text
stringlengths
0
512k
Biển Đen hay Hắc Hải là một biển nội địa nằm giữa Đông Nam châu Âu và vùng Tiểu Á. Biển Đen được nối với Địa Trung Hải qua eo biển Bosporus và biển Marmara. Biển Đen có diện tích vào khoảng 422.000 km², nơi sâu nhất đến 2210 mét. Sông Danube là dòng sông quan trọng nhất đổ vào Biển Đen. Được mệnh danh là biển ấm nhất Trái Đất. Những quốc gia có đường biên giới ở biển Đen là Thổ Nhĩ Kỳ, Bulgaria, România, Ukraina, Nga và Gruzia. Xung quanh bờ biển có rất nhiều thành phố lớn như: Istanbul, Burgas, Varna, Constanţa, Yalta, Odessa, Sevastopol, Kerch, Novorossiysk, Sochi, Sukhumi, Poti, Batumi, Trabzon, Samsun. Nguồn gốc tên gọi Hắc Hải có màu bình thường như các biển khác. Người Hy Lạp, Lưỡng Hà cổ đại thường dùng màu sắc để chỉ phương hướng. Màu vàng tượng trưng cho phương Đông, màu đỏ cho phương Nam, màu đen cho phương Bắc và màu xanh cho phương Tây. Hắc Hải nằm giáp Ukraina, phía bắc Hy Lạp. Cũng có một số nguồn ghi lại rằng tên gọi bắt nguồn từ những đám mây đen thường xuyên gây giông bão ở vùng biển này. Nối với Địa Trung Hải trong Holocene Biển Đen nối với Đại dương Thế giới qua một chuỗi 2 eo biển nông là Dardanelles và Bosphorus. Dardanelles sâu và Bosphorus sâu . Khi so sánh cao độ mực nước biển vào kỷ băng hà gần nhất, các mực nước biển này thấp hơn mực nước hiện nay hơn . Cũng có dấu hiệu cho thấy mực nước trong biển Đen tại một thời điểm cũng thấp hơn đáng kể trong suốt thời kỳ sau băng hà. Ví dụ như các nhà khảo cổ học đã phát hiện vỏ ốc nước ngọt và các công trình của con người cách bờ biển ngoài khơi Thổ Nhĩ Kỳ 328 m. Vì vậy nó người ta cho rằng Biển Đen đã từng là một hồ nước ngọt trong đất liền (ít nhất là trong các lớp trên) trong thời gian đóng băng gần đây và một thời gian sau đó. Sau thời kỳ băng hà, mực nước trong biển Đen và biển Aegean dâng cao độc lập nhau cho đến độ cao đủ để cho sự trao đổi nước. Thời điểm chính xác của sự phát triển này vẫn là một vấn đề còn tranh cãi. Một khả năng có thể là biển Đen đã đầy trước, với lượng nước dư chảy qua Bosphorus và cuối cùng chảy vào Địa Trung Hải. Cũng có các kịch bản thảm họa như "Giả thiết đại hồng thủy Biển Đen" do William Ryan và Walter Pitman đề xướng. Giả thiết đại hồng thủy Năm 1997, William Ryan và Walter Pitman ở Đại học Columbia đã đưa ra giả thiết, theo đó một trận lũ lớn đã tràn qua Bosphorus trong thời cổ đại. Họ tuyên bố rằng Biển Đen và biển Caspi từng là các hồ nước ngọt lớn, nhưng vào khoảng 5600 TCN, Địa Trung Hải tràn qua dãi đá ở Bosphorus, tạo sự liên thông dòng chảy giữa Biển Đen và Địa Trung Hải. Công việc tiếp theo đã được thực hiện cả về hỗ trợ và phản bác giả thiết này, và các nhà khảo cổ học vẫn phản bác nó. Điều này đã khiến người ta liên hệ thảm họa này với các trận lũ huyền thoại trong thời kỳ tiền sử. Thành phần hóa học Biển Đen là một bồn nước phân tầng lớn nhất trên thế giới, ở đó các lớp nước ở dưới sâu và trên mặt không trộn lẫn với nhau để có thể nhận oxy từ khí quyển. Do đó, hơn 90% thể tích nước Biển Đen dưới sâu là nước thiếu oxy. Điều kiện thủy hóa hiện tại chủ yếu bị khống chế bởi địa hình bồn biển và các dòng sông đổ vào, nên tạo ra sự phân tầng mạnh mẽ theo chiều đứng và sự cân bằng nước dương. Các lớp trên cùng nhìn chung lạnh hơn, nhẹ hơn và ít mặn hơn các lớp dưới sâu, vì chúng được các dòng sông cung cấp nước, trong khi đó các lớp dưới sâu có nguồn gốc ấm, mặn của Địa Trung Hải. Dòng nước nặng này từ Đia Trung Hải được cân bằng bởi một dòng nước ngọt trên mặt chảy ra từ Biển Đen vào biển Marmara, duy trình sự phân tầng và độ mặn. Địa chất và địa hình đáy Nguồn gốc địa chất của bồn biển có thể liên hệ đến hai bồn trũng sau cung riêng biệt đã từng bắt đầu bởi sự phân tách cung núi lửa Albian và đới hút chìm của các đại dương Tethys cổ và đại dương Tethys, nhưng thời gian xảy ra các sự kiện này vẫn còn tranh cãi. Khi bắt đầu, các chuyển động kiến tạo nén ép gây ra sự sụt lún trong bồn trũng, xen kẽ với các pha tách giãn tạo ra các hoạt động núi lửa trên diện rộng và một số đai tạo núi, làm nâng các dải núi Greater Caucasus, Parhar, nam Crimea và Balkan. Sự va chạm đang tiếp diễn giữa mảng Á-Âu và châu Phi và sự chuyển động về phía tây của khối Anatolian dọc theo đứt gãy Bắc Anatolia và Đứt gãy Đông Anatolia gây ra cơ chế kiến tạo hiện tại, đã làm tăng thêm sự sụt lún của bồn Biển Đen và hoạt động núi lửa đáng chú ý trong khu vực Anatolian. Bồn biển hiện tại có thể chia thành 2 phụ cấu trúc bởi phần nhô ra kéo dài về phía nam từ bán đảo Krym. Thềm lục địa về phía bắc của bồn biển rộng đến 190 km, và độ dốc trong khoảng 1:40 và 1:1000. Rìa phía nam quanh Thổ Nhĩ Kỳ và rìa phía tây quanh Gruzia đặc trưng bởi một thềm hẹp hiếm khi rộng quá 20 km và độ dốc khoảng 1:40, gồm nhiều hẻm vực và các rãnh. đồng bằng biển thẳm Euxine ở trung tâm Biển Đen có độ sâu tối đa nằm gần phía nam của Yalta trên bán đảo Krym. Lịch sử Biển Đen từng là một tuyến đường thủy bận rộn nối các tuyến đường bộ cắt qua nó trong thế giới cổ đại như: Balkans với phía Tây, thảo nguyên Á-Âu với phía bắc, Caucasus và Trung Á với phía đông, Tiểu Á và Mesopotamia với phía nam, và Hy Lạp với tây nam. Vùng đất ở tận cùng phía đông của Biển Đen là Colchis, (hiện thuộc Gruzia), được đánh dấu cho người Hy Lạp là rìa của thế giới đã được khám phá. Các thảo nguyên phía bắc của Biển Đen từng được cho là nơi xuất phát của những người nói hệ ngôn ngữ Proto-Ấn-Âu, hệ ngôn ngữ tổ tiên của hệ ngôn ngữ Ấn-Âu, theo một số học giả như Kurgan; một số khác di chuyển về khu trung tâm phía đông của biển Caspi, một số khác nữa thì đến Anatolia. Nhiều cảng cổ, một số cảng còn cổ hơn các kim tự tháp Ai Cập, nằm trên bờ biển của Biển Đen. Biển Đen trở thành nơi hoạt động của Hải quân Ottoman trong 5 năm Genoa mất Krym năm 1479, sau đó chỉ có các tàu buồm buôn bán của phương Tây hoạt động trên vùng nước thuộc Venice cũ, một đối thủ cạnh tranh của Dubrovnik. Các hoạt động hạn chế này dần dần thay đổi bởi Hải quân Nga từ năm 1783 cho đến khi có sự nới lỏng kiểm soát xuất khẩu năm 1789 do cuộc cách mạng Pháp. Những khu nghỉ dưỡng
Bắc Băng Dương (chữ Hán: 北冰洋, tên cũ là Bắc Đại Dương) là đại dương nhỏ nhất trong năm đại dương của Trái Đất, bao quanh cực Bắc, nơi đây băng tuyết bao phủ hoàn toàn vào mùa đông và một phần quanh năm. Có diện tích 14.090.000 km² và có độ sâu trung bình 1.038 mét. Bao quanh bởi các vùng đất của Liên bang Nga, Hoa Kỳ (vùng Alaska), Canada, Na Uy, Đan Mạch ( vùng đảo Greenland). Nhiệt độ và độ mặn của nó thay đổi theo mùa vào thời gian đóng băng và tan băng; độ mặn của nó có giá trị thấp nhất so với giá trị độ mặn trung bình của 5 đại dương lớn, do tốc độ bốc hơi thấp, lượng nước ngọt đổ vào từ các sông và suối lớn và có ít liên hệ với các đại dương và vực nước xung quanh. Lịch sử thám hiểm Trong hầu hết lịch sử châu Âu, các khu vực của Bắc Cực vẫn còn phần lớn chưa được khám phá và chỉ mang tính phỏng đoán của họ. Pytheas của Massilia đã có một chuyến thám hiểm về phía bắc vào năm 325 TCN, đến vùng đất mà ông gọi là "Eschate Thule," nơi Mặt Trời chỉ có 3 giờ mỗi ngày và mặt nước bị thay thế bằng một chất đông cứng "trên đó người ta không thể đi bộ cũng như không thể đi bằng tàu." Ông có thể đã miêu tả lớp biển băng mỏng ngày nay là "chỏm băng nhỏ"." Từ "Thule" có thể là Na Uy qua quần đảo Faroe hoặc đảo Shetland mà ông đã nêu ra. Các nhà bản đồ học không chắc rằng liệu có thể vẽ khu vực xung quanh Bắc cực là vùng đất (như trong bản đồ năm 1507 của Johannes Ruysch, hay bản đồ năm 1595 của Gerardus Mercator) hay vùng nước (như trong bản đồ thế giới năm 1507 của Martin Waldseemüller). Vài cuộc thám hiểm đã đi sâu hơn vào vòng Bắc Cực trong thời gian này và đã vẽ một vài hòn đảo nhỏ như Novaya Zemlya (thế kỷ 11) và Spitsbergen (1596), tuy nhiên do khu vực này thường xuyên bị băng phủ nên giới hạn phía bắc của nó vẫn chưa rõ ràng. Các nhà sản xuất biểu đồ điều hướng, dè dặt hơn so với một số các nhà vẽ bản đồ huyền ảo hơn, có xu hướng để lại các khu vực trống, chỉ với những đoạn bờ biển đã biết phác thảo ra. Fridtjof Nansen là người đầu tiên thực hiện chuyến hải trình qua Bắc Băng Dương năm 1896. Vượt qua bề mặt đại dương này đầu tiên là Wally Herbert năm 1969, trong một chuyến thám hiểm bằng dog sled (xe đi trên băng do chó kéo) từ Alaska đến Svalbard với sự hỗ trợ của máy bay. Từ năm 1937, các trạm nghiên cứu băng trôi của Liên Xô và Nga đã quan trắc trên diện rộng Bắc Băng Dương. Các nhà khoa học sống trên các tả băng trôi và đã đi được hàng ngàn cây số trên các tảng băng trôi đó. Động vật và thực vật Các loài động vật biển bị đe dọa ở Bắc Băng Dương gồm Hải tượng (Odobenus rosmarus) và cá voi. Khu vực này có một hệ sinh thái mong manh, chậm thay đổi và chậm phục hồi khi bị phá vỡ. Cyanea capillata là loài phổ biến trong các vùng nước của Bắc Băng Dương và pholis fasciata là loài duy nhất trong họ Pholidae còn sống trong đại dương. Bắc Băng Dương có tương đối ít các loài thực vật ngoại trừ phytoplankton. Phytoplankton là một phần quan trọng trong đại dương và là lượng sinh khối lớn ở Bắc Băng Dương, ở đây chúng ăn thức ăn từ các con sông và các dòng hải lưu của Thái Bình Dương và Đại Tây Dương. Trong suốt mùa hè, Mặt Trời hiện diện cả ngày lẫn đêm, điều này giúp cho phytoplankton quang hợp nhiều hơn và sinh sản một cách nhanh chóng. Tuy nhiên, yếu tố này ngược lại trong mùa đông. Đảo Greenland Spitsbergen Novaja Zemlja Severnaja Zemlja Các cảng chính Một số cảng nổi tiếng từ tây sang đông bao gồm: Hoa Kỳ Barrow, Alaska Vịnh Prudhoe, Alaska Canada Churchill, Manitoba Inuvik, Northwest Territories Nanisivik, Nunavut Tuktoyaktuk Na Uy Longyearbyen Kirkenes Vardø Nga Murmansk Arkhangelsk Labytnangi/Salekhard Dudinka Igarka Dikson Tiksi Pevek Các dòng hải lưu Hải lưu Đông Greenland Hải lưu Tây Greenland Hải lưu Na Uy Hải lưu đảo Baffin Tài nguyên thiên nhiên Các mỏ dầu và khí thiên nhiên, các mỏ sa khoáng, kết hạch mangan, cát và cuội xây dựng, cá, hải cẩu và cá voi có thể tìm thấy rất nhiều ở khu vực này. Các mỏ khoáng sản lớn như mỏ thiếc Red Dog ở Alaska, mỏ Diavik Diamond ở Northwest Territories, Canada, và Sveagruva ở Svalbard. Các mỏ lớn đang được khai thác là mỏ sắt Baffinland ở Nunavut, và mỏ sắt Isua ở Greenland. Khai thác vàng ở Alaska cũng phổ biến. Mỏ vàng Fort Knox là mỏ lớn nhất trong lịch sử Alaska. "Vùng chết chính trị" gần trung tâm của biển cũng là nơi có nhiều tranh chấp giữa Hoa Kỳ, Nga, Canada, Na Uy, và Đan Mạch. Nó có ý nghĩa đối với thị trường năng lượng toàn cầu vì nó có thể chứa 25% hoặc hơn lượng dầu mỏ và khí đốt chưa được phát hiện của thế giới. USGS ước tính có khoảng 22% lượng dầu và khí đốt của thế giới có thể nằm bên dưới Bắc Băng Dương. Số liệu năm 2008 của USGS ước tính có khoảng 90 tỷ thùng dầu và 47 ngàn tỉ m3 khí thiên nhiên, chiếm 13% lượng dầu chưa được khám phá trên thế giới và 50% lượng khí đốt chưa được phát hiện. Hơn 50% lượng dầu phát hiện ngoài khơi biển Alaska (30 tỷ thùng) ở lưu vực còn lại (9,7 tỷ thùng) trong khu vực của Greenland. 70% trữ lượng khí đốt tập trung ở khu vực Đông Siberia, ở phía đông của Biển Barents và ngoài khơi bờ biển Alaska. Các vấn đề môi trường Lớp băng ở Bắc cực đang mỏng dần, và trong một vài năm cũng có lỗ hổng theo mùa trong tầng ôzôn.Việc suy giảm khu vực phủ băng ở Bắc Băng Dương làm giảm suất phản chiếu trung bình của Trái Đất, có thể đẫn đến sự ấm lên toàn cầu theo cơ chế phản hồi tích cực. Một nghiên cứu chỉ ra rằng Bắc Cực có thể không còn băng lần đầu tiên trong lịch sử con người vào năm 2040. Các nhà khoa học hiện đang quan tâm rằng nhiệt độ Trái Đất nóng lên ở Bắc Cực có thể làm cho một lượng lớn nước tan từ băng sẽ bổ sung thêm nước cho vùng Bắc Đại Tây Dương, có thể làm gián đoạn cơ chế hải lưu toàn cầu. Những thay đổi nghiêm trọng về khí hậu của Trái Đất có thể xảy ra sau đó. Các vấn đề môi trường khác liên quan đến sự ô nhiễm phóng xạ của Bắc Băng Dương như các vị trí thải chất thải hạt nhân của Nga ở biển Kara và các vị trí thử nghiệm hạt nhân trong chiến tranh lạnh như Novaya Zemlya.
Chuột núi Lào hoặc kha-nyou (tên khoa học: Laonastes aenigmamus, tức là "chuột đá Lào") là loài gặm nhấm sống ở miền Khammuane của Lào. Loài này được miêu tả lần đầu tiên năm 2005 trong một bài báo của Paulina Jenkins và một số người khác, họ nghĩ rằng động vật này có tính chất khác biệt với các loài gặm nhấm đang sống đến độ cần phải đặt nó vào một họ mới, gọi là Laonastidae. Vào năm 2006, cách phân loại của loài chuột này bị Mary Dawson và một số người khác bác bỏ. Họ cho rằng nó thuộc về họ hóa thạch cổ, Diatomyidae, trước đây tưởng bị tuyệt chủng 11 triệu năm trước. Do đó, loài này tiêu biểu cho đơn vị phân loại Lazarus. Con này giống với con chuột lớn có lông đen và đuôi dày rậm lông. Nó có sọ rất lạ với đặc điểm khác với các thú vật khác đang sống. Tháng 9 năm 2011, Tổ chức bảo tồn động vật hoang dã quốc tế (FFI) thông báo đã phát hiện chuột núi Lào ở xã Thượng Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình. Thông báo khoa học ở Tập san Sinh học Việt Nam năm 2012 thì chuột núi Lào được phát hiện ở Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng . Phát hiện Các mẫu vật đầu tiên được phát hiện năm 1996, khi thấy chúng bị làm thịt để bán như thực phẩm tại chợ ở Thakhek, Khammuane. Sau đó năm 1998 ba bộ xương của loài động vật này đã thu được từ người dân. Các nhà nghiên cứu Hiệp hội bảo tồn Động vật hoang dã quay trở lại Lào và đã phát hiện một số mẫu vật khác. Các phát hiện mới đã cho thấy động vật này có thể không phải là hiếm như từng nghĩ. Ngày 13/06/2006 David Redfield, giáo sư danh dự của Đại học bang Florida, và nhà sinh học động vật hoang dã Uthai Treesucon người Thái Lan công bố họ đã bắt, chụp ảnh và ghi hình một mẫu sống của loài này tại bản Doy ở Lào. Chỉ dẫn Chú thích
Bagdad (tiếng Ả Rập:بغداد Baġdād) hay Baghdad trong tiếng Anh (phiên âm Tiếng Việt thường đọc là "Bát-đa") là thủ đô của đất nước Iraq và là thủ phủ của tỉnh Bagdad. Dân số năm 2003 là 5.772.000, và năm 2011 vào khoảng 7.216.040. Đến năm 2016, dân số xấp xỉ khoảng 8,765,000, là thành phố lớn nhất Iraq và là thành phố lớn thứ 2 vùng Tây Nam Á sau Tehran và cũng là thành phố lớn thứ hai của thế giới Ả Rập, chỉ sau Cairo. Nằm trên bờ sông Tigris tại vị trí 33°20′ độ vĩ Bắc và 44°26′ độ kinh Đông. Đây là một trong những trung tâm của đạo Hồi. Thành phố đã được thành lập vào thế kỉ thứ 8 và trở thành thủ đô của Abbasid Caliphate. Trong khoảng thời gian ngắn khởi đầu, Baghdad đã phát triển thành một trung tâm văn hoá, thương mại, và trung tâm trí tuệ của thế giới Hồi Giáo. Ngoài ra, việc xây dựng một số cơ sở giáo dục chủ chốt (ví dụ như: House of Wisdom), đã mang lại danh tiếng cho thành phố trên toàn thế giới như một "Trung Tâm của Học Tập". Suốt thời kỳ Trung kỳ Trung Cổ, Bagdad được xem là thành phố lớn nhất thế giới với dân số ước tính là 1,200,000 người. Phần lớn thành phố đã bị phá huỷ dưới tay của Đế quốc Mông Cổ vào năm 1258, dẫn đến sự suy giảm kéo dài qua nhiều thế kỷ do các bệnh dịch thường gặp và sự cai trị của các đế quốc nối tiếp nhau. Với sự công nhận Iraq là một quốc gia độc lập, Baghdad dần lấy lại được một số điểm nổi bật trước đây như là một trung tâm quan trọng của văn hoá Ả Rập. Lịch sử Nguồn gốc Ngày 30 tháng 7, 762, khalip Al'Mamun xây dựng thành phố. Mansur tin rằng Baghdad là một thành phố lý tưởng để trở thành thủ phủ đế chế Hồi giáo dưới thời Abbasids. Mansur yêu thành phố này đến mức ông đã từng nói: "Đây thực sự là thành phố mà ta phải tìm ra, nơi ta phải sống và nơi mà con cháu ta sẽ ngự trị sau này." Sự phát triển của thành phố được tạo điều kiện bởi vị trí địa lý thuận lợi cả về quân sự lẫn kinh tế (dọc sông Tigris tới biển và đông tây Địa Trung Hải tới phần còn lại của Châu Á. Hội chợ thương mại hàng tháng được tổ chức tại vùng này. Một lý do nữa lý giải vì sao Baghdad lại có địa thế thuận lợi là do sự dồi dào về nguồn nước và khí hậu khô. Nguồn nước, thứ rất khan hiếm trong thời kì này, có mặt ở cả phía bắc và phía nam cổng thành phố, cung cấp đầy đủ nhu cầu của người dân. Baghdad đã làm lu mờ Ctesiphon, thủ phủ trước đây của đế chế Ba Tư, 30 km về phía Đông Nam. Thành phố này đã được những người Hồi Giáo cai quản từ năm 637 nhưng lại nhanh chóng bị bỏ hoang sau khi Baghdad được tìm ra. Babylon bị bỏ hoang từ thế kỉ thứ 2 trước công nguyên, nằm 90 km về phía Nam. Xây dựng Từ những năm đầu tiên thành phố đã được coi như Thiên đường trong kinh Qu'ran. Bốn năm trước khi Baghdad được xây dựng, vào năm 758, Mansur đã tập hợp những nhà kĩ sư, những người chuyên vẽ bản đồ, những thợ xây dựng từ khắp nơi trên thế giới đến để thiết kế thành phố. Hơn 100.000 thợ xây dựng đã đến thiết kế thành phố; rất nhiều người đã chia sẻ tiền lương của mình để bắt đầu xây dựng thành phố vĩ đại này. Khung thành phố là 2 hình bán nguyệt lớn đường kính khoảng 19 km (12 dặm). Tháng 7 được lựa chọn để bắt đầu thi công vì 2 nhà thiên văn học, Naubakht Ahvaz và Mashallah tin rằng thành phố nên được xây dựng theo cung Sử tử. Cung Sư Tử rất quan trọng vì nó là thành phần của lửa, biểu tưởng cho năng suất, sự kiêu hãnh và sự phát triển. Những viên gạch dùng để xây dựng thành phố đều 18 inches cả bốn mặt. Những bức tường bao quanh Bốn bức tường xung quanh Baghdad được đặt tên Kufa, Basra, Khurasan, và Damascus. Những tên này được đặt theo địa danh mà mỗi cánh cổng hướng về. Khoảng cách giữa mỗi cánh cổng này đều ít hơn 1.5 dặm. Mỗi cổng có 2 cửa làm bằng sắt. Vì những cánh cổng này rất nặng nên cần vài người đế đóng hoặc mở chúng. Cung điện Cổng vàng Ở chính giữa quảng trường trung tâm là cung điện cổng vàng. Cung điện là nơi ở của khalip và gia đình của ông. Ở chính giữa của tòa nhà là một mái vòm xanh cao 39m. Xung quanh cung điện là nơi dạo mát, tòa nhà bên bờ sông nơi chỉ có khalip là có thể cưỡi ngựa tới. Thêm vào đó, cung điện ở gần những lâu đài và dinh thự của những người có quyền thế khác. Gần cổng Syria là nơi ở của những người gác cổng. Tòa nhà đó được xây dựng bởi gạch và cẩm thạch. Quản gia của cung điện sống ở phía sau của tòa nhà còn người chỉ huy lính gác lại sống ở phía trước. Vào năm 813, sau cái chết của khalip Amin, cung điện không còn được dùng làm nơi sống của khalip và gia đình. Dạng tròn là theo kiểu Ả rập. Hai nhà thiết kế được thuê bởi Al-Mansur là Naubakht, một tín đồ đạo thờ lửa, người đã đặt ngày khởi công thành phố dựa theo thiên văn học, và Mashllah, một người Do thái đến từ Khorasan, Iran. Đế quốc Ottoman đô hộ Vào thế kỷ 16, Đế chế Ottoman từ Thổ Nhĩ Kỳ thôn tính vùng đất này và Bagdad trở thành một thành phố thương mại quan trọng trong đế chế. Bagdad được giải phóng trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, khi quân Đồng Minh tràn vào Bagdad và Đế chế Ottoman bại trận. Thế kỷ 20 và 21 Baghdad và miền nam Iraq vẫn còn dưới quyền cai trị của Ottoman cho đến năm 1917, sau đó bị Anh đánh bại trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Năm 1920, Baghdad trở thành thủ đô của Ủy nhiệm của Anh cho Mesopotamia và sau khi giành được độc lập năm 1932 thì trở thành thủ đô của Iraq. Dân số của thành phố tăng từ 145.000 năm 1900 lên tới 580.000 vào năm 1950. Trong thời gian ủy nhiệm, Baghdad đã có một phần đáng kể cộng đồng người Do Thái của thành phố này, chiếm một phần tư dân số của thành phố. Ngày 1 tháng 4 năm 1941, các thành viên của "Quảng trường Vàng" và Rashid Ali đã tổ chức một cuộc đảo chính ở Baghdad. Rashid Ali đã xây dựng một chính phủ thân [pro] [[Anh Quốc] Ý] để thay thế chính phủ thân Anh của Nhiếp chính quyền Abd al-Ilah | Abdul Ilah ]]. Vào ngày 31 tháng 5, sau cuộc Chiến tranh Anglo-Iraqi và sau khi Rashid Ali và chính phủ của ông chạy trốn, Thị trưởng Baghdad đầu hàng quân đội Anh và Liên bang. Vào ngày 14 tháng 7 năm 1958, các thành viên của quân đội Iraq, theo Abd al-Karim Qasim, Cuộc cách mạng ngày 14 tháng 7 đã tiến hành một cuộc đảo chánh để lật đổ Vương quốc Iraq. Vua Faisal II, nguyên Thủ tướng Nuri as-Said, cựu hoàng tử Abd al-Ilah, các thành viên của gia đình hoàng gia, và những người khác bị giết chết tàn bạo trong cuộc đảo chính. Nhiều thi thể của nạn nhân sau đó đã được kéo qua các đường phố của Baghdad. Trong những năm 1970, Baghdad trải qua giai đoạn thịnh vượng và tăng trưởng nhờ sự gia tăng mạnh mẽ giá dầu, xuất khẩu chính của Iraq. Cơ sở hạ tầng mới bao gồm hệ thống thoát nước hiện đại, hệ thống nước và đường cao tốc đã được xây dựng trong giai đoạn này. Kế hoạch tổng thể của thành phố (1967, 1973) được cung cấp bởi văn phòng kế hoạch Ba Lan Miastoprojekt-Kraków, trung gian của Polservice. Tuy nhiên, Chiến tranh Iran-Iraq năm 1980 là một thời điểm khó khăn cho thành phố, vì tiền đã bị chuyển bởi Saddam Hussein cho quân đội và hàng ngàn cư dân đã bị giết. Iran đưa ra một loạt các cuộc tấn công tên lửa chống lại Baghdad để trả đũa cho những vụ bắn phá liên tục của Saddam Hussein ở các khu dân cư của Tehran. Nơi đây được biết đến với cuộc Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 do tổng thống Hoa Kỳ Bush (cha) phát động nhằm lật đổ chế độ độc tài của tổng thống Saddam Hussein nhưng không thành. Năm 2003, một lần nữa lại nổ ra cuộc Chiến tranh Iraq, lần này là do tổng thống Bush (con) phát động và đã lật đổ được Saddam Hussein. Thành phố đã bị tàn phá nặng nề sau hai cuộc chiến trah này. Địa lý Thành phố nằm trên đồng bằng rộng lớn hai bên bờ sông Tigris. Tigris chia Baghdad thành hai nửa, nửa phía đông được gọi là 'Risafa' và nửa phía tây được gọi là ' Karkh'. Vùng đất của thành phố hầu hết là bằng phẳng và thấp trên các bồi tích được lấp đầy theo chu kỳ lũ của sông. Khí hậu Baghdad có khí hậu khô hạn cận nhiệt đới (phân loại khí hậu Köppen BWh) và được xem là một trong những thành phố nóng nhất thế giới theo nghĩa nhiệt độ cao nhất. Mùa hè từ tháng 6 đến tháng 8, nhiệt độ cao trung bình kèm với nắng rực lửa. Thực tế lượng mưa được ghi nhận là rất ít vào thời điểm này trong năm và không bao giờ vượt quá 1mm.. Độ ẩm thường dưới 50% vào mùa hè do khoảng cách khá xa từ Baghdad đến vùng đầm lầy phía Nam Iraq và bờ biển của Vịnh Ba Tư, và bão bụi từ các sa mạc về phía tây là một sự xuất hiện bình thường trong suốt mùa hè. Dù mùa hè rất nóng, nhiệt độ ở đây có thể xuống dưới 24 °C vào ban đêm. Nhiệt độ cao kỉ lục từng được ghi nhận ở Baghdad là khoảng 51 °C vào tháng 7 năm 2015. Mùa đông có nhiệt độ điển hình của khí hậu cận nhiệt đới. Từ tháng 12 đến tháng 2, Baghdad có nhiệt độ tối đa trung bình từ 15,5 đến 18,5 °C (59,9 đến 65,3 °F), mặc dù cao không quá 21 °C (70 °F). Mức thấp trung bình tháng Giêng là 3,8 °C (38,8 °F) nhưng thấp dưới mức đóng băng xảy ra trung bình vài lần mỗi năm. Lượng mưa hàng năm, chủ yếu rơi từ tháng 11 đến tháng 3, trung bình khoảng 150 mm, cao nhất là và thấp nhất là . Vào 11 tháng 1 năm 2008, có tuyết rơi nhẹ ở Baghdad lần đầu tiên trong lịch sử. Dân số Dân số của Baghdad ước tính là 7.222.000 vào năm 2015. Thành phố lịch sử có dân số chủ yếu là người hồi giáo Sunni, vào đầu thế kỷ 21 khoảng 82% dân số của thành phố là hồi giáo Shia. Vào đầu thế kỷ 21, khoảng 1,5 triệu người người di cư đến Baghdad, phần lớn là người Shiite và một vài người Sunnis. Đầu năm 2003, khoảng 20 phần trăm dân số của thành phố là kết quả của cuộc hôn nhân hỗn hợp giữa Shi'ites và Sunnis: họ thường được gọi là "Sushis". Sau vụ bạo động giáo phái tại Iraq giữa nhóm dân quân Sunni và Shia trong thời kỳ chiếm đóng Iraq của Mỹ, dân số phái Shia của thành phố đã trở nên áp đảo. Mặc dù lời hứa của chính phủ về việc tái định cư người Sunnis bị di dời do bạo lực, rất ít đã được thực hiện để mang lại điều này. Cuộc nội chiến Iraq sau cuộc xâm lược của phiến quân IS vào năm 2014 đã gây ra hàng trăm ngàn người Iraq di tản để trốn khỏi thành phố. Thành phố hiện nay có Sunni, Shia, Assyrian / Chaldean / Syriacs, Armenians và các khu phố hỗn hợp. Kinh tế Baghdad chiếm 22,2% dân số Iraq và 40 phần trăm tổng sản phẩm quốc nội (PPP) của nước này. Iraqi Airways, hãng hàng không quốc gia của Iraq, có trụ sở chính trên sân bay quốc tế Baghdad ở Baghdad. Al-Naser Airlines có trụ sở chính tại Karrada, Baghdad. Nỗ lực tái thiết Hầu hết các nỗ lực tái thiết Iraq đã được dành cho việc khôi phục và sửa chữa cơ sở hạ tầng đô thị bị hư hỏng nặng. Những nỗ lực rõ ràng hơn trong quá trình tái thiết thông qua phát triển tư nhân, như kiến ​​trúc sư và nhà thiết kế đô thị của Hisham N. Ashkouri ở Baghdad Renaissance Plan và Sindbad Hotel Complex and Conference Center cũng đã được thực hiện. Một kế hoạch đã được đề xuất bởi một cơ quan Chính phủ để xây dựng lại một hòn đảo du lịch năm 2008. Vào cuối năm 2009, một kế hoạch xây dựng đã được đề xuất để xây dựng lại trái tim của Baghdad, nhưng kế hoạch này không bao giờ được thực hiện vì tham nhũng đã được tham gia vào nó. Mắt Baghdad, một bánh xe Ferris cao 198 m (650 ft) được đề xuất cho Baghdad vào tháng 8 năm 2008. Lúc đó, đã xác định được ba vị trí có thể, nhưng không có ước tính chi phí hoặc ngày hoàn thành được đưa ra. Vào tháng 10 năm 2008, có thông báo rằng Al-Zawraa Park được dự kiến ​​là địa điểm [92] và một bánh xe 55 m (180 ft) được lắp đặt vào tháng 3 năm 2011. Ban Du lịch Iraq cũng đang tìm kiếm các nhà đầu tư để phát triển một hòn đảo "lãng mạn" trên sông Tigris ở Baghdad mà đã từng là một địa điểm tuần trăng mật phổ biến cho người Iraq mới cưới. Dự án sẽ bao gồm một khách sạn sáu sao, spa, sân gôn 18 lỗ và câu lạc bộ đồng quê. Ngoài ra, việc đi trước đã được thực hiện để xây dựng nhiều tòa nhà chọc trời độc đáo theo kiến ​​trúc Tigris để phát triển trung tâm tài chính của thành phố ở Kadhehemiah. Vào tháng 10 năm 2008, tuyến tàu điện ngầm Baghdad phục vụ lại. Nó kết nối trung tâm với khu vực phía nam của Dora. Tháng 5 năm 2010, một dự án khu dân cư và thương mại mới mang tên biệt danh Baghdad Gate đã được công bố. Dự án này không chỉ giải quyết nhu cầu khẩn cấp cho các đơn vị ở tại Baghdad mà còn đóng vai trò như một biểu tượng thực sự của sự tiến bộ trong thành phố bị chiến tranh tàn phá vì Baghdad đã không nhìn thấy các dự án có quy mô này trong nhiều thập kỷ qua. Giáo dục Đại học Mustansiriya được Abbasid Caliph al-Mustansir thành lập năm 1227. Tên trường được đổi thành Đại học Al-Mustansiriya năm 1963. Đại học Baghdad là trường đại học lớn nhất Iraq và lớn thứ 2 trong thế giới Ả Rập. Đại học Đại học Mustansiriya Đại học Iraqi Đại học Nahrain Đại học Baghdad Đại học Kỹ thuật, Iraq Chú thích
George Herbert Walker Bush (còn gọi là George Bush cha, Bush Sr. hoặc là Bush 41, 12 tháng 6 năm 1924 – 30 tháng 11 năm 2018) là một chính trị gia, doanh nhân, và là Tổng thống thứ 41 của Hoa Kỳ tại nhiệm từ năm 1989 đến năm 1993. Ông là thành viên Đảng Cộng hòa và từng đảm nhận nhiều vị trí khác nhau trong chính phủ Hoa Kỳ bao gồm dân biểu tại Hạ viện Hoa Kỳ, Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hợp Quốc, giám đốc Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA), và Phó Tổng thống thứ 43 của Hoa Kỳ. Đồng thời, Bush Sr. cũng là cha của George W. Bush (còn gọi là Bush con), Tổng thống thứ 43 của Hoa Kỳ, và Jeb Bush, Thống đốc thứ 43 của tiểu bang Florida. Bush lớn lên ở Greenwich, Connecticut và học cấp ba tại Học viện Phillips trước khi ghi danh vào lực lượng Hải quân Hoa Kỳ trong thời Chiến tranh Thế giới thứ hai. Khi chiến tranh qua đi, ông học tại Đại học Yale. Sau khi tốt nghiệp, Bush chuyển đến vùng tây Texas và thành lập một công ty dầu mỏ. Mặc dù thất bại trong cuộc bầu cử chức Thượng Nghị sĩ Hoa Kỳ, ông được bầu làm dân biểu Hoa Kỳ từ khu vực Quốc hội thứ 7 của Texas vào năm 1966. Vào năm 1971, Tổng thống Richard Nixon bổ nhiệm Bush đảm nhận vị trí giám đốc Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA). Bush từng đứng ra tranh cử trở thành ứng viên đại diện Đảng Cộng hòa trong kỳ bầu cử Tổng thống năm 1980. Tuy nhiên, tại kỳ bầu cử sơ bộ năm đó, ông đã bị đánh bại bởi Ronald Reagan. Sau đó, ông lại được chọn làm đồng ứng cử cho vị trí Phó Tổng thống với Reagan vào năm 1980 và 1984. Sau khi rời Nhà trắng năm 1993, Bush đã tích cực trong các hoạt động nhân đạo và thường làm việc cùng với đối thủ cũ của ông là Bill Clinton. Với chiến thắng của George W. Bush trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 2000, Bush và con trai đã trở thành cặp cha-con thứ hai trong lịch sử Hoa Kỳ trở thành Tổng thống sau John Adams và John Quincy Adams. Một người con trai khác, Jeb Bush, đã không thành công tìm kiếm đề cử tổng thống của đảng Cộng hòa trong cuộc bầu cử sơ bộ năm 2016 của đảng Cộng hòa. Sau một trận chiến dài với bệnh Parkinson do mạch máu, Bush qua đời tại nhà riêng vào ngày 30 tháng 11 năm 2018. Trên bảng xếp hạng các vị Tổng thống Hoa Kỳ trong lịch sử, các nhà sử học thường xếp Bush là ở vị trí trên mức trung bình. Thời thơ ấu và thanh niên George H. W. Bush sinh ra ở Milton, tiểu bang Massachusetts. Cha của ông là Prescott Bush, là Thượng nghị sĩ đại diện cho tiểu bang Connecticut và mẹ là Dorothy Walker Bush. Tên của Bush được đặt theo tên của ông ngoại ông là George Herbert Walker, Sr.. Bush bắt đầu đi học ở Trường Greenwich Country ở Greenwich, Connecticut, rồi theo học Phillips Academy ở Andover, Massachusetts từ 1936 đến 1942. Chiến tranh thế giới thứ hai Sau khi tốt nghiệp Phillips Academy vào tháng 6 năm 1942, Bush gia nhập Hải quân Hoa Kỳ sau ngày sinh nhật lần thứ 18 của ông và bắt đầu theo đuổi ước mơ trở thành một phi công. Sau một khóa học kéo dài 1 năm, Bush được kết nạp vào lực lượng Dự bị Hải quân vào tháng 6 năm 1943, vài ngày trước khi ông bước sang 19 tuổi. Ông được xem là phi công hải quân trẻ tuổi nhất nước Mỹ vào thời điểm đó. Sau khi được huấn luyện, Bush gia nhập vào phi đội Torpedo (VT-51) với vai trò sĩ quan không quân vào tháng 9 năm 1943, phi đội này thuộc Hàng không Mẫu hạm USS San Jacinto vào năm 1944. Vào ngày 2 tháng 9 năm 1944, Bush lái một trong 4 chiếc máy bay của phi đội VT-51 tấn công vào những địa điểm đóng quân của Phát xít Nhật ở Chichi Jima. Máy bay của Bush bị trúng hoả lực của địch nhưng ông đã được một chiếc tàu ngầm của Mỹ cứu sống. Bush sau đó quay về San Jacinto vào tháng 11 năm 1944 và tiếp tục tham gia các trận chiến chống phát xít Nhật ở Philippines. Khi quay trở về Guam, phi đội của ông đã tổn thất nặng nề và được gửi về Hoa Kỳ. Cho đến hết năm 1944, Bush đã thực hiện tổng cộng 58 phi vụ không kích và được nhận huân chương Distinguished Flying Cross và 3 Huân chương Không lực (Air Medals), Presidential Unit Citation. Sau những kinh nghiệm chiến trường quý báu này, Bush được phân công về [[Căn cứ Hải quân Norfolk]] và được huấn luyện để trở thành phi công phóng thủy lôi. Sau đó Bush được phân công với vai trò là một phi công trong phi đội mới, VT-153. Sau khi Thế Chiến thứ hai kết thúc, Bush được giải ngũ trong danh dự vào tháng 9 năm 1945 và ông đã theo học tại trường Đại học Yale. Vào năm 2003, hàng không mẫu hạm USS George H.W. Bush, thuộc lớp Nimitz bắt đầu được đóng cho Hải quân Hoa Kỳ, và đã hoàn thành vào năm 2009. Sau chiến tranh Khi còn học tại Đại học Yale, Bush tham gia Delta Kappa Epsilon và được bầu là chủ tịch của hội. Vào năm cuối, cũng như người con trai sau này của ông là George W. Bush (1968) và cha ông, Prescott S. Bush (1917), ông Bush được kết nạp vào hội bí mật Skull and Bones vào năm 1948, giúp ông xây dựng những mối quan hệ và ủng hộ về mặt chính trị. Thành viên của Skull and Bones đã giúp đỡ rất nhiều trong chiến dịch tranh cử tổng thống của ông về sau này bằng những chiến dịch quyên tiền quảng cáo khá lớn. George H.W Bush kết hôn với Barbara Pierce vào ngày 6 tháng 1 năm 1945. Họ có sáu người con: George W., Pauline Robinson ("Robin") (1949–1953, mất vì bệnh bạch cầu), John (Jeb), Neil, Marvin, và một cô con gái là Dorothy Walker. Sự nghiệp chính trị Ông là Chủ tịch Ủy ban Quốc gia Đảng Cộng hòa (1973-1974),Trưởng Văn phòng Đại diện Hoa Kỳ tại Trung Quốc (1974-1976), Chủ tịch Ngân hàng Quốc tế I tại Houston (1977-1980). Là một phi công hải quân được tặng thưởng huân chương, Bush là cựu chiến binh cuối cùng của Chiến tranh thế giới thứ hai phục vụ như là một Tổng thống Hoa Kỳ. Tổng thống Trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 1988, Bush đã vượt qua ứng cử viên Đảng Dân chủ Michael Dukakis để trở thành Phó Tổng thống đương nhiệm đầu tiên được bầu làm Tổng thống sau 152 năm. Trong nhiệm kỳ Tổng thống của mình, ông đã có nhiều chính sách đối ngoại quan trọng với tầm ảnh hưởng quốc tế. Bush đã điều hành đất nước giải quyết những vấn đề còn tồn đọng trong những năm cuối của Chiến tranh Lạnh và là nhân vật chủ chốt giúp tái thống nhất nước Đức. Ngoài ra, ông đã lãnh đạo nước Mỹ trong cuộc xâm lược Panama và Chiến tranh Vùng Vịnh nhằm chấm dứt sự chiếm đóng của Iraq ở Kuwait. Bush đã đàm phán và ký Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA), tạo ra một khối thương mại bao gồm Hoa Kỳ, Canada, và Mexico mặc dù Hiệp ước này vẫn chưa được phê chuẩn cho đến khi ông rời nhiệm sở. Trong các vấn đề đối nội, ông đã từ bỏ lời hứa của mình trong chiến dịch tranh cử Tổng thống năm 1988 bằng cách ký một dự luật tăng thuế nhằm giúp giảm thâm hụt ngân sách liên bang. Ngoài ra, Bush cũng đã ký Đạo luật Bảo vệ Người Mỹ Khuyết tật năm 1990, và bổ nhiệm David Souter và Clarence Thomas vào Tòa án Tối cao Hoa Kỳ. Bush đã thất bại cuộc bầu cử Tổng thống năm 1992 trước ứng cử viên Đảng Dân chủ Bill Clinton sau khi một loạt các sự kiện xảy ra như suy thoái kinh tế hay sự thay đổi bầu không khí chính trị tại Mỹ thời sau Chiến tranh Lạnh. Qua đời George H. W. Bush chống chọi với bệnh Parkinson trong những năm gần đây và từng nhiều lần phải vào bệnh viện điều trị các vấn đề về hô hấp. Ông cũng mắc chứng cường giáp tự miễn, một loại rối loạn miễn dịch dẫn đến tuyến giáp hoạt động quá mức. Tháng 4 năm 2018, ông phải nhập viện trong tình trạng nguy kịch, huyết áp tụt do "bị nhiễm trùng lan vào máu" chỉ một ngày sau buổi lễ tang của vợ ông, bà Barbara Bush. Barbara Bush qua đời vào ngày 17 tháng 4 năm 2018 Bush qua đời lúc 22 giờ 10 phút vào ngày 30 tháng 11 tại tư gia ở Houston, Texas, Hoa Kỳ. Tổng thống Donald Trump tuyên bố ngày 5 tháng 12 là một ngày quốc tang. Ngày 3 tháng 12, thi thể Bush được đưa bằng máy bay đến Washington, D.C. và được đặt trang trọng theo nghi thức quốc tang. Ngày 5 tháng 12, quốc tang được tiến hành tại Nhà thờ chính tòa Quốc gia Washington, và do Tổng thống Donald Trump làm chủ tọa. Sau buổi lễ tang, thi thể Bush được chở bằng máy bay trở về thư viện Tổng thống George Bush ở Texas. Tại đây một buổi lễ khác được tổ chức và cựu tổng thống Bush được chôn cất bên cạnh đứa con gái là Robin, đã mất khi mới được 3 tuổi vì bệnh bạch cầu, và người vợ đã qua đời cách đây 7 tháng trước.
