text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
Aphia minuta là một loài cá bống có nguồn gốc ở đông bắc Đại Tây Dương, nơi nó có thể được tìm thấy từ Trondheim, Na Uy đến Maroc. Nó cũng được tìm thấy trong vùng Địa Trung Hải, Biển Đen và Biển Azov. "Aphia minuta" là một loài cá nổi, sinh sống ven bờ và cửa sông với nhiệt độ 13-16 °C. Nó có thể được tìm thấy ở độ sâu từ bề mặt tới 97 mét (318 ft), mặc dù nó thường được tìm thấy từ 5 đến 80 mét (16–262 ft). Loài này có thể đạt chiều dài 7,9 cm (3,1 in). Nó hiện là thành viên duy nhất được biết đến trong chi "Aphia". | 1 | null |
Thôi Hạo (chữ Hán: 崔顥, ? - 450), tên tự là Bá Uyên (伯淵), tên lúc nhỏ là Đào Giản (桃簡) nguyên quán ở Thành Đông Vũ, quận Thanh Hà, là chính trị gia hoạt động vào đầu thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Thôi Hạo dùng tài học của mình mà liên tục thăng tiến và nắm giữ các chức vụ quan trọng trong triều Bắc Ngụy, trải qua ba đời hoàng đế Đạo Vũ, Minh Nguyên, Thái Vũ, quan chức tới Tư đồ ( Thừa Tướng) và là một mưu thần có cống hiến rất lớn cho công cuộc thống nhất miền Bắc của Bắc Ngụy Thái Vũ Đế. Tuy nhiên sau cùng, ông bị gán tội mưu phản rồi bị xử tử cùng với 9 họ.
Tiểu sử.
Thời trẻ.
Thôi Hạo là con trai trưởng của Bạch Mã công Thôi Hoành (tự Huyền Bá), khai quốc công thần và trọng thần trong những năm đầu Bắc Ngụy, mẹ là Lư thị, cháu gái Lư Kham. Theo Ngụy thư, liệt truyện quyển 23, Thôi Hạo từ nhỏ đã thích văn học, biết nhiều kinh sử, giỏi về đạo và tinh thông âm dương ngũ hành. Những năm Thiên Hưng đời Bắc Ngụy Đạo Vũ Đế, Thôi Hạo được triều đình Bắc Ngụy phong làm Cấp sự bí thư, sau lại đổi thành Tác phẩm lang.
Những năm cuối đời, Bắc Ngụy Đạo Vũ Đế, vua đầu tiên của Bắc Ngụy thay đổi tâm tính, trở nên tàn ác hiếu sát. Rất nhiều đại thần, tôn thất mặc dù chỉ phạm lỗi nhỏ, hay can gián, hay xu nịnh vua đều không được Đạo Vũ Đế vừa lòng và đều bị đối xử tàn bạo hoặc bị giết chết khiến triều chính trong những năm này trở nên rối loạn. Thôi Hạo cố gắng giữ mình, cố gắng làm hài lòng Đạo Vũ Đế, cũng không dám xu nịnh tâng bốc mà tỏ ra cần cù, vì thế mới thoạt được nạn.
Khi Ngụy Thái Vũ Đế bị giết năm 409, Thanh Hà vương Thác Bạt Thiệu ra sức dụ dỗ cha con Thôi Hạo về phe mình nhưng Thôi Hoành nhất quyết không theo. Đến khi Ngụy Thái Tông (Minh Nguyên Đế) giết được Thiệu và lên nối ngôi, đã khen ngợi Thôi Hoành và phong ông làm Bạch Mã công, còn Thôi Hạo giữ chức Bác sĩ tế tửu, tước Vũ Thành tử, giúp Thái Tông về việc văn thư.
Thần cơ diệu toán.
Bắc Ngụy Minh Nguyên Đế thích âm dương thuật số, lại nghe tiếng Thôi Hạo có nghiên cứu về các sách Hồng Phạm và Kinh Dịch, bèn sai ông bói việc lành dữ để thử tài. Thôi Hạo vốn có tài ấy, nên thường đoán đúng, vì thế ông được Thái Tông tin tưởng và giữ lại làm mưu thần bên cạnh. Kể từ năm 414, Ngụy Thái Tông lại yêu cầu Thôi Hạo giảng giải cho mình về hai quyển sách thần bí này. Ông cũng nhiều lần đoán đúng việc tương lai nên càng được vua Ngụy tin tưởng. Đến năm 415, nhân hậu cung có hiện tượng bất thường, Thôi Hạo dự đoán rằng nước khác sắp cống công chúa vào cung. Quả nhiên trong năm đó, vua Hậu Tần là Diêu Hưng gả công chúa sang Ngụy.
Năm 415, Bắc Ngụy mất mùa, dân chúng gặp cảnh đói kém Thái sử lệnh Vương Lượng cùng công chúa Hoa Âm dâng thư cho rằng Bắc Ngụy đương trong thời thịnh thế mà lại gặp tai ương là điềm bất tường, khuyên Thái Tông dời đô từ Bình Thành đến đất Nghiệp Thành. Thôi Hạo cùng đại thần Chu Đạm đều dâng sớ cho rằng việc dời đô không phải là kế lâu dài vì người dân Tiên Ti quen sống ở sa mạc phía bắc, dời đô sẽ khiến nhiều người Tiên Ti phải di dời theo, sẽ gây việc không hợp thủy thổ dẫn đến bệnh dịch và nạn đói, do đó nên giữ đô thành ở phương bắc để phòng bị trước việc biến loạn có thể xảy ra do người Hán vẫn không phục người Tiên Ti. Điều này hợp ý với Bắc Ngụy Minh Nguyên Đế nên được Tông khen ngợi.
Năm 417, trên trời xuất hiện dị tượng, tỏ điềm báo sắp có một quốc gia sắp diệt vong. Bắc Ngụy Minh Nguyên Đế lo sợ điềm báo này sẽ ứng vào Bắc Ngụy nên rất lo lắng. Nhưng Thôi Hạo trấn an Minh Nguyên Đế và cho rằng bị diệt vong sẽ là Hậu Tần ở Quan Trung. Quả nhiên cùng năm đó, quyền thần nhà Tấn là Lưu Dụ bắc phạt diệt Tần. Từ thời điểm này, các đại thần trong triều đều phải khâm phục tài chiêm tinh của Thôi Hạo..
Tháng 3 năm 417, Lưu Dụ soái thủy quân từ Hoài, Tứ vào Thanh Hà, sắp ngược dòng Hoàng Hà tây tiến. sau đó đích thân còn mình soái chủ lực tiếp tục tây tiến; Thôi Hạo dâng thư cho rằng Hậu Tần diệt vong là khó tránh khỏi, còn quân đội Bắc Ngụy vẫn chưa đủ thực lực cho cuộc chiến với Đông Tấn; Minh Nguyên đế đồng ý nhưng cũng cho rằng vừa phải đề phòng quân Tấn lấn đất như trường hợp Hoạt Đài, vừa phải hư trương thanh thế tránh tiếng xấu không cứu Tần nên sai 10 vạn quân đánh phá quấy nhiễu thủy quân Đông Tấn để ngăn họ lên bờ bắc. Tuy nhiên cuối cùng Lưu Dụ vẫn đẩy lui quân Bắc Ngụy rồi chiếm được Trường An, diệt Hậu Tần. Mấy ngàn quân Bắc Ngụy bị giết khiến vua Ngụy hối tiếc vì quyết định này. Cũng trong năm đó, dị tượng lại xuất hiện và Thôi Hạo dự đoán Đông Tấn là nước sẽ bị diệt vong tiếp tục. Kết quả là năm 420, Lưu Dụ chính thức cướp ngôi nhà Tấn, lập ra nhà Tống ở phía nam..
Nắm giữ quyền lực.
Năm 419, Thôi Hoành qua đời, Thôi Hạo được kế tập tước vị Bạch Mã công của cha.
Năm 422, Ngụy Thái Tông do uống nhiều đan dược để mong được trường sinh, kết quả phát bệnh nặng khi mới 35 tuổi. Sợ không qua khỏi, Thái Tông hỏi Thôi Hạo về hậu sự sau khi mình mất. Thôi Hạo trấn an rằng Minh Nguyên Đế sẽ khỏi bệnh, nhưng cũng khuyên vua nên trao bớt quyền lực cho hoàng tử trưởng Thái Bình vương Thác Bạt Đảo để yên tâm dưỡng bệnh. Đại tướng Bạt Bạt Tung cũng đồng ý việc này. Minh Nguyên Đê bèn phong Đảo làm thái tử và giao quyền giám quốc. Từ đó, thái tử Đảo nắm quyền trong nước, còn Đế chỉ quyết định những công việc quan trọng.
Năm 422 ở phía nam, vua Tống Vũ Đế Lưu Dụ cũng mất. Bắc Ngụy Minh Nguyên Đế muốn thừa cơ đánh Tống, còn Thôi Hạo lại can rằng nhà Tống khó có thể chinh phục. Tuy nhiên Minh Nguyên Đế không nghe, mà vẫn xuất binh. Nhưng lần này Bắc Ngụy lại giành chiến thắng, chiếm nhiều đất đai ở phía bắc sông Hoàng Hà dù không đạt được mục tiêu là diệt Lưu Tống.
Sang năm 423, Bắc Ngụy Minh Nguyên Đế chết, thái tử Đảo nối ngôi, tức Bắc Ngụy Thái Vũ Đế. Các đại thần ghen ghét Thôi Hạo nhân việc này mà gièm pha ông. Trước sức ép của triều đình, Bắc Ngụy Thái Vũ Đế đành cho ông từ quan và giáng tước công của ông. Tuy nhiên Thế Tổ vẫn biết Thôi Hạo là người khôn ngoan và thông minh, do vẫn thường đến thăm và trao đổi việc triều chính với ông. Còn ông thì dành nhiều thời gian chăm sóc cho làn da của mình, đến nỗi không bao lâu sao, nước da của ông đã trắng giống như phụ nữ. Ông cũng tự tin rằng sự thông minh của mình hơn hẳn mưu thần nhà Hán là Trương Lương.
Tái xuất triều đình.
Thôi Hạo xem thường những học giả thời Chiến Quốc như Trang Tử, đồng thời căm ghét Phật giáo vì cho rằng đó là tôn giáo của bọn man rợ.
Sang năm 426, Thôi Hạo được phong làm Đông quận công và bắt đầu trở lại triều chính, sau đó lại được phong Thái thường khanh. Cùng năm, Bắc Ngụy Thái Vũ Đế bắt đầu chiến dịch thống nhất miền bắc, muốn tấn công vào Hạ quốc. Quần thần cho rằng khó thành công, nhưng theo ý của Thôi Hạo thì chính trị nước Hạ bạo ngược, lòng dân không hướng về thì việc công đánh sẽ dễ dàng. Thế Tổ bèn sai Đạt Hề Cân đánh Hạ, công đánh và chiếm được kinh đô nước Hạ là Thống Vạn năm 427, buộc nước Hạ thiên đô về An Định.
Dưới thời Ngụy Thái tổ đã ra lệnh cho Thượng thư lang Đặng Uyên biên soạn quốc sử gồm 10 quyển viết về lịch sử của tổ tiên Bắc Ngụy. Đến năm 429, Thế Tổ lại tiếp tục biên soạn quốc ký, giao việc này cho Thôi Hạo cùng em là Thôi Lãm và Cao Đảng, Đặng Dĩnh, Triều Kế, Hoàng Phụ... tiếp tục biên soạn quốc thư gồm hơn 30 quyển nữa. Nhiều người cho rằng sự việc này là nguyên nhân dẫn đến cái chết bi thảm của ông 20 năm sau.
Ngày càng được tin tưởng.
Cùng năm 429, triều đình muốn đánh Nhu Nhiên, nhiều đại thần phản đối, đến Bảo thái hậu cũng lựa lời khuyên ngăn Thái Vũ Đế. Ý kiến của Thôi Hạo lại khác các đại thần còn lại, ông khuyên Thế Tổ cứ tấn công Nhu Nhiên. Thượng thư lệnh Lưu Khiết, Tả bộc xạ An Nguyên dẫn đầu quần thần phản đối. Bắc Ngụy Thái Vũ Đế không quyết đoán được, bèn triệu Thôi Hạo và Hoàng môn thị lang Trương Uyên đến đối lý với nhau. Cuối cùng Trương Uyên đuối lý, Thái Vũ Đế chấp nhận phát quân đánh Nhu Nhiên, thu được nhiều của cải và thú vật, song không thể tiến sâu vào lãnh thổ Nhu Nhiên.
Thôi Hạo có thói quen vào đêm tối thường ra xem thiên văn để có thể phạt hiện và dự đoán việc tương lai khi có dị tượng xảy ra, đồng thời chuẩn bị kim ngân đồng và dùng nó như cây bút để viết về các dị tượng này. Bắc Ngụy Thái Vũ Đế biết được nên thường đến nhà ông vào buổi tối để hỏi thăm và thường ăn tối trong nhà của ông. Thái Vũ Đế đánh giá về Thôi Hạo tuy là người yếu ớt nhưng lại hữu dụng hơn cả chục vạn quân.
Năm 430, Lưu Tống Văn Đế chuẩn bị tấn công Bắc Ngụy, Thái Vũ Đế muốn thừa cớ đánh trả rồi phản công trở lại, nhưng Thôi Hạo phản đối vì cho rằng nếu để chiến sự kéo dài thì nhà Tống có thể thừa có vượt Hoàng Hà và đe dọa đến sự tồn tại của Bắc Ngụy. Ông đề xuất nên để quân Tống tấn công trước và tạm lui để nhường phía nam Hoàng Hà lại cho họ và đợi đến mùa đông khi quân Tống không chịu được thời tiết lạnh giá, Bắc Ngụy sẽ phản công. Quả nhiên quân Ngụy đại phá quân Tống vào năm 431.
Không lâu sau, Thôi Hạo được thăng làm gia Thị trung, Phủ quân đại tướng quân và được thưởng vì công trạng đóng góp quyết sách đúng đắn trong lần đánh Nhu Nhiên. Vào cuối năm 431, Thôi Hạo ra lệnh truy xét tổ tiên của các quan lại trong triều để tính việc bổ dụng, khiến cho nhiều người xuất thân hèn kém oán trách. Cùng năm, theo lệnh của Ngụy Thế Tổ, ông sửa lại bộ luật của triều Bắc Ngụy theo hướng khoan dung hơn. Sử sách ghi lại một số điều luật của ông bổ sung vào như sau:
Năm 439, Thái Vũ Đế quyết định tấn công Bắc Lương để hoàn thành việc thống nhất phương bắc. Quyết định này bị số đông đại thần phản đối nhưng lại được Hạo ủng hộ. Không lâu sau quân Ngụy diệt xong Bắc Lương, thống nhất miền bắc.
Cái chết.
Trong lúc này quan hệ giữa Thôi Hạo và thái tử Thác Bạt Hoảng ngày một căng thẳng. Thôi Hạo vốn theo Đạo, ghét Phật nên thúc giục Thái Vũ Đế cũng coi trong Đạo giáo và xây cung Tĩnh Luân cao ngất để cúng thần thánh vào năm 442. Thái tử Hoảng vốn theo đạo Phật, cực kì phản đối vì đây là một việc làm rất tốn kém, nhưng Thái Vũ Đế không nghe.
Năm 444, Bắc Ngụy Thái Vũ Đế giao cho thái tử Hoảng giám quốc, và giao cho Thôi Hạo phò tá thái tử. Tuy nhiên mối quan hệ giữa hai người ngày một xấu đi.
Năm 446, Cái Ngô làm phản ở Quan Trung, Thế Tổ đưa quân dẹp loạn, và tìm thấy nhiều vũ khí trong các ngôi chùa vùng này. Theo sự xúi giục của Thôi Hạo, vốn ghét đạo Phật, Thế Tổ tin rằng các nhà sư muốn chống lại mình, nên đã ra lệnh giết hết các nhà sư ở Trường An và ra lệnh bãi bỏ Phật giáo, đập bỏ tượng Phật, đốt kinh Phật. Đây là họa đầu tiên trong Họa Tam Vũ ở Trung Hoa.
Năm 447, nghe tin vua Bắc Lương đã bị phế là Thư Cừ Mục Kiền có kế hoạch nổi loạn, Thái Vũ Đế cử Thôi Hạo đến chỗ ông ta và ban chết cho Thư Cừ Mục Kiền.
Về cái chết của Thôi Hạo, sách Ngụy thư, quyển sách đáng tin cậy nhất về lịch sử thời Bắc Ngụy, ghi chép rằng:
"Tháng 6 năm Chân Quân thứ 11 (450) tru Hạo, họ Thôi ở Thanh Hà, họ Lư ở Phạm Dương, họ Quách ở Thái Nguyên, họ Liễu ở Hà Đông, là thân nhân với Hạo, nên bị giết hết cả tộc".
Và chỉ cho biết rằng lý do của cái chết này là Thôi Hạo đã kể lại hết quốc sự của Bắc Ngụy. Các sử gia về sau có nhiều ý kiến cho cái chết của ông, nhưng giả thuyết của nhà sử học Bá Dương được nhiều ý kiến đồng tình là Thôi Hạo đã nói ra sự thực về việc Bắc Ngụy Thái Tổ đã từng giết cha để giữ mạng lúc nước Đại bị Tiền Tần xâm lược. Sự thực thì Ngụy thư chép rằng Ngụy Thái Tổ là cháu nội của Thác Bạt Thập Dực Kiền, vua nước Đại thời Ngũ Hồ. Sau khi Đại bị Tiền Tần xâm lược, Thập Dực Kiền bị con là Thật Quân giết chết. Ngụy Thái Tổ về sau trung hưng nước Đại và đổi quốc hiệu là Ngụy. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng Thái Tổ là con của Thập Dực Kiền và đã phản cha để đầu hàng Tiền Tần.
Khi Thôi Hạo bị dẫn đến trước mặt Ngụy Thái Vũ Đế và bị chất vấn, ông sợ hãi đến nỗi không nói được gì. Điều này dấy lên ý kiến nghi ngờ có thể Thôi Hạo đã bị cho uống thuốc câm trước khi ra công đường. Khi sắp bị xử tử, ông bị nhốt trong một cái cũi và bị bọn quân lính tiểu vào mặt, sau đó bị trưng ra giữa đường thị uy với người dân, ông cũng chỉ hô lên được vài tiếng không rõ ràng. Đây dường như có sự âm mưu của thái tử Thác Bạt Hoảng và đây cũng là bí mật chính trị lớn nhất dưới thời Bắc Ngụy. Mãi đến sau này, Ngụy Thế Tổ lại hối hận về quyết định này của mình. Dĩ nhiên, những gì Thôi Hạo viết trong quốc sử đều bị bỏ đi tất cả.
Đánh giá.
Sách Ngụy thư có nhận xét về Thôi Hạo: là người tài nghệ thông bác, tính được thiên văn, lại có thể trù định chính sự, có phong thái giống như Tử Phòng. Ông ta giúp Ngụy Thái Tông quản lý chính sự, trung hưng Bắc Ngụy, giúp Ngụy Thể Tổ kinh doanh thiên hạ... Tuy nhiên mưu tuy là cái thế, uy thế lên cao át chủ, cuối cùng thân cũng không bảo toàn được. | 1 | null |
USS "Abbot" (DD-184) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, trong Chiến tranh Thế giới thứ hai được chuyển cho Anh Quốc dưới tên gọi HMS "Charlestown" (I-21) và hoạt động cho đến hết chiến tranh. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Thiếu tướng Hải quân Joel Abbot (1793-1855), người tham gia cuộc Chiến tranh 1812 và chuyến đi của Matthew C. Perry đến Nhật Bản năm 1852.
Thiết kế và chế tạo.
"Abbot" được đặt lườn vào ngày 5 tháng 4 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng Newport News Shipbuilding and Drydock Company ở Newport News, Virginia. Nó được hạ thủy vào ngày 4 tháng 7 năm 1918, được đỡ đầu bởi cô Louise Abbot, chắt của Thiếu tướng Abbot, và được đưa ra hoạt động vào ngày 19 tháng 7 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân W. N. Richardson, Jr..
Lịch sử hoạt động.
USS "Abbot".
Đặt căn cứ tại Norfolk, Virginia, "Abbot" hoạt động dọc theo vùng bờ Đông Hoa Kỳ, vịnh Mexico và vùng biển Caribe, đặc biệt là tại vùng biển Cuba. Chiếc tàu khu trục được cho xuất biên chế tại Xưởng hải quân Philadelphia vào ngày 5 tháng 7 năm 1922.
Sau khi bị bỏ không trong gần hai mươi năm, "Abbot" được cho nhập biên chế trở lại vào ngày 17 tháng 6 năm 1940, và đã tuần tra tại vùng bờ Đông Hoa Kỳ cho đến khi được cho xuất biên chế tại Halifax, Nova Scotia vào ngày 23 tháng 9 năm 1940 để được chuyển giao cho Anh Quốc, như một phần của Thỏa thuận đổi tàu khu trục lấy căn cứ đổi 50 tàu khu trục cũ cho Anh để có quyền thuê lại các căn cứ chiến lược của Anh tại vùng Tây Bán Cầu. Tên của "Abbot" được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 8 tháng 1 năm 1941.
HMS "Charlestown".
Tạm thời được đặt tên là HMS "Abbot, rồi nhanh chóng đổi tên thành HMS "Charlestown, chiếc tàu khu trục được phân về Đội khu trục 17, và đi đến Belfast, Bắc Ireland vào ngày 8 tháng 10. Nó tham gia nhiều hoạt động rải mìn dọc theo bờ biển phía Tây Scotland. Đến tháng 9 năm 1943, nó được điều về Lực lượng Hộ tống Rosyth để hộ tống các đoàn tàu vận tải dọc theo bờ biển Anh.
"Charlestown" bị hư hại do va chạm với chiếc tàu hơi nước "Florizell" ngoài khơi Harwich, Anh vào tháng 12 năm 1944. Do đã cũ và lạc hậu, người ta quyết định không sửa chữa nó, và đưa về thành phần dự bị tại Grangemouth, Firth of Forth. "Charlestown" được cho ngừng hoạt động vào ngày 15 tháng 1 năm 1945 và bị tháo dỡ sau đó. | 1 | null |
Tôn Hà (chữ Hán: 孙河, ? – 204), tự Bá Hải, người Thọ Xuân, Ngô Quận , tông thất, tướng lãnh nhà Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
Cuộc đời.
Hà vốn là cháu đàng nội của Tôn Kiên. Ông có người cô được gả cho nhà họ Du, chọn Hà làm người kế tự, nên đổi sang họ Du, về sau đổi lại họ Tôn.
Hà tính chất phác, trung thực, nói chậm làm nhanh, có khí phách và tài cán, lại còn siêng năng. Thiếu thời Hà là tâm phúc của Tôn Kiên, theo ông ta chinh thảo khắp nơi, thường làm tiền khu, sau được nhận chức Lãnh tả hữu binh, Điển tri nội sự. Tôn Sách về Giang Đông, ông tham gia bình định Ngô Quận, Cối Kê. Theo Tôn Quyền dẹp Lý Thuật, phá xong, được bái làm Uy khấu trung lang tướng, lãnh Lư Giang thái thú. Sau đó làm tướng quân, đồn trú ở kinh thành (thành Ngô huyện thuộc Ngô Quận).
Em Tôn Quyền là Đan Dương thái thú Dực bị bộ hạ Biên Hồng sát hại, Hà đi trước đến Uyển Lăng (Biên Hồng đã bị giết), trách cứ bộ tướng của Dực là Quy Lãm, Đái Viên không bảo vệ được chủ nhân. 2 người vốn là thủ hạ cũ của Thịnh Hiến (Hiến bị Tôn Quyền giết), cho rằng Hà với Dực là sơ thì chỉ trách mắng, Quyền với Dực là thân thì sẽ không tha cho mình, nên cùng nhau giết chết Hà, sai sứ lên bắc đón Dương Châu thứ sử Lưu Phức của Ngụy. Không lâu sau, vợ Dực là Từ thị liên kết với bộ hạ của chồng giết chết bọn Lãm.
Các con của Hà là Tôn Trợ, Tôn Nghi mất sớm, Tôn Hoàn, Tôn Tuấn còn nhỏ, nên Tôn Quyền cho Tôn Thiều lãnh bộ khúc của Hà. | 1 | null |
Tôn Thiều (chữ Hán: 孙韶, 188 – 241), tự Công Lễ (公禮), người Thọ Xuân, quận Ngô, tông thất, tướng lãnh nhà Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
Cuộc đời.
Du Thiều vốn mang họ Du, là cháu gọi Tôn Hà (con nuôi nhà họ Du) bằng bác, nhờ được Tôn Sách yêu mến, ban cho họ Tôn, liệt vào tông tộc.
Thiều lên 17 tuổi (204), thu nhặt những bộ hạ còn lại của Tôn Hà (đã đi Đan Dương dẹp loạn), sửa sang kinh thành. Ông dựng lâu lỗ , tu sửa khí cụ sẵn sàng chống địch. Quyền nghe tin ở Đan Dương, từ Tiêu Khâu về, ghé qua Đan Dương (cuộc nổi loạn đã bị dẹp xong), rồi đưa quân về Ngô quận. Quyền đến dưới kinh thành (thành Ngô huyện thuộc Ngô quận) trong đêm, thử tấn công nhằm gây sợ hãi, không ngờ binh sĩ trên thành nhận lệnh phòng bị, tiếng hô dậy đất, tên bắn như mưa, sứ giả Quyền đợi trời sáng mới bảo họ ngừng được. Hôm sau gặp Thiều, Quyền rất xem trọng, lập tức bái làm Thừa liệt hiệu úy, cho thống lãnh bộ khúc của Tôn Hà (đã bị giết hại ở Đan Dương), ăn lộc 2 huyện Khúc A, Đan Đồ, được tự đặt các chức (huyện) trưởng, lại như Hà trước đây. Sau Tôn Thiều thăng chức thái thú Quảng Lăng, Thiên tướng quân.
Năm 222, Tôn Quyền được Ngụy Văn đế Tào Phi phong vương, Thiều được thăng làm Dương uy tướng quân, tước Kiến Đức hầu.
Năm 229, Tôn Quyền xưng đế, phong Thiều làm Trấn bắc tướng quân. Thiều làm tướng ở biên thùy mấy chục năm, giỏi vỗ về sĩ tốt, bọn họ sẵn lòng chết vì ông. Thường tiến hành dò xét tình hình bờ cõi, nắm bắt động tĩnh mà có chuẩn bị, nên ít khi thất bại. Thanh, Từ, Nhữ, Bái có rất nhiều người quy phụ, sau khi ông đóng đồn ở Tân Giang thuộc Hoài Nam thì quân Ngụy rút về thật xa, vùng Từ, Tứ, Giang, Hoài hàng trăm dặm không có người sanh hoạt.
Sau khi chiếm Kinh Châu (219), Tôn Quyền dời đô về Vũ Xương, Thiều không được gặp hơn 10 năm. Quyền dời đô về Kiến Nghiệp (229), ông mới được vào triều. Quyền hỏi về thành trì, nhân sự ở Thanh, Từ, tên họ của các tướng Ngụy, Thiều đều nắm rõ, đối đáp trôi chảy. Lúc này ông mình dài 8 thước, dáng vẻ nho nhã, Quyền vui mừng nói: "Trẫm đã lâu không gặp Công Lễ, không ngờ tiến bộ thế này." Được gia lãnh U Châu mục, giả tiết.
Năm 241, mất. Con là Việt kế tự.
Gia đình.
Tôn Thiều có năm con trai Khải, Việt, Dị, Dịch, Khôi. | 1 | null |
Tôn Hoàn (, 198 – 223), hay Du Hoàn (俞桓), tên tự là Thúc Vũ (叔武), là tông thất, tướng lĩnh Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
Thân thế.
Tôn Hoàn quê ở huyện Phú Xuân, quận Ngô, Dương Châu, là con trai thứ ba của Tôn Hà (từng quá kế nhà họ Du, cháu họ Tôn Kiên), em trai của Tôn Trợ, Tôn Nghị, anh trai của Tôn Tuấn.
Tôn Hoàn dáng vẻ đoan chính, bụng dạ sáng láng, học rộng nhớ lâu, có thể nghị luận ứng đối, Tôn Quyền thường gọi là Nhan Uyên trong đám tông thất.
Cuộc đời.
Tôn Hoàn ban đầu được làm Vũ vệ Đô úy. Năm 219, Hoàn theo Lã Mông đánh lén Kinh Châu. Trong chiến dịch này, Tôn Hoàn chặn đánh Quan Vũ ở đường Hoa Dung, bắt làm tù binh hơn 5.000 người cùng thu giữ nhiều trâu, ngựa, khí giới.
Năm 222, khi 25 tuổi, Tôn Hoàn được phong làm An Đông Trung lang tướng, theo Lục Nghị chống lại Lưu Bị. Tôn Hoàn đóng quân ở Di Đạo, bị quân Thục Hán bao vây, cho người đến chỗ Lục Nghị cầu cứu. Lục Nghị cho rằng chỉ cần kế sách thành công, thì không cần chi viện Tôn Hoàn. Quả nhiên, Lục Nghị thành công, Tôn Hoàn không những được giải vây, còn thừa cơ cho quân chặn đường lui của Lưu Bị, khiến quân Thục Hán phải vượt núi mới thoát. Lưu Bị phẫn uất than rằng: "Ta năm xưa đến Kinh Thành, Hoàn còn là đứa trẻ, mà nay bức trẫm đến thế này đấy!"
Tôn Hoàn nhờ công này nên được phong Kiến Vũ tướng quân, tước Đan Đồ hầu; được phái đi Giang Hạ làm đốc Ngưu Chử, xây dựng Hoành Giang ổ.
Năm 223, Tôn Hoàn mắc bệnh dịch, chết khi đang ở chức, thọ 26 tuổi.
Trong văn hóa.
Trong tiểu thuyết "Tam quốc diễn nghĩa" của La Quán Trung, Tôn Hoàn xuất hiện ở hồi 82, giữ chức An Đông tướng quân. Tôn Quyền hỏi kế đánh Lưu Bị, Tôn Hoàn ỷ mình có hai mãnh tướng Lý Dị, Tạ Tinh, xin được ra trận. Tôn Quyền khen Hoàn là anh hùng, phong làm Tả đô đốc, cùng Hữu đô đốc Chu Nhiên dẫn 5 vạn quân tấn công Nghi Đô. Tôn Hoàn bị Ngô Ban nhiều lần đánh bại, phải chạy đến Di Lăng cố thủ chờ viện quân. Chu Thái xin Lục Nghị cứu viện Di Lăng nhưng Lục Nghị không đồng ý: "Ta vốn biết Tôn An Đông rất được lòng quân sĩ, chắc hẳn giữ vững được, không cần phải cứu chữa nữa. Đợi khi nào ta phá xong Thục thì ông ấy sẽ thoát thôi."
Lục Nghị phá quân Thục, Ngô Ban, Trương Nam đang đánh Di Lăng thì Phùng Tập đến báo tin thua trận, yêu cầu các tướng rút lui để đi cứu Lưu Bị. Quân Thục đang lui thì quân Ngô kéo đến, Tôn Hoàn thừa cơ cho quân đánh ra, giết được hai tướng Trương Nam, Phùng Tập. | 1 | null |
USS "Bagley" (DD–185) là một tàu khu trục thuộc lớp "Wickes" của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau đổi tên thành USS "Doran" (DD–185). Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, nó được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Anh năm 1940 như là chiếc HMS "St. Mary's" (I-12) và phục vụ cho đến năm 1944. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Thiếu úy Hải quân Worth Bagley (1874-1898), sĩ quan Hải quân Hoa Kỳ duy nhất tử trận trong cuộc Chiến tranh Tây Ban Nha-Hoa Kỳ.
Thiết kế và chế tạo.
"Bagley" được đặt lườn vào ngày 11 tháng 5 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng Newport News Shipbuilding and Dry Dock Company ở Newport News, Virginia. Nó được hạ thủy vào ngày 19 tháng 10 năm 1918, được đỡ đầu bởi bà Adelaide Worth Bagley, mẹ Thiếu úy Bagley, và được đưa ra hoạt động vào ngày 27 tháng 8 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân R. L. Walker.
Lịch sử hoạt động.
USS "Bagley" - USS "Doran".
Trình diện để hoạt động cùng Hạm đội Đại Tây Dương, từ tháng 8 năm 1919 đến tháng 7 năm 1920, "Bagley" phục vụ cùng các chi hạm đội khu trục 1, 3 và 8, tham gia các cuộc cơ động và huấn luyện tại Đại Tây Dương và vùng biển Caribe. Nó được đưa về lực lượng dự bị từ ngày 16 tháng 7 năm 1920, rồi được cho xuất biên chế tại Philadelphia, Pennsylvania vào ngày 12 tháng 7 năm 1922. Trong giai đoạn từ ngày 25 tháng 4 năm 1932 đến ngày 20 tháng 4 năm 1934, nó được chuyển cho Tuần duyên Hoa Kỳ mượn.
Cái tên "Bagley" bị loại bỏ từ ngày 31 tháng 5 năm 1935, và cho đến năm 1939 nó chỉ được gọi dưới ký hiệu lườn DD-185. Nó được đổi tên thành USS "Doran" (DD-185) vào ngày 22 tháng 12 năm 1939, tên được đặt theo John James Doran (1864-1904), người được tặng thưởng Huân chương Danh dự trong cuộc Chiến tranh Tây Ban Nha-Hoa Kỳ. Được cho nhập biên chế trở lại vào ngày 17 tháng 6 năm 1940, nó trình diện để hoạt động cùng Hải đội Đại Tây Dương, và phục vụ cùng đơn vị này cho đến ngày 22 tháng 9 năm 1940, khi nó được cho xuất biên chế tại Halifax, Nova Scotia để được chuyển giao cho Anh Quốc như một phần của Thỏa thuận đổi tàu khu trục lấy căn cứ.
HMS "St. Mary's".
"Doran" được đổi tên thành HMS "St. Mary's" và đi đến Belfast, Bắc Ireland vào ngày 8 tháng 10 năm 1940. Nó được điều về lực lượng hộ tống cho Hải đội Rải mìn 1, đi đến khu vực bờ biển phía Tây Scotland vào ngày 31 tháng 10, và tham gia một số hoạt động ban đầu tại eo biển Đan Mạch giữa Iceland và Greenland. Nó cũng hộ tống một số đoàn tàu vận tải. Trong năm 1941, nó tham gia hầu hết các hoạt động rải mìn của hải đội, giúp vào việc bảo vệ các con tàu. Vào ngày 29 tháng 8 năm 1941, nó mắc tai nạn va chạm với một tàu vận tải ngoài khơi bờ biển phía Tây Scotland, và phải vào ụ tàu Salford sửa chữa cho đến tháng 12.
"St. Mary's" tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ rải mìn và bảo vệ tàu bè trong những năm 1942 và 1943. Đến tháng 2 năm 1944, nó được cho ngừng hoạt động tại Tyne và bỏ không tại đây cho đến khi chiến tranh kết thúc, rồi bị tháo dỡ. | 1 | null |
Bốn tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được mang cái tên USS "Bagley". Ba chiếc đầu được đặt theo tên Thiếu úy Hải quân Worth Bagley (1874-1898), sĩ quan Hải quân Hoa Kỳ duy nhất tử trận trong cuộc Chiến tranh Tây Ban Nha-Hoa Kỳ; trong khi chiếc thứ tư được đặt nhằm vinh danh cả Thiếu úy Bagley lẫn người anh của ông, Đô đốc David W. Bagley (1863-1960): | 1 | null |
là trò chơi điện tử thuộc thể loại chiến thuật thời gian thực do hãng Koei phát triển và Electronic Arts phát hành vào năm 2000. Đây là trò chơi định dạng DVD-ROM đầu tiên trên PlayStation 2 và cũng là tựa game khởi động cho hệ máy này tại Nhật Bản. Nó là trò wargame thời gian thực duy nhất lúc đầu dành cho PS2.
"Kessen" là trò chiến thuật thời gian thực lấy bối cảnh Nhật Bản thời phong kiến cát cứ, tập trung vào cuộc xung đột giữa gia tộc Tokugawa ở phía Đông và gia tộc Toyotomi ở phía Tây (với Ishida Mitsunari là người giám hộ và bảo vệ của Toyotomi) của shogun vào cuối thời kỳ Chiến Quốc ("Sengoku Jidai"). Tokugawa Ieyasu từng là người đại diện chính cho Đông quân nơi Tây quân thay đổi lãnh đạo dựa trên kết quả lựa chọn trận đánh quan trọng.
Dù đối với hầu hết phần chính xác về mặt lịch sử, "Kessen" còn bao gồm một vài màn chơi theo kịch bản "Nếu-như" dành cho những người chơi thích thay đổi các sự kiện trọng kiểu như nếu Tây quân giành chiến thắng trong trận Sekigahara (mà theo sử sách thì chiến thắng thuộc về Đông quân). Sau thành công của phần đầu tiên, nhà sản xuất còn tung thêm hai phần tiếp theo là "Kessen II" và "Kessen III" với những yếu tố mới được bổ sung như phép thuật và thời tiết trong game.
Chất điện ảnh.
Một lưu ý của nhà sản xuất trò chơi Kou Shibusawa gửi tới người chơi trước khi bắt đầu chiến dịch nào, giải thích ao ước của ông muốn tự mình bóp méo đoạn lịch sử này nhưng cảm thấy quá thiển cận vì chất điện ảnh hợp lý. Với "Kessen", Shibusawa tin rằng ông đã có thể khám phá ý tưởng của mình một cách tự do hơn. Do đó, một số đoạn cắt cảnh trong game mang chất tuồng tương tự như các phim thể loại "jidaigeki" và "chanbara".
Trước lúc bắt đầu mỗi chiến dịch, một người kể chuyện sẽ đưa ra một bản tóm tắt ngắn gọn về các sự kiện trong chiến dịch được chọn để giúp người chơi làm quen với các trận chiến ở đó. Sau khi kết thúc phần lập kế hoạch trước trận chiến, một đoạn phim điện ảnh về sự kiện xuất hiện, thường kịch tính hóa các tương tác nhân vật hoặc sự kiện lịch sử quan trọng đã diễn ra trước khi cuộc chiến xảy ra. Những sự kiện tương tự cũng xảy ra sau hội đồng chiến tranh, trong trận đấu và lúc gần cuối trận chiến.
Trong số các đoạn kể lại sự kiện đúng với lịch sử, vẫn ưu tiên cho những miêu tả thường lãng mạn hóa đôi lúc được sử dụng. Trường hợp đáng chú ý gồm cảnh Hosokawa Gracia ra lệnh cho một tên lính giết chết cô và Tokugawa Hidetada ra lệnh ám sát Sanada Masayuki vì khiến ông chậm chân trong trận Sekigahara.
Đón nhận.
"Kessen" nhìn chung nhận được sự tích cực của giới phê bình. Ngày phát hành, tạp chí "Famitsu" đã chấm điểm cho game 32 trên 40, và Jeff Luther từ tạp chí "GamesFirst!" lưu ý rằng trò chơi rất dễ phá đảo, mặc dù ông cảm thấy rằng nó không thể duy trì độ khó sau các màn đầu. Số khác còn mô tả game như là rườm rà và chậm chạp. Những đoạn cắt cảnh được một nhà phê bình trích dẫn là "sự hấp dẫn trực quan cho Kessen". Phần đồ họa liên quan đến nhân vật lịch sử cũng được cho biết là "tuyệt đỉnh" và đầy đủ màu sắc đến mức lố bịch, mặc dù ấn tượng. Những gì Kessen nhận được những lời khen ngợi nhất là mảng âm thanh của trò chơi, nhiều trích dẫn điểm số dành cho dàn nhạc được mô tả là "hoành tráng" với một nhà phê bình ghi nhận "phần lồng tiếng Anh khá tốt và phù hợp". Nói chung, nó được xem như là một trò chơi mô phỏng lịch sử Nhật Bản với chất lượng khá nhưng chưa hoàn thiện.
Tính đến tháng 1 năm 2008, trò chơi giữ một thứ hạng trung bình 77% trên GameRankings. "Kessen" còn giành được một giải thưởng đặc biệt là Giải PlayStation vào năm 2000. Nó cũng được đề cử cho một giải thưởng lớn đối với lựa chọn của người tiêu dùng dành cho phần đồ họa và kịch bản. | 1 | null |
Ngôi sao David, trong tiếng Do Thái được gọi là Tấm khiên David (Tiếng Hebrew ; Tiếng Hebrew Kinh thánh Māḡēn Dāwīḏ , Tiếng Hebrew Tiberia , Tiếng Hebrew hiện đại , Tiếng Hebrew Ashkenazi, Tiếng Yiddish "Mogein Dovid" hay "Mogen Dovid") được công nhận rộng rãi là biểu tượng cho nhân dạng Do Thái và Do Thái giáo. Nó có dạng ngôi sao sáu cạnh do hai tam giác đều hợp nên. Từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 16 ngôi sao này đã có ở Trung Âu - nơi Tấm khiên David được dùng kết hợp với Dấu triện của Solomon trên các lá cờ của dân Do Thái. Từ thế kỷ 17 trở đi, ngôi sao David đã được dùng làm biểu tượng của đạo Do Thái. Nguồn gốc của ngôi sao này có thể là từ lá bùa hộ mạng của người Do Thái có từ thời Trung Cổ (thế kỷ 11 đến thế kỷ 13).6 cánh còn mang ý nghĩa bảo hộ và che chắn người sống khỏi các linh hồn đã khuất | 1 | null |
Bộ Cá đuối (tên khoa học Rajiformes) là một trong bốn bộ của liên bộ Batoidea, cá sụn dẹp liên quan đến cá mập. Rajiformes được phân biệt bởi sự hiện diện của vây ngực mở rộng rất nhiều, đến xa về phía trước hai bên đầu, với một cơ thể thường phẳng. Mắt và lỗ thở được đặt trên bề mặt phía trên của đầu và các khe mang ở mặt dưới của cơ thể.
Phân bố.
"Rajiformes" được tìm thấy trên khắp các đại dương của thế giới, từ vùng biển Bắc Cực đến Nam Cực, từ đá ngầm bờ biển cạn, vùng biển mở đến khu vực thẳm. Một số ít được tìm thấy trong các con sông và một số ở các cửa sông nhưng hầu hết là biển, sống gần đáy biển tại nơi có độ sâu từ 3.000 mét (9.800 ft) trở lên.
Các họ.
Mười ba họ được công nhận: | 1 | null |
Năm 1981, Daniel Bleichenbacher mô tả dạng tấn công lựa chọn thích nghi bản mã (adaptive chosen ciphertext attack) đầu tiên có thể thực hiện trên thực tế đối với một văn bản mã hóa bằng RSA. Văn bản này được mã hóa dựa trên tiêu chuẩn PKCS #1 v1, một tiêu chuẩn chuyển đổi bản rõ có khả năng kiểm tra tính hợp lệ của văn bản sau khi giải mã.
Do những khiếm khuyết của PKCS #1, Bleichenbacher có thể thực hiện một tấn công lên bản RSA dùng cho giao thức SSL (tìm được khóa phiên). Do phát hiện này, các mô hình chuyển đổi an toàn hơn như chuyển đổi mã hóa bất đối xứng tối ưu (Optimal Asymmetric Encryption Padding) được khuyến cáo sử dụng. Đồng thời phòng nghiên cứu của RSA cũng đưa ra phiên bản mới của PKCS #1 có khả năng chống lại dạng tấn công nói trên.
Các kẻ tấn công chọn các bản bản mã và lấy được các bản rõ được giải mã ngược lại.
Biện pháp đối phó: Thêm ngẫu nhiên vào bản rõ trước khi mã hóa hay thay đổi bản rõ trước khi mã hóa dùng OASP (Optimal Asymmetric Encryption Padding) | 1 | null |
Army Men II là trò chơi máy tính thuộc thể loại hành động của dòng "Army Men" do hãng 3DO đồng phát triển và phát hành vào năm 1999. Game là phần tiếp theo của bản "Army Men" năm 1998. Trò chơi khác với phần đầu ở chỗ bối cảnh các trận chiến diễn ra trong cả hai "thế giới thực" và "thế giới nhựa". Nó cũng là phiên bản đầu tiên giới thiệu khái niệm cổng dịch chuyển giữa thế giới thực và thế giới nhựa. Một chủ đề sẽ được mở rộng trong các bản về sau.
Cốt truyện.
Trò chơi bắt đầu vào lúc Sarge và một toán lính nhỏ đang ở trong một gian nhà bếp. Sau một hồi chiến đấu giằng co vượt qua kệ bếp, họ tìm thấy một cổng dịch chuyển và kết thúc trở lại trong thế giới nhựa. Rồi game vẫn tiếp tục cuộc hành trình qua một khu rừng, đồi núi trong đó có một trạm phát thanh, một nhà máy sản xuất xe tăng và một sân bay (Tất cả mọi thứ đều hiện ra cùng một khu vực của thế giới nhựa). Tại khu vực sân bay Sarge đã hẹn với một người lính già và ra tay giải cứu một gián điệp của phe Blue từ quân Tan.
Màn tiếp theo trong game có liên quan đến nhiệm vụ của Sarge là tìm cho bằng được một viên đại tá bị mất tích trong một khu vực rừng rậm nhiệt đới. Tại đây, anh phát hiện ra rằng những người lính từ tất cả bốn đội quân đã cùng nhau tề tựu trong cái gọi là "the Cult" (giáo phái). Sau đó một vài thành viên đã tiết lộ rằng chính viên đại tá đã phát điên và là thủ lĩnh của giáo phái này. Ông ta trốn thoát qua một cổng dịch chuyển và bị Sarge đuổi theo sau bước vào sân trước nhà của ai đó. Cũng ngay chỗ này mà Sarge phải đối mặt với những máy bay ném bom tự sát, bầy gián hung dữ và các thành viên khác nhau của giáo phái; cuối cùng, Sarge đã phải tự tay kết liễu viên đại tá điên rồ này.
Bốn màn chơi tiếp theo liên quan đến một cuộc chiến chống lại các nhà khoa học làm việc cho quân đội phe Tan. Bắt đầu trong một khu vực nhiệt đới nơi Sarge lại tìm thấy một ông già và tham gia vào một trận chiến chống lại bầy zombie do tên Tiến sĩ Madd nổi tiếng điên loạn của phe Grey tạo ra. Để ngăn chặn chúng thì Sarge buộc phải phá hủy các máy phát điện rất cần thiết để giữ cho các nhà máy tạo khuôn zombie hoạt động. Kế đến Sarge thấy mình đang lạc trong một sa mạc mà anh phải hạ gục các nhà khoa học khác. Sau đó anh đi qua một cái cổng dịch chuyển khác dẫn anh đến một cái bàn sở thích trong một nhà để xe. Tại đây, Sarge có nhiệm vụ là phải ngăn chặn nhiều nhà khoa học thoát ra ngoài trở lại vào thế giới nhựa. Rồi anh lại đi qua cái cổng dịch chuyển nữa và xuất hiện ở một nơi xem chừng đó là căn cứ của quân Tan. Được phủ kín bởi rừng rậm, ở ngay giữa một nơi chốn nào đó là hình ảnh thu nhỏ của các màn chơi liên quan đến các nhà khoa học của đối phương. Ở đây có những thây ma, máy bay đánh bom tự sát và một nhóm các nhà khoa học là mục tiêu ám sát của Sarge và các đồng đội.
Sau đó, Sarge quyết định quay trở lại vùng sa mạc. Chính vào lúc này anh chợt phát giác mình đang ở trong một pháo đài phe Tan. Sau khi trốn tránh đám đông binh sĩ đang nổi giận, Sarge lại phải giải cứu các điệp viên phe Blue một lần nữa. Bất chợt anh tìm thấy một chìa khóa dẫn đến một vũ khí hủy diệt hàng loạt nằm ở trung tâm màn chơi. Rồi sau anh lấy được thứ vũ khí này và phá hủy nó trước khi quân Tan kịp thời sử dụng. Khi Sarge vừa xong nhiệm vụ thì giờ đây anh còn phải tìm một cánh cổng dịch chuyển khác để thoát ra khỏi đó.
Ngay tức khắc anh thấy mình đang nằm trong phòng ngủ của trẻ em đang chất đầy binh lính phe Tan. Cũng tại đây anh đã săn lùng tay sĩ quan Major Mylar trong bộ đồ chơi giống như pháo đài và đưa hắn ra ngoài. Trong đoạn phim kết thúc hiện ra cảnh quân Green xông vào bản doanh tấn công, tiêu diệt tàn quân của phe Tan và say sưa thưởng thức niềm vui đại thắng. Ở trên giường hoặc tủ quần áo, Tướng Plastro có thể nhìn thấy họ. Dưới hơi thở của mình, ông "cảm ơn" quân Green đã loại bỏ Mylar và "khuyến khích" họ say sưa ca khúc khải hoàn ngay bây giờ. Plastro bỗng cười một cách man dại và nói rằng hắn đang có dự tính đặc biệt cho lần tới. Một cảnh có điềm báo đáng ngại liên quan đến Tiến sĩ Madd làm việc trên phần còn lại của cơ thể Mylar trong phòng thí nghiệm của hắn đã kết thúc đoạn phim này. | 1 | null |
Europa Universalis (EU) là trò chơi máy tính thuộc thể loại đại chiến lược do hãng Paradox Development Studio phát triển và Strategy First phát hành ở Bắc Mỹ vào ngày 14 tháng 3 năm 2000. Ban đầu dựa trên một trò board game cùng tên của Pháp của Philippe Thibault, "Europa Universalis" cho phép người chơi kiểm soát của một trong bảy quốc gia châu Âu (số khác có thể chơi được trong các màn kịch bản khác nhau) lấy mốc thời gian từ năm 1492 đến năm 1792, trong game người chơi mở rộng quyền lực của mình thông qua sức mạnh quân sự, ngoại giao, và sự giàu có của thuộc địa. Trò chơi diễn ra trên một bản đồ chia thành khoảng 1.500 tỉnh và diễn ra trong một định dạng thời gian thực có thể tạm ngưng được. Trưởng nhóm lập trình của game là Johan Andersson.
"Europa Universalis" đã trở thành một công bất ngờ vì chiều sâu và chiến lược của mình. Paradox đã sử dụng thành công bất ngờ này để làm điểm tựa cho những tựa game khác như ', "Crusader Kings" và "Hearts of Iron". Sau khi phiên bản đầu tiên được phát hành, nhà sản xuất đã lần lượt tung ra các bản kế tiếp gồm "Europa Universalis II", "Europa Universalis III", ' và "Europa Universalis IV". | 1 | null |
Europa Universalis II là trò chơi máy tính thuộc thể loại chiến lược theo lượt xây dựng đế chế dựa trên lịch sử châu Âu và thế giới kéo dài khoảng thời gian từ năm 1419 đến 1820. Game do hãng Paradox Development Studio phát triển và các hãng Strategy First, MacPlay và Typhoon Games phát hành vào năm 2001.
Lối chơi.
Trong game người chơi sẽ điều khiển một quốc gia duy nhất trải qua nhiều thế kỷ, quản lý nền kinh tế, quân sự, liên minh chính trị, phát triển khoa học, thăm dò và thực dân hóa, tôn giáo, và sự ổn định nội bộ. Ngoài ra, các sự kiện hàng năm ngẫu nhiên, cũng như hàng trăm sắc lệnh dựa trên các ghi chép lịch sử, làm cho lối chơi trở nên thách thức và đa dạng hơn.
"Europa Universalis II" khác với nhiều trò chơi chiến thuật theo lượt tương tự về thời gian chạy liên tục trong quá trình chơi, chứ không phải diễn ra lần lượt rời rạc. Người chơi có thể tạm dừng các hành động để suy nghĩ về tình hình và ra lệnh, sau đó tăng tốc độ hoặc làm chậm thời gian để cho các sự kiện diễn ra theo chiều hướng của họ.
Các con tàu của trò chơi với một số kịch bản lịch sử, gồm cả diễn ra trong thời đại Khám phá, cuộc Cách mạng Mỹ và chiến tranh thời Napoléon. Trong phần Đại Chiến dịch (Grand Campaign) cho phép người chơi chọn một cường quốc thế giới và dẫn dắt nó từ cuối thời Trung Cổ cho đến tận thế kỷ 19. Ngoài ra còn có phần kịch bản huyền ảo (Fantasy Scenario) bắt đầu từ một vùng đất trống và chưa được khám phá chỉ với 8 nền văn minh được chọn. Trong kịch bản này, lối chơi và chiến lược bình thường cần được áp dụng có hơi khác nhau, trông giống như một game 4X với sự nhấn mạnh vào thuộc địa hóa.
Với phần chơi Đại Chiến dịch chủ yếu là hướng về các cường quốc châu Âu lớn trong thời đại, chẳng hạn như Áo, Anh, Pháp, Nga, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thụy Điển và Đế quốc Ottoman, điểm độc đáo của game ở chỗ người chơi có thể chọn để chơi một trong hàng trăm nước ít người biết đến là các quốc gia không còn tồn tại, từ tiểu lục địa Ấn Độ đến khu vực Balkan.
Bản mod.
Trò chơi thể hiện vào rất nhiều chi tiết dạng hạt, bao gồm cả dân cư đô thị cho mỗi trong số hàng trăm tỉnh thành, hàng ngàn vị vua, các tướng lĩnh và nhà thám hiểm trong lịch sử, cũng như tên cho thuộc địa, quân đội, và hạm đội. Ngoài ra, với gần như tất cả các dữ liệu trò chơi được lưu trữ trong tập tin văn bản dễ dàng chỉnh sửa, "Europa Universalis II" dễ dàng chỉnh sửa và tùy biến các thành phần trong game, do vậy đã hình thành nên một cộng đồng mod lớn và phát triển. Người chơi có thể tạo ra lá cờ, bản đồ, đơn vị quân, các sự kiện lịch sử, các nhà lãnh đạo và thậm chí toàn bộ kịch bản mới.
Cũng có thể chơi một chiến dịch bắt đầu với "Crusader Kings", tiếp theo là "Europa Universalis II", "" (Hoặc "Victoria II") và kết thúc với "Hearts of Iron II: Doomsday", cho phép cho các chiến dịch xảy ra trong khoảng thời gian 1066-1954. Bằng cách sử dụng các tính năng xây dựng nội tại của game để chuyển đổi một chiến dịch được lưu vào các tựa game của Paradox theo thứ tự thời gian kế tiếp. Mod nổi tiếng "AGCEEP" được sử dụng làm cơ sở cho các fan hâm mộ thực hiện bản mở rộng độc lập "For the Glory" vào năm 2009.
Phát hành.
Trò chơi được Paradox Interactive phát triển như là một phần tiếp theo của "Europa Universalis" và được Strategy First phát hành lần đầu tiên cho PC vào năm 2001, với bản chuyển thể sang Macintosh do Virtual Programming đảm nhiệm và MacPlay phát hành. Tính đến năm 2009, một bản chuyển thể cho Linux đã được thực hiện.
Asia Chapters.
Một phiên bản của trò chơi gọi là "Europa Universalis II: Asia Chapters" được phát hành cho thị trường châu Á, thêm đồ họa và kịch bản mới thay vào đó xoay quanh vào phần lịch sử châu Á. Bản đồ trong bản này được cập nhật với đầy đủ chi tiết hơn và tăng thêm số lượng tỉnh ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. | 1 | null |
March of the Eagles (tạm dịch: "Cuộc hành quân của bầy diều hâu") là trò chơi máy tính thuộc thể loại đại chiến lược do hãng Paradox Interactive đồng phát triển và phát hành vào ngày 19 tháng 2 năm 2013. Trọng tâm của game xoay quanh khoảng thời gian 1805-1820. Game được coi là một phần tiếp theo của "Napoleon's Campaigns" của AGEOD và lúc đầu mang tên "Napoleon's Campaigns II". Khi Paradox mua lại AGEOD họ đã phát triển và đổi tên tựa game. Virtual Programming đã phát hành phiên bản Mac OS X của game vào ngày 9 tháng 5 năm 2013.
