text
stringlengths
1
148k
label
int64
0
2
__index_level_0__
int64
0
113k
Carl Friedrich Christian Mohs (1773-1839) là nhà địa chất học, nhà khoáng vật học người Đức. Ông đã đưa ra thang độ cứng Mohs để kiểm tra độ cứng của các khoáng vật vào năm 1812. Thang đo của ông sử dụng phép thử nghiệm vết vắt có định cỡ cẩn thận.
1
null
Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến số 1 (Tiếng Hàn:수도권 전철 1호선 Sudogwon jeoncheol ilhoseon, Hanja: 首都圈 電鐵 1號線)của Tàu điện ngầm Seoul, là một tuyến tàu điện ngầm nối trung tâm Seoul, Hàn Quốc đến Yeoncheon ở phía Đông Bắc, Incheon ở phía Tây Nam, và Sinchang thông qua Suwon và Cheonan ở phía Nam. Phần trung tâm của tuyến đường sắt này là phần tàu điện ngầm lâu đời nhất và dài nhất trong hệ thống tàu điện ngầm Seoul; toàn bộ tuyến đường sắt bao gồm một phần lớn Vùng thủ đô Seoul. Phần ở dưới lòng đất giữa Ga Seoul và Ga Cheongnyangni, được gọi là Tàu điện ngầm Seoul tuyến 1 (), hiện đang được quản lý bởi Tổng công ty Vận tải Seoul. Tuyến đầu tiên mở của vào 1974 là Đường sắt quốc gia Hàn Quốc của Seoul, một phần sử dụng ga đường sắt quốc gia từ Ga Seongbuk (hiện là: Ga đại học Kwangwoon) đến Incheon và Ga Suwon. Hiện nay, phần dưới lòng đất của Tuyến 1 quản lý bởi Tổng công ty Vận tải Seoul, có nhãn hiệu màu đỏ trên bản đồ. Mặc khác, phần còn lại của tuyến đường sắt được quản lý bởi Korail có nhãn hiệu màu xanh hoặc xám trên bản đồ, và tuyến tốc hành là màu đỏ. Vào năm 2000, liên tiếp thông qua các hoạt động tuyến Korail chính thức hợp lại như một phần của tuyến 1 lớn, và nhãn hiệu trên bản đồ được thay đổi sang màu xám xánh. Dịch vụ đường sắt đi lại gần đây đã được mở rộng từ Sinchang vào tháng 12 năm 2008. Màu được sử dụng cho tuyến là màu Chàm Dịch vụ thường xuyên được cung cấp giữa Yeoncheon, Dongducheon, Uijeongbu, Cheongnyangni, Seoul, Yongsan, và Guro, nơi tàu được phân chia giữa Incheon ở phía Tây và Byeongjeom, Cheonan ở phía Nam. Tàu tốc hành từ Yongsan và Ga Seoul đến Dongincheon và Ga Cheonan. Xe lửa du lịch cùng Gyeongbu (Seoul-Cheonan), Gyeongin (Guro-Incheon), Janghang (Cheonan-Sinchang) và Gyeongwon (Hoegi-Yeoncheon). Vào tháng 6 năm 2006, Ga Jinwi và Jije được mở trên tuyến Gyeongbu. Vào tháng 1 năm 2010 Ga Dangjeong được mở cửa, giữa ga Gunpo và Uiwang. Một phần của tuyến Gyeongwon từ Dongducheon (trước là Dongan) đến Uijeongbu được sáp nhập vào Tuyến 1 từ tháng 12 năm 2006. Tuyến chạy bên phía tay trái của đường ray, nhưng ngược lại là tay phải như tất cả các tàu điện ngầm Seoul khác. Dòng lịch sử. 1974 1979 1980 1982 1984 1985 1986 1987 1988 1994 1995 1996 1997 1998 2000 2001 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2010 Tàu tốc hành. Korail quản lý "Tàu tốc hành" (급행전철) dịch vụ đường dài trên Tuyến 1. Các dịch vụ bao gồm: Ga. Tuyến địa phương: Tuyến tốc hành: Chú thích: Văn hóa đại chúng. Tàu điện ngầm Seoul tuyến 1 là bối cảnh và nguồn cảm hứng cho nhóm nhạc rock Hàn Quốc, , bởi đoàn nhạc kịch Hakchon dựa trên vở nhạc kịch Đức, Linie 1 bởi Volker Ludwig.
1
null
Đại tá Sir George Everest (4 tháng 7 năm 1790- 1 tháng 12 năm 1866) là nhà địa lý học người Wales. Tên của ông đã được đặt cho ngọn núi Everest nổi tiếng Sau khi tốt nghiệp trường quân đội, Everest đã gia nhập Công ty Đông Ấn và đến Ấn Độ năm 16 tuổi. Ông được chọn làm phụ tá cho William Lambton trong Cuộc khảo sát bản đồ lượng giác lớn, và đã thay thế Lambton làm người giám sát cuộc khảo sát bản đồ vào năm 1823. Everest chịu trách nhiệm chính trong việc khảo sát Vòng cung kinh tuyến từ điểm cực nam của Ấn Độ lên phía bắc đến Nepal, khoảng cách 2400 kilomet (1500 dặm), ông mất 35 năm từ 1806 đến 1841 để hoàn thành cuộc khảo sát này. Năm 1865, Hội Địa lý Hoàng gia Anh đổi tên Đỉnh XV - lúc bấy giờ là đỉnh cao nhất thế giới - để vinh danh Everest. Andrew Scott Waugh, người cấp dưới của ông và là một viên chỉ huy khảo sát kế nhiệm ông, đã chịu trách nhiệm cho việc đặt tên ông cho đỉnh núi vào năm 1856. Tên của Everest được lấy bởi vì rất khó tìm để đặt một cái tên địa phương cho ngọn núi. Ban đầu ông từ chối vinh dự này vì cho rằng tên ông rất khó để viết hoặc phát âm bằng tiếng Hindi = Tiểu sử = Everest sinh ngày 4 tháng 7 năm 1790, nhưng thông tin về ngày sinh của ông có thể không chính xác. Ông được rửa tội tại Nhà thờ Thánh Alfege , Greenwich, London, vào ngày 27 tháng 1 năm 1791.
1
null
Pargasit là một khoáng vật silicat phức tạp thuộc nhóm amphibol, có công thức hóa học NaCa2(Mg,Fe2+)4Al(Si6Al2)O22(OH)2. Nó được mô tả đầu tiên từ một mẫu ở Pargas, Phần Lan năm 1814 và được đặt tên theo địa phương này. Phân bố. Nó có mặt trong các đá biến chất khu vực nhiệt độ cao và trong đá skarn trong đới biến chất tiếp xúc quanh khối mácma. Nó cũng có mặt trong đá phun trào andesit và đá siêu mafic bị biến đổi. Pargasit là loại chứa nước chính trong phần trên cùng của manti, tuy nhiên nó trở nên không ổn định ở độ sâu lớn hơn 90 km. Đây là một hệ quả quan trọng trong việc trữ nước và nhiệt độ hóa rắn của lherzolit của manti trên. Tham khảo. <br>
1
null
Lherzolit là một loại đá mácma siêu mafic. Nó là một loại đá hạt thô chứa 40 đến 90% olivin cùng với một lượng đáng kể orthopyroxen và ít hơn là clinopyroxen giàu crôm calci. Các khoáng vật phụ gồm crôm và spinel nhôm và granat. Plagioclase có thể có trong lherzolit và các peridotit khác kết tinh ở độ sâu tương đối nông (20 – 30 km). Ở độ sâu lớn hơn, plagioclase không ổn định và bị thay thế bằng spinel. Ở độ sâu khoảng 90 km, pyrope granat trở nên pha nhôm ổn định. Lherzolit granat là thành phần chính của manti trên của Trái Đất (đến độ sâu ~300 km).
1
null
Spinel (Đá tia lửa) là một khoáng vật nhôm magnesi trong nhóm spinel, công thức hóa học của khoáng vật là MgAl2O4. Balas ruby là tên gọi cũ của một biến thể nhiều màu hồng của khoáng vật này. Phân bố. Spinel một thời gian dài được tìm thấy trong cuội chứa đá quý ở Sri Lanka và đá vôi ở tỉnh Badakshan ngày nay, Afghanistan và Mogok ở Burma. Gần đây loại spinel chất lượng đá quý được tìm thấy trong đá hoa Lục Yên ở Việt Nam, Mahenge và Matombo (Tanzania), Tsavo (Kenya) và trong cuội Tunduru (Tanzania) và Ilakaka (Madagascar). Spinel được tìm thấy ở dạng khoáng vật biến chất, và cũng là khoáng vật chính trong các đá mácma mafic hiếm gặp; các đá mácma này tương đối thiếu alkali liên quan đến nhôm, và oxide nhôm có thể tạo ra dạng corundum hoặc có thể kết hợp với magnesi tạo thành spinel. Đây là lý do vì sao spinel và ruby thường được tìm thấy cùng nhau. Spinel tổng hợp. Spinel tổng hợp được tình cờ tạo ra vào giữa thế kỷ 18, và gần đây được mô tả nhiều hơn trong các ấn phẩm khoa học năm 2000 và 2004.
1
null
Thằn lằn tegu đỏ Argentina (tên khoa học Tupinambis rufescens), thường được gọi là chỉ đơn giản là Tegu đỏ, là một trong những loài thằn lằn Tegu "(Tupinambis)" lớn nhất. Như tên gọi của nó, Thằn lằn tegu đỏ Argentina được tìm thấy ở miền tây Argentina và Paraguay. Xuất hiện. Khi còn non, hầu hết thằn lằn tegu đỏ có ít màu đỏ. Chúng có màu xanh hơi nâu với những đen ngang và một vài sọc trắng đứt theo chiều dài của chúng. Chúng phát triển màu đỏ khi họ trưởng thành, con đực thường sáng hơn so với con cái. Con cái trưởng thành có thể dài 105 cm (3.5 ft). Con đực lớn hơn, đạt đến 140 cm (4,5 ft).
1
null
Zombieland là bộ phim hài - kinh dị Mỹ về chủ đề zombie ra mắt năm 2009, đạo diễn bởi Ruben Fleischer từ kịch bản của Rhett Reese và Paul Wernick. Phim có sự tham gia diễn xuất của Jesse Eisenberg, Woody Harrelson, Emma Stone và Abigail Breslin trong vai những người sống sót từ thảm họa zombie, cùng nhau tham gia cuộc hành trình dài xuyên qua vùng Tây Nam nước Mỹ để tìm đến vùng đất chưa bị zombie xâm chiếm. Bộ phim được công chiếu ở Fantastic Fest vào ngày 25 tháng 9 năm 2009 và ra rạp vào ngày 2 tháng 10 cùng năm ở Mỹ bởi Columbia Pictures. "Zombieland" thắng lợi và mang về doanh thu hơn 60.8 triệu đô la trong vòng 17 ngày, vượt qua bộ phim sản xuất năm 2004 "Dawn of the Dead", trở thành bộ phim về đề tài zombie có doanh thu cao nhất, trước khi bị vượt qua bởi "World War Z" vào năm 2013. Phần sau của bộ phim, "", được ra mắt vào ngày 18 tháng 10 năm 2019. Nội dung. Hai tháng trôi qua kể từ khi một dịch bò điên phát triển thành thành "dịch người điên" và sau đó trở thành "dịch thây ma điên" tràn ngập nước Mỹ, biến mọi người thành những thây ma khát máu. Những người còn sống sót sau đại dịch này nhận ra rằng không nên ở gần nhau vì họ có thể bị chết bất cứ lúc nào, nhiều người đã sử dụng tên thành phố họ ở làm biệt danh. Một sinh viên đại học tên Columbus (Jesse Eisenberg) đang tìm đường từ ký túc xá đại học của mình ở Austin, Texas trở về Columbus, Ohio, để xem cha mẹ mình còn sống hay không. Anh gặp Tallahassee (Woody Harrelson), một người sống sót khác, rất cục súc trong việc tiêu diệt lũ thây ma. Mặc dù trông có vẻ không hòa đồng, nhưng Tallahassee vẫn miễn cưỡng cho phép Columbus quá giang cùng. Tallahassee đề cập đến việc anh nhớ chú chó con của mình đã bị thây ma giết chết, cũng như nguyện vọng được ăn thật nhiều bánh Twinkie, thứ mà anh luôn cố tìm kiếm. Cặp đôi gặp gỡ hai chị em xinh đẹp Wichita (Emma Stone) và Little Rock (Abigail Breslin) trong một cửa hàng tạp hóa. Cả hai là những kẻ lừa đảo, khiến Tallahassee và Columbus phải giao nộp vũ khí của họ bằng cách giả vờ rằng Little Rock bị nhiễm bệnh, sau đó đánh cắp chiếc Escalade của Tallahassee và bỏ đi. Hai thanh niên đi lang thang và vô tình thấy một chiếc Hummer H2 màu vàng chứa đầy vũ khí, Tallahassee quyết định đuổi theo hai chị em kia. Tuy nhiên, một cái bẫy đã được giăng sẵn bởi các cô gái và hai thanh niên bị bắt làm con tin. Trên xe, Tallahassee bất ngờ cướp khẩu súng từ tay Little Rock và có một cuộc đối đầu với Wichita, sau đó Columbus nổi giận và bảo rằng họ còn những vấn đề lớn hơn để lo lắng, cuối cùng tất cả làm hòa và tiếp tục hành trình. Hai chị em tiết lộ rằng họ sẽ đến công viên giải trí Pacific Playland ở Los Angeles, một khu vực được cho là không có thây ma. Sau khi biết quê nhà của mình đã bị phá hủy cũng như cha mẹ anh khả năng cao đã bị giết, Columbus quyết định đi cùng 3 người kia đến California. Trong suốt chuyến đi, Columbus vẫn cố gắng gây ấn tượng và tán tỉnh Wichita. Khi nhóm đến Hollywood, Tallahassee hướng họ đến biệt thự của Bill Murray. Tallahassee và Wichita được gặp Murray, ông không bị nhiễm bệnh nhưng đã ngụy trang thành một thây ma để có thể đi bộ an toàn quanh thị trấn. Murray bị Columbus giết khi anh bắn ông do nhầm Murray với một thây ma thực sự trong một trò đùa thực tế trong khi xem Ghostbuster với Little Rock. Columbus nhận ra khi chơi trò Monopoly rằng Tallahassee không đau buồn cho chú chó con của minh mà vì đứa con trai nhỏ của anh ta. Wichita ngày càng bị thu hút bởi Columbus và Tallahassee liên kết với Little Rock mặc dù cả hai luôn bất hòa trước nay. Tuy bị thu hút bởi Columbus, Wichita lo sợ về sự liên kết này và quyết định rời đi cùng Little Rock đến Pacific Playland vào sáng hôm sau. Columbus quyết định theo đuổi Wichita và thuyết phục Tallahassee tham gia cùng anh ta. Tại Pacific Playland, hai chị em kích hoạt tất cả các trò chơi và ánh sáng để họ có thể tận hưởng công viên, vô tình điều này thu hút sự chú ý của một số thây ma trong khu vực xung quanh. Một cuộc rượt đuổi bắt đầu, và ngay khi hai chị em bị mắc kẹt trên đỉnh của trò tháp thả, Tallahassee và Columbus xuất hiện. Tallahassee dụ các thây ma đuổi theo mình, tạo cơ hội cho Columbus trèo lên tháp giải cứu hai chị em. Cuối cùng Tallahassee tự nhốt mình trong một bốt trò chơi, dụ thây mà đến gần rồi bắn chúng. Columbus thoát khỏi đám thây ma và bắn xuyên qua nhiều thây ma đang trèo lên tháp để giải cứu các cô gái. Như một lời cảm ơn, Wichita hôn Columbus và tiết lộ tên thật của cô: Krista. Khi nhóm rời Pacific Playland, Columbus nhận ra rằng nếu không liên kết cùng những người bạn này, anh đã có thể là trở thành thây ma, và giờ đây Columbus đã có thứ mà anh luôn mong muốn - một gia đình. Diễn viên. Tên nhân vật. Các nhân vật chính không sử dụng tên thật của nhau, mà tự gọi họ bằng tên địa danh nơi họ đến (Columbus, Tallahassee, Wichita và Little Rock). Bao gồm cả hàng xóm của Columbus, được gọi là 406 theo số phòng cô ta ở và người Columbus luôn mộng tưởng đến là Beverly Hills cũng như cô gái tên Cynthia Knickerbocker, người mà Columbus cho rằng đã chiến thắng giải "Giết thây ma của tuần". Có một ngoại lệ là Murray do ông là diễn viên nổi tiếng. Cuối bộ phim, Wichita nói với Columbus rằng tên thật của cô là Krista.
1
null
, thường được viết tắt là ADK, là một công ty quảng cáo Nhật Bản. Trụ sở chính tại Chūō, Tokyo, công ty quảng cáo lớn thứ ba ở Nhật Bản, chỉ sau Dentsu và Hakuhodo. Công ty này có tới 38 văn phòng ở khoảng 15 quốc gia. Một trong những văn phòng đó, Asatsu-DK châu Âu, được thành lập năm 1993 tại Amsterdam, Hà Lan. WPP Group giữ 20% cổ phần trong Asatsu-DK. Lịch sử. Asatsu Inc. Được thành lập vào năm 1956 bởi chủ tịch hiện tại là Inagaki Masao. Vào tháng tám năm1998, nó tham gia chuyên nghiệp liên kết với WPP Group. Rồi nhanh chóng sáp nhập với công ty quảng cáo Dai-ichi Kikaku Co., Ltd. (được thành lập năm 1951) để tạo thành Asatsu-DK (DK là viết tắt của Dai-ichi Kikaku) vào ngày 1 tháng 1 năm 1999. Công ty con và quyền lợi. Nó sở hữu nhiều quyền và công ty, bao gồm xưởng sản xuất NAS, xưởng phim hoạt hình Eiken, nhà xuất bản Nihon Bungeisha Publishing, phim và doanh nghiệp chế in Taiyo Seihan, các xưởng sản xuất Sun Artist Studio, Supervision Inc., nhà sản xuất Hình ảnh chính truyền hình thương mại, và dịch vụ sáng tạo công ty Tokyo Ad Party. Asatsu-DK cũng tham gia vào việc sản xuất và cung cấp những dịch vụ của mình cho nhiều loạt anime, qua chính bản thân cũng như những công ty con, gồm cả những phần gần đây của Sunrise series nổi tiếng Gundam, cũng như những serie cuối cùng "Mobile Suit Gundam 00", "Turn A Gundam", "Mobile Suit Gundam Seed" và "Mobile Suit Gundam Seed Destiny", cũng như những anime khác.
1
null
Nhật ký công chúa (tựa tiếng Anh: "The Princess Diaries") là một bộ phim hài lãng mạn tuổi teen năm 2001 của Mỹ được sản xuất bởi nữ ca sĩ và diễn viên nổi tiếng Whitney Houston cùng với đạo diễn Garry Marshall, kịch bản viết bởi Gina Wendkos. Bộ phim lấy cảm hứng từ cuốn tiểu thuyết cùng tên năm 2000 của nhà văn Meg Cabot. Phim có sự tham gia của Anne Hathaway (đây là bộ phim điện ảnh đầu tay của cô) vai Mia Thermopolis - một cô nữ sinh trung học ngây thơ bỗng dưng phát hiện ra mình là người thừa kế ngai vàng của Vương quốc hư cấu Genovia, cai trị bởi Nữ hoàng Clarisse Renaldi - do nữ diễn viên đoạt giải Oscar Julie Andrews đóng. Heather Matarazzo vào vai người bạn thân nhất của Mia - Lilly Moscovitz, Héctor Elizondo vai Joseph và Robert Schwartzman vào vai anh trai của Lilly - Michael, người đã phải lòng Mia. "Nhật ký công chúa" phát hành tại các rạp chiếu Bắc Mỹ vào ngày 3 tháng 8 năm 2001, bộ phim giành được vị trí thứ 3 ở phòng vé và là một thành công thương mại với tổng doanh thu lên đến 165.335.153 đô la Mỹ trên toàn thế giới. Phần tiếp theo của bộ phim - "", được phát hành vào tháng 8 năm 2004. Nội dung phim. Ở tuổi 15, Mia Thermopolis (Anne Hathaway) sống cùng với người mẹ góa phụ Helen (Caroline Goodall) cùng với con mèo Louie Béo trong một trạm cải tạo cứu hỏa San Francisco. Mia là cô nữ sinh vụng về, chậm chạp với mái tóc xù bông và đôi kính mắt cú to trên mặt, cô sợ phải nói trước nhiều người, và thường muốn được "vô hình". Cô đã phải lòng Josh Bryant (Erik von Detten), nhưng thường xuyên bị anh ta và bạn gái Lana Thomas (Mandy Moore), đội trưởng đội cổ vũ, chế giễu. Ở trường học, cô chỉ có hai người bạn, cả hai đều không nổi tiếng, là Lilly (Heather Matarazzo) và anh trai của Lilly - Michael (Robert Schwartzman) - người đã phải lòng Mia, còn lại hầu như chẳng mấy ai quan tâm đến một cô gái nghịch ngợm, đôi phần luộm thuộm như cô bé. Cuộc sống của cô không có gì đặc biệt và sẽ cứ mãi như vậy cho đến ngay trước ngày sinh nhật mừng tuổi 16, Mia đột nhiên hay tin bà nội mình - Clarisse Renaldi (Julie Andrews) từ Genovia - một tiểu vương quốc của châu Âu xa xôi đến thăm. Khi Mia đến gặp bà tại dinh thự lớn (sau này được tiết lộ là lãnh sự quán của Genovia), Clarisse tiết lộ bà là nữ hoàng lãnh đạo vương quốc Genovia và người cha quá cố của Mia (René Auberjonois) là Hoàng tử kế vị của Genovia. Mia choáng váng khi biết cô là cháu gái duy nhất của nữ hoàng - công chúa Amelia Mignonette Thermopolis Renaldi, người kế vị ngai vàng trị vì Genovia. Quá kinh ngạc trước điều bất ngờ này, Mia chạy về nhà và giận dữ đối mặt với mẹ của mình, người giải thích cô đã lên kế hoạch cho Mia biết vào ngày sinh nhật thứ 18 của con gái, nhưng cái chết của cha cô đã buộc phải giải quyết vấn đề theo cách này. Nữ hoàng Clarisse ghé thăm và giải thích rằng nếu Mia từ chối ngai vàng, Genovia sẽ không có người cai trị mà thay vào đó một nam tước và phu nhân của hắn sẽ lên nắm quyền. Helen thuyết phục Mia, lúc đó đang do dự, tham gia vào các "bài học công chúa" với Nữ hoàng, nói với cô rằng cô không phải đưa ra quyết định của mình cho đến khi vũ hội mừng Ngày Độc lập Genovia diễn ra sắp tới. Mia được trang điểm và thay đổi kiểu tóc để trở nên quyến rũ hơn, được sử dụng xe limousine và vệ sĩ (người đứng đầu an ninh của Nữ hoàng, Joe (Héctor Elizondo)). Điều này và sự vắng mặt thường xuyên của Mia cho những bài học khiến Lilly nghi ngờ và ghen tị, cô cáo buộc rằng Mia đang cố gắng để trở nên giống như những cô gái nổi tiếng. Mia buồn bã và cuối cùng nói với Lilly tất cả mọi thứ và bắt cô giữ bí mật. Tuy nhiên, tờ "San Francisco Chronicle" đã biết rằng Mia là Công chúa kế vị của Genovia sau khi thợ làm tóc hoàng gia Paolo (Larry Miller) phá vỡ thỏa thuận giữ bí mật (để mọi người biết rằng chính anh ta đã làm Mia trở nên xinh đẹp), gây ra sự hỗn loạn về phía báo chí và sự phổ biến bất thình lình ở trường cho Mia. Vì khao khát sự nổi tiếng, nhiều bạn cùng lớp của cô bịp bợm nói rằng họ là bạn thân của công chúa với cánh phóng viên, kể cả Lana. Tại bữa ăn tối với nhà nước, Mia tỏ ra lúng túng, vụng về, làm đối thủ cạnh tranh ngôi vị với cô rất đắc ý. Tuy nhiên, đó không hẳn là điều tồi tệ, vì tình huống đó đã làm một nhà ngoại giao luôn tỏ vẻ nghiêm trọng phải bật cười, và Nữ hoàng nói với Mia ngày hôm sau rằng bà thấy nó rất hài hước. Sau khi quyết định đã đến lúc hai người nên phát triển mối quan hệ giữa bà nội và cháu gái, Nữ hoàng đưa cô đi chơi ở Musée Mécanique, một khu giải trí. Buổi đi chơi vui vẻ kết thúc thảm họa khi xe của Mia ngưng lại trên đồi rồi tụt xuống, đâm vào một chiếc xe cáp, nhưng Nữ hoàng Clarisse đã cứu vãn tình thế bằng cách "bổ nhiệm" nhân viên cảnh sát và tài xế xe điện ở đó cấp bậc Genovia "Chủ nhân của tước bậc Hoa hồng" (chức vị mà bà đã nghĩ ra ngay lúc đó), tâng bốc họ để Mia không bị phạt. Mia thấy được điều này và rất ấn tượng với bà của mình. Sau đó, Mia rất vui mừng khi Josh Bryant mời cô đến một bữa tiệc bãi biển, nhưng điều đó làm Lilly và Michael bị tổn thương, vì cô đã lỡ hẹn với họ. Mọi thứ trở nên tồi tệ khi cánh nhà báo đến, được thông báo bởi Lana. Josh lợi dụng Mia để có được mười lăm phút nổi tiếng bằng cách công khai hôn cô, trong khi Lana lừa Mia thay đồ trong một cái lều, kéo nó xuống khi các paparazzi đến nơi, cho họ một bức ảnh tai tiếng của Mia trong chiếc khăn tắm. Những bức ảnh xuất hiện trên báo lá cải ngày hôm sau, làm Nữ hoàng Clarisse rất tức giận với Mia. Mia, bị bẽ mặt, nói với Clarisse rằng cô sẽ từ bỏ ngai vàng, cảm thấy cô chưa sẵn sàng để trở thành một công chúa thực thụ. Joe sau đó nhắc nhở Nữ hoàng rằng mặc dù Mia là một công chúa, cô vẫn là một cô thiếu niên, và là cháu gái của bà. Trở lại trường học, Mia nối lại tình bạn của cô với Lilly và Michael bằng cách mời họ đến vũ hội mừng Ngày Độc lập Genovia và trả thù Josh bằng cách đánh một quả bóng chày vào háng anh ta trong lớp học thể dục. Cuối cùng cô đứng lên chống lại Lana để bảo vệ Jeremiah (Patrick Flueger), người mà Lana đang chế nhạo, bằng cách bôi kem vào trang phục cổ vũ của Lana và tuyên bố rằng, trong khi Mia luôn có cơ hội phát triển bản thân thì Lana sẽ luôn là một kẻ xuẩn ngốc. Các giáo viên cũng không can thiệp, vì biết rõ rằng Lana đáng bị như vậy. Trong khi Lilly vui mừng trước viễn cảnh tham dự một vũ hội hoàng gia, Michael, đau khổ trước tình cảm của Mia dành cho Josh, từ chối cô ấy. Clarisse xin lỗi Mia vì đã tức giận với cô về vụ việc trên bãi biển, và nói rằng cô phải thông báo công khai quyết định từ bỏ việc trở thành công chúa của Genovia. Mia, sợ hãi với trách nhiệm lớn lao này đặt lên cô, lập kế hoạch chạy trốn. Tuy nhiên, khi cô tìm thấy một lá thư từ người cha quá cố của mình, những lời cảm động của ông khiến cô thay đổi ý định, và cô tìm đường đến vũ hội. Xe của Mia hỏng giữa trời mưa, nhưng cô được cứu bởi Joe, người đã nghi ngờ cô sẽ chạy trốn. Khi họ đến nơi, Mia, ướt đẫm và tóc chưa chải, tuyên bố rằng cô chấp nhận vai trò của mình là Công chúa của Genovia. Sau khi thay một chiếc váy đầm sang trọng, Mia đi cùng Clarisse đến phòng khiêu vũ, nơi cô chính thức được giới thiệu và mời nhảy. Michael, chấp nhận món quà xin lỗi từ Mia (một chiếc bánh pizza với kẹo viên sô cô la nhiều màu M&M' được đặt ở trên một cách khéo léo ghép thành dòng chữ "Xin lỗi"), đến vũ hội, và sau một điệu nhảy, họ đi về phía vườn. Mia thú nhận tình cảm của cô với anh, nói rằng ngay cả khi cô liên tục bị trêu chọc và xấu hổ ở trường, Michael thích cô vì chính con người cô. Mia chia sẻ nụ hôn với Michael, trong khi Clarisse và Joe đang nắm tay nhau. Trong cảnh cuối cùng, Mia ở trên một chiếc máy bay riêng với Louie Béo, viết vào nhật ký của cô, giải thích rằng cô đang di chuyển cùng mẹ đến Genovia, và rồi cung điện hoàng gia và cảnh quan tuyệt đẹp hiện ra phía dưới. Sản xuất. Bộ phim sản xuất bởi Whitney Houston, Debra Martin Chase và đạo diễn Garry Marshall. Anne Hathaway được nhận vào vai diễn Mia vì cháu gái của Garry Marshall khi nhìn thấy băng thử giọng của cô và thốt lên rằng cô ấy (Hathaway) có "mái tóc của một nàng công chúa" đẹp nhất." Theo Hathaway, sự lựa chọn đầu tiên cho vai diễn của Mia Thermopolis là nữ diễn viên Liv Tyler, nhưng hãng sản xuất phim lại ưa thích để một khuôn mặt hoàn toàn mới xuất hiện. Héctor Elizondo - nam diễn viên người Mỹ xuất hiện trong tất cả những bộ phim mà Marshall làm đạo diễn, vào vai Joe, người đứng đầu an ninh của vương quốc Genovian. Con gái của Garry Marshall - Kathleen, đóng vai Charlotte Kutaway - viên thư ký của Clarisse. Họ Charlotte được đề cập chỉ trong các khoản tín dụng, và Garry Marshall nói rằng đó là một sự tham khảo đến cách cô ấy thường sử dụng trong những cảnh quay đã cắt. Trong một cảnh quay, Robert Schwartzman - thành viên của ban nhạc Rooney xuất hiện trong bộ phim với vai trò khách mời, anh vào vai ca sĩ chính Michael của một ban nhạc đường phố có tên Flypaper. Cuốn sách cùng tên với bộ phim được đề cập ở thành phố New York, nhưng vị trí của bộ phim đã thay đổi ở thành phố San Francisco. Hai nhân vật Mark & Brian cũng xuất hiện trong "Nhật Ký Công Chúa" trong vai hai người dẫn chương trình đài phát thanh bờ biển phía tây. Sự tiếp nhận. "Nhật ký công chúa" ra mắt tại 2.537 rạp chiếu ở Bắc Mỹ và thu về 22.862.269 đô la Mỹ trong tuần đầu công chiếu. Đến tuần cuối cùng, doanh thu tổng cộng của bộ phim là 165.335.153 đô la Mỹ trên toàn thế giới, trong đó thu về 108.248.956 đô la Mỹ chỉ tính riêng tại thị trường Bắc Mỹ và 57.086.197 đô la Mỹ trong những vùng lãnh thổ khác. Đánh giá và phê bình. Bộ phim nhận được nhiều đánh giá trái chiều từ phía các nhà phê bình. Trang mạng đánh giá phim Rotten Tomatoes tổng kết và cho biết 47% trong tổng số 113 nhà phê bình phim đã dành cho "Nhật ký công chúa" một đánh giá tích cực, với số điểm trung bình đánh giá là 5,2 trên 10. Với trang Metacritic, tính điểm bình quân trong tổng số 100 đánh giá từ các nhà phê bình quan trọng dành cho bộ phim số điểm là 52 dựa trên 27 đánh giá.
1
null
Acyrthosiphon pisum là một loài côn trùng hút nhựa cây thuộc họ Aphididae. Chúng hút nhựa nhiều cây họ Đậu trên khắp thế giới, trong đó có nhiều cây họ đậu là cây trông. Vào mùa thu, con cái đẻ trứng đã được thụ tinh và trứng qua mùa đông và nở vào mùa xuân tiếp theo.
1
null
Nhà thờ Chúa khóc là một nhà thờ Công giáo trên núi Olives, đối diện với bức tường thành của thành phố Jerusalem cổ. Nhà thờ này được xây dựng từ năm 1953 tới năm 1955 bởi kiến trúc sư người Ý Antonio Barluzzi và được đặt dưới sự coi sóc của các tu sĩ dòng Phanxicô ở Đất Thánh. Trong khi xây dựng, các nhà khảo cổ đã phát hiện các hiện vật có niên đại từ thời Canaan, cũng như các ngôi mộ từ thời Đền thờ thứ hai và thời đế quốc Đông La Mã. Nhà thờ này có vòm nóc mang hình dạng một giọt nước mắt để tượng trưng cho những giọt nước mắt của Chúa Giêsu. Theo chương 19 của Phúc âm thánh Luca thì tại nơi này Chúa Giêsu - khi đi về phía thành Jerusalem – đã bị choáng ngợp bởi vẻ đẹp của ngôi đền thờ thứ hai, và dự đoán sự phá hủy đền thờ này cùng với việc phân tán người Do Thái trong tương lai, nên Ngài đã khóc một cách công khai (một sự kiện được gọi là Flevit super illam = Ngài khóc nó, trong tiếng Latinh) (Phúc âm Luca 19:37-42). Lịch sử. Nơi Chúa khóc đã không hề được chú ý đến cho tới thời Thập tự chinh. Chính trong thời này người ta mới bắt đầu tưởng niệm nơi Chúa khóc. Cuối cùng một ngôi nhà nguyện nhỏ được xây dựng trên địa điểm này. Sau khi Jerusalem thất thủ năm 1187, thì nhà nguyện này bị rơi vào tình trạng đổ nát. Vào đầu thế kỷ thứ 16 nơi này có một thánh đường Hồi giáo hoặc madrasah, dường như do đế quốc Ottoman xây dựng trên tàn tích của ngôi nhà nguyện cũ. Nơi này được gọi là "el Mansouriyeh" (Nơi chiến thắng) và cũng gọi là "el Khelweh" (Nơi ẩn dật). Các tu sĩ dòng Phanxicô đã không thể sở hữu được di tích này, vì vậy vào năm 1891 họ đã mua một mảnh đất gần đó và xây dựng một nhà nguyện nhỏ ở đây. Năm 1913, một phụ nữ tên là Mellon đã xây một ngôi nhà nhỏ trên khu đất ở phía trước nhà nguyện của dòng Phanxicô. Khu nhà này sau đó thuộc quyền sở hữu của các nữ tu dòng Thánh Giuse, rồi cuối cùng các nữ tu này đã bán lại cho các nữ tu dòng Biển Đức. Năm 1940, các nữ tu dòng Biển Đức bán một phần tài sản này cho các tu sĩ dòng Phanxicô. Bức tường ranh giới cũ đã được di chuyển trong thời gian này để làm ranh giới mới. Năm 1953, các tu sĩ dòng Phanxicô bắt đầu xây dựng nhà thờ mới và một bức tường khác. Khảo cổ. Trong khi đào móng, các công nhân phát hiện các ngôi mộ cổ. Các cuộc khai quật nơi này được bắt đầu tiến hành dưới sự lãnh đạo của tu sĩ Bellarmino Bagatti, dòng Phanxicô. Một ngôi mộ ở cuối thời đại đồ đồng từ thời Canaan (thế kỷ thứ 2 trước CN), cũng như một nghĩa địa cổ từ năm 136 trước Công nguyên đến năm 300 sau Công nguyên đã được phát hiện. Nghĩa địa cổ này trải dài qua 2 thời kỳ riêng biệt, đặc trưng bởi các kiểu ngôi mộ khác nhau. Những ngôi mộ đầu thời kỳ đền thờ thứ hai là theo kiểu Kokhim, trong khi phần mộ thời đế quốc Byzantine gồm các ngôi mộ với arcosolium từ thế kỷ thứ 3 và thế kỷ thứ 4 sau Công nguyên. Một tu viện thời đế quốc Byzantine từ thế kỷ thứ 5 cũng được phát hiện. Các tranh khảm từ tu viện này vẫn còn tại đây.
1
null
Ga Jongno 3(sam)-ga (Tiếng Hàn: 종로3가역, Hanja: 鍾路3街驛) hay Ga Jongno 3(sam)-ga (Công viên Tapgol) (Tiếng Hàn: 종로3가 (탑골공원), Hanja: 鍾路3街(탑골公園)驛) là ga trung chuyển cho Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 1, Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 3 và Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 5 đặt tại Jongno 3-ga, Donui-dong và Myo-dong, Jongno-gu, Seoul. Ga Jongno 3-ga là tên chính thức của Tuyến 1 và Tuyến 3, và Ga Jongno 3-ga (Công viên Tapgol) là tên chính thức của Tuyến 5. Trong số các ga tàu điện ngầm ở Seoul, ga này có số lượng hành khách miễn phí lớn nhất do chế độ ưu đãi dành cho người cao tuổi. Vào ngày 31 tháng 12 hàng năm, Sự kiện Rung chuông Bosingak tại Ga Jonggak cũng thu hút đám đông đến ga này khi đi qua mà không dừng lại. Vào tháng 12 năm 2010 nhà ga ghi nhận là nơi tiêu thụ dữ liệu WiFi cao thứ năm trên tất cả các ga của Tàu điện ngầm Seoul, sau đó là Ga xe buýt tốc hành, Ga Sadang, Ga Dongdaemun và Ga Jamsil. Bố trí ga. Tuyến số 1 (B2F). Phạm vi có thể đạt được mà không cần chuyển Lối ra. Các địa điểm sau có thể truy cập từ lối ra của nhà ga này được liệt kê như sau Du lịch. Vào tháng 1 năm 2013, Tổng công ty đường sắt cao tốc đô thị Seoul xuất bản sách hướng dẫn miễn phí gồm ba ngôn ngữ: Tiếng Anh, Tiếng Nhật và Tiếng Trung (giản thể và phồn thể), trong đó có tám tour du lịch cũng như đề xuất cho thuê phòng, nhà hàng và trung tâm mua sắm. Chúng được phân phối từ trung tâm thông tin trên 44 ga tàu điện ngầm, tên là Ga Itaewon trên tuyến 6 và Ga Gwanghwamun trên tuyến 5. Tám tour du lịch được thiết kế với các chủ đề khác nhau, ví dụ: Văn hóa truyền thống Hàn Quốc. Đi từ Ga Jongno 3-ga đến Ga Anguk và Ga Gyeongbokgung trên tuyến 3 ở đó trưng bày cửa hàng đồ cổ và phòng trưng bày nghệ thuật của Insa-dong.
1
null
Furoshiki (風呂敷) là nghệ thuật gói quà bằng vải độc đáo và tinh tế của người Nhật Bản, gần giống với "tay nải" của Việt Nam thời xưa. Nó thể hiện được nét văn hóa tặng quà của người Nhật trong đời sống thường ngày. Bojagi (Hangul: 보자기) là biến thể của Furoshiki, trở thành nghệ thuật gói quà bằng vải truyền thống Hàn Quốc. Bojagi thường có hình vuông và có thể được làm từ nhiều chất liệu khác nhau, mặc dù lụa hoặc gai là phổ biến. Bojagi thêu được gọi là subo, trong khi bojagi chắp vá hoặc phế liệu được gọi là chogak bo. Nguồn gốc. Furoshiki xuất hiện vào triều đại Nara dưới tên gọi "tsutsumi" (つつみ) nghĩa là cái bọc, dùng để gói những vật phẩm quý giá như vàng bạc châu báu được cất giữ trong nhà kho "Shoso-in" một nơi cất giữ vàng bạc châu báu của hoàng gia tại đền Todai-ji (東大寺). Furoshiki là sự kết hợp từ chữ ""furo" là tắm và "shiki"" là trải ra,nên nhiều người đã nghĩ rằng furoshiki bắt nguồn từ phong tục tắm hơi ở Nhật Bản có từ thời kỳ Edo (1603-1868). Trong khi đó ở Triều Tiên, Các tín ngưỡng dân gian truyền thống của Hàn Quốc tin rằng giữ một cái gì đó được bọc sẽ bảo vệ may mắn. Người ta tin rằng việc sử dụng khăn bọc sớm nhất có từ thời Tam Quốc, nhưng không có ví dụ nào tồn tại từ thời kỳ này. Những ví dụ sớm nhất còn sót lại, từ đầu triều đại Joseon (1392–1910), được sử dụng trong bối cảnh Phật giáo, làm khăn trải bàn hoặc khăn phủ cho các bài kinh. Những tấm vải đặc biệt đánh dấu các sự kiện đặc biệt, chẳng hạn như đám cưới hoặc lễ đính hôn, trong đó việc sử dụng một tấm vải mới được cho là thể hiện "sự quan tâm của một cá nhân đối với cái đang được bọc, cũng như sự tôn trọng đối với người nhận nó." Đối với một đám cưới hoàng gia, có thể tạo ra tới 1.650 vải bọc bojagi. Việc sử dụng bojagi hàng ngày đã giảm trong những năm 1950, và chúng không được người Hàn Quốc coi là đồ vật nghệ thuật cho đến cuối những năm 1960. Năm 1997, bộ tem bưu chính "Vẻ đẹp Hàn Quốc" bao gồm bốn con tem có bojagi. Vải bọc của hoàng gia được gọi là kung-bo. Trong triều đình Joseon, loại vải được ưa chuộng trong xây dựng bojagi là vải màu hồng đỏ đến tím được sản xuất trong nước. Những loại vải này thường được vẽ với các thiết kế, chẳng hạn như rồng, phượng hoàng... Không giống như sự thanh đạm đã qua sử dụng và tái sử dụng của các loại vải bọc không phải của hoàng gia, hàng trăm bojagi mới được đưa vào sử dụng vào những dịp đặc biệt như sinh nhật hoàng gia và ngày đầu năm mới. Min-bo hoặc chogak bo (조각보) là bojagi "chắp vá" do dân thường làm. Trái ngược với kung-bo của hoàng gia, vốn không phải là đồ chắp vá, những tấm vải này được tạo ra từ những đoạn vải nhỏ ("chogak") từ việc may khác, chẳng hạn như những mảnh vải còn sót lại sau khi cắt những đường cong trên hanbok truyền thống quần áo. Cả hai loại vải có hoa văn 'bất thường' đối xứng và 'ngẫu nhiên' đều được may, với những kiểu dáng có lẽ được lựa chọn bởi gu thẩm mỹ của từng người phụ nữ Ý nghĩa. Furoshiki chứa đựng ý nghĩa về lối sống ứng xử mang đậm phong cách và bản sắc văn hóa dân tộc. Những món quà được gói trong vải, cùng với họa tiết trang trí như là một lời cầu chúc của người tặng gửi đến người nhận. Mỗi họa tiết trên tấm Furoshiki có một ý nghĩa riêng những họa tiết truyền thống đều có ý nghĩa tượng trưng thể hiện sự mong ước về một cuộc sống tốt đẹp và hạnh phúc. Họa tiết Cá chép vượt Vũ môn biểu tượng cho lòng kiên trì, bền chí, sự thành đạt và thăng tiến công danh thường dùng trong dịp mừng sự ra đời của một bé trai như lời cầu chúc sau này em bé sẽ vinh hiển. Họa tiết Chim ưng và bão biển với hình ảnh chim ưng bay trong dáng kiêu hùng, phía dưới là biển cả nổi sóng được dùng trong gói quà mừng gia chủ sinh con trai với lời chúc mong ước cậu bé sẽ có lòng quả cảm. Họa tiết Vụ mùa bội thu biểu thị mong ước sự sung túc, đông con nhiều cháu thường được dùng gói quà trong dịp lễ tết. Họa tiết Châu báu được thiết kế với ý nghĩa tượng trưng cho hạnh phúc và thịnh vượng bao gồm hình "bảy kho báu", áo choàng kỳ diệu, ví tiền, mô típ cây đinh hương và ngọc. Còn tấm vải có hình rễ cỏ đan xen vào nhau biểu tượng cho hạnh phúc lâu dài, bền chặt. Furoshiki thể hiện sự tiện ích, linh hoạt trong cuộc sống hàng ngày, thể hiện cách sống tiết kiệm và bảo vệ môi trường. Chất liệu và màu sắc. Furoshiki được làm từ nhiều loại vải khác nhau như lụa, vải bông hoặc sợi tổng hợp... Furoshiki là tấm vải vuông có đủ các loại kích thước để phù hợp với các đồ vật được gói như chai rượu, hộp bánh, sách, truyện tranh, cho đến gói cả tấm chăn bông, chậu cây hay thùng đựng đồ lớn... Với đủ loại hoa văn màu sắc khác nhau đậm nhạt tương phản, các họa tiết tượng trưng cho sự chúc phúc, sự sinh sôi nảy nở, thịnh vượng, mạnh mẽ... Chất liệu bằng vải nên Furoshiki có thể gấp nhỏ lại sau khi sử dụng và tái sử dụng được nhiều lần. Mỗi khăn vải Furoshiki được sáng tạo có khoảng 100 kiểu gói khác nhau. Furoshiki trong đời sống hiện đại. Ngày nay Furoshiki không chỉ được ưa chuộng sử dụng trong đời sống của người Nhật mà nó còn được sử dụng phổ biến ở nhiều nước.Các nhà thiết kế đã sáng tạo furoshoki với những hoa văn độc đáo, tinh tế, đem đến sự phong phú, đa dạng cho khăn vải truyền thống của Nhật Bản. Trải qua nhiều đời người Nhật đã sáng tạo ra nhiều cách gói khác nhau và sử dụng furoshiki một cách sáng tạo mang nét hiện đại như là túi đựng laptop, hộp trà, bánh, chai rượu, đồ chơi cho trẻ nhỏ… hay thậm chí một chiếc túi địu bé đi dạo phố cùng. Furoshiki đã trở thành nét đặc trưng cho một nền văn hóa truyền thống của Nhật Bản. Để phát huy, giữ gìn và giới thiếu khăn Furoshiki truyền thống với bạn bè quốc tế, Nhật Bản đã tổ chức các cuộc thi như thiết kế khăn gói Nhật Bản nó đã thu hút được sự quan quan tâm, tham gia của nhiều bạn trẻ đến từ các quốc gia. Ngày 06 Tháng ba năm 2006, Bộ trưởng Bộ Môi trường Nhật Bản, Yuriko Koike, đạ bọc một gói từ một miếng vải furoshiki để thúc đẩy việc sử dụng phong tục này trong thế giới hiện đại.
1
null
Ga Đại học Kwangwoon (trước là Ga Seongbuk) là ga đường sắt trên Tuyến Gyeongwon ở Seoul, Hàn Quốc quản lý bởi Korail. Nó phục vụ bởi Tuyến 1 của hệ thống Tàu điện ngầm Seoul, là một trong những ban đầu của tuyến 1 cùng với Ga Incheon và Ga Suwon khi tuyến 1 mở cửa vào 1974. Ga Seongbuk, một trong 5 ga của tuyến 1, nằm gần đó. Hiện tại đây cũng là ga cuối phía Tây của Tuyến Gyeongchun, mặc dù xe lửa đi giữa Seoul và Chuncheon khởi hành từ Ga Cheongnyangni. Đổi tên. Ga Seongbuk đổi tên vào 25 tháng 2 thành Ga đại học Kwangwoon. Trước đây là tên phụ Đại học Kwangwoon.
1
null
Ga Đại học Ngoại ngữ Hankuk (Tiếng Hàn: 외대앞역, Tiếng Anh: Hankuk University of Foreign Studies Station, Hanja: 外大앞驛) là ga trên Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 1 ở Imun-dong, Dongdaemun-gu, Seoul. Vào thời điểm khai trương, tên ga là Ga Hwigyeong (휘경역; 徽慶驛) mặc dù nhà ga này nằm ở Imun 1-dong. Bởi vì Ga Hoegi (ga trước) nằm ở Hwigyeong-dong, vào năm 1996, tên của nhà ga này đổi thành Ga đại học ngoại ngữ Hankuk, sau khi nằm gần trường đại học cùng tên.
1
null
Thời khắc sinh tử (tên gốc tiếng Anh: In Time) là một bộ phim hành động khoa học viễn tưởng Mỹ được biên kịch, đạo diễn và sản xuất bởi Andrew Niccol. Bộ phim khai thác ý tưởng về một thế giới mà ở đó con người sẽ bị giới hạn ở tuổi 25 và thời gian trở thành đơn vị tiền bạc theo nghĩa đen, giúp con người kéo dài thời gian sống. Nội dung. Will Salas (Justin Timberlake đóng), một thanh niên xuất thân từ khu ổ chuột và thời gian sống chỉ tính bằng "ngày qua ngày, giờ qua giờ". Hàng ngày, hai mẹ con anh phải lao động chân tay để kiếm thời gian sống. Trong thế giới Will sống, người giàu có thì tồn tại mãi muôn đời, còn người nghèo phải chết trong lúc còn thanh xuân. Cách duy nhất để tiếp tục được sống là mọi người phải kiếm, đánh cắp hoặc được thừa kế thời gian. Số phận của Will thay đổi khi anh cứu một quý ông thế lực khỏi tay những tên cướp thời gian. Sau đó, người đàn ông này cho Will toàn bộ hơn 100 năm anh ta có rồi tự vẫn. Chàng thanh niên khu ổ chuột bỗng chốc trở thành một "triệu phú thời gian", nhưng lại bị cảnh sát (Timekeeper) nghi ngờ giết người để chiếm thời gian sống. Đúng lúc này, bi kịch xảy đến với gia đình Will. Anh bỏ chạy tới New Greenwich, một khu dân cư giàu có. Tại đây, Will đã gặp Sylvia Weis (Amanda Seyfried đóng), một cô tiểu thư nhà giàu nhưng luôn cảm thấy bị gò bó, ngạt thở trong chính gia đình mình. Số phận đưa đẩy Will và Sylvia bước vào một cuộc chạy đua với thời gian, với tương lai, và với sinh mạng của bản thân. Năm 2169, con người được biến đổi gen để ngăn chặn quá trình lão hóa vào sinh nhật lần thứ 25 của họ, thời gian từ đồng hồ trên cánh tay của họ sẽ bắt đầu đếm ngược, khi nó đến số không, con người "hết thời gian" và chết ngay lập tức. Thời gian trở thành đơn vị tiền tệ chung, được con người trao đổi trực tiếp với nhau hoặc được nhà nước cất giữ. Dayton là khu vực nghèo nhất, gọi là "khu ổ chuột" vì người dân nơi đây không ai có hơn 24 giờ trong đồng hồ. Trong khi đó ở New Greenwich, những người giàu có dư thừa thời gian để sống bất tử. Will Salas là một công nhân nhà máy ở Dayton, anh thấy băng cướp do Fortis cầm đầu sắp trấn lột người đàn ông giàu có tên Henry Hamilton nên ra tay giải cứu anh ta. Hamilton đang có 116 năm trong đồng hồ nhưng cảm thấy chán sống. Anh ta tiết lộ rằng người giàu ở New Greenwich luôn được sống mãi, trong khi mọi thứ đều tăng giá khiến người nghèo chết liên tục. Sáng hôm sau, Hamilton chết sau khi chuyển toàn bộ thời gian của mình cho Will. Raymond Leon, người đứng đầu cơ quan cảnh sát, nghi ngờ Will đã sát hại Hamilton. Will tìm đến người bạn thân Borel, tặng anh ta 10 năm và dự định cùng mẹ mình chuyển đến New Greenwich. Tuy nhiên giá xe buýt tăng đột ngột khiến mẹ của Will bị thiếu thời gian và chết trong vòng tay của anh. Đau khổ và tức giận, Will thề sẽ trả thù cho mẹ bằng cách lấy sạch mọi thứ từ tay người giàu ở New Greenwich. Ở New Greenwich, Will vào một sòng bạc, gặp doanh nhân Philippe Weis và con gái ông ta, Sylvia Weis. Trong lúc chơi bài, Will sắp thua hết sạch thời gian nhưng cuối cùng đã thắng và lấy được 1000 năm. Anh được Sylvia mời tham dự bữa tiệc tại dinh thự của gia đình cô. Trong bữa tiệc, Raymond đến và đòi bắt giữ Will, tịch thu gần hết thời gian của anh và nói rằng nó không thuộc về người dân Dayton. Will bỏ chạy, bắt Sylvia theo làm con tin và đưa cô đến Dayton. Băng cướp của Fortis đã phục kích và cướp thời gian của Will và Sylvia, khiến cả hai chỉ còn lại 30 phút. Will định lấy lại một ít thời gian từ Borel, nhưng vợ của Borel nói rằng anh ta đã dùng tận 9 năm để uống rượu thỏa thích đến chết. Will và Sylvia có thêm hai ngày nhờ bán đôi bông tai của Sylvia. Will gọi cho ông Philippe để yêu cầu 1000 năm tiền chuộc, bảo ông ta chuyển đến trạm thời gian dành cho người nghèo. Raymond tìm thấy Will, nhưng Sylvia đã bắn gã cảnh sát bị thương. Will và Sylvia cướp xe của Raymond, trước khi rời đi Will đã tặng một ít thời gian cho Raymond. Will và Sylvia nảy sinh tình yêu với nhau, họ cướp ngân hàng của ông Philippe và phát thời gian cho người nghèo, nhưng nhận ra không thể thay đổi được gì khi giá cả mọi thứ ngày càng tăng lên nhanh hơn. Băng cướp của Fortis tấn công cả hai lần nữa, nhưng Will đã dùng mưu mẹo rút sạch thời gian của Fortis và bắn chết bọn thuộc hạ của hắn. Will và Sylvia đến công ty của ông Philippe để lấy chiếc hộp đựng một triệu năm trong két sắt của ông ta. Raymond đuổi theo cả hai về lại Dayton nhưng không thể ngăn họ chia thời gian cho người nghèo. Raymond đã quên nạp thêm thời gian nên bị hết giờ và chết trong cuộc rượt đuổi. Will và Sylvia cũng sắp hết giờ, nhưng may mắn giữ được mạng sống bằng cách lấy thời gian trong xe của Raymond. TV đưa tin hàng loạt nhà máy ở Dayton phải đóng cửa khi người dân đã có thừa thời gian và từ bỏ công việc, họ bắt đầu di cư đến những thành phố lớn của người giàu. Chế độ độc tài Philippe cũng sụp đổ. Viên cảnh sát Jaeger ra lệnh cho các cảnh sát khác trở về nhà. Will và Sylvia tiếp tục đi cướp những ngân hàng lớn để lấy thời gian phát cho người nghèo.