VoIP (viết tắt của Voice over Internet Protocol, nghĩa là Truyền giọng nói trên giao thức IP) là công nghệ truyền tiếng nói của con người (thoại) qua mạng máy tính sử dụng bộ giao thức TCP/IP. Nó sử dụng các gói dữ liệu IP (trên mạng LAN, WAN, Internet) với thông tin được truyền tải là mã hoá của âm thanh. Công nghệ này bản chất là dựa trên chuyển mạch gói, nhằm thay thế công nghệ truyền thoại cũ dùng chuyển mạch kênh. Nó nén (ghép) nhiều kênh thoại trên một đường truyền tín hiệu, và những tín hiệu này được truyền qua mạng Internet, vì thế có thể giảm giá thành. Để thực hiện việc này, điện thoại IP, thường được tích hợp sẵn các nghi thức báo hiệu chuẩn như SIP hay H.323, kết nối tới một tổng đài IP (IP PBX) của doanh nghiệp hay của nhà cung cấp dịch vụ. Điện thoại IP có thể là điện thoại thông thường (chỉ khác là thay vì nối với mạng điện thoại qua đường dây giao tiếp RJ11 thì điện thoại IP nối trực tiếp vào mạng LAN qua cáp Ethernet, giao tiếp RJ45) hoặc phần mềm thoại (soft-phone) cài trên máy tính. VoIP tại Việt Nam Các dịch vụ như gọi 171 (VNPT), 177 (SPT), 178 (Viettel), 175 (VISHIPEL) ở Việt Nam đều là các dịch vụ sử dụng phương thức này. Tuy nhiên VoIP cũng có những nhược điểm của nó. Đó là chất lượng âm thanh chưa được đảm bảo, vẫn còn tình trạng trễ tiếng. Một số công ty cung cấp VoIP tại Việt Nam đã cố gắng cung cấp cho khách hàng chất lượng thoại VoIP ngày càng tốt hơn. Ngày 29/09/2010 Công ty Điện toán và Truyền số liệu VDC – Thành viên của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) đã tổ chức buổi lễ khai trương dịch vụ thẻ gọi điện thoại trong nước, quốc tế mới với tính năng roaming tại nước ngoài – Fone1718. Dịch vụ đáp ứng được nhiều tiện ích tối đa cho người dùng với nhiều tính năng vượt trội mà từ trước đến nay chưa từng có tại Việt Nam. Các giao thức dùng trong VoIP: sip, mgcp, h323. Giao thức H323 không chỉ được dùng trong truyền tiếng nói mà còn được dùng để truyền video trên nền mạng IP (giải pháp video conference) Phần mềm ứng dụng VoIP Ứng dụng VoIP sử dụng trên máy tính cá nhân đầu tiên được phát triển năm 1995 bởi một công ty của Israel có tên là VocalTel. Ứng dụng VoIP đầu tiên này nói chung còn gặp phải nhiều vấn đề như: trễ lớn, chất lượng thoại còn thấp và không tương thích với các mạng ngoài. Mặc dù vậy, sự ra đời của nó cũng là một bước đột phá quan trọng. Kể từ đó đến nay, cùng với sự phát triển của công nghệ cáp quang với các đường truyền băng rộng công nghệ VoIP có nhiều thuận lợi để phát triển trở thành phương thức thoại tốt, chi phí thấp hơn rất nhiều so với phương thức thoại truyền thống. An toàn công cộng và phong tỏa của chính phủ Vì con số điện thoại không còn bị ràng buộc vào địa điểm, mã quốc gia phụ thuộc hoàn toàn vào các nhà cung cấp SIP. Do đó dựa vào các mã quốc gia không tìm ra được (thí dụ 49 cho Đức), từ đâu điện thoại thực sự gọi đến. Theo các nguồn tin tình báo, vì vậy các nhóm khủng bố thường sử dụng VoIP để liên lạc với nhau. Từ những tài liệu rò rỉ của Edward Snowden cho thấy rằng, NSA và GCHQ theo dõi từ năm 2008, các kênh VoIP khác nhau của các trò chơi trực tuyến. Xung quanh các vụ tấn công Paris tháng 11 năm 2015 Bộ trưởng Bộ Nội vụ Bỉ Jan Jambon cho biết, ISIL ngày càng sử dụng các tính năng VoIP của PlayStation 4, Party Chat. Đặc biệt là ở các nước Ả Rập, ngày càng nhiều các ISP chặn điện thoại IP, chẳng hạn như Maroc Telecom của Maroc. Các khái niệm liên quan Tổng đài điện thoại IP Asterisk (PBX)
Lịch sử hình thành Sau khi Mobile Suit Freedom cũ bị nổ. Lacus Clyne đã trở lại PLANT và trên đó cô có một nơi bí mật tập hợp những người chống chiến tranh gọi là Clyne Faction.Ở Clyne Faction những người chống chiến tranh đã sản xuất ra Mobile ZGMF-X20A Strike Freedom. Đây là một Mobile vô cùng hiện đại với nhiều tính năng mới mà Freedom cũ không có như: DRAGOON system, HiMAT...và một lò phản ứng hạt nhân đã được thiết kế lại khiến tầm bay của Strike Freedom gần như vô hạn và chỉ phụ thuộc vào sức khỏe của phi công. Mobile này được thiết kế để cho Kira Yamato lái và nó cũng được thiết kế để đánh cặp với Gundam ZGMF-19A Infinite Justice. Thông số kỹ thuật Tên: ZGMF-20A Strike Freedom. Nguồn năng lượng: Lò phản ứng hạt nhân kiểu mới. Chế tạo: Clyne Faction. Chiều cao: 19m. Tổng trọng lượng: 60 tấn. Vũ khí: Pháo tầm gần 6 nòng MMI-GAU27D 31mm CIWS. Pháo beam đa năng: MGX-2235 Callidus. Kiếm beam: M02G Super Lacerta ×2. Pháo railgun: MMI-M15E Xiphias ×2. Khiên năng lượng: MX2200 Beam Shield. Súng trường beam:MA-M21KF High-Energy Beam Rifle x 2. Hệ thống Dragoon:MA-80V Beam Assault Cannon x 8 Người lái Tên: Kira Yamato Lồng tiếng bởi Souichirou Hoshi. Sinh ngày 28 tháng 5 CE55 Nhóm máu A. Người điều khiển 2 Gundam "ZGMF-X10A Freedom" và "ZGMF-X20A Strike Freedom. Là nhân vật chính từ phần trước và vẫn giữ vị trí đó cho đến phần này, Kira thể hiện được sự quan trọng của mình trong anime dù mãi cho đến khoảng tập 13 anh mới có những hành động có ảnh hưởng đến diễn biến cậu chuyện. Kira sau cuộc chiến trước đã cùng với Lacus, Ramius và Waltfeld chuyển đến sống cùng với một đám trẻ mồ côi và một cha sứ ở một hòn đảo nhỏ thuộc ORB. Cuộc sống bình yên cho đến khi một nhóm của ZAFT đến ám sát Lacus, điều đã buộc Kira quay lại với Gundam và chiến trường. Chú thích -ZGMF:Zero Gravity Maneuver Fighter. -Dragoon system:Disconected Rapid Armament Group Overlook Operation Network system -CIWS:Close In Weapon System. Liên kết Trang chủ Gundam Seed Destiny Gundam Seed Destiny trên Wikipedia tiếng Việt
Trong thần thoại Hy Lạp, Titan (tiếng Hy Lạp: Τιτάν, số nhiều Τιτάνες) là một nhóm các vị thần đầy sức mạnh thống trị suốt thời gian huyền thoại trước khi mười hai vị thần trên đỉnh Olympus chiếm vị trí tối cao. Các thần khổng lồ Titan khởi thủy bao gồm 12 người gắn liền với rất nhiều khái niệm như đại dương, trí nhớ, tầm nhìn và quy luật tự nhiên; sau đó, họ lại sinh ra các thần Titan khác, như là Prometheus (Προμηθεύς) và Atlas (Ἄτλας). Họ được dẫn dắt bởi vị thần trẻ nhất trong các vị thần thuộc thế hệ đầu tiên, Cronus (Κρόνος), người đã lật đổ cha mình là Uranus (Ουρανος, hay "bầu trời"), với sự hỗ trợ của mẹ là Gaia (Γαία, hay "quả đất"). Các thần khổng lồ Titan cuối cùng lại bị các vị thần trên đỉnh Olympus, dẫn đầu là Zeus, soán ngôi trong Titanomachy ("cuộc chiến với các thần khổng lồ Titan"), và rất nhiều người trong số họ đã bị cầm tù tại Tartarus (Ταρταρος), tận cùng của địa ngục. Trong Hesiod Trong Thần phả của Hesiod mười hai thần khổng lồ Titan sau Hecatonchires (Έκατόνχειρες, hay "Trăm tay") và Cyclopes (Κύκλωφ, hay "Mắt tròn") là con của Uranus và Gaia: "Sau đó, bà ăn nằm cùng Bầu trời và sinh ra Oceanus với sóng cuộn từ đáy sâu, Koios, Krios, Hyperion, Iapetus, Tethys, Theia, Themis, Rhea, Mnemosyne, Phoebe với đầu đội vương miện vàng. Cuối cùng, bà hạ sinh Cronos quỷ quyệt, người trẻ nhất và kinh khủng nhất trong các anh em Titan, và hắn ta căm ghét cha hắn." Uranus thấy Cronos gớm ghiếc và quái dị đã đem giam hắn trong lòng đất. Cronos, được sự giúp đỡ của Hecatonchires và Cyclopes, sau này đã đánh bại cha mình và tự lên làm vua, lấy Rhea làm vợ và phong làm hoàng hậu. Rhea lại sinh ra một thế hệ các vị thần mới cho Cronos, nhưng vì lo sợ rằng cuối cùng những đứa con này sẽ lật đổ mình, Cronos đã nuốt hết từng người một. Chỉ có Zeus là sống sót vì Rhea đã đưa cho Cronus một hòn đá quấn trong tã thay vì Zeus và đặt Zeus ở Crete trong sự bảo vệ của các Kouretes. Khi Zeus đến tuổi trưởng thành, Zeus đã đánh bại Cronos. Sử dụng một loại độc dược được pha chế bởi Metis, Zeus đã buộc Cronos phải nôn ra trở lại các anh chị. Một cuộc chiến giữa vị thần trẻ và các vị thần Titan nổ ra. Zeus được sự giúp đỡ của Hecatonchires, Gigantes và Cyclopes, những người mà thêm một lần nữa đã thoát ra khỏi Tartarus. Zeus chiến thắng sau một cuộc chiến dài và nhốt nhiều vị thần khổng lồ Titan trở lại Tartarus. Kể từ đó, các vị thần cũ không còn lưu lại dấu vết của họ trên thế giới. Vài người trong họ như Mnemosyne, Gaia, Rhea, Hyperion, Themis và Metis đã không chống lại đỉnh Olympus và trở thành những người đóng vai trò then chốt trong một hệ thống thống trị mới. Các vị thần khổng lồ Titan cũng để lại một số hậu duệ và một số trong họ cũng có thể được xem như là các thần khổng lồ Titan mà đáng chú ý nhất là các con trai của Prometheus, Epimetheus, Atlas và Menoetius. Nhiều nguồn dữ liệu cổ đại khác cũng theo rất sát Hesiod chỉ với một khác biệt nhỏ: Apollodorus thành Athena đã thêm Dione là thần Titan thứ mười ba. Titanomachy Người Hy Lạp cổ đại có rất nhiều các bài thơ nói về cuộc chiến giữa các vị thần và các Titan, thường được biết với tên Titanomachy ("Cuộc chiến chống các thần khổng lồ Titan"). Nổi trội hơn cả và tồn tại đến tận ngày nay là Theogony của Hesiod. Một thiên sử thi đã mất tên Titanomachy, được cho là tác phẩm của nhà thơ mù của Thracia Thamyris, người mà bản thân ông cũng là một nhân vật huyền thoại, đã được đề cập thoáng qua trong bài luận On Music vốn được cho rằng là của Plutarch. Và các vị thần khổng lồ Titan cũng đóng vai trò nổi bật trong những bài thơ của Orpheus. Dù chỉ còn những đoạn nhỏ, ngắn của tác phẩm Orphic còn tồn tại, chúng vẫn cho thấy những khác biệt thú vị so với Hesiod. Những tác phẩm này của Hy Lạp rơi vào một nhóm các thần thoại quen thuộc khắp châu Âu và Cận Đông, theo đó, một thế hệ hay một nhóm các vị thần bị chống đối bởi một vị thần nổi trội khác. Đôi khi, các vị thần thuộc thế hệ trước thất bại và bị thay thế. Đôi khi, cuộc nổi dậy thất bại và người nổi dậy hoặc là bị mất hết quyền năng hoặc là được gia nhập vào pantheon. Các ví dụ khác gồm có những cuộc chiến của Æsir với Vanir và các Jotun trong thần thoại Scandinavia, sử thi Enuma Elish của người Babylon, tác phẩm "Vương quyền trên trời cao" của người Hittite, và các mâu thuẫn đa thế hệ trong các mẩu truyện về vùng Ugarit. Trong các nguồn dữ liệu khác của Hy Lạp Tuy vậy, tác phẩm của Hesiod không phải là tác phẩm cuối cùng nói về các thần khổng lồ Titan. Những tác phẩm dở dang còn lại của Orpheus chứa đựng một số khác biệt. Trong một đoạn của Orpheus, Zeus đã không chỉ đơn giản có thể đánh bại cha mình bằng vũ lực. Thay vào đó, Rhea đã chuẩn bị một buổi tiệc thịnh soạn cho Cronus và vì thế mà hắn ta đã bị say mật ong. Zeus trói hắn lại và thiến hắn. Thay vì bị giam xuống Tartarus, Cronus vẫn còn say mèm trong hang của Nyx, nơi hắn ta tiếp tục những giấc mơ và tiên tri vĩnh viễn. Một thần thoại khác về các thần khổng lồ Titan không của Hesiod xoay quanh Dionysus. Trong thời gian trị vì của mình, Zeus quyết định sẽ nhường ngôi cho Dionysus, người cũng như Zeus là một đứa bé được bảo vệ bởi các Kouretes. Các thần khổng lồ Titan quyết định sẽ hạ sát đứa bé và cướp lấy ngôi báu: họ vẽ mặt trắng toát bằng thạch cao, dụ dỗ Dionysus bằng đồ chơi rồi sau đó chặt chân tay cậu bé và đem nấu nướng chúng. Zeus nổi giận, đã dùng sét tiêu diệt các thần Titan; Athena giữ trái tim của Dionysus trong một hình nhân bằng thạch cao để tái tạo lại một Dionysus mới. Câu chuyện này được các nhà thơ Callimachus và Nonnus kể lại và gọi Dionysus là "Zagreus", cũng như trong một số phần của tác phẩm Orphic. Câu chuyện này lại được kể lại trong thời kỳ của Thiên Chúa giáo bởi một triết gia trường phái Tân Platon là Olympiodorus, theo đó, con người đã nhảy ra khỏi những cái xác cháy của các thần Titan. Các tác giả khác trước đó còn cho rằng con người đã được sinh ra từ máu của các thần Titan đổ xuống trong cuộc chiến với Zeus. Pindarus, Platon và Oppianus đề cập đến "Bản chất Titan" của con người. Việc điều này có liên quan đến một dạng "original sin" bắt nguồn từ việc giết chết vẫn còn là đề tài tranh cãi của các học giả. Trong thế kỷ 20 Nhiều học giả của thế kỷ trước, mà trong đó nổi bật nhất là Jane Ellen Harrison, đã đưa ra ý kiến rằng chuyện về các thần Titan chặt tay chân của Dionysus, hay ăn thịt người, là một hình thức nghi lễ tôn giáo. Ngoại trừ những mâu thuẫn về Gigantes, có rất nhiều vật có hình dáng to lớn đã được đặt tên theo các thần khổng lồ Titan ví dụ như là con tàu huyền thoại RMS Titanic.
Trận Poltava, còn gọi là Trận đánh Pultowa, là trận đánh lớn diễn ra vào ngày 27 tháng 6 năm 1709 theo lịch Julius giữa hai đoàn quân hùng hậu: Quân đội Nga do Sa hoàng Pyotr I thân chinh thống lĩnh, và Quân đội Thụy Điển cũng do vua Karl XII thân chinh thống lĩnh. Vua Karl XII và Sa hoàng Pyotr I bấy giờ là hai ông vua nổi tiếng nhất trên khắp thế giới. Trong trận đánh tại Poltava, quân số Nga áp đảo quân số Thụy Điển, đồng thời Quân đội Nga cũng thắng thế về hỏa lực. Trận đánh kết thúc với phần chiến thắng hiển hách về phía Nga, chấm dứt cuộc xâm lăng của Thụy Điển vào lãnh thổ Nga. Quân đội Thụy Điển phải tháo chạy về phía Nam, và Quốc vương Karl XII sẽ còn lưu lạc ở Đế quốc Ottoman trong vòng 5 năm sau đó. Trận Poltava diễn ra trong cuộc Đại chiến Bắc Âu do liên minh các nước Nga, Đan Mạch và Ba Lan cùng chống lại Đế quốc Thụy Điển. Chiến thắng tại Poltava là một bước ngoặt trong lịch sử Nga: nước Nga Sa hoàng đã phá vỡ vai trò cường quốc của Đế quốc Thụy Điển thời bấy giờ, và đưa nước Nga tiến lên phát triển lớn mạnh trong thập kỷ sau đó. Không những thế, với chiến thắng này, Liên minh phương Bắc của Nga hoàng Pyotr Đại Đế, Tuyển hầu tước xứ Sachsen August II và vua Đan Mạch Frederick IV nhanh chóng được củng cố. Diễn biến khởi đầu Sau kỳ nghỉ đông, vào đầu tháng 4 năm 1709, Quốc vương Karl XII đang đàm phán với vua Ottoman và Hãn vương Tatar, cùng lúc đang chờ viện binh của Thụy Điển và Ba Lan đến để cùng hợp lực tiến công vào Nga. Trong khi chờ đợi, Karl XII chuyển quân xuống hướng nam, đến vị trí dự kiến viện binh từ Ba Lan và Thổ Nhĩ Kỳ sẽ tiến đến. Poltava là một thị trấn nhỏ nhưng quan trọng về thương mại, cách Kiev 360 km về hướng đông-nam. Một bên thị trấn là hai đỉnh của dốc đứng nhìn xuống một khu đầm lầy rộng của sông Vorskla, một nhánh quan trọng của sông Dnepr. Quốc vương Karl XII quyết định công hãm Poltava dưới quyền chỉ huy phòng ngự của Đại tá Kelin để kiểm soát địa điểm chiến lược này. Ngày 1 tháng 5 năm 1709, việc công hãm bắt đầu rồi kéo dài 6 tuần. Trong lúc ấy, dọc con sông theo bờ đông của sông Vorskla, các lực lượng của Nga cũng đang tập trung đến. Bộ binh dưới quyền Nguyên soái Boris Petrovich Sheremetev, kỵ binh dưới quyền Vương công Aleksandr Danilovich Menshikov, và pháo binh do Tướng Bauer chỉ huy. Các đội kỵ binh của Nga và Thụy Điển chạy dọc theo hai bờ đối diện của con sông, chạm trán với nhau hàng ngày. Tuy có quân số áp đảo, các tướng lĩnh Nga không biết phải làm gì. Họ được Kelin báo rằng ông chỉ có thể cầm cự đến cuối tháng 6. Menshikov và Sheremetev không muốn để mất thị trấn, nhưng không được chuẩn bị để giao chiến toàn diện. Menshikov báo tin cho Sa hoàng Pyotr I lúc đó đang trên đường từ Azov đến. Ngày 4 tháng 6, Pyotr đến. Thói quen của ông là bổ nhiệm một trong những tướng lĩnh làm Tư lệnh chiến trường và chỉ nhận nhiệm vụ phó tướng, nhưng lần này ông đảm nhiệm chức vụ Tư lệnh Tối cao. Pyotr mang đến 8.000 quân mới được tuyển mộ để bổ sung vào hàng quân bây giờ chuẩn bị đánh lớn. Sự hiện diện của ông cũng nâng tinh thần cho binh sĩ. Pyotr thấy sách lược của ông đã thành tựu: kẻ thủ đã bị cô lập, vị mọi ngả đường dẫn đến Poltava đã có quân Nga đóng chốt. Pyotr và các tướng lĩnh thấy việc Poltava thất thủ chỉ còn là vấn đề thời gian. Nếu rơi vào tay Thụy Điển, thị trấn này có thể là trung tâm điểm thu hút các lực lượng mà Karl XII mong đợi – và Pyotr kiêng dè – để tiếp tay cho vua Thụy Điển và có thể mở đường cho ông dẫn quân tiến đến Moskva. Pyotr và các tướng lĩnh đi đến quyết định lịch sử: để giảm áp lực ở Poltava và ngăn chặn sự thất thủ của thị trấn này, đại quân Nga sẽ được tung vào. Nhưng quân Nga cần phải qua bên bờ tây để tham chiến. Vào đêm 14 tháng 6, đội quân đầu tiên tổ chức vượt sông bị đánh lui. Nhưng Pyotr đã quyết tâm. Đại tá Kelin ở Poltava báo cáo rằng ông khó cầm cự được lâu thêm, và Pyotr quyết định phải hành động ngay. Bên Thụy Điển biết rõ về việc vượt sông ở Petrovka. Trong các đêm 15 - 16 tháng 6, quân Thụy Điển được lệnh túc trực ứng chiến, dự định đợi khi một phần quân Nga đã sang sông thì dùng quân số áp đảo đánh lùi xuống sông. Nhưng trước khi kế hoạch tác chiến của Thụy Điển được triển khai, tai họa giáng xuống. Ngày 17 tháng 6 năm 1709 là sinh nhật thứ 27 của vua Karl XII. Sáng hôm ấy, nhà vua cưỡi ngựa đến phía nam Poltava để thị sát chiến trường thì bị một viên đạn nòng dài của Nga bắn trúng. Tin tức về việc Karl XII bị thương lan nhanh khắp các doanh trại của Thụy Điển, một cú sốc cho toàn quân. Vết thương tiếp tục mưng mủ, vua Karl XII lên cơn sốt cao, và tình trạng viêm lan thêm. Khi nghe tin Karl XII bị thương, Thống chế Carl Gustaf Rehnskiöld tham khảo ý kiến các sĩ quan dưới quyền và quyết định không tấn công phía bắc như phương án đã định. Vào buổi chiều ngày 17 tháng 6, Pyotr được tin Karl XII bị thương. Ông lập tức truyền lệnh vượt sông. Ngày 19 tháng 6, kỵ binh Nga vượt qua sông Vorskla mà không bị quấy nhiễu, và nhanh chóng lập phòng tuyến ở Semenovka. Trong các ngày 19-21 tháng 6 – trong khi Karl XII đang nằm như chết – toàn bộ quân Nga di chuyển từ đông sang bờ tây, rồi xây phòng tuyến. Ngày 22 tháng 6, quân Thụy Điển chỉnh đốn lại tinh thần. Karl XII vẫn còn bị bệnh nặng, nhưng đã bớt sốt và tính mạng không còn bị đe dọa. Vào thời gian này, Karl XII nhận được tin cho biết viện binh Ba Lan và Thụy Điển sẽ không đến, còn bộ tộc Tatar bị Thổ Nhĩ Kỳ cấm hợp tác với Thụy Điển nên cũng không thể hội quân. Cùng lúc, tình trạng quân Thụy Điển đang trở nên ngày một tồi tệ thêm. Đoàn quân đang bị tiêu hao dần trong các cuộc đụng độ lẻ tẻ hàng ngày mà không có người bổ sung. Thực phẩm cạn dần vì vùng xung quanh đã bị vét sạch; thuốc súng bị ẩm ướt; không có đủ đạn cho súng nòng dài. Cả đoàn quân lừ đừ và uể oải vì sức nóng mùa hè. Karl XII muốn dốc tất cả sức mạnh còn lại để tung vào trận chiến để tháo gỡ thế bế tắc. Ông dự định đánh một cú bất ngờ. Pyotr muốn lợi dụng quân số áp đảo để buộc Thụy Điển phải tấn công một phòng tuyến vững chắc của Nga, nên ông chuẩn bị cho tình huống như thế. Đêm 26 tháng 6, quân Nga từ trại Semenovka di chuyển về hướng nam và lập một doanh trại mới chỉ cách thành Poltava 6 km về phía bắc. Ở đây, binh sĩ Nga làm việc cật lực ngày đêm, lập nên một tường thành bằng đất nện hình vuông. Pyotr có thêm một số biện pháp phòng vệ. Mũi tiến công của Thụy Điển sẽ phải xuất phát theo con đường từ Poltava đi lên. Cách doanh trại gần 2 km về phía nam, khu đất bằng phẳng thu hẹp lại và con đường đi qua giữa rừng và vực núi phía đông và đầm lầy phía tây. Ngang khoảng giữa này, Pyotr cho đắp 6 tiền đồn nhỏ bằng đất nện, mỗi tiền đồn có 700 quân trú phòng cùng với 2 đại bác. Phía sau 6 tiền đồn này, Pyotr bố trí 7 trung đoàn kỵ binh với 13 khẩu pháo ngựa kéo, do Menshikov, tướng kỵ binh Carl Evald Ronne người Đức và Bauer chỉ huy. Toàn lực lượng trú phòng trong tiền đồn và kỵ binh này sẽ báo động và tạo phòng tuyến thứ nhất đế tiếp chiến bất kỹ mũi tiến công nào của Thụy Điển hướng ra khu đất bằng phẳng. Ngày 26 tháng 6, Pyotr tuyên cáo với toàn quân: Chiều ngày Chủ nhật 27 tháng 6 năm 1709, Karl XII triệu các tướng lĩnh và đại tá đến để truyền lệnh về kế hoạch cho trận đánh ngày hôm sau. Ông tuyên bố rằng Pyotr có quân số đông hơn, nhưng có thể khắc phục điểm này nếu áp dụng chiến thuật táo bạo. Có khả năng đánh bại quân Nga và còn có thể tóm được một chiến lợi phẩm vĩ đại: Pyotr I. Thụy Điển bây giờ chỉ còn 25.000 quân, hơn phân nửa quân số so với lúc tiến vào đất Nga hai năm trước. Nhiều binh sĩ đã giảm sức chiến đấu do chiến thương và hoại tử mùa đông vừa qua. Bá tước Đại tướng Adam Ludwig Lewenhaupt, người sẽ chỉ huy bộ binh, muốn tung toàn bộ lực lượng vào trận chiến, nhưng Karl XII bác bỏ. Cần phải duy trì 2.000 quân công hãm Poltava để ngăn chặn quân phòng ngự xông ra trợ chiến bên Nga. Còn phải cắt cử 2.500 kỵ binh để bảo vệ hàng hậu cần. Thêm một lực lượng gồm 1.500 quân được phân tán rải rác dọc theo sông Vorskla phía dưới thị trấn để tuần tiễu đề phòng quân Nga vượt sông ở vùng này. Đội quân Cossack gồm 6.000 người không được phân nhiệm vụ tác chiến, vì nhà vua thấy rằng tính vô kỷ luật của họ sẽ chỉ làm rối loạn hàng ngũ của binh sĩ Thụy Điển đã được huấn luyện thành thục. Tổng cộng, lực lượng Thụy Điển tung ra để tấn công 42.000 quân Nga chỉ có 19.000 người. Khi vua Karl XII trở thành một thương binh, chức vụ tư lệnh mặt trận đương nhiên được giao cho Thống chế Rehnskiöld, có địa vị cao nhất dưới Karl XII. Rehnskiöld là con người nóng tính, bị than phiền là cao ngạo và thô lỗ. Đặc biệt, Rehnskiöld không ưa thích Lewenhaupt nên không màng nói cho Lewenhaupt biết cần phải làm gì. Phương án tác chiến mà vua Karl XII và Thống chế Rehnskiöld vạch ra là mở cuộc tấn công thần tốc trước bình minh khiến cho quân Nga bị bất ngờ, rồi đi nhanh qua các tiền đồn, phó mặc hỏa lực của quân phòng ngự. Sau đó, quân Thụy Điển sẽ rẽ sang trái và tiến đến khu đất bằng phẳng phía trước doanh trại của đại quân Nga. Bộ binh sẽ đi dọc bờ tây của đồng bằng đến vị trí tây bắc của quân Nga, trong khi kỵ binh Thụy Điển sẽ quét sạch kỵ binh của Pyotr. Khi đã đi đến vị trí giữa quân Nga và vùng nước cạn ở Petrovka, cả quân Thụy Điển sẽ di chuyển về bên phải và lập đội hình cho trận đánh lớn. Nếu kế hoạch này thành công, quân Nga sẽ bị ép lưng vào bờ sông dốc đứng và quân Thụy Điển trong tư thế sẵn sàng chiến đấu sẽ chặn đường rút lui ở Petrovka. Nếu quân Nga không muốn giáp chiến, họ cứ việc cố thủ mà chết đói. Trong số 30 khẩu pháo còn sử dụng được, phần lớn sẽ được để lại. Đây một phần là do quyết định của Rehnskiöld. Ông có tâm lý thường thấy ở kỵ binh là không thích sử dụng pháo, và tin rằng kéo pháo qua các tiền đồn chỉ làm chậm bước tiến nhanh mà ông đòi hỏi. Hơn nữa, sẽ không có thời giờ để đặt vị trí pháo mà khai hỏa; và cũng vì phần lớn thuốc súng đã bị hư hỏng do thời tiết ẩm ướt trong mùa đông vừa qua. Do vậy, quân Thụy Điển chỉ mang theo 4 khẩu pháo. Lúc nửa đêm, binh sĩ Thụy Điển thành lập đội hình. Cũng trong đêm này, quân Nga đang cật lực đào đất để xây một dãy bốn tiền đồn mới nằm thẳng góc với 6 tiền đồn trước. Các tiền đồn mới này hướng thẳng theo con đường đi xuống Poltava về phía doanh trại Thụy Điển, và sẽ phân mũi tấn công của Thụy Điển ra làm hai nhánh hai bên dãy tiền đồn, hướng hỏa lực vào bên sườn quân Thụy Điển đi ngang qua họ. Yếu tố bất ngờ cho Thụy Điển đã mất. Thời gian còn lại rất ít. Rehnskiöld muốn chớp thời cơ mà ra lệnh tấn công như đã dự trù; nếu không sẽ phải bãi bỏ cả phương án tác chiến. Karl XII đồng ý, và mệnh lệnh được ban hành nhanh chóng để chỉnh sửa phương án tác chiến ban đầu. Các tiểu đoàn bộ binh giờ được chia ra năm cánh quân, trong đó bốn cánh quân tiến nhanh qua các tiền đồn mặc cho hỏa lực của địch, rồi tập họp lại ở khu đất bằng phẳng theo như kế hoạch ban đầu. Cánh quân thứ năm, gồm 4 tiểu đoàn, được lệnh tấn công 4 tiền đồn mới. Vì thế, mũi tiến công tiền phong của Thụy Điển sẽ bị dãy tiền đồn phân làm hai nhánh giống như nước chảy giữa các tảng đá phải chia làm hai dòng, và đội theo sau phải đánh phá và nếu được, tràn ngập các tiền đồn này. Khi bộ binh Thụy Điển vẫn còn đang lập đội hình thì đại pháo Nga trong các tiền đồn phía trước đã khai hỏa, giết chết một đại úy và sáu binh sĩ. Nhất thiết phải tiến quân ngay. Lúc 4 giờ sáng, khi mặt trời vừa ló dạng trên ngọn cây, việc điều quân đã xong, Rehnskiöld ra lệnh tiến quân. Trận Poltava bắt đầu Bộ binh Thụy Điển tiến về hướng các tiền đồn của Nga, sau họ là kỵ binh đi chậm để không vượt qua bộ binh. Phần lớn đều không để ý đến các tiền đồn, nhưng khi cánh quân trung tâm tiến đến tiền đồn đầu tiên, quân Thụy Điển tràn lên các công sự bằng đất nện chưa hoàn tất, dùng lưỡi lê chiến đấu giáp lá cà với quân phòng ngự. Hai tiền đồn đầu thất thủ. Vài đại đội sau khi đã chiếm được hai tiền đồn đầu tiên gia nhập vào hàng quân tiến qua bên trái, trong khi những người khác chuẩn bị hỗ trợ tấn công tiền đồn thứ ba đang bị hai tiểu đoàn dưới quyền Trung tướng Carl Gustaf Roos công hãm. Chính trong cuộc tấn công tiền đồn thứ ba và thứ tư mà vấn đề nguy hiểm phát sinh. Quân trú phòng tiền đồn thứ ba chống trả một cách kiên cường, đẩy lui đợt tấn công thứ nhất. Quân Thụy Điển kéo đến thêm, và cuối cùng 6 tiểu đoàn tụ tập trước chướng ngại vật này. Vấn đề nằm ở chỗ Carl Gustaf Rehnskiöld đã giữ kín phương án tác chiến chứ không phổ biến cho người dưới quyền.Thế nên Carl Gustaf Roos không hề hiểu rằng mục tiêu chính của mình chỉ là cầm chân hỏa lực của các tiền đồn trong khi các cánh quân khác tìm cách vượt qua. Điều ông đáng lẽ phải làm khi bị đánh bật lại là rút lui rồi di chuyển đến điểm hẹn ở khu đất bằng phẳng phía sau các tiền đồn. Thay vào đó, ông chỉnh đốn hàng ngũ rồi tấn công đợt nữa. Bị đánh bật lần thứ hai, ông kiên quyết điều thêm quân để rồi 6 tiểu đoàn – 2.600 quân – của lực lượng bộ binh quý giá bị vướng vào chướng ngại vật không quan trọng này. Carl Gustaf Roos chỉ nhìn thấy mục đích duy nhất là chiếm lấy tiền đồn mà không hề biết những gì đang xảy ra với đoàn quân còn lại hoặc họ đang ở đâu. Vì thế, trong giai đoạn đầu của cuộc tấn công, ông đã phạm sai lầm căn bản. Khi giao tranh đang xảy ra quanh các tiền đồn, hai cánh kỵ binh Nga dưới quyền Menshikov bất thình lình xông ra từ các tiền đồn để đuổi đánh bộ binh Thụy Điển. Kỵ binh Thụy Điển tiến đến tiếp chiến, và 20.000 quân hai bên hỗn chiến giữa các tiền đồn Nga. Menshikov gửi tin khuyên Pyotr nên lập tức điều toàn quân ra ứng chiến dọc theo các tiền đồn. Pyotr vẫn còn e ngại sức mạnh của Thụy Điển