text
stringlengths
1
148k
label
int64
0
2
__index_level_0__
int64
0
113k
Khu vực An ninh Chung (JSA) là nơi duy nhất tại Khu phi quân sự Triều Tiên (DMZ) các binh sĩ Hàn Quốc và Triều Tiên đứng mặt đối mặt. Nơi đây thường được các phương tiện truyền thông và các thông tin quân sự của cả hai miền gọi là "Làng Đình chiến". JSA được hai phía dùng cho các cuộc hẹn ngoại giao và cho đến tháng 3 năm 1991, cũng là địa điểm đàm phán quân sự giữa Bắc Triều Tiên và Liên quân Liên Hợp Quốc (UNC). Vị trí. Khu vực An ninh Chung có toạ độ nằm trong làng Bàn Môn Điếm. Ngôi làng Bàn Môn Điếm trước đây vốn có diện tích rộng hơn khu phức hợp quân sự JSA ngày nay, và bao gồm chủ yếu là các nông trại. Thực tế, JSA nằm về phía nam ngôi làng chính khoảng 800 mét nhưng vẫn nằm trong khu vực canh tác cũ của làng. Do gần gũi về mặt địa lý này nên thường có sự mập mờ giữa các thuật ngữ JSA và Bàn Môn Điếm. Bàn Môn Điếm không còn là ngôi làng có người sinh sống khi nó bị phá hủy trong chiến tranh và tất cả những gì còn sót lại đến ngày nay tại địa điểm của ngôi làng cũ là một công trình được xây dựng cho việc ký kết hiệp định ngừng bắn, bây giờ là Bảo tàng Hòa bình Bắc Triều Tiên.
1
null
Paradox Development Studio là một nhà phát triển video game Thụy Điển được thành lập vào năm 1995. Studio được kết hợp chặt chẽ với công ty mẹ và nhà phát hành video game Paradox Interactive. Hãng được biết đến chủ yếu là do những loạt game đại chiến lược "Europa Universalis", "Hearts of Iron", "Crusader Kings" và "". Lịch sử. Paradox Development Studio thành lập dựa trên di sản của công ty board game Thụy Điển "Target Games" và đã trở thành một nhà phát triển trò chơi trên PC chuyên về mảng đại chiến lược kể từ năm 1995. Từ khi bắt đầu, "Target Games" đã thiết kế các board game và tạo ra trò chơi máy tính có tên là "Svea Rike" dựa theo một board game. Công ty tiếp tục tạo ra các tựa game PC và vào năm 1999 thì công ty chia thành hai thực thể riêng biệt: Paradox Interactive chỉ tập trung việc phát triển các tựa game đại chiến lược cho PC, trong khi Paradox Entertainment tập trung vào việc tạo ra các board game và game nhập vai. Paradox Interactive đã bắt đầu tự phát hành các game chiến lược của riêng mình và nhanh chóng mở rộng danh mục đầu tư của họ bằng cách đảm nhận việc phát hành các tựa game PC từ các hãng phát triển khác. Vào tháng Giêng năm 2012, công ty lại bị chia một lần nữa thành hai công ty là Paradox Interactive đã trở thành nhà phát hành game tập trung vào trò chơi máy tính thuộc các thể loại và Paradox Development Studio đã trở thành studio phát triển game tập trung vào các game đại chiến lược. Hãng Paradox Development Studio có trụ sở tại Stockholm là nhà phát triển đứng đằng sau các thương hiệu như "Europa Universalis", "Crusader Kings", "Hearts of Iron" và "". Paradox Development Studio là một trong những nhà phát triển trò chơi điện tử đầu tiên tạo ra thể loại "Đại Chiến lược" và hầu hết các tựa game mà studio đã phát triển đều rơi vào thể loại đó. Những game đại chiến lược là các trò chơi chiến lược lấy bối cảnh lịch sử mà thường bao trùm toàn bộ bản đồ thế giới và bao gồm các yếu tố như kinh tế, ngoại giao và chiến tranh. Các game do Paradox Development Studio phát triển đều có khả năng tùy biến cao và phần chơi mạng hỗ trợ lên đến 32 người chơi. Paradox Development Studio hiện nay bao gồm 32 người làm việc trên bốn dự án song song. Giám đốc studio Johan Andersson đã dẫn đầu nhóm phát triển trò chơi kể từ thời Target Games. Một số thành viên của studio đã có sẵn kinh nghiệm từ cộng đồng thử nghiệm phiên bản beta và thực hiện mod; bao gồm các thành viên như trưởng nhóm dự án Henrik Fåhraeus, lãnh đạo dự án Thomas Johansson và nhà thiết kế game Chris King. Trò chơi thứ hai mới nhất của studio được phát hành "Crusader Kings II" là một trong những trò chơi được xếp hạng cao nhất năm 2012 theo Metacritic. Studio phát triển gần đây đã phát hành "Europa Universalis IV" được coi là phần tiếp theo trong loạt game xây dựng đế chế của mình. Đến năm 2016 Paradox Interactive Studio cho ra mắt tựa game Stellaris đạt được doanh thu cao nhất trong tất cả các tựa game đã sản xuất. Clausewitz Engine. Năm 2007, Paradox Development Studio lần đầu tiên cho ra mắt một game engine độc quyền gọi là Clausewitz, trong "Europa Universalis III" và đã được sử dụng trong tất cả các tựa game được phát triển bởi Paradox Development Studio kể từ đó. Engine cung cấp một khung cảnh 3D của một phần hoặc toàn bộ bản đồ thế giới, tùy thuộc vào lối chơi. "Sengoku" là game đầu tiên sử dụng Clausewitz 2.5 engine. Ngoài ra Clausewitz Engine còn là một Game engine với mã nguồn mở, cho phép mọi người có quyền truy cập và thay đổi dữ liệu, cấu trúc game (Mod (trò chơi)) chỉ với Notepad. Danh sách trò chơi. Danh sách trò chơi được phát triển bởi Paradox Development Studio.
1
null
Paradox Interactive là một nhà phát hành video game Thụy Điển có trụ sở tại Stockholm được biết đến với việc phát hành các tựa game chiến lược lịch sử trên máy tính. Hãng tự phát hành các game của riêng mình (được phát triển bởi Paradox Development Studio) cũng như các nhà phát triển khác thông qua các kênh bán lẻ truyền thống cũng như các dịch vụ phân phối kỹ thuật số, chẳng hạn như GamersGate. Trưởng nhóm lập trình game là Johan Andersson. Paradox Interactive trước đây là một bộ phận của Paradox Entertainment, là đồng tác giả và nhà phát triển của các tác phẩm như "Conan the Barbarian" được tạo ra bởi tác giả của tạp chí giật gân Robert Ervin Howard. Đặc điểm game. Studio đã tạo ra cái gọi là thuật ngữ "trò chơi đại chiến lược", có nghĩa là những người chơi trên một bản đồ thế giới thực, được đánh dấu bằng việc sử dụng các yếu tố thời gian thực tiêu chuẩn nhưng với khả năng thực hiện bất kỳ và tất cả các thay đổi trong khi bị tạm dừng (và trong khi bỏ tạm dừng). Hầu như tất cả các game của Paradox đều lấy bối cảnh lịch sử và thể hiện cam kết hợp lý về sự thực lịch sử. Trọng tâm của mỗi game là khác nhau, nhưng nói chung là một người chơi phải quản lý nền kinh tế, thương mại, chính trị nội bộ, ngoại giao, phát triển công nghệ và các lực lượng quân sự của một quốc gia. Các game của Paradox Interactive còn có đặc điểm phức tạp, rối rắm với các kiểu lối chơi rất chi tiết và do đó làm phóng đại sự hiểu biết đến chỗ quanh co. Paradox thường xuyên phát hành bản vá lỗi cho các tựa game của họ lâu sau khi phát hành lúc đầu của một trò chơi. Một số trò chơi đòi hỏi các bản vá lỗi ngay sau khi phát hành thì mới có thể chơi được. Các bản vá lỗi về sau có thể chứa những thay đổi lớn cho game và lối chơi trong game nhằm đáp ứng với nhu cầu và đề nghị của người hâm mộ. Các tựa game chủ yếu dựa trên một bộ engine game mở (trò chơi kiểu sandbox) sẽ chẳng có phần thiết lập điều kiện "chiến thắng". Paradox đã cố làm cho game theo hướng mở và dễ dàng chỉnh sửa (moddable), từ tinh chỉnh phần lưu game để tạo ra một kịch bản hoàn toàn mới. Việc chỉnh sửa có thể được thực hiện với công cụ đơn giản và kiến thức cơ bản của việc viết kịch bản. Để hỗ trợ các modder tìm ra cách tùy biến trò chơi theo cách riêng của mình, các diễn đàn của Paradox đã cung cấp một thư viện tư vấn "làm thế nào để" do người hâm mộ biên soạn. Do đó, mỗi trò chơi đều có một số lượng rất lớn các bản mod từ những bổ sung nhỏ nhoi cho đến việc hoàn tất đại tu cả hệ thống trong game. Hiện Paradox Interactive đã có một launcher (Paradox Launcher) của riêng mình để phát hành các game của mình trên đó. Diễn đàn. Sự phức tạp của các trò chơi thường xuyên đảm bảo sự hợp tác của người chơi trên các diễn đàn. Thông thường, người chơi sẽ giúp người chơi khác về các vấn đề trong game, chia sẻ các bản mod và viết "các báo cáo sau hành động". Do nhiều nội dung của game nằm trong văn bản và các tập tin hình ảnh gốc, việc chỉnh sửa trò chơi (modification) đã trở nên rất phổ biến. Nhiều thông tin về lối chơi được bộ engine sử dụng có chứa trong văn bản không nén và các tập tin đồ họa bitmap. Khả năng tự do chỉnh sửa các tập tin đã cho phép một cộng đồng mod hoạt động tích cực để phát triển game không ngừng nghỉ. Các bản báo cáo sau hành động thường viết tắt là AARs trên các diễn đàn, cung cấp một chỗ cho người chơi để thảo luận về lối chơi của mình theo những cách độc đáo với những người chơi khác. AARs là những bài tường thuật được viết bởi người chơi về những trải nghiệm của họ với một trò chơi, có phong cách từ các bài thuyết trình đơn giản về sự phát triển của game với những tấm screenshot cho câu chuyện của nhân vật theo định hướng thêm thắt cao chỉ dựa trên các sự kiện trong game. Chúng thường được đăng trong một chủ đề diễn đàn, với mỗi bài viết cập nhật tương ứng với một khoảng thời gian chơi trong game cùng ý kiến ​​bình luận và đề xuất của độc giả trong quá trình cập nhật. Trò chơi. Hỗ trợ Linux và MacOS. Paradox Interactive đang bắt đầu cung cấp các bản chuyển thể sang Linux và MacOS của tất cả các game kể từ đầu năm 2013. Trò chơi đầu tiên như vậy là "Crusader Kings II" sẽ có sẵn trên Steam dành cho Linux kể từ ngày 14 tháng 1 năm 2013. Danh sách các trò chơi vừa hỗ trợ Linux, vừa hỗ trợ MacOS.
1
null
Phó nguyên soái Choe Ryong-hae (Chosŏn'gŭl: 최룡해, Hanja: 崔龍海, Hán-Việt: Thôi Long Hải) (sinh ngày 15 tháng 1 năm 1950) là một chính khách gia và nhân vật quân sự của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Trong Đảng Lao động, ông hiện đang là Bí thư Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch phụ trách Tổ chức Lao động và là một trong 5 thành viên của Ban Thường vụ Bộ Chính trị, cơ quan quyền lực cao nhất của Đảng và Nhà nước Triều Tiên; nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Quân sự Trung ương. Về phía chính quyền, ông hiện đang nắm giữ chức vụ Ủy viên trưởng Ủy ban Thường vụ Hội đồng Nhân dân Tối cao (tức cơ quan thường trực của Quốc hội), kiêm Phó Chủ tịch Ủy ban Quốc vụ. Tiểu sử. Choe Ryong-hae sinh ra tại huyện Sinchon, tỉnh Nam Hwanghae, ngày 15 tháng 1 năm 1950, là con trai của Choe Hyon, người từng là Bộ trưởng quốc phòng của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên 1968-1976. Ông gia nhập Quân đội nhân dân Triều Tiên vào năm 1967 và tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kim Il-sung chuyên ngành chính trị và kinh tế. Năm 1980 ông đảm nhiệm chức vụ trong Ủy ban Trung ương đồng minh Thanh niên Xã hội Lao động Chủ nghĩa xã hội chỉ đạo việc giáo dục tại nước ngoài. Năm 1981 làm Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương đồng minh Thanh niên Xã hội Lao động Chủ nghĩa xã hội. Tháng 8 năm 1986 làm Chủ tịch Ủy ban Trung ương đồng minh Thanh niên Xã hội Lao động Chủ nghĩa xã hội cho đến khi đổi tên thành Đoàn Thanh niên XHCN Kim Nhật Thành(1996),kiêm Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Tối cao, Thường nhiệm Ủy viên Hội nghị Nhân dân Tối cao, Ủy viên Trung ương Đảng.Năm 1990 ông đứng đầu Hiệp hội Bóng đá và Taekwando của Đoàn thanh niên Triều Tiên, vào năm 1993 được trao danh hiệu Anh hùng của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Ông bị mất chức Chủ tịch Đoàn thanh niên Ri Il-hwan kế nhiệm tại kỳ họp thứ 14 Trung ương Đoàn (1/1998). Sau khi rời khỏi đoàn Thanh niên, Choe Ryong-hae làm Phó Trưởng ban Các vấn đề chung thuộc Ủy ban Trung ương Đảng, sau đó làm bí thư tỉnh Hwanghae từ 2006 tới 2010. Tháng 9 năm 2010, Tại Hội nghị lần thứ ba của Đảng, ông được phong hàm cấp Tướng đồng thời là thành viên của Ban Bí thư và Ủy ban Quân sự Trung ương, thành viên dự khuyết Bộ Chính trị. Ông cũng được bổ nhiệm làm Bí thư phụ trách vấn đề quân sự. Ông không được biết đến sau cái chết của Kim Jong-il. Ông được xem là cánh tay đắc lực của Kim Jong-un. Vào tháng 4 năm 2012 ông được thăng hàm lên Phó Soái, được vào Ban Thường vụ Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Ủy ban Quân sự Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Triều Tiên phần lớn chức vụ được cho là để thay thế Jo Myong Rok sau cái chết của ông. Được xem là cộng sự thân tín của Jang Song-thaek, sau đó là thành viên trong việc khôi phục vai trò của Đảng với quân đội của Kim Jong-un bằng cuộc thanh trừ Ri Yong Ho. Theo các chuyên gia, nhiều tướng lĩnh quân đội không phục Choe Ryong-hae. Trên thực tế, cuộc thanh trừng Tổng tham mưu trưởng quân đội Ri Yong-ho là do phía Đảng Lao động tiến hành chứ không phải quân đội dưới sự chỉ đạo của Choe Ryong-hae. Tháng 12 năm 2012 ông bị giáng quân hàm xuống Đại tướng, khi ông mặc bộ quân phục mang hàm tướng tại lễ kỷ niệm 1 năm ngày mất Kim Jong-il tại cung Kumsusan. Mặc dù trong ngày 14/12/2012 ông vẫn mặc quân phục cấp Phó Soái tại cuộc phóng tên lửa Quang Minh Tinh 3.Đồng thời Hyon Yong-chol cũng bị giáng xuống còn cấp tướng và việc cắt chức Bộ trưởng Bộ Lực lượng Vũ trang Nhân dân Kim Jong-Gak càng gia tăng sự bất mãn với Choe Ryong-hae. Tại lễ kỷ niệm 50 Kim Nhật Thành ra khẩu hiệu, 5 tháng 2 năm 2013 Choe Ryong-hae đã mặc quân hàm cấp Phó Soái cho thấy đây là sự thăng cấp của ông. Ngày 22 tháng 5 năm 2013 ông là đặc phái viên của Kim Jong-un đến thăm Trung Quốc.
1
null
Au-Haidhausen là quận 5 của thành phố München, Bayern. Nó bao gồm khu phố Au và Haidhausen. Vị trí. Au-Haidhausen nằm đối diện với Altstadt-Lehel ở bờ phía Đông của sông Isar. Quận 5 ở phía Bắc giáp với quận Bogenhausen biên giới là Prinzregentenstraße, ở phía Đông Berg am Laim biên giới là đường rầy xe lửa, ở phía Nam với Humboldtstraße là biên giới với Obergiesing, và Untergiesing mà cũng nằm dọc theo sông Isar. Lịch sử. Au và Haidhausen ngày xưa là khu vực cư trú của thợ thuyền và dân lao động trước cổng của München. Cả hai mà trước đó là các làng độc lập vào ngày 1 tháng 10 năm 1854 được nhập vào München và trở thành những khu phố lao động của thành phố München. Rất nhiều hãng bia được thành lập ở đây, vì ở bên bờ phải của sông Isar là chỗ tốt để đào những giếng nước và các hầm để trữ bia. Khu phố "Franzosenviertel", là một khu vực tại Haidhausen, tên đường ở đây được đặt theo những nơi đã thắng trận trong Chiến tranh Pháp - Phổ, chẳng hạn như Weissenburger-Platz, Weissenburgerstr., Belfortstr., Orleansplatz, Orleansstr., Wörthstr., Gravelottestr., Pariser Str., Pariser Platz, Metzstr., Sedanstr., Breisachstr., Spicherenstr.. Khu này được hoạch định vào năm 1871 bởi Arnold von Zenetti sau khi Braunauer Bahnhof (bây giờ gọi là Ostbahnhof) được hoàn thành. Mục đích là có nơi cư trú cho dân thợ thuyền. Đến thập niên 1980 thì giới nghệ sĩ dọn tới ở. Khu này cũng trở thành khu ăn chơi như khu phố Schwabing. Nhân vật nổi tiếng. Tay hề, ca sĩ dân tộc, nhà văn và sản xuất phim Karl Valentin lớn lên ở khu Au. Sách báo. Helmuth Stahleder: "Von Allach bis Zamilapark". Namen und historische Grunddaten zur Geschichte Münchens und seiner eingemeindeten Vororte. Stadtarchiv München, ed. München: Buchendorfer Verlag 2001. ISBN 3-934036-46-5 Hermann Wilhelm: "Haidhausen Münchner Vorstadt im Lauf der Zeit". Von der bäuerlichen Ansiedlung zum Stadtteil Münchens. Buchendorfer Verlag 1991. ISBN 3-927984-09-4
1
null
Lãnh thổ Dakota (tiếng Anh: "Dakota Territory" hay "Territory of Dakota") là một lãnh thổ hợp nhất có tổ chức của Hoa Kỳ, tồn tại từ ngày 2 tháng 3 năm 1861 cho đến 2 tháng 11 năm 1889 khi phần đất bị thu hẹp cuối cùng còn lại của lãnh thổ bị tách ra làm hai và cho phép gia nhập vào liên bang để trở thành hai tiểu bang Bắc Dakota và Nam Dakota. Lịch sử. Lãnh thổ Dakota gồm có phần đất cận bắc nhất thuộc Cấu địa Louisiana của Hoa Kỳ. Tên lãnh thổ ám chỉ đến chi hệ Dakota của các bộ lạc người bản địa Sioux sinh sống trong khu vực vào lúc đó. Phần lớn Lãnh thổ Dakota trước kia từng là một phần của các lãnh thổ Minnesota và Nebraska. Khi Minnesota trở thành một tiểu bang vào năm 1858, phần đất còn lại nằm giữa sông Missouri và ranh giới phía tây của Minnesota trở thành vô tổ chức. Khi Hiệp định Yankton được ký kết vào cuối năm đó với kết quả phần nhiều vùng đất của người bản địa Sioux được nhượng cho chính phủ Hoa Kỳ thì những người định cư đầu tiên tại đây đã tổ chức một chính quyền lâm thời không chính thức và đã vận động cho vùng đất này được trở thành một lãnh thổ nhưng không thành công. Ba năm sau đó, cháy rể của tổng thống tân cử Abraham Lincoln's là J.B.S. Todd đã đích thân vận động cho vùng đất này trở thành một lãnh thổ và sau cùng chính phủ tại Washington chính thức thành lập Lãnh thổ Dakota. Nó trở thành một lãnh thổ có tổ chức vào ngày 2 tháng 3 năm 1861. Ngay khi thành lập, Lãnh thổ Dakota bao trùm phần lớn các tiểu bang Montana và Wyoming ngày nay. Lãnh thổ Dakota trong Nội chiến Hoa Kỳ. Lãnh thổ Dakota không trực tiếp dính líu vào Nội chiến Hoa Kỳ nhưng có tuyển mộ một số binh sĩ để bảo vệ các khu định cư sau Chiến tranh Dakota 1862. Chính cuộc chiến tranh này đã gây ra sự thù địch với các bộ lạc Sioux trong Lãnh thổ Dakota. Quân khu Tây Bắc đã phái quân viễn chinh vào Lãnh thổ Dakota trong các năm 1863, 1864 và 1865. Quân khu cũng thiết lập các binh trại trong Lãnh thổ Dakota để bảo vệ các khu định cư biên cương của Lãnh thổ Dakota, Iowa và Minnesota và lưu thông dọc theo sông Missouri. Lãnh thổ Dakota và trở thành tiểu bang. Sau nội chiến, sự thù địch vẫn tiếp tục với người bản địa Sioux cho đến khi Hiệp định Fort Laramie được ký kết vào năm 1868. Vào năm 1868, các lãnh thổ mới được thành lập đã khiến cho diện tích của Lãnh thổ Dakota thu hẹp lại như ranh giới hiện tại của hai tiểu bang Nam và Bắc Dakotas. Các quận của lãnh thổ được phân định vào năm 1872 trong đó có Quận Bottineau, Quận Cass và các quận khác. Sau khi trở thành một lãnh thổ có tổ chức, dân số tăng rất chậm trong những năm đầu tiên và rồi tăng rất nhanh từ năm 1870 đến 1880. Dân số người da trắng phát triển chậm vì một số lý do. Chính yếu là vì người bản địa Sioux được xem là rất thù địch và là một mối đe dọa cho các người định cư đầu tiên trong lãnh thổ. Dần dần người bản địa bị đánh bại và không còn là mối đe dọa lớn. Việc gia tăng dân số có thể là nhân tố góp phần làm phát triển hệ thống đường sắt, đặc biệt là hệ thống Đường sắt Bắc Thái Bình Dương. Những người định cư tìm đến Lãnh thổ Dakota là di dân từ các lãnh thổ khác ở miền tây và cũng có nhiều người khác từ Bắc và Tây Âu đến. Nhóm người này gồm có số đông là người Na Uy, Đức, Thụy Điển, và Canada. Thương nghiệp ban đầu chỉ chủ yếu là mua bán da thú. Nó được tiến hành bằng tàu chạy hơi nước dọc theo các con sông đến các khu định cư. Vàng được tìm thấy tại Black Hills vào năm 1874 và đã thu hút nhiều người định cư hơn, làm bùng nổ chiến tranh Sioux lần cuối cùng. Sự bùng nổ dân số làm cho nhu cầu về thịt gia tăng, kéo theo sự phát triển chăn nuôi bò trên các vùng đất rộng lớn của lãnh thổ. Với sự xuất hiện của hệ thống đường sắt, nông nghiệp trồng lúa mì trở thành một nguồn nông sản sinh lợi chính của lãnh thổ. Lãnh thổ gặp hó khăn kinh tế vào thập niên 1880 vì giá lúa mì xuống thấp và thời tiết khô hạn. Thủ phủ lãnh thổ là Yankton từ năm 1861 cho đến năm 1883 khi nó được dời về Bismarck. Lãnh thổ Dakota được chia thành tiểu bang Bắc Dakota và Nam Dakota vào ngày 2 tháng 11 năm 1889. Việc cho phép lãnh thổ gia nhập vào liên bang thành hai tiểu bang, chớ không phải là một, được thực hiện vì một số lý do. Hai trung tâm dân số của lãnh thổ nằm tại góc đông bắc và đông nam của lãnh thổ, cách nhau đến vài trăm dặm Anh. Nếu Dakota được phép trở thành một tiểu bang thì nó sẽ là tiểu bang lớn thứ hai của Hoa Kỳ, đứng sau tiểu bang California (Texas vẫn chưa được phép tái gia nhập liên bang sau nội chiến). Lúc đó cũng có một số áp lực muốn giữ các tiểu bang mới có diện tích gần như bằng nhau. Trên mức độ quốc gia, có áp lực từ đảng Cộng hòa muốn có hai tiểu bang để đảng được thêm quyền lực trong Quốc hội Hoa Kỳ (mỗi tiểu bang được hai Thượng nghị sĩ tại Quốc hội Hoa Kỳ).
1
null
Nepenthes albomarginata là một loài nấp ấm nhiệt đới có nguồn gốc từ Borneo, bán đảo Malaysia, và Sumatra. Lịch sử thực vật học. "Nepenthes albomarginata" lần đầu tiên được thu thập bởi Thomas Lobb năm 1848. Nó đã được chính thức mô tả một năm sau đó bởi John Lindley trong The Gardeners' Chronicle. Loài này được đưa vào canh tác tại Vương quốc Anh vào năm 1856. Sinh thái. "Nepenthes albomarginata" là một loài phổ biến, xuất hiện ở Borneo, bán đảo Malaysia và Sumatra. Nó cũng được tìm thấy trên hòn đảo nhỏ như Nias và Penang. Nó phân bố theo độ cao của 0-1.200 m so với mực nước biển.
1
null
"You Give Good Love" là một bài hát của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Whitney Houston, phát hành như là đĩa đơn chủ đạo trích từ album đầu tay mang chính tên cô tại Mỹ vào tháng 2 năm 1985 bởi hãng thu âm Arista, và là đĩa đơn thứ hai trích từ album ở Vương quốc Anh. Bài hát được viết bởi LaLa và sản xuất bởi Kashif. Khi LaLa gửi Kashif bản sao của bài hát, ban đầu được cung cấp cho Roberta Flack, nhưng sau đó ông nghĩ rằng nó sẽ là phù hợp hơn với Whitney Houston và nói với Arista rằng ông muốn Whitney thu âm bài hát này. Bài hát nhận được những đánh giá chủ yếu là tích cực từ các nhà phê bình Việc phát hành "You Give Good Love" đã đem đến cho Whitney sự chú ý và đứng trong thị trường âm nhạc da đen, theo đó đứng đầu bảng xếp hạng "Billboard" Hot Black Singles, nhưng nó cũng là một hit pop bất ngờ, khi đạt hạng 3 trên Billboard Hot 100, đây là đĩa đơn top 10 đầu tiên trong sự nghiệp của cô. Sau đó đĩa đơn được chứng nhận Vàng bởi Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Mỹ (RIAA). Bài hát đã được phát hành chính thức ở một số nước như Úc, Canada, Nhật Bản, New Zealand và Vương quốc Anh, nhưng không lọt vào top 40 ở bất kì quốc gia nào, ngoại trừ Canada, nơi mà nó lọt vào top 10. Bài hát đã giành giải đĩa đơn Soul/R&B được yêu thích tại lễ trao giải American Music Awards lần thứ 13, cũng như được đề cử ở hạng mục Trình diễn giọng R&B nữ xuất sắc nhất tại lễ trao giải Grammy lần thứ 28 năm 1986 Video ca nhạc của bài hát được đạo diễn bởi Karen Bellone, trong đó Whitney Houston biểu diễn tại một câu lạc bộ và có một nhiếp ảnh gia đã quay lại màn trình diễn của cô ấy. Houston đã biểu diễn ca khúc tại nhiều chương trình truyền hình khác nhau và các lễ trao giải như "The Tonight Show Starring Johnny Carson", "The 1985 R&B Countdown" và "Giải thưởng Soul Train Music Awards lần thứ I", cũng như trong 3 chuyến lưu diễn đầu của cô và một số ngày trong "The Bodyguard World Tour" (1993-1994) và "My Love Is Your Love World Tour" (1999). "You Give Good Love" cũng xuất hiện trên ba album tổng hợp của Houston là (2000), Love, Whitney (2001) và The Essential Whitney Houston (2011).
1
null
Rặng núi La Hiên thuộc dãy Trường Sơn, ở địa phận xã Phú Mỡ, huyện Đồng Xuân, có độ cao trên 1.318 mét so với mặt nước biển, nhìn từ xa La Hiên như một mái nhà doi ra chắn gió mưa. Núi La Hiên nằm ở toạ độ . Rặng núi La Hiên nằm kề bên thị trấn La Hai huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên có độ cao trên 1300 mét so với mặt nước biển. Trên rặng La Hiên có 2 hòn núi nhỏ mà dân trong vùng gọi là Hòn Ông và Hòn Bà. Các thành phố lân cận núi La Hiên là Thành phố Quy Nhơn, Thành phố Nha Trang, Thành phố Cam Ranh. Lịch sử. Rặng La Hiên xưa kia là nơi Nguyễn Hào Sự dùng làm căn cứ luyện tập binh sĩ, đồng thời là chiến lũy chống Pháp rất vững chắc, bởi trước mặt là dòng sông Cái (hạ lưu của sông Trà Bương, Cà Bương) ba bên là núi rừng trùng điệp. Pháp đã nhiều lần mang quân tấn công, nhưng tất thảy đều bị ngăn chặn khiến họ mất nhiều lính nhưng cuối cùng Pháp vẫn đàn áp thành công cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Hào Sự. Ông Phan Lưu Thanh thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên của Phú Yên tại núi La Hiên. Truyền thuyết. Khi Nguyễn Hào Sự cùng nghĩa binh thất bại thì quân đội Pháp đã tiến hành xây dựng cứ điểm quân sự trên núi, dân trong vùng gọi là thành Bồ. Trong quá trình xây dựng, Pháp huy động dân địa phương và tù binh khiêng những tảng đá lớn từ chân núi lên nhưng khi lên được tới lưng chừng núi thì trời bỗng tối sầm lại khiến các dân công và chỉ huy Pháp không thể tìm thấy đường đi nữa. Khi họ bỏ cuộc đi xuống khỏi núi thì trời bỗng nhiên bừng sáng trở lại. Sau hàng chục lần khiêng đá lên núi không thành, người Pháp đành cho xây 4 trụ đá quanh hòn Ông và cho trồng bồ lên chính giữa 4 trụ nhằm yểm tướng, làm cho hào kiệt nước Nam mất nhuệ khí, không còn sức phản kháng chống lại họ. Khi vừa mới xây xong, trời đang nắng bỗng tối sầm lại và mưa lớn làm nghiêng ngả các cột trụ đá. Gió to lại nổi lên làm cuộn bay chiếc bồ, đá lăn từ trên núi xuống rất nhiều khiến lính Pháp bỏ chạy tán loạn. Mấy ngày sau, người Pháp lại kéo binh lính lên núi La Hiên đóng quân, nhưng trưa đó trời bỗng nổi cơn cuồng phong kéo họ lăn xuống chân núi, cờ Pháp bị gió thổi biến mất trong rừng sâu. Họ đành bỏ cuộc, thôi không lên đóng quân trên núi nữa, nhưng lại bố trí đồn binh chung quanh chân núi. Đêm đến, những lúc tối trời, khi vừa mới canh hai thì có hàng đoàn binh sĩ nước Nam với gươm giáo, súng hỏa mai bước đi rầm rập, hô vang "xung phong" khiến người Pháp phải bao phen kinh hoàng. Hiện tượng này cứ lặp lại mãi đến nỗi họ phải cho dời trại binh đóng ra xa hơn.
1
null
Văn phòng Cân đo Quốc tế (tiếng Pháp: Bureau international des poids et mesures, viết tắt BIPM; tiếng Anh: International Bureau of Weights and Measures) là một trong ba tổ chức tiêu chuẩn quốc tế được thiết lập nhằm duy trì Hệ đo lường quốc tế (SI) theo tinh thần Công ước Mét. Hai tổ chức còn lại cũng có nhiệm vụ duy trì hệ SI là Hội nghị toàn thể về Cân đo (CGPM) và Ủy ban Quốc tế về Cân đo (CIPM). Lịch sử. BIPM được thành lập vào ngày 20 tháng 5 năm 1875 tiếp sau lễ ký Công ước Mét - một công ước mà tính đến tháng 8 năm 2008 thì đã có 51 quốc gia tham gia. Tổ chức này đóng trụ sở tại Pavillon de Breteuil, Sèvres, Pháp, trên một khu đất diện tích 4,35 ha (ban đầu là 2,52 ha) do Chính phủ Pháp cấp vào năm 1876. Căn cứ theo sắc lệnh số 70-820 ngày 9 tháng 9 năm 1970 của Pháp, BIPM được hưởng các đặc quyền ngoại giao. Chức năng. Căn cứ theo Công ước Mét, BIPM giúp đảm bảo tính thống nhất trong cân đo theo SI trên phạm vi toàn cầu. Họ làm được điều này thông qua một chuỗi các ủy ban tư vấn có thành viên là các phòng thí nghiệp đo lường quốc gia của các quốc gia thành viên Công ước Mét, kết hợp với phòng thí nghiệm của chính BIPM. BIPM tiến hành các nghiên cứu liên quan đến đo lường, tham gia và tổ chức các so sánh mang tính quốc tế đối với các tiêu chuẩn đo lường của các quốc gia, đồng thời còn thực hiện đo lường cho các nước thành viên. BIPM có nhiệm vụ quan trọng trong công tác duy trì sự chuẩn xác của đo lường thời gian trong ngày trên phạm vi thế giới. Họ kết hợp, phân tích và tính bình quân các chuẩn thời gian nguyên tử chính thức từ các nước thành viên nhằm tạo ra một thời gian chuẩn đơn nhất mang tính chính thức, được gọi là Giờ phối hợp quốc tế (UTC). BIPM cũng là tổ chức giữ gìn nguyên mẫu quốc tế để tính kilôgram. Danh sách giám đốc. Dưới đây là danh sách các đời giám đốc BIPM kể từ khi tổ chức này thành lập đến nay:
1
null
Hüllgraben là một kênh đào thuộc vùng Đông Bắc của München. Nó là rạch tiếp nối của suối Haching dẫn từ dưới đất ở vùng tam giác đường rày xe lửa Zamdorf sau đó chảy vào Abfanggraben, rồi cuối cùng nhập vào kênh đào Mittlere-Isar. Nó chảy ngang qua các khu vực Daglfing và Johanneskirchen tại quận Bogenhausen. Truderinger Hüllgraben bắt đầu ở Kirchtrudering đối diện nhà thờ St. Peter und Paul (Trudering) nhập vào Hüllgraben ở Daglfing. Trong phạm vi của nhà ga điện ngầm (U-Bahnhof) Moosfeld nó chảy trên nóc của nhà ga trong một ống nước. Lịch sử. Phía Đông của Daglfing là vùng sình lầy Johanneskirchen một phần của Erdinger Moos. Để dẫn nước đi người ta từ thế kỷ 19 đã đào sâu thêm những rạch có sẵn thành Hüllgraben và Abfanggraben. Còn ở phía Bắc của Trudering thường hay xảy ra lụt lội do nước tràn ra ở Berg am Laim từ suối Haching. 1933 người ta xây một ống nước có chiều ngang 600 mm dẫn nước từ suối Haching vào Hüllgraben.. Tại cánh đồng Riem ở Daglfing vào năm 2000 một nhánh của Hüllgraben được đào lại theo vẻ thiên nhiên.
1
null
Bogenhausen là tên quận 13 của München, thủ đô của bang Bayern. Trong phạm vi quận này có 8 vùng, trong đó có vùng cũng tên là Bogenhausen. Vị trí. Quận 13 Bogenhausen nằm ở phía Đông Bắc của thành phố München, bên phải của sông Isar. Nó có ranh giới với bờ Tây của sông Isar, về phía Bắc và phía Đông với Unterföhring và Aschheim/Dornach và ở phía Nam là Prinzregentenstraße kéo dài ra ngoài Vòng đai Giữa. Ranh giới phía Nam kéo dài tiếp tục từ phía Tây của Vogelweideplatz về phía Nam của tuyến đường xe lửa München–Mühldorf, dẫn tới Riemer Straße. Từ đây nó chạy dọc theo Hüllgraben và Salzstraße về phía Đông Bắc cho tới ranh giới của thành phố. Bogenhausen có ranh giới với những quận sau đây theo chiều kim đồng hồ: Trudering-Riem ở đông nam, Berg am Laim và Au-Haidhausen ở phía nam, Altstadt-Lehel và Schwabing-Freimann ở phía tây bên kia bờ sông Isar. Ngoài ra, nó có ranh giới với xã Unterföhring ở phía bắc và Aschheim ở đông bắc. Lịch sử. 1892 làng Bogenhausen được nhập vào München, kế tiếp là Oberföhring 1913. 1930 thêm 4 làng nữa, Daglfing, Denning, Englschalking và Johanneskirchen, mà trước đó đã nhập lại thành xã Daglfing. 1937, khu phố Zamdorf và Steinhausen, mà trước đó thuộc xã Berg am Laim đã nhập vào München 1913, trở thành khu vực của Bogenhausen.
1
null
Ambrôsiô (tiếng Anh: Ambrose, tên đầy đủ trong tiếng Latinh: Aurelius Ambrosius) (k. 340 - 4 tháng 4, 397) - được Giáo hội tôn vinh là Thánh Ambrôsiô, là Tổng giám mục thành Milano từ năm 374 tới năm 397. Ông là một trong những nhân vật tôn giáo có ảnh hưởng lớn nhất ở thế kỷ thứ 4, những bài thuyết giảng của ông đã góp phần khiến Augustinô cải sang Kitô giáo. Ông cũng đóng vai trò quan trọng trong cuộc tranh luận chống lại phái theo thuyết Ariô. Ambrôsiô là một trong bốn người đầu tiên được tôn phong Tiến sĩ Hội thánh.
1
null
Hội nghị toàn thể về Cân đo (tiếng Pháp: Conférence générale des poids et mesures, viết tắt CGPM; tiếng Anh: General Conference on Weights and Measures) là tổ chức cao nhất trong ba tổ chức quốc tế được thành lập vào năm 1875 theo điều khoản của Công ước Mét nhằm đại diện cho lợi ích của các quốc gia thành viên. Hai tổ chức còn lại là Văn phòng Cân đo Quốc tế (BIPM) và Ủy ban Quốc tế về Cân đo (CIPM). Cứ bốn đến sáu năm một lần, Hội nghị lại diễn ra tại xã Sèvres, tây nam Paris, Pháp. Ban đầu mối quan tâm của Hội nghị chỉ là kilôgam và mét, tuy nhiên từ 1921 tầm bao quát của Hội nghị đã mở rộng để gồm hết các đo lường vật lý và tất cả các khía cạnh của hệ mét. Năm 1960, Hội nghị lần thứ 11 đã thông qua hệ đo lường quốc tế (SI). Thành lập. Ngày 20 tháng 5 năm 1875, 17 quốc gia cùng nhau đặt bút ký thông qua một hiệp ước quốc tế gọi là Công ước Mét. Hiệp ước này đã thiết lập ra ba tổ chức đã được nêu tên gọi như trên: Hội nghị toàn thể về Cân đo (CGPM), Văn phòng Cân đo Quốc tế (BIPM) và Ủy ban Quốc tế về Cân đo (CIPM). Trong đó, CGPM có vai trò đại diện cho chính phủ của các nước thành viên. Để làm được điều đó, họ bổ nhiệm thành viên vào CIPM, nhận báo cáo từ CIPM rồi chuyển chúng đến các chính phủ và các phòng thí nghiệm tại các quốc gia thành viên, kiểm tra và chấp thuận (nếu xét thấy được) các đề xuất từ phía CIPM về việc thay đổi hệ đo lường quốc tế (SI), thông qua ngân sách cho BIPM (năm 2012 là trên 10 triệu euro) và quyết định tất cả các vấn đề hệ trọng liên quan đến tổ chức cũng như sự phát triển của BIPM. Tiêu chuẩn thành viên. CGPM công nhận hai loại thành viên: thành viên đầy đủ (muốn tham gia các hoạt động của BIPM) và thành viên kết giao (quốc gia hoặc nền kinh tế chỉ muốn tham gia chương trình thỏa thuận công nhận lẫn nhau). Các thành viên kết giao đều có tư cách quan sát viên trong CGPM. Vì tất cả mọi liên lạc giữa các tổ chức hiệp định và các chính phủ quốc gia đều được xử lý bởi đại sứ của các nước thành viên ở Pháp nên bắt buộc quốc gia thành viên phải có quan hệ ngoại giao với Pháp. mặc dù trong thời gian diễn ra hai cuộc chiến tranh thế giới thì các nước đang giao chiến với Pháp cũng vẫn giữ nguyên tư cách thành viên CGPM. Phiên mở màn của mỗi kỳ CGPM đều do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp làm chủ tọa và ở các phiên kế tiếp thì Viện Hàn lâm Khoa học Pháp làm chủ tọa. Trong số 20 quốc gia tham dự hội nghị về Mét vào năm 1875 thì có 17 đại diện đã ký vào Công ước. Anh Quốc tham gia Công ước vào ngày 17 tháng 9 năm 1884. Theo thời gian con số thành viên cũng dần tăng tiến: 21 thành viên (1900), 32 thành viên (1950) và 49 thành viên (2001). Tính đến ngày 7 tháng 8 năm 2013, có 55 quốc gia thành viên đầy đủ, 38 quốc gia và nền kinh tế thành viên kết giao. Sau đây là danh sách các thành viên; lưu ý số ghi trong ngoặc đơn là năm trở thành thành viên. Thành viên đầy đủ (1877)<br> (1947)<br> (1875)<br> (1875)<br> (1921)<br> (1911)<br> (1907)<br> (1908)<br> (1977)<br> (2012)<br> (2008)<br> (1922)<br> (1875)<br> (1954)<br> (1962)<br> (1923)<br> (1875)<br> (1875)<br> (2001)<br> (1925)<br> (1957)<br> (1960)<br> (1975)<br> (1925)<br> (1985)<br> (1875)<br> (1885)<br> (2008)<br> (2010)<br> (2001)<br> (1890)<br> (1929)<br> (1991)<br> (1875)<br> (1973)<br> (1925)<br> (1876)<br> (1884)<br> (1875)<br> (2011)<br> (2001)<br> (1994)<br> (1922)<br> (1964)<br> (1959)<br> (1875)<br> (1875)<br> (1875)<br> (1912)<br> (2012)<br> (1875)<br> (1884)<br> (1878)<br> (1908)<br> (1879) Ghi chú Thành viên kết giao Tại Hội nghị lần thứ 21 (tháng 10 năm 1999), CGPM đặt ra loại thành viên mới gọi là "thành viên kết giao" ("associate") dành cho các quốc gia hay nền kinh tế chưa là thành viên của BIPM cũng như dành cho các liên minh kinh tế. (2007)<br> (2010)<br> (2003)<br> (2008)<br> (2011)<br> (2012)<br> (2005)<br> Trung Hoa Đài Bắc (2002)<br> (2004)<br> (2000)<br> (2000)<br> (2005)<br> (2008)<br> (2009)<br> (2000)<br> (2003)<br> (2001)<br> (2001)<br> (2006)<br> (2001)<br> (2010)<br> (2013)<br> (2011)<br> (2012)<br> (2012)<br> (2003)<br> (2009)<br> (2009)<br> (2002)<br> (2007)<br> (2010)<br> (2003)<br> (2007)<br> (2012)<br> (2002)<br> (2003)<br> (2010)<br> (2010)<br>
1
null
Ủy ban Quốc tế về Cân đo (tiếng Pháp: Comité international des poids et mesures, viết tắt CIPM; tiếng Anh: International Committee for Weights and Measures) là một trong ba tổ chức tiêu chuẩn quốc tế được thiết lập nhằm duy trì Hệ đo lường quốc tế (SI) theo tinh thần Công ước Mét. Hai tổ chức còn lại cũng có nhiệm vụ duy trì hệ SI là Hội nghị toàn thể về Cân đo (CGPM) và Văn phòng Cân đo Quốc tế (BIPM). Ủy ban Quốc tế về Cân đo có 18 thành viên từ các quốc gia thành viên của Công ước Mét do Hội nghị toàn thể Cân đo quốc tế bổ nhiệm. Ủy ban có nhiệm vụ chính là đảm bảo tính thống nhất về đơn vị đo trên phạm vi toàn cầu thông qua chỉ đạo trực tiếp hoặc qua đề xuất lên CGPM. Ban thư ký đóng tại xã Sèvres, vùng đô thị Paris, Pháp. Sứ mạng. Gần đây CIPM tập trung thiết lập Thỏa thuận công nhận lẫn nhau ("Arrangement de reconnaissance mutuelle") làm khuôn khổ cho hợp tác lẫn nhau về đo lường trong nội bộ các quốc gia thành viên của Công ước Mét. CIPM tổ chức họp thường niên tại Văn phòng Cân đo Quốc tế và thảo luận các báo cáo do các ủy ban tư vấn của họ trình lên. Mỗi năm ủy ban ra một báo cáo thường niên về tình hình quản trị và tài chính của BIPM cho các nước thành viên của Công ước Mét. Các ủy ban tư vấn. CIPM lập ra và điều hành nhiều ủy ban tư vấn để hỗ trợ công việc của họ. Chủ tịch của mỗi ủy ban thường cũng là thành viên CIPM. Ngoại trừ Ủy ban tư vấn về Đơn vị, thành viên của các ủy ban còn lại đều do CIPM bổ nhiệm từ danh sách những nhà khoa học đo lường có kinh nghiệm phù hợp, lấy từ nhiều nước thành viên. Các ủy ban tư vấn: Ủy ban tư vấn về Đơn vị có nhiệm vụ tư vấn các vấn đề liên quan đến công tác phát triển hệ đo lường quốc tế và chuẩn bị các brochure về SI. Khác với các ủy ban kia, Ủy ban tư vấn về Đơn vị có thành viên là các ứng viên từ những cơ quan quốc gia và quốc tế nổi tiếng như Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế, Viện Tiêu chuẩn và Kĩ thuật Quốc gia (Hoa Kỳ), Phòng thí nghiệm Vật lý Quốc gia (Anh Quốc), Hiệp hội Thiên văn Quốc tế, Liên hiệp Quốc tế về Hóa học thuần túy và Hóa học ứng dụng, Liên minh Quốc tề về Vật lý thuần túy và Vật lý ứng dụng... Các báo cáo chính. GCPM giao CIPM thực hiện các nghiên cứu lớn liên quan đến những hoạt động có ảnh hưởng lên CGPM hoặc BIPM. Các báo cáo do CIPM thực hiện là: Báo cáo Blevin. Báo cáo Blevin ("Blevin Report") được xuất bản năm 1998, có nội dung đánh giá thực trạng khoa học đo lường tại các nước trên thế giới. Báo cáo bắt nguồn từ một nghị quyết được thông qua ở Hội nghị toàn thể về Cân đo lần thứ 20 (tháng 10 năm 1995) với nội dung yêu cầu CIPM phải "nghiên cứu và báo cáo các nhu cầu dài hạn tầm quốc gia và quốc tế có liên quan đến khoa học đo lường, các mối cộng tác quốc tế phù hợp và vai trò đơn nhất của BIPM nhằm đáp ứng các nhu cầu này, cam kết tài chính và các cam kết khác mà các quốc gia thành viên sẽ cần tới trong những thập niên sắp đến." Báo cáo cũng nhận diện nhu cầu cần hợp tác chặt chẽ hơn giữa BIPM và các tổ chức khác, chẳng hạn "International Organization of Legal Metrology" (OIML) và "International Laboratory Accreditation Cooperation" (ILAC) nhưng cần định rõ ranh giới và điểm chung giữa các tổ chức này. Một khám phá khác của CIPM là sự tồn tại của nhu cầu hợp tác giữa các phòng thí nghiệm công nhận ("accreditation laboratory") với nhau và nhu cầu đưa các nước đang phát triển vào sân chơi chung của khoa học đo lường thế giới. Báo cáo Kaarls. Báo cáo Kaarls ("Kaarls Report") được xuất bản vào năm 2003 có nội dung đánh giá vai trò của BIPM đối với các nhu cầu ngày càng gia tăng về khoa học đo lường trong thương mại, công nghiệp và xã hội. SI Brochure. CIPM có nhiệm vụ soạn thảo "SI Brochure" nhằm định nghĩa chính thức hệ đo lường quốc tế. Tài liệu này do Ủy ban tư vấn về Đơn vị cùng nhiều tổ chức quốc tế khác soạn ra. Ban đầu tài liệu chỉ viết bằng tiếng Pháp (ngôn ngữ chính thức của Công ước Mét), song về sau đã ấn hành thêm bản tiếng Anh (nhưng văn bản tiếng Pháp vẫn có tính chính thức). Ấn bản 6 được xuất bản vào năm 1991. the 7th edition was published in 1998 and the 8th in 2006.
