text
stringlengths
1
148k
label
int64
0
2
__index_level_0__
int64
0
113k
Đỗ Trung Tá (sinh ngày 12 tháng 12 năm 1945), quê tại thôn Hạ, xã Phùng Xá, huyện Mỹ Đức, Hà Nội là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X và khóa XI tỉnh Bắc Giang. Ông thuộc đoàn đại biểu Bắc Giang. Ông từng giữ chức vụ bộ trưởng bộ Bưu chính viễn thông (2002-2007) Cha của Đỗ Trung Tá là ông Đỗ Trung Hàm, Chủ tịch Ủy ban hành chính xã Phùng Xá, liệt sĩ chống Pháp. Đỗ Trung Tá học Đại học và bảo vệ luận án Tiến sĩ vô tuyến điện tại Cộng hòa dân chủ Đức. Về nước, ông công tác trong ngành Bưu điện, giảng dạy và kinh qua các chức vụ: Chủ tịch HĐQT Tổng Công ty bưu chính viễn thông, Bộ trưởng Bộ Bưu chính, Viễn thông (Bộ trưởng đầu tiên, từ 8-8-2002), Ủy viên TƯ Đảng, Phái viên của Chính phủ... Ông Đỗ Trung Tá có ba người con gái: Đỗ Mai Lan, Đỗ Mai Liên và Đỗ Lan Anh; có một người con rể tên Hoàng Minh.
1
null
Ngài Đầu Sư Thượng Tám Thanh/thế danh Nguyễn Thành Tám (sinh ngày 18 tháng 04 năm 1936) là một tu sĩ đạo Cao Đài, và là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X (thuộc đoàn đại biểu Tây Ninh). Hiện tại ông là Chưởng Quản Hội Thánh Cao Đài Toà Thánh Tây Ninh. Lịch sử thăng cấp chức sắc. Quá trình Hành Đạo. - Năm 1957 được Đức Lý Đại Tiên Trưởng Kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ân phong vào hàng Lễ Sanh phái Thượng tại Cung Đạo Tòa Thánh Tây Ninh - 1965 được vinh thăng Giáo Hữu phái Thượng - 1973 được vinh thăng Giáo Sư phái Thượng - 1999 được vinh thăng Phối Sư phái Thượng - 2005 được vinh thăng Đầu Sư phái Thượng
1
null
Nguyễn Công Tạn (1935 – 1 tháng 11 năm 2014) là một chính khách Việt Nam, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ. Ông là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X, thuộc đoàn đại biểu tỉnh Hà Tây. Xuất thân. Ông quê tại xã Thái Sơn, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
1
null
Phạm Văn Tánh (sinh năm 1947) là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng. Ông nguyên là Chánh Thanh tra Bộ Quốc phòng Việt Nam (2002 - 2007), Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X, thuộc đoàn đại biểu Hà Nội.. Thân thế sự nghiệp. Ông sinh ngày 14 tháng 8 năm 1947 tại thôn Lam Sơn, xã Khánh Thượng, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Năm 1965, ông nhập ngũ vào Nam tham gia chiến đấu trên chiến trường Quân khu 5. Sau năm 1975, ông được cử đi học tại Học viện sĩ quan Đà Lạt, Học viện quân sự cao cấp, Học viện chính trị cao cấp; lần lượt giữ các chức vụ Sư đoàn trưởng Sư đoàn 301, Tham mưu trưởng Quân khu, Phó tư lệnh Quân khu Thủ đô, Năm 1997, bổ nhiệm giữ chức Tư lệnh Quân khu Thủ đô. Năm 2002, bổ nhiệm giữ chức Chánh thanh tra Bộ quốc phòng, hàm Trung tướng. Năm 2008, ông nghỉ hưu. Ông được nhà nước Việt Nam trao tặng Huân chương Quân công hạng Nhì. Thiếu tướng (1995), Trung tướng (2002)
1
null
Nguyễn Tất Tạo (sinh 1941) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X. Ông thuộc đoàn đại biểu Hải Phòng. Ngày sinh: 27/1/1941 Giới tính: Nam Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Quê quán: Xã Liêm Phong, huyện Thanh Liêm, Hà Nam Trình độ chuyên môn: Kỹ sư Động lực Nghề nghiệp, chức vụ: Giám đốc Sở Giao thông Công chính TP. Hải Phòng, Uỷ viên Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Nơi làm việc: Sở Giao thông Công chính TP. Hải Phòng Nơi ứng cử: TP Hải Phòng Đại biểu Quốc hội khoá: X Đại biểu chuyên trách: Không Đại biểu Hội đồng Nhân dân: Không
1
null
Nguyễn Thị Thân (sinh 1937) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X. Bà thuộc đoàn đại biểu Hà Nam. Ngày sinh: 14/8/1937 Giới tính: Nữ Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Quê quán: Xã Vân Canh, huyện Hoài Đức, Hà Tây Trình độ chuyên môn: Kỹ sư Cơ khí chế tạo máy Nghề nghiệp, chức vụ: Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội (1992 - 1997). Nơi làm việc: Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội Nơi ứng cử: Hà Nam Đại biểu Quốc hội khoá: X Đại biểu chuyên trách: Trung ương Đại biểu Hội đồng Nhân dân: Không
1
null
Dương Mạc Thăng (sinh 1946) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X. Ông thuộc đoàn đại biểu Cao Bằng. Dương Mạc Thăng sinh ra trong gia đình cách mạng. Cha ông là Dương Mạc Thạch, bí danh Xích Thắng là Chính trị viên đầu tiên của Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, Phó bí thư Tỉnh ủy Hà Giang. Năm 1956, Dương Mạc Thăng theo cha lên Hà Giang học tập. Bạn học gọi Thăng là “thủ lĩnh” vì từ vui chơi, học tập, gặp ai hoạn nạn khó khăn thì Dương Mạc Thăng là người khởi xướng, dẫn đầu giúp đỡ. Năm 1964, được cha, bạn bè động viên, ông học Đại học Nông nghiệp tại Cuba để sau này có tri thức cống hiến xây dựng quê hương. Năm 1974, sau khi đi du học về, Dương Mạc Thăng giảng dạy tại Trường Đại học Nông nghiệp III, Thái Nguyên. Năm 1980, ông trở về quê hương công tác, làm Phó Chủ tịch huyện Nguyên Bình. Năm 1990 - 1993, ông giữ cương vị Bí thư Huyện ủy Nguyên Bình. Năm 1994 - 2000 - 2005, ông chuyển công tác lên tỉnh làm Trưởng ban Kinh tế Tỉnh ủy, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy. Đến năm 2000 - 2005, với cương vị Bí thư Tỉnh ủy, ông tham mưu cho Ban Thường vụ thực hiện chiến lược phát triển KT - XH cho tỉnh, như: phát triển kinh tế cửa khẩu, phát triển du lịch - dịch vụ; phát triển thị xã Cao Bằng thành thành phố Cao Bằng để làm động lực cho các huyện, khác phát triển; đầu tư Khu di tích lịch sử Pác Bó...
1
null
Võ Thị Thắng (10 tháng 12 năm 1945 – 22 tháng 8 năm 2014) là đại biểu Quốc hội Việt Nam các khóa IX, X và XI. Bà thuộc đoàn đại biểu Long An. Ngoài ra bà là nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII và khóa IX; nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch, nguyên Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt Nam – Cuba; Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Tiểu sử. Võ Thị Thắng sinh ngày 10 tháng 12 năm 1945 tại xã Tân Bửu, huyện Bến Lức, tỉnh Long An, trong một gia đình đông con theo Cách mạng. Năm 16 tuổi, bà gia nhập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Năm 17 tuổi bà được tổ chức điều về Sài Gòn hoạt động bí mật trong Phong trào Thanh niên – Sinh viên – Học sinh; tiếp đến chuyển sang Phong trào Công nhân rồi lực lượng vũ trang trong lòng đô thị. Trong chiến dịch Sự kiện Tết Mậu Thân 1968, bà bị bắt và bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa kết án 20 năm tù. Theo Hiệp định Paris, bà đã được trả tự do vào ngày 7 tháng 3 năm 1974. Hình tượng trong văn học nghệ thuât. Nhạc sĩ Cao Việt Bách có tác phẩm "Nụ cười chị Võ Thị Thắng", Trương Tuyết Mai có tác phẩm "Nụ cười chiến thắng" từ cảm hứng về nụ cười của Võ Thị Thắng khi bị đưa ra xét xử, bà đã nói với hội đồng xét xử: "Liệu chính quyền các ông có tồn tại đến 20 năm để cầm tù tôi không ?" Vinh danh. Ở Havana có một ngôi trường tiểu học được đặt tên bà. Đây là địa điểm mà các chính khách của Việt Nam thường tới thăm khi công du tại Cuba. Bà Võ Thị Thắng cũng từng đến thăm ngôi trường này. Bà cũng được Nhà nước Cuba truy tặng Huân chương Ana Betancourt. Huân chương được đặt theo tên người nữ anh hùng dân tộc của Cuba - Ana Betancourt, là danh hiệu cao quý nhất thường được trao cho những người phụ nữ Cuba có nhiều cống hiến trong xã hội, và bà Võ Thị Thắng là một trường hợp đặc biệt được nhận huân chương này. Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang ghi trong sổ tang của bà Võ Thị Thắng cho rằng, dù bị kẻ hiểm ác, giấu mặt "đối xử bất nhân" trong thời bình, bà vẫn "sống vĩ đại, chết vinh quang". Năm 2015, chủ tịch nước Trương Tấn Sang ký quyết định truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho bà Võ Thị Thắng. Bà được truy tặng danh hiệu này vì những thành tích đặc biệt xuất sắc của bà trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ngày 10 tháng 09 năm 2015, lễ truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho bà đã được Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch tổ chức trang trọng tại khách sạn Caravelle, Thành phố Hồ Chí Minh. Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch Hoàng Tuấn Anh trao danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho đại diện gia đình bà.
1
null
Nguyễn Phúc Thanh (25 tháng 6 năm 1944 – 8 tháng 2 năm 2019) là một chính khách và tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng. Ông cũng là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X, XI, thuộc đoàn đại biểu Tuyên Quang, Phó Chủ tịch Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội khóa X, XI (1997–2007). = giáo dục = = Xuất thân = Sự nghiệp. Tháng 11/1964, ông nhập ngũ, chiến sĩ Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 9, Sư đoàn 304. Ngày 8/2/1966, ông gia nhập Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam, chính thức là ngày 9/2/1967. Tháng 7/1967 – 11/1970, ông làm Trung đội trưởng, Đại đội phó, Đại đội trưởng, Tiểu đoàn phó rồi Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 9, Quân khu Trị Thiên. Tháng 12/1970 – 8/1972, ông học tại Học viện Lục quân (Việt Nam). Tháng 8/1972, ông làm Trợ lý tác chiến Quân khu Trị Thiên. Tháng 5/1973 – 2/1975, ông đảm nhiệm các chức vụ Trung đoàn phó Trung đoàn 1 rồi Trung đoàn trưởng Trung đoàn 1, Sư đoàn 324. Tháng 3/1975 – 9/1978, ông làm Tham mưu phó Sư đoàn 324. Tháng 10/1978 – 6/1980, ông học tại Học viện Quốc phòng (Việt Nam). Tháng 7/1980 – 6/1981, ông làm Sư đoàn phó – Tham mưu trưởng Sư đoàn 304, Quân đoàn 2, Quân đội nhân dân Việt Nam. Tháng 7/1981 – 4/1985, ông làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 304, Quân đoàn 2, Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong thời gian này ông được cử đi đào tạo tại Học viện Quân sự PunDe Liên Xô. Tháng 5/1985 – 9/1987, ông làm Phó Tham mưu trưởng Quân đoàn 2, Quân đội nhân dân Việt Nam. Tháng 10/1987– 5/1988, ông làm Phó Tư lệnh thứ nhất Quân đoàn 2, Quân đội nhân dân Việt Nam. Tháng 6/1988 – 3/1993, ông được thăng quân hàm Thiếu tướng, Tư lệnh Quân đoàn 2, Quân đội nhân dân Việt Nam. Tháng 4/1993 – 9/1997, ông lần lượt đảm nhiệm các chức vụ: Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần.; Quyền Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần; Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, Phó Bí thư Đảng ủy Tổng cục Hậu cần. Tháng 9/1997, ông được bầu vào Đảng đoàn Quốc hội khóa X, làm Phó Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4/2001), ông được bầu lại làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và tiếp tục được bầu giữ chức Phó Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội khóa X, XI. Năm 2007, ông thôi giữ chức Phó Chủ tịch Quốc hội và nghỉ theo chế độ Ông mất đột ngột khi đang điều trị tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 vào ngày 8/2/2019, không lâu sau lễ mừng thọ lần thứ 75.
1
null
Lê Trung Thành (sinh năm 1943) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng. Ông nguyên là Phó Chủ nhiệm về chính trị Tổng cục Hậu cần, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X, thuộc đoàn đại biểu Thái Bình, Ủy viên Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng Quốc hội (Việt Nam). Thân thế và sự nghiệp. Ông sinh ngày 15 tháng 7 năm 1943 tại Xã Tây Lương, huyện Tiền Hải, Thái Bình Năm 1993, bổ nhiệm giữ chức Phó Tư lệnh về chính trị Quân khu 3. Năm 1998, bổ nhiệm giữ chức Phó Chủ nhiệm về chính trị Tổng cục Hậu cần Năm 2004, ông nghỉ hưu. Thiếu tướng (1995), Trung tướng (2002)
1
null
Bùi Văn Thành (sinh năm 1958) nguyên là một sĩ quan Công an nhân dân Việt Nam, cấp hàm Đại tá. Ông là cựu Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Công an Việt Nam, Ủy viên Đảng ủy Công an Trung ương (2014-2018). Năm 2018, ông bị Bộ Chính trị thi hành kỷ luật bằng hình thức cách chức tất cả các chức vụ trong Đảng; giao Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo thực hiện quy trình xử lý kỷ luật về hành chính và giáng cấp bậc hàm từ Trung tướng xuống Đại tá vì những vi phạm "rất nghiêm trọng" về bảo vệ bí mật Nhà nước, làm thất thoát tài sản Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến ngành công an. Ngày 14 tháng 12 năm 2018, ông bị cơ quan cảnh sát điều tra (Bộ Công an) khởi tố bị can, cấm đi khỏi nơi cư trú để điều tra dấu hiệu phạm tội "Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng", theo điều 285 Bộ luật Hình sự năm 1999. Đồng thời, trước khi ông Bùi Văn Thành bị khởi tố, Bộ trưởng bộ Công an đã ký Quyết định tước danh hiệu Công an nhân dân đối với ông Thành. Chiều 30/1/2019, TAND Hà Nội tuyên phạt bị cáo Bùi Văn Thành mức án 2 năm 6 tháng tù về tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng. Xuất thân và giáo dục. Ông sinh năm 1958, quê tại Xóm Bùi, xã Khánh An, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Ông có bằng tiến sĩ. Sự nghiệp. Ông từng giữ các chức vụ Phó Trưởng phòng, Trưởng phòng, Trường Đại học Phòng cháy chữa cháy (1986); Phó Cục trưởng Cục Quản lý Khoa học kỹ thuật và môi trường, Tổng cục Hậu cần - Kỹ thuật Công an nhân dân (1999); Cục trưởng, Trưởng Ban Quản lý dự án, Tổng cục Hậu cần - Kỹ thuật Công an nhân dân (2005). Năm 2008, ông mang quân hàm Đại tá, giữ chức vụ Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Kỹ thuật Công an nhân dân. Năm 2012, ông mang quân hàm Thiếu tướng, giữ chức vụ Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Hậu cần- Kỹ thuật Bộ Công an. Trước khi được bổ nhiệm vào chức vụ Thứ trưởng Công an, ông là Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Kỹ thuật Bộ Công an, hàm Đại tá (sau thăng Thiếu tướng). Chiều ngày 13 tháng 8 năm 2014, ông được Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng bổ nhiệm vào chức vụ Thứ trưởng Bộ Công an. Cùng ngày, ông được Chủ tịch nước Trương Tấn Sang thăng quân hàm từ Thiếu tướng lên Trung tướng, phụ trách công tác Hậu cần - Kỹ thuật CAND, lực lượng Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy. Ngoài ra, ông còn là Ủy viên Đảng ủy Công an Trung ương (2010 - 2015, 2016 - 2018). Ngày 28 tháng 7 năm 2018, ông bị Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam kỷ luật bằng hình thức cách chức tất cả các chức vụ trong Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 8 tháng 8 năm 2018, ông bị Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ký quyết định cách chức Thứ trưởng Bộ Công an và ký tờ trình Chủ tịch nước Trần Đại Quang giáng 2 cấp bậc hàm từ Trung tướng xuống Đại tá. Sau đó, theo Quyết định số 1388/QĐ-CTN, giáng cấp bậc hàm Trung tướng Bùi Văn Thành xuống Đại tá. Ngày 14 tháng 8 năm 2018, Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm ban hành quyết định xóa tư cách Phó tổng cục trưởng Tổng cục Hậu cần - Kỹ thuật đối với ông Bùi Văn Thành. Kỷ luật. Chiều ngày 27 tháng 7 năm 2018, Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam kết luận vi phạm của trung tướng Bùi Văn Thành là "rất nghiêm trọng", làm thất thoát tài sản Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến ngành công an: vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, quản lý, thiếu kiểm tra, giám sát, để xảy ra nhiều vi phạm, khuyết điểm tại Tổng cục IV; vi phạm các quy định về bảo vệ bí mật Nhà nước và Quy chế làm việc của Bộ Công an; ký văn bản của Bộ Công an đề xuất bán chỉ định một số cơ sở nhà, đất an ninh không đúng quy định pháp luật; ký một số văn bản không đúng thẩm quyền được phân công phụ trách. Vụ việc được cho là có liên quan đến vụ án Phan Văn Anh Vũ. Thứ trưởng Bộ Công an Bùi Văn Thành đã tự ý ký quyết định cho Phan Văn Anh Vũ tham gia đoàn đi nước ngoài và đề nghị cấp hộ chiếu ngoại giao cho Phan Văn Anh Vũ không đúng đối tượng, không đúng tiêu chuẩn. Ngày 28 tháng 7 năm 2018, Bộ Chính trị quyết định kỷ luật Trung tướng Bùi Văn Thành bằng hình thức cách chức tất cả các chức vụ trong Đảng (Uỷ viên Ban chấp hành Đảng bộ Công an Trung ương nhiệm kỳ 2016 - 2021; Uỷ viên Ban chấp hành Đảng bộ Tổng cục Hậu cần - Kỹ thuật Bộ Công an nhiệm kỳ 2010 - 2015); giao Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo thực hiện quy trình xử lý kỷ luật về hành chính và giáng cấp bậc hàm đối với Trung tướng Thành. Chiều ngày 8 tháng 8 năm 2018, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ký quyết định 989/QĐ-TTg cách chức Thứ trưởng Bộ Công an đối với ông Bùi Văn Thành, do có những vi phạm, khuyết điểm rất nghiêm trọng trong công tác và Bộ Chính trị đã kỷ luật về Đảng. Cùng ngày, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã ký tờ trình Chủ tịch nước Trần Đại Quang giáng 2 cấp bậc hàm từ Trung tướng xuống Đại tá đối với ông Bùi Văn Thành. Sau đó, theo Quyết định số 1388/QĐ-CTN, giáng cấp bậc hàm Trung tướng Bùi Văn Thành xuống Đại tá. Ngày 14 tháng 12 năm 2018, ông bị cơ quan cảnh sát điều tra (Bộ Công an) khởi tố bị can, cấm đi khỏi nơi cư trú để điều tra dấu hiệu phạm tội "Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng", theo điều 285 Bộ luật Hình sự năm 1999. Đồng thời, trước khi ông Bùi Văn Thành bị khởi tố, Bộ trưởng bộ Công an Tô Lâm đã ký Quyết định tước danh hiệu Công an nhân dân đối với ông Thành. Tội phạm. Theo Cáo trạng VKSND Tối cao, với vai trò Thứ trưởng Bộ Công an (2014-2018) phụ trách Tổng cục hậu cần (đơn vị quản lý đất công sản), ngày 28/5/2015, ông Bùi Văn Thành đã ký tờ trình của Vũ nhôm và đề xuất của Phan Hữu Tuấn (Tổng cục trưởng Tổng cục V), xin Thủ tướng được mua chỉ định lô đất tại 129 Pasteur (quận 3) "để phục vụ nghiệp vụ ngành công an". Sau đó, khu đất được chuyển quyền sử dụng sang cá nhân khác gây thất thoát cho Nhà nước hơn 222 tỷ đồng. Kháng cáo tại tòa phúc thẩm ngày 11.6.2019, ông Thành cho biết, chủ trương bán lô nhà đất ở 129 Pasteur (TP HCM) được ông ký duyệt là theo phân công, chỉ đạo của cấp trên. Chiều ngày 30 tháng 1 năm 2019, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội tuyên phạt Bùi Văn Thành mức án 2 năm 6 tháng tù về tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng. Cựu thứ trưởng Bộ Công an Bùi Văn Thành thiếu trách nhiệm trong việc chỉ đạo, kiểm tra, theo dõi, thẩm định nhà đất tại số 129 Pasteur (TP HCM), không chỉ đạo Tổng cục IV có văn bản thông báo để Tổng cục V biết theo dõi cơ sở nhà đất phục vụ mục đích an ninh. Phát ngôn. Sáng 30/1/2019, trước khi HĐXX nghị án, bị cáo Bùi Văn Thành được nói lời sau cùng:
1
null
Hữu Thỉnh (sinh ngày 15 tháng 2 năm 1942) là một nhà thơ người Việt Nam. Ông nguyên là Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, đồng thời là Tổng biên tập "Báo Văn nghệ" và Đại biểu Quốc hội khóa X. Tiểu sử và sự nghiệp. Hữu Thỉnh sinh ngày 15 tháng 2 năm 1942 tại Phú Vinh, Duy Phiên, Tam Đảo (Tam Dương), Vĩnh Phúc. Sinh ra trong một gia đình nông dân có truyền thống Nho học nhưng ông đã trải qua tuổi thơ ấu không dễ dàng: ở 6 năm với bác ruột, 10 tuổi phải đi phu, làm đủ mọi thứ lao dịch cho các đồn binh Pháp: Vân Tập, chợ Vàng, Thứa, Thanh Vân. Từ sau hòa bình lập lại, vào năm 1954, Ông mới được đến trường. Năm 1963 ông tốt nghiệp phổ thông và nhập ngũ, trở thành một người lính thuộc Trung đoàn 202. Từ đây Hữu Thỉnh đã tham gia một số hoạt động như chăn bò, học lái xe tăng, làm cán bộ tiểu đội, dạy bổ túc văn hoá, viết báo và làm cán bộ tuyên huấn. Nhiều năm tham gia chiến đấu tại miền Bắc, đã trải qua hầu khắp các chiến trường máu lửa như Đường 9. Sau 1975, Hữu Thỉnh học trường Viết văn Nguyễn Du và là một trong số những học sinh khóa đầu tiên của trường. Từ 1982, ông lần lượt đảm nhiệm các chức vụ cán bộ biên tập, Trưởng ban Thơ, Phó Tổng Biên tập của Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Từ 1990 đến nay, Hữu Thỉnh chuyển sang công tác tại Hội Nhà văn Việt Nam, trở thành Tổng Biên tập "Tuần báo Văn nghệ", tham gia Ban chấp hành Hội Nhà văn các khoá 3, 4, 5, Ủy viên Ban Thư ký khoá 3. Hữu Thỉnh đã lần lượt đảm nhiệm chức trách Phó Tổng Thư ký Thường trực Hội Nhà văn Việt Nam (nay là chức Phó Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam), Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam (3 lần), đồng thời kiêm nhiệm Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Khối Tư tưởng Văn hoá Trung ương, Bí thư Đảng ủy Đảng bộ Cơ quan Hội Nhà văn Việt Nam, Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam. Đại biểu Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (khoá X). Từ năm 2000, Hữu Thỉnh là Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Tác phẩm. Hữu Thỉnh có những thi tuyển và những bản trường ca sau: Các tác phẩm văn xuôi của ông: Tranh cãi. Vụ các nhà văn bỏ hội vào tháng 5 năm 2015. Hội trưởng Hội nhà văn Việt Nam Nguyễn Hữu Thỉnh bị cho là phải chịu trách nhiệm việc các nhà văn rời bỏ hội vào tháng 5 năm 2015. Mặc Lâm, biên tập RFA, cho là ông "âm thầm tạo một hàng rào vững chãi chống lại mọi giá trị mà một nhà văn phải có." Nhà thơ Ý Nhi nói về lý do, bà đã chính thức gửi đơn rút tên ra khỏi hội vào năm 2002: "tôi bất tín nhiệm Tổng thư ký, tôi cảm thấy anh Hữu Thỉnh là người không trung thực cho nên chữ tôi dùng "Biến hình trùng" là cái chữ chính xác của một nhà thơ Hà Nội nói về anh là đúng, tức là người nay nói tròn mai nói méo, mốt nói dài làm mình có cảm giác một người như thế mà lãnh đạo một cái hội mà mình tham gia thì tôi thấy nó xúc phạm tới cá nhân mình."
1
null
Nguyễn Thị Kim Thoa (sinh 1944) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X và khoá XI. Bà thuộc đoàn đại biểu Bình Dương. Tên thường gọi: Nguyễn Thị Kim Thoa Ngày sinh: 14/9/1944 Giới tính: Nữ Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Quê quán: Làng Tương Nam, Xã Nam Thanh, huyện Nam Trực, Nam Định Trình độ chuyên môn: Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Toán - Lý. Nghề nghiệp, chức vụ: Phó viện trưởng Viện Vật lý địa cầu, Tổng biên tập Tạp chí Các khoa học về trái đất, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Nơi làm việc: Viện Vật lý địa cầu. Nơi ứng cử: Bình Dương Đại biểu Quốc hội khoá: X và XI Tham khảo. 2. "Danh sách Đại biểu Quốc hội khoá XI" Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2018.
1
null
Nguyễn Thị Hoài Thu (sinh 1943) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X. Bà thuộc đoàn đại biểu Tiền Giang. Tiểu sử. Tên thường gọi: Nguyễn Thị Hoài Thu Ngày sinh: 26/11/1943 (cung Nhân Mã) Giới tính: Nữ Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Quê quán: Xã Long An, huyện Châu Thành, Tiền Giang Trình độ chính trị: Cao cấp Nghề nghiệp, chức vụ: Ủy viên Ban chấp hành TW Đảng; Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội (1997 - 2007) Nơi làm việc: Văn phòng Quốc hội Nơi ứng cử: Tiền Giang Đại biểu Quốc hội khoá: X Đại biểu chuyên trách: Trung ương Đại biểu Hội đồng Nhân dân: Không
1
null
Cao Tiến Thụ (sinh 1945) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X. Ông thuộc đoàn đại biểu Hải Phòng. Ông có thời gian giữ chức Tổng Giám đốc Cảng Hải phòng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Cảng biển Việt Nam (1995 - 2007), sau đó làm Ủy viên Hội đồng Quản trị Tổng công ty Hàng hải Việt Nam , nghỉ hưu theo chế độ từ ngày 1 tháng 8 năm 2006.
1
null
Bùi Minh Thứ (sinh năm 1947 - mất năm 2022), người Mường, là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng. Ông từng giữ chức vụ Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân khu Thủ đô, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X, thuộc đoàn đại biểu Hà Tây. Thân thế và sự nghiệp. Ông sinh ngày 21 tháng 1 năm 1947 tại Xã Cao Dương, huyện Kim Bôi, Hòa Bình Năm 1965, ông Thứ tình nguyện nhập ngũ, được biên chế về Sư đoàn 316, Quân khu 2, tham gia chiến đấu trên các chiến trường Lào, biên giới phía Bắc Trải qua nhiều trận chiến đấu xuất sắc, ông được làm Đại đội trưởng, rồi Trung đoàn trưởng, được đi đào tạo tại Học viện Đà Lạt, Học viện Quốc phòng, sau đó lần lượt giữ các chức vụ: Phó chỉ huy Trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Hà Sơn Bình; Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Hà Tây Năm 2008, ông nghỉ hưu Ông mất ngày 27 tháng 4 năm 2022 tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, Hà Nội hưởng thọ 75 tuổi, sau một cuộc chiến với đột quỵ, không lâu sâu Lễ mừng thọ thứ 75 và 76 của ông.
1
null
Nguyễn Trí Thức (sinh 1942) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X. Ông thuộc đoàn đại biểu Đồng Nai. Tên thường gọi: Nguyễn Trí Thức Ngày sinh: 9/1/1942 Giới tính: Nam Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Quê quán: Xã Thái Hòa, huyện Tân Uyên, Bình Dương Trình độ chuyên môn: Cử nhân Khoa học Quân sự, Cao cấp Quân sự Nghề nghiệp, chức vụ: Đại tá, Uỷ viên Ban thường vụ tỉnh uỷ, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Đồng Nai, Uỷ viên Uỷ ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội Nơi làm việc: Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Đồng Nai Nơi ứng cử: Đồng Nai Đại biểu Quốc hội khoá: X Đại biểu chuyên trách: Không Đại biểu Hội đồng Nhân dân: Không
1
null
Trần Công Thức (sinh 1949) là một Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông từng giữ chức vụ Phó Tư lệnh Quân khu 5, đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X, thuộc đoàn đại biểu Bình Định. Thân thế và sự nghiệp. Ông sinh ngày 20 tháng 7 năm 1948 tại phường Hoài Hảo, thị xã Hoài Nhơn, Bình Định Ông từng giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định. Năm 2002, bổ nhiệm giữ chức Phó Tư lệnh Quân khu 5 Năm 2009, ông nghỉ hưu Thiếu tướng (2004)
1
null
Nguyễn Quốc Thước (sinh 1926) là Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam và chính khách Việt Nam, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI, Tư lệnh Quân khu 4, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa VIII, IX, X, thuộc đoàn đại biểu Nghệ An.. Thân thế và sự nghiệp. Ông sinh ngày 3 tháng 2 năm 1926 tại xã Nghi Diên, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, tham gia Cách mạng từ tháng 4 năm 1945 trong phong trào Việt Minh tại địa phương, là cán bộ tiền khởi nghĩa, rồi nhập ngũ tháng 7 năm 1947, và được kết nạp vào Đảng ngày 1 tháng 7 năm 1947, chính thức ngày 1 tháng 12 năm 1947.  Từ tháng 4 năm 1945 đến tháng 12 năm 1945, ông hoạt động trong phong trào Việt Minh xã Nghi Diên Tháng 1 năm 1947, ông là Bí thư huyện đoàn rồi nhân viên toà án huyện Nghi Lộc, tham gia phong trào bình dân học vụ Tháng 7 năm 1947 ông nhập ngũ và được cử đi học tại Trường Sĩ quan Lục quân (nay là Trường Đại học Trần Quốc Tuấn) Tháng 1 năm 1952, ông là Trung đội trưởng thuộc Đại đội 123, Trung đoàn 101, Sư đoàn 325. Từ tháng 1 năm 1954 đến tháng 12 năm 1959, ông là Phó ban Tác huấn Sư đoàn 325 Tháng 1 năm 1960, Trưởng ban Tác huấn Sư đoàn 325 Tháng 6 năm 1965, đi B với bí danh Phương, là Phó ban Tác huấn Mặt trận Tây Nguyên Năm 1968, là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 24 Mặt trận Tây Nguyên. Năm 1970, là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 28 Mặt trận Tây Nguyên. Năm 1972, là Tham mưu trưởng Mặt trận Tây Nguyên rồi Tham mưu trưởng chiến dịch Tây Nguyên Tháng 4 năm 1975, Tham mưu trưởng đầu tiên của Quân đoàn 3, tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, rồi được cử đi học tại Học viện Quân sự cấp cao. Từ tháng 7 năm 1978 đến tháng 12 năm 1979, ông là Phó tư lệnh, quyền Tư lệnh Quân đoàn 3, Phó bí thư Đảng uỷ Quân đoàn Tháng 1 năm 1980, học viên Học viên Học viện Quân sự cấp cao rồi Tư lệnh Quân đoàn 3 kiêm Bí thư Đảng uỷ Quân đoàn Năm 1981, học viên Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc Đầu năm 1983, đi học bổ túc tại Học viện Bộ Tổng Tham mưu Liên Xô mang tên Voroshilov Tháng 12 năm 1983, Phó tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân khu 4 Từ tháng 4 năm 1987 đến tháng 12 năm 1996, ông là Tư lệnh, Phó Bí thư Đảng ủy Quân khu 4 Tháng 12 năm 1986, ông được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng. Tháng 4 năm 1987, ông trúng cử đại biểu Quốc hội khóa VIII và liên tục là thành viên của Quốc hội các Khóa IX và X. Tháng 1 năm 1997, ông nghỉ hưu. Từ tháng 12 năm 1997 đến tháng 12 năm 2002, ông tham gia Ban lãnh đạo Hội Cựu chiến binh Việt Nam trên cương vị Phó chủ tịch Hội.  Thiếu tướng (1980), Trung tướng (1987).