Lối chơi.
"March of the Eagles" là một game cho phép người chơi điều khiển bất kỳ các cường quốc châu Âu trong các cuộc chiến tranh của Napoléon. Giống như các tựa game chiến lược khác của Paradox, người chơi đưa ra quyết định dựa trên các yếu tố là quân đội, sản xuất và ngoại giao. "March of the Eagles" còn kết hợp các điều kiện chiến thắng khác nhau cho các quốc gia khác nhau.
Trong game thì Pháp bắt đầu với cường quốc có lục quân khá mạnh trong khi Anh thì lại chiếm ưu thế với sức mạnh hải quân. Trọng tâm chính của trò chơi là dựa trên các liên minh, liên minh có thể được hình thành chỉ bằng một trong hai quyền lực thống trị. Vì vậy, nếu Nga thay thế sức mạnh lục quân của Pháp thì sẽ dẫn dắt liên minh chống lại sức mạnh hải quân chiếm ưu thế (của Vương quốc Anh ngay từ đầu). Một sổ cái trong game sẽ cho phép người chơi theo dõi những phe chiếm ưu thế và những đối thủ gần nhất của họ. Bất kỳ quốc gia nào khác có thể trở thành kẻ thống trị bằng cách kiểm soát các tỉnh riêng biệt. Đối với các nước lớn, có ưu thế về lục quân và hải quân là những yếu tố quan trọng trong chiến thắng, riêng các nước nhỏ thì còn phụ thuộc vào sự thành công từ liên minh của người chơi có thể dẫn đến chiến thắng.
Trò chơi cũng sử dụng khái niệm "ý tưởng" (ideals) để thay thế cây công nghệ được dùng trong các game tương tự của Paradox. Điểm ý tưởng có được thông qua các trận chiến và việc để thua trận còn giúp quốc gia của người chơi kiếm được nhiều điểm ý tưởng hơn là giành chiến thắng, do đó giúp cân bằng game hơn. Ý tưởng có thể ảnh hưởng trên phạm vi rộng toàn quốc, tác động đến bộ chiến, hải chiến tài chính và nhân lực. Các cường quốc cũng có một phần ý tưởng đặc trưng cho riêng họ. Không giống như một số game chiến lược khác của Paradox, người chơi có thể tùy chỉnh sự bố trí của quân đội (ví dụ) xác định hướng mà đơn vị đi hai bên sườn.
Phe phái.
các phe phái trong game gồm:
Ngoài ra còn những phe nhỏ hơn bao gồm các quốc gia châu Âu khác tồn tại vào năm 1805.
Phát triển.
Chris King (là người tham gia vào các game khác của Paradox như "Victoria II" và "Sengoku") là nhà thiết kế game của "March of the Eagles". Ban đầu nó được gọi là "Napoleon's Campaigns 2". Bản gốc "Napoleon's Campaigns" được AGEOD phát hành vào năm 2007, rồi sau Paradox mua lai công ty này vào tháng 12 năm 2009. Paradox đã có viễn cảnh để tạo ra các bản vẽ của phần tiếp theo dựa trên những ảnh hưởng chiến tranh của "Hearts of Iron", vẻ ngoài và cảm nhận của "Europa Universalis" cùng khả năng "chiến thắng" chẳng hạn như trong "Sengoku". Phiên bản thử nghiệm được phát hành vào tháng 8 năm 2012.
Đón nhận.
Sau khi phát hành, "March of the Eagles" nhận được lời đánh giá nhìn chung khá tốt từ giới phê bình như Metacritic đã cho số điểm trung bình là 73. Viết về game này, IGN cho biết: "March of the Eagles có thể có tham vọng hạn chế hơn so với những họ hàng đại chiến lược của nó, nhưng trong giới hạn mục tiêu của mình thì trò chơi đã thành công rõ rệt hơn. Đó là một kinh nghiệm chiến lược tương đối ngắn và dễ tiếp cận đủ tốt cho một mình và hay hơn với bạn bè". Game còn nhận được lời khen ngợi về chế độ chơi mạng nói riêng. Destructoid cho biết: "ngoại giao, đâm lén và sự cạnh tranh mà tôi rất thích vẫn còn nguyên vẹn rất nhiều khi bạn thêm vào các đối thủ người chơi, đặc biệt là trong thiết lập chơi qua LAN và nó đã thực sự là một trong những trải nghiệm thú vị nhất mà tôi từng có với một tựa game đại chiến lược." | 1 | null |
Stalin vs. Martians (tạm dịch: "Stalin đấu với người Sao Hỏa") là trò chơi máy tính thuộc thể loại chiến lược thời gian thực có yếu tố nhại lấy bối cảnh Thế chiến II do hãng Black Wing Foundation, Dreamlore cùng N-Game phát triển và được Mezmer Games phát hành vào ngày 29 tháng 4 năm 2009. Trò chơi được người tạo ra nó mô tả là "tệ hại chưa từng thấy", giống như kiểu chế nhạo các game chiến lược Thế chiến II và sử dụng sự hài hước theo kiểu Monty Python. Nhà phát triển nói rằng "Stalin vs. Martians" là "rõ ràng là một kiểu nhại lại, mà đôi khi gần như là một lời châm biếm" và "nửa chừng để trở thành một biểu tượng rác rưởi của ngành công nghiệp game trong nhiều năm". Trong một số cuộc phỏng vấn nhà thiết kế chính của trò chơi đã so sánh "Stalin vs Martians" với những bộ phim của hãng "Troma".
Tính đến ngày 22 tháng 7 năm 2009, trò chơi đã không còn được bày bán nữa. Lý do cho việc này hiện vẫn chưa rõ. Trang chủ chính thức đã có thông tin rằng phiên bản nâng cấp của "Stalin vs. Martians" vẫn đang được thực hiện và sẽ có thể được phép tải về.
Đón nhận.
"Stalin vs. Martians" nhận được những lời đánh giá gay gắt từ giới phê bình. Game có số điểm trung bình 23,41% trên "GameRankings" cũng như 25% trên "Metacritic". "GameSpot" cho game số điểm 1.5/10 và gọi đó là "có lẽ là game RTS tồi tệ nhất từng được tạo ra". Trang này còn đặt tên cho nó là "Game Cực Kỳ Tệ Nhất Năm 2009". Trong khi "IGN" chỉ chấm cho game 2/10 điểm, ghi nhận rằng trò chơi thiếu hầu hết các yếu tố liên quan đến RTS và hỏi liệu nó đã được làm vào năm 1994 và niêm phong cất vào kho cho mãi đến tận năm 2009 mới tung ra cái đồ họa trông như thế này. "Resolution" đã trao giải thưởng cho game tới 35%, đồng thời cảnh báo độc giả không nên mua trò này nhưng thừa nhận rằng cũng có lúc nó "vô cùng thú vị". "Rock, Paper, Shotgun" thì gọi game này là thứ "rác rưởi" nhưng cũng thừa nhận: "Chắc chắn về giá trị món đồ phế thải, đặc biệt là nếu bạn buộc mình trong mớ lý thuyết quyết định chính xác xem có bao nhiêu trong game là châm biếm". "The Escapist" có vẻ tích cực hơn, lưu ý rằng "Dù gì đi nữa, một điều rõ ràng là nhóm phát triển đã có một thời gian hứng thú để làm ra game này, rồi lấp đầy nó với nhiều khuôn sáo của Liên Xô càng tốt." và "sự trình diễn có thể trông khôi hài nhưng lại quá vô lý vào những thời điểm mà bạn thực sự phải trải nghiệm nó vì sự táo bạo tuyệt đối của game, nhưng... bản thân trò chơi đã ở dưới mức trung bình tốt nhất". Chương trình MTV của Nga là "Virtuality" và một spin-off là cổng thông tin "Games TV" lại khá hào hứng về game cũng như sự hài hước của nó. | 1 | null |
Alexandros (, "Alexandros", 19 tháng 9, 866 6 tháng 6, 913), đôi lúc còn gọi là Alexandros III, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 912 đến 913. Ông là con trai thứ ba của Hoàng đế Basileios I và Hoàng hậu Eudokia Ingerina. Không giống như người anh trai Leon VI, cha của ông đã không dính vào vụ tranh giành ngôi báu giữa Basileios I và Mikhael III bởi vì ông được sinh ra sau khi Mikhael qua đời.
Tiểu sử.
Alexandros được phụ hoàng phong làm đồng hoàng đế vào năm 879. Sau cái chết của người anh trai vào ngày 11 tháng 5 năm 912, Alexandros đã kế vị là hoàng đế lớn cùng với cậu con trai Konstantinos VII của Leo. Ông là vị hoàng đế Đông La Mã đầu tiên sử dụng thuật ngữ "autocrator" () trên tiền đúc để kỷ niệm kết thúc ba mươi ba năm làm đồng hoàng đế. Alexandros đã kịp thời sa thải hầu hết các cố vấn và người thân của Leo, bao gồm cả đô đốc Himerios, thượng phụ Euthymios và Nữ hoàng Zoe Karbonopsina, mẹ của Konstantinos VII đã bị ông nhốt vào một nữ tu viện. Viên thượng phụ lại tới hội ý với Nicholas Mystikos, vốn bị loại bỏ khỏi vị trí này bởi vì ông đã phản đối cuộc hôn nhân thứ tư của Leo. Trong suốt triều đại ngắn ngủi của mình, lãnh thổ Đông La Mã dưới thời Alexandros đã bị đại quân dưới trướng Al- Muqtadir của Abbasid Caliphate ở phía Đông tấn công, hơn nữa lại còn kích động một cuộc chiến tranh với Simeon I của Bulgaria bằng cách từ chối gửi đồ cống theo như thường lệ tới lễ đăng quang của ông. Alexandros chết vì kiệt sức sau khi chơi một trò "tzykanion" vào ngày 6 tháng 6 năm 913, được cho là do lời tiên tri của người anh trai rằng ông chỉ trị vì trong 13 tháng.
Các nguồn sử liệu đa phần đều có ác cảm với Alexandros chẳng hạn như ông được mô tả là kẻ lười biếng, phóng đãng và độc ác, trong đó có tin đồn rằng ông dự định thiến vị thiếu đế Konstantinos VII để loại trừ ứng cử viên kế thừa ngôi vị. Ít nhất thì điều đó đã không xảy ra thế nhưng Alexandros đã để lại người kế nhiệm ông là một nhiếp chính tỏ thái độ thù địch (Nicholas Mystikos) và sự khởi đầu của một cuộc chiến tranh lâu dài chống lại Bulgaria. Các nguồn sử liệu cũng cáo buộc Hoàng đế thờ tượng thần bao gồm cả việc hiến tế bức tượng hình con lợn vàng của dị giáo ở Hippodrome với hy vọng chữa trị chứng bất lực của mình. | 1 | null |
Typhoon Games Ltd. đưuợc thành lập vào tháng 8 năm 2001 ở Hồng Kông như là một công ty phát triển và phát hành game phục vụ chủ yếu cho thị trường châu Á. Đây là công ty chị em của Typhoon Media International Ltd. và có quan hệ đối tác chiến lược với Outblaze Ltd. và Dream Cortex.
Typhoon Games đã phát hành một số tựa game PC gồm "Yu-Gi-Oh! Online" và ' và đã phát triển các trò chơi như "The Impossible Team Online Game" và ' cho hệ máy PlayStation 2. | 1 | null |
Ủy ban Quốc phòng vì lợi ích Quốc gia (viết tắt CDNI) là một đảng phái chính trị cánh hữu tại Lào. Đảng được thành lập vào ngày 10 tháng 6 năm 1958 bởi một nhóm các gia tộc có quyền thế lớn và giới tinh hoa giáo dục của Pháp. Đảng đã đề xuất sự hình thành của một mặt trận quốc gia chống cộng sản. Vào tháng 4 năm 1960 đảng đã giành được thắng lợi trong một chiến thắng vang dội với Đại hội Nhân dân Lào, giành được tất cả 59 ghế trong Quốc hội. Một chính phủ đứng đầu bởi thành viên CDNI là Hoàng thân Somsanith Vongkotrattana đã được thành lập nhưng chỉ hai tháng sau bị Kong Le lật đổ trong một cuộc đảo chính. Nó không còn tồn tại trong thời gian đầu thập niên 1960. | 1 | null |
CJ Corporation () là một tập đoàn đa quốc gia của Hàn Quốc có trụ sở chính tại Seoul. Tập đoàn bao gồm nhiều doanh nghiệp trong các ngành công nghiệp thực phẩm và dịch vụ thực phẩm, dược phẩm và công nghệ sinh học, giải trí và truyền thông, mua sắm tại nhà và hậu cần. CJ Group ban đầu là một chi nhánh của tập đoàn Samsung cho đến khi tách ra trở thành 1 công ty độc lập khỏi tổ chức mẹ trong những năm 1990.
CJ xuất phát từ "Cheil Jedang" (Hangul: 제일), có nghĩa đen là "doanh nghiệp đường số một" - ngành công nghiệp nơi tập đoàn bắt đầu kinh doanh.
Các công ty con đáng chú ý của CJ bao gồm CJ Cheil Jedang (thực phẩm và đồ uống), CJ Korea Express (hậu cần), CJ Olive Networks (chuỗi cửa hàng chăm sóc sức khoẻ và sắc đẹp và công nghệ thông tin), CJ ENM (giải trí và bán lẻ), và CJ CGV (chuỗi rạp chiếu phim).
Liên kết ngoài.
<noinclude> | 1 | null |
Lãnh thổ Wisconsin (tiếng Anh: "Territory of Wisconsin") từng là một lãnh thổ hợp nhất có tổ chức của Hoa Kỳ, tồn tại từ 3 tháng 7 năm 1836 cho đến ngày 29 tháng 5 năm 1848 khi phần phía đông của lãnh thổ được phép gia nhập vào liên bang để trở thành tiểu bang Wisconsin. Belmont ban đầu được chọn làm thủ phủ của lãnh thổ nhưng bị thay thế bởi Madison vào tháng 10 năm 1836.
Khu vực lãnh thổ.
Phần đất thứ hai (phần đất xanh đậm trong hình bên phải) và cũng là phần đất tồn tại lâu dài nhất của Lãnh thổ Wisconsin từng là một phần đất nguyên thủy của Lãnh thổ Tây Bắc. Về sau, khu vực này thuộc Lãnh thổ Indiana khi lãnh thổ này được thành lập vào năm 1800. Năm 1809, nó trở thành một phần đất của Lãnh thổ Illinois. Khi Illinois sắp trở thành một tiểu bang vào năm 1818 thì khu vực này được nhập vào Lãnh thổ Michigan. Sau đó, Lãnh thổ Wisconsin là từ Lãnh thổ Michigan được tách ra vào năm 1836 khi tiểu bang Michigan chuẩn bị gia nhập liên bang.
Tuy nhiên, Lãnh thổ Wisconsin "nguyên thủy", như được thành lập theo luật vào ngày 20 tháng 4 năm 1836, đã "không" bao gồm vùng đất từ Lãnh thổ Tây Bắc nguyên thủy. Theo đạo luật ngày 20 tháng 4 năm 1836, một phần đất của lãnh thổ là do Pháp nhượng lại kết hợp với phần lớn hơn nhiều là lãnh thổ của Hoa Kỳ nằm ở phía đông sông Mississippi. Năm 1833, Quốc hội Hoa Kỳ sáp nhập nhiều dải đất lớn nằm ở phía tây sông Mississippi vào Lãnh thổ Michigan. Khi Lãnh thổ Wisconsin được tách ra từ Lãnh thổ Michigan, nó thừa hưởng phần đất phía tây. Như thế, Lãnh thổ Wisconsin vào năm 1836 bao gồm tất các tiểu bang ngày nay là Wisconsin, Minnesota, và Iowa, một phần của Nam và Bắc Dakota nằm phía đông sông Missouri. Phần lãnh thổ phía đông sông Mississippi nguyên thủy là một phần của Lãnh thổ Tây Bắc. Đây là vùng đất nằm trong số đất đai mà Vương quốc Anh nhượng lại cho Hoa Kỳ vào năm 1783. Phần lớn đất đai còn lại của Lãnh thổ Wisconsin ban đầu từng là một phần đất thuộc Cấu địa Louisiana. Tuy nhiên cũng có một phần đất nhỏ trong số này từng được Vương quốc Anh nhượng lại vào năm 1818. Phần đất này nằm bên phía tây sông Mississippi đã được tách ra từ Lãnh thổ Missouri vào năm 1821 và đưa vào Lãnh thổ Michigan năm 1834. Năm 1838, Lãnh thổ Iowa được thành lập, làm giảm thiểu diện tích của Lãnh thổ Wisconsin trong vòng 10 năm tiếp theo. Khi Wisconsin được phép gia nhập liên bang để trở thành một tiểu bang thì các ranh giới của nó lại bị thu nhỏ lại như ngày nay.
Lịch sử.
Có nhiều bất thường trong niên biểu lịch sử vào lúc lãnh thổ được thành lập. Sau khi Quốc hội Hoa Kỳ từ chối thỉnh cầu của Michigan được phép gia nhập liên bang thành một tiểu bang, nhân dân Michigan tự thông qua hiến pháp của mình vào tháng 10 năm 1835 và bắt đầu lập chính quyền tự trị vào lúc đó. Tuy nhiên, Michigan không gia nhập liên bang cho đến ngày 26 tháng 1 năm 1837, và Quốc hội Hoa Kỳ đã không tổ chức Lãnh thổ Wisconsin riêng biệt khỏi Michigan cho đến ngày 3 tháng 7 năm 1836.
Với hy vọng là duy trì chính quyền một cách liên tục trong khoảng thời gian chuyển tiếp, quyền thống đốc của Lãnh thổ Michigan, Stevens T. Mason, ra tuyên bố ngày 25 tháng 8 năm 1835. Tuyên bố này kêu gọi bầu cử một hội đồng lập pháp "miền tây" (Hội đồng Lãnh thổ Michigan lần thứ 7). Hội đồng này sẽ họp tại Green Bay, Wisconsin vào ngày 1 tháng 1 năm 1836. Tuy nhiên, vì có vấn đề gây tranh cãi giữa Michigan và Ohio về dải đất Toledo nên tổng thống Jackson bãi nhiệm Mason vào ngày 15 tháng 8 năm 1835, và thay thế bằng John S. Horner. Horner ra tuyên bố của mình ngày 9 tháng 11 năm 1835, kêu gọi hội đồng họp vào ngày 1 tháng 12 năm 1835 — khiến cho các đại biểu có ít hơn một tháng để nhận ra sự thay đổi này và đi đến họp. Điều này làm cho các đại biểu khó chịu và làm ngơ lời tuyên bố đó. Hội đồng họp vào ngày 1 tháng 1 như dự trù trước đây, nhưng Horner, mặc dù thông báo đến dự, bị bệnh đến trễ. Vì không có mặt thống đốc nên hội đồng không thể làm gì được ngoài một vài nhiệm vụ nghi lễ và hành chính. Vì từ bỏ chủ quyền dải đất Toledo nên Michigan được trao cho Bán đảo Thượng.
Tổng thống Andrew Jackson bổ nhiệm Henry Dodge làm thống đốc và Horner làm trưởng lãnh thổ vụ. Lập pháp lần thức nhất của lãnh thổ mới được thống đốc Dodge triệu tập ở Belmont trong Quận Lafayette ngày nay vào ngày 25 tháng 10 năm 1836. Năm 1837, Burlington, Iowa trở thành thủ phủ thứ hai của Lãnh thổ Wisconsin. Năm sau đó, Lãnh thổ Iowa được thành lập và thủ phủ được dời về Madison.
Lập pháp lãnh thổ.
Lập pháp của Lãnh thổ Wisconsin gồm có một hội đồng (tương đương một thượng viện) và các dân biểu. Phiên họp đầu tiên của Đệ nhất Lập pháp Lãnh thổ được nhóm họp tại Belmont, Quận Iowa (hiện nay nằm trong Quận Lafayette) vào ngày 25 tháng 10 và kết thúc vào ngày 9 tháng 12 năm 1836. Hội đồng vào lúc đó có 14 ghế. Có 26 dân biểu. Chủ tịch viện dân biểu là Peter H. Engle của Quận Dubuque ("Quận Dubuque" vào lúc đó bao gồm tất cả lãnh thổ nằm ở phía tây sông Mississippi và phía bắc vĩ tuyến được định vị bằng điểm cuối phía nam của Đảo Rock).
Phiên họp cuối cùng của lập pháp lãnh thổ là phiên họp thứ hai của Đệ ngũ Lập pháp Lãnh thổ, được nhóm họp vào ngày 7 tháng 2 năm và kết thúc vào ngày 13 tháng 3 năm 1848. Chủ tịch của Hội đồng gồm 13 thành viên là Horatio N. Wells của Quận Milwaukee, và chủ tịch viện dân biểu gồm 26 thành viên là Timothy Burns của Quận Iowa. | 1 | null |
Ảnh tự chụp hay là tự chụp ảnh chân dung, trong ngôn ngữ thông tục còn gọi là "ảnh tự sướng", "chụp ảnh tự sướng" hoặc đơn giản là "tự sướng" ("selfie") là một từ vựng dùng để mô tả về một bức ảnh kỹ thuật số tự chụp, thường được thực hiện bằng máy ảnh kỹ thuật số, điện thoại thông minh hoặc webcam của các thiết bị điện tử di động, có thể cầm trên tay hoặc được hỗ trợ bởi gậy hỗ trợ tự chụp ảnh, sau đó thường được chia sẻ trên phương tiện truyền thông xã hội, thông qua các dịch vụ mạng xã hội như Facebook, Twitter, Snapchat và Instagram.
Từ này xuất phát nguyên thủy ở tiếng Anh với tên gọi là Selfie mà có nguồn gốc sâu xa từ diễn đàn mạng ở Úc vào năm 2002 xuất phát từ một bức ảnh của người đàn ông đang say xỉn. Từ "selfie" được tạo thành bởi từ "self" (bản thân) và hậu tố "ie". Tiếng Anh - Úc thường hay thêm hậu tố "ie" vào các từ tiếng Anh - Anh hoặc Anh - Mỹ và người ta tin rằng chính người Úc đã sản sinh ra từ Selfie.
Tuy không phải là một từ mới nhưng phải tới năm 2013 này, người ta mới biết tới từ này một cách rộng rãi. Trong năm 2013, từ này xuất hiện liên tục trên mạng Internet, đặc biệt là các trang mạng xã hội, trở thành một từ thông dụng và thời thượng.
Lịch sử và từ nguyên.
Từ lâu trong lịch sử đã xuất hiện việc vẽ tranh chân dung, tranh bán thân để mô tả về hình ảnh của mình và chỉ những nhân vật hoàng gia, vương giả, quyền quý mới có đủ tiền để thuê họa sĩ về thực hiện những bức tranh theo kiểu tranh chân dung. Tuy nhiên với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, người ta chỉ cần sở hữu một chiếc điện thoại thông minh, hiện đại có chức năng quay phim chụp hình thì người ta có thể tự tạo ra vô số ảnh tự chụp. Từ một khái niệm ban đầu chỉ bó hẹp trong lĩnh vực hội họa, giờ đây, chụp ảnh chân dung đã trở thành một thú vui phổ biến trong cuộc sống đời thường.
Mặc dù việc tự chụp ảnh chân dung đã có khoảng từ năm 1839, khi Robert Cornelius chụp một bức ảnh của mình bên ngoài cửa hàng của gia đình ông ở Philadelphia. Việc tự chụp ảnh cũng phổ biến trong những năm 1970, khi máy ảnh Polaroid (Máy chụp ảnh tự rửa ảnh tức thời) phát triển mạnh và giải phóng các nhiếp ảnh gia nghiệp dư không còn bị lệ thuộc vào các phòng tối rửa ảnh. Nhưng cho đến sự ra đời của kỹ thuật số, kết quả của việc chụp ảnh là hình ảnh mới trở nên thật sự có ngay tức thời, và cho đến khi các máy ảnh kỹ thuật số nhỏ gọn được phát minh, "selfie" đã bùng nổ phổ biến và trở thành hiện tượng toàn cầu.
Ở Phương Tây, thuật ngữ "selfie" được ghi nhận xuất hiện lần đầu vào tháng 9 năm 2002 trên một diễn đàn mạng ở Úc khi một người đàn ông sau khi say rượu đã bị trượt cầu thang và rách môi. Người đàn ông này đã tự chụp hình ảnh của chính mình sau vụ tai nạn, đăng lên diễn đàn và gọi đó là một selfie. Chính mạng xã hội đã giúp cho "selfie" trở thành từ vựng phổ biến. Việc chụp ảnh tự chụp đăng lên trang cá nhân đã trở thành nhu cầu rất thiết yếu của nhiều người và nó phản ánh chính xác một thị hiếu, một xu hướng mới trong đời sống xã hội hiện đại.
Năm 2004, Nhà xuất bản Oxford University Press của Anh đã thành lập một danh hiệu "Từ khóa của năm" (Word of the Year) Từ khóa tiếng Anh này không nhất thiết phải được tạo ra trong vòng một năm nhưng nó nhất định phải là từ khóa nổi bật nhất, đáng chú ý nhất trong năm đó. Và theo thống kê của chính nhà xuất bản này thì từ "selfie" đã được sử dụng trong năm 2013 nhiều hơn tới 17.000% so với năm 2012. Theo một thống kê, từ "selfie" được sử dụng trung bình khoảng 150 triệu lần trong vòng một tháng. Trước đây, chưa có từ khóa nào có thể trở thành một "hiện tượng từ vựng" phổ biến rộng rãi như từ này trong năm 2013. Từ khóa này đã lập nên kỷ lục về tần suất sử dụng trong cộng đồng những người sử dụng tiếng Anh và vì vậy nó đã được ban biên tập Oxford English Dictionary bình chọn là từ khóa của năm 2013.
Một biến thể từ "selfie" là "wefie", có nghĩa là chụp hình nhóm, nhiều người trong khi "selfie" thường chỉ có nghĩa là tự chụp một mình, từ ngữ này ban đầu được đăng ký thương hiệu của Samsung tại Hoa Kỳ để giới thiệu loạt máy ảnh NX có góc rộng của hãng.
Ảnh hưởng xã hội.
Tiến sĩ Mariann Hardey, một giảng viên tại Đại học Durham cho biết: "Ảnh tự chụp đang cách mạng hóa cách chúng ta thu thập thông tin tự thuật về bản thân và bạn bè". Bà cũng nói: "Việc này cũng giống như luôn luôn làm mới lại chính mình. Đó là một phần mở rộng của quá trình xây dựng và hoàn thiện tự nhiên của bản thân. Đó là về trình bày bản thân một cách tốt nhất... là một khía cạnh của hoạt động tìm hiểu về chính bản thân mình...". Nhiều người cho là việc tự chụp ảnh và lưu giữ kỷ niệm cũng như những thay đổi của bản thân như là "một nhật ký trực quan" để có thể nhìn lại và xem lại mình tại một thời điểm cụ thể, là một bài tập trong việc ghi lại những kỷ niệm riêng và biểu đồ quá trình cuộc sống của chúng ta, là khám phá bản sắc của bản thân ở dạng kỹ thuật số. Một trong những tác dụng phụ có thể là vì con người quan tâm hơn bao giờ hết về cách mình thể hiện, cũng như về trào lưu xã hội, và như một hệ quả, sự nhìn nhận của xã hội chỉ đến khi thế giới bên ngoài chấp nhận cách chúng ta nhìn.
Nhưng "selfie" cũng đem lại nhiều phiền phức và hệ lụy không mong muốn (như khi những hình ảnh riêng tư bị phát tán nhanh chóng trên mạng), đôi khi không được những người chung quanh tán đồng. Đã có những tai nạn làm người bị thương nặng và tử vong đã xảy ra trong quá trình, hoặc liên quan trực tiếp đến việc selfie. Báo The Telegraph đã viết rằng, trong năm 2015, nhiều người đã chết khi selfies hơn là bởi các cuộc tấn công của cá mập.
Một số quốc gia, trong đó có Ấn Độ đã cấm hàng loạt ứng dụng selfie vì lo ngại về an ninh và lo ngại về quyền riêng tư và bảo mật. Từ năm 2020, Ấn Độ đã cấm 267 ứng dụng và năm 2020 cấm tiếp 54 ứng dụng. | 1 | null |
Maksim Mrvica (, sinh ngày 03 tháng 05 năm 1975) là một nhạc công piano. Mrvica sinh ra tại Šibenik, Croatia. Maksim đã học chơi đàn piano từ khi lên 9 với thầy Marija Sekso và đã công diễn đầu tiên trong cùng một năm. Chỉ ba năm sau đó, cậu đã trình diễn buổi hòa nhạc đầu tiên của Haydn 's Piano Concerto trong điệu trưởng C.
Khi chiến tranh nổ ra vào năm 1991, cả Mrvica và giáo sư của cậu đã xác định rằng điều này sẽ không làm gián đoạn nghiên cứu âm nhạc của họ. Mặc dù chiến tranh và bất ổn diễn ra xung quanh, Mrvica tham dự, và đã giành chiến thắng, trong cuộc thi lớn đầu tiên của mình trong Zagreb vào năm 1993.
Mrvica tiếp tục theo học tại Học viện Âm nhạc ở Zagreb, nơi anh đã trải qua năm năm theo học Giáo sư Vladimir Krpan, vị giáo sư này là người học trò của Arturo Benedetti Michelangeli. Sau đó ông đã trải qua một năm tại Viện Franz Liszt viện trong Budapest và trong năm này anh đã giành được giải thưởng đầu tiên tại cuộc thi piano quốc tế Nikolai Rubinstein. | 1 | null |
Cá giống mõm tròn, còn gọi là cá đuối bùn (tên khoa học: Rhina ancylostoma), là một loài cá đuối và là thành viên duy nhất của họ Rhinidae. Tương đồng tiến hóa của nó không được giải quyết đầy đủ, mặc dù nó có thể liên quan đến Rhinobatidae và Rajidae. Loài cá này xuất hiện trong vùng rộng lớn nước ven biển nhiệt đới miền Tây Ấn Độ-Thái Bình Dương, ở độ sâu lên đến 90 m (300 ft). Cá giống mõm tròn có một cơ thể rộng và dày với mõm tròn và vây lưng và vây đuôi rộng giống cá mập. Miệng của nó tạo thành một đường nhấp nhô hình chữ W vá có nhiều chỏm gai trên đầu và lưng của nó. Nó có một kiểu màu lưng nhiều đốm trắng trên một màu xám hơi xanh đến nâu, với một cặp mảng màu đen nổi bật trên vây ngực. Loài cá lớn này có thể đạt chiều dài 2,7 m (8,9 ft) và cân nặng 135 kg (298 lb).
Thường được tìm thấy ở gần đáy biển, cá giống mõm tròn thích các khu vực cát hoặc bùn gần đáy. Nó là một động vật ăn thịt bơi mạnh ăn cá xương, động vật giáp xác, và động vật thân mềm. Loài này đẻ một lứa từ hai đến mười hai con non, được nuôi dưỡng trong thời kỳ mang thai bởi noãn hoàng. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) đánh giá nó là loài dễ bị tổn thương bởi vì nó được đánh bắt thủ công rộng rãi và thủy sản thương mại để lấy vây và thịt. Nó được xem như là một mối phiền toái cho tàu thuyền đánh cá, vì kích thước lớn và lớp da gai góc nên nó gây thiệt hại sản lượng lưới đánh bắt. Cá giống mõm tròn thích nghi tốt với điều kiện nuôi nhốt và được trưng bày trong hồ kính công cộng.
Phân bố và môi trường sống.
Cá giống mõm tròn phân bố rộng rãi ở vùng ven biển nhiệt đới vùng biển phía Tây Ấn Độ-Thái Bình Dương. Ở Ấn Độ Dương, nó được tìm thấy từ KwaZulu-Natal ở Nam Phi đến Biển Đỏ (bao gồm cả Seychelles), trên tiểu lục địa Ấn Độ và Đông Nam Á (bao gồm cả Maldives), đến vịnh cá mập ở Tây Úc. Phạm vi Thái Bình Dương của nó kéo dài về phía Bắc đến phía Nam Hàn Quốc và Nhật Bản, phía đông giáp New Guinea, và phía nam giáp New South Wales. Được tìm thấy ở độ sâu từ 3 đến 90 m (10 và 300 ft), loài cá đuối này dành phần lớn thời gian của mình gần đáy biển nhưng đôi khi có thể được nhìn thấy bơi lội trong tầng nước giữa. Nó thích môi trường sống bùn hoặc cát, và cũng có thể được tìm thấy trong các vùng nhiều đá lân cận, rạn san hô và tàu đắm. | 1 | null |
Cá ó sao, tên khoa học Aetobatus narinari, còn gọi là cá ó đốm, cá đuối, là một loài cá sụn thuộc họ Myliobatidae. Nó có thể được tìm thấy trên toàn cầu ở các vùng nhiệt đới, trong đó có Vịnh Mexico, Hawaii, ngoài khơi bờ biển Tây Phi, Ấn Độ Dương, Châu Đại Dương, và trên cả hai bờ của Mỹ ở độ sâu khoảng 80 mét (262 ft). thường được thấy đi một mình, nhưng đôi khi bơi theo nhóm. | 1 | null |
Kim Jong-chul (Chosŏn'gŭl: 김정철; Hancha: 金正哲; Hán Việt: Kim Chính Triết; sinh ngày 25 tháng 9 năm 1981) là một công dân Bắc Triều Tiên (thành viên của gia tộc họ Kim), là con trai cả của cố lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-il với người vợ thứ hai của ông ta, là anh ruột duy nhất của nhà lãnh đạo Kim Jong-un và cũng là em trai cùng cha khác mẹ đầu tiên của Kim Jong-nam (người thứ hai là Kim Jong-un). Kim Jong-chul là một trong những người ủng hộ việc em trai mình là Kim Jong-un ra lệnh bắt giữ và xử tử ông Jang Sung-taek, chú của anh ta, vì tội danh phản quốc. Anh ta cũng đã được Hội nghị toàn thể lần thứ 66 Ban chấp hành Liên minh Phụ nữ Dân chủ Triều Tiên bầu vào chức vụ chủ tịch liên minh hội phụ nữ (đáng lẽ ra anh ta không nên giữ chức vụ này vì đây là một chức vụ dành riêng cho phụ nữ). | 1 | null |
"A Change in Me" là một bài hát đơn ca trong vở nhạc kịch Broadway "Người đẹp và quái thú", do nhân vật nữ chính Belle thể hiện. Bài hát do hai nhà soạn nhạc Alan Menken và Tim Rice sáng tác. Ban đầu ca khúc này vốn không nằm trong kịch bản đầu tiên của vở diễn Broadway này, mà nó mới được thêm vào năm 1998 khi ca sĩ R&B Toni Braxton tham gia diễn xuất trong vở kịch; và mặc dù vốn bài hát này chỉ được đưa vào riêng cho Braxton, nhưng từ đó về sau nó đã trở thành một phần của kịch bản và được thể hiện ở tất cả các buổi diễn. Do đó, bài hát này cũng không có mặt trong bản thu âm của Dàn diễn viên Broadway gốc; tuy nhiên, Susan Egan, diễn viên đảm nhiệm vai Belle đầu tiên ở Broadway, đã thu âm lại ca khúc này và đưa vào album của mình, "So far..."
Ý nghĩa.
Khoá nhạc gốc của bài hát biểu diễn ở Broadway là Son giáng trưởng, mặc dù nó được thể hiện ở gam La trưởng. Ca khúc nói về sự thay đổi bên trong con người Belle, một trải nghiệm mà cả hai nhân vật chính, Belle, và Quái thú, đều phải trải qua. Lời ca miêu tả nàng giờ không còn trung thành với những ước mơ thuở nhỏ của mình nữa và nhận ra rằng nàng yêu thích cuộc sống như hiện tại: "I never thought I'd leave behind/my childhood dreams, but I don't mind/I'm where and who I want to be." (Tôi chưa bao giờ nghĩ mình sẽ bỏ lại/Những mơ ước thuở nhỏ phía sau lưng, nhưng giờ tôi không lo lắng nữa/Tôi đang ở nơi và là con người tôi mong muốn)
Các phiên bản.
Ca khúc "A Change in Me", đã được nhiều ca sĩ khác nhau thể hiện và thu âm:
Phần cuối của ca khúc được thay đổi năm 2005 khi Ashley Brown tham gia vai diễn Belle. Nó được làm hoành tráng hơn để cho gần giống với phần kết mà cô đã thể hiện đi đóng vai Kirsten trong "On the Record". Hiện nay, ca khúc kết thúc bằng các nốt nối và dàn nhạc nền huy hoàng hơn. | 1 | null |
Hồ Kochel nằm cách München về phía nam, ở bìa dãy núi Bayerische Alpen. Một phần ba bờ hồ về phía Tây thuộc thành phố Schlehdorf, phần còn lại thuộc Kochel am See. Phần miền Nam của hồ nằm ở chân núi và phần miền Bắc là đồng bằng. Sông Loisach chảy vào hồ tại Schlehdorf và chạy ra tại Kochel am See. Một số lượng nước tương tự chảy vào hồ từ nhà máy thủy điện Walchensee lấy nước từ sông Isar.
Nơi dân cư.
Các vùng chung quanh hồ Kochel thuộc Bad Tölz-Wolfratshausen: | 1 | null |
"Belle" là một ca khúc sáng tác bởi người viết lời bài hát Howard Ashman và nhà soạn nhạc Alan Menken cho bộ phim hoạt hình chiếu rạp thứ 30 của Walt Disney Pictures "Người đẹp và quái thú" (1991). Ban đầu do nữ diễn viên Paige O'Hara và nam diễn viên Richard White thể hiện, "Belle" là một bài hát lấy cảm hứng từ âm nhạc Pháp và nhạc cổ điển bao gồm các yếu tố nhạc kịch đến từ cả Broadway và các thể loại nhạc kịch chung. Với vai trò bài hát đầu tiên của bộ phim, "Belle" là một tác phẩm âm nhạc quy mô lớn theo phong cách operetta với mục đích giới thiệu tới khán giả về nhân vật nữ chính thích đọc sách Belle, một cô gái trẻ sống ít theo lề lối truyền thống và đang ngày càng tỏ ra buồn chán với cuộc sống nơi tỉnh lẻ mà nàng đang bị buộc phải chịu đựng; cùng với Gaston, nhân vật phản diện kiêu ngạo muốn qua hôn nhân sở hữu, chiếm đoạt nàng.
"Belle" được hầu như tất cả các nhà phê bình phim và âm nhạc ca ngợi, một số người gọi ca khúc này một trong những ca khúc mở đầu hay nhất trong lịch sử phim nhạc kịch. Về âm nhạc, Belle được so sánh với các bài hát trong phim "Câu chuyện miền Tây "(1961) và "The Sound of Music "(1965), cùng với các vở nhạc kịch Broadway "Fiddler on the Roof" và "She Loves Me". "Belle" đã được đề cử giải Oscar cho Ca khúc trong phim hay nhất tại lễ trao Giải Oscar lần thứ 64 năm 1992, nhưng cuối cùng để mất vào tay bài hát chủ đề của "Người đẹp và quái thú". Ca khúc cũng xuất hiện trong vở nhạc kịch Broadway dựa theo bộ phim, và người đầu tiên thể hiện nó trong phiên bản nhạc kịch là nữ diễn viên Susan Egan.
Bài hát.
Lịch sử.
Trong một nỗ lực nhằm lặp lại thành công vang dội trước đó không lâu của phim "Nàng tiên cá" (1989), Walt Disney Feature Animation quyết định chuyển thể câu chuyện cổ tích "Người đẹp và quái thú" thành một bộ phim hoạt hình chiếu rạp. Mặc dù ban đầu được mường tượng là một bộ phim hoạt hình "dù thế nào đi nữa cũng không được sử dụng các ca khúc" dưới sự điều hành sản xuất của Richard Purdum, nhưng CEO của Disney lúc đó là Jeffrey Katzenberg không hài lòng với cách thể hiện ảm đạm và buồn tẻ mà bộ phim đang hướng đến, và cuối cùng quyết định viết lại kịch bản để chuyển phim thành một "bộ phim nhạc kịch theo phong cách Broadway với một nhân vật nữ chính nổi bật", tương tự như "Nàng tiên cá". Disney sau đó đã mời nhà viết lời bài hát Howard Ashman và nhà soạn nhạc Alan Menken tới sáng tác ca khúc cho phim và giúp đỡ họ "chuyển "Người đẹp và quái thú" thành một phim nhạc kịch", bộ đôi trước đó vừa cộng tác trong dự án sáng tác nhạc cho "Nàng tiên cá".
Theo Menken, những "ca khúc làm cốt truyện sâu sắc hơn" trong "Người đẹp và quái thú", bao gồm "Belle", phát triển lần lượt khá tự nhiên bởi bản thân kịch bản phim viết "gần như... rất sát với một vở nhạc kịch sân khấu", và được "thể hiện theo phong cách nhạc kịch Broadway truyền thống." Theo nữ diễn viên và ca sĩ Broadway Paige O'Hara, người đảm nhiệm cả việc thu âm ca khúc này và lồng tiếng cho nhân vật Belle, Ashman và Menken "muốn bỏ âm hưởng nhạc pop của "Nàng tiên cá" lại sau lưng và tìm đến một chút gì đó theo phong cách Jerome Kern/Rodgers & Hammerstein hơn" cho "Người đẹp và quái thú". Các ca khúc và tác phẩm âm nhạc của phim, được viết để vừa "đưa đẩy cốt truyện" và mang tới "sự phát triển nhân vật", chịu ảnh hưởng lớn từ âm nhạc Pháp, nhạc cổ điển và âm nhạc Broadway truyền thống. Thêm vào đó, Menken miêu tả "Belle" và các bài hát khác trong "Người đẹp và quái thú" với phóng viên tờ "The New York Times" là "sự tiếp xúc với nước Pháp hồi thế kỷ 18".
Được viết theo phong cách mà sau này Menken công nhận nó "khá xa cách so với thể loại pop đương đại", các nhà soạn nhạc ban đầu khá nghi ngờ ca khúc "Belle", lo ngại rằng nó có thể sẽ "kết thúc sự nghiệp của họ tại Disney" nếu không được đón nhận tích cực. Được nhà sản xuất phim Don Hahn miêu tả là một ca khúc "theo phong cách operetta Gilbert & Sullivan", "Belle" chuyển tải rất nhiều thông điệp "trong một khoảng thời gian rất ngắn". Ashman và Menken ban đầu e ngại rằng các nhà làm phim có thể không hưởng ứng cách tiếp cận hoạt hình theo kiểu nhà hát, sân khấu của họ. Nhưng họ đã rất bất ngờ khi cuối cùng "Belle" rất được nhóm [sáng tạo] của bộ phim yêu thích và ưa chuộng, trở thành một trong số ít những bài hát của phim không hề bị sửa chữa, thay đổi trong suốt quá trình sản xuất.
Bối cảnh và âm nhạc.
Hy vọng sẽ viết được một bài hát thành công trong việc "tả lại [Belle] trong một thế giới quá an toàn và được bảo vệ", Ashman và Menken lấy cảm hứng từ phong cách kể chuyện thường dành riêng cho thể loại operettas truyền thống. Là ca khúc mở đầu của "Người đẹp và quái thú", "Belle", một "khoảnh khắc then chốt...trong mạch kể", đóng vai trò quan trọng trong bộ phim bởi nó giới thiệu cả nhân vật nữ chính của tác phẩm, Belle, người bài hát được đặt tên theo, và Gaston, nhân vật phản diện của phim. Trong khi Belle, một người thông minh, thích đọc sách và sống ít phụ thuộc vào lề lối phép tắc, ngày càng thất vọng với cuộc sống làng quê tẻ nhạt và mong ước được đi phiêu lưu như những nhân vật trong các sách nàng đọc, Gaston là một kẻ đi săn kiêu ngạo muốn đưa nàng đi đến hôn nhân. Trong khoảng năm phút, ca khúc miêu tả vai trò của cả Belle và Gaston trong phim "Người đẹp và quái thú" tới khán giả. Bài hát cũng thể hiện quan điểm của cư dân thị trấn và "dựng nên một chủ đề tổng thể và báo trước vì sao thị trấn lại có thái độ không mấy tích cực với [Belle] như vậy"; trong khi mọi người khen ngợi Belle rất nhiều vì vẻ xinh đẹp không thể nghi ngờ của nàng; họ cho rằng nàng lập dị bởi nàng thích sách vở và chế nhạo vì nàng sống ít theo khuôn phép. Tuy vậy, họ cũng lại ca ngợi Gaston vì vẻ bề ngoài và nam tính của anh ta.
Theo Irving Tan của trang Sputnikmusic, "Belle" là một ca khúc "tuyệt vời, với sự dàn dựng của dàn nhạc", được viết theo phong cách operetta truyền thống. Thường được coi là bài hát "Tôi mong muốn" của bộ phim, một thuật ngữ cho chính Ashman sáng tạo và phổ biến, "Belle" cho nữ nhân vật chính một cơ hội để "bày tỏ những khát khao" của mình. Được Filmtracks.com miêu tả là một "ca khúc quyến rũ và lôi cuốn", "Belle", theo bản nhạc do Walt Disney Music Publishing xuất bản, là một ca khúc lấy cảm hứng từ Broadway và chịu ảnh hưởng nhạc kịch, được thể hiện ở tempo vừa phải kiểu "đồng quê" là 80 nhịp một phút ở giọng Rê trưởng. Hợp lại, âm vực giọng nữ cao của O'Hara và giọng nam trung của White trải dài khoảng gần hai quãng tám, từ nốt A3 thấp của White, tới nốt G5 cao của O'Hara. Cùng với, các diễn viên Alec Murphy, Mary Kay Bergman và Kath Soucie cũng góp giọng trong ca khúc này. Tổng cộng, bài hát "Belle" dài năm phút chín giây.
Phản hồi và đánh giá.
Phản hồi từ giới chuyên môn.
Kể từ khi phim "Người đẹp và quái thú" được phát hành tháng 11 năm 1991, "Belle" nhận được đánh giá rất cao từ cả các nhà phê bình phim và các nhà phê bình âm nhạc. Trang Filmtracks.com gọi ca khúc là "nằm trong số những tác phẩm nhạc phim thuyết phục và xuất sắc nhất trong lịch sử", xứng đáng nhận được một đề cử giải Oscar. Cùng với đó, Filmtracks cũng ca ngợi phiên bản mở rộng (reprise) của bài hát, so sánh nó với ca khúc "The Sound of Music" trong phim "The Sound of Music "(1965) bởi cả hai bài hát có phần đệm khá giống nhau. Irving Tan của trang Sputnikmusic.com miêu tả bài hát là một ca khúc "bình dị, thôn dã".
Jennie Punter của tờ "The Globe and Mail" ca ngợi "Belle" là "một trong những ca khúc mở đầu ấn tượng nhất trong tất cả các bộ phim nhạc kịch từng được sản xuất". Janet Maslin của báo "The New York Times" cũng tỏ ra rất thích thú với bài hát, ca ngợi cách bài hát đưa đẩy cốt truyện, miêu tả "Belle" là "nhạc phẩm mở đầu ấn tượng đã chứng tỏ sức hấp dẫn của bộ phim." Cùng với đó, Maslin chỉ ra những điểm tương đồng giữa "Belle" và một số nhạc phẩm xuất hiện trong bộ phim nhạc kịch "Câu chuyện phía Tây (1961)". Beliefnet gọi ca khúc là một "màn mở đầu hứng khởi". Pete Vonder Haar của báo "Houston Press" bày tỏ sự yêu thích của mình với cả bài hát lẫn phiên bản mở rộng của nó, cho rằng người xem không thể không trải qua một "sự lắng đọng không ngờ của cảm xúc" khi nghe cả hai ca khúc này. Nhấn mạnh rằng đây là một trong những ca khúc đáng chú ý nhất của phim, Sandie Angulo Chen miêu tả "Belle" là một nhạc phẩm "dễ đi vào lòng người" đã "cho thấy Belle khác với các nhân vật nữ chính trước đây của Disney như thế nào". Miêu tả ca khúc là một "phần mở đầu... đầy đặn", "TV Guide" tỏ ra tích cực khi so sánh "Belle" với một số ca khúc trong các vở nhạc kịch "Fiddler on the Roof" và "She Loves Me".
Giải thưởng và sự công nhận.
Cùng với "Be Our Guest" và "Beauty and the Beast", "Belle" là một trong số ba ca khúc trong phim "Người đẹp và quái thú" được đề cử giải Oscar cho Ca khúc trong phim hay nhất tại lễ trao giải Oscar lần thứ 64 vào năm 1992. Nhưng cuối cùng "Belle" để mất giải này vào tay ca khúc chủ đề của phim. Theo nhà sản xuất Don Hahn, thực ra Disney hy vọng giải này sẽ thuộc về "Beauty and the Beast" và quảng bá rất nhiều cho ca khúc đó, giảm đáng kể kinh phí và sự quan tâm dành cho "Belle". Oh No They Didn't xếp "Belle" ở vị trí thứ hai mươi trong bài viết "25 bài hát Disney của mọi thời đại" (The Top 25 Disney Songs of All Time). Tương tự như vậy, Ultimate Disney xếp ca khúc ở vị trí thứ hai mươi trong "Danh sách 100 ca khúc hay nhất của Disney" (Top 100 Disney Song), ca ngợi vai trò của bài hát trong phim và miêu tả phần thể hiện của O'Hara là "sáng chói".
"Belle" bị bắt chước khá nhiều trong bộ phim hoạt hình nhạc kịch "" (1999) với bài hát mở đầu, "Mountain Town". Filmtracks.com miêu tả phần bắt chước này là "một ca khúc giới thiệu thú vị".
Biểu diễn trực tiếp và các bản hát lại.
O'Hara lần đầu tiên biểu diễn trực tiếp ("live") ca khúc này tại lễ trao giải Oscar lần thứ 64 vào năm 1992, khi ca khúc được đề cử ở hạng mục Bài hát trong phim hay nhất. Mặc dù các nhà sản xuất chương trình muốn để những "ngôi sao nhạc pop" nổi tiếng thể hiện, hai giám đốc điều hành của Disney là Michael Eisner và Jeffrey Katzenberg cương quyết để "Belle" phải do ca sĩ thu âm bản thu đầu tiên thể hiện. Các nhà sản xuất cũng cho phép O'Hara nếu muốn có thể hát nhép trên sân khấu; tuy nhiên cô quyết định sẽ biểu diễn trực tiếp. O'Hara cũng được yêu cầu phải mặc quần áo màu xanh và trắng thiết kế giống như trang phục của Belle trong phim, điều mà sau đó cô đã phản đối kịch liệt bởi cô cho rằng nó "quá rườm rà", và đáng ra Belle nên ăn mặc "đơn giản hơn." Cô so sánh bộ trang phục đó với những thứ mà nhân vật Little Bo Peep trong truyện cổ tích hay mặc. O'Hara cũng thừa nhận rằng cô rất lo lắng trước phần trình diễn này. Tuy nhiên, nữ diễn viên Angela Lansbury, người lồng tiếng cho nhân vật Bà Ấm trà trong phim và cũng là người thể hiện ca khúc "Beauty and the Beast" tại đêm trao giải ấy, trấn an cô rằng, "Paige, nếu tôi hát được như cô thì tôi sẽ chẳng phải lo nữa."
Vào tháng 8 năm 2011, O'Hara thể hiện một phiên bản rút gọn của bài hát "Belle" trực tiếp tại lễ trao giải Huyền thoại của Disney, và bản thân O'Hara cũng là một trong số những người được nhận giải hôm đó. Phần trình diễn của cô là một liên khúc "Beauty and the Beast", trong đó O'Hara kết hợp phần âm nhạc giữa "Belle" với "Beauty and the Beast" và "Be Our Guest". | 1 | null |
Hệ sinh thái xa-van Serengeti () nằm trên lãnh thổ châu Phi, trải dài từ phía Bắc Tanzania đến Tây Nam Kenya trong phạm vi từ số 1 đến số 3 vĩ độ Nam và 34 đến 36 kinh độ Tây với diện tích khoảng . Phần diện tích nằm trên lãnh thổ Kenyan của Serengeti còn được biết đến với tên gọi Maasai (Masai) Mara.
Đồng cỏ Serengeti là một trong bảy kì quan thiên nhiên châu Phi và một trong mười kì quan của thế giới với cuộc di cư khổng lồ của những đàn động vật có vú diễn ra hàng năm. Đồng cỏ Serengeti cũng nổi tiếng với những đàn sư tử với số lượng đông đảo và là một trong những điểm đến tuyệt vời nhất cho những ai muốn chiêm ngưỡng cuộc sống trong thiên nhiên hoang dã của chúng. Tại đây, Tanzania đã thành lập công viên quốc gia Serengeti và một vài khu bảo tồn khác.
Các nhà khoa học đã tìm thấy khoảng 70 loài động vật có vú lớn và khoảng 500 loài chim đặc hữu tại Serengeti. Sự đa dạng sinh học này bắt nguồn từ môi trường sống vô cùng phong phú tại đây, từ rừng ven sông, đầm lầy, đồi núi thấp đến môi trường đồng cỏ và rừng thưa. Linh dương đầu bò, linh dương gazelle, ngựa vằn và trâu rừng là những loài phổ biến nhất tại đây.
Gần đầy, một cuộc phản đối đã dấy lên quanh đề án xây dựng một con đường chạy xuyên qua Serengeti.
Từ "Serengeti" bắt nguồn từ tiếng Maasai có nghĩa là "Cánh đồng bất tận".
Lịch sử.
Phần lớn diện tích Serengeti nằm ở những khu vực hoang vu nhất châu Phi. Tại đây, thổ dân Maasai là những chiến binh dũng cảm nhất. Họ sống chia sẻ môi trường sống cùng các loài động vật hoang dã, nhưng không săn bắt chúng, mà sống dựa vào chăn nuôi gia súc. Trong lịch sử, danh tiếng và sức mạnh của người Maasai đã ngăn cản những người di cư châu Âu săn bắt và khai thác các nguồn tài nguyên trên lãnh thổ này. Tuy nhiên, dịch tả trâu bò và nạn hạn hán diễn ra suốt những thập niên 1890 đã làm suy giảm đáng kể về số lượng của cả người Maasai và động vật hoang dã. Vào thế kỉ thứ 20, chính phủ Tanzanian đã giúp người Maasai tái định cư quanh khu vực miệng núi lửa Ngorongoro. Tránh khỏi các hoạt động xâm hại và đốt rừng của con người, khu vực này đã phát triển thành vùng rừng thưa và rừng cây bụi rậm trong 30 đến 50 năm sau đó. Hiện nay, ruồi Tsetse (ruồi ngủ xê xê) lại góp phần bảo vệ khu vực này khỏi sự xâm hại của con người.
Đến giữa những thập niên 70, loài linh dương đầu bò và trâu rừng đã khôi phục lại số lượng, giảm bớt diện tích các đồng cỏ, qua đó gián tiếp đã làm hạn chế các vụ cháy rừng và giúp những trảng cây keo phát triển trở lại.
Cuộc đại di cư.
Vào một khoảng thời gian nhất định hàng năm, những đàn linh dương đầu bò sẽ tiến hành một cuộc đại di cư từ khu vực Ngorongoro, phía nam thảo nguyênn Serengeti, Tanzania. Nguyên nhân của cuộc đại di cư này là sự dịch chuyển của nguồn thức ăn từ khoảng tháng 1 đến tháng 3. Đây cũng là mùa sinh sản của các loài động vật ăn cỏ – khi lượng mưa dồi dào thúc đẩy những đồng cỏ phát triển, cung cấp lượng thức ăn phong phú cho hơn 750.000 con ngựa vằn, 1,2 triệu con linh dương đầu bò và theo đó là hàng trăm ngàn các loài động vật đồng cỏ khác.