1
null
"Revolution" là ca khúc được sáng tác bởi John Lennon song được ghi cho Lennon-McCartney. Ca khúc này được thu theo 2 ấn bản hoàn toàn khác biệt: bản hard rock cho mặt B của đĩa đơn "Hey Jude" và bản tiết tấu nhẹ nhàng hơn trong "Album trắng". Cho dù bản "Revolution" được phát hành trước, thực tế nó được thu âm sau ca khúc "Revolution 1" vốn được thiết kế để làm mặt B của đĩa đơn. Ấn bản thứ 3 được Lennon viết là ấn bản experimental có tên "Revolution 9" vốn là phần sáng tác không được dùng tới của "Revolution 1" và cũng được cho vào "Album trắng". Được lấy cảm hứng từ những cuộc biểu tình chính trị vào năm 1968, phần lời của Lennon đã bày tỏ những lo lắng về thái độ của các cuộc biểu tình trên. Khi đĩa đơn được phát hành vào tháng 8, nhiều chính trị gia cánh tả đã cho rằng mình bị phản bội. Ca khúc trong album được phát hành vào tháng 11 đã nhấn mạnh hơn quan điểm của Lennon về tính không chắc chắn của sự thay đổi, như việc câu hát "count me out, in" khi thu đã được thay bằng "count me out". Năm 1987, đây là ca khúc đầu tiên của The Beatles được phát sóng trên truyền hình có bản quyền, và nó đã dẫn tới những tranh chấp giữa những thành viên còn sống của ban nhạc. Thành phần tham gia sản xuất. Theo Ian MacDonald.
1
null
Ủy ban Thanh tra Trung ương (tiếng Triều Tiên: "당중앙거며위원회", "Dang jungang geomyeo Wiwonhoe"), còn gọi là Ban Thanh tra và trước đây gọi là Ban Kiểm tra, là cơ quan chịu trách nhiệm kiểm soát đảng viên Đảng Lao động Triều Tiên, cũng như các vấn đề liên quan đến kỷ luật đảng viên. Điều tra đảng viên hoạt động chống Đảng, chống cách mạng, đảng viên vi phạm điều lệ của Đảng, và bất kỳ hành vi vi phạm hoạt động thuộc ý thức hệ. Ủy ban Thanh tra Trung ương cũng là một diễn đàn ở tỉnh và huyện, cá nhân các đảng viên có thể trực tiếp khiếu nại về các quy định của Đảng, thủ tục bên hoặc xem xét tình trạng của đảng viên trong Đảng. Ủy ban Thanh tra Trung ương là một trong ba tổ chức thuộc quyền quản lý của Ủy ban Trung ương Đảng.Ủy ban Thanh tra Trung ương cũng liên kết với Ban Hướng dẫn Tổ chức và Ban các vấn đề cán bộ (thuộc Ban Bí thư Trung ương Đảng). Thành viên của Ủy ban Thanh tra Trung ương được bầu tại Đại hội đảng, hoặc có thể bầu và do Ủy ban Trung ương Đảng chỉ định. Vai trò. Tại điều thứ 28 Chương III Điều lệ Đảng Lao động Triều Tiên có quy định về thẩm quyền của Ủy ban Thanh tra Trung ương như sau: "28. Ủy ban Kiểm tra của Ủy ban Trung ương Đảng điều tra các đảng viên chống Đảng, hoạt động phe phái phản cách mạng và các hoạt động khác gây phương hại đến hệ thống tư tưởng của Đảng, không chấp hành cương lĩnh và Điều lệ Đảng, vi phạm các quy định khác của Đảng. Nó cũng kiểm tra và giải quyết các trường hợp khiếu nại của đảng viên và đề xuất của cấp tỉnh ủy liên quan đến các vấn đề về kỷ luật cá nhân đảng viên."
1
null
Very Short Introductions (nghĩa: Dẫn nhập ngắn) là bộ sách dài kì của nhà xuất bản Oxford University Press nhắm đến đối tượng độc giả thông thường. Mỗi cuốn khái quát sơ lược về một chủ đề nào đó được viết bởi các chuyên gia, trải dài trên nhiều lĩnh vực như mỹ thuật, âm nhạc, tôn giáo, ẩm thực, tâm lý học, v.v... Tập đầu tiên của bộ sách có tên "Classics" (nghĩa: "Cổ điển học") được xuất bản năm 1995 và đến nay gần 400 tập đã được ra mắt người đọc. Hầu hết các cuốn sách được viết riêng cho bộ sách này song, khoảng 60 cuốn đầu tiên đã được xuất bản trước khi được đưa vào tủ sách "Dẫn nhập". Bộ sách "Very Short Introductions" có thể được xem là bán chạy, hơn 5 triệu bản trên toàn thế giới theo số liệu của Oxford University Press và đã được dịch ra hơn 25 thứ tiếng, trong đó có tiếng Việt. Tại Việt Nam, một vài cuốn đã được xuất bản bởi nhà xuất bản Trí Thức.
1
null
Chiến tranh Tùy – Cao Câu Ly là một loạt các chiến dịch do nhà Tùy của Trung Quốc phát động nhằm vào Cao Câu Ly từ năm 598 đến năm 614. Rốt cuộc, nhà Tùy bị đánh bại, góp phần dẫn đến sự sụp đổ của nhà Tùy năm 618. Bối cảnh. Nhà Tùy thống nhất Trung Quốc vào năm 589, đánh bại nhà Trần và kết thúc sự chia cắt đất nước đã kéo dài gần 300 năm. Sau khi Trung Quốc thống nhất, nhà Tùy đòi hỏi địa vị tối cao đối với các quốc gia xung quanh. Tuy nhiên, tại Cao Câu Ly, một trong Tam Quốc của Triều Tiên, Bình Nguyên Vương và người kế vị ông, Anh Dương Vương một mực muốn duy trì quan hệ bình đẳng với nhà Tùy. Tùy Văn Đế tức giận với hành động chống đối của Cao Câu Ly, trong khi Cao Câu Ly vẫn hay có các cuộc đột kích quy mô nhỏ vào biên giới phía bắc của Tùy. Năm 596, sau khi các phái viên ngoại giao nhà Tùy nhìn thấy những nhà ngoại giao của Cao Câu Ly trong lều du mục của Hãn quốc Đông Thổ, Tùy Văn Đế đã gửi thư ngoại giao yêu cầu Cao Câu Ly hủy mọi liên minh quân sự với các dân tộc Turk, dừng các cuộc cướp bóc hàng năm khu vực biên giới của nhà Tùy và công nhận Tùy là nước bá chủ. Mặc dù Anh Dương Vương vờ như tuân theo tối hậu thư này, nhưng vào năm sau, năm 597, ông đã phối hợp cùng người Mạt Hạt tổ chức một cuộc tấn công phủ đầu các tiền đồn của nhà Tùy dọc theo biên giới mà ngày nay thuộc tỉnh Hà Bắc.
1
null
Mikhail Borisovich Khodorkovsky (tiếng Nga: Михаи́л Бори́сович Ходорко́вский, ; sinh ngày 26 tháng 6 năm 1963) là một doanh nhân Nga giàu có và nhiều thế lực (Tài phiệt Nga), một nhà văn, và cũng là một nhân vật của công chúng. Vào năm 2003, Khodorkovsky được tạp chí "Expert" bình bầu làm người của năm (2003) cùng với Roman Abramovich. Năm 2004, Khodorkovsky trở thành người giàu nhất nước Nga và là một trong những người giàu nhất thế giới, hạng thứ 16 trong danh sách tỷ phú của Forbes. Khodorkovsky đã thành đạt trong guồng máy cộng sản trong chế độ Liên Xô và lập nhiều thành tích kinh doanh trong thời "Cởi mở" và "Đổi mới". Sau khi Liên xô bị giải thể ông ta dần trở nên giàu có nhờ sự phát triển lĩnh vực dầu hỏa tại Siberia với tư cách là tổng giám đốc của hãng Yukos, một trong những công ty lớn nhất của Nga xuất phát từ việc tư nhân hóa tài sản công cộng trong thập niên 1990. Ông bị bắt ngày 25 tháng 10 năm 2003, khi được mời ra làm nhân chứng, nhưng chỉ vài sau bị giữ lại và buộc tội lừa đảo. Chính phủ Nga dưới quyền của Putin giữ các chứng khoán của Yukos sau đó với lý do trốn thuế. Những hành động tiếp theo của chính phủ làm cho ngân phiếu công ty này mất giá và như vậy làm tiêu tan tài sản của Khodorkovsky. Ông bị kết tội trốn thuế và bị xử tù 9 năm vào tháng 5 năm 2005. Trong khi ngồi tù, Khodorkovsky và đối tác kinh doanh của ông Platon Lebedev tiếp tục bị buộc tội và kết tội thêm về tham ô và rửa tiền vào tháng 10 năm 2010, làm tăng thêm hạn tù cho tới năm 2014. Khodorkovsky được ân xá bởi tổng thống Vladimir Putin sau nhiều cuộc vận động trả tự do cho ông bởi Hans-Dietrich Genscher, cựu ngoại trưởng Đức, và được ra khỏi tù ngày 20/12/2013. Tiểu sử. Khodorkovsky sinh tại Moscow, nơi ông ta lớn lên trong một gia đình Xô viết bình thường với căn nhà có 2 phòng, cha mẹ ông đều là kỹ sư làm việc cả cuộc đời tại một công ty sản xuất dụng cụ đo lường. Cha ông là người gốc Do thái và mẹ ông là người Nga theo đạo chính thống giáo. Khodorkovsky ngay từ hồi còn nhỏ rất tham vọng và học rất giỏi. Ở trên đại học ông trở thành phó chủ tịch đoàn Thanh niên Cộng sản (Komsomol) tại trường mình (Viện Hóa học và Kỹ nghệ Nga Moscow Mendeleev), nơi mà ông tốt nghiệp kỹ sư Hóa học vào năm 1986. Dính líu vào Komsomol là một trong những cách để có thể tiến thân trong guồng máy Cộng sản và để đạt được một mức sống cao nhất. Khi thời kỳ Đổi mới bắt đầu, Khodorkovsky dùng những quan hệ của mình trong tổ chức Cộng sản để dành một chỗ đứng trong thị trường tự do. Ông lợi dụng sự giúp đỡ của một số người có nhiều thế lực để bắt đầu những hoạt động thương mại dưới danh nghĩa của Komsomol. Tình bạn với một lãnh tụ Komsomol, Alexey Golubovich, đã giúp ông rất nhiều trong những thành công kế tiếp, bởi vì cha mẹ của Golubovich có địa vị cao trong nhà băng chính phủ Liên Xô. Truy nã quốc tế. Ngày 23-12, chính quyền Nga tuyên bố đưa cựu tỷ phú Mikhail Khodorkovsky vào danh sách truy nã quốc tế theo yêu cầu của tòa án. Một ngày trước đó, cảnh sát Nga bố ráp nơi ở của các nhân viên tổ chức Open Russia do ông Khodorkovsky sáng lập. Phản ứng lại, người phát ngôn của ông Khodorkovsky chỉ trích Điện Kremlin có ý đồ "gây sức ép chính trị" lên người từng một thời giàu nhất nước Nga. Theo AFP, người phát ngôn Ủy ban Điều tra Nga Vladimir Markin thông báo ông Khodorkovsky bị truy nã quốc tế bởi trước đó một tòa án đã ra lệnh bắt cựu tỷ phú Nga vì cáo buộc có dính líu đến vụ ám sát một thị trưởng ở Siberia năm 1998. Ông Khodorkovsky bị bắt hồi năm 2003 và phải ngồi tù 10 năm vì tội trốn thuế, lừa đảo và biển thủ công quỹ. Trước khi bị bắt, ông Khodorkovsky là tỷ phú giàu nhất nước Nga với số tài sản 8 tỷ USD. Những người ủng hộ ông Khodorkovsky chỉ trích đó là đòn trừng trị của Tổng thống Nga Vladimir Putin đối với những tham vọng chính trị của tỷ phú Nga. Nhờ sự vận động của chính phủ Đức, năm 2013, ông Putin ân xá cho ông Khodorkovsky. Khi đó ông Khodorkovsky cam kết không tham gia chính trị. Tuy nhiên sau khi mẹ ông qua đời, ông Khodorkovsky sáng lập phong trào Open Russia với quyết tâm "thay đổi chế độ" ở Nga. Phim tài liệu "Khodorkovsky". Tại Hội phim Quốc tế Berlin 2011 phim tài liệu "Khodorkovsky" được chiếu lần đầu tiên. Nhà đạo diễn Đức, người gốc Nga, đã bỏ 5 năm ra để làm cuốn phim này, đã nói chuyện với hơn 70 nhân chứng, thu thập tài liệu phỏng vấn hơn 180 tiếng. Theo như Tuschi cho biết phim này tốn khoảng 400.000 Euro và đã được nhiều chương trình tài trợ phim và được đài truyền thanh, truyền hình Bayern hỗ trợ tài chính. Cao điểm của phim này là cuộc phỏng vấn Khodorkovsky, mà Tuschi đã có thể thực hiện trong thời gian ông ta bị xử án. Trước khi phim được chiếu lần đầu tiên thì những phòng sản xuất của Tuschi tại Berlin đã bị kẻ trộm xâm nhập và họ đã lấy đi 4 máy tính chứa cuốn phim định chiếu. Trước đó, vào đầu tháng giêng 2011, Tuschi cho biết, có kẻ lạ mặt lấy mất một đĩa cứng có chứa một phần của cuốn phim tài liệu này ở Bali.
1
null
Cận vệ của Hoàng đế La Mã (Latinh: "Praetoriani") là lực lượng cận vệ được sử dụng bởi các Hoàng đế La Mã, khởi đầu từ Augustus (27 TCN - 14 CN) và bị giải tán bởi hoàng đế Constantinus I vào thế kỷ 4. Trước đó, vào thời kỳ Cộng hòa La Mã, danh xưng "Praetoriani" được dùng để chỉ cận vệ của các tướng lĩnh La Mã, sớm nhất là từ sự nổi lên của dòng họ Scipio vào khoảng năm 275 TCN. Sang giai đoạn Đế quốc La Mã, Praetoriani phân biệt với các cận vệ người German, sau này trở thành lực lượng bảo vệ hoàng đế chủ chốt vào thời kỳ cuối của đế quốc. Lịch sử. Thuật ngữ "Praetoriani" xuất phát từ chữ "praetorium" vốn dùng để chỉ nơi ở của vị tướng chỉ huy hoặc pháp quan trong quân đội La Mã. Ban đầu, những "Praetoriani" được các tướng lĩnh tuyển chọn từ các công dân La Mã hoặc người Latinh, bao gồm cả bộ binh lẫn kỵ binh. Họ được sắp xếp thành các "cohort" (gọi là "cohort praetoria"). Một số vị tướng nổi tiếng của nền Cộng hòa như Julius Caesar, Marcus Antonius và Octavianus (sau này là Augustus) sở hữu cho mình những đội cận vệ. Chẳng hạn như Julius Caesar thành lập Quân đoàn X Equestris và biến nó trở thành một quân đoàn có sức mạnh và chức năng hơn hẳn các quân đoàn khác. Khi Augustus trở thành nhà cai trị đầu tiên của Đế quốc La Mã năm 27 TCN, ông nhận ra việc xây dựng đội cận vệ không chỉ hữu ích về mặt quân sự mà còn cả về chính trị. Do đó Augustus đã tuyển lựa những chiến binh xuất sắc trong các quân đoàn khắp các tỉnh để thiết lập "Praetoriani".
1
null
Lãnh thổ Nebraska (tiếng Anh: "Nebraska Territory" hay "Territory of Nebraska") từng là một lãnh thổ hợp nhất có tổ chức của Hoa Kỳ, tồn tại từ ngày 30 tháng 5 năm 1854 cho đến 1 tháng 3 năm 1867 khi vào giai đoạn cuối cùng lãnh thổ được phép gia nhập liên bang để trở thành tiểu bang Nebraska. Lãnh thổ Nebraska được thành lập bởi Đạo luật Kansas–Nebraska năm 1854. Thủ phủ lãnh thổ là Omaha. Lãnh thổ bao trùm các phần đất mà ngày nay thuộc các tiểu bang Nebraska, Wyoming, Nam Dakota, Bắc Dakota, Colorado, và Montana. Lịch sử. Một đạo luật ban hành thể chế mới cho lãnh thổ được quốc hội thông qua năm 1864. Các đại biểu được bầu lên cho một đại hội hiến pháp. Tuy nhiên đại hội hiến pháp không đưa ra được một bản hiến pháp. Hai năm sau đó vào năm 1866, một bản hiến pháp được thảo và được chấp thuận bởi 100 phiếu bầu. Tuy nhiên, một mệnh đề trong hiến pháp giới hạn quyền đầu phiếu chỉ dành cho "đàn ông da trắng tự do" đã khiến làm trì hoãn lãnh thổ được thu nhận vào liên bang trong khoảng 1 năm. Đạo luật ban hành thể chế tiểu bang năm 1866 bị tổng thống Andrew Johnson phủ quyết. Khi Quốc hội Hoa Kỳ tái nhóm họp vào năm 1867, họ lại thông qua đạo luật thành lập tiểu bang Nebraska với điều kiện rằng Hiến pháp Nebraska phải tu chính để cắt bỏ mệnh đề nói về quyền đầu phiếu giới hạn. Đạo luật này vẫn bị tổng thống Johnson phủ quyết. Nhưng Quốc hội sau đó lại gạt bỏ quyền phủ quyết của tổng thống. Các khu định cư ban đầu. Một số trạm mậu dịch, đồn bót, và thị trấn được thiết lập trong Lãnh thổ Nebraska từ đầu thế kỷ 19 cho đến năm 1867 trong đó có Trạm Fontenelle thành lập tại nơi mà ngày nay là Bellevue vào năm 1806. Trạm này được nhắc đến đầu tiên trong các hồ sơ mậu dịch vào năm 1823. Đồn Lisa do Manuel Lisa thiết lập nằm gần Dodge Park ngày nay trong Bắc Omaha vào năm 1812. Đồn Atkinson được thiết lập năm 1819. Năm 1822, Trạm mậu dịch Cabanne được lập gần đó trên sông Missouri. Những người định cư thuộc giáo phái Mormon thành lập Cutler's Park năm 1846, và thị trấn Bellevue được định chế hóa vào năm 1853. Omaha City gần đó được thành lập năm 1854. Nebraska City và Kearney hợp nhất năm 1855. Các thị trấn có ảnh hưởng là Brownville và Fontanelle cũng được thành lập vào năm đó. Ngôi làng sớm nhất là Lancaster, sau này được gọi là Lincoln, được thành lập năm 1856, cũng với các thị trấn Saratoga, South Nebraska City và Florence. Các đồn quân sự ban đầu. Với sự hiện diện của vô số các trạm mua bán da thú thời đó, đồn Atkinson được thành lập năm 1819 là vị trí đồn quân sự đầu tiên tại nơi mà sau đó trở thành Lãnh thổ Nebraska và cũng là địa điểm có trường học đầu tiên của lãnh thổ. Các đồn khác trong Lãnh thổ Nebraska gồm có đồn Kearny nằm gần vị trí của thành phố Kearney ngày nay; đồn McPherson gần Maxwell ngày nay; đồn Mitchell gần Scottsbluff ngày nay; đồn Randall nằm trong Nam Dakota ngày nay; và các đồn Caspar, Halleck, Laramie, và Sanders nằm trong tiểu bang Wyoming ngày nay. Ranh giới. Ranh giời ban đầu của Lãnh thổ Nebraska (như được phân định bởi Đạo luật Tổ chức) bao gồm phần lớn Cấu địa Louisiana; các ranh giới lãnh thổ là: Thành lập thêm các lãnh thổ. Ngay khi thành lập, lãnh thổ bao trùm phần lớn miền bắc vùng Đại Bình nguyên, nhiều phần của lưu vực thượng nguồn sông Missouri và các phần phía đông của miền bắc Rặng Thạch Sơn. Lãnh thổ Nebraska dần dần bị thu nhỏ lại khi các lãnh thổ mới được thành lập từ nó trong thập niên 1860. Lãnh thổ Colorado được thành lập ngày 28 tháng 2 năm 1861 từ các phần đất của lãnh thổ nằm ở phía nam vĩ tuyến 41° Bắc và phía tây kinh độ 102°03′ Tây. Khu vực này gồm có thành phố ngày nay là Fort Collins, Greeley và các phần đất của Boulder nằm ở phía bắc Lộ Baseline. Ngoài ra còn có các phần đất của Lãnh thổ Kansas, Lãnh thổ New Mexico, và Lãnh thổ Utah. Ngày 2 tháng 3 năm 1861, Lãnh thổ Dakota được thành lập. Nó được thành lập từ tất cả phần đất của Lãnh thổ Nebraska nằm ở phía bắc vĩ tuyến 43° Bắc (ngày này là ranh giới Nebraska–Nam Dakota) cùng với phần đất của tiểu bang Nebraska hiện tại nằm giữa vĩ tuyến 43° Bắc và hai con sông Keya Paha và Niobrara (vùng đất này sau đó được trả lại cho Nebraska vào năm 1882). Đạo luật thành lập Lãnh thổ Dakota cũng có kèm theo các điều khoản trao cho Nebraska các phần đất nhỏ của Lãnh thổ Utah và Lãnh thổ Washington —ngày nay là tây nam Wyoming có ranh giới là vĩ tuyến 41° Bắc, kinh độ 110°03′ Tây, vĩ độ 43° Bắc và Đường Phân thủy Lục địa Bắc Mỹ. Các phần đất này không phải là một phần đất của Cấu địa Louisiana mà đúng hơn từng là đất của Xứ Oregon và trở thành một phần đất của Hoa Kỳ vào năm 1846. Ngày 3 tháng 3 năm 1863, Lãnh thổ Idaho được thành lập từ tất cả đất đai của lãnh thổ nằm ở phía tây kinh độ 104°03′ Tây.
1
null
Lãnh thổ Montana (tiếng Anh: "Montana Territory" hay "Territory of Montana") từng là một lãnh thổ hợp nhất có tổ chức của Hoa Kỳ, tồn tại từ 28 tháng 5 năm 1864 cho đến 8 tháng 11 năm 1889 khi nó được phép gia nhập liên bang để trở thành tiểu bang Montana. Lịch sử. Lãnh thổ Montana được thành lập từ đất đai của Lãnh thổ Idaho theo một đạo luật của Quốc hội Hoa Kỳ và được tổng thống Abraham Lincoln ký thành luật ngày 26 tháng 5 năm 1864. Các khu vực đất nằm ở phía đông Đường phân thủy Lục địa Bắc Mỹ trước đó từng là một phần của Lãnh thổ Nebraska và Lãnh thổ Dakota. Nguyên thủy các khu vực vừa kể đều là một phần đất của Cấu địa Louisiana mà Hoa Kỳ mua của Pháp. Lãnh thổ cũng bao gồm một phần đất của Lãnh thổ Idaho nằm ở phía tây đường phân thủy lục địa và ở phía đông Dãy núi Bitterroot. Hoa Kỳ thu được vùng này theo Hiệp định Oregon và nguyên thủy nó là thuộc Xứ Oregon. Phần đất của Xứ Oregon mà sau này trở thành một phần của Lãnh thổ Montana trước đó được tách ra làm một phần đất của Lãnh thổ Washington. Ranh giới giữa Lãnh thổ Washington và Lãnh thổ Dakota là Đường phân thủy Lục địa Bắc Mỹ (như được biểu thị trong bản đồ năm 1861). Tuy nhiên, ranh giới giữa Lãnh thổ Idaho và Lãnh thổ Montana đi theo Dãy núi Bitterroot nằm ở phía bắc vĩ độ 46°30′ bắc (được biểu thị trên bản đồ 1864). Truyền thuyết dân gian có kể rằng một nhóm khảo sát say rượu đã đi nhầm theo một ngọn núi và đã lầm lẫn di dời ranh giới về hướng tây vào trong Dãy núi Bitterroot. Trái ngược với truyền thuyết, ranh giới chính xác là nơi mà Quốc hội Hoa Kỳ có ý định phân giới. Đạo luật tổ chức Lãnh thổ Montana phân định ranh giới mở rộng từ nơi giao cắt của các tiểu bang Montana, Idaho, và Wyoming hiện thời ở: Vĩ độ 44 độ và 30 phút Bắc; từ đó theo hướng tây dọc theo vĩ độ 44 độ 30 phút Bắc vừa nói đến một điểm mà nó giao cắt với xương sống của Rặng Thạch Sơn; từ đó đi theo xương sống Rặng Thạch Sơn lên hướng bắc cho đến khi nó gặp Dãy núi BitterRoot; từ đó theo hướng bắc dọc theo xương sống của Dãy núi Bitter Root đến nơi giao cắt với kinh độ 39 độ Tây tính từ thủ đô Washington; từ đó đi dọc theo kinh độ vừa nói lên hướng bắc đến đường biên giới với phần đất sở hữu của người Anh (hiện nay là Canada). Các ranh giới của lãnh thổ không thay đổi trong suốt thời gian tồn tại. Lãnh thổ được phép gia nhập liên bang để trở thành tiểu bang Montana vào ngày 8 tháng 11 năm 1889.
1
null
Pinguicula là một chi thực vật ăn thịt sử dung tuyến lá dính để thu hút, bẫy và tiêu hóa côn trùng để bổ sung dinh dưỡng nghèo nàn chúng có được từ môi trường. Trong số gần 80 loài hiện đang được biết đến loài, 12 có nguồn gốc từ châu Âu, 9 đến từ Bắc Mỹ, và một số ở miền Bắc Á. Số lượng lớn nhất của các loài tại Nam và Trung Mỹ.
1
null
Lãnh thổ Washington (tiếng Anh: "Washington Territory" hay "Territory of Washington") từng là một lãnh thổ hợp nhất có tổ chức của Hoa Kỳ, tồn tại từ ngày 2 tháng 3 năm 1853 cho đến 11 tháng 11 năm 1889 khi lãnh thổ này được phép gia nhập liên bang để trở thành tiểu bang Washington. Lãnh thổ được thành lập từ phần đất của Lãnh thổ Oregon, bắt đầu từ phía bắc hạ nguồn sông Columbia và cả phần đất ở phía đông sông Columbia bắt đầu từ phía bắc vĩ tuyến 46 độ. Vào thời điểm có diện tích rộng lớn nhất, nó còn bao trùm toàn bộ Idaho hiện tại và các phần đất ngày nay thuộc Montana và Wyoming trước khi ranh giới cuối cùng của nó bị thu hẹp và không thay đổi nữa vào năm 1863. Lịch sử. Thái độ nóng lòng muốn thành lập chính quyền tự trị đã phát triển tại các vùng đất thuộc Xứ Oregon ở phần phía bắc sông Columbia vào năm 1851–1852. Một nhóm người định cư nổi tiếng từ vùng Cowlitz và Vịnh Puget họp nhau vào ngày 25 tháng 11 năm 1852 tại "Hội nghị Monticello" để thảo một bản thỉnh nguyện thư gởi cho Quốc hội Hoa Kỳ kêu gọi thành lập một lãnh thổ riêng biệt ở phía bắc sông Columbia. Sau khi được chính quyền lãnh thổ Oregon chấp thuận, bản kiến nghị được gởi đến chính phủ liên bang. Đạo luật thành lập lãnh thổ, có tên H.R. 348, được đệ trình tại Hạ viện Hoa Kỳ bởi dân biểu Charles E. Stuart vào ngày 25 tháng 1 năm 1853. Dân biểu Richard H. Stanton cho rằng tên được đề nghị đặt cho lãnh thổ mới — "Lãnh thổ Columbia" — có thể dễ bị lầm lẫn với Đặc khu Columbia. Vì thế ông đề nghị một cái tên khác nhằm vinh danh George Washington để thay thế. Như thế đạo luật được tu chính với tên gọi "Washington" mặc dù không thiếu những lời bàn cãi tranh luận. Đạo luật với tên mới được thông qua tại Hạ viện Hoa Kỳ ngày 10 tháng 2, được thông qua tại Thượng viện Hoa Kỳ ngày 2 tháng 3, và được tổng thống Millard Fillmore ký thành luật cùng ngày hôm đó. Isaac Stevens, người được bổ nhiệm làm thống đốc đầu tiên của lãnh thổ, tuyên bố Olympia là thủ phủ lãnh thổ. Một nghị viện lãnh thổ được bầu và họp phiên họp đầu tiên vào tháng 2 năm 1854, và tòa án tối cao lãnh thổ đưa ra phán quyết đầu tiên của tòa vào cuối năm đó. Columbia Lancaster được bầu làm đại biểu đầu tiên tại Quốc hội Hoa Kỳ. Các ranh giới ban đầu của lãnh thổ gồm có toàn bộ tiểu bang Washington ngày nay cũng như miền bắc Idaho và Montana ở phía tây Đường phân thủy Lục địa Bắc Mỹ. Khi Lãnh thổ Oregon được phép gia nhập liên bang để trở thành tiểu bang Oregon vào năm 1859 thì các phần đất phía đông của Lãnh thổ Oregon trong đó có miền nam Idaho, các phần đất Wyoming nằm ở phía tây đường phân thủy lục địa và một phần nhỏ của Quận Ravalli, Montana ngày nay bị sáp nhập vào Lãnh thổ Washington. Mũi đất miền nam của lãnh thổ (nằm trong tiểu bang Wyoming ngày nay) được cắt cho Lãnh thổ Nebraska vào ngày 2 tháng 3 năm 1861. Năm 1863, khu vực của Lãnh thổ Washington nằm ở phía đông sông Snake và kinh độ 117 được tái tổ chức thành một phần đất của lãnh thổ mới là Lãnh thổ Idaho, khiến cho lãnh thổ chỉ còn lại như ranh giới hiện tại của tiểu bang Washington. Lãnh thổ được phép gia nhập liên bang để trở thành tiểu bang thứ 42 của Hoa Kỳ vào ngày 11 tháng 11 năm 1889.
1
null
Pinguicula gigantea là một loài cây ăn thịt nhiệt đới trong họ Lentibulariaceae. Phạm vi nguồn gốc của nó là tại México. Hoa "P. gigantea" thường có màu tím với màu xanh sáng đôi khi cũng được tìm thấy. "P. gigantea" đã từng phân loại là "Pinguicula ayautla". Loài Pinguicula được phát hiện bởi Alfred Lau và được mô tả bởi nhà thực vật học Hans Luhrs. "P. gigantea" có một vài hình thái khác nhau, chẳng hạn như là hình thái "hoa trắng" hay "hoa xanh".
1
null
Bernhard Friedrich von Krosigk (21 tháng 12 năm 1837 tại Merbitz – 7 tháng 4 năm 1912 tại Fürstenwalde) là người mang quyền thừa kế ("Fideikommissherr") điền trang Merbitz, Thiếu tướng và thành viên Viện Đại biểu Phổ. Ông đã từng tham gia ba cuộc chiến tranh thống nhất nước Đức kể từ năm 1864 cho đến năm 1871. Tiểu sử. Thân thế. Bernhard Friedrich sinh vào tháng 12 năm 1837, trong gia đình quý tộc cổ Krosigk. Ông là con trai thứ ba của Karl Gebhard Anton von Krosigk (19 tháng 1 năm 1806 tại Kähnert – 23 tháng 7 năm 1886 tại Wendelstein), một cựu Trưởng quan kỵ binh, với vợ ông này là Emma, nhũ danh von der Marwitz (24 tháng 9 năm 1811 tại Schönberg – 8 tháng 4 năm 1878 tại Wendelstein). Sự nghiệp quân sự. Krosigk ban đầu học ba khóa Luật tại Đại học Halle và tại đây ông là thành viên của Liên đoàn Sinh viên Marchia Halle. Vào ngày 24 tháng 6 năm 1859, ông gia nhập Đại đội Thay phiên ("Ersatzkompanie") trong Tiểu đoàn Jäger số 4 của quân đội Phổ với vai trò là lính tình nguyện một năm và vào ngày 1 tháng 8 năm 1859 ông được đổi sang Trung đoàn Bộ binh số 32. Tại đây, ông được phong Cấp hàm Chuẩn úy vào ngày 19 tháng 9 năm 1860. Tiếp theo đó, tháng 6 năm 1861, Krosigk gia nhập vào Tiểu đoàn Jäger số 3, rồi được thăng quân hàm Thiếu úy hai tháng sau. Với tiểu đoàn này, ông đã tham gia cuộc Chiến tranh chống Đan Mạch năm 1864, chiến đấu trong các trận đánh ở Rackebüll và Osterdüppel cùng với Trận đột chiếm pháo đài Düppel ngày 18 tháng 4, sau đó tham gia trận đổ bộ chiếm đảo Alsen ngày 29 tháng 6. Năm sau (1865), ông trở thành sĩ quan phụ tá tiểu đoàn vào tháng 10. Trên cương vị này, ông đã tham gia chiến đấu trong các trận đánh ở Münchengrätz ngày 28 tháng 6 và Königgrätz ngày 3 tháng 7. Trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871), Krosigk đã tham gia đánh trận Spicheren vào ngày 6 tháng 8 và được tặng thưởng Huân chương Thập tự Sắt hạng II nhờ đóng góp của ông trong trận chiến. Sau khi tham chiến trong trận Mars-la-Tour vào ngày 16 tháng 8 năm 1870, ông được trao tặng Huân chương Thập tự Sắt hạng I. Vào tháng 7 năm 1871, ông được đổi sang Trung đoàn Phóng lựu Hộ vệ 8 "Vua Friedrich Wilhelm III" (1 Brandenburg). Năm sau (1873), ông lên chức Đại úy và Đại đội trưởng trong Trung đoàn Bộ binh Cận vệ 2, sau đó được bổ nhiệm làm Tư lệnh Trường Hạ sĩ Jülich đồng thời với việc chuyển vào Trung đoàn Phóng lựu Cận vệ 1 Hoàng đế Alexander. Ông trở thành Tư lệnh Trường Hạ sĩ Biebrich vào năm 1883, và về sau ông được lãnh chức Chỉ huy trưởng Tiểu đoàn Jäger số 3. Vào năm 1891, Krosigk được thăng chức Đại tá và Chỉ huy trưởng Trung đoàn Phóng lựu Hộ vệ 8 "Vua Friedrich Wilhelm III" (1 Brandenburg). Ba năm sau (1894), ông lâm bệnh nên buộc phải rời ngũ với cấp bậc Thiếu tướng. Vào năm 1897, ông được tặng Huân chương Vương miện hạng II kèm theo Thanh kiếm, rồi vào năm 1908 ông lãnh thưởng Huân chương Đại bàng Đỏ hạng II đính kèm Bó sồi. Bốn năm sau, ông từ trần vào tháng 4 năm 1912. Hoạt động chính trị. Trong một cuộc bầu cử phụ vào ngày 16 tháng 12 năm 1905, Krogsigk được bầu làm đại diện Đảng Bảo thủ Đức của Viện Đại biểu Phổ tại khu vực bầu cử Frankfurt/Oder 9 (các quận Luckau và Lübben), và giữ vai trò này cho đến khi mất năm 1912 Gia quyến. Vào ngày 2 tháng 5 năm 1873, tại Lübben, Krosigk thành hôn với Margarete Anna Elise von Leyer (27 tháng 10 năm 1850 tại Simötzel – 17 tháng 6 năm 1910 tại Fürstenwalde). Cuộc hôn nhân này đã đem lại cho họ một người con:
1
null
HMS "Havant" (H32) là một tàu khu trục lớp H, nguyên được Hải quân Brazil đặt hàng cho hãng J. Samuel White dưới tên "Javary" vào cuối thập niên 1930, nhưng được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc mua lại khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra vào tháng 9 năm 1939. Ngay sau khi nhập biên chế, nó được phân nhiệm vụ hộ tống cùng Bộ chỉ huy Tiếp cận phía Tây, được chuyển sang Hạm đội Nhà khi Chiến dịch Na Uy bắt đầu vào tháng 4 năm 1940, nhưng chỉ can dự vòng ngoài trong việc hộ tống các tàu chuyển quân đến Iceland và quần đảo Faroe và hộ tống tàu vận tải đến Narvik. Nó tham gia cuộc triệt thoái Dunkirk, nơi nó bị hư hại nặng bởi máy bay ném bom bổ nhào Đức Junkers Ju 87 Stuka vào ngày 1 tháng 6 và phải bị đánh đắm. Thiết kế và chế tạo. "Havant" có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn , và lên đến khi đầy tải. Nó có chiều dài chung , mạn thuyền rộng và độ sâu của mớn nước là . Nó được dẫn động bởi hai turbine hơi nước Parsons truyền động ra hai trục chân vịt, sản sinh tổng công suất , cho phép nó đạt tốc độ tối đa . Hơi nước được cung cấp bởi ba nồi hơi ống nước Admiralty. "Havant" có thể mang theo tối đa dầu đốt, cho phép một tầm hoạt động tối đa ở tốc độ . Thành phần thủy thủ đoàn của nó bao gồm 145 sĩ quan và thủy thủ. Con tàu được thiết kế để trang bị bốn khẩu pháo QF Mk. XII L/45 trên các tháp pháo nòng đơn, đặt tên theo thứ tự ‘A’, ‘B’, ‘X’ và ‘Y’ từ trước ra sau; nhưng khẩu ‘Y’ bị tháo dỡ để lấy chỗ mang thêm mìn sâu. Cho mục đích phòng không, "Havant" có hai khẩu đội súng máy Mk.III bốn nòng. Nó còn có hai bệ ống phóng ngư lôi bốn nòng trên mặt nước dành cho ngư lôi. Một đường ray thả mìn sâu và hai máy phóng thoạt tiên được trang bị, nhưng tăng lên ba đường ray và tám máy phóng trong khi hoàn thiện. Lượng mìn sâu mang theo cũng tăng lên tương ứng từ 20 lên 110 quả. "Javary" được Brasil đặt hàng cho hãng J. Samuel White ở Cowes vào ngày 8 tháng 12 năm 1937. Con tàu được đặt lườn vào ngày 30 tháng 3 năm 1938 và được hạ thủy vào ngày 29 tháng 9 năm 1939. Nó bị Anh Quốc mua lại vào ngày 5 tháng 9 năm 1939 và đổi tên thành HMS "Havant". "Havant" được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia Anh vào ngày 19 tháng 12 năm 1939. Lịch sử hoạt động. "Havant" đi đến cảng Portland vào ngày 8 tháng 1 năm 1940 để bắt đầu chạy thử máy. Sau khi được phân về Chi hạm đội Khu trục 9 trực thuộc Bộ chỉ huy Tiếp cận phía Tây tại Plymouth, nó đãcùng với các tàu khu trục và thực hiện một cuộc càn quét chống tàu ngầm bất thành từ ngày 4 đến ngày 9 tháng 2. "Havant" được bổ sung thiết bị khử từ (Degauss) cùng các sửa chữa nhỏ trong tháng 3. Con tàu đang trên đường đi Greenock để hộ tống một đoàn tàu vận tải đi Gibraltar vào ngày 7 tháng 4 khi nó được chuyển sang Hạm đội Nhà do kết quả của việc Đức xâm chiếm Na Uy. Cùng với tàu chị em , "Havant" hộ tống cho tàu tuần dương hạng nặng vào ngày 13 tháng 4, khi chiếc này vận chuyển một đơn vị Thủy quân Lục chiến Hoàng gia Anh chiếm đóng quần đảo Faroe. Sau đó nó hộ tống cho các đoàn tàu vận tải đến Narvik cho đến ngày 7 tháng 5. Một tuần sau, nó hộ tống cho các tàu biển chở hành khách RMS "Lancastria" và RMS "Franconia" khi chúng vận chuyển binh lính đến chiếm đóng Iceland. "Havant" tham gia cuộc triệt thoái Dunkirk vào ngày 29 tháng 5, và đã giải cứu hơn 2.300 người cho đến ngày 1 tháng 6. Sáng hôm đó nó nhận lên tàu 500 binh lính và đang đi cặp với tàu khu trục , vốn bị máy bay ném bom bổ nhào Đức đánh hỏng sáng hôm đó. Nó đón lên tàu binh lính và thủy thủ bị thương, rồi khởi hành đi Dover dưới áp lực không kích nặng nề của đối phương. Không lâu sau đó, nó bị những chiếc Junkers Ju 87 "Stuka" đánh trúng; hai quả bom trúng vào phòng động cơ cùng một quả khác phát nổ bên dưới lườn tàu. Tám thành viên thủy thủ đoàn đã thiệt mạng và 25 người khác bị thương trong vụ tấn công; đồng thời ít nhất 25 binh lính cũng thiệt mạng. "Havant" bị hư hại nặng, và phải bị chiếc tàu quét mìn đánh đắm ở tọa độ sau khi các nỗ lực kéo nó thất bại.