1
null
Nguyễn Thị Thường (sinh 1958) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X, thuộc đoàn đại biểu Hà Tây. Tên thường gọi: Nguyễn Thị Thường Ngày sinh: 17/12/1958 Giới tính: Nữ Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Quê quán: Xã Hợp Đồng, huyện Chương Mỹ, Hà Tây Trình độ chuyên môn: Kỹ sư Cao đẳng Nông nghiệp Nghề nghiệp, chức vụ: Uỷ viên Ban thường vụ Đảng uỷ xã, Phó chủ tịch HĐND xã, Chủ nhiệm HTX Nông nghiệp xã Hợp Đồng, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây Nơi làm việc: HĐND xã và HTX Nông nghiệp xã Hợp Đồng, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây Nơi ứng cử: Hà Tây Đại biểu Quốc hội khoá: X Đại biểu chuyên trách: Không Đại biểu Hội đồng Nhân dân: Không
1
null
Đồng Thị Bích Thủy (10 tháng 12 năm 1954 – 9 tháng 2 năm 2017), quê quán ở xã Mậu Tài, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên – Huế, là một phó giáo sư, tiến sĩ Tin học quản lý. Bà là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X. Bà thuộc đoàn đại biểu Đồng Tháp. Bà qua đời lúc 21h ngày 9 tháng 2 năm 2017. Thi hài bà được hỏa táng tại Nghĩa trang Phúc An Viên, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 12 tháng 2 năm 2017. Đào tạo. Tốt nghiệp Đại học Lausanne (Thụy Sĩ) ngành Quản trị kinh doanh (năm 1975), lấy bằng Tiến sĩ tin học quản lý (năm 1986), chuyên ngành Hệ thống thông tin và Cơ sở dữ liệu ở Đại học Genève Thụy Sĩ. Các giải thưởng. TS. Đồng Thị Bích Thủy được nhà nước công nhận học hàm Phó Giáo sư vào năm 2004. Bà từng nhận được các giải thưởng như "Phụ nữ gánh vác trách nhiệm ngoài xã hội" do chính phủ Canada trao tặng cuối năm 1999, huy chương "Vì thế hệ trẻ" của  Đoàn Thanh Niên Cộng sản HCM năm 2000. Bà còn nhận được giải thưởng Công nghệ Thông tin và Truyền thông TP.HCM lần thứ 5 (năm 2013). Sự nghiệp. Bà từng là trưởng bộ môn Hệ thống thông tin tại Đại học Khoa học tự nhiên TPHCM và là giám đốc Trung Tâm Tin Học Trung Tâm Tin Học (TTTH) ĐHKHTN từ năm 1991 đến năm 2010. Bắt đầu tham gia giảng dạy từ 1986, đến 1989 bà là trưởng bộ môn Tin Học (khoa Toán), từ 1995 – 1999 là  phó khoa CNTT đồng thời là trưởng bộ môn Hệ thống Thông tin. Một mình bà cáng đáng việc đào tạo cao học tin học trong những khoá đầu tiên (từ năm 1991) cho đến khi trường ĐHKHTN có thêm giảng viên đạt trình độ TS. Bà còn đại diện  cho trí thức khối khoa học – công nghệ "gánh vác trách nhiệm ngoài xã hội" trong vai trò đại biểu Quốc hội khoá X (1997-2002). Đến đầu năm 2002, bà trở thành phó hiệu trưởng của trường ĐHKHTN. Bà giữ cương vị này đến năm 2007. Đảm nhận vai trò Giám đốc TTTH, bà đã đưa ra nhiều quyết định quan trọng giúp TTTH không ngừng phát triển, trở thành địa chỉ đào tạo và dịch vụ CNTT uy tín trong cả nước. Bà còn là thành viên Hội đồng, cố vấn đào tạo Viện John von Neumann, ĐH Quốc gia TP. HCM từ năm 2013 – 2017. GS.Dương Nguyên Vũ, viện trưởng viện John Von Neumann (ĐHQG-HCM) nhận xét bà là "một cánh tay lớn ở Viện John von Neumann". Ngoài chuyên môn về CNTT, bà còn rất quan tâm đến đổi mới các phương pháp dạy và học bậc đại học. Năm 2007, bà cùng với ban giám hiệu trường ĐHKHTN thành lập Trung tâm Nghiên cứu Cải tiến Phương pháp Dạy và Học Đại học (tên tiếng Anh: Center for Educational Excellence, viết tắt: CEE) thông qua dự án hợp tác với trường ĐH Portland (Portland State University - USA). Đây là một mô hình đầu tiên tại Việt Nam với sáng kiến thành lập một đơn vị trực thuộc trường ĐH giúp hỗ trợ giảng viên và sinh viên trong quá trình dạy và học. Bà giữ cương vị giám đốc trung tâm CEE từ ngày thành lập cho đến khi mất. Bà cùng với TS. Phùng Thúy Phượng là những người đầu tiên đưa khái niệm "học tập phục vụ cộng đồng" (Service-learning) vào Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của bà, Trung tâm CEE đã mời nhiều chuyên gia giáo dục từ Mỹ theo dự án chuyên gia Fulbright sang tập huấn cho đối ngũ cán bộ giảng dạy của các trường ĐH tại Việt Nam. Bà là hội viên của ACM và IEEE. Bà còn là Chủ tịch hội đồng IEEE RIVF (International Conference on Computing & Communication Technologies – Research, Innovation, and Vision for Future) năm 2015. Bà sử dụng thành thạo 2 ngoại ngữ tiếng Pháp và tiếng Anh trong giảng dạy, nghiên cứu và giao tiếp. Bà từng giữ chức vụ chủ tịch hiệp hội các trường ĐH nói tiếng Pháp vùng Châu Á Thái Bình Dương CONFRASIE (nhiệm kỳ 1998 – 2010). Đánh giá. Bà được các đồng nghiệp đánh giá là một nhà lãnh đạo tài năng nhưng khiêm tốn, quyết liệt nhưng mềm mỏng, có những đóng góp rất lớn cho sự phát triển của ngành IT Việt Nam. Những đóng góp thầm lặng của bà cho ngành Công nghệ thông tin vẫn còn ít người biết đến.
1
null
Đặng Quân Thụy (sinh năm 1928) là một Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Nguyên Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Phó Chủ tịch Quốc hội Việt Nam khóa IX, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Tiểu sử. Trung tướng Đặng Quân Thụy sinh năm 1928 tại làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Ông tham gia cách mạng và nhập ngũ năm 1944. Trong kháng chiến chống Pháp ông là Chính trị viên Đại đội. Năm 1958 ông là Phó phòng Hóa học Cục Quân huấn BTTM. Năm 1964 ông là Trưởng phòng Hóa học Bộ chỉ huy Quân giải phóng miền Nam. Năm 1968 ông là Phó trưởng phòng tác chiến, trực tiếp phụ trách cơ quan tác chiến tiền phương của Quân giải phóng miền Nam. Năm 1974 ông là Cục trưởng cục Hoá học BTTM. Tháng 9 - 1977 ông là Tư lệnh, Bí thư Đảng ủy Binh chủng Hóa học. Ông được phong quân hàm Thiếu tướng vào năm 1984 Tháng 3 - 1986 ông giữ chức Phó, rồi Tư lệnh Quân khu II. Thăng quân hàm Trung tướng vào năm 1989 Ông là Ủy viên Trung ương Đảng khóa VII, Đại biểu Quốc hội các khóa VIII và IX.Ông thuộc đoàn đại biểu Vĩnh Phúc. Ông là Phó Chủ tịch Quốc hội, kiêm chức Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội khóa IX. Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam nhiệm kỳ III (2002 - 2007).
1
null
GS.TS.NGND Hà Học Trạc sinh ngày 12/10/1930 trong một gia đình nhà nho hiếu học và yêu nước tại xã Đức Vĩnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Thuở thiếu thời, ông đã nổi tiếng là một trong những học trò xuất sắc, nhiều năm liền được xếp đầu khóa và được nhận học bổng. Sau khi hoàn thành chương trình học tập tại khoa Điện, trường đại học Triết Giang, Trung Quốc (1953-1957), ông về nhận công tác tại trường đại học Bách khoa Hà Nội từ tháng 3/1957. Ông thuộc thế hệ cán bộ giảng dạy đầu tiên của trường và là một trong những người sáng lập bộ môn Điện, tiền thân của khoa Điện, trường đại học Bách khoa Hà Nội ngày nay. Năm 1961, ông được cử đi làm nghiên cứu sinh tại trường đại học Năng lượng Matxcơva, Liên xô (cũ) cho đến năm 1965 khi ông bảo vệ thành công luận án tiến sĩ. Trở về nước, ông tiếp tục công tác tại trường đại học Bách khoa Hà Nội, được cử làm Phó Chủ nhiệm, rồi Chủ nhiệm khoa Điện và được bầu làm Bí thư Liên Chi bộ Đảng của Khoa từ năm 1965-1977. Tiếp theo đó, ông tham gia công tác lãnh đạo trường đại học Bách khoa Hà Nội, lúc đầu là Phó Hiệu trưởng và Thường vụ Đảng ủy (1977-1980), rồi về sau là Hiệu trưởng của nhà trường trong thời gian gần 10 năm (1980-1989). Năm 1984, ông được Nhà nước phong hàm Giáo sư và năm 2000 được tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân. Gần nửa thế kỷ làm công tác đào tạo ở bậc đại học, GS.TS.NGND Hà Học Trạc luôn luôn nêu cao tấm gương của một nhà giáo mẫu mực, tận tụy, đầy trách nhiệm và giàu tâm huyết với “sự nghiệp trồng người”. Ở những cương vị khác nhau, ông đã tích cực góp phần đào tạo lớp lớp kỹ sư, giảng viên, tiến sĩ, trong đó nhiều người trở thành những chuyên gia, nhà khoa học, cán bộ quản lý đầu ngành với những đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng và phát triển ngành Điện của nước nhà. Với cương vị và trách nhiệm của người đứng đầu trường đại học Bách khoa Hà Nội trong thời kỳ đầy khó khăn, thử thách đó, GS.TS.NGND Hiệu trưởng Hà Học Trạc đã kiên định cùng tập thể Ban lãnh đạo nhà trường vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước để tìm lối ra, hướng đi lên bằng cách đa dạng hóa các loại hình đào tạo, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và lao động sản xuất, mở rộng quan hệ quốc tế. Với những giải pháp có tính đột phá đó, nhà trường đã mở rộng được quy mô đào tạo, nâng cao hiệu quả ứng dụng khoa học-công nghệ, góp phần cải thiện đời sống của cán bộ, sinh viên, đồng thời tạo tiền đề cho nhà trường bước vào thời kỳ đổi mới. Là một nhà khoa học đầu ngành, GS.TS Hà Học Trạc đã chủ trì nhiều chương trình nghiên cứu lớn có tầm ảnh hưởng quốc gia, đặc biệt là trong lĩnh vực năng lượng. Cùng với các tập thể chuyên gia, GS.TS Hà Học Trạc cũng góp công, góp sức thực hiện tư vấn, phản biện nhiều luận chứng dự án đầu tư, đặc biệt là trong thời gian ông làm Chủ tịch Hội đồng Trung ương Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp hội Việt Nam).
1
null
Nguyễn Ngọc Trân (sinh ngày 06/01/1940) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa IX, X, XI. Ông thuộc đoàn đại biểu An Giang.. Ông quê quán ở Cù lao Giêng, xã Mỹ Hiệp, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Trong gần 30 năm nghiên cứu khoa học, ông đã có những công trình tiêu biểu về sông Mê Kông, vùng Đồng bằng sông Cửu Long... Ông cũng từng là nhà khoa học làm trong viện khoa học Toán của Pháp. Trong thời gian ở Pháp, từ năm 1959 đến năm 1976, ông tốt nghiệp Tiến sĩ cấp ba và Tiến sĩ Quốc gia Khoa học tại Đại học Sorbonne (Paris), là nghiên cứu viên tại Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu Khoa học (CNRS), Giáo sư đại học (Poitiers, Pháp).  Năm 1976 ông cùng gia đình về nước. Từ 1976 đến 1980 ông giảng dạy ở Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.Được công nhận Giáo sư tháng 5 năm 1980. Từ năm 1980 đến năm 1992, là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước. Từ 1983 - 1990, được Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, cử làm Chủ nhiệm chương trình khoa học cấp Nhà nước "Điều tra cơ bản tổng hợp vùng ĐBSCL"(CT 60 - 02, 60 - B).[2]. Ông là thành viên Hội đồng Chính sách Khoa học và Công nghệ Quốc gia, cơ quan tư vấn của Thủ tướng Chính phủ từ năm 1992. Ông đã có một số góp ý thẳng thắn vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 của Việt Nam, trong giai đoạn đưa ra xin ý kiến các tầng lớp nhân dân. Một số góp ý tiêu biểu của ông, như sau: Vợ ông, kỹ sư Phan Thị Hồng, là một trong năm sáng lập viên của Trường Đại học Hoa Sen, ủy viên Ban chấp hành, phó chủ tịch Hội Tin học Thành phố Hồ Chí Minh các nhiệm kỳ I, II, III. Con gái lớn của ông, tiến sĩ Nguyễn Hồng Vân, hiện đang công tác tại Pháp. Con gái út, tiến sĩ Nguyễn Hồng Phương, nguyên trưởng khoa CNTT trường Đại học Hoa Sen, Ủy viên Ban chấp hành Hội tin học Thành phố Hồ Chí Minh các nhiệm kỳ IV, V, Ủy viên Ban chấp hành Hội liên lạc Người Việt Nam ở nước ngoài, Giám đốc Đào tạo Trường Đại học FPT. Hiện nay chị là Giám đốc Đào tạo Viện Quản trị Kinh doanh FPT tại TPHCM. Học vấn. Ông học Trung học tại Trường Trung học Petrus Ký (nay là Trường THPT Lê Hồng Phong) và trường Trung học Chu Văn An tại Sàigòn. Ông cũng tốt nghiệp Tú Tài năm 1957. Thời đại học, ông học hai năm đầu tại trường Đại học Khoa học Sàigòn. Ông đạt chứng chỉ Toán Đại cương (1958), chứng chỉ Toán Vi Tích phân (1959). Ngoài ra, ông cũng đi du học và hoàn thành Cử nhân Toán tại Đại học Paris Sorbonne (1961). Sau khi hoàn thành bậc đại học ở Pháp, ông tiếp tục theo học Tiến sĩ cấp ba và bảo vệ luận văn Tiến sĩ cấp ba (1963) tại Đại học Sorbonne (Paris). Ngoài ra ông cũng bảo vệ Luận án Tiến sĩ Quốc gia Khoa học (1970) tại Đại học Paris VI, Pierre - Marie Curie. Giáo sư II, Tiến sĩ Khoa học Toán cơ Hoạt động khoa học, quản lý nhà nước. Tại Pháp: Nghiên cứu viên khoa học tại Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu Khoa học (CNRS) (1962 – 1970); Giảng viên rồi Giáo sư tại Đại học Poitiers (1970 – 1976). Năm 1976, ông cùng gia đình về nước. Từ 1976 đến 1980: giảng dạy ở Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 1979: Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. Tháng 5/1980: Ông được công nhận Giáo sư. Từ tháng 7/1980 đến tháng 9/1992, là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước. Từ 1983 – 1990: Chủ nhiệm chương trình khoa học cấp Nhà nước & Điều tra cơ bản tổng hợp vùng ĐBSCL(CT 60 - 02, 60 - B). [2] (Quyết định của Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp). Từ năm 1992 đến 2017: thành viên, rồi chuyên gia cao cấp của Hội đồng Chính sách Khoa học và Công nghệ Quốc gia, cơ quan tư vấn về khoa học và công nghệ của Thủ tướng Chính phủ. Từ năm 1992 – 1996, ông là Trương Ban Việt Kiều Trung ương, rồi Chủ nhiệm Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài, cơ quan thuộc Chính phủ, 1996 – 1997: Phó Chủ tịch chuyên trách Ủy ban Quốc gia tổ chức Hội nghị cấp cao Cộng đồng Pháp ngữ tại Hà Nội. Hoạt động đại biểu Quốc hội. Tháng 7/1992 – tháng 7/2007: là đại biểu Quốc Hội các khóa IX, X, XI, tỉnh An Giang. 1997 – 2007: được bầu Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc Hội. 1992 – 2007: là Chủ tịch Phân ban Việt Nam trong Liên minh Nghị viện Cộng đồng Pháp ngữ (AIPLF rồi APF). 1997 – 2007; Phân Ban Việt Nam được bầu vào Ban Chấp hành của APF. Ông được bầu Phó Chủ tịch của APF. Ông là ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam (1977-1994). Gia đình. Vợ: kỹ sư CNTT Phan Thị Hồng, là một trong năm sáng lập viên của Trường Đại học Hoa Sen, ủy viên Ban chấp hành, phó chủ tịch Hội Tin học Thành phố Hồ Chí Minh các nhiệm kỳ I, II, III (đã mất). Con gái lớn của ông, tiến sĩ Hóa Lý (Ecole Centrale Paris) Nguyễn Hồng Vân, hiện đang sống tại Pháp. Con gái út, tiến sĩ CNTT (U. Paris Creteil, CNAM) Nguyễn Hồng Phương, nguyên trưởng khoa CNTT trường Đại học Hoa Sen, Ủy viên Ban chấp hành Hội tin học Thành phố Hồ Chí Minh các nhiệm kỳ IV, V, Ủy viên Ban chấp hành Hội liên lạc Người Việt Nam ở nước ngoài, Giám đốc Đào tạo Trường Đại học FPT. Hiện nay chị là Giám đốc Đào tạo Viện Quản trị Kinh doanh FPT tại TPHCM. Đóng góp. Đóng góp Là đồng Chủ tịch trong các phiên họp của Ủy ban hỗn hợp liên chính phủ Việt Nam – Pháp về hợp tác văn hóa, khoa học và kỹ thuật, từ 1982 đến 1992 ông đã ký kết bốn dự án quan trọng: thành lập Trung tâm Dịch vụ Phân tích và Thực nghiệm tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hợp tác giữa INP Grenoble với ba trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, thành lập Trung tâm đào tạo Pháp – Việt về Quản lý (Centre de Formation franco-vietnamienne de Gestion, CFVG), và Chương trình đào tạo bác sĩ nội trú (FFI, Faisant Fonction d’Interne). Gắn bó trong gần 40 năm với đồng bằng sông Cửu Long, ông đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển bền vững của đồng bằng, cho việc ứng phó với các thách thức mà đồng bằng phải đối diện, toàn cầu (biến đổi khí hậu, toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập quốc tế), khu vực (khai thác nguồn nước sông Mekong từ thượng nguồn, trong đó có việc xây dựng các đập thủy diện trên dòng chính sông Mekong) và khai thác tài nguyên tại địa bàn. Ông đã có nhiều báo cáo khoa học được chú ý tại các hội nghị trong nước và quốc tế, trong đó có: "Mô phỏng dòng chảy sông Mekong từ Chiang Saen đến Tân Châu và Châu Đốc" (1995), "Tác động của biến đổi khí hậu lên đồng bằng sông Cửu Long và duyên hải miền Trung, Nhiệm vụ khoa học cần triển khai" (Đại học Huế, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, 2008), "Đồng bằng sông Cửu Long đối diện với thách thức kép của biến đổi khí hậu" (Hội nghị thường niên lần thứ 78 của Ủy ban Quốc tế về các Đập lớn, Hà Nội, 5.2010), "Châu thổ sông Mekong đối mặt với nguy cơ bị lún chìm và bị xâm thực" (Hội nghị quốc tế về tương tác đa trường và môi trường, trường Đại học Cửu Long, 09.03.2015), Mekong là một con sông quốc tế không thể chia cắt (Hà Nội 10.2018), Chuyển đổi kinh tế, sinh thái và xã hội vì sự phát triển bền vững. Trải nghiệm từ đồng bằng sông Cửu Long (Phú Yên, 5.2019), Evolution of water levels at coastal hydrological stations of the Mekong delta (ICEC 2018, Caen). Ông đã góp ý mang tính phản biện hai dự án được tài trợ quốc tế về đồng bằng sông Cửu Long: "Góp ý với Dự án "Kế hoạch châu thổ sông Mekong"" (do chuyên gia Hà Lan soạn thảo) (2012), và "Nhận xét báo cáo của Dự án Nghiên cứu tác động của các công trình thủy điện trên dòng chính sông Mekong" (MDS) do Viện Thủy Lợi Đan Mạch DHI, thực hiện, 2016). Ông cũng theo dõi và chỉ ra những lãng phí và tác hại đến môi trường trong nhiều dự án đầu tư công có liên quan đến đồng bằng sông Cửu Long. Ông đang góp ý mang tính phản biện dự án được tài trợ quốc tế Quy hoạch tổng thể vùng đồng bằng sông Cửu Long do Bộ Kế hoạch và Đầu tư phụ trách, Tư vấn là Tập đoàn Royal HaskoningDHV (Hà Lan) và GIZ (CHLB Đức). Ông cũng theo dõi và chỉ ra những lãng phí và tác hại đến môi trường trong nhiều dự án đầu tư công có liên quan đến đồng bằng sông Cửu Long. Ông đã xuất bản sách "Đồng bằng sông Cửu Long, Tài nguyên – Môi trường – Phát triển", báo cáo tổng hợp của Chương trình khoa học Điều tra cơ bản tổng hợp đông bằng sông Cửu Long do ông chủ biên (Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật nhà nước, Hà Nội, 3.1991); Contribution a la Francophonie a l’heure de la mondialisation, (Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội, 2001), "Một số vấn đề kinh tế toàn cầu hiện nay" (Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội, 2002, tái bản 2003), "Những hòn đá nhỏ vì sự phát triển bền vững" (Nhà xuất bản Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, 2011), "Về kỹ năng của người đại biểu dân cử" (Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội, 2016).   Một số bài viết từ năm 2012 đến nay được ông tuyển chọn và tập hợp tại Thư viên Trung Tâm, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Ông được cho là một đại biểu Quốc hội thảo luận, chất vấn thẳng thắn và xây dựng tai hội trường. Các cuộc giám sát mà ông đã chủ trì về ODA, về việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Nhà nước đã ký kết, về cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, về quy hoạch sử dụng đất được đánh giá là sâu sát. Đối với quê nhà, ông đã tài trợ để xây dựng một số cơ sở vật chất và cấp học bổng khoa học kỹ thuật hàng năm cho sinh viên học giỏi có hoàn cảnh gia đình khó khăn cho đến khi ra trường. Khen thưởng. Ông được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng Huân chương Kháng chiến chông Mỹ cứu nước hạng Nhì, Huân chương Lao Động hạng Nhất, Huân chương Độc lập hạng Nhì, Huân chương Đại đoàn kết dân tộc, và Kỷ niệm chương của Bộ Ngoại giao về những đóng góp với hai đoàn đàm phán trong thời gian Hội nghị Paris về Việt Nam. Ông đã nhận được những tặng thưởng nước ngoài: Officier de la Légion d’Honneur của Cộng hòa Pháp, Huân chương Lao động hạng Nhất của Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào, Commandeur rồi Grand Officier de la Pléiade, Ordre de la Francophonie. Tham khảo. 4 "Nhất Ngoạn, nhì Trân, tam Lân, tứ Quốc" – VietnamNet.vn 24.05.2004. 5 Chuyện về những đại biểu làm nên thương hiệu chất vấn - Báo Công An Nhân Dân, 29.11.2015 https://quochoi.vn/hoatdongdbqh/Pages/danh-sach-dai-bieu.aspx?ItemID=1867
1
null
Nguyễn Văn Tri (sinh 1946) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X. Ông thuộc đoàn đại biểu Thanh Hoá. Tên thường gọi: Nguyễn Văn Tri Ngày sinh: 30/12/1946 Giới tính: Nam Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Quê quán: Xã Quảng Yên, huyện Quảng Xương, Thanh Hoá Trình độ chuyên môn: Phó Tiến sĩ Kinh tế Nghề nghiệp, chức vụ: Uỷ viên Ban thường vụ tỉnh uỷ, Giám đốc Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường tỉnh Thanh Hoá, Uỷ viên Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Nơi làm việc: Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường tỉnh Thanh Hoá Nơi ứng cử: Thanh Hoá Đại biểu Quốc hội khoá: X Đại biểu chuyên trách: Không Đại biểu Hội đồng Nhân dân: Không
1
null
Hà Mạnh Trí ( 1 tháng 10 năm 1942 - 26 tháng 11 năm 2021) quê quán xã Đông Thọ, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình) là chính khách Việt Nam. Ông từng là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa IX, X, XI thuộc đoàn đại biểu Thái Bình. Ông là học viên những khóa đầu Trường Cao đẳng kiểm sát sau đó công tác trong ngành kiểm sát, từng giữ chức Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội (1986), Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân TP Hà Nội, Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao (1989 - 1992), Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội (1992 - 4-11-1996), Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao (4-11-1996 - 2007), Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VII khóa VIII, khóa IX. Năm 2007 ông được Nhà nước trao tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất . Ông từ trần tối 26-11 (tức ngày 22 tháng 10 năm Tân Sửu) tại Bệnh viện Hữu nghị Hà Nội, hưởng thọ 79 tuổi. Ông ra đi sau một thời gian 2 năm lâm bệnh viêm phổi.
1
null
Nguyễn Trung Trí (sinh 1963) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X. Ông thuộc đoàn đại biểu Tiền Giang. Tên thường gọi: Nguyễn Trung Trí Ngày sinh: 2/5/1963 Giới tính: Nam Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Quê quán: Xã Lương Hòa Lạc, huyện Chợ Gạo, Tiền Giang Trình độ chuyên môn: Kỹ sư Điện Nghề nghiệp, chức vụ: Kỹ sư Điện, Trưởng chi nhánh Điện lực huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang Nơi làm việc: Chi nhánh Điện lực huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang Nơi ứng cử: Tiền Giang Đại biểu Quốc hội khoá: X Đại biểu chuyên trách: Không Đại biểu Hội đồng Nhân dân: Không
1
null
Quách Đăng Triều (sinh 21/11/1938 tại xã Đại Lãnh, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam), là giáo sư,TSKH, nhà Hóa Học. Ông là Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X. Ông thuộc đoàn đại biểu Hà Nội.. Ông là giáo sư, tiến sĩ khoa học ngành Hóa Học của Việt Nam, là Danh nhân khoa họcThế kỷ Anh (2000), là Viện sĩ Viện hàn lâm khoa học New York (1995). Ông từng là Viện trưởng Viện hóa học (Viện Hàn lâm KHVN), Phó Chủ tịch Hội Hóa học Việt Nam. Quách Đăng Triều là Cử nhân Hóa học năm 1962, Tiến sĩ (ph.Dr) 1966, Tiến sĩ khoa học (Dr Sc) 1975. Ông đã từng giảng dạy tại nhiều trường đại học nổi tiếng trên thế giới như: - Berlin Humboldt University, 1972,1975,1990,2000. -WROCLAW Inst of chemistry, 1972, 1975, 2005 - Leningrad university 1971, 1973,1975,2003 - Institute of chem. Tech (Praha) 1980, 1985, 2003,2008 - University of Florida (Orlando), 2002, 2007 - Institute of physical chem (Sofia) 1976, 1980, 1995 - Kyoto Inst of Technology (Japan) 1992, 1993, 2004 - Director of Inst of Chem (1985- 1993) - Head of Chem. environment Laboratory of Institute of chemistry.(1995 - 2006) Hiện nay ông Giám đốc Trung tâm Hóa Học & môi trường (The Union of Chemical and Environmental Sience and Technology) thuộc Viện Hóa (Viện Hàn lâm KHVN).
1
null
Tô Quốc Trịnh (sinh 1946) là một Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông từng giữ chức vụ Phó Chánh Thanh tra Bộ Quốc phòng. Ông cũng là một đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X, thuộc đoàn đại biểu Quảng Ninh. Thân thế và sự nghiệp. Ông sinh ngày 28 tháng 8 năm 1946 tại  Xã Tây Giang, huyện Tiền Hải, Thái Bình Ông từng giữ chức Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh Quảng Ninh. Năm 2007, ông nghỉ hưu
1
null
Nguyễn Văn Tư (sinh năm 1936) là chính trị gia người Việt Nam. Ông từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X nhiệm kì 1997-2002 thuộc đoàn đại biểu Đồng Nai, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (1988-1998). Tiểu sử. Nguyễn Văn Tư có tên thường gọi là Nguyễn Văn Huấn sinh ngày 14 tháng 3 năm 1936 trong một gia đình công nhân ở phường 3, quận Gò Vấp, Liên Bang Đông Dương (hiện nay là Thành phố Hồ Chí Minh). Nguyễn Văn Tư khởi đầu sự nghiệp ở vị trí thợ nguội ở xưởng Quân giới Đồng Tháp Mười, sau đó ông theo học Đại học giao thông và có trình độ chuyên môn là Kỹ sư Cầu đường. Ra trường ông công tác ở Đội cầu Đường sắt 204. Ông từng đảm nhận nhiều chức vụ khác nhau như Trưởng ban Thiết kế Đường sắt Hà Nội, Phó trưởng ban thiết kế cơ bản Tổng cục đường sắt, Phó trưởng ban chỉ huy đường sắt phía nam, Phó trưởng ban chỉ huy cầu Hàm Rồng, Đò Lèn, Đường sắt Thống Nhất, Tổng cục phó, rồi Tổng cục trưởng Tổng cục Đường sắt, Thư kí Liên hiệp Công đoàn Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Văn Tư được bầu làm Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam nhiệm kì 1988-1993 tại Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ 6 họp từ ngày 17 đến ngày 20 tháng 10 năm 1988 tại thủ đô Hà Nội. Lúc này Nguyễn Văn Tư đang là Ủy viên Dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI. Sau đó, Nguyễn Văn Tư được bầu làm Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VII và tái đắc cử Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam nhiệm kì 1993-1998. Nguyễn Văn Tư còn là Ủy viên Ủy ban Kinh tế - Ngân sách của Quốc hội Việt Nam khóa X, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khoá X tỉnh Đồng Nai.
1
null
Lê Đức Tụ (sinh 1944) là một Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. nguyên Chánh án Tòa án Quân sự Trung ương, Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Ông cũng là một đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X, thuộc đoàn đại biểu Lai Châu. Thân thế và sự nghiệp. Ông sinh ngày 19 tháng 3 năm 1944 tại Xã Tàm Xá, huyện Đông Anh, TP Hà Nội Năm 1995, bổ nhiệm giữ chức Chánh án Tòa án Quân sự Trung ương, Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Năm 2006, ông nghỉ hưu. Thiếu tướng (2000)
1
null
Phêrô Phan Khắc Từ (sinh 1941) là linh mục Công giáo người Việt, thuộc Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh. Ông từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X, thuộc đoàn đại biểu Thành phố Hồ Chí Minh. Tiểu sử. Phan Khắc Từ là Tổng biên tập báo Công giáo và Dân tộc, Phó chủ nhiệm kiêm Tổng thư ký Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam, cơ quan này trực thuộc Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TPHCM. Ông nguyên là chánh xứ Vườn Xoài thuộc Tổng giáo phận TPHCM. Hiện, linh mục Phan Khắc Từ đã đảm nhận công tác mục vụ giáo xứ bởi lí do tuổi tác. Ông có nhiều đóng góp cho xã hội nhất là phương diện bác ái xã hội. Linh mục Phan Khắc Từ thành lập và coi sóc mái ấm Thiên Phước, nuôi dạy trẻ khuyết tật, bại não tại Củ Chi và tham gia nhiều chương trình, dự án xã hội khác.
1
null
Đặng Ngọc Tùng (sinh ngày 28 tháng 8 năm 1952) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X, 12, 13 Đồng Nai. Ông thuộc đoàn đại biểu Thành phố Hồ Chí Minh. Ông là nguyên Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Tiểu sử. Ông có quê quán ở Xã Nghĩa Hà, huyện Tư Nghĩa, Quảng Ngãi, người dân tộc Kinh, không tôn giáo. Ông có trình độ Tiến sỹ Kinh tế, cao cấp lý luận chính trị. Ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 9/5/1981. Từ 2011 đến 2016, ông là ĐBQH 13 tỉnh Đồng Nai, Ủy viên Ban chấp hành TW Đảng, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; Phó Chủ tịch liên hiệp công đoàn thế giới, Ủy viên Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội. Phát ngôn đáng chú ý. Ngày 02 tháng 6 năm 2014, liên quan đến việc Trung Quốc đưa dàn khoan Hải Dương 981 trái phép vào vùng biển Việt Nam, ông Đặng Ngọc Tùng phát biểu “Đây là bài học cho những ai còn mơ hồ về 16 chữ vàng, về 4 tốt”
1
null
Nguyễn Thị Tuyết (sinh 1948) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X. Bà thuộc đoàn đại biểu Cần Thơ. Tên thường gọi: Nguyễn Thị Tuyết (Tám Tuyết) Ngày sinh: 3/10/1948 Giới tính: Nữ Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Quê quán: Xã Xà Phiên, huyện Long Mỹ, Cần Thơ Trình độ chuyên môn: Cử nhân Luật Nghề nghiệp, chức vụ: Tỉnh uỷ viên, Phó Giám đốc Sở tư pháp tỉnh Cần Thơ Nơi làm việc: Sở tư pháp tỉnh Cần Thơ Nơi ứng cử: Cần Thơ Đại biểu Quốc hội khoá: X Đại biểu chuyên trách: Không Đại biểu Hội đồng Nhân dân: Không
1
null
Nguyễn Ty (sinh 1942) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X. Ông thuộc đoàn đại biểu Bắc Giang. Tên thường gọi: Nguyễn Ty Ngày sinh: 26/12/1942 Giới tính: Nam Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Quê quán: Xã Thọ Xương, thị xã Bắc Giang, Bắc Giang Trình độ chuyên môn: Phó tiến sĩ Kinh tế Nghề nghiệp, chức vụ: Phó chủ tịch Hội đồng Trung ương Liên minh các Hợp tác xã Việt Nam, Ủy viên Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội Nơi làm việc: Hội đồng Trung ương Liên minh các Hợp tác xã Việt Nam. Nơi ứng cử: Bắc Giang Đại biểu Quốc hội khoá: X Đại biểu chuyên trách: Không Đại biểu Hội đồng Nhân dân: Không
1
null
Phạm Quý Tỵ (sinh 1953) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X. Ông thuộc đoàn đại biểu Bắc Giang khoá XII. Hiện ông đang là giảng viên bộ môn Luật Hiến pháp tại trường Đại học Luật Hà Nội. Tiểu sử. Phạm Quý Tỵ sinh ngày 2 tháng 5 năm 1953, người dân tộc Kinh, không theo tôn giáo nào, quê quán tại xã Nham Sơn, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Ông có bằng Cử nhân Luật, Tiến sĩ Luật và bằng Cử nhân chính trị. Ngày 1/9/1972, ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Phạm Quý Tỵ từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 10 tỉnh Bắc Giang, Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang, Ủy viên Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội khóa 10. Lúc này trình độ của ông là Cử nhân Luật Phạm Quý Tỵ từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 11 thành phố Hà Nội, Chánh án Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, Uỷ viên Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội khóa 11. Lúc này trình độ của ông là Tiến sĩ Luật. Phạm Quý Tỵ từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 12 tỉnh Bình Dương (chuyên trách Trung ương),Phó chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội khóa 12. Lúc này ông có bằng Tiến sĩ luật.
