text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
"Loveeeeeee Song" là một bài hát của nghệ sĩ thu âm người Barbados Rihanna, được trích từ album phòng thu thứ 7 của cô ấy Unapologetic (2012). Bài hát có sự góp giọng của rapper người Mỹ Future cũng đồng thời là người sáng tác; khâu sản xuất được thực hiện bởi G. Jackson, E. Zaragoza và Future. Phần lời bài hát do Denisia "Blu June" Andrews và Rihanna viết. Bài hát được phát hành như là đĩa đơn thứ 4 từ album, bắt đầu được phát sóng trên các đài phát thanh ở Vương Quốc Anh vào ngày 3 tháng 4 năm 2013.
"Loveeeeeee Song" đã được đón nhận từ rất nhiều các nhà phê bình âm nhạc và bài hát hầu hết nhận được những đánh giá tích cực; một số khen ngợi giọng hát của Rihanna và gọi đó là "bản thu âm xuất sắc", trong khi đó số khác lại gọi bài hát là "một bản song ca cảm động". Bài hát đạt vị trí thứ 55 tại Billboard Hot 100 và vị trí thứ 17 tại UK R&B Chart. Bài hát cũng nằm trong danh sách biểu diễn của tour diễn Diamonds World Tour của Rihanna (2013)
Bối cảnh và sản xuất.
Rihanna bắt đầu làm việc với "những âm thanh mới" cho album phòng thu thứ 7 của cô từ tháng 3 năm 2013, mặc dù khi đó cô vẫn chưa bắt đầu tiến hành ghi âm. Ngày 12 tháng 9 năm 2012, Def Jam France công bố thông qua tài khoản Twitter của Rihanna rằng sẽ có một đĩa đơn mới được phát hành vào tuần tới và album phòng thu thứ 7 của cô ấy dự kiến sẽ phát hành vào tháng 11 năm 2012. Tuy nhiên dòng tweet này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn trước khi nó bị xóa đi và được thay thế bằng một thông báo khác: "Thêm nhiều thông tin nữa sẽ được bật mí vào ngày mai, Thứ 5 ngày 13 tháng 9". Ngay sau màn biểu diễn của mình tại Lễ hội âm nhạc iHeartRadio vào tháng 9 năm 2012 thì Rihanna đã thông báo rằng đĩa đơn mới của cô, "Diamonds", sẽ được phát hành vào tháng tới. Thông qua tài khoản Twitter cá nhân của mình thì Rihanna đã tung hàng loạt tweet giới thiệu về album phòng thu thứ 7 này.
"Loveeeeeee Song" là bài hát thứ 5 trong album, nhà sản xuất Luney Tunez trong một cuộc phỏng vấn với Complex đã nói: "Đó là một trong những giai điệu tôi không thực sự thích, nó không phải là thứ yêu thích của tôi. Khi tôi thực hiện nó, trong suy nghĩ tôi nghĩ mình phải làm một thứ gì đó phải thực tế, du dương, thoải mái và thực gợi cảm". Anh cũng nói thêm rằng ngay từ đầu anh đã nghĩ người thể hiện bài hát sẽ là một nghệ sĩ thu âm nữ và anh cũng không muốn đặt quá nhiều loại giai điệu trong nó. Luney Tunez cũng đã dán nhãn nó như một trong những bài hát yêu thích nhất mà anh đã từng làm ra.
Trong một cuộc phỏng vấn với MTV News thì Future đã nói về sự hợp tác này của anh với Rihanna: "Họ muốn thêm nhiều bản thu có tiết tấu nhanh vì vậy tôi đã gửi từ 4-5 bản thu và với bản thu cuối cùng, nó giống với một bản ballad hơn". Anh cũng tiết lộ rằng tiều đề bài hát lúc đầu là "Love And Affection", tuy nhiên cố vấn của Rihanna là Jay-Z đã thay đổi nó thành "Love Song" và thêm 2 chữ 'e' ở sau đuôi nữa để trở thành "Loveee Song". Seth Firkins ghi âm phần âm nhạc cho "Loveeeeeee Song" cùng với giọng hát của Future tại phòng thu Triangle Studios ở Atlanta, Georgia. Giọng hát của Rihanna được thu âm bởi Marcus Tovar và Kuk Harrell tại phòng thu Westlake Recording Studios ở Los Angeles, California; trong khi đó công đoạn phối khí và pha trộn do Manny Marroquin thực hiện tại Larrabee Studios, Burbank, California. Harrell cũng đảm nhận việc xử lý giọng hát của Rihanna.
Sáng tác.
Bài hát bắt đầu khi Future thể hiện lời bài hát nhẹ nhàng, chậm rãi trong giọng hát điện tử của anh ấy, ""I don't want to give you the wrong impression, I need love and affection" và ngân nga cho đến khi Rihanna bắt đầu thể hiện phần của mình,"...I want you now, I want you now". Bài hát kết thúc khi Future hát "L O V E E E and affection"".
Tiếp nhận và phê bình.
Bài hát nhận được chủ yếu các đánh giá tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc. Caryn Ganz của tờ Spin gọi bài hát như một sự ép chặt chậm rãi, trong khi đó Jon Caramanica đến từ tờ The New York Times lại dán nhãn bài hát như là một sự nổi bật và sự kết hợp gây ảnh hưởng. Shamika Sanders của Hello Beautiful gọi bài hát là một bài hát nổi bật trong album và kết luận rằng giọng rap cũng như giọng hát của Future đã "tìm một nơi cư trú và ẩn mình bên cạnh giọng hát gợi cảm của Rihanna. Cùng nhau, họ đã tạo ra một hỗn hợp hài hòa của những phòng ngủ ma thuật". Theo Sarah H. Grant của Consequence of Sound thì "Loveeeeeee Song" là một thứ cảm xúc bị phân mảnh và là một bản song ca cảm động. Robert Copsey của Digital Spy đã viết rằng bài hát là một trong số ít những bản ballad của Unapologetic có thể chạm sâu vào tình cảm của bạn. Theo anh, lý do để bài hát có được xúc cảm mạnh như vậy đó chính là vì mối quan hệ giữa Rihanna và bạn trai cũ Chris Brown; và ngay chính điều đó cũng đã được thể hiện qua toàn bộ album. Tuy nhiên bài hát cũng nhận được một số ý kiến trái chiều. Khi viết về Unapologetic, Alex Macpherson của Fact đã viết rằng "Loveeeeeee Song" chỉ là một bản ballad mang tính thủ tục của Future với một tiêu đề ngu ngốc không thể tha thứ".
Diễn biến xếp hạng.
Sau khi Unapologetic được phát hành, "Loveeeeeee Song" đã tiến vào Billboard Hot 100 tại vị trí 100. Vào tuần thứ hai bài hát vươn lên vị trí 88 và vị trí thứ 63 ở tuần thứ ba. Bài hát có mặt tại vị trí 14 trong tuần đầu tiên tại bảng xếp hạng US Hot R&B/Hip-Hop Songs nhờ vào lượng tải kỹ thuật số mạnh mẽ. Bài hát cũng vươn lên vị trí thứ 4 tại bảng xếp hạng Hot R&B/Hip-Hop Airplay. Tại Anh, "Loveeeeeee Song" được xếp ở vị trí 17 tại R&B Chart.
Đội ngũ sản xuất.
Tất cả các thông tin về đội ngũ sản xuất nói trên được lấy từ các ghi chú từ bìa album Unapologetic, Hãng ghi âm Def Jam, Hãng đĩa SRP. | 1 | null |
Câu lạc bộ bóng đá Hồ Nam Tương Đào (Trung văn giản thể:湖南湘涛; Trung văn phồn thể:湖南湘濤, bính âm: Xiāngtāo) là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp Trung Quốc. Sân vận động Đại học Trung Nam ở Trường Sa, Hồ Nam,Trung Quốc có 20.000 chỗ ngồi. Câu lạc bộ đã được thành lập vào ngày 15 Tháng 1 năm 2004 có tên là Hồ Nam Tướng Quân tham gia vào Giải bóng đá hạng nhì Trung Quốc năm 2004. Sau ba mùa giải câu lạc bộ đã xuống hạng và phải đối mặt với khó khăn tài chính, tuy nhiên để bảo tồn các đại diện của tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc, người hâm mộ của câu lạc bộ chi ra ba triệu nhân dân tệ với hy vọng giữ đội ở lại khi thể thao Hồ Nam quyết định rằng nó sẽ là tốt nhất để đầu tư vào một đội ngũ thương hiệu mới cho khu vực nơi họ về cơ bản đã thành lập một câu lạc bộ mới được gọi là Hồ Nam Tương Đào vào 26 tháng 12 năm 2006. Câu lạc bộ đã có cải cách kể từ khi vô địch giải bóng đá hạng nhì Trung Quốc trong năm 2009 và lên chơi ở giải bóng đá hạng nhất Trung Quốc kể từ khi trở lại.
Lịch sử.
Hình thành.
Trước khi bắt đầu mùa giải bóng đá Trung Quốc năm 2004 Trùng Khánh Lực Phàm và Vân Nam Hồng Tháp sẽ hợp nhất các câu lạc bộ bóng đá của họ với nhau. Các cầu thủ từ cả hai câu lạc bộ sẽ quyết định hợp nhất với nhau để tạo thành một câu lạc bộ mới được gọi là Hồ Nam Tương Quân (tiếng Anh: Hunan Shoking Football Club) sau khi họ đã đạt được đầu tư từ công ty Hồ Nam Corun của câu lạc bộ vào việc phân chia cho 20 triệu nhân dân tệ. Vào 15 tháng 1 năm 2004 câu lạc bộ được chính thức khánh thành vào giải đấu bóng đá Trung Quốc và thuê người từng đoạt huy chương Olympic Trung Quốc Hùng Nghi là Chủ tịch và cựu cầu thủ bóng đá quốc tế Zho Bo là người quản lý đầu tiên của họ. Đội bóng chơi trong sân vận động 55.000 chỗ ngồi ở sân vận động Hạ Long tại Trường Sa, Hồ Nam có tuyển thủ quốc gia Phù Tân và Srđan Bajčetić trong khi đội trẻ dược phẩm Xiangxue tham gia giải bóng đá hạng nhất Hồng Kông 2004-05 để có được kinh nghiệm. Thật không may là đội trẻ không gây ấn tượng trong khi các đội cấp cao lại tốt hơn chút ít và bước đầu sẽ gặp khó khăn trong mùa giải đầu tiên của họ, tuy nhiên họ đã làm đủ để tồn tại và hoàn thành phần mười vào cuối mùa giải.
Mùa giải tiếp theo thậm chí khó khăn hơn cho câu lạc bộ như họ đã trải qua một loạt các nhà quản lý để cải thiện kết quả trong khi tiền lương quá nhiều cầu thủ của họ và việc thuê sân vận động Hạ Long thấy câu lạc bộ khó khăn trong tài chính. Quyền sở hữu của câu lạc bộ chuyển đến công ty Bái Long và tổng giám đốc của họ Tôn Anh Quế rất ngắn,điều này là ngắn ngủi và Nhóm Corun đã qua câu lạc bộ một lần nữa. Trong khi điều này đang xảy ra thì Lý Huy đã được quản lý với ít thành công, mà thấy anh ta và cầu thủ của mình thất vọng sau thất bại nhục nhã 1-5 trước Quý Châu Nhân Hòa vào ngày 18 tháng 6 năm 2005 trong một trận đấu FA Cup Trung Quốc. Lý Huy công khai chỉ trích cầu thủ của ông thiếu sự cam kết trước khi quyết định rời khỏi câu lạc bộ. Vương Đào đã được đưa vào thay thế để quản lý câu lạc bộ trong khi các đội hoàn thành trong một mùa giải đáng thất vọng nhưng vẫn nằm trong các giải đấu. Li Khả Gia đã được đưa vào như một người quản lý mới trong mùa giải 2006 giải đấu, tuy nhiên đội bóng tiếp tục mất cách của họ và cựu cầu thủ Trung Quốc Hào Hải Đông đã được đưa vào như một người quản lý chung để giúp truyền cảm hứng cho đội bóng, điều này không có kết quả và câu lạc bộ kết thúc mùa giải với vị trí cuối cùng và xuống hạng ba mùa giải năm sau.
Trở lại.
Để bảo vệ các đại diện của tỉnh Hồ Nam Trung Quốc tại giải đấu bóng đá, người hâm mộ của câu lạc bộ chi ra ba triệu nhân dân tệ với hy vọng giữ đội ở lại khi cơ thể thể thao địa phương Hồ Nam quyết định rằng nó sẽ là tốt nhất để đầu tư vào một đội ngũ thương hiệu mới cho đội bóng. Vào ngày 26 tháng 12 năm 2006 về cơ bản một đội bóng mới được thành lập để tham gia trong mùa giải 2007 đội bóng có tên là Hồ Nam Tương Đào (tiếng Anh:Hunan Billows Football Club).Hùng Nghi trở lại làm Chủ tịch và Lý Khả Gia trở về làm người quản lý của đội bóng. Bây giờ, đội bóng đang chơi trong sân vận động 6.000 chỗ ngồi của Hồ Nam. Đội đã hoàn toàn xây dựng lại và tam dự giải đấu đầu tiên của họ chống lại đội bóng Tứ Xuyên FC trong trận thua 0-1. Trong suốt mùa giải, kết quả của câu lạc bộ sẽ thực sự cải thiện và đội bóng kết thúc ở vị trí thứ ba trong bộ phận phía Nam, nơi họ đã tham dự play-off nhưng bị loại ngay từ đầu. Mùa giải thứ hai, đội bóng đầu tư thêm sáu triệu nhân dân tệ từ thể thao của Hồ Nam. Kết quả mùa giải sau, câu lạc bộ đã tham dự play-off mà họ một lần nữa bị loại ở vòng hai. Mùa giải 2009 và giải đấu với sự đầu tư liên tục của cơ thể thể thao địa phương Hồ Nam cũng như việc quản lý của Môn Văn Phong, câu lạc bộ bây giờ đã có một đội ngũ đi vào giành danh hiệu sau khi họ đánh bại đối thủ láng giềng Vũ Hán Trác Nhĩ trong trận play- off cuối cùng để lên hạng.
Trong giải hạng hai một lần nữa họ sẽ di chuyển trở lại vào sân vận động Hạ Long và thuê Triệu Phát Thanhư là người quản lý mới của họ vào đầu mùa giải 2010. Ban đầu mùa giải bắt đầu tốt cho câu lạc bộ và họ trông giống như cử khuyến mãi chính hãng cho đến khi cuộc xung đột giữa Hồ Nam và Hồ Bắc đã làm hỏng đẩy xúc tiến của họ và cuối cùng họ kết thúc mùa giải ở vị trí thứ sáu. Mùa giải tới họ sẽ di chuyển vào 20.000 chỗ ngồi sân vận động Đại học Nam Trung và đưa vào Miloš Hrstić để quản đội bóng. Trong khi triều đại của Miloš Hrstić thấy một chút cải tiến trong các đội xếp hạng vào cuối của giải đấu mùa giải 2011, mà thấy họ kết thúc ở vị trí thứ tư, ông sẽ rời khỏi câu lạc bộ vào cuối chiến dịch và được thay thế bởi trợ lý huấn luyện viên Trương Từ. Để chuẩn bị cho mùa giải năm 2012 giải đấu câu lạc bộ sau đó mang một số cầu thủ như tuyển thủ quốc gia Honduras Emil Martínez và Erick Norales cũng như tuyển thủ quốc gia Trung Quốc Đổng Phương Trác với hy vọng của họ để trụ hạng.
Sân nhà.
Đội đã chơi ở một số sân vận động trong suốt lịch sử của họ, tuy nhiên khi chúng đã được hình thành họ chủ yếu sử dụng sân vận động Hạ Long có sức chứa 55.000 chỗ ngồi tại Trường Sa, Hồ Nam cho trận đấu quan trọng của họ trong khi sân vận động nhân dân tỉnh Hồ Nam khiêm tốn hơn với 6.000 chỗ ngồi cũng nằm ở Trường Sa, Hồ Nam đã được sử dụng cho giải đấu họ nhỏ hơn với câu lạc bộ trong khó khăn tài chính chi phí trong thuê sân vận động Hạ Long sẽ thấy đội vĩnh viễn di chuyển vào sân vận động nhân dân tỉnh Hồ Nam, vẫn tiếp tục khi câu lạc bộ đã được cải cách và họ đã lên giải hạng Ba. Khi họ lên giải hạng Nhì sân vận động Hạ Long là một lựa chọn cho một thời gian ngắn trước năm 2011 khi họ đã sử dụng sân vận động Đại học Trung Nam tại Trường Sa với 20.000 chỗ ngồi như sân vận động chính của họ. | 1 | null |
Nội các Thái Lan,trước đây được gọi là Hội đồng Bộ trưởng Thái Lan (Tiếng Thái: คณะรัฐมนตรี, "Khana Ratthamontri"),gồm có 35 thành viên đại diện cao cấp cho Vương quốc Thái Lan.Nội các là cơ quan quản lý ngành Hành pháp của Thái Lan,các thành viên trong nội các được Thủ tướng Thái Lan đề cử sau đó được Quốc vương Thái Lan chính thức bổ nhiệm và phê chuẩn chức danh.Nội các thường được gọi là "Chính phủ" hoặc "Chính phủ Hoàng gia Thái Lan"
Lịch sử.
Trước cách mạng năm 1932,chức vụ trong Triều đình Chakri là "Krom" (Thái: กรม) và "Senabodi" (Thái: เสนาบดี) Năm 1874 dưới triều vua Chulalongkorn thành lập Hội đồng Cơ mật gồm 49 thành viên là Hoàng tử và các quan cấp cao.Lần đầu tiên Vua Xiêm thực hiện quyền điêu hành thông qua một Hội đồng.
Năm 1925 Vua Prajadhipok đã thành lập Hội đồng Tối cao của Nhà nước Xiêm La (Thái: อภิรัฐมนตรี สภา, "Aphiratthamontrisapha") có 5 thành viên (tất cả đều là anh em của Nhà vua và đều được trưởng thành tại Thái Lan) để giúp cai trị đất nước.Tuy nhiên sau cuộc cách mạng năm 1932, nhóm Khana Ratsadon quyết định giải thể Hội đồng. Thay vào đó là hiến pháp mới lập ra Ủy ban Nhân dân Xiêm La (Thái: คณะ กรรมการ ราษฎร, "Khana Kammakan Ratsadon") do một Chủ tịch đừng đấu. Hội đồng Cơ mật trở thành Hội đồng tư vấn của Hoàng gia.
Hiến pháp mới được ban hành vào cuối năm 1932 Ủy ban Nhân dân Xiêm được đổi thành "Hội đồng Bộ trưởng" và người đứng đầu là Thủ tướng Chính phủ. | 1 | null |
Lâu đài Howard là một lâu đài ở miền bắc Yorkshire, nước Anh, cách York 15 dặm (24 km) về phía bắc. Một trong những tòa nhà ở tư nhân lớn nhất ở Anh, phần lớn tòa lâu đài được xây dựng giữa năm 1699 và 1712 cho Đệ tam bá tước Calisle, theo một thiết kế bởi Sir John Vanbrugh. Mặc dù Lâu đài Howard được xây dựng gần khu vực của đổ nát của lâu đài Henderskelfe, nó không phải là một lâu đài thực sự, nhưng thuật ngữ này thường được sử dụng đối với các căn nhà đồng quê Anh được xây ra thời kỳ xây dựng nhiều lâu đài (1500) không có chức năng quân sự.
Lâu đài Howard đã là nhà một phần của gia đình Howard trong hơn 300 năm. Nó đã quen thuộc với khán giả truyền hình và phim là hư cấu "Brideshead", cả trong Granada truyền hình của năm 1981. | 1 | null |
Gjekë Marinaj là nhà thơ, nhà văn, dịch giả, nhà phê bình văn học người Mỹ gốc Albania.
Tiểu sử.
Ông sinh năm 1965 tại Malësi e Madhe phía bắc Albania. Hiện G. Marinaj định cư tại Hoa Kỳ. Là Chủ tịch đầu tiên của Hội Nhà văn Albania-Mỹ, được thành lập năm 2001. Hiện ông dạy Anh ngữ và Truyền thông tại Richland College ở Texas. G. Marinaj nhận bằng tiến sĩ triết học tại đại học Texas, Dallas năm 2012. Marinaj đã xuất bản một số tập thơ, văn xuôi, phê bình văn học. Currently living in the Hoa Kỳ, he has been the first president of the "Society of Albanian-American Writers", established in 2001 Trong năm 2008, G. Marinaj được trao giải thưởng Pjetër Arbnori Văn chương của Bộ Du lịch, Văn hoá, Thanh niên và Thể thao của Albania. | 1 | null |
Linh dương Senegal hay Senegal hartebeest (Danh pháp khoa học:"Damaliscus korrigum korrigum") hay còn gọi là Korrigum hoặc Tiang là một phân loài của loài linh dương Damaliscus korrigum cũng là một loài linh dương châu Phi. Đây là một loài linh dương cỡ vừa và lớn. Nó cũng được phân loại như Damaliscus lunatus korrigum. Loài linh dương này phân bố nhiều ở phía Nam châu Phi, đặc biệt là Sénégal.
Đặc điểm.
Cấu trúc.
Cũng giống như phân loài chính của nó, loài linh dương này bộ da có màu tối hơn và sừng không có góc cạnh. Từ đầu đến cổ chúng có một cái bướu và có những màu tím sẫm trên đùi của chúng. Mặt chúng cũng có một màu đen giống như thể đang đeo mặt nạ giống như trên mặt. Lông chúng ngắn và bóng làm cho cơ thể chúng trong căng một cách mạnh mẽ.
Chúng có khối lượng cơ thể từ 68-160 kg (150-350 lb). Chiều dài đầu và cơ thể có thể nằm trong khoảng 150-210 cm (59–83 in) và đuôi dài 40–60 cm (16–24 in). Chúng có ngoại hình khác cao với chiều cao dao động từ 100–130 cm (39–51 in) tính đến vai. Những con đực có xu hướng lớn hơn và sẫm màu hơn so với những con cái. Chúng là loài chạy nhanh, có thể đạt được tốc độ vượt quá 80 km/h (50 mph). Cùng với những họ hàng của mình, chúng là một trong những loài linh dương nhanh nhất ở châu Phi.
Tập tính.
Những con đực đánh dấu lãnh thổ của chúng với đống phân và sẵn sàng chiến đấu với bất kỳ con đực nào khác mà cố gắng để xâm nhập vào lãnh địa của mình. Những con cái thích giao phối với con đực chiếm ưu thế mà chính chúng đã giao phối với trước đây, tuy nhiên con đực cố gắng giao phối với nhiều con cái mới thì càng tốt. Cũng có ghi nhận về hiện tượng đánh ghen của con cái với tình địch bằng những cách quấy phá và con đực cuối cùng tấn công những con cái này đồng thời còn từ chối giao phối với chúng nữa.
Phân bố.
Linh dương chủ yếu sống trong môi trường sống khác nhau, từ đồng cỏ vùng đồng bằng và thảo nguyên, chúng thích nghị với cái nắng bằng cách sử dụng bóng mát trong thời tiết nóng. Linh dương này thích đồng cỏ với cỏ xanh rờn và đặc biệt là thường gần nước, chúng khá kén ăn và sử dụng cái mõm thon dài của mình cùng với đôi môi linh hoạt để tìm kiếm thức ăn tươi ngon nhất. Thể trạng của con linh dương này trong một quần thể phụ thuộc vào việc tiếp cận với thảm thực vật màu xanh lá cây. Kẻ thù của chúng bao gồm sư tử và linh cẩu, còn với chó rừng là động vật ăn thịt những con bê. Đặc biệt là chúng được mục tiêu hàng đầu của linh cẩu. | 1 | null |
Ancylostoma braziliense là một loài của giun móc thuộc chi Ancylostoma. Nó là một ký sinh trùng đường ruột trong mèo và chó. Nhiễm trùng nặng thường gây tử vong cho những vật nuôi, đặc biệt là ở chó và mèo con. Nó thường bị nhầm lẫn với giun móc chuột hamster Ancylostoma ceylanicum vì sự tương đồng kỳ lạ của chúng.
Ấu trùng "A. braziliense" có thể gây nhiễm trùng ngẫu nhiên ở người được gọi là di cư ấu trùng ở da, gây ngứa dữ dội ở da. Đây là bệnh nhiễm trùng da phổ biến nhất ở khu vực nhiệt đới, đặc biệt dọc theo các bãi biển của vùng biển Caribbean.
Phát hiện và lịch sử.
Khi A. braziliense được mô tả bởi Gomes de Faria vào năm 1910, và A. ceylanicum bởi Arthur Looss vào năm 1911, hai loài này được coi là đồng nghĩa vì sự giống nhau của chúng trong gần như tất cả phương diện. Đặc biệt là trong năm 1913, so sánh mẫu vật từ con người, chó, mèo và sư tử nhiễm trùng ở Ấn Độ đã dẫn đến kết luận rằng chúng chắc chắn cùng một loài. Năm 1915 Gomes de Faria nhận ra rằng hai loài riêng biệt là dựa trên của cấu trúc giải phẫu của chúng. Đến năm 1921 hai giun móc đã được chấp nhận như một hai loài có căn cứ. Tuy nhiên, vào năm 1922 Gordon đã thực hiện một so sánh toàn diện từ mẫu vật thu thập được trong Brazil, Nam Phi và Ấn Độ, và kết luận của ông không có sự khác biệt đáng kể. Những nhà ký sinh trùng học khác cũng được thuyết phục về điều này vì vậy mà hai tên đã được một lần nữa coi là đồng nghĩa. Năm 1951 Biocca làm một nghiên cứu công phu về các loài giun móc khác nhau trong bộ sưu tập của London School of Hygiene and Tropical Medicine, London School of Hygiene and Tropical Medicine, the Liverpool School of Tropical Medicine và các bộ sưu tập cá nhân. Cuối cùng ông đã xác định các đậc tính xác định giữa hai loài cho phân loại chúng như loài riêng biệt, mà cuối cùng được chấp nhận chung.
Phân bố.
A. braziliense là loài đặc hữu ở miền nam Hoa Kỳ. Nó cũng được tìm thấy ở vùng cận nhiệt đới trên toàn thế giới, bao gồm cả Trung Mỹ và Nam Mỹ, và Nam Á. Ở miền nam châu Á, Lây nhiễm chỉ giới hạn ở Indonesia, Borneo, và Malaysia. | 1 | null |
"Ngài" Cliff Richard, OBE (tên khai sinh: Harry Rodger Webb, sinh ngày 14 tháng 10 năm 1940), là ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên và nhà hoạt động tình nguyện người Anh. Ông là nghệ sĩ có số lượng đĩa đơn bán chạy thứ 3 trong lịch sử nước Anh với khoảng 21 triệu đĩa đã bán chỉ riêng tại đây. Số lượng đĩa ông bán được trên toàn cầu ước tính vào khoảng 250 triệu.
Cùng với ban nhạc The Shadows của mình, Richard khởi nghiệp theo làn sóng rock and roll từ Little Richard và Elvis Presley, thống trị đời sống âm nhạc Anh quốc thời kỳ tiền-Beatles vào cuối những năm 1950 đầu những năm 1960. Đĩa đơn nổi tiếng "Move It" (1958) vẫn luôn được công nhận là ca khúc khai sinh ra nhạc rock and roll tại Anh, sau này được John Lennon nhận xét "trước Cliff và The Shadows, không có gì đáng nghe với âm nhạc Anh quốc hết." Sau đó ông quan tâm nhiều hơn về Kitô giáo và thứ âm nhạc mềm mại hơn, mở đường cho nhạc pop và cả nhạc Kitô giáo.
Với sự nghiệp kéo dài suốt 50 năm, Richard trở thành biểu tượng của làng giải trí Anh, sở hữu rất nhiều chứng nhận Vàng và Bạch kim cùng vô số giải thưởng, trong đó có 3 giải Brit Awards và 2 giải Ivor Novello. Ông cũng có hơn 130 đĩa đơn, album và EP nằm trong top 20 tại Anh, nhiều hơn bất kể nghệ sĩ nào và cùng giữ kỷ lục (với Presley) xuất hiện tại UK Singles Chart xuyên suốt 6 thập kỷ (từ 1950 tới 2000). Richard có 14 đĩa đơn quán quân tại Anh (18 tùy theo cách tính) và là nghệ sĩ Anh duy nhất sở hữu đĩa đơn quán quân trong 5 thập kỷ liên tiếp (1950-1990). Năm 2008, nhân dịp kỷ niệm 50 năm sự nghiệp ca hát của mình, ông đã cho phát hành một siêu album chọn lọc, trong đó ca khúc mới "Thank You for a Lifetime" đạt vị trí số 3 tại UK Singles Chart. Richard mới phát hành album "The Fabulous Rock 'n' Roll Songbook" vào tháng 11 năm 2013 và đây là album thứ 100 của cá nhân ông.
Ông cũng có được nhiều thành công tại Mỹ với 8 đĩa đơn nằm trong top 40 tại đây, trong đó "Devil Woman" và "We Don't Talk Anymore" là 2 đĩa đơn đầu tiên có mặt trong top 40 của "Billboard" Hot 100 vào năm 1980 bởi một nghệ sĩ từng có mặt tại đây từ những thập kỷ 1950, 1960 và 1970. Tại Canada, Richard có được thành công tương đối vào những năm 1980 khi có hàng loạt album đạt chứng chỉ Bạch kim. Hiện tại, ông vẫn luôn nổi tiếng trong lĩnh vực âm nhạc, điện ảnh và một nhân vật rất được yêu thích trên truyền hình tại Úc, New Zealand, Nam Phi, Bắc Âu và cả châu Á. | 1 | null |
Cầu Trình Dương (Phồn thể: 程陽橋, Giản thể: 程阳桥, Bính âm: Chéng Yáng Qiáo, Hán Việt: Trình Dương Kiều) hay Cầu Trình Dương Phong Vũ (Phồn thể: 程陽風雨橋, Giản thể: 程阳风雨桥, Bính âm: Chéng Yáng Fēng Yǔ Qiáo, Hán Việt: Trình Dương Phong Vũ Kiều, trong đó "Phong Vũ" mang nghĩa gió và mưa) là một cây cầu có mái che ở Tam Giang, Liễu Châu, Quảng Tây, Trung Quốc. Do cộng đồng thiểu số người Động xây dựng, Trình Dương là một cây cầu thuộc loại "lang kiều" (廊桥, cầu có mái che) và là một trong số vài chiếc "Phong Vũ Kiều" ở khu vực sinh sống của người Động. Được hoàn thành năm 1912, cây cầu này còn có một số tên khác như "Vĩnh Tế Kiều" (Phồn thể: 永濟橋, Giản thể: 永济桥, Bính âm: Yǒng Jì Qiáo) hay "Bàn Long Kiều" (Phồn thể: 盤龍橋, Giản thể: 盘龙桥, Bính âm: Pán Lóng Qiáo).
Mô tả.
Cầu Trình Dương là một công trình kiến trúc dạng cầu kết hợp hành lang, hiên và đình. Cầu có hai bệ ở hai đầu, ba trụ cầu, ba nhịp, năm đình, 19 hiên, và ba tầng. Các trụ cầu được làm bằng đá trong khi các kiến trúc trên cầu chủ yếu làm từ gỗ với phần trên cùng là mái ngói. Chiều dài tổng cộng của cây cầu là 64,4 mét với phần lối đi rộng 3,4 mét, cầu cao hơn mặt sông khoảng 10 mét.
Quách Mạt Nhược ngay lần đầu tiên nhìn thấy cây cầu này đã tỏ ý yêu thích cây cầu và làm một bài thơ về Trình Dương Kiều. | 1 | null |
Ngầu pín còn gọi đơn giản là pín xuất phát là tiếng Quảng Đông, Trung Quốc ("ngầu" hay "ngưu": tức là con trâu, con bò) là thuật ngữ dùng để chỉ về bộ phận sinh dục của con bò đực và cũng là những món ăn được chế biến từ dương vật (dái) và tinh hoàn của một số động vật như bò, trâu, hươu, chó, cừu, gà, dê và hổ, thực chất là dương vật của một số động vật như trâu, bò, ngựa, dê, chó...
Trong các loại ngầu pín thì thông dụng và có giá trị là dương vật và tinh hoàn của các loài dê (hay còn biết đến với tên gọi ngọc dương), bò (pín bò hay dái bò), hổ (pín hổ), chó (cà chó), ngọc kê (tinh hoàn gà) và hươu (lộc pín), ngoài ra dân gian Việt Nam còn cho rằng ngầu pín của chó vàng (hoàng cẩu) rất quý. Chúng được chế biến thành nhiều món ăn cho nam giới với mục đích tăng cường dương sự. Tinh hoàn bò hoặc trâu có tác dụng bổ thận tráng dương, trị liệt dương. Mỗi lần dùng thường hấp với câu kỷ tử
Công dụng.
Ngầu pín vốn là một món ăn được khá nhiều nam giới ưa chuộng vì nó vừa ngon lại vừa bổ. Ngầu pín thường được quan niệm là món ăn tẩm bổ, gắn với việc bổ thận, tráng dương, tăng cường sinh lực nam giới, cải thiện chức năng, trị yếu sinh lý, liệt dương... theo cách nhận thức thông thường là ăn gì bổ nấy. Món ngầu pín được nam giới cho rằng chức năng giúp tăng cường sinh lý.
Theo Đông y thì dương vật và tinh hoàn của các loài động vật đều thuộc về tạng thận và được gọi là ngoại thận để phân biệt với nội thận tức là quả thận thực sự có chức năng bài tiết nước tiểu của giải phẫu học hiện đại. Tạng thận trong Đông y có chức năng rất quan trọng và phong phú, ngoài việc chính là bài tiết nước tiểu, nó còn sinh tủy, sinh xương, sinh dục và một số chức năng nội tiết khác.
Món ăn giòn, sần sật nên ngầu pín không chỉ được phái mạnh ưa chuộng mà còn lôi cuốn cả phụ nữ. Ngầu pín được chế biến chủ yếu là hầm với thuốc Bắc nhưng thời gian gần đây còn được ngâm chua thành món gỏi. Theo Theo dược học cổ truyền, ngầu pín vị ngọt, tính ấm, có công dụng bổ thận ích tinh, cường dương mạnh cốt, thường được dùng để chữa các chứng bệnh như liệt dương, di tinh, suy giảm ham muốn tính dục, đau lưng, mỏi gối, muộn con... dưới dạng rượu thuốc hay dược thiện.
Những loại pín phổ biến mà dân nhậu lựa chọn là các loại pín dê, trâu, hươu, hải cẩu, đặc biệt pín hổ được xem là quý nhất. Ngầu pín vừa được ngâm rượu, vừa được chế biến làm món ăn, ngầu pín nướng là món ăn được dân nhậu ưa dùng. Rượu ngâm pín được liệt vào loại thần dược phòng the. pín có nhiều cách dùng: Có thể sấy khô tán thành bột, nấu thành cao hoặc ngâm rượu để uống; cũng có thể chế biến cùng các loại thực phẩm khác thành các món ăn hấp dẫn. Người ta còn bồi bổ bằng món canh ngầu pín để cải thiện tình trạng khó thụ thai do tử cung lạnh.
Món canh ngầu pín rất hữu ích với những nam giới bị suy giảm ham muốn tình dục, xuất tinh sớm, di tinh, liệt dương, muộn con và cũng bồi bổ cho phụ nữ do ngầu pín vị ngọt, tính ấm, có công dụng bổ thận ích tinh, cường dương mạnh cốt. Ngầu pín là một trong những món bán chạy nhất trong những món nướng của cửa hàng, ngầu pín là một món ăn đặc biệt được làm từ phần sụn trong bộ phận sinh dục của con bò hoặc lợn được thái thành từng khúc và tẩm ướp theo công thức riêng của nhà hàng rồi nướng trên than.
Cảnh báo.
Cũng có những ý kiến cho rằng, thực chất món ngầu pín chỉ có ý nghĩa về mặt nhận thức. Trong các loại pín động vật, chỉ có pín hải cẩu được y học công nhận là có tác dụng đối với việc tăng cường quan hệ tình dục. Ngoài pín hải cẩu thì chưa có loại pín nào được cả Đông y và Tây y công nhận, thậm chí cả pín hổ.
Nếu sử dụng không hợp lý có thể bị mắc chứng rối loạn cương dương, tiểu đường, mỡ cao trong máu và huyết áp tăng cao. Thực tế chưa có công trình khoa học nào chứng tỏ các chất chứa trong ngầu pín các loài có tác dụng tăng cường sinh lực. Bộ phận này thực chất là một hệ cơ, gân, mạch máu, hệt như các bộ phận khác trong cơ thể, chỉ khác ở cơ chế hoạt động.
Ngầu pín chứa nhiều cholesterol, vì vậy ăn nhiều không tốt cho cơ thể, nhất là đối với người béo, bị bệnh tim mạch, cao huyết áp… Đặc biệt, đây là loại thực phẩm dễ bị ôi thiu, vì vậy cần chú ý trong khâu bảo quản và chế biến. Đôi khi nó cũng gây ra những tình huống khó xử vì tính chất khá nhạy cảm của món ăn này. Đồng thời không chỉ nam giới mà cả phụ nữ cũng đua nhau ăn ngầu pín động vật để bồi bổ nhưng không ít người đã phải gặp nhiều cảnh tiêu cực.
Ngoài ra, ngầu pín không nên dùng cho những người bị âm hư hoặc bị bệnh thuộc thể âm hư (hỏa vượng) với các chứng trạng như cơ thể gầy khô, hay có cảm giác nóng hâm hấp về chiều, lòng bàn tay và bàn chân nóng, trong ngực bức bối không yên, họng khô, miệng khát, ra mồ hôi trộm hay ù tai, hoa mắt, chóng mặt; tiểu tiện sẻn đỏ, đại tiện táo…. Với những người này, dương đang vượng, dùng ngầu pín tức là làm cho dương càng vượng, khiến âm đã hư càng hư, các bệnh lý vốn có thuộc về âm hư như cao huyết áp, viêm gan… càng nặng thêm. | 1 | null |
Trường Đại học Công nghiệp Vinh được thành lập ngày 12 tháng 6 năm 2013, theo Quyết định số 920 của Chính phủ QĐ-TTg, có trụ sở chính đặt tại Thành phố Vinh. Mục tiêu của Trường ĐH Công nghiệp Vinh là trở thành trung tâm giáo dục, nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực cao, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực Bắc Trung Bộ và trong cả nước.
Địa chỉ.
Địa chỉ: Số 26 Nguyễn Thái Học - Thành phố Vinh - tỉnh Nghệ An.
Ban giám hiệu.
Hiệu Trưởng: TS. Nguyễn Thanh Tùng
Phó hiệu trưởng: TS. Trần Mạnh Hà | 1 | null |
Cầu Tây Tân (; Hán Việt: Tây Tân Kiều, hay "cầu ở bến đò phía Tây") là một cây cầu có mái che cổ, hay "lang kiều" (廊桥) tại Vĩnh Khang, Kim Hoa, Chiết Giang, Trung Quốc. Đây là cây cầu có mái che lớn nhất ở tỉnh Chiết Giang và cũng là một trong những cây cầu loại này lớn nhất ở Trung Quốc.
Lịch sử.
Cầu Tây Tân ban đầu được xây dựng bằng gỗ vào thời Nhà Minh. Vào năm Khang Hy thứ 57 (1718) đời Nhà Thanh, cây cầu được xây lại lần đầu tiên, sau đó đến đầu thời Ung Chính phần trụ cầu được thay thế bằng đá để tăng cường tải trọng cho cầu. Vào đầu thời Càn Long, việc tái xây dựng cầu được hoàn tất. Đến thời Gia Khánh, cầu được sửa chữa một lần nữa và đến năm Gia Khánh thứ 12 (1807), một tấm bia đá có tên "Tây Tân Kiều Chí" (西津橋志, ghi chép về Cầu Tây Tân) được dựng lên ở đây để vinh danh những người xây dựng cầu và kể lại lịch sử của cây cầu này.
Mô tả.
Cầu Tây Tân là một kiến trúc kết hợp của cầu gỗ và cầu đá trong đó phần trụ cầu được làm bằng đá còn phần kiến trúc phía trên được làm chủ yếu bằng gỗ. Cây cầu nguyên bản bằng gỗ có chiều dài 206,3 mét với 15 trụ cầu và 16 nhịp. Sau khi phần trụ đá được xây dựng, chiều dài cầu rút ngắn còn 166 mét với 12 trụ cầu và 13 nhịp cầu. Mỗi trụ cầu có chiều dài 5,6 mét, chiều rộng 3,3 mét, và chiều cao 4,6 mét. Giữa hai trụ cầu là 6 hoặc 7 thanh rầm, mỗi thanh có chiều dài trung bình 13 mét. | 1 | null |
Ngọc dương hay ngọc hành hay còn gọi là dái dê, pín dê, cà dê là tinh hoàn của con dê được dùng để chế biến thành những món ăn ngon và bổ, nó thuộc vào nhóm những món ngẩu pín. Ngọc dương là món ăn được xếp hàng đầu trong những món pín dùng để bồi bổ cho sinh lực tình dục của đàn ông, tăng cường khả năng của nam giới, bổ thận, tráng dương, tăng cường sinh lực, đem lại sự sung mãn trong quan hệ tình dục với quan niệm ăn gì bổ nấy.
Tổng quan.
Dê có những điểm mà các động vật ăn cỏ khác không có, chúng có thể trèo nhanh trên các vách núi đá chênh vênh, có thể ăn một cách ngon lành các loài cây có gai, thậm chí có mủ độc như cây xương rồng. Tuy có dáng đi xấu nhưng mỗi con dê đực sở hữu khả năng hoạt động tình dục đứng hàng đầu trong giới động vật, một con dê đực có thể kiểm soát giao phối trung bình tới 60 con dê cái và làm tình trong nhiều lần liên tục do đó còn là biểu tượng của tình dục, nhục dục. Dê cái thì cứ 18-20 ngày một kỳ, nó lại động dục, dê cái đẻ khỏe, mỗi lần đẻ 2-3 con, có giống đẻ tới khoảng 10 con. Và chỉ cần mang thai khoảng 147 - 150 ngày đã đẻ lứa khác, một năm có thể đẻ nhiều lứa.
Từ lý do này, ngọc dương cũng bị ngâm vì một mình con dê đực chịu trách nhiệm phối giống cho vài chục con dê cái, con dê được đánh giá rất cao và đã được nhiều người ngâm rượu ngọc dương để uống. Lẩu ngọc dương hoặc ngọc dương hầm câu kỷ tử có tác dụng rất lớn trong việc cải thiện khả năng sinh lý. Dê cho nhiều sản phẩm quý làm thuốc như mỡ, huyết, thận và đặc biệt là ngọc dương. Trong Nam dược thần hiệu, Tuệ Tĩnh có viết: "Thịt dê (dương nhục) có vị đắng ngọt, tính rất nóng, ích cho tâm kỳ, bổ được hư lao hàn lạnh, trừ kinh giản, trị bị gió chóng mặt, đau lưng, chữa liệt dương". Bài thuốc: Thịt dê 40 g, đương quy 5 g, gừng 10 g, nấu chín ăn 2 lần/ngày, giúp cho phụ nữ sau khi sinh nở, cơ thể bị yếu, gầy, ăn ngủ kém, ít sữa, sẽ nhanh hồi phục".
Công dụng.
Ngọc dương có tác dụng trị thận suy và liệt dương. Không chỉ riêng ngọc dương mới tốt cho quý ông mà ngay cả thịt dê, cật dê, rượu tiết dê... cũng rất tốt. Từ xưa đến nay, ngọc dương được xem là món tráng dương cho nam giới. Món ngọc dương là thức ăn quý ngày xưa chỉ có vua chúa, quý tộc mới được dùng để bồi bổ sức khỏe chăn gối của mình. Ngọc dương thường được chế biến bằng cách hầm với thuốc bắc. Theo dân gian, muốn có sự sung mãn thật sự thì mỗi lần phải ăn hết nguyên bộ được hầm với thuốc Bắc trong đó có nhân sâm, kỷ tử, hoài sơn, đại táo, nhục quế, long nhãn.
Các món.
Món ngọc dương hầm thuốc bắc đang được nhiều người đàn ông ưa chuộng. Ăn ngọc dương hầm thuốc bắc có tác dụng bổ dương, kiện trì ích vị, thích hợp với nam giới khi bị đau lưng, liệt dương, đầu gối yếu mỏi, thận hư. Ngọc dương nguyên bộ rửa sạch đưa vào nồi nấu chung với nhân sâm (15 g), kỷ tử (20 g), hoài sơn (50 g), đại táo (30 g), nhục quế (10 g), long nhãn (30 g). Đổ nước vừa ngập, đun sôi trong vòng 30 phút, sau đó hạ lửa đến khi ngọc dương chín mềm rồi nêm gia vị hành, muối.
Ngọc dương tửu hay còn gọi là rượu dái dê với nguyên liệu là những quả thận dê đã được cắt bỏ phần màng trắng bên trong, hoặc toàn bộ bộ phận sinh dục (ngọc hành), đôi khi cả dương vật của dê, đem nguyên liệu bóp đều với rượu gừng tươi và để trong 30 phút. Lấy ra bỏ hết gừng, thái thành các lát mỏng. Đem xử lý ngâm ngập vào rượu dược dụng 60o trong 3 - 6 tháng. Lần 2: ngâm trong 3 tháng, nồng độ rượu 35 - 40o. Lần 3 ngâm trong 1 tháng, nồng độ rượu 35 - 40o. Gộp dịch chiết rượu của 3 lần lại. Để tăng thêm tác dụng bổ nội tiết, bổ sinh dục, người ta còn pha chế thêm rượu thuốc vào rượu ngọc dương, với các vị thuốc.
Ngọc dương hấp rượu: Ngọc dương, thận, bộ sinh dục cắt miếng mỏng, ướp hành tỏi, ngũ vị hương, cho vào thố (niêu đất) kê trên vài viên gạch nhỏ (trên đĩa), đổ rượu vào đĩa rồi đốt. Hơi nóng của rượu sẽ làm chín ngọc dương. Ngọc dương nấu lẩu: Nước lẩu hầm củ sen, hạt sen, củ súng. Khi nước sôi, nhúng tái ngọc dương, thận, tuỷ dê. Không nên để những bộ phận này chín quá bởi sức nóng dễ làm giảm tác dụng. Ngọc dương nấu lẩu là một bài thuốc phối ngũ. Ngọc dương có tính mạnh nhưng lại hãm bởi những vị cố tinh như thế sức mạnh bền bỉ mà không bộc phát. | 1 | null |
Who Are You? () là bộ phim truyền hình Hàn Quốc năm 2013 với các diễn viên So Yi-hyun, Ok Taecyeon và Kim Jae-wook. Bộ phim được phát sóng trên kênh tvN từ 29 tháng 7 đến 17 tháng 9 năm 2013 vào Thứ hai và thứ ba lúc 23:00 (và đồng thời phát sóng trên OnStyle) dài 16 tập.
Nội dung.
Đặc vụ Yang Shi-ohn tỉnh dậy sau sáu năm hôn mê. Cô ấy được bố trí đến bộ phận tìm trả đồ thất lạc, nơi mà cô phát hiện mình có khả năng nhìn thấy những hồn ma bằng cách chạm vào những đồ vật bị bỏ lại nơi đó. Cùng với đối tác của mình, tân cảnh sát Cha Gun-woo là một người hoài nghi nóng nảy, Shi-ohn đã sử dụng thông tin mà mình có được để giải quyết vấn đề. Gun-woo chỉ tin vào những thứ hữu hình mà anh có thể nhìn, nghe và chạm thấy, nhưng cuối cùng anh đã tin vào Shi-ohn, và cùng nhau, tranh cãi để giúp những linh hồn hoàn thành ước nguyện của họ còn dở dang trước khi đến với thế giới bên kia.
Một trong những hồn ma theo dõi Shi-ohn là người yêu cũ của cô Lee Hyung-joon, một đặc vụ đã chết cách đây sáu năm khi Shi-ohn bị chấn thương ở đầu gần như đã chết và dẫn đến hôn mê. Họ có cùng có mặt tại hiện trường một vụ án lớn, nhưng Shi-ohn không nhớ những gì đã xảy ra tại đêm định mệnh đó.
Đánh giá.
Nguồn: AGB Nielsen Korea (tvN+OnStyle kết hợp đánh giá) | 1 | null |
Hồi đáp 1994 là bộ phim truyền hình thuộc thể loại lãng mạn của Hàn Quốc trình chiếu trên kênh cáp tvN vào cuối năm 2013.
Sau thành công của Reply 1997 vào năm 2012, đội ngũ sản xuất tiếp tục thực hiện Hồi đáp 1994 với mô-típ tương tự cùng cốt truyện mới có sự tham gia của dàn diễn viên Go Ara, Jung Woo, Yoo Yeon-Seok..
Cốt truyện.
Câu chuyện nói về những người bạn thân đang tham gia bữa tiệc tân gia của một cặp đôi trong số họ, vừa xem lại cuốn băng ghi lại đám cưới của chủ nhà, vừa bàn tán và nhớ về cuộc sống của họ khi còn ở tuổi 20: Năm 1994, sáu chàng trai, cô gái đến từ các tỉnh thành khác nhau của Hàn Quốc lần đầu tới Seoul để bắt đầu cuộc sống sinh viên. | 1 | null |
Cao Nhất Công (chữ Hán: 高一功, ? – 1650 hoặc 1651), người Mễ Chi, Thiểm Tây, tướng lĩnh nghĩa quân Đại Thuận, về sau liên kết chính quyền Nam Minh kiên trì kháng Thanh, được Long Vũ đế ban tên là Cao Tất Chính (高必正).
Cuộc đời và sự nghiệp.
Nhất Công là em vợ của Lý Tự Thành. Vào lúc Tự Thành thua chạy khỏi Bắc Kinh, ông trấn thủ Du Lâm, ngăn trở cánh quân Thanh của A Tế Cách nam tiến. Sau khi Tự Thành mất (1644), Nhất Công cùng Lý Quá đưa nghĩa quân chạy về miền nam. Các cánh nghĩa quân Đại Thuận đề cử Nhất Công làm thủ lĩnh.
Tháng 7 năm sau (1645), bọn họ thỏa hiệp với bọn tuần phủ Hà Đằng Giao, thượng thư Đổ Dận Tích, chấp nhận quy thuận chính quyền Nam Minh cùng kháng Thanh, chịu sự quản hạt của Đổ Dận Tích; ông được Long Vũ đế ban tên Tất Chính, nhận chức Tổng binh; còn lực lượng Đại Thuận gọi là Trung Trinh Doanh. Mùa đông cùng năm, Đổ Dận Tích đưa Trung Trinh Doanh đến Kinh Châu, trong lúc đó quân Thanh tập kích căn cứ Công An, bọn Tất Chính hoang mang chạy đi Xuyên Đông.
Mùa hạ năm Vĩnh Lịch thứ 4 (1648), Đổ Dận Tích mệnh Trung Trinh Doanh đánh Thường Đức, bức Mã Tiến Trung lui chạy (Tiến Trung là tướng Nam Minh, nhưng cùng Dận Tích có hiềm khích). Tiếp đó tấn công Trường Sa, không hạ được, lui về Tương Đàm.
Mùa xuân năm sau (1649), Trung Trinh Doanh phụng mệnh đi cứu Kim Thanh Hoàn ở Nam Xương, đến giao giới Trà Lăng, Hành Sơn, lần lữa không tiến. Trong lúc này, Hà Đằng Giao bị quân Thanh bắt ở Tương Đàm, bọn Tất Chính rút về phía đông Hành Châu. Quân Thanh đuổi đến, bọn họ lại chạy đi huyện Hạ, rồi đi Ngô Châu. Vĩnh Lịch đế hoảng sợ, phái đại thần khuyên dụ, Tất Chính xin đóng đồn ở Tầm Châu (nay là Quế Bình) để hưu chỉnh. Trong năm này, Lý Xích Tâm bệnh mất, ông kiêm lãnh quân đội của ông ta.
Chính quyền Vĩnh Lịch nằm dưới sự khống chế Tôn Khả Vọng – tàn dư của nghĩa quân Đại Tây – có mâu thuẫn gay gắt với bọn Tất Chính – tàn dư của nghĩa quân Đại Thuận; lại thêm Vĩnh Lịch đế hôn dung, khiến cho cục diện càng thêm hỗn loạn. Tất Chính phản đối việc phong vương cho Khả Vọng không thành, nên nản lòng xin đi Nam Ninh. Cuối năm, quân Thanh chiếm được Quảng Đông, Trung Trinh Doanh từ Quảng Tây lên bắc.
Cái chết.
Theo Vương Phu Chi – Vĩnh Lịch thực lục quyển 13, Cao - Lý liệt truyện, vào mùa đông năm ấy (1650), trên đường đi Quý Châu, Tất Chính cùng Đảng Thủ Tố, Hạ Cẩm tại Thi Châu (nay là Ân Thi) trúng mai phục của Tôn Khả Vọng, đều tử trận. Tàn dư nghĩa quân do Lý Lai Hanh thống lãnh.
Cố Thành trong Nam Minh sử, chương 21, tiết 4: Cuộc lên bắc đến Quỳ Đông của Trung Trinh Doanh và lực lượng được gọi là giặc Mũ Giạ Trắng dẫn chứng từ các tư liệu địa phương như Vĩnh Thuận phủ chí – cho biết đến năm sau (1651) Tất Chính vẫn còn lãnh đạo nghĩa quân, Bảo Tĩnh huyện chí – cho biết vào khoảng tháng 9 năm Thuận Trị thứ 8 (1651), ông trúng tên độc trong cuộc tập kích của Bành Đỉnh – con trai thổ ti Bành Triệu Trụ - mà chết ở vùng núi Bảo Tĩnh. Ngoài ra còn nhiều tư liệu khẳng định Hạ Cẩm thực chất tử trận ở Tây Ninh vào năm 1644, Đảng Thủ Tố hàng Thanh vào đầu đời Khang Hi. Qua đó, Cố Thành phản bác Vương Phu Chi, nhận định ghi chép trong Bảo Tĩnh huyện chí có nhiều khả năng là thật. | 1 | null |
Ba người cha (; tiếng Anh: One Mom and Three Dads) là bộ phim truyền hình Hàn Quốc được phát sóng trên đài KBS2 từ ngày 4 tháng 4 năm 2008. Bộ phim có sự góp mặt của các diễn viên nổi tiếng như Eugene, Jo Hyun-jae, Shin Sung-rok và Jae Hee.
Nội dung.
Song Na-young và chồng là Jung Sung-min, cả hai đều rất muốn có một đứa con. Tuy nhiên, Sung-min được bác sĩ chẩn đoán là mắc bệnh không có tinh trùng. Không cho Na-young biết, Sung-min đã nhờ ba người bạn thân của mình hiến tinh trùng để giúp cô thực hiện ước mơ được làm mẹ của mình. Không bao lâu sau, Na-young được thông báo là đã có thai. Niềm vui chưa được bao lâu thì một tai nạn xe hơi đã cướp đi sinh mạng của Sung-min, chôn vùi đi bí mật giữa anh và những người bạn. Na-young sinh con với hy vọng đứa bé sẽ là đầu dây duy nhất kết nối tình cảm giữa hai vợ chồng, mà không hề biết rằng cha ruột của đứa bé có thể là Han Soo-hyun, Choi Kwang-hee hay Na Hwang Kyung-tae - những người bạn thân của Sung-min. | 1 | null |
Ioannes V Palaiologos (hoặc Palaeologus) (, "Iōannēs V Palaiologos") (18 tháng 6, 1332 – 16 tháng 2, 1391) là Hoàng đế Đông La Mã kế vị cha mình vào năm 1341 lúc mới chín tuổi.
Tiểu sử.
Ioannes V là con trai của Hoàng đế Andronikos III và Hoàng hậu Anna xứ Savoy, con gái của Bá tước Amadeus V xứ Savoy với người vợ thứ hai Maria xứ Brabant. Triều đại lâu dài của ông được đánh dấu bằng sự suy yếu dần quyền lực của đế quốc trong bối cảnh xảy ra nhiều cuộc nội chiến và uy thế đang lên của người Thổ Ottoman.
Lên ngôi lúc mới chín tuổi, triều đại của ông bắt đầu với cuộc nội chiến ngay lập tức giữa vị nhiếp chính được cha mình chỉ định là Ioannes Kantakouzenos và một hội đồng nhiếp chính tự xưng gồm Thái hậu Anna, Thượng phụ Ioannes XIV Kalekas và viên đại tướng "megas doux" Alexios Apokaukos. Cuộc nội chiến đẫm máu giữa hai phe trong triều đình xảy ra vào năm 1373, nguyên nhân là do Thái hậu Anna đã đem cầm vương miện nạm ngọc Đông La Mã để đổi lấy 30.000 ducat của Venezia. Ngoài ra ngay từ năm 1346 đến 1349, đế quốc còn phải hứng chịu nạn dịch cái chết Đen góp phần tàn phá toàn bộ Constantinopolis.
Chiến thắng năm 1347, Ioannes Kantakouzenos cai trị như đồng hoàng đế cho đến khi con trai Matthew của ông bị Ioannes V tấn công vào năm 1352, dẫn đến một cuộc nội chiến thứ hai. Trong cuộc nội chiến thứ hai này Ioannes V đã yêu cầu sự giúp đỡ từ Stephan Dushan, người cai trị Serbia và Dushan đành phải gửi 4.000 kỵ binh Serbia đến giúp ông. Tuy nhiên Matthew Kantacouzenos đã cầu cứu cha mình là Hoàng đế Đông La Mã Ioannes VI Kantakouzenos và 10.000 quân Thổ Ottoman đã có mặt tại Demotika vào tháng 10 năm 1352 và tham gia vào lực lượng đồng minh Serbia của Ioannes V trong một trận chiến mở màn dẫn đến sự thất bại của liên quân và một chiến thắng cho nhiều người Thổ hơn phục vụ trong quân ngũ Đông La Mã. Đó là cuộc xung đột chứng kiến Đế quốc Ottoman giành được lãnh thổ châu Âu đầu tiên tại Çimpe và Gallipoli. Khả dĩ tái chiếm Constantinopolis vào năm 1354, Iohannes V đã có thể loại bỏ và làm lễ cạo đầu Ioannes VI. Tới năm 1357 thì tiến hành phế truất Matthew để củng cố ngôi vị và dẹp yên nội loạn, Matthew bèn cải trang chạy trốn nhưng bị người Serbia bắt được khiến Ioannes V phải bỏ tiền ra chuộc về giam lỏng.
Người Thổ vốn liên minh với Kantakouzenoi liền tiếp tục gây sức ép lên Ioannes. Suleyman Paşa, con trai của sultan Ottoman, chỉ huy quân đội ở châu Âu đã đe dọa sẽ đánh chiếm Adrianople và Philippopolis nếu hoàng đế không chịu cống nạp. Ioannes V bèn kêu gọi phương Tây giúp đỡ, đề nghị kết thúc cuộc ly giáo giữa Giáo hội phương Đông và Latinh bằng cách trao chức Thượng phụ cho uy quyền của Roma.
Năm 1366 Ioannes V đã viếng thăm Vương quốc Hungary, đến Kinh thành Buda để gặp vua Louis I của Hungary. Tuy nhiên, hoàng đế Đông La Mã đã xúc phạm nhà vua vì cứ ngồi yên trên con ngựa của mình, trong khi Louis bước xuống và đi bộ lại gần ông. Vua Hungary sau đó đã đề nghị sẵn sàng giúp đỡ ông với điều kiện là Ioannes phải thay đổi lời thú nhận của mình với công giáo, hoặc ít nhất là để viên Thượng phụ công nhận uy quyền của Giáo hoàng. Hoàng đế rời khỏi triều đình ở Buda với hai bàn tay trắng và tiếp tục chuyến đi của mình trên khắp châu Âu tìm kiếm sự trợ giúp chống lại Đế quốc Ottoman. Bị chiến tranh làm cho nghèo túng, ông đã bị giam giữ như một con nợ khi ông đến thăm Venezia năm 1369 và sau đó bị bắt trên đường trở về trong vùng lãnh thổ Bulgaria. Năm 1371, ông chính thức công nhận quyền bá chủ của Sultan Murad I của Ottoman. Murad sau đó còn trợ giúp ông chống lại con mình là Andronikos khi ông này về sau bị phế truất vào năm 1376.
Năm 1390, cháu trai của ông là Ioannes VII đã chiếm đoạt ngôi vị trong một thời gian ngắn nhưng ít lâu sau thì bị lật đổ. Cùng năm đó, Ioannes đã ra lệnh củng cố Hoàng Môn (Golden Gate) ở Constantinopolis, sử dụng đá cẩm thạch từ các nhà thờ bị hư hỏng trong và xung quanh thành phố. Sau khi hoàn thành việc xây dựng này, Bayezid I đã yêu cầu Ioannes phải san bằng những công trình mới, dọa sẽ gây chiến và chọc mù mắt người con Manuel đang bị giam giữ. Ioannes V đành vâng theo lệnh của Sultan thế nhưng chính vì thế đã sỉ nhục hoàng đế, khiến ông uất ức sinh bệnh rồi mất ngay sau đó vào ngày 16 tháng 2 năm 1391. Người con trưởng là Manuel chính thức kế thừa ngôi vị hoàng đế Đông La Mã. Còn người con út Theodoros đã kế thừa tước vị Despotate xứ Morea của ông vào năm 1383.
Gia đình.
Ông kết hôn với Helena Kantakouzene, con gái của vị đồng Hoàng đế Ioannes VI Kantakouzenos và Irene Asanina vào ngày 28 tháng 5 năm 1347. Họ có với nhau chín người con gồm:
Tham khảo.
<br> | 1 | null |
Ioannes VI Kantakouzenos hoặc Cantacuzenus (, "Iōannēs VI Kantakouzēnos") ("khoảng" 1292 – 15 tháng 6, 1383) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1347 đến 1354.
Thiếu thời.
Sinh ra ở Constantinopolis, Ioannes Kantakouzenos là con trai của Mikhael Kantakouzenos, thống đốc xứ Morea; Donald Nicol phỏng đoán rằng ông có thể đã được sinh ra sau cái chết của cha mình nên vừa mới chào đời trở thành đứa con duy nhất. Với dòng máu của bà mẹ Theodora Palaiologina Angelina, ông là một hậu duệ của nhà Palaiologos đương thời. Ông còn có mối quan hệ họ hàng với triều đại quân chủ qua vợ Eirene Asanina, một người em họ thứ hai của Hoàng đế Andronikos III Palaiologos. Kantakouzenos trở thành một người bạn thân với Andronikos III và là một trong những người ủng hộ chính của mình trong cuộc xung đột giữa Andronikos và ông nội là Andronikos II Palaiologos. Nhân ngày lễ đăng quang của Andronikos III vào năm 1328, ông được giao phó trọng trách xử lý sự vụ trong triều. Đến khi Hoàng đế mất vào năm 1341, Ioannes Kantakouzenos bỗng được chỉ định làm nhiếp chính và người giám hộ của tân vương Ioannes V Palaiologos mới lên chín.
Ioannes vốn không có tham vọng độc chiếm ngôi vị và đã từ chối làm đồng hoàng đế dù mấy lần được Andronikos III Palaiologos mời gọi dưới thời trị vì sau này. Sau cái chết của hoàng đế, Ioannes lại từ chối lên ngôi và cứ nhất định cho rằng người thừa kế hợp pháp phải là Ioannes V, riêng mình sẽ nắm quyền kiểm soát hành chính của Đế quốc cho đến khi tân hoàng đế đủ tuổi trị vì. Bất chấp sự tận trung hết lòng của ông với vị hoàng đế trẻ tuổi và mẹ ngài là Hoàng hậu Anna xứ Savoy, tình bạn của Ioannes với tiên đế đã làm dấy lên cả sự ghen tị của Thượng phụ Constantinopolis và người bảo trợ cũ là Alexios Apokaukos, cùng sự hoang tưởng của hoàng hậu nghi ngờ ý định cướp ngôi của ông. Nhân lúc Ioannes Kantakouzenos rời Constantinopolis đi thị sát xứ Morea, kẻ thù của ông đã nắm lấy cơ hội này mà tôn phò Ioannes V làm hoàng đế và ra lệnh giải tán quân đội trung thành với Kantakouzenos. Khi tin tức lan truyền đến quân của ông đang đóng tại Didymoteichon ở Thracia, họ liền nổi dậy tôn Kantakouzenos làm hoàng đế. Kể từ đây đã đánh dấu sự bắt đầu của cuộc nội chiến giữa Ioannes Kantakouzenos và chế độ nhiếp chính ở Constantinopolis dẫn đầu bởi Anna xứ Savoy, Apokaukos và Thượng phụ.