Suốt tháng 2, linh dương đầu bò tập trung tại những cánh đồng cỏ thấp phía tây nam và cho ra đời khoảng 500.000 con non trong vòng từ 2 đến 3 tuần: một sự đồng bộ đáng kinh ngạc trong thiên nhiên. Một vài con bê con sinh ra trước hoặc sau khoảng thời gian này rất khó sống sót bởi vì chúng sẽ trở thành mục tiêu vô cùng bắt mắt cho những con thú săn mồi khi đứng cạnh những con bê ra đời từ mùa trước. Khi mùa mưa kết thúc, đàn thú sẽ bắt đầu cuộc hành trình ngược trở lại khu vực Tây Bắc, xung quanh khu vực sông Grumeti, và chúng thường ở lại đó cho đến cuối tháng 6. Cuộc đại hành trình sẽ diễn ra vào tháng 7 với sự di cư của những đàn linh dương đầu bò, ngựa vằn và linh dương châu Phi quay trở về phương bắc. Cuối tháng 7, đầu tháng 8 chúng sẽ đến biên giới Kenyan (linh dương Thomson và linh dương Grant chỉ di cư theo hai hướng đông/tây). Đầu tháng 11, khi những cơn mưa nhỏ bắt đầu báo hiệu mùa mưa, cuộc di cư về phương nam lại bắt đầu, hướng đến những cánh đồng cỏ thấp tây nam, và thường kết thúc vào tháng 12 để chuẩn bị cho mùa sinh sản vào tháng 2 hàng năm.
Mỗi năm, có khoảng 250.000 con linh dương đầu bò mất mạng trên hành trình từ Tanzania đến khu bảo tồn Maasai Mara tại Kenya. Cái chết thông thường đến từ đói khát, kiệt sức hoặc những kẻ săn mồi họ nhà mèo. Cuộc di cư đã từng được ghi lại trong bộ phim tài liệu năm 1994, "". Một cuộc di cư nhỏ hơn cũng diễn ra tại nam Sudan.
Hệ sinh thái.
Đồng cỏ Maasai có những khu vực với hoàn cảnh sinh sống tuyệt vời nhất Tây Phi cho các loài động vật hoang dã. Chính phủ Tanzania và Kenya hiện nay đang duy trì một số khu vực bảo vệ như các công viên quốc gia, các khu bảo tồn, vùng đệm... đặt hơn 80% diện tích Serengeti dưới sự bảo hộ của luật pháp.
Ol Doinyo Lengai, ngọn núi lửa còn hoạt động duy nhất tại Serengeti, hiện vẫn tiếp tục phun trào dung nham carbonatite. Loại dung nham này khi tiếp xúc với không khí sẽ chuyển màu từ đen sáng trắng, nhìn hơi giống với soda tẩy rửa. Khi lớp tro bụi núi lửa tích tụ đủ dày, chúng có thể chuyển thành nền đất rất giàu calci và cứng như xi măng khi gặp mưa. Ol Doinyo Lengai còn được gọi là thánh địa của Maasai.
Khu vực phía nam Serengeti nằm ở sườn đón mưa của cao nguyên Ngorongoro, bao phủ bởi khu vực đồng trống cỏ thấp và rất nhiều loài thực vật hai lá mầm nhỏ. Về điều kiện thổ nhưỡng, phía trên cùng là lớp đất giàu dinh dưỡng, xuống sâu hơn là một lớp mỏng đá cứng giàu calci. Đồng cỏ hơi dốc về hướng tây bắc đưa đến một vài thay đổi trong hệ thực vật và những thảm cỏ cao hơn. Xa về phía tây khoảng là vùng rừng keo thưa, hướng tây kéo dài cho đến tận hồ Victoria, hướng bắc kéo dài đến giáp đồng bằng Loita và phía bắc của vườn quốc gia Maasai Mara. Các nhà khoa học đã thống kê được 16 loài keo trong khu vực này, phân bố theo các vùng thổ nhưỡng khác nhau. Gần hồ Victoria là khu vực đồng cỏ gập nước, vốn xưa kia là đáy hồ cổ. Xa hơn về phía tây bắc, sự thay đổi địa chất dẫn đến sự thay thế các trảng keo bằng rừng thưa lá rộng Terminalia-Combretum.
Đây cũng là khu vực có lượng mưa lớn nhất ở Serengeti, dẫn đến những cuộc di cư của các loài động vật móng guốc cuối mùa khô.
Độ cao so với mực nước biển của Serengeti dao động trong khoảng từ với nền nhiệt trung bình từ 15 đến 25 độ C. Mặc dù khí hậu khá khô và ấm, Serengeti vẫn có hai mùa mưa trong năm: từ tháng 3 đến tháng 5, và một mùa ngắn hơn trong tháng 10 và 11. Lượng mưa cũng thay đổi từ mức tối thiểu ở khu vực khuất gió của cao nguyên Ngorongoro đến mức tối đa ở quanh vùng hồ Victoria. Khu vực cao nguyên, với nền nhiệt thấp hơn khá nhiều vùng đồng bằng và bao phủ bởi hệ sinh thái rừng núi cao, đánh dấu biên giới phía tây của khu vực bồn địa Serengeti.
Đồng bằng Serengeti tồn tại một số vùng đồi núi thấp hình thành từ đá granite và đá gneiss. Địa hình này là kết quả của những vận động núi lửa, đồng thời cung cấp tiểu sinh cảnh các cho hệ sinh thái phi đồng cỏ. Một trong số các đồi thấp được các du khách vô cùng yêu thích khi đến Serengeti là mỏm Simba (Mỏm Sư Tử). Đồng cỏ Serengeti cũng là bối cảnh cho bộ phim hoạt hình "Vua sư tử" của hãng Disney and và một số tác phẩm sân khấu sau này.
Olduvai Gorge và miệng núi lửa Ngorongoro (thuộc Vùng bảo tồn Ngorongoro, Serengeti) là nơi đã phát hiện được một số mẫu hóa thạch cổ xưa nhất của động vật họ Người. | 1 | null |
Love & Peace (tạm dịch: "Tình và bình") là album phòng thu Nhật thứ 3 (thứ 7 nếu tính cả album Hàn) của nhóm nhạc nữ Hàn Quốc Girls' Generation. Album được phát hành trên mạng vào ngày 10 tháng 12 năm 2013 bởi Nayutawave Records (Universal Music Group) và được phát hành dưới hình thức đĩa tại Nhật Bản vào ngày hôm sau.
Ba đĩa đơn nằm trong album được phát hành trước khi ra mắt album là "Love & Girls" đạt được vị trí số bốn trên bảng xếp hạng "Oricon" và vị trí thứ ba trên Japan Hot 100; "Galaxy Supernova" đạt vị trí số ba trên bảng xếp hạng "Oricon" cũng như số bốn trên Japan Hot 100 và "My Oh My".
Album đã được chứng nhận doanh số đĩa thu âm loại Vàng (Gold) bởi Hiệp hội Công nghiệp Thu âm Nhật Bản (Recording Industry Association of Japan, RIAJ) chỉ sau chưa đầy một tháng ra mắt vì bán được hơn 100.000 bản.
Lịch sử.
Vào ngày 25 tháng 10 năm 2013, Girls 'Generation đã tiết lộ rặng họ sẽ phát hành album tiếng Nhật vào ngày 11 tháng 12. "Galaxy Supernova", "Love & Girls", "Do the Catwalk", "Lingua Franca", "My Oh My" và "Beep Beep" (B-side từ "Flower Power") đều được phát hành trước khi album này ra mắt.
Album ban đầu đã được thực hiện đặt hàng trước trên iTunes cho Hồng Kông, Ấn Độ, Sri Lanka, Đài Loan, và hầu hết các nước Đông Nam Á với bài hát "Motorcycle" có sẵn để tải về ngay lập tức sau khi mua.
Chương trình "Love & Peace "free live"" được diễn ra vào ngày 14 Tháng 12, 2013 tại sân vận động Yokohama Arena, với vé được phân phối thông qua xổ số dành cho những người mua album thứ ba. Những cô gái đã biểu diễn các bài hát như: "Gee", "Girls & Peace"... và bài hát "Everyday Love" nằm trong album mới.Sự kiện đã thu hút hơn 30,000 fans hâm mộ ở xứ "Phù Tang". Bên cạnh đó, 250 fans hâm mộ may mắn còn được cùng SM Entertainment tham dự lễ ra mắt sân khấu trình diễn hologram đầu tiên ở Nhật do SM Ent. và Universal Studios Japan hợp tác xây dựng, những tiết mục sống động tại đây khiến người hâm mộ không thể rời mắt.
Vào ngày đầu tiên phát hành, album đã tẩu bán được hơn 37,386 bản, leo lên vị trí no.1 của bảng xếp hạng Oricon hàng ngày. Và, chỉ sau 1 tuần ra mắt, đã có hơn 129.255 album được bán ra, đồng thời dẫn đầu bảng xếp hạng Oricon hàng tuần. Đây là lần thứ hai Girls' Generation giành vị trí đầu bảng xếp hạng hàng tuần của Oricon. Trước đó album tiếng Nhật thứ nhất của họ, "Girls' Generation" cũng đạt được thành tích tương tự. Điều này đã giúp Girls' Generation lập kỉ lục khi trở thành nhóm nhạc nữ Hàn Quốc đầu tiên có 2 lần đứng đầu bảng xếp hạng Oricon hàng tuần.
Bắt đầu từ ngày 26 tháng 4 năm 2014, 9 cô gái sẽ bắt đầu chuyến lưu diễn vòng quanh Nhật Bản thứ ba của mình, GIRLS’ GENERATION ~LOVE&PEACE~ Japan 3rd Tour, với 2 đêm diễn tại Marine Messe Fukuoka, Fukuoka, để quảng bá cho album Love & Peace. Tour diễn sẽ kéo dài cho đến hết ngày 13 tháng 7 năm 2014 với 3 đêm diễn cuối cùng tại Tokyo.
Đĩa đơn.
"Love & Girls" đã ở vị trí số sáu trên bảng xếo hạng Oricon đĩa đơn hàng ngày và leo lên vị trí số bốn sau một ngày. Đĩa đơn này bán được 42.796 bản sao trong tuần đầu tiên và đạt vị trí số bốn trên bảng xếp hạng "Oricon" hàng tuần.
"Galaxy Supernova" đã đứng đầu Tower Records - một bảng xếp hạng đặt hàng trước.. Đĩa đơn còn đứng ở vị trí số bốn trên bảng xếp hạng đĩa đơn hàng ngày của "Oricon". Đĩa đơn đã bán được 14.564 bản sao vào ngày thứ hai và đạt được vị trí đầu tiên cũng trong bảng xếp hạng ấy. Một tuần sau khi phát hành,Galaxy Supernova đã bán được 50.793 bản sao.
"My Oh My" được phát hành qua kỹ thuật số trên iTunes. | 1 | null |
Khu vực độc lập Pupplinger Au là một khu rừng nước nằm phía Bắc Wolfratshausen, (Oberbayern) nơi sông Loisach nhập vào sông Isar. Tên của rừng nước lấy từ tên của làng Puppling thuộc xã Egling. Khu vực rừng nước Puppling thuộc khu vực bảo tồn thiên nhiên "Rừng nước Isar giữa Schäftlarn và Bad Tölz". Những cây cối trong rừng nước đa số là thông, Tống quán sủ, Vân sam và Liễu, tổng cộng có diện tích là 55 ha.
Khu vực tiêu khiển.
Rừng nước Puppling không chỉ là nơi tiêu kiển cho người dân tại Wolfratshausen và những làng chung quanh, mà cả dân chúng tại thành phố München. Những người đi xe đạp hay đi trượt pa tanh (roller skating) có thể dùng một đường tráng nhựa dài 7 km chạy ngang rừng. Ở cuối đầu phía Bắc và pía Nam của rừng nước có 2 quán ăn với vườn bia. Những chỗ tắm tại sông Isar, mặc dầu không được chính thức cho phép, nhưng hay được dùng làm bãi tắm tiên.
Tuy nhiên có những người trông coi để bảo đảm cho sự quân bình giữa nơi tiêu khiển và khu bảo tồn thiên nhiên. Chẳng hạn như không cho phép đốt lửa và hút thuốc vào những tháng mùa hè. Những đảo sỏi được đánh dấu là khu bảo vệ chim chóc thường được các loài chim hiếm như nhàn dùng làm chỗ sinh sản. | 1 | null |
"Radioactive" là một bài hát của ban nhạc người Mỹ Imagine Dragons nằm trong EP đầu tay chính thức của họ "Continued Silence" (2012) cũng như album phòng thu đầu tay của nhóm, "Night Visions" (2012). Nó được phát hành như là đĩa đơn thứ hai trích từ album vào ngày 29 tháng 10 năm 2012 bởi KidinaKorner và Interscope Records. Bài hát được đồng viết lời bởi Josh Mosser và tất cả bốn thành viên của Imagine Dragons (Ben McKee, Daniel Platzman, Dan Reynolds và Wayne Sermon) với Alex da Kid, người cũng đồng thời chịu trách nhiệm sản xuất nó. Được đánh giá là một trong những bản nhạc chịu ảnh hưởng từ âm nhạc điện tử nhiều nhất cũng như tăm tối nhất từ "Night Visions" (tương tự như "Demons"), "Radioactive" là một bản electronic rock và alternative rock kết hợp với những yếu tố từ dubstep mang nội dung liên quan đến chủ đề tận thế và cách mạng, trong đó đề cập về nhận thức xung quanh việc thế giới đang dần trở nên khác biệt và cảm giác tự do từ việc làm một điều gì đó mới mẻ. Một bản phối lại của bài hát, với sự tham gia góp giọng từ Kendrick Lamar, cũng được phát hành.
Sau khi phát hành, "Radioactive" nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao nội dung lời bài hát, chất giọng nội lực của Reynolds cũng như quá trình sản xuất nó, đồng thời gọi đây là một điểm nhấn nổi bật từ album. Ngoài ra, bài hát còn gặt hái nhiều giải thưởng và đề cử tại những lễ trao giải lớn, bao gồm hai đề cử giải Grammy cho Thu âm của năm và Trình diễn rock xuất sắc nhất tại lễ trao giải thường niên lần thứ 56, và chiến thắng một giải sau. Nhờ vào tần suất xuất hiện liên tục trong nhiều trailer và quảng cáo thương mại khác nhau, "Radioactive" đã trở thành một hit ngủ quên với việc đứng đầu bảng xếp hạng ở Thụy Điển và lọt vào top 10 ở nhiều quốc gia khác, bao gồm vươn đến top 5 ở những thị trường lớn như Áo, Canada, Đức, New Zealand, Na Uy và Thụy Sĩ. Tại Hoa Kỳ, nó đạt vị trí thứ ba trên bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100, trở thành đĩa đơn đầu tiên của nhóm vươn đến top 5, đồng thời nắm giữ cương vị là đĩa đơn trị vì lâu nhất tại đây với 87 tuần. Tính đến nay, nó đã bán được hơn 15 triệu bản trên toàn cầu, trở thành một trong những đĩa đơn bán chạy nhất mọi thời đại.
Video ca nhạc cho "Radioactive" được đạo diễn bởi Syndrome, trong đó tập trung khai thác câu chuyện của một người phụ nữ bí ẩn (do Alexandra Daddario thủ vai) đang thực hiện nhiệm vụ giải cứu Imagine Dragons khỏi sự nguy hiểm từ một đầu trường rối nham hiểm dưới lòng đất của một người đàn ông (do Lou Diamond Phillips thủ vai). Nó đã nhận được một đề cử tại giải Video âm nhạc của MTV năm 2013 cho Video Rock xuất sắc nhất. Để quảng bá bài hát, nhóm đã trình diễn nó trên nhiều chương trình truyền hình và lễ trao giải lớn, bao gồm "Jimmy Kimmel Live!", "Late Night with Jimmy Fallon", "Late Show with David Letterman", "Saturday Night Live", "The Tonight Show with Jay Leno" và giải Grammy lần thứ 56, cũng như trong nhiều chuyến lưu diễn của họ. Được ghi nhận là bài hát trứ danh trong sự nghiệp của Imagine Dragons, "Radioactive" đã được hát lại và sử dụng làm nhạc mẫu bởi nhiều nghệ sĩ, như "Weird Al" Yankovic, Taylor Swift, Jason Derulo, Lady Antebellum và Pentatonix, cũng như xuất hiện trong nhiều tác phẩm điện ảnh và truyền hình, bao gồm "Arrow", "Graceland", "The Host", "True Blood" và "The Vampire Diaries".
Danh sách bài hát.
Tải kĩ thuật số
Đĩa CD tại Đức
Tải kĩ thuật số (phối lại)
Chứng nhận.
!scope="col" colspan="3"| Streaming | 1 | null |
Doctor thứ Mười hai là một hiện thân của Doctor, nhân vật chính trong loạt phim khoa học viễn tưởng trên truyền hình "Doctor Who" của BBC. Ông được thể hiện bởi diễn viên người Scotland Peter Capaldi. Doctor là một nhà du hành thời gian ngoài hành tinh có hình dạng con người đến từ một chủng tộc gọi là Time Lord. Khi Doctor bị thương nghiêm trọng, ông có thể tái sinh với một cơ thể và tính cách hoàn toàn mới. Nhờ đặc tính cốt truyện độc đáo này mà nhân vật Doctor có thể được thay thế và thể hiện bởi nhiều thế hệ diễn viên khác nhau kể từ năm 1963.
Doctor thứ Mười hai xuất hiện chớp nhoáng trong tập phim kỉ niệm 50 Doctor Who "The Day of the Doctor" (2013), với tư cách là một trong mười ba hiện thân của Doctor được triệu tập để cứu Gallifrey khỏi sự huỷ diệt. Lần xuất hiện chính thức của Capaldi xảy ra trong tập đặc biệt Giáng Sinh "The Time of the Doctor". Ông xuất hiện xuyên suốt trong series thứ 8 và series thứ 9 cùng với bạn đồng hành Clara Oswald (Jenna Coleman).
Xuất hiện.
Doctor thứ 12 xuất hiện không chính danh trong tập phim "The Day of the Doctor". Doctor thứ mười một (Matt Smith) triệu tập các hiện thân trước đó của ông để tiến hành kế hoạch giải cứu Gallifrey khỏi sự hủy diệt trong cuộc Đại chiến Thời gian. Các Time Lord trong phòng chiến lược ở Gallifrey phát hiện ra 12 TARDIS đang tiếp cận hành tinh. Con số này được chỉnh thành 13, khi tay, mắt và trán của Doctor thứ 12 được chiếu thoáng qua.
Trong tập phim "The Time of the Doctor" sau khi Doctor được ban cho một vòng luân hồi mới bởi các Time Lord, những người đang kẹt lại ở một chiều không gian khác, ông bắt đầu tái sinh. Ban đầu, ông cảm thấy bối rối về cơ thể mới của mình, và phàn nàn về những quả thận mới, sau đó ông hỏi Clara liệu cô có biết lái TARDIS hay không.
Phân vai.
Matt Smith, người đóng vai Doctor thứ mười một, tuyên bố rời khỏi "Doctor Who" vào ngày 1 tháng 6, 2013. Trước khi Capaldi được tiết lộ sẽ trở thành Doctor tiếp theo, chủ đề này đã được bàn tán rộng rãi trên các phương tiện truyền thông. Vào ngày 3 tháng 8, 2013, nhà cái William Hill dừng việc đặt cược khi khả năng Capaldi nhận vai trở nên quá cao. Vai diễn của Capaldi được tiết lộ vào ngày 4 tháng 8 trong một chương trình tryền hình trực tiếp trên BBC One mang tên "Doctor Who Live: The Next Doctor". Chương trình được theo dõi bởi khoảng 6,27 triệu người ở Anh, và cũng được phát sóng tại Hoa Kỳ, Canada và Australia.
Trong khi Capaldi là lựa chọn hàng đầu cho vai diễn, những diễn viên khác cũng đã được tính đến trong trường hợp ông từ chối lời mời. Ben Daniels, một trong những ứng viên tiềm năng sau tuyên bố ra đi của Matt Smith, nói rằng ông đã từng được tiếp xúc để bàn về sự quan tâm của ông với vai diễn Doctor.
Tác giả và nhà sản xuất "Doctor Who" Steven Moffat nói Capaldi "đã thoáng qua trong đầu của mình" trong khi tìm kiếm diễn viên cho Doctor thứ 12, nhưng ông đã bỏ ý tưởng này, cho rằng Capaldi không thích hợp vào lúc đó. Ben Stephenson cho biết Capaldi đã được đề nghị từ vài tháng trước khi được tiết lộ vào tháng 8 và một buổi thử vai bí mật đã được tổ chức tại nhà Moffat. Capaldi chuẩn bị cho buổi thử vai bằng cách tải các kịch bản "Doctor Who" cũ từ Internet và luyện tập nó trước gương. Ở độ tuổi 55, Capaldi bằng tuổi với William Hartnell (Doctor thứ nhất) khi ông thử vai, và sẽ là người già nhất kể từ Hartnell giữ vai chính này. Moffat cảm thấy một diễn viên lớn tuổi sẽ thích hợp để kế thừa một diễn viên trẻ tuổi, vì nó góp phần thay đổi bộ mặt và làm giảm đi những sự so sánh."
Capaldi từng xuất hiện trong dòng "Doctor Who". Ông từng thể hiện Lucius Caecilius Iucundus trong tập phim "The Fires of Pompeii" vào năm 2008,; Capaldi cũng xuất hiện với vai John Frobisher trong "". | 1 | null |
Thẻ ghi nợ (tiếng Anh: "debit card", còn gọi là "bank card" hoặc "check card") là loại thẻ thanh toán bằng nhựa cung cấp cho chủ thẻ để thanh toán thay cho tiền mặt. Thẻ ghi nợ được sử dụng tương tự với thẻ tín dụng, nhưng khác ở chỗ khi dùng thẻ ghi nợ thì tiền được rút trực tiếp từ tài khoản ngân hàng của chủ thẻ khi thực hiện các thanh toán.
Thẻ ghi nợ có giá trị theo giá trị của tài khoản thanh toán gắn liền với nó. Muốn sử dụng thẻ ghi nợ, chủ thẻ phải nạp tiền vào tài khoản thanh toán.
Không phải tài khoản thanh toán nào cũng có thẻ ghi nợ đi kèm, nếu như chủ tài khoản chỉ sử dụng tài khoản để giao dịch trên internet.
Ở nhiều quốc gia, việc sử dụng thẻ ghi nợ đã trở nên phổ biến đến mức tổng lượng thanh toán của chúng đã vượt qua hoặc thay thế hoàn toàn các ngân phiếu và, trong một số trường hợp, các giao dịch tiền mặt. Sự phát triển của thẻ ghi nợ, không giống như thẻ tín dụng và thẻ tính phí, nhìn chung là đặc thù cho từng quốc gia, dẫn đến một số hệ thống khác nhau trên thế giới, mà thường không tương thích với nhau. Kể từ giữa những năm 2000, một số sáng kiến cho phép thẻ ghi nợ được phát hành ở một quốc gia được sử dụng ở các quốc gia khác và cho phép sử dụng qua Internet và mua hàng qua điện thoại.
Không giống thẻ tín dụng và tính phí, thanh toán bằng thẻ ghi nợ được chuyển ngay từ tài khoản ngân hàng được chỉ định của chủ thẻ, thay vì chủ thẻ phải trả lại tiền sau đó.
Thẻ ghi nợ thường cho phép rút tiền mặt, đóng vai trò thẻ ATM khi rút tiền mặt. Người bán hàng cũng có thể cung cấp các tiện ích rút tiền mặt cho khách hàng, và khách hàng có thể rút tiền mặt cùng với việc mua hàng của họ.
Các loại hệ thống thẻ ghi nợ.
Hiện tại có ba cách xử lý giao dịch thẻ ghi nợ: EFTPOS (còn được gọi là ghi nợ trực tuyến hoặc ghi nợ PIN), ghi nợ ngoại tuyến (còn được gọi là ghi nợ chữ ký) và Hệ thống thẻ ví điện tử. Một thẻ vật lý có thể bao gồm các chức năng của cả ba loại, do đó nó có thể được sử dụng trong một số trường hợp khác nhau.
Mặc dù bốn công ty phát hành thẻ ngân hàng lớn nhất (American Express, Discover Card, MasterCard và Visa ) đều cung cấp thẻ ghi nợ, có nhiều loại thẻ ghi nợ khác, mỗi loại chỉ được chấp nhận trong một quốc gia hoặc khu vực cụ thể, ví dụ: Switch (hiện tại: Maestro) và Solo ở Anh, Interac ở Canada, Carte Bleue ở Pháp, tiền điện tử EC (trước đây là Eurocheque) ở Đức, UnionPay ở Trung Quốc, RuPay ở Ấn Độ và thẻ EFTPOS ở Úc và New Zealand. Sự cần thiết phải tương thích xuyên biên giới và sự ra đời của đồng euro gần đây đã dẫn đến nhiều mạng lưới thẻ này (như "EC direkt" của Thụy Sĩ, "Bankomatkasse" của Áo và Switch ở Vương quốc Anh) được đặt lại thương hiệu với logo Maestro được quốc tế công nhận, là một phần của thương hiệu MasterCard. Một số thẻ ghi nợ được gắn nhãn kép với logo của thẻ quốc gia (cũ) cũng như Maestro (ví dụ: thẻ EC ở Đức, Switch và Solo ở Anh, thẻ Pinpas ở Hà Lan, thẻ Bancontact ở Bỉ, v.v.). Việc sử dụng hệ thống thẻ ghi nợ cho phép các nhà khai thác đóng gói sản phẩm của họ hiệu quả hơn trong khi giám sát chi tiêu của khách hàng.
Hệ thống ghi nợ trực tuyến.
Thẻ ghi nợ trực tuyến yêu cầu ủy quyền điện tử cho mọi giao dịch và các khoản nợ được phản ánh ngay lập tức trong tài khoản của người dùng. Giao dịch có thể được bảo mật bổ sung với hệ thống xác thực số nhận dạng cá nhân (PIN); một số thẻ trực tuyến yêu cầu xác thực như vậy cho mọi giao dịch, về cơ bản trở thành thẻ máy rút tiền tự động (ATM) nâng cao.
Một khó khăn với việc sử dụng thẻ ghi nợ trực tuyến là sự cần thiết của một thiết bị cho phép điện tử tại điểm bán hàng (POS) và đôi khi cũng là một riêng biệt PINpad để nhập mã PIN, mặc dù điều này đang trở thành phổ biến cho tất cả các giao dịch thẻ tại nhiều quốc gia.
Nhìn chung, thẻ ghi nợ trực tuyến thường được xem là vượt trội so với thẻ ghi nợ ngoại tuyến vì hệ thống xác thực an toàn hơn và trạng thái trực tiếp, giúp giảm bớt các vấn đề về xử lý độ trễ đối với các giao dịch chỉ có thể phát hành thẻ ghi nợ trực tuyến. Một số hệ thống ghi nợ trực tuyến đang sử dụng các quy trình xác thực thông thường của ngân hàng Internet để cung cấp các giao dịch ghi nợ trực tuyến theo thời gian thực.
Hệ thống ghi nợ ngoại tuyến.
Thẻ ghi nợ ngoại tuyến có logo của thẻ tín dụng chính (ví dụ: Visa hoặc MasterCard) hoặc thẻ ghi nợ lớn (ví dụ: Maestro ở Vương quốc Anh và các quốc gia khác, nhưng không được sử dụng tại điểm này bán như thẻ tín dụng (có chữ ký của người trả tiền). Loại thẻ ghi nợ này có thể phải chịu giới hạn hàng ngày và/hoặc giới hạn tối đa bằng với số dư tài khoản hiện tại / kiểm tra mà từ đó rút tiền. Các giao dịch được thực hiện bằng thẻ ghi nợ ngoại tuyến cần 2 ngày 3 lần để được phản ánh trên số dư tài khoản của người dùng.
Ở một số quốc gia và với một số ngân hàng và tổ chức dịch vụ thương mại, "giao dịch ghi nợ" hoặc giao dịch ghi nợ ngoại tuyến sẽ không mất chi phí cho người mua vượt quá mệnh giá của giao dịch, trong khi một khoản phí có thể được tính cho "giao dịch ghi nợ" hoặc giao dịch ghi nợ trực tuyến (mặc dù nó thường được hấp thụ bởi các nhà bán lẻ). Sự khác biệt khác là người mua ghi nợ trực tuyến có thể chọn rút tiền mặt ngoài số tiền mua ghi nợ (nếu người bán hỗ trợ chức năng đó); đồng thời, từ quan điểm của người bán, người bán trả phí thấp hơn cho giao dịch ghi nợ trực tuyến so với "tín dụng" (ngoại tuyến).
Hệ thống thẻ ví điện tử.
Các hệ thống ví điện tử dựa trên thẻ thông minh (trong đó giá trị được lưu trữ trên chip thẻ, không phải trong tài khoản được ghi bên ngoài, do đó, các máy chấp nhận thẻ không cần kết nối mạng) được sử dụng trên khắp châu Âu kể từ giữa những năm 1990, đáng chú ý nhất là ở Đức (Geldkarte), Áo (Quick Wertkarte), Hà Lan (Chipknip), Bỉ (Proton), Thụy Sĩ (CASH) và Pháp (Moneo, thường được mang theo bằng thẻ ghi nợ). Tại Áo và Đức, gần như tất cả các thẻ ngân hàng hiện tại đều bao gồm ví điện tử, trong khi ví điện tử gần đây đã bị loại bỏ ở Hà Lan.
Thẻ ghi nợ trả trước.
Danh pháp.
Thẻ ghi nợ trả trước có thể tải lại và cũng có thể được gọi là thẻ ghi nợ có thể nạp lại.
Người dùng.
Thị trường chính cho thẻ ghi nợ trả trước theo truyền thống là những người không có tiền; nghĩa là, những người không sử dụng ngân hàng hoặc công đoàn tín dụng cho các giao dịch tài chính của họ. Nhưng thẻ trả trước cũng thu hút người dùng khác bị thu hút bởi những lợi thế của họ.
Ưu điểm.
Ưu điểm của thẻ ghi nợ trả trước bao gồm an toàn hơn mang theo tiền mặt, chức năng trên toàn thế giới do chấp nhận của người bán Visa và MasterCard, không phải lo lắng về việc thanh toán hóa đơn thẻ tín dụng hoặc nợ nần, cơ hội cho bất kỳ ai trên 18 tuổi đăng ký và được được chấp nhận mà không liên quan đến chất lượng tín dụng và tùy chọn gửi trực tiếp tiền lương và lợi ích chính phủ vào thẻ miễn phí.
Rủi ro.
Nếu nhà cung cấp thẻ cung cấp một trang web không an toàn để cho phép bạn kiểm tra số dư của thẻ, điều này có thể cung cấp cho kẻ tấn công quyền truy cập vào thông tin thẻ. Nếu người dùng bị mất thẻ và chưa đăng ký bằng cách nào đó, người dùng có thể mất tiền. Nếu một nhà cung cấp có vấn đề kỹ thuật, tiền có thể không truy cập được khi người dùng cần. Hệ thống thanh toán của một số công ty dường như không chấp nhận thẻ ghi nợ trả trước. Cũng có nguy cơ rằng việc sử dụng nhiều thẻ ghi nợ trả trước có thể khiến các công ty cung cấp dữ liệu phân loại người dùng theo những cách không may.
Các loại.
Thẻ trả trước khác nhau tùy theo công ty phát hành: người chơi tài chính chính và thích hợp, (đôi khi có thể là sự hợp tác giữa các doanh nghiệp), mục đích sử dụng (thẻ quá cảnh, thẻ quà tặng làm đẹp, thẻ du lịch, thẻ xăng dầu, thẻ tiết kiệm sức khỏe, kinh doanh, bảo hiểm, những người khác), và vùng.
Các công ty.
Một số công ty đầu tiên tham gia vào thị trường này là: MiCash, RushCard, Netspend và Green Dot, những người đã giành được thị phần do là người đầu tiên đưa ra thị trường. Tuy nhiên, kể từ năm 1999, đã có một số nhà cung cấp mới, chẳng hạn như TransCash, 247card, iKobo, Ripae Card, Argent Card, EuroPYM, AsiaPYM, & DrawPay Card. Các công ty thẻ trả trước này cung cấp một số lợi ích, chẳng hạn như dịch vụ chuyển tiền, chuyển từ thẻ sang thẻ và khả năng đăng ký mà không cần số an sinh xã hội. [ cần dẫn nguồn ]
Năm 2009, một công ty có tên PEX Card đã ra mắt dịch vụ thẻ chi phí doanh nghiệp nhằm vào người dùng doanh nghiệp.
Kể từ năm 2019, nhiều công ty khác cũng cung cấp thẻ.
Chính phủ.
Kể từ năm 2013, một số chính quyền thành phố (bao gồm cả Oakland, California và Chicago, Illinois) hiện đang cung cấp thẻ ghi nợ trả trước, như một phần của thẻ ID thành phố (đối với những người như người nhập cư bất hợp pháp không thể có được bằng lái xe tiểu bang hoặc thẻ DMV ID) trong trường hợp của Oakland hoặc kết hợp với thẻ quá cảnh trả trước (Chicago). Các thẻ này đã bị chỉ trích nặng nề vì các khoản phí cao hơn mức trung bình, bao gồm một số (như một khoản phí cố định được thêm vào mỗi giao dịch mua bằng thẻ) mà các sản phẩm tương tự do Green Dot và American Express cung cấp không có.
Chính phủ liên bang Hoa Kỳ sử dụng thẻ ghi nợ trả trước để thực hiện thanh toán lợi ích cho những người không có tài khoản ngân hàng. Năm 2008, Bộ Tài chính Hoa Kỳ đã kết hợp với Ngân hàng Comerica để cung cấp thẻ ghi nợ trả trước Direct Express Debit MasterCard.
Vào tháng 7 năm 2013, Hiệp hội Kế toán Chính phủ đã công bố một báo cáo về việc sử dụng thẻ trả trước của chính phủ, kết luận rằng các chương trình đó cung cấp một số lợi thế cho chính phủ và những người nhận thanh toán trên thẻ trả trước thay vì bằng séc. Các chương trình thẻ trả trước có lợi cho thanh toán phần lớn để tiết kiệm chi phí mà họ cung cấp và cung cấp quyền truy cập dễ dàng hơn vào tiền mặt cho người nhận, cũng như tăng tính bảo mật. Báo cáo cũng khuyên rằng các chính phủ nên xem xét thay thế mọi khoản thanh toán dựa trên séc còn lại bằng các chương trình thẻ trả trước để nhận được khoản tiết kiệm đáng kể cho người nộp thuế, cũng như lợi ích cho người được trả tiền.
Tác động của các tài khoản ngân hàng do Chính phủ cung cấp.
Vào tháng 1 năm 2016, chính phủ Anh đã giới thiệu tất cả các tài khoản ngân hàng cơ bản miễn phí, có tác động đáng kể đến ngành công nghiệp trả trước, bao gồm cả sự ra đi của một số công ty.
Bảo vệ người tiêu dùng.
Bảo vệ người tiêu dùng khác nhau, tùy thuộc vào mạng được sử dụng. Ví dụ, Visa và MasterCard cấm các kích cỡ mua tối thiểu và tối đa, phụ phí và các thủ tục bảo mật tùy ý từ phía thương nhân. Các thương nhân thường được tính phí giao dịch cao hơn cho các giao dịch tín dụng, vì các giao dịch mạng ghi nợ ít có khả năng là gian lận. Điều này có thể khiến họ "lèo lái" khách hàng đến các giao dịch ghi nợ. Người tiêu dùng tranh chấp chi phí có thể thấy dễ dàng hơn khi làm như vậy với thẻ tín dụng, vì tiền sẽ không ngay lập tức rời khỏi tầm kiểm soát của họ. Các khoản phí gian lận trên thẻ ghi nợ cũng có thể gây ra sự cố với tài khoản séc vì tiền được rút ngay lập tức và do đó có thể dẫn đến thấu chi hoặc séc bị trả lại. Trong một số trường hợp, các ngân hàng phát hành thẻ ghi nợ sẽ hoàn trả ngay lập tức mọi khoản phí tranh chấp cho đến khi vấn đề có thể được giải quyết và trong một số khu vực pháp lý, trách nhiệm của người tiêu dùng đối với các khoản phí trái phép là giống nhau đối với cả thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng.
Ở một số quốc gia, như Ấn Độ và Thụy Điển, việc bảo vệ người tiêu dùng là như nhau bất kể mạng được sử dụng. Một số ngân hàng đặt kích thước mua tối thiểu và tối đa, chủ yếu dành cho thẻ chỉ trực tuyến. Tuy nhiên, điều này không liên quan gì đến các mạng thẻ, mà thay vào đó là phán quyết của ngân hàng về tuổi và hồ sơ tín dụng của người đó. Bất kỳ khoản phí nào mà khách hàng phải trả cho ngân hàng là như nhau bất kể giao dịch được thực hiện dưới dạng tín dụng hay giao dịch ghi nợ, do đó, không có lợi thế nào cho khách hàng khi chọn một chế độ giao dịch so với chế độ giao dịch khác. Các cửa hàng có thể thêm phụ phí vào giá của hàng hóa hoặc dịch vụ theo luật pháp cho phép họ làm như vậy. Các ngân hàng coi việc mua hàng đã được thực hiện tại thời điểm thẻ được quẹt, bất kể khi nào việc thanh toán mua được thực hiện.
Truy cập tài chính.
Thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng được bảo đảm là phổ biến trong số các sinh viên đại học chưa thiết lập lịch sử tín dụng. Thẻ ghi nợ cũng có thể được sử dụng bởi những người lao động nước ngoài để gửi tiền về nhà cho gia đình họ đang giữ một thẻ ghi nợ liên kết.
Các vấn đề với việc trì hoãn đăng bài ngoại tuyến.
Người tiêu dùng nhận thấy một giao dịch ghi nợ xảy ra trong thời gian thực: tiền được rút từ tài khoản của họ ngay sau khi có yêu cầu ủy quyền từ người bán, ở nhiều quốc gia, là trường hợp khi mua hàng ghi nợ trực tuyến. Tuy nhiên, khi giao dịch mua được thực hiện bằng tùy chọn "tín dụng" (ghi nợ ngoại tuyến), giao dịch chỉ đặt quyền giữ tài khoản của khách hàng; tiền không thực sự được rút cho đến khi giao dịch được đối chiếu và gửi cứng vào tài khoản của khách hàng, thường là một vài ngày sau đó. Tuy nhiên, previoce áp dụng cho tất cả các loại giao dịch, ít nhất là khi sử dụng thẻ do ngân hàng châu Âu phát hành. Điều này trái ngược với một giao dịch thẻ tín dụng thông thường, trong đó, sau một vài ngày trì hoãn trước khi giao dịch được đăng vào tài khoản, có một khoảng thời gian nữa có thể là một tháng trước khi người tiêu dùng thực hiện trả nợ.
Do đó, trong trường hợp lỗi của người bán hoặc ngân hàng do lỗi cố ý hoặc vô ý, giao dịch ghi nợ có thể gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng hơn (ví dụ: tiền không thể truy cập; rút tiền từ tài khoản) so với giao dịch thẻ tín dụng (ví dụ: tín dụng không thể truy cập được; vượt quá giới hạn tín dụng). Điều này đặc biệt đúng ở Hoa Kỳ, nơi gian lận kiểm tra là tội phạm ở mọi tiểu bang, nhưng vượt quá giới hạn tín dụng của bạn thì không.
Mua hàng qua Internet.
Thẻ ghi nợ cũng có thể được sử dụng trên Internet dù có hoặc không sử dụng mã PIN. Giao dịch Internet có thể được thực hiện ở chế độ trực tuyến hoặc ngoại tuyến, mặc dù các cửa hàng chấp nhận thẻ chỉ trực tuyến rất hiếm ở một số quốc gia (như Thụy Điển), trong khi chúng phổ biến ở các quốc gia khác (như Hà Lan). Để so sánh, PayPal cung cấp cho khách hàng sử dụng thẻ Maestro chỉ trực tuyến nếu khách hàng nhập địa chỉ cư trú tại Hà Lan, nhưng không phải nếu cùng một khách hàng nhập địa chỉ cư trú của Thụy Điển.
Việc mua hàng trên Internet có thể được xác thực bởi người tiêu dùng nhập mã PIN của họ nếu người bán đã kích hoạt mã PIN trực tuyến an toàn, trong trường hợp đó giao dịch được thực hiện trong chế độ ghi nợ. Mặt khác, các giao dịch có thể được thực hiện ở chế độ tín dụng hoặc ghi nợ (đôi khi, nhưng không phải lúc nào cũng được chỉ định trên biên lai) và điều này không liên quan gì đến việc giao dịch được thực hiện ở chế độ trực tuyến hay ngoại tuyến, vì cả tín dụng và ghi nợ giao dịch có thể được thực hiện trong cả hai chế độ.
Thẻ ghi nợ trên toàn thế giới.
Ở một số quốc gia, các ngân hàng có xu hướng thu một khoản phí nhỏ cho mỗi giao dịch thẻ ghi nợ. Ở một số quốc gia (ví dụ: Vương quốc Anh), thương nhân chịu mọi chi phí và khách hàng không bị tính phí. Có rất nhiều người thường xuyên sử dụng thẻ ghi nợ cho tất cả các giao dịch, dù nhỏ đến đâu. Một số nhà bán lẻ (nhỏ) từ chối chấp nhận thẻ ghi nợ cho các giao dịch nhỏ, trong đó việc trả phí giao dịch sẽ hấp thụ biên lợi nhuận khi bán, khiến giao dịch không kinh tế cho nhà bán lẻ.
Ăng-gô-la.
Bài viết chính: Multicaixa
Các ngân hàng ở Angola phát hành theo quy định chính thức chỉ có một thương hiệu thẻ ghi nợ: Multicaixa, cũng là thương hiệu của một và duy nhất mạng lưới ATM và thiết bị đầu cuối POS.
Armenia.
ArCa (Thẻ Armenia) - một hệ thống ghi nợ quốc gia (ArCa Debit và ArCa Classic) và thẻ tín dụng (ArCa Gold, ArCa Business, ArCA Platinum, ArCa Affinity và ArCa Co-brand) phổ biến ở Armenia. Được thành lập vào năm 2000 bởi 17 ngân hàng lớn nhất của Armenia.
Úc.
Bài viết chính: EFTPOS
Thẻ ghi nợ ở Úc được gọi là các tên khác nhau tùy thuộc vào ngân hàng phát hành: Commonwealth Bank of Australia: Keycard; Tập đoàn ngân hàng Westpac: Handycard; Ngân hàng Quốc gia Úc: FlexiCard; Ngân hàng ANZ: Thẻ truy cập; Ngân hàng Bendigo: Thẻ kiếm tiền dễ dàng.
EFTPOS rất phổ biến ở Úc và đã hoạt động ở đó từ những năm 1980. Thẻ hỗ trợ EFTPOS được chấp nhận tại hầu hết tất cả các thiết bị đầu cuối có thể chấp nhận thẻ tín dụng, bất kể ngân hàng nào phát hành thẻ, bao gồm thẻ Maestro do ngân hàng nước ngoài phát hành, với hầu hết các doanh nghiệp chấp nhận chúng, với 450.000 điểm bán hàng.
Thẻ EFTPOS cũng có thể được sử dụng để gửi và rút tiền qua quầy tại các cửa hàng Bưu điện Úc tham gia Giro Post và rút tiền mà không mua từ một số nhà bán lẻ lớn, giống như khi giao dịch được thực hiện tại chi nhánh ngân hàng, ngay cả khi chi nhánh ngân hàng bị đóng cửa. Các giao dịch điện tử ở Úc thường được xử lý thông qua mạng Telstra Argent và Optus Transact Plus - gần đây đã thay thế Transcend trong vài năm qua. Hầu hết các thẻ khóa ban đầu chỉ có thể sử dụng được cho EFTPOS và tại các chi nhánh ATM hoặc ngân hàng, trong khi hệ thống thẻ ghi nợ mới hoạt động giống như thẻ tín dụng, ngoại trừ việc nó sẽ chỉ sử dụng tiền trong tài khoản ngân hàng được chỉ định. Điều này có nghĩa là, trong số những lợi thế khác, hệ thống mới phù hợp cho việc mua hàng điện tử mà không bị trì hoãn từ hai đến bốn ngày để chuyển tiền từ ngân hàng.
Úc vận hành cả ủy quyền giao dịch thẻ tín dụng điện tử và hệ thống ủy quyền thẻ ghi nợ truyền thống EFTPOS, sự khác biệt giữa hai giao dịch EFTPOS được ủy quyền bởi số nhận dạng cá nhân (PIN) trong khi giao dịch thẻ tín dụng có thể được ủy quyền sử dụng cơ chế thanh toán không tiếp xúc (yêu cầu mã PIN để mua hàng trên $ 100). Nếu người dùng không nhập đúng mã pin ba lần, phạm vi hậu quả của thẻ bị khóa trong khoảng thời gian tối thiểu 24 giờ, một cuộc gọi điện thoại hoặc chuyến đi đến chi nhánh để kích hoạt lại bằng mã PIN mới, thẻ bị cắt bởi người bán, hoặc trong trường hợp máy ATM, được giữ bên trong máy, cả hai đều yêu cầu phải có thẻ mới.
Nói chung, chi phí giao dịch thẻ tín dụng do người bán chịu mà không phải trả phí cho người dùng cuối (mặc dù phụ phí tiêu dùng trực tiếp 0,5 - 3% không phải là hiếm) trong khi các giao dịch của EFTPOS khiến người tiêu dùng phải trả phí rút tiền áp dụng.
Sự ra đời của thẻ ghi nợ Visa và MasterCard cùng với quy định về phí thanh toán được tính bởi các nhà khai thác của cả EFTPOS và thẻ tín dụng của Ngân hàng Dự trữ đã chứng kiến sự tiếp tục ngày càng tăng của việc sử dụng thẻ tín dụng ở người Úc và sự suy giảm chung trong hồ sơ của EFTPOS. Tuy nhiên, quy định về phí thanh toán cũng loại bỏ khả năng của các ngân hàng, những người thường cung cấp dịch vụ giao dịch cho các nhà bán lẻ thay mặt cho Visa hoặc MasterCard, ngăn chặn các nhà bán lẻ tính phí thêm để thanh toán bằng thẻ tín dụng thay vì tiền mặt hoặc EFTPOS.
Bỉ.
Ở Bỉ, thẻ ghi nợ được chấp nhận rộng rãi ở hầu hết các cửa hàng và cửa hàng, cũng như ở hầu hết các khách sạn và nhà hàng. Nhà hàng nhỏ hơn hoặc cửa hàng nhỏ thường chỉ chấp nhận Thẻ ghi nợ hoặc tiền mặt nhưng không có thẻ tín dụng. Tất cả các ngân hàng Bỉ cung cấp thẻ ghi nợ khi bạn mở tài khoản ngân hàng. Thông thường, sử dụng thẻ ghi nợ trên các máy ATM quốc gia và EU miễn phí ngay cả khi chúng không thuộc sở hữu của ngân hàng phát hành. Kể từ năm 2019, một số ngân hàng tính chi phí 0,50 € khi sử dụng các máy ATM không thuộc sở hữu của ngân hàng phát hành. Thẻ ghi nợ ở Bỉ được gắn logo của hệ thống Bancontact quốc gia và cũng có hệ thống ghi nợ quốc tế, Maestro (hiện tại không có ngân hàng nào phát hành V-Pay hoặc thẻ Visa Electron ngay cả khi chúng được chấp nhận rộng rãi), hệ thống Maestro được sử dụng chủ yếu để thanh toán ở các quốc gia khác nhưng một số dịch vụ thanh toán thẻ quốc gia sử dụng hệ thống Maestro. Một số ngân hàng cũng cung cấp thẻ ghi nợ Visa và MasterCard nhưng đây hầu hết là các ngân hàng trực tuyến.
Brazil.
Ở Brazil, thẻ ghi nợ được gọi là cartão de débito (số ít) và trở nên phổ biến từ năm 2008 trở đi. Năm 2013, thẻ ghi nợ Brazil thứ 100 triệu đã được phát hành. Thẻ ghi nợ thay thế séc, phổ biến cho đến thập kỷ đầu tiên của thập niên 2000.
Ngày nay, phần lớn các giao dịch tài chính (như mua sắm, v.v.) được thực hiện bằng thẻ ghi nợ (và hệ thống này đang nhanh chóng thay thế thanh toán bằng tiền mặt). Ngày nay, phần lớn các khoản thanh toán ghi nợ được xử lý bằng cách sử dụng kết hợp thẻ + pin và hầu như mọi thẻ đều có chip để thực hiện giao dịch.
Các nhà cung cấp thẻ ghi nợ lớn ở Brazil là Visa (với thẻ Visa Electron) và MasterCard (với thẻ Maestro), cũng như thương hiệu địa phương Elo.
Canada.
Canada có một hệ thống EFTPOS trên toàn quốc, được gọi là Thanh toán trực tiếp Interac (IDP). Kể từ khi được giới thiệu vào năm 1994, IDP đã trở thành phương thức thanh toán phổ biến nhất ở nước này. Trước đây, thẻ ghi nợ đã được sử dụng cho việc sử dụng ABM từ cuối những năm 1970, với các công đoàn tín dụng ở Saskatchewan và Alberta giới thiệu các máy ATM kết nối thẻ dựa trên thẻ đầu tiên bắt đầu vào tháng 6 năm 1977. Thẻ ghi nợ, có thể được sử dụng ở bất cứ nơi nào thẻ tín dụng được chấp nhận, lần đầu tiên được giới thiệu tại Canada bởi Hiệp hội tín dụng Saskatchewan vào năm 1982. Đầu những năm 1990, các dự án thí điểm đã được tiến hành giữa sáu ngân hàng lớn nhất của Canada để đánh giá tính bảo mật, tính chính xác và tính khả thi của hệ thống Interac. Dần dần trong nửa cuối thập niên 1990, ước tính có khoảng 50% các nhà bán lẻ cung cấp Interac như một nguồn thanh toán. Các nhà bán lẻ, nhiều nhà bán lẻ giao dịch nhỏ như quán cà phê, đã từ chối cung cấp IDP để thúc đẩy dịch vụ nhanh hơn. Trong năm 2009, 99% các nhà bán lẻ cung cấp IDP như một hình thức thanh toán thay thế.
Ở Canada, thẻ ghi nợ đôi khi được gọi là "thẻ ngân hàng". Đó là thẻ khách hàng được phát hành bởi một ngân hàng cung cấp quyền truy cập vào các quỹ và các giao dịch tài khoản ngân hàng khác, chẳng hạn như chuyển tiền, kiểm tra số dư, thanh toán hóa đơn, v.v., cũng như các điểm giao dịch mua hàng được kết nối trên mạng Interac. Kể từ khi ra mắt quốc gia vào năm 1994, Interac Direct Payment đã trở nên phổ biến đến mức, kể từ năm 2001, nhiều giao dịch ở Canada đã được hoàn thành bằng thẻ ghi nợ hơn là tiền mặt. Sự phổ biến này có thể là một phần do hai yếu tố chính: sự tiện lợi của việc không phải mang theo tiền mặt và sự sẵn có của máy ngân hàng tự động (ABM) và thương nhân thanh toán trực tiếp trên mạng. Thẻ ghi nợ có thể được coi là tương tự như thẻ giá trị được lưu trữ trong đó họ đại diện cho một số tiền hữu hạn mà nhà phát hành thẻ nợ cho chủ sở hữu. Chúng khác nhau ở chỗ thẻ giá trị lưu trữ thường ẩn danh và chỉ có thể sử dụng được tại nhà phát hành, trong khi thẻ ghi nợ thường được liên kết với tài khoản ngân hàng của một cá nhân và có thể được sử dụng ở bất cứ đâu trên mạng Interac.
Tại Canada, thẻ ngân hàng có thể được sử dụng tại POS và ATM. Interac Online cũng đã được giới thiệu trong những năm gần đây cho phép khách hàng của hầu hết các ngân hàng lớn của Canada sử dụng thẻ ghi nợ của họ để thanh toán trực tuyến với một số thương nhân nhất định. Một số tổ chức tài chính cũng cho phép khách hàng của họ sử dụng thẻ ghi nợ của họ tại Hoa Kỳ trên mạng NYCE. Một số tổ chức tài chính Canada chủ yếu cung cấp thẻ tín dụng VISA, bao gồm CIBC, RBC, Scotiabank và TD, cũng phát hành thẻ Visa Debit ngoài thẻ ghi nợ Interac của họ, thông qua thẻ đồng thương hiệu hai mạng (CIBC, Scotia và TD) hoặc dưới dạng thẻ "ảo" được sử dụng cùng với thẻ ghi nợ Interac (RBC) hiện tại của khách hàng. Điều này cho phép khách hàng sử dụng Interlink cho các giao dịch trực tuyến, qua điện thoại và quốc tế và Plus cho các máy ATM quốc tế, vì Intract không được hỗ trợ tốt trong các tình huống này.
Bảo vệ người tiêu dùng ở Canada.
Người tiêu dùng ở Canada được bảo vệ theo một mã tự nguyện được nhập bởi tất cả các nhà cung cấp dịch vụ thẻ ghi nợ, Quy tắc thực hành Canada đối với dịch vụ thẻ ghi nợ tiêu dùng (đôi khi được gọi là "Mã thẻ ghi nợ"). Việc tuân thủ Quy tắc được Cơ quan Tiêu dùng Tài chính Canada (FCAC) giám sát, điều tra các khiếu nại của người tiêu dùng.
Theo trang web của FCAC, việc sửa đổi mã có hiệu lực vào năm 2005 đã đặt trách nhiệm lên tổ chức tài chính để chứng minh rằng người tiêu dùng chịu trách nhiệm về giao dịch bị tranh chấp và cũng đặt giới hạn số ngày mà tài khoản có thể đóng băng trong quá trình điều tra của tổ chức tài chính về một giao dịch.
Chile.
Chile có một hệ thống EFTPOS có tên Redcompra (Mạng mua hàng) hiện đang được sử dụng tại ít nhất 23.000 cơ sở trên cả nước. Hàng hóa có thể được mua bằng hệ thống này tại hầu hết các siêu thị, cửa hàng bán lẻ, quán rượu và nhà hàng ở các trung tâm đô thị lớn. Các ngân hàng Chile phát hành thẻ Maestro, Visa Electron và Visa Debit.
Colombia.
Colombia có một hệ thống được gọi là Redeban-Nhiều màu và Visa Tín dụng hiện đang được sử dụng tại ít nhất 23.000 cơ sở trên cả nước. Hàng hóa có thể được mua bằng hệ thống này tại hầu hết các siêu thị, cửa hàng bán lẻ, quán rượu và nhà hàng ở các trung tâm đô thị lớn. Thẻ ghi nợ của Colombia là Maestro (pin), Visa Electron (pin), Visa Debit (dưới dạng tín dụng) và MasterCard-Debit (dưới dạng tín dụng).
Đan Mạch.
Thẻ ghi nợ Đan Mạch Dankort có mặt khắp nơi ở Đan Mạch. Nó được giới thiệu vào ngày 1 tháng 9 năm 1983 và mặc dù các giao dịch ban đầu là trên giấy tờ, Dankort đã nhanh chóng giành được sự chấp nhận rộng rãi. Đến năm 1985, các thiết bị đầu cuối EFTPOS được giới thiệu và năm 1985 cũng là năm mà số lượng giao dịch Dankort lần đầu tiên vượt quá 1 triệu. Ngày nay, Dankort chủ yếu được phát hành dưới dạng Multicard kết hợp Dankort quốc gia với Visa được quốc tế công nhận hơn (ký hiệu đơn giản là thẻ "Visa / Dankort"). Vào tháng 9 năm 2008, 4 triệu thẻ đã được phát hành, trong đó ba triệu thẻ là thẻ Visa / Dankort. Cũng có thể nhận được thẻ ghi nợ Visa Electron và MasterCard. [ cần làm rõ]
Phần Lan.