1
null
Trần Thị Kim Vân (sinh 1959) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X. Bà thuộc đoàn đại biểu Bình Dương. Tên thường gọi: Trần Thị Kim Vân Ngày sinh: 29/12/1959 Giới tính: Nữ Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Quê quán: Xã Thới Thạnh, huyện Ô Môn, Cần Thơ Trình độ chuyên môn: Kỹ sư Thủy lợi Nghề nghiệp, chức vụ: Uỷ viên Ban thường vụ Tỉnh uỷ, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bình Dương, Uỷ viên Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội, Thư ký kỳ họp Quốc hội Nơi làm việc: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bình Dương Nơi ứng cử: Bình Dương Đại biểu Quốc hội khoá: X Đại biểu chuyên trách: Không Đại biểu Hội đồng Nhân dân: Không
1
null
Nguyễn Như Vĩ (sinh 1944) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X. Ông thuộc đoàn đại biểu Nghệ An. Tên thường gọi: Nguyễn Như Vĩ Ngày sinh: 21/10/1944 Giới tính: Nam Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Quê quán: Xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An Trình độ chuyên môn: Kỹ sư cơ điện Nghề nghiệp, chức vụ: Phó Bí thư tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh Nghệ An, Ủy viên Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội Nơi làm việc: Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An Nơi ứng cử: Nghệ An Đại biểu Quốc hội khoá: X Đại biểu chuyên trách: Không Đại biểu Hội đồng Nhân dân: Không
1
null
Nguyễn Xuân Viễn (sinh 1963) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X. Ông thuộc đoàn đại biểu Vĩnh Phúc. Tên thường gọi: Nguyễn Xuân Viễn Ngày sinh: 25/5/1963 Giới tính: Nam Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Quê quán: Xã Đạo Tú, huyện Tam Đảo, Vĩnh Phúc Trình độ chuyên môn: Đại học Thanh vận Nghề nghiệp, chức vụ: Huyện ủy viên, Bí thư huyện đoàn TNCS HCM huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc Nơi làm việc: Huyện đoàn TNCS HCM huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc Nơi ứng cử: Vĩnh Phúc Đại biểu Quốc hội khoá: X Đại biểu chuyên trách: Không Đại biểu Hội đồng Nhân dân: Không
1
null
Trần Đức Việt (sinh ngày 23 tháng 11 năm 1937) là một Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, kỹ sư luyện kim và chính trị gia người Việt Nam. Ông từng giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng Việt Nam. Ông cũng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X nhiệm kì 1997-2002, thuộc đoàn đại biểu Yên Bái, Ủy viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội khóa X. Xuất thân. Ông sinh ngày 23 tháng 11 năm 1937, người dân tộc Kinh, không theo tôn giáo nào. Ông có quê quán ở xã Vũ Yển, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.ref name="dbqh10"/> Giáo dục. Ông có trình độ chuyên môn là kĩ sư luyện kim. Sự nghiệp. Từ 1997 đến 2002, ông là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X nhiệm kì 1997-2002, thuộc đoàn đại biểu Yên Bái, Ủy viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Thiếu tướng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng và Kinh tế.
1
null
Phương Hữu Việt (sinh 1 tháng 7 năm 1964 tại xã Phú Lương, huyện Lương Tài, Bắc Ninh) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X, XI, XII, XIII thuộc đoàn Bình Dương. Tiểu sử. Tên thường gọi: Phương Hữu Việt Ngày sinh: ngày 1 tháng 7 năm 1964 Giới tính: Nam Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Quê quán: Trình độ chuyên môn: Kỹ sư Kinh tế Nơi ứng cử: TP Hà Nội Đại biểu Quốc hội khoá: X Đại biểu chuyên trách: Không Đại biểu Hội đồng nhân dân: Không Khóa XIII. là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X, XI, XII, XIII Tôn giáo: Không Quê quán: xã Phú Lương, huyện Lương Tài, Bắc Ninh Trình độ chuyên môn: Tiến sỹ Kinh tế Nghề nghiệp, chức vụ: Chủ tịch Hội hợp tác phát triển Kinh tế Việt Nam - Lào - Campuchia, Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Thương mại Cổ phần Việt Á, Chủ tịch Hội Doanh nghiệp Việt Nam - LB Nga, Ủy viên Ủy ban TWMTTQ Việt Nam, Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Nơi làm việc: 34B Hàn Thuyên, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội Ngày vào đảng: 7/5/1992 Nơi ứng cử: Bình Dương Đại biểu Quốc hội khoá: X,XI,XII,XIII Đại biểu chuyên trách: Không Đại biểu Hội đồng nhân dân: Không
1
null
Nguyễn An Vinh là một chính khách Việt Nam cự Bí thư tỉnh uỷ tỉnh Đắk Lắk (tháng 10-1999 đến tháng 02-2001), đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X thuộc đoàn đại biểu Đắc Lắk. Ngày sinh 6 tháng 7 năm 1940 tại Xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Năm 1975 vốn là Kỹ sư nông nghiệp cán bộ chỉ đạo sản xuất nông nghiệp từ chiến khu, khi Ty Nông-Lâm nghiệp được thành lập trên cơ sở Ban kinh tài chiến khu của tỉnh, ông phụ trách ty này. Rồi phó Ban Thường trực Ban Sản xuất tỉnh, Chánh Văn phòng của UBND cách mạng lâm thời tỉnh, Chủ tịch UBND thị xã Buôn Ma Thuột. Thời gian từ tháng 12-1979 đến tháng 12-1994, là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch UBND tỉnh. Tháng 5 năm 1996 làm Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Đắk Lắk, Ủy viên Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội, quyền chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk (1996-1999). Tháng 10-1999 tại Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ Đắk Lắk khóa XII làm Bí thư Tỉnh ủy. Đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Lắk từ khóa I đến khóa V; đại biểu Quốc hội khóa X.
1
null
Nguyễn Văn Vọng (sinh 23/10/1947) là đại biểu Quốc hội khóa IX thuộc đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Hà Bắc, và là đại biểu Quốc hội khóa X thuộc đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Giang. Tiểu sử. Ông Nguyễn Văn Vọng sinh ngày 23 tháng 10 năm 1947 trong một gia đình nông dân ở thôn Trung Hòa, xã Mai Trung, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Ông tốt nghiệp khoa Toán Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội năm 1970, sau đó dạy học ở Trường thanh niên lao động xã hội chủ nghĩa tỉnh Hòa Bình rồi chuyển về dạy ở khoa Lưu học sinh Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội. Từ năm 1977, ông làm nghiên cứu sinh của trường Đại học Tổng hợp Xôphia Bungari, đến năm 1981 nhận bằng Tiến sĩ Toán học. Từ đầu năm 1982, ông dạy học ở trường Cao đẳng Sư phạm Ngô Gia Tự Hà Bắc, đến cuối năm 1983 giữ chức vụ Phó Hiệu trưởng của trường. Từ năm 1991 là Phó Giám đốc, đến năm 1994 là Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Hà Bắc, năm 1997 làm Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bắc Giang. Ông là tỉnh ủy viên từ năm 1991, ủy viên Ủy ban nhân dân tỉnh từ năm 1994 đến năm 1998. Từ tháng 7 năm 1998 đến tháng 10 năm 2007 là Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tháng 1 năm 2008 ông được tặng Huân chương Độc lập hạng Ba. Sau khi nghỉ hưu, ông rời khỏi khu nhà công vụ ở Hoàng Cầu trở về quê nhà sinh sống. Ông tự làm cây cảnh, thiết kế nhà ở, vườn cây đá, tượng Phật Bà. Ngoài ra, ông còn sưu tầm biên soạn tài liệu Thư tịch cổ và làm Quy hoạch khu văn hóa tâm linh của làng. Ông cũng sáng tác thơ, viết sách. Năm 2012 có thơ Rơm vàng Đường gió, Nhà xuất bản Hội nhà văn; năm 2013 có sách Trạng nguyên Nguyễn xuân Chính, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
1
null
Linh Thị Xuân (sinh 1973) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X. Bà thuộc đoàn đại biểu Quảng Ninh. Tên thường gọi: Linh Thị Xuân Ngày sinh: 10/10/1973 Giới tính: Nữ Dân tộc: Dao Tôn giáo: Không Quê quán: Xã Đồn Đạc, huyện Ba Chẽ, Quảng Ninh Trình độ chuyên môn: Kỹ sư Chăn nuôi Nghề nghiệp, chức vụ: Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông huyện Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh, Ủy viên Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Nơi làm việc: Trung tâm khuyến nông huyện Ba Chẽ, Quảng Ninh Nơi ứng cử: Quảng Ninh Đại biểu Quốc hội khoá: X Đại biểu chuyên trách: Không Đại biểu Hội đồng Nhân dân: Không
1
null
Nguyễn Trường Xuân (sinh 1946) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X. Ông thuộc đoàn đại biểu Bạc Liêu. Tên thường gọi: Ngày sinh: Giới tính: Nam Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Quê quán: Phú Thọ Trình độ chính trị: Cao cấp Trình độ chuyên môn: Cao cấp Lý luận chính trị Nghề nghiệp, chức vụ: Đại tá, Uỷ viên Ban thường vụ tỉnh uỷ, Chỉ huy trưởng BCH Quân sự tỉnh Bạc Liêu Nơi làm việc: Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Bạc Liêu Nơi ứng cử: Bạc Liêu Đại biểu Quốc hội khoá: X Đại biểu chuyên trách: Không Đại biểu Hội đồng Nhân dân: Không
1
null
Nguyễn Thanh Yến (sinh 1951) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X. Bà thuộc đoàn đại biểu Bến Tre. Tên thường gọi: Nguyễn Thanh Yến Ngày sinh: 31/12/1951 Giới tính: Nữ Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Quê quán: Xã Phước Long, huyện Giồng Trôm, Bến Tre Trình độ chuyên môn: Đại học Kinh tế Nghề nghiệp, chức vụ: Phó Giám đốc Sở Lao động-Thương binh-xã hội tỉnh Bến Tre, Uỷ viên Uỷ ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội Nơi ứng cử: Bến Tre Đại biểu Quốc hội khoá: X Đại biểu chuyên trách: Không Đại biểu Hội đồng Nhân dân: Không
1
null
Các cuộc xâm lược của Mông Cổ đã được tiến hành trong suốt thế kỷ 13, kết quả là tạo ra một Đế quốc Mông Cổ vô cùng rộng lớn bao phủ phần lớn châu Á và Đông Âu. Đế quốc Mông Cổ đã nổi lên là một thế lực lớn trong thế kỷ 13 bằng hàng loạt các cuộc xâm chiếm và chinh phục suốt Trung và Tây Á, cho đến những năm 1240 đã chạm đến tận Đông Âu. Trung Á. Cuộc xâm lược Trung Á của Mông Cổ được tiến hành sau sự thống nhất các bộ lạc người Mông Cổ và Đột Quyết trên thảo nguyên Mông Cổ năm 1206. Chiến dịch xâm lược Trung Á hoàn thành sau khi Thành Cát Tư Hãn chinh phục Đế quốc Khwarizmian năm 1221. Chinh phục Siberia. Cuộc chinh phạt các bộ tộc ở Siberia được quân Mông Cổ thực hiện vào năm 1207 bởi con trai cả của Thành Cát Tư Hãn là Truật Xích. Hầu hết các bộ lạc ở Siberia bị người Mông Cổ chinh phục với rất ít sự kháng cự, ngoại trừ Yenisei Kyrgyz, những người đã đánh bại một lực lượng viễn chinh của Mông Cổ vào năm 1204, và phải mất vài năm để quân Mông Cổ có thể hoàn toàn khuất phục được họ. Tuva đã bị người Mông Cổ chinh phục vào năm 1207. Chinh phục Tây Liêu. Các dân tộc Duy Ngô Nhĩ (Uyghur), Cát La Lộc (Karluk), Đột Quyết (Turk) và Tháp Cát Khắc (Tajik) bản địa đã phục tùng người Mông Cổ. Năm 1210, Ba Nhi Truật A Nhi Thải Đích Cân (Baurchuk Art Tekin), người Duy Ngô Nhĩ, cai trị Cao Xương Hồi Cốt (Kara-Khoja), đã trình diện trước Đại hãn Mông Cổ và tuyên thệ đồng minh với người Mông Cổ. Ông ta được Thành Cát Tư Hãn gả một công chúa cho, và người Duy Ngô Nhĩ đã trở thành những chư hầu dưới quyền người Mông Cổ. Một lãnh đạo của người Cát La Lộc và người Khả Tát (Khazar), lãnh chúa của lưu vực sông Chuy, đã theo gương người Duy Ngô Nhĩ. Tây Liêu là nhà nước của người Khiết Đan thuộc triều đại Nhà Liêu, những người đã bị đánh đuổi ra khỏi miền bắc Trung Quốc bởi nhà Kim. Sau khi triều Liêu diệt vong, Gia Luật Đại Thạch suất dư chúng dời về phía tây, đến lưu vực sông Chuy ở Trung Á, lập ra Tây Liêu vào năm 1132. Họ thống trị Trung Á vào thế kỷ thứ 12 sau khi họ đánh bại nhà lãnh đạo vĩ đại của đế chế Seljuk là Ahmed Sanjar trong Trận Qatwan năm 1141. Sau khi hoàng đế Tây Liêu là Khuất Xuất Luật tấn công thành Almaliq (A Lực Ma Lý), người Cát La Lộc (Karluk) tại đây đã yêu cầu Thành Cát Tư Hãn giúp đỡ. Năm 1216, Thành Cát Tư Hãn cử tướng Triết Biệt (Jebe) đến truy kích Khuất Xuất Luật. Người Mông Cổ đầu tiên tới Almaliq, sau đó tiến vào kinh đô Balasaghun gần nơi họ đã đánh bại 30.000 quân Tây Liêu. Khuất Xuất Luật chạy về phía nam, tại đây, một nhóm thợ săn đã bắt ông và trao ông cho người Mông Cổ. Khuất Xuất Luật bị chặt đầu, và theo Nguyên sử, đầu ông bị bêu khắp lãnh thổ cũ của mình. Với cái chết của Khuất Xuất Luật, Đế quốc Mông Cổ đã bảo đảm được quyền kiểm soát đối với Tây Liêu. Người Mông Cổ hiện đang có một tiền đồn vững chắc ở Trung Á và biên giới của họ giờ đây đã tiếp giáp với Đế chế Khwarezm. Mối quan hệ với Khwarezm sẽ nhanh chóng bị phá vỡ, dẫn đến cuộc xâm lăng của người Mông Cổ vào Đế chế Khwarezm Mông Cổ xâm lược Khwarezmia (1219-1221). Sau khi Tây Liêu bị tiêu diệt, Đế quốc Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn đã tiến tới biên giới của Đế quốc Khwarezmia, do Shah Ala ad-Din Muhammad cai trị. Thành Cát Tư Hãn phái một đoàn lạc đà gồm 500 người Hồi giáo tới Khwarezmia để thiết lập mối quan hệ thương mại chính thức. Tuy nhiên, Inalchuq, người cai trị thành phố Otrar của Khwarezmia, đã bắt giam những thành viên người Mông Cổ của đoàn lạc đà, buộc tội đoàn này có âm mưu chống lại Khwarezmia. Thành Cát Tư Hãn khi đó đã phái một đoàn thứ hai gồm 3 sứ thần (một theo Hồi giáo và hai người Mông Cổ) tới gặp trực tiếp shah và yêu cầu thả tự do cho đoàn lạc đà ở Otrar, và người cai quản thành phố này phải bị trừng trị. Shah ra lệnh cạo đầu 2 người Mông Cổ và chém đầu người Hồi giáo, rồi trả lại cho Thành Cát Tư Hãn. Muhammad cũng ra lệnh xử tử đoàn lạc đà. Đây được coi là một sự sỉ nhục ghê gớm đối với Hãn, ông vốn luôn coi các sứ giả là "thiêng liêng và bất khả xâm phạm". Điều này dẫn tới việc Thành Cát Tư Hãn tấn công đế quốc Khwarezmia. Người Mông Cổ vượt dãy Thiên Sơn, tiến vào Đế quốc của Shah năm 1219. Mặc dù mệt mỏi sau cuộc hành quân, người Mông Cổ vẫn thắng trận đầu tiên. Một đội quân Mông Cổ, do Truật Xích (Jochi) chỉ huy, khoảng từ 25.000 đến 30.000 người, đã tấn công quân của Shah ở nam Khwarezmia và ngăn không cho đội quân này đẩy lui quân Mông Cổ vào sâu trong núi. Lực lượng chính của quân Mông Cổ, do Thành Cát Tư Hãn chỉ huy, tiến tới thành phố Otrar vào mùa thu năm 1219. Sau khi vây Otrar trong 5 tháng, quân của Hãn đã đột kích một cổng không được bảo vệ và tàn phá phần chính của thành phố. Sau đó một tháng, pháo đài của Otrar thất thủ. Inalchuq cố thủ đến giờ phút cuối cùng, thậm chí ông còn trèo lên đỉnh của pháo đài vào giờ phút cuối và ném đá vào quân Mông Cổ đang tiến vào. Thành Cát Tư Hãn giết rất nhiều người dân trong thành, số còn lại bị bắt làm nô lệ, Inalchuq bị xử tử và ông ta đã bị người Mông Cổ dùng vàng hay bạc nóng chảy rót vào họng để trả thù việc đoàn lạc đà của họ bị bắt. Thành Cát Tư Hãn phái tướng Triết Biệt (Jebe) chỉ huy một đội quân nhỏ tiến quân về phía nam, với ý định chặn đường rút lui của Shah đến nửa còn lại của vương quốc. Ngoài ra, Thành Cát Tư Hãn và Đà Lôi (Tolui), chỉ huy một đội quân khoảng 50.000 người, đi vòng qua Samarkand và tiến về phía tây để bao vây thành phố Bukhara trước. Để làm được điều này, họ đã phải thực hiện một công việc có vẻ bất khả thi là vượt qua sa mạc Kyzyl Kum bằng việc đi từ ốc đảo này đến ốc đảo khác, dưới sự dẫn đường của những dân du mục bị họ bắt. Người Mông Cổ đã đến được cổng thành Bukhara trong khi gần như là không bị phát hiện. Quân đồn trú ở Bukhara bao gồm lính người Turk chỉ huy bởi các tướng người Turk, những người này đã cố phá vây vào ngày thứ ba của cuộc bao vây. Nhưng lực lượng phá vây này, có thể gồm 20.000 người, đã bị tiêu diệt trong trận chiến. Các lãnh đạo thành phố sau đó đã mở cổng cho quân Mông Cổ, mặc dù một đơn vị phòng thủ người Turk đã cố thủ trong pháo đài của thành phố trong 12 ngày tiếp theo. Những người sống sót trong pháo đài bị xử tử, nghệ nhân và các thợ thủ công bị chuyển về Mông Cổ, nam thanh niên không tham chiến bị bắt gia nhập quân Mông Cổ và những người dân còn lại thì bị bắt làm nô lệ. Khi quân Mông Cổ cướp phá thành phố, một ngọn lửa bùng phát và san bằng gần như toàn bộ thành phố. Thành Cát Tư Hãn triệu tập người dân đến ngôi đền Hồi giáo chính của thị trấn, ở đó ông tuyên bố rằng ông là liên gia (cái neo dùng để đập lúa) của Thượng đế, được cử xuống để trừng phạt họ vì những tội ác họ gây ra trước đó, và sau đó ông ra lệnh xử tử tất cả bọn họ. Sau khi Bukhara thất thủ, Thành Cát Tư Hãn tiến quân tới kinh đô của Khwarezmia là Samarkand vào tháng 3 năm 1220. Samarkand được tổ chức phòng thủ tốt hơn nhiều với khoảng 100.000 quân. Khi Thành Cát Tư Hãn bắt đầu vây thành, các con trai ông là Sát Hợp Đài (Chaghatai) và Oa Khoát Đài (Ogedei) cũng đến hợp quân với ông sau khi chinh phục xong Otrar, và quân Mông Cổ bắt đầu tấn công thành phố. Quân Mông Cổ sử dụng tù nhân làm lá chắn. Vào ngày thứ ba của cuộc chiến, quân đồn trú ở Samarkand mở một cuộc phản công. Giả vờ rút lui, Thành Cát Tư Hãn đã lừa khoảng 50.000 quân ra ngoài pháo đài của Samarkand và tiêu diệt họ trong trận chiến. Shah Muhammad cố gắng giải vây thành phố 2 lần, nhưng đều bị đẩy lui. Vào ngày thứ năm, ngoại trừ khoảng 2.000 lính, số còn lại đã đầu hàng. Những người lính còn lại, trung thành đến chết với Shah, đã cố thủ trong pháo đài. Sau khi pháo đài thất thủ, Thành Cát Tư Hãn đã nuốt lời hứa với những người đầu hàng và xử tử tất cả những người lính chống lại ông ở Samarkand. Người dân ở Samarkand được lệnh sơ tán và tập trung ở một khu đất trống ngoài thành phố, ở đó họ bị tàn sát và đầu của họ được chất thành một hình kim tự tháp như là biểu tượng chiến thắng của người Mông Cổ Cuộc tấn công vào Urgench là trận chiến khó khăn nhất của quân Mông Cổ từ đầu cuộc chiến. Thành phố được xây dựng dọc sông Amu Darya trong một vùng đồng bằng nhiều đầm lầy. Đất mềm vốn không phải là điều kiện thuận lợi cho việc vây thành, và các máy bắn đá bị thiếu đá. Mặc dù vậy, quân Mông Cổ vẫn tấn công, và thành chỉ thất thủ sau một trận chiến ác liệt với quân phòng thủ kiên cường, giành giật từng khối nhà một. Thương vong của quân Mông Cổ cao hơn bình thường, do các chiến thuật của quân Mông Cổ không phù hợp với việc chiến đấu trong thành phố. Như thường lệ, các nghệ nhân bị bắt đưa về Mông Cổ, phụ nữ trẻ và trẻ em bị bắt làm nô lệ cho lính Mông Cổ, còn lại thì bị thảm sát. Học giả Ba Tư là Juvayni ghi lại rằng mỗi một người lính Mông Cổ được giao nhiệm vụ hành quyết 24 người Urgench, có khoảng 50.000 lính Mông Cổ tức là khoảng 1,2 triệu người bị giết. Có thể đây chỉ là con số phóng đại, nhưng cuộc cướp bóc ở Urgench vẫn được coi là một trong những vụ thảm sát đẫm máu nhất trong lịch sử loài người. Sau đó, đến lượt thành phố Gurjang phía nam biển Aral, bị phá hủy. Để bắt thành phố phải đầu hàng, người Mông Cổ đã phá đập để làm ngập thành phố, sau đó xử tử những người sống sót. Khi quân Mông Cổ tiến quân đến Urgench, Thành Cát Tư Hãn đã phái con út của mình là Đà Lôi (Tolui) chỉ huy một đội quân tiến về tỉnh Khorasan ở phía tây của đế quốc Khwarezmia. Những thành phố đầu tiên thất thủ là Termez và Balkh. Thành phố chính thất thủ trước quân của Đà Lôi là Merv. Trong 6 ngày, Đà Lôi bao vây thành phố, và đến ngày thứ bảy, ông ta tấn công. Ngày hôm sau, thành chủ của thành phố đầu hàng với lời hứa của Đà Lôi sẽ đảm bảo mạng sống cho cư dân. Tuy nhiên, ngay khi nắm quyền kiểm soát thành phố, Đà Lôi tàn sát hầu hết những người đầu hàng, trong một cuộc thảm sát thậm chí có thể còn lớn hơn cuộc thảm sát ở Urgench. Sau khi công hạ Merv, Đà Lôi tiến về phía tây, tấn công các thành phố Nishapur và Herat. Nishapur thất thủ chỉ sau 3 ngày; ở đây, Thoát Hốt Sát Nhi (Tokuchar), con rể của Thành Cát Tư Hãn bị tử trận, và Đà Lôi giết tất cả những sinh vật sống trong thành phố, không tha cả chó và mèo, với vợ góa của Tokuchar làm chủ trì cuộc giết chóc. Sau khi Nishapur thất thủ, Herat đầu hàng không kháng cự và được tha chết. Với trường hợp những người Bamia ở Hindukush thì lại là một cảnh giết chóc khác, sự kháng cự mạnh mẽ ở đây đã khiến cho một cháu trai của Thành Cát Tư Hãn tử trận. Tiếp theo là các thành phố Toos và Mashad. Đến mùa xuân năm 1221, tỉnh Khurasan đã hoàn toàn nằm trong tay quân Mông Cổ. Để một lượng quân đồn trú ở lại, Đà Lôi quay trở lại phía đông để hội quân với cha ông ta. Sau khi chiến dịch của quân Mông Cổ kết thúc ở Khurasan, quân đội của Shah đã tan rã. Jalal ad-Din Mingburnu, người kế vị sau cái chết của Shah, bắt đầu tập hợp tàn quân ở phía nam, trong vùng thuộc Afghanistan ngày nay. Thành Cát Tư Hãn phái các lực lượng truy lùng quân đội do Jalal al-Din tập hợp, và hai bên chạm trán ở thị trấn Parwan vào mùa xuân năm 1221. Cuộc đụng độ này là một thất bại nhục nhã đối với các lực lượng Mông Cổ. Thành Cát Tư Hãn nổi giận, tự mình cầm quân tiến về phía nam, và tiêu diệt quân của Jalal al-Din trên sông Ấn. Sau khi những trung tâm đối kháng còn lại bị tiêu diệt, Thành Cát Tư Hãn trở lại Mông Cổ, đặt một đội quân đồn trú Mông Cổ ở lại. Sự phá hủy và sáp nhập Đế quốc Khwarezmia là một nguy cơ đối với thế giới Hồi giáo, cũng như đối với Đông Âu. Vùng đất mới này là một bàn đạp quan trọng cho quân Mông Cổ dưới thời Oa Khoát Đài, con trai Thành Cát Tư Hãn, để ông ta xâm lược Rus Kiev và Ba Lan, và những chiến dịch sau này đã đưa quân Mông Cổ tới tận Áo, biển Baltic và Đức. Đối với thế giới Hồi giáo, sự sụp đổ của Khwarezmia đã mở đường cho quân Mông Cổ tiến vào Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ và Syria. Cả ba nhà nước này đều bị các Hãn về sau chinh phục. Tây Á. Người Mông Cổ đã sử dụng vũ lực hoặc ngoại giao để chinh phục toàn bộ các vùng đất thuộc Iran, Iraq, Kavkaz ngày nay cùng với một phần lãnh thổ của Syria và Thổ Nhĩ Kỳ. Các cuộc tấn công của Mông Cổ tiếp tục hướng về phía nam tới Palestine, họ thậm chí đã tiến quân tới tận Gaza vào các năm 1260 và 1300. Những trận đánh lớn bao gồm cuộc Bao vây Baghdad (1258), khi quân Mông Cổ thuộc Hãn quốc Y Nhi và đồng minh tiến hành bao vây, chiếm lĩnh và cướp phá Baghdad thủ đô của Đế quốc Abbas, và Trận Ain Jalut trong năm 1260, khi quân Mamluk Ai Cập do Sultan Qutuz chỉ huy đã đập tan đạo quân Mông Cổ và giết chết đại tướng Mông Cổ Kit-buqa, đánh dấu chiến thắng đầu tiên của người Ả Rập Hồi giáo trước quân xâm lược Mông Cổ, qua đó ngăn chặn được một cuộc tấn công vào Ai Cập và Bắc Phi của người Mông Cổ. Chinh phục Caucasus và Tiểu Á. Đế chế Mông Cổ lần đầu tiên hiện diện ở Kavkaz vào năm 1220 khi các tướng Tốc Bất Đài và Triết Biệt truy đuổi Muhammad II của Khwarezm sau khi quân Mông Cổ vừa hủy diệt Đế chế Khwarezmia. Sau một loạt các cuộc tấn công, quân Mông Cổ đã đánh bại một đội quân kết hợp gồm 10.000 binh lính người Gruzia và Armenia trong trận Khunan. Tuy nhiên, các chỉ huy Mông Cổ không thể tiến sâu hơn vào vùng Caucasus vào thời điểm đó do họ đang vướng bận trong cuộc chiến chống lại tàn quân của Đế chế Khwarezmia. Một cuộc chinh phạt thực sự của người Mông Cổ vào vùng Caucasus và miền đông Tiểu Á bắt đầu vào năm 1236, kết quả là Vương quốc Gruzia, Hồi quốc Rum của người Thổ Seljuk và Đế chế Trebizond đã bị người Mông Cổ khuất phục hoàn toàn, còn Vương quốc Cilicia của người Armenia và các quốc gia Thập tự chinh khác trong khu vực cũng đã tự nguyện chấp nhận trở thành chư hầu của Mông Cổ. Bao vây Baghdad. Năm 1257, Mông Kha quyết tâm mở rộng lãnh thổ của đế chế vào các vùng đất Lưỡng Hà, Syria, và Iran. Đại hãn cho em trai là Húc Liệt Ngột quyền lực đối với một hãn quốc phụ thuộc là Y Nhi, chỉ thị phải buộc các quốc gia Hồi giáo phải quy phục, trong đó có Đế quốc Abbas. Mặc dù không tìm cách phế truất Al-Musta'sim, song Mông Kha lệnh cho Húc Liệt Ngột tàn phá Baghdad nếu Khalip từ chối các yêu sách về đích thân quy phục Húc Liệt Ngột và nộp cống dưới hình thức viện trợ quân sự, nhằm củng cố quân đội của Húc Liệt Ngột trong các chiến dịch chống lại các quốc gia Ismaili tại Iran ngày nay. Để chuẩn bị cho xâm chiếm, Húc Liệt Ngột gây dựng một lực lượng viễn chinh lớn, bắt mỗi một trong mười nam giới trong độ tuổi đi lính trên toàn Đế quốc Mông Cổ, tập hợp được một đạo quân Mông Cổ có thể là đông đảo nhất từng tồn tại với một ước tính cho là 150.000. Các tướng quân của đạo quân gồm Arghun Agha, Baiju, Buqa Temür, Quách Khản, và Kitbuqa, Sunitai và nhiều người khác. Lực lượng cũng được bổ sung từ quân Cơ Đốc giáo, bao gồm của Quốc vương Armenia, một đạo quân Frank từ Thân vương quốc Antioch, và một lực lượng Gruzia tìm cách báo thù người Abbas Hồi giáo vì các shah của Khwarazm cướp phá thủ đô Tiflis nhiều thập niên trước. Khoảng 1.000 pháo thủ người Hán tháp tùng quân đội Mông Cổ, cùng với đó là các lực lượng phụ trợ người Ba Tư và Đột Quyết theo như lời của sử gia Ba Tư đương đại Ata-Malik Juvayni. Húc Liệt Ngột dẫn quân đến Iran, tại đây ông thắng lợi trong chiến dịch chống người Lur, Bukhara, và dư đảng của Khwarezm. Sau khi chinh phục họ, Húc Liệt Ngột chuyển hướng chú ý sang Hashshashin dòng Ismaili và Đại sư của họ là Imam 'Ala al-Din Muhammad, những người nỗ lực ám sát Mông Kha và thuộc hạ của Húc Liệt Ngột là Khiếp Đích Bất Hoa (Kitbuqa). Mặc dù Hashshashin thất bại trong cả hai nỗ lực, song Húc Liệt Ngột vẫn tiến quân đến thành trì của họ tại Alamut, và chiếm được thành. Người Mông Cổ sau đó hành quyết Đại sư Imam Rukn al-Dun Khurshah, là người kế nhiệm 'Ala al-Din Muhammad trong thời gian 1255-1256. Sau khi đánh bại Hashshashin, Húc Liệt Ngột gửi tin cho Al-Musta'sim, yêu cầu chấp thuận yêu sách do Mông Kha áp đặt. Al-Musta'sim từ chối, phần