1
null
Matthew David McConaughey (; sinh ngày 4 tháng 11 năm 1969) là một diễn viên người Mỹ. Anh giành được sự chú ý lần đầu tiên với vai diễn trong bộ phim hài "Dazed and Confused" (1993), sau đó liên tiếp xuất hiện trong nhiều bộ phim nổi tiếng khác, bao gồm (1994), và đột phá với vai diễn chính trong bộ phim tội phạm giật gân "A Time to Kill" (1996). McConaughey tiếp tục nghiệp diễn với các vai chính trong phim khoa học viễn tưởng "Contact" (1997), phim lịch sử "Amistad" (1997) của đạo diễn Steven Spielberg, phim hài "EDtv" (1999), phim chiến tranh "U-571" (2000) và bộ phim kinh dị tâm lý "Frailty" (2001) của đạo diễn Bill Paxton. Sang thập niên 2000, anh bắt đầu được biết đến nhiều hơn với một loạt vai diễn trong các bộ phim hài lãng mạn, bao gồm "The Wedding Planner" (2001), "How to Lose a Guy in 10 Days" (2003)", Failure to Launch "(2006), "Fool's Gold (phim 2008)" và "Ghosts of Girlfriends Past" (2009), xây dựng anh thành một Biểu tượng gợi cảm. Từ năm 2010, Matthew thử sức mình với những vai diễn gai góc hơn trong các bộ phim "Nhân danh công lý" (2011), "Bernie" (2011), "Killer Joe" (2011), "The Paperboy" (2012), "Mud" (2012), "Magic Mike" (2012) và "Sói Già Phố Wall" (2013). Đặc biệt, với những nỗ lực khi thể hiện vai Ron Woodroof một chàng cao bồi bị AIDS trong bộ phim tiểu sử "Dallas Buyers Club", Matthew lần đầu đoạt tượng vàng Oscar và Quả cầu vàng cho Nam diễn viên chính xuất sắc nhất cùng nhiều đề cử và giải thưởng khác. Năm 2014, anh tham gia đóng vai chính trong series phim truyền hình hình sự "True Detective" của đài HBO. Những năm đầu cuộc sống. McConaughey là em út trong một gia đình có 3 anh em tại Uvalde, Texas. Mẹ anh, bà Mary Kathleen "Kay"/"KMac" (née McCabe) gốc là người Trenton, New Jersey, đã từng là giáo viên dạy mẫu giáo và là một tác giả có sách được xuất bản. Cha Matthew, ông James Donald "Jim" McConaughey, sở hữu một trạm xăng, vào năm 1953 đã được chọn làm cầu thủ tập sự (draft) cho đội bóng bầu dục Green Bay Packers. Cha mẹ McConaughey đã ly hôn và mỗi người đều tái hôn vài lần. Matthew mang trong mình dòng máu Anh, Ai-len, Thụy Điển, Đức và Scotland. Anh có họ hàng với chuẩn tướng Liên bang Dandridge McRae. McConaughey chuyển tới Longview, Texas, vào năm 1980, nơi anh vào học tại trường phổ thông Longview. Trong thời gian học tập tại đây, anh được bình chọn là người đẹp trai nhất trường trong kỷ yếu cuối năm. Năm 1988, theo chương trình trao đổi học sinh, Matthew đã chuyển tới Warnervale, New South Wales, Australia học tập trong vòng 1 năm. Kết thúc những năm tháng phổ thông, McConaughey đăng ký vào trường Đại học Texas tại Austin và tại đây anh đã tham gia vào Tổ chức huynh đệ quốc tế Delta Tau Delta. Quãng đời sinh viên của anh bắt đầu từ mùa thu năm 1989 và tốt nghiệp vào mùa xuân năm 1993 với tấm bằng Cử nhân về Phát thanh - Truyền hình - Điện ảnh. Dự định ban đầu của anh là đăng ký vào trường Southern Methodist University, cho đến khi một người anh nói với anh rằng học phí của trường tư thục sẽ trở thành trở ngại kinh tế cho gia đình anh. McConaughey cũng từng dự định theo học trường luật sau khi tốt nghiệp đại học, nhưng anh ấy nhận ra rằng anh không hứng thú với việc trở thành một luật sư. Sự nghiệp. Thập niên 1990–2000: Tỏa sáng và đột phá. McConaughey bắt đầu sự nghiệp diễn xuất vào năm 1991 khi anh xuất hiện trong các đoạn phim quảng cáo, một trong số đó là cho tờ báo thường nhật tại Austin, Texas - tờ Austin American-Statesman, và đây cũng là lần đầu tiên anh xuất hiện với một vai diễn có thoại. Câu nói "How else am I gonna keep up with my ‘Horns’?", một phản hồi tới đội bóng yêu thích Texas Longhorns đã khiến anh tạo được sự chú ý với dư luận địa phương, trước khi chính thức tham gia bộ phim đầu tiên gây ấn tượng "Dazed and Confused".  McConaughey lần đầu xuất hiện trên màn ảnh rộng với vai phụ "Guy 2" trong bộ phim hài kinh dị My Boyfriend's Back, công chiếu ngày 6 tháng 8, 1993. Ngày 24 tháng 9, bộ phim "Dazed and Confused" của Richard Linklater được công chiếu. McConaughey trong vai David Wooderson cùng với dàn diễn viên chính đã nổi tiếng sau đó, bao gồm Jason London, Ben Affleck, Milla Jovovich, Cole Hauser, Parker Posey, Adam Goldberg, Joey Lauren Adams, Nicky Katt và Rory Cochrane. Sau một vài vai diễn nhỏ trong "Angels in the Outfield", "", "Boys on the Side", series truyền hình "Unsolved Mysteries", và vai nam chính trong video ca khúc Walkaway Joe của Trisha Yearwood, McConaughey xuất hiện với vai diễn lớn và mang tính đột phá với vai luật sư "Jake Brigance" trong phim A Time to Kill, dựa trên tiểu thuyết cùng tên của nhà văn John Grisham. Cuối những năm 90, McConaughey đóng vai chính trong nhiều bộ phim điện ảnh, bao gồm "Contact", "Amistad", "The Newton Boys", "EDtv", và "U-571". 2001–2011. Những năm đầu thiên niên kỷ mới, anh thường xuyên tham gia các bộ phim hài lãng mạn, bao gồm The Wedding Planner và How to Lose a Guy in 10 Days, cả hai bộ phim này đều hết sức thành công về doanh thu. Trong giai đoạn này, anh cũng xuất hiện trong vai một lính cứu hỏa trong bộ phim kinh phí thấp Tiptoes (diễn cùng Rene Russo); với vai một đệ tử của ông trùm cờ bạc (do Al Pacino đóng) trong bộ phim Two for the Money và hóa thân vào một người điều tra về tên sát thủ giết người hàng loạt trong Frailty (diễn cùng Bill Paxton). Năm 2005, McConaughey tham gia bộ phim Sahara cùng Penélope Cuz và Steve Zahn. Trước khi phát hành, anh tiết lộ rằng bộ phim đã tái hiện một số cuộc hành trình anh trải qua những năm 90, bao gồm cả chèo thuyền dọc sông Amzon và "phượt" tới Mali. Cùng năm, McConaughey được tạp chí People bình chọn là "Người đàn ông đương đại gợi tình nhất". Năm 2006, anh xuất hiện trong bộ phim hài lãng mạn Failure to Launch cùng Sarah Jessica Parker và trong We Are Marshall với vai huấn luyện viên trưởng đội bóng Marshall. Cuối năm 2006, anh đã thu âm một bài phát biểu nhằm quảng cáo cho chiến dịch Peace Corps. McConaughey cũng thay thế Owen Wilson trong bộ phim Tropic Thunder của Ben Stiller ngay sau khi WIilson bị phát hiện tự tử hụt. ngày 21 tháng 1 năm 2008, anh trở thành phát ngôn viên mới cho chiến dịch phát thanh quốc gia "Beef: It’s What’s for Dinner", thay thế Sam Elliot. 2012–nay. Sau một giai đoạn nghỉ ngơi, McConaughey trở lại với công việc diễn xuất. Lần này, anh không tiếp tục tham gia các phim hài lãng mạn mà tìm kiếm những vai diễn gai góc hơn. Năm 2012, McConaughey cùng Channing Tatum xuất hiện trong bộ phim Magic Mike - một bộ phim dựa trên quá trình khởi nghiệp của Tatum - với Steven Soderbergh đạo diễn. Anh cũng trở lại miền Đông Texas khi hợp tác cùng đạo diễn Richard Linklater trong bộ phim Bernie, kể về một người điều hành tang lễ tại một thị trấn nhỏ (do Jack Black đóng) đã giết một quý bà trong thị trấn. Trong phim này, McConaughey đóng vai luật sư Danny Buck Davidson. Mẹ McConaughey cũng tham gia phim này trong vai một phụ nữ đưa chuyện. Tháng 6 năm 2012, McConaughey được mời vào Viện hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh. Năm 2013, anh thể hiện vài một chàng cao bồi bị dính AIDS Ron Woodroof trong Dallas Buyers Club. Bộ phim thành công vang dội và thu được nhiều phản hồi tích cực, đồng thời cũng đem lại cho McConaughey nhiều giải thưởng, bao gồm giả Quả cầu vàng và tượng Oscar danh giá cho Nam diễn viên chính xuất sắc nhất. Để hóa thân trọn vẹn vào nhân vật, anh đã phải giảm 47 pound.  Năm 2014, McConaughey tham series truyền hình True Detective của đài HBO. Đầu năm 2013, anh cũng đã xác nhận tham gia vào dự án tiếp theo của Christopher Nolan, bộ phim khoa học viễn tưởng về du hành thời gian Interstellar.  Với giải Oscar đầu tiên và nhiều lời khen ngợi nhận được khi tham gia True Detective, "McConaughey dường như đã nắm bắt được những giá trị thiết yếu nhất, vẫn là bản thân mình nhưng tinh tế và mang vẻ từng trải hơn". Tờ The McConaissance tuyên bố "những lời khen ngợi ào đến khi McConaughey hướng tới những vai diễn phức tạp hơn". Ngày 4 tháng 2, năm 2014, thông tin được thông báo chính thức cho biết McConaughey sẽ tham gia vào dự án tiếp theo của Gus van Sant, Sea of Trees bên cạnh Ken Watanabe. Bộ phim Dallas Buyers Club đem lại cho McConaughey và Jared Leto tượng vàng cho 2 hạng mục Nam diễn viên chính - phụ xuất sắc nhất, trở thành bộ phim đầu tiên kể từ Mystic River (2013) đạt được thành tích này. Ngoài ra, bộ phim này còn giành được giải Oscar cho Hóa trang xuất sắc nhất và đề cử cho Phim điện ảnh xuất sắc nhất. Tới tháng 3 năm 2014, doanh thu của Dallas Buyers Club đã lên tới 32 triệu $, một con số đáng mừng khi kinh phí của bộ phim chỉ là 5 triệu $. Đời tư. McConaughey gặp người mẫu và người dẫn chương trình truyền hình Brasil Camilia Alves vào năm 2006. 2 người đính hôn vào ngày 25 tháng 12 năm 2011 và đám cưới tổ chức vào ngày 8 tháng 6 năm 2012 tại Austin, Texas trong một hôn lễ bí mật tại một nhà thờ Công giáo. Bọn họ có ba người con: con trai Levi Alves McConaughey (sinh ngày 7 tháng 7 năm 2008), con gái Vida Alves McConaughey (sinh ngày 3 tháng 1 năm 2010) và con trai Livinston Alves McConaughey (sinh ngày 28 tháng 12 năm 2012). McConaughey cũng thành lập quỹ "just keep livin", mục đích nhằm định hướng và giúp đỡ thanh thiếu niên tham gia các hoạt động bảo vệ sức khỏe. Anh cũng đã tham gia cứu giúp nhiều vật nuôi sau các trận lũ tại New Orleans, hậu quả của cơn bão Katrina. Năm 2006, anh cũng đã cứu một chú mèo từ 2 trẻ vị thành niên tại Shermans Oaks, California, sau khi 2 đứa trẻ ngâm con mèo trong keo xịt tóc và chuẩn bị đốt nó. Các phim tham gia. Điện ảnh. Ghi chú
1
null
Tần (chữ Hán: 嬪; Hangul: 빈; Kana: ひん), còn gọi Cung tần (宮嬪), là một cấp bậc phi tần trong hậu cung của Quốc vương hoặc Hoàng đế. Danh xưng này tồn tại ở các nước Đông Á đồng văn Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Lịch sử. Trung Quốc. Lần đầu tiên, danh vị Tần xuất hiện trong điển chế Á Đông là trong Chu lễ, phần kể về hậu cung của các Chu thiên tử. Trong Lễ ký ghi lại: "Cổ giả Thiên tử Hậu lập lục cung, tam Phu nhân, cửu Tần, nhị thập thất Thế phụ, bát thập nhất Ngự thê". Từ thời nhà Hán, Cửu tần biến mất, rồi xuất hiện trở lại trong chế độ nhà Tào Ngụy, khi xuất hiện danh xưng [Quý tần; 貴嬪]. Đến thời Tấn Vũ Đế, ông đã dựa theo cổ lễ từ đời nhà Chu chuẩn định danh phận nội cung, trong đó lấy [Thục phi; 淑妃], [Thục viên; 淑媛], [Thục nghi; 淑儀], [Tu hoa; 修華], [Tu dung; 修容], [Tu nghi; 修儀], [Tiệp dư; 婕妤], [Dung hoa; 容華], [Sung hoa; 充華] đều đặt ngang với Cửu khanh, được gọi chung là Cửu tần. Từ đây, qua các thời Đông Tấn, Nam Bắc triều, các triều đại đều theo điển lệ của thời Tấn, thiết lập vị trí Cửu tần được phân ra các danh hiệu mô tả như [Chiêu nghi; 昭儀], [Tu dung; 修容], [Sung viên; 充媛]. Thời nhà Tùy, Tần chỉ có ba người, sang thời nhà Đường thiết lập Cửu tần có 3 chức dùng Chiêu, 3 chức dùng Tu rồi 3 chức dùng Sung được gọi chung là "Tam chiêu" (三昭), "Tam tu" (三修) và "Tam sung" (三充), mỗi chức vị 1 người. Cụ thể: [Chiêu nghi; 昭儀], [Chiêu dung; 昭容], [Chiêu viên; 昭媛] là "Tam chiêu"; [Tu nghi; 修儀], [Tu dung; 修容], [Tu viên; 修媛] là "Tam tu"; [Sung nghi; 充儀], [Sung dung; 充容], [Sung viên; 充媛] là "Tam sung". Sự dao động của Cửu tần đến thời kỳ này đã ổn định, sang đến tận thời nhà Kim. Giữa thời Đường là Đường Huyền Tông, ông thiết lập [Quý tần] vị Tòng nhất phẩm, lại cho bậc Lục nghi gồm: [Thục nghi; 淑儀], [Đức nghi; 德儀], [Hiền nghi; 賢儀], [Thuận nghi; 順儀], [Uyển nghi; 婉儀], [Phương nghi; 芳儀], vị Chính nhị phẩm. Thời nhà Tống, kết hợp Cửu tần cùng Lục nghi, hàng Cửu tần như đời Đường, riêng hàng trên vị Tòng nhất phẩm, gồm có: [Thái nghi; 太儀], [Quý nghi; 貴儀], [Thục nghi; 淑儀], [Thục dung; 淑容], [Thuận nghi; 順儀], [Thuận dung; 順容], [Uyển nghi; 婉儀], [Uyển dung; 婉容]. Thời nhà Nguyên, hậu cung đơn giản, Tần ở dưới Hoàng hậu cùng Phi, là địa vị thấp nhất. Qua thời nhà Minh, vị Tần chính thức tách ra hẳn và được thêm 1 chữ mỹ hiệu mang tính diễn tả. Gia Tĩnh năm thứ 10 (1531), Minh Thế Tông dựa theo cổ lễ lập thêm Cửu tần gồm có: [Đức tần; 德嬪], [Hiền tần; 賢嬪], [Trang tần; 莊嬪], [Lệ tần; 麗嬪], [Huệ tần; 惠嬪], [An tần; 安嫔], [Hòa tần; 和嬪], [Hy tần; 僖嬪], [Khang tần; 康嬪]. Đến thời nhà Thanh, vị Tần thuộc hàng thứ 4 trong hậu cung, dưới Hoàng quý phi, Quý phi cùng Phi. Từ tước Tần trở lên mới có ghi chép về lễ tấn phong, được quy định cùng lúc chỉ có sáu người, nhưng thời Khang Hi và Càn Long có ghi chép những trường hợp vượt hơn. Triều Tiên. Tại Nội mệnh phụ của Triều Tiên, phong vị [Tần; 빈] là cao quý nhất trong hậu cung tần ngự, chỉ dưới chính thất là Vương phi, hay còn gọi là [Trung điện; 中殿]. Khi được ban phong hiệu Tần, vị hậu cung sẽ được ban thêm một mỹ tự mang tính diễn tả, ví dụ Trương Hy tần là tước Tần, phong hiệu là Hy, nên gọi [Hy tần; 禧嬪]. Ngoài ra, chính thất của Vương thế tử cũng gọi là Tần, đầy đủ là [Vương thế tử tần; 王世子嬪; 왕세자빈] hay [Tần cung; 嬪宮; 빈궁]. Vì lẽ tước Phi đã dùng để gọi Trung điện, nên theo quy chế hạ đi một bậc tương tự cách gọi Thái tử phi, chính thất của Thế tử chỉ còn là Tần mà thôi. Nhật Bản. Trước thời kì Heian, hậu cung Nhật Bản phân ra như sau: Về sau, phân vị Tần đổi gọi thành Nữ ngự (女御), chỉ dưới Hoàng hậu. Việt Nam. Tước vị Tần thời nhà Lý và trước đó không thể khảo được. Song vào thời nhà Trần, mẹ của Trần Duệ Tông là Đôn Từ Hoàng thái phi được ghi nhận từng là [Sung viên Lê thị], do đó rất có khả năng thời Trần theo quy chế Cửu tần như thời Đường-Tống. Vào thời Lê sơ, Lê Thánh Tông định ra quy chế hậu cung chính thức: Vào thời nhà Nguyễn, vào thời Gia Long và nửa đầu Minh Mạng vẫn còn dùng theo nhà Lê sơ, kết hợp với "Cửu tần" của nhà Minh. Nửa sau Minh Mạng, chấn chỉnh nội đình, phong vị Tần thuộc hàng phẩm thứ 3, thứ 4 và thứ 5, được gọi lần lượt là [Tam giai Tần; 三階嬪], [Tứ giai Tần; 四階嬪] và [Ngũ giai Tần; 五階嬪]. Mỗi hàng có 3 tới 4 vị Tần với một phong hiệu được định trước sẵng, trước sau của mỗi chữ là phân biệt cao thấp trong cùng 1 hàng. Ví dụ quy định năm Minh Mạng thứ 17 (1836), hàng Tam giai Tần có 3 tước: [Quý tần; 貴嬪], [Hiền tần; 賢嬪], [Trang tần; 莊嬪]; theo đó thì hàng tam giai có Quý tần lớn nhất, sau đó là Hiền tần rồi Trang tần. Một số nhân vật nổi tiếng. Trung Quốc Triều Tiên Việt Nam
1
null
Edmund de la Pole, Công tước xứ Suffolk, Bá tước xứ Suffolk, (1471/1472 - 30 tháng 4 năm 1513), là con trai của John de la Pole, Công tước xứ Suffolk và Elizabeth xứ York, Công tước phu nhân xứ Suffolk. Gia đình. Mẹ ông là con gái thứ ba của Richard Plantagenet, Công tước thứ 3 xứ York và Cecily Neville. Bà là em gái của vua Edward IV của Anh và Edmund, Bá tước xứ Rutland. Bà đồng thời cũng là chị gái của Margaret xứ York, George Plantagenet, Công tước xứ Clarence và vua Richard III của Anh. Ông bà nội của ông là William de la Pole, Công tước xứ Suffolk và Alice Chaucer. Ông William từng là một người lính và là một vị tướng quan trọng của Anh trong cuộc Chiến tranh Trăm Năm, sau đó trở thành người phụ trách của Hoàng gia Anh. Alice Chaucer là con gái của Thomas Chaucer - Chủ tịch Hạ Nghị viện Vương quốc Anh 3 nhiệm kỳ, Quản gia chính của Vương quốc Anh gần 30 năm - và là cháu gái của nhà thơ Geoffrey Chaucer. Người thừa kế nhà York. Anh trai của ông, John de la Pole, Bá tước xứ Lincoln (c. 1464 - 1487), là người thừa kế tiếp theo của nhà York sau vua Richard III của Anh. Tuy nhiên, do vua Henry VII của Anh lên ngôi kéo theo trận chiến ở Bosworth, Bá tước xứ Lincoln đã thề sẽ trung thành với vua mà từ bỏ ngôi báu. Năm 1487, Bá tước xứ Lincoln tham gia cuộc nổi dậy của Lambert Simnel và đã bị giết trong trận chiến ở Stoke. Sau cái chết của anh trai, Edmund trở thành người đứng đầu của nhà York và được quyền thừa kế ngai vàng. Ông nhận tước vị "Công tước xứ Suffolk" năm 1491, mặc dù năm 1493, tước hiệu của ông bị hạ xuống một bậc thành "Bá tước xứ Suffolk". Ông kết hôn với Margaret, con gái của Sir Richard Scrope. Năm 1501, Edmund cứng đầu bỏ trốn khỏi Vương quốc Anh với sự giúp đỡ của Sir James Tyrrell, người sau này bị chém đầu vì hành động trên. Edmund tìm đến sự giúp đỡ của Maximilian I, Hoàng đế La Mã Thần thánh. Năm 1502, Maximilian I đồng ý, với điều kiện Edmund phải giúp ông có được ngôi vua của Vương quốc Anh. Năm 1506, con trai của Maximilian, Philip xứ Burgundy bất ngờ bị đắm tàu gần Vương quốc Anh và trở thành vị khách bất đắc dĩ của vua Henry VII. Do Thân vương Philip phải tiếp tục chuyến đi để tiếp nhận tài sản thừa kế của vợ là Castile, một tỉnh của Tây Ban Nha, nên vua Henry VII đã thuyết phục ông giao lại Bá tước xứ Suffolk. Thân vương Philip chấp nhận với điều kiện Bá tước xứ Suffolk sẽ không bị ngược đãi cũng như gặp bất cứ nguy hiểm nào. Không chấp nhận với điều kiện này, vị vua nối ngôi, Henry VIII đã ra lệnh chém đầu Bá tước xứ Suffolk vào năm 1513. Theo tập "Tiểu luận" của triết gia Pháp Michel de Montaigne, Henry VII có di mệnh cho con mình phải giết ngay Bá tước xứ Suffolk ngay khi nhà vua băng hà. Montaigne cũng chỉ trích Henry VII về hành động xảo quyệt đó. Em trai của Bá tước là Richard de la Pole, tiếp tục kế tục anh trai trở thành người đứng đầu nhà York cho đến khi ông chết trong trận chiến ở Patvia ngày 24 tháng 2 năm 1525.
1
null
Ciudad Colonial (tiếng Tây Ban Nha của "thành phố thuộc địa") là khu trung tâm lịch sử của thành phố Santo Domingo và khu định cư thường xuyên, lâu đời nhất của những người châu Âu tại Tân thế giới. Nó đã được tuyên bố là di sản thế giới của UNESCO vào năm 1990.Sông Ozama chia đôi thành phố Santo Domingo thành hai phần và Ciudad Colonial nằm trên bờ phía tây của con sông. Diện tích của khu trung tâm lịch sử này khoảng gần 5 km vuông. Nó là một phần quan trọng của thành phố do có nhiều địa danh nổi tiếng, bao gồm cả Alcázar de Colón, Pháo đài Ozama, Nhà thờ Santa María la Menor (nhà thờ lâu đời nhất tại châu Mỹ), và nhiều công trình lịch sử khác. Lịch sử. Khu vực định cư đầu tiên mà ngày nay là Santo Domingo được thành lập bởi Bartholomew Columbus trên bờ phía Đông của sông Ozama. Sau khi cơn bão xảy ra năm 1502 khiến nhiều người thiệt mạng trong đó có cả Francisco de Bobadilla, thành phố đã được di dời dưới sự lãnh đạo của Nicolás de Ovando. Ovando và người kế nhiệm Diego Colón chủ trì những công trình xây dựng đầu tiên của thành phố thuộc địa, nhiều trong số đó vẫn còn tồn tại tới ngày nay. công sự của Santo Domingo là một tính năng quan trọng của cảnh quan đô thị. Các bức tường phòng thủ kéo dài từ sông Ozama đến quảng trường Puerta del Conde, tại đó có lối vào trong thành phố và đây là ranh giới phía Tây của thành phố cho đến cuối thế kỷ 19. Người Tây Ban Nha sử dụng nơi đây là điểm đầu tiên để tạo ảnh hưởng của họ ra châu Mỹ, từ đó họ đã chinh phục hòn đảo Caribe và lục địa châu Mỹ. Santo Domingo ban đầu là trung tâm chính trị và văn hóa của người Tây Ban Nha hiện diện tại Tân thế giới, nhưng sau một vài thập kỷ, những người Tây Ban Nha bắt đầu giảm do sự tập trung của họ nhiều hơn tại lục địa sau các cuộc chinh phục Mexico, Peru và các khu vực khác của châu Mỹ La tinh. Tuy nhiên, Ciudad Colonial vẫn là một di tích lịch sử quan trọng. Năm 1655, Ciudad Colonial đã bị một cuộc bao vây bởi người Anh do William Penn và Robert Venables chỉ huy. Các cuộc xâm lược năm 1655 đã bị ngăn chặn bởi quân đội Tây Ban Nha dưới sự chỉ huy của Tổng đội trưởng thành phố Don Bernardino de Meneses y Bracamonte. Trước khi cuộc xâm lược diễn ra, có một pháo đài tại khu vực mà ngày nay là quảng trường Puerta del Conde, đó là pháo đài San Genaro. Người ta tin rằng, sau khi xảy ra cuộc bao vây thì các bức tường pháo đài đã được mở rộng ra, để tạo ra tính hiệu quả hơn cho pháo đài "El Baluarte del Conde". Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, thành phố bắt đầu mở rộng ra ngoài ranh giới cũ nhưng Ciudad Colonial vẫn là trung tâm chính cho đến thời đại Trujillo. Trujillo cũng chủ trì việc phục hồi các di tích quan trọng, bao gồm cả Alcázar de Colón trong đầu những năm 1950. Các công trình. Phần lớn các các địa điểm văn hóa và công trình của Ciudad_Colonial được dựng lên trong thời kỳ thuộc địa Tây Ban Nha cai trị. Mặc dù đã có những biện pháp để bảo tồn nhưng một số đang rất cần sửa chữa và bảo trì.
1
null
Lê Công Hành (chữ Hán: 黎公衡; 24 tháng 2 năm 1606-7 tháng 7 năm 1661) là một quan lại thời Hậu Lê (Lê Trung Hưng). Ông được tôn xưng là ông tổ nghề thêu cổ truyền tại Việt Nam. Những ghi chép trong tài liệu. Theo thần phả của họ "Bùi Trần"("裴陳") gốc Mạc ở Quất Động thì Lê Công Hành vốn thuộc dòng dõi nhà Mạc. Năm 1546, Mạc Hiến Tông băng hà, triều đình nhà Mạc nổ ra biến loạn. Quân Nam triều nhân cơ hội nhà Mạc suy yếu, nhiều lần tiến quân ra Bắc đánh phá. Hoàng thất nhà Mạc tan tác khắp nơi, Quý phi Bùi Thị Ban đưa Mạc Phúc Đăng (con thứ của Mạc Hiến Tông) chạy tránh loạn về định cư ở thôn Quất Động, về sau đổi thành họ Bùi và họ Trần, lập nên chi họ Bùi Trần ở Quất Động. Lê Công Hành chính tên là Trần Quốc Khái (陳国概), sinh ngày 18 tháng Giêng năm Bính Ngọ(tức ngày 24 tháng 2 năm 1606), tại làng Quất Động, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay là thôn Quất Động, xã Quất Động, huyện Thường Tín, Hà Nội). Mạc Phúc Đăng là con bà Bùi Thị Ban về lánh nạn ở làng Quất Động. Tại đây, Mạc Phúc Đăng sinh con là Mạc Phúc Đồ. Mạc Phúc Đồ lại là ông nội của Trần Quốc Khái. Vì ông được cho làm con nuôi của một người họ Bùi trong làng, nên còn có tên là Bùi Quốc Khái (裴国概), sau đổi tên thành Công Hành (公衡). Tương truyền, từ nhỏ ông đã có tiếng ham học và hay chữ. Lớn lên, ông thi đỗ Tiến sĩ (vào khoảng triều vua Lê Thần Tông hoặc Lê Chân Tông). Sau khi ra làm quan, ông được triều đình bổ dụng vào các chức vụ từ biên quận đến triều đình, thăng dần lên hàng Thượng thư, từng được cử đi sứ nhà Minh. Do lập được nhiều công trạng, ông được triều đình ban cho Kim tử Vinh Lộc Đại phu, chức Tả thị lang bộ Công, tước Thanh Lương hầu, được vua ban quốc tính. Do đó mà ông có tên Lê Công Hành. Ông mất ngày 12 tháng Sáu năm Tân Sửu (7/7/1661),thọ 56 tuổi, được triều đình truy tặng hàm Thượng thư Thái bảo Lương Quận công. Ngày giỗ hàng năm của ông được xem là lễ giỗ tổ nghề của những làng sinh sống bằng nghề thêu tại Việt Nam. Ông tổ nghề thêu. Trước thế kỷ 18, người Việt đã biết nghề thêu và làm lọng từ lâu. Sử cũ từng ghi vào thời Trần, vua quan quen dùng đồ thêu và lọng. Năm 1289, vua Trần đã gửi tặng vua Nguyên một đệm vóc đỏ thêu chỉ vàng, một tấm thảm gấm viền nhiễu. Tháng Giêng năm Quý Tỵ (1293), Trần Phu trong đoàn sứ nhà Nguyên sang Đại Việt có nhận xét: "Về phẩm hàm của các quan Đại Việt, ai cao ai thấp cứ nhìn vào lọng mà phân biệt. Hễ là khanh tướng thì đi ba cây lọng xanh, bậc thấp hơn thì đi hai lọng, rồi một lọng. Còn như lọng tía thì chỉ có những người trong hoàng tộc mới được dùng". Tuy vậy, nghề thêu ở Đại Việt trước thế kỷ XVIII còn đơn sơ, quanh quẩn với những màu chỉ ngũ sắc và chỉ kim tuyến, làm những mặt hàng phục vụ cho vua, quan, cho nhà chùa (thêu mũ, mãng, triều phục, nghi môn, cờ phướn…). Trong ngôi mộ cổ đào được ở Vân Cát, Nam Hà, có niên đại khoảng thế kỷ 18, người ta thấy: bên cạnh cái quạt, có một túi trầu bằng gấm thêu kim tuyến, một túi đựng thuốc lào cũng bằng gấm thêu kim tuyến. Đến thời Bùi Công Hành, ông được cho là đã dạy cho người làng Quất Động những kỹ thuật thêu và làm lọng tân tiến hơn mà ông đã tiếp thu được trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc. Từ đó, nghề thêu và làm lọng trở nên phát triển hơn, lan dần ra nhiều làng nghề trên khắp cả nước. Để ghi nhớ công đức của ông, người dân làng nghề tại Thường Tín lập nên Đền Ngũ Xã (do dân 5 xã lập). Trong đền có tấm bia "Vũ Du Tiên sư bi ký" ghi lại sự tích của tổ nghề thêu. Ngoài ra còn còn có một số đền thờ khác như như đình Tú Thị ở số 4 phố Yên Thái, quận Hoàn Kiếm, hoặc đền thờ ở phố Hàng Lọng (nay thuộc khu vực đường Nam Bộ) nay không còn, , đình làng Nhị Khê thờ Tổ nghề tiện Lê Công Hành... Lễ giỗ tổ nghề của những làng sinh sống bằng nghề thêu tại Việt Nam thường được tổ chức vào ngày giỗ hàng năm của ông. Chỉ riêng tại Huế, lễ tế Tổ sư nghề thêu Lê Công Hành tại phổ Cẩm Tú - Huế lại được tổ chức vào ngày 22 tháng Giêng âm lịch hằng năm và ngày mồng 4 tháng Sáu âm lịch là ngày kỷ tổ.
1
null
"Billboard" Hot 100 là bảng xếp hạng các đĩa đơn bán chạy nhất trong một tuần tại thị trường âm nhạc Hoa Kỳ. Các số liệu cho việc xếp hạng, công bố bởi tạp chí "Billboard" và tổng hợp bởi Nielsen SoundScan, dựa trên doanh số đĩa thường, nhạc số và tần suất phát trên sóng phát thanh.
1
null
Hiệu kỳ khu vực Ossetia (tiếng Nga: "Флаг Осетии") là một lá cờ có tỉ lệ 1:2, với ba sọc ngang trắng - đỏ - vàng đều nhau. Nó đồng thời được công nhận là quốc kỳ tại Cộng hòa Bắc Ossetia-Alania (tiếng Nga: "Государственный флаг Республики Северная Осетия - Алания") và Cộng hòa Nam Ossetia (tiếng Nga: "Государственный флаг Республики Южная Осетия"). Đặc trưng. Lá cờ khu vực Ossetia được sử dụng chung cho hai thực thể tự trị Bắc Ossetia-Alania và Nam Ossetia với vai trò quốc kỳ, trong đó:
1
null
Sian Ka'an là một khu dự trữ sinh quyển tại Tulum, bang Quintana Roo, Mexico. Nó được thành lập vào năm 1986 và trở thành một Di sản thế giới của UNESCO vào năm 1987. Với sự tham gia của các nhà khoa học, kỹ thuật viên, sinh viên, ngư dân, nông dân, cùng với các đối tác trong khu vực và quốc tế, nơi đây đã thực hiện thành công hơn 200 dự án bảo tồn, sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên và tập trung, nỗ lực thành lập các khu vực tự nhiên cần được bảo vệ bao gồm các rạn san hô của Banco Chinchorro, Xcalak tại (Nam Quintana Roo), Khu dự trữ sinh quyển Sian Ka'an, Cancun, đảo Cozumel, Xcaret và đảo Contoyở phía Bắc với tổng diện tích lên tới 780.000 mẫu Anh (3.200 km 2). Các khu vực này nằm ở các bộ phận của bảy thành phố, đô thị ven biển Caribe của bang Quintana Roo, chủ yếu là ở miền đông Felipe Carrillo Puerto, nơi mà phần lớn Khu dự trữ sinh quyển Sian Ka'an có mặt. Một phần của khu dự trữ nằm trên đất liền và một phần nằm trong vùng biển Caribe, bao gồm một phần của rạn san hô. Khu bảo tồn có diện tích 5.280 km ². Nơi đây cũng được biết đến với 23 địa điểm khảo cổ của nền văn minh Maya như là Muyil. Trong các mục tiêu của dự án Amigos de Sian Ka'an thì việc bảo vệ và quản lý các khu vực có tính đa dạng sinh học cũng như giá trị cao để bảo vệ các loài có nguy cơ bị đe dọa và tuyệt chủng, cùng với đó là cung cấp môi trường giáo dục thông qua sách báo, tạp chí và tờ rơi cũng như hỗ trợ kỹ thuật đào tạo cho cộng đồng người Maya làm việc thông qua du lịch.
1
null
Lớp tàu khu trục "Mahan" của Hải quân Hoa Kỳ thoạt tiên bao gồm 16 tàu khu trục, gồm 15 chiếc được nhập biên chế năm 1936 và một chiếc vào năm 1937; sau đó có thêm hai chiếc, đôi khi được gọi là lớp "Dunlap", được chấp thuận chế tạo dựa trên thiết kế căn bản của lớp "Mahan", cả hai được nhập biên chế năm 1937. Tên của lớp được đặt theo chiếc dẫn đầu , vốn được đặt theo tên Chuẩn đô đốc Alfred T. Mahan, sử gia và là nhà lý luận hải quân vốn có tầm ảnh hưởng rộng lớn. Lớp "Mahan" có một hệ thống động lực mới mang tính cách mạng đã làm thay đổi kỹ thuật của các tàu khu trục trong thời chiến tương lai. Nó tích hợp một số thay đổi đáng kể: mang theo 12 ống phóng ngư lôi, bệ chắn pháo sắp xếp bắn thượng tầng, và trang bị máy phát điện hiện đại để sử dụng trong lúc khẩn cấp. Trọng lượng choán nước gia tăng từ 1.365 lên 1.500 tấn. Tất cả mười tám chiếc trong lớp đều đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, toàn bộ đều tại Mặt trận Thái Bình Dương. Đóng góp của chúng trong các chiến dịch chính và phụ bao gồm bắn phá bãi đổ bộ, hỗ trợ đổ bộ, hộ tống lực lượng đặc nhiệm, hộ tống vận tải và tuần tra, phòng không và chống tàu ngầm. Tổng hợp lại, lớp đã được tặng thưởng 111 Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Sáu chiếc đã bị mất trong chiến đấu và hai chiếc tiêu phí trong thử nghiệm vũ khí sau chiến tranh. Những chiếc còn lại được cho ngừng hoạt động, bán hay tháo dỡ sau chiến tranh. Thiết kế. Lớp tàu khu trục "Mahan" là một phiên bản cải tiến từ lớp "Farragut" dẫn trước. Lớp "Farragut" được cho là ngang bằng hay tốt hơn mọi tàu khu trục, ngoại trừ lớp Fubuki của Nhật Bản. Con tàu Nhật trọng lượng này mang theo chín ống phóng ngư lôi, trong khi "Farragut" chỉ mang theo tám. Ủy ban Tướng lĩnh Hải quân Hoa Kỳ đã phải vật lộn với những thay đổi về đặc tính của tàu khu trục, và bắt đầu hướng đến ý tưởng trang bị 12 ống phóng ngư lôi với ít hơn một khẩu pháo /38 caliber. Ủy ban sau đó thay đổi ý định, chấp nhận quan điểm có thể giữ lại cả năm khẩu pháo với 12 ống phóng ngư lôi. Để làm được điều đó, đặc tính "đa dụng" của các khẩu pháo 5 inch/38 caliber sẽ bị mất, nghĩa là không thể cấu hình để có thể đối phó các mục tiêu trên biển lẫn máy bay nhưng chỉ với mục tiêu trên mặt biển. Trưởng ban Tác chiến Hải quân (CNO) cho đây là một ý tưởng kém, phát biểu: "…CNO không thể chấp nhận mọi thiết kế tàu khu trục lại hạ thấp tầm quan trọng của pháo so với ngư lôi". Cuối cùng cũng đạt đến sự thỏa hiệp: đặc tính quan trọng bao gồm một hệ thống động lực mới cùng sự bố trí dàn ắc quy cho lớp "Mahan" cùng những lớp tiếp theo. Trong thiết kế được đưa ra, dàn ống phóng ngư lôi bốn nòng thứ ba sẽ thay chỗ cho khẩu pháo Số 3; hai dàn ống phóng giữa tàu được chuyển sang bên mạn, giải phóng chỗ trống giữa để kéo dài phòng trên boong phía sau nhằm chứa thêm khẩu pháo Số 3 trước khẩu Số 4. Năm khẩu pháo 5 inch/38 caliber sẽ là các khẩu pháo đa dụng, nhưng chỉ có các khẩu Số 1 và Số 2 có các bệ chắn. Hệ thống động lực tàu khu trục truyền thống được thay thế bằng một thế hệ động lực mới dựa trên kiểu trên bờ. Những chiếc trong lớp "Mahan" tiêu biểu thường có cột ăn-ten trước ba chân và cột ăn-ten chính dạng cột. Để cải thiện góc bắn của vũ khi phòng không, cột ăn-ten trước ba chân được cấu trúc mà không có các mấu hoa tiêu. Kiểu dáng của chúng tương tự như với lớp "Porter" lớn hơn, vốn được chế tạo ngay trước chúng. Lớp "Mahan" được trang bị những máy phát điện khẩn cấp đầu tiên, thay thế cho các bình ắc quy dự trữ điện trên những lớp trước. Bệ chắn cho khẩu đội pháo được chế tạo cho các vũ khí bắn thượng tầng, gồm một bệ trước cầu tàu và một bệ bên trên sàn sau. Dàn ống phóng ngư lôi bốn nòng thứ ba được bổ sung, bố trí trên trục giữa trong khi hai dàn kia đặt bên mạn. Điều này đòi hỏi phải dời chỗ một khẩu pháo 5 inch/38 caliber đến phòng trên boong phía sau. Trọng lượng con tàu tăng lên từ . Lớp "Mahan" có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn , và lên đến khi đầy tải. Chiều dài chung của cáccon tàu là , mạn thuyền rộng và độ sâu của mớn nước là . Chúng được cung cấp động lực bởi bốn turbine hơi nước General Electric, dẫn động hai trục chân vịt và tạo ra tổng công suất , giúp chúng đạt được tốc độ tối đa . Bốn nồi hơi ống nước Babcock and Wilcox hoặc Foster Wheeler cung cấp hơi nước siêu nhiệt cần thiết cho các turbine. Những chiếc trong lớp "Mahan" mang theo tối đa dầu đốt, cho phép có tầm xa hoạt động ở tốc độ đường trường . Thành phần thủy thủ đoàn trong thời bình là 158 sĩ quan và thủy thủ, trong thời chiến tăng lên khoảng 250 sĩ quan và thủy thủ. Vũ khí. Dàn pháo chính của lớp "Mahan" bao gồm năm khẩu pháo /38 caliber, được trang bị cùng bộ kiểm soát hỏa lực Mark 33. Cả năm khẩu đều là kiểu lưỡng dụng, được cấu hình cho cả mục tiêu trên mặt biển lẫn trên không. Dàn hỏa lực phòng không bao gồm bốn súng máy.50 caliber làm mát bằng nước. Lớp này được trang bị ba dàn ống phóng ngư lôi bốn nòng dùng cho ngư lôi Mark 15, dẫn hướng bằng bộ kiểm soát hỏa lực ngư lôi Mark 27. Các đường ray thả mìn sâu được bố trí phía đuôi tàu. Vào mùa Xuân năm 1942, các tàu khu trục lớp "Mahan" bắt đầu một đợt nâng cấp vũ khí thời chiến, nhưng đa số các chiếc trong lớp chỉ hoàn toàn được nâng cấp vào một lúc nào đó trong năm 1944. Cải biến đáng kể cho lớp "Mahan" bao gồm việc tháo dỡ một khẩu pháo 5 inch/38 caliber, thường là để thay bằng hai khẩu đội Bofors 40 mm nòng đôi và năm khẩu Oerlikon 20 mm phòng không. Tuy vậy, vào đầu năm 1942, hai chiếc trong lớp có sáu khẩu Oerlikon, trong khi một số lại có bốn khẩu. Đến tháng 1 năm 1945, bắt đầu tháo dỡ hai dàn ống phóng ngư lôi bốn nòng để thay bằng hai khẩu đội Bofors 40 mm bốn nòng. Đến tháng 6 lại tháo dỡ dàn ống phóng ngư lôi trên trục giữa lấy chỗ cho hai khẩu đội Bofors 40 mm nòng đôi bố trí ngang ống khói phía sau. Mọi con tàu được cải tiến vũ khí phòng không cũng được trang bị các bộ kiểm soát hỏa lực kèm theo các khẩu 40mm; kiểu Mark 51 cũ được thay bằng kiểu GFFC Mark 63 kèm theo radar. Lớp "Dunlap". Lớp "Dunlap" bao gồm hai tàu khu trục được chế tạo dựa trên thiết kế căn bản của lớp "Mahan". Một số nguồn xem chúng là một lớp riêng biệt, nhưng đa số không đồng ý vì những điểm tương tự với lớp "Mahan". Sự khác biệt bao gồm bổ sung một vòng bệ cho mỗi tháp pháo 5"/38 caliber phía trước, với một băng chuyền đạn pháo xuyên ngang, và xoay theo khẩu pháo. Lớp "Dunlap" là những tàu khu trục Hoa Kỳ đầu tiên có bệ pháo phía trước hoàn toàn kín thay cho các tấm chắn; cột ăn-ten trước nhẹ và thiếu cột ăn-ten chính khiến nó khác biệt bên ngoài so với những chiếc "Mahan". Chế tạo. Hợp đồng chế tạo ba chiếc đầu tiên trong lớp "Mahan" được trao cho ba hãng đóng tàu. Tuy nhiên không có hãng đóng tàu được chọn nào được Hải quân đánh giá có khả năng thiết kế chấp nhận được. Dựa trên sức mạnh về uy tín, hãng Gibbs and Cox tại New York được cử làm nhà thiết kế. Họ không có kinh nghiệm thiết kế tàu chiến, nhưng đã thiết kế thành công tàu chở hành khách-hàng hóa vượt đại dương có hệ thống động lực vượt quá mức yêu cầu của Hải quân. Vì vậy người ta quyết định thiết kế lớp chung quanh một thế hệ máy móc động cơ mới. Gibbs and Cox đề xuất thiết kế hệ thống động lực tiên tiến, kết hợp gia tăng áp lực và nhiệt độ hơi nước với kiểu turbine mới nhẹ và chạy nhanh hơn cùng hộp số giảm tốc hai cấp. Lớp "Mahan" trở thành thế hệ mới của kỹ thuật tàu khu trục, tăng hiệu quả kinh tế với tốc độ nhanh hơn và hiệu quả hơn.
1
null
Trung tâm Lịch sử của Thành phố Mexico là khu phố trung tâm ở thành phố Mexico, Mexico. Khu vực tập trung tại Quảng trường Zócalo (hay còn được gọi là Quảng trường Trung tâm) và mở rộng ra tất cả các hướng, mức độ xa nhất của nó là ở phía tây đến Trung tâm Alameda. Zócalo là quảng trường lớn nhất ở châu Mỹ Latinh. Nó có thể chứa tới gần 100.000 người. Tổng quan. Khu vực này có diện tích khoảng hơn 9 km vuông bao gồm 668 khối nhà. Tại đây có chứa 9.000 tòa nhà, 1.550 trong số đó đã được tuyên bố là có tầm quan trọng lịch sử. Hầu hết các tòa nhà lịch sử được xây dựng từ thế kỷ 16 tới 20. Nó được chia thành hai khu vực theo mục đích bảo quản. Khu A bao gồm các thành phố trước Tây Ban Nha và mở rộng của nó từ thời Viceroy cho đến khi độc lập. Khu B bao gồm tất cả các công trình khác vào cuối thế kỷ 19 rất quan trọng để bảo tồn di sản kiến trúc và văn hóa của khu vực. Đây là nơi mà người Tây Ban Nha bắt đầu xây dựng Thành phố hiện đại Mexico như ngày nay trong thế kỷ 16, trên những tàn tích của thành bang Tenochtitlan, thủ đô của Đế chế Aztec. Là trung tâm của Đế chế Aztec cổ đại và quyền lực cho thuộc địa Tây Ban Nha Tây Ban Nha tại Tân thế giới, nơi đây chứa hầu hết các di tích lịch sử của thành phố từ cả hai thời đại cũng như một số lượng lớn các viện bảo tàng. Chính vì vậy, nó đã được công nhận là một di sản thế giới của UNESCO. Lịch sử. Những gì bây giờ gọi là Trung tâm Lịch sử của thành phố Mexico là thành phố cổ Tenochtitlan của người Aztec, được thành lập vào khoảng năm 1325. Trong thời kỳ thuộc thời tiền Tây Ban Nha, thành phố phát triển một cách có kế hoạch, với đường phố và kênh đào phù hợp, tạo thành các khối vuông ngăn nắp. Các khu vực lịch sử. Quảng trường Zócalo và khu vực xung quanh. Trong quá khứ, quảng trường từng là một địa điểm tổ chức các sự kiện văn hóa lớn và phổ biến. Ví dụ như sự kiện chụp ảnh của Spencer Tunick, "Tro và Tuyết (Ashes and Snow) của bảo tàng Nomadic hay sự kiện trượt ván / BMX thu hút 50.000 người trẻ tuổi tham gia vào ngày 24 tháng 8 năm 2008.Festival de México"' là một sự kiện thường niên với các chương trình dành riêng cho nghệ thuật và học thuật. Trong năm 2008, có 24 lễ hội với 254 buổi biểu diễn và chương trình từ hơn 20 quốc gia tại 65 trung tâm thương mại và các địa điểm khác quanh khu vực quảng trường. Nó là trung tâm của nhiều cuộc biểu tình lớn như là cuộc biểu tình được tổ chức bởi Lopez Obrador sau cuộc bầu cử tổng thống năm 2006 và các cuộc biểu tình chống tội phạm toàn quốc tổ chức vào ngày 30 tháng 8 năm 2008. Xung quanh quảng trường là rất nhiều các công trình tiêu biểu như Cung điện Quốc gia, Nhà thờ chính tòa, Đền thờ Mayor với bảo tàng liền kề của nó hay Tòa nhà Quốc gia Monte de Piedad. Cung điện Quốc gia giáp toàn bộ ở phía đông của Zocalo và có các văn phòng của Tổng thống México, Kho bạc Liên bang, Cục Lưu trữ Quốc gia cũng như rất nhiều bức tranh miêu tả cuộc sống thời tiền Tây Ban Nha và một bức tranh tường lớn mô tả toàn bộ lịch sử các bang México bị chinh phục. Cung điện này được xây dựng trên những tàn tích của cung điện Moctezuma II vào năm 1521, sử dụng cùng loại đá Tezontle, nguyên liệu được sử dụng để xây dựng các cung điện của người Aztec. Ban đầu nó là nơi ở của gia đình Hernán Cortés cho đến khi vua Tây Ban Nha đã mua lại nó cho phó vương của Tây Ban Nha và nó vẫn còn nguyên vẹn (mặc dù bị phá hủy và xây dựng lại một lần nữa vào năm 1692) cho đến khi México độc lập. Trên ban công trung tâm là chuông Campana của Dolores hướng về phía quảng trường Zócalo, được tổng thống đánh lên vào ngày 15 tháng 9 hàng năm để kỷ niệm độc lập quốc gia. Nhà thờ chính tòa nằm ở cuối phía Bắc quảng trường Zócalo và được xây dựng từ năm 1573 tới 1813 sau khi người Tây Ban Nha chinh phục Tenochtitlan. Ban đầu đây là một phần của Thánh đường Aztec (gọi là Teocalli). Kiến trúc sư Tây Ban Nha Claudio de Arciniega là người đã lên kế hoạch xây dựng, lấy cảm hứng từ nhà thờ mang kiến trúc Gothic ở Tây Ban Nha. Nhà thờ có bốn mặt tiền có chứa các cổng ra vào, hai bên là các cột và các bức tượng. Hai tháp chuông chứa tổng cộng 25 quả chuông. Có hai bàn thờ lớn trang trí công phu, một phòng thánh, hầm mộ và một dàn hợp xướng trong nhà thờ. Nội thất nhà thờ được trang trí bởi các tác phẩm điêu khắc cùng những mái vòm lớn. Đền thờ Mayor là một địa điểm khảo cổ và bảo tàng, là trung tâm của teocalli cổ đại, nằm ở phía tây bắc của Zócalo. Nó bị Hernán Cortés phá hủy trong thập niên 1520 và địa điểm bị lãng quên. Nó được xác định vào đầu thế kỷ 20, nhưng quyết định khai quật đã không được thực hiện mãi cho đến năm 1978, khi thợ điện tình cờ phát hiện ra một đĩa bằng đá nặng tám tấn miêu tả nữ thần Coyolxauhqui của người Aztec. Cuộc khai quật đã phát hiện một kim tự tháp là nơi theo truyền thuyết, người Aztec nhìn thấy dấu hiệu một con đại bàng ngậm một con rắn đậu trên một cây xương rồng Nopal, mà ngày nay chính là biểu tượng của México. Tòa nhà Quốc gia Monte Piedad là cửa hàng cầm đồ quốc gia, được thành lập năm 1775 và là một trong những cửa hàng second-hand lớn nhất trên thế giới. Ngôi nhà này thuộc về Moctezuma II, và Hernán Cortés đã dành cho riêng mình sau khi chinh phục người Aztec. Ngôi nhà ban đầu kéo dài từ các phố Isabel la Catolica, Madero, Tacuba và Monte de Piedad, khiến Cervantes de Salazar nhận xét ​​rằng, nơi cư trú không phải là một cung điện mà là một thành phố khác thu nhỏ. Các địa điểm tại phía Bắc Zócalo. Santo Domingo (Thành phố Mexico) là khu vực nhà thờ Giáo hội Santo Domingo và quảng trường liền kề. Nó nằm ở phía bắc của nhà thờ Metropolitan, ngăn cách bởi đường Republica de Brasil và Belisario Dominguez. Về phía nam của nhà thờ là quảng trường San Domingo, hai bên là dãy cột với những mái vòm tròn. Một bức tượng của Josefa Ortiz de Dominguez, một nữ anh hùng trong Chiến tranh Mexico giành độc lập trong một đài phun nước ở giữa quảng trường. Trường Cao đẳng San Ildefonso hiện nay là một viện bảo tàng và trung tâm văn hóa được coi là nơi sinh của phong trào nghệ thuật Muralism Mexico. Sau chiến tranh cải cách, nó đạt được uy tín giáo dục giống như một trường Dự bị quốc gia. Nó hoàn toàn bị đóng cửa vào năm 1978, sau đó mở cửa trở lại như một bảo tàng và trung tâm văn hóa vào năm 1994. Bảo tàng có trưng bày các tác phẩm nghệ thuật lâu dài và tạm thời, triển lãm khảo cổ cùng nhiều bức tranh tường vẽ bởi José Clemente Orozco, Diego Rivera và những người khác. Khu vực này nằm giữa hai con phố San Ildefonso và Justo Sierra ở trung tâm lịch sử của thành phố Mexico.