Cuộc nội chiến xảy ra sau đó đã kéo dài đến tận sáu năm (1341-1347) mà các bên đều kêu gọi sự trợ giúp của các nước láng giềng như Serbia, Bulgaria và người Thổ Ottoman, thậm chí họ còn thuê cả lính đánh thuê đủ mọi hạng người tới Constantinopolis tham chiến. Tuy chủ yếu vẫn là sự trợ giúp của người Thổ Ottoman với thỏa thuận là nếu Ioannes VI Kantakouzenos kết thúc cuộc chiến này, Đế quốc Ottoman ít nhiều đều có lợi cho trong việc khuếch trương ảnh hưởng lên Đông La Mã.
Triều đại.
Năm 1347, Ioannes ca khúc khải hoàn tiến vào Constantinopolis với đội quân 1.000 người và buộc các đối thủ của ông phải chịu sự sắp đặt mà theo đó thì ông sẽ trở thành đồng hoàng đế với Ioannes V Palaiologos nhưng thực tế thì ông mới là người cầm quyền chính. Lễ mừng chiến thắng của hoàng đế trong cuộc nội chiến kéo dài sáu năm đã là chủ đề của bài thơ "Đại thắng của Ioannes Kantakouzenos" của nhà thơ Hy Lạp hiện đại Konstantinos Cavafy. Ít lâu sau ông cho lập con mình là Matthaios Kantakouzenos làm đồng hoàng đế vào năm 1353.
Đế quốc Đông La Mã vào lúc này đã bị suy yếu và lãnh thổ thì bị thu hẹp dần trong tình trạng tứ bề thọ địch. Rồi lại thất bại trong cuộc chiến tranh chống lại Genova và đặc biệt là thuộc địa của họ ở Galata, đối diện với Constantinopolis. Việc hoàng đế sau này tham gia vào cuộc chiến tranh Venezia-Genova năm 1350–1355 cũng chẳng mang lại kết quả rõ rệt gì, để rồi được kết thúc bằng một hiệp ước với Genova vào tháng 5 năm 1352. Thêm một cuộc chiến khác nổ ra chống lại người Serbia mà vào lúc đó đã lập nên một đế chế rộng lớn trên các vùng biên giới tây bắc và có một liên minh mạo hiểm với người Thổ Ottoman, vốn định cư lần đầu tiên ở châu Âu, tại Gallipoli ở Thracia vào cuối thời Ioannes VI Kantakouzenos. Năm 1349, hoàng đế phái một đội tàu chiến lớn gồm 9 chiếc được đóng mới và khoảng 100 tàu nhỏ tới sát phạt Genova nhưng đã bị chiếm giữ toàn bộ. Sau đó vào năm 1351, ông còn gửi 12 tàu chiến tới giúp Venezia chống lại Genova nhưng đã bị đánh cho tan tành khiến sức mạnh hải quân của đế chế dần dần tan rã.
Kantakouzenos đã quá sẵn sàng để kêu gọi sự trợ giúp của nước ngoài trong những lần tranh chấp châu Âu của mình và khi ông không có đủ tiền để trả cho họ, thì có cớ cho họ sẵn sàng chiếm giữ một thị trấn châu Âu. Gánh nặng tài chính do ông áp đặt từ lâu đã làm phật lòng các thần dân của mình và một phe cánh hùng hậu đã luôn luôn ủng hộ Ioannes V Palaiologos. Do đó khi về sau bước chân vô Constantinopolis vào cuối năm 1354 thì Ioannes V Palaiologos mới thành công một cách dễ dàng như vậy.
Về hưu.
Kantakouzenos chấp nhận thoái vị về sống ở một tu viện (nơi ông lấy tên Joasaph Christodoulos) và luôn bận rộn với các hoạt động văn học nghệ thuật. Đến năm 1367, Joasaph được bổ nhiệm làm người đại diện của Giáo hội Chính Thống giáo Đông phương tới đàm phán với Paul thành Smyrna về sau là Thượng phụ Latinh thành Constantinopolis để cố gắng hòa giải giữa Giáo hội Chính Thống giáo Đông phương và Công giáo La Mã. Họ đã đồng ý triệu tập một đại hội đồng toàn thế giới với sự tham dự của Giáo hoàng, tất cả các thượng phụ và các giám mục và tổng giám mục của cả hai giáo hội đông tây. Kế hoạch này sau đó đã bị Giáo hoàng Urban V từ chối nên mọi sự đều không thành công. Kantakouzenos về sau qua đời tại Peloponnesus vào năm 1383 và được các con mình chôn cất tại Mistra ở Laconia.
Tác phẩm.
Bộ "Lịch sử" của ông gồm bốn tập đề cập đến những năm 1320-1356. Vì bộ sử đóng vai trò như một lời biện hộ cho hành động của hoàng đế nên cần phải được đọc một cách thận trọng, may mắn thay nó đã được bổ sung và hiệu chỉnh bởi tác phẩm của người đương thời là Nikephoros Gregoras. Giá trị của bộ sử nằm ở chỗ được cải biên khá tốt và đồng nhất, những sự biến đều xoay quanh nam diễn viên chính trong con người của tác giả, thế nhưng thông tin lại có phần thiếu sót về những vấn đề mà ông không trực tiếp liên quan. Kantakouzenos còn viết một bài biện hộ cho Hesychasm, một học thuyết thần bí của Hy Lạp.
Gia đình.
Với người Irene Asanina, con gái của Andronikos Asan (con của Hoàng đế Ivan Asen III của Bulgaria với Hoàng hậu Eirene Palaiologina, con gái của Hoàng đế Mikhael VIII Palaiologos), Ioannes VI Kantakouzenos có vài đứa con gồm: | 1 | null |
Ioannes VII Palaiologos (hoặc Palaeologus) (Hy Lạp: Ιωάννης Ζ' Παλαιολόγος, "Iōannēs VII Palaiologos") (1370 – 22 tháng 9, 1408) là Hoàng đế Đông La Mã trị vị được 5 tháng vào năm 1390.
Tiểu sử.
Ioannes VII Palaiologos là con của Hoàng đế Andronikos IV Palaiologos va Hoàng hậu Keratsa của Bulgaria, con gái của Hoàng đế Ivan Alexander của Bulgaria và Theodora xứ Wallachia. Khi cha ông Andronikos IV chiếm đoạt ngôi vị từ người cha Ioannes V Palaiologos vào năm 1376, Ioannes VII cũng được phong là đồng hoàng đế vào năm sau. Cả hai cha con đều sớm bị lật đổ và chọc mù mắt một phần vào năm 1379, nhưng Andronikos IV vẫn còn giữ được địa vị chức tước của mình và còn được Ioannes V ban cho vùng Selymbria (Silivri) làm lãnh địa riêng. Khi Andronikos IV qua đời vào năm 1385, Ioannes VII đã có thể kế vị chức tước của cha mình. Vào ngày 14 tháng 4 năm 1390, Ioannes VII Palaiologos đã ra lệnh trục xuất ông nội Ioannes V và tự mình giữ vững ngôi vị được năm tháng, đến khi Ioannes V được phục vị bởi người con Manuel với sự giúp đỡ của nước Cộng hòa Venezia.
Ioannes VII bèn chạy sang nương náu Bayezid I của Đế quốc Ottoman vào ngày 17 tháng 9 năm 1390. Bayezid đã thừa nhận Ioannes VII tại lãnh địa Selymbria của cha ông và cải thiện quan hệ với Manuel II, vốn dự định công nhận Ioannes VII là người thừa kế tiếp theo (do con trai của Manuel chưa được sinh ra vào lúc đó). Năm 1399, sau khi Bayezid I vây hãm Constantinopolis được năm năm, Manuel II vội vàng tới yêu cầu viện trợ quân sự từ các nước Tây Âu và để Ioannes VII làm nhiếp chính bảo vệ thủ đô. Ioannes VII đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình và đột nhiên kỳ tích xảy ra khi Bayezid bị Timur đánh bại trong trận Ankara vào ngày 20 tháng 7 năm 1402.
Sự thất bại này đã dẫn đến một cuộc nội chiến trong lòng Đế quốc Ottoman và các hoàng tử đối nghịch của Ottoman bèn tiến hành cầu hòa và hữu nghị với Đế quốc Đông La Mã. Lợi dụng lúc người Thổ đang suy yếu bởi các cuộc nội loạn. Ioannes VII đã tham gia vào một hiệp ước bảo đảm một dải bờ biển bị người Thổ chiếm đóng trên biển Marmara phía châu Âu sẽ được trả về cho Đông La Mã, đặc biệt là nhường lại thành phố Thessalonica trên biển Aegea. Thessalonica đã thuộc sự quản lý của Manuel II trước khi nó bị người Thổ chinh phục vào năm 1387. Ngày Manuel II trở về Ioannes VII đã kính cẩn trao trả lại quyền lực cho ông và được phép về hưu ở Thessalonica đã được nhượng lại cho Đông La Mã gần đây. Tại đây ông quản lý như một người cai trị bán độc lập suốt phần đời còn lại (1403–1408), vẫn sử dụng danh hiệu "Hoàng đế của toàn cõi Thessaly". Ioannes VII được phép giữ danh hiệu hoàng đế ("Basileus") và ông đã đồng trị vì cùng với đứa con út của mình là Andronikos V (sinh khoảng 1400) vào một ngày không chắc chắn, nhưng Andronikos V đã kế vị vào năm 1407 trước khi cha mình mất một năm sau đó.
Gia đình.
Với vợ Irene Gattilusio, Ioannes VII Palaiologos chỉ có một người con trai là: | 1 | null |
Vào tháng 12 năm 2013, hai vụ đánh bom riêng biệt xảy ra trong hai ngày liên tiếp nhằm vào khu vực giao thông đông đúc ở thành phố Volgograd, thuộc khu vực tỉnh Volgograd ở miền Nam nước Nga, làm tổng cộng ba mươi tư người thiệt mạng, trong đó có cả hai thủ phạm. Các vụ tấn công trên xảy ra sau một vụ đánh bom xe buýt cũng xảy ra tại thành phố này hai tháng trước đó.
Vụ đánh bom nhà ga tàu hoả ngày 29 tháng 12.
Ngày 29 tháng 12 năm 2013, một vụ đánh bom liều chết xảy ra tại nhà ga Volgograd-1 ở thành phố Volgograd, tỉnh Volgograd thuộc miền Nam nước Nga, khiến 18 người thiệt mạng và ít nhất 44 người khác bị thương, 38 người trong số đó đã phải nhập viện. Vụ tấn công xảy ra vào khoảng 12 giờ 45 theo giờ Moscow, gần nửa kiểm tra kim loại sát lối vào ga tàu. Lượng chất nổ chứa trong quả bom tương đương khoảng thuốc nổ TNT. Hiện trường vụ nổ được ghi lại nhờ một máy quay của đài CCTV trong toà nhà và một máy quay bên ngoài.
Ban đầu vụ tấn công được cho là do một phụ nữ tiến hành, trong tiếng Nga gọi là "Người đàn bà mặc đồ đen". Giới chức nhận dạng thủ phạm của vụ việc là Oksana Aslanova. Tuy nhiên, sau đó thông tin này đã bị nghi ngờ, khi một số cơ quan thông tấn cho rằng kẻ đánh bom trên là nam giới. Một số nguồn tin cho biết họ của thủ phạm là Pavlov. Ngày 30 tháng 12, có thông tin cho rằng kẻ đánh bom là một người dân tộc Nga theo đạo Hồi đến từ thành phố Volzhsk, thuộc Cộng hoà Mari El, có tên là Pavel Pechenkin, có tên Hồi giáo là Ar-Rusi. Cha hắn là một người dân tộc Nga, Nikolai, mẹ là người Hồi giáo, Fanaziya, cả hai đều kêu gọi con trai mình tránh xa bạo lực và đang đi tìm con ở Dagestan.
Nhầm lẫn càng tăng thêm khi một số báo đã sai sót khi cho rằng Pechenkin là người chịu trách nhiệm cho vu nổ ngày 30 tháng 12 ở Volgograd (trong một chiếc xe buýt). Vẫn chưa có nhóm nào đứng ra nhận trách nhiệm cho vụ tấn công này. Các chuyên gia nghi ngờ rằng Doku Umarov, một chiến binh theo đạo Hồi, kẻ kêu gọi tấn công khủng bố và có tiền án tham gia các vụ tấn công trước đây, là kẻ đứng đằng sau các vụ tấn công ở Volgograd.
Tổng thống Nga Vladimir Putin ra lệnh đưa những người bị thương nặng tới Moscow bằng đường hàng không để điều trị đặc biệt.
Vụ đánh bom xe buýt ngày 30 tháng 12.
Vụ tấn công liều chết thứ hai xảy ra vào sáng ngày 30 tháng 12, khoảng 8 giờ 30 theo giờ Moscow ở quận Dzerzhinsky thuộc Volgograd. Vụ đánh bom nhằm vào chiếc xe buýt số 1233 trên tuyến 15A, tuyến xe kết nối một vùng ngoại ô với khu vực trung tâm Volgograd, trong khi nó đang di chuyển qua một trong những khu chợ của thành phố. Theo ảnh của các nhân chứng, có thể thấy vụ nổ xảy ra ở phía sau chiếc xe buýt. Vụ tấn công khiến 16 người thiệt mạng và làm 41 người bị thương, 27 người trong số đó đã phải nhập viện. Xác kẻ đánh bom là nam giới đã được định vị và gửi đi giám định gen. | 1 | null |
Lãnh thổ Kansas (tiếng Anh: "Kansas Territory" hay "Territory of Kansas") từng là một lãnh thổ hợp nhất có tổ chức của Hoa Kỳ, tồn tại từ ngày 30 tháng 5 năm 1854 cho đến 29 tháng 1 năm 1861 khi phần phía đông của lãnh thổ được phép gia nhập liên bang để trở thành tiểu bang Kansas.
Lãnh thổ kéo dài từ ranh giới Missouri về phía tây đến đỉnh Rặng Thạch Sơn và từ vĩ tuyến 37 độ Bắc đến vĩ tuyến 40 độ Bắc. Phần lớn vùng phía đông của tiểu bang Colorado từng là một phần đất của Lãnh thổ Kansas. Lãnh thổ Colorado được thành lập để cai quản vùng phía tây của cựu Lãnh thổ Kansas vào ngày 28 tháng 3 năm 1861.
Đạo luật Kansas–Nebraska.
Lãnh thổ Kansas được thiết lập bởi Đạo luật Kansas–Nebraska. Đạo luật Kansas–Nebraska thành luật vào ngày 30 tháng 5 năm 1854, thiết lập Lãnh thổ Nebraska và Lãnh thổ Kansas. Điều quan trọng nhất của đạo luật là hiệu quả đình chỉ Thỏa hiệp Missouri năm 1820 và cho phép người định cư của Lãnh thổ Kansas với chủ quyền đại chúng quyết định liệu Kansas sẽ trở thành một tiểu bang tự do hay một tiểu bang theo chế độ nô lệ.
Đạo luật gồm có 37 đoạn. Các điều khoản có liên quan đến Lãnh thổ Kansas được ghi trong 18 đoạn cuối cùng của đạo luật.
Cuộc di cư từ phía đông.
Dân định cư ủng hộ chế độ nô lệ.
Trong vòng vài ngày sau khi thông qua Đạo luật Kansas-Nebraska, hàng trăm người dân từ Missouri vượt ranh giới vào lãnh thổ lân cận, chọn lựa một khu đất đai, và rồi tựu hơp với các nhà phiêu lưu đồng liêu của mình trong một cuộc họp hay một số cuộc họp với ý định thiết lập quyền duy trì chế độ nô lệ trên toàn bộ vùng đất.
Ngày 10 tháng 6 năm 1854, những người dân Missouri tổ chức một cuộc họp tại Thung lũng Salt Creek, một trạm mậu dịch nằm cách Fort Leavenworth 3 dặm Anh về phía tây. Tại đây, "Hội Squatter's Claim" được tổ chức. Họ nói rằng họ mong muốn biến Kansas thành một tiểu bang theo chế độ nô lệ nếu phải cần đến phân nửa tổng số công dân của Missouri với súng trong tay để di cư đến đó. Theo những người di cư này, những người giải phóng nô lệ sẽ vô sự nếu đừng bước vào Lãnh thổ Kansas mà nên dừng chân trên sông Missouri cho đến khi họ đến được Lãnh thổ Nebraska là nơi được tiên đoán trở thành một tiểu bang tự do. Trước khi đợt di cư đầu tiên của người "tự do" từ các tiểu bang miền Đông và miền Bắc Hoa Kỳ đến, gần như mọi vị trí thuận tiện dọc theo sông Missouri đã bị người từ tây Missouri tuyên bố chủ quyền.
Những người thuộc các tiểu bang tự do.
Trong cuộc tranh luận kéo dài trước khi thông qua Đạo luật Kansas-Nebraska, quan điểm đã được đồng thuận tại miền Bắc là: các phương cách còn lại duy nhất để cứu lãnh thổ này từ tay các thế lực theo chế độ nô lệ là chiếm cứ và định cư ngay lập tức với số lượng khá đông người di cư chống chế độ nô lệ từ các tiểu bang tự do để thiết lập các cơ quan tự do bên trong ranh giới lãnh thổ. Mong muốn tạo điều kiện cho công cuộc thuộc địa hóa lãnh thổ, trên thực tế, đã thành hình trong lúc đạo luật tổ chức vẫn còn đang lúc tranh luận tại Quốc hội Hoa Kỳ. Tổ chức lớn nhất được thành lập cho mục đích này là Công ty Trợ giúp Di cư Tân Anh do Eli Thayer tổ chức.
Cuộc di cư từ các tiểu bang tự do trong đó có Tân Anh, Iowa, Ohio, và các tiểu bang Trung Tây Hoa Kỳ đổ vào lãnh thổ bắt đầu vào năm 1854. Những người di cư này được biết là "những người thuộc các tiểu bang tự do. Vì người Missouri đã tuyên bố chủ quyền phần nhiều đất đai gần ranh giới nhất nên người thuộc các tiểu bang tự do bị ép buộc thiết lập các khu định cư xa hơn trong nội địa Lãnh thổ Kansas. Trong số các khu định cư là Lawrence, Topeka, và Manhattan.
Để bảo vệ họ chống lại sự xâm nhập của những người ngoài, "Hội Người định cư Thực sự của Lãnh thổ Kansas" được thành lập. Hội này tổ chức một cuộc họp vào ngày 12 tháng 8 năm 1854. Đề tài của cuộc họp là thông qua một số quy định để bảo vệ người định cư thuộc nhóm "tiểu bang tự do".
Các bổ nhiệm đầu tiên cho lãnh thổ.
Để giới thiệu một chính quyền lãnh thổ, các chức vụ bổ nhiệm đầu tiên theo các điều khoản của đạo luật tổ chức lãnh thổ được thực hiện vào tháng 6 và tháng 7 năm 1854. Tổng thống Pierce bổ nhiệm các chức vụ và được Thượng viện Hoa Kỳ xác nhận trước khi các viên chức này nhậm chức. Thống đốc đầu tiên là Andrew Horatio Reeder (từ Easton, Pennsylvania), được bổ nhiệm ngày 29 tháng 6 năm 1854 và bị bãi nhiệm ngày 28 tháng 7 năm 1858.
Bầu cử hội đồng lập pháp lãnh thổ.
Ngày 30 tháng 3 năm 1855, những người ủng hộ chế độ nô lệ, được biết với tên gọi "Border Ruffians", từ tiểu bang Missouri đổ vào Kansas tham gia bầu cử hội đồng lập pháp đầu tiên của lãnh thổ. Vì số đông áp đảo của họ nên họ đã bầu lên một hội đồng lập pháp với đa số thành viên ủng hộ chế độ nô lệ. Các ứng cử viên chống chế độ nô lệ chỉ thắng thế tại một khu bầu cử, đó là Quận Riley tương lai. Vì có nhiều nghi vấn về gian lận bầu cử, hội đồng lập pháp này được phe chống nô lệ mệnh danh là Bogus Legislature (Viện lập pháp Giả).
Phiên họp đầu của hội đồng lập pháp được tổ chức tại Pawnee, Kansas (bên trong địa giới của Fort Riley ngày nay) theo yêu cầu của thống đốc Reeder. Ông chọn lựa nơi này làm thủ phủ vì là nơi cách xa tiểu bang Missouri theo chế độ nô lệ. Tòa nhà bằng đá cao hai tầng hiện nay vẫn còn đó và mở cửa cho công chúng tham quan đã trở thành thủ phủ lãnh thổ đầu tiên của Kansas. Tòa nhà này chỉ làm trụ sở hội đồng lập pháp trong 5 ngày từ 2–6 tháng 7 năm 1855. Thủ phủ bị di chuyển đến gần tiểu bang Missouri hơn đến Cơ sở Truyền giáo của Hội thánh Giám lý Shawnee sau khi hội đồng lập pháp với đa số thành viên theo chế độ nô lệ thông qua một đạo luật di chuyển thủ phủ.
Đạo luật cuối cùng của Hội đồng Lập pháp Lãnh thổ là đạo luật chấp thuận hiến chương thành lập Đại học Sisters of Bethany vào ngày 2 tháng 2 năm 1861 - cách 4 ngày sau khi James Buchanan ký đạo luật của Quốc hội Hoa Kỳ chính thức thu nhận Kansas vào liên bang để trở thành tiểu bang Kansas.
Kansas đổ máu.
Lãnh thổ được mệnh danh là "Kansas đổ máu" vì là nơi hai phía chống và ủng hộ chế độ nô lệ chống đối nhau trong một cuộc tranh giành ảnh hưởng đôi lúc bằng bạo động. Nhiều sử gia cho rằng các sự kiện xảy ra tại Kansas vào lúc đó chính là nơi cuộc Nội chiến Hoa Kỳ bắt đầu.
James H. Lane gia nhập phong trào tiểu bang-tự do năm 1855 và trở thành chủ tịch Hội nghị Hiến pháp Topeka từ 23 tháng 10 đến 11 tháng 11 năm 1855. Sau đó ông là lãnh tụ của nhóm dân quân chống chế độ nô lệ "Jayhawker". Cuộc họp đông đảo đầu tiên của phong trào tiểu bang-tự do diễn ra tại Lawrence vào đêm 8 tháng 6 năm 1855. Trong cuộc họp có nói rằng có một số phần tử từ tiểu bang Missouri lân cận thường hay xâm nhập vào lãnh thổ này, gian lận và giành lấy quyền lực của nhân dân ta tại thùng phiếu, và đã bắt buộc chúng ta bằng một hội đồng lập pháp mà chẳng đại diện cho các quan điểm của các cử tri hợp pháp trong lãnh thổ này.
Cuộc họp cũng cho rằng một số người từ tiểu bang Missouria đã sử dụng bạo lực đối với người dân và tài sản của người dân trong Lãnh thổ Kansas. Cuộc họp đồng thuận rằng Kansas nên là một tiểu bang tự do và cho rằng người Missouria trong cuộc bầu cử vừa qua là một sự sĩ nhục toàn diện đối với quyền đầu phiếu và quyền con người của những "người tự do" (ám chỉ người được giải phóng nô lệ), và là một sự vi phạm các nguyên tắc chủ quyền công chúng. | 1 | null |
Lãnh thổ Colorado (tiếng Anh: "Colorado Territory" hay "Territory of Colorado") từng là một lãnh thổ hợp nhất có tổ chức của Hoa Kỳ, tồn tại từ ngày 28 tháng 2 năm 1861 cho đến ngày 1 tháng 8 năm 1876 khi nó được phép gia nhập liên bang để trở thành tiểu bang Colorado.
Lãnh thổ được tổ chức vào lúc có cơn sốt vàng Pike's Peak kéo dài từ 1858–1861. Cơn sốt vàng này đã giúp thiết lập khu định cư tập trung lớn đầu tiên của người da trắng tại vùng này. Đạo luật tổ chức thành lập lãnh thổ được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua và được tổng thống James Buchanan ký ngày 28 tháng 2 năm 1861 trong lúc có các vụ ly khai của các tiểu bang miền Nam Hoa Kỳ mà tạo thành cuộc Nội chiến Hoa Kỳ. Các ranh giới của Lãnh thổ Colorado tương đồng với ranh giới của Tiểu bang Colorado hiện tại. Việc tổ chức lãnh thổ đã giúp củng cố sự kiểm soát của phe liên bang đối với khu vực giàu khoáng sản thuộc Rặng Thạch Sơn. Vấn đề trở thành một tiểu bang từng được xem là khá hiện thực nhưng tham vọng trở thành tiểu bang bị ngăn chặn vào cuối năm 1865 bởi sự phủ quyết của tổng thống Andrew Johnson. Vấn đề trở thành tiểu bang là một vấn đề thường được đem ra bàn luận suốt thời chính phủ Ulysses Grant. Tổng thống Grant luôn kêu gọi cho phép lãnh thổ trở thành một tiểu bang trước một quốc hội không mấy quan tâm đến vấn đề này trong Thời đại Tái thiết Hoa Kỳ sau nội chiến. Lãnh thổ Colorado ngưng tồn tại khi tiểu bang Colorado được phép gia nhập liên bang vào năm 1876.
Mô tả.
Lãnh thổ được tổ chức từ đất đai nằm trong Rặng Thạch Sơn trên hai phía của Đường phân thủy Lục địa Bắc Mỹ và hợp nhất khu vực có cơn sốt vàng Pikes Peak xảy ra hai năm trước đó. Bên phía đông của đường phân thủy lục địa, lãnh thổ mới này bao trùm phần phía tây của Lãnh thổ Kansas cũng như một số phần phía nam của Lãnh thổ Nebraska và một mảnh nhỏ đông bắc của Lãnh thổ New Mexico. Bên phía tây đường đường phân thủy lục địa, lãnh thổ bao trùm phần lớn miền đông Lãnh thổ Utah là nơi người bản địa Ute và Shoshoni kiểm soát chặt chẽ. Bình nguyên phía đông có hai bộ tộc Cheyenne và Arapaho kiểm soát tương đối lỏng lẻo cũng như có sự hiện diện của người bản địa Pawnee, Comanche và Kiowa. Năm 1861, mười ngày trước khi thành lập lãnh thổ, người bản địa Arapaho và Cheyenne đồng ý với Hoa Kỳ từ bỏ phần lớn khu vực của họ tại bình nguyên cho người định cư da trắng nhưng vẫn được phép sống trong các khu vực truyền thống lớn hơn của họ miễn sao họ có thể dung hòa với người khai nghiệp da trắng gần trại của họ. Vào cuối Nội chiến Hoa Kỳ năm 1865, sự hiện diện của người bản địa Mỹ gần như biến mất khỏi vùng cao nguyên.
Lịch sử.
Vùng đất mà sau đó trở thành Lãnh thổ Colorado ban đầu nằm dưới chủ quyền của Hoa Kỳ trong ba giai đoạn: Cấu địa Louisiana của năm 1803 được điều chỉnh theo sau Hiệp định Adams-Onis năm 1819, Sáp nhập Texas năm 1845, và Nhượng địa Mexico năm 1848. Các tuyên bố chủ quyền về đất đai của Cộng hòa Texas thì đáng gây tranh cãi. Ranh giới giữa Hoa Kỳ và Mexico được tái xác định qua Hiệp định Guadalupe Hidalgo và cuối Chiến tranh Mỹ-Mexico năm 1848, và các ranh giới sau cùng của tiểu bang Texas bởi Thỏa hiệp 1850 của Quốc hội Hoa Kỳ.
Dân số người bản địa Mỹ.
Ban đầu, vùng đất bao trùm Lãnh thổ Colorado chủ yếu có người bản địa Ute sinh sống từ phía tây Colorado lên đến cao nguyên phía đông, và người bản địa Anasazi tại tây nam, miền nam và một phần ở đông nam Colorado. Người bản địa Comanche và Jicarilla Apache cũng chính thức cai quản các phần đất đông nam của Colorado. Người bản địa Arapaho và Cheyenne sinh sống tại phần đông bắc và viễn đông.
Thám hiểm bởi những người không phải bản địa.
Các nhà thám hiểm xưa nhất từ châu Âu đến thăm khu vực này là người Tây Ban Nha như Francisco Vásquez de Coronado tuy rằng đoàn thám hiểm của Coronado năm 1540–42 chỉ đi ngang qua ranh giới tương lai của Lãnh thổ Colorado ở phía nam và đông nam. Năm 1776, Francisco Atanasio Domínguez và Silvestre Vélez de Escalante thám hiểm miền nam Colorado trong đoàn thám hiểm Dominguez-Escalante.
Các cuộc thám hiểm nổi bật khác còn có: cuộc thám hiểm Pike năm 1806–07 của Zebulon Pike, chuyến du hành dọc theo bờ bắc sông Platte năm 1820 của Stephen H. Long đến nơi sau này có tên là Longs Peak, cuộc hành trình của John C. Frémont năm 1845–46, và cuộc hành trình khảo sát địa lý của John Wesley Powell.
Các khu định cư xưa, mậu dịch, và khai khoáng.
Năm 1779, thống đốc de Anza của New Mexico đánh bại người bản địa Comanche dưới quyền chỉ huy của Cuerno Verde tại tây nam Colorado. Năm 1786, de Anza giải hòa với người bản địa Comanche để thành lập một liên minh chống người bản địa Apache.
Một nhóm người Cherokee vượt sông South Platte và các thung lũng sông Cache la Poudre trên đường đến California vào năm 1848 trong thời cơn sốt vàng California. Họ báo cáo tìm thấy vàng tại khu vực sông South Platte và các sông nhánh khi họ đi dọc theo các ngọn núi. Tại miền nam, trong thung lũng San Luis, các gia đình Mexico xưa tự xây dựng cuộc sống trên các vùng đất rông lớn mà chính phủ Mexico cấp cho họ (về sau bị Hoa Kỳ tranh chấp).
Trong đầu thế kỷ 19, phía trên thung lũng sông South Platte có những người đánh bẫy thú xâm nhập nhưng họ không lập ra khu định cư lâu dài nào. Phong trào định cư lâu dài đầu tiên của người Mỹ trong khu vực bắt đầu khi Đạo luật Kansas-Nebraska ra đời năm 1854. Đạo luật này cho phép tuyên bố chủ quyền tư hữu đất đai. Trong số các dân định cư thiết lập chủ quyền đất đai tại đây là các cựu thợ đánh bẫy thú. Họ quay trở lại vùng đất mà họ từng đánh bẫy thú trước đây.
Năm 1858, Green Russell và một nhóm người quê quán ở Georgia nghe lời đồn về vàng tại vùng sông South Platte từ người bản địa Cherokee sau khi họ quay về từ California. Họ liền khởi hành đi tìm vàng tại khu vực mà người bản địa mô tả. Mùa hè năm đó, họ tìm thấy một trại tìm vàng Auraria ở nơi hợp lưu của sông South Platte và lạch Cherry. Những người Georgia rời khỏi khu vực để về tiểu bang nhà trong mùa đông năm sau. Tại đồn Bent dọc theo sông Arkansas, Russell nói với William Larimer, Jr., một nhà đầu cơ đất ở Kansas, về chỗ đãi vàng họ tìm thấy. Larimer nhận thấy đó là cơ hội để lợi đụng tìm thế để đầu cơ vì thế vội vã đến Auraria. Tháng 11 năm 1858, ông đưa ra tuyên bố chủ quyền đối với một khu vực bên kia lạch Cherry từ Auraria và đặt tên cho nó là "Denver City" để vinh danh James W. Denver, thống đốc đương thời của Lãnh thổ Kansas. Larimer không có ý định tự đãi vàng mà ông muốn đề xướng xây dựng thị trấn mới và bán các bất động sản cho những người đi đào vàng.
Kế hoạch đề xướng xây dựng thị trấn mới của Larimer gần như thành công ngay lập tức. Đến mùa xuân sau, phía tây Lãnh thổ Kansas dọc theo sông South Platte có rất đông người đào vàng tập trung đào xới lòng sông. Sự kiện này được biết với tên gọi là Cơn sốt vàng Colorado. Những người đến trước di chuyển nhanh lên thượng nguồn vào các ngọn núi, tìm nguồn vàng để đãi và thành lập các trại đãi vàng tại Black Hawk và Central City. Một nhóm đối thủ trong đó có William A.H. Loveland thiết lập thị trấn Golden tại chân các ngọn núi ở phía tây Denver với ý định cung ứng các hàng hóa cần thiết cho dòng người tìm vàng.
Khát vọng lập lãnh thổ.
Phong trào thành lập lãnh thổ bên trong ranh giới hiện tại của tiểu bang Colorado gần như theo sau ngay lập tức. Các công dân của Denver và Golden hối thúc vùng mới được định cư được lên địa vị lãnh thổ trong vòng một năm sau khi thành lập các thị trấn. Phong trào này được đề xướng bởi William Byers, nhà xuất bản của tờ báo "Rocky Mountain News", và bởi Larimer, người hy vọng trở thành thống đốc đầu tiên của lãnh thổ. Năm 1859, một phong trào đề xướng thành lập Lãnh thổ Jefferson không chính thức được ra mắt. Tổ chức này gởi các thỉnh cầu để xin Quốc hội Hoa Kỳ công nhận họ là một tổ chức chính thức.
Quốc hội không chờ đợi lâu, ban sự công nhận cho phong trào, một phần là vì thấy được sự hứa hẹn của một vùng đất rộng lớn giàu khoáng sản. Lãnh thổ được chính thức tổ chức bởi một đạo luật của quốc hội vào ngày 28 tháng 2 năm 1861 từ đất đai trước kia từng là một phần của các lãnh thổ sau: Lãnh thổ Kansas, Lãnh thổ Nebraska, Lãnh thổ Utah, và Lãnh thổ New Mexico. Theo thực tế thì lãnh thổ này mở cửa cho chế độ nô lệ theo Phán quyết Dred Scott năm 1857, nhưng vấn đề không đơn giản vì cuộc Nội chiến Hoa Kỳ đang tới gần và vì đa số người dân trong lãnh thổ có thái độ ủng hộ phe liên bang. Tên "Colorado" được chọn cho lãnh thổ. Nó từng được thượng nghị sĩ Henry S. Foote đề nghị trước đó vào năm 1850 làm tên cho một tiểu bang đáng lẽ được thành lập từ đất đai của tiểu bang California ngày nay tại phía nam vĩ tuyến 35° 45'. Thật đáng thất vọng cho người dân Denver, thị trấn Golden trở thành thủ phủ lãnh thổ.
Những năm Nội chiến Hoa Kỳ.
Trong Nội chiến Hoa Kỳ, làn sóng người tìm vàng mới đến lãnh thổ giảm dần. Nhiều người rời bỏ để về miền đông tham chiến. Những người gốc từ tiểu bang Missouri còn lại đã thành lập hai trung đoàn tình nguyện cũng nhưng nội vệ binh. Tuy giống như đang đóng quân trong phạm vi ngoại biên chiến trường nhưng các trung đoàn của Colorado tự thấy mình đang trong một vị trí hết sức quan trọng vào năm 1862 sau cuộc xâm nhập của Liên minh miền Nam Hoa Kỳ vào Lãnh thổ New Mexico do tướng Henry Sibley chỉ huy cùng với một lực lượng người Texas. Chiến dịch New Mexico của Sibley có ý định như trận mở đầu cho cuộc xâm nhập vào Lãnh thổ Colorado lên phía bắc đến đồn Laramie, cắt đường tiếp tế giữa California và phần còn lại của phe liên bang miền Bắc Hoa Kỳ. Binh sĩ Colorado dưới quyền tư lệnh của tướng Edward Canby và John M. Chivington đánh bại lực lượng của Sibley tại trận Glorieta Pass, phá tan chiến lược của phe liên minh miền Nam Hoa Kỳ.
Chiến tranh Colorado giữa Hoa Kỳ và người bản địa Cheyenne và Arapaho.
Năm 1851, theo Hiệp định Fort Laramie, Hoa Kỳ hứa cho người bản địa Cheyenne và Arapaho kiểm soát vùng bình nguyên phía đông của Colorado giữa sông North Platte và sông Arkansas theo hướng đông từ Rặng Thạch Sơn. Điều khoản 4 của Hiệp ước Fort Laramie cũng cho phép công dân Hoa Kỳ sống hợp pháp trong hay đi qua các lãnh thổ mới lập của người bản địa Mỹ. Kể từ khi hiệp định được thông qua trước khi hệ thống đường sắt xuất hiện và trước khi tìm thấy vàng trong vùng, một ít người da trắng đã mạo hiểm đến định cư tại khu vực mà ngày nay là Colorado. Vào thập niên 1860, vì cơn sốt vàng Colorado và sự xâm nhập của người đi khai khẩn đất về phía tây vào đất của người bản địa Mỹ nên mối quan hệ giữa người Mỹ và người bản địa trở nên tệ hại. Ngày 18 tháng 2 năm 1861, theo Hiệp định Fort Wise, một số tù trưởng người Cheyenne và Arapaho đồng ý với các dân biểu Hoa Kỳ về việc nhượng lại phần lớn đất đai mà 10 năm về trước đã được quyết định để lại cho các bộ lạc người bản địa, để làm các khu định cư của người da trắng. Người bản địa chỉ còn giữ lại một số mảnh đất vụn từ các vùng đất đai ban đầu của mình nằm giữa sông Arkansas và lạch Sand Creek. Phần đất đai vụn này được chia cho các thành viên cá nhân của các bộ lạc, mỗi người nhận được khoảng đất. Theo hiệp ước, Hoa Kỳ mong muốn người bản địa Mỹ đinh cư trong các khu dành riêng mới lập như những nông gia. Hoa Kỳ đồng ý trả cho các bộ lạc tổng cộng là $30.000 mỗi năm trong thời gian 15 năm và ngoài ra còn cung cấp một nhà máy gỗ, một hoặc nhiều xưởng cơ khí, nhà ở cho một người thông dịch, và một kỷ sư nhà máy gỗ..
Một số đông đồng hương của các tù trưởng phản đối và phất lờ hiệp định. Họ tuyên bố rằng các tù trưởng không có quyền ký kết hay nhận hối lộ để ký kết. Họ trở nên ngày càng thù địch hơn với người da trắng đang xâm lấn đất săn bắn của họ. Căng thẳng lên cao vào năm 1862 khi thống đốc lãnh thổ Colorado là John Evans thành lập nội vệ binh gồm nhiều trung đoàn người tình nguyện của Colorado trở về sau nội chiến và mạnh tay chống lại những người bản địa bị tố cáo là kẻ trộm. Ngày 21 tháng 8 năm 1864, một nhóm 30 người bản địa Mỹ tấn công 4 thành viên kỵ binh Colorado khi họ bao chặn các con bò đi lạc. Ba thành viên quay trở về được nhưng người thứ tư mất tích. Người này là Conrad Moschel, được tìm thấy vài ngày sau đó với các vết đạn và mũi tên. Người này cũng bị lột da đầu theo kiểu hành hình của người bản địa Cheyenne. Hành động gây hấn của các chiến binh người Cheyenne càng làm dân chúng Colorado tức giận. Sau một số vụ đụng độ nhỏ mà sau này được gọi là Chiến tranh Colorado vào tháng 11 năm 1864, một lực lượng gồm 800 binh sĩ thuộc nội vệ binh Colorado, sau khi uống rượu quá chén, đã tấn công một trại của người Cheyenne và Arapaho tại lạch Sand, giết chết khoảng từ 150 đến 200 người bản địa, phần đông là người già và trẻ em. Vụ thảm sát Sand Creek hay 'Vụ thảm sát người bản địa Cheyenne'
dẫn đến các cuộc điều trần chính thức bởi Ủy ban Lưởng viện Quốc hội Hoa Kỳ đặc trách Chỉ đạo Chiến tranh vào tháng 3 và tháng 4 năm 1865. Sau các buổi điều trần, bản báo cáo ngày 4 tháng 5 năm 1865 của Ủy ban Lưỡng viện Quốc hội mô tả hành động của đại tá John Chivington và quân tình nguyện của ông là ‘bẩn thủi, đê tiện, tàn nhẩn, hèn hạ’.
Tuy nhiên, công lý chưa bao giờ được thực thi đối với những người có trách nhiệm cho vụ thảm sát. Cuộc chiến vẫn tiếp tục cho đến khi những người bản địa Arapaho, Cheyenne, Kiowa và Comanche cuối cùng bị đuổi ra khỏi Lãnh thổ Colorado vào Oklahoma.
Phong trào cho địa vị tiểu bang.
Sau nội chiến, một phong trào được hình thành với mục tiêu kêu gọi lãnh thổ được phép trở thành một tiểu bang. Cuối năm 1865, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua đạo luật nhận lãnh thổ vào liên bang nhưng bị tổng thống Andrew Johnson phủ quyết. Trong 11 năm kế tiếp, phong trào kêu gọi chấp thuận lãnh thổ thành tiểu bang bị dậm chân tại chỗ sau một số lần tưởng như thành công. Tổng thống Grant đề xướng cho phép lãnh thổ trở thành một tiểu bang vào năm 1870 nhưng quốc hội vẫn không hành động.
Trong lúc đó, lãnh thổ từ nhận thấy rằng mình bị đe dọa vì thiết hệ thống đường sắt. Vào cuối thập niên 1860, nhiều người tại Denver bán sản nghiệp của mình và di chuyển về phía đông đến các cộng đồng thuộc Lãnh thổ Dakota như Laramie và Cheyenne. Các cộng đồng này nằm dọc theo hệ thống đường sắt liên lục địa. Vì phải đối mặt với việc dân số giảm dần tại các thị trấn và vùng xung quanh các thị trấn nên người dân của Denver góp vốn và xây dựng tuyến đường sắt Denver Thái Bình Dương đi hướng bắc đến Cheyenne để đưa hệ thống đường sắt kết nối với Denver. Tuyến đường sắt Kansas Thái Bình Dương đến Denver được hoàn tất hai tháng sau đó. Hành động này giúp cũng cố vai trò của Denver như một vùng đô thị cấp vùng trong tương lai. Cuối cùng lãnh thổ được nhận vào liên bang để trở thành một tiểu bang vào năm 1876.
Các thủ phủ lãnh thổ.
Ba cộng đồng xưa nhất của Colorado có vinh dự phục vụ trong vai trò thủ phủ của Lãnh thổ Colorado: | 1 | null |
Barbucca là một chi cá có ở vùng Đông Nam Á. Chúng trước đây xếp trong họ Balitoridae, nhưng từ năm 2012 đã được tách ra thành một họ mới đơn loài là Họ Cá chạch suối đuôi gai ("Barbuccidae"). Chúng là chi duy nhất trong họ này.
Các loài.
Hiện tại các nhà sinh vật học mới chỉ ghi nhận hai loài trong chi này: | 1 | null |
Bàu Bàng là một huyện nằm ở phía bắc tỉnh Bình Dương, Việt Nam.
Địa lý.
Huyện Bàu Bàng nằm ở phía bắc tỉnh Bình Dương, cách thành phố Thủ Dầu Một 32 km, cách Thành phố Hồ Chí Minh 62 km về phía bắc theo Quốc lộ 13, có vị trí địa lý:
Huyện Bàu Bàng có diện tích 340,02 km², dân số năm 2021 là 105.371 người, mật độ dân số đạt 310 người/km².
Hành chính.
Huyện Bàu Bàng có 7 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Lai Uyên (huyện lỵ) và 6 xã: Cây Trường II, Hưng Hòa, Lai Hưng, Long Nguyên, Tân Hưng, Trừ Văn Thố.
Lịch sử.
Huyện được thành lập vào ngày 29 tháng 12 năm 2013 theo Nghị quyết số 136/NQ-CP của Chính phủ, trên cơ sở 7 xã còn lại của huyện Bến Cát cũ là: Cây Trường II, Hưng Hòa, Lai Hưng, Lai Uyên, Long Nguyên, Tân Hưng và Trừ Văn Thố.
Khi mới thành lập, huyện có 33.915,69 ha diện tích tự nhiên, 82.024 người với 7 xã trực thuộc. Huyện lỵ đặt tại xã Lai Uyên.
Ngày 11 tháng 7 năm 2018, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 535/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thị trấn Lai Uyên (thị trấn huyện lỵ huyện Bàu Bàng) trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của xã Lai Uyên.
Huyện Bàu Bàng có 1 thị trấn và 6 xã như hiện nay.
Kinh tế - xã hội.
Giáo dục.
Toàn huyện có 28 trường công lập, trong đó có 1 trường trung học phổ thông, 6 trường trung học cơ sở, 11 trường tiểu học, 10 trường mầm non công lập. Ngoài ra còn có 6 trường mầm non ngoài công lập.
Giao thông.
Đường bộ.
Đường quốc gia: Bao gồm quốc lộ 13 và đường Hồ Chí Minh.
Đường tỉnh: Bao gồm các tuyến đường tạo lực Mỹ Phước – Bàu Bàng, ĐT.741B, ĐT.745A, ĐT.745C, ĐT.749C, ĐT.750. Hệ thống đường tỉnh đi qua địa bàn đã và đang được nâng cấp đầu tư mở rộng theo lộ giới quy hoạch, có vai trò giảm tải cho quốc lộ 13, đồng thời kết nối với các huyện khác trong tỉnh, giữa khu công nghiệp Bàu Bàng với các khu công nghiệp khác trong tỉnh, kết nối đến các điểm nhà ga, bến cảng, thúc đẩy lưu thông, trao đổi hàng hóa.
Đường huyện: Đường huyện có 13 tuyến với chiều dài 80,47km, tỷ lệ bê tông hóa, nhựa hóa đạt 100%, chất lượng mặt đường từ trung bình đến tốt. Bên cạnh đó còn có các tuyến đường nằm trong khu công nghiệp và đô thị Bàu Bàng do Becamex đầu tư đã được xây dựng với hệ thống hạ tầng hoàn thiện.
Đường giao thông nông thôn của các xã có tổng cộng 617 tuyến với chiều dài 448,93km, đến nay đã được nhựa hóa và bê tông hóa 151,6km, đạt 33,8%.
Huyện đang lên kế hoạch mở các tuyến giao thông mới: đường Đông Tây 1, đường Bắc Nam 1, đường Tây quốc lộ 13, đồng thời nâng cấp, mở rộng các tuyến đường: ĐT.741B, ĐT.745A, ĐT.745C, ĐT.749A, ĐT.749C, ĐT.750, đường Bắc Tân Uyên – Phú Giáo – Bàu Bàng, đường tạo lực Mỹ Phước – Bàu Bàng (đã thông xe), đường Vành đai 5. | 1 | null |
Bắc Tân Uyên là một huyện thuộc tỉnh Bình Dương, Việt Nam.
Địa lý.
Huyện Bắc Tân Uyên nằm ở phía đông của tỉnh Bình Dương, nằm cách thành phố Thủ Dầu Một khoảng 34 km về phía đông bắc, cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 48 km, có vị trí địa lý:
Huyện Bắc Tân Uyên có diện tích 400,31 km², dân số năm 2021 là 87.532 người, mật độ dân số đạt 220 người/km².
Hành chính.
Huyện Bắc Tân Uyên có 10 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 3 thị trấn: Tân Thành (huyện lỵ), Tân Bình, Lạc An và 7 xã: Bình Mỹ, Đất Cuốc, Hiếu Liêm, Tân Định, Tân Lập, Tân Mỹ, Thường Tân.
Lịch sử.
Huyện được thành lập vào ngày 29 tháng 12 năm 2013 theo Nghị quyết số 136/NQ-CP của Chính phủ, trên cơ sở 10 xã còn lại của huyện Tân Uyên cũ: Bình Mỹ, Đất Cuốc, Hiếu Liêm, Lạc An, Tân Bình, Tân Định, Tân Lập, Tân Mỹ, Tân Thành và Thường Tân.
Khi mới thành lập, huyện có 40.087,67 ha diện tích tự nhiên, 58.439 người với 10 xã trực thuộc. Huyện lỵ đặt tại xã Tân Thành.
Ngày 11 tháng 7 năm 2018, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 535/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thị trấn Tân Thành, thị trấn huyện lỵ huyện Bắc Tân Uyên trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của xã Tân Thành.
Ngày 9 tháng 12 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 1110/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 2 năm 2021). Theo đó, thành lập thị trấn Tân Bình trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của xã Tân Bình.
Huyện Bắc Tân Uyên có 2 thị trấn và 8 xã như hiện nay. | 1 | null |
Mạnh Sưởng () (919–12 tháng 7, 965), sơ danh Mạnh Nhân Tán (孟仁贊), tự Bảo Nguyên (保元), được Tống Thái Tổ truy thụy hiệu là Sở Cung Hiếu Vương (楚恭孝王), là hoàng đế thứ hai và cuối cùng của nước Hậu Thục thời Ngũ Đại Thập Quốc tại Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 934 cho đến khi quốc gia bị triều Tống chinh phục vào năm 965.
Trong hơn ba thập niên ông trị vì, Hậu Thục phần lớn được hưởng sự thái bình. Quốc gia trở thành một trong các trung tâm về nghệ thuật và văn học, chúng phát triển mạnh mẽ với sự bảo trợ của triều đình. Hậu Thục cũng nằm trong số các vương quốc phương nam ổn định nhất, song lại đình đốn về quân sự và chính trị. Khi triều Tống thay thế triều Hậu Chu tại Trung Nguyên vào năm 960, hoàng đế khai quốc của triều Tống là Tống Thái Tổ tiến hành công cuộc thống nhất Trung Hoa. Quân Tống buộc Mạnh Sưởng phải đầu hàng vào năm 965.
Thân thế.
Mạnh Nhân Tán sinh tháng 11 âm lịch năm Kỉ Mão (919) tại Thái Nguyên. Cha ông là Mạnh Tri Tường, đương thời là "giáo luyện sứ" dưới quyền Tấn vương Lý Tồn Úc, và được Lý Tồn Úc cho kết hôn với một người trong vương thất. Tuy nhiên, Mạnh Nhân Tán lại do một phụ nữ họ Lý khác sinh ra, người này nguyên là thiếp của Lý Tồn Úc, song được tặng cho Mạnh Tri Tường làm thiếp. Ông là con thứ ba của Mạnh Tri Tường.
Thời Hậu Đường.
Năm 923, Lý Tồn Úc xưng là hoàng đế của triều Hậu Đường, tức Hậu Đường Trang Tông, sau đó thôn tính Hậu Lương. Năm 925, Hậu Đường Trang Tông khiển quân đi chinh phục nước Tiền Thục ở tây nam. Sau đó, Hậu Đường Trang Tông bổ nhiệm Mạnh Tri Tường là Tây Xuyên tiết độ sứ, cai quản một lãnh thổ lớn của Tiền Thục lúc trước. Tuy nhiên, một thời gian ngắn sau, toàn lãnh thổ Hậu Đường ngập chìm trong nội loạn, và Hậu Đường Trang Tông bị sát hại trong một cuộc binh biến tại kinh thành Lạc Dương vào năm 926. Kế vị Hậu Đường Trang Tông là Lý Tự Nguyên, tức Hậu Đường Minh Tông.
Mạnh Tri Tường có mâu thuẫn với chính quyền một thời gian ngắn sau đó, đặc biệt là với Xu mật sứ An Trọng Hối (安重誨) đầy quyền lực, vị quan này nghi ngờ cả Mạnh Tri Tường (do có quan hệ hôn nhân với họ hàng của Hậu Đường Trang Tông) và Đông Xuyên tiết độ sứ Đổng Chương (董璋). Căng thẳng bắt đầu leo thang, đặc biệt là sau khi Mạnh Tri Tường hành quyết Tây Xuyên đô giám Lý Nghiêm (李嚴) do Hậu Đường Minh Tông phái đến, vào năm 927. Đương thời, Mạnh Tri Tường sai người đi hộ tống thê là Quỳnh Hoa trưởng công chúa, cùng mẹ con Mạnh Nhân Tán đến Tây Xuyên. Khi họ đến Phượng Tường, tin tức về việc Mạnh Tri Tường hành hình Lý Nghiêm đã lan đến đây. Phượng Tường tiết độ sứ Lý Tòng Nghiễm do vậy giữ họ lại Phượng Tường một thời gian, song Hậu Đường Minh Tông sau đó ban lệnh cho phép học tiếp tục đến Tây Xuyên. (Tuy nhiên, con trai của Quỳnh Hoa trưởng công chúa có vẻ như không được phép trở về Tây Xuyên.) Mạnh Nhân Tán được nhận định là thông minh khi còn thiếu niên, sau khi đến Tây Xuyên thì được trao chức "Hành quân tư mã" trong quân đội Tây Xuyên.
Thời Mạnh Tri Tường trị vì Hậu Thục.
Mạnh Tri Tường sau đó củng cố sự kiểm soát đối với đất Thục, đoạt lấy Đông Xuyên và các đạo lân cận. Tháng 3 dương lịch năm 934, một thời gian ngắn sau khi Hậu Đường Minh Tông qua đời, Mạnh Tri Tường xưng làm hoàng đế của Thục (được sử sách gọi là Hậu Thục). Hậu Thục ban cho Mạnh Tri Tường các chức "kiểm giáo thái bảo", Đông Xuyên tiết độ sứ, Sùng Thánh cung sứ, và "Đồng trung thư môn hạ bình chương sự".
Trong khi đó, Mạnh Tri Tường được thuật lại lại là bị đột quỵ từ một năm trước đó, bệnh tình này càng trở nên nặng. Ngày Giáp Tý (26) tháng 7 ÂL năm Giáp Ngọ (7 tháng 9 năm 934), Mạnh Tri Tường lập Mạnh Nhân Tán làm Thái tử, giám quốc. Ngoài ra, Mạnh Tri Tường cũng hạ chiếu lệnh triệu Tư không/Đồng bình chương sự Triệu Quý Lương (趙季良), Vũ Tín tiết độ sứ Lý Nhân Hãn (李仁罕), Bảo Ninh tiết độ sứ Triệu Đình Ẩn, Xu mật sứ Vương Xử Hồi (王處回), Phủng thánh khống hạc đô chỉ huy sứ Trương Công Đạc (張公鐸), Phụng loan túc vệ chỉ huy phó sứ Hầu Hoàng Thực (侯弘實) đến thụ khiển chiếu phụ chính. Đêm hôm đó, Mạnh Tri Tường qua đời. Ngày Bính Dần (28) tháng 7, tuyên di chiếu, mệnh Thái tử Nhân Tán đổi tên thành Sưởng. Ngày Đinh Mão (29) tháng 7 (tức 10 tháng 9, 934, Mạnh Sưởng tức hoàng đế vị. Khi đó ông 16 tuổi (âm).
Trị vì.
Trị vì thời kỳ đầu.
Ngay sau khi Mạnh Sưởng lên ngôi, vào tháng 9 âm lịch, Lý Nhân Hãn nhất quyết đòi được chỉ huy lục quân. Mạnh Sưởng thoạt đầu bất đắc dĩ chấp thuận, thăng Lý Nhân Hãn cai quản lục quân vào ngày Giáp Dần (17) tháng 9 (tức 27 tháng 10), cho Triệu Đình Ấn làm phó. Tuy nhiên, sang tháng 10 ÂL, Trương Công Đạc và một vài thân tín khác của Mạnh Sưởng buộc tội Lý Nhân Hãn có ý đồ khác, Mạnh Tri Tường quyết định bắt giữ Lý Nhân Hãn khi người này nhập triều, sau đó hạ chiếu trừ khử Lý Nhân Hãn cùng kỳ tử Lý Kế Hoành (李繼宏) và một vài tùy tòng khác. Chiêu Vũ tiết độ sứ Lý Triệu (李肇) trước đó mặc dù biết Mạnh Sưởng tức hoàng đế vị song không chịu nhập triều, song trước diễn biến này, Lý Triệu thay đổi thái độ và trở nên rất phục tùng. Các thân tín của thuyết phục Mạnh Sưởng giết Lý Triệu vì tội ngạo mạn, song Mạnh Sưởng chỉ buộc Lý Triệu trí sĩ.
Ngày Mậu Dần tháng 2 năm Ất Mùi (20 tháng 3 năm 935), Mạnh Sưởng tôn sinh mẫu Lý thị làm hoàng thái hậu. Trong năm đó, hoàng đế của Hậu Đường là Lý Tòng Kha cố gắng khôi phục quyền quản lý đối với Sơn Nam Tây đạo- là nơi hàng phục Hậu Thục trong những ngày cuối Mạnh Tri Tường trị vì. Tuy nhiên, cuộc tiến công này bị tướng Hậu Thục Lý Diên Hậu (李延厚) đẩy lui.
Năm 936, Thạch Kính Đường soán vị Lý Tòng Kha, triều Hậu Đường kết thúc. Thạch Kính Đường lập nên triều Hậu Tấn, tức Hậu Tấn Cao Tổ, và đến năm 937 thì khiển sứ sang Hậu Thục thông báo sự việc cho Mạnh Sưởng. Mạnh Sưởng viết thư hồi đáp, dùng lễ giữa hai nước ngang hàng.
Tháng 8 ÂL năm 939, chư hầu của Hậu Thục là Khê châu thứ sử Bành Sĩ Sầu (彭士愁) dẫn hơn vạn người Man tiến công hai châu Thìn và Lễ của Sở (chư hầu chính thức của Hậu Tấn), Bành Sĩ Sầu khiển sứ sang Hậu Thục cầu viện để tiến quân hơn nữa. Tuy nhiên, Mạnh Sưởng thấy chiến dịch diễn ra quá xa nên không đồng ý. Sau đó, lực lượng do Sở vương Mã Hi Phạm (馬希範) phái đi giành được thắng lợi trước Bành Sĩ Sầu. Bành Sĩ Sầu đầu hàng Sở vào tháng giêng ÂL năm sau, lãnh thổ của người nay rơi vào tay Sở.
Kể từ khi Hậu Thục kiến quốc, các đại tướng thường được ban chức tiết độ sứ song vẫn ở lại kinh thành Thành Đô để tiếp tục giám sát các hoạt động của cấm binh. Điều này dẫn đến việc họ sao lãng quản trị các đạo, giao lại công việc cho liêu tá, song những người này thường xuyên tham nhũng và không lo liệu chính sự. Mạnh Sưởng nhận thấy được tệ này, và ngày Bính Thìn (26) tháng 2 năm Tân Sửu (26 tháng 3 năm 941), ông tiến hành cải thiện tình hình bằng cách tước các chức tiết độ sứ của Triệu Đình Ẩn, Vương Xử Hồi, và Trương Công Đạc, 'thăng' họ làm kiểm giáo quan. Đến ngày Giáp Tuất (14) tháng 3 (tức 13 tháng 4), ông khiển năm sĩ đại phu đến làm chủ năm quân.
Hè năm 941, Sơn Nam Đông đạo tiết độ sứ An Tòng Tiến (安從進) của Hậu Tấn mưu phản chống Hậu Tấn Cao Tổ, An Tòng Tiến khiển sứ phụng biểu cho Hậu Thục cầu viện, thỉnh cầu Hậu Thục tiến công Kim châu và Thương châu của Hậu Tấn để phân tán quân lực của Hậu Tấn. Sau khi thảo luận với quần thần, Mạnh Sưởng quyết định rằng việc khiển một đội quân nhỏ về bản chất là không giúp đỡ cho An Tòng Hiến, và nếu khiển một đội quân lớn thì sẽ gặp phải các vấn đề lớn về hậu cần. Do đó, Mạnh Sưởng từ chối viện trợ cho An Tòng Tiến. (An Tòng Tiến sau đó chiến bại và tự sát.)
Năm 943, Mạnh Sưởng ban một chiếu chỉ tiến hành chọn lựa mỹ nữ trong thiên hạ để sung vào hậu cung, độ tuổi giới hạn là 13-20 (âm). Lão bách tính bị náo động, nhiều gia đình nhanh chóng cho nữ nhi của nhà mình xuất giá để tránh phải tham gia tuyển chọn, gọi là 'kinh hôn'. Khi Tân Tân huyện lệnh Trần Cập Chi (陳及之) dâng thư khuyến gián, viên quan này được Mạnh Sưởng biểu dương, song vẫn không đình chỉ quá trình chinh thu. Sau khi chinh thu, số cung nữ tăng lên nhiều, Mạnh Sưởng phân họ thành 14 cấp như chiêu nghi, chiêu dung, chiêu hoa, bảo phương, bảo y, an thần, an tất, an tình, tu dung, tu ái, tu quyên.
Ngày Mậu Tuất (25) tháng 1 năm Giáp Thìn (21 tháng 2 năm 944), Mạnh Sưởng đảo ngược cải cách trước đây của mình khi phục hồi việc cho tướng lĩnh tể tướng được diêu lĩnh tiết độ sứ.
Sang tháng 2 ÂL 944, Thành Nghĩa quân chỉ huy sứ Vương Quân Hoài (王君懷) suất sở bộ hơn một nghìn người phản Hậu Tấn hàng Hậu Thục, và tình nguyện dẫn đường cho quân đội Hậu Thục chiếm Giai châu và Thành châu hiện nay. Tuy nhiên, quân Hậu Thục thất bại trước quân Tần châu của Hậu Tấn vào tháng 3 ÂL.
Thời kỳ trị vì giữa.
Tháng 12 âm lịch năm Bính Ngọ (tháng 1 năm 947), quân Khiết Đan do Thái Tông hoàng đế Da Luật Đức Quang chỉ huy tiến đến kinh thành Khai Phong của Hậu Tấn, Hoàng đế Hậu Tấn Thạch Trọng Quý (người kế vị Thạch Kính Đường) đầu hàng Khiết Đan vào ngày Quý Dậu (17) tháng 12 (tức 11 tháng 1). Hầu hết các tiết độ sứ của Hậu Tấn nhanh chóng quy phục hoàng đế Khiết Đan. Tuy nhiên, tháng giêng âm lịch năm sau, Hùng Vũ tiết độ sứ Hà Trọng Kiến (何重建) trảm một sứ giả Khiết Đan và đem lãnh địa của mình (gồm ba châu Tần, Thành, Giai) hàng Hậu Thục. Sang 1 tháng 2 âm lịch (24/2), Da Luật Đức Quang tuyên bố mình là hoàng đế hợp pháp của cả người Hán và người Khiết Đan, xưng là Đại Liêu. Ngày Ất Sửu (9) cùng tháng (4/3), Hà Trọng Kiến thỉnh cho quân Hậu Thục cùng quân Giai-Thành tiếng công Phượng châu, ngày hôm sau Mạnh Sưởng cho 3700 lính đến. Ngày Ất Hợi (20) tháng 4 (13/5), Phượng châu phòng ngự sứ Thạch Phượng Quân (石奉頵) — một thành viên của hoàng tộc Hậu Tấn — cũng đem châu của mình đầu hàng Hậu Thục.
