text
stringlengths
1
148k
label
int64
0
2
__index_level_0__
int64
0
113k
Khu kỳ Khu hành chính đặc biệt Ma Cao (; pinyin: "Àomén Tèbié Xíngzhèngqū Qūqí"; ) tượng trưng cho Ma Cao. Thiết kế của khu kỳ là hình chữ nhật, màu lục làm nền, ở trung tâm có một hoa sen ba cánh màu trắng, trên hoa có năm sao năm cánh màu vàng. Khu kỳ được chính thức sử dụng kể từ lễ bàn giao đánh dấu chuyển giao chủ quyền Ma Cao ngày 20 tháng 12 năm 1999. Ngoài quốc kỳ Trung Quốc, Ma Cao còn có thể treo và sử dụng khu kỳ. Theo điều 10 của luật Cơ bản Khu hành chính đặc biệt Ma Cao, khu kỳ được mô tả là có phác họa năm sao, hoa sen, cầu lớn, nước biển. Khu kỳ được hội nghị lần thứ nhất của Đại hội đại biểu toàn quốc Trung Quốc khóa 8 thông qua vào ngày 31 tháng 3 năm 1993. Thiết kế. Khu kỳ Ma Cao có nền màu xanh Ma Cao, có ý phát triển thịnh vượng, đồ án khu kỳ gần như hoàn toàn tương đồng với khu huy. Trong khu kỳ có năm sao gồm 1 sao lớn và bốn sao nhỏ, ngoài việc tương tự như năm sao trong quốc kỳ Trung Quốc ra thì nó còn còn ứng với điều một trong luật Cơ bản Ma Cao, đó là Khu hành chính đặc biệt Ma Cao là bộ phận bất khả phân ly của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa".<ref name="lei6/99"></ref> Bên dưới năm sao là một hoa sen màu trắng gồm ba cánh hoa tổ thành, ba cánh hoa này lần lượt đại diện cho bán đảo Ma Cao, Đãng Tử và Lộ Hoàn. Bên dưới hoa sen là cầu lớn màu trắng và màu trắng xanh đan xen thể hiện nước biển sâu dần, tượng trưng cho đặc điểm tự nhiên của Ma Cao. Tổng cộng nhận được 782 tác phẩm thiết kế khu kỳ và khu huy Ma Cao, qua nhiềm lần bình thẩm chọn được ba thiết kế khu kỳ. Phó chủ tịch Ủy hội soạn thảo luật Cơ bản Ma Cao là Tiền Vĩ Trường nhận định rằng Ma Cao không trải qua chiến tranh quá trọng đại, xung quanh là nước, màu xanh tượng trưng cho hòa bình mỹ hảo, đề nghị có thể xem xét để khu kỳ và khu huy sử dụng màu xanh. Đương thời, Chủ nhiệm ủy ban Hồng Kông và Ma Cao của Quốc vụ viện là Cơ Bằng Phi cho rằng nếu khu kỳ Ma Cao cũng có màu đỏ tương tự như khu kỳ Hồng Kông thì không có vấn đề, song cũng không có quy định khu kỳ của khu hành chính đặc biệt nhất định phải là màu đỏ, sau đó nói một câu rằng "quốc kỳ màu đỏ, khu kỳ màu xanh, hồng hoa phối lục diệp". Tiêu chuẩn chi tiết. Khu kỳ Ma Cao có hình chữ nhật, tỷ lệ giữa chiều dài và chiều cao là 3:2. Nếu một khu kỳ có kích cỡ khác với tiêu chuẩn do nhu cầu đặc thù, nó phải tuân theo kích cỡ thông dụng để phóng to hay thu nhỏ, tám kích cỡ thông dụng là: Theo quy định tiêu chuẩn, sắc chế của nền khu kỳ Ma Cao rất khó chế tác, một số công ty chế tác gọi đó là "màu lục Ma Cao". Sử dụng. Khu kỳ Ma Cao trưng hàng ngày tại các địa điểm: dinh thự chính thức của Trưởng quan hành chính, tổng bộ chính phủ Khu hành chính, sân bay quốc tế Ma Cao, cửa khẩu xuất nhập cảnh, và các địa điểm do Trưởng quan hành chính chỉ định. Khu kỳ được trưng vào những ngày làm việc tại: Văn phòng trưởng quan hành chính, Hành chính hội, Lập pháp hội, Chung thẩm pháp viện, Kiểm sát viện, Cơ cấu thị chính, ban ngành chính phủ, cơ cấu biện sự trú tại hải ngoại và cá địa điểm do Trưởng quan hành chính chỉ định. Ngoài ra, chính phủ Đặc khu có thông cáo rõ ràng về các địa điểm phải treo khu kỳ trong các ngày quốc khánh Trung Quốc, ngày thành lập Đặc khu, tết Nguyên đán.<ref name="Rega3/99"></ref> Khi quốc kỳ Trung Quốc được trưng cùng với khu kỳ và các hiệu kỳ khác, quốc kỳ Trung Quốc cần phải ở vị trí trung tâm, cao hơn hoặc nổi bật hơn. Khi hành tiến thì quốc kỳ Trung Quốc ở phía trước các hiệu kỳ khác. Nếu quốc kỳ và khu kỳ xuất hiện cùng hàng, khu kỳ phải có kích cỡ nhỏ hơn quốc kỳ. Tuy nhiên, theo điều 137 của luật Cơ bản Ma Cao, thì khi Ma Cao cử phái đoàn tham gia sự kiện quốc tế thì quy tắc trên không áp dụng. Treo rủ. Khu kỳ Ma Cao cần phải được treo rủ cùng với quốc kỳ Trung Quốc nhằm biểu thị thương tiếc các nhân sĩ khứ thế sau đây: Khi phát sinh sự kiện bất hạnh gây thương vong đặc biệt nghiệm trọng, hoặc tai họa tự nhiên gây ra thương vong nghiêm trọng, có thể treo cờ rủ để thể hiện tương tiếc, Chính phủ nhân dân Trung ương thông báo cho Trưởng quan hành chính hoặc Trưởng quan hành chính nhận thấy thích hợp.
1
null
Pelagornis sandersi là một loài chim bay đã tuyệt chủng với sải cánh dài ước tính vào khoảng 6,1 m và 7,4 m. Nếu số liệu về ước tính sải cánh này là đúng, đây là loài chim có sải cánh lớn nhất được phát hiện, sải cánh dài gấp đôi loài chim bay còn sống, hải âu mày đen. Hóa thạch có niên đại 25 triệu năm của loài này đã được phát hiện 30 năm trước ở Nam Carolina. Hóa thạch có niên đại từ kỷ Chattian của Oligocene. Hóa thạch duy nhất được biết đến của P. sandersi lần đầu tiên được phát hiện vào năm 1983 tại sân bay quốc tế Charleston, khi công nhân xây dựng xây đào đất ở khu vực một nhà ga hàng không mới. Loài chim này được đặt tên sau khi Albert Sanders, người chỉ huy cuộc khai quật. Tuy nhiên mãi đến nay các chuyên gia Mỹ mới xác định được đây là hóa thạch của một loài sinh vật hoàn toàn mới. Loài chim biển này có sải cánh dài tới 6,1- 7,4m. Loài chim này phá kỷ lục của loài Argentavis magnificens từng sinh sống ở Nam Mỹ 6 triệu năm trước, có sải cánh dài 5,7 - 6,1m. Các nhà khoa học đặt tên cho loài chim mới này là Pelagornis sandersi. Giống như loài hải âu mày đen lớn hiện nay, loài chim khổng lồ này thường bay trên mặt biển săn cá. Chúng có cân nặng từ 20–40 kg. Nó có ngắn, chân ngắn và mập, và có lẽ chỉ có thể bay bằng cách nhảy ra khỏi cạnh vách đá. Người ta ước đoán rằng loài chim này đã có thể bay với tốc độ lên tới 60 km/h. Dù có kích cỡ khổng lồ nhưng nó bay nhẹ nhàng và thoải mái.
1
null
Argentavis magnificens là một loài chim đã tuyệt chủng. Đây là một trong các loài chim có sải cánh lớn nhất. Loài này được biết đến từ hóa thạch từ ba địa điểm có niên đại từ cuối Miocen ở trung bộ và tây bắc Argentina, nơi một mẫu tốt của hóa thạch mà người ta đã thu được. Loài chim này có sải cành dài 6m, tuyệt chủng từ 6 triệu năm trước. Argentavis có khoảng cánh từ 5.09 đến 6.07 m (tùy thuộc vào phương pháp đo được sử dụng, tức là phân tích hồi quy hoặc so sánh với thần ưng California), chiều cao từ 1,5 đến 2 m), và khối lượng khoảng 70 đến 72 kg. Điều này đã làm cho nó trở thành loài chim lớn nhất cho đến khi một loài tuyệt chủng khác, "Pelagornis sandersi", được mô tả trong năm 2014 là có kích thước lớn hơn (mặc dù chỉ nặng 22–40 kg). Để so sánh, chim sống với sải cánh lớn nhất là chim hải âu lang thang, ở độ cao 3,6 m (12 ft). Kể từ khi A. magnificens được biết đến là một con chim đất, một điểm tốt khác để so sánh là đồng cỏ Andez, một trong những loài chim đất lớn nhất, với sải cánh lên đến 3,2 m (10 ft) và trọng lượng lên đến 15 kg (33 lb) và không liên quan quá xa với Argentavis.
1
null
Lã Hảo Vấn (chữ Hán: 呂好問, 1064 - 1131), tên tự là Thuấn Đồ (舜徒), là đại thần dưới thời Bắc Tống và Nam Tống trong lịch sử Trung Quốc. Bước vào quan trường. Lã Hảo Vấn là cháu nội của tể tướng Lã Công Trứ thời Bắc Tống, phụ thân ông là Lã Hi Triết, làm quan đến chức thị giảng. Về sau ông được bổ nhiệm làm quan theo lệ phụ ấm. Những năm Sùng Ninh thời Tống Huy Tông, triều đình hạ lệnh khôi phục các chính sách cải cách thời Nguyên Phong do Vương An Thạch đề xướng, đồng thời trừng phạt những cựu thần Nguyên Hựu (đứng đầu là Tư Mã Quang và Lã Công Trứ), Lã Hảo Vấn do là con cháu của tể tướng thời Nguyên Hựu nên cũng bị bãi chức. Về sau ông làm Giám Đông nhạc miếu rồi Tư Dương châu nghi tào. Lúc em Thái Kinh là Thái Biện làm soái, muốn kết thân với Hảo Vấn nhưng không được. Về sau Biện đắc chính là Hảo Vấn không được đề cử (do không phải thân tín của Thái Biện). Khi đó Biện cười bảo ông nếu lúc trước kết bạn với mình thì giờ đã hiển quý. Lã Hảo Vấn cười không đáp. Năm Tĩnh Khang nguyên niên Tống Khâm Tông (1126), được phong làm Tả tư gián, Gián nghị đại phu rồi Ngự sử trung thừa. Khâm Tông thường bảo ông Lúc Huy Tông thoái vị nhường ngôi cho Khâm Tông thì đã phế trừ tân pháp, khôi phục pháp chế của tổ tông. Lúc đó bè đảng của Thái Kinh còn ở khắp nơi ra sức cản trở. Lã Hảo Vấn cũng tìm cách giúp đỡ Khâm Tông phế trừ các phép do Vương An Thạch đề ra. Trong sự biến Tĩnh Khang. Cùng năm 1126 người Kim tiến đánh Biện Kinh, sau khi nghị hòa thì rút đi. Lã Hảo Vấn dự đoán rằng người Kim thấy Trung Quốc yếu thế thì sẽ khinh, thu đông tất sang đánh nữa và đề xuất phòng bị. Quả nhiên về sau quân Kim lại tấn công thật, triều đình không có phòng bị, triều đình nhiều người muốn nghị hòa. Lã Hảo Vấn cho rằng không nên lơ lỏng phòng bị, nên đề xuất triệu tập các lộ cần vương, bảo vệ kinh thành. Khâm Tông không nghe. Người Kim hãm Chân Định, đánh Trung Sơn, cả nước đều lo sợ. Đình thần khiếp nhược nên lại càng quyết nghị quà. Hảo Vấn mắng chửi bọn gian thần hại nước, vì thế bị biếm là Tri Viên châu. Khâm Tông cảm phục sự trung thành đó, lại phong làm Hạ bộ thị lang. Lúc người Kim đánh vào Biện, Khâm Tông mới nhớ tới lời đề nghị của Hảo Vấn nên thăng ông làm Binh bộ thượng thư. Cuối năm đó, Biện Kinh thất thủ, Khâm Tông cho triệu ông vào cung. Quân dân hơn 10.000 người ùa vào giết chết sứ thần nước Kim, và đòi gặp thiên tử. Lã Hảo Vấn cùng đế lên lầu ủy lạp quân dân. Vệ sĩ Tưởng Tuyên bước tới gạt mọi người ra ngoài. Tôn Phó và Lã Hảo Vấn can lại. Tưởng Tuyên mắng Tôn Phó Tôn Phó đang định biện hộ thì Lã Hảo Vấn lên tiếng, nói với Tưởng Tuyên Tưởng Tuyên khen Thời Trương Bang Xương. Rồi cùng lũ vệ sĩ chịu lui. Khâm Tông về sau bị người Kim thúc ép phải đến trại của chúng, Hảo Vấn theo Khâm Tông đến Kim doanh. Rồi Khâm Tông bị người Kim giữ lại, Hảo Vấn được lệnh về thành úy lạo quân dân. Thượng hoàng (Huy Tông) sau đó cũng bị ép ra khỏi cung rồi cũng rơi vào tay người Kim. Sau đó người Kim quyết định lập Trương Bang Xương làm thiên tử Trung Nguyên, cho Lã Hảo Vấn kà sự vụ quan. Bang Xương phong cho Lã Hảo Vấn làm quyền Lãnh môn hạ tỉnh. Bang Xương không xưng là "trẫm" mà xưng là "ta", chưa cải nguyên, nhưng trong văn thư không còn hai chữ "Tĩnh Khang". Riêng văn thư của Lã Hảo Vấn vẫn ghi là "Tĩnh Khang nhị niên" như cũ. Bọn Vương Thời Ung, Mạc Trù, Ngô Khai muốn đại xá, Hảo Vấn hỏi họ Vương Thời Ung vẫn quyết định đại xá riêng cho bọn tội phạm trong thành. Trước lúc về nước, Niêm Một Hát muốn lưu lại vài tướng và vệ sĩ để hộ vệ mà thực chất là khống chế Bang Xương. Hảo Vấn cố gắng thuyết phục Niêm Một Hát nói Ông trả lời Một Hát mới thôi. Sau khi quân Kim Lã Hảo Vấn hỏi Trương Bang Xương Bang Xương không hiểu. Lã Hảo Vấn nói tiếp Ủng hộ thánh chúa. Trước đó người Kim để lại 5000 quân kị đề phòng Khang vương. Hảo Vấn nghe tin, viết thư cho Vương báo việc. Rồi lại viết thư nói Sau đó thì nói với Bang Xương Sau đó đến Giám sát ngự sử Mã Trọng cũng khuyên như vậy, Bang Xương mới cho đón Nguyên Hựu hoàng thái hậu về cung, tôn là Tống thái hậu. Rồi lại sai Tạ Khắc Gia đem truyền quốc ngọc tỉ đến Nguyên soái phủ đón Khang vương. Hảo Vấn cũng sai người đến gặp Khang vương, khuyến tiến, thỉnh Nguyên Hựu thái hậu thùy liêm nhiếp chính, Bang Xương trở lại chức thái tể. Thời Nam Tống. Giữa năm 1127, Tống Cao Tông tức vị, thái hậu sai Hảo Vấn đem thư tới hành tại. Cao Tông nói với ông Sau đó phong ông làm Thượng thư hữu thừa. Nhưng tể tướng Lý Cương muốn trị tội Trương Bang Xương và đồng đảng. Hảo Vấn trách Lý Cương Thị ngự sử Vương Tân sau lại hặc tội Lã Hảo Vấn nghe theo mệnh lệnh của Bang Xương, Cao Tông vẫn bao dung với ông. Hảo Vấn lo sợ, mới dâng thư xin rút lui, được phong Tư Chính điện học sĩ và dời sang làm tri Tuyên châu, Đề cử Đổng Tiêu cung, rồi được phong Đông Lai quận hầu. Năm 1131, Lã Hảo Vấn qua đời ở Quế châu, thọ 68 tuổi. Có năm người con: Lã Bổn Trung, Lã Quỹ Trung, Lã Bằng Trung, Lã Dụng Trung, Lã Thầm Trung. Các cháu là Lã Tổ Khiêm, Lã Tổ Kiệm. Riêng Bổn Trung, Tổ Khiêm, Tổ Kiệm đều có truyện riêng trong Tống sử. Hảo Vấn chịu khuất nhục để tìm cách khôi phục cơ nghiệp cho triều Tống, được xem là có lòng trung.
1
null
Trận đấu giữa Brasil và Đức là trận đấu bán kết đầu tiên của Giải vô địch bóng đá thế giới 2014 (World Cup 2014), diễn ra vào ngày 8 tháng 7 tại sân vận động Mineirão tại Belo Horizonte, Brasil. Chiến thắng 7–1 của Đức trước Brasil trong trận này là trận thắng có hiệu số thắng thua cao nhất trong một trận bán kết qua các kỳ World Cup. Cầu thủ Miroslav Klose của Đức với pha ghi bàn nâng tỉ số trận đấu lên 2–0 đã đạt cột mốc 16 bàn thắng, chính thức trở thành cầu thủ ghi bàn nhiều nhất qua các kỳ World Cup, hơn kỷ lục cũ 15 bàn thắng của chính anh và tiền đạo Brasil Ronaldo. Trận đấu này cũng là thất bại đậm nhất của đội tuyển Brasil trong lịch sử (cùng với trận thua 0–6 trước Uruguay vào năm 1920). Nó cũng đã phá vỡ 62 trận liên tiếp bất bại trên sân nhà của Brasil từ năm 1975, khi họ thua Peru 1–3. Kết quả thua sốc này, cùng với áp lực buộc đội tuyển Brasil giành chức vô địch World Cup trên sân nhà, đã khiến các phương tiện truyền thông gọi nó là Mineirazo, lấy cảm hứng từ Maracanazo, trận thua của Brasil trước Uruguay trong trận chung kết World Cup 1950 trên sân nhà. Trước trận đấu. Hai đội đã gặp nhau trước đó tổng cộng 21 lần trong đó Brasil thắng 12 trận, Đức thắng 4 trận và hòa nhau 5 trận. Hai đội đã từng gặp nhau 1 lần tại một trận chung kết World Cup đó là trận chung kết World Cup 2002, trận đấu mà tiền đạo Ronaldo đã ghi cả hai bàn thắng giúp Brasil có được chức vô địch thế giới lần thứ 5 trong lịch sử. Đội tuyển Brasil vào đến bán kết lần đầu tiên từ World Cup 2002 và đã có năm lần vô địch World Cup còn đội tuyển Đức đã lập kỷ lục bốn kỳ World Cup liên tiếp lọt vào đến bán kết nhưng chỉ mới có ba lần vô địch World Cup. Trên con đường đến trận bán kết, Brasil đã đánh bại và , hòa tại Bảng A; tại vòng 1/8 họ vượt qua Chile sau loạt sút luân lưu khi mà 120 phút trước đó kết thúc với tỉ số hòa 1–1 và giành chiến thắng 2–1 trước Colombia ở tứ kết. Trong khi đó đội tuyển Đức có được chiến thắng trước Bồ Đào Nha, Mỹ nhưng để hòa Ghana tại Bảng G; tại vòng 1/16 họ đánh bại Algeria 2–1 sau 120 phút thi đấu và vượt qua Pháp với tỉ số tối thiểu 1–0 ở tứ kết. Về tình hình lực lượng, trung vệ đội trưởng Brasil là Thiago Silva bị treo giò do đã nhận đủ số thẻ vàng mặc dù Liên đoàn Bóng đá Brasil đã kháng án nhưng không thành công. Brasil cũng vắng mặt tiền đạo Neymar, người đã ghi bốn bàn thắng cho Brasil tại giải đấu với chấn thương cột sống gặp phải trong trận đấu tứ kết với Colombia. Dante và Bernard là những người được chọn thay cho Thiago Silva và Neymar. Luiz Gustavo trở lại sau án treo giò thay thế cho Paulinho ở vị trí tiền vệ phòng ngự. Vai trò đội trưởng của Silva được huấn luyện viên Luiz Felipe Scolari giao lại cho trung vệ David Luiz, người đã ghi bàn thắng giúp Brasil đánh bại Colombia ở tứ kết. Về phía đội tuyển Đức, không có bất kỳ sự thay đổi nào trong đội hình ra sân so với trận tứ kết với đội tuyển Pháp. Trận đấu. Diễn biến. Hiệp 1. Trong mười phút đầu tiên, cả hai đội đều chơi tấn công và Brasil có pha dứt điểm đầu tiên ở phút thứ ba của trận đấu thực hiện bởi hậu vệ Marcelo nhưng thiếu chính xác. Đến phút thứ 7, Sami Khedira dứt điểm sau đường chuyền của Mesut Özil lại trúng ngay người đồng đội Toni Kroos. Đến phút thứ 11, đội tuyển Đức vươn lên dẫn trước bằng pha đệm bóng cận thành của Thomas Müller trong tư thế không bị ai kèm từ quả phạt góc của Toni Kroos. Đến phút thứ 23, từ pha lên bóng ở trung lộ, Miroslav Klose đã có cơ hội đối mặt với thủ môn sau đường chuyền của Thomas Mueller. Dù thủ môn Júlio César đã chặn được cú sút đầu tiên của Klose nhưng Klose đã kịp đá bồi nâng tỉ số lên 2–0. Bàn thắng này giúp cá nhân Klose trở thành cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất trong lịch sử các vòng chung kết World Cup với 16 bàn thắng. Chỉ một phút sau đó, Toni Kroos nhận đường chuyền bên cánh phải từ Philipp Lahm, trong tư thế không người kèm đã ghi bàn thắng thứ ba cho đội tuyển Đức. Phút thứ 26, tiền vệ phòng ngự Fernandinho mất bóng nguy hiểm trên phần sân nhà dẫn đến bàn thắng thứ hai trong trận đấu của Toni Kroos. Sami Khedira và Mesut Özil có pha phối hợp trung lộ với nhau tạo điều kiện Khedira thoát xuống đánh bại thủ môn César lần thứ năm trong trận đấu ở phút 29. Hiệp 1 trận đấu kết thúc với tỉ số 5–0 nghiêng về đội tuyển Đức. Bốn trên năm bàn thắng mà đội tuyển Đức ghi được tại hiệp 1 trận đấu diễn ra chỉ trong vòng sáu phút. Hiệp 2. Sau giờ nghỉ giữa hiệp, Brasil có hai sự thay đổi người: Paulinho và Ramires lần lượt vào sân thay cho Fernandinho và Hulk; trong khi đó bên phía Đức, trung vệ Per Mertesacker vào thay cho Mats Hummels. Ở phút 53, Brasil có cơ hội rút ngắn tỉ số sau tình huống phá bẫy việt vị thành công của Paulinho nhưng cả hai pha dứt điểm cận thành từ góc hẹp của anh đều không thắng được thủ môn Manuel Neuer. Đến phút thứ 58, André Schürrle được đưa vào sân thay cho Miroslav Klose và hai phút sau đó, thủ môn Júlio César đã chặn đứng thành công hai cơ hội của Müller. Bàn thắng thứ sáu của đội tuyển Đức đến ở phút 69 khi Schürrle nhận đường chuyền của Lahm đã có pha đệm bóng thành công. Ở phút 70, tiền đạo Brasil Fred rời sân trong sự la ó và thái độ thù địch của cổ động viên nhà và người vào thay anh là Willian. Nguyên nhân là trong suốt trận đấu anh đã không có được bất kỳ cú tắc bóng, đường chuyền hoặc đánh chặn nào và phần lớn thời gian của anh là ở khu vực giữa sân, nơi anh phải thực hiện nghi thức giao bóng sau mỗi bàn thua đến sáu lần. Mười phút sau đó, cũng lại là Schürrle, lần này được Müller kiến tạo, tung cú sút trái phá nâng tỉ số lên 7–0. Phải đến phút thứ 90, Brasil mới có bàn thắng danh dự khi Oscar vượt qua sự truy cản của trung vệ Jérôme Boateng để đánh bại thủ môn Neuer. Trận đấu kết thúc với tỉ số chung cuộc 7–1, thất bại nặng nề nhất trong lịch sử bóng đá Brasil, bằng với trận thua 0–6 năm 1920 trước Uruguay. Toni Kroos được bầu chọn là cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu với tổng cộng 3 cú sút, 2 bàn thắng, tỷ lệ chuyền bóng chính xác 93%, có một pha kiến tạo và hai đường chuyền thuận lợi. Các kỷ lục. Dưới đây là các kỷ lục của trận đấu này đã được xác lập qua lịch sử các lần giải vô địch bóng đá thế giới: Phản ứng sau trận đấu. Người trong cuộc. Huấn luyện viên đội Brasil Luiz Felipe Scolari cho biết kết quả này là "trận thua tồi tệ nhất của đội tuyển quốc gia Brasil" và chấp nhận nhận về mình tất cả trách nhiệm cho thất bại: "Ai là người quyết định các chiến thuật? Chính tôi, tôi đã làm. Vì vậy, người chịu trách nhiệm chính là tôi". Đội trưởng David Luiz và thủ môn Júlio César đã gửi lời xin lỗi đến toàn thể người dân Brazil. Huấn luyện viên đội Đức Joachim Löw cho biết đội bóng của ông đã "có kế hoạch chơi kiên định và rõ ràng", đội Đức đã chơi "rất tỉnh táo" và ông nhận ra đội Brasil đã "bị vỡ trận, và chúng tôi đã tận dụng điều đó". Đội tuyển Đức đã ra thông báo cảm ơn tính hiếu khách của người Brazil và "Chúng tôi hiểu nỗi đau này khi đã từng thua trận bán kết năm 2006 ngay trên sân nhà". Dư luận và báo chí. Tại Đức, tường thuật trực tiếp về trận đấu của Đài truyền hình ZDF đã lập kỷ lục phát sóng truyền hình của Đức khi được xem nhiều nhất hơn bao giờ hết, với 32,570 triệu người xem, vượt qua trận đấu giữa Đức và Tây Ban Nha tại FIFA World Cup 2010. Trận đấu là trò chơi thể thao được bàn luận nhiều nhất hơn bao giờ hết trên Twitter với hơn 35 triệu tweet của người dùng, vượt Super Bowl XLVIII, với 24,9 triệu tweet trong lúc trận đấu diễn ra. Nữ tổng thống Brasil, Dilma Rousseff, sau trận đấu đã viết trên Twitter rằng "Giống như tất cả mọi người dân Brasil, tôi vô cùng đau buồn vì thất bại này của đội tuyển chúng ta". Carlos Alberto Torres, đội trưởng của đội tuyển Brasil, vô địch năm 1970, nói rằng đội tuyển Brasil bị thua do một "cảm giác là chúng tôi đã chiến thắng rồi" và "Đức đã chơi như tôi đã muốn thấy và chiến thuật của Scolari cho trận đấu này là tự sát". Nhà báo Miguel Delaney đã đặt tên trận đấu này là "Mineirazo" (cú sốc tại sân Mineirao). Đã có một vụ cướp phá quy mô lớn tại một khu vực fan hâm mộ tại Rio de Janeiro và các fan hâm mộ đã đốt cháy quốc kỳ Brasil trên đường phố São Paulo ngay cả trước khi trận đấu kết thúc. Một số xe buýt bị đốt cháy tại São Paulo và một cửa hàng điện tử bị cướp phá. Có ít nhất một người đã chết trong các vụ đập phá tại Rio de Janeiro.
1
null
Sân bay quốc tế Charleston (mã IATA: CHS, mã ICAO: KCHS, mã FAA LID: CHS) là một sân bay hỗn hợp dân sự-quân sự ở Bắc Charleston, South Carolina. Nó có hai đường băng và được điều hành bởi Cơ quan hàng không dân dụng quận Charleston theo một thỏa thuận dùng chung với Charleston Field, một cơ sở của Joint Base Charleston.. Đây là sân bay tấp nập nhất South Carolina, năm 2013 sân bay phục vụ 2.913.265 lượt khách là năm có lượng khách đông nhất trong lịch sử của sân bay này và thành sân bay có mức an ninh xếp loại một loại I bởi Cục quản lý An ninh Vận tải Hoa Kỳ. Sân bay này nằm ở Bắc Charleston và có cự ly khoảng 12 dặm Anh (20 km) về phía tây bắc của trung tâm thành phố Charleston. Sân bay cũng là nơi có cơ sở Boeing South Carolina lắp ráp Boeing 787 Dreamliner Lịch sử. Năm 1928, Công ty cổ phần Cảng Charleston được thành lập và mua 700 mẫu đất trước đây thuộc về một công ty khai thác mỏ. Mặc dù là sân bay do tư nhân phát triển lần đầu tiên, thành phố Charleston đã phát hành trái phiếu mua một phần để phục vụ hành khách năm 1931. Trong thời gian mười năm, 3 đường băng đã được gia cố bề mặt và trang bị chiếu sáng cho các hoạt động ban đêm. Trong thế chiến II, quyền kiểm soát của sân bay chuyển qua quân đội Hoa Kỳ mặc dù dịch vụ dân sự tiếp tục sử dụng sân bay. Sau chiến tranh nó trở thành sân bay dân dụng trong một thời gian ngắn. Năm 1949, một nhà ga hành khách được xây dựng. Trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, sân bay đã được sử dụng quân sự và trong năm 1952, thành phố Charleston và Không quân Hoa Kỳ đã đạt được một thỏa thuận về kiểm soát của các cơ sở và các đường băng-một thỏa thuận được thương thảo lại theo thời gian và vẫn tiếp tục cho đến ngày nay. Năm 1979, phần dân sự của sân bay được chuyển từ thành phố Charleston sang Cơ quan Hàng không quận Charleston, cơ quan vốn đã quản lý hai sân bay khác. Nhà ga hàng không hiện tại nằm ở cuối phía nam của sân bay được xây dựng vào những năm 1980 trên đất mua lại bởi Georgia Pacific. Tháng 10 năm 2009, Boeing tuyên bố sẽ xây dựng một nhà máy lớn trên 265 mẫu Anh tại sân bay làm một cơ sở lắp ráp cuối cùng thứ hai cho dòng máy bay thương mại Boeing 787 Dreamliner của hãng. Cơ sở đã bắt đầu hạn chế vào tháng 7 năm 2011 và hoàn thành chiếc máy bay đầu tiên tháng 7 năm 2012. Hãng hàng không Air South đã phục vụ sân bay trong năm 1995 và 1996 trước khi ngừng. Vào năm 2001, Air Canada trong một thời gian ngắn phục vụ tuyến bay Charleston - Toronto nhưng kết thúc dịch vụ ngay lập tức sau các cuộc tấn công ngày 11 tháng 9. AirTran Airways hoạt động ở sân bay này giai đoạn 2007-2009. Trong năm 2011 Southwest Airlines bắt đầu dịch vụ đến Charleston, tăng số hành khách và giảm giá vé cho phần lớn các chuyến bay. Trong tháng 2 năm 2013 hãng JetBlue Airways bắt đầu tuyến bay Charleston - Thành phố New York và Boston.
1
null
Lưu Quang Thế (chữ Hán: 劉光世, 1086 - 1142), tên tự là Bình Thúc (平叔), nguyên quán ở Bảo An quân, tướng lĩnh triều Bắc Tống và Nam Tống trong lịch sử Trung Quốc. Thời Bắc Tống. Lưu Quang Thế là con trai thứ của Trấn Hải quân tiết độ sứ Lưu Diên Khánh. Ông chào đời năm 1086 thời vua Triết Tông triều Bắc Tống. Ban đầu, Lưu Quang Thế theo lệ phụ ấm được bổ làm Tam Ban phụng chức, sau đó thăng là Phu Diên lộ binh mã đô giám rồi Kì châu phòng ngự sứ. Năm Tuyên Hòa thứ ba (1122) tặc khấu Phương Lạp nổi dậy chống triều đình, Lưu Diên Khánh là Tuyên phủ ti đô thống được lệnh chống giặc, Quang Thế theo cha ra trận. Khi giặc bị bình xong, Lưu Quang Thế được phong là Diệu châu quan sát sứ rồi Phu Diên lộ binh mã kiềm hạt. Về sau Tống liên minh với Kim để đánh Liêu nhằm khôi phục đất Yên, Lưu Quang Thế theo cha đến trấn giữ Dịch châu (một trong số 6 châu vùng Yên Vân mà triều Tống khôi phục lại được sau hiệp ước liên minh trên biển), được phong làm Phụng Quốc quân thừa tuyên sứ; sau đó đổi thành Uy Vũ, Phụng Ninh quân thừa tuyên sứ. Trong chiến dịch Yên Kinh, do Lưu Quang Thế hành quân đến chậm khiến quân Tống bại trận nên bị giáng quan ba cấp. Về sau giặc cướp ở Hà Bắc là Trương Địch cướp phá Tuấn châu, Quang Thế được lệnh đánh dẹp. Ông cho rằng quân giặc chỉ là một lũ ô hợp nên không khó đánh, rồi dùng kế rút lui để nhử địch, cuối cùng đánh bại được giặc. Do đó ông lại được làm Thừa tuyên sứ, sung Phu Diên lộ mã bộ quân phó tổng quản. Thời Nam Tống. Phò tá Cao Tông. Năm 1126, quân Kim do Niêm Một Hát, Oát Li Bất chỉ huy tiến đánh Biện Kinh lần thứ nhất, nước Tây Hạ nhân cơ hội đó cũng cho quân cướp phá vùng Tử Bảo. Nơi đây có hai ngọn núi đối mặt với nhau tạo thành một địa thế hiểm yếu. Quang Thế cầm quân đánh dẹp, dựa vào địa thế này mà đánh lui quân địch, được thăng làm Thị vệ mã quân đô ngu hậu. Đến mùa thu năm đó, quân Kim lại tấn công Biện Kinh lần thứ hai, Lưu Quang Thế dẫn quân của mình làm việc cần vương. Lúc đó có Phạm Trí Khư truyền hịch chư lộ kéo vào giải nguy cho kinh đô. Sau đó triều đình lại muốn nghị hòa nên ra lệnh cho các lộ cần vương dừng lại, không tiếp tục đánh nữa; Lưu Quang Thế không đồng tình, nên giấu tờ chiếu không thông báo cho quân sĩ và cho rằng cần tiếp tục tiến quân nhanh hơn nữa. Lúc hợp quân với các lộ cần vương, binh sĩ của Quang Thế nghe tin kinh thành đã thất thủ nên rất lo sợ. Quang Thế trấn an họ rằng hai đế đã trốn thoát về nam (thực ra thì hai đế đã bị bắt), nên binh sĩ bình tĩnh trở lại rồi cùng ông tiến đến Thiểm phủ. Trí Khư lại dự định hợp năm lộ binh mã quyết chiến với người Kim, đoạt lại hai đế, Quang Thế cho là khó, nên dẫn quân đội của mình đến Tế châu yết kiến Khang vương. Vương phong ông làm Ngũ quân đô đề cử. Giữa năm 1127, Vương lên ngôi hoàng đế, phong Lưu Quang Thế làm Tỉnh thị lăng tẩm sứ, rồi Đề cử cử ngự doanh sử ti, Hành tại đô tuần kiểm sứ. Sau đó ông lại lập công giết được giặc cướp Lý Dục ở Sơn Đông nên được phong Phụng Quốc quân tiết độ sứ. Về sau binh lính ở Trấn Giang làm loạn, Quang Thế dẫn quân đánh dẹp được nên được phong Giang Ninh phủ chế trí sứ. Tiếp đến ông lại được lệnh thảo phạt Trương Ngộ ở Trì châu. Ngộ xem thế trận thì đoán rằng có thể đánh bại được quan quân. Đúng là lần này thì quân triều đình bị đánh bại, nhưng Lưu Quang Thế được miễn tội nhờ sự biện hộ của Vương Đức. Về sau Trương Ngộ đưa quân đóng ở thượng lưu Trường Giang Lưu Quang Thế chỉnh đốn lại binh mã chống lại, truy kích quân của Trương Ngộ tới tận Giang châu và phá được. Lần tiếp theo Trương Ngộ lại đông hạ, Quang Thế cầm quân đón đánh, truy kích và phá tặc quân ở Giang Ninh. Năm 1128, ông được thăng làm Kiểm giáo thiếu bảo và được lệnh cầm quân thảo phạt giặc cướp Lý Thành. Ông lấy Vương Đức làm tiên phong, gặp quân của Lý Thành ở cầu Dịch Khẩu và đánh bại được chúng một trận. Lý Thành lại tập hợp tàn binh chiến đấu một lần nữa, Lưu Quang Thế mặc nho phục màu trắng ra trận, Lý Thành thấy thế bèn đem quân bao vây. Ông ra lệnh nếu ai bắt được Lý Thành sẽ ban cho quan tước. Quân sĩ thấy thế tranh đua nhau giết giặc, Lý Thành phải trốn chạy. Lưu Quang Thế được gia phong Kiểm giáo thiếu phó. Dẹp loạn Miêu, Lưu. Mùa thu năm 1127, trước sự tấn công của người Kim, Cao Tông trốn khỏi Nam Kinh, chạy về Dương châu. Quân Kim tiếp tục đánh xuống phía nam, chẳng mấy chốc đã tới vùng Thiên Trường, Lưu Quang Thế đem quân chống địch nhưng chưa tới nơi thì quân đã tan rã. Quân Kim lần lượt kiểm soát miền bắc, đánh mạnh vào miền nam. Đầu năm 1129, Cao Tông bỏ Dương châu vượt sông Trường Giang chạy trốn, phong cho Lưu Quang Thế làm Hành tại ngũ quân chế trí sứ, đóng quân ở Trấn Giang, chi viện cho cả vùng Giang Khẩu, sau lại phong ông làm Kiểm giáo thái bảo, Điện tiền đô chỉ huy sứ. Không lâu sau, Miêu Phó và Lưu Chính Ngạn làm loạn, giết chết các nội thị gần gũi với Cao Tông rồi lại bức ép Cao Tông nhường ngôi cho thái tử Ngụy quốc công Triệu Phu và từ đó hai người này kiểm soát triều chính. Miêu Phó vốn căm ghét Lưu Quang Thế vì ông có quan hệ mật thiết với nội thị Khang Lý (vừa bị Miêu, Lưu giết chết) nên giáng ông làm Thái úy, Hoài Nam chế trí sứ. Chưa đầy một tháng sau, Trương Tuấn ở Bình Giang truyền hịch cho chư lộ làm việc cần vương, Quang Thế ban đầu không nghe. Về sau có Lã Di Hạo sai sứ đến Trấn Giang thuyết phục, Quang Thế mới đồng ý, hội quân cùng các tướng ở Đan Dương. Khi quân cần vương tiến, Lưu Quang Thế cho tuyển thêm sĩ tốt làm du kích, nhưng chia quân điện hậu. Miêu Phó sai Miêu Dực và Mã Nhu Cát đến Lâm Bình kháng cự, Quang Thế cùng quân của bọn Hàn Thế Trung phá được rồi tiến vào hành tại, giải nguy cho Cao Tông. Do đó ông được phong làm Thái úy, Ngự doanh phó sứ. Ông lại sai Vương Đức hỗ trợ Kiều Trọng Phúc đang truy bắt Miêu Phó, đuổi Phó đến huyện Sùng An. Bộ hạ của Miêu Phó đầu hàng, Phó phải tiếp tục chạy trốn, về sau cũng bị Hàn Thế Trung bắt và giết. Về sau triều đình lập kế bắt được nghịch tướng Phạm Quỳnh, nhưng lại e sợ thế lực của Quỳnh ở bên ngoài sẽ làm loạn cứu nguy cho chủ. Quang Thế nhận lệnh của Trương Tuấn ra phủ dụ tướng sĩ dưới quyền Phạm Quỳnh, cuối cùng tất cả đều quy phục. Cao Tông xuống chiếu phong ông làm Giang Đông tuyên phủ sứ, trấn giữ Thái Bình và Trì châu, và tiết chế Đỗ Sung. Ông không đồng tình việc làm tiết chế cho Đỗ Sung, Cao Tông vô cùng tức giận, bèn hạ lệnh cấm ông vào điện môn, lúc đó ông đành phải nhận lệnh. Bảo vệ miền nam. Triều đình nhà Tống lại phải tiếp tục chạy dài trước sự truy đuổi của người Kim. Khi Long Hựu thái hậu ở Nam Xương nghe tin quân giặc sắp từ Kì, Hoàng châu đã vượt sông và chỉ còn 200 dặm nữa là sẽ đến chỗ mình, bèn hạ lệnh cho Lưu Quang Thế đóng quân ở Giang châu để phòng bị. Quang Thế đến nơi, ngày nào cũng uống rượu say khướt, không quan tâm đến tình hình bên ngoài. Người Kim đã vượt sông ba ngày mà ông cũng chẳng biết. Khi người Kim đến thì co giò bỏ chạy, khiến thái hậu cũng phải rút về Kiền châu. Phùng Tiếp gửi thư đến ông bảo rằng quân Kim vào sâu trong xứ người là điểm tối kị của binh gia, nay ông chỉ cần tuyển thêm tinh binh, dựa vào núi sông hiểm trở của vùng Giang Nam mà khéo léo nhử địch vào một con đường nào đó rồi dùng phục binh thì rất dễ chiến thắng. Ông không làm theo, mà đưa quân từ Tín châu về Nam Khang để giữ Hoài Nam. Khi Lịch Quỳnh đem quân bao vây huyện Cố Thủy, ông sai người đến chiêu hàng, rồi sai Vương Đức đánh và bắt được giặc cướp Vương Niệm ở Tín châu. Khi đó đội quân của ông chưa có tên, mọi người cứ gọi là "thái úy binh". Thị ngự sử Thẩm Dự Cầu trình bày chuyện này, mới có lệnh lấy hai chữ "tuần vệ" làm tên cho đội quân của ông, ông được phong làm Ngự tiền Tuần vệ quân đô thống chế. Tiếp sau Cao Tông còn triệu ông tới hành tại, phong làm Chiết Tây An phủ đại sứ và tri Trấn Giang phủ. Ông cho rằng không thể tiếp nhận được tới hai nơi như vậy, nên chỉ xin chuyên tâm vào công việc của an phủ sứ. Ông lo sợ người Kim sẽ vượt sông, muốn phòng bị trước cho mình nếu triều Tống không còn, nên đã chiếm cứ rất nhiều đất đai của nông dân ở Chiết Giang, bị triều đình phát giác. Trong ngoài cực kì phẫn nộ việc làm của ông, nhưng Cao Tông vẫn làm ngơ không trị tội và còn phong ông làm Ninh Vũ quân tiết độ sứ, Khai phủ nghi đồng tam ti. Lúc ấy thì Hàn Thế Trung và Trương Tuấn cũng đang lĩnh chức Chiết Tây chế trí sứ, Lưu Quang Thế lại tấu rằng lộ Chiết Tây quá dư thừa binh mã, không thể bổ nhiệm tới ba người thống lĩnh, nên triều đình bãi chức của hai người kia. Quân Kim chiếm đóng được Hoài Đông, Lưu Quang Thế sợ thế của chúng. Lúc người Kim bao vây Sở châu được 100 ngày, Cao Tông lệnh Quang Thế dẫn quân cứu viện nhưng ông không đi, mà sai Vương Đức và Lịch Quỳnh dẫn quân, còn mình thì quan sát xem cánh quân đó giết và bắt được bao nhiêu quân giặc để tấu công. Nhưng không lâu sau thì Sở châu bị phá, Cao Tông lệnh Quang Thế tiết chế chư trấn, bảo vệ các vùng Thông, Thái. Trong thời gian đó ông dùng kế khiến tướng Kim là Hoàn Nhan Xương phải lui quân khỏi Thừa, Sở. Năm Thiệu Hưng nguyên niên (1131), tháng ba, người Kim lại vượt sông Hoài; Dương châu lúc đó thiếu người trấn giữ, triều đình bèn phong ông kiêm làm Hoài Nam, Kinh Đông lộ tuyên phủ sứ, trí Tư Dương châu, ông không đi. Khi Trương Tuấn thảo phạt Lý Thành cũng viết thư kêu gọi ông đem quân giúp đỡ nhưng ông lấy cớ giặc cướp ở Giang Bắc đạo chưa bình dẹp xong mà từ chối. Sau đó triều đình mệnh ông kiêm Hoài Nam tuyên phủ sứ, lĩnh quân ở Chân, Dương châu và tiếp nhận công việc ở Sở châu. Khi đó có Quách Trọng Uy âm mưu chiếm cứ Hoài Nam theo hàng Ngụy Tề Lưu Dự, ông sai Vương Đứcc đem quân bắt được Trọng Uy và đánh bại quân của hắn. Trong triều tể tướng Phạm Tông Doãn bất bình với việc quân của ông tham nhũng và lãng phí, nên tố cáo với triều đình. Cao Tông bênh vực ông và không xử phạt. Trong lúc này thì nhiều người ở Hoài Bắc quy phục triều đình, Cao Tông mới ra lệnh phong Quang Thế kiêm Hải, Tứ châu tuyên phủ sứ để hướng dẫn họ. Thời gian này có Hạ Ninh tụ được hơn 1000 quân, thường bắt người ăn thịt cùng với dư đảng của Quách Trọng Uy quấy phá Hoài Nam, Thiệu Thanh chiếm cứ Thông Châu, Lưu Quang Thế đều chiêu hàng được. Ông tấu thỉnh triều đình ban cho mình ấn Hoài Đông lộ tuyên phủ sứ và tiền lương, cho phép tăng số tướng lại, được chấp nhận. Sau còn còn tâu xin cấp cho Trấn Giang phủ, Thường châu và Giang Âm quân 37 vạn mễ lương thực dùng làm quân nhu. Năm 1132 có chiếu lệnh ông đến Dương châu, ông không phụng chiếu và đến Lâm An biện giải rằng bọn giặc cướp ở Chiết Tây vẫn còn nhiều nên nguyện vẫn thống lĩnh Chiết Tây làm bổn kế. Lúc ông đến kinh có mang theo nhiều châu báu và phương vật dâng tặng, Cao Tông bèn đem phân phát cho lục cung, Trung thừa Thẩm Dữ Cầu lại can ngăn nên vua quyết định trả hết số châu báu và phương vật cho ông. Quang Thế vốn có hiềm khích với tể tướng Lã Di Hạo. Khi Di Hạo đến chỗ quân ông đóng xem xét thì báo lên triều đình những điểm xấu trong quân như tham nhũng, thiếu người, không siêng năng luyện tập nhưng Cao Tông không xét tội. Khi Di Hạo đến Trấn Giang thì bảo rằng Quang Thế dùng quân phí tới 2000 vạn mân, bèn sai người đến hỏi về việc này và còn báo cáo với triều đình. Cao Tông sai ngự sử Giang Tê đến chỗ quân của ông kiểm tra thì thất không có sự việc này. Cao Tông sau đó lại hạ lệnh dùng thuế ở Trấn Giang cung cấp thêm cho ông làm quân phí, sau đó lại trợ giúp thêm 100 vạn mân. Cùng năm 1132 ông được gia phong Ninh Vũ, Ninh Quốc quân tiết độ sứ. Ông lại tấu lên triều đình công lao của bộ tướng Kiều Trọng Phúc, nên có chiếu thăng quan cho người này. Năm 1133, Cao Tông hạ lệnh đổi trấn của Lưu Quang Thế, phong ông làm Kiểm giáo thái phó, Gang Đông lộ tuyên phủ sứ cùng với Hàn Thế Trung. Khi Thế Trung đến chân thành Trấn Giang thì có gian nhân xông vào thành ăn cắp tiền bạc trong phủ khố, bị Quang Thế bắt được rồi ông cho rằng người này là do Hàn Thế Trung sai đến, nên hai người xảy ra hiềm khích dẫn tới tấn công lẫn nhau, Cao Tông phải sai sứ đến hòa giải, ban cho hai người sách Giả Phức và Khấu Tuân truyện. Lại lệnh cho ông làm Giang Đông, Hoài Tây tuyên phủ sứ, Tri Trì châu, ban thưởng tiền 10 vạn mân. Vương Ngạn Tiên - tướng của Ngụy Tề Lưu Dự cho quân đóng ở Hoài Thượng có ý muốn vượt sông tấn công triều Tống. Quang Thế sai Lịch Quỳnh dẫn Vô Vi quân bao vây Hào và Lư Viên, buộc giặc phải rút lui. Sau đó ông còn tố cao Phu Diên Lý Dật khiến người này bị bãi chức. Lúc người Kim và Lưu Dự xâm phạm, Quang Thế cùng với Trương Tuấn, Hàn Thế Trung là những người dẫn quân đối phó, ba người có tư khích với nhau. Cao Tông phải sang Thị ngự sử Ngụy Cang đến quân trung hòa giải khuyên ngăn họ bỏ tư oán mà một lòng báo quốc. Sau đó ông còn đem quân ở Thái Bình châu giúp đỡ Thế Trung, cuối cùng quân Kim phải rút lui. Quang Thế được đổi làm Thiếu bảo. Cao Tông cũng hết lời khen ngợi ông biết lấy lòng ái quốc áp chế tư thù. Cũng trong dịp đó, ông tâu xin bố trí ruộng ở Hoài Đông dời sang Hoài Tây, Cấp sứ trung Yến Đôn cho rằng điều này quấy nhiễu người dân nên Cao Tông không chấp nhận. Sau đó ông còn xin phong cho ba người thiếp của mình làm nhụ nhân, mở đầu cho việc phong chức tước cho vợ đại tướng dưới thời Nam Tống. Về sau đổi làm Thần Vũ Quân vi Hành doanh hộ quân, quân đội của ông được xưng là Tả Hộ quân. Lưu Dự cho xây thành Lưu Long để dòm ngó Hoài Tây, Quang Thế sai Vương Sư Thịnh đem quân phá được, do đó ông được gia phong Bảo Tĩnh quân tiết độ sứ, kiêm nhiệm ở cả ba trấn. Năm 1136, Lưu Dự cùng với người Kim lại đánh xuống miền nam, ông được lệnh đưa quân đến Lư châu đối phó Bắc quân, cùng với đó còn có các tướng Hàn Thế Trung, Trương Tuấn chỉ huy các đội quân độc trận, Dương Nghi Trung làm hậu cự. Quân Ngụy Tề dùng kế cho hương dân giả làm Kim binh bố trí ở vùng sông Hoài. Lưu Quang Thế tấu rằng Lư châu khó có thể giữ và xin đưa quân đến Thái Bình Châu. Trương Tuấn sai người đến quân trung đôn đốc, Quang Thế cũng kiên trì phải rút khỏi Lư châu. Trương Tuấn tức giận, nói với bộ chúng của ông Quang Thế không còn cách nào bất đắc dĩ phải giữ quân ở Lư châu, sai Vương Đức, Lịch Quỳnh từ An Phong dẫn quân đến Tạ Bộ, giao chiến với người Kim ba lần và giành chiến thắng. Trương Tuấn sau đó vào triều tấu rằng Quang Thế kiêu căng không chịu chiến đấu nên xin bãi chức. Tể tướng Triệu Đỉnh bảo rằng Quang Thế xuất thân con nhà tướng, nếu bãi chức sợ mất lòng người. Rồi dời ông làm Hộ Quốc, Trấn An, Bảo Tĩnh qiaan tiết độ sứ. Sang năm 1137, Hữu Tư gián Trần Công Phụ lại hặc tội ông không cố sức giữ Lư châu, Trương Tuấn tố cáo ông ham mê tửu sắc chẳng nghĩ đến quốc sự, miệng hô hào khôi phục nhưng ý khí ươn hèn. Thấy bị công kích từ nhều phía, ông bèn xưng bệnh xin bãi chức trong quân. Được đổi làm Thiếu sư, Vạn Thọ quan sứ, tước Vinh Quốc công, ban cho giáp phục một bộ, binh lính của ông trở về phủ Đô đốc. Trần Công Phụ lại bảo ông tuy bị bãi chức mà được làm thiếu sư thì là thưởng phạt bất minh, Cao Tông không nghe. Đạo quân của ông, Trương Tuấn giao cho Vương Đức làm đô thống, Lịch Quỳnh làm phó, Lã Chỉ làm tiết chế. Nhưng bọn quân sĩ - vốn được ông dung túng và phần nhiều là những người đầu hàng - đã trở thành vô kỉ luật. Cuối cùng Lịch Quỳnh giết Lã Chỉ đưa quân hàng Lưu Dự. Cuối đời. Năm 1139 ông được ban hiệu Phụ Quốc hòa chúng công thần, tiến phong Ung quốc công, Thiểm Tây tuyên phủ sứ. Năm 1140, người Kim kéo quân sang xâm lấn, vây Thuận Xương. Lưu Quang Thế được giao lại binh quyền, bái làm Thái báo, Tam Kinh chiêu phủ xử trí sứ để viện trợ cho Lưu Kĩ ở Thuận Xương. Ông tấu xin cho Lý Hiển Trung làm Tiền quân đô thống, Vương Đức làm tiết chế của Hiển Trung. Nhưng Vương Đức không muốn làm tiết chế, còn cánh quân của Hiển Trung tiến tới Túc, Tứ gặp tình thế bất lợi. Khi Quang Thế tiến tới Hòa châu thì Tần Cối đã khiến Cao Tông ra lệnh bãi binh. Quang Thế về triều, được phong Vạn Thọ quân sứ, đổi làm Dương Quốc công. Trong khi các tướng khác lần lượt bị Tần Cối gièm pha hãm hại, thậm chí bị giết thì Quang Thế biết giữ mình, không bị Tần Cối thù ghét. Năm 1142, Lưu Quang Thế mắc bệnh, Cao Tông lệnh miễn khóa dịch cho gia đình của ông. Cùng năm đó ông qua đời, truy tặng thái sư, ban quan tước cho con cháu 14 người. Đặt thụy cho ông là Vũ Hi. Năm Can Đạo thứ 8 thời Tống Hiếu Tông (1172), truy phong An Thành quận vương. Năm Khai Hi nguyên niên (1205) thời Tống Ninh Tông, truy phong làm Phu vương.
1
null
Nguyễn Phúc Vĩnh Lộc (1923 – 2009), thường được gọi tắt là Vĩnh Lộc, nguyên là một tướng lĩnh Thiết giáp của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị Địa phương được Chính phủ thuộc đia Pháp mở ra ở Trung phần Việt Nam. Thời gian tại ngũ, ông đã có nhiều năm phục vụ trong ngành Thiết giáp-Kỵ binh và đã từng được bổ nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng binh chủng này. Ông là vị Tổng Tham mưu trưởng cuối cùng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, đồng thời cũng là người có thời gian tại nhiệm ngắn nhất (chỉ tại chức trong ngày 29 tháng 4 năm 1975). Trước đó, ông có thời gian giữ chức vụ Tư lệnh Quân đoàn II và Vùng 2 chiến thuật (1965-1968), được mệnh danh là Chúa tể Cao nguyên, nhiều tai tiếng tham nhũng và có cuộc sống xa hoa như một Lãnh chúa thời phong kiến. Tiểu sử và binh nghiệp. Ông sinh ngày 23 tháng 10 năm 1923 tại Huế trong một gia đình thuộc Hoàng tộc nhà Nguyễn. Chữ Vĩnh trong tên của ông được đặt theo bài "Đế hệ thi" của vua Minh Mạng, cho thấy ông là anh em cùng hệ và ngang vai vế với vua Duy Tân và vua Bảo Đại. Là một tín đồ Phật giáo, ông còn có pháp danh là Minh Tâm. Thời niên thiếu, do gia đình có điều kiện, ông được thụ hưởng một nền giáo dục cơ bản rất tốt. Từng theo học tại trường Khải Định (Quốc học Huế) và được nhận xét là có học lực rất khá. Tuy nhiên, việc học hành của ông bị gián đoạn một thời gian do thời cuộc chiến tranh. Mãi đến sau khi Pháp tái chiếm Đông Dương, ông mới tiếp tục đến trường. Năm 1948, ông tốt nghiệp Trung học chương trình Pháp với văn bằng Tú tài bán phần (Part I). Ngoài ra, ông rất thông thạo Pháp ngữ. Quân đội Quốc gia Việt Nam. Sau khi Cựu hoàng Bảo Đại về nước và thành lập Chính phủ Quốc gia Việt Nam, cuối năm 1949, ông nhập ngũ vào Quân đội Liên hiệp Pháp, mang số quân: 43/200608. Sau đó được nhập học tại trường Võ bị Địa phương của Quân đội Pháp tại An Cựu, Huế "(École des Cadres de An Cuu)". Tháng 9 năm 1950 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy. Ra trường, ông được chọn làm sĩ quan cận vệ cho Quốc trưởng Bảo Đại. Qua năm 1951, ông được cử làm Trưởng phòng Liên lạc Việt-Pháp thuộc Việt binh đoàn ở Huế. Tháng 9 cùng năm, ông được chọn về ngành Kỵ binh và được cử sang Pháp thụ huấn tại trường Thiết giáp binh Saumur. Cùng học với ông khóa này có một Trung úy trẻ người Việt tên Lâm Văn Phát. Giữa năm 1952, mãn khóa học từ Pháp về nước, ông được thăng cấp Trung úy và chuyển ngạch sang phục vụ trong Quân đội Quốc gia Việt Nam, được điều động làm Trung đội trưởng thuộc Đại đội 1 Thám thính thuộc Đệ nhất Đại đội Thám thính do Đại úy Quách Xến làm Đại đội trưởng, đồn trú tại Cần Thơ. Thượng tuần tháng 8 cùng năm, ông được chuyển sang làm Đại đội trưởng Đại đội 3 Thám thính đồn trú tại Gia Lâm, thay thế người bạn đồng học cũ là Đại úy Lâm Văn Phát. Tháng 8 năm 1953, ông được đặc cách thăng cấp Đại úy tại mặt trận. Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Sau khi Hiệp định Genève, 1954 được ký kết, ông cùng đơn vị vào Nam. Tháng 11 năm 1954, ông được thăng cấp Thiếu tá và được cử làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 1 Kỵ binh tân lập tại Gia Định. Mặc dù là người hoàng tộc, từng là sĩ quan cận vệ cho Quốc trưởng Bảo Đại, nhưng ông đứng ngoài cuộc tranh giành quyền lực giữa lực lượng ủng hộ Quốc trưởng và Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Tháng 8 năm 1955, rời khỏi chức vụ Trung đoàn trưởng Trung đoàn 1 Kỵ binh, ông được cử đi học lớp Tham mưu cao cấp tại trường Đại học Chỉ huy và Tham mưu Fort Laevenworth thuộc Tiểu bang Kansas, Hoa Kỳ. Tháng 7 năm 1956 về nước, ông vẫn tiếp tục phục vụ trong Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Mặc dù vậy, ông vẫn gặp nhiều nghi kỵ từ phía Tổng thống Ngô Đình Diệm do mối liên hệ hoàng tộc. Vì vậy, ông bị chuyển công tác phục vụ tại Trường Đại học Quân sự, một chức vụ không có thực quyền. Trong những năm sau đó, con đường hoạn lộ của ông khá chậm chạp. Đầu tháng 10 năm 1959, ông được cử giữ chức vụ Chỉ huy trưởng trường Huấn luyện Thiết giáp tại Liên trường Võ khoa Thủ Đức. Ngày Quốc khánh Đệ nhất Cộng hòa 26 tháng 10 năm đó, ông được thăng cấp Trung tá nhiệm chức. Tháng 2 năm 1961, bàn giao trường Thiết giáp lại cho Đại úy Dương Văn Đô, ông được cử giữ chức vụ Tham mưu trưởng Liên trường Võ khoa do Thiếu tướng Hồ Văn Tố làm Chỉ huy trưởng. Tháng 10 cùng năm, ông được đề bạt lên làm Chỉ huy phó Liên trường Võ khoa do Đại tá Phan Đình Thứ làm Chỉ huy trưởng. Tháng 2 năm 1962, ông nhận chỉ thị sáng lập và trở thành Chỉ huy trưởng đầu tiên của Trung tâm Huấn luyện Quốc gia Vạn Kiếp ở Bà Rịa (Phước Tuy). Thăng tiến trong mùa đảo chính. Do bất mãn bị kỳ thị, qua sự tác động của Đại tá Đỗ Mậu, ông sớm ngả về các tướng lĩnh âm mưu đảo chính lật đổ Tổng thống Diệm. Từ đầu tháng 10 năm 1963, với tư cách Chỉ huy trưởng Trung tâm Vạn Kiếp, ông đã cho thành lập một đơn vị cấp Tiểu đoàn, gồm các sĩ quan huấn luyện và các học viên có kinh nghiệm, luôn ở trạng thái sẵn sàng đợi lệnh hành quân đột xuất. Ngay sau khi cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963 nổ ra, ông chỉ huy đoàn xe Thiết giáp của Trung tâm Vạn Kiếp từ Bà Rịa tiến vào Sài Gòn qua hướng cầu Phan Thanh Giản (nay là cầu Điện Biên Phủ), hỗ trợ quân đảo chính giữ Đài phát thanh. Chiều ngày 2 tháng 11, ông chỉ huy Chiến đoàn Vạn Kiếp, một lực lượng hỗn hợp gồm Tiểu đoàn học viên của Trung tâm Vạn Kiếp, Tiểu đoàn 6 Nhảy dù và Chi đoàn 1 Thiết giáp thuộc Thiết đoàn 1 Kỵ binh, hỗ trợ quân đảo chính đánh chiếm thành Cộng Hòa. Nhờ công lao này, ngay tối ngày 2 tháng 11 năm 1963, ông được các tướng lĩnh chỉ huy đảo chính thăng lên cấp Đại tá nhiệm chức và bổ nhiệm vào chức vụ Tham mưu phó Liên quân tại Bộ Tổng tham mưu sau khi bàn giao Trung tâm Vạn Kiếp lại cho Trung tá Nguyễn Văn Huấn. Không đầy một tháng sau, ông được Hội đồng Quân nhân Cách mạng chỉ định vào chức vụ Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Thiết giáp Trung ương thay thế Đại tá Nguyễn Văn Thiện. Đường công danh của ông rạng rỡ từ đây. Sau khi tướng Nguyễn Khánh tiến hành cuộc chỉnh lý tước quyền các tướng lĩnh cầm đầu Hội đồng Quân nhân Cách mạng, thường tuần tháng 2 năm 1964, ông nhận lệnh bàn giao Bộ chỉ huy Thiết giáp lại cho Trung tá Nguyễn Đình Bảng và được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 9 Bộ binh, kiêm Tư lệnh Biệt khu 41 "(bao gồm các tỉnh Vĩnh Long, Sa Đéc, Kiến Phong)" thay thế Đại tá Đoàn Văn Quảng. Nhằm tranh thủ sự ủng hộ từ phía ông, ngày 11 tháng 8 năm 1964, tướng Khánh đã thăng cấp cho ông và 7 đại tá khác lên cấp bậc Chuẩn tướng vừa được đặt ra. Với việc thăng lên cấp bậc tướng, ông trở thành một thành viên của Hội đồng Quân nhân Cách mạng. Mặc dù Hội đồng Quân nhân Cách mạng đã tuyên bố chấm dứt hoạt động chỉ 2 tháng sau đó, nhưng trên thực tế các tướng lĩnh tập hợp một cơ chế lãnh đạo chính trị riêng, từ đó hình thành Hội đồng Quân lực. Với cơ chế này, ông cùng các tướng trẻ khác được mệnh danh là "nhóm tướng trẻ" "(Young Turks)", từng bước thâu tóm quyền lực mà đỉnh điểm là việc phế truất tướng Nguyễn Khánh và ép tướng Khánh phải lưu vong. Tháng 5 năm 1965 bàn giao Sư đoàn 9 lại cho Đại tá Lâm Quang Thi, ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô thay cho Thiếu tướng Cao Văn Viên đương nhiệm Tư lệnh Quân đoàn III kiêm nhiệm. Khi Chính phủ do tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia và tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương ra đời. Ngày 20 tháng 6 năm 1965, ông được thăng cấp Thiếu tướng nhiệm chức và được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân đoàn II và Quân khu 2 thay thế Thiếu tướng Nguyễn Hữu Có sau khi bàn giao Biệt khu Thủ đô lại cho Thiếu tướng Lê Nguyên Khang. Ngày 24 tháng 10 cùng năm, ông cho đặt tên doanh trại của Bộ tư lệnh Quân đoàn II là thành Pleime để kỷ niệm thắng lợi của trận Plei Me. Ngày Quốc khánh Đệ nhị Cộng hòa 1 tháng 11 năm 1966, ông được thăng cấp Trung tướng nhiệm chức. "Biến động Cao nguyên". Ngay khi vừa nhận chức Tư lệnh Quân đoàn II & Vùng 2 Chiến thuật, tướng Vĩnh Lộc đương đầu ngay với vụ nổi dậy của các thành viên vũ trang của FULRO, khởi đầu từ các binh sĩ thuộc lực lượng Dân sự chiến đấu "(Civilian Irregular Defense Group" – CIDG) ở trại Sarpa ở buôn Daksak, thuộc quận Đức Lập, tỉnh Quảng Đức, lan ra tận các tỉnh Darlac và Pleiku. Ngày 29 tháng 7 năm 1965, 200 lính FULRO đã vượt biên giới tấn công đánh chiếm đồn Buôn Briêng. Một nhóm khác chiếm đóng Buôn Buor (Đarlac) và khống chế một cây cầu trên quốc lộ 14. Ngay lập tức, ông ra lệnh cho Sư đoàn 23 và một số Tiểu đoàn Biệt Động Quân cùng Thiết giáp hành quân giải tỏa. Ngày 2 tháng 8 năm 1965, lực lượng FULRO tại đồn Buôn Briêng rút lui và đem theo 181 binh lính Dân sự Chiến đấu người Thượng. Ngày 15 tháng 9 năm 1965, 500 lính FULRO chiếm giữ Buôn Buor ra hàng." Từ ngày 12 đến ngày 18 tháng 12 năm 1965, lực lượng FULRO lại tấn công đồn Phú Thiện sát hại 32 người và làm bị thương 26 người khác; chiếm đồn Krong Pách, giết hết binh sĩ người Kinh; đột nhập tòa hành chính và Tiểu khu Quảng Đức, giết hết người Kinh, treo cờ FULRO. Với binh lực trong tay, tướng Vĩnh Lộc hoàn toàn có thể trấn áp quân bạo loạn. Tuy nhiên, do sự can thiệp của Đại sứ quán Mỹ, các nhóm vũ trang của FULRO do đó luôn có thể đưa ra yêu sách ngừng bắn khi hết đạn và rút qua biên giới sang Campuchia. Vì vậy, tướng Vĩnh Lộc một mặt vẫn cho thực hiện các cuộc hành quân trấn áp, mặt khác qua các cuộc tiếp xúc với đại diện FULRO, lắng nghe những đòi hỏi của họ, và hứa sẽ nhượng bộ một số yêu cầu." Từ giữa năm 1965, các hoạt động chính trị và quân sự của FULRO không còn là tâm điểm chú ý của tướng Vĩnh Lộc khi mà ông phải đối mặt với một đối thủ mạnh hơn nhiều: Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam". Sự kiện Mậu Thân 1968. Sự kiện tết Mậu Thân (1968), ông đã ra lệnh cho chỉ huy các đơn vị không được rời nhiệm sở để đề phòng bất trắc nhưng ông vẫn bất chấp ngang nhiên bay về Sài Gòn ăn tết. Vì Vậy Pleiku cũng như nhiều đô thị khác, cũng bị quân Giải phóng tấn công. Sau khi ăn tết xong, ông vẫn không chịu về nhiệm sở mà về tư dinh của mình). Vị tướng không quân. Đầu tháng 3 năm 1968, hoán đổi chức vụ với Thiếu tướng Lữ Lan, ông về Bộ Tổng tham mưu làm phụ tá Tổng tham mưu trưởng kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Quân huấn, còn Thiếu tướng Lữ Lan thay ông Tư lệnh Quân đoàn II. Giữa tháng 2 năm 1969, bàn giao Tổng cục Quân huấn lại cho Trung tướng Phan Trọng Chinh, ông được cử đi làm Cố vấn Quân sự cho Phái đoàn Hòa đàm Paris tại Pháp. Trung tuần tháng 8 cùng năm, ông được triệu hồi về nước giữ chức vụ Chỉ huy trưởng trường Cao đẳng Quốc phòng "(vẫn là những chức vụ không có thực quyền)". Thảng 8 năm 1970, bàn giao trường Cao đẳng Quốc phòng lại cho Trung tướng Lữ Lan tái nhiệm. Sau đó ông về Bộ Tổng Tham mưu làm phụ tá kế hoạch cho Tổng Tham mưu trưởng Cao Văn Viên. Giữa năm 1973, ông lại bị Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tước sạch mọi chức vụ vì lý do, trong một chuyến công du Thổ Nhĩ Kỳ, ông đã tự ý bay sang Pháp để liên lạc với cựu hoàng Bảo Đại. Một lần nữa, ông lại phải ở cương vị "ngồi chơi xơi nước" tại Bộ Tổng Tham mưu. Tổng tham mưu trưởng cuối cùng. Ngày 28 tháng 4 năm 1975, ông được tân Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định làm Tổng tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Cấp phó cho ông là viên Chuẩn tướng hồi hưu Nguyễn Hữu Hạnh được gọi tái ngũ.</ref>. Nhậm chức, ông đã lớn tiếng hô hào quân sĩ sát cánh tử thủ đến cùng. Tuy nhiên sau đó ông lại đào nhiệm và vượt biển chạy sang Hoa Kỳ.. Cuộc sống lưu vong. Sau khi lưu vong, ông cùng gia đình đã đến định cư tại Thành phố Houston, Tiểu bang Texas, Hoa Kỳ. Ngày 8 tháng 1 năm 2009, ông từ trần tại nơi định cư, hưởng thọ 86 tuổi. Huy chương. -Bảo quốc Huân chương đệ nhị đẳng (ân thưởng)<br>-Nhiều huy chương quân sự, dân sự và đồng minh Gia đình. Ông đã từng có một đời vợ trước và 2 người con. Về sau lập gia đình với Nguyễn Thị Minh Hiếu, một nữ danh ca lừng danh một thời tại miền Nam Việt Nam. Chuyện tình duyên của ông bà từng là đề tài của nhiều giai thoại thời bấy giờ.