1
null
Jagadish Chandra Bose (30 tháng 11 năm 1858-23 tháng 11 năm 1937) là một nhà vật lý, sinh học, thực vật học, khảo cổ học, nhà văn khoa học viễn tưởng người Bengal. Ông là người phát minh ra máy thu vô tuyến tinh thể. Ông đã có công lớn trong việc thiết lập nền tảng cho khoa học thực nghiệm Ấn Độ. Ông là một trong những nhà sáng lập Học viện Khoa học Quốc gia Ấn Độ, chủ tịch Hội nghị Khoa học Ấn Độ lần thứ 14, là thành viên của Học viện Hoàng gia Anh, thành viên Học viện Khoa học Vienna (Áo), thành viên Hội Khoa học Phần Lan. Ông được Hoàng gia Anh phong tước Hiệp sĩ vào năm 1917. Tiểu sử. Ông sinh ra ở Bikrampur (nay là Munshiganj quận Dhakar ở Bangladesh) trong Raj thuộc Anh Bose tốt nghiệp St Cao đẳng Xavier, Calcutta. Sau đó ông đã đến Đại học London để nghiên cứu y học, nhưng ông không thể theo đuổi nghiên cứu y học do sức khỏe có vấn đề. Thay vào đó, ông đã tiến hành nghiên cứu với những người sau này đoạt giải Nobel Lord Rayleigh tại Cambridge và trở về Ấn Độ.
1
null
Hệ tiên đề Hilbert là hệ tiên đề do nhà toán học người Đức David Hilbert đưa ra. Ông đã đưa ra hệ tiên đề này vào năm 1899. Trong hệ tiên đề này, Hilbert đã đưa ra 20 tiên đề gồm 13 tiên đề cho hình học phẳng, 7 tiên đề cho hình học không gian. Ông chia chúng thành 5 nhóm gồm: Đồng thời, ông cũng chứng minh sự phi mâu thuẫn, sự đầy đủ và sự độc lập của các tiên đề ấy. Công trình của Hilbert có một vai trò quan trọng trong lịch sử toán học. Nó đã khắc phục nhược điểm của hệ tiên đề Euclide là không có các tiên đề về sự liên tục (nên Euclid đã dựa vào trực giác của mình rất nhiều mà không phát biểu thành tiên đề). Hệ tiên đề của nhà toán học người Đức đã mở ra giai đoạn mới của lịch sử tiên đề. Các tiên đề. Hệ tiên đề Hilbert bao gồm 6 khái niệm nguyên thủy: điểm, đường thẳng, mặt phẳng, quan hệ nằm giữa (một điểm so với hai điểm khác), ba quan hệ nằm trên (điểm-đường thẳng, điểm-mặt phẳng, đường thẳng-mặt phẳng), hai quan hệ bằng nhau (đoạn thẳng, góc). Ứng dụng. Giá trị của "Grundlagen" còn nằm ở việc sử dụng các mô hình để chứng minh sự độc lập, và xem xét sự đầy đủ và sự phi mâu thuẫn của các tiên đề trong hệ tiên đề Hilbert.
1
null
Mê cung hay còn gọi là mê lộ, mê đạo thường được hiểu là một hệ thống đường ngầm gồm nhiều nhánh ngang dọc nối chằng chịt với nhau. Mê cung được dùng để chỉ những công trình gồm rất nhiều hành lang, lối đi được bao bọc xung quanh với vô vàn ngã ba, ngã tư, ngõ cụt. Người bị dẫn vào mê cung chỉ nhìn thấy một phần của đường đi nên rất khó định hướng và có thể không tìm được lối ra. Mê cung là hình dạng tiêu biểu của đa giác đơn. Tạo mê cung. Các mê cung được xây bằng tường và phòng, với hàng rào, cỏ, thân cây ngô, rơm rạ, sách, đá lát có màu sắc hoặc kiểu dáng tương phản, và gạch,  hoặc trên các cánh đồng trồng trọt như ngôhoặc thực tế là ngô. Mê cung ngô có thể rất lớn; chúng thường chỉ được nuôi trong một mùa sinh trưởng, vì vậy chúng có thể khác nhau hàng năm và được quảng bá là điểm thu hút khách du lịchtheo mùa. Trong nhà, mê cung gương là một dạng khác của mê cung, trong đó nhiều đường biểu kiến ​​là những tuyến đường tưởng tượng được nhìn thấy qua nhiều phản xạ trong gương. Một loại mê cung khác bao gồm một tập hợp các phòng được liên kết với nhau bằng các cánh cửa (vì vậy một lối đi chỉ là một căn phòng khác trong định nghĩa này). Người chơi đi vào một điểm, và thoát ra ở một điểm khác, hoặc ý tưởng có thể là đến một điểm nhất định trong mê cung. Các mê cung cũng có thể được in hoặc vẽ trên giấy để theo sau bằng bút chì hoặc đầu ngón tay. Mê cung có thể được xây dựng bằng tuyết. Tại một số quốc gia trong lịch sử. Ai Cập. Các mê cung trong các Kim tự tháp ở Ai Cập là những đường hầm tối đen như mực, chỉ cao có một mét, ngang một mét. Càng vào sâu, đường càng hóa hiểm, có đoạn dẫn đến giếng nước, có đoạn dẫn đến bước tường đá. Phải rất khó khăn mới tìm đến được những gian buồng rộng rãi có quan tài ướp xác các vua chúa, hoàng hậu. Hy Lạp. Theo thần thoại Hy Lạp thì mê cung đầu tiên được xây dựng trên đảo Crete, một đảo lớn ở Địa Trung Hải. Trên đảo này có con quỷ Minotaur đầu bò mình người. Nó bắt thợ xây tài ba Daedalus phải làm một mê cung gồm vô số căn phòng với những đường ngang, lối dọc ngoằn ngoèo và những ngõ cụt bất ngờ. Chín năm một lần, dân thành Athens phải cống nạp bảy cặp trai tài gai sắc vào mê cung cho quái vật ăn thịt. Đã có nhiều tráng sĩ lần mò vào mê cung, nhưng nếu không bị lạc lối rồi kiệt sức thì cũng không chống cự nổi sức mạnh hung hãn của quái vật. Cuối cùng hoàng tử Theseus, con trai vua Aegeus, đã vào được mê cung nhờ lần theo sợi chỉ của nàng công chúa xinh đẹp Ariadne, con gái vua Minos trao cho. Sau một trận chiến đấu quyết liệt, chàng đã giết chết quái vật và ra được mê cung cũng bởi cuộn chỉ này. Từ đó, mê cung đã trở thành một từ để ám chỉ tình huống phức tạp, nan giải, còn cuôn chỉ Ariadne ám chỉ giải pháp, hợp lý sáng suốt nhằm thoát khỏi tình trạng bế tắc. Ý. Ở Ý cũng có một mê cung xây dựng vào thế kỷ XII Anh. Vua Henry II của Anh. Vào thế kỷ XII, vua Henry II của Anh đã xây dựng một mê cung để giấu các cô tình nhân xinh đẹp, nhưng cuối cùng cũng bị hoàng hậu Eleanor phát hiện nhờ dùng "sợi chỉ Ariadne". Vua William III của Anh. Mê cung do vua William III của anh xây dựng vào thế kỷ XVII là một vườn hoa đẹp. Hai bên lối đi là hai hàng rào cây nhiều màu sắc. Ở chính giữa vườn có hai cây đại thụ và hai ghế đã quý. Trung Quốc. Trận đồ bát quái do Gia Cát Lượng bày ra cũng là một mê cung. Tướng Đông Ngô là Lục Tốn không biết đã đi vào cửa Tử, lạc lối không tìm được lối ra. May nhờ có cụ già Hoàng Thừa Ngạn là bố vợ Gia Cát Lượng dắt ra cửa Sinh mới thoát chết. Việt Nam. Ở Việt Nam có một mê cung nổi tiếng là thành Cổ Loa, một công trình xây dựng cách đây hơn nghìn năm. Căn cứ trên bình đồ của ba lớp thành còn lại đủ thấy sự phức tạp và đầy bí ẩn của việc thiết kế mê cung này. Các lớp thành bao quanh có dạng đồng tâm lệch, ở phía nam rất sít gần nhau, tỏa rộng ra ở phía bắc. Thành Nội chỉ có một cổng ở cửa Nam. Các cổng ở thành Trung và thành Ngoại không thẳng tuyến mà đặt lệch nhau. Các vách thành trùng điệp kết hợp với mạng lưới sông, hồ, ao, đầm lầy chằng chịt tạo thành những chỗ đón lõng, những vật cản khó vượt qua. Ở đây có cả cửa Tử như cửa Đông, muốn đột nhập thành tại cửa này, phải vượt qua sông Hoàng Giang, những rẽ sang trái vấp phải ngách cụt, còn sang phải thì sa lầy đầm Cả. Cửa Nam là hướng tiếp cận với thành Nội gần nhất, nhưng ở đây thành cao, hào sâu xen kẽ nhau ba bốn tầng với những ụ canh nhô cao, không dễ gì mà lọt qua được. Có thể chắc chắn rằng quân của Triệu Đà, nhất là kỵ binh, tiến vào Cổ Loa là sa vào một mê cung không lối thoát. Trọng Thủy ở rể nhiều khả năng không chỉ ăn cắp nỏ thần. Công trình giúp An Dương Vương giành nhiều thắng lợi này cuối cùng không chiến thắng nổi sự cả tin của Mỵ Châu để rồi đất nước chuyển sự cai trị từ tay An Dương Vương sang cho nhà Triệu. Những nghiên cứu liên quan. Các nhà toán học đã đưa ra nhiều bài toán về mê cung, lập các thuật toán và các chương trình giải các bài toán đó. Như năm 1951, Claude Shannon đã chế tạo ra con chuột máy biết tìm biết tìm đường đi trong mê cung. Những bài toán liên quan đến mê cung như tránh ngõ cụt, tìm đường vào hoặc đường đi nhanh nhất, đi đến mọi nhánh của mê cung, mỗi nhánh đi đúng hai lần và mỗi lần theo một chiều khác nhau... là những bài toán có ứng dụng quan trọng cho một ngành toán học trẻ tuổi: ngành điều khiển học. Vai trò. Mê cung có vai trò giải trí rất thú vị. Nó giúp chúng ta rèn luyện sự kiên trì khi chúng ta muốn đi vào tận cùng của nó.
1
null
Lễ mở cửa tháp, hay lễ Pơ Bang Yang, Pơh băng yang, là lễ mở đầu cho năm lễ cúng tế đền tháp của người dân tộc Chăm ở vùng Nam Trung Bộ Việt Nam. Mục đích của lễ này nhằm dâng lễ vật cầu xin các vị thần đền tháp cho mưa thuận gió hòa, dân làng khỏe mạnh, được phép khai trương, đắp đập, chuẩn bị cho việc gieo cày. Thời gian, địa điểm. Vào thượng tuần trăng tháng 11 (Bilan Piuc) theo lịch Chăm. Lễ diễn ra ở ba đền tháp (BiMôn, Kalan) như đền Po Inư Nưgar (Ninh Phước – Ninh Thuận), tháp Po Klaung Garai (Đô Vinh) và tháp Po Rame (Hậu Sanh – Ninh Thuận). Khâu chuẩn bị. Lễ vật dân cúng gồm: dê, gà, mâm cơm, canh với thịt dê, mâm cơm với muối vừng, cỗ bánh gạo, hoa quả và ngoài ra còn có cả rượu trứng, trầu cau, xôi chè,… Ban điều hành lễ. Được điều hành bởi chức sắc đạo Ahiêr (dòng Chăm ảnh hưởng Balamon) gồm: Thầy cả sư (Po Dhia) chủ trì đền tháp làm chủ lễ, Thầy kéo đàn Rabap (On kadhar) hát thánh ca, bà Bóng (Muk Payâu) sẽ dâng lễ các vị thần, ông Từ (Camưnay) chủ trì lễ tắm tượng, các tu sĩ Paseh phụ lễ. Hệ thống thần linh. Hệ thống thần linh cúng tế đền tháp Chăm chủ yếu là các vị anh hùng, các vị văn hóa được người Chăm suy tôn thành thần thánh. Ngoài ra họ còn cúng các vị thần đất, thần sông, thần mây, thần mưa, thần sấm, thần lửa,… Phần Lễ. Hành lễ mở cửa tháp sẽ diễn ra các lễ như: lễ mở cửa tháp, lễ tắm tượng thần, lễ mặc y phục, đại lễ... Phần đại lễ sẽ có phần dâng lễ vật, mỗi vị thần mời về dự đều được ông thầy Kadhar kéo đàn Rabap hát bài thánh ca, ca ngợi công đức của các vị thần. Lễ mở cửa tháp có quy mô tổ chức nhỏ, chưa quy tụ được cộng đồng mà chỉ dừng lại ở phạm vi lễ, không có phần hội.
1
null
Cuộc giải cứu thần kỳ () là phim hài-chính kịch tiểu sử được các hãng phim ba nước Hoa Kỳ-Úc-Anh hợp tác sản xuất năm 2013 do John Lee Hancock đạo diễn và Kelly Marcel cùng Sue Smith viết kịch bản. Tập trung vào quá trình phát triển phim "Mary Poppins" của Walt Disney Studios (phát hành năm 1964), phim có sự tham gia của Emma Thompson trong vai nhà văn P. L. Travers và Tom Hanks trong vai nhà làm phim Walt Disney, cùng các vai phụ do Colin Farrell, Paul Giamatti, Jason Schwartzman, Bradley Whitford, Ruth Wilson, B. J. Novak, Rachel Griffiths, và Kathy Baker đảm nhiệm. Đặt tên theo nhân vật ông bố trong truyện của Travers, phim tái hiện chuyến đi dài hai tuần của nữ nhà văn đến Los Angeles năm 1961 theo lời mời của Disney, nhằm thuyết phục bà ký hợp đồng cho phép chuyển thể bộ tiểu thuyết của bà lên màn ảnh. Sản xuất bởi Walt Disney Pictures và BBC Films, tác phẩm được quay hoàn toàn ở khu vực miền nam California, chủ yếu là ở trụ sở của Walt Disney Studios tại Burbank, nơi diễn ra phần lớn mạch truyện. Phim được phát hành tại các rạp ở Anh vào ngày 29 tháng 11 năm 2013, và ở Hoa Kỳ ngày 13 tháng 12 năm 2013. Phim nhận được các đánh giá tích cực, trong đó có nhiều lời khen dành cho phần diễn xuất, kịch bản và sản xuất—Thompson nhận được các đề cử giải BAFTA, giải Quả cầu vàng, giải Hiệp hội diễn viên điện ảnh, và giải Sự lựa chọn của giới phê bình ở hạng mục Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất, còn Thomas Newman nhận được đề cử giải Oscar cho nhạc phim hay nhất. Phim cũng là một thành công về doanh thu phòng vé khi mang về 112 triệu USD trên toàn cầu so với kinh phí sản xuất là 35 triệu USD. Cốt truyện. Ở London năm 1961, Pamela "P. L." Travers (Emma Thompson), một nhà văn đang gặp khó khăn về tài chính, miễn cưỡng đồng ý tới Los Angeles để gặp gỡ Walt Disney (Tom Hanks) theo lời động viên của nhà quản lý Diarmuid Russell (Ronan Vibert). Disney đã theo đuổi Travers 20 năm để thuyết phục bà đồng ý cho chuyển thể bộ truyện "Mary Poppins" lên màn ảnh, theo mong muốn của con gái ông là sản xuất một bộ phim dựa trên nhân vật này. Tuy nhiên, Travers lại cực kỳ do dự về việc cho phép Disney chuyển thể tác phẩm của mình thành phim bởi ông chủ yếu sản xuất phim hoạt hình, một thể loại mà Travers công khai coi thường. Tuổi thơ của Travers ở Allora, Queensland năm 1906 được tái hiện qua những cảnh hồi tưởng của bà, và nó cho thấy quãng thời gian ấy chính là nguồn cảm hứng cho phần lớn bộ truyện Mary Poppins. Travers sống rất gần gũi và tình cảm với người bố đẹp trai và cuốn hút của mình, Travers Robert Goff (Colin Farrell), người đã cố cai nghiện rượu nhưng không thành công. Khi tới Los Angeles, Travers thấy khó chịu vì những thứ bà cho là thiếu thực tế của thành phố, cũng như sự lạc quan đến ngây thơ và sự thân thiện đến mức chọc ngoáy của cư dân nơi đây. Người lái xe limo chở bà, Ralph (Paul Giamatti), là hiện thân của những điều đó. Tại trụ sở Walt Disney Studios ở Burbank, Travers bắt đầu cộng tác với đội ngũ sáng tạo được giao việc phát triển "Mary Poppins" thành phim, nhà biên kịch Don DaGradi (Bradley Whitford), và các nhà soạn nhạc Richard và Robert Sherman (lần lượt do Jason Schwartzman và B.J. Novak thủ vai). Bà cho rằng sự tự tin và thái độ tuỳ tiện của họ là rất không phù hợp, và cả với ông Disney hài hước bà cũng có cảm nhận như vậy khi trực tiếp gặp ông. Ngay từ đầu mối quan hệ hợp tác giữa Travers và đội ngũ sáng tạo đã gặp nhiều khó khăn, bởi bà luôn khăng khăng rằng Mary Poppins là kẻ thù của tính đa cảm và đùa cợt. Disney và các cộng sự không thể lý giải vì sao Travers lại phản đối các yếu tố tưởng tượng trong phim, trong khi bản thân cuốn truyện Mary Poppins đã tràn ngập sự kì ảo, cộng với thực tế tuổi thơ của chính Travers cũng rất giàu tính tưởng tượng. Travers đặc biệt phản đối cách nhóm làm phim tái hiện hình ảnh George Banks. Travers miêu tả tính cách của Banks trong kịch bản là hoàn toàn sai lầm và bỏ dở buổi làm việc. Nhóm sản xuất quyết định tìm hiểu xem cuộc đời Travers ảnh hưởng sâu sắc đến mức nào tới bộ truyện "Mary Poppins", và có bao nhiêu nhân vật trong tác phẩm này lấy cảm hứng trực tiếp từ quá khứ của bà. Mối quan hệ cộng tác giữa Travers và nhóm phát triển vẫn tiếp tục, mặc dù bà ngày càng ít chú tâm hơn tới công việc bởi những ký ức tuổi thơ đau đớn liên tục giày vò bà. Với mong muốn tìm hiểu xem điều gì khiến bà khó chịu, Disney mời Travers tới Disneyland, và điều đó—cộng thêm tình bạn mới nảy nở với Ralph, các thay đổi của đội ngũ sáng tạo với nhân vật George Banks, và việc thêm một bài hát mới để kết thúc bộ phim—đã góp phần làm Travers mềm lòng hơn. Trí tưởng tượng của bà được đánh thức trở lại, và bà cộng tác nhiệt tình với nhóm sáng tạo. Nhưng mọi chuyện đã bị đảo lộn khi Travers nhận ra hãng phim đang lên kế hoạch cho một phân cảnh hoạt hình, một quyết định đã khiến bà nhất quyết từ chối ký kết hợp đồng. Bà đến gặp và lên án Disney đã lừa dối bà, tuyên bố bà sẽ không cấp phép cho phim và sẽ quay về London. Disney sau đó phát hiện ra cái tên Travers chỉ là bút danh; tên thật của bà là Helen Goff. Nắm được thông tin mới này, ông lên đường tới London, quyết tâm cứu dự án phim này. Xuất hiện bất ngờ tại nơi ở của Travers, Disney đã mở lòng mình, ông kể lại tuổi thơ vốn cũng không dễ dàng gì của chính ông, và nhấn mạnh giá trị hàn gắn trong nghệ thuật của mình—và thôi thúc bà hãy tạm gác lại nỗi thất vọng tột cùng của mình với thế giới. Travers thay đổi quyết định và cấp phép cho Disney làm phim. Ba năm sau, vào năm 1964, phim "Mary Poppins" chuẩn bị ra mắt tại Rạp Grauman's Chinese. Travers không được mời bởi Disney e ngại rằng bà sẽ có phản ứng tiêu cực về bộ phim trước công chúng. Tuy nhiên, được người quản lý của mình thúc giục, Travers quay lại Los Angeles, xuất hiện bất ngờ tại văn phòng của Disney, và đòi được một vé mời tới buổi ra mắt. Ban đầu, bà xem "Mary Poppins" một cách coi thường, tỏ ra thất vọng với phân cảnh hoạt hình. Tuy nhiên sau đó thái độ của Travers với bộ phim dần nồng ấm trở lại, và cuối cùng bà không kiềm chế được cảm xúc, bà bị xúc động trước lời chuộc lỗi của George Banks, một chi tiết có tầm quan trọng lớn lao đối với cá nhân bà. Trong phần chạy chữ cuối phim có một đoạn ghi âm còn giữ được ghi lại một trong những buổi làm việc thật sự giữa Travers, anh em nhà Sherman và DaGradi. Các chi tiết lịch sử. Bộ phim tái hiện một số chi tiết có phần khác biệt với các tư liệu còn lưu giữ được. Yếu tố then chốt của kịch bản—đó là Disney phải thuyết phục Travers nhượng quyền sản xuất phim cho ông, trong đó có cảnh phim gần cuối khi ông phải đích thân đến thuyết phục bà—là hư cấu, bởi bản thân Disney đã chắc chắn có được quyền sản xuất phim này—lúc Travers duyệt kịch bản sau khi trao đổi với các nhân viên của Disney. Phim cũng tái hiện mối quan hệ ngày càng thân tình giữa Travers và Disney, trong đó có cả việc bà chấp thuận một số thay đổi của ông với cốt truyện. Trên thực tế, bà chưa bao giờ đồng ý việc hãng phim làm giảm bớt một số khía cạnh khắc nghiệt trong tính cách của Mary Poppins, có quan điểm không thống nhất (nửa thích nửa ghét) với phần âm nhạc, và phản đối việc sử dụng hoạt hình. Disney bác bỏ sự phản đối của bà với một số đoạn của bộ phim hoàn chỉnh, lấy lý do rằng một điều khoản trong hợp đồng đã cho phép ông có quyền quyết định với bản phim cuối cùng. Sau khi phim được hoàn thành, Travers được cho là đã tới gặp Disney và nói rằng phải loại bỏ các phân cảnh hoạt hình. Tuy nhiên Disney đã từ chối yêu cầu này và nói rằng, "Pamela, ván đã đóng thuyền rồi." Mặc dù phim tái hiện cảnh Travers bị xúc động trong buổi ra mắt "Mary Poppins", có lẽ là do những cảm xúc của bà về bố mình, một số nhà phê bình lưu ý rằng phản ứng của bà thật ra là tức giận vì cách xử lý nhân vật mà bà cho là đã đi ngược lại với ý tưởng nghệ thuật ban đầu của bộ truyện (mặc dù một số báo cáo cho biết rằng bà sau đó đã xem lại bộ phim nhiều lần). Mặc dù Travers công khai ca ngợi phim "Mary Poppins" sau buổi ra mắt, vị thế của bà với bộ phim chuyển sang mang nặng tính cá nhân hơn sau khi phần tiếp theo dự kiến của phim không được thực hiện trước khi Walt Disney mất vào năm 1966. Không hài lòng với cái bà coi là sự xử lý yếu kém trong tay Disney, Travers thề sẽ không bao giờ cho phép Công ty Walt Disney được chuyển thể bất kỳ tiểu thuyết nào khác của bà dưới bất kỳ loại hình truyền thông nào. Nhà văn người Anh Brian Sibley thấy Travers vẫn còn ngại ngần từ sau những trải nghiệm của bà với Disney, khi nhà văn này được mời viết kịch bản cho phần tiếp theo của "Mary Poppins" vào thập niên 1980. Sibley kể lại rằng Travers đã nói với ông, "Tôi chỉ có thể đồng ý nếu nó được thực hiện theo những điều kiện của tôi. Tôi phải làm việc với những người tôi tin tưởng." Tuy vậy, khi cùng nhau xem lại bộ phim gốc (1964)—lần đầu tiên Travers xem nó kể từ sau buổi ra mắt—bà tỏ ra thích thú với một số phân đoạn mà bà cho là xuất sắc, trong khi lại có một số đoạn khác bà cho là kinh khủng. Phần tiếp theo ấy sau đó không được sản xuất, và khi ý tưởng làm một vở nhạc kịch được đề xuất vào thập niên 1990, bà chỉ đồng ý với điều kiện phải là những nhà văn người Anh viết kịch bản và không thành viên nào trong đoàn làm phim được dính dáng trực tiếp tới quá trình phát triển vở nhạc kịch. Diễn viên. Dendrie Taylor, Victoria Summer, và Kristopher Kyer lần lượt xuất hiện trong vai các nhân vật phụ không có lời thoại là Lillian Disney, Julie Andrews, and Dick Van Dyke, respectively. Sản xuất. Quá trình phát triển. Năm 2002, nhà sản xuất người Úc Ian Collie sản xuất một phim tài liệu về P. L. Travers có nhan đề "The Shadow of "Mary Poppins"" ("Cái bóng của "Mary Poppins""). Trong quá trình sản xuất phim tài liệu này, Collie để ý rằng có "bóng dáng một bộ phim tiểu sử rõ ràng ở đây" và thuyết phục Essential Media and Entertainment phát triển một phim chiếu rạp với Sue Smith tham gia viết kịch bản. Dự án thu hút sự chú ý của hãng BBC Films, hãng này đã đồng ý tài trợ tài chính cho dự án, và Alison Owen của hãng Ruby Films, người sau đó đã mời Kelly Marcel cùng viết kịch bản với Smith. Các bản nháp của Marcel đã loại bỏ một tình tiết nhỏ giữa Travers với con trai bà, và chia cốt truyện thành hai mạch kể riêng biệt: mâu thuẫn về ý tưởng giữa Travers với Walt Disney, và nội tâm giằng xé của bà khi nghĩ về tuổi thơ. Tuy nhiên, phiên bản của Marcel có sử dụng một số hình ảnh và ca khúc trong phim "Mary Poppins" đã được bảo hộ bản quyền, và không thể đưa vào nếu không có sự cấp phép của Công ty Walt Disney. "Luôn có con voi lớn ấy đứng trong phòng, và đó là Disney," Collie nhớ lại. "Chúng tôi biết Walt Disney là nhân vật then chốt của bộ phim và chúng tôi muốn đưa vào thật nhiều âm nhạc. Chúng tôi biết cuối cùng cũng sẽ phải xuất hiện nhân vật Disney." Vào tháng 7 năm 2011, khi tới tham dự Liên hoan phim Ischia, Owen gặp Corky Hale, người đề nghị chuyển kịch bản tới cho Richard M. Sherman của Anh em nhà Sherman, các nhà soạn nhạc cho phim "Mary Poppins", xem. Sherman đã đọc và ủng hộ kịch bản này của các nhà làm phim. Sau đó cùng năm, kịch bản của Marcel và Smith được đưa vào danh sách The Black List của Franklin Leonard, do các nhà sản xuất bình chọn, gồm các kịch bản hay nhất nhưng không được sản xuất thành phim. Tháng 11 năm 2011, giám đốc mảng sản xuất của The Walt Disney Studios Sean Bailey, biết đến kịch bản của Marcel. Nhận thấy có sự xuất hiện của Walt Disney trong đó, Bailey liên lạc với ban giám đốc của công ty, trong đó có CEO của Disney là Bob Iger và chủ tịch hãng phim Alan Horn, Horn gọi bộ phim này là "mang thương hiệu ra để đặt cọc," một thuật ngữ vốn do Steve Jobs dùng. Các giám đốc cùng nhau bàn bạc các giải pháp mà hãng phim có thể thực hiện: mua bản quyền kịch bản và chôn vùi dự án này đi, hoặc tham gia đồng sản xuất nó. Iger duyệt dự án phim và sau đó liên hệ với Tom Hanks để mời ông đóng vai Walt Disney, trở thành hình tượng điện ảnh đầu tiên về Disney trong một bộ phim chính thống. Hanks đồng ý, coi đó là "một cơ hội để đóng vai một người đã thay đổi cả thế giới tầm cỡ như Picasso hay Chaplin". Hanks đã có vài lần đến thăm Bảo tàng gia đình Walt Disney và nói chuyện với một số nhân viên cũ và người nhà của Walt Disney, trong đó có con gái ông, bà Diane Disney Miller. Mặc dù phim được Walt Disney Pictures sản xuất, nhân vật Walt Disney trong phim được diễn xuất một cách chân thật, uống rượu, hút thuốc, và nói tục. Tháng 4 năm 2012, Emma Thompson bước vào thoả thuận lần cuối với hãng phim để nhận vai P. L. Travers, sau khi hãng phim không thể chắc chắn vai diễn này cho Meryl Streep. Thompson nói đây là vai diễn khó khăn nhất bà từng thực hiện, miêu tả Travers là "một người phụ nữ phức tạp và đầy mâu thuẫn đến phát khóc." "Bà ấy có thể viết một bài luận xuất sắc về nỗi buồn, bởi thực sự bà ấy là một người phụ nữ rất buồn. Bà ấy có một tuổi thơ rất khó khăn, một bên là người cha nghiện rượu, bên kia là người mẹ có lần định tự vẫn. Tôi nghĩ cả cuộc đời bà ấy sống trong một nỗi buồn sâu tận gốc rễ khong thể nguôi ngoai và do đó đã viết được rất nhiều thứ." Với sự hỗ trợ của Walt Disney Pictures, nhóm sản xuất được tiếp cận với đoạn ghi âm dài 36 giờ của Travers giữa bà với anh em nhà Shermans và nhà đồng biên kịch Don DaGradi được thu lại trong quá trình phát triển phim "Mary Poppins", cùng các thư từ trao đổi giữa Disney và Travers từ thập niên 1940 đến 1960. Richard Sherman cũng tham gia bộ phim với vai trò cố vấn kỹ thuật, ông đã chia sẻ suy nghĩ của mình về những trải nghiệm khi cộng tác với Travers cho đoàn làm phim. Ban đầu, đạo diễn John Lee Hancock có dè dặt với hình tượng Disney được tái hiện trong phim, cho rằng hãng phim sẽ thay đổi kịch bản theo hướng tích cực cho vị sáng lập công ty của họ. Tuy nhiên, Marcel xác nhận rằng hãng phim "đặc biệt không muốn xen vào và lược bỏ nó hay thay đổi nhân vật Walt theo bất kỳ cách nào." Mặc dù các nhà làm phim không bị Disney can thiệp về mặt sáng tạo trong việc tái hiện hình ảnh Walt Disney, hãng phim vẫn yêu cầu họ loại bỏ các cảnh ông hút thuốc lá bởi chính sách của công ty không trực tiếp tái hiện việc hút thuốc trong các phim phát hành dưới nhãn hiệu Disney, và để tránh bị gán mác R từ Hiệp hội Điện ảnh Hoa Kỳ. Thay vào đó, trong phim có một cảnh Disney đang tắt điếu thuốc cháy dở, và đôi lần có tiếng ho của một người hút thuốc nhưng không xuất hiện trực tiếp trên màn ảnh. Quay phim. Quá trình quay phim tiền kỳ bắt đầu vào ngày 19 tháng 9 năm 2012. Mặc dù một số phân đoạn ban đầu dự định quay ở Queensland, Australia, nhưng sau đó toàn bộ phim được quay ở vùng Nam California, bao gồm chính khu đất của Walt Disney Studios ở Burbank, công viên Disneyland ở Anaheim, Big Sky Ranch ở Simi Valley, Vườn nghiên cứu và bách thảo hạt Los Angeles ở Arcadia, và Rạp TCL Chinese ở Hollywood. Với khu vực Disneyland, các cảnh quay được thực hiện vào sáng sớm. Một số khu vực của công viên bị đóng cửa để phục vụ quá trình quay phim, trong đó có Lâu đài Người đẹp ngủ trong rừng, Phố Chính Hoa Kỳ, Fantasyland và các điểm tham quan thuộc khu King Arthur Carrousel, còn các nhân viên của công viên được thuê làm diễn viên quần chúng. Nhà thiết kế sản xuất Michael Corenblith phải đảm bảo rằng các điểm tham quan được xây dựng sau năm 1961 không lọt vào ống kính máy quay, và mặt trước của các cửa hàng trên Phố Chính được trang trí lại cho giống với thời kỳ đó. Corenblith cũng phải tái dựng lại văn phòng của Disney, sử dụng các ảnh tư liệu và khu trưng bày nội thất ở Thư viện Tổng thống Ronald Reagan để tham khảo. Để tái hiện lại buổi ra mắt phim tại Rạp Chinese, các nhà thiết kế bối cảnh cho đóng cửa Đại lộ Hollywood và trang trí lại con phố và rạp chiếu phim cho giống với năm 1964. Emma Thompson chuẩn bị cho vai diễn bằng cách nghiên cứu các băng thu âm của Travers thực hiện trong thời kỳ phát triển phim "Mary Poppins", và làm tóc giống với Travers, bởi nữ diễn viên không muốn dùng tóc giả. Để tái hiện chính xác giọng địa phương miền Trung Tây Hoa Kỳ của Walt Disney, Tom Hanks nghe lại các đoạn băng tư liệu của Disney trên xe ô tô và luyện giọng lúc đọc báo. Hanks cũng để ria cho đúng với vai diễn, và chi tiết này được chăm chút tỉ mỉ: các nhà làm phim xem xét cẩn thận kích thước ria của Hanks cho giống với Disney. Jason Schwartzman và B. J. Novak hợp tác chặt chẽ với Richard M. Sherman trong quá trình tiền sản xuất và quay phim. Nhà viết lời bài hát miêu tả các diễn viên được chọn là "những tài năng hoàn hảo" cho vai diễn Richard và Robert B. Sherman. Nhà thiết kế phục trang Daniel Orlandi cho Thompson đeo trang sức thật mượn từ Bảo tàng gia đình Walt Disney, và đảm bảo rằng trang phục của Hanks có chiếc huy hiệu Smoke Tree Ranch lấy từ Palm Springs được thêu lên cà vạt, thứ mà Disney luôn đeo trên người. Bộ phận thiết kế cũng phải phục dựng một số nhân vật người đóng ở Disneyland cho giống với hồi thập niên 1960. Quá trình quay phim hoàn tất vào ngày 22 tháng 11 năm 2012. Walt Disney Animation Studios phục dựng lại một phân cảnh hoạt hình Tinker Bell xuất hiện trên chiếc TV trong phòng ở của Travers, hồi đó được phát sóng trên chương trình truyền hình hàng tuần do chính Walt Disney dẫn có tên "Walt Disney Presents". Nhạc phim. Walt Disney Records phát hành hai phiên bản nhạc phim vào ngày 10 tháng 12 năm 2013: một phiên bản một đĩa và một phiên bản deluxe gồm hai đĩa digipak (có thêm các bản thu thử của anh em nhà Sherman và một số ca khúc chọn lọc từ phim "Mary Poppins"). Nhạc phim do Thomas Newman biên soạn. Phát hành. Trailer phim phát hành vào ngày 10 tháng 7 năm 2013. "Saving Mr. Banks" ra mắt lần đầu tiên tại Liên hoan phim London vào ngày 20 tháng 10 năm 2013. Vào ngày 7 tháng 11 năm 2013, Walt Disney Pictures tổ chức buổi ra mắt phim tại Hoa Kỳ ở rạp TCL Chinese trong đêm khai mạc Liên hoan phim AFI 2013, cùng nơi ra mắt bộ phim "Mary Poppins". "Mary Poppins" cũng được chiếu lại ở đây nhân dịp 50 năm ra mắt. "Saving Mr. Banks" được chọn chiếu tại Liên hoan phim Napa Valley 2013 vào ngày 13 tháng 11, và tại Liên hoan phim AARP ở Los Angeles vào ngày 17 tháng 11, trong một chiến dịch của Disney nhằm quảng bá "Saving Mr. Banks" để thu hút sự chú ý của Giải Oscar. Ngày 9 tháng 12 năm 2013, phim có buổi ra mắt độc quyền của hãng phim tại Rạp Chính, nằm trong khu đất của Walt Disney Studios ở Burbank. Phim được phát hành hạn chế tại Hoa Kỳ vào ngày 13 tháng 12 năm 2013, và phát hành rộng rãi vào ngày 20 tháng 12. Mặc dù không được đề cử, phim được đông đảo công chúng dự đoán là ứng cử viên sáng giá ở hạng mục Phim hay nhất tại lễ trao giải Oscar lần thứ 86. Phát hành tại gia đình. Walt Disney Studios Home Entertainment phát hành "Saving Mr. Banks" trên đĩa Blu-ray, DVD, và tải về dạng kỹ thuật số vào ngày 18 tháng 3 năm 2014. Phim đứng thứ hai về doanh thu đĩa Blu-ray và DVD tại thị trường Hoa Kỳ vào ngày đầu ra mắt, theo số liệu của bảng xếp hạng doanh thu Nielsen. Phản hồi. Doanh thu phòng vé. "Saving Mr. Banks" thu về 83.301.580 USD ở thị trường Bắc Mỹ, và khoảng 29.243.000 USD tính đến ngày 21 tháng 4 năm 2014. Tổng doanh thu toàn cầu của phim đạt 112.544.580 USD. Phản hồi chuyên môn. "Saving Mr. Banks" nhận được đánh giá tích cực từ các nhà phê bình điện ảnh, trong đó phần lớn lời khen dành cho phần diễn xuất trong phim, đặc biệt là của Emma Thompson, Tom Hanks, và Colin Farrell. Trang tổng hợp kết quả đánh giá Rotten Tomatoes cho biết có 79% các nhà phê bình cho bộ phim phản hồi tích cực, dựa trên 225 bài đánh giá với điểm số trung bình là 7/10. Lời nhận xét chung của trang này viết: "Vô cùng hấp dẫn và khó mà tìm ra lỗi, "Saving Mr. Banks" là một lời tưởng nhớ tới di sản của Disney với diễn xuất xuất sắc và một vẻ đẹp ngọt ngào, cao quý." Metacritic cho bộ phim điểm đánh giá trung bình là 65 (trên 100) dựa trên 46 bài bình luận từ các nhà phê bình chính thống, với nhận xét "nhìn chung là tích cực". "The Hollywood Reporter" ca ngợi đây là một "phim hài-chính kịch nhẹ nhàng và cảm động, trong đó diễn xuất xuất sắc của các diễn viên càng làm nâng cao giá trị của nó lên nhiều hơn." Tạp chí này nhận xét rằng "Emma Thompson đảm nhận vai diễn trung tâm P. L. Travers với sự chân thực đến mức bạn có thể tự hỏi tại sao trước đây người ta lại có thể nghĩ đến việc chọn ai khác cho vai này." Scott Foundas của tạp chí "Variety" viết rằng phim "có tất cả những yếu tố làm nên sự thành công của một câu chuyện kể sau hậu trường không thể bỏ lỡ, và nó đã được đưa lên màn ảnh với sự cuốn hút xưa cũ của Disney...", và phần diễn xuất của Tom Hanks đã nắm bắt được "sự cuốn hút bình dị và tài thuyết phục rất thông minh của Walt Disney — trong Disney vừa có hình ảnh một người cha, một người lắng nghe thấu hiểu và một nhà kinh doanh khôn ngoan." Nói chung, ông ca ngợi bộ phim là "một tác phẩm giàu chất liệu về những con người lao động sáng tạo và tinh thần luôn tự làm mới mình của họ." "The Washington Post" cho bộ phim ba trên bốn sau và viết rằng: ""Saving Mr. Banks" không phải lúc nào cũng có được sự giao thoa nhịp nhàng giữa hai thời điểm trong thực tại và quá khứ. Nhưng bộ phim này — do John Lee Hancock đạo diễn dựa theo kịch bản của Kelly Marcel và Sue Smith — đã bù đắp cho cấu trúc đôi lúc có phần khó nắm bắt ấy bằng một cốt truyện cuốn hút với đoạn kết sâu sắc và xúc động, cùng với đó mang tới cho họ cái nhìn về quá trình phát triển cũng như hình hài của một bộ phim nhạc kịch rất được yêu thích năm 1964." Biên tập viên A. O. Scott của báo "The New York Times" cho bộ phim đánh giá tích cực, cho rằng đây là "một cái nhìn tươm tất, hoàn thiện hơn nhưng cũng không kém phần chân thực về cỗ máy giải trí Disney khi ở văn phòng." Mark Kermode cho bộ phim bốn trên năm sao, khen ngợi màn diễn xuất của Thompson là "hoàn hảo", giải thích rằng "Thompson đã thể hiện tốt những cảm xúc trái ngược trong tâm trạng của Travers, cho chúng ta thấy bức chân dung hoàn chỉnh của một con người tuy khó ưa nhưng cũng không làm sao mà không yêu quý cho được." Michael Phillips cũng có cảm xúc tương tự, viết rằng: "Cả bộ phim này là của Thompson. Mỗi câu nói làm người khác bẽ mặt, mỗi lời nhận xét coi thường, đều kết thúc với một tiếng vang nhẹ nhàng." Nói về kịch bản, ông viết "nhà biên kịch Kelly Marcel và Sue Smith dẫn dắt khán giả một cách nhẹ nhàng nhưng với sự trân trọng tuyệt đối." Peter Travers cũng cho bộ phim ba trên bốn sao và có bài bình luận ca ngợi dàn diễn viên tương tự. Alonso Duralde miêu tả bộ phim là "một câu chuyện mới lạ, cảm động và đôi chỗ rất sâu sắc... đạo diễn John Lee Hancock đã đắm mình vào từng chi tiết nhỏ nhất của Disney-ana hồi đầu thập niên 60". "Entertainment Weekly" cho bộ phim điểm "B+", giải thích rằng "bước đột phá ở đây là việc Thompson và Hanks đã tái hiện rất hoàn hảo cách các nhân vật làm nồng ấm trở lại mối quan hệ vốn lạnh nhạt giữa họ, và cách họ cảm thông với tuổi thơ đầy đau khổ của nhau trong phân cảnh tuyệt đẹp gần cuối bộ phim." Kenneth Turan viết cho báo "The Los Angeles Times" cho rằng bộ phim "không tuân thủ chặt chẽ các tư liệu lịch sử còn lại khi tái hiện cách giải quyết các mâu thuẫn ở cuối phim," nhưng công nhận rằng "người xem dễ dàng chấp nhận chi tiết hư cấu này để đổi lấy màn trình diễn hấp dẫn của Thompson." David Gritten của báo "The Daily Telegraph" miêu tả mối quan hệ tương tác gay gắt giữa Thompson và Hanks là "tuyệt vời", đặc biệt nhắc đến "phần trình diễn xuất sắc" của Thompson, và gọi chính bộ phim là một "tác phẩm giải trí tinh tế và dí dỏm". Kate Muir của báo "The Times" ca ngợi diễn xuất của Thompson và Hanks. Trong khi đó, Joe Morgenstern của tờ "The Wall Street Journal" lại cho rằng Colin Farrell mới là người có màn trình diễn xuất sắc trong phim. Ashley Clark viết cho trang IndieWire nhận xét rằng bộ phim "là một tác phẩm giải trí chính thống dí dỏm, được sản xuất một cách tỉ mỉ với diễn xuất tốt. Có lẽ nó không tránh khỏi trung thành với khuôn mẫu truyền thống của Disney rằng mọi khó khăn—dù là vấn đề tâm lý sâu xa đến thế nào đi nữa—đều có thể vượt qua được." Một cây bút khác thì cho rằng phần thể hiện của Thompson trong "Saving Mr. Banks" là màn trình diễn xuất sắc nhất của bà kể từ phim "Sense and Sensibility", và nhận xét rằng "bà đã biến một nhân vật lai chất Úc-Anh trở thành một con người cục cằn mà cũng rất thú vị." Peter Bradshaw thích thú với vai diễn của Hanks trong vai Disney, cho rằng tuy không dài nhưng nếu thiếu vai diễn ấy, bộ phim chắc sẽ rất "đơn điệu". Phim cũng vấp phải một số lời chỉ trích. Báo "The Independent" cho bộ phim đánh giá trung bình, nhận xét rằng: "Một mặt, "Saving Mr. Banks" (do BBC Films phát triển và có một nhà sản xuất người Anh) là một tác phẩm đi sâu vào bên trong các nhân vật một cách tiêu cực. Mặt khác, đó là một tác phẩm vui vẻ và dí dỏm mà Disney dùng để quảng bá lại một trong những nhân vật điện ảnh nổi tiếng nhất của họ." David Sexton của trang "Evening Standard" kết luận rằng bộ phim "chẳng có gì ngoài một tập đoàn lớn đang khoe khoang sự tuyệt diệu của mình." Lou Lumenick của báo "The New York Post" chỉ trích tính chính xác của các sự kiện nhắc tới trong phim, kết luận rằng ""Saving Mr. Banks" nhắm tới lợi nhuận nhiều hơn là kể câu chuyện về một phép màu." Giảng viên ngành lịch sử người Mỹ John Wills ca ngợi sự chú trọng của phim tới các chi tiết, ví dụ như việc đưa các băng thu âm gốc của Travers vào, nhưng nghi ngờ liệu mối quan hệ cá nhân thực sự giữa Travers và Disney liệu có thân mật giống như trong phim hay không. "Film School Rejects" cũng nhận xét rằng một số đoạn trong phim "đã loại bỏ một cách khéo léo những lời chỉ trích [hướng về chính công ty] ", để cuối cùng phủ nhận chúng và Disney hoá Travers như một nhân vật của họ. "Saving Mr. Banks" được "Access Hollywood" liệt kê là phim hay thứ sáu của năm 2013.
1
null
Christina Victoria Grimmie, (12 tháng 3 năm 1994 – 11 tháng 6 năm 2016), là một nghệ sĩ dương cầm và ca sĩ, nhạc sĩ người Mỹ, Grimmie nổi tiếng với việc hát lại các bài hát hit của ca sĩ như Miley Cyrus, Demi Lovato, Selena Gomez, Christina Aguilera, Justin Bieber, Katy Perry... Tháng 6 năm 2011, cô phát hành đĩa đơn đầu tay của cô, "Find Me". Tháng 8 năm 2012, Grimmie cũng tiết lộ rằng cô sẽ thành lập một ban nhạc mới tên là Rising Tide, các thành viên là những người bạn của cô ở New Jersey. Năm 2014, cô đã tham gia vào mùa giải thứ sáu của "The Voice" (đài NBC) Ngày 10 tháng 6 năm 2016, Grimmie bị một kẻ lạ mặt nã súng sau một đêm nhạc Before You Exit ở Orlando, Florida. Kẻ tình nghi cũng tự nổ súng kết liễu đời mình. Cô nhập viện trong tình trạng nguy kịch và qua đời vài giờ sau đó. Tiểu sử. Grimmie sinh ra và lớn lên ở Marlton, New Jersey .Cô là người gốc Ý và Romania . Cô bắt đầu chơi piano lúc mười tuổi và đam mê ca hát từ lúc năm tuổi,cha của cô bắt đầu chú ý đến tài năng của cô từ khi cô 6 tuổi. Grimmie là một tín đồ Cơ Đốc giáo. Nổi tiếng trên Youtube. Christina Grimmie được biết đến nhiều với bản cover "Just a Dream"của Nelly cùng với Sam Tsui,thu hút khoảng 119 triệu lượt xem trên Youtube.Video đầu tiên của cô là bản cover "Don't Wanna Be Torn" vào năm 2009.Tháng 8 năm 2009,cô thực sự trở thành ngôi sao trên Youtube với bản cover "Party in the U.S.A."  của Miley Cyrus . Tính đến ngày 28 tháng 4 năm 2013,cô đã sở hữu hơn 375 triệu lượt xem cùng với 2,6 triệu lượt đăng ký theo dõi..Cô cũng giành vị trí thứ 2 tại cuộc thi MyYoutube,đứng sau Selena Gomez và đứng trước Rihanna, Nicki Minaj, Justin Bieber. Với sự nổi tiếng ngày càng tăng của cô trên Youtube,Grimmie đã được phát hiện bởi cha dượng của Gomez,Brian Teefey,và trở thành người quản lý của cô . Sự nghiệp. Grimmie biểu diễn tại UNICEF charity concert năm 2011 ,cô biểu diễn cùng với Selena Gomez & the Scene.Sau đó Gomez trở thành người cố vấn cho Grimmie.Cô cũng xuất hiện trong  Billboard Social 50 .Cô cũng tham gia hát mở màn cho Selena Gomez & the Scene, Allstar Weekend và Jonas Brothers, tại Concert of Hope.Sau đó,cô đã tham gia trong 6 tuần với Selena Gomez & the Scene và hát mở màn cho họ tại We Own the Night Tour. Ngày 14 tháng 6 năm 2011,cô cho ra mắt đĩa EP "Find Me". Ngày 10 tháng 10 năm 2011,cô xuất hiện trong The Ellen DeGeneres Show,biểu diễn cùng với Tyler Ward bài "How to love" của Lil Wayne .Ngày 20 tháng 11 năm 2011,Grimmie biểu diễn tại American Music Awards of 2011 lần thứ 39 cùng với Taio Cruz.Ngoài ra cô còn biểu diễn ca khúc 'Not Fragile' cùng với Selena Gomez & the Scene tại American Music Awards 2011 "Coca-Cola Red Carpet Show" .Ngày 11 tháng 12 năm 2011,Grimmie là khách mời đặc biệt trong chương trình So Random! của Disney Channel,cô đã biểu diễn ca khúc 'Advice'. Tháng 12 năm 2012 cô chuyển đến sống tại Los Angeles,sau đó Grimmie đã ký hợp đồng với hãng Creative Artists Agency.Trên Disney.com cô xuất hiện trong chương trình "Power Up: with Christina Grimmie",phát sóng từ 29 tháng 3 năm 2012 đến 5 tháng 6 năm 2012. Ngày 6 tháng 8 năm 2013,Cô biểu diễn mở màn cho Selena Gomez & the Scene tại Stars Dance Tour,và biểu diễn ca khúc trong Album thứ hai của cô,"With love". 2014 – 2016: "The Voice". Grimmie tham gia vào mùa giải thứ sáu của The Voice US (đài NBC),tại vòng "Giấu mặt" cô đã biểu diễn ca khúc "Wrecking Ball" của Miley Cyrus. Tất cả bốn huấn luyện viên, cụ thể là Adam Levine, Usher, Shakira, và Blake Shelton đều đã lựa chọn và muốn dành cho cô một vị trí trong đội của họ, nhưng cô đã chọn Adam Levine . Ảnh hưởng. Grimmie đã nói rằng cảm hứng âm nhạc của cô đến từ nghệ sĩ Stacie Orrico,"Stacie Orrico sở hữu một giọng hát tuyệt vời,và tôi đã bị nó quyến rũ.Tôi nghĩ lý do tôi cố gắng để có một giọng hát truyền cảm là vì ảnh hưởng rất lớn từ cô ấy.Tôi rất muốn có giọng hát giống như cô ấy" Ngoài ra,Grimmie cũng ngưỡng mộ giọng ca của Beyoncé.Dòng nhạc yêu thích của cô là dubstep,nhạc DJ,rock 'n roll và rock,cô thường nghe nhạc của các nghệ sĩ như  Metallica, Pantera, Iron Maiden,và Tool. Tour lưu diễn. Mở màn
1
null
János Bolyai (1802-1860) là nhà toán học người Hungary. Ông là đối thủ của nhà toán học người Nga Nikolay Ivanovich Lobachevsky. Năm 1832, ông công bố công trình của mình về hình học phi Euclid. Nhưng bi quan vì quan điểm của mình không được mọi người thừa nhận, ông không tiếp tục nghiên cứu về hình học phi Euclid nữa, nhất là sau khi đọc cuốn sách của Lobachevsky được dịch sang tiếng Đức.
1
null
Vườn quốc gia Lanin (tiếng Tây Ban Nha: "Parque Nacional Lanin") là một vườn quốc gia nằm ​​ở tỉnh Neuquén của Argentina. Tại đây có những khu rừng có sự đa dạng loài cao, chủ yếu là Họ Cử và cây lá kim như "Nothofagus pumilio" và "Araucaria", nhiều loài trong số đó không được tìm thấy ở bất cứ nơi khác tại Argentina. Vườn quốc gia nổi tiếng với ngọn núi lửa Lanín, với hình dạng như một chiếc nón và đỉnh quanh năm phủ đầy tuyết. Đây cũng là nơi có rất nhiều các hồ nước như Huechulafquen, Aluminé, và Lácar cùng các con sông suối. Hệ động vật của vườn quốc gia tương tự như Vườn quốc gia Nahuel Huapi ở phía Nam. Thành phố du lịch của San Martín de los Andes trên bờ hồ Lácar phục vụ như là trung tâm cho du khách tham quan, cũng như các hoạt động khác bao gồm trượt tuyết, câu cá và đi thuyền trên sông.
1
null
Nguyên lý Cavalieri (tiếng Anh: Cavalieri's principle) là một nguyên lý toán học, được nhà toán học người Ý Bonaventura Cavalieri đề xuất. Nguyên lý có nội dung cơ bản là thể tích của hai đối tượng bằng nhau nếu các mặt cắt tương ứng của chúng bằng nhau. Nguyên lý này được sử dụng từ rất lâu, cụ thể là Trung Quốc cổ đại. Có thể Pythagoras đã sử dụng tư tưởng tư duy của nó để chứng minh định lý nổi tiếng mang tên mình. Sau khi được đề xuất, nguyên lý Cavalieri đã tiến gần đến tư tưởng của tích phân và phát huy được nhiều ứng dụng trong toán học, đặc biệt là trong tính thể tích. Nội dung. Nếu hai hình khối (dù giới hạn bởi mặt phẳng hay mặt cong) có thể đặt sao cho với mọi mặt phẳng song song với một mặt phẳng cho trước, tiết diện của các hình khối cắt bởi các mặt phẳng này là tương đương, thì thể tích các hình khối này bằng nhau.