và không mấy tin quân của Menshikov có thể chiến đấu giỏi đến thế, nên hai lần ra lệnh cho vị tướng cứng đầu của ông phải rút lui. Cuối cùng, Menshikov đành phải tuân hành, chuyển kỵ binh về hướng bắc, giao phần lớn cho Bauer về sườn bên phải của doanh trại Nga (Ronne đã bị thương), còn ông dẫn một cánh quân nhỏ hơn lui về sườn bên trái. Từ bên trong doanh trại, đại pháo Nga bắn ra tạo thành bức màn che chở kỵ binh Nga và ngăn chặn kỵ binh Thụy Điển đuổi theo. Cùng lúc, việc Rehnskiöld không thông báo kế hoạch tác chiến cho sĩ quan dưới quyền đang tạo nên hoang mang nơi khác. Sáu tiểu đoàn bộ binh bên cánh phải dưới quyền Lewenhaupt, có mục đích chỉ đi qua các tiền đồn để tụ họp với đại quân ở khu đất bằng phẳng, trở nên rối loạn vì màn khói và bụi mù do trận giao tranh kỵ binh tạo ra, cùng lúc hứng chịu hỏa lực từ các tiền đồn. Để bảo toàn lực lượng, Lewenhaupt di chuyển đội hình xa hơn về bên phải, tránh xa khỏi màn bụi khói và tầm bắn của Nga. Do việc di chuyển này, ông đã tạo ra một lỗ hổng lớn trong hàng ngũ Thụy Điển. Thật ra, vì không được thông báo và cũng không quan tâm đến mục đích tổng thể của Rehnskiöld, Lewenhaupt chỉ muốn dẫn quân của mình tiến về phía trước để giao chiến với đại quân của địch. Sau khi qua khỏi tiền đồn, ông dẫn quân đi xa về bên phải vì thấy địa hình bên này có vẻ bằng phẳng hơn. Với mỗi bước đi, ông và sáu tiểu đoàn càng đi xa khỏi đội hình chính. Lewenhaupt tiến thẳng đến doanh trại chính của Nga được bố phòng vững chãi. Lúc này cả doanh trại đã chuẩn bị sẵn sàng, và khi đội quân của Lewenhaupt tiến đến, đại pháo Nga bắn về phía họ. Nhưng Lewenhaupt, mãn nguyện vì được tác chiến độc lập, không hề sợ hãi mà xua 6 tiểu đoàn tấn công lên theo như sách vở chỉ dạy. Nhưng khi tiến đến tầm đạn súng nòng dài, ông thấy có một khe núi ngăn cản hướng tiến của mình. Không hề nhụt chí, ông điều động quân đi vòng quanh chướng ngại vật này, vẫn phấn khích chuẩn bị cầm đầu 2.400 người đánh vào 30.000 quân Nga. Trong lúc đó, bên trái của các tiền đồn và ở về phía xa, chủ lực quân của Thụy Điển chỉ có ba sư đoàn đã tiến theo kế hoạch ban đầu, vì do chính Rehnskiöld chỉ huy. Họ tiến nhanh qua các tiền đồn, hứng chịu tổn thất nhưng nhanh chóng tập họp lại ở khu đất bằng phẳng. Các sĩ quan đi với Rehnskiöld tỏ ra hồ hởi: mọi việc đều diễn ra như kế hoạch ban đầu. Không may là, khi Rehnskiöld nhìn quanh để tìm kiếm các cánh quân còn lại, ông không thấy ai cả. Mười hai tiểu đoàn – lực lượng dưới quyền Lewenhaupt và Roos – đã mất tích. Trong chốc lát, vị trí 6 tiểu đoàn của Lewenhaupt được tìm ra: xa về phía trước và ở bên phải, đã hứng chịu hỏa lực quá mạnh và phải đi vòng quanh khe núi ở góc tây-nam của doanh trại Nga. Rehnskiöld vội gửi liên lạc viên ra lệnh cho Lewenhaupt lập tức quay về hợp lực với đại quân. Khi nhận được lệnh, Lewenhaupt nổi giận nhưng đành phải bất mãn mà dẫn quân quay về. Bây giờ là 6 giờ sáng. Đối với Thụy Điển, họ có một khoảng thời gian yên ắng trong trận đánh. Đại quân – với Rehnskiöld, nhà vua, kỵ binh và một phần ba của bộ binh – đã di chuyển về hướng tây-bắc, ngang qua doanh trại Nga đến một vị trí đã định trước, để từ đây họ có thể tấn công hoặc doanh trại Nga hoặc điểm vượt sông ở Petrovka. Cộng thêm 6 tiểu đoàn của Lewenhaupt, Rehnskiöld có 12 trong số 18 tiểu đoàn bộ binh. Riêng 6 tiểu đoàn kia vẫn còn đang cố chiếm cho được tiền đồn thứ ba và thứ tư trong số 4 tiền đồn nằm thẳng góc. Ba lần Roos xua quân tấn công, ba lần quân của ông bị đánh bật lại. Cuối cùng, khi thương vong đã lên đến 40%, ông quyết định rút lui. Ông định gia nhập đại quân, nhưng không biết đại quân hiện đang ở đâu. Vì cần có thời gian để chỉnh đốn lại hàng ngũ, ông dẫn quân đi về khu rừng phía đông. Nhiều người bị thương cố bò lết để theo ông. Trong lúc ấy, Nga hoàng Pyotr Đại đế đang đứng quan sát trên bờ thành phía tây, thấy có một khoảng trống trải dài từ doanh trại của ông đến các tiền đồn đã kháng cự Roos. Lập tức, ông truyền lệnh cho Menshikov dẫn một lực lượng hùng hậu, tất cả gồm 6.000 binh sĩ, đi tìm Roos trong khu rừng, tấn công và tiêu diệt toán quân này. Lực lượng này cũng sẽ tiếp viện cho Poltava, mà con đường dẫn đến thị trấn này đã được bỏ ngỏ. Khi toán quân đầu tiên của Menshikov kéo tới, quân của Roos trông nhầm ra là quân Thụy Điển. Ngay trước khi họ nhận ra sự nhầm lẫn thì quân Nga đã đến sát bên. Dưới hỏa lực của Nga và bị Nga truy kích ráo riết bằng quân số áp đảo, Roos không còn cách nào khác hơn là đầu hàng. Trước khi trận Poltava nổ ra, 6 tiểu đoàn – một phần ba lực lượng bộ binh Thụy Điển – bị tiêu diệt mà không đạt được mục đích gì. Trách nhiệm về thảm họa này có thể quy cho Roos vì đã giằng co quá lâu với các tiền đồn, hoặc quy cho Rehnskiöld vì đã không tin cậy các sĩ quan dưới quyền mà thông báo cho họ đầy đủ chi tiết trước khi xuất quân. Nhưng lỗi lầm chính ở chỗ bộ óc của quân đội Thụy Điển không còn làm việc nữa. Cái đầu óc sáng suốt, trầm tĩnh và uy quyền mà mọi người Thụy Điển luôn tuân phục tuyệt đối đã không suy nghĩ được ở trận đánh Poltava. Ngay khi Rehnskiöld phát hiện lực lượng của Roos bị mất tích, ông gửi liên lạc viên đi trở lại để tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra. Liên lạc viên trở về báo cáo rằng Roos vẫn còn đang tấn công các tiền đồn đầu tiên và gặp khó khăn. Rehnskiöld vội phái 2 trung đoàn kỵ binh và 2 tiểu đoàn bộ binh để tăng viện cho Roos. Trong khi đó, đại quân Thụy Điển chỉ phải chờ đợi. Họ đang đứng trong tầm đạn pháo của Nga, cách góc tây bắc của doanh trại chính không đến 2 km, ở vị trí hoàn toàn trống trải. Điều không tránh khỏi là pháo của Nga hướng nòng súng về phía họ. Đạn pháo gây thương vong cho quân Thụy Điển, hai binh sĩ vệ binh đứng gần nhà vua bị tử thương, vài đội bộ binh rút về khu rừng hướng nam để tìm chỗ ẩn náu. Chính ở thời điểm này mà Lewenhaupt và những sĩ quan khác đều tiếc rẻ cho quyết định đã để phần lớn pháo lưu lại doanh trại. Bên Thụy Điển chỉ có 4 khẩu pháo để đáp lại 70 khẩu pháo bắn từ doanh trại chính của Nga. Rồi quân tăng viện cho Roos trở về báo cáo rằng không thể đánh xuyên qua lực lượng Nga đông hơn đang bao vậy Roos. Rehnskiöld giờ ở trong tình trạng càng lúc càng nguy hiểm. Trong hai tiếng đồng hồ, đại quân án binh bất động để chờ đợi hai sư đoàn bộ binh đi lang thang của Lewenhaupt và Roos đến điểm hẹn. Quân của Lewenhaupt đã đến, nhưng quân của Roos vẫn còn mất hút. Để lấp vào chỗ trống, Rehnskiöld phái liên lạc viên trở về đội quân Thụy Điển đang công hãm Poltava, ra lệnh cho quân trù bị đang bảo vệ xe hậu cần đến tăng viện ngay, mang theo đại pháo. Nhưng các liên lạc viên không thể đi đến nơi. Không có tăng viện cho bộ binh hoặc cho 4 khẩu pháo. Cuộc xáp chiến giữa hai đại quân Đã gần 9 giờ sáng, và Rehnskiöld phải đi đến quyết định. Đại quân không thể cứ đứng yên mãi ở đây, mà phải hành động. Ông ra lệnh rút lui. Lực lượng của ông quá yếu và rủi ro quá cao. Ông định kéo quân trở lại các tiền đồn Nga, tăng viện cho Roos để vượt qua các tiền đồn, rồi khi trở về điểm xuất phát hồi rạng sáng, ông sẽ triệu tập các tiểu đoàn đang canh gác xe goòng hậu cần và đang tuần tiễu dọc bờ sông phía dưới thị trấn. Lúc đó, với đại quân 24 tiểu đoàn thay vì 12 như bây giờ, ông có thể quyết định sẽ đánh Sa hoàng ở đâu. Nhưng khi binh sĩ của Rehnskiöld đang chuẩn bị giải tán đội hình chiến đấu mà sắp xếp hàng ngũ để di chuyển, một chuyện đáng kinh ngạc xảy ra: cả đoàn quân Nga dường như chuyển động. Các cổng đều mở toang, các cây cầu được hạ xuống, và bộ binh Nga tiến ra rồi lập đội hình để chiến đấu trước mặt doanh trại. Lần đầu tiên trong cuộc chiến, đại quân Nga đang chuẩn bị giao chiến với đại quân Thụy Điển với sự hiện diện của cả Sa hoàng Nga và vua Thụy Điển. Bên cánh phải quân Nga là Bauer chỉ huy 18 trung đoàn kỵ binh. Ở đầu cánh cung đối diện là Menshikov chỉ huy 6 trung đoàn kỵ binh. Ở giữa là các tiểu đoàn bộ binh dưới quyền của Sheremetev và Vương công Anikita Ivanovich Repnin. Tướng Bruce, tư lệnh pháo binh, đã bố trí một số khẩu pháo trên bức tường thành đất nện để bắn qua đầu quân Nga, một số khác ở phía trước bộ binh để chặn đón quân Thụy Điển bằng những loạt đạn bắn thẳng. Vị trí mới của quân Nga khiến cho Rehnskiöld bị thêm vấn đề tiến thoái lưỡng nan. Nếu ông cho họ di chuyển và nếu Nga hoàng Pyotr I tấn công, đây sẽ là cuộc tàn sát. Rehnskiöld nhanh chóng ngưng cuộc rút lui, một lần nữa ra lệnh bộ binh sắp xếp lại hàng ngũ để chuẩn bị giao tranh với quân Nga. Lúc 10 giờ sáng, quân Thụy Điển đã dàn lại thành đội hình chiến đấu. Kỵ binh Thụy Điển được đặt ở phía sau bộ binh, không phải ở hai cánh như kỵ binh của Pyotr. Bộ binh của Lewenhaupt giờ chỉ có 12 tiểu đoàn, chưa đến 5.000 quân. Đối diện ông là hai hàng bộ binh Nga tổng cộng có 24.000 quân với 70 khẩu pháo. Hy vọng duy nhất của Lewenhaupt là xuyên thủng phòng tuyến địch ở một điểm, tạo tình thế hoang mang rồi dồn lực lượng đông hơn dạt qua hai bên. Lúc này, mâu thuẫn giữa hai vị tư lệnh chính của Thụy Điển đến hồi chấm dứt. Rehnskiöld phi ngựa đến Lewenhaupt, người sẽ chỉ huy đợt tiến công gần như vô vọng. Cầm lấy tay vị tướng bộ binh, vị Thống chế nói: "Bá tước Lewenhaupt, ông phải xuất quân tấn công kẻ địch. Xin ông hãy đảm nhận danh dự phục vụ cho Chúa thượng." Lewenhaupt ra hiệu cho quân tiến công. Lực lượng nhỏ bé một cách thảm thương: 12 tiểu đoàn tiến thành một hàng mỏng, cố gắng dàn rộng đội hình nên tạo ra nhiều khoảng trống. Khi bộ binh Thụy Điển tiến đến, pháo Nga gia tăng cường độ, rót đạn xuống đội hình Thụy Điển, nhưng quân Thụy Điển vẫn tiến bước mà không bắn trả phát nào. Do lực lượng Vệ binh dẫn đầu, các tiểu đoàn cánh phải tiến đến tấn công hàng bộ binh đầu tiên của Nga bằng gươm và lưỡi lê. Họ đánh quân Nga trước mặt dạt ra, bắt được các khẩu pháo đã bắn vào họ khi họ tiến đến. Trong vòng ít phút, các khẩu pháo này quay nòng về phía quân Nga giờ bắt đầu thoái lui. Lúc này, sau khi đã đạt được mục tiêu đầu tiên và chọc thủng được một phần phòng tuyến của địch, Lewenhaupt nhìn quanh tìm kỵ binh đáng lẽ phải tiến nhanh để yểm trợ cho quân ông. Nhưng không thấy kỵ binh Thụy Điển nào cả. Thay vào đó, Lewenhaupt thấy các tiểu đoàn cánh trái đang bị khó khăn nghiêm trọng vì bị đại pháo của Nga hạ nòng bắn thẳng vào họ. Hỏa lực pháo hùng hậu đến nỗi hàng ngũ Thụy Điển bị bắn tan nát; trên phân nửa bị đốn ngã trước khi tiếp cận được bộ binh Nga. Giữa cánh trái đang khốn đốn và cánh phải đang dồn lên để là một khoảng hở. Và khi cánh phải Thụy Điển càng tiến lên, khoảng hở càng rộng ra. Pyotr cũng nhìn thấy những gì đang xảy ra, và phái một đội kỵ binh hùng hậu đánh vào khoảng trống này. Chiến trận xảy ra đúng như Pyotr đã hy vọng và Lewenhaupt đã e sợ. Không còn bị kỵ binh Thụy Điển ngăn trở, kỵ binh Nga đánh phủ lên bộ binh Thụy Điển ở cánh phải. Đà tiến công nhanh nhẹn của Thụy Điển thực ra giúp cho chiến thuật của Pyotr được thành công hơn: họ càng tiến sâu thì càng bị vây chặt hơn trong biển người của Nga. Kỵ binh Thụy Điển cuối cùng đã đến, nhưng không phải toàn bộ lực lượng của Rehnskiöld. Chỉ có 50 kỵ binh xuất trận vào giữa hàng ngũ bộ binh Nga, chẳng bao lâu đều bị trúng đạn, bị giáo đâm, hoặc bị kéo xuống khỏi yên ngựa. Bị tràn ngập và áp đảo, quân Thụy Điển cố rút lui, ban đầu với tính kỷ luật kiên cường, nhưng rồi khi hốt hoảng tràn lan, họ trở nên rối loạn. Sau khi hầu hết sĩ quan của ông bị thương vong, Lewenhaupt chạy tới lui giữa hàng quân đã rệu rã, cố kêu gọi binh sĩ trụ lại mà chiến đấu, nhưng chỉ hoài công. Trong suốt giai đoạn này của trận đánh, vóc người của Pyotr vươn cao hẳn giữa hàng quân của ông. Dù khổ người cao của ông tạo ra đích nhắm rõ ràng, ông không để ý gì đến hiểm nguy và luôn ra sức kêu gọi và động viên quân của ông. Việc ông không bị thương là điều đáng lấy làm ngạc nhiên, vì ông bị bắn ba lần trong trận đánh. Một viên đạn súng nòng dài bắn rơi chiếc mũ của ông, một viên đạn khác ghim vào yên ngựa, và viên thứ ba bắn trúng ngực ông nhưng chạm vào và dội ra từ một biểu tượng cổ bằng bạc mà ông mang trên sợi dây chuyền vòng quanh cổ. Cuộc tấn công của Thụy Điển đã tiêu tán, tuy vài đơn vị rời rạc còn tiếp tục giao chiến. Lực lượng Vệ binh Thụy Điển vẫn kiên cường như bao giờ, rồi ngã xuống nơi họ chiến đấu. Từng đại đội Thụy Điển bị bao vây rồi cùng ngã xuống khi quân Nga đổ xô đến, dùng giáo, gươm và lưỡi lê đâm chém và để họ nằm thành từng đống. Kỵ binh Thụy Điển ở đâu? Một lần nữa, có lẽ vì họ không còn ở dưới sự điều động trực tiếp của vị tư lệnh cũ, Rehnskiöld, giờ đang cố gắng chỉ huy toàn quân. Bên cánh phải, kỵ binh bị chậm trễ khi huy động và bộ binh của Lewenhaupt đã tiến công mà kỵ binh chưa sẵn sàng để tiến theo. Khi kỵ binh có thể tiến công thì họ bị trở ngại do địa hình khó khăn. Bên cánh trái, kỵ binh Thụy Điển được phái ngăn chặn kỵ binh Nga đang quy tụ ở phía bắc. Khi vài trung đoàn kỵ binh phi đến cứu nguy cho bộ binh, họ thấy rằng thay vì cứu quân bạn, họ cần phải tự cứu mình trước: chính họ cũng bị pháo Nga bắn tan tác. Và cuộc giao tranh tiếp diễn thêm nửa giờ đồng hồ như thế – vinh quang cho Nga hoàng Pyotr, thảm họa cho Quốc vương Karl XII. Phần lớn bộ binh Thụy Điển xông vào đội hình của Nga đều bị hạ gục. Rehnskiöld nhìn thấy tất cả những gì đang xảy ra, thét lên với Bá tước Carl Piper: "Mất hết cả rồi!" Rồi ông xông vào giữa trận tuyến, và chẳng bao lâu bị bắt làm tù binh. Chính vua Karl XII cũng ở giữa trận chiến. Nhà vua cố gắng lớn tiếng hô hào động viên binh sĩ đang bấn loạn, nhưng không ai để ý nghe ông. Trong số 24 người được cắt cử khiêng cáng cho nhà vua, 21 người bị đốn ngã, riêng chiếc cáng bị rách xác xơ. Trong một khoảnh khắc, không có người khiêng cáng, có vẻ như nhà vua sẽ bị bắt. Thế rồi, một sĩ quan xuống ngựa và nâng Karl XII ngồi lên yên. Bông băng trên vết thương ông bị sút, máu rỉ ra. Con ngựa ông đang cưỡi bị bắn, và ông được đưa lên một con ngựa khác. Nhà vua bám lấy cổ ngựa, phi trở lại hàng quân Thụy Điển với vết thương chảy máu ròng ròng. Ông hỏi Lewenhaupt: "Bây giờ chúng ta phải làm gì?" Vị tướng trả lời: "Không còn làm được gì ngoại trừ thu thập tàn quân lại." Dưới sự che chở của kỵ binh lúc này vẫn còn khá nguyên vẹn, ông điều động những bộ binh rút về phía nam qua các tiền đồn Nga đến doanh trại ở Pushkarivka lúc đó tạm thời vẫn còn an toàn. Khi đoàn quân rút lui, các trung đoàn dự bị, pháo binh cũng như quân Cossack được bố trí phòng ngự chung quanh doanh trại để chống lại sự truy kích của quân Nga. Vào lúc giữa trưa, phần lớn tàn quân đã về đến và có thể nghỉ ngơi. Về hướng bắc, chiến địa đã trở nên yên ắng. Sa hoàng Pyotr vui sướng cử hành lễ tạ ơn trên bãi chiến trường. Trận Poltava đã kết thúc. Bắt đầu trận đánh với 19.000 người, quân Thụy Điển bị tổn thất 10.000, gồm 6.901 tử trận và bị thương, 2.760 bị bắt làm tù binh. Trong số sĩ quan, 300 tử trận và 260 bị bắt; số bị bắt gồm cả viên Thống chế Rehnskiöld, một Vương công Max xứ Württemberg, bốn trung tướng và năm đại tá. Bá tước Piper đi bên nhà vua suốt ngày, cuối cùng bị lẫn lộn trong đám người hỗn loạn, lang thang trên bãi chiến trường cùng với hai thư ký và cuối cùng đi đến cổng thành Poltava để đầu hàng. Tổn thất bên Nga tương đối nhẹ – không phải là điều đáng ngạc nhiên vì phần lớn họ chiến đấu từ vị trí phòng ngự trong khi pháo của họ gầm rú trên đầu địch quân. Trong tổng số 42.000 quân, 1.345 chết và 3.290 bị thương. Số thương vong và kết quả đều đảo ngược tất cả các trận đánh trước đó giữa Pyotr và Karl XII. Pyotr I ăn mừng Khi Quân đội Thụy Điển rút về Pushkarivka, Quân đội Nga không đuổi theo. Đỉnh điểm của trận đánh là khi hai bên giáp lá cà, vì thế lúc chấm dứt hàng ngũ hai bên đều bị xáo trộn. Không hoàn toàn tin là mình đã chiến thắng, bên Nga muốn cẩn trọng. Tuy nhiên, quan trọng hơn, là vua Pyotr I Đại Đế muốn tổ chức ăn mừng. Sau nhiều lần nâng cốc, ông cho triệu các tướng lĩnh và đại tá Thụy Điển bị bắt và mời họ ngồi quanh mình. Đây là thời khắc tuyệt vời trong đời của Nga hoàng Pyotr I Đại Đế. Chín năm gian khổ và âu lo đã qua, và nỗi tuyệt vọng khi nhìn đối thủ liên tục tiến công đã hết. Tuy thế, trong sự phấn khích, Pyotr Đại Đế không tỏ ra hống hách. Ông có thái độ ý tứ, ngay cả tử tế, đối với tù binh, đặc biệt là Rehnskiöld. Khi Bá tước Piper bị giải đến, ông này cũng được mời ngồi kế Sa hoàng. Nga hoàng Pyotr I luôn nhìn ra chung quanh, chờ đợi bất kỳ lúc nào đó nhà vua Thụy Điển cũng sẽ bị giải vào. Ông hỏi đi hỏi lại: "Vua Karl XII đâu rồi vậy khanh?" Với vẻ tôn trọng, ông hỏi Rehnskiöld làm thế nào ông này dám dẫn một dúm quân như thế để xâm lăng một đất nước bao la. Vị tướng trả lời rằng nhà vua đã ra lệnh như thế, và nhiệm vụ đầu tiên của một thuộc hạ trung thành là phải tuân thủ quân vương của mình. Pyotr Đại Đế nói: "Ái khanh là người trung thực, và vì sự trung thành của ái khanh, Trẫm xin trả lại thanh gươm cho ái khanh." Rồi khi đại bác trên trường thành bắn thêm một loạt đạn chào mừng, Pyotr đứng dậy, cầm ly rượu và đề nghị chúc mừng những vị thầy của mình trong nghệ thuật chiến tranh. Rehnskiöld hỏi: "Muôn tâu Hoàng thượng, thầy của Ngài là những ai?" Pyotr đáp: "Chính là các khanh đấy." Vị Thống chế châm biếm: "Thế thì, các học trò nên cảm ơn thầy của họ." Nga hoàng Pyotr I Đại Đế vẫn nói chuyện một cách khích động với các tù binh của ông và ăn mừng chiến thắng cho đến 5 giờ chiều, rồi có người mới nghĩ đến việc truy kích quân Thụy Điển. Lúc ấy, Sa hoàng ra lệnh cho Vương công Mikhail Mikhailovich Golitsyn dẫn lực lượng Cảnh vệ và Tướng Bauer dẫn kỵ binh đuổi theo vua Karl XII về phía nam. Sáng hôm sau, Menshikov dẫn thêm kỵ binh tham gia cuộc truy kích. Tiếp tục truy kích Với sự truy kích của quân Nga, Lewenhaupt mang 14.288 người và 34 khẩu pháo ra đầu hàng mà không chống cự gì cả. Rồi quân Nga tiếp tục truy kích đường rút lui của Karl XII lúc ấy đang cố tẩu thoát qua Đế quốc Ottoman - Thổ Nhĩ Kỳ. Thêm một trận tàn sát, để rồi cuối cùng Karl XII chỉ còn có 600 quân khi đi vào Đế quốc Ottoman. Nga hoàng Pyotr Đại Đế gọi đây là một "chiến thắng hoàn hảo". Tác động của trận Poltava Thế là, chỉ trong một buổi sáng, trận chiến Poltava đã chấm dứt cuộc xâm lăng của Quân đội Thụy Điển vào đất Nga và vĩnh viễn thay đổi cục diện chính trị châu Âu. Trước ngày này, chính khách ở mỗi quốc gia đều trông chờ đón nhận tin vua Karl XII chiến thắng thêm một lần nữa, và Quân đội Thụy Điển tiến vào Moscow, Sa hoàng Pyotr I được thay thế và có lẽ đã bị giết trong cuộc chiến. Một Sa hoàng mới sẽ được tấn phong và trở nên bù nhìn giống như Stanisław Leszczyński. Đế quốc Thụy Điển, vốn đã là quốc gia hùng mạnh nhất của phương Bắc, sẽ trở thành kẻ thống trị toàn bộ phương Bắc, nắm quyền phán xử mọi việc vùng Bắc và Đông Âu. Nước Nga sẽ bị thu nhỏ lại vì người Thụy Điển, Ba Lan, Cossack, và có lẽ cả người Thổ Nhĩ Kỳ, Tatar và Trung Quốc chia nhau xâu xé những phần đất béo bở. Kinh thành Sankt-Peterburg sẽ bị xóa khỏi bản đồ, bờ Biển Baltic sẽ bị phong tỏa, và người dân Nga vừa được vua Pyotr I khai sáng sẽ bị chặn lại trên đường cải tổ, bị đưa trở lại vào bóng tối của nước Nga thời xa xưa. Trận chiến tại Poltava là tiếng sấm đầu tiên báo hiệu với thế giới rằng một nước Nga mới đã được khai sinh. Trong những năm về sau, các chính khách Tây Âu – vốn chỉ để tâm đến những sự vụ của Sa hoàng hơn một chút so với Hoàng đế Ba Tư hoặc Hoàng đế Ấn Độ – biết rằng phải cân nhắc cẩn thận sức mạnh và quyền lợi của nước Nga. Cán cân quyền lực mới – được thiết lập trong buổi sáng này do Quân đội Nga dưới quyền Tư lệnh chiến trường của Sa hoàng Pyotr I – sẽ được tiếp nối và phát triển suốt các thế kỷ 18, 19 và 20. Sau chiến thắng huy hoàng tại Poltava, ông tiếp tục tiến hành chinh phạt các tỉnh vùng Baltic của Đế quốc Thụy Điển, nhưng bị gián đoạn do Đế quốc Ottoman tuyên chiến với nước Nga, ông thân chinh phạt Ottoman và bị đánh bại trong trận Pruth, nhưng sớm chấm dứt chiến tranh với Đế quốc Ottoman. Đến năm 1721, cuộc Đại chiến Bắc Âu chấm dứt, Sa hoàng Pyotr I lên ngôi Hoàng đế, chuyển nước Nga thành một Đế quốc hùng cường. Và, những năm tháng huy hoàng của vua Karl XII cũng kết thúc với trận đánh tại Poltava. Với cuộc chinh phạt của ông thất bại, ông đã đi vào lịch sử như một ông vua liều lĩnh. Vào năm 1709, sau khi Quân đội Thụy Điển chiến bại thảm hại tại Poltava, vua Đan Mạch là Frederick IV cùng với Tuyển hầu tước xứ Sachsen là August II mới lợi dụng thời cơ mà động binh xâm lược Thụy Điển. Liên quân Sachsen - Đan Mạch bị đánh bại trong trận Gadebusch (1712), nhưng giành chiến thắng trong trận Tonning (1713), mở đường cho liên quân chống Thụy Điển tiến hành cuộc vây hãm Stralsund (1713). Trận Poltava, trận đánh lớn nhất giữa quân Nga và quân Thụy Điển trong cuộc Đại chiến Bắc Âu, cũng được coi là một chiến thắng hoàn hảo của Quân đội Nga trong cuộc triển lãm đã được khai mạc tại Viện Bảo tàng Hermitage ở thành phố Sankt-Peterburg, để kỷ niệm 300 năm ngày Nga hoàng Pyotr Đại Đế thắng trận tại Poltava - một sự kiện trọng đại trong suốt bề dày lịch sử nước Nga. Trong cuộc phỏng vấn do đài "Tiếng nói nước Nga" thực hiện, cán bộ điều phối cuộc triển lãm là ông Sergei Plotnikov cho biết: Trong cuộc triển lãm này, người ta đã trưng bày cái yên ngựa của vua Karl XII, bị để quên trong đại bản doanh của Quân đội Thụy Điển khi ông rút quân. Mũ mão và yên ngựa của Nga hoàng Pyotr Đại Đế cũng nếm phải đạn của Quân đội Thụy Điển. Ông Sergei Plotnikov cũng giải thích về di sản của chiến thắng tại Poltava (1709): Chú thích
Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha (1701–1714) là một cuộc xung đột chính trị quân sự ở châu Âu đầu thế kỉ XVIII, được kích nổ bởi cái chết của vị vua cuối cùng của vương triều Habsburg ở Tây Ban Nha, một người ốm yếu và không thể có con, Carlos II. Ông đã cai trị một đế quốc rộng khắp toàn cầu, và câu hỏi ai sẽ là người kế vị đã gây ra sự tranh chấp giữa các cường quốc châu Âu. Những nỗ lực để giải quyết vấn đề đi đến thỏa thuận phân chia đế chế giữa ba ứng viên đủ điều kiện kế vị đến từ nước Pháp (Bourbon), Áo (Habsburg), và Bayern (Wittelsbach) nhưng cuối cùng thất bại, trên giường bệnh Carlos II trao quyền kế vị vương quốc của ông cho Philippe, Công tước xứ Anjou, cháu trai thứ hai của đức vua Louis XIV của Pháp. Nếu như Philippe chiếm được Tây Ban Nha, Louis XIV sẽ kiểm soát một vùng đất rất rộng lớn và chiếm nhiều ưu thế ở châu Âu, nhưng một số chính trị gia coi việc thống trị của dòng họ Bourbon là mối đe dọa cho thế cân bằng quyền lực. Louis XIV có mọi điều kiện tốt để chấp nhận cháu trai của ông lên ngôi vua Tây Ban Nha, nhưng sau đó ông đã có những hành động bất ngờ và gây tranh cãi: ông gửi quân đến Hà Lan thuộc Tây Ban Nha (là vùng đệm giữa Pháp với Cộng hòa Hà Lan); ông tìm cách thống trị thương mại ở các thuộc địa của Tây Ban Nha ở châu Mỹ cạnh tranh với các thương nhân Anh và Hà Lan, ông từ chối loại bỏ Philippe khỏi danh sách kế vị ở Pháp, gây ra nguy cơ về sự hợp nhất hai vương quốc Pháp-Tây Ban Nha dưới một vương triều quyền lực duy nhất trong tương lai gần. Để chống lại âm mưu của Louis XIV, Anh, Cộng hòa Hà Lan, và Áo – cùng với các đồng minh của họ trong Thánh chế La Mã đã tái lập Đại Liên minh (1701) và ủng hộ quyền kế vị Leopold I trên vương miện Tây Ban Nha sẽ chuyển cho hoàng tử thứ hai của ông, Đại Công tước Karl. Bằng cách ủng hộ ứng viên nhà Habsburg (những người ủng hộ gọi ông ta là vua Carlos III của Tây Ban Nha), mỗi thành viên trong liên minh đều hi vọng làm giảm thế lực của Pháp, bảo đảm an toàn và lãnh thổ và vương triều của mình, và khôi phục cũng như cải thiện những lợi ích thương mại mà họ có được như thời Carlos II. Phía Áo, cùng đồng minh là Hà Lan và Anh bắt đầu tuyên chiến tháng 5 năm 1702. Năm 1708, Công tước Marlborough và Hoàng thân Eugene xứ Savoy đã giành chiến thắng trong cuộc chiến tại Hà Lan thuộc Tây Ban Nha và Ý, sau đó tấn công đồng minh của Louis XIV tại Bavaria. Pháp đối mặt với cuộc xâm lược, nhưng liên minh khi đó bắt đầu rạn nứt. Với việc Đại Liên minh tấn công Tây Ban Nha, những thương vong và chiến phí ngày càng tăng do nó gây ra là tiền đề cho sự chia sẻ. Đảng Bảo thủ lên nắm quyền ở Liên hiệp Anh từ 1710 và tìm cách chấm dứt cuộc chiến. Các quan đầu triều ở Anh và Pháp chuẩn bị cho một hội nghị hòa bình năm 1712 và Anh ngừng các hoạt động quân sự. Hà Lan, Áo và các vương hầu người Đức vẫn chiến đấu để chiếm ưu thế trên bàn đàm phán, nhưng họ bị đánh bại bởi Nguyên soái Villars và bị buộc phải chấp nhận hòa giải giữa Anh và Pháp. Với Hiệp ước Utrecht (1713) và Hiệp ước Rastatt (1714), Đế quốc Tây Ban Nha được phân chia giữa các nước lớn và nước nhỏ. Người Áo nhận nhiều lãnh địa của Tây Ban Nha ở châu Âu, nhưng Công tước xứ Anjou vẫn thống trị bán đảo Tây Ban Nha và các thuộc địa ở châu Mỹ, sau khi từ bỏ quyền kế vị ngôi vua ở Pháp, ông cai trị Tây Ban Nha với vương hiệu Felipe V (Felipe V). Thế cân bằng quyền lực ở châu Âu vẫn được đảm bảo. Hoàn cảnh Cuối những năm 1690, việc sức khỏe nhà vua Carlos II của Tây Ban Nha ngày càng suy nhược đã tạo ra vấn đề to về việc ai sẽ kế nghiệm ông, một vấn đề mà nhiều chính khách châu Âu đã che giấu nó trong nhiều thập niên. Vào cuối thế kỉ XVII Tây Ban Nha đã không còn là bá chủ châu Âu, nhưng Đế quốc Tây Ban Nha – về cơ bản vẫn là một liên minh rộng lớn khắp toàn cầu, mà người Tây Ban Nha thường gọi đó là 'nền quân chủ' – vẫn còn sức bật dậy. Bên ngoài Tây Ban Nha, những lãnh địa khác của Carlos II tại châu Âu có thể kể đến như Đảo Balearic, Hà Lan thuộc Tây Ban Nha, Milan, Sicilia, Napoli, Sardinia, Finale và bang Presidi trên bờ biển Tuscan; lãnh địa hải ngoại bao gồm Philippines, Tây Ấn thuộc Tây Ban Nha, Florida, phần lớn Bắc và Nam Mỹ cùng nhiều thành thị ở Bắc