Hầu hết các giao dịch hàng ngày của khách hàng được thực hiện bằng thẻ ghi nợ hoặc thanh toán hóa đơn điện tử / giro trực tuyến, mặc dù thẻ tín dụng và tiền mặt được chấp nhận. Kiểm tra không còn được sử dụng. Trước khi tiêu chuẩn hóa châu Âu, Phần Lan đã có tiêu chuẩn quốc gia (pankkikortti = "thẻ ngân hàng"). Về mặt vật lý, pankkikortti giống như thẻ tín dụng quốc tế, và các dấu ấn và thẻ giống nhau được sử dụng cho pankkikortti và thẻ tín dụng, nhưng thẻ không được chấp nhận ở nước ngoài. Điều này hiện đã được thay thế bởi hệ thống thẻ ghi nợ Visa và MasterCard và thẻ Phần Lan có thể được sử dụng ở những nơi khác trong Liên minh châu Âu và thế giới.
Một hệ thống ví điện tử, với thẻ bị sứt mẻ, đã được giới thiệu, nhưng không thu được nhiều lực kéo.
Ký một khoản thanh toán ngoại tuyến đòi hỏi phải phát sinh nợ, do đó thanh toán ngoại tuyến không có sẵn cho người chưa thành niên. Tuy nhiên, các giao dịch trực tuyến được cho phép và vì hầu hết tất cả các cửa hàng đều có thiết bị đầu cuối điện tử, ngày nay, người vị thành niên cũng có thể sử dụng thẻ ghi nợ. Trước đây, chỉ rút tiền mặt từ ATM có sẵn cho người chưa thành niên (automaattikortti hoặc Visa).
Pháp.
Carte Bancaire (CB), chương trình thanh toán quốc gia, năm 2008, có 57,5 triệu thẻ mang logo và 7,76 tỷ giao dịch (POS và ATM) được xử lý thông qua mạng e-rsb (135 giao dịch trên mỗi thẻ chủ yếu là ghi nợ hoặc ghi nợ hoãn lại). Hầu hết các thẻ CB là thẻ ghi nợ, ghi nợ hoặc ghi nợ hoãn lại. Ít hơn 10% thẻ CB là thẻ tín dụng.
Các ngân hàng ở Pháp thường tính phí hàng năm cho thẻ ghi nợ (mặc dù thanh toán thẻ rất tiết kiệm chi phí cho ngân hàng), nhưng họ không tính phí khách hàng cá nhân đối với sổ séc hoặc xử lý séc (mặc dù séc rất tốn kém cho ngân hàng). Sự mất cân bằng này bắt nguồn từ sự giới thiệu đơn phương ở Pháp về thẻ ghi nợ Chip và PIN vào đầu những năm 1990, khi chi phí của công nghệ này cao hơn nhiều so với bây giờ. Thẻ tín dụng thuộc loại được tìm thấy ở Anh và Hoa Kỳ là không bình thường ở Pháp và tương đương gần nhất là thẻ ghi nợ trả chậm, hoạt động như một thẻ ghi nợ thông thường, ngoại trừ tất cả các giao dịch mua hàng bị hoãn cho đến cuối tháng, do đó cung cấp cho khách hàng từ 1 đến 31 ngày tín dụng "không lãi suất".
Phí hàng năm cho thẻ ghi nợ trả chậm là khoảng € 10 so với một khoản nợ ngay lập tức. Hầu hết các thẻ ghi nợ của Pháp đều được gắn nhãn logo Carte Bleue, đảm bảo sự chấp nhận trên toàn nước Pháp. Hầu hết các chủ thẻ chọn trả thêm khoảng 5 € trong phí hàng năm để có thêm Visa hoặc logo MasterCard trên Carte Bleue, để thẻ được chấp nhận trên phạm vi quốc tế. Carte Bleue không có Visa hoặc logo MasterCard thường được gọi là "Carte Bleue Nationale" và Carte Bleue có Visa hoặc logo MasterCard được gọi là "Carte Bleue Internationale", hay thường xuyên hơn, được gọi đơn giản là "Visa "Hoặc" Thẻ Master ".
Nhiều thương nhân nhỏ hơn ở Pháp từ chối chấp nhận thẻ ghi nợ cho các giao dịch theo một số tiền nhất định vì phí tối thiểu được tính bởi ngân hàng của thương nhân cho mỗi giao dịch (số tiền tối thiểu này dao động từ € 5 đến € 15,25 hoặc trong một số trường hợp hiếm hơn thậm chí nhiều hơn). Nhưng ngày càng có nhiều thương nhân chấp nhận thẻ ghi nợ với số lượng nhỏ, do việc sử dụng thẻ ghi nợ hàng ngày hiện nay. Các thương nhân ở Pháp không phân biệt giữa thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng, và vì vậy cả hai đều có sự chấp nhận như nhau. Ở Pháp, việc đặt số tiền tối thiểu cho các giao dịch là hợp pháp, nhưng các thương nhân phải hiển thị rõ ràng.
Vào tháng 1 năm 2016, 57,2% trong số tất cả các thẻ ghi nợ ở Pháp cũng có chip thanh toán không tiếp xúc. Số tiền tối đa cho mỗi giao dịch được đặt thành € 20 và số tiền tối đa của tất cả các khoản thanh toán không tiếp xúc mỗi ngày là từ 50 đến 100 € tùy thuộc vào ngân hàng. Giới hạn mỗi giao dịch tăng lên € 30 vào tháng 10 năm 2017.
Trách nhiệm và thẻ điện tử.
Theo luật pháp của Pháp, các ngân hàng chịu trách nhiệm cho bất kỳ giao dịch nào được thực hiện bằng một bản sao của thẻ gốc và cho bất kỳ giao dịch nào được thực hiện mà không có thẻ (trên điện thoại hoặc trên Internet), vì vậy các ngân hàng phải trả lại mọi giao dịch gian lận cho chủ thẻ nếu các tiêu chí trước được đáp ứng. Do đó, chống gian lận thẻ là thú vị hơn cho các ngân hàng. Do đó, các trang web của các ngân hàng Pháp thường đề xuất dịch vụ "thẻ điện tử" ("thẻ điện tử (ngân hàng)"), trong đó thẻ ảo mới được tạo và liên kết với thẻ vật lý. Thẻ ảo như vậy chỉ có thể được sử dụng một lần và với số tiền tối đa được cung cấp bởi chủ thẻ. Nếu số thẻ ảo bị chặn hoặc sử dụng để cố lấy số tiền cao hơn dự kiến, giao dịch sẽ bị chặn.
Đức.
[ cần dẫn nguồn ] Các cơ sở đã tồn tại trước khi EFTPOS trở nên phổ biến với thẻ Eurocheque, một hệ thống ủy quyền ban đầu được phát triển để kiểm tra giấy, ngoài việc ký séc thực tế, khách hàng cũng cần xuất trình thẻ cùng với séc như một biện pháp bảo mật. Những thẻ này cũng có thể được sử dụng tại ATM và để chuyển tiền điện tử dựa trên thẻ (được gọi là Girocard) với mục nhập mã PIN. Bây giờ đây là các chức năng duy nhất của các thẻ như vậy: hệ thống Eurocheque (cùng với thương hiệu) đã bị bỏ rơi vào năm 2002 trong quá trình chuyển đổi từ Deutsche Mark sang đồng euro. Kể từ năm 2005, hầu hết các cửa hàng và cửa hàng xăng dầu đều có cơ sở EFTPOS. Phí xử lý được thanh toán bởi các doanh nghiệp, dẫn đến một số chủ doanh nghiệp từ chối thanh toán bằng thẻ ghi nợ để bán tổng cộng ít hơn một số tiền nhất định, thường là 5 hoặc 10 euro.
Để tránh phí xử lý, nhiều doanh nghiệp đã sử dụng ghi nợ trực tiếp, sau đó được gọi là ghi nợ trực tiếp điện tử (tiếng Đức: Elektronisches Lastschriftverfahren, abbr. ELV.). Thiết bị đầu cuối điểm bán hàng đọc mã sắp xếp ngân hàng và số tài khoản từ thẻ nhưng thay vì xử lý giao dịch qua mạng Girocard, nó chỉ cần in một biểu mẫu mà khách hàng ký để ủy quyền cho ghi nợ. Tuy nhiên, phương pháp này cũng tránh mọi xác minh hoặc bảo đảm thanh toán được cung cấp bởi mạng. Hơn nữa, khách hàng có thể trả lại các ghi chú ghi nợ bằng cách thông báo cho ngân hàng của họ mà không cần đưa ra lý do. Điều này có nghĩa là người thụ hưởng chịu rủi ro gian lận và thanh khoản kém. Một số doanh nghiệp giảm thiểu rủi ro bằng cách tham khảo danh sách đen độc quyền hoặc bằng cách chuyển sang Girocard để có số tiền giao dịch cao hơn.
Khoảng năm 2000, một Thẻ Ví điện tử đã được giới thiệu, được đặt tên là Geldkarte ("thẻ tiền"). Nó sử dụng chip thẻ thông minh ở mặt trước của thẻ ghi nợ phát hành chuẩn. Con chip này có thể bị tính phí lên tới 200 euro và được quảng cáo là phương tiện thực hiện thanh toán từ trung bình đến rất nhỏ, thậm chí xuống tới vài euro hoặc phần trăm thanh toán. Yếu tố chính ở đây là không có phí xử lý được ngân hàng khấu trừ. Nó đã không đạt được sự phổ biến mà các nhà phát minh của nó đã hy vọng. Tuy nhiên, điều này có thể thay đổi vì con chip này hiện được sử dụng làm phương tiện xác minh độ tuổi tại các máy bán thuốc lá, điều này là bắt buộc kể từ tháng 1 năm 2007. Ngoài ra, một số giảm giá thanh toán đang được cung cấp (ví dụ:giảm 10% cho giá vé giao thông công cộng) khi thanh toán bằng "Geldkarte". Khoản thanh toán "Geldkarte" thiếu tất cả các biện pháp bảo mật, vì nó không yêu cầu người dùng nhập mã PIN hoặc ký vào phiếu bán hàng: việc mất "Geldkarte" tương tự như mất ví hoặc ví - bất kỳ ai tìm thấy đều có thể sau đó sử dụng tìm kiếm của họ để trả tiền mua hàng của chính họ.
Hy Lạp.
Việc sử dụng thẻ ghi nợ đã tăng mạnh ở Hy Lạp sau khi giới thiệu Kiểm soát vốn vào năm 2015.
Hồng Kông.
Hầu hết các thẻ ngân hàng ở Hồng Kông để lưu / tài khoản hiện tại đều được trang bị EPS và UnionPay, có chức năng như một thẻ ghi nợ và có thể được sử dụng tại các thương gia để mua hàng, nơi tiền được rút từ tài khoản liên kết ngay lập tức.
EPS là một hệ thống duy nhất ở Hồng Kông và được chấp nhận rộng rãi trong các thương nhân và các cơ quan chính phủ. Tuy nhiên, vì thẻ UnionPay được chấp nhận rộng rãi hơn ở nước ngoài, người tiêu dùng có thể sử dụng chức năng UnionPay của thẻ ngân hàng để mua hàng trực tiếp từ tài khoản ngân hàng.
Thẻ ghi nợ Visa là không phổ biến ở Hồng Kông. Công ty ngân hàng của Anh, công ty con của Hang Hang Bank của HSBC và thẻ Visa của công ty Mỹ Citibank là hai trong số các thẻ ghi nợ Visa có sẵn ở Hồng Kông.
Việc sử dụng thẻ ghi nợ ở Hồng Kông tương đối thấp, vì tỷ lệ thâm nhập thẻ tín dụng ở Hồng Kông cao. Trong quý 1 năm 2017, có gần 20 triệu thẻ tín dụng đang lưu hành, gấp khoảng 3 lần dân số trưởng thành. Có 145800 nghìn giao dịch được thực hiện bằng thẻ tín dụng nhưng chỉ có 34001 nghìn giao dịch được thực hiện bằng thẻ ghi nợ.
Hungary.
Ở Hungary thẻ ghi nợ phổ biến và phổ biến hơn nhiều so với thẻ tín dụng. Nhiều người Hungary thậm chí còn nhắc đến thẻ ghi nợ của họ ("betéti kártya") sử dụng nhầm từ dùng cho thẻ tín dụng ("hitelkártya"). Tuy nhiên, cụm từ được sử dụng phổ biến nhất chỉ đơn giản là thẻ ngân hàng ("bankkártya").
Ấn Độ.
Sau khi chính phủ hiện tại hạ giá vào tháng 12 năm 2016, đã có sự gia tăng các giao dịch không dùng tiền mặt, vì vậy ngày nay bạn có thể tìm thấy sự chấp nhận thẻ ở hầu hết các nơi. Thẻ ghi nợ chủ yếu được sử dụng cho các giao dịch ATM. RBI đã thông báo rằng các khoản phí không được chứng minh nên các giao dịch không có phí xử lý. Gần một nửa số người dùng thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng Ấn Độ sử dụng thẻ Rupay. Một số ngân hàng Ấn Độ phát hành thẻ ghi nợ Visa, mặc dù một số ngân hàng (như SBI và Citibank Ấn Độ) cũng phát hành thẻ Maestro. Các giao dịch thẻ ghi nợ được chuyển qua các mạng Rupay (hầu hết), mạng Visa hoặc MasterCard ở Ấn Độ và nước ngoài thay vì trực tiếp qua ngân hàng phát hành.
Các khoản thanh toán Công ty Cổ phần Quốc gia Ấn Độ (NPCI) đã đưa ra một thẻ mới có tên gọi RuPay. Nó tương tự như NETS của Singapore và UnionPay của Trung Quốc đại lục.
Indonesia.
Các thương hiệu nước ngoài phát hành thẻ ghi nợ Indonesia bao gồm Visa, Maestro, MasterCard và MEPS. Trong nước sở hữu mạng lưới thẻ ghi nợ hoạt động tại Indonesia bao gồm Nợ BCA (và Prima đối tác mạng, Prima Debit) và Mandiri Debit.
Iraq.
Hai ngân hàng quốc doanh lớn nhất của Iraq là Ngân hàng Rafidain và Ngân hàng Rasheed cùng với Hệ thống thanh toán điện tử của Iraq (IEPS) đã thành lập một công ty có tên International Smart Card, nơi đã phát triển một thẻ tín dụng quốc gia có tên là ' Thẻ Qi ', mà họ đã phát hành kể từ năm 2008, theo trang web của công ty: 'sau chưa đầy hai năm kể từ lần đầu tiên ra mắt giải pháp thẻ Qi, chúng tôi đã đạt được 1,6 triệu chủ thẻ với khả năng phát hành 2 triệu thẻ vào cuối năm 2010, phát hành khoảng 100.000 thẻ hàng tháng là một minh chứng cho sự thành công to lớn của giải pháp thẻ Qi. Song song với điều này sẽ là việc mở rộng vào các cửa hàng bán lẻ thông qua mạng lưới các điểm bán hàng khoảng 30.000 đơn vị vào năm 2015 '.
Ireland.
Ngày nay, thẻ ghi nợ Ailen chỉ có Chip và PIN và gần như hoàn toàn Visa Debit. Chúng có thể được sử dụng ở bất cứ nơi nào có thể nhìn thấy logo Visa và theo cách tương tự như thẻ tín dụng. Ghi nợ MasterCard cũng được sử dụng bởi một số ít các tổ chức và hoạt động theo cách rất giống nhau.
Thẻ ghi nợ Ailen thường đa chức năng và kết hợp các phương tiện thẻ ATM. Các thẻ đôi khi cũng được sử dụng để xác thực các giao dịch cùng với đầu đọc thẻ để xác thực 2 yếu tố trên ngân hàng trực tuyến.
Phần lớn thẻ Debit Visa Ailen cũng được kích hoạt để thanh toán không tiếp xúc cho các giao dịch nhỏ, thường xuyên (với giá trị tối đa là € 15 hoặc € 30). Ba giao dịch không tiếp xúc liên tiếp được cho phép, sau đó, phần mềm thẻ sẽ từ chối giao dịch không tiếp xúc cho đến khi giao dịch Chip và PIN tiêu chuẩn được hoàn thành và bộ đếm đặt lại. Biện pháp này đã được đưa ra để giảm thiểu rủi ro của các tổ chức phát hành đối với các khoản phí gian lận.
Các thẻ thường được xử lý trực tuyến, nhưng một số thẻ cũng có thể được xử lý ngoại tuyến tùy thuộc vào các quy tắc được áp dụng bởi nhà phát hành thẻ.
Một số tổ chức phát hành thẻ cũng cung cấp tài khoản thẻ ghi nợ trả trước chủ yếu để sử dụng làm thẻ quà tặng / chứng từ hoặc để tăng thêm tính bảo mật và ẩn danh trực tuyến. Đây có thể là dùng một lần hoặc có thể tải lại và thường là nhãn hiệu Visa hoặc MasterCard.
Hệ thống trước đó (không còn tồn tại kể từ ngày 28 tháng 2 năm 2014):
Laser được các ngân hàng Ailen ra mắt vào năm 1996 như là một phần mở rộng của hệ thống thẻ bảo đảm ATM và Kiểm tra bảo hành đã tồn tại trong nhiều năm. Khi dịch vụ được thêm vào, có thể thực hiện thanh toán bằng thẻ đa chức năng kết hợp ATM, kiểm tra và thẻ ghi nợ và các thiết bị ATM quốc tế thông qua MasterCard Cirrus hoặc Visa Plus và đôi khi là hệ thống ATM của British Link. Chức năng của chúng tương tự như thẻ British Switch.
Hệ thống lần đầu tiên ra mắt dưới dạng thẻ quẹt & ký và có thể được sử dụng ở Ireland giống như thẻ tín dụng và là thiết bị đầu cuối thẻ tiêu chuẩn tương thích (trực tuyến hoặc ngoại tuyến, mặc dù chúng thường được xử lý trực tuyến). Chúng cũng có thể được sử dụng trong các giao dịch không có chủ thẻ qua điện thoại, qua thư hoặc trên internet hoặc để xử lý các khoản thanh toán định kỳ. Laser cũng cung cấp các cơ sở 'hoàn lại tiền' nơi khách hàng có thể yêu cầu các nhà bán lẻ (nơi được cung cấp) cho một lượng tiền mặt cùng với giao dịch của họ. Dịch vụ này cho phép các nhà bán lẻ giảm khối lượng tiền mặt trong các máy tính và cho phép người tiêu dùng tránh phải sử dụng ATM. Laser đã áp dụng bảo mật EMV 'Chip và PIN' vào năm 2002 chung với các thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ khác trên khắp châu Âu. Vào năm 2005, một số ngân hàng đã cấp cho khách hàng thẻ Lasers được đồng thương hiệu với Maestro.
Kể từ năm 2006, các ngân hàng Ailen đã dần thay thế Laser bằng các chương trình quốc tế, chủ yếu là Visa Debit và đến ngày 28 tháng 2 năm 2014, hệ thống Thẻ Laser đã bị rút hoàn toàn và không còn được các nhà bán lẻ chấp nhận.
Ý.
Thẻ ghi nợ khá phổ biến ở Ý. Có cả thẻ cổ điển và trả trước. Thẻ ghi nợ cổ điển chính ở Ý là Bancomat / PagoBancomat: loại thẻ này được phát hành bởi các ngân hàng Ý. Bancomat là thương hiệu thương mại cho mạch rút tiền mặt, trong khi PagoBancomat được sử dụng cho các giao dịch POS. Không giống như các quốc gia châu Âu khác như Vương quốc Anh, chỉ có một số ngân hàng Ý phát hành thẻ ghi nợ Visa / MasterCard (như Intesa Sanpaolo Thẻ tiếp theo). Mạch ghi nợ quốc tế chính được các ngân hàng Ý sử dụng là Maestro của Mastercard: vì lý do này, hầu hết mọi thẻ ghi nợ được phát hành ở Ý đều có cả logo PagoBancomat và Maestro, với Bancomat / PagoBancomat được sử dụng ở Ý và mạch Maestro khi ở nước ngoài. Đôi khi, thay vì sử dụng mạch Maestro, thẻ ghi nợ Bancomat / PagoBancomat được phát hành cùng với logo V-Pay hoặc Visa Electron hoặc đôi khi có chức năng thẻ tín dụng (để bạn có thẻ chế độ kép). Trong trường hợp cuối cùng này, chỉ cho phép chế độ thẻ tín dụng cho các giao dịch nước ngoài / Internet, trong khi chế độ thẻ ghi nợ chỉ được sử dụng ở Ý. Thẻ ghi nợ trả trước phổ biến nhất là "Postepay". Nó được phát hành bởi Poste italiane SpA và thường chạy trên mạch Visa Electron, nhưng có một số phiên bản chạy trên MasterCard. Nó có thể được sử dụng trên các máy ATM của Poste Italiane (Postamat) và trên các máy ATM ngân hàng tương thích điện tử của Visa trên toàn thế giới. Nó không mất phí khi được sử dụng trên Internet và trong các giao dịch dựa trên POS. Các thẻ khác được phát hành bởi các công ty khác, chẳng hạn như Vodafone CashCard, Banca Popolare di Milano's Carta Jeans và Carta Moneta Online.
Nhật Bản.
Ở Nhật Bản, mọi người thường sử dụng thẻ tiền mặt của họ (キ ャ ッ シ ュ カky, kyasshu kādo), ban đầu chỉ nhằm mục đích sử dụng với máy rút tiền, làm thẻ ghi nợ. Chức năng ghi nợ của các thẻ này thường được gọi là J-Debit (ジ ェ イ デ ビ, Jeidebitto) và chỉ có thể sử dụng thẻ tiền mặt từ một số ngân hàng nhất định. Thẻ tiền mặt có cùng kích thước với thẻ Visa / MasterCard. Khi nhận dạng, người dùng sẽ phải nhập mã PIN gồm bốn chữ số khi thanh toán. J-Debit đã được bắt đầu tại Nhật Bản vào ngày 6 tháng 3 năm 2000. Tuy nhiên, J-Debit đã không còn phổ biến kể từ đó.
Ngân hàng Suruga bắt đầu dịch vụ Ghi nợ Visa đầu tiên của Nhật Bản vào năm 2006. Ngân hàng Rakuten, chính thức được gọi là Ebank, cung cấp thẻ ghi nợ Visa.
Resona Bank và The Bank of Tokyo- ngân hàng Mitsubishi UFJ cũng cung cấp thẻ ghi nợ mang nhãn hiệu Visa.
Malaysia.
Ở Malaysia, mạng lưới thẻ ghi nợ địa phương được điều hành bởi Tập đoàn thanh toán bù trừ điện tử Malaysia (MyClear), đã tiếp quản chương trình từ MEPS năm 2008. Tên mới của thẻ ghi nợ địa phương ở Malaysia là MyDebit, trước đây được biết đến với tên gọi thẻ ngân hàng hoặc ghi nợ điện tử. Thẻ ghi nợ ở Malaysia hiện được phát hành trên cơ sở kết hợp trong đó thẻ có cả ứng dụng thanh toán thẻ ghi nợ địa phương cũng như có chương trình quốc tế (Visa hoặc MasterCard). Tất cả các thẻ kết hợp MyDebit mới được phát hành với Visa hoặc MasterCard đều có tính năng thanh toán không tiếp xúc. Thẻ tương tự cũng hoạt động như thẻ ATM để rút tiền mặt.
Hà Lan.
Ở Hà Lan, sử dụng EFTPOS được gọi là pinnen (ghim), một thuật ngữ bắt nguồn từ việc sử dụng số nhận dạng cá nhân (PIN). PIN cũng được sử dụng cho các giao dịch ATM và thuật ngữ này được nhiều người sử dụng thay thế cho nhau, mặc dù nó được giới thiệu như một thương hiệu tiếp thị cho EFTPOS. Hệ thống được ra mắt vào năm 1987 và năm 2010 có tới 258.585 thiết bị đầu cuối trên cả nước, bao gồm cả thiết bị đầu cuối di động được sử dụng bởi các dịch vụ giao hàng và trên thị trường. Tất cả các ngân hàng cung cấp một thẻ ghi nợ phù hợp cho EFTPOS với các tài khoản hiện tại.
Giao dịch mã PIN thường miễn phí cho khách hàng, nhưng nhà bán lẻ được tính phí trên mỗi giao dịch và phí hàng tháng. Equens, một hiệp hội với tất cả các ngân hàng lớn là thành viên của nó, điều hành hệ thống và cho đến tháng 8 năm 2005 cũng tính phí cho nó. Phản ứng với các cáo buộc lạm dụng độc quyền, nó đã trao trách nhiệm hợp đồng cho các ngân hàng thành viên của mình thông qua những người hiện cung cấp các hợp đồng cạnh tranh. Hệ thống này được tổ chức thông qua một hiệp hội ngân hàng đặc biệt Currence được thành lập đặc biệt để phối hợp truy cập vào các hệ thống thanh toán ở Hà Lan. Interpay, tiền thân hợp pháp của Equens, đã bị phạt 47 triệu euro trong năm 2004, nhưng tiền phạt sau đó đã bị giảm và khoản tiền phạt liên quan cho các ngân hàng đã giảm từ 17 triệu euro xuống còn 14 triệu euro. Phí mỗi giao dịch là từ 5-10 euro, tùy thuộc vào khối lượng.
Việc sử dụng thẻ tín dụng ở Hà Lan rất thấp và hầu hết các thẻ tín dụng không thể được sử dụng với EFTPOS hoặc tính phí rất cao cho khách hàng. Thẻ ghi nợ thường có thể, mặc dù không phải lúc nào cũng được sử dụng trong toàn bộ EU cho EFTPOS. Hầu hết các thẻ ghi nợ là thẻ Mastercard Maestro. Thẻ V Pay của Visa cũng được chấp nhận tại hầu hết các địa điểm. Năm 2011, tiền chi tiêu bằng thẻ ghi nợ đã tăng lên 83 tỷ euro trong khi chi tiêu bằng tiền mặt giảm xuống 51 tỷ euro và chi tiêu bằng thẻ tín dụng tăng lên 5 tỷ.
Thẻ ví điện tử (được gọi là Chipknip) được giới thiệu vào năm 1996, nhưng chưa bao giờ trở nên rất phổ biến. Hệ thống này đã bị bãi bỏ vào cuối năm 2014.
New Zealand.
EFTPOS (chuyển tiền điện tử tại điểm bán) ở New Zealand rất phổ biến. Trong năm 2006, 70 phần trăm của tất cả các giao dịch bán lẻ được thực hiện bởi Eftpose, với trung bình 306 giao dịch Eftpose được thực hiện cho mỗi người. Đồng thời, có 125.000 thiết bị đầu cuối Eftpose đang hoạt động (cứ 30 người thì có một người và 5,1 triệu thẻ Eftpose đang lưu hành (1,27 trên đầu người).
Hệ thống liên quan đến việc người bán quẹt (hoặc chèn) thẻ của khách hàng và nhập số tiền mua. Các hệ thống điểm bán hàng có tích hợp EFTPOS thường gửi tổng số mua đến thiết bị đầu cuối và khách hàng tự quẹt thẻ. Sau đó, khách hàng chọn tài khoản họ muốn sử dụng: Hiện tại / Kiểm tra (CHQ), Tiết kiệm (SAV) hoặc Thẻ tín dụng (CRD), trước khi nhập mã PIN. Sau một thời gian xử lý ngắn trong đó thiết bị đầu cuối liên lạc với mạng EFTPOS và ngân hàng, giao dịch được phê duyệt (hoặc từ chối) và biên lai được in. Hệ thống EFTPOS cũng được sử dụng cho thẻ tín dụng, với một khách hàng chọn Thẻ tín dụng và nhập mã PIN của họ hoặc cho thẻ tín dụng cũ không được nạp mã PIN, nhấn OK và ký nhận hóa đơn của họ thông qua chữ ký trùng khớp. Đã sửa lỗi thiết bị đầu cuối EFTPOS ngày hôm nayKết nối giao thức internet để liên hệ với mạng EFTPOS, nhưng một số doanh nghiệp sử dụng mạng điện thoại chuyển mạch công cộng, qua đường dây điện thoại chuyên dụng hoặc chia sẻ đường dây thoại của thương gia (đặc biệt là trong các doanh nghiệp nhỏ hơn).
Hầu như tất cả các cửa hàng bán lẻ đều có các cơ sở của EFTPOS, đến nỗi các nhà bán lẻ không có EFTPOS phải quảng cáo như vậy. Ngoài ra, ngày càng có nhiều nhà khai thác di động, chẳng hạn như taxi, chủ gian hàng và người giao bánh pizza có hệ thống EFTPOS di động. Hệ thống này được tạo thành từ hai mạng chính: EFTPOS NZ, thuộc sở hữu của VeriFone và Paymark Limited (trước đây là Electronic Trading Services Limited), thuộc sở hữu của Ngân hàng ANZ New Zealand, ASB Bank, Westpac và Bank of New Zealand. Hai mạng được đan xen và rất tinh vi và an toàn, có thể xử lý khối lượng giao dịch khổng lồ trong thời gian bận rộn như trước ngày Giáng sinh: vào ngày 24 tháng 12 năm 2012, chỉ riêng mạng Paymark đã ghi nhận trung bình 132 giao dịch mỗi giây trong khoảng thời gian từ 12: 00 và 13:00. Lỗi mạng là rất hiếm, nhưng khi chúng xảy ra, chúng gây ra sự gián đoạn lớn, dẫn đến sự chậm trễ lớn và mất thu nhập cho các doanh nghiệp.
Tùy thuộc vào ngân hàng của người dùng, một khoản phí có thể được tính cho việc sử dụng EFTPOS. Hầu hết các tài khoản thanh thiếu niên (độ tuổi tối thiểu để nhận thẻ Eftpose từ hầu hết các ngân hàng ở New Zealand là 13 tuổi) và ngày càng nhiều 'tài khoản giao dịch điện tử' không thu phí đối với các giao dịch điện tử, có nghĩa là việc sử dụng Eftpose của các thế hệ trẻ đã trở thành phổ biến và sau đó sử dụng tiền mặt đã trở nên hiếm. Thông thường, thương nhân không trả phí cho các giao dịch, hầu hết chỉ phải trả tiền thuê thiết bị.
Một trong những nhược điểm của hệ thống EFTPOS được thiết lập tốt của New Zealand là nó không tương thích với các hệ thống ở nước ngoài và mua hàng trực tiếp. Để đáp ứng điều này, nhiều ngân hàng từ năm 2005 đã giới thiệu các thẻ ghi nợ quốc tế như Maestro và Visa Debit hoạt động trực tuyến và ở nước ngoài cũng như trên hệ thống EFTPOS của New Zealand.
Philippines.
Tại Philippines, cả ba tập đoàn mạng ATM quốc gia đều cung cấp ghi nợ PIN độc quyền. Điều này lần đầu tiên được cung cấp bởi Hệ thống thanh toán nhanh vào năm 1987, sau đó là Megalink với Paylink vào năm 1993 sau đó là BancNet với Điểm bán hàng năm 1994.
Hệ thống thanh toán nhanh hay EPS là nhà cung cấp tiên phong, đã ra mắt dịch vụ vào năm 1987 thay mặt cho Ngân hàng Quần đảo Philippine. Dịch vụ EPS sau đó đã được gia hạn vào cuối năm 2005 để bao gồm các thành viên Expressnet khác: Banco de Oro và Land Bank of Philippines. Họ hiện đang vận hành 10.000 thiết bị đầu cuối cho chủ thẻ của họ.
Megalink đã ra mắt hệ thống Paylink EFTPOS vào năm 1993. Dịch vụ đầu cuối được cung cấp bởi Mạng thẻ công bằng thay mặt cho tập đoàn. Dịch vụ có sẵn trong 2.000 thiết bị đầu cuối, chủ yếu ở Metro Manila.
BancNet đã giới thiệu hệ thống điểm bán hàng của họ vào năm 1994 như là dịch vụ EFTPOS do tập đoàn đầu tiên vận hành ở nước này. Dịch vụ này hiện có sẵn tại hơn 1.400 địa điểm trên khắp Philippines, bao gồm các đô thị hạng hai và hạng ba. Năm 2005, BancNet đã ký Biên bản ghi nhớ để đóng vai trò là cửa ngõ địa phương cho China UnionPay, công tắc ATM duy nhất tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Điều này sẽ cho phép các chủ thẻ ATM Trung Quốc ước tính 1,0 tỷ sử dụng các máy ATM BancNet và EFTPOS trong tất cả các thương nhân tham gia.
Thẻ ghi nợ Visa được cấp bởi Union Bank của Philippines (e-Wallet & eon), Chinatrust, Ngân hàng tiết kiệm Equicom (thẻ chìa khóa & Cash Card), Banco De Oro, HSBC, Ngân hàng tiết kiệm ngân hàng HSBC, Sterling Bank of Asia (Visa ShopNPay trả trước và thẻ ghi nợ) & Ngân hàng EastWest. Thẻ Union Bank of Philippines, Thẻ ghi nợ Visa EastWest, Ngân hàng tiết kiệm Equicom và thẻ EMV của Ngân hàng Châu Á cũng có thể được sử dụng để mua hàng qua internet. Ngân hàng Sterling châu Á đã phát hành dòng thẻ Visa trả trước và ghi nợ đầu tiên với chip EMV.
Thẻ ghi nợ MasterCard được phát hành bởi Banco de Oro, Ngân hàng bảo mật (Cashlink & Thẻ rút tiền) & Truyền thông thông minh (Tiền thông minh) gắn liền với Banco De Oro. Thẻ điện tử MasterCard được phát hành bởi BPI (Express Cash) và Security Bank (CashLink Plus).
Ban đầu, tất cả các thẻ ghi nợ dựa trên Visa và MasterCard ở Philippines đều không được dập nổi và được đánh dấu là "Chỉ sử dụng điện tử" (Visa / MasterCard) hoặc "Chỉ hợp lệ khi MasterCard Electronic được chấp nhận" (MasterCard Electronic). Tuy nhiên, Ngân hàng EastWest bắt đầu cung cấp Thẻ Visa Debit dập nổi mà không có dấu "Chỉ sử dụng điện tử". Paypass Debit MasterCard từ các ngân hàng khác cũng có nhãn nổi mà không có dấu "Chỉ sử dụng điện tử". Không giống như thẻ tín dụng do một số ngân hàng phát hành, các thẻ ghi nợ mang nhãn hiệu Visa và MasterCard này không có chip EMV, do đó chúng chỉ có thể được đọc bởi các máy thông qua thao tác vuốt.
Đến ngày 21 tháng 3 năm 2016, BDO đã bắt đầu phát hành bộ Debit MasterCards có chip EMV và là ngân hàng đầu tiên của Philippines có nó. Đây là phản hồi cho giám sát của BSP về tiến trình thay đổi EMV ở quốc gia này. Vào năm 2017, tất cả các Thẻ ghi nợ trong nước nên có chip EMV trên đó.
Ba Lan.
Ở Ba Lan, hệ thống thanh toán điện tử đầu tiên được vận hành bởi Orbis, sau này được đổi thành PolCard vào năm 1991 (cũng đã phát hành thẻ riêng) và sau đó hệ thống đó đã được First Data Ba Lan SA mua. Vào giữa những năm 1990, các thương hiệu quốc tế như Visa, MasterCard và Visa Electron hay Maestro chưa được giới thiệu đã được giới thiệu.
Visa Electron và Maestro hoạt động như một thẻ ghi nợ tiêu chuẩn: các giao dịch được ghi nợ ngay lập tức, mặc dù có thể xảy ra trong một số trường hợp giao dịch được xử lý với một số chậm trễ (giờ, tối đa một ngày). Những thẻ này không có các tùy chọn mà thẻ tín dụng có.
Vào cuối những năm 2000, thẻ không tiếp xúc bắt đầu được giới thiệu. Công nghệ đầu tiên được sử dụng là MasterCard PayPass, sau đó được tham gia bởi payWave của Visa. Phương thức thanh toán này hiện đang phổ biến và được chấp nhận ở hầu hết mọi nơi. Trong sử dụng hàng ngày phương thức thanh toán này luôn được gọi là Paypass. Hầu như tất cả các doanh nghiệp và cửa hàng ở Ba Lan chấp nhận thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng.
Vào giữa những năm 2010, các ngân hàng Ba Lan đã bắt đầu thay thế các thẻ chưa được xử lý bằng các thẻ điện tử được dập nổi như Debit MasterCard và Visa Debit, cho phép khách hàng sở hữu một thẻ có tất cả các phẩm chất của thẻ tín dụng (vì thẻ tín dụng không phổ biến ở Ba Lan).
Cũng có một số ngân hàng không sở hữu hệ thống nhận dạng để cho phép khách hàng đặt mua thẻ ghi nợ trực tuyến.
Bồ Đào Nha.
Ở Bồ Đào Nha, thẻ ghi nợ được chấp nhận ở hầu hết mọi nơi: ATM, cửa hàng, v.v. Các loại thẻ được chấp nhận phổ biến nhất là Visa và MasterCard, hoặc Visa Electron hoặc Maestro chưa được cấp phép. Về thẻ thanh toán Internet, thẻ ghi nợ không thể được sử dụng để chuyển khoản, do tính không an toàn của nó, vì vậy các ngân hàng khuyên bạn nên sử dụng 'MBnet', một hệ thống an toàn được đăng ký trước tạo ra thẻ ảo có giới hạn tín dụng được chọn trước. Tất cả hệ thống thẻ được quy định bởi SIBS, tổ chức được tạo bởi các ngân hàng Bồ Đào Nha để quản lý tất cả các quy định và quy trình giao tiếp cung cấp [ kiểm tra chính tả ]. Các cổ đông của SIBS là tất cả 27 ngân hàng hoạt động tại Bồ Đào Nha.
Nga.
Ngoài Visa, MasterCard và American Express, có một số hệ thống thanh toán địa phương nói chung dựa trên công nghệ thẻ thông minh.
Gần như mọi giao dịch, bất kể thương hiệu hay hệ thống, được xử lý như một giao dịch ghi nợ ngay lập tức. Các giao dịch không ghi nợ trong các hệ thống này có giới hạn chi tiêu bị giới hạn nghiêm ngặt khi so sánh với các tài khoản Visa hoặc MasterCard thông thường.
Ả Rập Saudi.
Tại Ả Rập Saudi, tất cả các giao dịch thẻ ghi nợ được chuyển qua Mạng thanh toán Saudi (SPAN), hệ thống thanh toán điện tử duy nhất ở Vương quốc và tất cả các ngân hàng được Cơ quan tiền tệ Ả Rập Saudi (SAMA) yêu cầu phát hành thẻ tương thích hoàn toàn với mạng. Nó kết nối tất cả các thiết bị đầu cuối điểm bán hàng (POS) trên toàn quốc với một công tắc thanh toán trung tâm, từ đó định tuyến lại các giao dịch tài chính cho nhà phát hành thẻ, ngân hàng địa phương, Visa, Amex hoặc MasterCard.
Cũng như việc sử dụng cho thẻ ghi nợ, mạng cũng được sử dụng cho các giao dịch ATM và thẻ tín dụng.
Singapore.
Dịch vụ ghi nợ của Singapore được quản lý bởi Mạng chuyển tiền điện tử (NETS), được thành lập bởi các ngân hàng và cổ đông hàng đầu của Singapore là DBS, Keppel Bank, OCBC và các cộng sự của nó, OUB, IBS, POSB, Tat Lee Bank và UOB vào năm 1985 do kết quả của cần một nhà điều hành thanh toán điện tử tập trung.
Tuy nhiên, do tái cấu trúc và sáp nhập ngân hàng, các ngân hàng địa phương còn lại là UOB, OCBC, DBS-POSB với tư cách là cổ đông của NETS với Standard Chartered Bank để cung cấp NETS cho khách hàng của họ. Tuy nhiên, khách hàng của DBS và POSB có thể tự sử dụng ATM mạng của họ và không được chia sẻ với UOB, OCBC hoặc SCB (StanChart). Thất bại lớn vào ngày 5 tháng 7 năm 2010 của Mạng ATM POSB-DBS (khoảng 97.000 máy) đã khiến chính phủ phải suy nghĩ lại về hệ thống ATM được chia sẻ một lần nữa vì nó cũng ảnh hưởng đến hệ thống NETS.
Năm 2010, phù hợp với hệ thống EMV bắt buộc, Ngân hàng Địa phương Singapore bắt đầu phát hành lại thẻ ghi nợ mang nhãn hiệu Debit Visa / MasterCard bằng thẻ EMV Chip để thay thế hệ thống sọc từ tính. Các ngân hàng có liên quan bao gồm các Thành viên NETS của POSB-DBS, UOB-OCBC-SCB cùng với liên minh SharedATM (NON-NETS) của HSBC, Citibank, Ngân hàng Nhà nước Ấn Độ và Maybank. Ngân hàng Standard Chartered (SCB) cũng là thành viên của liên minh SharedATM. Thẻ ATM không nhãn hiệu của POSB và Maybank được giữ mà không có chip nhưng có dấu Plus hoặc Maestro có thể được sử dụng để rút tiền mặt trong nước hoặc nước ngoài.
Thẻ ghi nợ Maybank có thể được sử dụng ở Malaysia giống như thẻ ATM hoặc thẻ ghi nợ thông thường.
Singapore cũng sử dụng các hệ thống ví điện tử của NETS CASHCARD và hệ thống sóng CEPAS của EZ-Link và NETS.
Đài Loan.
Hầu hết các ngân hàng phát hành thẻ ghi nợ thương hiệu lớn có thể được sử dụng trên phạm vi quốc tế như Visa, MasterCard và JCB, thường có chức năng không tiếp xúc. Thanh toán tại các cửa hàng truyền thống thường yêu cầu chữ ký ngoại trừ thanh toán không tiếp xúc.
Một hệ thống ghi nợ cục bộ riêng biệt, được gọi là Smart Pay, có thể được sử dụng bởi phần lớn thẻ ghi nợ và thẻ ATM, thậm chí là thẻ thương hiệu lớn. Hệ thống này chỉ có sẵn ở Đài Loan và một vài địa điểm tại Nhật Bản kể từ năm 2016. Thanh toán không tiếp xúc yêu cầu mã PIN thay vì chữ ký. Thẻ từ một số ngân hàng hỗ trợ thanh toán không tiếp xúc với Smart Pay.
UAE.
Thẻ ghi nợ được chấp nhận rộng rãi từ các tổ chức phát hành thẻ ghi nợ khác nhau, bao gồm cả công ty con địa phương Network International của Emirates Bank.
Vương quốc Anh.
Trong thẻ ghi nợ của Vương quốc Anh (một hệ thống EFTPOS tích hợp) là một phần được thiết lập của thị trường bán lẻ và được chấp nhận rộng rãi cả bởi các cửa hàng gạch và vữa và bởi các cửa hàng internet. Thuật ngữ EFTPOS không được sử dụng rộng rãi bởi công chúng; thẻ ghi nợ là thuật ngữ chung được sử dụng. Thẻ ghi nợ được phát hành chủ yếu là Visa Debit, với Debit MasterCard ngày càng trở nên phổ biến. Maestro, Visa Electron và UnionPay cũng đang được lưu hành Các ngân hàng không tính phí khách hàng đối với các giao dịch EFTPOS ở Anh, nhưng một số nhà bán lẻ đã sử dụng để thực hiện các khoản phí nhỏ, đặc biệt khi số tiền giao dịch được đề cập là nhỏ. Tuy nhiên, Chính phủ Anh đã đưa ra luật pháp vào ngày 13 tháng 1 năm 2018 cấm tất cả các khoản phụ phí cho thanh toán thẻ, bao gồm cả các khoản thanh toán trực tuyến và thông qua các dịch vụ như PayPal . Vương quốc Anh đã chuyển đổi tất cả các thẻ ghi nợ đang lưu hành sang Chip và PIN (ngoại trừ thẻ Chip và Chữ ký được cấp cho những người khuyết tật nhất định và thẻ trả trước không thể nạp lại), dựa trên EMV tiêu chuẩn, để tăng bảo mật giao dịch; tuy nhiên, không cần có mã PIN cho các giao dịch Internet (mặc dù một số ngân hàng sử dụng các biện pháp bảo mật bổ sung cho các giao dịch trực tuyến như Được xác minh bằng Visa và Mã bảo mật MasterCard), cũng như cho hầu hết các giao dịch không tiếp xúc.
Tại Vương quốc Anh, các ngân hàng bắt đầu phát hành thẻ ghi nợ vào giữa những năm 1980 nhằm giảm số lượng séc được sử dụng tại điểm bán, gây tốn kém cho các ngân hàng xử lý; ngân hàng đầu tiên làm như vậy là Barclays với thẻ Barclays Connect. Như ở hầu hết các quốc gia, phí được trả bởi các thương nhân ở Vương quốc Anh để chấp nhận thẻ tín dụng là một tỷ lệ phần trăm của số tiền giao dịch, tài trợ cho các kỳ hạn tín dụng miễn lãi của chủ thẻ cũng như các chương trình khuyến khích như điểm hoặc hoàn lại tiền. Đối với thẻ tín dụng tiêu dùng được phát hành trong EEA, phí trao đổi được giới hạn ở mức 0,3%, với mức tối đa 0,2% cho thẻ ghi nợ, mặc dù người mua có thể tính phí thương gia cao hơn. Hầu hết các thẻ ghi nợ ở Anh thiếu các lợi thế dành cho chủ thẻ tín dụng do Vương quốc Anh phát hành, chẳng hạn như ưu đãi miễn phí (điểm, hoàn tiền, v.v. (thẻ ghi nợ của Ngân hàng Tesco là một ngoại lệ), tín dụng miễn lãi và bảo vệ chống lại các thương nhân vỡ nợ theo Mục 75 của Đạo luật tín dụng tiêu dùng 1974. Hầu như tất cả các cơ sở ở Vương quốc Anh chấp nhận thẻ tín dụng cũng chấp nhận thẻ ghi nợ. Một số thương nhân, vì lý do chi phí, chấp nhận thẻ ghi nợ chứ không phải thẻ tín dụng và một số nhà bán lẻ nhỏ hơn chỉ chấp nhận thanh toán thẻ cho các giao dịch mua trên một giá trị nhất định, thường là £ 5 hoặc £ 10.
Hoa Kỳ.
Ở Mỹ, EFTPOS được gọi chung là ghi nợ. Công ty thẻ ghi nợ trả trước lớn nhất là Green Dot Corporation, theo vốn hóa thị trường. Các mạng liên ngân hàng tương tự vận hành mạng ATM cũng vận hành mạng POS. Hầu hết các mạng liên ngân hàng, như Pulse, NYCE, MAC, Tyme, SHAZAM, STAR, v.v., là khu vực và không trùng lặp, tuy nhiên, hầu hết các mạng ATM / POS có thỏa thuận chấp nhận thẻ của nhau. Điều này có nghĩa là thẻ được phát hành bởi một mạng thường sẽ hoạt động ở bất cứ nơi nào họ chấp nhận thẻ ATM / POS để thanh toán. Ví dụ: thẻ NYCE sẽ hoạt động tại thiết bị đầu cuối Pulse POS hoặc ATM và ngược lại. Thẻ ghi nợ ở Hoa Kỳ thường được phát hành với logo Visa, MasterCard, Discover hoặc American Express cho phép sử dụng các mạng dựa trên chữ ký của họ.
Luật pháp Liên bang Hoa Kỳ quy định trách nhiệm của người sử dụng thẻ ghi nợ Hoa Kỳ trong trường hợp mất mát hoặc trộm cắp ở mức 50 đô la Mỹ nếu mất mát hoặc mất cắp được báo cáo cho ngân hàng phát hành trong hai ngày làm việc sau khi khách hàng thông báo mất mát. Tuy nhiên, hầu hết các ngân hàng sẽ đặt giới hạn này thành 0 đô la cho thẻ ghi nợ được phát hành cho khách hàng của họ được liên kết với tài khoản tiết kiệm hoặc kiểm tra của họ. [ cần dẫn nguồn ] Không giống như thẻ tín dụng, mất mát hoặc trộm cắp được báo cáo hơn hai ngày làm việc sau khi bị phát hiện được giới hạn ở mức 500 đô la (so với 50 đô la cho thẻ tín dụng) và nếu được báo cáo hơn 60 ngày theo lịch sau khi tuyên bố được gửi tất cả tiền trong tài khoản có thể bị mất.
Các khoản phí được tính cho các thương nhân khi mua ghi nợ ngoại tuyến so với việc thiếu phí cho các thương nhân để xử lý mua hàng ghi nợ trực tuyến và kiểm tra giấy đã khiến một số thương gia lớn ở Mỹ nộp đơn kiện các bộ xử lý giao dịch thẻ ghi nợ, như Visa và MasterCard. Năm 2003, Visa và MasterCard đã đồng ý giải quyết vụ kiện lớn nhất trong số các vụ kiện này với giá trị tương ứng là 2 tỷ đô la và 1 tỷ đô la.
Một số người tiêu dùng thích giao dịch "tín dụng" vì thiếu phí cho người tiêu dùng / người mua. Một vài thẻ ghi nợ ở Mỹ cung cấp phần thưởng cho việc sử dụng "tín dụng". Tuy nhiên, do các giao dịch "tín dụng" có chi phí cao hơn cho các thương nhân, nhiều thiết bị đầu cuối tại các địa điểm giao dịch chấp nhận mã PIN hiện khiến chức năng "tín dụng" khó truy cập hơn. Ví dụ: nếu bạn quẹt thẻ ghi nợ tại Wal-Mart hoặc Ross ở Hoa Kỳ, bạn sẽ thấy ngay màn hình PIN để ghi nợ trực tuyến. Để sử dụng ghi nợ ngoại tuyến, bạn phải nhấn "hủy" để thoát màn hình PIN, sau đó nhấn "tín dụng" trên màn hình tiếp theo. [ cần dẫn nguồn ]
Theo kết quả của Đạo luật Cải cách và Bảo vệ Người tiêu dùng của Phố Dodd, Frank, giờ đây các thương nhân Hoa Kỳ có thể đặt số tiền mua tối thiểu cho các giao dịch thẻ tín dụng, miễn là không vượt quá 10 đô la.
Thẻ ghi nợ FSA, HRA và HSA.
Tại Hoa Kỳ, thẻ ghi nợ FSA chỉ cho phép chi phí y tế. Nó được một số ngân hàng sử dụng để rút tiền từ các FSA, tài khoản tiết kiệm y tế (MSA) và tài khoản tiết kiệm sức khỏe (HSA) của họ. Chúng có logo Visa hoặc MasterCard, nhưng không thể được sử dụng làm "thẻ ghi nợ", chỉ như "thẻ tín dụng". Hơn nữa, chúng không được chấp nhận bởi tất cả các thương nhân chấp nhận thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng, mà chỉ bởi những người chấp nhận cụ thể thẻ ghi nợ FSA. Mã thương gia và mã sản phẩm được sử dụng tại điểm bán (theo yêu cầu của pháp luật đối với một số thương nhân ở một số tiểu bang ở Hoa Kỳ) để hạn chế doanh số nếu họ không đủ điều kiện. [ cần dẫn nguồn ]Do việc kiểm tra và ghi chép thêm diễn ra, sau đó, tuyên bố có thể được sử dụng để chứng minh các giao dịch mua này để khấu trừ thuế. Trong trường hợp không thường xuyên bị từ chối mua hàng đủ điều kiện, một hình thức thanh toán khác phải được sử dụng (séc hoặc thanh toán từ tài khoản khác và yêu cầu hoàn trả sau). Trong trường hợp nhiều khả năng các mặt hàng không đủ điều kiện được chấp nhận, người tiêu dùng vẫn có trách nhiệm về mặt kỹ thuật và sự khác biệt có thể được tiết lộ trong quá trình kiểm toán. Một phân khúc nhỏ nhưng đang phát triển của ngành kinh doanh thẻ ghi nợ ở Mỹ bao gồm quyền truy cập vào các tài khoản chi tiêu được ưu đãi về thuế như FSA, HRA và HSA. Hầu hết các thẻ ghi nợ này là dành cho chi phí y tế, mặc dù một số ít cũng được phát hành cho chi phí chăm sóc và vận chuyển phụ thuộc.
Theo truyền thống, các FSA (tài khoản cũ nhất trong số các tài khoản này) chỉ được truy cập thông qua các yêu cầu hoàn trả sau khi phát sinh và thường thanh toán, một khoản chi phí tự trả; điều này thường xảy ra sau khi tiền đã được khấu trừ từ tiền lương của nhân viên. (Các FSA thường được tài trợ bằng cách khấu trừ tiền lương.) Phương pháp duy nhất được Dịch vụ Doanh thu Nội bộ cho phép (IRS) để tránh "nhúng đôi" cho các FSA và HRA y tế thông qua báo cáo chính xác và có thể kiểm tra được trên tờ khai thuế. Các tuyên bố trên thẻ ghi nợ có nội dung "chỉ sử dụng cho mục đích y tế" không hợp lệ vì một số lý do: (1) Người bán và ngân hàng phát hành không có cách nào nhanh chóng xác định liệu toàn bộ giao dịch có đủ điều kiện cho loại lợi ích thuế của khách hàng hay không; (2) khách hàng cũng không có cách nào nhanh chóng để biết; thường có mua hàng hỗn hợp bởi sự cần thiết hoặc thuận tiện; và có thể dễ dàng phạm sai lầm; (3) các điều khoản hợp đồng bổ sung giữa khách hàng và ngân hàng phát hành sẽ chuyển sang các tiêu chuẩn xử lý thanh toán, tạo thêm sự nhầm lẫn (ví dụ: nếu khách hàng bị phạt vì vô tình mua một mặt hàng không đủ điều kiện, nó sẽ làm giảm lợi thế tiết kiệm tiềm năng của tài khoản). Vì thế, sử dụng thẻ dành riêng cho việc mua hàng đủ điều kiện có thể thuận tiện cho khách hàng, nhưng nó không liên quan gì đến việc thẻ thực sự có thể được sử dụng như thế nào. Ví dụ, nếu ngân hàng từ chối giao dịch, vì nó không ở cửa hàng thuốc được công nhận, thì nó sẽ gây hại và nhầm lẫn cho chủ thẻ. Tại Hoa Kỳ, không phải tất cả các cửa hàng cung cấp dịch vụ y tế hoặc cung cấp đều có khả năng cung cấp thông tin chính xác để nhà phát hành thẻ ghi nợ FSA có thể tôn trọng mọi giao dịch - nếu bị từ chối hoặc tài liệu không đủ để đáp ứng các quy định, chủ thẻ có thể phải gửi bằng tay theo mẫu.. sau đó nó sẽ gây hại và nhầm lẫn cho chủ thẻ. Tại Hoa Kỳ, không phải tất cả các cửa hàng cung cấp dịch vụ y tế hoặc cung cấp đều có khả năng cung cấp thông tin chính xác để nhà phát hành thẻ ghi nợ FSA có thể tôn trọng mọi giao dịch - nếu bị từ chối hoặc tài liệu không đủ để đáp ứng các quy định, chủ thẻ có thể phải gửi bằng tay theo mẫu.. sau đó nó sẽ gây hại và nhầm lẫn cho chủ thẻ. Tại Hoa Kỳ, không phải tất cả các cửa hàng cung cấp dịch vụ y tế hoặc cung cấp đều có khả năng cung cấp thông tin chính xác để nhà phát hành thẻ ghi nợ FSA có thể tôn trọng mọi giao dịch - nếu bị từ chối hoặc tài liệu không đủ để đáp ứng các quy định, chủ thẻ có thể phải gửi bằng tay theo mẫu..
Uruguay.
Thẻ ghi nợ được chấp nhận ở một số lượng lớn các cửa hàng, cả lớn và nhỏ ở Uruguay; nhưng việc sử dụng của họ cho đến nay vẫn còn thấp so với thẻ tín dụng tại ATM. Kể từ tháng 8 năm 2014, với Luật Bao gồm Tài chính có hiệu lực, người tiêu dùng cuối sẽ được khấu trừ thuế VAT 4% khi sử dụng thẻ ghi nợ khi mua hàng.
Venezuela.