Tuy nhiên, do hoàng đế triều Liêu không cai trị tốt, nhiều cuộc nổi dậy của người Hán nổ ra, mạnh nhất trong số đó là của cựu tướng Hậu Tấn Lưu Tri Viễn, người này xưng là hoàng đế của triều Hậu Hán vào ngày Tân Mùi (15) tháng 2 (tức 10 tháng 3). Lưu Tri Viễn nhanh chóng giành quyền kiểm soát hầu hết lãnh thổ cũ của Hậu Tấn, còn Liêu Thái Tông triệt thoái về bắc và qua đời cùng năm. Tấn Xương tiết độ sứ Triệu Khuông Tán (趙匡贊) do Liêu bổ nhiệm là con của đại tướng Liêu Triệu Diên Thọ (趙延壽), Triệu Khuông Tán lo sợ sẽ không được hoàng đế của Hậu Hán dung thứ, vì vậy vào tháng 10 ÂL khiển sứ hàng Hậu Thục. Theo thỉnh cầu của Triệu Khuông Tán, ngày Canh Dần (10) tháng 12 (23 tháng 1 năm 948), Mạnh Sưởng cho hàng tướng Hậu Tấn là Tiết độ sứ Trương Kiền Chiêu (張虔釗) đem 5 vạn quân đi viện trợ Triệu Khuông Tán. Ông cũng lệnh cho Xu mật sứ Vương Xử Hồi viết thư chiêu dụ Phượng Tường tiết độ sứ Hầu Ích (侯益). Hầu Ích chấp thuận, quân Hậu Thục tiến gần tới thủ phủ của Tấn Dương, sẵn sàng sáp nhập thêm một lượng lớn lãnh thổ. Tuy nhiên, sang tháng giêng, Tấn Dương tiết độ phán quan Lý Thứ (李恕) thuyết phục Triệu Khuông Tán đổi ý và quay sang quy phục Hậu Hán; Triệu Khuông Tán khiển Lý Thứ đến kinh thành Khai Phong của Hậu Hán để cầu xin Lưu Tri Viễn tha thứ. Hay tin Triệu Khuông Tán đổi ý, Hầu Ích cũng khiển sứ giả đến chỗ Lưu Tri Viễn để xin tha thứ. Lưu Tri Viễn khiển Vương Cảnh Sùng (王景崇) đem quân hướng về Tấn Xương và Phượng Tường để chuẩn bị cho trận đánh với quân Hậu Thục, vởi chỉ thị tấn công Triệu Khuông Tán và Hầu Ích nếu như họ lại đổi ý. Tuy nhiên, Triệu Khuông Tán nhanh chóng dời đến Khai Phong, còn Hầu Ích sau khi lưỡng lự cũng làm như vậy, quân của Vương Cảnh Sùng nay chiếm được cả hai lãnh địa này. Sau đó, tướng Lý Đình Khuê của Hậu Thục đến Trường An, biết tin Triệu Khuông Tán đến Khai Phong thì muốn trở về, Vương Cảnh Sùng đón đánh Lý Đình Khuê ở Tử Ngọ Cốc. Trương Kiền Chiêu đến Bảo Kê, chư tướng chọn cách án binh không tiến. Quân Thục sau đó chiến bại trước Vương Cảnh Sùng trong một vài trận chiến nhỏ, và triệt thoái, kết thúc hy vọng giành được một lãnh thổ rộng vào đương thời.
Tuy nhiên, một cơ hội đoạt thêm lãnh thổ lại tiến đến ngay sau đó. Hầu Ích đến Khai Phong và tặng nhiều quà cho các quan chủ chốt mà Lưu Tri Viễn trước lúc qua đời đã giao phó giúp đỡ thiếu hoàng đế Lưu Thừa Hựu, Hầu Ích có được ảnh hưởng lớn trong triều đình Hậu Hán, được giữ chức Khai Phong doãn vào Bính Dần (17) tháng 3 (28 tháng 4 năm 948). Bực tức trước việc Vương Cảnh Sùng trước đó từng định giết mình, Hầu Ích tung tin đồn làm tổn hại đến thanh danh của Vương Cảnh Sùng. Vương Cảnh Sùng hay tin thì bất an. Hơn nữa, đương thời có hai cuộc nổi dậy nổ ra chống lại triều đình Hậu Hán: Hộ Quốc tiết độ sứ kiêm Trung thư lệnh Lý Thủ Trinh (李守貞) nổi dậy từ lãnh địa của mình còn Triệu Tư Oản (趙思綰) nổi dậy tại Trường An. Do đó, Vương Cảnh Sùng cũng quyết định nổi dậy, liên kết với Lý Thủ Trinh và Triệu Tư Oản, trong khi cũng khiển sứ giả đế quy phục Hậu Thục, Triệu Tư Oản cũng làm vậy. Hậu Thục cử quân nhằm viện trợ cho Vương Cảnh Sùng và Triệu Tư Oản, song quân Hậu Thục ban đầu bị tướng Hậu Hán là Triệu Huy (趙暉) cho quân tập kích và đẩy lui vào tháng 9 ÂL. Sang tháng 10 ÂL, Mạnh Sưởng cử một đội quân lớn hơn dưới quyền chỉ huy của Sơn Nam Tây đạo tiết độ sứ An Tư Khiêm (安思謙) nhằm viện trợ Vương Cảnh Sùng và Triệu Tư Oản, bất chấp việc Đồng bình chương sự Vô Chiêu Duệ (毋昭裔) nói rằng việc này quá nguy hiểm. Đội quân của An Tư Khiêm sa lầy ở mặt trận với Hậu Hán, và đến khi cạn lương thảo thì buộc phải triệt thoái. Không còn hy vọng Hậu Thục cứu viện trong khi bị Triệu Huy bao vây, Vương Cảnh Sùng tự sát vào tháng 12 ÂL năm sau. Triệu Tư Oản đầu hàng song sau đó bị tướng Quách Tòng Nghĩa (郭從義) bắt giữ và hành hình.
Trong khi quân Hậu Thục giao chiến với quân Hậu Hán, trong nội bộ triều đình Hậu Thục diễn ra một cuộc cải tổ. Đồng bình chương sự Trương Nghiệp (張業) là người ngạo mạn và xa xỉ, cưỡng đoạt tài sản của nhiều người, gây nên phẫn uất. Trương Nghiệp cũng che chở những kẻ trốn án tử trong tư đệ, giam người nợ tiền mình vào ngục. Hữu khuông thánh đô chỉ huy sứ Tôn Hán Thiều (孫漢韶) có thù với Trương Nghiệp, do vậy mật cáo Trương Nghiệp cùng con trai là Trương Kế Chiêu (張繼昭) mưu phản. Mạnh Sưởng tin theo lời của Tôn Hán Thiều, ngày Giáp Tý (17) tháng 7 (24 tháng 8 năm 948), Mạnh Sưởng cho tráng sĩ giết Trương Nghiệp khi người này nhập triều, hạ chiếu kể tội. Trong khi đó, An Tư Khiêm cũng đưa ra các cáo buộc tương tự với Vương Xử Hồi và Triệu Đình Ẩn, song Mạnh Sưởng không nỡ giết và cho phép họ được trí sĩ. Cho rằng có nhiều điều bị che giấu khi Trương Nghiệp và Vương Xử Hồi chấp chính, Mạnh Sưởng vào ngày Kỉ Mùi (14) tháng 9 (18/10/948) bắt đầu cho đặt 'quỹ hàm', sau đổi thành 'hiến nạp hàm', cho phép người dân mật báo cho ông bằng cách đặt thư từ vào trong hộp. Lý Hạo (李昊) và Từ Quang Phổ (徐光溥) thay thế vị trí tể tướng của Trương Nghiệp (song ngay sau đó Từ Quang Phổ bị bãi chức do bị cáo buộc trêu ghẹo con gái của hoàng đế khai quốc Tiền Thục Vương Kiến), song không ai được kế nhiệm chức xu mật sứ của Vương Xử Hồi. Mạnh Sưởng muốn lập hai thân tín là Phổ phong khố sứ Cao Diên Chiêu (高延昭) và Trà tửu khố sứ Vương Chiêu Viễn (王昭遠) làm xu mật sứ, song họ bị cho là không đủ thâm niên, do vậy ông ban cho họ làm 'thông tấu sứ' và làm chủ công việc của xu mật viện. Vương Chiêu Viễn còn được cho phép lấy tiền bạc từ phủ khố theo ý muốn, miễn kế toán.
Tháng 8 ÂL năm 950, Mạnh Sưởng phong vương cho hoàng đệ và hoàng tử.
Tháng 4 ÂL 951, theo ý của Cao Diên Chiêu, Mạnh Sưởng cho người này được miễn làm chủ xu mật viện. Mạnh Sưởng cho họ hàng của mình là Y Thẩm Chinh làm chủ xu mật viện. Mạnh Sưởng tin tưởng giao phó nhiều chính sự lớn nhỏ cho Y Thẩm Chinh. Y Thẩm Chinh là người có tham vọng và cần mẫn, song cũng tham lam và xa xỉ. Y Thẩm Chinh và Vương Chiêu Viễn giám sát phần lớn việc triều chính, nền chính trị của Hậu Thục do vậy mà dần lụn bại.
Ngày Đinh Dậu (13) tháng 6 năm Nhâm Tý (7 tháng 7 năm 952), một trận lụt lớn xảy ra tại kinh đô Thành Đô của Hậu Thục, làm hơn 5.000 người chết chìm và khiến hơn 1.000 nhà bị phá hủy. Thậm chí bốn thất của Thái Miếu cũng bị hư hỏng. Ngày Mậu Tuất, tức ngày sau đó, Mạnh Sưởng ban lệnh đại xá và cứu tế cho những nhà chịu thủy tai.
Công bộ thượng thư, phán Vũ Đức quân Thiệu Diên Quân (邵延鈞) bất lễ với Giám áp Vương Thừa Phi (王承丕), Thừa Phi âm mưu làm loạn. Ngày Tân Sửu (18) tháng 8 (9/9), Vương Thừa Phi đưa Chỉ huy sứ Tôn Khâm (孫欽) — người không biết về âm mưu — đến gặp Thiệu Diên Quân. Khi gặp mặt, Vương Thừa Phi lệnh thuộc hạ sát hại Thiệu Diên Quân và tàn sát gia đình của người này, xưng rằng mình phụng chiếu xử trí quân phủ. Tôn Khâm ban đầu tin tưởng Vương Thừa Phi, song sau đó phát hiện ra không có chiếu thư như vậy nên quyết định bỏ trốn và huy động quân đội. Họ tấn công và bắt giữ Vương Thừa Phi, sau đó hành hình và đưa thủ cấp của Vương Thừa Phi đến Thành Đô.
Từ thời Đường đến đương thời, các học hiệu sở tại trở nên hoang phế, Vô Chiêu Duệ tự bỏ tiền ra xây dựng học quán, đồng thời thỉnh khắc bản ấn "Cửu Kinh", Mạnh Sưởng chấp thuận. Do vậy, văn học tại Hậu Thục phục thịnh.
Trong khi đó, người Thục tức giận trước việc An Tư Khiêm vu cáo khiến Trương Nghiệp bị hành hình và việc phế Triệu Đình Ẩn. Người ta cũng đổ lỗi cho An Tư Khiêm về thất bại của quân đội Hậu Thục khi cứu viện Vương Cảnh Sùng. Khi An Tư Khiêm đang là Tả khuông thánh mã bộ chỉ huy sứ, cung môn tăng cường thủ vệ, và An Tư Khiêm cho rằng Mạnh Sưởng làm vậy vì nghi ngờ mình. Hơn nữa, An Tư Khiêm khi quản lý túc vệ thường dùng cách giết sĩ tốt để lập uy. Những lần khi An Tư Khiêm quyết định đuổi vệ sĩ do không hài lòng, và Mạnh Sưởng bác bỏ quyết định của An Tư Khiêm mà giữ các vệ sĩ đó lại, thì sau đó An Tư Khiêm thường tìm cách để các vệ sĩ đó bị giết. Mạnh Sưởng tin vào cáo buộc của Hàn lâm sứ Vương Tảo (王藻) rằng An Tư Khiêm oán giận mà mưu làm phản, ngày Đinh Tị (12) tháng 2 năm Giáp Dần (19 tháng 3 năm 954), ông sai người giết chết An Tư Khiêm và ba người con trai. Đến 1 tháng 3 (6 tháng 4), ông cũng bãi quân chức của Phủng thánh khống hạc đô chỉ huy sứ Tôn Hán Thiều. Cấm binh được phân cho 10 tướng lĩnh quản lý.
Thời kỳ trị vì cuối.
Đến năm 955, Mạnh Sưởng biết được rằng Hoàng đế Quách Vinh của triều Hậu Chu (thay thế Hậu Hán) đang lên kế hoạch xâm chiếm để phục hồi quyền kiểm soát với các châu Phượng, Tần, Thành và Giai. Mạnh Sưởng lập kế khiến Khách tỉnh sứ Triệu Quý Trát (趙季札) đến các châu này để xem xét việc phòng bị biên cảnh. Triệu Quý Trát xưa nay vốn tự cho rằng mình là người văn võ tài lược, trước khi dời khỏi Thành Đô có tấu với Mạnh Sưởng rằng Hùng Vũ tiết độ sứ Hàn Kế Huân (韓繼勳) Phượng châu thứ sử Vương Vạn Địch (王萬迪) không đủ tài để chế ngự đại địch (tức Hậu Chu). Khi Mạnh Sưởng hỏi ai có thể đến đó đảm đương, Triệu Quý Trát tự thỉnh để mình đảm nhiệm. Do đó, vào ngày Bính Thân (27) tháng 3 (tức 22 tháng 4), Mạnh Sưởng bổ nhiệm Triệu Quý Trát làm Hùng Vũ giám quân sứ, lại cho người này dẫn theo 1000 túc vệ tinh binh. Ngày Bính Thìn (18) tháng 4 (tức 12 tháng 5), Mạnh Sưởng cũng mệnh cho Vương Chiêu Viễn khảo sát thành trại và giáp binh ở biên giới phía bắc.
Đến ngày 1 tháng 5 ÂL (tức 24 tháng 5), Hậu Chu bắt đầu tiến công. Quân Hậu Chu nằm dưới quyền chỉ huy của Phượng Tường tiết độ sứ Vương Cảnh (王景) và Trấn An tiết độ sứ Hướng Huấn (向訓). Triệu Quý Trát đến Đức Dương thì biết tin quân Hậu Chu tiến vào biên cảnh, người này sợ hãi và tự mình chạy về phía tây. Đến ngày Đinh Hợi (20) cùng tháng (tức 12 tháng 6), Triệu Quý Trát về đến Thành Đô, dân chúng trong thành khiếp sợ do nghĩ rằng quân Hậu Thục thua chạy. Khi Mạnh Sưởng hỏi cơ sự, Triệu Quý Trát không ứng đáp được. Mạnh Sưởng tức giận và cho xử trảm Triệu Quý Trát vào ngày Giáp Ngọ (27) tại Sùng Lễ môn. Trước đó, ngày Mậu Dần (11) tháng 5 (tức 3 tháng 6), Mạnh Sưởng phong Lý Đình Khuê (李廷珪) làm Bắc lộ hành doanh đô thống và Cao Ngạn Trù (高彥儔) làm Chiêu thảo sứ, sai họ đem quân đi giao chiến với Hậu Chu. Ngày Đinh Mùi (10) tháng 6 (2 tháng 7), Mạnh Sưởng khiển sứ sang Bắc Hán và Nam Đường để đề nghị cùng xuất binh chế ngự Bắc Chu, quân chủ hai nước đều đồng ý, song không thấy ghi chép rằng họ thực sự tiến hành các hành động.
Trong khi đó, quân Hậu Thục ban đầu có thể đẩy lui được cuộc tiến công của Hậu Chu, song sau khi Vương Cảnh bắt được Nhiễm viện sứ Vương Loan (王巒) của Hậu Thục vào tháng 8 ÂL, quân Hậu Thục trở nên hoang mang sợ hãi, buộc Lý Đình Khuê và Cao Ngạn Trù phải triệt thoái. Hàn Kế Huân sau đó bỏ Tần châu và chạy về Thành Đô; Quan sát phán cung Triệu Tần (趙玭) dâng thành hàng Hậu Chu. Sau đó, Thành châu và Giai châu cũng đầu hàng. Mạnh Sưởng sợ hãi, đến tháng 10 ÂL thì đưa thư cho Quách Vinh thỉnh hòa, trong thư tự xưng là "Đại Thục hoàng đế", Quách Vinh không đáp lại. Mạnh Sưởng càng thêm sợ hãi, cho tụ binh lương ở Kiếm Môn quan và Bạch Đế thành nhằm phòng thủ. Chiến tranh khiến ngân khố suy kiệt, Mạnh Sưởng cho đúc tiền sắt, đánh thuế trong nước bằng đồ sắt, khiến dân rất khốn khổ. (Tuy nhiên, Quách Vinh sau đó tiến công vào Nam Đường và không tiếp tục tiến công Hậu Thục.)
Ngày Giáp Dần (21) tháng 3 năm Bính Thìn (4 tháng 5 năm 956), Mạnh Sưởng bổ nhiệm Lý Đình Khuê làm Tả hữu vệ thánh chư quân mã bộ đô chỉ huy sứ, tổng chỉ huy cấm binh, song vẫn phân cấm binh cho 10 tướng lĩnh quản lý. Trong khi đó, nhiều người Thục cho rằng Lý Đình Khuê là tướng bại trận, không thích hợp để quản lý việc binh. Do vậy vào tháng 5 ÂL năm sau, Lý Đình Khuê tự thỉnh được bãi chức, đến ngày Ất Sửu (10) tháng 6 (9 tháng 7 năm 957) thì Mạnh Sưởng bãi quân chức của Lý Đình Khuê. Lý thái hậu nhận thấy người quản lý việc binh phần nhiều không giao cho đúng người, bà nói với Mạnh Sưởng:
Tuy nhiên, Mạnh Sưởng không nghe theo lời của bà.
Vài nghìn quân Hậu Thục bị Hậu Chu bắt được ở Tần châu và Phương châu được lập thành Hoài Ân quân (懷恩軍), ngày Ất Hợi (18) tháng 4 ÂL năm đó (tức 20 tháng 5 năm 957), Hậu Chu cho hơn 800 tướng sĩ Hoài Ân quân trở về Hậu Thục dưới quyền Chỉ huy sứ Tiêu Tri Viễn (蕭知遠). Khi Hoài Ân quân đến Thành Đô, Mạnh Sưởng cũng trao trả 80 tù binh là sĩ quan Hậu Chu về đông, viết thư tạ, thỉnh hai nước thông hảo. Tuy nhiên, Quách Vinh cho là Mạnh Sưởng vẫn 'kháng lễ' nên không đáp lại. Khi Mạnh Sưởng biết chuyện, ông tức giận và nói, "Trẫm là Thiên tử khi giao tự thiên địa thì ngươi vẫn còn làm tặc, sao ngươi dám làm vậy?"
Ngày Giáp Thìn (22) tháng 1 năm Mậu Ngọ (tức 23 tháng 2 năm 958), Hữu bổ khuyết Chương Cửu Linh (章九齡) khi yết kiến Mạnh Sưởng nói rằng chính sự bất trị là do lũ gian nịnh trong triều. Khi Mạnh Sưởng hỏi gian nịnh là ai, Chương Cửu Linh trả lời là Lý Hạo và Vương Chiêu Viễn. Mạnh Sưởng tức giận, cho là Chương Cửu Linh hủy xích đại thần, biếm người này làm Duy châu lục sự tham quân.
Trong khi đó, Nam Bình vương Cao Bảo Dung (một chư hầu của Hậu Chu) nhiều lần đưa thư cho Mạnh Sưởng, khuyên ông xưng thần với Hậu Chu. Còn Quách Uy thì sau khi kết thúc chiến dịch chống Nam Đường (kết quả Nam Đường xưng thần và cắt đất phía bắc Trường Giang cho Hậu Chu), lại tiến hành chuẩn bị cho chiến dịch nữa chống Hậu Thục. Mạnh Sưởng quan tâm nghiêm túc đến vấn đề này, nghị với các đại thần. Các đại thần cho rằng giang sơn Thục hiểm trở thuận lợi cho phòng thủ và họ sẵn sàng tử vệ xã tắc. Do đó, ngày Đinh Dậu (20) tháng 10 (tức 3 tháng 12), Mạnh Sưởng mệnh Lý Hạo thảo thư cho Cao Bảo Dung, hết lời cự tuyệt. Sau đó, Cao Bảo Dung thỉnh Quách Uy phạt Hậu Thục. Để chuẩn bị chống lại cuộc xâm nhập sắp tới của Hậu Chu, vào tháng 11 ÂL, Mạnh Sưởng bổ nhiệm các tướng lĩnh Triệu Sùng Thao, Mạnh Di Nghiệp (孟貽業), Triệu Tư Tiến (趙思進), và Cao Ngạn Trù trấn giữ các tuyến đường vào Thục. Tuy nhiên, khi chiến dịch chưa diễn ra, Quách Uy lâm bệnh và qua đời vào hè năm 959. Tuy thế, người dân Hậu Thục hoảng sợ trước viễn cảnh cuộc xâm nhập. Đô quan lang trung Từ Cập Phủ (徐及甫) tự phụ vì nghiệp quan trường không được như ý, thấy cơ hội này thì âm mưu kết đảng và tôn cháu của Vương Kiến là Thiếu phủ thiếu giám Vương Lệnh Nghi (王令儀) làm chủ để làm phản. Tuy nhiên, đến khi biết chắc rằng Hậu Chu không tiến công, trong đảng có người cáo giác, Từ Cập Phủ tự sát, Mạnh Sưởng ban chết cho Vương Lệnh Nghi vào ngày Giáp Ngọ (24) tháng 12 (tức 24 tháng 1 năm 960). Sau khi Quách Uy qua đời, tướng Hậu Chu là Triệu Khuông Dận tiến hành chính biến và soán vị, lập ra triều Tống, tức Tống Thái Tổ.
Tháng 2 năm Nhâm Tuất (962), Mạnh Sưởng lập trưởng tử Mạnh Huyền Triết là hoàng thái tử.
Cũng trong năm đó, Mạnh Sưởng mệnh quan viên truy đốc tiền thuế thiếu của 4 trấn 16 châu trong lãnh thổ. Long Du (huyện) lệnh Tứ Thuần (四淳) thượng sớ khuyến gián, cho rằng thúc ép hơn nữa sẽ chỉ khiến dân thêm gắng nặng và hại cho quốc gia, song Mạnh Sưởng không nghe theo.
Mất nước.
Năm 963, hoàng đế của triều Tống lên kế hoạch tiến hành tấn công tiêu diệt Bắc Hán. Tuy nhiên, tướng Trương Huy (張暉) không tán thành việc này, cho rằng vùng biên giới với Bắc Hán trước đó bị phá hoại nặng nề do chiến loạn, đương thời chưa đủ sức làm hậu phương cho một cuộc xâm nhập Bắc Hán. Ngày Canh Tý tháng 4 năm Quý Hợi (tức 14 tháng 5 năm 963), Tống Thái Tổ bổ nhiệm Trương Huy làm Phượng châu đoàn luyện sứ, kiêm Tây diện hành doanh tuần kiểm hào trại sứ, chuẩn bị cho việc phạt Thục. Tể tướng Hậu Thục Lý Hạo nghi ngờ rằng quân Tống sẽ sớm tiến đến và lo ngại Hậu Thục khó mà chống lại được, đề xuất Hậu Thục cống nạp cho Tống. Tuy nhiên, Vương Chiêu Viễn hết sức phản đối, Mạnh Sưởng do vậy lại hạ lệnh chuẩn bị phòng thủ chống lại cuộc xâm nhập.
Năm 964, theo ý của Vương Chiêu Viễn, Mạnh Sưởng khiển Tôn Ngộ, Triệu Ngạn Thao, Dương Quyên bí mật đem thư sang cho Bắc Hán chủ Lưu Quân, đề nghị đồng thời tấn công phủ đầu Tống. Tuy nhiên, khi vào đến đất Tống, Triệu Ngạn Thao lại đem thư dâng cho Tống Thái Tổ. Tống Thái Tổ nhận được thư thì vui cười nói "Cuộc tây thảo của ta có danh rồi", đồng thời tha cho Tôn Ngộ và Dương Quyên, lệnh cho ba người vẽ lại hình thế sông núi, những vị trí phòng thủ của Hậu Thục. Ngày Giáp Tuất (2) tháng 11 (tức 8 tháng 12), Tống Thái Tổ bổ nhiệm Vương Toàn Bân (王全斌) làm Phượng châu lộ đô bộ thự, thống suất lộ quân qua Phượng châu ở mặt bắc Hậu Thục; Lưu Quang Nghĩa (劉光義) làm Quy châu lộ phó đô bộ thự, thống suất lộ quân qua Quy châu ở mặt đông của Hậu Thục; tổng cộng có 6 vạn bộ binh và kị binh.
Hay tin quân Tống đến, Mạnh Sưởng bổ nhiệm Vương Chiêu Viễn làm Tây Nam hành doanh đô thống, Triệu Sùng Thao làm Đô giám, Hàn Bảo Chính làm Chiêu thảo sứ, Lý Tiến (李進) làm Phó chiêu thảo sứ, suất binh cự chiến. Vương Chiêu Viễn vốn cho rằng mình có tài phương lược, tại lễ xuất quân người này tự so sánh mình với Thừa tướng Gia Cát Lượng của Thục Hán thời Tam Quốc, tự cho rằng không những có thể địch lại quân Tống mà còn có thể đoạt lấy Trung Nguyên. Không lâu sau, tướng Tống là Lại Diên Đức (吏延德) bắt được Hàn Bảo Chính và Lý Tiến, quân Hậu Thục dưới quyền Vương Chiêu Viễn liên tiếp bại trận. Tháng giêng năm Ất Sửu, lo sợ trước việc Vương Chiêu Viễn bại trận, Mạnh Sưởng mộ binh trấn thủ Kiếm Môn quan, mệnh Thái tử Mạnh Huyền Triết làm nguyên soái, Lý Đình Khuê và Trương Huệ An (張惠安) làm phó, cầm đầu hơn vạn giáp binh. Tuy nhiên, trước khi quân của Mạnh Huyền Triết có thể tiến đến Kiếm Môn quan, quân của Vương Toàn Bân đã vượt qua được cửa ải này và cắt đứt đường trở về Thành Đô của Vương Chiêu Viễn. Vương Chiêu Viễn cố gắng giao chiến với Vương Toàn Bân, song thất bại, Vương Chiêu Viễn và Triệu Sùng Thao đều bị bắt. Mạnh Huyền Triết biết tin Kiếm Môn quan bị phá, quyết định đưa quân trở về Thành Đô.
Hay tin Vương Chiêu Viễn và Triệu Sùng Thao bị bắt, Mạnh Sưởng kinh hoàng và ban đầu không biết phải làm thế nào. Ông hỏi ý các đại thần còn lại. Lão thướng Thạch Phụng Quần (石奉頵) chủ trương phòng thủ Thành Đô, cho rằng quân Tống không thể bao vây lâu dài. Tuy nhiên, Mạnh Sưởng bác bỏ ý kiến này, nói rằng:
Theo chủ trương của Lý Hạo, Mạnh Sưởng mệnh Lý Hạo thảo biểu đầu hàng. Ngày Kỉ Mão (11) tháng 1 (7) tháng 1 (11 tháng 2), Mạnh Sưởng khiển Y Thẩm Chinh đem biểu đến chỗ quân Tống. Ngày Ất Dậu (13) tháng 1 (17 tháng 2), Y Thẩm Chinh mang biểu đầu hàng của Mạnh Sưởng đến chỗ Vương Toàn Bân, Vương Toàn Bân chấp thuận và khiển Khang Diên Trạch (康延澤) đến Thành Đô để đảm bảo với Mạnh Sưởng rằng ông được an toàn. Ngày Tân Mão cùng tháng (23 tháng 2), Vương Toàn Bân đến Thành Đô, Mạnh Sưởng đầu hàng, Hậu Thục diệt vong.
Sau khi hàng Tống.
Lúc đầu hàng, Mạnh Sưởng cùng em là Nhã vương Mạnh Nhân Chí (孟仁贄) đến Khai Phong phụng biểu cầu ai, trong biểu của Mạnh Sưởng có đoạn "tự lượng quá cữu, thượng thiết ưu nghi." (tức lo sợ vì mắc nhiều lỗi). Tống Thái Tổ hạ chiếu trả lời rằng "đã tự cầu đa phúc, nay trừ bỏ hết sai trái khi trước. Trẫm không nuốt lời. Ngươi đừng quá lo." Chiếu không đề tên húy của Mạnh Sưởng, gọi Lý thái hậu là "quốc mẫu".
Vào tháng 3 ÂL 965, Mạnh Sưởng cùng quan thuộc và gia tộc bắt đầu hành trình đến Khai Phong, xuôi theo Trường Giang. Khi đến Giang Lăng, họ được ban cho ngựa và xe ngựa. Mạnh Sưởng đến Khai Phong vào tháng 5 ÂL, ngày Bính Tuất (17), tức 18 tháng 6, Tống Thái Tổ mở lễ lớn, Mạnh Sưởng cùng những người Hậu Thục khác mặc áo trắng chờ tội bên ngoài Minh Đức môn, Tống Thái Tổ một lần nữa hạ chiếu tha tội. Ngày Giáp Thìn (5) tháng 6 (6 tháng 7), Tống Thái Tổ phong Mạnh Sưởng làm Khai phủ nghi đồng tam ty, kiểm giáo thái sư, Trung thư lệnh, Tần quốc công. Ngày Canh Tuất (11) cùng tháng (12 tháng 7), Mạnh Sưởng qua đời. Tống Thái Tổ chuyết triều năm ngày, truy tặng Mạnh Sưởng là "Thượng thư lệnh", truy phong là Sở vương, truy thụy Cung Hiếu. Sau khi Mạnh Sưởng qua đời, Lý thái hậu không khóc song ngừng ăn và cũng mất sau đó vài ngày. | 1 | null |
Cestoda (Cestoidea) là tên được đặt cho một lớp giun dẹp ký sinh trùng, thường được gọi là sán dây, của ngành Platyhelminthes. Các thành viên sống trong đường tiêu hóa của động vật có xương sống như người lớn, và cá thể chưa trưởng thành thường sống trong cơ thể nhiều động vật. Hơn một nghìn loài đã được mô tả, và tất cả các loài động vật có xương sống có thể bị ký sinh bởi ít nhất một loài sán dây.
T. saginata, sán dây bò, có thể phát triển lên đến 20 m (65 ft); loài lớn nhất, sán dây cá voi "Polygonoporus giganticus", có thể phát triển đến hơn 30 m (100 ft). | 1 | null |
Hymenolepis diminuta, cũng được biết đến như Sán dây chuột, là một loài Hymenolepis. Nó có trứng và "proglottids" lớn hơn H. nana và lây nhiễm động vật có vú sử dụng côn trùng như vật chủ trung gian. Cấu trúc lớn dài 20–60 cm và "proglottid" trưởng thành tương tự như của H. nana, ngoại trừ nó lớn hơn.
H. diminuta phổ biến trên toàn thế giới, nhưng chỉ có vài trăm trường hợp người đã được báo cáo. Một số ca đã từng được báo cáo ở Úc, Hoa Kỳ, Tây Ban Nha, và Ý. Ở các nước như Malaysia, Thái Lan, Jamaica, Indonesia, tỷ lệ cao hơn. | 1 | null |
Thạch sùng dẹp (Danh pháp khoa học: zug Hemiphyllodactylus zugi) là một loài Tắc kè được phát hiện ở Cao Bằng, Việt Nam năm 2013. Tên loài được đặt theo tên nhà nghiên cứu về bò sát công tác tại Bảo tàng Quốc gia về Lịch sử Tự nhiên thuộc Viện Smithsonian, | 1 | null |
Sir Harold Jeffreys, FRS (22 tháng 4 năm 1891 – 18 thảng, 1989) là một nhà toán học, thống kê học, địa vật lý học, và nhà thiên văn học. Quyển sách của ông "Lý thuyết xác suất", được xuất bản đầu tiên năm 1939, đã đóng vai trò quan trọng trong sự hồi sinh của quan điểm của Bayesian về xác suất.
Giáo dục.
Jeffreys sinh tại Fatfield, Washington, Quận Durham, Anh. Ông học tại Armstrong College ở Newcastle upon Tyne, sau đó theo học Đại học Durham, và University of London External Programme. | 1 | null |
Burretiodendron là một chi thực vật có hoa. Theo truyền thống nó được xếp trong họ Tiliaceae, nhưng gần đây nó được APG đưa vào trong họ Malvaceae mở rộng và phần lớn các hệ thống phân loại gần đây nhất đều theo cách phân loại này của APG. Nó chứa một số loài trước đây xếp trong chi "Pentace" (không có quan hệ quá gần). Vì thế, "Parapentace" có thể là từ đồng nghĩa của "Burretiodendron" thay vì là của "Pentace". | 1 | null |
Cai Lậy là một thị xã nằm ở phía tây tỉnh Tiền Giang, Việt Nam.
Địa lý.
Thị xã Cai Lậy nằm ở phía tây tỉnh Tiền Giang, cách thành phố Mỹ Tho khoảng 30 km, cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 90 km, có vị trí địa lý:
Thị xã Cai Lậy có diện tích 14.018,95 ha và dân số là 143.050 người (tính đến năm 2017).
Hành chính.
Thị xã Cai Lậy có 16 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 6 phường: 1, 2, 3, 4, 5, Nhị Mỹ và 10 xã: Long Khánh, Mỹ Hạnh Đông, Mỹ Hạnh Trung, Mỹ Phước Tây, Nhị Quý, Phú Quý, Tân Bình, Tân Hội, Tân Phú, Thanh Hoà.
Lịch sử.
Nguồn gốc địa danh Cai Lậy.
Cai Lậy ban đầu chỉ là tên một giồng cát nằm ở ấp Hữu Hòa (ngày nay thuộc phường 1, thị xã Cai Lậy) do ông Cai cơ Ngô Tấn Lễ chỉ huy khai khẩn. Cai cơ Ngô Tấn Lễ là tướng của chúa Nguyễn Ánh, dưới quyền Võ Tánh. Từ Cai Lễ nói trại thành Cai Lậy. Chợ Cai Lậy được lập từ cuối thế kỷ XVIII.
Ban đầu, địa danh Cai Lậy chỉ là tên một ngôi chợ tại thôn Thanh Sơn (sau này là làng Thanh Sơn) thuộc tỉnh Định Tường và sau đó là tỉnh Mỹ Tho. Sau này, thực dân Pháp thành lập quận và đặt tên là quận Cai Lậy do lấy theo tên gọi Cai Lậy vốn là nơi đặt quận lỵ.
Trước năm 2014.
Thị xã Cai Lậy trước đây vốn thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho và từ năm 1976 thuộc tỉnh Tiền Giang, Việt Nam.
Trước năm 2014, thị xã Cai Lậy ngày nay là một phần huyện Cai Lậy. Huyện lỵ huyện Cai Lậy khi đó là thị trấn Cai Lậy (nay tương ứng với phường 5 và một phần các phường 1, 2 và 4).
Ngày 27 tháng 8 năm 2010, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định số 792/QĐ-BXD về việc công nhận thị trấn Cai Lậy là đô thị loại IV.
Từ năm 2014 đến nay.
Ngày 26 tháng 12 năm 2013, Chính phủ Việt Nam ban hành nghị quyết số 130/NQ-CP điều chỉnh địa giới hành chính huyện Cai Lậy để thành lập thị xã Cai Lậy. Nội dung Nghị quyết về việc thành lập thị xã Cai Lậy như sau:
1. Thành lập thị xã Cai Lậy thuộc tỉnh Tiền Giang trên cơ sở điều chỉnh 14.018,95 ha diện tích tự nhiên và 123.775 người của huyện Cai Lậy (bao gồm toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của thị trấn Cai Lậy và 11 xã Mỹ Phước Tây, Mỹ Hạnh Đông, Mỹ Hạnh Trung, Tân Phú, Tân Bình, Tân Hội, Nhị Mỹ, Nhị Quý, Thanh Hòa, Phú Quý, Long Khánh).
2. Thành lập các phường 1, 2, 3, 4, 5 thuộc thị xã Cai Lậy trên cơ sở giải thể thị trấn Cai Lậy và điều chỉnh địa giới hành chính 2 xã Nhị Mỹ, Tân Bình.
3. Chuyển phần diện tích và dân số còn lại của xã Nhị Mỹ thành phường Nhị Mỹ.
Sau khi thành lập, thị xã Cai Lậy có 6 phường và 10 xã như hiện nay.
Ngày 18 tháng 2 năm 2020, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định số 171/QĐ-BXD về việc công nhận thị xã Cai Lậy là đô thị loại III.
Kinh tế.
Thị xã Cai Lậy là trung tâm kinh tế, chính trị - xã hội quan trọng của khu vực phía tây tỉnh Tiền Giang, là cực đối trọng kinh tế với thị xã Gò Công.
Thị xã Cai Lậy từ lâu được biết đến là trung tâm mua bán, trao đổi hàng hóa sầm uất của khu vực Đồng Tháp Mười.
Giao thông.
Có quốc lộ 1A và đường cao tốc Trung Lương – Mỹ Thuận đi qua. | 1 | null |
Lâu đài Leeds tọa lạc tại hạt Kent, Anh, cách thành phố lịch sử Maidstone về phía đông nam. Năm 1086, một lâu đài được xây dựng tại nơi hiện giờ là Lâu đài Leeds. Vào thế kỷ thứ XIII, lâu đài thuộc quyền sở hữu của Vua Edward I và trở thành nơi lui tới yêu thích của ông. Đến thế kỷ XVI, Henry VIII dành tặng lâu đài cho người vợ đầu của mình, Catalina của Aragón.
Lâu đài Leeds ngày nay có niên đại từ thế kỷ XIX, được xây dựng trên các cồn, được hình thành bởi dòng sông Len ở phía đông làng Leeds. Tòa lâu đài được mở cửa đón công chúng từ năm 1976. | 1 | null |
Kim Hyun-joong (sinh ngày 16 tháng 7 năm 1989), thường được biết đến với nghệ danh Kim Woo-bin, là một diễn viên và người mẫu Hàn Quốc.
Sự nghiệp.
Kim Woo Bin ra mắt sàn diễn thời trang vào năm 2009 và xuất hiện trên prêt-à-porter và bộ sưu tập Seoul Fashion Week cho đến nay.
Với tên nghệ danh Kim Woo Bin, anh bắt đầu tham gia diễn xuất vào năm 2011, và đóng vai chính trong một drama kì bí "White Christmas" và sitcom trên truyền hình cáp "Vampire Idol". Sau đó anh đã đóng một bộ phim hài lãng mạn "A Gentleman's Dignity", Kim gia nhập vào dàn diễn viên mới nổi trong một bộ phim tuổi teen "School 2013". Tiếp theo đó là vai trong phim của Kim Eun-sook bộ phim thời thượng cao cấp "The Inheritors" in 2013.
Vai diễn đầu tiên trên màn rộng của anh là bộ phim "Friend 2", phần tiếp theo của Kwak Kyung-taek trong phim 2001 box office hit.
Anh đã trở thành MC cho chương trình âm nhạc "M! Countdown" bắt đầu từ 15 tháng 8 năm 2013. Anh là một trong những MC chương trình SBS Drama Awards 2013 vào 31 tháng 12 cùng với Lee Hwi-jae và Lee Bo-young.
Ngày 22/07/2015, Anh công khai hẹn hò với nữ diễn viên Shin Min-Ah
Ngày 24/5/2017, Theo báo chí đưa tin thì nam diễn viên được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vòm họng. Do được chẩn đoán sớm nên hiện tại anh đang điều trị bệnh bằng thuốc và hoá chất. Từ lúc phát hiện bệnh, đến quá trình điều trị và đến hiện tại (năm 2018), bạn gái của anh, nữ diễn viên Shin Min Ah luôn ở bên chăm sóc và động viên tinh thần của anh rất nhiều. Theo thông tin thì anh đã trải qua các cuộc điều trị, tuy có hao gầy nhưng tình trạng sức khoẻ của anh đang tốt dần lên. | 1 | null |
Led Zeppelin là album phòng thu đầu tay của ban nhạc rock người Anh, Led Zeppelin. Album được thu vào tháng 10 năm 1968 tại phòng thu Olympic Studios ở London và được phát hành bởi hãng Atlantic Records ngày 12 tháng 1 năm 1969 tại Anh, và ngày 31 tháng 3 tại Mỹ. Với sự đóng góp của mỗi thành viên trong nhóm, album là sự pha trộn giữa blues và rock. Album cũng mang tới một số lượng lớn người hâm mộ cho ban nhạc – những người mang âm thanh của hard rock gắn liền với phong trào phản văn hóa tới 2 bên bờ Đại Tây Dương.
Cho dù album này hầu hết nhận được những đánh giá chuyên môn tiêu cực, nhìn chung đây vẫn là một sản phẩm thành công để rồi sau đó các đánh giá dần trở nên tích cực hơn. Năm 2003, "Led Zeppelin" được xếp hạng 29 trong danh sách "500 album vĩ đại nhất" của tạp chí "Rolling Stone" và giữ nguyên vị trí này vào năm 2012. Năm 2004, album được vinh danh tại Grammy Hall of Fame.
Hoàn cảnh ra đời.
Tháng 8 năm 1968, The Yardbirds chính thức tan rã. Jimmy Page là thành viên duy nhất còn lại của ban nhạc, được quyền hợp pháp sử dụng tên cũng như giải quyết những hợp đồng về tour diễn của nhóm tại Scandinavia. Page muốn thành lập ban nhạc của riêng mình và liền tuyển tay bass John Paul Jones, ca sĩ Robert Plant và tay trống John Bonham. Tháng 9 năm 1968, họ đi tour tại Scandinavia dưới tên The New Yardbirds, trình diễn nhiều ca khúc từ thời The Yardbirds cùng vài sáng tác mới như "Communication Breakdown", "I Can't Quit You Baby", "You Shook Me", "Babe I'm Gonna Leave You" và "How Many More Times". Sau khi quay trở lại Anh vào tháng 10 cùng năm, Page quyết định đổi tên nhóm thành Led Zeppelin, tất cả cùng tới phòng thu Olympic Studios tại London để thực hiện album đầu tay của ban nhạc mới.
Thu âm và sản xuất.
Thu âm.
Trong bài phỏng vấn năm 1990, Page nói rằng album này được thực hiện trong vòng khoảng 36 giờ (được rải rác trong nhiều tuần) tại phòng thu (tính cả thời gian trộn âm), và anh biết rõ điều này qua việc nhớ hóa đơn số tiền phải trả. Một trong những lý do chính mà đợt thu không phải kéo dài là vì hầu hết những nhạc cụ cần thiết cho album đều đã được ban nhạc thử nghiệm và hòa âm trong tour diễn tại Scandinavia vào tháng 9 năm 1968. Page giải thích: "[Ban nhạc] đã hoàn chỉnh dần phần hòa âm kể từ tour diễn tại Scandinavia và tôi biết những âm thanh mà tôi cần. Tất cả chúng đều xuất hiện đồng thời một cách khó tin."
Do ban nhạc chưa ký hợp đồng với nhãn đĩa Atlantic Records, quản lý riêng của Page và Plant, Peter Grant, đã trả toàn bộ số tiền thuê phòng thu, vậy nên họ cũng không muốn phải tốn kém vì mất nhiều thời gian tại đó. Trong một bài phỏng vấn khác, Page cho rằng việc tự bỏ tiền túi ra sản xuất đã đảm bảo việc tự do sáng tác "Tôi muốn việc sáng tác phải như một chiếc gọng kìm, bởi vì tôi đã biết chính xác những gì tôi muốn trong khoảng thời gian này. Thực tế, tôi đã đầu tư và thu âm hoàn chỉnh album thứ nhất trước khi tới với Atlantic... Đó không phải là thứ gì lạ lẫm một khi bạn muốn đi trước trong việc thực hiện album – chúng tôi đã tới Atlantic với những cuốn băng trong tay... Câu trả lời của Atlantic là rất tích cực, ý tôi là họ đã ký hợp đồng với chúng tôi, phải không?"
Tổng số tiền mà ban nhạc phải trả cho phòng thu là vào khoảng 1.782£. Nhà nghiên cứu Dave Lewis ghi nhận "The Beatles từng chỉ mất 12 tiếng để thực hiện album đầu tay tại Abbey Road; rõ ràng rất ít khi phòng thu được sử dụng một cách hợp lý nhất về mặt kinh tế. Album đầu tay của Led Zeppelin đã kiếm về được tới 3,5 triệu £, tức là tương đương tới 2.000 lần kinh phí mà họ đã đầu tư cho nó!"
Để thu âm album, Page đã sử dụng chiếc guitar Fender Telecaster được vẽ theo phong cách psychedelic – món quà từ Jeff Beck sau khi anh thực hiện lời hứa đưa Page vào The Yardbirds vào năm 1965 để thay thế lead guitar Eric Clapton. Đây cũng là điều khác biệt so với những chiếc guitar mà sau này Page sử dụng trong các album của nhóm (hầu hết là thuộc dòng Gibson Les Paul). Anh chơi guitar qua bộ lọc âm Supro. Ngoài chiếc Fender, anh còn dùng cả chiếc Gibson J-200 mượn từ người bạn Big Jim Sullivan để chơi những phần guitar acoustic. Với ca khúc "Your Time Is Gonna Come", Page chơi chiếc Fender 10-dây sắt có chỉnh lại cao độ cho phù hợp.
Sản xuất.
"Led Zeppelin" được sản xuất bởi Jimmy Page và được chỉnh âm bởi kỹ thuật viên Glyn Johns – người từng cộng tác với The Beatles, The Rolling Stones và The Who. Theo Page, "album đầu tay thực ra là một album trực tiếp, thực sự là thế vì chúng tôi muốn như thế. Dĩ nhiên là có phần ghi đè, nhưng phần thu gốc là hoàn toàn được ghi trực tiếp." Page cũng sử dụng không gian phòng thu để tạo nốt lặng và hiệu ứng cho các bản thu – một trong những cải tiến kỹ thuật mà anh mới học được. Cho tới cuối những năm 60, hầu hết các nghệ sĩ vẫn thu âm bằng cách đặt micro ngay trước trống và máy chỉnh âm. Với "Led Zeppelin", Page đề xuất việc bố trí thêm một micro khác xa hơn (cách khoảng 12 feet) và chỉnh sửa âm thanh cân bằng giữa 2 micro. Bằng kỹ thuật "cân bằng khoảng cách" này, Page chính là một trong những người đi tiên phong của kỹ thuật thu "âm thanh vọng": điều chỉnh khoảng cách âm thanh của một nốt thu từ những địa điểm khác nhau trong phòng thu.
Một trong những kỹ thuật quan trọng khác đó là việc "chế biến" phần hát của Plant. Trong bài phỏng vấn tạp chí "Guitar World" vào năm 1998, Page nhấn mạnh: "Giọng của Plant là rất khỏe, và vì vậy cần phải chỉnh sửa trong một vài ca khúc. Thực tế thì chúng tôi ưu tiên việc làm loãng tiếng." Trong "You Shook Me", Page đã sử dụng kỹ thuật "tiếng vọng ngược" làm cho tiếng vọng được nghe trước phần hát chính. Kỹ thuật này được này được thực hiện bằng cách bố trí băng thâu và ghi tiếng vọng như một phần thâu đè, rồi sau đó bật phần băng tiếng vọng sao cho nó được phát trước phần hát chính.
Đây cũng là một trong những album đầu tiên phát hành chỉ với định dạng stereo. Vào thời điểm đó, thông thường các nghệ sĩ vẫn sản xuất song song cả hai đinh dạng mono và stereo.
Bìa đĩa.
Phần ảnh bìa được chọn bởi Page, vốn là hình chụp đen trắng nổi tiếng của thảm họa Hindenburg. Bức ảnh cũng chính là lời giải thích tên gọi của nhóm: khi Page, Beck, Keith Moon và John Entwistle khi từng thảo luận về việc thành lập một ban nhạc mới, Moon đã nói đùa "Nó phải như kiểu một quả khí cầu hàng đầu!" và Entwistle đáp lại "... phải rồi, một lead zeppelin!" Phần bìa sau của album là bức hình chụp ban nhạc bởi cựu thành viên của The Yardbirds, Chris Dreja. Phần thiết kế toàn bộ album được hoàn thiện bởi George Hardie, người cũng được tin tưởng thiết kế cho các album sau này của nhóm.
Hardie nhớ lại rằng ban đầu anh định thiết kế cho album với ảnh bìa là hình biểu tượng của một hộp đêm ở San Francisco với hình ảnh một chiếc khí cầu đang bay trong mây. Page phản đối ý tưởng này, song nó vẫn được bố trí ở phần bìa mặt sau của 2 album đầu tiên của Led Zeppelin và cũng trong nhiều hoạt động quảng cáo. Trong những tuần đầu tiên phát hành tại Anh, phần bìa album có tên ban nhạc cùng với logo của hãng Atlantic, tất cả đều mang màu xanh ngọc. Sau khi bản phát hành được đồng nhất thành màu da cam vào vài năm sau, ấn bản xanh ngọc này trở thành đồ sưu tầm được ưa chuộng.
Album nhận được nhiều sự chú ý khi vào tháng 2 năm 1970 tại Copenhagen trong tour diễn vòng quanh châu Âu của mình, ban nhạc bị gán với cái tên "The Nobs" vì vướng phải những vấn đề pháp lý với vị quý tộc Eva von Zeppelin – người phát minh và sản xuất ra khí cầu hàng không "zeppelin". Zeppelin sau khi thấy hình ảnh của chiếc tàu LZ 129 Hindenburg trên ảnh bìa album đã đe dọa bằng biện pháp ngăn phát sóng nó qua đài phát thanh. Năm 2001, Gret Kot viết trên tạp chí "Rolling Stone": "Phần bìa của "Led Zeppelin"... đã trưng hình chiếc khí cầu Hindenburg, với mọi thứ vinh quang tột đỉnh của nó, bị thiêu cháy trong ngọn lửa. Hình ảnh đó chính là một minh họa xuất sắc cho những gì bên trong album: tình dục, thảm họa và cả những sự bùng nổ."
Sáng tác.
Các ca khúc "Good Times Bad Times", "Dazed and Confused" và "Communication Breakdown" đã trình bày một thứ rock vô cùng dữ dội vốn không phổ biến trong thời kỳ cuối thập niên 60. "Led Zeppelin" cũng đã giới thiệu kỹ thuật chơi guitar acoustic dây sắt của Page trong "Black Mountain Side", cùng với đó là sự kết hợp hài hòa giữa acoustic và guitar điện trong "Babe I'm Gonna Leave You". Việc đề tựa sáng tác "Black Mountainside" cho Page đã gây nên tranh cãi suốt nhiều năm vì nó bị cho là lấy ý tưởng từ ca khúc nhạc folk nổi tiếng "Black Water Side" của Bert Jansch.
"Dazed and Confused" được lấy cảm hứng từ ca khúc cùng tên năm 1967 của Jake Holmes được coi là hạt nhân của cả album. Ca khúc được trình bày với những đoạn chạy bass của Jones, phần chơi trống của Bonham cùng những đoạn riff và solo guitar bởi Page. Đây cũng là ca khúc mà Page chơi guitar với cây vĩ của đàn violon (ý tưởng mà Page nghe theo nghệ sĩ David McCallum Sr. khi họ tình cờ gặp nhau trong phòng thu). Kỹ thuật này sau đó cũng được áp dụng trong "How Many More Times" – ca khúc lấy đoạn riff và phách theo giai điệu Bolero nổi tiếng.
Rất nhiều ca khúc thời kỳ đầu của ban nhạc được dựa theo khuôn mẫu của nhạc blues, và album cũng có những sáng tác của các nhạc sĩ khác: "You Shook Me" và "I Can't Quit You Baby" được viết bởi nhạc sĩ nhạc blues Willie Dixon, và đặc biệt "Babe I'm Gonna Leave You". Với ca khúc này, Page đã lầm tưởng bản hát nhạc folk theo bản thu của Joan Baez là bản gốc, nhưng rồi ban nhạc đã phải chỉnh sửa sau khi biết đây là một sáng tác của Anne Bredon từ những năm 50. Trong "You Shook Me", phần hát của Plant được bám theo phần guitar của Page – một trong những kỹ thuật kinh điển nhất của nhạc blues.
Beck từng thu âm ca khúc "You Shook Me" trong album của mình, "Truth", và buộc tội Page đã ăn cắp ý tưởng của anh. Cùng John Paul Jones và Keith Moon, Page đã tham gia sáng tác, chơi và hòa âm cho ca khúc "Beck's Bolero" – ca khúc không lời của album "Truth" mà sau đó được Led Zeppelin lấy giai điệu để chơi nháp cho "How Many More Times". Điểm tương đồng duy nhất giữa chúng là đoạn riff gần giống nhau giữa Beck và Page – những nghệ sĩ cùng chơi cho The Yardbirds và là những người bạn thân từ thuở ấu thơ. Thực tế, chính Page là người đề nghị với Beck về việc gia nhập The Yardbirds ở vị trí guitar sau sự chia tay của Clapton.
Trong buổi phỏng vấn vào năm 1975, Page nói về những cảm hứng của riêng anh đối với âm nhạc trong album: "Về mặt hình thức, chúng tôi đều gần với nhạc blues. Tôi thực cảm thấy dồi dào ý tưởng từ những đoạn riff của The Yardbirds. Lúc mà Jeff ra đi, tôi đã phải đối mặt với hàng loạt điều mới lạ. Đó là những gì mà Eric đã áp đặt với sự dữ dội mà Beck muốn theo đuổi; và có lẽ nó còn khó khăn hơn đối với tôi bởi vì tay guitar thứ yếu là tôi giờ đã phải chơi guitar chính trong ban nhạc mới. Tôi bị áp lực khi phải tự viết đoạn riff. Trong bản LP đầu tay, tôi vẫn còn bị ảnh hưởng từ những ngày xa xưa. Tôi nghĩ nó cũng đã cho thấy một chút gì đó... Hiển nhiên là sẽ phải có ai đó chơi guitar lead, và chúng tôi đã phải cùng nhau chơi nháp sau đó suốt 6 tháng. Trong bản LP thứ hai, bạn đã bắt đầu nhận ra được thương hiệu của nhóm."
Plant cũng được ghi cho việc chơi "bass tạm thời" trong album. Trong bài phỏng vấn với tờ "Rolling Stone" vào năm 1995, Plant cũng nhắc lại câu chuyện này: "Thực tế, tôi từng là một tay bass tạm thời. Trong "Led Zeppelin I", điều đó được ghi ngay cạnh tên tôi: hát chính, harmonica và bass tạm thời. Thật sự là rất tạm thời – chắc chỉ 1 lần, kể từ năm 1968. Một cái tên Chúa trời lại được xuất hiện ở bìa như vậy thật vui. Tôi đảm bảo rằng Jonesy [John Paul Jones] không thích điều này. Nhưng tôi chắc rằng cứ mỗi khi cậu ấy thấy bực là sẽ nói vì tôi từng chơi bass."
Danh sách ca khúc.
"How Many More Times" thực tế còn kèm theo một ca khúc khác (không ghi tên) là "The Hunter", sáng tác bởi Booker T. Jones, Steve Cropper, Duck Dunn, Al Jackson, Jr. và Carl Wells vào năm 1967, được trình bày lần đầu bởi Albert King. Các ấn bản LP sau này đều chỉnh sửa "How Many More Times" còn 3:30.
Có nhiều nguồn cho rằng Plant đã tham gia tích cực vào việc sáng tác song không được ghi tên vì những ràng buộc hợp đồng cũ với hãng CBS Records. Câu chuyện này được nhắc tới bởi Mick Wall, tác giả cuốn hồi ký về ban nhạc "When Giants Walked the Earth".
Một số băng cassette đã thay đổi thứ tự các ca khúc của album. Trong một số ấn phẩm, mặt A được bắt đầu với "Your Time Is Gonna Come" và kết thúc với "How Many More Times", trong khi mặt B được bắt đầu với "Good Times Bad Times" và kết thúc với "Dazed and Confused".
Đánh giá.
Album được quảng bá với khẩu hiệu "Led Zeppelin – the only way to fly". Ban đầu, các nhận xét đều rất tiêu cực. Trong một bài viết ngắn gọn, "Rolling Stone" cho rằng ban nhạc "có vẻ sinh đôi với Jeff Beck Group, nhưng không thể nói rằng họ vẫn vậy hay tốt hơn chính họ 3 tháng trước đây... Nếu họ muốn làm tất cả để khỏa lấp khoảng trống kể từ Cream, có lẽ họ nên tìm một nhà sản xuất, một nhà thiết kế và những nhạc cụ tương xứng hơn với tài năng của họ." Tờ tạp chí cũng gọi Plant là "bản sao chép của Rod Stewart, song không gây hưng phấn bằng".
John Paul Jones sau này nhớ lại: "Chúng tôi thường xuyên muốn né tránh báo chí. Chẳng ai lại muốn tìm hiểu về chúng tôi vì bất kể lý do gì. Chúng tôi qua Mỹ rồi thấy "Rolling Stone" đánh giá về album đầu tay, và nó như kiểu nói về một ban nhạc Anh dở hơi. Không thể tin được. Với tất cả sự ngây thơ chúng tôi nghĩ đã làm một album tốt và mọi thứ đều mỹ mãn, và cái thứ độc hại đó thì lại bắt đầu phát tán. Chúng tôi không thể hiểu vì sao hay chúng tôi đã làm gì với họ nữa. Kể từ đó chúng tôi dần lảng tránh báo chí, nó như kiểu câu chuyện gà-và-trứng vậy. Chúng tôi từ chối họ, và họ cũng có quyền từ chối chúng tôi. Có lẽ chính vì chúng tôi đã thực hiện rất nhiều buổi diễn thành công nên các đánh giá mới dần trở nên tích cực như vậy."
Nhà báo Cameron Crowe sau này có ghi chép lại: "Đó là thời kỳ của những siêu nhóm nhạc, những siêu ban nhạc – những người có thể làm lu mờ mọi thứ, còn Led Zeppelin bắt đầu hành trình khám phá bản thân để ngược dòng chứng minh sự đúng đắn với con đường của mình." Tuy nhiên, đánh giá của báo chí lại không hoàn toàn tiêu cực. Tại Anh, album nhận được những lời động viên rất rõ ràng từ "Melody Maker". Trong bài báo có nhan đề "Vinh quang của Jimmy Page - Led Zeppelin chính là câu chuyện để bàn tán", Chris Welch viết: "Thứ âm nhạc của họ không hoàn toàn là blues cho dù họ đã phần nào chơi theo nó. Họ đã cố gắng tránh hình ảnh yếu đuối bạc nhược của hầu hết những ban nhạc blues người Anh."
Thực tế, album đã có được thành công thương mại rất đáng kể. Album được dự định phát hành tại Mỹ vào ngày 12 tháng 1 năm 1969, một phần cho chiến dịch quảng bá tour diễn Bắc Mỹ đầu tiên của nhóm. Trước đó, Atlantic Records cũng đã cho phát hành khoảng 100 đĩa cho các nhà phát hành, nhà báo và đài phát thanh. Với vài đánh giá tích cực, cùng phản ứng nhìn chung rất tốt sau tour diễn của ban nhạc, album đã được tới 50.000 đĩa đặt hàng. Sau 2 tháng phát hành, "Led Zeppelin" cũng đã có được vị trí tại "Billboard" Top 10. Album còn nằm trong bảng xếp hạng này 73 tuần, còn tại Anh là 79 tuần. Tính tới năm 1975, khoảng 7 triệu đĩa đã được bán hết.
Tôn vinh.
Thành công và những đánh giá ngày nay về "Led Zeppelin" là không thể kể hết, kể cả với những đơn vị từng đánh giá ban đầu album một cách tiêu cực. Chẳng hạn, tạp chí "Rolling Stone" vào năm 2006 đã viết: "[Album] thực sự không giống với bất kể điều gì khác. Phần hòa âm của nó có tính tạo hình hơn Cream hay Jimi Hendrix, còn phần nhạc của nó thì không ngổn ngang như Iron Butterfly hay khoa trương như Vanilla Fudge. Có lẽ thứ gần gũi với nó nhất chính là sản phẩm của MC5 hay The Stooges – cả hai đều tới từ Michigan – song không 1 ai trong số đó có thể so sánh về tính trang nhã hay năng lực với Led Zeppelin, không phải vì Led Zeppelin có những ảnh hưởng chính trị, xã hội và xúc cảm hơn các ban nhạc kia. Những gì mà ban nhạc làm, thực sự, đã tạo nên niềm hi vọng cho số lượng lớn người nghe nhạc."
Theo Lewis, "thời gian không thể hủy hoại được chất lượng của một trong những album xuất sắc nhất. Có cả những sự thúc gấp và mê đắm về phần trình diễn vốn là một sự cuốn hút vĩnh hằng. 9 ca khúc đã tạo nên một tập hợp sức mạnh với sự năng động huyền ảo... Và đừng quên rằng với album này, Page dường như đã chọn lựa được riff chính là chìa khóa cho các sáng tác của mình."
Năm 2003, VH1 đã bình chọn đây là album xuất sắc thứ 44 của mọi thời đại, trong khi tạp chí "Rolling Stone" xếp "Led Zeppelin" ở vị trí số 29 trong danh sách "500 album vĩ đại nhất". Album cũng được coi là một trong những bước ngoặt quan trọng trong sự ra đời và phát triển của hard rock và heavy metal. | 1 | null |
Mặt trận (Hangul: 고지전; Romaja quốc ngữ: Gojijeon; MR: Kojijŏn; tựa tiếng Anh: The Front Line) là một bộ phim điện ảnh Hàn Quốc sản xuất năm 2011, lấy bối cảnh cuối cuộc Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953). Đây là bộ phim thứ ba của đạo diễn Jang Hoon, sau khi hoàn thành phim "Secret Reunion" và "Rough Cut". Bộ phim đã được Hàn Quốc đề cử tham dự giải Oscar lần thứ 84 cho phim nước ngoài hay nhất, nhưng không đoạt giải. Bộ phim giành được bốn giải Grand Bell Awards, trong đó có "Phim hay nhất".
Nội dung.
Năm 1950, hai người bạn thân trong quân đội Hàn Quốc là Eun-pyo và Soo-hyeok bị quân Triều Tiên bắt được. Một viên sĩ quan Triều Tiên quyết định tha mạng cho họ và thả họ ra.
Năm 1953, hai phía Hàn Quốc và Triều Tiên đang trong thời gian đàm phán về việc ngừng bắn. Họ tranh cãi nhau ngọn đồi Aerok là của phe nào, vì ngọn đồi cứ liên tục thay đổi chủ, những người đàm phán còn không biết rõ phe nào đã chiếm được nó.
Eun-pyo bây giờ đã lên chức Trung úy, anh được cử đến tiền tuyến để điều tra về việc một sĩ quan Hàn Quốc bị sát hại. Eun-pyo bất ngờ khi gặp lại Soo-hyeok. Soo-hyeok cũng lên chức Trung úy và đang là một trong những chỉ huy ở đây. Eun-pyo ở lại để chiến đấu cùng đại đội của Soo-hyeok.
Những trận đánh vẫn diễn ra liên tục trên đồi Aerok. Viên sĩ quan Triều Tiên năm xưa cũng có mặt ở mặt trận này. Quân Hàn Quốc đã chiếm được đồi, nhưng quân Triều Tiên được sự trợ giúp từ quân Trung Quốc đã tái chiếm ngọn đồi.
Hàng ngàn quân Trung Quốc sử dụng chiến thuật biển người tấn công lên vị trí của Hàn Quốc trên đồi. Viên chỉ huy Hàn Quốc cương quyết không chịu rút lui, Soo-hyeok đã bắn chết gã chỉ huy này và lên làm chỉ huy. Soo-hyeok ra lệnh cho binh lính rút lui vào rừng. Ở trong rừng, Soo-hyeok bị một nữ xạ thủ bắn tỉa của Triều Tiên giết chết.
Eun-pyo rất buồn sau cái chết của Soo-hyeok, anh cõng xác Soo-hyeok về căn cứ Hàn Quốc. Quân Trung Quốc sau đó giao ngọn đồi Aerok lại cho quân Triều Tiên kiểm soát.