Phi. Đế quốc tuy đã suy yếu, nhưng vẫn là đế quốc có nhiều lãnh địa hải ngoại nhất ở châu Âu, và những hành động của nó vẫn ảnh hưởng lớn đến vũ đài chính trị ở châu Âu và cả thế giới. Carlos II trở thành vua sau cái chết của phụ thân ông ta, Felipe IV, năm 1665, nhưng sức khỏe của ông không được tốt và không thể có con; ông là thành viên cuối cùng của Habsburg ở Tây Ban Nha và ông đã sống lâu hơn nhiều so với dự đoán của một số người. Khi Hiệp ước Ryswick (Rijswijk) kết thúc Chiến tranh Chín năm (1688–97), các chính trị gia ở châu Âu hướng sự chú ý của họ về vấn đề kế vị Tây Ban Nha bởi trước cái chết của Carlos II trong tương lai. Cuối cùng, những ứng viên có tư cách kế vị là con cháu đến từ dòng họ Bourbon của vua Louis XIV của Pháp, và nhà Habsburg ở Áo và Thánh chế La Mã, Leopold I, tất cả họ đều là con rể của vua Felipe IV của Tây Ban Nha và cháu của Felipe III, và cả hai bên đều vững tin về khả năng nối ngôi của họ. Tuy nhiên, nếu họ kế vị thì thế cân bằng quyền lực ở châu Âu sẽ nghiêng hẳn về phía Pháp, hoặc Áo, do đó các mối nguy cơ về một thế lực khác sẽ làm bá chủ là vấn đề quan tâm chung của các cường quốc khắp châu Âu. Các yêu sách đối đầu Không giống như ngai vàng Pháp, ngai vàng Tây Ban Nha có thể cho tất cả con cháu đều có quyền kế vị, mặc dù dòng nữ vẫn phải đứng sau dòng nam. Những người tiếp theo trong danh kế kế vị Carlos II, vì thế là hai người chị của ông: María Teresa, Trưởng Vương nữ, và Margarita Teresa, Thứ Vương nữ. María đã kết hôn với vua Louis XIV năm 1660 và có một người con với ông, Louis, Thái tử Pháp. Đáng lý ra thì thái tử là người nối ngôi đương nhiên, nhưng María đã tuyên bố bỏ quyền kế vị để đổi lấy một khoản tiền hồi môn là nửa triệu lạng vàng. Trong chúc thư của cha bà , Felipe IV, đã nhắc lại sự việc này và công bố rằng quyền kế vị của cả vương quốc Tây Ban Nha sau Carlos sẽ là con gái nhỏ của ông, Margarita. Tuy nhiên, người Pháp, lấy một phần lý do là của hồi môn không bao giờ được trả, vì thế sự từ bỏ của Maria không được chấp nhận. Cũng không rõ liệu vương nữ María có bỏ luôn quyền kế vị dành cho những đứa trẻ của bà chào đời sau này hay không. Leopold I kết hôn với Margarita Teresa năm 1666. Khi bà chết năm 1673 đã để lại một người thừa kế, Maria Antonia, người mà năm 1685 đã kết hôn với Max Emanuel, Tuyển hầu Bavaria. Không lâu trước khi chết vào năm 1692, bà ta hạ sinh một cậu bé, Joseph Ferdinand. Khi kết hôn, Maria đồng ý từ bỏ quyền kế vị ngôi vua Tây Ban Nha cho những người con thứ của Leopold I với đệ tam hoàng hậu: người anh là Đại Công tước Joseph (sinh 1678), về sau nối ngôi Leopold trên cương vị hoàng đế và nhà cai trị của các lãnh địa của nhà Hasburg thuộc Áo, và người em là Đại Công tước Karl (sinh. 1685), người mà Leopold I coi như ứng viên kế vị ngôi vua Tây Ban Nha. Tuy nhiên, sự từ bỏ của Maria Antonia bị nghi ngờ và không được công nhận ở Tây Ban Nha, thay vào đó, Hội đồng quốc gia ủng hộ ứng viên Joseph Ferdinand – cháu cố của Felipe IV – sẽ kế thừa toàn bộ đế chế. Quyền kế vị của hoàng tử Bavaria cũng nhận được sự ủng hộ của các cường quốc hàng hải (Anh và Cộng hòa Hà Lan) mặc dù họ từng đảm bảo với Leopold I về vấn đề kế vị Tây Ban Nha trong liên minh năm 1689, công nahanj rằng Nhà Wittelsbach không phải là mối đe dọa đối với thế cân bằng quyền lực ở châu Âu. Nếu được chọn, Louis XIV có thể đã can thiệp vào Tây Ban Nha bằng vũ lực, tuy nhiên Chiến tranh Chín năm đã khiến cho quốc khố của Pháp kiệt quệ. Hơn thế nữa, cuộc chiến tranh với người Ottoman của Leopold I tại Balkans đã sắp kết thúc thắng lợi, và Hoàng đế sẽ sớm chuyển sự quan tâm của ông ta về phía tây và củng cố tư cách kế vị ở Tây Ban Nha. Để tìm kiếm một giải pháp thỏa đáng và cũng là tìm sự hỗ trợ, Louis XIV dàn hòa với đối thủ lâu năm của ông ta, William xứ Orange, người hiện là Thống đốc Hà Lan và Vua của Anh (vương hiệu William III). Anh và Cộng hòa Hà Lan cũng có những lợi ích thương mại, chiến lược và lợi ích chính trị của họ trong đế quốc Tây Ban Nha, và họ đều mong muốn lập lại hòa bình. Tuy nhiên, các cường quốc ven biển này đang suy yếu và thế lực của họ cũng bị suy giảm vào thời điểm kết thúc của Chiến tranh Chín năm. Louis XIV và William III, do đó, tìm cách giải quyết vấn đề ở Tây Ban Nha thông qua thương lượng, dựa trên những nghị định phân chia (lúc đầu đều không thông qua triều đình Tây Ban Nha và Áo) có hiệu lực sau khi Carlos II chết. Các thỏa thuận phân chia Hiệp ước phân chia lần thứ nhất, được ký kết giữa Công tước Tallard và Bá tước Portland ngày 26 tháng 9 năm 1698 và được phê chuẩn ngày 11 tháng 10, theo đó các vùng Naples và Sicily, cảng Tuscan, Finale, và Basque thuộc tỉnh Gipuzkoa, được trao cho thái tử Pháp; con trai thứ hai của Leopold I, Đại Công tước Karl, sẽ nhận Lãnh địa Công tước Milan và các vùng phụ cận. Tuy nhiên, hầu hết lãnh thổ đế chế - bao gồm bán đảo Tây Ban Nha, Hà Lan thuộc Tây Ban Nha, Sardinia, và các lãnh thổ hải ngoại – sẽ được trao cho hoàng tử Bavaria, Joseph Ferdinand. Nếu Joseph lên ngôi, ngai vàng Tây Ban Nha vẫn được độc lập khỏi các thế lực của Pháp và Áo, nhưng cậu ta lại qua đời vào tháng 2 năm 1699 đã dẫn đến hiệp ước phân chia thứ hai, được ký kết giữ William III và Tallard ngày 11 tháng 6, sau đó được phê chuẩn bởi Quốc hội Hà Lan ngày 25 tháng 3 năm 1700. Đế quốc Tây Ban Nha lúc này sẽ được phân chia giữa ba ứng viên còn sống. Theo hiệp ước mới, Đại Công tước Karl sẽ nhận được phần lớn Tây Ban Nha, Hà Lan thuộc Tây Ban Nha, Sardinia, và các lãnh thổ hải ngoại. Thái tử Pháp sẽ nhận Gipuzkoa, và phần còn lại thuộc Tây Ban Nha trên bán đảo Italia, nhưng Milan sẽ được trao đổi với Lãnh địa công tước Lorraine, những vùng này sẽ được nhập vào nước Pháp. Đối với Leopold I, việc chiếm được Tây Ban Nha và hệ thống thuộc địa của nó không thể sánh được với việc giành quyền kiểm soát bán đảo Ý, đặc biệt là Milan, vùng đất mà ông coi là lá chắn cần thiết cho sườn tây nam Áo quốc. Mặc dù Leopold I và các quan đầu triều của ông ta có thể chấp nhận một ố điều trong nghị định, họ lại không đồng ý từ bỏ Italy. Leopold I, vì thế, phản đối Hiệp ước phân chia thứ hai. Đây là những vùng gắn liền với vương triều Habsburg, nhưng giờ đây nếu chống lại sự phân chia lãnh thổ Tây Ban Nha, Hoàng đế cũng hi vọng sẽ tạo được ấn tượng tốt đối với thần dân Madrid, nơi mà ý tưởng phân chia làm người dân ở đây kinh ngạc và tức giận. Trong suy nghĩ của các quan đại thần Tây Ban Nha, việc bảo vệ đế chế được nguyên vẹn không chia cắt và phải có một ông vua đủ mạnh để đảm bảo sự toàn vẹn đó là rất cần thiết. Việc đảm bảo đế quốc Tây Ban Nha thống nhất dưới thời vị vua kế nhiệm là mục tiêu chính trong những năm cuối đời Carlos II, nhưng các quý tộc, dẫn đầu là Hồng y Portocarrero, biết được rằng quân sự đất nước họ nhờ nhiều vào ân huệ của Pháp và Áo, thiếu lực lượng hải quân, có thể không có hi vọng để hiện thực hóa ước muốn đó. Do đó, Carlos II, đang nằm trên giường bệnh, cùng với các quan, đã ký vào bản di chúc cuối cùng ngày 3 tháng 10 năm 1700, khôi phục quyền kế vị cho Maria Theresa và trao toàn bộ đế quốc cho cháu của Louis XIV, Philippe, Công tước xứ Anjou. Vì Philippe không phải là người đứng đầu danh sách kế vị ở Pháp (sau thái tử và Công tước Burgundy), chính phủ Tây Ban Nha hi vọng rằng thỏa thuận này sẽ đạt được sự đồng thuận của các cường quốc châu Âu, vốn lo sợ về sự thống nhất giữa Pháp-Tây Ban Nha với một ngai vàng duy nhất. Nếu Philippe qua đời hoặc từ chối, ngai vàng sẽ trao cho hoàng đệ của ông ta, Công tước Berry; nếu tất cả họ từ chối, quyền kế vị sẽ thuộc về Đại Công tước Charles. Vua Carlos II của Tây Ban Nha chết ngày 1 tháng 11 năm 1700. Louis XIV lúc này đối mặt với tình thế khó xử mà bản thân ông thừa nhận là khó xử. Nếu ông cấm Công tước xứ Anjou chấp nhận ngai vàng Tây Ban Nha và thay vì tôn trọng Hiệp ước phân vùng thứ hai – mà Leopold I đã từ chối công nhận – thì Đại Công tước Charles chắc chắn sẽ là nhà vua Tây Ban Nha và tất cả các thuộc địa, theo chúc thư cuối cùng của Carlos II. Nhà Habsburg sẽ tạo dựng được một sức mạnh rất lớn trong khi Pháp chẳng được gì, và chiến tranh với Tây Ban Nha và Áo là không thể tránh khỏi. Còn chấp nhận chúc thư của Carlos II cũng có nghĩa là chiến tranh với Leopold I, nhưng trong trường hợp như vậy Pháp sẽ có sự ủng hộ của Tây Ban Nha và dòng họ Bourbon sẽ nối đời cai trị vương qốc này. Trong bất kì trường hợp nào nhà vua cũng cho rằng Các cường quốc hàng hải vẫn lo lắng cho hòa binh, và họ sẽ đứng trung lập hoặc tham gia hờ hững, miễn là Pháp và Tây Ban Nha không thống nhất là được. Với lý do như vậy, Louis XIV quyết định chấp nhận ý muốn cuối cùng của Carlos II, và gửi hoàng tôn đến Madrid để lên ngôi trở thành Felipe V của Tây Ban Nha. Khởi đầu Tin tức Louis XIV chấp nhận chúc thư của Carlos II và Hiệp ước phân chia thứ hai mất hiệu lực đã gây ra nỗi lo lớn cho William III, ông cho rằng Felipe V chẳng là cái gì khác hơn một con rối của vua Pháp. Tuy nhiên, ở Anh nhiều ý kiến cho rằng việc chấp nhận các ý muốn của Carlos II sẽ tốt hơn là cái hiệp ước mà trước mắt Pháp sẽ mở rộng lãnh thổ của mình, bao gồm cả việc sáp nhập Napoli và Sicily vào vương quốc Pháp sẽ tạo ra mối đe dọa cho con đường thương mại Levantine của Anh quốc. Sau khi kết thúc Chiến tranh Chín năm, Đảng Bảo thủ - đã kiểm soát Viện thứ dân - tìm cách cuộc chiến và khôi phục các hoạt động thương mai bình thương. Tuy nhiên, đối với William III thì thế lực của Pháp sẽ tăng lên và chiến tranh là khó tránh, và cùng với Anthonie Heinsius, Grand Pensionary của Hà Lan người trên thực tế nắm quyền điều hành nước Hà Lan, ông, đã chuẩn bị để tìm kiếm sự hỗ trợ. William III được cảm thông bởi những hành động của Louis XIV sau đó. Hành động đầu tiên của Louis XIV là chính thức tái công nhận vị trí của Philippe trong danh sách kế vị ở Pháp, bằng cách tuyên bố về quyền thiêng liêng của các vị vua. Điều này dẫn đến một viễn cảnh liên minh cá nhân Pháp-Tây Ban Nha dưới một ngai vàng duy nhất, mâu thuẫn với chúc thư của Carlos II. Tiếp đó, đầu tháng 2 năm 1701 Louis XIV đưa quân đến để bảo đảm quyền kế vị của nhà Bourbon ở Hà Lan thuộc Tây Ban Nha và gửi lực lượng Pháp đến 'Pháo đài' ở Hà Lan mà William III đã giành được sau Hòa ước Ryswick. Đất Hà Lan thuộc Tây Ban Nha có vị trí chiến lược quan trọng đối với người Hà Lan khi đó là vùng đệm giữa Pháp và nền Cộng hòa. Nhưng sự xâm lược của người Pháp cũng đã gây phương hại đến lợi ích thương mại của Hà Lan – những hạn chế đó đến thời điểm này đã đảm bảo vị trí của Cộng hòa ở các vịnh và cửa biển ở những vùng ven biển châu Âu. Phía Anh cũng có những lợi ích của họ ở Hà Lan thuộc Tây Ban Nha, và các bộ trưởng đã công nhận mối nguy hiểm đến từ một kẻ thù ở phía đông eo biển Dover lợi dụng gió thuận lợi và thủy triều, sẽ đe dọa đến Đảo Anh. Sự dời quân của người Pháp đã gây ra áp lực đối với Các cường quốc hàng hải nếu họ công nhận Philip là vua của Tây Ban Nha – điều mà họ đã làm từ trước – nhưng theo quan điểm của William III, việc này sẽ đảo lộn hết các chính sách trong vòng 20 năm trở lại đây. Louis XIV tiếp tục làm mất lòng Các cường quốc hàng hải khi đề nghị phía Tây Ban Nha cấp ưu đãi đặc biệt cho những thương nhân Pháp buôn bán trong đế chế, từ đó ép chẹt các lái buôn Anh và Hà Lan. Đối với nhiều người, Louis XIV đã một lần nữa đóng vai trò trọng tài ở châu Âu, và ủng hộ một chính sách chiến tranh đang đến gần. Mặc dù tham vọng và động cơ của nhà vua nước Pháp là gì không ai biết rõ, Chính phủ Anh coi như những hành động của Louis XIV là nhằm mở rộng lãnh thổ của ông ta và tìm cách thống trị Tây Ban Nha. Với mối đe dọa từ một thế lực mới sẽ thống trị châu Âu và thương mại ở hải ngoại, London lúc này đã sẵn sàng ủng hộ những cố gắng của William III là liên minh với Hoàng đế và Quốc hội Hà Lan, và bảo vệ quyền Tự do ở châu Âu, tài sản và Hòa bình ở Anh, và để hạn chế quyền lực quá đáng của người Pháp.' Leopold I đòi Milan Ngay từ đầu Leopold I đã bác bỏ bản chúc thư của Carlos II: ông nhất quyết không từ bỏ các lãnh địa Tây Ban Nha ở Ý, nhất là Công quốc Milan vốn được xem là trọng điểm an ninh ở miền nam nước Áo. Trước khi mở đầu cuộc chiến, phía Milan đã đứng về phe Pháp khi phó vương nơi này công nhận Felipe V; và láng giềng của nó là Công quốc Mantua cũng làm như vậy với một thỏa thuận bí mật vào tháng 2, 1701. Cộng hòa Venice, Cộng hòa Genoa, Đại công quốc Toscana, và Công quốc Parma (dưới quyền của Giáo hoàng), đứng trung lập. Ở xa hơn về phía nam, Vương quốc Naples thừa nhận Felipe V là Vua của Tây Ban Nha, cũng như Giáo hoàng Clement XI do khuynh hướng thân Pháp của các Hồng y dưới quyền ông, nên ông đứng trung lập và có phần nghiêng về người Pháp. Chỉ có Modena và Guastalla – những nơi trục xuất quân đội Pháp vào đầu chiến dịch – là ủng hộ hoàng đế. Nhà lãnh đạo có ảnh hưởng nhất ở miền bắc Italy là Victor Amadeus II, Công tước Savoy, người cũng có khả năng tuyên bố kế vị Tây Ban Nha thông qua bà cố của ông, con gái vua Felipe II của Tây Ban Nha. Cũng như Hoàng đế, Công tước mưu đồ sở hữu Công quốc Milan láng giềng, và ông ta nịnh hót cả Louis XIV và Leopold I để thực hiện những ý đồ riêng của ông ta. Tuy nhiên, việc Công tước Anjou kế vị ngai vàng Tây Ban Nha và sự thống trị của triều Bourbon đã quá rõ ràng, nên ngày 6 tháng 4 năm 1701, Victor Amadeus phải miễn cưỡng liên minh với Pháp. Quân đội Pháp đóng ở Milan lúc bấy giờ được phép đi qua lãnh thổ Savoy. Đổi lại, Công tước nhận được một khoản tiền và danh hiệu là chỉ huy tối cao quân đội Savoy và Bourbon ở Italia (dù chỉ là trên danh nghĩa), mặc dù ông không đưa ra đề nghị gì về lãnh thổ. Liên minh được thắt chặt bằng cuộc hôn nhân giữa Felipe V với cô con gái 13 tuổi của Amadeus, Maria Luisa. Sự hiện diện của người Pháp ở Italy đe dọa đến an ninh của Áo. Mặc dù chiến thắng gần đây của Leopold I trước quân Thổ đã giúp ông củng cố vùng đất phía đông, ông chuyển sang con đường ngoại giao khôn khéo hơn. Vì thế tháng 5 năm 1701, trước khi tuyên bố chiến tranh, Leopold I gửi Hoàng thân Eugene xứ Savoy đi ngang qua Alps để bảo vệ lãnh địa Công tước Milan bằng binh lực. Đầu tháng 6 quân của Eugene gồm 30,000 người đã vượt qua những ngọn núi vào lãnh địa trung lập Venice, và ngày 9 tháng 7 ông đánh bại một chi đội từ quân của Nguyên soái Catinat's tại Trận Carpi; sau đó là một chiến thắng khác vào ngày 1 tháng 9 trước người kế nhiệm của Catinat, Nguyên soái Villeroi, tại Trận Chiari. Eugene đã chiếm giữ nhiều lãnh thổ thân Pháp, mặc dù chiến thắng các của ông nhưng ông không được nhiều sự trợ giúp từ Vienna. Sự sụp đổ của lòng tin từ chính quyền dẫn đến Leopold I tháo hết quân đội, khi buộc Eugene vào làm theo những chính sách trái với bình thường. Ngày 1 tháng 2 năm 1702 ông tấn công tổng hành dinh của người Pháp tại Cremona. Cuộc tấn công cuối cùng thất bại, nhưng Villeroi bị bắt sống (sau được thả ra), khiến người Pháp lùi về sau Adda. Nhà Bouborn vẫn chiếm giữ Công quốc Milan, tuy nhiên người Áo đã chứng minh họ có thể và sẽ chiến đấu để bảo vệ lợi ích của họ, và sự thành lập một liên minh với Anh và Cộng hòa Hà Lan. Đại Liên minh tái lập Các cuộc đàm phán bắt đầu tại The Hague vào tháng 3 năm 1701. Mặc dù có những phản kháng ban đầu, William III, bây giờ đã gần chết, giao cho Bá tước Marlborough làm người kế nhiệm ông về chính trị và quân sự, bổ nhiệm ông làm Đại sứ đặc biệt tại The Hague và chỉ huy trưởng lực lượng Anh và Scotland tại Vùng đất thấp. Heinsius đại diện cho Hà Lan trong khi Bá tước Wratislaw, đại sứ đế quốc ở London, đàm phán thay mặt cho Hoàng đế. Cuộc đàm phán với đại sứ Pháp, Bá tước d'Avaux, xoay quanh số phận của chế độ quân chủ Tây Ban Nha, các cuộc xâm nhập của quân Pháp vào Hà Lan thuộc Tây Ban Nha và Lãnh địa Công tước Milan, và các đặc quyền thương mại cấp cho thương nhân Pháp tại các cường quốc hàng hải. Những cuộc đàm phán này không đi đến kết quả gì, và họ giải tán đầu tháng 8. Tuy nhiên, các cuộc thảo luận để thành lập liên minh chống Pháp giữa Anh, Cộng hòa Hà Lan, và Áo đã có những bước tiến đáng kể, kết quả là việc ký Hiệp ước thứ hai của Đại Liên minh (hay, Hiệp ước The Hague) ngày 7 tháng 9. Mục tiêu tổng thể của Liên minh khá mơ hồ: không có đề cập đến việc Đại Công tước Karl lên ngai vàng Tây Ban Nha, nhưng Hoàng đế sẽ nhận được sự hài lòng 'công bằng và hợp lý' cho việc kế thừa ngôi vua Tây Ban Nha, và ý kiến rằng vương quốc Pháp và Tây Ban Nha vẫn độc lập với nhau là trọng tâm của thỏa thuận. Ngay cả sau sự hình thành của Đại liên minh nhà vua Pháp tiếp tục phản kháng. Ngày 16 tháng 9 năm 1701, vị vua Công giáo James II của Anh (VII of Scotland) – lưu vong ở Saint-Germain từ sau 'Cách mạng Vinh quang' – chết. Mặc dù đã từ bỏ phe Jacobites tại Hiệp ước Ryswick, Louis XIV sớm công nhận con trai Công giáo của James II, James Francis Edward Stuart, là Vua 'James III' của Anh. Triều đình Pháp khẳng định việc cấp cho James danh hiệu vua chỉ là hình thức, nhưng các Bộ trưởng Anh đã hoài nghi và bất bình. Tuyên bố của Louis XIV dường như là thách thức đối với Nghị viện và Đạo luật Định cư, vào lúc cái chết của người con trai còn sống duy nhất Anne đã thay đổi thứ tự kế vị ngôi vua Anh về cho Thái phu nhân Sophia của Hannover (cháu ngoại của James VI/I) và những người thừa kế Kháng Cách của bà. Hệ quả là, sự bảo đảm sự thừa kế của người Tin Lành được công nhận bởi Đại Liên minh như một trong những mục tiêu chính của người Anh trong cuộc chiến. Ngày 19 tháng 3 năm 1702, William, Vua của Anh và Thống đốc Hà Lan, băng. Anne lên kế tự ngai vàng và cùng lúc đó đảm bảo trước Hội đồng Cơ mật hai mục tiêu chính của bà: duy trì quyền kế vị của phe Tin Lành, và hạn chế quyền lực của Pháp. Sự kế nhiệm của Anne cũng đảm bảo địa vị của Marlborough: bà tấn phong ông ta làm Tổng chỉ huy các lực lượng của bà ở trên bộ (cùng với những sự đề bạt khác), trong khi Sarah, vợ của Marlborough và là bạn lâu năm với Anne, được giao các vị trí chủ chốt trong gia đình hoàng gia. Nữ hoàng cũng dùng lại người cố vấn thân cận của bà (và bạn của Marlboroughs), Sidney Godolphin, và bổ nhiệm ông làm Đại Thủ Quỹ. Ở Cộng hòa Hà Lan, cái chết của William dẫn đến giai đoạn gọi là Thời kì không Thống đốc thứ hai, và hầu hết các tỉnh chống lại nhà Orange, Cộng hòa, phe ưa chuộng hòa bình đã lấy được ưu thế. Tuy nhiên trái với kì vọng ban đầu của người Pháp chế độ mới thông qua nhiều chính sách đối ngoại của. Sự thống trị của người Pháp ở Hà Lan thuộc Tây Ban Nha bị coi là một mối đe dọa trực tiếp đến sự tồn tại của nền Cộng hòa và nền thương mại của nó, và thương gia ở Amsterdam lo sợ cho nhiều đặc quyền của họ ở Tây Ban Nha và Mỹ thuộc Tây Ban Nha sẽ rơi vào sự kiểm soát của người Pháp. Do đó, nhiều chính sách hàng động trong những năm cuối William vẫn được giữ lại, bao gồm Heinsius giàu kinh nghiệm có mối quan hệ cá nhân với Marlborough là nền tảng cho sự thành công của Đại Liên minh trong giai đoạn đầu của cuộc chiến. Khi mà không có bước ngoặt nào về ngoại giao kể từ sau khi ký Hiệp ước thứ hai của Đại Liên minh, Anh, Cộng hòa Hà Lan, và Áo tuyên chiến với Pháp vào ngày 15 tháng 5 năm 1702. Lãnh đạo, chiến lược và lực lượng chiến đấu Đối với Anh, vấn đề Tây Ban Nha không phải mối quan tâm chính, nhưng sự tăng cường quyền lực của Pháp và khả năng họ sẽ thống trị châu Âu bị xem là mối đe dọa hàng đầu cho lợi ích của người Anh ở trong và ngoài nước. Cách tốt nhất để đạt được mục tiêu của nước này là nguyên cớ của cuộc tranh luận căng thẳng. Nói chung, Đảng Bảo thủ tránh chiến tranh trên lục địa với sự đồng tình một 'chính sách blue water' nơi Hải quân hoàng gia tiến hành chiến tranh ngăn chặn nguồn thương mại của Pháp và Tây Ban Nha trên biển trong khi cùng lúc đó bảo vệ và mở rộng thương mại cho Anh. Phe Bảo thủ coi chuyện phải đem quân đánh lên lục địa là khá tốn kém, và sẽ chỉ có lợi cho phe Liên minh hơn là cho Anh. Ngược lại, Đảng Whigs và các ông trùm tài chính ở London những người sẽ thu được nhiều lợi ích nhất nếu chiến dịch được tổ chức trên lục địa, ủng hộ tấn công lên bộ, và lập luận rằng chỉ mình hải quân sẽ không bao giờ thắng nổi Louis XIV. Các cuộc tranh luận về chuyện sử dụng nguồn lực của người Anh như thế nào sẽ tồn tại trong suốt cuộc chiến, nhưng sức mạnh tài chính của nước này giúp nó triển khai một số chiến lược, quan trọng nhất trong số đó là khả năng tấn công nước Pháp trên nhiều mặt trận. Tuy nhiên, đánh bại được Louis XIV là vượt quá khả năng của một thành viên duy nhất trong liên minh, và vì thế tất cả chiến lược đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ về thương mại và chính trị giữa Anh và Cộng hòa Hà Lan để cùng nhau có được một quân đội hiệu quả trên chiến trường và duy trì mối quan hệ tốt với các thành viên liên minh ở châu Âu, chủ yếu là Đức, nơi các vương hầu có thể cung cấp quân đội đánh thuê cho họ. Phần nhiều các thành bang ở Đức (bao gồm Hesse-Kassel, Hesse-Darmstadt, Palatinate, Münster, Baden) đã chiến đấu để giành lại một vài vùng lãnh thổ cũ của Thánh chế La Mã thuộc Alsace và Lorraine, và do đó đảm bảo một Rào cản của Đức mạnh mẽ ở biên giới phía tây của đế chế. Tuy nhiên, nhiều người trong số những nhà lãnh đạo có ảnh hưởng lớn ở Đức lại có những chiến lược khác và quyền lợi khác trong cuộc chiến, và ưu tiên đưa quân của hộ hỗ trợ Anh-Hà Lan để đổi lấy trợ cấp hàng năm. Georg Luwig, Tuyển đế hầu Hanover, đang háo hức củng cố địa vị của ông ở Anh là người kế vị Nữ vương Anne, trong khi Friedrich August xứ Saxony – cũng là Vua của Ba Lan – có những chiến lược riêng trong Đại chiến phương bắc chống lại Karl XII của Thụy Điển. Tuyển đế hầu xứ Brandenburg-Phổ – người nhận được sự chấp thuận của Leopold I khi đã công nhân ông ta làm Friedrich I, Vua ở Phổ, cũng là một thành viên trong Đại Liên minh – cung cấp lực lượng 12,000 người vào đầu cuộc chiến, nhưng sự tham gia của ông chỉ có thể được đảm bảo bằng sự nhượng bộ về tài chính và lãnh thổ. Frederik IV của Đan Mạch cũng cung cấp quân đổi để đổi lấp tiền trợ cấp, mặc dù ông không bao giờ chính thức tham gia chiến tranh chống lại Pháp. Giai đoạn thứ nhất: 1701–1703 Năm 1702, Vương công Eugene chiến đấu ở Ý, nơi quân Pháp do công tước Villeroi chỉ huy. Eugene đánh tan tác quân Pháp và bắt sống Villeroi ở trận Cremona ngày 1 tháng 2. Villeroi được Pháp thay bằng công tước Vendôme. Vendôme và Eugene coi như hòa nhau trong trận Luzzara diễn ra vào tháng 8. Sau đó Vendôme giành được một số lợi thế đáng kể, nhưng vẫn không thể đẩy Eugene khỏi Ý. Trong lúc đó, Công tước Marlborough chỉ huy lực lượng liên quân Anh, Hà Lan và Đức ở vùng đất thấp. Tại đây, ông chiếm được một số pháo đài quan trọng, đáng kể nhất có Liège. Trên sông Rhine, Quân đội Đế quốc La Mã Thần thánh do Louis, bá tước của Baden-Baden chỉ huy chiếm được Landau vào tháng 9, nhưng mối đe dọa với vùng Grand Est được giảm bớt sau khi Maximilian II Emanuel, Tuyển hầu tước của Bayern bước vào cuộc chiến đứng về phía Pháp. Louis của Baden-Baden buộc phải rút lui dọc theo sông Rhine. Tại đó, ông bị quân đội Pháp do Claude Louis Hector de Villars chỉ huy đánh bại ở trận Friedlingen - nhưng đây là một chiến thắng kiểu Pyrros của quân Pháp. Trên biển, đô đốc Anh Sir George Rooke giành được một thắng lợi quan trọng, trận vịnh Vigo, cướp được nhiều tấn bạc và dẫn tới sự hủy diệt hoàn toàn của hải đội trở hàng hóa và châu báu từ thuộc địa của Tây Ban Nha. Sang năm sau, danh tướng Marlborough chiếm được Bon và buộc Tuyển hầu tước của Cologne phải lưu vong, nhưng ông lại không thể chiếm được Antwerp. Quân Pháp giành được nhiều chiến thắng ở Đức. Liên quân Pháp - Bayern do Villars và Max Emanuel của Bayern đánh bại Quân đội Đế chế La Mã Thần thánh do Louis của Baden và Hermann Styrum chỉ huy. Tuy nhiên, sự thận trọng của Max Emanuel khiến liên quân Pháp - Bayern không thể tiến thẳng tới kinh thành Viên. Và, Quân đội của Styrum đã được cứu vãn nhờ một cuộc lui binh hiển hách do một danh tướng của Quân đội Phổ và liên quân chống Pháp là Leopold I xứ Anhalt-Dessau - tức "Ông già Dessau" - thực hiện sau trận Höchstädt lần thứ nhất. Sự bất đồng ý kiến dẫn tới việc Villars từ chức. Quân Pháp, giờ do Camille de Tallard chỉ huy, tiếp tục giành chiến thắng ở miền nam Đức sau khi Villars từ chức. Các chỉ huy Pháp vạch ra một kế hoạch đầy tham vọng, dự kiến sẽ đánh chiếm kinh đô nước Áo trong năm 1703. Tuy nhiên, vào cuối năm 1703, quân Pháp gặp bất lợi khi Bồ Đào Nha và xứ Savoy trở cờ sang phe đế chế. Người Anh, trước giờ vẫn cho rằng Philip có thể kế vị Tây Ban Nha, giờ quyết định rằng các lợi ích thương mại của họ sẽ được bảo đảm hơn nếu Đại Công tước Karl của Áo được kế vị Tây Ban Nha. Giai đoạn thứ hai: 1704–1709 Năm 1704, kế hoạch của Pháp là sử dụng quân đội của Villeroi ở Hà Lan để kiềm chế Marlborough. Còn Tallard và liên quân Pháp - Bayern do Max Emanuel và Ferdinand de Marsin, người thay thế Villars, chỉ huy, sẽ tiến đến kinh thành Viên. Marlborough, bất chấp mong muốn của người Hà Lan đóng quân giữ vùng đất thấp, dẫn liên quân Anh-Hà Lan về miền nam Đức. Trong khi đó, Eugène chỉ huy quân Áo tiến về phía bắc từ Ý. Mục tiêu của những kế hoạch này là ngăn liên quân Pháp-Bayern tiến đến thành Viên. Đạo quân của hai danh tướng Marlborough và Eugène chạm trán quân Pháp do Tallard chỉ huy trong trận đánh lớn tại Blenheim (Còn gọi là trận Höchstädt lần thứ hai) với thắng lợi oanh liệt cho Marlborough và Eugène, loại quân Bayern khỏi vòng chiến. Xứ Schwaben cũng rơi vào tay liên quân chống Pháp. Trong trận đánh tại Blenheim, "Ông già Dessau" tức Leopold I xứ Anhalt-Dessau đã đóng vai trò không nhỏ đối với chiến thắng oanh liệt của liên quân chống Pháp. Trong năm đó, Quân đội Anh giành được một thắng lợi quan trọng khi kiểm soát được Gibraltar