Đã thiếu tiền mặt do cuộc khủng hoảng kinh tế Venezuela và do đó, nhu cầu và việc sử dụng thẻ ghi nợ đã tăng lên rất nhiều trong những năm qua. Một trong những lý do tại sao một tỷ lệ đáng chú ý của các doanh nghiệp đã bị đóng cửa là do thiếu các thiết bị thanh toán. Các thương hiệu được sử dụng nhiều nhất là Maestro và Visa Electron. | 1 | null |
Ráy Việt Nam (danh pháp hai phần: "Alocasia vietnamensis") là một loài ráy đặc hữu của Việt Nam, được các nhà khoa học thuộc Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật kết hợp với Vườn Thực vật Hoàng gia Kew, Vương quốc Anh, phát hiện năm 2008 tại Vườn Quốc gia Bà Nà – Núi Chúa (Đà Nẵng) và được xác định loài mới, công bó trên tạp chí Willdenowia số 43 tháng 12 năm 2013
Mô tả.
Ráy Việt Nam "Alocasia vietnamensis" có một số đặc điểm phân biệt với các loài khác trong chi Ráy "Alocasia": thân rễ và cuống bông mo chỉ dài bằng ¼ cuống lá, mo màu trắng ngà.
Phân bố.
Loài mới này được ghi nhận tím thấy tại các tỉnh Bình Thuận, Lâm Đồng, Đà Nẵng, Quảng Trị và phần của tỉnh Peunongs, Campuchia, tại các vùng khe đất cạnh sa thạch có đọ cao khoảng 400 mét so với mực nước biển | 1 | null |
Cá ó dơi, cá quỷ hay cá đuối quỷ khổng lồ (Mobula mobular) là một loài cá đuối của họ Mobulidae. Chúng phổ biến nhất ở biển Địa Trung Hải và có thể được tìm thấy ở những nơi khác ở phía đông Đại Tây Dương, ngoài khơi bờ biển phía tây nam của đảo Ireland và phía nam của Bồ Đào Nha.
Nó là lớn hơn so với cá đuối quỷ nhỏ, phát triển đến chiều dài tối đa là 5,2 m, và nó có một đuôi gai. Chúng ăn động vật giáp xác và các đàn cá nhỏ.
Cá ó dơi có một phạm vi sinh sống hạn chế và tỷ lệ sinh sản thấp. Kết quả là nó rất nhạy cảm với sự thay đổi môi trường. Các mối đe dọa chính đối với loài này đến từ sự ô nhiễm ở Địa Trung Hải và tình cờ, bị bắt ngoài ý muốn trong những thiết bị đánh bắt cá khác nhau bao gồm lưới, bẫy cá ngừ, và bẫy cá đao, mà không cái nào trong số đó được dùng để gài bẫy cá đuối khổng lồ. Nó hiện tại được đánh giá là loài nguy cấp do lý do trên.
Môi trường sống.
"Cá ó dơi" được biết đến chủ yếu cho cuộc sống tại các các khu vực như Algérie, Croatia, Pháp, Hy Lạp, Israel, Italy, Malta, Tây Ban Nha, và Tunisia, witch are its native habitat. Nó được biết đến chủ yếu sống trong vùng nước ấm và biển Địa Trung Hải cung cấp một môi trường như vậy. | 1 | null |
Cá nạng hải rạn san hô ("Manta alfredi") là một loài cá đuối trong họ Mobulidae, những loài cá đuối lớn nhất trên thế giới. Trong số các loài nói chung được công nhận, nó là loài cá đuối lớn thứ hai, chỉ có vượt qua bởi cá nạng hải (một loài hiện đang được công nhận từ vùng Caribbe dường như lớn hơn so với cá nạng hải rạn san hô)
Cá nạng hải rạn san hô thường có chiều rông hình đĩa 3-3,5 m (9,8-11,48 ft) với kích thước tối đa khoảng 5,5 mét (18 ft). Cá nạng hải rạn san hô được tìm thấy rộng rãi trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới Ấn Độ-Thái Bình Dương, nhưng có rất ít hồ sơ từ vùng nhiệt đới Đông Đại Tây Dương, và không từ Tây Đại Tây Dương hoặc Đông Thái Bình Dương. So với cá nạng hải, chúng có xu hướng được tìm thấy trong môi trường sống nông, ven biển hơn. | 1 | null |
Nikon AF-S DX Nikkor 35mm 1.8G là tên một loại ống kính sản xuất bởi hãng Nikon để sử dụng cho các dòng máy ảnh kỹ thuật số SLR Nikon DX. Nó cho phép các dòng máy DX có thị trường tương tự như thị trường của ống kính tiêu chuẩn trên các dòng máy ảnh sử dụng phim 35mm.
Giới thiệu.
Nikon đã công bố loại ống kính này vào tháng ngày mùng 9 tháng 2 năm 2009. Đây là loại ống kính một tiêu cự đầu tiên của Nikon được đặc chế cho dòng máy ảnh Nikon DX DSLR, vừa có thể sử dụng như một ống kính là phẳng vừa hỗ trợ chức năng tự động lấy nét trên các máy Nikon D40, Nikon D40X, Nikon D60, Nikon D3000, Nikon D3100, Nikon D3200, Nikon D5000, Nikon D5100 và Nikon D5200. Loại ống một tiêu cự đầu tiên sản xuất cho dòng DX là AF DX Fisheye-Nikkor 10.5mm 2.8G ED.
Thị trường hướng đến.
Loại ống kính này thiết kế theo tiêu chí ống kính một tiêu cự giá rẻ dành cho người sử dụng máy ảnh kĩ thuật số DSRL dòng Nikon DX, đặc biệt là các dòng D40, D40x, D60, D3000/D3100/D3200, D5000/D5100/D5200, D90 và D7000/D7100. | 1 | null |
Hong Seok-cheon (sinh ngày 3 tháng 2 năm 1971) là một nam diễn viên, nhân vật truyền hình, chủ nhà hàng và là thành viên Đảng Lao động Dân chủ đã giải thể người Hàn Quốc. Ông gây ra tranh cãi đáng kể ở quê nhà khi anh công khai là người đồng tính vào năm 2000, và vẫn là người nổi tiếng đồng tính công khai nhất ở Hàn Quốc. | 1 | null |
Tèo em (tựa tiếng Anh: Young Teo hay Little Teo) là một bộ phim hài hước - tâm lý Việt Nam của đạo diễn Việt kiều Charlie Nguyễn, khởi chiếu vào ngày 20 tháng 12 năm 2013. Phim có sự tham gia của Johnny Trí Nguyễn, Thái Hòa, Ninh Dương Lan Ngọc và Yaya Trương Nhi. Hiện nay phim đang được chiếu độc quyền tại nền tảng xem phim trực tuyến Galaxy Play.
"Tèo em" chính là phim "Road Trip Comedy" (tạm dịch: "hài hành trình") đầu tiên của Việt Nam. Phim còn có câu khẩu hiệu dí dỏm là "Trong cái khó... ló cái ngu".
Nội dung.
Trần Đại Tí là một người đàn ông thành đạt, đẹp trai và lịch lãm, anh có một người em trai nuôi và được gia đình đặt tên Trần Sang Trọng Tèo. Trái ngược với Tí, Tèo là người khù khờ, ngốc nghếch và cù lần. Tí phải trốn Tèo lên thành phố làm việc trong công ty xây dựng và anh nói dối rằng mình đi làm ở Bắc Cực, nhưng Tí không biết sau này Tèo cũng lên thành phố làm nghề sửa xe. Tí quen được cô nàng Minh Minh xinh đẹp trên thành phố, cả hai thường hẹn hò mỗi khi Tí tan giờ.
Một ngày kia, Minh Minh cho Tí biết là cô đã có thai và muốn làm đám cưới, nhưng Tí luôn xem công việc là trên hết và anh nghĩ rằng chưa đến lúc kết hôn. Minh Minh tưởng mình bị Tí phản bội, cô khóc than với cô bạn tên Phương. Ban đầu có tính đến chuyện phá thai, nhưng sau đó Minh Minh quyết định không phá. Thấy trong công ty có sếp Điệp rất thương Minh Minh, Phương khuyên Minh Minh hãy dẫn Điệp về quê ra mắt ba má cô rồi chuẩn bị cưới Điệp. Minh Minh quyết định làm theo lời Phương, chỉ có cách đó mới có thể che giấu cái thai trong bụng. Ngày hôm sau, Minh Minh và Điệp về Sa Đéc. Tí gọi điện cho Phương thì mới biết Minh Minh đang về quê chuẩn bị làm đám cưới với Điệp. Tí bỏ cuộc họp và quyết định về Sa Đéc ngăn chặn đám cưới của Minh Minh, nhưng xe hỏng và lỡ thời cơ.
Tí ra tiệm sửa xe để lấy xe hơi và ngạc nhiên khi gặp Tèo, Tèo mừng rỡ vì gặp lại Tí. Tí kêu Tèo chở ra bến xe để mua vé đi xe đò, trớ trêu thay Tí bị mất ví tiền. Tí đành nhờ Tèo chở về Sa Đéc bằng chiếc xe hơi cũ kỹ của Tèo, trên đường đi Tèo cứ luôn nói những điều nhảm nhí khiến Tí bực mình. Xe gần hết xăng, Tí và Tèo vào nhà ông già địa phương xin ít xăng, nhưng Tèo lỡ tay dùng cung tên bắn ông già bị thương, thế là Tí và Tèo phải bỏ chạy trước khi bị đánh. Một lát sau cả hai tìm ra trạm xăng, Tí liên tục chửi Tèo vì tức, đổ xăng xong thì Tèo ngồi yên chứ không chở Tí đi tiếp vì giận những câu chửi của Tí, mãi đến sáng hôm sau Tèo mới chở Tí đi. Đi lạc đường nhiều lần, Tí và Tèo vào khách sạn nghỉ ngơi, lại phải chờ ngày mai đi tiếp.
Tí và Tèo chạy quá tốc độ khiến công an giao thông đuổi theo, Tèo liều mạng cho xe phóng qua cây cầu gãy nhưng rơi xuống tàu chở cát dưới sông. Tí và Tèo nhảy xuống sông bơi vào bờ, một con cá sấu xuất hiện rồi tấn công hai anh em. Tèo hi sinh thân mình vật lộn với con cá sấu, sau đó Tí kéo Tèo lên bờ, may mắn là Tèo chỉ bị xây xát nhẹ. Cuối cùng Tí và Tèo cũng về đến Sa Đéc, hai anh em cướp xe cứu thương chạy đến nhà Minh Minh. Tí và Tèo vào trong nhà; họ gặp được Điệp, Phương và ba má Minh Minh. Minh Minh chấp nhận tha lỗi cho Tí, Điệp chấp nhận rút lui cho Tí và Minh Minh đến với nhau, không lâu sau Tí và Minh Minh làm đám cưới. Vài tháng sau, Minh Minh sinh em bé, Tèo và Phương cũng trở thành vợ chồng. Bộ phim kết thúc với cảnh Tí và Tèo đưa Phương vào bệnh viện sinh con.
Doanh thu.
Sau ba ngày đầu công chiếu, "Tèo em" đã thu về 15 tỷ đồng, con số này nhanh chóng trở thành 55 tỷ đồng, và cuối cùng tổng doanh thu của "Tèo em" là 80 tỷ đồng. Bộ phim chính là phim Việt Nam có doanh thu cao nhất trong năm 2013, vượt qua cả phim "Mỹ nhân kế" được công chiếu mùa Tết.
Giải thưởng.
Tại lễ trao giải Cánh diều vàng 2013, "Tèo em" đã đoạt giải "Cánh diều bạc". Diễn viên Thái Hòa cũng đoạt giải "Nam diễn viên chính xuất sắc nhất". | 1 | null |
Wolfratshausen là một thành phố của huyện Bad Tölz-Wolfratshausen, nằm ở Bayern, Đức.
Địa lý.
Wolfratshausen thuộc vùng Bayrisches Oberland và nằm ở thung lũng sông Loisach và Isar. Sông Loisach chảy ngay phía Bắc của thành phố trong phạm vi rừng nước Puppling vào sông Isar. Thủ đô tiểu bang München cách 30 km về phía Bắc.
Thành phố có ranh giới trực tiếp với Geretsried, tạo nên một khu vực kinh tế với trên 40.000 Einwohnern tại vùng Bayerisches Oberland.
Huy hiệu.
Con chó sói trong huy hiệu của thành phố có từ đầu thế kỷ thứ 15.
Thỉnh thoảng sau đó người ta lại đổi thành con cáo. | 1 | null |
Thori(IV) oxide, hay "thori dioxide" là một oxide vô cơ của thori có công thức ThO2. Nó được sử dụng làm chất xúc tác trong điều chế acid cyanhydric và natri cyanide, dung môi điều chế một số kim loại hoạt động hóa học yếu như vàng, bạc, đồng, thủy ngân,… Nó còn được sử dụng làm chất ổn định trong các điện cực wolfram trong kỹ thuật hàn khí trơ wolfram, ống điện, động cơ máy bay. Nhiệt độ nóng chảy của nó vào khoảng 3300 °C, cao nhất trong tất cả các oxide hiện nay được biết. | 1 | null |
(trước là ), là một trong những công ty âm nhạc hàng đầu của Nhật Bản. Nó đã trở thành một công ty con thuộc sở hữu của công ty âm nhạc EMI Group Ltd. vào 30 tháng 6 năm 2007 sau khi Toshiba bán đi nốt 45% cổ phần của mình. Giám đốc điều hành và chủ tịch là Kazuhiko Koike. Khi EMI Music Japan hoạt động với tên Toshiba-EMI, nó tham gia vào việc sản xuất phim hoạt hình. Ngày 01 tháng 4 năm 2013, công ty được sáp nhập vào Universal Music Japan với một nhãn hiệu con là EMI Records Japan.
Lịch sử.
Công ty được thành lập vào ngày 01 tháng 10 năm 1960 với tên Toshiba Music Industries (東芝音楽工業株式会社|Tōshiba Ongaku Sangyō Kabushiki Kaisha). Tháng 10 năm 1973, EMI mua 50% cổ phần của công ty, tên công ty được đổi thành Toshiba EMI Limited. Ngày 3 tháng 10 năm 1994, tỷ lệ sở hữu của công ty thay đổi, trong đó EMI sở hữu 55%, Toshiba sở hữu 45%. Ngày 30 tháng 6 năm 2007, Toshiba đã bán 45% cổ phần còn lại cho EMI, EMI sở hữu toàn phần công ty. Tên công ty sau đó được đổi thành EMI Music Japan. Trong năm 2012, EMI Music Japan và chi nhánh Universal Music Group tại Nhật Bản đã lên kế hoạch để sáp nhập, với Kazuhiko Koike làm chủ tịch. Ngày 01 tháng 4 năm 2013, EMI Music Japan đã chính thức được sáp nhập vào Universal Music Japan và được đổi tên thành EMI Records Japan. Nhãn hiệu tiếp tục sử dụng mã danh mục TOCT cho đến tháng 10 năm 2013, khi chuyển sang sử dụng mã danh mục TYCT. Trang web chính thức đã được đóng cửa ngày 23 tháng 10 năm 2013.
Khẩu hiệu quảng cáo.
Khẩu hiệu hiện nay của EMI Music Japan là "Music for all, All for music". | 1 | null |
EMI Records Japan là một hãng thu âm Nhật Bản đang hoạt động như một nhãn hiệu con của Universal Music Japan. Được thành lập vào tháng 4 năm 2013, nó là công ty kế nhiệm của EMI Music Japan.
Lịch sử.
Sau khi Ủy ban châu Âu chấp thuận việc mua lại EMI của Universal Music Group vào ngày 21 tháng 9 năm 2012, công ty được tái cơ cấu. Ngày 15 tháng 1 năm 2013, chủ tịch Universal Music Japan: Kazuhiko Koike được chọn làm giám đốc điều hành của EMI Music Japan, điều hành cả hai công ty cho đến khi cả hai sáp nhập vào Universal Music Japan với một nhãn hiệu con là EMI Records Japan ngày 01 tháng 4 năm 2013. Các nghệ sĩ từ công ty cũ vẫn sẽ tiếp tục phát hành sản phẩm dưới tên Universal Music nhưng vẫn duy trì mã danh mục TOCT. Đến tháng 10 năm 2013, các danh mục TOCT không còn được sử dụng và được thay thế bằng TYCT.
Danh sách hiện tại.
Tính đến ngày 22 tháng 9 năm 2013: | 1 | null |
Christine Anna Maria Theiss, nhũ danh "Hennig", sinh ngày 22 tháng 2 năm 1980 tại Greiz, Đức, là nữ võ sĩ quyền cước người Đức. Từ năm 2007, cô ta là vô địch quyền cước chuyên nghiệp thế giới của hội quyền cước thế giới (WKA). Vào ngày 7 tháng 12 năm 2012, Christine trở nên vô địch thế giới quyền cước của hội Karate thể thao quốc tế (ISKA) và hiệp đoàn quyền cước và Karate (WKU). Christine mất đai vô địch WKU trong trận đấu với Olga Stavrova vào ngày 7 tháng 6 năm 2013. Theo bảng sắp hạng của IKF, Cô được chọn để đấu với vô địch thế giới Natalie Bee hạng nhẹ (60 kg), Trong khi WKA và WKU xếp Christine Theiss trước Natalie Bee.
Tiểu sử.
Năm 1984 Theiss theo gia đình, mẹ là một bác sĩ đa khoa và cha bác sĩ nội khoa, chuyển từ Đông Đức (DDR) tới Bayreuth. Từ năm 2001 tới 2007 Theiss theo học ngành y khoa tại đại học LMU ở München và trở thành bác sĩ vào tháng 12 năm 2008.
Theiss kết hôn vào năm 2005 với bác sĩ khoa tim Hans Theiss và sống tại khu phố Schwabing, München.
Sportliche Laufbahn.
Ban đầu Theiss chỉ theo bạn, mà không muốn đi một mình, đi tập môn quyền cước vào lúc 8 tuổi tại Bayreuth. Theiss đạt được nhiều lần vô địch thiếu niên Bayern và Đức, đến năm 1998 thì được giải vô địch Đức nữ. Từ đầu năm 2006 Theiss trở thành võ sĩ quyền cước chuyên nghiệp. Với 22 chiến thắng trong các giải vô địch thế giới tại 4 hiệp hội quyền cước quốc tế, Theiss trở thành nữ võ sĩ quyền cước thành công nhất thế giới.
Vào ngày 18 tháng 4 năm 2013 Theiss tuyên bố sẽ giải nghệ vào cuối năm.
Vào ngày 7 tháng 6 năm 2013 lần đầu tiên Theiss thua giải vô địch thế giới (WKU) khi đấu với Olga Stavrova, nhưng vẫn giữ tước hiệu vô địch tại hiệp hội ISKA và WKA. Với chiến thắng trong trận phục hận và cũng là trận cuối cùng vào ngày 13 tháng 12 Theiss đã đạt lại tước hiệu vô địch thế giới WKU. | 1 | null |
Lee Ho-yang (, sinh ngày 3 tháng 6 năm 1983), còn được biết đến với nghệ danh là Shinsadong Tiger ( "Shinsadong Horaengi"), là nam nhạc sĩ kiêm nhà sản xuất âm nhạc người Hàn Quốc. Ông được nhiều người biết đến với vai trò là người tạo nhiều bản hit cho nhóm nhạc nữ T-ara.
Sau khi ra mắt vào năm 2001, ông đã làm nhiều công việc lặt vặt để phục vụ cho sự nghiệp âm nhạc của mình. Ông đã trở thành một nhân vật nổi bật trong ngành công nghiệp K-pop. Năm 2010, ông được mệnh danh là "Nhà sản xuất thế hệ mới" tại Korean Culture Entertainment Awards lần thứ 18, và năm 2011 ông được mệnh danh là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất trong ngành công nghiệp K-pop bởi OSEN. Shinsadong Tiger đã lập công ty cho riêng của mình: AB Entertainment (nay là Banana Culture) và đã cho ra mắt nhóm nhạc nữ EXID. Sau EXID, ông hợp tác với Universal Music Group và cho ra mắt nhóm nhạc nữ TRI:BE.
Tiểu sử.
Shinsadong Tiger (tên khai sinh là Lee Ho-yang) sinh ngày 3 tháng 6 năm 1983 tại Gwangyang, Hàn Quốc, ông học tiểu học ở Pohang. Ông bắt đầu niềm đam mê của mình với âm nhạc trong Junior High, và đã thử giọng cho JYP Entertainment nhưng bị từ chối.
Sự nghiệp.
Sau khi ra mắt ở tuổi 19, Lee đã bắt đầu nổi tiếng trong K-Pop. Mặc dù ông đã sáng tác cho nhiều nghệ sĩ khác nhau, ông cũng trở nên nổi tiếng với vai trò quản lý nhóm EXID. Ông cũng bị phê bình vì tập trung vào xu hướng âm nhạc thị trường cho các thần tượng. Lee thừa nhận thường sử dụng nguồn cảm hứng tùy ý cho phong cách sáng tác của mình, bao gồm cả giấy vệ sinh là nguồn cảm hứng cho ca khúc Bo Peep Bo Peep.
Năm 2011, ông phát hành đĩa đơn riêng tự sản xuất "Supermarket – The Half", trong đó Yoon Doo-joon, Yong Jun-hyung và Lee Gi-kwang của BEAST được làm đặc trưng cho "Should I Hug Or Not?" ().
Năm 2012, ông phát hành album mới, "Supermarket – Another Half", có bài hát "Over and Over" bởi 4minute, "Stop Doing That" bởi G.NA, và "In the Cloud", bởi B2ST Son Dong-woon. "In The Cloud" phát hành vào ngày 24 tháng 4, 00:00 KST.
Chương trình âm nhạc.
Đây tổng hợp chiến thắng của các nghệ sĩ khác nhau, với những bài hát được sản xuất bởi Shinsadong Tiger, trên các chương trình âm nhạc trên truyền hình của Hàn Quốc: KBS Music Bank, SBS Inkigayo, Mnet M! Countdown và Show Champion trên MBC Music (trực thuộc MBC Plus Media).
Inkigayo.
Chú ý: Một nghệ sĩ chỉ có thể giành chiến thắng ba lần cho một ca khúc trước khi chúng được đưa ra khỏi danh sách đề cử.
M! Countdown.
Chú ý: Một nghệ sĩ chỉ có thể giành chiến thắng ba lần cho một ca khúc trước khi chúng được đưa ra khỏi danh sách đề cử. | 1 | null |
Đan viện Thánh Mẫu Châu Sơn (còn có các tên khác như: Đan viện Châu Sơn, Nhà thờ Châu Sơn, nhà thờ Gạch). Đan viện thánh Mẫu Châu Sơn là một đan viện của Dòng Xitô, tọa lạc tại xã Phú Sơn, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình. Đan viện này nằm cách nhà thờ chính tòa Phát Diệm 65 km, cách thành phố Ninh Bình 35 km, cách trung tâm thị trấn Nho Quan 2 km và cách Hà Nội 97 km.
Lịch sử.
Đan viện Thánh Mẫu Châu Sơn, được xây dựng từ 15 tháng 8 năm 1936, là một đan viện chuyên về chiêm niệm, xuất thân từ đan viện Thánh Mẫu Phước Sơn (Đan viện Mẹ Phước Sơn do Linh mục thừa sai Henri–Denis Biển Đức Thuận sáng lập từ năm 1918 tại Phước Sơn – Quảng Trị. Giám mục Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng, người Việt đầu tiên nhận quyền cai quản Giáo phận Phát Diệm là người đã ngỏ ý mời các đan sĩ Phước Sơn ra lập Dòng trong giáo phận Phát Diệm.
Kiến trúc.
Thánh đường Đan viện Châu Sơn (được xây dựng 18/2/1939) nằm trong khu vực rừng núi yên tĩnh, hướng theo trục Tây - Đông, thiết kế theo kiểu gothic với bức tường bao quanh dày tới 0,6 m, chỗ có cột dày 1,2 m tạo sự ấm áp về mùa đông và mát mẻ về mùa hạ. Nhìn từ hai bên, điểm nhấn suốt chiều dài 64 m chính là những cột nhà được thiết kế thành những tháp nhỏ cân xứng; tường được trang trí hài hòa bởi các cửa sổ chia thành hai tầng trên và dưới, phía trong là cửa kính gỗ, phía ngoài chính là những bức tranh "chạm thủng" họa hình các Thánh, hình người vác thánh giá và cầu nguyện.
Điều đặc biệt ở công trình thánh đường Châu Sơn là nó được thiết kế theo phong cách kiến trúc Gothic với vật liệu chính là gạch đỏ không tô trát nên có một vẻ đẹp khác biệt, đặc trưng, chân thật và ấm áp.
Phía trong thánh đường, ánh sáng tự nhiên vừa đủ lọt vào hai hành lang rộng qua những cửa sổ lớn tôn lên những hàng cột tròn, những họa tiết trang trí và phù điêu có tính khái quát cao. Mái vòm trắng cao 21m là đỉnh cao của nghệ thuật kiến trúc trong lòng thánh đường. | 1 | null |
Chánh Lộ là một phường thuộc thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam.
Phường Chánh Lộ có diện tích 2,51 km², dân số năm 1999 là 11.108 người, mật độ dân số đạt 4.426 người/km².
Kinh tế.
Năm 2012, hoạt động sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ của phường phát triển khá và có chiều hướng tăng trưởng mạnh; tổng giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của phường đạt 90 tỷ đồng, tăng hơn 7% so với năm 2011. | 1 | null |
Longisquama là một chi bò sát giống thằn lằn đã tuyệt chủng. Chỉ một loài duy nhất, Longisquama insignis, được biết đến từ một bộ xương được bảo tồn kém và nhiều vết hóa thạch không hoàn chỉnh, từ thành hệ Madygen có niên đại từ giữa tới cuối kỷ Trias ở Kyrgyzstan.
"Longisquama" nghĩa là "vảy dài"; tên loài "insignis" chỉ kích thước nhỏ của nó. Tiêu bản chuẩn của "Longisquama" đáng chú ý vì các cấu trúc dài trên lưng nó. Các cấu trúc này được giải thích là một kiểu lông vũ nguyên thủy (theo cách này thì "Longisquama" là họ hàng của chim), hay một cấu trúc giống lông vũ tiến hóa độc lập. | 1 | null |
Tarot (, đầu tiên được gọi là trionfi và sau đó là tarocchi hoặc "tarock") là một bộ bài dùng để chơi, được sử dụng từ giữa thế kỷ 15 ở nhiều vùng khác nhau của Châu Âu để chơi các trò chơi như tarocchini của Ý, tarot của Pháp và Königrufen của Áo, nhiều trong số đó vẫn được chơi cho đến ngày nay. Vào cuối thế kỷ 18, một số bộ bài tarot bắt đầu được sử dụng để bói toán thông qua việc đọc bài tarot và xem bói bài, dẫn đến các bộ bài tùy chỉnh được phát triển cho những mục đích huyền bí như vậy.
Giống như những cách chơi bài thông thường, tarot có bốn chất khác nhau trong bộ bài tùy theo khu vực: các chất của bộ bài mang phong cách Pháp ở Bắc Âu, phong cách Latinh ở Nam Âu và Đức ở Trung Âu. Mỗi chất có 14 lá bài: mười lá pip đánh số từ một (hoặc Ace) đến mười, và bốn lá bài hình (King, Queen, Knight và Jack/Knave/Page).
Ngoài ra, tarot có một bộ bài gồm 21 lá bài riêng biệt và một lá bài duy nhất được gọi là The Fool. Tùy thuộc vào trò chơi, the Fool có thể đóng vai trò là con át chủ bài hàng đầu hoặc có thể để tránh làm theo. Những lá bài tarot này vẫn được sử dụng trên khắp Châu Âu để chơi các trò chơi bài thông thường mà không có các liên tưởng huyền bí.
Tại một số các quốc gia nói tiếng Anh, nơi những trò chơi này không được chơi thường xuyên, các lá bài tarot được sử dụng chủ yếu cho các mục đích tìm tòi và tiên đoán, thường sử dụng các bộ bài được thiết kế đặc biệt. Một số người sử dụng tarot để xem bói bài tin rằng các lá bài có mối liên hệ bí truyền với Ai Cập cổ đại, Kabbalah, Mật tông Ấn Độ hoặc Kinh Dịch, mặc dù nghiên cứu học thuật đã không tìm thấy bằng chứng tài liệu về nguồn gốc như vậy hoặc về việc sử dụng tarot để bói toán trước thế kỷ 18.
Lịch sử.
Chơi bài lần đầu tiên du nhập vào châu Âu vào cuối thế kỷ 14, rất có thể là từ Mamluk Ai Cập khi bắt người do thái làm nô lệ đã tham khảo vào tri thức của Kinh Thánh..
Ghi chép đầu tiên xuất hiện từ năm 1367 ở Berne và chúng dường như đã lan truyền rất nhanh trên toàn châu Âu, như có thể thấy từ các tài liệu còn sót lại, chủ yếu là các trò chơi bài bị cấm. Người ta biết rất ít về sự xuất hiện và số lượng của những lá bài này; thông tin quan trọng duy nhất được cung cấp bởi một văn bản của John of Rheinfelden vào năm 1377 từ Freiburg im Breisgau, người, ngoài các phiên bản khác mô tả gói cơ bản chứa 4 quân bài gồm 13 lá bài vẫn còn tồn tại, các quần thần thường là Vua, Ober và Unter ("thống chế"), mặc dù Dames và Queens đã được biết đến vào thời điểm đó.
Một kiểu chơi bài ban đầu đã phát triển là kiểu bài với các quân bài như Batons hoặc Clubs, Coins, Swords và CupsNhững bộ quần áo này vẫn được sử dụng trong các ván bài truyền thống của Ý, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, nhưng cũng đã được điều chỉnh thành các bộ được sử dụng đặc biệt cho các bộ bài bói toán tarot xuất hiện lần đầu vào cuối thế kỷ 18.
Ở Florence, một ván bài mở rộng được gọi là "Minchiate" được sử dụng. Ván bài 97 lá này bao gồm các biểu tượng chiêm tinh và bốn nguyên tố, cũng như các mô típ tarot truyền thống.
Mặc dù một nhà thuyết giáo người Đa Minh đã khắc sâu chống lại cái ác vốn có trong các lá bài (chủ yếu là do việc sử dụng chúng trong đánh bạc) trong một bài giảng vào thế kỷ 15, không có sự lên án thường xuyên nào về tarot trong suốt lịch sử ban đầu của nó.
Vì những lá bài tarot sớm nhất được vẽ bằng tay nên số lượng bộ bài được sản xuất được cho là rất ít. Chỉ sau khi phát minh ra máy in thì việc sản xuất hàng loạt lá bài mới có thể thực hiện được. Sự lan tỏa của tarot ra ngoài nước Ý, đầu tiên là Pháp và Thụy Sĩ, xảy ra trong Các cuộc chiến tranh Ý. Mẫu tarot quan trọng nhất được sử dụng ở hai quốc gia này là Tarot of Marseilles có nguồn gốc từ Milan.
Bộ bài.
Hiện tồn tại rất nhiều loại bài Tarot, và không có tiêu chuẩn nào về số lượng hay hình thức bộ bài. Mặc dù các quân bài, chất và ý nghĩa là như nhau, nhưng hình minh hoạ thì lại rất khác nhau. Chủ đề của mỗi bộ bài cũng khác nhau, có thể là về thiên nhiên, động vật, rồng... Cỗ bài Tarot phổ biến nhất tại Mỹ hiện nay là bộ Rider-Waite, được tạo ra vào năm 1909 bởi A.E.Waite, một nhân vật xuất chúng thuộc Hermetic Order of the Golden Dawn, và được sản xuất bởi công ty Rider & Company. Họa sĩ vẽ bài là Pamela Colman Smith. Cỗ bài 78 quân này là cỗ bài phổ biến và dễ mua nhất tại Mỹ. Dù sao thì, theo The Hermitage: A Tarot History Site thì không có bộ bài Tarot nào được coi là "tuyệt đối" cả.
Một cỗ bài Tarot bao gồm Bộ Ẩn Phụ - Minor Arcana và Bộ Ẩn Chính - Major Arcana. Giống như những cỗ bài Tây khác, bộ ẩn phụ gồm 4 "chất", nhưng thay vì rô-cơ-bích-tép, thì 4 chất ở bộ ẩn phụ là: Wands, Swords, Cups và Circles (hay Pentacles).
Mỗi chất đều có một ý nghĩa tương ứng với một khía cạnh nào đó của cuộc sống. Những quân bài chứa 4 chất này được đánh số từ 1 đến 10, và thêm các quân bài Hoàng gia: The King, Queen, Knight và Page. Bộ ẩn phụ cho biết những điều "phụ", tức là những khía cạnh nhỏ và thường ngày trong cuộc sống.
Bộ ẩn chính không có chất. Chúng bao gồm những quân bài có hình riêng và thể hiện những nguyên tắc, quan niệm và lý tưởng. Chúng được đánh số từ 1 đến 21, và quân bài thứ 22 – The Fool – được đánh số 0. Bộ ẩn chính thể hiện năng lượng mạnh, lâu dài hay những sự kiện lớn trong cuộc sống.
Bói bài Tarot.
Tarot spread.
Bước đầu tiên của bói Tarot, là người được bói sẽ bốc một số lượng bài nhất định từ bộ bài. Vài ý kiến cho rằng làm vậy để "truyền năng lượng" từ người đó cho bộ bài. Người được bói cần phải tập trung vào câu hỏi hoặc vấn đề mà họ cần lời khuyên trong lúc rút các lá bài. Theo truyền thống thì còn có nhiều bước phức tạp hơn nữa.
Khi các lá bài được rút xong, thầy bói sẽ xếp những lá bài đó theo thứ tự thành một khuôn mẫu gọi là spread. Mỗi vị trí trên spread đều có ý nghĩa nhất định, và hiện tại có rất nhiều cách để xếp spread, từ một lá bài đơn lẻ trong bộ đến cách xếp toàn bộ 78 lá bài. Việc sử dụng spread nào phụ thuộc vào người đọc bài và kiểu câu hỏi hay vấn đề của người được bói. Một số spread tập trung nhiều hơn đến một vài loại thông tin nhất định. Ví dụ, một spread có thể chuyên để bói về chuyện tình cảm, spread khác lại tập trung vào mối quan hệ với người khác. Một trong số những spread phổ biến nhất là Celtic Cross. Thực tế tồn tại rất nhiều spread thường dùng, và đặc biệt người đọc bài còn có thể tự tạo spread của riêng mình.
Ví dụ trong spread Celtic Cross, bạn có thể thấy có một trật tự nhất định trong spread này, và mỗi lá bài ở mỗi vị trí đều thể hiện một ý nghĩa nào đó. Và mỗi vị trí lại có nhiều ý nghĩa khác nhau, điều này phụ thuộc vào người hỏi. Và còn nữa, ý nghĩa mỗi lá bài còn có thể được kết hợp với các lá bài khác, chúng ảnh hưởng lẫn nhau và tạo ra sự thay đổi trong ý nghĩa mỗi lá bài.
Phương pháp.
Hiện nay có hai phương pháp bói Tarot khác nhau: bói qua câu hỏi và bói mở.
Với cách bói qua câu hỏi – question readings – bạn phải có một câu hỏi cụ thể nào đó. Tarot sẽ không đưa ra câu trả lời chính xác; nhưng qua những lá bài Tarot, bạn có thể định hướng và tự đưa ra quyết định cho chính bản thân mình. Quá trình bói Tarot qua câu hỏi phải làm đúng trình tự, điều này rất quan trọng. Bạn phải:
"- Sử dụng những câu hỏi "mở"": nếu câu hỏi của bạn là câu hỏi "đóng", thì bộ bài Tarot sẽ không giúp thêm được gì cho bạn cả. Ví dụ với câu hỏi sau: "Làm thế nào để mẹ chồng tôi đồng ý với việc vợ chồng tôi sẽ chuyển ra ở riêng" – khác hẳn với việc hỏi "Làm thế nào để chung sống hoà bình với mẹ chồng". Hãy bắt đầu từ nguồn gốc của vấn đề "(chung sống hoà bình)" chứ không phải là từ những lựa chọn "(chuyển ra ở riêng)" của bạn.
"- Tìm mức độ cụ thể phù hợp:" Câu hỏi của bạn cần phải đủ để định hướng, nhưng không được quá cụ thể. Thay vì việc tìm hiểu về một mặt nào đó cụ thể, bạn cần tìm cách nhìn rộng hơn, bao quát hơn về vấn đề. Ví dụ, thay vì hỏi ‘làm thế nào để cuộc sống gia đình bớt lộn xộn hơn", thì hãy hỏi rằng "làm thế nào để cân bằng thời gian biểu của con trẻ và thời gian biểu của người lớn". Rõ ràng câu hỏi sau tập trung vào vấn đề "thời gian biểu", và vậy là hợp lý. Nhưng đừng đặt câu hỏi theo kiểu "Làm thế nào để sắp xếp lịch chơi bóng rổ, bóng đá, cầu lông... mà vẫn có thời gian quan tâm tới gia đình" – câu hỏi này thì lại quá cụ thể về "lịch chơi thể thao" rồi. Thông tin trong câu hỏi phải ở một mức độ phù hợp, không chung chung quá nhưng cũng đừng cụ thể quá.
"- Tập trung vào bản thân bạn:" nếu là bói cho bạn, hãy đảm bảo rằng câu hỏi này tập trung vào bạn nhiều hơn là tập trung vào những đối tượng khác, ngay cả khi đó là chủ thể của vấn đề. Ví dụ, câu hỏi "tại sao con trai bạn lại hút thuốc lá" là tập trung vào con bạn, chứ không phải là bạn. Hãy hỏi là "bạn có vai trò gì, bạn có làm gì khiến con bạn hút thuốc lá hay không" sẽ là câu hỏi chuẩn.
"- Trung lập:" hãy đặt câu hỏi một cách trung lập, đừng quá thiên về một mặt hay một hướng giải quyết nào đó. Như vậy lá bài Tarot sẽ giúp bạn có được định hướng tốt. Ví dụ, "Tại sao tôi lại phải làm việc nhà nhiều hơn vợ tôi" không phải là câu hỏi trung lập, thay vì đó, hãy hỏi "Làm thế nào để vợ chồng tôi có thể chia sẻ việc nhà với nhau" mới là tốt.
"- Khách quan:" Đảm bảo rằng câu hỏi của bạn mang tính khách quan, mong chờ điều gì đó. Thay vì hỏi tại sao may mắn "không đến" như mong đợi, hãy hỏi rằng "làm thế nào" để may mắn đến với bạn.
Phương pháp thứ 2, bói mở - Open Readings – hướng đến các mặt rộng hơn của cuộc sống chứ không gói gọn trong các câu hỏi như question readings. Thường thì những vấn đề này đều có mốc của nó, ví dụ như khi bạn lập gia đình, khi bạn tốt nghiệp đại học... Bạn có thể hướng đến một mảng nào đó, ví dụ như sức khoẻ, hay sự nghiệp... và kết quả của lần bói này cũng sẽ tương ứng với chúng...
Người bói bài Tarot.
Người bói bài tarot thường được gọi là tarot reader (trong khi người xem hay người có thắc mắc cần giải quyết được gọi là querent). Mặc dù tarot là một hình thức tiên tri, người bói bài không nhất thiết phải có một khả năng đặc biệt nào về tâm linh hay năng lượng. Để học được nghệ thuật bói bài Tarot, bạn có thể đọc sách, tham gia các khoá học và thậm chí có thể được cấp chứng chỉ. Các khoá học được dạy online hoặc offline bởi các giáo viên dạy Tarot hoặc các tổ chức Tarot.
Có tất cả bảy mức độ chứng chỉ được cung cấp bởi Tarot Certification Board of America. Để được cấp các chứng chỉ này, bạn cần phải có kinh nghiệm bói Tarot cũng như vượt qua các bài kiểm tra tiêu chuẩn. Dưới đây là các loại chứng chỉ:
Ngoài ra còn có các chứng chỉ được cấp bởi American Board for Tarot Certification bao gồm 5 cấp độ:
Một vài quốc gia khác có hệ thống chứng chỉ Tarot riêng của mình. | 1 | null |
Chu La Hầu (chữ Hán: 周罗睺, 541 – 604), tên tự là Công Bố, người Tầm Dương, Cửu Giang, là tướng lĩnh nhà Trần và nhà Tùy trong lịch sử Trung Quốc.
Làm tướng nhà Trần.
Cha là Chu Pháp Cảo, làm quan nhà Lương, trài qua các chức tước: Quan quân tướng quân, Thủy Hưng thái thú, Thông trực tán kỵ thường thị, Nam Khang nội sử, Lâm Chưng huyện hầu.
La Hầu lên 15 tuổi, giỏi cưỡi ngựa bắn cung, thích săn bắn, tính hào hiệp phóng đãng, tập hợp những kẻ vong mệnh, ngầm học tập binh thư. Ông chú họ (tòng tổ) là Chu Cảnh Ngạn răn đe, ông rốt cục không thay đổi.
Thời Trần Tuyên đế, nhờ quân công, được thụ Khai viễn tướng quân, Cú Dung lệnh. Sau đó theo Đại đô đốc Ngô Minh Triệt cùng quân Bắc Tề giao chiến ở Giang Dương, bị tên lạc trúng mắt trái. Quân Tề vây Minh Triệt ở Túc Dự, mọi người chỉ biết nhìn nhau, chẳng còn lòng dạ nào. La Hầu thúc ngựa đột vây, không ai địch nổi. Thái phó khanh Tiêu Ma Ha nhân đó theo sau, chém giết không sao đếm xuể. Quân Trần đến Từ Châu, cùng tướng Bắc Chu là Lương Sĩ Ngạn giao chiến ở Bành Thành, Ma Ha lâm trận ngã ngựa, ông đến cứu, nhấc Ma Ha quay lại trận địa, dũng trùm ba quân. Minh Triệt thất bại, La Hầu bảo toàn cánh quân của mình trở về, được bái Quang viễn tướng quân, Chung Li thái thú
Năm Thái Kiến thứ 11 (579), thụ Sứ trì tiết, đô đốc Hoắc Châu chư quân sự. Dẹp 12 động sơn tặc, nhận giai Hữu quân tướng quân, Thủy An huyện bá, thực ấp 400 hộ, tổng quản kiểm hiệu Dương Châu nội ngoại chư quân sự. Được ban 300 lạng vàng bạc, chia hết cho tướng sĩ, thưởng thêm cho những người khỏe mạnh, Tuyên đế rất thán phục. Ra làm Tấn Lăng thái thú, tiến tước làm hầu, tăng phong 1000 hộ. Nhận giai Thái phó khanh, tăng phong gồm cả số đã có là 1600 hộ. Lại được nhận giai Hùng tín tướng quân, Sứ trì tiết, đô đốc Dự Chương 10 quận chư quân sự, Dự Chương nội sử. La Hầu xét án thẳng thắn, quyết đoán, không màng quan hệ, không tham của đút, nên được dân chúng cảm ơn, lập bia ca tụng công đức.
Trong những năm Chí Đức (583 – 586), nhận chức Trì tiết, đô đốc Nam Xuyên chư quân sự. Giang Châu tư mã Ngô Thế Hưng mật tấu La Hầu rất được lòng người, tập hợp quân đội Lĩnh Nam, lòng dạ khó lường. Trần Hậu Chủ ngờ vực, bọn Tiêu Ma Ha, Lỗ Quảng Đạt bảo lãnh ông. Có người biết, khuyên La Hầu phản, ông cự tuyệt. Sau khi về triều, nhận chức Thái tử tả vệ soái, càng được tín nhiệm. Trong buổi tiệc đêm, Hậu Chủ hỏi: "Chu tả soái là võ tướng, mà làm thơ đều hoàn thành trước cả văn sĩ, sao vậy?" Đô quan thượng thư Khổng Phạm đáp: "Chu La Hầu chấp bút làm thơ, cũng như lên ngựa vào trận, không ở sau người." Từ đây càng được kính trọng. Ra làm đốc Tương Châu chư quân sự, về triều được bái làm Tán kỵ thường thị.
Quân Tùy nam tiến, La Hầu làm đô đốc Ba Hạp, Duyên giang chư quân sự, để chống lại Tần vương Dương Tuấn, cánh quân của ông không thể vượt sông, dằng co hàng tháng. Gặp lúc Đan Dương thất thủ, Hậu Chủ bị bắt, La Hầu vẫn mắc lại ở thượng du Trường Giang, Tấn vương Dương Quảng gởi thư của Hậu Chủ mệnh cho ông đầu hàng, La Hầu cùng chư tướng kêu khóc 3 ngày, rồi mới ra hàng.
Làm tướng nhà Tùy.
Tùy Văn đế vỗ về, hứa hẹn giàu sang, ông rơi nước mắt đáp: ""Thần được họ Trần hậu đãi, bản triều mất đi, chẳng giữ được rường mối. Bệ hạ ra ơn, được toàn mạng là may, phú quý vinh lộc, không phải mong mỏi của thần." Văn đế rất kính trọng. Hạ Nhược Bật nói với ông rằng: "Nghe tin ngài bị điều đi Dĩnh, Hán, biết ngay Dương Châu có thể lấy được. Quân đội vượt sông thuận lợi, quả như suy đoán." La Hầu đáp: "Nếu được cùng ngài đối đầu, thắng bại chưa thể biết được." Mùa thu năm ấy, được bái làm Thượng nghi đồng tam tư, ban Cổ xuy, Vũ nghi, đưa các lễ nghi này đến tận nhà. Trước đó, bì tướng Dương Tường hàng Tùy, nhận làm hướng đạo, quan vị đến Thượng khai phủ, ban cho ở trên ông, Hàn Cầm Hổ ở triều đường bỡn rằng: "Không biết cơ biến, đứng dưới cả Dương Tường, có xấu hổ không?" La Hầu đáp: "Xưa ở Giang Nam, nhận lệnh dò hỏi, biết ngài là kẻ sĩ có tiết tháo trong đời. Hôm nay nói như vậy, không phải là lời của bậc trung thần." Cầm Hổ có vẻ thẹn. Mùa đông năm ấy, nhận chức Bân Châu thứ sử, ít lâu chuyển làm Kính Châu thứ sử. Mẹ mất nên rời chức, chưa đến kỳ hạn, lại được khởi dụng, thụ Bân Châu thứ sử, đều được tiếng là có năng lực.
Năm Khai Hoàng thứ 18 (598), nhà Tùy phát động chiến dịch Liêu Đông, La Hầu được trưng làm Thủy quân tổng quản. Từ Đông Lai ra biển, nhắm đến thành Bình Nhưỡng; gặp gió, mất phần lớn số thuyền, vô công mà về.
Năm thứ 19 (599), Đạt Đầu khả hãn của Đột Quyết xâm phạm biên cương, theo Dương Tố đánh trả. Quân Đột Quyết rất nhiều, La Hầu trình với Tố: "Trận thế của giặc chưa tề chỉnh, xin đánh ngay."" Tố đồng ý, ông cùng 20 khinh kỵ xông vào trận địch, giao chiến từ giờ Thân đến giờ Dậu, bộ binh Tùy nối nhau tiếp ứng, đại phá quân Đột Quyết. Được tiến vị Đại tướng quân.
Năm Nhân Thọ đầu tiên (601), làm Đông cung hữu ngu hậu soái, được ban tước Nghĩa Ninh quận công, thực ấp 1500 hộ. Ít lâu sau chuyển làm Hữu vệ suất.
Dượng đế lên ngôi, thụ Hữu vũ hậu đại tướng quân. Hán vương Dương Lượng phản, nhận chiếu theo Dương Tố đánh dẹp, được tiến thụ Thượng đại tướng quân. Mùa đông năm ấy, Đế đến Lạc Dương, Trần Hậu Chủ mất, La Hầu xin khóc viếng, đế cho. Ông khoác tang phục đến mộ, làm lễ xong thì trở về, cởi tang phục rồi vào triều. Đế rất hài lòng, người đời khen La Hầu có lễ độ. Khi ấy tàn dư của Dương Lượng chiếm cứ 3 châu Tấn, Giáng, Lữ, có chiếu cho ông làm hành Tấn, Giáng, Lữ 3 châu chư quân sự, tiến binh vây đánh. La Hầu bị trúng tên lạc, mất ở trong quân, hưởng thọ 64 tuổi.
Trên đường đưa linh cữu về kinh, đi được vài dặm, ngựa kéo xe vô cớ dừng lại, bị roi quất vẫn bất động, rồi gió lốc nổi lên, cuốn theo bụi mù trời. Giáng Châu trưởng sử Quách Nhã lạy dập đầu, khấn rằng: "Ngài hận bọn giặc nhỏ chưa dẹp chăng? Sắp trừ xong rồi, chẳng có gì đáng để luyến hận!" Sau đó gió lặng, ngựa đi tiếp, người chứng kiến không ai không cảm thán. Tháng 7 mùa thu năm ấy, con La Hầu là Chu Trọng Ẩn mơ thấy ông nói: "Ngày mai, ta sẽ ra trận." Hôm sau, cung tên đao kiếm nơi bàn thờ của La Hầu, vô cớ rung động, trông như có người đang sử dụng. Ngày hôm ấy, thành Giáng Châu thất thủ.
Triều đình tặng Trụ quốc, Hữu dực vệ đại tướng quân; thụy là Tráng. Tặng vật có ngàn tấm lụa. Con là Chu Trọng An kế tự, làm đến Thượng khai phủ. | 1 | null |
Truyền hình có độ sáng yếu ("Low light level television" - LLLTV) là một loại thiết bị cảm ứng điện tử sử dụng máy quay hình CCD nhạy cảm với các bức xạ có bước sóng lớn hơn ánh sáng nhìn thấy được (0,4-0,7 micromet), độ nhạy của thiết bị này đủ để có thể nhận diện được các bức xạ hồng ngoại bước sóng lớn, vào khoảng 1 đến 1,1 micromet. Cơ chế này khiến người sử dụng thiết bị có thể nhìn thấy các vật thể trong điều kiện ánh sáng cực yếu, vốn không thể nhìn bằng mắt thường. LLLTV được cho là có thể sử dụng tốt hơn máy ảnh nhiệt dùng hồng ngoại vốn chỉ "nhìn thấy" các bức xạ trong khoảng 3 to 5 µm (MWIR) hay 8 to 12 µm (LWIR) | 1 | null |
Chinlone nghĩa là Tâng bóng nghệ thuật (, ) là môn thể thao truyền thống của Myanmar. Chinlone là sự kết hợp giữa thể thao và nhảy múa, chỉ gồm một đội không đối đầu nhau. Về bản chất chinlone là không phải là môn cạnh tranh, nên không tập trung thắng thua mà chỉ tập trung vào cái đẹp khi chơi môn thể thao này. | 1 | null |
SM Town Week là một lễ hội âm nhạc được tổ chức từ ngày 21 đến ngày 29 tháng 12 năm 2013 tại Trung tâm triển lãm quốc tế Hàn Quốc (KINTEX), Seoul, Hàn Quốc.Vé cho lễ hội này được bắt đầu bán chính thức vào ngày 12 tháng 12. Sự kiện gồm nhiều ca sĩ SM Town trình diễn suốt buổi hòa nhạc của họ: "The Wizard" của SHINee vào 21, "Märchen Fantasy" của Girls' Generation vào 22, "Christmas Wonderland" của f(x) và EXO vào 24 và 25, "Time Slip" của TVXQ vào 26 và 27, và "Treasure Island" của Super Junior vào 28 và 29. | 1 | null |
Nhà thi đấu Thể dục dụng cụ Olympic (), còn được gọi là KSPO Dome từ năm 2018, là một nhà thi đấu nằm trong Công viên Olympic ở Seoul, Hàn Quốc. Nhà thi đấu này được xây dựng từ ngày 31 tháng 8 năm 1984 đến ngày 30 tháng 4 năm 1986, để tổ chức các nội dung thi đấu môn thể dục dụng cụ tại Thế vận hội Mùa hè 1988. Nhà thi đấu có sức chứa 15.000 chỗ ngồi. Mái che của nhà thi đấu được thiết kế bởi David H. Geiger. Đây là mái che đầu tiên được lắp đặt bằng cáp tự lực, được che phủ bằng một lớp bọc vải 4 lớp ở bên ngoài.
Kể từ sau Thế vận hội, nhà thi đấu này đã tổ chức nhiều sự kiện khác nhau. Đặc biệt, nơi đây là địa điểm tổ chức các buổi hòa nhạc của các nghệ sĩ Hàn Quốc và quốc tế.
Vào đầu năm 1992, khi nhóm nhạc nam New Kids on the Block của Mỹ biểu diễn tại đây, một vụ giẫm đạp đã xảy ra khi các khán giả nữ trẻ Hàn Quốc đã tràn lên sân khấu sau khi nhóm biểu diễn được 20 phút. Vụ giẫm đạp đã khiến 1 người thiệt mạng và hơn 50 người bị thương.
Sự kiện âm nhạc.
2015
2016
2018
2019
2020
2021
2022
2023 | 1 | null |
Friedrich Wilhelm Ludwig Fürchtegott von Bonin (14 tháng 11 năm 1824 tại Köln – 11 tháng 10 năm 1885 tại Dresden) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng đến cấp Trung tướng. Ông đã tham gia trong ba cuộc chiến tranh thống nhất nước Đức kể từ năm 1864 cho đến năm 1871.
Tiểu sử.
Wilhelm sinh vào ngày 14 tháng 11 năm 1824, là con trai của Eduard von Bonin – Thượng tướng Bộ binh và Bộ trưởng Chiến tranh Phổ về sau này.
Sau khi tốt nghiệp bằng Abitur tại Trường Trung học Chính quy ("Gymnasium") Berlin, Bonin nhập ngũ quân đội vào ngày 27 tháng 7 năm 1841 với vai trò là lính bắn súng hỏa mai ("Füsilier") trong Trung đoàn Bộ binh Cận vệ số 1, được phong cấp hàm Chuẩn úy ("Portepeefähnrich") vào tháng 1 năm 1842 rồi lên quân hàm Thiếu úy vào ngày 21 tháng 7 năm 1842. Với cấp bậc này, ông được cắt cử vào Cục Học tập ("Schulabteilung") của Tiểu đoàn Giáo dục Bộ binh kể từ tháng 4 năm 1845 cho đến tháng 7 năm 1848. Đến ngày 22 tháng 3 năm 1849, ông được bổ nhiệm làm sĩ quan tham mưu của cha mình – người đang giữ chức vụ chỉ huy tối cao của quân đội Schleswig-Holstein, và trên cương vị này ông tham gia cuộc chiến tranh với Đan Mạch (1848 – 1851), chiến đấu trong cuộc vây hãm Fredericia cùng với các trận giao tranh ở Kolding, Atzboell, Gravenstein và Gudsoe.
Tiếp theo đó, Bonin được lên chức Trung úy và đổi vào Tiểu đoàn Jäger số 6 tại Breslau (Schlesien). Năm sau, ông được đổi sang Tiểu đoàn Jäger số 5 ở Düsseldorf. Tại đây, ông được thăng hàm Đại úy vào ngày 13 tháng 6 năm 1857 rồi lãnh chức Đại đội trưởng vào ngày 7 tháng 12 năm 1858. Đến ngày 13 tháng 2 năm 1861, ông được đổi vào Trung đoàn Bộ binh 64 Magdeburg 4 tại Quedlinburg với chức vụ sĩ quan phụ tá cho Bộ Tổng chỉ huy ("Generalkommando") của Quân đoàn VII. Sau khi thôi chức vụ này Bonin được đổi sang Trung đoàn Bắn súng hỏa mai số 40 ở Trier và được thăng chức Thiếu tá vào ngày 17 tháng 3 năm 1863. Trong thời kỳ động binh ("für die Dauer des mobilen Verhältnisses"), Bonin được thuyên chuyển vào Bộ Chỉ huy chiến tranh tại Schleswig-Holstein vào ngày 15 tháng 12 năm 1863. Tại đây, ông tham chiến chống Đan Mạch và chiến đấu trong trận đột chiếm pháo đài Düppel cùng với các trận đánh ở Missunde, Wielhoi và Rackebüll. Sau hiệp định đình chiến được ký kết, Bonin được nhậm chức Chỉ huy trưởng Tiểu đoàn Bắn súng hỏa mai trong Trung đoàn Phóng lựuu 11 Schlesien 2 tại Flensburg vào ngày 9 tháng 6 năm 1864.