Trên radio thông báo rằng hiệp định ngừng bắn đã được ký, mọi người đều vui mừng vì nghĩ chiến tranh đã kết thúc. Nhưng thực ra 12 giờ nữa hiệp định ngừng bắn mới có hiệu lực, và các người lính vẫn phải chiến đấu tiếp.
Ban chỉ huy của cả hai phe kêu gọi binh lính hãy tấn công một lần cuối cùng để giành lại từng tấc đất. Eun-pyo cùng lực lượng Hàn Quốc còn lại đánh lên ngọn đồi.
Các binh lính lần lượt hi sinh, chỉ còn một mình Eun-pyo. Eun-pyo đi vào hang của Hàn Quốc, ngồi nói chuyện với viên sĩ quan Triều Tiên đang bị thương. Trên radio thông báo hiệp định ngừng bắn đã có hiệu lực, Eun-pyo và viên sĩ quan kia nghe xong thì cười. Viên sĩ quan kia chết vì vết thương trên bụng, còn Eun-pyo đi ra khỏi hang.
Eun-pyo đi xuống khỏi ngọn đồi, xung quanh anh là hàng trăm xác chết của cả hai phe. | 1 | null |
Trematoda là một lớp trong ngành Giun dẹp (Platyhelminthes). Nó bao gồm hai nhóm giun dẹp ký sinh, được gọi là sán lá.
Chúng là loài ký sinh bên trong động vật thân mềm và động vật có xương sống. Đa số các loài sán lá có vòng đời phức tạp với ít nhất hai vật chủ. Vật chủ chính, nơi sán lá sinh sản hữu tính, là động vật có xương sống. Vật chủ trung gian xảy ra sinh sản vô tính thường là ốc sên.
Phân loại và đa dạng sinh học.
Trematoda hay sán lá bao gồm 18.000 tới 24.000 loài, được chia thành hai phân lớp. Gần như tất cả loài sán lá là ký sinh trùng của động vật thân mềm và động vật có xương. Nhóm Aspidogastrea nhỏ hơn, bao gồm khoảng 100 loài, là loài ký sinh bắt buộc của động vật thân mềm và cũng có thể lây nhiễm sang các loài rùa và cá, bao gồm các loài cá sụn. Nhóm Digenea, phần lớn của các loài sán lá, là ký sinh trùng bắt buộc của cả động vật thân mềm và động vật có xương, nhưng hiếm khi xảy ra ở các loài cá sụn.
Hai lớp ký sinh khác, Monogenea và Cestoda, là các lớp chị em trong Neodermata, một nhóm của Rhabditophoran Platyhelminthes. | 1 | null |
Clonorchis sinensis, Sán lá gan Trung Quốc là một loài sán lá gan người trong lớp Trematoda, ngành Platyhelminthes. Loài ký sinh trùng sống trong gan của con người, và được tìm thấy chủ yếu ở ống dẫn mật và túi mật, ăn mật. Những con vật này, được cho là giun ký sinh trùng phổ biến thứ ba trên thế giới, là loài đặc hữu của Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, và Đông Nam Á, hiện đang lây nhiễm khoảng 30.000.000 người. 85% các trường hợp được tìm thấy ở Trung Quốc.
Đây là sán lá nhân phổ biến nhất ở châu Á, và vẫn đang lan truyền Hàn Quốc, Trung Quốc, Việt Nam và cũng nhu Nga, với 200 triệu người có nguy cơ lây nhiễm. Nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng nó có khả năng gây ung thư gan và ống dẫn mật, và trong thực tế, Cơ quan Nghiên cứu Quốc tế về Ung thư đã phân loại nó như là một nhóm sinh học gây ung thư vào năm 2009.
Vòng đời.
Trứng của "C. sinensis" có chứa "miracidium" (ấu trùng có lông) phát triển thành các dạng trưởng thành, trôi nổi trong nước ngọt cho đến khi bị ăn bởi một con ốc.
Vật chủ trung gian đầu tiên.
Ốc nước ngọt "Parafossarulus manchouricus" - danh pháp đồng nghĩa: "Parafossarulus striatulus", thường được dùng như vật chủ trung gian đầu tiên cho "C. sinensis" ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Nga.
Ốc vật chủ khác bao gồm:
Một khi đã ở bên trong cơ thể ốc, ấu trùng có đuôi nở ra từ trứng và phát triển ký sinh bên trong ốc. Ấu trùng có lông phát triển thành một bào tử nang, nơi sẽ trở thfnh cho sự sinh sản của redia (dạng ấu trùng thứ ba của sán lá ký sinh) trong giai đoạn tiếp theo. Các redia tự chúng sẽ là nơi diễn ra sinh sản vô tính của ấu trùng có đuôi bơi tự do. Hệ thống sinh sản vô tính này cho phép nhân số mũ các cá thể ấu trùng có đuôi từ một ấu trùng có đuôi. Điều này hỗ trợ các Clonorchis trong sinh sản, bởi vì nó cho phép các ấu trùng có đuôi tận dụng một cơ hội bị ăn thịt một cách thụ động bởi một con ốc trước khi trứng chết.
Một khi redia trưởng thành, đã phát triển bên trong cơ thể ốc cho đến thời điểm này, chúng tích cực lách ra khỏi cơ thể ốc để vào môi trường nước ngọt.
Vật chủ trung gian thứ hai.
Ở đó, thay vì chờ đợi để được dùng bởi một vật chủ (như trường hợp trong giai đoạn trứng của chúng), nó tìm ra một con cá. Đào vào cơ thể cá, chúng lại trở thành ký sinh trùng của vật chủ mới của chúng.
Một khi bên trong cơ cá, ấu trùng có đuôi tạo ra một túi bao (kén sán) để bảo vệ chúng. Túi bao bảo vệ này sẽ rất hữu dụng khi cá được tiêu thụ bởi một người.
Vật chủ chính.
Túi bao có khả năng chống axit cho phép kén sán tránh bị tiêu hóa bởi axit dạ dày của con người, và cho phép các kén sán tới được ruột non mà không hề hấn gì. Tới ruột non, kén sán hướng về phía gan của con người, nơi sẽ trở thành môi trường sống cuối cùng của nó. Clonorchis ăn mật người được tạo ra bởi gan. Trong gan của con người, Clonorchis trưởng thành đạt giai đoạn sinh sản vô tính mà chúng đẻ trứng mỗi 1-30 giây. | 1 | null |
Chó săn Rampur là một giống chó săn thuộc kiểu chó săn Greyhound có nguồn gốc từ khu vực Rampur của miền Bắc Ấn Độ, nằm giữa Delhi và Bareilly. Những con chó săn Rampur thuộc nhóm chó săn đuổi. Ở Tây Bắc của Ấn Độ nó thường được mô tả là giống cho săn đuổi có bộ lông mượt mà.
Nó là giốnng chó săn được ưa chuộng của Maharajah để kiểm soát chó rừng, còn được sử dụng để săn sư tử, săn hổ, săn báo. Một bài kiểm tra lòng dũng cảm cho một con chó săn duy nhất để đánh nhau với một chó rừng lưng vàng. Những con Rampur được lai tạo, chọn giống để phù hợp với những cuộc đua tốc độ cao ở khoảng cách rất xa, do đó chúng có khả năng chịu đựng áp lực và bền bỉ một cách tuyệt vời.
Cấu tạo.
Chiều dài từ vai đến gốc đuôi là khoảng 36 inch, ngực sâu ở phía trước nhưng không quá rộng với xương sườn rất cong. Đuôi dài và thon hơi cong lên trên chúng từ 24 -27 của chiều dài. Chu vi của cổ khoảng 12 inch và cơ bắp khá phát triển. Chiều dài của hàm là 9 inch và hàm khá mạnh mẽ với một vết cắn hình cắt kéo khi táp trúng. Con đực cao khoảng 60–75 cm (24–30 in), con cái đo 55–60 cm (22–24 in) về chiều cao. Chúng nặng khoảng 27-30kg (60-65 lb).
Chúng có kích thước tương tự như Greyhound, nhưng rộng hơn và cơ bắp hơn, cái đầu tương tự như đầu của chó lông xoáy Rhodesian. Nó có một hộp sọ bằng phẳng và một mũi nhọn, tai vểnh cao, ngón chân của chúng rất khớp nối và linh hoạt, thậm chí có thể uốn cong về phía sau một chút. Khả năng cơ động này sẽ giúp cung cấp cho chúng một sự cân bằng như mèo. Màu mắt thay đổi từ màu vàng sang màu nâu vàng. Vết cắn của chúng là vô cùng mạnh mẽ.
Tập tính.
Chúng có thói quen sạch sẽ và rất có tình cảm với chủ. Mặc dù vậy, chó săn Rampur vẫn là giống chó có tập tính lãnh thổ và quyết liệt bảo vệ của gia đình của nó, nó cũng là một giống chó mạnh mẽ và không dễ bị nhiều vấn đề sinh lý. Chó săn Rampur thường một giống chó khỏe mạnh và sống lâu, và hiếm gặp các căn bệnh di truyền. Rampur có thể sống đến mười lăm năm
Ngày nay, với sự cáo chung của Đế quốc Ấn Độ và các quyền động vật trỗi dậy, săn heo rừng không còn là một hoạt động chủ yếu là người dân nông thôn của Ấn Độ. Họ săn chúng với những con chó cho nguồn thực phẩm hoặc để thoát khỏi các loài gây hại, chứ không phải là một trò tiêu khiển (như Maharajas đã làm). Nó được giữ chủ yếu để săn chó rừng và cũng được sử dụng để được sử dụng để săn sư tử, săn hổ và báo | 1 | null |
Trần Thu Dung là tiến sĩ văn sử Pháp, Đại học Tổng Hợp Paris VII, nhà nghiên cứu văn hóa, nhà thơ.
Trần Thu Dung đã xuất bản một số công trình văn hóa so sánh có giá trị bằng tiếng Pháp và tiếng Việt được đánh giá cao như: "Đạo Cao Đài và Victor Hugo; Hội Tam Điểm và những đóng góp của các thành viên Việt Nam đầu tiên trong công cuộc giải phóng thuộc địa & bảo tồn văn hóa dân tộc; Dấu ấn Việt Nam qua tên những con đường của Pháp." Bà là chuyên gia nghiên cứu về hội Tam Điểm, và những vấn đề liên quan đến Đông Dương.
Bà là cộng tác viên cho nhiều báo tạp chí ở Việt Nam (Báo Tiền Phong, Nông nghiệp, Tạp chí Quê Hương, An Ninh Thế giới...) cũng như báo chí ở Mỹ và Pháp. Những bài khảo luận về sự ảnh hưởng qua lại của văn hóa Pháp và Việt được đánh giá cao. Bà đã chứng minh nguồn gốc chữ Phở, Nem, giò chả, nước mắm để bảo vệ và tôn vinh văn hóa ẩm thực Việt Nam.
Bà luôn luôn cổ vũ vấn đề bảo vệ và giữ gìn văn hóa ngôn ngữ dân tộc thiểu số. Bà tham gia các hoạt động xã hội giúp đỡ cộng đồng người Việt tại Pháp và giúp sinh viên nghèo vượt khó ở Việt Nam.. Với vai trò là phó tổng thư ký hội Pháp Ngữ Paris, bà đã tổ chức hội thảo, triển lãm giới thiệu các họa sĩ trẻ Việt Nam ở Paris, và đưa nhà báo, sinh viên qua Pháp trao đổi văn hóa.
Tiểu sử.
Trần Thu Dung tốt nghiệp Khoa Ngôn ngữ và Văn chương trường Đại học Tổng hợp Bucarest (Université de Bucarest) - Rumani, năm 1979. Bà đi bổ túc nghiệp vụ ở trường Tổng hợp Tự Do (Université Libre de Bruxelles). Bà qua Pháp bảo vệ xuất sắc luận án tiến sĩ văn sử ở trường Đại học Paris VII (Université de Paris VII).
Bà từng là giảng viên khoa ngữ văn Đại học Sư phạm Hà nội 1, và tham gia dạy trường Viết Văn Nguyễn Du thời Hoàng Ngọc Hiến làm hiệu trưởng.
Bà đã khám phá ra mối liên quan khăng khít bị che khuất giữa đạo Cao Đài và Hội Tam Điểm Pháp.
Bà là người đầu tiên giới thiệu đến bạn đọc Việt Nam về hội Tam Điểm (franc- maçons) và nhìn nhận lại những công lao đóng góp của các thành viên Tam Điểm Việt Nam đầu tiên trong công cuộc giải phóng thuộc địa và bảo tồn văn hóa ngôn ngữ dân tộc. Bà đã giúp cho độc giả Việt Nam nhìn nhận lại giá trị đích thực của những nhân vật như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh và nhiều người khác bị hiểu nhầm trong thời kỳ Pháp thuộc.
Bà cùng giáo sư Hoàng Ngọc Hiến làm cuốn thư mục các tác phẩm văn học Pháp viết về Đông Dương.
Một số cuốn sách của bà được viết song ngữ Pháp - Việt như cuốn "Đạo Cao Đài và Victor Hugo" và Thư mục sách; Dấu ấn Việt Nam qua tên những con đường của Pháp.
Bà vừa là đồng tác giả và dịch giả cuốn "Chữ viết ở Việt Nam" và dịch ra tiếng Việt..
Bà đã từng tham gia hội thảo ở Việt Nam
Bà có công cùng Nguyễn Thương Thương soạn cuốn "Luyện thi tú tài Pháp môn ngoại ngữ Tiếng Việt" để giúp cho học sinh Việt và Pháp thi tiếng Việt tại Pháp.
"Dấu ấn Việt Nam qua tên những con đường ở Pháp" là một công trình được các nhà sử học Alain Ruscio, Patrice Jorland đánh giá cao. Báo Nhân Đạo đã viết một bài giới thiệu với tiêu đề "Việt Nam thổn thức trong những mạch đường của Pháp"
Bà kết hôn với Nguyễn Khôi Minh Việt Kiều ở Pháp sinh bốn đứa con: Nguyễn Thương Thương, Nguyễn Trâm Trâm, Nguyễn Hoài Hoài, Nguyễn Tim. | 1 | null |
Bộ (Thái: กระทรวง "Krasuan") là cơ quan hành pháp thuộc Chính phủ Thái Lan.Mỗi Bộ đều do một Bộ trưởng Nhà nước đứng đầu (Thái: รัฐมนตรีว่าการกระทรวง, "Ratthamontri Wa Kan Krasuang"),tùy thuộc vào Thủ tướng mỗi Bộ có Thứ trưởng khác nhau (Thái: รัฐมนตรีช่วยว่าการกระทรวง).
Lịch sử.
Trong thời kỳ Rattanakosin,Vương Quốc được cai trị giống trong thời kỳ Ayutthaya.Có 2 chức quan quản lý công việc Quân đội như Quan võ "Samuhakalahom" (Thái: สมุหกลาโหม) và quản lý công việc Dân sự Quan văn "Samuhanayok" (Thái: สมุหนายก).Quan văn được chia thành 4 "Kroms " (Thái: กรม),đứng đầu là "Senabodi" (Thái: เสนาบดี)hoặc Thư ký thường trực.Chính quyền kiểu này được gọi là "Chatusadom" (Thái: จตุสดมภ์):
Rama V.
Vua Chulalongkorn (Rama V),vị vua được du học tại châu Âu và đi khắp nơi,quyết định cải cách đất nước. Năm 1875, ông đã ban hành một sắc lệnh hoàng gia để cải cách, phân chia và tạo ra nhiều cơ quan.Hệ thống tổ chức cũ bị sụp đổ.
Rama V cải cách ra 6 Bộ đứng đầu là Bộ trưởng Nhà nước
Sau đó 4 bộ được bổ sung:
Năm 1900 toàn bộ cơ cấu được hoàn thành. Mười bộ trở thành trung tâm của chính phủ Xiêm và luật. Sau khi Cách mạng năm 1932, hầu hết các Bộ được giữ lại bởi nhóm Khana Ratsadon, tuy nhiên các Bộ trưởng được Thủ tướng chọn lựa chứ không phải Quốc vương nữa. | 1 | null |
Rustichello da Pisa hay Rustichello thành Pisa còn được gọi là Rusticiano và Rustigielo (khoảng cuối thế kỷ 13), là một nhà văn truyện hiệp sĩ người Ý nổi tiếng với cuốn tự truyện ghi chép về chuyến du hành của Marco Polo trong khi họ cùng ở trong tù tại Genova. Quê quán ở Pisa, ông có thể đã bị người Genova bắt làm tù binh tại trận Meloria vào năm 1284 trong một cuộc xung đột giữa nước Cộng hòa Genova và Pisa. Khi Polo bị tống giam vào khoảng năm 1298, có lẽ sau một cuộc đụng độ giữa Genova và Venezia (mà sử sách thường ghi là trận Curzola), đich thân ông đã đọc cho Rustichello viết lại chuyện kể về cuộc hành trình sang châu Á của mình và họ cùng nhau biến nó thành cuốn sách với tiêu đề "Marco Polo du ký".
Trước đó, Rustichello đã viết một tác phẩm bằng tiếng Pháp gọi là "Roman de Roi Artus" ("Truyện về Vua Arthur") hoặc đơn giản là "Tổng Tập", bắt nguồn từ một cuốn sách thuộc sở hữu của vua Edward I nước Anh khi ông băng qua Ý trên đường đi chiến đấu trong cuộc Thập tự chinh thứ tám vào năm 1270-1274. "Tổng Tập" bao gồm một đoạn tự ý thêm vào trong quyển "Palamedes", một truyện kể bằng văn xuôi hiện vẫn còn rời rạc về vị hiệp sĩ Palamedes người Saracen của Arthur và lịch sử Hiệp sĩ Bàn Tròn. Về sau nó được chia thành hai phần đặt theo tên nhân vật chính yếu của họ là "Meliadus" (cha của Tristan) và "Guiron le Courtois"; vốn vẫn còn phổ biến trong hàng trăm năm sau và ảnh hưởng đến những tác phẩm viết bằng tiếng Pháp cũng như ở Tây Ban Nha, Ý và thậm chí cả Hy Lạp. | 1 | null |
Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2008 là một sự kiện mà theo đó các xoáy thuận nhiệt đới hình thành ở vùng phía tây bắc của Thái Bình Dương. Mùa bão sẽ kéo dài trong suốt năm 2008 với phần lớn các cơn bão hình thành từ tháng 5 đến tháng 11. Bài viết này chỉ đề cập đến các cơn bão hình thành trong phạm vi của Thái Bình Dương ở Bắc Bán Cầu và từ kinh tuyến 100 đến 180 độ. Trong khu vực tây bắc Thái Bình Dương, có 2 cơ quan khí tượng hoạt động độc lập nhau, nên một cơn bão có thể có 2 tên gọi khác nhau. JMA sẽ đặt tên cho một cơn bão khi sức gió duy trì trong vòng 10 phút đạt ít nhất 65 km/h, (40 mph) bất kỳ nơi đây trong vùng đã đề cập trên. Trong Khi đó, PAGASA sẽ đặt tên cho một cơn bão khi nó hình thành từ một áp thấp nhiệt đới trong phạm vi giám sát của họ giữa 135°Đ và 115°Đ và giữa 5°B-25°B thậm chí JMA đã đặt tên cho nó. Các áp thấp nhiệt đới được JTWC theo dõi và đặt tên có ký tự "W" phía trước một con số.
Các cơn bão.
Áp thấp nhiệt đới 01W.
Cấp bão (Việt Nam): cấp 7 - áp thấp nhiêt đới.
Cấp bão (Nhật Bản): 30 hải lý / 1 giờ - áp thấp nhiêt đới. Áp suất:1004 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 40 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới.
Áp thấp nhiệt đới.
Cấp bão (Việt Nam): cấp 6 - áp thấp nhiêt đới.
Cấp bão (Nhật Bản): 30 hải lý / 1 giờ - áp thấp nhiêt đới. Áp suất:1006 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): vùng đối lưu nhiệt đới mức thấp.
Bão Neoguri (Ambo) (Bão số 1).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 13 ~ cấp 14 - bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản): 80 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong. Áp suất:960 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 100 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong cấp 3.
Bão Rammasun (Butchoy).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 15 ~ cấp 16 - bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản): 105 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong. Áp suất:915 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 135 hải lý / 1 giờ - siêu bão cấp 4.
Bão Matmo (Dindo).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 10 - bão nhiệt đới dữ dội.
Cấp bão (Nhật Bản): 50 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới dữ dội. Áp suất:992 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 40 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới.
Bão Halong (Cosme) (Bão số 2).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 13 - bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản): 65 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong. Áp suất:970 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 75 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong cấp 1.
Bão Nakri (Enteng).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 15 - bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản): 100 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong. Áp suất:930 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 125 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong cấp 4.
Bão Fengshen (Frank) (Bão số 3).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 14 - bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản): 90 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong. Áp suất:945 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 110 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong cấp 3.
Áp thấp nhiệt đới Gener.
Cấp bão (Việt Nam): cấp 6 ~ cấp 7 - áp thấp nhiệt đới.
Cấp bão (Nhật Bản): 30 hải lý / 1 giờ - áp thấp nhiệt đới. Áp suất:1000 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): >20 hải lý / 1 giờ - vùng đối lưu nhiệt đới mức cao (lốc xoáy nhiệt đới đang hình thành).
Bão Kalmaegi (Helen).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 12 ~ cấp 13 - bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản): 65 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong. Áp suất:970 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 90 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong cấp 2.
Bão Fung-wong (Igme).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 13 ~ cấp 14 - bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản): 85 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong. Áp suất:960 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 95 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong cấp 2.
Bão Kammuri (Julian) (Bão số 4).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 10 - bão nhiệt đới dữ dội.
Cấp bão (Nhật Bản): 50 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới dữ dội. Áp suất:975 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 50 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới.
Bão Phanfone.
Cấp bão (Việt Nam): cấp 10 - bão nhiệt đới dữ dội.
Cấp bão (Nhật Bản): 50 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới dữ dội. Áp suất:996 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): không cảnh báo (lốc xoáy cận - ngoại nhiệt đới).
Áp thấp nhiệt đới 11W.
Cấp bão (Việt Nam): cấp 7 - áp thấp nhiêt đới.
Cấp bão (Nhật Bản): 30 hải lý / 1 giờ - áp thấp nhiêt đới. Áp suất:998 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 35 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới.
Bão Vongfong.
Cấp bão (Việt Nam): cấp 10 - bão nhiêt đới dữ dội.
Cấp bão (Nhật Bản): 55 hải lý / 1 giờ - bão nhiêt đới dữ dội. Áp suất:990 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 50 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới.
Áp thấp nhiệt đới Kika.
Cấp bão (Việt Nam): không cảnh báo.
Cấp bão (Nhật Bản): không cảnh báo.
Cấp bão (Hoa Kỳ): 20 hải lý / 1 giờ - áp thấp nhiệt đới. Áp suất:1010 mbar (hPa).
Bão Nuri (Karen) (Bão số 5).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 13 ~ cấp 14 - bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản): 75 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong. Áp suất:955 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 100 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong cấp 3.
Áp thấp nhiệt đới 14W (Lawin).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 7 - áp thấp nhiêt đới.
Cấp bão (Nhật Bản): 30 hải lý / 1 giờ - áp thấp nhiêt đới. Áp suất:1002 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 35 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới.
Bão Sinlaku (Marce).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 15 - bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản): 100 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong. Áp suất:935 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 125 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong cấp 4.
Áp thấp nhiệt đới 16W.
Cấp bão (Việt Nam): cấp 7 - áp thấp nhiêt đới.
Cấp bão (Nhật Bản): 30 hải lý / 1 giờ - áp thấp nhiêt đới. Áp suất:1002 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 35 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới.
Áp thấp nhiệt đới 17W.
Cấp bão (Việt Nam): cấp 6 ~ cấp 7 - áp thấp nhiêt đới.
Cấp bão (Nhật Bản): 25 hải lý / 1 giờ - áp thấp nhiêt đới. Áp suất:1010 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 35 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới.
bão Hagupit (Nina) (Bão số 6).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 14 ~ cấp 15 - bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản): 90 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong. Áp suất:935 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 125 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong cấp 4.
Bão Jangmi (Ofel).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 17 - bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản): 115 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong. Áp suất:905 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 140 hải lý / 1 giờ - siêu bão cấp 5.
Bão Mekkhala (Bão số 7).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 9 - bão nhiệt đới.
Cấp bão (Nhật Bản): 45 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới. Áp suất:990 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 55 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới.
Bão Higos (Pablo) (Bão số 8).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 8 ~ cấp 9 - bão nhiệt đới.
Cấp bão (Nhật Bản): 40 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới. Áp suất:998 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 40 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới.
Áp thấp nhiệt đới 22W.
Cấp bão (Việt Nam): cấp 7 - áp thấp nhiêt đới.
Cấp bão (Nhật Bản): 30 hải lý / 1 giờ - áp thấp nhiêt đới. Áp suất:1006 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 35 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới.
Bão Bavi.
Cấp bão (Việt Nam): cấp 9 - bão nhiêt đới.
Cấp bão (Nhật Bản): 45 hải lý / 1 giờ - bão nhiêt đới. Áp suất:992 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 45 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới.
Bão Maysak (Quinta-Siony) (Bão số 9).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 10 ~ cấp 11 - bão nhiêt đới dữ dội
Cấp bão (Nhật Bản): 55 hải lý / 1 giờ - bão nhiêt đới dữ dội. Áp suất:985 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 50 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới.
Áp thấp nhiệt đới Rolly.
Cấp bão (Việt Nam): không cảnh báo.
Cấp bão (Nhật Bản): không cảnh báo.
Cấp bão (Hoa Kỳ): không cảnh báo.
cấp bão (Philippine): 30 hải lý / 1 giờ - áp thấp nhiệt đới. Áp suất:1006 mbar (hPa).
Bão Haishen.
Cấp bão (Việt Nam): cấp 8 ~ cấp 9 - bão nhiêt đới.
Cấp bão (Nhật Bản): 40 hải lý / 1 giờ - bão nhiêt đới. Áp suất:1004 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 40 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới.
Bão Noul (Tonyo) (Bão số 10).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 8 ~ cấp 9 - bão nhiêt đới.
Cấp bão (Nhật Bản): 40 hải lý / 1 giờ - bão nhiêt đới. Áp suất:994 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 40 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới.
Áp thấp nhiệt đới.
Cấp bão (Việt Nam): cấp 6 - áp thấp nhiêt đới.
Cấp bão (Nhật Bản): 25 hải lý / 1 giờ - áp thấp nhiệt đới. Áp suất:1006 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): vùng đối lưu mức thấp.
Bão Dolphin (Ulysses).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 13 - bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản): 65 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong. Áp suất:970 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 85 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong cấp 2.
Tên gọi của bão.
Tên quốc tế.
Các xoáy thuận nhiệt đới được đặt tên theo danh sách bên dưới do Trung tâm khí tượng khu vực chuyên biệt ở Tokyo, Nhật Bản, khi một xoáy thuận đạt đến độ mạnh của bão. Các tên gọi do các thành viên của ESCAP/WMO Typhoon Committee đề xuất. Mỗi nước trong số 14 nước và vùng lãnh thổ thành viên đưa ra 10 tên gọi, được sử dụng theo thứ tự ABC, bằng tên tiếng Anh của quốc gia đó. Sau đây là các tên gọi đã đặt cho các cơn bão năm 2008.
Số hiệu cơn bão tại Việt Nam.
Ở Việt Nam một cơn bão được đặt số hiệu khi nó đi vào vùng thuộc phạm vi theo dõi của Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Trung ương Quốc gia được xác định trên biển Đông phía Tây kinh tuyến 120 độ kinh Đông và phía bắc vĩ tuyến 10 độ vĩ Bắc. Số hiệu của bão được đặt theo số thứ tự xuất hiện của nó trong năm ví dụ: Bão số 1, bão số 2...
Dưới đây là các cơn bão đã được Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Trung ương Quốc gia Việt Nam đặt số hiệu trong năm 2008: (kèm vùng đổ bộ).
Tên địa phương của Philippines.
Cơ quan Pagasa sử dụng chương trình đặt tên riêng của mình cho cơn bão nhiệt đới trong khu vực theo dõi của họ. Pagasa đặt tên cho áp thấp nhiệt đới đã hình thành trong khu vực theo dõi của mình và bất kỳ cơn bão nhiệt đới có thể di chuyển vào khu vực theo dõi của họ. Nên danh sách các tên trong năm đó bị sử dụng hết, tên sẽ được lấy từ một danh sách phụ trợ, các bão đầu tiên được xuất bản mỗi năm trước khi mùa bão bắt đầu. Tên còn lập lại (chưa bị khai tử) từ danh sách này sẽ được sử dụng một lần nữa trong mùa bão năm 2012. Đây là danh sách tương tự được sử dụng trong mùa giải 2004, ngoại trừ Ulysses, Vicky và Warren, thay thế Unding, Violeta và Winnie tương ứng. Tên mà không được giao được đánh dấu màu xám. Đây là danh sách tương tự được sử dụng trong mùa bão 2008.
=Tham khảo= | 1 | null |
Lãnh thổ Arizona (tiếng Anh: "Arizona Territory") từng là một lãnh thổ hợp nhất có tổ chức của Hoa Kỳ, tồn tại giữa năm 1863 và 1912. Lãnh thổ được phép gia nhập liên bang để trở thành tiểu bang Arizona năm 1912. Lãnh thổ được thành lập sau khi có vô số cuộc tranh luận về việc phân tách Lãnh thổ New Mexico. Trong thời Nội chiến Hoa Kỳ, Liên bang Hoa Kỳ và Liên minh miền Nam Hoa Kỳ có các động thái khác nhau về việc phân tách Lãnh thổ New Mexico. Mỗi bên đều tuyên bố chủ quyền đối với một lãnh thổ có tên là "Arizona" mà cùng là một phần đất của Lãnh thổ New Mexico. Hai lãnh thổ mang tên Arizona đóng vai trò nổi bật trong chiến dịch phía tây của nội chiến.
Lịch sử.
Sau khi mở rộng Lãnh thổ New Mexico năm 1853 với Cấu địa Gadsden, các kiến nghị phân chia Lãnh thổ New Mexico và tổ chức thêm Lãnh thổ Arizona riêng biệt tại phân nửa phía nam của Lãnh thổ New Mexico được đưa vào chương trình nghị sự sớm nhất là vào năm 1856. Các kiến nghị đầu tiên cho Lãnh thổ Arizona không dựa theo việc phân chia lãnh thổ theo đường thẳng chạy theo hướng bắc-nam như ngày nay mà đúng hơn là phân chia dọc theo đường thẳng chạy theo hướng đông-tây.
Các kiến nghị nảy sinh vì mối quan tâm lo lắng về khả năng của chính quyền lãnh thổ tại Santa Fe (thủ phủ của Lãnh thổ New Mexico) có điều hành hữu hiệu các phần đất phía nam mới thu được hay không.
Kiến nghị đầu tiên là từ một hội nghị được tổ chức tại Tucson vào ngày 29 tháng 8 năm 1856. Hội nghị này đưa ra một thỉnh nguyện thư gởi Quốc hội Hoa Kỳ với chữ ký của 256 người, kêu gọi tổ chức lãnh thổ. Hội nghị cũng bầu Nathan P. Cooke làm đại biểu tại Quốc hội Hoa Kỳ. Tháng 1 năm 1857, đạo luật tổ chức lãnh thổ được giới thiệu tại Hạ viện Hoa Kỳ, nhưng kiến nghị đã bị đánh bại tại hạ viện vì lý do dân số của lãnh thổ được đề nghị vẫn còn ít. Sau này, một kiến nghị tương tự bị thất bại tại Thượng viện Hoa Kỳ. Kiến nghị thành lập lãnh thổ thì rất gây tranh cãi một phần vì sự nhận thức rằng Lãnh thổ New Mexico đang nằm trong vòng ảnh hưởng của những cảm tình viên miền nam là những người rất mong muốn mở rộng chế độ nô lệ vào miền tây nam.
Tháng 2 năm 1858, Hội đồng Lập pháp Lãnh thổ New Mexico thông qua một nghị quyết ủng hộ thành lập Lãnh thổ Arizona nhưng đường ranh giới phân định chạy theo hướng bắc-nam dọc theo kinh tuyến 109 độ với thêm quy định rằng tất cả người bản địa Mỹ của Lãnh thổ New Mexico sẽ bị di dời đến miền bắc Arizona.
Tháng 4 năm 1860, vì không kiên nhẫn chờ đợi Quốc hội Hoa Kỳ hành động nên một hội nghị gồm 31 đại biểu họp nhau tại Tucson và thông qua một bản hiến pháp cho một chính quyền lãnh thổ lâm thời trong khu vực phía nam vĩ tuyến 34 độ Bắc. Các đại biểu bầu Lewis Owings làm thống đốc lâm thời.
Vào lúc nội chiến bùng nổ, thái độ công chúng trong lãnh thổ ủng hộ Liên minh miền Nam Hoa Kỳ. Các hội nghị ly khai, nhóm họp tại Mesilla và Tucson vào tháng 3 năm 1861, thông qua một sắc lệnh ly khai và thành lập Lãnh thổ Arizona lâm thời. Owings được bầu làm thống đốc của lãnh thổ này, và thỉnh cầu Quốc hội Liên minh miền Nam thu nhận lãnh thổ.
Liên minh miền Nam xem lãnh thổ này như một con đường có giá trị khả dĩ đi đến Thái Bình Dương với ý định rõ rệt là chiếm tiểu bang California. Tháng 7 năm 1861, một lực lượng nhỏ gồm các binh sĩ người Texas của Liên minh miền Nam dưới quyền tư lệnh của trung tá John R. Baylor tấn công đồn Fillmore tại Mesilla nằm ở phía đông lãnh thổ. Sau khi quân đồn trú của phe Liên bang miền Bắc bỏ đồn, lực lượng của Baylor chặn đánh lực lượng rút lui của Liên bang và bắt buộc họ phải đầu hàng. Ngày 1 tháng 8, Baylor ra một "Tuyên ngôn gởi Nhân dân Lãnh thổ Arizona", chiếm lấy lãnh thổ này cho Liên minh miền Nam, đặt Mesilla làm thủ phủ, và tự làm thống đốc lãnh thổ. Sau cùng Baylor san bằng hết các đồn bót hiện hữu của Liên bang miền Bắc trong lãnh thổ, khiến cho người định cư da trắng phải đối phó với mối đe dọa của người bản địa Apache. Người bản địa Apache nhanh chóng giành kiểm soát khu vực và buộc nhiều người da trắng phải tìm chỗ ẩn trốn tại Tucson.
Ngày 28 tháng 8, một hội nghị lại nhóm họp tại Tucson và tuyên bố rằng lãnh thổ được thành lập năm trước là một phần của Liên minh miền Nam Hoa Kỳ. Granville H. Oury được bầu làm đại biểu tại Quốc hội Liên minh miền Nam. Oury thảo ra luật cho phép tổ chức Lãnh thổ Arizona thuộc Liên minh miền Nam. Luật này được thông qua ngày 13 tháng 1 năm 1862, và lãnh thổ chính thức được thành lập bởi tuyên bố của tổng thống Jefferson Davis vào ngày 14 tháng 2.
Tháng 3 năm 1862, Hạ viện Hoa Kỳ, lúc đó đã loại bỏ hết các dân biểu miền Nam và do đảng Cộng hòa kiểm soát, thông qua một đạo luật thành lập Lãnh thổ Arizona thuộc Hoa Kỳ. Hạ viện dùng ranh giới là đường thẳng chạy theo hướng bắc-nam theo kinh tuyến 109 độ Bắc. Việc sử dụng ranh giới chạy theo hướng bắc-nam chớ không phải theo hướng đông-tây có hiệu lực từ chối phê chuẩn Lãnh thổ Arizona "de facto" thuộc Liên minh miền Nam. Đạo luật của hạ viện quy định rằng Tucson sẽ là thủ phủ. Đạo luật cuối cùng được thông qua tại Thượng viện Hoa Kỳ vào tháng 2 năm 1863 nhưng không có quy định Tucson là thủ phủ. Tổng thống Abraham Lincoln ký thành luật vào ngày 24 tháng 2, là ngày chính thức tổ chức Lãnh thổ Arizona thuộc Hoa Kỳ. Thủ phủ đầu tiên là tại Prescott trong khu vực do phe Liên bang miền Bắc kiểm soát.
Nếu như các ranh giới ban đầu của lãnh thổ được giữ nguyên thì Las Vegas đã là một phần của Arizona. Tuy nhiên vào năm 1866, một phần đất tây bắc bị sáp nhập vào tiểu bang Nevada, và lãnh thổ vẫn giữ nguyên diện tích như hiện tại từ đó. Năm sau, thủ phủ được dời về Tucson, và năm 1889 được dời về Phoenix.
Lãnh thổ được phép gia nhập liên bang để trở thành tiểu bang thứ 48 của Hoa Kỳ vào ngày 14 tháng 2 năm 1912.
Tuyên ngôn lãnh thổ.
TUYÊN NGÔN GỞI NHÂN DÂN ARIZONA
Tôi, JOHN N. GOODWIN, được tổng thống Hoa Kỳ bổ nhiệm, và đủ điều kiện đảm đương công việc trong vai trò thống đốc của LÃNH THỔ ARIZONA, tuyên cáo tại nơi đây rằng trong tư cách quyền lực mà tôi đã được giao phó bởi một đạo luật của Quốc hội Hoa Kỳ sẽ cung cấp một chính quyền tạm thời cho Lãnh thổ. Ngày hôm nay tôi sẽ xúc tiến tổ chức chính quyền vừa nói đến. Các điều khoản của đạo luật, và tất cả các luật lệ và sắc lệnh đã được thiết lập có liên quan, sẽ được các viên chức thích hợp của lãnh thổ thi hành từ hôm nay và sau đó.
Một cuộc điều tra dân số sơ bộ sẽ được tiến hành ngay lập tức, và sau đó các khu vực pháp lý sẽ được thành lập. Một cuộc bầu cử thành viên Hội đồng Lập pháp, và các viên chức khác được nói đến trong đạo luật sẽ được ra lệnh tiến hành.
Tôi khẩn cầu sự trợ giúp và hợp tác của toàn thể công dân lãnh thổ trong nỗ lực thiết lập một chính quyền nhờ đó an ninh cuộc sống và tài sản sẽ được duy trì xuyên suốt, và tài nguyên khác nhau được phát triển nhanh và thành công.
Trụ sở của chính quyền trong thời điểm hiện tại sẽ ở tại hay gần Đồn Whipple.
Ký tại Navajo Springs, Arizona<br>
29 tháng 12 năm 1863
Thay mặt thống đốc: Richard C. McCormick, Trưởng lãnh thổ vụ. | 1 | null |
Mùa bão Tây Nam Ấn Độ Dương 2013-14 là một sự kiện đang diễn ra trong chu kỳ hàng năm về sự hình thành các xoáy nghịch nhiệt đới sẽ kết thúc vào ngày 30 tháng 6 năm 2014. Mùa bão chính thức bắt đầu vào ngày 01 tháng 7 năm 2013, mặc dù hệ thống nhiệt đới đầu tiên do Météo-Pháp là một nhiễu động nhiệt đới trong thời gian ngắn đã phát triển vào ngày 8 Tháng 7. Tuy nhiên, cơn bão đầu tiên có tên là bão mạnh Amara hình thành trong tháng mười hai. Như vậy đến nay, cơn bão mạnh nhất của mùa bão là cơn bão Bruce, có nguồn gốc từ khu vực Úc và sau đó tăng cường với một cường độ cao với sức gió duy trì tối đa 230 km/h (145 mph), làm cho nó là bão xoáy nhiệt đới đầu tiên ở miền Tây Nam Ấn Độ Dương đạt được cấp độ bão xoáy nhiệt đới cực mạnh kể từ sau siêu bão Edzani trong năm 2010. Sau đó cơn bão này quay lại vùng biển Úc vào ngày 25 tháng 12 khi nó tiêu tan dần.
Trong khu vực này, các xoáy thuận nhiệt đới và xoáy cận nhiệt đới được giám sát bởi Trung tâm Khí tượng chuyên khu vực trên đảo Réunion, trong khi Mauritius và trung tâm thời tiết Madagascar gán tên của các xoáy thuận nhiệt đới và xoáy cận nhiệt đới.
Các cơn bão.
Nhiễu động nhiệt đới 98S.
Cấp bão (Reunion-Pháp): 25 hải lý / 1 giờ - nhiễu động nhiệt đới. Áp suất:1001 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): không cảnh báo.
Áp thấp nhiệt đới 01R.
Cấp bão (Reunion-Pháp): 30 hải lý / 1 giờ - áp thấp nhiệt đới. Áp suất:1000 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 35 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới.
Bão xoáy nhiệt đới mạnh Amara.
Cấp bão (Reunion-Pháp): 110 hải lý / 1 giờ (tương đương 205 km/h)- bão xoáy nhiệt đới cường độ rất mạnh. Áp suất:933 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 130 hải lý / 1 giờ - Siêu bão cấp 4.
Bão xoáy nhiệt đới cực mạnh Bruce.
Cấp bão (Reunion-Pháp): 125 hải lý / 1 giờ (tương đương 230 km/h) - bão xoáy nhiệt đới siêu mạnh - Áp suất:912 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 140 hải lý / 1 giờ - Siêu bão cấp 5.
Bão xoáy nhiệt đới mạnh Bejisa.
Cấp bão (Reunion-Pháp): 90 hải lý / 1 giờ - Bão xoáy nhiệt đới rất mạnh. Áp suất:953 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 105 hải lý / 1 giờ - Bão cấp 3. | 1 | null |
USS "Clemson" (DD-186/AVP-17/AVD-4/APD-31) là chiếc dẫn đầu của lớp tàu khu trục mang tên nó được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất và tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai. Nó được đặt tên theo Henry A. Clemson (1820-1846), một sĩ quan hải quân đã thiệt mạng khi chiếc lật úp do cuồng phong ngoài khơi Vera Cruz vào ngày 8 tháng 12 năm 1846 đang khi đuổi theo một tàu vượt phong tỏa. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên "Clemson".
Thiết kế và chế tạo.
"Clemson" được đặt lườn vào ngày 11 tháng 5 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng Newport News Shipbuilding & Dry Dock Company ở Newport News, Virginia. Nó được hạ thủy vào ngày 5 tháng 9 năm 1918, được đỡ đầu bởi cô M. C. Daniels; và đưa ra hoạt động vào ngày 29 tháng 12 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân G. C. Dichman.
Lịch sử hoạt động.
"Clemson" hoạt động dọc theo vùng bờ Đông Hoa Kỳ và tại vùng biển Cuba cho đến khi được đặt trong tình trạng dự bị với 50% biên chế tại Xưởng hải quân Norfolk từ ngày 13 tháng 6 năm 1920. Nó neo đậu tại đây, và sau đó tại Charleston, South Carolina và Xưởng hải quân Philadelphia cho đến khi được cho xuất biên chế vào ngày 30 tháng 6 năm 1922.
Được xếp lại lớp với ký hiệu lườn AVP-17 vào ngày 15 tháng 11 năm 1939 và được cải biến thành một tàu tiếp liệu thủy phi cơ nhỏ, "Clemson" được cho nhập biên chế trở lại vào ngày 12 tháng 7 năm 1940. Đến ngày 6 tháng 8, nó lại được xếp lại lớp thành AVD-4, và vào ngày 18 tháng 8 đã trình diện để phục vụ cùng Tư lệnh Không lực của Lực lượng Tuần tiễu Hạm đội Đại Tây Dương đặt căn cứ tại Norfolk, Virginia. Từ ngày 29 tháng 8 năm 1940 đến ngày 28 tháng 11 năm 1941, nó tiếp liệu cho máy bay tuần tra tại vùng biển Caribe và tại quần đảo Galapagos, rồi đi về phía Nam, đến Recife, Brasil vào ngày 6 tháng 12. Nó tiếp tục ở lại ngoài khơi bờ biển Brazil cho đến ngày 22 tháng 1 năm 1942 khi nó quay trở lại Galapagos. Trong một năm tiếp theo, chiếc tàu tiếp liệu đi lại giữa nơi đây và khu vực Caribe theo yêu cầu. Nó quay trở về Norfolk vào ngày 2 tháng 3 năm 1943, rồi di chuyển đến Charleston để được cải biến trở lại thành một tàu khu trục (cho dù chỉ được xếp lại lớp thành DD-186 vào ngày 1 tháng 12 năm 1943).
Vào ngày 30 tháng 5 năm 1943, nó tham gia một đơn vị tìm-diệt tiên phong của Hoa Kỳ được xây dựng chung quanh chiếc tàu sân bay hộ tống . "Clemson" đã thực hiện tám chuyến tuần tra cùng đội này, vốn đã đánh chìm tổng cộng tám tàu ngầm U-boat Đức, góp một phần lớn vào chiến thắng của Trận Đại Tây Dương. Nó chia sẻ chiến công đánh chìm tàu ngầm "U-172" vào ngày 13 tháng 12, ở tọa độ . Sau khi được đại tu tại New York vào đầu năm 1944, nó hộ tống một đoàn tàu vận tải đi và quay về từ ngày 25 tháng 1 đến ngày 9 tháng 3. "Clemson" chia sẻ danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống tặng cho Đội hộ tống của "Bogue".
Một lần nữa, "Clemson" lại được cải biến, lần này thành một tàu vận chuyển cao tốc tại Xưởng hải quân Charleston và xếp lại lớp thành APD-31 vào ngày 7 tháng 3 năm 1944. Rời Charleston ngày 1 tháng 5 năm 1944, nó đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 24 tháng 5 và đón lên tàu Đội Phá hoại dưới nước 6 (UDT 6). Nó lên đường đi về phía Tây để hoạt động như tàu mẹ của đội UDT trong việc chuẩn bị bãi đổ bộ ngay trước các cuộc chiếm đóng Saipan, Guam, Peleliu, Leyte và Luzon. Trong khi đi vào vịnh Lingayen vào ngày 5 tháng 1 năm 1945, nó đánh trả một đợt không kích của quân Nhật, rồi hộ tống các đoàn tàu vận tải đi Ulithi, Saipan và Okinawa trước khi quay trở về San Pedro, California vào ngày 6 tháng 7. Được xếp lại lớp với ký hiệu lườn DD-186 vào ngày 17 tháng 7, nó vẫn đang trong quá trình cải biến khi Thế Chiến II kết thúc. Nó được cho ngừng hoạt động vào ngày 12 tháng 10 năm 1945 và bị bán để tháo dỡ vào ngày 21 tháng 11 năm 1946. Chiếc chuông của con tàu đang được sở hữu riêng tại Clemson, South Carolina.
Phần thưởng.
"Clemson" được tặng thưởng chín Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. | 1 | null |
USS "Dahlgren" (DD-187/AG-91) là một tàu khu trục lớp "Clemson" được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất và tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai. Nó được đặt tên theo Chuẩn đô đốc John A. Dahlgren (1809–1870), và là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ mang cái tên này.
Thiết kế và chế tạo.
"Dahlgren" được đặt lườn vào ngày 8 tháng 6 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng Newport News Shipbuilding & Dry Dock Company ở Newport News, Virginia. Nó được hạ thủy vào ngày 20 tháng 11 năm 1918, được đỡ đầu bởi bà J. Pierce, con gái Chuẩn đô đốc Dahlgren; và đưa ra hoạt động vào ngày 6 tháng 1 năm 1920 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân L. Sahm.
Lịch sử hoạt động.
"Dahlgren" gia nhập Hạm đội Đại Tây Dương để thực tập và huấn luyện dọc theo vùng bờ Đông Hoa Kỳ, vùng biển México, ngoài khơi vịnh Guantánamo và tại vùng kênh đào Panama. Nó tham gia cuộc Duyệt binh Hạm đội Tổng thống tại Norfolk, Virginia vào tháng 4 năm 1921, cùng các thử nghiệm ném bom nhắm vào các con tàu cũ nguyên của Đế quốc Đức ngoài khơi bờ biển Virginia vào mùa Hè năm đó. Đến ngày 30 tháng 6 năm 1922, nó được cho xuất biên chế tại Philadelphia, Pennsylvania và được đưa về lực lượng dự bị.
Được cho nhập biên chế trở lại vào ngày 25 tháng 10 năm 1932, "Dahlgren" khởi hành từ Norfolk vào ngày 7 tháng 11 để đi San Diego, California, đến nơi vào ngày 30 tháng 11. Nó hoạt động dọc theo vùng bờ Tây Hoa Kỳ cho đến tháng 4 năm 1934, khi các cuộc tập trận hạm đội đưa nó trở lại khu vực Đại Tây Dương. Đến tháng 1 năm 1935, nó quay trở lại San Diego. Sau các hoạt động thường lệ dọc theo bờ Tây, nó lại lên đường đi sang phía Đông vào 1 tháng 7 năm 1937, đã tham gia cứu vớt đội bay của một thủy phi cơ thuộc lực lượng Tuần duyên trên đường đi, và đến New York vào ngày 21 tháng 7 năm 1937. Nó phục vụ trong các cuộc thử nghiệm kỹ thuật cho đến ngày 14 tháng 6 năm 1940.
"Dahlgren" hoạt động từ Norfolk và Newport, Rhode Island trong các nhiệm vụ tuần tra và hộ tống tàu ngầm trong huấn luyện; rồi từ tháng 1, đến ngày 1 tháng 4 năm 1941 đã hoạt động tại sông Patuxent, Maryland cho các thử nghiệm đạn dược và phát hiện tàu ngầm. Trong suốt mùa Hè năm 1941 nó thử nghiệm một kiểu chân vịt có thể thay đổi bước, rồi hộ tống một tàu tuần dương mới trong chuyến đi chạy thử máy. Vào ngày 4 tháng 1 năm 1942, "Dahlgren" đi đến Key West, nơi nó hộ tống thiết giáp hạm cho các hoạt động trong vịnh Mexico. Nó quay trở về New York vào ngày 8 tháng 2 cho một lượt tuần tra duyên hải ngắn, và vào ngày 24 tháng 3 lại đi Key West để phục vụ cùng Trường sonar hạm đội và hoạt động tuần tra. Trong thời gian này, nó đã cứu vớt 57 người sống sót của chiếc vào ngày 15 tháng 7 năm 1942 cùng chín người khác của chiếc "K-74" vào ngày 19 tháng 7 năm 1943.
Vào ngày 11 tháng 1 năm 1945, "Dahlgren" đi đến Charleston, South Carolina để hoạt động huấn luyện tàu ngầm cho đến ngày 1 tháng 3, khi nó được tái xếp lớp với ký hiệu lườn AG-91 và phục vụ cùng Trạm Thử nghiệm Chiến tranh Thủy lôi tại đảo Solomons, Maryland cho đến ngày 16 tháng 11 năm 1945, khi nó quay về neo đậu tại Xưởng hải quân Philadelphia. Tại đây nó được cho xuất biên chế vào ngày 14 tháng 12 năm 1945 và bị bán để tháo dỡ vào ngày 17 tháng 6 năm 1946. | 1 | null |
School 2013 () là bộ phim truyền hình Hàn Quốc năm 2012 với sự có mặt của diễn viên Jang Nara, Choi Daniel, Lee Jong-suk và Park Se-young. Bộ phim thanh thiếu niên mô tả các cuộc đấu tranh và những tình huống khó xử của các thanh niên Hàn Quốc thời nay, chẳng hạn như bị bắt nạt, sinh viên tự tử, bạo lực học đường, làm cho mối quan hệ thầy-trò ngày càng tệ đi, vấn đề gia sư và một số vấn đề thực tế khác ở trường học, tất cả đã được thu nhỏ trong lớp học của trường trung học Seung Ri.
Đây là phần 5 của bộ phim "School" của KBS từ năm 1999. Bộ phim được phát sóng trên KBS2 từ 3 tháng 12 năm 2012 đến 28 tháng 1 năm 2013 vào Thứ hai và thứ ba lúc 21:55 cho 16 tập.
Ratings.
Trong bảng dưới đây, thể hiện đạt tỉ lệ xem thấp nhất còn thể hiện đạt tỉ lệ xem cao nhất.
Phát sóng quốc tế.
School 2013 được phát sóng tại Nhật Bản trên kênh truyền hình cáp KNTV từ 3 tháng 12 năm 2012 tới 28 tháng 1 năm 2013.
Được phát sóng tại Thái Lan trên kênh Workpoint TV bắt đầu từ ngày 6 tháng 7 năm 2015. | 1 | null |
Opisthorchis viverrini, tên thông thường Sán lá gan Đông Nam Á, là một loài sán lá ký sinh trùng từ họ Opisthorchiidae tấn công vào khu vực ống dẫn mật. Lây nhiễm xảy ra khi ăn cá sống hoặc nấu chưa chín. Nó gây ra bệnh opisthorchiasis (còn gọi là clonorchiasis). Niễm trùng "Opisthorchis viverrini" cũng dẫn đến ung thư đường mật, một bệnh ung thư túi mật và/hoặc ống dẫn của nó.
"Opisthorchis viverrini" (cùng với Clonorchis sinensis và Opisthorchis felineus) là một trong ba loài quan trọng nhất trong họ Opisthorchiidae. Trong thực tế "O. viverrini" và "C. sinensis" có khả năng gây ung thư ở người, và được phân loại theo Cơ quan Nghiên cứu Quốc tế về Ung thư là một nhóm sinh học gây ung thư vào năm 2009. "O. viverrini" là loài đặc hữu trên khắp Thái Lan, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Việt Nam và Campuchia. Trong miền Bắc Thái Lan, nó được phân bố rộng rãi, với tỷ lệ cao ở người, trong khi ở miền Trung Thái Lan có tỷ lệ thấp về tỷ lệ nhiễmΊ. Bệnh opisthorchiasis (do Opisthorchis viverrini) không xảy ra ở miền nam Thái Lan.
Mô tả.
Tinh hoàn của con trưởng thành có dạng thuỳ so của tinh hoàn hình cây của Clonorchis sinensis.
Trứng của Opisthorchis viverrini có kích thước là 30 × 12 mm và hẹp hơn một chút và có hình trứng hơn của Clonorchis sinensis. Ấu trùng của Opisthorchis viverrini màu nâu, hình elip với hai giác hút kích thước ngang nhau: giác hút miệng và giác hát bụng. Chúng có kích thước 0.19–0.25 × 0.15–0.22 mm. | 1 | null |
USS "Goldsborough" (DD-188/AVP-18/AVD-5/APD-32) là một tàu khu trục lớp "Clemson" được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất và tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Chuẩn đô đốc Louis M. Goldsborough (1805-1877).
Thiết kế và chế tạo.
"Goldsborough" được đặt lườn vào ngày 8 tháng 6 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng Newport News Shipbuilding & Dry Dock Company ở Newport News, Virginia. Nó được hạ thủy vào ngày 20 tháng 11 năm 1918, được đỡ đầu bởi cô Lucetta Pennington Goldsborough, con gái Chuẩn đô đốc Goldsborough; và đưa ra hoạt động tại Norfolk, Virginia vào ngày 26 tháng 1 năm 1920 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân Francis M. Robinson.
Lịch sử hoạt động.
"Goldsborough" gia nhập Đội khu trục 25 thuộc Hải đội 3, Hạm đội Đại Tây Dương, và khởi hành từ Norfolk, Virginia vào ngày 25 tháng 2 năm 1920 để huấn luyện ngoài khơi vịnh Guatánamo, Cuba. Nó quay trở về New York vào ngày 1 tháng 5 cho các cuộc cơ động và thực hành chiến thuật ngoài khơi bờ biển New England. Nó khởi hành từ Hampton Roads vào ngày 1 tháng 9 cho một chuyến đi thực hành trong vịnh Mexico; quay trở về Norfolk vào ngày 10 tháng 10 để hoạt động dọc theo bờ biển New York cho đến ngày 5 tháng 1 năm 1921, khi nó lên đường gia nhập Hạm đội Chiến trận kết hợp ngoài khơi Cuba. Sau đó nó băng qua kênh đào Panama để đi Callao, Peru, và quay trở lại vịnh Guatánamo cho các cuộc thực hành chiến trận khác trước khi quay về Norfolk vào ngày 27 tháng 4. "Goldsborough" đi vào Xưởng hải quân Philadelphia ngày 28 tháng 4 năm 1922, và được cho xuất biên chế tại đây vào ngày 14 tháng 7 năm 1922.
"Goldsborough" được xếp lại lớp với ký hiệu lườn mới AVP-18 vào ngày 15 tháng 11 năm 1939. Nó được cải biến thành một tàu tiếp liệu thủy phi cơ nhỏ tại Xưởng hải quân New York; được cho nhập biên chế trở lại vào ngày 1 tháng 7 năm 1940, rồi lại được xếp lại lớp thành AVD-5 vào ngày 2 tháng 8 năm 1940. Nó rời New York vào ngày 12 tháng 8 năm 1940 làm nhiệm vụ tiếp tế cho thủy phi cơ đang thực hiện Tuần tra Trung lập tại các vùng biển trải rộng từ Puerto Rico, Cuba, và quần đảo Virgin cho đến Trinidad, Tây Ấn thuộc Anh. Nó quay trở về Norfolk vào ngày 23 tháng 1 năm 1941 để sửa chữa, rồi thực hiện một chuyến đi khứ hồi đến bờ biển México từ ngày 3 tháng 3 đến ngày 3 tháng 4. Sau đó nó phục vụ cùng Lực lượng Hỗ trợ Tuần tra của Hải đội Tuần tra, Hạm đội Đại Tây Dương tại Argentia, Newfoundland và Reykjavík, Iceland cũng như tại vịnh Gungnat, Greenland. Nó từ Greenland quay trở về Norfolk vào ngày 13 tháng 10 để sửa chữa, rồi tiếp tục đi đến vịnh Seamour thuộc quần đảo Galapagos, đến nơi vào ngày 23 tháng 12. Tại đây, nó tiếp tế cho các thủy phi cơ thuộc Liên đội Tuần tiễu 3, đôi khi đi dọc theo bờ biển Nam Mỹ đến tận Valparaíso, Chile, và thỉnh thoảng phục vụ như tàu mô phỏng mục tiêu trong vịnh Panama.
"Goldsborough" đi qua kênh đào Panama vào ngày 17 tháng 6 năm 1942, và đi vào vịnh Trujillo, Honduras ngày 21 tháng 6, với Tư lệnh Hải đội Tuần tra 3 trên tàu để chỉ đạo hoạt động tuần tra đặc biệt phối hợp với các đơn vị hải quân khác nhằm phát hiện căn cứ tàu ngầm của phe Trục. Sau khi bị máy bay tuần tra phát hiện, một đội đổ bộ đã lên chiếc tàu buôn Honduras "Laguna" vào ngày 25 tháng 6, và chiếc tàu buôn Honduras "Racer" vào ngày hôm sau; cả hai được giao lại cho giới chức thẩm quyền Anh tại Belize. Vào ngày 3 tháng 7, nó rời Puerta Castilla để đi Portland Bight, Jamaica, nơi nó tiếp tế cho máy bay đang làm nhiệm vụ tuần tra đặc biệt nhằm bảo vệ các đoàn tàu đi lại giữa Cuba và kênh đào Panama. Nó từ Jamaica quay trở về Xưởng hải quân Charleston vào ngày 2 tháng 10 để sửa chữa, rồi sau đó thực hành tác xạ trong vịnh Chesapeake.
"Goldsborough" rời Norfolk vào ngày 30 tháng 10 năm 1942 để hộ tống chiếc tàu tiếp liệu thủy phi cơ đi đến Panama, rồi lại hộ tống một tàu tiếp liệu thủy phi cơ khác, chiếc , đi đến các căn cứ tuần tra San Juan, Puerto Rico; Trinidad, Tây Ấn; và Bermuda, Florida. Nó quay trở về Norfolk vào ngày 30 tháng 11 năm 1942 và trải qua năm tiếp theo như là tàu hộ tống cho chiếc "Albemarle" vận chuyển nhân sự, thiết bị kỹ thuật hàng không và máy bay của Không lực Hải quân thuộc Hạm đội Đại Tây Dương đến vịnh Guatánamo, Cuba; Trinidad; Bermuda; San Juan; và Recife, Brazil. Nó quay trở về Norfolk sau khi hoàn tất nhiệm vụ sau cùng vào ngày 5 tháng 9 năm 1943. Sau khi tuần tra cùng với đội đặc nhiệm chống tàu ngầm hình thành chung quanh tàu sân bay hộ tống từ ngày 5 tháng 10 đến ngày 15 tháng 11 năm 1943, "Goldsborough" được xếp lớp trở lại như một tàu khu trục với ký hiệu lườn DD-188 vào ngày 1 tháng 12 năm 1943.
Vào ngày 4 tháng 12 năm 1943, "Goldsborough" lên đường cùng với Đội đặc nhiệm "Core". Gần nữa đêm ngày 2 tháng 1 năm 1944, nó trông thấy một tàu ngầm U-boat Đức, và đã tiếp cận bất chấp biển động để tìm cách húc đối phương. Nó suýt đâm trúng đuôi chiếc tàu ngầm khi đối thủ lặn xuống, và sau hai đợt tấn công bằng mìn sâu, nó mất tín hiệu đối phương. Sau đó nó tiếp tục hộ tống "Core" đi đến Norfolk vào ngày 18 tháng 1, và tiếp tục đi đến Xưởng hải quân New York để sửa chữa. Sau đó nó hộ tống tàu chở dầu đi Trinidad, quay trở về Norfolk như là tàu hộ tống cho chiếc , rồi đi vào Xưởng hải quân Charleston ngày 21 tháng 2 năm 1944 để cải biến thành một tàu vận chuyển cao tốc, và được xếp lại lớp với ký hiệu lườn mới APD-32 vào ngày 7 tháng 3 năm 1944.
"Goldsborough" rời Charleston vào ngày 10 tháng 4 để đi sang khu vực Thái Bình Dương, hướng đến Trân Châu Cảng ngang qua kênh đào Panama và San Diego, California, đến nơi vào ngày 9 tháng 5, và bắt đầu các hoạt động huấn luyện tấn công đổ bộ tại Hanalei và vịnh Kawaihae. Nó lên đường vào ngày 29 tháng 5 để tham gia một lực lượng vận tải, đi ngang qua Ulithi để đi đến các bãi đổ bộ của Saipan vào ngày 15 tháng 6 năm 1944. Một quả bom ném từ máy bay đã phát nổ cách con tàu bên mạn phải đang khi nó chống trả đợt tấn công của các máy bay ném bom bổ nhào Nhật Bản. Ngày hôm sau, nó cho đổ bộ Đại đội 2 thuộc Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 2 Thủy quân Lục chiến về phía Nam Charon Kanoa. Trong năm tuần lễ tiếp theo, nó hộ tống các đoàn tàu vận chuyển tiếp liệu và binh lính giữa quần đảo Marshall và Saipan, xen kẻ với bắn pháo hỗ trợ trực tiếp cho lực lượng trên đảo trong các đêm 29 tháng 6 và 7 tháng 7. Nó rời Saipan ngày 28 tháng 7 để tham gia huấn luyện cùng Đội Phá hoại Dưới nước (UDT) 4 tại vùng biển Hawaii, rồi tham gia một đội đặc nhiệm phá hoại bãi đổ bộ khởi hành từ Manus, Admiralty vào ngày 12 tháng 10, làm nhiệm vụ phá hoại các công trình và căn cứ đối phương tại vùng phụ cận các bãi đổ bộ sắp đến ở phía Đông Leyte cũng như các đảo tiếp cận vịnh Leyte.