1
null
Kyle Gallner (sinh ngày 22 tháng 10 năm 1986) là một nam diễn viên người Mỹ. Có lẽ anh được biết đến nhiều nhất với vai diễn Cassidy "Beaver" Casablancas trong serie phim truyền hình thám tử dành cho tuổi Teen "Veronica Mars", và vai diễn khách mời, siêu anh hùng Bart Allen, trong bộ phim khoa học viễn tưởng "Smallville", một phiên bản chuyển thể kết hợp từ hai nhân vật trong truyện tranh "Flash" và "Impulse". Anh cũng nổi tiếng với vai Reed Garrett, con trai riêng của Mac Taylor, trong bộ phim truyền hình hình sự, trinh thám nhiều tập "" trong mùa thứ 3 đến mùa thứ 6 bắt đầu từ năm 2006, đồng thời là vai diễn trong các bộ phim kinh dị bao gồm "The Haunting in Connecticut", "Jennifer's Body" và phiên bản làm lại của bộ phim "A Nightmare on Elm Street". Đời sống và Sự nghiệp. Gallner sinh ra ở West Chester, Pennsylvania, và theo học ở Trường Trung học phía Đông West Chester. Anh khởi xướng sự nghiệp của mình bằng việc tham gia một trong những buổi thử giọng của chị gái. Anh bắt đầu trở thành ngôi sao khách mời trong những show truyền hình ăn khách thời điểm đó như "Judging Amy" và "Close to Home". Gallner tham dự casting cho phim "Veronica Mars" với vai Cassidy Casablancas khi kết thúc mùa đầu tiên vào tháng 5 năm 2005 trước khi trở thành diễn viên chính thức trong mùa thứ hai. Trong "Veronica Mars", Gallner vào vai một cậu thiếu niên nhỏ tuổi, Cassidy "Beaver" Casablancas, em trai của Dick Casablancas. Mặc dù rất thông minh nhưng anh thường xuyên bị anh trai mình bắt nạt. Sau khi đóng vai Bart Allen trong tập "Run" ("Chạy") của phim "Smallville", Gallner một lần nữa tái ngộ với vai diễn này vào ngày 18 tháng 1 năm 2007 trong tập "Justice" ("Công lý") và tập kết thúc mùa thứ 8. Anh còn đóng một số vai diễn khách mời khác như: trong phim "Cold Case" với vai một tay súng tuổi teen trong tập "Rampage" ("Cơn giận dữ"); tập phim "Impulsive" ("Bốc đồng") trong "Law & Order: Special Victims Unit" ngày 9 tháng 10 năm 2007 trong vai một học sinh trung học tố cáo giáo viên của mình (do Melissa Joan Hart thủ vai) về tội quan hệ tình dục với trẻ vị thành niên.; một tập phim trong serie truyền hình "Bones" trong vai Jeremy Farell, anh trai của một thí sinh trong một cuộc thi sắc đẹp và nằm trong số những nghi phạm bị nghi ngờ đã giết chết một trong những thí sinh nổi tiếng nhất của cuộc thi. Anh còn xuất hiện trong bộ phim độc lập "Sublime". Gallner đã sở hữu một vai chính trong một bộ phim kinh dị dựa trên chuyện thật "The Haunting in Connecticut" mà trong đó anh đóng vai Matt Campbell, một cậu con trai bị bệnh ung thư phải chịu những đau khổ vì những linh hồn ác quỷ. Gia đình của Matt chuyển từ thành phố hoa lệ New York đến Connecticut ở để anh có thể nhận được sự điều trị đặc biệt cho bệnh ung thư, tuy nhiên căn nhà duy nhất mà họ đủ tiền chi trả lại có thể một quá khứ đen tối không đáng tin cậy. Một linh hồn đã chết trong căn nhà đó đã hiện thân trong cơ thể của Matt và cậu đã nhìn thấy một chuỗi những dấu hiệu đáng lo ngại. Matt không thể chia sẻ điều này với bất kỳ ai trong nhà bởi vì nếu mọi người nghĩ anh đang bị ảo giác thì việc điều trị ung thư sẽ chấm dứt. Vào cuối phim, Matt giải thoát cho những linh hồn ác quỷ bị ám trong ngôi nhà và hoàn toàn thoát khỏi căn bệnh ung thư quái ác. Anh tham gia trong bộ phim độc lập "Cherry", quay trong khuôn viên của trường Đại học Kalamazoo và Đại học phía Tây Michigan, cùng với một số địa điểm khác ở trung tâm thành phố Kalamazoo, Michigan. Anh đóng vai Aaron, một sinh viên năm nhất trong hệ thống trường đại học Mỹ Ivy League gặp và yêu một người phụ nữ lớn tuổi hơn trong khi trở thành đối tượng tình cảm cho đứa con gái của người phụ nữ đó trong suốt quá trình. Gallner đóng vai nam chính Quentin trong phiên bản làm lại của phim "A Nightmare on Elm Street"; nhân vật của anh là người yêu của Nancy. Gallner còn đóng vai anh trai của nhân vật Aaron Paul trong phim "Smashed" năm 2012. Gallner đóng vai Zach nhưng chỉ trong một tập phim trong tổng số 4 mùa của serie phim kinh dị The Walking Dead của đài AMC. Ban đầu theo dự tính nhân vật Zach sẽ đồng hành theo suốt bộ phim nhưng cuối cùng lại bị giết chết theo. Năm 2014 Gallner đóng vai Kurt, một nhân vật phản diện đối với nhân vật chính Sam, trong bộ phim độc lập "Dear White People" về nạn phân biệt chủng tộc trong hệ thống trường đại học Ivy League.
1
null
VIVA World Cup là giải đấu được tổ chức bởi NF-Board 2 năm 1 lần. Các đội tham dự giải là những đội tuyển quốc gia không phải là thành viên của FIFA. Lịch sử. Vào tháng 5 năm 2005, NF Board thông báo thành viên Bắc Síp sẽ là chủ nhà giải đấu để kỷ niệm 50 năm thành lập của thành viên này. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, NF Board đã chuyển giải đấu sang cho thành viên Occitania (1 vùng nằm ở Nam Âu). 6 đội tham dự là Monaco, Sápmi, Nam Cameroon, Tây Papua (vùng), đội của người Roman. Tuy nhiên, vì nhiều lý do chỉ còn lại Monaco, Sapmi và chủ nhà tham dự. Nam Cameroon cũng tham dự nhưng không có visa và các trận đấu gặp đội này tại giải đều được xử 3-0. Sápmi là đội vô địch của giải với Monaco hạng nhì. VIVA World Cup lần 2 tổ chức tại làng Gällivare thuộc Sápmi, Thụy Điển từ 7 đến 13 tháng 7 năm 2008. Các trận đều chơi vào buổi trưa. 12 đội có dự định tham gia nhưng cuối cùng chỉ còn 5, và đội Padania vô địch, Aramean đứng nhì và chủ nhà đứng 3. Lần thứ 3, giải được tổ chức tại Padania, Ý vào năm 2009. Đội Padania tiếp tục bảo vệ ngôi vương sau trận thắng trước Kurdistan. Lần thứ 4, giải được tổ chức tại Gozo, Malta năm 2010. Padania tiếp tục vô địch. Đội Tây Tạng có ý định tham dự nhưng không đủ kinh phí. Lần thứ 5, giải được tổ chức tại Kurdistan năm 2012 với sự hợp tác giữa NF-Board và liên đoàn thể thao các quốc đảo. Đội chủ nhà giành chức vô địch sau chiến thắng trước Bắc Síp. Giải đấu lần thứ 5 cũng là giải đấu cuối cùng của VIVA World Cup, do NF-Board giải tán vì một số lý do chính trị. Sang năm 2013, thay cho NF-Board, một tổ chức tương tự, quy củ và lớn mạnh hơn ra đời là Liên đoàn các Hiệp hội bóng đá độc lập (ConIFA). Liên đoàn các Hiệp hội bóng đá độc lập ConIFA cũng có thể được coi là hậu thân của NF-Board. ConIFA đã tiếp tục cho tổ chức giải đấu ConIFA World Football Cup (thay cho VIVA World Cup) được tổ chức 2 năm 1 lần bắt đầu từ năm 2014.
1
null
Margarita Hemlin (sinh ngày 6 tháng 7 năm 1960) là một nữ nhà văn người Nga. Tháng sáu năm 2014, Người truy nguyên (Дознаватель) được bình chọn là cuốn truyện trinh thám hay nhất thời kỳ hậu Xô Viết. Bà đã học chuyên ngành thơ tại Trường viết văn Gorky 1980-1985, ra trường làm ở phòng quản lý nhà đất, rửa bát cho nhà hàng rồi chuyển sang làm phóng viên. Đề tài của bà là cuộc sống của người Do Thái. Bà đã có các tập truyện in Dòng sông sống động, Thế chiến thứ ba của Vasia Solomonovna, tiểu thuyết Klotzvog, Ngoài rìa và Người truy nguyên. Chùm truyện Vĩnh biệt người đàn bà Do Thái được giải thưởng năm 2007 của tạp chí Ngọn Cờ. Từ năm 2012, bà được mời làm giám khảo giải thưởng văn học O. Henry.
1
null
Giảo Cường (chữ Hán: 佼彊, ? - ?), người quận Sơn Dương, Duyện Châu , thủ lĩnh quân phiệt cuối đời Tân, đầu đời Đông Hán. Cuộc đời và sự nghiệp. Có thuyết nói rằng Cường là hậu duệ của đại phu Nguyên Bá Giảo đời Chu . Ban đầu Cường cát cứ huyện Tây Phòng, quận Sơn Dương. Thời Canh Thủy, Lương vương Lưu Vĩnh nhiệm mệnh Cường làm Hoành hành tướng quân. Năm Kiến Vũ thứ 2 (26), Lưu Vĩnh bị quân Hán đánh bại, chạy đến huyện Tiếu, quận Bái, kêu gọi các nơi cứu viện. Cường cùng Tô Mậu, Chu Kiến đưa quân đến giúp, bị tướng Hán là Cái Duyên đánh bại. Cường và Chu Kiến chạy đi huyện Hồ Lăng, quận Sơn Dương. Năm sau (27), Lưu Vĩnh bị giết, Cường chạy về Tây Phòng. Năm thứ 4 (28), con Lưu Vĩnh là Lưu Hu chạy đến Tây Phòng. Mùa xuân năm thứ 5 (29), tướng Hán là Đỗ Mậu vây Tây Phòng, Cường không địch nổi, đưa Lưu Hu chạy đi quận Đông Hải nương nhờ Đổng Hiến. Tháng 6 ÂL cùng năm, Cường theo bọn Đổng Hiến rời Hạ Bi, lui về Lan Lăng, Hiến sai Cường và Tô Mậu đi giúp Bàng Manh đánh Đào Thành thuộc huyện Nhiệm Thành, quận Đông Bình. Bọn Cường bị tướng Hán là Ngô Hán đánh bại, chạy trốn suốt đêm về chỗ Đổng Hiến. Sau khi bọn Hiến tiếp tục thua trận, Cường đầu hàng quân Hán. Không rõ hậu sự của Cường.
1
null
Angara là một dòng tên lửa đẩy do Trung tâm nghiên cứu và chế tạo Khrunichev (Moscow) nghiên cứu và phát triển. Tên lửa đẩy Angara có khả năng đưa tải trọng từ 3.000 đến 24.500 kg vào quỹ đạo Trái đất tầm thấp, cùng với phiên bản tên lửa đẩy Soyuz-2 nhằm thay thế các tên lửa đẩy phát triển từ thời Liên Xô. Lịch sử. Sau khi Liên Xô tan rã, viện nghiên cứu phát triển cho phần lớn các tên lửa đẩy của Liên Xô khi đó là Phòng thiết kế tên lửa Yuzhnoye cùng với nhà máy cơ khí chế tạo Yuzhmash giờ thuộc quyền sở hữu của Ukraine. Đây là viện nghiên cứu phát triển và sản xuất tên lửa đẩy Zenit-2, Dnepr và Tsyklon. Ngoài ra, sân bay vũ trụ chính của Liên Xô trước đây, sân bay vũ trụ Baikonur, nay nằm trên lãnh thổ Kazakhstan, và Nga gặp khó khăn trong việc đàm phán về việc sử dụng sân bay này để phóng tên lửa vũ trụ. Điều này dẫn đến việc Nga quyết định phát triển loại tên lửa đẩy mới tên là Angara, nhằm tránh phụ thuộc vào những nhà cung cấp nước ngoài. Nga cũng sử dụng sân bay vũ trụ Plesetsk để thay thế sân bay vũ trụ Baikonour trong việc phóng vệ tinh lên quỹ đạo. Nhiều công ty đã nộp đơn xin phát triển loại tên lửa mới, và vào năm 1994, Trung tâm nghiên cứu và chế tạo Khrunichev, vốn từng phát triển tên lửa đẩy Proton trước đây đã giành được hợp đồng chế tạo tên lửa mới. Thành công về mặt thương mại của tên lửa đẩy Proton trong suốt hai thập kỷ là lợi thế mà Khrunichev có được, nhờ đó Khrunichev vẫn có thể phát triển dự án tên lửa Angara dù nguồn đầu tư từ chính phủ Nga rất ít ỏi. Ban đầu trung tâm nghiên cứu Khrunichev dự định sử dụng một phiên bản của động cơ RD-170 cho hệ thống đẩy của tầng 1 tên lửa và sử dụng động cơ nhiên liệu Hydro lỏng cho tầng 2 tên lửa Angara. Năm 1997, động cơ sử dụng kerosene được sử dụng thay thế cho động cơ nhiên liệu hydro lỏng, và động cơ RD-170 được thay thế bằng động cơ RD-191. Đây là động cơ được phát triển từ RD-170 với một buồng đốt nhiên liệu. Cuối năm 1997, Khrunichev được sự chấp thuận của chính phủ Nga để phát triển loại tên lửa mới, có khả năng thay thế cho các tên lửa đẩy Dnepr, Tsyklon và Rokot vốn dựa trên ICBM, đồng thời loại tên lửa mới cũng có khả năng phóng vệ tinh vào quỹ đạo địa tĩnh-lớp tên lửa Angara A5. Việc phát triển loại tên lửa mới cũng yêu cầu xây dựng bệ phóng mới dành cho nó. Năm 2004, tên lửa Angara đã thành hình, và viện thiết kế tên lửa bắt đầu phát triển bệ phóng tên lửa. Năm 2008, NPO Energomash, được giao nhiệm vụ phát triển động cơ RD-191, thông báo động cơ đã thử nghiệm hoàn tất và sẵn sàng bàn giao lắp đặt cho loại tên lửa mới, và vào tháng 1 năm 2009 tầng đẩy 1 hoàn chỉnh của tên lửa Angara đã được chuyển đến trung tâm nghiên cứu Khrunichev. Vladimir Nesterov, Giám đốc của trung tâm Khrunichev, tuyên bố sẽ tiến hành thử nghiệm tên lửa Angara vào năm 2013, theo đó, phiên bản thử nghiệm được phóng từ Trung tâm phóng tên lửa Plesetsk. Sau 22 năm phát triển, tên lửa Angara phóng thử nghiệm lần đầu tiên vào ngày 9/7/2014, buổi thử nghiệm phóng thử tên lửa bay dưới quỹ đạo. Ngày 23/12/2014, Angara A5 bay thử nghiệm lần đầu tiên. Tháng 6 năm 2020, bệ phóng tên lửa Angara đã hoàn thiện và được vận chuyển tới sân bay vũ trụ Vostochny. 14/12/2020, 6 năm sau lần phóng đầu tiên, Angara-A5 lần thứ hai được phóng lên quỹ đạo từ sân bay vũ trụ Plesetsk. Theo giám đốc Roscosmos Dmitriy Rogozin, hai tên lửa Angara sẽ được phóng vào năm 2021: tên lửa Angara-1.2 và Angara-A5 với tầng đẩy phụ mới, Persei. Mô tả. URM-1: Tầng đẩy 1. Universal Rocket Module (URM-1) đóng vai trò chủ chốt trong tất cả các phiên bản tên lửa Angara. Tên lửa Angara A5 có thêm 4 tầng URM-1 làm tầng đẩy phụ. URM-1 trang bị một động cơ NPO Energomash RD-191 nhiên liệu liquid oxygen và RP-1. RD-191 được phát triển cho tầng đẩy phụ của tên lửa đẩy Energia. Động cơ RD-171 sử dụng trên tên lửa đẩy Zenit và động cơ RD-180 sử dụng trên tên lửa đẩy Atlas V cũng được phát triển từ RD-170. Động cơ RD-193 dự kiến sẽ được trang bị trên tầng đẩy 1 của tên lửa Soyuz 2-1v thay thế cho động cơ NK-33 thiết kế từ những năm 1970s cũng là dẫn xuất của RD-170. RD-191 tiêu thụ ít nhiên liệu hơn các động cơ thế hệ cũ. URM-1 có bể chứa ô xy lỏng ở trên đầu tầng đẩy, tiếp theo là một cấu trúc liên ngăn chứa thiết bị điều khiển bay và thiết bị đo từ xa, với bình chứa nhiên liệu RP-1 bên dưới. Tầng đẩy URM-1 có khớp các đăng thay đổi góc phụt của động cơ đẩy để tăng khả năng điều khiển tên lửa. URM-2: Tầng đẩy 2. Tầng đẩy 2 của tên lửa Angara, gọi là URM-2, sử dụng một động cơ RD-0124A của KBKhA, động cơ cũng sử dụng nhiên liệu Ôxy lỏng và RP-1. Động cơ RD-0124A tương tự như động cơ RD-0124 sử dụng trên tầng 2 của tên lửa đẩy Soyuz-2. Tầng đẩy URM-2 có đường kính là 3,6 mét (Angara A5). Angara 1.2 có thiết kế tầng đẩy thứ hai có đường kính nhỏ hơn, là 2,66 mét để phù hợp với với Block I hoặc 2,9 mét để phù hợp với URM-1. Tầng đẩy 3. Angara 1.2 không sử dụng tầng đẩy thứ 3, khi đưa tải trọng lên quỹ đạo tầm thấp. Đối với việc đưa vệ tinh lên các quỹ đạo cao hơn như GTO, Angara A5 sử dụng tầng đẩy Briz-M (Hiện đang sử dụng trên tên lửa đẩy Proton-M), trang bị 1 động cơ S5.98M nhiên liệu N2O4 và UDMH, hoặc thậm chí là sử dụng tầng đẩy KVTK. Tầng đẩy KVTK sử dụng nhiên liệu LH2/LOX cho động cơ RD-0146D giúp Angara A5 có khả năng mang hai tấn tải trọng lên GTO. Blok D hiện đang được Nga cân nhắc để sử dụng trên tên lửa Angara phóng từ sân bay vũ trụ Vostochny do nó không sử dụng các loại nhiên liệu độc hại như tầng đẩy Briz-M. Các phiên bản. Angara 1.2. Phiên bản nhỏ nhất của dòng tên lửa đẩy Angara là Angara 1.2, có trọng lượng phóng 171 tấn và có khả năng mang 3,8 tấn tải trọng vào quỹ đạo 200 km x 60°. Angara 1.2pp. Phiên bản sửa đổi từ Angara 1.2, Angara 1.2pp ("Angara-1.2 pervyy polyot", nghĩa là "Angara-1.2 first flight"), thực hiện chuyến bay dưới quỹ đạo vào ngày 9/7/2014. Thời gian bay 22 phút và mang theo một tải trọng mô phỏng . Phiên bản Angara 1.2PP có trọng lượng đảm nhiệm vai trò thử nghiệm các thành phần của tên lửa Angara A5 trước khi tên lửa Angara A5 thực hiện chuyến bay đầu tiên vào ngày 23/12/2014. Angara A5. Phiên bản tên lửa Angara tiếp theo là tên lửa đẩy hạng nặng Angara A5. Trọng lượng phóng 773 tấn, Angara A5 có khả năng đưa 24,5 tấn tải trọng lên quỹ đạo 200 km x 60°. Angara A5 có khả năng đưa 5,4 tấn tải trọng lên quỹ đạo chuyển tiếp địa tĩnh bằng tầng đẩy Briz-M, hoặc 7,5 tấn bằng tầng đẩy KVTK. Ở phiên bản Angara A5, 4 tầng đẩy URM-1 được sử dụng làm tầng đẩy phụ, sản sinh lực đẩy tối đa trong 214 giây, sau đó sẽ được tách khỏi thân tên lửa. Tầng đẩy URM-1 trung tâm sẽ hoạt động tối đa công suất lúc tên lửa cất cánh, sau đó sẽ giảm công suất động cơ còn 30% để tiết kiệm nhiên liệu. Tầng đẩy trung tâm sẽ hoạt động với hiệu suất đầy đủ trở lại sau khi tầng đẩy phụ được tách ra, và nó sẽ tiếp tục hoạt động trong 110 giây tiếp theo. Các dự án liên quan. Tên lửa đẩy Naro-1 của Hàn Quốc sử dụng tầng đẩy 1 là một thiết kế dẫn xuất từ tầng đẩy URM-1 của tên lửa Angara (trang bị phiên bản động cơ RD-191 có lực đẩy yếu hơn, gọi là RD-151)..
1
null
Jon Pyong-ho (전병호/全炳浩,sinh tháng 3-1926 - mất tháng 7 năm 2014) là một quan chức Bắc Triều Tiên. Ông sinh ở huyện Musan, tỉnh Hamgyong Bắc và tốt nghiệp kỹ sư cơ khí ở Đại học quốc gia Moskva thời kỳ Liên Xô năm 1950. Ông là ủy viên Hội đồng quốc phòng nhà nước từ tháng 2 năm 2009. Ông Jon bắt đầu phụ trách các chương trình tên lửa tầm ngắn của Triều Tiên từ những năm 1990, và được xem là kiến trúc sư trưởng chương trình hạt nhân của Bắc Triều Tiên. Là nhân vật thân cận với Kim Jong Il, ông là người chỉ đạo trực tiếp vụ thử hạt nhân đầu tiên của Bắc Triều Tiên tháng 10 năm 2006. Ông là một vị tướng trong Quân đội Bắc Triều Tiên. Ngày 8/7/2014, Jon Pyong-Ho từ trần do một cơn đau tim, thọ 88 tuổi. Jon Pyong-Ho sẽ được tổ chức tang lễ cấp nhà nước và nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-un làm chủ trì ban tang lễ. Sự nghiệp. Ông bắt đầu hoạt động cách mạng năm 1951, được bầu làm ủy viên dự khuyết Ủy ban Trung ương Đảng Lao động Triều Tiên tại Đại hội đảng lần thứ 5 vào năm 1970. Tại Đại hội đảng lần thứ 6 tổ chức tháng 10 năm 1980 Jon Pyong-ho được bầu làm Ủy viên chính thức Ủy ban Trung ương Đảng Lao động Triều Tiên. Năm 1982, ông được bầu làm Phó chủ tịch Hội đồng Nhân dân tối cao (Quốc hội Bắc Triều Tiên) và năm 1983, ông được bầu làm Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị. Tại Hội nghị lần thứ 12 của Ủy ban Trung ương Đảng Lao động Triều Tiên lần thứ 6 tổ chức vào ngày 27 tháng 12 năm 1986, ông được bầu làm Bí thư Đảng đặc trách Công nghiệp đạn dược. Ông được bầu vào Ủy viên chính thức Bộ Chính trị tại Hội nghị lần thứ 14 của Ủy ban Trung ương Đảng, được tổ chức trong các ngày 28-30 tháng 11 nae 1988. Tại kỳ họp đầu tiên của Hội đồng nhân dân tối cao lần thứ 9 tổ chức vào tháng 5 năm 1990, Jon Pyong-ho được bầu làm Ủy viên Ủy ban Quốc phòng nhà nước Jon là người đứng ra sắp xếp các thương vụ chuyển giao công nghệ tên lửa với nước ngoài. Trong các năm 2008 và 2009, ông đã giám sát các vụ phóng tên lửa tầm xa thứ hai và thử hạt nhân thứ hai của Bắc Triều Tiên. Ông đóng vai trò lớn trong các giao dịch vũ khí của Bắc Triều Tiên với Iran, Syria và Myanmar. Ông có tên trong nhiều danh sách cấm vận của Liên Hợp Quốc, Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu. Tháng 9 năm 2010, Jon Pyong-ho thôi giữ chức Bí thư trung ương KWP, nhưng vẫn giữ chức Ủy viên Bộ Chính trị. Tháng 4 năm 2011, ông thôi giữ chức ủy viên Ủy ban Quốc phòng nhà nước và nghỉ hưu hoàn toàn. Jon Pyong-ho là một thành viên của Ủy ban tang lễ Kim Jong-il vào tháng 12 năm 2011. Đánh giá. Hãng thông tấn nhà nước Bắc Triều Tiên KCNA khẳng định: "Đại tướng Jon Pyong-ho có những đóng góp đặc biệt biến Quân đội Triều Tiên thành đội quân cách mạng mạnh mẽ và ưu tú, với những trang thiết bị hiện đại. Ông có đóng góp to lớn, giúp Triều Tiên phóng vệ tinh lên quỹ đạo và phát triển vũ khí hạt nhân".
1
null
HMS "Lightning" (G55) là một tàu khu trục lớp L được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. Nó đã nhập biên chế và phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai cho đến khi bị đánh chìm bởi ngư lôi phóng từ tàu phóng lôi E-boat Đức "S-55" tại Địa Trung Hải vào ngày 12 tháng 3 năm 1943. Thiết kế và chế tạo. "Lightning" được đặt hàng cho xưởng tàu của hãng Hawthorn Leslie & Co ở Newcastle Upon Tyne vào ngày 31 tháng 3 năm 1938 trong Dự toán Ngân sách Hải quân 1937. Nó được đặt lườn vào ngày 15 tháng 11 năm 1938 và được hạ thủy vào ngày 22 tháng 4 năm 1940. Công việc chế tạo hoàn tất vào ngày 28 tháng 5 năm 1941, sau khi bị trì hoãn do việc giao hàng chậm trễ ba tháp pháo 4,7 inch nòng đôi theo như thiết kế nguyên thủy. Tổng chi phí chế tạo nó là 440.807 Bảng Anh, không kể đến những trang bị như vũ khí và thiết bị liên lạc do Bộ Hải quân Anh cung cấp. Nó được cộng đồng cư dân Borough của Doncaster đỡ đầu vào ngày 25 tháng 3 năm 1942, như một phần của cuộc quyên góp tiết kiệm cho Tuần lễ Tàu chiến. Lịch sử hoạt động. Vào ngày 28 tháng 5 năm 1941, "Lightning" được phân về Chi hạm đội Khu trục 19 thuộc Hạm đội Nhà tại Scapa Flow cùng với tàu chị em . Hai tàu chị em khác và chưa sẵn sàng để chiến đấu. Nó được gia nhập cùng với các tàu nữa chị em , , và ; cả bốn sau đó đều bị đánh chìm trong năm phục vụ đầu tiên trong chiến tranh. Chiến dịch Substance là hoạt động tác chiến đầu tiên mà "Lightning" tham gia. Nó hình thành nên lực lượng hộ tống của Hạm đội Nhà cho các đoàn tàu vận tải WS 9C và MG 1 đi đến Malta. Đoàn vận tải bao gồm các chiếc , , , , , , , , , , "Nestor", , , , , , , và . Chúng rời Derry vào ngày 13 tháng 7 và đi đến Gibraltar hai tuần sau đó vào ngày 27 tháng 7. Hoạt động tiếp theo của nó là trong Chiến dịch Style, khi "Lightning" hộ tống một đoàn tàu vận tải nhỏ chuyển lực lượng tăng cường cho Không quân Hoàng gia Anh. Nó không đi hết hành trình, quay trở lại Gibraltar vào ngày 4 tháng 8 sau khi đoàn tàu đến được Malta. Vào ngày 22 tháng 8, nó khởi hành từ Scapa Flow cùng với và để tìm kiếm chiếc tàu ngầm "Rubis" thuộc lực lượng Pháp Tự do vốn bị hư hại do bị máy bay Đức không kích ngoài khơi bờ biển Na Uy. Nó sau đó gặp gỡ tàu tuần dương và cuối cùng tìm thấy "Rubis" gần Skagerrak, và hộ tống nó đi đến Dundee để sửa chữa. "Lightning" và "Laforey" rời Greenock cho chuyến vận tải Malta lớn đầu tiên trong chiến tranh vào ngày 17 tháng 9 năm 1941, băng qua Clyde Boom lúc 05 giờ 30 phút. Nó gia nhập đoàn tàu vận tải cùng với nhiều tàu chiến chủ lực khác của Hạm đội Nhà; bao gồm , , , , , , "Cossack", "Fury", và . Chúng băng qua eo biển Gibraltar và gặp gỡ Lực lượng H. Trong suốt chiến dịch, "Lightning" tham gia những trận chiến đấu ác liệt nhất trong suốt quãng đời hoạt động của nó. Chiếc tàu khu trục và phần còn lại của đoàn tàu chịu đựng không kích từ những máy bay ném bom Đức, vốn phối hợp ném bom tầm cao, ném bom bổ nhào và phóng ngư lôi tầm thấp. Lúc 13 giờ 40 phút ngày 27 tháng 9, "Lightning" suýt bị đánh trúng khi một quả ngư lôi phóng từ máy bay đã sượt qua chỉ các con tàu . Vào ngày 25 tháng 10, "Lightning" rời Clyde và được thuyên chuyển từ Hạm đội Nhà đặt căn cứ tại Scapa Flow sang Lực lượng H đặt căn cứ tại Gibraltar. Trong tháng 11 và tháng 12, nó hoạt động chủ yếu trong vai trò hộ tống. Các đoàn tàu vận tải từ Anh được nó tiếp nhận tại vịnh Biscay và thường đưa đến khu vực Tây Địa Trung Hải để hướng đến Malta. Nó cũng hộ tống các tàu sân bay vận chuyển máy bay tiêm kích Supermarine Spitfire. Nó là một trong những tàu đã hộ tống cho khi chiếc tàu sân bay này bị đắm do trúng ngư lôi vào ngày 13 tháng 11 năm 1941. Vào ngày 11 tháng 12 năm 1941, "Lightning", và được lệnh rời Gibraltar để gặp gỡ thiết giáp hạm ở giữa Đại Tây Dương và hộ tống nó đi sang Hoa Kỳ. "Duke of York" đang làm nhiệm vụ đưa Thủ tướng Winston Churchill và Tham mưu trưởng tham dự Hội nghị Arcadia tại Washington, D.C.. Thời tiết xấu tại vùng biển Bắc Đại Tây Dương khiến việc gặp gỡ bị trễ hẹn, và cuối cùng ở tọa độ lúc 18 giờ 30 phút ngày 17 tháng 12, nó gia nhập cùng "Duke of York" với "Highlander" và "Harvester". Trong hoàn cảnh thời tiết vẫn bất lợi, nó tiếp tục đi cùng "Duke of York" cho đến khi được cho tách ra ở tọa độ lúc 18 giờ 00 phút ngày 20 tháng 12, để đi đến Ponta Delgada, Azores để tiếp nhiên liệu. Tiếp tục đi đến Bermuda, nó chia sẻ chỗ thả neo với tàu sân bay Hoa Kỳ , và đi đến Newport News vào đêm giao thừa. Trong chặng đường quay trở về Anh, nó đi đến St. John’s, Newfoundland, lên đường vào ngày 16 tháng 1 năm 1942 và về đến Greenock vào ngày 25 tháng 1. Vào ngày 14 tháng 3, "Lightning" tham gia các cuộc càn quét chống tàu ngầm bằng thiết bị sonar ASDIC trong eo biển Gibraltar, khi bánh lái của nó bị hỏng nặng do một quả mìn sâu nổ sớm ngay bên dưới lườn tàu. Nó phải quay về Gibraltar để sửa chữa. Trong Chiến dịch Ironclad, "Lightning" đóng một vai trò chủ chốt trong việc chiếm đóng một căn cứ hải quân tại Diégo Suarez. Nó trải qua giai đoạn mở đầu của chiến dịch không có hoạt động nào, cho đến 17 giờ 10 phút ngày 5 tháng 5 khi nó bắn phá một vị trí trên đồi được đối phương sử dụng. Ngày hôm sau, nó lại bắn phá các vị trí của đối phương, lần này là một lâu đài trên đồi và một kho đạn. Lúc 15 giờ 30 phút, nó cùng "Laforey" và "Lookout" hộ tống cho thiết giáp hạm ra khơi truy tìm một thiết giáp hạm đối phương được báo cáo, nhưng đã không tìm thấy, cho dù "Laforey" đã đánh chìm một tàu ngầm đối phương đêm hôm đó. Đến ngày 7 tháng 5, lúc 10 giờ 30 phút, nó lại bắn phá vị trí của đối phương ở bờ biển phía xa của bán đảo; đối phương đầu hàng nữa giờ sau đó. Từ tháng 5 đến tháng 7, "Lightning" được tạm thời điều động sang Hạm đội Đông, lên đường đi Colombo thuộc Ceylon để được tẩy sạch nồi hơi. Hoàn tất công việc vào ngày 11 tháng 7, nó ra khơi lúc 06 giờ 00 ngày hôm sau trong thành phần Lực lượng A bao gồm , , , và bốn tàu khu trục trong đó có "Laforey" và "Lookout". Nhiệm vụ của họ là càn quét khu vực cho đến quần đảo Chagos nhữ cho lực lượng Nhật Bản tham chiến, rồi đi đến đảo san hô Addu để tiếp nhiên liệu. Không tìm thấy đối phương, "Lightning" quay trở về Colombo và được lệnh tiếp tục đi đến Địa Trung Hải. Quay về từ Ấn Độ Dương, "Lightning" đi đến Freetown, và khởi hành từ đây vào ngày 1 tháng 8 cùng tàu tuần dương , tàu sân bay HMS "Indomitable" cùng "Laforey" và "Lookout". Đêm hôm đó lúc 21 giờ 00, trinh sát viên trên tàu đã phát hiện ba xuồng nhỏ, và sau khi điều tra đã vớt được 35 thủy thủ cùng 4 pháo thủ của chiếc tàu buôn Na Uy "Tankexpress" tải trọng 10.095 tấn, vốn bị một tàu ngầm U-boat Đức đánh chìm trước đó một tuần vào ngày 25 tháng 7. Thủy thủ đoàn cùng hạm trưởng chiếc tàu buôn Anders Skånberg được đưa lên bờ tại Gibraltar vào ngày 8 tháng 8, khi chiếc tàu khu trục được tiếp nhiên liệu tại đây. Đến giữa năm 1942, hòn đảo mang tính chiến lược Malta bị thiếu đói do sự phong tỏa của Đức và Ý. Không có pháo đài giữa biển này, phe Đồng Minh không thể tấn công các đoàn tàu vận tải xuất phát từ Ý tiếp liệu cho các binh đoàn phe Trục tại Bắc Phi. Ngoài ra, người ta nhận thức Chiến dịch Bắc Phi không thể bắt đầu cho đến khi các binh đoàn phe Trục bị yếu đi do thiếu nguồn tiếp liệu. Một lực lượng hộ tống khổng lồ của Hạm đội Nhà và Lực lượng H từ Gibraltar được tập trung để bảo vệ cho mười bốn tàu buôn xuất phát từ Anh đi Malta. Nhiều tàu chiến chủ lực bị hư hại do các cuộc không kích ác liệt và tấn công của tàu ngầm; và cuối cùng chỉ có sáu tàu buôn đến được đích. Tuy nhiên sau đó, Malta không còn bị áp lực nặng nề như trước, và Chiến dịch Torch, cuộc đổ bộ lực lượng Đồng Minh lên Bắc Phi, được thực hiện vào tháng 11 năm 1942. "Lightning" gia nhập Lực lượng Z bao gồm tàu sân bay tàu HMS "Indomitable", tuần dương HMS "Phoebe" và các tàu khu trục chị em HMS "Laforey" và HMS "Lookout". Vào ngày 3 tháng 8 năm 1942, Lực lượng Z gặp gỡ thành phần chủ yếu của Lực lượng X xuất phát từ Anh ngay ngoài khơi Gibraltar, và được tiếp nhiên liệu cặp theo "Indomitable" trong ngày hôm sau. Đến ngày 5 tháng 8, đoàn tàu vận tải băng ngang eo biển trên đường đi Malta. Vào ngày 11 tháng 8, "Lightning" cùng "Lookout" đang hộ tống cho tàu sân bay , khi chiếc tàu sân bay gần đó trúng bốn quả ngư lôi phóng từ tàu ngầm U-boat "U-73"; nó đắm chỉ trong vòng tám phút. Đến ngày 12 tháng 8, "Lightning" chịu đựng một cuộc không kích của máy bay ném bom đối phương, với nhiều quả ném suýt trúng. Sau khi được tái trang bị, "Lightning" và "Laforey" rời Greenock vào ngày 12 tháng 12 năm 1942 đi Liverpool để hộ tống chiếc "Duchess of Richmond", một tàu biển chở hành khách Canada của hãng Pacific tải trọng 20.000 tấn đang đưa hàng nghìn binh lính sang Bắc Phi trong đoàn tàu KMF 5. Vào ngày 21 tháng 12, "Lightning" giúp cứu vớt hơn 1000 binh lính và y tá từ chiếc tàu biển chở hành khách "Strathallan" của hãng P&O tải trọng 23.722 tấn, vốn trúng ngư lôi phóng từ tàu ngầm U-boat "U-562" ngoài khơi bờ biển Algérie khi đang chở hơn 4000 binh lính và y tá Đồng Minh. Nó đi đến Bône vào ngày đầu năm mới 1943, gia nhập Lực lượng Q, bao gồm hai trong số các tàu tuần dương thuộc Hải đội Tuần dương 12 và thay đổi theo thời gian: , , , hoặc ; được hỗ trợ bởi các tàu khu trục lớp L: "Laforey", "Lookout" và "Loyal". Vào cuối tháng 2 và tháng 3 năm 1943, "Lightning" hộ tống các tàu vận tải chở quân và tiếp liệu giữa Algiers và Bône vào ban ngày, và tấn công các đoàn tàu vận tải đối phương vào ban đêm. Nó bị máy bay đối phương tấn công hầu như hằng ngày trong cảng, và đã hoạt động như tàu phòng không. Trong chuyến hải hành cuối cùng, nó rời Bône lúc 17 giờ 45 phút chiều tối ngày 12 tháng 3 với gần 230 thủy thủ đã mệt mỏi trên tàu. Sau khi gia nhập cùng HMS "Loyal", nó hộ tống bảo vệ bên sườn các tàu tuần dương và . Kế hoạch chiến dịch là nhằm tấn công một đoàn tàu Đức xuất phát từ Sicily để đi Tunisia. Tuy nhiên, sau khi nghe tin Lực lượng Q đã xuất phát, đoàn tàu đối phương đã rút lui trở về cảng. Đến 18 giờ 51 phút, "Lightning" bị 12 máy bay ném bom-ngư lôi đối phương tấn công; nó bắn rơi được một mát bay đối phương và thoát khỏi cuộc tấn công mà không bị hư hại. Lúc khoảng 22 giờ 00, thông dịch viên trên tàu bắt được thông điệp vô tuyến bằng tiếng Đức, cho rằng họ sắp tấn công "Lightning". Lúc khoảng 22 giờ 15 phút, chiếc E-boat ("Schnellboot") "S-158" thuộc Chi hạm đội S-Boat 7 bắn quả ngư lôi đầu tiên đánh hỏng "Lightning". Thủy thủ trên tàu đã không có thời gian bắn trả; họ không bật máy định vị vô tuyến hay sonar ASDIC, không ở trong tình trạng hoàn toàn sẵn sàng tác chiến do những trận chiếc ác liệt hầu như liên tục trong những ngày vừa qua. Hạm trưởng đã cố bẻ lái hết sang mạn trái để né tránh đường đi của quả ngư lôi, nhưng "Lightning" quá chậm và bị đánh trúng mũi tàu bên mạn phải. Sau đó một chiếc E-boat thứ hai, "S-55" thuộc Chi hạm đội S-Boat 3, vòng qua mạn phải và phóng một quả ngư lôi thứ hai trúng ngay dưới ống khói, phá hủy cả hai phòng nồi hơi, dàn pháo phòng không QF 2-pounder "pom-pom" và dàn ống phóng ngư lôi phía trước. Chốc lát sau, có lệnh bỏ tàu; nó bắt đầu đắm hầu như ngay sau khi trúng quả ngư lôi thứ hai, ở tọa độ . Một người sống sót được "S-158" vớt và bị bắt làm tù binh. 180 người sống sót khác, bao hồm Hạm trưởng, Trung tá Hải quân Hugh Greaves Walters, được tàu chị em cứu vớt vài giờ sau đó và đưa về Bône lúc 05 giờ 00 ngày 13 tháng 3; họ sau đó được chuyển sang chiếc HMS "Sirius". Thủy thủ đoàn của con tàu bị giải tán; họ được điều sang các tàu khác hoặc đến căn cứ HMS "Hannibal" trên bờ tại Algiers. Tàu khu trục Ba Lan ORP "Blyskawica" thay thế cho "Lightning" trong thành phần Lực lượng Q mang cái tên Ba Lan "Blyskawica" có nghĩa là tia chớp, như "Lightning" trong tiếng Anh.
1
null
HMS "Lively" (G40) là một tàu khu trục lớp L được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. Nó đã nhập biên chế từ năm 1941 và phục vụ chủ yếu thời gian cho các đơn vị hải quân Anh tại Địa Trung Hải trong Chiến tranh Thế giới thứ hai có căn cứ ở Malta. "Lively" tham gia hộ tống các đoàn tàu đến và đi từ Malta cũng như chặn đánh các đoàn tàu của phe Trục trên đường đến Bắc Phi. Chiếc tàu này đã tham gia hai trận đánh Trận Sirte lần thứ nhất và lần thứ hai. "Lively" bị đánh chìm bởi một trận không kích ngoài khơi Tobruk vào ngày 11 tháng 5 năm 1942. Thiết kế và chế tạo. "Lively" được đặt hàng cho xưởng tàu của hãng Cammell Laird ở Birkenhead vào ngày 31 tháng 3 năm 1938 trong Dự toán Ngân sách Hải quân 1937. Nó được đặt lườn vào ngày 20 tháng 12 năm 1938; được hạ thủy vào ngày 29 tháng 1 năm 1941 và được đưa ra hoạt động vào ngày 20 tháng 7 năm 1941. Dàn vũ khí ban đầu của nó được thay đổi đôi chút trong khi chế tạo vào năm 1940, và nó trở thành một trong số bốn chiếc trong lớp được xếp loại như một tàu khu trục phòng không. Lịch sử hoạt động. Biển Bắc và Địa Trung Hải. Sau khi hoàn tất việc chuẩn bị vào tháng 7 năm 1941, "Lively" được phân về Bộ chỉ huy Tiếp cận phía Tây vào tháng 8, và đặt căn cứ tại Greenock. Một trong những nhiệm vụ đầu tiên của nó là được bố trí tại Scapa Flow từ ngày 22 tháng 8 cùng với tàu chị em và tàu tuần dương để hộ tống chiếc tàu ngầm Pháp "Rubis" bị hư hại quay trở lại Dundee. Đến tháng 9, nó được điều về Chi hạm đội Khu trục 4 đặt căn cứ tại Gibraltar, nơi nó là một trong những tàu khu trục được phân công hộ tống tàu sân bay cùng các tàu chiến chủ lực khác trong nhiệm vụ chuyển giao máy bay chiến đấu đến Malta đang bị phong tỏa. Vào ngày 24 tháng 9, nó khởi hành từ Gibraltar trong thành phần hộ tống cho "Ark Royal" và các thiết giáp hạm , và , vốn là lực lượng hỗ trợ cho Chiến dịch Halberd. Đoàn tàu phải chịu đựng không kích của đối phương, khiến "Rodney" bị hư hại nhẹ, nhưng các tàu khu trục đã đánh đuổi được máy bay đối phương. Trong khi đang quay trở về Gibraltar vào ngày 30 tháng 9, các con tàu bị tàu ngầm Ý tấn công; "Lively" đã tham gia vào việc săn đuổi, mà cuối cùng đã đánh chìm được tàu ngầm "Adua". Malta. "Lively" ở lại Gibraltar cho đến khi được biên chế vào Lực lượng K vào tháng 10 và có nhiệm vụ hỗ trợ Lực lượng H mang máy bay đến Malta. Sau đó, chiếc tàu đóng tại Malta, vào ngày 8 tháng 11, nó cùng với tàu khu trục và tàu tuần dương và đánh chặn đoàn tàu chuyển vận đối phương tại miền trung Địa Trung Hải. Đoàn tàu chuyển vận hoạt động từ ngày 9 tháng 11, và trong Trận chiến Đoàn tàu chuyển vận Duisburg giữa các tàu chiến Anh và đoàn tàu hộ tống Ý, cả bảy thương hạm Ý và cả "Fulmine" bị đánh chìm. Một đoàn tàu chuyển vận khác được phát hiện gần Malta bởi máy bay trong những ngày sau đó, và Lực lượng K lại ra biển lần nữa vào ngày 23 tháng 11 để đánh chặn. Trong ngày hôm sau, hai tàu tiếp liệu Đức "Maritza" và "Procidas" bị đánh chìm dù có hai ngư lôi đỉnh Ý hỗ trợ. Ngày 1 tháng 12, tàu chuyển vận Ý "Adriatio" bị các tàu chiến "Aurora" và "Penelope", và "Lively" đã cứu những người sống sót trôi trên biển. Cũng trong ngày này, tàu chở dầu Ý "Irido Mantovani" được tàu khu trục "Alvise da Mosta" kéo bị chặn đánh và cả hai tàu đều bị đánh chìm. Ngày 5 tháng 12, "Lively" cùng tàu tuần dương và và tàu khu trục và hộ tống tàu tiếp liệu "Breconshire" từ Malta đến Crete, và sau đó tiếp tục hộ tống "Breconshire" trên đường trở về từ Alexandria. Ngày hôm sau, đoàn tàu bị một số tàu Ý phát hiện, và Trận Sirte lần thứ nhất đã diễn ra. "Lively" đã có tham gia trận chiến một thời gian trước khi được giao nhiệm vụ hộ tống "Breconshire" và một số tàu chiến khác đến Malta. "Lively" trở lại biển vào ngày 18 tháng 12 cùng với "Aurora", "Penelope" và "Neptune", và khu trục hạm , và trong nỗ lực đánh chặn một đoàn tàu chuyển vận Ý, nhưng đến ngày 19 tháng 12, các tàu này bị lọt vào bãi thủy lôi dẫn đến "Neptune" và "Kandahar" bị đánh chìm còn "Aurora" và "Penelope" bị thương. "Lively" trong tháng 1 và tháng 2 năm 1943 làm nhiệm vụ hộ tống các đoàn tàu đến và rời Malta, trước khi lên đường cùng một số tàu khác tìm kiếm một tàu tuần dương ý bị thương ngày 9 tháng 3. Đoàn tàu bị không kích ngày 11 tháng 3 và tàu khu trục bị ngư lôi đánh chìm, và "Lively" đã cứu những người còn sống. Ngày 22 tháng 3, "Lively" tham gia Trận Sirte lần thứ hai, đã có phóng ngư lôi và bị thương khi bị trúng đạn pháo 15 inch bên mạn sườn. Ngày hôm sau, chiếc tàu lên đường về Tobruk và bị không kích lần nữa nhưng may mắn đã về được cảng. "Lively" sau đó từ Tobruk đến Alexandria vào tháng 4, và một lần nữa trở lại đoàn tàu sau khi đã được sửa chữa xong. Bị đánh chìm. Vào ngày 10 tháng 5, "Lively" khởi hành từ Alexandria cùng với , và để vận chuyển tiếp liệu đến Malta. Họ được lệnh phải quay trở lại nếu bị máy bay đối phương phát hiện, vì chỉ có sự hỗ trợ trên không hạn chế của phía Đồng Minh. Vào ngày 11 tháng 5, lực lượng Anh chịu đựng không kích nặng nề. "Lively" trúng bom ném từ máy bay ném bom bổ nhào ngay lượt đầu tiên vào cầu tàu, làm vỡ toang một mảng lườn tàu và khiến Hạm trưởng tử trận. Lệnh bỏ tàu được đưa ra sau đó, và nó chìm cách về phía Tây Bắc Tobruk, ở tọa độ , với 77 thành viên thủy thủ đoàn thiệt mạng cùng con tàu. "Jervis" và "Jackal" đều bị hư hại trong cuộc không kích này, với "Jackal" phải bị "Jervis" đánh đắm sau khi những nỗ lực kéo nó thất bại. "Jervis" đã đón lên tàu những người sống sót của cả "Lively" lẫn "Jackal", và đưa họ quay trở lại Alexandria. Cho dù chỉ có quãng đời phục vụ ngắn ngủi gần một năm sau khi nhập biên chế, "Lively" đã được tặng thưởng năm vinh dự chiến trận: Đại Tây Dương 1941, Địa Trung Hải 1941, Đoàn tàu chuyển vận Malta 1941-42, Libya 1942 và Sirte 1942.
1
null
HMS "Lookout" (G32) là một tàu khu trục lớp L được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. Nó đã nhập biên chế và phục vụ trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai cho đến khi chiến tranh kết thúc, là một trong số hai chiếc lớp L còn sống sót sau chiến tranh, cùng với . "Lookout" bị bán để tháo dỡ vào năm 1948. Thiết kế và chế tạo. "Lookout" được đặt hàng cho xưởng tàu của hãng Scotts Shipbuilding and Engineering Company ở Greenock, Scotland vào ngày 31 tháng 3 năm 1938 trong Dự toán Ngân sách Hải quân 1937. Nó được đặt lườn vào ngày 23 tháng 11 năm 1938; được hạ thủy vào ngày 4 tháng 11 năm 1940 và được đưa ra hoạt động vào ngày 30 tháng 1 năm 1942. Tổng chi phí chế tạo nó là 440.204 Bảng Anh, không kể đến những trang bị như vũ khí và thiết bị liên lạc do Bộ Hải quân Anh cung cấp. Nó được cộng đồng cư dân của Burnley, Lancashire đỡ đầu vào tháng 1 năm 1942, như một phần của cuộc quyên góp tiết kiệm cho Tuần lễ Tàu chiến. Lịch sử hoạt động. "Lookout" được phân về Hạm đội Nhà vào tháng 3 năm 1942; vào lúc mà thiết giáp hạm Đức "Tirpitz" đang tìm cách tấn công các đoàn tàu vận tải Bắc Cực (Chiến dịch Sportpalast). Một trong những hoạt động đầu tiên của "Lookout" diễn ra từ ngày 4 tháng 3 đến ngày 7 tháng 3, khi nó tham gia thành phần hộ tống cho một hải đội thiết giáp hạm bao gồm , và . Hải đội này lên đường để bảo vệ chống mọi hoạt động của "Tirpitz" nhắm vào các đoàn tàu vận tải Nga QP8 và PQ12. "Tirpitz" đã ra khơi vào lúc này nhưng không tìm thấy các đoàn tàu vận tải do thời tiết xấu. Tuy nhiên, một tàu hàng đi lạc của PQ12 đã bị "Friederich Ibn", một tàu khu trục Đức hộ tống cho "Tirpitz", đánh chìm. "Lookout" tham gia Chiến dịch Ironclad, cuộc đổ bộ chiếm đóng Madagascar. Nó gia nhập cùng các tàu chị em và tại Durban vào ngày 22 tháng 4 năm 1942, và chúng khởi hành vào ngày 28 tháng 4 hướng đến Diégo Suarez (nay là Antsiranana), cùng các tàu vận chuyển và tàu tàu hộ tống. Vào ngày 7 tháng 5, ba chiếc tàu khu trục lớp L đã hộ tống thiết giáp hạm để truy tìm một lực lượng thiết giáp hạm và tàu tuần dương đối phương. Không tìm thấy đối thủ ngang tầm, nhưng "Laforey" đã đánh chìm một tàu ngầm đối phương. Chiến dịch Pedestal. Vào tháng 8 năm 1942, "Lookout" đã hộ tống cho khi chiếc tàu sân bay bị trúng ngư lôi vào ngày 11 tháng 8 và bị đắm sau đó. Nó đã cùng tiến hành một cuộc phản công vô vọng, rồi tham gia vào việc cứu vớt 927 người sống sót. "Lookout" sau đó chuyển 500 người sống sót sang chiếc . Ngày hôm sau, nó tham gia cùng trong việc tấn công một tàu ngầm đối phương vốn bị phát hiện trên mặt nước, nhưng không xác nhận được kết quả. "Lookout" sau đó được cho tách ra cùng với "Chaybdis", và "Lightning" để hộ tống tàu sân bay sau khi nó bị máy bay ném bom bổ nhào đối phương đánh trúng. Trong chuyến tuần tra thứ hai sau Chiến dịch Pedestal, "Lookout" đối đầu với một tàu buôn đối phương vốn được nhận diện là chiếc SS "Luarana", một tàu buôn Ý tải trọng 4.000 tấn. "Lookout" bước vào chiến đấu nhưng nhận ra đối thủ đã bỏ tàu, nên một đội đổ bộ được biệt phái sang khảo sát chiếc tàu buôn. Cuối cùng thợ đốt lò cũng tạo được đủ áp lực hơi nước, và "Lookout" hộ tống "Luarana" đi đến Gibraltar. Sau khi trải qua phần lớn thời gian của tháng 8 và tháng 9 năm 1942 hoạt động ngoài khơi Gibraltar, nó quay trở về nhà như một tàu hộ tống cho thiết giáp hạm , khởi hành từ Gibraltar vào ngày 30 tháng 9 và về đến Clyde vào ngày 5 tháng 10, trước khi lại lên đường vào ngày hôm sau để đi Rosyth, đến nơi vào ngày 8 tháng 10. Nó sau đó khởi hành đi lên phía Bắc để đi Scapa Flow, đến nơi vào ngày 9 tháng 10. "Lookout" sau đó rời Scapa Flow vào ngày 23 tháng 10 để đi Gibraltar trong thành phần hộ tống cho thiết giáp hạm , đến nơi vào ngày 29 tháng 10, khi nó gia nhập trở lại Chi hạm đội Khu trục 19. Chiến dịch Retribution. Vào tháng 5 năm 1943, "Lookout" tham gia Chiến dịch Retribution và khởi hành từ Bone vào ngày 9 tháng 5 cùng và các tàu khu trục thuộc Đội 57. Trên đường đi để càn quét eo biển, chúng bị các máy bay ném bom Junkers Ju 88 tấn công nhưng không chịu đựng thiệt hại nào. Sáng hôm sau họ phát hiện chiếc tàu bệnh viện Ý "Virgiglio", nên được cử ra hộ tống nó đi đến vùng biển mũi Carthage để khám xét. Đội đổ bộ lên tàu sau đó báo cáo không có gì vi phạm các điều luật công ước quốc tế, nên con tàu bệnh viện Ý được thả đi. Vào ngày 13 tháng 5, "Lookout" trông thấy một tàu nhỏ cách về phía Đông Bắc đảo Plane; mười ba người Đức và một người Ý đã bị bắt giữ. Sang ngày 22 tháng 5, nó bắt gặp trên màn hình radar chiếc tàu vận tải phụ trợ Ý "Stella Maris". "Lookout" đã bắn tổng cộng 24 phát đạn pháo 4,7 inch, cùng với đánh chìm thành công con tàu Ý, rồi "Lookout" hỗ trợ cho "Laforey" trong khi chiếc này cứu vớt những người sống sót. Chiến dịch Corkscrew. Vào các ngày 8 và 9 tháng 6, "Lookout" tham gia Chiến dịch Corkscrew; chính trong hoạt động này mà nó có được tiếng tăm là chiếc tàu khu trục bị ném bom nhiều nhất sống sót qua cuộc chiến. Chi hạm đội Khu trục 19, vốn bao gồm "Lookout", đã bắn phá một vị trí trên bờ; nhưng nơi đây nhanh chóng treo cờ trắng và binh lính đổ bộ lên đây mà không gặp sức kháng cự. Khi trời tối, các tàu khác rút lui để nó lại tuần tra hòn đảo như một tàu canh phòng. Khi các tàu khác đã cách xa khoảng , máy bay Không quân Đức xuất hiện, hy vọng sẽ tìm thấy một hạm đội nhưng chỉ thấy một tàu khu trục. "Lookout" báo động tác chiến, dựng một màn hỏa lực phòng không và cơ động né tránh; tuy nhiên xạ thủ của nó gặp khó khăn do trời tối. Mặc dù có nhiều quả bom ném suýt trúng, con tàu đã không bị hư hại, và sau khi máy bay ném bom đối phương rời đi, nó tiếp tục hoạt động tuần tra. Chiến dịch Avalanche. "Lookout" đã hỗ trợ cho Chiến dịch Avalanche, cuộc đổ bộ của Đồng Minh lên Salerno vào tháng 9 năm 1943; nó bắn phá các vị trí pháo của quân Đức để giúp đỡ cho việc tiến quân của Sư đoàn 56. Vài ngày sau, nó suýt bị một quả bom lượn điều khiển bằng vô tuyến đánh trúng, nhưng chỉ bị hư hại nhẹ và vẫn tiếp tục bắn phá hỗ trợ bộ binh cho đến ngày 15 tháng 9, khi nó lên đường quay trở về Malta để sửa chữa. Sau một đợt tái trang bị bắt đầu từ ngày 13 tháng 11 năm 1943, "Lookout" quay trở lại phục vụ vào ngày 23 tháng 7 năm 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Derrick Henry Fellowes Hetherington. Nó được phân về Chi hạm đội Khu trục 14. Vào ngày 12 tháng 10, tàu chị em "Loyal" bị hư hại nặng do trúng một quả mìn và "Lookout" phải kéo nó quay trở về nhà. Vào đầu năm 1945, "Lookout" được điều động về Chi hạm đội Khu trục 3; vào ngày 15 tháng 1, nó bắn phá các mục tiêu đối phương tại San Remo, và trong các ngày 18 và 19 tháng 1, nó bắn phá các mục tiêu gần biên giới Pháp-Ý. Nó tiếp tục làm nhiệm vụ bắn phá và tuần tra tại khu vực bờ biển phía Tây nước Ý cho đến khi xung đột kết thúc tại châu Âu. Nó di chuyển từ Gibraltar đến Plymouth vào ngày 19 tháng 10 năm 1945 để được cho ngừng hoạt động và đưa về thành phần dự bị. Nó neo đậu cùng lực lượng dự bị tại Devonport cho đến tháng 10 năm 1947, khi nó được đưa vào danh sách loại bỏ. Nó được bán cho hãng BISCO vào tháng 1 năm 1948; được kéo đến Newport, Monmouthshire để được tháo dỡ bởi hãng John Cashmore, và đi đến xưởng tháo dỡ vào ngày 29 tháng 2 năm đó.
1
null
Trichinella spiralis là một loài giun xoắn ký sinh sinh sống trong cơ thể lợn, loài gặm nhấm, gấu. Loài giun này gây ra bệnh giun xoắn ở người. Người bị nhiễm khi ăn thịt chứa ấu trùng loài giun này nấu tái, sống lây truyền từ lợn hoặc chuột sang người, chủ yếu qua đường ăn uống do ăn tiết canh, thịt lợn hoặc thịt các động vật hoang dã sống hoặc nấu chưa chín có chứa ấu trùng giun xoắn.