ở Tây Ban Nha với sự trợ giúp của quân đội Hà Lan do hoàng tử George của Hesse-Darmstadt, đại diện cho Đại Công tước Karl, chỉ huy. Sau đại thắng tại Blenheim, Marlborough và Eugène chia quân ra làm hai nhánh. Marlborough trở về vùng đất thấp, rồi sau đó là Ý. Năm 1705, chiến sự diễn ra cầm chừng khi không bên nào giành được tiến bộ đáng kể. Những nỗ lực xâm lấn nước Pháp của Marlborough không đi tới đâu. Ông chặn được Villeroi và vượt qua phòng tuyến Brabant ở trận Elixheim, ông không lừa được tư lệnh quân Pháp ra chiến trường. Villars và Louis của Baden không đạt được thắng lợi nào đáng kể tại Rhine. Tình hình của Vendôme và Eugene tại Ý cũng thế. Thế bế tắc bị phá vỡ vào năm 1706 khi Marlborough đẩy được quân Pháp ra khỏi hầu hết lãnh thổ Hà Lan thuộc Tây Ban Nha, đánh bại quân của Villeroi ở trận Ramilles vào tháng 5 và sau đó chiếm được cả Antwerp và Dunkirk thuộc Pháp. Hoàn thân Eugene cũng thành công. Tháng 9, sau khi Vendôme phải đến Hà Lan để cứu vãn tình hình ở đó, Eugene và công tước của Savoy gây ra một thất bại nặng nề cho quân Pháp do Orleans và Marsin chỉ huy ở trận Turin vào cuối năm đánh đuổi quân Pháp khỏi Ý. Trong trận thắng tại Turin, "Ông già Dessau" đã tham chiến cùng với Vương công Eugène de Savoie-Carignan. Giờ đây, khi quân Pháp đã bị đẩy ra khỏi Đức, Hà Lan và Ý, Tây Ban Nha trở thành chiến trường chính trong các năm tiếp theo. Năm 1706, tướng Bồ Đào Nha Marquês das Minas chỉ huy một cuộc tấn công vào Tây Ban Nha từ Bồ Đào Nha, chiếm được Madrid. Tuy nhiên, vào cuối năm, Madrid bị tái chiếm bởi quân đội do vua Felipe V và James FitzJames, Công tước thứ nhất của Berwick upon Tweed (con trai ngoài giá thú của cựu vương Anh Quốc James II, phục vụ cho quân đội Pháp) chỉ huy. Henri de Massue, tử tước thứ nhất của Galway chỉ huy một cánh quân định đánh chiếm Madrid một lần nữa năm 1707, nhưng Berwick đã đánh bại ông này ở trận Almansa ngày 25 tháng 4. Do đó, cuộc chiến ở Tây Ban Nha rơi vào thế giằng co. Năm 1707, cuộc chiến bị gián đoạn bởi cuộc Đại chiến phương bắc ở Bắc Âu. Quân đội Thụy Điển dưới sự chỉ huy của vua Karl XII tới vùng Sachsen, sau khi ông đánh tan tác quân của Tuyển hầu tước xứ Sachsen kiêm vua Ba Lan là August II, và buộc ông này phải từ bỏ ngai vàng tại Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc Litva. Cả hai phe Pháp và Liên quân chống Pháp đều gửi sứ thần tới nơi Karl XII đóng quân. Người Pháp hi vọng thuyết phục ông phát đại binh đánh Hoàng đế Joseph I của Đế chế La Mã thần thánh, vì ông này từng có tiền sử là người ủng hộ của Augustus. Tuy nhiên, Karl XII, tự coi mình là một minh chủ tối cao của đức tin Tin Lành ở châu Âu, rất ghét Louis XIV và không hứng thú với cuộc chiến tranh ở Tây Âu. Ông tập trung sự chú ý của mình sang nước Nga, chấm dứt khả năng quân Thụy Điển có thể can thiệp vào cuộc chiến. Sau đó năm 1707, Vương công Eugène chỉ huy một đợt tấn công của quân đế chế ở miền nam Pháp từ Ý, nhưng bị quân Pháp chặn lại. Cùng lúc, Marlborough vẫn đóng quân ở vùng đất thấp, nơi ông mắc kẹt trong những trận công thành không bao giờ kết thúc. Vào năm 1708, Quân đội của Marlborough đụng độ quân Pháp. Lúc này quân Pháp bị chia rẽ bởi vấn đề chỉ huy. Những viên tư lệnh của họ, Hoàng thái tử Louis (1682-1712) (cháu của vua Louis XIV) và Công tước của Vendôme không hòa thuận. Hoàng thái tử Louis thường đưa ra những quyết định quân sự thiếu khôn ngoan. Do Bourgogne cứ khăng khăng không cho Quân đội Pháp tiến công, Công tước của Marlborough một lần nữa có thể họp binh với Vương công Eugène, giúp cho liên quan chống Pháp đập tan tác quân Pháp trong trận đánh tại Oudenarde, sau đó chiếm lĩnh được Lille. Tại Ý, Quân đội Áo tấn công các thành phố như Forlì (1708). Những chiến bại thảm hại tại Oudenarde và Lille đưa nước Pháp đến bờ vực sụp đổ. Vua Louis XIV buộc phải thương lượng; ông sai quan Thượng thư Bộ Ngoại giao là Hầu tước Torcy đến diện kiến các thống lĩnh liên quân chống Pháp tại The Hague. Nhà vua đồng ý nhượng Tây Ban Nha và tất cả các lãnh thổ của nó cho các nước chống Pháp, chỉ yêu cầu họ cho phép ông được quyền giữ lấy xứ Napoli (ở Ý). Không những thế, ông còn chuẩn bị cung cấp tiền hỗ trợ cho liên quân chống Pháp đánh đuổi Felipe V ra khỏi Tây Ban Nha. Tuy nhiên, các nước chống Pháp áp đặt lên Louis XIV những điều khoản tệ hại hơn; họ yêu cầu ông dùng Quân đội Pháp để hạ bệ người cháu của chính mình. Nhưng Louis từ chối yêu cầu này, và quyết định tiếp tục đấu tranh cho đến khi nhận lấy kết thúc bi thảm. Ông kêu gọi nhân dân Pháp đấu tranh, và có được hàng nghìn tân binh. Vào năm 1709, liên quân chống Pháp tiến hành ba cuộc chinh phạt Pháp, nhưng hai trong số các cuộc chinh chiến đó thật quá nhỏ bé đến mức chúng chỉ mang tính chất của những cuộc nghi binh. Khi Marlborough và Eugène họp binh đánh kinh thành Paris thì họ tiến hành một cuộc chinh chiến lớn hơn. Họ trạm chán với quân Pháp của Công tước Villars trong trận đánh tại Malplaquet - trận đánh khốc liệt nhất trong cuộc chiến. Mặc dù liên quân chống Pháp đè bẹp quân Pháp, họ mất đến hơn 2 vạn binh sĩ, trong khi quân Pháp chỉ mất có 1 vạn binh sĩ. Liên quân chống Pháp chiếm được Mons nhưng họ không thể phát huy thế thượng phong của mình. Trận đánh tại Malplaquet là một bước ngoặt trong cuộc chiến tranh; dù thắng trận, liên quân chống Pháp không thể tiếp tục tiến đánh nước Pháp, do chịu tổn thất quá nặng nề. Hoàng thái tử nước Phổ là Friedrich Wilhelm đã tham chiến với danh tướng Leopold xứ Anhalt Dessau và liên quân chống Pháp trong trận đánh tại Malplaquet, và sau này ông sẽ là vua Friedrich Wilhelm I - vị vua có công xây dựng lực lượng Quân đội Phổ tinh nhuệ. Giai đoạn cuối: 1710–1714 Vào năm 1710, liên quân chống Pháp tiến hành cuộc chinh chiến cuối cùng tại Tây Ban Nha, nhưng không khả thi. Bá tước James Stanhope cùng Đại Công tước Karl kéo quân đến kinh thành Madrid, nhưng viện binh Pháp kéo đến và bắt đội quân của Stanhope phải đầu hàng tại Brihuega. Trong khoảng thời gian đó, liên minh chống Pháp cũng bắt đồng suy yếu. Tại Anh Quốc Ảnh hưởng chính trị lớn lao của Marlborough đã mất đi: tiếc thay, tình bạn giữa vợ ông và Nữ vương Anne - nguyên nhân của phần lớn ảnh hưởng chính trị của ông - không còn nữa, với việc Nữ vương Anne cách chức Công nương của Marlborough và tống khứ bà ra khỏi cung đình. Không những thế, Đảng Tory lên làm Đảng cầm quyền sau khi Whig - một Đảng ủng hộ chiến tranh - mất chức, và Đảng Tory tìm kiếm hòa bình. Vào năm 1711, Đại Công tước Karl lên ngôi Hoàng đế Karl VI sau khi vua anh Joseph I đột ngột qua đời. Trong thời điểm này, một chiến thắng quyết định của nước Áo trong việc thống nhất Đế quốc La Mã Thần thánh với Vương quốc Tây Ban Nha, sẽ làm thay đổi cán cân quyền lực, cũng như nếu Pháp chiến thắng. Marlborough giành chiến thắng về chiến lược trước Villars, phá vỡ các phòng tuyến của quân Pháp tại Ne Plus Ultra và chiếm được Bouchain, nhưng ông lại bị gọi về Anh Quốc cuối năm đó, và được thanh thế bởi Công tước thứ hai của Ormonde. Triều đình Anh, theo đường lối của quan Khâm sai Thượng thư Henry St John, bắt đầu trao đổi thư từ bí mật với Hầu tước Torcy, loại trừ người Hà Lan và Áo ra khỏi các cuộc đàm phấn của họ. Công tước của Ormonde cũng từ chối cho Quân đội Anh xông pha trên trận tiền, do đó uy lực của quân Pháp của tướng Villars cũng được phục hồi đáng kể vào năm 1712, thể hiện qua việc ông ta chuyển tình thế tuyệt vọng thành chiến thắng trước Vương công Eugène de Savoie-Carignan trong trận Denain. Sau thắng lợi tại Denain, Villars tiếp tục phát huy lợi thế của ông ta và gặt hái được thắng lợi. Đồng thời, Quân đội Pháp giành chiến thắng tại Tây Ban Nha, và chiếm được Barcelona. Cũng như cuộc Chiến tranh Bảy năm (1756 - 1763), nước Anh đã rời bỏ các đồng minh của họ. Họ và Hà Lan kết thúc chiến tranh với Pháp khi họ ký kết Hiệp định Utrecht vào năm 1713. Với Hiệp định Utrecht này, nước Anh đã toàn thắng trong cuộc Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha. Dù thành phố Barcelona đã ủng hộ liên quân chống Pháp và khuyến khích Đại Công tước Áo lên ngai vàng Tây Ban Nha vào năm 1705, đã đầu hàng Quân đội Bourbon vào ngày 11 tháng 9 năm 1714 sau một cuộc vây hãm lâu dài, chấm dứt sự hiện diện của quân chống Pháp tại Tây Ban Nha. Tại vùng đất này, nhân dân nhớ đến sự kiện ấy là Ngày Quốc khánh Catalonia. Nước Áo vẫn còn chống Pháp cho đến năm 1714, khi hai bên thông qua các Hiệp định Rastatt và Baden, chấm dứt cuộc Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha. Tây Ban Nha chậm chạp hơn trong việc phê chuẩn các Hiệp ước hòa bình; họ không chính thức kết thúc những cuộc chiến tranh với nước Áo cho đến năm 1720, sau khi bị đại bại trước tất cả mọi cường quốc trong cuộc Chiến tranh Liên quân bốn nước. Đối với nước Phổ, đây là một cuộc chiến vì mục đích chính trị, và vì thế Quân đội Phổ phải rời xa Tổ quốc. Vậy nên cống hiến của Quân đội Phổ trong cuộc Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha không được lòng dân cho lắm, khác hẳn với những chiến công của vua Friedrich II Đại Đế trong cuộc Chiến tranh Bảy năm (1756 - 1763) sau này. Tuy nhiên, cuộc Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha đóng vai trò quyết định đối với truyền thống quân sự Phổ hùng cường: các tướng tá Phổ như "Ông già Dessau" đã học hỏi được những bí quyết giúp danh tướng Marlborough đè bẹp Quân đội của vua Louis XIV. Và, "Ông già Dessau" - tức vị danh tướng Leopold - sẽ còn đóng vai trò lớn lao trong cuộc chiến tranh của nước Phổ chống vua Thụy Điển Karl XII sau này. Những sách lược mà ông học được từ danh tướng Marlborough sẽ còn ảnh hưởng không nhỏ đến các chiến thuật của vị minh quân Friedrich II Đại Đế sau này. Các nước đều kiệt quệ khi cuộc Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha kết thúc. Chú thích
, là nơi thờ phụng những người lính tử trận vì đã chiến đấu cho Thiên hoàng. Tiền thân của đền thờ này là Tōkyō Shōkonsha (東京招魂社 hay Đông Kinh Chiêu Hồn xã), "đền gọi hồn người chết tại Tokyo", được xây dựng tại cố đô Kyoto (Nhật Bản) vào năm 1869. Đến năm 1875, Thiên hoàng Minh Trị quyết định dời Tōkyō Shōkonsha về Tokyo và đổi tên thành Yasukuni với mục đích biến đền này trở thành một địa điểm linh thiêng, đề cao bản sắc dân tộc và là nền tảng tinh thần cho Nhật Bản. Đến tháng 10 năm 2004, đã có 2.466.532 người lính Nhật Bản và thuộc địa của Nhật Bản (chủ yếu là Triều Tiên và Đài Loan) được ghi tên trong đền Yasukuni. Hiện nay, đền Yasukuni trở thành một địa điểm gây tranh cãi không chỉ trong xã hội Nhật Bản và cả ở một số quốc gia đã từng bị Nhật Bản xâm lược, vì trong 2.466.532 người lính trên có cả những người tham gia lực lượng phát xít Nhật và những tội phạm chiến tranh trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Đài Loan, Hàn Quốc và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên luôn phản đối việc Nhật Bản thờ phụng những tội phạm chiến tranh này. Các lần đến thăm đền của Thủ tướng Nhật Bản dù với tư cách cá nhân hay nhà nước đều luôn dẫn đến căng thẳng về ngoại giao giữa Nhật Bản với các quốc gia trên. Lịch sử hình thành Đền Yasukuni trước đây có tên là Đông Kinh Chiêu Hồn xã (東京招魂社, Tōkyō Shōkonsha) được xây dựng vào tháng 6 năm 1869 theo yêu cầu của Thiên hoàng Minh Trị để vinh danh những người lính đã chiến đấu và hi sinh cho công cuộc cải cách Duy tân và sự nghiệp lật đổ Mạc phủ. Vào năm 1879, ngôi đền được đặt lại tên Yasukuni Jinja vốn dĩ sau đó trở thành một trong những biểu tượng đặc biệt cho Thần đạo Nhật Bản, và là một trong những nơi linh thiêng được lựa chọn cho việc thờ phụng những chiến sĩ hi sinh cho nước Nhật. Trong những năm 1890, Huấn lệnh về Giáo dục của Đế chế (The Imperial Rescript on Education) đã được thông qua, theo đó sinh viên được yêu cầu đọc nghi thức lời tuyên thệ hiến dâng cho Tổ quốc cũng như bảo vệ Thiên hoàng. Sự hiến dâng cao cả nhất là hy sinh tính mạng khi chiến đấu vì Nhật Bản và Thiên Hoàng, họ sẽ trở thành các "vị thần" (Kami) bảo vệ cho tổ quốc. Nhiều người Nhật thời đó cảm thấy được thờ tại đền thờ Yasukuni là một vinh dự đặc biệt, bởi vì Yasukuni là ngôi đền duy nhất mà những người bình thường được tôn thờ, và các Thiên hoàng sẽ đích thân tới thăm ngôi đền hàng năm 2 lần để bày tỏ sự kính trọng của mình. Vinh danh hương hồn những tử sĩ hy sinh vì đất nước (kami) Tính tới năm 2004, có 2.466.532 người được ghi tên và thờ cúng ở Đền Yasukuni. Những người này gồm tất cả những người đã chiến đấu và hi sinh cho nước Nhật, trong đó có 27.863 người Đài Loan và 21.181 người Triều Tiên. Để được vinh danh tại Đền Yasukuni, đối tượng được vinh danh phải nằm trong số các trường hợp sau (vì theo quy định những người này phải hi sinh trong lúc đang thi hành nhiệm vụ, nên những người vô tình chết do chiến tranh sẽ không được kể vào). Điều kiện để được vinh danh Các quân nhân, hay công dân được tuyển mộ cho quân đội mà: Hi sinh trong lúc thi hành nhiệm vụ, hoặc chết do bị thương nặng bên ngoài Nhật Bản (và trên đất Nhật kể từ sau tháng 9 năm 1931). Mất tích hay bị xem như đã mất trong lúc bị thương hay bệnh tật khi làm nhiệm vụ. Bị tử hình do quyết định của tòa án chiến tranh được ký kết trong Hiệp định hòa bình San Francisco (San Francisco Peace Treaty). Công dân tham gia vào các trận đánh dưới sự xếp đặt của quân đội và hi sinh trong khi bị thương nặng. Tù binh được xem như đã chết trong các trại giam của Khối Đồng Minh trong và sau chiến tranh. Công dân xung phong vào các nhiệm vụ dân sự (công nhân nhà máy, y tá cho các tổ chức như Hồng thập tự quốc tế) bị chết trong khi làm nhiệm vụ. Thủy thủ hi sinh trên các tàu buôn trong chiến tranh và thời bình. Thủy thủ hi sinh khi tham gia vào các nghĩa vụ quốc tế (Awa Maru). Học sinh Okinawa mất trong lúc di tản (vụ đắm tàu Tsushima Maru). Quan chức chính phủ của Karafuto và khu vực Quan Đông thuộc bán đảo Liêu Đông (thuộc quyền kiểm soát của Nhật từ 1905-1944), Tổng đốc Triều Tiên, Tổng đốc Đài Loan. Mặc dù hàng năm số người vinh danh tại đây mỗi tăng lên nhưng chỉ được tính với mốc thời gian 1951 tức năm ký kết Hiệp định hòa bình San Francisco. Cho nên không hề có cá nhân nào được đưa vào Đền kể từ 1951, kể cả những quân nhân hi sinh trong khi làm nhiệm vụ ở Cục phòng vệ Nhật Bản. Các tử sĩ hi sinh trong các cuộc chiến tranh Bảng sau liệt kê các trường hợp các Kami được vinh danh tại Đền Yasukuni theo trình tự thời gian của các sự kiện mà Nhật Bản đã tham gia trong quá khứ. Thơ ca Đền Yasukuni là nơi thờ các tử sĩ hi sinh vì Thiên hoàng và nước Nhật, họ được thờ phụng như những anh linh bảo vệ cho xã tắc. Đối với nhiều gia đình Nhật Bản có người thân tử trận thì đây là niềm an ủi và vinh dự lớn. Đầu thế kỷ 20, có một bài hát đầy xúc động về một bà mẹ già từ làng quê mang theo tấm quân chương của con trai đã tử trận của mình đến Đền Yasukuni: Từ Ga Ueno đến Kudanzaka Mẹ không còn kiên nhẫn, vì đường đi quên mất.Mẹ lang thang suốt ngày, dựa người trên gậy chống,Để đến thăm con ta, tại Kudanzaka.Trên nền trời vòm cổng cao ngất, lờ mờ hiện ra trong mắtDẫn đến một ngôi đền uy nghiĐã ghi tên con mẹ bên các thần linh.Người mẹ hèn mọn của con khóc òa vì vui mừng.Mẹ là con gà mái đã hạ sinh loài chim ưng.Và niềm vinh dự đó mẹ không đáng được có.Mẹ muốn con thấy Quân chương Diều Vàng của con,Nên mẹ đến thăm con, con yêu, tại Kudanzaka Tranh cãi Theo niềm tin của các tín đồ Thần đạo, Đền Yasukuni là nơi cư ngụ vĩnh viễn của những anh linh dân tộc đã chiến đấu nhân danh Thiên hoàng. Đền hiện thờ khoảng 1000 tội phạm chiến tranh tham gia ở các mức độ khác nhau trong Thế chiến thứ hai. Một tài liệu được công bố vào ngày 28 tháng 3 năm 2007 bởi một số thành viên Nghị viện, Bộ Y tế và An sinh xã hội cùng đại diện của đền Yasukuni tiết lộ một chi tiết về vấn đề vinh danh những người bị cho là tội phạm chiến tranh. Quyết định được đưa ra sau cuộc họp vào ngày 31 tháng 1 năm 1969, theo đó những phạm nhân bị kết án tại Tòa án quân sự Viễn Đông có thể được vinh danh nhưng với điều kiện các giáo sĩ Yasukuni không được công bố rộng rãi việc làm này. Vào ngày 17 tháng 10 năm 1978, 14 tội phạm chiến tranh loại A (theo phán quyết của Tòa án quân sự viễn đông), kể cả Thủ tướng Hideki Tojo, đã được thờ một cách lặng lẽ như là "những chiến binh" đã hy sinh vì Thiên hoàng và vì niềm tin của mình (Chiêu Hòa tuẫn nạn giả, 昭和殉難者 Shōwa junnansha). Bản án gồm: Treo cổ: Hideki Tojo, Itagaki Seishiro, Heitaro Kimura, Kenji Doihara, Iwane Matsui, Akira Muto, Koki Hirota Chung thân: Yoshijiro Umezu, Kuniaki Koiso, Kiichiro Hiranuma, Toshio Shiratori Khổ sai 20 năm: Shigenori Togo Chết trước khi tuyên án (do bệnh tật): Osami Nagano, Yosuke Matsuoka Việc làm này được truyền thông công bố rộng rãi từ ngày 19 tháng 4 năm 1979, kéo theo những tranh cãi từ 1985 đến ngày nay vì với Trung Quốc, Triều Tiên, Hàn Quốc, những nước vốn chịu ảnh hưởng từ chính sách cai trị của Nhật Bản dưới thời thuộc địa, họ coi đó là biểu tượng cho sự trở lại của chủ nghĩa quân phiệt Nhật. Đền Yasukuni cũng mở một bảo tàng lịch sử (Du tựu quán, 遊就館, Yūshūkan) và việc này cũng gây ra chỉ trích ít nhiều. Nơi đây người ta cho công chiếu một đoạn phim tư liệu liên quan đến chính sách của Nhật Bản thời kì trước Chiến tranh thế giới thứ hai, theo đó lý do cho các việc làm này là "nỗ lực cuối cùng để đưa châu Á thoát khỏi ách thống trị của các thực dân phương Tây". Các hiện vật trưng bày tại đây cũng chứng minh rằng "Nhật Bản cũng là một trong những nạn nhân của các quốc gia Đế quốc đó". Trên tờ rơi của Đền Yasukuni có ghi rằng: "Chiến tranh là một việc làm không một ai mong muốn, nhưng điều đó là cần thiết để chúng ta có thể bảo vệ sự độc lập và thịnh vượng chung của Nhật Bản cùng các quốc gia châu Á khác". Các dư âm chính trị này của Đền Yasukuni có thể được giải thích bằng hai giả thuyết sau. Một là theo phương diện tôn giáo của Thần đạo, luôn coi việc một người nào đó chiến đấu và hi sinh nhân danh Thiên hoàng đều được coi là những linh hồn can đảm nhất. Nhưng một yếu tố khác được coi là mạnh mẽ hơn là do sự ảnh hưởng của các tổ chức đại diện cho những gia đình có thân nhân được vinh danh trong đền Yasukuni, đặc biệt là tổ chức '"Di tộc hội" (遺族会, Izokukai), một trong những đại diện quan trọng cho thân nhân những gia đình có người hi sinh trong Thế chiến thứ hai. Mặc dù Đền Yasukuni vẫn là một trong những nơi năng lui tới của các chính trị gia cánh tả cũng như của những tổ chức ủng hộ các chính trị gia bảo thủ này và dĩ nhiên ảnh hưởng của những người này cũng có mức độ nhất định đối với các giáo sĩ cao nhất tại đây, nhưng có một sự thật tồn tại từ lâu rằng Đền Yasukuni vẫn luôn xem tổ chức "Di tộc hội" như là một trong những viên đá đầu tiên để dựng nên ngôi Đền này. Trước đây hội "Di tộc hội" có tên là "Di tộc Hậu sinh Liên minh" (遺族厚生連盟, Izoku Kōsei Renmei) có nghĩa là Hội phúc lợi cho các gia đình có thân nhân mất trong chiến tranh và được thành lập vào năm 1947. Các mục tiêu ban đầu của hội phúc lợi này là "Nhằm làm xoa dịu nỗi đau mà chiến tranh đã gây ra, chúng tôi, những người luôn làm mọi thứ để lập nên nền hòa bình vĩnh cửu cùng sự phồn thịnh của thế giới sẽ cùng chung tay góp sức để làm vơi đi phần nào nỗi niềm đau buồn đó". Như vậy, mục tiêu chính của tổ chức là cứu giúp những người vợ góa, những đứa con mồ côi và những bậc cha mẹ có con hi sinh trong Thế chiến thứ hai, cũng như đóng vai trò quan trọng trong việc cố vấn các chính sách cần thiết cho mục đích này với chính phủ. Tuy nhiên vào 1953 tổ chức này trở thành một tổ chức độc lập và đổi tên thành "Di tộc hội" như ngày nay. Quan trọng hơn tổ chức này cũng đã thay đổi tiêu chí hoạt động mạnh hơn: "Với mục đích mưu cầu hòa bình vĩnh cửu cho nước Nhật cùng sự phát triển hài hòa về nhân cách và những mục đích tốt đẹp khác, chúng tôi sẽ luôn cầu nguyện cho những "anh linh" (英霊, Eirei) - tức các hương hồn chiến binh - vĩ đại nhằm tìm kiếm sự an bình cho gia đình và người thân của họ bằng những bước tiến xa hơn trong việc nâng cao sự nhìn nhận của xã hội đối với những đóng góp của họ". Chung quy lại, sự thay đổi này được cho là một bước tiến xa hơn trong việc khơi dậy tinh thần quốc gia và tinh thần của chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản. Chủ tịch của tổ chức này thường là một thành viên của Đảng dân chủ xã hội đương quyền LDP, đồng thời tổ chức này cũng được xem là một hiện thân không chính thức cho mối quan hệ giữa LDP và Yasukuni. Minh chứng là vào năm 1962, Okinori Kaya, một thành viên bảo thủ của LDP bị xem là tội phạm loại A đã được chỉ định làm chủ tịch của tổ chức. Vì các lý do đó mà "Di tộc hội" hiện tại nắm giữ một ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến với các quyết định của Yasukuni. Về chính trị Những tranh cãi về Đền Yasukuni đã nổ ra mạnh mẽ không những bên ngoài mà còn với bản thân bên trong nước Nhật. Các cuộc tranh luận không ngừng này bắt đầu gần như hàng năm kể từ năm 1975 khi Thủ tướng khi đó là Miki Takeo đến viếng đền với tư cách cá nhân vào ngày 15 tháng 8 (ngày Nhật chính thức tuyên bố đầu hàng quân đội Đồng Minh). Ngay năm sau đó, người kế nhiệm ông ta, Thủ tướng Fukuda Takeo cũng đến thăm Yasukuni nhưng với chữ ký của một Thủ tướng đương nhiệm. Một vài Thủ tướng khác sau đó cũng đã đến Đền từ 1979: Masayoshi Ohira vào năm 1979; Zenko Suzuki năm 1980, 1981 và 1982; Yasuhiro Nakasone năm 1983 và 1985 (lần viếng sau ông ấy đã dùng tiền của Chính phủ để mua hoa cho mục đích viếng Đền - một hành động mang tính biểu tượng cao); sau đó là Thủ tướng Ryutaro Hashimoto vào năm 1996; Thủ tướng Junichiro Koizumi, người đã viếng Đền tổng cộng sáu lần (2001, 2002, 2003, 2004, 2005 và 2006); Thủ tướng Shinzo Abe, vào ngày 26 tháng 12 năm 2013. Các cuộc viếng thăm của này của Thủ tướng đã bị một vài nước láng giềng chính thức lên tiếng phản đối từ năm 1985 vì họ xem đó là một nỗ lực để khơi gợi lại tinh thần quân phiệt Nhật Bản. Các chuyến viếng Yasukuni này của các quan chức chính phủ đã đặt ra một tranh cãi mới về khía cạnh tôn giáo trong chính phủ. Một vài thành viên LDP cho rằng việc viếng thăm này đã được quy định rõ trong Hiến pháp và hoàn toàn hợp hiến, đặc biệt khi một người nào đó muốn bày tỏ lòng kính trọng với những người đã chiến đấu và ngã xuống vì tổ quốc. Tuy vậy, một đề xuất về ý tưởng một nơi tưởng niệm khác dành thờ phụng các chiến binh để những người muốn đến để bày tỏ lòng kính trọng đối với họ sẽ không phải đến Đền Yasukuni đã không thể thực hiện được. Sự thật là chính phủ Nhật hàng năm vẫn tổ chức hoạt động viếng thăm để tưởng nhớ đến chiến tranh tại một toà nhà phụ Budokan gần Đền Yasukuni, cho phép những người đến Budokan có thể sau đó tiếp tục viếng Yasukuni nếu họ muốn. Tuy nhiên các giáo sĩ lại phản đối việc cho xây dựng một nơi tưởng niệm không nhằm mục đích tôn giáo như vậy, vì theo họ "Đền Yasukuni phải là nơi duy nhất vinh danh những người lính can đảm nhất của Nhật Bản". Về phần Thủ tướng Koizumi thì các chuyến thăm của ông là nhằm mục đích cầu nguyện cho nước Nhật không phải tham gia vào bất kì cuộc chiến nào khác, và rằng đó chỉ là hành động tưởng nhớ đơn thuần của riêng ông. Chính quyền Trung Quốc đại lục đã có những lời lên án gay gắt nhất đối với vấn đề Đền Yasukuni, nhưng một số nhà phân tích chính trị cho rằng đó chỉ là một mánh khoé của Bắc Kinh nhằm khỏa lấp những lỗ hổng đoàn kết trong chính quyền hiện tại, hơn là một chỉ dấu lo ngại về một sự trỗi dậy mới của chủ nghĩa quân phiệt tại Nhật Bản. Họ còn đưa ra những ví dụ sinh động hơn cho nhận định này qua việc Chính quyền Trung Quốc đã thể hiện lòng khoan dung hiếm có khi cho phép các đoàn người biểu tình được phép phản đối công khai các chuyến viếng đền trên đất Nhật, trong khi lại rất dè dặt đối với những cuộc biểu tình về những bất công của người dân trong nước. Điều này chỉ có thể được lý giải như là một nỗ lực của Đảng Cộng sản nhằm hướng ánh mắt của dư luận ra khỏi những vấn đề trong nước, cũng như làm tăng tính chính danh hiện tại của Đảng cộng sản cầm quyền bằng cách lấy lòng của những người yêu thích chủ nghĩa dân tộc tại đại lục. Trên đất Nhật Bản Các chuyến viếng thăm đến Đền Yasukuni và các phản ứng của các quốc gia khác xoay quanh lúc nào cũng nhận được nhiều quan tâm từ bản thân nước Nhật và có tác động theo nhiều hướng khác nhau. Mỗi một kami thờ trong Yasukuni được xem như là hiện thân của các anh linh của các chiến binh, và đây cũng là lý do mà một số ý kiến cho rằng không những Yasukuni muốn vinh danh họ mà còn chính những trận chiến mà họ đã từng tham gia. Yasukuni thì lại cho rằng việc vinh danh những người bị xem như là tội phạm chiến tranh loại A chỉ dựa trên các quy định hiện hành mà họ được phép. Họ cũng chỉ ra rằng tên của những người này đã có trong các bản báo cáo chính thức của Bộ Y tế Nhật Bản như những người đã hi sinh trong chiến tranh theo đó chính phủ phải có trách nhiệm với gia đình người thân của họ. Tuy nhiên lúc đầu các giáo sĩ Yasukuni đã tỏ ra thận trọng khi quyết không vinh danh những người này. Về sau quyết định này được xem xét lại và được thay đổi. Một số nhà quan sát cho rằng quyết định đưa tên những người bị kết án như những tội phạm chiến tranh loại A vào danh sách những người cần được vinh danh tại Đền Yasukuni mang một thông điệp ngầm rằng quyết định của Toà án hình sự quốc tế chỉ là hành động của những kẻ thắng làm vua, do đó phán xét của phiên tòa này là vi hiến và trái pháp luật theo luật pháp quốc tế, cho nên không có bất kì lý do gì có thể ngăn cản Đền Yasukuni vinh danh họ. Những người ủng hộ các chuyến viếng thăm của Thủ tướng đến Đền Yasukuni cho rằng việc làm này hoàn toàn mang tính chất nội bộ của Nhật Bản mà các quốc gia khác như Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc điều không có lý do gì để xen vào. Một nhận định khác giải thích cho mâu thuẫn này chỉ là do có sự khác biệt về tôn giáo. Thần đạo không có quan niệm về kiếp luân hồi hay thiên đường địa phủ như các tôn giáo khác. Những linh hồn vốn không hề biết gì về sự hận thù hay trả oán nhưng họ có thể sẽ trở nên như vậy nếu không có một nơi yên bình để họ an nghỉ. Một số khác thì lại cho rằng do Yasukuni là một khía cạnh tôn giáo mang tầm quốc gia và có thể được xem như một thành quả về vấn đề tự do tôn giáo của Nhật Bản nên việc đưa ra các tranh cãi tại đây là nhạy cảm và hoàn toàn không cần thiết. Họ còn cho rằng vì Yasukuni có một nhà bảo tàng bên cạnh nên ngôi Đền không chỉ là một nơi dành cho anh linh các tử sĩ nương náu mà còn có thể đóng vai trò giúp người khác hiểu về họ hơn khi họ còn sống và vì vậy sẽ tỏ lòng kính trọng họ. Một vấn đề hóc búa khác cũng xuất hiện khi xem xét tính chất hợp hiến của các chuyến thăm của Thủ tướng. Sự phân định rạch ròi giữa luật pháp và tôn giáo trong Hiến pháp Nhật Bản là hết sức rõ ràng. Một trong các câu hỏi đầu tiên thường được đưa ra cho các Thủ tướng viếng Đền Yasukuni là "Ngài đến đây với tư cách các nhân hay là trên cương vị của một Thủ tướng ?". Trong đó chữ ký của Thủ tướng có vẻ như là vấn đề được quan tâm nhiều nhất cho dù ông ta dùng tư cách tư nhân (私人, shijin) hay thủ tướng (首相, shushō), mặc dù thỉnh thoảng chữ ký này có thể được để trống, khi khác thì lúc là tư nhân lúc thì thủ tướng. Cách làm này có hơi khác so với những chuyến thăm viếng của các Thủ tướng Đức đến khu tưởng niệm Holocaust, trong đó các chuyến đi này đều được thông báo rõ ràng là mang cấp nhà nước. Các chuyến viếng thăm Yasukuni của Thủ tướng Junichiro Koizumi được ông phát biểu có phần úp mở khi nói rằng ông đến với tư cách cá nhân Junichiro Koizumi trên cương vị một Thủ tướng. Điều này khiến một số nhà phân tích cho rằng ông đang muốn tiến tới một cấp độ chính thức hơn cho các chuyến viếng thăm này, một số khác thì nhận định vấn đề tư cách cá nhân hay Thủ tướng thật ra là đều vô nghĩa. Một vài nhà báo cũng như cơ quan truyền thông (như tờ Tin tức Kyoto) diễn giải cách hiểu này theo một hướng khác khi cho rằng Thủ tướng Koizumi muốn nói rằng ông chỉ đến thăm Đền trên cương vị Thủ tướng khi ông cần các tác động chính trị cần thiết của một chính trị gia (trong thời điểm bầu cử), và là một cá nhân nếu ông chỉ đến với mục đích viếng thăm thuần túy. Dù sao thì hiện tại hầu hết quan điểm của người dân Nhật Bản cũng như các nhà làm luật nước này điều nhất trí rằng các chuyến viếng đến Đền Yasukuni của ông hoàn toàn hợp hiến. Quan điểm hiện tại của Yasukuni được ghi lại trong khu bảo tàng cũng như trên trang web của Đền cũng gây ra nhiều vấn đề không đồng thuận. Yasukuni cho rằng những gì Nhật Bản đã làm trước và trong Thế chiến thứ hai là một hành động cao thượng nhằm giúp các nước Châu Á ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa đế quốc phương Tây, và vì vậy, cứu các nước này khỏi họa nô lệ. Các chuyến thăm của Thủ tướng Vào ngày 27 tháng 1 năm 2005, Thị trưởng Tokyo, Shintaro Ishihara trả lời trong cuộc phỏng vấn với Kyoto News: "Nếu ngài Thủ tướng không đến viếng đền Yasukuni trong năm nay, tôi e rằng bản thân nước Nhật sẽ suy yếu và nhanh chóng sụp đổ từ bên trong". Vào ngày 17 tháng 10 năm 2005, Thủ tướng Nhật khi đó là Junichiro Koizumi đến thăm đền lần thứ năm kể từ khi nhậm chức, và mặc dù theo ông việc viếng thăm này chỉ mang tính cá nhân nhưng sau đó chính quyền Trung quốc đại lục đã lên tiếng phản đối chuyến thăm này của ông bằng cách hủy cuộc hội đàm với ngoại trưởng Nhật Nobutaka Machimura. Chuyến viếng thăm cuối của ông được nhắc đến là vào ngày 15/8/2006, cũng là ngày Đế quốc Nhật chính thức đầu hàng quân đội đồng minh. Thủ tướng kế nhiệm sau đó Shinzo Abe mặc dù không chính thức viếng thăm đền như người tiền nhiệm mà dưới hình thức gởi quà lưu niệm đi kèm với chữ ký của ông trên cương vị Thủ tướng. Hiện tại, Thủ tướng kế nhiệm Yasuo Fukuda đã hứa rằng sẽ không bao giờ đến viếng đền Yasukuni do muốn cải thiện quan hệ với các nước láng giềng (nhằm tranh thủ sự ủng hộ của các nước này trong vấn đề Bắc Triều Tiên), nhưng nhìn chung các chuyến viếng đền Yasukuni dưới bất kì hình thức nào, đặc biệt là của các nguyên thủ quốc gia cũng mang một tác động nhất định đến chính sách đối ngoại của nước đó. Các chuyến viếng của Thiên hoàng Thiên hoàng Chiêu Hòa đã không viếng Yasukuni từ năm 1978 cho đến cuối đời. Người con trai sau khi thay thế vua cha cũng đã không còn đến Yasukuni, thay vào đó một thành viên Hoàng gia sẽ đảm nhiệm việc viếng Đền hàng năm. Nhật báo "Kinh tế Nhật Bản" (Nihon Keizai) ngày 20 tháng 7 năm 2006 đã đưa lên trang nhất các chi tiết quan trọng liên quan đến quyết định không viếng Đền Yasukuni của cố Thiên hoàng Chiêu Hòa. Một bản ghi chép còn sót lại do Trưởng ban quản lý các vấn đề liên quan đến Hoàng gia, Tomohiko Tomita, lần đầu tiên xác nhận rằng lý do nằm ở quyết định vinh danh những người bị cho là tội phạm chiến tranh loại A. Tomita đã ghi lại các cuộc đối thoại giữa ông và Thiên hoàng trong quyển nhật ký (12 quyển từ 1975-1986) và các cuốn sổ tay ghi chép (20 quyển từ 1986-1997). Theo các bản ghi chép này, Thiên hoàng đã bày tỏ sự không hài lòng của mình về quyết định vinh danh 14 tội phạm chiến tranh loại A vào năm 1988, ông nói "Trẫm đã suy tư nhiều về việc vinh danh các tội phạm chiến tranh loại A bao gồm cả Matsouka và Shiratori, nghe nói Tsukuba đã tiếp cận quyết định này một cách rất thận trọng ". Người mang tên Tsukuba - ở đây có vẻ như là Fujimaro Tsukuba, giáo sĩ đứng đầu Yasukuni lúc đó đã không chấp nhận đề nghị vinh danh những người này tại Đền mặc dù tên của họ đã được liệt kê trong danh sách những người hi sinh trong chiến tranh (được phép vinh danh). Khi được hỏi về ý kiến của con trai của Matsudaira, Trưởng giáo sĩ tại đền Yasukuni, Thiên hoàng cho rằng: "Không biết con trai của Matsudaira, người hiện tại cũng là một trong các giáo sĩ tại đó, sẽ xử lý vấn đề này theo hướng nào. Matsudaira là một người luôn lên tiếng ủng hộ hòa bình khi còn sống, nhưng có vẻ đứa con trai không hiểu được lòng của cha nó. Đó là lý do ta không còn đến viếng đền Yasukuni nữa. Đó là tâm ý của ta". Matsudaira được cho là Yoshitami Matsudaira, người được chọn vào chức vụ Trưởng ban quản lý các vấn đề về Hoàng gia ngay sau kết thúc Thế chiến hai. Sau đó Nagayoshi, con trai ông ấy tiếp nhận chức vụ của giáo sĩ đứng đầu Yasukuni đã quyết định vinh danh những người tội phạm chiến tranh vào năm 1978. Việc Nagayoshi Matsudaira mất một năm trước (ngày 13 tháng 7 năm 2005) có thể là lý do để bản ghi chép này được công bố. Theo nhận xét của nhà báo Masanori Yamaguchi, người đã có dịp xem qua bản ghi chép của Thiên hoàng và cũng là một trong số những người đầu tiên tham gia buổi họp báo vào năm 1975, rằng Thiên hoàng có vẻ đã chịu ưu phiền rất nhiều khi nghĩ đến trách nhiệm của mình trước nỗi đau của Hiroshima, và rằng ông đã "không làm gì được", điều này có nghĩa ông ấy lo ngại việc quyết định vinh danh những người này sẽ một lần nữa khơi dậy vấn đề trách nhiệm của ông trong cuộc chiến. Tội ác chiến tranh Trên phương diện chiến tranh, tội ác chiến tranh là một hành động vi phạm các qui phạm trong các điều khoản trong bộ luật quốc tế liên quan đến một người hay một nhóm người mà là quân nhân hay công dân. Các tội ác chiến tranh có thể diễn ra giữa các phe phái trong nội chiến hay giữa các nước đang có xung đột với nhau về vũ trang (ICTY 1995). Trước đây các quy định về tội ác chiến tranh bị giới hạn trong các xung đột quốc tế nhưng dần được mở rộng hơn theo thời gian dưới các phong trào đấu tranh nhân quyền của Tổ chức nhân quyền quốc tế. Do khái niệm "chiến tranh" có thể gây tranh cãi và lại càng gay go hơn với thuật ngữ "tội ác chiến tranh" được sử dụng giữa các nước dưới các hình thức khác nhau và tuy đã có một vài thống nhất chung về khái niệm này, nhưng thật ra nó chỉ được dùng ở những trường hợp có xung đột vũ trang kéo dài đủ để gây ra một sự bất ổn nhất định trong xã hội (phạm vi một nước hay quốc tế). Cho nên những phiên tòa được lập ra để xác định sự "chính nghĩa của cuộc chiến" cũng đã gặp rất nhiều chỉ trích do bị cho là có sự thiên vị đối với bên chiến thắng trong chiến tranh. Có thể xem việc tàn phá thành phố Dresden (Đức) trong các trận ném bom của quân Đồng minh hay việc sử dụng vũ khí hạt nhân với Nhật Bản trong Thế chiến hai như là một ví dụ cho điều này. Ở những khía cạnh mà những điều lệ ghi trong Luật pháp quốc tế chưa thể giải quyết triệt để, vẫn còn tồn tại nhiều những tranh cãi liên quan đến tính khách quan khi tiến hành xem xét một cá nhân có là tội phạm chiến tranh hay không. Các khu vực chính Đền Yasukuni trải dài trên khu đất 2,41 dặm vuông với khoảng 1,54 dặm vuông công trình liên quan. Khu đền chính Liệt kê theo thứ tự từ Đông sang Tây Khu Haiden: xây dựng vào 1901, là khu vực cầu nguyện chính của những người đến cầu nguyện cho mục đích tín ngưỡng Thần đạo. Phần mái của khu này được sửa lại vào năm 1989. Bức màn trắng sẽ được các giáo sĩ trang trí lại thành màu hồng khi Đền vào mùa lễ bái. Khu Honden: khu vực thờ phụng chính dành cho các kami. Được xây dựng vào năm 1872 và trang hoàng lại vào 1989, cũng là nơi dành cho các giáo sĩ hành lễ và hoàn toàn biệt lập với khách viếng. Khu Reijibo Hōanden: nằm phía sau khu Honden về phía Đông, là khu lưu giữ Quyển thánh thư (Book of souls) - một tài liệu được làm bằng tay theo kiểu Nhật ghi tên của các đấng thần linh của Thần đạo được thờ tại đây. Được xây dựng từ các mẫu bê tông đã hư hại từ các vụ động đất được Thiên hoàng Chiêu Hòa đưa đến vào năm 1972. Khu Motomiya: được xem như một khu đền phụ, lúc đầu được xây dựng tại Kyoto nhằm mục đính vinh danh những người đã hi sinh vì sự trung thành của họ trong những ngày đầu của thời kì Minh Trị Duy Tân. Bảy mươi năm sau, khu đền này được đưa đến Yasukuni vào 1931. Motomiya theo tiếng Nhật có nghĩa là "Ngôi đền cũ" với ngụ ý rằng đây là một trong những khu thánh linh của Đền Yasukuni ngày nay. Khu Chireisha: nằm ở vị trí về phía Nam của khu đền Motomiya, vốn là một ngôi đền nhỏ được xây vào 1965. Chủ yếu dùng để phụng thờ những người chưa được đưa vào khu Honden - vốn là những người chết từ các quốc tịch khác có liên quan đến Nhật Bản. Yasukuni dành riêng ngày 13 tháng 7 hàng năm để tổ chức một buổi cầu nguyện tại đây. Cổng Torii Daichii Torii: được xem như lớn nhất Nhật Bản, dựng lên lần đầu tiên vào 1921 trên lối đi chính dẫn vào Đền Yasukuni. Cao gần 25m và dài 34m, khách viếng Đền sẽ đi qua cổng này nếu bắt đầu từ hướng Đông sang Tây. Được thay thế một lần vào 1974 khi bị hư hại vào năm 1943 do thiên tai. Daini Torii: có thể gặp trên đường đi vào Đền, là Torii lớn nhất Nhật Bản làm bằng đồng. Được dựng lên từ 1887. Shimmon: nằm giữa Daini Torii và Chumon Torii. Cao 6m và được làm từ cây tùng bách Nhật Bản (Hinoki (檜 hay 桧) có đường kính khoảng 1.5m, dựng lên từ 1934 và được khôi phục lần đầu vào năm 1994. Chumon Torii: Torii bằng gỗ này sẽ gặp sau cùng trước khi đến khu đền Haiden. Được dựng lên vào 2006 và làm từ một cây bách ở tỉnh Saitama. Ishi Torii: được làm bằng đá dẫn đến Đền từ hướng Nam. Dựng lên từ 1932, có thể đến khu vực Parking bằng lối đi này. Kitaman và Minamimon: dẫn đến Đền từ hướng Bắc và Nam. Khách đến viếng có thể nhận ra Minamimon Torii do vốn là một cổng nhỏ làm bằng gỗ. Khu tưởng niệm Irei no Izumi: được xây dựng gần đây để tưởng nhớ đến những người chết do khát từ các trận đánh. Ōmura Masujirō: được làm tự nghệ nhân điêu khắc Okuma Ujihiro vào 1893, cũng là tượng đài đầu tiên làm bằng đồng mang phong cách châu Âu. Được xây để vinh danh Ōmura Masujirō, người đàn ông mệnh danh "Cha đẻ của quân đội hiện đại Nhật Bản". Tượng của người mẹ góa: được dựng lên để vinh danh các bà mẹ phải nuôi con một mình khi chồng của họ hi sinh do chiến tranh. Được đưa đến Đền vào 1974 do "Hội của các đứa con" đóng góp. Tượng đài của Tiến sĩ Pal: công trình được đưa vào Yasukuni vào 2005 để vinh danh thẩm phán Radhabinod Pal, một người đơn độc luôn tìm những bằng chứng cho sự vô tội của các bị cáo trong Phiên tòa hình sự quốc tế Viễn Đông. Các khu vực khác Yūshūkan: được xây từ 1882, khu bảo tàng này được đặt ở phía Bắc của khu sảnh đường của Yasukuni trưng bày nhiều hiện vật chiến tranh trong đó có cả phi cơ Zero Fighter và ngư lôi Kaiten dành cho các cảm tử quân (回天, hồi thiên, tức "Thay đổi thế giới" hay "Kiến tạo số phận"). Khu vườn Shinchi Teisen: được bày trí theo phong cách Nhật có từ thời kì Minh Trị. Một thác nhỏ được đặt giữa hồ khu vườn nhằm làm tăng sự thinh lặng của cảnh vật xung quanh. Biểu diễn Sumo: vào 1869, một buổi biểu diễn dành cho các võ sĩ Sumo được tổ chức lần đầu tiên vào dịp mở cửa khu Đền. Kể từ đó, rất nhiều cuộc kỉ niệm tương tự được tiến hành với sự tham gia của các võ sĩ chuyên nghiệp kể cả các nhà vô địch của giải Sumo hạng nặng (yokozuna) thường niên tổ chức vào các dịp lễ mùa xuân. Các trận đấu này được tổ chức miễn phí cho khách viếng Đền. Ō-tōrō: hai ngọn đèn đá lớn nhất Nhật Bản được đưa đến Đền từ 1935. Một cái tượng trưng cho quân đội, cái thứ hai dành riêng cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Ghi chú
Bảy tòa nhà chọc trời của Stalin (tiếng Nga: Высотные здания Москвы) là một nhóm bảy nhà chọc trời khổng lồ của kiến trúc Stalin ở thủ đô Moskva, Nga. Các công trình này được xây dựng trong vòng mười năm, dưới thời Stalin, theo trường phái Tân Cổ điển, kết hợp phong cách của các yếu tố kiến trúc như Baroque Moskva, kiến trúc điện Kremlin, kiến trúc nhà thờ Gothic của châu Âu thời trung cổ cũng như kiến trúc nhà chọc trời của Mỹ trong thập niên 1930. Trong kế hoạch nguyên bản, tổng cộng có tám công trình. Tòa tháp thứ tám là Cung Xô viết, nếu được xây dựng sẽ là công trình cao nhất thế giới vào thời đó. Tuy nhiên, sau cái chết của Stalin, người ta cho rằng công trình này nếu được xây dựng sẽ làm che khuất tầm nhìn điện Kremlin và khách sạn Rossiya được xây dựng thay vào đó. Sau này, Tháp Khải hoàn, được hoàn thành năm 2003 là công trình cao thứ 3 châu Âu hiện nay, và đứng thứ 59 trên thế giới, được coi như toà tháp thứ 8. Đặc điểm chung Các công trình này được xây dựng để thể hiện sức mạnh siêu cường của chủ nghĩa cộng sản, cũng như tạo ra một hình ảnh đối trọng với các công trình nhà chọc trời của người Mỹ. Những hình dáng khổng lồ của các công trình có thể đa dạng nhưng chúng có một số đặc điểm chung. Hình khối chung của tổng thể theo dạng kim tự tháp với các trang trí điêu khắc hoặc tranh vẽ theo trường phái Hiện thực xã hội chủ nghĩa. Ở giữa là một tháp cao trung tâm với đỉnh nhọn, trên nóc có một ngôi sao. Những ngôi sao này là đặc điểm chủ yếu nhất để phân biệt giữa kiến trúc nhà chọc trời của Stalin và nhà chọc trời của Mỹ. Cấu trúc mặt đứng theo chiều đứng được nhấn mạnh bằng các phân vị dọc cửa sổ. Các hàng cột khổng lồ cũng được ưa chuộng ở các công trình, tượng trưng cho sự tập hợp của quần chúng nhân dân. Vị trí của các công trình thường được đặt ở giao điểm của các đại lộ hoặc các trục giao thông chính và làm tâm điểm cho không gian đô thị. Toàn bộ các công trình này được xây dựng dưới sự kiểm tra trực tiếp của Stalin. Những khu tập thể này chứa tới 800 căn hộ dành cho khoảng 3500 người. Tất cả các căn hộ đều được cung cấp hoàn chỉnh các thiết bị nội thất và các dịch vụ công cộng đi kèm như cửa hàng, vườn trẻ, nhà hàng... Các khu nhà này được dành cho các cán bộ cao cấp của Đảng Cộng sản Liên Xô. Tuy nhiên về mặt kiến trúc, các công trình này là một bước lùi so với sự phát triển của kiến trúc thế giới giai đoạn đó. Bảy công trình được xây dựng bao gồm: Khu nhà chính của Đại học Quốc gia Moskva mang tên Lomonosov (MGU - Московский государственный университет имени М.В.Ломоносова), đây là công trình cao nhất châu Âu vào thời đó Chung cư ở Kotelnicheskaya Naberezhnaya Khách sạn Ukraina (Украина) Khách sạn Leningradskaya (Ленинградская) Trụ sở Bộ Ngoại giao Trụ sở Bộ Công nghiệp nặng Chung cư ở quảng trường Kudrinskaya (thường được biết dưới tên Дом на площади Восстания) Ngoài ra, công trình Cung Văn hóa và Khoa học Warzsawa, ở thủ đô Warzsawa của Ba Lan, được xây dựng vào thời điểm này, cũng mang cùng một phong cách kiến trúc.
Slobodan Milošević (20 tháng 8 năm 1941 – 11 tháng 3 năm 2006) là một chính trị gia người Serb của Nam Tư. Ông là Tổng thống Serbia từ năm 1989 đến 1997, tiếp đến là Tổng thống Cộng hòa Liên bang Nam Tư (liên bang giữa Serbia và Montenegro) từ năm 1997 đến 2000. Tên Milošević là tên tiếng Serb (Слободан Милошевић), theo phiên âm quốc tế IPA là []. Sau Chiến tranh Kosovo năm 1999, ông bị khối quân sự NATO do Mỹ dẫn đầu lật đổ và là quốc trưởng đầu tiên mà đang còn nắm quyền bị buộc tội diệt chủng tại tòa án xử các tội phạm chiến tranh (Cáo trạng sau này thêm vào các tội phạm trong chiến tranh Nam Tư 1991–1995). Sau khi Milošević phải từ chức tổng thống Nam Tư vào ngày 5 tháng 10/2000 vì các cuộc biểu tình tập thể, ông bị thủ tướng Serbia Zoran Đinđić ra lệnh bắt vào năm 2001 và giao cho tòa án xử tội phạm chiến tranh Liên Hiệp quốc ở Den Haag. Vụ án bắt đầu năm 2002, tuy nhiên Milošević đã chết đột ngột trong nhà giam vào năm 2006. Tòa án tuyên bố ông Milošević, người bị bệnh tim và tăng huyết áp, đã chết vì đau tim. Tòa án cũng phủ nhận bất kỳ trách nhiệm nào về cái chết của Milošević và tuyên bố rằng ông đã từ chối không dùng thuốc theo quy định và tự mình dùng thuốc. Vào năm 2015, tòa án đã kết luận không có chứng cứ để buộc tội Milošević đã phạm tội ác chiến tranh. Tiểu sử Trong Nội chiến Nam Tư những năm 1991-1992, Milošević lúc đó là Tổng thống Serbia. Theo cáo buộc của Mỹ và phương tây, ông đã tham gia tích cực vào việc thảm sát nhiều thường dân ở Sarajevo và Sebrenica (phải tới năm 2015, tòa án quốc tế mới tuyên bố ông vô tội, nhưng khi đó ông đã chết được gần 10 năm). Ông cũng dẫn đầu đảng cầm quyền Xã hội Chủ nghĩa của Serbia. Mất quyền lực và bị dẫn độ Milosevic bị thua trong cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 10 năm 2000 trước đối thủ Vojislav Kostunica, ứng viên đối lập được phương Tây hậu thuẫn, nhưng chỉ chịu giao quyền khi dân chúng xuống đường biểu tình, được biết tới như là cuộc cách mạng xe ủi đất (bulldozer revolution). Năm 2001, sau khi thôi chức, ông bị cảnh sát bắt giam về tội danh "Lạm dụng quyền lực" và tham nhũng. Tuy nhiên, sự việc không dừng lại ở đó, ông còn bị thủ tướng Serbia Zoran Đinđić cho dẫn độ và đưa ra xét xử tại Tòa án quốc tế tội phạm chiến tranh ở Den Haag (La Hay), Hà Lan. Việc dẫn độ này gây ra xáo trộn chính trị ở Nam Tư. Tổng thống Koštunica phủ nhận việc dẫn độ là bất hợp pháp và vi hiến, trong khi một đảng nhỏ trong liên minh chính phủ của thủ tướng Đinđić rời khỏi chính quyền để phản đối. Đinđić cho là sẽ có những hậu qura xấu cho Serbia, nếu chính phủ không chịu thỏa hiệp. Thêm vào đó, chính phủ lý luận là giao Milošević cho tòa án Den Haag không phải là cho dẫn độ vì đó là một cơ quan của Liên Hợp Quốc chứ không phải là một nước khác. Theo sau cuộc dẫn độ, Nam Tư nhận được khoảng 1 tỷ USD tiền trợ giúp tài chính. Vụ án tội ác chiến tranh Slobodan Milosevic, Tổng thống Sebia từ năm 1989, bị phương Tây kết tội đã phát động cuộc xâm lăng quân sự của Serbia và những chính sách thanh tẩy chủng tộc tàn nhẫn sau khi Nam Tư tan rã đầu thập niên 1990. Ông cũng bị cáo buộc về những tội ác tương tự sau khi ông trở thành Tổng thống phần lãnh thổ còn lại của Nam Tư gồm Serbia và Montenegro năm 1997. Ông là một trong những nhân vật quan trọng trong Chiến tranh Nam Tư và là nguyên thủ quốc gia đầu tiên bị Tòa án quốc tế Den Haag truy tố vì tội diệt chủng và các tội ác chống lại loài người, cộng thêm tội ác chiến tranh ở Croatia, Bosna và Kosovo hồi những năm 1990. Ông cũng bị buộc tội có hành động diệt chủng trong cuộc chiến Bosna từ 1992–1995 làm 200 nghìn người thiệt mạng. Khi bị trao trả để mang ra Tòa xét xử tội ác Quốc tế của Liên Hợp Quốc, ông tự cho mình là một sứ giả hoà bình ở vùng Balkan. Ông không chấp nhận phiên toà, phủ nhận 66 điểm buộc tội chống lại mình và từ chối trả lời các câu hỏi "có hay không có tội", cho là ông đã làm đúng theo hiến pháp để bảo vệ dân tộc ông và ông đổ cho phương tây đã gây nên nội chiến cho dân tộc ông, biên bản phiên toà ghi là ông "không nhận tội". Phải tới năm 2015, 15 năm sau phiên tòa, tòa án quốc tế mới kết luận là không có chứng cứ để buộc tội ông, nhưng khi đó ông đã chết được 10 năm. Những lời buộc tội của phương Tây đối với ông là hoàn toàn bịa đặt, giống như cái cớ "Iraq tàng trữ vũ khí hủy diệt hàng loạt" mà Mỹ dùng để lật đổ Tổng thống Saddam Hussein. Nói cách khác, Milosevic đã bị giam và chết oan uổng trong một nhà tù của Liên Hợp Quốc. Nhà báo độc lập người Pháp Dimitri De Koshko đang làm việc tại Nam Tư tại thời điểm bắt giữ ông Milosevic, đã theo dõi chặt chẽ các phiên tòa xử cựu lãnh đạo Nam Tư ở La Haye, tóm gọn kết quả như sau: “Ông Milosevic sau khi chết đã được tòa án tha bổng một cách rất lặng lẽ” "10 năm trước, Milosevic bị buộc tội diệt chủng đối với người Albania. Ông đã bác bỏ cáo buộc này. Trong khi theo tòa án, 250.000 người Albania đã thiệt mạng ở Kosovo. Và đặc vụ Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI), cũng như đặc vụ từ các nước khác, mà họ gọi là “các nền dân chủ phương Tây”, tới Kosovo để điều tra. Những người này không tìm thấy dấu vết của bất kỳ ngôi mộ tập thể nào ở đó. Nhưng họ lại tìm thấy hài cốt của người Serb và Roma bị tra tấn, giết hại bởi cái gọi là “Quân đội Giải phóng Kosovo” – lực lượng đang được NATO hậu thuẫn vào thời điểm đó. Nhưng truyền thông phương Tây đã không nói bất cứ điều gì về những tội ác trắng trợn ở Nam Tư. Họ cũng bỏ qua thực tế rằng, người Serbia đã bị trục xuất khỏi Krajina (Croatia) một cách tàn bạo. Họ cũng đã im lặng về Iraq và sau đó là Libya” Hồi ông Milosevic còn nắm quyền, hầu như toàn bộ hệ thống tuyên truyền của phương Tây đều mô tả ông là người xấu xa đủ kiểu, gọi ông là “đồ tể vùng Balkans”, là con quỷ khát máu, là hậu duệ Hitler… Nhưng nay thì hệ thống tuyên truyền đó ỉm đi, không một lời bình luận về kết luận của tòa án. Còn "tòa án quốc tế” thậm chí còn chẳng ra một thông cáo báo chí để rửa sạch tội cho Milosevic. Ông Milosevic, cũng như Saddam Hussein (Iraq) hay Muammar Gaddafi (Libya) đều có chung số phận là bị “dân chủ phương Tây” hạ sát và bị gán cho những tội danh mà họ không gây ra, và đất nước mà họ lãnh đạo cũng tan vỡ sau cái chết của họ. Những hung thủ (nguyên thủ các nước phương Tây) thì không phải chịu hậu quả nào, thậm chí cũng không cần xin lỗi, bởi vì thế giới không có một tòa án nào có thể xét xử họ cả. .. Cái chết Sau 5 năm ở tù và vài tháng trước khi kết thúc phiên tòa của ông, ngày 11 tháng 3 năm 2006, người ta đã phát hiện ông đã chết ngay trên giường trong xà lim. Ông Miloševic bị bệnh tim và cao huyết áp nhưng tòa án Den Haag không cho phép ông sang Nga chữa bệnh mặc dù Chính phủ Nga đã cam kết bảo đảm an toàn cho ông Milosevic và ông sẽ phải trở lại tòa sau khi điều trị. Ông đã chết trong tù, theo luật sư của ông là Ždenko Tomanović cho biết, trước khi chết một ngày, Milošević đã bày tỏ lo ngại bị đầu độc. Nguyên nhân cái chết của ông Miloševic đã được các bác sĩ đầu ngành mổ khám nghiệm của: Nga, Serbia và Hà Lan thống nhất và kết luận: là do bệnh tim. Tuy nhiên, theo nhà báo Koshko, ông Milosevic đã chết trong hoàn cảnh rất lạ. “Người ta đã đưa cho ông Milosevic một loại thuốc vô hiệu hóa tác dụng thuốc chống cao huyết áp mà nhà lãnh đạo Serbia đang sử dụng. Điều này là vô lý, nhưng Chính phủ Hà Lan từ chối chia sẻ chi tiết về việc điều trị cho ông. Theo các dữ liệu sẵn có qua Wikileaks, các thẩm phán đã thảo luận chi tiết về việc điều trị cho ông Milosevic với các nhân viên của Đại sứ quán Mỹ tại Hà Lan. Đây là một vi phạm trực tiếp đối với bảo mật y tế. Tiết lộ của Wikileaks cho thấy, hóa ra ông Milosevic không biết về những loại thuốc mà ông đang sử dụng trong tù. Tất cả điều này đã đủ để nghi ngờ cái chết của ông không bình thường như người ta công bố”. Khi ông Milošević chết, tòa án Quốc tế La Hay dừng vĩnh viễn vụ xét xử ông. Xung quanh cái chết của ông, một số người Serbia coi ông như người anh hùng dân tộc, muốn xác ông chôn tại quê hương ông cùng với những người anh hùng đã ngã xuống vì dân tộc, còn những người Bosna không muốn ông chết mà muốn chứng kiến ông bị kết tội và ngồi tù chung thân. Cái chết của ông Milosevic cũng là lối thoát cho chính ông, nhờ đó ông khỏi trở thành nhà lãnh đạo phương Tây đầu tiên bị kết án vì những hành động vào thời của mình. Chánh án ICTY Carla de Ponte đã thừa nhận: Milosevic đã "ném cho chúng tôi thách thức cuối cùng..." và "đến khi chết, về mặt luật pháp ông ta vô tội". Trong cuộc phỏng vấn cuối cùng trước khi chết trong nhà tù của "Toà án quốc tế" ICTY (11/3/2006), ông nói: Lời phát biểu của Milosevic đã ứng nghiệm chỉ 7 năm sau, khi Ukraina nổ ra một cuộc đảo chính do phương Tây hậu thuẫn, đẩy nước này vào cuộc nội chiến đẫm máu.
Mars Reconnaissance Orbiter (tiếng Anh, viết tắt MRO, tức là "Tàu quỹ đạo Trinh sát Sao Hỏa") là tàu vũ trụ đa chức năng, được phóng lên ngày 12 tháng 8 năm 2005 để tìm hiểu về Sao Hỏa bằng cách quan sát tỉ mỉ, để kiếm nơi có thể hạ cánh trong các chuyến hạ xuống trong tương lai, và để chuyển tiếp tin nhanh cho các chuyến đó. Nó được thiết kế để bay trên quỹ đạo bốn năm, trở thành vệ tinh nhân tạo thứ tư hoạt động tại Sao Hỏa (cùng với Mars Express, Mars Odyssey, và Mars Global Surveyor), và máy dò thứ sáu (các vệ tinh cùng với hai phi thuyền Mars Exploration), trong thời điểm có nhiều quan tâm khoa học về Sao Hỏa.