lớn là do tác động của người cố vấn và đại tể tướng là Ibn al-Alkami. Các sử gia quy những động cơ khác nhau khiến al-Alkami phản đối quy phục, bao gồm phản bội và thiếu năng lực, và có vẻ là ông nói dối với Khalip về mức độ nghiêm trọng của cuộc xâm lăng, quả quyết với Al-Musta'sim rằng nếu thủ đô của đế quốc gặp nguy hiểm trước một đội quân Mông Cổ, thế giới Hồi giáo sẽ lao đến cứu viện. Al-Musta'sim hồi đáp các yêu cầu của Húc Liệt Ngột theo cách thức mà khiến cho tư lệnh người Mông Cổ cảm thấy sự hăm dọa và xúc phạm đủ để ngừng tiếp tục thương lượng, song ông từ chối tập hợp quân đội để hỗ trợ lực lượng hiện hữu tại Baghdad, cũng không gia cố tường thành. Đến ngày 11 tháng 1, quân Mông Cổ đến khu vực lân cận thành, đóng hai bên bờ sông Tigris nhằm tạo thành một gọng kìm quanh thành phố, và Al-Musta'sim cuối cùng quyết định đối đầu với quân Mông Cổ, phái một đạo quân gồm 20.000 kị binh đi tấn công. Đội kị binh chịu thất bại quyết định trước quân Mông Cổ, các công trình sư của Mông Cổ phá đê dọc sông Tigris và làm ngập khu vực ở phía sau quân Abbas, đánh bẫy họ. Ngày 29 tháng 1, quân Mông Cổ bắt đầu bao vây Baghdad, xây dựng một hàng rào chấn song và một hào quanh thành phố. Người Mông Cổ sử dụng các dụng cụ công thành và máy lăng đá, nỗ lực chọc thủng tường thành, và đến ngày 5 tháng 2 thì họ chiếm được một bộ phận quan trọng của thành lũy. Nhận thấy rằng quân của mình ít có cơ hội tái chiếm tường thành, Al-Musta'sim nỗ lực khai thông thương lượng với Húc Liệt Ngột, song bị cự tuyệt. Khoảng 3.000 quý tộc Baghdad cũng nỗ lực thương lượng với Húc Liệt Ngột song họ bị tàn sát. Năm ngày sau đó, tức 10 tháng 2, thành Baghdad đầu hàng, song người Mông Cổ không vào thành cho đến ngày 13, bắt đầu một tuần tàn sát và tàn phá. Trong tuần sau đó, quân Mông Cổ cướp phá Baghdad, có nhiều hành động tàn bạo và phá hủy các thư viện đại quy mô của Abbas. Quân Mông Cổ hành quyết Al-Musta'sim và tàn sát nhiều cư dân trong thành, khiến dân số Baghdad giảm rất nhiều. Cuộc bao vây được cho là đánh dấu kết thúc Kỷ nguyên hoàng kim của Hồi giáo Xâm lược Syria. Năm 1255, Húc Liệt Ngột tìm cách mở rộng lãnh thổ của Đế chế vào vùng Trung Đông theo lệnh của anh trai ông, Mông Kha. Đội quân của Húc Liệt Ngột đã khuất phục nhiều dân tộc trong chiến dịch này, đáng chú ý nhất là trung tâm của Đế quốc Hồi giáo, Baghdad, đã bị quân Mông Cổ hủy diệt hoàn toàn vào năm 1258, dẫn tới sự diệt vong của đế quốc Abbas. Từ đây, quân Mông Cổ bắt đầu tiến vào Syria. Vào năm 1260, Ai Cập đang được cai trị bởi triều đại Bahri của người Mamluks, trong khi hầu hết vùng Levant (ngoài các quốc gia Thập tự chinh) thì đang nằm dưới sự kiểm soát của triều đại Ayyubid. Về phần mình, người Mông Cổ đã liên kết với các lực lượng chư hầu Kitô giáo của họ trong khu vực: bao gồm người Gruzia; đội quân Cilician Armenia dưới thời vua Hethum I, Quốc vương Armenia; và Franks of Bohemond VI của Antioch. Trong những gì được mô tả bởi các nhà sử học thế kỷ 20 René Grousset và Lev Gumilev là "cuộc thập tự chinh màu vàng" (Croisade Jaune), lực lượng kết hợp này đã chiếm được thành phố Aleppo, và sau đó vào ngày 1 tháng 3 năm 1260, Tướng quân Mông Cổ là Kitbuqa chiếm được Damascus. Vị vua cuối cùng của Ayyubid, An-Nasir Yusuf, đã bị quân Mông Cổ bắt giữ gần Gaza năm 1260. Với việc Baghdad và Syria rơi vào tay người Mông Cổ, trung tâm quyền lực của Thế giới Hồi giáo được chuyển đến thành phố Cairo của người Mamluk. Trận Ain Jalut. Năm 1260, lần lượt các thành trì của người Hồi giáo là Aleppo, Baghdad, Damascus, Nablus và Gaza đều rơi vào tay quân Mông Cổ. Giờ đây niềm hi vọng cuối cùng của thế giới Hồi giáo chính là xứ Ai Cập, lúc này do Quốc vương của Mamluk Sultanate là Qutuz trị vì Đầu năm 1260, Húc Liệt Ngột cho sứ giả đến gặp Qutuz gửi cho Quốc vương một bức thư đầy mùi hăm dọa: Qutuz phân vân một lúc và bỏ vào trướng trong cùng các tướng lĩnh Mamluk, để lại sứ giả Mông Cổ với nụ cười mỉm trên môi. Qutuz thừa nhận rằng, quân đội của ông chẳng là gì so với Mông Cổ, các tướng lĩnh cũng đồng tình như vậy nhưng đột ngột, vị Quốc vương dũng cảm nói: “"Ai Cập cần một chiến binh làm vua. Nếu không ai theo, một mình ta sẽ đi và đương đầu với quân Tatars"”. Qutuz gầm lên một tiếng, cho quân lính bắt giữ sứ thần Mông Cổ, ra lệnh chém ngang lưng, cắt đầu và treo lên cổng Zuwila tại Cairo. Với người Mông Cổ, sứ thần là nhân vật được tôn trọng và đối xử rất tốt cho dù 2 nước có đang chiến tranh, hành động này của Qutuz là không thể tha thứ được. Do đó, quyết định về cuộc chiến tranh giữa Mamluk Sultanate và Mông Cổ đã được định đoạt . Ngày 3/9/1260, Khiếp Đích Bất Hoa dẫn 20.000 quân Mông Cổ về phía Tây, vượt qua Jordan tiến về ngọn đồi cao hướng xuống bình nguyên Esdraelon. Cùng lúc đó, 20.000 quân Mamluk do Qutuz chỉ huy thiết lập thế trận tại Ain Jalut. Baibars - tướng lĩnh của Qutuz xua quân đánh trực diện với quân của Khiếp Đích Bất Hoa ngay tại Ain Jalut. Tưởng rằng đó là toàn bộ quân Mamluk, vị tướng Mông Cổ tự mình dẫn quân đánh thẳng. Baibars đột ngột rút lui và quân Mông Cổ thừa thắng xông lên. Người Mông Cổ rơi vào cái cái bẫy mà chính họ rất hay sử dụng: Giả vờ thua trận. Khi đến vùng trũng, Qutuz ra lệnh cho đội kỵ binh Mamluk tấn công vào cánh của quân Mông Cổ. Đến lúc này, trận chiến mới thực sự bắt đầu. Khiếp Đích Bất Hoa là một tướng tài, ông không dễ dàng bị lung lay vì cuộc tấn công bất ngờ đó, ngay lập tức ông chỉ huy một đạo kỵ binh khác vòng sang tấn công cánh trái của quân Mamluk, gần như xé nát cánh này nếu như không có sự xuất hiện của Qutuz. Vị quốc vương đáng kính vứt bỏ mũ xuống đất và hô lớn 3 tiếng “Ôi đạo Hồi ơi”, điều kỳ diệu đã xảy ra, cánh trái của quân Mamluk bỗng dưng trở nên sắt đá lạ thường. Ngay sau đó, Qutuz tự mình thống lĩnh đội kỵ binh phá tan nát cánh quân Mông Cổ này. Đối diện với thất bại khó tin ngay trên chiến trường trực diện - nơi chưa bao giờ Mông Cổ thất bại, Khiếp Đích Bất Hoa vẫn bình tĩnh lạ thường. Khi người hầu cận của ông khuyên bỏ chạy, vị tướng này đã nói: “"Chúng ta sẽ chết ở đây và như thế là hết. Chúc Đại Hãn trường thọ an vui"”. Khiếp Đích Bất Hoa chiến đấu tới cùng cho đến khi bị một mũi tên bắn trúng ngựa và ngã xuống đất. Giữa trận chiến, người ta bắt sống ông và giải đến trước Qutuz. Mất đi thủ lĩnh, quân Mông Cổ như rắn mất đầu và dần dần bị đánh tan tác. Khiếp Đích Bất Hoa bị xử trảm và treo đầu lên cổng thành Cairo, đánh dấu chiến thắng quân Mông Cổ của Ai Cập. Chiến thắng của quân Ai Cập đã khiến cho Mông Cổ mãi bao nhiêu năm sau đó vẫn không thể thâm nhập sâu hơn vào vùng đất Hồi giáo. Sau sự kiện Đại Hãn Mông Kha chết, Đế chế Mông Cổ không còn là một khối thống nhất, dẫn đến việc họ không thể tập trung vào sự nghiệp chinh phạt như trước. Chiến thắng này không chỉ cứu một nước khỏi họa diệt vong và nô lệ mà còn cứu cả thế giới đạo Hồi vào thời điểm đó. Có thể nói, trận đánh tại Ain Jalut đã thay đổi toàn bộ lịch sử thế giới, mà có thể, ảnh hưởng đến tận chiến sự Trung Đông ngày nay. Đông Á. Thành Cát Tư Hãn và các hậu duệ của ông đã thôn tính hoàn toàn Trung Quốc khi tiêu diệt cả ba nước là Kim, Tây Hạ và Nam Tống cùng với Vương quốc Đại Lý, buộc Cao Ly trở thành nước chư hầu sau chiến tranh Mông Cổ – Cao Ly. Người Mông Cổ cũng đã cố xâm lược Nhật Bản, Java và Đại Việt nhưng bất thành. Thành tựu lớn nhất của họ là đã thiết lập nhà Nguyên của người Mông Cổ trên đất Trung Hoa vào năm 1271, dù rằng sau này người Hán do Chu Nguyên Chương lãnh đạo đã lật đổ ách thống trị của Nguyên Mông năm 1368 và lập ra nhà Minh. Mông Cổ cũng đã xâm lược Miến Điện vào các năm 1277, 1283 và 1287. Mông Cổ xâm lược Cao Ly. Chiến tranh Mông Cổ - Cao Ly (1231 - 1273) là cuộc xâm lăng Vương quốc Cao Ly (vương triều cai trị bán đảo Triều Tiên từ năm 918 đến năm 1392) của Đế quốc Mông Cổ. Cuộc chiến bao gồm 6 chiến dịch lớn của quân Mông Cổ gây thiệt hại nặng nề cho thường dân khắp bán đảo Triều Tiên. Kết quả cuối cùng, Cao Ly đã đầu hàng và trở thành một nước chư hầu của Mông Cổ trong khoảng 80 năm. Mông Cổ xâm lược Trung Quốc. Chinh phục Tây Hạ. Năm 1209, Thành Cát Tư Hãn đã thực hiện một chiến dịch lớn để bảo đảm sự phục tùng của Tây Hạ. Sau khi đánh bại một lực lượng do Cao Lương Hứa lãnh đạo, Thành Cát Tư Hãn chiếm được Ô Hải và tiếp tục tiến dọc theo sông Hoàng Hà, chiếm được một số thành trì và bao vây thủ đô của Tây Hạ là Ngân Xuyên. Người Mông Cổ vào thời điểm này còn thiếu kinh nghiệm trong chiến tranh bao vây, họ đã cố gắng làm ngập thành Ngân Xuyên bằng cách chuyển hướng sông Hoàng Hà, nhưng những con đê mà họ dựng lên để thực hiện kế sách này bị vỡ, làm ngập trại đóng quân của chính họ. Tuy vậy, Hoàng đế Tây Hạ là Lý An Toàn, do bị người Mông Cổ đe dọa và không nhận được sự cứu trợ từ nhà Kim, đã đồng ý phục tùng sự cai trị của Mông Cổ và thể hiện lòng trung thành của mình bằng cách gả con gái cho Thành Cát Tư Hãn. Sau thất bại của họ vào năm 1210, Tây Hạ đã trở thành chư hầu trung thành của Đế quốc Mông Cổ trong gần một thập kỷ, giúp đỡ người Mông Cổ trong cuộc chiến chống lại nước Kim. Năm 1219, Thành Cát Tư Hãn đã phát động chiến dịch chống lại đế quốc Khwarazmian ở Trung Á và yêu cầu viện trợ quân sự từ Tây Hạ. Tuy nhiên, hoàng đế và chỉ huy quân sự của Tây Hạ đã từ chối tham gia chiến dịch. Tức giận, Thành Cát Tư Hãn thề sẽ trả thù Tây Hạ rồi đem quân đi đánh Khwarazm, trong khi Tây Hạ cố gắng liên minh với Kim và Nam Tống để chống lại quân Mông Cổ. Sau khi đánh bại Khwarazm vào năm 1221, Thành Cát Tư Hãn đã chuẩn bị quân đội của mình để trừng phạt Tây Hạ vì sự phản bội của họ, và vào năm 1225, ông đem quân tấn công Tây Hạ cùng một lực lượng khoảng 180.000 quân. Sau khi chiếm được Khara-Khoto, quân Mông Cổ bắt đầu tiến về phía nam. Thành Cát Tư Hãn chia đội quân của mình làm hai và phái tướng Oa Khoát Đài tiến đánh các thành phố phía tây, trong khi đạo quân chính do Thành Cát Tư Hãn thống lĩnh tiến đánh về phía đông, xâm nhập vào trung tâm của nước Tây Hạ và chiếm lấy Cám Châu. Vào tháng 8 năm 1226, quân đội Mông Cổ đã tiếp cận Vũ Uy, thành phố lớn thứ hai của Tây Hạ. Người đứng đầu thành Vũ Uy đã ra lệnh đầu hàng mà không kháng cự. Vào mùa thu năm 1226, Thành Cát Tư Hãn chiếm Lương Châu, băng qua sa mạc Helan Shan và vào tháng 11 bao vây thành Linh Vũ, chỉ còn cách Ngân Xuyên 30 km. Tại đây, trong Trận chiến sông Hoàng Hà, quân Mông Cổ đã tiêu diệt một lực lượng gồm 300.000 quân Tây Hạ đang cố gắng phát động một cuộc phản công chống lại họ. Quân Mông Cổ đến được Ngân Xuyên vào năm 1227, bao vây thành phố và tung ra nhiều cuộc tấn công vào nước Kim để ngăn họ gửi quân tiếp viện sang Tây Hạ. Ngân Xuyên bị bao vây 6 tháng thì Thành Cát Tư Hãn mở các cuộc đàm phán hòa bình trong khi bí mật lên kế hoạch giết hoàng đế Tây Hạ. Tuy nhiên, vào tháng 8 năm 1227, Thành Cát Tư Hãn đã chết vì một nguyên nhân không rõ, và để không gây nguy hiểm cho chiến dịch đang diễn ra, cái chết của ông được giữ bí mật. Vào tháng 9 năm 1227, Hoàng đế Mạt Chủ đầu hàng quân Mông Cổ và bị xử tử ngay lập tức. Người Mông Cổ sau đó cướp bóc Ngân Xuyên không thương tiếc, tàn sát dân chúng của thành phố, cướp phá lăng mộ của các vị tiên đế. Nước Tây Hạ chính thức diệt vong. Tiêu diệt nước Kim. Chiến tranh Mông-Kim kéo dài trong 23 năm với kết quả là triều Kim của người Nữ Chân bị tiêu diệt vào năm 1234. Đế quốc Mông Cổ sau đó kiểm soát được khu vực nay là Hoa Bắc, Đông Bắc Trung Quốc và một bộ phận Viễn Đông Nga. Năm 1211, Thành Cát Tư Hãn thống lĩnh 5 vạn kỵ binh Mông Cổ xâm nhập đất Kim và lôi kéo người Khiết Đan và Tây Hạ nổi dậy. Tháng 8 năm 1211, Thành Cát Tư Hãn đóng quân ở Phủ Châu (Trương Bắc, Hà Bắc). Trong 2 năm 1212-1213, quân Mông Cổ san bằng hơn 90 thành trì của nhà Kim. Năm 1213, Thành Cát Tư Hãn ra lệnh tập trung binh lực giao chiến quân chủ lực của nhà Kim ở Dã Hồ Lĩnh (tây bắc Trương Gia Khẩu, Hà Bắc). Trận Dã Hồ Lĩnh (野狐嶺戰役) là một trận quyết chiến giữa quân Mông Cổ và triều đình nhà Kim. Đây là một trận chiến có quy mô lớn nhất từ trước đến nay đối với quân Mông cổ. Thành Cát Tư Hãn đã tiếp nhận kiến nghị của Mộc Hoa Lê, trước tiên dùng đội quân cảm tử để thọc sâu vào Trung quân của Kim, rồi sau đó các cánh quân khác mới mở đường tấn công, tức tập trung 10 vạn quân để đánh thẳng vào một mục tiêu chủ yếu. Hơn nữa, chủ soái của Mông Cổ dù đứng trước mọi tình trạng nguy hiểm vẫn không hốt hoảng, vẫn bình tĩnh chỉ huy. Các tướng sĩ của Mông Cổ dám xông lên chiến đấu không sợ hiểm nguy. Do vậy, chủ lực của triều đình nhà Kim bị đánh bại. 15 vạn quân Kim tiếp ứng thì chưa đánh đã bỏ chạy trước, bỏ mặc đồng đội phải chống đỡ. Xác chết của quân Kim đã nằm rải rác trên một diện tích rộng hằng trăm dặm. Qua trận đánh này, binh lực súc tích cả 100 năm của triều đình nhà Kim đã bị đánh bại hoàn toàn, nên thế nước của họ ngày càng suy sụp. Trận đánh tại Dã Hồ Lãnh là một bước ngoặt đối với sự thất bại của triều đình nhà Kim và sự thắng lợi của quân Mông Cổ. Năm 1214 nhà Kim chuyển kinh đô về Biện Kinh (tức Khai Phong - kinh đô cũ nhà Tống) để tránh người Mông Cổ. Tháng 6 năm 1214, quân Mông Cổ mở cuộc tấn công vào nước Kim lần thứ hai. Họ bắt đầu từ Bắc Khẩu tấn công Cảnh Châu, Kế Châu, Đàn Châu, Thuận Châu, v.v... Tháng 7, thái tử nước Kim là Hoàn Nhan Thủ Trung bỏ chạy khỏi Trung Đô. Tháng 10, Mộc Hoa Lê xua quân tấn công Liêu Đông. Tháng giêng năm 1215, Thạch Mạt Minh An, anh em Gia Luật xua quân tấn công thành trì. Quân Mông Cổ đánh chiếm được Thông Châu, áp sát Trung Đô. Thành Cát Tư Hãn ra lệnh cho tướng Mộc Hoa Lê vây kín Yên Kinh, lại ra lệnh cho Triết Biệt đóng quân dọc đường từ Khai Phong tới Yên Kinh, chặn đánh tất cả các đoàn tiếp tế lương thảo. Về phía Kim, khi triều đình Kim rút lui, để Hoàn Nhan Thừa Huy ở lại cố thủ. Một bên quyết bao vây, một bên quyết thủ. Hết mùa đông, sang mùa xuân thành Yên Kinh vẫn đứng vững. Nhưng lương thực trong thành ngày một cạn. Quân trong thành không tướng chỉ huy. Các tướng coi binh đoàn tranh quyền, đánh lẫn nhau, không ai giữ cửa thành. Một vài toán quân bị bại, mở toang cửa thành ra hàng Mông Cổ. Mộc Hoa Lê xua một vạn rưởi kị binh, dẫn theo 30 binh đoàn thân binh tràn vào thành. Kị binh Mông Cổ xông vào tàn sát quân lính và dân chúng, đốt phá khắp nơi. Tính ra có tới 5 vạn quân Kim bị giết với khoảng 50 vạn dân chúng chết trong loạn quân. 10 vạn phụ nữ lên thành nhảy xuống tự tử vì sợ bị hãm hiếp. Trong ba tháng, thành Yên Kinh vẫn còn bốc cháy. Nước Kim từ đó liên tục thất bại, không kháng cự nổi. Năm 1217, tướng Mộc Hoa Lê chỉ huy quân Mông Cổ tiếp tục xâm chiếm đất đai của Kim. Quân Kim phải dàn quân cả ở phía nam và bắc và bị cô lập vì không liên kết được với Nam Tống chống quân Mông Cổ. Năm 1223, Mộc Hoa Lê đánh vào Thiểm Tây, tấn công Trường An. Tại đây lực lượng của Kim rất mạnh, đông tới 20 vạn người do tướng Hoàn Nhan Hợp đạt chỉ huy. Mộc Hoa Lê chuyển sang bao vây Phượng Tường với lực lượng 10 vạn người. Cuộc bao vây kéo dài hơn 1 tháng và quân Mông Cổ bị quấy rối bởi các lực lượng địa phương trong khi quân tiếp viện của Tây Hạ không đến. Mộc Hoa Lê sau đó chết bệnh vì uất ức và quân Mông Cổ rút lui. Khi hai bên giao chiến ở vùng Sơn Đông, dọc đường mười nhà thì chín nhà bỏ trống, người trên đường nhao nhao chạy nạn, quân Kim tan vỡ, quân lính thua trận chạy về cướp đoạt tiền bạc, hãm hiếp phụ nữ. Đà Lôi và Mộc Hoa Lê cầm quân đánh Kim, đại chiến mấy trận ở Sơn Đông đánh quân Kim đại bại tan rã. Quân sĩ còn lại của nước Kim tập trung ở cửa Đồng Quan, đóng chặt cửa quan cố thủ, không dám ra Sơn Đông nghênh chiến. Năm 1223, cả tướng Mông Cổ Mộc Hoa Lê và vua Kim Tuyên Tông đều chết. Kim Ai Tông Hoàn Nhan Thủ Tự lên kế vị và cố gắng huy động lực lượng chống lại sức mạnh của Mông Cổ. Năm 1231, quân Mông Cổ quay trở lại đánh Phượng Tường và chiếm được. Lực lượng quân Kim đóng ở Trường An hoảng sợ, đem toàn bộ dân chúng rút khỏi thành chạy về Hà Nam. Một tháng sau, quân Mông Cổ đã chia quân 3 mặt tây, bắc, đông tấn công vào Khai Phong. Trên đường tiến quân từ Đặng Châu đến Khai Phong, quân Mông Cổ dễ dàng chiếm hết vùng này đến vùng khác, đốt cháy các thứ cướp được để ngăn Hoàn Nhan Khờ Tả cho quân đuổi theo. Hoàn Nhan Khờ Tả buộc phải rút lui và đụng độ dữ dội với quân Mông Cổ tại núi Tam Phong thuộc Điếu Châu (Vũ Châu, Hà Nam). Khi quân Kim tiến đến núi Tam Phong, bất ngờ có trận bão tuyết ập đến. Thời tiết quá lạnh nên mặt ai cũng trắng như người chết và tiến quân rất chậm. Lúc này quân Mông Cổ đã tập kích, hàng ngũ quân Kim tan rã nhanh chóng. Quân Mông Cổ tàn sát không thương tiếc quân Kim, Hoàn Nhan Khờ Tả và nhiều tướng khác bị tử thương. Gần như toàn bộ quân chủ lực của Kim ở Thiểm Tây và Hà Nam hầu như bị tiêu diệt trong trận này. Tháng 4 năm 1233 thành Khai Phong thất thủ, Kim Ai Tông Hoàn Nhan Thủ Tự chạy đến Quy Đức, sau lại đến Thái Châu (Nhữ Nam, Hà Nam). Quân Mông Cổ tấn công kinh đô Biện Kinh của triều Kim và quân Mông Cổ đã bị người Kim chống trả ác liệt, khiến tướng sĩ Mông Cổ chết nhiều, tướng sĩ Mông Cổ đã đề nghị Oa Khoát Đài "làm cỏ" kinh thành Khai Phong để trả thù cho quân sĩ. Oa Khoát Đài ban đầu cũng đồng tình theo ý của viên tướng Tốc Bất Hợp nhưng Da Luật Sở Tài đã dùng lý lẽ can gián liên tiếp và Oa Khoát Đài nghe ra, cuối cùng chỉ cho giết những người là tay chân của vua Kim. Sự can gián của Da Luật Sở Tài đã cứu sống hơn 147 vạn dân vô tội trong thành Khai Phong. Nửa năm sau, tháng 1 năm 1234 liên quân Mông–Tống công hãm Thái Châu, nhà Nam Tống cho tướng Mạnh Củng dẫn 2 vạn quân và 30 vạn thạch lương đến hội quân, cùng công phá Thái Châu, quân Mông Cổ từ phía tây, quân Tống đánh vào từ phía nam, vua Kim tự tử, kết thúc vương triều Kim. Diệt xong Kim, Nam Tống trở thành miếng mồi xâm lược của vua Mông Cổ. Chinh phục Nam Tống. Lúc đầu, người Mông Cổ liên minh với Nam Tống vì cả hai đều có một kẻ thù chung là nước Kim. Tuy nhiên, liên minh này đã tan vỡ vào năm 1234. Khi quân Tống hội quân với Mông Cổ để đánh Kim đã thừa cơ chiếm lấy Trường An và Khai Phong từ tay người Mông Cổ. Sau sự việc một viên đại sứ Mông Cổ bị giết, quân Mông Cổ tuyên chiến với nhà Tống. Rất nhanh, quân đội Mông Cổ đã đẩy lùi quân Tống trở lại Dương Tử, hai bên đã chiến đấu với nhau suốt 40 năm cho đến khi Nam Tống sụp đổ vào năm 1276. Sự kháng cự quyết liệt của quân Tống khiến quân Mông Cổ phải chiến đấu một cuộc chiến khó khăn nhất trong số tất cả các cuộc chinh phạt của họ. Sau nhiều cuộc chiến kéo dài, Mông Kha chết trong một cuộc tấn công của quân Mông Cổ vào pháo đài Điếu Ngư. Hốt Tất Liệt, người kế vị Mông Kha, mở một chiến dịch đánh chiếm thành Tương Dương. Quân Mông Cổ coi một chiến thắng tại Tương Dương là chìa khóa để mở ra thắng lợi chung cuộc trước Nam Tống. Một khi quân Mông chiếm được Tương Dương, họ có thể di chuyển bằng thuyền xuôi dòng Hán Thủy để tiến vào Trường Giang. Năm 1267, Hốt Tất Liệt ra lệnh cho A Truật (Aju) và hàng tướng nhà Tống là Lưu Chỉnh đem quân tấn công Tương Dương và Phàn Thành. A Truật và Lưu Chỉnh đến nơi vào năm 1268 và phong tỏa thành với một vòng các công sự. Để gia cố thêm tường thành, quân Tống đã làm những chiếc lưới nhằm dùng để che chắn cho các bức tường trước các máy bắn đá. Kết quả là, các máy bắn đá của người Mông rất khó khăn trong việc bắn trúng thành, một số ít các quả đạn thành công khi đập vào tường song vô hại. Việc phòng thủ Tương Dương đến hồi kết vào năm 1273, với sự xuất hiện của máy bắn đá trọng lực, tức Tây Vực pháo (Còn gọi là Hồi tân pháo). Do tướng người Hán là Quách Khản đã từng chiến đấu cùng với quân Mông Cổ dưới quyền Húc Liệt Ngột ở vùng Trung Đông, nên Hốt Tất Liệt đã nghe nói về các vũ khí bao vây khủng khiếp. A Bất Ca hãn (Abaqa Khan) của Y Nhi hãn quốc đã gửi các chuyên gia Ba Tư Ismail và Al al-Din đến Trung Hoa theo chiếu chỉ của Đại hãn Hốt Tất Liệt vào năm 1272. Họ đã dựng các Tây Vực pháo dưới sự chỉ huy của tướng người Duy Ngô Nhĩ là A Lý Hải Nha vào tháng 3 năm 1273. Những chiếc Tây Vực pháo này có tầm bắn lên tới 500 m, và có thể phóng các quả đạn nặng tới 300 kg. Thêm vào đó, những chiếc máy bắn đá mới này còn chính xác hơn nhiều so với các máy bắn đá kiểu cũ, và chúng là loại pháo duy nhất có đủ sức mạnh để công phá các bức tường thành kiên cố của Tương Dương. Quân Mông làm khoảng 20 chiếc, và dùng chúng để hỗ trợ cuộc bao vây Tương Dương. Quân Nguyên bắt đầu vây hãm Phàn Thành vào đầu năm 1273. Lính Nam Tống ở Tương Dương đã chứng kiến những tảng đá khổng lồ rơi vào những bức tường thành khổng lồ của Phàn Thành, và phá hủy những căn nhà trong thành. Những bức tường thành, cùng với lưới, đã bị phá hủy thành từng mảnh. Ngay khi thành sụp đổ, kỵ binh Mông Cổ tràn vào pháo đài. Phàn Thành đã nhanh chóng thất thủ chỉ trong vòng vài ngày sau khi chống giữ trong nhiều năm liền. Tướng giữ Phàn Thành là Phạm Thiên Thuận tử tiết theo thành Quân Nguyên sau đó chuyển hướng sang Tương Dương. Tuy nhiên, Lã Văn Hoán chưa đầu hàng, vì ông biết rằng Tương Dương không được phép thất thủ. Ông gửi một người đưa tin tới chỗ Hoàng đế Tống Độ Tông, yêu cầu cứu viện ngay lập tức. Người đưa tin đã vượt qua được phòng tuyến của quân Nguyên và đến được chỗ Hoàng đế. Nhưng khi nghe về sức mạnh của những chiếc máy bắn đá mới đó, Hoàng đế cho rằng Tương Dương đã mất và đã không gửi quân cứu viện tới. Vài ngày sau đó, lính Nam Tống nhìn về phía nam mong chờ quân cứu viện, nhưng tất cả những gì họ nhìn thấy chỉ là những chiếc Tây Vực pháo của người Nguyên và quân Nguyên đang chờ đợi để kết liễu họ. A Truật đã tàn sát thường dân ở Phàn Thành để khủng bố tinh thần Tương Dương sau khi ông ta chọc thủng những bức tường của thành này bằng máy bắn đá. Người Nguyên nói với Lã Văn Hoán rằng, nếu quân Nam Tống không đầu hàng thì mọi người trong thành, kể cả thường dân, sẽ bị tàn sát. Lã Văn Hoán thấy không còn cơ hội nào để thủ thành, và không thấy dấu hiệu có quân tiếp viện tới, vì thế đã đầu hàng, kết thúc sáu năm dài bị bao vây. Thành kiên cố nhất của Nam Tống là Tương Dương đã thất thủ trước quân Nguyên. Từ đó, quân Nguyên thoải mái chinh phục những vùng còn lại của Nam Tống. Ở bất kỳ nơi nào quân Nguyên tới, các thành của Nam Tống đều sụp đổ giống như những pháo đài cát trước các máy bắn đá trọng lực và sau này là súng thần công. Triều đình nhà Tống đầu hàng quân Mông Cổ vào năm 1276. Giờ đây, toàn bộ Trung Quốc đã bị người Mông Cổ chinh phục. Hốt Tất Liệt lên ngôi Hoàng đế, lập ra triều đại nhà Nguyên. Chiến thắng trong cuộc xâm lược Nam Tống đánh dấu thành tựu quân sự lớn cuối cùng và cũng là vĩ đại nhất trong lịch sử của Đế quốc Mông Cổ. Mông Cổ xâm lược Nhật Bản. Cuộc xâm lược đầu tiên (1274). Quân Mông Cổ tiến hành chiến dịch xâm lược Nhật Bản với một đội quân gồm 15.000 binh sĩ người Mông Cổ, khoảng 1.500 đến 8.000 binh sĩ người Cao Ly và một hạm đội gồm khoảng 300 con tàu cỡ lớn cùng 400-500 con tàu cỡ nhỏ. Quân Mông Cổ đổ bộ xuống bãi biển Komodahama, đảo Tsushima vào ngày 5 tháng 10 năm 1274. Sō Sukekuni, thống đốc Tsushima, đã lãnh đạo một đơn vị kỵ binh nhỏ để bảo vệ hòn đảo, nhưng ông và toàn bộ binh lính của ông đã bị giết trong trận chiến. Người Mông Cổ và Triều Tiên sau đó đã đánh chiếm Iki. Tairano Takakage, Thống đốc Iki, đã chiến đấu với quân xâm lược cùng với khoảng 100 kỵ binh của ông, nhưng cuối cùng ông đã phải tự sát khi bị đánh bại. Vào ngày 19 tháng 11, quân Mông Cổ đổ bộ tại Vịnh Hakata, cách Dazaifu, thủ đô hành chính cổ của Kyūshū một khoảng cách ngắn. Ngày hôm sau đã diễn ra Trận chiến Bun'ei (Mitch 永), còn được gọi là "Trận chiến Vịnh Hakata lần thứ nhất". Người Nhật thiếu kinh nghiệm trong việc quản lý một lực lượng lớn như vậy (tất cả vùng Bắc Kyūshū đã được huy động), và người Mông Cổ đã đạt được tiến bộ ban đầu đáng kể. Đã gần 50 năm kể từ sự kiện chiến đấu lớn cuối cùng ở Nhật Bản, và không một vị tướng Nhật Bản nào có kinh nghiệm đầy đủ trong việc thống lĩnh một đội quân lớn. Ngoài ra, phong cách chiến tranh vốn là thông lệ trong thời phong kiến Nhật Bản đó là một-chọi-một (quy tắc võ sĩ đạo), ngay cả trong các trận đánh lớn. Thật không may cho người Nhật, người Mông Cổ không quen thuộc với phong cách chiến đấu như vậy. Khi một samurai đơn độc bước tới để thách thức, lính Mông Cổ sẽ chỉ đơn giản là đồng loạt tấn công anh ta, giống như một đàn kiến đang tấn công một con bọ cánh cứng. Người Mông Cổ sở hữu các loại vũ khí tầm xa vượt trội (loại cung tên ngắn trứ danh của người Mông Cổ, với các mũi tên tẩm độc, mũi tên lửa, mũi tên thuốc nổ), và dễ dàng chiếm thế thượng phong trong trận chiến trên bộ. Tuy vậy, vào đêm hôm đó, người Mông Cổ lại quyết định lên tàu và tạm thời rút lui ra biển, do lo sợ thời tiết gió mạnh và sóng lớn sẽ khiến cho hạm đội của họ bị mắc cạn. Khi rút lui ra biển, hạm đội của người Mông Cổ đã gặp phải một cơn bão lớn. Hai ngày sau, một phần ba số tàu của quân Mông Cổ đã bị đánh đắm, và khoảng 13.000 binh sĩ và thủy thủ của họ đã bị chết đuối. Tổn thất quá lớn khiến người Mông Cổ từ bỏ ý định xâm lược Nhật Bản. Cuộc xâm lược