1
null
Frederico Chaves Guedes (sinh ngày 3 tháng 10 năm 1983), thường gọi là Fred (), là một cựu cầu thủ bóng đá người Brasil thi đấu ở vị trí tiền đạo cắm. Fred bắt đầu sự nghiệp tại América Mineiro trước khi chuyển đến Cruzeiro năm 2004. Sau hai mùa bóng tại đây, anh chuyển đến Pháp thi đấu cho Lyon và giành được ba chức vô địch Ligue 1 liên tiếp. Từ năm 2009, Fred thi đấu cho Fluminense và đã có hai chức vô địch Campeonato Brasileiro. Anh có trận đấu đầu tiên cho đội tuyển Brasil vào năm 2005 và đã từng tham dự và ghi bàn tại hai kỳ World Cup 2006 và 2014. Fred là thành viên đội tuyển Brasil vô địch Copa América 2007 và Cúp Liên đoàn các châu lục 2013, trong đó tại Cúp Liên đoàn các châu lục 2013, anh giành danh hiệu Quả bóng Bạc với thành tích năm bàn thắng. Sự nghiệp câu lạc bộ. América Mineiro và Cruzeiro. Fred là cầu thủ trưởng thành từ lò đào tạo trẻ của câu lạc bộ địa phương América Mineiro. Trong một trận đấu tại giải trẻ cho América với đối thủ Vila Nova, anh đã ghi bàn thắng nhanh nhất trong lịch sử bóng đá Brasil khi trận đấu mới chỉ bắt đầu có 3,17 giây. Sau khi có 34 bàn thắng sau 57 trận đấu cho đội một América, anh chuyển đến Cruzeiro vào mùa giải 2004. Tại Cruzeiro, anh ghi được đến 40 bàn trong 43 trận. Thành tích ghi bàn của anh đã khiến câu lạc bộ Pháp Lyon bỏ ra 15 triệu € để có được sự pục vụ của anh. Do Feyenoord đã có thỏa thuận với América, câu lạc bộ Hà Lan nắm giữ 10% giá trị kinh tế của Fred còn bản thân anh nắm giữ 15%. Feyenoord sau đó đã kiện Cruzeiro lên Tòa án Trọng tài Thể thao (CAS) liên quan đến tranh chấp số tiền mà câu lạc bộ Hà Lan đáng lẽ phải nhận được là 1,5 triệu € thay vì 933.908,70 € mà Cruzeiro đưa ra. CAS sau cùng đã tuyên Feyenoord thắng kiện. Lyon. Fred lập một cú đúp ngay trong trận đấu đầu tiên của anh cho Lyon để giúp đội bóng của anh thắng Monaco 2-1 vào ngày 10 tháng 9 năm 2005. Anh đứng thứ hai trong danh sách ghi bàn tại Ligue 1 2005–06 với 14 bàn thắng. Tại UEFA Champions League 2005-06, anh có hai pha lập công cho Lyon. Fred có được bàn thắng giúp Lyon đánh bại Real Madrid 2-0 tại lượt trận đầu tiên của vòng bảng UEFA Champions League 2006-07. Dù vắng mặt trong vòng hai tháng của mùa giải 2006-07 do chấn thương, anh vẫn kết thúc mùa giải với 11 bàn thắng sau 20 trận và là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất mùa giải này của Lyon. Trong mùa giải 2007-08, do chấn thương gặp phải tại Copa América 2007, anh chỉ có thể thi đấu từ tháng 10 năm 2007. Tuy nhiên sự có mặt của Milan Baroš và tài năng trẻ Karim Benzema trên hàng công của Lyon đã khiến cho cơ hội ra sân thi đấu của anh ngày bị hạn chế. Ngày 23 tháng 3 năm 2008, anh lập cú đúp giúp Lyon đánh bại Paris Saint-Germain 4-2. Anh cùng Lyon giành cú đúp vô địch Ligue 1 và Cúp bóng đá Pháp sau khi kết thúc mùa giải 2007-08. Fred thi đấu được 15/20 trận của Lyon nửa đầu mùa giải 2008-09. Anh có trận đấu cuối cùng cho Lyon vào ngày 10 tháng 1 năm 2009 sau khi đưa ra yêu cầu rời khỏi đội bóng vào tháng 12 năm 2008. Ngày 26 tháng 2 năm 2009, anh chính thức chấm dứt hợp đồng với đội bóng nước Pháp. Anh có tổng cộng 34 bàn thắng trong 4 năm khoác áo Lyon. Fluminense. Sau khi rời khỏi Lyon, Fred trở về Brasil thi đấu cho câu lạc bộ Fluminense với bản hợp đồng có thời hạn năm năm. Anh có ngay cú đúp trong trận ra mắt thắng Macaé 3–1. Tháng 10 năm 2011, Fred thể hiện phong độ ấn tượng với cú hat-trick vào lưới Coritiba trong đó có một pha đỡ bóng bằng ngực rồi sau đó tung người móc bóng ghi bàn và ba ngày sau đó anh tiếp tục có cú đúp vào lưới Palmeiras. Ngày 21 tháng 11 năm 2011, anh lại có một hat-trick khác cho Fluminense, lần này là vào lưới Figueirense để đạt đến cột mốc 20 pha lập công trong mùa giải. Vào tháng 7 năm 2012, Fred trở thành cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất cho Fluminense tại Giải vô địch bóng đá Brasil với 44 bàn thắng, vượt qua kỷ lục cũ 43 bàn thắng của Magno Alves với cú đúp trong chiến thắng 4-0 trước Esporte Clube Bahia. Ngày 11 tháng 11 năm 2012, Fred ghi hai bàn để đem về chiến thắng 3-2 của Fluminense trước Palmeiras, chiến thắng đem về chức vô địch Giải vô địch bóng đá Brasil 2012 cho Fluminense. Fred cũng đồng thời giành được danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Giải vô địch bóng đá Brasil 2012. Sự nghiệp đội tuyển quốc gia. Fred có trận đấu đầu tiên cho đội tuyển Brasil trong chiến thắng 3-0 trước Guatemala. Anh có hai bàn thắng đầu tiên cho đội tuyển trong chiến thắng 8-0 giao hữu trước Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất. Phong độ cao tại Ligue 1 đã giúp anh được huấn luyện viên Carlos Alberto Parreira chọn vào đội hình tham dự World Cup 2006 tại Đức. Trong trận đấu thứ hai tại vòng bảng với Úc, trận đấu duy nhất của Fred tại giải đấu này, sau khi vào sân chỉ mới hai phút thay cho Adriano, anh đã ấn định chiến thắng 2-0 cho Brasil. Ngày 7 tháng 6 năm 2011, anh là người ghi bàn thắng duy nhất trong trận giao hữu thắng Romania 1-0, trận đấu chia tay Ronaldo và chính anh cũng là người được thay ra ở phút 30 để Ronaldo vào sân. Sau trận đấu đó, anh chính thức được huấn luyện viên Mano Menezes đưa vào danh sách 22 cầu thủ Brasil tham dự Copa América 2011. Ngày 10 tháng 7 năm 2011, tại trận đấu vòng bảng Copa América 2011, Fred vào sân thay cho Neymar đã ghi bàn ở phút 89 giúp Brasil tránh khỏi thất bại trước Paraguay (hòa 2-2 chung cuộc). Tuy nhiên đến trận đấu tứ kết với chính Paraguay, anh là một trong bốn cầu thủ Brasil đá hỏng phạt đền trong loạt sút luân lưu khiến Brasil bị loại. Tháng 11 năm 2012, Fred ghi bàn vào lưới Argentina trong trận lượt về Superclásico de las Américas 2012 và thực hiện thành công lượt sút luân lưu của mình góp công vào chức vô địch của Brasil. Ngày 6 tháng 2 năm 2013, anh trở thành cầu thủ đầu tiên ghi bàn tại Sân vận động Maracanã mới trùng tu trong trận giao hữu hòa đội tuyển Anh 2-2. Cúp Liên đoàn các châu lục 2013 và World Cup 2014. Ngày 22 tháng 6, anh lập cú đúp trong chiến thắng 4-2 trước Ý tại Cúp Liên đoàn các châu lục 2013. Tại bán kết, anh mở tỉ số giúp Brasil thắng chung cuộc Uruguay 2-1. Phong độ cao của anh tại giải đấu tiếp tục được duy trì với hai bàn thắng trong trận chung kết đem về danh hiệu vô địch cho Brasil sau khi đánh bại Tây Ban Nha 3-0. Đây là giải đấu cực kỳ thành công của Fred khi anh không chỉ cùng Brasil giành chức vô địch mà cá nhân anh còn đoạt danh hiệu Chiếc giày Bạc với thành tích năm bàn thắng. Tháng 5 năm 2014, Fred được huấn luyện viên Luiz Felipe Scolari triệu tập tham dự World Cup 2014 ngay tại quê nhà. Trong trận đấu khai mạc giải đấu vào ngày 12 tháng 6 với đội tuyển Croatia, trọng tài người Nhật Bản Nishimura Yuichi đã cho Brasil hưởng quả phạt đền gây tranh cãi khi cho rằng hậu vệ Dejan Lovren đã kéo ngã Fred trong vòng cấm cho dù chỉ có tiếp xúc không đáng kể. Các cầu thủ và huấn luyện viên Croatia đã chỉ trích nặng nề quyết định này sau trận đấu. Từ chấm phạt đền, Neymar nâng tỉ số lên 2-1 cho Brasil và chung cuộc Brasil giành chiến thắng 3-1. Ngày 23 tháng 6, Fred ghi bàn trong chiến thắng 4-1 của Brasil trước Cameroon tại lượt đấu cuối cùng của vòng bảng bằng một pha đệm bóng cận thành và cũng là bàn thắng duy nhất của anh tại giải đấu. Trong trận bán kết mà Brasil đã thất bại trước đội tuyển Đức với tỉ số 1-7 ở vòng bán kết, Fred đã không có được bất kỳ cú tắc bóng, đường chuyền hoặc đánh chặn nào và phần lớn thời gian của anh là ở khu vực giữa sân, nơi anh phải thực hiện nghi thức giao bóng sau mỗi bàn thua đến sáu lần. Anh rời sân trong sự la ó và thái độ thù địch của cổ động viên nhà ở phút 70 của trận đấu. Anh không được ra sân trong trận tranh hạng ba, trận đấu mà Brasil lại thất thủ trước Hà Lan với tỉ số 0-3. Sau cả sáu trận đấu tại giải đấu, Fred chỉ tung ra vỏn vẹn được năm cú sút trúng khung thành đối phương. Anh tuyên bố giã từ sự nghiệp đội tuyển quốc gia sau giải đấu này. Thống kê sự nghiệp. Câu lạc bộ. "Cập nhật ngày 31 tháng 7 năm 2016".
1
null
Đặng Phụng (chữ Hán: 邓奉, ? – 27), người huyện Tân Dã, quận Nam Dương , thủ lĩnh quân phiệt đầu đời Đông Hán. Thân thế. Họ Đặng ở Tân Dã là đại tộc giàu có. Chú của Phụng là Đặng Thần, lấy chị gái thứ hai của Quang Vũ đế Lưu Tú. Theo Lưu Tú. Tháng 9 (ÂL) năm 23, Phụng khởi binh ở quê nhà, chiếm cứ huyện Dục Dương. Trong tháng này, Lưu Tú lên đường đi Hà Bắc, sai anh vợ Âm Thức đưa Âm Lệ Hoa về quê nhà Nam Dương. Vì hai nhà Lưu – Đặng có quan hệ thông gia, nên Phụng nhận lời che chở cho anh em Âm Thức. Năm 25, Quang Vũ đế sai Thị trung Phó Tuấn đón Âm Lệ Hoa trở lại, Phụng cũng đưa bộ khúc theo về, nhờ công dần được thăng đến Phá lỗ tướng quân. Tự lập. Tháng 8 (ÂL) năm 26, tướng Hán là bọn Ngô Hán, Kiên Đàm, Vạn Tu đưa hơn 10 vạn quân đánh dẹp các lực lượng cát cứ tại quận Nam Dương. Ngô Hán liên tiếp giành thắng lợi, đồng thời buông thả bộ hạ tàn hại nhân dân. Bấy giờ, Phụng quay về Nam Dương thăm thân nhân, cả giận, lãnh đạo nhân dân nổi dậy, đánh bại quân Hán, tái chiếm Dục Dương. Ngô Hán bị Phụng cướp sạch lương thực nên buộc phải lui quân, Vạn Tu bệnh mất trong quân, chỉ còn Kiên Đàm cố thủ Uyển Thành. Phụng thừa cơ đánh chiếm phần lớn quận Nam Dương, đồng thời liên kết với các lực lượng quân phiệt: Diên Sầm ở Hán Trung, Đổng Hân, Hứa Hàm ngay tại Nam Dương, Sở Lê vương Tần Phong... Tháng 11 (ÂL), quân Hán do Sầm Bành làm chủ tướng, nhanh chóng bức hàng Hứa Hàm, vây đánh Đổng Hân tại Đổ Hương. Phụng nghe tin, tự soái hơn vạn quân đến cứu, đôi bên giao chiến dưới thành. Quân đội của Phụng, Hân đều tinh binh, quân Hán tuy nhiều hơn những vẫn không dẹp nổi. Tướng Hán là Giả Phục bị đâm trọng thương, còn Chu Hỗ bị bắt sống. Vì Hỗ là cháu đàng ngoại của họ Lưu, nương nhờ từ bé tại nhà họ Lưu, thành ra cùng họ Đặng không xa lạ gì, nên Phụng đãi Hỗ theo lễ thượng tân. Đôi bên tiếp tục giằng co thêm vài tháng nữa. Tháng 3 (ÂL) năm 27, Quang Vũ đế sau khi bức hàng nghĩa quân Xích Mi, thân chinh đến Nam Dương. Sĩ khí quân Hán lên cao, đánh cho liên quân Phụng – Hân đại bại; Hân đầu hàng, còn Phụng chạy về Dục Dương. Quân Hán truy kích, Phụng bỏ Dục Dương chạy về Tiểu Trường An tụ. Tháng 4 (ÂL), do quân Hán đuổi mãi không tha, Phụng đành trần vai áo, nhờ Chu Hỗ đưa ông đến chỗ Quang Vũ đế xin hàng. Quang Vũ đế nghĩ Phụng là cháu ruột của anh rể, lại có công bảo hộ Âm Lệ Hoa, thêm nữa ông làm loạn là do lỗi lầm của Ngô Hán, nên muốn tha chết, nhưng Sầm Bành, Cảnh Yểm cực lực phản đối. Vì vậy, Phụng bị đem ra xử tử.
1
null
Bạc azua là một hợp chất vô cơ có công thức hóa học AgN3. Nó là một chất rắn không màu được biết đến là chất nổ. Cấu trúc và tính chất hóa học. Bạc azua có thể được điều chế bằng cách cho dung dịch bạc nitrat phản ứng với natri azua. Bạc azua sẽ cho kết tủa màu trắng dưới dạng chất rắn, chỉ còn lại natri nitrat trong dung dịch
1
null
Gia Viễn là một xã thuộc huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng, Việt Nam. Địa lý. Xã Gia viễn nằm phía bắc huyện Cát Tiên, có vị trí địa lý: Có tọa độ địa lý từ 11°36'29 đến 11°40'33 vĩ độ Bắc và từ 107°19'51 đến 107°23'04 kinh Đông. Xã này có 1.262 hộ gồm 5.006 người gồm 9 dân tộc, chủ yếu là dân tộc kinh. Xã có tổng diện tích 2.876,75 ha. Lịch sử. Tên xã này được lấy tên từ huyện Gia Viễn tỉnh Hà Nam Ninh xưa và nay là tỉnh Ninh Bình, xã được thành lập từ năm 1986 khi bà con của vùng quê Gia Viễn vào miền nam khai phá rừng theo chủ trương chính sách của Đảng. Hành chính. Xã Gia Viễn được chia thành 8 thôn: Tiến Thắng, Trấn Phú, Hòa Thịnh, Tân Xuân, Vân Minh, Trung Hưng, Bản Brun, Liên Phương. Văn hóa. Chùa Gia Viễn nằm ở xã này.
1
null
Neil deGrasse Tyson (; sinh 5 tháng 10 năm 1958) là nhà vật lý thiên văn, vũ trụ học, tác giả và người phát ngôn khoa học người Mỹ. Từ năm 1996, ông là giám đốc của cung thiên văn Hayden thuộc Trung tâm Trái đất và Không gian Rose (Rose Center for Earth and Space), đặt tại thành phố New York. Trung tâm này là một phần của Bảo tàng Lịch sử tự nhiên Hoa Kỳ, nơi Tyson thành lập Cục Vật lý thiên văn (Department of Astrophysics) vào năm 1997 và là một cộng tác viên nghiên cứu ở đây từ năm 2003. Sinh tại New York, Tyson bắt đầu yêu thích Thiên văn học từ năm lên 9 khi ông ghé thăm Cung thiên văn Hayden. Sau khi tốt nghiệp Trường Khoa học Bronx, nơi ông từng là chủ bút của tờ "Physical Science Journal (Tập san Khoa học Vật lý)", Tyson hoàn thành bằng cử nhân Vật lý ở Đại học Harvard năm 1980. Năm 1983, ông đã có bằng thạc sĩ Thiên văn học ở Đại học Texas ở Austin, sau đó đạt Thạc sĩ (1989) và Tiến sĩ (1991) về Vật lý thiên văn ở Đại học Columbia. Trong 3 năm tiếp theo, Tyson là cộng tác viên nghiên cứu ở Đại học Princeton, và đến năm 1994 ông tham gia Cung Thiên văn Hayden và là nhà nghiên cứu khoa học đồng thời giảng viên không chính thức ở Đại học Princeton. Năm 1996, ông trở thành Giám đốc của Cung Hayden và chịu trách nhiêm giám sát dự án 210 triệu đô la để tu bổ Cung này (dự án hoàn thành năm 2000). Từ 1995 đến 2005, Tyson viết bài hàng tháng cho mục Vũ trụ của tạp chí Natural History (|Lịch sử tự nhiên), một số bài viết này đã được xuất bản trong cuốn sách Cái chết bởi lỗ đen (Death by black hole- 2007) của ông. Cũng trong thời gian này, ông viết bài hàng tháng cho Tạp chí Star Date, trong mục trả lời câu hỏi về vũ trụ dưới bút danh Merlin. Các bài này cũng xuất hiện trong hai cuốn sách khác của ông: "Merlin's Tour of the Universe (Cuộc phiêu lưu vũ trụ của Merlin - 1998) và Just Visiting This Planet" (Ghé thăm hành tinh này -1998). Tyson cũng phục vụ trong Ủy ban chính phủ năm 2001 về tương lai của ngành hàng không vũ trụ Hoa Kỳ, và Ủy ban Mặt trăng, Hỏa tinh và xa hơn vào năm 2004. Ông được trao tặng huân chương NASA Distinguished Public Service Medal vào cùng năm này. Từ 2006-2011, Tyson dẫn chương trình truyền hình  "NOVA ScienceNow trên kênh PBS." Từ năm 2009, ông dẫn chương trình bản tin Star Talk. Vào năm 2014, Tyson dẫn chương trình cho series phim truyền hình (Vũ trụ: Một cuộc hành trình không-thời gian), được lấy cảm hứng từ series năm 1980 của Nhà thiên văn học Carl Sagan"." Viện Hàn lâm khoa học quốc gia Hoa Kỳ đã trao tặng Tyson huân chương Public Welfare Medal vào năm 2015 cho "vai trò đặc biệt trong việc truyến sự phấn khích cho cộng đồng về các kì quan của khoa học". Tác phẩm. Danh sách tác phẩm của Tyson:
1
null
Yeezus là album phòng thu thứ sáu của nghệ sĩ hip hop và nhà sản xuất người Mỹ Kanye West. Nó được phát hành vào ngày 18 tháng 6 năm 2013 bởi Roc-A-Fella Records và Def Jam Recordings. Album bắt đầu được sản xuất trong một căn phòng khách ở một khách sạn tại Paris. Trong quá trình, West mời nhiều nghệ sĩ khác nhau và công tác viên để sản xuất album, bao gồm Mike Dean, Daft Punk, 88-Keys, No ID và Symbolyc One. "Yeezus" cũng có sự xuất hiện của các giọng hát khách mời từ Assassin và King L, cũng như nhiều công tác viên trước đây Justin Vernon, Frank Ocean, Chief Keef, Kid Cudi và Charlie Wilson. West tranh thủ sự giúp đỡ của nhà sản xuất Rick Rubin chỉ 15 ngày trước trước ngày bán. West lấy cảm hứng từ thiết kế tối giản, với sự quan tâm tới các tác phẩm của Le Corbusier, West cũng tới thăm bảo tàng Louvre nhiều lần khi ở Paris. Về âm nhạc, "Yeezus" đen tối và có nhiều âm thanh thử nghiệm, kết hợp các yếu tố của nhạc drill Chicago, dancehall, acid house, và industrial music. West tiếp tục sử dụng các đoạn nhạc mẫu bao gồm cả và đáng chú ý nhất, đoạn điệp khúc bị bóp méo của "Strange Fruit" do Nina Simone hát lại. West đã phát hành hai đã phát hành hai đĩa đơn từ album, "Black Skinhead" vào và "Bound 2" vào . Album nhận được nhiều đánh giá cao từ nhà phê bình, xem "Yeezus" là một trong những tác phẩm hay nhất của West và ca ngợi sự khác biệt trong âm thanh so với các album trước đây của anh. Tuy nhiên, nó gặp phải phản ứng trái chiều từ công chúng, với nhiều ý kiến khác nhau sau khi album bị rò rĩ từ Internet bốn ngày trước khi phát hành. "Yeezus" đứng vị trí số một trên Billboard 200, bán được 327,000 bản trong tuần đầu được phát hành. Nó đứng đầu các bảng xếp hạng của 30 quốc gia khác, bao gồm cả Vương quốc Anh và Úc. Sau chưa đầy hai tháng phát hành, album đã được chứng nhận vàng bởi RIAA và sau đó bạch kim vào này 1 tháng 4 năm 2014. "Yeezus" được đề cử ở hai hạng mục tại lễ trao giải Grammy 2014 bao gồm cả cho "Album rap xuất sắc nhất".
1
null
Vòng loại giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2016 là vòng loại của giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2016 lần thứ 11 của Liên đoàn bóng đá Đông Nam Á, với sự tham dự của 4 đội tuyển xếp hạng kém nhất tại khu vực Đông Nam Á, được tổ chức diễn ra tại thủ đô Phnôm Pênh, Campuchia. Các trận đấu được thi đấu theo thể thức vòng tròn tính điểm, lấy đội xuất sắc nhất của vòng loại tham dự vòng chung kết.
1
null
Angry Birds Toons là bộ phim hoạt hình của Rovio Entertaiment, đã được phát sóng trên kênh truyền hình Toons.TV của Angry Birds. Bộ phim phát sóng lần đầu với 52 tập (Dự định trước đó là 53 tập) và 4 Best of, điểm lại những khoảnh khắc trong mùa 1. Tuy nhiên, việc cắt bỏ các tập phim là do Rovio Entertaiment đặt ra với vấn đề bịa đặt. Bộ phim bắt đầu phát sóng vào 16/3/2013 và hoàn thành chỉ sau 1 năm. Bộ phim phát định kỳ vào thứ 7 trên kênh Cartoon Network Ấn Độ và Chủ nhật trên kênh truyền hình Toons.TV. Bộ phim kết thúc vào ngày 13 tháng 5 năm 2016, nhưng một số tập phim vẫn được công chiếu trên kênh Youtube của Angry Birds năm 2022. Sự cắt bỏ các tập phim của Rovio. Những dữ kiện trên chứng tỏ việc cắt bỏ vài tập phim mà không có lý do của Rovio là một điều không thể chấp nhận. Nếu đã cho biết lý do, việc này sẽ bớt nghi ngờ hơn. Danh sách các tập phim. Giới thiệu các tập phim: Các kênh phát sóng trên toàn thế giới. Ngoài website của Toons.TV, bộ phim còn phát trên các kênh truyền hình trên toàn thế giới. Thiết bị xem. Đối với các nước khác, xem qua Samsung Smart TV có tích hợp sẵn bộ giải mã DTV-B2 theo đề án truyền hình số hóa.
1
null
"Đây là danh sách chưa đầy đủ, xin vui lòng thêm những thông tin bị thiếu" Sau đây là danh sách các tổ chức hoạt động vì nhân quyền trên thế giới. Danh sách này không bao gồm các đảng chính trị, hoặc các viện hàn lâm. Danh sách này bao gồm cả các tổ chức thế tục cũng như tôn giáo. Các tổ chức Phi chính phủ quốc tế. SikhPolice.org Các tổ chức phi chính phủ theo lãnh thổ. International Human Rights Administration (Ấn Độ) SikhPolice.org Các tổ chức phi chính phủ tập trung vào một quốc gia. Afghanistan Argentina Bahrain Bangladesh Bỉ Botswana Myanmar Bulgaria Campuchiapuchia Canada Tchad Trung quốc Cộng hòa Dân chủ Congo Ai Cập Pháp Guatemala Ấn Độ International Human Rights Administration(IHRA) Iran Israel/Palestinian territories Kenya Liban Malawi Malaysia Mali Mauritanie Maroc Niger Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên Pakistan Philippines Ba Lan Nga România Ả Rập Xê Út Sri Lanka Sudan Thụy Điển Syria Tunisia Uganda Ukraina Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Hoa Kỳ Việt Nam Zimbabwe Các cơ quan thuộc Liên hợp quốc. Quản trị Nhân quyền Quốc tế
1
null
Một cụm sao mở, quần tinh mở hay còn được gọi là cụm sao phân tán, cụm sao thiên hà, là một nhóm lên đến vài ngàn ngôi sao được hình thành từ các đám mây phân tử khổng lồ giống nhau và có khoảng cùng độ tuổi. Hơn 1.100 cụm sao mở đã được phát hiện trong dải Ngân Hà, và nhiều cụm sao mở hơn nữa được cho là tồn tại. Chúng liên kết một cách lỏng lẻo với nhau bởi lực hấp dẫn lẫn nhau và trở nên gián đoạn bởi cuộc đụng độ gần với các cụm sao mở khác hoặc các đám mây khí khi chúng quay quanh trung tâm thiên hà, kết quả là có sự dịch chuyển đến các thân chính của thiên hà cũng như một sự mất mát bớt các sao thành viên nhóm thông qua cuộc đụng độ gần nội bộ. Các cụm sao mở thường tồn tại trong một vài trăm triệu năm, với những cụm lớn nhất còn có thể sống sót trong một vài tỷ năm. Ngược lại, các cụm sao hình cầu lớn hơn tác động một lực hấp dẫn mạnh mẽ trên các sao thành viên của chúng, và có thể tồn tại lâu hơn. Cụm sao mở đã được tìm thấy trong thiên hà xoắn ốc và bất thường, trong đó hoạt động hình thành sao đang diễn ra. Cụm sao mở trẻ vẫn có thể được chứa trong các đám mây phân tử mà từ đó chúng hình thành, chiếu sáng nó để tạo ra một vùng H II. Theo thời gian, áp suất bức xạ từ các cụm sẽ phân tán các đám mây phân tử. Thông thường, khoảng 10% khối lượng của một đám mây khí sẽ kết hợp lại thành những ngôi sao trước khi áp suất bức xạ đẩy phần còn lại của khí đi.
1
null
Hồ Cương Quyết (tên khai sinh: Menras André Marcel) là một người mang hai quốc tịch Pháp - Việt nổi tiếng qua các hành động đấu tranh trong Chiến tranh Việt Nam tại Miền Nam Việt Nam và sau này là nhiều bộ phim tài liệu trong đó có phim "Hoàng Sa – Việt Nam: nỗi đau mất mát" (bản tiếng Pháp "Hoang Sa Vietnam – La Meurtrissure" và bản Pháp-Anh là "La Meurtrissure – Painful Loss") hay "VN: Tiếng gào thét từ bên trong". Tiểu sử. André Menras sinh năm 1945 trong gia đình nông dân nghèo tại Coufouleux, miền nam nước Pháp. Năm 1967, André Marcel tốt nghiệp đại học Sư phạm thành phố Montpellier. Năm 1968, André Menras tới Việt Nam dạy tiếng Pháp tại Lycée Blaise Pascal ở Đà Nẵng và năm 1969 tại trường phổ thông trung học Lê Quý Đôn (tên cũ Jean-Jacques Rousseau) ở Sài Gòn. Thuộc nhóm phản đối Chiến tranh và để bày tỏ sự ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, André Menras đã cùng bạn là Jean-Pierre Debris leo lên tượng Thủy quân Lục chiến trước Hạ nghị viện của Việt Nam Cộng hòa (nay là Nhà hát lớn) ở Sài Gòn để treo cờ Giải phóng, và rải truyền đơn đòi Mỹ và quân đồng minh rút quân khỏi Việt Nam. Vì hành động này, André Menras và Jean-Pierre Debris đã bị xử tù người ba năm, người bốn năm. André được trả tự do và bị trục xuất khỏi Việt Nam vào ngày 1/1/1973, 27 ngày trước khi hiệp định Paris được ký kết. Năm 2002, ông được công nhận là công dân danh dự Thành phố Hồ Chí Minh. Cũng trong năm này, ông thành lập Hiệp hội hữu nghị phát triển và trao đổi sư phạm Pháp Việt (ADEP) và giữ cương vị chủ tịch. Tháng 11 năm 2009, với quyết định do Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết ký, André Menras chính thức trở thành công dân có quốc tịch Việt Nam với tên Hồ Cương Quyết. Các bài viết của anh từ đó thường ký hai tên André Menras - Hồ Cương Quyết. Ông có thể nói tiếng Việt lưu loát. "Hoàng Sa Việt Nam: Nỗi đau mất mát". Bộ phim tài liệu "Hoàng Sa Việt Nam: Nỗi đau mất mát" được thực hiện tại huyện đảo Lý Sơn và xã Bình Châu thuộc huyện Bình Sơn, cả hai huyện thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Tổng thời gian thực hiện là 3 tháng lấy tư liệu, 10 ngày quay phim và 2 tuần để dàn dựng bộ phim. Phim khi quay được sự ủng hộ của nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Bộ Ngoại giao cũng như sự góp sức cả về vật chất lẫn kỹ thuật của Đài Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh. Theo ông Quyết, bộ phim đó đã nhận được giấy phép xuất nhập sản phẩm báo chí 155/SNV-VHTT/VHP cấp ngày 07. 06. 2011 tại TP. HCM. Phim đã được chính thức công nhận là "nội dung không vi phạm luật báo chí Việt Nam"". Phim được chiếu lần đầu tiên vào ngày 28 tháng 6 năm 2011 tại Paris, cho cộng đồng những người bạn Pháp ủng hộ Việt Nam và kiều bào. Hồ Cương Quyết cho biết lý do ông làm bộ phim này: "Năm 2006, qua báo chí Việt Nam, tôi đọc được nhiều trường hợp ngư dân Việt Nam đánh bắt cá tại vùng biển Hoàng Sa của Việt Nam đã bị các tàu đánh cá, tàu quân sự của Trung Quốc uy hiếp và bắt, tịch thu tàu thuyền, dụng cụ làm nghề bắt cá, đòi tiền chuộc đến tán gia bại sản. Tôi đi từ tâm trạng ngạc nhiên đến phẫn nộ, nhiều đêm không ngủ được. Tôi đã liên tục theo dõi thông tin, thực hiện các nghiên cứu tìm tòi và ngày càng cảm thấy lo ngại về tình trạng này. Vì thế, tôi đã quyết định phải dấn thân vào việc bảo vệ các ngư dân vì tôi nghĩ rằng, bảo vệ ngư dân cũng là bảo vệ độc lập và chủ quyền của Việt Nam. Và rồi, tôi quyết định làm một phóng sự về họ.". Nhưng phim này đã bị cấm chiếu ở Việt Nam vào ngày 29 tháng 11 năm 2011. Ở Pháp trong tháng 2 năm 2012, thành phố Montpellier cũng đã không cho mượn phòng chiếu. Tuy nhiên từ Vụ giàn khoan Hải Dương 981, Việt Nam đã cho phép chiếu phim lần đầu tiên vào ngày 10, 11, 12 tháng 7 ở Hà Nội và vào ngày 5. tháng 8 năm 2014 ở Sài Gòn. "Việt Nam: Tiếng gào thét từ bên trong". André Menras cho biết, Tháng 2/2019 ông sang Việt Nam với mục đích thực hiện bộ phim mới về Trường Sa, nhưng khi tham dự họp mặt đầu năm của Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng. Sau khi nhà thơ Phan Đắc Lữ bị công an bắt sau buổi họp đó, ông quyết định làm phim về nhân quyền, tự do ngôn luận. Phim tài liệu "VN: Tiếng gào thét từ bên trong" phỏng vấn những người đã từng hy sinh và phục vụ cho lý tưởng hay bộ máy chính quyền cộng sản trong đó có dịch giả Phạm Toàn, nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai, giáo sư Chu Hảo, nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng, nhà sử học Trần Đức Anh Sơn, giáo sư Tương Lai. Ngoài ra còn có cuộc phỏng vấn cụ Lê Đình Kình và dân làng tại Đồng Tâm, Đức Cha Nguyễn Thái Hợp và một số người trong cuộc về sự cố Formosa...
1
null
Tư Mã Cận (chữ Hán: 司馬靳; ? - ?) là tướng lĩnh nước Tần thời Chiến Quốc, người Hạ Dương, ông là cháu nội của Đại tướng Tư Mã Thác có công phạt Thục và là tổ tiên bảy đời của nhà sử học Tư Mã Thiên. Lúc đầu ông là phó tướng dưới trướng danh tướng Vũ An quân Bạch Khởi, từng tham gia vào trận chiến Trường Bình, chôn sống 40 vạn quân Triệu tại đây, sau cùng với Bạch Khởi bị Tần vương ban cho cái chết ở Đỗ Bưu, thi hài mang về chôn cất tại Hoa Trì. Cháu của Tư Mã Cận là Tư Mã Xương giữ chức thiết quan thời Tần. Sự tích về Bạch Khởi phần nhiều lấy từ thiên "" trong "Sử ký Tư Mã Thiên". Tổ tiên xa của Tư Mã Thiên là Tư Mã Cận cũng tham gia vào chiến dịch này, về sau cùng với Bạch Khởi tự sát ở Đỗ Bưu, vì vậy có thể coi đây là lịch sử về dòng tộc này. Chú thích. </small>
1
null
Piggy Tales (tạm dịch: Truyện cổ của lợn), là bộ phim tiếp nối cho bộ phim Angry Birds Toons - mùa thứ nhất. Bộ phim được phát sóng ngay sau khi Angry Birds Toons - mùa thứ nhất kết thúc. Bộ phim có tổng thời lượng từ 1 - 2 phút cho mỗi tập. Bộ phim phát sóng trên kênh truyền hình Toons.TV định kỳ vào thứ 6 và phát lại vào thứ 5 tuần kế tiếp trên Youtube. Đây là bộ phim đầu tiên mà những chú lợn vào vai nhân vật chính. Bộ phim kết thúc vào ngày 30 tháng 5 năm 2019 khi tập cuối (tập 30) của Season 4 ra mắt. Mỗi Season của Piggy Tales đều có tựa đề riêng (trừ Season 1) gồm tựa đề "Pigs At Work" trong Season 2, "Third Act" trong Season 3 và "4th Street" trong Season 4. Tạo hình nhân vật. Ban đầu, khi Season 1 ra mắt, tạo hình của nhân vật giống với bản Angry Birds (2009) và Angry Birds 2. Nhưng sau khi bộ phim Angry Birds ra rạp năm 2016, Rovio đã tạo hình lại nhân vật giống với thiết kế của bộ phim cho đến khi Season 4 kết thúc (kết thúc series Piggy Tales).
1
null
The Adventures of Sharkboy and Lavagirl in 3-D (cũng thường được biết đến với tên đơn giản là Sharkboy and Lavagirl) là một bộ phim hài giả tưởng phiêu lưu năm 2005 của Mỹ do Robert Rodriguez đạo diễn và được phát hành tại Hoa Kỳ ngày 10 tháng 6 năm 2005. Bộ phim sử dụng công nghệ 3-D và anaglyph cũng đã được sử dụng trong bộ phim "". Bộ phim có sự tham gia của dàn diễn viên chính như Taylor Lautner, Taylor Dooley, Cayden Boyd, David Arquette, Kristin Davis và George Lopez. Phần lớn ý tưởng và cốt truyện của phim do các con của Rodriguez nghĩ ra. Nội dung. Max (Cayden Boyd) là một cậu bé cô đơn hay tạo ra thế giới tưởng tượng có tên là Hành tinh Sụt Sịt, nơi mà tất cả giấc mơ và sự tưởng tượng của cậu bay vào đời thực. Cậu tạo ra hai nhân vật chính: cậu bé Cá Mập (Taylor Lautner), một cậu bé được nuôi lớn bởi đàn cá mập sau khi lạc bố trên biển và cô bé Dung Nham (Taylor Dooley), người có thể tạo ra lửa và dung nham, nhưng lại có vấn đề trong việc chạm vào các vật rồi vô tình làm chúng bốc cháy. Hai người bạn này là người bảo vệ hành tinh Sụt Sịt. Ở ngoài đời thực, bố mẹ Max (David Arquette và Kristin Davis) có ít thời gian dành cho cậu, và cậu hay bị cậu bạn Linus (Jacob Davich) cùng lớp bắt nạt. Mặc dù vậy, cậu lại có một tình bạn đẹp với Marissa (Sasha Pieterse), con gái của thầy giáo Electricidad (George Lopez), người có cái tên theo tiếng Tây Ban Nha là "điện". Linus đánh cắp cuốn sổ Hành trình giấc mơ của Max (nơi cất giữ tất cả ý tưởng của cậu) và phá hoại nó. Ngày hôm sau, một cơn lốc xoáy ập đến ngoài trường học, và chỉ lát sau cậu bé Cá Mập và cô bé Dung Nham xuất hiện và mời Max đi cùng họ đến hành tinh Sụt Sịt. Họ đến hành tinh Sụt Sịt bằng tàu vũ trụ hình cá mập và ở đó Max biết rằng thế giới giấc mơ đang trở nên tồi tệ, còn ông Electric (cũng được thủ vai bởi George Lopez), vốn là thợ điện của hành tinh này nhưng giờ đây đã trở nên xấu xa. Cậu bé Cá Mập và cô bé Dung Nham đã cứu vài đứa trẻ khỏi một tàu lượn siêu tốc mất kiểm soát. Sau đó cùng với Max, họ chạm trán ông Electric, người đã thả họ xuống một vùng gọi là "Nghĩa địa của những giấc mơ", nơi mà một số giấc mơ của Max bị vùi dập. Họ tìm ra Tobor (lồng tiếng bởi George Lopez), một con robot mà Max chưa chỉnh sửa xong, nhưng nó đã giúp họ đến những vùng khác của hành tinh Sụt Sịt. Trong suốt cuộc hành trình, cả ba đã gây dựng một tình bạn đẹp mặc dù họ phải đối mặt với bao khó khăn, như cơn tức giận của cậu bé Cá Mập trước vùng biển bị đóng băng, hay sự tuyệt vọng của cô bé Dung Nham muốn tìm hiểu mục đích thực sự của mình trên hành tinh Sụt Sịt. Họ bị truy đuổi bởi ông Electric và đoàn tùy tùng trên khắp hành tinh. Họ dự định đi thăm Công chúa Băng giá và lấy viên Trái tim Pha lê có thể đóng băng thời gian, cho họ đủ thời gian để đến trung tâm hành tinh Sụt Sịt và sửa lại thế giới giấc mơ bằng cách sử dụng những giấc mơ ban ngày của Max. Tuy nhiên, họ bị bắt bởi ông Electric và bị chuyển tới chỗ Minus, sự hiện thân của Linus trên hành tinh Sụt Sịt, người đã thay đổi thế giới giấc mơ bằng chính cuốn Hành trình giấc mơ của Max và nhốt ba người họ trong một cái lồng. Cậu bé Cá Mập, trở nên khó chịu và có chút điên loạn của loài cá mập, đã phá hỏng cái lồng. Sau khi cả ba trốn thoát, Max lấy lại cuốn nhật ký của mình trong lúc Minus đang ngủ. Max nói với cậu bé Cá Mập rằng bố cậu ấy vẫn còn sống theo như cuốn nhật ký viết, nhưng khi cô bé Dung Nham đòi xem cuốn nhật ký nói gì về cô ấy thì chẳng may cô đã làm nó cháy rụi thành tro. Trong cơn thịnh nộ của mình, cô bé Dung Nham đã chất vấn Max và hỏi cậu vì sao cô ấy được tạo bởi dung nham, nhưng cậu bé Cá Mập đã làm cô ấy bình tĩnh lại. Với ít thời gian còn lại, Max, cậu bé Cá Mập, cô bé Dung Nham đến gặp Công chúa Băng giá (Sasha Pieterse) sau cuộc gặp gỡ với Vệ thần Băng giá (lồng tiếng bởi George Lopez). Công chúa giao lại Trái tim Pha lê, nhưng họ nhận ra rằng họ đã quá muộn vì chỉ có Công chúa mới có thể điều khiển sức mạnh của viên pha lê và cô ấy không thể rời khỏi tòa lâu đài. Ông Electric lừa cậu bé Cá Mập nhảy xuống hồ nước chứa đầy lươn điện, dường như muốn giết cậu ấy. Cô bé Dung Nham nhảy xuống nước và cứu cậu bé Cá Mập nhưng sau đó cô ấy bất tỉnh. Tobor xuất hiện và khuyên Max mơ đến một giấc mơ tốt hơn và không có sự ích kỷ, nơi cậu bé Cá Mập đã chạy đua đến một núi lửa, giúp cô bé Dung Nham hồi phục. Max chứng kiến sự hồi phục của cô bé Dung Nham và kết luận rằng mục đích của cô ấy là trở thành ánh sáng chống lại mây đen bóng đêm đã dần nhấn chìm đám mây xanh của hành tinh Sụt Sịt. Max đạt được khả năng điều khiển thực tế như một người mơ mộng ban ngày và chiến đấu với Minus, đánh bại hắn và đề nghị tạo ra một thế giới giấc mơ tốt đẹp hơn, và Minus đã đồng ý. Ông Electric từ chối chấp nhận thế giới giấc mơ, và bay đến Trái Đất để giết Max khi cậu đang ngủ. Max thức dậy trong lớp học của mình giữa lúc bão to. Ông Electric trở thành hiện thực trước mặt cả lớp và làm thầy Electricidad ngạc nhiên. Bố mẹ Max bị kẹt trong cơn bão, nhưng họ được cứu bởi cậu bé Cá Mập và cô bé Dung Nham. Max đưa viên Trái tim Pha lê cho Marissa, cho phép cô ấy dùng sức mạnh của Công chúa Băng giá để đóng băng và hủy diệt ông Electric. Electricidad, Linus và Max sau đó làm hòa với nhau và Max cũng hòa thuận với bố mẹ cậu. Cuối phim, Max nói với lớp cậu rằng hành tinh Sụt Sịt một lần nữa trở thành một thế giới giấc mơ theo đúng nghĩa của nó, cậu bé Cá Mập trở thành Vua biển cả, và cô bé Dung Nham trở thành Nữ hoàng núi lửa (kể cả những núi dưới nước), và Max đã chỉnh sửa xong Tobor và cuối cùng thì Tobor cũng hoạt động. Diễn viên. Robert Rodriguez không được tin rằng ông có vai trò lồng giọng cho vai một ca mập. trong một số cảnh quay, hai đứa con của Robert Rodriguez, Rebel and Racer, đống vai cậu bé Cá Mập lúc năm và bảy tuổi. Rico Torres đóng vai cha của cậu bé Cá Mập. Marc Musso và Shane Graham đóng vai nhưng đứa trẻ học cùng trường với Max. Sản xuất. Nhiều cảnh phim được thực hiện ở Texas, nơi mà Max đang sinh sống và hằng ngày đến trường trong phim. Hầu hết các cảnh trong phim được thực hiện trong studio với nền xanh lá. Hầu hết thuyền bè, vùng đất và các hiệu ứng khác bao gồm cả nhân vật và sinh vật khác, đều được hoàn thiện kĩ thuật số. Theo Lautner and Dooley, khi thực hiện các cảnh quay trên con tàu ước mơ, phần trước của con tàu thực ra chỉ là những khối hình của phim trường. "Toàn bộ phần trong đều được làm ở studio và khi họ có tất cả vật dụng thì họ có thể bắt đầu", tất cả mọi thứ đều ở đó nhưng được thực hiện trên màn xanh", Dooley nói. Mười một công ty hiệu ứng hình ảnh (Hybride, CafeFX, The Orphanage, Post Logic, Hydraulx, Industrial Light & Magic, R!ot Pictures, Tippett Studio, Amalgamated Pixels and Intelligent Creatures and Rodriguez's Texas-based Troublemaker Digital) cùng làm việc để hoàn thành hơn 1000 hiệu ứng hình ảnh. Robert Rodriguez được ghi danh 14 lần, hầu hết là đạo diễn, nhà sản xuất, người viết kịch bản (cùng với Marcel Rodriguez), giám sát viên hiệu ứng hình ảnh,biên tập viên, một nhà điều hành máy ảnh, và một nhà soạn nhạc và nghệ sĩ biểu diễn. Những câu chuyện được cho là của Racer Max Rodriguez, với các yếu tố câu chuyện bổ sung bởi Rebecca Rodriguez, người đã viết lời cho bài hát chính cho "Sharkboy và Lavagirl". Các thành viên khác của gia đình Rodriguez có thể được nhìn thấy trong các bộ phim hoặc tham gia vào việc sản xuất. Miley Cyrus đã thử vai cùng Lautner, và nói rằng bộ phim này là dành cho cô và cô gái đã thử vai, tuy nhiên Miley lại bắt đầu trong phim "Hannah Montana". Phản hồi. Phản hồi từ giới chuyên môn. "The Adventures of Sharkboy and Lavagirl" nhận khá nhiều phản hồi tiêu cực từ nhà phê bình, với tỉ lệ đánh giá tích cực chỉ chiếm 20% trên trang Rotten Tomatoes với lời nhận xét chung: "Quyết định đưa giả tưởng của một đứa trẻ vào một bộ phim 3-D là sự tính toán sai lầm" Roger Ebert biết được rằng mạch truyện của phim 3-D sẽ thiếu chất lượng và ít màu sắc, do đó, sẽ làm "hư hỏng" ít nhiều bộ phim. Doanh thu phòng vé. Ngay trong tuần đầu tiên công chiếu, bộ phim đã thu về được 12.6 triệu đô từ 2655 rạp phim. Bộ phim cũng đứng thứ 5 về doanh thu phòng vé, đứng sau các bộ phim "Mr. & Mrs. Smith", "Madagascar", và "". Bộ phim không thành công ở Mĩ, thu về được 39,177,541 đô và là một thất bại về doanh thu phòng vé. Tuy nhiên, nó cũng thu về 30,248,282 đô nước ngoài, tổng cộng là 69,425,966 đô trên toàn thế giới. Kiện tụng. Đô vật chuyên nghiệp của Total Nonstop Action Dean Roll, người đăng ký nhãn hiệu với cái tên "Shark Boy" vào năm 1999, đã kiện Miramax vào ngày 8 tháng 6 năm 2005, khẳng định rằng thương hiệu của ông đã bị vi phạm và đòi bồi thường tiền, lợi nhuận và lợi thế cho tất cả những sai lầm của hãng phim. Vào tháng 4 năm 2007, vụ kiện được giải quyết ổn thỏa bí mật với một khoản tiền. Nhạc phim. Đạo diễn Robert Rodriguez tự sáng tác nhiều phần, với đóng góp của nhạc sĩ John Debney và Graeme Revell. Green Day được cho là đóng góp bài hát "Wake Me Up When September Ends" cho nhạc phim, nhưng, but Robert Rodriguez bác bỏ nó Sách. Trong khoảng thời gian bộ phim phát hành, Rodriguez đồng viết ra một tiểu thuyết dành cho trẻ em với tựa đề "Cuộc phiêu lưu của cậu bé Cá Mập và cô bé Dung Nham" cùng với nhà văn khoa học nổi tiếng Chris Roberson. Họ viết những quyển "The Day Dreamer", "Return to Planet Drool", và còn tiếp tục trong quyển sách thứ 3 "Deep Sleep" mà tới giờ vẫn chưa xuất hiện. Chúng được minh họa toàn bộ bởi Alex Toader, người thiết kế nhân vật và môi trường cho bộ phim và trước đó nhượng quyền thương mại cho phim Spy Kids. Trong cuốn sách đầu tiên, cột truyện của bộ phim được lần lượt bởi cô bé Dung Nham và cậu bé CáMaop, với ít nhất trong một sự kiện. trong cuốn "Trở lại hành tinh Sụt Sịt", cậu bé Cá Mập, nhớ lại cuộc gặp tình cờ với Imagineer trong cuốn sách đầu tiên, tiếp tục cuộc tìm kiếm cha cậu bằng cách tìm lại đường trở về Thế giới Giấc mơ. Cậu đã gặp cô bé Dung Nham nhàm chán ở thành phố Vent dưới nước mà bây giờ được phong làm hoàng hậu, và cùng nhau bắt tay với cuộc hành trình dưới lòng đất. Họ tình cờ gặp cá piranhas, thần gác râu đỏ, và một thành phố được tạo nên bởi những giấc mơ của những người thế kỉ trước kia, và nơi đó họ bị giam giữ bởi những người anh hùng, cướp biển và cao bồi. Cuối cùng, sau khi biết được bí mật của thành phố đó, cậu bé Cá Mập vẫn mong muốn tìm được cha mình, còn cô bé Dung Nham thì giải mã được nguồn gốc của mình. Jeff Jensen của "Entertainment Weekly" ca ngợi một cuốn sách khác trong thời gian bộ him ra mắt "The Adventures of SharkBoy and LavaGirl: The Movie Storybook" (do Racer Max Rodriguez và Robert Rodriguez viết), khác xa so với những truyện phim thông thường khác, và cũng ca ngợi sự minh họa "những chi tiết hoạt hình" của Alex Toader.
1
null
GitHub là một dịch vụ cung cấp kho lưu trữ mã nguồn Git dựa trên nền web cho các dự án phát triển phần mềm. GitHub cung cấp cả phiên bản trả tiền lẫn miễn phí cho các tài khoản. Các dự án mã nguồn mở sẽ được cung cấp kho lưu trữ miễn phí. Tính đến tháng 4 năm 2016, GitHub có hơn 14 triệu người sử dụng với hơn 35 triệu kho mã nguồn, làm cho nó trở thành máy chủ chứa mã nguồn lớn trên thế giới. Github đã trở thành một yếu tố có sức ảnh hưởng trong cộng đồng phát triển mã nguồn mở. Thậm chí nhiều nhà phát triển đã bắt đầu xem nó là một sự thay thế cho sơ yếu lý lịch và một số nhà tuyển dụng yêu cầu các ứng viên cung cấp một liên kết đến tài khoản Github để đánh giá ứng viên. Vào ngày 4 tháng 6 năm 2018, Microsoft đã thông báo việc đạt được thỏa thuận mua lại GitHub với giá 7,5 tỷ Đô la Mỹ. Ngày chính thức chuyển nhượng quyền sở hữu không được công bố. Dịch vụ. Github. Sự phát triển của nền tảng GitHub bắt đầu vào ngày 19 tháng 10 năm 2007. Trang web được đưa ra vào tháng 4 năm 2008 do Tom Preston-Werner, Chris Wanstrath, và PJ Hyett thực hiện sau khi nó đã được hoàn thành một vài tháng trước đó, xem như giai đoạn beta.. Dự án trên Github có thể được truy cập và thao tác sử dụng một giao diện dòng lệnh và làm việc với tất cả các lệnh Git tiêu chuẩn. Github cũng cho phép người dùng đăng ký và không đăng ký để duyệt kho công cộng trên trang web. Github cũng tạo ra nhiều client và plugin cho máy tính để bàn. Trang web cung cấp các chức năng mạng xã hội như feed, theo dõi, wiki (sử dụng phần mềm Gollum Wiki) và đồ thị mạng xã hội để hiển thị cách các nhà phát triển làm việc trên kho lưu trữ. Một người sử dụng phải tạo ra một tài khoản cá nhân để đóng góp nội dung lên Github, nhưng các kho mã nguồn công cộng có thể được duyệt và tải về với bất cứ ai. Với một người dùng đã đăng ký tài khoản, họ có thể thảo luận, quản lý, tạo ra các kho, đóng góp cho kho của người dùng khác, và xem xét thay đổi mã. GitHub cũng có một dịch vụ khác: một trang web kiểu pastebin gọi là Gist , dùng để lưu trữ các đoạn mã; trong khi Github sẽ được cho lưu trữ các dự án lớn hơn. Một dịch vụ lưu trữ khác được gọi là Speaker Deck. Các phần mềm chạy GitHub được viết bằng Ruby on Rails và Erlang bởi GitHub, Inc, phát triển Chris Wanstrath, PJ Hyett, và Tom Preston-Werner. Hệ thống kiểm soát phiên bản (VCS) - ghi lại thay đổi vào một tập tin hoặc thiết lập các tập tin theo thời gian để có thể nhớ lại các phiên bản cụ thể sau. Phạm vi. GitHub chủ yếu được sử dụng để lưu trữ mã nguồn phần mềm, nhưng cũng thường được sử dụng với nhiều loại tập tin như Final Cut hoặc các tài liệu Word. Ngoài mã nguồn, Github hỗ trợ các định dạng và các tính năng sau đây: Gists. GitHub cũng vận hành một trang web kiểu pastebin có tên là Gist, dành cho các đoạn mã, trái ngược với GitHub, dành cho các dự án lớn hơn. Tom Preston-Werner đã giới thiệu tính năng này tại một hội nghị Ruby vào năm 2008. Gist xây dựng dựa trên khái niệm đơn giản truyền thống về pastebin bằng cách thêm kiểm soát phiên bản cho các đoạn mã, dễ dàng phân nhánh và được mã hóa TLS cho các gists riêng tư. Bởi vì mỗi "gists" là kho lưu trữ Git của riêng nó, nhiều đoạn mã có thể được chứa trong một trang duy nhất và chúng có thể được đẩy và kéo (push and pull) bằng cách sử dụng Git. Người dùng chưa đăng ký có thể tải lên Gists cho đến ngày 18 tháng 2 năm 2018, khi việc tải lên gists chỉ có sẵn cho những người dùng đã đăng nhập, được báo cáo là để giảm thiểu việc spam. URL của gists sử dụng ID hệ thập lục phân và các chỉnh sửa đối với gists được ghi lại trong lịch sử sửa đổi, lịch sử này có thể hiển thị sự khác biệt về văn bản của ba mươi bản sửa đổi trên mỗi trang với tùy chọn giữa chế độ xem "phân tách" và "hợp nhất". Giống như kho lưu trữ, Gists có thể được phân nhánh, "gắn dấu sao", tức là được đánh dấu công khai và nhận xét. Số lượng các bản sửa đổi, số sao và phân nhánh được hiển thị trên trang chính. Github dành cho doanh nghiệp. Github cho doanh nghiệp cũng hoạt động giống github.com, nhưng hỗ trợ phiên bản trả phí cho các doanh nghiệp muốn bảo vệ mã nguồn của mình, không công khai ra cộng đồng. Việc làm. Một trong những nguồn thu nhập khác của Github là "GitHub Jobs" nơi sử dụng lao động có thể gửi lời mời làm việc với giá 450$/tháng. Nhân viên bán hàng của GitHub không được trả lương trên cơ sở hoa hồng.