Trong cuộc Chiến tranh Bảy tuần năm 1866, Bonin cỉ huy lính bắn súng hỏa mai của mình đánh nhau với quân Hannover trong trận Langensalza, sau đó đánh nhau với quân Áo và đồng minh Tây Đức trong Chiến dịch Main. Vào ngày 31 tháng 12 năm 1866, ông được lên quân hàm Thượng tá, sau đó ông trở thành Chỉ huy trưởng Trung đoàn Bộ binh 31 Thüringen 1 ở Erfurt vào ngày 14 tháng 7 năm 1870 rồi chẳng bấy lâu sau, trên cương vị này, ông được thăng cấp bậc Đại tá vào ngày 26 tháng 7. Trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871), ông chỉ huy trung đoàn của mình chiến đấu ở trận Beaumont vào ngày 30 tháng 8, rồi được trao tặng Huân chương Thập tự Sắt hạng II vì vai trò của mình trong trận Sedan ngày 1 tháng 9. Tiếp sau đó, ông tham gia cuộc vây hãm Paris, cùng với các trận đánh ở Pierrefitte và Epinay. Ngay từ trước khi cuộc chiến tranh chấm dứt, ông đã được phong tặng Huân chương Thập tự Sắt hạng I vào ngày 8 tháng 4 năm 1871.
Vào ngày 14 tháng 2 năm 1874, Bonin được nhận danh hiệu à la suite của trung đoàn và lãnh chức Chỉ huy trưởng Lữ đoàn Bộ binh số 55 tại Karlsruhe, tại đây ông lên chức Thiếu tướng vào ngày 2 tháng 5 năm 1874. Gần ba năm sau, vào ngày 10 tháng 2 năm 1874, ông được xuất ngũ ("zur Disposition", rời ngũ nhưng sẽ được triệu hồi khi có chiến tranh) với một khoản lương hưu, đồng thời lãnh thưởng Huân chương Đại bàng Đỏ hạng II đính kèm Bó sồi và Thanh kiếm. Sau đó, ông lại được phong cấp hàm Danh dự ("Charakter") Trung tướng vào ngày 3 tháng 7 năm 1880.
Wilhelm von Bonin dành những năm cuối đời của mình ở Dresden, nơi từ trần vào ngày 11 tháng 10 năm 1885 mà chưa hề lập gia đình. | 1 | null |
Sứa hộp (lớp Cubozoa) là những động vật không xương sống thuộc ngành Thích ty bào được phân biệt bởi medusae hình khối lập phương của chúng. Một số loài sứa hộp sở hữu nọc độc cực mạnh: "Chironex fleckeri", "Carukia barnesi" và "Malo kingi". Bị chích bởi những loài này và một vài loài khác trong lớp này là vô cùng đau đớn và có thể gây tử vong cho con người. Chúng là những sinh vật độc nhất trên thế giới.
Phân loại.
Đến năm 2007, ít nhất 36 loài sứa hộp đã được biết đến. Có những nhóm tạo thành hai bộ và bảy họ. Một số loài mới được mô tả từ đó, và có khả năng loài chưa được mô tả vẫn còn.
Lớp Cubozoa | 1 | null |
Malo kingi là một loài sứa Irukandji đặt theo tên theo nạn nhân Robert King, một du khách từ Hoa Kỳ bơi khỏi Port Douglas, Queensland, người đã chết vì nọc độc của nó. Nó được mô tả khoa học lần đầu vào năm 2007, và là một trong hai loài trong chi Malo. Nó có một trong số nọc độc mạnh nhất thế giới, mặc dù nó không lớn hơn móng tay cái. | 1 | null |
Impact, Muang Thong Thani () là một khu phức hợp thương mại nằm ở Muang Thong Thani thuộc huyện Pak Kret của tỉnh Nonthaburi, một vùng ngoại ô ở phía bắc Băng Cốc, Thái Lan. Khu phức hợp bao gồm một nhà thi đấu, trung tâm hội nghị và hội trường triển lãm.
Đây là địa điểm tổ chức hội nghị và triển lãm lớn thứ hai ở châu Á với diện tích sàn trong nhà hơn 140.000 m². Hội trường Challenger của khu phức hợp hiện là phòng triển lãm miễn phí lớn nhất thế giới. Mỗi năm, khu phức hợp tổ chức hơn 490 sự kiện và đón hơn 15 triệu khách tham quan.
Lịch sử.
Nằm ở ngoại ô phía Bắc thành phố Pakkret, cách Băng Cốc khoảng 40 km, Muang Thong Thani (Golden City) được thành lập bởi nhà phát triển bất động sản Bangkok Land vào năm 1989 như một thành phố độc lập với căn hộ cao tầng và dân số dự kiến đến khoảng 150.000 người.
Dự án bị trì hoãn giữa những năm 1990 do cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á, nhưng sau đó được làm lại vào năm 1998 khi Băng Cốc lấy đất xây dựng sân vận động Mueang Thong Thani là một trong ba sân vận động dùng để tổ chức Đại hội Thể thao châu Á năm 1998. Sân vận động đã được mở rộng và đổi tên thành Trung tâm Triển lãm IMPACT vào năm 1999. Trung tâm Hội nghị IMPACT được xây dựng vào năm 2000, trong khi việc mở rộng Trung tâm Triển lãm IMPACT được hoàn thành vào năm 2003. IMPACT Challenger đã được hoàn thành vào đầu năm 2006.
Sự kiện nổi bật.
Ngày 28/1/2023, MANIFESTO DAY 1 CONCERT ENHYPEN | 1 | null |
Sứa hộp Nam Phi, tên khoa học Carybdea branchi, là một loài có độc của Cnidaria, trong họ nhỏ Carybdeidae trong lớp Cubozoa.
Mô tả.
Loài sứa hộp nhỏ này lớn đến 7 cm và có xúc tu lên đến 2m trong tổng chiều dài. Nó có hình chuông hộp trong suốt với một tua rất dài đuôi từ mỗi góc.
Phân bố.
Sứa này được tìm thấy từ phía bắc Namibia và xung quanh bờ biển Nam Phi tới Port Elizabeth từ bề mặt tới ít nhất là 35m dưới nước. | 1 | null |
Treasure Box là album tiếng Nhật thứ hai của nhóm nhạc thần tượng T-ara (Hàn Quốc). Nó được phát hành ngày 7 tháng 8 năm 2013 bởi Universal Music Japan dưới nhãn hiệu con EMI Records Japan với 2 phiên bản giới hạn và một bản thường. Để quảng bá cho album, nhóm tiến hành chuyến lưu diễn thứ 2 tại Nhật Bản: ngày 4 Tháng 9 năm 2013.
Phát hành và quảng bá.
"Treasure Box" được phát hành với 3 phiên bản: Pearl, Sapphire và Diamond. Pearl là phiên bản bình thường, trong khi Sapphire là một phiên bản có giới hạn đi kèm với một đĩa DVD và Diamond là một phiên bản có giới hạn báo đi kèm với một đĩa DVD và một cuốn sách ảnh. Ngày 3 tháng 8, tour diễn thứ hai của T-ara tại Nhật Bản: được công bố. | 1 | null |
Again là mini album thứ 5 (trên nhãn ghi là 8th) của nhóm nhạc nữ Hàn Quốc T-ARA, được phát hành vào ngày 10 tháng 10 năm 2013 bởi Core Contents Media. Album không có sự tham gia của thành viên thứ 8: Areum. Đây cũng là lần đầu tiên kể từ khi ra mắt, họ phát hành một album gồm 6 thành viên như ban đầu.
Thông tin.
Vào ngày 15 tháng 9, Core Contents Media thông báo T-ARA sẽ trở lại ngày 10 tháng 10 năm 2013.
Ngày 6 tháng 10, T-ara quyết định quảng bá 2 bài hát cho mini album này: "Number Nine" và "I Know the Feeling". "I Know the Feeling" là một bài hát buồn với giai điệu cuốn hút và lời bài hát chân thành. Cả hai video âm nhạc "Number Nine" và "I Know the Feeling" được phát hành vào ngày 10 tháng 10, cùng với việc phát hành album kỹ thuật số.
Ngay sau khi phát hành, "Number Nine" đạt vị trí số một trên nhiều bảng xếp hạng thời gian thực.
Một phiên bản làm lại "Again 1977" được phát hành vào ngày 2 tháng 12, có 2 bài hát mới: "1977Do You Know Me" và "What Should I Do" - một phiên bản làm lại của bản hit "What Should I do" (1977 - Sand Pebbles).
Một phiên bản làm lại khác "T-ARA Winter" có 2 bài hát giáng sinh: "Hide & Seek" và "Hide & Seek (Winter Ver.)" được tải về kỹ thuật số từ ngày 14 tháng 12. | 1 | null |
Aceton (bắt nguồn từ từ tiếng Pháp "acétone" /asetɔn/), còn được viết là a-xê-tôn, là hợp chất hữu cơ, có công thức là (CH3)2CO. Aceton là một chất lỏng dễ cháy, không màu và là dạng keton đơn giản nhất. Aceton tan trong nước,dễ bay hơi và là dung môi chủ yếu dùng để làm sạch trong phòng thí nghiệm, đồng thời là một chất dùng để tổng hợp các chất hữu cơ và còn được sử dụng trong các thành phần hoạt chất của sơn móng tay. 6,7 triệu tấn aceton được sản xuất trên toàn thế giới trong năm 2010, chủ yếu sử dụng làm dung môi và sản xuất methyl metacrylat và bisphenol. Aceton được sản xuất và thải ra trong cơ thể người thông qua quá trình trao đổi chất và thường có trong máu và nước tiểu. Thử nghiệm độc tính sinh sản cho thấy rằng nó có tiềm năng thấp gây ra vấn đề sinh sản. Phụ nữ mang thai và cho con bú, trẻ em và những người mắc bệnh tiểu đường tiết nhiều aceton hơn những người khác. Đồng thời, khẩu phần ăn nhiều chứa nhiều keton làm tăng hàm lượng aceton, giúp trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ giảm những cơn động kinh nếu mắc bệnh động kinh đề kháng.
Trao đổi chất.
Sự tổng hợp sinh học.
Một lượng nhỏ aceton được sản xuất trong cơ thể bằng phản ứng khử cacbon của thể keton. Một số chế độ ăn uống, bao gồm cả ăn chay trường, chế độ ăn nhiều chất béo nhưng ít đường bột (thường gọi là low carb), có thể sản sinh ketosis, trong đó aceton được hình thành trong các mô cơ thể. Một số tình trạng sức khỏe khác, như chứng nghiện rượu và bệnh tiểu đường sẽ gây nhiễm toan ceton, dẫn tới cái chết do gia tăng độ acid trong máu.
Sử dụng trao đổi chất.
Mặc dù một số sách giáo khoa hóa sinh và các ấn phẩm nghiên cứu hiện nay chỉ ra rằng aceton không thể chuyển hóa được, nhưng trong thực tế lại ngược lại. Aceton có thể được sản xuất từ quá trình oxy hóa isopropanol, và có thể được chuyển hóa thành D-lactat và pyruvat, và cuối cùng là glucose.
Sản xuất.
Trong năm 2010, sản xuất aceton trên toàn thế giới đạt 6,7 triệu tấn. Với 1,56 triệu tấn mỗi năm, Hoa Kỳ có sản lượng sản xuất cao nhất. Tiếp sau là Đài Loan và Trung Quốc. Nhà sản xuất aceton lớn nhất là INEOS Phenol, mỗi năm săn xuất 17% lượng sản xuất của thế giới. Giá giao ngay của aceton (trong mùa hè năm 2011) là 1100-1250 USD/tấn tại Hoa Kỳ.
Phương pháp sản xuất hiện hành.
Aceton được sản xuất trực tiếp hoặc gián tiếp từ propen. Khoảng 83% aceton được sản xuất thông qua phương pháp Cumen, và vì sản phẩm từ phương pháp này mà sản xuất aceton luôn gắn liền với sản xuất phenol. Phương pháp Cumen gồm việc alkyl hoá benzen với propen, sinh ra isopropylbenzen, được oxi hoá, sinh ra aceton và phenol.
Aceton còn được sản xuất trực tiếp bằng cách oxi hay hydro hoá propen, sinh ra 2-propanol (isopropanol), và khi oxi hoá isopropanol sẽ được aceton.
Ngoài ra, vì aceton là sản phẩm phụ của quá trình lên men, nên đôi khi cũng được sản xuất dưới dạng sản phẩm phụ của công nghiệp chưng cất.
Phương pháp cũ.
Trước đây, aceton được sản xuất bằng cách chưng cất acetat, ví dụ như calci acetat ở phản ứng khử carboxyl.
Trước đó, trong thời gian chiến tranh thế giới lần thứ 2, aceton được sản xuất bằng cách lên men aceton-ethanol với vi khuẩn "Clostridium acetobutylicum", phát hiện bởi Chaim Weizmann (sau này là tổng thống đầu tiên của Israel) để giúp các nỗ lực gây chiến của Anh bằng cách chuẩn bị thuốc nổ không khói. Sau khi phát minh phương pháp mới với sản lượng tốt hơn thì phương pháp lên men aceton-ethanol đã bị lãng quên.
Sử dụng.
Khoảng một phần ba aceton được sử dụng làm dung môi trên thế giới, và một phần tư được tiêu thụ dưới dạng aceton cyanohydrin, dùng trong sản xuất methyl metacrylat.
Dung môi.
Aceton là một dung môi tốt cho nhựa và một số sợi tổng hợp. Aceton được dùng để pha loãng nhựa polyester, được sử dụng trong các chất tẩy rửa, dụng cụ làm sạch, Dùng để pha keo epoxy 2 thành phần trước khi đóng rắn và được sử dụng như một trong những thành phần dễ bay hơi của một số loại sơn và vecni. Như một chất tẩy nhờn nặng, aceton rất hữu ích trong việc làm sạch kim loại trước khi sơn, và cũng dùng để loại bỏ nhựa thông thông sau khi hàn xong.
Aceton sử dụng làm dung môi trong công nghiệp dược phẩm, là thành phần tá dược trong một số loại thuốc, và để sản xuất rượu biến tính.
Mặc dù dễ cháy, aceton được sử dụng rộng rãi như một dung môi để vận chuyển và lưu trữ acetylen, vì chất này khi chịu áp suất lớn dưới dạng hợp chất tinh khiết sẽ không an toàn. Các thùng chứa bao giờ cũng chứa acethylen được hòa tan trong aceton. Một lít aceton có thể hòa tan khoảng 250 lít acethylen.
Hóa chất trung gian.
Aceton dùng để tổng hợp methyl metacrylat, bắt đầu với chuyển đổi aceton sang aceton cyanohydrin:
Tiếp theo, sản phẩm được thủy phân cho ra dung dịch amit không bão hòa, và tiếp tục ester hóa:
Ứng dụng nhiều thứ ba (20%) của aceton là tổng hợp bisphenol A. Bisphenol A là thành phần của nhiều loại polyme như polycarbonat, polyurethan, nhựa epoxy. Sự tổng hợp gồm phản ứng dehydro hóa phenol và aceton:
Trong phòng thí nghiệm.
Trong phòng thí nghiệm, aceton được sử dụng như một dung môi cực aprotic trong rất nhiều phản ứng hữu cơ, như phản ứng SN2. Dung môi aceton được sử dụng rộng rãi để làm chất tẩy rửa vật dụng thủy tinh trong phòng thí nghiệm vì giá thành thấp và dễ bay hơi. Tuy được sử dụng rộng rãi làm chất tẩy rửa, nhưng aceton không mấy hiệu quả trừ khi được pha loãng nhiều. Aceton có thể được làm lạnh bởi đá khô đến -78 °C mà không đóng băng, vì thế nên aceton/đá khô lỏng được dùng để duy trì nhiệt độ thấp để tiến hành các thí nghiệm hóa học khi cần.
Trong y dược và kĩ thuật làm đẹp.
Aceton được sử dụng nhiều trong các thuốc và kĩ thuật làm đẹp nói chung và được xếp loại là phụ gia thực phẩm và đóng gói, bảo quản thực phẩm.
Aceton thường được dùng để lột da bằng hóa chất. Các bác sĩ da liễu dùng aceton và cồn trong điều trị mụn trứng cá để lột da khô, chết. Những hóa chất dùng để lột da là acid salixylic, acid glycolic, acid salixylic 30% trong dung dịch ethanol, acid trichloroacetic (TCA). Trước khi lột, da cần được làm sạch và loại bỏ mỡ. Aceton, Septisol, hay cả hai chất đều dùng trong quá trình này.
Gia dụng và các ứng dụng khác.
Aceton là thành phần chính trong các chất tẩy rửa sơn móng tay, chất tẩy keo siêu dính và chất tẩy cho đồ gốm sứ, thủy tinh. Nghệ sĩ trang điểm dùng chất này để tẩy keo dán tóc giả và ria mép bằng cách ngâm vào aceton lỏng, sau đó dùng chải đi phần keo còn dư.
Aceton còn được sử dụng trong việc in ấn nghệ thuật. Sau khi đổ một lượng vừa phải vào mặt sau của tấm ảnh được đặt úp xuống một bề mặt khác và chà, cào trên mặt sau một thời gian, mực của tấm ảnh ban đầu sẽ chuyển xuống bề mặt ấy.
An toàn.
Tính dễ cháy.
Tính chất nguy hiểm nhất của aceton là tính rất dễ cháy. Ở nhiệt độ lớn hơn điểm bắt lửa của aceton là -20 °C (-4 °F), hỗn hợp khí chứa từ 2.5% đến 12.8% aceton (về thể tích) sẽ gây nổ. Sau khi nổ, aceton bay hơi đến những nguồn cháy khác và tiếp tục gây cháy nổ. Sự phóng tĩnh điện cũng có thể gây cháy với hơi aceton mặc dù aceton có điểm bắt năng lượng rất cao, vì vậy tình cờ gây cháy nổ là rất hiếm. Ngay cả khi đổ hay phun aceton lên miếng than còn tàn đỏ cũng không gây cháy, do nồng độ cao của hơi aceton và tính làm mát khi bốc hơi của dung dịch này. Aceton tự bốc cháy ở nhiệt độ 465 °C (869 °F). Tuy nhiên, nhiệt độ tự bốc cháy của aceton còn phụ thuộc vào thời gian tiếp xúc với bên ngoài, nên một số thí nghiệm cho rằng nhiệt độ tự bốc cháy là 525 °C.
Aceton peroxide.
Khi oxy hóa, aceton tạo ra aceton peroxide, một sản phẩm phụ, là một hợp chất rất không bền vững và thường gây cháy nổ. Cũng có thể tình cờ tạo ra aceton peroxide như đổ hydro peroxide thừa vào dung môi aceton. Vì tính không bền vững này mà aceton peroxide rất ít khi được sử dụng, dù có tính tổng hợp hóa chất rất tốt.
Thông tin y tế.
Aceton đã được nghiên cứu rộng rãi và thường được công nhận là có độc tính cấp tính và mãn tính thấp nếu bị uống hay hít vào. Hít ở nồng độ cao (khoảng 9200 ppm) có thể gây kích ứng ở cổ họng trong khoảng 5 phút. Hít ở nồng độ 1000 ppm sẽ gây kích ứng ở mắt và cổ họng trong vòng 1 giờ. Tuy nhiên, hít ở nồng độ 500 ppm sẽ không gây bất kì kích ứng gì, ngay cả khi bị tiếp xúc trong vòng 2 giờ. Aceton hiện không được xem là một chất gây ung thư, hóa chất gây đột biến hay gây các triệu chứng nhiễm độc thần kinh mãn tính.
Aceton là thành phần của một loạt sản phẩm tiêu dùng khác nhau, từ dược liệu, mỹ phẩm đến thực phẩm chưa và đã qua chế biến. Aceton được đánh giá là khá an toàn trong thức uống, đồ nướng, tráng miệng, và được bảo quản với nồng độ từ 5 – 8 mg/l. | 1 | null |
"Number 9" là một bài hát của nhóm nhạc nữ T-ara (Hàn Quốc) nằm trong album Again. Bài hát được viết và sáng tác bởi Shinsadong Tiger và Choi Gyu Sung. "Number 9" là bài hát chủ đề trong album, ra mắt vào ngày 10 tháng 10 năm 2013.
Thông tin.
"Number 9" được sáng tác bởi nhà soạn nhạc Shinsadong Tiger và Choi Gyu Sung, người trước đây đã sáng tác cho T-ara các bài hát: "Bo Peep Bo Peep", "Roly Poly", "Lovey Dovey" và "Sexy Love".
Phát hành.
Vào ngày 15 tháng 9, Core Contents Media thông báo T-ara sẽ trở lại vào ngày 10 tháng 10 năm 2013. Bài hát sẽ có giai điệu, âm thanh cuốn hút đặc trưng của T-ara.
Ngày 26 tháng 9 năm 2013, T-ara đã phát hành một teaser video dài 30 giây, quay tại một sa mạc.
Vào ngày 1 tháng 10, T-ara phát hành teaser khác cho "Number 9" trên trang web chính thức của họ. Trong teaser màu đen và trắng, họ cho người hâm mộ thấy một vẻ đẹp trưởng thành hơn. Bài hát mở đầu bằng giọng bè nhé như gió trên nền guitar sau đó giai điệu bỗng trở nên mạnh mẽ và đặc biệt cuốn hút.
Video âm nhạc cùng album được phát hành vào ngày 10 tháng 10 năm 2013.
Theo Core Contents Media, T-ara sẽ phát hành phiên bản thứ hai của MV vào ngày 18. MV này tiếp diễn teaser video của các cô gái lang thang trong sa mạc với cảm xúc "hoang dã và tuyệt vọng".
Quảng bá.
Lần đầu tiên bài hát được biểu diễn vào ngày 06 tháng 10 năm 2013 tại "Hallyu Dream Concert".
T-ara sẽ trở lại với "Number 9" trên Mnet "M! Countdown" vào 10 tháng 10. Tiếp theo sẽ là trên KBS's "Music Bank", MBC's "Show! Music Core" và SBS's "Inkigayo". | 1 | null |
Sân vận động Quốc tế Mata Elang hoặc MEIS là một sân vận động âm nhạc quốc tế tại Alcohol Dreamland, Jakarta, Indonesia. Sân vận động mở cửa vào đầu năm 2012. Nó nằm bên trong "Alcohol Beach City", một trung tâm giải trí cũng là nơi bảo tảng sáp Madame Tussauds sẽ được đặt. MEIS được xây dựng như một sân vận động trong nhà lớn nhất Đông Nam Á. | 1 | null |
"Neukkim Anikka" (Korean: 느낌 아니까, "Because I Know") là bài hát của nhóm nhạc nữ T-ara (Hàn Quốc), nằm trong album Again. Bài hát được đồng sáng tác bởi Baek Hyun Jung và Baek Deok Sang. "Because I Know" là bài hát chủ đề trong album, ra mắt ngày 10 tháng 10 năm 2013.
Phát hành.
Ngày 6 tháng 10 năm 2013 T-ara quyết định quảng bá cả hai ca khúc "Number 9" và "Because I Know". "Because I Know" là một bài hát buồn với giai điệu cuốn hút và lời bài hát chân thành. Phong cách của "Because I Know" hoàn toàn khác so với "Number 9". Bài hát có nhịp điệu vừa phải nhằm tối đa hóa cảm xúc. Video âm nhạc cùng với album được phát hành vào ngày 10 tháng 10 năm 2013.
Quảng bá.
T-ara trở lại sân khấu với "Because I Know" trên Mnet's "M! Countdown" vào ngày 10 tháng 10. Sau đó là trên KBS's "Music Bank", MBC's "Show! Music Core" và SBS's "Inkigayo". | 1 | null |
Chi Cam tùng (tên khoa học: Nardostachys) là một chi thực vật thuộc họ Họ Kim ngân. Chi này bao gồm hai loài đều có thể gọi là cam tùng hay cam tùng hương, chúng được sử dụng để chiết xuất lấy tinh dầu màu hổ phách, có mùi rất thơm. | 1 | null |
Lãnh thổ Indiana (tiếng Anh: "Indiana Territory") từng là một Lãnh thổ hợp nhất có tổ chức của Hoa Kỳ, tồn tại từ ngày 4 tháng 7 năm 1800 cho đến 7 tháng 11 năm 1816 khi phần phía nam của lãnh thổ được phép gia nhập liên bang để trở thành tiểu bang Indiana.
Lãnh thổ Indiana được thành lập theo một đạo luật tổ chức của Quốc hội Hoa Kỳ và được tổng thống John Adams ký thành luật vào ngày 7 tháng 5 năm 1800, có hiệu lực vào ngày 4 tháng 7 năm đó. Đây là lãnh thổ mới đầu tiên được thành lập từ đất đai của Lãnh thổ Tây Bắc, một lãnh thổ được tổ chức vào năm 1787 theo Sắc lệnh Tây Bắc. Ban đầu lãnh thổ rộng khoảng nhưng bị giảm diện tích đến hai lần khi nó được phân chia thêm thành các lãnh thổ mới.
Lãnh thổ này thoạt đầu do William Henry Harrison coi quản. Ông là người lo việc thương thuyết với các bộ lạc bản địa Mỹ để mở rộng các phần đất lớn của lãnh thổ cho người định cư da trắng. Năm 1810, một chính quyền dân cử được thành lập khi lãnh thổ tiếp tục tăng dân số, phát triển hệ thống đường sá căn bản, hệ thống giáo dục và chính quyền. Vào lúc Chiến tranh Tecumseh bùng nổ, lãnh thổ nằm ngay tại tuyến đầu của cuộc chiến. Harrison lãnh đạo một lực lượng quân sự đối đầu mở màng cho trận Tippecanoe, và sau đó là cuộc xâm nhập Canada trong cuộc Chiến tranh 1812. Thomas Posey được bổ nhiệm cho chức vụ thống đốc bỏ trống nhưng đảng đối lập, do nghị sĩ Jonathan Jennings lãnh đạo, thống trị mọi công việc của lãnh thổ trong những năm còn lại của lãnh thổ và bắt đầu làm áp lực đòi được phép trở thành tiểu bang. Tháng 6 năm 1816, đại hội hiến pháp được tổ chức và chính quyền tiểu bang được thành lập. Lãnh thổ bị giải thể ngày 7 tháng 11 năm 1816 sau khi quốc hội thông qua một đạo luật cho phép thành lập tiểu bang Indiana.
Các ranh giới ban đầu của lãnh thổ.
Địa giới của Lãnh thổ Indiana gồm có khu vực đất thuộc Lãnh thổ Tây Bắc nằm về phía tây đường phân định chạy từ bờ sông đối diện cửa sông Kentucky ở đông bắc cho đến Fort Recovery, và từ đó đi về hướng bắc dọc theo một đường phân định trong khoảng kinh tuyến 83 độ 45 phút Tây. Ban đầu lãnh thổ gồm có phần lớn tiểu bang Indiana ngày nay và tất cả các tiểu bang Illinois và Wisconsin ngày nay cũng như một số mảnh của ba tiểu bang khác ngày nay: một phần của Minnesota ở phía đông sông Mississippi, gần như toàn bộ Bán đảo Thượng và phân nửa phía tây của Bán đảo Hạ của Michigan, và sau hết là một dải đất hẹp của Ohio nằm ở phía bắc và phía tây Fort Recovery. Phần đất cuối vừa kể thuộc tiểu bang Ohio khi nó được phép gia nhập liên bang vào năm 1803. Cùng thời gian năm 1803, ranh giới đông nam bị dời từ điểm đối diện sông Kentucky đến cửa sông Great Miami. Phần phía đông của Michigan được đưa vào Lãnh thổ Indiana vào lúc đó. Diện tích của Lãnh thổ Indiana giảm thiểu vào năm 1805 khi thành lập Lãnh thổ Michigan, và năm 1809 khi thành lập Lãnh thổ Illinois.
Chính quyền.
Lập pháp.
Khi Lãnh thổ Indiana được thành lập, không có luật lệ nào cho phép thành lập một chính quyền dân cử. Quốc hội Hoa Kỳ cho phép tổng thống Hoa Kỳ quyền lực bổ nhiệm một tòa án chung để phục vụ trong vai trò ngành lập pháp và tư pháp của chính quyền lãnh thổ. Tòa án có năm thành viên và tổng thống có nhiệm vụ chọn ra một thành viên để làm thống đốc lãnh thổ. Đây vẫn là hình thức chính quyền lãnh thổ cho đến năm 1805 khi quốc hội cho phép lãnh thổ quyền hợp thức hóa chủ nghĩa nô lệ nếu họ chọn. Để làm vậy, quốc hội bãi bỏ quyền lực lập pháp của tòa án, và chỉ để lại cho tòa án quyền lực tư pháp nhưng thống đốc vẫn phải được tổng thống bổ nhiệm. Việc thành lập một hội đồng lập pháp mới được chấp thuận và mỗi quận trong lãnh thổ được phép bầu ra một đại diện cho mỗi quận. Hội đồng này có quyền thông qua luật lệ nhưng tất cả phải được thống đốc lãnh thổ chấp thuận trước khi chúng có hiệu lực.
Năm 1809, bộ phận lập pháp lại bị quốc hội thay đổi thành một bộ phận lưỡng viện. Một hạ viện được thành lập với số đại biểu được phân chia theo tỉ lệ dân số. Sau đó hạ viện sẽ chọn ra 10 ứng viên để tổng thống qua lời đề nghị của thống đốc sẽ chọn ra 5 người còn lại để thành lập một hội đồng. Hội đồng này phục vụ trong vai trò thượng viện của ngành lập pháp lãnh thổ. Từ đó, cơ cấu lập pháp này vẫn không thay đổi trong khoảng thời gian tồn tại còn lại của lãnh thổ.
Đại biểu Quốc hội Hoa Kỳ.
Đại biểu quốc hội của Lãnh thổ Indiana được bầu chung trong một cuộc bầu cử toàn lãnh thổ. Đại biểu này tham dự quốc hội với quyền tranh luận, giới thiệu luật, và phục vụ trong các ủy ban nhưng không có quyền biểu quyết đối với các dự luật.
Các viên chức cao cấp khác.
Chính phủ liên bang Hoa Kỳ trả lương thống đốc, lập pháp, và hội đồng tư pháp nhưng không cấp quỹ cho bất cứ chức vụ nào khác trong chính quyền lãnh thổ, Đầu tiên, lãnh thổ có rất hạn chế thu nhập và không thể trả lương cho một chính quyền rộng lớn. Khi dân số gia tăng, nguồn thu nhập phát triển, vì vậy độ lớn và phạm vi chính quyền với các chức vụ mới được thành lập vào các thời kỳ khác nhau. Nguồn thu nhập chính yếu của lãnh thổ là từ bán đất liên bang. Lãnh thổ thu về 3% giá trị tiền thu được sau mỗi làn bán đất. Thuế bất động sản và các cuộc trao đổi thương mại với người bản địa Mỹ cũng góp một số tiền thu nhập nhỏ hơn.
Trưởng lãnh thổ vụ
Thanh tra
Trưởng ngân khố
Tổng biện lý
Lịch sử.
Bối cảnh.
Lãnh thổ Tây Bắc được Quốc hội Hợp bang thành lập ngày 13 tháng 7 năm 1787. Lãnh thổ này bao gồm tất cả vùng đất nằm giữa Appalachia và sông Mississippi, Ngũ Đại Hồ và sông Ohio. Lãnh thổ đơn độc này sau này trở các tiểu bang Ohio, Michigan, Indiana, Illinois, Wisconsin, và đông Minnesota. Đạo luật Lãnh thổ Tây Bắc đưa tất cả lãnh thổ mới thu được vào được khảo sát theo Sắt lệnh Đất đai 1785 để Hoa Kỳ phát triển trong tương lai. Đạo luật này cũng tạo ra một cơ quan hành chính để trông coi lãnh thổ.
Vào lúc lãnh thổ được thành lập, chỉ có 3 khu định cư của người Mỹ tại khu vực mà sau này trở thành Lãnh thổ Indiana, đó là Vincennes, Kaskaskia và Clark's Grant. Tổng dân số khoảng dưới 5 ngàn người châu Âu. Dân số người bản địa Mỹ được ước tính vào khoảng gần 20 ngàn người nhưng có thể lên đến 75 ngàn người.
Năm 1785, Chiến tranh Bản địa Tây Bắc bắt đầu. Trong cố gắng kết thúc cuộc nổi dậy của người bản địa, thị trấn Kekionga của người Miami bị tướng Josiah Harmar và thống đốc Lãnh thổ Tây Bắc là Arthur St. Clair tấn công nhưng thất bại. Sự bại trận của thống đốc Clair là một cuộc bại trận tệ hại nhất của Lục quân Hoa Kỳ trong lịch sử chống người bản địa Mỹ. Cuộc bại trận đưa đến việc bổ nhiệm tướng "Mad Anthony" Wayne. Ông tổ chức đội quân Lê Dương Hoa Kỳ và đánh bại lực lượng người bản địa Mỹ tại trận Fallen Timbers năm 1794. Năm 1795, Hiệp ước Greenville được ký kết với kết quả phần phía đông Indiana được cắt cho Hoa Kỳ. Doanh trại Miamis tại Kekionga bị Hoa Kỳ chiếm đóng và được xây dựng thành đồn Wayne. Xứ Miami hùng mạnh về sau tự coi mình là đồng minh với Hoa Kỳ sau hiệp ước.
Thành lập.
Ngày 4 tháng 7 năm 1800, Lãnh thổ Indiana được thành lập từ Lãnh thổ Tây Bắc để chuẩn bị cho việc Ohio trở thành tiểu bang. Thủ phủ của lãnh thổ mới là Vincennes, một trạm mậu dịch củ của Pháp và là một trong số khu định cư duy nhất của người da trắng tại lãnh thổ to lớn này. Cái tên "Indiana" có nghĩa "Đất đai của người bản địa Mỹ" và ám chỉ sự thật rằng phần lớn vùng đất này ở phía bắc sông Ohio vẫn do người bản địa Mỹ sinh sống lúc đó. Ở phía nam của con sông, Kentucky từng là một vùng đất săn bắn truyền thống của các bộ lạc Tây Bắc và bộ lạc khác. Những người định cư xưa nhất tại Kentucky chỉ bờ bắc con sông là đất đai của người bản địa Mỹ. Năm 1768, một số thuộc địa mua phần đất của người Iroquois tuyên bố chủ quyền tại vùng tây bắc và thiết lập Công ty Đất đai Bản địa Mỹ để giữ tuyên bố chủ quyền. Đây là cách sử dụng từ "Indiana" được ghi nhận đầu tiên. Việc tuyên bố chủ quyền đất đai bị Virginia tranh chấp. Kết quả là tuyên bố chủ quyền của công ty bị bác bỏ trong một vụ xử của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ vào năm 1798. Hai năm sau đó, Quốc hội Hoa Kỳ sử dụng tên của công ty và dùng nó như tên cho lãnh thổ mới lập.
Lãnh thổ Indiana bắt đầu có ba quận: St. Clair (một phần của Illinois ngày nay, nằm ở bên kia sông đối diện St Louis và ở phía nam sông Illinois), Randolph (một phần của Illinois ngày nay, ở phía nam Quận St. Clair), và Knox (Indiana ngày nay, một số phần đất thuộc Illinois, Michigan và Wisconsin ngày nay). Cũng có một khu vực tương ứng gần bằng miền bắc Illinois, phần lớn Wisconsin, góc đông bắc của Minnesota, và phần phía tây của bán đảo thượng của Michigan.
Thống đốc lãnh thổ đầu tiên là William Henry Harrison. Quận Harrison được đặt tên để vinh danh ông. Ông được quốc gia biết đến trong nhiệm kỳ thống đốc vì là một vị anh hùng của trận Tippecanoe. Sau này ông trở thành tổng thống thứ chín của Hoa Kỳ. Harrison làm thống đốc từ ngày 13 tháng 5 năm 1800 đến ngày 28 tháng 12 năm 1812. Harrison không đến lãnh thổ để làm thống đốc mãi cho đến tháng 1 năm 1801. John Gibson, trưởng lãnh thổ vụ, phục vụ trong vai trò quyền thống đốc từ khi lãnh thổ được thành lập cho đến khi Harrison đến nhận chức. Thống đốc cai quản lãnh thổ với sự trợ lực của một ban gồm ba thẩm phán của tòa án tổng quát. Tòa án phục vụ trong vai trò của cơ quan tư pháp và lập pháp cao nhất tại lãnh thổ. Các thành viên của tòa án này do thống đốc bổ nhiệm.
Trong vai trò một thống đốc lãnh thổ, giai đoạn đầu tiên theo như được ghi trong Sắc lệnh Tây Bắc, Harrison có quyền lực mở rộng tại lãnh thổ mới trong đó có quyền bổ nhiệm tất cả các viên chức chính quyền lãnh thổ cũng như đại hội đồng lãnh thổ, quyền ra lệnh chia lãnh thổ thành các địa khu. Harrison năng nổ mở rộng lãnh thổ vì sự nghiệp chính trị của ông có liên hệ mật thiết với việc Indianna vươn lên để trở thành một tiểu bang. Năm 1803 tổng thống Hoa Kỳ Thomas Jefferson cho phép Harrison thương thuyết và thu xếp các hiệp ước với các bộ lạc người bản địa Mỹ tại lãnh thổ. Harrison trông coi việc ký kết 13 hiệp ước, mua hơn đất đai từ các lãnh tụ người bản địa Mỹ. Trong số đất đai này là phần lớn miền nam tiểu bang Indiana ngày nay.
Hiệp ước Vincennes là hiệp ước đầu tiên mà Harrison thương thuyết khi có quyền lực mới của mình. Năm 1803 ông mời các lãnh tụ của các bộ lạc địa phương đến Vincennes để ký một hiệp ước công nhận quyền làm chủ vùng đất Vincennes của người Mỹ. Khu vực này trước đó bị George Rogers Clark chiếm được từ Pháp trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ. Hiệp ước Grouseland năm 1805 giúp Hoa Kỳ lấy thêm được tất cả tây nam Indiana. Tuy nhiên căng thẳng gia tăng tại vùng biên cương và gần như đến lúc bùng nổ sau khi Hiệp ước Fort Wayne đầy tranh cãi được ký kết vào năm 1809. Trong hiệp ước này, Harrison mua trên đất đai của người bản địa Mỹ tại miền trung Indiana và miền đông Illinois.
Sự sẵn có đất rẻ giúp cho dân số lãnh thổ tăng nhanh với hàng ngàn người định cư mới tìm đến vùng lãnh thổ này mỗi năm. Các khu định cư lớn bắt đầu mọc lên quanh vùng Ngũ Đại Hồ, sông Ohio, sông Wabash, và sông Mississippi. Tuy nhiên, phần lớn vùng nội địa vẫn do các bộ lạc người bản địa sinh sống và không được định cư.
Địa khu Louisiana.
Từ ngày 1 tháng 10 năm 1804 cho đến 4 tháng 7 năm 1805, quyền hành pháp của Địa khu Louisiana được tạm thời giao cho thống đốc và các thẩm phán của Lãnh thổ để trông coi các vùng đất vừa mới mua được. Theo các điều khoản của đạo luật thành lập chính quyền tạm thời, thống đốc và các thẩm phán của Lãnh thổ Indiana theo dự trù sẽ họp mặt mỗi năm hai lần tại St. Louis, Missouri. Cư dân của địa khu mới phản đối nhiều điều khoản của chính phủ Hoa Kỳ mới. Thí dụ như họ phản đối việc sử dụng thông luật thay luật dân sự. Ngày 4 tháng 7 năm 1805, Địa khu Louisiana có hiệu lực được tổ chức thành một khu hành chính riêng biệt với tên gọi là Lãnh thổ Louisiana.
Một trong số các sự kiện nổi bật nhất trong thời kỳ này là Hiệp ước St. Louis mà theo đó bộ lạc Sac và bộ lạc Fox nhượng lại đông bắc Missouri, miền bắc Illinois và miền nam Wisconsin cho Hoa Kỳ. Oán thù vì hiệp ước này nên các bộ lạc đã đứng theo phe Vương quốc Anh trong Chiến tranh 1812 bằng các cuộc đột kích dọc theo sông Missouri, Ohio và Mississippi cũng như họ đã gây ra cuộc Chiến tranh Black Hawk năm 1832.
Chính trị.
Năm 1803, Harrison bắt đầu vận động hành lang tại Quốc hội Hoa Kỳ để bãi bỏ Điều khoản 6 trong Sắc lệnh Tây Bắc, nghiêm cấm chủ nghĩa nô lệ tại Lãnh thổ Tây Bắc nguyên thủy. Mục đích của cuộc vận động bãi bỏ điều khoản là để hợp pháp hóa chủ nghĩa nô lệ tại Lãnh thổ Indiana. Ông tuyên bố việc hợp pháp hóa chủ nghĩa nô lệ là cần thiết để giúp vùng này thêm hấp dẫn đối với người định cư và sau đó là giúp lãnh thổ dễ sống hơn về mặt kinh tế. Lãnh thổ được phép có đại biểu trong Quốc hội Hoa Kỳ vào năm 1805, và nhân vật ủng hộ chủ nghĩa nô lệ Benjamin Parke trở thành đại biểu đầu tiên của lãnh thổ tại quốc hội. Parke dùng vị thế của mình để được Quốc hội ủng hộ cuộc vận động hành lang của Harrison. Kết quả là Điều khoản 6 trong Sắc lệnh Tây Bắc bị đình chỉ trong 10 năm. Các lãnh thổ bị ràng buộc bởi sắc lệnh cũng được phép hợp pháp hóa chủ nghĩa nô lệ. Cũng qua cùng đạo luật đó, Quốc hội Hoa Kỳ bãi bỏ quyền lực hành pháp của toàn án tổng quát và lập ra một hội đồng lập pháp do dân chúng bầu lên.
Những cố gắng của Harrison đã gây ra sự bực bội không nhỏ trong số nhiều người theo giáo phái Quakers định cư ở phía đông lãnh thổ. Họ đáp trả bằng cách thành lập một đảng phái chống chủ nghĩa nô lệ. Trong cuộc bầu cử năm 1805, Davis Floyd của Quận Clark là đại biểu duy nhất chống chủ nghĩa nô lệ được bầu vào hội đồng lập pháp. Các dự luật của Harrison nhằm hợp pháp hóa chủ nghĩa nô lệ bị ngăn cản bởi các đại biểu từ Quận St. Clair. Họ từ chối hợp pháp hóa chủ nghĩa nô lệ trừ khi Harrison ủng hộ thỉnh cầu của họ thành lập một lãnh thổ riêng biệt mà Harrison chống đối. Năm 1809, dân định cư của Quận St. Clair thỉnh cầu Quốc hội Hoa Kỳ thành lập một lãnh thổ riêng biệt. Mặc dù Harrison không chấp thuận nhưng Lãnh thổ Illinois vẫn được thành lập. Cùng năm đó, Quốc hội Hoa Kỳ cho phép Lãnh thổ Indiana quyền bầu ra một hạ viện lãnh thổ. Harrison thấy mình bị đối đầu với ngành lập pháp khi đảng chống chủ nghĩa nô lệ giành được quyền lực trong cuộc bầu cử năm đó. Họ lập tức bãi bỏ nhiều trong số các kế hoạch của ông về vấn đề nô lệ.
Thủ phủ lãnh thổ vẫn nằm tại Vincennes trong 13 năm, Sau khi lãnh thổ được tái tổ chức năm 1809 và Lãnh thổ Illinois được tách ra, Vincennes lúc đó nằm trên rìa viễn tây của Lãnh thổ Indiana. Vì lý do nằm xa ở phía tây nên lập pháp lãnh thổ lập kế hoạch di chuyển thủ phủ đến một nơi gần trung tâm dân số hơn. Madison, Jeffersonville, và Corydon cạnh tranh nhau để trở thành thủ phủ mới. Harrison muốn chọn Corydon, một thị trấn ông thành lập và đặt tên trước đó và cũng là nơi ông làm chủ một địa sản. Tòa nhà thủ phủ mới được xây xong năm 1813 và chính quyền nhanh chóng dời về Corydon sau khi Chiến tranh 1812 bùng nổ vì sợ một cuộc tấn công vào Vincennes.
Chiến tranh Tecumseh.
Một phong trào phản kháng của người bản địa Mỹ chống lại sự bành trướng của Hoa Kỳ đã bắt đầu phát triển quanh hai anh em thuộc bộ lạc Shawnee là Tecumseh và Tenskwatawa (nhà tiên tri). Phong trào này được biết với tên gọi là Chiến tranh Tecumseh. Tenskwatawa thuyết phục các bộ lạc người bản địa rằng họ sẽ được bảo vệ bởi đấng siêu nhiên vĩ đại và họ sẽ không bị tổn thương nào nếu họ nổi lên chống lại người da trắng. Ông khuyến khích sự phản kháng bằng cách bảo các bộ lạc rằng chỉ nên trả phân nửa những gì họ thiếu những người buôn bán da trắng và từ bỏ tất cả những kiểu cách gì của người da trắng, thí dụ như quần áo, rượu whiskey, và súng. Năm 1810, Tecumseh cùng với khoảng 400 chiến binh vũ trang di hành đến Vincennes. Tại đây ông đối mặt Harrison và đòi hủy bỏ Hiệp ước Fort Wayne. Mặc dù Harrison từ chối hủy bỏ hiệp ước nhưng các chiến binh bản địa bỏ đi một cách hòa bình. Tuy nhiên, Tecumseh rất giận dữ và đe dọa trả đũa. Sau cuộc gặp mặt đó, Tecumseh đi gặp nhiều bộ lạc trong vùng với hy vọng thành lập một liên minh để đánh người Mỹ.
Năm 1811, trong lúc Tecumseh vẫn còn ở xa, Harrison được bộ trưởng chiến tranh là William Eustis cho phép hành quân chống lại liên minh thù địch để biểu dương lực lượng. Harrison cùng với một đơn vị gồm một ngàn quân di chuyển lên phía bắc trong một nỗ lực đe dọa bộ lạc Shawnee làm hòa. Mưu đồ này bị thất bại và các bộ lạc mở một cuộc tấn công chóp nhoáng vào quân của Harrison vào sáng sớm ngày 6 tháng 11. Trận đánh này được biết với tên gọi trận Tippecanoe. Cuối cùng Harrison giành được chiến thắng lừng danh của mình tại Prophetstown, gần sông Wabash và sông Tippecanoe. Harrison được tuyên dương công khai là một anh hùng quốc gia mặc dù sự thật rằng quân số của ông đông hơn quân của các bộ lạc và chịu nhiều tổn thất về nhân mạng hơn. Trận đánh mang đến cho ông danh tiếng tầm cỡ quốc gia và biệt danh "Old Tippecanoe". Chiến thắng này mở rộng vùng trung tâm Indiana cho định cư và cho phép người định cư di chuyển xa hơn một cách an toàn bên ngoài vành đai phía nam của tiểu bang.
Chiến tranh 1812.
Chiến tranh giữa Tecumseh và Harrison nhập vào cuộc Chiến tranh 1812 khi liên minh bản địa Mỹ liên kết đồng minh với lực lượng Anh tại Canada. Tháng 5 năm 1812, một cuộc họp tất cả các lãnh tụ bộ lạc trong vùng được tổ chức trong làng Mississinewa của bộ lạc Miami do tù trưởng Little Turtle chủ trì. Đa số bộ lạc quyết định giữ trung lập trong suốt cuộc xung đột và bác bỏ các kế hoạch nổi loạn tiếp tục của Tecumseh. Tuy bị nhiều bộ lạc bỏ rơi nhưng Tecumseh vẫn tiếp tục lãnh đạo lực lượng yếu dần của mình chống người Mỹ, và di chuyển xa hơn về phía bắc là nơi ông có thể nhận được sự hậu thuẫn từ quân đội Anh. Những người theo ông còn lại phía sau vẫn tiếp tục đột kích vùng quê và lâm chiến trong trận bao vây đồn Harrison. Đây là chiến thắng trên bộ đầu tiên của Lục quân Hoa Kỳ trong suốt cuộc chiến. John Gibson phục vụ trong vai trò quyền thống đốc trong suốt thời gian Chiến tranh 1812 trong khi Harrison lãnh đạo quân đội. Sau khi Harrison được thay thế vào tháng 6 năm 1812, Gibson tiếp tục làm quyền thống đốc cho đến khi thống đốc mới Thomas Posey đến nhận nhiệm sở vào tháng 5 năm 1813.
Vô số các trận đánh khác xảy ra trong tiểu bang Indiana hiện đại gồm có trận vây đồn Wayne, vụ thảm sát Pigeon Roost và trận Mississinewa. Phần đông người bản địa Mỹ vẫn thụ động trong suốt cuộc chiến, nhưng có nhiều vụ đụng độ giữa người định cư và các bộ lạc dẫn đến cái chết của hàng trăm người trong lãnh thổ. Hiệp ước Ghent, được ký kết năm 1814, kết thúc chiến tranh và làm cho người định cư Mỹ bớt lo âu vỉ mối đe dọa của người Anh gần đó và đồng minh bản địa của họ.
Trở thành tiểu bang.
Năm 1812, Jonathan Jennings đánh bại ứng cử viên do Harrison chọn lựa và trở thành đại biểu của lãnh thổ tại Quốc hội Hoa Kỳ. Jennings sử dụng vị thế của mình để tìm cách tăng tốc đường trở thành tiểu bang cho Indiana bằng cách giới thiệu dự luật cho phép Indiana trở thành tiểu bang mặc dù dân số của toàn lãnh thổ khi đó dưới 25 ngàn người. Jennings làm điều này ngược lại ý muốn của thống đốc sắp nhậm chức là Thomas Posey. Có bất đồng được ghi nhận giữa hai người về đề tài này. Không có hành động nào được đưa ra để thảo luận về dự luật này vì Chiến tranh 1812 bùng nổ.
Thomas Posey được bổ nhiệm làm thống đốc lãnh thổ vào ngày 3 tháng 3 năm 1813, và phục vụ cho đến khi thống đốc tiểu bang đầu tiên tuyên thệ nhậm chức vào ngày 7 tháng 11 năm 1816.
Tháng 2 năm 1815, Hạ viện Hoa Kỳ bắt đầu tranh luận về việc cho phép Lãnh thổ Indiana trở thành tiểu bang. Đầu năm 1816, lãnh thổ chấp thuận một cuộc điều tra dân số và Pennington được giao trọng trách làm tổng thanh tra cho cuộc điều tra dân số. Dân số lãnh thổ được tìm thấy là 63.897 người, như vậy trên ngưỡng cần có để một lãnh thổ trở thành tiểu bang như đã được nói đến trong Sắc lệnh Tây Bắc. Ngày 13 tháng 5 năm 1816, đạo luật thực thi được thông qua và lãnh thổ được phép thành lập một chính quyền tiểu bang nhưng phải được Quốc hội Hoa Kỳ chấp thuận. Đại hội hiến pháp họp tại Corydon vào năm 1816. Hiến pháp đầu tiên của tiểu bang được thảo xong ngày 10 tháng 6 và các cuộc bầu cử được tổ chức vào tháng 8 để tìm người cho các chức vụ của chính quyền tiểu bang mới. Tháng 11 năm đó, Hiến pháp được Quốc hội Hoa Kỳ chấp thuận và chính quyền lãnh thổ bị bãi bỏ, kết thúc sự tồn tại của Lãnh thổ Indiana và thay nó bằng tiểu bang Indiana.
Tưởng niệm.
Lãnh thổ Indiana được tưởng niệm bằng một buổi lễ hàng năm ở Corydon tại địa điểm trung tâm quanh tòa nhà quốc hội lãnh thổ. Buổi lễ gồm có các diễn viên trong trang phục thời kỳ đó, tham gia diễn lại các sự kiện quá khứ và đóng vai như một số người định cư nổi tiếng xưa của Indiana. Các buổi lễ tưởng niệm khác cũng xảy ra tại Vincennes và Madison. Lịch sử thời kỳ này cũng được ghi trên các bia mốc và tượng đài lịch sử được dựng khắp cựu lãnh thổ. | 1 | null |
Eugen Ludwig Hannibal von Delitz (31 tháng 1 năm 1820 tại Berlin – 22 tháng 3 năm 1888 tại Potsdam) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng đến cấp Thiếu tướng. Ông từng tham gia cuộc Chiến tranh Bảy tuần chống Áo năm 1866 và cuộc chiến tranh chống Pháp vào các năm 1870 – 1871.
Tiểu sử.
Thân thế.
Eugen sinh vào tháng 1 năm 1820, là con trai của Ferdinand Eugen von Delitz (3 tháng 9 năm 1787 tại Temnik, Kreis Saatzig – 15 tháng 10 năm 1855 tại Neuruppin) với vợ của ông này là Adelheid, nhũ danh Vogel von Falckenstein (8 tháng 12 năm 1799 tại Breslau – 23 tháng 8 năm 1880 tại Neuruppin). Cha của ông là một Đại tá đã về hưu của Trung đoàn Bộ binh số 21.
Sự nghiệp quân sự.
Thời trẻ, Delitz học Trung học Chính quy ("Gymnasium") tại Stargard ở Hinterpommern ("Đông Pommern"), tiếp theo đó ông học trường Trung học Chính quy Kölln tại Berlin. Đến ngày 1 tháng 4 năm 1839, ông gia nhập Tiểu đoàn Bắn súng trường Cận vệ của quân đội Phổ với vai trò là lính tình nguyện một năm ("Einjährig-Freiwilliger"). Năm sau (1840), ông được phong cấp hàm Thiếu úy trong Trung đoàn Phóng lựu Hoàng đế Franz. Ba năm sau (1843), ông được chỉ định vào Tiểu đoàn Trừ bị Cận vệ Tổng hợp. Năm 1844, ông đi thực tập ở Xưởng đại bác Potsdam trong vòng 5 tháng. Theo yêu cầu của bản thân, ông được giải ngũ khỏi lực lượng thường trực vào năm 1847 và chuyển sang Tiểu đoàn II (Lissa) Trung đoàn Dân quân Cận vệ 3. Năm sau (1848), ông chiến đấu trong chiến dịch chống Đan Mạch. Tiếp theo đó, ông được điều vào Tiểu đoàn II (Koblenz) Trung đoàn Dân quân Cận vệ 4 kể từ tháng 5 năm 1845 đến tháng 9 năm 1849. Trong năm 1849, ông tham gia trấn áp cuộc nổi dậy ở Baden, chiến đấu trong các trận đánh ở Kirchheim-Bolanden, Neudorf và Kuppenheim.
Do tài năng phác thảo mà Delitz để thể hiện khi ông vẽ phác họa các chiến địa, ông được bổ nhiệm vào các cơ quan Đo đạc Địa hình ở Eilenburg và Lützen vào năm 1849. Ba năm sau, ông được thăng quân hàm Trung úy vào ngày 11 tháng 5 năm 1852. Tháng 3 năm 1853, ông được chỉ định vào cơ quan Đo đạc Địa hình ở Querfurt. Hai tháng sau, ông lại chuyển sang Cơ quan Đo đạc địa hình tại Berlin vào tháng 10. Sau khi được thăng chức Đại úy vào ngày 10 tháng 3 năm 1855, ông được điều đến viện thiếu sinh quân ở Berlin vào ngày 1 tháng 5 năm 1855 để làm giảng viên tại đây trong vòng một năm. Vào ngày 15 tháng 8 năm 1859, ông được đổi sang bộ phận Dân quân Cận vệ của Tiểu đoàn Dân quân Hamm. Bốn năm sau, ông được lên cấp bậc Thiếu tá và lãnh chức Chỉ huy trưởng Trung đoàn Phóng lựu Cận vệ 2 Hoàng đế Franz vào ngày 10 tháng 2 năm 1863.