1
null
Nữ Tu sĩ (tiếng Pháp: "La Religieuse"), là cuốn tiểu thuyết của nhà văn Pháp Denis Diderot, viết năm 1760 nhưng đến năm 1796 mới xuất bản, sau khi tác giả qua đời. Nội dung. Suzanne, là con hoang của bà Simonin. Bố dượng cô, ông Simonin, là một nhà tư sản khá giả. Vì ân hận với lỗi lầm của mình và không muốn đứa con hoang ảnh hưởng đến phần gia tài của hai người con gái chính thức, bà Simonin ép Suzanne phải vào nhà tu kín, trái với ý nguyện của cô. Nàng tu sĩ bất đắc dĩ ấy đau khổ, tìm cách thoát khỏi nhà tù kín. Cô chuyển đến luật sư Manuri một bức thư trần tình nhờ luật sư dùng pháp luật can thiệp. Tu viện trưởng biết chuyện, và thế là Suzanne phải trải qua những ngày tháng khủng khiếp, bị hành hạ hết sức khả ố. Sự việc dẫn đến tai Cha xứ bề trên. Cha xứ là người thẳng thắn, công minh, mở cuộc điều tra và Suzanne được chuyển đến một tu viện khác. Không còn bị hành hạ như ở tu viện trước, nhưng một loạt nguy hiểm kiểu mới ập xuống đầu cô gái ngây thơ. Cai quản tu viện mới là một bà xơ quái đản, dâm đãng, có những ham muốn xác thịt đồng tính ghê tởm với các nữ tu sĩ, đặc biệt là với Suzanne. Rồi một Nữ tu viện trưởng khác đến thay thế. Tình hình cũng chẳng sáng sủa gì hơn. Những cuộc hành hạ mới sắp bắt đầu. Suzanne quyết định trốn khỏi tu viện đến nương náu tại nhà một chị thợ giặt và được chị giúp công ăn việc làm. Tại đây, Suzanne viết thư kể lại cuộc đời gian truân của mình cho Hầu tước Croismare, một người tốt bụng. Ít lâu sau, hầu tước nhận được tin Suzanne ốm và qua đời. Giá trị. Tác giả nêu vấn đề quyền sống tự do của con người và làm độc giả phải ngẫm muốn sống tự do và hạnh phúc phải làm thay đổi trật tự xã hội. Nữ tu sĩ mang hơi thở của cuộc đấu tranh cho tự do đương diễn ra ở Pháp nửa sau thế kỷ XIX. Chuyển thể. Tiểu thuyết chuyển thể phim năm 1966 và năm 2013 (The Nun), tham gia Liên hoan phim Berlin
1
null
Ga Seokgye (Tiếng Hàn: 석계역, Hanja: 石溪驛) là ga trung chuyển trên Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến số 1 và Tàu điện ngầm Seoul tuyến 6, nằm ở biên giới Nowon-gu và Seongbuk-gu, Seoul. Tên của nhà ga không đề cập đến bất kỳ một vùng lân cận ở khu vực này; tên của nó là từ ghép của "Seok" trong Seokgwan-dong, Seongbuk-gu và "Gye" trong Wolgye-dong, Nowon-gu.
1
null
22 Kalliope là một tiểu hành tinh loại M trong vành đai tiểu hành tinh được J. R. Hind phát hiện vào ngày 16 tháng 11 năm 1852. Nó được đặt tên theo Calliope, nàng thơ của sử thi trong thần thoại Hy Lạp. Kalliope có một vệ tinh nhỏ tên là Linus. Đặc điểm. Dựa trên những hình ảnh được chụp bởi kính viễn vọng VLT của tổ chức Nghiên cứu vũ trụ châu Âu tại bán cầu Nam, Kalliope hơi dẹt, với đường kính 166 km, và tương đối bất đối xứng. Quang phổ của Kalliope thuộc loại M, cho biết một phần bề mặt của nó có thể bao gồm kim loại sắt–niken. Khối lượng riêng của nó vào khoảng 3.4 g/cm³. Vì Kalliope nhiều khả năng là một tập hợp các mảnh vụn với độ xốp 20–40%, có thể nó được cấu tạo từ một hỗn hợp của kim loại và silicat. Tuy nhiên, phân tích phổ học cho thấy vết tích của khoáng vật và silicat có chứa nước kết tinh thể hiện cấu tạo chứa nhiều đá của bề mặt. Bên cạnh đó Kalliope có suất phản xạ thấp, điều này không phù hợp với một bề mặt hoàn toàn bằng kim loại. Phân tích đường cong ánh sáng cho thấy điểm cực của Kalliope có khả năng hướng về tọa độ hoàng đạo (β, λ) = (−23°, 20°) với khoảng chênh lệch 10°, khiến cho trục quay của nó nghiêng 103°. Vệ tinh. Kalliope có một vệ tinh tự nhiên đã được biết đến tên là Linus hay (22) Kalliope I Linus. Nó có kích thước khá lớn với đường kính khoảng 28 km. Quỹ đạo của Linus cách trung tâm Kalliope khoảng 1100 km, tương đương 13.2 lần bán kính của tiểu hành tinh này. Linus được Jean-Luc Margot và Michael E. Brown phát hiện vào ngày 29 tháng 8 năm 2001. Ba ngày sau, một nhóm khác do William Merline dẫn đầu cũng đã tìm ra vệ tinh này một cách độc lập. Sự che khuất sao đầu tiên. Ngày 7 tháng 11 năm 2006, sự che khuất sao đầu tiên bởi vệ tinh của một tiểu hành tinh (Linus) đã được một nhóm những người quan sát Nhật Bản quan sát thành công dựa trên dự đoán được Berthier et al. đưa ra chỉ một ngày trước đó sau hơn 5 năm quan sát Kalliope một cách thường xuyên. Đường đi của Linus đã cho phép ước lượng kích được thước của vệ tinh này.
1
null
Ga Dokbawi là ga đường sắt trên Tuyến 6 của Tàu điện ngầm Seoul. Nhà ga này là một phần của đường một chiều Tuyến 6 được biết đến như vòng lặp Eungam. Nó nằm trong khu vực có mật độ dân số tương đối thấp, và chỉ có một lối thoát.
1
null
Ngày 2 tháng 5 năm 2014, hai trận lở đất phát sinh tại huyện Argo, tỉnh Badakhshan, Afghanistan. Tổng số người thiệt mạng dao động từ 350 đến 2.700. Khoảng 300 ngôi nhà bị chôn vùi và trên 14.000 người chịu tác động. Lực lượng cứu hộ đang phản ứng trước trận lở đầu đầu tiên thì bị trận lở đất thứ nhì tấn công, gây cản trở cho các nỗ lực cứu trợ. Lở đất. Ngày 2 tháng 5, hai trận lở đất phát sinh tại sườn của một núi thuộc huyện Argo; tác động đến làng Aab Barik/Hobo Barik. Trận lở đất đầu tiên tấn công từ 11:00 đến 13:00 Do lở đất phát sinh vào thứ Sáu- ngày lễ tại tại Afghanistan- nhiều gia đình ở nhà thay vì đi làm. Mọi người nỗ lực giải cứu những người bị tấn công sau trận lở đất thứ nhất, song một trận lở đất thứ nhì phát sinh làm một lượng lớn người tham gia cứu hộ bị mắc kẹt hoặc thiệt mạng. Các lớp đất trượt liên tiếp khiến làng bị san phẳng, và khu vực bị bùn bao phủ. Một tuần trước các trận lở đất, có mưa rất lớn và lụt tại miền bắc Afghanistan. There was a risk of further mudslides. Thương vong. Các trận lở đất tác động đến 1.000 nhà, khoảng một phần ba tổng số nhà trong làng, ngập trong "hàng nghìn tấn đất đá", chúng tạo thành "một sóng bùn tàn phá mọi thứ trên đường đi của nó". Các báo cao ban đầu nói rằng có 350 người thiệt mạng và 2.500 người mất tích. Sau khi phạm vi của thảm họa trở nên rõ ràng hơn, ngày hôm sau các quan chức tỉnh Badakhshan ước tính tổng số người thiệt mạng tăng lên khoảng 2.100. Tuy nhên, phó thống đốc tỉnh là Gul Mohammad Bedar sau đó cho biết: "Số liệu ban đầu mà chúng tôi công bố được thu thập từ cư dân địa phương, không phải từ các đội chuyên môn của chúng tôi. Chúng tôi nghĩ tổng số thiệt mạng không cao quá 500." Liên Hợp Quốc cho biết 350 trường hợp tử vong được xác nhận và không có triển vọng tìm kiếm thêm các thi thể do "tính chất thảm họa" của lở đất. Nỗ lực cứu trợ. Một đại đội binh sĩ Afghanistan được phái đến khu vực để trợ giúp những người cứu hộ, và liên quân do Hoa Kỳ lãnh đạo tại Afghanistan cho biết họ "sẵn sàng giúp đỡ nếu được yêu cầu". Các làng lân cận cũng được tiến hành sơ tán do lo ngại lở đất tiếp diễn. Thủ tướng Afghanistan Mohammad Zakria Sauda suy đoán tổng số người thiệt mạng có thể đạt 1.000. Các nhân viên cứu hộ phải đối diện với tình trạng thiếu các thiết bị cần thiết, điều này ảnh hưởng đến cứu trợ. Lo ngại về một trận lở đất thứ ba cản trở hoạt động của đội cứu trợ. Các hoạt động cứu trợ bị đình chỉ vào hôm sau do các quan chức cân nhắc đến độ an toàn, thiếu thiết bị và không có khả năng tiến hành các hoạt động cần thiết, Nỗ lực cứu trợ bị đình chỉ vào ngày 4 tháng 3 do thiếu thiết bị. song được phục hồi sau khi các thân nhân phàn nàn về quyết định này. Phản ứng. Thống đốc tỉnh Badakhshan nói rằng các trận lở đất "quy mô lớn và việc đưa mọi thi thể ra vượt khỏi khả năng của con người [...] Đây là một thảm họa và một bi kịch". Ông cón phát biểu rằng thu gom các thi thể là bất khả thi và nên để khu vực đó như một hố chôn tập thể. Tổng thống Afghanistan Hamid Karzai phát biểu rằng ông "đau buồn vô hạn trước tổn thất về nhân mạng và thiệt hại về tài chính". Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama phát biểu rằng "Chúng tôi lo lắng cho nhân dân Afghanistan đang phải đối diện với một tai họa khủng khiếp [...] Chúng tôi sẵng sàng giúp đỡ các đối tác Afghanistan của mình để đối diện với tai họa này". Một buổi lễ tưởng niệm diễn ra vào ngày 3 tháng 5.
1
null
Ga Yeonsinnae (Tiếng Hàn: 연신내역, Hanja: 연신내驛) là ga trung chuyển trên Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 3 và Tàu điện ngầm Seoul tuyến số 6 trải dài Bulgwang-dong, Galhyeon-dong và Daejo-dong ở Eunpyeong-gu, Seoul. Tên của nhà ga bắt nguồn từ Yeonsinnae, một trong những tên địa danh cũ của Bulgwangcheon. Nhà ga này nằm trên đường một chiều vòng lặp Eungam của Tuyến 6, và do đó tàu từ tuyến 6 Ga Yeonsinnae chỉ chạy theo hướng Ga Bonghwasan.
1
null
Ga Hoegi (Tiếng Hàn: 회기역, Hanja: 回基驛) là ga trung chuyển cho Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 1, Tuyến Gyeongui–Jungang và Tuyến Gyeongchun ở Hwigyeong-dong, Dongdaemun-gu, Seoul. Cả hai đường sắt nằm cạnh nhau, và được nối bởi cây cầu vượt. Nhà ga này rất gần trường Đại học Kyunghee, nằm về phía Tây Bắc ở đây.
1
null
Đời cô Lựu là vở cải lương nổi tiếng nhất của soạn giả Trần Hữu Trang, soạn khoảng năm 1936, cũng là một trong những vở cải lương hay nhất trước năm 1975. Vở cải lương kể về số phận đau khổ và éo le của cô Lựu dưới xã hội phong kiến, thực dân và là một nạn nhân của xã hội lúc bấy giờ, cũng như nỗi khổ của người nông dân ở các vùng quê nói chung. Đây là một trong năm tác phẩm giúp Trần Hữu Trang nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 1996. Tóm tắt nội dung. Nội dung tóm tắt của vở cải lương này như sau. Cô Lựu là vợ Hai Thành, một tá điền của Hội đồng Thăng. Thấy Lựu có nhan sắc nên Hội đồng muốn đoạt cô làm vợ. Hội đồng Thăng lập mưu bỏ súng lục và mớ truyền đơn vào nhà Hai Thành rồi báo cảnh sát đến bắt vì tội tàng trữ vũ khí. Kết cục Hai Thành bị án tù 20 năm, đày đi Côn Đảo, nhà cửa tài sản bị tịch thu và Lựu trở thành vợ Hội đồng Thăng. Lúc này, Lựu đã có mang với Hai Thành. Khi đứa nhỏ được sinh ra thì Hội đồng Thăng giấu nó đem cho cô nhi viện và nói dối là đã chết. Lựu sau có với Hội đồng Thăng một con gái tên là Kim Anh. Các bà con tá điền rất thương Hai Thành, trong đó có vợ chồng ông Hương. Ông Hương biết Hội đồng Thăng là chủ mưu hãm hại Hai Thành. Đứa con trai của Hai Thành mà Hội đồng Thăng đem bỏ vào cô nhi viện được ông bà Hương bí mật xin về làm con nuôi, đặt tên là Minh Luân. Sau 19 năm ở Côn Đảo, Hai Thành vượt ngục về tìm vợ con. Gặp ông bà Hương, anh biết rõ mọi chuyện. Căm giận vì cho rằng Lựu phụ bạc, anh viết một bức thư buộc Lựu trong vòng ba ngày phải lo 10 nghìn đồng để anh thu xếp việc học hành, sinh cơ lập nghiệp cho Minh Luân, còn anh sau sẽ trốn đi biệt tích. Nếu tiền không có đúng hạn thì anh sẽ có cách báo thù. Hai Thành trao thư cho Minh Luân đem tới cô Lựu. Nhận được thư, Lựu vừa mừng, vừa lo, vừa xót xa cho chồng cho con. Lựu thấy khó xử vì không biết làm cách nào có được 10 ngàn trong ba hôm, vì cô chẳng có quyền hành gì trong nhà Hội đồng Thăng. Kim Anh thương mẹ nên đem đồ tư trang đi cầm. Để kín chuyện, Kim Anh mua đồ tư trang giả thay vào. Tới ngày hẹn, Minh Luân đến. Sau khi biết tình cảnh của mẹ và em, Minh Luân cự tuyệt, không nhận số tiền. Chẳng ngờ chồng Kim Anh đã biết chuyện vợ cầm đồ tư trang nên nghi vợ ngoại tình. Giờ thấy vợ nói năng thân mật với Minh Luân nên anh ta cho rằng Minh Luân là tình nhân của vợ. Thấy trong túi Luân có phong thư (của Lựu gửi cho Hai Thành) anh ta đòi xem. Luân không chịu đưa nên bị anh ta rút súng bắn trúng bắp chân. Minh Luân được đưa vào bệnh viện điều trị. Cô Lựu đến thăm con, gặp Hai Thành. Sau khi nghe Lựu giãi bày, Hai Thành hiểu được nỗi khổ tâm của vợ. Đúng lúc đó, Hội đồng Thăng cũng tới, nhận ra Hai Thành nên sai tài xế đi báo cảnh sát. Minh Luân căm thù, xông tới đâm chết Hội đồng Thăng. Vở cải lương kết thúc bằng bi kịch, Kim Anh phát điên. Cô Lựu cho rằng mình là nguyên do mọi tội lỗi nên nguyện cắt tóc đi tu để sám hối. Nghệ sĩ. Vở cải lương này đã được trình diễn nhiều lần, với nhiều thế hệ nghệ sĩ diễn xuất. Nhưng đặc biệt với vai nữ chính "cô Lựu" do Nghệ sĩ "Bạch Tuyết" đảm nhận được xem là hình mẫu chuẩn mực nhất cho vai diễn. Trước năm 1975 ở miền Nam vở diễn có Phùng Há (vai cô Lựu), Ba Vân (vai Lão Vót Nan), Út Trà Ôn (vai Hai Thành), Hoàng Giang (vai Hội đồng Thăng), Thanh Nga (vai Kim Anh). Trong thập niên 1980, Đoàn cải lương 284 trình diễn vở này với các tên tuổi Bạch Tuyết (cô Lựu), Thành Được (Hai Thành), Diệp Lang (Hội đồng Thăng), Ngọc Giàu (Hai Hương), Minh Vương (Võ Minh Luân), Lệ Thủy (Kim Anh). Các nghệ sĩ như Hoài Linh cũng diễn trích đoạn từ vở tuồng này. Năm 2013, vở được tái dựng với đoàn cải lương Tân Dạ Lý của nghệ sĩ Tuấn Châu và lưu diễn tại Mỹ, được nhiều khán giả đến xem và tán thưởng. Dưới đây là một số nghệ sĩ từng tham gia trình diễn:
1
null
Vườn Quốc gia Nahuel Huapi là một vườn quốc gia bao quanh hồ Nahuel Huapi, chân dãy núi Andes, nằm tại hai tỉnh Río Negro và Neuquén, Patagonia, Argentina. Nó được thành lập vào năm 1934 và là vườn quốc gia lâu đời nhất tại quốc gia Nam Mỹ này. Đây cũng là vườn quốc gia lớn nhất trong khu vực, nó có diện tích 7.050 km 2 (2.720 sq mi), tương đương gần 2 triệu mẫu Anh. Cảnh quan của nó đại diện cho khu vực miền Bắc Patagonia Andes, bao gồm ba loại là, Altoandino (tuyết vĩnh cửu ở độ cao trên 1.600 mét (5.200 ft)), Andino-Patagonico (cảnh quan núi) và thảo nguyên Patagonia. Ngoài ra, tại đây cũng có một diện tích nhỏ đại diện của Rừng mưa ôn đới Valdivian, kiểu vùng sinh thái ở phía tây và nam của Nam Mỹ với những khu rừng lá rộng và rừng hỗn giao. Vườn quốc gia và khu bảo tồn nằm ở độ cao 720-3.574 mét (2.362-11.726 ft), và được chỉ định theo IUCN là loại II (Vườn quốc gia) và IV (Khu bảo tồn). Nó hoàn toàn được bảo vệ trong khu vực dự trữ được bảo vệ một phần. Vườn quốc gia giáp với Chile ở phía tây và bị chi phối bởi các dãy núi cao của dãy Andes, nhiều hồ, sông, thác nước, đỉnh núi tuyết, các sông băng cùng các cánh rừng rộng lớn. Từ nguyên. Tên của vườn quốc gia có nguồn gốc từ tên của hồ mà nó bao quanh, đó là hồ "Nahuel Huapi". Trong ngôn ngữ Mapuche, Nahuel có nghĩa là "báo đốm" và Huapi có nghĩa là "hòn đảo". Lịch sử. Việc phát hiện vườn quốc gia Nahuel Huapi cùng các dân tộc bản địa là "Ciudad de Los Cesares" và những người dòng Tên định cư đầu tiên. Vào năm 1903, Perito Moreno đã hiến tặng 75 km vuông (29 sq mi) đất trong khu vực cho chính phủ liên bang. Một sắc lệnh ngày 1 tháng 2 năm 1909 công nhận rằng, khu vực này cần được bảo vệ. Nhưng phải đến ngày 9 tháng 10 năm 1934, cùng với Vườn Quốc gia Iguazú thì Vườn Quốc gia Nahuel Huapi mới chính thức được thành lập. Cùng với những khu rừng nhiệt đới của Vườn quốc gia Iguazú, Nahuel Huapi được cho là có khả năng cạnh tranh với các khu du lịch của châu Âu và do đó, các nhà hoạch định ưu tiên phát triển du lịch quốc gia. Trong năm đầu tiên được thành lập, một số quy định đã được bổ sung có ảnh hưởng đến Nahuel Huapi. Đó là việc đưa ra luật xây dựng, luật câu cá thể thao, tiêu chuẩn hóa vệ sinh nước uống, và cấp giấy phép bán hàng. Khu vực này đã mở cửa các hoạt động giải trí khác như là leo núi sau khi vườn quốc gia được thành lập. Địa lý. Vườn quốc gia có diện tích khoảng 7.050 km vuông (2.720 sq mi), nằm ở phần phía tây nam của tỉnh Neuquén và phần phía tây bắc của tỉnh Río Negro, giáp biên giới với Chile. Nó được chia thành hai khu vực: Khu vực công viên và khu bảo tồn thiên nhiên với sự phát triển tập trung trong khu bảo tồn. Thành phố lớn nhất gần đó và là một cơ sở cho du lịch là San Carlos de Bariloche, được bao quanh bởi vườn quốc gia. San Carlos de Bariloche là trung tâm chính khi khách du lịch đến thăm hồ Nahuel Huapi cũng như vườn quốc gia. Thành phố được gọi là "Cổng của Patagonia", "Thủ đô Sô-cô-la" và "Thủ đô trăng mật của Argentina". Tuy nhiên, thành phố và các khu vực dân cư khác được quy hoạch bên ngoài ranh giới của vườn quốc gia. Villa La Angostura là một khu nghỉ mát bên bờ hồ cũng nằm trong ranh giới của vườn quốc gia. Khu vực này được biết đến như là "Khu hồ của Argentina", nơi có rất nhiều hồ nước như hồ Nahuel Huapi, Mascardi, Gutiérrez, Traful, Guillelmo, và Perito Moreno. Ngọn núi Cerro Catedral cao 2.388 mét (7.835 ft) trong vườn quốc gia là khu vực trượt tuyết hấp dẫn. Cerro Tronador nằm trên biên giới với Chile, là ngọn núi cao nhất trong vườn quốc gia với độ cao 3.491 mét (11.453 ft). Giáp với vườn quốc gia ở phía bắc là Vườn quốc gia Lanín. Địa chất. Các thành hệ địa chất tại đây nói chung là đá kỷ Đệ Tam có nguồn gốc từ núi lửa gắn liền với andasit và porphyry. Các vách đá của bán đảo San Pedro mô tả các đặc trưng sông băng bị xói mòn và các hồ cũng thể hiện nhiều dấu hiệu về dấu tích băng hà. Khí hậu. Tại đây có nhiều kiểu khí hậu với lượng mưa hàng năm dao động từ 300 đến 500 mm (12 - 20 inch). Lượng mưa nhiều hơn về phía biên giới với Chile. Hồ Nahuel Huapi. Hồ Nahuel Huapi là hồ nước sạch lớn nhất và sâu nhất trong khu hồ của Argentina, với độ sâu 425 mét (1.394 ft). Nằm ở chân của dãy núi Andes ở độ cao 767 mét (2.516 ft), nó có diện tích khoảng 544 km vuông (210 sq mi). Hồ được phát hiện bởi linh mục dòng Tên Nicolás Mascardi năm 1670. Có một nhà nguyện trên bán đảo Huemul bên hồ. Hồ kéo dài 100 km (62 dặm) qua biên giới với Chile, bao gồm nhiều vịnh hẹp và rừng mưa ôn đới Valdivia. Bờ phía nam của hồ có nhiều khách sạn và nhà hàng phục vụ cho ngành công nghiệp du lịch. Bán đảo Quetrihué ở phía bắc của hồ đã được bảo vệ như là một vườn quốc gia riêng biệt, Vườn Quốc gia Los Arrayanes. Hồ Nahuel Huapi có nhiều đảo. Tại một trong số các đảo trong hồ, đảo Victoria có một Trạm Nghiên cứu rừng, nhằm bảo tồn thiên nhiên. Đảo Huemul từng là nơi tổ chức dự án Huemul, dự án nghiên cứu bí mật Argentina về phản ứng tổng hợp hạt nhân trong giai đoạn 1949-1952. San Carlos de Bariloche. San Carlos de Bariloche nằm trên bờ phía nam của hồ Nahuel Huapi. Thị trấn được thành lập vào năm 1902. Tuy nhiên, nó đóng vai trò như là trung tâm du lịch lớn chỉ từ sau những năm 1930, khi các vườn quốc gia xung quanh nó được thành lập. Ngoài sự nổi tiếng của nó đối với ngành công nghiệp sản xuất Sô-cô-la, thành phố cũng được biết đến như là "Thủ đô tuần trăng mật của Argentina". [ 13 ] Thành phố nằm cách dãy núi Andes khoảng 130 km (81 dặm), có ranh giới về phía nam tới Lago Mascardi và phía bắc bởi Villa Traful. Phía bắc của thành phố trên đường Hồ Seven tạo ra khung cảnh thơ mộng. Các sông băng và thác nước, gần Bariloche về phía tây là Pampa Lenda. Đây cũng là nơi cho các cuộc leo núi tại đỉnh Tronador cao 3.554 mét (11.660 ft), là một ngọn núi lửa đã tắt. Để tới được thành phố, du khách có thể lựa chọn đường hàng không, đường sắt hoặc vận tải đường bộ; Sân bay cách trung tâm khoảng 15 km (9,3 dặm) về phía đông; các trạm xe lửa và xe buýt cũng cách thành phố khoảng 3 km (1,9 dặm) về phía đông. Đỉnh núi Cerro Catedral là trung tâm các môn thể thao tuyết, nằm cách Bariloche 23 km (14 dặm). Động thực vật. Sinh thái của vườn quốc gia bao gồm thảo nguyên Patagonia ở độ cao thấp hơn và rừng ôn đới Valdivia ở độ cao cao hơn. Do có sự đa dạng về môi trường sinh thái, độ cao và lượng mưa nên hệ động thực vật hoang dã tại đây vô cùng phong phú. Thực vật. Thực vật Patagonia Xerophytic (thực vật thích ứng môi trường có ít nước) chiếm ưu thế trong nửa phía đông thì nửa phía tây được bao phủ bởi những loài thực vật của rừng mưa ôn đới. Các loài cây chiếm ưu thế trong vườn quốc gia bao gồm Sồi Lenga, Tre, và Cử phương nam Ngoài ra, nơi đây cũng có mặt nhiều loài cây như Tuyết tùng Chile ("Austrocedrus chilensis"), Canelo ("Drimys winteri"), "Myrceugenella apiculata", "Lomatia ferruginea", "Lomatia hirsuta", Alstroemeria aurantica, "Fuchsia megellanica", tre "Chusquea culcou", "Mitraria cocinea" và "Embothrium coccineum". Loài cây lớn nhất Nam Mỹ, Bách "Fitzroya", một loài cây hạt trần phát triển chậm ở Patagonia cũng có mặt. Thực vật khác bao gồm "Luma apiculata", "Nothofagus dombeyi", dương xỉ, lau sậy, "Alstroemeria" và "Arvejillas". Một loài nấm có tên Llao Llao có mô hình phát triển trên các cây một cách bất thường và là một biểu tượng của khu vực; nó cũng là tên của khách sạn Llao Llao, một khu nghỉ mát nổi tiếng. Tại các khu rừng mưa ôn đới Valdivia, khu vực có lượng mưa lớn gần biên giới Chile phong phú của các loài bách "Fitzroya" lên tới 450 tuổi cùng số lượng lớn các loài Họ Hòa thảo phát triển mạnh.
1
null
Mary Temple Grandin (sinh ngày 29 tháng 8 năm 1947) là một tiến sĩ người Mỹ, giáo sư Đại học Tiểu bang Colorado, tác giả có sách bán chạy, nhà hoạt động vì quyền của người bệnh tự kỉ, nhà tư vấn cho ngành chăn nuôi về hành vi động vật và là kĩ sư. Bà cũng là người sáng chế ra dụng cụ "hộp ôm" có khả năng giúp người tự kỉ lấy lại sự bình tĩnh. Bà nằm trong danh sách "Time 100" hững người có tầm ảnh hưởng nhất thế giới trong hạng mục "Heroes". Thuở hàn vi. Grandin sinh tại Boston, Massachusetts, có cha mẹ là Richard Grandin và Eustacia Cutler. Bà được chẩn đoán mắc chứng tự kỉ vào năm lên 2 - tức năm 1949. Khả năng nói của bà chậm phát triển và lên 4 thì bà mới bắt đầu nói. Bà tự nhận mình là người may mắn vì nhận được sự hỗ trợ của những người thầy ở trường học. Tuy nhiên, theo bà thì giai đoạn học cấp 2 và cấp 3 là khoảng thời gian khó khăn bởi sự kém cỏi trong kĩ năng giao tiếp của bản thân. Bà bị mọi người chế nhạo là "đứa trẻ lập dị". Vào thời gian đó, mỗi khi bước trong hành lang trường học thì các đồng môn lại chế giễu bà là "cái máy ghi băng" bởi bà liên miệng lập lại lời mình nói. Grandin tâm sự: "Giờ thì tôi thấy buồn cười khi nghĩ về chuyện đó, thế nhưng lúc đó tôi thấy tổn thương lắm." Sau khi tốt nghiệp trường dự bị Hampshire ("Hampshire Country School") ở Rindge, New Hampshire vào năm 1966, bà tiếp tục học cử nhân tâm lý học tại Trường Đại học Franklin Pierce vào năm 1970, rồi thạc sĩ về khoa học thú vật ở Đại học Tiểu bang Arizona vào năm 1975, rồi tiến sĩ khoa học thú vật ở Đại học Illinois tại Urbana-Champaign vào năm 1989. Sự nghiệp. Bà thuyết giảng rộng rãi những trải nghiệm đầu tiên về cảm giác bị mọi thứ xung quanh mình đe dọa, cảm giác bị xua đuổi và sợ hãi - những điều đã tạo động lực cho bà nghiên cứu về quy trình giết vật nuôi mang tính nhân đạo trong ngành chăn nuôi. Website của bà xúc tiến sự cải tiến tiêu chuẩn kết liễu vật nuôi. Năm 2004, bà nhận giải "Proggy" trong hạng mục "Visionary" từ tổ chức PETA. Một trong những tiểu luận đáng chú ý hơn cả của bà về vấn đề nhân đạo đối với động vật là tiểu luận "Animals Are Not Things,", trong đó bà thừa nhận dù rằng động vật là tài sản trong xã hội loài người song cuối cùng thì luật pháp ban cho chúng quyền được đối xử nhân đạo. Bà so sánh giữa tính chất và quyền của những con bò và những cái tuốc nơ vít, liệt kê nhiều cách mà con người dùng chúng cho mục đích của họ, nhưng khi đề cập đến vấn đề đau đớn thì cần phân biệt rõ: theo luật, một người có thể giẫm nát một cái tuốc nơ vít nhưng không được tra tấn vật nuôi. Grandin trở nên nổi tiếng sau được Oliver Sacks miêu tả trong cuốn sách "An Anthropologist on Mars" (1995). Tựa đề sách được đặt theo mô tả của Grandin về cảm giác của bà khi sống giữa những con người không mắc tự kỉ như bà. Vào giữa thập niên 1980, Grandin bắt đầu thuyết trình trước công chúng về chứng tự kỉ. Dựa trên kinh nghiệm cá nhân, bà ủng hộ can thiệp sớm nhằm xác định chứng tự kỉ và xác định những người thầy có khả năng chỉ dẫn những đứa trẻ mắc tự kỉ theo hướng thu được kết quả tốt. Bà tả mình là một người cực kì nhạy cảm với tiếng ồn và các tác nhân liên quan đến giác quan. Bà tuyên bố bà là người chủ yếu suy nghĩ bằng hình ảnh, và rằng ngôn từ chỉ là ngôn ngữ thứ hai của bà. Grandin so sánh trí nhớ của bà với những thước phim đầy đủ trong đầu, khi cần có thể đem ra phát lại, từ đó cho phép bà nhớ được những chi tiết nhỏ. Bà cũng có khả năng xem lại trí nhớ của mình trong các bối cảnh khác nhau bằng cách thay đổi vị trí ánh sáng và bóng đổ. Hiểu biết sâu sắc về suy nghĩ của gia súc đã dạy cho bà đánh giá sự thay đổi của những chi tiết mà gia súc cảm thấy đặc biệt nhạy cảm. Nó cũng dạy bà sử dụng các kĩ năng hình dung để chế tạo ra các thiết bị xử lý vật nuôi mang tính nhân đạo. Năm 2009, bà được tổ chức Hội Kĩ sư Nông nghiệp và Sinh học Mỹ kết nạp. Là một người ủng hộ "sự đa dạng về thần kinh" ("neurodiversity"), Grandin từng phát biểu rằng bà không ủng hộ chữa trị cho toàn bộ những người mắc tự kỉ. Đời tư. Grandin cho rằng bà không có các mối quan hệ mang tính cảm xúc như người khác. Bà không kết hôn hoặc có con. Ngoài thời gian nghiên cứu thú vật và đấu tranh vì quyền của người tự kỉ thì bà thích cưỡi ngựa, đọc truyện khoa học viễn tưởng, xem phim và tìm hiểu hóa sinh. Trong các sách mang tính tự truyện, Grandin viết rằng chứng tự kỉ ảnh hưởng lên mọi mặt đời sống của bà. Bà phải mặc quần áo thoải mái để kháng lại chứng rối loại xử lý giác quan và phải bố trí cách sống hợp lý để tránh bị quá tải giác quan. Bà thường uống thuốc chống trầm cảm nhưng không còn dùng đến "máy ôm" - dụng cụ mà bà sáng chế năm 18 tuổi nhằm giảm stress - nữa. Trong một phỏng vấn vào tháng 2 năm 2010, bà bộc bạch: "Cái máy đã hỏng hai năm rồi và tôi chẳng sửa nó nữa. Giờ tôi ôm tất cả mọi người." Ngày 5 tháng 8 năm 2013, Eustacia Cutler - mẹ của Grandin - đăng một bài báo trên tờ "The Daily Beast" với nội dung về mối liên hệ giữa những người đàn ông mắc chứng tự kỉ và việc xem văn hóa phẩm khiêu dâm về trẻ em. Bài báo gánh chịu sự giận dữ từ phía những người tự kỉ vì nó thiếu các bằng chứng để chứng minh các luận điểm của Cutler. Grandin đáp lại bài báo này và phân tích những lời chỉ trích đối với bài báo trong một cuộc phỏng vấn với blog Life Tinted Blue. Vinh danh. Năm 2010, Grandin được tạp chí "Time" xếp vào danh sách "Time 100" gồm 100 người có tầm ảnh hưởng nhất trên thế giới trong hạng mục "Heroes". Bà nhận Huy chương Double Helix vào năm 2011. Bà được nhiều trường đại học trao bằng danh dự, có thể kể ra đây là Đại học Carnegie Mellon (2012), Đại học McGill (Canada, 1999) và Đại học Thụy Điển về Khoa học Nông nghiệp (2009). Ngoài ra, Grandin còn có cơ hội nói chuyện ở Hội thảo toàn cầu TED. Tại đây bà có câu nói: "Thế giới cần mọi loại trí óc." Trong văn hóa đại chúng. Grandin xuất hiện trong nhiều chương trình phát trên truyền thông đại chúng như "It's Your Health" của Lisa Davis, "Primetime Live" của hãng ABC, "Today Show" của hãng NBC, "Larry King Live", "Fresh Air với Terry Gross" trên sóng truyền thanh NPR. Bà được nhiều báo chí viết về, chẳng hạn tạp chí "Time", tạp chí "People", tạp chí "Discover", tạp chí "Forbes" và báo "The New York Times". Năm 2012, bà được Thriving Canine Radio phỏng vấn với đề tài "A Different Perspective on Animal Behavior." Grandin trở thành đề tài của phim tài liệu "The Woman Who Thinks Like a Cow" trong loạt chương trình "Horizon" của hãng BBC, phát trên sóng BBC vào ngày 8 tháng 6 năm 2006. Bà có mặt trong chương trình truyền hình "First Person" của Errol Morris. Grandin cũng xuất hiện trong sê ri phim tài liệu phát trên truyền hình có tựa đề "Beautiful Minds: A Voyage Into the Brain" (được sản xuất năm 2006 bởi công ty Đức colourFIELD tell-a-vision). Phim tài liệu "Ingenious Minds" phát trên kênh Sci Channel có Grandin. Grandin là cảm hứng cho bộ phim nửa tự sự "Temple Grandin" do HBO sản xuất, trong đó nữ diễn viên Claire Danes đóng vai Grandin. Phim được phát hành năm 2010 và được đề cử 15 giải Emmy, kết quả là thắng 5 giải, bao gồm giải Phim truyền hình xuất sắc và giải Nữ diễn viên "drama" xuất sắc. Thật tình cờ, Lễ trao giải Emmy 2010 cũng trùng với ngày sinh nhật của Grandin. Tại Lễ trao giải Quả cầu vàng 2010, Claire Danes thắng một giải hạng mục Vai diễn xuất sắc nhất của nữ diễn viên trong một sê-ri ngắn hoặc phim dành chiếu trên truyền hình. Trong cuốn sách bán chạy "The Omnivore's Dilemma" của mình, Michael Pollan cũng có phỏng vấn Grandin về ngành chăn nuôi. Ban nhạc folk-punk Andrew Jackson Jihad có hai bài hát tựa đề "Temple Grandin" và "Temple Grandin Too" trong LP "Christmas Island" của họ.
1
null
Máy ôm (tiếng Anh: "hug machine") - còn gọi là hộp ôm ("hug box"), máy siết chặt ("squeeze machine") hay hộp siết chặt ("squeeze box") - là một thiết bị được thiết kế nhằm giúp những người quá đỗi nhạy cảm ("hypersensitive") có thể bình tĩnh trở lại, đặc biệt là những người mắc chứng tự kỉ. Máy này do Temple Grandin sáng chế ra khi bà còn là sinh viên đại học. Các chứng rối loạn tự kỉ và phổ tự kỉ có tác động sâu sắc lên giao tiếp xã hội và mức độ nhạy cảm đối với các tác nhân giác quan của người bệnh, thường khiến họ thấy không thoải mái. Grandin đã giải quyết vấn đề này bằng cách chế tạo ra máy ôm mà cả bà và những người mắc bệnh đều có thể sử dụng để cảm thấy bình tĩnh trở lại. Miêu tả. Máy ôm bao gồm hai tấm ván có khớp nối, mỗi tấm có kích thước 120 cm x 90 cm, trên ván có lót đệm dày và mềm. Hai tấm này tạo thành hình chữ V. Cuối một đầu của chúng có một hộp điều khiển và các ống nối với máy nén khí. Khi sử dụng, một người nằm giữa hai tấm này bao lâu tùy thích kèm với việc điều khiển máy nén khí tùy ý để tạo áp suất lên cơ thể. Lịch sử. Khi còn là một cô bé, Grandin nhận thấy mình cần một thứ gì đó có thể tạo cảm giác nén lên cơ thể. Tuy nhiên, bà cảm thấy quá kích thích nếu được người khác ôm hoặc nắm giữ cơ thể. Ý tưởng về một chiếc máy ôm đến với bà trong một chuyến thăm bà dì tại một trại nuôi gia súc ở tiểu bang Arizona, Hoa Kỳ. Tại đây, bà để ý cách mà đám gia súc bị nhốt vào lồng khi chúng được tiêm chủng và nhận thấy một số con ngay tức khắc trở nên bình tĩnh khi thành lồng ép lên cơ thể chúng. Từ đó, bà quyết định tạo ra thứ gì đó mô phỏng cái lồng này nhằm giải quyết chứng nhạy cảm quá mức mà bà phải đối mặt. Ban đầu, thiết bị của Grandin bị phản đối khi các nhà tâm lý học tại trường đại học tìm cách tịch thu nguyên mẫu chiếc máy của bà. Tuy nhiên giáo viên môn khoa học lại khuyến khích mà xác định lý do vì sao chiếc máy có thể giúp bà vượt qua chứng lo lắng và nhạy cảm quá mức. Sự hiệu quả. Một số chương trình trị liệu tại Mỹ hiện có dùng máy ôm và thu được kết quả tốt trong việc giúp các bệnh nhân tự kỉ - cả trẻ em lẫn người lớn - bình tĩnh trở lại. Năm 1995, Trung tâm Nghiên cứu Tự kỉ thực hiện cùng Đại học Willamette ở Salem, Oregon tiến hành một nghiên cứu trên 10 trẻ em tự kỉ và nhận thấy máy ôm có thể làm giảm sự căng thẳng và lo lắng của bọn trẻ. Một nghiên cứu thử nghiệm được xuất bản trên tạp chí "American Journal of Occupational Therapy" cho hay máy ôm có tác động đáng kể trong việc giảm sự căng thẳng, nhưng chỉ giảm đôi chút sự lo lắng. Grandin vẫn tiếp tục dùng máy ôm thường xuyên để giảm các triệu chứng lo lắng. Bà có viết một bài về máy ôm và tác động của sự kích thích áp suất cao trên tạp chí "Journal of Child and Adolescent Psychopharmacology". Tháng 2 năm 2010, trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí Time, Grandin cho biết bà không còn dùng máy ôm nữa. Bà tâm sự: "Nó hỏng hai năm rồi và tôi cũng không sửa nó. Giờ tôi ôm tất cả mọi người." Ghế siết chặt. Thập niên 1990, nghệ sĩ Wendy Jacob hợp tác với Grandin để chế ra các đồ nội thất có thể ôm người dùng dựa theo ý tưởng máy ôm của Grandin.
1
null
Mô phỏng hẹn hò (tiếng Anh: "Dating sims") là một nhánh của thể loại game mô phỏng, thường là ở Nhật Bản với các yếu tố lãng mạn. Chúng cũng đôi lúc được đặt theo thể loại tân lãng mạn. Mục tiêu phổ biến nhất của dạng game này cho đến nay, thường là lựa chọn trong số nhiều nhân vật và để đạt được một mối quan hệ lãng mạn. Thuật ngữ 'mô phỏng hẹn hò' cũng thường được sử dụng không chính xác trong tiếng Anh như một thuật ngữ chung cho các game theo hướng lãng mạn ("ren'ai games"), một đối tượng có vấn đề kết hợp khuôn sáo với thể loại visual novel. Điều này có thể dẫn đến nhầm lẫn, như visual novel còn được coi là một nhánh của trò chơi phiêu lưu và không đúng về mặt kỹ thuật bao gồm trong thể loại mô phỏng hẹn hò. Trong khi hai thể loại thường chia sẻ sự giới thiệu trực quan thông thường, mô phỏng hẹn hò đôi khi được coi là dựa vào thông số hơn là kiểu "lựa chọn cuộc phiêu lưu của riêng bạn" của visual novel. Định nghĩa kỹ thuật của một trò chơi mô phỏng hẹn hò hay còn gọi là tại Nhật Bản, có thể liên quan đến một số yếu tố kỹ thuật như giới hạn thời gian, một vài thông số như nét mặt và vẻ quyến rũ có thể được đẩy mạnh thông qua tập thể dục hoặc một cái "đo sức hấp dẫn" có thể tăng hoặc giảm tùy thuộc vào quyết định của một ai đó. Một số tựa game mô phỏng hẹn hò gốc tiếng Anh bao gồm "Ciao Bella" và "Summer Session". Đặc điểm. Trong một game mô phỏng hẹn hò, người chơi điều khiển một avatar nam được bao quanh bởi các nhân vật nữ. Lối chơi gồm việc trò chuyện với một lựa chọn các cô gái, cố gắng để tăng "đồng hồ tình yêu" nội bộ của mình thông qua sự lựa chọn đúng các câu đối thoại. Trò chơi thường kéo dài trong một khoảng thời gian cố định trong game, chẳng hạn như một tháng hoặc ba năm. Khi game kết thúc, người chơi có thể thua cuộc nếu thất bại trong việc giành chiến thắng thích hợp với bất kỳ cô gái hay "cua" một trong những cô gái, thường là do quan hệ tình dục hoặc kết hôn với cô ấy (như trong "Magical Date"), và/hoặc đạt được tình yêu vĩnh cửu. Điều này cho phép game có giá trị chơi lại nhiều hơn, vì người chơi có thể tập trung vào một cô gái khác nhau mỗi lần, cố gắng để có được một kết thúc khác nhau. Mô phỏng hẹn hò như "Tokimeki Memorial" thường xoay quanh gần như hoàn toàn xây dựng mối quan hệ, thường có tính năng tương tác nhân vật phức tạp và phân nhánh cây đối thoại, và thường trình bày phản ứng có thể của người chơi từng lời một như nhân vật người chơi sẽ nói ra. Những dạng game này như "Tokimeki Memorial" và một số game nhập vai dựa trên mối quan hệ như "", thường cung cấp sự lựa chọn đó với một số lượng khác nhau của liên kết "điểm tâm trạng" có ảnh hưởng đến mối quan hệ của nhân vật người chơi và các cuộc trò chuyện trong tương lai với một NPC (nhân vật không phải người chơi). Những game này thường có một chu kỳ ngày đêm với một hệ thống lập kế hoạch thời gian cung cấp và liên quan đến sự tương tác nhân vật, cho phép người chơi lựa chọn khi nào và nếu để tương tác với những nhân vật nhất định, do đó ảnh hưởng đến phản ứng của họ trong những câu chuyện trò về sau. Trong khi bishōjo game chiếm phần lớn mô phỏng hẹn hò, các loại game tồn tại. Game là nơi mà nhân vật người chơi là nữ và các đối tượng tiềm năng của tình cảm là nam giới được gọi là GxB hoặc otome game. Mối quan hệ đồng tính luyến ái cũng có thể, như có những trò chơi không có đường giới tính cụ thể ("tất cả các cặp"). Cũng có những GL game thường tập trung vào các mối quan hệ nữ/nữ và BL game thì tập trung vào cặp nam/nam. Có nhiều biến thể về chủ đề này: mối tình trung học là phổ biến nhất, nhưng một game mô phỏng hẹn hò cũng có thể diễn ra trong một khung cảnh kỳ ảo và liên quan đến những thách thức như bảo vệ một cô gái khỏi bầy quái vật. Một loạt game thường bao gồm hẹn hò, với mục tiêu là hôn nhân là dòng mô phỏng trồng trọt "Harvest Moon". Tình tiết phụ của hẹn hò là tập trung nhiều hơn đối với việc lựa chọn một trong số các cô gái hoặc chàng trai (phụ thuộc vào giới tính nhân vật của người chơi) và tặng cho họ những món quà hoặc mời họ tham gia vào các sự kiện trong game. Một ví dụ khác là một trò chơi nhập vai "Persona 3" và "Persona 4", trong những game này nhân vật chính có thể hợp nhất Personas mạnh hơn (quái vật được triệu hồi trong một thế giới/vũ trụ thay thế) tùy thuộc vào mối quan hệ của nhân vật chính với các nhân vật khác trong game, cả mối quan hệ lãng mạn và thân thiện xuất hiện. Loạt game nhập vai Star Ocean cũng có tính năng các yếu tố mô phỏng hẹn hò trong cùng một cách tương tự. Một số tựa game mô phỏng hẹn hò Nhật Bản có thể cho phép người chơi có mối quan hệ lãng mạn hay tình dục với các nhân vật ở tuổi thiếu niên của họ. Mức độ nội dung tình dục khác nhau, nhưng thường có thể bao gồm giao hợp. Những game mô phỏng hẹn hò tình dục rõ ràng có thể rơi vào thể loại H Game hoặc Eroge. Eroge chỉ được phát hành cho PC bởi vì các công ty game lớn của Nhật Bản không muốn phát hành trò chơi với nội dung tình dục trên hệ máy chơi game của họ. Bởi vì điều này, các công ty eroge đã làm một phiên bản kiểm duyệt mọi lứa tuổi (15+) trên PC cho các hệ máy console khác nhau. Phiên bản kiểm duyệt có chứa rất nhiều kết thúc và những cảnh thêm mới do sự vắng mặt của những cảnh tình dục. Trong những năm gần đây thể loại game mô phỏng hẹn hò đang trở nên phổ biến trên điện thoại di động.
1
null
, hay gọi tắt là hoặc , là một thể loại video game dựa theo cốt truyện với mục tiêu hướng tới một thị trường dành cho nữ giới. Nhìn chung một trong những mục tiêu, bên cạnh cốt truyện chính là để phát triển một mối quan hệ lãng mạn giữa nhân vật nữ chính và một trong vài nhân vật nam, hay đôi lúc là ba nhân vật nữ. Thể loại này khá thịnh hành tại Nhật Bản, và chủ yếu dùng để làm visual novel và các game mô phỏng (đặc biệt là mô phỏng hẹn hò). Tính đến năm 2013, đại diện tựa otome game tiêu biểu được chuyển sang tiếng Anh là "Hakuoki: Demon of the Fleeting Blossom" cho PSP và 3DS. Lịch sử. Tựa game otome đầu tiên thường được công nhận là "Angelique" do một nhóm nhân viên toàn nữ tạo ra và được hãng Koei phát hành vào năm 1994 ở Nhật Bản dành cho Super Famicom. Trò chơi ban đầu nhắm đến đối tượng tuổi teen và thiếu nữ, nhưng đã trở nên phổ biến bất ngờ với những thiếu nữ lớn tuổi và phụ nữ ở độ tuổi 20. "Angelique" được cho là có "thiết lập lên chi tiết cụ thể và các quy ước về game của phụ nữ: tập trung vào sự lãng mạn, điều khiển dễ dàng và việc sử dụng truyền thông đa phương tiện khác." Năm 2002, Konami cho phát hành tựa game rất thành công "Tokimeki Memorial Girl's Side" đã mang lại nhiều người hâm mộ mới cho thể loại vẫn còn mới mẻ này. Năm 2006, danh sách của Famitsu về Top 20 game tình yêu bán chạy nhất đã bao gồm bảy otome game. Những game đầu tiên đã vay mượn rất nhiều từ hình tượng và các quy ước câu chuyện của "retro shoujo manga", "nhân vật nữ chính mang tính nguyên mẫu, nhấn mạnh vào sự trong trắng, không tình dục, sự lãng mạn lặng lẽ một cách thanh bình, thiết lập ổn định", nhưng như các thể loại mở rộng, các yếu tố về lối chơi và kể chuyện khác đều được giới thiệu bao gồm cả hành động/phiêu lưu, chiến đấu và các tình tiết kiểu như "nhân vật nữ chính có thể ‘cứu thế giới’ và ‘lấy được chàng trai’ cùng một lúc". "McKenzie & Co" (1995) từ American Laser Games và "Girl's Club" (1992) từ Philips Interactive là những game mô phỏng dành cho các cô gái được phát triển và phát hành tại Mỹ trong quá khứ. Otome game Nhật Bản đầu tiên được chính thức dịch và bày bán tại Anh là visual novel "Yo-Jin-Bo" năm 2006 dành cho PC. Kể từ đó đã có một số nhỏ các phiên bản gia tăng mỗi năm, bao gồm "" dành cho PSP và 3DS cũng như loạt game "Shall We Date?" cho iPhone. Phong cách. Thể loại này có nhiều yếu tố phong cách chung với manga shōjo và josei, và cốt truyện của chúng thường tương tự như manga harem. Cũng có những game hướng đến phụ nữ thường tập trung vào tình cảm lãng mạn giữa người đàn ông, gọi là , đôi lúc có những yếu tố tình cảm nam với nam trong otome game, nhưng cả hai thể loại thường được phân biệt rạch ròi. Otome game được phát hành trên console và các hệ máy cầm tay không chứa nội dung khiêu dâm, các công ty như Sony và Nintendo không cho phép điều này. Có những trò chơi được phát hành trên PC xếp hạng 18 + cho nội dung tình dục của chúng. Một số game (như "Dessert Love") ban đầu được phát hành cho PC với nội dung khiêu dâm và sau đó đã bị cắt bớt và tái phát hành cho PS2. Những yếu tố khác phổ biến trong otome game là tầm quan trọng của diễn xuất bằng giọng nói, ảnh tĩnh CG và một phần kết hoặc khung cảnh vào khúc cuối game khi một nhân vật được hoàn thành thành công. Lối chơi. Theo truyền thống, mục tiêu của loại game này là mong muốn bạn đồng hành phải lòng và có mối quan hệ với nhân vật người chơi, nhưng những yêu cầu để đạt được một "kết thúc tốt đẹp" khác với game để chơi. Trong khi cốt truyện của otome game khác nhau rất nhiều, thường có một nhân vật nữ chính duy nhất và một số chàng trai tuấn tú với đủ mọi kiểu dáng và tính tình. Lối chơi đôi khi không đặc biệt tập trung vào sự lãng mạn, ngay cả khi có một số nhân vật có những "route" mà người chơi có thể hướng theo. Một ví dụ nổi bật cho xu hướng này là các game của công ty Rejet chẳng hạn như "Diabolik Lovers" hoặc "Black Wolves Saga -Bloody Nightmare-". Thường thì trong visual novel các ví dụ của thể loại này, người chơi tiếp nối câu chuyện bằng cách chọn đối thoại hoặc hành động làm ảnh hưởng đến những mối quan hệ của họ trong một định dạng cây quyết định. Còn với otome game mô phỏng, đó cũng là lối chơi khác có ảnh hưởng đến cốt truyện, hoặc bằng cách chơi minigame hay gia tăng các chỉ số nhân vật. Nhân vật chính (người chơi) thường có một vài thông số, chẳng hạn như ngoại hình, kiểu dáng, trí tuệ, tài năng, v.v... đều có thể được nâng lên thông qua các hoạt động khác nhau trong lối chơi thông thường. Những đồng sự tiềm năng thường yêu cầu một tham số hoặc các thông số nhất định để trong một mức độ nhất định để họ phải lòng nhân vật chính. Ngoài ra còn có một khía cạnh thường hẹn hò thuần túy của lối chơi trong dạng mô phỏng. Điều này liên quan đến việc đòi hỏi hoặc được yêu cầu vào những ngày quan tâm đến người yêu, làm một hoạt động với họ và trả lời các câu hỏi hoặc ý kiến ​​của họ. Người chơi có thể lựa chọn các câu trả lời và một câu trả lời đúng sẽ giúp làm tăng vị thế của bạn với nhân vật đó. Một đặc điểm của dòng game này đã trở nên phổ biến là , hay là lồng tiếng trong game, không chỉ tại các điểm cốt truyện chính. Những tình nhân thường được lồng tiếng bởi các diễn viên lồng tiếng nổi tiếng, và đôi khi để có giọng nói nổi tiếng được ưu tiên trong quá trình phát triển (và ngân sách) lên nhân vật thú vị, đồ họa bóng bẩy hoặc một tình tiết hấp dẫn. Điều này còn phổ biến hơn trong các console game (cho PlayStation 2 và Wii) và vẫn còn hiếm trong các game hệ máy cầm tay (cho Nintendo DS và PlayStation Portable). Tại một số điểm, hoặc khi người chơi vượt qua các yêu cầu nhất định thì sẽ xuất hiện một sự kiện đặc biệt, thường đính kèm một "CG" (đồ họa máy tính) như một phần thưởng. CG này là một bộ ảnh có các nhân tình và đôi lúc là nhân vật chính trong một tư thế, cùng một số đoạn đối thoại. Ngoài ra otome game còn có liên kết chặt chẽ với manga shōjo với những tựa đề nổi tiếng thường sản sinh hàng loạt manga (ví dụ như "Neo Angelique" và "Meine Liebe") cùng một loạt manga nổi tiếng chuyển thể thành trò chơi điện tử (như "Nana"). Một số ví dụ về phát hành đồng thời của một bộ manga và otome game còn tồn tại như "Angelique" và "Full House Kiss". Nó cũng phổ biến với các bộ doujinshi vẽ các nhân vật nổi tiếng từ những otome game. Các tựa game nổi tiếng cũng có thể chuyển thể thành OVA anime hoặc series như "Angelique" và "Uta no Prince-sama" từng làm. Bản dịch của fan. Do otome game được sản xuất tại Nhật rất ít được chuyển ngữ qua tiếng anh, một số nhóm fan dịch đã tự can thiệp vào mã nguồn của trò chơi để chuyển ngữ sang tiếng anh. Hầu hết những nhóm này đều hoạt động miễn phí. Các game đã được fan dịch hoàn chỉnh sang tiếng Anh: Các game đã được fan dịch hoàn chỉnh sang tiếng Việt:
1
null
Boys' Love (BL) game (còn gọi là yaoi game) thường đề cập đến otome game hay H Game hướng đến các cặp đôi đồng tính nam cho thị trường nữ. Yếu tố quyết định là cả nhân vật người chơi và có thể là những đối tượng tình cảm đều là nam giới. Như với manga yaoi, thị trường lớn chỉ dành cho nữ giới; ngoài các BL game thích hợp thì khá nhiều otome game có nội dung đồng tính khác nhau. Trò chơi nhắm vào đối tượng nam đồng tính luyến ái còn được gọi là "bara". Một phân tích năm 2006 của thị trường BL thương mại Nhật Bản ước tính tổng số khoảng 12 triệu yên hàng năm, riêng với trò chơi điện tử thu được 160 triệu yên mỗi tháng. Có rất ít BL game được chính thức dịch sang tiếng Anh. Năm 2006, JAST USA thông báo họ sẽ phát hành "Enzai" thành "", giấy phép đầu tiên của một BL game sang bản dịch tiếng Anh. Một số cộng đồng fan hâm mộ đã chỉ trích sự lựa chọn một tựa game u ám và không lãng mạn này như sự tiếp xúc đầu tiên của thị trường Mỹ với thể loại này. JAST USA sau đó được cấp phép cho tựa game "Zettai Fukujuu Meirei" dưới tiêu đề "Absolute Obedience", trong khi Hirameki International được cấp phép "Animamundi"; các game sau đó dù không rõ ràng đã được kiểm duyệt phát hành tại Mỹ để nhận được phân loại "trưởng thành" hơn là "dành cho người lớn", nhằm bỏ bớt cả nội dung tình dục và bạo lực. Sự thiếu quan tâm của các nhà xuất bản trong việc cấp phép thêm nhiều tựa game được quy cho vi phạm bản quyền tràn lan của cả những game được cấp phép và không phép.