1
null
HMS "Havelock" (H88) là một tàu khu trục lớp H, nguyên được Hải quân Brazil đặt hàng cho hãng J. Samuel White dưới tên "Jutahy" vào cuối thập niên 1930, nhưng được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc mua lại khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra vào tháng 9 năm 1939. Nó tham gia Chiến dịch Na Uy vào tháng 5 năm 1940, rồi được phân nhiệm vụ hộ tống vận tải và tuần tra chống tàu ngầm cùng Bộ chỉ huy Tiếp cận phía Tây sau đó. Nó được điều về Lực lượng H một thời gian ngắn vào năm 1941, nhưng dàn hỏa lực phòng không của nó được cho là quá yếu nên nó gia nhập trở lại lực lượng Tiếp cận phía Tây. "Havelock" trở thành soái hạm của Đội hộ tống B-5 thuộc Lực lượng Hộ tống giữa đại dương vào đầu năm 1942 và đã đánh chìm một tàu ngầm đối phương trong chiến tranh. Khi xung đột kết thúc, nó hộ tống các tàu đưa chính phủ Na Uy lưu vong trở về nước rồi phục vụ như một tàu mục tiêu cho đến giữa năm 1946. "Havelock" bị tháo dỡ vào cuối năm 1946. Thiết kế và chế tạo. "Havelock" có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn , và lên đến khi đầy tải. Nó có chiều dài chung , mạn thuyền rộng và độ sâu của mớn nước là . Nó được dẫn động bởi hai turbine hơi nước Parsons truyền động ra hai trục chân vịt, sản sinh tổng công suất , cho phép nó đạt tốc độ tối đa . Hơi nước được cung cấp bởi ba nồi hơi ống nước Admiralty. "Havelock" có thể mang theo tối đa dầu đốt, cho phép một tầm hoạt động tối đa ở tốc độ . Thành phần thủy thủ đoàn của nó bao gồm 152 sĩ quan và thủy thủ. Con tàu được thiết kế để trang bị bốn khẩu pháo QF Mk. XII L/45 trên các tháp pháo nòng đơn, đặt tên theo thứ tự ‘A’, ‘B’, ‘X’ và ‘Y’ từ trước ra sau; nhưng khẩu ‘Y’ bị tháo dỡ để lấy chỗ mang thêm mìn sâu. Cho mục đích phòng không, "Havelock" có hai khẩu đội súng máy Mk.III bốn nòng. Nó còn có hai bệ ống phóng ngư lôi bốn nòng trên mặt nước dành cho ngư lôi. Một đường ray thả mìn sâu và hai máy phóng thoạt tiên được trang bị, nhưng tăng lên ba đường ray và tám máy phóng trong khi hoàn thiện. Lượng mìn sâu mang theo cũng tăng lên tương ứng từ 20 lên 110 quả. "Havelock" được hoàn tất mà không có tháp điều khiển hỏa lực, nên ba khẩu pháo 4,7 inch QF góc thấp của nó được vận hành tại chỗ sử dụng dữ liệu cung cấp bởi một máy đo tầm xa. Nó cũng được trang bị sonar ASDIC để phát hiện tàu ngầm dựa trên sự phản hồi sóng âm dưới nước; và được bổ sung máy định vị vô tuyến HF/DF đặt trên cột ăn-ten trước khi hoàn tất. "Jutahy" được Brasil đặt hàng cho hãng J. Samuel White ở Cowes vào ngày 8 tháng 12 năm 1937. Con tàu được đặt lườn vào ngày 31 tháng 5 năm 1938, nhưng nó bị Anh Quốc mua lại vào ngày 5 tháng 9 năm 1939 và đổi tên thành HMS "Havelock". Nó được hạ thủy vào ngày 16 tháng 10 năm 1939 và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia Anh vào ngày 10 tháng 2 năm 1940. Các cải biến trong chiến tranh. Bệ ống phóng ngư lôi phía sau của "Havelock" được thay bằng một khẩu QF 12 pounder phòng không vào tháng 10 năm 1940. Dàn vũ khi phòng không tầm ngắn được tăng cường với hai khẩu pháo tự động Oerlikon 20 mm được trang bị hai bên cánh của cầu tàu; và các khẩu súng máy Vickers bốn nòng cũng được thay bằng một cặp Oerlikon 20 mm sau đó. Không rõ là con tàu có được trang bị tháp điều khiển hỏa lực trước khi một dàn radar Kiểu 271 điều khiển hỏa lực được trang bị trên cầu tàu. Vào lúc giữa chiến tranh, con tàu được cải biến thành một tàu khu trục hộ tống, khi tháp pháo ‘A’ được thay thế bằng dàn súng cối Hedgehog chống tàu ngầm, pháo QF 12 pounder góc cao được tháo dỡ lấy chỗ mang thêm mìn sâu. Một dàn radar Kiểu 286 dò tìm mặt đất tầm ngắn được tăng cường sau đó, trong khi dàn HF/DF được chuyển đến cột ăn-ten trụ chính. Lịch sử hoạt động. Sau khi chạy thử máy, "Havelock" được phân về Chi hạm đội Khu trục 9 trực thuộc Bộ chỉ huy Tiếp cận phía Tây. Nó được điều về Hạm đội Nhà trong Chiến dịch Na Uy và đã hỗ trợ cho các hoạt động đổ bộ của lực lượng Đồng Minh vào các ngày 12-13 tháng 5 tại Bjerkvik trong khuôn khổ trận Narvik. Trong giai đoạn đầu của trận này, nó bố trí một khẩu đội súng cối Pháp phía sàn trước của con tàu; và tiếp tục hỗ trợ hỏa lực suốt trận đánh cho đến hết tháng đó. Trong đêm 30 và 31 tháng 5, nó giúp vào việc triệt thoái lực lượng từ Bodø đến Harstad và Borkenes để chờ đợi các cuộc triệt thoái khác. "Havelock" là một trong số các tàu đã hộ tống các tàu chở quân trong chiến dịch Alphabet triệt thoái lực lượng khỏi khu vực Narvik vào ngày 7 và 8 tháng 6. Sau đó trong tháng 6, "Havelock" gia nhập trở lại Chi hạm đội Khu trục 9, và trải qua hầu hết thời gian trong hai năm tiếp theo làm nhiệm vụ hộ tống vận tải. Vào cuối năm 1940, chi hạm đội được đổi tên thành Đội hộ tống 9. "Havelock" được điều sang Lực lượng H tại Gibraltar để tăng cường lực lượng hộ tống cho Chiến dịch Tiger, một hoạt động vận tải tăng viện cho Malta vào tháng 5 năm 1941. Nó quay trở lại Bộ chỉ huy Tiếp cận phía Tây sau đó vì Đô đốc James Somerville cho rằng dàn vũ khí phòng không của nó quá yếu kém để có thể hoạt động tại Địa Trung Hải. Đến tháng 3 năm 1942, "Havelock" trở thành soái hạm của Đội hộ tống B-5 thuộc Lực lượng Hộ tống Giữa đại dương, và tiếp tục hộ tống các đoàn tàu vận tải tại Bắc Đại Tây Dương cho đến đầu năm 1944. Từ ngày 28 tháng 12 năm 1942 đến ngày 14 tháng 1 năm 1943, đội hộ tống đã bảo vệ cho Đoàn tàu TM 1, một nhóm chín tàu chở dầu đi từ đến Trinidad to Gibraltar. Đoàn tàu đã bị nhiều tàu ngầm U-boat Đức tấn công theo chiến thuật Wolfpack (bầy sói) trên đường đi, và đã bị mất bảy tàu bất chấp những nỗ lực tối đa của các tàu hộ tống. "Havelock" chỉ có thể gây hư hại cho tàu ngầm "U-436" bằng mìn sâu trong khi hộ tống đoàn tàu này. Khoảng hai tháng sau, "Havelock" và các tàu tháp tùng đã hộ tống cho Đoàn tàu SC 122, một trong những trận chiến bảo vệ đoàn tàu vận tải lớn nhất trong chiến tranh. Đến giữa năm 1943, đội hộ tống được bố trí đến vịnh Biscay phối hợp với lực lượng Không quân Hoàng gia Anh tấn công các tàu ngầm U-boat khi chúng rời khỏi các căn cứ trên bờ biển Đại Tây Dương thuộc Pháp. Vào cuối tháng 9 cho đến đầu tháng 10, đội đã hộ tống cho các tàu đưa Liên đội 247 Không quân Hoàng gia đến Azores để thiết lập một căn cứ không quân tại đây. Đến đầu năm 1944, "Havelock" được chuyển sang Đội hộ tống 14 và được giao nhiệm vụ bảo vệ các đoàn tàu vận tải tại vùng bờ biển nước Anh, vốn được tập trung cho Chiến dịch Overlord, cuộc đổ bộ lực lượng Đồng Minh lên miền Bắc nước Pháp. Cùng các tàu khu trục và , nó đã đánh chìm tàu ngầm "U-767" vào ngày 18 tháng 6. Nó được tái trang bị tại Liverpool từ tháng 7 đến tháng 9, rồi gia nhập trở lại hải đội sau khi hoàn tất. "Havelock" lại được sửa chữa từ tháng 2 đến tháng 4 năm 1945; và khi công việc hoàn tất vào ngày 30 tháng 4, nó cùng tàu chị em tấn công xác tàu của chiếc "U-246" về phía Tây Bắc đảo Anglesey vào ngày hôm đó, nhầm lẫn rằng đó là chiếc "U-242" vốn bị một thủy phi cơ Short Sunderland phát hiện trước đó. Hai tuần sau, "Havelock" cùng Đội hộ tống 14 hộ tống một nhóm tàu U-boat đầu hàng đi từ Loch Alsh đến Lough Foyle. Đến ngày 27 tháng 5, nó cùng với "Hesperus" hộ tống chính phủ Na Uy lưu vong quay trở về Oslo, và ở lại đây cho đến ngày 1 tháng 6. Cuối tháng đó, nó bắt đầu hoạt động như một tàu mục tiêu để huấn luyện máy bay, một vai trò kéo dài cho tận năm sau. Con tàu được chấp thuận để tháo dỡ vào ngày 18 tháng 2 năm 1946 và được đưa về lực lượng dự bị vào ngày 2 tháng 8. "Havelock" bị bán vào ngày 31 tháng 10 và được tháo dỡ tại Inverkeithing.
1
null
HMS "Hesperus" (H57) là một tàu khu trục lớp H, nguyên được Hải quân Brazil đặt hàng cho hãng John I. Thornycroft and Company dưới tên "Juruena" vào cuối thập niên 1930, nhưng được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc mua lại khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra vào tháng 9 năm 1939. Nó bị hư hại bởi máy bay Đức trong Chiến dịch Na Uy vào tháng 5 năm 1940, rồi được phân nhiệm vụ hộ tống vận tải và tuần tra chống tàu ngầm sau khi hoàn tất việc sửa chữa. Nó được điều về Bộ chỉ huy Tiếp cận phía Tây để hộ tống vận tải vào cuối năm 1940, được điều về Lực lượng H một thời gian ngắn vào năm 1941, nhưng dàn hỏa lực phòng không của nó được cho là quá yếu nên nó lại được chuyển sang Lực lượng Hộ tống Newfoundland. "Hesperus" được điều sang Lực lượng Hộ tống giữa đại dương vào cuối năm 1941, tiếp tục hộ tống các đoàn tàu vận tải tại Bắc Đại Tây Dương trong ba năm tiếp theo. Nó được cải biến thành một tàu khu trục hộ tống vào đầu năm 1943 sau khi bị hư hại bởi một trong hai lần húc tấn công đánh chìm tàu ngầm Đức; nó cũng đánh chìm hai tàu ngầm khác trong chiến tranh theo cách thông thường. Khi xung đột kết thúc, nó hộ tống các tàu đưa chính phủ Na Uy lưu vong trở về nước rồi phục vụ như một tàu mục tiêu cho đến giữa năm 1946. "Hesperus" bị tháo dỡ vào giữa năm 1947. Thiết kế và chế tạo. "Hesperus" có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn , và lên đến khi đầy tải. Nó có chiều dài chung , mạn thuyền rộng và độ sâu của mớn nước là . Nó được dẫn động bởi hai turbine hơi nước Parsons truyền động ra hai trục chân vịt, sản sinh tổng công suất , cho phép nó đạt tốc độ tối đa . Hơi nước được cung cấp bởi ba nồi hơi ống nước Admiralty. "Hesperus" có thể mang theo tối đa dầu đốt, cho phép một tầm hoạt động tối đa ở tốc độ . Thành phần thủy thủ đoàn của nó bao gồm 152 sĩ quan và thủy thủ. Con tàu được thiết kế để trang bị bốn khẩu pháo QF Mk. XII L/45 trên các tháp pháo nòng đơn, đặt tên theo thứ tự ‘A’, ‘B’, ‘X’ và ‘Y’ từ trước ra sau; nhưng khẩu ‘Y’ bị tháo dỡ để lấy chỗ mang thêm mìn sâu. Cho mục đích phòng không, "Hesperus" có hai khẩu đội súng máy Mk.III bốn nòng. Nó còn có hai bệ ống phóng ngư lôi bốn nòng trên mặt nước dành cho ngư lôi. Một đường ray thả mìn sâu và hai máy phóng thoạt tiên được trang bị, nhưng tăng lên ba đường ray và tám máy phóng trong khi hoàn thiện. Lượng mìn sâu mang theo cũng tăng lên tương ứng từ 20 lên 110 quả. "Hesperus" được hoàn tất mà không có tháp điều khiển hỏa lực, nên ba khẩu pháo 4,7 inch QF góc thấp của nó được vận hành tại chỗ sử dụng dữ liệu cung cấp bởi một máy đo tầm xa. Nó cũng được trang bị sonar ASDIC để phát hiện tàu ngầm dựa trên sự phản hồi sóng âm dưới nước khi hoàn tất. "Juruena" được Brasil đặt hàng cho hãng John I. Thornycroft and Company ở Woolston, Hampshire vào ngày 16 tháng 12 năm 1937. Con tàu được đặt lườn vào ngày 6 tháng 7 năm 1938 và được hạ thủy vào ngày 1 tháng 8 năm 1939, được đỡ đầu bởi bà Heitora Gallienz. Nó bị Anh Quốc mua lại vào ngày 5 tháng 9 năm 1939 sau khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra và đổi tên thành HMS "Hearty". Con tàu được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia Anh vào ngày 22 tháng 1 năm 1940 dưới quyền chỉ huy của cựu phi công Không lực Hải quân, Trung tá Hải quân Donald Macintyre. Nó lại được đổi tên thành "Hesperus" vào ngày 27 tháng 2 năm 1940 do cái tên ban đầu được cho là dễ nhầm lẫn với chiếc tàu chị em . Các cải biến trong chiến tranh. Bệ ống phóng ngư lôi phía sau của "Hesperus" được thay bằng một khẩu QF 12 pounder phòng không trong một đợt sửa chữa vào tháng 5-tháng 6 năm 1940. Nó được bổ sung máy định vị vô tuyến HF/DF đặt trên cột ăn-ten trước, cùng một dàn radar Kiểu 286 dò tìm mặt đất tầm ngắn trong đợt tái trang bị vào giữa năm 1941. Tháp điều khiển hỏa lực được trang bị vào lúc nó được sửa chữa tại Immingham. Trong đợt tái trang bị vào đầu năm 1942 tại Falmouth, Cornwall, dàn vũ khi phòng không tầm ngắn được tăng cường với hai khẩu pháo tự động Oerlikon 20 mm được trang bị hai bên cánh của cầu tàu; ngoài ra tháp điều khiển hỏa lực và máy đo tầm xa gắn trước đó bên trên cầu tàu được thay bằng radar Kiểu 271 định vị mục tiêu. Đang khi được sửa chữa vào đầu năm 1943, nó được cải biến thành một tàu khu trục hộ tống. Tháp pháo ‘A’ được thay thế bằng dàn súng cối Hedgehog chống tàu ngầm, và các khẩu súng máy Vickers bốn nòng cũng được thay bằng một cặp Oerlikon 20 mm. Trong đợt tái trang bị này, pháo QF 12 pounder góc cao được tháo dỡ lấy chỗ mang thêm mìn sâu, và "Hesperus" được bổ sung một máy phóng mìn sâu Mk X nặng 1 tấn và bốn máy phóng Mk IV. Nó cũng được trang bị máy nhiễu âm Foxer để bảo vệ chống lại ngư lôi dẫn hướng bằng âm thanh của Đức. Lịch sử hoạt động. Cả sáu chiếc tàu khu trục lớp H cải biến nguyên của Brazil thoạt tiên hình thành nên Chi hạm đội Khu trục 9 trực thuộc Hạm đội Nhà và được giao nhiệm vụ bảo vệ chống tàu ngầm cho căn cứ tại Scapa Flow. Sau khi Đức chiếm đóng Đan Mạch, "Hesperus" cùng tàu chị em được giao nhiệm vụ hỗ trợ cho việc chiếm đóng quần đảo Faroe vào giữa tháng 4. Trong Chiến dịch Na Uy, nó vận chuyển các đơn vị Scotland đến Mo i Rana vào ngày 15 tháng 5, và bị hư hại do các quả bom ném suýt trúng từ các máy bay ném bom bổ nhào Junkers Ju-87 "Stuka" cùng ngày hôm đó. Con tàu được gửi đến Dundee để sửa chữa, vốn kéo dài một tháng. Sau khi hoàn tất, nó được giao nhiệm vụ hộ tống vận tải và tuần tra chống tàu ngầm. Vào tháng 11 năm 1940, Chi hạm đội Khu trục 9 được điều về Bộ chỉ huy Tiếp cận phía Tây và đổi tên thành Đội hộ tống 9. Trong một cơn bão vào tháng 1 năm 1941, bệ tháp pháo ‘B’ bị hư hại. Sau khi được sửa chữa, nó tiếp nối nhiệm vụ hộ tống vận tải cho đến tháng 4, khi nó được phân về Lực lượng H tại Gibraltar. Bảo vệ cho các đoàn tàu vận tải Malta, "Hesperus" đã hộ tống tàu bè trong các chiến dịch Tiger và Tracer vào tháng 5 và tháng 6; rồi được điều khỏi Lực lượng H do Đô đốc James Somerville tin rằng dàn vũ khí phòng không của nó quá yếu kém để có thể hoạt động tại Địa Trung Hải. Nó trải qua một đợt tái trang bị ngắn tại Lverpool rồi được chuyển đến Lực lượng Hộ tống Newfoundland vào ngày 7 tháng 7. Đến tháng 8 năm 1941, "Hesperus" là một trong số tàu khu trục đã hộ tống thiết giáp hạm đưa Thủ tướng Anh đi gặp gỡ Tổng thống Franklin D. Roosevelt trong cuộc hội đàm về Hiến chương Đại Tây Dương tại vịnh Placentia. Cấu trúc con tàu bị hư hại do thời tiết khắc nghiệt, và nó được sửa chữa tạm thời bởi một tàu sửa chữa tại Iceland trước khi được sửa chữa triệt để tại Immingham. Sau khi hoàn tất, nó gia nhập trở lại Đội hộ tống 9 trước khi được phối thuộc cùng Lực lượng H vào tháng 12 cho nhiệm vụ hộ tống vận tải tại Gibraltar. Cùng với tàu chị em , "Hesperus" đã đánh chìm tàu ngầm U-boat Đức "U-208" vào ngày 7 tháng 12 năm 1941 tại Đại Tây Dương về phía Tây Gibraltar. Đến ngày 15 tháng 1 năm 1942, đang khi hộ tống Đoàn tàu HG 78, radar của con tàu đã phát hiện tàu ngầm "U-93" trên mặt nước; chỉ huy con tàu, Thiếu tá Hải quân A. A. Tait, ra lệnh cho "Hesperus" húc vào đối phương. Cho dù chỉ trúng sượt qua, vụ va chạm mạnh đến mức Hạm trưởng và Hạm phó chiếc tàu ngầm bị rơi từ tháp chỉ huy vào một chiếc xuồng máy trên sàn tàu khu trục. Bằng cách thả mìn sâu ở độ nông nhất và bắn trúng nhiều phát đạn pháo 4,7 inch, nó đã buộc thủy thủ đoàn chiếc tàu ngầm phải bỏ tàu. "Hesperus" đã cứu vớt được 40 người sống sót, nhưng không thể đổ bộ sang chiếc tàu ngầm trước khi nó chìm. Tuy nhiên do chấn động của cú húc, phần mũi tàu bị ngập nước, lườn tàu bên mạn phải bị bung ra và uống cong mép chân vịt bên mạn phải. Con tàu được sửa chữa tạm thời tại Gibraltar, rồi được sửa chữa triệt để tại Falmouth từ ngày 9 tháng 2 đến tháng 4. Đến tháng 3 năm 1942, năm chiếc còn lại trong lớp phụ "Havant" trở thành những soái hạm cho các đội hộ tống từ B-1 đến B-5, và do đó "Hesperus" dẫn đầu Đội hộ tống B-2 khi nó hoàn tất việc sửa chữa vào tháng 4. Đang khi hộ tống cho Đoàn tàu HX 219 gần Rockall vào ngày 26 tháng 12, nó đã cùng tàu khu trục đánh chìm tàu ngầm "U-357" bằng cách húc. Lần này đáy lườn tàu bị hở một đoạn kéo dài khoảng một phần tư chiều dài con tàu, nên nó lại trải qua thêm ba tháng sửa chữa khác tại Liverpool. Con tàu gia nhập trở lại đội của nó vào ngày 17 tháng 3 năm 1943, và đã đánh chìm tàu ngầm "U-191" bằng dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog vào ngày 23 tháng 4, đang khi hộ tống Đoàn tàu ONS 4. Khoảng ba tuần sau, nó tiếp tục đánh chìm tàu ngầm "U-186" vào ngày 12 tháng 5 đang khi bảo vệ cho Đoàn tàu SC 129. Nó tiếp tục làm nhiệm vụ hộ tống vận tải cho đến khi được cho tái trang bị từ tháng 1 đến ngày 29 tháng 3 năm 1944, rồi nó làm nhiệm vụ hộ tống các đoàn tàu đi lại giữa Gibraltar và Anh. Vào tháng 7 năm 1944, con tàu chuyển di hài của Đại tá Hải quân để an táng giữa biển. Sau đó nó được chuyển sang Đội hộ tống 19, và đến tháng 1 năm 1945 được cho đặt căn cứ tại Plymouth. Vào ngày 30 tháng 4 năm 1945, nó cùng tàu chị em tấn công xác tàu của chiếc tàu ngầm "U-246" về phía Tây Bắc đảo Anglesey vào ngày hôm đó, nhầm lẫn rằng đó là chiếc tàu ngầm "U-242" vốn bị một thủy phi cơ Short Sunderland phát hiện trước đó. Hai tuần sau, "Hesperus" cùng Đội hộ tống 14 hộ tống một nhóm tàu U-boat đầu hàng đi từ Loch Alsh đến Lough Foyle. Đến ngày 27 tháng 5, nó cùng với "Havelock" hộ tống chính phủ Na Uy lưu vong quay trở về Oslo, và ở lại đây cho đến ngày 1 tháng 6. Mười ngày sau, nó bắt đầu phục vụ như một tàu mục tiêu để huấn luyện máy bay, một vai trò kéo dài cho tận năm sau. "Hesperus" được chấp thuận để tháo dỡ vào ngày 18 tháng 2 năm 1946 và được đưa về lực lượng dự bị vào tháng 5. Con tàu được kéo đến Grangemouth để tháo dỡ, nhưng công việc chỉ bắt đầu từ ngày 17 tháng 5 năm 1947. Biểu trưng của "Hesperus" được lưu giữ tại nhà thờ Yeovil Parish.
1
null
HMS "Highlander" (H44) là một tàu khu trục lớp H, nguyên được Hải quân Brazil đặt hàng cho hãng John I. Thornycroft and Company dưới tên "Jaguaribe" vào cuối thập niên 1930, nhưng được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc mua lại khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra vào tháng 9 năm 1939. Nó được phân về Chi hạm đội Khu trục 9 thuộc Hạm đội Nhà khi hoàn tất vào tháng 3 năm 1940, rồi được phân nhiệm vụ hộ tống vận tải từ tháng 6 cùng Bộ chỉ huy Tiếp cận phía Tây, đánh chìm một tàu ngầm Đức vào tháng 10. "Highlander" được điều sang Freetown, Sierra Leone vào giữa năm 1941 để hộ tống các đoàn tàu vận tải tại Tây Phi, nhưng lại quay trở về Anh vào tháng 8. Nó trở thành soái hạm của Đội hộ tống B-5 thuộc Lực lượng Hộ tống Giữa đại dương vào đầu năm 1942 và tiếp tục vai trò hộ tống vận tải cho đến hết chiến tranh. Nó trở thành một tàu mục tiêu sau khi xung đột kết thúc và bị bán để tháo dỡ vào giữa năm 1946. Thiết kế và chế tạo. "Highlander" có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn , và lên đến khi đầy tải. Nó có chiều dài chung , mạn thuyền rộng và độ sâu của mớn nước là . Nó được dẫn động bởi hai turbine hơi nước Parsons truyền động ra hai trục chân vịt, sản sinh tổng công suất , cho phép nó đạt tốc độ tối đa . Hơi nước được cung cấp bởi ba nồi hơi ống nước Admiralty. "Highlander" có thể mang theo tối đa dầu đốt, cho phép một tầm hoạt động tối đa ở tốc độ . Thành phần thủy thủ đoàn của nó bao gồm 152 sĩ quan và thủy thủ. Con tàu được thiết kế để trang bị bốn khẩu pháo QF Mk. XII L/45 trên các tháp pháo nòng đơn, đặt tên theo thứ tự ‘A’, ‘B’, ‘X’ và ‘Y’ từ trước ra sau; nhưng khẩu ‘Y’ bị tháo dỡ để lấy chỗ mang thêm mìn sâu. Cho mục đích phòng không, "Highlander" có hai khẩu đội súng máy Mk.III bốn nòng. Nó còn có hai bệ ống phóng ngư lôi bốn nòng trên mặt nước dành cho ngư lôi. Một đường ray thả mìn sâu và hai máy phóng thoạt tiên được trang bị, nhưng tăng lên ba đường ray và tám máy phóng trong khi hoàn thiện. Lượng mìn sâu mang theo cũng tăng lên tương ứng từ 20 lên 110 quả. "Highlander" được hoàn tất mà không có tháp điều khiển hỏa lực, nên ba khẩu pháo 4,7 inch QF góc thấp của nó được vận hành tại chỗ sử dụng dữ liệu cung cấp bởi một máy đo tầm xa. Nó cũng được trang bị sonar ASDIC để phát hiện tàu ngầm dựa trên sự phản hồi sóng âm dưới nước khi hoàn tất. "Jaguaribe" được Brasil đặt hàng cho hãng John I. Thornycroft and Company ở Woolston, Hampshire vào ngày 16 tháng 12 năm 1937. Con tàu được đặt lườn vào ngày 28 tháng 9 năm 1938, nhưng bị Anh Quốc mua lại vào ngày 5 tháng 9 năm 1939 sau khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra. Nó được đổi tên thành HMS "Highlander", nó được hạ thủy vào ngày 16 tháng 10 năm 1939 và nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia Anh vào ngày 18 tháng 3 năm 1940. Các cải biến trong chiến tranh. Bệ ống phóng ngư lôi phía sau của "Highlander" được thay bằng một khẩu QF 12 pounder phòng không trong một đợt sửa chữa vào tháng 7 năm 1940. Dàn vũ khi phòng không tầm ngắn được tăng cường với hai khẩu pháo tự động Oerlikon 20 mm được trang bị hai bên cánh của cầu tàu, đồng thời các khẩu súng máy Vickers bốn nòng cũng được thay bằng một cặp Oerlikon 20 mm. Không rõ là tháp điều khiển hỏa lực có được trang bị trước khi được thay bằng radar Kiểu 271 định vị mục tiêu bố trí trên cầu tàu. Vào một lúc nào đó, "Highlander" được cải biến thành một tàu khu trục hộ tống; tháp pháo ‘A’ được thay thế bằng dàn súng cối Hedgehog chống tàu ngầm, và Trong đợt tái trang bị này, pháo QF 12 pounder góc cao được tháo dỡ lấy chỗ mang thêm mìn sâu. Một dàn radar Kiểu 286 dò tìm mặt đất tầm ngắn được bổ sung cùng với máy định vị vô tuyến HF/DF đặt trên cột ăn-ten trước, Lịch sử hoạt động. Sau khi chạy thử máy tại cảng Portland, "Highlander" được phân về Chi hạm đội Khu trục 9 trực thuộc Hạm đội Nhà và bắt đầu nhiệm vụ hộ tống từ ngày 11 tháng 4. Sáu ngày sau, con tàu bị mắc cạn tại quần đảo Shetland và bị hư hại vừa phải; nó nổi trở lại và được sửa chữa tại Hull từ ngày 20 tháng 4 đến ngày 19 tháng 5. Nó đã hộ tống cho chiếc tàu chiến-tuần dương đi Scapa Flow và đến nơi vào ngày 24 tháng 5. Chi hạm đội Khu trục 9 được chuyển sang Bộ chỉ huy Tiếp cận phía Tây vào giữa tháng 6, và "Highlander" đã cứu vớt những người sống sót từ chiếc tàu buôn tuần dương vũ trang bị trúng ngư lôi trên đường đi Plymouth. Cuối tháng đó, nó hộ tống các tàu bè tham gia triệt thoái binh lính Đồng Minh khỏi các cảng Pháp trên bờ biển Đại Tây Dương trong Chiến dịch Ariel. "Highlander" sau đó gia nhập trở lại Chi hạm đội Khu trục 9 làm nhiệm vụ hộ tống vận tải cho đến tháng 1 năm 1941. Nó trải qua một đợt tái trang bị ngắn vào giữa tháng 7 năm 1940, khi dàn ống phóng ngư lôi phía sau được thay bằng một khẩu pháo 12 pounder phòng không. Cùng với tàu chị em , nó đã đánh chìm tàu ngầm U-boat "U-32" vào ngày 30 tháng 10. Đến ngày 1 tháng 12, nó hộ tống chiếc tàu khu trục Canada HMCS "Saguenay" bị trúng ngư lôi đi đến Barrow-in-Furness để sửa chữa. "Highlander" bắt đầu một đợt tái trang bị kéo dài tại xưởng tàu của hãng Hawthorn Leslie ở Hebburn từ ngày 30 tháng 1 đến ngày 23 tháng 3 năm 1941. Sau khi hoàn tất, nó được điều động một thời gian ngắn sang Lực lượng H tại Gibraltar trước khi tiếp tục đi đến Freetown, Sierra Leone để bắt đầu làm nhiệm vụ hộ tống cùng Chi hạm đội Khu trục 18 tại đây. Nó ở lại đây cho đến tháng 8, khi nó được chuyển đến nơi nó được phân về Đội hộ tống 28 trực thuộc Bộ chỉ huy Tiếp cận phía Tây. "Highlander" được tái trang bị và nâng cấp vũ khí từ ngày 2 tháng 2 đến ngày 18 tháng 3 năm 1942 tại Tilbury. Nó trở thành soái hạm của Đội hộ tống B-4 và được phân về Lực lượng Hộ tống Giữa đại dương sau khi hoàn tất việc tái trang bị. Nó và các tàu tháp tùng đã bảo vệ Đoàn tàu SC 122 trải qua một trong những trận chiến hộ tống vận tải lớn nhất chiến tranh vào tháng 3 năm 1943; nó bị các tàu ngầm U-boat "U-441" và "U-608" tấn công bất thành trong trận này. Con tàu trải qua một đợt tái trang bị lớn tại Troon từ ngày 28 tháng 12 năm 1943 đến ngày 12 tháng 4 năm 1944, vốn bị kéo dài do nó bị hư hại bởi va chạm với một tàu kéo. Sau khi hoàn tất, nó gia nhập trở lại đội của nó và ở lại cho đến tháng 9, khi nó được chuyển sang Đội hộ tống B-2 và trở thành soái hạm đôi này. "Highlander" bị hư hại mũi tàu vào ngày 15 tháng 4 năm 1945 do va chạm băng; nó phải được cho kéo đến vịnh Bulls, Newfoundland để sửa chữa tạm thời, rồi được sửa chữa triệt để tại St. John's gần đó từ ngày 17 tháng 4 đến ngày 24 tháng 7. Con tàu đi đến Portsmouth năm ngày sau, rồi sau đó lại lên đường đi Rosyth để phục vụ như một tàu mục tiêu cho việc huấn luyện máy bay. "Highlander" được đưa về lực lượng dự bị từ ngày 19 tháng 1 năm 1946 và được chấp thuận cho tháo dỡ vào ngày 19 tháng 2, và bị bán vào ngày 27 tháng 5, nhưng công việc tháo dỡ chỉ bắt đầu tiến hành từ tháng 5 năm 1947.
1
null
HMS "Hurricane" (H06) là một tàu khu trục lớp H, nguyên được Hải quân Brazil đặt hàng cho hãng Vickers Armstrongs dưới tên "Japarua" vào cuối thập niên 1930, nhưng được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc mua lại khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra vào tháng 9 năm 1939. Nó được tạm thời phân về Hạm đội Nhà sau khi hoàn tất vào tháng 6 năm 1940 trước khi bắt đầu hộ tống vận tải và tuần tra chống tàu ngầm. Nó bị hư hại nặng do một cuộc không kích của Đức xuống Liverpool vào tháng 5 năm 1941, và việc sửa chữa chỉ hoàn tất vào đầu năm 1942. "Hurricane" sau đó trở thành soái hạm của Đội hộ tống B-1 thuộc Lực lượng Hộ tống Giữa đại dương, hộ tống các đoàn tàu vận tải tại Bắc Đại Tây Dương trong hai năm tiếp theo. Nó trúng phải ngư lôi phóng từ tàu ngầm U-boat Đức "U-415" trong đêm Giáng Sinh 24 tháng 12 năm 1943, và phải bị đánh đắm vào ngày hôm sau vì không thể quay trở lại cảng. Thiết kế và chế tạo. "Hurricane" có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn , và lên đến khi đầy tải. Nó có chiều dài chung , mạn thuyền rộng và độ sâu của mớn nước là . Nó được dẫn động bởi hai turbine hơi nước Parsons truyền động ra hai trục chân vịt, sản sinh tổng công suất , cho phép nó đạt tốc độ tối đa . Hơi nước được cung cấp bởi ba nồi hơi ống nước Admiralty. "Hurricane" có thể mang theo tối đa dầu đốt, cho phép một tầm hoạt động tối đa ở tốc độ . Thành phần thủy thủ đoàn của nó bao gồm 152 sĩ quan và thủy thủ. Con tàu được thiết kế để trang bị bốn khẩu pháo QF Mk. XII L/45 trên các tháp pháo nòng đơn, đặt tên theo thứ tự ‘A’, ‘B’, ‘X’ và ‘Y’ từ trước ra sau; nhưng khẩu ‘Y’ bị tháo dỡ để lấy chỗ mang thêm mìn sâu. Cho mục đích phòng không, "Hurricane" có hai khẩu đội súng máy Mk.III bốn nòng. Nó còn có hai bệ ống phóng ngư lôi bốn nòng trên mặt nước dành cho ngư lôi. Một đường ray thả mìn sâu và hai máy phóng thoạt tiên được trang bị, nhưng tăng lên ba đường ray và tám máy phóng trong khi hoàn thiện. Lượng mìn sâu mang theo cũng tăng lên tương ứng từ 20 lên 110 quả. "Hurricane" được trang bị sonar ASDIC để phát hiện tàu ngầm dựa trên sự phản hồi sóng âm dưới nước khi hoàn tất. "Japarua" được Brasil đặt hàng cho hãng Vickers-Armstrongs ở Barrow-in-Furness vào ngày 6 tháng 12 năm 1937. Con tàu được đặt lườn vào ngày 3 tháng 6 năm 1938, nhưng bị Anh Quốc mua lại vào ngày 5 tháng 9 năm 1939 sau khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra, và đổi tên thành HMS "Hurricane". Nó được hạ thủy vào ngày 29 tháng 9 năm 1939 và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia Anh vào ngày 21 tháng 6 năm 1940. Các cải biến trong chiến tranh. Bệ ống phóng ngư lôi phía sau của "Hurricane" được thay bằng một khẩu QF 12 pounder phòng không trong một đợt sửa chữa vào tháng 10 năm 1940. Dàn vũ khi phòng không tầm ngắn được tăng cường với hai khẩu pháo tự động Oerlikon 20 mm được trang bị hai bên cánh của cầu tàu, và các khẩu súng máy Vickers bốn nòng cũng được thay bằng một cặp Oerlikon 20 mm. Tháp điều khiển hỏa lực và máy đo tầm xa bố trí bên trên cầu tàu có thể đã được tháo dỡ thay bằng radar Kiểu 271 định vị mục tiêu. Một dàn radar Kiểu 286 dò tìm mặt đất tầm ngắn cũng có thể đã được bổ sung vào giữa chiến tranh. Con tàu cũng có máy định vị vô tuyến HF/DF trang bị trên cột ăn-ten trước. Lịch sử hoạt động. "Hurricane" được phân về Chi hạm đội Khu trục 9 trực thuộc Hạm đội Nhà, và bắt đầu nhiệm vụ hộ tống vận tải và tuần tra chống tàu ngầm cho đến tháng 5 năm 1941. Vào ngày 17 tháng 9, nó cứu vớt những người sống sót trên chiếc , một tàu hành khách nhỏ đang đưa 90 trẻ em tị nạn từ Anh sang Canada, và chiếc tàu chở hàng . Nó cũng cứu vớt 451 người sống sót từ chiếc tàu biển chở hành khách và đưa họ đến Greenock, Scotland vào ngày 1 tháng 5 năm 1941. "Hurricane" bị hư hại rất nặng bởi một cuộc không kích của Không quân Đức xuống Liverpool trong đêm 7-8 tháng 5 năm 1941. Một quả bom đã xuyên qua lườn tàu và phát nổ bên dưới, làm thủng đáy tàu một lỗ lớn và làm ngập nước phòng động cơ và các thùng nhiên liệu. Cấu trúc con tàu bị hỏng nặng đến mức phần đuôi của nó bị gập xuống, và "Hurricane" được cho kéo đến bến tàu Bidston phòng ngừa nó đắm làm ngăn trở lưu thông trong cảng. Không ai thiệt mạng trong cuộc tấn công, cho dù có vài thủy thủ bị thương nhẹ. Con tàu được sửa chữa và quay trở lại phuc vụ vào tháng 1 năm 1942 như là soái hạm của Đội hộ tống B-1 thuộc Lực lượng Hộ tống Giữa đại dương. "Hurricane" tiếp tục làm nhiệm vụ hộ tống trong hai năm tiếp theo. Đang khi hộ tống Đoàn tàu OS 62/KMS 36, con tàu trúng phải một quả ngư lôi dò âm T5 phóng từ tàu ngầm U-boat Đức "U-415" vào chiều tối ngày 24 tháng 12 năm 1943. Quả ngư lôi được dẫn hướng bởi tiếng động của chân vịt con tàu và làm nổ tung một đoạn đuôi tàu; làm thiệt mạng ba thành viên thủy thủ đoàn cùng chín người khác bị thương, và khiến con tàu không di chuyển được. Nó bị tàu khu trục đánh đắm sáng hôm sau ở tọa độ .
1
null
Một khoa trong y học là một ngành trong khoa học y học. Một chuyên khoa trong y học là một ngành hẹp nằm trong một khoa. Tùy theo mức độ phát triển hay mức độ quan trọng mỗi quốc gia, mà một chuyên khoa (ngành hẹp) ở nước này có thể coi là một khoa (ngành) ở nước khác. Ở nước ngoài, sau khi hoàn tất chương trình đa khoa tại trường y, các bác sĩ hay bác sĩ phẫu thuật thường nâng cao trình độ học vấn y khoa trong một khoa hay chuyên khoa qua việc hoàn thành thêm chương trình bác sĩ nội trú để trở thành bác sĩ chuyên khoa. Tại Việt Nam, chương trình bác sĩ nội trú còn nhiều hạn chế, thay vào đó, sau một thời gian làm việc trong chuyên ngành nhất định, bác sĩ có thể hoàn thành chương trình chuyên khoa 1, chuyên khoa 2 để trở thành bác sĩ chuyên khoa 1 hay bác sĩ chuyên khoa 2. Phân định khoa và chuyên khoa. Các khoa và chuyên khoa có thể phân định dựa theo 4 trục: Từ xưa đến nay, trục phân chia quan trọng nhất luôn là cách chia giữa nội khoa và ngoại khoa. Ở ngoại khoa, các khâu quan trọng của chẩn đoán và điều trị đạt được qua các kĩ thuật đại phẫu. Ở nội khoa, ngược lại, các chẩn đoán và điều trị chính không bao giờ là phương pháp đại phẫu. Ở một số nước, gây mê được coi là một ngành ngoại khoa vì nó rất quan trọng trong các quy trình phẫu thuật, mặc dù chuyên viên gây mê hồi sức không thực hiện bất kì thủ thuật đại phẫu nào. Đa số khoa và chuyên khoa là dựa trên cơ quan do nhiều bệnh và triệu chứng bắt nguồn từ một cơ quan nhất định. Một số ít còn lại dựa vào một nhóm các kĩ thuật, ví dụ: dựa trên vô tuyến học (lúc đầu chỉ gồm X quang).
1
null
Natri phosphat (viết tắt theo tiếng Anh là TSP) là một chất làm sạch, chất bôi trơn, phụ gia thực phẩm, chất tẩy vết bẩn và tẩy nhờn. Nó là chất rắn tinh thể hay có dạng hạt màu trắng, tan tốt trong nước tạo thành dung dịch kiềm. Trong thương mại, các mặt hàng được trải đều từ dạng khan, Na3PO4, cho đến dạng hydrat hóa mức cao nhất, Na3PO4·12H2O. Phần lớn có dạng bột trắng, nó còn được gọi là trinatri orthophosphat hay chỉ đơn giản là natri phosphat. Natri phosphat có thời gian được dùng rộng rãi trong công thức của nhiều loại thưốc tẩy và xà phòng tiêu dùng, nhưng các vấn đề về sinh thái đã làm ngưng hẳn việc này, ít nhất là ở các nước phương Tây. Các chất thay thế không hiệu quả bằng, tuy nhiên hóa chất thô có thể được bán ở dạng khối lớn để thêm vào các loại thuốc tẩy khác. Sử dụng. Làm sạch. Công dụng chính của natri phosphat là trong chất làm sạch. Độ pH của dung dịch 1% là 12, có độ kiềm đủ để xà phòng hóa các loại dầu mỡ. Khi kết hợp với chất hoạt động bề mặt, TSP là tác nhân tuyệt vời cho việc làm sạch mọi thứ từ quần áo cho đến đường bê tông. Tính linh hoạt cùng với giá thành phẩm thấp làm cho TSP trở nên được ưa chuộng hơn trong bối cảnh có rất nhiều sản phẩm tẩy rửa được bày bán trong giai đoạn giữa thế kỉ 20. TSP vẫn được bán và sử dụng như một chất làm sạch, nhưng vào cuối thập niên 1960 ở Mỹ, người điều hành chính phủ ở 17 bang khẳng định rằng việc lạm dụng sẽ dẫn đến một chuỗi các vấn đề sinh thái với việc phá hủy những con sông và hồ chủ yếu là do quá trình phú dưỡng. Cuối thế kỉ 20, nhiều mặt hàng trước đây có chứa TSP đã được sản xuất với chất thay thế TSP, chủ yếu là chứa natri carbonat cùng với nhiều hỗn hợp các chất bề mặt không ion và một lượng giới hạn natri phosphat. TSP thường dùng sau khi tẩy rửa với spirit trắng (chất hòa tan trong xăng) để tẩy đi phần bã hiđrocarbon còn lại. TSP có thể được dùng với chất tẩy chlor gia dụng trong cùng một dung dịch mà không có phản ứng có hại với nhau. Hỗn hợp này có tác dụng đáng kể trong việc tẩy trừ mốc sương, nhưng vô hại khi tẩy trừ nấm mốc lâu dài. Mặc dù nó vẫn là thành phần hoạt động trong một số viên tẩy rửa bồn cầu, nói chung TSP không nên dùng để vệ sinh nhà tắm, bởi vì nó có thể làm ố màu kim loại và phá hủy vữa xi măng. Chất gây chảy. Ở Mỹ, natri phosphat là chất gây chảy được phê chuẩn dùng trong hàn cứng khớp nối trong việc hàn đồng y khoa. Chất gây chảy được dùng như một dung dịch đậm đặc và hòa tan đồng oxit tại nhiệt độ dùng hàn đồng. Phần bã còn lại tan hoàn toàn trong nước và có thể được rửa trôi ra khỏi phần hàn. TSP được dùng như thành phần của chất gây chảy để loại bỏ oxi trong những kim loại không chứa sắt mà được dùng để đúc. TSP có thể dùng trong việc làm gốm để giảm nhiệt độ nóng chảy của men gốm. Làm nổi bật nước sơn. TSP vẫn được dùng thường xuyên cho việc làm sạch, tẩy dầu mỡ và tẩy vết bóng láng trên tường trước khi sơn. TSP phá hủy các vết bóng dầu và mở ra các lỗ nhỏ latex tạo bề mặt tốt hơn cho việc kết dính của các lớp phía sau. Phụ gia thực phẩm. Các muối phosphat của natri (natri dihydrophosphat, natri hydrophosphat, và natri phosphat) được chấp nhận là một chất phụ gia thực phẩm ở EU, E339. Thúc đẩy kết quả tập luyện. Natri phosphat có được một sự ủng hộ làm chất bổ sung dinh dưỡng có thể cải thiện nhũng thông số nhất định của kết quả tập luyện. Cơ sở cho niềm tin trên là phosphat cần thiết cho chu trình Krebs tạo năng lượng, trung tâm của sự trao đổi chất háo khí. Gốc phosphat sẵn có từ một số các nguồn khác nhẹ hơn nhiều so với TSP. Mặc dù TSP không độc, nó có thể gây kích ứng niêm mạc ruột nếu dùng trực tiếp, chỉ được dùng trong dung dịch đệm. Chất thay thế TSP. Các mặt hàng bày bán thay thế TSP, chứa natri carbonat và zeolit, đang được đẩy mạnh làm chất thay thế trực tiếp. Tuy nhiên, natri carbonat không có tính base mạnh bằng natri phosphat, khiến cho nó có tác dụng kém hơn trong những việc cần đến. Zeolit được cho thêm vào thuốc tẩy quần áo làm chất độn bị phá hủy trong nước nhanh chóng và cơ bản là không gây ô nhiễm. Các sản phẩm tẩy rửa dán nhãn chứa TSP có thể chứa các thành phần khác, thực tế chỉ chứa có lẽ ít hơn 50% natri phosphat.
1
null
Lâu đài Glamis là một lâu đài nằm bên cạnh làng Glamis (, phát âm là "Glahmz") ở Angus, Scotland. Đây là nhà của vợ chồng Bá tước xứ Strathmore và Kinghorne, và mở cửa cho công chúng. Lâu đài Glamis là ngôi nhà của gia đình Lyon từ thế kỷ 14, mặc dù tòa nhà hiện nay phần lớn có niên đại từ thế kỷ 17. Glamis là ngôi nhà thời thơ ấu của Elizabeth Bowes-Lyon, vợ của George VI. Con gái thứ hai của họ, Vương nữ Margaret, Bá tước phu nhân xứ Snowdon, đã được sinh ra tại nơi này. Lâu đài được đưa vào danh sách các tòa nhà được bảo vệ hạng A.