Trong cuộc Chiến tranh Bảy tuần chống Áo, ông tham gia chiến đấu trong các trận đánh ở Soor và Alt Rognitz vào ngày 28 tháng 6, cùng với trận Königgrätz vào ngày 3 tháng 7. Ngày 20 tháng 9 năm 1866, ông được trao tặng Huân chương Vương miện hạng III đính kèm Thanh gươm. Vào cuối năm 1866, ông được thăng chức Thượng tá. Mùa hè năm 1869, ông trở thành Đại tá và Chỉ huy trưởng Trung đoàn Bộ binh 15.
Trong chiến dịch đánh Pháp vào các năm 1870 – 1871, ông đã tham chiến trong các trận đánh ở Colombey ngày 14 tháng 8 (Thập tự Sắt hạng II) và Gravelotte-St. Privat ngày 18 tháng 8, cùng với cuộc vây hãm Metz và các trận đánh lẻ tẻ ở Jussy, Mercy le Haut, Marrac, Marnay, Bryens và Vorges. Vào tháng 3 năm 1871, ông được tặng thưởng Huân chương Thập tự Sắt hạng I.
Bảy tháng sau, Delitz nhậm chức Thống lĩnh Minden tại Westfalen vào tháng 10. Đến năm 1873, ông lên cấp hàm Thiếu tướng. Vào ngày 12 tháng 12 năm 1874, ông giải ngũ, đồng thời được tặng thưởng Huân chương Đại bàng Đỏ hạng II kèm theo Bó sồi.
Vào tháng 12 năm 1882, Delitz là thành viên Hội đồng Quản trị của tổ chức "Quốc gia tri ân" (tiếng Đức: Nationaldanks) dành cho thương binh, và giữ cương vị Phó Chủ tịch Hội đồng Quản trị cho cố Thiếu tướngc Freiherr von Eberstein. Ông từ trần ở Potsdam vào tháng 3 năm 1888.
Gia đình.
Vào ngày 29 tháng 6 năm 1845, Delitz thành hôn với Luise Schöning (5 thang 1 năm 1826 tại Berlin – 25 tháng 5 năm 1902 ở Bad Grund tại Oberharz) ở Sakrow. Cuộc hôn nhân đã đem lại cho họ hai người con trai. Người con trưởng là Thiếu úy quân đội Phổ, đã bị thương trong trận đánh ở Le Bourget và mất tại một bệnh viện dã chiến ở Pháp do hậu quả của vết thương vào năm 1870. Người con thứ hai, sinh vào ngày 23 tháng 9 năm 1855, từng là Thiếu úy trong Trung đoàn Phóng lựu Cận vệ 2, sau này ông định cư ở Chile.
Eugen von Delitz là cháu trai của Berend Ludwig von Delitz. | 1 | null |
John Marshall Hamilton (sinh ngày 28 tháng 5 năm 1847 – mất ngày 22 tháng 9 năm 1905) là Thống đốc thứ 18 của bang Illinois nhiệm kỳ từ năm 1883 đến 1885. Sinh ra ở Quận Union, Ohio, Hamilton đã quan tâm đến chính trị khi ông còn rất trẻ.
Sau khi tốt nghiệp Đại học Ohio Wesleyan, ông bắt đầu học luật và được nhận vào làm ở một quán bar. Là một luật sư khá nổi tiếng ở Bloomington, Illinois, Hamilton được bầu vào Thượng viện Illinois vào năm 1876 và làm việc tại đó cho đến năm 1881, khi ông được bầu làm Phó Thống đốc Illinois. Khi Shelby Moore Cullom từ chức sau cuộc bầu cử vào Thượng viện Hoa Kỳ, Hamilton đã trở thành Thống đốc Illinois. Ông đã dành phần đời còn lại của mình để làm luật sư ở Chicago. Mãi đến năm 1905 thì ông qua đời và được chôn cất tại nghĩa trang Oak Woods. | 1 | null |
Caimaninae hay còn gọi là cá sấu Caiman là một phân họ cá sấu phân bố ở Trung và Nam Mỹ, đặc biệt là tại vùng rừng Nam Mỹ. Họ cá sấu có 5 đại diện trong chi "Caiman", các loài này khác với cá sấu thực sự bởi thiếu một vách ngăn giữa các xương mũi, và giáp bụng được cấu tạo bởi các xương vảy chồng chéo, mỗi xương này được tạo thành hai cặp được liên kết nhau bằng một khâu. Một số tác giả lại chia chi này thành 3, gồm "Paleosuchus" và Caiman đen thành "Melanosuchus". Caiman có xu hướng nhanh nhẹn hơn các loài giống cá sấu trong môi trường của chúng, và có răng dài hơn, bén hơn cá sấu thực sự.
Tổng quan.
Loài lớn nhất gần tuyệt chủng là "Melanosuchus niger", hay Caiman đen của sông Amazon. Caiman đen dài đến 5 m, kỷ lục lớn nhất dài 5,79 m. Caiman đen và cá sấu Mỹ là các thành viên duy nhất trong họ Cá sấu thể hiện những mối đe dọa đối với con người. Mặc dù Caiman không được nghiên cứu sâu, các nhà khoa học đã học được rằng chu kỳ giao phối của chúng liên quan đến các chu kỳ mưa và mực nước sông, điều này tạo cơ hội sống sót cho con cái của chúng. Cá sấu Caiman là chúng là con mồi ưa thích của báo đốm, loài báo này rất thích ăn thịt cá sấu.
Thông thường với kích thước nhỏ, cá sấu Caiman nói chung không được coi là một mối nguy hiểm nghiêm trọng cho con người, những con cá sấu nhỏ hơn được coi là không có khả năng giết chết một người. Tuy nhiên, ngay cả những loài nhỏ nhất có thể gây ra vết cắn đau đớn cần phải khâu nếu bị cắn mạnh. Ngoài ra, một đứa trẻ nhỏ có thể có kích thước tương tự như con mồi của một số loài cá sấu mà không có khả năng săn những người trưởng thành. Bên cạnh đó, cá sấu caiman đen cũng là những loài gây nguy hiểm cho con người. Năm 2010, nhà sinh học Deise Nishimura đã bị mất một chân khi chiến đấu với một con cá sấu caiman đen sau 8 tháng con vật này trốn dưới thuyền của bà. Loài cá sấu này có thể dài tới 6m, hộp sọ của nó lớn và nặng hơn cá sấu sông Nile và là động vật ăn thịt đáng gờm trong các vùng sông nước Amazon. Về cơ bản chúng như các vị vua của dòng sông, chúng ăn gần như mọi thứ bao gồm những con cá Piranha, khỉ, cá rô, hươu, nai, trăn Nam Mỹ, chúng hoàn toàn có thể tấn công con người. | 1 | null |
Bad Blood là album phòng thu đầu tay của ban nhạc alternative rock Anh Bastille. Nó được phát hành vào ngày 04 tháng 3 năm 2013 tại Vương quốc Anh, và ngày 03 Tháng Chín năm 2013 tại Hoa Kỳ, với các đĩa đơn "Overjoyed", "Bad Blood", "Flaws", "Pompeii", "Laura Palmer", "Things We Lost in the Fire". Album được thu âm tại London và sản xuất bởi ca sĩ chính, Dan Smith, và Mark Crew.
Kỷ lục đứng vị trí số một trên bảng xếp hạng UK Albums và đã được chứng nhận đĩa bạch kim tại Vương quốc Anh. Nó cũng đã được xếp hạng trên Billboard 200 Mỹ, cũng như ở một số nước khác.
Một phiên bản mở rộng của album mang tên "All This Bad Blood", được phát hành vào 25 tháng 11 năm 2013, và đĩa đơn "Of the Night".
Tiếp nhận phê bình.
"Bad Blood" nhận được đánh giá trái chiều từ các nhà phê bình âm nhạc. Ở Metacritic, lấy tiêu chuẩn là 100 điểm dựa trên sự đánh giá của các chuyên gia hàng đầu, album nhận được 58 điểm, dựa trên 12 đánh giá. | 1 | null |
Lãnh thổ Illinois (tiếng Anh: "Territory of Illinois") từng là một lãnh thổ hợp nhất có tổ chức, tồn tại từ ngày 1 tháng 3 năm 1809 cho đến ngày 3 tháng 12 năm 1818 khi phần phía nam của lãnh thổ được phép gia nhập liên bang để trở thành tiểu bang Illinois. Khu này trước đó từng được biết với tên gọi "Xứ Illinois" trong khi người Pháp cai trị, trước hết là một phần của Canada thuộc Pháp và sau đó là một phần của Louisiana thuộc Pháp. Vương quốc Anh giành được vùng này bằng Hiệp định Paris năm 1763, đánh dấu kết thúc Chiến tranh người bản địa Mỹ và Pháp. Trong thời Chiến tranh Cách mạng Mỹ, đại tá George Rogers Clark chiếm toàn bộ Xứ Illinois cho Virginia. Virginia thiết lập "Quận Illinois" để thực hiện việc cai trị trên danh nghĩa khu vực này. Virginia sau đó nhượng lại gần như toàn bộ đất đại ở phía bắc sông Ohio cho chính phủ liên bang Hoa Kỳ để xoa dịu sự phản đối của các tiểu bang không giáp biển. Khu vực này trở thành một phần của Lãnh thổ Tây Bắc thuộc Hoa Kỳ (từ ngày 13 tháng 7 năm 1787 cho đến 4 tháng 7 năm 1800), và sau đó trở thành một phần của Lãnh thổ Indiana khi Ohio chuẩn bị trở thành một tiểu bang. Ngày 3 tháng 2 năm 1809, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua luật thành lập Lãnh thổ Illinois sau khi quốc hội nhận được thỉnh cầu của các cư dân tại các khu vực viễn tây phàn nàn về những khó khăn khi tham gia vào các vấn đề lãnh thổ tại Indiana.
Ranh giới lãnh thổ.
Lãnh thổ Illinois ban đầu gồm có đất đai mà sau này trở thành các tiểu bang Illinois, Wisconsin, phần phía đông của Minnesota, và phần phía tây bán đảo thượng của Michigan. Khi Illinois chuẩn bị trở thành một tiểu bang, khu vực còn lại của lãnh thổ được nhập vào Lãnh thổ Michigan.
Các ranh giới ban đầu của lãnh thổ được xác định như sau:
"...tất cả phần đất của Lãnh thổ Indiana nằm ở phía tây sông Wabash, và đường phân giới trực tiếp được vẽ từ sông Wabash như đã nói đến và Post Vincennes, đi về hướng bắc đến đường biên giới giữa Hoa Kỳ và Canada..."
Kaskaskia là thủ phủ lãnh thổ. Điều tra dân số năm 1810 cho thấy lãnh thổ có dân số là 12.282 người.
Các trưởng lãnh thổ vụ.
Các trưởng lãnh thổ vụ của Lãnh thổ Illinois:
Giải thể.
Năm 1818, phân nửa lãnh thổ ở phía nam được phép gia nhập liên bang để trở thành tiểu bang Illinois. Phần nữa phía bắc trở thành một phần của Lãnh thổ Michigan. | 1 | null |
Làng Greenwich,
thường được người địa phương gọi đơn giản là "Làng", là một khu cư trú rộng lớn ở bờ tây của Hạ Manhattan tại thành phố New York, Bang New York. Phần lớn quận này là nơi định cư của những gia đình thuộc tầng lớp trung lưu cao (upper middle class). Tuy vậy, Làng Greenwich được biết đến từ cuối thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20 như là nơi trú ẩn của các nghệ sĩ, thiên đường của chủ nghĩa Bohemian phóng khoáng, và là nơi khai sinh của cả phong trào phản văn hóa của thập niên 1960 lẫn thế hệ Beat ở Bờ Đông. Chính những thứ đem đến đặc điểm hấp dẫn ban đầu cho cộng đồng này sau đó đã đóng góp cho sự chỉnh trang đô thị và thương mại hóa nơi đây. Tên của làng này đã được Anh hóa từ tên tiếng Hà Lan "Groenwijck", nghĩa là "Quận Xanh", thành Greenwich, tên một khu tự quản Luân Đôn, khu Greenwich.
Vị trí.
Khu dân cư này được bao bọc bởi đường Broadway về phía đông, sông Hudson về phía tây, phố Houston về phía nam, phố 14 về phía bắc, và gần như nằm tại trung tâm của quảng trường Washington và Đại học New York. Các khu lân cận xung quanh nó là East Village và NoHo ở phía đông, SoHo ở phía nam, và Chelsea ở phía bắc. East Village từng được xem là một phần của Lower East Side và không bao giờ có dính dáng đến Làng Greenwich.
Tham khảo.
Giải thích ghi chú
Chú thích | 1 | null |
CJ E&M Film Division (CJ E&M Pictures), trước đây là CJ Entertainment (), là một công ty giải trí của Hàn Quốc tham gia vào các lĩnh vực triển lãm, sản xuất, đầu tư, phân phối phim. Đây là công ty giải trí lớn nhất ở Hàn Quốc và là một công ty con của tập đoàn CJ.
Lịch sử.
Đầu năm 1995, Cheil Jedang đầu tư vào công ty phim mới nổi DreamWorks SKG, và vào tháng 6 cùng năm đó, Cheil Jedang thành lập bộ phận dịch vụ giải trí của riêng mình. Tên của bộ phận được thay đổi thành CJ Entertainment vào tháng 9 năm sau, bộ phim đầu tiên họ phân phối là "Secrets and Lies". Để nâng cao vị thế của họ trong ngành công nghiệp, CJ Entertainment xây dựng rạp chiếu phim đầu tiên của Hàn Quốc: CGV Gangbyeon 11, khai mạc vào tháng 4 năm 1998.
Tầm quan trọng của CJ Entertainment trong ngành công nghiệp điện ảnh Hàn Quốc đã tăng trưởng trong năm 1997-1998 khi quốc gia bị vướng vào cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Nhiều công ty điện ảnh nhỏ phải đóng cửa, CJ Entertainment đã làm nên nhiều thành công với bộ phim "Shiri" (1999). Sự thành công của các bộ phim giúp công ty phát triển thành một trong hai công ty điện ảnh lớn nhất trong nước. Gần đây CJ Entertainment đã mở rộng sang các lĩnh vực khác của ngành công nghiệp giải trí, bao gồm cả Internet và truyền hình cáp.
Bắt đầu từ năm 2007, CJ Entertainment là nhà phân phối tại Hàn Quốc cho các bộ phim của Paramount Pictures (bao gồm cả các phim của DreamWorks được mua lại bởi Paramount). CJ đã được phát hành các phim của DreamWorks gần một thập kỷ, công ty chiếm thị phần cao nhất trong các nhà phân phối với 27,8%.
Trong năm 2010, CJ Entertainment được sáp nhập với CJ Media, Mnet Media, On Media và CJ Internet để lập thành công ty giải trí và truyền thông CJ E & M, trực thuộc tập đoàn CJ.
Vào tháng 7 năm 2018, công ty mẹ của CJ Entertainment là CJ E&M đã sáp nhập vào công ty mới CJ ENM. | 1 | null |
Vetulicolia là một ngành tuyệt chủng bao gồm một vài sinh vật kỷ Cambri. Cơ thể của chúng bao gồm hai phần; phần trước của chúng to tướng và được bịt bằng một cái "miệng" lớn và một hàng năm vật tròn mỗi bên đã được giải thích là mang - hoặc ít nhất là lỗ hở trong vùng lân cận của họng. Phần sau của chúng bao gồm bảy đoạn.
Hệ sinh thái và lối sống.
Từ hình dáng bề ngoài giống như con nòng nọc, đôi là hình chiếc lá hoặc hình mái chèo và nhiều cấu trúc cơ thể sắp xếp khác nhau, người ta cho rằng tất cả các loài trong ngành Vetulicolia được phát hiện cho đến nay đều là những động vật bơi lội dành nhiều thời gian, nếu không muốn nói là tất cả , sống trong cột nước. Một số nhóm, như Chi Vetulicola, được sắp xếp hợp lý hơn (hoàn chỉnh với keels bụng) so với các nhóm khác, chẳng hạn như họ Didazoonidae giống nòng nọc.
Bởi vì tất cả loài Vetulicolia có miệng không có đặc điểm để cầm, nên người ta tự suy luận ra rằng chúng không phải là động vật ăn thịt. Vì các khe mang của chúng, nhiều nhà nghiên cứu coi Vetulicolia là động vật phù du. Các lớp trầm tích tụ trong ruột của các hóa thạch của chúng đã khiến một số người cho rằng chúng là nguồn thức ăn. Điều này bị tranh cãi, vì những thức ăn có xu hướng có ruột thẳng, trong khi chân sau của các loài Vetulicolia có hình xoắn ốc. Chúng tích cực bơi từ vùng đáy biển này sang vùng đáy biển khác, đồng thời bổ sung dinh dưỡng bằng cách ăn lọc.
Phân loại học và tiến hoá.
Như được đề xuất ban đầu, ngành bao gồm Didazoonidae (Didazoon, Pomatrum và Xidazoon) và Vetulicolidae (Vetulicola và Banffia). Các nhóm khác có thể liên quan bao gồm Yunnozoan.
Vị trí phân loại của các loài Vetulicolia vẫn còn tranh cãi. Một nhà nghiên cứu đã lập luận rằng Vetulicolia có thể đại diện cho một nhánh bên xuất hiện sớm của các động vật trong liên ngành Deuterostomia, và điều này ngủ ý rằng sự phân đoạn ở Cephalochordata và Vertebrata có thể bắt nguồn từ tổ tiên chung của Protostomia và Deuterostomia. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã miêu tả Skeemella từ Giữa Kỷ Cambri của Utah coi nó có mối quan hệ với Vetulicolia, nhưng cũng có các đặc điểm của Arthropoda, giờ đó đó gây nhầm lẫn việc gán Vetulicolia với Deuterostomia.
Dominguez & Jefferies đã lập luận, dựa trên phân tích hình thái học, rằng Vetulicolia (và theo ngụ ý, các loài Vetulicolia khác) là một loài Urochordata, và có lẽ một loài ấu trùng thuộc nhóm thân. Một số người đặt câu hỏi về mối liên quan giữa Tunicata với Larvacean (một lớp của phân ngành Sống đuôi), vì không có bằng chứng về sự phân khúc ở ở Tunicata, ấu trùng hoặc trưởng thành, có thể so sánh với sự phân đoạn ở Vetulicolia, rằng hậu môn của các loài Tunicata nằm trong tâm nhĩ, trong khi hậu môn của loài Vetulicolia nằm ở đầu cuối của đầu đuôi, và có lẽ quan trọng nhất: không có ống siphon toàn phần, hoặc cấu trúc tương tự được thấy ở các Vetulicolia. Tuy nhiên, nghiên cứu gần đây đã xác nhận một vị trí với Tunicata đối với Vetulicolia.
Đơn ngành của Deuterostomia không được ủng hộ mạnh mẽ. Nếu các Deuterostomia lại cận ngành, các khí hậu có thể có ở tổ tiên chung của các loài động vật Bilateria và Vetulicolia có thể là động vật miệng nguyên sinh nhóm thân giữa các khe hầu của hầu họng của tổ tiên. Nếu đúng như vậy, banffia có vẻ như không có khe hầu họng, có thể liên quan chặt chẽ hơn đến Protostomia nhóm- đỉnh hơn các nhóm khác. | 1 | null |
Hình tượng con Cá xuất hiện trong văn hóa từ Đông sang Tây với nhiều ý nghĩa biểu trưng. Đặc biệt con cá gắn liền với biểu tượng cho nguồn nước và sự no đủ.
Tổng quan.
Cá là các loài động vật thủy sinh sống trong môi trường nước, là động vật có xương sống với nhiều chủng loại đa dạng. Từ rất lâu, các loài cá nước ngọt cũng như cá biển nguồn thực phẩm dồi dào và quen thuộc con người và cũng chính vì vậy cá đã đi và nhiều nền văn hóa của các nước trên thế giới. Trong tiếng Việt, thuật ngữ cá đôi khi còn có nghĩa rộng chỉ về nhiều loài động vật khác sống trong môi trường nước, chẳng hạn như cá voi, cá heo hay cá sấu.
Trong văn hóa phương Tây, cá có ý nghĩa biểu trưng phổ biến với hình tượng Cung Song ngư trong Cung Hoàng đạo trong chiêm tinh học, hình tượng nàng tiên cá trong văn hóa dân gian, ký hiệu của Chúa trong tôn giáo hay là nhân vật cho các bộ phim kinh dị thời hiện đại. Trong văn hóa phương Đông, hình tượng "cá chép vượt Vũ Môn hóa rồng" là một điển tích được nhắc đến với niềm mong ước về sự nỗ lực và thành công, cá chép còn là vật cưỡi của Táo quân chầu trời, là vật phóng sinh theo nghi thức của Phật giáo. Hình tượng cá còn là biểu tượng cho một ngành nghề kinh tế quan trọng và thiết yếu Ngư nghiệp hay còn gọi là nghề cá, nghề đánh bắt cá.
Phương Tây.
Song ngư.
Hình tượng con cá xuất hiện từ rất sớm trong thần thoại và chiêm tinh của Hy Lạp. Người Hy Lạp cổ đại liên tưởng đến hình tượng Chòm sao Song Ngư để khái quát và hình dung lên hình tượng Cung Song Ngư trong 12 cung Hoàng Đạo. () là cung chiêm tinh thứ mười hai trong Hoàng Đạo, có nguồn gốc từ chòm sao Song Ngư. Nó là một trong 3 cung thuộc nguyên tố nước (cùng với Thiên Hạt và Cự Giải), và là một trong 4 cung biến đổi (cùng với Nhân Mã, Song Tử và Xử Nữ). Là cung thứ mười hai, Song Ngư gắn liền với nhà thứ mười hai của chiêm tinh học.
Trong Thần thoại Hy Lạp, có kể về Aphrodite, nữ thần sắc đẹp, và con trai Eros, thần tình yêu, đang đi dọc bờ sông thì con quỷ Typhon thình lình ngoi lên mặt nước định hủy diệt họ. Typhon là hậu duệ của Gaia và Tartarus. Không có vị thần trên đỉnh Olympus nào đủ mạnh để hủy diệt Typhon. Cách duy nhất để tránh khỏi Typhon là biến hình thành con vật như cá để bơi đi, họ nhảy xuống trốn dưới nước sông Eufrat. Aphrodite va Eros cũng biến thành cá, bơi vào nhánh sông và được hai con cá khác dẫn đường đưa đến nơi an toàn, nhảy xuống trốn dưới nước sông Eufrat. Chòm sao Song Ngư có biểu tượng hai con cá đan đuôi vào nhau để tưởng nhớ hành động cứu giúp thần sắc đẹp và tình yêu.
Kinh Thánh.
Trong cuốn sách của Jonah có miêu tả về một con cá lớn là vật của nhà tiên tri Jonah. Ichthys (còn được viết là Ichthus, hoặc Ikhthus, từ tiếng Koine Greek: , viết hoa ΙΧΘΥΣ hoặc ΙΧΘΥϹ) là một chữ Hy Lạp cổ và kinh điển có nghĩa là con cá. Trong tiếng Anh nó mang ý nghĩa là một vật tượng trưng, bao gồm hai hình cung bắt chéo vô nhau, ở phần cuối bên phải được kéo dài ra giống như cái đuôi cá. Vật tượng trưng này là ký hiệu bí mật đối với những ki tô giáo thuở đầu, và bao giờ thông tục còn được gọi là ký hiệu của cá hoặc cá của Jesus hay còn gọi là ký hiệu chỉ dẫn của Chúa
Trong Kinh Thánh cũng nhắc đến con cá thông qua câu chuyện về Hóa bánh ra nhiều kể về truyền cho dân chúng ngồi xuống cỏ rồi ông cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ. Và môn đệ trao cho dân chúng. Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại được mười hai giỏ đầy. Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con.
Nàng tiên cá.
Hình tượng phổ biến nhất về cá ở phương Tây chính là nàng tiên cá (Mỹ nhân ngư) thường xuất hiện trong thần thoại là một loài vật gồm sự tổng hợp phần đầu là người đàn bà còn nửa người sau thì không có chân nhưng bù lại được đuôi giống như cá. Nàng tiên cá được nhắc đến trong các tác phẩm dân gian, văn học, và văn hóa nổi tiếng. các nàng tiên cá thường nổi trên mặt biển và hát cho nhiều người và các vị thần linh nghe, người nghe có thể bị cuốn hút theo như bị bỏ bùa mê làm cho người nghe phải dừng làm việc rồi nhảy khỏi tàu hay điều khiển con tàu đi lòng vòng.
Những câu truyện khác là những nàng tiên cá đã có thử cứu người bằng cách kéo họ xuống nước để đưa họ về tới thế giới của người cá. Siren trong thần thoại Hy Lạp sau này còn được gọi là nàng tiên cá trong văn học dân gian. Sự thật, trong một số ngôn ngữ sử dụng một từ để gọi cho lẫn cá và chimsome, giống như là ngôn ngữ Maltese có chữ 'sirena', trên thực tế thì vẫn có hiệu tượng Hội chứng người cá, còn được gọi là "bệnh người cá".
Truyền thuyết về hình tượng nữa người nữa cá (người cá) đặc biệt là hình tượng Mỹ nhân ngư được mô tả nhiều trong các câu chuyện văn hóa, đặc biệt là câu chuyện Nàng tiên cá (Tiếng Đan Mạch: Den lille havfrue) là truyện cổ tích nổi tiếng của nhà văn, nhà thơ người Đan Mạch Hans Christian Andersen, kể về một nàng tiên cá nhỏ mong muốn từ bỏ cuộc sống dưới đáy biển và thân phận người cá của nàng để có được một linh hồn của con người và tình yêu của chàng hoàng tử loài người. Từ câu chuyện này, người ta đã dựng Tượng nàng tiên cá tại thủ đô Copenhagen của Đan Mạch để ghi nhớ. Đaị thi hào Puskin cũng có một bài thơi về nàng tiên cá. Tác phẩm nàng tiên cá còn được chuyển thể thành một bộ phim hoạt hình nổi tiếng Nàng tiên cá vào năm 1989 của hãng Disney, câu chuyện là nàng tiên cá Ariel lấy hoàng tử Eric, đánh mụ phù thủy dưới đáy biển là Ursuna, được sự chấp thuận của vua Triton là cha của Ariel, hai người lấy nhau và sống mãi mãi hạnh phúc bên nhau. Bộ phim Splash năm 1984 là bộ phim lãng mạn giả tưởng, chủ đề tình yêu giữa người với người cá (nàng tiên cá). Phim được đề cử giải Oscar kịch bản xuất sắc nhất, giải Quả cầu vàng phim hay nhất, đề cử trong top 100 phim hay nhất Viện phim Mỹ.
Văn hóa đại chúng.
Các loài cá còn được nhắc đến trong văn học với tiểu thuyết Ông già và biển cả (The Old Man and the Sea) của Hemingway kể về ông lão người Cuba, Santiago, người đã cố gắng chiến đấu trong ba ngày đêm vật lộn với một con cá kiếm khổng lồ trên biển vùng Giếng Lớn khi ông câu được nó. Sang đến ngày thứ ba, ông dùng lao đâm chết được con cá, buộc nó vào mạn thuyền và lôi về nhưng đàn cá mập đánh hơi thấy đã lăn xả tới, ông lại đem hết sức tàn chống chọi với lũ cá mập, phóng lao, thậm chí cả mái chèo để đánh. Ông giết được nhiều con, đuổi được chúng đi, nhưng cuối cùng khi nhìn đến con cá kiếm của mình thì nó đã bị rỉa hết thịt chỉ còn trơ lại một bộ xương khổng lồ. Ngoài ra còn có tác phẩm Con cá vàng của Puskin.
Các loài cá lớn hay cá dữ thường là nhân vật chính cho nhiều bộ phim kinh dị rùng rợn, (đặc biệt là cá mập, cá răng đao) với các bộ phim như Hàm cá mập, biển xanh sâu thẳm, cá mập lên bờ, cá hố ăn thịt người... đồng thời còn có tiểu thuyết giả tưởng về người cá của Nga (tiếng Nga: "Человек-амфибия") là tên gọi cuốn tiểu thuyết viễn tưởng của nhà văn Aleksandr Belyaev về một chàng trai có khả năng sống được dưới nước, ra đời năm 1927 và sau đó là bộ phim Người cá là một phiên bản điện ảnh của cuốn tiểu thuyết giả tưởng cùng tên, được viết bởi nhà văn Aleksandr Belyaev. Buổi chiếu phim ra mắt được tổ chức vào ngày 3 tháng 1 năm 1962 và đã thu hút được 65,5 triệu lượt người xem.
Phương Đông.
Văn hóa đại chúng.
Trong văn hóa phương Đông và đặc biệt là văn hóa Việt Nam, con cá gắn với các loài động vật thủy sinh nói chung và coi như một biểu tượng của thực phẩm. Cá là con vật trung tâm trong việc đánh bắt các loài thủy sản, hải sản, từ Hán Việt: Ngư nghiệp trong đó (chữ Ngư có nghĩa là cá) dùng để chỉ về nghề khai thác các sản vật từ môi trường nước (và có phạm vi rộng tương tự như nông nghiệp, lâm nghiệp), người Việt đã dùng cụm từ nghề đánh cá hay nghề cá hoặc các thuật ngữ như câu cá qua đó nói lên tầm quan trọng cua cá hoặc là ngư học, liên tưởng về cá.
Người Việt Nam có câu: "Tôm, cua, rùa, cá" dùng để chỉ về những hải sản, hoặc cá cùng với các loài vật khác xuất hiện trong trò chơi "bầu cua tôm cá". Người ta cũng dùng thuật ngữ "binh tôm tướng cá" chỉ về sự đông đúc. Trong tiếng Việt còn có câu tục ngữ chỉ về cá: "Cá không ăn muối cá ươn, con cãi cha mẹ trăm đường con hư" hay câu "mèo mù vớ phải cá rán". Một trong những cơ cấu thực phẩm bữa ăn của người Việt là Cơm-rau-cá. Cá cũng là con vật có mức độ phổ biến về ẩm thực trên thế giới. Cá chữ Hán là "ngư" - âm đọc là " Yu" đồng âm với "dư" 餘 (dư dả). Do vậy, cá biểu trưng cho sự dư dả.
Ở phương Đông quan niệm con cá là con vật báo điềm lành, nhiều giống cá sống lâu và điều này con cá còn được gắn với biểu tượng của sự trường thọ. Hình ảnh cá được khắc vẽ trên đồ gốm Gò Chiền, trên trống đồng, thố đồng, muôi đồng, cái mõ hình con cá ở điếm làng Vân Nội, con cá chép thờ sơn son thếp vàng trong đền thờ Chử Đồng Tử ở xã Dạ Trạch (Hải Hưng), ở hội làng Me (Hà Tây) người ta đã tế thần Tản Viên bằng cá nướng. Trong những ngôi đình cổ thế kỷ XVI, như đình Tây Đằng, đình Lỗ Hạnh... hình tượng cá chép hoá rồng đã được thể hiện khá phong phú, sinh động.
Ngoài ra trong truyền thuyết về Lạc Long Quân cũng có nhắc đến hình tượng con ngư tinh. Câu chuyện kể về biển Đông có con tinh ngư xà (còn gọi là Ngư Tinh) dài hơn năm mươi trượng, chân nhiều như chân rết, biến hóa vạn trạng, linh dị khôn lường, khi đi thì ầm ầm như mưa, lại ăn được thịt người nên ai cũng sợ. Thuở ấy có hòn đá Ngư Tinh, răng đá lởm chởm cắt ngang bờ bể, ở dưới đá có hang, Ngư Tinh sống ở trong đó. Vì sóng gió hiểm trở, không có lối thông, dân muốn mở một đường đi khác nhưng đá rắn khó đẽo. Thuyền của nhân dân đi qua chỗ này thường hay bị Ngư Tinh làm hại. Đêm kia có bọn người tiên đục đá làm đường đi để cho hành nhân có chỗ qua lại. Ngư Tinh bèn hóa làm con gà trắng gáy ở trên núi. Quần tiên nghe tiếng ngỡ rằng đã rạng đông bèn cùng bay lên trời.
Lạc Long Quân thương dân bị hại bèn hóa phép thành một chiếc thuyền của thường dân, hạ lệnh cho quỷ Dạ Thoa ở Thủy Phủ cấm hải thần nổi sóng, rồi chèo thuyền đến bờ hang đá Ngư Tinh, giả cách cầm một người sắp ném vào cho nó ăn. Ngư Tinh há miệng định nuốt. Long Quân cầm một khối sắt nung đỏ ném vào miệng cá. Ngư Tinh chồm lên quẫy mình quật vào thuyền. Long Quân cắt đứt đuôi cá, lột da phủ lên trên núi nay chỗ đó gọi là Bạch Long Vĩ, còn cái đầu trôi ra ngoài bể biến thành con chó. Long Quân bèn lấy đá ngăn bể rồi chém nó. Nó biến thành cái đầu chó, nay gọi là Cẩu Đầu Sơn. Thân trôi ra ngoài Mạn Cầu, chỗ đó nay gọi là Mạn Cầu Thủy (còn gọi là Cẩu Đầu Thủy).
Tương truyền ở Bình Định, có chàng Lía mồt lần, tình cờ trông thấy một chú cá lóc vọt phốc từ dưới nước lên qua một bờ đất cao, Lía nảy ý muốn học thế nhảy này. Hàng ngày, Lía đào một cái hố, rồi đứng dưới hố bắt chước theo thế nhảy của cá lóc nhảy vọt lên. Do khổ luyện nên khả năng của Lía mỗi ngày một tăng. Theo truyền thuyết, sau khi tập luyện thành công cú nhảy cá lóc, Lía có thể tung người nhảy vọt qua khỏi nóc nhà. Cũng nhờ cú nhảy cá lóc, Lía đã nhiều lần thoát thân khi đi cướp của người giàu chia cho dân nghèo hay những lúc đánh nhau với quân lính. Lía tuy giỏi võ, nhưng Lía từng có một lần phải chịu thất bại thảm hại khi đánh nhau với một người phụ nữ, đêm đó Lía đến để cướp nhưng đã bị mụ Mẫn đánh bại. Lía đánh không lại đành phải dùng cú nhảy cá lóc vọt qua tường rào chạy thoát thân.
Trong tiếng Việt thuật ngữ cá còn dùng để chỉ về những trò đánh cược như cá độ, cá cược hay cá hay nói về ngày Cá tháng Tư.
Cá chép.
Văn hóa Á Đông đặc biệt coi trọng con cá chép, với câu chuyện kinh điển về sự tích Cá chép hóa rồng hay cá chép vượt Vũ Môn. Là con vật có thật được người ta cho rằng có thể lột xác để trở thành rồng là loài vật thần thoại, tượng trưng cho đất trời. Câu tục ngữ: "Mồng bảy cá đi ăn thề. Mồng tám cá về vượt Thác Vũ Môn" hay câu "Biết răng chừ cá chép hoa hồng". Cá chép hóa rồng vì vậy biểu trưng cho sự nỗ lực, may mắn, về đích, thành công, hi vọng. Cá chép trong văn hóa Việt còn có ý nghĩa quan trọng khác, nó còn là vật cưỡi của Ông Táo khi về chầu trời vào ngày 23 tháng Chạp, nó còn là vật phóng sinh vào lễ hội rằm theo quan niệm của Đạo Phật.
Ở Nhật Bản, cá chép Koi là biểu tượng quốc gia và các hình xăm trên cá được người Nhật coi là điềm may mắn.
Ca chép cũng được xem là linh vật phong thủy có khả năng chiêu tài khí, tạo may mắn về tài lộc trong kinh doanh cho gia chủ. Hình vẽ cá phối hợp với nhiều hình họa, hoa văn khác có thể hiểu là "hữu dư" có nghĩa là "có", tức giàu có: dư ăn dư để, cá Chép được coi như một biểu tượng của may mắn. Hình xăm cá chép được coi là một nghệ thuật ở Nhật Bản. Hình tượng cá chép kết hợp với một hình tượng qui ước làm nên tính minh triết của bức tranh. Đó chính là mặt trăng và bóng trăng soi đáy nước và thường được in trên các nhãn bánh Trung thu.
Cá khác.
Trong văn chương bình dân Việt Nam, cá hố được dùng làm biểu tượng cho sự gầy ốm, cao nhòng: "Người gì mà khô như con cá hố", hay cho sự thiếu chững chạc: "Nhí nha nhí nhô như con cá hố". Cá hố còn là cảm hứng để làm bộ phim kinh dị có tên là "Cá hố khổng lồ" hay "Cá hố ăn thịt người" (chiếu vào năm 2010) thực ra đây chỉ là tiêu đề của bộ phim, loài cá được miêu tả trong phim là cá răng đao (Piraha). Cá liệt là hình ảnh trong các câu ca dao ở Việt Nam như: "Cá liệt mà nấu canh chua. Anh thương em đấy quê mùa vẫn thương" hay như "Nước mắm ngon dầm con cá liệt. Em có chồng nói thiệt anh hay" Cá bã trầu thân thuộc với người dân cho nên có câu vè: "Chim chìa vôi bay ngang đám thuốc"/ "Con cá bã trầu lội tuốt mương cau" Và có hẳn mô tả nhận dạng của cá bã trầu "Đỏ màu bó xác là cá bã trầu". | 1 | null |
ZeptoLab là một công ty trò chơi giải trí nằm ở Liên bang Nga, được biết đến với trò chơi Cut the Rope, vốn đã có hơn 100 triệu lượt tải về kể từ khi được phát hành. Cho đến nay, công ty đã phát hành các trò chơi như: Parachute Ninja (tháng 2 năm 2010), Cut the Rope (tháng 10 năm 2010), Cut the Rope: Holiday Gift (tháng 12 năm 2010), Cut the Rope: Experiments (tháng 8 năm 2011), Pudding Monsters (tháng 12 năm 2012), Cut the Rope: Time Travel (tháng 4 năm 2013), và Cut the Rope 2 (tháng 12 năm 2013), chúng có thể chơi trên các hệ điều hành trên điện thoại chính bao gồm Android và iOS, HTML5, Mac OS và Google Chrome.
ZeptoLab cũng đã công bố cấp phép và bán hàng quan hệ đối tác cho "Cut the Rope" và nhân vật nổi tiếng của nó, Om Nom..
Lịch sử.
ZeptoLab được sáng lập vào năm 2010 bởi cặp song sinh tự học Efim và Semyon Voinov, người đã làm trò chơi từ khi mười tuổi. "Zepto," một tiền tố trong toán học có nghĩa là 10−21, nghĩa là "mang nghĩa để biểu thị cách vận hành cửa hàng thực sự của họ."
ZeptoLab đã không nhận bất cứ nguồn tài trợ bên ngoài nào để tạo trò chơi. | 1 | null |
là ca khúc tiếng Nhật của nhóm QBS (nhóm nhỏ của T-ara, Hàn Quốc). do Takanori Fukuta sáng tác, Đĩa đơn được phát hành vào ngày 26 tháng 6 năm 2013, một tuần trước đĩa đơn tiếng Nhật thứ bảy "Target".
Phát hành và quảng bá.
Đĩa đơn có 2 phiên bản: phiên bản thường và phiên bản giới hạn, đi kèm với một đĩa DVD có video âm nhạc của "Kaze no yo ni". Nếu khách hàng mua đĩa đơn trong các cửa hàng, họ sẽ nhận được một poster khổ B2. Nếu đặt hàng trực tuyến, khách hàng sẽ nhận được một thẻ ảnh ngẫu nhiên trong bốn loại. Để thúc đẩy việc quảng bá, QBS tổ chức một live show tại quảng trưởng Sunshine City tại Ikebukuro, Tokyo vào ngày 10 tháng 6 năm 2013. Nhóm biểu diễn ca khúc "Kaze no yo ni", "Shabontama no Yukue" và "Love Poem" trước 2000 người hâm mộ. | 1 | null |
Gustav August Wilhelm Malotki von Trzebiatowski (7 tháng 11 năm 1808 tại Klein Bölkau, Danzig – 21 tháng 7 năm 1873 tại Weilburg) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng đến cấp Thiếu tướng. Ông từng tham gia trong cuộc Chiến tranh Bảy tuần chống Áo năm 1866 và Chiến dịch đánh Pháp vào các năm 1870 – 1871.
Gia đình.
August Malotki von Trzebiatowski sinh vào tháng 11 năm 1808, trong gia đình "Malotki". Ông là con trai của Trưởng quan kỵ binh ("Rittmeister") và Hiệp sĩ Thập tự Xanh August Ferdinand Konstantin von Malotki (1782 – 1852) với bà Caroline von Manteuffel-Kielpinski (1783 – 1868). Trước năm 1835, ông đã thành hôn với Ernestine von Alvensleben a.d.H. Redekin (1808 – 1881). Cuộc hôn nhân đã đem lại cho ông hai người con trai và một người con gái.
Tiểu sử.
Sự nghiệp quân sự của ông khởi đầu vào năm 1824 với vai trò là thiếu sinh quân tại Berlin. Ba năm sau (1827), ông trở thành Thiếu úy trong Trung đoàn Bộ binh 24. Từ năm 1830 đến năm 1831, Malotki là Giảng viên Trường Sư đoàn của Sư đoàn 6, sau đó ông được cắt cử sang Trường Chiến tranh Tổng hợp ("Allgemeinen Kriegsschule") từ năm 1832 cho đến năm 1835.
Vào năm 1842, ông được thăng quân hàm Trung úy, sáu năm sau (1848), ông lên chức Đại úy và Đại đội trưởng. Vào năm 1849, ông tham gia giao chiến trên đường phố trong cuộc trấn áp nổi dậy tại Dresden và Iserlohn (Cuộc nổi dậy Iserlohn năm 1849). Ông cũng tham gia dập tắt cuộc nổi dậy ở Baden và chiến đấu trong các trận đánh tại Wiesenthal, Kirchheimbolanden và Kuppenheim.
Đến năm 1855, ông được lên chức Thiếu tá và Chỉ huy trưởng Tiểu đoàn III (Sorau) thuộc Trung đoàn Dân quân 12. Hai năm sau (1857), ông lãnh một chức Tiểu đoàn trưởng trong Trung đoàn Bộ binh 7 rồi đến năm 1859, ông là Chỉ huy trưởng Tiểu đoàn Bắn súng hỏa mai của trung đoàn này. Cũng vào năm 1859, Malotki được lên cấp hàm Thượng tá, sau đó ông được giao tạm quyền ("Führung") Trung đoàn Bộ binh tổng hợp số 9 vào năm 1860. Sau đó, cùng năm 1860, ông trở thành Chỉ huy trưởng Trung đoàn Bộ binh 59, năm sau (1861) ông lên quân hàm Đại tá rồi đến năm 1865, ông được thăng cấp Thiếu tướng.
Trong cuộc Chiến tranh Bảy tuần chống Áo năm 1866, Malotki tham gia giao chiến tại Tobitschau trong trận Trautenau vào ngày 27 tháng 6 và trận Königgrätz vào ngày 3 tháng 7. Năm 1866, ông được xuất ngũ ("zur Disposition", rời ngũ nhưng sẽ được triệu hồi khi chiến tranh bùng nổ) với cấp hàm Trung tướng, nhưng về sau, với vai trò người đứng đầu cơ quan Tổng Thanh tra Hậu cần của Tập đoàn quân số 1, ông đã tham chiến trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871), đặc biệt là trong trận tấn công chiếm Amiens vào ngày 28 tháng 11 năm 1870. Gần ba năm sau, ông từ trần vào tháng 7 năm 1873. | 1 | null |
Giải thưởng Âm nhạc Melon (tiếng Anh: Melon Music Awards; ) là một lễ trao giải âm nhạc lớn được tổ chức hàng năm tại Hàn Quốc và được tổ chức bởi Kakao M (một công ty của Kakao) thông qua cửa hàng âm nhạc trực tuyến, Melon.
Lễ trao giải lần đầu tiên được tổ chức trực tuyến từ năm 2005 đến năm 2008. Nó được tổ chức trực tiếp chính thức bắt đầu từ năm 2009.
Đoạt giải nhiều nhất.
Giải thưởng lớn.
Danh sách này bao gồm Nghệ sĩ của năm, Album của năm, Bài hát của năm và Thu âm của năm. | 1 | null |
Thỏ Ngọc () là một xe tự hành không người lái, một phần trong sứ mệnh khám phá Mặt Trăng Chang'e 3 của Trung Quốc. Nó được phóng vào lúc 17:30 UTC ngày 1 tháng 12 năm 2013 và tới được bề mặt Mặt Trăng vào ngày 14 tháng 12 năm 2013.
"Thỏ Ngọc" đã không thể di chuyển sau đêm thứ hai âm lịch, mặc dù tàu vẫn tiếp tục thu thập thông tin trong vài tháng sau đó. Vào tháng 10 năm 2015, "Thỏ Ngọc" đã lập kỷ lục về thời gian hoạt động lâu nhất đối với xe tự hành trên Mặt Trăng. Vào ngày 31 tháng 7 năm 2016, "Thỏ Ngọc" ngừng hoạt động sau tổng cộng 31 tháng, vượt xa thời gian dự kiến ban đầu là 3 tháng. Tổng cộng, khi ở trên Mặt Trăng, xe tự hành này đã di chuyển quãng đường .
Vào năm 2018, xe tự hành "Thỏ Ngọc 2" đã ra mắt như một phần của nhiệm vụ Chang'e 4. | 1 | null |
Hấp dẫn lượng tử (Quantum gravity-QG) là tên gọi chung cho nhiều lý thuyết vật lý với mục tiêu miêu tả tương tác hấp dẫn tuân theo những nguyên lý của cơ học lượng tử.
Hiểu biết tốt nhất hiện nay về lực hấp dẫn dựa trên thuyết tương đối rộng của Albert Einstein, mà khuôn khổ của lý thuyết lại thuộc phạm vi vật lý cổ điển. Mặt khác, các tương tác phi hấp dẫn được miêu tả trong khuôn khổ của cơ học lượng tử, một lý thuyết miêu tả các hiệu ứng vi mô mang tính xác suất khác căn bản so với các hiệu ứng vật lý cấp vĩ mô. Sự cần thiết phải miêu tả hấp dẫn bằng cơ học lượng tử xuất phát từ thực tế rằng một hệ cổ điển không thể xuất hiện cùng hoặc tương tác nhất quán với một hệ lượng tử.
Mặc dù một lý thuyết lượng tử về hấp dẫn là cần thiết để kết hợp thuyết tương đối rộng với các nguyên lý cơ học lượng tử, nhưng những khó khăn lớn xuất hiện khi các nhà vật lý cố gắng sử dụng khuôn khổ của lý thuyết trường lượng tử để miêu tả trường hấp dẫn. Vấn đề là, từ quan điểm kỹ thuật/toán học, nếu đi theo cách miêu tả này họ không thể thực hiện được tái chuẩn hóa và do vậy không thu được những tiên đoán có ý nghĩa vật lý. Kết quả là, họ phải thực hiện theo những cách tiếp cận căn bản hơn đối với hấp dẫn lượng tử, mà một trong những hướng đi phổ biến hiện nay là lý thuyết dây và hấp dẫn lượng tử vòng.
Nói ngắn gọn, mục đích của hấp dẫn lượng tử chỉ là miêu tả hành trạng lượng tử của trường hấp dẫn và không nên hiểu nhầm với mục tiêu của lý thuyết thống nhất mọi tương tác cơ bản trong một mô hình toán học duy nhất. Mặc dù thế có một số thuyết hấp dẫn lượng tử như lý thuyết dây cũng có mục tiêu là thống nhất tương tác hấp dẫn với ba tương tác cơ bản còn lại, trong khi những lý thuyết khác như hấp dẫn lượng tử vòng lại không có mục tiêu như vậy; thay vào đó, các nhà hấp dẫn lượng tử vòng nỗ lực lượng tử hóa trường hấp dẫn trong khi cố gắng tách biệt nó khỏi các tương tác khác. Một lý thuyết hấp dẫn lượng tử với mục tiêu thống nhất mọi tương tác cơ bản đôi khi cũng được gọi là lý thuyết của mọi thứ (TOE).
Một trong những khó khăn của hấp dẫn lượng tử đó là các hiệu ứng hay hệ quả của nó chỉ trở lên đáng kể ở thang Planck, thang khoảng cách nhỏ hơn rất nhiều mà các máy gia tốc hạt có thể đạt được. Do đó, các lý thuyết hấp dẫn lượng tử vẫn mang tính lý thuyết, mặc dù có những ước đoán rằng các hiệu ứng hấp dẫn lượng tử có thể quan sát hoặc giải thích thông qua những thí nghiệm chính xác. | 1 | null |
HMS "Hardy" (H87) là một soái hạm khu trục dẫn đầu lớp tàu khu trục H được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào giữa những năm 1930. Trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha vào các năm 1936–1939, nó thực thi chính sách cấm vận vũ khí mà Anh và Pháp áp đặt cho các bên xung đột trong thành phần Hạm đội Địa Trung Hải. Khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra, nó được chuyển đến Freetown, Sierra Leone vào tháng 10 năm 1939 để truy lùng các tàu cướp tàu buôn Đức ở Nam Đại Tây Dương cùng Lực lượng K. Sau khi quay về Anh vào đầu năm 1940, nó trở thành soái hạm của Chi hạm đội Khu trục 2 trực thuộc Hạm đội Nhà. Trong Chiến dịch Na Uy, nó tham gia trận Narvik thứ nhất vào ngày 10 tháng 4 năm 1940, nơi nó đánh chìm một tàu khu trục Đức; nhưng khi các con tàu Anh rút lui, chúng đụng độ với hai tàu khu trục đối phương khác, khiến "Hardy" bị hư hại nặng và buộc phải mắc cạn. Con tàu bị thủy triều nâng lên và lật úp sau đó.
Thiết kế và chế tạo.
"Hardy" có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn , và lên đến khi đầy tải. Nó có chiều dài chung , mạn thuyền rộng và độ sâu của mớn nước là . Nó được dẫn động bởi hai turbine hơi nước Parsons truyền động ra hai trục chân vịt, sản sinh tổng công suất , cho phép nó đạt tốc độ tối đa . Hơi nước được cung cấp bởi ba nồi hơi ống nước Admiralty. "Greyhound" có thể mang theo tối đa dầu đốt, cho phép một tầm hoạt động tối đa ở tốc độ . Thành phần thủy thủ đoàn của nó bao gồm 137 sĩ quan và thủy thủ trong thời bình,
Con tàu được trang bị năm khẩu pháo QF Mk. XII L/45 trên các tháp pháo nòng đơn. Cho mục đích phòng không, "Hardy" có hai khẩu đội súng máy Mk.III bốn nòng. Nó còn có hai bệ ống phóng ngư lôi bốn nòng trên mặt nước dành cho ngư lôi. Một đường ray thả mìn sâu và hai máy phóng được trang bị; ban đầu nó mang theo 20 quả mìn sâu, nhưng được tăng lên 35 quả không lâu sau khi chiến tranh bắt đầu.
"Hardy" được đặt hàng vào ngày 12 tháng 12 năm 1934 trong Chương trình Chế tạo Hải quân 1934. Nó được đặt lườn vào ngày 30 tháng 5 năm 1935 tại xưởng tàu của hãng Cammell Laird and Company ở Birkenhead; được hạ thủy vào ngày 7 tháng 4 năm 1936 và hoàn tất vào ngày 11 tháng 12 năm 1936 với chi phí 278.482 Bảng Anh, không tính đến các thiết bị do Bộ Hải quân Anh cung cấp như vũ khí, đạn dược và thiết bị thông tin liên lạc.
Lịch sử hoạt động.
Sau khi nhập biên chế, "Hardy" được phân về Chi hạm đội Khu trục 2 trực thuộc Hạm đội Địa Trung Hải. Nó đã tuần tra tại vùng biển Tây Ban Nha từ năm 1937 đến năm 1939 khi xảy ra cuộc nội chiến tại đây nhằm thực thi chính sách cấm vận vũ khí đối với các bên xung đột. Sau khi tàu khu trục chị em trúng phải một quả mìn ngoài khơi Almeria vào ngày 13 tháng 5 năm 1937, "Hardy" đã túc trực bên cạnh để hỗ trợ nếu cần thiết. Nó đang neo đậu tại Palma, Majorca vào ngày 23 tháng 5 năm 1937 khi cảng này bị lực lượng Không quân Cộng hòa Tây Ban Nha ném bom, nhưng nó không bị hư hại. Khi cuộc xung đột chấm dứt vào năm 1939, nó bắt đầu được tái trang bị tại Xưởng tàu Devonport từ ngày 2 tháng 6 đến ngày 29 tháng 7. Con tàu đang ở tại Malta khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra vào tháng 9 năm 1939.
Đến tháng 10, "Hardy" được chuyển đến Freetown, Sierra Leone để truy tìm các tàu cướp tàu buôn Đức ở khu vực Nam Đại Tây Dương cùng Lực lượng K. Nó cùng các tàu nữa chị em , và đã gặp gỡ tàu chiến-tuần dương , tàu sân bay và tàu tuần dương hạng nhẹ vào ngày 17 tháng 12. Chúng được tiếp nhiên liệu tại Rio de Janeiro, Brasil trước khi tiếp tục đi đến cửa sông Río de la Plata, đề phòng trường hợp chiếc thiết giáp hạm bỏ túi Đức "Admiral Graf Spee" tìm cách thoát khỏi Montevideo, Uruguay, nơi nó tạm thời tị nạn sau khi bị hư hại trong trận River Plate. "Hardy" trải qua một đợt tái trang bị ngắn tại Devonport từ ngày 25 tháng 1 đến ngày 12 tháng 2 năm 1940, rồi được điều sang Greenock, Scotland làm nhiệm vụ hộ tống vận tải. Nó gia nhập trở lại Chi hạm đội Khu trục 2 thuộc Hạm đội Nhà tại Scapa Flow vào ngày 9 tháng 3, và trở thành soái hạm đơn vị này.
Vào ngày 6 tháng 4, "Hardy" cùng phần còn lại của Chi hạm đội Khu trục 2 hộ tống bốn tàu khu trục rải mìn thuộc Chi hạm đội Khu trục 20 khi chúng lên đường thực hiện Chiến dịch Wilfred, một đợt rải mìn ở Vestfjord nhằm ngăn chặn việc vận chuyển quặng sắt Thụy Điển từ Narvik đến Đức. Mìn được rải vào sáng ngày 8 tháng 4, trước khi quân Đức bắt đầu cuộc tấn công, và các tàu khu trục gia nhập trở lại cùng "Renown" và các tàu hộ tống.
Bộ Hải quân Anh ra lệnh cho Đại tá Hải quân Warburton-Lee tấn công tàu bè Đức tại Narvik vào ngày 9 tháng 4. Sáng hôm sau, "Hardy" dẫn đầu bốn tàu chị em xâm nhập Ofotfjord cho một cuộc tấn công bất ngờ cảng Narvik trong hoàn cảnh bão tuyết. Một quả ngư lôi của "Hardy" đã đánh trúng soái hạm chi hạm đội Đức, tàu khu trục Z21 "Wilhelm Heidkamp" và làm thiệt mạng chỉ huy hải đội, Thiếu tướng Hải quân Friedrich Bonte. "Heidkamp" bị đắm sáng hôm sau. Một quả ngư lôi khác đánh trúng đuôi một tàu buôn; nhưng một loạt bốn quả ngư lôi thứ hai nhắm vào hai tàu khu trục Đức khác bị trượt, chỉ làm hư hại nặng bến tàu. Sau khi tập trung lực lượng trở lại, Đại tá Warburton-Lee chỉ huy một đợt tấn công khác vào cảng cùng buổi sáng hôm đó, nhưng không gây thiệt hại gì đáng kể do tầm nhìn kém.