Xế trưa ngày 18 tháng 10 năm 1944, "Goldsborough" nả pháo vào các vị trí ẩn náu của đối phương tại Dulag, Leyte bảo vệ cho các đội UDT hoạt động gần bờ. Hai quả đạn pháo 75 mm đã suýt trúng chiếc tàu vận chuyển cao tốc, và một quả thứ ba đã bắn trúng ống khói số 1, làm thiệt mạng 2 người và làm bị thương 16 người khác. Nó đã hộ tống các thiết giáp hạm và tàu tuần dương, tiến hành một cuộc bắn phá không ngừng nghỉ suốt đêm 19 tháng 10, và hỗ trợ binh lính tung ra đợt tấn công vào sáng ngày 20 tháng 10. Nó khởi hành vào ngày hôm sau để đón binh lính lên tàu tại Noemfoor thuộc quần đảo Schouten, và cho đổ bộ họ lên bãi biển tại Tolasa, Leyte vào ngày 18 tháng 11. Nó lại đi đến ngoài khơi Noemfoor vào ngày 19 tháng 12 để vận chuyển binh lính đến Mios Woendi thuộc quần đảo Padiado, rồi đi ngang qua Morotai cùng sáu tàu buôn để đến vịnh Leyte vào ngày 6 tháng 1 năm 1945. Nhiệm vụ tiếp theo của nó là tuần tra lối ra vào vịnh Lingayen. Nó gửi một đội y tế đến chiếc tàu khu trục hộ tống bị hư hại vào ngày 12 tháng 1, cứu vớt hai người, đồng thời bẻ hết bánh lái sang trái để né tránh trong lúc đang khai hỏa vào một máy bay tấn công cảm tử kamikaze vốn suýt đâm trúng đuôi của "Seusens" trước khi rơi xuống biển. Nó tiếp tục tuần tra trong vịnh Lingayen và ngoài khơi San Fabian cho đến ngày 18 tháng 1.
Sau khi được sửa chữa tại Ulithi, "Goldsborough" cho đổ bộ binh lính lên Iwo Jima từ ngày 3 đến ngày 6 tháng 3, rồi đi ngang qua quần đảo Mariana để đến cảng Tulagi thuộc quần đảo Solomon và quay trở lại Ulithi, nơi nó gia nhập các tàu vận tải hướng đến Okinawa. Nó đi đến ngoài khơi Okinawa vào ngày 11 tháng 4, đánh trả các đợt không kích của đối phương gần bãi biển Hagushi vào ngày hôm sau, và cứu vớt một phi công tiêm kích Hải quân do máy bay bị hư hại trong không chiến. Nó rời Okinawa vào ngày 14 tháng 4, đi đến Guam để sửa chữa, rồi quay trở lại vào ngày 15 tháng 5 năm 1945 để tuần tra ngoài khơi bãi biển Hagushi cho đến ngày 31 tháng 5. Sau đó nó lên đường, đi ngang qua Mariana, Marshall và Trân Châu Cảng để đến San Pedro, California, đến nơi vào ngày 1 tháng 7 năm 1945. Được xếp lớp trở lại một lần nữa như một tàu khu trục với ký hiệu lườn DD-188 vào ngày 10 tháng 7, nó ngừng hoạt động tại San Pedro vào ngày 11 tháng 10 năm 1945. Tên nó được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 24 tháng 10 năm 1945; và lườn tàu được bán cho hãng Hugo Nuef Corporation tại New York, New York vào ngày 21 tháng 11 năm 1946 để tháo dỡ.
Phần thưởng.
"Goldsborough" được tặng thưởng năm Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. | 1 | null |
USS "Semmes" (DD-189/AG-24) là một tàu khu trục lớp "Clemson" được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó từng được chuyển cho lực lượng Tuần duyên Hoa Kỳ dưới tên gọi USCGD "Semmes" (CG-20) vào năm 1932, được hoàn trả cho Hải quân vào năm 1934 và tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Chuẩn đô đốc/Thiếu tướng Raphael Semmes (1809–1877).
Thiết kế và chế tạo.
"Semmes" được đặt lườn vào ngày 10 tháng 6 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng Newport News Shipbuilding & Dry Dock Company ở Newport News, Virginia. Nó được hạ thủy vào ngày 21 tháng 12 năm 1918, được đỡ đầu bởi bà John H. Watkins, cháu Chuẩn đô đốc Raphael Semmes; và đưa ra hoạt động vào ngày 21 tháng 2 năm 1920 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân H.H. Norton.
Lịch sử hoạt động.
Vài tháng sau khi hoàn tất chạy thử máy, từ ngày 6 đến ngày 9 tháng 10, "Semmes" là con tàu đầu tiên được dẫn đường bằng Cáp hoa tiêu kênh Ambrose. Nó tham gia các cuộc thực tập dọc theo bờ biển Đông Bắc cho đến tháng 1 năm 1921, khi nó lên đường đi về phía Nam cho đợt cơ động hạm đội mùa Đông tại vùng biển Caribe. Từ đây, nó băng qua kênh đào Panama để đi dọc theo bờ phía Tây của Nam Mỹ và quay trở lại vùng Caribe vào cuối tháng 2 để thực hành ngoài khơi vịnh Guatánamo, Cuba. Đến cuối tháng 4, nó chuyển sang hoạt động từ Norfolk, Virginia. Chiếc tàu khu trục được lệnh đi đến Xưởng hải quân Philadelphia vào ngày 12 tháng 4 năm 1922, nơi nó được cho xuất biên chế vào ngày 17 tháng 7 năm 1922.
Được cho hoạt động trở lại mười năm sau đó, "Semmes" được chuyển cho lực lượng Tuần duyên Hoa Kỳ để phục vụ trong việc tuần tra chống buôn lậu rượu. Được nhập biên chế cho hoạt động này như là chiếc USCGD "Semmes" (CG-20) vào ngày 25 tháng 4 năm 1932, nó được tân trang tại Boston, Massachusetts rồi đặt căn cứ tại New London, Connecticut nơi nó bắt đầu hoạt động từ ngày 25 tháng 9, cho đến khi được biệt phái sang hoạt động cùng Hải quân trong hai tháng vào ngày 7 tháng 9 năm 1933. Đến ngày 10 tháng 11, nó quay trở lại New London tiếp nối các hoạt động tuần duyên. Nó được hoàn trả cho Hải quân vào ngày 20 tháng 4 năm 1934 và được nhập biên chế như một tàu thử nghiệm nhằm tuân thủ việc giới hạn chạy đua vũ trang hải quân do Hiệp ước Hải quân London quy định.
Cho dù chỉ được chính thức xếp lại lớp như một tàu phụ trợ với ký hiệu lườn AG-24 vào ngày 1 tháng 7 năm 1935, "Semmes" được phân về Đội thử nghiệm 1, và cùng các tàu ngầm được phối thuộc thử nghiệm đánh giá các thiết bị dò âm dưới nước cho đến đầu những năm 1940. Vào tháng 5 năm 1939 nó tham gia các nỗ lực cứu hộ chiếc tàu ngầm . Sau khi Hoa Kỳ chính thức tham gia Chiến tranh Thế giới thứ hai, nó được bổ sung thêm nhiệm vụ huấn luyện tại Trường hải âm Key West cũng như hộ tống và tuần tra chống tàu ngầm.
Tại Key West từ ngày 16 tháng 3 đến ngày 16 tháng 4 năm 1942, "Semmes" thực hiện công việc tuần tra và hộ tống ngoài khơi khu vực giữa Đại Tây Dương. Sáng ngày 6 tháng 5, đang khi tuần tra ngoài khơi mũi Lookout, North Carolina, nó va chạm với chiếc tàu đánh cá vũ trang Anh "Senateur Duhamel" khiến chiếc tàu Anh bị đắm. Sau khi cứu giúp những người sống sót, nó đi vào Morehead, North Carolina để sửa chữa tạm thời. Việc sửa chữa triệt để được hoàn tất tại Norfolk vào ngày 3 tháng 6, và "Semmes" tiếp nối hoạt động thử nghiệm đánh giá, tuần tra và hộ tống cho đến khi chiến tranh kết thúc tại Châu Âu. Nó quay trở lại vai trò ban đầu trong việc thử nghiệm thiết bị mới, tiến hành các trắc nghiệm cho Phòng thí nghiệm Thủy âm tại New Lonodon như một đơn vị của đội chống tàu ngầm thuộc Lực lượng Phát triển Chiến thuật. Các hoạt động khác bao gồm cung ứng việc huấn luyện cho Trường Tàu ngầm và Trường Sonar Hạm đội.
Đến ngày 21 tháng 5 năm 1946, "Semmes" đi vào Xưởng hải quân Philadelphia để được cho ngừng hoạt động. Xuất biên chế vào ngày 2 tháng 6 năm 1946, tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 3 tháng 7 năm 1946, và lườn tàu được bán cho hãng Northern Metals Corporation ở Philadelphia, Pennsylvania vào ngày 25 tháng 11 năm 1946 để tháo dỡ. Công việc được thực hiện trong năm tiếp theo.
Phần thưởng.
"Semmes" được tặng thưởng năm Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. | 1 | null |
USS "Satterlee" (DD-190) là một tàu khu trục lớp "Clemson" được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc như là chiếc HMS "Belmont" cho đến khi bị tàu ngầm U-boat "U-82" đánh chìm vào năm 1942. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Đại tá Hải quân Charles Satterlee (1875-1918) thuộc lực lượng Tuần duyên Hoa Kỳ.
Thiết kế và chế tạo.
"Satterlee" được đặt lườn vào ngày 10 tháng 7 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng Newport News Shipbuilding & Dry Dock Company ở Newport News, Virginia. Nó được hạ thủy vào ngày 21 tháng 12 năm 1918, được đỡ đầu bởi cô Rebecca E. Satterlee, cháu gái Đại tá Satterlee; và được đưa ra hoạt động vào ngày 23 tháng 12 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân Reed M. Fawell.
Lịch sử hoạt động.
USS "Satterlee".
"Satterlee" gia nhập chi hạm đội khu trục của nó tại Manzanillo, Cuba vào ngày 27 tháng 1 năm 1920 và tiến hành hoạt động huấn luyện tại vùng biển Caribe cho đến ngày 26 tháng 4. Sau một đợt sửa chữa, nó gia nhập trở lại chi hạm đội tại Newport, Rhode Island vào ngày 11 tháng 6. Nó đã có mặt trong cuộc đua thuyền buồm America's Cup ngoài khơi New York từ ngày 9 đến ngày 26 tháng 7, rồi viếng thăm Miami từ ngày 2 đến ngày 28 tháng 8 trước khi quay lại hoạt động huấn luyện ngoài khơi Newport. Con tàu gia nhập Hạm đội Đại Tây Dương tại vịnh Guantánamo, Cuba vào ngày 10 tháng 1 năm 1921 để tham gia cuộc cơ động hạm đội cho đến ngày 24 tháng 4. Nó tiếp tục các hoạt động huấn luyện thường lệ dọc theo bờ biển Đại Tây Dương cho đến khi được cho xuất biên chế vào ngày 11 tháng 7 năm 1922 và được đưa về lực lượng dự bị tại Philadelphia, Pennsylvania.
Khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra tại cả Châu Âu lẫn Viễn Đông, "Satterlee" được cho nhập biên chế trở lại tại Philadelphia vào ngày 18 tháng 12 năm 1939 dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Hải quân H. R. Demarest, và được phân công nhiệm vụ Tuần tra Trung lập. Nó đi đến vùng biển Caribe ngày 2 tháng 2 năm 1940 để hoạt động tuần tra và huấn luyện. Con tàu rời vùng Caribe ngày 15 tháng 4 để trải qua đợt đại tu tại Norfolk, Virginia từ ngày 19 tháng 4 đến ngày 5 tháng 7, rồi hoạt động dọc theo vùng bờ Đông Hoa Kỳ cho đến khi được cho xuất biên chế vào ngày 8 tháng 10. Chiếc tàu khu trục được chuyển cho Anh Quốc cùng ngày hôm đó và nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia Anh như là chiếc HMS "Belmont", một trong số 50 tàu khu trục cũ trao đổi lấy quyền thuê lại các căn cứ chiến lược tại các thuộc địa của Anh ở Tây Bán Cầu, theo Thỏa thuận đổi tàu khu trục lấy căn cứ.
HMS "Belmont".
HMS "Belmont" đi đến Belfast, Bắc Ireland vào ngày 24 tháng 10 năm 1940, và gia nhập Đội hộ tống 3 trực thuộc Bộ chỉ huy Tiếp cận phía Tây để thi hành nhiệm vụ hộ tống cho các đoàn tàu vận tải vượt Đại Tây Dương. Nó bị hư hại do va chạm và phải được sửa chữa từ tháng 3 đến tháng 7 năm 1941. Vào ngày 31 tháng 1 năm 1942, đang khi hộ tống Đoàn tàu NA.2 đưa nhân sự không quân Anh và Canada sang Anh Quốc, và dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hải quân G. B. O. Harding, "Belmont" bị đánh trúng một quả ngư lôi phóng từ tàu ngầm U-boat Đức "U-82" dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Rollmann, và bị đắm về phía Nam Newfoundland ở tọa độ với tổn thất nhân mạng toàn bộ 138 thành viên thủy thủ đoàn.
Tên các thành viên thủy thủ đoàn tử trận được ghi tại Đài tưởng niệm Hải quân Portsmouth ở Southsea Common, Southsea, Hampshire, Anh Quốc. | 1 | null |
Sir John Tavener (28 tháng 1 năm 1944, Wembley, Anh –12 tháng 11 năm 2013, Child Okeford, Dorset, Anh) là nhà soạn nhạc người Anh. Ông được coi là một trong những nhà soạn nhạc Anh kiệt xuất trong nửa thế kỷ trở lại đây. Hầu như các sáng tác của ông đều được biểu diễn vào những sự kiện quan trọng. Ví dụ, tác phẩm "Song for Athene" (Bài hát cho Athene) được biểu diễn vào năm 1997 trong đám tang của công nương Diana. Hay năm 1999, tác phẩm "A new beginning" (Một khởi đầu mới) được biểu diễn chào đón thế kỷ XXI tại Nhà mái vòm thiên niên kỷ Millennium Dome ở thủ đô Luân Đôn, Anh. Năm 2010, John Tavener được phong tước hiệp sĩ vì những đóng góp cho nền âm nhạc Anh. Tavener qua đời sau 6 tháng chăm sóc để chữa trị bệnh tim được phát hiện lần đầu vào năm 2007. Ông ra đi tại nhà riêng ở Child Okeford, Dorset, Anh vào hồi 12 giờ 11 phút theo giờ địa phương, hưởng thọ 69 tuổi. | 1 | null |
Đỗ Huy Uyển (chữ Hán: 杜 輝 琬, 1815 - 1882), húy Mâu, tự Viên Khuê và Tân Giang; là quan triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Tiểu sử.
Ông sinh giờ Sửu ngày 7 tháng 11 năm Ất Hợi (1815) tại làng La Ngạn, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Ông là con trai cả của Cử nhân Đỗ Huy Cảnh và là cha của Hoàng giáp Đỗ Huy Liêu.
Thi đỗ, làm quan.
Năm Canh Tý (1840, dưới triều vua Minh Mạng, Đỗ Huy Uyển thi đỗ Cử nhân tại trường thi Nam Định.
Khoa Tân Sửu niên hiệu Thiệu Trị thứ nhất (1841), ông dự thi Hội, đỗ Phó bảng. Theo sách các nhà khoa bảng Việt Nam và truyện Cố Đô, khi vào thi đình, bài thi của ông được 12 điểm, là bài thi cao điểm nhất, đáng đỗ Đình Nguyên, nhưng vì bài kim văn có một câu viết khiếm trang nghĩa là " "Vua phải sửa mình để tạ lỗi với trời"". Các quan trường bẻ lỗi và tâu lên vua, nên bị giáng xuống Phó bảng. Sau khi thi đỗ ông được bổ chức Hàn lâm viện kiểm thảo, kiêm sung "Thiệu Trị Văn quy biên tập".
Năm Tự Đức thứ nhất (1848), sung ông làm Kinh diên rồi bổ đi giữ chức Tri phủ Bình Giang.
Năm Giáp Dần (1854), thăng ông chức Hưng Tuyên Đạo Giám sát ngự sử.
Năm Ất Mão (1855), đổi ông làm Đốc học Vĩnh Long.
Năm Đinh Tỵ (1857), thăng ông làm Lễ bộ Tân Hưng Lang chung, sung nhân sự kiêm giám phúc kiểm.
Năm Kỷ Mùi 1859, nhân việc soạn chiếu dụ được vua Tự Đức khen ngợi ban hàm Thái thường thiếu khanh, Biện lý bộ Hộ sự vụ (nên được người đời gọi là "Biện lý La Ngạn").
Về nghỉ và mất.
Năm Canh Thân (1860), ông bị ốm (đau mắt) nên cáo quan về nghỉ. Về quê, ông chuyên tâm cho việc viết sách và làm nghề dạy học., học trò theo học rất đông và có nhiều người đỗ đạt cao như con trai cả của ông là Đỗ Huy Liêu, đỗ Đình nguyên, Đệ nhị giáp Tiến sỹ xuất thân, Ông Nguyễn Văn Tính ở Cựu Hào, Vụ Bản đỗ Tiến sỹ...
Năm Nhâm Ngọ (1882), Đỗ Huy Uyển mất tại quê nhà, thọ 68 tuổi. Được tin ông mất, rất nhiều học trò đến viếng thầy, một trong những câu đối viếng của một quan nghè đã nói nên sự uyên bác về học vấn và sự tiếc nuối của ông khi bị mất danh hiệu Đình nguyên tại kỳ thi hội: "" Phẫn uất tận bình khôi giáp tử, Văn chương tuyệt diệu lạc tinh rơi"." Hiện ở thành phố Nam Định có phố mang tên Đỗ Huy Uyển và Ở quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng, có con đường mang tên Đỗ Huy Uyển.
Tác phẩm.
Ông là tác giả các sách: | 1 | null |
Giải thưởng giải trí KBS () là sự kiện tổ chức hằng năm và được tài trợ bởi KBS. Lễ trao giải dài khoảng 140 phút và được chia thành hai phần phát sóng trên kênh KBS2. Trong suốt buổi lễ có sự biểu diễn của các nghệ sĩ K-pop và hài nhạc kịch từ các thành viên "Gag Concert". Sự kiện được tổ chức vào cuối năm mỗi năm.
Giải thưởng giải trí KBS lần thứ 8 được tổ chức vào 26 tháng 12 năm 2009 ở Yeouido tại trụ sở chính của KBS, người dẫn chương trình tại buổi lễ hôm đó là Lee Kyung-kyu, Lee Ji-ae, và Yoona (Girls' Generation).
Lễ trao giải KBS Entertainment Awards lần thứ 9 được tổ chức vào 25 tháng 12 năm 2010, người dẫn chương trình tại buổi lễ hôm đó là Shin Dong-yup, Shin Bong-sun, và Lee Ji-ae. Park Jin-young, 2PM, Miss A, và KARA đã biểu diễn tại sự kiện đó.
Giải thưởng giải trí KBS lần thứ 12 được tổ chức vào 31 tháng 12 năm 2013 tại KBS Hall ở Yeouido, có phần trình diễn của EXO.
Lịch sử chiến thắng.
Chương trình người xem bình chọn.
Chương trình người xem bình chọn là cách bình chọn của người xem thông qua SMS.
Giải thưởng xuất sắc hàng đầu.
Giải thưởng xuất sắc được trao cho mỗi cá nhân xuất hiện trong chương trình thực tế hoặc hài hước. Trong những năm gần đây, giải thưởng này đều trao cho mỗi cá nhân MC/danh hài nam và nữ ở mỗi thể loại.
Giải thưởng xuất sắc.
Giải thưởng xuất sắc được trao cho mỗi cá nhân xuất hiện trong chương trình thực tế hoặc hài hước. Trong những năm gần đây, giải thưởng này đều trao cho mỗi cá nhân MC/danh hài nam và nữ ở mỗi thể loại.
Giải nghệ sĩ mới xuất sắc nhất.
Trong những năm gần đây, mỗi tân binh nam và nữ MC/danh hài sẽ được trai giải thưởng cho mỗi giải.
Giải thưởng nghệ sĩ hàng đầu.
Từ 2002 đến 2007, giải thưởng được gọi là "Giải thưởng nghệ sĩ hàng đầu" (). Năm 2008, nó được đổi tên thành "Giải thưởng phổ biến hàng đầu" (). Với tên hiện tại, từ năm 2009, đổi tên thành "Giải thưởng nghệ sĩ hàng đầu" ().
Giải thưởng xuất sắc hàng đầu, ý tưởng.
Trong 11 năm, "Gag Concert" đã giành giải Giải thưởng xuất sắc hàng đầu về ý tưởng. | 1 | null |
Săn cáo là một hoạt động liên quan đến việc theo dấu, truy tầm, đuổi theo, tóm bắt và đôi khi giết chết một con cáo (phổ biến là loài cáo đỏ) bằng những con chó săn cáo được qua đào tạo hoặc sử dụng những con chó đánh hơi khác. Đây là một thú tiêu khiển quý phái của giới quý tộc, hoàng gia, vương giả ở châu Âu và là một môn thể thao tiêu khiển.
Theo truyền thống thì việc săn cáo dành cho nhũng quý tộc với việc một nhóm người không có vũ khí, thường là ngồi trên lưng ngựa dẫn theo một bầy chó săn rầm rộ tiến đến những khu vực có cáo sinh sống để tổ chức săn bắn. Những con ngựa được cưỡi bởi các thợ săn là đặc điểm nổi bật của nhiều cuộc săn lùng, mặc dù những người khác sẽ săn bắn bằng hình thức đi bộ, thường là những tùy tòng hoặc những người hầu cận làm nhiệm vụ hậu cần.
Lịch sử.
Khởi thủy.
Việc sử dụng Chó săn đánh hơi để theo dõi con cáo bắt đầu ở Assyria, Babylon, và thời Ai Cập cổ đại. Nhiều quốc gia như Hy Lạp và La Mã chịu ảnh hưởng và có truyền thống lâu đời của săn bắn với chó săn. Săn bắn với chó săn đã được phổ biến trong thời Celtic Anh, ngay cả trước khi người La Mã đến, và đưa vào đây hai giống chó săn là Castorian và Fulpine để săn bắt. Việc săn bắn truyền thống đã được đưa đến Anh khi William Kẻ chinh phục đến, cùng với Gascon và chó săn Talbot. Săn cáo thường là phục vụ cho nhiều nghi lễ xã hội.
Săn cáo có nguồn gốc ở Vương quốc Anh trong thế kỷ 16, nhưng được phổ biến trên toàn thế giới bao gồm Úc, Canada, Pháp, Ireland, Ý và Hoa Kỳ. Ở Úc, thuật ngữ này cũng đề cập đến việc săn bắn cáo với vũ khí tương tự như săn hươu. Ở nhiều nước trên thế giới săn bắn nói chung được hiểu là liên quan đến bất kỳ trò chơi giết chóc đông vật nào có liên quan đến vũ khí (ví dụ như săn hươu với cây cung và mũi tên, săn lợn rừng và săn hổ).
Săn bắn cáo đã được thực hiện từ những năm 1500. Cáo được coi là nỗi ám ảnh của một số nông dân lo sợ mình có thể bị mất những vật nuôi có giá trị, trong khi những người khác cho rằng nó có tác dụng trong việc kiểm soát thỏ, chuột đồng và các loài gặm nhấm khác. Một lý do quan trọng cho việc không ưa thích những con cáo của nông dân là xu hướng của chúng khi giết chết những động vật như gà, nhưng chỉ ăn một phần của con gà, phần còn lại nó sẽ bỏ lại, con cáo sẽ bỏ lại tất cả các con gà nó giết chết và che giấu chúng ở một nơi kín đáo hơn.
Cáo là con thú của những cuộc săn đuổi thời Trung cổ, cùng với hươu đỏ nhưng các nỗ lực sớm nhất để săn một con cáo với con chó săn được ở phát hiện ở Norfolk, Anh, trong 1534, nơi nông dân đã bắt đầu theo đuổi cáo với con chó của họ với mục đích kiểm soát dịch hại. Hình thức săn cáo chuyên nghiệp đầu tiên là trong cuối những năm 1600, có lẽ tại Bilsdale ở Yorkshire.
Phát triển.
Đến cuối thế kỷ XVII, săn hươu đã suy giảm. Các hành vi vây hàng rào để tách đất mở vào các khu vực, rừng trữ hươu đã được cắt giảm diện tích và đất canh tác đã được tăng lên. Với sự khởi đầu của cuộc cách mạng công nghiệp, người ta bắt đầu di chuyển ra nước ngoài và vào các thị trấn và thành phố để tìm việc làm. Đường giao thông, đường sắt ngày càng nhiều. Súng ngắn đã được cải thiện trong thế kỷ XIX và súng săn chim trở nên phổ biến hơn. Săn cáo tiếp tục phát triển trong thế kỷ XVIII khi ông Hugo Meynell phát triển giống chó săn và những con ngựa để giải quyết các vấn đề địa hình của nông thôn nước Anh.
Ở Đức, săn bắn với các con chó săn (thường là săn hươu hay săn lợn rừng) lần đầu tiên bị cấm theo đề xuất của Hermann Göring vào ngày 03 Tháng Bảy năm 1934. Năm 1939, lệnh cấm đã được mở rộng bao gồm cả Áo sau khi sáp nhập vào nước Đức. Một gã người Anh Robert Brooke là người đầu tiên nhập khẩu những con chó săn cáo sang Mỹ đến Maryland vào năm 1650 cùng với con ngựa của mình. Cũng khoảng thời gian này, số lượng cáo đỏ châu Âu cáo đã được du nhập vào bờ biển phía Đông của Bắc Mỹ để phục vụ cho việc săn bắn.
Tại Úc, cáo đỏ châu Âu đã được du nhập chỉ nhằm mục đích săn cáo trong năm 1855, vì việc này, quần thể động vật bản địa đã bị ảnh hưởng rất nặng nề, với sự tuyệt chủng của ít nhất 10 loài do sự phát tán của loài cáo. Săn cáo với con chó săn chủ yếu được thực hiện ở phía đông Úc. Ở bang Victoria có mười ba cuộc săn lùng với hơn 1000 thành viên. Săn cáo cho ra kết quả trong khoảng 650 con cáo bị giết hàng năm tại tiểu bang Victoria. Săn cáo là hợp pháp ở Bắc Ireland.
Ở Mỹ, săn bắn cáo là việc thực hành nhiều cuộc săn lùng nhưng không thực sự nhằm mục đích giết được con cáo (vì con cáo đỏ không được coi là một dịch hại đáng kể tại đây). Trong nhiều khu vực của miền đông Hoa Kỳ, sói là kẻ thù tự nhiên của cáo đỏ và cáo xám ngày càng trở nên phổ biến và đe dọa quần thể cáo trong lãnh thổ nhất định.
Gây tranh cãi.
Đây là một cuộc săn đang gây tranh cãi, đặc biệt là ở Anh, nơi mà nó đã bị cấm ở Scotland vào năm 2002, và ở Anh và xứ Wales trong tháng 11 năm 2004 (có hiệu lực pháp lý từ tháng 2 năm 2005), mặc dù vậy những người ủng hộ săn bắn cáo xem nó như là một phần quan trọng của nền văn hóa nông thôn và hữu ích vì lý do kiểm soát dịch hại trong khi phe kia cho rằng nó là độc ác và không cần thiết. Đối thủ của săn bắn cáo cho rằng hoạt động này là không cần thiết để kiểm soát con cáo họ cho rằng con cáo không phải là một loài dịch hại. Họ so sánh số lượng cáo thiệt mạng trong những săn nhiều hơn những hậu quả mà chúng đã gây ra!
Phương thức.
Cáo đỏ (vulpes vulpes) là con mồi phổ biến của những cuộc săn ở Mỹ và châu Âu. Một động vật ăn thịt và ăn tạp cỡ nhỏ, chúng sống trong hang dưới lòng đấtvà chủ yếu là hoạt động vào buổi chiều tà lúc chạng vạng. Chúng có xu hướng dao động xung quanh một khu vực từ 5 đến 15 km² (2-6 dặm vuông) và phạm vi của họ có thể lên tới 20 km vuông (7,7 sq mi). Các con cáo đỏ có thể chạy với tốc độ lên đến 48 km/h (30 mph), cáo đỏ Mỹ có xu hướng lớn hơn so với cáo châu Âu, nhưng nó ít xảo quyệt hơn, sức sống và sức chịu đựng trong cuộc rượt đuổi kém hơn so với cáo châu Âu.
Những con cáo xám (Urocyon cinereoargenteus) một họ hàng xa của con cáo đỏ châu Âu cũng đang bị săn bắn ở Bắc Mỹ nhưng do nó giỏi leo trèo và leo núi nên đã làm cho nó khó khăn hơn để đi săn với chó săn. Mùi của cáo xám là không nồng nặc như cáo đỏ, do đó phải cần thêm thời gian cho những con chó săn để có thể đánh hơi. Không giống như cáo đỏ trong khi đuổi theo nó sẽ chạy xa khỏi đàn, con cáo xám sẽ tăng tốc độ do đó làm cho nó khó khăn hơn để theo đuổi. Cũng không giống như con cáo đỏ, cáo xám hiếm khi bị săn bắn trên lưng ngựa do sở thích của môi trường sống của nó!
Săn cáo thường được thực hiện với một gói con chó săn mùi hương hay còn gọi là chó đánh hơi và trong hầu hết trường hợp chúng được nuôi một cách đặc biệt chỉ để dành cho việc săn cáo. Những con chó được huấn luyện để theo đuổi con cáo dựa trên mùi hương của nó. Hai loại chính của Chó săn cáo Anh và chó săn cáo của Mỹ. Người ta cũng có thể sử dụng một con chó săn đuổi bằng tầm nhìn như Greyhound hay những con chó săn sẽ đuổi theo con cáo mặc dù thực tế điều này là không phổ biến trong tổ chức săn bắn, và những con chó này thường được sử dụng cho việc rượt đuổi những thỏ rừng trong các cuộc săn thỏ. Săn cáo cũng có thể sử dụng chó săn để xới đất ra hoặc giết cáo đang ẩn dưới lòng đất, như vậy những con chó săn này chúng đủ nhỏ để theo đuổi con cáo thông qua các đoạn đất hẹp. Tuy nhiên điều này không phổ biến tại Hoa Kỳ. | 1 | null |
Nhà Palaiologos (, , số nhiều Παλαιολόγοι, ), còn được gọi theo kiểu Latinh là triều Palaeologan hoặc triều Palaeologus, là hoàng tộc Đông La Mã gốc Hy Lạp và là triều đại cầm quyền cuối cùng của Đế quốc Đông La Mã. Sau cuộc Thập tự chinh thứ tư, các thành viên của gia tộc đã trốn sang nước láng giềng là Đế quốc Nicaea, nơi mà Mikhael VIII Palaiologos trở thành đồng hoàng đế vào năm 1259 và tái chiếm Constantinopolis và lên ngôi hoàng đế duy nhất của Đế quốc Đông La Mã vào năm 1261. Hậu duệ của ông đã cai trị đế chế cho đến khi Constantinopolis thất thủ vào tay người Thổ Ottoman vào ngày 29 tháng 5 năm 1453, được coi là triều đại tồn tại lâu nhất trong lịch sử Đông La Mã dù một số vẫn tiếp tục nổi bật trong xã hội Ottoman ít lâu sau đó. Một nhánh của nhà Palaiologos đã trở thành lãnh chúa phong kiến xứ Montferrat ở Ý. Sự thừa kế này cuối cùng được hợp nhất bằng cách kết hôn với gia tộc Gonzaga, người cai trị Công quốc Mantua và là con cháu của nhà Palaiologoi xứ Montferrat. Rồi lại được truyền lại qua dòng dõi Công tước xứ Lorraine về sau trở thành người đứng đầu tổ tiên của Hoàng đế dòng Habsburg-Lorraine của Áo. | 1 | null |
Chủ tịch Quốc hội () là Chủ tịch của Quốc hội lưỡng viện Thái Lan, cũng đồng thời là Nghị trưởng Viện dân biểu Thái Lan.Từ năm 1997 Nghị trưởng Viện dân biểu mặc định nắm giữ chức Chủ tịch Quốc hội (). Do vậy, Chủ tịch Quốc hội luôn là đại biểu của Viện dân biểu, thông thường đều là đảng viên của đảng chiếm đa số trong viện. Chủ tịch Quốc hội được bầu tại phiên họp đầu tiên của Viện dân biểu ngay sau cuộc tổng tuyển cử, không có giới hạn số nhiệm kỳ.
Văn phòng của Chủ tịch Quốc hội được thành lập vào năm 1932, là cơ quan lập pháp đầu tiên của Thái Lan.
Quyền hạn và Chức năng.
Với vai trò Chủ tịch Quốc hội.
Chủ tịch Quốc hội là chủ toạ của Quốc hội tại các phiên họp chung của thượng viện và hạ viện, cũng là đại diện cấp cao và lãnh đạo ngành lập pháp ở Thái Lan. Trong hiến pháp năm 2007 Chủ tịch Quốc hội được ra tăng nhiều quyền hạn. Phó Chủ tịch Quốc hội (thường do Chủ tịch Thượng viện làm) hỗ trợ Chủ tịch Quốc hội
Với vai trò Nghị trưởng Viện dân biểu.
Nghị trưởng Viện dân biểu là người chủ trì của Viện dân biểu. Nghị trưởng cũng được giao một số quyền lập pháp, vì vai trò chính là đảm bảo quá trình lập pháp. Có hai Phó Nghị trưởng hỗ trợ cho Nghị trưởng. Nghị trưởng phải hành động một cách công bằng trên tất cả các vấn đề và do đó không thể là thành viên của bất cứ một đảng phái chính trị nào. | 1 | null |
Thượng viện Thái Lan(, "Wutthisapha"; tên cũ là Phruetthasapha hoặc "พฤฒสภา") là thượng viện của Quốc hội Thái Lan. Theo Hiến pháp năm 2017 của Thái Lan quy định Thượng viện là cơ quan lập pháp không đảng phái, bao gồm 250 thành viên. Tất cả 250 thượng nghị sĩ đều do Quân đội Hoàng gia Thái Lan bổ nhiệm. Thượng nghị sĩ có nhiệm kỳ 5 năm.
Cả Thượng viện và Hạ viện đều bị bãi bỏ sau cuộc đảo chính Thái Lan năm 2014. Các cơ quan nay được thay thế bằng Hội đồng Lập pháp Quốc gia Thái Lan đơn viện, một cơ quan gồm 250 thành viên do Hội đồng Hòa bình và Trật tự Quốc gia Thái Lan chỉ định. Hiến pháp năm 2017 được thông qua sau cuộc trưng cầu dân ý vào năm 2016, quy định Thượng viện gồm 250 thành viên, không được bầu mà được chỉ định bởi một ủy ban đặc biệt, ủy ban này do quân đội chỉ định. Do đó, Thượng viện thường được coi là cơ quan phê chuẩn cho các quyết định đã được phía quân đội đưa ra.
Lịch sử.
Hình thức Lưỡng viện được lựa chọn tại bản Hiến pháp năm 1946, dười thời Thủ tướng Pridi Panomyong. Thượng viện của Thái Lan chính thức ra đời theo hình thức như lưỡng viện nước Anh. Thượng viện được bầu theo hình thức gián tiếp thông qua Hạ viện với nhiệm kỳ 6 năm. Hiến pháp năm 1946 nhanh chóng bị xóa bỏ sau cuộc đảo chính quân sự. Hiến pháp tiếp theo Lưỡng viện chỉ thỉnh thoảng xuất hiện, và khi được tồn tại thì Thượng viện đều do quân đội và nhóm đặc quyền chiếm giữ. Hiến pháp năm 1997 Thượng viện được bầu hoàn toàn trở lại. Sau đó Hiến pháp bị xóa bỏ bởi cuộc đảo chính 2006, và Thượng viện được thông qua hình thức nửa bầu nửa chỉ định.
Tiêu chuẩn.
Tiêu chuẩn của Thượng nghị sĩ được ghi tại điều 108 Hiến pháp năm 2017.
Ứng viên chức danh thượng nghị sĩ được chỉ định phải đủ các tiêu chuẩn sau đây:
Ứng viên chức danh thượng nghị sĩ thông qua bầu cử phải đủ các tiêu chuẩn sau đây:
Tiêu chuẩn chung của Thượng nghị sĩ được bầu hay chỉ định là: không nghiện ma túy, bị phá sản, bị kết án; không là thành viên của chính quyền địa phương, công chức, thành viên của ngành tư pháp hoặc bất cứ một cơ quan nào của chính phủ; không mất quyền công dân (là giáo sĩ, bị kết án, hay tàn tật). Nếu ứng cử viên là thành viên của chính quyền địa phương hoặc Bộ trưởng, phải rời khỏi nhiệm sở ít nhất là 5 năm.
Bầu cử và Chỉ định.
Thượng viện gồm 250 người bao gồm 194 thượng nghị sĩ do Hội đồng Hòa bình và Trật tự Quốc gia lựa chọn. 50 thượng nghị sĩ được bầu sau một quá trình thương lượng liên nhóm giữa các nhóm xã hội và chuyên gia khác nhau đại diện cho 10 nhóm: quan chức, giáo viên, thẩm phán, nông dân và công ty tư nhân. Một danh sách rút gọn gồm 200 người đã được đề xuất cho Hội đồng Hòa bình và Trật tự Quốc gia để đưa ra lựa chọn cuối cùng là 50 người. 6 thượng nghị sĩ còn lại được dành cho Tư lệnh Lục quân, Tư lệnh Hải quân, Tư lệnh Không quân, Tổng tham mưu trưởng Quân đội cấp cao, Thư ký thường trực Bộ Quốc phòng và Tư lệnh Cảnh sát quốc gia, tất cả đều là thượng nghị sĩ mặc nhiên. Tính đến năm 2020, 104 trong số 250 thượng nghị sĩ là sĩ quan quân đội hoặc cảnh sát.
Nhiệm kỳ.
Nhiệm kỳ của Thượng viện là 5 năm kể từ ngày kết quả bầu cử được công bố. Nhiệm kỳ cố định, do đó Thượng viện không thể bị giải tán trong bất kỳ trường hợp nào và sẽ được bầu lại theo Sắc lệnh Hoàng gia ban hành ba mươi ngày sau khi nhiệm kỳ kết thúc.
Tư cách thành viên Thượng viện bắt đầu vào ngày Ủy ban bầu cử công bố kết quả lựa chọn.
Khi Thượng viện kết thúc nhiệm kỳ, các Thượng nghị sĩ vẫn tại chức để thi hành nhiệm vụ cho đến khi có Thượng nghị sĩ mới.
Lãnh đạo.
Thượng viện gồm có 1 Chủ tịch và 2 Phó Chủ tịch. Chủ tịch Thượng viện kiêm nhiệm Phó Chủ tịch Quốc hội Thái Lan. Cuộc bầu cử được thực hiện bằng bỏ phiếu kín, sau khi nghị quyết hoàn thiện việc lựa chọn, quan chức đã đươc bầu được đệ trình lên nhà vua để bổ nhiệm chính thức. Không có quan chức đảng phái nào trong Thượng viện vì Thượng viện Thái Lan là một viện phi đảng phái.
Thượng nghị sĩ.
Các thành viên của Thượng viện được quyền sử dụng danh hiệu Thượng nghị sĩ trước tên của họ ( hoặc ส.ว.). Tư cách thành viên của một Thượng nghị sĩ được bầu bắt đầu vào ngày bầu cử thượng viện, trong khi một thượng nghị sĩ được chỉ định trở thành thành viên sau khi Ủy ban Bầu cử công bố kết quả bầu cử. Các thượng nghị sĩ không thể giữ nhiều hơn một nhiệm kỳ liên tiếp, do đó các thượng nghị sĩ không thể được bầu lại. Một Thượng nghị sĩ mất tư cách thành viên khi một Thượng nghị sĩ mới có thể được bổ nhiệm vào ghế đó để thay thế. Nếu có một chỗ trống, chiếc ghế đó sẽ ngay lập tức được lấp đầy bằng bầu cử hoặc bổ nhiệm.
Quyền hạn.
Thượng viện chia sẻ nhiều quyền hạn, nếu không muốn nói là nhiều hơn Hạ viện; bao gồm:
Quyền hạn độc bản: | 1 | null |
Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2014 là một sự kiện mà theo đó các xoáy thuận nhiệt đới hình thành ở vùng phía tây bắc của Thái Bình Dương. Mùa bão sẽ kéo dài trong suốt năm 2014 với phần lớn các cơn bão hình thành từ tháng 5 đến tháng 11. Bài viết này chỉ đề cập đến các cơn bão hình thành trong phạm vi của Thái Bình Dương ở Bắc Bán Cầu và từ kinh tuyến 100 đến 180 độ. Trong khu vực tây bắc Thái Bình Dương, có 2 cơ quan khí tượng hoạt động độc lập nhau, nên một cơn bão có thể có 2 tên gọi khác nhau. JMA sẽ đặt tên cho một cơn bão khi sức gió duy trì trong vòng 10 phút đạt ít nhất 65 km/h, (40 mph) bất kỳ nơi đây trong vùng đã đề cập trên. Trong Khi đó, PAGASA sẽ đặt tên cho một cơn bão khi nó hình thành từ một áp thấp nhiệt đới trong phạm vi giám sát của họ giữa 135°E và 115°E và giữa 5°N-25°N thậm chí JMA đã đặt tên cho nó. Các áp thấp nhiệt đới được JTWC theo dõi và đặt tên có ký tự "W" phía trước một con số.
Các cơn bão.
Bão Lingling (Agaton).
Cấp bão (Việt Nam): Cấp 8 - Bão nhiệt đới.
Cấp bão (Nhật Bản): 35 hải lý/giờ - Bão nhiệt đới; Áp suất: 1002 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 30 hải lý/giờ - Áp thấp nhiệt đới.
Bão Kajiki (Basyang).
Cấp bão (Việt Nam): Cấp 8 - Bão nhiệt đới.
Cấp bão (Nhật Bản): 35 hải lý/giờ - Bão nhiệt đới; Áp suất: 1000 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 35 hải lý/giờ - Bão nhiệt đới.
Bão Faxai.
Cấp bão (Việt Nam): Cấp 12 ~ cấp 13 - Bão cuồng phong
Cấp bão (Nhật Bản): 65 hải lý/giờ - Bão cuồng phong; Áp suất: 975 mbar (hPa)
Cấp bão (Hoa Kỳ): 75 hải lý/giờ - Bão cuồng phong cấp 1
Áp thấp nhiệt đới 04W (Caloy).
Cấp bão (Việt Nam): Cấp 7 - Áp thấp nhiệt đới.
Cấp bão (Nhật Bản): 30 hải lý/giờ - Áp thấp nhiệt đới; Áp suất: 1004 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 30 hải lý/giờ - Áp thấp nhiệt đới.
Bão Peipah (Domeng).
Cấp bão (Việt Nam): Cấp 8 - Bão nhiệt đới.
Cấp bão (Nhật Bản): 35 hải lý/giờ - Bão nhiệt đới; Áp suất: 998 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 35 hải lý/giờ - Bão nhiệt đới.
Bão Tapah.
Cấp bão (Việt Nam): Cấp 11~ cấp 12 - Bão nhiệt đới dữ dội.
Cấp bão (Nhật Bản): 50 hải lý/giờ - Bão nhiệt đới dữ dội; Áp suất: 985 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 65 hải lý/giờ - Bão cuồng phong cấp 1.
Bão Mitag (Ester).
Cấp bão (Việt Nam): Cấp 9 - Bão nhiệt đới.
Cấp bão (Nhật Bản): 40 hải lý/giờ - Bão nhiệt đới; Áp suất: 980 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): Không cảnh báo (vì là xoáy thuận cận nhiệt đới, nếu tính thì 40 hải lý/giờ - Bão cận nhiệt đới (thang bão nhiệt đới).
Bão Hagibis (bão số 1).
Cấp bão (Việt Nam): Cấp 9 - Bão nhiệt đới.
Cấp bão (Nhật Bản): 40 hải lý/giờ - Bão nhiệt đới; Áp suất: 996 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 45 hải lý/giờ - Bão nhiệt đới.
Bão Neoguri (Florita).
Cấp bão (Việt Nam): Cấp 15 - Bão cuồng phong
Cấp bão (Nhật Bản): 100 hải lý/giờ - Bão cuồng phong.Áp suất: 930 mbar (hPa)
Cấp bão (Hoa Kỳ): 140 hải lý/giờ - Siêu bão cấp 5
Bão Rammasun (Glenda) (bão số 2).
Cấp bão (Việt Nam): Cấp 14 ~ cấp 15 - Bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản): 90 hải lý/giờ - Bão cuồng phong; Áp suất: 935 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 140 hải lý/ giờ - Siêu bão cấp 5.
Bão Matmo (Henry).
Cấp bão (Việt Nam): Cấp 12 ~ cấp 13 - Bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản): 70 hải lý/ giờ - Bão cuồng phong; Áp suất: 965 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 85 hải lý/giờ - Bão cuồng phong cấp 2.
Bão Nakri (Inday).
Cấp bão (Việt Nam): Cấp 10 - Bão nhiệt đới dữ dội.
Cấp bão (Nhật Bản): 55 hải lý/giờ - Bão nhiệt đới dữ dội; Áp suất: 980 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 40 hải lý/giờ - Bão nhiệt đới.
Bão Halong (Jose).
Cấp bão (Việt Nam): Cấp 17 - Bão cuồng phong
Cấp bão (Nhật Bản):110 hải lý /giờ - Bão cuồng phong; Áp suất: 920 mbar (hPa)
Cấp bão (Hoa Kỳ): 140 hải lý/ giờ - Siêu bão cấp 5
Bão Genevieve.
Cấp bão (Việt Nam): Cấp 16 ~ cấp 17 - Bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản):110 hải lý /giờ - Bão cuồng phong; Áp suất: 915 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 140 hải lý/ giờ - Siêu bão cấp 5.
Bão Fengshen.
Cấp bão (Việt Nam): Cấp 11 - Bão nhiệt đới dữ dội.
Cấp bão (Nhật Bản): 60 hải lý/giờ - Bão nhiệt đới dữ dội; Áp suất: 975 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 65 hải lý/giờ - Bão cuồng phong cấp 1.
Áp thấp nhiệt đới 14W (Karding).
Cấp bão (Việt Nam): Cấp 7 - Áp thấp nhiệt đới.
Cấp bão (Nhật Bản): 30 hải lý/giờ - Áp thấp nhiệt đới; Áp suất: 1002 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 30 hải lý/giờ - Áp thấp nhiệt đới.
Bão Kalmaegi (Luis) (bão số 3).
Cấp bão (Việt Nam): Cấp 12 ~ cấp 13 - Bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản): 75 hải lý/giờ - Bão cuồng phong; Áp suất: 960 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 75 hải lý/giờ - Bão cuồng phong cấp 1.
Bão Fungwong (Mario).
Cấp bão (Việt Nam): Cấp 9 - Bão nhiệt đới.
Cấp bão (Nhật Bản): 45 hải lý/giờ - Bão nhiệt đới; Áp suất: 985 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 50 hải lý/giờ - Bão nhiệt đới.
Bão Kammuri.
Cấp bão (Việt Nam): Cấp 9~cấp 10 - Bão nhiệt đới dữ dội.
Cấp bão (Nhật Bản): 50 hải lý/giờ - Bão nhiệt đới dữ dội; Áp suất: 985 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 55 hải lý/giờ - Bão nhiệt đới.
Bão Phanfone (Neneng).
Cấp bão (Việt Nam): Cấp 14 ~ cấp 15 - Bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản): 95 hải lý/giờ- Bão cuồng phong; Áp suất: 935 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 130 hải lý/giờ - Siêu bão cấp 4.
Bão Vongfong (Ompong).
Cấp bão (Việt Nam): Cấp 17 - Bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản): 115 hải lý/giờ - Bão cuồng phong; Áp suất: 900 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 155 hải lý/giờ - Siêu bão cấp 5.
Bão Nuri (Paeng).
Cấp bão (Việt Nam): Cấp 17 - Bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản): 110 hải lý/giờ - Bão cuồng phong; Áp suất: 910 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 155 hải lý/giờ - Siêu bão cấp 5.
Bão Sinlaku (Queenie) (Bão số 4).
Cấp bão (Việt Nam): Cấp 9 - Bão nhiệt đới.
Cấp bão (Nhật Bản): 45 hải lý/giờ - Bão nhiệt đới; Áp suất: 990 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 50 hải lý/giờ - Bão nhiệt đới.
Bão Hagupit (Ruby) (Bão số 5).
Cấp bão (Việt Nam): Cấp 17 - Bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản): 115 hải lý/giờ - Bão cuồng phong; Áp suất: 905 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 155 hải lý/giờ - Siêu bão cấp 5.
Bão Jangmi (Seniang).
Cấp bão (Việt Nam): Cấp 8 ~ cấp 9 - Bão nhiệt đới.
Cấp bão (Nhật Bản): 40 hải lý/giờ - Bão nhiệt đới; Áp suất: 996 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 45 hải lý/giờ - Bão nhiệt đới.
Tên gọi của bão.
Tên quốc tế.
Các xoáy thuận nhiệt đới được đặt tên theo danh sách bên dưới do Trung tâm khí tượng khu vực chuyên biệt ở Tokyo, Nhật Bản, khi một xoáy thuận đạt đến độ mạnh của bão. Các tên gọi do các thành viên của ESCAP/WMO Typhoon Committee đề xuất. Mỗi nước trong số 14 nước và vùng lãnh thổ thành viên đưa ra 10 tên gọi, được sử dụng theo thứ tự ABC, bằng tên tiếng Anh của quốc gia đó. Sau đây là các tên gọi dự kiến sẽ đặt tên cho các cơn bão năm 2014.
Bão Genevieve hình thành từ khu vực Đông Bắc Thái Bình Dương di chuyển sang và đã vượt qua kinh tuyến 180 vào khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương nên được JMA gán cho ký hiệu 1413 và là cơn bão chính thức thứ 13 của mùa bão.
Tên địa phương của Philippines.
Cơ quan PAGASA sử dụng chương trình đặt tên riêng của mình cho cơn bão nhiệt đới trong khu vực theo dõi của họ. Pagasa đặt tên cho áp thấp nhiệt đới đã hình thành trong khu vực theo dõi của mình và bất kỳ cơn bão nhiệt đới có thể di chuyển vào khu vực theo dõi của họ. Nên danh sách các tên trong năm đó bị sử dụng hết, tên sẽ được lấy từ một danh sách phụ trợ, các bão đầu tiên được xuất bản mỗi năm trước khi mùa bão bắt đầu. Tên còn lập lại (chưa bị khai tử) từ danh sách này sẽ được sử dụng một lần nữa trong mùa bão năm 2018. Đây là danh sách tương tự được sử dụng trong mùa bão 2010, với ngoại lệ có " Jose " và " Karding " thay thế tên Juan và Katring tương ứng. Tên mà chưa được sử dụng hay sẽ sử dụng được đánh dấu .
Danh sách phụ trợ<br>
Số hiệu cơn bão tại Việt Nam.
Ở Việt Nam một cơn bão được đặt số hiệu khi nó đi vào vùng thuộc phạm vi theo dõi của Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Trung ương Quốc gia được xác định trên biển Đông phía Tây kinh tuyến 120 độ kinh Đông và phía bắc vĩ tuyến 10 độ vĩ Bắc. Số hiệu của bão được đặt theo số thứ tự xuất hiện của nó trong năm ví dụ: Bão số 1, bão số 2...
Dưới đây là các cơn bão đã được Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Trung ương Quốc gia đặt số hiệu trong năm 2014: (kèm vùng đổ bộ) | 1 | null |
"What Now" là một bài hát của nghệ sĩ thu âm người Barbados Rihanna, trích từ album phòng thu thứ 7 của cô Unapologetic (2012). Bài hát được viết bởi Olivia Waithe và Rihanna cùng với hai nhà sản xuất của nó là Parker Ighile and Nathan Cassells. Một EP gồm các phiên bản remix của bài hát được phát hành độc quyền cho Beatport vào ngày 29 tháng 8 năm 2013 và sau đó được phát hành tương ứng trên iTunes, Amazon.com, và Google Play vào ngày 17 tháng 9 năm 2013. Bài hát đã được phát trên các đài phát thanh âm nhạc của Mỹ để phục vụ nhu cầu của khán giả vào ngày 24 tháng 9 năm 2013 trước khi được phát sóng trên các đài phát thanh lớn vào ngày 1 tháng 10 năm 2013 với tư cách là đĩa đơn chính thức thứ 6 từ album Unapologetic. Một EP remix khác cũng được phát hành cho Beatport vào ngày 29 tháng 10 năm 2013. Về mặt âm nhạc, bài hát là một bản nhạc ballad có giai điệu piano trung bình trong đó kết hợp những âm thanh giống như một "quả bom" suốt trong đoạn điệp khúc và tiếng trống mạnh mẽ.
"What Now" nhận được nhiều đánh giá tích cực của các nhà phê bình âm nhạc. Nhiều nhà phê bình gọi nó là một bài hát mang đầy cảm xúc, tiêu biểu cho album và họ ca ngợi giọng hát của Rihanna. Sau khi phát hành Unapologetic, "What Now" đã tiến vào bảng xếp hạng French Singles Chart và UK Singles Chart, cũng như đã xuất hiện tại UK R&B Chart và vươn lên vị trí 32. Bài hát đạt vị trí 25 tại Billboard Hot 100 và vị trí 27 tại Canadian Hot 100. Để quảng bá cho bài hát, Rihanna đã biểu diễn nó tại chatshow Alan Carr: Chatty Man và cô cũng đưa nó vào danh sách biểu diễn cho tour diễn của mình, Diamonds World Tour (2013). Jeff Nicholas, Jonathan Craven, và Darren Craig đồng đạo diễn video âm nhạc cho bài hát; trong đó miêu tả hình ảnh Rihanna phải trải qua một sự cố về tình cảm và cô ấy thể hiện những động tác vũ đạo trừ tà quỷ. Các nhà phê bình khen ngợi video và so sánh nó với video âm nhạc "Disturbia" của Rihanna phát hành năm 2008.
Sản xuất và phát hành.
Rihanna bắt đầu làm việc với "những âm thanh mới" cho album phòng thu thứ 7 của cô từ tháng 3 năm 2013, mặc dù khi đó cô vẫn chưa bắt đầu tiến hành ghi âm. Ngày 12 tháng 9 năm 2012, Def Jam France công bố thông qua tài khoản Twitter của Rihanna rằng sẽ có một đĩa đơn mới được phát hành vào tuần tới và album phòng thu thứ 7 của cô ấy dự kiến sẽ phát hành vào tháng 11 năm 2012. Tuy nhiên dòng tweet này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn trước khi nó bị xóa đi và được thay thế bằng một thông báo khác: "Thêm nhiều thông tin nữa sẽ được bật mí vào ngày mai, Thứ 5 ngày 13 tháng 9". Thông qua tài khoản Twitter cá nhân của mình thì Rihanna đã tung hàng loạt tweet giới thiệu về album phòng thu thứ 7 này.
"What Now" được sáng tác bởi nghệ sĩ người Anh Livvi Franc cùng với Rihanna, Parker Ighile và Nathan Cassells trong khi đó việc sản xuất bài hát cũng do Parker Ighile và Nathan Cassells đảm nhiệm. Ighile và Cassells sáng tác phần nhạc cho bài hát tại Metropolis Studios, Luân Đôn, Vương Quốc Anh và cung cấp tất cả các nhạc cụ và phần mềm lập trình âm nhạc. Kuk Harrell đảm nhận việc thu âm và ghi âm giọng hát của Rihanna cùng với Marcos Tova tại Westlake Recording Studios ở Los Angeles, California. Blake Mares và Robert Cohen là trợ lý kỹ sư âm thanh. Bài hát được phối khí và pha trộn bởi Phil Tan tại Ninja Club Studios ở Atlanta, Gruzia với sự giúp đỡ của trợ lý âm nhạc Daniela Rivera.
"What Now" được phát hành dưới dạng đĩa đơn thứ 6 trích từ Unapologetic. 10 bản remix của bài hát được phát hành kỹ thuật số thông qua Beatport vào ngày 28 tháng 8 năm 2013 tại Hoa Kỳ. Một EP remix tương tự cũng được phát hành trên iTunes Store vào ngày 17 tháng 9 năm 2013. "What Now" được phát trên các đài phát thanh âm nhạc của Mỹ để phục vụ nhu cầu của khán giả vào ngày 24 tháng 9 năm 2013 trước khi được phát sóng trên các đài phát thanh lớn vào ngày 1 tháng 10 năm 2013. Thông qua tải khoản Instagram của mình, Rihanna đã cho phát hành bìa đĩa đơn chính thức vào ngày 16 tháng 10 năm 2013; nó cho ta thấy hình ảnh Rihanna trong bộ váy màu đen với đôi mắt được trang điểm đậm và mái tóc dài đen, phía sau là tên của cô được viết trên bảng theo nhiều kiểu chữ. Jocelyn Vena từ MTV News đã miêu tả phong cách của Rihanna trên bìa đĩa đơn với phong cách thời trang Gothic và gợi nhớ mọi người đến bức ảnh hậu trường của video âm nhạc được cô đăng tải lên mạng.
Sáng tác.
"What Now" là một bản pop-ballad với tiếng piano cùng tiết tấu trung bình; bài hát có độ dài 4:03. Theo Sony/ATV Music Publishing, bài hát được viết bằng khóa G♯ với một nhịp điệu trung bình-chậm là 60 nhịp một phút (BPM). Giọng hát của Rihanna nằm trong khoảng từ nốt A♯3 đến nốt C♯5, và kéo theo đó một dãy âm G♯m—B2—F♯—F♯sus4—F♯. Trong bài hát còn có thêm giai điệu của tiếng trống mạnh mẽ. Dean Martin của NME đã miêu tả bài hát như một cuộc hôn nhân điên loạn của piano và bass. Theo Mesfin Fekadu của The Huffington Post thì "bài hát được xây dựng một cách độc đáo từ những câu hát êm dịu đến đoạn điệp khúc như điện giật".
Smokey D. Fountaine của tờ The Urban Daily đã so sánh "What Now" với các tác phẩm của nữ ca sĩ Pink và theo ông thì bài hát có được một đoạn điệp khúc đầy phong cách ("yell-as-long-as-you-have-a-great-hook style"). Theo Michael Gallucci của PopCrush thì cấu trúc của bài hát nổi bật từ phần đầu đến phần điệp khúc "giống như chúng đến từ hai hành tinh khác nhau vậy". Gallucci cũng cảm thấy rằng Rihanna đã hát hết những gì cô ấy có thể với bài hát này, trái ngược với những cảm nhận của Chris Younie đến từ 4Music khi cho rằng giọng hát của Rihanna thật "ngọt ngào". Trong phần điệp khúc âm vang, mạnh mẽ thì âm thanh như một "quả bom".
Đánh giá phê bình.
Một nhà phê bình đến từ tạp chí Billboard đã ca ngợi "What Now" và gọi bài hát là "một điểm nhấn cảm xúc của album, mang đầy những khoảnh khắc của sự cộng hưởng". Giovanny Caquias của Culture Blues viết về bài hát và cảm thấy nó như là một bản thu âm "thẳng thắn" và "sâu sắc" nhất album Unapologetic. Anh ấy tiếp tục, "Rihanna đã gợi được một chút nội tâm trong What Now, và cô đã không dùng đến sự công khai tình dục hay sự nhẫn tâm, bướng bĩnh (thêm về điều này ở phía sau), cho tôi cảm giác rằng dường như cô ấy đã bị tước mất đi chiếc áo giáp bảo vệ trong một khoảnh khắc và điều đó cho phép cô ấy phô bày con người thật của mình, chính bản thân của cô ấy". Jim Farber từ Daily News thì viết rằng mặc dù "What Now" có thể không thể cạnh tranh với một bài hát của Beyonce nhưng nó cho ta thấy một nguồn sức mạnh khác.
Brad Stern của MTV Buzzworthy ca ngợi giọng hát của Rihanna và gọi nó là "đĩa nhạc sâu sắc nhất". Một nhà phê bình từ The Star-Ledger đa dán nhãn bài hát như "một bản ballad giàu nội lực đáng kinh ngạc và làm cho những bài hát khác của Rihanna thật nhẹ cân khi mang chúng lên bàn cân để so sánh". Andy Kellman của Allmusic ca ngợi "What Now" và gọi nó là "bản ballad khổng lồ, đầy cảm xúc, và mạnh mẽ". Jon Caramanica của The New York Times đa có những nhận xét tích cực cho bài hát khi viết: "Rihanna làm những gì trực tiếp nhất, ca hát và những tham vọng. Đây là album của một cuộc thanh trừng và dấu hiệu của một cuộc xung kích phía dưới tấm áo giáp". Genevieve Koski của The A.V. Club thì chỉ trích "What Now", và viết rằng (cũng giống như "Stay") là một bản ballad và chúng chưa bao giờ là một đặc sản ăn khách của Rihanna.
Diễn biến xếp hạng.
Sau khi phát hành Unapologetic, "What Now" đã tiến vào bảng xếp hạng của Pháp và hai bảng xếp hạng khác của Anh nhờ nhu cầu tải kỹ thuật số mạnh mẽ. Bài hát xuất hiền trong tuần đầu tiên tại French Singles Chart ở vị trí 144 vào ngày 1 tháng 12 năm 2012 và ở lại đó trong một tuần. Vào ngày 13 tháng 7 năm 2013, nó lại trở lại bảng xếp hạng ở vị trí 174 và sau đó tiến lên vị trí 83 vào hai tuần tiếp theo. Vào ngày 2 tháng 12 năm 2012, bài hát có mặt ở vị trí 165 tại UK Singles Chart và vị trí 32 tại UK R&B Chart. Ngày 27 tháng 7 năm 2013, "What Now" xuất hiện ở vị trí 38 tại bảng xếp hạng đĩa đơn Wallonia của Bỉ. "What Now" được phát hành như đĩa đơn chính thức thứ 4 và được phát sóng trên radio ở Australia; tại đây nó có mặt tại ARIA Singles Chart ở vị trí 37 vào ngày 18 tháng 8 năm 2013 và vươn lên được vị trí 21.
Video âm nhạc.
Bối cảnh sản xuất và ý tưởng.
Rihanna tiến hành quay video âm nhạc cho "What Now" tại một nhà kho ở Phuket, Thái Lan
vào ngày 17 tháng 9 năm 2013, đồng thời điểm khi tour diễn Diamonds World Tour dừng chân tại đây. Nó được đạo diễn bởi Jeff Nicholas, Jonathan Craven và Darren Craig. Trước đó Nicholas và Craven cũng là đồng đạo diễn cho video bài hát "Tunnel Vision" của Justin Timberlake, đây là đĩa đơn trích từ album thứ ba của anh ấy mang tên The 20/20 Experience. Theo Steven Gottlieb từ VideoStatic thì điều tương tự có thể thấy ở cả hai video đó là chúng đều mang những hình ảnh gương mặt và cơ thể ẩn hiện trong một. Vào ngày 13 tháng 11, Rihanna tiết lộ một đoạn video sau hậu trường trên tài khoản Vevo chính thức của cô ấy. Cũng trong khoảng thời gian đó, Rihanna giải thích về chủ đề của video: "Nó sẽ rất đáng sợ, kỳ lạ bởi vì 'What Now' là một trong những bài hát mà làm bạn cảm thấy thật nhàm chán với mặt hình ảnh. Bạn có thể gần như nhận được tất cả những gì bạn mong đợi. Mọi người đều hy vọng đây sẽ là một video âm nhạc truyền tải một câu chuyện tình yêu của một thứ gì đó thật mềm mại và dễ thương" và sau đó nói "Nó thật dễ thương và mềm mại nhưng nó thật sự mang trong mình một chút điên và nổi loạn". Trước khi phát hành video, Rihanna đã cho đăng một đoạn giới thiệu ngắn (sneak peek) trên Youtube. Video âm nhạc chính thức được phát hành vào ngày 15 tháng 11 năm 2013 trên VEVO.