lần hai (1281). Ngay từ năm 1274, Mạc phủ đã phải tăng cường các nỗ lực để bảo vệ Nhật Bản chống lại cuộc xâm lược thứ hai của người Mông Cổ, điều mà họ nghĩ là sớm muộn gì cũng sẽ xảy ra. Người Nhật đã cho xây dựng nhiều cấu trúc phòng thủ khác tại các điểm đổ bộ tiềm năng. Ở vịnh Hakata, một bức tường phòng thủ cao hai mét đã được xây dựng vào năm 1276. Đội quân của người Mông Cổ tiến hành chiến dịch xâm lược Nhật Bản lần này được chia làm hai: Một lực lượng gồm 900 tàu chở 17.000 thủy thủ, 10.000 lính Triều Tiên, 15.000 lính Mông Cổ và 15.000 lính Trung Quốc đã khởi hành từ Masan, Triều Tiên hướng tới Nhật Bản. Một lực lượng nữa còn đông đảo hơn gồm 3.500 tàu chở tới 142.000 binh sĩ và thủy thủ xuất phát từ phía nam Trung Quốc. Hạm đội thứ nhất đã đến Vịnh Hakata vào ngày 23 tháng 6 năm 1281 và bắt đầu mở những cuộc tấn công dữ dội, nhưng không thể xuyên thủng bức tường phòng thủ của người Nhật Bản, thế trận diễn ra giằng co quyết liệt. Khi màn đêm buông xuống, các samurai Nhật Bản sử dụng những chiếc thuyền nhỏ bất thình lình đột kích hạm đội Mông Cổ trong bóng tối, đốt cháy nhiều con tàu và giết hại nhiều binh lính Mông Cổ, sau đó họ lại chèo thuyền quay trở lại đất liền. Những cuộc đột kích vào ban đêm của người Nhật đã gây tổn thất không hề nhỏ cho quân Mông Cổ. Cuộc chiến lâm vào thế bế tắc trong suốt 50 ngày liên tục, cho đến ngày 12 tháng 8, khi hạm đội chính của Mông Cổ đã đổ bộ xuống phía tây vịnh Hakata. Phải đối mặt với một lực lượng đông hơn gấp ba lần, thế nhưng các samurai vẫn chiến đấu rất dũng cảm dù tình thế đã dần trở nên tuyệt vọng. Tưởng như quân Nhật sẽ phải chịu thất bại, thì phép màu đã đến với họ: vào ngày 15 tháng 8 năm 1281, một cơn bão rất lớn đã đổ bộ vào bờ biển Kyūshū và phá hủy gần như toàn bộ hạm đội của người Mông Cổ. Rất nhiều binh lính Mông Cổ đã chết đuối, số còn lại chạy kịp lên bờ thì cũng bị các samurai tàn sát. Người Nhật tin rằng các vị thần của họ đã gửi những cơn bão để bảo vệ Nhật Bản khỏi quân Mông Cổ. Họ gọi cơn bão là "kamikaze", hay "cơn gió thần". Hốt Tất Liệt dường như đã tin rằng Nhật Bản được bảo vệ bởi các lực lượng siêu nhiên, do đó ông quyết định từ bỏ tham vọng chinh phục đảo quốc này. Mông Cổ xâm lược Java. Cuộc xâm lăng của Mông Cổ ở Java là một nỗ lực quân sự của Hốt Tất Liệt, người sáng lập nhà Nguyên (một phần của Đế quốc Mông Cổ), xâm chiếm Java, một hòn đảo ở Indonesia hiện đại. Năm 1293, ông đã gửi một hạm đội xâm lược lớn đến Java với 20.000 đến 30.000 binh lính. Đây là một cuộc viễn chinh trừng phạt vua Kertanegara của Singhasari, người đã từ chối không tỏ lòng tôn kính nhà Nguyên và làm hại một trong những sứ giả của mình. Tuy nhiên, nó đã kết thúc với sự thất bại của người Mông Cổ. Mông Cổ xâm lược Đại Việt. Là một cuộc chiến người đại việt chiến thắng. Châu Âu. Người Mông Cổ đã xâm chiếm và hủy diệt Volga Bulgaria và Kievan Rus ', trước khi xâm chiếm Ba Lan, Hungary và Bulgaria, cùng nhiều khu vực khác. Trong vòng ba năm (1237-1240), quân Mông Cổ đã tàn phá và hủy diệt tất cả các thành phố lớn của Nga, ngoại trừ Novgorod và Pskov. Cuộc xâm lược của người Mông Cổ gây ra sự dịch chuyển dân số trên một quy mô chưa từng thấy trước đây ở Trung Á cũng như Đông Âu, gieo rắc nỗi kinh hoàng và hoảng loạn chưa từng thấy cho dân chúng nơi đây. Mông Cổ xâm lược Rus. Một đội quân Mông Cổ với khoảng 25.000 cung thủ, được chỉ huy bởi Tốc Bất Đài và Bạt Đô, đã vượt qua sông Volga và xâm chiếm Volga Bulgaria vào cuối năm 1236. Họ chỉ mất một tháng để dập tắt sự kháng cự yếu ớt của những người Volga Bulgari, Cumans-Kipchaks và Alani. Vào tháng 11 năm 1237, Bạt Đô đã gửi sứ giả của mình tới gặp hoàng tử Yuri II của Công quốc Vladimir nhằm kêu gọi Yuri II đầu hàng, tránh đổ máu vô ích. Một tháng sau, quân Mông Cổ bao vây Ryazan. Sau sáu ngày chiến đấu đẫm máu, thành phố Ryazan bị hủy diệt hoàn toàn và người dân trong thành bị tàn sát không thương tiếc. Khi tiến vào Kolomna và Moskva, quân Mông Cổ đã thiêu rụi cả hai thành phố này. Quân Mông Cổ tiến đến Vladimir và bao vây thành phố này vào ngày 4 tháng 2 năm 1238. Ba ngày sau, thủ đô của Vladimir-Suzdal đã bị quân Mông Cổ chiếm đóng và thiêu rụi hoàn toàn. Gia đình hoàng gia bị chết cháy trong đống lửa, còn hoàng tử Yuri II chạy trốn về phía bắc. Khi băng qua sông Volga, Yuri II đã tập hợp được một đội quân mới, đội quân này bị bao vây và tiêu diệt hoàn toàn bởi quân Mông Cổ trong Trận chiến sông Sit vào ngày 4 tháng 3. Ngay sau đó Bạt Đô chia đội quân của mình thành nhiều đơn vị nhỏ và tiến vào cướp phá một loạt các thành phố bao gồm Rostov, Uglich, Yaroslavl, Kostroma, Kashin, Ksnyatin, Gorodets, Galich, Pereslavl-Zalessky, Yuriev-Polsky, Dmitrov, Volokolamsk, Tver và Torzhok (14 thành phố này ngày nay đều thuộc Liên Bang Nga). Các thành phố lớn duy nhất thoát khỏi sự hủy diệt của quân Mông Cổ là Novgorod và Pskov. Người Mông Cổ đã lên kế hoạch đánh chiếm Novgorod, nhưng công quốc này đã tránh được số phận thảm khốc bởi quyết định khôn ngoan là đầu hàng trước. Đến giữa năm 1238, quân Mông Cổ tàn phá Crimea và san bằng Mordovia. Vào mùa đông năm 1239, quân Mông Cổ tràn vào cướp bóc hai thành Chernihiv và Pereyaslav. Sau nhiều ngày bao vây, quân Mông Cổ đã chiếm được Kiev vào tháng 12 năm 1240. Bất chấp sự kháng cự của Danylo xứ Halych, Bạt Đô đã chiếm được hai thành phố chính của ông ta là Halych và Volodymyr. Cuộc xâm chiếm đã tạo điều kiện cho cuộc khởi đầu của sự tan rã của Rus Kiev vào thế kỷ XIII, làm gây ra những hậu quả không thể đếm được cho lịch sử Đông Âu, bao gồm sự phân chia dân tộc Đông Slave thành ba quốc gia riêng biệt ngày nay: Nga, Ukraina và Belarus, và sự nổi lên của Đại công quốc Moskva. Mông Cổ xâm lược Ba Lan. Quân Mông Cổ di chuyển từ Volodymyr-Volynskyi (vùng đất thuộc Kievan Rus mà họ vừa chinh phục được) và tiến vào Ba Lan, chiếm thành Lublin, sau đó bao vây, chiếm và đốt cháy thành Sandomierz vào ngày 13 tháng 2 năm 1240. Trong khoảng thời gian này, lực lượng của họ đã tách ra làm đôi. Lực lượng của Orda tàn phá miền trung Ba Lan, di chuyển đến Wolbórz và tiến xa đến tận các thành trì phía bắc Ba Lan như Łęczyca, trước khi quay về phía nam và đi qua Sieradz về phía Wrocław. Trong khi đó lực lượng của Baidar và Kadan tàn phá vùng phía nam của Ba Lan. Vào ngày 13 tháng 2, Baidar và Kadan đã đánh bại một đội quân Ba Lan dưới sự chỉ huy của Włodzimierz trong trận chiến Tursko. Vào ngày 18 tháng 3, họ đã đánh bại một đội quân Ba Lan khác gồm những binh lính đến từ Kraków và Sandomierz trong trận chiến Chmielnik. Sự hoảng loạn lan rộng khắp vùng đất Ba Lan và người dân đã cùng nhau rời bỏ thành Kraków, thành này bị quân Mông Cổ chiếm giữ và đốt cháy vào ngày 24 tháng 3. Trong khi đó, một trong những Công tước có thế lực nhất của Ba Lan và xứ Silesia là Henry II the Pious đã tập hợp đội quân của ông cùng với các đồng minh xung quanh khu vực Legnica nhằm tiến hành cuộc chiến chống lại quân Mông Cổ. Henry cũng đang chờ anh rể của ông là Wenceslaus I xứ Bohemia đem một đội quân lớn đến tiếp viện cho ông. Nhận được tin Wenceslaus I đem quân tới, quân Mông Cổ đã quyết định từ bỏ việc vây hãm thành Wroclaw và chuyển mục tiêu sang đánh chặn quân Bohemia nhằm không cho đội quân này tới tiếp viện cho Henry. Quân Mông Cổ và Henry sau đó đã chạm trán nhau tại một cánh đồng gần Legnica. Henry, ngoài lực lượng của riêng mình, cũng được hỗ trợ bởi Mieszko II the Fat (Mieszko II Otyły), cùng với tàn quân Ba Lan bị đánh bại tại Tursk và Chmielnik, một số hiệp sĩ và dòng tu quân sự do Giáo hoàng phái tới và một số ít lính đánh thuê từ nước ngoài. Trận Legnica diễn ra với thảm bại dành cho liên quân kháng chiến Ba Lan-Đức-Séc. Henry bị lính Mông Cổ đánh gục và chặt đầu trong khi cố gắng chạy trốn khỏi chiến trường. Sau thắng lợi tại Legnica, quân Mông Cổ thỏa sức cướp phá vùng Silesia trù phú, trước khi rút khỏi khu vực này để nhập vào lực lượng chính của họ ở Hungary. Mông Cổ xâm lược Czech. Sau thất bại của liên quân kháng chiến châu Âu tại Legnica, người Mông Cổ tiếp tục tiến vào cướp bóc một loạt các vương quốc láng giềng của Ba Lan, đặc biệt là Silesia và Moravia. Vua Wenceslaus I của Bohemia đã rút quân về để bảo vệ vương quốc của mình sau khi không thể đến kịp thời để tiếp viện cho quân Ba Lan của Henry II the Pious. Ông đem quân của mình đóng tại các vùng núi ở Bohemia, nơi người Mông Cổ không thể sử dụng kỵ binh của họ một cách hiệu quả. Đến đây, quân Mông Cổ lại được chia làm 2. Một đội quân đặt dưới sự chỉ huy của Bạt Đô và Tốc Bất Đài đang chuẩn bị xâm chiếm Hungary và một đội quân do Baidar và Kadan chỉ huy tiến qua Silesia và Morovia, uy hiếp Bohemia. Người Bohemia đã kiên cường chống trả đợt tấn công của quân Mông Cổ, buộc Baidar và Kadan phải lui về thị trấn Othmachau. Một lực lượng nhỏ của người Mông Cổ đã tấn công Kłodzko nhưng đội kỵ binh của người Bohemia dưới sự chỉ huy của Wenceslaus đã xoay xở để chống đỡ họ thành công. Người Mông Cổ sau đó đã cố gắng chiếm thị trấn Olomouc, nhưng Wenceslaus đã có được sự trợ giúp của người Áo Babenberg và họ đã đẩy lùi cuộc đột kích. Dưới sự lãnh đạo của Wenceslaus, Bohemia trở thành một trong số ít các vương quốc châu Âu không bị người Mông Cổ chinh phục, mặc dù hầu hết các vương quốc khác xung quanh họ như Ba Lan và Moravia đều bị tàn phá. Sau những nỗ lực thất bại trong việc đánh chiếm Bohemia, Baidar và Kadan tiếp tục đánh phá Moravia trước khi tiến về phía nam để hội quân với Bạt Đô và Tốc Bất Đài ở Hungary. Mông Cổ xâm lược Hungary. Quân đội Hungary đã đến đóng quân tại sông Sajó vào ngày 10 tháng 4 năm 1241. Quân Mông Cổ, dưới sự chỉ huy của Bạt Đô và Tốc Bất Đài đã đè bẹp quân Hungary trong trận Mohi. Sau chiến thắng quyết định này, người Mông Cổ hiện đã chiếm giữ được vùng Đại Đồng bằng Hungary, sườn dốc của dãy núi Carpathian phía bắc cùng với vùng đất Transylvania. Tuy nhiên, hàng chục ngàn người Hungary đã chạy trốn khỏi sự tàn sát của người Mông Cổ bằng cách ẩn náu đằng sau bức tường của các pháo đài kiên cố hoặc bằng cách trốn trong rừng hoặc đầm lầy lớn dọc theo các con sông. Người Mông Cổ, thay vì tiếp tục tiến quân sang Tây Âu, đã dành toàn bộ mùa hè và mùa thu để bảo vệ và bình định các vùng lãnh thổ mà họ chiếm đóng được. Vào ngày Giáng sinh năm 1241, quân Mông Cổ tiến hành bao vây thủ đô của Vương quốc Hungary là Esztergom và mặc dù đã gần như phá hủy toàn bộ thành này, quân Mông Cổ vẫn không thể chiếm được thành. Vào mùa đông năm đó, quân Mông Cổ đã vượt sông Danube và chiếm được vùng Pannonia. Cuối cùng họ đã tiến đến sát biên giới với Áo và vùng Dalmatia nằm giáp biển Adriatic. Mặc dù người Mông Cổ đã kiểm soát được toàn bộ Hungary, nhưng họ lại không thể chiếm nổi các thành phố kiên cố như Fehérvár, Veszprém, Tihany, Győr, Pannonhalma, Moson, Sopron, Vasvár, Újhely, Zala, Léka, Pozsony, Nyitra, Komárom, Fülek và Abaújvár của người Hung. Mông Cổ xâm lược Croatia. Vào thời Trung cổ, Vương quốc Croatia và Vương quốc Hungary cùng được cai trị bởi một vị vua duy nhất, Béla IV. Khi quân Mông Cổ tiến đến bờ sông Sajó vào năm 1241, Béla IV đã chạy trốn sang Zagreb (ngày nay là thủ đô Croatia). Bat Đô đã gửi một đội quân khoảng 20.000 người đặt dưới sự chỉ huy của Khadan để truy đuôi vua Bela. Zagreb được củng cố kém nên không thể chống lại nổi cuộc xâm lược và thành phố này đã nhanh chóng bị phá hủy, nhà thờ của nó bị quân Mông Cổ đốt cháy. Cuộc truy đuổi Béla IV của người Mông Cổ tiếp tục từ Zagreb qua Pannonia đến tận Dalmatia. Trong quá trình truy đuổi, quân Mông Cổ dưới sự chỉ huy của Kadan (Qadan) đã tấn công Pháo đài Klis ở Croatia vào tháng 3 năm 1242. Do các công sự kiên cố của Klis, quân Mông Cổ đã gặp rất nhiều khó khăn khi công phá pháo đài này. Những người bảo vệ Klis đã có thể gây ra một số thương vong lớn cho người Mông Cổ. Ngay khi biết rằng Vua Bela đã trốn đi nơi khác, quân Mông Cổ đã từ bỏ cuộc tấn công và tách ra để tấn công các thành Split và Trogir. Người Mông Cổ truy đuổi Béla IV từ thị trấn này sang thị trấn khác ở Dalmatia, trong khi giới quý tộc Croatia và các thị trấn ở Dalmatia như Trogir và Rab đã giúp Béla IV trốn thoát. Sau thất bại trước những người lính Croatia, quân Mông Cổ đã rút lui và Béla IV an toàn. Chỉ có thành phố Split không hỗ trợ Béla IV trốn thoát khỏi quân Mông Cổ. Một số nhà sử học cho rằng địa hình đồi núi của Dalmatia đã gây thiệt hại nặng nề cho người Mông Cổ vì những tổn thất to lớn về nhân mạng mà họ phải chịu từ những cuộc phục kích của người Croatia trong những chuyến hành quân qua núi. Cuối cùng, mặc dù phần lớn Croatia đã bị cướp bóc và phá hủy, sự chiếm đóng lâu dài của người Mông Cổ đã không thành công. Mông Cổ xâm lược Áo. Sau khi khuất phục Hungary, quân Mông Cổ đã có được bàn đạp để tiến hành xâm chiếm thành Vienna (là thủ đô nước Áo ngày nay). Sử dụng chiến thuật tương tự trong các chiến dịch của họ ở các quốc gia Đông và Trung Âu trước đó, trước tiên người Mông Cổ tung ra các đội quân nhỏ lẻ để tấn công các khu định cư bị cô lập ở ngoại ô Vienna nhằm cố gắng gieo rắc nỗi sợ hãi và hoảng loạn trong dân chúng. Năm 1241, quân Mông Cổ đột kích Wiener Neustadt và các quận lân cận, nằm ở phía nam thành Vienna. Wiener Neustadt đã gánh chịu hậu quả của cuộc tấn công và giống như các cuộc xâm lược trước đây, người Mông Cổ đã gây ra sự tàn bạo khủng khiếp đối với quần chúng không vũ trang. Công tước Áo là Frederick II, trước đây đã giao chiến với người Mông Cổ ở Olomouc và giai đoạn đầu của Trận Mohi ở Hungary. Tuy nhiên, không giống như ở Hungary, Vienna dưới sự lãnh đạo của Công tước Frederick và các hiệp sĩ của ông, cùng với các đồng minh nước ngoài, đã tìm cách tập hợp nhanh hơn và tiêu diệt đội quân nhỏ của người Mông Cổ. Sau trận chiến, Công tước ước tính rằng người Mông Cổ đã mất hơn 300 đến 700 quân trong khi liên quân châu Âu chỉ mất 100. Các hiệp sĩ Áo sau đó cũng đánh bại quân Mông Cổ tại biên giới sông March thuộc quận Theben. Sau các cuộc tấn công ban đầu thất bại, đội quân còn lại của người Mông Cổ đã rút lui về Nga sau khi biết về cái chết của Đại Hãn Oa Khoát Đài. Mông Cổ xâm lược Bulgaria. Trong thời gian ông rút từ Hungary trở lại Ruthenia, một phần của quân đội của Bạt Đô đã xâm chiếm Bulgaria. Đội quân này đã bị người Bulgaria dưới sự chỉ huy của Sa hoàng Ivan Asen II đánh bại. Một lực lượng lớn hơn quay trở lại đột kích Bulgaria một lần nữa cùng năm, mặc dù ít ai biết chuyện gì đã xảy ra. Nam Á. Từ năm 1221 đến 1327, Đế quốc Mông Cổ đã phát động một số cuộc xâm lược vào tiểu lục địa Ấn Độ. Người Mông Cổ chiếm đóng một phần của Pakistan hiện đại và các phần khác của Punjab trong nhiều thập kỷ. Tuy nhiên, họ đã thất bại trong việc xâm lược Vương quốc Hồi giáo Delhi và bị đẩy lùi khỏi nội địa Ấn Độ. Hàng thế kỷ sau, Đế quốc Mughal, với nguồn gốc Mông Cổ từ Trung Á, đã chinh phục phần phía bắc của tiểu lục địa. Phân chia quyền lực. Đế quốc Mông Cổ hồi đầu được phân chia thành 5 phần chính và nhiều hãn quốc nhỏ. Nổi bật trong số đó là:
1
null
Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam - gọi tắt là Liên Việt - là tổ chức liên hiệp các tổ chức chính trị và xã hội với mục đích đoàn kết tất cả các lực lượng và đồng bào yêu nước Việt Nam không phân biệt đảng phái, giai cấp, tôn giáo, xu hướng chính trị, dân tộc để làm cho nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, phú cường. Hội ra đời trong bối cảnh Pháp cho phép Nguyễn Văn Thinh lập Cộng hòa tự trị Nam Kỳ trong Liên bang Đông Dương, vi phạm Hiệp định sơ bộ 6 tháng Ba, và nhằm chống chia rẽ của Pháp. Hội ra đời nhằm thực hiện chủ trương mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất trong việc thu hút nhân sĩ, trí thức, quan lại cũ, nhà điền chủ, công thương gia vì một lý do nào đó trước đây chưa có quan hệ với Việt Minh hoặc chưa vào Việt Minh, nay muốn gia nhập một hình thức tổ chức thích hợp để có điều kiện góp phần vào sự nghiệp củng cố nền độc lập của nước nhà. Cương lĩnh của Hội viết: "Mục đích đoàn kết tất cả các đảng phái yêu nước và đồng bào yêu nước vô đảng phái, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, xu hướng chính trị, chủng tộc để làm cho nước Việt Nam: Độc lập - Thống nhất - Dân chủ - Phú cường". Ở phần Chính trị chung của Cương lĩnh viết: "1- Giữ vững quyền tự chủ để đi đến hoàn toàn độc lập. 2- Thống nhất Trung - Nam - Bắc làm cho lãnh thổ Việt Nam được trọn vẹn. 3- Thực hiện và củng cố chế độ dân chủ cộng hòa trong toàn cõi Việt Nam. 4- Bình đẳng, tương trợ và đoàn kết với tất cả các dân tộc thiểu số".  Hội đề ra bốn nhiệm vụ khẩn cấp và nhấn mạnh: trong giờ phút lịch sử tồn vong của quốc gia, dân tộc, những mâu thuẫn giữa các xu thế chính trị, các tôn giáo, các giai cấp, những sự chia rẽ vô lý giữa các dân tộc đều phải được dàn xếp, xóa bỏ và nhường bước cho sự đại đoàn kết rộng rãi, thành thực, vững chắc. Trên báo Sự thật cho biết "Việc thành lập hội này cũng là một trả lời đích đáng cho các hạng Việt gian phản động cam tâm làm tay sai cho ngoại quốc chống lại quyền lợi của toàn dân và toan dựa vào sức người hòng lập "chính quyền địa phương tự trị". Thành lập. Ban vận động thành lập Hội gồm 27 người, trong đó có đại biểu của Việt Minh (Hồ Chí Minh, Nguyễn Lương Bằng, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Dương Đức Hiền, Cù Huy Cận...), đại biểu các giới (chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng, nhà tư sản theo đạo Thiên chúa Ngô Tử Hạ, các học giả Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Văn Luyện, Phan Anh, cựu Thượng thư Bùi Bằng Đoàn), đại biểu Việt Nam Quốc dân Đảng (Chu Bá Phượng, Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Tường Long, Vũ Hồng Khanh). Cơ cấu của Ban vận động đã thể hiện tính liên minh, liên hợp, đại diện của các tổ chức, đảng phái. Ngày ngày 29 tháng 5 năm 1946, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam, gọi tắt là "Liên Việt", chính thức tuyên bố thành lập tại Hà Nội. Hồ Chí Minh được bầu là Hội trưởng danh dự, Huỳnh Thúc Kháng là Hội trưởng và Tôn Đức Thắng là Phó Hội trưởng. Tháng 6/1946, Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam được thành lập tại Nam Bộ. Nguyễn Bình chủ trương giải tán Mặt trận Quốc gia liên hiệp để tập hợp lực lượng kháng chiến vào Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam. Các tổ chức tham gia ban đầu. Hai tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng, Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội chỉ tham gia vài tháng, sau chỉ một số thành phần tham gia. Lúc này Đảng Cộng sản Đông Dương đã "giải thể" vào hoạt động bí mật, công khai trong hàng ngũ những người Việt Minh hoặc Hội nghiên cứu chủ nghĩa Marx. Sát nhập với Việt Minh. Năm 1951 tại Tuyên Quang, Việt Minh và Hội Liên Việt sáp nhập để hình thành một mặt trận dân tộc, gọi là Mặt trận Liên Việt (do Tôn Đức Thắng làm chủ tịch, Hồ Chí Minh làm chủ tịch danh dự). Trong tháng 3 năm 1951 Đảng Lao động Việt Nam chính thức gia nhập Mặt trận Liên Việt.
1
null
Cortinarius camphoratus là một loài nấm tán trong họ Cortinariaceae. Loài nấm này được tìm thấy ở châu Âu và Bắc Mỹ, nơi mà quả thể mọc trên mặt đất trong một liên kết rễ nấm với cây vân sam và linh sam trong các rừng cây lá kim. Loài nấm được đặc trưng bởi màu tử đinh hương xanh nhạt khi còn non, và mùi mạnh đặc biệt. Các nguồn bất đồng về xác nhận loài nấm này ăn được hay không, nhưng các nguồn thường khuyến cáo không nên ăn loài nấm này. Loài này được tìm thấy ở châu Âu và Bắc Mỹ, nó được tìm thấy trên mặt đất phát triển đơn lẻ, phân tán, hoặc theo nhóm, thường là giữa tháng 9 và tháng 10.
1
null
Elizabeth Ann Smart Gilmour (sinh ngày 3 tháng 11 năm 1987) là một nhà hoạt động xã hội người Mỹ kiêm cộng tác viên cho hãng tin ABC News. Cô được biết đến với vụ bắt cóc và hãm hiếp gây chấn động dư luận vào lúc cô lên 14 tuổi, cô là nô lệ tình dục thời hiện đại cho Brian David Mitchell là một kẻ tội phạm đốn mạt, vô gia cư, cuồng tín. Sau này, cô được giải cứu và nỗ lực vượt qua những ám ảnh bị lạm dụng tình dục thời còn ấu thơ để vươn lên trong cuộc sống và nay cô là một nhà hoạt động xã hội. Thời thơ ấu. Elizabeth được sinh ra thành phố Salt Lake, thuộc tiểu bang Utah, nước Mỹ, trong một gia đình khá giả, gia đình cô đi theo Mặc Môn giáo. Cô lớn lên tại một điền trang tiện nghi và rộng rãi nằm bên sườn núi, tách biệt khỏi khu bình dân của thành phố này. Trong gia đình mình là con cưng của bố mẹ và được nuông chiều. Cho đến lúc 14 tuổi, trong một lần Elizabeth cùng các chị em gái được theo mẹ xuống khu phố dưới để mua sắm quần áo mới thì cô lọt vào sự chú ý một gã đàn ông 50 tuổi tên là Brian David Mitchell. Sau đó, ông ta xin vào làm việc tại điền trang của gia đình Smart. Ngày 5 tháng 6 năm 2002, Mitchell đã lẻn vào phòng ngủ của Elizabeth bắt cô lên ngọn núi ngay sau nhà. Ông ta mang Elizabeth đến khu cắm trại lưu động cách nhà của cô không xa, nơi ông ta sống trong một căn lều với vợ là Wanda Barzee. Họ đã tổ chức một nghi thức lễ kết hôn để biến Elizabeth thành vợ của Mitchell bằng cách ép buộc. Sau đó Mitchell cưỡng hiếp cô, không phải một lần mà lặp đi lặp lại mỗi ngày trong suốt 9 tháng bị cầm tù. Trong thời gian này Elizabeth còn bị bỏ đói, bị trói chặt vào gốc cây bằng sợi xích sắt để ngăn bỏ trốn, bị ép phải khỏa thân tồng ngồng đi lông nhông quanh nhà. Gia đình nhà Elizabeth đã nỗ lực tìm kiếm và đến tháng 3 năm 2003, cô được giải cứu nhưng bị ám ảnh nặng về 09 tháng làm nô lệ tình dục. Sau này Elizabeth đi khắp nước Mỹ, tham dự các buổi gặp mặt, tổ chức những cuộc vận động cho quỹ từ thiện mang tên Elizabeth Smart. Quỹ Elizabeth Smart tập trung cho mục tiêu giúp đỡ những trẻ em bị bắt cóc. Số tiền họ quyên góp được dành để chuyển về các trường học, đầu tư cho chương trình giáo dục học sinh những kĩ năng tự phòng vệ cơ bản để các em có thể tự cứu mình trong tình huống xấu nhất. Phần tiền còn lại thì được góp vào ngân sách dành cho những cuộc tìm kiếm trẻ em mất tích khắp nước Mĩ. Tháng 5 năm 2012, Elizabeth làm lễ cưới với Matthew Gilmour (kém cô 3 tuổi). Hai người là bạn từ khi cùng học chung một năm ở Pháp và sau thời gian ngắn hẹn hò thì quyết định đi đến hôn nhân.
1
null
Voọc mũi hếch vàng (danh pháp khoa học: Rhinopithecus roxellana) là một loài khỉ cựu thế giới trong phân họ Colobinae. Nó là loài đặc hữu ở một khu vực nhỏ ở các rừng trên núi ôn đới Trung và Tây Nam Trung Hoa Sống trong những vạt rừng rậm ở độ cao từ 1.500m tới 3.400m, loài voọc này sinh sống trong khu bảo tồn Thần Nông Giá đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng. Người ta phát hiện chúng lần đầu tiên vào năm 1960. Nỗ lực thống kê số lượng Voọc mũi hếch vàng lần đầu tiên, được tiến hành trong thập niên 80, cho thấy chỉ 501 cá thể trong rừng Thần Nông Giá. Tên trong Tiếng Trung là Voọc lông vàng Tứ Xuyên (川金丝猴) Hán Việt (Xuyên Kim Tơ Hầu). Nó cũng được gọi là voọc mũi hếch vàng Tứ Xuyên. Trong số các loài voọc mũi hếch ở Trung Quốc, loài voọc mũi hếch vàng là loài phân bố rộng khắp nhất Trung Hoa. Tuyết rơi thường xuyên trong phạm vi phân bố của nó và nó có thể chịu được nhiệt độ trung bình lạnh hơn bất kỳ loài động vật linh trưởng không phải là con người nào khác Chế độ ăn của nó thay đổi rõ rệt theo mùa, nhưng nó chủ yếu là một loài ăn cỏ với địa y là nguồn thức ăn chính. Voọc mũi hếch vàng là loài hoạt động vào ban ngày và phần lớn sống trên cây, dành khoảng 97% thời gian ở trong tán cây. Loài này có ba phân loài. Số lượng cá thể ước tính khoảng từ 8.000 đến 15.000 con và đang bị đe dọa bởi mất môi trường sống. Nó ưa tìm kiếm thức ăn trong những cây lớn hơn trong rừng, và dành hầu hết thời gian ở rừng nguyên sinh và rừng non, hiếm khi hiện diện ở rừng cây bụi và không bao giờ hiện diện ở đồng cỏ. Đôi khi chúng cũng nhảy xuống mặt đất. Chúng có một số động vật ăn thịt nhất định phải dè chừng. Đó là các loài thú săn mồi như sói đỏ, sói xám, báo lửa và báo hoa mai và các loài chim săn mồi như đại bàng vàng và ó ngỗng. Con cái trưởng thành tính dục ở độ tuổi khoảng 5 năm tuổi. Con đực trưởng thành tính dục ở độ tuổi khoảng 5-7 năm tuổi.. Quá trình giao phối có thể xảy ra quanh năm nhưng đỉnh cao trong tháng 10.Thời kỳ mang thai của khỉ mẹ kéo dài 6-7 tháng dài. Khỉ mẹ sinh con từ tháng 3 đến tháng 6.
1
null
Quốc lộ 29 là một tuyến giao thông đường bộ cấp quốc gia của Việt Nam, nối khu vực Trung Tây Nguyên với khu vực Nam Trung Bộ. Quốc lộ 29 là một quốc lộ mới, được nâng cấp trên cơ sở tỉnh lộ 645 ở Phú Yên và 691 ở Đắk Lắk. Về cơ bản, đường có tiêu chuẩn đường cấp IV miền núi, gồm 2 làn xe, rộng 5,4 mét mặt đường và 7,5 mét nền đường. Toàn tuyến dài 182,5 km đi qua thị xã Đông Hòa và các huyện Tây Hòa, Sông Hinh, Krông Năng, Ea Kar, thị xã Buôn Hồ. Đoạn trên địa phận Phú Yên dài 109 km, đoạn trên địa phận Đắk Lắk dài 73,5 km. Điểm đầu tuyến là cảng Vũng Rô. Điểm cuối tuyến là nơi giao với Quốc lộ 14) tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk. Quốc lộ 29 có khoảng 40 km đi qua Khu bảo tồn thiên nhiên Ea Sô (huyện Ea Kar).