1
null
Salmo là một chi cá gồm các loài cá hồi trong họ Cá hồi (Salmonidae) với loài có cái tên tương đồng của chi là cá hồi Đại Tây Dương ("Salmo salar") và cá hồi nâu ("Salmo trutta"). Một chi đối diện với chi Salmo là Cá hồi Thái Bình Dương ("Oncorhynchus") phân bố ở bên kia đại dương. Cái tên "Salmo" xuất phát từ tiếng Latin "salmō" có nghĩa là cá hồi. Các loài. Hiện hành có 46 loài được ghi nhận
1
null
Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật (tiếng Anh: "Science and Technics Publishing House") thành lập năm 1960 tại Việt Nam theo quyết định số 185-KHH/QĐ (ngày 09 tháng 6 năm 1960) của Ủy ban khoa học nhà nước. Nhà xuất bản là đơn vị trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ, chuyên xuất bản các ấn phẩm về khoa học và công nghệ. Nhà xuất bản là một đơn vị công lập, có tư cách pháp nhân, tự chủ một phần chi phí, tự chịu trách nhiệm theo quy định tại Nghị định số 43/2006/NĐ-CP về quyền tự chủ. Trụ sở chính của nhà xuất bản ở Hà Nội và chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đối tượng độc giả. Các ấn phẩm của nhà xuất bản phục vụ: + Cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý khoa học và công nghệ, quản lý kinh tế ở trung ương, các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp. + Cán bộ khoa học và công nghệ trong các tổ chức khoa học và công nghệ, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và những người yêu thích khoa học – công nghệ. + Giáo viên, sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng,… trong toàn quốc cũng như những độc giả yêu thích khoa học công nghệ. Chức năng. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật (sau đây gọi tắt là Nhà xuất bản) là tổ chức sự nghiệp trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ, thực hiện chức năng xuất bản các xuất bản phẩm phục vụ công tác quản lý nhà nước của Bộ Khoa học và Công nghệ. Tên giao dịch bằng tiếng Anh của Nhà xuất bản là: Science and Technics Publishing House. Nhà xuất bản có trụ sở chính tại Hà Nội và Chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật là đơn vị sự nghiệp có thu, tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động thường xuyên, thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo quy định tại Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/04/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Nhà xuất bản có tư cách pháp nhân, có con dấu, được mở tài khoản tại kho bạc Nhà nước và ngân hàng để hoạt động theo quy định của pháp luật. Lịch sử. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật (khi ra đời có tên là Nhà xuất bản Khoa học) có quyết định chính thức thành lập ngày ngày 9 tháng 6 năm 1960. Nhưng trước đó, vào cuối năm 1959 bộ phận xuất bản của Ủy ban Khoa học Nhà nước (UBKHNN) đã hình thành và đầu năm 1960 đã xuất bản hai cuốn sách đầu tiên về phổ biến khoa học. Quá trình hình thành và phát triển của Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật trong suốt chiều dài sáu thập kỷ đã minh chứng cho quyết định chính xác của UBKHNN thời điểm năm 1960 - cần có một Nhà xuất bản chuyên ngành định hướng khoa học kỹ thuật sát với nhu cầu bạn đọc, cung cấp tài liệu đáp ứng được các định hướng lớn của Đảng, Nhà nước về phát triển khoa học kỹ thuật trong thời kỳ đầu sơ khai,  gắn liền với sự ra đời và phát triển của UBKHNN – tiền thân của Bộ Khoa học và Công nghệ. Lịch sử - Niềm tự hào, trách nhiệm và vinh dự 60 năm - một vòng đời của một tổ chức cũng giống như vòng đời con người. Bài viết được ghi lại trên tư liệu của các thế hệ đi trước nhằm mục đích không chỉ tái hiện lại lịch sử những giai đoạn đã qua của Nhà xuất bản mà còn thông qua lịch sử để hệ thống lại các giai đoạn trong quá trình hình thành, phát triển của Nhà xuất bản, giúp những thế hệ tương lai hiểu rõ hơn về Nhà xuất bản ra đời trong hoàn cảnh nào, gánh vác sứ mệnh gì, những thành quả, đóng góp của các thế hệ cán bộ, nhân viên Nhà xuất bản qua từng thời kỳ lịch sử phát triển KH-CN của đất nước; ôn lại lịch sử và khơi gợi niềm tự hào, trách nhiệm và vinh dự cho cán bộ, nhân viên Nhà xuất bản; định vị được bản sắc riêng, những giá trị cốt lõi của Nhà xuất bản; tổng kết những kinh nghiệm và rút ra những bài học xây dựng chiến lược phát triển đáp ứng đòi hỏi yêu cầu của giai đoạn mới. Chúng ta tiếp tục tiến về phía trước, làm mới lại môi trường cạnh tranh liên tục, hiện tại và tương lai. Như Charles F. Kettering, có lẽ là nhà phát minh sơ khởi cuối cùng của Detroit đã nói rằng, "Tất cả chúng ta nên quan tâm đến tương lai bởi vì đó là nơi chúng ta sẽ phải sống cả đời." Bằng cách nhìn vào tương lai, người ta có thể làm tốt hơn tình trạng của hiện tại. Các mốc lịch sử tiêu biểu: Năm 1960: Ngày 9/6/1960, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học nhà nước Tạ Quang Bửu đã ký Quyết định số 185-KHH/QĐ về việc thành lập Nhà xuất bản Khoa học, tiền thân của Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, trực thuộc Ủy ban Khoa học nhà nước. Năm 1967: NXB Khoa học được đổi tên thành NXB Khoa học và Kỹ thuật, trực thuộc Ủy ban KH&KT Nhà nước. Năm 1993: Năm 1995: Phòng Phát hành và Marketing được thành lập. Năm 2001: Nhà xuất bản đã xây dựng xong trang Web và đưa vào hoạt động hệ thống thương mại điện tử nối với các Trung tâm thông tin lớn (Thư viện, Trung tâm thông tin của Bộ cũng như các đơn vị khác); nối mạng tin học toàn bộ các phòng, ban trong Nhà xuất bản; thực hiện tất cả các khâu từ việc hạch toán kế toán, quản lý kho tàng, quản lý nhân sự đến biên tập, chế bản... bằng máy tính. Năm 2009: Tháng 8/2009, Nhà xuất bản thành lập Trung tâm Phát hành sách và Văn hóa phẩm khoa học kỹ thuật trên cơ sở phát triển Phòng Phát hành và Marketing. Năm 2010: Quyết định số 1183/QĐ-BKHCN về việc chuyển đổi mô hình hoạt động Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật từ mô hình doanh nghiệp nhà nước thành đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ. Năm 2014: Năm 2015: Giấy phép thành lập Nhà xuất bản số 538/GP-BTTTT ngày 15/10/2015 của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông. Quá trình hình thành và phát triển. Nhà xuất bản đã xuất bản trên 20.000 đầu sách với hàng tỷ bản in tăng vượt trội so với thời điểm năm 1985 là 1300 đầu sách. Hơn 60 năm thành lập và phát triển, hiện nay Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật là một trong những nhà xuất bản lớn trong hệ thống các nhà xuất bản trên toàn quốc, đã xuất bản khoảng 20.000 đầu sách với hàng triệu bản phục vụ trực tiếp cho sự nghiệp đào tạo và nghiên cứu khoa học của đất nước. Quá trình phát triển của nhà xuất bản được chia ra làm 5 giai đoạn chính: Giai đoạn 1960 – 1963. Nhà xuất bản Khoa học được thành lập theo Quyết định số 185/QĐ, ngày 9 - 6 -1960 của Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học nhà nước. Khi mới thành lập, Nhà xuất bản có nhiệm vụ: xuất bản  tài liệu, sách báo, tranh ảnh... phục vụ công tác nghiên cứu và phổ biến khoa học góp phần xây dựng nền khoa học và kỹ thuật nước nhà đẩy mạnh công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Xuất bản phẩm chủ yếu là sách phổ thông, nâng cao dân trí, phục vụ sản xuất, sức khỏe, kinh tế, chống mê tín dị đoan... theo đường lối Đại hội Đảng lần thứ III (1960). Khi mới thành lập, thời gian đầu Nhà xuất bản chưa có chủ nhiệm, ông Phạm Năng Văn làm Phó Chủ nhiệm phụ trách. Từ năm 1960 - 1962 với 4 đến 5 người giúp việc, trong đó có Lê Văn Cư và Trần Tý là những cán bộ được phân công phụ trách từng phần công tác chuyên môn dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ủy ban Khoa học Nhà nước (UBKHNN) (tiền thân của Bộ Khoa học và Công nghệ). Nhiệm vụ của các cán bộ này là liên hệ với các nhà in để đưa in các tài liệu do các phòng ban của UBKHNN đưa tới. UBKHNN lúc  ấy bao gồm cả Khoa học kỹ thuật và Khoa học xã hội, nên có rất nhiều phòng ban, vụ, viện như: (Ban KH cơ bản, Ban toán lý hóa, Ban sinh vật địa, Ban Nông lâm ngư nghiệp, Vụ HTQT, Viện Văn, Viện Triết, Viện Luật, Viện Ngôn Ngữ... Ngoài nhiệm vụ chuyên môn các đơn vị này còn có việc tổ chức biên sọan biên dịch các tài liệu khoa học cơ bản, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội.  Đặc biệt ban nào cũng có một bộ phận (một người kiêm việc) tổ chức các hội nghị (toàn các giáo sư, các nhà khoa học  đầu ngành của nước Việt Nam tham gia) để biên soạn biên dịch các loại từ điển chuyên ngành, các loại từ điển đối chiếu Nga, Anh, Pháp,… sang tiếng Việt, chuyển NXB đưa đi in. Trong những năm đầu, NXB chỉ mới xuất bản được vài đầu sách do Hội phổ biến khoa học và kỹ thuật chuyển sang, đó là những cuốn * Khoa học và đời sống. Nhiều tác giả. Tập 1, 2, 1960. Vai trò định hướng ban đầu chính là đồng chí Tạ Quang Bửu là người rất quan tâm đến sự nghiệp xuất bản sách khoa học – kỹ thuật. Đồng chí đã có những đóng góp to lớn trong quá trình xây dựng và phát triển Nhà xuất bản Khoa học trong giai đoạn đầu sơ khai, trứng nước. Giai đoạn 1963 - 1975. Đến tháng 3 năm 1963, ông Lê Bá Hoan đang là thư ký vụ Ban khoa học cơ bản của UBKHNN có quyết định chính thức làm Chủ nhiệm, về phụ trách Nhà xuất bản. Cũng năm 1963, NXB Khoa học sáp nhập với Nhà xuất bản Sử học (của Viện Sử học) nhưng vẫn giữ tên là Nhà xuất bản Khoa học. Số lượng cán bộ thời kỳ này đã trên 10 người, ít lâu sau Nhà xuất bản Sử học được sáp nhập vào. Chức năng của Nhà xuất bản thời kỳ này là xuất bản sách khoa học kỹ thuật và khoa học xã hội. Những cán bộ đầu tiên là các đồng chí Vương Đình Quán, Nguyễn Hữu Nguyên, Nguyễn Văn Trân, Lê Văn Bình, trừ đồng chí Bình tốt nghiệp Đại học Tổng hợp ra, các đồng chí còn lại chỉ mới tốt nghiệp tú tài trước đây. Xuất bản phẩm chủ yếu lúc này là sách về văn, sử, địa, các công trình của các Viện nghiên cứu. Nhà xuất bản đã bắt tay vào xây dựng phương hướng phát triển với kế hoạch đề tài và xây dựng đội ngũ cán bộ trong những chặng đường đầu tiên. Định hướng xuất bản theo hai mảng sách: Để thực hiện được phương hướng đề ra, Nhà xuất bản gấp rút xây dựng, cơ cấu lại Nhà xuất bản và việc đầu tiên là phải tăng cường đội ngũ biên tập viên. Bộ sách "10 vạn câu hỏi vì sao" được tổ chức xuất bản lần đầu tiên năm 1961, đến năm 1963 xuất bản được 5 chủ đề bao gồm: Cuối năm 1963 công việc tổ chức biên dịch biên soạn phân tán tại các tổ chức ở các đơn vị trong UBKHNN được tập trung lại thành Tổ Từ điển thuật ngữ khoa học thuộc UBKHNN do Giáo sư Lê Khả Kế phụ trách, giáo sư Lưu Vân Lăng làm phụ tá - bao gồm cả hai mảng khoa tự nhiên và khoa học xã hội. Năm 1965, bộ phận từ điển của Nhà xuất bản được hình thành trên cơ sở Tổ thuật ngữ của UBKHNN. Khi UBKHNN tách ra làm hai, Tổ thuật ngữ được chuyển sang Ủy ban khoa học xã hội. Trong khi đó, xây dựng và sử dụng thuật ngữ khoa học kỹ thuật đang trở nên cấp thiết. Nhà xuất bản phải nhiều lần kiến nghị xin các đồng chí này về. Đến ngày 17/6/1968, Bộ phận Từ điển được thành lập do bà Ngô Thị Quy Tắc làm Tổ trưởng, cùng với bà Cao Thị Xuân Cam và ông Nguyễn Đình Đằng từ Viện Ngôn ngữ thuộc UBKHXH đang sơ tán ở Hà Bắc được quyết định chuyển về NXB với đầy đủ chức năng của một bộ phận công tác từ điển thuật ngữ KHKT, làm việc ở 39 Trần Hưng Đạo. Lúc này Nhà xuất bản đã có Tổ biên tập, tổ sản xuất, bộ phận hành chính,… đang sơ tán ở Hà Tây. Thời kỳ này, Phòng Biên tập từ điển là phòng đông nhất và các sách từ điển đã đáp ứng kịp thời yêu cầu bạn đọc, nhất là sau ngày đất nước được thống nhất. Cũng năm 1965, Nhà xuất bản Khoa học tách làm hai, thì Nhà xuất bản đã có đội ngũ vững vàng gồm 25 cán bộ. Tháng 8-1965, đế quốc Mỹ bắt đầu cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc. Với mục tiêu phải bảo toàn lực lượng và phát triển trong tình hình mới. Nhà xuất bản đã thực hiện chủ trương sơ tán và tổ chức cho tất cả biên tập viên đi thực tế ở các tỉnh. Đây là một thời kỳ gian khổ nhưng đã để lại những kỷ niệm sâu sắc khó quên, đầu tiên lên Hiệp Hóa, Mong Làng (Tiên Sơn – Hà Bắc), sau đó lại về Chương Mỹ (Hà Tây) và đợt cuối cùng là tận Tam Dương (Vĩnh Phú)…hoạt động của Nhà xuất bản lúc này rất sôi nổi và dần ổn định, đi vào nề nếp, tạo điều kiện cho biên tập viên  tìm hiểu nhu cầu về sách của các đối tượng bạn đọc theo đúng yêu cầu thời chiến để làm sách thiết thực phục vụ sản xuất, chống chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, chiến đấu ở miền Nam, chống mê tín dị đoan... Cán bộ biên tập đi thực tế vào tận những nơi "nóng bỏng" săn lùng cộng tác viên sâu tít trong rừng. Trình độ chuyên môn và nghiệp vụ của các biên tập viên ngày càng được hoàn thiện. Tháng 5 - 1967, Nhà xuất bản Khoa học được đổi tên thành Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, trực thuộc Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước. Nhiệm vụ chính của Nhà xuất bản giai đoạn 1968 – 1975 là vừa phải ra sách phục vụ mục tiêu trước mắt (sản xuất, chiến đấu...), vừa phải chuẩn bị cho việc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Do đó, quy mô phát triển của Nhà xuất bản ngày càng tăng, số lượng biên tập viên được bổ sung, cơ cấu tổ chức bộ máy cũng thay đổi nhiều so với trước. Nhà xuất bản lúc này bao gồm 5 phòng chức năng: Phòng Biên tập sách phổ biến, Phòng Biên tập sách tham khảo, Phòng Biên tập từ điển, Phòng Tổng hợp, Phòng Sản xuất. Những năm 1971 - 1972, số đầu sách xuất bản có năm lên tới năm, sáu chục cuốn, một số cuốn sách có giá trị như: ""Chống chiến tranh hóa học", "Làm đường nông thôn", "Chống trơn lầy cho ô tô", "Khai thác nước mạch tưới ruộng", "Thủy điện nhỏ"..." Giai đoạn 1975 – 1979. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất nước nhà, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật lập Chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh với nhiệm vụ đặt đề tài, biên tập, in, phát hành sách (kể cả sách do Hà Nội gửi vào) tại thành phố và các tỉnh phía Nam. Đây là thời kỳ NXB được nhà nước bao cấp, sách xuất bản theo đơn đặt hàng của nhà nước. Ấn phẩm in bằng phương pháp tipo, chất lượng sản phẩm không tốt. Nhiệm vụ lúc này của Nhà xuất bản là ra sách phục vụ sản xuất, học tập, nghiên cứu, phục hồi kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước. Nhà xuất bản đã xác định các loại sách chính cần xuất bản trong giai đoạn này là: sách tham khảo, sách công trình khoa học Việt Nam, sách phổ biến kiến thức và kỹ thuật, sách quản lý, sách từ điển. Những năm 1985 - 1987, kinh tế đất nước giảm sút, đời sống cán bộ, công nhân viên gặp nhiều khó khăn, số sách xuất bản giảm. Giai đoạn 1979 - 1986. Năm 1979, ông Nguyễn Duy Quế có quyết định Quyền Giám đốc Nhà xuất bản. Trong bối cảnh đất nước đã thống nhất, xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước, nhiệm vụ lúc này của Nhà xuất bản là ra sách phục vụ sản xuất, học tập, nghiên cứu, phục hồi kinh tế, xác định các loại sách chính cần xuất bản trong giai đoạn này là: Nhiều bộ sách, cuốn sách đầu tiên được xuất bản đã đề cập đến những vấn đề khoa học – kỹ thuật mà bạn đọc muốn tìm hiểu có ứng dụng thiết thực trong đời sống sản xuất. Những bộ sách giới thiệu về thiên nhiên đất nước; những cây thuốc Việt Nam; những kiến thức thông thường về trồng trọt chăn nuôi, chế biến nông sản, sử dụng dụng cụ điện, cơ khí, xây dựng, giao thông vận tải, năng lượng,… đã đáp ứng kịp thời những vấn đề nóng hổi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đó như vấn đề tiêu chuẩn hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm, vấn đề quản lý KH-KT, vấn đề sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Đặc biệt, mảng từ điển (gồm có từ điển diễn giải, từ điển đối chiếu song ngữ,…) sau này là thế mạnh của Nhà xuất bản về từ điển khoa học - kỹ thuật chuyên ngành bằng tiếng Anh, Nga, Pháp như: Danh từ hóa học Nga - Anh - Việt (1963), Danh từ toán học Nga - Việt (1963), Danh từ địa lý Nga - Việt (1963), Danh từ vật lý Nga - Anh - Việt (1963),… Trong điều kiện khó khăn về kinh tế chung của đất nước, giấy in thiếu thốn, kỹ thuật in typo chưa cao, nhưng số sách hàng năm vẫn ra đều, chất lượng một nâng cao. Công tác biên tập chú trọng tinh giản rút ngắn tối đa số trang bản thảo, tăng thêm lượng thông tin. Mặt khác, việc tìm tòi đề tài hay và tăng thêm thể loại sách làm cho xuất bản phẩm ngày càng phong phú và đa dạng. Tính đến năm 1985, sau hai mươi lăm năm, Nhà xuất bản đã cho ra mắt bạn đọc trên 1300 đề tài sách với hàng triệu bản in là kết quả lao động gian khổ của hàng nghìn tác giả, hàng trăm biên tập viên, hàng nghìn cán bộ công nhân viên ngành in ấn. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật còn được biết đến là một trong hai NXB tiên phong, chủ lực xuất bản sách KH-KT phục vụ phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế nông nghiệp ở miền Bắc nước ta những năm 60-70 (bên cạnh NXB Nông nghiệp). Nhìn tổng quan, sách của Nhà xuất bản đề cập đến hầu hết các ngành khoa học kỹ thuật: từ toán, lý, hóa, sinh, điều tra cơ bản, y dược, nông lâm ngư nghiệp, xây dựng, giao thông, thủy lợi, cơ khí, luyện kim, điện và điện tử, công nghệ thực phẩm cho đến ngành quản lý kinh tế và quản lý KH-KT. Mỗi cuốn sách đều trả lời được câu hỏi bạn đọc mong muốn như: "Hỏi đáp về động vật", "Hỏi đáp về thực vật", "Truyền hình thật là đơn giản", "Thiên văn học giải trí" đến những cuốn phổ biến kỹ thuật như: "Tự sửa máy thu hình", "Cấp cứu ô tô trên đường", " Cách dùng và bảo quản thuốc trừ sâu", "Sách lịch kiến thức phổ thông" (được xuất bản hằng năm kể từ năm 1983), bộ sách "Thế giới khoa học – kỹ thuật",… là những thử nghiệm được dư luận chú ý. … Thời kỳ này, sách phục vụ cho công tác của Ủy ban khoa học và kỹ thuật nhà nước, Hội phổ biến khoa học và kỹ thuật, của các Viện nghiên cứu, các bộ ngành công nghiệp, kinh tế chưa có tổ chức xuất bản chuyên ngành. Bao gồm tính chất sau: Sách của NXB chiếm vị trí quan trọng trong toàn bộ khối lượng phát hành hàng năm ở nước ta. Nhiều cuốn đã đến tay kiều bào ta ở nước ngoài và được trao đổi với các nhà khoa học, các thư viện và cá biệt một vài bảo tàng trên thế giới. Một số sách được đem đi dự các hội chợ triển lãm quốc tế, Một số cuốn đã giành được giải thưởng trong và ngoài nước. Bước đầu đã có những quan hệ với hai Nhà xuất bản lớn của Liên Xô. Sự hợp tác đó đã đem lại những kết quả tốt đẹp. Đội ngũ cán bộ biên tập, từ vài ba cán bộ chưa có trình độ khoa học, đến thời điểm này đã lên gần tới 50 người trong tổng số 85 cán bộ nhân viên của Nhà xuất bản. Các phòng ban được chuyên môn hóa. Nhà xuất bản đã xây dựng được ba phòng biên tập: phòng sách phổ biến, phòng sách tham khảo chuyên ngành và phòng từ điển. Các phòng chức năng khác được xây dựng đồng bộ. Với những thành tích nói trên, năm 1980, Nhà xuất bản đã vinh dự được Chính phủ tặng Huân chươngLao động hạng Nhất. Giai đoạn 1986 – 1993. Thời kỳ đổi mới quản lý kinh tế, chuyển sang hạch toán kinh doanh, nâng cao quyền chủ động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đã tác động tích cực đến phương hướng và nhiệm vụ của Nhà xuất bản. Đây là thời kỳ hoạt động xuất bản nhìn chung đều gặp khó khăn. Nhà xuất bản bước đầu làm quen với việc tự chủ về tài chinh, làm sách phải có lãi, tự làm, tự bán. Trước tình hình đó, Nhà xuất bản đã phải huy động cán bộ, công nhân viên, tham gia bán sách và văn hóa phẩm. Để đáp ứng yêu cầu mới, Nhà xuất bản đã điều chỉnh lại cơ cấu tổ chức, mở thêm 2 cửa hàng giới thiệu sách tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh nhằm tăng cường công tác phát hành, làm đòn bẩy cho xuất bản. Trong thời gian 1989 - 1992, đời sống cán bộ, công nhân viên đã được nâng cao một bước. Năm 1986, ông Nguyễn Mạnh Tuân có quyết định Giám đốc Nhà xuất bản. Năm 1991, PGS. TS Tô Đăng Hải là Giám đốc Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật. Những bộ sách Phổ biến kiến thức vẫn là ấn phẩm chủ đạo của thời kỳ này như: Bộ sách "Khoa học - Kỹ thuật - Đời sống", tập 1, 2, 3, 4, 5 (1987), 15.100 bản; tập 6, 7 (1987), 7.500 bản; Bộ sách "Thế giới khoa học kỹ thuật", nhiều tác giả, tập 1, 2,3,4,5 trên 50.000 bản. Giai đoạn 1993 - 2009. Ngày 16/2/1993, Nhà xuất bản đã được chuyển đổi mô hình tổ chức và hoạt động thành Doanh nghiệp nhà nước theo Quyết định số 61/QĐ, ngày 16/2/1993 của Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường. Là thời kỳ hoạt động xuất bản bắt đầu có nhiều chuyển biến, Luật xuất bản 1993 có hiệu lực thi hành. Cơ cấu, bộ máy tổ chức Nhà xuất bản đã có sự thay đổi cho phù hợp với mô hình doanh nghiệp NN hoạt động kinh doanh có tính chất đặc thù. Nhiệm vụ lúc này của Nhà xuất bản là ra sách phục vụ đổi mới quản lý kinh tế, kỹ thuật và phục vụ cho quá trình đổi mới quản lý nền kinh tế của đất nước. Để thực hiện được mục tiêu đó Nhà xuất bản tập trung định hướng  phát triển thị trường mạng lưới đội ngũ tác giả, cộng tác viên, mạng lưới phát hành trên toàn quốc và cung cấp cho các thư viện, nhà phân phối sách của một số nước có nền KH-KT phát triển trên thế giới. Đây là giai đoạn đội ngũ cán bộ, nhân viên Nhà xuất bản được đào tạo từ nước ngoài như Liên Xô, Bun-ga-ri, Tiệp Khắc…và tại các trường đại học Bách khoa Hà Nội, trường đại học Tổng hợp, Mỏ - địa chất… đang ở độ tuổi sung sức nhất, tinh thông nghề nghiệp, kiên định, cá tính, có bản lĩnh, có khát vọng xây dựng thương hiệu Nhà xuất bản cũng như thương hiệu cá nhân trên từng xuất bản phẩm. Họ đã tạo ra những bộ sách có giá trị, có sức hút lớn, có sức sống lâu dài, được tái bản nhiều lần, gắn liền với tên tuổi tác giả là các giáo sư, tiến sỹ đầu ngành trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật. Đây là giai đoạn Nhà xuất bản chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Trước đây, Tổng Công ty Phát hành sách Việt Nam bao tiêu toàn bộ đầu ra, Nhà xuất bản chỉ lo đầu vào, tổ chức đề tài, biên tập, xuất bản sách. Là một giai đoạn khó khăn của cả nước, hầu hết các đơn vị không bắt nhịp kịp. Ngành phát hành sách của cả nước đều thua lỗ kéo dài, có nhiều đơn vị trong ngành phải đóng cửa. Trước tình hình đó, Lãnh đạo Nhà xuất bản xác định đội ngũ cán bộ miền Bắc có năng lực tốt trong việc tổ chức xuất bản sách giá trị và chất lượng, còn miền Nam có lợi thế về thị trường. Từ đó có những định hướng triển khai công tác phát triển thị trường phát hành tại miền Nam và đã có một số giải pháp, hướng đi thử nghiệm mới như liên doanh liên kết trong công tác xuất bản, phương thức phát hành sách linh hoạt hơn. Sự trưởng thành về mọi mặt thể hiện trên nhiều kết quả, mang những dấu ấn nổi trội, tiên phong, khối lượng xuất bản phẩm đồ sộ có sức hút, những định hướng lớn phù hợp với thời đại đã được các Nhà xuất bản khác học tập. Nhờ uy tín của những người dẫn đầu Nhà xuất bản đã thu hút được đội ngũ tác giả, cộng tác viên giỏi, đầu ngành trên mỗi lĩnh vực. Những bộ sách, cuốn sách thuộc mảng phổ biến khoa học như: Tiên phong trong ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản trị, tác nghiệp Đánh giá ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản trị, tác nghiệp sẽ giúp làm biến đổi Nhà xuất bản, ngay từ năm 2001, khi internet còn chưa phổ biến rộng rãi, Nhà xuất bản đã xây dựng Website kết nối với các Trung tâm thông tin lớn; nối mạng tin học nội bộ các phòng, ban trong Nhà xuất bản; thực hiện tất cả các khâu từ việc hạch toán kế toán, đến biên tập, chế bản bằng máy tính,… Năm 1993, Phòng máy tính được thành lập, công đoạn chế bản sách được thực hiện bằng máy tính rút ngắn thời gian sản xuất, chất lượng sản phẩm nâng cao rõ rệt, năng suất lao động tăng cao. Tiên phong trong ứng dụng Marketing tạo ra lợi thế cho Nhà xuất bản Xác định tầm quan trọng của Marketing, từ năm 1995, Nhà xuất bản thành lập Phòng Phát hành và Marketing với ba cán bộ đầu tiên. Bước đầu thành lập, xác định tầm quan trọng của đầu ra trong việc xây dựng quan hệ giữa đội ngũ nhân viên NXB với các đối tác, khách hàng." "Định vị sản phẩm, thương hiệu, xây dựng hình ảnh NXB trong tâm trí của khách hàng. Họ đã làm việc không chỉ với trách nhiệm mà còn là tình yêu nghề nghiệp, tinh thần tận tụy vì khách hàng. Phát triển thị trường, mạng lưới phát hành trong và ngoài nước Công tác phát hành sách được đặc biệt chú trọng phát triển thị trường song song với việc đẩy mạnh khai thác bản thảo, xây dựng Trung tâm sách KHKT tại Đã Nẵng, Cần Thơ và mở rộng đại lý tại các tỉnh, thành phố, khu vực khác như hệ thống các thư viện, Nhà sách trường đại học, hệ thống Fahasa, hệ thống Tổng công ty PHS và công ty PHS các tỉnh, hệ thống công ty sách và thiết bị trường học, các Nhà sách lớn tại các thành phố lớn… Cung cấp cho các thư viện, nhà phân phối sách của các nước như Mỹ, Canada, Anh, pháp, Đức, Italia, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Autralial, Trung Quốc, Lào và một số quốc gia khác để hỗ trợ việc tiêu thụ sách, văn hóa phẩm. Tuyên truyền phổ biến thông tin khoa học – kỹ thuật thông qua sản phẩm Lịch Ngoài sách, việc tuyên truyền phổ biến thông tin về khoa học – kỹ thuật còn được khai thác trên các sản phẩm Lịch, mang dấu ấn bản sắc riêng. 365 ngày/tờ lịch là bấy nhiêu thành tựu khoa học của Việt Nam, danh ngôn hay, các mốc lịch sử, những ngày lễ, ngày kỷ niệm gắn liền với thông tin, sự kiện khoa học - kỹ thuật đất nước và thế giới, đánh dấu thương hiệu Nhóm Lịch khoa học - kỹ thuật trong giai đoạn từ 1991 - 2006 với tập hợp của 12 Nhà xuất bản. Nhà xuất bản được lựa chọn làm một trong bốn nhóm trưởng nhóm Lịch. Việc xuất bản lịch blốc trong giai đoạn này là ưu thế của các nhà xuất bản và được thực hiện như các xuất bản phẩm khác để bù lỗ cho hoạt động xuất bản sách là sản phẩm đặc thù. Tuy nhiên, năm 2005, chủ trương của Bộ VHTT tại Hội nghị Tổng kết hoạt động xuất bản 2005 là đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động xuất bản lịch blốc. Trước năm 2008, công tác khai thác đề tài của Nhà xuất bản đươc đánh giá khá mạnh, giai đoạn này đã cho ra đời những bộ sách có giá trị tạo nên thương hiệu Nhà xuất bản. Quá trình khai thác đề tài phụ thuộc vào biên tập viên, mảng đề tài được phân công sẽ phát triển mạnh hay yếu phụ thuộc vào chính người biên tập viên (do kinh nghiệm cũng như kiến thức chuyên ngành và mạng lưới quan hệ của biên tập viên) nên định hướng đề tài có giai đoạn tập trung, có giai đoạn dàn trải do tác động của sự thay đổi đội ngũ biên tập viên. Giai đoạn này Nhà xuất bản mạnh ở mảng đề tài sách tự đầu tư vốn kinh doanh là giáo trình các trường đại học lớn như Trường Đại học Bách Khoa, Xây dựng, Kinh tế…Phần lớn giáo trình của những trường này được nhiều trường cao đẳng, đại học trong cả nước sử dụng làm giáo trình, hoặc sách tham khảo cho trường mình. Dòng sách nổi bật trong giai đoạn này là sách Điện, Điện tử, Cơ khí, Tự động hóa, Xây dựng, Kiến trúc, Sinh học, Hóa học, Môi trường và Từ điển trên mọi chuyên ngành. Quá trình xuất bản giai đoạn này mang rõ nét của quá trình sản xuất đẩy kết hợp sản xuất kéo, là giai đoạn hưng thịnh nhất về các xuất bản phẩm của Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật. Giai đoạn 2009 - 2010. Đến năm 2008, Giám đốc Nhà xuất bản là TS. Phạm Văn Diễn. Đây cũng là một trong những giai đoạn khó khăn nhất của Nhà xuất bản và của ngành xuất bản nói chung. Trong bối cảnh các nhà xuất bản chuyên ngành của các trường đại học được thành lập, trùng về mảng đề tài, kinh phí từ ngân sách nhà nước cho hệ thống thư viện bị cắt giảm đáng kể, sự phát triển mạnh mẽ của internet trong điều kiện bản quyền sách chưa được bảo vệ thỏa đáng, sách của nhà xuất bản bị in lậu công khai đưa vào cả hệ thống một số thư viện của trường đại học, các nhà sách không ưu tiên cho mảng đề tài khoa học mà thay thế bằng những mảng sách thị trường bán chạy có chiết khấu cao. Hệ thống mạng lưới phát hành dần bị co hẹp. Tồn kho sách nhiều trong khi số lượng in chưa kịp điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu thực tế của thị trường. Lịch Block được xã hội hóa, đội ngũ cán bộ, biên tập viên đến tuổi nghỉ chế độ hàng loạt, Nhà xuất bản lâm vào cảnh khó khăn, các cán bộ trẻ cũng chuyển công tác. Đội ngũ nhân viên mới được nhận về còn rất non trẻ, hầu hết chưa có kinh nghiệm cũng phải tập trung bồi dưỡng đào tạo. Cơ sở vật chất cũ, thiết bị làm việc thiếu thốn. Ngoài ra hoạt động dưới mô hình doanh nghiệp Nhà nước nên NXB gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy động vốn cho sản xuất kinh doanh vì tài sản cố định hầu như không có, trụ sở làm việc tại 70 Trần Hưng Đạo hiện xuống cấp nghiêm trọng (đã sử dụng 26 năm) khấu hao gần hết nguyên giá. Việc vay vốn Ngân hàng chỉ dựa vào tín chấp nên hạn mức tín dụng Ngân hàng dành cho NXB không đảm bảo nhu cầu sản xuất kinh doanh, không vận dụng được quy định của Luật Xuất bản, cơ quan chủ quản phải cấp vốn ban đầu và đảm bảo các điều kiện cần thiết để nhà xuất bản hoạt động. Các khó khăn khi thực hiện theo mô hình doanh nghiệp: Các Nhà xuất bản nói chung và Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật nói riêng phải đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ, nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005, chậm nhất là đến ngày 1/7/2010, các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) sẽ phải chuyển đổi thành công ty TNHH hoặc công ty cổ phần. Nhằm tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng và quản lý toàn diện của Nhà nước đối với công tác xuất bản sách Khoa học kỹ thuật phục vụ cho sự nghiệp phát triển khoa học công nghệ nước nhà; sự cần phải thiết chuyển đổi Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật từ mô hình doanh nghiệp nhà nước sang mô hình đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ để tháo gỡ khó khăn và tạo điều kiện cho Nhà xuất bản hoạt động hiệu quả hơn, tháng 7/2010 được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ đã ký Quyết định số 1183/QĐ-BKHCN chuyển đổi Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật thành đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ. Giai đoạn 2010 - 11/2020. Từ năm 2010 đến 2012, sau 2 năm chuyển đổi mô hình với nhiều nỗ lực cố gắng của các cơ quan chỉ đạo, quản lý hoạt động xuất bản, cơ quan chủ quản nhà xuất bản, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật đã góp phần vào cung cấp thông tin tri thức, luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước về KH&CN, đóng góp có hiệu quả vào việc nâng cao trình độ lý luận và kiến thức cho đội ngũ cán bộ làm công tác khoa học và đội ngũ sinh viên, giảng viên trong các trường đại học.Với sứ mệnh của mình, các đề tài của Nhà xuất bản bước đầu đã hướng tới việc xuất bản sách KH&CN phục vụ công tác quản lý của Bộ như sau: Tháng 5/2012 ông Phạm Ngọc Khôi được cử về làm Phó giám đốc NXB. Ông Đồng Khắc Sủng, Phó giám đốc nghỉ hưu theo chế độ. Ban Giám đốc còn hai người, Nhà xuất bản bước vào giai đoạn mới. Năm 2013 ông Phạm Ngọc Khôi được bổ nhiệm Giám đốc – Tổng biên tập Nhà xuất bản, trên cơ sở các nhiệm vụ được phê duyệt kế hoạch hàng năm. Thời gian này Nhà xuất bản liên tiếp bị tác động mạnh mẽ trước những biến động của ngành do yêu cầu hội nhập quốc tế, với sự kiện gia nhập công ước Berne, bị tác động bởi điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp 2005 và gần đây nhất là sự bổ sung, sửa đổi của Luật Xuất bản 2012. Trong giai đoạn này Nhà xuất bản đã gặp nhiều khó khăn do không nhận biết, đánh giá được các rủi ro tiềm ẩn cũng như có những phản ứng tích cực để đối phó.   Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật được tổ chức theo cơ cấu tổ chức của đơn vị sự nghiệp xuất bản có thu, tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động thường xuyên. Mô hình sự nghiệp có thu mang tính chất phát triển về văn hóa nhưng vẫn có những hoạt động cung ứng dịch vụ công tạo nguồn thu từ một số sản phẩm khác. Hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của nhà xuất bản nằm trong sự kiểm soát của các cơ quan chủ quản. Công tác biên tập của Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật góp phần nâng cao chất lượng bản thảo, cho ra đời những cuốn sách có chất lượng. Hằng năm Nhà xuất bản đều có những đề tài đạt giải thưởng Sách Việt Nam do Hội xuất bản tổ chức. Bên cạnh đó, NXB KHKT cũng liên kết với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật xuất bản được cuốn sách "Hỏi đáp về Biến đổi khí hậu" với số lượng in là 24.000 bản, phân phát đến tận các xã, phường, tổ chức, không để sai sót trong quá trình biên soạn. Chương trình sách Nhà nước đặt hàng, sách Chương trình mục tiêu Quốc gia do Cục xuất bản tổ chức đã được Nhà xuất bản triển khai và có những kết quả tốt, doanh thu năm sau cao hơn năm trước, sách đáp ứng yêu cầu của Cục Xuất bản, phục vụ cho đúng các đối tượng vùng sâu, vùng xa, nâng cao dân trí và được phát hành đúng đối tượng, đúng mục đích của chương trình, dự án yêu cầu. Đến tháng 9 năm 2018, ông Võ Tuấn Hải phụ trách Nhà xuất bản đến hết tháng 10/2020. Giai đoạn này Nhà xuất bản bắt tay vào kiện toàn tổ chức. Việc đầu tiên là hoàn thành công tác tuyển dụng viên chức. Căn cứ Công văn số 3887/BKHCN-TCCB ngày 04/12/2019 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ về việc tuyển dụng viên chức sự nghiệp năm 2019 cho Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, kế hoạch số 708/KH-BKHCN ngày 17 tháng 3 năm 2020 của Bộ Khoa học và Công nghệ về việc tổ chức tuyển dụng viên chức năm 2020 của Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, tháng 7/2020, Nhà xuất bản đã hoàn thành công tác tuyển dụng viên chức sau nhiều năm vướng mắc chưa được triển khai, cũng thời gian này, các bộ quy chế được bắt tay vào xây dựng và hoàn thiện. Các cán bộ được cử đi học nâng cao trình độ chuẩn bị cho giai đoạn phát triển sau. Từ tháng 11/2020 - nay. Từ tháng 11/2020, ông Bùi Minh Cường làm Quyền Giám đốc Nhà xuất bản. Ngay từ khi nhận nhiệm vụ tại Nhà xuất bản, ông Bùi Minh Cường đã có những chỉ đạo quan trọng trong viêc kiện toàn tổ chức, ổn định đội ngũ và những định hướng chiến lược, trực tiếp chỉ đạo, điều hành Tổ chức Lễ kỷ niệm 60 thành lập Nhà xuất bản. Trong suốt sáu thập kỷ qua, tùy theo từng thời kỳ lịch sử với nhiệm vụ của mình, các thế hệ cán bộ Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật đã xuất bản những bộ sách, mảng sách, đề tài hữu ích,… Ngày nay, trong bối cảnh mới, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và gần đây nhất, đại dịch Covid-19 đã tác động mạnh đến ngành xuất bản. Các hội sách bị hủy bỏ, chuyển sang hình thức trực tuyến theo hướng đẩy mạnh chuyển đổi tài nguyên số. Nền xuất bản thế giới đang chứng kiến sự bứt phá của công nghệ thông tin đã tạo ra một siêu lộ thông tin toàn cầu, làm cho không gian và thời gian truyền tin được rút ngắn tối thiểu. Việc chuyển dịch mạnh mẽ từ hình thức xuất bản truyền thống sang nhiều hình thức khác nhau như xuất bản điện tử, phát hành và công bố tác phẩm trên mạng Internet, phát triển phương tiện nghe, nhìn, đọc sách trên mạng di động,… đang trở thành xu thế của thế giới hiện đại... Các chuỗi cung ứng truyền thống của ngành công nghiệp xuất bản thay đổi trong điều kiện của cuộc cách mạng kỹ thuật số trong ngành công nghiệp. Tác động đầu tiên là công nghệ in ấn; sau đó, kỹ thuật thương mại điện tử đã làm thay đổi hệ thống hậu cần và quản lý quan hệ khách hàng. Như vậy, khi các loại xuất bản dưới hình thức kỹ thuật số phát triển, doanh thu của sách giấy của Nhà xuất bản sẽ giảm dần. Tiếp đến, các đối thủ cạnh tranh của Nhà xuất bản ngày càng nhiều, ngoài các tổ chức Nhà xuất bản được Nhà nước cấp phép thì bằng một cách không chính thống, dưới một hình thức khác, rất nhiều tổ chức, cá nhân đều có cơ hội để tự tổ chức xuất bản phục vụ cho mục đích của mình thông qua hình thức tự đầu tư xuất bản và thông qua mạng internet. Xu hướng xuất bản hiện nay của thế giới không những đa dạng hóa các loại hình xuất bản, là xu hướng rất phát triển ở các nước tiên tiến và đang cạnh tranh gay gắt với xu hướng xuất bản truyền thống, cách đọc truyền thống… Bởi vậy, xuất bản phẩm hiện nay rất đa dạng, nhiều loại hình khác nhau nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người đọc và tạo thành một xã hội học tập. Xu hướng này đang phát triển mạnh mẽ và sẽ tác động dần tới Nhà xuất bản thông qua nhiều con đường khác nhau, điển hình những cuốn sách của Nhà xuất bản được chia sẻ công khai trên các diễn đàn, các trang web, vi phạm bản quyền và gây ảnh hưởng tới hoạt động cũng như thiệt hại về tài chính cho Nhà xuất bản. Đây là thuận lợi nhưng cũng là khó khăn đối với các nhà xuất bản hiện nay. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật không còn ở vị trí như trước nữa, sự đổi mới lần này sẽ phải toàn diện và mạnh mẽ. Những thuận lợi và thách thức đến từ kỷ nguyên số cho thấy, đã đến lúc Nhà xuất bản không thể chỉ dựa vào nội dung tác phẩm, danh tiếng của tác giả như trong quá khứ, mà còn cần phải biết đáp ứng, tiếp cận người đọc trên các nền tảng công nghệ mở và với dòng sách thiết thực, sát và định hướng nhu cầu của bạn đọc hơn. Trong công cuộc đổi mới và sáng tạo hiện nay, một lần nữa Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật mong muốn những ấn phẩm mới của mình mang hơi thở mới của Chiến lược phát triển KH&CN giai đoạn 2011-2020 đến năm 2030, có thương hiệu trong chiến lược đổi mới; tác động tốt và có sức lan tỏa mạnh mẽ, góp phần nâng cao nhận thức về vai trò và ý nghĩa của đổi mới sáng tạo trong quá trình đổi mới công nghệ Quốc gia; nâng nền kinh tế phát triển trong chuỗi giá trị, hội nhập vào các chuỗi cung ứng, tiếp cận người đọc trên các nền tảng công nghệ số… Tính đến năm 2020, trải qua sáu thập kỷ, Nhà xuất bản đã xuất bản trên 20.000 đầu sách với hàng tỷ bản in tăng vượt trội so với thời điểm năm 1985 là 1300 đầu sách. Năm 2010, tham gia Chương trình hỗ trợ tài liệu và sách đến 28 Trường đại học và Viện nghiên cứu mới thành lập hoặc ở những địa bàn khó khăn. Năm 2018, kết nối 20 tổ chức có như cầu đầu tư trang bị Không gian đọc Đổi mới và sáng tạo. Là cơ sở đào tạo thực tiễn cho sinh viên trường đại học Văn hóa, Học viện Báo chí, một số trường khối kinh tế, là nơi thực tập nghề nghiệp. Tham gia các buổi định hướng nghề nghiệp cho sinh viên, tọa đàm hội thảo khoa học, chuyên môn, nói chuyện thực tế, chia sẻ kinh nghiệm của người làm nghề xuất bản... Là kết quả lao động gian khổ của nhiều thế hệ đội ngũ tác giả, cộng tác viên, biên tập viên, cán bộ NXB qua các thời kỳ phục vụ sự phát triển KH&CN. Góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước thực hiện nhiệm vụ quản lý và phát triển KH&CN của Bộ KH&CN. Từng bước trang bị và nâng cao tri thức KH&CN trong và ngoài nước cho các đối tượng học sinh, sinh viên, các nhà khoa học, các cán bộ doanh nghiệp, các nhà hoạch định chính sách thuộc các lứa tuổi, vùng miền. Đóng góp tích cực cho việc nhận thức, hiểu biết, ứng dụng KH&CN, giúp nâng cao năng suất lao động của doanh nghiệp, địa phương, quốc gia. Quá trình đó đã diễn ra không biết mệt mỏi, trải qua nhiều năm tháng với những nỗ lực không ngừng của nhà xuất bản với mạng lưới liên kết đội ngũ tác giả, cộng tác viên và các độc giả. Xuất bản trên 40 mảng đề tài bao phủ các ngành khoa học như Cơ khí Động lực và KHCN Nhiệt lạnh; Công nghệ thông tin và truyền thông; Giao thông và đô thị; Hóa học, Công nghệ Hóa học & Dầu khí; Pháp luật & Quản lý KHCN; KH môi trường & khí hậu; Khoa học phổ biến; Sinh học, công nghệ Sinh học & công nghệ thực phẩm; Toán học,Thống kê & Ứng dụng; Khoa học Giáo dục & Tâm lý học; Vật lý & Thiên văn học; Xây dựng, Kiến trúc; Y, Dược, Sinh lý học; Địa lý, Thiên văn; Kỹ thuật Điện; Điều khiển tự động; Kỹ thuật công nghệ có liên quan; Kinh tế, Kinh doanh và Quản lý; Điện tử Viễn thông; Cơ khí, Chế tạo máy; Khoa học & Kỹ thuật Vật liệu; Khoa học Trái đất và Địa lý; Khoa học Xã hội và Nhân văn; và các tủ sách Từ điển,ngoại ngữ chuyên ngành; chương trình Sách Nhà nước đặt hàng; Sách chương trình mục tiêu; Sách chương trình tiên tiến; Sách Quản trị Công nghệ... Xuất bản trên 200 từ điển các loại, phủ khắp các lĩnh vực chuyên ngành. Trên 100 giải thưởng trong nước và Quốc tế về sách khoa học – công nghệ và quản lý. Truyền thông, giới thiệu những cuốn sách có tác động lớn tới xã hội như: "An toàn điện hạt nhân" " Cách mạng công nghiệp lần thứ tư" "Công nghệ và chuyển giao công nghệ" có ý nghĩa vô cùng quan trọng và cấp thiết, khi Việt Nam đang trong giai đoạn chuẩn bị các nguồn lực. Đánh giá tác động, xây dựng niềm tin, định hướng dư luận và tạo đồng thuận xã hội. Cho ra đời của Không gian đọc đổi mới và sáng tạo: Là dự án giữa Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật với KisStartup trong tổng hòa giới thiệu các cuốn sách hay, kinh điển và quan trọng về đổi mới sáng tạo từ nhiều nhà xuất bản khác nhau với việc tìm kiếm và dịch thuật những cuốn sách từ nước ngoài cũng như nguồn bản thảo từ các tác giả trong nước.Đã lựa chọn và giới thiệu 50 đầu sách của các Nhà xuất bản trong nước được dịch từ các cuốn sách đã có tiếng vang và tầm ảnh hưởng trên thế giới và bước đầu đã kết nối được hơn 20 tổ chức có nhu cầu trang bị và kết nối thiết kế các không gian đọc sáng tạo của đơn vị mình. Những cuốn sách đầu tiên của Nhà xuất bản về đề tài Đổi mới sáng tạo và Khởi nghiệp được mua bản quyền, tổ chức xuất bản và giới thiệu sách tại Ngày hội khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Quốc gia TECHFEST hàng năm, từ 2015 đến nay như: "Dữ liệu lớn – cuộc cách mạng thay đổi chúng ta và thế giới" do Rob Thomas và Patrick McSharry nêu bật sức mạnh, tiềm năng và cả những cạm bẫy của dữ liệu lớn, cung cấp nhãn quan thấu đáo, cần thiết để cải thiện các kết quả kinh doanh bằng việc đổi mới và sử dụng công nghệ hiệu quả; "Kinh doanh bằng tiền của khách hàng", "Vươn ra khỏi thung lũng Silicon", "Tư duy thiết kế để đổi mới chiến lược: Những gì họ không thể dạy bạn tại trường kinh doanh hoặc trường thiết kế"... là những cuốn sách viết về những mô hình kinh doanh mới, khuyến khích những hành động, thay đổi các nhà sản xuất và đổi mới sáng tạo khi họ vạch ra con đường về phía trước, dù ở bất kỳ vị trí địa lý hay nền văn hóa nào. Những cuốn cẩm nang về cách mơ lớn - và cách biến những giấc mơ khởi nghiệp đó thành hiện thực cho những người sở hữu nó đã được xuất bản bởi những tác giả nổi tiếng trong lĩnh vực của họ, không chỉ góp phần trong việc thúc đẩy hỗ trợ quá trình đổi mới sáng tạo mà còn góp phần vào sự thay đổi tư duy của tổ chức, doanh nghiệp trong hành trình của chính mình. Tổ chức biên tập, xuất bản và phát hành "Sách vàng Sáng tạo Việt Nam" từ năm 2016 đến năm 2020. 75 công trình sáng tạo của tác giả, nhóm tác giả được tuyển chọn tuyên truyền, vận động, khơi dậy niềm tự hào về trí tuệ Việt Nam, phát huy năng lực sáng tạo của dân tộc để góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước. Tổ chức biên tập, xuất bản "Sách Trắng Khoa học và Công nghệ Việt Nam" từ năm 2014. Cung cấp nhiều thông tin mới về đường lối, chủ trương, chính sách của Nhà nước về KH - CN, những cải cách về chính sách phát triển KH - CN, tiềm lực, thành tựu KH - CN… một bức tranh toàn diện hơn về nhận thức của công chúng về KH - CN. Kết quả này sẽ là cơ sở khoa học quan trọng để giúp các nhà quản lý, hoạch định chính sách có những quyết sách hợp lý để thúc đẩy KH - CN Việt Nam phát triển. Đạt hơn 100 giải thưởng "Giải thưởng Sách Việt Nam" và đạt một số giải thưởng của các hội, ngành, lĩnh vực KH-CN. Một số cuốn đạt giải thưởng trong mấy năm gần đây: Với những dấu ấn của mình Nhà xuất bản đã phấn đấu làm tốt vai trò bà đỡ cho những tác phẩm về nhiều phương diện của đời sống xã hội đến được với công chúng. Từ một quốc gia thiếu sách vào những năm 80 – 90 thế kỷ XX, Nhà xuất bản đã vươn lên góp phần đáp ứng nhu cầu học tập, của học sinh, sinh viên, đồng thời đáp ứng ngày càng tốt hơn văn hóa đọc. Qua các xuất bản phẩm của mình, Nhà xuất bản mong muốn: "Sách vừa là công cụ vừa là nguồn lực trọng tâm để đạt được khát vọng phát triển".
1
null
"Children" là một bản hòa tấu không lời của nhạc sĩ trance người Ý Robert Miles. Nó được phát hành vào tháng 1 năm 1995 trong EP "Soundtracks" của Joe Vanelli qua hãng đĩa DPX, song không được xếp hạng. Venelli mang ca khúc tới một hộp đêm ở Miami và được Simon Berry của Platipus Records chú ý. Berry cùng Vanelli và James Barton (từ hộp đêm Cream ở Liverpool) cho phát hành ca khúc sau đó vào tháng 11 dưới dạng đĩa đơn cho album "Dreamland". Ca khúc trở thành đĩa đơn thành công nhất sự nghiệp của Miles, giành chứng chỉ Vàng và Bạch kim, ngoài ra còn đạt vị trí quán quân ở 12 quốc gia khác nhau. Tiểu sử và sáng tác. Miles đã tiết lộ hai nguồn cảm hứng chính để tạo nên "Children". Một là để đáp lại những bức ảnh các nạn nhân trẻ em trong chiến tranh mà bố ông đã mang về nhà từ một sứ mệnh nhân đạo ở Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư; những sáng tác khác, lấy cảm hứng từ sự nghiệp bản thân như một DJ, là tạo ra một ca khúc kết thúc bộ DJ, mục đích để trấn an ứng viên đầu tiên lái xe về nhà như một phương tiện để giảm tử vong tai nạn xe hơi. "Children" là một trong những bài hát tiên phong của thể loại âm nhạc Dream house, một thể loại nhạc dance điện tử đặc trưng bởi những giai điệu đàn piano giống như giấc mơ . Việc tạo ra các ngôi nhà mơ ước là một phản ứng với áp lực xã hội ở Ý vào đầu những năm 1990: sự phát triển của nền văn hóa ca ngợi ở người lớn, và sự phổ biến tiếp theo tham dự câu lạc bộ đêm, đã tạo ra một xu hướng hàng tuần các ca tử vong do tai nạn xe như hộp đêm lái xe đến đất nước qua đêm, ngủ ở bánh xe từ nhảy múa vất vả cũng như rượu và dùng ma túy. Vào giữa năm 1996, tử vong do hiện tượng này, được gọi là strage del Sabato huyết thanh (Thứ bảy đêm giết mổ) tại Ý, đã được ước tính khoảng 2.000 kể từ đầu thập kỷ này. Ăn theo các DJ như Miles để chơi chậm hơn, làm dịu âm nhạc để kết thúc bộ một đêm, như một phương tiện để chống lại các bài có nhịp độ nhanh, lặp đi lặp lại trước đó, đã được đáp ứng với sự chấp thuận của chính quyền và cha mẹ của các nạn nhân tai nạn xe hơi. Nhà phê bình Boris Barabanov khẳng định sự giống nhau giữa "Children" và bài hát "Napoi menia vodoi" của Garik Sukachov, và thừa nhận bài hát "Napoi menia vodoi" được viết trước "Children". Ca sĩ Nga Garik Sukachov giải thích rằng ông đã đồng ý về việc sử dụng giai điệu của mình bởi các đối tác Ý.
1
null
Khu huy Khu hành chính đặc biệt Ma Cao là huy chương đại diện cho Ma Cao. Thiết kế của khu huy là hình tròn, màu lục làm nền, ở trung tâm có một hoa sen ba cánh màu trắng, trên hoa có năm sao năm cánh màu vàng. Khu huy được chính thức sử dụng kể từ khi chuyển giao chủ quyền Ma Cao ngày 20 tháng 12 năm 1999. Khu huy được hội nghị lần thứ nhất của Đại hội đại biểu toàn quốc Trung Quốc khóa 8 thông qua vào ngày 31 tháng 3 năm 1993. Khu huy có hình tròn, có một viền màu lục, văn tự nằm tại vòng ngoài, vòng trong có nền lục và một hoa sen. Văn tự màu xanh nằm giữa viền đỏ bên ngoài và hình xanh bên trong, trên nền trắng. Ở phần trên của vòng ngoài xếp đều dòng chữ ""中華人民共和國澳門特別行政區" (Trung Hoa Nhân dân Cộng hòa quốc Áo Môn đặc biệt hành chính khu) theo Trung văn phồn thể dạng tiêu chuẩn khu huy, hướng về trung tâm của khu huy. Ở phần dưới của vòng ngoài xếp đều dòng chữ tiếng Bồ Đào Nha "MACAU" dạng tiêu chuẩn khu huy, hướng về trung tâm của khu huy. Dòng chữ tiếng Trung, tiếng Bồ Đào Nha được phân bố đối xứng theo tuyến trục giữa của khu huy.<ref name="lei6/99"></ref> Hoa sen tại vòng trong do ba cánh hoa tổ thành, trên hoa sen có một sao lớn và bốn sao nhỏ năm cánh màu vàng, sao lớn nằm giữa các sao. Các sao hướng về điểm trung tâm của khu huy, phân bố đều. Bên dưới hoa sen là cầu lớn màu trắng và màu trắng xanh đan xen thể hiện nước biển sâu dần. Khu huy có ba kích cỡ tiêu chuẩn theo đường kính là 100 cm, 80 cm, 60 cm, nếu một khu huy có kích cỡ khác với tiêu chuẩn do nhu cầu đặc thù, nó phải tuân theo kích cỡ tiêu chuẩn để phóng to hay thu nhỏ. Tổng cộng nhận được 782 tác phẩm thiết kế khu kỳ và khu huy Ma Cao, qua nhiều lần bình thẩm chọn được ba thiết kế khu kỳ. Phó chủ tịch Ủy hội soạn thảo luật Cơ bản Ma Cao là Tiền Vĩ Trường nhận định rằng Ma Cao không trải qua chiến tranh quá trọng đại, xung quanh là nước, màu xanh tượng trưng cho hòa bình mỹ hảo, đề nghị có thể xem xét để khu kỳ và khu huy sử dụng màu xanh. Đương thời, Chủ nhiệm ủy ban Hồng Kông và Ma Cao của Quốc vụ viện là Cơ Bằng Phi cho rằng nếu khu kỳ Ma Cao cũng có màu đỏ tương tự như khu kỳ Hồng Kông thì không có vấn đề, song cũng không có quy định khu kỳ của khu hành chính đặc biệt nhất định phải là màu đỏ, sau đó nói một câu rằng "quốc kỳ màu đỏ, khu kỳ màu xanh, hồng hoa phối lục diệp".
1
null
Jean Maurice Eugène Clément Cocteau (; 5.7.1889 – 11.10.1963) là nhà thơ, tiểu thuyết gia, nhà thiết kế, người viết kịch bản, nghệ sĩ, đạo diễn phim người Pháp và là viện sĩ Viện hàn lâm Pháp. Cocteau nổi tiếng về quyển tiểu thuyết "Les Enfants Terribles" (1929), cùng các phim "Le sang d’un poète" (1930), "Les Parents Terribles" (1948), "La belle et la bête" (1946) và "Orphée" (1949). Giới cộng tác viên, người yêu và bạn bè thân cận của ông gồm có Kenneth Anger, Pablo Picasso, Jean Hugo, Jean Marais, Henri Bernstein, Yul Brynner, Marlene Dietrich, Coco Chanel, Erik Satie, Igor Stravinsky, María Félix, Édith Piaf, Panama Al Brown và Raymond Radiguet. Thời niên thiếu. Cocteau sinh ngày 5.7.1889 tại Maisons-Laffitte - một ngôi làng gần Paris – là con của Georges Cocteau và Eugénie Lecomte. Cocteau có một chị gái, Marthe (1877-1958) và một anh trai, Paul (1881-1961). Cha ông là luật sư và họa sĩ nghiệp dư, đã tự tử khi Cocteau lên 9 tuổi. Năm 15 tuổi Cocteau bỏ nhà ra đi. Năm 19 tuổi Cocteau xuất bản tập thơ đầu tiên của mình nhan đề "La Lampe d'Aladin" (Cây đèn (thần) của Aladin). Cocteau sớm nổi tiếng trong giới nghệ sĩ Bohème như là "Le Prince frivole" ("Hoàng tử lông bông"), theo tên một tác phẩm mà ông xuất bản năm 22 tuổi. Edith Wharton đã mô tả ông là người "mà mỗi dòng thơ lớn là một bình minh, mỗi hoàng hôn là sự thiết lập một thành phố thiên đàng..." Cuộc đời và Sự nghiệp. Ngay khi mới ngoài 20 tuổi, Cocteau đã kết bạn với các nhà văn Marcel Proust, André Gide và Maurice Barrès. Năm 1912, ông hợp tác với Léon Bakst để viết vở Ba-lê Le Dieu bleu cho đoàn Ballets Russes mà những diễn viên múa chính là Tamara Karsavina và Vaslav Nijinsky. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất Cocteau làm tài xế lái xe cứu thương cho Hội Chữ thập đỏ. Thời gian này ông gặp nhà thơ Guillaume Apollinaire, họa sĩ Pablo Picasso, Amedeo Modigliani, và nhiều nhà văn, nghệ sĩ khác mà sau này ông cộng tác với họ. Năm 1917 ông bầu người Nga Sergei Diaghilev của đoàn Ballets Russes thuyết phục Cocteau viết một kịch bản cho vở Ba-lê Parade. Vở này do Sergei Diaghilev sản xuất, Picasso vẽ phông cảnh, lời của Apollinaire và âm nhạc của Erik Satie. Vở Ba-lê này sau đó được mở rộng thành một vở opera đầy đủ, với âm nhạc của Erik Satie, Francis Poulenc và Maurice Ravel. Cocteau cũng viết lời cho vở opera-oratorio Oedipus rex của Igor Stravinsky, được trình diễn lần đầu ở Théâtre Sarah Bernhardt, Paris ngày 30.5.1927. Là người nhiệt tình ủng hộ nghệ thuật tiền phong, Cocteau có ảnh hưởng lớn trên tác phẩm của những người khác, trong đó có nhóm nhạc sĩ sáng tác Les six (nhóm 6 người). Đầu thập niên 1920, ông và những thành viên khác của nhóm "Les six" hay đến quán rượu rất được ưa chuộng tên là Le Boeuf sur le Toit, một cái tên do chính Cocteau góp phần chọn lựa. Quán này được ưa chuộng phần lớn cũng bởi sự có mặt của Cocteau và các bạn của ông. Năm 1918 ông gặp nhà thơ Pháp Raymond Radiguet. Họ đã hợp tác chặt chẽ với nhau, và đã cùng nhau tiến hành nhiều chuyến đi và những kỳ nghỉ chung với nhau. Cocteau cũng đã tìm cách cho Radiguet được miễn nghĩa vụ quân sự. Ngưỡng mộ tài năng văn chương lớn của Radiguet, Cocteau đã giới thiệu các tác phẩm của bạn mình trong giới bạn bè nghệ sĩ và dàn xếp để nhà xuất bản Grasset in quyển Le Diable au corps của Radiguet (một tiểu thuyết phần lớn là tự truyện về một cuộc ngoại tình giữa một người phụ nữ đã lập gia đình và một chàng trai trẻ), dùng ảnh hưởng của mình để quyển tiểu thuyết này được trao giải thưởng văn học Nouveau Monde. Một số nhà bình luận đương thời và sau này cho rằng có thể đã có một yếu tố tình dục lãng mạn trong tình bạn của họ. Bản thân Cocteau cũng đã biết được lời đồn này, nên đã cố tìm cách xua tan quan niệm cho rằng mối quan hệ của họ có yếu tố tình dục. Có sự bất đồng ý kiến về phản ứng của Cocteau đối với cái chết thình lình của Radiguet vào năm 1923. Một số người cho rằng cái chết thình lình này đã khiến ông choáng váng, chán nản và dễ tìm quên trong việc nghiện thuốc phiện. Những người phản đối ý kiến nêu trên chỉ ra rằng ông đã không tham dự đám tang của Radiguet (Cocteau thường không tham dự các tang lễ) và ngay lập tức rời Paris đi cùng Diaghilev cho việc trình diễn vở Les Noces (Đám cưới) của đoàn Ballets Russes ở Monte Carlo. Việc Cocteau nghiện thuốc phiện vào thời điểm đó, theo ông, chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, do sự gặp gỡ Louis Laloy, người quản lý nhà hát Opéra de Monte-Carlo. Việc hút thuốc phiện và nỗ lực cai nghiện của Cocteau đã thay đổi văn phong của ông cách sâu xa. Quyển sách nổi tiếng của ông - quyển Les Enfants Terribles – đã được viết trong một tuần lễ trong một cuộc cai thuốc phiện vất vả. Trong quyển "Opium: Journal d'une désintoxication", ông kể lại kinh nghiệm của mình về việc cai nghiện thuốc phiện vào năm 1929. Trong thời gian cai nghiện, Cocteau đã được các bạn bè và nhất là triết gia Jacques Maritain giúp đỡ. Do ảnh hưởng của Maritain, Cocteau đã tạm thời trở lại lãnh các bí tích của Giáo hội Công giáo. Cuối đời, ông hoàn toàn trở về với Giáo hội Công giáo và thực hiện một số dự án nghệ thuật tôn giáo. Năm 1930 Cocteau viết vở kịch La Voix humaine. Đây là vở kịch độc thoại, mô tả một phụ nữ nói chuyện điện thoại với người yêu (vô hình) bỏ nàng ra đi để kết hôn với một phụ nữ khác. Vở này được trình diễn lần đầu trên sân khấu nhà hát Comédie-Française năm 1930. Vở kịch này đã gợi hứng cho nhiều tác phẩm mô phỏng theo: vở opera La voix humaine của Francis Poulenc, vở "opera buffa" The Telephone của Gian Carlo Menotti và phiên bản phim Ý L'Amore (1948) của Roberto Rossellini do nữ diễn viên Anna Magnani diễn xuất. Trong thập niên 1930, Cocteau có quan hệ tình ái với công chúa Natalie Paley, con gái của đại công tước Nga Romanov. Bà là vợ cũ của người chủ nhà may quần áo nữ nổi tiếng Lucien Lelong. và thỉnh thoảng cũng làm diễn viên, người mẫu. Mối quan hệ lâu dài nhất của Cocteau là quan hệ đồng tính luyến ái với nam diễn viên Jean Marais và quan hệ với Édouard Dermit, người mà Cocteau chính thức nhận làm con nuôi. Cocteau đã đưa Marais vào đóng các phim "L'Éternel retour" (1943), La belle et la bête (1946), Ruy Blas (1947), và Orphée (1949). Người viết tiểu sử James S. Williams mô tả xu hướng chính trị của Cocteau là "hữu khuynh". Trong thời kỳ Đức Quốc xã chiếm đóng nước Pháp, người bạn Arno Breker đã thuyết phục ông rằng Adolf Hitler là một người yêu chuộng hòa bình và là người bảo trợ nghệ thuật, có thiện ý với Pháp. Trong nhật ký của mình, Cocteau cáo buộc Pháp thiếu tôn trọng và suy đoán về khuynh hướng tình dục của Hitler. Cocteau nồng nhiệt ca ngợi các tác phẩm điêu khắc của Breker trong một bài báo có tựa đề "Salut à Breker" xuất bản năm 1942. Điều này khiến sau khi chiến tranh kết thúc, Cocteau bị buộc tội hợp tác với kẻ thù; tuy nhiên ông đã được xóa mọi nghi ngờ về hành vi sai trái và trong thực tế ông đã sử dụng các mối quan hệ của mình trong cố gắng bất thành để cứu bạn bè như Max Jacob. Năm 1940, Cocteau viết vở kịch "Le Bel Indifférent" do Édith Piaf đóng vai chính, đã rất thành công. Ông cũng đã làm việc với Pablo Picasso trong một số dự án và là bạn của hầu hết giới nghệ thuật châu Âu. Các phim của Cocteau, phần lớn đều do ông vừa viết kịch bản vừa đạo diễn, đặc biệt quan trọng trong việc đưa xu hướng tiền phong vào Điện ảnh Pháp và ảnh hưởng ở một mức độ nhất định vào thể loại Đợt sóng mới (Novelle Vague) của Pháp. Bộ phim cuối cùng của ông - Le Testament d'Orphée (1960) - trong đó ông đóng vai chính, với sự có mặt của Pablo Picasso, Françoise Sagan, Brigitte Bardot, vận động viên đấu bò tót Luis Miguel Dominguín, cùng với Yul Brynner vv… đã được tạp chí điện ảnh Cahiers du cinéma đánh giá cao. Cocteau là người song tính luyến ái. Người yêu trong hơn 25 năm của ông là nam diễn viên Jean Marais. Từ trần. Cocteau qua đời tại tòa lâu đài của ông ở Milly-la-Forêt, tỉnh Essonne, Pháp, ngày 11.10. 1963 vì bị Nhồi máu cơ tim, thọ 74 tuổi. Người bạn của ông là nữ ca sĩ Édith Piaf qua đời ngày hôm trước, nhưng được công bố trong buổi sáng ngày Cocteau qua đời; có tin nói rằng trái tim Cocteau ngưng đập khi nghe tin Piaf qua đời. Theo nguyện vọng của mình, ông được mai táng dưới sàn "Nhà nguyện Saint-Blaise des Simples" ở "Milly-la-Forêt". Trên tấm mộ bia có khắc hàng chữ "Je reste avec vous" ("Tôi ở lại với các bạn").
1
null
Đại học Sư phạm Hoa Đông () (tên giao dịch quốc tế: East China Normal University - ECNU) là một trường đại học có trụ sở tại Thượng Hải, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đại học Sư phạm Hoa Đông được xem là một trong những trường Đại học danh tiếng nhất ở Trung Quốc, cùng với Đại học Phúc Đán, Đại học Đồng Tế, Đại học Giao thông Thượng Hải, Đại học Sư phạm Hoa Đông cũng nằm trong top 4 trường Đại học nổi tiếng nhất tại thành phố Thượng Hải.
1
null
<noinclude> Lịch sử văn học là lịch sử sự phát triển của các tác phẩm văn xuôi hay thơ ca; nhằm mang đến sự giải trí, khai sáng, truyền đạt kiến thức cho người đọc, người nghe, người quan sát, và sự phát triển của phương pháp truyền tải các thông điệp để tạo sự liên kết giữa các phần với nhau. Sự ra đời của chữ viết. Chữ viết xuất hiện lần đầu tiên vào năm 3300 trước Công nguyên tại Sumer, trong thời kỳ có nhiều biến động sâu sắc trùng hợp với sự xuất hiện các đô thị. Những điều kiện chính trị, xã hội và văn hóa cần thiết cho việc phát minh ra nó lúc bấy giờ đã có đủ. Tại miền Nam xứ này, thành phố Uruk phồn thịnh đã tiến hành buôn bán đường dài để nhập những nguyên liệu còn thiếu. Ngôi đền thờ thần hộ mệnh trở thành trung tâm hành chính lớn đặt dưới sự cai quản của một thủ lĩnh vừa nắm chính trị lẫn tôn giáo, gọi là "vua - giáo sĩ". Những người quản lý đền phải quản lý cả các hoạt động của nhân viên, tiền lương, việc xuất nhập trâu bò và hàng hóa. Vì trí nhớ con người có hạn nên cần phải tìm ra một hệ quy chiếu mới và thống nhất để ghi chép các thông tin truyền miệng. Chính vì thế nên đã xuất hiện chữ viết. Nó dùng hình ảnh để biểu thị các biểu tượng xã hội. Nhiều khái niệm mới vì vậy được miêu tả một cách trừu tượng ngay từ những thử nghiệm đầu tiên. Đó là trường hợp con vật được đếm nhiều nhất: con cừu. Từ này ban đầu được thể hiện bằng 1 chữ thập trong 1 hình tròn: đó là con vật trên bãi cỏ có hàng rào bao quanh. Là một phương tiện ghi nhớ đơn giản buổi đầu, chữ viết đã phát triển dần từng bước trong các thế kỷ tiếp theo về cả hình thức lẫn nội dung. Song song với sự phát triển của nét chữ, các thư lại tìm cách nâng cao khả năng và hiệu lực của hệ chữ biểu ý bằng cách tạo ra các ký hiệu phức hợp. Để đơn giản hóa cách viết, đầu tiên người ta tìm cách giảm bớt số lượng ký hiệu, làm cho cùng một ký hiệu biểu ý được dùng để chỉ cả các hành động lẫn khái niệm gần nhau. Người đọc phải chọn lựa giữa nhiều nghĩa khác nhau bằng cách đối chiếu với văn cảnh, và điều này không phải lúc nào cũng dễ dàng. Để khắc phục khó khăn này, người ta nghĩ ra "các yếu tố xếp loại" đặt trước hay sau từ để chỉ khái niệm được thể hiện ấy thuộc loại nào : thần linh, con người, tinh tú, chim muông, xứ sở, v.v... Việc phiên các danh từ riêng và các liên hệ ngữ pháp buộc người ta tạo ra các ký hiệu thể hiện một âm thanh (những hình biểu âm) bằng cách làm cho các hình biểu ý bị tước bỏ mất nghĩa mà chỉ còn giữ lại âm của chúng. Phương pháp này giảm bớt được tổng số các ký hiệu, từ 900 vào thời Nguyên thủy giảm xuống còn 500 vào năm 2400 trước Công nguyên. Do đó có thể viết được những câu thể hiện mối quan hệ giữa các từ với nhau và diễn tả được mọi sắc thái của ngôn ngữ. Ngoài ra, nội dung của các văn bản cũng phong phú thêm, phản ánh những khả năng mới có thể tái tạo tất cả các yếu tố của ngôn ngữ Sumer. Từ sổ sách đến truyện kể. Những văn bản đầu tiên của văn học Sumer chỉ ghi lại những từ đơn giản và để cho người đọc tự bổ sung các yếu tố còn thiếu, xuất hiện vào thời kỳ các triều đại cổ xưa (khoảng năm 2700 TCN), bên cạnh các khế ước và các tài liệu về kinh tế khác.
1
null
Joachim của Bỉ (Joachim Karl-Maria Nikolaus Isabelle Marcus d'Aviano, sinh ngày 9 tháng 12 năm 1991) là người con thứ 3 và là con trai thứ 2 của Vương nữ Astrid của Bỉ, Đại vương công phu nhân Áo-Este và Lorenz Habsburg-Lothringen. Cậu hiện đang đứng thứ 8 trong dòng kế vị ngai vàng của Vương quốc Bỉ, sau anh trai là Vương tôn Amedeo và chị gái là Vương tôn nữ Maria Laura. Gia đình. Vương tôn Joachim sinh ngày 9 tháng 12 năm 1991 tại Bệnh viện Đại học Saint-Luc ở Sint-Lambrechts-Woluwe thuộc thành phố Bruxelles của Vương quốc Bỉ. Từ năm 1991 đến 1993, anh và cha mẹ sống ở Basel, Thụy Điển. Sang năm 1993, anh cùng gia đình chuyển về định cư tại Bruxelles, Bỉ. Ông bà nội ngoại của anh đều là những thành viên của Vương thất và gia đình quý tộc châu Âu. Anh đồng thời cũng là hậu duệ của các gia đình Vương thất trên thế giới như Áo, Bỉ, Ý, Thụy Điển, Pháp, Đan Mạch, Anh, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Đức. Vương tôn có một anh trai là Vương tôn Amedeo (sinh năm 1986), một chị gái là Vương tôn nữ Maria Laura (sinh năm 1988) và hai em gái là Vương tôn nữ Luisa Maria (sinh năm 1995) và Vương tôn nữ Laetitia Maria (sinh năm 2003). Anh cũng chính là cha đỡ đầu của cô em gái, Vương tôn nữ Laetitia Maria. Học vấn. Năm 2010, Vương tôn Joachim đã nộp đơn nhập học tại Trường Đại học Malvern ở hạt Worcestershire của Anh. Ngày 16 tháng 11 năm 2010, anh đã đăng ký khóa huấn luyện quân sự tình nguyện tại Trung tâm Huấn luyện Cơ bản ở tỉnh Arlon của Vương quốc Bỉ. Sau đó, vào ngày 29 tháng 7 năm 2011, anh cũng đồng thời hoàn thành khóa học của mình tại Trường Nautical ở thành phố Brugge, Vương quốc Bỉ và chính thức trở thành một sĩ quan của lực lượng Hải quân Bỉ. Từ tháng 9 năm 2011, anh tiếp tục theo học tại trường Đại học Bocconi ở trung tâm Milano của Ý để lấy bằng "Cử nhân Kinh tế, Quản trị và Tài chính quốc tế". Tước hiệu. Các con của Lorenz Habsburg-Lothringen đều sẽ được mang tước vị "Vương tôn/Vương tôn nữ Bỉ" theo Sắc lệnh của Hoàng gia Bỉ ban hành ngày 2 tháng 12 năm 1991. Thêm vào đó, do là thành viên của hoàng tộc Áo-Este của Đế quốc Áo nên các con của Hoàng thân Lorenz còn có thêm tước vị "Đại vương công/Nữ Đại vương công của Áo-Este, Hoàng tử/Hoàng nữ Hoàng thất Áo, Vương tử/Vương nữ Vương thất Hungary và Bohemia, Công tử/Công nữ xứ Modena". Thông thường, Vương tôn Joachim được gọi tắt là HI&RH Joachim của Bỉ.
