông Nam khúc đường Müllerstraße-Rumfordstraße nằm ngoài vòng đai phố cổ. Phố cổ giáp với 4 khu phố, nguyên thủy là khúc tiếp nối của khu phố lịch sử ngoài bức tường thành: ở vùng Bắc Đông khu phố Lehel, trước đó còn được gọi là St.-Anna-Vorstadt hay khu vực Graggenau ngoài, ở vùng Đông Nam khu phố Isarvorstadt, trước đó còn được gọi khu vực Anger ngoài, ở vùng Tây Nam khu phố Ludwigsvorstadt, hay trước đó vùng Hacken ngoài, và ở vùng Bắc Tây khu phố Maxvorstadt, hay trước đó vùng Kreuzviertel ngoài. Lịch sử. Nằm ở trung tâm phố cổ là Marienplatz, theo lịch sử thì vào 14 tháng 6 1158 Heinrich Sư tử cho lập chợ ở đây. Vào năm 1255 München trở thành nơi cư trú của dòng họ Wittelsbach, 1506 thủ đô của công quốc sau khi Bayern thống nhất trở lại, 1806 thủ đô của vương quốc Bayern. Vai trò nơi cư trú của công tước và vua chúa đã ảnh hưởng lớn đến lịch sử và quang cảnh của München nhất là ở phía Bắc Phố cổ với Cung điện München (nơi cư ngụ của nhà vua), nhà thờ Theatiner và nhà hát opera Nationaltheater. Tòa thị chính mới tại Marienplatz, tiêu biểu cho sự tự trị của thành phố, chỉ có từ cuối thế kỷ 19. Từ năm 1972 Phố cổ trở thành khu đi bộ.
1
null
The Solo Collection là một bộ hộp đĩa chi tiết sự nghiệp hát đơn của Freddie Mercury, nó bao gồm những bản thu âm của Mercury trước khi gia nhập vào Queen, cho đến những bản phối lại (remix) vào năm 1993 của No More Brothers. Bộ đĩa cũng bao gồm những đĩa đơn và hai album phòng thu của Mercury, một đĩa nhạc không lời, nhiều bài hiếm, và một bộ sưu tập các buổi phỏng vấn được thực hiện bởi David Wigg. Nó còn có cả hai đĩa DVD: một bộ sưu tập các video ca nhạc, và một phim tài liệu về cuộc đời của Mercury. Danh sách bài hát. "Solo". Một bộ hộp đĩa cũng được phát hành gồm ba đĩa có tựa đề "Solo". Phiên bản này có hai album phòng thu thời kỳ đầu của Mercury, và một đĩa thứ ba gồm các bài hát được chọn từ bộ 12 đĩa.
1
null
Lã Động Tân (; 796-?) hay Lữ Động Tân, tên húy là Lã Nham (呂嵒, hay 呂巖), tự Động Tân, đạo hiệu Thuần Dương Tử, còn có hiệu là Hồi đạo nhân, sinh ngày 14 tháng 4 năm Bính Tí, tức đời Đường Đức Tông niên hiệu Trinh Nguyên thứ 12 (ngày 4 tháng 5 năm 796 Tây Lịch) tại làng Chiêu Hiền, huyện Vĩnh Lạc, phủ Hà Trung, châu Bồ (nay là thôn Chiêu Hiền, xã Vĩnh Lạc, huyện Nhuế Thành, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc). Ông là vị tiên nổi tiếng trong Đạo giáo, một trong Bát Tiên, được tôn làm một trong Ngũ Ân Chủ, Ngũ Văn Xương. Trong Đạo giáo Trung Hoa thì phái Toàn Chân tôn Lã Động Tân làm một trong Ngũ Dương tổ, nhân vật tiêu biểu của phái Nội đan cũng như dòng tư tưởng Tam giáo đồng lưu. Người đời thờ Lã Động Tân Động Tân làm thần giải mộng, thần văn cụ, thần khoa khảo, thần đào vàng và các loại mỏ kim loại, thần tổ nghề tóc, cũng như thờ ông làm thần võ hay thần tài. Ngày mất chưa rõ. Có thuyết cho rằng ông từ Hoàng Hạc lâu thăng thiên đúng ngày sinh nhật 200 tuổi, tức 14 tháng 4 năm Bính Tí niên hiệu Chí Đạo thứ 2 đời Tống Chân Tông (20 tháng 5 năm 996 Tây Lịch). Tên hiệu. Dân gian. Dân gian coi Lã Động Tân là vị tiên pháp lực cao siêu, hay tế thế cứu khổ, giúp dân trừ nạn, nên rất tôn kính. Tín đồ xưng Lã Động Tân là Lã tiên, Lã tổ, Lã tiên tổ, Lã tiên sư, Thuần Dương tiên sư, Phu Hựu đế quân. Miền Bắc Trung Quốc gọi ông là Lã