1
null
Chân gà là một món ăn được chế biến từ nguyên liệu là những chiếc chân gà bằng các phương pháp như nướng hay luộc. Chân gà nướng được tẩm ướp trước khi nướng và ăn kèm với các loại rau sống. Đây là một món đặc sản trong ẩm thực Việt Nam và là một trong những thức ăn đường phố mang tính bình dân khoái khẩu. Chân gà nướng cũng là món đặc sản của nhiều nước trên thế giới như Trung Quốc (ở Trung Quốc gọi là "Phượng trảo" - 鳯爪 hay "Kê trảo" - 鷄爪), Hàn Quốc, México, Châu Phi, Trung Đông. Tiêu dùng. Chân gà nướng thường được bán tại một số quán ăn ven đường và là nơi dừng chân của nhiều thực khách bởi mùi thơm từ các món ăn lan tỏa hấp dẫn.Nét đặc biệt trong cách thưởng thức mà không hề dùng bát, đĩa hay đũa. Thực khách sử dụng chính ngón tay của mình khi ăn để cảm nhận vị thơm, giòn, béo ngậy trong từng chiếc chân gà. Bản thân chân gà đã chứa đựng vị béo ngậy, thơm ngon, nhưng nếu khi ăn mà không chấm với tương ớt hay ăn kèm với dưa chuột, muối tiêu và rau răm hẳn sẽ làm mất đi mùi vị riêng của món ăn đặc biệt này.. Hiện nay, món chân gà được chế biến, rút xương và đóng bao bì bày bán ở siêu thị như một món ăn vặt vui miệng
1
null
Trần Lưu (chữ Hán: 陳留; trị vì: 534 TCN), tên thật là Quy Lưu (媯留), là vị vua thứ 23 của nước Trần – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Biến loạn nước Trần. Quy Lưu là con thứ của Trần Ai công – vua thứ 23 nước Trần. Mẹ ông được vua cha yêu quý, bèn giao ông cho 2 chú là công tử Chiêu và công tử Quá chăm sóc. Năm 534 TCN, Trần Ai công ốm nặng. Công tử Chiêu và công tử Quá bèn giết anh ông là thế tử Yển Sư, lập ông làm thế tử. Trần Ai công nghe tin công tử Chiêu tự ý giết thế tử Yển Sư, muốn trị tội. Công tử Chiêu bèn mang quân chống lại. Trần Ai công phẫn uất thắt cổ tự vẫn. Công tử Chiêu và công tử Quá lập Quy Lưu lên ngôi. Được 4 tháng, em ông là công tử Thắng sang tố cáo với Sở Linh vương về việc trong nước. Sở Linh vương nghe tin bèn sai công tử Khí Tật mang quân đánh nước Trần. Trước sức mạnh của quân Sở, Trần Lưu liệu thế không chống nổi, bèn bỏ chạy sang nước Trịnh. Công tử Chiêu đổ lỗi cho công tử Quá rồi giết đi. Tháng 9 năm đó công tử Khí Tật nước Sở tiến vào đánh chiếm nước Trần, diệt nước Trần, bắt công tử Chiêu đày sang nước Việt. Sở Linh vương phong Khí Tật làm Trần công cai trị nước Trần. Không rõ sau này Trần Lưu mất năm nào. Ông chỉ làm vua được vài tháng. Được 5 năm, Trần công Khí Tật nhân lúc Sở Linh vương đi đánh nước Từ, bèn làm binh biến giết Linh vương lên làm vua Sở, tức là Sở Bình vương. Năm 529 TCN, Sở Bình vương muốn kết thân với chư hầu, bèn trả lại nước Trần cho họ Quy, bèn tìm con thế tử Yển Sư (tức cháu nội của Trần Ai công) là Quy Ngô lập làm vua, tức là Trần Huệ công.
1
null
Đường 703 là một tỉnh lộ quan trọng của tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam. Tỉnh lộ 703 dài khoảng 8 km. Nối giữa thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước với phường Bảo An, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm. Đây là tuyến đường thứ 2 nối giữa hai huyện lỵ Phước Dân và tỉnh lỵ Phan Rang – Tháp Chàm, tuyến đường đầu tiên là Quốc lộ 1. Tỉnh lộ 703 dường như chạy song song với tuyến đường sắt Bắc - Nam, khoảng cách giữa hai tuyến chỉ từ 5 – 10 m, nhưng không giao nhau. Trên tuyến đường 703 có 2 cây cầu quan trọng, bắt ngang qua hai con sông, tính từ phía thị trấn Phước Dân lần lượt là: cầu sông Quao và cầu sông Dinh, hai chiếc cầu này cũng nằm song song với hai cây cầu thuộc tuyến đường sắt Bắc - Nam. Tỉnh lộ 703 là tuyến đường duy nhất tiếp nối giữa hai quốc lộ quan trọng là Quốc lộ 1 và quốc lộ 27, khi hai tuyến quốc lộ này qua Ninh Thuận. Tỉnh lộ này đi qua 3 đơn vị hành chính cấp xã của Ninh Phước và Phan Rang – Tháp Chàm, gồm có:
1
null
Mặt trận Quốc gia Thống nhất là một liên minh chính trị thành lập ngày 14 tháng 8 năm 1945, gồm các đảng phái quốc gia và những người Trotskyist (nhóm Tranh đấu - Đệ Tứ Quốc tế tại Việt Nam). Các tổ chức tham gia: Lịch sử. Ngày ngày 21 tháng 8 năm 1945, Mặt trận Quốc gia Thống nhất tổ chức một cuộc biểu tình biểu dương lực lượng tại Sài Gòn. Trong tháng 8 các đảng phái trong Mặt trận Quốc gia Thống nhất và Việt Nam Quốc dân đảng tổ chức hội nghị quân sự thành lập: Khi Cách mạng Tháng Tám thành công, các đảng phái thuộc Mặt trận Quốc gia Thống nhất yêu cầu ông Trần Văn Giàu đại diện Việt Minh cải tổ Ủy ban hành chính Nam Bộ do Việt Minh lãnh đạo. Sau đó, một số lãnh đạo đảng phái, tôn giáo tại miền Nam đã tham gia vào Ủy ban hành chính. Sau tổ chức này chống lại Việt Minh, một số thành viên hợp tác hay gia nhập Việt Minh.
1
null
Nguyễn Thúy Anh (sinh ngày 7 tháng 12 năm 1963) là một chính khách Việt Nam. Bà hiện là Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội của Quốc hội, đại biểu quốc hội Việt Nam khóa 14 nhiệm kì 2016-2021. Bà từng là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13 thuộc đoàn đại biểu tỉnh Phú Thọ. Trong Đảng Cộng sản Việt Nam, bà là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII. Xuất thân. Bà sinh ngày 7/12/1963 tại phường Tiên Cát, Việt Trì, Phú Thọ. Sự nghiệp. Trước đó, bà là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội Quốc hội. Tháng 1 năm 2016, Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 5/4/2016 được bầu làm Ủy viên Thường vụ Quốc hội. Ngày 5/4/2016, giữ chức vụ Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội Quốc hội. Ngày 22/7/2016, tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XIV, được bầu là Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội và giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội Ngày 30/1/2021, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, được bầu là Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII, nhiệm kỳ 2021-2026.
1
null
Nguyễn Thu Anh (sinh năm 1974) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13, thuộc đoàn đại biểu Lâm Đồng. Tiểu sử. Bà sinh ngày 28/8/1974, người Kinh, không tôn giáo, quê quán ở xã Tân Tiến, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau. Trình độ chuyên môn: Đại học Y khoa, Bác sĩ chuyên khoa mắt Nghề nghiệp, chức vụ: Ủy viên Uỷ ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội Nơi làm việc: Bệnh viện II Lâm Đồng Ngày vào đảng: 6/5/2004
1
null
Trần Văn Bản (sinh năm 1950) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13, thuộc đoàn đại biểu Bình Định. Ngày sinh: 10/10/1950 Giới tính: Nam Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Quê quán: Xã Vũ Đông, huyện Kiến Xương, Thái Bình Trình độ chính trị: Cao cấp lý luận chính trị Trình độ chuyên môn: Thầy thuốc nhân dân, Bác sĩ Chuyên khoa cấp 1 YHCT Nghề nghiệp, chức vụ: Chủ tịch Trung ương Hội Đông y Việt Nam, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội nghị sĩ về sức khỏe Quốc hội, Ủy viên Uỷ ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội Nơi làm việc: Trung ương Hội Đông y Việt Nam - 19 Tông Đản, Hoàn Kiếm, Hà Nội Ngày vào đảng: 20/2/1975 Nơi ứng cử: Bình Định Đại biểu Quốc hội khoá: XII,XIII Đại biểu chuyên trách: Không Đại biểu Hội đồng Nhân dân: Đại biểu HĐND tỉnh Thái Bình khóa XII, XIII
1
null
Nguyễn Thị Kim Bé (sinh ngày 10 tháng 9 năm 1968) là một nữ chính trị gia người Việt Nam. Bà hiện là đại biểu quốc hội Việt Nam khóa XIV nhiệm kì 2016-2021, thuộc đoàn đại biểu quốc hội tỉnh Kiên Giang. Bà từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XII, khóa XIII, thuộc đoàn đại biểu Kiên Giang. Xuất thân. Bà quê quán ở xã Vĩnh Thuận, huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang. Bà hiện cư trú ở Số 196A, đường Ngô Quyền, khu phố 3, phường Vĩnh Bảo, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Sự nghiệp. Gia nhập ĐCSVN vào 03/01/1994. Bà từng là Phó Giám đốc Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Kiên Giang. Bà là đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Kiên Giang nhiệm kỳ 2004-2011. Bà hiện là Tỉnh ủy viên, Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Kiên Giang.
1
null
Dương Thanh Bình (sinh ngày 8 tháng 8 năm 1961) là một chính khách Việt Nam. Ông hiện giữ chức vụ Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam khóa XV, Trưởng Ban Dân nguyện Quốc hội Việt Nam khóa XV, Ủy viên Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội. Trong Đảng Cộng sản Việt Nam, ông hiện là Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII, Ủy viên Đảng đoàn Quốc hội. Thân thế và sự nghiệp. Ông sinh ngày 8 tháng 8 năm 1961, quê quán xã Hồ Thị Kỷ, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau. Ông tham gia cách mạng từ năm 1977, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 1 tháng 1 năm 1981. Ông có bằng Cử nhân chính trị, Cử nhân kinh tế . Ngày 29 tháng 9 năm 2010, tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Cà Mau lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2010-2015, ông được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Cà Mau. Trước đó, ông từng đảm nhận các chức vụ như Phó, Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy Cà Mau, Bí thư Huyện ủy Trần Văn Thời, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Cà Mau. Ngày 18 tháng 1 năm 2011, ông được bầu làm ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa 11. Ngày 24 tháng 9 năm 2015, tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Cà Mau lần thứ XV, nhiệm kỳ 2015-2020 ông tái đắc cử chức Bí thư Tỉnh ủy Cà Mau. Ngày 26 tháng 1 năm 2016, ông tiếp tục được bầu làm ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa 12. Ngày 22 tháng 5 năm 2016, ông trúng cử Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14 tại đơn vị bầu cử số 1 tỉnh Cà Mau gồm thành phố Cà Mau và các huyện Thới Bình, U Minh. Ông giành được 278.771 phiếu đạt tỉ lệ 78,90% số phiếu hợp lệ. Sau đó, ông được các đại biểu Quốc hội tỉnh Cà Mau bầu làm Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14 tỉnh Cà Mau. Ông được sắp xếp làm Ủy viên Ủy ban Tài chính Ngân sách của Quốc hội khóa 14. Ngày 11 tháng 6 năm 2020, Phó chủ tịch thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng thay mặt Ủy ban Thường vụ Quốc hội giới thiệu ông Dương Thanh Bình để Quốc hội bầu làm Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội thay bà Nguyễn Thanh Hải, nguyên trưởng Ban Dân nguyện. Sáng ngày 12 tháng 6 năm 2020, ông được Quốc hội Việt Nam khóa 14 bỏ phiếu kín bầu bổ sung làm ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, cụ thể có 451 trong tổng số 453 đại biểu có mặt tán thành. Ngày 15 tháng 6 năm 2020, thay mặt Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân kí Nghị quyết số 962 /NQ-UBTVQH14 bổ nhiệm ông Dương Thanh Bình làm Trưởng Ban Dân nguyện Quốc hội khóa 14. Nghị quyết có hiệu lực kể từ ngày kí. Nghị quyết này căn cứ trên đề nghị của Trưởng Ban Công tác đại biểu Trần Văn Túy tại Tờ trình số 372/TTr-BCTĐB ngày 12 tháng 6 năm 2020 về việc bổ nhiệm Trưởng Ban Dân nguyện. Ngày 30/1/2021, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, ông được bầu là Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII, nhiệm kỳ 2021-2026.
1
null
Trịnh Thị Thanh Bình (sinh năm 1961) là nữ thẩm phán và chính trị gia người Việt Nam. Bà từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13, khóa 12 thuộc đoàn đại biểu Bến Tre. Bà từng là Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre. Tiểu sử. Trịnh Thị Thanh Bình sinh ngày 10 tháng 6 năm 1961, người dân tộc Kinh, không theo tôn giáo nào. Bà có quê quán tại xã Định Thủy, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre. Bà có bằng Cử nhân Luật và Cao cấp lý luận chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 11/3/1985, bà gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Bà từng là Đại biểu HĐND cấp tỉnh (1999-2004). Bà từng là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 12 tỉnh Bến Tre. Bà từng là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13 tỉnh Bến Tre, Tỉnh ủy viên, Thẩm phán, Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre, Ủy viên Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, Phó Giám đốc Sở Tư pháp; Phó bí thư Đảng ủy, Uỷ viên thường vụ Ban chấp hành Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Bến Tre. Tháng 9 năm 2015, bà nghỉ hưu theo chế độ.
1
null
Ngô Ngọc Bình (sinh 1957) là một Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông từng giữ chức vụ Phó Tư lệnh Quân khu 7, đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII, thuộc đoàn đại biểu Thành phố Hồ Chí Minh. Sự nghiệp. – Từ tháng 9 năm 1972 đến tháng 3 năm 1974: Ông là chiến sĩ, Tiểu đội trưởng Trinh sát Huyện đội Châu Đức – Tỉnh Bà Rịa Long Khánh. – Từ tháng 4 năm 1974 đến tháng 12 năm 1982: Ông là học viên Trường Sĩ quan Lục quân 2, Trung đội trưởng, Đại đội trưởng, Chuẩn úy, Thiếu úy, Trung úy Đại đội 16 Ban chỉ huy huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Nai.  – Ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 25 tháng 5 năm 1979; – Từ tháng 01 năm 1983 đến tháng 4 năm 1995: Ông là Trợ lý tác chiến, Tham mưu phó, Tham mưu trưởng, Chỉ huy trưởng, Học viên Học viện Lục quân, Thiếu tá, Trung tá Ban chỉ huy quân sự huyện Châu Thành, Thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; – Từ tháng 5 năm 1995 đến tháng 10 năm 2003: Ông là Phó Tham mưu trưởng, Phó Chỉ huy trưởng, Học viên Học viện Quốc phòng,Thượng tá, Đại tá Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Quân khu 7; – Từ tháng 11 năm 2003 đến tháng 5 năm 2007: Ông là Sư đoàn trưởng, Đại tá Sư đoàn 302, Quân khu 7; – Từ tháng 6 năm 2007 đến tháng 01 năm 2009: Ông là Chỉ huy trưởng, Đại tá Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Phước, Quân khu 7; Năm 2009, ông được Thủ tướng thăng quân hàm từ Đại tá lên Thiếu tướng. – Từ tháng 02 năm 2009 đến 9 năm 2017: Ông là Thiếu tướng, Phó Tư lệnh Quân khu 7 – Tháng 10 năm 2017 – nay ông nghỉ chờ hưu.
1
null
Nguyễn Thành Bộ (sinh năm 1956) là thẩm phán và chính trị gia người Việt Nam. Ông từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13, thuộc đoàn đại biểu Thanh Hoá, Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Tiểu sử. Nguyễn Thành Bộ sinh ngày 20 tháng 12 năm 1956, người dân tộc Kinh, không theo tôn giáo nào. Ông có quê quán ở xã Hải Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Ông có bằng Cử nhân chính trị và Cử nhân luật tư pháp. Ngày 21 tháng 4 năm 1984, ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông từng là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13 nhiệm kì 2011-2016 thuộc đoàn đại biểu tỉnh Thanh Hóa, đồng thời là Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Ủy viên Ủy ban Tư pháp của Quốc hội khóa 13.
1
null
Nguyễn Văn Chiến (sinh ngày 2 tháng 3 năm 1957) tại xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh là hiệu trưởng Trường Chính trị Nguyễn Văn Cừ, đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13, thuộc đoàn đại biểu Bắc Ninh.. Xuất thân. Nguyễn Văn Chiến sinh ngày 2 tháng 3 năm 1957, người dân tộc Kinh, không theo tôn giáo nào. Ông có quê quán ở tại xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Giáo dục. Ông có bằng Cử nhân Luật, Trung học Sư phạm và bằng Cao cấp lý luận chính trị. Sự nghiệp. Ngày 16/8/1982, ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 12 nhiệm kì 2007-2011. Từ 2011 đến 2016, ông là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13, thuộc đoàn đại biểu Bắc Ninh, đồng thời là Tỉnh ủy viên; Phó Trưởng Đoàn chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội khóa XIII tỉnh Bắc Ninh, Ủy viên Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội khóa 13, làm việc ở Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh Bắc Ninh.
1
null
Đỗ Văn Chiến (sinh ngày 10 tháng 11 năm 1962) là một chính trị gia người Việt Nam, dân tộc Sán Dìu. Ông hiện là Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy viên Ban chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch COVID-19, đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV nhiệm kì 2016-2021, thuộc đoàn đại biểu quốc hội tỉnh Tuyên Quang. Ông từng là Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc của Chính phủ Việt Nam, đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII, thuộc đoàn đại biểu Yên Bái. từng là Phó Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang, Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái. Xuất thân. Đỗ Văn Chiến sinh ngày 10 tháng 11 năm 1962, quê quán ở xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Ông hiện cư trú ở quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội. Sự nghiệp. - Ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 13/9/1986, ngày chính thức: 13/9/1987. - 10/1986 - 10/1988: Cán bộ, sau đó là Phó phòng Hành chính - Tổng hợp, Trường Đại học Nông nghiệp III Bắc Thái. - 11/1988 - 7/1993: Trợ lý kỹ thuật, Trưởng phòng Điều độ sản xuất, sau đó là Phó Giám đốc Xí nghiệp Nông công nghiệp chè Tân Trào thuộc Liên hiệp các Xí nghiệp chè Việt Nam. - 8/1993 - 11/1994: Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy, Phó Chủ tịch UBND huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. - 12/1994 - 1/1996: Phó trưởng Ban Tài chính - Quản trị Tỉnh ủy Tuyên Quang. - 2/1996 - 2/1998: Phó Trưởng ban rồi Tỉnh ủy viên, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tổ chức Tỉnh ủy Tuyên Quang. - 3/1998 - 7/2001: Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch HĐND huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. - 8/2001 - 6/2009: Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch rồi Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Tuyên Quang. - Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng. - 6/2009 - 7/2011: Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Tuyên Quang. Đại biểu Quốc hội khóa XIII - Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. - 8/2011 - 2/2015: Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái;. - 02/2015 - 4/2016: Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Ban Cán sự Đảng, Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc; - Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. - Ngày 09 tháng 4 năm 2016: Tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIII, được Quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch nước bổ nhiệm giữ chức Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc, nhiệm kỳ 2011 - 2016, thay cho ông Giàng Seo Phử. - Ngày 27 tháng 7 năm 2016: Tại kỳ họp thứ 1, Quốc hội khóa XIV, được Quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch nước bổ nhiệm giữ chức Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc, nhiệm kỳ 2016 - 2021. - Ngày 30 tháng 1 năm 2021, tại phiên bầu cử Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, ông được bầu làm Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XIII. - Ngày 31 tháng 1 năm 2021, tại phiên họp đầu tiên của Trung ương Đảng khóa XIII, ông được bầu làm Bí thư Trung ương Đảng khóa XIII. - Ngày 06 tháng 4 năm 2021, Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức Hội nghị công bố quyết định của Bộ Chính trị về công tác cán bộ. Quyết định của Bộ Chính trị chỉ định đồng chí Đỗ Văn Chiến, Bí thư Trung ương Đảng, Bí thư Ban cán sự đảng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc giữ chức Bí thư Đảng đoàn MTTQ Việt Nam nhiệm kỳ 2019-2024. - Ngày 7 tháng 4 năm 2021, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIV, Quốc hội Việt Nam đã thông qua nghị quyết miễn nhiệm chức Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc, nhiệm kỳ 2016 - 2021 của ông Đỗ Văn Chiến theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính. - Ngày 8 tháng 4 năm 2021, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIV, Quốc hội Việt Nam đã thông qua nghị quyết bầu ông Đỗ Văn Chiến giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng bầu cử Quốc gia Việt Nam (Tại Nghị quyết số 158/2021/QH14). - Ngày 12 tháng 4 năm 2021, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức hội nghị hiệp thương để cử ông Đỗ Văn Chiến, Bí thư Trung ương Đảng, Bí thư Đảng Đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tham gia T.Ư, Đoàn Chủ tịch và giữ chức Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Với 100% các đại biểu có mặt đã đồng ý cử ông Đỗ Văn Chiến làm Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ngày 4 tháng 6 năm 2021, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký Quyết định số 855/QĐ-TTg, bổ nhiệm ông Đỗ Văn Chiến làm Phó Chủ tịch Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương. Ngày 25 tháng 8 năm 2021, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký Quyết định số 1438/QĐ-TTg, bổ nhiệm ông Đỗ Văn Chiến làm Ủy viên Ban chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch COVID-19, Trưởng Tiểu ban Vận động và huy động xã hội thuộc Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch COVID-19.
1
null
Hà Ngọc Chiến (sinh năm 1957 tại Cao Bằng) là một chính trị gia người Việt Nam, dân tộc Tày. Ông từng là Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Việt Nam, và là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV thuộc đoàn đại biểu tỉnh Cao Bằng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng khóa XI, XII, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội , nguyên Ủy viên Đảng đoàn Quốc hội, nguyên Phó Trưởng ban Nội chính Trung ương, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng. Xuất thân. Ngày sinh: 11/12/1957. Quê quán: Xã Cao Chương, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Hiện cư trú tại quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Sự nghiệp. Ông Hà Ngọc Chiến là sinh viên khóa D8, Học viện An ninh Nhân dân, Bộ Công an. Ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 27/5/1980. Ông từng giữ chức vụ Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Cao Bằng. Năm 2010, sau khi bà Nguyễn Thị Nương được điều động về giữ chức vụ Phó Trưởng Ban Dân vận Trung ương, ông được bầu giữ chức vụ Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng. Năm 2011, ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI. Năm 2015, Bộ Chính trị quyết định điều động ông Hà Ngọc Chiến - Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng, Chủ tịch HĐND tỉnh, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Cao Bằng khóa XIII - về công tác tại Ban Nội chính Trung ương, giữ chức Phó trưởng Ban Nội chính Trung ương. Ngày 9-11-2015, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1057/NQ-UBTVQH13 về việc phê chuẩn Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội khóa XIII đối với đồng chí Hà Ngọc Chiến, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó trưởng Ban Nội chính Trung ương. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, ông được bầu lại làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương. Tháng 4 năm 2016, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIII đã bầu ông Hà Ngọc Chiến, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Cao Bằng giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội với 474/485 phiếu hợp lệ (chiếm 95,95% tổng số đại biểu Quốc hội) tán thành. Trước đó, ông cũng được bầu bổ sung làm Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chỉ định tham gia Đảng đoàn Quốc hội. Ông từng là đại biểu hội đồng nhân dân Tỉnh Cao Bằng nhiệm kỳ 2004-2011, 2011-2016. Tại cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XIV ngày 22 tháng 05 năm 2016, ông đã trúng cử Đại biểu Quốc hội. Sau đó, Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XIV bầu ông tiếp tục làm Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc Hội khóa XIV với 97,37% tổng số đại biểu tán thành.
1
null
Trần Quang Chiểu (sinh ngày 29 tháng 12 năm 1958) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông hiện là Ủy viên thường trực Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội Việt Nam, Phó Chủ tịch Nhóm nghị sĩ hữu nghị Việt Nam - Mông Cổ, đại biểu quốc hội Việt Nam khóa XIV nhiệm kì 2016-2021 và khóa XIII nhiệm kì 2011-2016 thuộc đoàn đại biểu Nam Định. Tiểu sử. Ông sinh ngày 29 tháng 12 năm 1958, quê quán ở xã Hải Trung, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, người dân tộc Kinh, không theo tôn giáo nào. Giáo dục. Ông có trình độ chuyên môn Cử nhân Tài chính - Kế toán chuyên ngành Tài vụ công nghiệp, Cử nhân chính trị - hành chính. Ông có bằng cao cấp lí luận chính trị. Sự nghiệp. Ngày 22 tháng 12 năm 1984, ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông từng là Bí thư Huyện ủy Hải Hậu, Nam Định. Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII tỉnh Nam Định. Từ năm 2011 đến năm 2016, ông là đại biểu quốc hội Việt Nam khóa XIII thuộc đoàn đại biểu Nam Định, Ủy viên thường trực Ủy ban Tài chính-Ngân sách của Quốc hội khóa XIII (Đại biểu chuyên trách Trung ương). Ông có trình độ chuyên môn cử nhân tài chính - kế toán, cao cấp lí luận chính trị. Ông từng là đại biểu hội đồng nhân dân cấp huyện. Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV tỉnh Nam Định. Hiện tại, ông là Ủy viên thường trực Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội Việt Nam khóa XIV, Phó Chủ tịch Nhóm nghị sĩ hữu nghị Việt Nam - Mông Cổ, đại biểu quốc hội Việt Nam khóa XIV nhiệm kì 2016-2021 (Đại biểu chuyên trách Trung ương). Hoạt động. Tại kì họp thứ 7 Quốc hội Việt Nam khóa 14 vào tháng 5 năm 2019, Trần Quang Chiểu đề xuất với Chính phủ Việt Nam cần sớm có giải pháp để huy động vàng và ngoại tệ trong dân để bù cho khoản nợ mà chính phủ phải vay nước ngoài với lãi suất cao.
1
null
Nguyễn Đức Chung (sinh ngày 3 tháng 8 năm 1967) là một cựu Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam và chính trị gia người Việt Nam. Ông là cựu Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, đến tháng 8/2020 thì bị khởi tố và bắt tạm giam. Nguyễn Đức Chung từng là Giám đốc Công an thành phố Hà Nội (2012-2016), đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII (2011-2016), thuộc đoàn đại biểu thành phố Hà Nội, Ủy viên Ủy ban Tư pháp của Quốc hội khoá 13. Trong Đảng Cộng sản Việt Nam, ông từng giữ chức vụ Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII, Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội. Ông bị tạm "đình chỉ công tác" 90 ngày kể từ ngày 11 tháng 8 năm 2020 để điều tra, xác minh làm rõ trách nhiệm có liên quan trong một số vụ án. Đến ngày 25 tháng 9 năm 2020 thì ông chính thức bị bãi nhiệm các chức vụ. Trước đó, lái xe riêng và thư ký của ông đều đã bị tạm giam để điều tra về việc "đánh cắp bí mật Nhà nước". Ngày 22 tháng 11 năm 2020, Cơ quan điều tra Bộ Công an công bố việc ông Nguyễn Đức Chung đã có vai trò chủ mưu trong vụ đánh cắp nhiều tài liệu mật về vụ án Nhật Cường (vụ án mà ông Chung cũng có dính líu). Ngày 2 tháng 12 năm 2020, Ủy ban Kiểm tra Trung ương ra thông báo quyết định đang xem xét thi hành kỷ luật "khai trừ" ra khỏi Đảng đối với ông Chung. Xuất thân. Nguyễn Đức Chung sinh ngày 3 tháng 8 năm 1967, tại xã Yển Khê, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Nguyên quán tại xã Thăng Long, thị xã Kinh Môn, Tỉnh Hải Dương. Ông có anh trai ruột là thiếu tướng Nguyễn Tiến Thành, Phó Chánh thanh tra Bộ Quốc phòng. Sự nghiệp. Ngành Công an. - Từ 10/1985 - 5/1990: Học viên Trường Học viện Cảnh sát nhân dân. - Từ 6/1990 - 10/1997: Cán bộ Đội Trọng án Phòng Cảnh sát điều tra - Công an TP Hà Nội. - Từ 11/1997 - 3/1999: Đội phó Đội Trọng án Phòng Cảnh sát điều tra - Công an TP Hà Nội. - Từ 4/1999 - 10/2001: Đội trưởng Đội Trọng án Phòng Cảnh sát điều tra - Công an TP Hà Nội. - Từ 11/2001 - 10/2004: Phó Trưởng phòng Cảnh sát điều tra - Công an TP Hà Nội. - Từ 1/2002 - 11/2010: Điều tra viên cao cấp, Phó Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an TP Hà Nội. - Từ 10/2004 - 11/2007: Phó Trưởng phòng Cảnh sát hình sự - Công an TP Hà Nội. - Từ 12/2007 - 9/2010: Trưởng phòng Cảnh sát hình sự - Công an TP Hà Nội. - Từ 9/2010 - 3/2011: Phó Giám đốc Công an TP Hà Nội kiêm Trưởng phòng Cảnh sát hình sự. - Từ 3/2011 - 9/2012: Phó Giám đốc Công an TP Hà Nội. - Từ 12/2010 - 12/2012: Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an TP Hà Nội. - Từ 5/2011: Đại biểu Quốc hội khóa XIII, Ủy viên Ủy ban Tư pháp của Quốc hội. - Từ 6/2012: Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo thực hiện Nghị quyết 09 của Thành ủy và BCĐ 138 TP Hà Nội. - Từ 9/2012: Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Công an TP Hà Nội (Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP Hà Nội đến tháng 12/2012). Ông được bổ nhiệm làm Giám đốc Công an thành phố Hà Nội từ tháng 9 năm 2012, kế nhiệm Trung tướng Nguyễn Đức Nhanh nghỉ hưu, nhưng vẫn mang hàm Đại tá. Nguyễn Đức Chung được phong hàm Thiếu tướng ngày 13 tháng 7 năm 2013 khi mới 46 tuổi - Thiếu tướng trẻ nhất ngành Công an thời điểm được phong quân hàm. Ông được trao các bằng khen Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (năm 2004), Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng nhất (năm 2007), Huân chương Chiến công hạng nhất Làm việc tại Hà Nội. Ngày 02 tháng 11 năm 2015, Hội nghị lần thứ nhất, Đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội khóa XVI nhiệm kỳ 2015 – 2020, ông được bầu làm Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội. Chủ tịch thành phố Hà Nội. Ngày 04 tháng 12 năm 2015, Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội bầu Nguyễn Đức Chung làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội thay ông Nguyễn Thế Thảo. Ngày 10 tháng 12 năm 2015, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết định số 2225/QĐ-TTg phê chuẩn việc bầu chức vụ Chủ tịch UBND TP Hà Nội nhiệm kỳ 2011- 2016 đối với ông Nguyễn Đức Chung, Phó Bí thư Thành ủy, Thiếu tướng, Giám đốc Công an TP Hà Nội. Tháng 1 năm 2016, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, ông trúng cử Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII. Ngày 15 tháng 3 năm 2016, Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ Công an đã quyết định cử Thiếu tướng (sau được thăng Trung tướng) Đoàn Duy Khương, Trợ lý của Đại tướng Trần Đại Quang, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an giữ chức vụ Giám đốc Công an TP Hà Nội kế nhiệm ông. Sáng 14/6/2016, HĐND TP Hà Nội khóa 15 họp kỳ thứ nhất bầu chức danh Chủ tịch UBND thành phố nhiệm kỳ 2016-2021, Với hơn 96% phiếu đồng ý, Nguyễn Đức Chung tiếp tục giữ chức Chủ tịch UBND TP Hà Nội khoá mới. Vào tháng 4 năm 2017, vụ tranh chấp đất đai ở xã Đồng Tâm lên tới đỉnh điểm khi một số công dân xã Đồng Tâm đã giữ 38 người gồm cán bộ huyện Mỹ Đức và cán bộ, chiến sĩ công an tại Nhà văn hóa thôn Hoành. Khi đó, ông Chung đã về UBND xã Đồng Tâm đối thoại trực tiếp với người dân, ghi nhận 21 vấn đề bức xúc của bà con và hứa sẽ chỉ đạo giải quyết công tâm. Điều tra và khởi tố. Ngày 11 tháng 8 năm 2020, ông bị Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đình chỉ công tác chức vụ Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội để "xác minh, điều tra làm rõ trách nhiệm có liên quan trong một số vụ án theo quy định của pháp luật". Cùng ngày, Bộ Chính trị cũng đã quyết định đình chỉ sinh hoạt Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội và đình chỉ chức vụ Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội đối với ông Nguyễn Đức Chung, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội. Ông là cấp tướng và là tiến sĩ luật thứ hai của bộ CA lại vi phạm luật đến mức khởi tố sau ông Bùi Quốc Huy, làm cho dân có quyền đặt câu hỏi về các tiến sĩ luật nói riêng và các tiến sĩ khác của bộ CA. Thiếu tướng Tô Ân Xô, Chánh Văn phòng Bộ Công an cho biết, ông Nguyễn Đức Chung (Chủ tịch UBND TP Hà Nội) đang bị điều tra, làm rõ mối liên quan đến 3 vụ án: Vụ "buôn lậu, vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng; rửa tiền; vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng" xảy ra tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại và Dịch vụ Kỹ thuật Nhật Cường. Vụ án thứ hai là "vi phạm quy định về quản lý sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí" xảy ra tại UBND TP Hà Nội và các đơn vị liên quan. Vụ án thứ ba là "chiếm đoạt tài liệu bí mật nhà nước" xảy ra tại Hà Nội. Sáng ngày 25 tháng 9 năm 2020, HĐND TP Hà Nội tổ chức kỳ họp bất thường nhằm thống nhất với tờ trình bãi nhiệm chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đối với ông Nguyễn Đức Chung, 95 trong số 96 đại biểu HĐND TP Hà Nội có mặt đã biểu quyết bằng hình thức giơ tay biểu quyết nhất trí thông qua việc này. Ngày 29 tháng 9 năm 2020, tại Quyết định 1476/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc phê chuẩn kết quả bãi nhiệm chức vụ Chủ tịch UBND TP Hà Nội nhiệm kỳ 2016 - 2021 đối với ông Nguyễn Đức Chung, do có hành vi vi phạm pháp luật. Ngày 28 tháng 8 năm 2020, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an đã ra quyết định Khởi tố bị can, Lệnh bắt tạm giam 04 tháng, Lệnh khám xét chỗ ở và nơi làm việc đối với ông Nguyễn Đức Chung về hành vi "Chiếm đoạt tài liệu bí mật Nhà nước" Ngày 3 tháng 9 năm 2020, thường trực HĐND TP Hà Nội đã có quyết định tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu HĐND TP Hà Nội khóa 15, nhiệm kỳ 2015-2021 đối với ông Nguyễn Đức Chung. Kỷ luật. Trong hai ngày 1 và 2 tháng 12 năm 2020, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã họp kỳ thứ 50 nhằm xem xét việc thi hành kỷ luật đối với ông Nguyễn Đức Chung. Theo đó, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã đề nghị Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương xem xét thi hành kỷ luật khai trừ Đảng đối với ông Nguyễn Đức Chung, Uỷ viên Trung ương Đảng, nguyên Phó Bí thư Thành ủy, nguyên Bí thư Ban cán sự Đảng, nguyên Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội. Bị kết án tù giam. Vụ án "Chiếm đoạt tài liệu bí mật nhà nước" liên quan đến vụ án Công ty Nhật Cường. Trưa 11/12/2020, TAND TP Hà Nội đã tiến hành tuyên án vụ án "Chiếm đoạt tài liệu bí mật nhà nước" liên quan đến vụ án Công ty Nhật Cường, thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng theo dõi, chỉ đạo. Tòa đã tuyên án phạt ông Nguyễn Đức Chung 5 năm tù về tội "Chiếm đoạt tài liệu bí mật nhà nước" theo quy định tại Điều 337 – Bộ luật Hình sự năm 2015. Tạo điều kiện cho công ty của gia đình thắng gói thầu cung cấp chế phẩm hỗ trợ lọc nước cho thành phố Hà Nội. Chiều 13/12/2021, về tội Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, TAND Hà Nội tuyên phạt Nguyễn Đức Chung 8 năm tù với cáo buộc để công ty gia đình mua chế phẩm Redoxy-3C về bán cho thành phố. Tạo điều kiện cho liên danh Đông Kinh – Nhật Cường thắng gói thầu cung cấp dịch vụ “số hóa” cho thành phố Hà Nội. Ngày 31/12/2021, Nguyễn Đức Chung lãnh thêm 3 năm tù về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, tạo lợi thế cho liên danh Đông Kinh - Nhật Cường trúng thầu. Tổng hợp hình phạt, bị cáo Nguyễn Đức Chung phải chấp hành 12 năm tù tính từ ngày bị bắt là 28/8/2020. Vụ án “thổi” giá cây xanh ở Hà Nội. Ngày 27.3.2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra đề nghị Viện KSND tối cao truy tố ông Nguyễn Đức Chung, cựu Chủ tịch UBND TP.Hà Nội, về tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ. Ông bị cáo buộc đã thiên vị cho các công ty, cá nhân có mối quan hệ thân thiết với mình để thực hiện dự án trồng cây tại Hà Nội, gây thiệt hại lớn cho tài sản Nhà nước. Sau 4 ngày xét xử, chiều ngày 28/8/2023. ông Chung bị phạt thêm 18 tháng tù. Tổng hợp 3 bản án trước, ông Chung phải chấp hành 13 năm 6 tháng tù. Cuộc sống gia đình. Ông Chung có nhà riêng ở số 88 Trung Liệt, quận Đống Đa, TP Hà Nội. Ông sống tại căn nhà này từ khi đang làm việc tại Công an TP Hà Nội. Khi cơ quan thực thi pháp luật đến khám nhà, ông không có mặt tại nhà. Ông có vợ là bà Nguyễn Thị Trúc Chi Hoa - Giám đốc công ty Minh Hoa, kinh doanh chuỗi siêu thị Minh Hoa. Tuy nhiên sau khi ông Chung bị bắt thì bà Hoa đã rút gần hết vốn khỏi công ty này. Ông có 2 con là Nguyễn Đức Hạnh (1995) và Nguyễn Đức Minh Hiền (1999). Nguyễn Đức Hạnh từng được đồn là có quan hệ tình cảm với ca sĩ Chi Pu.