1
null
Creative Computing (tạm dịch: "Sáng tạo máy tính") là một trong những tạp chí đầu tiên bao gồm các cuộc cách mạng máy vi tính. Xuất bản từ tháng 10 năm 1974 cho đến tháng 12 năm 1985, "Creative Computing" bao phủ toàn bộ quang phổ của máy tính cá nhân/gia đình/tiêu khiển trong một định dạng dễ tiếp cận hơn so với "BYTE" định hướng về mặt kỹ thuật. Tạp chí được sáng lập bởi David H. Ahl rồi sau bán lại cho Ziff-Davis vào đầu những năm 1980, nhưng vẫn giữ vị trí Tổng biên tập. Những cây bút cộng tác với tạp chí gồm Robert Swirsky, David Lubar và John J. Anderson. Ted Nelson nổi tiếng với việc phát minh ra siêu văn bản đã có một thời gian ngắn làm biên tập viên cho tạp chí này. Số ra tháng 4 năm 1980 của "Creative Computing" chứa đựng những câu nhại lại khéo léo về tất cả các tạp chí máy tính lớn vào lúc đấy. Tạp chí thường xuyên đính kèm mã nguồn BASIC cho những chương trình tiện ích và các trò chơi để người dùng có thể tự nhập vào máy tính gia đình của họ. Vào cuối kỳ hoạt động, "Creative Computing" đã cố gắng để tái tập trung vào mảng kinh doanh máy tính (như là xu hướng trong hầu hết các tạp chí máy tính lúc đó) nhưng đã không thành công và cuối cùng đành công bố chấm dứt hoạt động. Liên kết ngoài. [[Thể loại:Tạp chí [[máy tính gia đình]] [[Thể loại:Tạp chí thành lập vào năm 1974]] [[Thể loại:Ấn phẩm bị ngưng vào năm 1985]]
1
null
William "Willy" A. Higinbotham (25 tháng 10 năm 1910 – 10 tháng 11 năm 1994) là một nhà vật lý người Mỹ. Thành viên của nhóm phát triển bom hạt nhân đầu tiên, sau này ông trở thành một nhà lãnh đạo trong phong trào không phổ biến vũ khí hạt nhân. Ông cũng có một vị trí trong lịch sử video game vì đã sáng tạo ra trò "Tennis for Two" vào năm 1958, được coi là game máy tính analog tương tác đầu tiên và một trong những trò chơi điện tử đầu tiên sử dụng màn hình hiển thị đồ họa. Thiếu thời. Higinbotham sinh ra tại Bridgeport, Connecticut và lớn lên ở Caledonia, New York. Cha ông là một mục sư trong Giáo hội Trưởng Lão. Ông nhận được bằng đại học ở Williams College vào năm 1932 và tiếp tục học lên cao tại Đại học Cornell. Có lúc ông làm việc trên hệ thống radar tại MIT từ năm 1941 đến 1943. Sự nghiệp. Trong Thế chiến II, ông làm việc tại Phòng thí nghiệm Quốc gia Los Alamos và giữ cương vị trưởng nhóm thiết bị điện tử của phòng thí nghiệm trong những năm sau chiến tranh, nơi nhóm của ông đã phát triển thiết bị điện tử cho quả bom hạt nhân đầu tiên. Nhóm của ông đã tạo ra cơ chế đánh lửa của bom cũng như các dụng cụ đo lường cho thiết bị. Higinbotham còn tạo ra màn hình hiển thị radar cho việc thử nghiệm máy bay ném bom B-28. Bằng những kinh nghiệm của mình với vũ khí hạt nhân, Higinbotham đã giúp lập nhóm không phổ biến vũ khí hạt nhân thuộc Liên đoàn các nhà khoa học Mỹ, giữ chức chủ tịch đầu tiên và thư ký điều hành. Từ năm 1974 cho đến khi qua đời vào năm 1994, Higinbotham từng là biên tập viên kỹ thuật của tờ Tạp chí Quản lý vật liệu Hạt nhân ("Journal of Nuclear Materials Management"), do Viện Quản lý vật liệu Hạt nhân xuất bản. Năm 1947 Higinbotham đảm nhận một vị trí tại Phòng thí nghiệm Quốc gia Brookhaven cho đến khi nghỉ hưu vào năm 1984. Vào năm 1958, trong vai trò Trưởng phòng Phân khu Trang thiết bị tại Brookhaven, ông đã tạo ra một trò chơi máy tính gọi là "Tennis for Two" cho đợt triển lãm hàng năm của phòng thí nghiệm. Một dạng mô phỏng quần vợt hiển thị trên một dao động ký, game được công nhận là một trong những trò chơi điện tử đầu tiên. Tựa game này đã khiến Higinbotham phải mất một vài tuần để hoàn thành và là một điểm thu hút phổ biến tại triển lãm. Được xem là một thành công lớn để Higinbotham tạo ra một phiên bản mở rộng cho đợt triển lãm năm 1959; phiên bản này cho phép thay đổi mức độ trọng lực để người chơi có thể mô phỏng quần vợt trên sao Mộc và Mặt trăng. Higinbotham chưa bao giờ được cấp bằng sáng chế "Tennis for Two", dù ông nhận được hơn 20 bằng sáng chế khác trong sự nghiệp của mình. Di sản. Bị quên lãng trong nhiều năm, giới phê bình bắt đầu nhận ra ý nghĩa của "Tennis for Two" đối với lịch sử video game vào những năm 1980. Năm 1983 David Ahl, người đã chơi game này tại triển lãm Brookhaven khi còn là một thiếu niên, đã viết một câu chuyện trang bìa cho tạp chí "Creative Computing" mà ông đã xưng tụng Higinbotham là "Ông tổ của Trò chơi điện tử." Năm 2011, Đại học Stony Brook thành lập Bộ sưu tập Nghiên cứu Game William A. Higinbotham được quản lý bởi Trưởng nhóm Bộ sưu tập đặc biệt và lưu trữ Đại học Kristen Nyitray và Phó Giáo sư Nghiên cứu Văn hóa Kỹ thuật số Raiford Guins. Bộ sưu tập được ghi rõ ràng là dành riêng cho "cung cấp tài liệu vật liệu văn hóa của phương tiện truyền thông trò chơi dựa trên màn hình", và trong mối quan hệ cụ thể với Higinbotham: "thu thập và bảo quản các văn bản, phế liệu và hiện vật, tài liệu về lịch sử và tác phẩm của nhà sáng tạo game đầu tiên và nhà khoa học của Phòng thí nghiệm Quốc gia Brookhaven William A. Higinbotham, người vào năm 1958 đã phát minh ra tựa game máy tính analog tương tác đầu tiên, Tennis for Two." Là một phần trong việc bảo tồn lịch sử của "Tennis for Two", bộ sưu tập được sản xuất dưới dạng một phim tài liệu về lịch sử của trò chơi và sự tái thiết của nó được thực hiện bởi Peter Takacs, nhà vật lý tại Phòng thí nghiệm Quốc gia Brookhaven. Higinbotham vẫn ít quan tâm đến trò chơi điện tử và thích được nhớ đến về việc không phổ biến vũ khí hạt nhân của ông. Sau khi Higinbotham mất, trước những yêu cầu thông tin về "Tennis for Two" ngày càng tăng, con trai ông William B. Higinbotham đã nói với Brookhaven: "Điều bắt buộc mà bạn có bao gồm thông tin về việc không phổ biến vũ khí hạt nhân của ông. Đó là những gì ông muốn được nhớ đến." Vì những thành tựu của Higinbotham mà Liên đoàn các nhà khoa học Mỹ đã đổi tên trụ sở chính của họ thành Higinbotham Hall vào năm 1994.
1
null
November's Chopin (, tạm dịch: Tháng 11 của Chopin) là album phòng thu thứ sáu của ca sĩ Đài Loan Châu Kiệt Luân (Jay Chou). Album được phát hành ngày 1 tháng 11, năm 2005 bởi Alfa Music và phân phối bởi Sony Music Đài Loan, bao gồm một CD 12 ca khúc và một DVD tặng kèm chứa 3 video ca nhạc. Tựa đề album đề cập đến Frédéric Chopin, "Nhà thơ của phím dương cầm", nhà soạn nhạc người Ba Lan nổi tiếng thế kỷ thứ 19 mà Châu Kiệt Luân đã từng nhắc tới như là một người truyền cảm hứng cho anh. Video cho ca khúc chủ đề "夜曲" (Nocturne) được quay tại New York. Album cũng bao gồm ca khúc mở đầu "一路向北" (All the Way North) và ca khúc kết thúc "飄移" (Drifting) của bộ phim Initial D do Châu Kiệt Luân, Huỳnh Thu Sinh và Trần Quán Hy tham gia. Phản hồi. Ca khúc "夜曲" (Nocturne) được đề cử vào Top 10 Giai điệu vàng của giải thưởng âm nhạc Hong Kong TVB 8, được tổ chức bởi kênh truyền hình TVB năm 2006. Nó đồng thời cũng lọt vào Top 10 ca khúc của năm và là Ca khúc được khán giả yêu thích nhất, đồng thời Châu Kiệt Luân cũng thắng giải Nhà sản xuất tốt nhất tại giải thưởng âm nhạc HITO 2006. Ca khúc "飄移" (Drifting) được đề cử cho Ca khúc nhạc phim hay nhất tại lễ trao giải Kim Mã lần thứ 42 năm 2005 và tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông năm 2006. November’s Chopin cũng được đề cử vào Top 10 Album tiếng Quan thoại bán chạy nhất trong năm 2005 tại giải thưởng IFPI 2005, do IFPI Hồng Kông tổ chức. Danh sách ca khúc. Tất cả các ca khúc đều được sáng tác bởi Châu Kiệt Luân Các ca khúc. 1. "Nocturne" 夜曲 (Yè Qǔ) Được biết đến ở Việt Nam với tên gọi: Dạ Khúc Ca khúc đầu tiên là một ca khúc R&B, với những âm thanh mạnh mẽ trên nền giai điệu nhẹ nhàng được chơi bởi piano và guitar. Giai điệu của ca khúc này u tối và hòa hợp với phần lời buồn thảm mô tả nỗi buồn của một chàng trai khi phải đối mặt với cái chết của người mình yêu. Cũng giống như các ca khúc được Phương Văn Sơn viết lời, Nocturne chan chứa chất thơ và giàu hình ảnh ẩn dụ. Tại Việt Nam, Nocturne là một trong những ca khúc được yêu thích và được biết đến nhiều nhất của Jay Chou. Ca sĩ Wanbi Tuấn Anh, người đã qua đời năm 2013 do u tuyến yên trong não, đã thể hiện một phiên bản lời Việt của Nocturne với tên gọi "Dạ Khúc". 2. "Blue Storm" 藍色風暴 (Lán Sè Fēng Bào) Được biết đến ở Việt Nam với tên gọi: Cơn Bão Màu Xanh Ca khúc mạnh mẽ nhất trong album, là sự kết hợp giữa giai điệu của guitar điện tử và scratching (một thiết bị chỉnh nhạc) với nhiều âm thanh khác, bao gồm cả một đoạn hợp xướng nhà thờ và tiếng chuông điện thoại. Lời của ca khúc này mang màu sắc tôn giáo. 3. "Hair Like Snow" 髮如雪 (Fà Rú Xuě) Được biết đến ở Việt Nam với tên gọi: Tóc Như Tuyết Ngay từ album đầu tiên, Châu Kiệt Luân đã kết hợp giữa nhạc cụ dân tộc với những âm thanh hiện đại để tạo nên "Trung Quốc phong". Hair Like Snow là một ca khúc như vậy, Châu đã sử dụng âm thanh của đàn pipa (một loại đàn 4 dây, gần giống đàn tỳ bà của Việt Nam) và đàn yangqin (một nhạc cụ dây, người chơi dùng một dụng cụ để "gảy" đàn) với nhịp điệu chậm rãi trên nền R&B. Ca khúc được thể hiện nhẹ nhàng với một đoạn giả thanh cuối bài (hay gặp trong âm nhạc truyền thống Trung Quốc). Video ca khúc có sự tham gia của Hạ Như Chi - diễn viên nữ xuất hiện trong nhiều video cổ trang của Châu Kiệt Luân như Sứ Thanh Hoa, Thiên Lý Chi Ngoại, Lan Đình Tự. Ca khúc này cũng được đưa vào nhạc nền cho trò chơi trực tuyến "Audition Online". 4. "Black Sweater" 黑色毛衣 (Hēi Sè Máo Yī) Được biết đến ở Việt Nam với tên gọi: Chiếc Áo Len Màu Đen Là một ca khúc R&B với nhịp điệu chậm rãi, bắt đầu bởi giai điệu guitar acoustic. Lời ca khúc là nỗi luyến tiếc về một tình yêu đã mất khi chàng trai hồi tưởng lại những ký ức của hai người. MV của ca khúc được quay tại Lon Don với hình ảnh Châu Kiệt Luân cô đơn trong một quảng trường trống vắng và ảm đạm. 5. "Besieged From All Sides" 四面楚歌 (Sì Miàn Chǔ Gē) Được biết đến ở Việt Nam với tên gọi: Tứ Diện Sở Ca Một ca khúc hip hop với nhịp điệu mạnh mẽ và dồn dập được tạo bởi tiếng đàn violin, cello. Lời bài hát được sáng tác toàn bộ bởi Jay Chou, bày tỏ sự phẫn nộ của anh với những tay săn ảnh (paparazzi). Anh thẳng thắn gọi paparazzi là những con "chó" (cẩu) đang "vừa nhai táo trong mồm vừa cầm máy ảnh trên tay" (他們咬著蘋果 手裡拿著長鏡頭), và những tờ báo lá cải như "tuần báo chó" (狗週刊). Một đoạn rap khi gần kết thúc được thể hiện bằng tiếng Triều Tiên, là ca khúc đầu tiên cho đến lúc bấy giờ được Jay thể hiện bởi một ngôn ngữ ngoài Trung Quốc. Giai điệu của ca khúc này dựa trên "Orchestra Strings 08" của Apple loop có thể tìm thấy tại các phần mềm GarageBand hay Logic Pro. Giai điệu này cũng xuất hiện trong "Believe Me" của Fort Minor, "パリピポ" của GReeeeN, "熱浪" của MYRS’ và "Muzika Kuri Saugo" của G&G Sindikatas. Video ca nhạc của ca khúc này có sự tham gia diễn xuất của diễn viên Châu Tấn. 6. "Maple" 楓 (Fēng) Được biết đến ở Việt Nam với tên gọi: Cây Phong Nhẹ nhàng, lãng mạn, "Maple" sử dụng piano, violin và cello để tạo nên giai điệu R&B chậm rãi và dịu dàng. Đây tiếp tục là một bản tình ca của Jay Chou nói lên nỗi khắc khoải của một người đánh mất tình yêu. Video ca khúc này là câu chuyện về một chàng trai bị mất trí nhớ gặp lại người yêu cũ của mình khi cô đang yêu người bạn thân của anh. Với nội dung video như trên, "Maple" còn thường được biết đến như là phần 1 của 2 ca khúc đều do Châu Kiệt Luân sáng tác. Ca khúc còn lại mang tên "Rainbow Heaven" do bạn thân của Jay - Lưu Canh Hoành thể hiện. 7. "Romantic Cell Phone" 浪漫手機 (Làng Màn Shǒu Jī) Là một ca khúc R&B với tiếng guitar điện tử. Là một ca khúc tươi sáng trong album. 8. "Reverse Scale" 逆鳞 (Nì Lín) Một ca khúc hip hop với nhiều hiệu ứng âm thanh được sử dụng, bao gồm cả tiếng la hét của phụ nữ. "Reverse Scale" là một ca khúc ít được biết đến trong album. 9. "Malt Candy" 麥芽糖 (Mài Yá Táng) Vui vẻ sống động với giai điệu tạo bởi tiếng violin và guitar điện tử. Cùng với "Romantic Cell Phone", đây cũng là một ca khúc tươi sáng. 10. "Coral Sea" 珊瑚海 (Shān Hú Hǎi) Được biết đến ở Việt Nam với tên gọi: Biển San Hô Là ca khúc song ca duy nhất trong album và cũng là ca khúc song ca đầu tiên trong các album phòng thu của Jay, "Coral Sea" được tạo nên bởi tiếng piano, violin và guitar điện tử lẫn guitar acoustic. "Lara Veronin", nữ ca sĩ của nhóm Nam Quyền Ma Ma là ca sĩ may mắn được song ca với Jay, và sau này cô cũng thể hiện nhiều ca khúc khác cùng Jay như "Snake Dance" và "A Larger Cello". Lời bài hát mô tả một mối quan hệ với nhiều tiếc nuối. Video ca khúc này được thực hiện với sự tham gia của Phương Văn Sơn, bạn thân và cũng là đồng nghiệp của Jay. 11. "Driffing" 飄移 ("Piāo Yí") Ca khúc mở đầu, xuất hiện trong bộ phim Initial D, bộ phim đầu tiên Jay tham gia. Ca khúc này được đề cử cho giải Ca khúc xuất sắc nhất tại lễ trao giải Kim Mã lần thứ 42. "Driffing" cũng được lựa chọn làm nhạc nền cho đoạn phim quảng cáo Colgate do chính Châu Kiệt Luân tham gia diễn xuất. 12. "All the Way North" 一路向北 ("Yī Lù Xiàng Běi") Tiếp tục là một ca khúc trong bộ phim Initial D. 
1
null
Dương Mỹ Linh (sinh 29/7/1984) tên đầy đủ là Dương Thị Mỹ Linh là Hoa hậu phụ nữ Việt Nam qua ảnh 2006. Tiểu sử. Dương Mỹ Linh sinh ra tại Bến Tre. Sau khi tốt nghiệp Trường THPT huyện Ba Tri (Bến Tre), cô đã lên TP.HCM phụ bán quần áo trẻ em và thú nhồi bông cho một người bà con ở Quận 5 (TP. HCM). Giữa năm 2006, Linh đã đăng ký học một khóa 2 tháng lớp người mẫu và tham gia các chương trình trình diễn thời trang. Từ năm 2005, Linh đầu quân cho Công ty đào tạo người mẫu Professional Look với công việc là diễn thời trang, lễ tân hội nghị. Đẹp Fashion Show (9-2006) là chương trình lớn đầu tiên Linh tham gia. Tại cuộc thi Hoa hậu phụ nữ Việt Nam qua ảnh năm 2006 do Báo Phụ nữ VN – Tạp chí Thế giới Phụ nữ tổ chức, Dương Mỹ Linh mang Số báo danh (SBD) 690, cao 1,72m, số đo 84-59-90 là người mẫu ở TP HCM đạt ngôi hoa hậu. Cô cũng đoạt giải Thí sinh được khán giả bình chọn nhiều nhất cuộc thi. Sau này, Dương Mỹ Linh còn tham gia đóng một số phim như Anh và em, Vũ khí sắc đẹp, Người mẫu, Mỹ nhân Sài Thành, Khát vọng xanh... Ngoài công việc làm người mẫu, cô còn là chủ của một nông trại ở Long Khánh, Đồng Nai. Cho tới 2014, Dương Mỹ Linh từng có tin có quan hệ tình cảm với: ca sĩ Quốc Thiên
1
null
Steve Kloves (sinh ngày 18 tháng 03 năm 1960) là một nhà biên kịch, chủ yếu nổi tiếng với các chuyển thể các tiểu thuyết, đặc biệt là chuyển thể kịch bản loạt phim Harry Porter và Wonder Boys. Ông cũng đã đạo diễn hai bộ phim Kloves, sinh ra ở Austin, Texas. Ông lớn lên ở Sunnyvale, California, nơi anh tốt nghiệp từ trường trung học Fremont. Ông học tại đại học California, Los Angeles nhưng đã bỏ học.
1
null
Robert Recorde (1512 - 1558) là một bác sĩ và nhà toán học người xứ Wales. Ông đã phát minh ra dấu bằng (=) và cũng đã giới thiệu dấu cộng (+) đã có từ trước cho người nói tiếng Anh vào năm 1557. Tiểu sử. Robert Recorde sinh vào khoảng năm 1512, là con trai thứ hai của Thomas và Rose Recorde ở Tenby, Pembrokeshire, xứ Wales. Recorde vào Đại học Oxford khoảng năm 1525, và được bầu làm thành viên của Đại học All Souls năm 1531. Năm 1545, ông đến Đại học Cambridge để lấy bằng Bác sĩ. Sau đó, ông trở lại Oxford, nơi ông công khai giảng dạy toán học, như ông đã làm trước khi đến Cambridge. Có vẻ như sau đó ông đã đến London, và làm bác sĩ cho Vua Edward VI và cho Nữ hoàng Mary, người đã dành một số cuốn sách của ông. Ông cũng là người điều khiển Xưởng đúc tiền Hoàng gia và từng là Người kiểm soát Mỏ và Đồng tiền ở Ireland. Sau khi bị một kẻ thù chính trị kiện vì tội phỉ báng, ông bị bắt vì nợ nần và chết trong nhà tù King's Bench, Southwark, vào giữa tháng 6 năm 1558. Xuất bản. Recorde đã xuất bản một số công trình về các chủ đề toán học và y học, chủ yếu dưới hình thức đối thoại giữa thạc sĩ và học giả, chẳng hạn như sau: Ông được cho là tác giả (không rõ) của một số cuốn sách : "Cosmographiae isagoge", "De Arte faciendi Horologium" và "De Usu Globorum et de Statu temporum".
1
null
Bonaventura Canalieri (1598-1647) là nhà toán học người Ý. Ông chính là người đề xuất nguyên lý mang tên mình. Và nguyên lý đó đã được mang tên ông, một nguyên lý được Tổ Xung Chi cũng đã tìm ra nó mà Tổ Xung Chi cách Cavalieri hơn nghìn năm (thế nên để tưởng nhớ họ Tổ, trang mạng CRI Online đặt tên cho nó là "Nguyên lý Tổ".
1
null
Cá mặt quỷ hay còn gọi là cá mang ếch, cá mao ếch (Danh pháp khoa học: Synanceia) là một chi cá thuộc họ Cá mao mặt quỷ (Synanceiidae) loài điển hình của chi này là "Synanceia verrucosa". Đây là loài cá có bề ngoài dữ tợn nhưng lại có giá trị ẩm thực. Đặc điểm sinh học. Cá mặt quỷ có thân hình to xù xì, nhiều vây ở sống lưng, giống tảng đá với lớp da loang lổ màu nâu đỏ thô ráp. Da cá dai và chứa nhiều vây sắc nhọn. Trong điều kiện đủ độ ẩm, cá có thể sống trên cạn vài ngày. Chiều dài tối đa của nó khoảng gần 1m, tuy nhiên, ở một số nước như Việt Nam, cá mặt quỷ có kích thước nhỏ hơn, khoảng 20 đến 50 cm, trọng lượng khoảng 1-1,5 kg/con. Cá có 13 tia vây lưng mang độc tố và độc có thể tồn tại nhiều ngày sau khi cá chết. Khi vây cá đâm vào con người, độc tố sẽ tác động trực tiếp đến hệ cơ vận động, hệ thần kinh và làm hệ cơ trơn của tim ở người: sưng to; huyết áp, nhịp tim, nhịp thở rối loạn. Nếu nặng có thể dẫn tới tử vong.
1
null
Mặt Trời giả hay Mặt Trời ma (tiếng Anh: Sun dog), tên khoa học là parhelion (số nhiều là parhelia), là một hiện tượng quang học khí quyển, gồm đốm sáng ở một hoặc cả hai bên của Mặt Trời. Hai Mặt Trời giả thường nằm ở hai bên Mặt Trời trong vòng hào quang 22°. Mặt Trời giả là một loại hào quang được tạo ra do sự khúc xạ ánh sáng Mặt Trời bởi các tinh thể băng trong khí quyển. Mặt Trời giả thông thường xuất hiện như một đốm màu của ánh sáng ở bên trái hoặc bên phải của Mặt Trời, vị trí khoảng 22° ở bên trái và bên phải Mặt Trời, cùng độ cao với Mặt Trời so với đường chân trời. Chúng có thể được nhìn thấy ở bất cứ đâu trên thế giới tại bất kì thời điểm nào trong năm, nhưng chúng không luôn luôn rõ ràng hoặc sáng. Mặt Trời giả dễ thấy nhất khi ở gần đường chân trời. Ngữ nguyên học. Từ nguyên chính xác của "sundog" phần lớn vẫn còn là một bí ẩn. "Từ điển tiếng Anh Oxford" nói nó là "có nguồn gốc không rõ ràng". Sự hình thành và đặc tính. Mặt Trời giả thường được tạo ra bởi sự khúc xạ và tán xạ ánh sáng bởi các tinh thể băng lục giác dạng đĩa lơ lửng trong các đám mây ti hoặc mây ti tầng cao và lạnh, hoặc trôi trong không khí lạnh và ẩm như bụi kim cương. Các tinh thể này hoạt động như các lăng kính, bẻ cong các tia sáng đi qua chúng với độ lệch tối thiểu 22 °. Các tinh thể từ từ trôi xuống với bề mặt lục giác rộng lớn gần như nằm ngang, khi đó ánh sáng Mặt Trời bị khúc xạ và Mặt Trời giả có thể quan sát được ở bên phải hay bên trái Mặt Trời.Các đĩa tinh thể lớn hơn lắc lư nhiều hơn tạo các Mặt Trời giả cao hơn. Mặt Trời giả có màu đỏ ở phía gần Mặt Trời nhất, càng xa màu chuyển từ cam sang xanh lam. Các màu sắc chồng chéo lên nhau đáng kể và bị bão hòa, không bao giờ tinh khiết. Màu của Mặt Trời Giả cuối cùng hợp thành màu trắng của vòng tròn Mặt Trời giả (nếu cái sau có thể thấy được). Các đĩa tinh thể băng tương tự gây ra Mặt Trời giả cũng chịu trách nhiệm cho các màu sắc của vòng cung tròn, tức là 2 loại quầng này có xu hướng xảy ra đồng thời. Cái sau thường bị người xem bỏ qua do nó xuất hiện phía trên hoặc dưới tầm quan sát trực tiếp. Một loại quầng khác thường được thấy cùng với Mặt Trời giả là quầng 22°, tạo thành một vòng ở khoảng cách gần như nhau từ Mặt Trời giống Mặt Trời giả, vì vậy xuất hiện để liên kết chúng với nhau. Khi Mặt Trời lên cao hơn, các tia đi qua đĩa tinh thể ngày càng lệch khỏi mặt ngang, khiến góc lệch tăng lên và Mặt Trời giả di chuyển xa ra khỏi hào quang 22°, trong khi vẫn giữ nguyên độ cao. Có thể dự đoán được các dạng Mặt Trời giả nhìn thấy trên các hành tinh khác và Mặt Trăng. Sao Hỏa có thể có Mặt Trời giả được hình thành từ nước đá và đá khô. Trên các hành tinh khí khổng lồ - Sao Mộc, Sao Thổ, Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương - những tinh thể khác hình thành nên các đám mây amonia, methan và những và các chất khác có thể tạo hào quang với 4 Mặt Trời giả hoặc nhiều hơn.
1
null
"Nhà nguyện Chúa lên trời" (, ) là một nơi linh thiêng tôn giáo trên Núi Olives. Nhà nguyện này là một phần của một công trình xây dựng phức hợp lớn hơn, ban đầu bao gồm một nhà thờ và một tu viện Kitô giáo, sau đó là một thánh đường Hồi giáo, nằm trên một địa điểm mà theo truyền thống được tin là nơi chúa Giêsu đã tập họp các tông đồ trước khi Chúa lên trời 40 ngày sau khi Người sống lại. Nhà nguyện này chứa một phiến đá được cho là có một trong những dấu bàn chân của chúa Giêsu. Lịch sử. Ngay sau khi chúa Giêsu sống lại và lên trời, các Kitô hữu tiên khởi đã bắt đầu bí mật tụ họp lại để tưởng niệm sự kiện Người lên trời trong một tu viện trong hang nhỏ trên Núi Olives. Năm 313 hoàng đế Constantinus Đại đế đã ban hành Sắc lệnh Milano ("Edictum Mediolanense") cho phép các Kitô hữu được công khai thờ phượng Chúa mà không sợ bị chính phủ bách hại. Vào thời bà Egeria hành hương tới Jerusalem năm 384, thì nơi tôn kính này đã được di chuyển tới địa điểm hiện nay, ở khu dốc trên hang đá cũ. Hoàng thái hậu Helena, mẹ của Constantinus Đại đế, đã tới Đất Thánh từ năm 326 tới năm 328. Trong cuộc hành hương này, bà đã xác định được 2 địa điểm trên Núi Olives có liên quan tới cuộc đời của Chúa Giêsu: nơi Chúa lên trời, và một hang động liên quan đến việc Chúa giảng dạy Kinh Lạy Cha. Khi trở về Rome bà đã ra lệnh xây dựng 2 công trình phức hợp tại các địa điểm trên. Trong thế kỷ thứ 5 thánh Pelagia thành Antioch đã sống ở đây như một ẩn sĩ và sám hối trong một hang động. Công trình xây dựng ban đầu. Khu phức hợp đầu tiên được xây dựng trên địa điểm của nhà nguyện hiện nay được gọi là "Imbomon" ("tiếng Hy Lạp nghĩa là "trên đồi""). Đó là một nhà tròn, lộ thiên, bao bọc các bởi hành lang có mái che và các vòm cuốn ("arches"). Năm 390 sau Công Nguyên, Poimenia, một phụ nữ quý tộc giàu có và đạo đức thuộc hoàng gia La Mã đã tài trợ để xây thêm một nhà thờ theo kiểu kiến trúc Byzantine tại địa điểm xây dựng ban đầu của hoàng thái hậu Helena Một thánh đường thứ hai tại địa điểm này - cũng thiết kế theo kiểu kiến trúc Byzantine - được gọi là "vương cung thánh đường Eleona" , tức Nhà thờ Kinh Lạy Cha. Thánh đường này được xây dựng trên hang động linh thiêng nơi Đức Giêsu được cho là đã dạy các môn đệ cầu nguyện Kinh Lạy Cha. Nhà thờ nguyên thủy từ thế kỷ thứ 4, ngày nay được gọi là nhà thờ Kinh Lạy Cha được xây dựng lại từng phần vào đầu thế kỷ 20 nhưng vẫn chưa hoàn tất. Hầu hết các nhà thờ và các cấu trúc chung quanh đã bị quân đội Ba Tư của Khosrau II phá hủy năm 614, trong giai đoạn cuối cùng của các cuộc chiến tranh giữa đế quốc Byzantine với đế quốc Sassanid. Việc xây dựng lại. Sau đó nhà thờ được xây dựng lại vào cuối thế kỷ thứ 7. Giám mục Arculf - người Frank và là người hành hương - trong chuyện kể về cuộc hành hương tới Jerusalem của mình vào khoảng năm 680, đã mô tả nhà thờ này là "một tòa nhà tròn lộ thiên, với 3 hàng hiên có mái che từ phía nam. Có 8 đèn chiếu sáng vào ban đêm qua cửa sổ phía quay sang Jerusalem. Bên trong là một điện thờ (edicule) ở giữa có chứa dấu bàn chân của Chúa Kitô in trong cát bụi rõ ràng, được bao bọc bởi một hàng rào chấn song". Nhà thờ xây dựng lại này cuối cùng đã bị phá hủy, và được xây dựng lại một lần thứ hai bởi quân Thập tự chinh trong thế kỷ 12. Nhà thờ chót này rốt cuộc cũng đã bị đội quân của Saladin phá hủy, chỉ để lại từng phần (còn nguyên vẹn) của một bức tường bên ngoài hình bát giác 12x12 mét bao quanh một điện thờ bên trong cũng hình bát giác 3x3 mét (gọi là martyrium hoặc "Edicule"). Cấu trúc này vẫn còn tới ngày nay. Cấu trúc hiện nay. Sau khi Jerusalem rơi vào tay quân đội Ba Tư năm 1187, nhà thờ đổ nát và tu viện đã bị các Kitô hữu bỏ rơi khi họ tái định cư ở Akko. Trong thời gian này Saladin biến Núi Olives thành một waqf trao cho hai Sheikh al-Salih Wali al-Din và Abu Hasan al-Hakari. Việc trao tặng này đã được ghi trong một tài liệu ngày 20 tháng 10 năm 1188 Nhà nguyện được biến thành thánh đường Hồi giáo, và một mihrab được dựng lên ở bên trong. Do đại đa số các khách hành hương đến nơi đây là Kitô hữu, nên 2 năm sau - để tỏ thiện chí và như một cử chỉ thỏa hiệp - Saladin đã ra lệnh xây một thánh đường Hồi giáo thứ hai ở gần đó dành cho những tín đồ Hồi giáo thờ phượng, trong khi các Kitô hữu được tiếp tục thăm viếng nhà nguyện chính. Cũng khoảng thời gian này khu phức hợp đã được củng cố bằng các tháp canh, tường, và được các lính canh bảo vệ. Nhà nguyện và các cấu trúc chung quanh đã không được sử dụng và trong tình trạng hư hỏng hơn 300 năm tiếp theo. Đến thế kỷ 15 khu vực tường bát giác bên ngoài từng bị phá hủy ở phía Đông đã được tách ra khỏi phần còn lại bởi một bức tường phân chia, và bị các nông dân chiếm làm nhà cư ngụ và chuồng gia súc. Mặc dù vẫn còn thuộc thẩm quyền của Islamic Waqf of Jerusalem<, nhà nguyện này hiện nay được mở cửa cho du khách thuộc mọi tín ngưỡng vào thăm viếng, với một khoản lệ phí danh nghĩa. Bên trong. Cấu trúc chính của nhà nguyện được xây dựng từ thời Thập tự chinh; phần tường hình ống bát giác và nóc vòm đá là do người Hồi giáo thêm vào. Các bức tường bên ngoài được trang trí bằng những vòm cuốn ("arches") và các cột đá cẩm thạch. Lối vào là từ phía tây, bên trong nhà nguyện có một mihrab của Hồi giáo chỉ về hướng Mecca ở bức tường phía nam. Trên sàn nhà, bên trong một khung đá, là một phiến đá được gọi là "Đá thăng thiên" ("Ascension Rock"). Đá thăng thiên. Điện thờ chính hình bát giác bao quanh phiến "đá thăng thiên", được cho là có dấu bàn chân bên phải của Chúa Giêsu, phần mang dấu bàn chân bên trái đã được đưa đến nhà thờ Hồi giáo Al-Aqsa (Jerusalem) trong thời Trung cổ. Các tín hữu tin rằng dấu bàn chân là do chúa Giêsu đứng khi lên trời và được tôn kính như là điểm cuối cùng trên trái đất mà Chúa Kitô nhập thể đã dẵm lên. Hầm mộ. Khu đất này cũng chứa một hầm mộ ở gần nhà nguyện được 3 tôn giáo độc thần riêng rẽ tôn kính. Người theo đạo Do Thái tin rằng hầm mộ này có chứa xác nữ tiên tri Huldah từ thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên; các Kitô hữu tin rằng nó chứa mộ của thánh nữ Pelagia thành Antioch ở thế kỷ thứ 5; trong khi người Hồi giáo cho rằng thánh nữ Rabia Basri của Hồi giáo phái Sufism ở thế kỷ thứ 8 được chôn cất ở đây.
1
null
Trận Chung kết UEFA Champions League 2014 là trận đấu cuối cùng của giải UEFA Champions League 2013–14, mùa bóng thứ 59 tại giải đấu quy tụ tất cả các câu lạc bộ hàng đầu châu Âu do UEFA tổ chức, và là mùa bóng thứ 22 giải đấu có tên gọi UEFA Champions League (Cúp các đội vô địch bóng đá quốc gia châu Âu). Trận đấu sẽ được tổ chức trên Sân vận động Ánh sáng ở Lisbon, Bồ Đào Nha, vào ngày 24 tháng 5 năm 2014 giữa hai đội bóng Tây Ban Nha là Real Madrid và Atlético Madrid. Đây là trận đấu chung kết thứ năm có hai đội đến từ cùng một quốc gia, lần thứ hai góp mặt hai đại diện Tây Ban Nha ở chung kết và là lần đầu tiên trong lịch sử Champions League có hai đội bóng cùng một thành phố thi đấu với nhau trong một trận chung kết. Real Madrid thắng trận 4-1 sau hiệp phụ, với các bàn thắng của Gareth Bale, Marcelo và Cristiano Ronaldo sau bàn thắng gỡ hòa ở phút 93 của Sergio Ramos, đã làm cho bàn thắng của Diego Godín vào hiệp 1 trở nên vô nghĩa. Vì thế Real Madrid lập một kỉ lục giành 10 chức vô địch trong giải đấu này, 12 năm sau khi họ giành chức vô địch thứ chín. Real đối đầu với đội vô địch UEFA Europa League 2013-14, Sevilla trong trận Siêu cúp châu Âu 2014 và vào bán kết FIFA Club World Cup 2014 với tư cách là đại diện của UEFA. Trong trận siêu cúp, Real Madrid đã giành chiến thắng 2-0 với cú đúp của Cristiano Ronaldo. Sân vận động tổ chức. Sân vận động Ánh sáng ở Thành PhốLisbon, Bồ Đào Nha, được chọn làm địa điểm tổ chức trận chung kết của năm 2014 trong cuộc họp Ban chấp hành UEFA tại Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ, vào ngày 20 tháng 3 năm 2012. Đây là sân nhà của câu lạc bộ Benfica từ năm 2003, được xây dựng lại để tổ chức các trận đấu tại Euro 2004, trong đó có cả trận chung kết. Trước khi bị phá hủy vào năm 2003 để xây một sân mới với sức chứa 65.000 chỗ ngồi, Sân vận động Ánh sáng cũ đã tổ chức trận chung kết Cúp C2 châu Âu năm 1992, trận đấu mà Werder Bremen đánh bại AS Monaco 2-0 để giành chức vô địch, và trận thứ hai là chung kết UEFA Cup (sau này là Europa League) năm 1983, khi đó Anderlecht có được kết quả hòa 1-1 với Benfica để nâng cao chiếc cúp vô địch. Lần cuối cùng trận chung kết cúp C1 châu Âu được chơi ở Lisbon là vào năm 1967, khi Celtic đánh bại Inter 2-1 tại Estádio Nacional. Lisbon cũng tổ chức trận chung kết cúp UEFA năm 2005 tại Estádio José Alvalade, sân nhà của đội bóng đồng hương của Benfica và lọt vào trận chung kết đó, Sporting CP, nhưng đội bóng này bị thua 3-1 trước CSKA Moskva. Thống kê trước trận đấu. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử UEFA Champions League, có một trận chung kết giữa hai đội bóng đến từ cùng một thành phố và là trận chung kết lần thứ hai liên tiếp giữa hai đội bóng cùng quốc gia. Đây cũng là lần thứ hai có một trận chung kết toàn Tây Ban Nha, sau trận chung kết năm 2000 giữa Real Madrid và Valencia, và trận chung kết thứ năm giữa các đội từ cùng một quốc gia, những trận chung kết khác giữa hai đội cùng quốc gia là vào các năm: 2003 (Italy), 2008 (Anh), và 2013 (Đức). Real Madrid đạt kỷ lục 13 trận chung kết Champions League sau khi giành chiến thắng với tổng tỷ số 5-0 trước các nhà đương kim vô địch Bayern München, đây là lần đầu tiên họ lọt đến trận chung kết kể từ khi giành chức vô địch lần thứ 9 năm 2002. Trước đây họ đã chiến thắng ở trận chung kết vào các năm 1956, 1957, 1958, 1959, 1960, 1966, 1998, 2000, và 2002, nhưng cũng bị thua vào các năm 1962, 1964, và 1981. Đây cũng sẽ là lần lọt vào chung kết thứ 17 của Real trong tất cả các giải đấu của UEFA, vì họ cũng đã chơi tại hai trận chung kết UEFA Cup Winner's Cup (thua các năm 1971, 1983) và hai trận chung kết UEFA Cup (vô địch năm 1985 và 1986). Đây là trận chung kết Champions League thứ tư cho huấn luyện viên hiện tại của họ, Carlo Ancelotti, người trước đây đã từng huấn luyện Milan giành được chức vô địch vào các năm 2003, 2007 nhưng thất bại vào năm 2005. Tính cả lần này thì Ancelotti đã cân bằng được các kỷ lục được tạo bởi Alex Ferguson, Marcello Lippi, và Miguel Muñoz. Mục tiêu của Ancelotti là cân bằng kỷ lục của Bob Paisley, huấn luyện viên duy nhất giành 3 chức vô địch Champions League, và cũng trở thành huấn luyện viên thứ năm giành chức vô địch với hai câu lạc bộ khác nhau, sau Ernst Happel, Ottmar Hitzfeld, José Mourinho, và Jupp Heynckes. Atlético Madrid, lần đầu tiên vô địch La Liga kể từ năm 1996, đã lọt vào trận chung kết Cúp châu Âu đầu tiên của họ sau bốn mươi năm khi đánh bại nhà vô địch năm 2012, Chelsea, với tổng tỷ số 4-1. Đây là sự chờ đợi dài nhất giữa hai trận chung kết, vượt qua mốc 38 năm chờ đợi của Inter (1972-2010). Lần trước, họ lọt tới trận chung kết Cúp châu Âu năm 1974 và Atlético Madrid thất bại trước FC Bayern München sau khi kết thúc trận đấu lại. Atlético Madrid cũng đã góp mặt trong ba trận chung kết UEFA Cup Winners Cup (vô địch năm 1962, thua vào các năm năm 1963 và 1986) và hai trận chung kết Europa League (vô địch các năm năm 2010 và 2012), với chức vô địch gần nhất là vào chung kết UEFA Europa League năm 2012 cùng huấn luyện viên hiện tại, Diego Simeone. Ông có cơ hội cân bằng thành tích của Luis Carniglia và Helenio Herrera, các huấn luyện viên không phải người châu Âu từng giành chức vô địch European Cup/Champions League. Nếu giành chiến thắng trong trận đấu chung kết này, họ sẽ cân bằng thành tích của Juventus, Ajax, Bayern Munich, và Chelsea, là những câu lạc bộ đã giành được đủ chức vô địch của cả ba giải đấu chính thức ở châu Âu. Trong các trận derby Madrid tại cúp châu Âu trước, vào bán kết European Cup 1958-1959, Real Madrid đánh bại Atletico Madrid 2-1 trong trận đấu lại, sau khi hòa 2-2 ở trận diễn ra trước đó. Trong mùa bóng 2013-14, Atletico Madrid đánh bại Real Madrid 1-0 ở lượt đi và hoà 2-2 tại lượt về của La Liga, trong khi Real Madrid đã loại Atlético Madrid trong trận bán kết Copa del Rey (Cúp Nhà vua Tây Ban Nha), với chiến thắng 3-0 trên sân nhà và 2-0 trên sân khách. Đường đến chung kết. "Chú ý: Ở dưới, phần ghi kết quả, cần chú ý C là sân nhà. K là sân khách. Ghi từ vòng bảng đến vòng loại trực tiếp." Bên lề. Đại sứ. Cựu cầu thủ bóng đá quốc tế người Bồ Đào Nha Luís Figo, người đã giành chức vô địch Champions League với Real Madrid vào năm 2002, là đại sứ cho trận chung kết. Logo. UEFA công bố logo của trận đấu vào ngày 29 tháng 8 năm 2013, cùng ngày chia bảng để thi đấu vòng bảng. Ý tưởng thiết kế lấy cảm hứng bởi cơ sở từ những phát kiến của người Bồ Đào Nha, cụ thể là hỗn thiên nghi và hoa gió, là những vật dụng quan trọng được những nhà thám hiểm biển người Bồ Đào Nha dùng để đo vị trí của các ngôi sao. Giá vé. Giai đoạn bán vé quốc tế đã diễn ra từ ngày 10-21 tháng 3 năm 2014. Vé có bốn mệnh giá lần lượt là: €390, €280, €160 và €70. Trong hai câu lạc bộ lọt vào trận chung kết mỗi đội được UEFA phân bố 16,970 vé. Atlético dành 14,000 vé có sẵn cho các thành viên trong đội bóng, với giới hạn một vé cho mỗi thành viên. Real Madrid đã nhận 24,103 yêu cầu từ 73,314 thành viên câu lạc bộ cho tổng cộng 13,134; do nhu cầu lớn nên vé sẽ được trao bằng cách bốc thăm. Điều khiển trận đấu. Vị trọng tài 41 tuổi người Hà Lan Björn Kuipers được UEFA chỉ định bắt chính trong trận chung kết. Trước đó ông từng cầm còi trong các trận UEFA Super Cup 2011, Chung kết UEFA Europa League 2013 và Chung kết Cúp liên đoàn các châu lục 2013. Ông trở thành trọng tài người Hà Lan thứ tư trong một trận đấu chung kết European Cup/Champions League sau Leo Horn (1957, 1962), Charles Corver (1978) và Dick Jol (2001). Đội ngũ trọng tài còn lại bao gồm những người đồng hương Sander van Roekel và Erwin Zeinstra làm trợ lý trọng tài, Pol van Boekel và Richard Liesveld làm trợ lý trọng tài thay thế và ông Cüneyt Çakır người Thổ Nhĩ Kỳ là trọng tài chính thức thứ tư. Sự kiện liên quan. Hai chiếc cúp UEFA Champions League và UEFA Women's Champions League được bàn giao cho thành phố chủ nhà Lisbon trong một buổi lễ tổ chức ở City Hall ngày 17 tháng 4 năm 2014. Thị trưởng thành phố Lisbon, ông António Costa đã nhận hai chiếc cúp bạc từ tay vị chủ tịch UEFA Michel Platini, người có quyết định hợp lý để tổ chức trận chung kết UEFA Champions League ở Lisbon với thực tế rằng "đã quá lâu kể từ khi trận chung kết có mặt ở Bồ Đào Nha" và để dành tặng cho "niềm đam mê và tình yêu bóng đá của người dân Bồ Đào Nha". Những người giữ cúp chính cho cả hai trận chung kết được đại diện trong sự kiện bởi chủ tịch Bayern München Karl-Heinz Rummenigge, tiền vệ Xherdan Shaqiri và hậu vệ Wolfsburg Lina Magull. Cùng tham dự buổi lễ còn có chủ tịch Liên đoàn bóng đá Bồ Đào Nha Fernando Gomes và đại sứ trận chung kết Luís Figo. Khi hai người đang trên đường đến Lisbon và trước khi buổi lễ bắt đầu, những chiếc cúp đã được đem diễu hành bằng xe điện cũ qua thành phố trong tay của đại sứ quảng bá chiếc cúp Vitor Baía, cựu thủ môn Porto cũng như tuyển quốc gia Bồ Đào Nha và Mónica Jorge, cựu huấn luyện viên đội tuyển bóng đá nữ quốc gia. Festival UEFA Champions League thường niên diễn ra từ ngày 22 đến 25 tháng 5 năm 2014 tại Praça làm Comércio nằm ở trung tâm thành phố. Chung kết của giải dành cho nữ đã diễn ra vào ngày 22 tháng 5 năm 2014 tại Estádio do Restelo., là cuộc đọ sức giữa đội bóng Thụy Điển Tyresö FF và các nhà đương kim vô địch Wolfsburg. Bị dẫn trước 2-0 sau hiệp một, Wolfsburg đã ngược dòng để dành chiến thắng 4-3. Martina Müller, người từng ghi bàn trong trận chung kết trước tiếp tục lặp lại thành tích này để bảo đảm danh hiệu thứ hai liên tiếp của đội bóng nước Đức. Lễ mở màn. Lễ mở màn trước trận được tổ chức bởi công ty của Canada Circo de Bakuza, với chỉ đạo nghệ thuật bởi biên đạo múa từ London Wanda Rokicki. Cô từng chịu trách nhiệm cho phân đoạn nghệ thuật của nhiều sự kiện thể thao quốc tế tầm cỡ như Thế vận hội Mùa hè 2004, Giải bóng đá vô địch thế giới 2010, Đại hội thể thao Khối Thịnh vượng chung 2002 và 2006. Được nhận thức để "tôn vinh truyền thống Bồ Đào Nha, bao gồm lịch sử hải quân hoặc nghệ thuật ốp lát", chương trình cần đến sáu tháng chuẩn bị và tham gia tổng cộng 400 tình nguyện viên, 90 ca sĩ và 84 băng rôn cỡ lớn. Bài hát chủ đề UEFA Champions League do ca sĩ fado người Bồ Đào Nha Mariza trình bày. Thông tin trận đấu. Nhân sự. Cầu thủ duy nhất bị đình chỉ thi đấu trận chung kết là Xabi Alonso của Real Madrid, cầu thủ đã phải nhận thẻ vàng thứ ba trong trận bán kết lượt về. Để thay thế vị trí của anh, Carlo Ancelotti đã lựa chọn tiền vệ người Đức Sami Khedira, người mới chỉ trở lại sau chấn thương. Pepe cũng bị loại khỏi đội hình xuất phát, người chơi thay anh là trung vệ 21 tuổi người Pháp Raphaël Varane. Bộ ba tấn công của Real Madrid Cristiano Ronaldo, Gareth Bale và Karim Benzema ban đầu còn bỏ ngỏ về việc góp mặt, nhưng cả ba đều đã bình phục chấn thương để có tên trong đội hình xuất phát. Đội trưởng Atlético Gabi trở lại sau án treo giò, trong khi tiền đạo Diego Costa được điền tên vào đội hình xuất phát dù vừa trải qua điều trị nhau thai ngựa cho một chấn thương gân kheo gặp phải trong trận đấu cuối cùng của giải vô địch quốc gia vào thứ bảy tuần trước. Tuy nhiên dù có những lạc quan ban đầu nhưng tiền vệ Arda Turan đã không kịp bình phục chấn thương bị dính phải trong cùng trận đấu trên. Trang phục. Atlético Madrid mặc áo sơ mi với tên cựu huấn luyện viên - cầu thủ đội bóng Luis Aragonés nằm bên trong cổ áo sau khi ông qua đời vào tháng 2 năm 2014, với biểu tượng được chủ tịch UEFA Michel Platini chấp thuận. Cả hai đội đều mặc trang phục sân nhà trong trận chung kết cũng như họ gặp nhau khi thi đầu trong nước. Tóm tắt thi đấu. Chỉ sau tám phút, tiền đạo Atlético Diego Costa buộc phải rời sân vì chấn thương trước đó tái phát. Gareth Bale có cơ hội tốt nhất của Real chỉ sau nửa giờ đồng hồ nhưng chỉ vài phút sau Atlético đã trừng phạt pha bỏ lỡ này. Cú đánh đầu của Diego Godín khiến đội trưởng Real Casillas không thể cản phá, đưa Atlético vượt lên dẫn trước. Hiệp hai chứng kiến Real đẩy cao tấn công khi họ cần tìm kiếm bàn thắng cân bằng tỉ số để từ chối danh hiệu Champions League đầu tiên của Atlético. Huấn luyện viên Carlo Ancelotti đưa ra hai sự thay đổi người liên tiếp, Fábio Coentrão và Khedira vào sân thế chỗ Marcelo và Isco. Atlético phòng ngự tổng lực còn Real tiếp tục bỏ lỡ một vài cơ hội. Cuối cùng hàng phòng ngự của Atlético cũng bị phá vỡ ở phút bù giờ thứ ba của hiệp hai bằng một cú đánh đầu hiểm hóc của Sergio Ramos vào góc trái khung thành từ quả phạt góc bên cánh phải do Luka Modrić thực hiện. Trận đấu bước vào hiệp phụ khi Atlético rõ ràng đã kiệt sức và không còn quyền thay người nào cho cả hai đội. Real Madrid trở nên chiếm ưu thế vượt trội trong hiệp phụ, bằng chứng là pha bứt tốc của Ángel Di María bên cánh trái, đi qua tới ba cầu thủ hậu vệ Atlético rồi dứt điểm bóng chìm. Thibaut Courtois cố gắng cản phát cú sút của cầu thủ người Argentina nhưng chỉ khiến bóng đổi hướng đến Bale, người dễ dàng bật cao đánh đầu vào lưới trống, giúp Real lần đầu vượt lên dẫn trước ở phút 110. Sau đó Real có thêm hai bàn thắng nữa trên bảng tỉ số, bắt đầu bằng pha sút bóng chìm bằng chân trái của Marcelo từ ngoài vòng cấm địa ở phút 118. Những phút cuối cùng của hiệp phụ, Real được hưởng một quả penalty sau khi Cristiano Ronaldo bị Diego Godín phạm lỗi trong vòng cấm, giúp Ronaldo dứt điểm vào góc phải khung thành, tạo nên kỷ lục ghi mười bảy bàn tại giải đấu. Trong lúc ăn mừng bàn thắng của Ronaldo, Varane sút bóng về phía huấn luyện viên Atlético Diego Simeone, khiến ông giận dữ và chạy thẳng vào trong sân. Sau đó Simone bị đuổi khỏi sân còn Varane bị giữ lại trong vụ ẩu đả. Đây là trận chung kết thứ bảy bước vào hiệp phụ và lần đầu tiên trận đấu được giải quyết trong hiệp này mà không cần đến loạt sút lân lưu. Đây vừa là trận chung kết có nhiều bàn thắng cao thứ hai trong lịch sử giải đấu sau trận hòa 3–3 giữa AC Milan và Liverpool năm 2005, vừa là trận thắng đậm thứ hai sau khi AC Milan vượt qua Barcelona 4–0 năm 1994. Phản ứng. Huấn luyện viên của Atlético Madrid, ông Diego Simeone có một chút tiếc nuối khi lỡ cơ hội đăng quang Champions League. "Cảm giác của tôi lúc này không thể gọi là buồn", ông nói sau trận. "Tôi cảm thấy chua xót vì chúng tôi không thể hoàn thành mục tiêu". Dù có chút thất vọng, chiến lược gia người Argentina vẫn cảm thấy tự hào với những gì các học trò làm được trong 120 phút thi đấu. "Trận đấu này không đáng để khóc bởi lẽ khi bạn làm mọi thứ có thể, bạn cần ngẩng cao đầu", Simeone chia sẻ. "Bóng đá có thắng có thua. Hôm nay chúng tôi là những kẻ bại trận. Tuy nhiên, chúng tôi biết rằng đội bóng đã trở nên mạnh mẽ hơn. Người hâm mộ cũng nhìn thấy năng lực thực sự của Atletico. Mùa tới, Atletico sẽ còn chơi hay hơn và thi đấu tốt như những gì đã làm ở mùa này". Ông cho rằng đội bóng của ông đá tốt hiệp một và phần còn lại thuộc về Real. "Nhìn tổng thể, chúng tôi bị khóa lại bắt đầu từ hiệp hai. Đây là một thử thách quá khó khăn. Phần còn lại của trận đấu rất tuyệt vời với những gì đã diễn ra". Hậu vệ của Real Sergio Ramos xúc động phát biểu sau trận đấu khi ghi bàn gỡ hòa 1-1 ở phút bù giờ thứ ba hiệp hai, "Đây là bàn thắng quan trọng nhất sự nghiệp của tôi", "Tôi hài lòng với những nỗ lực đến tận giờ phút cuối cùng. Đây không phải là bàn thắng cho cá nhân tôi mà dành cho tất cả người hâm mộ Real và những ai đã ủng hộ chúng tôi. Đây là cảm xúc không thể diễn tả thành lời".