tiên ông. Vùng Mân Nam, Đài Loan thì xưng là Lã tiên công, gọi tắt thành "tiên công" hay "tiên công chủ". Lã Động Tân cùng Quan Thánh đế quân tức Quan Vũ, Nhạc Ngạc vương tức Nhạc Phi, Táo Quân và Vương Linh quan thường được thờ chung làm Ngũ Ân Chủ. Triều đình. Nhà Tống: Tống Huy Tông sắc phong Diệu Đạo chân quân. Tôn giáo. Tùy theo giáo phái mà tôn danh hiệu khác nhau. Có các danh xưng: Lôi Đình Thái Hành Đại thiên sư (雷霆太行大天師), Linh Bảo Thuần Dương Nhất Khí Hoa Cái Chưởng Đạo chân quân (靈寶純陽一炁華蓋掌道真君), Quảng Tế Chánh Đạo Diệu Thông Hoành Nhân Phổ Huệ đế quân (廣濟正道妙通宏仁普惠帝君), Hưng Hành Diệu Đạo thiên tôn (興行妙道天尊), Hưng Long Đại Đạo Hộ Quốc Tế Dân Huyền Nguyên Quảng Pháp thiên tôn (興隆大道護國濟民伭元廣法天尊) Trong Toàn Chân giáo ông được coi là một trong Ngũ Dương tổ, hiệu Thuần Dương. Thường gọi ông là Thuần Dương tổ sư, Phu Hự đế quân. Câu tục ngữ và dị bản. Có một dị bản khác là trước khi Lã Động Tân thành tiên, có một người bạn tâm giao đồng hương tên là Cẩu Diễu, cha mẹ của anh ta đều đã qua đời, gia cảnh rất nghèo khó. Lã Động Tân đồng cảm với người bạn này, liền cùng anh ta kết bái làm huynh đệ. Hơn nữa, còn mời anh ta đến ở tại nhà mình, động viên anh ta chịu khó học hành, tương lai mới có ngày mở mày mở mặt. Một ngày nọ, nhà Lã Động Tân có một vị khách họ Lâm đến chơi, thấy Cẩu Diễu thanh tuấn nho nhã, lại chăm chỉ đọc sách, bèn nói với Lã Động Tân: "Lã tiên sinh, tôi muốn gả Ngu muội của tôi cho Cẩu Diễu, ông thấy thế nào?". Lã Động Tân nghe vậy, sợ Cẩu Diễu bỏ lỡ tiền đồ, liền vội vàng từ chối, nhưng Cẩu Diễu lại ra chiều đồng ý mối hôn sự này. Lã Động Tân nói: "Tiểu thư nhà họ Lâm vốn xinh đẹp đức hạnh, hiền đệ nếu chủ ý đã định, ta cũng không ngăn trở, chỉ là sau khi thành thân, ta muốn ngủ cùng tân nương tử (cô dâu) ba đêm đầu". Cẩu Diễn nghe xong không khỏi sửng sốt, nhưng vẫn cắn răng đồng ý. Buổi tối ngày Cẩu Diễu thành thân, trong động phòng, tân nương với khăn hồng che mặt, ngồi dựa lưng vào giường. Lúc này, Lã Động Tiên xông thẳng vào phòng, chẳng nói chẳng rằng, cứ ngồi ở bàn dưới ánh đèn, mải mê đọc sách. Lâm tiểu thư đợi đến nửa đêm, đành phải nằm ngủ một mình. Đến sáng tỉnh dậy, thì không thấy tân lang đâu. Cứ liên tiếp 3 đêm đều như vậy. Trải qua 3 ngày vô cùng ức chế, Cẩu Diễu mới được vào động phòng, thấy nương tử đang buồn bã khóc lóc, liền bước đến nhận lỗi. Lâm tiểu thư vẫn cứ cúi đầu khóc nói: "Lang quân, vì sao 3 đêm qua lại không lên giường đi ngủ, chỉ đọc sách dưới đèn, mãi đến tối mới đến, sáng lại đi sớm?". Sau khi nghe tân nương trách móc, Cẩu Diễu trợn mắt há hốc mồm, đến nửa ngày, anh mới tỉnh ngộ, dẫm mạnh hai chân, ngửa mặt cười to: "Thì ra là ca ca sợ ta ham vui, lại quên đọc sách, đã dùng cách này để khích lệ ta. Ca ca thật dụng tâm, có thể nói là quá "nhẫn tâm" rồi!". Lâm tiểu thư nghe Cẩu Diễn nói như vậy thì thấy vô cùng khó hiểu, đợi Cẩu Diễu nói rõ xong, hai vợ chồng cảm động nói: "Ơn này của Lã huynh, tương lai chúng ta nhất định phải báo đáp!". Vài năm sau, Cẩu Diễu quả nhiên thi đỗ bảng vàng được đề bạt làm đại quan, hai vợ chồng đến nhà Lã Động Tân xúc động từ biệt để lên đường đi nhận chức. Nhoáng một cái đã 8 năm trôi qua, mùa hè năm đó, Lã gia không may bị cháy lớn, gia sản trong nháy mắt hóa thành đống tro bụi. Lã Động Tân đành phải dựng một căn nhà