1
null
The International (TI) là giải đấu thể thao điện tử "Dota 2" hàng năm do công ty phát hành và phát triển Valve Corporation tổ chức. Giải đấu được lần đầu tổ chức tại Gamescom, Köln, Đức vào tháng 8 năm 2011, ngay sau khi Valve mua lại quyền sở hữu và phát triển trò chơi mod "Defense of the Ancients (DotA)" từ trò chơi "World of Warcraft III". Kể từ đó, The International được tổ chức tại Seattle nơi đặt hội sở của Valve cho tới tận năm 2018. Kể từ năm 2017, giải đấu quy tụ 18 đội chơi xuất sắc nhất mùa giải theo hệ thống tính điểm Dota Pro Circuit của Valve<ref name="Majors/Minors"></ref>. Tiền thưởng của giải đấu chủ yếu được quyên góp theo hình thức crowdfunding trực tiếp từ người chơi thông qua sản phẩm "Compendium" phát hành thông qua trò chơi. Các nhà vô địch của giải đấu sẽ được nhận ngoài tiền thưởng là danh hiệu vô địch thế giới Aegis of Champions với tên được khắc ở mặt sau. Cho đến năm 2021, hàng năm The International luôn tự phá kỷ lục của chính mình để trở thành giải đấu thể thao điện tử có giá trị nhất. Puppey là vận động viên tham dự nhiều kỳ The International nhất (11) từ năm 2011 đến năm 2022. Lịch sử. 2011. Ngày 1 tháng 8 năm 2011, Valve Corporation công bố tổ chức giải đấu vô địch thể thao điện tử Dota 2 thế giới The International lần thứ nhất. 16 đội chơi nhận vé mời trực tiếp tham gia gia giải đấu với hệ thống chiếu trực tuyến 4 ngôn ngữ Anh, Trung, Đức và Nga. Đây cũng là giải đấu thể thao điện tử đầu tiên công chúng có thể mua vé tới xem trực tiếp. Kinh phí và tiền thưởng 1 triệu $ cho đội vô địch hoàn toàn do Valve cung cấp, bên cạnh Nvidia tài trợ thiết bị. Giải đấu diễn ra tại khu tổ hợp Gamescom, thuộc sân vận động Koelnmesse tại thành phố Cologne, Đức từ ngày 17 tới ngày 21 tháng 8. Giải đấu được tổ chức theo thể thức nhánh thắng - nhánh thua. Ở trận chung kết, đội Natus Vincere tới từ Ukraina đã đánh bại đội EHOME từ Trung Quốc với tỉ số 3-1. Á quân EHOME nhận phần thưởng trị giá 250.000 $. Sự kiện này sau này được biên tập thành bộ phim tài liệu "Free to Play", kể về cuộc đời ba ngôi sao của giải đấu là Benedict "hyhy" Lim, Danil "Dendi" Ishutin và Clinton "Fear" Loomis. 2012. Giải vô địch thể thao điện tử Dota 2 thế giới The International 2012 được công bố vào tháng 5 tại sự kiện PAX Prime. Giải đấu được tổ chức tại nhà thi đấu Benaroya Hall tại Seattle từ ngày 31 tháng 8 tới ngày 2 tháng 9. Tổng giá trị giải thưởng vẫn được giữ nguyên ở mức 1,6 triệu $ với 1 triệu $ cho đội vô địch. Ở trận chung kết, đội Invictus Gaming tới từ Trung Quốc đã đánh bại nhà đương kim vô địch Natus Vincere với tỉ số 3-1. Video tài liệu về giải đấu được Valve phát hành vào tháng 11 cùng năm với đầy đủ phỏng vấn và các sự kiện bên lề. 2013. Ngày 23 tháng 4 năm 2013, Valve thông báo chính thức về việc tổ chức lần thứ 3 giải vô địch thể thao điện tử Dota 2 thế giới The International. Giải đấu tiếp tục được tổ chức tại Benaroya Hall từ ngày 7-11 tháng 8. Đương kim vô địch Invictus Gaming là đội đầu tiên được nhận vé mời chính thức, tiếp theo là 12 đội chơi xuất sắc nhất trên toàn thế giới. 3 đội chơi còn lại là 3 đội giành chiến thắng trong các vòng loại khu vực và vòng loại trực tiếp trước thềm giải đấu. Ngày 6 tháng 5, Valve lần đầu tiên giới thiệu giao diện "Compendium" trong trò chơi "Dota 2". Người chơi trực tiếp mua các vật dụng và số tiền sẽ được đóng góp vào tiền thưởng cho giải đấu, bên cạnh 1,6 triệu $ từ Valve. Với sản phẩm mới này, The International tiếp tục trở thành giải đấu thể thao điện tử giá trị nhất thế giới với tổng giá trị lên tới 2,8 triệu $, phá kỷ lục Giải vô địch thể thao điện tử Liên Minh Huyền Thoại thế giới mùa 2 vừa diễn ra trước đó không lâu. Người dẫn chương trình của đài KCPQ Kaci Aitchison được chọn làm trưởng ban tổ chức, kiêm nhiệm phụ trách bình luận và phỏng vấn trước và sau trận đấu. Hơn 1 triệu người đã theo dõi The International 2013 trên các ứng dụng trực tuyến như Twitch.tv. Đội Natus Vincere lần thứ ba liên tiếp lọt vào trận chung kết, tuy nhiên họ đã để thua 3-2 trước đội Alliance tới từ Thụy Điển. 2014. The International 2014 được tổ chức tại nhà thi đấu Key Arena tại Seattle từ ngày 18-21 tháng 7. Ngoài 11 đội chơi nhận vé mời trực tiếp từ Valve, 5 đội chơi còn lại là các đội giành chiến thắng ở vòng loại khu vực và vòng loại trực tiếp trước thềm giải đấu. Toàn bộ vé theo dõi giải đấu tại Seattle được bán hết chỉ trong vòng 1 giờ. Giải đấu tiếp tục nhận tiền hỗ trợ từ cộng đồng, và phá vỡ giá trị giải thưởng với 10,9 triệu $. Sau giải đấu, 6 vận động viên "Dota 2" đã trở thành những vận động viên thu nhập cao nhất lịch sử thể thao điện tử. Đây cũng là lần đầu tiên The International được truyền hình trực tiếp qua hệ thống của ESPN. Ở trận chung kết toàn Trung Quốc đầu tiên, đội Newbee đã đánh bại đội Vici Gaming với tỉ số 3-1. 2015. The International 2015 tiếp tục được tổ chức tại nhà thi đấu KeyArena, từ ngày 3-6 tháng 8. Chi tiết giải đấu được Valve thông báo vào tháng 1, vé xem giải đấu được bày bán trực tuyến vào tháng 3 và bán hết sạch chỉ sau 5 phút. Compendium đóng góp từ cộng đồng tiếp tục được Valve giới thiệu vào tháng 5, nâng tổng giá trị giải thưởng lên tới 18.429.613 $, trở thành giải đấu thể thao điện tử giá trị nhất thế giới vào thời điểm đó. Đây cũng là giải đấu đầu tiên của Valve ghi nhận lỗi DDOS trong thời gian thi đấu, khiến giải đấu bị hoãn 3 tiếng so với lịch trình dự kiến. Ở trận chung kết, đội Evil Geniuses từ Hoa Kỳ đã đánh bại đội CDEC Gaming với tỉ số 3-1, mang về chức vô địch cùng 6,6 triệu $ tiền thưởng. 2016. KeyArena tiếp tục là địa điểm tổ chức The International 2016 từ ngày 3-13 tháng 8. 6 đội chơi được nhận vé mời trực tiếp từ Valve, bên cạnh 8 đội chơi khác vượt qua các vòng loại khu vực. 4 đội có thành tích tốt còn lại của các khu vực được tới tham dự thi đấu nhằm lấy 2 suất vé vớt của The International. Valve tiếp tục kêu gọi góp vốn cộng đồng thông qua "Compendium", giúp tổng giá trị giải thưởng vượt ngưỡng 20 triệu $, tiếp tục phá kỷ lục giải đấu thể thao điện tử giá trị nhất lịch sử. Hai đội chơi bị đánh giá thấp và không có nhiều cổ động viên là Wings Gaming từ Trung Quốc và Digital Chaos từ Hoa Kỳ đã lọt vào tới trận chung kết và đội chơi Trung Quốc đã giành chiến thắng với tỷ số 3-1, bỏ túi hơn 9 triệu $ tiền thưởng. Đây được coi là một trong những mùa giải The International có nhiều người xem nhất và nhiều bất ngờ nhất lịch sử giải đấu. 2017. Mùa giải thể thao điện tử Dota 2 lần thứ 7 kết thúc với giải đấu The International diễn ra từ ngày 7 tới 12 tháng 8 tại KeyArena ở Seattle. 6 đội chơi được nhận vé mời trực tiếp từ Valve, trong khi 12 đội chơi còn lại là các đội thắng cuộc các vòng loại khu vực. Hình thức quyên góp tiền từ cộng đồng giúp tổng giá trị giải thưởng đạt gần 25 triệu $, tiếp tục phá kỷ lục giải đấu thể thao điện tử giá trị nhất. Giải đấu đánh dấu nhiều sự kiện đặc biệt, trong đó có việc vận động viên "Dendi" thất bại trong trận đấu biểu diễn với trí tuệ nhân tạo của công ty OpenAI. Ngoài ra, bộ phim " Eleague: Road To The International Dota 2 Championships" đi theo hành trình của đội compLexity Gaming cũng được lên sóng truyền hình. Hai hero hoàn toàn mới cũng đã được giới thiệu. Đây cũng là lần đầu tiên Valve tổ chức cuộc thi hóa trang và phim ngắn về trò chơi và giới thiệu mod chơi bài mang tên "Artifact". Ở trận chung kết, đội chơi Team Liquid tới từ Châu Âu đã đánh bại 3-0 nhà vô địch năm 2014, đội NewBee và bỏ túi gần 11 triệu $ tiền thưởng. Toàn bộ quá trình chuẩn bị, thời gian thi đấu và hậu trường của trận chung kết này sau đó được Valve biên tập trong video tài liệu "True Sight" phát hành vào cuối tháng 9 năm 2017. Đây cũng là trận chung kết thu hút đông khán giả theo dõi trực tiếp nhất của The International tính tới thời điểm đó, với khoảng 400.000 người trên các nền tảng trực tuyến cùng hơn 15.000 cổ vũ tại KeyArena. 2018. Sau 2 mùa giải bị chỉ trích về việc tổ chức thiếu minh bạch và rõ ràng đối với các giải lớn (Major) và nhỏ (Minor), Valve quyết định áp dụng vào mùa giải 2017-18 hệ thống Dota Pro Circuit (DPC) nhằm tạo nên bảng xếp hạng cuối năm cho các đội tham dự The International. Hệ thống được phỏng theo mô hình thành công của nội dung "", cho phép các đơn vị ngoài Valve tham gia tổ chức các giải đấu chính thức trong năm, theo đó mùa giải sẽ có 9 Major cùng 13 Minor. 8 đội điểm cao nhất sẽ được nhận vé mời thẳng tham dự The International 2018, 10 đội còn lại sẽ phải thi đấu qua vòng loại từng khu vực từ tháng 6. The International 2018 lần đầu tiên được tổ chức tại thành phố Vancouver, Canada, từ ngày 20 tới 25 tháng 8. Giải đấu tiếp tục kêu gọi tiền đóng góp từ người chơi qua hệ thống Compendium, góp phần đưa tổng giá trị giải thưởng lên tới 25,5 triệu $, tiếp tục phá kỷ lục giải đấu thể thao điện tử lớn nhất lịch sử. Valve tiếp tục tổ chức nhiều cuộc thi và sự kiện đi kèm, bao gồm hoá trang và cuộc thi phim ngắn. Ngoài ra, ban tổ chức cũng cho khán giả xem trực tiếp hai trận đấu biểu diễn giữa 2 đội chuyên nghiệp (paiN Gaming và Big God) với đội 5 trí tuệ nhân tạo OpenAI Five. 2 hero hoàn toàn mới cũng đã được giới thiệu tại trận đấu biểu diễn All-Stars. Toàn bộ các khán giả tới xem trận chung kết được nhận bản copy chính thức của trò chơi "Artifact". Trận chung kết tại Rogers Arena là trận đấu đông khán giả nhất lịch sử The International với hơn 20.000 người tại sân vận động. Tổng cộng có 15 triệu người xem qua các nền tảng trực tuyến xuyên suốt giải đấu. Đội OG tới từ Châu Âu đã giành chức vô địch sau khi đánh bại đội PSG.LGD từ Trung Quốc với tỉ số 3-2. Đây là kết quả bất ngờ khi đội OG sau một mùa giải yếu kém đã suýt tan rã trước khi giải đấu diễn ra, chỉ may mắn qua được vòng loại khu vực và không được coi là ứng cử viên vô địch của mùa giải. Hành trình vô địch giải đấu của đội OG được Valve thực hiện thành bộ phim tài liệu "True Sight: The International 2018 Finals", được giới thiệu vào tháng 1 năm 2019. 2019. Giải đấu The International lần thứ 9 kết thúc mùa giải 2018-2019 được tổ chức từ ngày 20-25 tháng 8 tại thành phố Thượng Hải. Đây là giải vô địch thể thao điện tử "Dota 2" thế giới đầu tiên được tổ chức tại Trung Quốc. 12 đội đứng đầu bảng xếp hạng Dota Pro Circuit của năm nhận vé mời trực tiếp, cùng với 6 đội khác vượt qua vòng loại khu vực. The International 2019 tiếp tục kêu gọi tiền thưởng thông qua hình thức kêu gọi tài trợ từ người chơi. Tổng giải thưởng giải đấu đạt 34,3 triệu $, tiếp tục phá kỷ lục giải đấu thể thao điện tử giá trị nhất thế giới, vượt qua kỷ lục 30 triệu $ mà Fortnite World Cup thiết lập trước đó vào tháng 7. Valve cũng duy trì các cuộc thi và sự kiện đi kèm, bao gồm hoá trang, cuộc thi phim ngắn, và trận đấu biểu diễn All-Stars với tiền thưởng tách biệt với hệ thống giải đấu chính thức. 2 hero hoàn toàn mới cũng đã được ra mắt trước thềm trận chung kết. Đây là giải đấu có lượng người xem nhiều nhất lịch sử "Dota 2", đặc biệt trận chung kết đạt kỷ lục hơn 1,1 triệu người xem tại các ứng dụng trực tuyến. Hai đội vô địch 2 mùa giải gần nhất là Team Liquid và OG đã vào chơi trận chung kết. OG trở thành đội đầu tiên bảo vệ thành công chức vô địch thế giới sau khi đánh bại Team Liquid với tỉ số 3-1 và bỏ túi 15 triệu $. Đặc biệt hơn, đội hình 5-người của OG mùa giải 2019 cũng chính là đội hình vô địch năm 2018. 2020. Ngay sau trận chung kết The International 2019, Valve đã cho biết địa điểm tổ chức của The International thứ 10 năm 2020 tại Stockholm, Thụy Điển. Theo kế hoạch công bố vào tháng 12 năm 2019, giải đấu sẽ diễn ra từ ngày 18 tới 23 tháng 8 trên sân vận động Avicii Arena. Tuy nhiên, đại dịch COVID-19 bùng phát và lan ra toàn thế giới khiến toàn bộ kế hoạch của Valve phải thay đổi. Cuối tháng 4 năm 2020, ban tổ chức chính thức tuyên bố kỳ The International thứ 10 sẽ bị hoãn tới năm 2021 vì những lý do an toàn sức khỏe. Hệ thống điểm Dota Pro Circuit mùa giải 2019–2020 sẽ bị hủy bỏ và 25% tiền thưởng từ mùa giải sẽ dồn sang mùa giải tiếp theo. Cuối tháng 5, Valve giới thiệu "Compendium" của mùa giải The International tương tự với các phiên bản trước. Mùa giải DPC mới dự kiến sẽ bắt đầu vào mùa thu 2020 với các giải đấu online. 2021. Tháng 10 năm 2020, Valve giới thiệu mùa giải DPC mới theo phiên bản rút gọn, nhằm đảm bảo có thể tổ chức kịp The International 10 vào tháng 8 năm 2021. Theo đó, mùa giải sẽ chia làm 2 giai đoạn, tương ứng với hai giải Major lớn của năm. Valve áp dụng hình thức vòng đấu bảng khu vực, theo đó 6 khu vực lớn trên thế giới sẽ thi đấu vòng tròn, từ đó tính điểm 12 đội đứng đầu DPC để thi đấu tại The International. Các đội còn lại sẽ phải thi đấu vòng loại khu vực để chọn 6 suất cuối cùng của The International 10. Bất ngờ xảy ra vào giữa tháng 6 năm 2021 khi làn sóng COVID-19 thứ ba tấn công Thụy Điển. Chính phủ nước này từ chối công nhận thể thao điện tử là một môn thể thao, vậy nên các giải đấu quốc tế sẽ không được phép tổ chức do vi phạm quy định cách li và giãn cách xã hội. Đầu tháng 7 năm 2021, Valve thông báo dời giải đấu tới sân vận động Arena Națională ở Bucharest, Romania từ ngày 7 đến ngày 17 tháng 10, tuy nhiên không có khán giả theo dõi trực tiếp. Tổng giải thưởng được dồn lên 40.018.195 $, tiếp tục là giải đấu thể thao điện tử có tiền thưởng cao nhất lịch sử. Team Spirit đã đánh bại đại diện Trung Quốc PSG.LGD với tỷ số 3-2 và lên ngôi vô địch, mang về 18.208.300 $. Đây là đội đầu tiên trong lịch sử The International vô địch giải đấu mà phải thi đấu tranh vé vòng loại. 2022. Tương tự với mùa giải 2021, mùa giải DPC 2022 được khởi tranh vào cuối tháng 11 năm 2021 với 6 khu vực, nhưng mở rộng thành 3 vòng đấu khác nhau, xen kẽ là 2 giải đấu lớn Majors là ESL One Stockholm và PGL Arlington. 12 đội có điểm số cao nhất bảng xếp hạng DPC cuối năm, cùng 6 đội nhất bảng đấu từng khu vực sẽ có vé mời thẳng tới The International. Tất cả các đội nhì bảng của từng khu vực sẽ tranh tài vòng Last Chance Qualifiers để chọn ra 2 đội cuối cùng thi đấu tại The International 2022. Ngày 1 tháng 6 năm 2022, Valve công bố Singapore là địa điểm tổ chức The International 2022. Đây là lần đầu tiên Đông Nam Á được lựa chọn để tổ chức sự kiện này. Cũng như mọi năm, Valve cũng công bố đóng góp 1.600.000 $ vào quỹ tiền thưởng, và kêu gọi người chơi toàn thế giới đóng góp qua hình thức "Compendium" truyền thống. Trái với dự đoán, "Compendium" thất bại hoàn toàn và chỉ mang về thêm chưa đến 17 triệu $, khiến "Dota 2" mất vị thế là trò chơi điện tử có quỹ giải thưởng lớn nhất thế giới. Tổng giá trị giải thưởng 18,9 triệu $ cũng là con số thấp nhất của The International tính từ mùa giải 2015. Tại trận chung kết toàn châu Âu, Tundra đã đánh bại Team Secret với tỉ số 3-0 và mang về 8,4 triệu $ tiền thưởng. Đại sảnh Danh vọng Dota 2. Dota 2 Hall of Fame do Valve chính thức ghi danh 5 thành viên của đội giành chức vô địch The International. Kể từ khi The International được bán dưới dạng "Compendium" vào năm 2013, tên của 5 thành viên được khắc tại "Tấm khiên bất tử" (Aegis of Champions) – tượng trưng cho Cúp vô địch – và vinh danh trong nội dung trò chơi.
1
null
Bỏng hay phỏng là một loại chấn thương đối với da hoặc các mô khác do nhiệt, điện, hóa chất, ma sát, hay bức xạ. Hầu hết bỏng là do nhiệt nóng từ chất lỏng, chất rắn, hoặc chất cháy. Trong đó nhiều phụ nữ ở nhiều vùng trên thế giới có nguy cơ bỏng do dầu mỡ bắn vào khi nấu ăn hoặc bếp nấu ăn không an toàn. Nghiện rượu và hút thuốc lá là yếu tố nguy cơ khác. Bỏng cũng có thể xảy ra như là kết quả của tự hại mình hoặc bạo lực giữa con người. Đa phần bỏng có thể phòng tránh được. Điều trị tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của vết bỏng. Bỏng bề mặt da có thể dùng thuốc giảm đau đơn thuần, trong khi vết bỏng lớn đòi hỏi phải điều trị kéo dài trong các trung tâm chuyên về bỏng. Làm mát bằng nước máy có thể giúp giảm đau và giảm thương tổn. Tuy nhiên, làm mát kéo dài có thể dẫn đến hạ nhiệt độ cơ thể. Bỏng nông nhẹ có thể yêu cầu làm sạch bằng xà phòng và nước. Vậy nhưng các mụn nước có thể nổi lên, nếu nhỏ có thể tự lành. Bỏng sâu hơn thường cần điều trị bằng phẫu thuật, chẳng hạn như ghép da. Bỏng sâu thường đòi hỏi phải truyền một lượng lớn dịch truyền tĩnh mạch, do hiện tượng thoát dịch mao mạch và viêm sưng mô. Các biến chứng thường gặp nhất của bỏng thường liên quan đến nhiễm trùng. Năm 2013, lửa và nhiệt là nguyên nhân làm 35 triệu người bị thương. Với khoảng 2,9 triệu ca nhập viện và 238.000 người thương vong. Hầu hết các trường hợp tử vong do bỏng xảy ra ở các nước đang phát triển, đặc biệt là ở khu vực Đông Nam Á. Tỷ lệ bỏng ở Việt Nam chưa có thống kê chính xác nhưng tỷ lệ rất cao do bỏng thường và có xu hướng ngày càng tăng cao. Thống kê cứ 100 bệnh nhân bỏng có 3 đến 5 người tử vong và có hơn 30 người bị di chứng về sau. Bỏng xảy ra nam giới và phụ nữ gần như ngang nhau. Các kết quả lâu dài có liên quan đến kích thước của bỏng và độ tuổi của người bị bỏng. Các dấu hiệu và triệu chứng. Các đặc tính của một vết bỏng phụ thuộc vào độ sâu của nó. Bỏng bề ngoài gây đau kéo dài hai hoặc ba ngày, sau đó bong tróc của da trong vài ngày tới. Cá nhân bị bỏng nặng hơn có thể chỉ ra sự khó chịu hay phàn nàn về những áp lực cảm giác hơn là đau. Bỏng toàn phần-độ dày có thể hoàn toàn không nhạy cảm với cảm ứng ánh sáng hoặc thủng. Trong khi bỏng bề mặt thường có màu đỏ, bỏng nặng có thể có màu hồng, màu trắng hoặc đen. bỏng quanh miệng hoặc bị cháy xém tóc bên trong mũi có thể chỉ ra rằng bỏng đường thở đã xảy ra, nhưng những phát hiện này là không điển hình. Dấu hiệu khác đáng lo ngại bao gồm: khó thở, khàn tiếng, và thở rít hoặc thở khò khè. Ngứa ngáy là triệu chứng phổ biến của bệnh nhân trong quá trình điều trị bỏng, xảy ra lên đến 90% ở người lớn và gần như tất cả trẻ em. Tê hoặc ngứa ran có thể tồn tại trong một thời gian dài sau khi bị bỏng điện. Bỏng cũng có thể tạo ra cảm xúc đau buồn, lo âu và ảnh hưởng đến tâm lý của người bệnh, cũng như người thân. Các thời kỳ của bỏng. Đã có nhiều quan niệm về các thời kỳ của bệnh bỏng, người ta chia làm hai thời kỳ, ba thời kỳ, bốn thời kỳ, năm thời kỳ. Song chia bệnh bỏng làm bốn thời kỳ, được nhiều tác giả chú ý: 1. Thời kỳ thứ nhất: 2 -3 ngày đầu tiên sau bỏng. Đặc trưng là trạng thái sốc bỏng (burn shock) 2. Thời kỳ thứ hai: là thời kỳ nhiễm độc, nhiễm khuẩn cấp (acute intoxication and infection): từ ngày thứ 4 - 45 - 60 sau bỏng. Đối với bỏng nông, đây là thời kỳ liền sẹo và khỏi bệnh. Đối với bỏng sâu đây là thời kỳ nhiễm độc, nhiễm trùng. 3. Thời kỳ thứ ba: đây là thời kỳ suy mòn bỏng (burn cachexia) (từ ngày thứ 45 - 60 trở đi), nếu không được điều trị và nuôi dưỡng tốt. Có thể chia làm  ba mức độ suy mòn bỏng: Nhẹ, vừa, nặng. Suy mòn bỏng nhẹ có thể hồi phục nhanh nếu điều trị tốt. Suy mòn bỏng vừa có thể có tử vong do các biến chứng khác của bệnh bỏng. Suy mòn bỏng nặng có tỉ lệ tử vong khoảng 50 - 60 %. 4. Thời kỳ thứ tư: thời kỳ hồi phục của bệnh bỏng (Stage of recovery). Vết thương bỏng đã được phủ kín, liền sẹo. Các rối loạn chức phận của các nội tạng được phục hồi dần dần. Các rối loạn về chuyển hoá, dinh dưỡng cũng được trở về bình thường (thời kỳ này kéo dài từ 1 - 1,5 tháng). Hiện nay người ta có thể chia bỏng chỉ làm ba thời kỳ, do bệnh nhân được nuôi dưỡng và điều trị tốt không còn thời kỳ suy mòn bỏng. Nguyên nhân gây bỏng. Bỏng do nhiệt. Sơ lược. Tại Hoa Kỳ, lửa và các chất lỏng nóng là nguyên nhân phổ biến nhất dẫn đến bỏng. Trong số vụ cháy nhà dẫn đến tử vong, hút thuốc lá gây ra 25% và các thiết bị sưởi ấm gây ra 22%. Gần một nửa số thương tích bỏng là do những nỗ lực để chống lại hỏa hoạn. Bỏng được gây ra bởi chất lỏng nóng hoặc khí và thường xảy ra khi tiếp xúc với đồ uống nóng, nhiệt độ cao vòi nước trong phòng tắm hoặc buồng tắm vòi, dầu nóng, hoặc hơi nước. Đây là loại bỏng phổ biến nhất ở trẻ em dưới năm tuổi, ở Hoa Kỳ và Úc, loại này chiếm khoảng hai phần ba trong các nguyên nhân gây bỏng. Bỏng do nóng là nguyên nhân của khoảng 20-30% số ca bỏng ở trẻ em. Nói chung, bỏng nước nóng thường gây ra bỏng độ I, độ II, nặng hơn dẫn đến bỏng độ III nếu tiếp xúc nguồn nhiệt nóng quá lâu. Pháo hoa là một nguyên nhân phổ biến của bỏng trong mùa nghỉ lễ ở nhiều nước. Đây là một nguy cơ đặc biệt đối với nam thanh niên. Phân nhóm. Là loại bỏng hay gặp nhất (84-93%), gồm: Nhiệt ướt: Nhiệt độ gây bỏng thường không cao nhưng tác dụng kéo dài trên da, có thể gây bỏng sâu, như nước sôi, nước nóng, thức ăn nóng sô, dầu mỡ sôi, nhựa đường, hơi nước... Nhiệt khô: Nhiệt độ cao từ 800-1400 độ C, bỏng do tác dụng trực tiếp của vật nóng thường gây bỏng sâu, như kim loại nóng, bô xe máy, bàn là; bỏng do khí nóng... Bỏng do hoá chất. Hóa chất gây 2-11% trong số tất cả các vết bỏng và gây ra 30% các ca tử vong do bỏng. Bỏng hóa chất có thể được gây ra bởi hơn 25.000 chất, hầu hết trong số đó là hoặc là các chất oxy hóa mạnh (55 %) hoặc axit mạnh (26%). Hầu hết các trường hợp tử vong do bỏng hóa chất đều thông qua đường tiêu hóa. Các nhóm chất thường gặp bao gồm: axit sulfuric có thể được tìm thấy trong chất tẩy rửa nhà vệ sinh, sodium hypochlorite có thể được tìm thấy trong thuốc tẩy, và hydrocarbon halogen hóa có thể được tìm thấy trong chất tẩy sơn... Axit fluoride hydrogen có thể gây bỏng đặc biệt sâu mà có thể không để lại triệu chứng cho đến khi biểu hiện rõ ràng sau một thời gian tiếp xúc. Axit formic có thể hủy hoại đáng kể các tế bào máu. Mức độ tổn thương phụ thuộc vào các đặc tính hoá lý, nồng độ, thời gian tác dụng của hóa chất, đặc điểm của vùng cơ thể bị bỏng và cách sơ cứu ban đầu. Tỷ lệ bỏng do hoá chất chiếm khoảng 5-6% trong các loại bỏng ở thời bình. Trong chiến tranh, bỏng hóa chất thường rất đa dạng. Phổ biến các chất gây bỏng thường là: Bỏng do dòng điện. Khi luồng điện dẫn truyền vào cơ thể sẽ gây các tổn thương bệnh lý toàn thân (như choáng điện, ngừng tim, ngừng hô hấp) hoặc tại chỗ tiếp xúc (như hoại tử da, xương, gân, cơ...). Thường gây bỏng sâu, có khi tới cơ xương và mạch máu. Bỏng điện thường chia làm hai loại: Sét đánh cũng là một hiện tượng bỏng điện có hiệu thế cao hàng triệu von. Bỏng do bức xạ. Mức độ tổn thương phụ thuộc vào loại tia, mật độ của chùm tia, khoảng cách từ nguồn tia đến da, thời gian tác dụng.Như tia hồng ngoại, tia tử ngoại, tia ronghen, lade, tia phóng xạ, tia X... Chẩn đoán bỏng. Tóm lược. Loại bỏng chỉ ảnh hưởng đến lớp da bên ngoài gọi là bỏng ngoài da hay bỏng độ 1 (bỏng nhẹ). Khi mức độ chấn thương đi sâu vào một vài lớp da ở bên trong thì nó được phân thành bỏng độ 2. Khi toàn bộ lớp da bị phá hủy, hay bỏng độ 3, mức độ chấn thương ảnh hưởng tới mọi lớp của da người. Mức độ nặng nhất đó là bỏng độ 4, khi những vùng sâu dưới da như mô hoặc cơ hay xương bị tác động đến. Độ sâu. Có nhiều cách phân loại độ sâu nhưng ở Việt Nam, thường chia độ sâu tổn thương làm 5 độ của GS. Lê Thế Trung- Viện Bỏng Quốc gia(Học viện Quân Y): Bỏng nông. Đây là loại bỏng nhẹ nhất, thương tổn chủ yếu trên bề mặt da, dễ khỏi và có thể không để lại seo hay vết thâm. Loại này gồm hai cấp độ: - Bỏng độ III (nông): Tổn thương thượng bì nhưng ống và gốc lông các tuyến mồ hôi còn nguyên vẹn. Tổn thư­ơng đặc tr­ưng bởi nốt phỏng: hình thành sớm hoặc muộn; vòm dày; đáy màu đỏ, hồng, còn cảm giác đau; dịch nốt phỏng có thể có màu hồng, đục. Tự khỏi bằng hiện tượng biểu mô hóa trong vòng 2 – 4 tuần hay từ khoảng 15 - 30 ngày. - Bỏng độ IIIb (sâu): Chỉ còn lại phần sâu của các tuyến mồ hôi. Tổn thương này có thể có nốt phỏng, vòm dày (tính chất của nốt phỏng độ III), đấy nốt phỏng tím sẫm, trắng bệch, xám, giảm cảm giác đau. Ngoài ra gây Hoại tử: Hay gặp hoại tử ­ướt, màu trắng, phân biệt với bỏng độ IV là: Còn cảm giác đau, da không bị nhăn rúm, không có hình mao mạch huyết tắc. Sau 12-14 ngày rụng hoại tử hình thành mô hạt xen kẽ với các vùng biểu mô - hình ảnh đảo biểu mô. Có thể tự liền bằng hiện tượng tế bào biểu mô phủ kính câc tổ chức hạt sau 30 – 45 ngày, để lại sẹo xấu. Nếu vết bỏng thiểu d­ưỡng, tỳ đè, nhiễm khuẩn…Chuyển hoàn toàn thành bỏng sâu. Bỏng độ III có khi được gọi là "bỏng trung gian" Là loại bỏng nằm giữa giới hạn bỏng nông và bỏng sâu. Bỏng lan tới một phần của lớp tế bào đáy (lớp nông, phần uốn lượn lên xuống). Bỏng loại này tiến triển tốt, nhưng cũng có thể nặng lên và thành bỏng sâu. Thường gặp khi bị bỏng nước sôi chỗ có quần áo. Bỏng sâu. Là mức độ bỏng nặng và rất nặng, tác nhân gây bỏng đã phá huỷ lớp tế bào đáy, để lại phần da bị dúm dó, đa số cần phải lại vá da. Hậu quả rất nặng nề từ sẹo đến phải cắt bỏ phần da, tử vong. Bỏng sâu gồm các cấp độ bỏng IV trở đi. Tính diện tích bỏng. Tính diện tích bỏng ở người lớn Tính diện tích bỏng ở trẻ em Sơ cứu. Sơ lược. Cách chữa bỏng phụ thuộc vào cấp độ bỏng. Các vết bỏng nhẹ hay ngoài da có thể tự chữa bằng một ít thuốc giảm đau, trong khi đối với bỏng cấp độ 3 hay 4 đòi hỏi bệnh nhân phải được sơ cứu trước khi chuyển đến các trung tâm chuyên về bỏng. Bỏng độ 1 và 2 có thể sử dụng khăn làm ướt phủ lên vết thương giúp làm dịu vết thương và giảm đau; tuy nhiên không nên đắp khăn quá lâu sẽ gây ra sự giảm thân nhiệt. Vết bỏng độ 2 hay 3 cũng cần được làm sạch bằng nước và xà phòng trước khi băng bó lại. Người ta vẫn chưa rõ tại sao lại xuất hiện vết bỏng rộp, nhưng tốt nhất không nên động đến chúng (như cạy phần da bị bong ra sau khi bị bỏng). Đối với những cấp độ bỏng nặng thì bệnh nhân cần được phẫu thuật, như cấy ghép da. Người có những vết bỏng nặng trên da diện rộng cần phải được truyền nhiều nước vào tĩnh mạch (intravenous therapy) do hệ quả của sự viêm nhiễm sẽ làm bệnh nhân mất nhiều chất lỏng thông qua các mao mạch và bị phù nề (edema). Đa số các trường hợp bị bỏng nặng cũng đều bị ảnh hưởng hay liên quan đến chứng nhiễm trùng. Bỏng nhiệt. Không nên chườm đá, điều này sẽ làm cho nạn nhân bị bỏng kép – bỏng lạnh và bỏng nóng (do nạn nhân đã mất nhiệt, nếu chườm thêm đá sẽ gây ra bỏng lạnh, mà chấn thương trực tiếp là các tinh thể đá làm đông cứng tế bào, gây hoại tử). Sơ cứu viên phải ngừng việc cháy bằng cách cách li nạn nhân khỏi nhiệt, và phải cẩn thận không gây thương tích cho chính mình. Kiểm tra các yếu tố có thể đe dọa tính mạng bằng cách thực hiện bước ABC (Khí quản, Thở, và Tuần hoàn). Giảm nhiệt của vết bỏng bằng cách ngâm nhiều nước đến khi vết bỏng giảm (trong trường hợp bỏng hóa chất, phải đổ phần nước đã ngâm có chứa hóa chất). Sau khi nạn nhân cảm thấy đỡ hơn, băng bó lỏng lẻo phần bỏng bằng băng gạc vô trùng, khô (tốt nhất là không dính vào vết bỏng). Tuyệt đối không sử dụng các loại bơ, kem đánh răng, dầu, nước tương, mắm, muối,…; chúng có thể ủ nhiệt và gia tăng khả năng nhiễm trùng. Chúng cũng sẽ bị loại bỏ, làm sạch ở bệnh viện và điều đó chỉ làm tăng thêm sự đau đớn cho nạn nhân. Ưu tiên điều trị sốc do bỏng gây ra. Bỏng sẽ làm tê liệt khả năng điều hòa nhiệt độ của cơ thể. Hãy đảm bảo rằng nạn nhân không quá nóng hay quá lạnh. Chiết xuất nha đam (lô hội), thuốc bôi Silvirin (bạc sulfazdiazine), thuốc giảm đau dứt điểm, NSAID, (như Alaxan, Aspirin) là một số thuốc hay được sử dụng. Thảm khảo ý kiến bác sĩ trước khi sử dụng. Bỏng hóa chất. Chườm đá hoặc nước đá, ngoại trừ đối với bỏng độ I. Chạm vào vết thương mà không sử dụng băng vô trùng. Cởi bớt quần áo đang mặc. Cố vệ sinh vết bỏng nghiêm trọng. Làm bể bóng nước. Sử dụng bất kì loại thuốc mỡ trên một vết bỏng nghiêm trọng. Nếu đó là một hóa chất khô, cách li với da bằng giấy, vải, hoặc găng tay. Cố gắng không làm rơi trên người sơ cứu viên hay làm rơi, dây thêm trên người nạn nhân. Khi phần lớn hóa chất đã được loại bỏ, xả với nước như đã nói trên. Gọi cấp cứu ngay lập tức. Nếu vết bỏng là do hóa chất ướt, xả nhiều nước trong vòng 15 phút và trong khi xả, lập tức gọi xe cứu thương. Bỏng điện. Bỏng điện nhìn sẽ giống như bỏng độ III, nhưng khu vực xung quanh sẽ không có bỏng độ I hay độ II. Chúng thường đi theo cặp: vết thương đầu vào (thường sẽ nhỏ), và đầu ra (lớn hơn). Gọi xe cứu thương ngay lập tức nếu nạn nhân bị sốc vì dòng điện có tác dụng sinh lý, gây nên các vấn đề tim mạch và hô hấp. Hãy sẵn sàng để thực hiện CPR (kĩ thuật hồi sức tim – phổi) và khử rung tim. Chăm sóc tương tự như bỏng nhiệt. Bỏng phóng xạ. Bỏng phóng xạ, dù cho thông thường được gây ra bởi nguồn hạt nhân, chúng cũng có thể bao gồm phóng xạ cực tím dưới hình thức cháy nắng mà có thể xem và điều trị như bỏng nhiệt. Bỏng phóng xạ do hạt nhân, tuy hiếm gặp, nhưng cũng có thể xem như bỏng nhiệt. Sơ cứu viên không thể chữa trị bỏng phóng xạ. Một cá nhân làm việc trong môi trường có nguy cơ cao về nhiễm phóng xạ thường được giáo dục về cách điều trị bỏng phóng xạ. Sơ cứu viên không nên đặt tính mạng bản thân vào nguy cơ nhiễm phóng xạ khi cố chữa trị cho nạn nhân bị bỏng phóng xạ. Đối với tất cả loại bỏng phóng xạ, ưu tiên gọi đội ngũ y tế chuyên nghiệp, có chuyên môn về lĩnh vực này. Bỏng phóng xạ cũng có thể ở dưới dạng mù tuyết (hoặc bỏng ánh sáng làm hỏng võng mạc). Băng mắt bằng băng gạc vô trùng, và triệu hồi xe cứu thương ngay lập tức. Làm bất cứ điều gì có thể để nạn nhân được thoải mái, kiểm tra các bước ABC, điều trị sốc, và giữ bình tĩnh cho nạn nhân. Bỏng nặng. Các trường hợp bỏng sau đây yêu cầu sự chăm sóc y tế càng sớm càng tốt. Chúng có thể đe dọa tính mạng, vô hiệu hóa, biến dạng phần bị bỏng. Gọi cho tổ chức y tế chuyên nghiệp ngay nếu: Cổ, tay, chân, đầu, bộ phận sinh dục bị bỏng Dịch tễ. Năm 2004, có 11 triệu ca bỏng cần được chăm sóc y tế trên toàn thế giới và kết quả là 300.000 ca tử vong. Nó là 1 trong 4 nguyên nhân chấn thương hàng đầu (sau va chạm giao thông, ngã, và bạo lực). Khoảng 90% các ca bỏng xảy ra ở các nước đang phát triển, chủ yếu do mật độ dân số quá đông và người dân thường xuyên nấu ăn một cách thiếu an toàn. Gần 60% vụ bỏng gây tử vong xảy ra ở khu vực Đông Nam Á với tỷ lệ 11,6 trên 100.000. Số vụ bỏng gây chết người đã tăng từ 280.000 năm 1990 lên 338.000 vào năm 2010. Ở các nước phát triển, nam giới có tỷ lệ tử vong do bỏng gấp đôi nữ giới. Thường, nguyên nhân chính của tỷ lệ này là vì nam giới thường đảm nhận những công việc nguy hiểm và có rủi ro lớn hơn. Ở nhiều nước đang phát triển, tuy nhiên, số phụ nữ bị bỏng lại gấp đôi nam giới. Điều này thường liên quan đến tai nạn trong nhà bếp hoặc bạo lực gia đình. Ở trẻ em, tử vong do bỏng xảy ra lớn hơn mười lần ở các nước đang phát triển hơn so với các nước phát triển. Bỏng là 1 trong 10 nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở trẻ em. Từ năm 1980 đến năm 2004, nhiều quốc gia đã giảm được một nửa tỷ lệ bỏng gây chết và bỏng thông thường. Các nước phát triển Ước tính có khoảng 500.000 người bị bỏng được điều trị y tế hàng năm ở Hoa Kỳ. Bỏng khiến khoảng 3.300 người chết vào năm 2008. Hầu hết các ca bỏng (70%) và tử vong do bỏng xảy ra ở nam giới. Tỷ lệ này lớn nhất ở những người 18-35 tuổi. Bỏng do sét lấy đi sinh mạng của 60 người mỗi năm. Tại châu Âu, bỏng do cố ý xảy ra phổ biến nhất ở nam giới tuổi trung niên. Nước đang phát triển Tại Ấn Độ, khoảng 700.000 đến 800.000 người bị bỏng mỗi năm, rất ít người được chăm sóc tại các đơn vị chuyên khoa bỏng. Tỉ lệ cao nhất xảy ra ở phụ nữ 16-35 tuổi. Một phần là do thói quen nấu ăn không an toàn, và một nguyên nhân nữa, phụ nữ Ấn Độ thường mặc những trang phục kín. Người ta ước tính rằng một phần ba các vụ bỏng ở Ấn Độ xảy ra do quần áo bắt lửa từ ngọn lửa. Bỏng do cố ý cũng là một nguyên nhân phổ biến và xảy ra ở tỷ lệ cao ở phụ nữ trẻ, học sinh trung học, bạo lực gia đình và tự sát. Lịch sử. Những tài liệu đầu tiên về bỏng và cách chữa trị đã được mô tả trên các bức vẽ trong các hang động từ 3.500 năm trước đây. Các hồ sơ của Ai Cập cổ đại sớm nhất vào điều trị bỏng mô tả băng chuẩn bị với sữa từ những người mẹ của hai đứa con trai, và 1500 TCN Edwin Smith Papyrus mô tả phương pháp điều trị bằng cách sử dụng mật ong và các salve nhựa. Nhiều phương pháp điều trị khác đã được sử dụng qua các thời đại, bao gồm cả việc sử dụng các lá trà của Trung Quốc ghi nhận đến 600 TCN, mỡ lợn và giấm bởi Hippocrates ghi đến 400 trước Công nguyên, và rượu vang và chất nhựa thơm của Celsus tài liệu đến 100 CE. Pháp barber-bác sĩ phẫu thuật Ambroise Paré là người đầu tiên để mô tả mức độ khác nhau của bỏng trong những năm 1500. Guillaume Dupuytren mở rộng các bằng cấp này thành sáu khắc nghiệt khác nhau trong năm 1832. Bệnh viện đầu tiên để điều trị bỏng mở vào năm 1843 tại London, Anh Quốc và sự phát triển của dịch vụ chăm sóc bỏng hiện đại bắt đầu vào cuối năm 1800 và đầu những năm 1900. Trong Thế chiến I, Henry D. Dakin và Alexis Carrel phát triển tiêu chuẩn cho làm sạch và khử trùng các vết bỏng và vết thương bằng cách sử dụng sodium hypochlorite giải pháp, trong đó giảm đáng kể tỷ lệ tử vong. Trong những năm 1940, tầm quan trọng của đầu cắt bỏ và da ghép đã được thừa nhận, và khoảng thời gian đó, hồi sức dịch và công thức để hướng dẫn nó là phát triển. Trong những năm 1970, các nhà nghiên cứu đã chứng minh tầm quan trọng của nước hypermetabolic rằng sau bỏng lớn.
1
null
Trong chất hoá học, hóa chất hoặc chất hóa học là một dạng của vật chất mà có hợp chất và đặc tính hóa học không đổi. Không thể tách nó ra thành những thành phần nhỏ hơn bằng các phương pháp tách vật lý mà không làm bẻ gãy các liên kết hóa học. Hóa chất có các trạng thái khí, lỏng, rắn và plasma. Các hóa chất thường được gọi là 'tinh khiết' để phân biệt với hỗn hợp chứa nhiều hóa chất khác nhau. Ví dụ hóa chất thường gặp là nước tinh khiết; nó cùng đặc tính và cùng tỉ số giữa hiđrô với oxy cho dù nó được lọc từ sông hay tạo ra trong phòng thí nghiệm. Các hóa chất quen biết khác ở dạng tinh khiết là kim cương (cacbon), vàng, muối ăn (natri chloride) và đường tinh luyện (sucroza). Tuy vậy, trong tự nhiên ít khi gặp các hóa chất tinh khiết mà chúng thường ở dạng hóa chất hỗn hợp. Ví dụ, nước từ các nhà máy lọc có chứa một lượng nhỏ natri chloride hòa tan và các hợp chất chứa sắt, calci và có thể là những hóa chất khác. Hóa chất tồn tại dưới dạng rắn, lỏng, khí, hoặc plasma và có thể thay đổi pha trạng thái dưới tác động của nhiệt độ hay áp suất. Các phản ứng hóa học một chất hóa học thành chất hóa học khác. Các dạng năng lượng, như ánh sáng và nhiệt không được coi là hóa chất.