1
null
Lễ hội búp bê Nhật Bản (Hina matsuri 雛祭り) là ngày dành cho bé gái, tổ chức hằng năm vào ngày 3 tháng 3. Lễ hội trở thành một nét văn hóa đặc trưng độc đáo trong đời sống người Nhật Bản. Lịch sử. Truyền thống chơi búp bê trong ngày của bé gái được bắt nguồn từ Thời kỳ Heian (794-1185), một giai đoạn trong lịch sử Nhật Bản. Ngày xưa người Nhật tin rằng, con búp bê có thể xua đuổi những linh hồn xấu. Vì vậy, họ đã làm ra những búp bê bằng rơm rồi thả xuống sông với mong muốn cầu mong cho những điều không tốt sẽ tránh xa những đứa bé. Người Nhật gọi ngày hội này là "Hina Matsuri" (雛祭り), "Matsuri" có nghĩa là lễ hội, "Hina" có nghĩa là búp bê nhỏ, lễ hội còn được gọi là "Momo no sekku" (桃の節句) nghĩa là "lễ hội hoa đào". Và người Nhật chọn ngày 3 tháng 3 hằng năm tổ chức lễ hội, vì đầu tháng 3 còn là thời điểm hoa đào nở rộ ở Nhật. Ý nghĩa lễ hội. Lễ hội trở thành ngày cầu phúc, may mắn và sức khoẻ cho các bé gái trong gia đình, ước nguyện cho một cuộc hôn nhân hạnh phúc và cuộc sống gia đình sung túc mà các bậc cha mẹ nào cũng luôn mong muốn cho con gái của họ. Lễ hội còn là dịp cả gia đình đoàn tụ cùng ra ngoài và tận hưởng khí trời khi mùa xuân mới sắp về.  Búp bê Hina. Búp bê Hina là những vật trang trọng, được truyền từ đời này sang đời khác qua nhiều thế hệ. Chúng được trưng bày trong căn phòng đẹp nhất của gia đình một vài ngày trong kỳ lễ hội và sau đó được cất giữ cẩn thận trong hộp cho đến kỳ lễ hội của năm sau. Trong những gia đình khá giả, cha mẹ cũng thường mua tặng cho con gái mới sinh của họ một bộ búp bê để chuẩn bị cho ngày Hina Matsuri Một bộ búp bê Hina đầy đủ có ít nhất 15 búp bê trong trang phục truyền thống làm bằng vải tơ tằm và được trang trí trên một kệ (Hina-ningyo) bảy tầng trải bằng thảm đỏ, dưới có sọc cầu vòng và để ở nơi trang trọng trong nhà. Tầng cao nhất trên cùng là vua và hoàng hậu (được gọi là "Dairibina" 内裏様). Vua được đặt bên trái và hoàng hậu được đặt bên phải. Sau lưng là một bức bình phong làm giấy vàng, hai bên có hai cây đèn đứng in hoa văn. Trước mặt vua và hoàng hậu là hai bình hoa được cắm hai nhánh hoa đào và hai bệ đựng mochi - một loại bánh dày nhân ngọt truyền thống của Nhật làm từ bột gạo. Tầng thứ hai gồm ba con búp bê, là 3 cung nữ hầu rượu sake cho vua và hoàng hậu. Hai người hai bên ở tư thế đứng, người ở giữa thì ngồi. Ở giữa 3 người này là 2 takatsuki, loại bàn đứng được đặt Mochi hình tròn, 2 tầng trắng và hồng. Tầng thứ ba gồm 5 búp bê. Đây là 5 nhạc công nam, 3 người chơi trống, 1 người thổi sáo, và 1 người cầm quạt. Tầng thứ tư là 2 búp bê đại thần, bên trái là đại tướng quân. Tầng thứ năm gồm 3 búp bê là hộ vệ cho vua và hoàng hậu. Hai bên được trang trí bằng một chậu hoa đào và một chậu quất. Tầng thứ sáu và tầng dưới cùng dùng để trang trí nhiều vật dụng khác nhau như một loạt các đồ nội thất nhỏ, công cụ, toa xe Tuy nhiên không phải gia đình nào cũng có thể sắm sửa, trưng bày được cả bảy tầng đúng như nghi thức mà thường đơn giản hóa đi, chỉ bày những tầng cơ bản nhất ở trên cùng. Những tập tục trong ngày lễ. Vào ngày lễ các bé gái sẽ được cha mẹ tổ chức buổi tiệc dành riêng cho mình. Đây là dịp các bé gái có thể mời bạn bè đến nhà cùng thưởng thức những món ăn và bánh kẹo đặc trưng của lễ hội này, như là bánh gạo hishimochi, xôi đỗ sekihan, uống rượu ngọt shirosake được làm từ gạo lên men, các loại kẹo màu, các loại thạch… được dâng cho các búp bê. Các món ăn, bánh, kẹo đều có màu sắc phong phú, xanh, hồng, trắng được chế biến từ các loại lá cây rất tốt cho sức khỏe nhằm xua đuổi đi những ốm đau. bệnh tật Người Nhật còn ăn chirashizushi, một món cơm sushi với nhiều loại nguyên liệu tươi ngon nữa, trong đó phải có món cá sống đặc trưng. Họ ăn canh nghêu, vì tin rằng hai mảnh vỏ nghêu ghép với nhau là biểu tượng của cuộc sống hạnh phúc và thuận hòa. Trong lễ hội này người Nhật thường chưng hoa đào nên Hina Matsuri còn có tên là "Momo-no-sekku" nghĩa là Lễ hội hoa đào. Hoa đào loài hoa tượng trưng cho cuộc sống hôn nhân hạnh phúc, là biểu tượng không thể thiếu trong ngày lễ này. Ngày nay, mỗi năm đến dịp Hina matsuri, các gia đình Nhật vẫn giữ truyền thống trang trí búp bê. Những con búp bê gia truyền được người Nhật trân trọng và các cô dâu khi về nhà chồng cũng được cho mang theo như một bảo vật hộ mệnh của gia đình.
1
null
Lamprophyr (tiếng Hy Lap λαµπρός (lamprós) = "sáng" và φύρω (phýro) = trộn lẫn) là một loại đá mácma siêu kali có thể tích nhỏ và không phổ biến xuất hiện ở dạng đai mạch, thể chậu ("lopolith"), thể nấm ("laccolith"), stocks và các thể xâm nhập nhỏ. Đây là các loại đá mafic hoặc siêu mafic kiềm chưa bảo hòa silica, có hàm lượng magiê oxide cao, >3% kali oxide, oxide natri cao, và nickel và crôm cao. Lamprophyr có mặt trong suốt các Đại địa chất. Các mẫu thuộc thời kỳ Archaean liên quan phổ biến đến các mỏ vàng. Các mẫu thuộc Đại Tân Sinh bao gồm các đá magnesi ở Mexico và Nam Mỹ, và các đá lamprophyr siêu mafic trẻ gặp ở Gympie, Úc với hàm lượng MgO khoảng 18,5% ở áp suất ~250 Ma.
1
null
"Fluorescent Adolescent" là một bài hát của ban nhạc indie rock người Anh Arctic Monkeys, phát hành như đĩa đơn thứ hai từ album phòng thu thứ hai của họ, Favourite Worst Nightmare. Nó được phát hành vào ngày 4 tháng 7 năm 2007 tại Nhật Bản và ngày 9 tháng 7 năm 2007 tại Vương quốc Anh. Bảng xếp hạng. Chỉ với tải kỹ thuật số, "Fluorescent Adolescent" được xếp ở vị trí thứ 55 trên UK Singles Chart trong một tuần bắt đầu từ ngày 25 tháng 6 năm 2007. Bài hát xếp ở vị trí thứ năm sau khi phát hành đĩa đơn CD bắt đầu từ ngày 16 tháng 7 năm 2007. Các bài hát mặt B của "Fluorescent Adolescent" —"Plastic Tramp", "The Bakery" và "Too Much to Ask"- cũng lần lượt xuất hiện trên UK Singles Chart tại các vị trí # 153, # 161 và # 178.
1
null
Midnight Cowboy (tạm dịch: Gã cao bồi nửa đêm) là một bộ phim phát hành năm 1965 của Điện ảnh Mỹ dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên của nhà văn James Leo Herlihy. Kịch bản của bộ phim được viết bởi Waldo Salt, John Schlesinger đạo diễn với sự tham gia của Jon Voight trong vai chính bên cạnh Dustin Hoffman. Ngoài ra, Midnight Cowboy còn có diễn xuất của các diễn viên khác bao gồm Sylvia Miles, John McGiver, Brenda Vaccaro, Bob Balaban, Jennifer Salt và Barnard Hughes; M. Emmet Walsh xuất hiện trong một vai khách mời. Bộ phim đã thắng 3 giải Oscar: Phim xuất sắc nhất, Đạo diễn xuất sắc nhất và Kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất. Tính đến thời điểm hiện tại, đây là bộ phim xếp hạng X (hạng cao nhất cho phim người lớn) duy nhất thắng giải Phim xuất sắc nhất. Với những giá trị đem lại, bộ phim luôn được xem như là một trong những bộ phim Mỹ hay nhất mọi thời đại. Tóm tắt nội dung. Joe Buck (Jon Voight), một chàng trai trẻ từ Texas, làm dọn dẹp tại một nhà hàng. Mở đầu bộ phim, Joe vận một bộ đồ cao bồi mới, xách một vali và quyết định rời bỏ công việc cũ của mình. Anh hướng tới thành phố New York, tràn ngập hy vọng sẽ thành công với mong muốn trở thành trai bao cho các quý bà. Tuy nhiên, ngay từ lần khởi đầu anh đã không may mắn. Khách hàng đầu tiên của Joe là một phụ nữ luống tuổi (Sylvia Miles), nhưng cô này cũng chỉ là một gái điếm không hơn. Joe sau đó gặp Enrico Salvatore "Ratso" Rizzo (Dustin Hoffman), một tay lừa đảo đường phố và bị thọt, gã này đã lấy của Joe 20$ để giới thiệu anh với một người môi giới sùng đạo (Bible thumper) (John McGiver). Joe cố thoát khỏi sự đeo bám dai dẳng của Ratso. Joe giành vài ngày để ngồi trong khách sạn và suy nghĩ về thành phố. Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau, số tiền mang theo cạn kiệt dần, Joe bị đuổi ra khỏi khách sạn trong khi đồ đạc bị tịch thu. Anh cố tìm cách kiếm tiền khi chấp nhận quan hệ tình dục bằng miệng với một người đàn ông trẻ (Bob Balaban) trong một rạp chiếu phim. Khi Joe phát hiện ra anh chàng này cũng chả có xu nào, anh đe dọa và đòi lấy chiếc đồng hồ, nhưng sau đó cũng để anh ta đi. Những ngày tiếp theo, Joe gặp lại Ratso và vô cùng tức giận. Ratso mời Joe về ở cùng chỗ của mình tại một tòa nhà bỏ hoang. Joe miễn cưỡng chấp nhận và bọn họ thiết lập một "quan hệ kinh doanh" nhằm kiếm tiền. Mối liên hệ giữa 2 người càng phát triển, cũng là khi sức khỏe của Ratso, vốn chưa bao giờ tốt, ngày càng trở lên tồi tệ hơn. Cuộc đời của Joe được thuật lại qua dòng suy nghĩ. Sau khi bị mẹ đẻ bỏ, Joe được bà nuôi nấng mặc dù cũng không nhận được nhiều sự chăm sóc từ người bà này. Anh và bạn gái Crazy Annie bị cưỡng hiếp bởi một băng đảng địa phương, sau đó Joe gia nhập quân đội. Ratso cũng kể lại câu chuyện đời mình. Cha anh là một người Italy di cư mù chữ và đánh giày tại các ga tàu điện ngầm, lưng ông ngày một đau hơn, và ông "cả ngày ho như bắn cả phổi ra ngoài". Ratso học cha cách đánh giày nhưng anh không muốn phải khom mình thêm một ngày nào nữa. Anh mơ ước một ngày nào đó được chuyển đến Miami. Joe và Ratso đến dự một buổi tiệc của Warhol. Joe hút một điếu cần sa (joint) mà anh tưởng chỉ là xì gà. Và sau khi uống vài viên thuốc được đưa cho, anh bắt đầu gặp ảo giác. Joe rời bữa tiệc cùng một người phụ nữ, cô này đồng ý trả 20$ để qua đêm cùng Joe nhưng anh không thể phục vụ. Bọn họ chơi Scribbage cùng nhau. Lúc này, cô gái thắc mắc liệu Joe có phải là một người đồng tính.  Khi Joe trở về nhà, Ratso đang nằm liệt giường và sốt cao. Joe muốn giúp Ratso điều trị nhưng Ratso từ chối và anh cầu xin Joe đưa anh lên một chuyến xe tới Florida. Tuyệt vọng, Joe vào một quán bar đồng tính chọn một gã (Barnard Hughes) và phục vụ. Khi mọi việc đã xong, gã đồng tính này định trả Joe một chiếc mề đay tôn giáo thay vì tiền mặt, nên anh đã cướp đồ của gã. Với số tiền kiếm được, Joe mua vé xe bus. Trên chặng đường tới Florida, tình trạng của Ratso ngày càng nguy cấp. Tại một điểm dừng, Joe mua quần áo mới cho Ratso và cho chính mình, vứt bỏ bộ quần áo cao bồi. Khi gần đến Miami, Joe quay sang nói về những dự định và những công việc mới khi cả hai đến nơi, nhưng nhận ra Ratso đã chết. Xe bus đến điểm cuối, lái xe nói với Joe rằng Miami ngay gần đây. Bộ phim kết thúc với cảnh Joe ngồi với vòng tay choàng qua người bạn đã mất của anh. Sản xuất. Midnight Cowboy là bộ phim đầu tiên của quay phim Adam Holender được phát hành; anh được giới thiệu tới Schlesinger qua người bạn thời thơ ấu của mình, nhà làm phim Roman Polanski. Bộ phim bắt đầu với một cảnh quay tại Big Spring, Texas. Một tấm biển quảng cáo nằm cạnh đường với lời giới thiệu "IF YOU DON’T HAVE AN OIL WELL...GET ONE" hiện ra trên hành trình của chuyến xe đưa Joe rời Texas. Những biển quảng cáo như vậy rất phổ biến tại miền Tây Nam nước Mỹ hồi thập niên 60 và 70, được thực hiện bởi Công ty Viễn Tây Bắc Hoa Kỳ của Eddie Chiles. Joe lần đầu tiên nhận ra chuyến xe bus tới New York khi anh nghe một mẩu quảng cáo của Ron Lundy trên kênh WABC lúc anh đang theo dõi kênh phát thanh yêu thích của mình. Vào thời điểm bộ phim được quay năm 1969, Lundy làm việc vào ca giữa trưa (10 AM-1 PM) từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 7 tại trạm phát thanh. Tại New York, Joe trọ tại khách sạn Claridge, nằm trong một góc phía đông nam Broadway và phố 44 Tây ở Manhattan. Căn phòng của anh có thể nhìn hướng ra một nửa phía bắc Quảng trường Thời đại. Tòa nhà này, được thiết kế bởi D.H. Burnham & Company khánh thành vào năm 1911 nhưng hiện tại đã bị phá hủy. Trong bộ phim xuất hiện 3 lần cảnh quay tại New York đi qua tòa nhà Mutual of New York (MONY) nằm tại 1740 Broadway. MONY cũng được lặp lại một lần nữa trong khi Joe chơi Scribbage cùng Shirley, anh xếp chữ "money" sai thành "mony". Mặc dù khắc họa chân dung của Joe Buck, một người tuyệt vọng trong quá trình sinh sống tại New York, Jon Voight lại là một người New York bản địa, còn được gọi là Yonkers. Dustin Hoffman, người đóng vai một cựu chiến binh khập khiễng, đến từ Los Angeles. Voight chỉ được Screen Actors Guild trả mức tiền công tối thiểu cho vai diễn của mình, một sự nhượng bộ của nam diễn viên để nhận được vai này. Câu thoại "I'm walkin' here!" (Tao đang đi đấy) đứng thứ 27 trong Danh sách 100 câu thoại đáng nhớ trong phim của Viện phim Mỹ không hề được dự liệu trước, nhưng nhà sản xuất Jerome Hellman tranh luận về vấn đề này trong 2 đĩa DVD quá trình quay Midnight Cowboy. Tuy nhiên, Hoffman giải thích sự khác biệt trong Inside the Actors Studio của Bravo. Trong cảnh quay đó, thời gian được căn chuẩn xác và khi những chiếc taxi xuất hiện nó gần như đâm phải họ. Hoffman gần như muốn nói "We’re filming a movie here" nhưng anh không muốn làm hỏng cảnh quay này. Sau phản hồi đầu tiên viết bởi Hiệp hội Điện ảnh Hoa Kỳ (MPAA), Midnight Cowboy nhận một nhãn R (Restricted). Tuy nhiên, sau tư vấn của những nhà tâm thần học, người điều hành tại United Artists chấp nhận nhãn X, vì "những cảnh quay đồng tính" và "có khả năng ảnh hưởng đến thanh niên". Bộ phim được phát hành với nhãn X. MPAA sau đó đề nghị lại nhãn R và nâng độ tuổi giới hạn xem phim từ 16 lên 17 tuổi. Do đó bộ phim được phát hành với nhãn R trong lần tái phát hành năm 1971 cho tới nay. Sự ghi nhận. Bộ phim thu được 11 triệu USD doanh thu phòng vé tại Bắc Mỹ. Midnight Cowboy thắng 3 giải Oscar cho các hạng mục: Phim hay nhất, Đạo diễn xuất sắc nhất và Kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất, trở thành bộ phim duy nhất dán nhãn X thắng giải Oscar trong bất cứ hạng mục nào, và là một trong 3 bộ phim nhãn X được đề cử cho một giải Oscar (2 bộ phim còn lại là A Clockwork Orange năm 1971 của Stanley Kubrick và Last Tango in Paris năm 1972 của Bernado Bertolucci). Cả Hoffman và Voight đều được đề cử cho Nam diễn viên chính xuất sắc nhất và Sylvia Miles được đề cử cho Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất, trở thành một trong những vai diễn ngắn nhất được đề cử (vai diễn của cô chỉ kéo dài 5 phút). Ngoài ra, bộ phim còn thắng 6 giải BAFTA và tham gia Liên hoan phim Quốc tế Berlin lần thứ 19. Năm 1994, bộ phim được ghi nhận bởi Thư viện Quốc hội Mỹ và được chọn bảo tồn trong Viện lưu trữ phim quốc gia cho những giá trị to lớn về "văn hóa, lịch sử hoặc thẩm mỹ". Nhạc phim. John Barry, người giám sát và biên soạn nhạc cho bộ phim, đã thắng giải Grammy cho Nhạc phim hay nhất, mặc dù anh cũng như nhiều người khác, không được ghi danh trong phim. Ca khúc Everebody’s Talking thắng giải Grammy cho Màn trình diễn nhạc pop của nam ca sĩ xuất sắc nhất cho Harry Nilsson. Schlesinger chọn ca khúc Everybody’s Talking (viết bởi Fred Neil và thể hiện bởi Harry Nilsson) làm ca khúc chính thức cho bộ phim và ca khúc này cũng được xuất hiện ngay cảnh đầu tiên. Một số ca khúc khác được cân nhắc cho bài nhạc chủ đề bao gồm "I Guess the Lord Must Be in New York City" của Nilsson và "Cowboy" của Randy Newman (Bob Dylan viết ca khúc "Lay Lady Lay" cho bộ phim nhưng không hoàn thiện trước khi bộ phim phát hành). Ca khúc "He Quit Me" cũng xuất hiện trong phim, thể hiện bởi Lesley Miller. Nó được viết bởi Warren Zevon, ca khúc này sau đó với tên gọi "She Quit Me" cũng nằm trong album đầu tay của anh Wanted Dead or Alive. Bộ phim cũng gồm các ca khúc khác từ Elephant’s Memory, Randy Newman và Harry Nilsson và một đoạn nhạc điện tử trình diễn bởi Moog Synthesize và Walter Sear.
1
null
Nguyễn Năng Nguyễn (sinh 1949) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, nguyên Phó Tổng Tham mưu trưởng (2004-2009). Thân thế và sự nghiệp. Ông quê quán tại xã Tân An, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương, sinh ra trong gia đình nông dân. Từ khi nhập ngũ vào năm 1966 vào Quân đội ông đã trải qua nhiều chức vụ từ Trung đội trưởng đến sư đoàn trưởng, khi tròn 30 mươi tuổi ông đã giữ chức Trung đoàn trưởng, 36 tuổi ông đã là cán bộ sư đoàn, phó Tư lệnh rồi Tư lệnh Quân đoàn 4 Năm 1999 khi tròn 50 mươi tuổi ông được bổ nhiệm giữ chức Tư lệnh Quân đoàn 4. Năm 2004, bổ nhiệm giữ chức Phó Tổng Tham mưu trưởng, Năm 2010, ông nghỉ hưu. Thiếu tướng (1999), Trung tướng (2004).
1
null
"Mr.Mr." (tiếng Hàn 미스터,미스터, "Miseuteo miseuteo") là một bài hát tiếng Hàn của nhóm nhạc nữ Hàn Quốc Girls' Generation, được phát hành vào ngày 28 tháng 2 năm 2014, cũng là bài hát chủ đề trong mini-album tiếng Hàn thứ tư của họ, "Mr.Mr.". Bài hát được sản xuất bởi nhóm sản xuất âm nhạc Hoa Kỳ "The Underdogs". Lịch sử phát hành. "Mr.Mr.", là ca khúc electropop dance và R&B, được sản xuất bởi "The Underdogs", một nhóm sản xuất âm nhạc Hoa Kỳ đã từng làm việc với Beyoncé, Justin Timberlake và Chris Brown. SM Entertainment cũng tiết lộ rằng hình tượng trở lại của "Mr.Mr." là "những cô gái sang trọng, bí ẩn" chứ không phải "gợi cảm" và tuyên bố: "Chúng ta sẽ thấy một sự thay đổi mà chỉ Girls' Generation có thể làm được." Vũ đạo của ca khúc chủ đề "Mr.Mr." được dàn dựng bởi biên đạo múa Jillian Meyer, người đã làm việc với Janet Jackson, Celine Dion và Kylie Minogue. Mini-album "Mr.Mr." được phát hành kỹ thuật số vào ngày 24 tháng 2 năm 2014 lúc 17:00 (KST). Mini-album, bao gồm sáu bài hát, đã được phát hành trên toàn thế giới thông qua iTunes Store, Melon, Genie, và các trang web nhạc trực tuyến khác. Mini-album dạng đĩa được bán vào ngày 27 tháng 2 năm 2014. Ngoài ra, màn trở lại đầu tiên của nhóm đã được lên kế hoạch vào ngày 6 tháng 3 năm 2014 tại "M! Countdown". Phiên bản tiếng Nhật của "Mr.Mr." đã được phát hành vào ngày 21 tháng 3 năm 2014. Tuy nhiên, không một video âm nhạc hay đĩa đơn nào được công bố. Bài hát còn được phát hành trong album tuyển tập tiếng Nhật đầu tiên của nhóm - "The Best" - được phát hành vào ngày 23 tháng 7 năm 2014. Vào ngày 2 tháng 6 năm 2014, Tạp chí Time tiết lộ rằng "Mr.Mr." là một trong 25 bài hát hay nhất trong nửa đầu năm 2014 theo tạp chí này. Mô tả ca khúc, nhà báo Lily Rothman viết, "Những người hâm mộ của nhóm nhạc K-pop Girls' Generation (hay SNSD) sẽ không thất vọng với ca khúc nhạc dance bắt tai gần đây nhất của họ, đi kèm với phần bass điện tử gai góc và một chút u tối, sẽ thu hút được cả những người không chú ý tới kiểu nhạc bubblegum pop này." Lời bài hát. Lời bài hát do "The Underdogs" điều chỉnh được cung cấp bởi nhạc sĩ Jo Yungyeong và Kim Hee -jeong, cả hai đều gắn liền với Girls' Generation được 8 năm. Jo Yungyeong cũng là người đã cung cấp lời cho các bài ""Back Hug" và "Soul" trong cùng một mini-album "Mr.Mr."". Lời bài hát của bài hát "Mr.Mr." được hát từ Girls' Generation thể hiện theo quan điểm của một người phụ nữ trong tình yêu. Bài hát bắt đầu bằng: Tuy nhiên so với các ca khúc như I Got a Boy (아이 갓 어 보이 "ai gat eo boi") kể về một "Chàng hoàng tử" đưa cô gái đến thiên đường thì lời bài hát của " Mr.Mr" lại chẳng hạn như "Anh đang lo sợ điều gì vậy?" để động viên người đàn ông có hành động tích cực hơn. Trình diễn trực tiếp. Girls' Generation đã có buổi biểu diễn trở lại đầu tiên của họ tại chương trình âm nhạc hàng tuần M! Countdown của Mnet vào ngày 6 tháng 3 năm 2014, đồng thời cũng biểu diễn ca khúc "Wait A Minute". Nhóm đã tiếp tục thực hiện các buổi biểu diễn tại tuần đầu tiên để quảng bá cho album tại chương trình "Music Bank" của đài KBS, "Show! Music Core" của đài MBC và "The Music Trend" của đài SBS vào ngày 7,8 và 9 sau đó. Girls' Generation biểu diễn màn trở lại đầu tiên của họ tại M! Countdown vào lúc 11:00 (KST). Họ đã biểu diễn "Mr.Mr." với bộ quần áo mà chúng ta đã thấy trong video âm nhạc và thực hiện vũ đạo, với động tác chính của họ, điệu nhảy xoay cổ tay. Điệu nhảy xoay cổ tay mô tả một người đang mở khóa các chuỗi ràng buộc người đó, có liên quan đến lời của bài hát, "Deo dangdanghage neon, Mr.Mr." (Hãy mạnh mẽ hơn, Mr.Mr.) Họ cũng biểu diễn bài hát "Wait A Minute" với vũ đạo tai thỏ. Phiên bản tiếng Nhật của ca khúc được sử dụng để biểu diễn tại các sự kiện ở Nhật Bản, chẳng hạn như tour diễn vòng quanh Nhật Bản thứ ba của họ - GIRLS’ GENERATION ~LOVE&PEACE~ Japan 3rd Tour. Video âm nhạc. Bối cảnh. Video âm nhạc đầy đủ đã được chính thức phát hành vào ngày 28 tháng 2 năm 2014 vào lúc 10:00 (KST). Theo một thông tin độc quyền từ trang báo OSEN, trong quá trình cuối của việc chuẩn bị phát hành video âm nhạc của ca khúc chủ đề "Mr.Mr.", vào ngày 13 tháng 2, SM Entertainment đã thông báo họ gặp phải sai lầm không đáng có và dẫn đến mất đi một phần trong video. Công ty này cũng cho biết họ sẽ cố gắng khôi phục lại dữ liệu. Tuy nhiên, để có thời gian sửa chữa tốt nhất, kế hoạch ban đầu của Girls' Generation sẽ bị hủy bỏ và đẩy lùi khoảng 2 tuần. Nhiều nguồn dư luận cho rằng lý do này được SM Entertainment đưa ra chỉ là lý do để họ hợp lý hóa ý định đẩy lùi ngày trở lại của Girls' Generation đáp trả lại mong muốn của công ty đối thủ của họ, YG Entertainment, về một trận chiến nhóm nhạc nữ sẽ xảy ra giữa Girls' Generation và 2NE1 được đăng tải trên trang mạng xã hội Twitter chính thức của YG Entertainment. Tóm tắt. MV bắt đầu với những đồ dùng y tế như những viên thuốc, mặt nạ truyền khí, và hình ảnh các cô gái cầm các mũi tiêm. Anh chàng không đủ dũng cảm để thú nhận với cô gái mà anh thích và có vẻ lạnh lùng ngay cả khi ở gần các cô gái. Anh mắc phải căn bệnh tim cấp tính. Do đó, anh sẽ phải làm phẫu thuật. Các cô gái cho anh ta một số thuốc gây mê và đó là lý do tại sao tầm nhìn của anh chàng trở nên mờ. Anh cũng mơ ước về việc tại sao ông vẫn còn lạnh lùng với các cô gái. Các cô gái giả vờ như các bác sĩ và sau đó họ chữa bệnh cho anh ta, thay đổi trái tim để anh có thể có đủ can đảm để thú nhận. Cuộc phẫu thuật đã thành công và khi tỉnh dậy, ông đã có một viễn cảnh của một cô gái đáng yêu như anh đã từng nghĩ trước đây.
1
null
là tiểu phần thứ 217 nằm trong loạt manga Nhật Bản "Thám tử lừng danh Conan" của Aoyama Gōshō. Tiểu phần được đăng trên tạp chí "Weekly Shōnen Sunday" của Shogakukan từ tháng 8 đến tháng 10 năm 2010 trong các số in từ 36 đến 46 và gồm mười chương truyện. Từng chương truyện lẻ được tập hợp thành các tập "tankōbon" thứ 71 và 72, lần lượt phát hành tại Nhật Bản vào ngày 18 tháng 2 và 17 tháng 6 năm 2011. Phần lớn nội dung tiểu phần được tóm gọn trong tập truyện thứ 71, đưa nó thành loạt manga bán chạy thứ 21 trong nửa đầu năm 2011. Bộ anime truyền hình "Thám tử lừng danh Conan" đã chuyển thể tiểu phần "Khải huyền của Holmes" thành các tập phim 616–621, phát sóng từ ngày 21 tháng 5 năm 2011 đến 25 tháng 6 năm 2011 trên Nippon Television Network System. Các tập phim này nằm trong top 6 bộ anime có nhiều người xem nhất trong thời gian phát sóng. Nội dung tiểu phần theo chân Kudō Shinichi trong chuyến du lịch Luân Đôn, nơi cậu không may dính líu đến một vụ đánh bom. Mở đầu tác phẩm, Shinichi bị đầu độc và biến thành một cậu nhóc. Kể từ đó, cậu ta sử dụng cái tên Edogawa Conan nhằm che giấu danh tính thật của mình. Nhà xuất bản Kim Đồng đã bản địa hóa "Khải huyền của Holmes" và xuất bản trong hai tập truyện tiếng Việt tương ứng vào năm 2011. Nội dung. Conan và hai cha con Mori Kogoro, Mori Ran có chuyến du lịch miễn phí đến Luân Đôn sau khi tình cờ tìm ra con mèo bị lạc của Diana Kingstone, một người phụ nữ Anh Quốc giàu có. Để vượt qua các khâu kiểm tra an ninh xuất nhập cảnh, Haibara Ai cho Conan hai viên thuốc tạm thời hóa giải tác dụng của thứ thuốc độc đã làm cậu teo nhỏ, giúp Conan trở về thân phận thiếu niên Kudō Shinichi trong 24 giờ cho chuyến đi và về. Khi đến Luân Đôn, Shinichi quay trở lại hình dạng Conan, cùng Ran và Kogoro đến thăm Bảo tàng Sherlock Holmes tọa lạc tại 221B phố Baker. Ran gọi điện thoại cho Shinichi (Conan dùng nơ thay đổi giọng nói) rồi khó chịu về sự thờ ơ của cậu. Liền sau đó, Conan tình cờ giáp mặt một cậu bé bản xứ tên Apollo Glass đang đi tìm Holmes. Giả vờ là học trò của Holmes, Conan kết bạn với Apollo, nghe cậu nhóc nói về một người đàn ông đã đưa cho cậu câu đố kỳ lạ, cần phải giải đố để cứu lấy một mạng người. Trong khi đó, Ran gặp Minerva Glass, một vận động viên quần vợt chuyên nghiệp và là chị gái của Apollo. Minerva khuyên Ran từ bỏ tình yêu, nói với cô câu châm ngôn trong quần vợt: "Love is Zero" ("Tình yêu là số 0"). Ran lại điện thoại cho Shinichi; trong cuộc trò chuyện, Shinichi vô tình để Ran phát hiện ra cậu đang có mặt tại Tháp đồng hồ Big Ben. Hòng tránh cho thân phận bị lộ tẩy, cậu buộc phải uống thuốc quay lại hình dạng cũ, tức viên thuốc giải thứ hai vốn định dành cho chuyến đi về. Ran cảm thấy bị tổn thương và lặp lại những lời của Minerva, "Love is Zero". Shinichi thú nhận tình yêu của cậu dành cho Ran và phủ nhận lời Minerva bằng cách biện giải rằng tất cả mọi thứ đều bắt đầu từ số 0. Ngày hôm sau, người đàn ông phát câu đố ở Luân Đôn được xác định là Hades Sabara, một kẻ sát nhân và đánh bom hàng loạt đang bị truy nã. Conan bắt đầu giải mã các câu đố dựa vào những dữ kiện có liên hệ với loạt vụ án nổi tiếng mà Sherlock Holmes thụ lý, theo thứ tự: "A rolling bell rises me" ("Ta thức dậy cùng tiếng chuông ngân vang") ám chỉ Big Ben; "My portion is like a chilled boiled egg like a corpse" ("Ta chắc dạ với quả trứng luộc đã nguội ngắt như xác chết") ám chỉ Tòa thị chính Luân Đôn nơi họ tìm thấy một con búp bê có ký tự "T"; "I finished up with a whole pickle" ("Nếu cuối cùng được gặm thêm một quả dưa chuột muối nữa thì còn gì bằng") ám chỉ 30 St Mary Axe nơi họ tìm thấy cây bút với ký tự "N"; "It rings again for my hatred" ("Tiếng chuông lại rung lên khuấy động lòng căm hận của ta") dẫn tới cầu Westminster nơi xuất hiện ký tự "A"; "Now I remember to ask a cake to celebrate in advance" ("Phải rồi, ta sẽ đặt một chiếc bánh mừng") ám chỉ Nhà thờ St Bride's, tìm thấy ký tự "S"; "I'm a long nosed wizard in a castle" ("Ta là phù thủy mũi dài sống trong lâu đài") dẫn tới Ga tàu điện ngầm Elephant & Castle, tìm thấy ký tự "U"; "It tells me to finish everything piercing a white back with two swords" ("Hãy để cho tất cả kết thúc, xuyên thủng tấm lưng trắng bằng hai thanh kiếm") ngụ ý biểu trưng của một cửa hàng đồ trang trí bằng gốm sứ, nơi họ tìm thấy ký tự "R". Sắp xếp các ký tự này lại với nhau, họ kết luận nó tạo thành từ "Saturn", ngụ ý thứ Bảy. Bằng cách nối các địa điểm tìm ra những ký tự này trên bản đồ, nó tạo thành hình cây vợt của môn quần vợt, ám chỉ Giải Vô địch Wimbledon. Khi Conan đến Câu lạc bộ croquet và quần vợt sân cỏ toàn Anh, nơi diễn ra trận chung kết Wimbledon vào thứ Bảy, Minerva đang cố gắng giao bóng vào các vị trí tạo thành chữ nổi Braille "Help" ("Cứu với"), đồng thời cố ý làm mình đánh trượt hoặc thua bóng. Conan hô to với Minerva, gợi ý với cô rằng cậu đã hiểu lời cầu cứu của cô. Đáp lại, Minerva tiếp tục giao bóng tạo thành chữ nổi cho thấy Hades có ý định giết chết mẹ cô, cũng là một khán giả có mặt trên khán đài, bằng một quả bom ngay sau khi trận đấu kết thúc. Conan suy luận rằng Hades đang ngồi ở nơi đối diện mẹ của Minerva nhằm mục đích ghi hình lại cái chết của bà, và từ đó xác định được vị trí của kẻ đánh bom. Conan tình cờ gặp cha mẹ mình là Kudō Yusaku và Kudō Yukiko, những người đã trợ giúp cậu bắt giữ Hades, và sau đó còn đưa cậu một viên thuốc giải khác để qua mặt an ninh sân bay trong chuyến đi về. Sau khi Hades bị bắt, Minerva đã có thể tập trung thi đấu và giành chiến thắng. Khi Conan và mọi người chuẩn bị trở về nhà, Ran trò chuyện với Minerva và lặp lại những lời của Shinichi. Minerva tháo gỡ được khúc mắc tình cảm của mình, thừa nhận rằng tất cả mọi thứ bắt đầu từ tình yêu. Sản xuất và phát hành. Năm 2003, tác giả tác phẩm "Thám tử lừng danh Conan", Aoyama Gōshō, thông báo rằng ông sẽ sáng tác một tiểu phần truyện lấy bối cảnh tại Luân Đôn. Để thực hiện việc này, ông đã đích thân đặt chân đến Luân Đôn và ghé thăm những địa điểm sẽ xuất hiện trong tiểu phần; với những nơi mà Aoyama không ghé qua được thì ông dùng Google Maps. Trong chuyến đi, Aoyama đã đặc biệt ghi chú lại một bốt điện thoại gần Tháp đồng hồ Big Ben và một cống thoát nước—có khắc dòng chữ "Valley of Fear" ("Thung lũng khủng khiếp")—trên cầu Westminster; hai chi tiết này đều được dùng đến trong tiểu phần. Trong quá trình sáng tác, Aoyama gặp khó khi đưa tiếng Anh vào truyện. Ông cũng tiết lộ rằng nhân vật hư cấu trong truyện, tay vợt Minerva Glass, được xây dựng dựa trên nguyên mẫu vận động viên quần vợt chuyên nghiệp Steffi Graf ngoài đời thực; cảnh Conan hô to với Minerva trong trận đấu của cô được lấy cảm hứng từ một vụ việc trong Giải quần vợt Wimbledon 1996, khi mà một nam cổ động viên đã chọc ghẹo bằng cách hét to lời cầu hôn của anh ta dành cho Graf trong trận bán kết của cô này. Còn với đoạn Shinichi thổ lộ tình cảm với Ran, Aoyama đã nghĩ ra cảnh này bởi ông liên hệ đến chi tiết Sherlock Holmes rất vụng về trong việc xử trí chuyện tình duyên, bao gồm việc gieo trong đầu cụm từ . Tiểu phần được xuất bản trong tạp chí "Weekly Shōnen Sunday" của Shogakukan từ tháng 8 đến tháng 10 năm 2010, từ số in 36 đến số in 46 tương ứng với mười chương truyện. Sau đó từng chương một được tổng hợp thành các tập "tankōbon" thứ 71 và 72, lần lượt được phát hành tại Nhật Bản vào ngày 18 tháng 2 và 17 tháng 6 năm 2011. Chuyển thể anime. Tiểu phần "Khải huyền của Holmes" được dựng thành các tập 616–621 trong bộ anime truyền hình "Thám tử lừng danh Conan", phát sóng từ ngày 21 tháng 5 năm 2011 đến 25 tháng 6 năm 2011 trên Nippon Television Network System. Tiếp đó, các tập phim được đưa vào hai đĩa DVD ra mắt ngày 23 tháng 3 năm 2012 và 27 tháng 4 năm 2012. Nhạc chủ đề mở đầu mỗi tập phim là bài "Don't Wanna Lie" (tạm dịch: "Không nỡ dối lừa") của B'z, còn bài kết là do Breakerz thể hiện. Hai tập 616–617 do đạo diễn, hai tập 618–619 thì đạo diễn bởi , còn hai tập 620–621 được đạo diễn bởi . Mỗi tập phim lại có các nhà sản xuất khác nhau; sáu nhà sản xuất liệt kê theo thứ tự chiếu từng tập gồm , , , , và . Các vai diễn khách mời như , , , , và lần lượt được lồng tiếng bởi , , Kumai Motoko, , Sugawara Masashi và Hosoi Osamu. Đón nhận. Phần lớn tiểu phần được tập hợp trong tập 71, với thành tích 262.116 bản bán ra ngay trong tuần phát hành. Tập này đạt con số 526.693 bản in vào tháng 5 năm 2011 và nắm giữ vị trí thứ 21 trong bảng xếp hạng manga bán chạy nhất từ ngày 22 tháng 11 năm 2010 đến 22 tháng 5 năm 2011. Các tập anime chuyển thể từ tiểu phần lọt vào tốp 6 bộ anime có lượng người xem đông đảo nhất trong từng tuần mà mỗi tập phim lên sóng. Hai đĩa DVD chứa các tập phim về tiểu phần đều xuất hiện trong những bảng xếp hạng của Oricon. Trang web "Manga-News" đã nhận xét "Khải huyền của Holmes" theo hướng tích cực. Họ khen ngợi nhiều ưu điểm của tiểu phần: cốt truyện và lối kể chuyện hấp dẫn, việc đưa vào truyện những địa điểm nổi tiếng của Luân Đôn, các chi tiết liên hệ đến Sherlock Holmes và giải quần vợt Wimbledon; cách xây dựng nhân vật phản diện Hades Sabara; riêng tình tiết lãng mạn giữa Shinichi và Ran được miêu tả là khoảnh khắc mà nhiều độc giả đang chờ đợi. Tuy nhiên "Manga-News" cũng phê phán tương tác giữa Shinichi và Ran đã bị che khuất bởi những cảnh hồi tưởng thay vì diễn ra theo trình tự. Trang "AnimeLand" đánh giá tập 71 là tập truyện hay nhất kể từ tập 59. Ghi chú và tham khảo. a. Nhan đề tiếng Việt lấy từ quyển thứ ba của tuyển tập , xuất bản lần đầu tại Nhật Bản vào tháng 12 năm 2016 và được Nhà xuất bản Kim Đồng ấn hành bản tiếng Việt vào tháng 8 năm 2020.
1
null
"Hunter" là bài hát của nữ ca sĩ người Anh, Dido. Ca khúc đã được phát hành dưới dạng đĩa đơn thứ ba từ "No Angel", album phòng thu đầu tay của cô. "Hunter" đã đạt đến top 10 World Adult Charts và top 20 UK Singles Chart, cùng lúc đạt top 5 tại Bồ Đào Nha và Hy Lạp. "Hunter" kể về câu chuyện của một chuyện tình đang trên bờ vực chia rẽ, và ca sĩ muốn mình trở thành một "người thợ săn", ý chỉ một người tự do, lại lần nữa. Video ca nhạc. Video của ca khúc, do Matthew Rolston đạo diễn, được ghi hình trong khung cảnh một thành phố đông đúc trong một đêm trăng tròn. Dido đang đuổi theo một người giống hệt mình trên con phố, video có xen cảnh cô hát trên sân thượng, phòng khách và ở dưới nước nơi công viên giải trí. Video kết thúc khi Dido đuổi kịp người giống mình ở một đường hầm, cả hai ôm và ghì chặt lẫn nhau.
1
null
René Frédéric Thom (1923-2002) là nhà toán học người Pháp. Ông cùng với Klaus Roth của Anh giành Huy chương Fields vào năm 1958. Ông trở thành người Pháp thứ ba sau Laurent Schwartz và Jean-Pierre Serre giành giải thưởng cao quý. Ông đã đưa ra định lý Thom-Mather, trong đó nêu lên vai trò quan trọng của điểm đặc thù trong toán học.
1
null
Hàng năm, theo quan niệm của người Việt thì đúng vào ngày 23 tháng Chạp âm lịch, là ngày Táo Quân cưỡi cá chép bay về trời để bẩm báo mọi việc lớn nhỏ xảy ra trong gia đình của gia chủ cho Ngọc Hoàng. Cho đến đêm Giao thừa Táo Quân sẽ quay về hạ giới để tiếp tục công việc trông coi bếp lửa của mình. Nguồn gốc. Táo Quân có nguồn gốc từ ba vị thần Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ của Lão giáo Trung Quốc nhưng được người Việt chuyển hóa sự tích hai ông - một bà, là vị thần Đất, vị thần Nhà, vị thần Bếp núc. Từ xa xưa, người dân Việt đã ngưỡng mộ lòng chung thủy của Ông Táo và thờ cúng Ông Táo với hi vọng Táo Quân sẽ giúp họ giữ "bếp lửa" trong gia đình luôn nồng ấm và hạnh phúc. Ông Táo quanh năm ở trong bếp nên biết hết tất cả mọi chuyện tốt xấu của mọi người, nên để cho vua bếp phù hộ cho gia đình sang năm mới gặp được nhiều điều may mắn, người Việt đã làm lễ tiễn đưa Ông Táo về chầu Ngọc Hoàng. Ý nghĩa. Ông táo (Táo quân hay Thổ Công) là vị thần cai quản mọi hoạt động của gia chủ, ông là vị thần quyết định sự may, rủi, phúc họa của cả gia chủ, bên cạnh đó ông còn ngăn cản sự xâm phạm của ma quỷ, giữ bình yên cho gia đình gia chủ. Vì vậy tục cúng ông Táo mang ý nghĩa cầu mong cho sự ấm no, đầy đủ, sau đó mới đến ý nghĩa thờ "thần Bếp" chuyên cai quản việc bếp núc. Ông Táo về trời sẽ tâu với Ngọc Hoàng về việc làm ăn, cư xử của mỗi gia đình dưới hạ giới. Cá chép là phương tiện để ông Táo cưỡi về trời. Vào ngày này, sau khi cúng lễ xong, các gia đình đều cúng con cá chép rồi đem ra sông hay ra ao... thả. Bởi ngụ ý "cá vượt Vũ môn" hay "cá chép hóa rồng", cá chép mang ý nghĩa biểu tượng cho sự thăng hoa, tinh thần vượt khó, sự kiên trì và bền bỉ để đi tới thành công. Lễ vật. Lễ vật cúng ông Táo gồm: mũ ông Công ba chiếc (hai mũ đàn ông và một mũ đàn bà). Chiếc mũ dành cho các ông Táo thì có hai cánh chuồn; mũ dành cho Táo bà thì không có cánh chuồn. Những mũ này được trang sức với các gương nhỏ hình tròn lóng lánh và những dây kim tuyến màu sắc sặc sỡ. Hương, đèn nến, lọ hoa tươi, đĩa ngũ quả tươi, ba bộ mũ áo, hia hài Táo Quân cùng tiền vàng. Để đơn giản, có khi người Việt chỉ cúng tượng trưng một chiếc mũ ông Công (có hai cánh chuồn) lại kèm theo một chiếc áo và một đôi hia bằng giấy. Những đồ vàng mã như mũ, áo, hia và một số vàng thoi bằng giấy sẽ được đốt đi sau lễ cúng ông Táo vào ngày 23 tháng Chạp cùng với bài vị cũ. Sau đó người ta sẽ lập bài vị mới cho Táo Công. Ngoài ra, người việt còn cúng cá chép để các ông, bà Táo có phương tiện về chầu trời, ở miền Bắc người ta còn cúng một con cá chép còn sống thả trong chậu nước, ngụ ý "cá hóa long" nghĩa là cá sẽ biến thành Rồng đưa ông Táo về trời. Con cá chép này sẽ được "phóng sinh" (thả ra ao hồ hay ra sông) sau khi cúng. Ở miền Trung, người ta cúng một con ngựa bằng giấy với yên, cương đầy đủ. Miền Nam thì lễ vật đơn giản, họ chỉ cúng mũ, áo và đôi hia bằng giấy.Tùy theo từng gia cảnh, ngoài các lễ vật chính kể trên, người ta hoặc làm mâm cỗ mặn (với xôi gà, chân giò luộc, các món nấu nấm, măng...) hay lễ chay (với trầu cau, hoa, quả, giấy vàng, giấy bạc...) để tiễn Táo Quân. Phong tục thờ cúng. Người Việt Nam quan niệm Táo Quân sẽ lên trời và thưa với Ngọc Hoàng những sự kiện xảy ra trong năm vừa qua ở dưới trần gian. Vì thế người Việt Nam làm lễ tiễn ông Công, ông Táo rất thịnh soạn với mong muốn những điều tốt đẹp nhất sẽ được thưa với Ngọc Hoàng, và những điều không may mắn hoặc không tốt sẽ được báo cáo nhẹ đi, việc làm này có thể là do văn hóa và thói quen từ xa xưa truyền lại. Lễ cúng tiễn đưa Ông Táo chầu Trời được cúng vào tối ngày 22 tháng Chạp Âm lịch hàng năm, vì đầu ngày 23 tháng Chạp Ông Táo đã chầu Trời, nếu để sang ngày 23 tháng Chạp mới cáo lễ tiễn đưa Ông Táo về Trời, e rằng Ông Táo sẽ không nhận được lễ vật tâm thành của gia chủ. Sau khi bày lễ, thắp hương và khấn vái xong, đợi hương tàn lại thắp thêm một tuần hương nữa, lễ tạ rồi hóa vàng mã và thả cá chép ra ao, hồ, sông, suối… để cá chở ông Táo lên chầu Trời.
1
null
Luca Pacioli (1445–1517) là nhà toán học, tu sĩ dòng Phanxicô người Ý. Ông là người đã dùng chữ cái P (viết tắt của từ tiếng Latin "plus") và M (viết tắt của "minus") để lần đầu chỉ phép cộng và phép trừ. Ông là bạn của Leonardo da Vinci. Là một giáo sư về toán, ông đã soạn thảo ra một tác phẩm vĩ đại tựa như một cuốn từ điển vào năm 1494 về số học, đại số học, toán học thương mại, hình học và kế toán. Riêng về mảng kế toán, ông đã dành 36 chương về kế toán kép mà theo đó các tài liệu kế toán như phiếu ghi tạm, sổ nhật ký, sổ cái và một số lớn các tài khoản được phân chia rõ rệt như tài khoản vốn, tài khoản kho hàng, tài khoản kết quả sản xuất... Tuy nhiên sự ghi chép vào sổ nhật ký những nghiệp vụ kinh tế phát sinh thời bấy giờ chưa được gọn và rõ rệt, chỉ sử dụng bảng đối chiếu đơn giản để kiểm tra và chưa có hình thức bảng tổng kết tài sản. Người ta coi ông như là người cha của ngành kế toán và là người cuối cùng có công đóng góp lớn trong ngành toán học ở thế kỷ XV. Do đã góp phần vào việc truyền bá kỹ thuật kế toán nên ông được xem là tác giả đầu tiên viết về kế toán và từ đó kế toán có bước phát triển không ngừng cho đến ngày nay.