Khi các tàu khu trục Anh kết thúc đợt tấn công thứ hai, chúng đối đầu với thêm ba tàu khu trục Đức. Các tàu khu trục Anh tìm cách rút lui về phía Tây, nhưng bị các tàu Đức truy đuổi. Thêm hai tàu khu trục Đức cắt ngang chữ T các con tàu Anh và nhanh chóng vô hiệu các khẩu pháo phía trước của "Hardy". Nhiều phát bắn trúng khác vào cầu tàu và cấu trúc thượng tầng khiến nó bốc cháy, làm tử thương Đại tá Warburton-Lee và làm thiệt mạng hay bị thương mọi người trên cầu tàu, ngoại trừ Sĩ quan tiếp liệu G.H. Stanning, thư ký của hạm trưởng. Mặc dù bản thân bị thương nặng, ông nắm chỉ huy và ra lệnh cho mắc cạn con tàu tại Vidrek sau khi nhiều phát bắn trúng khác làm hỏng nồi hơi. Sĩ quan thuyền phó, người không có mặt trên cầu tàu, tiếp nhận quyền chỉ huy và ra lệnh bỏ tàu. Một số thủy thủ trì hoãn việc này cho đến khi quả ngư lôi cuối cùng được phóng nhắm vào tàu Đức một cách vô vọng, và khẩu pháo số 4 bắn cho đến khi hết đạn.
Đại tá Warburton-Lee được đưa lên bờ nhưng từ trần một giờ sau đó do vết thương trên đầu. 139 người khác cũng lên được bờ, trong đó có 26 người bị thương nặng. Warburton-Lee sau đó được truy tặng huân chương Chữ thập Victoria. Do thủy triều dâng cao, "Hardy" bị nhấc khỏi nơi mắc cạn và trôi dạt đến cửa vũng biển Skjomen, nơi nó lật úp ở vùng biển nông ở tọa độ . Cho đến năm 1963, xác tàu đắm vẫn còn được nhìn thấy. | 1 | null |
HMS "Hasty" (H24) là một tàu khu trục lớp H được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó được phân về Hạm đội Địa Trung Hải cho đến khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bắt đầu, và được chuyển đến Freetown, Sierra Leone vào tháng 10 năm 1939 để truy lùng các tàu cướp tàu buôn Đức ở Nam Đại Tây Dương cùng Lực lượng K. "Hasty" quay trở về Anh vào đầu năm 1940 và đã bảo vệ cho cuộc triệt thoái binh lính Đồng Minh khỏi Namsos vào đầu tháng 5 trong Chiến dịch Na Uy. Nó được điều động quay trở lại Hạm đội Địa Trung Hải không lâu sau đó và tham gia trận Calabria và trận mũi Spada vào tháng 7, trận mũi Matapan vào tháng 3 năm 1941, cũng như triệt thoái binh lính Anh và Australia khỏi Hy Lạp và Crete trong tháng 4 và tháng 5. Đến tháng 6, nó tham gia chiến dịch Syria-Lebanon, và đã hộ tống các đoàn tàu vận tải và tàu chiến lớn của Hạm đội Địa Trung Hải trong năm tiếp theo. Trong trận Sirte thứ hai vào tháng 3 năm 1942, nó bảo vệ một đoàn tàu vận tải khỏi một thiết giáp hạm và nhiều tàu tuần dương Ý. Đang khi hộ tống một đoàn tàu vận tải khác đi từ Alexandria đến Malta vào tháng 6 năm 1942 trong chiến dịch Vigorous, "Hasty" trúng ngư lôi phóng từ một tàu phóng lôi E-boat, và bị hư hại nặng đến mức phải bị đánh đắm gần Crete vào ngày 15 tháng 6 năm 1942.
Thiết kế và chế tạo.
"Hasty" có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn , và lên đến khi đầy tải. Nó có chiều dài chung , mạn thuyền rộng và độ sâu của mớn nước là . Nó được dẫn động bởi hai turbine hơi nước Parsons truyền động ra hai trục chân vịt, sản sinh tổng công suất , cho phép nó đạt tốc độ tối đa . Hơi nước được cung cấp bởi ba nồi hơi ống nước Admiralty. "Hasty" có thể mang theo tối đa dầu đốt, cho phép một tầm hoạt động tối đa ở tốc độ . Thành phần thủy thủ đoàn của nó bao gồm 137 sĩ quan và thủy thủ trong thời bình, nhưng tăng lên đến 146 người trong thời chiến.
Con tàu được trang bị bốn khẩu pháo QF Mk. XII L/45 trên các tháp pháo nòng đơn. Cho mục đích phòng không, "Hasty" có hai khẩu đội súng máy Mk.III bốn nòng. Nó còn có hai bệ ống phóng ngư lôi bốn nòng trên mặt nước dành cho ngư lôi. Một đường ray thả mìn sâu và hai máy phóng được trang bị; ban đầu nó mang theo 20 quả mìn sâu, nhưng được tăng lên 35 quả không lâu sau khi chiến tranh bắt đầu.
"Hasty" được đặt hàng trong Chương trình Chế tạo Hải quân 1934. Nó được đặt lườn vào ngày 15 tháng 4 năm 1935 tại xưởng tàu của hãng William Denny and Brothers ở Dumbarton, Scotland; được hạ thủy vào ngày 5 tháng 5 năm 1936 và hoàn tất vào ngày 11 tháng 11 năm 1936 với chi phí 248.611 Bảng Anh, không tính đến các thiết bị do Bộ Hải quân Anh cung cấp như vũ khí, đạn dược và thiết bị thông tin liên lạc.
Các cải biến trong chiến tranh.
Bắt đầu từ giữa năm 1940, dàn vũ khí phòng không của con tàu được tăng cường, cho dù không thể biết được đích xác thời điểm được nâng cấp. Bệ ống phóng ngư lôi phía sau được thay bằng một khẩu QF 12 pounder phòng không, và các khẩu đội súng máy Vickers bốn nòng được thay bằng pháo tự động Oerlikon 20 mm, đồng thời hai khẩu Oerlikon 20 mm khác được tăng cường trên cấu trúc thượng tầng phía trước.
Lịch sử hoạt động.
Sau khi nhập biên chế, "Hasty" được phân về Chi hạm đội Khu trục 2 trực thuộc Hạm đội Địa Trung Hải. Nó được cho tái trang bị tại Xưởng tàu Devonport từ tháng 6 đến tháng 7 năm 1939, và quay trở lại Địa Trung Hải sau khi hoàn tất.
"Hasty" hộ tống các đoàn tàu vận tải đi lại giữa Port Said, Ai Cập và Gibraltar sau khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra vào tháng 9 năm 1939. Đến tháng 10, con tàu được chuyển đến Freetown, Sierra Leone để truy tìm các tàu cướp tàu buôn Đức ở khu vực Nam Đại Tây Dương cùng Lực lượng K. Nó cùng các tàu chị em , và đã gặp gỡ tàu chiến-tuần dương , tàu sân bay và tàu tuần dương hạng nhẹ vào ngày 17 tháng 12. Chúng được tiếp nhiên liệu tại Rio de Janeiro, Brasil trước khi tiếp tục đi đến cửa sông Río de la Plata, đề phòng trường hợp chiếc thiết giáp hạm bỏ túi Đức "Admiral Graf Spee" tìm cách thoát khỏi Montevideo, Uruguay, nơi nó tạm thời tị nạn sau khi bị hư hại trong trận River Plate. "Hasty" được lệnh quay trở về Anh vào tháng 1 năm 1940, và đã bắt được tàu vượt phong tỏa Đức SS "Morea" tại Bắc Đại Tây Dương vào ngày 12 tháng 2 lúc đang trên đường đi.
"Hasty" được điều về Hạm đội Nhà sau khi hoàn tất việc tái trang bị vào tháng 3. Cùng với tàu khu trục , nó hộ tống cho tàu khu trục đi đến Newcastle upon Tyne vào ngày 19-20 tháng 3 sau khi chiếc này mắc tai nạn va chạm với một tàu buôn Thụy Điển tại Bắc Hải. Những hư hại cho thời tiết đã ngăn trở nó tham gia các giai đoạn đầu của Chiến dịch Na Uy, nhưng nó đã hộ tống các tàu sân bay và "Ark Royal" từ ngày 21 tháng 4, khi chúng tấn công các vị trí của quân Đức ở Na Uy. "Hasty" là một trong số các tàu hộ tống cho "Glorious" khi chiếc tàu sân bay quay trở về Scapa Flow vào ngày 27 tháng 4 để tiếp nhiên liệu. Hai ngày sau, nó hộ tống đoàn tàu vận tải triệt thoái binh lính Anh và Pháp khỏi Namsos vào đầu tháng 5.
"Hasty" cùng với Chi hạm đội Khu trục 2 được lệnh đi đến Địa Trung Hải vào ngày 16 tháng 5; các con tàu đã hộ tống cho thiết giáp hạm Pháp "Lorraine" cùng ba tàu tuần dương Anh khi chúng bắn phá trong đêm 20-21 tháng 6. Đến ngày 9 tháng 7, "Hasty" tham gia trận Calabria trong thành phần hộ tống cho các tàu chiến lớn của Lực lượng C, và đã tấn công bất thành các tàu khu trục Ý mà không bị hư hại. Trong Trận chiến mũi Spada vào ngày 19 tháng 7, nó hộ tống cho tàu tuần dương hạng nhẹ Australia HMAS "Sydney", và đã cùng với các tàu hộ tống khác cứu vớt khoảng 525 người sống sót từ chiếc tàu tuần dương Ý "Bartolomeo Colleoni". "Hasty" cùng với tàu chị em đã đánh chìm tàu ngầm Ý "Berillo" vào ngày 2 tháng 10, và đã cứu vớt 47 người sống sót. Sau đó nó hộ tống cho tàu sân bay trong trận Taranto vào đêm 11-12 tháng 11; và trong cuộc bắn phá Valona, Albania vào đêm 18-19 tháng 12, nó đã hộ tống cho các thiết giáp hạm và .
"Hasty" tham gia Chiến dịch Excess vào tháng 1 năm 1941, khi nó hộ tống một đoàn tàu vận tải, và sau đó hộ tống thiết giáp hạm đi từ vịnh Souda, Crete đến Alexandria. Đến cuối tháng 2, nó giúp triệt thoái binh lính biệt kích Anh khỏi đảo Kastelorizo ngoài khơi bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ trong vùng quần đảo Dodecanese. Nhóm biệt kích này đã đánh bại một nhóm đồn trú nhỏ trong Chiến dịch Abstention, nhưng quân Ý đã đổ bộ lực lượng thành công lên đảo và áp đảo lực lượng Anh. Trong Trận chiến mũi Matapan vào ngày 28-29 tháng 3, "Hasty" hộ tống bốn tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc Lực lượng B, nhưng đã không trực tiếp tham gia vào trận chiến. Đến ngày 15 tháng 4, nó cùng tàu tuần dương hạng nhẹ bắn phá các vị trí quân Ý giữa Bardia và Fort Capuzzo. Vào giữa tháng 4, nó hộ tống cho tàu vận chuyển cao tốc và ba thiết giáp hạm đi từ Alexandria đến Malta trước khi tiếp tục hộ tống các thiết giáp hạm khi chúng bắn phá Tripoli vào ngày 20 tháng 4. Sau khi được tiếp nhiên liệu tại Alexandria vào ngày 23 tháng 4, "Hasty" lên đường đi Hy Lạp bắt đầu việc triệt thoái binh lính Anh và Australia khỏi các bãi biển. Vào ngày 8 tháng 5, một lần nữa nó hộ tống các tàu chiến lớn của Hạm đội Địa Trung Hải khi chúng bảo vệ cho một đoàn tàu vận tải khác đi từ Alexandria đến Malta. "Hasty" hộ tống các tàu tuần dương hạng nhẹ và khi chúng đánh chặn một đoàn tàu vận tải Đức tìm cách đổ bộ lực lượng lên Crete trong đêm 21-22 tháng 5. Con tàu tham gia triệt thoái binh lính Anh và khối Thịnh Vượng Chung khỏi Crete vào cuối tháng 5.
"Hasty" đã bắn phá các vị trí của phe Vichy Pháp tại Liban vào ngày 4 tháng 7 trong khuôn khổ Chiến dịch Syria-Lebanon, rồi trải qua hầu hết thời gian còn lại của năm hộ tống các đoàn tàu vận tải đi đến Tobruk. Vào ngày 25 tháng 11, nó đang hộ tống cho các tàu chiến lớn của Hạm đội Địa Trung Hải khi thiết giáp hạm "Barham" bị đắm do trúng ngư lôi từ tàu ngầm Đức "U-331". Đang khi hộ tống một đoàn tàu vận tải, nó đã cùng với tàu chị em đánh chìm tàu ngầm Đức "U-79" ở phía Bắc Sollum vào ngày 23 tháng 12. Sang tháng 1 năm 1942, nó hộ tống các đoàn tàu vận tải MF.3 và MF.4 đi từ Alexandria đến Malta, rồi chuyển sang lực lượng bảo vệ cho Đoàn tàu MF.5 vào giữa tháng 2. Nó được điều sang Chi hạm đội Khu trục 22 vào ngày 24 tháng 2. "Hasty" đang hộ tống cho các tàu buôn của Đoàn tàu MW.10 khi Trận Sirte thứ hai bắt đầu vào ngày 22 tháng 3, nhưng nó đã bảo vệ đoàn tàu khỏi sự tấn công của thiết giáp hạm Ý "Littorio" và ba tàu tuần dương nhờ các cuộc tấn công ngư lôi dưới sự che chở của làn khói và một cơn bão. Đang khi bảo vệ cho một đoàn tàu vận tải lớn đi Malta trong khuôn khổ Chiến dịch Vigorous, "Hasty" trúng phải ngư lôi từ tàu phóng lôi Đức E-Boat "S-55". Quả ngư lôi phát nổ đã thổi tung hầu hết cấu trúc mũi tàu, làm thiệt mạng 13 người, và khiến cả hai phòng nồi hơi bắt đầu ngập nước. Tàu chị em "Hotspur" đã cứu vớt thủy thủ đoàn rồi phóng ngư lôi đánh đắm nó vào sáng ngày 15 tháng 6 năm 1942, ở tọa độ . | 1 | null |
HMS "Havock" (H43) là một tàu khu trục lớp H được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào giữa những năm 1930. Trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha vào các năm 1936–1939, nó thực thi chính sách cấm vận vũ khí mà Anh và Pháp áp đặt cho các bên xung đột trong thành phần Hạm đội Địa Trung Hải. Trong những tháng đầu của Chiến tranh Thế giới thứ hai, "Havock" truy lùng các tàu cướp tàu buôn Đức tại Đại Tây Dương và tham gia Trận Narvik thứ nhất trong Chiến dịch Na Uy vào tháng 4 năm 1940 trước khi được chuyển trở lại Hạm đội Địa Trung Hải vào tháng 5, nơi nó hộ tống một số đoàn tàu vận tải đến Malta. Con tàu đã tham gia Trận chiến mũi Spada vào tháng 7 năm 1940, Trận chiến mũi Matapan vào tháng 3 năm 1941 và cuộc triệt thoái khỏi Hy Lạp vào tháng 4 năm 1941. Nó bị hư hại trong Trận Crete trong tháng tiếp theo, nhưng đã tham gia Chiến dịch Syria–Lebanon vào tháng 6.
"Havock" bắt đầu hộ tống các đoàn tàu tiếp liệu đến Tobruk, Libya vào tháng 6 cho đến khi bị hư hại vào tháng 10. Nó được sửa chữa kịp thời để hộ tống vận tải đến Malta trong trận Sirte thứ nhất vào tháng 12, và đã bị hư hại nặng đang khi bảo vệ một đoàn tàu vận tải khác trong trận Sirte thứ hai vào tháng 3 năm 1942. Việc sửa chữa thoạt tiên được thực hiện tại Malta, nhưng con tàu lại bị hư hại thêm do một cuộc không kích vào đầu tháng 4. Bộ Hải quân Anh ra lệnh cho nó đi đến Gibraltar để tiếp tục sửa chữa. Tuy nhiên, trên đường đi vào ngày 6 tháng 4, "Havock" mắc cạn gần mũi Bon, và thủy thủ đoàn bị phe Vichy Pháp bắt làm tù binh tại Laghouat trong sa mạc Sahara.
Thiết kế và chế tạo.
"Havock" có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn , và lên đến khi đầy tải. Nó có chiều dài chung , mạn thuyền rộng và độ sâu của mớn nước là . Nó được dẫn động bởi hai turbine hơi nước Parsons truyền động ra hai trục chân vịt, sản sinh tổng công suất , cho phép nó đạt tốc độ tối đa . Hơi nước được cung cấp bởi ba nồi hơi ống nước Admiralty. "Havock" có thể mang theo tối đa dầu đốt, cho phép một tầm hoạt động tối đa ở tốc độ . Thành phần thủy thủ đoàn của nó bao gồm 137 sĩ quan và thủy thủ trong thời bình, nhưng tăng lên đến 146 người trong thời chiến.
Con tàu được trang bị bốn khẩu pháo QF Mk. XII L/45 trên các tháp pháo nòng đơn. Cho mục đích phòng không, "Havock" có hai khẩu đội súng máy Mk.III bốn nòng. Nó còn có hai bệ ống phóng ngư lôi bốn nòng trên mặt nước dành cho ngư lôi. Một đường ray thả mìn sâu và hai máy phóng được trang bị; ban đầu nó mang theo 20 quả mìn sâu, nhưng được tăng lên 35 quả không lâu sau khi chiến tranh bắt đầu. Đến giữa năm 1940, số lượng mìn sâu mang theo là 44 quả.
"Havock" được đặt hàng vào ngày 13 tháng 12 năm 1934 trong Chương trình Chế tạo Hải quân 1934. Nó được đặt lườn vào ngày 15 tháng 5 năm 1935 tại xưởng tàu của hãng William Denny and Brothers ở Dumbarton, Scotland; được hạ thủy vào ngày 7 tháng 7 năm 1936 và hoàn tất vào ngày 16 tháng 1 năm 1937 với chi phí 248.470 Bảng Anh, không tính đến các thiết bị do Bộ Hải quân Anh cung cấp như vũ khí, đạn dược và thiết bị thông tin liên lạc.
Các cải biến trong chiến tranh.
Bắt đầu từ giữa năm 1940 sau cuộc triệt thoái Dunkirk, dàn vũ khí phòng không của con tàu được tăng cường, cho dù không thể biết được đích xác thời điểm được nâng cấp. Bệ ống phóng ngư lôi phía sau được thay bằng một khẩu QF 12 pounder phòng không, và các khẩu đội súng máy Vickers bốn nòng được thay bằng pháo tự động Oerlikon 20 mm, đồng thời hai khẩu Oerlikon 20 mm khác được tăng cường trên bệ đèn pha và một cặp khác hai bên cánh của cầu tàu.
Lịch sử hoạt động.
Sau khi nhập biên chế, "Havock" được phân về Chi hạm đội Khu trục 2 trực thuộc Hạm đội Địa Trung Hải. Nó đã tuần tra tại vùng biển Tây Ban Nha đang khi xảy ra cuộc nội chiến tại đây nhằm thực thi chính sách cấm vận vũ khí đối với các bên xung đột. Trong đêm 31 tháng 8-tháng 9 năm 1937, nó bị tàu ngầm Ý "Iride" tấn công bất thành bằng ngư lôi giữa vịnh Valencia và quần đảo Balearic. Con tàu được tái trang bị tại Gibraltar từ ngày 19 tháng 10 đến ngày 13 tháng 11, rồi lại phải sửa chữa từ ngày 16 tháng 4 đến ngày 6 tháng 5 năm 1938 sau khi va trúng một bến tàu đá. Nó trải qua một đợt nâng cấp ngắn tại Xưởng tàu Sheerness từ ngày 15 đến ngày 26 tháng 8 năm 1939 trước khi quay trở lại Gibraltar.
Sau khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra vào tháng 9 năm 1939, "Havock" được điều đến Freetown, Sierra Leone vào ngày 30 tháng 8, đến nơi vào ngày 4 tháng 9 và bắt đầu truy lùng các tàu cướp tàu buôn Đức. Nó quay trở về Anh vào tháng 11 cho một đợt tái trang bị sâu rộng hơn tại Sheerness từ ngày 18 tháng 12 năm 1939, đến ngày 23 tháng 3 năm 1940. Vào lúc này Chi hạm đội Khu trục 2 được điều động về Hạm đội Nhà, và nó gia nhập trở lại chi hạm đội sau khi việc nâng cấp hoàn tất. Vào ngày 6 tháng 4, "Havock" cùng phần còn lại của Chi hạm đội Khu trục 2 hộ tống bốn tàu khu trục rải mìn thuộc Chi hạm đội Khu trục 20 khi chúng lên đường thực hiện Chiến dịch Wilfred, một đợt rải mìn ở Vestfjord nhằm ngăn chặn việc vận chuyển quặng sắt Thụy Điển từ Narvik đến Đức. Mìn được rải vào sáng ngày 8 tháng 4, trước khi quân Đức bắt đầu cuộc tấn công, và các tàu khu trục gia nhập trở lại cùng tàu chiến-tuần dương và các tàu hộ tống.
Trong Trận Narvik thứ nhất vào ngày 10 tháng 4 năm 1940, "Havock" cùng bốn tàu khu trục lớp H khác thuộc Chi hạm đội Khu trục 2 đã tấn công các tàu khu trục Hải quân Đức vốn đã vận chuyển binh lính Lục quân Đức sang xâm chiếm Narvik ở miền Bắc Na Uy vào ngày hôm trước. Tàu khu trục , soái hạm của lực lượng, dẫn đầu bốn tàu chị em xâm nhập Ofotfjord cho một đợt tấn công bất ngờ lên cảng Narvik trong một cơn bão tuyết. và thoạt tiên được bố trí ở lối ra vào, "Havock" đứng thứ ba tiến vào cảng và đã phóng năm quả ngư lôi nhắm vào khối tàu địch. Một quả đánh trúng phía đuôi tàu khu trục Đức "Z22 Anton Schmitt", đồng thời nó cũng bắn trúng chiếc "Z18 Hans Lüdemann" hai lần với đạn pháo . Khi các con tàu Anh rút lui, chúng đụng độ với năm tàu khu trục Đức ở khoảng cách ngắn; hai tàu đối phương đã cắt ngang chữ T các con tàu Anh và bắn trúng "Hardy", khiến nó bốc cháy và phải mắc cạn. "Havock" đứng thứ hai trong hàng, và đã phóng ngư lôi vào tàu địch, nhưng tất cả đều bị trượt. Nó bị bắn trả trúng đích, nhưng hư hại không đáng kể. Trong lúc nhầm lẫn và tầm nhìn giới hạn, "Havock" rời đội hình để xem việc gì đã xảy ra với "Hardy" và để bảo vệ cho đoạn hậu của đội hình Anh đang bị ba tàu khu trục Đức khác truy đuổi, nhưng rồi phải quay lại để khai hỏa các khẩu pháo phía đuôi sau khi các khẩu trước mũi bị hỏng. "Havock" và "Hostile" quay lại để trợ giúp tàu chị em "Hotspur", và cả ba rút lui khỏi Ofotfjord. Trên đường đi, chúng bắt gặp tàu tiếp liệu Đức chất đầy pháo và đạn dược, mà thủy thủ đoàn của nó cho tàu mắc cạn và bỏ tàu sau khi "Hostile" nổ súng vào nó. Một đội đổ bộ từ "Havock" đã lên tàu và thấy nó đang bốc cháy, con tàu Đức nổ tung sau khi trúng hai phát đạn của "Havock". Con tàu tiếp tục ở lại vùng biển Na Uy cho đến cuối tháng 5, hộ tống cho tàu tuần dương hạng nhẹ khi chiếc này càn quét bất thành tại Bắc Hải truy tìm tàu bè Đức.
"Havock" được điều về Bộ chỉ huy Nore không lâu sau đó, và đã cùng tàu chị em bắn phá vào lực lượng Đức đang chiếm đóng sân bay Waalhaven vào ngày 10 tháng 5. Nó cứu vớt những người sống sót từ chiếc tàu phà "Prinses Juliana" bị đắm ngoài khơi bờ biển Hà Lan và đưa họ trở lại Hook of Holland, nơi nó tiếp đón một số đội lính phá hoại Anh. Đến ngày 16 tháng 5, nó được điều động tăng cường cho Hạm đội Địa Trung Hải tại Malta và được chuyển sang Chi hạm đội Khu trục 2. Trong trận chiến mũi Spada vào ngày 19 tháng 7, nó đã hộ tống cho chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ Australia HMAS "Sydney", và đã cùng các tàu khu trục hộ tống khác cứu vớt khoảng 525 người sống sót từ chiếc tàu tuần dương Ý "Bartolomeo Colleoni". Phòng nồi hơi của nó bị ngập nước sau một đợt không kích của máy bay Ý sau trận này, và nó được sửa chữa tại Suez từ ngày 29 tháng 7 đến ngày 15 tháng 9. Ngoài khơi bờ biển Ai Cập, "Havock" và tàu chị em đã tấn công bất ngờ tàu ngầm Ý "Berillo" trên mặt nước vào ngày 2 tháng 10, buộc nó phải tự đánh đắm. Các tàu khu trục đã cứu được 47 người sống sót.
Ngoài một đợt tái trang bị tại Malta từ ngày 22 tháng 12 đến ngày 20 tháng 2 năm 1941. "Havock" làm nhiệm vụ hộ tống vận tải trong sáu tháng tiếp theo, bao gồm việc hộ tống tàu sân bay trong trận Taranto vào đêm 11-12 tháng 11, Trong trận chiến mũi Matapan, nó đã phóng ngư lôi đánh chìm tàu khu trục Ý "Alfieri" vào ngày 28 tháng 3. Con tàu đã giúp triệt thoái binh lính Anh và khối Thịnh Vượng Chung khỏi Hy Lạp vào cuối tháng 4, và là một trong số ba tàu khu trục đã hộ tống cho chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ khi chúng bắn phá Benghazi trong đêm 7-8 tháng 5. Trong một chuyến tuần tra ngoài khơi Heraklion, Crete, "Havock" bị hư hại do một cuộc không kích của máy bay ném bom bổ nhào vào ngày 23 tháng 5, làm thiệt mạng 15 người và làm bị thương 10 người khác. Nó được sửa chữa tại Alexandria cho đến ngày 16 tháng 6. Nó đã bắn phá các vị trí của phe Vichy Pháp tại Li Băng vào đầu tháng 7, rồi bắt đầu hộ tống các đoàn tàu đi đến Tobruk cho đến tháng 10, khi chân vịt và trục bị hư hại; nó được sửa chữa từ ngày 21 tháng 10 đến ngày 4 tháng 12 tại Alexandria.
Vào giữa tháng 12, "Havock" hộ tống cho chiếc tàu tiếp tế đi Malta trong khi diễn ra cuộc đụng độ ngắn mang tên Trận Sirte thứ nhất, rồi gia nhập Lực lượng K với dự định chặn đánh một đoàn tàu vận tải Ý đi đến Tripoli, Libya. Trong đêm 18-19 tháng 12, Lực lượng K được tăng cường lọt vào một bãi mìn của Ý, bị mất một tàu tuần dương và hư hại thêm hai chiếc khác. "Havock" đã hộ tống chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ bị hư hại nặng quay trở lại Malta. "Havock" là một trong số bốn tàu khu trục đã hộ tống "Breconshire" quay trở lại Alexandria vào đầu tháng 1 năm 1942. Đang khi hộ tống một đoàn tàu vận tải khác đến Malta, nó được lệnh chuyển hướng để hộ tống cho chiếc tàu chở dầu "Thermoplylae" bị hư hại đi từ Benghazi quay trở lại Alexandria, nhưng chiếc này bị máy bay phe Trục tấn công và đánh chìm trên đường đi vào ngày 19 tháng 1. "Havock" đã cứu khoảng 350 người sống sót trước khi "Thermoplylae" bị đắm. Con tàu được chuyển sang Chi hạm đội Khu trục 22 vào tháng 2, và tiếp tục hộ tống các đoàn tàu vận tải đi đến Malta. Vào ngày 22 tháng 3 năm 1942, mảnh đạn từ một phát đạn pháo suýt trúng từ thiết giáp hạm Ý "Littorio" đã xuyên thủng một trong các nồi hơi của nó trong Trận Sirte thứ hai, và "Havock" phải đi đến Malta để sửa chữa. Đang khi ở trong ụ tàu, nó trở thành một mục tiêu chính cho các cuộc tấn công của máy bay phe Trục và chịu thêm những hư hại vào ngày 3 tháng 4, nên nó được lệnh đi đến Gibraltar trước khi việc sửa chữa hoàn tất. "Havock" bị mắc cạn ngoài khơi Kelibia, Tunisia, trong eo biển Sicily vào ngày 6 tháng 4, và bị đắm ở tọa độ . Một thủy thủ thiệt mạng trong sự cố này; thủy thủ đoàn và hành khách bị phe Vichy Pháp bắt làm tù binh và giam giữ tại Laghouat ở Sahara, nhưng được thả ra vào tháng 11 do kết quả của Chiến dịch Torch. Xác tàu của "Havock" sau đó bị tàu ngầm Ý "Aradam" phóng ngư lôi phá hủy. | 1 | null |
Etyl bromide là một chất lỏng không màu, không tan trong nước nhưng tan trong xăng, ete...
Điều chế.
Etyl bromide được điều chế bằng cách cho etilen phản ứng thế với khí hydro bromide:
Etyl bromide không đắt và hiếm khi được điều chế trong phòng thí nghiệm. Việc tổng hợp trong phòng thí nghiệm bao gồm phản ứng của etanol với hỗn hợp hydrobromic và acid sulfuric. | 1 | null |
SeeYa (Hangul: 씨야)(viết tắt của See You Always) là một nhóm nhạc nữ Hàn Quốc ban đầu được tạo thành từ các thành viên: Kim Yeonji, Lee Boram, và Nam Gyuri. Năm 2009, Nam Gyuri rời nhóm để theo đuổi sự nghiệp hát đơn, cô được thay thế bởi Lee Soomi cho đến năm 2010. Sau đó nhóm tiếp tục hoạt động với bộ đôi: Kim Yeonji và Lee Boram cho đến khi tan rã năm 2011. Khi ra mắt, họ được coi giống như phiên bản nữ của SG Wannabe.
Lịch sử.
Album đầu tay của họ, "The First Mind" được phát hành vào ngày 24 tháng 2 năm 2006. và cho ra mắt đĩa đơn "A Woman's Scent" và "Shoes", bài hát "Crazy Love Song" cho phim "The Invisible Man".
Album thứ hai của họ "Lovely Sweet Heart", được phát hành vào ngày 25 tháng 5 năm 2007. Album bán được 81.723 bản trong năm 2007, trở thành album bán chạy thứ năm ở Hàn Quốc trong năm đó, theo Hiệp hội Công nghiệp âm nhạc của Hàn Quốc. Đĩa đơn đầu tiên "Love's Greeting", đã giành giải thưởng tại Golden Disk Awards và giải thưởng MKMF Awards năm 2007.
Tháng 5, 2008, SeeYa đã hợp tác cùng Davichi, Black Pearl phát hành một đĩa đơn là "Blue Moon".
Vào tháng 4 năm 2009, SeeYa được quản lý và điều hành bởi Core Contents Media - công ty con của Mnet Media. Sau đó Nam Gyuri đã ngừng tham gia vào các hoạt động của nhóm. Nam Gyuri tuyên bố hợp đồng của cô đã kết thúc và cô ấy đã không còn ràng buộc với công ty hoặc SeeYa. Trên blog của mình, cô ấy ám chỉ người đứng đầu của Core Contents Media là "ma quỷ" và cáo buộc các thành viên khác của nhóm làm cô ấy cảm thấy cô đơn.
Tháng 5, 2009, SeeYa hợp tác cùng Davichi và T-ara để phát hành đĩa đơn "Women's Generation/Eternal Love." Tính đến 08 tháng 6 năm 2009, "Women's Generation" đã đứng đầu các bảng xếp hạng nhạc di động trong bốn tuần liên tiếp và đứng thứ 4 trong tải nhạc di động năm 2009.
Ngày 15 tháng 7 năm 2009, Core Contents Media thông báo Nam Gyu Ri sẽ trở lại hoạt động cùng nhóm. Tuy nhiên không lâu sau, Core Contents Media lại thông báo Nam Gyu Ri sẽ chính thức rời nhóm vào ngày 13 tháng 8 năm 2009. Gyu Ri thông báo rằng cô rời nhóm để tập trung vào sự nghiệp diễn xuất của mình và không có ý định tiếp tục làm ca sĩ. Tuy nhiên trong thực tế, Gyu Ri Nam đã tiếp tục ca hát như một nghệ sĩ solo ngay sau khi tìm được quản lý mới.. Sau đó, Gyu Ri được thay thế bởi Lee Soomi. Họ cho ra mắt mini-album mới: "Rebloom" vào 28 tháng 10 năm 2009
Sau khi kết thúc chương trình quảng bá cho "Rebloom", SeeYa hợp tác cùng Davichi và T-ara phát hành ca khúc "Wonder Woman" vào tháng 7 năm 2010. Trong 4, SeeYa phát hành ca khúc "Touch My Heart" làm nhạc nền cho bộ phim "Personal Taste".
Ngày 23 tháng 7 năm 2010, Core Contents Media thông báo rằng Lee Soomi sẽ rời SeeYa để tham gia vào nhóm mới Co-Ed School, SeeYa tiếp tục hoạt động với 2 thành viên.
Ngày 13 tháng 12 năm 2010, Core Content Media tuyên bố SeeYa sẽ giải tán sau khi phát hành album tiếp theo của họ. Core Content Media tuyên bố quyết định được thực hiện dựa trên yêu cầu của các thành viên. Tuy nhiên, nhiều người tỏ ra nghi ngờ về điều này.
Nam Gyuri quyết định tham gia cùng các thành viên cũ trong chương trình quảng bá cuối cùng của họ. SeeYa phát hành album cuối cùng của họ vào ngày 10 tháng 1 năm 2011: "See You Again" - một album tổng hợp với hai ca khúc mới. Nhóm giải tán sau màn trình diễn cuối cùng (bao gồm cả Gyuri) vào ngày 30 tháng 1 năm 2011, trên sân khấu Inkigayo. Trong tháng 11 năm 2012, Core Content Media ra mắt một nhóm mới dựa trên mô hình của SeeYa dưới tên The SeeYa. | 1 | null |
Sân vận động trong nhà Singapore (), còn được gọi tắt là Sân vận động trong nhà, là một nhà thi đấu nằm ở Kallang, Singapore. Nhà thi đấu nằm gần với Sân vận động Quốc gia Singapore, cả hai đều là một phần của Trung tâm Thể thao Singapore. Nhà thi đấu có sức chứa tối đa là 15.000 người tùy thuộc vào cấu hình, với cấu hình toàn chỗ ngồi là 12.000 người.
Sân vận động trong nhà Singapore được sử dụng chủ yếu cho các trận đấu cầu lông, bóng rổ, bóng lưới, quần vợt, thể thao điện tử, đấu vật chuyên nghiệp, võ thuật tổng hợp, kickboxing và các cuộc đua xe tải quái vật cũng như các buổi hòa nhạc. Tổ chức ONE Championship thường xuyên tổ chức các sự kiện tại đây. Năm 2015, Sân vận động trong nhà Singapore đã bán được 72.342 vé cho các sự kiện. Vào năm 2022, nhà thi đấu này dự kiến sẽ tổ chức The International 2022, giải đấu thể thao điện tử "Dota 2" hàng năm và là giải đấu thể thao điện tử có tổng giá trị giải thưởng lớn nhất.
Khán giả có thể đi đến nhà thi đấu bằng tàu điện ngầm thông qua ga MRT Sân vận động thuộc Tuyến Vòng tròn và ga MRT Tanjong Rhu thuộc Tuyến Thomson–Bờ Đông. Nhà thi đấu cũng kết nối trực tiếp với ga MRT Kallang thuộc Tuyến Đông Tây qua các lối đi có mái che.
Lịch sử.
Việc xây dựng bắt đầu vào ngày 1 tháng 1 năm 1985 với chi phí 90 triệu đô la Singapore. Sân vận động này, được thiết kế bởi kiến trúc sư người Nhật Kenzo Tange và có một cái mái hình nón ở trên. Nó được hoàn thành vào ngày 1 tháng 3 năm 1987 và chính thức mở cửa vào ngày 1 tháng 7 năm 1988.
Vào ngày 31 tháng 12 năm 1989, sân vận động đã được chính thức khánh thành bới Thủ tướng đầu tiên của Singapore, Lý Quang Diệu.
Sức chứa.
Do cấu hình sân khấu linh hoạt, sức chứa của sân vận động này thay đổi từ 7.306-7.968 cho các buổi hòa nhạc đến 8.126-10.786 cho các sự kiện thể thao. Nhưng sức chứa tối đa là khoảng 12.000.
Phần nhìn ra mặt sông.
Phía sau sân vận động có một phần hướng ra bờ sông được gọi là "Stadium Waterfront", ở đó có cửa hàng bán lẻ và nhà hàng phục vụ thức ăn ngoài trời, và đôi khi có những khu chợ phố.
Sự kiện.
Các buổi hòa nhạc nổi bật.
Sân vận động đã được dùng để tổ chức những buổi hòa nhạc và chương trình lớn của nhiều nghệ sĩ và ban nhạc nổi tiếng. | 1 | null |
Hùng Sơn là thị trấn huyện lỵ của huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, Việt Nam.
Địa lý.
Thị trấn Hùng Sơn nằm ở trung tâm của huyện Đại Từ, thuộc lưu vực sông Công, cách thành phố Thái Nguyên khoảng 25 km và cách khu du lịch hồ Núi Cốc khoảng 10 km, có vị trí địa lý:
Thị trấn Hùng Sơn có diện tích 14,63 km², dân số năm 2018 là 25.051 người, mật độ dân số đạt 998 người/km².
Thị trấn Hùng Sơn nằm ven tuyến quốc lộ 37 đi Tuyên Quang. Ngoài ra còn có tỉnh lộ 260 nối với thành phố Thái Nguyên và khu du lịch hồ Núi Cốc; tỉnh lộ 261 nối với các xã phía nam và thành phố Phổ Yên và tuyến đường sắt Quan Triều - Núi Hồng cũng đi qua phần phía bắc thị trấn.
Thị trấn có hai tuyến xe buýt nối với thành phố Thái Nguyên và một số xã khác trong huyện.
Lịch sử.
Sau Cách mạng Tháng Tám, Hùng Sơn là một xã thuộc huyện Đại Từ. Năm 1953, xã Hùng Sơn được chia thành ba xã: Hùng Sơn, Tân Thái và Bình Thuận.
Tháng 8 năm 1958, một phần diện tích và dân số của xã Hùng Sơn được tách ra để thành lập thị trấn Đại Từ, thị trấn huyện lỵ huyện Đại Từ.
Ngày 13 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 124/NQ-CP. Theo đó, sáp nhập toàn bộ diện tích và dân số của xã Hùng Sơn vào thị trấn Đại Từ để thành lập thị trấn Hùng Sơn.
Ngày 14 tháng 5 năm 2019, thị trấn Hùng Sơn được Bộ Xây dựng công nhận là đô thị loại IV.
Đến cuối năm 2019, thị trấn Hùng Sơn được chia thành 20 tổ dân phố: An Long, Bàn Cờ, Cầu Thành 1, Cầu Thành 2, Cầu Thông 1, Cầu Thông 2, Chợ 1, Chợ 2, Đá Mài, Đình, Đồng Trũng, Liên Giới, Liên Sơn, Mới, Phú Thịnh, Sơn Hà, Sơn Tập 1, Sơn Tập 2, Sơn Tập 3, Trung Hòa và 7 xóm: 2, 8, Đồng Cả, Đồng Khuôn, Hàm Rồng, Xuân Đài, Vân Long.
Ngày 23 tháng 7 năm 2019, sáp nhập xóm 8 và tổ dân phố Đá Mài thành tổ dân phố Hợp Thành, sáp nhập hai tổ dân phố Mới và Sơn Tập 1 thành tổ dân phố Tân Sơn.
Hành chính.
Thị trấn Hùng Sơn được chia thành 19 tổ dân phố: An Long, Bàn Cờ, Cầu Thành 1, Cầu Thành 2, Cầu Thông 1, Cầu Thông 2, Chợ 1, Chợ 2, Đình, Đồng Trũng, Hợp Thành, Liên Giới, Liên Sơn, Phú Thịnh, Sơn Hà, Sơn Tập 2, Sơn Tập 3, Tân Sơn, Trung Hòa và 6 xóm: 2, Đồng Cả, Đồng Khuôn, Hàm Rồng, Xuân Đài, Vân Long. | 1 | null |
Họ Cá sấu mõm ngắn ("Alligatoridae)" là một họ bò sát thuộc Bộ Cá sấu (Crocodilia) bao gồm cá sấu mõm ngắn (alligator) và cá sấu Caiman (caiman).
Cá sấu mõm ngắn.
Chi cá sấu này gồm những loài xuất hiện trên các bãi bồi vào thời Creta ở châu Âu, nơi đây chúng tồn tại cho đến thời Pliocene. Các loài cá sấu thực sự ngày nay có 2 đại diện "A. mississippiensis" ở Đông Nam Hoa Kỳ, loài này dài đến 4.24 m và nặng 454.5 kg và loài nhỏ hơn "Alligator sinensis" thuộc sông Dương Tử, Trung Quốc, loài này dài trung bình 1,5 m. Tên của chúng trong tiếng Tây Ban Nha là "el lagarto" nghĩa là "thằn lằn".
Cá sấu caiman.
Ở Trung và Nam Mỹ, họ Cá sấu mõm ngắn có 6 đại diện trong phân họ "Caimaninae," chi "Caiman". Các loài này khác với cá sấu thực sự bởi thiếu một vách ngăn giữa các xương mũi, và giáp bụng ửqec m yauopou wsgkl. 544
được cấu tạo bởi các xương vảy chồng chéo, mỗi xương này được tạo thành hai cặp được liên kết nhau bằng một khâu. Một số tác giả lại chia chi này thành 3 chi, gồm chi "Caiman", "Paleosuchus" và Caiman đen thành "Melanosuchus". Caiman có xu hướng nhanh nhẹn hơn các loài cá sấu khác trong môi trường của chúng, và có răng dài hơn, sắc bén hơn cá sấu thực sự.
"C. crocodilus" có phạm vi phân bố rộng nhất từ từ miền nam Mexico đến nửa bắc Argentina, và kích thước lên đến 2,2 mét. Loài lớn nhất gần như tuyệt chủng là "Melanosuchus niger", hay Caiman đen của sông Amazon. Caiman đen dài đến 5 m, kỷ lục lớn nhất dài 5,79 m. Caiman đen và cá sấu Mỹ là các thành viên duy nhất trong họ Cá sấu mõm ngắn có khả năng thể hiện những mối đe dọa đối với con người.
Mặc dù cá sấu caiman không được nghiên cứu sâu, các nhà khoa học đã học được rằng chu kỳ giao phối của chúng liên quan đến các chu kỳ mưa và mực nước sông, điều này tạo cơ hội sống sót cho con cái của chúng.
Sự khác biệt với cá sấu thực sự.
Sự khác nhau cơ bản giữa các loài cá sấu mõ ngắn (họ Alligatoridae) với các loài cá sấu thực sự (họ Crocodylidae) chủ yếu là việc chúng có đầu rộng hơn và ngắn hơn, mõm cũng ngắn hơn và mập hơn. Cá sấu mõm ngắn thích nghi tốt với môi trường nước ngọt trong khi cá sấu thực sự có thể sống được trong môi trường nước lợ. Nói chung, cá sấu thực sự có xu hướng nguy hiểm hơn đối với con người hơn là những con cá sấu mõm ngắn. Một đặc điểm kỳ lạ mới được phát hiện của cả hai nhóm cá sấu caiman và cá sấu mõm ngắn Mỹ là ngoài thực đơn bình thường gồm cá và thịt, chế độ ăn uống của chúng cũng gồm cả lá và trái cây. | 1 | null |
Rockwell X-30 là một dự án trình diễn công nghệ tiên tiến dành cho National Aero-Space Plane (NASP), một phần thuộc dự án của Hoa Kỳ nhằm tạo ra tàu vũ trụ và tàu vận tải 1 tầng có thể bay lên quỹ đạo (SSTO). Nó bị hủy bỏ đầu thập niên 1990 trước khi mẫu thử hoàn thành.
Tham khảo.
American X-Vehicles (.pdf)
2. Air Force History of the NASP | 1 | null |
Rockwell-Messerschmitt-Bölkow-Blohm X-31 là một mẫu máy bay dùng để thử nghiệm công nghệ động cơ thay đổi hướng phụt TVC.
Máy bay được thiết kế và chế tạo bởi Rockwell và Messerschmitt-Bölkow-Blohm (MBB), trong khuôn khổ chương trình hợp tác giữa Mỹ và Đức nhằm cải thiện khả năng thao diễn của máy bay chiến đấu. Hệ thống điều khiển bay tiên tiến sẽ kiểm soát máy bay ở góc tấn lớn, giúp máy bay không bị mất điều khiển do hiện tượng tròng trành. Đã có hai chiếc máy bay được sản xuất thử nghiệm.
Thiết kế và phát triển.
Chiếc X-31 được thiết kế với khung thân hoàn toàn mới, mặc dù nó vay mượn rất nhiều từ các thiết kế của các mẫu máy bay khác, bao gồm cả chương trình máy bay thử nghiệm của Anh (X-31 đã sử dụng thiết kế cánh với cánh canard cùng với cửa hút khí vào động cơ bên dưới thân máy bay), thiết kế cánh và cửa hút khí của chiếc TKF-90 của Đức, thiết kế thân trước của F/A-18 Hornet, bao gồm buồng lái, ghế phóng thoát hiểm, các máy phát điện, thiết kế càng hạ cánh, bơm nhiên liệu, nguồn điện khẩn cấp từ F-16 Fighting Falcon, F-16XL, V-22 Osprey, Cessna Citation, F-20 Tigershark (hệ thống đánh lửa động cơ khẩn cấp bằng hydrazine) và B-1 Lancer. Nhờ đó, việc phát triển máy bay X-31 đã được rút ngắn đi rất nhiều.
Hai nguyên mẫu X-31 đã được chế tạo, và bay thử lần đầu vào ngày 11/10/1990. X-31 có cánh dạng delta và bổ sung cánh mũi kiểm soát góc chúc/ngẩng của máy bay, ngoài ra máy bay còn được tăng thêm độ cơ động nhờ trang bị động cơ kiểm soát vec tơ lực đẩy TVC. Cánh mũi là dạng thiết kế đã từng được áp dụng trên máy bay chiến đấu Saab Viggen, và sau đó, là các mẫu máy bay như Eurofighter Typhoon, Dassault Rafale, Gripen. Cánh của máy bay X-31 có dạng delta với góc khác nhau, giống với Saab 35 Draken và nguyên mẫu F-16XL (kiểu cánh này gọi là cranked arrow wing). X-31 có cánh vây bụng ở phần thân sau cùng với cánh mũi được điều khiển bằng máy tính giúp cải thiện độ ổn định và khả năng thao diễn. Máy bay không có cánh đuôi ngang, chỉ có cánh đuôi đứng cùng với cánh lái. Chuyển động chúc/ngẩng và lộn vòng được kiểm soát nhờ động cơ có 3 tấm để lái luồng phụt phản lực. Trong quá trình bay mô phỏng, các kỹ sư đã nhận thấy chiếc X-31 có khả năng giữ ổn định dù không có cánh đuôi ngang, máy bay vẫn ổn định là nhờ có động cơ thay đổi được hướng của luồng phụt phản lực.
Trong quá trình thử nghiệm, máy bay X-31 đã đạt được những cột mốc quan trọng. Ngày 6/11/1992, X-31 đã đạt góc tấn 70° nhưng vẫn trong trạng thái kiểm soát. 29/4/1993, nguyên mẫu X-31 thứ 2 đã thực hiện thành công một góc ngoặt gấp tới 180°, vẫn duy trì độ ổn định dù đã vượt quá góc tấn thông thường. Động tác ngoặt gấp này về sau đã được gọi là động tác "cơ động Herbst" theo tên của Tiến sĩ Wolfgang Herbst, một nhân viên của MBB và là người đề xuất sử dụng phương pháp bay này trong không chiến. Herbst là chuyên gia của Rockwell SNAKE, nền tảng của chiếc X-31.
Giữa những năm 1990, chương trình được hồi sinh trở lại, Mỹ và Đức đã ký Biên bản ghi nhớ vào tháng 4 năm 1999 để bắt đầu hợp tác trong chương trình VECTOR trị giá 53 triệu đô. Chương trình phát triển máy bay siêu cơ động VECTOR là dự án có sự tham gia của Hải quân Mỹ, công ty quốc phòng BWB của Đức, công ty Phantom Works của Boeing và DASA; ban đầu, dự kiến sẽ có sự tham gia của Thụy Điển, nhưng quốc gia này đã rút lui do những hạn chế về tài chính. | 1 | null |
Lockheed Martin X-33 là một mẫu máy bay không gian quỹ đạo thấp trình diễn công nghệ không người lái, được phát triển trong thập niên 1990 thuộc chương trình Space Launch Initiative do chính phủ Hoa Kỳ tài trợ.
Stats.
Dài: 69 ft
Rộng: 77 ft
Trọng lượng cất cánh: 285.000 lbs
Nhiên liệu: LH2/LO2
Trọng lượng nhiên liệu: 210.000 lbs
Động cơ đẩy chính: 2 J-2S Linear Aerospikes
Lực đẩy cất cánh: 410.000 lbs
Vận tốc tối đa: Mach 13+
Tải trọng lên quỹ đạo thấp: N/A | 1 | null |
Lockheed Martin X-35 là một loại máy bay thử nghiệm được Lockheed Martin phát triển cho Chương trình tiêm kích liên quân. Nó được tuyên bố thắng Boeing X-32 và được đưa vào sản xuất vào đầu thế kỷ 21 với tên gọi chính thức là F-35 Lightning II.
Tính năng kỹ chiến thuật (F-35).
Một số thông tin là phỏng đoán. | 1 | null |
Muang Thong Thani (tiếng Thái: เมืองทองธานี, viết tắt là MTT) là tên một khu đô thị mới tại huyện Pak Kret tỉnh Nonthaburi Thái Lan. "Muang" có nghĩa là trung tâm, "Thong" có nghĩa là vàng, còn Thani nghĩa là đô thị. Chủ đầu tư và quản lý khu đô thị hiện đại này là tập đoàn Bangkok Land Plc. Bên cạnh các tòa nhà chung cư và biệt thư, Muang Thong Thani còn là nơi đặt tổ hợp thể thao - triển lãm - hội nghị Impact, Muang Thong Thani, trường Đại học Mở Sukhothai Thammathirat, và đại bản doanh của câu lạc bộ bóng đá Muangthong United F.C.
Lịch sử.
Phát triển.
Muang Thong Thani được phát triển từ quỹ đất được xây dựng bởi Mongkol Kanjanapas, người sáng lập Công ty Bangkok Land, trong những năm 1970. Vào thời điểm đó, khu vực, ở ngoại ô phía bắc Bangkok, không xa sân bay quốc tế Don Mueang và chủ yếu được kết nối với tuyến xa lộ Chaeng Watthana, hầu như chưa phát triển và chủ yếu là ruộng lúa. Mongkol có diện tích đất, mà ông mua với gia 40.000 baht mỗi (US). Bangkok phát triển nhanh chóng trong suốt những năm 1980, và đến cuối những năm 1980, giá đất đã tăng gấp hai trăm lần lên 20.000 baht/wa vuông hay 8 triệu mỗi rai (), cho phép công ty thu được lợi nhuận lớn từ việc phát triển đất.
Ban đầu, Muang Thong Thani được phát triển từ năm 1978 như một khu phức hợp nhà ở thông thường, với đất đai được chia nhỏ và bán hầu hết cho các chủ sở hữu cá nhân. Năm 1989, ở đỉnh cao kinh tế Thái Lan bùng nổ, con trai của Mongkol Anant Kanjanapas trở về Hồng Kông để lãnh đạo công ty, và công bố tầm nhìn mới: phát triển Muang Thong Thani như một vệ tinh] thuộc sở hữu tư nhân, khép kín thành phố dọc theo các phố mới của Hồng Kông, nơi có tới 700.000 cư dân. | 1 | null |
"Countryside Life" ( "Jeon Won Ilgi", dịch là "Cuộc sống thôn quê") là một bài hát của nhóm nhạc nữ Hàn Quốc T-ara N4 - nhóm nhỏ của T-ara. Lấy từ đĩa mở rộng đầu tiên cùng tên (2013), bài hát được viết và sản xuất bởi Duble Sidekick, với sự hỗ trợ của Hwang Ho-jin. Nó có sự tham gia của rapper nhóm Speed, Woo Tae-woon. "Countryside Life" là một ca khúc dance-pop pha trộn với hip-hop, trong khi lời bài hát nói về mong muốn thoát ra khỏi những thói quen hằng ngày, những động tác vũ đạo về nông thôn.
Video âm nhạc.
Thông tin.
Video âm nhạc của "Countryside Life" do đạo diễn Jo Soo-hyun chỉ đạo, được quay trong khoảng thời gian ba ngày và bốn đêm. Jo, được biết đến với vai trò đạo diễn của PSY trong "Gangnam Style" và "Gentleman", Phiên bản dance của video âm nhạc được đạo diễn bởi Hong Won-ki, người từng làm việc cùng T-ara với video Bunny Style! của họ. Đoạn video teaser được chiếu tại M! Countdown 2013 tại buổi hòa nhạc ở Đài Loan, trong khi các video âm nhạc đầy đủ được chiếu trên YouTube, GomTV và các trang web âm nhạc trực tuyến khác ngày 29 tháng 4 năm 2013.
Video có sự tham gia của ca sĩ Kim Wan-sun, chính trị gia Huh Kyung-young, diễn viên Jung Woon-taek, cầu thủ bóng chày đã nghỉ hưu Yang Joon Hyuk, Kang Min-kyung của Davichi và Tae-won của Speed.
Phiên bản drama mô tả một nhóm nông dân đang mệt mỏi, chán nản công việc. Khi người giám sát của họ không để ý, các thành viên bỏ đi và tham gia một cuộc thi nhảy được tổ chức tại thành phố... | 1 | null |
Jeff van Dyck (lúc đầu gọi là Jeff Dyck) là một nhà soạn nhạc trò chơi điện tử người Canada. Sinh năm 1969 và lớn lên ở Vancouver, Canada. Van Dyck là một nhà soạn nhạc tự do, đạo diễn âm thanh và nhà thiết kế âm thanh.
Công việc.
Ông bắt đầu trở nên nổi tiếng trong ngành công nghiệp âm nhạc trò chơi điện tử vào năm 1992, khi làm việc với Electronic Arts (EA) cho một số thương hiệu trò chơi thể thao, chẳng hạn như loạt game "Need for Speed" cùng với Kaskas Saki.
Sau thời gian làm việc cho EA, Van Dyck đã trở thành nhà soạn nhạc cho thương hiệu "Total War" của The Creative Assembly. Trong quá trình hợp tác với nhà phát triển game, Van Dyck đã giành được Giải thưởng Nghệ thuật Điện ảnh và Truyền hình của Học viện Anh ("British Academy of Film and Television Arts Award") vào năm 2001 và nhận được một đề cử vào năm 2005. Một trong những trò chơi mà ông đã làm âm thanh khá tốt là "" được đề cử cho phần "Thành tựu Âm thanh" của giải thưởng phát triển vào tháng 5 năm 2012.
Năm 2014 với tư cách là giám đốc âm thanh, nhóm của ông lại một lần nữa giành được giải thưởng BAFTA cho "". Van Dyck là đối tác của các nhà phát triển trò chơi độc lập Witch Beam ("Assault Android Cactus") có trụ sở tại Brisbane và EarthWork Games ("Forts"). | 1 | null |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.