1
null
Chiến tranh giải phóng Thụy Điển (1521–23) ("Chiến tranh giải phóng"), là một cuộc nổi dậy và nội chiến mà nhà quý tộc Thụy Điển Gustav Vasa đã lật đổ thành công vị vua Đan Mạch-Na Uy Christian II đóng vai trò là nhiếp chính của Liên minh Kalmar ở Thụy Điển. Cuộc chiến bắt đầu vào tháng 1 năm 1521 khi Gustav Vasa được bổ nhiệm làm "hövitsman" (chỉ huy) xứ Dalarna đại diện cho cư dân ở phía bắc tỉnh này. Sau khi Gustav Vasa cướp phá mỏ đồng Kopparberg và thị trấn Västerås, nhiều người đã tham gia quân đội của ông. Năm 1522, thành phố Lübeck của Hanse liên minh với nghĩa quân Thụy Điển. Sau khi chiếm Stockholm vào tháng 6 năm 1523, nghĩa quân đã kiểm soát một cách hiệu quả Thụy Điển vào ngày 6 tháng 6, Gustav Vasa được bầu làm vua Thụy Điển ở thị trấn Strängnäs. Đến tháng 9, Phần Lan thuộc Thụy Điển cũng nằm dưới quyền kiểm soát của những người ủng hộ Gustav Vasa. Hiệp ước Malmö ký ngày 1 tháng 9 năm 1524 thì Thụy Điển mới ly khai khỏi Liên minh Kalmar. Dalarna. Năm 1520, Gustav Vasa đi du lịch đến tỉnh Dalarna của Thụy Điển, cải trang thành một nông dân để tránh sự phát hiện của các mật thám Đan Mạch. Vào tháng 12, Gustav Vasa đến thành phố Mora để đề nghị đám nông dân giúp đỡ ông nổi dậy chống lại nhà lãnh đạo của Đan Mạch, Vua Christian II. Những người nông dân từ chối yêu cầu của ông, vì vậy Gustav Vasa quyết định đi về hướng Bắc để tìm kiếm những người sẽ ủng hộ cuộc nổi dậy của mình. Ngay sau đó, một vài người tị nạn đến Mora, nơi họ nói với những người nông dân về sự tàn bạo của Christian II và triều thần của nhà vua. Người dân Mora sau đó quyết định tìm Gustav Vasa và tham gia vào cuộc nổi dậy của ông, họ đã gửi hai người trượt tuyết lành nghề đi kiếm Gustav Vasa. Cuối cùng họ cũng gặp được ông ở Sälen. Trở lại Mora vào đêm giao thừa năm 1521, Gustav Vasa được những phái viên từ tất cả các giáo xứ Bắc Dalarna bổ nhiệm làm "hövitsman". Vào tháng 2, Gustav Vasa hành quân rời khỏi Mora với khoảng 100 binh sĩ và cướp phá Kopparberg, ngay sau đó giới nông dân của Bergslagen cũng tham gia vào cuộc nổi dậy. Quân đội của Gustav Vasa giờ đã phát triển đến hơn 1000 người. Trận Brunbäcks färja. Khi Christian II biết được tin tức về cuộc nổi dậy của người Thụy Điển, ông liền gửi quân xứ Landknechten tới trấn áp cuộc nổi loạn. Vào tháng 4 năm 1521, lực lượng Đan Mạch đối mặt với quân của Gustav Vasa tại bến phà Brunnbäck, và họ phải gánh chịu thất bại thảm hại. Chiến thắng này đã cải thiện rất nhiều tinh thần của quân Thụy Điển. Tại Dalecarlia, một kho bạc khẩn cấp được thành lập để sản xuất các đồng tiền đồng cần thiết nhằm tài trợ cho chiến tranh đang có xu hướng lan rộng. Västerås. Quân đội Thụy Điển tiếp tục tiến về phía nam tới Västerås mà họ chiếm được và cướp phá tan tành. Khi tin tức về thành công của Gustav Vasa lan truyền khắp Thụy Điển, phe ủng hộ của gia tộc Sture quyết định tham gia cuộc nổi dậy. Vào cuối tháng 4 năm 1521, Gustav Vasa đã kiểm soát được Dalarna, Gästrikland, Närke, và Västmanland.
1
null
Cá hồi chấm hồng (Danh pháp khoa học: Salvelinus) là một chi cá thuộc họ Cá hồi và trong tiếng Anh, cá hồi chấm hồng còn có tên gọi chỉ về chúng là char hoặc charr một vài loài trong chi này còn được gọi là cá hương. Nhiều thành viên trong chi cá này được con người xem là rất phổ biến trong trò câu cá thể thao đặc biệt như loài cá hồi hồ ("S. namaycush"), nhiều loài trong chi cá này có giá trị thương mại và được nhập khẩu về nuôi ở nhiều nơi và từ đó nhiều trong số những loài này đã trở thành loài xâm lấn. Các loài. Hiện hành có 51 loài đã được ghi nhận trong chi này
1
null
Dấu lặng là ký hiệu thuộc hệ thống ký hiệu nhạc phương Tây, được sử dụng nhằm thể hiện một khoảng dừng (nghỉ) trong tác phẩm. Có nhiều loại dấu lặng ứng với nhiều biểu tượng khác nhau để biểu thị các độ dài ngừng nghỉ khác nhau. Chức năng và giá trị. Ứng với mỗi hình nốt nhạc là một dấu lặng biểu thị khoảng dừng có độ dài bằng với trường độ của nốt đó (nói cách khác là có cùng giá trị với hình nốt đó). Quy tắc kết hợp các dấu lặng để thể hiện các khoảng dừng thì cũng giống như quy tắc với nốt nhạc.. Dấu lặng có hai chức năng: Bảng dưới đây liệt kê các loại dấu lặng rất đa dạng - gồm cả những loại hiện ít còn được sử dụng - và các hình nốt có giá trị tương ứng, đồng thời liệt kê giá trị tương đối mà chúng có xét trong trường hợp loại nhịp 4/4. Trong các tác phẩm cổ, dấu lặng đen còn được viết bằng biểu tượng . Dấu lặng tượng trưng cho một đơn vị trường độ là dấu lặng tròn. Ngoài ra, một dấu lặng này bằng hai dấu lặng khác có bậc giá trị ngay bên dưới nó, chẳng hạn: Cũng có thể dựa vào bảng trên để thiết lập mối quan hệ giữa các dấu lặng, chẳng hạn trong loại nhịp 4/4 thì một dấu lặng tròn bằng bốn dấu lặng đen, một dấu lặng móc đơn bằng tám dấu lặng móc tư, vân vân. Nghỉ một ô nhịp. Trong trường hợp cả một ô nhịp không có một nốt nhạc nào thì nhà soạn nhạc đặt một dấu lặng tròn vào ô nhịp đó, bất kể số chỉ nhịp của tác phẩm đó là gì. Duy có hai ngoại lệ, đó là với loại nhịp 4/2 (bốn nốt trắng trong một ô nhịp) và đối với loại nhịp ngắn hơn 3/16 thì người ta dùng dấu lặng tròn đôi cho ô nhịp trống. Người soạn nhạc cũng hay dùng dấu lặng tròn (thay cho dấu lặng tròn đôi) cho ô nhịp trống của loại nhịp 4/2, bởi thế có thể nói rằng đối với các loại nhịp từ 3/16 trở đi thì dấu lặng tròn được dùng cho ô nhịp trống. Trong một số ấn bản nhạc (đặc biệt là tác phẩm cũ), còn thấy người ta viết số "1" phía trên dấu lặng để xác nhận độ dài của nó. Nghỉ nhiều ô nhịp. Trong các bè nhạc không lời, có thể dùng "dấu lặng đa ô nhịp" ("multiple bar rest", "multimeasure rest") để biểu thị khoảng lặng kéo dài nhiều ô nhịp cùng tính chất. Thường có hai cách vẽ dấu lặng đa ô nhịp: Trong cả hai cách trên, số ô nhịp nghỉ ứng với khoảng lặng sẽ được ghi chú bằng con số phía trên khuông nhạc, mà thường thì con số này có kích thước bằng với con số ghi số chỉ nhịp. Nếu có sự thay đổi giọng ("key") hoặc vận luật trong thời gian nghỉ nhiều ô nhịp thì cần phải chia cắt khoảng lặng này để ghi chú rõ thay đổi đó. Điều này cũng áp dụng cho trường hợp vạch nhịp kép (dùng để đánh dấu chỗ kết thúc tiết nhạc hoặc đoạn nhạc). Dấu lặng có chấm dôi. Tương tự nốt nhạc, có thể thêm dấu chấm dôi cho dấu lặng để tăng độ đài của dấu lặng thêm 1/2. Tuy nhiên, dấu lặng chấm dôi không phổ biến bằng nốt nhạc dấu dôi, và thỉnh thoảng chỉ xuất hiện trong các tác phẩm nhạc hiện đại viết bằng loại nhịp phức như 6/8 hoặc 12/8. Đối với các loại nhịp này, lâu nay có một quy ước rằng một phách nghỉ là gồm một dấu lặng đen và một dấu lặng đơn, tổng độ dài của chúng bằng trường độ của ba nốt móc đơn. Không thể dùng dấu nối nối các dấu lặng nhằm tạo ra các khoảng lặng dài hơn.
1
null
Joko Widodo (sinh ngày 21 tháng 6 năm 1961) là một chính trị gia Indonesia và là tổng thống hiện tại của Indonesia. Ông thường được biết đến với biệt danh Jokowi. Ông đã từng là thị trưởng thành phố Surakarta. Ông được đảng của mình, Đảng Dân chủ - Đấu tranh Indonesia (PDI-P), chọn làm người chạy đua tranh cử trong cuộc bầu cử thống đốc Jakarta cùng với người bạn đồng hành cuộc tranh cử Basuki Tjahaja Purnama (thường được gọi là Ahok). Ông được bầu làm thống đốc Jakarta vào ngày 20 tháng 9 năm 2012 sau một cuộc bầu cử vòng thứ hai, trong đó ông đánh bại thống đốc đương nhiệm Fauzi Bowo.Chiến thắng của Jokowi đã cho cái nhìn bao quát khi phản ánh sự lựa chọn của cử tri đối với lãnh đạo có phong cách chính trị "mới" và "trong sạch". nhiều hơn so với những nhà chính trị già cội. Ngày 9/7/2014, ông là một trong hai ứng cử viên chạy đua tranh cử trong cuộc bầu cử tổng thống Indonesia. Ông tranh cử với Prabowo Subianto, một cựu tướng quân đội. Ngày 22 tháng 7 năm 2014 Jokowi được công bố là tổng thống đắc cử của Indonesia, giành chiến thắng với 53,15% phiếu bầu so với số phiếu bầu của đối thủ của ông là Prabowo 46,85%. Joko trở lại làm thống đốc Jakarta cho đến ngày 20 tháng 10 khi ông nhậm chức tổng thống. Tiểu sử. Joko Widodo xuất thân từ một gia đình nghèo, cha ông và chính bản thân ông là thợ mộc, chuyên sản xuất bàn ghế. Ông tham gia công đoàn các nhà kinh doanh vừa và nhỏ, rồi tham gia Đảng Dân chủ Indonesia của bà Megawati Sukarnoputri, con gái ông Sukarno, tổng thống đầu tiên của Indonesia. Giải thưởng và danh hiệu. Giải thưởng và danh dự của ông bao gồm: 2008: Jokowi được liệt kê bởi tạp chí Tempo là một trong 'Top 10 thị trưởng của Indonesia năm 2008'. 2011: Ông được trao Bintang Jaša Utama của Tổng thống Susilo Bambang Yudhoyono. 2012: Jokowi nhận được vị trí thứ ba của giải thưởng Thị trưởng Thế giới 2012 cho "chuyển một thành phố tội phạm hoành thành một trung tâm khu vực về văn hóa nghệ thuật và một thành phố hấp dẫn đối với khách du lịch Anh đã được liệt kê như là một trong:"Các nhà tư tưởng hàng đầu toàn cầu năm 2013 " trong tạp chí Foreign Policy. Trong tháng 2 năm 2013 ông được đề cử làm thị trưởng toàn cầu trong tháng của Thị trưởng Thành phố Foundation có trụ sở tại London. 2014: Jokowi được liệt kê bởi tạp chí Fortune là một trong "50 nhà lãnh đạo vĩ đại nhất của thế giới trong năm. Cuộc sống cá nhân. Jokowi kết hôn với Iriana ở Surakarta vào ngày 24 tháng 12 năm 1986 Họ có ba người con: Gibran Rakabuming (1988), Kahiyang Ayu (1991), và Kaesang Pangarep (1995) Theo The Economist, Jokowi "có thiên hướng yêu thích nhạc rock ầm ỹ" và đã từng sở hữu một cây guitar bass có chữ ký của một thành viên của ban nhạc heavy metal Metallica. Phim. Vào tháng 6 năm 2013, một bộ phim miêu tả thời thơ ấu và thanh niên của Jokowi đã được phát hành. Jokowi đã bày tỏ một số phản đối đối với bộ phim, cho rằng cuộc sống của ông cũng khá bình thường, không tới mức cần phải dựng thành một bộ phim.
1
null
Thiền viện Trúc Lâm Phương Nam tọa lạc tại ấp Mỹ Nhơn, xã Mỹ Khánh, huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ, Việt Nam. Đây là một thiền viện thuộc hàng lớn nhất ở miền Tây Nam Bộ, tính đến thời điểm năm 2014. Thiền viện được khởi công xây dựng vào ngày 16 tháng 7 năm 2013 (19 tháng 6 năm Quý Tỵ), trên một diện tích 38.016 m². Sau nhiều tháng thi công, thiền viện đã được khánh thành vào ngày 17 tháng 5 năm 2014 (19 tháng 4 năm Giáp Ngọ).. Chánh điện lợp ngói tám mái theo theo phong cách nhà Trần. Tổ điện lợp ngói bốn mái theo phong cách nhà Lý. Lầu trống và Gác chuông (đại hồng chung nặng 1,5 tấn) được làm theo kiểu tháp chuông chùa Keo ở tỉnh Thái Bình. Đáng chú ý, phần gỗ trong 4 hạng mục này đều là gỗ lim được nhập từ Nam Phi (tổng cộng khoảng 1.000 khối). Bên trong chánh điện, ở giữa là tượng Phật Thích Ca bằng đồng nặng 3, 5 tấn, tạc ở tư thế ngồi và tay cầm cành hoa (niêm hoa vi tiếu); hai bên là tượng Bồ tát Phổ Hiền và Bồ tát Văn Thù. Bên trong Tổ điện là tượng Tổ Bồ Đề Đạt Ma và Trúc Lâm Tam Tổ. Ngoài tượng Phật Thích Ca là được đúc bằng đồng, các tượng thờ khác ở đây đều được bằng tạc bằng gỗ du sam đá vôi có tuổi thọ khoảng 800 năm. Ngoài ra, trong khuôn viên còn có các hạng mục khác như: Quan Âm điện, Di Lặc điện, chùa Một Cột, Giảng đường, Khách đường, Trai đường, Thư viện, phòng Đông y Nam dược, v.v...
1
null
Cá mòi di cư là hiện tượng các con cá mòi di chuyển tập trung với nhau thành từng đợt sóng cá lớn và di chuyển đến các vùng nước ấm theo lịch trình bản năng của chúng. Cuộc di cư của đàn cá mòi dài 15 km, rộng 3,5 km và sâu đến 40 mét. Hành trình của những đàn cá khổng lồ này lớn đến nỗi có thể nhìn thấy được từ vệ tinh. Cảnh tượng ngoạn mục như thế được gọi tên là "cuộc chạy trốn của cá mòi" hay "hiện tượng chạy trốn của cá mòi" và đây là một cuộc di cư vĩ đại hàng năm. Việc di cư của cá mòi là một sự kiện lớn trong tự nhiên, thu hút nhiều loài động vật săn mồi và cả con người như một bữa tiệc, một nguồn cung cấp thực phẩm lớn. Các cuộc di cư của đàn cá mòi được ghi nhận ở Mũi Point của Nam Phi, cá mòi bơi thành đàn lớn đi lên đường bờ biển mũi Northern Eastern và Kwa-Zulu Natal, nhất là chỗ nước sâu thuộc bờ biển phía Nam châu Phi trong đó có bờ biển Agulhas là nhà của hàng tỷ con cá mòi. Ngoài ra còn ở vùng biển gần đảo Pescador của Philippines, ngoài khơi bờ biển Mexico, và cuộc di cư quy mô nhỏ trên sông Hồng khi cá mòi ngược sông để đẻ. Thời điểm. Cá mòi tên tiếng Anh là pilchard hay sardine là một vài loài cá dầu nhỏ thuộc họ cá trích. Tên Sardine được đặt theo tên một hòn đảo Địa Trung Hải của Sardina. Cá mòi có thân dài, chiều ngang hình bầu dục. Lưng chúng có màu hơi xanh hoặc nâu, bụng có màu bạc. Cá mòi ăn rong rêu, trứng cá, lăng quăng và các loại tôm tép nhỏ. Ban ngày cá mòi ở độ sâu khoảng 30 – 60 m và ban đêm chúng trồi lên ở độ sâu 15 – 30 m. Cá mòi có một chiếc đồng hồ sinh học chính xác, giống với đồng hồ sinh học của cá hồi ở phương Tây. Trứng cá mòi nở ra ở nước ngọt, cá con lớn lên theo dặm dài sông suối chảy ra biển cả để tới khi xuân về, mùa sinh sản tới chúng lại ngược dòng về đúng nơi mình sinh ra để làm công việc bổn phận của chúng là sinh sản. Bên cạnh đó vào cuối xuân và mùa hè cá mòi di cư về phía bắc, kiếm mồi tại các vùng bờ biển. Mùa thu chúng lại kéo về phía nam để tránh mùa đông trong các vùng biển sâu. Hằng năm, từ tháng 5 đến tháng 7, loài cá mòi trong vùng nước lạnh ở phía nam châu Phi di chuyển về phía bắc, dọc theo bờ biển phía đông để vào Ấn Độ Dương, di cư tới vùng nước ấm, ngoài ra, hàng nghìn cá mòi bơi từ vùng nước lạnh ở Agulhas, Nam Phi, tới vùng nước ấm vào tháng 7 hàng năm. Mỗi năm, giữa những tháng 5 và tháng 7, hàng triệu con cá mòi bơi về hướng bắc từ những đại dương phía Nam ngoài khơi Mũi Point của Nam Phi, chúng bơi thành đàn lớn đi lên đường bờ biển mũi Northern Eastern và Kwa-Zulu Natal. Cuộc di cư của cá mòi kéo dài vài ngày. Nó thường xảy ra trong khu vực trong khoảng từ tháng 5-7 hàng năm khi hàng triệu con cá mòi đẻ trứng trong vùng nước lạnh ở phía nam châu Phi di chuyển lên phía bắc để vào Ấn Độ Dương. Ở Việt Nam, từ tháng giêng đến tháng tư âm lịch là mùa giăng lưới đón cá mòi. Khi mưa rơi đầu xuân làm ấm mặt nước sông Hồng cũng là lúc cá mòi từ biển ngược dòng trở về, từ tháng giêng đến tháng tư âm lịch là mùa các làng chài ven sông Hồng giăng lưới đón cá mòi. Như vậy sự kiện này diễn ra trong khoảng tháng 5 đến tháng 7, nhưng nó không luôn luôn diễn ra hàng năm. Vào năm 2003, lần thứ 3 trong 23 năm, cá mòi không di cư thành đàn lớn ít nhất là có thể nhìn thấy gần mặt nước trong khi vào năm 2006 cũng không thấy. Các cuộc di cư trở nên không tiên đoán được, cá mòi đang lợi dụng sự mở rộng khí hậu ôn hòa khi nhiệt độ nước hạ xuống dưới 20 độ C, chúng cũng đang tiến về vùng nước ấm nơi thức ăn khan hiếm hơn. Cách thức. Cá mòi thường di cư theo đàn, chúng thường bơi với số lượng hàng triệu con, chúng rẽ nước vụt lao đi trong lòng đại dương, việc cá mòi di cư tạo nên những màn khiêu vũ tuyệt đẹp trong lòng đại dương. Cảnh tượng hàng triệu con cá mòi bơi theo đàn và cuộn lấy nhau trong cuộc di cư khổng lồ thường niên đã tạo nên một cảnh tượng ngoạn mục. Những con cá mòi lóng lánh ánh bạc, di chuyển thành đàn lớn, tạo ra những hình thù kì dị. Tuy nhiên, khi phát hiện ra chướng ngại, chúng động loạt di chuyển sang các phía để tránh. Khi gặp kẻ thù hay chướng ngại vật, đàn cá khổng lồ nhanh chóng biến hình, tạo ra những cảnh tượng kì vĩ. Để chống lại những loài cá lớn như cá mập, cá heo, cá voi hay chim ó bao quanh, đàn cá mòi kết thành khối cầu khổng lồ, đường kính 20m, cuồn cuộn lao đi với số lượng hàng chục triệu con, đàn cá thực sự là khối cầu khổng lồ dưới đáy đại dương. Việc di chuyển theo đàn giúp chúng tránh kẻ thù và tăng khả năng sống sót hơn so với việc di chuyển một mình. Dù đàn cá đen đặc nhưng việc chạm vào những chúng là rất khó khăn bởi chúng di chuyển linh hoạt. Những con cá nhỏ bé luôn giữ khoảng cách nhất định với những vật thể di chuyển xung quanh nó. Những con cá lấp lánh nhỏ có thể tạo thành những đàn cá trải dài 15 km, rộng 3,5 km và dày tới 40m. Với kích cỡ khổng lồ, cuộc di cư có thể nhìn thấy từ bên ngoài vũ trụ. Kết hợp lại với nhau, cá mòi là những vũ công thực sự dưới đại dương bởi khả năng di chuyển linh hoạt. Hành trình mang lại nguồn thức ăn lớn cho các loài sinh vật biển. Đây có thể được coi là bữa tiệc của những loài săn cá mòi. Tuy nhiên, bữa tiệc đó không hề dễ để thưởng thức bởi việc di chuyển thành đàn khiến những loài săn cá mòi khó để tấn công chính xác con mồi, dù vây quanh nó toàn là thức ăn. Sống thành bầy là một phương pháp tự vệ rất hữu hiệu của cá mòi, vì bầy cá không thể bị cá lớn ăn thịt đến tuyệt giống. Những con cá mòi có mong muốn được chết, bản năng cảm tử bắt buộc hành vi của chúng. Tuy nhiên chúng cũng trình diễn một cơ chế phòng vệ đủ để làm nản lòng sự đánh phá ban đầu của kẻ thù, nhưng chỉ một thời gian ngắn. Bằng cách xếp lại gần nhau, toàn bộ khối cá mòi làm giảm thiểu khả năng bị bắt, mỗi cá nhân dễ bị ăn hơn một nhóm lớn và chiến thuật này đủ ngăn cản nhiều kẻ đi săn tiềm năng. Thậm chí chúng còn vây bủa cá cá mập khiến cá mập hoàn toàn không tìm được lối đi sau khi bị đàn cá mòi bao vây trong cuộc di cư thường niên của cá mòi dọc theo bờ biển Nam Phi Hàng triệu cá mòi di chuyển, cuộn lấy nhau tạo nên những đợt sóng cá trong đại dương trong từ cuộc di cư của loài cá mòi. Chúng đông tới mức che hết ánh nắng mặt trời, cho dù ở giữa ban ngày, nhưng đột nhiên bầu trời trên mặt biển tối sầm lại. Đàn cá đã chặn ánh sáng mặt trời, biến ngày thành đêm. Số lượng cá mòi đông tới nỗi không ai có thể biết chính xác có bao nhiêu con tham gia chuyến di cư như thế này. Chúng sống theo bầy đàn để chống lại những kẻ ăn thịt. Di chuyển theo bầy đàn là cách tốt nhất đối với cá mòi nếu chúng muốn sống sót giữa biển cả bao la. Vào mùa hè, những đàn cá mòi phân tán thành từng nhóm nên rất khó tìm thấy. Kẻ săn mồi. Cá heo và chim ó biển chính là những bậc thầy săn cá mòi. Cá voi Bryde cũng sống nhờ vào cá mòi. Cá voi Bryde hầu như không hề ngoi lên mặt nước để thở và ít khi để lộ mình. Tuy cơ thể dài đến 15m, nhưng nó có thể biến mất một cách dễ dàng trong lòng biển. Giống như tất cả những kẻ săn mồi khác, mùa hè là khoảng thời gian cá voi Bryde bị đói. Chúng tìm kiếm những bãi cá ngoài khơi và chờ đợi sự di cư của cá mòi vào mùa đông để công việc đi săn được thuận lợi hơn Cá mòi còn là món ăn ưa thích của cá cờ, cá cờ săn món ăn ưa thích của chúng là cá mòi, cá cờ thường bơi đến khu vực biển Mexico hằng năm vào dịp cá mòi đi qua nơi đây và với tốc độ rất nhanh, cá cờ săn cá mòi rất hiệu quả. Cuộc du hành bắt đầu từ vùng nước lạnh ngoài khơi mũi cực nam của châu Phi, nơi những con cá mòi tập trung thành hàng trăm đàn cá mờ ảo xoáy tròn báo trước chuyến di cư lớn dài một ngàn cây số. Bị kẹp chặt trong một hành lang hẹp nhiều sinh vật phù du của vùng nước lạnh, với đường bờ biển châu Phi ở một phía, và dòng nước ấm Ấn Độ Dương ở phía kia, cá mòi đi thắng vào ổ phục kích của những kẻ đi săn đang đợi sẵn. Cuộc săn bắt đầu với những con cá heo đông đúc hàng ngàn con rượt đuổi và nuốt chửng đàn cá khổng lồ đang di chuyển trước khi dòng nước mà chúng đang đi theo rời khỏi bờ biển ở Mozambique để hướng xa về phía đông vào Ấn Độ Dương. Cá heo sử dụng hệ thống phát tín hiệu của mình để thăm dò đàn cá mòi. Khi tìm thấy, đàn cá heo tiến hành tách bầy cá mòi ra và dồn từng nhóm nhỏ cá mòi vào thành khối tròn như một quả bóng nổi lên gần mặt nước, những con cá heo lập thành đội hình tấn công khéo léo. Chúng xếp thành một đội, xé lẻ đàn cá mòi ra thành những đàn nhỏ hơn. Bị xé lẻ khỏi khối cá lớn mà trước đây làm cho những kẻ thù ban đầu bối rối, khuynh hướng lập thành đàn của cá mòi khi bị đe dọa giờ đây đã là kiểu ưa thích của kẻ đi săn. Bị săn đuổi bởi kẻ thù, cá mòi tạo thành những nhóm đông đúc và hoảng loạn được gọi là quả cầu mồi, có đường kính rộng đến 10 mét. Cá hep tăng tốc bơi nhanh và nuốt gọn những con mồi sáng bạc kém may mắn, đồng thời đàn cá heo ép đàn cá mòi vào những vùng nước cạn hơn, ở đó mối đe dọa tăng lên gấp bội. Có thời gian đẻ trứng trùng hợp với sự xuất hiện của đàn cá mòi khổng lồ, những con ó biển chờ sẵn khi mặt nước sủi bọt, dấu hiệu báo bữa tiệc cặp đôi đã đến. Ó biển bổ nhào xuống từ trên không, băng qua mặt nước như những ngư lôi để bắt những con cá đã bị bao vây. Khi những con cá heo làm rối loạn đội hình của cá mòi, nhân dịp đó, những con ó biển lao thật nhanh xuống biển từ độ cao 30m với tốc độ khoảng 100 km/giờ để bắt lấy cá mòi. Mỗi lần như thế, chim ó biển phải đối mặt với một lực rất lớn khi va chạm mặt nước. Một sự nhầm lẫn dù nhỏ nhất trong tính toán cũng có thể khiến chúng phải chết. Cuộc tiếp xúc với mặt biển đôi khi làm gãy cả cổ của ó biển. Song song với đó, sự tàn sát xảy ra khi cá mồi bị bắt từ dưới và cả từ trên cao. Những quả cầu mồi tạo thành rồi tạo thành lại không bao giờ tồn tại lâu hơn 10 phút. Sau đó nhiều con cá mập xuất hiện làm cho cuộc săn mồi đến lúc điên cuồng nhất. Chính sự dồi dào thức ăn như thế mà những kẻ săn mồi vốn có thể xung đột bây giờ chấp nhận lẫn nhau, chỉ chú tâm vào món cá ngon miệng có sẵn cho tất cả. Cùng với chim ó biển, cá heo và các loài cá mập là những con cá câu thể thao như cá ngừ, cá thu, những con chim như mòng biển, chim cốc, và cả cá voi và hải cẩu cũng theo sau đàn cá mồi một nơi nào đó cho tới mũi cực đông. Và cuối cùng là cá voi khổng lồ mà với một cú há miệng có thể nuốt trọn cả một khối cầu cá. Đánh bắt. Người dân nhiều địa phương cũng đánh bắt một số cá mòi để đông lạnh dùng suốt năm. Cuộc di cư của loài cá mòi diễn ra từ tháng 5 – 7 hàng năm. Số lượng mà con người đánh bắt được thường không gây tổn hại quá nhiều đến tổng số của đàn cá. Đến thời kỳ di cư, hàng trăm người đã đổ về các bờ biển của Nam Phi để theo dõi cuộc di cư này. Ngư dân ở vùng sông Hồng cũng săn cá mòi, từ tháng giêng đến tháng tư âm lịch là mùa giăng lưới đón cá mòi. Cá mòi càng vào sâu đất liền càng thấm vị phù sa thịt thơm và ngọt, còn cá đánh ở ngoài cửa biển thoảng có mùi khai. Mùa cá mòi bơi từ biển về sông Hồng, nở ra ở sông, cá mòi con bơi ra biển rồi tới tháng ba, chúng lại bơi về để đẻ trứng. Một giờ thả lưới, ngư dân có thể đánh được vài chục kg cá căng bụng trứng. Cá mòi trên sông Hồng có nhiều từ tháng giêng đến tháng tư âm lịch và rộ nhất vào thời điểm hoa gạo nở. Vào mùa này, các làng chài dọc sông Hồng đều thả lưới đánh cá mòi. Trong đó, bến đò Vũ Điện (xã Hoàng Hanh, thành phố Hưng Yên) được xem là vựa cá mòi lớn nhất. Ở đây mực nước sâu, lại là ngã ba sông Hồng, sông Luộc, sông Nam Định, nên cá về nhiều. Người dân miền Bắc có một truyền thuyết kỳ lạ về cá mòi, rằng cá do chim ngói hóa thành. Mùa thu, chim ngói bay ra biển và hóa thành cá mòi. Sang xuân, cá bơi ngược về rừng để biến thành chim ngói. Truyền thuyết này lý giải vì sao cứ đến mùa sinh sản, cá lại bơi từ biển vào sông để đẻ trứng và khi mổ, cá mòi có mề như mề của chim ngói.
1
null
Phân số tối giản là phân số mà có tử số và mẫu số không thể cùng chia hết cho số nào ngoại trừ số 1 (hoặc -1 nếu lấy các số âm). Nói cách khác phân số formula_1 là tối giản nếu a và b là nguyên tố cùng nhau, nghĩa là a và b có ước số chung lớn nhất là 1. Một phân số chưa tối giản có thể chuyển về dạng tối giản bằng cách chia tử số và mẫu số của phân số cho ước số chung lớn nhất của chúng. Có thể dùng giải thuật Euclid hoặc tách số thành các thừa số nguyên tố để tìm ước số chung lớn nhất.
1
null
Fleetwood Mac là ban nhạc rock Anh-Mỹ được thành lập tại London vào năm 1967. Ban nhạc đã bán được hơn 100 triệu bản trên toàn thế giới, đưa họ trở thành một trong những nghệ sĩ có số đĩa bán chạy nhất mọi thời đại. Năm 1998, một vài thành viên của Fleetwood Mac được xướng danh tại Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll cũng như được trao Giải Brit cho những cống hiến âm nhạc. Ban nhạc được thành lập bởi tay guitar Peter Green, tay trống Mick Fleetwood, và tay guitar bass Jeremy Spencer trong thời kỳ bùng nổ của các ban nhạc rock của Anh vào thập niên 1960. John McVie gia nhập nhóm ngay sau đó ít lâu. Peter Green là người quyết định đặt tên nhóm bằng cách gộp tên của 2 thành viên Mick Fleetwood và tay bass John McVie (từ Mc trong McVie phát âm như Mac) cho dù McVie thậm chí còn không tham gia vào đĩa đơn cũng như buổi diễn đầu tiên của ban nhạc (khi đó anh vẫn còn ở lại nhóm The Bluesbreakers của John Mayall). Tay guitar thứ ba Danny Kirwan gia nhập nhóm năm 1968. Nữ nghệ sĩ chơi keyboard Christine McVie gia nhập nhóm vào năm 1970 sau khi kết hôn với John McVie và xuất hiện trong tất cả các album ngoại trừ album đầu tay. Trong thời kỳ này, đĩa đơn "Albatross" của họ đạt quán quân tại Anh. Tuy nhiên, những mâu thuẫn nội bộ đã dẫn đến sự ra đi của Peter Green (1970) và Jeremy Spencer (1971) cũng như Danny Kirwan (1972). Họ được thay thế bởi Bob Welch (1971) và Bob Weston (1972). Đến năm 1974, cả Welch lẫn Weston đều rời nhóm. Cuối năm 1974, Fleetwood gặp gỡ cặp đôi song ca người Mỹ Lindsey Buckingham và Stevie Nicks và thuyết phục được họ tham gia nhóm; mở ra thời kỳ thành công rực rỡ nhất của ban nhạc này (1975 - 1987) với đội hình: Fleetwood (trống), J. McVie (guitar bass), C. McVie (keyboard và giọng nữ chính), Buckingham (guitar chính và giọng nam chính), và Nicks (giọng nữ chính). Phong cách của nhóm cũng chuyển thành rock pha pop. Album khai trương của đội hình mới có tên là "Fleetwood Mac" năm 1975 đứng top 1 tại Mỹ. Album thứ hai là "Rumours" (1977) có được 4 đĩa đơn top 10, giữ vị trí quán quân tại Mỹ suốt 31 tuần và còn đứng đầu tại nhiều quốc gia khác. Tính tới nay album đã bán được khoảng 40 triệu bản, trở thành một trong những album bán chạy nhất mọi thời đại. Album cuối cùng của thời kỳ này "Tango in the Night" (1987) cũng đạt nhiều thành công với 15 triệu bản được bán ra. Đội hình này duy trì ổn định và sự thành công cho đến cuối thập niên 80, khi các dấu hiệu tan rã bắt đầu xuất hiện. Lần lượt Buckingham rời nhóm năm 1987 và Nicks rời nhóm năm 1991 mở màn cho thời kỳ vật lộn của nhóm. Thời kỳ này ban nhạc thiếu cả giọng chính lẫn guitar chính; buộc phải sử dụng những nghệ sĩ thay thế ngắn hạn. Năm 1993, trong buổi lệ nhậm chức nhiệm kỳ mới của Tổng thống Mỹ Bill Clinton, lần đầu tiên trong 6 năm cả năm thành viên trong đội hình thành công của họ lại đứng chung một sân khấu. Cuối cùng vào năm 1997, 5 thành viên của nhóm đã tái hợp lại. Buổi hòa nhạc đánh dấu sự trở lại của họ The Dance (1997) sau đó được phát hành dưới dạng một album đã đưa Fleetwood Mac trở lại đỉnh cao với 6 triệu bản được bán ra. Tuy nhiên vào năm 1998 Christine McVie lại quyết định giải nghệ. Ban nhạc vẫn tiếp tục hoạt động với 4 thành viên còn lại. Năm 2014, C. McVie quyết định quay lại nhóm. Năm 2018, Buckingham bị sa thải và được thay thế bởi Mike Campbell và Neil Finn. Ngoài âm nhạc, Fleetwood Mac cũng nổi tiếng với những câu chuyện ly kỳ xung quanh mối quan hệ tình cảm phức tạp của các thành viên trong ban như là cặp Buckingham - Nicks (chia tay 1977) hay cặp J. McVie - C. McVie (ly dị 1976). Điều này còn thể hiện qua các ca từ của bác bài hát, hầu hết được sáng tác bởi 3 giọng chính của nhóm là C. McVie, Buckingham, và Nicks.
1
null
Hiếp dâm ở Ấn Độ thể hiện tình trạng hiếp dâm đang gia tăng tại Ấn Độ, đất nước đông dân thứ nhì thế giới. Trẻ em, phụ nữ Ấn Độ, thậm chí cả du khách nước ngoài cũng trở thành nạn nhân của những cuộc tấn công bạo lực này. Thực trạng. Theo thống kê, tại Ấn Độ, cứ 22 phút lại có một vụ hiếp dâm, tỉ lệ hiếp dâm ở thủ đô New Delhi là cao nhất, bởi vậy, thủ đô này còn có tên gọi khác là "thủ đô hiếp dâm". Thống kê tháng 6 năm 2013, thủ đô New Delhi xảy ra 806 vụ cưỡng hiếp, bình quân hơn 4 vụ/ngày. Năm 2012, con số này là 706 vụ. Theo kết quả khảo sát của Cơ quan Phụ nữ Liên Hợp Quốc trên CNN năm 2012 chỉ ra rằng, 95% trong số 2.000 phụ nữ tham gia khảo sát ở New Delhi cảm thấy bất an tại các nơi công cộng. Tại những nơi khác, tình trạng hiếp dâm cũng xảy ra liên tục và đang là mối đe dọa lớn với phụ nữ. Nạn nhân. Trẻ em. Một bé gái mới chỉ 15 tháng tuổi bị hiếp dâm và bé gái 7 tuổi tại bang Goa bị hiếp dâm tại nhà vệ sinh của trường học Phụ nữ Ấn. Ngày 21 tháng 01 năm 2014, cô gái 21 tuổi tại Kolkata, bang Tây Bengal đã bị cưỡng hiếp tập thể trên đường đi làm về. Phụ nữ nước ngoài. Tháng 1 năm 2014, một du khách Đan Mạch hỏi đường đã bị một nhóm đối tượng cưỡng hiếp tập thể. Ngày 10 tháng 1 năm 2014, thiếu nữ Đức, 18 tuổi bị một hành khách cùng toa cưỡng hiếp ngay trên tàu trong lúc cô gái ngủ say. Cũng trong tháng 1 một du khách Ba Lan đã bị một lái xe taxi đánh thuốc mê và hãm hiếp khi cùng cô con gái 2 tuổi du lịch tới Ấn Độ. Cuối tháng 12 năm 2014, một thiếu nữ 20 tuổi bị bắt cóc khi đang đi chơi với bạn và bị cưỡng hiếp tập thể. Một số vụ điển hình được xử tại tòa án. Chấn động nhất trong thời gian gần đây là vụ một thiếu nữ 16 tuổi bị cưỡng hiếp tập thể trong hai vụ tấn công khác nhau, sau đó bị thiêu sống. Cô gái bị tấn công lần đầu hôm 26/10, vụ cưỡng hiếp lần hai xảy ra khi cô đang trên đường về nhà sau khi trình báo vụ tấn công đầu tiên với cảnh sát, kinh hoàng hơn, cô gái bị thiêu sống hôm 23/12 và qua đời tại bệnh viện. Sự việc đã làm bùng nổ một cuộc biểu tình ngày 1/1. Dư luận. Ấn Độ. Sau Vụ hiếp dâm tập thể Delhi, 2012 , các cuộc biểu tình đã nổ khắp Ấn Độ, bao gồm Chennai, Bangalore, Hyderabad, Thiruvananthapuram, Mumbai... Nhiều người biểu tình đã mang theo nến, mặc áo đen và nhiều người quần vải đen quanh miệng.
1
null
Funeral (tạm dịch "Đám tang") là album phòng thu đầu tay của ban nhạc indie rock Canada Arcade Fire, phát hành ngày 14 tháng 9 năm 2004 ở Bắc Mỹ bởi Merge Records và 28 tháng 2 năm 2005 ở châu Âu bởi Rough Trade Records. Tên của album để tưởng nhớ những thành viên gia đình của nhiều thành viên ban nhạc đã qua đời trong thời gian thu âm album: bà của Régine Chassagne mất vào tháng 6 năm 2003, ông của Win và William Butler (nghệ sĩ nhạc swing Alvino Rey) mất vào tháng 2 năm 2004 và cô của Richard Reed Parry vào thang 4, 2004. Năm đĩa đơn đã được phát hành từ album: Thành công nhất, Rebellion (Lies), đạt vị trí # 19 trên UK Singles Chart. Album được đề cử cho giải Grammy vào năm 2005 cho Album alternative xuất sắc nhất. Nó đã nhận được nhiều lời khen ngợi và đứng đầu nhiều danh sách album hay nhất của năm và thập kỷ. Theo trang web Metacritic, album xuất hiện ở vị trí số hai trên danh sách album hay nhất thập kỷ, chỉ sau "Kid A" của Radiohead. Trong phiên bản đã cập nhật của danh sách "500 album vĩ đại nhất" của "Rolling Stone" nó được xếp ở vị trí #151.
1
null
, được biết đến với 3 tiêu đề tiếng Anh: "Girl in the Sunny Place" (tại Liên hoan Phim Nhật Bản), "Her Sunny Side" (tiêu đề tạm dịch trước khi ra mắt) và "The Girl in the Sun" (tiêu đề chính thức khi công chiếu quốc tế), là bộ phim điện ảnh lãng mạn pha lẫn hư cấu màu nhiệm Nhật Bản công chiếu lần đầu tại quê nhà vào ngày 12/10/2013 với sự tham gia diễn xuất của Matsumoto Jun và Ueno Juri. Bộ phim được chuyển thể từ tác phẩm văn học cùng tên của tác giả Koshigaya Osamu. Bài hát chính của bộ phim mang tên "Wouldn't It Be Nice" của The Beach Boys, phát hành vào năm 1966, sáng tác bởi Brian Wilson, thành viên của nhóm. Cốt truyện. Okuda Kousuke, chàng trai trẻ độc thân, yêu mèo làm việc tại một công ty quảng cáo mong muốn tìm được người yêu cho riêng mình. Trầm tính và chậm chạp, Kousuke không ít lần thất bại cả trong công việc lẫn tình yêu. Một lần, khi cùng đàn anh tới làm việc tại một công ty thời trang nội y, Kousuke gặp lại Watarai Mao, cô bạn học chung hồi cấp 2 đã mất liên lạc trong 10 năm. Cả hai vô cùng ngạc nhiên và vui mừng khi gặp lại nhau. Dáng vẻ của Mao không còn chút nhút nhát, rụt rè như chú mèo con nữa làm cho tình cảm thời học sinh của Kousuke với Mao trỗi dậy. Tuy muốn mời Mao đi chơi nhưng Kousuke nhút nhát lại không dám mở lời. Mọi chuyện thay đổi khi Mao trong sáng bộc bạch tình cảm của mình bằng một nụ hôn với Kousuke. Cả hai tiến tới hẹn hò và Mao muốn kết hôn ngay lập tức. Cha của Mao lên tiếng phản đối, Mao và Kousuke lén đi đăng ký kết hôn. Dù không vui nhưng vì ý chí kiên quyết của con gái và sự chân thật của Kousuke, cha của Mao đã dần chấp nhận anh. Tuy nhiên, đằng sau Mao gấp gáp, trong sáng lại có một bí mật to lớn. Thời gian của cô sắp hết rồi...
1
null
Michael I Cerularius hoặc Keroularios (tiếng Hy Lạp: Μιχαήλ Α Κηρουλάριος.; 1000 - 21 tháng 1 năm 1059) là Thượng phụ thành Constantinopolis giai đoạn 1043-1059. Ông là người được cho là đã có những bất đồng với Giáo hoàng Lêô IX về về tín lý, thần học và quyền bính trong Giáo hội. Bất đồng này dần trở thành mâu thuẫn dẫn đến cuộc Ly giáo Đông-Tây phân tách thành Giáo hội Công giáo Rôma và Chính Thống giáo Đông phương.
1
null
Cá rô phi đen hay còn gọi là cá rô phi Mozambique hay còn gọi là cá phi, cá phi cỏ (Danh pháp khoa học: Oreochromis mossambicus) là một loài cá rô phi có nguồn gốc từ châu Phi ở Mozambique. Đây là một trong những loài cá có giá trị kinh tế, được con người du nhập đi nhiều nơi và ở một số nơi, chúng trở thành loài xâm hại cho các loài bản địa, chúng đang trở thành kẻ xâm lấn thành công ở nhiều nơi trên thế giới, đe dọa đến hệ thống sinh thái nước ngọt ở sông, hồ. Phân bố. Chúng có nguồn gốc từ các nước Đông Châu Phi. Cá phân bố rất rộng ở nhiều môi trường nước (ngọt, lợ, mặn) ở châu Phi, Indonesia, Philippines, Thái Lan, Malaysia. Đến nay đã di sang các nước Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan và một số nước Đông Nam Á. Ở Việt Nam có ở hầu hết các tỉnh, đây là là một trong những loài cá được di nhập sớm nhất từ năm 1951. Cá được phổ biến, du nhập vào nhiều nước trên thế giới để nuôi làm thực phẩm. Các quần thể đã thích nghi của loài này trong tự nhiên là kết quả của việc cố tình thả ra hoặc để xổng từ các trang trại nuôi chúng. Đây là một loài ăn tạp và chúng ăn gần như mọi thứ từ tảo đến côn trùng. Chúng tạo thành các quần thể đông đặc và thiếu thức ăn trong các thủy vực sinh sống. Đặc điểm. Mô tả. Cá rô phi đen có thân hình thoi và dẹp bên rõ rệt, mõm tròn mắt nhỏ. Chiều dài kể cả đuôi bằng 2,7 lần chiều dài đầu và bằng 2,5 lần chiều cao thân. Vây ngực lớn dài bằng chiều dài đầu. Thân màu xám tro hoặc nâu nhạt, bụng xám trắng, mép rìa vây lưng. Miệng khá rộng, hướng lên trên, chúng có 4-8 hàng răng. Răng hàm ngắn và nhiều. Có hai tấm răng hầu ở trên và một tấm ở dưới. Que mang ngắn, tia gai cứng cuối cùng của vây lưng dài nhất. Chiều dài vây ngực bằng chiều dài đầu, đạt đến hoặc vượt quá một ít khởi điểm của vây hậu môn. Vây đuôi tròn ở cá trưởng thành, cắt thẳng đứng ở cá con. Toàn thân phủ vảy tròn, đường bên không liên tục. Có vảy hơi đen ở phần lưng, phần bụng màu sáng, vây có màu phớt hồng. Cá đực có 2 lỗ (lỗ niệu chung với lỗ sinh dục và lỗ hậu môn). Cá cái có 3 lỗ (lỗ niệu, lỗ sinh dục và lỗ hậu môn màu đỏ, không có các vằn ngang trên thân. Chiều dài lớn nhất 30 cm, thông thường 10 – 25 cm. Sau 4 tháng tuổi con đực nặng 30 – 40g, con cái 25 – 30g, sau 8 tháng con đực đạt 250 – 300g, con cái 150 – 200g tuy nhiên cỡ lớn nhất chỉ đạt 1,7–2 kg/con. Sinh sản. Cá sinh trưởng rất nhanh, cá đực lớn nhanh hơn cá cái. Chúng sinh sản quanh năm, mỗi năm cá cái đẻ 5 – 6 lứa. Khi đẻ chúng đào ổ dưới đáy ao. Trứng sau khi đẻ và thụ tinh được cá mẹ hút vào miệng để ấp. Cá bột cũng được hút vào miệng khi gặp nguy hiểm trong 15 – 20 ngày đầu. Do sinh sản tự nhiên rất nhanh và nhiều (có thể đẻ 10 lần/con) do đó rất khó khống chế mật độ nuôi rô phi loại này trong ao. Mật độ cá cao và cung cấp thức ăn không đủ trong ao đã làm cho cá chậm lớn, cỡ cá nhỏ, năng suất thấp và giá trị thương phẩm thấp, do thành thục sớm và chu kỳ sản ngắn khiến cho mật độ cá nuôi trong ao trở nên dày đặc, cá giảm tăng trưởng, kích thước nhỏ và sản lượng thấp. Nước tiểu của cá rô phi đực Mozambique khả năng thu hút bạn tình. Cá rô phi đực biết đào tổ trong cát và coi đó là lãnh thổ của riêng mình. Chúng sẽ bảo vệ trọn vẹn lãnh thổ và chỉ để những chú cá rô phi cái đủ tiêu chuẩn được vào đó. Cá rô phi đực ra sức tiểu vào vùng lãnh thổ của mình, nước tiểu có chứa pheromone (chất được sử dụng như tín hiệu hóa học giữa các cá thể cùng loài) chứa một lượng khá lớn steroid - tương tự như progesterone - một hormone sinh dục nữ tại vùng đất của cá rô phi đực. Cá rô phi cái ẩn nấp gần đó sẽ có thể ngửi thấy mùi pheromone và dựa vào đó để kiếm tìm bạn tình phù hợp. Cá đực còn tạo những chiếc bụng lớn, chúng sẽ mở rộng bàng quang để có thể lưu trữ lượng nước tiểu nhiều hơn. Khi tiếp cận được mục tiêu, chúng sẽ dồn ép số lượng nước tiểu này ra ngoài. Lượng nước tiểu này sẽ mang theo một lượng lớn kích thích tố steroid để thu hút. cá đực có chiếc bụng nhỏ sẽ khó có thể trữ lượng nước tiểu lớn cùng lượng kích thích tố cần thiết để có thể tìm ra bạn tình ưng ý. Lượng kích thích tố này quan trọng bởi đó sẽ là nhân tố giúp kích thích giải phóng trứng ở cá rô cái. Khi tinh trùng của cá đực kết hợp hài hòa cùng với trứng ở cá cái, sẽ giúp cá rô phi dễ thụ tinh hơn
1
null
Cá rô phi xanh (Danh pháp khoa học: Oreochromis aureus) là một loài cá rô phi và là loài bản địa ở Tây Phi, Trung Đông. Đây là loài có giá trị kinh tế đồng thời nó đã được du nhập đi nhiều nơi và phát triển trở thành một loài xâm lấn. Năm 1996, cá rô phi xanh đã được di nhập vào Việt Nam để phục vụ cho các nghiên cứu tạo dòng cá rô phi có khả năng chịu lạnh và sản xuất cá rô phi đơn tính đực thông qua kỹ thuật lai tạo. Đến nay, tại trên thế giới, người ta đã lai giống rô phi màu đỏ (cá rô phi đỏ) còn gọi là cá diêu hồng với con rô phi xanh để tạo ra một loài lai mà trọng lượng có thể lên tới 2–3 kg/con. Đặc điểm. Cá rô phi xanh có thân hình màu hơi tím, vảy sáng bóng, có 9-12 sọc đậm song song nhau từ lưng xuống bụng. Vây đuôi có màu sọc đen sậm song song từ phía trên xuống phía dưới và phân bổ khắp vi đuôi. Vi lưng có những sóc trắng chạy song song trên nền xám đen. Viền vi lưng và vi đuôi có màu hồng nhạt. Con cá rô phi xanh có thể dài tới 0,6m và nặng 4 kg, là loài cá dễ nuôi. Rô phi đơn tính (đực) lớn nhanh, sau 4-5 tháng nuôi có thể đạt trọng lượng 0,4-0,6 kg/con. Giữa con cái và con đực có tốc độ lớn khác nhau. Thường thì con đực lớn nhanh hơn con cái từ 15-18% sau 4 tháng nuôi. Thức ăn. Cá rô phi xanh ăn được hầu hết các loại thức ăn tự nhiên, mùn bã hữu cơ trong ao nuôi, rô phi vừa có tác dụng tiêu diệt các loại động vật nhỏ mang mần bệnh vừa có tác dụng làm sạch môi trường và cho sản phẩm có giá trị. Khi còn nhỏ, chúng ăn sinh vật phù du (tảo và động vật nhỏ) là chủ yếu (cá 20 ngày tuổi, kích thước khoảng 18mm). Cá rô phi xanh dễ nuôi và chịu được ở những môi trường không thuận lợi. Nó có thể sống ở môi trường nước ngọt, nước lợ (mà có thể độ mặn tới 32%o) và cả nước phèn nhẹ. Cá nói chung rất sợ nước bẩn nhưng con rô phi chịu được cả ở nguồn nước có hàm lượng amonia tới 2,4 mg/lít và lượng oxy chỉ có 1 mg/lít. Nó chịu nhiệt tới tận 42 độ C và chịu lạnh được tới 11 độ C. Giới hạn pH đối với chúng từ 5-10. Khi cá trưởng thành ăn mùn bả hữu cơ lẫn các tảo lắng ở đáy ao, ăn ấu trùng, côn trùng, thực vật thủy sinh. Tuy nhiên trong nuôi công nghiệp cá cũng ăn các loại thức ăn chế biến từ cá tạp, cua, ghẹ, ốc, bột cá khô, bột bắp, bột khoai mì, khoai lang, bột lúa, cám mịn, bã đậu nành, bã đậu phộng.Trong thiên nhiên cá thường ăn từ tầng đáy có mức sâu từ 1-2m. Hàng năm, cá rô phi xanh có thể đẻ trứng từ 6-11 lần. Cá mái đẻ mỗi lần khoảng 200 trứng vào trong ổ tự tạo, sau đó con đực làm cho trứng thụ tinh. Trứng và cá bột được cha mẹ giữ trong miệng khoảng 2 tuần lễ. Cá đực đào tổ, cá rô phi cái ấp trứng ở trong miệng. Trứng sau khi đã thụ tinh được cá ngậm ở miệng cho tới tận lúc nở, mỗi lần đẻ 1.000 - 2.000 trứng và đẻ nhiều lần.
1
null
Ý An Hoàng hậu (chữ Hán: 懿安皇后, 780 - 25 tháng 6, năm 848), còn được gọi là Quách Quý phi (郭貴妃) hay Quách Thái hậu (郭太后), là nguyên phối của Đường Hiến Tông Lý Thuần, sinh mẫu của Đường Mục Tông Lý Hằng và là hoàng tổ mẫu của 3 vị hoàng đế Đường Kính Tông, Đường Văn Tông, Đường Vũ Tông trong lịch sử Trung Quốc. Sinh ra là cháu gái của đại danh thần triều Đường là Quách Tử Nghi, Quách thị là cháu ngoại của Đường Đại Tông Lý Dự, do vậy vai vế của Quách thị còn là biểu cô của chồng bà. Tuy là chính thê nhưng khi đăng cơ, Đường Hiến Tông chỉ sắc phong cho Quách thị ngôi vị Quý phi mà không phải Hoàng hậu, điều này khiến địa vị của bà trong 15 năm triều Hiến Tông vẫn ["Danh không chính ngôn không thuận"]. Giải thích việc này, chính bản thân Đường Hiến Tông khi trả lời đã lấy lý do rằng lo sợ gia thế của Quách thị, người vốn xuất thân từ gia tộc quyền thế của đại công thần Quách Tử Nghi, nếu lập bà làm Hoàng hậu thì như vậy phi tần sẽ không dám gần gũi ông nữa. Từ triều Đường Hiến Tông, các Hoàng đế nhà Đường hình thành lệ bất thành văn không thiết lập Hoàng hậu, mãi đến khi Hà Hoàng hậu của Đường Chiêu Tông được lập, khoảng gần 100 năm sau. Bà đã sống qua 7 đời hoàng đế nhà Đường, và trở thành một trong 2 vị Thái hoàng thái hậu của nhà Đường, bên cạnh Hiếu Minh Trịnh hoàng hậu, mẹ ruột của Đường Tuyên Tông Lý Thầm. Trong 7 đời trải qua, thì 5 đời bà được cực tận tôn quý, nên sử gia gọi bà là [Thất triều Ngũ tôn; 七朝五尊]. Gia thế. Ý An hoàng hậu Quách thị là con gái của Tả bộc xạ Phò mã đô úy Quách Ái (郭曖) và Thăng Bình công chúa. Ông nội bà là danh thần Quách Tử Nghi, đồng thời bà cũng là cháu ngoại của Đường Đại Tông Lý Dự, cháu gái gọi Đường Đức Tông Lý Quát bằng cậu. So với Hiến Tông hoàng đế bà thuộc vai vế là ["Biểu cô"; 表姑], có thể xem là quý thích hoàng thân. Trong nhà bà có 2 anh trai là Quách Chiêu (郭釗), Quách Thung (郭鏦); một chị gái lấy Lý Chiêu (李昭). Khi Đường Hiến Tông Lý Thuần còn là Quảng Lăng vương, ông đã đích thân tới nghênh thú Quách thị, do đó Quách thị trở thành Quảng Lăng vương phi (廣陵王妃). Do xuất thân rất cao, Quách thị rất được Lý Thuần vị nể, địa vị hiển quý. Năm Trinh Nguyên thứ 11 (795), Quách phi hạ sinh con trai thứ ba của Lý Thuần là Lý Hựu, tức sau thành Đường Mục Tông. Sau đó, Quách phi lại sinh thêm một con gái, về sau là Kỳ Dương Trang Thục công chúa. Khi Quách phi nhập phủ, Quảng Lăng vương Lý Thuần đã có hai con trai lớn, người cả là Lý Ninh (李寧) - mẹ là một tiểu thiếp họ Kỷ, còn người kia là Lý Uẩn (李惲), mẹ là một tiểu thiếp nào đó không rõ lai lịch. Khi Quách phi sinh ra Lý Hựu thì trở thành người con trai thứ ba của Quảng Lăng vương, nhưng lại được xem là hiển quý nhất do Quách phi là chính thê danh chính ngôn thuận. Không lập Hậu. Năm Nguyên Hòa nguyên niên (806), Thái tử Lý Thuần nối ngôi, tức Đường Hiến Tông. Tháng 8 cùng năm, Quách phi được sách phong làm Quý phi. Dù là chính thê, nhưng rất kỳ lạ là Hiến Tông chỉ phong Quách thị làm Quý phi, dẫu địa vị trong hậu cung lúc ấy của bà là lớn nhất. Một thời gian sau khi Hiến Tông đăng cơ, mẫu thân của Quý phi là Thăng Bình Trưởng công chúa đã muốn lấy lòng Hiến Tông, tuyển chọn dâng cho Hiến Tông khoảng 50 Thị nữ, nhưng Hiến Tông cho rằng Thái thượng hoàng không thể nhận nên mình cũng không thể nhận rồi trả về. Năm Nguyên Hòa thứ 4 (809), Hiến Tông lập người con trai trưởng của mình là Lý Ninh làm Thái tử, mặc dù Lý Hựu mới là đích xuất. Mãi đến năm Nguyên Hòa thứ 7 (812), sau khi Lý Ninh hoăng thì Hiến Tông mới quyết định chọn Lý Hựu làm Thái tử, đổi tên là Lý Hằng (李恆). Trên Lý Hằng còn có một hoàng tử nữa là Lễ vương Lý Uẩn, nên Hiến Tông muốn để Lý Uẩn đứng ra làm một tờ biểu nhường ngôi Thái tử cho em. Các đại thần cho là không cần thiết vì Lý Hằng là con trai của chính thê nên phải luôn được ưu tiên hơn là con trai của vợ lẽ, vì thế Hiến Tông bỏ ý định này đi. Năm Nguyên Hòa thứ 8 (813), nhân việc Lý Hằng trở thành Hoàng thái tử, các đại thần cũng nhân đó dâng sớ xin lập Quách Quý phi làm Hoàng hậu. Nhưng Đường Hiến Tông khước từ, do sủng ái rất nhiều phi tần khác, cho rằng Quách Quý phi đã có thế lực lớn bên nhà mẹ, nếu phong Mẫu nghi thiên hạ thì các phi tần khác sẽ e ngại mà không dám tiếp cận ông, nên vẫn để trống. Thế là trong vòng 15 năm Đường Hiến Tông tại vị, Quách thị tuy là chính thê vẫn không lể lên ngôi Hoàng hậu. Hoàng thái hậu. Năm Nguyên Hòa thứ 15 (820), ngày 14 tháng 2, Đường Hiến Tông bị hoạn quan là Trần Hoằng Chí (陳弘志) sát hại. Tả trung úy Thổ Đột Thừa Thôi (吐突承璀) âm mưu phế truất Thái tử Lý Hằng để lập Lễ vương Lý Uẩn lên ngôi. Các hoạn quan gồm Mã Tiến Đàm (馬進潭), Lưu Thừa Giai (劉承偕) và Vương Thủ Trừng (王守澄) về phe Quách Quý phi và Thái tử Lý Hằng, đánh bại Thừa Thôi và giết Lễ vương. Ngày 20 tháng 2 cùng năm, Thái tử Lý Hằng tức Hoàng đế vị, tức là Đường Mục Tông. Về sau, khi Đường Tuyên Tông đăng cơ thì có lời đồn rằng cái chết của Hiến Tông có sự nhúng tay của Quách Quý phi cùng Mục Tông, nhưng không có bằng chứng xác thực để chứng minh. Sách tôn Hoàng thái hậu năm đó viết: Không lâu sau khi lên ngôi, Mục Tông tôn Quách quý phi làm Hoàng thái hậu, sống ở Hưng Khánh cung (興慶宮). Tằng tổ của bà là Quách Kính Chi (郭敬之) được truy tặng Thái bảo, tước "Kỳ Quốc công" (祺國公); phụ thân bà là Quách Ái truy tặng Thái úy, tặng tước "Đại Quốc công" (代國公); mẫu thân là Thăng Bình Trưởng công chúa được truy tặng "Tề Quốc đại trưởng công chúa" (齊國大长公主). Các anh em của bà đều được thăng chức và được trọng dụng: Đại tư nông Quách Chiêu (郭釗), anh cả của Thái hậu được phong Hình bộ thượng thư, và Quách Thung (郭鏦) làm Kim Ngô đại tướng quân. Ngoài ra, Đường Mục Tông cũng lãng phí rất nhiều tiền của trong quốc khố cho việc phụng dưỡng Hoàng thái hậu, dùng cho việc chi dùng thường ngày hay tổ chức sinh thần, xây dựng cung điện của Hoàng thái hậu. Quách Thái hậu rất thích đi du ngoạn, từng đi qua Ly Sơn du lãm. Mục Tông vì chiều ý Thái hậu, không tiếc tiền tổ chức những buổi ngự lãm xa hoa, mấy tháng mới về cung. Năm Trường Khánh thứ 2 (822), Quách Thái hậu đến thăm Hoa Thanh cung (華清宮) để tắm suối nước nóng. Đường Mục Tông đích thân đi cùng, nhưng chỉ một ngày sau thì Hoàng đế trở về kinh còn Thái hậu ở lại thêm vài ngày nữa. Bà cũng thường lên Ly Sơn hay chùa Thạch Úng thì Mục Tông sai con trưởng là Cảnh vương Lý Đam dẫn cấm quân theo bảo vệ. Năm Trường Khánh thứ 4 (824), ngày 25 tháng 2, Mục Tông lâm bệnh nặng, hạ chiếu cho Thái tử Lý Đam giám quốc. Các hoạn quan đề nghị Hoàng thái hậu buông rèm nhiếp chính. Thái hậu liền nói:"Xưa kia Võ hậu nhiếp chính suýt nữa đã làm tiêu vong cơ nghiệp. Gia tộc Quách thị nhiều đời trung trinh với đất nước khác với bọn nhà Võ thị. Thái tử còn nhỏ tuổi nhưng có tể thần giúp đỡ thì có gì là không nên. Từ xưa tới nay cũng chưa thấy lúc nào Hậu cung chấp chính mà đất nước được hưng thịnh như đời Nghiêu Thuấn đâu ?". Thế rồi, Quách Thái hậu xé nát tờ biểu đề nghị mình làm nhiếp chính. Anh trai bà là Quách Chiêu cũng đồng tình với bà. Tối ngày hôm đó Mục Tông băng hà, Thái tử Lý Đam kế vị, tức là Đường Kính Tông. Thái hoàng thái hậu. Năm Trường Khánh thứ 4 (824), ngày 11 tháng 3, Đường Kính Tông tôn Quách Thái hậu làm Thái hoàng thái hậu, đồng thời cũng quyết định tôn mẫu thân của mình là Vương thị làm Hoàng thái hậu. Quách hậu trở thành vị Thái hoàng thái hậu đầu tiên trong lịch sử nhà Đường, phú quý tột độ. Tháng 5 năm đó, thầy bói Tô Huyền Minh (蘇玄明) cùng cung nhân Trương Thiều (張韶) liên kết với hơn mấy trăm kẻ vô lại, nhân một hôm Kính Tông đang mải chơi, đã nhân đêm tối tấn công vào cung trung. Kính Tông đang ở trong điện chơi đá cầu, nghe được tin có biến, vô cùng hoảng sợ, bèn bỏ trốn đến trụ sở Thần Sách tả quân, và cử người dẫn quân diệt tặc. Thái hoàng thái hậu và Vương Thái hậu khi đó vẫn ở trong cung, Kính Tông lo sợ cho hai vị Thái hậu, cũng sai đón vào Thần Sách quân tránh nạn. Về sau các tướng đã dẫn binh đánh tới, giết Trương Thiều và Tô Huyền Minh. Mấy hôm sau Kính Tông và hai vị Thái hậu được đưa về cung. Năm Bảo Lịch thứ 3 (827), ngày 9 tháng 1, Đường Kính Tông bị bọn hoạn quan Lưu Khắc Minh (劉克明) giết hại. Các hoạn quan khác là Vương Thủ Trừng, Dương Thừa Hòa, Ngụy Tòng Gián nghe tin cung trung có biến động, bèn tập hợp quân mã diệt bọn Khắc Minh, đưa Giang vương Lý Hàm vào cung. Ngày 11 tháng 1 cùng năm, Thái hoàng thái hậu Quách thị lệnh bách quan yết kiến Giang vương Hàm ở tử thần ngoại vũ. Hai hôm sau, Quách Thái hoàng thái hậu lập chiếu đưa Giang vương lên ngôi Hoàng đế, tức là Đường Văn Tông. Tờ chiếu viết: Sau khi lên ngôi, Đường Văn Tông tôn mẹ mình là Tiêu thị lên làm Hoàng thái hậu. Lúc đó, Thái hoàng thái hậu Quách thị được bố trí ở Hưng Khánh cung, Vương Thái hậu ở Nghĩa An điện (義安殿), Tiêu Thái hậu là mẹ ruột của Văn Tông thì sống ở đại nội. Đường Văn Tông vốn tính hiếu thuận, phụng sự ba cung đều như nhau. Mỗi khi các nơi tiến cống kỳ trân dị vật thì trước đưa đến tông miếu, tiếp đó dâng đến ba cung còn dư thừa mới để tự mình chi dùng. Trong hậu cung nhà Đường chưa từng có nhiều Thái hậu như vậy, được tôn kính gọi là [Tam cung Thái hậu; 三宮太后]. Năm Khai Thành thứ 5 (840), Đường Văn Tông đột ngột băng hà, không có hậu duệ. Một người cháu khác của Quách Thái hoàng thái hậu là Lý Triền được đưa lên ngôi, tức Đường Vũ Tông. Trong cung bắt đầu cần phân biệt 3 vị Thái hậu, chiếu theo cung điện mà tôn Vương Thái hậu phong hiệu Nghĩa An thái hậu (義安太后), Tiêu Thái hậu là Tích Khánh thái hậu (積慶太后), còn Quách Thái hậu vẫn tôn làm Thái hoàng thái hậu, tôn quý nhất trong Tam cung. Cũng như các vị Tiên đế, Đường Vũ Tông tôn kính 3 vị Thái hậu hết sức chu đáo. Đường Vũ Tông may mắn lên ngôi Cửu ngũ chí tôn, nhưng bản tính thích việc săn bắn và vui chơi, nhiều đại thần can ngăn ông nhưng không hiệu quả. Một số người hầu thân tín của Vũ Tông gọi là Ngũ phường thiếu nhi (五坊小兒) được phép ra vào cung cấm thoải mái, khiến nhiều người bất bình. Có một lần, ông đến thỉnh an Thái hoàng thái hậu và hỏi bà về cách trị nước. Thái hoàng thái hậu Quách thị vào lúc này khuyên Hoàng đế nên nghe lời can gián của quần thần, do đó Vũ Tông mới bớt việc vui chơi, bỏ việc săn bắn, chính sự nhà Đường từ đó dần khởi sắc. Cuối đời. Năm Hội Xương thứ 6 (846), Đường Vũ Tông băng hà. Hoàng đế qua đời mà không có hậu duệ, dòng dõi hậu duệ trực hệ của Quách hậu do đó cũng chấm dứt. Theo trình tự thừa kế, ngôi vị hoàng đế rơi vào tay của Quang vương Lý Di, tức Đường Tuyên Tông - con trai thứ 13 của Đường Hiến Tông. Mẫu thân của Tuyên Tông là Trịnh Thái phi, trước đó từng là nô tì hầu hạ Quách hậu, sau do Đường Hiến Tông sủng hạnh mà sinh được hoàng tử. Thế nhưng do Trịnh thị thân phận quá thấp, sau khi sinh Lý Di thì vẫn bị điều đi biệt cung mà không cho ở lại trong cung. Ngôi Hoàng đế mà con cháu của bà nắm giữ trong gần 30 năm đã rơi vào tay kẻ khác, lại là con của một người từng là nô tỳ của mình khiến Quách hậu rất bất mãn và khinh thường. Đường Tuyên Tông sau khi đăng cơ, đã tôn mẫu thân của mình Trịnh thị làm Hoàng thái hậu, trong khi vẫn giữ ngôi vị Thái hoàng thái hậu của Quách thị, trong cung tổ chức yến tiệc vẫn tôn Quách hậu vào bậc đầu, còn Trịnh thị ở ngôi thứ. Sau khi lên ngôi, không rõ có phải vì mâu thuẫn giữa Quách hậu và Trịnh thị hay không, mà Đường Tuyên Tông tuyên tin nghi ngờ Thái hoàng thái hậu là người chủ mưu trong cái chết của phụ hoàng Đường Hiến Tông, để đưa con mình là Đường Mục Tông lên ngôi. Năm Đại Trung thứ 2 (848), ngày 25 tháng 6 (âm lịch), Quách Thái hoàng thái hậu cùng vài tên Thị giám lên Cần Chính lâu (勤政樓), muốn từ đó nhảy xuống đất mà tự vẫn, nhưng được tả hữu ngăn lại kịp thời. Đường Tuyên Tông nghe đến việc này thì rất không vui. Bỗng nhiên, nửa đêm hôm đó Quách Thái hoàng thái hậu băng hà ở Hưng Khánh cung, do vậy có lời đồn cái chết này là do Tuyên Tông hoàng đế bí mật sai người hạ độc. Bà được truy tôn thụy hiệu là Ý An hoàng hậu (懿安皇后). Sau đó, Thái thường quan là Vương Hao (王暤) trình bày trình tự thờ cúng Thái hoàng thái hậu, hợp táng với Hiến Tông và thăng phụ Thái Miếu. Nhưng Đường Tuyên Tông không muốn cho hợp táng Quách Thái hoàng thái hậu với Hiến Tông, mà định để Trịnh Hoàng thái hậu hợp táng sau khi bà qua đời. Vì thế, Tuyên Tông ngầm lệnh Tể tướng Bạch Mẫn Trung (白敏中) phản đối Vương Hao, nhưng Vương Hao mạnh mẽ đáp:"Quách hậu vốn là Nguyên phi của Hiến Tông khi ở Đông Cung, làm con dâu thảo phụng dưỡng Thuận Tông. Trải qua năm triều, trở thành Thiên hạ mẫu hậu, thế nào việc an táng lại có dị nghị?!". Các quan viên khác nghe mệnh Tuyên Tông cũng đứng ra phản đối Vương Hao, nhưng ông trước sau vẫn cương trực như vậy. Do đó ông bị giáng làm Huyện lệnh của huyện Câu Dung, rời khỏi triều đình. Sang đời Đường Ý Tông, Vương Hao được gọi về triều, vẫn chủ trương cho Quách hậu phụ táng vào Cảnh lăng (景陵), thăng phụ Thái Miếu. Sau nhiều năm bị đình trệ thì việc này mới được giải quyết. Hậu duệ. Ý An Quách hoàng hậu với Đường Hiến Tông sinh được 1 nam 1 nữ:
1
null
Cá rô là một tên gọi thông dụng tại Việt Nam, dùng chung cho một số loài cá thuộc bộ Cá vược, trong đó có nhiều loài thuộc về Chi Cá rô. Ở Việt Nam, thuật ngữ cá rô còn được hiểu là cá rô đồng, một loài cá phổ biến tại quốc gia này, người miền Tây thường phát âm cá rô chệch thành cá gô. Một số loài được gọi là cá rô gồm: Một số loài. Cá rô châu Âu. Cá rô châu Âu ("Perca fluviatilis") là một loài cá săn mồi được tìm thấy ở châu Âu và châu Á. Trong một số khu vực được gọi là pecca vây đỏ hoặc cá pecca Anh, và nó thường được gọi đơn giản là cá pecca. Loài này là một mỏ đá phổ biến cho môn câu cá và đã được du nhập rộng rãi vượt ra ngoài khu vực bản địa của nó, vào nước Úc, New Zealand và Nam Phi. Chúng đã gây ra thiệt hại đáng kể cho các quần thể cá bản địa ở Úc. Cá pecca châu Âu cá rô màu xanh lục với, vây và cuối đuôi đỏ. Chúng có 5-9 thanh tối dọc trên các cạnh. Cá pecca châu Âu có thể khác nhau rất nhiều về kích thước giữa các vùng nước. Tuổi thọ 22 năm, và lớn hơn cá pecca thường có kích thước lớn hơn con trưởng thành có kích thước trung bình rất nhiều, chiều dài tối đa được ghi nhận là 60 cm (24 in). Kỷ lục ở Anh là 2,8 kg (6 lb 2 oz), nhưng chúng phát triển lớn hơn trong lục địa châu Âu hơn so với ở Anh, và nhiều như 9 kg (20 lb) ở Úc. Tại thời điểm tháng 11 năm 2010, kỷ lục chính thức của tất cả các kỷ lục thế giới đứng ở mức 1,5 kg (3 lb 5 oz) mặc dù kỷ lục cá thể từ các khu vực khác nhau ghi lại con cá lớn hơn. Cá rô vàng. Cá rô vàng ("Perca flavescens") là một loài cá rô được tìm thấy ở Hoa Kỳ và Canada, nơi nó thường được gọi bằng tên ngắn là cá pecca. Cá pecca vàng giống cá pecca châu Âu, nhưng nhạt màu và màu vàng hơn, với ít màu đỏ ở vây. Chúng có 6-8 thanh djc màu tối ở hai bên. Pecca vàng có kích thước có thể khác nhau rất nhiều giữa các vùng nước, nhưng con trưởng thành thường dài từ 10-25,5 mm. Tuổi thọ có thể đến 11 năm, và lớn hơn pecca vàng già hơn thường lớn hơn nhiều hơn mức trung bình, chiều dài tối đa được ghi nhận là 21,0 inch (53,3 cm) và trọng lượng lớn nhất được ghi nhận là 4,3 lb (1,91 kg). Các pecca vàng trưởng thành tính dục ở 1-3 năm tuổi đối với con đực và 2-3 năm tuổi đối với con cái. Thời gian sinh sản vào cuối tháng Tư hoặc đầu tháng Năm, con cái đẻ từ 10.000 đến 40.000 lên cỏ hoặc nhánh cây hoặc cây bụi ngập trong nước. Sau khi thụ tinh, trứng nở trong 11-27 ngày, tùy thuộc vào nhiệt độ và điều kiện thời tiết khác. Cá rô đồng. Cá rô đồng gọi đơn giản là cá rô ("Anabas testudineus") là loại cá sống ở môi trường nước ngọt, nước lợ. Chúng có thịt béo, thơm, dai, ngon, có giá trị thương phẩm cao tuy rằng hơi nhiều xương. Kích thước cực đại của chúng có thể tới 250 mm. là loài động vật ăn tạp. Chúng có thể ăn cả các loài động vật thân mềm, cá con và thực vật, kể cả cỏ. Chúng có thể ăn các chất hữu cơ và vô cơ được coi là bẩn ở trong nước. Nó có thể ăn lẫn nhau trong trường hợp đói. Vì vậy phân cỡ rất quan trọng Cá rô đồng có nhiều ở các đồng ruộng khu vực phía Bắc. Cá rô có màu xanh từ xám đến nhạt, phần bụng có màu sáng hơn phần lưng, với một chấm màu thẫm ở đuôi và chấm khác ở sau mang. Các gờ của vảy và vây có màu sáng. Nắp mang cá có hình răng cưa. Chúng có một cơ quan hô hấp đặc biệt dưới mang là mang phụ, cho phép chúng có thể hấp thụ được oxy trong không khí. Chúng có răng chắc, sắc, xếp thành dãy trên hai hàm, trên hai hàm còn có răng nhỏ nhọn: hàm răng ở giữa to hơn hai bên và răng có trên xương lá mía. Cá rô Tổng Trường là loại cá rô sống ở môi trường hang động ngập nước vùng đất Hoa Lư, Ninh Bình. Gọi là cá rô Tổng Trường vì loài cá này được phát hiện thấy ở vùng hang động ngập nước thuộc Tổng Trường Yên, nay là quần thể di sản thế giới Tràng An ở huyện Hoa Lư. Cá rô Tổng Trường có thịt béo, thơm, dai, ngon, có giá trị thương phẩm cao, được coi là một đặc sản ẩm thực của Ninh Bình. Cá rô Tổng Trường có hình thái giống cá rô đồng song do sống lâu năm ở vùng đầm lầy, hang động Hoa Lư nên có một số biến dị Cá rô đầu vuông. Cá rô đầu vuông vẫn nằm trong cá rô thường, Qua phân tích hình thái học và biến dị DNA ti thể, xác định giữa cá rô đầu vuông và cá rô thường, có sự tương đồng tới 99% với toàn phần trình tự DNA ti thể. Như vậy có thể nói rằng, về mặt khoa học, giữa cá rô thường và cá rô đầu vuông không có sự khác biệt về loài. Mặc dù vậy về mặt hình thái cũng có thể dễ dàng phân biệt với cá rô thường ở chỗ, khi cá lớn lên, phần đầu cá hơi vuông, lại có chấm đen ở phần mang và phần đuôi cá. Cá rô đầu vuông, thịt cũng thơm ngon, béo ngậy và bổ như cá rô thường. Tuy nhiên do có sự chọn lọc và nuôi trong điều kiện đầy đủ, cá rô đầu vuông có thể lớn rất nhanh, đạt từ 500 - 800g một con sau nửa năm. Giải phẫu. Cơ thể chung của một con cá rô hơi dài và tròn. Cá rô thật có vảy "xù xì" hoặc hình lược. Ở phía trước của đầu là hàm trên và hàm dưới thấp hơn trong miệng, một cặp lỗ mũi và hai mắt không nắp. Ở phía sau của đầu là nắp mang, cái mà bảo vệ mang cá và hệ thống bên trong mang, nó rất nhạy cảm với các rung động trong nước. Thận của cá rô chạy dọc theo xương sống và tạo thành một đường từ đầu, đuôi đến mang. Cá rô có cặp vây ngực và vây bụng, và hai vây lưng, cái thứ nhất có gai và cái thứ hai mềm. Hai vây này có thể tách rời hoặc nối liền.