1
null
Danil Ishutin (; sinh ngày 30 tháng 12 năm 1989), thường được biết tới với tên Dendi, là vận động viên thể thao điện tử người Ukraina thi đấu bộ môn "Dota 2". Dendi được biết tới nhiều nhất khi chơi cho đội Natus Vincere từ năm 2008–2019, giúp anh có được chức vô địch thế giới The International lần thứ nhất (2011), cùng 2 lần về nhì ở các mùa giải tiếp theo (2012 và 2013). Cuối năm 2018, Dendi rời khỏi đội hình thi đấu chính thức của Natus Vincere. Anh chơi cho đội Tigers (Malaysia) dưới dạng cho mượn vào tháng 1 năm 2019. Chỉ 4 tháng sau, Tigers tan rã. Anh tham gia đội The Pango trong khuôn khổ vòng loại The International 2019, trước khi Natus Vincere chính thức tuyên bố chấm dứt hợp đồng vào tháng 8 cùng năm. Năm 2020, anh tuyên bố thành lập đội "Dota 2" và công ty quản lý thể thao điện tử mang tên B8. Dendi chơi ở vị trí solo mid, và từng là một trong những vận động viên hàng đầu thế giới ở vị trí này. Tính tới tháng 8 năm 2019, tài khoản của Dendi trên Twitch vẫn là tài khoản cá nhân của vận động viên "Dota 2" có nhiều người theo dõi nhất. Anh cũng là gương mặt đại diện của trò chơi "Dota 2" thi đấu trận đấu biểu diễn cùng trí tuệ nhân tạo (OpenAI) trong khuôn khổ The International 2017. Dendi được coi là một trong những vận động viên được hâm mộ và có ảnh hưởng nhất lịch sử bộ môn "Dota 2". Tài sản ước tính của anh tính tới năm 2018 là vào khoảng 2 triệu $. Tiểu sử. "Defense of the Ancients". Dendi sinh ra và lớn lên tại thành phố Lviv, Ukraina. Trong bộ phim tài liệu "Free to Play" do Valve phát hành vào năm 2014, Dendi tiếp cận với trò chơi điện tử từ khi còn rất nhỏ với chiếc máy tính của bà nội. Anh thường trốn gia đình chơi điện tử tại các quán cafe, trước khi được gia đình mua một chiếc máy tốt hơn. Dendi bắt đầu với "Counter-Strike", sau đó là "Warcraft III". Anh giành được vài chức vô địch tại Lviv, trước khi biết đến bản mod "Defense of the Ancients" (DotA) của "Warcraft III". Không lâu sau, Dendi thành lập đội đánh của riêng mình mang tên WolkeR Gaming (WG), trở thành vận động viên thể thao điện tử chuyên nghiệp vào năm 2006. Họ về thứ 3 giải đấu MYM Prime Nations năm 2006. Chỉ vài tháng sau, họ vào tới trận chung kết của giải đấu MYM Prime Defending. Đội Kingsurf muốn thành lập một đội hình DotA ngoài Trung Quốc nên đã nhanh chóng mua lại WG, đổi tên thành Ks.int. Tháng 6 năm 2009, Dendi chuyển sang thi đấu cho đội DTS Gaming mới thành lập. Họ ngay lập tức giành ngôi á quân tại Electronic Sports World Cup (ESWC) năm 2010, và sau đó về thứ 3 tại World DotA Championship (WDC). Cuối năm 2010, Natus Vincere chiêu mộ Dendi. "Dota 2". Sau khi mua lại và phát triển mod "Defense of the Ancients" thành một tựa game riêng, Valve đã tổ chức Giải vô địch thế giới chuyên nghiệp bộ môn "Dota 2" có tên The International lần thứ nhất (2011) tại Đức. Natus Vincere đã đăng quang giải đấu thể thao điện tử giá trị nhất vào thời điểm bấy giờ (1 triệu $) với Dendi chơi ở vị trí offlane. Đội thi đấu thành công trong giai đoạn 2012–2014 với nhiều chức vô địch lớn nhỏ, đặc biệt là 2 lần về nhì "The International" (2012 và 2013), với Dendi là ngôi sao trung tâm của toàn đội và chơi ở vị trí solo mid. Kể từ năm 2014, Natus Vincere không còn thi đấu ổn định. Họ kết thúc mùa giải ở vị trí số 7–8 tại The International 2014. Đội hình bị xáo trộn liên tục, và tới 2 kỳ The International tiếp theo (2015 và 2016), họ thậm chí còn đứng cuối cùng. Kết quả kém cỏi còn kéo dài khi họ không thể vượt qua vòng loại khu vực CIS các năm 2017 và 2018. Trong thời gian đó, Dendi cũng tham gia giải đấu World Electronic Sports Games cấp đội tuyển quốc gia, đại diện cho Team Ukraine tại giải đấu năm 2016. Tháng 9 năm 2018, Dendi chính thức bị loại khỏi đội hình thi đấu của Natus Vincere. Anh được đội Tigers mượn vào tháng 1 năm 2019, tuy nhiên kết quả nghèo nàn khiến Tigers tan rã chỉ sau 4 tháng. Dendi sau đó chuyển sang đội The Pango nhằm thi đấu vòng loại The International 2019 và không thành công, trái ngược hoàn toàn với vòng loại khu vực CIS vô cùng xuất sắc của đội hình mới Natus Vincere. Đầu tháng 8 năm 2019, Natus Vincere chấm dứt hợp đồng với Dendi. Tại mùa giải "The International" 2019, Dendi tham dự với tư cách bình luận viên kênh tiếng Nga. Tháng 11 năm 2019, anh thành lập đội chơi mới mang tên Viet Flashbacks. Đội hình thi đấu không thành công, và tới cuối tháng 1 năm 2020, Dendi thành lập tổ chức thể thao điện tử và đội chơi "Dota 2" của cá nhân mình mang tên B8. Đánh giá. Chơi ở vị trí solo mid, Dendi từng được coi là một trong những vận động viên xuất sắc nhất thế giới ở vị trí này. Tuy nhiên, trong nhiều giai đoạn khác nhau bao gồm thời kỳ The International 2011 và các giai đoạn khủng hoảng phong độ của Natus Vincere, Dendi từng chuyển sang thi đấu carry, offlane và cả support cho đội. Tại đội hình của đội Tigers, Dendi ban đầu nhận vị trí chơi offlane, sau đó trở về solo mid. Trong giai đoạn 2017–2018, Dendi còn là đội trưởng và drafter của Natus Vincere. Tại đội B8, anh cũng đảm nhiệm cả 2 vai trò này và vị trí solo mid. Dendi cũng chính là gương mặt đại diện của trò chơi "Dota 2" thi đấu trận đấu biểu diễn cùng trí tuệ nhân tạo (OpenAI) trong khuôn khổ The International 2017 (thua 0-2). Sau trận đấu, Elon Musk, nhà sáng lập và giám đốc của OpenAI, đã viết trên Twitter rằng Dendi "là vận động viên xuất sắc nhất nền thể thao điện tử". Dendi có tên trong Đại sảnh Danh vọng của Natus Vincere. Năm 2017, anh được tạp chí "Great Gamers" trao danh hiệu "Vận động viên MOBA của năm". Danh hiệu. "Defense of the Ancient". MYM Prime Defending #9 "Dota 2". Tất cả các danh hiệu đều giành được cùng đội Natus Vincere. Ngoại lệ được ghi chú riêng. The International ""'Electronic Sports World Cup The Premier League DreamHack RaidCall The Defense Dota 2 Champions League StarLadder StarSeries ESL One Frankfurt Adrenaline Cyber League DreamLeague
1
null
Archaeamphora longicervia là một loài thực vật có hoa tuyệt chủng và là loài duy nhất trong chi Archaeamphora. Loài này ban đầu được miêu tả như một loài nắp ấm có quan hệ gần gũi với các thành viên còn sinh tồn của họ Sarraceniaceae. Nó là loài cây ăn thịt cổ nhất và là hóa thạch cây nắp ấm duy nhất được biết đến. (với ngoại lệ có thể là một số vi hóa thạch phấn hoa với quan hệ không chắc chắn với chi "Nepenthes"). "Archaeamphora" cũng là một trong ba chi thực vật hạt kín (thực vật có hoa) lâu đời nhất đã biết. Li (2005) viết rằng "sự tồn tại của loại thực vật hạt kín có độ phái sinh cao như vậy vào đầu kỷ Creta gợi ý rằng thực vật hạt kín phải phát sinh sớm hơn thế nhiều, có thể tới 280 triệu năm trước, như các nghiên cứu đồng hồ phân tử đã gợi ý". Các tác giả sau này đã nêu nghi vấn về sự nhận dạng "Archaeamphora" như một loài nắp ấm. Từ nguyên. Tên chi "Archaeamphora" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp αρχαίος, archaíos ("cổ đại") và ἀμφορεύς, amphoreus ("nắp ấm"). Tên loài "longicervia" có nguồn gốc từ tiếng Latin "longus" ("dài") và "cervicarius" ("với cái cổ"), đề cập tới sự thắt lại đặc trưng của các cấu trúc giống như nắp ấm của loài này. Vật liệu hóa thạch. Tất cả vật liệu hóa thạch của "A. longicervia" bắt nguồn từ tầng Tiêm Sơn Câu (尖山沟, Jianshangou) tại Bắc Phiếu, miền tây Liêu Ninh, Trung Quốc. Tầng đầu kỷ Phấn Trắng này tạo thành phần dưới của thành hệ Nghĩa Huyện (义县, Yixian), khoảng 124,6 triệu năm trước. Chín mẫu "A. longicervia" đã được tìm thấy, trong đó có mẫu gốc CBO0220 và mẫu cận gốc CBO0754. Phân loại. Vật liệu hóa thạch của "A. longicervia" được đưa vào phân tích hóa học để tìm triterpene oleanane, được coi là dấu hiệu cơ bản phân biệt thực vật hạt kín với thực vật hạt trần. Oleanane đã được phát hiện trong các mẫu vật này, gợi ý rằng chúng thuộc về thực vật hạt kín. Diễn giải như là một loài nắp ấm. Theo Li (2005), một vài đặc trưng hình thái của "A. longicervia" chỉ ra mối quan hệ họ hàng gần của nó với họ Sarraceniaceae: cả hai đều phô bày một hoặc hai cánh ấm, vùng quanh miệng ấm nhẵn nhụi, và các ấm duỗi thẳng theo chiều dọc từ đỉnh của một cuống ngắn. Li (2005) gợi ý rằng "A. longicervia" về hình thái là tương tự như loài "Sarracenia purpurea" còn sinh tồn ngày nay. Nó chia sẻ với loài này kiểu sắp xếp vòng của các ấm và các lá hình ống không ăn thịt (phyllodia) với các gân lá chính song song. "Archaeamphora longicervia" cũng thể hiện sự tương đồng với các loài của chi "Heliamphora" ở chỗ có các ấm với cổ dài và nắp ấm mọc thẳng. Đáng chú ý cụ thể là sự giống nhau giữa các cấu trúc dày hình bán nguyệt của nắp của "A. longicervia" và “bong bóng” lớn tiết ra mật có ở phần trên phía sau của các ấm của "Heliamphora exappendiculata". Li (2005) cũng đề cập tới sự phát hiện ra một kiểu "cây nắp ấm" khác trong cùng một thành hệ. Kiểu này khác với vật liệu điển hình của "A. longicervia" ở chỗ nó có các ấm không có bất kỳ chỗ thắt lại nào trước miệng ấm, và thay vì thế là sự mở rộng dần dần từ cuống thành một cấu trúc có hình dáng giống như kèn trumpet rỗng. Ông gợi ý rằng nó "có lẽ là một loài khác biệt" với "A. longicervia". Dạng trung gian với cổ rộng hơn cũng được ghi nhận, gợi ý rằng các loài thực vật này có thể đã từng là một nhóm đa dạng vào đầu kỷ Creta. Hiểu biết hiện tại. Heřmanová & Kvaček (2010) cho rằng diễn giải "Archaeamphora" như là cây nắp ấm là "có vấn đề và hóa thạch này cần phải xem xét lại". Trong cuốn sách xuất bản năm 2011 là "Sarraceniaceae of South America", McPherson "et al." đã tổng quát hóa suy nghĩ và hiểu biết hiện tại về "Archaeamphora" như sau: Ngi vấn lớn nổi lên làm giảm khả năng cho rằng "Archaeamphora longicervia" thuộc về dòng dõi Sarraceniaceae, hay thậm chí có phải là loài cây nắp ấm hay không. [...] Mặc dù "Archaeamphora" có thể là đại diện cho những loài thực vật có hoa sớm nhất trên Trái Đất [...] nhưng rất không thể rằng nó là đại diện cho một tổ tiên của Sarraceniaceae do nó là quá cổ xưa để là một bộ phận của "nhóm chỏm cây" tân tiến của bộ Ericales, nơi Sarraceniaceae thuộc về. [...] Một mâu thuẫn khác là ở chỗ ngoại trừ "Archaeamphora" ra thì không có chứng cứ nào khác gợi ý rằng họ Sarraceniaceae đã tiến hóa bên ngoài Tân thế giới, khu vực mà tất cả các thành viên còn sinh tồn của họ này là đặc hữu. Môi trường sống. Khu vực sinh sống của "A. longicervia" được cho là đã trải qua những biến động khí hậu đáng kể vào đầu kỷ Creta, từ môi trường bán khô cằn, khô cằn tới các điều kiện ẩm ướt hơn. Tầng móng trong khu vực này chủ yếu bao gồm các trầm tích hồ và đá núi lửa.
1
null
Kuhlia rupestris là một loài cá trong họ Kuhliidae. Loài này có thể dài 25 cm và cân nặng 800 g, cá thể lớn có thể dài 45 cm và cân nặng đến 3 kg. Phạm vi phân bố gồm Úc, Fiji, nam của Nam Phi. Chúng là loài ăn tạp
1
null
Cho Man Sik (, 1 tháng 2 năm 1883 - 15 tháng 10 năm 1950), hiệu Kodang, là một nhà hoạt động dân tộc chủ nghĩa cho phong trào độc lập Triều Tiên. Ông dần tham gia vào cuộc đấu tranh quyền lực hình thành Bắc Triều Tiên trong những tháng sau khi Nhật Bản đầu hàng, chấm dứt Thế chiến 2. Ban đầu, Cho được Liên Xô hỗ trợ để cuối cùng cai trị Bắc Triều Tiên. Tuy nhiên, do phản đối phương án ủy thác, ông bị mất sự ủng hộ và bị tước đoạt quyền lực bởi những người cộng sản Bắc Triều Tiên được Liên Xô chống lưng. Bị quản thúc tại gia vào tháng 1 năm 1946, sau đó ông đã mất tích khi bị đưa vào hệ thống nhà tù của Bắc Triều Tiên mà người ta thường tin rằng ông đã bị hành quyết tại đây ngay sau khi Chiến tranh Triều Tiên nổ ra.
1
null
Louis Brennan (1852-1932) là kỹ sư và nhà phát minh người Australia gốc Ireland. Ông là người đã phát minh ra xe lửa chạy trên một đường ray, làm thay đổi lịch sử của giao thông vận tải. Cuộc sống trước khi ra đời xe lửa chạy trên một đường ray. Louis Brennan vốn sinh ra ở Ireland nhưng đến năm lên 9 tuổi, cậu bé thông minh đã cùng gia đình định cư ở Australia. Brennan đã thể hiện tài năng xuất chúng của mình ngay từ khi còn trẻ. Năm 25 tuổi, ông đã phát minh ra hỏa tiễn định hướng đầu tiên trên thế giới. Đây là loại ngư lôi được điều khiển tới mục tiêu nhờ dây dẫn từ bờ biển. Năm 1887, chính phủ Anh đã mua ngư lôi của Brennan đồng thời còn mời ông làm ciệc tại xưởng chế tạo ngư lôi của hải quân Anh. Quá trình chế tạo xe lửa chạy trên một đường ray. Từ ước mơ cháy bỏng và ý tưởng độc đáo. Tuy có công việc ổn định như nói ở trên, Louis Brennan có một ước mơ cháy bỏng. Đó là chế xe lửa kiểu mới. Sau nhiều năm tìm tòi nghiên cứu, cuối cùng Brennan đã bước đầu định hình được loại xe lửa chỉ chạy trên một đường ray. Loại tàu này cho phép chạy tốc độ cao hơn hẳn xe lửa chạy trên hai đường ray ví nó không chỉ giữ được thăng bằng khi chạy trên một đường ray mà còn đạt được độ nghiêng ở doạn cua như xe môtô nhờ cặp con quay hổi chuyển khổng lồ. Nhờ vậy, Brennan đã được cấp bằng phát minh vào năm 1896. Đến khi bắt tay hành động. Tuy nhiên, để biến ý tưởng mới mẻ đó thành sự thật đòi hỏi rất nhiều công sức và tiền của. Vì vậy mãi đến năm 1904, Brennan mới nhận được trợ giúp để xây dựng thử nghiệm mô hình xe lửa kiểu mới. Mô hình có chiều dài 2 mét, đủ lớn để có tải trọng. Bên cạnh đó là một đường ray dài tới 800 mét được thiết kế có cả đoạn cua và đượng phụ để đề phòng động đất. Cuộc thử nghiệm mô hình này đã thành công tốt đẹp như dự tinh. Nhờ đó Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Anh là Winston Churchill đã quyết định đầu tư lớn để Brennan chế tạo chiếc xe lửa thật sự. Và trở thành hiện thực. Năm 1910, trong cuộc triển lãm Anh-Nhật, chiếc xe lửa gồm hai toa có kích thước như thật đã được giới thiệu. Tuy trong cuộc thử nghiệm xe lửa mới chạy trên một đường ray đã đạt được tốc độ 34 km/giờ nhưng hứa hẹn có thể nâng lên tới 3000 km/giờ. Tàu chạy nhanh êm hơn, thuận tiện hơn và hoàn hảo hơn. Tưởng nhớ. 70 năm sau cuộc trình diễn xe lửa một đường ray của Louis Brennan, người ta đã xây trên nền nhà cũ của ông một nhà ga dành cho tàu siêu tốc hiện đại coi như một đài tưởng niệm đặc biệt dành cho nhà phát minh vĩ đại.
1
null
Johannes Widmann (1460-sau 1498) là nhà toán học người Đức. Năm 1489, Widmann đã đưa ra ký hiệu + và - để chỉ phép cộng và phép trừ. Ông đã mở đầu cho một cuộc cách mạng cho toán học ở châu Âu: đưa ra các ký hiệu để viết gọn các bài toán và các phương trình.
1
null
"How I Met Your Mother" (thường được viết tắt thành "HIMYM") là loạt phim thể loại hài kịch tình huống truyền hình dài tập của đài CBS, Hoa Kỳ. Bộ phim chính thức lên sóng từ ngày 19 tháng 9 năm 2015. Phần chín và là phần cuối cùng của bộ phim kéo dài từ năm 2013-14. Bộ phim là câu chuyện về Ted Mosby cùng nhóm bạn của anh tại Manhattan. Xuyên suốt bộ phim, Ted Tương lai ở năm 2030 kể con con mình nghe những gì đã khiến anh gặp mẹ của chúng Các nhà sáng lập của bộ phim, Craig Thomas và Carter Bays cũng tham gia trong vai trò sản xuất và biên kịch thường xuyên của bộ phim. Được biết đến rộng rãi nhờ vào cấu trúc phim độc đáo cùng sự hài hước trong cách thể hiện, "How I Met Your Mother" nhận được nhiều phản ứng tích cực và sự yêu mến của khán giả trong suốt nhiều năm phát sóng. Bộ phim được đề cử cho 72 giải thưởng lớn nhỏ và thắng 18 giải, trong đó có đến 28 lần đề cử tại giải thưởng truyền hình Emmy và thắng 9 giải. Vào năm 2010, Alyson Hannigan giành chiến thắng tại giải People's Choice Award cho hạng mục "Nữ diễn viên phim hài truyền hình được yêu thích nhất". Năm 2012, tức 7 năm sau ngày công chiếu, bộ phim thắng thêm 2 giải People's Choice Award tại hạng mục "Loạt phim hài được yêu thích nhất trên hệ thống truyền hình" và giải "Nam diễn viên phim hài truyền hình được yêu thích nhất" dành cho Neil Patrick Harris. Phần chỉ đạo nghệ thuật, biên tập và kĩ thuật quay phim cũng được vinh danh.
1
null
Loạt phim hài kịch tình huống "How I Met Your Mother" do Hoa Kỳ sản xuất được công chiếu trên đài CBS kể từ ngày 19 tháng 9 năm 2005. Do Craig Thomas và Carter Bays sáng lập, loạt phim được giới thiệu theo lời thuật lại của nhân vật Ted vào năm 2030 khi anh kể cho con mình nghe về cách mà anh đã gặp người mẹ thật sự của chúng. Loạt phim trải qua 9 phần và bao gồm 208 tập phim; tập phim cuối cùng được phát sóng vào ngày 31 tháng 3 năm 2014. Các nhân vật chính bao gồm: Ted Mosby, người mong muốn tìm được "một nửa" cho mình; Barney Stinson, một tay lăng nhăng; Robin Scherbatsky, một phóng viên truyền hình chuyển đến New York vào năm 2005; Marshall Eriksen và Lily Aldrin, một cặp đôi chung sống lâu năm. Cho dù nền tảng loạt phim dựa trên câu chuyện xung quanh nhân vật người Mẹ, thì đến tận tập cuối của phần 8, cô mới xuất hiện lần đầu. Nhiều nhân vật có quan hệ họ hàng với các nhân vật chính đã xuất hiện trong suốt loạt phim, như cha ruột của Lily hay anh trai của Barney. Họ cũng được xuất hiện trong nhiều dịp họp mặt gia đình, như lễ cưới của Barney và Robin hay đám tang cha của Marshall. Các con của Ted và con trai của Marshall và Lily cũng thường xuyên xuất hiện trong nhiều tập mà không liên quan trực tiếp đến nội dung tập phim. Ranjit, Carl và nhiều nhân vật khác thường xuyên xuất hiện nơi dàn diễn viên chính thường lui tới. Các nhân vật trong các mối quan hệ của Ted, Barney hay Robin thường xuất hiện trong nhiều tập trong suốt một thời gian dài như Victoria, Nora và Kevin. Những vai nhỏ hơn như the Slutty Pumpkin hay Mary thường chỉ xuất hiện trong 1 hay 2 tập phim nhưng vẫn liên quan trực tiếp đến nội dung trong tập đó. Dàn diễn viên. Chi chú: Các nhân vật chính. Ted Mosby. Theodore Evelyn "Ted" Mosby (sinh ngày 25 tháng 4 năm 1978). Anh là một gã lãng mạn, mong muốn đi tìm "một nửa" cho mình và thường xuyên giải thích việc "định mệnh" và "Vũ trụ" điều khiển mọi thứ. Ted lớn lên tại Shaker Heights, Ohio cùng với cha mẹ của mình - bà Virginia Mosby và ông Alfred Mosby. Anh là một kiến trúc sư tốt nghiệp từ trường Đại học Wesleyan, nơi anh đã gặp Marshall và Lily. Ted cũng là người dẫn chuyện đến từ tương lai của loạt phim, do Bob Saget lồng tiếng, khi anh kể cho các con của mình nghe chi tiết về câu chuyện làm thế nào mà anh gặp được mẹ chúng. Anh cũng từng bị bỏ lại nơi lễ đường, có công việc của một kiến trúc sư xây dựng và thiết kế tổng hành dinh cho Goliath National Bank. Ted đã hẹn hò cùng nhiều người và có nhiều mối quan hệ lâu dài. Ted có một mối quan hệ chìm nổi cùng Robin.<ref group=note name=T/R>Họ chính thức hẹn hò từ tập "Come On" đến tập "Showdown"; sau đó hôn nhau trong tập "Slapsgiving"; ân ái với nhau trong tập "Benefits"; và quay trở lại cùng nhau ở cuối tập "Last Forever".</ref> Ted cũng hẹn hò cùng Victoria, Stella và Zoey. Anh cuối cùng cũng gặp người vợ tương lai của mình, Tracy, vào thời điểm Barney và Robin làm đám cưới, sau khi vô tình dạy nhầm lớp của cô, dùng chiếc ô vàng của cô trong một thời gian ngắn và thậm chí hẹn hò cả cô bạn cùng phòng của cô. Khi anh chạm mặt bạn cùng phòng của Tracy (Cindy), anh quyết định chọn ban nhạc của cô chơi ở đám cưới của Barney và Robin. Trong tập cuối, vợ của anh đã mất 6 năm trước. Các con của anh khẳng định câu chuyện của anh không phải nói về mẹ mình mà là về Robin; chúng thúc giục anh trở về bên cô ấy và mang cây kèn Pháp xanh đến nhà cô ấy để tỏ tình lần nữa. Barney Stinson. "Barnabus" "Barney" "Stinson" (sinh năm 1976), xuất thân là một gã lăng nhăng. Anh được biết đến như một gã thường hay mặc áo com-lê, thích chơi trò bắn súng la-de, thích trình diễn ảo thuật với lửa, và hay dùng những từ như "awesome" và "legendary". Barney là tác giả của quyển "Bro Code" (dù anh khẳng định nó được viết bởi Barnabus Stinson ở kì Thực Dân) và quyển Playbook, bao gồm tư liệu của anh về việc gạ gẫm phụ nữ. Barney lớn lên cùng bà mẹ đơn thân Loretta, cùng anh trai James của mình. Khi còn nhỏ, anh không có nhiều thời gian ở cùng với bố ruột. Trong phần 6, bố của anh, Jerome, đột ngột xuất hiện và muốn bù đắp cho anh trong suốt thời gian dài không có ông. Lúc còn trẻ, Barney là một gã theo phong cách hippie với mái tóc dài và mong muốn được nhận vào Peace Corps. Sau khi bị công ty từ chối nhận vào làm, anh suy sụp và đánh mất người phụ nữ đính hôn của mình, rồi anh tìm thấy một tờ rơi giảm giá áo com-lê và từ đó anh nghiện nó. Sau đó anh gặp Ted Mosby trong nhà vệ sinh và thông báo rằng anh sẽ "dạy [Ted] sống thế nào cho phải", và bắt đầu cuộc sống trong nhóm bạn của Ted. Trong phần 4, Barney nhận ra tình cảm dành cho Robin và trải qua hết một phần phim để giấu giếm điều đó với cô. Họ đến với nhau trong phần 5, nhưng chỉ kéo dài trong 7 tập. Trong "Desperation Day", Robin giới thiệu anh cho bạn của cô ấy Nora. Mối quan hệ của Barney và Nora trải qua rất ngắn ngủi. Sau đó anh quyết định cho Nora và mối quan hệ cùng cô ấy thêm một cơ hội thứ hai, nhưng lại kết thúc khi anh lén lút quan hệ cùng Robin. Trong tập "The Magician's Code" có tiết lộ rằng anh sẽ cưới Robin, nhưng cuối cùng họ lại li hôn sau 3 năm chung sống. Anh sau đó trở lại con đường lăng nhăng và vô tình khiến một cô gái mang thai. Barney sau cùng đã phải bỏ danh tiếng của một tay lăng nhăng để chăm sóc cho con gái của mình, Ellie. Marshall Eriksen. Sinh năm 1978, Marshall Eriksen gặp Ted và Lily trong năm đầu Đại học. Anh và Lily yêu và hẹn hò nhau từ đó và lấy nhau ở cuối phần 2. Anh tốt nghiệp trường Luật Columbia tại Minnesota. Cho dù cao đến tận 1.93 mét, anh vẫn là thành viên nam thấp nhất trong gia đình. Marshall mong muốn trở thành luật sư vì có mối quan tâm đến luật bảo vệ môi trường. Anh cũng là một người chơi trò chơi rất giỏi và có hứng thú những điều siêu nhiên, như Sasquatch và Nessie. Trong tập "Last Cigarette Ever" có hé lộ trong tương lai, anh và Lily sẽ có một đứa con trai. Đầu năm 2011, sau khi biết tin mình có thể có con, Lily lại báo tin cho Marshall khi bố anh truỵ tim mà chết. Con trai đầu lòng của anh, được hạ sinh trong tập "The Magician's Code - Part One" được đặt tên là Marvin, theo tên của cha Marshall. Anh trở về kịp lúc vợ anh vừa sinh con mình. Marshall sau cùng cũng nhận được công việc trong mơ, trở thành một thẩm phán tại New York, sau khi hứa với Lily chuyển về Ý. Điều này dấy lên một cuộc cãi vã lớn giữa hai người trong xuyên suốt phần cuối. Trong nửa đầu phần cuối, Marshall phải đi xe từ Minnesota đến nơi Barney và Robin tổ chức đám cưới. Trong lúc đang đến thì anh gặp The Mother. Sau cùng anh đã hòa thuận cùng vợ và tham gia tranh cử Pháp Viện Tối cao Hoa Kỳ. Lily Aldrin. Sinh ngày 22 tháng 3 năm 1978, Lily là một giáo viên mầm non. Cô đính hôn cùng Marshall Eriksen và lớn lên tại Brooklyn, New York. Cũng như Ted và Marshall, cô cũng tốt nghiệp từ trường Đại học Wesleyan. Lily mơ ước trở thành một họa sĩ và trong một thời gian, cô đã vẽ tranh khỏa thân cho Marshall & Barney. Lily đôi lúc cho thấy có hứng thú với người đồng giới, thường tưởng tượng và mơ về những người phụ nữ khác. Cô cũng gặp rắc rối với khoản nợ khổng lồ vì nghiện mua sắm; không thể giữ bí mật; và cũng là người quan tâm và vì nhóm bạn của mình nhất. Trong lúc học đại học, Lily từng hẹn hò với Scooter trước khi gặp được Marshall và hẹn hò với anh từ đó. Họ bên nhau trong khoảng 9 năm và đính hôn gần 1 năm khi Lily chia tay với Marshall để chuyển đến San Francisco để tập trung cho công việc hội họa của mình. Cô trở lại New York nhưng Marshall không chấp nhận, khiến họ phải cách mặt nhau một vài tháng. Sau đó họ hàn gắn lại mọi chuyện và lấy nhau. Họ từng chuyển về căn hộ tại "Dowisetrepla", khi họ chưa biết nó nằm gần Nhà Máy Xử Lý Nước Thải. Họ muốn có con, nhưng lại quá sợ sệt nên không thử. Trong phần 6, cô thông báo mình có thai và trong tập "The Magician's Code - Part One", cô hạ sinh đứa con trai tên là Marvin Jr. Trong suốt phần 8, cô nhận công việc của một cố vấn nghệ thuật cho The Captain. Ngài ngỏ ý việc chuyển đến Ý để tìm kiếm và đấu giá tác phẩm cho bộ sưu tập của ông. Sau khi bàn với Marshall, họ đã nhất trí chuyển đi Ý. Thế nhưng, trong phần cuối, họ cãi nhau rất lớn vì Marshall tự ý nhận việc của một thẩm phán mà không hỏi ý kiến cô. Sau đó họ quyết định không đi đến Ý cùng cô khi biết cô đang mang thai. Trong tương lai, cô và Marshall có đứa con thứ 3. Robin Scherbatsky. Robin sinh ngày 23 tháng 7 năm 1980, làm việc của một biên tập viên bản tin thời sự cho đài World Wide News. Cô xuất thân từ Vancouver, British Columbia và được đặt tên theo tên của cha cô, người đã nuôi cô theo cách của một đứa con trai. Cô có mối quan hệ chìm nổi cùng Ted. Họ hẹn hò nhau trong phần 2 của loạt phim và sau đó chia tay, thế nhưng vẫn còn tình cảm với nhau trong phần 3. Trong một vài tập, cô xuất hiện như một nữ ca sĩ thiếu niên theo dòng nhạc teen pop với nghệ danh là Robin Sparkles, từng đến khắp các trung tâm thương mại tại Canada theo ca khúc nổi tiếng của mình "Let's Go to the Mall" và "Sandcastles in the Sand." Trong phần 4, Robin chuyển đến ở cùng Ted sau khi trở về từ chuyến đi công tác ngắn ngày ở Nhật Bản. Cuối phần 4, cô và Barney nhen nhóm một mối quan hệ, những lại kết thúc nó vào phần 5. Sau khi bị thất nghiệp một thời gian tại Mỹ, Robin biết được mình sẽ bị trục xuất nếu không có việc làm. Barney giúp cô có được một công việc trong một chương trình trò chuyện buổi sáng và từ đó là người đóng vai trò chính trong kênh truyền hình đó. Barney và cô tiến tới hôn nhân vào phần 8 và 9, khi ở phần cuối, mọi chuyện được trải dài trong tuần lễ diễn ra đám cưới của hai người. Họ đã li hôn sau ba năm chung sống. Năm 2030, Robin vẫn sống với bầy chó của mình tại New York khi cô nhận được lời cầu hôn từ Ted, người đã goá vợ suốt 6 năm. The Mother (Tracy McConnell). xxxxnhỏ|Cristin Milioti vào năm 2012.]] Cho dù The Mother luôn là nhân vật chính của loạt phim, cô mới chỉ thật sự lộ diện từ tập "Something New"'. Trong phần 9, có nhiều phân cảnh tương lai tập trung vào Ted và The Mother; tập phim thứ 200 "How Your Mother Met Me" hé lộ rất nhiều về thân thế của The Mother. Ted được gặp The Mother trong tập cuối, tại trạm tàu Farhampton sau khi dự đám cưới của Barney và Robin. Họ hẹn hò, đính hôn và có hai đứa con là Luke và Penny. Dù vậy, The Mother đã mất vì một căn bệnh không rõ nguyên nhân trong năm 2024
1
null
Thomas Luther "Luke" Bryan (sinh ngày 17 tháng 7 năm 1976) là một ca sĩ nhạc đồng quê người Mỹ. Sự nghiệp. Bryan bắt đầu sự nghiệp âm nhạc của mình vào giữa năm 2000, với việc sáng tác cho Travis Tritt và Billy Currington. Sau khi ký hợp đồng với hãng Capitol Records tại Nashville, Tennessee năm 2007 cùng với người anh họ Chad Christopher Boyd, anh đã phát hành album "I'll Stay Me", bao gồm các đĩa đơn "All My Friends Say", "We Rode in Trucks" và "Country Man". Anh tiếp tục phát hành album tiếp theo "Doin' My Thing" bao gồm các đĩa đơn "Do I", mà Bryan là đồng tác giả cùng với Charles Kelley và Dave Haywood of Lady Antebellum, và các đĩa đơn khác như "Rain Is a Good Thing", "Someone Else Calling You Baby". Album "Tailgates & Tanlines" phát hành năm 2011, bao gồm "Country Girl (Shake It for Me)", "I Don't Want This Night to End", "Drunk on You", và "Kiss Tomorrow Goodbye". Album thứ 4 "Crash My Party" của Bryan phát hành tháng 8 năm 2013, bao gồm đĩa đơn "Crash My Party" and "That's My Kind of Night". Bryan là đồng tác giả tất cả các đĩa đơn của mình ngoại trừ "Drunk on You", "Crash My Party" and "That's My Kind of Night" và đồng sản xuất tất cả bốn album và 1 album tổng hợp cùng với Jeff Stevens. Ngày 7 tháng 4 năm 2013, Bryan đã giành được giải thưởng của Nghệ sĩ của năm tại Academy of Country Music Awards. Cuộc sống cá nhân. Gia đình Luke bao gồm cha anh Tommy (là một nông dân), mẹ anh LeClaire, anh trai Chris (đã qua đời) và chị gái, Kelly Cheshire (đã qua đời). Bryan đã kết hôn với người yêu của mình từ thời đại học là Caroline Boyer tại Đại học Nam Georgia. Lễ cưới tổ chức vào ngày 8 tháng 12 năm 2006. Hiện tại cặp đôi đã có với nhau hai con trai.
1
null
Văn kiện Viên là một thỏa hiệp giữa 57 thành viên của Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu hầu thành lập những biện pháp gây lòng tin và bảo vệ an ninh. Phạm vi hoạt động là từ bờ biển Đại Tây Dương cho tới dãy núi Ural, cũng như ở Trung Á cho tới biên giới Trung Quốc. Văn kiện Viên này được duyệt lại thường xuyên theo thời gian quy định, văn kiện hiện thời được ký kết vào năm 2011. Nội dung. Văn kiện mô tả các biện pháp củng cố lòng tin, để mà giải trừ dân bị , ngưng đe dọa và sử dụng bạo lực trong các quan hệ song phương. Các thành viên của OSCE đã ký văn kiện này lần đầu tiên vào năm 1990 sau đó đã được tu chỉnh cũng như bổ túc thêm vào năm 1992, 1994, 1999 và 2011. Những biện pháp củng cố lòng tin bao gồm việc thăm viếng lẫn nhau của các quan sát viên dân sự và quân sự, cũng như việc trao đổi thông tin về số lượng, chỗ đóng quân...v...v...của các nước thành viên. Đức. Trung tâm Zentrum für Verifikationsaufgaben der Bundeswehr (ZVBw) trú đóng ở cơ sở quân đội Selfkant-Kaserne tại Geilenkirchen hoạch định, điều hợp và thi hành tất cả các nhiệm vụ mà có sự tham dự của nước Đức theo Văn kiện Viên. Cơ quan này có 140 nhân viên và đã tham dự các việc quan sát từ 23 năm nay.
1
null
"All You Want" là một ca khúc của nữ ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Anh Dido, được phát hành dưới dạng đĩa đơn thứ tư, và cũng là đĩa đơn cuối cùng từ album đầu tay của cô, "No Angel". Đĩa đơn được phát hành ở định dạng đĩa mini 3" tại Anh, khiến nó không được phép tham gia các bảng xếp hạng. Tuy nhiên, đĩa đơn lại được phát hành dưới dạng đĩa CD 5" theo truyền thống ở các khu vực khác trên thế giới. Nó đạt vị trí thứ 8 tại Nga. Bài hát được sử dụng ở cuối một tập của loạt phim "Mile High".
1
null
"One Step Too Far" là bài hát của Faithless trích từ album thứ ba của họ, "Outrospective". Ca khúc này đạt đến vị trí thứ sáu của UK Singles Chart. Ca khúc có sự góp mặt của em gái Rollo, Dido trong phần nhạc nền. Ca khúc được phối lại rất nhiều trong đĩa đơn được phát hành
1
null
Odds & Ends là tuyển tập các ca khúc chưa hoàn thiện và các bản thu thử của nữ nghệ sĩ người Anh, Dido. Tuyển tập này được hợp lại từ đội quản lý của cô, Nettwerk và được sử dụng trong chiến lược quảng bá cuối năm 1995, nhằm tăng sự quan tâm từ hãng đĩa để cô có thể ký hợp đồng cùng họ. Tất cả những ca khúc này được thu âm trong khoảng từ năm 1994 đến 1995. Dido sau đó gây được sự chú ý của hãng đĩa Arista Records, những người bị ấn tượng bởi sự kết hợp đồng sáng tác giữa cô và nhóm nhạc Anh, Faithless. Arista Records ký hợp đồng cùng Dido tại thị trường Hoa Kỳ, mà trước đó đã thảo một hợp đồng cùng anh trai cô, Rollo Armstrong tại hãng đĩa Cheeky Records, giúp cô có thể phát hành nhạc của mình trên toàn cầu. Bản "Worthless" sau đó xuất hiện trong "The Highbury Fields EP", một tập hợp năm bản nhạc mẫu được phát hành nhằm quảng bá cho album đầu tay của cô, "No Angel". "Take My Hand" cũng được nằm trong album đầu tay, cùng với "Sweet Eyed Baby" cũng được phối lại và được đổi tên thành "Don't Think Of Me". Hai bản "Worthless" và "Me" cũng được xuất hiện trong phiên bản Nhật của album "No Angel". Danh sách bài hát. Nguồn:
1
null
Life for Rent là album phòng thu thứ hai của nữ ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Anh, Dido được phát hành bởi hãng đĩa Arista Records vào ngày 29 tháng 9, 2003. Album được sản xuất bởi Rollo Armstrong và Rick Nowels. Quá trình thực hiện album bắt đầu từ hồi giữa năm 2002. Album đến nay được chứng nhận 7 lần đĩa Bạch kim bởi BPI; và bán hơn 12 triệu bản trên toàn thế giới, có tên tại vị trí thứ tư của danh sách những album bán chạy nhất năm 2003. Album cũng đạt vị trí thứ 7 trong Danh sách những album bán chạy nhất thập niên 2000 tại Anh, giúp Dido là nữ nghệ sĩ duy nhất có hai album trong danh sách top 10. Sáng tác. Bài hát đầu tiên và cũng là đĩa đơn phát hành đầu tiên của album, "White Flag" bắt đầu bằng một hợp âm đơn, gợi nhớ đến ca khúc "Nothing Compares 2 U" của Sinéad O'Connor. Trong ca khúc, nhân vật chính không chịu đầu hàng, cho dù cả hai đều biết chuyện của họ đã chấm dứt. Ca khúc gồm một tạp âm "đa lớp", với phần outro là tiếng du dương của dương cầm và các nhạc cụ bộ dây khác. Bài hát thứ hai trong album, "Stoned" là một bản nhạc với giai điệu sôi động, gợi nhớ đến David Bowie trong album "Outside" (1995). Bản nhạc cùng tên album, "Life for Rent" mang đậm chất tự sự với giai điệu tinh tế. Ca khúc bắt đầu bằng tiếng guitar mộc và sau đó có pha trộn giai điệu từ hip hop. Phần "Nothing I have is truly mine" được lặp lại trong hồi cuối của bài. "Mary’s in India" là một ca khúc đầy suy nghĩ như một lời đề nghị nho nhỏ với một người bạn chuyển đi sống ở nước ngoài về những gì cô để lại sau lưng. Bài hát thứ 5, "See You When You're 40" là một bản ballad mang giai điệu và màu sắc tối hơn, với một chút giai điệu giao hưởng và trip-hop. 'And I've seen, tonight, what I'd been warned about / I'm gonna leave, tonight, before I change my mind,' she sings. Dido có lần chia sẻ về bài hát thứ 6, "Don't Leave Home", là một ca khúc với phần đề cập đến việc nghiện ma tuý. Thay vì là một người tình, ma tuý chiếm lấy thân thể người nghiện cho đến khi anh ta không muốn về nhà nữa. Bài hát "Who Makes You Feel" là một ca khúc trip-pop nhẹ nhàng và đầy tình cảm. "Sand in My Shoes" nói về việc cô quá bận đến nỗi không còn thời gian nữa, với phần nối của bài có hơi hướng nhạc dance-house. "Do You Have a Little Time" có những nhịp điệu hip-hop và những nhạc cụ dây mới mẻ. "This Land í Mine" là một mảnh trầm ngâm mà theo PopMatters, là một bản mà "Travis hay Coldplay sẽ thu nó với một nụ cười nhoẻn trên môi. Với giai điệu giản dị và lơ thơ, ca khúc nghe giống với Olivia Newton-John hồi đầu những năm 70." Bài hát "See The Sun" cho thấy Dido như một vị cứu tinh cho một con tim tan vỡ. Các đĩa đơn. "White Flag" là ca khúc được phát hành dưới dạng đĩa đơn đầu tiên từ album. Ca khúc nhận được nhiều phản ứng tích cực từ phía các nhà phê bình âm nhạc và trở thành ca khúc ăn khách rộng trên toàn thế giới, đạt vị trí quán quân tại Úc và khu vực Châu Âu. Bài hát đạt vị trí Á quân tại Anh, đứng sau "Where Is the Love?" của The Black Eyed Peas và trở thành ca khúc đạt vị trí cao nhất của cô tại đó. Ở bảng xếp hạng cuối năm tại Anh, bài hát đạt vị trí thứ 12. Bài hát đạt vị trí thứ 18 tại "Billboard" Hot 100 và trở thành ca khúc thứ hai đạt đến top 20 của cô tại đó. Ca khúc còn đạt vị trí thứ hai tại "Billboard" Hot Adult Contemporary Tracks và tồn tại ở đó trong suốt 66 tuần. Ca khúc ghi dấu ấn mối quan hệ của cô với Bob Page. Trong một cuộc phỏng vấn với tờ báo "The Sun" Anh, Dido chia sẻ "ca khúc là lời xin lỗi đến Page vì làm anh ấy đau khổ. 'Đó là một quyết định lớn khi tôi không cưới anh ấy...". Video ca nhạc cho bài hát này có sự góp mặt của diễn viên David Boreanaz. Ca khúc lọt vào danh sách "500 Ca khúc xuất sắc nhất từ khi bạn sinh ra" của The Blenders tại vị trí thứ 317. Đĩa đơn thứ hai từ album được chọn là "Life for Rent". Nó đạt top 10 tại Anh và Ireland. Video ca nhạc của ca khúc có sự xuất hiện của Dido khi đang hát trong nhiều căn phòng, được Sophie Muller đạo diễn. "Don't Leave Home" được phát hành dưới dạng đĩa đơn thứ ba của album, đây cũng là sáng tác của cô cùng anh trai của mình. Chủ đề của ca khúc nói về ma tuý, khi ma tuý "hát" đến con nghiện của mình: "When I've been here for just one day / You'll already miss me if I go away / So close the blinds and shut the door / You won't need other friends anymore". Ca khúc đạt đến vị trí thứ 25 tại Anh. Bài hát "Stoned" cũng được phối lại và chỉ được phát hành dưới dạng B-side của đĩa đơn, nhưng ngay sau đó trở thành bản ăn khách tại các hộp đêm và đạt vị trí đầu bảng tại "Billboard" Hot Dance/Club Songs. "Sand in My Shoes" là đĩa đơn thứ tư và cũng là đĩa đơn cuối cùng trích từ album, trở thành một bài hát ăn khách ở các hộp đêm khi đạt vị trí quán quân trên "Billboard" Hot Dance Club Play. Nó cũng đạt đến vị trí thứ 29 tại Anh. Đánh giá chuyên môn. Theo các bài đánh giá được tập hợp lại tại Metacritic, album nhận được nhiều ý kiến tích cực, đạt được 69 trên 100 điểm dựa trên 12 bản đánh giá. Jason MacNeil, từ "PopMatters" cho một bài đánh giá rất tích cực, kết thúc bằng câu: "Album lần này nhìn chung là một sản phẩm nặng ký hơn album trước, trong cả chất lượng lẫn chiều sâu". Alexis Petridis có viết "Thật là một điều tuyệt vời khi ghi nhận album thứ hai của Dido có đủ lực mạnh để cho những người gièm pha cô biến mình trở thành những kẻ hợm hĩnh, những kẻ cho rằng âm nhạc của cô chỉ là sự lột tả của một người bình thường;... Buồn thay, tự thân album này đã chứng tỏ mình thật sự nhiều hơn thế". Nhà phê bình Robert Christgau từ MSN Music cho album một "Biểu tượng chiếc kéo Lựa chọn", khi nói "bài hay nhất từ album cũng không đáng để bạn bỏ thời gian hay tiền bạc để nghe nó", cùng với việc chọn ca khúc "Mary's in India" là "ca khúc hay" duy nhất trong album. Barry Walters, từ tờ "Rolling Stone" thẳng thắn chia sẻ "Những sản phẩm như "No Angel"... không quá táo bạo, nhưng lại có tính chính trực của riêng nó."""Life for Rent" không hề mang lại thứ gì quá đột phá từ sản phẩm đầu tay của Dido [No Angel]... tuy cô là mẫu người khiêm tốn và hoà nhã, nhưng những ca khúc của cô hoàn toàn là những gì bắt tai và du dương nhất mà có thể sẽ lẩn quẩn trong tâm trí bạn mãi" là nhận xét của Stephen Thomas Erlewine từ Allmusic. Andrew Lynch, từ entertainment.ie có ghi rằng: ""Life For Rent" không hoàn toàn là một kiệt tác, nhưng có trong mình sự nhẹ nhàng, khiêm tốn cùng sức quyến rũ kiểu hiền lành giúp cho sản phẩm trước trở thành một sản phẩm ăn khách". Derryck Strachan, từ BBC, có viết "... cô ấy bước giữa sự tín nhiệm và tính đại chúng;... Nhưng, cô không hề vấp phải một sai lầm nào trong album lần này. Về mặt tích cực, có nhiều giai điệu folk-pop hơn trong sản phẩm này, về mặt tiêu cực, cô vẫn chưa tiến lên một cách rõ rệt", đồng thời cũng có nói "Cho dù Dido có góp một phần quan trọng trong nhóm nhạc của anh trai Rollo của cô đi chăng nữa... nhưng để nói sự thành công của nhóm mang đến danh tiếng cho cô thì thật sai lầm". Thành công về mặt thương mại. "Life for Rent" trở thành một trong những album có tốc độ bán chạy nhanh nhất của một nghệ sĩ nữ, khi vượt mốc 5 triệu bản chỉ trong hai tuần phát hành. Album bán được 102.500 bản trong ngày đầu tiên và đạt 400.351 bản ngay trong tuần đầu. Theo IFPI, đây là album bán chạy thứ tư của năm 2003 trên toàn thế giới. Cũng theo BPI, "Life for Rent" là album bán chạy nhất năm 2003 tại Anh Quốc; và là album thứ 7 bán chạy nhất trong thập niên 2000. Album có 10 tuần đạt vị trí đầu bảng tại UK Albums Chart, và tồn tại trong bảng xếp hạng trong 54 tuần. Tại Hoa Kỳ, "Life for Rent" đạt đến vị trí thứ tư. Đến tháng 10 năm 2003, album đã bán hơn 1 triệu rưỡi bản. Tại Úc, album mở đầu tại vị trí đầu bảng tại ARIA, trở thành một trong những album bán chạy nhất năm 2003 và được chứng nhận 6 lần đĩa Bạch kim với lượng đĩa bán ra vượt hơn 420.000 bản. Chuyến lưu diễn "Life for Rent Tour" của cô được phát động trên khắp thế giới năm 2004. Album còn được đề cử cho "Album Anh Quốc xuất sắc nhất" tại giải BRIT Awards 2004 cùng với "Gotta Get Thru This" của Daniel Bedingfield, "Think Tank" của Blur và "Magic and Medicine" của The Coral nhưng đều thất bại trước "Permission to Land" của The Darkness. "White Flag" được vinh danh tại Ivor Novello Award năm 2004 với hạng mục "Bài hát quốc tế ăn khách của năm". Cũng trong năm đó, "Life for Rent" đem về đề cử cho Giải Grammy đầu tiên của cô trong hạng mục "Trình diễn giọng pop nữ xuất sắc nhất" cho bài "White Flag"
1
null
Chuseok (Tiếng Hàn: 추석, Hanja: 秋夕, Âm Hán Việt: Thu tịch, nghĩa đen là "đêm thu"), còn gọi là Jungchu (Tiếng Hàn:중추, Hanja: 中秋) hay Hangawi (Tiếng Hàn: ; ; từ tiếng Hàn cổ, "trung tâm tuyệt vời (của mùa thu)"), là ngày Tết trung thu, cũng được coi là lễ tạ ơn của người Hàn Quốc và Triều Tiên; đây là ngày tết lớn thứ nhì trong năm; các công sở đều đóng cửa vì đây là ngày nghỉ lễ chính thức. Dân Hàn ăn Chuseok vào rằm Tháng Tám âm lịch. Từ 1986 đến 1988, Chuseok chính thức kéo dài hai ngày (gồm ngày rằm Trung thu 15 và ngày 16). Kể từ 1989, ngày nghỉ lễ tăng lên thành ba ngày (ngày 14, 15 và 16 âm lịch). Chuseok còn có tên là "Hangawi" (한가위). "Han" có nghĩa là lớn và "gawi" là ngày rằm Tháng 8. Nguồn gốc. Lễ Chuseok có từ thời Gabae của nước Silla (từ năm 57 TCN đến năm 935). Vua Yuri (24-27), quân vương thứ ba của triều Silla, là người đầu tiên thiết lễ Chuseok vốn nguyên thủy là cuộc thi tài. Theo truyền thuyết thì nhà vua treo giải thách các đội nữ nhi ở kinh thành dệt vải. Từ 16 Tháng Bảy âm lịch đến 14 Tháng Tám âm lịch ai dệt được nhiều sẽ được khao bữa cỗ thịnh soạn. Từ đó Chuseok biến đổi dần thành ngày lễ vui chơi trong dân dã. Ý nghĩa. Chuseok là một trong những ngày lễ quan trọng của người Hàn Quốc. Vì mùa thu cũng là mùa gặt nên nhà nông thuở trước nhân đó bày lễ tạ ơn tổ tiên đã giúp mùa màng no đủ và cầu mong cho mùa màng năm sau bội thu... Đây cũng là dịp gia đình sum họp. Ai ở xa quê cũng tìm về quây quần bên gia đình trò chuyện, ăn uống và hưởng thụ những thành quả của vụ thu hoạch duy nhất trong 1 năm.
1
null
Psyche (định danh hành tinh vi hình: 16 Psyche) là một trong mười tiểu hành tinh có khối lượng lớn nhất trong vành đai tiểu hành tinh. Nó có đường kính hơn 200 km và chứa xấp xỉ 1% khối lượng của cả vành đai. Nó còn là tiểu hành tinh kim loại kiểu M có khối lượng lớn nhất. Nó được cho là lõi sắt lộ ra của một protoplanet. Psyche được nhà thiên văn học người Ý Annibale de Gasparis phát hiện vào ngày 17 tháng 3 năm 1852 tại Napoli và được đặt tên theo Psyche, một nhân vật trong thần thoại Hy Lạp. Con số 16 có nghĩa rằng đây là . Biểu tượng. Mười lăm tiểu hành tinh đầu tiên được phát hiện đã được các nhà thiên văn học gắn cho các biểu tượng như một cách để ký hiệu nhanh. Nhưng vào năm 1851, Johann F. Encke đã đề nghị sử dụng các con số:⑯, và 16 Psyche trở thành tiểu hành tinh đầu tiên được ký hiệu theo cách này (vào năm 1852 bởi James Ferguson). Tuy nhiên Psyche, cũng như một số tiểu hành tinh khác được phát hiện trong những năm tiếp đó, vẫn được gắn cho một biểu tượng riêng. Trong biểu tượng của Psyche (), nửa vòng tròn tượng trưng cho cánh bướm, biểu tượng của tâm hồn ("psyche "trong tiếng Hy Lạp nghĩa là 'tâm hồn'), và hình sao tượng trưng cho một ngôi sao. Đặc điểm. Những quan sát qua ra-đa cho thấy Psyche có cấu tạo hoàn toàn bằng sắt và niken. Khác với một số tiểu hành tinh kiểu M khác, Psyche không có bất kỳ dấu hiệu nào về sự tồn tại của khoáng vật chứa nước trên bề mặt của nó, điều này phù hợp với nhận định rằng nó là một vật thể kim loại. Gần đây, tiểu hành tinh này đang được cho là có chứa lượng vàng trị giá lên tới 700 tỷ tỷ đô la Mỹ. Có thể tồn tại một lượng ít pyroxen. Do đó có vẻ như Psyche là lõi kim loại của một vật thể lớn hơn đã bị phá hủy. Nếu điều này là đúng thì sẽ có những tiểu hành tinh khác có quỹ đạo tương tự với nó. Tuy nhiên Psyche không nằm trong nhóm tiểu hành tinh nào cả. Một giả thuyết cho rằng cú va chạm hình thành nên Psyche xảy ra rất sớm trong lịch sử Hệ Mặt Trời và tất cả những mảnh vỡ khác đã bị những vụ va chạm sau đó nghiền nát. Psyche đủ lớn để có thể tính toán được tác động của nó lên các tiểu hành tinh khác, điều này cho phép ước lượng khối lượng của nó. Theo số liệu của IRAS, Psyche có đường kính 253 km. Quan sát sự che khuất sao của nó cho thấy kích thước 214×181 km, nhỏ hơn những tính toán ban đầu, dẫn đến tỷ trọng lớn hơn và phù hợp với một tiểu hành tinh kim loại. Có vẻ như Psyche có bề mặt khá đồng đều và có dạng ellipsoid. Kết quả phân tích đường cong ánh sáng gần đây cho thấy điểm cực của Psyche hướng về tọa độ hoàng đạo (β, λ) = (−9°, 35°) hoặc (β, λ) = (−2°, 215°) với khoảng chênh lệch 10°, khiến trục quay của nó nghiêng 95°. Hai lần Psyche che khuất sao đã được quan sát từ Mexico vào hai ngày 22 tháng 3 và 16 tháng 5 năm 2002. Những đường cong ánh sáng khác nhau cho thấy Psyche không có dạng cầu, điều này phù hợp với kết quả ra-đa. Có khả năng ít nhất một vài mẫu thiên thạch enstatite chondrite có nguồn gốc từ Psyche do chúng có kết quả phân tích phổ học tương đồng với tiểu hành tinh này. Thăm dò. Chưa có tàu vũ trụ nào ghé thăm Psyche. Một nhóm các nhà khoa học do Lindy Elkins-Tanton dẫn đầu đã đề xuất một tàu vũ trụ không người lái bay xung quanh tiểu hành tinh này. Họ cho rằng Psyche cần được nghiên cứu vì nó là vật thể kim loại duy nhất từng được phát hiện. Tàu vũ trụ được đề xuất sẽ bay xung quanh Psyche trong 6 tháng để nghiên cứu địa hình, đặc điểm bề mặt, lực hấp dẫn, từ tính và những đặc tính khác của tiểu hành tinh này. Họ đã tiến hành kế hoạch được một năm rưỡi và dự định sẽ đệ trình lên Chương trình Khám phá của NASA.