1
null
Tensor hay tiếng Việt gọi là Ten-xơ là đối tượng hình học miêu tả quan hệ tuyến tính giữa các đại lượng vectơ, vô hướng, và các tenxơ với nhau. Những ví dụ cơ bản về liên hệ này bao gồm tích vô hướng, tích vectơ, và ánh xạ tuyến tính. Đại lượng vectơ và vô hướng theo định nghĩa cũng là tenxơ. Có nhiều cách biểu diễn tenxơ, như mảng giá trị số đa chiều. Bậc (hay "hạng") của một tenxơ bằng số chiều của mảng cần để biểu diễn nó, hay tương đương với số chỉ số cần để đánh dấu các thành phần của mảng. Ví dụ, một ánh xạ tuyến tính biểu diễn dưới dạng ma trận 2 chiều, mảng 2 chiều, do đó nó là tenxơ bậc (hạng) 2. Vector có thể coi là mảng 1 chiều và là tenxơ hạng 1. Đại lượng vô hướng là các giá trị số và là tenxơ hạng 0. Tenxơ thường được sử dụng để biểu diễn quan hệ tương ứng (ánh xạ) giữa các tập vectơ hình học. Ví dụ, tenxơ ứng suất Cauchy T lấy theo hướng v (khi đưa vào) và tạo ra ứng suất T("v") trên mặt vuông góc với vectơ này như là giá trị kết quả (đầu ra) do đó biểu diễn mối liên hệ giữa hai vectơ, như chỉ ra ở hình bên cạnh. Bởi vì chúng thể hiện mối quan hệ giữa các vectơ, tenxơ phải độc lập với bất kỳ sự lựa chọn hệ tọa độ nào. Khi chọn một cơ sở tọa độ hoặc hệ quy chiếu và áp dụng tenxơ vào nó sẽ cho kết quả là một mảng đa chiều được tổ chức đại diện cho tenxơ đó trong cơ sở hay hệ quy chiếu đó. Sự độc lập của tenxơ được phát biểu thành định luật biến đổi "hiệp biến" liên hệ giữa mảng được tính toán trong một hệ tọa độ với mảng đó được tính trong hệ tọa độ khác. Định luật bién đổi này cũng được sử dụng để xây dựng khái niệm tenxơ với ý nghĩa hình học hay vật lý, và dạng chính xác của định luật biến đổi xác định lên "loại" (hay "kiểu") của tenxơ. Tenxơ là khái niệm quan trọng trong vật lý học bởi vì nó cung cấp một khuôn khổ toán học ngắn gọn cho việc thiết lập và giải các vấn đề vật lý trong nhiều lĩnh vực như cơ học môi trường liên tục, lý thuyết đàn hồi và đặc biệt là thuyết tương đối rộng. Tenxơ lần đầu tiên được nghiên cứu bởi các nhà toán học Tullio Levi-Civita và Gregorio Ricci-Curbastro, những người tiếp tục các công trình sơ khởi của Bernhard Riemann và Elwin Bruno Christoffel cùng một số nhà toán học khác, trong một nhánh mà họ gọi là "phép tính vi phân tuyệt đối". Tenxơ cũng cho phép thiết lập lên cách phát biểu khác của hình học vi phân nội tại của một đa tạp trong dạng của tenxơ độ cong Riemann. Lịch sử. Các khái niệm liên quan đến giải tích ten-xơ xuất phát từ các nghiên cứu của Carl Friedrich Gauss trong hình học vi phân, và hình thức luận của nó bị ảnh hưởng nhiều bởi lý thuyết các dạng đại số và bất biến được phát triển trong giữa thế kỷ 19. Thuật ngữ "tensor" do nhà toán học William Rowan Hamilton đặt ra vào năm 1846 nhưng ông lại dùng nó để miêu tả khái niệm khác hẳn so với khái niệm tenxơ ngày nay. Woldemar Voigt là người đã sử dụng thuật ngữ cho tên gọi chính thức của nó vào năm 1898. Phép tính tenxơ đã được phát triển vào năm 1890 bởi Gregorio Ricci-Curbastro dưới tiêu đề "phép tính vi phân tuyệt đối" và được Ricci giới thiệu vào năm 1892. Lý thuyết này được công bố rộng rãi trong cộng toán học bằng cuốn sách do Ricci và Tullio Levi-Civita viết chung vào năm 1900 với tiêu đề "Méthodes de calcul différentiel absolu et leurs applications" (Phương pháp của phép tính vi phân tuyệt đối và ứng dụng). Trong thế kỷ 20, chủ đề này trở thành "giải tích tenxơ", và đạt được sự tiếp nhận rộng rãi hơn khi Albert Einstein đưa ra thuyết tương đối rộng vào năm 1915. Ông trình bày thuyết tương đối rộng hoàn toàn bằng ngôn ngữ tenxơ. Cùng với sự giúp đỡ của người bạn,nhà hình học Marcel Grossmann, Einstein đã phải rất nỗ lực để học được lý thuyết này. Sau đó, thư từ qua lại giữa Levi-Civita với Einstein đã giúp Einstein sửa các sai sót trong cách ông vận dụng giải tích tenxơ. Trong thư từ ở giai đoạn 1915–17, ông nêu ra sự khó khăn khi học lý thuyết này: Tenxơ cũng có ứng dụng hữu ích trong những lĩnh vực khác như cơ học môi trường liên tục. Một vài ví dụ quen thuộc của tenxơ trong hình học vi phân là các dạng bậc hai như tenxơ mêtric, và tenxơ độ cong Riemann. Đại số ngoài (exterior algebra) do Hermann Grassmann phát triển từ giữa thế kỷ 19 cũng là một lý thuyết tenxơ mang nhiều đặc tính hình học trong thời gian đầu, cho đến khi nó được nhận ra cùng với các dạng vi phân, được thống nhất về bản chất với phép tính tenxơ. Các nghiên cứu của Élie Cartan làm cho các dạng vi phân trở thành một trong những ứng dụng cơ bản của tenxơ trong toán học.
1
null
Phút góc hay phút cung (còn nói tắt là "phút"; thuật ngữ tiếng Anh: "minute of arc", "arcminute", "minute arc", viết tắt: MOA) là đơn vị đo góc; 1 phút góc tương đương độ. Giây góc hay giây cung (tiếng Anh: "second of arc" hay "arcsecond") là tiểu đơn vị của phút góc; 1 giây góc tương đương phút góc, tức độ. Vì 1° được định nghĩa là bằng của vòng tròn nên 1 phút góc bằng vòng, tức là radian; một giây góc bằng vòng, tức là radian. Đơn vị này được dùng trong các ngành cần thể hiện góc nhỏ, chẳng hạn thiên văn học, đo thị lực, nhãn khoa, quang học, hàng hải... Nếu cần đơn vị cho các góc nhỏ hơn nữa thì dùng thêm tiền tố SI, chẳng hạn milli giây góc ("milliarcsecond", viết tắt: mas). Ký hiệu và viết tắt. Ký hiệu chuẩn cho phút góc là dấu phẩy trên đơn (′), nhưng trong các văn bản chỉ dùng ký tự ASCII thì người ta dùng dấu nháy đơn ('). Phút góc cũng thường được viết tắt là "arcmin" hoặc "amin", đôi khi còn là formula_1 (dấu phẩy trên đi kèm dấu mũ). Ký hiệu chuẩn cho giây góc là dấu phẩy trên kép (′′), nhưng trong các văn bản chỉ dùng ký tự ASCII thì người ta dùng dấu nháy kép, hay còn gọi là dấu ngoặc kép ("). Giây góc cũng thường được viết tắt là "arcsec" hoặc "asec". Lưu ý rằng còn có dạng thập phân phút góc, ví dụ 36° 27′,182. Ứng dụng. Phút góc và các tiểu đơn vị của nó được dùng trong bản đồ học và hàng hải. Độ dài tương ứng 1 phút góc đo tại bất kỳ kinh tuyến nào cũng xấp xỉ bằng một hải lý (1,852 m). Một giây góc ứng với khoảng 30 m. Khoảng cách này thay đổi dọc theo kinh tuyến vì Trái Đất có dạng hơi dẹt. Vĩ độ và kinh độ trong tọa độ địa lý thường cũng ở dạng độ, phút, giây. Bất cứ vị trí nào trên elipxôit tham khảo của Trái Đất cũng có thể được định vị chính xác bằng phương pháp này. Tuy nhiên, vì bản chất không được gọn ghẽ của cơ số 60 trong phút góc và giây góc nên thường thì người ta chỉ thể hiện tọa độ dưới dạng phân số hoặc dưới dạng số thập phân của độ, tất nhiên là phải chấp nhận sai số nhất định. Thiên văn học cũng dùng phút góc và giây góc khi đo xích vĩ. Giây góc cũng được dùng để thể hiện thị sai do thị sai sao có giá trị rất nhỏ và đường kính góc cũng rất nhỏ (chẳng hạn đối với sao Kim thì đường kính góc chỉ là 9.7″–66.0″). Thị sai, chuyển động riêng và đường kính góc của một ngôi sao cũng được thể hiện dưới dạng milli giây góc. Tên đầy đủ của đơn vị parsec thực ra là "parallax second", nghĩa là "giây góc thị sai". Ngành công nghiệp sản xuất súng cầm tay cũng như các tài liệu về loại vũ khí này cũng hay dùng đơn vị giây góc, cụ thể là khi liên quan đến độ chính xác của súng trường. Giây góc đặc biệt phổ biến trong giới xạ thủ đã quen với hệ đo lường đế quốc (hệ đo lường Anh) vì 1 giây góc tương ứng xấp xỉ 1 inch ở khoảng cách 100 yard - khoảng cách mang tính truyền thống tại các trường bắn.
1
null
Anne-Sophie Mutter (sinh ngày 29 tháng 6 năm 1963) là một trong những nữ nghệ sĩ vĩ cầm người Đức. Được dẫn dắt bởi nhạc trưởng nổi tiếng Herbert von Karajan vào thời gian đầu trong sự nghiệp, bà đã đạt được nhiều tiếng tăm đến nỗi những nhà soạn nhạc hiện thời như Henri Dutilleux, Krzysztof Penderecki, Witold Lutosławski, Wolfgang Rihm, và Sofia Gubaidulina đã viết những bản nhạc đặc biệt dành riêng cho bà. Tiểu sử. Anne-Sophie Mutter lớn lên ở Wehr, bang Baden-Württemberg. Cha là chủ nhiệm tờ báo địa phương "Alb Bote" Karl-Wilhelm Mutter. Từ lúc 5 tuổi bà đã được học piano, và bắt đầu học violin không lâu sau đó. Chỉ nửa năm sau Mutter đã giành được giải thưởng trong một cuộc thi âm nhạc, từ đó bà đã có ý định trở thành nghệ sĩ. Bà được phép không phải đến trường, ngoài những giờ học đàn piano và violin, bà được dạy học tư. Mutter đã đoạt nhiều lần giải nhạc "Jugend musiziert". Bà nổi tiếng khi mới 13 tuổi đã được trình diễn lần đầu tiên bảng die 13-Jährige aufmerksam, als sie 1977 bei den Salzburger Pfingstkonzerten mit Violinkonzert Nr. 3 G-Dur KV 216 (1775) của Wolfgang Amadeus Mozart vào năm 1977 tại một buổi chơi nhạc tại Salzburg vào lễ Phục sinh dưới sự chỉ huy của Herbert von Karajan. Sau đó với những buổi trình diễn cùng ban nhạc Berliner Philharmoniker với Karajan trong thập niên 1980 đã làm bà nổi tiếng khắp thế giới. Anne-Sophie Mutter kết hôn với luật sư Detlef Wunderlich vào năm 1989 cho đến khi ông mất vào năm 1995. Từ năm 2002 cho tới năm 2006 bà kết hôn lần nữa với nhạc sĩ piano, nhà soạn nhạc và nhạc trưởng André Previn. bà sống ở München và có hai người con. Anne-Sophie Mutter có 2 cây đàn Stradivarius, "Emiliani" và "Lord Dunn-Raven". Hiện thời thì bà ưa thích cây đàn thứ hai, còn cây "Emiliani" thì thường được nghe qua các bản thâu với Karajan. Bbà mua được cây đàn "Emiliani" là nhờ sự trung gian của cựu bộ trưởng kinh tế tiểu bang Baden-Württemberg Rudolf Eberle, qua nhà băng L-Bank vào năm 1984. Nhà băng này hiện có 22 cây đàn xưa cũ, dành cho những nhạc sĩ tài giỏi.
1
null
Tô Liệt (chữ Hán: 苏烈, 592 – 667), tự Định Phương (chữ Hán: 定方), bởi ông quen dùng tên tự, nên người đời cũng gọi như vậy ; nguyên quán là Vũ Ấp, Ký Châu , sinh quán là Thủy Bình , là tướng lãnh nhà Đường, có công diệt 3 nước Tây Đột Quyết, Tư Kết, Bách Tế, bắt quân chủ của họ dâng lên hoàng đế. Trong chiến loạn cuối đời Tùy. Cha ông là Tô Ung, cuối đời Tùy tập hợp mấy ngàn người trong làng chống lại các cánh nghĩa quân xâm phạm bản quận . Định Phương kiêu dũng phi thường, can đảm tuyệt luân, theo cha chiến đấu từ năm 15 tuổi, nhiều lần xung phong phá trận. Ung mất, quận thú lệnh ông thay cha thống lãnh bộ hạ, tự tay chém chết thủ lĩnh nghĩa quân Trương Kim Xưng ở phía nam quận, đánh bại Dương Công Khanh ở phía tây, truy kích hơn 20 dặm, giết địch rất nhiều; người trong vùng cậy nhờ . Sau theo về với Đậu Kiến Đức, bộ tướng của Kiến Đức là Cao Nhã Hiền rất yêu mến, nhận làm con nuôi. Nhã Hiền đi theo Lưu Hắc Thát, Định Phương trận nào cũng lập công. Khi Hắc Thát, Nhã Hiền mất, ông về quê nhà . Tham gia quân đội đầu đời Đường. Đầu thời Trinh Quan (627 – 649), Định Phương làm Khuông Đạo phủ Chiết xung, theo Lý Tĩnh tập kích Hiệt Lợi khả hãn của Đột Quyết ở Thích Khẩu. Tĩnh sai ông soái 200 kỵ binh làm tiền phong, nhân sương mù mà đi, được khoảng 1 dặm, bất ngờ sương tan, nhìn thấy lều trại của địch, ập vào tấn công, giết vài chục tên. Hiệt Lợi cùng công chúa nhà Tùy đưa nhau bỏ trốn, những người còn lại đều quỳ rạp xuống đất, đại quân đến nơi thì tất cả người Đột Quyết đã đầu hàng. Ban sư, được thụ Tả vũ hậu trung lang tướng. Diệt Tây Đột Quyết. Giữa thời Vĩnh Huy (650 – 655), Định Phương chuyển làm Tả vệ huân nhất phủ trung lang tướng. Năm Hiển Khánh đầu tiên (655), hai nước Cao Câu Ly (đời vua Cao Câu Ly Bảo Tạng vương) và Bách Tế (đời vua Bách Tế Nghĩa Từ vương) hợp quân xâm lấn Tân La (đời vua Tân La Vũ Liệt vương). Vua Tân La Vũ Liệt vương sai sứ sang nhà Đường cầu viện. Tháng 2 năm 655, vua Đường Cao Tông sai Trình Danh Chấn và Tô Định Phương dẫn quân đi cứu Tân La. Quân Đường thắng lớn, bắt được 1000 người Cao Câu Ly đưa sang nhà Đường. Tháng 12 ÂL năm Hiển Khánh đầu tiên (655) , theo Tả vệ đại tướng quân Trình Tri Tiết chinh phạt Sa Bát La khả hãn (tự lập) A Sử Na Hạ Lỗ của hãn quốc Tây Đột Quyết, làm Tiền quân tổng quản. Đến Ưng Sa Xuyên , 2 vạn kỵ binh Đột Quyết đến cự, giao chiến với tổng quản Tô Hải Chánh, đôi bên lùi lại, rồi hơn 2 vạn kỵ binh của các bộ lạc Thử Ni Thi tiếp ứng. Ông đang dừng ngựa cách đó một ngọn núi, đi trước Tri Tiết khoảng 10 dặm, thấy bụi mù bốc cao, bèn soái 500 kỵ binh đi đánh, đập tan quân Đột Quyết, đuổi theo 20 dặm, giết hơn 1500 người, bắt 2000 thớt ngựa, xác người ngựa cùng binh khí giáp trượng phơi đầy núi non, không sao đếm xuể. Phó đại tổng quản Vương Văn Độ ghen ghét, đề nghị kết phương trận để tiến quân; lại tuyên bố có thánh chỉ cho phép mình kềm chế Tri Tiết, thu quân không cho ra đánh nữa. Quân Đường ở trong phương trận rất thiếu thốn, ngựa đói chết, người mệt mỏi, mất hết đấu chí. Định Phương cho rằng Tri Tiết làm tướng ở ngoài có thể tự quyết, đòi bắt Văn Độ, nhưng Tri Tiết không nghe. Đến thành Hằng Đốc (hay Đát Đốc) , người Đột Quyết ra hàng. Văn Độ cho rằng người Hồ hàng rồi lại phản, đề nghị giết sạch mà chiếm lấy tài sản của họ. Ông phản đối: "Như vậy là làm giặc, nào phải dẹp loạn?" Tri Tiết nghe theo Văn Độ, khi chia tài sản, chỉ có Định Phương không lấy gì. Đường Cao Tông biết chuyện, gọi quân đội trở về, Tri Tiết bị miễn quan làm dân, Văn Độ bị kết tội chết, sau được giảm còn đặc trừ danh . Năm sau (657), Định Phương đang là Hữu đồn vệ tướng quân , được thăng Hành quân đại tổng quản, lại chinh phạt Hạ Lỗ, lấy Yên Nhiên đô hộ Nhiệm Nhã Tướng, phó đô hộ Tiêu Tự Nghiệp, Tả kiêu vệ tướng quân, Hãn Hải đô đốc, Hồi Hột thủ lĩnh Dược La Cát Bà Nhuận làm phó. Quân Đường từ phía bắc Kim Sơn xuất phát, trước tiên đánh bộ lạc Xử Mộc Côn, đại phá được. Sĩ cân của họ là Lãn Độc Lộc đưa hơn 1 vạn người đến xin hàng, ông phủ dụ rồi lấy 1 ngàn kỵ binh của họ đi cùng, tiến đến bộ lạc Đột Kỵ Thi (Turgesh) ở bờ tây Duệ Hý Hà . Hạ Lỗ soái binh mã của Hồ Lộc Ốc Khuyết xuyết, Nhiếp Xá Đề Thôn xuyết, Thử Ni Thi Xử Bán xuyết, Xử Mộc Côn Khuất Luật xuyết, 5 Nỗ Thất Tất , lên đến 10 vạn người, tấn công quân Đường. Định Phương soái hơn ngàn kỵ binh, hơn bộ binh vạn người Hán, Hồi Hột chống trả, Hạ Lỗ khinh ông ít quân, 4 mặt vây đánh. Định Phương lệnh bộ binh giữ cao điểm trên đồng bằng, tất cả hướng ngọn sóc ra ngoài, tự lãnh kỵ binh Hán bày trận ở phía bắc. Quân Đột Quyết trước hết tiến đánh bộ binh Đường, 3 lần xông vào không được; Định Phương thừa thế tấn công, quân Đột Quyết tan vỡ, quân Đường đuổi theo 30 dặm, giết mấy vạn người ngựa, Hạ Lỗ cùng Xử Mộc Côn Khuyết xuyết đưa khinh kỵ chạy thoát. Hôm sau, ông chỉnh đốn quân đội, tiếp tục tiến lên. Vì thế, 5 Nỗ Thất Tất đến xin hàng, còn Hạ Lỗ chạy lên bắc. 5 Đốt Lục nghe tin, cùng nhau theo Nam đạo đầu hàng A Sử Na Bộ Chân. Định Phương lệnh phó tướng Tiêu Tự Nghiệp, Hồi Hột Bà Nhuận soái binh người Hán, Hồi Hột theo Da La Tư Xuyên đuổi lên bắc, tự mình và Nhiệm Nhã Tướng lãnh quân mới hàng theo sau. Gặp trời đổ tuyết lớn, bộ hạ xin tạm dừng, ông nói: "Giặc cậy tuyết, đang dừng lại nghỉ ngơi; nếu ta không nhân cơ hội này tiến lên, thì chúng sẽ chạy xa, khó lòng bắt được." Bèn xua quân đến Song Hà , cùng A Sử Na Di Xạ, Bộ Chân hợp binh; cách nha trướng của Hạ Lỗ ở Kim Nha Sơn trăm dặm, hạ lệnh bày trận tiến lên. Khi ấy Hạ Lỗ đang săn bắn, Định Phương thả quân tấn công, phá nha trướng của ông ta, bắt được mấy vạn người. Hạ Lỗ cùng con trai Hý Vận đưa hơn vạn kỵ binh trong đêm vượt sông Y Lệ bỏ chạy. Định Phương đuổi nà, bắt kịp họ ở sông Toái Diệp , Hạ Lỗ một lần nữa đại bại, cùng Hý Vận đưa hơn 10 kỵ binh nhắm hướng thành Tô Đốt thuộc Thạch Quốc mà chạy. Ông sai phó tướng Tiêu Tự Nghiệp và con Di Xạ là Nguyên Sảng đuổi bắt bọn họ, người thành Tô Đốt giao nộp cha con Hạ Lỗ . Sau đó Định Phương tu sửa thành quách, sắp xếp đường sá, xác định cương vực, thăm hỏi người bệnh, thu nhặt người chết, mở mang bờ cõi nhà Đường đến tận Tây Hải. Quân Đường ban sư, Cao Tông lâm hiên , ông mặc nhung phục dắt Hạ Lỗ hiến lên. Nhờ công được thăng Tả kiêu vệ đại tướng quân, phong Hình quốc công, lại phong con là Khánh Tiết làm Vũ Ấp huyện công. Đánh Cao Câu Ly. Năm 658 Trình Danh Chấn soái quân Đường cùng Tô Định Phương, Tiết Nhân Quý phá quân Cao Câu Ly ở sông Quý Đoan , đốt thành Tân (Shin), giết quân Cao Câu Ly rất nhiều. Tô Định Phương được bái làm Hữu đồn vệ tướng quân, Lâm Thanh huyện công. Dẹp Tư Kết bộ. Tháng 11 ÂL năm thứ 4 (659) , Tư Kết Khuyết sĩ cân Đô Mạn thuộc Thiết Lặc tộc cùng 3 nước Sơ Lặc, Chu Câu Ba, Yết Bàn Đà phản Đường, có chiếu lấy Định Phương làm An phủ đại sứ, soái binh đánh dẹp. Đến Diệp Diệp Thủy , phản quân giữ Mã Đầu Xuyên , vì thế tuyển 1 vạn tinh binh, 3000 thớt ngựa bất ngờ tập kích, ngày đêm đi được 300 dặm, sáng sớm cách phía tây thành 10 dặm. Đô Mạn cả sợ, soái binh giao chiến bên ngoài cửa thành, thua chạy về giữ thành Mã Bảo. Tiền quân Đường đến đóng trại trước cửa thành; trong đêm, các cánh quân đều đến, 4 mặt vây đánh, chặt cây làm công cụ, xếp bày dưới thành. Đô Mạn biết là không thoát, tự trói mình, mở cửa ra hàng. Tháng giêng năm thứ 5 ÂL (660) , ban sư về Lạc Dương, Cao Tông ngự ở điện Càn Dương, Định Phương dắt Đô Mạn dâng lên. Pháp tư định Đô Mạn tội chết, ông xin tha, đế cho. Từ Thông Lĩnh về phía tây được yên, nhờ công được gia thực ấp 500 hộ của Cự Lộc thuộc Hình Châu, thăng làm Tả vũ vệ đại tướng quân. Diệt Bách Tế. Tháng 3 , theo xa giá đến Thái Nguyên, được thụ Thần Khâu Đạo đại tổng quản, soái bọn Tả kiêu vệ tướng quân Lưu Bá Anh , đưa 10 vạn quân thủy lục thảo phạt Bách Tế. Tháng 8 , Định Phương từ Thành Sơn vượt biển, đến Hùng Tân giang khẩu, quân Bách Tế ngăn giữ ở đó. Ông lên bờ đông, dựa núi bày trận, cùng địch đại chiến; thủy quân Đường nối nhau kéo đến, quân Bách Tế thua chạy, chết đến vài ngàn, còn lại tan rã. Gặp lúc thủy triều lên, thủy quân Đường tiến vào cửa sông, Định Phương ở trên bờ bày trận, thủy lục cùng tiến, cờ giương trống mở, thẳng đến đô thành của Bách Tế. Cách thành 20 dặm, Bách Tế dốc quân cả nước đến cự, bị quân Đường đại phá, chết hơn vạn người. Định Phương đuổi theo vào được thành ngoài (quách), Nghĩa Từ vương của Bách Tế cùng thái tử Long chạy lên phía bắc. Ông tiến quân vây thành, vương thứ tử Thái tự lập làm vương, con của Long là Văn Tư đưa bộ hạ trèo thành ra hàng, dân chúng đi theo, Thái không ngăn được. Định Phương mệnh cho binh sĩ lên thành cắm cờ, vì thế Thái mở cửa ra hàng, Nghĩa Từ vương cùng thái tử Long và các thành chủ đều nạp khoản xin hàng. Bình xong Bách Tế, bắt cha con Nghĩa Từ vương, Long, Thái dâng ở Lạc Dương. Những năm cuối đời. Định Phương trước sau diệt 3 nước, đều bắt sống quốc chủ, được thưởng trân bảo không đếm xuể, còn con trai Khánh Tiết được bái làm Thượng liễn phụng ngự, bản thân được thăng làm Tả vũ vệ đại tướng quân. Không lâu sau, ông làm Liêu Đông Đạo hành quân đại tổng quản, ít lâu dời sang Bình Nhưỡng Đạo. Định Phương phá quân Cao Câu Ly ở Phối Giang , đoạt Mã Ấp Sơn (phía đông Bình Nhưỡng) làm doanh, rồi vây Bình Nhưỡng năm 661. Gặp trời đổ tuyết lớn, giải vây mà về. Sau đó được bái làm Lương Châu an tập đại sứ, để trấn định Thổ Phiên, Thổ Cốc Hồn. Năm Càn Phong thứ 2 (667) ông mất khi đang ở chức, hưởng thọ 76 tuổi. Đường Cao Tông nghe tin thì thương xót, trách thị thần rằng: "Tô Định Phương có công với nước, đáng được khen tặng, các khanh không nói gì, sao vậy?" bèn tặng Tả kiêu vệ tướng quân, U Châu đô đốc, thụy là Trang. Năm Thần Long đầu tiên (705) thời Trung Tông, ông được liệt vào 25 công thần đời trước. Thời Đại Tông, ông được xét là đệ nhị đẳng công thần. Di chỉ liên quan. Hiện nay tầng trệt của tòa tháp đá 5 tầng ở chùa Định Lâm thuộc quận Phù Dư (Buyeo), đạo Trung Thanh Nam (Chungcheongnam-do), Hàn Quốc vẫn còn bia "Đại Đường bình Bách Tế tháp bi minh" ghi lại chiến công của Tô Định Phương. Hình tượng trong văn hóa dân gian. Trong các tác phẩm tiểu thuyết và hí kịch dã sử thời Minh-Thanh lấy bối cảnh Tùy-Đường, Tô Định Phương gắn liền với La Thành, một nhân vật hư cấu (xuất hiện lần đầu trong tiểu thuyết đời Minh Đại Đường Tần vương từ thoại với tên chữ là Sĩ Tín) dựa trên người con trai không được ghi lại tên trong sách sử của La Nghệ. Trong Thuyết Đường và Tùy Đường diễn nghĩa, Tô Định Phương là người đã hại chết La Thành. Các tác phẩm dã sử cũng nhắc đến chi tiết này khi đề cập đến các nhân vật hư cấu khác như La Thông (羅通), La Chương (羅章), La Xán (羅燦), La Hỗn (羅焜), các hậu duệ của La Thành.
1
null
Trong cơ học môi trường liên tục, tenxơ ứng suất Cauchy formula_1, tenxơ ứng suất thực, hay gọi đơn giản là tenxơ ứng suất, đặt tên theo nhà toán học Augustin-Louis Cauchy, là tenxơ hạng hai loại (1,1) (tức là ánh xạ tuyến tính), với chín thành phần formula_2 cho phép định nghĩa đầy đủ trạng thái ứng suất tại một điểm bên trong vật liệu khi bị biến dạng hay ngoại lực tác dụng. Ten xơ này liên hệ một vectơ đơn vị n với vec-tơ ứng suất T(n) đi qua một mặt tưởng tượng vuông góc với n: ở đây, Ten-xơ Cauchy tuân theo phép biến đổi ten-xơ dưới sự thay đổi hệ tọa độ. Một minh họa cho phép biến đổi này đó là vòng tròn Mohr cho ứng suất. Ten-xơ ứng suất Cauchy được sử dụng để phân tích ứng suất của vật liệu khi chúng chịu biến dạng nhỏ: Nó là khái niệm trung tâm trong lý thuyết đàn hồi tuyến tính. Đối với những biến dạng lớn, còn gọi là biến dạng hữu hạng, cần phải dùng những ten xơ khác, như ten-xơ ứng suất Piola–Kirchhoff, ten-xơ ứng suất Biot, và ten-xơ ứng suất Kirchhoff. Theo định luật bảo toàn động lượng, nếu một vật rắn trong trạng thái cân bằng tĩnh thì có thể chứng minh rằng các thành phần của ten-xo ứng suất Cauchy tại mỗi điểm trong vật liệu thỏa mãn phương trình cân bằng (phương trình chuyển động Cauchy khi không xuất hiện gia tốc). Trong cùng thời điểm, theo định luật bảo toàn mômen động lượng, điều kiện cân bằng đòi hỏi rằng tổng các mômen so với một điểm bất kỳ phải bằng không, và do vậy có thể kết luận rằng ten-xơ ứng suất là ten-xơ đối xứng, cho nên nó chỉ có sáu thành phần độc lập, thay vì cả chín thành phần. Có những dạng bất biến đi kèm với ten-xơ ứng suất, có nghĩa là giá trị của chúng không phụ thuộc vào việc lựa chọn hệ tọa độ, hoặc vào nguyên tố diện tích mà ten-xơ tác động tại đó. Chúng là ba trị riêng của tenxơ ứng suất, hay gọi là ứng suất chính.
1
null
Schwanthalerhöhe (dân địa phương thường gọi là "Westend") là một khu phố ở München và lập thành quận 8. Với diện tích 209,4 mẫu tây và với dân số là 26.877 là một trong những khu vực đông dân nhất tại München (Số dân mà có cha mẹ ít nhất một người là ngoại quốc là 35,3 %). Westend được hình thành là khu cư trú của công nhân trong khuôn khổ kỹ nghệ tập trung tại miền Tây München, cho nên số dân cư lao động cho tới bây giờ vẫn đông hơn là mức trung bình. Vị trí. Schwanthalerhöhe, Münchner Westend, nằm ở phía tây của trung tâm thành phố có ranh giới với đường xe lửa tuyến Hauptbahnhof–Pasing và Münchner Südring. Phần gần phố và nằm về phía Đông của quận khu vực Theresienhöhe là chỗ chuyển tiếp với khu nhà ga chính, nằm về phía Nam của Theresienwiese là khu hội chợ cũ của thành phố. Lịch sử. Khu phố này lấy tên của nhà điêu khắc Ludwig Schwanthaler, người đã tạo nên tượng Bavaria ở khu hội chợ Oktoberfest; trước đó được gọi là Sendlinger Höhe. Khu vực này được hình thành vào khoảng 1840 cùng lúc với thời đại kỹ nghệ hóa, làm chỗ cư trú cho dân lao động. Cho tới bây giờ phân nửa của số nhà cửa ở Schwanthalerhöhe từ thời trước 1919. Những khu nhà này trong thập niên 1970 đã được tu bổ tổng quát lại để có thể đạt được tiêu chuẩn cư ngụ hiện thời. Trên khu đất cũ của hãng chế tạo cao su Metzeler vào thập niên 1980 được hình thành Gewerbehof Westend và trung tâm kỹ thuật (Münchner Technologiezentrum). Hiện thời 2/3 công ăn việc làm ở khu phố này là trong lãnh vực dịch vụ, thương mãi, và hành chính công cộng.
1
null
Lan Anh là một trong những ca sĩ Opera, thính phòng, giảng viên thanh nhạc hàng đầu của Việt Nam. Thành công ở nhiều thể loại khác nhau: thính phòng, Opera, nhạc kịch Broadway, nhạc cách mạng truyền thống, nhạc trữ tình, Dân Gian, Bolero, nhạc nhẹ. Tiểu sử. Lan Anh, sinh năm 1976 tại thành phố Nam Định, trong một gia đình có mẹ là hạt nhân trong đội văn nghệ của nhà máy tơ Nam Định. Từ nhỏ Lan Anh đã rất yêu thích ca hát, Năm 4 tuổi Lan Anh đã đại là giọng đơn ca chính của ở đội thiếu nhi thành phố Nam Định, Lan Anh đã giải nhất giọng hát vàng anh. Với giọng hát trong sáng thánh thót, thầy cô và các bạn yêu mến đặt cho biệt danh là "Chim sơn ca". Sự nghiệp. Năm 1994, Lan Anh đỗ thủ khoa Thanh Nhạc tại Nhạc viện Hà Nội (nay là Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam, dưới sự hướng dẫn của NSND Kim Phúc, NSND Diệu Thúy. Năm 1997 cô đoạt giải Nhì cuộc thi Giọng hát hay Hà Nội. Năm 1998, cô chuyển tiếp học hệ Đại học Thanh Nhạc và dưới sự hướng dẫn của NSND Trung Kiên. Năm 1999 Lan Anh dành giải người thể hiên ca khúc nhạc cách mạng hay nhất- Liên hoan tiếng hát truyền hình toàn quốc. Và tới năm 2000, cô ca sĩ tài năng gốc Nam Định đã đoạt giải Nhất cuộc thi Hát thính phòng và nhạc kịch chuyên nghiệp toàn Quốc do Bộ Văn Hoá-Thông Tin tổ chức, để đạt được giải nhất trong cuộc thi này, Lan Anh đã trình diễn 6 tác phẩm: Bóng cây Kơ-nia (nhạc Phan Huỳnh Điểu, lời Ngọc Anh); Người lái đò trên sông Pô cô (Cầm Phong); aria Aleluja (Mozart); aria Ginda (Verdi), romance Vocalise (Rachmaninov) và romance Elincarnatusest (Mozart). Lan Anh tốt nghiệp hệ Đại học chính quy khoa Thanh nhạc Nhạc viện Hà Nội, được chuyển tiếp sinh cao học do thành tích học tập xuất sắc và được giữ lại trường làm giảng viên, đến nay hơn 65 năm Học Viện Âm Nhac Quốc Gia Việt Nam, Lan Anh là học viên duy nhất được chuyển tiếp sinh lên Cao Học. Tháng 10 năm 2002, trong chương trình hoà nhạc nhân dịp 175 năm kỉ niệm ngày mất của Beethoven do ĐH Gacusen, Nhật Bản tổ chức, Lan Anh đã vượt qua rất nhiều vòng thi tuyển chuyên môn khắt khe để trở thành một trong 4 solist và là solist trẻ nhất thể hiện Bản giao hưởng số 9 của Beethoven. Năm 2006 cô tốt nghiệp hệ Cao học Thanh nhạc tại Nhạc viện Hà Nội với phần trình diễn 16 tác phẩm âm nhac trong nước và quốc tế. Song song với sự nghiệp ca hát, Lan Anh còn là một trong những Giảng Viên Thanh Nhạc hàng đầu Việt Nam hiện nay, dưới sự hướng dẫn của cô có rất nhiều học trò đạt giải cao trong các cuộc thi va hát chuyên nghiệp và thành công vượt trội trên con đường ca hát, tiêu biểu như (ca sĩ Tân Nhàn giải Nhất Sao Mai, Võ Hồng Quân nhất Sao Mai, Thu Hà giải Nhì Sao Mai( Trưởng Khoa Nghệ Thuật ĐHSP), Lương Hải Yến giải Nhất Sao Mai, Huyền Trang giải đặc biệt cuộc thi opera The 25th Kyushu Music Concours tại Nhật Bản, Trần Tùng Anh, Mai Thương giải ba Sao Mai, Hallen Thủy nhất solo cùng bolero, Khánh Linh giải nhất tuyệt đỉnh song ca, Ngọc Duyên Sara, Nguyễn Đỗ Khánh An Bolero, Vân Anh giải nhất tiếng hát Hà Nội, Minh Thư giải nhất Giọng Hát K-pop.. và rất nhiều học trò thành danh, là giảng viên tại các trường âm nhạc trên cả nước. Năm 2019 Lan Anh và cùng các Giảng viện tại Học Viện Âm Nhạc Quốc Gia Việt Nam đã thành lập Học Viện Nghệ Thuật Biểu Lallodola chuyên đào tạo Thanh Nhạc chuyên sâu cho các bạn đam mệ ca hát, cũng như các bạn theo ca hát chuyên ngiệp và là địa chỉ ôn thi uy tín và chuyên môn cai nhất hiện nay tại Việt Nam cho các bạn ôn thi thanh nhạc vào các trường âm nhạc trong nước và quốc tế. Giọng hát. Cô là một trong số không nhiều những ca sĩ Việt Nam sở hữu chất giọng coloratura soprano (nữ cao trữ tình màu sắc) rất tinh tế và sang trọng, Lan Anh hát khiến người nghe chạm đến vẻ đẹp tinh túy trong âm nhạc, cảm nhận những thanh âm đó như đến từ thiên đường, với việc biến kĩ thuật thanh nhạc phương tây đã đạt tới đỉnh cao của mình và Việt hoá chúng một cách điêu luyện khi áp dụng vào ca khúc Việt Nam, cùng với tư duy âm nhạc nhạy bén đã giúp Lan Anh trở thành ca sĩ số 1 trong trong dòng nhạc thính phòng Việt Nam. Lan Anh được NSND Trung Kiên đánh giá: "Lan Anh là một trong số những sinh viên tốt nghiệp xuất sắc Nhạc viện Hà Nội, hiện đang theo lớp cao học năm thứ nhất. Theo tôi, Lan Anh là một học sinh thông minh, có nhạc cảm về thanh nhạc. Em cũng là một trong những học sinh mà tôi rất yêu mến..". Theo lời kể của quản gia nhà GS. NSND Trung Kiên trong một buổi dạy khi Lan Anh hát thầy đã chạy lên trên nhà và thốt lên rằng “Lan Anh giờ nó hát hay nhất Việt Nam”. Đó cũng là lần hiếm hoi ông bộc lộ cảm xúc xen lẫn niềm từ hào về người học trò mà ông đã dày công vun đắp. Các sản phẩm âm nhạc. Các Album. 1. Bài Ca Hy Vọng (2004) 2. Hãy Yêu Nhau Đi (2009) 3. Khát Vọng (2010) 3. Tình Ca Xanh (2011) 4. Quê Hương Tuổi Thơ (2013) 5. Tình Ca Cho Anh (2013) 6. Tình Ca Xanh vol2 (2017) 7. Chuyện Tình... Bolero (2018) 8. Tình Khúc Xưa (2019) 9. Con Đường Xưa Em Đi (2021) 10. Thương Hoài Ngàn Năm (2022) Các Concert Liveconcert Ánh Trăng Tình yêu - Lan Anh (năm 2018) diễn ra vào ngày 03-04/11/2018 được đánh giá là đêm đẳng cấp của một nghệ sĩ Việt Nam với sự kết hợp hài hoà giữa nhiều thể loại âm nhạc của các thời kì âm nhạc Việt Nam như Tân nhạc, nhạc cách mạng tiền chiến, Bolero với các thể loại âm nhạc thế giới như những bản aria cổ điển, các trích đoạn nhạc kịch; giữa các thế hệ nghệ sĩ xuyên suốt nối tiếp. Chương trình với tựu ý chung một chữ "Hoà" mà Lan Anh dành cho âm nhạc, hoà hợp tất cả các dòng nhạc, hoà hợp các thế hệ nghệ sĩ, hoà hợp âm nhạc hai miền, sự hoà hợp dân tộc... cùng với Dàn nhạc gần 100 nhạc công đến từ 27 nước trên thế giới. Lan Anh là ca sĩ khách mời biểu diễn thường xuyên những chương trình nghệ thuật trọng đại của đất nước, các buổi tiếp đón các nguyên thủ trên thế giới thăm Việt Nam, và cùng đoàn lãnh đạo cấp cào Việt Nam thăm các nước, nhiều show riêng của các nhạc sĩ, nghệ sĩ như NSND Quang Thọ, NSUT Tấn Minh, NSUT Đăng Dương, Trọng Tấn, Việt Hoàn, Lê Anh Dũng, Vũ Thắng Lợi... Tham khảo. Lan Anh làm Liveconcert xứng tầm Nữ Hoàng Opera Việt Nam https://www.youtube.com/watch?v=qAVPW68HVV4 https://dantri.com.vn/giai-tri/lan-anh-duong-cam-lam-xanh-nhac-do-1313034069.htm
1
null
John Lennon/Plastic Ono Band là album solo đầu tay của ca sĩ - nhạc sĩ John Lennon. Album được phát hành vào cuối năm 1970 sau những album experimental mà Lennon thực hiện cùng vợ là Yoko Ono, cùng với đó là album "Live Peace in Toronto 1969" thu lại buổi diễn tại Toronto của nhóm Plastic Ono Band. Đây cũng là sản phẩm đồng thời với một album solo đầu tay của Ono mang tên "Yoko Ono/Plastic Ono Band", cùng được thực hiện tại Abbey Road & Ascot Sound Studios với cùng ê-kíp sản xuất và nghệ sĩ, thậm chí có phần bìa đĩa gần như tương tự. "John Lennon/Plastic Ono Band" được đánh giá là một trong những album mượt mà nhất của Lennon, tổng hợp lại một cách chân thực và nghệ thuật toàn bộ những cảm xúc và suy tư của anh vào thời điểm đó. Năm 1987, nhân dịp kỷ niệm 20 năm thành lập, tạp chí "Rolling Stone" đã xếp "John Lennon/Plastic Ono Band" ở vị trí số 4 trong danh sách "100 album xuất sắc nhất 20 năm gần nhất". Năm 2012, tạp chí trên đã xếp album ở vị trí số 23 trong danh sách "500 album vĩ đại nhất". Danh sách ca khúc. Tất cả các ca khúc đều được viết và biên soạn bởi John Lennon, các sáng tác khác được ghi chú bên.
1
null
Salamanca là một thành phố của Chile và xã trong tỉnh Choapa, Coquimbo khu vực. Nó nằm 30 km (19 dặm) về phía đông của Illapel, trung tâm hành chính của tỉnh, và 316 km (196 dặm) về phía bắc của Santiago, Chile. Nó thường được truy cập từ Los Vilos, nằm cạnh Quốc lộ Panamerican, và kết nối thành phố với phần còn lại của đất nước.
1
null
Bánh là loại món ăn làm bằng bột mì hay bột gạo có hương vị ngọt, mặn, béo...có thể hấp, nướng, chiên... Bánh có nhiều cách chế biến khác nhau như: rán, chiên, nướng, hấp hoặc đôi khi là ăn sống. Thành phần và nguyên liệu của bánh rất đa dạng. Ngoài thành phần chính, bánh còn một số thành phần phụ như nước dùng, rau, đồ khô, kẹo, hoặc trái cây tươi, các loại hạt, kem. Một số loại bánh còn được trang trí rất công phu, tỉ mỉ. Nguồn gốc của bánh. Nguồn gốc bánh Châu Âu. "Bài chi tiết: Bánh ngọt" Bánh ở Châu Âu có một lịch sử rất dài. Theo nhiều bằng chứng khoa học chứng minh thì người Ai Cập cổ chính là Ông tổ của ngành bánh vì kỹ năng nướng bánh của họ có từ rất sớm. Bánh lúc đầu được nhào nặn nên từ bột, sau đó được làm ẩm bằng phương pháp tự nhiên, nén lại và nướng trên đá nóng - lúc này, bánh cũng có thể gọi nôm na là bánh mì chưa lên men. Đến giữa thế kỷ XVII thì tiền thân của những chiếc bánh ngày nay mới chính thức xuất hiện ở Châu Âu. Trước đây, để làm bánh không có khuôn như bây giờ. Bột được dàn đều lên mặt phẳng và cho vào lò nướng là phương pháp thông dụng nhất. Khuôn bánh ban đầu được làm bằng giấy hoặc gỗ... Mãi sau này thì khuôn bánh kim loại với đủ hình dạng như hiện nay mới bắt đầu xuất hiện. Bánh thời gian đầu hao hao với bánh mì, bánh không xốp. Nhưng đến giữa thế kỷ XIX, sự phát minh của bột nổi đã làm thay đổi bánh ngọt. Bánh ngọt xốp hơn, làm cũng dễ dàng hơn. Hơn nữa, bánh còn có thêm nhiều lớp và được trang trí như ngày nay, mà đỉnh cao chính là những chiếc bánh sinh nhật mà chúng ta thường thấy. Nguồn gốc bánh ở Châu Á. "Bài chi tiết: Âm thực Châu Á" Bánh ở Châu Á cũng có từ rất lâu.
1
null
Lũng đoạn thị trường là hoạt động có chủ đích nhằm tác động đến sự vận hành tự do và công bằng của thị trường, tạo ra các hiệu ứng giả tạo liên quan đến giá cả của thị trường chứng khoán, hàng hóa hoặc tiền tệ. Theo khoản 9(a)(2) bộ luật giao dịch chứng khoán năm 1934 của Mỹ và theo khoản 1041A luật doanh nghiệp năm 2001 của Úc, hoạt động lũng đoạn thị trường bị nghiêm cấm. Tuy nhiên, những luật này chỉ coi lũng đoạn thị trường là những giao dịch nhằm tạo dựng hoặc duy trì giá cả nhân tạo trên thị trường chứng khoán. Trên thị trường điện năng và khí đốt, hoạt động lũng đoạn thị trường cũng bị nghiêm cấm theo khoản 222 luật năng lượng liên bang và khoản 4A luật kinh doanh khí đốt năm 1938.
1
null
Nội các Merkel III là chính phủ liên bang của Đức sau kỳ bầu cử quốc hội liên bang lần thứ 18, được lãnh đạo bởi thủ tướng Merkel, bắt đầu từ ngày 17 tháng 12 năm 2013, ngày mà các thành viên nội các tuyên thệ. Nội các này được thành lập từ 2 đảng được nhiều phiếu nhất CDU/CSU và SPD là nội các thứ 23 của Cộng hòa Liên bang Đức. Hợp đồng Liên đảng kỳ này có tựa đề là "Định hướng tương lai nước Đức".
1
null
Trong vật lý và hóa học, hằng số Faraday là tích giữa điện tích cơ bản e với hằng số Avogadro. Là điện lượng đi qua dung dịch điện phân làm thoát ra ở điện cực 1 mol chất đơn hoá trị. Hằng số "F" được biểu diễn: với: "N"A là hằng số Avogadro, và "e" là điện tích nguyên tố.