Rob Newman là nhà sản xuất chính của video, trong khi đó Craven, Nicholas và Thananath Songchaikul nhận nhiệm vụ sản xuất hình ảnh. Sing Howe Yam chỉ đạo phần nhiếp ảnh còn Clark Eddy là biên tập viên. Video mở đầu với hình ảnh Rihanna xuất hiện trên màn hình những chiếc tivi với bộ váy trắng đơn giản và vòng cổ hình thánh giá. Sau đó cô bắt đầu hát trong một căn phòng tối với bộ váy màu đen và sau đó xuất hiện ở một căn phòng sáng với chiếc váy trắng. Trong suốt toàn bộ video miêu tả Rihanna phải trải qua một sự cố về tình cảm và cô ấy thể hiện những động tác vũ đạo trừ tà quỷ. Video là sự hoán đổi hình ảnh của một Rihanna đáng sợ và một Rihanna mềm mại trong khi cô đang ở trong một nhà kho hoang vắng, thể hiện nỗi cô đơn của chính mình.
Phê bình.
Jocelyn Vena của MTV đã so sánh video của "What Now" với 4 video trước đó của Rihanna; và "Disturbia" là một trong số đó, cô nói: "Cả 'What Now' và 'Disturbia' đều mang một màu tối và một sự rung cảm mang tính siêu nhiên. Ngoài ra cô cũng chia sẻ rằng đây là một sự tương đồng, những hình ảnh sắp xếp phân tầng và tạo ra những hiệu ứng 3D đặc sắc". Cô còn so sánh với những bài hát khác bao gồm "Diamonds", "Stay" (2 bài hát này đều nằm trong album Unapologetic) và "We Found Love". Rachel Brodsky của MTV's Buzzworthy Blog cũng đã so sánh video của "What Now" với bộ phim phát hành năm 1996, The Craft. Jason Lipshutz của Billboard nói rằng Rihanna đã "giảm tốc" cho video này sau khi thực hiện những vũ điệu tecrk, múa cột và khoe da thịt trong video âm nhạc "Pour It Up" được phát hành một tháng trước đó. Nhiều ý kiến nhận xét khác cũng tương tự, như một nhà phê bình từ The Huffington Post nói: "Đoạn clip cho thấy hình ảnh nữ nghệ sĩ 25 tuổi tại một nơi ma quái, quằn quại trong một căn phòng thưa thớt với kiểu ăn mặc tương tự như trong nhiều bộ phim kinh dị"...
Biểu diễn trực tiếp.
Vào ngày 27 tháng 9 năm 2013, Rihanna biểu diễn "What Now" tại chatshow Alan Carr: Chatty Man. Bài hát cũng có mặt trong danh sách biểu diễn của tour diễn Diamonds World Tour (2013). | 1 | null |
Danh sách Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân là danh sách những cá nhân, tập thể được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân – danh hiệu vinh dự cao nhất của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Danh sách được sắp xếp theo thứ tự năm trao tặng.
Tổng quan chung.
Tính đến năm 2006, đã có 1.289 người được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân: 148 trong Kháng Chiến Chống Pháp, 859 trong Kháng chiến chống Mỹ, 279 trong các cuộc chiến khác. Trong số đó, 160 anh hùng là nữ và 163 anh hùng là người dân tộc thiểu số.
Nguyễn Văn Lập (tên khai sinh Kostas Sarantidis, ) là chiến sĩ nước ngoài duy nhất từng được phong tặng danh hiệu này.
Danh sách các cá nhân được tặng, truy tặng danh hiệu trong kháng chiến chống Pháp.
Đại hội chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc lần đầu tiên diễn ra vào tháng 5 năm 1952 tại Việt Bắc đã nêu khái niệm đầu tiên về danh hiệu "anh hùng chiến đấu". Sau kỳ đại hội này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh 107/SL tặng danh hiệu anh hùng cho 7 cá nhân, trong đó có 4 Anh hùng quân đội và 3 Anh hùng lao động. Ngoài ra Đại hội dành một số Huân chương và danh hiệu Anh hùng cho các chiến sĩ Thi đua ở Nam Bộ không đến dự được. Đến tháng 2 năm 1953, tại Đại hội chiến sĩ thi đua miền Tây Nam Bộ, chiến sĩ du kích Nguyễn Văn Song được bầu là Anh hùng quân đội.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, ngày 31 tháng 8 năm 1955, Bộ Quốc phòng tổ chức trọng thể lễ tuyên dương danh hiệu "Anh hùng quân đội" lần thứ hai. Trong đợt này có 26 cán bộ, chiến sĩ (8 đồng chí là liệt sĩ) được phong tặng và truy tặng Anh hùng.Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự và phát biểu tại lễ tuyên dương.
Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Chính phủ tổ chức lễ tuyên dương Anh hùng lần thứ ba, tặng thưởng danh hiệu Anh hùng cho 43 cán bộ, chiến sĩ xuất sắc trong toàn quân, anh hùng Phạm Minh Đức - người đã hy sinh khi giúp nhân dân tránh bão tại huyện Kiến An, Hải Phòng năm 1955 là anh hùng được tuyên dương đầu tiên trong thời kỳ hòa bình xây dựng đất nước ở miền Bắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự và phát biểu tại lễ tuyên dương.
Danh sách các cá nhân được tặng, truy tặng danh hiệu trong kháng chiến chống Mỹ.
Danh sách các anh hùng được Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên dương trong kháng chiến chống Mỹ từ 1964 đến 1973; các Anh hùng được Quốc hội và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa tuyên dương trong kháng chiến chống Mỹ từ 1967 đến 1978 được sắp xếp theo thứ tự năm tặng, truy tặng.
Danh sách các cá nhân được tặng, truy tặng danh hiệu từ 1979 - 2000.
Danh sách các Anh hùng được tuyên dương trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế và trong công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1979 đến năm 2000. | 1 | null |
Gấu tấn công hay một cuộc tấn công con gấu theo cách hiểu thông dụng là một cuộc tấn công bất kỳ động vật có vú trong họ Gấu vào động vật khác, mặc dù nó thường dùng để chỉ những con gấu tấn công con người và vật nuôi. Các cuộc tấn công con gấu là tương đối hiếm, nhưng đủ để thường xuyên được dư luận quan tâm đối với những người trong môi trường sống của gấu. Những đối tượng chịu các cuộc tấn công có thể gây tử vong là những người thường đi bộ đường dài, việt dã, thợ săn, ngư dân, và những người khác đi bộ vô tình gặp phải gấu, đặc biệt là ở Mỹ, các trường hợp gấu tấn công du khách xảy ra ở những cuộc cắm trại, đi dã ngoại, pic-nic. Những vụ tấn công này còn diễn ra khi gấu tấn công nhắm vào các tay thợ săn trong những cuộc săn gấu.
Tổng quan.
Gấu là những loài động vật có vú thuộc họ với danh pháp khoa học Ursidae. Mặc dù chỉ có 8 loài gấu còn sinh tồn nhưng gấu phân bố khá rộng, xuất hiện trong các môi trường sống đa dạng tại Bắc bán cầu, một phần tại Nam bán cầu. Gấu được tìm thấy tại các châu lục và lục địa như Bắc Mỹ, Nam Mỹ, châu Âu và châu Á. Đây là loài động vật ăn thịt và ăn tạp (trừ gấu trúc) có kích thước cỡ lớn và lớn nhất trong số những loài động vật có vú. Trong số những con gấu dữ và có kích thước to lớn có thể kể đến là Gấu trắng, Gấu nâu, Gấu xám, Gấu đen, Gấu ngựa, Gấu lợn. Những con gấu tuy có thân hình đồ sộ nhưng lại có tốc độ khá cao và đặc biệt là những cú tát trời giáng, khi một con gấu chiến đấu nó sẽ đè xuống đối thủ của mình xuống bằng bàn chân của nó.
Nhìn chung gấu tấn công người tương đối hiếm. Một báo cáo cho biết đã có 162 con gấu bị thương gây ra tại Hoa Kỳ từ năm 1900 đến năm 1985, trung bình khoảng 2 vụ việc xảy ra một năm, tương tự như vậy, một báo cáo tại Canada chỉ ra rằng trong những năm 1990 có khoảng ba người mỗi năm bị gấu giết chết so với 15 người thiệt mạng mỗi năm bởi những con chó. nhiều báo cáo nhận xét rằng một người có nhiều khả năng bị sét đánh hơn là bị tấn công bởi một con gấu khi ở ngoài trời với khoảng 90 người bị sét đánh mỗi năm Tuy nhiên, với sự gia tăng phá hủy môi trường sống sự tương tác giữa con gấu và con người đã tăng lên và người ta dự báo những cuộc tấn công của gấu sẽ có nguy cơ gia tăng.
Những loài gấu dữ.
Gấu nâu.
Gấu nâu hiếm khi tấn công con người và thường tránh người. Tuy nhiên, không thể đoán trước trong tính khí, và sẽ tấn công nếu họ ngạc nhiên hay cảm thấy bị đe dọa. Ở châu Âu và ở Mỹ, rất hiếm khi gấu nâu giết chết hay gây thương tích cho con người, nhưng đã có một số trường hợp đáng tiếc xảy ra. Không giống như ở Mỹ, nơi trung bình mỗi năm có hai người bị gấu giết chết, Scandinavia chỉ ghi nhận có ba vụ tấn công của gấu gây tử vong trong thế kỷ qua. Ở khu vực Scandinavia trong 100 năm gần đây có 3 trường hợp bị giết chết bởi gấu nâu. Các vụ tấn công xảy ra khi gấu bị thương hay đang nuôi con. Gấu nâu có thể giết chết người chỉ bằng một cú tát của nó. Dự án nghiên cứu gấu Scandinavia liệt kê các tình huống sau như là những mối nguy hiểm tiềm ẩn của gấu với con người:
Nếu có việc phải đi trong rừng thì luôn nhớ cầm theo chuông vì thông thường gấu sẽ tránh con người. Nếu gặp chúng, hãy bình tĩnh và đi chậm theo hướng ngược lại với nó, tuyệt đối không nên bỏ chạy vì điều này kích thích gấu tấn công. Quan trọng là không được đe dọa nó hay kêu la. Nếu bị gấu tấn công và không có đường tẩu thoát, hãy nhớ bảo vệ tốt nhất cho đầu mình.
Riêng ở Nhật Bản thỉnh thoảng xuất hiện những con gấu giết người và làm đề tài cho nhiều phim hoạt hình, truyện tranh. Cụ thể như con Gấu quỷ Kesagake ở làng Sankebetsu, Hokkaido (Nhật Bản) vào năm 1915. có một con vô cùng to lớn được gọi là Kesagake. Nó thường tới làng Sankebetsu để ăn trộm ngô, gây nhiều phiền toái nên từng bị người dân bắn thương. Kesagake xuất hiện trở lại để trả thù. Nó xông vào ngôi nhà của vợ chồng nông dân Ota trong lúc chỉ có người vợ và đứa con nhỏ ở nhà. Người phụ nữ cố gắng bảo vệ đứa con nhỏ bằng cách dùng củi xua đuổi con gấu nhưng rốt cuộc lại bị nó kéo vào rừng. Khi dân làng kéo đến, ngôi nhà của Ota đầy vết máu, xác của đứa trẻ sơ sinh bị dẫm nát.
30 người đàn ông trong làng đã quyết định vào rừng săn tìm Kesagake. Họ nhanh chóng tìm thấy và bắn trọng thương nó một lần nữa. Con vật buộc phải chạy trốn và họ tìm thấy xác của người phụ nữ đang bị nó vùi dưới tuyết, phần thi thể chỉ còn một nửa. Sau đó, nó tấn công vào ngôi nhà của nông dân Miyoke - nơi cách xa nhà của Ota. Tất cả mọi người trong gia đình đều bị phanh thây, bao gồm hai trẻ em và một phụ nữ mang thai. Chỉ trong 2 ngày, 6 mạng người đã bị Kesagake giết. Sau hạ gục được Kesagake dân làng mổ bụng, những phần thi thể người vẫn còn nguyên trong dạ dày nhưng dù sao thì một số người trong đoàn săn gấu đã bị con ác thú đẩy xuống sông làm cho chết đuối, một số khác chịu những vết thương nặng và cũng lìa đời sau đó ít ngày.
Gấu xám.
Ngoài ra, có thể các loài gấu khác, chẳng hạn gấu trắng Bắc Cực đã tấn công khi chúng đi kiếm thức ăn và đặc biệt là Gấu xám Bắc Mỹ là loài có trọng lượng trung bình lên đến 1,2 tấn, chiều cao 2,4 m nếu đứng bằng hai chân. Mặc dù trông loài này có vẻ cồng kềnh nhưng chúng có thể chạy với tốc độ lên tới 56 km/h, cùng với tính khí ưa bạo lực khiến nhiều loài khác phải khiếp vía. Gấu xám đặc biệt nguy hiểm vì lực cắn của chúng, được đo ở mức hơn 8 megapixel (1160 psi; 1200 pound). Người ta ước tính rằng một vết cắn từ một con gấu xám thậm chí có thể nghiền nát một quả bóng bowling, đó là chưa kể, gấu xám có thể giết chết người chỉ với một cú vả bằng chân trước.
Gấu xám được coi là hung dữ hơn so với gấu đen Bắc Mỹ khi phòng vệ và bảo vệ con của chúng. Không giống như những con gấu đen nhỏ hơn, những con gấu xám trưởng thành không giỏi leo trèo. Các con gấu mẹ bảo vệ đàn con là những con gấu dễ tấn công người nhất và chịu trách nhiệm cho 70% số người bị giết vì những con gấu xám. Gấu xám thường tránh tiếp xúc với con người. Mặc dù có lợi thế về thể chất rõ ràng, chúng hiếm khi chủ động săn lùng con người. Hầu hết các cuộc tấn công của gấu xám đều xuất phát từ một con gấu đã bị giật mình vì con người ở cự ly quá gần, nhất là khi nó đang ăn hoặc có những con gấu xám cái bảo vệ con.
Sự tương tác giữa con người và gấu ngày càng tăng đã tạo ra "những con gấu có vấn đề" là những con gấu thích nghi với hoạt động hoặc môi trường sống của con người. Những con gấu như vậy được di chuyển hoặc bị giết vì chúng gây ra mối đe dọa cho con người. Chính quyền British Columbia đã giết chết khoảng 50 con gấu mỗi năm và tổng chi hơn một triệu đô la hàng năm để giải quyết những than phiền liên quan đến gấu, di dời gấu và giết chúng. Các chương trình nâng cao nhận thức về gấu đã được tiến triển bởi nhiều thị trấn ở British Columbia, Canada, để giúp ngăn ngừa xung đột với cả gấu đen và gấu xám. Tiền đề chính của các chương trình này là dạy con người quản lý thực phẩm có thể thu hút những con gấu mò tới.
Không giống các loài gấu khác trong họ nhà gấu, gấu xám rất ít khi leo cây do kích thước quá lớn. Vì vậy, đối với những người đi cắm trại ở vùng hoang dã, treo thức ăn giữa các cây ở độ cao không thể tiếp cận được với gấu là một cách thức phổ biến, mặc dù một số con gấu xám có thể trèo lên và lấy thức ăn treo theo những cách khác. Một cách khác để bảo vệ thức ăn là sử dụng hộp cứng đựng thức ăn để ngăn gấu mở ra. Đi du lịch theo nhóm sáu người trở lên có thể làm giảm đáng kể khả năng bị tấn công liên quan đến gấu khi đi bộ đường dài băng qua lãnh địa của loài gấu. Ngoài ra nên mang theo bình xịt có hơi cay rất nồng có thể xua đuổi những con gấu hung dữ nhất. Khi vô tình chạm trán với gấu xám, tuyệt đối không được chạy. Dù có thân hình to lớn, gấu xám có thể chạy nhanh đến 56 km/h. Đừng lo lắng nếu con gấu đứng lên - điều đó thường có nghĩa là nó đang tò mò.
Thay vào đó, cố gắng giữ bình tĩnh, giang rộng cánh tay và nói bằng giọng từ tốn, chậm rãi với nó để gấu tin rằng nó không bị đe dọa. Sau đó, lùi lại từ từ để chứng tỏ đang rút lui và không có dấu hiệu nguy hiểm. Nếu con gấu đi theo, hãy dừng lại và đứng vững. Nếu con gấu đuổi theo, hãy nằm xuống và ôm tay sau gáy để bảo vệ bản thân. Bảo vệ bụng bằng cách nằm ôm gối với tư thế bào thai, đầu gối co sát dưới cằm để không cho nó cắn họng. Ngoài ra, giả chết cũng là phương án khả thi. Ngay cả khi con gấu bắt đầu tấn công, nó có khả năng cố gắng vô hiệu hóa như một mối đe dọa vì sẽ không bao giờ vượt qua hoặc áp đảo nó, giả chết là cách tốt nhất tại thời điểm này. Ngay cả khi nó bỏ đi, đừng đứng dậy. Gấu được biết là sẽ nán lại theo dõi để chắc chắn rằng nạn nhân đã chết, vì vậy hãy nằm lại ít nhất 20 phút.
Gấu xám Bắc Mỹ đã trở thành một chủ đề của truyền thuyết đáng sợ trong những người định cư châu Âu của Bắc Mỹ. Tại Bắc Mỹ có câu chuyện Gấu già hai ngón, một con gấu xám Bắc Mỹ khắp Montana, bắt đầu vào năm 1898 khi một người khai thác mỏ đặt bẫy gấu gần mỏ của ông ta. Sáng hôm sau, bẫy bị mất và vết máu dẫn vào rừng. Lần theo vết máu và phát hiện một con gấu xám khổng lồ đang nằm im trong đám cây rừng. Nghĩ nó đã chết, người khai mỏ này bỏ cây súng trường của ông ta xuống và rút dao ra, để lóc da con gấu vì bộ lông rất có giá trị. Khi ông tới gần, con gấu tấn công bất thình lình, vồ ông ta đến chết.
Lát sau, một người bạn đến kiểm tra người khai mỏ và phát hiện cái bẫy và ba ngón chân gấu vẫn còn trong đó khi chúng bị nhai đứt do con gấu bướng bỉnh, để lại chỉ hai ngón trên một bàn chân của nó. Một tài xế xe lửa, trở thành nạn nhân tiếp theo của Gấu già hai ngón. Con gấu tình cờ tới trạm xe lửa và bắt đầu ăn thức ăn ở toa của Welsh. Con gấu giết chết Welsh trong khi các thành viên khác trong toa đốt những cây nến Roman để đuổi nó đi. Một nạn nhân nữa, Frenchy Duret, bắt con gấu trong bẫy và bắn nó. Hai Ngón chỉ đơn giản là cắn sợi dây xích giữ bẫy đúng chỗ và đánh Duret. Thân thể ông ta được phát hiện sau đó cùng ngày, bị nuốt mất một phần.
Gấu đen.
Gấu đen hiếm khi được đánh giá là quá nguy hiểm. Gấu đen hiếm khi tấn công khi đối mặt với con người, và thường chủ yếu là gầm gừ dọa dẫm. Mặc dù một con gấu lớn là có khả năng giết chết người, gấu đen Mỹ thường tránh đối đầu với con người khi có thể. Không giống như gấu xám Bắc Mỹ, mà đã trở thành một chủ đề của truyền thuyết đáng sợ trong những người định cư châu Âu ở Bắc Mỹ, gấu đen hiếm khi bị đánh giá là quá nguy hiểm, mặc dù chúng sống ở những nơi có những người đầu tiên định cư. Gấu đen hiếm khi tấn công khi đối mặt với con người, và thường tự giới hạn mình với việc gầm gừ dọa dẫm, phát ra những tiềng ồn phì phò và đập mạnh vào mặt đất bằng bàn tay trước. Tuy nhiên, theo Stephen Herrero trong tác phẩm "Gấu tấn công: Nguyên nhân và cách tránh", 23 người đã bị giết bởi gấu đen từ năm 1900 đến năm 1980. Số lượng các cuộc tấn công con gấu đen trên con người là cao hơn so với loài gấu nâu ở Bắc Mỹ, mặc dù điều này phần lớn là do số lượng loài gấu đen nhiều hơn đáng kể so với gấu nâu chứ không phải là hung hăng hơn.
So với các cuộc tấn công con gấu nâu, các cuộc đối đầu bạo lực với gấu đen hiếm khi dẫn đến chấn thương nghiêm trọng. Tuy nhiên, phần lớn các cuộc tấn công con gấu đen có xu hướng được thúc đẩy bởi cơn đói bụng chứ không phải là do tập tính lãnh thổ, và do đó nạn nhân có một xác suất sống sót qua các trận đánh lại hơn là chịu thua. Không giống như gấu nâu, gấu đen cái không biểu thị cùng một mức độ cho sự bảo vệ đàn con, và hiếm khi tấn công con người trong vùng lân cận của chúng. Những con gấu đen cái sẽ dữ tợn hơn để bảo vệ cho đàn con của chúng nhưng hiếm khi tấn công con người sẽ ở gần chúng. Tuy nhiên, đôi khi, cuộc tấn công của các con gấu mẹ để bảo vệ xảy ra. Sự cố tử vong tồi tệ nhất được ghi nhận xảy ra ở tháng 5 năm 1978, trong đó một con gấu đen giết chết ba thiếu niên trong khi ba anh chàng này đang câu cá ở Công viên Algonquin ở Canada. Một cuộc tấn công khi giải trí đặc biệt khác xảy ra vào tháng 8 năm 1997 tại Công viên Liard River Hot Springs Provincial ở Canada, khi một con gấu đen gầy tấn công một đứa trẻ và người mẹ, giết chết người mẹ cũng như một người đàn ông trưởng thành đã cố gắng can thiệp. Con gấu này đã bị bắn trong khi đang đánh một nạn nhân thứ tư. Đa số các cuộc tấn công có xu hướng xảy ra khi con gấu đen gặp bất ngờ. Vì điều này gấu đen thường được xem là nguy hiểm hơn so với gấu nâu.
Phần lớn các cuộc tấn công xảy ra ở các công viên quốc gia, thông thường gần khu trại, nơi những con gấu đã trở nên quen đến gần con người và thực phẩm bảo quản, đây là nơi nơi những con gấu đã trở thành thói quen dần tiếp xúc của con người và thực phẩm khi con người hay làm vương vãi các thực phẩm mình để lại. Có 1.028 tai nạn do gấu đen gây ra bạo lực đối với con người, 107 trong số đó dẫn đến chấn thương, đã được ghi lại từ 1964-1976 trong Vườn quốc gia Great Smoky Mountains, và xảy ra chủ yếu ở các điểm nóng du lịch, nơi mọi người thường xuyên ăn các đồ ăn mà gấu hay nhặt được. Trong hầu hết các trường hợp nơi mà rác hoặc đồ ăn phế thải trước đây đã thu hút gấu đen không còn, số lượng các cuộc đối đầu bạo lực với những con gấu đen đã giảm nhanh chóng theo thời gian. Tuy nhiên, trong trường hợp của cuộc tấn công trong công viên Liard River Hot Springs nói trên, con gấu tấn công được cho là trước đó gần như hoàn toàn phụ thuộc vào một bãi rác địa phương đã đóng cửa và đã bị đói do mất nguồn thức ăn. Những nỗ lực để di chuyển gấu đen thường không thành công, do gấu đen dường như có thể quay trở lại khu vực phân bố của mình thậm chí không có các dấu hiệu ngoại cảnh quen thuộc.
Thỉnh thoảng, các con vật nuôi, đặc biệt là chó, quấy rối gấu đen, và bị nó giết. Việc sử dụng chó để ngăn cản gấu trong các cuộc tấn công là không được khuyến cáo. Mặc dù những con chó lớn, hung dữ đôi khi có thể làm một con gấu bỏ chạy, nhưng nếu bị ép vào đường cùng, những con gấu giận dữ thường xuyên tấn công lại chó. Khi con gấu đuổi theo chó nuôi có khả năng đe dọa cho mạng sống của cả người và chó. Sự hạn chế của nguồn thực phẩm vào đầu mùa xuân và thiếu cây quả mọng và có hạt hoang dã trong những tháng mùa hè có thể là yếu tố chính để gấu đen thường xuyên kiếm ăn từ các nguồn thực phẩm thương mại dựa trên con người. Những con gấu thường xuyên ăn các cây trồng, đặc biệt là trong sự phàm ăn mùa thu khi thực phẩm tự nhiên khan hiếm. Cây trồng ưa chuộng của chúng bao gồm táo, yến mạch và ngô. Gấu đen có thể làm thiệt hại lớn ở một số vùng phía tây bắc Hoa Kỳ do việc bóc vỏ cây và ăn trên tầng phát sinh.
Việc sát hại động vật nuôi của gấu đen chủ yếu xảy ra vào mùa xuân. Mặc dù gấu đen có khả năng (và đôi khi đã thực hiện) việc săn bắt bò và ngựa trưởng thành, chúng có vẻ thích các con nhỏ hơn, những con mồi dễ dàng bị choáng ngợp hơn như cừu, dê, bê con và lợn. Chúng thường giết mồi bằng cách cắn cổ và vai, mặc dù chúng có thể bẻ gãy cổ hoặc lưng của con mồi với những cú tát từ bàn chân. Bằng chứng về một cuộc tấn công của gấu bao gồm dấu móng vuốt và thường được tìm thấy trên cổ, lưng, vai của các loài động vật lớn hơn. Giết quá số lượng cừu và dê là phổ biến. Gấu đen đã được biết đến là gây ra cảm giác lo sợ cho đàn gia súc trên vách đá, gây thương tích và tử vong cho nhiều loài động vật; mặc dù điều này là có cố ý hay không thì không được biết.
Năm 2009, bốn người Hồi giáo đang ẩn náu trong một hang động gần khu vực Kasmir thì gặp một con gấu đen to lớn. Mặc dù họ được trang bị súng trường AK-47 nhưng hai trong số người đàn ông đã thiệt mạng còn người thứ 3 bị thương. Không chỉ có thế vào tháng 5/2013, một vài con gấu đã tấn công một ngôi làng ở bang Orissa, giết chết tám người trước khi bị khống chế hoàn toàn.
Gấu ngựa.
Mặc dù động vật thường nhút nhát và thận trọng, gấu đen châu Á hay còn gọi là gấu ngựa tích cực tấn công con người hơn hơn so với gấu nâu lục Á-Âu. Gấu nâu hiếm khi tấn công con người cao trên tầm nhìn của chúng và thường tránh người. Tuy nhiên họ không thể đoán trước trong tính khí, và sẽ tấn công nếu họ bị kích động hay cảm thấy bị đe dọa. Trong một số khu vực của Ấn Độ và Miến Điện, gấu lười khiến người ta có nhiều lo sợ hơn hổ, do tính khí thất thường và không thể đoán trước của chúng.
Gấu đen Himalaya là một động vật hoang dã, đôi khi tấn công ngườimà không có hành động khiêu khích và gây những vết thương khủng khiếp, nói chung chúng dùng đầu và mặt bằng móng vuốt do đó không phải là chuyện lạ khi nhìn thấy những người đàn ông bị xé xác một số có da đầu bị rách từ đầu, và nhiều vận động viên đã bị giết bởi những con gấu này. Khi tấn công con người, gấu đen sẽ đứng lên trên hai chân sau và đập nạn nhân hơn với bàn chân trước của chúng. Sau đó họ thực hiện một hoặc hai vết cắn trên một cánh tay hoặc chân và kết thúc với một cú táp vào đầu, đây là phần nguy hiểm nhất của cuộc tấn công.
Ở Ấn Độ, các cuộc tấn công vào con người đã gia tăng hàng năm và đã xảy ra chủ yếu ở khu vực Himalaya phía tây bắc và phía tây. Ở quận Chamba của Himachal Pradesh, số lượng các cuộc tấn công của con gấu đen trên con người đã dần dần tăng lên từ 10 đến 21 trong những năm 1988-1989 trong năm 1991-1992. Cuộc tấn công con gấu gần đây đối với con người đã được báo cáo từ Junbesi và Vườn Quốc gia Langtang ở Nepal, và xảy ra trong làng cũng như trong khu rừng xung quanh. Chín người đã bị giết bởi gấu đen ở Nhật Bản giữa 1979-1989 và gần đây hơn, vào tháng 9 năm 2009 đã có báo cáo rằng một con gấu đen tấn công một nhóm khách du lịch, bị thương nặng bốn người trong khi họ đang chờ đợi tại một trạm xe buýt trong xây dựng lên khu vực của Takayama, Gifu ở miền trung Nhật Bản.
Gấu lợn.
Ở Ấn Độ, thì có con gấu lợn Mysore, tương đối nhỏ nhưng rất hung tợn chỉ sống ở bán lục địa Ấn Độ. Vì những lý do chưa được biết tới, một con gấu lợn đã tấn công ít nhất 36 người, giết chết 12 người. Một số nạn nhân của nó bị ăn một phần và mặt bị xé rách từ sọ đầu. Những người sống sót cũng không tốt hơn, vì mắt và mũi đều bị mất. Con gấu sau bị Kenneth Anderson giết bằng một phát súng vào giữa ngực. Mới đây nhất là vụ gấu tấn công người ở Tamil Nadu (Ấn Độ) khi anh này vừa cứu con vật ra khỏi giếng. Hai nhân viên bảo vệ rừng dùng lưới cứu con gấu nhưng Vừa lên khỏi mặt giếng, gấu lao vào cắn ân nhân.
Trong lịch sử.
Một số vụ việc có thể kể đến như tại Bắc Mỹ có câu chuyện Gấu già hai ngón, một con gấu xám Bắc Mỹ khắp Montana, bắt đầu vào năm 1898 khi một người khai thác mỏ đặt bẫy gấu gần mỏ của ông ta. Sáng hôm sau, bẫy bị mất và vết máu dẫn vào rừng. Lần theo vết máu và phát hiện một con gấu xám khổng lồ đang nằm im trong đám cây rừng. Nghĩ nó đã chết, khi ông tới gần, con gấu tấn công bất thình lình, vồ ông ta đến chết. Một tài xế xe lửa, trở thành nạn nhân tiếp theo của Gấu già hai ngón, con gấu tình cờ tới trạm xe lửa và bắt đầu ăn thức ăn ở toa của Welsh. Con gấu giết chết Welsh trong khi các thành viên khác trong toa đốt những cây nến Roman để đuổi nó đi. Một nạn nhân nữa, Frenchy Duret, bắt con gấu trong bẫy và bắn nó. Hai Ngón chỉ đơn giản là cắn sợi dây xích giữ bẫy đúng chỗ và đánh Duret.
Ở Ấn Độ, thì có con gấu lợn Mysore, tương đối nhỏ nhưng rất hung tợn chỉ sống ở bán lục địa Ấn Độ. Vì những lý do chưa được biết tới, một con gấu lợn đã tấn công ít nhất 36 người, giết chết 12 người. Một số nạn nhân của nó bị ăn một phần và mặt bị xé rách từ sọ đầu. Những người sống sót cũng không tốt hơn, vì mắt và mũi đều bị mất. Con gấu sau bị Kenneth Anderson giết bằng một phát súng vào giữa ngực.
Con Gấu quỷ Kesagake ở làng Sankebetsu, Hokkaido (Nhật Bản) vào năm 1915 thường tới làng Sankebetsu để ăn trộm ngô, gây nhiều phiền toái nên từng bị người dân bắn thương. Kesagake xuất hiện trở lại để trả thù. Nó xông vào ngôi nhà của vợ chồng nông dân Ota trong lúc chỉ có người vợ và đứa con nhỏ ở nhà và tàn sát gia đình. 30 người đàn ông vào rừng săn tìm Kesagake và bắn trọng thương nó nhưng sau đó, nó tấn công vào ngôi nhà của nông dân Miyoke. Tất cả mọi người trong gia đình đều bị phanh thây, bao gồm hai trẻ em và một phụ nữ mang thai. Chỉ trong 2 ngày, 6 mạng người đã bị Kesagake giết và một số người trong đoàn săn gấu đã bị con ác thú đẩy xuống sông làm cho chết đuối, một số khác chịu những vết thương nặng và cũng lìa đời sau đó ít ngày.
Trên phim ảnh.
Gấu có ngoại hình to lớn và trong các bộ phim kinh dị về loài động vật này thật sự khiến người ta phải kinh sợ khi có điểm chung là những màn xé xác đối tượng thành nhiều mảnh hoặc các nhân vật bị gấu tấn công, hành hạ một cách đầy dày vò và thô bạo, điểm chung là những con gấu tấn công người trong phim này phần lớn là những con gấu xám (Grizzly): | 1 | null |
Tân Uyên là một thành phố nằm ở phía đông tỉnh Bình Dương, Việt Nam.
Địa lý.
Thành phố Tân Uyên nằm ở phía đông tỉnh Bình Dương, có sông Đồng Nai chảy qua và có vị trí địa lý:
Thành phố Tân Uyên có diện tích 191,76 km², dân số năm 2022 là 466.053 người, mật độ dân số đạt 2.430 người/km².
Lịch sử.
Dưới thời Pháp thuộc, Tân Uyên là một quận của tỉnh Biên Hòa, gồm 3 tổng Chánh Mỹ Hạ, Chánh Mỹ Trung và Phước Vĩnh Hạ. Quận lỵ đặt tại làng Uyên Hưng, tổng Chánh Mỹ Trung.
Năm 1959, chính quyền Việt Nam Cộng hòa thành lập tỉnh Phước Thành từ phần đất của quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa và một phần các tỉnh Bình Dương, Phước Long, Long Khánh. Tỉnh lỵ tỉnh Phước Thành đặt tại Phước Vĩnh.
Năm 1965, tỉnh Phước Thành giải thể, quận Tân Uyên được sáp nhập trở lại vào tỉnh Biên Hòa.
Năm 1972, quận Tân Uyên gồm 14 xã: An Thành, Bình Hòa, Bình Chánh, Mỹ Hòa, Mỹ Quới, Tân Ba, Phước Thành, Thạnh Hội, Uyên Hưng, Tân Tịch, Thường Lang, Tân Hòa, Tân Hiệp, Tân Hòa Khánh; quận lỵ đặt tại xã Uyên Hưng.
Về phía chính quyền Cách mạng, trong khoảng thời gian từ tháng 5 năm 1951 đến cuối năm 1954 và từ tháng 9 năm 1960 đến tháng 7 năm 1961, tỉnh Biên Hòa sáp nhập với tỉnh Thủ Dầu Một thành tỉnh Thủ Biên. Lúc này, huyện Tân Uyên thuộc tỉnh Thủ Biên.
Năm 1974, huyện Tân Uyên được giao về tỉnh Thủ Dầu Một.
Từ năm 1976 đến nay.
Từ năm 1976, tỉnh Thủ Dầu Một hợp nhất với tỉnh Bình Phước và 3 xã An Bình, Bình An, Đông Hòa thuộc huyện Thủ Đức thành tỉnh Sông Bé, lúc này huyện Tân Uyên thuộc tỉnh Sông Bé.
Ngày 11 tháng 3 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 55-CP. Theo đó, chuyển 4 xã: Bình Mỹ, Tân Bình, Phước Hòa, Phú Hưng thuộc huyện Phú Giáo vừa giải thể và 3 xã: Tân Phước Khánh, Tân Phú Hiệp, Tân Vĩnh Hiệp thuộc huyện Châu Thành vừa giải thể về huyện Tân Uyên quản lý.
Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, huyện Tân Uyên bao gồm 16 xã: An Long, Bạch Đằng, Bình Mỹ, Khánh Bình, Lạc An, Phú Hưng, Phước Hòa, Tân Bình, Tân Long, Tân Mỹ, Tân Phú Hiệp, Tân Phước Khánh, Tân Vĩnh Hiệp, Thái Hòa, Thạnh Phước và Thường Tân.
Từ tháng 11 năm 1975, thành lập 2 xã: Hội Nghĩa, Tân Phú và sau đó là Tân Lập, Tân Định, Tân Thành và Tân Lợi thuộc các vùng kinh tế mới.
Ngày 4 tháng 12 năm 1985, hợp nhất 2 xã Tân Lợi và Tân Thành thành xã Tân Thành.
Ngày 29 tháng 8 năm 1994, hợp nhất 2 xã Phú Hưng và Tân Phú thành thị trấn Uyên Hưng, chia xã Tân Phú Hiệp thành 2 xã: Phú Chánh và Vĩnh Tân.
Cuối năm 1995, huyện Tân Uyên bao gồm thị trấn Uyên Hưng và 20 xã: An Long, Bạch Đằng, Bình Mỹ, Hội Nghĩa, Khánh Bình, Lạc An, Phú Chánh, Phước Hòa, Tân Bình, Tân Định, Tân Lập, Tân Long, Tân Mỹ, Tân Phước Khánh, Tân Thành, Tân Vĩnh Hiệp, Thái Hòa, Thạnh Phước, Thường Tân, Vĩnh Tân.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, tỉnh Sông Bé chia thành 2 tỉnh Bình Dương và Bình Phước, huyện Tân Uyên trực thuộc thuộc tỉnh Bình Dương. Đồng thời, thị trấn Phước Vĩnh và 5 xã: An Bình, An Linh, Phước Sang, Tân Hiệp, Vĩnh Hòa thuộc huyện Đồng Phú được sáp nhập vào huyện Tân Uyên. Huyện Tân Uyên có 2 thị trấn: Uyên Hưng (huyện lỵ), Phước Vĩnh và 25 xã: An Bình, An Linh, An Long, Bạch Đằng, Bình Mỹ, Hội Nghĩa, Khánh Bình, Lạc An, Phú Chánh, Phước Hòa, Phước Sang, Tân Bình, Tân Định, Tân Hiệp, Tân Lập, Tân Long, Tân Mỹ, Tân Phước Khánh, Tân Thành, Tân Vĩnh Hiệp, Thái Hòa, Thạnh Phước, Thường Tân, Vĩnh Hòa, Vĩnh Tân.
Ngày 28 tháng 5 năm 1997, thành lập thị trấn Tân Phước Khánh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của xã Tân Phước Khánh.
Cuối năm 1998, huyện Tân Uyên bao gồm 3 thị trấn: Uyên Hưng, Phước Vĩnh, Tân Phước Khánh và 24 xã: An Bình, An Linh, An Long, Bạch Đằng, Bình Mỹ, Hội Nghĩa, Khánh Bình, Lạc An, Phú Chánh, Phước Hòa, Phước Sang, Tân Bình, Tân Định, Tân Hiệp, Tân Lập, Tân Long, Tân Mỹ, Tân Thành, Tân Vĩnh Hiệp, Thái Hòa, Thạnh Phước, Thường Tân, Vĩnh Hòa, Vĩnh Tân.
Ngày 23 tháng 7 năm 1999, tách thị trấn Phước Vĩnh và 8 xã: Vĩnh Hòa, An Bình, An Linh, Tân Hiệp, Phước Sang, Phước Hòa, An Long, Tân Long để tái lập huyện Phú Giáo.
Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, huyện Tân Uyên còn lại 61.117 ha diện tích tự nhiên và 115.104 người với 18 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 2 thị trấn: Uyên Hưng (huyện lỵ), Tân Phước Khánh và 16 xã: Bạch Đằng, Bình Mỹ, Hội Nghĩa, Khánh Bình, Lạc An, Phú Chánh, Tân Bình, Tân Định, Tân Lập, Tân Mỹ, Tân Thành, Tân Vĩnh Hiệp, Thái Hòa, Thạnh Phước, Thường Tân, Vĩnh Tân.
Ngày 17 tháng 11 năm 2004, Chính phủ ban hành Nghị định số 190/2004/NĐ-CP. Theo đó:
Ngày 11 tháng 8 năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 36/NQ-CP. Theo đó:
Ngày 1 tháng 11 năm 2012, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định số 1007/QĐ-BXD về việc công nhận thị trấn Uyên Hưng mở rộng là đô thị loại IV.
Cuối năm 2012, huyện Tân Uyên có 22 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 3 thị trấn: Uyên Hưng (huyện lỵ), Tân Phước Khánh, Thái Hòa và 19 xã: Bạch Đằng, Bình Mỹ, Đất Cuốc, Hiếu Liêm, Hội Nghĩa, Khánh Bình, Lạc An, Phú Chánh, Tân Bình, Tân Định, Tân Hiệp, Tân Lập, Tân Mỹ, Tân Thành, Tân Vĩnh Hiệp, Thạnh Hội, Thạnh Phước, Thường Tân, Vĩnh Tân.
Ngày 29 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 136/NQ-CP. Theo đó:
Sau khi thành lập, thị xã Tân Uyên có 19.249,20 ha diện tích tự nhiên và 190.564 người với 12 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 6 phường và 6 xã.
Ngày 20 tháng 11 năm 2018, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định số 1504/QĐ-BXD về việc công nhận thị xã Tân Uyên là đô thị loại III trực thuộc tỉnh Bình Dương.
Ngày 10 tháng 1 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 857/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 2 năm 2020). Theo đó, chuyển 4 xã: Hội Nghĩa, Phú Chánh, Tân Vĩnh Hiệp và Vĩnh Tân thành 4 phường có tên tương ứng.
Ngày 13 tháng 2 năm 2023, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 725/NQ-UBTVQH15 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 10 tháng 4 năm 2023). Theo đó, thành lập thành phố Tân Uyên trên cơ sở toàn bộ 191,76 km² diện tích tự nhiên và 466.053 người của thị xã Tân Uyên.
Hành chính.
Thành phố Tân Uyên có 12 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 10 phường: Hội Nghĩa, Khánh Bình, Phú Chánh, Tân Hiệp, Tân Phước Khánh, Tân Vĩnh Hiệp, Thái Hòa, Thạnh Phước, Uyên Hưng, Vĩnh Tân và 2 xã: Bạch Đằng, Thạnh Hội.
Trong đó, 2 xã Bạch Đằng và Thạnh Hội là 2 cù lao nằm trên sông Đồng Nai.
Kinh tế.
Thành phố Tân Uyên là một trong những đô thị trung tâm ở phía Đông Bắc của tỉnh Bình Dương. Tình hình kinh tế Tân Uyên liên tục tăng trưởng tốt trong vài năm trở lại đây và duy trì ổn định ở mức cao, trung bình đạt trên 13%. Tính đến năm 2020, Tân Uyên đã thu hút gần 4 tỷ USD vốn FDI. Trong cơ cấu kinh tế của Tân Uyên, tỷ trọng công nghiệp chiếm hơn 70%, thương mại – dịch vụ chiếm khoảng 27%. Bình quân mỗi năm, giá trị sản xuất công nghiệp tăng trên 12%, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng trên 18%.
Sự phát triển của nền kinh tế Tân Uyên gắn liền với hoạt động của các khu công nghiệp trên địa bàn như Nam Tân Uyên, VSIP II, Phú Chánh, Uyên Hưng… với khoảng 2.000 doanh nghiệp hoạt động. Dự án khu công nghiệp VSIP III với tổng diện tích dự kiến 1.000 ha sắp được triển khai sẽ thu hút lượng lớn doanh nghiệp, người lao động đến sinh sống, làm việc. Dự án hiện đang là tâm điểm thu hút các nhà đầu tư bất động sản.
Lợi thế gần cảng cũng cho phép Tân Uyên phát triển mạnh công nghiệp. Hiện cảng ICD Thạnh Phước và cảng Sà Lan cách cảng Cát Lái 32km, cách KCN Nam Tân Uyên khoảng 8km về phía Đông, cách cụm cảng quốc tế nước sâu Cái Mép, Phú Mỹ 90km cho phép Tân Uyên thu hút đáng kể lượng hàng hóa trung chuyển của khách hàng tại các khu công nghiệp Bình Dương và Bình Phước.
Hạ tầng - Giao thông.
Tân Uyên có hơn 64 tuyến đường kết nối tới các khu vực trọng điểm của tỉnh Bình Dương và các trung tâm kinh tế của vùng TP.HCM cùng các tỉnh Tây Nguyên. Ngoài các tuyến đường hiện hữu DT 747, DT 746, DT 746B… được nâng cấp, mở rộng, Tân Uyên còn đầu tư thêm nhiều công trình trọng điểm như đường vành đai 4, đường vành đai trong, đường 30-4, phố đi bộ Tân Uyên, tuyến metro Dĩ An – Tân Uyên, metro thành phố mới Bình Dương – Uyên Hưng – Tân Thành… Cùng với đó, trong tương lai, cao tốc TP.HCM – Bình Dương – Bình Phước (tổng chiều dài khoảng 69km, quy mô 6-8 làn xe cao tốc) đi ngang qua Tân Uyên sẽ được triển khai trong giai đoạn trước năm 2030. Đặc biệt, tuyến giao thông huyết mạch 13 từ sẽ được nâng cấp từ 6 lên 8 làn xe. Tuyến đường này kết nối Tân Uyên với TP.HCM và Bình Phước qua tuyến đường DT 746. Những công trình này đóng vai trò tạo động lực cho thị xã Tân Uyên phát triển mạnh về mọi mặt.
Về đường sắt, tuyến đường sắt Dĩ An – Lộc Ninh đi qua thị xã Tân Uyên ở phía Đông Khu liên hợp công nghiệp – dịch vụ – đô thị Bình Dương, giao cắt với nhiều tuyến đường ngang của thị xã.
Về đường thủy, cảng sông Thạnh Phước thuộc địa bàn có quy mô 64ha, gồm 16 cầu cảng có khả năng tiếp nhận sà lan và tàu từ 1.000-2.000 tấn, công suất bốc dỡ đạt khoảng 5 triệu tấn/năm. Ngoài ra còn có các bến thủy chở khách tại cù lao Thạnh Hội và cù lao Bạch Đằng đáp ứng nhu cầu đi lại và du lịch của người dân. | 1 | null |
Goliath là tên một dũng sĩ của dân tộc Philistines trong thời kì chiến tranh dai dẳng giữa người Israel và người Philistines trên vùng đất theo Kinh Thánh là Đất Hứa vào khoảng thế kỉ X trước Công nguyên. Vua của người Israel là Saun đang yếu thế trước người Philistines, nhất là khi người Philistines có Goliath. Goliath có thân hình to lớn và một sức mạnh phi thường. Chưa từng có ai xứng đáng làm kẻ địch của Goliath.
Trận chiến quyết định rồi cũng đến. David là một tráng sĩ trẻ tuổi của người Israel và đã xung phong đánh nhau với Goliath. Khi quân đội hai bên giàn trận, David nhỏ bé đối diện với người khổng lồ Goliath. Goliath khinh thường và nhào đến để đè nát Đavid và băm Đavid ra như bao trận giao chiến khác bằng thanh kiếm khổng lồ. David đối đầu với Goliath bằng một cung nạng và một hòn sỏi nhọn. Chờ cho Goliath lao tới, David bắn hòn sỏi vào ngay đỉnh đầu Goliath. Goliath chết và bị David chặt đầu bởi chính thanh gươm của Goliath.
Người Philistines thua trận thê thảm và bị tàn sát dã man.
Tài khoản Kinh Thánh.
Câu chuyện Gô-li-át trong 1 Sa-mu-ên 17.
Sau-lơ và Người Y-sơ-ra-ên đang đối mặt với Người Phi-li-tin trong Thung lũng Elah. Hai lần một ngày trong 40 ngày, sáng và tối, Goliath, nhà vô địch của người Philistines, xuất hiện giữa chiến tuyến và thách thức dân Y-sơ-ra-ên cử một nhà vô địch của riêng họ để quyết định kết quả trong chiến đấu đơn lẻ, nhưng Saul sợ hãi. David chấp nhận thử thách. Sau-lơ miễn cưỡng đồng ý và đưa ra áo giáp của mình, nhưng David từ chối, chỉ lấy quyền trượng, dây treo và năm viên đá từ một con suối.
Đa-vít và Gô-li-át đối đầu với nhau, Gô-li-át với áo giáp và lao, Đa-vít với cây trượng và cái ná. "Người Phi-li-tin dùng các thần của hắn nguyền rủa Đa-vít", nhưng Đa-vít trả lời: "Hôm nay Đức Giê-hô-va sẽ phó ngươi vào tay ta, ta sẽ đánh bại ngươi, và ta sẽ trao xác chết của đạo quân Phi-li-tin hôm nay cho chim trời và dã thú trên đất; để cả thế gian biết rằng có một vị thần ở Ít-ra-en và toàn thể cộng đồng này biết rằng Thiên Chúa không giải cứu bằng gươm và giáo; vì trận chiến là của Thiên Chúa, và Người sẽ trao ngươi vào tay chúng ta."
David ném một hòn đá từ chiếc ná của mình và trúng vào giữa trán Goliath, Goliath ngã sấp mặt xuống đất, và David chặt đầu hắn. Người Philistine bỏ chạy và bị dân Y-sơ-ra-ên truy đuổi "đến tận Gath và các cổng của Ekron". Đa-vít đặt áo giáp của Gô-li-át trong lều của mình và đưa đầu đến Giê-ru-sa-lem, và Sau-lơ sai Áp-ne mang cậu bé đến cho ông ta. Nhà vua hỏi anh ta là con trai của ai, và David trả lời, "Tôi là con trai của người hầu của ngài Jesse người Bethlehemite."
Thành phần của Sách Samuel.
Sách của Sa-mu-ên, cùng với các sách Giô-suê, Các Quan Xét và Các Vua, tạo thành một lịch sử thống nhất của Israel mà các học giả Kinh thánh gọi là Deuteronomistic History. Ấn bản đầu tiên của lịch sử có lẽ được viết tại triều đình của Vua Giu-đa Josiah (cuối thế kỷ thứ 7 TCN) và ấn bản thứ hai được sửa đổi trong thời kỳ lưu đày (thế kỷ thứ 6 TCN), với những sửa đổi bổ sung trong thời kỳ hậu lưu đày. Có thể thấy dấu vết của điều này trong các mâu thuẫn trong câu chuyện về Goliath, chẳng hạn như giữa 1 Sa-mu-ên 17:54, nói rằng Đa-vít đã mang đầu của Gô-li-át đến Giê-ru-sa-lem, mặc dù theo 2 Sa-mu-ên 5 Giê-ru-sa-lem vào thời điểm đó vẫn là một thành trì của người Giê-bu-sít và không bị chiếm cho đến khi Đa-vít trở thành vua.
Kết cấu truyện kể Gô-li-át.
Câu chuyện Gô-li-át được tạo thành từ bản tường thuật cơ sở với nhiều phần bổ sung có lẽ được thực hiện sau thời kỳ lưu đày: | 1 | null |
Trận chiến đảo Rennell (Tiếng Nhật: レンネル島沖海戦) là trận hải chiến diễn ra từ ngày 29 đến 30 tháng 1 năm 1943 ở khu vực Nam Thái Bình Dương giữa đảo Rennell và Guadalcanal phía nam quần đảo Solomon. Đây là trận hải chiến lớn cuối cùng trong Chiến dịch Guadalcanal giữa Hải quân Hoa Kỳ và Hải quân Đế quốc Nhật Bản thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai.
Trong trận đánh này, các oanh tạc cơ phóng ngư lôi Nhật Bản, để bảo vệ cho cuộc triệt thoái của quân Nhật ra khỏi Guadalcanal, đã mở nhiều cuộc không kích trong hai ngày vào các chiến hạm Hoa Kỳ ở phía nam đảo này. Trong khi đó, các chiến hạm Hoa Kỳ đóng tại vị trí này ngoài việc chặn đánh bất kỳ tàu Nhật nào gần khu vực này còn đảm nhận nhiệm vụ bảo vệ đoàn tàu vận tải đưa lính Mỹ tăng viện đến đảo.
Sau những trận không kích của máy bay Nhật, Hải quân Hoa Kỳ mất một tuần dương hạm hạng nặng, một khu trục hạm bị thương nặng và các chiến hạm còn lại buộc phải rút khỏi phía nam quần đảo Solomon. Việc Hải quân Hoa Kỳ bị đẩy lùi trong trận hải chiến này đã giúp phía Nhật Bản triệt thoái thành công lính Nhật trên đảo Guadalcanal vào ngày 7 tháng 2 năm 1943, chính thức chấm dứt chiến dịch kéo dài 6 tháng trên đảo.
Hoàn cảnh.
Ngày 7 tháng 8 năm 1942, lực lượng Đồng Minh (chủ yếu là Hoa Kỳ) đã đổ bộ lên Guadalcanal, Tulagi và nhóm đảo Nggela (thường được gọi là "nhóm đảo Florida") thuộc quần đảo Solomon. Cuộc đổ bộ này nhằm mục đích đập tan kế hoạch của người Nhật biến quần đảo này thành căn cứ đe dọa tuyến đường vận tải giữa Úc và Hoa Kỳ, đồng thời cũng chiếm luôn quần đảo để làm nơi xuất phát cho các chiến dịch cô lập căn cứ chính của hải quân Nhật là Rabaul và yểm trợ cho quân Đồng Minh trong Chiến dịch New Guinea. Cuộc đổ bộ này đã chính thức mở đầu cho Chiến dịch Guadalcanal kéo dài 6 tháng sau đó.
Nỗ lực tăng viện cuối cùng của quân Nhật cho Guadalcanal (sau nhiều thất bại trong việc đẩy lùi quân Đồng Minh khỏi đảo trước đó) là Trận hải chiến Guadalcanal vào đầu tháng 11 năm 1942. Từ đó, Hải quân Nhật chỉ có thể tiếp tế cho lực lượng trên đảo một cách hạn chế bằng các đoàn tàu chuyển vận, thường là khu trục hạm hoặc tàu ngầm vào ban đêm để tránh máy bay Đồng Minh, được Đồng Minh gọi là "Tốc hành Tokyo". Việc tiếp tế và bổ sung lực lượng không đủ khiến cho từ ngày 7 tháng 12 năm 1942, mỗi ngày có trung bình 50 lính Nhật chết vì suy dinh dưỡng, bệnh tật hoặc các cuộc tấn công của quân Đồng Minh. Ngày 12 tháng 12 năm 1942, Hải quân Nhật đề nghị bỏ Guadalcanal. Ban đầu Lục quân Nhật phản đối với hi vọng vẫn còn có thể tái chiếm Guadalcanal nhưng đến ngày 31 tháng 12, Bộ Tổng tư lệnh Đế quốc Nhật Bản bằng sự phê chuẩn của Thiên Hoàng Hirohito đã đồng ý triệt thoái toàn bộ quân Nhật ra khỏi đảo và thiết lập một tuyến phòng thủ mới cho quần đảo Solomon tại New Georgia.
Cuộc triệt thoái được mang tên Chiến dịch "Ke" (ケ号作戦) và dự tính bắt đầu từ ngày 14 tháng 1 năm 1943. Một yếu tố quan trọng để đảm bảo sự thành công của chiến dịch là chiếm ưu thế trên không. Từ ngày 28 tháng 1 năm 1943, không quân Nhật gia tăng hoạt động để ngăn chặn không quân và các chiến hạm Đồng Minh phá hỏng giai đoạn cuối của kế hoạch triệt thoái. Quân Đồng Minh nhầm tưởng chiến dịch "Ke" là một nỗ lực mới của quân Nhật nhằm tái chiếm Guadalcanal. Cùng thời điểm này, Đô đốc William Halsey, Jr., chỉ huy trưởng quân Đồng Minh tại mặt trận Nam Thái Bình Dương bị các thượng cấp gây áp lực buộc phải thay thế Trung đoàn Thủy quân lục chiến số 2 đã chiến đấu tại Guadalcanal từ tháng 8 bằng lính lục quân. Halsey nhân đó muốn cùng lúc thay thế quân tại Guadalcanal đồng thời ngăn chặn hải quân Nhật yểm trợ cho cuộc tấn công mới của quân Nhật. Ngày 29 tháng 1 năm 1943, Halsey đưa năm lực lượng đặc nhiệm đến nam quần đảo Solomon để bảo vệ đoàn chuyển vận hạm và chặn đánh bất kỳ chiến hạm Nhật nào trong khu vực. Năm lực lượng đặc nhiệm này có tổng cộng hai tàu sân bay, hai tàu sân bay hộ tống, ba thiết giáp hạm, 12 tuần dương hạm và 25 khu trục hạm.
Đoàn chuyển vận hạm được gọi là Nhóm Đặc nhiệm 62.8, bao gồm bốn tàu chở quân và bốn khu trục hạm. Lực lượng trực tiếp bảo vệ đoàn chuyển vận và đi đầu là Lực lượng Đặc nhiệm 18 (Task Force 18 - TF 18) chỉ huy bởi Chuẩn đô đốc Robert C. Giffen bao gồm ba tuần dương hạm hạng nặng USS "Wichita", "Chicago" và "Louisville", ba tuần dương hạm hạng nhẹ "Montpelier", "Cleveland" và "Columbia", hai tàu sân bay hộ tống "Chenango" và "Suwannee" và tám khu trục hạm. Kỳ hạm của TF 18 là chiếc "Wichita". Lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay, chủ lực là chiếc USS "Enterprise" ở vị trí phía sau TF 18 và TG 62.8 khoảng 400 km (250 dặm). Các chiến hạm còn lại cách sau đó khoảng 240 km (150 dặm). Đô đốc Giffen cùng chiếc "Wichita" và hai tàu sân bay hộ tống vừa trở về từ Bắc Phi sau khi tham gia Chiến dịch Bó đuốc. Còn chiếc "Chicago" cũng vừa trở lại chiến đấu sau khi hoàn tất việc sửa chữa những hư hỏng gặp phải tại Trận chiến đảo Savo sáu tháng trước đó.
Diễn biến chiến dịch.
Diễn biến ban đầu.
Để bảo vệ đoàn chuyển vận hiệu quả hơn, TF 18 được giao nhiệm vụ gặp bốn khu trục hạm, đóng tại Tulagi, vào lúc 21 giờ ngày 29 tháng 1 để thực hiện một cuộc rà soát quanh khu vực "The Slot" phía bắc Guadalcanal ngày hôm sau để bảo vệ cho việc dỡ hàng của các chuyển vận hạm tại Guadalcanal. Tuy nhiên các tàu sân bay hộ tống do Đại tá Ben Wyatt chỉ huy di chuyển quá chậm (18 hải lý - 33 km/giờ) nên Giffen không thể theo kịp lịch trình, do đó ông phải buộc lòng để các tàu sân bay hộ tống này lại phía sau với hai khu trục hạm vào lúc 14 giờ ngày 29 tháng 1 và bám theo lịch trình với lực lượng còn lại ở vận tốc 24 hải lý (44 km/giờ).
Lo ngại về khả năng các tàu ngầm Nhật tấn công theo như cảnh báo của tình báo Đồng Minh, Giffen sắp xếp các tuần dương hạm và khu trục hạm theo đội hình chống tàu ngầm chứ không phải đội hình chống không kích. Các tuần dương hạm di chuyển song song theo hai hàng dọc, cách nhau mỗi chiếc 2,3 km (2.500 dặm) với lần lượt "Wichita", "Chicago" và "Louisville" bên phải còn "Montpelier", "Cleveland" và "Columbia" bên trái. Sáu khu trục hạm tạo thành một hình bán nguyệt đường kính 3,2 km (2 dặm) phía trước đoàn tuần dương hạm.
Các tàu ngầm Nhật (hoặc thủy phi cơ) đã phát hiện lực lượng của Giffen trên đường đi và gửi báo cáo về tổng hành dinh hải quân. Chiều ngày 29 tháng 1, theo báo cáo của các tàu ngầm, 16 oanh tạc cơ Mitsubishi G4M "Betty" (thuộc Liên đoàn Bay 705) và Mitsubishi G3M "Nell" (thuộc Liên đoàn Bay 701) trang bị ngư lôi cất cánh từ Rabaul tấn công đoàn tàu của Giffen. Trên đường đi, một chiếc G3M gặp vấn đề động cơ phải quay về. Chỉ huy Liên đoàn 705 là Đại úy Nakamura Tomō còn chỉ huy Liên đoàn 701 là Thiếu tá Hagai Joji.
Ngày 29 tháng 1.
Khi mặt trời lặn, TF 18 hướng về phía tây bắc. Ở vị trí 80 km (50 dặm) phía bắc đảo Rennell và 260 km (160 dặm) phía nam Guadalcanal, nhiều chiến hạm của Giffen bằng radar đã phát hiện nhiều máy bay không xác định cách đội hình 97 km (60 dặm) về phía tây. Do phải giữ im lặng vô tuyến, Giffen đã không đưa bất kỳ mệnh lệnh nào về các đối tượng không xác định đó. Khi mặt trời lặn, các máy bay tuần tra của TF 18 từ các tàu sân bay hộ tống buộc phải hạ cánh do trời tối, khiến cho các tàu chiến của Giffen không còn được bảo vệ ở trên không.
Các máy bay mà radar bắt được tín hiệu chính là 31 oanh tạc cơ phóng ngư lôi Nhật Bản, lúc này đang tập trung ở phía nam TF 18 để có thể tấn công từ hướng đông và bằng cách này giấu mình trong màn đêm còn ngược lại các chiến hạm của Giffen lại lộ rõ hình dạng qua hoàng hôn của chân trời phía tây. Các máy bay của Liên đoàn 705 tấn công trước tiên vào lúc 19 giờ 19 phút tuy nhiên tất cả ngư lôi phóng ra đều không trúng đích mà còn mất một máy bay bởi hỏa lực phòng không từ các tàu chiến của Giffen.
Tin rằng cuộc tấn công đã kết thúc, Giffen lệnh cho các tàu chiến của mình bỏ lối di chuyển zigzag và tiếp tục hướng về Guadalcanal với lộ trình và vận tốc như cũ. Trong khi đó, một trinh sát cơ Nhật Bản bắt đầu thả pháo sáng và phao đèn để đánh dấu lộ trình và vận tốc của TF 18 cho các oanh tạc cơ của Hagai có thể tấn công.
Lúc 19 giờ 38 phút, các máy bay của Liên đoàn 701 phóng hai ngư lôi đánh trúng tuần dương hạm "Chicago", làm cho nó bị thương nặng và sau đó là dừng bất động cộng với ngập nước nặng. Một trái ngư lôi khác trúng tuần dương hạm "Wichita" nhưng không phát nổ. Đổi lại phía Nhật mất hai máy bay do hỏa lực phòng không và Liên đoàn trưởng Hagai (thuộc một trong hai máy bay trên) cũng tử trận trong cuộc tấn công này. Lúc 20 giờ 8 phút, Giffen lệnh cho các tàu của mình xoay hướng, giảm vận tốc xuống còn 15 hải lý (28 km/giờ) và ngừng hỏa lực phòng không. Các máy bay Nhật Bản không còn có thể dựa vào ánh lửa đầu nòng pháo phòng không để phát hiện các tàu chiến nên rời khỏi khu vực vào lúc 23 giờ 55. Trong màn đêm, chiếc "Louisville" ra sức kéo chiếc "Chicago" rời khỏi khu vực trận đánh về hướng nam và được hộ tống bởi các chiến hạm còn lại của TF 18.
Ngày 30 tháng 1.
Halsey ngay lập tức tiến hành các biện pháp để bảo vệ chiếc "Chicago", lệnh cho các hàng không mẫu ham hộ tống luôn phải duy trì máy bay tuần tra, lực lượng đặc nhiệm "Enterprise" hỗ trợ cho việc tuần tra trên và đưa chiếc tàu dắt "Navajo" thay cho "Louisville" làm nhiệm vụ kéo "Chicago" về vào lúc 8 giờ. Từ buổi sáng cho đến 14 giờ chiều, nhiều trinh sát cơ Nhật Bản đã tiếp cận TF 18. Mặc dù bị các máy bay tuần tra Hoa Kỳ đuổi đánh, các trinh sát cơ này cũng đã kịp ghi nhận và báo cáo lại vị trí của chiếc "Chicago". Lúc 12 giờ 15, một lực lượng gồm 11 oanh tạc cơ phóng ngư lôi của Liên đoàn bay 751 Nhật Bản, căn cứ tại Kavieng và bay ngang Buka đã được triển khai để tấn công chiếc tuần dương hạm đang bị thương. Một quan sát viên bờ biển người Úc tại quần đảo Solomon đã cảnh báo quân Hoa Kỳ về các oanh tạc cơ trên và ước tính khi chúng đến mục tiêu là 16 giờ. Tuy nhiên, Halsey thay vì giữ lực lượng mạnh bảo vệ "Chicago" đã lệnh cho các tuần dương hạm còn lại để chiếc "Chicago" ở lại phía sau và hướng về Efate tại New Hebrides. Các tàu chiến khởi hành lúc 15 giờ, chỉ để lại sáu khu trục hạm bảo vệ "Chicago" và "Navajo".