tranh, để cho vợ con tạm tránh mưa tránh gió. Sau đó, hai vợ chồng bàn bạc, quyết định đi tìm Cẩu Diễn nhờ giúp đỡ. Trải qua quãng đường vất vả cực khổ, cuối cùng Lã Động Tân cũng tìm được Cẩu Diễu. Tuy nhiên, Cẩu Diễu khi nghe chuyện nhà Lã Động Tân gặp nạn thì tỏ vẻ thông cảm, nhưng lại không đề cập đến chuyện giúp đỡ, một chút tiền cũng không đưa cho Lã Động Tân. Hơn một tháng trôi qua, Lã Động Tân nghĩ rằng Cẩu Diễu hẳn là đã vong ân bội nghĩa, nên một mạch trở về nhà. Lã Động Tân vừa về đến nhà thì bất ngờ thấy một ngôi nhà mới. Không tin vào mắt mình, ông tiến vào bên trong nhà, thấy hai bên cửa lớn dán giấy trắng, giống như là trong nhà có người chết. Quá kinh ngạc, ông vội vàng bước vào, nhìn thấy giữa nhà có một cỗ quan tài, vợ con mình mặc áo tang, đang gào khóc thảm thiết. Lã Động Tân gọi vợ một tiếng. Người vợ quay đầu ra nhìn, liền run rẩy kêu lên: "Chàng, chàng là người hay là ma?". Lã Động Tân càng cảm thấy lạ lùng, ông hỏi: "Nương tử, ta khỏe mạnh trở về, làm sao là ma được đây?".Người vợ nhìn một lúc, mới nhận ra đúng là Lã Động Tân, nói: "Đúng là dọa tôi sợ đến chết!". Nguyên là, sau khi Lã Động Tân rời đi không lâu, thì có người đến dựng giúp cái nhà, xây hẳn một ngôi nhà mới. Giữa trưa hôm trước, lại có nhóm người đến mang theo một cỗ quan tài, bọn họ nói: Lã Đông Tân khi đang ở nhà Cẩu Diễu thì bị bệnh chết. Lã Động Tân nghe xong, biết là Cẩu Diễu bày trò đùa mình. Ông lại gần quan tài, cầm cái búa lớn bổ quan tài làm đôi, chỉ thấy bên trong tất cả đều là kim ngân châu báu, bên trên còn có một phong thư, viết: "Cẩu Diễu không phải là phụ lòng huynh, xin tặng huynh số kim ngân này và một căn nhà. Huynh khiến thê tử ta giữ phòng trống, ta khiến thê tử huynh khóc đoạn trường". Từ đó trở đi, hai nhà Lã Động Tân và Cẩu Diễu càng thêm thân thiết. Từ câu chuyện này, người ta mới có câu rằng: "Cẩu Diễu Lã Động Tân, bất thức hảo nhân tâm. Bởi vì "Cẩu Diễu" (苟杳; Cẩu Liễu) và "Cẩu giảo" (狗咬) đồng âm, truyền tới truyền lui mới trở thành "Cẩu giảo Lã Động Tân, bất thức hảo nhân tâm" (Chó cắn Lã Động Tân, không biết lòng tốt của người), là một câu thành ngữ trong nhân gian. Minh họa và ý nghĩa tôn giáo. Ông thường được miêu tả là mặc trang phục của đạo sĩ, tay trái cầm phất trần, kiếm phép đeo chéo sau lưng. Kiếm phép là kiếm biết bay và nghe theo lời ông sai khiến. Ông được tôn là ông tổ của nghề thợ cạo. Là một học giả ẩn dật được tôn sùng như thần hộ mệnh của những người bệnh, thanh kiếm của ông có phép thuật để xua đuổi những linh hồn quỷ dữ và loại bỏ những nguồn năng lượng xấu. Tay phải ông cầm phất trần để chữa bệnh. Đặt vị tiên này trong nhà sẽ giúp cho mọi thành viên của gia đình tránh được bệnh tật do âm khí tạo ra.
1
null
Cá đuôi chuột biển thẳm, Coryphaenoides armatus, là một loài cá biển sâu của chi Coryphaenoides, được tìm thấy tại các đại dương khắp thế giới, ở độ sâu giữa 800 đến 4000 m. Chiều dài của nó giữa 20 tới 40 cm, mặc dù FishBase cho độ dài lên đến 1 m. Cơ thể cá đuôi chuột biển thẳm không giống như bất kỳ loài cá khác. Nó có 2 gai lưng và khoảng 124 gai lưng mềm. Nó không có gai hậu môn, nhưng có 115 gai hậu môn mềm trên cơ thể của nó. Đầu và đôi mắt của loài cá này rất lớn, trong khi miệng rất nhỏ và không đạt tiêu chuẩn. Cơ thể cá đuôi chuột biển thẳm.
1
null