1
null
Citrus bergamia, Cam Bergamot (phát âm tiếng Anh chuẩn: hay GenAm ), là loại trái cây thơm có kích thước của một trái cam, với một màu vàng tương tự như một trái chanh. Nghiên cứu di truyền về nguồn gốc tổ tiên của các giống cam quýt còn tồn tại phát hiện cam bergamot có thể là một loài lai của Citrus limetta và Citrus aurantium. Cam bergamot được phát triển thương mại ở miền Nam Calabria (tỉnh Reggio), miền nam Ý, nơi có hơn 80% được sản xuất. Nó cũng được trồng ở miền nam nước Pháp và Bờ Biển Ngà cho tinh dầu và Antalya ở miền nam Thổ Nhĩ Kỳ cho mứt của nó. Quả không phát triển để tiêu thụ như một loại ăn quả, vì chúng có vị đắng và chua. Thay vào đó, hàm lượng tinh dầu có trong vỏ quả làm nên giá trị của cam Bergamot. Từ bergamot từ được từ nguyên nguồn gốc từ "bergomotta" trong tiếng Ý, có nguồn gốc từ Bergamo, một thị trấn ở Italy; trước đó (1610) tài liệu tham khảo tồn tại chỉ ra nguồn gốc từ beg-armudi Thổ Nhĩ Kỳ "hoàng tử của lê". Citrus bergamia cũng đã được phân loại là Citrus aurantium subsp. bergamia (tức là một phân loài của cam đắng).
1
null
Kênh đào Mittlere-Isar () là một con kênh được đào song song theo phần giữa của sông Isar; ở phía Bắc của thành phố München nó tách ra về phía tay phải của sông Isar và nhập lại vào sông này 64 Kilometer sau đó gần Landshut. Kênh đào này hình thành với các nhà máy thủy điện một bức thang thủy điện, với một độ dốc tổng cộng là 109 m để sản xuất điện. Tiến trình. Tại đập nước Oberföhring gần cuối thành phố München về phía bắc kênh đào này tách ra khỏi sông Isar, chạy thêm vào cây số song song với nhau, rồi từ phía Bắc của Unterföhring nó rẽ sang hướng Đông. Sau một vài cây số, một phần nước kênh đào chảy vào Ismaninger Speichersee, Isarkanal tiếp tục chảy song song theo Speichersee. Tại Neufinsing hai bên lại nhập vào qua một nhà máy thủy điện rồi chảy về hướng Bắc, ngang qua Erding về hướng tây. Vào quãng phi trường München Franz Josef Strauß nó chảy theo hướng Đông Bắc và tại Moosburg chạy lại song song với sông Isar, sau vài cây số thì nhập vào ở phía Tây Nam thành phố Landshut. Ở phần cuối này cũng có 2 hồ chứa nước khác, Moosburger và Echinger Speichersee. Đập nước và 54 km của kênh đào cùng với 5 nhà máy thủy điện thuộc E.ON Wasserkraft GmbH, những cây số còn lại cùng 2 nhà máy Uppenbornwerke thuộc Stadtwerke München. Nhiệm vụ. Kênh đào này không được dùng cho tàu thuyền, chỉ để tạo ra điện. Tổng cộng 7 nhà máy thủy điện được dùng để sản xuất điện. Ismaninger Speichersee được dùng để dung hòa sự thay đổi về lượng nước cung cấp từ sông Isar, cũng như là hồ chứa nước cho các nhà máy thủy điện còn lại. Moosburger và Echinger Speichersee thì ngược lại được dùng để bảo đảm là nước từ các thủy điện ở phía trên không chảy quá nhiều xuống, để giữ cho mực nước chảy ở sông Isar được quân bình. Mô tả. Kênh đào nằm một phần ở đồng bằng, có phần nằm giữa các đê, có khúc đê cao tới hơn 15 m trên mặt đất.
1
null
Phèn hay alum là một hợp chất hóa học, cụ thể là kali sulfat nhôm ngậm nước (kali alum hay còn gọi là phèn chua) với công thức hóa học là KAl()2·12. Mở rộng khái niệm, phèn là muối sulfat kép, có công thức tổng quát với A là một cation hóa trị I, chẳng hạn như kali hay amoni (NH4+), và M là một kim loại hóa trị III, như nhôm hay crom (III).
1
null
được mọi người biết đến với cái tên , là một nam diễn viên người Nhật Bản, sinh ngày 14 tháng 9 năm 1982. Tiểu sử. Narimiya Hiroki sống và lớn lên tại Shinjuku, Tokyo, Nhật Bản, nhưng bố mẹ anh ấy lại là người gốc Okinawa. Bố mẹ anh ly dị từ khi anh còn nhỏ và vào năm thứ 3 trung học phổ thông, mẹ anh mất. Từ đó Hiroki và anh của anh được bà ngoại nuôi dưỡng. Anh đã có một lời hứa với mẹ mình là sẽ trở thành một diễn viên nổi tiếng. Vì thế anh đã sớm bỏ học để theo đuổi sự nghiệp diễn xuất. Sự nghiệp. Anh chính thức debut vào năm 2000 trong vở kịch "Horobikaketa Jinrui, Sono Ai no Honshitsu to wa" với vai Kane, anh đã được chọn trong số 3000 diễn viên để đóng vai này. Vào tháng 2 năm 2001, anh đã thực hiện movie đầu tiên là "Oboreru Sanaka". Năm 2002 anh tham gia bộ phim truyền hình nổi tiếng "Gokusen" với vai Noda. Từ đó, tên tuổi của anh được biết đến rộng rãi. Cùng năm đó anh đã diễn vai chính trong phim "Okan wa Uchu wo Shihaisuru". Đến năm 2003, Hiroki xuất hiện trong phim "Azumi",bộ phim này đã trở thành một hit lớn và anh đã có thể phô diễn những đường kiếm mà anh luyện tập hàng ngày. Vào năm 2005, anh đã được đóng vai chính trong phim truyền hình "Ima, Ai ni Yukimasu" và xuất hiện trong bốn bộ phim khác, trong đó có phim "Nana", phần tiếp theo của phim được chiếu vào tháng 12 năm 2006. Vào năm 2008, anh đã đóng vai một người đồng tính trong phim "Innocent Love" và một tên khủng bố nguy hiểm trong "Bloody Monday".Vào năm 2009, anh tái hợp với Oguri Shun trong phim truyền hình "Juui Dolittle",trước phim này, anh đã đóng cùng với Oguri Shun trong 3 bộ phim là "Azumi","Gokusen" và "Stand UP!!" Ngoài việc là một diễn viên đa tài, anh còn là người luôn đi đầu về thời trang. Anh tự thiết kế và chọn lựa quần áo cho mình cũng như đã hợp tác với nhiều dự án khác. Vào mùa thu 2003, anh xuất hiện tại Tokyo Collection với tư cách là một người mẫu. Kiểu tóc của anh, được gọi với tên "Narimiya Cut" đã trở thành làn sóng thời trang cho các thiếu niên trẻ Nhật Bản. Liên kết ngoài. Tham khảo:
1
null
Cyclura nubila caymanensis là một phân loài cực kỳ nguy cấp của loài kỳ nhông Cuba (Cyclura nubila). Phân loài này có nguồn gốc hai hòn đảo ở phía nam của Cuba: Cayman Brac và Tiểu Cayman, mà còn được gọi là quần đảo Chị em do hình dạng tương tự và gần nhau. Phân loài này đang suy giảm do môi trường sống xâm lấn bởi sự phát triển của con người và bị ăn thịt bởi chó và mèo hoang. Chúng gần như tuyệt chủng trên Cayman Brac (ít hơn 100 con), và Tiểu Cayman hỗ trợ quần thể khoảng 1.500 cá thể.
1
null
Cyclura lewisi (Cự đà lam) là một loài thằn lằn trong chi "Cyclura" đặc hữu của đảo Grand Cayman. Trước đây loài này là một phân loài của Cự đà Cuba, nó đã được tách thành một loài riêng biệt năm 2004 do khác biệt về gen đã được phát hiện 4 năm trước đó. Kỳ nhông lam là một trong những loài thằn lằn sống lâu nhất (có thể lên đến 69 năm).
1
null
Vòng tròn Mohr, đặt tên theo kỹ sư kết cấu người Đức Christian Otto Mohr, là một biểu đồ hai chiều minh họa cho định luật biến đổi của tenxơ ứng suất Cauchy. Sau khi phân tích ứng suất trên vật liệu với giả sử rằng nó là liên tục, sẽ biết được các thành phần của ten-xơ ứng suất Cauchy tại một điểm trong vật liệu theo một hệ tọa độ. Sau đó vòng tròn Mohr được dùng nhằm xác định các thành phần ứng suất trong một hệ tọa độ quay đi một góc khác, hay là tác động lên một mặt phẳng khác đi qua điểm đó. Hoành độ formula_1 và tung độ formula_2 của mỗi điểm trên đường tròn là độ lớn của các thành phần ứng suất pháp và ứng suất cắt tác động lên hệ tọa độ quay. Nói cách khác, vòng tròn là quỹ tích các điểm đại diện cho trạng thái ứng suất trên từng mặt phẳng theo mọi hướng, với các trục đại diện cho các trục chính của phần tử ứng suất. Karl Culmann là người đầu tiên nêu ra cách biểu diễn bằng đồ thị cho ứng suất khi ông xem xét ứng suất đứng và ngang trong các dầm nằm ngang chịu uốn. Mohr đã mở rộng cách sử dụng bằng đồ thị cho các ứng suất hai chiều và ba chiều và phát triển giới hạn áp dụng bằng đồ thị dựa trên vòng tròn ứng suất. Có những phương pháp đồ thị khách nhằm biểu diễn trạng thái ứng suất tại một điểm bao gồm elipsoid ứng suất Lame và ứng suất bậc hai Cauchy. Vòng tròn ứng suất Mohr có thể áp dụng cho ma trận ten-xơ đối xứng 2x2, bao gồm ten-xơ biến dạng và ten-xơ mô men quán tính.
1
null
Ba Đồn là một thị xã thuộc tỉnh Quảng Bình, Việt Nam. Địa lý. Thị xã Ba Đồn nằm bên sông Gianh, có Quốc lộ 1, đường sắt Thống Nhất đi qua, cách thành phố Đồng Hới 40 km về phía bắc và cách Đèo Ngang 25 km về phía nam, có vị trí địa lý: Thị xã Ba Đồn có diện tích 162,30 km², dân số năm 2019 là 106.413 người, mật độ dân số đạt 656 người/km². Thị xã có 32,26% dân số theo đạo Thiên Chúa. Đây cũng là địa phương có dự án Đường cao tốc Vũng Áng – Bùng đi qua đang được xây dựng. Lịch sử. Địa danh Ba Đồn có từ thời Hậu Lê, khi Chúa Trịnh lập ba đồn lính ở phía bắc sông Gianh, gồm đồn Trung Thuần, đồn Phan Long và đồn Xuân Kiều. Trước năm 2013. Trước năm 2013, thị xã Ba Đồn ngày nay là một phần huyện Quảng Trạch. Huyện lỵ huyện Quảng Trạch khi đó là thị trấn Ba Đồn. Ngày 18 tháng 4 năm 2012, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định số 367/QĐ-BXD công nhận thị trấn Ba Đồn mở rộng (gồm thị trấn Ba Đồn, 5 xã: Quảng Long, Quảng Phong, Quảng Phúc, Quảng Thọ, Quảng Thuận và thôn Xuân Kiều, xã Quảng Xuân) là đô thị loại IV.<ref name="367/QĐ-BXD"></ref> Từ năm 2013 đến nay. Ngày 20 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 125/NQ-CP<ref name="125/NQ-CP"></ref> về việc thành lập thị xã Ba Đồn và 6 phường thuộc thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình. Theo đó: Thị xã Ba Đồn có 16.318,28 ha diện tích tự nhiên và 115.196 nhân khẩu với 16 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 6 phường và 10 xã như hiện nay. Hành chính. Thị xã Ba Đồn có 16 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 6 phường: Ba Đồn, Quảng Long, Quảng Phong, Quảng Phúc, Quảng Thọ, Quảng Thuận và 10 xã: Quảng Hải, Quảng Hòa, Quảng Lộc, Quảng Minh, Quảng Sơn, Quảng Tân, Quảng Thủy, Quảng Tiên, Quảng Trung, Quảng Văn. Kinh tế - xã hội. Kinh tế. Năm 2019, kinh tế thị xã Ba Đồn giữ mức tăng trưởng ở mức khá, tốc độ tăng giá trị sản xuất 10,65%. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tiếp tục phát triển theo hướng ổn định và bền vững: Bên cạnh đó, năng suất lúa bình quân 54,48 tạ/ha; tổng sản lượng lương thực đạt 28.345 tấn, đạt 100,2% kế hoạch. Tổng diện tích nuôi trồng thủy sản 471,8 ha, đạt 99,75%; sản lượng hải sản đánh bắt và nuôi trồng 13.970 tấn, đạt 100,07% kế hoạch. Thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới, toàn thị xã có đã đạt được 180 tiêu chí, bình quân 18 tiêu chí/xã, tăng 6 tiêu chí so với năm 2018. Thu ngân sách địa phương ước thực hiện gần 476 tỷ đồng, đạt 239,10% kế hoạch dự toán tỉnh giao và 190% kế hoạch thị xã giao. Công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản đảm bảo thực hiện đúng mục tiêu, kế hoạch, tiến độ và quy chế đầu tư. Trong năm, thị xã Ba Đồn đã huy động và đầu tư ước đạt gần 318 tỷ đồng. Nguồn vốn chủ yếu được đầu tư thi công các công trình trọng điểm trên địa bàn như: Xã hội. Ngoài ra, các lĩnh vực xã hội được quan tâm nhiều hơn: Văn hóa. Ba Đồn nổi tiếng với nghề làm nón, vẫn được duy trì và tồn tại đến ngày nay. Dân gian có câu: Chợ Ba Đồn trên địa bàn phường Ba Đồn là một trong những chợ cổ nhất của tỉnh Quảng Bình. Thị trấn Ba Đồn trước đây có chợ phiên nổi tiếng khắp vùng Bắc Trung Bộ.
1
null
Trong toán học, giả thuyết Riemann, nêu bởi Bernhard Riemann (), là một phỏng đoán về các không điểm phi tầm thường của hàm zeta Riemann tất cả đều có phần thực bằng 1/2. Tên gọi này đôi khi cũng có nghĩa tương tự cho một số giả thuyết khác như giả thuyết Riemann cho các đường cong trên trường hữu hạn. Giả thuyết Riemann hàm ý kết quả về sự phân bố các số nguyên tố. Cùng với những dạng tổng quát hóa phù hợp, các nhà toán học coi nó là một trong những bài toán quan trọng nhất chưa được giải trong toán học thuần túy . Giả thuyết Riemann, cùng với giả thuyết Goldbach thuộc về bài toán thứ tám của Hilbert trong danh sách 23 bài toán chưa giải được của David Hilbert; nó cũng là một trong bảy bài toán của Giải thưởng Bài toán Thiên niên kỷ do Viện Toán học Clay khởi xướng. Hàm zeta Riemann ζ("s") là hàm với đối số "s" là một số phức bất kỳ khác 1, và giá trị của hàm cũng là giá trị phức. Các không điểm của hàm (nghiệm) bao gồm tại các số nguyên âm chẵn; tức là ζ("s") = 0 khi "s" nhận các giá trị −2, −4, −6, ... Chúng được gọi là các không điểm tầm thường. Tuy nhiên, các số nguyên âm chẵn không phải là các nghiệm duy nhất của hàm zeta; và những nghiệm này gọi là không điểm phi tầm thường hay "không điểm không tầm thường". Giả thuyết Riemann đề cập đến vị trí của các không điểm phi tầm thường này, và phát biểu rằng: Do vậy các không điểm phi tầm thường sẽ nằm trên đường giới hạn chứa các số phức với "t" là số thực và "i" là đơn vị ảo. Có một vài sách phổ biến về giả thuyết Riemann, như của , , , . Các sách như , và đưa ra nội dung toán học của nó, trong khi , và trình bày ở mức khó hơn. Đặc điểm. Đây là một trong những bài toán thiên niên kỷ, tập hợp của những vấn đề mở quan trọng nhất trong toán học. Giải quyết được bất kỳ vấn đề nào trong đó đều được giải thưởng lên tới một triệu USD. Giả thuyết Riemann (theo tên của nhà toán học người Đức ở thế kỷ 19, Bernhard Riemann) cung cấp một sự ước đoán chính xác hơn rất nhiều về số lượng số nguyên tố nhỏ hơn một số cho trước. Tuy nhiên, cũng giống như các giả thuyết trên, dù đã được chứng minh là đúng với hàng tỷ trường hợp, nó vẫn chưa được chứng minh tổng quát. Hàm zeta Riemann. Hàm zeta Riemann xác định đối với số phức "s" với phần thực lớn hơn 1 bởi chuỗi vô hạn hội tụ tuyệt đối Leonhard Euler chứng minh được rằng chuỗi này bằng tích Euler với tích vô hạn mở rộng trên mọi số nguyên tố "p", và chuỗi này hội tụ đối với các số phức "s" với phần thực lớn hơn 1. Sự hội tụ của tích Euler chứng tỏ rằng hàm ζ("s") không có một không điểm nào trong miền này, do không có một giá trị s nào làm cho hàm bằng 0. Giả thuyết Riemann đề cập đến các không điểm nằm ngoài miền hội tụ của chuỗi này, do vậy nó cần phải liên tục giải tích đối với mọi số phức số phức "s". Điều này có thể chứng minh khi biểu diễn nó theo hàm eta Dirichlet như sau. Nếu phần thực của "s" lớn hơn 1, thì hàm zeta thỏa mãn Tuy nhiên, chuỗi bên vế phải hội tụ không những khi "s" lớn hơn 1, mà còn trong trường hợp "s" có phần thực dương. Do vậy, chuỗi thay thế này mở rộng hàm zeta từ miền sang miền lớn hơn , ngoại trừ tại các không điểm formula_4 của formula_5 (xem hàm eta Dirichlet). Hàm zeta cũng có thể mở rộng tới những giá trị này bằng cách lấy giới hạn, sẽ thu được giá trị hữu hạn cho mọi giá trị của "s" với phần thực dương ngoại trừ một trường hợp khi "s" = 1. Trong miền hàm zeta thỏa mãn phương trình hàm Có thể định nghĩa ζ("s") cho mọi số phức "s" khác 0 còn lại bằng cách giả sử rằng phương trình này thỏa mãn cả bên ngoài miền xác định, và đặt ζ("s") bằng vế phải của phương trình khi "s" có phần thực không dương. Nếu "s" là một số nguyên âm chẵn thì ζ("s") = 0 bởi vì nhân tử sin(π"s"/2) bằng 0; đây là các không điểm tầm thường của hàm zeta. (Lập luận này không đúng nếu "s" là một số nguyên dương chẵn bởi vì giá trị 0 của sin bị triệt tiêu tại các cực của hàm gamma khi nó nhận các tham số nguyên âm.) Giá trị tại ζ(0) = −1/2 là không xác định bởi phương trình hàm, nhưng nó là giới hạn của ζ("s") khi "s" tiến đến 0. Phương trình hàm cũng hàm ý rằng hàm zeta không có các không điểm với phần thực âm ngoại trừ các không điểm tầm thường nêu ở trên; do đó mọi không điểm phi tầm thường nằm trong miền giới hạn với "s" có phần thực nằm giữa 0 và 1.
1
null
Trước khi Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (còn gọi là Triều Tiên hoặc Bắc Triều Tiên) được thành lập, năm 1946, một chính quyền Ủy ban Nhân dân Lâm thời Bắc Triều Tiên được thành lập dưới sự hậu thuẫn của Liên Xô trên khu vực chiếm đóng tại Triều Tiên. Người đứng đầu Ủy ban này là Kim Il Sung nhưng không mang một chức danh chính thức nào. Sau khi công bố thành lập Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên ngày 9 tháng 9 năm 1948, Kim Il Sung lãnh đạo Ủy ban Nhân dân Lâm thời hoạt động với chức năng như một chính phủ, đồng thời giữ vai trò Nguyên thủ quốc gia. Từ năm 1948 đến 1972, với các chức vụ Chủ tịch Đảng (từ 1966 đổi thành Tổng Bí thư), Tổng Tư lệnh Tối cao, Thủ tướng, Ủy viên trưởng Quân ủy Trung ương (từ 1950), Kim Il Sung nắm trọn quyền lãnh đạo tối cao và là nguyên thủ quốc gia trên thực tế của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên dù không được quy định chính thức. Mãi đến năm 1972, Hiến pháp Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên mới quy định chức vụ Chủ tịch Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, trao cho Kim Il Sung vai trò nguyên thủ quốc gia một cách chính thức. Sau khi Kim Il Sung qua đời năm 1994, chức vụ Chủ tịch nước và Tổng bí thư bị khuyết, trên danh nghĩa vai trò nguyên thủ quốc gia do người đứng đầu Quốc hội là Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Hội nghị Nhân dân Tối cao Yang Hyong-sop nắm giữ. Tuy nhiên, về thực tế, con trai và người kế vị của Kim Il Sung là Kim Jong-il, chỉ với vai trò Tổng Tư lệnh Tối cao và Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng, nắm giữ quyền lực trên thực tế, mới thực sự là nguyên thủ quốc gia. Năm 1997, Kim Jong-il chính thức được bầu làm Tổng bí thư. Một hiến pháp mới được ban hành, tôn phong Kim Il Sung là "Chủ tịch vĩnh viễn", đồng thời quy định Chủ tịch Hội nghị nhân dân tối cao, Thủ tướng và Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng thực hiện chế độ nguyên thủ tập thể. Chủ tịch Hội nghị nhân dân tối cao thực hiện công tác đối ngoại và tiếp nhận các thông tin của đại sứ, Thủ tướng xử lý chính sách trong nước và Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng quốc gia chỉ huy các lực lượng vũ trang. Dù không nêu rõ, chức vụ Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng quốc gia được hiến định ghi là "chức vụ cao nhất của đất nước", hợp thức hóa vai trò quyền lực tối cao của Kim Jong-il và của con ông Kim Jong-un sau này. Danh sách dưới đây liệt kê các chính khách CHDCND Triều Tiên đã giữ các vai trò lãnh đạo tối cao, lãnh đạo Đảng, lãnh đạo Quốc hội, Thủ tướng chính phủ và Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng quốc gia của CHDCND Triều Tiên. Lãnh đạo Tối cao. Đến nay, danh xưng "Lãnh đạo Tối cao" được sử dụng cho ba người là Kim Il Sung, Kim Jong Il, Kim Jong-un (ngày tháng xấp xỉ và vẫn còn đang tranh cãi): Lãnh đạo Đảng Lao động Triều Tiên. Kim Jong-il qua đời vào ngày 17 tháng 12 năm 2011, được truy phong là "Tổng Bí thư vĩnh viễn". Do đó con trai ông đồng thời là người kế nhiệm Kim Jong-un đã không sử dụng danh hiệu Tổng Bí thư. Nguyên thủ Quốc gia. Kim Il-sung qua đời vào ngày 08 Tháng 7 năm 1994,được truy phong là " Chủ tịch vĩnh viễn ". Do đó con trai ông đồng thời là người kế nhiệm Kim Jong-il đã không sử dụng danh hiệu Chủ tịch và nguyên thủ nhà nước hợp pháp là Chủ tịch Đoàn Chủ tịch hội nghị nhân dân tối cao. Đứng đầu quân đội. Kim Jong-il qua đời vào ngày 17 tháng 12 năm 2011, được truy phong là "Chủ tịch vĩnh viễn của Ủy ban Quốc phòng Nhà nước ". Do đó con trai ông đồng thời là người kế nhiệm Kim Jong-un đã không sử dụng danh hiệu Chủ tịch cho chức vụ của mình.
1
null
Trận Vườn Điều - Bàu Nâu là một trận đánh trong Chiến tranh Việt Nam diễn ra tại Bàu Nâu, thuộc địa bàn xã Phước Thọ (nay là xã Long Thọ), huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai, giữa Tiểu đoàn 265 Trung đoàn 4 Sư đoàn 5 chủ lực, phối hợp với Đại đội 240 bộ đội địa phương Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, và một tiểu đoàn của Trung đoàn Tình nguyện Lục quân Hoàng gia Thái Lan (còn có biệt danh là "Mãng xà vương" - "Queen's Cobra"). Kết quả là Quân Giải phóng đã thất bại trong việc tiêu diệt vị trí của đối phương và chịu thương vong lớn. Bối cảnh. Năm 1967, Quân đội Thái Lan bố trí 1 tiểu đoàn đóng quân tại khu vực Vườn Điều - Bàu Nâu. Vị trí này được bố trí theo hình tam giác, diện tích khoảng 3 hecta, ba mặt đều có giao thông hào, lô cốt, xung quanh có 4 lớp rào bùng nhùng. Bên ngoài cứ điểm còn có lực lượng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đóng tại cầu Suối Dẹp và đồn Phước Thọ, cùng với đó là trận địa pháo tại Chi khu Nhơn Trạch và chùa Nước Nhĩ (xã Phước Thiền) sẵn sàng chi viện. Thực hiện mệnh lệnh của Bộ Chỉ huy Miền, Sư đoàn 5 QGP phân công nhiệm vụ cho Tiểu đoàn 265 kết hợp với lực lượng trinh sát của Đại đội 240 bộ đội địa phương huyện Nhơn Trạch. Diễn biến. Sau khi trinh sát nghiên cứu tình hình địch và lên sa bàn tác chiến, đơn vị phát triển chiếm lĩnh vị trí. Trận đánh mở màn lúc 21 giờ ngày 20 tháng 12 năm 1967, khi QGP nã đạn cối 82 mm vào căn cứ giữa lúc đối phương đang tổ chức cho binh sĩ xem phim. Họ tấn công cứ điểm với 3 mũi, Trong khoảng nửa giờ họ chiếm ưu thế và dần làm chủ được tình hình: băng qua hàng rào phòng thủ, tiến sâu vào trung tâm. Bằng cách tập kích, kết hợp đặc công trinh sát và hỏa lực họ làm chủ trận địa. Quân Thái Lan sau những phút đầu rối loạn, đến lúc này đã củng cố lực lượng và tổ chức chống trả quyết liệt. 3 cụm xe tăng của quân Thái Lan được bố trí trong công sự dưới đất bất ngờ xuất hiện và bắn dữ dội về phía đối phương - điều mà trước đó các trinh sát đã không nhận thấy được. Các chiến sĩ Tiểu đoàn 265 cố gắng tìm cách khống chế hỏa lực địch nhưng không thành do xe tăng nằm nấp dưới công sự, rất khó tiếp cận, lại thêm máy bay đối phương tiếp ứng trên không rọi đèn cho phía Thái Lan tập trung hỏa lực. Trước tình hình bất lợi, thương vong ngày càng tăng cao, QGP quyết định rút lui, kết thúc trận đánh với số bộ đội tử trận của D2 lên tới hơn 90 người. Về sau, chính quyền Việt Nam Cộng hòa dọn dẹp chiến trường Vườn Điều để tránh bom đạn. Xác chết của những người lính QGPMN bị vùi lấp đến nay chưa tìm hết được. Kết quả. Bị tập kích bất ngờ, Quân đội Hoàng gia Thái Lan và Úc tăng cường phòng vệ, trong tình thế chung của toàn chiến trường khi đó chỉ có Quân lực Việt Nam Cộng hòa là nghỉ phép ăn tết nhiều, còn quân chủ lực là Mỹ và các lực lượng đồng minh vẫn hoạt động. Sau thất bại này, đích thân trung đoàn trưởng trung đoàn 4 QGP (Nguyễn Nam Hưng, đang ở tiểu đoàn bộ) điều hành tiểu đoàn 265 thay cho D trưởng Trần Văn Hướng, các đơn vị khác giao cho trung đoàn phó Trần Minh Thắng. Tuy nhiên, tiểu đoàn 265 không còn đủ lực lượng mạnh như trước, cùng với cuộc chiến bất lợi kéo dài ở giai đoạn Mậu Thân đã gây thiệt hại lớn cho cả đơn vị.
1
null
Quốc vụ Tổng lý (국무총리 / 國務總理, "Gukmuchongri"), tức Thủ tướng là người đứng đầu chính phủ nước Đại Hàn Dân quốc. Thủ tướng được Tổng thống bổ nhiệm với sự phê chuẩn của Quốc hội. Thủ tướng Hàn Quốc không nhất thiết phải là đại biểu Quốc hội. Thủ tướng là trợ lý hành pháp chính cho Tổng thống, người đứng đầu chính phủ. Thủ tướng hỗ trợ Tổng thống bằng cách giám sát các bộ và tiến cử các bộ trưởng. Thủ tướng là người tiếp quản văn phòng Tổng thống trong trường hợp Tổng thống không còn khả năng thực hiện vai trò của mình. Tổng thống tạm quyền có hai lần là Goh Kun trong thời gian luận tội Tổng thống Roh Moo-hyun vào năm 2004 và Hwang Kyo-ahn trong thời gian luận tội Tổng thống Park Geun-hye vào năm 2016 Chức vụ này được thiết lập vào ngày 31 tháng 7 năm 1948, hai tuần trước khi chính phủ Hàn Quốc được thành lập và do Lee Beom-seok đảm nhiệm cho đến năm 1950. Danh hiệu Thủ tướng được đổi thành Bộ trưởng Nội các từ năm 1961 đến năm 1963. Văn phòng Thủ tướng được hai phó thủ tướng hỗ trợ. Thủ tướng được Tổng thống bổ nhiệm nhưng chưa được Quốc hội phê chuẩn được gọi là Thủ tướng tạm quyền. Thủ tướng trở thành Tổng thống tạm quyền trong trường hợp Tổng thống qua đời, từ chức hoặc bị phế truất. Thủ tướng Hàn Quốc đương nhiệm là Han Duck-soo. Tên gọi. Từ Hán-Triều "gungmu" (/) có nghĩa là "Quốc vụ" còn "chongni" (/) có nghĩa là "Tổng lý", vì vậy trong tiếng Hàn nghĩa đen của danh hiệu đầy đủ là "người đứng đầu quản lý việc nước". Danh hiệu vắn tắt là "Chongni (Tổng lý)".
1
null
Lãnh thổ Wyoming (tiếng Anh: "Wyoming Territory" or "Territory of Wyoming") từng là một lãnh thổ hợp nhất có tổ chức, tồn tại từ 25 tháng 7 năm 1868 cho đến 10 tháng 7 năm 1890 khi nó được phép gia nhập liên bang để trở thánh tiểu bang Wyoming. Cheyenne là thủ phủ lãnh thổ. Các ranh giới của Lãnh thổ Wyoming thì tương ứng với tiểu bang Wyoming ngày nay. Lãnh thổ. Vì vị trí của Wyoming ở nơi tiếp giáp giữa Cấu địa Louisiana, Xứ Oregon, và Nhượng địa Mexico nên vùng đất mà sau đó trở thành Wyoming có một lịch sử quan hệ lãnh thổ khá phức tạp. Các phần đất lãnh thổ mà dần dần rơi vào khu vực thẩm quyền của Wyoming có những thời điểm khác nhau có liên hệ với các lãnh thổ khác như Washington, Oregon, Idaho, Dakota, Nebraska và Utah cũng như trước đó từng thuộc về các quốc gia độc lập là Vương quốc Anh, Pháp, Tây Ban Nha, México, và Cộng hòa Texas. Phần đất của Lãnh thổ Wyoming nằm ở phía đông đường phân thủy lục địa là thuộc Cấu địa Louisiana mà Hoa Kỳ đã mua từ Pháp vào năm 1803 và tổ chức thành Lãnh thổ Nebraska năm 1854. Năm 1861, phân nửa phía bắc của lãnh thổ Nebraska trong đó có phần đất đông bắc của Lãnh thổ Wyoming tương lai trở thành một phần đất của Lãnh thổ Dakota , trong khi đó phần đất đông nam vẫn được giữ lại trong Lãnh thổ Nebraska, hính thành nên một "cán chảo" Nebraska kéo dài trong đó có khu định cư Cheyenne. Năm 1863, Lãnh thổ Idaho được thành lập, gồm có toàn bộ các tiểu bang hiện tại là Idaho và Montana và gần như tất cả tiểu bang Wyoming hiện nay (trừ góc tây nam). Phần đất của Lãnh thổ Wyoming ở phía tây đường phân thủy lục địa và phía bắc vĩ độ 42 nguyên là một phần đất của Xứ Oregon, được tổ chức thành Lãnh thổ Oregon vào năm 1848. Khi Oregon gia nhập liên bang để trở thành một tiểu bang với ranh giới như hiện nay vào năm 1859 thì vùng đất này bị tách ra và trở thành một phần của Lãnh thổ Washington (tuy phần đất phía đông của nó được giao cho Lãnh thổ Nebraska vào năm 1854 . Lãnh thổ Idaho cũng nhập vùng đất này vào năm 1863. Góc tây nam của vùng đất mà sau này trở thành Lãnh thổ Wyoming, ở phía nam vĩ độ 42, trở thành một phần đất của Hoa Kỳ cùng với Nhượng địa Mexico vào năm 1848. Phần phía đông của nó từng bị Cộng hòa Texas tuyên bố chủ quyền. Năm 1851, phần đất này ở phía tây đường phân thủy lục địa bị biến thành một phần đất của Lãnh thổ Utah. Và khi Lãnh thổ Colorado được tổ chức vào năm 1861 thì phần lớn đất đai này bị chuyển giao sang cho Lãnh thổ Nebraska và sau đó bị nhập vào trong Lãnh thổ Idaho vào năm 1863. Một góc nhỏ của Wyoming vẫn là một phần đất của Utah cho đến khi thành lập Lãnh thổ Wyoming vào năm 1868. Năm 1864, khi thành lập Lãnh thổ Montana, phần đông nam của Lãnh thổ Idaho (đa phần là Wyoming ngày nay) trở thành một phần của Lãnh thổ Dakota thêm 1 lần nữa nhưng ngắn ngũi , tuy một dải đất dọc theo ranh giới phía tây mà sau đó trở thành Wyoming vẫn là một phần đất của Lãnh thổ Idaho. Lãnh thổ Wyoming được thành lập theo một đạo luật của Quốc hội Hoa Kỳ vào ngày 25 tháng 7 năm 1868. Khi được thành lập, nó lấy đất đai từ các lãnh thổ Dakota, Idaho, và Utah. Nó được phép gia nhập liên bang để trở thành tiểu bang thứ 44 của Hoa Kỳ vào ngày 10 tháng 7 năm 1890.
1
null
Jung Hong-won (, sinh ngày 9 tháng 10 năm 1944) là một chính trị gia Hàn Quốc. Ông là thủ tướng Hàn Quốc từ ngày 26 tháng 2 năm 2013 đến ngày 16 tháng 2 năm 2015. Tiểu sử. Jung tốt nghiệp Cử nhân Luật tại Đại học Sungkyunkwan. Sau khi vượt qua các đợt kiểm tra tư pháp, ông trở thành một công tố viên.
1
null
Giải vô địch cờ tướng cá nhân Trung Quốc là giải đấu cờ tướng được tiến hành hàng năm ở Trung Quốc. Do Trung Quốc là cái nôi của môn cờ tướng, ở các giải vô địch thế giới và vô địch châu Á thì Trung Quốc chỉ được cử 2 kỳ thủ nam và 1 kỳ thủ nữ tham dự, do vậy giải đấu này được Hiệp hội cờ tướng Trung Quốc đánh giá cao hơn cả giải thế giới và châu Á. Giải đấu bắt đầu từ năm 1956. Thời gian đầu giải diễn ra mỗi năm một lần. Có một số năm do khách quan nên không tổ chức là các năm 1961 và 1963 do Nạn đói lớn ở Trung Quốc, từ năm 1967 đến 1973 vì Cách mạng văn hóa nên cờ tướng bị cấm đoán, năm 1976 Mao Trạch Đông qua đời. Từ năm 1977 đến nay giải được tổ chức đều đặn hàng năm. Ban đầu giải chỉ có nội dung nam, đến năm 1979 mới có thêm nội dung nữ. Riêng hai năm 1980 và 1981 giải nữ được tổ chức hai lần mỗi năm. Thể thức. Thể thức giải đấu thay đổi từng năm. Năm 2013 nội dung nam chia làm hai nhóm A và B (như hạng nhất và hạng nhì) theo bảng xếp hạng của Hiệp hội cờ tướng Trung Quốc. Các kỳ thủ ở nhóm B đánh 7 vòng hệ Thuỵ Sĩ chọn ra 14 kỳ thủ đứng đầu được vào đánh nhóm A . Nhóm A có sẵn 50 kỳ thủ, cùng 14 kỳ thủ từ nhóm B tạo thành 64 kỳ thủ đánh hệ Thuỵ Sĩ 11 vòng chọn ra nhà vô địch . Ở nội dung nữ các kỳ thủ tham dự đánh hệ Thuỵ Sĩ 11 vòng . Năm 2015 và 2016 thể thức bảng nam như nhau khi nhóm B đánh 7 vòng hệ Thụy Sĩ, chọn ra 32 kỳ thủ, cùng 32 kỳ thủ nhóm A đánh loại trực tiếp 6 vòng chọn ra nhà vô địch. Mỗi vòng gồm 2 ván cờ tiêu chuẩn, nếu hòa sẽ đánh cờ nhanh, cờ chớp đổi bên luân phiên đến khi nào xác định người thắng.
1
null
Eva Marie (sinh ngày 16 tháng 9 năm 1984) là một người mẫu, diễn viên điện ảnh, đô vật chuyên nghiệp người Mỹ. Cô đang chơi ở WWE với tên đeo đai là Eva Marie. Vào năm 2013, Nelson đã ký hợp đồng với WWE, và được giao cho Trung tâm Biểu diễn của WWE ở Tampa, Florida để bắt đầu đào tạo mình.Vào tháng 7 năm 2013, Nelson đã ra vào danh sách biểu diễn chính lần đầu của mình, và sau đó trong tháng sẽ trở thành đô vật chuyên nghiệp.
1
null
Kim Hwang-sik (sinh ngày 9/8/1948) là một chính khách Hàn Quốc. Ông trở thành thủ tướng Hàn Quốc từ ngày 1/10/2010. Trước đó ông là chủ tịch cơ quan kiểm toán và thanh tra. Jung Hong-won đã thay thế ông làm thủ tướng từ ngày 26 tháng 2 năm 2013. Tiểu sử. Ông sinh ra ở Jangseong, học luật tại Đại học Marburg (Đức) và tốt nghiệp Đại học Quốc gia Seoul. Ông thi đạt kì thi tư pháp quốc gia và đã làm thẩm phán khu vực sau đó là thẩm phán tại tòa án tối cao.
1
null
Trekking có nghĩa là đi bộ dài ngày là một hình thức du lịch mạo hiểm dã ngoại ngoài trời ở những nơi hoang dã. Người trekking chỉ có phương tiện di chuyển duy nhất chính là đôi chân của mình. Phải đi bộ, thường thì phải tự mang vác đồ và đi vào rừng, núi, bản làng xa trung tâm không có phương tiện giao thông; mất nhiều thời gian, vất vả, thậm chí là nguy hiểm. Những chặng đường đi trekking thường rất hoang dã nhưng cũng nhiều thú vị bất ngờ. Trekking giúp rèn luyện thân thể, có ích cho sức khỏe, thách thức cảm giác được chinh phục và hòa mình vào thiên nhiên hoang dã. Xin đừng nhầm lẫn trekking với leo núi. Thuật ngữ. Thuật ngữ trekking có nguồn gốc từ ngôn ngữ Afrikaans về sau trở thành một từ trong ngôn ngữ tiếng Anh vào giữa thế kỷ 19, có nghĩa là một hành trình đi bằng chân kéo dài và gian khổ. Trong tiếng Việt, từ tương đương là "đi vã". Kinh nghiệm trekking. Lều trại, võng liền mùng (màn), dây dù, tấm trải, túi ngủ, dao đi rừng, bật lửa, nồi niêu, máy định vị GPS, la bàn, bản đồ... Thuốc diệt khuẩn nước, dầu gió, hạ sốt, đau bụng, kháng sinh, bông băng, thuốc đỏ, cồn y tế, kem chống muỗi, vắt, viên C sủi Thức ăn loại dễ bảo quản, nhiều năng lượng như ruốc khô (chà bông), xúc xích, đồ hộp, mỳ tôm, bánh quy, kẹo, sô cô la, Nón rộng vành, hoặc nón có che tai, áo dài tay, quần leo núi chuyên dụng hoặc quần ka ki mỏng, giày leo núi chuyên dụng hoặc giày bộ đội cổ cao, tất (vớ) dày, gậy leo núi, bảo vệ khớp gối, bảo vệ mắc cá chân, áo khoác, áo len giữ ấm, mũ trùm đầu... Di chuyển theo cự ly để có thể hỗ trợ nhau trong trường hợp có sự cố, không nên tách ra đi một mình. Uống nước vừa phải, không nên uống quá nhiều dẫn đến chóng mệt mỏi. Nên hạ trại bên cạnh nguồn nước, đốt một đống lửa to và duy trì ngọn lửa suốt đêm. Nghiên cứu bản đồ khu vực, tính toán khoảng cách di chuyển hợp lý để không rơi vào tình huống nguy hiểm. Xem trước dự báo thời tiết. Chuẩn bị giấy giới thiệu nếu khu vực biên giới hoặc khu bảo tồn. Trước khi qua suối bạn nên kiểm tra dòng nước kỹ càng. Hãy di chuyển qua suối khi xác định được mực nước và độ chảy xiết có thể băng qua được. Bạn nên sử dụng các dụng cụ hỗ trợ chuyên dụng như dây thừng, phao để hỗ trợ qua suối phòng trường hợp nước lũ đổ về. Những khu vực trekking nổi tiếng ở Việt Nam. _Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông (Thanh Hóa) _Rừng Quốc gia Hoàng Liên (Lào Cai): nơi có đỉnh Fansipan cao nhất Đông Dương _Núi Yên Tử, Quảng Ninh _Tam Đảo, Vĩnh Phúc _Núi Bạch Mã, Thừa Thiên, Huế _Hòn Bà, Nha Trang _Núi Chúa, Ninh Thuận _Núi Bà Đen, Tây Ninh Những khu vực trekking nổi tiếng trên thế giới. Khu vực trekking nổi tiếng ở Nepal là Annapurna, Dolpo, Langtang, Manaslu, Kangchenjunga đỉnh Everest. Các khu vực trekking nổi tiếng ở Ấn Độ là Chandra Taal, Gomukh, Hemkund, Kafni Glacier, Kedarnath, Kedartal, Milam Glacier, Nanda Devi Sanctuary, Pindari Glacier, Richenpong, Roopkund, Sar đèo, Satopanth Tal, Saurkundi đèo, Singalila Ridge... Chú thích và tham khảo. Các Tour Trekking Tại Việt Nam 10 Tour Trekking Đẹp Nhất Việt Nam
1
null
Lãnh thổ Idaho (tiếng Anh: "Territory of Idaho" hay "Idaho Territory") từng là một lãnh thổ hợp nhất có tổ chức của Hoa Kỳ, tồn tại từ 4 tháng 3 năm 1863 cho đến 3 tháng 7 năm 1890 khi vào giai đoạn cuối cùng, lãnh thổ này được phép gia nhập liên bang để trở thành tiểu bang Idaho. Thập niên 1860. Lãnh thổ được chính thức tổ chức vào ngày 4 tháng 3 năm 1863 bởi một đạo luật của Quốc hội Hoa Kỳ, và được tổng thống Abraham Lincoln ký thành luật. Đây là một vùng đất thừa kế, được tạo thành từ các khu vực đất của các lãnh thổ vẫn đang tồn tại nhưng trải qua các giai đoạn chính trị song hành, bắt đầu bằng các cuộc tranh chấp giữa các quốc gia (xem Xứ Oregon). Đến năm 1863 khu vực ở phía tây Đường phân thủy Lục địa Bắc Mỹ mà trước đó từng là một phần của Lãnh thổ Oregon rất rộng lớn (vào lúc đó một phần đất đai đã trở thành một tiểu bang) đã được phân chia thành Lãnh thổ Washington ở phía bắc tiểu bang Oregon non trẻ, phần đất còn lại của Lãnh thổ Oregon chính thức trở thành "chưa tổ chức"— trong khi đó phần đất trong khu vực phía đông của đường phân thủy lục địa từng là một phần của Lãnh thổ Dakota chưa được phân định rõ ràng với rnh giới của nó kết thúc dọc theo vĩ độ 49 - hiện nay là biên giới với Canada, một đất thuộc địa của Anh khi đó. Lãnh thổ khi vừa mới tổ chức bao trùm phần lớn các tiểu bang ngày nay là Idaho, Montana và Wyoming. Từ đông sang tây, Đường mòn Oregon đầy bận rộn hoàn toàn đi băng qua nó. Một số con đường di dân khác cũng đi qua một phần lãnh thổ này trong đó có Đường mòn California và Đường mòn Mormon kể từ năm 1847. Các đường mòn này đã giúp cho các xe ngựa kéo chở người định cư đi về phía tây, và đồng thời, băng qua đường phân thủy lục địa vào lưu vực sông Snake, là cửa ngỏ chính vào Idaho và nội địa Xứ Oregon. Thủ phủ lãnh thổ đầu tiên được đặt tại Lewiston lúc mới thành lập vào năm 1863 đến 1866. Boise trở thành thủ phủ từ năm 1866 nhờ vào tỉ lệ hơn một phiếu bầu của tòa án tối cao lãnh thổ. Tuy vụ thảm sát sông Bear năm 1863 tại nơi mà ngày nay là Quận Franklin được xem là trận đánh xa nhất ở phía tây của cuộc Nội chiến Hoa Kỳ nhưng sự biến động do nội chiến gây ra cũng như thời tái thiết nội chiến không là mối lo ngại của những ại sống trong Lãnh thổ Idaho tương đối bình yên. Chính tình hình ổn định này đã khuyến khích người định cư tìm đến đây sinh sống. Năm 1864, Lãnh thổ Montana được tổ chức từ phần đất phía đông bắc của Lãnh thổ, ở phía đông dãy núi Bitterroot. Phần lớn khu vực đông nam của lãnh thổ được biến thành một phần của Lãnh thổ Dakota. Cuối thập niên 1860, Lãnh thổ Idaho trở thành một điểm đến của các đảng viên Dân chủ miền Nam Hoa Kỳ, từng chiến đấu cho Liên minh miền Nam Hoa Kỳ trong nội chiến. Những người này có đại diện đầy đủ trong các nghị viện lãnh thổ vào thời gian đầu và vì thế nghị viện lãnh thổ thường hay xung đột với các thống đốc lãnh thổ được đảng Cộng hòa bổ nhiệm. Xung đột chính trị trở nên đặc biệt nghiêm trọng vào năm 1867 khi thống đốc David W. Ballard phải yêu cầu quân đội liên bang đóng tại đồn Boise chống lại nghị viện lãnh thổ. Tuy nhiên đến năm 1870, xung đột chính trị dần lắng dịu thấy rõ. Năm 1868, các khu vực nằm ở phía đông kinh độ 111 Tây trở thành một phần đất của lãnh thổ mới, Lãnh thổ Wyoming. Đến lúc này thì Lãnh thổ Idaho chỉ còn lại các đường ranh giới như tiểu bang Idaho bây giờ. Sự việc tìm thấy vàng, bạc và các tài nguyên thiên nhiên quý giá khác trên khắp Idaho, bắt đầu trong thập niên 1860 cũng như sự kiện hoàn thành đường sắt liên lục địa vào năm 1869 đã mang nhiều di dân mới đến lãnh thổ trong đó có các lao công người Hoa đến làm việc tại các hầm mỏ. Khi Idaho gần trở thành tiểu bang thì ngành công nhiệp khai thác và khai quặng trở nên ngày càng quan trọng đối với nền kinh tế của Idaho. Đến thập niên 1890, chẳng hạn, Idaho xuất cảng nhiều chì hơn bất cứ tiểu bang nào khác. Thập niên 1870. Nhà tù lãnh thổ bắt đầu được xây dựng năm 1870 và hoàn thành năm 1872. Cựu Nhà tù Tiểu bang Idaho được xếp vào Sổ bộ Địa danh Lịch sử Quốc gia Hoa Kỳ năm 1974 vì sự nổi bật của nó với vai trò một nhà tù lãnh thổ. Địa điểm này hiện nay có các bảo tàng và một vườn cây. Gần như ngay sau khi Lãnh thổ Idaho được thành lập thì một hệ thống trường công cộng cũng được thành lập. Nhiều tờ báo hoạt động tại Lewiston, Boise và Silver City vào khoảng năm 1865. Đường điện tín đầu tiên đến Franklin năm 1866 với Lewiston là thị trấn đầu tiên được kết nối tại bắc Idaho năm 1874. Cuộc gọi iện thoại đầu tiên tại Tây Bắc Thái Bình Dương xảy ra vào ngày 10 tháng 5 năm 1878 tại Lewiston. Tuy hình thành một cộng đồng thiểu số, nhóm người Mormon bị những người khác nghi kị tại Idaho. Đến năm 1882, những người Idaho quyền lực và nổi tiếng đã thành công tước bỏ quyền đầu phiếu của các cử tri Mormon trong Lãnh thổ Idaho với lý lẽ cho rằng người Mormon theo chế độ đa thê đa phu bất hợp pháp. Idaho được phép trở thành tiểu bang khoảng 6 năm trước Utah, một lãnh thổ có dân số đông hơn và có lịch sử định cư lâu hơn nhưng vì có đa số dân là người theo đạo Mormon ủng hộ chế độ đa thê đa phu. Có bốn ngàn người Hoa sống trong Lãnh thổ Idaho từ năm 1869 đến năm 1875. Giống như nhiều người Hoa di dân, họ đến "Kim Sơn" (núi vàng) để làm công nhân khai mỏ, hay tìm việc giặt ủi và đầu bếp. Điều tra dân số năm 1870 cho thấy có 1.751 người Hoa tại Idaho City, chiếm khoảng gần phân nửa dân số thành phố này. Thập niên 1880. Sau khi thủ phủ di dời, các lời đề nghị đầy tranh cãi về việc chia tách lãnh thổ thành hai miền trở nên lan rộng. Năm 1887, Lãnh thổ Idaho gần như bị xóa sổ nhưng vì nghe theo lời của thống đốc Edward A. Stevenson mà tổng thống Grover Cleveland từ chối ký đạo luật chia tách lãnh thổ thành hai phần, phía bắc giao cho Lãnh thổ Washington và phía nam giao cho Nevada. Năm 1889, Đại học Idaho được phép xây dựng tại thị trấn ở miền bắc là Moscow thay vì vị trí như ban đầu hoạch định là tại Eagle Rock (hiện nay là Idaho Falls) ở miền nam. Sự kiện này phục vụ như để làm dịu bớt cảm giác khó chịu của các cư dân Bắc Idaho vì đã mất đi thủ phủ tại miền Bắc. Lãnh thổ được phép gia nhập liên bang để trở thành tiểu bang Idaho vào ngày 3 tháng 7 năm 1890.