Vào lúc 15 giờ 40 phút, tàu sân bay "Enterprise" lúc này cách chiếc "Chicago" 69 km đã phóng mười chiến đấu cơ làm nhiệm vụ tuần tra quanh chiếc tuần dương hạm bị thương này. Bốn chiến đấu cơ trong quá trình tuần tra đã phát hiện và bắn rơi một chiếc oanh tạc cơ Nhật làm nhiệm vụ trinh sát. 14 phút sau, radar của "Enterprise" phát hiện ra dấu hiệu những chiếc oanh tạc cơ Nhật đang bay đến nên chiếc tàu sân bay này đã phóng lên thêm mười chiến đấu cơ nữa. Trong khi đó, các tàu sân bay hộ tống gặp vấn đề trong việc cất cánh các máy bay nên đã không tham gia vào trận đánh cho đến tận khi nó kết thúc.
Ban đầu, các oanh tạc cơ Nhật dự tính tấn công "Enterprise" nhưng sau đó đã chuyển hướng sang "Chicago" khi bị sáu chiến đấu cơ tuần tra đuổi đánh. Một số oanh tạc cơ khác của Liên đoàn 751 bị bốn chiến đấu cơ Hoa Kỳ và hỏa lực phòng không từ các khu trục hạm quanh "Chicago" chặn đánh. Hai oanh tạc cơ bị bắn hạ khi chưa kịp làm gì, sáu chiếc khác cùng số phận sau đó nhưng đã kịp phóng ngư lôi. Trong bốn chiếc oanh tạc cơ G4M còn lại, một chiếc mất một động cơ nhưng vẫn quay về được căn cứ, một chiếc hạ cánh tại Munda, New Georgia và ba chiếc còn lại đến sân bay Ballale tại quần đảo Shortland.
Một ngư lôi đánh trúng buồng động cơ trước của khu trục hạm USS "La Vallette", giết chết 22 thủy thủ và làm chiếc tàu bị thương nặng. "Chicago" bị trúng đến bốn ngư lôi, một quả nơi cầu tàu và ba quả vào khu vực động cơ. Hạm trưởng Ralph O. Davis của "Chicago" ra lệnh bỏ tàu, chiếc tàu chìm phần đuôi trước khi chìm hoàn toàn 20 phút sau đó, kéo theo cái chết của 62 thủy thủ. "Navajo" và các khu trục hạm khác đã cứu sống được 1.049 người từ chiếc "Chicago". Các oanh tạc cơ Nhật dự tính tấn công lần cuối cùng nhưng không tìm được vị trí các tàu Hoa Kỳ. Toàn bộ chiến hạm còn lại của TF 18 trong đó có "La Vallette" được chiếc "Navajo" kéo về cảng Espiritu Santo mà không gặp sự cố gì thêm. Khu trục hạm "La Vallette" được sửa chữa cho đến tận ngày 6 tháng 8 năm 1943.
Kết quả.
Phía Nhật Bản đã phóng đại kết quả của cuộc tấn công là đã đánh chìm đến một thiết giáp hạm và ba tuần dương hạm. Trong khi đó phía Hoa Kỳ cố che giấu công chúng việc tuần dương hạm "Chicago" bị chìm và Đô đốc Chester Nimitz dọa "bắn" bất kỳ sĩ quan dưới quyền nào tiết lộ việc việc này cho báo chí. Giffen bị Halsey và Nimitz chỉ trích nặng nề về thất bại này trong báo cáo về khả năng tác chiến của Giffen giai đoạn đó. Mặc dù vậy điều này không ảnh hưởng đến sự nghiệp của Giffen khi ông được giao chỉ huy các lực lượng đặc nhiệm thiết giáp hạm và tuần dương hạm Đồng Minh đến tận năm 1944 và còn được thăng hàm Phó Đô đốc.
Về mục tiêu vận chuyển binh lính của phía Hoa Kỳ, do các máy bay Nhật bận đối phó với TF 18, các chuyển vận hạm Đồng Minh đã hoàn thành suôn sẻ việc thay quân cho lực lượng Thủy quân lục chiến còn lại tại Guadalcanal. Các lực lượng đặc nhiệm còn lại của hải quân Đồng Minh, bao gồm hai lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay, chốt tại Biển San Hô và chuẩn bị đón chặn một cuộc tấn công mới của quân Nhật phía nam quần đảo Solomon.
Trên thực tế, thay vì đổ quân tiếp viện như Đồng Minh dự đoán, quân Nhật đã triệt thoái thành công khỏi Guadalcanal một cách bí mật trong vòng ba đêm giữa ngày 2 và 7 tháng 2 năm 1943 khi TF 18 rút lui khiến cho lực lượng hải quân còn lại của Đồng Minh cực kỳ ít ỏi. Chỉ đến khi chiến dịch thành công, quân Đồng Minh mới nhận ra ý định thực sự của quân Nhật. Tuy nhiên điều này cũng chính thức chấm dứt Chiến dịch Guadalcanal với thắng lợi hoàn toàn thuộc về Đồng Minh và bắt đầu giai đoạn phản công của họ trên chiến trường Thái Bình Dương.
Chú thích.
Ghi chú.
a. Kusaka là chỉ huy trưởng Không Hạm đội 11, đóng tại Rabaul, bao gồm các Liên đoàn bay 701, 705 và 751 đã tham gia vào trận đánh.b. Mặc dù ba tàu sân bay Hoa Kỳ mang theo nhiều hơn 14 chiến đấu cơ, tuy nhiên 14 là số chiến đấu cơ thực sự tham gia vào trận đánh. c. Cuộc tấn công của các máy bay Nhật vào hai ngày 29 và 30 tháng 1 có thể đã làm chết một thủy thủ trên tuần dương hạm "Montpelier".d. Thiệt hại nhân lực của quân Nhật trong trận này ước tính dựa vào số người chết trong mười hai oanh tạc cơ bị bắn hạ mà mỗi oanh tạc cơ Mitsubishi G4M và Mitsubishi G3M thường có số lượng phi hành đoàn từ năm đến bảy người. | 1 | null |
Phim kỳ ảo (tiếng Anh: "fantasy films") là các phim có chủ đề tưởng tượng, không có thực; thường gồm phép thuật, các sự việc hiện tượng siêu nhiên, các sinh vật giả tưởng, hay những thế giới tưởng tượng kỳ ảo. Thể loại phim này khác với phim khoa học viễn tưởng và phim kinh dị, mặc dù chúng có những điểm trùng lặp và chồng chéo. Phim tưởng tượng thường có các yếu tố phép thuật, thần thoại, những điều kỳ diệu, thoát li thực tế, và những thứ phi thường. | 1 | null |
Hoạt hình máy tính hay hoạt hình mô phỏng bằng máy tính (hoạt hình CGI; tiếng Anh: computer animation, còn gọi là computer-generated imagery (CGI)) là quá trình tái tạo ra các hình ảnh hoạt hình sử dụng đồ hoạ máy tính. Thuật ngữ tổng quát hơn là công nghệ mô phỏng hình ảnh bằng máy tính bao gồm cả ảnh tĩnh và ảnh động, trong khi thuật ngữ "hoạt hình máy tính" chỉ dùng để nói đến hình ảnh chuyển động.
Mô tả.
Hoạt hình máy tính hiện đại thường sử dụng đồ hoạ máy tính 3D, mặc dù đồ hoạ máy tính 2D vẫn được sử dụng cho việc dựng hình trong điều kiện băng thông thấp, yêu cầu tốc độ kết xuất (rendering) thời gian thực nhanh hay đòi hỏi phong cách nghệ thuật đặc biệt. Đôi khi mục đích của việc hoạt hình này là hướng đến chính đối tượng sử dụng là máy tính, nhưng cũng có khi là đối tượng khác như phim ảnh.
Về cơ bản, hoạt hình máy tính là công nghệ kế nhiệm kỹ thuật số của kỹ thuật stop motion sử dụng trong hoạt hình truyền thống với các mô hình 3D và hoạt hình từng-khung-hình của hình ảnh minh hoạ 2D. Các hình ảnh hoạt hình tái tạo bằng máy tính dễ kiểm soát hơn do với các quy trình khác vốn dựa trên các điều kiện vật lý, chẳng hạn như xây dựng và kiến tạo các mô hình thu nhỏ cho các cảnh quay cần hiệu ứng hay thuê thêm diễn viên quần chúng cho các cảnh quay có đám đông, bởi vì công nghệ này cho phép xây dựng các hình ảnh không có kỹ thuật nào khác có thể thực hiện được. Nó cũng có thể giúp một họa sĩ đồ hoạ duy nhất sản xuất được các nội dung như vậy mà không cần đến diễn viên, những đạo cụ đắt tiền, hay đồ dùng sân khấu.
Để tạo cho người xem cảm giác hình ảnh đang chuyển động, một hình ảnh sẽ được hiển thị trên màn hình máy tính và liên tục được thay thế bởi một hình ảnh khác gần giống với nó, nhưng có một sự phát triển rất nhỏ về thời gian (thường với tốc độ 24 hoặc 30 khung hình/giây). Kỹ thuật này giống với việc tạo cảm giác hình ảnh chuyển động trên truyền hình và phim điện ảnh.
Với hoạt hình 3D, các đối tượng (mô hình) được xây dựng trên màn hình máy tính (tạo mẫu) và các đối tượng 3D riêng rẽ (như mắt, mũi, xe cộ...) như vậy sẽ được sắp xếp lại với nhau thành hình ảnh hoàn chỉnh bằng một "bộ khung" ảo. Với các đối tượng hoạt hình 2D, các đối tượng riêng lẻ (illustrations) và các lớp trong suốt riêng biệt được sử dụng, có thể sử dụng hoặc không sử dụng kỹ thuật bộ "khung" ảo. Sau đó các bộ phận như chân tay, mắt, miệng, quần áo... của nhân vật được các họa sĩ hoạt hình làm cho chuyển động trên các key frame. Khác biệt dễ nhận thấy giữa key frame truyền thống và key frame máy tính là key frame máy tính được tính toán tự động trên máy tính trong các công đoạn gọi là tweening và chuyển cảnh (morphing). Cuối cùng, hoạt hình sẽ được kết xuất.
Trong hoạt hình 3D, tất cả các khung hình đều phải được kết xuất sau khi quá trình tạo mẫu hoàn tất. Với hoạt hình vector 2D, quá trình kết xuất chính là quá trình minh hoạ chuyển động với các key frame, còn các khung hình tạo bằng kỹ thuật tweening thì chỉ cần kết xuất khi cần thiết. Với các phần trình diễn được chuẩn bị trước, các khung hình đã kết xuất được chuyển đổi sang định dạng hoặc phương tiện khác như phim hay video kỹ thuật số. Các khung hình cũng có thể được kết xuất trong thời gian thực, tức là kết xuất cùng lúc khi đang trình diễn cho người tiêu dùng đầu cuối xem. Hoạt hình băng thông thấp được truyền trên mạng Internet (ví dụ như 2D Flash, X3D) thường sử dụng phần mềm cài đặt trên chính máy của người dùng đầu cuối (nhất là trong trường hợp của Adobe Flash) để kết xuất hình ảnh ngay trong thời gian thực thay vì truyền trực tiếp hay tải trước (pre-load) dữ liệu hoạt hình băng thông cao [về máy của người dùng cuối]. | 1 | null |
Lãnh đạo phe đối lập (,Phu Nam Fai Khan Nai Sapha Phu Thaen Ratsadon) là nhóm chính trị phe thiểu số trong Hạ viện Thái Lan.Tiếp tục Hệ thống Westminster,Thái Lan bắt đầu áp dụng phe đối lập vào năm 1975. Theo Hiến pháp năm 2007 của Thái Lan Lãnh đạo phe đối lập đã được trao vai trò chính thức trong hệ thống chính trị tại Thái Lan. Hiến pháp quy định rằng các Lãnh đạo phe đối lập phải được lựa chọn ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ và nội các được bổ nhiệm.
Để trở thành phe đối lập thì phải hội đủ các tiêu chuẩn sau: Là đảng lớn nhất không có thành viên trong Nội các và phải có trên 1/5 số ghế tại Hạ viện (96 ghế) trên tổng số 480 ghế.Nếu như không hội đủ yêu cấu thì Đảng nào có vị trí thiểu số lớn nhất sẽ được lựa chọn.Và được bổ nhiệm bởi Quốc vương Thái Lan.
Lãnh tụ của phe đối lập cũng có vai trò khác ngoài đứng đầu nội các đối lập của Thái Lan,cũng là thành viên của một số ủy ban được lựa chọn như: Thẩm phán Tòa án Hiến pháp, Ủy viên bầu cử, Thanh tra và ủy viên của Ủy ban quốc gia phòng chống tham nhũng và thành viên của Ủy ban Kiểm toán Nhà nước.
Danh sách lãnh đạo Phe đối lập.
Số trong ngoặc thể hiện nhiệm kỳ. | 1 | null |
Trong lý thuyết đồ thị, tổ hợp độc lập là tập hợp các đỉnh của một đồ thị, sao cho không có đỉnh nào trong đó liên kết với nhau.
Nói cách khác với hai đỉnh bất kì thuộc tổ hợp độc lập không tồn tại cạnh nối giữa hai đỉnh này.
Định nghĩa.
Ta có G=(V,E), S ⊆ V là tổ hợp độc lập, nếu ∀x,y ⊆ S: (x,y) ∉ E.
Tổ hợp độc lập tối đa là một tổ hợp độc lập không thể thêm bất kì đỉnh nào của đồ thị G mà vẫn giữ tính độc lập.
Mức độc lập.
Chỉ số độc lập của đồ thị G là tổng số phần tử của tổ hợp độc lập tối đa. Chỉ số độc lập được ký hiệu α(G). | 1 | null |
Dương Tường (4 tháng 8 năm 1932 – 24 tháng 2 năm 2023), tên đầy đủ là Trần Dương Tường, sinh ngày tại Nam Định , là một nhà văn, nhà báo và dịch giả Việt Nam.
Dương Tường học tiểu học tại Nam Định. Ông học trung học tại Hà Nội tới khi Cách mạng tháng 8 nổ ra. Ông bỏ trường, đi làm liên lạc cho Việt Minh tại Vĩnh Yên. Sau đó ông về đi học lại tại trường Phan Chu Trinh. Được vài tháng ông quay lại theo kháng chiến, làm tuyên truyền và gia nhập bộ đội năm 1949.
Năm 1955, Dương Tường giải ngũ về Hà Nội sinh sống. Từ năm 1955 đến giữa thập niên 1960, Dương Tường là phóng viên tổ Văn xã (văn hóa xã hội) của Thông tấn xã Việt Nam. Từ năm 1967, ông làm biên dịch tại Ủy ban Điều tra tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ ở Việt Nam. Ông về hưu năm 1979.
Ông qua đời ngày 24 tháng 2 năm 2023 tại Bệnh viện Quân y 108, Hà Nội, thọ 90 tuổi.
Sự nghiệp.
Dương Tường là một dịch giả, nhà thơ, nhà phê bình nghệ thuật, phóng viên... trong đó nổi bật nhất là dịch giả của nhiều tác phẩm văn học có giá trị như Cuốn theo chiều gió, Con đường xứ Flandres và tác giả của những bài thơ như Tình khúc 24. Nhiều bài thơ của ông lấy cảm hứng từ chủ nghĩa siêu thực và phong trào tượng trưng.
Ông tự nhận bản thân "một đời ăn nằm với chữ". Về dịch thuật, ông quan niệm "một bản dịch lý tưởng phải là một tác phẩm, trong đó người dịch là đồng tác giả".
Tác phẩm.
Dịch thuật.
Danh sách tác phẩm.
"Chuyển ngữ sang tiếng Việt:"
Ông đã dịch trên 50 tác phẩm của Pháp, Nga, Anh, Hoa Kỳ, Đức, Hy Lạp, Brazil, Nhật Bản, Na Uy:
"Chuyển ngữ từ tiếng Việt:"
Nhận xét.
Nhà báo Phạm Tường Vân, người từng phỏng vấn ông Dương Tường năm 2002 để ghi lại chân dung của một thế hệ đang dần mất đi, viết trên Facebook cá nhân khi ông mất: | 1 | null |
Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2006 là một sự kiện mà theo đó các xoáy thuận nhiệt đới hình thành ở vùng phía tây bắc của Thái Bình Dương. Mùa bão sẽ kéo dài trong suốt năm 2006 với phần lớn các cơn bão hình thành từ tháng 5 đến tháng 11. Bài viết này chỉ đề cập đến các cơn bão hình thành trong phạm vi của Thái Bình Dương ở Bắc Bán Cầu và từ kinh tuyến 100 đến 180 độ. Trong khu vực tây bắc Thái Bình Dương, có 2 cơ quan khí tượng hoạt động độc lập nhau, nên một cơn bão có thể có 2 tên gọi khác nhau. JMA sẽ đặt tên cho một cơn bão khi sức gió duy trì trong vòng 10 phút đạt ít nhất 65 km/h, (40 mph) bất kỳ nơi đây trong vùng đã đề cập trên. Trong khi đó, PAGASA sẽ đặt tên cho một cơn bão khi nó hình thành từ một áp thấp nhiệt đới trong phạm vi giám sát của họ giữa 135°Đ và 115°Đ và giữa 5°B-25°B thậm chí JMA đã đặt tên cho nó. Các áp thấp nhiệt đới được JTWC theo dõi và đặt tên có ký tự "W" phía trước một con số.
Tại Việt Nam bão số 6 (Xangsane) vào Đà Nẵng và số 9 (Durian) vào Nam Bộ gây thiệt hại rất lớn về người và tài sản.
Danh sách bão.
Áp thấp nhiệt đới Agaton.
Cấp bão (Việt Nam): cấp 6 ~ cấp 7 - áp thấp nhiệt đới.
Cấp bão (Nhật Bản): 30 hải lý / 1 giờ - áp thấp nhiệt đới. Áp suất:1000 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): không cảnh báo.
Áp thấp nhiệt đới 01W (Basyang).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 6 ~ cấp 7 - áp thấp nhiệt đới.
Cấp bão (Nhật Bản): 30 hải lý / 1 giờ - áp thấp nhiệt đới. Áp suất:1000 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 30 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới.
Bão Chanchu (Caloy) (Bão số 1).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 14 ~ cấp 15 - bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản): 95 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong. Áp suất:930 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 135 hải lý / 1 giờ - siêu bão cấp 4.
Vào ngày 8 tháng 5, JMA bắt đầu theo dõi một áp thấp nhiệt đới khoảng 175 km (110 dặm) về phía đông bắc của Palau, và sau đó JTWC theo sau phù hợp với việc chỉ định 02W. [14] [15] Vào ngày hôm sau, 02W đã tăng cường thành một cơn bão nhiệt đới, với JMA đặt tên nó là Chanchu. PAGASA cũng đã tuyên bố rằng Chanchu đã vào khu vực của họ, cho tên địa phương là Caloy. Chanchu đạt cường độ bão và đổ bộ vào Samar vào ngày 11 tháng 5, và vài giờ sau, nó tấn công Mindoro ở cường độ bão cấp 2. [14] Khi Chanchu nổi lên Biển Đông, và di chuyển về phía bắc, cơn bão bùng nổ vào cơn bão cấp 4 và đạt cường độ cực đại với gió dài 10 phút 175 km / h (110 dặm một giờ) vào ngày 15 tháng 5. [14] [15 ] [16] Vào ngày 17 tháng 5, Chanchu nhanh chóng suy yếu thành một cơn bão nhiệt đới nghiêm trọng khi nó đổ bộ vào Sán Đầu. Cả JMA và JTWC đã ban hành tư vấn cuối cùng của mình vào ngày 18 tháng 5 vì nó đã trở thành xoáy thuận ngoài nhiệt đới. [14] [15] [16]
Tại Philippines, cơn bão gây ra 41 ca tử vong và tổng cộng 117,6 triệu đô la (thiệt hại 2,15 triệu đô la). [17] Mặc dù Chanchu đã không hạ cánh tại Việt Nam, một số tàu bị chìm và bị mất. Tổng cộng có 18 người, là ngư dân, đã chết. [18] Chanchu cũng là cơn bão mạnh nhất trên hồ sơ Đài quan sát Hồng Kông để vào Biển Đông vào tháng Năm. Chanchu đòi hỏi Tín hiệu Gió mạnh không. 3 ở cả Hồng Kông và Ma Cao. [19] [20] Ở Hồng Kông, tín hiệu lực lượng Gale 8 đáng lẽ phải được nâng lên ít nhất 10 giờ vì các gales bền vững ảnh hưởng đến phần phía Đông của lãnh thổ, nơi gió trung bình hàng giờ đạt 83 km / h, với sức gió đạt trên 100 km / h một số khu vực. Tổng thiệt hại ở Trung Quốc là 7 tỷ yên (872 triệu USD).
Bão Jelawat (Domeng) (Bão số 2).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 8 ~ cấp 9 - bão nhiệt đới.
Cấp bão (Nhật Bản): 40 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới. Áp suất:996 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 45 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới.
Bão Ewiniar (Ester).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 15 - bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản): 100 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong. Áp suất:930 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 130 hải lý / 1 giờ - siêu bão cấp 4.
Vào ngày 29 tháng 6, một sự xáo trộn nhiệt đới dai dẳng đã được JTWC xếp vào loại trầm cảm nhiệt đới trong khi phía đông của Palau. Trầm cảm di chuyển về phía tây bắc và được nâng cấp lên cơn bão nhiệt đới 04W bởi JTWC vào ngày 30 tháng 6. JMA đã chỉ định cơn bão nhiệt đới Ewiniar vào khoảng thời gian đó. Cái tên "Ewiniar" đã được gửi bởi Liên bang Micronesia, và đề cập đến một thần bão truyền thống của Chuuk.
Ewiniar chịu trách nhiệm cho ít nhất 30 ca tử vong ở Trung Quốc, mà nó quét như một cơn bão. Cơn bão dần dần suy yếu khi nó di chuyển trên vùng biển lạnh hơn, và đổ bộ vào Hàn Quốc vào ngày 10 tháng 7 như một cơn bão nhiệt đới nghiêm trọng. Như Ewiniar chuyển trên toàn quốc, nó trôi qua trong vòng 30 dặm (48 km) của Seoul. Cơn bão đã gây ra mưa lớn gây ra lũ lụt và lở đất ở phía nam của đất nước, giết chết ít nhất sáu người. Ewiniar đã trở thành extratropical trên biển Nhật Bản trong cùng một ngày.
Bão Bilis (Florita).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 12 - bão nhiệt đới dữ dội.
Cấp bão (Nhật Bản): 60 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới dữ dội. Áp suất:970 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 50 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới.
Một sự xáo trộn nhiệt đới ở phía đông bắc của Yap đã phát triển đủ đối lưu để được chỉ định một áp thấp nhiệt đới vào ngày 8 tháng 7. Bạo lực tăng cường thành một cơn bão nhiệt đới vào ngày hôm sau, và được gọi là Bão nhiệt đới Bilis bởi JMA. Từ "Bilis", do Philippines đưa ra, có nghĩa là tốc độ hay sự nhanh nhẹn. PAGASA đã điều trị cơn bão này một cách hoạt động trong một thời gian ngắn vào ngày 13 tháng 7, nhưng nó vẫn chính thức là một cơn bão nhiệt đới khi nó di chuyển theo hướng tây-tây bắc về phía Đài Loan. Sau khi di chuyển qua miền bắc Đài Loan, Bilis đổ bộ vào Phúc Kiến, Trung Quốc lúc 12:50 chiều. CST vào ngày 14 tháng 7, suy yếu thành một áp thấp nhiệt đới trong nội địa vào ngày hôm sau. JMA đã mang hệ thống này trở thành trầm cảm nhiệt đới cho đến ngày 17/7. Bilis mang mưa rất lớn, lũ lụt, lở đất và gió mạnh đến Philippines, Đài Loan và các khu vực Trung Quốc, gây ra 672 người chết và 4,4 tỷ USD (2006 USD) thiệt hại .
Bão Kaemi (Glenda).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 13 ~ cấp 14 - bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản): 85 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong. Áp suất:960 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 75 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong cấp 1.
Một áp thấp nhiệt đới hình thành vào ngày 18 tháng 7 gần quần đảo Caroline, nó nhanh chóng tăng cường sức mạnh bão nhiệt đới cùng ngày. Vào ngày 19 tháng 7, cơn bão được JMA đặt tên là Kaemi. Tên chính xác Gaemi đã được gửi bởi Hàn Quốc và là một từ tiếng Hàn cho kiến. Nó đã trở thành một cơn bão nhiệt đới nghiêm trọng vào ngày 20 tháng 7, và sâu hơn vào một cơn bão 24 giờ sau đó. Kaemi đổ bộ vào Jinjiang, Phúc Kiến lúc 3:50 chiều. CST vào ngày 25 tháng 7 như một cơn bão tối thiểu.
Lượng mưa lớn ở Đài Loan gây ra lũ lụt và bốn vết thương nhỏ. Mưa cũng giảm mạnh ở miền bắc Philippines. [24] Cơn bão cũng đã giết chết ít nhất 32 người ở Trung Quốc, trong khi 60 người khác bị mất tích. Tổn thất nông nghiệp ở Đài Loan lên đến 73 triệu Đài tệ (2,2 triệu đô la Mỹ). [25] Tổng thiệt hại từ cơn bão lên đến 450 triệu USD.
Bão Prapiroon (Henry) (Bão số 3).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 12 ~ cấp 13 - bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản): 65 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong. Áp suất:970 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 70 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong cấp 1.
PAGASA đã đặt tên cho một hệ thống ở phía đông của Philippines như là áp thấp nhiệt đới Henry vào ngày hôm sau mà JMA đã công nhận nó là một áp thấp nhiệt đới vào ngày 27 tháng 7. JTWC đã nâng cấp hệ thống này thành một cơn bão nhiệt đới vào sáng ngày 1/8. đã làm như vậy và ban hành Tín hiệu Cyclone nhiệt đới số 1 cùng chiều, và ngay sau khi JMA nâng cấp hệ thống lên Bão nhiệt đới Prapiroon. Cái tên Prapiroon được Thái Lan gửi đến và là tên của một vị thần mưa Thái Lan. JMA đã nâng cấp cơn bão lên một cơn bão nhiệt đới nghiêm trọng vào sáng ngày 2 tháng 8. PAGASA đã ngừng tư vấn về cơn bão ngay sau khi nó rời khỏi khu vực trách nhiệm của mình. JTWC và HKO đã nâng cấp Prapiroon lên một cơn bão vào lúc 3 giờ sáng UTC, trong khi JMA chính thức nâng cấp nó lên một cơn bão lúc 12 giờ tối. UTC (8 giờ tối theo giờ HKT). Prapiroon đòi hỏi Tín hiệu bão nhiệt đới đầu tiên số 8 tại Ma Cao trong năm nay. Tại Hồng Kông, lễ trao cờ tại Quảng trường Golden Bauhinia đã bị hủy do gió mạnh. [26] Prapiroon đổ bộ vào lúc 7:20 chiều. CST vào ngày 3 tháng 8.
Những cơn gió mạnh do bão gây ra 70% các chuyến bay bị hủy bỏ, bị trì hoãn hoặc chuyển hướng tại Sân bay Quốc tế Hồng Kông, cao nhất kể từ khi mở cửa vào năm 1999. Tuy nhiên, sân bay vẫn mở trong suốt hành trình bão và nhiều chuyến bay hạ cánh thành công hoặc cất cánh vào ngày 3 tháng 8. Các chuyến bay nội địa được chuyển hướng đến các sân bay gần đó và các chuyến bay ra nước ngoài bị hủy hoặc hoãn lại. [27] Trên mảnh đất đổ bộ ở tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, nó đã buộc phải sơ tán khoảng 660.000 người và gây thiệt hại khoảng 5,4 tỷ nhân dân tệ Trung Quốc. 77 người đã bị giết chết. [28] Nó cũng ảnh hưởng đến Hồ Nam, Quảng Tây và Hải Nam. Prapiroon bị thoái hóa thành một khu vực có áp lực thấp vào ngày 6 tháng 8.
Áp thấp nhiệt đới Non-NHMS 07 (khí tượng Trung Quốc).
Cấp bão (Việt Nam): không cảnh báo.
Cấp bão (Nhật Bản): không cảnh báo.
Cấp bão (Hoa Kỳ): không cảnh báo.
cấp bão (Trung Quốc): 30 hải lý / 1 giờ - áp thấp nhiệt đới. Áp suất:970 mbar (hPa).
Bão Maria.
Cấp bão (Việt Nam): cấp 13 - bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản): 70 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong. Áp suất:975 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 60 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới.
Maria hình thành từ một áp thấp nhiệt đới trên vùng nước rộng mở của Tây Thái Bình Dương. Vào ngày 5 tháng 8, JMA đã phân loại trầm cảm như một cơn bão nhiệt đới trong khi JTWC giữ nó như một sự trầm cảm. [29] [30] Cơn bão nhanh chóng tăng cường thành một cơn bão vào ngày hôm sau, đạt cường độ đỉnh cao với vận tốc gió 130 km / h (80 dặm / giờ) vào đầu tháng 8. Cơn bão dần yếu đi khi nó bắt đầu tái phát, khiến nó song song với bờ biển phía đông nam Nhật Bản . Vào ngày 9 tháng 8, Maria đã suy yếu thành một áp thấp nhiệt đới và sau đó trở thành một cơn bão nhiệt đới trước khi tan biến vào ngày 15 tháng 8. [29] Maria chỉ có những tác động nhỏ ở Nhật Bản, chủ yếu là những trận mưa lớn, ước tính đã đạt đỉnh trên 400 mm (15,7 in) trên bán đảo Izu. [31] Một người đã bị giết sau khi bị sét đánh và sáu người khác bị thương. [32] [33] [34]
Bão Saomai (Juan).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 17 - bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản): 110 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong. Áp suất:920 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 140 hải lý / 1 giờ - siêu bão cấp 5.
JTWC đã xác định một áp thấp nhiệt đới gần quần đảo Caroline vào cuối ngày 4 tháng 8 UTC. JMA đã chỉ định nó vào lúc 12 giờ sáng theo giờ UTC ngày 5 tháng 8. Chín giờ sau, JTWC nâng cấp áp thấp nhiệt đới 08W lên cơn bão nhiệt đới, ba giờ trước khi JMA đặt tên là Saomai. Tên là từ tiếng Việt "sao Mai", có nghĩa là "Sao Mai", [35] ám chỉ đến hành tinh Kim tinh.
JTWC đã chỉ định cho nó một cơn bão vào lúc 3 giờ chiều. UTC ngày 6 tháng 8. JMA nâng cấp Saomai lên một cơn bão nhiệt đới nghiêm trọng lúc 6 giờ tối. UTC, và khi nó tiếp tục tăng cường, nó đã được nâng cấp lên một cơn bão chỉ 12 giờ sau đó. Saomai đã đi vào Khu vực Trách nhiệm của PAGASA vào ngày 8 tháng Tám và được đặt tên là Typhoon Juan bởi PAGASA. Vào ngày 8 tháng 8, cơn bão đã trải qua sự phát triển bùng nổ, và đến ngày 9 tháng 8 nó đã trở thành cơn bão siêu hạng tương đương loại 5.
Saomai đã đổ bộ vào Chiết Giang, Trung Quốc vào ngày 10 tháng 8 với sức gió duy trì tối đa 115 hải lý (trung bình 1 phút), mạnh hơn Chanchu hồi đầu mùa này. Saomai chịu trách nhiệm cho ít nhất 458 ca tử vong, chủ yếu ở Trung Quốc, và thiệt hại 2,5 tỷ đô la (2006 USD).
Tên bão Saomai đã bị khai tử và bị đổi thành Sontinh.
Bão Bopha (Inday) (Bão số 4).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 10 ~ cấp 11 - bão nhiệt đới dữ dội.
Cấp bão (Nhật Bản): 55 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới dữ dội. Áp suất:980 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 55 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới.
Bão Wukong.
Cấp bão (Việt Nam): cấp 10 ~ cấp 11 - bão nhiệt đới dữ dội.
Cấp bão (Nhật Bản): 50 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới dữ dội. Áp suất:980 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 55 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới.
Bão Sonamu (Katring).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 8 ~ cấp 9 - bão nhiệt đới.
Cấp bão (Nhật Bản): 35 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới. Áp suất:992 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 45 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới.
Áp thấp nhiệt đới 13W.
Cấp bão (Việt Nam): cấp 6 - áp thấp nhiệt đới.
Cấp bão (Nhật Bản): không cảnh báo.
Cấp bão (Hoa Kỳ): 30 hải lý / 1 giờ - áp thấp nhiệt đới. Áp suất:1000 mbar (hPa).
Bão Ioke.
Cấp bão (Việt Nam): cấp 17 - bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản): 110 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong. Áp suất:915 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 140 hải lý / 1 giờ - siêu bão cấp 5.
Vào ngày 27 tháng 8, cơn bão Ioke, ở Trung tâm Thái Bình Dương, đã vượt qua Tuyến ngày Quốc tế và vào Khu vực Trách nhiệm của Cơ quan Khí tượng Nhật Bản vào khoảng 6 giờ sáng giờ UTC, giữ tên của nó trong khi được phân loại lại thành Typhoon Ioke. Ioke trước đó đã ảnh hưởng đến đảo san hô Johnston. Vào ngày 31 tháng 8, trung tâm của cơn bão băng qua rất gần Đảo Wake; 200 người đã được sơ tán khỏi đó trước khi tiếp cận nó. [45] Typhoon Ioke sau đó đi qua phía đông bắc của Minami Torishima, nơi đã được sơ tán trước cơn bão, nhưng như một cơn bão tương đương loại 3 bị suy yếu. Ioke sau đó quay về phía đông bắc, suy yếu khi nó bắt đầu trải qua quá trình chuyển đổi extratropical. JMA đã đưa ra lời khuyên cuối cùng vào ngày 7 tháng 9. Những tàn dư ngoại lai của Ioke đã di chuyển vào Biển Bering, nơi nó gây ra xói mòn bãi biển nghiêm trọng dọc theo bờ biển phía tây Alaska. [46]
Bão nhiệt đới SSHWS.
Cấp bão (Việt Nam): không cảnh báo.
Cấp bão (Nhật Bản): không cảnh báo.
Cấp bão (Hoa Kỳ): 40 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới. Áp suất:999 mbar (hPa).
Bão Shanshan (Luis).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 15 ~ cấp 16 - bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản): 110 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong. Áp suất:920 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 120 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong cấp 4.
Đài thiên văn Hồng Kông đã xác định một áp thấp nhiệt đới cách Yap khoảng 460 km về phía bắc vào ngày 9 tháng 9, cùng ngày JMA nhận ra nó. JTWC tuyên bố sự hình thành của suy thoái nhiệt đới 14W vào ngày hôm sau. Vào chiều ngày 10 tháng 9, nó vào PAGASA AOR và được đặt tên là Luis. Sau đó lúc 12 giờ tối UTC cùng ngày, JMA nâng cấp áp thấp nhiệt đới lên Tropical Storm Shanshan. Cái tên Shanshan được Hong Kong đóng góp và là tên của một cô gái. Shanshan nhanh chóng tăng cường và được nâng cấp thành một cơn bão nhiệt đới nghiêm trọng vào ngày 11 tháng 9 và một trận bão vào cuối ngày hôm đó. Shanshan suy yếu một chút vào ngày 14 tháng 9, nhưng nhanh chóng được tăng cường và đạt được trạng thái Hạng 4 trên thang đo của JTWC. Sơn Sơn đã đi qua Quần đảo Yaeyama vào những giờ sáng sớm ngày 16 tháng 9. JTWC báo cáo rằng Sơn Sơn đã trở nên ngoại lai sớm vào ngày 17 tháng 9, khi cơn bão suy yếu đến một cơn bão nhiệt đới. JTWC đã ban hành tư vấn cuối cùng về Shanshan sau ngày hôm đó, và JMA đã ban hành lời khuyên cuối cùng của nó vào ngày 18 tháng 9, sau khi Shanshan hoàn thành quá trình chuyển đổi ngoài nhiệt đới.
Khi Shanshan gần Đài Loan, Cục thời tiết Trung ương và các quan chức địa phương cảnh báo về lũ lụt và gió lớn. Tuy nhiên, khi Shanshan quay sang Nhật Bản, tất cả các cảnh báo đã bị hủy bỏ. Các nhà dự báo Hàn Quốc cũng đã ban hành các cảnh báo trước một dự kiến hạ cánh, nhưng điều này đã không xảy ra. Các tàu được chuyển hướng khi các cảng đóng cửa để phòng ngừa, trong khi một số tàu thuyền khác bị buộc phải neo đậu. Tại Nhật Bản, hơn 90.000 người đã được sơ tán khỏi tỉnh Yamaguchi.
Hơn 200 người bị thương bởi Sơn Sơn và 11 người thiệt mạng, chủ yếu ở Kyūshū, mặc dù hai người chết đã được báo cáo tại Hàn Quốc. Một cơn lốc xoáy sinh ra bởi cơn bão gây ra một trật bánh tàu ở Nobeoka, Miyazaki, Nhật Bản mà không gây tử vong. Đỉnh cao trên Iriomote đạt 155 mph (248 km / h). Các chuyến bay và tàu hỏa bị trì hoãn, trong khi điện bị cắt giảm khoảng 3000 ngôi nhà ở Hàn Quốc. Một con tàu cũng đánh chìm Ulleungdo. [48]
Áp thấp nhiệt đới 15W.
Cấp bão (Việt Nam): không cảnh báo.
Cấp bão (Nhật Bản): không cảnh báo.
Cấp bão (Hoa Kỳ): 30 hải lý / 1 giờ - áp thấp nhiệt đới. Áp suất:1000 mbar (hPa).
Bão Yagi.
Cấp bão (Việt Nam): cấp 16 - bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản): 105 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong. Áp suất:910 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 140 hải lý / 1 giờ - siêu bão cấp 5.
Trung tâm Cảnh báo Typhoon đã xác định một khu vực có thời tiết xáo trộn ở phía đông bắc của Chuuk vào ngày 13 tháng 9. Sự xáo trộn trôi dạt về phía bắc trong vài ngày tới, dần dần gia tăng trong tổ chức. JTWC đã ban hành một Báo cáo Hình thành Cơn bão Nhiệt đới về sự xáo trộn vào ngày 16 tháng 9 và cả JTWC và JMA đã tuyên bố hệ thống này là một áp thấp nhiệt đới vào đầu ngày 17 tháng 9. JMA đã nâng cấp nó lên Tropical Storm Yagi vào sáng hôm sau. Thái Bình Dương, và JTWC nhanh chóng theo sau. Cái tên Yagi được Nhật Bản gửi và có nghĩa là Capricornus (dê). Yagi đã được JMA nâng cấp thành cơn bão nhiệt đới nghiêm trọng vào ngày 18 tháng 9 và JTWC đã chỉ định nó là một cơn bão vào cuối ngày hôm đó. JMA đã chính thức nâng cấp Yagi lên trạng thái bão sớm vào ngày 19 tháng 9. Yagi đã được JTWC nâng cấp một cách nhanh chóng lên cơn bão siêu từ ngày 21 đến ngày 22 tháng 9. Vào ngày 23 tháng 9, JTWC báo cáo rằng Yagi đang trở nên ngoại lai vì nó tiếp tục suy yếu và ban hành cảnh báo cuối cùng vào ngày hôm sau. JMA đã hạ cấp Yagi xuống một cơn bão nhiệt đới nghiêm trọng vào ngày 24 tháng 9. Đây là cơn bão nhiệt đới thứ ba ở lưu vực Tây Bắc Thái Bình Dương đạt trạng thái hạng 5 vào năm 2006. Nó bắt đầu tái phát gần Chichi-jima, và không bao giờ ảnh hưởng đến các khu vực đất lớn. Nó đã trở thành extratropical gần Aleutians phía tây vào ngày 25 tháng 9. tàn dư extratropical của nó vượt qua lưu vực vào ngày 27 tháng 9.
Áp thấp nhiệt đới 17W (Bão số 5).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 8 - bão nhiệt đới.
Cấp bão (Nhật Bản): không cảnh báo.
Cấp bão (Hoa Kỳ): 30 hải lý / 1 giờ - áp thấp nhiệt đới. Áp suất:1000 mbar (hPa).
Bão Xangsane (Milenyo) (Bão số 6).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 14 ~ cấp 15 - bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản): 95 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong. Áp suất:935 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 125 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong cấp 4.
Vào ngày 25 tháng 9, Cơ quan Quản lý Dịch vụ Khí quyển Địa vật lý và Thiên văn học Philippine (PAGASA) đã đặt tên cho một khu vực áp lực thấp đang hoạt động trong phạm vi trách nhiệm của mình là suy thoái nhiệt đới Milenyo. Sau khi ban hành một Cảnh báo Hình thành Cyclone Nhiệt đới trước đó, Trung tâm Cảnh báo Typhoon đã ban hành cảnh báo đầu tiên về Áp thấp nhiệt đới 18W. Vào ngày 26 tháng 9, Cơ quan Khí tượng Nhật Bản đã đặt tên cho hệ thống này là Xangsane. Cái tên Xangsane do Lào gửi và có nghĩa là voi. Cuối ngày hôm đó, JMA nâng cấp Xangsane thành một cơn bão nhiệt đới nghiêm trọng. Sau đó, cả ba cơ quan, JMA, JTWC và PAGASA đều nâng cấp cơn bão lên cơn bão vào cuối ngày 26 tháng 9 hoặc đầu ngày 27 tháng 9. Xangsane đổ bộ vào đảo Samar như một cơn bão nhiệt đới nghiêm trọng.
Cơn bão đã giảm lượng mưa lớn ở Philippines. Để tránh bão, các cơ quan chuyên chở quá cảnh đã lưu giữ biển tại một số cảng trong quần đảo, khiến hơn 3.500 hành khách bị mắc kẹt. [49] Xangsane cũng thúc giục các quan chức Philippines đóng cửa tất cả các trường học, thị trường tài chính và các văn phòng chính phủ trong và xung quanh Manila. Cơn bão đã giết chết hơn 200 người trong cả nước, và tạo ra những cơn gió mạnh và lượng mưa, làm suy giảm đường dây điện và gây ra dòng chảy bùn. Những cơn gió mạnh đã gây ra thiệt hại cây trồng vừa phải lên đến 7,2 triệu USD (2006 USD). [50]
Xangsane đổ bộ vào một cơn bão gần Huế sớm vào ngày 1 tháng 10. JTWC đã ngừng cấp tư vấn ngay sau đó, và JMA đã hạ nó xuống một cơn bão nhiệt đới nghiêm trọng. Xangsane đã giết 71 người tại Việt Nam.
Bão Bebinca (Neneng).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 10 - bão nhiệt đới dữ dội.
Cấp bão (Nhật Bản): 50 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới dữ dội. Áp suất:980 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 35 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới.
Bão Rumbia.
Cấp bão (Việt Nam): cấp 9 - bão nhiệt đới.
Cấp bão (Nhật Bản): 45 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới. Áp suất:985 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 30 hải lý / 1 giờ - áp thấp nhiệt đới.
Bão Soulik.
Cấp bão (Việt Nam): cấp 13 - bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản): 75 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong. Áp suất:955 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 90 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong cấp 2.
Áp thấp nhiệt đới Ompong.
Cấp bão (Việt Nam): không cảnh báo.
Cấp bão (Nhật Bản): không cảnh báo.
Cấp bão (Hoa Kỳ): không cảnh báo.
Cấp bão (philippine): 30 hải lý / 1 giờ - áp thấp nhiệt đới. Áp suất:1000 mbar (hPa).
Bão Cimaron (Paeng) (Bão số 7).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 15 ~ cấp 16 - bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản): 100 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong. Áp suất:920 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 140 hải lý / 1 giờ - siêu bão cấp 5.
Một sự xáo trộn di chuyển theo hướng tây-tây bắc trong hai ngày tới và dần dần được tổ chức tốt hơn, và Trung tâm Cảnh báo Typhoon đã đưa ra một Cảnh báo Hình thành Cơn bão Nhiệt đới trên hệ thống vào ngày 26 tháng 10. hệ thống đã được chỉ định áp thấp nhiệt đới 22W bởi JTWC vào cuối ngày hôm đó. Hệ thống tiếp tục tăng cường, và JTWC nâng cấp nó lên một cơn bão nhiệt đới vào ngày 27 tháng 10. Cơ quan Khí tượng Nhật Bản sau đó đã theo sau và chỉ định hệ thống Cimaron Tropical Storm. Cái tên Cimaron đã được Philippines gửi đi và là một loại bò hoang dã. Hệ thống này nhanh chóng được tăng cường và được JMA nâng cấp lên một cơn bão nhiệt đới nghiêm trọng vào cuối ngày hôm đó. Hệ thống tiếp tục tăng cường nhanh chóng và được nâng cấp lên cơn bão bởi cả JTWC và JMA vào ngày 28 tháng 10. Sự tăng cường sâu hơn xảy ra qua đêm, và cơn bão đã nhanh chóng làm sâu thêm 65 hPa trong 24 giờ, từ 985 hPa đến 920 hPa, khiến JTWC phải nâng cấp nó lên một siêu bão 140 hải lý lúc 9 giờ sáng UTC vào ngày 29 tháng 10. Nó đổ bộ vào khoảng 12:30 chiều. UTC cùng ngày trên Bắc Luzon. Ở đó, đặc biệt là ở tỉnh Isabela, nó đã thổi bay gió tới 195 km / h và gusts lên tới 230 km / h. [62] Trên thực tế, tất cả hoặc một phần của bốn tỉnh (Isabela, Quirino, Cagayan và Aurora) được tuyên bố theo Tín hiệu số 4 khi cơn bão tấn công hòn đảo. [63]
Cimaron sau đó lại tăng cường sau khi vượt qua hòn đảo, nhưng không phải là sức mạnh ban đầu của nó, và được dự kiến sẽ hướng về phía Hải Nam, thay vì di chuyển về phía Việt Nam như dự báo trước đây. Vào ngày 1 tháng 11, JTWC đã nâng cấp cơn bão trở lại cơn bão tương đương loại 3 và dự báo rằng nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến Hồng Kông. Tuy nhiên, các mô hình dự báo cho thấy các dự báo mâu thuẫn, và Cimaron vẫn gần như yên tĩnh và suy yếu đến một cơn bão nhiệt đới nghiêm trọng vào ngày 2 tháng 11. Việc hút khí khô gây ra suy yếu hơn nữa, với JTWC thả nó xuống một cơn bão nhiệt đới tối thiểu lúc 3 giờ chiều. UTC ngày hôm sau. Nó suy yếu hơn nữa, tự nâng lên. JTWC đã đưa ra cảnh báo cuối cùng vào lúc 3 giờ chiều UTC vào ngày 4 tháng 11. JMA tiếp tục tư vấn cho Cimaron cho đến 12 giờ tối theo giờ UTC ngày 6 tháng 11, khi nó bị hạ cấp xuống một áp thấp nhiệt đới yếu.
Cơn bão đã giết chết ít nhất 19 người, nhiều người trong số họ bị chết đuối, và để lại 15 người mất tích ở miền bắc Philippines. Nó cũng giết chết một người phụ nữ và đứa con của mình sau khi cả hai bị tấn công bởi một tấm sắt mạ kẽm ở Dilasag, tỉnh Aurora, là nạn nhân đầu tiên. [64] Hơn nữa thương vong xảy ra khi cơn bão đi qua Luzon. [65] Mặc dù vậy, tuy nhiên, các lớp học ở Metro Manila vẫn không bị đình chỉ. [66] Nó cũng gây thiệt hại ít nhất 9 triệu USD. [67] 90% các ngôi nhà bị hư hại tại một thị trấn ven biển gần nơi Cimaron đổ bộ. [68] Sau hậu quả của cơn bão trên khắp Philippines, Cơ quan Hợp tác Phát triển Quốc tế Thụy Điển đã đóng góp 2,5 triệu krona Thụy Điển (350.000 đô la Mỹ) để hỗ trợ các nỗ lực. [69]
Bão Chebi (Queenie) (Bão số 8).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 14 ~ cấp 15 - bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản): 95 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong. Áp suất:925 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 125 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong cấp 4.
Một khu vực thời tiết bị xáo trộn phát triển về phía đông quần đảo Mariana vào ngày 31 tháng 10 và di chuyển theo hướng tây-tây bắc trong tuần tới mà không có bất kỳ sự gia tăng nào trong tổ chức do môi trường bất lợi cho đến ngày 6 tháng 11. Cơ quan tuyên bố nó là một áp thấp nhiệt đới vào ngày 8 tháng 11. Trung tâm Cảnh báo Typhoon đã ban hành một Cảnh báo Hình thành Cơn bão Nhiệt đới trên hệ thống vào cuối ngày hôm đó, và PAGASA đã đặt tên cho hệ thống Tropical Depression Queenie ngay sau đó. JTWC đã phân loại nó như là áp thấp nhiệt đới 23W sớm vào ngày 9 tháng 11. Theo JTWC, thiếu dòng chảy xích đạo đã ngăn chặn sự tăng cường nhanh chóng của hệ thống. Cuối ngày hôm đó lúc 12 giờ tối UTC, JMA đã nâng cấp nó lên một cơn bão nhiệt đới có tên là Chebi. Tên Jebi, chính tả chính xác có nghĩa là nuốt bằng tiếng Hàn. Cả JTWC và PAGASA đều theo sau phù hợp vào cuối ngày hôm đó. Vào đầu ngày 10 tháng 11, JMA đã nâng cấp Chebi lên một cơn bão nhiệt đới nghiêm trọng khi nó tiếp tục di chuyển về phía tây về phía Philippines, theo sau một ca khúc tương tự như Cimaron Typhoon trước đó trong mùa giải.
Chỉ vài giờ sau đó, JMA đã nâng cấp Chebi từ cơn bão nhiệt đới nghiêm trọng với cơn gió kéo dài 10 phút 55 hải lý đến một cơn bão với sức gió 95 hải lý, với áp lực giảm 40 hPa trong ba giờ. JTWC theo sau phù hợp, tăng cường Chebi từ một cơn bão nhiệt đới với gió kéo dài 1 phút 55 hải lý đến cơn bão tương đương loại 4 lúc 9 giờ sáng theo giờ UTC. PAGASA đã đưa ra Tín hiệu Cảnh báo Bão công cộng số 4 cho ba tỉnh ở Luzon, khiến Chebi là cơn bão thứ hai (cơn bão Cimaron phục vụ như là cơn bão đầu tiên trong năm đó) trong nhiều tuần để buộc Tín hiệu số 4. Sau khi nhanh chóng làm sâu sắc thêm, Chebi suy yếu khi tiếp cận Philippines. Nó đổ bộ lần đầu tiên gần Casiguran, Aurora vào đầu ngày 11 tháng 11, vượt qua vịnh Lingayen và vùng đất thứ hai của nó trên Barangay Lucap, thành phố Alaminos khoảng 8 giờ sau đó.
Gặp phải sự cản trở không khí khô và tăng gió cắt dọc ở Biển Đông, Chebi bắt đầu suy yếu dần dần thành một cơn bão nhiệt đới nghiêm trọng vào ngày 12 tháng 11. Nó tiếp tục suy yếu, quay về phía bắc về phía Hải Nam và bị giáng xuống một cơn bão nhiệt đới vào ngày hôm sau. Vào ngày 14 tháng 11, JMA đã đưa ra lời khuyên cuối cùng về sự trầm cảm nhiệt đới tiêu tan. JTWC đã đưa ra cảnh báo cuối cùng sau cùng ngày khi Chebi tiêu tan dưới sự cắt giảm mạnh mẽ.
Tất cả đã nói, cơn bão gây ra thêm thương vong cũng như thiệt hại gây ra bởi cơn bão Cimaron trước đó. Sau khi đi qua Luzon, nó để lại 1 người chết và 10 người bị thương. [70] Ở tỉnh Aurora, nó gây ra lũ lụt, cắt giảm hệ thống đường bộ của tỉnh, [71] cũng như khả năng hiển thị bằng không, tiếp tục cô lập nó khỏi những nỗ lực cứu trợ. [
Bão Durian (Reming) (Bão số 9).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 16 - bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản): 105 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong. Áp suất:915 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 135 hải lý / 1 giờ - siêu bão cấp 4.
Một khu vực thời tiết xáo trộn phát triển về phía đông nam của Chuuk vào ngày 24 tháng 11. Gió cắt gần sự xáo trộn sớm giảm, cho phép sự trầm cảm để tổ chức một chút. Nó đã được chỉ định là một áp thấp nhiệt đới của Cơ quan Khí tượng Nhật Bản vào ngày 25 tháng 11, và sau đó ngày Trung tâm Cảnh báo Typhoon bắt đầu đưa ra cảnh báo trên hệ thống khi nó di chuyển theo hướng tây-tây bắc về phía Yap. Bệnh trầm cảm được tăng cường bởi vì nó ở trong một khu vực có nhiệt độ cao trên mặt biển, và có những đặc điểm đám mây khác biệt của dòng chảy ngược lại, theo JMA. Nó được nâng cấp thành một cơn bão nhiệt đới vào chiều ngày 26 tháng 11 và đặt tên là Durian. Tên Durian đề cập đến một loại trái cây, "Durio zibethinus", và đã được gửi đến danh sách đặt tên của Thái Lan.
Di chuyển theo hướng tây sang tây-tây bắc, Durian tăng cường từ từ. Nó đã trở thành một cơn bão nhiệt đới nghiêm trọng vào ngày 27 tháng 11, và ngày hôm sau nó được đặt tên là Reming bởi PAGASA khi nó bước vào Khu vực trách nhiệm của Philippines. Sau ngày 28 tháng 11, cả JMA và JTWC đã nâng cấp nó lên một cơn bão khi nó tiếp tục theo dõi Philippines. Một cơn tăng cường nhanh chóng xảy ra vào ngày 29 tháng 11, khiến JMA nâng cấp cơn bão lên 100 hải lý với cường độ gió, và JTWC cho nó một phân loại Dvorak 6,5 (127 kn) trong một sửa chữa vệ tinh. Trong 6 giờ, Durian tăng cường từ 90 kn 1 phút duy trì gió đến 125 kn gió. JTWC sau đó dự báo một cú đánh trực tiếp trên Metro Manila vào cuối ngày hôm đó khi nó nâng cấp cơn bão lên một cơn bão siêu. PAGASA đã tăng tín hiệu cảnh báo bão công cộng 4, mức cảnh báo cao nhất, qua Catanduanes, Albay, Camarines Norte và Camarines Sur. Đây là lần thứ ba trong năm 2006, và lần thứ ba liên tiếp, PAGASA đã đưa ra Tín hiệu số 4. Durian bắt đầu suy yếu một chút khi nó tiếp cận đất, trải qua một chu kỳ thay thế kính mắt, nhưng nhanh chóng lấy lại sức mạnh đỉnh.
PAGASA tuyên bố rằng cơn bão đổ bộ vào buổi sáng ngày 30 tháng 11 trên miền nam Catanduanes, mặc dù JMA và JTWC không nhận ra vùng đất này. Sầu riêng sau đó đã tạo ra một vùng đất khác sau khi băng qua vịnh Lagonoy ở phía đông bắc Albay. Sau khi suy yếu do sự tương tác với đất đai, Durian đã bị JTWC hạ cấp xuống một cơn bão. Cơn bão tiếp tục di chuyển về phía tây, tạo ra những cạm bẫy trên Bán đảo Bondoc ở Quezon, trên Marinduque và cuối cùng trên Oriental Mindoro trước khi xuất cảnh đến Biển Đông.
Gặp phải sự cản trở không khí khô và cắt gió theo chiều dọc, Durian đã suy yếu một chút lúc đầu, nhưng dần dần bắt đầu tổ chức lại và tăng cường khi nó gần Việt Nam. Durian bắt đầu quay hơi hướng tây nam về Nha Trang và thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 3 tháng 12. Cuối cùng, Durian bắt đầu yếu đi một lần nữa, và đến ngày 4 tháng 12, JMA đã hạ nó xuống một cơn bão nhiệt đới nghiêm trọng. Cơn bão duy trì cường độ khi nó chạy dọc theo bờ biển Việt Nam di chuyển về phía tây nam. Sau một thời gian ngắn thứ hai về sức mạnh bão, Durian cuối cùng đã đổ bộ vào tỉnh Bến Tre vào ngày 5 tháng 12. Hệ thống này nhanh chóng suy yếu trên đất liền, và JMA đã hạ nó xuống một cơn bão nhiệt đới. JMA và JTWC đã ban hành các tư vấn cuối cùng của họ vào cuối ngày hôm đó khi Durian nổi lên vịnh Thái Lan như một áp thấp nhiệt đới yếu. Những tàn dư của Durian sau đó băng qua bờ biển phía nam Thái Lan khi nó di chuyển vào vịnh Bengal.
Cơn bão đã giết chết ít nhất 720 người ở Philippines. [73] Thiệt hại lớn nhất xảy ra ở tỉnh Albay nơi bão tạo ra lở đất tro núi lửa và đá cuội ngoài núi lửa Mayon. [74] Padang barangay của Legazpi City bị ảnh hưởng nặng nề với một phần lớn thị trấn được bao phủ trong bùn đến mái nhà. Ít nhất 81 người đã chết và 16 người mất tích ở Việt Nam do bão. [75]
Bão Utor (Seniang) (Bão số 10).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 14 - bão cuồng phong.
Cấp bão (Nhật Bản): 85 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong. Áp suất:945 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 100 hải lý / 1 giờ - bão cuồng phong cấp 3.
Vào ngày 2 tháng 12, một khu vực đối lưu được phát hiện bởi Trung tâm cảnh báo bão Typhoon phía đông nam của Chuuk. Mặc dù đối lưu giảm trong vài giờ tới, vào ngày 5 tháng 12, JTWC lại một lần nữa ghi nhận sự đối lưu sâu sắc, và vào cuối ngày 6 tháng 12, một Cảnh báo Hình thành Cơn bão Nhiệt đới đã được ban hành. Vào sáng ngày 7 tháng 12, cả Cơ quan Khí tượng JTWC và Nhật Bản - RSMC Tokyo đều báo cáo rằng một áp thấp nhiệt đới đã hình thành. Ngay sau đó, trầm cảm bước vào khu vực trách nhiệm của PAGASA, người đặt tên nó là Seniang. Sự trầm cảm tăng cường suốt cả ngày, và JMA đã nâng cấp nó lên Bão nhiệt đới Utor vào cuối ngày hôm đó. Tên Utor đã được gửi bởi Hoa Kỳ thay mặt cho Quần đảo Marshall, và là một từ Marshall cho squall line.Signal số 3 đã được nâng lên ở các tỉnh Cebu, Leyte, Samar tỉnh
Vào ngày 8 tháng 12, JMA nâng cấp Utor lên một cơn bão nhiệt đới nghiêm trọng. Nó tăng cường hơn nữa và được JMA nâng cấp lên một cơn bão vào sáng ngày 9 tháng 12, với PAGASA và JTWC cũng làm như vậy. Cơn bão đổ bộ ngay sau buổi trưa giờ địa phương cùng ngày. Sau khi băng qua Philippines, Utor đã theo dõi tương tự như bão Chebi vào tháng 11, lần đầu tiên di chuyển về phía tây bắc rồi đe dọa nhắm tới Hồng Kông. Nó được tăng cường trở lại một cơn bão 85-kn, trước khi nó chậm lại khi nó theo dõi trong một môi trường lái yếu kém trong một điểm yếu trong sườn núi cận nhiệt đới. Sau đó nó bị suy yếu khi gió cắt tăng và sự cản trở không khí khô xảy ra. JMA đã hạ nó xuống một cơn bão nhiệt đới nghiêm trọng vào ngày 13 tháng 12 và đến một cơn bão nhiệt đới cùng ngày. Ngày hôm sau, JTWC hạ cấp bão xuống một cơn bão nhiệt đới và đưa ra lời khuyên cuối cùng.
Hội nghị thượng đỉnh ASEAN và Đông Á năm 2006, ban đầu dự kiến bắt đầu vào ngày 10 tháng 12, đã bị hoãn lại một tháng do cơn bão. [76] [77] Cơn bão Utor đã giết chết ít nhất 78 người và khiến 49 người khác mất tích ở Philippines. [78] Thiệt hại từ cơn bão được ước tính là 1,9 triệu USD (năm 2006 USD). [79]
Bão Utor bị đổ lỗi cho mưa lớn tới 350 mm trong vòng 24 giờ ở bán đảo Malaysia, đặc biệt là Johor, Negeri Sembilan, Melaka và Pahang, gây ra lũ lụt lớn trong khu vực phía Nam ngày 18 tháng 12 năm 2006, được coi là tồi tệ nhất trong lịch sử khu vực phía Nam Malaysia. [80] Tuy nhiên, cũng có báo cáo một vài ngày trước đó rằng thời tiết bất lợi không được đổ lỗi cho cơn bão. [81] Các khu vực bị ảnh hưởng nặng nhất là Segamat và Kota Tinggi, nơi cả hai thị trấn hoàn toàn không thể tiếp cận được bằng đường bộ sau khi tất cả các con đường chính dẫn đến những thị trấn này đều bị ngập lụt. [82] Cho đến ngày 24 tháng 12 năm 2006, lũ lụt đã cướp đi 8 mạng sống. [83]
Bão Trami (Tomas).
Cấp bão (Việt Nam): cấp 9 - bão nhiệt đới.
Cấp bão (Nhật Bản): 35 hải lý / 1 giờ - bão nhiệt đới. Áp suất:1000 mbar (hPa).
Cấp bão (Hoa Kỳ): 30 hải lý / 1 giờ - áp thấp nhiệt đới.
Tên gọi của bão.
Tên quốc tế.
Các xoáy thuận nhiệt đới được đặt tên theo danh sách bên dưới do Trung tâm khí tượng khu vực chuyên biệt ở Tokyo, Nhật Bản, khi một xoáy thuận đạt đến độ mạnh của bão. Các tên gọi do các thành viên của ESCAP/WMO Typhoon Committee đề xuất. Mỗi nước trong số 14 nước và vùng lãnh thổ thành viên đưa ra 10 tên gọi, được sử dụng theo thứ tự ABC, bằng tên tiếng Anh của quốc gia đó. Sau đây là các tên gọi đã đặt cho các cơn bão năm 2006.
Số hiệu cơn bão tại Việt Nam.
Dưới đây là danh sách bão được trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Việt Nam đặt số hiệu trong năm 2006, kèm vùng đổ bộ. | 1 | null |
Ludwig Andreas Feuerbach (;; : Lútvích Phoiơbắc; 28 tháng 7 năm 1804 – 13 tháng 12 năm 1872) là nhà triết học người Đức. Ông là một trong những nhà triết học lớn của triết học cổ điển Đức. Ông là học trò của Hegel và từng tham gia vào phái Hegel trẻ, mặc dù có chịu ảnh hưởng của Hegel nhưng những tư tưởng của ông khác hoàn toàn so với Hegel. Thứ nhất, về thế giới quan, ông là nhà triết học của duy vật, còn Hegel lại theo thuyết duy tâm. Theo Feuerbach, bản chất của thế giới là vật chất, giới tự nhiên không hề phụ thuộc vào con người, nằm ngoài tầm kiểm soát của con người, không do một ai sáng tạo ra và không ai có thể tiêu diệt được. Trong khi đó Hegel lại cho rằng khởi nguồn của thế giới là một "ý niệm tuyệt đối", thần bí. Còn về phương pháp luận, Feuerbach lại theo quan điểm của siêu hình, còn Hegel lại là nhà biện chứng. Feuerbach cho rằng sự thay đổi của lịch sử loài người chỉ là sự khác nhau về tôn giáo. Ông đã tuyệt đối hóa mọi mặt sinh học của con người, không thấy mặt xã hội của con người. Còn Hegel lại bày tỏ sự phát triển của lịch sử là sự vận động không ngừng. Về thế giới quan, rõ ràng Feuerbach tiến bộ hơn người thầy của mình nhưng về phương pháp luận, Feuerbach còn có chỗ cần phải xem lại. Chính nhờ hai nhà triết học lớn này, Marx đã sáng tao ra học thuyết Marx nổi tiếng. Ông đã rút ra từ các nhà triết học cổ điển Đức trên những điểm tiến bộ về tư tưởng để sáng tạo ra học thuyết quan trọng, góp phần thúc đẩy phong trào công nhân. Đó là học thuyết duy vật biện chứng, một tinh hoa của triết học thế giới.