1
null
Lưu Thành Công (sinh năm 1961) là đại biểu quốc hội Việt Nam khóa 13 nhiệm kì 2011-2016, khóa 14 nhiệm kì 2016 - 2021, thuộc đoàn đại biểu Vĩnh Long. Tiểu sử. Ngày sinh: 14/5/1961 Giới tính: Nam Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Quê quán: Xã Tường Lộc, huyện Tam Bình, Vĩnh Long Trình độ chính trị: Cao cấp lý luận chính trị Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ quản lý giáo dục Nghề nghiệp, chức vụ (Hiện tại): Tỉnh ủy viên, Phó trưởng Đoàn chuyên trách Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Vĩnh Long, Ủy viên Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội Nơi làm việc: Văn phòng Đoàn ĐBQH tỉnh Vĩnh Long Ngày vào đảng: 2/7/1989 Nơi ứng cử: Vĩnh Long Đại biểu Quốc hội khoá: XIII Đại biểu chuyên trách: Địa phương Đại biểu Hội đồng Nhân dân: Không
1
null
Lê Thị Công (sinh năm 1964) là nữ đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII, thuộc đoàn đại biểu Bà Rịa – Vũng Tàu. Tiểu sử. Ngày sinh: 8/3/1964 Giới tính: Nữ Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Quê quán: Thị trấn Đất Đỏ, huyện Đất Đỏ, Bà Rịa – Vũng Tàu Trình độ chính trị: Cao cấp lý luận chính trị Trình độ chuyên môn: Kỹ sư kinh tế Nông nghiệp Nghề nghiệp, chức vụ: Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường Nơi làm việc: Sở Tài nguyên và Môi trường, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu Ngày vào đảng: 22/1/1988 Nơi ứng cử: Bà Rịa – Vũng Tàu Đại biểu Quốc hội khoá: XIII Đại biểu chuyên trách: Không Đại biểu Hội đồng nhân dân: Không
1
null
Võ Kim Cự (sinh năm 1957) là một chính khách Việt Nam. Ông nguyên là Bí thư, Chủ tịch đoàn Liên minh HTX Việt Nam nhiệm kỳ 2015-2020, nguyên Bí thư Tỉnh ủy, nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13, khóa 14 thuộc đoàn đại biểu Hà Tĩnh, thành viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội. Liên quan đến vụ xả nước thải ra biển của Formosa, ngày 21/4/2017, Ban Bí thư Trung ương Đảng quyết định xóa mọi chức vụ trong Đảng của ông. Cuộc đời và sự nghiệp. Ông sinh ngày 19 tháng 5 năm 1957, quê quán tại xã Cẩm Lạc, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Bước đầu trong sự nghiệp chính trị của ông là tham gia hoạt động công tác Thanh niên. Ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 30 tháng 9 năm 1976, chính thức ngày 24 tháng 3 năm 1978. Từ tháng 8 năm 1978 đến tháng 11 năm 1986, ông lần lượt giữ các chức vụ Trung đoàn phó, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Trung đoàn Thanh niên xây dựng quê hương Phan Đình Giót; Ủy viên Ban Chấp hành Huyện ủy; Ủy viên Ban Chấp hành Tỉnh đoàn; Phó Bí thư, Bí thư Huyện Đoàn Cẩm Xuyên. Từ 12/1986-3/1990: Bí thư Chi bộ, Giám đốc Trung tâm dạy nghề huyện Cẩm Xuyên Từ 4/1991-9/1991: Ủy viên Ban Chấp hành Huyện ủy, Đại biểu HĐND huyện; Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Xí nghiệp xuất khẩu Cẩm Xuyên Từ 10/1991-7/1993: Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Công ty METECO Hà Tĩnh Từ 8/1993-3/1997: Ủy viên Ban Chấp hành Tỉnh ủy, Đại biểu HĐND tỉnh; Bí thư Đảng ủy, Tổng Giám đốc điều hành Công ty Liên doanh Austinh Hà Tĩnh; Chủ tịch Hiệp hội Titan Việt Nam Từ 4/1997-12/2000: Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Công ty khai thác, chế biến và xuất khẩu Titan Hà Tĩnh; Chủ tịch Hiệp hội Titan Việt Nam Từ 01/2001-6/2005: Ủy viên Ban Chấp hành Tỉnh ủy, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Công ty Khoáng sản và TM Hà Tĩnh, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Tổng Công ty Khoáng sản và Thương mại Hà Tĩnh (MITRACO), Chủ tịch Hiệp hội Titan Việt Nam, Đại biểu HĐND tỉnh Từ 6/2005-7/2010: Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, Đại biểu HĐND tỉnh Từ 8/2010-02/2015: Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh (thay ông Lê Văn Chất nghỉ hưu theo chế độ), Đại biểu Quốc hội khóa XIII Tháng 2/2015: Bí thư Tỉnh ủy (thay cho ông Nguyễn Thanh Bình về trung ương làm Phó Ban Tổ chức Trung ương), Chủ tịch HĐND tỉnh, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Hà Tĩnh Ngày 16/10/2015, ông thôi chức Bí thư Hà Tĩnh để nhận công tác ở trung ương là Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam nhiệm kỳ 2015-2020. Ngày 7/9/2017, Võ Kim Cự nhận thêm chức danh Phó trưởng ban "Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã". Ngày 30/9/2017, Võ Kim Cự thôi những chức vụ cuối cùng để nhận quyết định nghỉ hưu từ 01/10/2017. Liên quan đến dự án Formosa. Năm 2008, ông Võ Kim Cự là Trưởng ban Quản lý Khu kinh tế Vũng Áng (nay là Ban quản lý khu kinh tế tỉnh Hà Tĩnh), cơ quan cấp phép đầu tư cho dự án Nhà máy liên hợp luyện gang thép và cảng nước sâu Sơn Dương (dự án Formosa) do Công ty TNHH gang thép Hưng Nghiệp Formosa Đài Loan làm chủ đầu tư với thời hạn 70 năm khi chưa được Chính phủ đồng ý. Tuy nhiên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã nghiên cứu và kiến nghị cho Formosa thuê 70 năm và đã được Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đồng ý. Về việc cấp phép này, ông Võ Kim Cự cho biết: "Không phải đơn giản mà Hà Tĩnh cấp phép cho Formosa. Đầu tiên là báo cáo Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản chấp thuận chủ trương. Sau đó Nhà đầu tư lập dự án với nhiều bước. Trước khi thẩm định đã có ý kiến của 12 Bộ chuyên ngành, kể cả các cơ quan trong khối nội chính, Quốc phòng, an ninh... đồng ý với các nội dung. Sau đó là thẩm định rồi báo cáo Chính phủ. Cuối cùng, Chính phủ đồng ý để cho Hà Tĩnh được cấp phép." Trao đổi riêng với PV Dân trí sáng nay 25/7, một lãnh đạo Thanh tra Chính phủ đánh giá trả lời của ông Võ Kim Cự: " Thủ tướng đồng ý cho 70 năm là xử lý sau thanh tra, tức là sai luật rồi nhưng để hoạt động của dự án bình ổn thì cho tiếp tục thực hiện 70 năm, chứ không phải đồng ý từ trước." và "Việc ông Võ Kim Cự trả lời báo chí nói rằng có 12 bộ ngành thẩm định việc cấp phép 70 năm là không đúng đâu. Không có 12 bộ ngành thẩm định cho thuê 70 năm đâu, ông nói sai đấy, lấp liếm” Kỷ luật. Ngày 22/2/2017, Ủy ban Kiểm tra Trung ương ra quyết định, trong đó quy "trách nhiệm chính" cho ông Cự vì "đã thiếu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo; buông lỏng quản lý, điều hành; thiếu kiểm tra, giám sát trong quá trình thực hiện dự án; để xảy ra các vi phạm trong thẩm định, phê duyệt, cấp phép và quản lý nhà nước đối với dự án Formosa Hà Tĩnh." Thông cáo ngày 21/4/2017 của Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản nói ông Võ Kim Cự "chịu trách nhiệm chính về những vi phạm, khuyết điểm của Ban cán sự đảng Uỷ ban nhân dân tỉnh và Uỷ ban nhân dân tỉnh giai đoạn 2008 - 2016 và Ban Quản lý Khu kinh tế tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2010". Ông bị kết luận "đã trực tiếp ký nhiều văn bản không đúng quy định trong việc cấp giấy chứng nhận đầu tư; giao và cho thuê mặt nước biển; đồng ý chủ trương cho Công ty Formosa tự giải phóng mặt bằng để xây dựng đường ống xả nước thải không đúng quy định...; thiếu trách nhiệm chỉ đạo, thanh tra, giám sát quá trình triển khai thực hiện Dự án". Ban Bí thư Trung ương Đảng quyết định xóa mọi chức vụ trong Đảng của ông Võ Kim Cự. Có nghĩa là ông bị cách chức nguyên Bí thư Tỉnh uỷ Hà Tĩnh, chức vụ ông giữ từ tháng 2 đến tháng 11/2015. Ông Cự cũng bị kỷ luật xóa mọi chức vụ trong Đảng từ 2005 đến 2015, như các chức Bí thư Ban cán sự đảng Uỷ ban nhân dân tỉnh, Phó Bí thư Tỉnh uỷ Hà Tĩnh. Sau khi nhận kỷ luật cách chức từ Ban bí thư, Chủ tịch liên minh hợp tác xã Việt Nam Võ Kim Cự đã đệ đơn xin thôi làm đại biểu Quốc hội khóa 14. Ngày 28.4.2017, Chủ tịch QH Nguyễn Thị Kim Ngân trong buổi tiếp xúc cử tri tại quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ, cho biết: “Các chức vụ trước làm sai đã cách chức hết rồi. Chức vụ hiện tại là làm Chủ tịch liên minh HTX của ông Võ Kim Cự chưa sai. Khi ông Võ Kim Cự vào QH thì vào bằng suất của Chủ tịch liên minh Hợp tác xã và do MTTQ VN giới thiệu. QH sẽ làm thủ tục cho thôi nhiệm vụ đại biểu QH và Chính phủ làm thủ tục cho nghỉ hưu đối với ông Võ Kim Cự, vì đã đến tuổi nghỉ hưu. Có nghĩa là nghỉ hưu là hết chức. Chức trong quá khứ là cắt, chức hiện tại là thôi đồng nghĩa không còn gì nữa”. Ngày 15/5/2017, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã biểu quyết chấm dứt tư cách đại biểu Quốc hội của Võ Kim Cự. Ngày 16/7/2017, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ký quyết định thi hành kỷ luật 4 người liên quan tới Formosa, Võ Kim Cự bị xóa tư cách nguyên Phó chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh nhiệm kỳ 2005 - 2010 và nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh nhiệm kỳ 2010 - 2015.
1
null
Nguyễn Sỹ Cương (sinh ngày 3 tháng 11 năm 1961) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14 tỉnh Ninh Thuận, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội khóa 14 nhiệm kì 2016-2021, Chủ tịch Nhóm nghị sĩ hữu nghị Việt Nam - Thổ Nhĩ Kỳ. Ông từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13 thuộc đoàn đại biểu Ninh Thuận, Ủy viên thường trực Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội khóa 13. Xuất thân. Ông sinh ngày 3 tháng 11 năm 1961, quê quán ở phường Khương Đình, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. Sự nghiệp. Ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 17 tháng 12 năm 1986. Ông từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14 tỉnh Ninh Thuận, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội khóa 14 nhiệm kì 2016-2021, Chủ tịch Nhóm nghị sĩ hữu nghị Việt Nam - Thổ Nhĩ Kỳ (Đại biểu chuyên trách: Trung ương).
1
null
Phạm Biên Cương (sinh năm 1960) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13, thuộc đoàn đại biểu An Giang. Tiểu sử. Ngày sinh: 10/7/1960 Giới tính: Nam Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Quê quán: Xã An Phú, huyện Tịnh Biên, An Giang Trình độ chính trị: Cử nhân chính trị Trình độ chuyên môn: Kỹ sư thủy lợi; Cử nhân kinh tế Nghề nghiệp, chức vụ: Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh An Giang Nơi làm việc: Văn phòng tỉnh ủy An Giang Ngày vào đảng: 26/7/1985 Nơi ứng cử: An Giang Đại biểu Quốc hội khoá: XIII Đại biểu chuyên trách: Không Đại biểu Hội đồng nhân dân: Đại biểu HĐND cấp huyện (2004-2011)
1
null
Doãn Thế Cường (sinh năm 1958) là Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên, đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII, thuộc đoàn đại biểu Hưng Yên. Tiểu sử. Doãn Thế Cường sinh ngày 03/3/1958, tại xã Lệ Xá huyện Tiên Lữ tỉnh Hưng Yên. Tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lần thứ XVIII nhiệm kỳ 2015 - 2020, ông Doãn Thế Cường đã có nguyện vọng xin thôi không tham gia cấp ủy khóa mới. Tại kỳ họp thứ 11, các đại biểu HĐND tỉnh Hưng Yên khóa XV đã biểu quyết chấp thuận đơn xin thôi đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch UBND tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2011 - 2016 của ông Doãn Thế Cường.
1
null
Nguyễn Quang Cường (sinh 1965) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, nguyên Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự thành phố Hải Phòng, nguyên Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Quân khu 3, hiện là Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Quân khu 3. Ông từng là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII, thuộc Đoàn Đại biểu Hải Phòng, Ủy viên Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội. Thân thế và sự nghiệp. Ông sinh ngày 26 tháng 1 năm 1965 tại Phường Hợp Đức, quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng Ông kết nạp Đảng vào ngày 16 tháng 01 năm 1990 Trước 2013, ông là Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự thành phố Hải Phòng. Năm 2013, bổ nhiệm giữ chức Phó Tư lệnh Quân khu 3 đồng thời thăng quân hàm Thiếu tướng. Năm 2015, ông chuyển sang làm Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Quân khu 3 Tháng 4 năm 2019, giữ chức Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Quân khu 3 đồng thời thăng quân hàm Trung tướng.
1
null
Phạm Văn Cường (sinh năm 1957) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII, thuộc đoàn đại biểu Quốc hội Lào Cai, từng là Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Lào Cai. Tiểu sử. Ông sinh ngày 10/1/1957, dân tộc Kinh, không tôn giáo. Quê quán ở TP Yên Bái, tỉnh Yên Bái. Ông có trình độ chính trị là Cử nhân chính trị và trình độ chuyên môn là Đại học Nông nghiệp. Ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 25/11/1992. Ông từng là Đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XIV nhiệm kỳ 2011-2016. Ông từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII, thuộc đoàn đại biểu Lào Cai, đồng thời là Ủy viên Ban Thường vụ tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Lào Cai, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Lào Cai khóa XIII, Ủy viên Uỷ ban Tài chính-Ngân sách của Quốc hội, làm việc ở Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh Lào Cai.
1
null
Bùi Văn Cường (sinh ngày 18 tháng 6 năm 1965) là một chính trị gia người Việt Nam, hiện là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Tổng thư ký Quốc hội kiêm Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội. Không chỉ là đại biểu Quốc hội ba khóa liên tiếp XIII, XIV và XV, ông còn từng là Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk, Phó Chủ tịch Liên hiệp Công đoàn Thế giới kiêm Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Cuộc đời. Đầu đời và Thành đoàn Hải Phòng. Bùi Văn Cường sinh ngày 18 tháng 6 năm 1965, tại xã Thăng Long, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Sau khi hoàn thành bằng Kỹ sư chuyên ngành Điều khiển tàu biển, ông tiếp tục học Thạc sĩ ngành Kỹ thuật An toàn Hàng hải. Năm 1990, ông trở thành giảng viên tại Trường Đại học Hàng hải và lần lượt trải qua các chức vụ như Bí thư Đoàn trường, Thường trực Đảng ủy rồi Phó Giám đốc Trung tâm Ngoại ngữ và Giám đốc Trung tâm đào tạo và giới thiệu việc làm. Trong khoảng thời gian này, ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 14 tháng 6 năm 1993 và chính thức trở thành Đảng viên vào 1 năm sau đó. Từ tháng 10 năm 1997, ông Phó Bí thư Thành đoàn Hải Phòng và bắt đầu đảm nhiệm các chức vụ thuộc khối Đảng ủy của thành phố, trong đó có Chủ tịch Hội đồng đội, Chủ tịch Công đoàn khối cơ quan và Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy khối cơ quan thuộc Thành đoàn Hải Phòng. Từ năm 1999 đến 2006, ông liên tiếp đảm nhận nhiều chức vụ trong Trung ương Đoàn và Hội Sinh viên Việt Nam trong đó có Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đoàn và Trưởng Ban Kiểm tra Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam. Đến ngày 20 tháng 10 năm 2006, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh khóa 8 lần thứ 10 bầu thêm 3 Bí thư Trung ương đoàn, trong đó có Bùi Văn Cường và Võ Văn Thưởng – người về sau trở thành Chủ tịch nước trẻ tuổi nhất trong lịch sử Việt Nam. Thời gian sau, ông trở thành một thành viên của Ban Chỉ đạo Quốc gia. Đến ngày 14 tháng 5 năm 2008, ông được điều về Tỉnh ủy Gia Lai giữ chức Phó Bí thư Tỉnh ủy khóa 13. Tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 11 vào tháng 1 năm 2011, Bùi Văn Cường trở thành một trong những Ủy viên dự khuyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Cũng tại đại hội này, ông được để cử để bầu làm Trưởng ban Dân nguyện của Quốc hội nhưng chỉ đạt được 47% số phiếu thuận nên đề cử này không được thông qua. Tháng 8 năm đó, ông trở thành Đại biểu Quốc hội khóa 13 thuộc đoàn đại biểu tỉnh Gia Lai, và được bổ nhiệm vào Ban Dân vận Trung ương giữ chức Phó Trưởng ban. Tỉnh ủy Gia Lai và Đắk Lắk. Đến ngày 26 tháng 6 năm 2012, Bùi Văn Cường giữ chức vụ tại Ban Dân vận để tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Bí thư Đảng ủy khối Doanh nghiệp Trung ương nhiệm kỳ 2010 – 2015. Đến ngày 15 tháng 10 năm 2015, ông tái đắc Bí thư Đảng ủy khối Doanh nghiệp Trung ương. Tại Đại hội Đảng lần thứ 12 vào tháng 1 năm 2016, ông chính thức trở thành Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tháng 4 năm 2016, ông được bổ nhiệm làm Bí thư Đảng đoàn Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam vào ngày 12, và trở thành Chủ tịch Tổng liên đoàn chỉ hai ngày sau đó. Trong ngày 15 tháng 7 năm 2017, ông Cường với tư cách là Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã chủ trì Lễ kỷ niệm 70 năm ngày Thương binh liệt sĩ và khánh thành Giai đoạn 1 Khu tưởng niệm chiến sĩ Gạc Ma ở Cam Hải Đông, Cam Lâm, Khánh Hoà. Sau khi hết nhiệm kỳ khóa 11, ông tiếp tục tái đắc cử vị trí Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam vào tháng 9 năm 2018. Cũng trong khoảng thời gian này, ông tiếp tục nghiên cứu và bảo vệ thành công luận văn tiến sĩ Khoa học hàng hải vào năm 2018 với đề tài "Nghiên cứu tác động của tổ hợp chân vịt-bánh lái đến điều khiển hướng đi tàu thủy trên tuyến luồng Hải Phòng." Chiều ngày 19 tháng 7 năm 2019, Bùi Văn Cường được bổ nhiệm giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk nhiệm kỳ 2015 – 2020 thay cho ông Ê Ban Y Phu vừa về hưu không lâu trước đó. Đến tháng 10 năm 2020, ông tái đắc cử vị trí này tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 17. Đầu năm 2021, ông tiếp tục trở thành Ủy viên Ban Chá hành Trung ương Đảng khóa 13. Đến tháng 4 cùng năm, ông được Quốc hội Việt Nam bầu làm Tổng thư ký Quốc hội kiêm Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội. Vị trí Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk nhiệm kỳ 2020 – 2025 do ông Nguyễn Đình Trung, nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông, đảm nhiệm. Tổng thư ký Quốc hội. Chiều ngày 19 tháng 4 năm 2021, lễ trao quyết định chỉ định Bí thư Đảng ủy Văn phòng Quốc hội và bàn giao công tác Đảng của Đảng bộ cơ quan Văn phòng Quốc hội đã được diễn ra tại tòa nhà Quốc hội. Trong buổi lễ này, Bí thư Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương Huỳnh Tấn Việt đã trao Quyết định chỉ định Ủy viên Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Bí thư Đảng ủy cơ quan Văn phòng Quốc hội nhiệm kỳ 2020 – 2025 cho Tổng Thư ký Quốc hội kiêm Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường. Tháng 3 năm 2023, Hội nghị Hiệp hội các Tổng thư ký Nghị viện Thế giới ASGP diễn ra tại Manama, thủ đô Bahrain. Bùi Văn Cường với tư cách là Tổng thư ký Quốc hội đã dẫn đầu đoàn Việt Nam tham dự hội nghị này. Bị tố cáo đạo văn. Vào khoảng tháng 3 năm 2020, một giáo viên thể dục Trường Tiểu học dân lập Nguyễn Khuyến, Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk là Hoàng Minh Tuấn đã gửi đơn tố cáo lên Ban tổ chức Trung ương cùng nhiều lãnh đạo tỉnh Đắk Lắk và Trung ương, cáo buộc ông Bùi Văn Cường đạo luận án tiến sĩ. Đến ngày 14 tháng 5, Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam đã ra văn bản chính thức kết luận việc tố cáo luận văn tiến sĩ của Bùi Văn Cường đạo văn là hoàn toàn không có cơ sở. Mặc dù đã nhận được kết luận về việc thẩm tra cũng như viết cam kết không tiếp tục vu khống nhưng ông Hoàng Minh Tuấn tiếp tục gửi đơn về nhiều đơn vị, ông Tuấn đã bị bắt vì tội vu khống. Không chỉ dừng lại ở đó, sau khi mở rộng điều tra, một giảng viên Trường Đại học Tôn Đức Thắng là Phạm Đình Qúy cũng đã bị bắt vào tháng 9 vì "xúi dục, bàn bạc và thuê tiền để ông Tuấn vu khống". Trước đó vào tháng 8 cùng năm, tạp chí Môi trường và Xã hội đã đăng tải một bài viết của ông Phạm Đình Quý cáo buộc ông Bùi Văn Cường "đạo luận án Tiến sĩ, gian dối học thuật để trèo cao nhằm mục đích không trong sáng, gây bất bình trong nhân dân". Đến ngày 30 tháng 9, tạp chí này đã bị Cục Báo chí thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông phạt 50 triệu đồng và thu hồi giấy phép 2 tháng vì có hành vi vi phạm thông tin sai sự thật gây ảnh hưởng rất nghiêm trọng. Tạp chí này cũng bị yêu cầu phải cải chính, xin lỗi theo quy định. Đến ngày 2 tháng 10 năm 2020, công an tỉnh Đắk Lắk ra quyết định khởi tố bị can và lệnh bắt tạm giam Phạm Đình Quý để điều tra về hành vi vu khống được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam. Một tuần sau, Tiểu ban Bảo vệ Chính trị nội bộ thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra kết luận chính thức rằng Bùi Văn Cường không có hành vi đạo văn trong luận án tiến sĩ như nội dung tố cáo trước đó. Trong suốt thời gian sự việc diễn ra, liên tiếp có nhiều thông tin trái chiều được đăng tải bởi các báo Việt Nam và báo nước ngoài như BBC, RFA, VOA, được cho là có liên quan đến Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIII sẽ diễn ra sau đó vào đầu năm 2021. Ngày 17 tháng 1 năm 2022, Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm đối với Hoàng Minh Tuấn và Phạm Đình Quý. Cả hai lần lượt nhận mức án 2 năm 6 tháng tù và 9 tháng tù vì tội vu khống.
1
null
Giuse Trần Mạnh Cường (1938-2021) là một Linh mục Công giáo người Việt Nam. Ông cũng là một Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII, thuộc đoàn đại biểu Đắc Lắk. Thân thế cuộc đời. Ông sinh ngày 25 tháng 10 năm 1938 tại Giáo xứ Thọ Ninh, xã Đức Minh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Chú ruột ông là Linh mục Trần Hanh và người anh trai là Linh mục Phêrô Trần Anh Kim (1921-1989), đều có những ảnh hưởng quan trọng đến cuộc đời tu hành của ông sau này. Năm 1951, ông vào học ở Tiểu Chủng viện Xuân Phong (giáo phận Vinh), tuy nhiên đến năm 1954, ông cùng gia đình di cư vào Nam và sinh sống tại Sài Gòn. Ông tiếp tục sự nghiệp học hành, đỗ Cử nhân Triết tại Đại học Văn khoa Sài Gòn và vẫn tiếp tục con đường tu trì. Từ năm 1961-1969, ông tu học tại Đại Chủng Viện Xuân Bích Huế. Ngày 28 tháng 05 năm 1969, ông được thụ phong linh mục tại Đà Nẵng. Sau khi thụ phong linh mục, ông được cử đi dạy học tại trường Hưng Đức. Từ năm 1970-1972, làm phó xứ Vinh Đức (Hà Lan A). Từ năm 1972-1975, làm Tuyên úy quân đội tại Đắk Nông. Từ năm 1975-1990, ông đi học tập cải tạo. Từ năm 1990 - 1997, chánh xứ Đức Hạnh, tỉnh Đắk Nông. Từ năm 1997-2009, chánh xứ Duy Hòa. Từ năm 2009 đến năm 2018, ông là linh mục chánh xứ Giáo xứ Đoàn Kết (Giáo phận Ban Mê Thuột), và là Chủ tịch Ủy ban Đoàn kết Công giáo tỉnh Đắk Lắk, Đại biểu Quốc hội khóa XII, Ủy viên Ủy ban Các vấn đề Xã hội của Quốc hội, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Từ năm 2018 đến năm 2021, ông nghỉ hưu tại Tòa Giám Mục Ban Mê Thuột. Ông qua đời lúc 08 giờ 45 phút, Thứ Hai, ngày 31 tháng 05 năm 2021 tại Tòa Giám Mục Ban Mê Thuột, hưởng thọ 83 tuổi với 52 năm linh mục. Lễ an táng được cử hành lúc 08 giờ 00, Thứ Tư, ngày 02 tháng 06 năm 2021 tại Nhà nguyện Tòa Giám Mục Ban Mê Thuột do Đức Giám Mục Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản chủ tế. An táng tại Nghĩa trang Giáo xứ Thánh Tâm Ban Mê Thuột.