Từ Viking có nhiều hơn một nghĩa: Người Viking là những người đầu tiên ở Bắc Âu, thường được nghĩ là chiến binh lưu động trên các chiến thuyền hoặc những kẻ cướp biển, nhà thám hiểm. Thời đại Viking là một thời đại trong lịch sử Bắc Âu từ khoảng năm 793 tới năm 1066, gắn liền với những cuộc xâm lược, đánh phá của người Viking. Bảo tàng tàu Viking (Roskilde), Đan Mạch Chương trình Viking là một chương trình thám hiểm Sao Hỏa không người lái của NASA, bao gồm tàu vũ trụ Viking 1 và Viking 2
Người Viking hay người Duy Kinh (tiếng Anh: Vikings, tiếng Trung: 維京人) là tên gọi dùng để chỉ những nhà thám hiểm, thương nhân, chiến binh, hải tặc đến từ bán đảo Scandinavia (lãnh thổ các nước Đan Mạch, Na Uy, Thuỵ Điển, từ cuối thế kỷ 8 đến cuối thế kỷ 11 đã đột kích, cướp biển, buôn bán và định cư khắp các vùng của Châu Âu. Băng Đảo và Phần Lan của khu vực Bắc Âu ngày nay) vào thời đại đồ đá muộn. Họ cũng đã đi xa tới Địa Trung Hải, Bắc Phi, Trung Đông và Greenland. Ở quốc gia xuất xứ của họ và một số quốc gia mà họ đột kích và định cư, thời kỳ này được biết đến phổ biến là Thời đại Viking, và thuật ngữ "Viking" cũng thường bao gồm toàn bộ cư dân của quê hương Scandinavi. Người Viking có ảnh hưởng sâu sắc đến Scandinavia đầu Trung cổ, the British Isles, Pháp, Estonia, và Kievan Rus'. Người ta thường nhắc tới người Viking như các chiến binh lưu động trên thuyền hoặc những kẻ cướp biển, nhưng họ cũng là các nông dân và các nhà buôn giỏi. Những tay cướp biển người Viking giương buồm đi khắp châu Âu và bắc Đại Tây Dương trên những chiếc thuyền dài, đánh phá cướp bóc và xâm chiếm phần lớn các vùng đất trù phú tại châu Âu, rồi định cư tại những vùng đất chiếm được. Thời đại Viking bắt đầu khoảng cuối thế kỷ 8 và kéo dài đến giữa thế kỷ 11. Một trong những cuộc thám hiểm quân sự đầu tiên của người Viking, được ghi lại trong sử sách của người Anglo-Saxon, là cuộc đánh chiếm đảo Portland, gần hạt Dorset của Anh, vào năm 787. Tháng 6 năm 793, người Saxon lại ghi nhận cuộc tấn công các tu viện trên đảo Lindisfarne (còn gọi là Holy Island) ở phía đông nước Anh. Trong 200 năm tiếp theo, lịch sử châu Âu đã tràn ngập những ghi chép về hải tặc Viking và các cuộc cướp phá của họ. Người Viking đã xâm chiếm và thiết lập thuộc địa tại nhiều vùng đất. Họ đã từng xâm lăng vương quốc của người Anglo-Saxon và chiếm đóng phần lớn miền tây và bắc của Anh và toàn bộ Ireland, để lại nhiều ảnh hưởng tại các vùng duyên hải của Ireland và Scotland. Họ cũng đã xâm chiếm các vương quốc trên bán đảo Iberia, Pháp, vùng Baltic và Nga. Đồng thời, người Viking đã khai phá các quần đảo hoang ở biển Bắc như Greenland, Iceland hay Quần đảo Faroe. Các công trình nghiên cứu khảo cổ còn cho thấy người Viking tới châu Mỹ trước nhà thám hiểm Christopher Columbus khoảng 500 năm và đã lập nhiều làng mạc tự trị nhỏ dọc theo bờ biển bắc Đại Tây Dương (một di tích của họ còn được bảo tồn tại L'Anse aux Meadows, thuộc tỉnh bang Newfoundland và Labrador của Canada) Nguồn Gốc Từ viking xuất hiện lần đầu trong bài thơ Widsith được viết bằng tiếng Anglo-Saxon cổ khoảng thế kỷ X. Ngoài ra, từ này cũng thấy trên tấm bia đá khắc bằng chữ rune, trên đó có khắc tên một người và hành vi của người đó khi còn sống. Nguồn gốc của từ này khá mù mờ, xuất xứ từ chữ vikingr trong tiếng Bắc Âu cổ (tiếng Anh cổ là wicing, tiếng Frisk cổ là wiking). Có thể từ này cùng ngữ tộc với từ vik hoặc vig, với nghĩa là "người cùng với thuyền tới vũng biển nhỏ" hoặc "người từ Viken" (vùng vịnh Oslo, Na Uy (theo từ điển tiếng Đan Mạch hiện đại, ấn bản lần 9, năm 1977). Từ viking cũng chỉ một hành động, ví dụ lå i viking là chiến binh đi viễn chinh bằng tàu. Trong Egil Skallagrimssons saga (truyện truyền kỳ về Egil Skallagrimsson 910-94) do tác giả vô danh viết khoảng năm 1230, có đoạn: "... og Harald, som lå i viking og sjælden var hjem" (... và Harald, đi viễn chinh bằng tàu và hiếm khi ở nhà). Theo nhà văn kiêm sử gia Đan Mạch gốc Na Uy Ludvig Holberg, từ Viking đồng nghĩa với kẻ cướp biển, còn theo nữ giáo sư kiêm sử gia Đan Mạch Else Roesdahl thì từ Viking trong ngôn ngữ Bắc Âu cổ nhánh phía tây, có nghĩa đại loại như "chiến binh trên biển, kẻ cướp biển, người đi biển v.v." Từ viking không nói về mọi dân tộc Bắc Âu, nhưng chỉ nói về một bộ phận thương nhân, cướp bóc hoặc làm lính đánh thuê trên biển. Cho nên, từ viking thời đó cũng không có nghĩa như chúng ta dùng ngày nay. Những người Frank gọi họ là Normands (những người phương bắc), người Slav gọi họ là Rus hay Varyag (chỉ bộ tộc Varagryan đến từ Phần Lan), người Ả Rập gọi họ là Madjus, người Ireland gọi họ là các người theo tà giáo hay đơn giản là người ngoại quốc (gaills). Nguồn gốc xã hội Những người Viking chỉ là một thành phần dân cư các nước Bắc Âu thời đó. Theo tục lệ, chỉ người con trưởng được thừa kế gia tài hoặc tước vị, và hầu hết các người con thứ phải đi nơi khác sinh sống. Hơn nữa việc gia tăng dân số khiến cho ruộng đất và việc làm càng ngày càng không đủ cho mọi người, nên cũng góp phần thúc đẩy những người khác phải đi ra nước ngoài. Sự thành công của các chuyến đi cướp bóc ban đầu đã khiến cho các tù trưởng ham lợi và họ đã tổ chức các chuyến hải hành cướp phá lớn hơn. Sau đó là việc thu phục nô lệ và chiếm thuộc địa. Lý do chính trị Trong một số giai đoạn, các cuộc cướp phá, xâm lược của người Viking Đan Mạch lại phát xuất từ nguyên nhân chính trị. Một số sử gia quả quyết rằng các chuyến đi cướp phá ban đầu này trùng hợp với các cuộc nội chiến. Các chuyến đi cướp bóc ở châu Âu là để lấy của cải cung cấp cho các cuộc nội chiến giữa các bộ tộc. Điều đó cũng cho thấy là những người Viking Na Uy và Thụy Điển nói chung nghiêng về việc buôn bán và chiếm thuộc địa hơn là cướp phá như người Viking Đan Mạch. Tôn giáo và phong tục Thời đó niềm tin vào các vị thần trong thần thoại Bắc Âu khiến các chiến binh Viking luôn hăng say chiến đấu một mất một còn. Thần thoại Bắc Âu nhấn mạnh rằng một chiến binh đích thực thì phải chết tại trận tiền và sẽ trở thành người được cư ngụ tại Valhalla (nơi các thần cư ngụ) sau khi chết, cùng với các thần khác. Một chiến binh Viking nếu chết vì tuổi già hoặc chết trên giường bệnh thì linh hồn sẽ bị đày Hel (âm phủ tối tăm lạnh lẽo). Một chiến binh đích thực rất sợ cái chết thứ hai này, do vậy họ luôn chiến đấu với tinh thần dũng cảm. Các chiến binh đi biển thiện chiến Những người Viking nổi tiếng là các chiến binh giỏi. Điều đó do nhiều yếu tố: tàu của họ nhanh và có thể chạy xa. Với 200 chiến thuyền, họ có thể chở 5.000 quân đi một ngày được 150 hải lý (khoảng 280 km), do đó đối phương thường không kịp tập trung lực lượng để phòng thủ, đối phó. Ngoài ra họ có khả năng đổ bộ nhanh lên các bãi biển hoặc dọc theo các sông nhỏ mà không cần cảng. Các chiến thuyền snekke của họ lại nhẹ, dễ đem lên đất liền. Người Viking giong buồm đi hầu hết Bắc Đại Tây Dương, đến tận phía nam của Bắc Phi, phía đông của Nga, Constantinopolis và Trung Đông. Trang bị của các chiến binh Viking Võ trang thông thường của người Viking là rìu sắt, khiên tròn, mũ sắt bảo vệ đầu có tấm che mũi (jernhat), áo trận với quần dài màu xám hoặc xanh dương. Chỉ những người chỉ huy mới dùng kiếm và áo giáp sắt. Đặc biệt, trang bị của nhà vua khi thân chinh cũng vô cùng đặc biệt. Mũ sắt của vua Erik Vejrhat có cắm một lá cờ nhỏ, vua Guldharald có mũ bảo vệ đầu bằng vàng. Phương tiện vận chuyển của người Viking là các chiến thuyền thon dài có cánh buồm và ít nhất 24 mái chèo. Thời đại Viking Thời đại Viking từ khoảng năm 753 tới năm 1066. Thời đại này ghi nhận vô số chuyến viễn chinh cướp bóc của người Viking, theo sau là các cuộc chiếm đóng với quy mô lớn. Người Viking Đan Mạch đã tàn phá, cướp bóc đảo Anh, Ireland và Francia; trong khi người Viking Na Uy dong buồm đến Scotland, quần đảo Orkney, quần đảo Faroe, Iceland và đảo Greenland. Còn người Viking Thụy Điển lại đi về phía đông, đến Nga và thậm chí đến tận đế quốc Byzantine. Trong thời đại này, các nhóm người Viking đã đi buôn bán, cướp phá phần lớn châu Âu, tây nam châu Á và khám phá vùng Bắc Đại Tây Dương, đông bắc châu Mỹ. Ngoài việc giao thương và cướp phá, họ cũng đánh thuê, bắt cóc nô lệ và cũng góp phần vào việc phát triển chế độ phong kiến ở châu Âu. Xã hội Viking trong thời đại này chưa hình thành quốc gia, mà chỉ là các đơn vị nhỏ dưới dạng thôn làng độc lập. Việc hình thành quốc gia ở Bắc Âu thuộc thời trung cổ. Chiến thuyền Viking Người Viking sử dụng hai loại thuyền: drakar (có nghĩa là con rồng theo tiếng Na Uy) và knarr. Drakar là chiến thuyền lớn và dài, được dùng cho mục đích chiến tranh và những cuộc thám hiểm xa, có tốc độ nhanh được thiết kế có nhiều mái chèo để hỗ trợ cho việc di chuyển trên biển và giúp tàu có thể tự vận hành mà không cần tới gió. Các chiến thuyền loại này có thân dài và hẹp, có mạn tàu phía trên thấp nhằm hỗ trợ cho việc đổ bộ lên đất liền. Trong khi đó, loại tàu knarr có thân ngắn hơn có vận tốc thấp hơn nhưng có khả năng chuyên chở nhiều hơn so với drakar. Nó được thiết kế với thân tàu ngắn và rộng, với lòng tàu sâu. Nó không có mái chèo như loại tàu drakar. Người ta thường coi tàu drakar là "tàu Viking", như tàu mang tính đặc trưng của người Viking. Năm 1997 các nhà khảo cổ đã tìm thấy một tàu Viking lớn với chiều dài khoảng 36 mét, chứa được khoảng 100 người. Hiện nay tại Nhà bảo tàng tàu Viking (Vikingeskibsmuseet) tại Roskilde, Đan Mạch còn lưu giữ 5 xác tàu Viking - 3 tàu drakar và 2 tàu knarr, được khai quật từ Vịnh Roskilde từ năm 1962. Năm tàu này được đặt tên là Skuldelev 1, 2, 3, 5, 6 (vì tìm thấy tại Vịnh Roskilde, bên ngoài Skuldelev). Riêng tàu Skuldelev 2 có chiều dài là 29,6 mét, được đóng tại Dublin, Ireland. Nghiên cứu về sự phát triển của thớ gỗ, người ta được biết nó được đóng bằng gỗ sồi rừng, chặt năm 1042 dường như tại khu rừng Glendalough phía nam Dublin. Từ khoảng 2000-2004, người ta đã đóng một tàu mới đúng theo phiên bản của tàu Skuldelev 2 tại Xưởng đóng tàu Viking (bên Viện bảo tàng tàu Viking nói trên). Tàu được hạ thủy ngày 4 tháng 9 năm 2004 và được Nữ hoàng Margrethe II của Đan Mạch đặt tên là Havhingsten fra Glendaglough (con ngựa đực của biển từ Glendalough). Mùa hè năm 2006, tàu này đã làm chuyến hải hành tới đảo Læso (Đan Mạch), Lysekil (Thụy Điển) Oslo, Tønsberg, Risør và Lyngør (Na Uy). Ngày 1 tháng 7 năm 2007, tàu Havhingsten này cùng với thủy thủ đoàn 61 người đã giương buồm đi Dublin (Ireland), làm một chuyến trở về cội nguồn, từ cảng Roskilde (Đan Mạch) lúc 16 giờ. Tàu đã tới Dublin ngày 14 tháng 8 năm 2007, sau 6 tuần lễ lênh đênh trên biển cả, đúng theo dự kiến mặc dù gặp thời tiết không thuận lợi, và đã đạt được tốc độ kỷ lục là 12 knot (khoảng 20 km/giờ). Đài BBC đã làm một phim tài liệu dài 50 phút về chuyến đi lịch sử này với tựa đề Timewatch và nhiều triệu người đã theo dõi. Hiện tàu Havhingsten nằm lại qua mùa đông ở Viện bảo tàng hàng hải quốc gia Ireland. Theo dự kiến, tàu sẽ bắt đầu lên đường trở lại Đan Mạch từ ngày 29.6.2008, với một thủy thủ đoàn gồm những người Đan Mạch và người Ireland. Ngày chúa nhật lễ Phục sinh 23.3.2008, tại Dublin (Ireland), viên thuyền trưởng của tàu này Carsten Hvid (người Đan Mạch) đã nhân danh thủy thủ đoàn lãnh nhận giải thưởng cao quý nhất của Ireland Cork Dry Gin International Sailing Award cho chuyến đi năm ngoái với lời khen: là một thủy thủ đoàn giỏi, đã chịu đựng được các điều kiện thời tiết khắc nghiệt, giá lạnh và vô số gió mưa suốt 6 tuần lễ hải hành. Ngoài Viện bảo tàng tàu Viking ở Roskilde nói trên, ở Na Uy cũng có Nhà bảo tàng tàu Viking (Vikingskipshuset) tại Bygdøy (tây thành phố Oslo) có trưng bày xác 4 tàu khác là tàu Tune (được đóng khoảng từ năm 900), tàu Gokstad (đóng từ khoảng cuối thế kỷ 9), tàu Oseberg (đóng từ thế kỷ 9) và tàu Borre. Khảo cổ học Các địa điểm mai táng: Gettlinge gravfält, Öland, Thuỵ Điển Jelling, Denmark, một di sản thế giới Oseberg, Na Uy. Gokstad, Na Uy. Borrehaugene, Horten, Na Uy Valsgärde, Thuỵ Điển Gamla Uppsala, Thuỵ Điển Hulterstad gravfält, gần Alby và Hulterstad, Öland, Thuỵ Điển Trulben, gần Hornbach, thuộc Rhineland-Palatinate, Đức Tóm lược các sự kiện chính Năm 753: người Viking Thụy Điển thiết lập lãnh địa đầu tiên tại thị trấn Aldeigjuborg (nay là Staraya Ladoga, tỉnh Leningrad, Liên bang Nga). Năm 789: 3 chiến thuyền Viking Na Uy tấn công đảo Portland (trên biển Manche). Năm 793: người Viking cướp phá tu viện trên đảo Lindisfarne, miền đông nước Anh. Năm 795: người Viking Lambay (Na Uy) đến vùng Ireland. Năm 799: người Viking lần đầu đột nhập vùng Nouvelle-Aquitaine (tây nam Pháp), dưới triều đại vua Charlemagne và là cuộc tấn công đầu tiên vào vương quốc Francia. Năm 802: người Viking đánh chiếm quần đảo Orkney, Shetland và Hebrides của Scotland Năm 813: người Viking đánh chiếm và đốt phá đảo Bouin (nay thuộc Nantes, Pháp) Năm 820: người Viking Na Uy tiếp tục tấn công các vương quốc Ireland. Năm 833: người Viking Thụy Điển tiếp tục khai thác các tuyến đường thủy ở miền tây Nga. Năm 834: người Viking Đan Mạch xâm chiếm và đốt phá vùng Friesland (nay thuộc Hà Lan). Cùng năm nay, tàu buôn Viking Thụy Điển bắt đầu giao thương tại Biển Đen. Năm 835: người Viking Đan Mạch trú đóng phía đông Anh và tiếp tục tấn công phía tây hòn đảo này. Năm 838: người Viking chiếm thành phố Amboise (bờ phía nam sông Loire, Pháp) Năm 839: hoàng đế Theophilos của Byzantine lập đội quân cận vệ gồm lực lượng lính đánh thuê Viking Thụy Điển Năm 841: người Viking tấn công lần đầu Rouen, cướp phá các tu viện Jumièges, Saint-Wandrille (Pháp) và đảo Walcheren (nay thuộc Hà Lan) Năm 842: người Viking tấn công Quentovic ở cửa sông Canche tại Pas-de-Calais (Pháp) (theo vài nguồn khác là năm 840 hoặc 844) Năm 843: người Viking chiếm Nantes (Pháp). Người Ireland nổi dậy chống người Viking Na Uy. Năm 844: hải tặc Viking lần đầu đánh phá vùng Coruna và Sevilla (Tây Ban Nha), bị đẩy lui bởi Ramire I và vua nhà Omeyyad Abd-al-Rahman II của Cordoba. Năm 845: vua Thụy Điển và Đan Mạch Ragnar Lodbrok chỉ huy vây hãm Paris lần đầu tiên và bị đánh bại. Sau đó, vua Ragnar tiếp tục dẫn quân cướp phá Saintes (vùng Charente), Tarbes (nay là Hautes-Pyrénées), Ancenis, Angers, Saumur, Chinon. Vua Charles II le Chauve phải nộp cống vật. Năm 846: hải tặc Viking chiếm đảo Noimoutier ở Bas-Poitou. Năm 848: người Viking tấn công Bordeaux, cướp phá đảo Ré, Melle, Blaye, Saintes, Angoulême Năm 849: người Viking cướp phá Périgneux, Fronsac, Sainte Foy, Agen, Montauban, nhưng bị đánh bại tại Tarbes. Năm 850: vua Ragnar cùng hải quân Đan Mạch tiếp tục chiếm vùng cửa sông Seine và Loire. Cùng năm này, bắt đầu tranh chấp quyền kiểm soát vùng bờ biển Ireland giữa người Viking Na Uy và Đan Mạch. Năm 851: quân viễn chinh cướp phá tu viện Fécamp, Blois, Orléans, Beauvais. Lần đầu ở lại mùa đông trên đất Pháp. Năm 852: quân viễn chinh cướp phá Angers và Tours. Năm 853: lại cướp phá Nantes, Angers và Tours. Lập nhiều thành phố ở Ireland, trong đó có Dublin, Cork và Limerick. Năm 854: xung đột quân sự tại đảo Bethia (nay là đảo Botty ở Bougenais, cửa sông Loire). Đốt phá Lucon (Vendée) Năm 856: cướp phá các tu viện ở Normandie và Ile de France, chiếm Orléans (ngày 18 tháng 8) và tấn công Paris lần thứ hai vào mùa đông. Năm 857: cướp phá Touraine, Poitiers phải trả tiền chuộc. Năm 858: nhiều cuộc tấn công vùng bờ biển bán đảo Iberia: Coruna, Sevilla, Córdoba, Cadiz, Málaga, Almeria, Aguilas, quần đảo Baleares, Algesiras, Murcia (Tây Ban Nha), Porto, 13 ngày cướp phá Lisboa, (Bồ Đào Nha) và Nacor (châu Phi). Năm 859: cướp phá vùng Somme, Narbonne, Agde, Arles, Marseille (Pháp), Tarragona, Barcelona (Tây Ban Nha) và Luna (Ý). Năm 860: tấn công lần đầu Constantinople (nay là Istanbul Thổ Nhĩ Kỳ) và Romans, Isère, Valence (Pháp) Năm 861: người Viking Đan Mạch chiếm Winchester (thủ đô của Wessex Anh). Cuối năm đó, họ tấn công Paris lần thứ ba Năm 862: người Viking Thụy Điển dưới quyền Rurik chiếm đóng Novgorod, lập nên công quốc Rus_ tiền thân của nước Nga Sa Hoàng. Năm 863: ngược sông Rhin cướp Angoulême tới tận Limoges, Périgneux, Poitiers. Năm 864: cướp phá ngược sông Garonne (Pháp) Năm 865: nước Anh nộp cống vật lần đầu cho Skoglar Toste, lãnh chúa vùng Götaland (Thụy Điển). Người Viking Đan Mạch tấn công Paris lần thứ tư, cướp phá Orléans, Poitiers, tu viện Fleury và cướp phá Le Mans nhưng bị người Frank đánh bại. Năm 866: người Frank nộp cống vật. Quân đội Pháp đánh bại người Hasting tại trận Brissarthe ngày 15 tháng 9. Năm 869: vua Charles le Chauve cho xây cầu và pháo đài đầu cầu, chống chiến thuyền Viking. Năm 872: hải tặc Viking cướp phá từ Reims tới Cambrai (Pháp) Năm 874: thủy thủ Viking Na Uy Ingólf Arnarsson tới định cư tại Reykjavik (Iceland) Năm 879: người Viking Thụy Điển chiếm Kiev (nay là thủ đô Ukraina). Vua Pháp Carloman II đánh bại lãnh chúa Viking Hasting. Năm 881: vua Louis III của Pháp thắng người Viking tại Saucourt-en-Vimeu. Năm 882: lãnh chúa Hasting chấp nhận làm bá tước xứ Chartres. Năm 885: người Viking chiếm Rouen, vây hãm Paris lần thứ năm. Pháp nộp cống vật 350 kg bạc. Năm 886: bá tước Eudes I của Pháp kháng chiến, khi người Viking vây hãm Paris gần 90 ngày. Năm 888: hải quân Viking tấn công Dijon và Beaune. Năm 889: hải quân Viking vây hãm thành phố Saint-Lô, tàn sát rất nhiều dân thường. Năm 890: vua Eudes I bao vây thành Amiens do người Viking chiếm, nhưng thất bại. Năm 898: vua Richard II đẩy lui người Viking tại Bourgogne Năm 900: người Viking Đan Mạch chiếm đóng vùng bờ biển Neustrie (bắc Pháp). Nhiều cuộc đánh phá vùng bờ biển Địa Trung Hải Năm 901: thuyền trưởng Viking Na Uy Gunnbjorn phát hiện đảo Greenland. Năm 907: người Viking tấn công Constantinople lần thứ hai. Năm 911: vua Charles III ký Hiệp ước Saint-Clair-sur-Epte (11 tháng 7) nhượng cho lãnh chúa Viking Đan Mạch Rollo vùng Neustrie, đổi lấy việc Rollo bảo vệ vương quốc Francia chống lại những lực lượng Viking khác. Tấn công Constantinople lần thứ ba. Năm 919: Rögnvaldr (Ragenold) chiếm Nantes, vây hãm thành phố Guérande. Năm 921: công tước Robert I định chiếm lại Nantes, nhưng thất bại. Năm 924: vua Raoul I của Pháp nhượng Hiémois và Bessin cho công tước Rollo. Năm 927: người Frank lại vây hãm Nantes do người Viking chiếm đóng, nhưng vẫn thất bại. Năm 933: vua Raoul I lại phải nhượng Avranchin và Cotentin cho Rollo. Năm 941: hải quân Viking tấn công Constantinople lần 4. Năm 942: vua Raoul I cho ám sát Vilhelm I (con trai của Rollo). Năm 945: vua Louis IV bại trận ở sông Dives. Richard I (con của Vilhelm I) thống trị xứ Normandie. Tấn công Constantinople lần 5. Năm 968: tấn công vùng bờ biển Galicia (Tây Ban Nha). Năm 970: vây Santiago de Compostela (Tây Ban Nha). Năm 971: tấn công Constantinople lần 6. Năm 972: người Na Uy Eirik Raude vào Greenland. Năm 986: Thuyền trưởng Viking Iceland Bjarne Herjulvsson phát hiện ra Bắc Mỹ. Năm 991: người Viking Đan Mạch bắt đầu đòi lại cái gọi là Danegæld (món nợ của người Dane). Năm 1000: người Viking Na Uy Leiv Eiriksson đặt chân lên vùng Bắc Mỹ. Năm 1002: vua Anh Ethelred the Unready tàn sát người Viking Đan Mạch trong ngày lễ kính thánh Bricius (13.11), trong đó giết chết Gunhild Harald, em gái của Svend Tveskæg (Svend râu ngạnh), khiến Svend đánh chiếm nước Anh. Brian Boru lên làm vua Ireland. Năm 1013: vua Đan Mạch Svend râu ngạnh đánh chiếm và lên làm vua nước Anh. Người Na Uy Olav Haraldsson đánh phá vùng cửa sông Loire. Năm 1017: vua Ireland Brian Boru thắng người Viking trong trận Clontarf, chấm dứt việc người Viking chiếm đóng Ireland 150 năm. Olav Haraldsson viễn chinh sang Galicia (Tây Ban Nha). Năm 1015: người Viking Iceland rời bỏ khu định cư Vinland (Newfoundland, Canada). Người Viking tàn phá vùng cửa sông Duero (Tây Ban Nha) 9 tháng. Năm 1016: vua Đan Mạch Knud Đại đế (Knude den Store, tiếng Anh: Canute the Great) lên làm vua Anh. Sau khi đánh bại được vua Anh Edmund Sắt Đá. Năm 1017: cướp biển Viking đánh phá vùng bờ biển Pháp tại Saint-Michel-en-l'Herm lần cuối cùng. Năm 1043: người Viking đánh bại quân Byzantine tại Puglia (nam Ý) và chiếm vùng này. Họ đã tấn công thành Constantinople lần cuối cùng. Năm 1061: người Viking Normandie do Robert Guiscard lãnh đạo đánh bại người Hồi giáo tại Messia (Ý) và chiếm đảo Sicilia (Ý). Năm 1066: vua Na Uy Harald III của Na Uy (Harald Hardråde) dẫn 300 chiến thuyền và 9.000 người lập kế hoạch chiếm nước Anh, nhưng bị vua Anh Harold Godwinson đánh bại tại trận Stamford Bridge. Cùng năm, công tước Normandie Vilhelm I kẻ chinh phục (William the Conqueror) chinh phục nước Anh và giành chiến thắng quyết định tại trận Hastings (ngày 14.10), 2 tuần lễ sau thất bại của vua Na Uy Harald. Năm 1072: người Viking Normandie, dưới quyền Robert Guiscard chiếm phần lớn vương quốc Ý Byzantine. Năm 1081: người Viking Normandie xâm lấn vùng Balkans Năm 1185: người Viking Normandie từ đảo Sicilia (Ý) lại xâm lấn Balkans và Thessalonica (nay thuộc miền trung Hy Lạp) Năm 1204: đội vệ binh Viking Thụy Điển bảo vệ Constantinople giải tán, sau khi quân Thập tự chinh lần chiếm thành phố này lần thứ 4. Những người Viking nổi danh Gardar Svarvarsson, người Thụy Điển đến từ Zealand, người thứ hai sau Naddod đặt chân đến Iceland. Ragnar Lothbrok, vị vua huyền thoại của Thụy Điển và Đan Mạch, chỉ huy vây hãm Paris năm 845. Ivar không xương (Ivar Benløse), con trai của Ragnar Lothbrok, chiếm thành York (Bắc Anh). Rollo, công tước vùng Normandie (Pháp). Rurik, người Varyag Thụy Điển, thiết lập công quốc Rus-Novgorod, cái nôi của nước Nga sau này. Erik Raude, người Viking đầu tiên đặt chân lên đảo Greenland năm 982. Leif Erikson đã tới Helluland khoảng năm 1000 (nay có lẽ là đảo Baffin) Markland (nay là Labrador) và Vinland (nay là l'Anse aux Meadows, Canada). Harald Răng xanh (Harald Blåtand) thống nhất Đan Mạch và hợp nhất với Na Uy. Oleg af Novgorod, con rể của Rurik, dời thủ đô từ Novgorod sang Kiev và tấn công Constantinople. Svend Tveskæg (Svend râu ngạnh), chiếm và làm vua Anh Knud đại đế (Knude den Store) làm vua nước Anh, Đan Mạch và Na Uy.
Den Haag () hay 's-Gravenhage () - trong tiếng Việt quen gọi là La Hay dựa theo cách gọi La Haye của tiếng Pháp - là thành phố lớn thứ ba ở Hà Lan sau Amsterdam và Rotterdam, có diện tích vào khoảng 100 km², có dân số 472.087 người (tính cả vùng xung quanh là 700.000 người) vào ngày 1 tháng 1 năm 2005. Thành phố nằm ở miền tây Hà Lan, thuộc tỉnh Nam Hà Lan và là tỉnh lỵ của tỉnh này. La Hay cũng là nơi đặt trụ sở của Chính phủ Hà Lan, nhưng lại không phải là thủ đô chính thức của nước này. Hiến pháp Hà Lan trao vai trò đó cho thành phố Amsterdam. Tuy nhiên, thành phố này là nơi có trụ sở của Eerste Kamer (Thượng nghị viện) và Tweede Kamer (Hạ nghị viện) của Nghị viện Hà Lan. Ngoài ra, Nữ hoàng Beatrix cũng sống và làm việc trong thành phố này. Các đại sứ quán ngoại quốc và phần lớn các bộ của Chính phủ đều nằm ở La Hay, cùng với Tối cao Pháp viện Hà Lan (Hoge Raad der Nederlanden) và nhiều tổ chức hoạt động hành lang. Lịch sử Ban đầu La Hay bắt nguồn từ năm 1230, khi Bá tước Floris IV của Hà Lan mua đất dọc theo ao, Hofvijver ngày nay, để xây dựng khu nhà săn bắn. Năm 1248, con trai của ông và người kế vị William II, Vua của người La Mã, đã quyết định mở rộng dinh thự tới cung điện, sau này được gọi là Binnenhof (Tòa án Nội địa). Ông qua đời vào năm 1256 trước khi cung điện này được hoàn thành nhưng phần của nó đã được hoàn thành bởi con trai ông Floris V, trong đó Ridderzaal (Knights 'Hall), vẫn còn nguyên vẹn, là nổi bật nhất. Nó vẫn được sử dụng cho các sự kiện chính trị, chẳng hạn như bài phát biểu hàng năm từ ngai vàng của Hoàng gia Hà Lan. Từ thế kỷ thứ 13 trở đi, đếm của Hà Lan đã sử dụng La Hay làm trung tâm hành chính và nơi ở của họ khi ở Hà Lan. Ngôi làng có nguồn gốc xung quanh Binnenhof lần đầu tiên được đề cập đến La Hay trong điều lệ từ năm 1242. Vào thế kỷ 15, chiếc Gravel thông minh hơn đã được đưa vào sử dụng, nghĩa đen là "The Count's Wood" với những ý nghĩa như "nơi ở riêng của bá tước" hay "những khu rừng của bá tước". 'S-Gravenhage chính thức được sử dụng cho thành phố từ thế kỷ 17 trở đi. Ngày nay, tên này chỉ được sử dụng trong một số tài liệu chính thức như giấy khai sinh và giấy chứng nhận kết hôn. Thành phố này sử dụng "Den Haag" trong tất cả các thông tin liên lạc. Khi những tên cai trị Burgundy nắm quyền kiểm soát các quận của Hà Lan và Zeeland vào đầu thế kỷ 15, họ đã chỉ định một người quản lý để thay thế cho các bang của Hà Lan như một hội đồng tư vấn. Ghế của họ nằm ở La Hay. Vào đầu Chiến tranh Tám mươi năm, sự vắng mặt của thành phố đã chứng tỏ thảm họa, vì nó cho phép quân đội Tây Ban Nha dễ dàng chiếm được thành phố. Năm 1575, các quốc gia Hà Lan thậm chí còn coi việc phá hủy thành phố nhưng đề xuất này đã bị bỏ rơi, sau khi hòa giải của William of Orange. Từ năm 1588, La Hay cũng trở thành ghế của chính phủ Cộng hòa Hà Lan. Để chính quyền duy trì quyền kiểm soát các vấn đề của thành phố, La Hay chưa bao giờ nhận được vị trí chính thức của thành phố, mặc dù nó đã có nhiều đặc quyền thường chỉ cấp cho các thành phố. Trong luật hành chính hiện đại, "quyền thành phố" không còn chỗ nào nữa. Lịch sử hiện đại Chỉ trong năm 1806, khi Vương quốc Hà Lan là một nhà nước rối của Đế chế Pháp lần thứ nhất, thì khu định cư được cấp tư cách thành phố bởi Louis Bonaparte. cấp. Sau cuộc chiến Napoleon, Bỉ và Hà Lan hiện đại được kết hợp tại Vương quốc Hà Lan để tạo thành một vùng đệm chống lại Pháp. Là một thỏa hiệp, Brussels và Amsterdam đã luân phiên nhau làm thủ đô mỗi hai năm, với chính phủ còn lại ở La Hay. Sau khi tách Bỉ năm 1830, Amsterdam vẫn là thủ đô của Hà Lan, trong khi chính phủ nằm ở La Hay. Khi chính phủ bắt đầu đóng một vai trò nổi bật hơn trong xã hội Hà Lan sau năm 1850, La Hay nhanh chóng mở rộng. Nhiều đường phố đã được xây dựng đặc biệt cho số lượng lớn công chức làm việc trong chính phủ của đất nước và cho những người Hà Lan đang nghỉ hưu từ chính quyền của Hà Lan Đông Ấn Độ. Thành phố đang phát triển sáp nhập thành phố nông thôn Loosduinen một phần vào năm 1903 và hoàn toàn vào năm 1923. Thành phố chịu ảnh hưởng nặng nề trong Thế chiến II. Nhiều người Do Thái đã bị giết trong thời kỳ chiếm đóng của Đức. Ngoài ra, bức tường Đại Tây Dương đã được xây dựng thông qua thành phố, gây ra một phần tư lớn bị phá hủy bởi những người ở Đức Quốc xã. Vào ngày 3 tháng 3 năm 1945, Không quân Hoàng gia đã nhầm lẫn ném bom khu Bezuidenhout. Mục tiêu là lắp đặt các tên lửa V-2 trong công viên Haagse Bos gần đó, nhưng do những sai sót về đường đi, bom đã rơi vào một khu vực đông dân cư và lịch sử của thành phố. Cuộc bắn phá đã phá huỷ khắp khu vực và gây ra 511 người tử vong. Sau chiến tranh, La Hay trở thành nơi xây dựng lớn nhất ở châu Âu. Thành phố mở rộng ồ ạt về phía tây nam, và các khu vực bị phá hủy được xây dựng lại nhanh chóng. Dân số đạt tới con số 600.000 người vào khoảng năm 1965. Trong những năm 1970 và 1980, chủ yếu các gia đình trung lưu da trắng chuyển đến các thị trấn lân cận như Voorburg, Leidschendam, Rijswijk, và phần lớn là Zoetermeer. Điều này dẫn đến mô hình truyền thống của một thành phố nội địa nghèo nàn và các vùng ngoại ô thịnh vượng hơn. Các nỗ lực để đưa các bộ phận của các đô thị này vào thành phố La Hay gây nhiều tranh cãi. Vào những năm 1990, với sự đồng ý của Quốc hội Hà Lan, La Hay đã sáp nhập các khu vực khá lớn từ các thị trấn lân cận cũng như các khu vực không có biên giới, trong đó xây dựng các khu dân cư hoàn chỉnh mới và vẫn đang được xây dựng. Địa lý La Hay là thành phố lớn nhất Hà Lan trên Biển Bắc Hà Lan và là trung tâm của một khu liên hiệp được gọi là Haaglanden. Westland và Wateringen nằm ở phía nam, Rijswijk, Delft và Roturbdock (gọi là Stadsregio Rotterdam hoặc Rijnmond) về phía đông nam, Pijnacker-Nootdorp và Zoetermeer về phía đông, Leidschendam-Voorburg, Voorschoten và thành phố Leiden ở phía đông bắc và Wassenaar phía Bắc. Các khu vực đô thị xung quanh La Hay và Rotterdam gần đủ để là một vùng đô thị đơn trong một số bối cảnh. Ví dụ: họ chia sẻ Sân bay Rotterdam La Hay và hệ thống đường sắt nhẹ gọi là RandstadRail. Cân nhắc đến việc tạo ra một khu đô thị Rotterdam-Den Haag. Khu liên hợp lớn tập trung vào La Hay và Rotterdam, lần lượt, là một phần của Randstad - đặc biệt là một dải đô thị được gọi là South Wing (Zuidvleugel). Randstad, cũng bao gồm Amsterdam và Utrecht, có dân số 6.659,300. Hague nằm ở góc tây nam của một trong những khu đô thị lớn nhất ở châu Âu. La Hay được chia thành tám quận chính thức, lần lượt được chia thành các khu phố. Một số khu vực thịnh vượng nhất và một số khu phố nghèo nhất của Hà Lan có thể được tìm thấy ở La Hay. Các khu vực giàu có hơn như Statenkwartier, Belgisch Park, Marlot, Benoordenhout và Archipelbuurt thường nằm ở phía tây bắc của thành phố, gần biển hơn, trong khi các khu vực phía Đông Nam như Transvaal, Moerwijk và Schilderswijk thì nghèo hơn đáng kể, ngoại trừ Vinex-địa điểm của Leidschenveen-Ypenburg và Wateringse Veld. Sự phân chia này được phản ánh bằng giọng địa phương: Những công dân giàu có thường được gọi là "Hagenaars" và nói cái gọi là bekakt Haags ("posh"), điều này trái với Hagenezen, người nói tiếng Haags ("thô tục"); Xem Nhân khẩu học dưới đây.
Trong thiên văn học, địa chất học, và cổ sinh vật học, mya là từ chữ đầu của million years ago, có nghĩa là một triệu năm trước và được sử dụng làm đơn vị đo thời gian trước ngày nay. Nói riêng, một mya bằng một triệu (106) năm trước đây. Các tài liệu về khoa học đã thay thuật ngữ "mya" bằng Ma (mêga annum). Giống như đơn vị liên quan bya ("tỷ năm trước đây"), mya thông thường được viết bằng chữ thường, khác với đơn vị liên quan Gya, có chữ hoa ở đầu. Thuật ngữ bya đã được thay cho Ga (giga annum).
Tiếng Hy Lạp hiện đại (, , hoặc ), thường được người nói gọi đơn giản là tiếng Hy Lạp (, ), gọi chung là các phương ngữ của tiếng Hy Lạp được nói trong thời kỳ hiện đại và bao gồm cả hình thức chuẩn hóa chính thức của nhóm ngôn ngữ đôi khi được gọi là tiếng Hy Lạp hiện đại chuẩn. Sự kết thúc của thời kỳ Hy Lạp Trung đại và sự khởi đầu của Hy Lạp hiện đại thường được gán một cách tượng trưng cho sự sụp đổ của Đế quốc Byzantine vào năm 1453, mặc dù ngày đó không có ranh giới ngôn ngữ rõ ràng và nhiều đặc điểm đặc trưng của ngôn ngữ hiện đại phát sinh từ nhiều thế kỷ trước, bắt đầu khoảng thế kỷ thứ tư công nguyên. Trong thời gian dài, ngôn ngữ tồn tại trong tình trạng diglossia với các phương ngữ nói trong khu vực tồn tại song song ở Hy Lạp với các dạng viết cổ xưa hơn, như với các phương ngữ bản địa và học thức (Dimotiki và Katharevousa) tồn tại trong suốt thế kỷ 19 và 20. Phương ngữ Các phương ngữ Hy Lạp hiện đại bao gồm Demotic, Katharevousa, Pontus, Cappadocia, Mariupol, Nam Ý, Yāwān và Tsakonia. Demotic Nói đúng ra, bình dân () chỉ đến tất cả các phương ngữ phổ biến của tiếng Hy Lạp hiện đại tiến hóa theo một con đường chung từ tiếng Hy Lạp Koine và đã duy trì sự thông hiểu lẫn nhau ở mức độ cao đến nay. Như trong các bài thơ Ptochoprodromic và Digenis Acritas, tiếng Hy Lạp Bình Dân là thổ ngữ đã có từ trước thế kỷ 11 và được gọi là ngôn ngữ "La Mã" của người Hy Lạp Byzantine, đáng chú ý là ở Hy Lạp bán đảo, các đảo Hy Lạp, ven biển Tiểu Á, Constantinople và Síp. Ngày nay, dạng chuẩn hoá của tiếng Hy Lạp Bình Dân là ngôn ngữ chính thức của Cộng hòa Hy Lạp và Síp, và được gọi là "Tiếng Hy Lạp hiện đại chuẩn", hay đơn giản hơn là "tiếng Hy Lạp", "tiếng Hy Lạp hiện đại" hoặc "tiếng Bình Dân". Tiếng Hy Lạp Bình Dân bao gồm nhiều biến thể khu vực khác nhau với sự khác biệt nhỏ về ngôn ngữ, chủ yếu là về âm vị và từ vựng. Do mức độ thông hiểu lẫn nhau cao của nhóm này, các nhà ngôn ngữ học Hy Lạp gọi chúng là "thổ ngữ" của một "phương ngữ Bình Dân" rộng hơn, được gọi là "tiếng Hy Lạp Koine hiện đại" ( - 'Neo-Hellenic'). Tuy nhiên, hầu hết các nhà ngôn ngữ học nói tiếng Anh đều gọi chúng là "phương ngữ", chỉ nhấn mạnh mức độ biến đổi khi cần thiết. Các phương ngữ Hy Lạp Bình Dân được chia thành hai nhóm chính, miền Bắc và miền Nam. Tiếng Hy Lạp Bình Dân đã chính thức được dạy bằng chữ Hy Lạp đơn âm phù hiệu từ năm 1982. Chữ đa âm phù hiệu vẫn phổ biến trong giới trí thức. Katharevousa Katharevousa (Κθρεύ) là một phương ngữ xã hội bán nhân tạo được quảng bá vào thế kỷ 19, là nền tảng của nhà nước Hy Lạp hiện đại, như một sự thỏa hiệp giữa Tiếng Hy Lạp cổ đại và tiếng Bình Dân hiện đại. Nó là ngôn ngữ chính thức của tiếng Hy Lạp hiện đại cho đến năm 1976. Tiếng Katharevousa được viết bằng chữ Hy Lạp đa âm phù hiệu. Ngoài ra, trong khi tiếng Hy Lạp Bình Dân chứa các từ mượn từ tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, tiếng Ý, tiếng Latinh và các ngôn ngữ khác, phần lớn chúng đã bị thanh trừng từ tiếng Katharevousa. Pontus Tiếng Pontus (τΠτ) ban đầu được nói dọc theo bờ biển Biển Đen ở Thổ Nhĩ Kỳ, khu vực được gọi là Pontus, cho đến khi hầu hết người nói của nó bị giết hoặc chuyển đến Hy Lạp hiện đại trong cuộc diệt chủng Pontus (1919, 1921), sau đó là trao đổi dân cư giữa Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ năm 1923. (Một số lượng nhỏ người Hồi giáo nói tiếng Hy Lạp Pontus đã thoát khỏi những sự kiện này và vẫn cư trú tại các ngôi làng Pontus của Thổ Nhĩ Kỳ). Nó đến từ tiếng Hy Lạp Koine và bảo tồn các đặc điểm của tiếng Hy Lạp Ionia do các thuộc địa cổ đại của khu vực. Tiếng Pontus đã phát triển thành một phương ngữ riêng biệt từ tiếng Hy Lạp Bình Dân do kết quả của sự cô lập khu vực với dòng tộc chính Hy Lạp sau cuộc Thập tự chinh thứ tư phân chia Đế quốc Byzantine thành các vương quốc riêng biệt (xem Đế quốc Trapezous). Cappadocia Cappadocia (αππδ) là một phương ngữ Hy Lạp ở miền trung Thổ Nhĩ Kỳ có cùng số phận với tiếng Pontus; người nói của nó định cư ở lục địa Hy Lạp sau cuộc diệt chủng Hy Lạp (1919-1921) và cuộc trao đổi dân cư giữa Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 1923. Tiếng Hy Lạp Cappadocia chuyển hướng từ các phương ngữ Hy Lạp Byzantine, bắt đầu với các cuộc chinh phạt của Thổ Nhĩ Kỳ ở Trung Á trong thế kỷ 11 và 12, và do đó đã phát triển một số đặc điểm cơ bản, như không còn giống danh từ. Tuy nó bị cô lập khỏi các cuộc chinh phạt thập tự chinh (Cuộc thập tự chinh thứ tư) và ảnh hưởng của người Venice sau này ở bờ biển Hy Lạp nhưng nó vẫn giữ các từ ngữ Hy Lạp cổ đại cho nhiều từ được thay thế bằng từ ngôn ngữ Rôman trong tiếng Hy Lạp Bình Dân. Nhà thơ Rumi, tên gọi có nghĩa là "La Mã", chỉ đến nơi cư trú của ông trong số những người nói tiếng Hy Lạp "La Mã" của Cappadocia, đã viết một vài bài thơ bằng tiếng Hy Lạp Cappadocia, một trong những minh chứng sớm nhất của phương ngữ này. Mariupol Rumeíka (Ρωμαίικα) hay tiếng Hy Lạp Mariupol là một phương ngữ được nói ở khoảng 17 ngôi làng xung quanh bờ biển phía bắc của Biển Azov ở miền nam Ukraina và Nga. Tiếng Hy Lạp Mariupol có liên quan chặt chẽ với tiếng Hy Lạp Pontus và phát triển từ phương ngữ tiếng Hy Lạp được nói ở Krym, một phần của Đế quốc Byzantine và sau đó là Đế quốc Trapezous Pontus, cho đến khi nhà nước này rơi vào tay Ottoman năm 1461. Sau đó, nhà nước Hy Lạp Crimea tiếp tục tồn tại với tư cách là Công quốc Theodoro Hy Lạp độc lập. Cư dân Crimea nói tiếng Hy Lạp được Ekaterina II Đại đế mời đến tái định cư tại thành phố mới Mariupol sau Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1768-1774) để thoát khỏi Crimea do Hồi giáo thống trị. Các đặc điểm chính của tiếng Mariupol có những điểm tương đồng nhất định với cả tiếng Pontus (ví dụ: thiếu sự tổng hợp nguyên âm -ía, éa) và các phương ngữ miền bắc của phương ngữ cốt lõi (ví dụ như thanh âm miền bắc). Nam Ý Nam Ý hoặc Italia (Κτω) bao gồm cả hai phương ngữ Calabria và Griko, được nói bởi khoảng 15 ngôi làng ở vùng Calabria và Apulia. Phương ngữ Nam Ý là dấu vết sống cuối cùng của các yếu tố Hy Lạp ở miền Nam nước Ý đã từng hình thành Magna Graecia. Nguồn gốc của nó có thể từ những người định cư Hy Lạp Dorian đã xâm chiếm khu vực từ Sparta và Korinthos vào năm 700 trước Công nguyên. Nó đã nhận được ảnh hưởng đáng kể của Hy Lạp Koine thông qua người thực dân Hy Lạp Byzantine, người đã đưa ngôn ngữ Hy Lạp trở lại cho khu vực, bắt đầu từ cuộc chinh phạt Ý của Justinianus I vào thời cổ đại và tiếp tục qua thời Trung cổ. Phuong ngữ Griko và Dometic có thể thông hiểu lẫn nhau ở một mức độ nào đó, nhưng trước đây có một số đặc điểm chung với tiếng Tsakonia. Yawan Yawan là một ngôn ngữ gần như biến mất của người Do Thái Rôman. Ngôn ngữ này đã bị suy giảm trong nhiều thế kỷ cho đến khi hầu hết người nói của nó bị giết trong Holocaust. Sau đó, ngôn ngữ này chủ yếu được gìn giữ bởi những người Rôman di cư còn lại đến Israel, nơi nó bị thay thế bởi tiếng Do Thái hiện đại. Tsakonia Tiếng Tsakonia () được nói ở dạng đầy đủ ngày nay chỉ ở một số ít làng xung quanh thị trấn Leonidio thuộc vùng Arcadia ở Nam Peloponnesos, và một phần được nói xa hơn trong khu vực. Tiếng Tsakonia phát triển trực tiếp từ tiếng Laconia (Spartan cổ đại) và do đó có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp Doric. Nó có đầu vào hạn chế từ tiếng Hy Lạp Koine và khác biệt đáng kể và không thông hiểu lẫn nhau với các phương ngữ Hy Lạp khác (như tiếng Hy Lạp Bình Dân và tiếng Hy Lạp Pontus). Một số nhà ngôn ngữ học coi nó là một ngôn ngữ riêng biệt vì điều này. Chữ viết Tiếng Hy Lạp hiện đại được viết theo bảng chữ cái Hy Lạp, có 24 chữ cái, mỗi chữ cái có chữ hoa và chữ thường (nhỏ). Ngoài ra, kí tự sigma còn có một dạng cuối đặc biệt. Có hai ký hiệu phụ, các dấu nhọn chỉ trọng âm và các dấu tách đôi biểu thị kí tự nguyên âm tuy không phải là một phần của một kí tự kếp hợp. Tiếng Hy Lạp có một phép chính tả lịch sử và ngữ âm hỗn hợp, trong đó cách viết lịch sử được sử dụng nếu cách phát âm của chúng phù hợp với cách sử dụng hiện đại. Sự tương ứng giữa các âm vị phụ âm và tự vị phần lớn là thống nhất, nhưng một số nguyên âm có thể được viết theo nhiều cách. Vì vậy, đọc thì dễ nhưng viết thì khó. Một số kí hiệu dấu phụ được sử dụng cho đến năm 1982, khi chúng được chính thức bị bỏ trong chính tả tiếng Hy Lạp vì không còn tương ứng với cách phát âm hiện đại của ngôn ngữ này. Chữ viết đơn âm phù hiệu ngày nay được sử dụng trong bối cảnh chính thức, trong trường học và cho hầu hết các mục đích viết hàng ngày ở Hy Lạp. Chữ viết đa âm phù hiệu, bên cạnh đang được sử dụng cho các phương ngữ cũ của tiếng Hy Lạp, vẫn được sử dụng trong in ấn sách, đặc biệt đối với mục đích học thuật và nghệ thuật, và trong sử dụng hàng ngày bởi một số tác giả bảo thủ và người già. Giáo hội Chính thống Hy Lạp tiếp tục sử dụng đa âm phù hiệu và Christodoulos của Athens muộn và Thượng hội đồng thánh của Giáo hội Hy Lạp đã yêu cầu đưa đa âm phù hiệu làm chữ viết chính thức trở lại. Cú pháp và hình thái Tiếng Hy Lạp hiện đại phần lớn là một ngôn ngữ tổng hợp. Tiếng Hy Lạp hiện đại và tiếng Albania là hai ngôn ngữ Ấn-Âu hiện đại duy nhất giữ được dạng thụ động tổng hợp (dạng thụ động Bắc German là một sự đổi mới gần đây dựa trên một đại từ phản thân ngữ pháp hoá).