1
null
Cá pecca là tên gọi chung cho 3 loài cá nước ngọt thuộc chi Perca trong họ Percidae. Tên gọi pecca là phiên âm từ danh pháp khoa học tiếng Latinh "perca", tới lượt mình nó có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp "πέρκη" (pérkē), tên để chỉ loài cá có tại Hy Lạp là "Perca fluviatilis". Một vài từ điển tiếng Anh còn phiên dịch nó thành cá rô; tuy nhiên tên gọi này sai hoàn toàn về bản chất, do từ cá rô bắt nguồn từ loài cá phổ biến ở Việt Nam là cá rô đồng ("Anabas testudineus"), một loài theo phân loại cá xương hiện nay thuộc bộ Anabantiformes trong loạt Anabantaria, chỉ có quan hệ họ hàng xa với Perciformes trong loạt Eupercaria (cùng thuộc Percomorphaceae). Giải phẫu. Dạng cơ thể chung của cá pecca là hơi dài và thuôn tròn. Cá pecca chính hiệu có vảy "thô" hoặc vảy răng cưa. Ở mặt trước của đầu là hàm trên và hàm dưới của miệng, một đôi lỗ mũi và hai mắt không mí mắt. Ở phía sau là hai nắp mang bảo vệ mang và hệ thống đường bên nhạy cảm với các rung động trong nước. Thận của cá pecca chạy dọc theo xương sống và tạo thành một đầu, hình đuôi với mang. Cá pecca có một đôi vây ngực và vây chậu, và hai vây lưng, với vây lưng thứ nhất có tia gai và vây lưng thứ hai có các tia mềm. Hai vây này có thể tách rời hoặc hợp lại. Môi trường sống. Cá pecca là các loài cá ăn thịt, thường được tìm thấy ở các ao, hồ, suối, sông nhỏ. Những con cá này ăn các loài cá nhỏ hơn, động vật có vỏ hoặc ấu trùng côn trùng, nhưng có thể đánh bắt được gần như bằng bất kỳ loại mồi nào. Chúng thường đẻ trứng vào mùa xuân, khi cá cái đẻ các dải trứng ở những khu vực có che phủ như gần cành cây hoặc cây ngầm dưới nước. Các loài cá này tìm thấy nhiều nhất trong các hồ nước trong, nhiều cỏ dại có đáy nhiều mùn, cát hoặc sỏi.
1
null
Hiển Nhân Hoàng hậu (chữ Hán: 顯仁皇后, 1080 - 1159), còn gọi là Vi Hiền phi (韋賢妃), là một phi tần của Tống Huy Tông Triệu Cát và là sinh mẫu của Tống Cao Tông Triệu Cấu. Phi tần. Hiển Nhân Hoàng hậu có họ "Vi" (韋氏), nguyên quán ở Khai Phong, cũng có thuyết cho rằng ở vùng Cối Kê. Những năm cuối đời Tống Triết Tông, tể tướng "Tô Tụng" xin nghỉ về quê ở Đơn Dương. Gần nhà ông có nhà họ Vi sinh được hai người con gái. Cô chị xuất gia không lấy chồng, còn cô em, chính là Hiển Nhân Hoàng hậu thì được gả cho "Tô Tụng" làm thiếp. Nhưng mỗi lần lên giường thì bà lại buồn đi tiểu. "Tô Tụng" bảo: "Người này có quý tướng, không thể ở đây được". Rồi bèn đưa bà về kinh. Gặp lúc Tống Huy Tông tuyển mỹ nữ, bà được vào cung làm Ngự thị cung hầu (御氏宮侯), cùng với cung nữ họ Kiều hầu hạ cho Hiển Túc Hoàng hậu lúc đó đang được sủng ái. Trong thời gian đó, bà kết nghĩa chị em với Kiều thị, vì thế sau này Kiều thị được lâm hạnh đã tiến cử bà với Tống Huy Tông. Cuối năm 1106, bà được phong làm Bình Xương quận quân (平昌郡君). Tuy được phong tước vị nhưng nhan sắc của bà suy giảm nên Tống Huy Tông không sủng ái và cũng lạnh nhạt với bà. Ngày 12 tháng 6 năm 1107, Vi Quận quân hạ sinh Hoàng tử thứ chín Triệu Cấu, tấn phong Khang vương. Đầu những năm Đại Quan (1107 - 1110), tiến phong Tiệp dư (婕妤), rồi Uyển dung (婉容). Khi Khang vương Triệu Cấu được lãnh trách nhiệm hòa hoãn với người Kim, Vi Uyển dung được phong làm Hiền phi (賢妃), ở tại "Long Đức cung" (龍德宮). Cơn loạn Tĩnh Khang. Mùa xuân năm Tĩnh Khang thứ hai (1127) thời Tống Khâm Tông, quân Kim phá được Biện Kinh. Tống Huy Tông và Tống Khâm Tông cùng toàn bộ tông thất, phi tần bị bắt hết lên miền bắc, Vi Hiền phi bị bắt theo, đến sống ở đất Kim. Bấy giờ trong tông thất chỉ còn có con trai của bà là Triệu Cấu không rơi vào tay người Kim. Giữa năm đó, Triệu Cấu xưng đế tức Tống Cao Tông. Vừa mới lên ngôi, Tống Cao Tông đã từ xa tôn bà làm Tuyên Hòa Hoàng hậu (宣和皇后), phụ thân của bà là được phong "Quận vương", người trong họ Vi được thưởng quan chức đến 30 người. Tống Cao Tông nhiều lần sai sứ đến nước Kim xin đón bà về nhưng chưa được. Năm 1137, nghe tin Tống Huy Tông và Hiển Túc Hoàng hậu bạo băng ở đất bắc, Tống Cao Tông lại nhớ đến bà và càng muốn đón về. Hàn Lâm học sĩ "Chu Chấn" dẫn việc Duệ Chân Hoàng hậu đời Đường Đức Tông, đề nghị tôn Tuyên Hòa Hoàng hậu làm Hoàng thái hậu, Tống Cao Tông nghe theo. Tổ tiên của bà từ ba đời trở xuống đều được truy tặng tước Vương. Năm 1138, Tống Cao Tông sai "Vương Luân" đi sứ nước Kim nói rằng nếu người Kim đồng ý trả lại Vi Thái hậu cùng hài cốt của Tống Huy Tông và Hiển Túc Hoàng hậu thì ông sẽ nhường hẳn đất Hà Nam cho họ, người Kim bằng lòng. Tống Cao Tông đã cho xây Từ Ninh cung (慈寧宮) và sai "Mạc Tương", "Hàn Thứ" làm Phụng nghênh sứ. Tuy nhiên về sau hai nước lại xảy ra chiến tranh. Mãi đến năm 1142, hai nước mới tiếp tục hòa nghị. Tống Cao Tông đồng ý xưng thần và sai "Hà Chú", "Tào Huấn" sang Kim dâng thệ biểu. Kim chủ xem thư xong vẫn chưa muốn trả lại Vi Thái hậu. "Hà Chú" năn nỉ ba lần thì bên Kim mới đồng ý, cho "Cao An Cư", "Hoàn Nhan Tông Hiền" hộ tống Vi Thái hậu và mang theo hài cốt của Tống Huy Tông và Hiển Túc Hoàng hậu về nam. Vi Thái hậu được tin cứ sợ người Kim sẽ lật lọng. Mãi tới khi phu dịch tới nơi bà mới dám để hài cốt lên xe. Tống Khâm Tông trước lúc bà lên đường nước mắt lã chã quỳ trước xe, cầu xin Vi Thái hậu Vi Thái hậu bằng lòng. Tống Khâm Tông còn đưa Vi Thái hậu một chuỗi kim hoàn làm tin. Kiều Quý phi cũng dâng rượu tiễn Vi Thái hậu và biếu Kim sứ "Cao An Cư" 50 lạng vàng để nhờ vả. Trở về đất Nam. Tháng 4 năm 1142, Vi Thái hậu về Yên Sơn. Phu dịch người Kim uể oải vì thời tiết nóng nực, vừa đi vừa nghỉ. Vi Thái hậu lo sợ giả bệnh, bề ngoài nói hoãn lại đến thu mới đi nhưng lại vay của "Cao An Cư" 3000 lạng vàng thưởng cho phu dịch để chúng nhanh chóng đưa mình về nam. Đường đi từ Đông Bình, Thanh Hà đến Sở Châu là thuộc đất Tống. Sau khi Vi Thái hậu qua sông Hoài, Tống Cao Tông cử "Vương Thứ Ông" làm Phụng nghênh sứ, An Lạc quận vương "Vi Uyên" là em Vi Thái hậu cùng Tần Lỗ quốc công chúa, Ngô quốc công chúa đến nghênh đón. Đích thân Tống Cao Tông tới Lâm Bình, đi theo còn có Phổ An quận vương, tể chấp, lưỡng tĩnh, tam nha quản quân. Tống Cao Tông gặp lại Hoàng thái hậu, vui mừng phát khóc, tể thần quân vệ đồng than hoan hô. Tháng 8, Vi Thái hậu về Lâm An, được bố trí ở Từ Ninh cung. Trong buổi nghênh đón Vi Thái hậu đã dùng tới lễ nhạc. Về sau mỗi lần mừng thọ cho Vi Thái hậu cũng dùng nhạc như vậy. Năm 1143, trong cung khi đó không có Hoàng hậu, đình thần dâng biểu xin lập Hoàng hậu, Tống Cao Tông đích thân hỏi ý của Vi Thái hậu. Vi Thái hậu nói: "Đây là chuyện nhà bệ hạ, ngoại đình không thể can dự vào". Sau đó, Tống Cao Tông lập Ngô Quý phi làm Hoàng hậu tức Hiến Thánh Từ Liệt Hoàng hậu Cuối đời. Năm 1149, Vi Thái hậu đã 70 tuổi, trong cung cử hành thọ lễ. Trước đó Vi Thái hậu mấy tháng không ra khỏi điện môn, tới ngày hôm ấy thì hoa mẫu đơn bỗng nở, Tống Cao Tông vào báo việc, Vi Thái hậu vui mừng, đến xem hoa và dự lễ thọ, hoan hỉ trong suốt ngày. Lúc đó mắt của Vi Thái hậu đã mở, nên Tống Cao Tông cho triệu ngự ý "Hoàng Phủ Thản" đến chữa trị, Vi Thái hậu lành bệnh. Năm 1159, Vi Thái hậu được 80 tuổi, lại tổ chức đại thọ. Thân chúc của bà được thăng quan một đẳng, nếu chưa có quan tước thì cũng được ban. Tháng 9, Vi Thái hậu bệnh nặng. Thượng không ra triều, cầu xin thần linh, trời đất, tông miếu xã tắc ban phước và miễn tô thuế, xá thiên hạ. Không lâu sau Vi Thái hậu giá băng ở cung Từ Ninh, thọ 80 tuổi. Thụy hiệu Hiển Nhân Hoàng hậu (顯仁皇后), an táng ở phía tây "Vĩnh Hựu lăng" (永固陵). Họ Vi 14 người được thăng trật, ba người được phong quan. Vụ án Nhu Phúc Đế cơ. Trong những năm thời Tống Cao Tông, triều đình xảy ra vụ án Nhu Phúc Đế cơ án (柔福帝姬案). Tống Huy Tông có một người con gái nhỏ tên là Hoàn Hoàn, được phong làm Nhu Phúc Đế cơ. Khi Bắc Tống diệt vong, Nhu Phúc Đế cơ theo Tống Huy Tông và Tống Khâm Tông lên đất Bắc, khi Tống Cao Tông lên ngôi thì đế cơ được một lão ni cô phát hiện và đưa về phương Nam. Tống Cao Tông giao cho một số cung nữ và thái giám xác nhận, họ thấy người này đúng là rất giống Nhu Phúc Đế cơ, chỉ khác là có bàn chân to (trong khi Nhu Phúc có chân nhỏ do bó chân), người này giải thích là vì đi đường gian khổ nên chân to ra. Cao Tông thương tình và vẫn phong làm đế cơ, tuyển "Cao Sĩ Niệu" làm phò mã. Đến khi Vi Thái hậu về nước, nghe tin đó thì sửng sốt nói: "Nhu Phúc Đế cơ đã bệnh chết ở Kim, vậy còn Nhu Phúc nào nữa". Rồi triệu Tống Cao Tông vào hỏi rõ ngọn ngành. Tống Cao Tông lệnh bắt Nhu Phúc Đế cơ, giao cho Đại lý tự thẩm vấn, ép buộc Nhu Phúc Đế cơ phải nhận bản thân giả mạo. Tống Cao Tông lệnh đánh chết đế cơ và lão ni ở chợ, phò mã Cao Sĩ Niệu do "không biết chuyện" nên chỉ bị lột hết chức tước. Tác phẩm "Tùy Viên tùy bút" và "Thiết phẫn tục lục" cho rằng đế cơ này là thật, vì những lời đồn thổi dân gian cho rằng Vi thái hậu trước đó đã cùng đế cơ kết hôn với Hoàn Nhan Tông Hiền, nên lúc về nước bà sợ sự việc bị lộ bèn giết đế cơ mà diệt khẩu. Tuy nhiên, cũng có lập luận rằng khó có chuyện Nhu Phúc đế cơ (thật), vốn là một phụ nữ yếu đuối, lại có thể thoát khỏi sự canh giữ cẩn mật của quân Kim và vượt hàng ngàn dặm đường để chạy thoát về phương Nam. Về sau Vi Thái hậu kể lại việc của Tống Khâm Tông, Tống Cao Tông nghe xong tỏ vẻ không vui, nên Vi Thái hậu không nhắc đến nữa.
1
null
Lý thuyết về sự hình thành hành tinh được công nhận ngày nay dựa trên ý tưởng về vi thể hành tinh. Lý thuyết khẳng định rằng các hành tinh sinh ra từ các hạt bụi vũ trụ va đập và gắn kết với nhau (do tương tác điện từ) thành những vật thể ngày càng lớn hơn. Khi các vật đạt kích thước khoảng 1 km, chúng có thể hút nhau trực tiếp thông qua lực hấp dẫn, gia tăng không ngừng để trở thành các tiền hành tinh. Các vật thể trong giai đoạn hình thành này được gọi là vi thể hành tinh. Phần nhiều các vi thể hành tinh vỡ tan ra thành các mảnh nhỏ như các trường hợp quan sát thấy với 4 Vesta và 90 Antiope, nhưng một số ít có thể lớn lên thành tiền hành tinh rồi hành tinh. Các nhà thiên văn cho rằng trong Lịch sử Hệ Mặt Trời, đã từng có rất nhiều vi thể hành tinh được tạo thành có mật độ dày đặc. Nhưng khoảng 3,8 tỉ năm trước đây, phần lớn đã dạt ra phía ngoài, ra tới đám mây Oort hoặc bị các hành tinh khí khổng lồ như Sao Mộc hấp thụ, trong một thời kì gọi là Bắn phá mạnh cuối, và điều này đã chấm dứt sự hình thành những hành tinh mới trong Hệ Mặt Trời. Về mặt từ tiếng Anh "planetesimal" ghép từ 2 từ "planet" (hành tinh) và từ "infinitesimal" (đại lượng vô cùng bé hay vi phân, trong toán học). Một số nhà khoa học đôi khi dùng từ vi thể hành tinh để chỉ chung các vật thể nhỏ trong Hệ Mặt Trời, bao gồm cả tiểu hành tinh và sao chổi.
1
null
Tinh vân hành tinh hay đám mây hành tinh là một loại tinh vân phát quang chứa lớp vỏ khí ion hóa phát sáng sinh ra từ những sao khổng lồ đỏ trong giai đoạn cuối của chúng. Đây là một hiện tượng tương đối ngắn ngủi, chỉ diễn ra vài chục ngàn năm, so với tuổi đời thông thường hàng tỉ năm của một ngôi sao. Khác với tinh vân thông thường hình thành nên sao, thuật ngữ "planetary nebulae" do nhà thiên văn William Herschel đặt ra vào những năm 1780 là một cách đặt tên sai do hiểu nhầm; thực sự thì tinh vân hành tinh không tạo nên hành tinh nào cả. Khi Herschel, một trong những người đầu tiên quan sát những vật thể này qua kính thiên văn, ông thấy chúng có những dạng gần tròn như các hành tinh. Thuật ngữ này tồn tại phổ biến tới ngày nay và các nhà thiên văn cũng không chọn một tên thích hợp hơn để thay thế. Từ "nebulae" mượn từ tiếng Latin có nghĩa là đám mây hoặc sương mù, do đó planetary nebulae nên được hiểu là "đám mây hành tinh". Tuy nhiên trong tiếng Việt, "nebulae" dịch thành "tinh vân" nên theo đó, nhiều người chọn dịch thuật ngữ thành tinh vân hành tinh, càng thêm sai với nghĩa gốc.
1
null
Trong lịch sử nước Pháp, Đệ Nhất Cộng hòa Pháp (; "Đệ Nhất Cộng hòa"), đôi khi được gọi trong thuật chép sử là Cách mạng Pháp, là danh hiệu thường dùng để chỉ chính thể Cộng hòa Pháp ("République française") tồn tại trên lãnh thổ Pháp, Bỉ và một phần Đức, Hà Lan từ vào ngày 21 tháng 9 năm 1792 đến 18 tháng 5 năm 1804. Chính thể này được thành lập trong Cách mạng Pháp. Giai đoạn này chứng kiến sự lật đổ chế độ quân chủ, thành lập Công hội Quốc dân, Triều đại Khủng bố, và Nền Cộng hòa thứ nhất tồn tại cho đến khi thành lập Đế chế thứ nhất, cuối cùng là sự gia tăng quyền lực của Napoléon Bonaparte, mặc dù hình thức chính phủ đã thay đổi nhiều lần. Lịch sử. Đệ Nhất Cộng hòa Pháp được chính thức thành lập ngày 21 tháng 9 năm 1792 khi hội nghị Quốc ước tuyên bố chấm dứt chế độ Quân chủ và lập ra nền Cộng hòa. Ngày này cũng được chọn là ngày bắt đầu của năm đầu tiên trong Lịch Cách mạng Pháp. Mặc dù hội nghị Quốc ước nhóm họp với vị thế như một quốc hội lập hiến, và dù sau đó Hiến pháp đã được ban hành, nhưng trên thực tế đã không bao giờ được thực hiện. Chỉ 2 tháng sau, chính quyền Quốc ước đã ra lệnh bãi bỏ hiến pháp và tuyên bố chính quyền sẽ thực hiện cách mạng cho đến khi đạt được hòa bình. Các ủy ban do Quốc ước thành lập giữ vai trò chính quyền lâm thời, nhanh chóng đưa Quốc ước trở thành bù nhìn. Trong đó, vai trò quan trọng nhất là Ủy ban An toàn Công cộng ("Comité de salut public")
1
null
Đĩa tiền hành tinh (tiếng Anh: protoplanetary disk) là một đĩa chứa khí đặc quay xung quanh một ngôi sao trẻ mới hình thành, có thể là một sao T Tauri hoặc một sao Herbig Ae/Be. Đĩa tiền hành tinh có thể xem như một dạng đĩa bồi tụ bởi vì vật chất dạng khí của nó từ rìa trong của nó cũng rơi vào bề mặt ngôi sao giống như đĩa bồi tụ. Tuy nhiên, theo giả thuyết tinh vân, một quá trình nữa xảy ra trong đĩa tiền hành tinh là sự kết tụ khí, bụi, các hạt băng nhỏ đã hình thành nên vi thể hành tinh và cuối cùng trở thành các hành tinh, đây được cho là nguồn gốc hình thành nên các hành tinh trong Hệ Mặt Trời. Một số lý thuyết gần đây, dựa trên quan sát và cả mô phỏng máy tính, cho rằng các phân tử hữu cơ phức tạp, những viên gạch cơ bản của sự sống, có thể hình thành trong các đĩa tiền hành tinh chứa bụi vũ trụ trước khi hình thành Trái Đất.
1
null
Trong hình học đại số và vật lý lý thuyết, đối xứng gương là mối quan hệ giữa các vật thể hình học được gọi là những đa tạp Calabi-Yau. Các đa tạp này có thể trông rất khác nhau về mặt hình học nhưng được xem là tương đương nhau nếu chúng được dùng như những chiều thêm vào của lý thuyết dây. Trong trường hợp này, chúng được gọi là các "đa tạp gương". Ban đầu, đối xứng gương do các nhà vật lý lý thuyết phát triển nên. Giới toán học chỉ quan tâm tới mối quan hệ này từ khoảng năm 1990 khi nhóm nghiên cứu của Philip Candelas chỉ ra rằng có thể dùng nó làm một công cụ trong hình học liệt kê, một nhánh toán học liên quan tới việc đếm số nghiệm của các bài toán hình học. Theo Candelas, đối xứng gương có thể dùng để đếm các đường cong hữu tỉ trên một đa diện Calabi-Yau, do đó giải quyết một bài toán tồn tại từ lâu trong lĩnh vực này. Mặc dù cách tiếp cận ban đầu với đối xứng gương dựa trên các ý tưởng vật lý không thực sự nghiêm ngặt về mặt toán học, vài tiên đoán toán học của nó đã được chứng minh là chính xác chặt chẽ. Ngày nay đối xứng gương là một đề tài nghiên cứu quan trọng trong toán học thuần túy, và các nhà toán học đang phát triển hiểu biết toán học về mối quan hệ này dựa trên trực giác của giới vật lý. Đối xứng gương cũng là một công cụ cơ bản để tính toán trong lý thuyết dây, và nó giúp nắm bắt các khía cạnh của lý thuyết trường lượng tử, hình thức luận mà các nhà vật lý dùng để mô tả hạt cơ bản. Những cách tiếp cận chính về đối xứng gương bao gồm chương trình đối xứng gương đồng đều của Maxim Kontsevich và Giả định SYZ của Andrew Strominger, Khâu Thành Đồng, và Eric Zaslow. Tổng quan. Dây và compact hóa. Trong vật lý, lý thuyết dây là một khuôn khổ lý thuyết thay thế hạt điểm bằng các đối tượng một chiều được gọi là dây. Những dây này trông giống những đoạn hoặc vòng dây nhỏ thông thường. Lý thuyết dây mô tả cách thức các dây lan truyền trong không gian và tương tác với nhau. Ở khoảng cách kích thước lớn hơn kích thước dây, dây trông giống hệt như một hạt thông thường, cũng có khối lượng, điện tích và các thuộc tính khác quy định bởi trạng thái dao động của dây. Sự chia cắt và tái hợp dây tương ứng với sự phát xạ và hấp thụ hạt, gây ra tương tác giữa các hạt/dây. Giữa thế giới mô tả bởi lý thuyết dây và thế giới hàng ngày có những khác biệt đáng chú ý. Trong thế giới hàng ngày, có ba chiều không gian quen thuộc (trên/dưới, trái/phải, đằng trước/sau) và một chiều thời gian (sớm/muộn). Do đó, theo ngôn ngữ của vật lý hiện đại, ta nói rằng không-thời gian có 4 chiều. Một trong những đặc điểm kì lạ của lý thuyết dây là nó cần thêm các "chiều phụ" của không thời gian để đảm bảo tính nhất quán toán học. Trong lý thuyết siêu dây, phiên bản của lý thuyết dây tích hợp ý tưởng lý thuyết về siêu đối xứng, có thêm 6 chiều phụ của không thời gian cộng với 4 chiều quen thuộc với tri giác thông thường. Một trong những mục đích của nghiên cứu lý thuyết dây hiện nay là phát triển các mô hình trong đó các dây biểu diễn cho những hạt quan sát được trong các thí nghiệm năng lượng cao. Để một mô hình như thế nhất quán với quan sát, không thời gian của nó phải mang 4 chiều trong những kích thước khoảng cách liên quan, nghĩa là người ta phải tìm cách hạn chế những chiều phụ của nó trong những kích thước nhỏ hơn. Trong những mô hình vật lý có vẻ hiện thực nhất dựa trên lý thuyết dây, điều này được thực hiện bởi một quá trình gọi là compact hóa, giả thiết các chiều phụ sẽ xích lại gần nhau để tạo nên các đường tròn. Trong giới hạn mà các chiều cuộn lại trở nên rất nhỏ, người ta thu được một lý thuyết trong đó không-thời gian trở nên có số chiều ít hơn. Một sự tương đồng tiêu chuẩn với nó là hãy xét một vật thể đa chiều như một cái vòi phun nước trong vườn. Nếu cái vòi được nhìn tử khoảng cách đủ xa, nó trông như thể chỉ có một chiều, tức chiều dài của nó. Tuy nhiên, khi tiến lại gần, người ta thấy rằng nó có hai chiều nữa, đó là tiết diện của nó. Và một con kiến bò trên vòi sẽ di chuyển trong một bề mặt hai chiều. Đa tạp Calabi-Yau. Sự compact hóa có thể được dùng để xây dựng nên các mô hình trong đó không thời gian hiện ra như thể 4 chiều. Tuy nhiên, không phải mọi cách compact hóa các chiều phụ đều tạo nên một mô hình mô tả thích hợp các thuộc tính của tự nhiên. Trong một mô hình vật lý hạt có triển vọng, các chiều phụ compact phải có dạng giống một đa tạp Calabi–Yau. Trong lĩnh vực lý thuyết dây, một đa tạp Calabi–Yau là một không gian 6 chiều, đặt tên theo các nhà toán học Eugenio Calabi và Shing-Tung Yau. Sau khi các đa tạp Calabi-Yau chứng tỏ khả năng compact hóa các chiều phụ, nhiều nhà vật lý bắt đầu nghiên cứu các đa tạp này. Cuối những năm 1980, Cumrun Vafa và những người khác nhận thấy với một sự compact hóa lý thuyết dây cho trước, không thể tái tạo một đa tạp Calabi-Yau tương ứng duy nhất với nó. Thay vào đó, hai phiên bản lý thuyết dây gọi là lý thuyết dây loại IIA và loại IIB có thể compact hóa theo những đa diện Calabi–Yau hoàn toàn khác nhau mà vẫn tạo ra những kết quả vật lý giống hệt. Trong trường hợp này, các đa tạp đó được gọi là đa tạp gương, và mối quan hệ giữa hai lý thuyết được gọi là đối xứng gương. Quan hệ đối xứng gương là một ví dụ cụ thể của thứ mà các nhà vật lý gọi là tính đối ngẫu. Nói chúng, thuật ngữ "đối ngẫu" (tiếng Anh: "duality") chỉ một tình huống trong đó hai lý thuyết vật lý có vẻ khác nhau thực ra là tương đương theo một cách đặc biệt. Nếu một lý thuyết có thể biến đổi khiến nó trông giống lý thuyết kia, hai lý thuyết đó được gọi là cặp đối ngẫu theo phép biến đổi đó; nói cách khác, hai lý thuyết là những mô tả toán học khác nhau về cùng một hiện tượng. Những cặp đối ngẫu như thế đóng một vai trò quan trọng trong vật lý hiện đại, đặc biệt là lý thuyết dây. Bất kể compact hóa Calabi-Yau về lý thuyết dây có cung cấp một mô tả chính xác về tự nhiên hay không, sự tôn tại của cặp đối ngẫu gương giữa các lý thuyết dây khác nhau đã dẫn tới những hệ quả toán học đáng chú ý. Các đa tạp Calabi–Yau sử dụng trong lý thuyết dây cũng được toán học thuần túy quan tâm, và đối xứng gương cho phép các nhà toán học giải các bài toán trong lĩnh vựng hình học đại số liệt kê, một nhánh toán học liên quan tới việc đếm số nghiệm của các bài toán hình học. Một bài toán cổ điển của hình học liệt kê là đếm số đường cong hữu tỉ trên một đa tạp Calabi-Yau như minh họa ở trên. Bằng cách áp dụng đối xứng gương, các nhà toán học đã diễn dịch bài toán này thành một bài toán tương tự cho Calabi-Yau đối xứng gương, đa tạp này tỏ ra dễ tính toán hơn là đa tạp ban đầu. Đối xứng gương được chứng minh trên địa hạt vật lý, tuy nhiên các nhà toán học thông thường đòi hỏi những phép chứng minh chặt chẽ không cần viện tới trực giác vật lý. Từ quan điểm toán học, phiên bản đối xứng gương mô tả trên đây chỉ là một phỏng đoán hay giả định, nhưng có một phiên bản khác trong ngữ cảnh lý thuyết dây tô pô, một dạng lý thuyết dây đơn giản hóa do Edward Witten đề xuất, đã được chứng minh chặt chẽ về mặt toán học. Theo lý thuyết dây tô pô, đối xứng gương khẳng định rằng hai lý thuyết gọi là mô hình A và mô hình B là tương đương với nhau theo nghĩa tồn tại một cặp đối ngẫu liên hệ giữa chúng. Ngày nay đối xứng gương là một lĩnh vực nghiên cứu sôi động trong toán học, các nhà toán học đang làm việc để phát triển một nền tảng hiểu biết đầy đủ hơn về đối xứng gương dựa trên trực giác của giới vật lý. Lịch sử. Nguồn gốc ý tưởng về đối xứng gương có thể lần ngược lại tới những năm giữa thập kỉ 1980 khi người ta nhận thấy một dây lan truyền trong một đường tròn bán kính có thể chạm vào gương. Trong gương Lại có Khoảng cách với hình ảnh và được xây dựng cho tính hiện tại cuộc sống chữ Sinh. Chữ Hạnh formula_1 tương đương về mặt vật lý với một dây lan truyền trong một đường tròn bán kính formula_2 theo những đơn vị thích hợp. Hiện tượng này gắn bó gần gũi với đối xứng gương và về sau được gọi là đối ngẫu T. Trong một bài báo năm 1985, Philip Candelas, Gary Horowitz, Andrew Strominger, và Edward Witten chỉ ra rằng bằng cách compact hóa lý thuyết dây trên một đa tạp Calabi–Yau, người ta có thể thu được một lý thuyết gần tương tự như mô hình chuẩn của vật lý hạt, thứ cũng hàm chứa một cách nhất quán ý tưởng về siêu đối xứng. Kể từ đó, nhiều nhà vật lý bắt đầu nghiên cứu về compact hóa Calabi–Yau, hi vọng xây dựng những mô hình hiện thực về vật lý hạt dựa trên lý thuyết dây. Cumrun Vafa và những người khác ghi nhận rằng nếu có một mô hình vật lý như vậy, không thể tái tạo một đa tạp Calabi–Yau tương ứng duy nhất, mà là hai đa tạp Calabi–Yau cho cùng một hiện thực vật lý. Bằng cách nghiên cứu mối quan hệ giữa những đa tạp Calabi-Yau và một số lý thuyết trường bảo giác gọi là các mô hình Gepner, Brian Greene và Ronen Plesser tìm thấy các ví dụ không tầm thường về quan hệ đối xứng gương. Những bằng chứng thêm về quan hệ này đến từ công trình của Philip Candelas, Monika Lynker, và Rolf Schimmrigk, những người khảo sát một lượng lớn đa tạp Calabi–Yau trên máy tính và thấy rằng chúng thuộc về các cặp đối xứng gương. Các nhà toán học bắt đầu quan tâm về đối xứng gương khoảng năm 1990 khi các nhà vật lý Philip Candelas, Xenia de la Ossa, Paul Green, và Linda Parks chỉ ra rằng có thể sử dụng đối xứng gương để giải quyết các bài toán trong hình học liệt kê từng không chịu khuất phục giới toán học trong hàng thập kỉ. Những kết quả này được trình bày trong một cuộc hội thảo tại Viện nghiên cứu Các ngành khoa học về toán (MSRI) ở Berkeley, California vào tháng 5 năm 1991. Trong hội thảo này, người ta nhận thấy một trong những con số Candelas tính toán để đếm số đường cong hữu tỉ không bằng với kết quả các nhà toán học Na Uy Geir Ellingsrud và Stein Arild Strømme sử dụng những kĩ thuật có vẻ chặt chẽ hơn. Nhiều nhà toán học tại hội thảo xem công trình của Candelas chứa sai sót đâu đó vì nó không dựa trên các lập luận toán học vững chắc. Tuy nhiên, sau khi kiểm tra lại lời giải của họ, Ellingsrud và Strømme phát hiện ra một lỗi trong mã máy tính của họ và khi sửa lỗi, họ thu được đáp án phù hợp với đáp án của nhóm Candelas. Năm 1990, Edward Witten đề xuất lý thuyết dây tôpô, một phiên bản đơn giản hóa của lý thuyết dây, và các nhà vật lý chỉ ra rằng có một phiên bản đối xứng gương cho lý thuyết mới này. Khẳng định này về lý thuyết dây tôpô thường được xem như là định nghĩa của đối xứng gương trong các tài liệu ngành toán. Trong bài phát biểu tại Đại hội Các nhà toán học Quốc tế năm 1994, nhà toán học Maxim Kontsevich trình bày một giả định toán học mới dựa trên ý tưởng đối xứng gương trong lý thuyết dây tô pô. Được gọi là đối xứng gương đồng đều, giả định này chuẩn tắc hóa đối xứng gương như một phép tương đương của hai cấu trúc toán học: "phạm trù phái sinh" của các "bó mạch lạc" trên một đa tạp Calabi–Yau và phạm trù Fukaya của đa tạp đối xứng gương với nó. Cũng trong khoảng năm 1995, Kontsevich phân tích kết quả của Candelas, lập nên một công thức tổng quát cho bài toán đếm đường cong hữu tỉ trên một đa tạp 3 chiều bậc 5, và ông tái lập các kết quả này thành một giả định toán học. Năm 1996, Alexander Givental công bố một bài báo chứng minh giả định của Kontsevich. Ban đầu, nhiều nhà toán học thấy bài báo khó hiểu và nghi ngờ tính chính xác của nó. Nhưng sau đó, Bong Lian, Kefeng Liu, và Shing-Tung Yau công bố phép chứng minh độc lập trong một loạt bài báo. Mặc dù có cuộc tranh cãi về chuyện ai là người công bố phép chứng minh đầu tiên, ngày nay những bài báo được xem chung là chứng minh toán học của các kết quả ban đầu do các nhà vật lý sử dụng đối xứng gương thu được. Năm 2000, Kentaro Hori và Cumrun Vafa đưa ra cách chứng minh bằng vật lý dựa trên đối ngẫu T. Các nghiên cứu về đối xứng gương tiếp tục tới ngày nay với những phát triển quan trọng liên quan tới dây trên các mặt Riemann có biên. Ngoài ra, đối xứng dây liên quan tới nhiều lĩnh vực nghiên cứu toán học sôi động, như tương ứng McKay, lý thuyết trường lượng tử tôpô, và lý thuyết về các điều kiện ổn định. Cùng lúc, các câu hỏi cơ bản vẫn tiếp tục nổi lên. Chẳng hạn, các nhà toán học vẫn còn chưa hiểu làm cách nào để xây dựng những ví dụ về các cặp Calabi–Yau dù có những tiến bộ nhất định trong mảng này. Ứng dụng. Hình học liệt kê. Nhiều ứng dụng toán học quan trọng của đối xứng gương thuộc về một nhánh của toán học gọi là hình học liệt kê. Trong hình học liệt kê, người ta quan tâm tới việc đếm (liệt kê) số nghiệm của các bài toán hình học, thường bằng các kĩ thuật của hình học đại số. Một trong những bài toán sớm nhất của hình học liệt kê là bài toán Apollonius, mang tên nhà toán học Hy Lạp đề xuất nó vào khoảng năm 200 trước Công nguyên. Apollonius đặt câu hỏi, có bao nhiêu đường tròn trong một mặt phẳng tiếp xúc với ba đường tròn cho trước. Trong trường hợp tổng quát, lời giải cho bài toán này là có 8 đường tròn như thế. Các bài toán liệt kê trong toán học thường liên quan tới một lớp các đối tượng hình học được gọi là các đa tạp đại số xác định bằng tập hợp nghiệm của các đa thức. Chẳng hạn, khối Clebsch được định nghĩa là một đa thức bậc 3 với 4 biến (ẩn). Một kết quả nổi tiếng của các nhà toán học thế kỉ 19 Arthur Cayley và George Salmon khẳng định rằng có đúng 27 đường thẳng nằm hoàn toàn trong một mặt như vậy. Tổng quát hóa bài toán này, người ta có thể hỏi có thể vẽ được bao nhiêu đường trong một đa tạp Calabi-Yau bậc 5, định nghĩa bằng một đa thức bậc 5. Bài toán này được nhà toán học người Đức thế kỉ 19 Hermann Schubert giải, ông thấy rằng có đúng 2875 đường như vậy. Năm 1986, nhà hình học Sheldon Katz chứng minh rằng số đường cong, như các đường tròn, định nghĩa bằng các đa thức bậc hai và nằm hoàn toàn trong đa tạp bậc 4 là 609.250. Tính tới năm 1991, hầu hết các bài toán cổ điển của hình học liệt kê đã có lời giải và sự quan tâm trong lĩnh vực này suy giảm dần. Theo nhà toán học Mark Gross, "Khi các bài toán cũ đã được giải, người ta trở lại kiểm tra các số Schubert bằng các kĩ thuật hiện đại, nhưng nó đang trở nên khá là nhạt nhẽo." Lĩnh vực này được tiếp lại sinh lực vào tháng 5 năm 1991 khi các nhà vật lý Philip Candelas, Xenia de la Ossa, Paul Green, và Linda Parks chỉ ra rằng có thể dùng đối xứng gương để đếm số đường cong bậc 3 trong một đa tạp Calabi–Yau bậc 5. Candelas và cộng sự thấy rằng các đa tạp 6 chiều này có thể chứa chính xác 317.206.375 đường cong bậc 3. Bên cạnh ứng dụng trên, nhóm của Candelas cũng thu được một số các kết quả tổng quát hơn để đếm số đường cong hữu tỉ vượt ra ngoài kết quả của giới toán học đương thời. Mặc dù các phương pháp này vận dụng trực giác vật lý, các nhà toán học đã tiếp bước và chứng minh chặt chẽ một số tiên đoán của đối xứng gương, bao gồm tất cả những tiên đoán liệt kê. Vật lý lý thuyết. Bên cạnh ứng dụng trong hình học liệt kê, đối xứng gương là một công cụ tính toán cơ bản trong lý thuyết dây. Trong lý thuyết dây tôpô mô hình A, các đại lượng vật lý đáng chú ý được biểu diễn dưới dạng vô hạn các con số gọi là các bất biến Gromov–Witten vốn đặc biệt khó tính toán. Trong mô hình B, các phép tính có thể giản lược về các tích phân cổ điển dễ tính hơn nhiều. Bằng cách áp dụng đối xứng gương, các nhà lý thuyết có thể diễn dịch các tính toán phức tạp trong mô hình A vào dạng tương đương nhưng dễ tính hơn trong mô hình B. Những tính toán này sau đó được dùng để xác định xác suất của những quá trình vật lý khác nhau trong lý thuyết dây. Đối xứng gương có thể kết hợp với các cặp đối ngẫu khác để biến đổi tính toán trong một lý thuyết sang một lý thuyết khác tương đương, mà nếu thiếu chúng không thể nào thực hiện được. Ngoài lĩnh vực lý thuyết dây, đối xứng gương cũng tìm thấy ứng dụng trong việc tìm hiểu những khía cạnh của lý thuyết trường lượng tử, hình thức luận mô tả các hạt cơ bản. Chẳng hạn, các lý thuyết trường chuẩn (gauge theories) là một lớp các lý thuyết vật lý đối xứng cao xuất hiện trong mô hình chuẩn của vật lý hạt và các phần khác của vật lý lý thuyết. Một vài lý thuyết trường chuẩn không nằm trong mô hình chuẩn, nhưng nó nảy sinh từ những dây lan truyền trong một phông miền gần suy biến. Đối xứng gương là một công cụ tính toán hữu dụng cho những lý thuyết như thế. Cụ thể, đối xứng gương có thể dùng để tính toán một lý thuyết trường chuẩn trong không thời gian 4 chiều mà Nathan Seiberg và Edward Witten nghiên cứu, và cũng quen thuộc trong toán học theo các bất biến Donaldson. Cũng có một phép tổng quát hóa của đối xứng gương gọi là đối xứng gương 3D liên hệ các cặp lý thuyết trường lượng tử trong ba chiều không thời gian. Các cách tiếp cận. Đối xứng gương đồng đều. Trong lý thuyết dây và các lý thuyết vật lý liên quan, một "màng" (tiếng Anh: "brane" là một từ mới, rút từ "membrane" nghĩa là màng) là một đối tượng vật lý tổng quát hóa khái niệm về một hạt điểm cho số chiều lớn hơn. Chẳng hạn, một hạt điểm có thể xem như một màng 0 chiều, trong khi một dây có thể coi là màng 1 chiều; ngoài ra còn có những màng nhiều chiều hơn nữa. Trong lý thuyết dây, một dây có thể là mở (tạo ra một đoạn với hai đầu) hoặc kín (tạo ra một vòng kín). Các màng D là một lớp quan trọng các màng sinh ra khi người ta xét tới các dây mở. Khi một dây mở lan truyền trong không thời gian, hai đầu của có cần phải nằm trong một màng D. Chữ D ở đây chỉ điều kiện nó cần phải thỏa mãn, điều kiện biên Dirichlet. Về mặt toán học, có thể mô tả màng bằng khái niệm phạm trù. Phạm trù là một cấu trúc toán học bao gồm các "đối tượng", và với mỗi cặp đối tượng, có một tập những cấu xạ giữa chúng. Trong hầu hết các ví dụ, các đối tượng đó là các cấu trúc toán học (tập hợp, không gian vectơ, hoặc không gian tôpô) và các cấu xạ là các hàm giữa các cấu trúc này. Người ta cũng xét tới các phạm trù mà các đối tượng là các màng D và các cấu xạ giữa hai màng formula_3 và formula_4 là các trạng thái của các dây mở căng giữa formula_3 và formula_4. Trong lý thuyết dây tô pô mô hình B, các màng D là đa tạp phức con của một đa tạp Calabi-Yau cùng với các thông tin vật lý phụ nảy sinh từ việc có các tích (chẳng hạn điện tích) ở đầu các dây. Một cách trực quan, ta có thể xem một đa tạp con như một mặt nhúng trong đa tạp Calabi–Yau, mặc dù đa tạp con thực ra cũng có thể tồn tại trong số chiều lớn hơn 2. Theo ngôn ngữ toán học, phạm trù có các màng như vậy được gọi là phạm trù phái sinh của các bó mạch lạc trên đa tạp Calabi–Yau. Trong mô hình A, các màng D cũng có thể xem như đa tạp con của một đa tạp Calabi–Yau, được gọi không thực sự chính xác là những đa tạp con Lagrange đặc biệt. Điều này có nghĩa là ngoài những tính chất khác chúng có một nửa số chiều của không gian mà chúng nằm trong và chúng có độ dài, diện tích hoặc thể tích cực tiểu hóa. Phạm trù có những màng này gọi là phạm trù Fukaya. Phạm trù phái sinh của bó mạch lạc có thể tạo thành từ các công cụ của hình học phức, một nhánh toán học mô tả các đường cong hình học theo nghĩa đại số và giải các bài toán hình học bằng các phương trình đại số. Mặt khác, có thể xây dựng phạm trù Fukaya bằng hình học ngẫu đối (symplectic geometry), một nhánh toán học xuất hiện từ nghiên cứu vật lý cổ điển. Hình học ngẫu đối xem xét các không gian có dạng ngẫu đối, một công cụ toán học dùng để tính toán diện tích trong các ví dụ hai chiều. Giả định đối xứng gương đồng đều của Maxim Kontsevich khẳng định rằng phạm trù phái sinh của các bó mạch lạc trên một đa tạp Calabi–Yau tương đương theo một nghĩa nhất định với phạm trù Fukaya của đa tạp gương của nó. Sự tương đương này cung cấp một hình thức toán học chính xác về đối xứng gương trong lý thuyết dây tôpô. Hơn nữa, nó còn cung cấp một cầu nối ngoài mong đợi giữa hai nhánh khác nhau của hình học, hình học phức và hình học ngẫu đối. Giả thuyết Strominger-Yau-Zaslow. Một cách tiếp cận khác đối với đối xứng gương là giả định SYZ, do Andrew Strominger, Shing-Tung Yau, và Eric Zaslow năm 1996. Theo giả định này, đối xứng gương có thể được hiểu bằng cách chia một đa tạp Calabi–Yau thành những mảnh đơn giản hơn và biến đổi chúng để thu được đa tạp gương của nó. Ví dụ đơn giản nhất về một đa tạp Calabi–Yau là một hình khuyên hai chiều (đôi khi còn gọi là hình bánh vòng). Xét một đường tròn trên mặt này cuộn từ trong ra ngoài, như đường tròn màu đỏ ở hình vẽ. Có vô số đường tròn như thế trên hình xuyến; thực tế, toàn thể mặt là một phép hợp của những đường tròn như vậy. Người ta có thể chọn một đường tròn phụ formula_7 (đường tròn hồng trong hình) sao cho vô số đường tròn phân tích hình xuyến đi qua một điểm của formula_7. Theo cách này đường tròn bổ trợ "tham số hóa" cho các đường tròn phân tích, nghĩa là có một sự tương ứng giữa chúng và các điểm trên formula_7. Tuy nhiên đường tròn formula_7 không đơn thuần chỉ là một danh sách, bởi vì nó cũng quyết định cách những đường tròn trên sắp xếp trên hình xuyến. Không gian bổ trợ đóng vai trò quan trọng trong giả định SYZ. Ý tưởng chia hình khuyên thành các mảnh bị tham số hóa bởi một không gian phụ có thể tổng quát hóa bằng việc tăng số chiều từ 2 lên 4 chiều, và khi đó đa tạp Calabi–Yau trở thành một mặt K3. Giống hệ như cách hình xuyến phân tích thành các đường tròn, một mặt K3 4 chiều có thể phân tích thành các hình khuyên 2 chiều. Trong trường hợp này không gian formula_7 là một mặt cầu thông thường. Mỗi điểm trong mặt cầu tương ứng với một hình xuyến, trừ 24 điểm "xấu" tương ứng với các hình xuyến bị "ngắt" hay kỳ dị. Các đa tạp Calabi–Yau quan trọng nhất trong lý thuyết dây đều có 6 chiều. Người ta có thể chia các đa tạp như vậy thành những thể xuyến 3 chiều (các đối tượng ba chiều tổng quát hóa khái niệm hình xuyến) tham số hóa bởi một thể cầu 3 chiều (đối tượng 3 chiều tổng quát hóa khái niệm mặt cầu) formula_7. Mỗi điểm của formula_7 tương ứng với một thể xuyến 3 chiều, trừ vô số các điểm "xấu" tạo thành các lưới những đoạn của đa tạp Calabi–Yau và tương ứng với một hình xuyến kỳ dị. Khi đa tạp Calabi–Yau đã phân tích thành các phần đơn giản hơn, ta có thể hiểu đối xứng gương theo hình học trực quan. Chẳng hạn, xét hình xuyến mô tả ở trên. Tưởng tượng mặt xuyến này đại diện cho một không-thời gian trong một lý thuyết vật lý. Các đối tượng cơ bản của lý thuyết này có thể là những dây lan truyền trong không-thời gian tuân theo các định luật của cơ học lượng tử. Một trong những đối ngẫu cơ bản của lý thuyết dây là đối ngẫu T, nó khẳng định rằng một dây lan truyền qua một đường tròn bán kính formula_1 tương đương với dây lan truyền quanh một đường tròn bán kính formula_2 theo nghĩa là tất cả các đại lượng quan sát được trong một mô tả này là đồng nhất với đại lượng trong mô tả đối ngẫu. Chẳng hạn, một dây có động lượng khi nó lan truyền quanh một vòng, và nó cũng quấn xung quanh đường tròn một hoặc nhiều lần. Nếu một dây có động lượng formula_16 và số lần quấn formula_17 trong một mô tả, nó phải có động lượng formula_17 và số lần quấn formula_16 trong mô tả đối ngẫu. Bằng cách áp dụng đối ngẫu T đồng thời cho tất cả các đường tròn phân tích hình khuyên, bán kính của những đường tròn này nghịch đảo, và người ta có một hình khuyên mới "béo hơn" hoặc "gầy hơn" hình khuyên ban đầu. Hình khuyên này là ảnh gương của đa tạp Calabi–Yau ban đầu. Đối ngẫu T có thể mở rộng từ đường tròn sang các hình khuyên 2 chiều xuất hiện trong phân tích một mặt K3 hoặc sang các hình khuyên 3 chiều trong phân tích đa tạp Calabi–Yau 6 chiều. Nói chung, giả định SYZ khẳng định rằng đối xứng gương tương đương với việc áp dụng đồng thời đối ngẫu T vào các hình khuyên này. Trong mỗi trường hợp, không gian formula_7 cung cấp một loại sơ đồ mô tả cách thức các hình khuyên này hợp lại thành một đa diện Calabi-Yau.
1
null
Grigor Dimitrov (, ; sinh ngày 16 tháng 5 năm 1991) là một tay vợt quần vợt chuyên nghiệp người Bulgaria thuộc top 10 thế giới. Trong sự nghiệp đánh đơn, anh đang đứng thứ 9 trên bảng xếp hạng ATP mà anh đạt được trong tháng 7 năm 2014. Dimitrov là tay vợt nam thành công nhất trong lịch sử Bulgaria: Người đầu tiên có mặt trong top 10 trên bảng xếp hạng đánh đơn ATP; người đầu tiên có được số tiền thưởng là $1 triệu và nay là $4 triệu và cũng là người nam Bulgaria đầu tiên (và duy nhất) đoạt được một giải ATP (tháng 10 năm 2013 tại Stockholm). Trước khi bắt đầu sự nghiệp thi đấu chuyên nghiệp của mình, Dimitrov đã đạt được nhiều thành công đáng nể. Anh ta đã đứng hạng 1 thế giới bảng xếp hạng thiếu niên và giành được cúp đơn nam trẻ tại giải vô địch Wimbledon và Mỹ mở rộng vào năm 2008.. Tiểu sử. Grigor được sinh ra tại Haskovo và là con trai duy nhất của ông Dimitar, một huấn luyện viên quần vợt, và mẹ là bà Maria, một giáo viên thể thao và cựu cầu thủ bóng chuyền. Anh lần đầu tiên được chơi tennis vào năm lên 3, và khi được 5 tuổi, Grigor bắt đầu chơi mỗi ngày. Trong những năm thiếu niên của mình, Grigor sống ở Paris, Pháp và được đào tạo tại Học viện quần vợt Patrick Mouratoglou. Anh nói cả tiếng Bulgaria lẫn tiếng Anh. Sở thích của Grigor là thể thao, xe hơi, máy tính và đồng hồ. Anh đã được trao biệt danh là "Baby Fed" vì tài năng và lối chơi đầy phong cách riêng biệt. Đã có tin đồn là Dimitrov hẹn hò với "búp bê người Nga" Maria Sharapova vào cuối năm 2012, nhưng cả hai chỉ khẳng định mối quan hệ của họ sau giải Madrid Masters 2013, nơi mà Dimitrov đánh bại tay vợt số 1 thế giới Novak Djokovic.
1
null
Hình học đại số là một nhánh của toán học, ban đầu nghiên cứu nghiệm của các phương trình đa thức. Hình học đại số hiện đại dựa trên các kĩ thuật trừu tượng hơn của đại số trừu tượng, đặc biệt là đại số giao hoán, bằng ngôn ngữ và các bài toán hình học. Hình học đại số có vị pô]] và lý thuyết số. Nguồn gốc của hình học đại số có thể tìm thấy từ Hy Lạp cổ đại, với các vấn đề sơ khai như bài toán Delian của Menechmus. hay các nghiên cứu về đường cô-nic của Archimedes và Apollonius Ngày nay, hình học đại số tìm thấy nhiều ứng dụng trong thống kê học, lý thuyết điều khiển, robot học, mã sửa lỗi, lý thuyết phát sinh loài và dựng mẫu hình học.