1
null
Phạm Trường Dân (sinh năm 1956) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13, thuộc đoàn đại biểu Quảng Nam. Ngày sinh: 1/4/1956 Giới tính: Nam Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Quê quán: Xã Điện Trung, huyện Điện Bàn, Quảng Nam Trình độ chính trị: Cao cấp lý luận chính trị Trình độ chuyên môn: Đại học An ninh nhân dân Nghề nghiệp, chức vụ: Tỉnh ủy viên, Phó Bí thư Đảng ủy Công an tỉnh, Đại tá, Phó Giám đốc Công an tỉnh Quảng Nam Nơi làm việc: Công an tỉnh Quảng Nam Ngày vào đảng: 22/9/1978 Nơi ứng cử: Quảng Nam Đại biểu Quốc hội khoá: XIII Đại biểu chuyên trách: Không Đại biểu Hội đồng Nhân dân: Đại biểu HĐND tỉnh khóa VIII (2011-2016)
1
null
Hồ Thị Cẩm Đào (sinh năm 1972) là một chính khách Việt Nam. Bà hiện là Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Sóc Trăng nhiệm kỳ 2021-2026. Tiểu sử. Bà Cẩm Đào sinh ngày 12 tháng 6 năm 1972, quê quán tại xã Vĩnh Lợi, huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng. Được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 6 tháng 12 năm 1992, có bằng Cử nhân Hành chính và Cao cấp lý luận chính trị, bà từng giữ chức Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Bí thư Tỉnh đoàn tỉnh Sóc Trăng, Bí thư Huyện ủy Châu Thành, Sóc Trăng; Tỉnh ủy viên Tỉnh ủy Sóc Trăng. Sau khi trúng Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XII, bà được bầu làm Ủy viên Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội. Bà tiếp tục đắc cử Đại biểu khóa XIII và Ủy viên Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội. Bà hiện là Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Sóc Trăng. Sự kiện. Bà từng bị dư luận không tốt về việc tổ chức đám cưới cho con trai khi khách dùng xe công đến để ăn cưới
1
null
Huỳnh Thành Đạt (sinh ngày 26 tháng 8 năm 1962) là một chính trị gia. Ông hiện là Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vật lí. Trong Đảng Cộng sản Việt Nam, ông hiện là Bí thư Ban cán sự Đảng Bộ Khoa học và Công nghệ, Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII. Ông từng là đại biểu Quốc hội khóa XII (2007-2011) và khóa XIII (2011-2016), khóa XIV nhiệm kì 2016-2021 thuộc đoàn đại biểu Thành phố Hồ Chí Minh, Ủy viên Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội. Xuất thân. Ông Huỳnh Thành Đạt, sinh ngày 26 tháng 8 năm 1962 tại xã An Định, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre. Giáo dục. Từ tháng 8 năm 1981 đến tháng 9 năm 1986: Ông là sinh viên theo học tại Trường Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh (nay là Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh); Từ tháng 9 năm 1986 đến tháng 12 năm 1986: Ông theo học khóa Sĩ quan dự bị tại Trường Quân chính Quân khu 7; Sự nghiệp. Từ tháng 1 năm 1987 đến tháng 7 năm 1996: Ông là cán bộ giảng dạy tại Trường Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. Ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 20 tháng 9 năm 1990. Từ tháng 7 năm 1996 đến tháng 11 năm 1996: Ông là Phó Trưởng phòng Tổ chức Hành chánh Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh; Từ tháng 11 năm 1996 đến tháng 8 năm 2001: Ông là Trưởng phòng Tổ chức Hành chính Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh; Từ tháng 8 năm 2001 đến tháng 5 năm 2004: Ông là Chánh Văn phòng Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Đảng ủy viên cơ quan Văn phòng Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh; Từ tháng 5 năm 2004 đến tháng 10 năm 2015: Ông là Phó Giám đốc Thường trực Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Phó Bí thư Đảng ủy Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Bí thư Đảng ủy cơ quan Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Từ tháng 10 năm 2015 đến tháng 10 năm 2016: Ông là Thành ủy viên Thành phố Hồ Chí Minh, Bí thư Đảng ủy, Phó Giám đốc Thường trực Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Ông Huỳnh Thành Đạt được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh giới thiệu ra ứng cử Đại biểu Quốc hội khóa XIII, đơn vị bầu cử số 4: Quận 5, quận 10, quận 11. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII, ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XII. Từ tháng 10 năm 2016 đến tháng 1 năm 2017: Ông là Ủy viên Trung ương Đảng khóa XII, Thành ủy viên, Bí thư Đảng ủy, Phó Giám đốc Thường trực Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 6 tháng 1 năm 2017, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã ký quyết định bổ nhiệm ông Huỳnh Thành Đạt, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Giám đốc Thường trực Đại học Quốc gia TP. HCM giữ chức vụ Giám đốc Đại học Quốc gia TP.HCM. Ngày 12 tháng 10 năm 2020, Ông Huỳnh Thành Đạt - Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Đại học Quốc gia TPHCM đã được Bộ Chính trị quyết định về nhận công tác tại Bộ Khoa học và Công nghệ và để Quốc hội xem xét bầu làm Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ. Ngày 12 tháng 11 năm 2020, tại kỳ họp thứ 10 của Quốc hội khóa XIV được Quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch nước bổ nhiệm giữ chức Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, nhiệm kỳ 2016-2021. Ngày 30 tháng 1 năm 2021, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, ông được bầu là Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII, nhiệm kỳ 2021-2026. Ngày 28 tháng 7 năm 2021, tại kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa XV được Quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch nước bổ nhiệm giữ chức Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, nhiệm kỳ 2021-2026. Danh hiệu. Ông đã được tặng thưởng:
1
null
Lê Diễn (sinh năm 1960) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông từng là Bí thư Tỉnh ủy Đắk Nông, Chủ tịch HĐND tỉnh Đắk Nông, đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII, trưởng đoàn đại biểu Đắk Nông. Xuất thân. Ông sinh ngày 16 tháng 4 năm 1960 tại xã Cát Lâm, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Sự nghiệp. Tháng 09.2015 tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Nông lần thứ XI nhiệm kỳ 2015-2020 ông được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh ủy. Trước đó ông từng giữ chức Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Nông. Sáng ngày 1/7/2016, tại kỳ họp thứ nhất, HĐND tỉnh Đắk Nông khóa III đã bầu Lê Diễn giữ chức vụ Chủ tịch HĐND tỉnh khóa III với tỷ lệ đạt 100% phiếu bầu.
1
null
Trần Minh Diệu (sinh ngày 7 tháng 10 năm 1958) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII, thuộc đoàn đại biểu Quảng Bình, nguyên Ủy viên Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội Việt Nam. Xuất thân. Trần Minh Diệu sinh ngày 7 tháng 10 năm 1958 quê quán ở xã Nam Trạch, huyện Bố Trạch, Quảng Bình. Sự nghiệp. Ngày vào đảng: 8/8/1986 Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình; Ủy viên Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội Đại biểu HĐND huyện khóa XVI, XVII Nơi làm việc: Cơ quan thường trực Hội đồng nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình Đại biểu Quốc hội Việt Nam nhiệm kì 2011-2016. Năm 2014, ông Diệu cho rằng việc thiết kế mô hình chính quyền địa phương trong tương lai ở tất cả các đơn vị hành chính vẫn phải có hội đồng nhân dân để giám sát ủy ban nhân dân.
1
null
Lê Công Đỉnh (sinh ngày 20 tháng 8 năm 1981) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII, khóa XIV, thuộc đoàn đại biểu Long An. Tiểu sử. Ngày sinh: 20/8/1981 Giới tính: Nam Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Quê quán: Xã Kiến Bình, huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An, Long An Trình độ chính trị: Cao cấp lý luận chính trị Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ Kinh tế phát triển Nghề nghiệp, chức vụ (Hiện tại): Tỉnh ủy viên, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long An, Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Nơi làm việc: Ủy ban nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long An Ngày vào đảng: 12/8/2005 Nơi ứng cử: Long An Đại biểu Quốc hội khoá: XIII Đại biểu chuyên trách: Không Đại biểu Hội đồng Nhân dân: Không
1
null
Trần Văn Độ (tên thường gọi Trần Thọ Độ, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1954 tại xã Quang Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh) là Phó Giáo sư, Tiến sĩ Luật, Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam, Chánh án Toà án Quân sự Trung ương của Bộ Quốc phòng Việt Nam (2006-2015) đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13 và khóa 12 thuộc đoàn đại biểu An Giang. Giáo dục. Sau khi tốt nghiệp cấp 3, ông nhập ngũ vào lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông theo học ngành quân y, nhưng chỉ sau vài tháng thì ông được nhà nước Việt Nam cử đi học ngành Luật tại Liên Xô. Năm 1976, sau một năm học tiếng Nga ông học ngành luật tại Đại học Tổng hợp Lomonosov, Moskva, Nga. Sau 5 năm học, ông tốt nghiệp trường này và về nước. Ngay sau đó ông quay lại học phó tiến sĩ (aspirant) ngành Luật. Ông là một trong những sinh viên Việt Nam đầu tiên được chuyển thẳng vào học aspirant. Năm 1986, ông tốt nghiệp phó tiến sĩ và về nước công tác trong ngành tòa án quân sự. Sự nghiệp. Ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 20/8/1974. Ông từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 12 nhiệm kì 2007-2011, thuộc đoàn đại biểu quốc hội tỉnh An Giang. Ông từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13 nhiệm kì 2011-2016, thuộc đoàn đại biểu quốc hội tỉnh An Giang. Từ tháng 2 năm 2015, Trần Văn Độ nghỉ hưu. Gia đình. Vợ ông là bà Trần Thị Lan, một giảng viên Đại học Ngoại ngữ. Hai vợ chồng ông có hai người con trai. Cả gia đình sinh sống hạnh phúc tại một căn nhà ở Cổ Nhuế, quận Bắc Từ Liêm,Hà Nội.
1
null
Thạch Dư (sinh năm 1957) là nhà ngoại giao, đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13, thuộc đoàn đại biểu Trà Vinh. Nguyên Thứ trưởng Bộ ngoại giao, từng là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Campuchia. Tiểu sử và sự nghiệp. Ông Thạch Dư sinh 25/8/1957 ở xã Ngũ Lạc, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh. Ông là người Khmer và là đại biểu Hội đồng Nhân dân (HĐND): Đại biểu HĐND tỉnh khóa VII, VIII trước khi được bổ nhiệm giữ chức thứ trưởng Bộ Ngoại giao. Thạch Dư là Phó bí thư Tỉnh ủy, Phó trưởng đoàn chuyên trách đoàn Đại biểu Quốc hội khóa XIII tỉnh Trà Vinh. Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Vương quốc Campuchia, nhiệm kỳ 2014 - 2017. Quyết định bổ nhiệm ông Thạch Dư có hiệu lực từ ngày 17.6.
1
null
Nguyễn Hữu Đức (sinh ngày 28 tháng 8 năm 1971) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII, XIV, thuộc đoàn đại biểu Bình Định, Ủy viên thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Phó Chủ tịch Nhóm nghị sĩ hữu nghị Việt Nam - Cuba. Xuất thân. Ông sinh ngày 28 tháng 8 năm 1971, quê quán ở phường Cầu Dền, quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội. Ông hiện cư trú ở Số 64 Ao Dài, phường Cầu Dền, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Sự nghiệp. Nghề nghiệp, chức vụ (Hiện tại): Ủy viên thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Phó Chủ tịch Nhóm nghị sĩ hữu nghị Việt Nam - CuBa Nơi làm việc: Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Ngày vào đảng: 30/8/2001 Nơi ứng cử: Bình Định Đại biểu Quốc hội khoá: XIII Đại biểu chuyên trách: Trung ương Đại biểu Hội đồng Nhân dân: Không
1
null
Võ Thị Dung (sinh ngày 2 tháng 6 năm 1960) quê quán tại quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà nguyên là Ủy viên Ban thường vụ Thành ủy, nguyên Phó Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh phụ trách khối xây dựng Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, Phó trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII Thành phố Hồ Chí Minh. Tiểu sử. Võ Thị Dung, sinh năm 1960, nguyên quán Quận Tân Phú Thành phố Hồ Chí Minh. Bà có bằng Cử nhân Kinh tế, Cử nhân Luật, Cao cấp Lý luận chính trị. Quá trình công tác. - Từ tháng 5 năm 1975 đến tháng 6 năm 1976: Bà tham gia công tác thanh niên tại xã Tân Sơn Nhì, quận Tân Bình; - Từ tháng 7 năm 1976 đến tháng 10 năm 1978: Bà là nhân viên Phòng Lương thực quận Tân Bình; - Từ tháng 11 năm 1978 đến tháng 8 năm 1984: Bà là Thư ký Ủy ban nhân dân phường, Thư ký Đảng vụ kiêm Thường trực Hội Liên hiệp Phụ nữ phường 14, quận Tân Bình. Tháng 9 năm 1982 Bà được cử đi học tại Trường Cán bộ Phụ nữ Trung ương - Hà Nội.  - Bà được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 11 tháng 12 năm 1979; - Từ tháng 9 năm 1984 đến tháng 5 năm 2001: Bà công tác tại quận Tân Bình lần lượt giữ các chức vụ: Ủy viên Thường vụ, Phó chủ tịch, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ; Quận ủy viên; Ủy viên chuyên trách Văn hóa - Xã hội UBND quận; Ủy viên Ban Thường vụ Quận ủy, Trưởng ban Dân vận Quận ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc quận Tân Bình, Đại biểu HĐND quận Tân Bình từ năm 1989 đến tháng 5 năm 2001; - Từ tháng 6 năm 2001 đến tháng 11 năm 2010: Bà được điều động về Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố, giữ các chức vụ Trưởng ban Tổ chức cán bộ, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố, Ủy viên Đảng Đoàn Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố; Thành ủy viên, Phó Chủ tịch Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố; - Từ tháng 11 năm 2010 đến tháng 7 năm 2013: Bà là ủy viên ban Thường vụ Thành ủy, Phó Bí thư Đảng Đoàn, Phó Chủ tịch Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố. - Từ tháng 7 năm 2013 đến tháng 7 năm 2015: Bà là ủy viên ban Thường vụ Thành ủy, Bí thư Đảng Đoàn, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố, Phó trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội khóa XIII Thành phố Hồ Chí Minh. - Từ tháng 7 năm 2015 đến tháng 5 năm 2016: Bà là ủy viên ban Thường vụ Thành ủy, Phó trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội khóa XIII Thành phố Hồ Chí Minh, Trưởng ban Tổ chức Thành ủy. - Từ tháng 5 năm 2016 đến tháng 06 năm 2020: Bà là Phó Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh nhiệm kì 2015 - 2020 - Ngày 17 tháng 12 năm 2018, Thành ủy TP HCM đã có văn bản phân công bà Võ Thị Dung, Phó Bí thư Thành ủy xử lý công việc của Thường trực Thành ủy. Bà Dung đảm nhiệm công việc này thay cho Phó Bí thư thường trực Thành ủy Tất Thành Cang. Trước đó, Thành ủy TP HCM có thông báo về việc ông Tất Thành Cang nghỉ phép từ ngày 17/12 đến ngày 3/1/2019. Thường trực Thành ủy thống nhất phân công bà Võ Thị Dung, Phó Bí thư Thành ủy xử lý công việc thường xuyên, hàng ngày của Đảng bộ TP trong thời gian nêu trên. - Ngày 30 tháng 06 năm 2020, Ban Thường vụ Thành ủy TP.HCM trao quyết định nghỉ hưu cho bà.
1
null
Trần Trí Dũng (sinh ngày 20 tháng 3 năm 1959) là chính trị gia người Việt Nam. Ông từng là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII, Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Trà Vinh khoá IX nhiệm kỳ 2016-2021. Ông từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13, thuộc đoàn đại biểu Trà Vinh, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI. Tiểu sử. Trần Trí Dũng sinh ngày 20 tháng 3 năm 1959, người dân tộc Kinh, không theo tôn giáo nào, quê quán ở xã Hùng Hòa, huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh. Ông có trình độ chuyên môn là Cử nhân Khoa học Quân sự, Cử nhân Quản trị kinh doanh. Ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 26/3/1980. Ông có bằng Cao cấp lí luận chính trị. Ông từng là Đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Trà Vinh khóa VIII, nhiệm kỳ 2011-2016. Từ 2011 đến 2016, ông là Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Trà Vinh khóa XIII. Ông là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XI, khóa XII; Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh khoá IX, X, Chủ tịch Hội đồng nhân dân khoá IX, Bí thư Đảng ủy Quân sự tỉnh Trà Vinh, Đảng ủy viên Đảng ủy Quân khu 9. Ông là Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Trà Vinh khoá IX, nhiệm kỳ 2016-2021. Gia đình. Ông Trần Trí Dũng có một người con trai là ông Trần Trí Cường, giữ chức Bí thư Tỉnh đoàn Trà Vinh.
1
null
Nguyễn Anh Dũng (sinh ngày 21 tháng 10 năm 1959) là một doanh nhân và chính trị gia người Việt Nam. Ông hiện là Chủ tịch Hội đồng thành viên tập đoàn Hóa chất Việt Nam (Vinachem) từ tháng 4 năm 2012 đến nay. Ông từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13, thuộc đoàn đại biểu Bắc Giang. Kỉ luật. Ngày 20 tháng 9 năm 2017, Ban Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa 12 đã thống nhất quyết định cách tất cả các chức vụ trong Đảng của ông Nguyễn Anh Dũng (bao gồm Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương; Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Tập đoàn hóa chất Việt Nam; Bí thư Đảng ủy Tập đoàn Hóa chất Việt Nam), đồng thời yêu cầu Ban cán sự đảng Bộ Công thương Việt Nam chỉ đạo xem xét thi hành kỷ luật hành chính với ông Dũng.
1
null
Đỗ Văn Đương (sinh năm 1960) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông hiện là Phó trưởng ban Ban Dân nguyện Quốc hội Việt Nam khóa XIV nhiệm kì 2016-2021, dù ông không phải là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV (ông là một trong 15 người được Trung ương giới thiệu ứng cử Đại biểu Quốc hội khóa 14 năm 2016 ở Thành phố Hồ Chí Minh nhưng đã thất cử). Ông từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13 nhiệm kì 2011-2016, thuộc đoàn đại biểu Thành phố Hồ Chí Minh, Ủy viên thường trực Ủy ban Tư pháp của Quốc hội khóa 13.. Ông có bằng tiến sĩ Luật. Xuất thân và giáo dục. Đỗ Văn Đương sinh ngày 10 tháng 10 năm 1960 tại làng Ngọc Lặc, xã Ngọc Sơn, huyện Tứ Kỳ (nay thuộc thành phố Hải Dương), tỉnh Hải Dương. Ông có bằng tiến sĩ Luật. Ông bảo vệ luận án Tiến sĩ Luật học tại Trường Đại học Cảnh sát nhân dân, Hà Nội vào ngày 13 tháng 1 năm 2001. Tên luận án là "Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay", 206 trang, chuyên ngành Hình pháp học. Người hướng dẫn khoa học là Phó giáo sư, Tiến sĩ Phạm Tuấn Bình và Tiến sĩ Nguyễn Huy Thuật. Ba người phản biện là Phó giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Ngọc Quang, Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thủ Thanh và Tiến sĩ Ngô Tiến Quý. Sự nghiệp. Từ tháng 5 năm 1985 đến tháng 10 năm 1996, ông là giảng viên công tác tại Khoa Công tác kiểm sát, Trường Cao đẳng kiểm sát Hà Nội thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Từ tháng 11 năm 1996 đến tháng 7 năm 1998, ông là thạc sĩ luật, giảng viên, Tổ trưởng Bộ môn Khoa học Điều tra tội phạm, Khoa Công tác Kiểm sát, Trường Cao đẳng Kiểm sát Hà Nội. Ngày 2 tháng 4 năm 1997, Đỗ Văn Đương gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau đó, ông lấy chứng chỉ cao cấp lý luận chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ tháng 8 năm 1998 đến tháng 3 năm 2002, ông là Cán bộ nghiên cứu thuộc Viện Khoa học Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Ông có bằng Tiến sĩ Luật học tại Đại học Cảnh sát nhân dân trong khoảng thời gian này. Từ tháng 4 năm 2002 đến tháng 3 năm 2004, ông là Trưởng phòng Nghiên cứu thuộc Viện Khoa học kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Từ tháng 4 năm 2004 đến tháng 7 năm 2007, ông là Phó Viện trưởng Viện Khoa học kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Ông được Chủ tịch nước Việt Nam bổ nhiệm chức danh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Từ tháng 8 năm 2007 đến tháng 8 năm 2008, ông là Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình đồng thời vẫn giữ chức danh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Từ tháng 9 năm 2008 đến tháng 5 năm 2016, ông là Phó Viện trưởng Viện khoa học kiểm sát, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy viên thường trực Ủy ban Tư pháp của Quốc hội khóa 13. Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13 Thành phố Hồ Chí Minh. Đỗ Văn Đương là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13 nhiệm kì 2011-2016 thuộc đoàn đại biểu Thành phố Hồ Chí Minh (đại biểu chuyên trách trung ương), Ủy viên thường trực Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Việt Nam khóa 13. Vào năm 2011, ông trở nên nổi tiếng với phát biểu về tình hình lạm phát tại kỳ họp thứ 1, Quốc hội khóa 13: "Tôi không nghĩ lạm phát ở nước ta cao nhất khu vực! Theo tôi phải xem lại chỗ này. Tôi đi các nước thấy giá tiêu dùng đắt đỏ, một đĩa rau muống xào ở Thượng Hải tới 200 nghìn đồng, nhưng ở Việt Nam chỉ mấy chục nghìn. Trong nước tôi đi chợ rau muống ở đô thị có thể 5.000 đồng/mớ, đi xuống vùng nông thôn chỉ 2.000, xuống nữa có khi rẻ hơn." Từ đó ông còn được biết đến với tên "ông Nghị rau muống". Ngày 27 tháng 10 năm 2014, khi trả lời phỏng vấn báo chí, ông đã nói rằng "Luật sư chỉ bào chữa cho người có tiền". Phát biểu này khiến giới luật sư nổi giận, đòi ông phải xin lỗi. Sáng ngày 13 tháng 3 năm 2015, tại phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội Việt Nam khóa 13, Đỗ Văn Đương đã chất vấn Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam Trương Hòa Bình về vụ án Hồ Duy Hải. Phó Trưởng ban Dân nguyện Quốc hội Việt Nam khóa 14. Ngày 22 tháng 5 năm 2016, Đỗ Văn Đương được Trung ương giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14 tại đơn vị bầu cử số 5 Thành phố Hồ Chí Minh gồm các quận Tân Bình và Tân Phú, tuy nhiên ông đã không thắng cử. Tuy không là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14, nhưng Đỗ Văn Đương vẫn giữ chức vụ Phó Trưởng ban Dân nguyện, Quốc hội Việt Nam khóa 14. Cuối tháng 6 năm 2020, ông có báo cáo gửi Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nêu quan điểm của mình về Vụ án Hồ Duy Hải. Có nhiều người đã phản đối ông gay gắt trên mạng xã hội. Tác phẩm. Đỗ Văn Đương là tác giả của một số tác phẩm sau: Tranh cãi. Về phát biểu của ông, Luật sư Ngô Ngọc Trai nhận thấy đó là điều sai lầm với hai lý luận sau:
1
null
Phạm Văn Gòn (sinh ngày 20 tháng 4 năm 1956) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII, thuộc đoàn đại biểu Thành phố Hồ Chí Minh. Ông từng là Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (đến năm 2016). Tiểu sử. Phạm Văn Gòn sinh ngày 20 tháng 4 năm 1956, người dân tộc Kinh, không theo tôn giáo nào. Ông có quê quán ở xã Quới Sơn, huyện Châu Thành, Bến Tre. Ông có bằng cử nhân luật. Ngày 1 tháng 6 năm 1981, ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông có trình độ cử nhân lí luận chính trị. Ông từng là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII thuộc đoàn Đại biểu TPHCM, đồng thời là Thành ủy viên, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Ủy viên Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội khóa XIII.
1
null
Phạm Văn Hà (sinh ngày 1 tháng 9 năm 1960) là một thẩm phán và chính trị gia người Việt Nam. Ông hiện là Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội. Ông từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 12 và khóa 13, thuộc đoàn đại biểu Nghệ An, Phó trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Nghệ An khóa 13, Ủy viên Ủy ban Pháp luật của Quốc hội khóa 13, Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An. Xuất thân. Ông sinh ngày 1 tháng 9 năm 1960, quê quán ở xã Quỳnh Bá, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, người dân tộc Kinh, không theo tôn giáo nào. Giáo dục. Ông có trình độ chuyên môn là cử nhân luật, trình độ chính trị là cử nhân chính trị. Sự nghiệp. Ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3/8/1991. ĐBQH 12 Nghệ An. Từ 2007 đến 2011, ông là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 12 tỉnh Nghệ An, đồng thời là Bí thư BCS Đảng, Bí thư Đảng ủy, Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An. ĐBQH 13 Nghệ An. Từ 2011 đến 2016, ông là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13, thuộc đoàn đại biểu Nghệ An, Phó trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Nghệ An khóa 13, Ủy viên Ủy ban Pháp luật của Quốc hội khóa 13, đồng thời là Tỉnh ủy viên, Bí thư Ban cán sự Đảng, Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An. Ngày 12 tháng 8 năm 2015, ông được bổ nhiệm chức vụ Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
1
null
Phạm Hồng Hà (sinh năm 1958) là một chính khách Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Việt Nam. Lý lịch và học vấn. Phạm Hồng Hà sinh ngày 20 tháng 1 năm 1958, quê quán ở xã Giao Tiến, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định; Ông tốt nghiệp Đại học Kiến trúc, hoàn thành nghĩa vụ quân sự và về công tác tại Ủy ban Kế hoạch tỉnh Hà Nam Ninh. Tại đây ông đã tiếp tục vừa công tác vừa học tập và tốt nghiệp Kỹ sư Kinh tế Công nghiệp (Trường Đại học Bách khoa Hà Nội - 1991) và Trường Đại học Xây dựng - 1994, Cử nhân Chính trị - 1998, Thạc sĩ Kinh tế 2007. Quá trình công tác. 10/1976 - 10/1980: Làm nghĩa vụ quân sự tại Trường Hạ sĩ quan Việt Đức, X19 đoàn 387, Tổng cục kỹ thuật, Bộ Quốc phòng. 10/1980 - 10/1985: Sinh viên Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội. 11/1985 - 04/1996: Cán bộ, Phó phòng, Phó Giám đốc Sở Kế hoạch - Đầu tư, Đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Nam Hà. 04/1996 - 02/2001: Tỉnh ủy viên, Bí thư Đảng ủy, Phó Giám đốc Sở Kế hoạch - Đầu tư, Đại biểu HĐND tỉnh Nam Hà - Nam Định. 02/2001 - 04/2004: Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Giám đốc Sở Kế hoạch - Đầu tư, Đại biểu HĐND tỉnh Nam Định. 04/2004 - 10/2005: Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư Thành ủy Nam Định, Đại biểu HĐND tỉnh Nam Định. 11/2005 - 09/2010: Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Đại biểu HĐND tỉnh Nam Định. 09/2010 - 01/2011: Bí thư Tỉnh ủy Nam Định. 01/2011 - 02/2015: Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội khóa XIII tỉnh Nam Định. 02/2015 – 04/2016: Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Ban Cán sự Đảng, Thứ trưởng Bộ Xây dựng, Đại biểu Quốc hội khóa XIII. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. 4/2016: Tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIII, được Quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch nước bổ nhiệm giữ chức Bộ trưởng Bộ Xây dựng. 7/2016: Tại kỳ họp thứ 1, Quốc hội khóa XIV, được Quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch nước bổ nhiệm giữ chức Bộ trưởng Bộ Xây dựng. Ngày 07 tháng 4 năm 2021, Tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIV, được Quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch nước miễn nhiệm chức danh Bộ trưởng Bộ Xây dựng nhiệm kỳ (2016 – 2021) theo đề nghị của Thủ tướng Phạm Minh Chính.
1
null
Nguyễn Vinh Hà (sinh ngày 1 tháng 8 năm 1960) là đại biểu Quốc hội Việt Nam XII, khóa XIII, khóa XIV, thuộc đoàn đại biểu Kon Tum. Tiểu sử. Ngày sinh: 1/8/1960 Giới tính: Nam Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Quê quán: Phường Trung Lương, thị xã Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh Trình độ chính trị: Cao cấp lý luận chính trị Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ Xây dựng Đảng, Kỹ sư Thủy lợi, Cử nhân Luật Nghề nghiệp, chức vụ (Hiện tại): Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Chủ tịch Nhóm nghị sĩ hữu nghị Việt Nam - Xlôvakia Nơi làm việc: Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Ngày vào đảng: 16/6/1988 Nơi ứng cử: Kon Tum Đại biểu Quốc hội khoá: XII, XIII, XIV Đại biểu chuyên trách: Trung ương Đại biểu Hội đồng Nhân dân: Không
1
null
Đinh Trịnh Hải (sinh năm 1956) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13, thuộc đoàn đại biểu Ninh Bình. Quê quán: xóm Tiên Yên xã Khánh Lợi, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Ông Đinh Trịnh Hải là Cử nhân Tài chính kế toán, Cử nhân Luật. Hiện giữ chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội.
1
null
Nguyễn Thanh Hải (sinh ngày 2 tháng 10 năm 1970 tại Hà Nội) là nữ khoa học gia và chính trị gia người Việt Nam. Bà có bằng tiến sĩ vật lý, học hàm phó giáo sư. Bà hiện giữ chức vụ Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14 nhiệm kì 2016-2021 tỉnh Thái Nguyên, đại biểu quốc hội Việt Nam khóa 14 tỉnh Thái Nguyên (từ ngày 2 tháng 6 năm 2020 đến nay). Bà nguyên là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14 thuộc đoàn đại biểu tỉnh Hòa Bình đại diện cho thành phố Hòa Bình và các huyện Đà Bắc, Lương Sơn, Kim Bôi, Kỳ Sơn (2016–2020)., nguyên Trưởng Ban Dân nguyện Quốc hội Việt Nam khóa 14 (2016–2020), đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13 tỉnh Hòa Bình, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội khóa 13, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội Việt Nam khóa 13. Trong Đảng Cộng sản Việt Nam, bà là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XII, Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên, nguyên là ủy viên Đảng đoàn Quốc hội khoá 14. Thân thế. Bà quê quán ở phường Hàng Bài, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Sự nghiệp khoa học. Năm 1997 - 2009 bà làm giảng viên giảng dạy tại Bộ môn Vật lí lí thuyết, Viện Vật lý kỹ thuật, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, phó trưởng phòng Khoa học - Công nghệ, Đại học Bách khoa Hà Nội. Trong đợt công nhận của Hội đồng Chức danh giáo sư nhà nước năm 2007, bà là nữ phó giáo sư trẻ nhất Việt Nam tính đến thời điểm đó. Bà là bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Trường Đại học Bách khoa Hà Nội khóa 29 Hoạt động tại Quốc hội. Bà từng kinh qua các chức vụ Phó Giám đốc Học viện Thanh Thiếu niên Việt Nam (thuộc Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh), nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội và Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội. Tại kỳ họp 11 Quốc hội khóa 13 (4/2016), bà được Quốc hội bầu vào Ủy ban Thường vụ Quốc hội, giữ chức vụ Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng Quốc hội (Việt Nam) thay ông Đào Trọng Thi. Năm 2016, bà được trung ương đề cử và trúng cử đại biểu quốc hội khóa 14 ở đơn vị bầu cử số 1, tỉnh Hòa Bình, gồm thành phố Hòa Bình và các huyện Đà Bắc, Lương Sơn, Kim Bôi, Kỳ Sơn với tỉ lệ 77,14% số phiếu (cùng với đại biểu Bùi Thu Hằng, sinh năm 1971, và Nguyễn Tiến Sinh, sinh năm 1968). Tại kỳ họp 1 Quốc hội khóa 14 (7/2016), bà được Quốc hội bầu vào Ủy ban Thường vụ Quốc hội, giữ chức vụ Trưởng ban Dân nguyện thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Ngày 2 tháng 6 năm 2020, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đã thay mặt Ủy ban thường vụ Quốc hội Việt Nam khóa 14 kí Nghị quyết số 955/NQ-UBTVQH14 về việc chuyển sinh hoạt Đoàn đại biểu Quốc hội đối với bà Nguyễn Thanh Hải từ đoàn đại biểu tỉnh Hòa Bình về đoàn đại biểu tỉnh Thái Nguyên do trước đó bà Hải có đơn xin chuyển sau khi bà được điều động làm Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên. Ngày 11 tháng 6 năm 2020, Quốc hội Việt Nam khóa 14 đã thông qua Nghị quyết về việc phê chuẩn miễn nhiệm chức vụ ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội đối với bà Nguyễn Thanh Hải. Ngày 12 tháng 6 năm 2020, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 960/NQ-UBTVQH14 về việc phê chuẩn bà làm Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14 tỉnh Thái Nguyên căn cứ vào Biên bản bầu Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Thái Nguyên ngày 8 tháng 6 năm 2020 và Tờ trình số 368/TTr-BCTĐB ngày 11/6/2020 của Ban Công tác đại biểu Quốc hội. Hoạt động trong Đảng Cộng sản Việt Nam. Bà gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 7 tháng 10 năm 2002. Bà từng giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy Học viện Thanh Thiếu niên Việt Nam. Bà nguyên là ủy viên Đảng đoàn Quốc hội khoá XIV. Ngày 26 tháng 1 năm 2016, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 12 của Đảng Cộng sản Việt Nam, bà được bầu làm ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa 12 nhiệm kì 2016-2021. Ngày 23 tháng 5 năm 2020, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XII Phạm Minh Chính đã trao quyết định của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XII điều động, chỉ định bà giữ chức vụ Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên. Ngày 30 tháng 1 năm 2021, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 13 của Đảng Cộng sản Việt Nam, bà tiếp tục được bầu làm ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa 13 nhiệm kì 2021-2026. Gia đình. Bà đã lập gia đình và có hai con gái.
1
null
Nguyễn Ngọc Hải (sinh ngày 3 tháng 12 năm 1965) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14, khóa 13, thuộc đoàn đại biểu Hà Giang. Tiểu sử. Ngày sinh: 3/12/1965 Giới tính: Nam Dân tộc: Tày Tôn giáo: Không Quê quán: Xã Vô Điếm, huyện Bắc Quang, Hà Giang Trình độ chính trị: Cao cấp lý luận chính trị Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ kinh tế Nghề nghiệp, chức vụ (Hiện tại): Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Hà Giang, Ủy viên Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Nơi làm việc: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Tỉnh Hà Giang Ngày vào đảng: 5/3/1994 Nơi ứng cử: Hà Giang Đại biểu Quốc hội khoá: XIII Đại biểu chuyên trách: Không Đại biểu Hội đồng Nhân dân: Không
1
null
Nguyễn Thị Hải (sinh năm 1973) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13, thuộc đoàn đại biểu Nghệ An. Tiểu sử. Tên thường gọi: Nguyễn Thị Hải Ngày sinh: 9/1/1973 Giới tính: Nữ Dân tộc: Thổ Tôn giáo: Không Quê quán: Xã Nghĩa Long, huyện Nghĩa Đàn, Nghệ An Trình độ chuyên môn: Cao đẳng sư phạm giáo dục tiểu học Nghề nghiệp, chức vụ: Phó Bí thư chi bộ Trường tiểu học Kỳ Tân, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An; Giáo viên Trường tiểu học Kỳ Tân, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An; Ủy viên Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Nơi làm việc: Trường Tiểu học thị trấn Tân Kỳ - Nghệ An Ngày vào đảng: 2/9/1995 Nơi ứng cử: Nghệ An Đại biểu Quốc hội khoá: XIII Đại biểu chuyên trách: Không Đại biểu Hội đồng nhân dân: Không
1
null