1
null
Đại học Philipp Marburg (tiếng Đức: Philipps-Universität Marburg), được thành lập vào năm 1527 bởi Landgrave Philip I của Hesse. Đây là một trong những trường đại học lâu đời nhất của Đức, có thời gian từ thời thành lập đạo Tin Lành. Hiện nay, trường không có liên kết với tôn giáo nữa. Trường có khoảng 25.000 sinh viên và 7.500 nhân viên, làm cho Marburg, một thị trấn 72.000 dân được gọi là "phố đại học".
1
null
Marburg là thủ phủ của huyện Marburg-Biedenkopf ở bang Hessen, Đức. Thành phố này có 77.845 dân (lớn thứ 8 ở bang Hesen), và là một thành phố đại học, nơi có đại học Philipps Marburg với 25.000 sinh viên và 7.500 nhân viên. Thành phố này là một trong ba nơi đầu tiên phát hiện virus Marburg vào những năm 1960 (hai nơi còn lại là Frankfurt (Tây Đức) và Belgrade (Nam Tư (cũ))).
1
null
Jeremy Hammond (sinh ngày 8 tháng giêng, 1985) là một người hoạt động chính trị, một nhạc sĩ và cũng là một tin tặc từ Chicago, Hoa Kỳ. Ông ta bị kết tội và xử tù 10 năm vào tháng 11 năm 2013, vì đã ăn cắp 60 ngàn thẻ tín dụng và các thông tin cá nhân của 860 ngàn khách hàng hãng Stratfor. Hammond cũng là người sáng lập trang web đào tạo bảo mật máy tính vào năm 2003. Tiểu sử. Thời niên thiếu. Hammond lớn lên ở ngoại ô Glendale Heights, Chicago, Illinois, với người anh em song sinh Jason. Hammond quan tâm đến máy tính khi còn rất trẻ, lập trình trò chơi video bằng QBasic lúc tám tuổi, và tạo lập các cơ sở dữ liệu ở tuổi 13. Khi còn là học sinh Hammond đã đạt được hạng nhất trong một cuộc thi về khoa học với một chương trình máy tính mà ông thiết kế. Ngoài ra ở trường trung học, ông trở thành một người tranh đấu cho hòa bình, tổ chức cho học sinh bỏ học biểu tình vào ngày Hoa Kỳ đánh vào Iraq và lập ra một tờ báo trường để phản đối chiến tranh Iraq. Học vấn. Hammond được học bổng toàn phần tại University of Illinois at Chicago. Vào mùa xuân 2004, khi ông mới bắt đầu tại đây, ông đã chỉ ra một lỗ hổng bảo mật trong trang mạng của phân khoa công nghệ thông tin. Vì lý do này Hammond bị đuổi khỏi trường. Âm nhạc. Jeremy, cùng với Jason, cũng ưa thích âm nhạc, và đã từng trình diễn với nhiều ban nhạc. Trước khi Jeremy bị bắt, cả hai chơi cho ban nhạc ở Chicago "Dirty Surgeon Insurgency". Vụ án Stratfor. Vào ngày 5 tháng 3 năm 2012, Hammond bị bắt bởi nhân viên FBI tại Chicago vì những hành động liên hệ tới vụ thư từ của công ty cố vấn Strafor bị giao cho Wikileaks. Hammond là một trong 6 người từ Hoa Kỳ, Anh, và Ireland bị buộc tội. Vụ bắt bớ này xảy ra là nhờ sự hợp tác của một nhân chứng mà trên mạng có tên là tin tặc Sabu.Hammond sau đó đã thú tội là vào năm 2011 đã xâm nhập vào máy tính của hãng Stratfor và của các cơ quan chính phủ cũng như của FBI. Riêng tại hãng Stratfor 60 ngàn số thẻ tín dung và thông tin cá nhân của 860 ngàn khách hàng bị đưa lên mạng, cả thư từ của hãng này cũng bị giao cho WikiLeaks. Theo Wikileaks thì 5 triệu lá thư điện tử này viết từ khoảng tháng 7 năm 2004 tới cuối năm 2011. Nó tiết lộ là Stratfor đã cung cấp cho những hãng lớn như Dow Chemical và các hãng sản xuất vũ khí như Lockheed Martin, Raytheon và Northrop Grumman, và cả bộ Bảo vệ Quê hương và cơ quan tình báo Hoa Kỳ những tài liệu gián điệp mật. Ngoài ra Hammond và những kẻ đồng lõa theo như lời buộc tội đã lấy từ dữ liệu tín dụng để rút 700.000 Dollar (519.000 Euro). Với những tội trạng này Hammond đã bị xử 10 năm tù.
1
null
Hydra vulgaris là một loài thuộc chi thủy tức sống trong môi trường nước ngọt. Loài này hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi quá trình lão hóa. Đặc điểm. Nó có kích thước nhỏ khoảng 12mm với cơ thể hình ống có từ 4 đến 12 xúc tu, miệng và chân chứa chất dính. Loài này ăn bằng cách mở rộng các xúc tu và đợi thức ăn chạm các xúc tu này, sau đó đưa vào miệng. Sinh sản. H. vulgaris có thể sinh sản theo 3 cách chính đó là sinh sản hữu tính, ghép mắt, và gián tiếp thông qua việc tái sinh (sinh học).
1
null
Galina Vishnevskaya (1926–2012) là một ca sĩ opera soprano. Trong nhiều năm bà đã tham gia biểu diễn trên những sân khấu opera nổi tiếng trên thế giới như Nhà hát Bolshoi Moskva, các nhà hát opera Paris và Viên, Carnegie Hall New York. Cuộc đời và sự nghiệp của bà đầy thành công cũng như sóng gió. Trong những năm chiến tranh thế giới thứ hai, bà sống sót sau cuộc bao vây Leningrad. Lúc lên 16 tuổi, cô đã tham gia phục vụ tại một đơn vị phòng không. Với giọng hát bài bản được trời phú, vào cuối chiến tranh Galina Vishnevskaya đã được nhận vào Nhà hát operetta, nơi ngay lập tức bà trở thành một nghệ sĩ solo. Sau đó vài năm, ca sĩ tới công tác tại Nhà hát Bolshoi Moskva. Vishnevskaya là bạn đời trung thành của nghệ sĩ cello nổi tiếng Nga Mstislav Rostropovich, người cùng bà nhiều năm lưu diễn khắp thế giới. Vào thập niên 1970, nghệ sĩ Rostropovich đã phải rời khỏi Liên Xô trước những sách nhiễu của chính quyền do ông dũng cảm hỗ trợ nhà văn bị đàn áp Alexandr Solzhenitsyn. Sau năm 1991, cặp vợ chồng nghệ sĩ lừng danh lại trở về nước Nga mới.
1
null
Chu Dị (chữ Hán: 朱异, ? – 257), tên tự là Quý Văn, người huyện Ngô, quận Ngô, là tướng lĩnh nhà Đông Ngô đời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Cuộc đời và sự nghiệp. Văn tài nức tiếng, xuất thân cửa tướng. Ông cùng tuổi với Trương Thuần (con Trương Đôn), Trương Nghiễm, cả ba đều nổi tiếng có văn tài từ nhỏ. Khi trưởng thành, nhờ cha là Chu Hoàn có công mà được làm Lang. Năm Gia Hòa thứ 6 (237), nhân Chu Hoàn xưng bệnh mà về Kiến Nghiệp chữa trị, Chu Dị được phong làm Kỵ đô úy, tạm lãnh bộ khúc. Năm sau (238), Hoàn mất, ông được kế thừa bộ khúc và tước vị Gia Hưng hầu của cha. Bảo vệ biên thùy, chống quân Tào Ngụy. Năm Xích Ô thứ 4 (241), Chu Dị theo Chu Nhiên đánh Phàn Thành của nhà Tào Ngụy, hiến kế phá ngoại vi của thành, trở về được bái làm Thiên tướng quân. Lư Giang thái thú Văn Khâm của Ngụy đặt bản doanh ở Lục An, đặt nhiều đồn trại, án giữ nơi hiểm yếu, nhằm chiêu dụ người Ngô, hòng xâm phạm biên thùy. Ông tự soái 2000 thủ hạ, bất ngờ tập kích phá đi 7 đồn, chém mấy trăm thủ cấp, được thăng Dương vũ tướng quân. Tôn Quyền cùng Dị bàn luận việc tấn công nước Ngụy, đối đáp rất hợp ý. Quyền nói chú của ông là Phiêu kỵ tướng quân Chu Cứ rằng: "Vốn biết Quý Văn có nhiều dự định, gặp rồi lại thấy còn hơn những gì nghe được." Năm thứ 13 (250), Văn Khâm trá hàng, gửi mật thư cho Dị, muốn ông đi đón. Dị dâng thư lên Tôn Quyền, cho rằng đây là gian kế. Quyền lệnh cho ông cùng Lã Cứ đưa 2 vạn quân lên bắc để đón, nhưng phải phòng bị cẩn thận, Khâm quả nhiên không hàng. Bắc tiến thất bại, chết vì quyền thần. Năm Kiến Hưng đầu tiên (252), được thăng Trấn nam tướng quân. Tướng Ngụy là bọn Hồ Tuân, Gia Cát Đản tiến đánh Đông Hưng, Dị đốc thủy quân phá hủy cầu nổi, quân Ngụy tan vỡ. Năm sau, theo thái phó Gia Cát Khác vây Tân Thành. Quân Ngô mãi không hạ được thành, ông cùng chư tướng đều nói nên nhanh chóng quay về Dự Chương, tập kích thành Thạch Đầu, không quá vài ngày thì chiếm được. Khác viết thư giảng giải cho Dị, ông ném thư xuống đất nói: "Không dùng kế của ta, mà theo lời của thằng Hề!" Khác cả giận, lập tức đoạt lấy quân đội của Dị, ông bèn bỏ về Kiến Nghiệp. Năm Thái Bình thứ 2 (257), Gia Cát Đản phản Ngụy, đề nghị Đông Ngô liên minh. Chu Dị được phong làm Giả tiết, Đại đô đốc, lãnh binh cứu Gia Cát Đản, giải vây Thọ Xuân, thất bại quay về. Quyền thần Tôn Lâm mời gặp mặt, Lục Kháng can ngăn, ông nói: "Tử Thông (tên tự của Tôn Lâm) chỉ là tên đầy tớ, có gì phải lo?" bèn đi. Tôn Lâm sai lực sĩ bắt Chu Dị ngay tại chỗ ngồi, ông nói: "Ta là trung thần của nước Ngô, nào có tội gì?" rồi bị kéo ra ngoài sát hại.
1
null
Taxus baccata là một loài cây thường xanh thuộc họ Thanh tùng, và là loài bản địa ở phía Tây Trung và Nam Âu, phía tây Bắc Phi, phía bắc Iran và Tây Nam Á. Đây là loài cây ban đầu được biết với tên thanh tùng. So với các loài nổi tiếng khác có liên quan, loài này có tên phổ biến là Thanh tùng Anh hay Thanh tùng châu Âu. Cây được trồng chủ yếu làm cảnh. Đa số các bộ phận của cây có độc và nếu ăn phải lá có thể tử vong. Mô tả. Thanh tùng châu Âu là loại thanh tùng duy nhất mọc tự nhiên ở châu Âu, nó cũng là loại cây chịu đựng bóng tối nhất của châu Âu.
1
null
Taxus là một chi thông, cây lá kim nhỏ hoặc cây bụi trong họ Taxaceae. Chúng tương đối chậm phát triển và có thể sống rất lâu, và đạt được chiều cao 1–40 m, với đường kính thân cây lên đến 4 m. Loài và các giống lai. "Taxus x media" = "Taxus baccata" x "Taxus cuspidata" "Taxus x hunnewelliana" = "Taxus cuspidata" x "Taxus canadensis"
1
null
Khoa học hành tinh là ngành khoa học nghiên cứu về các hành tinh (bao gồm cả Trái Đất), vệ tinh tự nhiên, và các hệ hành tinh, đặc biệt là hệ Mặt Trời và các quá trình hình thành chúng. Nó nghiên cứu các thiên thể có kích thước từ vi thiên thạch đến các hành tinh khí khổng lồ, để xác định thành phần, động lực, sự thành tạo, mối tương quan và lịch sử của chúng. Đây là một ngành liên ngành, ban đầu xuất phát từ thiên văn học và khoa học Trái Đất, nhưng hiện nay cũng bao gồm nhiều ngành khác như thiên văn học hành tinh, địa chất học hành tinh (cùng với địa hóa học và địa vật lý), khoa học khí quyển, hải dương học, thủy văn học, khoa học hành tinh lý thuyết, băng hà học, và nghiên cứu các hành tinh ngoài hệ mặt trời. Lịch sử hình thành. Triết gia cổ đại người Hy Lạp Democritus đã đặt nền móng đầu tiên cho lịch sử hình thành của khoa học hành tinh, điều này đã được nhắc đến trong quyển sách HippolytusCác thế giới trật tự thì vô biên và đa dạng về kích thước, cũng không ngoại trừ mặt trăng và mặt trời,không chỉ có quy mô lớn hơn chúng ta mà còn có được thể hiện rất nhiều ở con số. Khoảng cách giữa các thế giới trật tự hoàn toàn không đều nhau, một số thì nhiều hơn còn một số thì lại ít hơn, một số thế giới phát triển, một số thì nở rộ nhưng số ít lại bị phân rã, và một ít thế giới đang được hình thành cũng như một số ít bị u mờ. Tất cả các thế giới không phát triển được hầu như đều bị phá hủy bỏi sự va chạm với một thế giới khác. Và số còn lại thì được hình thành với sự xuất hiện của động thực vật cùng với nguồn nước.Trong những khoảng thời gian tiên tiến hơn, khoa học hành tinh bắt đầu từ thiên văn học, đặc biệt là từ các nghiên cứu về các hành tinh không nhất định. Nhà thiên văn học hành tinh đầu tiên là Galileo, người mà đã có công khám phá ra bốn mặt trăng lớn nhất của Sao Mộc, những ngọn núi trên Mặt Trăng, và cái nhìn đầu tiên về Vành đai Sao Thổ, tất cả các đối tượng của các nghiên cứu chuyên sâu về sau. Nghiên cứu của Galileo về những ngọn núi trên mặt trăng vào năm 1609 bắt nguồn cho nghiên cứu về các phong cảnh bên ngoài Trái Đất: sự quan sát của ông ấy "rằng Mặt Trăng không hề sở hữu một bề mặt trơn tru và láng mịn" mà gợi ý rằng nó và các hành tinh khác cũng có thể hiện diện "như là bề mặt của Trái Đất". Những tiến bộ trong việc cấu thành nên kính thiên văn và độ phân giải của các dụng cụ đo đã từng bước cho phép chúng ta tăng dần sự nhận diện về bầu khí quyển và chi tiết bề mặt của các hành tinh. Ban đầu, Mặt Trăng được coi là đối tượng được nghiên cứu nhiều nhất, bởi vì các chi tiết được lộ rõ trên bề mặt của nó, cũng như là khoảng cách tương đối với Trái Đất, sự tiến bộ về kĩ thuật đã dần tạo ra kiến thức địa chất Mặt Trăng một cách chi tiết hơn. Trong quá trình khoa học, dụng cụ chính thường là Kính viễn vọng quang học (và sau đó là Kính viễn vọng vô tuyến) và cuối cùng là người máy thám hiểm tàu vũ trụ. Hệ Mặt Trời đã trở thành một đối tượng nghiên cứu tốt, được hiểu biết một cách tổng thể vầ sự hình thành và phát triển của hệ hành thi còn đang tồn tại. Tuy nhiên, vẫn còn đó một lượng lớn câu hỏi chưa giả quyết được, và tỷ lệ của những khám phá mới đang ngày càng nhiều, một phần là do số lượng lớn các tàu vũ trụ liên hành tinh đang khám phá về hệ Mặt Trời. Quy Luật. Khoa học hành tinh nghiên cứu về thiên văn học, địa chất học (địa chất hành tinh) mà có thể quan sát được hoặc mang tính chất lý thuyết, khoa học khí quyển, và các chuyên khoa mới nổi trong Đại dương hành tinh. Thiên văn học hành tinh. Đây là khoa học mang tính chất quan sát và lý thuyết. Các nhà nghiên cứu quan sát chủ yếu quan tâm đến các nghiên cứu về các cơ quan nhỏ của Hệ Mặt Trời: có thể quan sát bởi kính viễn vọng, bao gồm quang học và vô tuyến, vậy nên các tính chất của các cơ quan như hình dạng, vòng quay, các vật liệu bề mặt và thời tiết đã được xác định, và lịch sử về sự hình thành và phát triển có thể được xác định. Lý thuyết thiên văn học hành tinh thiên về động lực học: Sự ứng dụng của các nguyên tắc về cơ học thiên thể vào Hệ Mặt Trời và hệ hành tinh ngoài Hệ Mặt Trời. Mỗi hành tinh đều sở hữu vấn đề của nó. Hành tinh: Vấn đề: Được tên theo (Chú thích: Những cụm từ dưới đây thường ít được dùng) Địa chất học hành tinh. Các chủ đề nghiên cứu nổi tiếng về địa chất học hành tinh giải quyết về các cơ quan trong các hành tinh lân cận với Trái Đất: Mặt Trăng, và hai hành tinh gần với Trái Đất nhất: Sao Kim và Sao Hỏa. Trong số đó, Mặt Trăng là đối tượng được nghiên cứu đầu tiên, sử dụng các phương pháp được phát triển trên Trái Đất. Địa mạo học. Địa mạo học nghiên cứu về các khía cạnh trên bề mặt của các hành tinh và tái cấu trúc lịch sử hình thành nên các quá trình vật lí tác động lên bề mặt của các hành tinh. Địa mạo học hành tinh thường bao gồm các nghiên cứu về một số loại khía cạnh trên bề mặt hành tinh: Lịch sử về bề mặt hành tinh có thể được giải mã bằng cách vạch ra các khía cạnh và hoạt động từ trên xuống dưới dựa vào trình tự lắng đọng của chúng, xác định lớp địa tầng bởi Nicolas Steno.Việc vẽ bản đồ địa tầng được Apollo phi hành gia chuẩn bị cho các vấn đề thực địa trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu trên Mặt Trăng. Các chuỗi chồng chéo được xác định qua chương trình quỹ đạo Mặt Trăng, ứng dụng cho cột địa tầng và bản đồ dịa chất của Mặt Trăng. Hóa học vũ trụ, địa hóa học và thạch luận. Một trong những vấn đề quann trọng khi đưa ra giả thuyết về sự hình thành và phát triển của một sự vật trong Hệ Mặt Trời là việc thiếu hụt dẫn chứng được phân tích trong các trung tâm nghiên cứu, được trang bị đầy đủ về dụng cụ cũng như kiến thức về địa chất mặt đất, để có thể đem ra so sánh. Các mẫu vật lấy trực tiếp từ Mặt Trăng, các tiểu hành tinh và Sao Hỏa được đem về Trái Đất, được bóc tách từ các hành tinh mẹ và vận chuyển như các thiên thạch. Một số chúng đã vượt qua các lớp hóa chất từ quá trình oxy hóa khử của bầu khí quyển trên Trái Đất và sự thẩm thấu của sinh quyển, tuy nhiên các thiên thạch chỉ được thu thập trong những thập kỉ gần đây từ Châu Nam cực và vẫn còn rất thô sơ. Sự khác nhau của các thiên thạch đến từ việc vành đai tiểu hành tinh bao bọc lấy toàn bộ các thành phần cấu trúc của cơ quan của hành tinh: các thiên thạch còn đến từ điểm gián đoạn Gutenberg (pallasite). Sự kết hợp của địa hóa học và thiên văn học quan sát có thể để lại dấu vết của thiên thạch HED trên một thiên thạch cụ thể trong vành đai chính, 4 Vesta. Thiên thạch Martian mang đến một cái nhìn sâu sắc về hợp chất địa hóa học bên trong lớp vỏ Martian, mặc dù không thể tránh được việc thiếu hụt thông tin về khởi điểm của bề măt phong phú của Martian. Điều đó thể hiện rằng những giới hạn trong lý thuyết về sự phát triển thạch quyển của Martian. 65 mẫu vật từ thiên thạch Martian đã được khám phá trên Trái Đất vào ngày 24 tháng 7 năm 2013(phần lớn ở Châu Nam cực và sa mạc Sahara). Trong suốt kỉ nguyên Apollo, trong Chương trình Apollo, 384 kilograms đá mặt trăng được thu thập vào chuyển về Trái Đất, và 3 người máy Mặt trăng của Xô Viết cũng đã vận chuyển mẫu vật của lớp đất mặt từ Mặt Trăng, cung cấp bản ghi chép toàn diện nhất về các thành phần trong bất cứ cơ quan Hê Mặt Trời bên cạnh Trái Đất(số lượng các thiên thạch đang tăng dần trong nhiều năm lại đây).: 54 thiện thạch chính thức được xác nhận là từ Mặt Trăng,11 trong đó đến châu Nam cực của Mỹ, 6 đến từ châu Nam cực của Nhật Bản,những mẫu còn lại từ Châu Phi, Úc, Trung đông. Tổng khối lượng khoảng 50 kg. Địa vật lí. Thăm dò không gian mang lại khả năng thu thập dự liệu không chỉ những vùng có ánh sáng chiếu đến mà còn ở những nơi có phổ điện từ. Các hành tinh thường được nhận biết bởi những trường lực của nó (trọng lực và từ trường là hai chủ đề được khai thác và nghiên cứu thông qua địa vật lí và vật lí không gian. Đo lường sự thay đổi trong gia tốc được thực hiện bởi tàu vũ trụ khi quỹ đạo của tàu vũ trụ đi vào đúng những trường hấp dẫn của hành tinh cần đo lường. nhũng năm 1970, trường hấp dẫn làm rung động bên trên biển mặt trăng, được xác định thông qua quỹ đạo của Mặt Trăng, dẫn đến sự khám phá ra nồng độ khối lượng, mascons,nằm bên dưới các lưu vực Imbrium, Serenitatis, Crisium, Nectaris and Humorum. Nếu từ trường của một hành tinh phát ra đủ mạnh thì tương tác giữ nó và gió mặt trời sẽ tạo nên từ quyển bao lấy xung quanh hành tinh đó. Từ rất sớm, những chuyến thăm dò không gian đã tìm ra các chiều của các từ trường mặt đắt, thường kéo dài khoảng 10 lần bán kính Trái Đất đến Mặt Trời. Gió mặt trời, một luồng các hạt tích điện, chảy ra và xung quanh từ trường mặt đất, tiếp tục chảy ra sau đuôi từ quyển, một trăm lần bán kính trái Trái Đất xuôi dòng. Bên trong từ quyển là một vùng dày đặc chứa các hạt gió mặt trời, Vành đai bức xạ Van Allen. Địa vật lý bao gồm Địa chấn học và Vật lí kiến tạo, Địa vật lí cơ lưu chất, Vật lí khoáng vật, Địa động lực học, Địa vật lí toán học, và Khảo sát địa vật lí. Trắc địa hành tinh, hay còn gọi là Trắc địa học hành tinh xử lí các vấn đê liên quan đến đo lường và trình bày một hành tinh trong hệ mặt trời, Trường hấp dẫn và hiện tượng địa động lực(chuyển động cực không gian 3 chiều, không gian phương sai thời gian). Khoa học trắc địa là nền tảng cho vật lí không gian cũng như khoa học hành tinh. Hình dạng của Trái Đất phần lớn là kết quả từ sự tự quay của nó, gây phình to ở xích đạo, và sự cạnh tranh giữa các quá trình địa chất như sự va chạm giữa các mảng, giữa các núi lửa, bị chống lại bởi các trường hấp dẫn của Trái Đất. Những nguyên tắc này có thể áp dụng trân bề mặt rắn của Trái Đất (kiến tạo sơn); Một số ngọn núi cao hơn , một số rãnh biển thì sâu hơn thế. Chẳng hạn, một ngọn núi cao sẽ phải sinh ra rất nhiều áp lực tại chân núi đó mà có thể biến đá thành chất dẻo,và ngọn núi sẽ sụp xuống một độ cao khoảng trong một khoảng gian địa lý bình thường(giai đoạn). Một vài hoặc tất cả nguyên tắc có thể áp dụng vào các hành tinh ngoài Trái Đất. Trên Sao Hỏa, nơi có trọng lực bề mặt nhỏ hơn rất nhiều so với Trái Đất,có núi lửa cao nhất, Olympus Mons, khoảng tại đỉnh của nó, một độ cao không thể duy trì ở Trái Đất. Khảo sát và vẽ bản đồ là hai mảng quan trọng trong trắc địa học. Khoa học khí quyển. Khí quyển là khu vực chuyển tiếp quan trọng giữa lớp bề mặt rắn của hành tinh và vành đai ion hóa cao hơn. Không phải hành tinh nào cũng có kí quyển:Sự tồn tại của chúng phụ thuộc vào khối lượng của hành tinh và khoảng cách quá xa giữa chúng tới Mặt Trời tạo nên bầu khí quyển bị đóng băng. Bên cạnh hành tinh khí khổng lồ, hầu như tất cả hành tinh đất đá (Trái Đất, Sao Kim, và Sao Hỏa) sở hữu bầu khí quyển dồi dào. Ngoài ra, mặt trăng của Sao Thổ, mặt trăng của vệ tinh Titan và Sao Hải Dương có một lượng khí quyển rất lớn Triton. Bên cạnh đó, một lớp khí quyển mỏng cũng bao quanh Sao Kim. Những hiệu ứng từ tỷ lệ tự quay của một hành tinh trên trục của nó có thể hiện qua dòng chảy khí quyển. Từ góc độ không gian, những khía cạnh này cho thấy rằng cái đai và lốc xoáy trong hệ thống đám mây, chỉ có thể thấy được ở sao Mộc và sao Thổ. Khoa học hành tinh so sánh. Khoa học hành tinh thường sử dụng những phương pháp so sánh để có cái nhìn chuyên sâu hơn trong một sự vật của đề tài nghiên cứu. Các sự so sánh chủ yếu: mật độ trong khí quyển của mặt trăng của Trái Đất và mặt trăng của Sao Thổ, sự phát triển của các đối tượng bên ngoài Hệ mặt trời tùy vào khoảng cách từ chúng đến Mặt Trời, hoặc địa mạo trên bề mặt của các hành tinh đất đá. Các đối tượng thường được so sánh với các khía cạnh trên Trái Đất bởi vì độ khả thi của các phương pháp khi được thực hiện trên Trái Đất. (các nghiên cứu: địa chất hành tinh, địa mạo học, khoa học khí quyển) Việc sử dụng phương pháp tương tự đã được mô tả lần đầu bởi Gilbert (1886). Hoạt động chuyên nghiệp. Hội nghị chuyên môn. Hằng năm các hội nghị về chủ đề cụ thể được tổ chức trên toàn thế giới. Viện nghiên cứu chuyên môn. Các viện nghiên cứu và trường đại học có chuyên môn về khoa học hành(theo thứ tự chữ cái)
1
null
Huawei U8800 Ideos X5 là một điện thoại di động tầm trung sử dụng hệ điều hành Android 2.2 (có bản nâng cấp chính thức lên 2.3 ). Máy được hãng Huawei phát hành vào tháng 3 năm 2011. Hiện máy đang được trang web xda hỗ trợ phát triển.với rất nhiều phiên bản như 2.2, 2.3, 4.0, 4.1, 4.2, 4.3, 4.4, 5.0 (CyanogenMod 12). Cấu hình phần cứng. Thông tin chung. U8800 có cấu hình trung bình vào thời điểm ra mắt với màn hình 3,8" độ phân giải 480 x 800 pixel (5:3), RAM 512MB và chip đơn nhân 0,8 GHz. Tuy nhiên, so với thời điểm hiện tại thì cấu hình trên là thuộc top yếu. Máy có thiết kế bo tròn trên và dưới, rất khác so với các loại máy khác. Các phiên bản máy. U8800. Là phiên bản đầu tiên của dòng máy, chạy chip Qualcomm 0,8 GHz U8800 PRO. Phần cứng giống hệt U8800, trừ chip được nâng cấp lên 1 GHz U8800H. Là phiên bản được sử dụng cho thị trường HongKong, sử dụng HSPA+ (U8800 sử dụng HSPA) U8800-51. Là phiên bản được bán ở một số thị trường nhất định, sử dụng 4G - LTE Các phiên bản hệ điều hành. Bản chính thức. Froyo (Android 2.2) Ginger Bread 2.3 (Android 2.3.5) Bản tuỳ biến. Dựa trên bản ROM gốc. Ginger Bread (Android 2.3.5) Ice Cream Sanwich (Android 4.0.4) (chuyển từ Huawei Honor) CyanogenMod. Đây là loại ROM có nhiều phiên bản nhất CM7.2 (Android 2.3) CM9 (Android 4.0.4) CM10 (Android 4.1.2) CM10.1 (Android 4.2.2) CM11 (Android 4.4.4) CM12 (Android 5.0.2) MIUI (XiaoMi). MIUI V3 (Android 2.3) MIUI V4 (Android 4.0.4) MIUI V5 (Android 4.1.2) Mokey OS. Mokey 23.1 (Android 2.3) Mokey 42.2 (Android 4.2.2) Moonlight OS. Moonlight OS dựa trên Android 4.2.2 BeanTalk OS. Beantalk OS dựa trên Android 4.3 Lewa OS (Lewa Moblie Ltd.). Dựa trên Android 2.3 Flyme OS (Meizu). Flyme OS 4 (Android 4.0.4)
1
null
Loricariidae là họ cá da trơn lớn nhất (bộ Siluriformes), với 92 chi và hơn 680 loài cho đến nay, với các loài mới được miêu tả mỗi năm. Loricariidae có nguồn gốc từ môi trường sống nước ngọt của Costa Rica, Panama, và nhiệt đới và cận nhiệt đới Nam Mỹ.
1
null
Mạch điện RLC (hoặc mạch LCR, mạch CRL hay mạch RCL) là một mạch điện gồm một điện trở, một cuộn cảm và một tụ điện, mắc nối tiếp hoặc song song. Các chữ cái RLC là những ký hiệu điện thông thường tương ứng với trở kháng, điện cảm và điện dung. Mạch tạo thành một dao động điều hòa cho dòng điện và cộng hưởng giống như mạch LC. Điểm khác biệt chính là có điện trở sẽ làm tắt dần dao động nếu như mạch không có nguồn nuôi. Một mạch bất kỳ luôn luôn tồn tại trở kháng ngay cả khi mạch không có điện trở. Mạch LC lý tưởng không trở kháng là một mô hình trừu tượng chỉ sử dụng trong lý thuyết. Mạch RLC có nhiều ứng dụng. Chúng được sử dụng trong nhiều loại mạch dao động khác nhau. Một ứng dụng quan trọng là mạch điều chỉnh, chẳng hạn như trong các bộ thu phát radio hoặc truyền hình (rà đài), được sử dụng để lựa chọn một dải tần hẹp của sóng vô tuyến từ môi trường xung quanh. Mạch RLC có thể được sử dụng như một bộ lọc thông dải (band-pass), bộ lọc chặn dải (band-stop), bộ lọc thông thấp hay bộ lọc thông cao. Ứng dụng trong mạch điều chỉnh là một ví dụ của bộ lộc thông dải. Bộ lọc RLC được mô tả như là một mạch bậc hai, có nghĩa là điện áp hoặc cường độ dòng điện tại thời điểm bất kỳ trong mạch có thể được biểu diễn bằng một phương trình vi phân bậc hai khi phân tích mạch. Mạch RLC mắc nối tiếp. Trong mạch này các thành phần điện trở, cuộn cảm và tụ điện được mắc nối tiếp với nhau và nối vào một nguồn điện áp. Phương trình biến thiên có thể được tính bằng định luật Kirchhoff về điện thế: với formula_2 là điện áp tương ứng giữa 2 đầu của R, L và C và formula_3 là điện áp nguồn biến thiên theo thời gian. Biến đổi các đại lượng trong phương trình, Trong trường hợp điện áp nguồn không thay đổi, lấy vi phân và chia 2 vế cho L, sẽ cho ra một phương trình vi phân bậc 2: Phương trình này thường được biểu diễn dưới dạng: formula_7 và formula_8 có đơn vị như tần số góc. formula_7 gọi là "tần số neper" là đại lượng đặc trưng cho tốc độ tắt của dao động trong mạch nếu nguồn cấp không còn. Gọi là tần số neper vì nó có đơn vị là neper/giây (Np/s), neper là đơn vị của suy giảm. formula_8 là tần số góc cộng hưởng. Đối với mạch RLC mắc nối tiếp, thì 2 đại lượng này được tính bởi công thức: Một thông số hữu ích là "hệ số suy giảm" (hệ số tắt), formula_13 được định nghĩa là tỷ số của 2 đại lượng này: Đối với mạch RLC mắc nối tiếp, thì hệ số suy giảm như sau: Giá trị của hệ số suy giảm xác định kiểu tắt dao động của mạch. Một vài tác giả không dùng formula_16 mà gọi hệ số suy giảm là formula_7. Đáp ứng quá độ. Phương trình vi phân của mạch tùy thuộc vào ba loại giá trị của formula_18, tương ứng với đáp ứng dưới tắt dần (formula_19; underdamped), đáp ứng xung tắt dần (formula_20; overdamped) và đáp ứng tắt dần tới hạn (formula_21; critically damped). Phương trình vi phân này có phương trình đặc trưng như sau: Nghiệm "s" của phương trình: Ứng với mỗi giá trị của "s" ta có đáp ứng tự nhiên formula_25 và formula_26, cho nên đáp ứng quá độ của dòng điện là: Đáp ứng tắt dần. Đáp ứng tắt dần (formula_20), Đáp ứng tắt dần là một sự giảm suất của dòng quá độ không dao động. Đáp ứng dưới tắt dần. Đáp ứng dưới tắt dần (formula_19), Áp dụng tính chất lượng giác, hai hàm lượng giác có thể biến đổi thành 1 hàm sin duy nhất với pha dịch chuyển, Đáp ứng dưới tắt dần là một dao động giảm suất tại tần số formula_33. Dao động giảm suất với tốc độ tắt dần xác định bởi formula_34. Số mũ formula_34 biểu diễn đường bao của dao động. "B"1 và "B"2 (hoặc "B"3 và pha dịch chuyển formula_36 trong công thức thứ 2) là những hằng số tùy ý được xác định bởi điều kiện biên. Tần số formula_33 được tính bởi công thức, Nó được gọi là tần số cộng hưởng tắt dần hay tần số tắt dần tự nhiên, là tần số mà mạch điện sẽ tự dao động nếu không có nguồn nuôi bên ngoài. Tần số cộng hưởng, formula_39, là tần số mà mạch điện sẽ cộng hưởng với một dao động bên ngoài, thường được gọi là tần số cộng hưởng không tắt dần để phân biệt. Đáp ứng tắt dần tới hạn. Đáp ứng tắt dần tới hạn (formula_21), Đáp ứng tắt dần tới hạn cho thấy mạch điện quá độ suy giảm trong một khoảng thời gian nhanh nhất có thể mà không dao động. Đặc tính này rất quan trọng trong những hệ thống điều khiển, vì nó có thể đạt đến trạng thái mong muốn mà không bị vượt quá. "D"1 và "D"2 là những hằng số tùy ý xác định bởi điều kiện biên. Miền Laplace. Mạch RLC nối tiếp có thể được phân tích cho cả dòng không đổi lẫn dòng biến đổi đều bằng cách sử dụng phép biến đổi Laplace. Nếu nguồn điện ở trên có điện áp biến đổi dạng sóng với biến đổi Laplace "V"("s") ("s" là tần số phức formula_42), có thể áp dụng định luật Kirchhoff 2 trong miền Laplace: với "I"("s") là dòng biến đổi Laplace chạy qua tất cả các thành phần. Tính "I"("s"): Sắp xếp lại, ta có: Tổng dẫn Laplace. Tính tổng dẫn Laplace "Y"("s"): Đơn giản hóa bằng cách sử dụng các tham số α và ωo đã được định nghĩa trong phần trước, ta có: Điểm cực và điểm không. Điểm không của "Y"("s") là những giá trị "s" làm cho formula_48: Điểm cực của "Y"("s") là những giá trị "s" làm cho formula_50. Giải phương trình bậc hai, ta tìm được Các cực của "Y"("s") giống như các nghiệm formula_52 và formula_53 của đa thức đặc trưng của phương trình vi phân ở trên. Công thức tổng quát. Đối với nguồn "E(t)" bất kỳ, sử dụng phép biến đổi nghịch cho "I(s)": với formula_60, cosh và sinh là các hàm hyperbolic thông thường. Trạng thái ổn định hình sin. Trạng thái ổn định hình sin được biểu diễn bằng cách cho formula_61 Thế vào phương trình ở trên và lấy độ lớn: Cường độ dòng điện là một hàm theo "ω", tính bằng công thức: Có một giá trị cực đại của formula_64. Giá trị của "ω" tại cực trị bằng tần số cộng hưởng tự nhiên không tắt dần: Mạch RLC song song. Các tính chất của mạch RLC song song có thể được tính bằng quan hệ đối ngẫu của mạch điện, thông qua biến đổi trở kháng đối ngẫu từ mạch song song sang mạch nối tiếp RLC và áp dụng các công thức của mạch nối tiếp ở trên. Đối với mạch song song, ta tính được tốc độ tắt dần "α" bằng công thức: và hệ số suy giảm: Đây là nghịch đảo của "ζ" trong mạch nối tiếp. Tương tự như thế ta cũng tính được hệ số phẩm chất "Q" và băng thông tỉ lệ: Miền tần số. Tổng dẫn phức của mạch song song là tổng độ dẫn nạp của các thành phần: Sự thay đổi từ mạch nối tiếp sang mạch song song dẫn đến trong mạch xuất hiện một trở kháng cực đại lúc cộng hưởng chứ không phải là cực tiểu, do đó mạch chống lại cộng hưởng. Đồ thị bên cho thấy có một cực tiểu trong đáp ứng tần số của dòng điện ở tần số cộng hưởng formula_70 khi mạch được cấp bởi một điện áp không đổi. Mặt khác, nếu mạch được cấp bởi một nguồn dòng không đổi, sẽ có cực đại trong điện áp tương tự như đồ thị của mạch nối tiếp. Các dạng khác. Một điện trở mắc nối tiếp với cuộn cảm trong mạch song song LC như hình 7 là một cấu trúc phổ biến thường thấy khi phân tích điện trở có trong cuộn cảm. Mạch song song LC thương được dùng trong mạch lọc thông dải ("band pass filer") và hệ số phẩm chất Q phần lớn bị ảnh hưởng bởi điện trở này. Tần số dao động của mạch là, Đây là tần số cộng hưởng của mạch được định nghĩa là tần số ứng với khi tổng dẫn có phần ảo bằng không. Tần số mà xuất hiện trong dạng tổng quát của phương trình đặc trưng dưới đây: không phải là tần số cộng hưởng ở trên. Trong trường hợp này nó là tần số cộng hưởng tự nhiên không tắt dần. Tần số formula_74 ứng với khi độ lớn của trở kháng là tối đa được cho bởi công thức, với formula_76 là hệ số phẩm chất của cuộn dây. Công thức này có thể tính xấp xỉ, Độ lớn trở kháng cực đại, Với giá trị formula_79, thì công thức này có thể tính gần đúng, Lịch sử. Bằng chứng đầu tiên cho thấy một tụ điện có thể tạo ra dao động điện được nhà khoa học người Pháp Felix Savary phát hiện vào năm 1826. Ông nhận thấy rằng khi một chai Leyden được tháo điện ra một dây dẫn quấn xung quanh một kim sắt, thì kim sắt bị từ hóa và tạo ra từ trường đổi hướng qua lại. Ông suy luận chính xác hiện tượng này là do một dao động tắt dần trong dây dẫn, làm đảo ngược sự từ hóa của kim qua lại cho đến khi nó nhỏ dần đến mất tác dụng, và để lại kim bị từ hóa theo một hướng ngẫu nhiên. Năm 1842, nhà vật lý người Mỹ Joseph Henry lặp đi lặp lại thí nghiệm của Savary và cũng đi đến kết luận tương tự, gần như một cách độc lập. Khoa học gia người Anh William Thomson (Lord Kelvin) vào năm 1853 cho thấy một cách chính xác rằng việc xả một chai Leyden ra một cuộn cảm sẽ tạo ra dao động, và đã tính được tần số cộng hưởng của nó.