1
null
Trong vật lý lý thuyết, Lý thuyết trường lượng tử (tiếng Anh: quantum field theory, thường viết tắt QFT) là một khuôn khổ lý thuyết để xây dựng các mô hình cơ học lượng tử về các hạt hạ nguyên tử trong vật lý hạt và các tựa hạt trong vật lý vật chất ngưng tụ. Một lý thuyết trường lượng tử coi các hạt như các trạng thái kích thích của một trường vật lý ngầm ẩn, chúng được gọi là lượng tử trường. Chẳng hạn, điện động lực học lượng tử (QED) có một trường electron và một trường photon; sắc động lực học lượng tử có một trường cho mỗi loại quark; và trong vật chất ngưng tụ, có một trường dịch chuyển nguyên tử sinh ra các hạt phonon. Edward Witten khẳng định rằng tới nay QFT là lý thuyết khó nhất trong vật lý hiện đại. Lịch sử. Như là một khuôn khổ lý thuyết thành công ngày hôm nay, lý thuyết trường lượng tử được xây dựng nhờ sự đóng góp của hàng thế hệ các nhà vật lý lý thuyết từ thế kỷ 20 Lý thuyết nền tảng. Lý thuyết trường lượng tử là kết quả của sự kết hợp giữa lý thuyết trường cô điển, cơ học lượng tử và thuyết tương đối. Thành công sớm nhất của lý thuyết trường cổ điển nổi lên từ các định luật newton về sự hấp dẫn trong vũ trụ, mặc dù ông ông đề cập tới khái niệm trường trong cuốn "các nguyên lý toán học của triết học tự nhiên". Lực hấp dẫn được mô tả như là "tác dụng theo khoảng cách" - chúng ảnh hưởng tới những vật thể rất xa một cách tức thời, bất kể khoảng cách. Trong một bức thư với Richard Bentley, Newton viết rằng "không thể tưởng tượng được những vật vô tri có thể vận hành và ảnh hưởng tới nhau mà không có liên lạc gì!". Trước thế kỷ 18, không có nhà vật lý-toán nào phát hiện ra cách mô tả thuận tiện tương tác hấp dẫn dựa trên cơ sở về trường - một đại lượng tồn tại ở mọi điểm trong không gian thể hiện sự tác dụng của lực hấp dẫn lên mọi hạt tại điểm đó. Dù sao, đây cũng chỉ là một phương pháp toán học thuần túy. Khái niệm trường bắt đầu xuất hiện gắn với sự hình thành của điện từ học vào thế kỷ 19. Michael Faraday đặt ra từ "trường" vào năm 1845. Ông giới thiệu trường như là tính chất của không gian (ngay cả khi không có vật chất) có những tính chất vật lý cụ thể. Ông phản đối "tác dụng theo khoảng cách", và đề xuất rằng tương tác giữa vật chất thông qua không gian chứa đầy các "đường sức". Mô tả này vẫn còn tới ngày hôm nay. Lý thuyết của trường điện từ cổ điển được hoàn thiện vào năm 1862 cùng với phương trình Maxwell, mô tả tương tác giữa điện trường, từ trường và điện tích. Phương trình Maxwell hàm chứa sự tồn tại của sóng điện từ, hiện tượng xảy ra khi điện từ trường biến đổi lẫn nhau và di chuyển với vận tốc ánh sáng. Sự tác dụng theo khoảng cách hoàn toàn bị bác bỏ. Mặc dù sự thành công của trường điện từ cổ điển, nó không thể lý giải được sự gián đoạn của các vạch phổ nguyên tử, đồng thời không tìm ra sự phân bố phát xạ vật đen theo các bước sóng khác nhau. Nghiên cứu của Max Planck về phát xạ vật đen đã dẫn tới sự ra đời của cơ học lượng tử. Ông coi nguyên tử thu và phát sóng điện từ, năng lượng của chúng chỉ có thể nhận những giá trị gián đoạn gọi là sự lượng tử hóa. Xây dựng trên ý tưởng này, năm 1905, Albert Einstein giải thích hiệu ứng quang điện, rằng ánh sáng được sinh ra bởi các hạt gọi là photon (lượng tử ánh sáng). Điều hày hàm chứa rằng sự phát xạ điện từ có tính hạt. Năm 1913, Niels Bohr giới thiệu mô hình Bohr của cấu trúc nguyên tử, trong đó electrons bên trong nguyên tử chỉ có thể nhận các mức năng lượng rời rạc. Đây là một ví dụ khác về lượng tử hóa. Mẫu Bohr thành công trong việc giải thích sự rời rạc một cách tự nhiên của phổ nguyên tử. Năm 1924, Louis de Broglie đề xuất một giả thuyết về lưỡng tính sóng-hạt, một hạt vi mô hành xử giống như sóng và trong các trường hợp khác nhau. Tổng hợp các ý tưởng rời rạc đó, cơ học lượng tử đã được xây dựng giữa những năm 1925 và 1926, với sự đóng góp từ de Broglie, Werner Heisenberg, Max Born, Erwin Schrodinger, Paul Dirac và Wolfgang Pauli. Đồng thời vào những năm đó, Einstein công bố lý thuyểt của ông về thuyết tương đối hẹp, dựa trên thuyết điện từ của Maxwell. Biến đổi Lorentz đã mô tả được một sự kiện biến đổi như thế nào dưới tác động của vận tốc của hệ quy chiếu, sự phân biệt giữa không và thời gian đã bị xóa nhòa. Lý thuyết này đề xuất rằng tất cả các định luật vật lý giống nhau cho mọi hệ quy chiếu với các vận tốc khác nhau, nói cách khác, mọi định luật vật lý phải bất biến dưới tác động của biến đổi Lorentz. Tuy nhiên vẫn tồn tại 2 khó khăn cho các nhà vật lý lúc bấy giờ. Có thể thấy, phương trình Schrodinger trong cơ học lượng tử có thể giải thích sự phát xạ của nguyên tử, nơi electron phát ra photon dưới tác động của điện từ trường ngoài, nhưng nó không thể giải thích sự phát xạ tự phát, khi electron tự động giảm mức năng lượng và phát ra photon mà không có mặt điện từ trường ngoài. Một cách lý thuyết, phương trình Schrodinger không thể mô tả photon và không liên quan tới thuyết tương đối, thời gian và không gian không bình đẳng với nhau và không gian là một hệ tọa độ tuyến tính. Điện động học lượng tử. Lý thuyết trường lượng tử nảy sinh một cách tự nhiên cùng với nghiên cứu về tương tác điện từ. Vào năm 1925-1926, Born, Heisenberg và Pascual Jordan đã xây dựng được lý thuyết lượng tử cho trường điện từ tự do bằng cách coi điện từ trường như là tập hợp của các dao động điều hòa lượng tử. Tuy nhiên do không có tương tác, lý thuyết này không thể dự đoán được một cách lượng tử về thế giới thực. Trong một hội thảo năm 1927, trong tờ "lý thuyết lượng tử về sự hấp thụ và phát xạ", Dirac đã đặt ra điện động học lượng tử, một lý thuyết trong đó số hạng đặc trưng cho trường điện từ tự do được cộng với số hạng tương tác giữa mật độ dòng điện và vector thế năng điện từ (thế năng điện từ là một đại lượng vector). Dùng phép nhiễu loạn bậc 1, ông đã thành công trong việc giải thích hiện tượng phát xạ tự phát. Xem xét tới tính chất bất định trong cơ học lượng tử, dao động tử điều hòa lượng tử hóa không thể tồn tại bền vững, nhưng chúng có một năng lượng tối thiểu khác không và luôn luôn dao động, ngay cả khi ở trạng thái bền (trạng thái cơ bản). Theo đó, ngay cả trong chân không tuyệt đối, luôn tồn tại những dao động điện từ có mức năng lượng thấp nhất. Đó là biến động lượng tử của trường điện từ trong chân không làm nó kích thích sự phát xạ tự phát của electron trong nguyên tử. Lý thuyết của Dirac thành công rực rỡ trong việc giải thích sự hấp thụ và phát xạ của nguyên tử; bằng cách áp dụng lý thuyết nhiễu loạn bậc 2, nó có thể giải thích cho sự phân rã photon, cộng hưởng huỳnh quang cũng như phân rã Compton phi tương đối tính. Ngoài ra, áp dụng của lý thuyết nhiễu loạn bậc cao hơn có thể dẫn tới những nghiệm kì dị trong tính toán. Năm 1928, Dirac viết một phương trình sóng mô tả electron tương đối tính- phương trình Dirac. Nó dẫn tới một hệ quả quan trọng: spin của electron là 1/2; electron có hệ số g là 2; dẫn tới công thức Sommerfeld cho cấu trúc của nguyên tử hydro; và nó có thể dùng để chuyển hóa công thức Klein-Nishina cho phân rã Compton. Ngay cả khi kết quả rất tốt đẹp, lý thuyết này cũng hàm chứa sự tồn tại của trạng thái năng lượng âm, dẫn tới sự tồn tại của nguyên tử là không ổn định, chúng có thể lphân rã tới mức năng lượng thấp hơn bằng cách phát xạ. Quan điểm phổ biến thời gian đó chia ra làm 2 phe:hạt vật chất (như là electron)và trường lượng tử(như là photon).Hạt vật chất được coi như là không thể phá hủ, cùng với tính chất vật lý được mô tả bằng xác suất tìm thấy một hạt trong một thể tích và vận tốc cho trước Mặt khác, photon được xem xét thuần túy như là trọng thái kích thích của trường điện từ lượng tử đằng sau nó. chúng có thể tạo ra hoặc phá hủy một cách tự do. Giữa nhưng năm 1928 và 1930, Jordan, Eugene Wigner, Heisenberg, Pauli, và Enrico Fermi phát hiện rằng hạt vật chất có thể nhìn nhận như là trạng thái kích thích của trường lượng tử, cũng như photon. Do đóm mội loại hạt tương ứng với một trường lượng tử: trường electron. trường proton...Cho trước một lượng năng lượng, ta có thể tạo ra vật chất. Dựa trên ý tưởng này. Fermi đề xuất năm 1932 về cách giải thích hiện tượng phân rã beta được biết đến như là tương tác Fermi. hạt nhân nguyên tử không bao gồn electron, nhưng trong sự phân rã beta, một e tạo ra trường electron, tương tự với photon tạo ra từ trường điện từ xung quanh trong sự phát xạ của trạng thái kích thích. Được nhận ra vào năm 1929 bới Dirac và các cộng sự rằng năng lượng âm hàm chứa trong phương trình Dirac có thể lược bỏ bằng giả thiết về sự tồn tại của hạt có cùng khối lượng với e nhưng có điện tích trái dấu. Không chỉ đảm bảo sự ổn định của nguyên tử, nó còn dự đoán được sự tồn tại của phản vật chất. Cần thiết phải có bằng chứng cho sự tồn tại positrons. Năm 1932, Carl David Anderson đã phát hiện được positrons từ bức xạ vũ trụ. Với một lượng năng lượng hợp lý, như là hấp thụ photon, một cặp electron-positron có thể được tạo ra, quá trình này gọi là sự bắt cặp; quá trình đảo ngược hay sự hủy hạt. Điều đó cho thấy số lượng hạt không cần phải cố định trong quá trình tương tác. Trong lịch sử, positrons đã được biết đến lần đầu như là "hố" trong một biển e vô tận, hơn là một loại hạt mới, và lý thuyết này được biết đến như là lý thuyết hố Dirac. Như vậy QFT đã dự đoán được phản vật chất một cách tự nhiên. Vô hạn và tái chuẩn hóa. Năm 1930, Robert Oppenheimer cho thấy tính toán nhiễu loại bậc cao trong điện động học lượng tử luôn cho kết quả một đại lượng vô hạn. Điều đó cho thấy cần phải có một công cụ toán học mới bên cạnh lý thuyết nhiễu loạn. Cho đến 20 năm sau mới có một cách tiếp cận hệ thống khác để giải quyết vấn đề này. Một loạt bài báo được công bố giữa những năm 1934 và 1938 bởi Ernst Stueklberg đã cho thấy các công thức bất biến tương đối tính trong QFT. Năm 1947, Stueckelkberg cũng độc lập xây dựng một công cụ tái chuẩn hóa một cách hoàn chỉnh. Tiếc thay, những thành tựu đó không được hiểu và công nhận bởi cộng đồng vật lý đương thời. Đối mặt với nó, vào năm 1937 và 1943, John Archibald Wheeler và Heisenberg đề xuất lý thuyết ma trận s. Mô hình chuẩn. Năm 1954, Yang Chen-Ninh và Robert Mill tổng quát hóa tính đối xứng định xứ của QED, dẫn tới lý thuyết Yang-Mills dựa trên lý thuyết nhóm đối xứng địa phương. Trong QED, điện tích tương tác thông qua trao đổi photon, trong khi lý thuyết Yang-Mills, hạt mang một loại tương tác thông qua trao đổi hạt gauge boson phi khối lượng. Không giống như photon, những hạt này tự nó mang điện tích. Sheldon Glashow xây dựng một thuyết gauge phi Abel phân biệt được tương tác điện từ và tương tác yếu vào năm 1960. Peter Higgs, Robert Brout và Francois Englert đề xuất vào năm 1964 rằng đối xứng gauge trong thuyết Yang-Mills có thể bị phá vỡ bởi cơ chế có tên là phá vỡ đối xứng tự phát, thông qua một boson phi khối lượng. Nguyên lý. Để cho đơn giản, đơn vị tự nhiên được dùng trong các phần sau đã đơn giản hóa hằng số Plank và vận tốc ánh sáng: "ħ=c=1." Trường cổ điển Một trường cổ điển là một hàm số của tọa độ không thời gian có sẵn. Ví dụ như trường hấp dẫn Newton g(x, "t") hay điện trường E(x, "t"). Một trường cổ điển có thể hiểu như là một đại lượng có mặt tại mọi điểm trong không gian. Do đó, nó có vô hạn bậc tự do. Rất nhiều hiện tượng có những tính chất lượng tử mà không thể giải thích bởi lý thuyết trường cổ điển. Ví dụ như hiệu ứng quang điện có thể được giải thích hiệu quả nhất bằng các hạt rời rạc hơn là một trường liên tục. Kết quả của lý thuyết trường lượng tử là mô tả nhiều hiện trượng bằng cách sử dụng một mô hình biến điệu của trường. Định lượng chính tắc và tích phân từng phần là 2 phương pháp phổ biến của QFT. Để trình bày QFT một cách cơ bản, ta cần phải nhìn một cách khái quát hóa. Trường cổ điển cơ bản nhất là trường vô hướng - một số thực có mặt tại mọi điểm trong không gian và thay đổi theo thời gian. Được kí hiệu bởi "ϕ"(x, "t"), trong đó x là vector tọa độ, "t" là thời gian. Giả sử hàm Lagrangian của trường là: formula_1 trong đó formula_2 là đạo hàm theo thời gian của trường, ∇ là toán tử gradient, và "m" là tham số thực (khối lượng của trường). Áp dụng phương trình Euler-Lagrange cho Lagrangrian. formula_3 ta thu được phương trình chuyển động của trường, mô tả giá trị của nó theo không gian và thời gian: formula_4 Hay còn được biết đến như là phương trình Klein-Gordon. Klein-Gordon là một phương trình sóng, do đó nghiệm của nó có thể viết dưới dạng tổng của các mode (thu được thông qua biến đổi Fourier) như sau: formula_5 trong đó "a" là một số phức (đã được chuẩn hóa), * kí hiệu cho liên hợp phức, và "ω"p là tần số của mode dao động cơ bản: formula_6 Do đó mỗi mode tương ứng với một p có thể coi như là một dao động điều hòa với tần số "ω"p. Lượng tử hóa chính tắc Quá trình lượng tử hóa cho trường vô hướng cũng tương tự như sự thăng tiến từ dao động tử điều hòa lên thành dao động tử điều hòa lượng tử. Phương trình dao động điều hòa cổ điển: formula_7 trong đó "a" là số phức (đã được chuẩn hóa theo quy ước), và "ω" là tần số dao động. Chú ý rằng "x" thay thế cho hạt trong dao động điều hòa tại vị trí cân bằng, và không nên nhầm lẫn với kí hiệu x của trường. Đối với dao động điều hòa lượng tử, "x"("t") được nâng cấp lên thành toán tử tuyến tính formula_8: formula_9 Số phức "a" và "a"* được thay thế bằng toán tử sinh và hủy hạt formula_10và formula_11, trong đó † kí hiệu cho liên hợp Hermitian. Quan hệ giữa chúng là formula_12 Trạng thái chân không formula_13- trạng thái có mức năng lượng thấp nhất, được định nghĩa là formula_14 Mọi trạng thái lượng tử của một dao động tử điều hòa có thể thu được từ formula_13 bằng cách tác dụng một số lần toán tử sinh hạt: formula_16 Bằng phương pháp tương tự, một trường số thực "ϕ" cũng được lượng tử hóa thành toán tử formula_17, trong khi đó "a"p và "a"p* được thay thế bằng toán tử sinh và hủy formula_18 và formula_19 cho p cụ thể: formula_20 quan hệ giữa chúng formula_21 trong đó "δ" là hàm delta Dirac. Trạng thái chân không formula_13 được định nghĩa là formula_23 Mọi trạng thái lượng tử của trường có thể thu được từ trạng thái chân không bằng cách tác dụng nhiều lần toán tử sinh: formula_24 Mặc dù khái niệm trường xuất hiện trong Lagrangian một cách tuyến tính, trạng thái lượng tử của trường là rời rạc. Trong khi không gian trạng thái của dao động tử điều hòa lượng tử bao gồm tất cả các mức năng lượng rời rạc của hạt dao động thì không gian trạng thái của trường lượng tử bao gồm các mức năng lượng rời rạc của một số lượng hạt tùy ý. Sau này không gian đó được biết tới như là không gian Fock, nó được dùng để giải thích việc số lượng hạt trong hệ lượng tử tương đối tính là không cố định. Quá trình lượng tử hóa số hạt bất kì thay vì một hạt thường được gọi là sự lượng tử hóa lần thứ 2. Quá trình trên là ứng dụng trực tiếp của cơ học lượng tử và có thể dùng để lượng tử hóa trường vô hướng, trường Dirac, trường vector và thậm chí là trong lý thuyết dây. Dù vậy, toán tử sinh và hủy cũng chỉ được định nghĩa hoàn chỉnh trong lý thuyết đơn giản nhất mà không có sự tương tác. Trong trường hợp trường vô hướng thực, sự tồn tại của các toán tử này là kết quả của việc phân tích nghiệm của trường cổ điển ra tổng của các mode dao động. Để tính toán đối với các tương tác có kể tới hấp dẫn, ta cần đến lý thuyết nhiễu loạn. Hàm Lagrangian của mọi trường lượng tử trong thực tế luôn bao gồm các số hạng tương tác cộng với số hạng của trường tự do. Tích phân đường Công thức tích phân đường trong QFT quan hệ với tính toán trực tiếp của biên độ phân ra của một quá trình tương tác cụ thể, hơn là các toán tử là không gian trạng thái. Để tính toán biên độ xác suất của một hệ sinh ra từ trạng thái ban đầu formula_25 tại t=0 đến trạng thái cuối formula_26tại t=T, tổng thời gian chia một khoảng N nhỏ. Biên độ cuối cùng là tổng hợp của biên độ với mỗi khoảng, tích phân qua tất cả các trạng thái trung gian. Đặt H là Hamiltonian, ta có formula_27 Lấy giới hạn "N" → ∞, tích trên của các tích phân trở thành tích phân đường Feynman. formula_28 trong đó L là hàm Lagrangian liên quan tới "ϕ" và đạo hàm của nó theo trục toạ độ không thời gian, ta thu được từ Hamiltonian "H" thông qua biến đổi Legendre. Điều kiện đầu và cuối của tích phân đường tương ứng formula_29 Nói cách khác, biên độ cuối cùng là tổng biên độ của các đường khả dĩ giữa trạng thái đâu và cuối, trong đó biên độ của một đường là đường cho trước bởi hàm e mũ trong tích phân Giản đồ Freynman Hàm tương ứng trong thuyết tương tác có thể viết dưới dạng chuỗi nhiễu loạn. Mỗi số hạng là một chuỗi tích Freynman trong lý thuyết tự do và có thể đại diện trục quan bằng giản đồ Freynman.
1
null
Chuyện hai thành phố hay Hai kinh thành, nguyên tác: A Tale of Two Cities (1859) là một cuốn tiểu thuyết của Charles Dickens, viết tại London và Paris trước và trong cuộc Cách mạng Pháp. Với hơn 200 triệu bản được bán ra, nó nằm trong các tác phẩm nổi tiếng nhất trong lịch sử văn chương hư cấu. Cuốn tiểu thuyết mô tả hoàn cảnh của nông dân Pháp và tầng lớp quý tộc Pháp trong những năm dẫn đến cuộc cách mạng, sự tàn bạo của những người cách mạng đối với tầng lớp quý tộc cũ trong những năm đầu của cuộc cách mạng, và nhiều điểm tương đồng xã hội với cuộc sống trong London trong khoảng thời gian tương tự qua việc tái hiện cuộc sống của một vài nhân vật thông qua những sự kiện này. Cuốn tiểu thuyết 45 chương được xuất bản trong 31 tuần từ tháng 4 năm 1859 đến tháng 11 năm 1859.
1
null
Dīn-i Ilāhī (, tạm dịch "Tôn giáo Thánh thần") là một tôn giáo dung hợp do hoàng đế Mogul là Akbar I khởi xướng vào năm 1582, với mục đích là tổng hợp các tinh túy của những tôn giáo hiện tồn tại trong đế quốc và thông qua đó dung hòa những sai biệt của dân chúng dưới quyền cai trị của ông. Nội dung của tôn giáo này chủ yếu lấy từ Hồi giáo và Ấn Độ giáo, nhưng một số yếu tố cũng lấy từ Kitô giáo, Jaina giáo, và Hỏa giáo. "Tôn giáo Thánh thần" bắt nguồn từ chính sách hòa hợp tôn giáo do Akbar khởi xướng. Một trong những biện pháp giúp hòa giải tôn giáo của Akbar là tổ chức các buổi tranh luận công khai giữa các giáo phái và trường phái triết lý khác nhau, nổi bật nhất là các buổi thảo luận tại "Tòa nhà Thờ phượng" ("Ibādat Khāna") được xây dựng tại Fatehpur Sikri vào năm 1575. Từ các cuộc tranh luận đó, Akbar kết luận là mỗi tôn giáo đều có ưu lẫn khuyết điểm, và vì vậy ông đã thành lập một "tôn giáo Thánh thần" ("Dīn-i Ilāhī") vào năm 1582, với nội dung tổng hợp những tinh túy của nhiều giáo phái khác nhau. "Tôn giáo Thánh thần" nghiêm cấm tham, sân, si, ác khẩu, kiêu căng, cho đó là tội lỗi. Ngoan đạo, cẩn trọng, kiêng khem và tử tế là các đặc tính đạo đức cốt lõi. Cầu nguyện và thờ phượng Thượng đế là cần thiết để làm thanh tịnh tâm hồn. Sống độc thân là điều được khuyến khích, và giết hại thú vật bị cấm. Tôn giáo này không có thứ bậc, giáo phẩm và cũng không có kinh sách gì. Người theo đạo cũng không cần nghi thức rườm rà, và khi gặp nhau phải gọi to tên của Akbar để chào nhau. Akbar xem đây là tín ngưỡng cá nhân và không chủ tâm truyền bá tôn giáo này, nên số tín đồ không đông. Theo Dabestān-e Mazāheb của Mubad Shah (Mohsin Fani), tôn giáo này tiếp tục tồn tại sau khi Akbar qua đời. Tuy nhiên số tín đồ không vượt quá 19 người.. Tôn giáo mới của Akbar đã hứng chịu sự chỉ trích từ một số học giả Hồi giáo, ví dụ như Qadi xứ Bengal và học giả phái Sufi là Ahmad Sirhindi. Họ cho rằng đây là sự báng bổ đối với đạo Hồi.
1
null
Quả Tâm cư sĩ (果心居士- Kashin koji) là một yêu thuật sư xuất hiện vào cuối thời Muromachi, Nhật Bản. Không rõ năm sinh, năm mất của nhân vật này. Ông còn được gọi với cái tên khác là "Thất bảo hành giả" (Shippō gyōja). Tuy có nhiều ghi chép rằng cư sĩ Kashin đã thi triển yêu thuật cho các danh tướng bấy giờ là Oda Nobunaga, Toyotomi Hideyoshi, Akechi Mitsuhide, Matsunaga Hisahide thấy nhưng cũng có nhiều nghi ngờ rằng đây không phải là nhân vật tồn tại trong thực sử. Tuy vậy, yêu thuật và các huyền thoại liên quan đến cư sĩ Kashin vẫn có một chỗ đứng trong tâm thức dân gian của người dân Nhật Bản. Khái yếu. Theo cuốn "Gizan kōkaku" (nghĩa tàn hậu giác), một tập tạp thoại cuối thời Azuchi Mômoyama thì cư sĩ Kashin sinh ra ở xứ Chikuzen, xuất thân từ tăng lữ ở Kōfuku-ji (Hưng Phúc tự) xứ Yamato nhưng lại tinh thông yêu thuật của ngoại đạo nên bị xét là phá môn. Sau đó Kashin tỏ ý muốn làm gia thần của Oda Nobunaga, thi triển yêu thuật trước mặt Oda và được khen ngợi nhưng không được Oda chấp thuận con đường sĩ quan. Lại theo tập tùy bút "Korō chawa" (cổ lão trà thoại) của Kashiwazaki Eii thì tháng 7 năm Keichō thứ 17 (Tây lịch 1612) có người xưng là cư sĩ Kashin đến Sumpu gặp Tokugawa Ieyasu. Ieyasu là người quen, hỏi bấy giờ ông đã bao nhiêu tuổi thì đáp rằng đã 88 tuổi.  Trong "Nihon zakki" (Nhật Bản tạp ký) của Koizumi Yakumo có truyện về cư sĩ Kashin gọi chiếc thuyền từ trong tranh ra rồi cưỡi thuyền biến mất vào trong tranh. Cũng có thuyết cho rằng Toyotomi Hideyoshi bị cư sĩ Kashin sát hại vào tháng 6 năm Tenshō thứ 12 (Tây lịch 1584). Yêu thuật. Mô tả về một số yêu thuật của cư sĩ Kashin như dưới đây Những giai thoại về cư sĩ Kashin gần như không thể xem là sự thực được, nhưng một số chuyện thì có thể giải thích được từ nguyên lý ảo thuật nên cũng có ý kiến cho rằng cư sĩ Kashin là một nhà ảo thuật. Các tác phẩm có mặt. Cư sĩ Kashin xuất hiện như một nhân vật kỳ quái cùng với các tiên nhân, Ninja sống trong thời loạn Chiến quốc trong nhiều tác phẩm văn học, phim ảnh, game...
1
null
Cá minh thái hay còn gọi là cá pôlăc (Danh pháp khoa học: Pollachius) là tên gọi thông dụng chỉ về các loài cá biển thuộc chi này. Cả hai loài "Pollachius pollachius" và "Pollachius virens" đều có tên thông dụng là cá minh thái. Cái tên khác về "Pollachius pollachius" kể cả cá minh thái Đại Tây Dương (Atlantic pollock), cá minh thái châu Âu (European pollock). Loài cá có giá trị thương phẩm lớn trong các loài cá minh thái chính là cá minh thái Alaska ở Mỹ. Đây là nhóm cá được xếp vào nhóm cá thịt trắng và được tiêu thụ nhiều nơi trên thế giới. Các loài. Hiện có hai loài trong chi này là Họ Gadidae có 4 loài mà trong tên gọi tiếng Anh của chúng có sử dụng từ pollock/pollack. Trong ẩm thực. Chúng là nguyên liệu cho món Mentaiko là trứng của cá minh thái và thường được ướp với bột ớt đỏ. Nó có màu đỏ đậm hay hồng. Mentaiko cay trong món Tarako Spaghetti. Sử dụng Mentaiko thông thường nhất là trong món Onigiri sushi Nhật Bản nhưng nó thật sự ngon trong món Tarako Spaghetti. Mentaiko rất đa dạng về mùi vị và màu sắc ở Nhật và được ăn trong khi uống rượu sake. Có thời điểm Mentaiko được xem là món ăn phụ ngon ở Nhật Bản.
1
null
Họ Tôm hùm không càng hay còn gọi họ Tôm hùm gai, hay là họ Tôm rồng (danh pháp khoa học: Palinuridae) là một họ tôm ở biển gồm có hơn 60 loài trong đó có nhiều loài có giá trị kinh tế cao. Tên gọi tôm rồng đôi khi dễ nhầm lẫn với loại tôm hùm đất, cũng được gọi là tôm rồng. Các loài tôm hùm có ở vùng biển Việt Nam thuộc họ này. Đây là loài tôm có giá trị kinh tế cao và được khai thác nhiều cùng với loài họ hàng của nó là tôm hùm càng. Đặc điểm. Cơ thể. Tôm rồng có kích thước lớn trong các loại tôm hùm. Chúng có chiều dài từ 25 cm đến 40 cm và cân nặng 250g. Tôm rồng có bộ giáp mũ rắn chắc, và có nhiều sắc màu rực rỡ, trong đó có nhiều loài có màu sắc đỏ là chủ đạo, chúng có 10 chân to, khỏe với nhiều gai nhọn trông rất dữ tợn. Đặc biệt là hai cặp râu ở phía trước rất dài Chúng có cấu tạo khác với các loài tôm thông thường, phần đầu và ngực mập, to, phần bụng nhỏ và ngắn, các chân bơi thoái hóa, chủ yếu là thích nghi với các hoạt động bò dưới biển. Tôm sống trong vùng biển ấm, sống ở vùng đáy biển, ban ngày ẩn náu trong các khe đá, ban đêm ra kiếm mồi. Tôm rồng bơi không được giỏi do cấu tạo cơ thể, chúng khá vụng về. Cũng như những loài tôm khác, tôm rồng cũng lớn lên nhờ quá trình lột xác. Tuy nhiên, tôm rồng có chu kỳ lột xác dài hơn, do đó tốc độ tăng trưởng cũng chậm hơn. Tôm rồng nuôi trong lồng sau thời gian từ 18 tháng trở đi mới đạt giá trị thương phẩm, cỡ 1 kg trở lên. Tập tính. Tôm rồng là loài ăn tạp, trong tự nhiên và cũng như nuôi thương phẩm. Thức ăn chủ yếu là cá, giáp xác và nhuyễn thể. Môi trường sống của chúng thường là những nơi nước sạch, có hang hốc, san hô, chất đáy ở tầng đáy sạch, độ mặn cao (>30‰) và nhiệt độ nước luôn ổn định trong khoảng 22 - 320C. Các chi. Ở Việt Nam có 7 loài tôm hùm gồm: Giá trị. Thịt tôm hùm đã được xem là vua của các loài hải sản, là đặc sản của vùng biển vào mùa đông lúc tôm hùm còn nặng những tảng gạch son. Gạch đóng thành một dọc vàng ươm ở sống lưng con tôm, gạch là một mảng lớn đóng nơi đầu tôm. Tôm hùm là món ăn thường được bán tại các nhà hàng. Ở Việt Nam, tôm hùm chủ yếu xuất bán sang Trung Quốc. Ở Việt Nam, tôm hùm phân bố tự nhiên và được nuôi nhiều ở các tỉnh ven biển miền Trung như Phú Yên, Bình Định, Khánh Hòa… Mùa khai thác con giống chủ yếu từ tháng 11 năm trước đến tháng 4, 5 năm sau.
1
null
Ga Ttukseom (Tiếng Hàn: 뚝섬역, Hanja: 뚝섬驛, 纛島驛) là ga tàu điện ngầm trên Tàu điện ngầm Seoul tuyến 2, nằm ở Seongsu-dong 1-ga, Seongdong-gu, Seoul. Có Ga Rừng Seoul trên Tuyến Suin–Bundang cách đó 450 m nhưng đây là ga riêng biệt và bạn có thể chuyển sang Tuyến Suin–Bundang tại Ga Wangsimni.
1
null
Mèo Grumpy (, sinh 4 tháng 4 năm 2012– mất 14 tháng 5 năm 2019), tên thật Tardar Sauce, là một con mèo và là con vật nổi tiếng internet được biết đến vì biểu cảm gương mặt của nó. Người chủ nó là Tabatha Bundesen nói rằng gương mặt gắt gỏng của nó là do chứng mèo lùn. Sự nổi tiếng của Grumpy Cat có nguồn gốc từ một hình ảnh được đưa lên Reddit bởi anh của Bundesen là Bryan vào ngày 22 tháng 9 năm 2012.
1
null
Giáo sĩ là nhóm riêng biệt được lựa chọn trong một số tôn giáo nhất định. Vai trò và nhiệm vụ của giáo sĩ tùy thuộc các truyền thống tôn giáo khác nhau nhưng thường liên quan đến việc chủ trì các nghi lễ, thẩm quyền giảng dạy giáo lý và hướng dẫn thực hành tôn giáo. Trong các giáo hội Công giáo, trước khi được tuyển chọn lên hàng giáo sĩ phải trải qua quá trình đào luyện nghiêm khắc trong khoảng từ 07 đến 13 năm, ít nhất phải tốt nghiệp cử nhân triết học, cử nhân thần học ở các trường đại học Công Giáo (trường dòng) hoặc đại chủng viện được Tòa Thánh Vatican công nhận
1
null
Nephropsis rosea là một loài tôm hùm càng. Loài tôm hùm càng này được tìm thấy ở vùng biển Caribê và vịnh Mexico, và xa về phía bắc ở phía tây Đại Tây Dương như Bermuda, và phía nam cũng như Guiana. Chúng chủ yếu sống ở độ sâu 500-800 mét.
1
null
Cộng hòa Nga () là một chính thể được thành lập sau Cách mạng Nga với lãnh thổ kế thừa phần lớn diện tích của Đế quốc Nga. Chính thể này chỉ tồn tại trong vài tháng trước khi cáo chung bởi sự kiện Cách mạng Tháng Mười. Chính thức, chính phủ Cộng hòa là Chính phủ lâm thời, mặc dù "sự" kiểm soát "thực tế" của đất nước và các lực lượng vũ trang của nó đã được chia giữa Chính phủ lâm thời và Liên Xô Petrograd. Thuật ngữ Cộng hòa Nga đôi khi được sử dụng sai lầm trong khoảng thời gian giữa sự thoái vị của Hoàng đế Nikolai II vào ngày 2 tháng 3 năm 1917 (ngày 15 tháng 3, NS) và tuyên bố của Cộng hòa vào tháng Chín. Tuy nhiên, trong thời gian đó tình trạng của chế độ quân chủ trong tương lai vẫn được giải quyết.
1
null
Metanephrops japonicus là một loài tôm hùm càng. Loài tôm này được tìm thấy trong vùng biển Nhật Bản, và một món đặc sản trong ẩm thực Nhật Bản. Loài này hiện diện từ Choshi, tỉnh Chiba (Honshu) đến bờ biển phía đông của Kyushu, nơi nó sống ở độ sâu 200-440 mét.
1
null
Cộng hòa Liên bang Dân chủ Nga () là một chính thể được đề nghị thành lập trong cuộc Cách mạng Nga năm 1917. Chính thể này chính thức được công bố vào ngày 19 tháng 1 năm 1918 khi các dân biểu Quốc hội Lập hiến soạn thảo và thông qua Nghị quyết về hình thức chính phủ Nga, đồng thời ra thông cáo Nga là nước Cộng hòa Liên bang Dân chủ. Tuy nhiên, Quốc hội Lập hiến đã bị buộc giải thể cùng ngày với Ủy ban Chấp hành Trung ương Toàn Nga, cho nên đây là nước Cộng hòa có thời gian tồn tại ngắn ngủi nhất trong lịch sử.
1
null
Tôm nước sâu hay tôm hồng, tôm ngọt hay Tôm chì Alaska hay còn gọi là tôm Amaebi trong tiếng Nhật (Danh pháp khoa học: Pandalus borealis) là một loài tôm trong Chi tôm he thuộc họ tôm chì được phân bố ở Bắc Đại Tây Dương, Bắc Thái Bình Dương và vùng Bắc Cực. Chúng còn được tìm thấy ở đáy bùn xốp, mòn ở dưới sâu 10- 500m và chủ yếu là những lỗ sâu. Tên gọi. Nhiều tên tiếng Anh khác nhau được dùng để chỉ loài tôm này như "deep-water shrimp" (tôm nước sâu), "cold water shrimp" (tôm nước lạnh), "northern shrimp" (tôm phương Bắc), "Alaskan pink shrimp" (tôm chì Alaska), "pink shrimp" (tôm chì), "northern red shrismp" (tôm đỏ phương bắc), "Greenland prawn" (tôm Greenland – ở vương quốc Anh). Thường từ shrimp được thay bằng từ prawn, mặc dù không chính xác. Ở Nhật, nó còn được gọi là Hokkoku Akaebi/North countryred shrimp tức tôm Amaebi, Nanban ebi hoặc Tongarasahi. Đặc điểm. Tôm này thường ăn những loài côn trùng nhỏ, những loài giáp xác. Đây là loại tôm nước lạnh, nhiệt độ là một yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng tới sự phát triển của chúng. Nhiệt độ tới hạn mà tôm có thể chịu được là từ 2-14 độ C, chúng thường được tìm thấy ở nhiệt độ 2-8 độ C. Cơ thể của tôm chứa khoảng 70-85% nước. Hàm lượng nước phụ thuộc vào giống loài và tình trạng của tôm. Trong cơ và trong các tế bào, nước đóng một vai trò quan trọng làm dung môi cho các chất tan, là môi trường cho các phản ứng sinh hóa trong tế bào, đồng thời nước tham gia vào các phản ứng sinh hóa và có ảnh hưởng lớn đến sự tạo thành các sản phẩm phản ứng. Cơ thể của tôm chứa khoảng 10-25% protein. Hàm lượng protein biến thiên tùy thuộc vào giống loài tôm, điều kiện dinh dưỡng và các loại cơ thể. Mô cơ của tôm chứa Lipid rất ít, khoảng 0,05-3%, thành phần chủ yếu là photpholipid. Các vitamin có thể có trong tôm như: thiamin (B1), riboflavin (B2), niacin (PP), pyridocin (B6), biotin (H), acid acorbic (C),… hàm lượng vitamin biến thiên theo mùa vụ. Tôm là loại thực phẩm giàu khoáng chất, hàm lượng chất khoáng có trong cơ thể tôm biến thiên trong khoảng 0,6-1,5%. Hàm lượng chất khoáng phụ thuộc vào điều kiện và môi trường sống của tôm. Thành phần: Sinh trưởng. Pandalus borealis xuất hiện quanh năm. Loại tôm này là động vật lưỡng tính. Chúng được sinh ra là giống đực, sau đó chuyển đổi giới tính và trở thành giống cái sau 4 năm. Con cái mang trứng từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, sau đó di chuyển đến vùng ven biển vào cuối thu và ấp trứng ở đây. Trứng lớn dần và tồn tại ở ven bờ hơn một năm và sau đó di chuyển ra biển khơi khi nó trưởng thành. Đây là loài tôm nổi tiếng về giới tính là loài lưỡng tính. Bắt đầu chúng là con đực, nhưng sau một hai năm, tinh hoàn biến thành buồng trứng và hoàn chỉnh cuộc sống của chúng là con cái. Tuy nhiên, nếu số lượng con cái nhiều, con đực sẽ đình hoãn sự chuyển đổi của chúng, nếu có sự thiếu hụt con cái, con đực sẽ chuyển đổi sớm hơn. Tôm sinh trưởng trải qua 7 giai đoạn gồm Giai đoạn phôi, trứng thụ tinh, phân cắt tế bào đến khi nở, thời gian hoàn tất khoảng 12 ngày tùy thuộc vào điều kiện nước, trứng nở ra thường chìm xuống đáy và sau khi trương nở sẽ nổi lơ lửng. Giai đoạn thứ hai là giai đoạn ấu trùng và Giai đoạn tôm giống, lúc này tôm sử dụng chân ngực để bò và chân bụng để bơi. Giai đoạn cận trưởng thành, cơ thể cân đối, có dạng như tôm trưởng thành. Giai đoạn này tôm có cơ quan sinh dục đực. Giai đoạn trưởng thành tôm đực trưởng thành. Giai đoạn chuyển đổi giới tính, tôm đực chuyển thành tôm cái với bọc trứng dưới bụng. Giai đoạn tôm cái đẻ. Giá trị. Tôm Amaebi là một trong những loại thức ăn được ưa chuộng ở Nhật. Người ta ăn sống loại này với chanh và mù tạc, chúng ngon khi làm sashimi, trong món salad hay một phần của món sashimi lớn hơn. Tôm có giá trị dinh dưỡng. Mùa của tôm này là mùa đông, mặc dù chúng có thể được tìm thấy quanh năm nhờ số lượng lớn nhập khẩu từ Greenland và Canada. Sản lượng đánh bắt nội địa hàng năm là khoảng 2.000 tấn ở Hokkaido và 800 tấn ở tỉnh Ishikawa. Chúng được gọi tôm ngọt ở Nhật Bản vì chúng rất ngọt sau một vài ngày ở trong tủ lạnh.
1
null
Họ Tôm gai hay họ Tôm càng (danh pháp khoa học: Palaemonidae) là một họ tôm nước ngọt trong liên họ Palaemonoidea thuộc phân thứ bộ Caridea. Đặc điểm. Các loài trong họ này có chung đặc điểm càng dài râu dài khác với các loài thuộc họ Atyidae có càng ngắn. Chúng sống chủ yếu dưới đáy, ít khi lên mặt nước. Thức ăn chủ yếu là mùn bã hữu cơ và động vật thủy sinh nhỏ. Tôm càng sống trong ao, hồ có vỏ màu tối sẫm, còn tôm ở sông thường có vỏ màu sáng. Các chi. Họ này có hơn 950 loài trong 137 chi,
1
null
Lamellibrachia luymesi là một loài giun ống. Loài giun này Nó sống ở lỗ rỉ lạnh (cold seep) dưới biển sâu nơi hydrocarbon (dầu mỏ và khí mê tan) đang bị rò rỉ ra khỏi đáy biển. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào nội bộ, sulfide-oxy hóa cộng sinh của vi khuẩn đối với dinh dưỡng của nó. Lamellibrachia luymesi cung cấp hydro sulfide và oxy cho vi khuẩn bằng cách đưa chúng lên từ môi trường và liên kết chúng vào một phân tử hemoglobin chuyên biệt. Không giống như những con giun ống sinh sống trong các lỗ phun thủy nhiệt, Lamellibrachia sử dụng một phần mở rộng sau của cơ thể của nó được gọi là gốc rễ để lấy hydro sulfide từ các trầm tích rò rỉ. Lamellibrachia cũng có thể giúp cung cấp nhiên tạo ra sulfide bằng cách bài tiết thông qua gốc rễ của chúng vào các lớp trầm tích dưới các nhóm quy tụ. Lỗ phun nổi tiếng nhất mà loài giun này sinh sống ở độ sâu 500–800 m dưới vịnh Mexico. Loài giun này có thể dài đến 3 m. Chúng lớn chậm và có thể sống thọ đến 250 năm. Chúng tạo môi trường sống hữu cơ bằng cách tạo ra nhóm quy tụ lớn của hàng trăm đến hàng ngàn cá thể. Sống trong những quy tụ này có hơn một trăm loài động vật khác nhau, nhiều loài trong số này chỉ được tìm thấy trong các lỗ phun này.
1
null
Firefox OS (tên dự án: "Boot to Gecko", còn gọi là "B2G") là một hệ điều hành mã nguồn mở dựa trên Linux cho điện thoại thông minh và máy tính bảng và còn được sử dụng cho TV thông minh. Nó được phát triển bởi Mozilla, tổ chức phi lợi nhuận nổi tiếng với trình duyệt Firefox. Firefox OS được thiết kế để cung cấp một hệ thống thay thế dựa trên cộng đồng dành cho các thiết bị di động, sử dụng các tiêu chuẩn mở và thân thiện như ứng dụng HTML5, JavaScript, có một mô hình đặc quyền vững chắc cùng các API web mở để giao tiếp trực tiếp với phần cứng của điện thoại di động, và cuối cùng là một chợ ứng dụng "marketplace". Bởi vậy, nó cạnh tranh với các hệ điều hành phát triển thương mại như iOS, Android, Windows Phone và Sailfish OS cũng như các hệ điều hành mã nguồn mở dựa vào cộng đồng khác như Ubuntu Touch. Firefox OS được ra mắt rộng rãi vào tháng 2 năm 2012 trên các điện thoại thông minh tương thích Android, và một lần nữa vào năm 2013 hoạt động trên Raspberry Pi. Vào tháng 1 năm 2013, ở CES 2013, ZTE xác nhận họ sẽ chuyển đến một điện thoại thông minh với Firefox OS, vào ngày 02 tháng 7 năm 2013, Telefónica khởi động phiên bản Firefox OS thương mại đầu tiên trên di động, ZTE Open, tại Tây Ban Nha GeeksPhone Peak+ cũng lập tức có mặt sau đó.
1
null
Jean Jaurès (* 3 tháng 9 1859 in Castres, Tarn, Pháp; † 31 tháng 7 1914 tại Paris) là một chính trị gia Xã hội chủ nghĩa và cũng là một sử gia. Jaurès, một trong những đại biểu cho chủ thuyết xã hội chủ nghĩa cải cách (Reformsozialismus) vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 tại Pháp, bị một kẻ dân tộc chủ nghĩa cực đoan sát hại vào ngày 31 tháng 7 năm 1914, chỉ ngay trước khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bộc phát. Tiểu sử. Sinh năm 1859 trong một gia đình tư sản nghèo, bố là một tiểu chủ nghề nông và buôn bán vải, Jean Jaurès học rất giỏi. Ông thi đậu vào trường đại học ưu tú École normale supérieure (Paris) và trở thành thạc sĩ triết học. Ban đầu ông là giáo viên tại một trường trung học ở Albi. Đến năm 1883 thì được nhận làm giảng sư triết học tại đại học ở Toulouse. Sự nghiệp chính trị. Từ năm 1885 ông bắt đầu hoạt động chính trị, và cùng năm ông đã trúng cử vào Nghị viện Pháp cho phe Cộng hòa, và là nghị sĩ trẻ nhất nước. Sau khi thất cử vào năm 1889 Jaurès đi dạy trở lại, lấy bằng tiến sĩ. Ông cũng bỏ thời giờ hoạt động chính trị địa phương và dần dần thiên về phe xã hội chủ nghĩa. Một biến tiến quan trọng trong sự nghiệp chính trị của ông là việc dấn thân yểm trợ những người làm việc ở hầm mỏ Carmaux, mà đã đình công vào năm 1892, chống lại 1500 quân lính được điều hành tới để đàn áp họ. Dưới áp lực của cuộc đình công và dư luận công chúng, chính phủ đã phải can thiệp để giải quyết cuộc đình công xử thuận lợi cho người lao động. Marquis de Solages, chủ nhân của hầm mỏ, đồng thời cũng là nghị viên của quốc hội đã phải từ chức. Năm sau đó Jaurès được bầu vào chỗ trống này. Từ năm 1893 cho tới 1914 ngoại trừ 4 năm gián đoạn Jaurès là nghị viên quốc hội của phe Cộng hòa thân tả. Ông nổi tiếng là có tài diễn thuyết. Trong những thành công là việc ông đòi xử lại vụ án Dreyfus. Ông bắt đầu viết báo rất sớm, ban đầu cho các tờ báo địa phương, đặc biệt là « La Dépêche du Midi» của Toulouse, sau đó cho tờ Le Midi Socialiste. Năm 1904, với sự hỗ trợ của một số bạn hữu ông lập ra một tờ báo riêng, đặt tên báo là "L’Humanité" (Nhân đạo). Năm 1902, Jaurès là một trong những sáng lập viên Đảng Xã hội Pháp. Ông bắt đầu viết báo rất sớm, ban đầu cho các tờ báo địa phương, đặc biệt là « La Dépêche du Midi» của Toulouse, sau đó cho tờ Le Midi Socialiste. Năm 1904, với sự hỗ trợ của một số bạn hữu ông lập ra tờ báo đảng, đặt tên báo là "L’Humanité" (Nhân đạo). Báo này sau này là tiếng nói của Đảng Cộng sản Pháp (PCF). Năm 1905, Jaurès được bầu làm chủ tịch của liên đảng Xã hội chủ nghĩa "Section française de l’Internationale ouvrière" (SFIO) mà ông, Jules Guesde và Édouard Vaillant là lãnh tụ của các nhóm, tách ra không làm việc với những nhóm quá khích. Quan điểm của ông về một chủ nghĩa Xã hội, đặt trên căn bản Ki Tô Nhân bản và hướng tới một sự thay đổi quan hệ xã hội theo những con đường dân chủ lập hiến, đưa tới những xung đột với nhóm marxist Cách mạng trong đảng SFIO. Chương trình hoạt động của SFIO vì vậy là một dung hòa nhiều khuynh hướng khác nhau nên có cả những quan điểm marxist với tín điều đấu tranh giai cấp cũng như với những mục tiêu đổi mới. Jaurès chống lại chủ nghĩa quân phiệt, chủ trương bảo vệ hòa bình. Trong những cuộc biểu tình cho hòa bình và tại quốc hội, ông đòi hỏi một thỏa thuận chính trị với nước Đức, khi cuộc chiến tranh gần kề. Bởi vậy ông bị nhóm thân hữu rất căm ghét. Cái chết và ảnh hưởng. Một ngày trước khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bộc phát, vào ngày 31 tháng 7 năm 1914, Jean Jaurès bị một người dân tộc chủ nghĩa cực đoan ám sát chết tại một Café ở Paris. Sau khi nước Pháp chiến thắng, tên sát nhân được tòa xử tha bổng vào ngày 29 tháng 3 năm 1919. Ngoài ra người vợ góa chồng phải chịu trả tiền tòa. Năm 1924 xác của Jean Jaurè được đưa vào Điện Panthéon. Để tưởng nhớ đến ông, đến những hoạt động không ngừng cho nền hòa bình, đến những tang tóc mà cuộc đệ nhất thế chiến đã mang lại, nhiều làng xã ở Pháp đã đặt tên ông cho những con đường và các công viên. Ở Paris cũng như Lille và Toulouse có trạm xe điện ngầm lấy tên ông. Cả ở Berlincả một phần đường Cyclopstraße nằm ở khu vực Berlin-Waidmannslust quận Reinickendorf vào ngày 1 tháng 11 năm 1987 được đổi tên là Jean-Jaurès-Straße. Ở Viên một con hẻm vào năm 1919 được đặt tên là Jaurèsgasse và một chung cư xây vào 1925–1926 lấy tên là Jean-Jaurès-Hof. Jacques Brel, một nhạc sĩ người Bỉ cũng viết một bài ca tưởng nhớ ông với tựa "Jaurès" (1977). Đảng Xã hội Pháp đã đặt tên cho một quỹ chính trị của họ là Fondation Jean-Jaurès.
1
null
Nguyễn Phúc Hồng Cai (chữ Hán: 阮福洪侅; 13 tháng 12 năm 1845 – 15 tháng 5 năm 1876), tôn hiệu Kiên Thái vương (堅太王), là một hoàng tử con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông được biết đến là phụ thân của ba vị hoàng đế liên tiếp của triều Nguyễn, là Kiến Phúc, Hàm Nghi và Đồng Khánh, đồng thời là tổ phụ của vua Khải Định và là tằng tổ phụ của vua Bảo Đại. Tiểu sử. Hoàng tử Hồng Cai sinh ngày 5 tháng 11 (âm lịch) năm Ất Tỵ (1845), là con trai thứ 26 của vua Thiệu Trị, mẹ là "Tài nhân" Trương Thị Vĩnh (sau được tấn tặng làm "Kỷ tần"). Hồng Cai bẩm tính nhân hậu, cần kiệm, biết tuân theo phép tắc. Ông vốn chăm học từ nhỏ, khi ra ở phủ riêng cùng học với các vương công, xem rộng kinh sử. Năm Tự Đức thứ 18 (1865), Hồng Cai được phong làm Kiên Quốc công (堅國公). Trước đó, vua ra bài cho cả ba hoàng đệ là Hồng Cai, Hồng Diêu và Hồng Dật cùng làm. Theo lệ, các hoàng thân mới đầu đều được phong làm Quận công, nhưng vì thấy Hồng Cai học hạnh tốt hơn cả nên được đặc cách gia phong như vậy. Cũng trong năm đó, con trai trưởng của quốc công Hồng Cai được chọn vào nuôi ở trong cung (là vua Đồng Khánh sau này). Năm Tự Đức thứ 29 (1876), ngày 22 tháng 4 (âm lịch), quốc công Hồng Cai mất, Tự Đức vô cùng thương tiếc, nghỉ chầu 3 ngày, ban thụy là Thuần Nghị (純毅), lại cho thêm quan tài của Đông Viên để tỏ lòng yêu quý khác thường. Lăng tẩm của quốc công Hồng Cai được táng tại huyện Hương Thủy, phủ Thừa Thiên. Điểm đặc biệt của ngôi lăng này là có hai bi đình (nhà đặt bia) nằm đối xứng ở hai bên trái và phải của lăng, trong khi tất cả các lăng mộ khác của hoàng đế và hoàng thân công chúa chỉ có một bi đình. Ông được thờ tại phường Dưỡng Sinh ở trong kinh thành. Tháng 9 (âm lịch) năm Ất Dậu (1885), Đồng Khánh lên ngôi kế vị vua em Hàm Nghi, vâng theo chỉ dụ của Thái hậu Từ Dụ truy tôn cho cha ruột là Hồng Cai làm Kiên vương (堅王), thụy Ôn Nghị (溫毅). Bài sách văn viết rằng: ""Được nghe thánh thần tỏ lòng luyến ái, nghĩa thân thân là việc lớn hơn; vương giả nối nghiệp trung hưng, lễ quý quý" "là trọng trước hết; có đức tất có báo, dẫu chết cũng như còn. Nghĩ đến Kiên quốc công là người em yêu quý của hoàng khảo Dực tông Anh hoàng đế ta, bản tính đoan trang; vốn lòng hiếu hữu, tự biết rèn luyện, thực tinh hoa lá ngọc cành vàng; không cần múa gươm, có khí khái cánh chim vó ngựa, hạnh nghĩa ấy, tam hoàng" "rõ rệt; bản chi này bách thế còn lưu. Nên nay phải ngọc bích được truyền; cầm tỷ phù nối nghiệp, nghĩ đến rung rinh đai ấn, còn tưởng đến Đông Bình""; hiềm vì văng vẳng sinh ca, không theo được Tử Tấn"", dòng dõi vốn lòng nhân hậu; cáo sắc phải được hiển dương. Nay tuân theo đặc Chỉ của Từ Dụ Bác Huệ Thái hoàng thái hậu, tấn tặng là Kiên vương, tên thụy là Ôn Nghị, để yên ủi linh hồn, mà tỏ rõ ơn nước. Than ôi! Hàm sắc thêm phần rực rỡ, hầu nêu vang vẻ ở tuyền đài; lá đồng" "há phải việc riêng, che chở giúp ngầm cho căn bản, mong xin linh sảng có thấu; xin phải kính theo."" Năm Đồng Khánh thứ 3 (1888), theo lời bàn của bộ Lễ, vua muốn tôn huy hiệu cho Kiên vương Hồng Cai và phủ thiếp Bùi Thị Thanh (mẹ vua), đồng thời cải thụy của Kiên vương thành "Thuần Nghị" (純毅) như trước. Đình thần và phủ Tôn Nhân cho là hợp tình hợp lễ, xin tấn tôn Kiên vương làm Kiên Thái vương (堅太王), xưng là Hoàng thúc phụ, Bùi thị làm "Kiên Thái vương phi", xưng là Hoàng thúc mẫu. Cũng vì từ trước đến nay chưa có lệ phong Vương phi cho phủ thiếp nên hai hoàng thân là quốc công Miên Trữ và quốc công Miên Tuấn đều bác bỏ việc đó. Điều này làm phật ý Đồng Khánh nên hai ông bị phế bỏ tước vị. Cũng trong năm đó, vua cho dựng đền Hân Vinh, dự định để bà Tài nhân Trương Thị Vĩnh đến ở. Nhưng cuối năm đó, Đồng Khánh băng hà, triều thần cho đặt quan tài của vua ở đền Hân Vinh, sau khi an táng vua thì lấy đền đó làm nơi thờ mới cho Kiên Thái vương Hồng Cai (là cha vua). Đền Hân Vinh sau này còn có tên gọi là "Đình Phương từ đường", hiện tọa lạc tại số 179, đường Phan Đình Phùng, thành phố Huế. Gia quyến. Kiên Thái vương Hồng Cai có 5 con trai và 7 con gái. Ông được ban cho bộ chữ "Đậu" (豆) để đặt tên cho các con cháu trong phòng. Dân gian Huế có câu ca dao: Hai câu này là để nói về hoàn cảnh đặc biệt của gia đình ông, khi mà cả 3 người con trai đều được nối ngôi làm vua. ""Vua còn" tức Đồng Khánh, "vua mất" tức Kiến Phúc và "vua thua chạy dài"" tức Xuất đế Hàm Nghi. Phủ thiếp. Kiên Thái vương Hồng Cai còn nhiều thứ thiếp chưa rõ tên. Hậu duệ. Con với bà Phan Thị Nhàn. Công nữ thứ sáu mất sớm, không rõ tên, mẹ là một người thiếp họ Nguyễn. Mộ của công nữ này hiện tọa lạc tại phường Thủy Xuân, thành phố Huế. Công nữ thứ năm là Như Phiên (hoặc Phan), có chỗ ghi là Như Sắc, không rõ mẹ, lấy danh thần Thân Trọng Huề. Một người con gái của hai ông bà là Thân Thị Nam Trân, lấy ông Trần Văn Chương, sinh Trần Lệ Xuân, hay còn được biết với tên là Madame Nhu. Các công nữ Như Quế (công nữ thứ ba), Như Phiên và Như Cư (công nữ thứ bảy) được vua Khải Định ban cho mỗi người một chiếc Kim bội, mặt sau khắc 4 chữ "Khải Định sắc tứ".
1
null
Cá chết hàng loạt hay cá chết trắng là hiện tượng các con cá bị chết một cách bất thường hoặc hàng loạt trong các quần thể cá ở tự nhiên hay trong điều kiện nuôi nhốt, và tỷ lệ tử vong tổng quát lớn hơn đời sống thủy sinh. Nguyên nhân phổ biến nhất là sự suy giảm nồng độ oxy trong nước, có thể là do các yếu tố như hạn hán, tảo xâm lấn, nhiễm độc, thủy triều đỏ hoặc một sự gia tăng nhiệt độ trong nước. Các bệnh truyền nhiễm và ký sinh trùng cũng có thể dẫn đến cá chết hàng loạt. Độc tính cũng là một nguyên nhân thực sự nhưng ít phổ biến của hiện tượng cá chết. Cá chết thường ghi nhận bằng hiện tượng các con cá nổi hàng loạt lên mặt nước. Tổng quan. Cá chết thường là dấu hiệu đầu tiên của môi trường không ổn định và thường được điều tra như một vấn đề cấp bách của các cơ quan môi trường để xác định nguyên nhân gây ra để khắc phục. Nhiều loài cá có khả năng chịu đựng tương đối thấp của các biến thể trong điều kiện môi trường. Sự kiện ô nhiễm có thể ảnh hưởng các loài cá và các nhóm tuổi cá theo những cách khác nhau. Nồng độ oxy cạn kiệt là nguyên nhân phổ biến nhất của cá chết. Nguyên nhân. Cá chết có thể do nhiều nguyên nhân. Nguyên nhân được biết, cá chết thường xuyên nhất do ô nhiễm từ nước thải nông nghiệp hoặc độc tố. Tình trạng thiếu oxy sinh thái (thiếu oxy) là một trong những nguyên nhân tự nhiên phổ biến nhất của cá chết. Sự kiện thiếu oxy có thể được gây ra bởi các yếu tố như tảo nở hoa, hạn hán, nhiệt độ cao và ô nhiễm nhiệt. Cá chết cũng có thể xảy ra do sự hiện diện của bệnh, nước thải nông nghiệp và nước thải sinh hoạt, dầu hoặc sự cố tràn chất thải nguy hại, đánh bắt với các hóa chất, các vụ nổ dưới nước, hoặc đánh bắt bằng chất nổ hoặc xung điện từ đó tác động rất lớn đến quần thể thủy sinh. Cá chết thường là một dấu hiệu của sự căng thẳng môi trường. Thiếu dưỡng khí. Nhiệt độ ấm hơn có thể thúc đẩy quá trình phát triển các đám tảo dưới nước với tốc độ nhanh hơn, khiến chúng hấp thụ oxy nhiều hơn. Thời tiết nóng cũng sẽ khiến lượng oxy trong nước giảm thấp hơn so với điều kiện thời tiết bình thường. Đây có thể là nguyên nhân khiến cá thiếu oxy và chết. Nồng độ oxy trong nước suy giảm làm cá chết. Trước khi cá chết thường có hiện tượng cá nổi đầu, chúng nhoi lên khỏi mặt nước để thở. Ô nhiễm. Nước thải nông nghiệp, nước thải, dòng chảy bề mặt, tràn hóa chất, sự cố tràn chất thải nguy hại đều có thể có thể dẫn đến ngộ độc nước và cá chết. Một số loài tảo còn tạo ra độc tố. Ở Florida, chúng bao gồm Aphanizomenon, Anabaena và Microcystis. Một số loài cá đáng chú ý đã bị giết chết ở Louisiana trong những năm 1950 đã do thuốc trừ sâu được gọi là Endrin. Cá chết gây ra bởi con người là không bình thường, nhưng đôi khi một chất gây độc tính đổ trực tiếp hoặc một sự thay đổi nhiệt độ nước hoặc độ pH có thể dẫn đến cá chết. Ví dụ, vào năm 1997 một nhà máy phosphat ở Mulberry, Florida, vô tình đổ 60 triệu gallon nước quá trình axit vào Sapling Creek, giảm độ pH từ khoảng 8 đến ít hơn 4 cùng 36 dặm của con lạch, dẫn đến cái chết của khoảng 1,3 triệu con cá. Rất khó hoặc không thể xác định xem một chất độc tiềm năng là nguyên nhân trực tiếp của một cá chết trắng. Ví dụ, hàng trăm ngàn con cá chết sau khi một vụ tràn dầu do tai nạn của bourbon whiskey vào sông Kentucky gần Lawrenceburg. Tuy nhiên, các quan chức không thể xác định giết cá là do sự tác động trực tiếp hoặc thiếu oxy dẫn đến khi vi khuẩn thủy sản nhanh chóng bắt đầu tiêu thụ và tiêu hóa. Cyanide là một hợp chất độc hại cụ thể đã được sử dụng để câu trộm cá (đánh cá bằng hóa chất). Chu kỳ. Một số loài cá triển lãm đồng thời tỷ lệ tử vong hàng loạt như một phần của chu kỳ cuộc sống tự nhiên của chúng. Cá giết do tử vong sinh sản có thể xảy ra khi cá kiệt sức từ các hoạt động sinh sản như tán tỉnh, xây tổ, và phát tán trứng hoặc tinh dịch (tinh trùng). Cá nói chung là yếu sau khi đẻ trứng và ít đàn hồi hơn bình thường để thay đổi nhỏ trong môi trường. Ví dụ như cá hồi Đại Tây Dương và cá hồi Sockeye có nhiều con cá cái thường chết ngay lập tức sau khi đẻ trứng. Áp lực. Vụ nổ dưới nước có thể dẫn đến chết cá, và cá bong bóng bơi dễ bị vỡ hơn. Đôi khi các vụ nổ dưới nước được sử dụng vào mục đích để tạo ra cá chết, một thực tế bất hợp pháp thường được gọi là đánh cá bằng thuốc nổ. Vụ nổ dưới nước có thể vô tình hoặc lên kế hoạch, chẳng hạn như xây dựng, thử nghiệm địa chấn, khai thác, thử nghiệm vụ nổ của các cấu trúc dưới nước. Ở nhiều nơi, việc đánh giá tác động tiềm năng của các vụ nổ dưới nước trên sinh vật biển phải được hoàn thành và biện pháp phòng ngừa được thực hiện trước khi nổ mìn. Hạn hán. Hạn hán có thể dẫn đến khối lượng nước thấp hơn để ngay cả khi nước có chứa một mức độ cao của oxy hòa tan, khối lượng giảm có thể không đủ cho số lượng cá. Hạn hán thường xảy ra cùng với nhiệt độ cao để các năng vận chuyển oxy của nước cũng có thể được giảm. Dòng chảy thấp cũng làm giảm độ pha loãng có sẵn cho phép thải nước thải được xử lý hoặc chất thải công nghiệp. Độ pha loãng giảm làm tăng nhu cầu oxy hữu cơ tiếp tục giảm nồng độ oxy có sẵn cho cá. Thời tiết nắng nóng kéo dài có những ngày nhiệt độ lên đến 40oC ngoài không khí, trên các ao nuôi nhiệt độ nước mặt đôi khi lên đến 36-380C, nhiệt độ này nằm ngoài giới hạn nhiệt độ của các loài cá nuôi truyền thống (22-280C). Do vậy cá nuôi trong ao sẽ yếu dần, ăn kém và nguy cơ mắc bệnh rất cao. Cùng với đó khi nhiệt độ môi trường không khí và môi trường nước lên cao oxy hòa tan vào nước sẽ thấp, mức độ tiêu thụ oxy của các loài thủy sinh vật trong ao tăng dẫn đến các hiện tượng thiếu oxy trong nước. Khi nhiệt độ lên cao quá trình chuyển hóa hóa học, phản ứng sinh hóa dẫn đến thiếu oxy trong tầng đáy cũng như trong ao. Thiếu oxy dẫn đến quá trình phân hủy thiếu khí tạo thành các khí độc: NH3, H2S, CH4...sẽ dẫn tới tình trạng cá bị sốc, ngộ độc, giảm sức đề kháng và bệnh sẽ phát triển. Nếu quá trình thiếu khi xảy ra trong thời gian dài, các động vật thủy sản nuôi sẽ bị chết ngạt do thiếu oxy. Bệnh tật. Cá có thể chết hàng loạt do bệnh tật và ký sinh. Sinh vật lạ xuất hiện dày đặc vào ban đêm quanh các lồng bè nuôi cá ở huyện đảo Kiên Hải (Kiên Giang). Chất nhờn do chúng tiết ra khiến hàng nghìn con cá chết, gây hại lớn cho ngư dân. Sinh vật này giống con giun, dài khoảng 10 cm xuất hiện dày đặc vào ban đêm, bám quanh các lồng bè nuôi cá vài ở các xã Lại Sơn, An Sơn, Nam Du và Hòn Tre. Chất nhờn do chúng tiết ra được cho là gây cản trở quá trình hô hấp vì thiếu oxy, làm mù mắt cá. Huyện Kiên Hải đã có hơn 6.000 con cá bớp nặng từ 4–7 kg mỗi con và khoảng 10.000 con cá mú loại dưới 1 kg bị chết. Biểu hiện. Thông thường khi cá chết, chúng sẽ nổi phềnh lên mặt nước. Cá nặng hơn không đáng kể so với môi trường nước xung quanh. Chúng gần như có lực nổi trung tính, nghĩa là sức nặng khiến nó chìm xuống cân bằng với lực bên trong cơ thể khiến con vật nổi lên. Khi một con cá chết, oxy vẫn còn ở trong bong bóng của nó. Ngoài ra, quá trình phân huỷ xác sinh ra thêm các loại khí khác mới. Con cá giống như một cái hộp kín, khi nó phân huỷ, khí sẽ lấp đầy cơ thể. Cái bụng trở thành một quả khinh khí cầu và con cá nổi lên mặt nước. Cá nặng hầu hết là do xương và cơ ở hai bên sống lưng, vì thế khi quả khí cầu ngoi lên, con cá có xu hướng đổ nghiêng sang một bên. Không phải lúc nào cá chết cũng nổi lên mặt nước ngay. Chúng có thể nằm ở dưới đáy cho đến khi khí tích đầy cơ thể. Một số sự kiện. Trên thế giới. Những sự kiện cá chết hàng loạt trên thế giới có:
1
null
Poecilotheria rajaei là một loài nhện trong chi "Poecilotheria" chỉ sống tại Sri Lanka và Ấn Độ. Đặc điểm. Loài động vật này nổi tiếng với màu sắc độc đáo, di chuyển nhanh và có nọc độc. Con nhện trong hình có sải chân dài tới gần 20 cm, nọc độc của nó có thể giết chết chuột, những con chim nhỏ và cả những con rắn. loài nhện này có kích cỡ cơ thể khá lớn với sải chân dài gần bằng khuôn mặt một người bình thường, có thể trùm kín khuôn mặt người. Loài nhện này khá hiếm gặp, thường sinh sống ở những cây cổ thụ khổng lồ. Nhưng lạ là, loài nhện này lại có tập tính định cư, chúng chỉ sống tại một nơi duy nhất cho đến khi gặp nguy hiểm hoặc tổ bị phá bỏ. Hiện nay do ảnh hưởng của nạn phá rừng ở Sri Lanka mà số lượng nhện này đã giảm đi đáng kể.