Ngoài quan điểm duy vật siêu hình như nói ở trên, Feuerbach còn là một trong những nhà triết học phản đối Thuyết bất khả tri. Ông cho rằng con người hoàn toàn có khả năng nhận thức được giới tự nhiên. Một người thì không thể nhận thức đầy đủ, nhưng cả loài người qua các thế hệ có nhận thức đầy đủ và đúng đắn. Đây là một ý kiến rất quan trọng bởi nó thúc đẩy con người tìm tòi thế giới xung quanh, từ đó tăng lượng tri thức, đặc biệt là trong những năm 90 của thế kỷ XX.
Danh ngôn.
Khi bàn về quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:
"Người trong cung điện thì suy nghĩ khác người trong túp lều". | 1 | null |
Bật đèn xanh () là cấp phép hoặc đồng ý cho một dự án tiếp tục được thực hiện. Thuật ngữ này lấy nghĩa gốc từ tín hiệu đèn giao thông sáng xanh biểu thị người tham gia giao thông "được đi".
Trong ngữ cảnh của ngành công nghiệp điện ảnh và truyền hình, bật đèn xanh một dự án nào đó có nghĩa là chính thức phê duyệt kinh phí thực hiện, và cam kết chắc chắn sẽ đầu tư kinh phí cho dự án phim ấy, từ đó cho phép dự án tiến triển từ giai đoạn phát triển đến sản xuất tiền kỳ và quay phim hiện trường.
Quyền quyết định bật đèn xanh một dự án thường được trao cho những người giữ vai trò quản lý dự án hoặc quản lý tài chính trong tổ chức, công ty đó. Quá trình đưa một dự án từ giai đoạn trình diễn sơ lược tới khi được bật đèn xanh đã mang đến thành công cho chương trình truyền hình thực tế có tựa đề "Project Greenlight".
Các cách dùng khác của thuật ngữ.
Trong bóng chày, thuật ngữ "bật đèn xanh" có nghĩa là người quản lý (huấn luyện viên chính) cho phép một cầu thủ có quyền được nóng nảy, nhất là trong trường hợp có xảy ra baserunning.
Trong các nhóm tội phạm có tổ chức hoặc tiếng lóng của tù nhân, "bật đèn xanh" ai đó có nghĩa là phê chuẩn việc ám sát của người đó. Một ví dụ về việc sử dụng từ này là ở trong phim "Felon" (2008), do nhân vật Val Kilmer thủ vai, John Smith, nói. Một ví dụ khác cũng xuất hiện trong phim "End of Watch" (2012), khi một tay côn đồ đe doạ hai sĩ quan cảnh sát rằng chúng đã được bật đèn xanh.
Trong tiểu thuyết "Gatsby vĩ đại", một chiếc đèn xanh ở cuối bến tàu của Daisy Buchanan trong khu "tiền cũ" East Egg có thể nhìn thấy một cách rõ ràng từ bên kia hồ, nơi toạ lạc căn biệt thự của Jay Gatsby trong khu "tiền mới" West Egg. Chiếc đèn xanh ấy đã trở nên rất nổi tiếng, mang ý nghĩa biểu tượng, tượng trưng cho ước vọng và giấc mơ Mỹ, cuộc đấu tranh cho thành công và hạnh phúc. | 1 | null |
Trâm anh thế phiệt (chữ Hán: 簪纓世閥), hay ở các nước phương Tây còn gọi là tiền cũ ( , ), là một lượng lớn tài sản, của cải thừa kế hay địa vị cao quý của những gia tộc thượng lưu từ lâu đời, chẳng hạn như tầng lớp quý tộc nhỏ và tầng lớp quý tộc, hoặc một người, một gia đình, một dòng họ giàu có và đầy quyền thế nhờ thừa kế chức vị hoặc tài sản. Thuật ngữ này miêu tả tầng lớp của người có tiền và có quyền, những người đã duy trì được vị thế giàu sang, quyền quý của mình qua nhiều thế hệ.
Từ nguyên.
Trong cụm từ "trâm anh thế phiệt" thì chữ "trâm" 簪 tức là cây trâm cài tóc, không phải chữ "châm" 針 tức là cái kim, cây kim; chữ "anh" 纓 có nghĩa là dải mũ (dải vải cài vào mũ để trang trí). Ghép lại hai chữ "trâm anh" 簪纓 là chỉ đến người cao sang, giàu có và quyền quý.
Chữ "thế" 世 có nghĩa là "đời", còn chữ "phiệt" 閥 ý chỉ những người có quyền thế, quyền lực. "Thế phiệt" tức là người có quyền thế hay gia sản truyền từ đời này qua đời khác.
Do đó, cả cụm từ "trâm anh thế phiệt" là để chỉ chung những người cao sang quyền quý có nhiều tiền tài, quyền lực. | 1 | null |
Thuật ngữ nhà giàu mới nổi hay tiền mới (, có nghĩa là "tầng lớp giàu có mới" ), chỉ những người giàu giành được vị thế đó trong thế hệ của chính họ; thuật ngữ tương đương trong tiếng Anh là "tầng lớp giàu có mới" hay "tiền mới" (trái ngược với tầng lớp "trâm anh thế phiệt", vốn dùng để chỉ những người giàu có nhờ thừa kế tài sản). Về mặt xã hội, "tiền mới" miêu tả những người trước đây vốn ở tầng lớp xã hội thấp và điều kiện kinh tế kém hơn; và "sự giàu có mới" — do của cải họ có gây nên — cho thấy sự vận động đi lên của xã hội và mang tới các hình thức tiêu dùng rõ rệt, họ thường mua các sản phẩm và dịch vụ đắt tiền thể hiện cho mọi người thấy rằng họ đang ở tầng lớp trên trong xã hội. Với nghĩa tiêu cực, "nhà giàu mới nổi" tác động đến sự khác biệt về loại hình, vị thế trong một tầng lớp xã hội; do đó, trong số những người giàu thuộc tầng lớp trên của xã hội; "tiền mới" chỉ sự thô tục, thiếu nhã nhặn và tính khoe khoang của những người mới giàu, những người chưa có kinh nghiệm sống trong tầng lớp này và không biết đến hệ thống các giá trị của những người thuộc dòng dõi "trâm anh thế phiệt", những người thừa kế sự giàu có từ thế hệ trước, chẳng hạn như tầng lớp quý tộc và quý tộc nhỏ. | 1 | null |
Phim ca nhạc, phim nhạc kịch () là một thể loại phim trong đó các bài hát được các nhân vật thể hiện xen lẫn với mạch kể, đôi khi đi kèm với các bài nhảy. Các bài hát thường đóng vai trò phát triển cốt truyện và nhân vật trong phim; hay cũng có lúc chỉ đơn thuần là những khúc nghỉ ngắt quãng trong mạch truyện, trong trường hợp này chúng thường là những "màn biểu diễn âm nhạc" kỹ lưỡng, công phu.
Phim nhạc kịch là một bước phát triển tự nhiên của nhạc kịch sân khấu sau sự xuất hiện của công nghệ phim có âm thanh. Về cơ bản, sự khác biệt lớn nhất giữa phim và nhạc kịch sân khấu là trong phim có sử dụng những cảnh quay và địa điểm phong phú làm nền mà trong nhà hát không thể có được. Đặc trưng của phim nhạc kịch là thường chứa nhiều yếu tố gợi lại không khí trong nhà hát; các diễn viên trong phim thường biểu diễn các ca khúc và điệu nhảy như thể có đang có người xem ở dưới sân khấu vậy. Hiểu theo một cách nào đó, người xem phim nhạc kịch dường như là những khán giả trực tiếp; diễn viên sẽ nhìn thẳng về phía máy quay và biểu diễn trước nó. | 1 | null |
Quan hệ sản xuất là một khái niệm được Karl Marx và Friedrich Engels sử dụng trong lý thuyết của họ về chủ nghĩa duy vật lịch sử để chỉ mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Đây là một trong những biểu hiện của quan hệ xã hội, giữ vai trò xuyên suốt trong quan hệ xã hội vì quan hệ sản xuất là quan hệ đầu tiên, quyết định những quan hệ khác. Quan hệ sản xuất gồm 3 mặt: | 1 | null |
Nội các Bóng tối () là tổ chức không chính thức,chuẩn bị nhân sự cấp cao của phe đối lập trong việc thay thê nội các.Các thành viên trong tổ chức đều từng là thành viên của Nội các.Sau khi Đảng Sức mạnh Nhân dân giành chiến thắng trong cuộc Tổng tuyển cử 2007,Đảng Dân chủ trở thành Đảng đối lập duy nhất. Abhisit Vejjajiva lãnh đạo Đảng Dân chủ, bày tỏ ý định của mình thiết lập một nội các bóng tối để theo dõi hiệu suất chính quyền mới, đề xuất các giải pháp tốt hơn, và cung cấp quan điểm của Đảng Dân chủ trên mỗi quyết định của chính phủ. Nội các bóng tối được công bố 08 tháng 2 năm 2008 sau khi Thủ tướng Samak Sundaravej chính thức nhậm chức.Ngày 15 tháng 12 năm 2008, Thủ tướng Abhisit được Hạ viện bầu để trở thành Thủ tướng kế tiếp, trong vòng một tuần nội các sẽ được thành lập trong đó bao gồm nhiều thành viên nội các bóng tối. Tuy nhiên với Đảng đối lập Đảng Vì nước Thái quyết định không lập Nội các bóng tối.
Nội các bóng tối của Abhisit.
Nội các bóng tối của Abhisit Vejjajica hoạt động từ 8 tháng 2 năm 2008- 15 tháng 12 năm 2008. | 1 | null |
Bardejov (; , , ) là một thị trấn tại Đông Bắc Slovakia. Nó nằm trong khu vực Šariš, thượng lưu sông Topľa, trên các ngọn đồi của dãy núi Beskyd. Thị trấn hiện có rất nhiều di tích văn hóa của một thị trấn thời trung cổ được bảo quản nguyên vẹn. Nó đã được công nhận là một di sản thế giới của UNESCO và hiện đang duy trì dân số khoảng 30.000 người.
Lịch sử.
Lãnh thổ của Bardejov ngày nay đã thu hút những người định cư từ thời đại đồ đá. Tuy nhiên, tài liệu tham khảo bằng văn bản đầu tiên về thị trấn có từ những năm 1240, khi các tu sĩ từ Bardejov than vãn với vua Béla IV của Hungary về việc Prešov xâm phạm về ranh giới thị trấn. Bởi thời điểm đó Nhà thờ chính tòa Thánh Egidius đã được xây dựng. Được xây dựng rất kiên cố vào thế kỷ 14, thị trấn trở thành trung tâm thương mại với Ba Lan. Hơn 50 phường hội đã kiểm soát nền kinh tế hưng thịnh. Bardejov giành được vị thế của một thị trấn hoàng gia vào năm 1376, sau đó trở thành một thị trấn hoàng gia tự do. Thời kỳ hoàng kim của thị trấn kết thúc vào thế kỷ 16, khi một số cuộc chiến tranh, đại dịch và các thảm họa khác ập đến với đất nước.
Đầu thế kỷ 18, tình hình được cải thiện. Người Slovak và Do Thái giáo Hasidim đến Bardejov với số lượng lớn. Đến cuối thế kỷ, dân số của thị trấn đã đạt được như trong thế kỷ 16. Nhà của những người dân thị trấn đã được xây dựng lại hoặc sửa đổi để phù hợp với kiểu kiến trúc hiện tại. Một khu phố Do Thái với Hội đường Do Thái giáo, lò mổ và các phòng tắm nghi lễ đã phát triển ở vùng ngoại ô phía tây bắc. Các nhà thờ và cầu mới cũng được xây dựng.
Thành phố kết nghĩa.
Bardejov kết nghĩa với các thành phố: | 1 | null |
Lâu đài Warwick ( ) là một lâu đài được xây dựng bởi William I của Anh năm 1068. Lâu đài được đầu tiên xây bằng gỗ, sau đó được xây lại bằng đá vào thế kỷ 12. Trong cuộc chiến tranh Trăm Năm, mặt tiền đối diện thị trấn của lâu đài được củng cố trở thành đặc điểm dễ nhận biết của kiến trúc quân sự thế kỷ thứ 14. | 1 | null |
Danh sách giải thưởng và đề cử của EXO, nhóm nhạc Trung-Hàn được thành lập vào năm 2012 thuộc công ty SM Entertainment. Nhóm được chia thành hai nhóm nhỏ để quảng bá trên hai thị trường khác nhau, tại Hàn Quốc là EXO-K và Trung Quốc là EXO-M. Nhìn chung, EXO đã giành được 130 giải thưởng trong tổng số 192 đề cử. EXO-K giành được 5 giải thưởng từ 14 đề cử; EXO-M giành được cả 4 giải thưởng từ 4 đề cử.
Chương trình âm nhạc.
Danh sách những lần EXO đã dành hạng nhất trong các chương trình âm nhạc tại Hàn Quốc. EXO đã thắng 117 lần. | 1 | null |
Chiến tranh Java hay còn gọi là chiến tranh Diponegoro, diễn ra tại Java trong khoảng thời gian từ năm 1825 đến năm 1830. Nó bắt đầu khi Hoàng tử Diponegoro cầm đầu quân đội nổi dậy. Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến chiến tranh là do người Hà Lan quyết định xây một con đường ngang qua mảnh đất của Hoàng tử, vốn là nơi yên nghỉ của cha mẹ ông. Một trong những nguyên nhân khác là các quý tộc Java cảm thấy bị người Hà Lan phản bội, khi họ không còn được phép thuê đất với giá cao. Hơn nữa, việc kế vị ngai vàng ở Yogyakarta gây tranh cãi: Diponegoro vốn là con trai trưởng nhưng mẹ ông không phải là hoàng hậu, điều này đồng nghĩa với việc ông không có quyền nối ngôi vua cha là Quốc vương Hamengkubuwono III (1810 - 1811, 1812 - 1814). Sau khi cha mất, em trai của Hoàng tử là Hamengkubuwono IV lên kế vị
Trong thời gian đầu, quân đội của Hoàng tử Diponegoro chiếm ưu thế: họ kiểm soát miền trung Java và bao vây Yogyakarta. Hơn nữa, Hoàng tử Diponegoro nhận được sự ủng hộ từ người Java, trong khi chính quyền thực dân Hà Lan ban đầu lại tỏ ra thiếu quyết đoán.
Tuy nhiên, chiến tranh Java kéo dài không lâu do Hoàng tử gặp khó khăn trong việc duy trì lực lượng. Ở chiều ngược lại, thực dân Hà Lan có thể bổ sung lực lượng với thành phần đến từ đảo Sulawesi, và sau đó là từ Hà Lan. Chỉ huy quân đội Hà Lan, General de Kock, đã phá vòng vây ở Yogyakarta vào ngày 25 tháng 9 năm 1825. Hoàng tử Diponegoro sau đó đã chuyển sang đánh du kích nhưng đến năm 1827, quân đội Hà Lan chiếm ưu thế.
Ước tính có khoảng 200,000 người đã chết trong cuộc xung đột, trong đó có 8,000 người Hà Lan. Cuộc nổi dậy kết thúc vào năm 1830, sau khi Hoàng tử Diponegoro bị lừa vào nhà giam Hà Lan gần Magelang; khi đó, ông nhầm tưởng nơi ông đến là địa điểm tiến hành đàm phán kết thúc chiến tranh. Ông lần lượt bị lưu đày đến Manado rồi Makassar, nơi ông mất vào năm 1855.
Rút kinh nghiệm từ việc nhiều binh sĩ châu Âu thiệt mạng trong cuộc chiến này, chính phủ Hà Lan sau đó đã quyết định tuyển mộ lính châu Phi ở Bờ biển Vàng; đội quân này được gọi là "Belanda Hitam" ("Hà Lan Đen"). | 1 | null |
Thái Lan được chia thành 76 tỉnh () và 1 đơn vị hành chính đặc biệt Bangkok (). Mặc dù là đơn vị hành chính đặc biệt nhưng Bangkok vẫn được xem là 1 tỉnh, vì vậy theo thực tế Thái Lan có 77 tỉnh.
Mỗi tỉnh được chia thành các quận huyện khác nhau, năm 2010 cả nước có 878 huyện () và tại Bangkok có 50 quận (). Huyện đặt trụ sở và là trung tâm của tỉnh được gọi là "amphoe mueang" ().
Ở Bangkok các quận được gọi là "khet" (เขต) và mỗi "khet" được chia làm các "khwaeng" (แขวง), tương đương với phường tại Việt Nam. Ở các tỉnh khác thì cấp tương đương với "khwaeng" là "tambon" (ตำบล) tương đương với cấp xã ở Việt Nam.
Các "tambon" lại được chia thành các "muban" (หมู่บ้าน) tương đương với cấp địa chính là làng tại Việt Nam.
Chính quyền địa phương.
Ngoài các cấp phân khu chính thì tại Thái Lan còn có 3 cấp phân khu đặc biệt. Tất cả đều do một hội đồng quản lý.
Ngoài số người dân trên thực tế để được công nhận thì mỗi cấp phải đủ số tiền thuế để duy trì hoạt động hành chính của địa phương.
Thành phố và thị xã được chia thành các "chumchon" tương đương với cấp "muban" (làng) ở các khu vực khác. Chỉ riêng có 2 thành phố Nonthaburi và Chiang Mai có cấp độ thành phố cao hơn nên các "chumchon" được quy định thành các "khwaeng".
Thành phố Pattaya là một đô thị cấp đặc biệt, cùng với Bangkok là 2 khu vực đặc biệt, khu vực đô thị. Năm 2010 Mae Sot đang chuẩn bị được nâng cấp lên đơn vị hành chính mới.
Phân chia chính thức.
Bangkok và của vùng lân cận (ปริมณฑล, pari Monthon), bao gồm năm tỉnh lân cận được gọi là Đại Bangkok (), là khu vực đô thị của Thủ đô được mở rộng ra các khu vực lân cận.
Tại Thái Lan được chia làm 4 khu vực chính là: Bắc - Đông Bắc - Trung - Nam.
Thành phố Los Angeles, bang California, Hoa Kỳ được gọi đùa là "tỉnh thứ 77" của Thái Lan vì là thành phố có người Thái sống đứng thứ 2 (khoảng 100.000 người) so với Đài Bắc (khoảng 300.000 người). | 1 | null |
Viện trợ nước ngoài đến Thái Lan Ngày 31 tháng 7 năm 2003, Thái Lan hoàn trả khoản vay của mình theo một thỏa thuận với Quỹ Tiền tệ Quốc tế nhằm khôi phục kinh tế sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997. Việc thanh toán được thực hiện bốn năm trước thời hạn, phản ánh thành tựu ổn định kinh tế vĩ mô và cán cân thanh toán của Thái Lan.
Từ năm 2002, Thái Lan không còn là một nước nhận viện trợ kinh tế. Thay vào đó, Thái Lan đã đóng góp 60 triệu USD viện trợ kinh tế cho các nước láng giềng trong năm 2005.
Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam Thái Lan, cùng với các đồng minh khác của Mỹ là Campuchia, đã nhận được một lượng đáng kể viện trợ kinh tế của Mỹ và viện trợ quân sự.
Từ đầu những năm 1980 trở đi các vấn đề nội bộ của Myanmar đã dẫn đến một số lượng lớn những người di cư tị nạn tại Thái Lan.Nhiều cơ quan bao gồm cả Ủy ban châu Âu ban Viện trợ Nhân đạo, đã giúp để hỗ trợ người dân di dời đến khu vực mới.
Nhật Bản là nước viện trợ cho Thái Lan nhiều nhất. Phần lớn viện trợ thông qua các khoản vay cho các dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn. | 1 | null |
Acropora dendrum là một loài san hô trong họ Acroporidae. Loài này được Bassett-Smith mô tả khoa học năm 1890.
Được tìm thấy ở các rạn sanvùng nhiệt đới, các đá ngầm nông nhiệt đới ở khu vực sóng mạnh ở độ sâu 5–20 m (16–66 foot), loài bị đe dọa do bệnh. Loài này được đánh giá là dễ bị tổn thương vào Sách đỏ IUCN, với số lượng giảm sút. Đây không phải là loài phổ biến nhưng được tìm thấy trên một diện tích lớn, và được liệt kê trong Phụ lục II của Công ước CITES. | 1 | null |
Heliopora coerulea là một loài san hô trong họ Helioporidae. Loài này được Pallas mô tả khoa học năm 1766. Đây là loài duy nhất trong họ Helioporidae và là loài Octocoral duy nhất được biết là tạo ra khung xương khổng lồ. Khu xương của nó được cấu tạo từ aragonit, tương tự như khung xương của scleractinia. Các polyp riêng biệt sống trong các ống bên trong khung xương và được kết nối với nhau bằng một lớp mô mỏng bao bọc bên ngoài khung xương.
Đây là loài phân bố phổ biến trong các rạn san hô nông và được tìm thấy trong khắp khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương bao gồm quần đảo Ryukyu phía nam Nhật Bản, biển San hô miền bắc Úc và American Samoa. Quần xã san hô lam lớn nhất trên thế giới được cho là sinh sống ngoài khơi đảo Ishigaki của quần đảo Yaeyama tây nam Nhật Bản. | 1 | null |
Lobophyllia hemprichii là một loài san hô trong họ Mussidae. Loài này được Ehrenberg mô tả khoa học năm 1834.
Loài san hô này được tìm thấy ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.
Lobophyllia hemprichii là một loài san hô sống tập đoàn và có thể tạo thành những ụ hình bán cầu hoặc dẹt có đường kính lên đến 5 m. Một số các tập đoàn liền kề, đôi khi màu sắc khác nhau, có thể phát triển với nhau để tạo thành một phức hợp các tập đoàn. Các corralites (ly xương) có thể phaceloid (có dạng hình ống và phát triển từ một chân đế) hoặc flabello-meandroid (sắp xếp trong các thung lũng với các thung lũng lân cận từng có một sườn núi, với những thung lũng chia đột xuất) | 1 | null |
Idol Show (Hangul:아이돌 군단의 떴다! 그녀,Hanja: 아이돌 軍團의 떴다! 그녀; tiếng Anh:"Idol Corps, She Has Arrived!"), hay còn gọi là "Idol Army", là chương trình truyền hình thực tế Hàn Quốc phát sóng hằng tuần trên MBC Every 1 với sự tham gia của các nhóm nhạc trẻ nổi tiếng của quốc gia.
Chủ trì.
Phần 1.
Super Junior-H
Dẫn chương trình - Go Young Wook, Kim Sang Hyuk (tập 1-5), Jang Dongmin (tập 2 trở đi)
Phần 2.
FT Island
Dẫn chương trình - Jang Dongmin
Phần 3.
2PM
Dẫn chương trình - Boom
Phần 4.
Kara
Dẫn chương trình - Boom
Phần 5.
MBLAQ
Dẫn chương trình - Shin Bong Sun, Jung Joori
Khách mời thần tượng.
Phần 1.
Lần đầu phát sóng: 10 tháng 7 năm 2008
Phần 2.
Lần đầu phát sóng: 16 tháng, 2008
Phần 3.
Lần đầu phát sóng: 4 tháng 12 năm 2008
Phần 4.
Lần đầu phát sóng: 2 tháng 4 năm 2009
Phần 5.
Lần đầu phát sóng: 16 tháng 12 năm 2009 | 1 | null |
Pocillopora elegans là một loài san hô trong họ Pocilloporidae. Loài này được Dana mô tả khoa học năm 1846. Đây là loài bản địa ở các khu vực nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới ở phía tây, trung tâm và đông Thái Bình Dương. Nó dễ bịtẩy trắng và các bệnh san hô khác nhau và Liên minh Bảo vệ Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) đã liệt kê loài này là một "loài dễ bị tổn thương".
Mô tả.
"P. elegans" hình thành cụm nhỏ của nhánh ngắn, dày, mọc thẳng với những đầu chóp phẳng. Bề mặt của san hô có thùy tròn tròn được biết đến như verrucae, bộ xương xương phát triển thành những loài san hô đặc trưng của chúng. Các san hô phẳng và rất nhỏ và rải rác trên bề mặt của bộ xương. San hô này thay đổi màu sắc, thường là một số bóng kem, màu hồng hoặc màu xanh lá cây nâu. Các loài tương tự là các loài "Pocillopora verrucosa", có gai sắc hơn, "Pocillopora grandis" và "Pocillopora capitata".
Phân bố và môi trường sống.
P. elegans là loài bản địa từ vùng Thái Bình Dương. Dải của nó kéo dài từ bán đảo Malaysia và Sumatra qua trung tâm Thái Bình Dương tới Mexico, Trung Mỹ, Quần đảo Galapagos và Colombia. Nó được tìm thấy trong các môi trường nông cạn ở độ sâu xuống đến khoảng 20 m.
Trạng thái.
"P. elegans" có phạm vi rộng và phổ biến ở hầu hết phạm vi của nó, nhưng đặc biệt nhạy cảm với tẩy trắng, bệnh san hô và sự ăn thịt của loài sao biển có vương miện. Trước sự kiện Thảm hoạ Dao động phương Nam (ENSO) 1982-1983, nó cùng với "Pocillopora damicornis", một trong những loài san mạnh nhất ở đông Thái Bình Dương, nhưng sau sự kiện, nó đã biến mất khỏi nhiều vị trí trước đó, mặc dù đã có một số tuyển dụng ở Costa Rica, Panama và quần đảo Galapagos. Nói chung, các rạn san hô ở nơi nó đang sống đang bị đe doạ và Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) đã đánh giá tình trạng bảo tồn của mình là "loài dễ bị tổn thương". | 1 | null |
Từ Kính Thành (chữ Hán: 徐敬成, 540 – 575), người An Lục, Hồ Bắc, tướng lĩnh nhà Trần thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.
Thời Vũ đế.
Kính Thành là con của Tương Đông quận công Từ Độ. Ông từ nhỏ thông tuệ, ham đọc sách, sớm có tính cơ cảnh, giỏi đối đáp, kết giao với kẻ sĩ văn tài, được tiếng là biết nhìn người. Trưởng thành làm Trước tác lang.
Năm Vĩnh Định đầu tiên (557), Kính Thành lãnh quân bản bộ của Từ Độ, theo Chu Văn Dục, Hầu An Đô chinh phạt Vương Lâm, ở Độn Khẩu thua trận, bị Lâm bắt sống. Năm sau (558), cùng Văn Dục, An Đô thoát về, nhận chức Thái tử xá nhân, được thăng Tẩy mã. Từ Độ làm Ngô Quận thái thú, lấy ông làm Giám quận.
Thời Văn đế.
Năm Thiên Gia thứ 2 (560), được thăng Thái tử trung xá nhân, được bái làm Tương Đông quận công thế tử. Năm thứ 4 (563), Từ Độ từ Tương Châu về triều, Kính Thành được lãnh hết quân đội tinh nhuệ của cha. Theo Chương Chiêu Đạt chinh phạt Trần Bảo Ứng, xong, nhận chức Trinh uy tướng quân, Dự Chương thái thú.
Thời Phế đế.
Năm Quang Đại đầu tiên (567), Hoa Kiểu mưu phản, triều đình lấy Kính Thành làm Giả tiết, đô đốc Ba Châu chư quân sự, Vân kỳ tướng quân, Ba Châu thứ sử. Tiếp đó có chiếu cho ông nắm thủy quân, theo Ngô Minh Triệt chinh phạt Hoa Kiểu, xong, về châu. Năm thứ 2 (568), cha mất nên rời chức. Ngay sau đó được khởi dùng làm Trì tiết, đô đốc Nam Dự Châu chư quân sự, Tráng vũ tướng quân, Nam Dự Châu thứ sử.
Thời Tuyên đế.
Năm Thái Kiến thứ 4 (572), được tập tước Tương Đông quận công, thụ chức Thái tử hữu vệ soái. Năm thứ 5 (573), nhận chức Trinh uy tướng quân, Ngô Hưng thái thú. Năm ấy, Kính Thành theo đô đốc Ngô Minh Triệt bắc phạt, ra Tần Quận, được làm đô đốc riêng một cánh quân, cưỡi chiến hạm Kim Sí, từ đập Âu Dương ngược dòng Trường Giang đến Quảng Lăng . Quân Bắc Tề đều cố thủ, không dám ra. Từ hồ Phồn Lương xuôi sông Hoài, vây thành Hoài Âm. Nhận chức Giám Bắc Duyện Châu. Trong vài ngày có đến mấy vạn người ở lưu vực Hoài, Tứ hưởng ứng, liền hạ được 3 quận Hoài Âm, Sơn Dương, Diêm Thành, rồi đến 2 thú Liên Khẩu, Cù Sơn. Tiếp tục tấn công Úc Châu, hạ được. Nhờ công được gia Thông trực tán kỵ thường thị, Vân kỳ tướng quân, tăng ấp 500 hộ. Kế đó được tiến hiệu Tráng vũ tướng quân, trấn Cù Sơn. Ông bị kết tội ở trong quân tự ý thu thuế, rồi giết những người mới quy phụ, nên bị miễn quan. Ngay sau đó được phục làm Trì tiết, đô đốc An, Nguyên, Đồng 3 châu chư quân sự, An Châu thứ sử, tướng quân như cũ, trấn Túc Dự.
Năm thứ 7 (575), mất, hưởng dương 36 tuổi. Được tặng Tán kỵ thường thị, thụy là Tư. Con là Sưởng kế tự. | 1 | null |
Porites lutea là một loài san hô trong họ Poritidae. Chúng mọc ở vùng nước rất nông trên các rạn san hô ở khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương. Đôi khi chúng hình thành các "vòng san hô chết" trong vùng gian triều và những cấu trúc khổng lồ này đã được sử dụng để nghiên cứu chiều hướng của mực nước biển và nhiệt độ nước biển. Loài này được Milne Edwards & Haime mô tả khoa học năm 1851.
Mô tả.
"Porites lutea" tụ thành những ụ đất lớn, nhẵn nhụi, tiểu rạn san hô vòng của chúng là một gò có hình bán cầu hoặc hình dạng mũ sắt của lính, có chiều ngang lên đến . Cốc xương có tường bao quanh mỏng và được ép chặt, một số từ đường kính. Trái ngược với "Porites lobata", chúng có các hạt đá xốp mang yếu tố xương, bao gồm năm thùy pali ở phía trên gần trung tâm của ụ san hô. Màu sắc của loài san hô này thường là màu kem hoặc vàng, đôi khi ở môi trường sống nước nông chúng có các màu sáng hơn.
Phân bố và môi trường sống.
"Porites lutea" có nguồn gốc từ vùng biển nhiệt đới thuộc Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Phạm vi sống của chúng kéo dài từ Madagascar và bờ biển phía đông của châu Phi đến Malaysia, Indonesia, Philippines, Nhật Bản, phía bắc và phía đông Australia. Chúng xuất hiện ở rìa cuối rạn san hô, trong các đầm phá và các rạn san hô viền bờ. Chúng là một loài phổ biến, thường xuất hiện với "Porites australiensis" và "Porites lobata".
Hệ sinh thái.
Loài san hô này có thể hình thành các "ụ san hô cỡ nhỏ" (microatolls) ở vùng triều; là những gò hình đĩa với vật liệu san hô chết ở trên cùng và vật liệu sống bao quanh chu vi của nó, tiếp tục phát triển sang các bên. Đôi khi những cấu trúc này vẫn còn ở dạng ụ nhỏ hóa thạch, trong đó không có thùy thuôn dài (polyp) sống nào tồn tại nhưng hình thái tiểu rạn san hô vòng được giữ lại. Các ụ hóa thạch co nhỏ của "Porites lutea" kết hợp với việc xác định niên đại chính xác của các vòng sinh trưởng hàng năm riêng lẻ bằng phương pháp xác định niên đại uranium-thorium, cho phép các cấu trúc này được sử dụng để xác định những thay đổi tương đối trong quá khứ của mực nước biển. Việc sử dụng chúng cho mục đích này trên các rạn san hô ở Biển Đông đã cho thấy rằng trong giai đoạn 7000–6550 năm về trước, mực nước biển cao hơn hiện nay khoảng , với bốn hoặc nhiều hơn chu kỳ biến động.
Ở Yemen, bọt biển đỏ "Clathria aceratoobtusa" không phải bản địa, xâm lấn, phát triển trên bề mặt san hô, với tốc độ khoảng mỗi tháng, bóp nghẹt và giết chết nó. Một dòng mô san hô chết mỏng màu trắng ngăn cách các mô san hô khỏe mạnh tránh khỏi lớp bọt biển tấn tới.
Đôi khi các mảnh "Porites lutea" tách ra khỏi tiểu rạn san hô vòng. Chúng có thể vẫn còn sống và cuối cùng rơi sâu xuống dốc đá ngầm, hoặc di chuyển đến vị trí mới theo dòng chảy hoặc sóng của biển; bằng cách này, các tiểu rạn san hô vòng mới hoặc thậm chí các rạn san hô mới có thể hình thành ở những vị trí không thích hợp cho việc định cư của ấu trùng.
Nghiên cứu.
Tốc độ phát triển của san hô bị ảnh hưởng bởi điều kiện môi trường; những mảng san hô khổng lồ tạo ra một dải dài calci cacbonat hàng năm, và độ dày của dải cho biết tốc độ phát triển của chúng. Các nhà nghiên cứu ở Indonesia đã nghiên cứu tốc độ phát triển của "Porites lutea" và tương quan điều này với hiện tượng El Niño. Tốc độ tăng trưởng cao hơn ở các sườn dốc dưới tác động của sóng lớn hơn, và tăng trưởng thấp hơn ở các sườn dốc ít có sóng chuyển động hơn. Tốc độ tăng ở mức cao nhất vào năm 1992, khi nhiệt độ nước biển là khoảng , và thấp nhất vào năm 1998 khi nhiệt độ là . Mối tương quan giữa nhiệt độ nước và tốc độ tăng trưởng rất phức tạp, nhưng nhìn chung thì tốc độ tăng trưởng của san hô thấp hơn khi san hô bị căng thẳng bởi nhiệt độ nước cao hơn.
Khi "Porites lutea" tiếp xúc với mức độ sắt cao đã dẫn đến sự tẩy trắng thấy rõ qua sự mất mát của tảo đơn bào cộng sinh; tuy nhiên ảnh hưởng này ít được ghi nhận hơn ở những san hô từng tiếp xúc với mức độ sắt cao, cho thấy sự phát triển của khả năng chịu đựng với kim loại. | 1 | null |
Turbinaria radicalis là một loài san hô trong họ Dendrophylliidae. Loài này được Bernard mô tả khoa học năm 1896. Loài này thường có mặt ở các bãi biển gần bờ ở vùng biển cận nhiệt đới chủ yếu ở Úc. Loài có màu nâu xẫm, xanh lá cây hay màu trắng nhạt. | 1 | null |
Gag Concert () là chương trình hài kịch Hàn Quốc được phát sóng trên kênh KBS2. Bắt đầu vào tháng 9 năm 1999 và là chương trình hài kịch lâu đời nhất của Hàn Quốc. Nó cạnh tranh với "People looking for a laugh" (웃음을 찾는 사람들) của SBS –kết thúc vào năm 2010- và "Ha ttang sa" (하늘도 웃고 땅도 웃고 사람도 웃는다- 11.10.2009~16.05.2010) của MBC -kết thúc vào năm 2010-.
Diễn viên.
Current comedians※ As of ngày 4 tháng 1 năm 2020
Name.
개그콘서트 GAG</font colr> CONCERT</font color>
Diễn viên hài đáng chú ý trong Gag concert.
Shin Bora, Jeong Tae Ho, Park Seong Gwang, và Yang Seon Il thành lập một nhóm nhạc 'Brave Guys' trong năm 2012. Đặc biệt Shin Bora được biết đến là một ca sĩ xuất sắc, và cô thu âm một số ca khúc trong số đó được chon làm OST cho một số chương trình truyền hình. | 1 | null |
Trong ngành công nghiệp truyền thông, bế tắc phát triển (tiếng Anh: "development hell" hoặc "development limbo") là một biệt ngữ dùng để chỉ một bộ phim hay một dự án nào đó bị ứ lại ở giai đoạn phát triển mà không tiến được tới giai đoạn sản xuất. Một bộ phim, trò chơi điện tử, chương trình truyền hình, kịch bản, phần mềm máy tính, khái niệm, hoặc ý tưởng bị mắc trong giai đoạn bế tắc phát triển sẽ phải mất một thời gian rất dài để bắt đầu bước vào sản xuất, hoặc có thể không bao giờ sản xuất được. Các dự án trong tình trạng bế tắc phát triển vẫn chưa bị hủy bỏ chính thức, nhưng đang tiến triển rất chậm hoặc đã ngừng hẳn.
Tổng quan.
Ngành công nghiệp điện ảnh đã mua bản quyền sản xuất phim của rất nhiều tiểu thuyết, trò chơi điện tử và truyện tranh nổi tiếng, nhưng sẽ phải mất vài năm để các tác phẩm đó có thể được đưa lên màn ảnh rộng, và thường phải trải qua nhiều thay đổi đáng kể về cốt truyện, nhân vật, và tinh thần chung của phim. Công đoạn này có thể kéo dài vài tháng hoặc thậm chí vài năm. Thông thường, một dự án gặp bế tắc phát triển sẽ bị tất cả các bên liên quan từ bỏ hoặc bị hủy hoàn toàn. Do số lượng dự án mà Hollywood khởi động thường gấp mười lần số dự án được phát triển thành phim hoàn chỉnh, nên số lượng kịch bản lâm vào bế tắc phát triển là rất lớn. Điều này xảy ra thường xuyên nhất với các dự án có nhiều cách diễn giải và ảnh hưởng đến nhiều quan điểm. | 1 | null |
Lãnh thổ Oklahoma (tiếng Anh: "Oklahoma Territory" hay "Territory of Oklahoma") từng là một lãnh thổ hợp nhất có tổ chức của Hoa Kỳ, tồn tại từ ngày 2 tháng 5 năm 1890 cho đến 16 tháng 11 năm 1907 khi lãnh thổ nhập với Lãnh thổ Bản địa Mỹ dưới một hiến pháp mới và được phép gia nhập liên bang để trở thành tiểu bang Oklahoma.
Đạo luật tổ chức Oklahoma 1890 được thông qua để tổ chức phần nữa phía tây Lãnh thổ Bản địa Mỹ cùng với một dải đất có tên gọi là Vùng đất vô chủ thành Lãnh thổ Oklahoma. Các khu dành riêng cho người bản địa Mỹ trong lãnh thổ mới này được mở sau đó cho người định cư đến sinh sống lập nghiệp trong năm đó và trong các năm 1891 và 1893.
Bãy quận được xác định ngay khi thành lập lãnh thổ. Tuy chúng được đặt số nhưng dần dần có tên là Logan, Cleveland, Oklahoma, Canadian, Kingfisher, Payne và Beaver. Việc phân phát đất đai cho người định cư vào năm 1893 đã dẫn đến việc thành lập thêm các quận Kay, Grant, Woods, Garfield, Noble, và Pawnee. Ban đầu từng là một phần đất của tiểu bang Texas, lãnh thổ có thêm một quận sau vụ giải quyết tranh chấp ranh giới. Quận này ngày nay được tách thành các quận Greer, Jackson, Harmon, và một phần của Beckham.
Tổ chức.
Lịch sử Lãnh thổ Oklahoma bắt đầu bằng Đạo luật Giao tiếp với người bản địa Mỹ" năm 1834 khi Quốc hội Hoa Kỳ dành riêng đất đai cho người bản địa Mỹ. Vào lúc đó, đất đai là lãnh thổ chưa tổ chức bao gồm đất đai của liên bang ở "phía tây sông Mississippi và không nằm bên trong các tiểu bang Missouri và Louisiana, hay Lãnh thổ Arkansas..." Vào năm 1856, lãnh thổ này bị mất bớt diện tích sắp xỉ với ranh giới ngày nay của tiểu bang Oklahoma, trừ Vùng cán chảo Oklahoma và Cựu Quận Greer. Các đất đai này nhanh chóng được người ta gọi là Lãnh thổ Bản địa Mỹ vì chúng đã được ban cho một số dân tộc người bản địa theo Đạo luật Di dời người Bản địa để đổi lấy các lãnh thổ lịch sử của người bản địa ở phía đông sông Mississippi.
Cho đến thời điểm này, người bản địa Mỹ có đặc quyền sử dụng đất đai tại vùng này. Năm 1866, sau Nội chiến Hoa Kỳ, chính phủ liên bang bắt ép các hiệp định mới với người bản địa Mỹ từng ủng hộ Liên minh miền Nam Hoa Kỳ, và buộc họ nhượng đất và những nhượng bộ khác. Theo như các hiệp định tái thiết được ký, năm bộ lạc văn minh bắt buộc phải giải phóng nô lệ của họ và cho người nô lệ quyền công dân trong các bộ lạc nếu người nô lệ muốn ở lại với các bộ lạc. Điều này bắt buộc nhiều bộ lạc trong Lãnh thổ Bản địa Mỹ phải nhân nhượng. Các viên chức Hoa Kỳ bắt họ nhượng lại khoảng đất đai nằm giữa Lãnh thổ Bản địa Mỹ. Elias C. Boudinot, một người vận động hành lang, viết một bài báo đăng trên tờ "Chicago Times" ngày 17 tháng 2 năm 1879 đã phổ thông hóa thuật ngữ "Unassigned Lands" (tạm dịch: các vùng đất chưa phân phát) để ám chỉ mảnh đất này. Chẳng bao lâu, truyền thông đại chúng bắt đầu gọi những người nóng lòng muốn định cư tại vùng này là "Boomers". Để ngăn ngừa người Mỹ gốc châu Âu định cư vùng đất này, tháng 4 năm 1879, tổng thống Rutherford B. Hayes, ra tuyên cáo cấm không cho vào Lãnh thổ Bản địa Mỹ một cách bất hợp pháp."
David Payne và nhóm Boomer.
Mặc dù liên bang ngăn chặn nhưng nhu cầu về đất đai của người định cư không chấm dứt. Đại úy David L. Payne là một trong số những người ủng hộ chính cho việc mở rộng vùng đất Oklahoma cho người định cư da trắng. Payne đến Kansas nơi ông thành lập "Hội Thuộc địa Boomer". Tổ chức của Payne gồm 10.000 thành viên hy vọng thiết lập một thuộc địa cho người da trắng tại các vùng đất mà người bản địa Creek (Muskogee) và người bản địa Seminole nhượng lại cho Hoa Kỳ sau Nội chiến Hoa Kỳ. Các vùng đất này, được gọi là "Unassigned Lands" (các vùng đất chưa được cấp phát), trước đó cũng không có người bản địa Mỹ nào định cư. Việc thành lập nhóm Boomer của Payne đã khiến tổng thống Hayes đưa ra tuyên cáo vào ngày 12 tháng 2 năm 1880 ra lệnh cho Payne không được bước chân vào Lãnh thổ Bản địa Mỹ. Để phản ứng, Payne và nhóm ông đi đến Trại Alice nằm trong "Unassigned Lands" (các vùng đất chưa được cấp phát) ở phía đông Oklahoma City. Tại đó, họ lập kế hoạch cho một thành phố và đặt tên là "Ewing". Trung đoàn Kỵ binh số 4 bắt họ, đưa họ đến Ft. Reno và hộ tống họ trở lại Kansas. Payne giận dữ vì công luật cấm giới quân sự can thiệp vào các vấn đề dân sự. Payne và nhóm ông được thả nhưng bị từ chối khiếu nại lên tòa án.
Vì nóng lòng muốn đưa vấn đề của ông trước tòa, Payne và một nhóm đông hơn quay trở lại Ewing vào tháng 7. Lục quân lại bắt toàn bộ và hộ tống họ trở về Kansas. Họ lại được thả nhưng lần này chính phủ liên bang truy tố Payne vi phạm "Đạo luật giao dịch với người bản địa". Ông bị xử tại Ft. Smith, Arkansas. Quan toàn Isaac Parker phán quyết bất lợi cho Payne và phạt ông tối đa là 1.000 đô la. Vì Payne không có tiền cũng không có tài sản nên tiền phạt không thu được. Phán quyết đó không giải quyết được câu hỏi về đất đai thuộc phạm vi công cộng, và Payne tiếp tục hoạt động của mình.
Payne thực hiện lần thứ ba vào khu vực "Unassigned Lands". Tháng 12, Payne và nhóm ông di chuyển dọc theo ranh giới phía bắc của Lãnh thổ Bản địa Mỹ. Họ bị một đơn vị kỵ binh của đại tá J.J. Copinger theo dõi. Đại tá Copinger cảnh cáo Payne rằng nếu ông vượt ranh giới thì họ bắt buộc phải cùng vũ lực ngăn chặn. Khi số thành viên nhóm Boomers gia nhập Payne đông hơn, họ phái một người sứ giả đi gặp tổng thống Hayes xin phép vào Lãnh thổ Bản địa Mỹ. Sau mấy tuần không được trả lời, Payne dẫn các thành viên trong nhóm tiến vào khu vực "Unassigned Lands". Lại thêm một lần nữa, họ bị bắt và bị giải về Đồn Smith. Ông bị xét có tội và bị kêu án phạt là $1.000 đô la. Sau khi được thả, ông quay về Kansas nơi ông dành ra bốn năm để tìm cách mở vùng đất Oklahoma.
Trong cuộc phiêu lưu cuối cùng của Payne, lần này là vào Cherokee Outlet năm 1884, Lục quân lại bắt được ông. Họ dẫn ông đi vài trăm dặm Anh dưới điều kiện khắc nghiệt cho thân xác trên một con đường quanh co đến Đồn Smith. Công chúng rất tức giận về hành động của giới quân sự đối xử với ông. Chính phủ Hoa Kỳ quyết định xử ông. Payne bị đưa ra xét xử bởi một Tòa án Khu vực của Hoa Kỳ tại Topeka, Kansas. Ông bị kết tội đem rượu whiskey vào Lãnh thổ Bản địa Mỹ, đây là một tội hình liên bang. Cuối cùng, quan tòa Cassius G. Foster hủy bỏ các lời buộc tội và phán quyết rằng định cư trong khu vực "Unassigned Lands" thì không phải là một tội hình. Nhóm Boomer chúc mừng nhau nhưng chính phủ liên bang từ chối chấp nhận phán quyết này.
Payne ngay lập tức lập kế hoạch cho một cuộc hành trình khác, nhưng không ông trực tiếp lãnh đạo. Ngày 28 tháng 11 năm 1884, tại Wellington, Kansas, một buổi sáng sau một buổi thuyết trình đến khuya, ông ngã qụy và qua đời.
William Couch và việc mở lãnh thổ.
Sau khi Payne qua đời, đồng sự của ông là William L. Couch nhận vai trò lãnh đạo. Couch đưa nhóm Boomer vào Lãnh thổ Bản địa Mỹ và thành lập Trại Stillwater vào ngày 12 tháng 12 năm 1884. Tổng thống Chester Arthur phái một nhóm binh sĩ nhỏ hộ tống Couch ra khỏi lãnh thổ này. Khi binh sĩ đến nơi, 200 người có vũ trang đối mặt các binh sĩ. Họ từ chối để các binh sĩ đuổi họ. Sau khi có thêm 600 binh sĩ tăng cường đến nơi thì các sĩ quan đưa ra sự chọn lựa cho nhóm Boomer là rời khỏi nơi này trong vòng 48 tiếng đồng hồ hay bị tóm cổ. Sau khi nhóm Boomer không chịu rời khỏi thì các vị chỉ huy đưa binh sĩ qua ranh giới Kansas và cắt đứt đường tiếp vận của Couch. Chẳng bao lâu nhóm người của Couch cạn lương thực, và họ được hộ tống trở về Kansas.
Để giải quyết những lời tố cáo của Couch là chính phủ liên bang kỳ thị chống lại nhóm của ông, ngày 3 tháng 3 năm 1885, Quốc hội chấp thuận Đạo luật Phân phối Đất đai Bản địa. Đạo luật này cho phép thương thuyết với người bản địa Creek, Seminole, và Cherokee để họ nhượng lại những phần đất bỏ hoang mà họ đang làm chủ. Couch chấm dứt hành động trong vai trò một người thực dân và trở thành một người vận động hành lang.
Couch dành ra bốn năm tại Washington, D.C. để cố thuyết phục Quốc hội Hoa Kỳ mở cửa các vùng đất của Oklahoma. Nhiều người bản địa của Năm bộ lạc văn minh vận động hành lang chống lại những hành động của Couch. Tháng 1 năm 1889, Pleasant Porter cầm đầu một nhóm người bản địa Muscogee (Creek) muốn bán các khu đất hoang của họ. Trong mấy tuần, họ bán hết các vùng đất "Unassigned Lands" (các vùng đất chưa phân phát) cho Hoa Kỳ. Các khu đất này có tổng diện tích ít hơn nằm trong khu trung tâm của Lãnh thổ Bản địa Mỹ.
Ngày 2 tháng 3 năm 1889, Quốc hội thông qua một tu chính án trong Đạo luật Phân phối Đất đai Bản địa của năm 1871. Tu chính án này cho phép thành lập các khu định cư trong vùng đất " Unassigned Lands", được biết với tên gọi "Lãnh thổ Oklahoma". Tổng thống Grover Cleveland thông báo rằng đất đai Oklahoma sẽ được bao phát vào ngày 22 tháng 4 theo hình thức người nào đến trước thì được trước. Buổi cấp phát đất được tổ chức vào lúc giữa trưa và được mở cho mọi cá nhân có tuổi nhỏ nhất là 21.
Ban phát đất và những "người đến sớm".
Việc ban phát đất theo kiểu ai đến trước được cấp phát trước của năm 1889 là vụ ban phát đầu tiên kiểu này trong lịch sử lãnh thổ. Việc ban phát này đã mở cửa Lãnh thổ Oklahoma cho các khu định cư vào ngày 22 tháng 4 năm 1889. Trên 50.000 người đến vùng đất này vào ngày đầu tiên, trong số họ có hàng ngàn "người tự do" (cựu nô lệ da đen) và con cháu người nô lệ. Couch và nhóm Boomer, lúc này lên đến khoảng 14.000 người, cũng vào cuộc đua nhận cấp phát đất. Những ai vào Oklahoma trước khi chính thức khởi sự việc ban phát đất được gọi là "Sooner" (người đến sớm). Thuật từ này ám chỉ đến câu "sớm hơn" trong Đạo luật Phân phối Đất đai Bản địa mà theo đó có nói rằng bất cứ hai vi phạm ngày khởi sự chính thức sẽ bị từ chối quyền được ban phát đất.
Khi cuộc ban phát chính thức bắt đầu vào giữa trưa, hàng ngàn người trên lưng ngựa, xe ngựa kéo, xe đẩy, các phương tiện khác ùn ùn vượt vào Oklahoma. Có một vụ ẩu đả giữa những người tuân theo pháp luật và nhóm "người đến sớm". Một người tiên phong hợp pháp (đến nhận cấp phát đất đúng giờ quy định) bắn và làm bị thương William Couch, một "người đến sớm". Ông chết ngày 21 tháng 4 năm 1890 vì các vết thương.
Nhiều vụ thưa kiện xảy ra sau đó vì có hơn một người được ban phát cùng một mãnh đất. Các vụ kiện này thường là để quyết định xem ai là người nhận đất hợp pháp. Một số vụ kiện còn đi xa hơn lên đến Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ.
Khi cuộc đua ban phát đất chấm dứt nhiều người tiên phong thất vọng bị bắt buộc phải rời khỏi khu vực mà không có tí đất nào. Trong số 14.000 người nhóm Boomer, chỉ có 1.000 người nhận được đất. Các thành phố lều mọc lên qua đếm tại Oklahoma City, Kingfisher, El Reno, Norman, Guthrie, và Stillwater. Đây là các khu định cư lớn đầu tiên tại Oklahoma.
Thời kỳ đầu của lãnh thổ.
Cuối ngày 22 tháng 4 năm 1889, có hơn đủ số người định cư tại vùng đất "Unassigned Lands" (Vùng đất chưa phân phát) để thành lập một chính phủ lãnh thổ. Tuy nhiên, pháp chế cho phép mở cửa vùng đất này không có nhắc đến thể chế chính quyền tại Oklahoma. Không cảnh sát hay toà án địa phương nào được thành lập. Lực lượng quân sự liên bang nhận trách nhiệm thi hành luật pháp và Tòa án Hoa Kỳ đặc tránh Khu Tây Arkansas dưới quyền của thẩm phán liên bang Isaac Parker là hình thức thẩm quyền đặc trách dân sự và tội phạm duy nhất. Tuy vậy, khu vực này luôn hoà bình. Đa số các vụ tranh chấp đất đại được giải quyết mà không có đổ máu tuy phải mất nhiều năm để giải quyết. Khoảng trên một năm, người dân Lãnh thổ Oklahoma là những người bán-tự trị.
Năm sau đó, vào ngày 2 tháng 5 năm 1890, Quốc hội thông qua Đạo luật Tổ chức Oklahoma theo đó phân nửa phía tây của Lãnh thổ Bản địa Mỹ được tổ chức thành Lãnh thổ Oklahoma. Phân nữa phía đông vẫn là Lãnh thổ Bản địa Mỹ, nằm dưới quyền kiểm soát của người bản địa, đa số là người thuộc Năm bộ lạc văn minh. Quốc hội Hoa Kỳ ấn định Lãnh thổ Oklahoma còn có thêm một dải đất có tên là Vùng đất vô chủ, bao trùm một diện tích mà sau này trở thành Quận Beaver. Tháng 9 năm 1890, đất đai thuộc các khu dành riêng cho người bản địa Mỹ là "Sac và Fox", Iowa, và Pottawatomie nằm trong phần phía đông của Lãnh thổ Oklahoma được mở cho các khu định cư. Mùa xuân năm sau, đất đai của người Cheyenne và Arapaho nằm ở trung tâm lãnh thổ được mở cho các khu định cư. Ngày 16 tháng 9 năm 1893, Khu vực có tên Cherokee Outlet được mở cho định cư. Các quận Kay, Grant, Woods, Woodward, Garfield, Noble, và Pawnee được thành lập từ diện tích đất đai của Cherokee Outlet. Năm 1895 Khu dành riêng bản địa Kickapoo rộng được mở cho định cư. Năm sau, Quận Greer, từng được xem là một phần đất của Texas, được giao cho Lãnh thổ Oklahoma theo một phán quyết của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ. Các phát triển này cùng với các khu dành riêng bản địa của người Kiowa, Comanche, Apache và Wichita được mở cho định cư, đã mang lại cho Lãnh thổ Oklahoma một khu vực định cư có tổng diện tích khoảng trong số đó có vẫn còn nằm bên trong các khu dành riêng cho người bản địa Mỹ.
Đường đến địa vị tiểu bang.
Với việc thông qua đạo luật tổ chức năm 1890, Lãnh thổ Oklahoma tồn tại từ năm 1890 đến năm 1907. Suốt thời gian đó, có 7 thống đốc (và 2 quyền thống đốc) điều hành lãnh thổ. Một số thống đốc phục vụ chỉ có vài tháng. Các cơ sở giáo dục đại học được thành lập vào thời kỳ này là Đại học Oklahoma, Đại học Trung Oklahoma và Đại học Tiểu bang Oklahoma. Mục tiêu thật sự của lãnh thổ là phục vụ trong vai trò một chính quyền chuyển tiếp từ lãnh thổ chưa tổ chức sang tiểu bang.
Các đại diện của Năm bộ lạc văn minh họp năm 1902 để bàn về việc đưa Lãnh thổ Bản địa Mỹ lên địa vị tiểu bang. Họ tổ chức một hội nghị tại Eufaula. Các đại diện lại họp với nhau vào năm 1903 đẻ tổ chức một hội nghị hiến pháp.
Hội nghị Hiến pháp Sequoyah được tố chức tại Muskogee vào ngày 21 tháng 8 năm 1905. Pleasant Porter, đại tù trưởng của Xứ Creek, được bầu là chủ tịch hội nghị. Các đại biểu được bầu trong hội nghị quyết định rằng các viên chức hành chính của năm bộ lạc văn minh sẽ được bổ nhiệm thành các phó chủ tịch: William C. Rogers, đại tù trưởng của người Cherokee; William H. Murray của người Chickasaw; Green McCurtain của người Choctaw; John Brown của người Seminole; và Charles N. Haskell của người Creek.
Hội nghị thảo ra một bản hiến pháp, phát họa một kế hoạch tổ chức chính quyền, vẽ bản đồ biểu thị các quận được thành lập, và bầu các đại biểu với nhiệm vụ trình thỉnh cầu lên Quốc hội Hoa Kỳ xin cho Lãnh thổ Bản địa Mỹ trở thành một tiểu bang. Các đề nghị của hội nghị được trình công chúng bằng một cuộc trưng cầu dân ý tại Lãnh thổ Bản địa Mỹ. Cuộc trưng cầu dân ý được đa số ủng hộ.
Đoàn đại biểu được tiếp nhận lạnh nhạt tại Washington. Các chính trị gia miền Đông Hoa Kỳ gây áp lực với tổng thống Theodore Roosevelt vì họ lo sợ có thêm hai tiểu bang miền Tây nữa. Tổng thống Roosevelt phán quyết rằng Lãnh thổ Bản địa Mỹ và Lãnh thổ Oklahoma sẽ được phép gia nhập liên bang với điều kiện là cả hai phải trở thành một tiểu bang kết hợp duy nhất.
Tuy nhiên công trình của Hội nghị Hiến pháp Tiểu bang Sequoyah không hoàn toàn thất bại. Khi các đại biểu của Lãnh thổ Bản địa Mỹ tham dự Hội nghị Hiến pháp Tiểu bang Oklahoma tại Guthrie vào năm sau thì họ mang theo họ kinh nghiệm làm hiến pháp của mình. Hội nghị Sequoyah phục vụ một phần vai trò lớn về cơ bản cho hiến pháp của tiểu bang Oklahoma. Tiểu bang Oklahoma trở thành hiện thực khi hai lãnh thổ kết hợp với nhau vào năm 1907.
Thống đốc lãnh thổ Frank Frantz giám sát việc chuyển tiếp từ lãnh thổ sang tiểu bang. Ông được chọn là ứng cử viên của đảng Cộng hòa để phục vụ trong vai trò thống đốc đầu tiên của tiểu bang. Ông đối mặt với đảng viên Dân chủ Charles N. Haskell trong cuộc bầu cử ngày 17 tháng 9 năm 1907. Trong cùng cuộc bầu cử đó, Hiến pháp Oklahoma cũng được đưa ra trưng cầu dân ý. Hiến pháp được thông qua và Haskell được bầu là thống đốc. Khi nhân dân Oklahoma thông qua Hiến pháp Hoa Kỳ vào ngày 16 tháng 11 năm 1907, Lãnh thổ Oklahoma và Lãnh thổ Bản địa Mỹ chính thức giải thể và tiểu bang Oklahoma được thu nhập vào liên bang để trở thành tiểu bang thứ 46 của Hoa Kỳ.
Đại biểu liên bang.
Lãnh thổ được phép bầu một đại biểu (đừng nhầm lẫn với dân biểu là người được bầu tại các tiểu bang) vào Hạ viện Hoa Kỳ để phục vụ một nhiệm kỳ hai năm. Trong khi đại biểu này không thể biểu quyết tại toàn hạ viện, đại biểu này được phép biểu quyết trong một ủy ban của hạ viện mà người này là thành viên. Đại biểu lãnh thổ đầu tiên là David A. Harvey.
Bốn người đại diện cho Lãnh thổ trong vai trò đại biểu trong Hạ viện Hoa Kỳ: | 1 | null |
Play là một chương trình khung dùng để tạo các ứng dụng web, được viết bằng Scala và Java theo kiến trúc model–view–controller (MVC). Play được tạo ra với mục đích tăng hiệu suất lập tình bằng các sử dụng quy ước bằng cấu hình, tải lại mã nóng và hiển thị lỗi trên trình duyệt.
Phiên bản từ 1.1 của chương trình khung hỗ trợ Scala. Trong phiên bản 2.0, nhân Play được viết lại bằng Scala. Quá trình xây dựng và triển khai phần mềm được chuyển sang dùng SBT và templates Scala thay vì Groovy. | 1 | null |
Arrigo Boito (1842-1918) là nhà soạn nhạc người Ý. Ông là tác giả của vở opera nổi tiếng Mefistofele. Ông là bạn thân của thiên tài opera Giuseppe Verdi. Và chính Boito cũng là người có ảnh hưởng đến các sáng tác của Verdi. Lần đầu tiên, Boito khuyên Verdi sáng tác vở Otello, một trong những vở opera nổi tiếng của nhà soạn nhạc sinh năm 1813. Lần thứ hai, Boito lại khuyên Verdi nên sáng tác một vở opera hài. Verdi nghe theo và cuối cùng đã sáng tác vở Falstaff vào năm 1893. Vậy là nhờ đó, Verdi đã kịp để lại một vở opera mang phong cách hài (opera buffa) trước khi ra đi vào năm 1901. | 1 | null |
Symphonie fantastique, Op.14 (tiếng Việt: Giao hưởng cuồng tưởng (hoặc Giao hưởng hoang tưởng) là tác phẩm xuất sắc nhất của nhà soạn nhạc người Pháp Hector Berlioz. Đây là bản giao hưởng viết trên cung Đô trưởng. Nó được sáng tác vào năm 1830 và trình diễn lần đầu tiên tại Nhạc viện Paris vào ngày 5 tháng 12 cùng năm. Đây là một trong những tác phẩm hay nhất theo chủ nghĩa lãng mạn hoàn toàn trong âm nhạc, đi trước các bản giao hưởng có tiêu đề, giao hưởng thơ của Franz Liszt, Gustav Mahler, Richard Strauss, Pyotr Ilyich Tchaikovsky... Tiêu đề của bản giao hưởng này là "Những cảnh đời nghệ sĩ" có nguồn gốc từ mối tình không được đáp lại của chính tác giả với nữ diễn viên người Ireland Harriet Smithson, vợ ông sau này. Bản giao hưởng gồm 5 chương:
Trong đó, chương 4: Đi lên đoạn đầu đài với nhịp hành khúc mạnh mẽ là chương nhạc nổi tiếng nhất của Giao hưởng hoang tưởng.
Với bản giao hưởng này, Berlioz đã đoạn tuyệt với truyền thống cổ điển Viên mà những Joseph Haydn, Wolfgang Amadeus Mozart và Ludwig van Beethoven gây dựng. Bản giao hưởng này có dựa trên một chương trình đã có soạn thảo sẵn do chính Berlioz viết, trong đó là sự đan xen những nhân tố kịch tính gay cấn, tính trữ tình bay bổng, sự châm biếm chua cay, nỗi đau cao cả, sự hoang tưởng và cả sự kệch cỡm. Âm nhạc bám sát nội dung, miêu tả những tình huống đã có trong chương trình, bộc lộ tình cảm, tâm trạng của nhân vật. Berlioz cho rằng âm nhạc có tiêu đề "có thể gợi ra những cảm giác hoàn toàn giống với những cảm giác mà nghệ thuật tạo hình gợi ra". Chính nhờ bản giao hưởng này, Berlioz cùng với Liszt và Richard Wagner chủ trương tạo ra âm nhạc có chương trình, một trào lưu nổi bật của âm nhạc thế kỷ XIX. | 1 | null |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.