1
null
Lmg-Pist 41/44 (Leichtes Maschinengewehr Pistole) thường được gọi là súng tiểu liên Furrer là loại súng tiểu liên được phát triển bởi Rudolf Furrer tại nhà máy vũ khí Waffenfabrik Bern ở Thụy Sĩ. Súng được sản xuất để quân đội thử nghiệm năm 1941 với tên Lmg-Pist 41 cùng 4 mẫu khác. Về cơ bản thì súng chắc chắn đã được thông qua để đưa vào phục vụ vì nó có thiết kế khá giống khẩu Furrer M25 vốn đã được chứng minh trong trực chiến. Nhưng loại súng này bị thấy là quá rắc rối và chi phí chế tạo cao vì thế chỉ có ít khẩu được chế tạo trước năm 1944. Sau năm 1944 mẫu cải tiến có tên Lmg-Pist 41/44 đã được chế tạo. Dù được cải tiến nhưng nó vẫn rất phức tạp và đắt so với các khẩu tiểu liên cùng thời vì thế chỉ có 10.000 khẩu được chế tạo trước khi nhà máy chuyển sang chế tạo MP 43/44 ít phức tạp và giá phải chăng hơn. Dù vậy loại súng này vẫn phục vụ trong lực lượng quân đội Thụy Sĩ đến cuối những năm 1960 hay lâu hơn. Thiết kế. Lmg-Pist 41/44 sử dụng cơ chế nạp đạn bằng độ giật lùi nòng ngắn và bắn với thoi nạp đạn mở. Nòng súng cũng được giữ ở vị trí lùi ngắn về phía sau khi thoi nạp đạn chưa di chuyển lên phía trước. Thoi nạp đạn được khóa bởi một khóa dạng khớp nối với ba phần, phần đầu có gờ chống vào phần sau thoi nạp đạn, phần cuối sẽ nằm ở vị trí góc gần 90° so với các phần khác khi trong chế độ nạp đạn. Khi thoi nạp đạn lùi về phía sau thì phần thứ hai sẽ bẻ góc gần 90° làm cho hệ thống trông gần gống như chữ U nhưng hơi phình ra ở dưới làm cho gờ phần đầu bật ra khỏi thoi nạp đạn và mở khóa. Nòng và thoi nạp đạn dính với nhau qua một hệ thống chứ chúng không đơn thuần là chỉ khóa vào nhau khi hoạt động. Việc này có nghĩa là chuyển động của thoi nạp đạn hoàn toàn phụ thuộc vào chuyển động của nòng chứ không phải lấy lực rồi chuyển động tự do và nó được thiết kế để thoi nạp đạn lùi nhanh và xa hơn nòng súng. Hệ thống này giúp đảm bảo tính đồng bộ trong chuyển động và tăng độ tin cậy vì toàn bộ lực lùi nòng sẽ được sử dụng để hệ thống hoạt động. Nhưng bù lại hệ thống này làm cho cấu tạo của súng trở nên rắc rối và tăng chi phí sản xuất. Nó bị xem là quá nhiều chi tiết cho một loại súng tiểu liên. Hệ thống nhắm cơ bản của súng là điểm ruồi. Hộp đạn rời 40 viên gắn ngang phía bên phải súng và vỏ đạn sẽ được nhả ra phía trái.
1
null
Bingsu (), đôi khi được viết là bingsoo, là một món tráng miệng đá bào phổ biến ở Triều Tiên, đặc biệt là vào thời tiết nóng ẩm. Nó có xuất xứ từ món đá bào kakigori (かき氷) của Nhật Bản. Ban đầu "patbingsu" được làm từ đá bào và đậu đỏ ("pat", 팥) và được bán ở các quán hàng rong. Ngày nay nó đã trở thành một món tráng miệng công phu với kem lạnh, sữa chua đông lạnh, sữa đặc có đường hoặc siro và nhiều loại hoa quả như dâu tây, kiwi, chuối, cũng như bánh "tteok", thạch và ngũ cốc. Biến thể. "Bingsu" có nhiều vị khác nhau mà phổ biến hơn cả là trà xanh và cà phê. Mùa hè năm 2007, Starbucks Hàn Quốc đã cho ra mắt một loại frappuccino lấy cảm hứng từ "patbingsu". Mức độ phổ biến. "Patbingsu" là một món mùa hè trong thực đơn của hầu hết các nhà hàng đồ ăn nhanh tại Hàn Quốc. KFC, McDonald's, Lotteria, và Burger King thường phục vụ "patbingsu" từ tháng 5 đến tháng 9. "Patbingsu" còn rất phổ biến ở các jjimjilbang. "Patbingsu" cũng xuất hiện ở các tiệm cà phê tại phố người Hàn của New York, Los Angeles và Atlanta. Patbingsu xuất hiện nhiều tại Hà Nội và Hồ Chí Minh, chủ yếu theo mô hình nhượng quyền như Okbingsul, brobingsu, snow island hoặc các quán do người Hàn sống tại Việt Nam lập ra.
1
null
"The Little Drummer Boy" là một ca khúc Giáng sinh rất phổ biến. Ca khúc lần đầu được thu âm năm 1955 bởi nhóm Trapp Family Singers. Năm 1958, bản thu âm của Harry Simeone Chorale đưa bài hát trở nên nổi tiếng. Trong những năm tiếp theo, phiên bản này đã được nhiều lần phát hành lại thành công, và sau đó được thu âm lại bởi rất nhiều nghệ sĩ. Đến nay trên 200 bản thu của "The Little Drummer Boy" đã được biết bằng 7 thứ tiếng với nhiều thể loại khác nhau. Tại các nước nói tiếng Tây Ban Nha, bài hát này phổ biến dưới cái tên "El niño del tambor" (Cậu bé trống) hoặc "El tamborilero".
1
null
"Santa Claus Is Comin' to Town" là một bài hát nhạc Giáng sinh. Bài hát được sáng tác bởi John Frederick Coots và Haven Gillespie năm 1934, được thu âm lần đầu cùng năm. Kể từ khi ra mắt, nhiều nghệ sĩ đã thu âm lại bài hát này, trong đó các phiên bản nổi tiếng có Bruce Springsteen, Chicago, Dolly Parton, The Jackson 5 (1970), Mariah Carey (1994) và the Beach Boys (1964).
1
null
Trong mạch điện, định luật Kirchhoff là hai phương trình để mô tả mối quan hệ của cường độ dòng điện và điện áp. Các định luật này được Gustav Kirchhoff xây dựng vào năm 1845. Định luật Kirchhoff về cường độ dòng điện. Định luật này còn được gọi là định luật Kirchhoff 1 (K1) hay định luật bảo toàn điện tích tại một nút, gọn lại là định luật nút. Nguyên lý về bảo toàn điện tích bao hàm ý: Công thức: với "n" là tổng số các nhánh với dòng điện chạy vào nút hay từ nút ra. Công thức theo dòng phức: Định luật Kirchhoff về điện thế. Định luật này còn gọi là định luật Kirchhoff 2 (K2) hay định luật bảo toàn điện áp trong một vòng, gọn lại là định luật vòng kín. Cũng như định luật K1, định luật K2 phát biểu: Công thức: với "n" là tổng số các điện áp được đo. Công thức theo điệp áp phức: Ví dụ. Ví dụ mạch gồm 3 điện trở và 2 nguồn như hình: Theo định luật 1, ta có: Định luật 2 áp dụng cho vòng "s"1: Định luật 2 áp dụng cho vòng "s"2: Đến đây ta có hệ phương trình tuyến tính cho 3 ẩn số formula_8: Giả sử: kết quả: formula_12 mang dấu âm vì hướng của formula_12 ngược với hướng giả định trong hình.
1
null
Nhà hát Benaroya là nhà của dàn nhạc giao hưởng Seattle Symphony nằm ở khu trung tâm thành phố cảng Seattle, Washington, Hoa Kỳ. Nhà hát đặc trưng với 2 khán phòng: Khán phòng Quỹ S. Mark Taper, một phòng trình diễn 2500 ghế ngồi cùng với Hội trường Độc tấu Nordstrom, sức chứa khoảng 500 chỗ. Được mở vào tháng 9 năm 1998 với chi phí 120 triệu Đô la Mỹ, nhà hát Benaroya nhanh chóng được chú ý bởi công nghệ truyền âm tiên tiến, những nét sang trọng cùng với địa thế chính yếu giữa một phức hợp các công trình phối hợp hoàn hảo tại khu vực trung tâm thành phố. Nhà hát Benaroya nhìn ra 4 mặt tiền ngay giữa trung tâm Seattle và đã giúp cho dàn nhạc Seattle Symphony tăng gấp đôi ngân sách cùng số lượng buổi biểu diễn. Đại sảnh nhà hát trưng bày một bô sưu tập lớn tác phẩm thủy tinh, chẳng hạn như tác phẩm "Crystal Cascade " của nghệ sĩ danh tiếng thế giới Dale Chihuly. Nhà hát Benaroya được đặt tên theo nhà hảo tâm nổi tiếng Jack Benaroya. Số tiền 15,8 triệu USD của ông là khoản đóng góp đầu tiên cũng như lớn nhất trong rất nhiều đóng góp xây dựng công trình. Nhà hát được thiết kế bởi công ty LMN Architects thành Seattle, và đã được trao giải thưởng Danh dự Quốc gia bởi Viện kiến trúc Hoa Kỳ năm 2001. Nhà quản lý cấu trúc dự án là công ty Magnusson Klemencic Associates. Tòa nhà nằm ngay phía trên đường hầm ngầm bên dưới khu trung tâm Seattle của mạng lưới đường sắt BNSF Railway. Đường hầm này là hành lang đường sắt chính của thành phố và kế cận với đường xe điện ngầm của khu trung tâm. Hội trường biểu diễn được cách âm khỏi tiếng động xe cộ dưới đường hầm cũng như ở đường phố bên ngoài bằng cách nằm tựa lên trên các tấm cao su, cách biệt nhà hát khỏi lớp vỏ ngoài của tòa nhà. Và cũng chính đặc tính cách âm này cũng giúp nó giảm nhẹ thiệt hại trước bất kì trận động đất có thể xảy ra nào.
1
null
Hypostominae là một phân họ cá da trơn (bộ Siluriformes) của họ Loricariidae. Nghiên cứu tiến hành với các đại diện của một số chi của Hypostominae cho thấy, trong nhóm này, số lưỡng bội 2n = dao động từ 2n = 52 tới 2n = 80. Tuy nhiên, sự đa dạng nhiễm sắc của họ Loricariidae hay phân họ Hypostominae hầu như chỉ giới hạn trong chi "Hypostomus", và các loài từ chi khác có số lượng lưỡng bội được bảo tồn.
1
null
Người Zo'é là một bộ lạc sinh sống ở khu vực Amazon Brasil. Người Zo'é (cũng được gọi là Zo'é hoặc Bộ lạc kết hôn) là bộ lạc bản địa bang Pará, khu tự quản Óbidos, bên sông Cuminapanema, Brasil. Họ là một dân tộc Tupi–Guarani Người Zo’é không biết đến thế giới bên ngoài và sống theo kiểu quần cư như thời công xã nguyên thủy. Họ ở trần và không dùng bất cứ thứ gì để che đậy cơ thể. Người Zo'é luôn đeo những chiếc thanh gỗ xuyên qua môi như một món đồ trang sức. Họ sử dụng phần xương ống chân sắc, nhọn, dài thẳng khỉ nhện để xuyên lỗ qua môi.
1
null
Chất giải độc hay chất kháng độc là những chất đối kháng với chất độc. Chất giải độc thực tế là chất độc được sản xuất bằng cách tiêm chất độc vào động vật ở liều nhỏ và sử dụng máu của chúng chiết xuất ra kháng thể. Những chất kháng nọc độc được dùng để đối chống nọc độc sản xuất bởi các loài có độc như: rắn, nhện, và một số loài khác. Một số nọc độc chưa có chất kháng nọc độc, vết cắn hoặc nọc độc từ một động vật có thể dẫn đến tử vong. đặc biệt của một số loài động vật Chân khớp (ví dụ: nhện, bọ cạp, ong...) có khả năng gây chết người vì chúng gây kích ứng phản ứng dị ứng bao gồm: shock phản vệ. Trong trường hợp đó không có chất giải độc cho những chất độc này bởi vì chúng không độc mà chỉ gây shock phản vệ có thể điều trị bằng epinephrine. Một số chất độc khác chưa tìm ra chất giải độc. Ví dụ, chất độc aconitine,là alkaloid có độc tính cao được chiết xuất từ cây thuộc họ ô đầu chưa có chất giải độc. Một số cơ chế giải độc. Nhiễm độc đường tiêu hóa thường được điều trị bằng các uống than hoạt tính, Mục đích hấp phụ chất độc và làm sạch đường tiêu hóa, do đó loại bỏ phần lớn chất độc. Chất độc được tiêm vào cơ thể (chẳng hạn như những từ vết cắn hoặc đốt từ động vật có nọc độc) thường được điều trị bằng cách làm thắt chặt hạn chế lưu thông của bạch huyết và máu đến khu vực này, do đó làm chậm phát tán chất độc quanh cơ thể. Điều này không để gây nhầm lẫn với việc cắt giảm lưu lượng máu hoàn toàn - thường dẫn đến hoại tử các chi.
1
null
Ban chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào ( được thành lập vào năm 1955, là cơ quan cao nhất của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Được bầu định kỳ 5 năm một lần bởi Đại hội Đảng toàn quốc. Số lượng các thành viên trong Trung ương Đảng do Đại hội Đảng toàn quốc quyết định, và số lượng qua mỗi kỳ đại hội đang tăng lên. Ban chấp Trung ương Đảng bổ nhiệm nhiều người quyền lực cao nhất ở Lào, bao gồm cả Tổng Bí thư và các thành viên của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương. Tất cả các ủy viên của Ban chấp hành Trung ương Đảng đều có quyền đề cử các thành viên của Bộ Chính trị. Ngoài ra, có ủy viên dự khuyết. Các ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng cũng có thể tham gia Trung ương Đảng, nhưng chỉ có quyền phát biểu và không có quyền bỏ phiếu. Khi một thành viên của Ban chấp Trung ương Đảng bị khuyết vì một số lý do, ủy viên dự khuyết được bầu thay thế theo số phiếu nhận được. Lịch sử. Sau khi Đại hội lần thứ hai Đảng Cộng sản Đông Dương được tổ chức quyết định việc mỗi nước Đông Dương cần có một đảng riêng biệt để lãnh đạo cách mạng cho phù hợp với từng nước. Ngày 22/3/1955 tại Hủa Phăn, các đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương ở Lào đã quyết định nhóm họp và thành lập Đảng Nhân dân Lào. Tại Đại hội các đại biểu đã thống nhất bầu ra Ban chỉ đạo Trung ương Đảng gồm 5 ủy viên (Kaysone Phomvihane, Nouhak Phoumsavanh, Bun Phommahaxay, Sisavath Keobounphanh, Khamseng Sivilai). Quá trình mở rộng cách mạng, tháng 5/1955 đã bổ sung thêm Souphanouvong, Phoumi Vongvichit, Phoun Sipraseuth. Và tháng 6/1959, Ban chỉ đạo Trung ương Đảng được đổi tên thành Ban chấp hành Trung ương Đảng. Đầu năm 1972, Đảng Nhân dân Lào tổ chức đại hội. Đại hội chính thức đổi tên Đảng Nhân dân Lào thành Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Bầu ra Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa mới gồm 23 ủy viên chính thức và 6 ủy viên dự khuyết. Đồng thời tại kỳ đại hội này, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã bầu ra Bộ Chính trị và Ban bí thư Trung ương. Tháng 12/1975, Cách mạng Lào thắng lợi. Các đảng viên Đảng Nhân dân Cách mạng Lào nắm hầu hết các vị trí quan trọng của Nhà nước và Quốc hội. Các ủy viên Trung ương nắm tuyệt đối Chính phủ, Quốc hội. Đây là giai đoạn đầy biến động, Ban chấp hành Trung ương Đảng phải phụ trách những công việc lớn mà trước đây chưa thực hiện bao giờ như kinh tế, giữ trật tự trị an, an ninh biến giới, chống lại các phong trào ly khai... Tình hình chỉ trở nên ổn định vào đầu những năm 1980. Khi tình hình xã hội, kinh tế, chính trị được ổn định; Ban chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định tổ chức Đại hội Đảng toàn quốc để thông qua một số vấn đề quan trọng, và đồng thời bổ sung thêm thành viên của Ban chấp hành Trung ương. Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa mới gồm 49 ủy viên chính thức, 6 ủy viên dự khuyết. Số lượng ủy viên chính thức tăng gấp đôi so với khóa trước. Kể từ Đại hội III, cứ mỗi năm năm lại tổ chức Đại hội Đảng một lần. Chức năng và nhiệm vụ. Ban chấp hành Trung ương Đảng là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào giữa hai kỳ Đại hội Đảng, có quyền hạn và nhiệm vụ sau: Hội nghị Trung ương. Theo định lệ, mỗi năm Ban chấp hành Trung ương Đảng sẽ tổ chức hai Hội nghị toàn thể. Trong trường hợp cần thiết có thể tổ chức họp. Trước mỗi Hội nghị, các nội dung phiên họp và các văn bản có liên quan sẽ được Ban Tổ chức Trung ương Đảng và Văn phòng Trung ương Đảng phối hợp nội dung chuyển tới từng ủy viên Trung ương chính thức và dự khuyết, và một số đảng viên được Bộ Chính trị phê chuẩn. Văn bản được chuyển tới không muộn quá 1 tuần trước Hội nghị. Trong một số trường hợp về bầu bổ sung nhân sự do Bộ Chính trị giới thiệu, nếu không được đa số ủy viên thông qua, ứng viên do Bộ chính trị sẽ không được phê chuẩn. Bộ chính trị có thể giới thiệu nhân sự khác thay thế để biểu quyết trong Hội nghị. Nhiệm kỳ. Ban chấp hành Trung ương Đảng có nhiệm kỳ là 5 năm. Nhiệm kỳ kèo dài đến khi Đại hội Đảng toàn quốc bầu ra Ban chấp hành Trung ương khóa mới. Trong trường hợp tình trạng khẩn cấp, không thể tổ chức Đại hội Đảng toàn quốc, Ban chấp hành Trung ương Đảng được phép kèo dài nhiệm kỳ đến thời gian ổn định có thể tổ chức Đại hội Đảng toàn quốc hoặc Hội nghị toàn quốc. Nếu 2/3 số lượng tỉnh ủy, thành ủy kiến nghị tổ chức Đại hội Đảng sớm. Ban chấp hành Trung ương Đảng bắt buộc phải triệu tập Đại hội Đảng sớm hơn thời gian quy định. Cơ quan trực thuộc. Ban Chấp hành Trung ương Đảng có các cơ quan trực thuộc: Cố vấn Ban chấp hành Trung ương. Trong giai đoạn từ năm 1991-2011, Ban chấp hành Trung ương Đảng thiết lập chức danh Cố vấn Trung ương:
1
null
Megan Young (tên đầy đủ: Megan Lynne Young), sinh ngày 27 tháng 2 năm 1990 ở Alexandria), bang Virginia, Hoa Kỳ, cô là Hoa hậu Thế giới năm 2013; đồng thời là một diễn viên, người mẫu có quốc tịch Philippines. Tên tuổi của cô trở nên nổi tiếng từ các cuộc thi sắc đẹp. Cô đã chiến thắng tại cuộc thi Hoa hậu Thế giới Philipines 2013, sau đó cô là thí sinh đại điện cho Philippines ở cuộc thi Hoa hậu Thế giới 2013 được tổ chức tại Bali, Indonesia và đã trở thành Hoa hậu Thế giới năm 2013. Cô trở thành người Philippines đầu tiên trong lịch sử giành chiến thắng tại cuộc thi Hoa hậu Thế giới và cũng đã đạt ngôi Miss Grand Slam 2013. Tiểu sử. Cô được sinh ra ở Mỹ trong một gia đình có mẹ là người Philippines và cha là người Mỹ. Cha cô là ông Calvin Young và mẹ là bà Victoria (nhũ danh Talde). Gia đình cô chuyển đến Olongapo, tỉnh Zambales, Philippines lúc cô 10 tuổi. Sau đó, cô chuyển đến sống ở Manila để theo đuổi sự nghiệp diễn xuất của mình. Hoạt động. Lễ hội. Ngoài ra Megan cũng thường xuyên đồng hành cùng Tổ chức Hoa hậu Thế giới trong nhiều hoạt động dù hết nhiệm kì đã lâu, nhiều năm liên tiếp cô đảm nhận vai trò MC của cuộc thi.
1
null
MIFARE là thương hiệu sở hữu bởi NXP Semiconductors gồm hàng loạt các chip được sử dụng rộng rãi trong ứng dụng làm thẻ thông minh và thẻ cảm ứng. Theo các nhà sản xuất, hàng tỷ chip thẻ thông minh và nhiều triệu module đọc đã được bán ra. Công nghệ này được sở hữu bởi NXP Semiconductors (sáng kiến từ Philips Electronics vào năm 2006) có trụ sở tại Eindhoven, Hà Lan, và các điểm kinh doanh chính tại Nijmegen, Hà Lan và Hamburg, Đức. - MIFARE với công nghệ độc quyền theo tiêu chuẩn ISO / IEC 14443 Loại A 13,56 MHz, là thẻ thông minh không tiếp xúc tiêu chuẩn. Các phiên bản. - Công nghệ này được thể hiện trong cả hai thẻ và đầu đọc - Tên MIFARE có nguồn gốc từ tên MIkron FARE Collection System bao gồm bảy loại khác nhau của thẻ không tiếp xúc: thẻ MIFARE CLASIC (thẻ MIFARE cổ điển), thẻ MIFARE siêu nhẹ, thẻ MIFARE DESFire, thẻ MIFARE DESFire EV1(Trước đây gọi là DESFire8), thẻ MIFARE DESFire EV2, thẻ MIFARE Plus, thẻ MIFARE SAM AV2, Thẻ MIFARE CLASIC (thẻ MIFARE cổ điển). - Sử dụng một giao thức độc quyền tương thích với các bộ phận (nhưng không phải tất cả) theo tiêu chuẩn ISO / IEC 14.443-3 loại A, với NXP giao thức bảo mật độc quyền để xác thực và mã khối. - Thẻ MiFARE CLASIC là thẻ thông minh không tiếp xúc thông dụng nhất phù hợp cho các ứng dụng như: kiểm soát ra vào, thanh toán bằng thẻ, các ứng dụng thanh toán trong công ty hoặc trường học, vé xe công cộng, thẻ khách hàng thân thiết... Với kích thước bằng thẻ tín dụng thông thường. - MiFARE CLASIC gồm hai loại bộ nhớ 1K và 4K - Dữ liệu được bảo vệ bởi Key A và B - Tính năng đọc/ghi thông tin lên thẻ, tốc độ dưới 10% giây - Tuổi thọ của chíp lên tới 100.000 lần đọc/ghi - Công nghệ ổn định đã được sử dụng rộng rãi – biên độ đọc ổn định - Ứng dụng kiểm soát ra vào, vé thu phí, thẻ tích điểm, ghi thông tin - Kích thước bằng thẻ tín dụng tiêu chuẩn (85.6mm x 56mm x 0.78mm) - Có thể in hình ảnh trực tiếp lên thẻ MIFARE siêu nhẹ. - IC chi phí thấp mà sử dụng một giao thức độc quyền phù hợp tiêu chuẩn ISO]] / IEC 14.443-3 Loại A. - MIFARE siêu nhẹ là thẻ thông minh không tiếp xúc 13.56 MHz, dung lượng bộ nhớ 512 bits với chi phí thấp nhất. - Bộ nhớ 512 bits, phiên bản siêu nhẹ C hỗ trợ Triple DES -Ứng dụng làm vé sử dụng một lần, thẻ khách hàng thân thiết, thẻ vé xe công cộng với chi phí thấp. - Bộ nhớ 512 bits - Tính năng đọc/ghi thông tin lên thẻ, tốc độ dưới 10% giây - Tuổi thọ của chíp lên tới 100.000 lần đọc/ghi - Công nghệ ổn định đã được sử dụng rộng rãi – biên độ đọc ổn định - Ứng dụng kiểm soát ra vào, vé thu phí, thẻ tích điểm, ghi thông tin - Kích thước bằng thẻ tín dụng tiêu chuẩn (85.6mm x 56mm x 0.78mm) - Có thể in hình ảnh trực tiếp lên thẻ MIFARE DESFire. - Là thẻ thông minh theo đúng quy định tiêu chuẩn ISO / IEC 14.443-4 loại A với một hệ điều hành mặt nạ-ROM từ NXP. - MIFARE DESFire là thẻ thông minh không tiếp xúc 13.56Mhz, độ bảo mật cao phù hợp với các ứng dụng ví điện tử. - Tương thích với chuẩn ISO/IEC 14443A (từ 1-4) - Hỗ trợ các thuật toán bảo mật 2KTDES, 3KTDES - Với Mifare EV1 hỗ trợ bảo mật AES128 - Dụng lượng 2K, 4K và 8K MIFARE DESFire EV1(Trước đây gọi là DESFire8). - Bao gồm mã hóa AES. - Phát triển mới của thẻ MIFARE DESFire có sẵn dung lượng 2 KB, 4 KB và 8 KB. - Các tính năng khác bao gồm: - Hỗ trợ cho các ID ngẫu nhiên - Hỗ trợ 128-bit AES - Phần cứng và hệ điều hành là tiêu chuẩn chung được chứng nhận ở cấp EAL 4 + - MIFARE DESFire EV1 đã được công bố công khai trong tháng 11 năm 2006 MIFARE DESFire EV2. - Bao gồm MIsmartApp, giao dịch MAC, ứng dụng không giới hạn - Phát triển mới của thẻ MIFARE DESFire, rộng tương thích ngược - Các tính năng mới bao gồm: - MIsmartApp cho phép cung cấp hoặc bán không gian bộ nhớ cho các ứng dụng bổ sung của bên thứ 3 mà không cần phải chia sẻ khóa bí mật - Giao dịch MAC để xác thực các giao dịch của các bên thứ 3 - Kiến trúc thẻ ảo để bảo vệ sự riêng tư - Agains kiểm tra gần chuyển tiếp các cuộc tấn công - MIFARE DESFire EV2 đã được công bố công khai trong tháng 11 năm 2013 Thẻ MIFARE Plus. - Thay thế cho MIFARE CLASIC với mức độ bảo mật được chứng nhận (AES 128 cơ bản) - MIFARE Plus là một thẻ thay thế cho MIFARE cổ điển. Nó cung cấp một cơ sở hạ tầng nâng cấp dễ dàng với độ bảo mật cao. Quản lý dữ liệu giống hệt với MIFARE cổ điển, tuy nhiên việc quản lý an ninh đòi hỏi việc sửa đổi các cơ sở được người dùng cài đặt. - Các tính năng khác bao gồm: - Bộ nhớ: 2 Kbytes hoặc 4 Kbytes - 7 hoặc 4 byte UID, với sự hỗ trợ tùy chọn cho UID ngẫu nhiên - Hỗ trợ 128-bit AES - Tiêu chuẩn chung đượcchứng nhận ở cấp EAL 4 + - An ninh nâng cấp - Ít linh hoạt hơn MIFARE DESFire EV1. - MIFARE Plus được công bố công khai tháng 3 năm 2008 với mẫu đầu tiên trong quý 1 năm 2009. - MIFARE Plus khi được sử dụng trong hệ thống giao thông cũ mà chưa hỗ trợ AES từ phía đầu đọc vẫn có thể bị tấn công. MIFARE SAM AV2. - Mô-đun bảo mật truy cập cung cấp lưu trữ an toàn các khóa mật mã và chức năng mã hóa - MIFARE SAM AV2 là thẻ thông minh không tiếp xúc. MIFARE SAM có sẵn từ NXP trong số liên lạc chỉ sốmô-đun (PCM 1.1) theo quy định tại tiêu chuẩn ISO / IEC 7816-2 và định dạng HVQFN32 - Các tính năng chính: - Tương thích với các giải pháp danh mục đầu tư MIFARE - Hỗ trợ MIFARE, 3DES và AES mã hóa - Đa dạng hóa phím - Tải về an toàn và lưu trữ các phím - ISO / IEC 7816 tốc độ truyền lên đến 1,5 Mbit / s Lịch sử. 1994 – Giới thiệu công nghệ thẻ MIFARE 1k tiếp xúc 1996 - Chương trình giao thông đầu tiên tại Seoul sử dụng thẻ MIFARE cổ điển 1k. 1997 – Giới thiệu thẻ MIFARE PRO với Triple DES coprocessor 1999 - Giới thiệu thẻ MIFARE PROX với PKI coprocessor 2001 - Giới thiệu thẻ MIFARE siêu nhẹ 2002 - Giới thiệu thẻ MIFARE DESFire và sản phẩm bộ vi xử lý cơ bản 2004 - Giới thiệu thẻ MIFARE DESFire SAM, đối tác cơ sở hạ tầng an toàn của MIFARE DESFire. 2006 - MIFARE DESFire EV1 được công bố là sản phẩm đầu tiên hỗ trợ 128-bit AES 2008 - MIFARE Plus được công bố như một sự thay cho MIFARE cổ điển dựa trên 128-bit AES 2008 - MIFARE siêu nhẹ C được giới thiệu như paperticket IC gồm Triple DES xác thực 2010 - MIFARE SAM AV2 được giới thiệu như là lưu trữ khóa an toàn cho người đọc AES, Triple DES, PKI xác thực 2012 – Giới thiệu MIFARE siêu nhẹ EV1, tương thích ngược với MIFARE siêu nhẹ 2013 - MIFARE DESFire EV2 được công bố với cải thiện hiệu suất, bảo mật và riêng tư và hỗ trợ đa ứng dụng Ứng dụng tiêu biểu: Hệ thống thẻ đa năng tại Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ - Hà Nội Hệ thống thẻ quản lý nhà ăn tại nhà máy Nokia Hệ thống thanh toán tại nhà ăn tại làng FPT Tham khảo. Mafire Mifare file PDF về Mifare Các loại thẻ Mifare Team Mifare
1
null
Native là album phòng thu thứ ba của ban nhạc Mỹ OneRepublic. Nó được phát hành vào 22 tháng 3 năm 2013 ở Đức và Ai-len, 25 tháng 3 trên toàn thế giới ngoại trừ Bắc Mỹ, và 26 tháng 3 ở Bắc Mỹ. Album ban đầu được dự kiến sẽ được phát hành vào cuối năm 2012, với single "Feel Again", phát hành vào ngày 27 tháng 8 năm 2012. Tuy nhiên do album không được hoàn thành vào thời điểm đó, nó đã được dời lại đến đầu năm 2013. "Feel Again" sau đó được phát hành như một đĩa đơn quảng bá, và ngày 08 tháng 1 năm 2013, "If I Lose Myself" đã được phát hành như là đĩa đơn đầu tiên trong album. Album có một đĩa đơn rất thành công, "Counting Stars", đạt vị trí cao nhất ở số 2 cho đến nay trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, trở thành Top 10 hit đầu tiên của họ kể từ " Good Life " vào năm 2010. Nó cũng đã đứng đầu bảng xếp hạng Vương quốc Anh trong hai tuần không liên tiếp và nằm trong top 10 tại chín quốc gia, bao gồm cả việc đạt được vị trí top 5 ở Úc, Đức, Ireland và New Zealand. Đĩa đơn thứ tư của album đã được công bố là "Something I Need", và từ đó đã được chứng nhận Bạch kim tại Úc và vàng ở New Zealand, đạt vị trí cao nhất ở top 5 ở cả hai nước. Tính đến tháng 11 năm 2013 album đã bán được 283.000 bản tại Mỹ.
1
null
Lý Đông Sinh () (sinh tháng 12 năm 1955), là thứ trưởng Bộ Công an Trung Quốc và là ủy viên Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa 18. Lý Đông Sinh đã học khoa báo chí tại Đại học Phục Đán. Sau đó ông công tác tại Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc, lên đến chức Phó Giám đốc. Năm 2000, ông là Giám đốc đài phát thanh, truyền hình và điện ảnh quốc gia, là phó bí thư. Năm 2002, trở thành Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Năm 2009, ông chuyển sang làm Thứ trưởng Bộ Công an. Ngay sau khi chính trị gia quyền lực Chu Vĩnh Khang về hưu, Lý Đông Sinh đã mai mối ông Chu với người vợ thứ hai, là một đồng nghiệp cũ của mình ở đài truyền hình quốc gia CCTV. Đó là lý do sự nghiệp của Thứ trưởng Bộ công an Lý Đông Sinh thăng tiến một cách nhanh chóng và bất thường. Trong Bộ Công an, Lý giám sát Phòng 610, tức là chịu trách nhiệm về cuộc trấn áp Pháp Luân Công ông được cho là đã dàn dựng màn kịch về sự kiện xảy ra ở Thiên An Môn vào tháng 1 năm 2001, trong đó năm học viên Pháp Luân Công bị cho là đã tự thiêu, để tuyên truyền chống lại Pháp Luân Công Trong tháng 12 năm 2013, phương tiện truyền thông Trung Quốc đưa tin Lý Đông Sinh đã bị điều tra vì "vi phạm nghiêm trọng luật pháp và kỷ luật." Theo một thông báo từ ĐCSTQ ngày 20/12 trên trang Baidu, Lý Đông Sinh, Giám đốc phòng 610 chuyên trách đàn áp Pháp Luân Công đang bị điều tra. Trang web tìm kiếm lớn nhất tại Trung Quốc này đã cho phép xuất hiện một số thông tin kiểm duyệt về cuộc đàn áp Pháp Luân Công vào ngày 22/12 Với cương vị là phó giám đốc Phòng 610, chịu trách nhiệm tuyên truyền, Lý Đông Sinh được cho là đã dàn dựng màn kịch vụ tự thiêu ở Thiên An Môn vào tháng 1 năm 2001, trong đó năm học viên Pháp Luân Công bị cho là đã tự thiêu. Truyền hình Trung ương Trung Quốc ngay lập tức bắt đầu phát sóng một đoạn video tuyên truyền về các nhân vật tự cho là đã tự thiêu.
1
null
Sade là một ban nhạc soul Anh được hình thành tại London vào năm 1983, mặc dù tất cả các thành viên đều xuất thân từ Kingston Upon Hull.Tên của ban nhạc là từ giọng ca nữ chính Sade Adu. Nhạc của họ có những âm điệu của các loại nhạc soul, R&B, jazz, và soft rock. Dĩa nhạc đầu tiên ra mắt của ban Sade, "Diamond Life", được phát hành vào năm 1984, đạt được hạng 2 tại UK Album Chart, bán hơn 1,2 triệu bản tại Anh, và đoạt được Brit Award về dĩa nhạc Anh hay nhất vào năm 1985. Dĩa này cũng rất thành công trên thế giới, đạt được hạng 1 tại nhiều nước và hạng top ten tại Hoa Kỳ nơi nó được bán đến hơn 4 triệu bản. Vào cuối năm 1985, Sade cho phát hành dĩa thứ hai, "Promise", đạt được hạng 1 cả ở Anh và Hoa Kỳ. Trong năm 1986 ban này đoạt được Grammy Award cho những nghệ sĩ hay nhất mới nổi tiếng. Sade dĩa nhạc thứ 6, "Soldier of Love", được phát hành khắp thế giới vào năm 2010, đoạt được hạng 4 tại Anh, và hạng 1 tại Hoa Kỳ. Trong năm 2011, ban nhạc đoạt được giải Grammy thứ 4 cho cặp đôi hay nhóm chơi nhạc R&B có lời. Theo như Recording Industry Association of America (RIAA) dĩa của ban Sade bán được 23,5 triệu bản, và cho tới hiện tại tới 50 triệu bản trên khắp thế giới. Ban nhạc được xếp hạng. 50 trên danh sách những nghệ sĩ hay nhất của mọi thời đại của VH1." Lịch sử. Thập niên 1980. Ban nhạc Sade được thành lập tại Luân Đôn vào năm 1982, bởi thành viên của ban nhạc Latin soul, Pride. Sade Adu, Stuart Matthewman, và Paul Spencer Denman, cùng với Paul Anthony Cook là thành viên của ban nhạc mới này. Tên ban nhạc được đặt theo tên của giọng nữ chính, Sade Adu, họ trình diễn lần đầu tiên vào tháng 12 năm 1982 tại Ronnie Scott's Club ở London để mà hỗ trợ ban nhạc Pride. vào tháng 5 năm 1983 Sade trình diễn lần đầu tiên ở Hoa Kỳ tại Danceteria Club ở New York City. Andrew Hale tham dự vào ban này năm 1983, nhưng Cook ra khỏi Sade năm 1984. Sade càng ngày càng nhận được nhiều sự chú ý của báo chí và các hãng sản xuất nhạc hơn là ban Pride, và sau cùng họ đã tách ra khỏi nhóm đó. Vào ngày 18 tháng 10 năm 1983, ban nhạc ký hợp đồng với hãng Portrait Records, sau đó được nhập vào hãng mẹ Epic Records (năm 1986). Vào tháng 2 năm 1984, Sade cho phát hành single đầu tiên của họ, "Your Love Is King", mà đã trở thành Top Ten hit. Single thứ hai, "When Am I Going to Make a Living" chật vật lắm mới đạt được Top 40, nhưng dĩa đầu tiên của Sade, "Diamond Life", được phát hành vào tháng 7 năm 1984 leo được lên hạng 2. Nó giữ Top Ten 6 tháng và đoạt được 4 dĩa Platinum của BPI. "Diamond Life" vào năm 1985 đạt được Brit Award về dĩa nhạc Anh xuất sắc nhất. Ban nhạc bắt tay vào tua lớn đầu tiên vòng quanh nước Anh, được bổ sung bởi Dave Early (trống), Martin Ditcham (percussion), Terry Bailey (trumpet) and Gordon Matthewman (trombone). Dĩa đơn thứ 3, "Smooth Operator", phát xuất từ dĩa đầu tay được phát hành với một video được đạo diễn bởi Julian Temple. Dĩa đơn này trở thành hit đầu tiên của họ ở Hoa Kỳ vào mùa xuân 1985, đưa dĩa nhạc lên US Top Ten. Cũng vào năm 1985, ban nhạc được đề cử 2 giải nhạc video của MTV - cho video nữ xuất sắc nhất và nghệ sĩ mới nổi xuất sắc nhất. Vào ngày 13 tháng 7 năm 1985, Sade trình diễn tại Live Aid ở sân vận động Wembley Stadium ở London. Sade Adu trở thành nghệ sĩ sinh ở Phi châu duy nhất mà xuất hiện trước một số đông khán giả 75 ngàn người và ước tính tổng cộng khắp thế giới khoảng chừng 1,4 tỷ khán thính giả truyền hình từ 170 nước.
1
null
Vương Bá Đương (chữ Hán: 王伯当, ? – 619), không rõ tên tự, không rõ quê quán, tướng lãnh khởi nghĩa Ngõa Cương cuối đời Tùy, bộ tướng tâm phúc của thủ lĩnh Lý Mật. Cuộc đời và sự nghiệp. Năm Đại Nghiệp thứ 12 (616) nhà Tùy, Bá Đương khởi binh ở huyện Tế Dương . Lý Mật thông qua sự giới thiệu của ông mà gặp được thủ lĩnh nghĩa quân Ngõa Cương là Trạch Nhượng, sau đó Mật và Bá Đương cùng gia nhập nghĩa quân Ngõa Cương. Ông theo Lý Mật đánh bại các cánh quan quân của Trương Tu Đà, Vương Thế Sung, trở thành tâm phúc của ông ta. Lý Mật được tôn là Ngụy công, phong Bá Đương làm Lang Gia quận công. Khi Lý Mật giết chết Trạch Nhượng, binh sĩ muốn giết cả Từ Thế Tích, ông quát lên ngăn lại. Bộ hạ của Trạch Nhượng được chia cho Từ Thế Tích, Thiện Hùng Tín, Bá Đương. Tháng 12 ÂL năm Vĩnh Bình (do Lý Mật đặt ra) đầu tiên (617), Lý Mật tấn công Lạc Dương của Vương Thế Sung, Bá Đương đánh thành, trước thua sau thắng, giết hơn ngàn tên địch, Thế Sung vì vậy đóng cửa không ra. Tháng 9 ÂL năm thứ 2 (618), Bá Đương giữ thành Kim Dung trong khi Lý Mật giao chiến với Vương Thế Sung. Lý Mật đại bại, trong khi thủ hạ của ông ta ly tán, ông theo Lý Mật vào Quan Trung hàng Đường. Bá Đương được Lý Uyên cho làm Tả vũ vệ tướng quân, Lý Mật làm Quang lộc khanh. Lý Mật bất mãn, cùng ông mật mưu về Trung Nguyên đến chỗ Từ Thế Tích ở Lê Dương và Trương Thiện Tương ở Tương Thành, hòng xây dựng lại quân Ngõa Cương, vờ xin Đường hoàng đế Lý Uyên cho mình đi chiêu dụ bộ hạ cũ. Ngày 29 tháng 11 ÂL năm Vũ Đức đầu tiên (618), Lý Mật cùng Giả Nhuận Phủ và Bá Đương lên đường, ở Hoa Châu, Nhuận Phủ biết chuyện, khuyên Mật dừng tay. Lý Mật đòi giết Nhuận Phủ, ông xin tha, Nhuận Phủ thoát chết, chạy đi Hùng Châu. Bá Đương cũng cho rằng Mật ắt bại, sau khi ông ta từ chối bỏ cuộc, ông vẫn tiếp tục đi theo. Ngày 30 tháng chạp ÂL (tức 20 tháng 1 năm 619), Lý Mật chiếm huyện Đào Lâm , sau đó chạy đến Tương Thành tìm Trương Thiện Tương. Tướng Đường là Hữu dực vệ tướng quân Sử Vạn Bảo, Hành quân tổng quản Thịnh Ngạn Sư tại phía nam núi Hùng Nhĩ đặt mai phục, giết chết Lý Mật và Bá Đương. Trong tiểu thuyết thông tục. Theo các tiểu thuyết thông tục đời Minh – Thanh, ông có tên là Dũng, tự Bá Đương, ngoại hiệu Dũng tam lang, có tài thiện xạ, người huyện Tế Dương, tham gia khởi nghĩa Ngõa Cương, sau đó giới thiệu Lý Mật gia nhập nghĩa quân. Phần còn lại rất sát với mô tả trong sử cũ. Trong Tùy Đường diễn nghĩa, Bá Đương xếp thứ 6 ở trại Ngõa Cương, xếp thứ 17 trong Tùy Đường 18 anh hùng. Trong các dị bản của Thuyết Đường diễn nghĩa toàn truyện, ông không được liệt vào 18 anh hùng, hoặc xếp thứ 14. Trong Hưng Đường truyện, ông xếp thứ 14. Các tác phẩm này đều kể rằng Bá Đương là xạ thủ giỏi nhất đương thời. Ông là một trong Ngũ hổ đại tướng của quân Ngõa Cương, cùng La Thành, Tần Thúc Bảo, Thiện Hùng Tín, Trình Giảo Kim.
1
null
MAC M1931 hay còn gọi là súng máy Reibel (để tưởng nhớ trung tá Reibel) là loại súng máy gắn trên xe tăng do xưởng công binh tại nhà máy vũ khí Châtellerault phát triển. Súng được phát triển dựa trên khẩu súng máy hạng nhẹ FN 24/29 do trung tá Reibel thiết kế, chúng dự định sẽ được gắn trên các xe tăng và xe bọc thép cũng như có thể dùng để gắn ở những vị trí cố thủ tại tuyến phòng thủ Maginot. Sau chiến tranh thế giới thứ hai thì một số khẩu đã được mang qua Thụy Sĩ và được chỉnh sửa lại để dùng đạn 7,5x55 GP11 tiêu chuẩn và gắn trên các xe tăng tại đây. Một số khác thì tiếp tục được sử dụng trong lực lượng quân đội Pháp cho đến cuối những năm 1940 nhưng chuyển thành súng chuyên dùng cho bộ binh gắn trên bệ chống ba chân. Thiết kế. MAC M1931 sử dụng cơ chế nạp đạn bằng khí nén với hệ thống trích khí dài, bắn với thoi nạp đạn mở và chỉ có chế độ bắn tự động. Ống trích khí năm phía dưới nòng súng, thoi nạp đạn của súng khóa bằng cách chèn nghiên chống vào rãnh trong thân súng. Nòng không thể tháo ráp nhanh chóng khi đang chiến đấu. Hệ thống nhắm cơ bản của súng là điểm ruồi. Hộp đạn của súng dạng đĩa nhiều lớp và tùy vào phiên bản mà hộp đạn có thể gắn bên phải hay bên trái súng, khe nhả vỏ đạn nằm phía dưới súng.
1
null
Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, là cơ quan cao nhất của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, cuộc họp được tổ chức giữa các kỳ họp Trung ương Đảng và được tổ chức ít nhất hai lần mỗi năm. Theo quy định của Đảng, Bộ Chính trị chỉ đạo định hướng chung cho Chính phủ Lào và ban hành các chính sách được Đại hội Đảng hoặc Ban Chấp hành thông qua. Thành viên của Bộ Chính trị được bầu bởi Đại hội Đảng. Bộ Chính trị hiện nay được bầu bởi Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 11 và gồm có 13 ủy viên. Người đứng đầu là Tổng Bí thư Thongloun Sisoulith. Lịch sử. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng được thành lập tại Đại hội Đảng Toàn quốc lần thứ 2 tổ chức ngày 3-6 tháng 2 năm 1972. Bộ Chính trị khóa II gồm 7 ủy viên, trong số 7 ủy viên Bộ Chính trị có 4 ủy viên đồng thời là ủy viên Ban Bí thư Trung ương Đảng. Trước đó, tại Đại hội Đảng Toàn quốc lần thứ nhất, một Ban Thường vụ Ban Chỉ đạo Trung ương Đảng Nhân dân Lào được bầu, đây là cơ quan tiền thân của Bộ Chính trị khóa II. Pany Yathotou trở thành người phụ nữ đầu tiên và người Hmong đầu tiên được bầu vào Bộ Chính trị (bà được bầu vào Bộ Chính trị khóa VIII năm 2006). Tỷ lệ đại diện của phụ nữ trong Bộ Chính trị tăng lên trong khóa XI, khi cả Pany Yathotou và Sisay Leudetmounsone đều được bầu vào Bộ Chính trị khóa XI. Nhiệm vụ. Bộ Chính trị thay mặt Ban Chấp hanh Trung ương Đảng lãnh đạo, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của Đại hội, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Bộ Chính trị có những nhiệm vụ sau:
1
null