1
null
Ủy ban Tư pháp của Quốc hội ở Việt Nam là cơ quan thảo luận, đóng góp ý kiến về các nội dung dự án pháp lệnh về hình sự, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án, bổ trợ tư pháp. Đồng thời là cơ quan nhận khiếu nại tố cáo của Quốc hội Việt Nam có quyền thẩm tra các vụ án được giao hoặc nhận thư khiếu nại. Sau khi kết luận nếu vi phạm nghiêm trọng gửi Viện Kiểm sát xử lý. Chức năng và nhiệm vụ. 1. Thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh về hình sự, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án, bổ trợ tư pháp, tổ chức bộ máy của các cơ quan tư pháp và các dự án khác do Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội giao; 2. Thẩm tra các báo cáo của Chính phủ về công tác phòng ngừa và chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác thi hành án; thẩm tra các báo cáo công tác của Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; chủ trì thẩm tra báo cáo của Chính phủ về công tác phòng, chống tham nhũng; 3. Giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về hình sự, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án, bổ trợ tư pháp, tổ chức bộ máy của các cơ quan tư pháp; giám sát hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, bổ trợ tư pháp; 4. Giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương hoặc giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội thuộc lĩnh vực Uỷ ban phụ trách; 5. Giám sát việc phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng; 6. Kiến nghị các vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động của các cơ quan hữu quan và các vấn đề về hình sự, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án, bổ trợ tư pháp, tổ chức bộ máy của các cơ quan tư pháp. Danh sách Ủy viên. Khóa XIV. Các thành viên Ủy ban Tư pháp Quốc hội Việt Nam khóa 14 gồm có 39 người:
1
null
Ngoại giao gấu trúc (熊猫外交, "Hùng miêu ngoại giao") là một chính sách của Trung Quốc thúc đẩy quan hệ ngoại giao thông qua việc tặng hoặc cho mượn các cá thể gấu trúc lớn cho các quốc gia trên thế giới. Chính sách này thực tế đã tồn tại từ lâu trong lịch sử Trung Quốc, cụ thể như thời nhà Đường, Võ Tắc Thiên đã gửi một cặp gấu trúc cho Nhật hoàng. Không chỉ là một chính sách ngoại giao của Trung Quốc, việc tặng hay cho mượn gấu trúc còn là một chỉ dấu ngoại giao quan trọng trên thế giới. Ví dụ năm 1964 các quan chức ngoại giao của Anh đã bày tỏ lo ngại rằng việc chuyển một cá thể gấu trúc từ Luân Đôn tới Moskva có thể làm xấu đi quan hệ ngoại giao Liên Xô-Trung Quốc. Một ví dụ khác là tháng 1 năm 2006, hình ảnh Trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ Robert Zoellick ôm một chú gấu trúc 5 tháng tuổi trong chuyến thăm Tứ Xuyên đã được báo chí Trung Quốc khai thác như một dấu hiệu cho thấy Zoellick ủng hộ việc cải thiện quan hệ ngoại giao Hoa Kỳ-Trung Quốc. Tháng 4 năm 2014, Trung Quốc lên kế hoạch gửi một cặp gấu trúc tới Malaysia nhân kỉ niệm 40 năm quan hệ ngoại giao giữa hai nước nhưng việc này đã bị trì hoãn vì sự mất tích của Chuyến bay 370 của Malaysia Airlines cho tới ngày 21 tháng 5 năm 2014. Lịch sử. Giai đoạn 1957 - 1982: Sứ giả ngoại giao. Chính sách ngoại giao gấu trúc được Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa khôi phục vào thập niên 1950, cụ thể là 23 cá thể gấu trúc lớn đã được Trung Quốc đưa tới 9 quốc gia trên thế giới trong giai đoạn từ 1958 tới 1972. Điểm nhấn của chính sách này là việc chính phủ Trung Quốc gửi tặng Hoa Kỳ hai cá thể gấu trúc lớn Linh Linh (玲玲, "Ling-Ling") và Hưng Hưng (兴兴, "Hsing-Hsing") sau Chuyến thăm Trung Quốc của Richard Nixon năm 1972. Để đáp lại, Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon đã gửi tặng Trung Quốc một cặp Bò xạ hương. Khi cặp gấu trúc được chuyển tới Hoa Kỳ tháng 4 năm 1972, Đệ Nhất phu nhân Pat Nixon đã tặng cặp gấu trúc này cho Vườn thú quốc gia Hoa Kỳ tại thủ đô Washington D.C.. Tại đây trên hai mươi nghìn khách tham quan chỉ trong ngày đầu tiên và tổng cộng khoảng 1,1 triệu khách tham quan trong năm đầu tiên đã tới chiêm ngưỡng cặp gấu trúc. Sự nổi tiếng của cặp gấu trúc là minh chứng rõ ràng cho thành công trong chính sách ngoại giao gấu trúc của Trung Quốc, cụ thể là chứng minh rõ ràng mong muốn thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức giữa nước này và Hoa Kỳ. Chính sách này thành công tới mức năm 1974 Thủ tướng Anh Edward Heath đã đề nghị Trung Quốc tặng nước này một cặp gấu trúc với kết quả là chỉ sau vài tuần cặp gấu trúc Giai Giai (佳佳, "Chia-Chia") và Tinh Tinh (晶晶, "Ching-Ching") đã được gửi tới Anh. Giai đoạn 1984 - 1994: Nguồn thu thương mại. Tới năm 1984, Trung Quốc bắt đầu thắt chặt việc sử dụng gấu trúc như một công cụ ngoại giao. Thay vào đó, Trung Quốc bắt đầu chính sách cho thuê gấu trúc cho các quốc gia trên thế giới trong thời hạn mười năm. Phí thuê một cá thể gấu trúc có thể lơn tới 1 triệu đô la Mỹ một năm với điều khoản bắt buộc là nếu cá thể gấu trúc sinh con trong thời hạn cho thuê, thì gấu trúc mới sinh này sẽ là tài sản của chính phủ Trung Quốc. Giai đoạn 1994 - nay. Dự án "hợp tác cùng chăn nuôi" gấu trúc ra đời vào 1994, thay thế chương trình cho thuê. Các quốc gia lại được “thuê” gấu trúc dưới một hình thức mới, trong thời gian 10 năm với mức phí 10 triệu đôla. Trong bước đầu tiên của dự án, hai gấu trúc được gửi đến Nhật Bản, phục vụ mục đích nghiên cứu khoa học. Hiệu quả dự án đã được ghi nhận tích cực, bởi loại hình hợp tác này mang lại nhiều lợi ích cho công tác nghiên cứu gấu trúc lớn. Mei Lun, Mei Huan và Bao Bao là nhân tố chủ chốt trong dự án hợp tác nuôi gấu trúc Trung - Mỹ kéo dài từ 2000 đến 2010. Theo thỏa thuận, con cái của ba con gấu này đều được sinh ra ở Mỹ và chuyển về sống ở Trung Quốc từ năm 4 tuổi. Giờ đây, 4 vườn thú ở Washington, Atlanta, Memphis và San Diego đều là vườn ươm giống của gấu trúc. Trung Quốc đã xây dựng dự án hợp tác dài hơi cùng 14 nước, hiện là nơi sinh sống của 48 con gấu trúc. Quan hệ với Đài Loan. Trong quan hệ với Đài Loan, Trung Quốc từ năm 2005 cũng đã đề nghị với chủ tịch Quốc dân đảng Liên Chiến về việc gửi tặng một cặp gấu trúc cho nhân dân Đài Loan. Việc này sau đó đã bị chính quyền Đài Loan, lúc đó do Đảng Dân tiến trì hoãn với lý do theo như Tổng thống Đài Loan Trần Thủy Biển tuyên bố là vì không muốn để gấu trúc lớn ở trong tình trạng bị nuôi nhốt mà muốn chúng được sống trong môi trường hoang dã. Lý do thực sư là vì hai con gấu trúc này tên là „Tuan Tuan“ (團團) và „Yuan Yuan“ (圓圓), cộng lại thành chữ Tàu có nghĩa là "đoàn viên" (團圓 tuányuán), chính phủ Đài Loan lại không chấp nhận ước muốn thống nhất của Trung Quốc theo (Chính sách Một Trung Quốc). Phải tới khi chính phủ mới của Đài Loan do Quốc dân đảng nắm quyền lên thay thế vào năm 2008 thì quá trình chuyển giao gấu trúc mới được bắt đầu. Tới tháng 12 năm 2008 thì cặp gấu trúc Đoàn Đoàn (團團, "Tuan Tuan") và Viên Viên (圓圓, "Yuan Yuan") đã được chuyển tới Vườn thú Đài Bắc trong một sự kiện thu hút báo chí quốc tế.
1
null
Điểu cầm hay cầm điểu, danh pháp khoa học Galloanserae, là tên gọi chỉ chung về các loài chim thuộc một trong hai họ hàng sinh học, cụ thể là các loại chim săn bắn thể thao, gà chọi hay các loại chim không biết bay thuộc bộ Gà (Galliformes) và các loài chim nước hay thủy cầm thuộc bộ Ngỗng (Anseriformes). Những loài này có đặc điểm chung là gần gũi về mặt di truyền và có quan hệ chặt chẽ với con người trong quá trình thuần hóa các loài nêu trên thành gia cầm hay vật nuôi. Nghiên cứu về giải phẫu và phân tử tương đồng đã cho ra đề nghị về việc hai nhóm này là có quan hệ họ hàng và có quá trình tiến hóa gần gũi với nhau, chúng tạo thành các nhánh các loại chim và gà được khoa học biết đến như liên bộ Galloanserae (ban đầu được gọi là Galloanseri), có thể hiểu là liên bộ gà-vịt nhánh này cũng được hỗ trợ bởi dữ liệu chuỗi hình thái và DNA cũng như dữ liệu hiện diện retrotransposon. Thuật ngữ. Như trái ngược với điểu cầm, thì gia cầm là một thuật ngữ cho bất kỳ loại chim bị thuần hóa hay chim bị giam cầm hay nuôi nhốt để lấy thịt, trứng, hay lông vũ, đà điểu là một ví dụ, đôi khi được giam giữ, nuôi nhốt như là gia cầm, nhưng nó không giống như gà chọi cũng không phải chim nước vì nó sẽ không bị thuần hóa để có sự khác biệt hoàn toàn với tổ tiên của chúng. Trong các thuật ngữ thông tục, thuật ngữ gà (cầm) thường được sử dụng gần như đồng nghĩa với gia cầm (gà nhà), và nhiều ngôn ngữ không phân biệt giữa gia cầm và điểu cầm. Tuy nhiên, thực tế là Galliformes và Anseriformes rất có thể tạo thành một nhóm đơn ngành có sự phân biệt giữa điểu cầm và gia cầm. Sự khác biệt lịch sử là do từ Đức/Latin cặp từ chia đặc trưng của Tiếng Anh Trung cổ; từ điểu cầm có nguồn gốc Đức (x. tiếng Anh "Fugol", Đức Vogel, Đan Mạch Fugl), trong khi gia cầm là của Latin qua Norman gốc Pháp. Rất nhiều loài bị tiêu diệt bởi con người như là điểu cầm, bao gồm cả gia cầm như gà hoặc gà tây, chim trò chơi như trĩ hoặc gà gô, chim trời khác như gà Phi hoặc chim công và chim nước như vịt hoặc ngỗng. Điểu cầm còn là tên gọi để đặt tên cho một ngành khoa học là Điểu cầm học hay gọi gọn là điểu học, một ngành khoa học chuyên nghiên cứu về các loài chim, các loài gà...
1
null
How to Dismantle an Atomic Bomb là album phòng thu thứ 11 của ban nhạc rock người Ireland U2, phát hành vào tháng 11 năm 2004. Tương tự với album trước đó, "All That You Can't Leave Behind", "How to Dismantle an Atomic Bomb" tiếp tục thể hiện thứ nhạc rock kiểu mới sau khi ban nhạc nghiên cứu alternative rock và nhạc dance từ thập niên 1990. Album được sản xuất bởi Steve Lillywhite, hợp tác sản xuất cùng Flood, Jacknife Lee, Nellee Hooper, Chris Thomas, Daniel Lanois, Brian Eno và Carl Glanville. Ca sĩ hát chính của ban nhạc, Bono, miêu tả "đây là album rock đầu tiên của chúng tôi. Chúng tôi đã mất tới 20 năm, hoặc tương đương thế, để có được album rock đầu tay". Cho dù đây không phải là một album chủ đề, song hầu hết các ca khúc đều được ra đời gắn liền với một sự kiện ngoài đời thực. Tình yêu và chiến tranh, hòa bình và hòa hợp, thậm chí cái chết cũng đã được nhắc tới trong album. "How to Dismantle an Atomic Bomb" đã lập kỷ lục giành toàn bộ 9 giải Grammy được đề cử. Album cũng là album bán chạy nhất năm 2004 với hơn 10 triệu bản trên toàn thế giới, theo kèm là các đĩa đơn thành công như "Vertigo", "City of Blinding Lights", và "Sometimes You Can't Make It on Your Own". Tạp chí "Rolling Stone" cũng xếp album ở vị trí số 68 trong danh sách "100 album xuất sắc nhất thập kỷ". Sáng tác và thu âm. Giọng ca chính Bono giải thích rằng anh đã tự đặt cho mình một vài câu hỏi khó trước khi tiến hành thu âm: "Tôi muốn kiểm tra xem nơi tôi từng ở cho đến nơi tôi đang ở. Vì vậy tôi đã quay lại và tìm nghe tất cả những loại nhạc khiến tôi muốn lập ban nhạc, từ Buzzcocks, Siouxsie and the Banshees, Echo & The Bunnymen. Và thật thú vị, giờ đây rất nhiều người trong các ban nhạc vẫn còn nghe loại nhạc đó. Vì vậy, nói vui thì chuyện đó làm chúng tôi thấy hoàn toàn hợp thời." Nhằm tìm kiếm một âm thanh rock mạnh mẽ hơn "All That You Can't Leave Behind", U2 bắt đầu thu âm "How to Dismantle an Atomic Bomb" vào tháng 2 năm 2003 với nhà sản xuất Chris Thomas. Sau chín tháng làm việc, ban nhạc đã có một chất liệu tốt cho album để sẵn sàng phát hành, nhưng họ không hài lòng với kết quả; tay trống Larry Mullen Jr. cho rằng các bài hát "chẳng có chút kỳ diệu nào". Sau đó nhóm đã mời Steve Lillywhite đảm nhiệm vị trí nhà sản xuất ở Dublin vào tháng 1 năm 2004. Một vài nhà sản xuất khác cũng được ghi chú trong album, bao gồm Daniel Lanois, Brian Eno, Flood, Carl Glanville và Nellee Hooper; Bono thừa nhận rằng sự kết hợp của nhiều nhà sản xuất ảnh hưởng đến "sự kết dính trong âm thanh". Một bản demo của album (sao chép bởi guitarist The Edge) bị mất khi ban nhạc đang được chụp hình cho một tạp chí ở Pháp vào tháng 7 năm 2004. Bản demo có chứa các phiên bản chưa hoàn thiện của một số bài hát đưa vào album. Ban nhạc phát biểu công khai rằng nếu những track đó không bị rò rỉ trực tuyến, họ sẽ ngay lập tức phát hành album qua iTunes. Một vài tháng sau, album đã hoàn thiện bị rò rỉ trực tuyến, nhưng ban nhạc đã không phát hành nó sớm hơn như tuyên bố như trước đó. Sáng tác. Nghệ sĩ Cơ đốc giáo đương đại Michael W. Smith đã gia nhập và cùng ban nhạc vào phòng thu làm việc trong những buổi thu thử Atomic Bomb, anh làm việc cùng nhóm ít nhất là một track có tựa đề là "North Star". Track đó sử dụng để tri ân Johnny Cash chưa nổi lên chính thức hay phi chính thức ở bất kì định dạng nào. Một bài hát có tựa đề "North Star" do Bono giới thiệu được chơi tại Turin trong chuyến lưu diễn U2 360° Tour, mặc dù vẫn chưa rõ liệu nó có là cùng một bài hát làm việc trong các buổi thu thử không. Một bản sớm nhất của "Love and Peace or Else", bắt nguồn từ những buổi thu thử cho "All That You Can't Leave Behind", kế tiếp là các bài "Bloody Sunday", "Miss Sarajevo", "Please", và "Peace on Earth. Đoạn verse và chorus (điệp khúc) nói về mối quan hệ từ viễn cảnh của những cư dân ở quốc gia đang phát triển, tập trung vào sự khác biệt giữa kế hoạch kinh tế xã hội dài hạn của phương Tây ("You speak in signs and wonders") và nhu cầu lương thực cấp thiết của các nước đang phát triển ("But I'm begging for the crumbs from your table"). Câu hát ("You speak in signs and wonders") mang ý nghĩa như một lời chỉ trích nhằm vào Giáo hội Công giáo. Một màn trình diễn trong phòng thu cũng nằm trong đĩa DVD bonus; nó chỉ được chơi vài lần trong Vertigo Tour. Quảng bá. Đĩa đơn. Đĩa đơn chính của album, "Vertigo" được phát hành ngày 24 tháng 9 năm 2004. Bài hát đứng đầu trên bảng xếp hạng ở một số quốc gia, trong đó có Anh quốc, đồng thời đạt vị trí #31 trên Billboard Hot 100 của Hoa Kỳ vào ngày 27 tháng 11 năm 2004, và đạt vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Modern Rock Tracks và UK Singles Chart. Ca khúc cũng đứng đầu bảng xếp hạng tải kĩ thuật số tại Anh quốc và Hoa Kỳ, trở thành đĩa đơn kĩ thuật số bán chạy nhất của U2 tại Hoa Kỳ, với hai chứng nhận bạch kim. Đĩa đơn thứ hai, "Sometimes You Can't Make It on Your Own" dược phát hành ngày 7 tháng 2 năm 2005. Bài hát nói về mối quan hệ của Bono với người cha quá cố của anh. Ca khúc ra mắt ở vị trí quán quân trên UK Singles Chart, trở thành đĩa đơn kế tiếp đầu tiên của U2 làm được điều này. Đĩa đơn cũng đạt vị trí #15 trên Adult Top 40 và góp mặt trong các bảng xếp hạng Pop 100 (#87), Modern Rock Tracks (#29) và Billboard Hot 100 (#97). Đón nhận của công chúng. "How to Dismantle an Atomic Bomb" đều nhận được hầu hết những đánh giá tích cực. Trên Metacritic, dựa trên phép tính điểm trung bình cộng trên thang điểm 100 cho đến những bài đánh giá từ các nhà phê bình chính, album nhận được số điểm trung bình 79/100 dựa trên 26 bài đánh giá. Sau khi phát hành vào ngày 22 tháng 11 năm 2004, album ra mắt ở vị trí quán quân tại 34 quốc gia, trong đó có "Billboard 200" của Hoa Kỳ (với doanh số 840,000 bản), UK Albums Chart của Anh và ARIA Charts của Úc. Album tiêu thụ được hơn 9 triệu bản trên toàn cầu. Theo số liệu từ Nielsen SoundScan, album đã tiêu thụ 3.3 triệu bản tại Hoa Kỳ tính đến tháng 3 năm 2014. Giải thưởng. Giống như "Supernatural" của Santana, album đã được trao tổng cộng chín giải Grammy từ 2005 đến 2006, sau khi giành chiến thắng tất cả các hạng mục được đề cử. Tại lễ trao giải 2005, đĩa đơn chính từ album "Vertigo" giành chiến thắng cả ba hạng mục đề cử là Bài hát rock hay nhất, Trình diễn song ca hoặc nhóm nhạc giọng rock xuất sắc nhất và Video hình thái ngắn xuất sắc nhất. Năm 2006, riêng album đoạt Album rock xuất sắc nhất và Album của năm, giúp U2 trở thành nhóm nhạc duy nhất giành giải này đến hai lần (lần đầu là với "The Joshua Tree" năm 1987). Đĩa đơn "Sometimes You Can't Make It on Your Own" từ album giành giải Bài hát của năm và Trình diễn song ca hoặc nhóm nhạc giọng rock xuất sắc nhất. "City of Blinding Lights" đoạt giải Bài hát rock hay nhất, trong khi nhà sản xuất Steve Lillywhite được trao giải Nhà sản xuất Phi cổ điển của năm. "How to Dismantle an Atomic Bomb" được chọn là album hay nhất năm 2004 bởi USA Today, Paste và The New York Times. Nhà phê bình Robert Hilburn của Los Angeles Times cũng chọn Atomic Bomb là album hay thứ nhì của năm, và được xếp thứ ba và bốn lần lượt bởi liveDaily và "Q" trong các danh sách album hay nhất năm của họ. Album cũng nằm trong Tốp 50 album của năm 2004 bởi "Rolling Stone", và sau đó họ xếp album ở vị trí 68 trong danh sách album hay nhất thập niên và "Vertigo" xếp ở vị trí bài hát hay thứ 64. Danh sách ca khúc. "Fast Cars" là bonus track tại Anh, Nhật Bản và Ireland ấn bản CD, ấn bản Special Limited Edition trên toàn thế giới cũng như ấn bản kỹ thuật số, bao gồm cả "The Complete U2". Bản mix mới có theo kèm đĩa đơn "All Because of You". DVD (CD/DVD và ấn bản Special Limited) Bản viết tay phần lời của ca khúc "Sometimes You Can't Make It On Your Own" cũng có trong DVD trong như món quà lễ Phục sinh.
1
null
Kiều Mạo (; 150? – 190?), tự Nguyên Vĩ (元偉), là quan viên, quân phiệt cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Tiểu sử. Kiều Mạo quê ở huyện Tuy Dương, nước Lương, Dự Châu, là cháu họ của thái úy Kiều Huyền. Ban đầu, Kiều Mạo giữ chức thứ sử Duyện Châu, quản lý có uy, huệ. Cuối thời Hán Linh đế, Mạo giữ chức thái thú quận Đông. Tháng giêng năm 190, Kiều Mạo làm giả di thư của tam công, phát hịch cho các châu, quận, kể tội trạng của Đổng Trác, hiệu triệu chư hầu chống Đổng, lại tôn Viên Thiệu làm minh chủ. Minh chủ Viên Thiệu đóng quân ở Hà Nội, còn bốn chư hầu Duyện Châu là thái thú Đông quận Kiều Mạo, thái thú Trần Lưu Trương Mạc, thái thú Sơn Dương Viên Di, thứ sử Duyện Châu Lưu Đại đóng quân ở Toan Tảo. Lúc đó Tào Tháo đang giữ chức Điển quân hiệu úy, hành Phấn Vũ tướng quân, tạm thời ở dưới trướng Trương Mạc. Trước sức ép của liên quân, Đổng Trác dẫn theo Hán Hiến đế dời đô Trường An, bỏ lại thành Lạc Dương đổ nát. Tào Tháo sau khi thua trận ở Huỳnh Dương liền quay lại Toan Tảo, thúc giục các trấn chư hầu xuất quân, nhưng các trấn mỗi ngày mở tiệc, không dám giao tranh với quân Đổng Trác. Mâu thuẫn trong nội bộ liên quân dần dần trở lên gay gắt, Kiều Mạo cùng Lưu Đại bất hòa, bị Lưu Đại giết. Lưu Đại lấy bộ hạ Vương Quăng (王肱) làm thái thú Đông quận. Trong văn hóa. Trong tiểu thuyết "Tam quốc diễn nghĩa" của La Quán Trung, Kiều Mạo xuất hiện ở hồi 5, là một trong 18 lộ chư hầu hội minh ở Toan Tảo thảo phạt Đổng Trác. Sự kiện phát hịch kể tội được chuyển cho Tào Tháo. Khi Lã Bố đến Hổ Lao quan, Viên Thiệu dẫn các chư hầu ra giao chiến. Vương Khuông thua trận, may được Kiều Mạo, Viên Di dẫn quân đến cứu, buộc Lã Bố rút quân. Cuối cùng, thứ sử Lưu Đại muốn mượn lương của Kiều Mạo. Mạo từ chối. Lưu Đại dẫn quân đi vào doanh trại của Kiều Mạo, giết chết rồi thu hàng quân đội của Mạo.
1
null
Lorenz Habsburg-Lothringen (Lorenz Otto Carl Amadeus Thadeus Maria Pius Andreas Marcus d'Aviano, sinh ngày 16 tháng 12 năm 1955) là chồng của Astrid của Bỉ, em rể của Vua Philippe của Bỉ. Ông đồng thời cũng là người đứng đầu của Nhà Áo-Este, một nhánh của Nhà Habsburg-Lothringen - một hoàng tộc của Đế quốc Áo cũ. Thiếu thời. Hoàng thân Lorenz sinh ngày 16 tháng 12 năm 1955 tại Clinique du Belvédère, Boulogne-Billancourt, Hauts-de-Seine, Pháp. Ông là con thứ của Đại vương công Robert của Áo-Este và Công chúa Margherita của Savoia-Aosta. Kết hôn. Ngày 22 tháng 9 năm 1984, ông kết hôn với Công chúa Astrid của Bỉ - con gái duy nhất của Vua Albert II và Paola, Vương hậu Bỉ. Lễ cưới được diễn ra tại thủ đô Bruxelles của Vương quốc Bỉ. Họ có với nhau 5 người con: Học vấn và công việc. Sau khi tốt nghiệp trung học, Hoàng thân Lorenz đã thực hiện nghĩa vụ quân sự của mình tại trung đoàn Gebirgsjäger thuộc lực lượng Quân đội Liên bang Áo và được nâng lên cấp bậc "Thiếu úy" vào năm 1980. Sau khi giải ngũ, ông theo học ngành Kinh tế tại trường Đại học St. Gallen ở Thụy Điển và trường Đại học Innsbruck ở Áo. Sau khi lấy tấm bằng cử nhân Kinh tế, ông vào làm việc tại nhiều ngân hàng ở Luân Đôn, Paris và Roma. Năm 1983, ông trở thành quản lý của ngân hàng tư nhân Gutzwiller ở Basel, Thụy Sĩ. Năm 1993, ông là người cố vấn cho Swift - một công ty chuyên cung cấp các dịch vụ cho nền công nghiệp tài chính. Năm 1995, ông chuyển sang trở thành cố vấn cho ban giám đốc của ngân hàng BNP Paribas ở Paris. Ông cũng từng là giám đốc của Sita (một công ty quản lý rác thải ở Pháp) và Ondeo Nalco (một công ty quản lý nước ở Mỹ). Ông hiện đang là giám đốc của công ty sản xuất dược phẩm toàn cầu UCB. Từ năm 2004, ông là chủ tịch danh dự của Hội đồng "Koninklijke Vereniging der Historische Woonsteden van België/Association Royale des Demeures Historiques de Belgique". Từ năm 2005 đến nay, ông trở thành người bảo trợ cho "Europae Thesauri" - một tổ chức tài chính dành riêng cho các thánh đường và nhà thờ ở châu Âu. Tước hiệu. Các con của ông với Vương nữ Astrid sẽ được mang tước vị là "Vương tôn/Vương tôn nữ của Bỉ" theo Sắc lệnh của Vương thất Bỉ ban hành ngày 2 tháng 12 năm 1991. Thêm vào đó, do là thành viên của hoàng tộc Áo-Este của Đế quốc Áo nên các con của ông và Công chúa Astrid còn có thêm tước vị "Đại vương công/Nữ Đại vương công của Áo-Este, Hoàng tử/Công chúa của Đế quốc Áo, Hoàng tử/Công chúa Hoàng gia của Hungary và Bohemia, Công tước/Nữ Công tước xứ Modena".
1
null
Định luật Titius–Bode (đôi khi còn được gọi ngắn gọn là Đinh luật Bode) là một giả thuyết cũ nhằm xác định quỹ đạo của các hành tinh khi quay quanh một thiên thể khác, bao gồm cả quỹ đạo của Mặt trời và quỹ đạo tại Bán trục lớn của các hành tinh trong Hệ Mặt Trời được miêu tả bởi công thức truy hồi ở dưới. Giả thuyết này đã dự đoán chính xác quỹ đạo của Tiểu hành tinh Ceres và Sao Thiên Vương (Uranus), nhưng lại thất bại trong việc dự đoán quỹ đạo của Sao Hải Vương (Neptune) và Sao Diêm Vương (Pluto). Định luật này được đặt theo tên của hai nhà khoa học Johann Daniel Titius và Johann Elert Bode. Công thức. Định luật liên quan tới bán trục lớn formula_1 của các hành tinh trong Hệ Mặt Trời tính theo đơn vị bằng 10 lần Đơn vị thiên văn - coi bán trục lớn của Trái Đất có giá trị là 10: với formula_3 ngoại trừ số đầu tiên, mỗi giá trị sau đều bằng hai lần giá trị liền trước. Một cách khác để biểu diễn công thức: formula_4 với formula_5. Hoặc kết quả có thể chia cho 10 để chuyển sang Đơn vị thiên văn (AU), với công thức sau: với formula_7 Với các hành tinh bên ngoài, mỗi hành tinh được dự đoán là có khoảng cách từ Mặt Trời xa khoảng gấp 2 lần khoảng cách của hành tinh trước. Lịch sử. The first mention of a series approximating Bode's Law is found in David Gregory's "The Elements of Astronomy", published in 1715. In it, he says, "...supposing the distance of the Earth from the Sun to be divided into ten equal Parts, of these the distance of Mercury will be about four, of Venus seven, of Mars fifteen, of Jupiter fifty two, and that of Saturn ninety six." A similar sentence, likely paraphrased from Gregory, appears in a work published by Christian Wolff in 1724. In 1764, Charles Bonnet said in his "Contemplation de la Nature" that, "We know seventeen planets that enter into the composition of our solar system [that is, major planets and their satellites]; but we are not sure that there are no more." To this, in his 1766 translation of Bonnet's work, Johann Daniel Titius added the following unattributed addition, removed to a footnote in later editions: Take notice of the distances of the planets from one another, and recognize that almost all are separated from one another in a proportion which matches their bodily magnitudes. Divide the distance from the Sun to Saturn into 100 parts; then Mercury is separated by four such parts from the Sun, Venus by 4+3=7 such parts, the Earth by 4+6=10, Mars by 4+12=16. But notice that from Mars to Jupiter there comes a deviation from this so exact progression. From Mars there follows a space of 4+24=28 such parts, but so far no planet was sighted there. But should the Lord Architect have left that space empty? Not at all. Let us therefore assume that this space without doubt belongs to the still undiscovered satellites of Mars, let us also add that perhaps Jupiter still has around itself some smaller ones which have not been sighted yet by any telescope. Next to this for us still unexplored space there rises Jupiter's sphere of influence at 4+48=52 parts; and that of Saturn at 4+96=100 parts. In 1772, Johann Elert Bode, aged only twenty-five, completed the second edition of his astronomical compendium "Anleitung zur Kenntniss des gestirnten Himmels", into which he added the following footnote, initially unsourced, but credited to Titius in later versions: This latter point seems in particular to follow from the astonishing relation which the known six planets observe in their distances from the Sun. Let the distance from the Sun to Saturn be taken as 100, then Mercury is separated by 4 such parts from the Sun. Venus is 4+3=7. The Earth 4+6=10. Mars 4+12=16. Now comes a gap in this so orderly progression. After Mars there follows a space of 4+24=28 parts, in which no planet has yet been seen. Can one believe that the Founder of the universe had left this space empty? Certainly not. From here we come to the distance of Jupiter by 4+48=52 parts, and finally to that of Saturn by 4+96=100 parts. When originally published, the law was approximately satisfied by all the known planets — Mercury through Saturn — with a gap between the fourth and fifth planets. It was regarded as interesting, but of no great importance until the discovery of Uranus in 1781 which happens to fit neatly into the series. Based on this discovery, Bode urged a search for a fifth planet. , the largest object in the asteroid belt, was found at Bode's predicted position in 1801. Bode's law was then widely accepted until Neptune was discovered in 1846 and found not to satisfy Bode's law. Simultaneously, the large number of known asteroids in the belt resulted in Ceres no longer being considered a planet at that time. Bode's law was discussed as an example of fallacious reasoning by the astronomer and logician Charles Sanders Peirce in 1898. The discovery of Pluto in 1930 confounded the issue still further. While nowhere near its position as predicted by Bode's law, it was roughly at the position the law had predicted for Neptune. However, the subsequent discovery of the Kuiper belt, and in particular of the object , which is larger than Pluto yet does not fit Bode's law, have further discredited the formula. Dữ liệu. Đây là khoảng cách của các hành tinh trong Hệ Mặt Trời, theo con số tính toán và con số thực tế: Giải thích. There is no solid theoretical explanation of the Titius–Bode law, but if there is one it is possibly a combination of orbital resonance and shortage of degrees of freedom: any stable planetary system has a high probability of satisfying a Titius–Bode-type relationship. Since it may simply be a mathematical coincidence rather than a "law of nature", it is sometimes referred to as a rule instead of "law". However, astrophysicist Alan Boss states that it is just a coincidence, and the planetary science journal "Icarus" no longer accepts papers attempting to provide improved versions of the law. Orbital resonance from major orbiting bodies creates regions around the Sun that are free of long-term stable orbits. Results from simulations of planetary formation support the idea that a randomly chosen stable planetary system will likely satisfy a Titius–Bode law. Dubrulle and Graner have shown that power-law distance rules can be a consequence of collapsing-cloud models of planetary systems possessing two symmetries: rotational invariance (the cloud and its contents are axially symmetric) and scale invariance (the cloud and its contents look the same on all scales), the latter being a feature of many phenomena considered to play a role in planetary formation, such as turbulence. Lunar systems and other planetary systems. There is a decidedly limited number of systems on which Bode's law can presently be tested. Two of the solar planets have a number of big moons that appear possibly to have been created by a process similar to that which created the planets themselves. The four big satellites of Jupiter and the biggest inner satellite, Amalthea, cling to a regular, but non-Bode, spacing with the four innermost locked into orbital periods that are each twice that of the next inner satellite. The big moons of Uranus have a regular, but non-Bode, spacing. However, according to Martin Harwit, "a slight new phrasing of this law permits us to include not only planetary orbits around the Sun, but also the orbits of moons around their parent planets." The new phrasing is known as Dermott's law. Of the recent discoveries of extrasolar planetary systems, few have enough known planets to test whether similar rules apply to other planetary systems. An attempt with 55 Cancri suggested the equation a = 0.0142 "e" 0.9975 "n", and predicts for "n" = 5 an undiscovered planet or asteroid field at 2 AU. This is controversial. Furthermore the orbital period and semimajor axis of the innermost planet in the 55 Cancri system have been significantly revised (from 2.817 days to 0.737 days and from 0.038 AU to 0.016 AU respectively) since the publication of these studies. Recent astronomical research suggests that planetary systems around some other stars may fit Titius–Bode-like laws. Bovaird and Lineweaver applied a generalized Titius-Bode relation to 68 exoplanet systems which contain four or more planets. They showed that 96% of these exoplanet systems adhere to a generalized Titius-Bode relation to a similar or greater extent than the Solar System does. The locations of potentially undetected exoplanets are predicted in each system. Subsequent research managed to detect five planet candidates from predicted 97 planets from the 68 planetary systems. The study showed that the actual number of planets could be larger. The occurrence rate of Mars and Mercury sized planets are currently unknown so many planets could be missed due to their small size. Other reasons were accounted to planet not transiting the star or the predicted space being occupied by circumstellar disks. Despite this, the number of planets found with Titius-Bode law predictions were still lower than expected.
1
null
Câu lạc bộ bóng đá Quảng Châu, trước đây có tên là Câu lạc bộ bóng đá Quảng Châu Hằng Đại Đào Bảo (Quảng Châu Evergrande Taobao), là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp tại Trung Quốc có trụ sở tại sân vận động Thiên Hà có sức chứa 58.500 chỗ ngồi tại Quảng Châu, Quảng Đông, nơi mà họ đang tham dự Giải bóng đá Ngoại Hạng Trung Quốc. Được thành lập vào năm 1954, những thành tựu lớn nhất của họ đã chiến thắng một số giải đấu ở giải hạng nhất trước khi họ đã bước vào chuyên nghiệp vào năm 1993 và đạt được một xu hướng đi lên trong các kết quả, dẫn đến một vị trí á quân tại giải bóng đá ngoại hạng Trung Quốc. Không thể cải thiện sau khi các kết quả này câu lạc bộ đã bị tụt một thời kỳ đình trệ và sau đó giảm trước khi trải qua một sự hồi sinh ngắn ngủi khi họ đã giành được vị trí thứ hai năm 2007, tuy nhiên trong năm 2009 câu lạc bộ đã bị lôi kéo vào một vụ bê bối dàn xếp tỷ số. Và câu lạc bộ phải nhận án phạt xuống hạng, tuy nhiên tập đoàn Hằng Đại quyết định mua câu lạc bộ và bơm tiền đáng kể vào đội bóng, ngay lập tức câu lạc bộ đã đạt được danh hiệu đầu tiên trong mùa giải 2011 tại giải bóng đá ngoại hạng Trung Quốc. Câu lạc bộ giành được danh hiệu đầu tiên tại AFC Champions League vào năm 2013, trở thành câu lạc bộ bóng đá Trung Quốc đầu tiên giành danh danh hiệu đó. Câu lạc bộ sau đó đã hoàn thành vị trí thứ tư tại giải FIFA Club World Cup năm 2013. Lịch sử. Trong tháng 6 năm 1954 liên đoàn thể thao tỉnh Quảng Châu đã thành lập đội bóng đá Quảng Châu để tham gia vào các giải đấu bóng đá quốc gia Trung Quốc gần đây hình thành và bước vào câu lạc bộ ở mùa giải 1955 và kết thúc với vị trí thứ tám trong mùa giải đầu tiên của họ. Thật không may cho Quảng Châu, giải đấu đã phát triển để kết hợp một giải hạng hai và mùa giải đầu tiên của đội bóng đã buộc đội phải xuống chơi tại giải hạng Nhất. Quảng Châu tiếp tục giành chức vô địch, tuy nhiên Hiệp hội Bóng đá Trung Quốc đã quyết định cơ cấu lại giải đấu vào đầu mùa giải 1957 và Quảng Châu đã bị từ chối lên hạng. Mặc dù vậy, đội đã giành chiến thắng tại giải đấu cao thứ hai năm 1958, tuy nhiên câu lạc bộ không thể đạt được xúc tiến bởi vì thời gian này họ đã đi vào tiếp quản và không được chính thức thành lập lại cho đến khi tháng 4 năm 1961, nơi họ được phép tham dự giải đấu cao nhất. Trở lại giải đấu cao nhất, Quảng Châu thường gặp khó khăn trong các giải đấu và đã một lần nữa chuyển xuống giải đấu cao thứ hai vào cuối mùa giải 1963 mà họ vẫn cho đến năm 1966 khi Cách mạng Văn hóa Trung Quốc tạm dừng bóng đá ở Trung Quốc. Khi các giải đấu bóng đá Trung Quốc khởi động lại tại Quảng Châu, ngày 26 tháng 10 năm 1977 đội trẻ Quảng Châu được phát triển. Đội bóng sẽ chơi tại giải trẻ đến năm 1980 khi đội đã được quyết định rằng cầu thủ đã trưởng thành, đủ để chơi trong các giải đấu bóng đá và bắt đầu thi đấu ở giải hạng tư. Phát triển đội trẻ của câu lạc bộ ngay lập tức đội đã thi đấu play -off và các cầu thủ như Mạch Siêu, Triệu Đạt Dụ và sau đó Ngô Quần Lập tất cả sẽ nhanh chóng trở thành cầu thủ bóng đá đội tuyển quốc gia Trung Quốc Năm 2014, đội bóng Quáng Châu Hằng Đại được đổi tên là Quảng Châu Hằng Đại Đào Bảo Đội hình. Đội hình chính. Cầu thủ quá khứ và hiện tại.
1
null
Câu lạc bộ bóng đá Nam Hoa (còn gọi là SCAA, ) là một câu lạc bộ thể thao Hồng Kông thi đấu tại sân vận động Hồng Kông. Đội bóng đá thi đấu ở các giải đấu cấp cao nhất của Hồng Kông, Giải bóng đá hạng nhất Hồng Kông. Đây là câu lạc bộ bóng đá với hầu hết các danh hiệu tại Hồng Kông đã giành được kỷ lục 40 danh hiệu vô địch giải đấu. Họ cũng đã giành được 31 Senior Shields, 9 FA Cup và 2 League Cup. Biệt danh là "Thiếu Lâm Tự" và "Caroliners", Nam Hoa AA đã sản sinh nhiều cầu thủ bóng đá vĩ đại Hồng Kông trong những năm qua. Trong tháng 11 năm 2007 câu lạc bộ tiến hành hợp tác với tổ chức từ thiện Hồng Kông Hội Chữ thập đỏ. Quan hệ đối tác là một người tiên phong giữa một hiệp hội thể thao và một tổ chức nhân đạo ở Hồng Kông. Lịch sử. Thời gian sớm. Đội bóng đá Trung Quốc được thành lập vào năm 1904 bởi một nhóm các sinh viên Trung Quốc ở Hồng Kông, bao gồm Mạc Khánh và Đường Phúc Tường, đội trưởng của đội bóng đá quốc gia Trung Quốc trong thập niên 1910). Năm 1910, nhóm nghiên cứu đã được đổi tên thành câu lạc bộ bóng đá Nam Hoa. Tại Far Eastern Games 1917 và Far Eastern Games 1919 (còn được gọi là Thế vận hội đấu Viễn Đông), câu lạc bộ đại diện cho Trung Hoa Dân Quốc và giành chức vô địch bóng đá. Đây là đội duy nhất ở Hồng Kông trong lịch sử thể thao để có thực hiện chiến công này. Trung Quốc bị thua trong trận chung kết với Philippines trong lần đầu tiên được tổ chức, vào năm 1913, nhưng ở bên cạnh đội bóng đã giành mọi thời gian, phải thông qua cho đến khi FECG cuối cùng được tổ chức vào năm 1934. Nhân dịp đó Trung Quốc đã chiến thắng cùng Nhật Nhật Bản. Trong suốt những giải đấu, phần lớn các đội Trung Quốc được gọi là từ các cầu thủ SCAA. Vào năm 1920, Hiệp hội thể thao Nam Hoa được thành lập bởi Mạc Khánh. Khoảng 1920-1922, câu lạc bộ chính thức thông qua tên hiện tại của Hiệp hội thể thao Nam Hoa và đa dạng hóa thể thao khác như bóng rổ. Thập niên 1980. Từ khi thành lập, Nam Hoa đã có một chính sách toàn Trung Quốc chỉ ra sân chơi Trung Quốc. Ngay cả cầu thủ nước ngoài của họ là những cầu thủ nước ngoài của Trung Quốc như Edmund Wee, Cừu Chí Cường, Trần Quốc Lương, vv Cho đến những năm 1980, chính sách này đã rất thành công. Nhưng khi bóng đá chuyên nghiệp cất cánh tại Hồng Kông, câu lạc bộ không thể đối phó với sự tràn vào của cầu thủ nước ngoài và thực hiện kém vào đầu mùa giải 1981-1982. Vào ngày 2 tháng 11 năm 1981, câu lạc bộ đã bỏ phiếu chấm dứt chính sách toàn Trung Quốc trên 60 tuổi của mình. Mặc dù câu lạc bộ đã có thể tránh xuống hạng mùa giải đó, nó không phải là sự cố miễn phí. Vào ngày 06 Tháng Sáu 1982, sau khi câu lạc bộ đã thu hút một trận đấu hết sức quan trọng với Caroline Hill FC, ​​người hâm mộ nổi loạn bên ngoài sân vận động lây lan vào Causeway Bay. Các cuộc bạo loạn là rối loạn dân sự lớn nhất tại Hồng Kông kể từ khi bạo loạn cánh tả vào năm 1967. Những năm 2000. Khi họ thất bại trong việc đánh bại dân trong trận đấu cuối cùng của mùa giải 2005-06, Nam Hoa đã bị chuyển xuống lần đầu tiên kể từ năm 1983. Tuy nhiên, vào ngày 14 tháng 6 năm 2006, Liên đoàn bóng đá Hồng Kông chấp thuận một yêu cầu từ Nam Hoa vẫn còn trong việc phân chia đầu tiên với lời hứa tăng cường đội hình. Sống đúng với lời của họ, Nam Hoa đã củng cố đội hình và huấn luyện nhân viên. Kết quả là, Nam Trung Quốc lấy lại thành công trong danh hiệu đầu tiên trong mùa giải 2006/2007, và vô địch FA Cup Hồng Kông, đạt cú ăn ba lịch sử. Nhóm nghiên cứu đã đi từ sức mạnh đến sức mạnh, trong khi nhóm nghiên cứu đã có tiếp tục thành công trên mặt trận trong nước, chiến thắng ba chức vô địch liên tiếp trong quá trình này, nó cũng đã thành công trong các cuộc thi câu lạc bộ quốc tế khác. Đội bóng đã lọt vào bán kết của AFC Cup 2009/2010. Sự thành công của Nam Hoa đã chứng kiến ​​sự lên đội trong bảng xếp hạng câu lạc bộ thế giới cao mới của họ 145, thậm chí vượt qua các câu lạc bộ của Trung Quốc đại lục được coi là một tiêu chuẩn tốt hơn so với các câu lạc bộ ở Hồng Kông. Trong những năm gần đây, Nam Trung Quốc đã tham gia vào một số cuộc triển lãm trước mùa giải phù hợp với các câu lạc bộ châu Âu, với sự đáng chú ý nhất là một chiến thắng 2-0 trước đội bóng Anh thi đấu ở Premier League, Tottenham Hotspur. Phần lớn sự thành công gần đây đã được quy cho Chủ tịch hiện tại, Steven Lo, với ý thức kinh doanh khôn ngoan của mình, ông đã xây dựng lại đội bóng như một thương hiệu, và đã đóng một vai trò quan trọng trong nhen quan tâm đến Hồng Kông Football League. Nam Hoa đã tái tạo hình ảnh của mình và đã hợp tác với một số tổ chức và thương hiệu. Năm 2007, Nam Hoa đã tham gia vào một quan hệ đối tác với Hội Chữ thập đỏ Hồng Kông. Quan hệ đối tác là một người tiên phong giữa một hiệp hội thể thao và một tổ chức nhân đạo tại Hồng Kông, và Hàn Quốc là đội bóng đầu tiên bao giờ chịu biểu tượng chữ thập đỏ trên bộ chính thức. Việc bổ nhiệm các thương hiệu thời trang Giorgio Armani là thợ may chính thức, đã cho phép Nam Hoa để tham gia một số thương hiệu ưu tú nhất thế giới, với thương hiệu được liên kết với Chelsea và đội tuyển quốc gia Anh. Trong lễ kỷ niệm 100 năm thành lập của Nam Trung Quốc Đội tuyển bóng đá, nhà thiết kế nổi tiếng thế giới Philippe Starck đã tạo ra một phiên bản đặc biệt của "Chủ tịch bán đảo", với khuôn mặt của các đội và Chủ tịch in trên. Nicky Butt và Mateja Kezman chơi cho Nam Hoa vào mùa giải 2010 - mùa giải 2011. Thành tích. Theo truyền thống, câu lạc bộ nổi tiếng nhất trong thành phố, SCAA cũng là câu lạc bộ bóng đá thành công nhất tại Hồng Kông, vô địch 38 lần (Tất cả thời gian xếp hạng 1), Senior Shield 28 lần (Tất cả thời gian xếp hạng 1), Viceroy Cup 8 lần, FA Cup 9 lần (Tất cả thời gian xếp hạng 1) và League Cup hai lần. Đội bóng đã giành được tất cả các danh hiệu chính trong 4 mùa 1987-1988 và 1990-1991. Trong tháng 11 năm 2001, đội bóng đã được trao đội AFC của tháng của Liên đoàn bóng đá châu Á.
1
null
Vương nữ Astrid của Bỉ, Đại vương công phu nhân của Áo-Este (Astrid Joséphine-Charlotte Fabrizia Elisabeth Paola Marie, sinh ngày 5 tháng 6 năm 1962) là người con thứ 2 và là con gái duy nhất của Vua Albert II và Hoàng hậu Paola. Bà là em gái của Vua Philippe và hiện đang đứng thứ 5 trong dòng kế vị ngai vàng của Vương quốc Bỉ. Chồng bà là Đại vương công Lorenz của Áo-Este - người đứng đầu của hoàng tộc Áo-Este, nhánh thứ của Nhà Habsburg-Lothringen. Thiếu thời. Vương nữ Astrid sinh ngày 5 tháng 6 năm 1962 tại Château de Belvédère gần tỉnh Laeken của Vương quốc Bỉ. Bà được đặt tên theo bà nội của mình là Hoàng hậu Astrid, vợ của Vua Léopold III. Cha mẹ đỡ đầu của bà là Hoàng tử Fabrizio (Hoàng tử Ruffo di Calabria-Santapau, Công tước di Gaurdia Lombarda) và Nữ Đại Công tước Joséphine-Charlotte của Luxembourg. Kết hôn. Vương nữ Astrid kết hôn với Đại vương công Lorenz của Áo-Este vào ngày 22 tháng 9 năm 1984 tại thủ đô Bruxelles của Vương quốc Bỉ. Đại vương công Lorenz được phong tước vị "Hoàng thân của Bỉ" theo Sắc lệnh của Hoàng gia Bỉ ban hành ngày 27 tháng 11 năm 1995. Họ có với nhau 5 người con. Tất cả các con của bà và Hoàng thân Lorenz đều được mang tước hiệu "Hoàng tử/Vương nữ của Bỉ" vì là thành viên của Hoàng gia Bỉ. Bên cạnh đó, họ còn được mang tước hiệu "Đại vương công/Nữ Đại vương công của Áo". Bà đồng thời cũng là mẹ đỡ đầu của Đại Công tử Sébastien của Luxembourg và Hoàng tử Gaston của Orléans. Nhiệm vụ Vương thất. Vương nữ Astrid là cựu Chủ tịch của Hội Chữ thập đỏ ở Bỉ. Bà kết thúc nhiệm kỳ của mình vào ngày 31 tháng 12 năm 2007. Bà đồng thời cũng đang giữ chức vị Thượng tá trong đơn vị quân y của lực lượng vũ trang Bỉ. Bà hiện đang sống cùng với gia đình tại Cung điện Hoàng gia ở Laeken thuộc thủ đô Bruxelles của Bỉ. Bên cạnh đó, bà còn là thành viên danh dự của "Ủy ban Paralympic quốc tế" (tương tự như thế vận hội Olympic nhưng dành cho người khuyết tật). Sau khi anh trai của bà, Thái tử Philippe lên ngôi, Vương nữ Astrid sẽ đảm nhiệm thêm vị trí của anh bà trước đây là Chủ tịch danh dự của Sở Ngoại thương cùng với chị dâu là Hoàng hậu Mathilde. Ngoài ra, bà sẽ thay anh mình thực hiện các chuyến công du đến Angola, Cộng hòa Nam Phi, Ấn Độ, Nga, Ả Rập Xê Út... nhằm giao lưu và thúc đẩy thương mại Bỉ phát triển. Tước hiệu. Khi mới sinh ra, theo luật pháp Bỉ, Vương nữ Astrid sẽ được mang tước vị "Vương nữ Bỉ". Sau khi kết hôn với Đại vương công Lorenz của Áo-Este, bà có thêm tước hiệu "Đại vương công phu nhân của Áo-Este". Do đó, tước hiệu chính thức của bà sẽ là HI&RH Vương nữ Astrid của Bỉ, Đại vương công phu nhân của Áo-Este. Các con của bà và Hoàng thân Lorenz sẽ được mang tước vị "Vương tôn/Vương tôn nữ của Bỉ" theo Sắc lệnh của Vương thất Bỉ ban hành ngày 2 tháng 12 năm 1991. Thêm vào đó, do là thành viên của hoàng tộc Áo-Este của Đế quốc Áo nên các con của bà và Hoàng thân Lorenz còn có thêm tước vị "Đại vương công/Nữ Đại vương công của Áo-Este, Hoàng tử/Hoàng nữ của Đế quốc Áo, Vương tử/Vương nữ Vương thất của Hungary và Bohemia, Công tử/Công nữ xứ Modena".
1
null
Galaxias pedderensis là một loài cá nước ngọt mình hoa thuộc họ Galaxiidae, chúng là động vật đặc hữu của Úc, phân bố tại Hồ Pedder ở Tasmania. Đây là loài có nguy cơ bị tuyệt chủng. Số lượng ghi nhận thấp nhất, chúng đã tuyệt chủng trong tự nhiên, đang nhân giống trong môi trường nhân tạo. Bảo tồn. Năm 1972, hồ Pedder ở Tasmania, Australia, đã bị chặn dòng để xây dựng một đập thủy điện. Trong số những thương vong của các loài động vật sống trên đập này là loài cá mình hoa, chúng chỉ sống duy nhất trong hồ nước trên. Lần cuối cùng người ta trông thấy chúng ở đó là vào năm 1996, và việc đếm số lượng chúng hoàn toàn không hi vọng. Một vài cá thể đã được nhân giống trong môi trường nhân tạo, và loài cá trên được thả vào hai cái hồ ở gần đó. Quần thể trong hồ Oberon, nơi chúng được đưa vào năm 1992, đang phát triển thịnh vượng. Một nhóm thứ hai, đưa vào đập Strathgordon năm 1997, đã sống sót nhưng cho đến nay vẫn chưa nhân giống thành công.
1
null
Động vật ăn côn trùng hay động vật ăn sâu bọ (insectivore) là các loài động vật ăn thịt mà thực đơn chính trong bữa ăn của chúng là việc ăn côn trùng. Bên cạnh đó, ăn côn trùng cũng còn đề cập đến việc thực hành của con người liên quan đến tiêu thụ các loài côn trùng như một thực phẩm hay đặc sản. Lịch sử. Các vật có xương sống ăn côn trùng đầu tiên là động vật lưỡng cư. Khi chúng đã tiến hóa 400 triệu năm trước đây, động vật lưỡng cư đầu tiên là piscivores, với nhiều hàm răng sắc nhọn hình nón, giống như một con cá sấu hiện đại. Sự sắp xếp răng cùng được tuy nhiên cũng phù hợp cho ăn động vật có bộ xương ngoài, do đó khả năng ăn côn trùng là một phần mở rộng của piscivory. Một thời gian sau đó, động vật có vú ăn côn trùng đã được khoa học phân loại trong một trật tự được gọi là bộ Ăn sâu bọ không phải tất cả động vật có vú ăn côn trùng liên quan chặt chẽ đến bộ này. Hầu hết các đơn vị phân loại sâu bọ đã được phân loại, những động vật chưa được phân loại lại vẫn theo thứ tự Eulipotyphla. Bộ Ăn sâu bọ (Insectivora, từ tiếng Latinh insectum "côn trùng, sâu bọ" và vorare "ăn") là một cách gộp nhóm động vật hiện nay đã bị loại bỏ, nằm trong lớp động vật có vú (lớp Thú). Trong quá khứ, việc gộp nhóm này được sử dụng như là một giỏ chứa đồ vụn để chứa hàng loạt các động vật có vú với kích thước từ nhỏ tới rất nhỏ, ăn côn trùng, và tương đối là không chuyên dụng. Do bất kỳ nhóm hóa thạch nhìn có vẻ nguyên thủy nào đó của thú có nhau (rau thai) thông thường hay được đặt vào bộ này vì mục đích tiện lợi, nên nó đã được giữ để cấu thành một cái kho cơ bản mà ngoài nó thì các bộ thú có nhau thai khác đã tiến hóa. Vì thế, khi nó được mở rộng ra thì bộ Insectivora là một bộ đa ngành và không thể coi là một nhánh sinh học thích hợp. Chế độ. Mặc dù có kích thước nhỏ nhưng côn trùng tồn tại với số lượng rất lớn với số lượng hơn một triệu loài được mô tả vào năm 1958 và một số những loài được phát hiện mới với số lượng rất lớn. Theo đó côn trùng chiếm một phần rất lớn của sinh khối động vật ở hầu hết các môi trường không biển, môi trường không phân cực. Người ta ước tính rằng sinh khối côn trùng toàn cầu là trong khu vực của 1012 kg so với dân số ước tính 1.018 sinh vật do đó đây là một nguồn thực phẩm rất phong phú và đa dạng. Nhiều sinh vật phụ thuộc vào loài côn trùng như chế độ ăn uống chính của chúng, và nhiều động vật không thuộc nhóm này vẫn sử dụng côn trùng như là một bổ sung protein cho cơ thể, đặc biệt là khi chúng đang đói kém. Ví dụ về động vật ăn côn trùng bao gồm các loài khác nhau của loài tắc kè, dạ oanh, chó sói đất, thú lông nhím, nhạn thú ăn kiến​​, cá chép, ếch, thằn lằn, dơi và nhện. Ngay cả động vật có vú lớn được ghi nhận là ăn côn trùng chẳng hạn như con gấu lười có lẽ là động vật ăn còn trùng lớn nhất, chúng là động vật ăn tạp. Động vật ăn côn trùng cũng có thể là bộ ăn sâu bọ; ví dụ là con chuồn chuồn, ong bắp cày, bọ rùa, bọ ngựa động vật ăn côn trùng cũng có mức độ khác nhau giữa các loài linh trưởng, chẳng hạn như loài khỉ, galagos, khỉ đuôi sóc (Khỉ Marmoset), khỉ lùn Tarsier và Khỉ Aye-aye có một số ý kiến ​​cho rằng các động vật linh trưởng sớm nhất là vào ban đêm là các động vật ăn côn trùng sống trên cây. Hầu hết chúng ta đều không ý thức được rằng, lợi ích lớn nhất của côn trùng chính là loài ăn côn trùng (insectivores). Nhiều loài côn trùng như châu chấu có thể sinh sản nhanh đến nỗi mà chúng có thể bao phủ Trái Đất chỉ trong một mùa sinh sản. Tuy nhiên có hàng trăm loài côn trùng khác ăn trứng của châu chấu, một số khác thì ăn cả những con trưởng thành. Vai trò này trong sinh thái thường được cho là của các loài chim, nhưng chính côn trùng, mặc dù không thực sự quyến rũ như những loài lông vũ kia mới chính là những con vật có vai trò quan trọng hơn. Với bất kỳ loài côn trùng có hại nào, như con người thường gọi, thì cũng có một loài ong bắp cày là vật ký sinh hay là thiên địch của chúng và giữ một vai trò quan trọng trong việc kiểm soát các loài có hại đó.
1
null
Bão cát hay bão bụi là một hiện tượng khí tượng phổ biến ở các vùng khô hạn hoặc bán khô hạn. Các đợt bão cát phát sinh khi một cơn gió thật mạnh bốc lớp bụi và cát lên khỏi bề mặt khô cằn. Các hạt này được vận chuyển theo các phương thức nhảy cóc và lơ lửng, đó là quá trình mang các vật liệu từ một nơi này đến tích tụ một nơi khác. Sa mạc Sahara và các vùng đất khô quanh bán đảo Ả Rập là các nguồn lục địa chính của các trận bão bụi. Cũng có một số nguồn từ Iran, Pakistan và Ấn Độ đưa vào biển Ả Rập, và các trận bão bụi lớn ở Trung Quốc mang bụi tích tụ trong Thái Bình Dương. Cũng có tranh luận gần đây rằng, việc quản lý kém các vùng đất khô trên Trái Đất như không quản lý các vùng đất hoang hóa, làm gia tăng quy mô các trận bão bụi và thường từ các rìa của hoang mạc và làm thay đổi cả khí hậu khu vực và khí hậu toàn cầu, và cũng ảnh hưởng đến kinh tế địa phương. Bão cát thường dùng để chỉ các hoang mạc cát hay sa mạc, đặc biệt là ở sa mạc Sahara, hoặc những nơi mà lớp phủ chủ yếu là cát. Bão bụi thường dùng để chỉ các hạt mang trong cơn bão chủ yếu là hạt mịn hơn cát và các hạt này thường được mang đi khoảng cách xa, đặc biệt khi bụi này ảnh hưởng đến các vùng đô thị, ví dụ như bão cát vàng. Bão và thiệt hại lớn. Bão cát là loại hình thiên tai dễ gặp và có khả năng gây nhiều thiệt hại về người và của nhất. Bão cát thường xuất hiện ở các hoang mạc khu vực Bắc Phi và bán đảo Arab. Vào năm 1805, khoảng 2.000 người cùng 1.800 con lạc đà đã bị bão cát chôn vùi khi vận chuyển hàng. Năm 525 trước Công nguyên, cả một đội quân hùng mạnh gồm 50.000 lính của quốc vương Ba Tư Cambises II đã gặp bão cát và hy sinh khi còn chưa tới chiến trường. Năm 1969, bão cát đã đưa đất đá và bụi từ Nga sang tận Na Uy. Những hạt cát có nhiệt độ tới 50 độ C có thể gây ngất xỉu, hôn mê cho những người chẳng may gặp chúng. Các nhà môi trường cho hay, trong những năm gần đây bão cát xảy ra nhiều hơn gấp 10 lần so với 50 năm trước. Chỉ tính riêng tại Mauritius, năm 1960 chỉ có 2 trận bão cát, trong khi ngày nay có hơn 80 trận bão cát mỗi năm. Các quan chức tại Ấn Độ nói rằng cơn bão đã tàn phá nhiều hơn những cơn bão cát trước, cơn bão mạnh hơn mang nhiều mảnh vụn hơn, gây ra nhiều thiệt hại cho nhà và công trình, và vì nó xảy ra vào ban đêm, khi hầu hết mọi người đều ngủ và không thể đề phòng, khiến nhiều người thiệt mạng hoặc bị thương bởi các mảnh vỡ rơi xuống. Hầu hết các thiệt hại và tử vong liên quan đến gió lớn, chứ không phải là do cát. Tại Rajasthan, nguồn cung cấp điện bị gián đoạn bởi 200-300 cột điện bị đổ, và các trường học đã bị đóng cửa ở quận Alwar. Chính quyền Uttar Pradesh (Ấn Độ) đã thông báo bồi thường cho người thân của những người thiệt mạng lên đến INR 4 lakh(US$6.200). Bão bụi tại Úc 2009. Năm 2009, một trận bão bụi lướt qua các tiểu bang của Úc là New South Wales và Queensland từ 22-24 tháng 9. Thủ đô, Canberra, trải qua trận bão bụi ngày 22 tháng 9, và vào ngày 23 tháng 9 cơn bão đến được Sydney và Brisbane. Trận bão bụi tệ hại nhất trong 70 năm che phủ vùng duyên hải phía Đông đông đảo dân cư của Úc ngày 23/9, khiến phi trường lớn nhất của xứ này gần như tê liệt và hằng triệu người trên đường phố phải ho sặc sụa. Thành phố Sydney chứng kiến một buổi hoàng hôn màu cam kỳ quái trong khi màn bụi dày đặc giăng phủ suốt đêm. Mây bụi thổi về hướng Đông từ vùng nội địa khô cằn, nơi đây đang trải qua đợt hạn hán tệ hại nhất trong lịch sử. Bụi từ mặt đất bị cuốn lên cao theo gió bay xa hằng trăm dặm, che phủ hằng chục thị trấn và thành phố của hai tiểu bang. Bụi đất bay xa hơn về hướng Bắc khiến thủ phủ Brisbane của tiểu bang Queensland đến lượt phải chịu cảnh mịt mờ lúc chập tối. Bão bụi dày đặc như lần này hiếm khi xảy ra ở Sydney, trong khi toàn châu Úc cũng đang trải qua đợt thời tiết bất thường vào những ngày vừa qua. Đồng thời, cơn dông mưa đá trút xuống nhiều nơi, trong khi ở chỗ khác đợt nắng nóng và lửa rừng mùa xuân đến sớm hơn lệ thường. Bầu trời toàn là một màu đỏ rực. Không có ai bị thương nhưng văn phòng dịch vụ cấp cứu báo cáo nói số người gọi khẩn cấp than phiền bị khó thở gia tăng, đồng thời cảnh sát kêu gọi mọi người chạy xe thong thả. Những ai bị bệnh suyễn hay bệnh liên quan về tim và phổi được khuyên nên ở trong nhà, đồng thời nên để sẵn thuốc men và dụng cụ trợ thở. Cách nhận biết. Trước khi bão cát đến, không gian thường bất ngờ tĩnh lặng. Gió cát át hẳn mọi âm thanh khiến không khí trở nên ngột ngạt. Một đám bụi nhỏ xuất hiện ở đường chân trời nhưng nó lớn dần với tốc độ chóng mặt. Tốc độ gió trong bão cát có thể lên tới 150–200 km/h. Cát bụi bị cuốn lên cao tới 1,5 km. Cách phòng tránh, ứng phó với bão cát. Khi gặp bão cát, việc đầu tiên là phải thật bình tĩnh, sử dụng áo để che cơ quan hô hấp nếu không bạn sẽ chết ngạt. Kế đến đừng bao giờ cố chạy thoát khỏi cơn bão bởi nó rộng hàng ngàn ki-lô-mét và kéo dài trong nhiều giờ. Bạn sẽ kiệt sức trước khi thoát được ra ngoài. Hãy ngồi xuống, ngược với hướng gió để bảo vệ mũi và miệng. Trong trường hợp kiếm được tảng đá hoặc bất cứ thứ gì để núp gió là tốt nhất. Lúc đó hãy nằm yên chờ bão tan.
1
null