1
null
Nghĩa trang Lái Thiêu là nghĩa trang nằm ở phường Bình Hòa, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, Việt Nam. Ở đây có rất nhiều mộ của người Hoa. Miêu tả. Nghĩa trang Lái Thiêu có diện tích 48,7127 ha, chia làm hai khu là A và B. Trước đây khu A được gọi là Chợ Lớn - tức dành chôn người Hoa - còn khu B được gọi là Sài Gòn - tức dành chôn người Việt. Công tác quản lý do Công ty cổ phần Xây dựng Dịch vụ Công cộng Bình Dương đảm nhiệm từ năm 1988. Tình trạng. Khu A có tường bao vững chắc, còn khu B thì không có chốt canh gác; phía trước 300 m của khu này lại không có tường rào nên an ninh khu vực này rất phức tạp. Dây sắt ở mộ phần tại khu B thường xuyên bị lấy trộm.
1
null
USS "Mahan" (DD-364) là một tàu khu trục, chiếc dẫn đầu trong lớp của nó được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Chuẩn đô đốc Alfred Thayer Mahan (1840-1914), sử gia và là nhà lý thuyết chiến lược hải quân có tầm ảnh hưởng lớn trên thế giới. Nó bắt đầu hoạt động tại Đại Tây Dương trước khi chuyển sang Trân Châu Cảng năm 1937 và trải qua quảng đời hoạt động còn lại tại Thái Bình Dương. "Mahan" đang cùng Lực lượng Đặc nhiệm 12 ở ngoài khơi vào lúc diễn ra cuộc tấn công Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12 năm 1941. Nó tiếp tục phục vụ trong nhiều chiến dịch tại Mặt trận Thái Bình Dương cho đến khi bị áp đảo bởi cả một phi đội máy bay kamikaze tại vịnh Ormoc, Leyte, Philippines vào ngày 7 tháng 12 năm 1944. Hư hại nặng đến mức không thể cứu chữa, nó bị bỏ lại và bị đánh đắm bởi hải pháo và ngư lôi của một tàu khu trục khác. Thiết kế và chế tạo. Chế tạo. "Mahan" được đặt lườn vào ngày 12 tháng 6 năm 1934 tại xưởng tàu của hãng United Shipyards, Inc, ở đảo Staten, New York. Nó được hạ thủy vào ngày 15 tháng 10 năm 1935, được đỡ đầu bởi cô Kathleen H. Mahan, chắt của đô đốc Mahan; và được đưa ra hoạt động vào ngày 18 tháng 9 năm 1936 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân J. B. Waller. Thiết kế. "Mahan" có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn , và lên đến khi đầy tải. Chiều dài chung của cáccon tàu là , mạn thuyền rộng và độ sâu của mớn nước là . Nó được cung cấp động lực bởi bốn turbine hơi nước General Electric, dẫn động hai trục chân vịt và tạo ra tổng công suất , giúp đạt được tốc độ tối đa . Bốn nồi hơi ống nước Babcock and Wilcox cung cấp hơi nước siêu nhiệt cần thiết cho các turbine. "Mahan" mang theo tối đa dầu đốt, cho phép có tầm xa hoạt động ở tốc độ đường trường . Thành phần thủy thủ đoàn trong thời bình là 158 sĩ quan và thủy thủ, trong thời chiến tăng lên khoảng 250 sĩ quan và thủy thủ. "Mahan" có cột ăn-ten trước ba chân và cột ăn-ten chính dạng cột. Để cải thiện góc bắn của vũ khi phòng không, cột ăn-ten trước ba chân được cấu trúc mà không có các mấu hoa tiêu. Kiểu dáng của nó tương tự như với lớp "Porter" lớn hơn, vốn được chế tạo ngay trước nó. "Mahan" được trang bị những máy phát điện khẩn cấp đầu tiên, thay thế cho các bình ắc quy dự trữ điện trên những lớp trước. Bệ chắn cho khẩu đội pháo được chế tạo cho các vũ khí bắn thượng tầng, gồm một bệ trước cầu tàu và một bệ bên trên sàn sau. Dàn ống phóng ngư lôi bốn nòng thứ ba được bổ sung, bố trí trên trục giữa trong khi hai dàn kia đặt bên mạn. Điều này đòi hỏi phải dời chỗ một khẩu pháo 5 inch/38 caliber đến phòng trên boong phía sau. Hệ thống động lực tàu khu trục truyền thống được thay thế bằng một thế hệ động lực mới dựa trên kiểu trên bờ, vốn đơn giản và hoạt động hiệu quả hơn. Vũ khí. Dàn pháo chính của lớp "Mahan" bao gồm năm khẩu pháo /38 caliber, được trang bị cùng bộ kiểm soát hỏa lực Mark 33. Cả năm khẩu đều là kiểu lưỡng dụng, được cấu hình cho cả mục tiêu trên mặt biển lẫn trên không. Dàn hỏa lực phòng không bao gồm bốn súng máy.50 caliber làm mát bằng nước. "Mahan" được trang bị ba dàn ống phóng ngư lôi bốn nòng dùng cho ngư lôi Mark 15, dẫn hướng bằng bộ kiểm soát hỏa lực ngư lôi Mark 27. Các đường ray thả mìn sâu được bố trí phía đuôi tàu. "Mahan" được nâng cấp vào tháng 6 năm 1944 tại Xưởng hải quân Mare Island, tuy nhiên chi tiết nâng cấp không được biết rõ. Hầu hết việc cải biến những chiếc khác trong lớp của "Mahan" bao gồm việc tháo dỡ một khẩu pháo 5 inch/38 caliber, thay bằng hai khẩu đội Bofors 40 mm phòng không nòng đôi và từ bốn đến sáu khẩu Oerlikon 20 mm phòng không. Lịch sử hoạt động. Trong hai tháng kể từ khi nhập biên chế, "Mahan" lên đường viếng thăm các cảng thuộc vùng biển Caribe và Nam Mỹ, kết hợp chuyến đi chạy thử máy và huấn luyện với một lượt viếng thăm thiện chí. Nó ở lại khu vực Đại Tây Dương cho đến tháng 7 năm 1937, khi nó khởi hành đi sang vùng bờ biển Nam California để huấn luyện hạm đội, rồi tiếp tục đi đến cảng nhà mới tại Trân Châu Cảng. Khi Hải quân Nhật bất ngờ tấn công cảng này vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, "Mahan" đang ở ngoài khơi cùng tàu sân bay , ba tàu tuần dương và bốn tàu khu trục thuộc thành phần Lực lượng Đặc nhiệm 12. Nhiệm vụ của "Lexington" là vận chuyển máy bay Thủy quân Lục chiến tăng cường cho lực lượng đồn trú trên đảo Midway; và sau khi nghe tin tức về cuộc tấn công, tư lệnh lực lượng đặc nhiệm nhận mệnh lệnh hủy bỏ nhiệm vụ vận chuyển để truy tìm các tàu chiến Nhật. Không tìm thấy đối phương, lực lượng quay trở về Trân Châu Cảng vào ngày 12 tháng 12. "Mahan" lại ra khơi và cuối tháng 12 cùng 103 binh lính Thủy quân Lục chiến để tăng cường cho lực lượng đồn trú trên đảo Johnston, ở cách khoảng về phía Tây Hawaii, và cho triệt thoái 47 thường dân về Hawaii trong tháng tiếp theo. Một nhiệm vụ hộ tống vận tải đã đưa chiếc tàu khu trục đến Samoa, nơi nó gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 17, bao gồm tàu sân bay , hai tàu tuần dương và năm tàu khu trục. Lực lượng này tiến hành không kích các đảo san hô Jaluit, Mili và Makin (Butaritari) thuộc quần đảo Marshall và Gilbert. Nó tiếp tục đi đến đảo Canton vào cuối tháng 2 năm 1942, tạm thời được phân công nhiệm vụ tuần tra gần bờ. Đến đầu tháng 4, nó ra khơi cùng một đoàn tàu vận tải hướng đến San Pedro, California, và sau đó đi lên phía Bắc đến Xưởng hải quân Mare Island để đại tu, đi vào ụ tàu vào ngày 18 tháng 4 năm 1942. "Mahan" quay trở lại hoạt động tại vùng biển Trân Châu Cảng vào tháng 8 năm 1942. Đến giữa tháng 10, nó rời Trân Châu Cảng trong thành phần Lực lượng Đặc nhiệm 16 cùng với tàu sân bay , thiết giáp hạm , hai tàu tuần dương và bảy tàu khu trục. Vào ngày 24 tháng 10, chúng gia nhập cùng Lực lượng Đặc nhiệm 17, bao gồm tàu sân bay , bốn tàu tuần dương và sáu tàu khu trục. Hai đội tàu sân bay kết hợp thành Lực lượng Đặc nhiệm 61 đặt dưới quyền chỉ huy của Chuẩn đô đốc Thomas C. Kinkaid, và được lệnh đi đến quần đảo Santa Cruz để tấn công quân Nhật nếu chúng tiến đến Guadalcanal. Sau khi lực lượng đặc nhiệm thả neo ngoài khơi quần đảo vào sáng ngày 26 tháng 10, máy bay trinh sát của "Enterprise" phát hiện một lực lượng tàu sân bay Nhật Bản đông hơn đáng kể, và Trận chiến quần đảo Santa Cruz nổ ra. Khi trận chiến kết thúc, hải quân bị mất máy bay, tàu sân bay "Hornet" và một tàu khu trục; "Enterprise", "South Dakota", một tàu tuần dương và một tàu khu trục bị hư hại. Phía Nhật Bản bị mất khoảng 100 máy bay, nhưng thiệt hại về tàu chiến nhẹ hơn nhiều. Dù sao, các đô đốc Nimitz và Halsey tỏ ý hài lòng với trận chiến mà lực lượng của Kinkaid đã đối chọi với đối phương có ưu thế áp đảo, và các tàu khu trục hộ tống chung quanh "Hornet" và "Enterprise" đã làm tròn vai trò bảo vệ phòng không. Tuy nhiên, trên đường đi Nouméa, New Caledonia, việc phát hiện một tàu ngầm Nhật Bản đã khiến "South Dakota" va chạm với "Mahan", lúc này dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hải quân R. W. Simpson; cả hai đều bị hư hại đáng kể. Việc sửa chữa tạm thời cho "Mahan" được thực hiện tại Nouméa, và nó quay về Trân Châu Cảng để được trang bị một mũi tàu mới. Hoàn tất việc sửa chữa, "Mahan" rời Trân Châu Cảng ngày 9 tháng 1 năm 1943 để hướng sang khu vực Nam Thái Bình Dương. Trong những tháng tiếp theo, nó hộ tống các đoàn tàu vận tải đi lại giữa New Hebrides và quần đảo Fiji, tuần tra ngoài khơi New Caledonia, và tham gia các hoạt động tại vùng biển Australia. Vào tháng 8, căn cứ hoạt động của nó là vịnh Milne, New Guinea, một trong hai khu vực tập trung (khu vực kia là Buna, Papua New Guinea) cho chiến dịch nhằm tái chiếm vùng bờ biển Đông Bắc New Guinea còn do Nhật chiếm đóng. Chiến dịch được bắt đầu vào tháng 8 năm 1943 với kế hoạch tấn công Lae, New Guinea; hai tuần trước đó, "Mahan", dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Hải quân L. T. Smith, cùng ba tàu khu trục Hoa Kỳ khác đã dọn sạch các lối tiếp cận Lae và vùng biển giữa Salamaua và Finschhafen, cũng như bắn phá các vị trí quân Nhật ở Finschhafen. Đến đầu tháng 9, Lực lượng đặc nhiệm Lae dưới quyền Chuẩn đô đốc Daniel E. Barbey rời vịnh Milne tiến đến Lae với 8.000 binh lính Australia. Đến tối ngày 4 tháng 9, việc đổ bộ binh lính hoàn tất; và sang ngày 11 tháng 9, Salamaua dưới quyền kiểm soát của lực lượng Đồng Minh, và Lae bị chiếm vào ngày 16 tháng 9. "Mahan" và các tàu khu trục khác đã bảo vệ cho các cuộc đổ bộ. Bị thất bại tại Lae, quân Nhật rút lui về Finschhafen, cũng là nơi được liên quân Hoa Kỳ-Australia lựa chọn cho cuộc tấn công tiếp theo tại New Guinea. Vào ngày 21 tháng 9, một lực lượng tấn công dưới quyền Barbey đã rời Buna, New Guinea, được các tàu khu trục Hoa Kỳ hộ tống, dừng lại tại Lae để đón lên tàu một lữ đoàn bộ binh Hoa Kỳ. Một số tàu khu trục được phối thuộc cùng lực lượng, dẫn trước đoàn tàu vận chuyển đến điểm hẹn. Vào ngày 22 tháng 9, trước bình minh, lực lượng đổ bộ tấn công lên các bãi biển tại Finschhafen, và đến trưa mọi lực lượng đã lên bờ. Khi các tàu khu trục bắt đầu rút lui khỏi khu vực, mười máy bay ném bom-ngư lôi đối phương xuất hiện, nhắm vào "Mahan" và năm tàu khu trục khác. Các con tàu đã nổ súng đánh trả, bắn rơi tám chiếc trong khi hai chiếc còn lại chạy thoát. Đến ngày 2 tháng 10, Finschhafen nằm trong vòng kiểm soát của lực lượng Đồng Minh. Vào ngày 14 tháng 12 năm 1943, lực lượng đổ bộ dưới quyền Barbey đã tập trung tại Buna, New Guinea nhằm chuẩn bị cho cuộc đổ bộ lên Arawe, New Britain. Trong số chúng có "Mahan" và bốn tàu khu trục khác thuộc đội bắn phá. Lực lượng lên đường và thả neo ngoài khơi Arawe vào sáng sớm hôm sau, các tàu khu trục đã bắn phá công sự phòng ngự của quân Nhật đối diện bãi đổ bộ chính. Đạn pháo 5 inch và rocket buộc phía Nhật phải rút lui, và đến giữa buổi sáng, các bãi đổ bộ được kiểm soát. Vào ngày Giáng Sinh 1943, "Mahan" di chuyển cùng với lực lượng đổ bộ dưới quyền Barbey đến vịnh Borgen, gần mũi Gloucester, New Britain. Lối vào vịnh Borgen đầy bất trắc do những chướng ngại không được hiển thị trên hải đồ; "Mahan" và được chọn để dò đường dẫn đầu, di chuyển qua eo biển, với hai tàu quét mìn theo sau thả những phao tiêu đánh dấu. Lực lượng đổ bộ theo sau con đường đã được đánh dấu, tiến qua lối vào vịnh. Vào sáng ngày 26 tháng 12, Thủy quân Lục chiến đổ bộ lên bãi biển mà không gặp sự kháng cự. Quân Nhật chỉ tấn công mạnh vào xế chiều hôm đó, nhưng không đánh bật được lực lượng Hoa Kỳ. Vào cuối tháng 2 năm 1944, "Mahan" hoạt động cùng với Đệ Thất hạm đội hỗ trợ cho lực lượng đổ bộ lên đảo Los Negros thuộc quần đảo Admiralty. Cho dù các tàu hỗ trợ phải chịu đựng hỏa lực mạnh mẽ của đối phương, lực lượng vẫn đổ bộ được lên bờ. Ba tuần sau, lực lượng Nhật Bản đồn trú tại Los Negros bị đánh bại. Vào mùa Xuân năm 1944, sau khi đã làm nhiệm vụ kéo dài tại Thái Bình Dương, "Mahan" được lệnh quay trở về California để đại tu, và được sửa chữa tại Xưởng hải quân Mare Island. Nó rời xưởng tàu vào đầu tháng 7 để đi Trân Châu Cảng, tham gia các cuộc thực tập tại đây cho đến ngày 15 tháng 8. Nó quay trở lại khu vực New Guinea vào ngày 20 tháng 10, ngang qua Eniwetok, Jaluit, Guam, Saipan và Ulithi, hộ tống các đoàn tàu vận tải đi lại giữa Hollandia (Jayapura) và Leyte. Đến cuối tháng 11 năm 1944, nó tuần tra chống tàu ngầm ngoài khơi Leyte thuộc Philippines. Trong tháng 11 năm 1944, thời tiết xấu và địa hình bị đối phương chiếm giữ đã ngăn trở chiến dịch trên đất liền nhằm giành lại Leyte từ tay đối phương. Trở ngại chính là quân Nhật có khả năng tăng cường và tiếp tế cho lực lượng trú đóng tại thành phố Ormoc ở phía Tây Leyte, trong khi quân Mỹ không thể cân bằng lại ưu thế này. Do đó quyết định về việc tấn công đổ bộ lên Ormoc là điều không tránh khỏi. Sáng ngày 7 tháng 12 năm 1944, ba năm sau ngày Nhật ném bom Trân Châu Cảng, binh lính thuộc Sư đoàn 77 Bộ binh (Hoa Kỳ) đổ bộ lên phía Nam thành phố Ormoc; cùng lúc đó, "Mahan" đang tuần tra tại eo biển giữa Leyte và đảo Ponson. Cuộc đổ bộ của bộ binh chỉ gặp sức kháng cự nhẹ của quân Nhật, nhưng chín máy bay ném bom cùng ba máy bay tiêm kích hộ tống đã tập trung vào "Mahan". Phía Nhật Bản áp dụng một trong những phương thức tấn công khác thường và hủy diệt nhất trong các kiểu tấn công Kamikaze, là sử dụng chiến thuật tấn công với máy bay ném bom-ngư lôi, nhưng sau khi bị đánh trúng liền chuyển sang tấn công cảm tử. Trong cuộc tấn công, máy bay tiêm kích quân đội Mỹ đã bắn rơi ba máy bay Nhật và làm hư hại hai chiếc khác; "Mahan" bắn rơi bốn chiếc nhưng chịu đựng ba cú kamikaze trúng đích, trong đó nặng nề nhất là cú đánh trúng vào cấu trúc thượng tầng cạnh khẩu pháo số 2. Bị nổ tung và ngập chìm trong lửa, "Mahan" dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hải quân E. G. Campbell được hướng về phía các tàu cột mốc với hy vọng cứu vớt mong manh, trước khi ông ra lệnh bỏ tàu. Các tàu khu trục và đã cứu vớt những người sống sót; một sĩ quan và năm thủy thủ mất tích, 13 người khác bị thương kể cả bỏng. Một tàu khu trục đã đánh đắm "Mahan" bằng hải pháo và ngư lôi. Phần thưởng. "Mahan" được tặng thưởng năm Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.
1
null
Niwatthamrong Boonsongpaisan (tiếng Thái: นิวัฒน์ธำรง บุญทรงไพศาล, phiên âm: Ni-vát-tham-long Bun-xong-bai-xan, sinh ngày 25 tháng 1 năm 1948) là một doanh nhân và chính khách người Thái Lan. Ngày 7 tháng 5 năm 2014, ông được chỉ định làm thủ tướng Thái Lan tạm quyền thay thế cho Yingluck Shinawatra sau khi bà này bị Toà án hiến pháp phế truất chức thủ tướng. Ngày 22 tháng 5 năm 2014, chính quyền Niwatthamrong bị lật đổ sau cuộc đảo chính ở Băng Cốc, tướng Prayuth Chan-ocha lên thay làm thủ tướng cho đến khi tiến hành bầu cử thủ tướng vào tháng 7 năm 2014. Chức vụ trước đó của ông là Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Thương mại. Trước đó ông quản lý chương trình trợ giá gạo của Thái Lan. Tiểu sử. Niwatthamrong sinh ngày 25 tháng 1 năm 1948. Ông có bằng cử nhân về giáo dục tại Đại học Srinakharinwirot và bằng thạc sĩ khoa học máy tính từ Đại học Chulalongkorn.
1
null
USS "Cummings" (DD-365) là một tàu khu trục lớp "Mahan" được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Thiếu tá Hải quân Andrew Boyd Cummings (1830-1863), một sĩ quan hải quân tử trận trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ. Nó đặt căn cứ tại Thái Bình Dương, hoạt động tuần tra và hộ tống trước và trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, đã có mặt tại Trân Châu Cảng vào lúc diễn ra cuộc tấn công vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, nhưng đã không chịu hư hại hay thương vong, và đã hoạt động cho đến khi chiến tranh kết thúc. "Cummings" được cho ngừng hoạt động năm 1945 và bị bán để tháo dỡ vào năm 1947. Thiết kế và chế tạo. "Cummings" được đặt lườn vào ngày 26 tháng 6 năm 1934 tại xưởng tàu của hãng United Shipyards, Inc ở đảo Staten, New York. Nó được hạ thủy vào ngày 11 tháng 12 năm 1935, được đỡ đầu bởi bà W. W. Mills, cháu gái Thiếu tá Cummings; và được đưa ra hoạt động vào ngày 25 tháng 11 năm 1936 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân C. P. Cecil. Lịch sử hoạt động. Rời New York vào ngày 29 tháng 9 năm 1937, "Cummings" đi đến San Diego vào ngày 28 tháng 10, để gia nhập Lực lượng Chiến trận. Nó tham gia một cuộc tập trận Vấn đề Hạm đội tại vùng biển Hawaii vào tháng 4 năm 1938 và một cuộc Duyệt binh Hạm đội Tổng thống tại San Francisco vào tháng 7. Đến năm 1939, cuộc tập trận được tổ chức tại vùng kênh đào Panama và vùng biển Caribe từ tháng 1 đến tháng 4. Quay trở về San Diego vào ngày 12 tháng 5 năm 1939, nó tham gia các cuộc huấn luyện hải đội và hạm đội, và đã phục vụ như tàu canh phòng máy bay cho các tàu sân bay và . Khi hoạt động Tuần tra Trung lập được bắt đầu tại vùng bờ Tây vào năm 1940, nó đã tham gia không thường xuyên, trong khi vẫn tiếp tục tiến hành thực tập phòng không, chiến thuật chống tàu ngầm và thực hành mục tiêu. "Cummings" được cho đặt căn cứ tại Trân Châu Cảng từ ngày 26 tháng 4 năm 1940. Ngoại trừ một đợt đại tu tại vùng bờ Tây cùng các chuyến đi đến Tutuila, Samoa; Auckland, New Zealand và Tahiti từ ngày 4 tháng 3 đến ngày 3 tháng 4 năm 1941, nó tiếp tục ở lại vùng biển Hawaii, tiến hành các cuộc tuần tra, thực tập và huấn luyện. Khi Hải quân Đế quốc Nhật Bản bất ngờ tấn công Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, các quả bom ném xuống đã suýt trúng phía mũi và phía đuôi con tàu. Chỉ bị hư hại nhẹ do mảnh bom, nó lập tức lên đường tiến ra khỏi cảng để tuần tra. Từ ngày 19 tháng 12 năm 1941 đến ngày 4 tháng 5 năm 1942, nó hộ tống các đoàn tàu vận tải đi lại giữa Trân Châu Cảng và San Francisco. Sau đó nó hoạt động tại khu vực giữa Suva, quần đảo Fiji và Auckland, New Zealand từ ngày 9 tháng 6 đến ngày 13 tháng 8 cho các hoạt động tương tự. Sau khi được đại tu tại San Francisco, "Cummings" hộ tống một đoàn tàu vận tải đi Nouméa và Wellington, New Zealand vào tháng 11 năm 1942. Con tàu bắt đầu làm nhiệm vụ tuần tra và hộ tống cho các hoạt động tại Guadalcanal từ các căn cứ ở Espiritu Santo và Nouméa cho đến ngày 17 tháng 5 năm 1943, khi nó lên đường đi Auckland, New Zealand cho một đợt đại tu ngắn. Nó quay trở lại Nouméa vào ngày 4 tháng 6, hộ tống các tàu vận tải đi Auckland trong tháng 7, rồi phục vụ tại Efate từ ngày 5 tháng 8 đến ngày 4 tháng 9. Được đại tu tại vùng bờ Tây, chiếc tàu khu trục sau đó gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 94 để tuần tra ngoài khơi Adak, Alaska, từ ngày 1 đến ngày 16 tháng 12, trước khi quay trở về Trân Châu Cảng vào ngày 21 tháng 12. Được phân về Đệ Ngũ hạm đội, "Cummings" lên đường vào ngày 19 tháng 1 năm 1944 để tham gia các chiến dịch tại quần đảo Marshall, tháp tùng các tàu sân bay trong các cuộc không kích xuống Wotje và Eniwetok cho đến ngày 21 tháng 2. Nó khởi hành từ Majuro vào ngày 4 tháng 3 để đi Trincomalee, Ceylon, nơi nó gặp gỡ các tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh vào ngày 31 tháng 3 để thực tập. Chiếc tàu khu trục lên đường cùng với Lực lượng 70 Anh để hộ tống cho hoạt động không kích xuống Sabang, Sumatra vào ngày 19 tháng 4. Nó quay trở về Ceylon cho đến ngày 6 tháng 5, rồi lên đường đi vịnh Exmouth, Australia. Cùng với Lực lượng 66 Anh, nó khởi hành vào ngày 15 tháng 5 cho hoạt động không kích xuống Soerabaja, Java, rồi được cho tách khỏi lực lượng Anh để quay về Trân Châu Cảng ngang qua Sydney. Đi đến San Francisco vào ngày 7 tháng 7 năm 1944, "Cummings" lên đường vào ngày 21 tháng 7, hộ tống cho Tổng thống Franklin D. Roosevelt bên trên chiếc tàu tuần dương hạng nặng đi từ Trân Châu Cảng đến Adak và Juneau. Tổng thống và đoàn tùy tùng chuyển sang chiếc tàu khu trục vào ngày 8 tháng 8 cho chuyến đi đến Seattle, và khi đến nơi vào ngày 12 tháng 8, Tổng thống đã cho truyền đi một bản thông điệp đến toàn quốc từ sàn trước của "Cummings". Rời Seattle vào ngày 13 tháng 8 năm 1944, "Cummings" gia nhập Đội đặc nhiệm 12.5 tại Trân Châu Cảng cho một cuộc không kích và bắn phá bờ biển xuống đảo Wake vào ngày 3 tháng 9. Được điều động về Đệ Tam hạm đội, nó tham gia cuộc bắn phá đảo Marcus vào ngày 9 tháng 10, rồi bảo vệ cho các tàu sân bay hộ tống để tung ra các cuộc không kích hỗ trợ xuống Luzon, Cebu, Leyte, Samar, Negros, và đối đầu với lực lượng Nhật Bản trong Trận chiến vịnh Leyte mang tính quyết định. Nó tham gia bắn phá Iwo Jima vào các ngày 11 và 12 tháng 11, rồi quay trở về Saipan vào ngày 21 tháng 11 cho các hoạt động tại chỗ. "Cummings" ngắt quãng các hoạt động này để tham gia các cuộc bắn phá liên tiếp xuống Iwo Jima từ ngày 8 tháng 12 năm 1944 đến ngày 19 tháng 3 năm 1945, bắn pháo hỗ trợ cho lực lượng tấn công. Nó đặt căn cứ ngoài khơi Iwo Jima, thỉnh thoảng hộ tống các đoàn tàu vận tải đi Saipan và Guam. Những nhiệm vụ tiếp theo của chiếc tàu khu trục bao gồm hộ tống vận tải tại chỗ và tuần tra, giải cứu kèm theo các cuộc tấn công xuống Okinawa và chính quốc Nhật Bản. Nó giám sát việc chiếm đóng Haha Jima vào ngày 9 tháng 9, rồi khởi hành từ Iwo Jima vào ngày 19 tháng 9 để đi San Pedro, California, Tampa, Florida, và Norfolk, Virginia. "Cummings" được cho xuất biên chế vào ngày 14 tháng 12 năm 1945 và bị bán để tháo dỡ vào ngày 17 tháng 7 năm 1947. Phần thưởng. "Cummings" được tặng thưởng bảy Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.
1
null
Penicillium là một chi nấm có tầm quan trọng lớn trong môi trường tự nhiên cũng như sản xuất thực phẩm và thuốc. Vài thành viên của chi được dùng để sản xuất penicillin - một kháng sinh có thể giết chết hoặc ngừng sự phát triển của một số loại vi khuẩn trong cơ thể. Vài loài lại được dùng để làm pho mát. Theo "Dictionary of the Fungi" (ấn bản lần thứ 10, 2008), "Penicillium" gồm hơn 300 loài.
1
null
Safe Trip Home là album phòng thu thứ ba của Dido, được phát hành tại Anh Quốc vào ngày 17 tháng 11 năm 2008, Album có xuất hiện nhiều sự hợp tác và sản xuất của Jon Brion, anh trai của cô - Rollo Armstrong, Brian Eno, Mick Fleetwood, Citizen Cope và Questlove. Đây là album bán chạy thứ 44 trên toàn thế giới năm 2008, theo IFPI. Album còn được đề cử cho Giải Grammy trong hạng mục "Album xây dựng xuất sắc nhất, không thuộc nhạc kịch". Phát hành. Bìa của album và danh sách ca khúc được tiết lộ trên trang web chính thức của Dido ngày 5 tháng 9 năm 2008. Lúc đầu, ngày phát hành album được định vào ngày 3 tháng 11, nhưng sau đó bị dời lại hai tuần vì khâu sản xuất bị hoãn. Tại Anh Quốc, album được cho nghe trước tại một bữa tiệc, nơi người hâm mộ có thể được mời nghe trước. Bìa của album là hình ảnh của phi hành gia Bruce McCandless II trong một lần ở ngoài không gian, trong nhiệm vụ của con tàu STS-41-B. McCandless sau đó đâm đơn kiện Dido, Sony Music Entertainment và Getty Images vì vi phạm việc sử dụng hình ảnh khi chưa được uỷ quyền. Vụ việc được giải quyết dưới những điều kiện chưa được công bố công khai vào tháng 1 năm 2011. Vào tháng 8 năm 2005, trong một bài viết của tờ Smithsonian, có trích dẫn câu nói của McCandless về tính nặc danh của bức ảnh. "Lúc đó tôi có mang chiếc nón che mặt trời, nên không ai thấy được mặt của tôi, nghĩa là đó có thể là bất cứ ai." Vào ngày 27 tháng 10 năm 2008, 11 đoạn phim ngắn được sản xuất, tương thích với các bản trong album, dựa trên chủ đề về mái ấm. Ý kiến chuyên môn. Album nhận được những phản hồi rất tích cực. Metacritic, trang web tổng hợp điểm trung bình của nhiều bài đánh giá, cho album 74 trên 100 điểm. Stephanie Merritt từ "The Guardian" có viết "Album này thật sự tập hợp những ca khúc mang đậm tính trưởng thành và sâu lắng và là một kỉ niệm đẹp đến cha của cô ấy, người mà chắc chắn sẽ phải tự hào về album này." Trong khi While Chris Willman từ "Entertainment Weekly" có nói "Cảm xúc trong album này thật sự buồn, những ca khúc tươi tắn nhất cũng mang đầy điệu bộ tâm sự, cho dù bạn có thể vẫn mong cô ấy mang những điều mỏng manh ấy vào giọng hát của mình." Will Hermes của tờ "Rolling Stone" nói: "Giọng hát của Dido dễ chịu đến nỗi bạn suýt quên mất đi sự buồn bã của ca khúc đang nghe." Sal Cinquemani của tạp chí Slant Magazine cho một bản đánh giá khắt khe hơn: "Album này có thể là album ít đột phá nhất của Dido cho đến hiện nay, [với] nhiều tâm sự buồn như một cốc sữa nóng như trong những đĩa đơn đầu - "Don't Believe in Love" và "Quiet Times", phần lời dường như là do cô tự tưởng tượng ra: "My home is home and I'm settled now/I've made it through the restless phase." Cho dù có đề bật lên "khả năng sáng tác và sản xuất vô tận" của cô. Elizabeth Goodman của tờ "Blender" cũng cho ý kiến khắt khe về album. "Những bài hát này không những buồn mà còn tẻ nhạt và bừa bộn...Dido nên biết lựa chọn đúng về thể loại của mình; dù gì thì những giai điệu sầu não thế này nghe rất hợp với cô ấy." Cho dù album được phát hành cuối năm, nó vẫn được lọt vào vị trí thứ 50 trong Danh sách 50 Album xuất sắc nhất năm 2008. Năm 2010, Album đã được đề cử cho Giải Grammy trong hạng mục "Album xây dựng xuất sắc nhất, không thuộc nhạc kịch". Đĩa đơn. Có hai đĩa đơn được phát hành từ album. Vào ngày 22 tháng 8 năm 2008, ngày mà tựa của album được thông báo, "Look No Further" được phát hành dưới dạng tải nhạc miễn phí qua trang web chính thức của cô. Đĩa đơn chính thức đầu tiên trích từ album là "Don't Believe in Love". Đĩa đơn được phát hành vào ngày 27 tháng tháng 10 năm 2008. Nó cũng xuất hiện trên cửa hàng iTunes trên phạm vi toàn cầu từ ngày 29 tháng 10 cùng năm đó. Đĩa đơn thứ hai, "Quiet Times" được phát hành vào tháng 2 năm 2009. Danh sách bài hát. Ghi chú: Các bản thứ 1, 3, 5, 6, 9 & 11 đã được sản xuất bởi Jon Brion và các bản thứ 2, 4, 7, 8, 10 đã được sản xuất bởi The Ark & Dido Xếp hạng và chứng nhận. Chứng nhận. !scope="row"| New Zealand (RIANZ)
1
null
Nguyễn Thọ Quỳnh (thế kỷ XV) là một nhà Nho học người Việt Nam. Quê ông là làng Quỳnh Lý, xã Thụy Quỳnh, nay thuộc huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Ông đỗ đồng tiến sĩ xuất thân dưới triều vua Lê Thánh Tông. Vượt qua lệ làng. Lời nguyền kiếp trước. Hoàng Phúc là quan Thượng thư của nhà Minh, thừa lệnh hoàng đế Minh Thành Tổ sang cai trị nước ta tư sau năm 1407, khi nhà Hồ bị diệt vong và Đại Ngu rơi vào tay giặc. Ông ta nắm cả Bố Chính Ty và Án Sát Ty, hai trong số ba cơ quan đầu não của giặc đặt ra để trị dân ta. Trong một lần đi xem xét địa thế núi sông, Hoàng Phúc đến đình làng Quỳnh Lý. Ông ta thấy địa hình làng này đặc biệt khác thường, nổi bật lên giữa đồng bằng như hình quả chuông úp và ông ta viết lên vách đình một câu rằng: Nghĩa là: Đất Quỳnh Lý như chuông úp, phát nhất nghề làm thầy. Không biết Hoàng Phúc có tài tiên tri hay chỉ là chiêu bài để mê hoặc lòng nhân dân ta, vì sau đó ông ta bắt lập đền miếu thờ bách thần (hàng trăm vị thần), cho dân bốn mùa cúng bái liên miên. Có điều chắc rằng, ông ta giỏi đoán thời cuộc, nên khi Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, ông ta đã nhanh chân về nước trước, tránh được thảm bại nhục nhã như các tướng nhà Minh khác. Còn làng Quỳnh Lý, từ khi ám ảnh câu "sấm truyền", đã làm thầy bói vì... chăng có nghề gì khá khẩm hơn cả (do mê tín!). Ấy thế mà làm nghề thầy ấy lại kiếm cơm dễ dàng, thậm chí có của dư thừa. Thành ra, ai cũng muốn làm thầy bói. Quyết tâm sắt đá. Ấy thế nhưng có một con người đã xuất hiện và đã làm trái lệ làng. Đó là cậu bé có tên Nguyễn Thọ Quỳnh. Chỉ học ở mức sơ cấp thôi, nhưng Thọ Quỳnh lại có tư chất thông minh đĩnh ngộ vượt xa bạn bè. Một buổi tan học, câu rong chơi chán rồi ghé vào đình hóng mát, quanh quẩn men theo hiên, chơt trông thấy câu "sấm truyền" mà Hoàng Phúc để lại. Đọc hiểu ra, cậu bé Quỳnh ức lắm: -Hừ!Kể nào ngạo mạn, dám bảo làng mình chỉ rặt nghề bói? Sẵn bút mực trong tay, cầu liền viết luôn: Nghĩa là: Văn đậu liền các khoa, võ dự hàng công hầu Viết được câu đó, cậu đắc ý lắm tung tăng nhảy chân sáo về nhà. Sau, cha mẹ bắt theo nghệp bói, cậu nhất quyết không nghe, cố công dùi mài kinh sử. Công thành danh toại. Khao Mậu Tuất năm Hồng Đức thứ 9 (1478) đời vua Lê Thánh Tông, Nguyễn Thọ Quỳnh thi Hương giật Giải nguyên (thủ khoa), tiếp đến thi Hội và thi Đình thì đỗ Tiến sĩ. Làm quan văn một thời gian, Thọ Quỳnh lại xin chuyển san võ ban làm tướng phò vua Lê xuất chinh dẹp giặc Chiêm Thành, lập nhiều công trạng. Ông được ban tước Quang Lộc Tự Khanh. Vậy là làng Quỳnh Lý cũng có thể tự hào mình là vùng đất địa linh nhân kiệt.
1
null
Kênh đào Bắc Krym (, ) là một kênh đào cung cấp nước tưới tiêu cho tỉnh Kherson (miền nam Ukraina) và Krym (vùng lãnh thổ tranh chấp giữa Ukraina và Nga). Kênh khởi đầu từ hồ chứa nước Kakhovka, chảy dài hướng về phía thành phố Kerch ở bờ đông bán đảo Krym và chấm dứt khi cách thành phố chỉ một quãng ngắn. Kênh được xây dựng trong giai đoạn 1961-1971 và có nhiều nhánh. Kênh dài 402,6 km. Khoảng 85% lượng nước Krym dùng đều được lấy từ kênh đào Bắc Krym. Sau khủng hoảng Krym 2014 và việc Nga nắm quyền kiểm soát Krym, phía Ukraina có hành động chặn bớt và đóng cửa kênh. Giữa tháng 4 năm 2014, nước này giảm 2/3 lưu lượng nước cung cấp, từ 50 m³/s xuống còn 16 m³/s. Ngày 26 tháng 4 năm 2014, Ukraina đóng kênh, chỉ một ngày sau khi Krym và Ukraina thiết lập "biên giới nhà nước" và đề ra quy tắc qua lại biên giới. Thủ tướng "trên thực tế của" Krym là Sergey Aksyonov cho biết hoạt động trồng lúa bị ảnh hưởng nặng nề nhất và Krym đang lập kế hoạch phân bố lại cây trồng ở những nơi không sẵn nguồn nước. Thủ tướng Nga Dmitry Medvedev phát biểu có thể Nga sẽ xây một đường ống dẫn nước từ vùng Kuban đến Krym, xuyên qua biển Azov.
1
null
Hồ chứa nước Kakhovka (, chuyển tự Latinh: "Kakhovs’ke vodoskhovyshche") là một hồ chứa nước nằm trên sông Dnepr. Hồ có diện tích 2.155 km², nằm trên địa phận các tỉnh Kherson, Zaporizhia và Dnipropetrovsk của Ukraina. Hồ được xây năm 1956 cùng với Nhà máy thủy điện Kakhovka. Miêu tả. Hồ dài 240 km, rộng tối đa 23 km, sâu bình quân 8,4 m (độ sâu biến thiên từ 3 đến 26 m). Tổng thể tích nước trong hồ là 18,2 km³. Hồ này chủ yếu được dùng để phục vụ phát điện, cung cấp nước cho các hệ thống tưới tiêu Oleksandrivka và Kakhivka, cung cấp nước cho các nhà máy, nông trại nuôi cá nước ngọt, cho kênh đào Bắc Krym và kênh đào Dnepr–Kryvyi Rih. Kênh đủ sâu để tàu thuyền tải trọng lớn có thể đi vào dòng Dnepr.
1
null
Hồ chứa nước là một hồ tự nhiên hoặc nhân tạo (hồ điều hòa) được ngăn bằng một con đập, có công năng trữ nước. Hồ chứa nước có thể được xây dựng trong các thung lũng sông bằng cách xây đập ngăn nước hoặc bằng cách tự đào đất hoặc bằng các kỹ thuật xây dựng truyền thống dùng gạch hoặc bê tông.
1
null
Kuban (; ; ) là một khu vực địa lý bao quanh sông Kuban ở miền nam Nga, giữa thảo nguyên Biển Đen-Biển Caspi, châu thổ Volga và Kavkaz, bị eo biển Kerch ngăn cách với bán đảo Krym ở phía tây. Vùng Krasnodar cũng thường được gọi là Kuban, cả chính thức lẫn không chính thức, mặc dù thuật ngữ này không có ý dành riêng cho vùng Krasnodar.
1
null
Girl Who Got Away là album phòng thu thứ tư của nữ ca sĩ kiêm sáng tác người Anh, Dido. Album này phát hành tại khu vực Châu Âu vào ngày 4 tháng 3 năm 2013, và tại Hoa Kỳ vào ngày 26 tháng 3 năm 2013 bởi hãng đĩa RCA Records. Đây là sản phẩm tiếp sau album "Safe Trip Home" vào năm 2008. Khâu thu âm cho album bắt đầu từ năm 2009 và kết thúc vào năm 2012, tại các phòng thu tại Luân Đôn và California. Dido đứng ra đảm nhận phần đồng sản xuất cho album và nhận được sự trợ giúp từ rất nhiều nhà sản xuất khác, nổi bật có Jeff Bhasker, Jon Brion, Greg Kurstin, Rick Nowels, Plain Pat, Rollo, cùng nhiều cái tên khác. Album mang hơi hướng nhạc Pop cùng với Electropop và trip-hop. "Girl Who Got Away" nhận được nhiều phản ứng tích cực từ phía các nhà phê bình âm nhạc, những người tán dương phần "giai điệu mang tiết tấu nhanh thân thuộc" và phần giọng hát của Dido trong album, trong khi số khác lại khẳng định album này vẫn "chưa tạo nên đột phá nào". Album làm khá tốt về mặt thương mại; khi mở đầu tại vị trí thứ năm tại Anh Quốc, giúp cho Dido sở hữu cả bốn album của mình đạt được thành tích trên. Album được xếp hạng số một ở Thụy Sĩ (Romandie). Album còn đạt vị trí Á quân tại Thuỵ Sĩ và Đức và vị trí thứ 32 tại Billboard 200, Hoa Kỳ. Ngoài ra, album còn đạt đến top 20 tại Úc, Ireland và New Zealand. Album phát hành đĩa đơn quảng bá mang tên "Let Us Move On" (hợp tác cùng Kendrick Lamar), trong khi đĩa đơn đầu tiên của album mang tên "No Freedom" được phát hành vào tháng 1 năm 2013 và đạt vị trí thứ 51 tại UK Singles Chart. Đĩa đơn thứ hai, "End of Night" phát hành vào tháng 5 năm 2013, nhưng thất bại trong việc leo lên bất cứ bảng xếp hạng nào ở Anh nhưng lại có xuất hiện tại bảng xếp hạng Bỉ. Để quảng bá cho album, Dido liên tiếp tham gia nhiều phần trình diễn trực tiếp và trên các chương trình trên đài phát thanh, như ở Jimmy Kimmel Live!, Heart London, Magic Radio, và BBC Radio 2. Bối cảnh sản xuất. Dido có tiết lộ không lâu sau khi phát hành album "Safe Trip Home" việc đang thu âm những bài hát mới tại phòng thu, có nằm trong album thứ tư của cô sắp tới. Vào tháng 7 năm 2009, Dido tiết lộ album mới sẽ có loại nhạc điện tử và mang màu sắc khác hẳn album trước. Tháng 9 năm 2010, cô cho ra mắt đĩa đơn mới, "Everything to Lose" dưới dạng tải nhạc số, đồng thời, ca khúc cũng xuất hiện trong phần nhạc phim "Sex and the City 2". Vào tháng 1 năm 2011, Dido tiếp tục cho ra mắt một bản nhạc mới nữa, mang tên "If I Rise", trình bày cùng với nhà sản xuất A.R. Rahman, video ca nhạc cũng xuất hiện sau đó không lâu. Dido sau đó thông báo thông qua trang web chính thức của mình rằng việc thu âm cho album mới được diễn ra tại Luân Đôn và California và một vài chất liệu âm nhạc mới được thu âm tại chính phòng khách sạn của cô, với một chiếc đàn điện tử và một chiếc mic-rô. Cô cũng diễn tả album của mình là một sản phẩm "ngông cuồng đầy niềm vui với giai điệu điện tử". Trong buổi phỏng vấn cùng Daily Mail, cô cũng tiết lộ album mới sẽ có sự hợp tác sản xuất của Rollo Armstrong, Sister Bliss, Lester Mendez, A. R. Rahman, Rick Nowels, Greg Kurstin, Brian Eno và Jeff Bhasker và album đang trong quá trình hoàn thành. Cấu trúc album. Bài hát đầu tiên và cũng là đĩa đơn đầu tiên trích từ album, "No Freedom" được bắt đầu bằng tiếng guitar mộc và được sáng tác bởi Rick Nowels, người từng sáng tác bản nhạc ăn khách của cô, "White Flag" (2003). Ca khúc có tiếng guitar nhẹ nhàng cùng nhịp trung, khi Dido muốn người đàn ông của mình biết rằng mối quan hệ này không thể thành trừ khi anh để cho cô ấy tự do. Với bản cùng tên album, phần hợp âm được nổi lên nhẹ nhàng khi Dido ước cô cô có thể là "cô gái đã bỏ đi", trong làn nhạc điện tử nhẹ nhàng. Trong phần điệp khúc, cô có hát, "I wanna move with the seasons/And go with the flow". Rapper Kendrick Lamar, cũng xuất hiện trong bản "Let Us Move On", một bản trip-hop nổi bật trong album Phần dạo đầu uốn lượn và phần khoảng trống trong bản "Blackbird" làm nền cho giọng hát của cô cùng lời nhạc về góc khuất của tình yêu ("Why do I bring you love, when all you give me back is pain?", cô hát). Trong khi "End of Night", có phần đồng sáng tác của Greg Kurstin có phần điệp khúc sử dụng hiệu ứng tiếng vang, cùng Kurstin trong làn nhạc electropop. Bản "Sitting on the Roof of the World" lại mang tiếng đàn guitar xuyên suốt bài, phản chiếu cuộc sống của một ngôi sao nhạc pop thành công, và "không biết tại sao mình lại đạt đến đó hay làm thế nào để rời đi," nhấn mạnh việc cô chỉ muốn "hoà nhập" vào cuộc sống của một người bình thường. Ca khúc cũng là một trong những giây phút lắng đọng của Dido, khi cô hát "Everyone says I was lucky to have got there/ as not many can/ I’d be lying if I said I didn’t miss it now and then." "Love to Blame" mang tiếng nhịp gõ và có dòng lời "there’s time enough for new things yet," cùng nhiều hiệu ứng âm thanh mới lạ. "Go Dreaming" là ca khúc viết về sự vươn lên khỏi những điều chống lại bạn, trong khi "Happy New Year" nói về việc nhớ nhung người yêu cũ, người đã mất hay vắng mặt, Hai bản cuối, "Loveless Heart" và "Day Before We Went to War," là những bản lắng đọng của album. Quảng bá. Phần bìa chính thức của album được phát hành vào ngày 9 tháng 1 năm 2013. Vào ngày 17 tháng 12 năm 2012, Dido cho phát hành đĩa đơn quảng bá duy nhất của album, "Let Us Move On" hợp tác cùng với Kendrick Lamar. "No Freedom" được chọn làm đĩa đơn đầu từ album trên đài BBC Radio 2 lúc 11:30 sáng giờ GMT, ngày 11 tháng 1 năm 2013. Video ca nhạc được Ethan Lader đạo diễn. Đĩa đơn được phát hành sau đó vào ngày 18 tháng 1. "End of Night" được phát hành dưới dạng đĩa đơn thứ hai từ album vào ngày 5 tháng 5 năm 2013. Vào tháng 12 năm 2012, Dido trình diễn phiên bản acoustic của những ca khúc từ album của cô trong chương trình "Live from Abbey Road". Tháng sau đó, Dido trình diễn ca khúc trước nhiều hãng đĩa độc quyền tại Mayfair. 20 tháng 2 năm 2013, Dido trình diễn "No Freedom" và "White Flag" trong chương trình "Jimmy Kimmel Live!". Một ngày sau đó, Dido xuất hiện trong chương trình phát thanh "Morning Becomes Eclectic" của đài KCRW. Cuối tháng 2, Dido tiếp tục xuất hiện trong hàng loạt các chương trình phát thanh tại Anh nhằm quảng bá cho album của mình, như Heart London, Magic Radio, và BBC Radio 2. Ngày 27 tháng 2, trọn bộ album được giới thiệu trên Digital Spy. Ý kiến chuyên môn. "Girl Who Got Away" nhận dược nhiều đánh giá từ trái chiều cho đến tích cực từ phía các nhà phê bình âm nhạc. Tại Metacritic, album đạt 59 trên 100 điểm trung bình, dựa trên 12 bài đánh giá. Stephen Thomas Erlewine từ "Allmusic" dành tặng album 4 (trên 5 sao) và viết rằng, "trong khi album trước của cô ấy, "Safe Trip Home" là một sản phẩm mà cô muốn tặng cho bố mình, thì "Girl Who Got Away" lại là một album nhạc sôi động cho một đêm tiệc tùng vui vẻ," đồng thời cũng khen ngợi Dido trong việc "biến chuyển đổi từ sự nhẹ nhàng trước đây để trở nên đột phá, tạo cảm giác dễ chịu khi thưởng thức lần sản xuất này," Robert Copsey từ "Digital Spy" cho album 4 trên 5 sao, tán dương phần "giai điệu mang tiết tấu nhanh thân thuộc và giọng hát mộng mị" cũng như hơi thở sôi động của album. Caroline Sullivan từ "The Guardian" gọi đây là "một album của Dido khiến bạn không còn muốn nghe thêm bất bài gì từ ai khác nữa" và gọi nó "hấp dẫn một cách bất ngờ." Laurence Green của "musicOMH" có viết "Về mặt album thì sản phẩm lần này không có nhiều đột phá --tự thân nó cũng không muốn đột phá gì thêm." Nick Levine của "BBC Music" cho một bài đánh giá tích cực, khi viết, "Dù phải thừa nhận rằng, album có những bản mộng mị như "No Freedom", nhưng nó cũng có cho mình những bản nặng ký cùng với giai điệu mạnh mẽ với chủ đề u sầu không ngờ đến." Andy Johnson của "PopMatters" đánh giá album 4/10 sao, viết rằng, "là một album nửa vời, chưa biết bộc lộ, hay ở sự xuất hiện của Kendrick Lamar trong 'Let Us Move On', khiến người nghe cảm thấy nhàm chán." Diễn biến thương mại. "Girl Who Got Away" đạt đến top 5 trên 7 bảng xếp hạng album lớn nhỏ, giúp Dido có 4 album làm được kì tích này tại Anh. Tại UK Albums Chart, album đạt đến vị trí thứ 5, trở thành album thứ tư của cô đạt đến top 5, nhưng là album đạt hạng thấp nhất (tất cả các album trước của cô đều đạt đến top 3). Tại Pháp, album đạt hạng cao hơn, khi mở đầu tại đó và đạt đến vị trí thứ 3, hệt như vị trí cao nhất của album trước, "Safe Trip Home", (2008). Tại Đức, album mở đầu và đạt đến vị trí thứ hai tại Swiss Albums Chart, tuy nhiên không thể tiếp nối danh sách album đạt đầu bảng tại đó, (cùng với "Life for Rent" và "Safe Trip Home"), trở thành album duy nhất của cô không thể đạt đến vị trí đầu bảng. Tại Úc, album chỉ đạt đến vị trí thứ 12, trở thành album duy nhất của cô không thể đạt top 10. Tại Canada, nó đạt đến vị trí thứ 10, trở thành album thứ 4 liên tiếp của cô đạt đến top 10, nhưng lại là album có thứ hạng thấp nhất. Tại Hoa Kỳ, nó chỉ đạt đến vị trí thứ 32, trở thành album duy nhất của cô không lọt vào top 20, cũng là album có thứ hạng thấp nhất của cô. Tính đến nay, album đã bán hơn 470.000 bản trên toàn thế giới.
1
null