Đại chiến Bắc Âu là tên các sử gia gọi cuộc chiến từ năm 1700 đến năm 1721 giữa Thụy Điển với liên minh của Nga, Đan Mạch, Sachsen (Đức) và Ba Lan; từ năm 1715 có thêm vương quốc Phổ và Hannover (Đức). Anh và Hà Lan cũng can dự tuy không trực tiếp tham gia chiến đấu. Cuộc chiến tranh này còn được gọi là Chiến tranh Bắc Âu lần thứ ba, sau chiến tranh Bắc Âu lần thứ hai (1655 - 1660). Hai nước tranh chấp chính với nhau là Nga và Thụy Điển. Trong 20 năm, hai nước liên tục chiến đấu với nhau để cuối cùng quyết định số phận của cả hai đế quốc. Trong những năm đầu, từ 1700 đến 1709, Nga ở vào thế phòng thủ trong khi chuẩn bị xây dựng tiềm lực quân sự và cải tổ. Sau trận Poltava, Nga lật ngược thế cờ, nhưng hai nước vẫn tiếp tục chiến đấu với nhau: một bên bị vướng víu trong những liên minh bất lực, bên kia muốn rửa hận và phục hồi đế quốc của mình đang tan rã. Cuối cùng vua Thụy Điển Karl XII bị giết tại Na Uy, và Nga đã bắt buộc Thụy Điển phải ký hòa ước để chính thức chấm dứt chiến tranh. Nguyên nhân Mầm mống của Đại chiến Bắc Âu phát xuất từ những lý do lịch sử và kinh tế cũng như lòng khát khao của Nga hoàng Pyotr Đại đế trong việc muốn mở đường biển cho nước Nga. Nước Nga đã đối đầu với Thụy Điển trong nhiều thế kỷ để tranh giành vùng ven bờ vịnh Phần Lan. Kết quả cuối cùng là Đế quốc Thụy Điển chiếm được nhiều vùng đất: Karelia và Ingria ở phía bắc và nam của sông Neva, thêm Hồ Ladoga và các pháo đài Nöteborg, Narva và Riga. Hòa ước Nga – Thụy Điển năm 1664 ký kết giữa Nga hoàng Aleksey I và Quốc vương Thụy Điển Karl XI xác nhận các vùng đất này thuộc Đế quốc Thụy Điển. Tuy thế, trong ý nghĩ của Pyotr Đại đế, đấy là những lãnh thổ của Nga, và nước Nga đang chịu thiệt hại đáng kể về kinh tế khi những vùng đất này nằm trong tay nước ngoài. Hàng hóa của nước Nga tuôn ra các cửa khẩu Riga, Reval và Narva bị Thụy Điển thu thuế quan nặng nề, trong khi Nga chỉ có duy nhất, cảng Arkhangelsk, hoạt động 6 tháng mỗi năm. Chung quy là do Nga thiếu đường biển, từ đó không thể phát triển mậu dịch quốc tế cũng như quân chủng hải quân để tạo uy thế trên chính trường quốc tế. Pyotr Đại đế cảm thấy khó cưỡng lại cơ hội gây chiến với quân vương thiếu niên của Thụy Điển qua liên minh với Ba Lan và Đan Mạch. Ý tưởng khởi động cuộc chiến là do vua August II của Ba Lan, tức Tuyển hầu tước Friedrich Augustus xứ Sachsen, đề nghị với Sa hoàng Pyotr Đại đế của Nga hợp lực với Ba Lan để cùng tấn công Thụy Điển, nhờ đó Ba Lan và Nga sẽ có lối thông ra Biển Baltic. Vua August muốn lợi dụng cơ hội Karl XI qua đời, để lại ngai vàng cho con trai mới lên 15 tuổi là vua Karl XII để tấn công Thụy Điển. Chiến sự khơi mào Chiến tranh có thể đã không xảy ra nếu không có người khơi mào, đó là Johann Reinhold von Patkul, nhà yêu nước vô tổ quốc. Ông thuộc giới quý tộc gốc Đức của Livonia, nhưng công quốc này đã rơi vào tay Ba Lan, rồi kế đến thuộc về Thụy Điển, bị tước mất quyền tự trị cha truyền con nối cho dù Karl XI của Thụy Điển đã hứa công nhận quyền lợi của công quốc này. Livonia cử phái bộ đến kinh thành Stockholm để kêu nài. Patkul là thành viên của phái bộ này. Ông không những bị bác bỏ, mà còn bị kết án tử hình vắng mặt. Khi Karl XI qua đời, Patkul nghĩ cơ hội đã đến. Ông thuyết phục August II đánh Thụy Điển, sau đó ông hứa sẽ đặt Công quốc Livonia dưới sự bảo trợ của Ba Lan. Ngoài ra, Ba Lan còn có đường thông ra biển. Patkul cũng đến gặp vua Frederik IV của Đan Mạch và nhận được sự ủng hộ, vì Đan Mạch cũng muốn giành lại phần đất bị Thụy Điển chiếm. Kết quả là Đan Mạch và Ba Lan đồng ý hợp lực để đánh Thụy Điển bằng hai gọng kìm. Kế tiếp, Patkul đề nghị nên mời Nga tham gia cùng tấn công Thụy Điển. Qua nỗ lực vận động của Patkul, Pyotr ký một hiệp ước theo đó Nga cam kết sẽ tấn công Thụy Điển. Pyotr Đại đế đã cẩn thận không nêu ra ngày cụ thể, và có một điều khoản ghi rằng Nga sẽ tấn công chỉ sau khi đã ký với Đế quốc Ottoman hiệp định đình chiến. Trong khi nước Nga đang lo đạt hòa bình với Đế quốc Ottoman, hai đồng minh của Nga đã tấn công Thụy Điển như trù định. Tháng 2 năm 1700, quân Sachsen tấn công Livonia và công hãm Riga nhưng bị quân Thụy Điển đánh bật lại. Tháng 2 năm 1700, quân Đan Mạch cũng công hãm thị trấn Tonning. Sau khi ký kết hiệp ước đình chiến với Đế quốc Ottoman, ngày 9 tháng 8 năm 1700, Nga tuyên chiến với Thụy Điển, giải thích mục đích của cuộc chiến tranh là để chiếm lại hai tỉnh Ingria và Karelia. Gộp lại với nhau, hai tỉnh này tạo một cửa ngõ đủ thoáng cho Nga thông ra Biển Baltic. Narva, một thị trấn và thành trì nằm trong Estonia kế biên giới Ingria, không phải là mục tiêu ban đầu của Nga; nó là một phần của lãnh thổ mà Patkul và Augustus đã chỉ định cho Ba Lan. Tuy nhiên, Pyotr thấy rằng cách đảm bảo nhất để chiếm đóng Ingria là kiểm soát thị trấn này. Vì vậy, ông điều quân đi đánh Narva, bắt đầu công hãm pháo đài này từ ngày 4 tháng 10 năm 1700. Cuộc chiến giữa Thụy Điển và Đan Mạch Ngày 16 tháng 4 năm 1700, Karl XII mang hạm đội Thụy Điển gồm 38 chiến hạm hợp lực với 25 chiến hạm của Anh và Hà Lan cùng 14 nghìn quân tinh nhuệ đánh thần tốc đến Đan Mạch. Trong lúc này, vua Frederik IV của Đan Mạch đang kéo quân đi đánh lãnh thổ Thụy Điển ở miền nam, nên quân Đan Mạch như rắn mất đầu. Khi trở về, vua Frederik IV đành phải nhanh chóng nhận điều kiện đầu hàng. Ngày 18 tháng 8 năm 1700, hai bên ký Hòa ước Travendal, theo đó Đan Mạch trả lại cho Thụy Điển xứ Holstein-Gottorp vừa chiếm và cam kết từ bỏ cuộc chiến chống Thụy Điển. Thế là chiến dịch đầu tiên của Karl đã thành công chớp nhoáng và gần như không bị đổ máu. Chỉ trong vòng hai tuần chinh chiến, Karl XII đã phục hồi lãnh thổ Thụy Điển bị chiếm và loại khỏi vòng chiến một kẻ địch. Thụy Điển đánh bại Nga ở Trận Narva Vua Karl XII định kéo quân đánh Ba Lan, nhưng lúc đó vua Nga đã gửi thư tuyên chiến và Augustus II đã ngưng chiến dịch mà rút về trú đông. Karl XII quyết định thân chinh kéo hơn 1 vạn quân tinh nhuệ giải vây cho pháo đài Narva lúc đó đang bị 4 vạn quân Nga tấn công. Vào ngày 20 tháng 10 năm 1700, đoàn quân đến Narva, và vua Karl XII ra lệnh tấn công ngay chứ không tổ chức phòng thủ hoặc thiết lập doanh trại trước. Quân Nga hoàn toàn bị bất ngờ, tan rã hàng ngũ mà trốn chạy. Quân Thụy Điển bị mất 31 sĩ quan và 646 binh sĩ, 1.205 bị thương. Bên Nga, ít nhất 16 nghìn quân tử trận hoặc bị thương, và người bị thương không có mấy hy vọng đi về đến quê nhà qua quãng đường dài đã đóng băng. Mười tướng lĩnh của Nga, 10 đại tá và 34 sĩ quan cấp thấp hơn bị bắt cùng 17 nghìn quân, 180 khẩu pháo và 230 lá quân kỳ. Tin tức về trận chiến Narva gây ấn tượng mạnh toàn Tây Âu, nhưng khiến cho Karl xem nhẹ Pyotr Đại đế và khinh thường nước Nga. Cuộc chiến giữa Thụy Điển và Ba Lan Karl XII quyết định tập trung lực lượng để tận diệt August II trước khi tiến công nước Nga. Năm này sang năm khác, Thụy Điển tiếp tục thắng trên vũng lầy Ba Lan, nhưng chiến thắng cuối cùng mới đến vào năm 1704. Vào tháng 2 năm 1704, Nghị viện Ba Lan quyết định truất phế vua August II của họ. Karl chọn ứng viên lên ngai vàng là Stanisław Leszczyński, nhà quý tộc 27 tuổi, có trí thông minh khiêm tốn và trung thành kiên định với Karl XII. Hòa ước Altranstädt được Ba Lan và Thụy Điển ký vào ngày 13 tháng 10 năm 1706, trong đó có một điều khoản Ba Lan phải giao cho Thụy Điển mọi "kẻ phản quốc" Thụy Điển đang ẩn náu ở xứ Sachsen. Tên của Patkul đứng đầu danh sách này, sau đó ông bị giao vào tay Thụy Điển. Đến tháng 10 năm 1707, ông đứng trước tòa án quân sự của Thụy Điển vốn đã nhận lệnh của Karl là phải xử cho thật nặng. Tòa án ngoan ngoãn tuân theo, xử tội hành hình bằng cách đánh gậy, chặt đầu rồi chặt cơ thể ra làm bốn. Sau cuộc hành hình, cái đầu của ông được bêu lên một cây cột dựng bên một con đường cái. Nga xâm chiếm vùng Baltic của Thụy Điển Trong khi quân Thụy Điển đang sa lầy ở Ba Lan, quân Nga được rảnh tay đi đánh những lãnh thổ của Thụy Điển dọc bờ Biển Baltic. Pyotr Đại đế phái tướng Boris Petrovich Sheremetev kéo quân đến đánh xứ Livonia, được 7 nghìn quân Thụy Điển bảo vệ dưới quyền chỉ huy của tướng Wolmar Anton von Schlippenbach. Tháng 1 năm 1702, Sheremetev có một chiến thắng quan trọng, đánh đuổi quân Thụy Điển ra khỏi doanh trại mùa đông, và còn gây 1 nghìn quân thương vong theo như phía Thụy Điển nhìn nhận (phía Nga tuyên bố gây thương vong 3 nghìn và nhìn nhận bị thiệt hại 1 nghìn). Quan trọng hơn theo ý nghĩa tượng trưng, quân Nga bắt được 350 tù binh Thụy Điển và giải họ về thành Moskva. Tinh thần của toàn quân Nga, đã xuống thấp từ chiến bại thê thảm tại Narva, từ đó bắt đầu lên. Mùa hè kế tiếp, tháng 7 năm 1702, Sheremetev lại tấn công Schlippenbach ở Livonia, và lần này 5 nghìn quân Thụy Điển bị đánh gần như tan tành: 2.500 thương vong, 300 bị bắt cùng với pháo và cờ xí. Bên Nga bị mất 800 người. Sau trận này, quân cơ động của Schlippenbach không còn xuất hiện, và cả vùng Livonia xem như bỏ ngỏ ngoại trừ các căn cứ cố định Riga, Pärnu và Dorpat. Quân dưới quyền Sheremetev tự do tung hoành khắp nơi, đốt phá làng mạc và thị trấn của Thụy Điển. Trong lúc đó, Pyotr Đại đế cho đóng loại thuyền nhỏ trên hồ Ladoga, hồ lớn nhất châu Âu, để đánh đuổi hải quân Thụy Điển. Quân Nga áp dụng cùng chiến thuật trên hồ Peipus. Kế tiếp, Nga chiếm lấy pháo đài Thụy Điển ở Nöteborg, nơi ồ Ladoga chảy vào sông Neva, đổi tên của pháo đài thành Schlüsselburg, từ schlüssel trong tiếng Đức có nghĩa là "chìa khóa", cũng có ý nghĩa pháo đài là chìa khóa mở ra Biển Baltic. Sự thất thủ của Nöteborg/Schlüsselburg là thất bại nặng nề cho Thụy Điển vì họ đã mất đi bức tường chắn Nga tiến ra Neva và cả tỉnh Ingria. Mùa xuân năm sau, 1703, trong khi Karl XII vẫn còn ở Ba Lan, Pyotr Đại đế dứt khoát "không để mất thời giờ mà Thiên Chúa đã ban," tấn công trực diện để tạo dựng miền đất Nga trên bờ Biển Baltic. Cuối cùng, Nga kiểm soát toàn chiều dài sông Neva, và Pyotr Đại đế cho xây dựng thành phố Sankt-Peterburg ở cửa sông Neva. Năm 1704, Nga giành quyền kiểm soát hai thị trấn then chốt của Estonia là Dorpat và Narva. Việc này giúp củng cố chân đứng của Nga ở Ingria và ngăn chặn Thụy Điển tiến về Sankt-Peterburg từ phía tây. Chiến thắng Narva có tầm quan trọng về tâm lý cũng như chiến lược: không những che chắn cho Sankt-Peterburg ở mặt tây, mà còn chuộc lại nỗi nhục nhã bốn năm trước cũng chính ở Narva. Thụy Điển tấn công Nga Việc truất phế August II của Ba Lan đã loại ra bên thứ hai trong số liên minh ba bên chống Thụy Điển. Bây giờ, bị đơn độc phải đối mặt với Karl, Pyotr Đại đế tăng cường nỗ lực để dàn hòa với Karl XII. Karl nhất quyết từ chối xem xét việc đàm phán với Nga. Trong giai đoạn Pyotr Đại đế đề xuất các điều kiện hòa bình và Karl bác bỏ các đề xuất này, có sự cách biệt giữa đôi bên không thể nào hòa giải được: Sankt-Peterburg. Pyotr có thể từ bỏ mọi thứ miễn là được giữ Sankt-Peterburg để có lối cho Nga thông ra biển. Karl không muốn từ bỏ thứ gì khi chưa đánh gục quân đội Nga. Vì thế, chiến tranh tiếp tục trên danh nghĩa Sankt-Peterburg – lúc này chỉ mới là một số ngôi nhà gỗ, một pháo đài xây bằng đất và một bến cảng thô sơ. Từ tháng 1 năm 1707, Pyotr Đại đế ra lệnh lập một vành đai tàn phá hầu tạo khó khăn cho quân Thụy Điển. Ở vùng tây Ba Lan nơi quân Thụy Điển sẽ đi qua trước khi vào Nga, kỵ binh đã nhận lệnh đi tàn phá: đốt cháy thị trấn Ba Lan, phá dỡ cầu, san thành bình địa làng mạc và thị trấn. Ngày 27 tháng 8 năm 1707, Karl XII kéo quân ra khỏi rời xứ Sachsen (Đức) để bắt đầu một cuộc phiêu lưu lớn lao nhất trong đời ông. Đầu năm 1708, quân tinh nhuệ Thụy Điển đặt chân lên bờ đông của sông Vistula. Pyotr ra lệnh tiếp tục tàn phá một vùng rộng lớn của chính đất Nga để Thụy Điển không thể thu hoạch được gì bất kể họ tiến quân theo hướng nào. Dọc mọi con đường dẫn từ doanh trại Thụy Điển hướng về bắc, đông hoặc tây, quân Nga tạo một vòng đai vườn không nhà trống dài gần 200 kílômét từ Pskov cho đến Smolensk. Trong vành đai này, mọi nhà cửa, mọi mẩu thức ăn cho người hoặc ngựa phải bị đốt trụi ngay khi Karl tiến quân. Karl XII tự chỉ huy có 35 nghìn quân. Cánh quân 12 nghìn binh sĩ của Adam Ludwig Lewenhaupt đã được lệnh đến điểm hẹn với đại quân, còn cánh quân 14 nghìn binh sĩ của Lybecker từ Phần Lan đã nhận lệnh di chuyển xuống Sankt-Peterburg. Nếu thành công, lực lượng này có thể chiếm Sankt-Peterburg, nếu không cũng có thể làm nghi binh để cầm chân một số quân của Pyotr. Lực lượng của Nga đông hơn nhiều. Tổng cộng trên đường vòng cung chặn hướng tiến của Thụy Điển, Pyotr Đại đế chỉ huy khoảng 57.500 quân. Ngoài ra, Fyodor Matveyevich Apraksin chỉ huy 24.500 quân trấn giữ Sankt-Peterburg, và tướng Bauer nắm 16 nghìn quân đóng ở Dorpat để ngăn chặn Lewenhaupt ở Riga. Các lực lượng này sẵn sàng đối phó với những động thái khác nhau của Thụy Điển. Một lực lượng khác gồm 12 nghìn quân dưới quyền Hoàng thân Mikhail Mikhailovich Golitsyn trấn đóng gần Kiev để đón đầu địch quân tiến về Ukraina. Nga có tổng cộng 11 vạn quân so với 62 nghìn quân của Thụy Điển. Sự khác biệt này không có ý nghĩa nhiều ngoại trừ yếu tố là trong cuộc chiến dằng dai, bên Nga có thể thay thế dễ dàng số thương vong. Trong chuỗi tiến công của Thụy Điển, quân Nga luôn tạo một lá chắn giữa quân Thụy Điển và đường dẫn đến kinh thành Moskva. Các trận đánh nổi tiếng là trận Golovchin ngày 3 tháng 7 năm 1708, trận Molyatychy ngày 9 tháng 7 năm 1708, và trận Lesnaya ngày 28 tháng 9 năm 1708. Trong trận đánh tại Golovchin, vua Karl XII đánh tan tác quân Nga đông đảo hơn. Nhưng đây là trận thắng lừng lẫy cuối cùng của ông. Trong trận đánh tại Lesnaya, mỗi bên có khoảng 12 nghìn quân giao chiến; Nga bị tổn thất khoảng một phần ba, nhưng Thụy Điển mất phân nửa. Sau này, Nga hoàng Pyotr gọi là trận Lesnaya "Bà Mẹ của Trận Poltava." Trận đánh lớn quyết định là trận Poltava ngày 28 tháng 6 năm 1709 giữa hai đoàn quân hùng hậu. Tổng cộng, lực lượng tinh nhuệ Thụy Điển tung ra để tấn công 42 nghìn quân Nga chỉ có 19 nghìn binh sĩ. Riêng trong cuộc giáp lá cà, 5 nghìn bộ binh Thụy Điển mệt mỏi vì đói kém và bệnh tật, không có pháo, giao chiến với 24 nghìn quân tinh nhuệ Nga có 70 khẩu pháo. Thụy Điển bị tổn thất 1 vạn quân, gồm 6.901 tử trận và bị thương, 2.760 bị bắt làm tù binh. Trong tổng số 42 nghìn quân Nga, 1.345 chết và 3.290 bị thương. Số thương vong và kết quả đều đảo ngược tất cả các trận đánh trước đó giữa Thụy Điển và Nga. Với chiến bại này, những năm tháng huy hoàng của vua Karl XII chấm dứt. Với sự truy kích của quân Nga, ngày 1 tháng 7 Lewenhaupt mang 14.288 người và 34 khẩu pháo ra đầu hàng mà không chống cự gì cả. Rồi quân Nga tiếp tục truy kích đường rút lui của vua Karl XII lúc ấy đang cố tẩu thoát qua Đế quốc Thổ Ottoman. Thêm một trận tàn sát, để rồi cuối cùng ông chỉ còn có 600 quân sĩ khi đi vào Ottoman xin ẩn náu. Nga khai thác thành quả Mùa xuân năm 1710, nước Nga gặt hái thành quả của chiến thắng Poltava. Không còn bị quân Thụy Điển ngáng trở, quân tinh nhuệ Nga tung hoành khắp các tỉnh vùng Baltic của Thụy Điển. Trong khi Bá tước Boris Petrovich Sheremetev công hãm Riga, Đại tướng-Đô đốc Fyodor Matveyevich Apraksin công phá Vyborg ở miền bắc. Thị trấn này là một pháo đài quan trọng và là điểm tập kết cho quân Thụy Điển để đe dọa Sankt-Peterburg. Ngày 13 tháng 6 năm 1710, thị trấn Vyborg rơi vào tay Apraksin. Sau đó, việc càn quét và chiếm đóng cả Eo đất Karelian đã tạo nên một vùng đệm sâu 160 kilômét cho Sankt-Peterburg, có nghĩa là thành phố này không còn sợ bị Thụy Điển tấn công bất ngờ từ phía bắc. Kế tiếp, mọi thành trì của Thụy Điển dọc bờ nam của Biển Baltic đều đầu hàng trong mùa hè 1710. Ngày 10 tháng 7, thành phố Riga rộng lớn rơi vào tay Sheremetev sau cuộc công hãm kéo dài 8 tháng. Mặc dù Nga đã ký hiệp ước với Ba Lan quy định Livonia và Riga thuộc về Ba Lan, bây giờ Pyotr Đại đế cho rằng Nga đã đổ máu để chiếm lấy tỉnh và thành phố này trong giai đoạn August II không còn là vua của Ba Lan và đồng minh của Nga, vì vậy các lãnh thổ này phải thuộc về Nga. Ba tháng sau khi Riga thất thủ, Reval – thành quả cuối cùng của Poltava – cũng đầu hàng. Nga hoàng Pyotr I vui mừng tột độ: Sự xâm chiếm của quân Nga đã khiến cho cư dân Phần Lan địa phương gọi thời kỳ Nga thống trị là thời kỳ Greater Wrath-Đại Hận. 5 nghìn người Phần Lan bị giết và hơn 1 vạn người khác bị bắt làm nô lệ. Hàng ngàn người khác đã không bao giờ còn trở về nữa. Chiến tranh Nga - Thổ Nhĩ Kỳ (1710-1711) Vào tháng 12 năm 1710, Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman tuyên chiến với nước Nga. Do đó, Nga hoàng Pyotr Đại Đế lúc đang chinh phạt các tỉnh vùng Baltic của Thụy Điển lại phải chú tâm sang chuyện khác. Quân Thổ Nhĩ Kỳ tham chiến trong cuộc Đại chiến Bắc Âu do nhận được lời cầu cứu từ vua Karl XII. Mùa Xuân năm sau, vua Thổ Nhĩ Kỳ sai quan Khâm sai Đại thần kéo 16 vạn đại quân Thổ - Tartar đến biên giới Ba Lan. Vào tháng 6 năm 1711, Nga hoàng kéo 38 nghìn quân Nga tới xứ Moldavia, họp binh với lãnh chúa xứ này. Ông kêu gọi các tín đồ Chính Thống giáo tại Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman phất cờ khởi nghĩa, nhưng thất bại. Cuối tháng đó, quân Thổ giáp mặt với quân Nga tại sông Pruth gần Jassy, xứ Moldavia. Quân Nga đều đói, do đó Nga hoàng không dám mở trận trong vòng hai tuần. Trận Pruth bùng nổ, quân Nga bị đánh tan tác và phải đầu hàng quân Thổ Nhĩ Kỳ. Vua Thổ tiến hành đàm phán, Nga hoàng buộc phải trả lại pháo đài Azov. Không những thế, Nga hoàng cũng phải chịu nhiều điều khoản bất lợi sau chiến bại thảm hại tại sông Pruth. Nhưng ông tỏ ra chậm chạp trong việc làm theo các điều khoản. Do đó, trong các năm 1711 - 1713, vua Thổ Nhĩ Kỳ lại tuyên chiến với nước Nga. Những cuộc chiến tranh không đổ máu đó kết thúc với Hòa ước Adrianople vào tháng 6 năm 1713, theo đó Nga hoàng Pyotr Đại Đế phải thừa nhận những điều khoản hết sức bất lợi mà vua Thổ đã đề xướng. Nga - Thụy Điển tái chiến Đêm 10 tháng 11 năm 1714, Karl XII từ Otroman về đến thị trấn Stralsund. Sau 5 năm đi vắng, vua Thụy Điển đã trở về lãnh thổ thuộc Thụy Điển. Ông vẫn muốn tiếp tục chiến tranh. Vào mùa hè 1715 liên quân Phổ – Đan Mạch – Sachsen gồm 55 nghìn quân tinh nhuệ tấn công Stralsund. Vào ngày 22 tháng 12 năm 1715, Stralsund phải đầu hàng. Trước đó, Karl đã được đưa về chính quốc. Bốn giờ sáng ngày 24 tháng 12 năm 1715, sau 5 năm và 3 tháng vắng bóng, nhà vua Thụy Điển đặt chân trở lại trên đất nước của ông. Karl tạo dựng một đoàn quân mới rồi dẫn đi đánh Đan Mạch. Vì một cơn giông làm mặt băng bị vỡ, ông chuyển hướng đi đánh miền nam Na Uy, lúc này còn là một tỉnh của Đan Mạch. Ông chiếm được thành phố Kristiania (hiện nay là thủ đô Oslo của Na Uy), nhưng phải rút quân về vì thiếu hàng hậu cần. Mùa thu 1716, trong khi liên minh Anh, Hà Lan, Đan Mạch và Nga chuẩn bị đánh Thụy Điển bằng hải quân, Karl chia quân ra trấn giữ và củng cố các pháo đài. Nhưng ngày 17 tháng 9, Pyotr tuyên bố bãi bỏ cuộc tiến công vì cho rằng đã quá muộn, phải hoãn đến năm sau. Trong mùa hè 1718, hai bên Thụy Điển và Nga mở nhiều vòng đàm phán nhằm chất dứt chiến tranh, nhưng Karl không hề có ý định hòa hoãn với Nga. Đối với Karl đàm phán chỉ là để kéo dài thời gian nhằm đảm bảo Nga sẽ không tấn công chính quốc Thụy Điển, để ông rảnh tay hành quân nơi khác. Karl nhận ra rằng Nga quá mạnh, nên ông không thể trực diện đánh bật Nga ra khỏi các lãnh thổ đã bị Nga chiếm. Ông muốn đánh gục Đan Mạch trước qua ngả Na Uy, rồi sẽ tính đến Bắc Đức. Từ vị trí được củng cố này, ông định thân chinh mang quân đi đánh Nga lần nữa. Trong khi đàm phán đang tiếp tục, vào đêm 30 tháng 11 năm 1718, Karl XII tử trận khi đang kéo quân công hãm pháo đài Frederiksten ở Na Uy. Sau khi đã đi vắng khỏi chính quốc Thụy Điển trong 8 năm, cuối cùng Karl đã vĩnh viễn trở về nước. Vương quốc Anh can dự Với cái chết của Karl, Anh quốc thấy một tình hình hoàn toàn mới mẻ ở vùng Baltic. Vua George I của Anh hoạch định một kế sách nhằm duy trì thế lực của Thụy Điển đủ mạnh để Nga không trở nên quá hùng mạnh ở Baltic. Phương cách của ông là thay đổi mối liên minh gồm Nga, Ba Lan, Đan Mạch, Hannover và Phổ đang chống lại Thụy Điển. Qua đường lối ngoại giao khôn khéo của Anh, từng đồng minh của Nga lần lượt được thuyết phục, mua chuộc hoặc chịu áp lực mà phải hòa hoãn với Thụy Điển và quay lưng với Nga: Hannover ký hòa ước chính thức với Thụy Điển, qua đó tiếp nhận Bremen-Verden sau khi trả cho Thụy Điển một khoản tiền. Sau đó, George I ký liên minh với Thụy Điển cam kết mỗi năm điều một hạm đội hỗ trợ Thụy Điển ở Biển Baltic và giúp Thụy Điển đạt một hòa ước thuận lợi với Nga. Vua Friedrich Wilhelm I của Phổ bị cám dỗ – rồi cuối cùng ngả theo – với lời hứa chiếm được vĩnh viễn cảng Stettin giúp mở đường thông thương cho vương quốc của ông ra biển, cộng thêm một phần đất Pomerania của Thụy Điển. Đan Mạch bị dẫn dụ hòa hoãn với Thụy Điển vì Thụy Điển đồng ý trả phí cho tàu của Thụy Điển đi qua hải phận Đan Mạch và thôi ủng hộ Holstein-Gottop, là vùng đất đang tranh chấp giữa hai nước. Kế tiếp, vua August II ký hòa ước với Thụy Điển, được công nhận tước vị vua của Ba Lan. Phương tiện chính yếu để thực hiện sách lược chống Nga của Anh là một hạm đội hùng hậu Anh hiện diện trên Biển Baltic. Lẽ tự nhiên là Nga tỏ ra nghi ngờ và lo ngại về động thái của hạm đội Anh. Để tỏ lộ nỗi bất mãn, Sa hoàng ra lệnh hai đại sứ Anh và Hannover rời khỏi Sankt-Peterburg. Nga đánh phá chính quốc Thụy Điển Trong khi các tấn trò ngoại giao khúc mắc của Anh đang diễn ra sau lưng mình và các vòng đàm phán giữa Nga và Thụy Điển không đi đến kết quả nào, Pyotr xúc tiến việc đánh bại Thụy Điển trên chiến trường. Mùa hè năm 1719, hạm đội Nga đánh phá vùng bờ biển phía đông của Thụy Điển, đốt phá thị trấn, nhà máy và xưởng lọc sắt, bắt giữ một số tàu của Thụy Điển chở quặng sắt rồi mang số tàu này về Nga, tịch thu được 300 khẩu pháo. Thêm một cuộc tấn công của Nga vào Stockholm, nhưng lại bị đánh bật ra. Cùng lúc, một lực lượng khác của Nga đánh phá và gây tổn thất tương tự cho vùng bờ biển của Thụy Điển phía bắc, phá hủy nhà máy, kho tàng, và đốt phá 3 thị trấn. Mùa xuân năm 1720, trong khi hạm đội Anh đang biểu dương lực lượng ngoài khơi, đội thuyền ga-lê của Apraksin đã đi vòng và một lần nữa tiến đánh bờ biển Thụy Điển. Một lực lượng gồm 8 nghìn quân, kể cả người Cossack đổ bộ và xâm nhập vào đất liền đến 45 kilômét mà không gặp sức kháng cự nào, thỏa sức đốt phá thị trấn và làng mạc Thụy Điển. Vào giữa mùa hè 1720, chính sách chống Nga của George I ở trên bờ vực thất bại. Tư lệnh hạm đội Anh chỉ huy những chiến hạm lớn không muốn chạm trán với thuyền ga-lê của Nga trong vùng biển cạn. Vì vậy, trong khi chiến hạm của Anh tuần tiễu ngời khơi Biển Baltic hoặc trú đóng trong các cảng của Thụy Điển, thuyền ga-lê của Nga vẫn chèo lên xuống dọc bờ biển Thụy Điển, đổ quân lên đốt phá và cướp bóc tùy thích. Cuối cùng, vào tháng 9 năm 1720, khả năng của Anh can dự mạnh mẽ về quân sự ở vùng Baltic bị tiêu tán bởi cuộc khủng hoảng kinh tế ở Anh. Sir Robert Walpole, thường được gọi là "Thủ tướng đầu tiên" của Anh, chủ trương tránh chiến tranh, khuếch trương thương mại, cho rằng cái trò nửa chiến tranh nửa hòa bình với Nga là nguy hiểm cho tương lai phồn vinh của Anh. Vua George I phiền lòng, nhưng cũng thấy rằng chính kế hoạch của mình chống Nga không đạt hiệu quả. Hòa ước chấm dứt chiến tranh Chẳng bao lâu, vua Frederik I của Thụy Điển nhận ra tình thế mới. Thất vọng vì sự hỗ trợ bất lực của George I và nhận ra rằng nếu tiếp tục tình trạng chiến tranh thì Nga sẽ tiếp tục đánh phá chính quốc Thụy Điển, Frederik I phải chấp nhận thực tế là Thụy Điển đã chiến bại. Frederik I thông báo với Sa hoàng là ông sẵn sàng mở lại cuộc đàm phán, và hai bên gặp nhau ngày 28 tháng 4 năm 1721. Nhưng vòng đàm phán đầu bị bế tắc vì tranh cãi về lãnh thổ. Một lần nữa Sa hoàng ra lệnh tấn công dọc bờ biển Thụy Điển. Nhiều thị trấn và hàng trăm làng mạc bị tàn phá dọc bờ biển dài hơn 600 kilômét. Dù cuộc tấn công này có mức độ nhỏ hơn năm trước, Thụy Điển không thể tiếp tục chịu đựng được nữa. Frederik I cuối cùng nhượng bộ. Hòa ước Nystad giữa Nga và Thụy Điển được chính thức ký kết ngày 10 tháng 9 năm 1721. Hòa ước Nystad nhượng cho Pyotr các lãnh thổ mà Pyotr Đại đế đã ước muốn từ lâu. Livonia, Ingria và Estonia được nhượng vĩnh viễn cho Nga, cùng với Karelia kéo dài đến Vyborg. Phần còn lại của Phần Lan được trả lại cho Thụy Điển. Nga đồng ý trả một khoản tiền để bồi thường cho Livonia, và Thụy Điển được mua nông sản ở Livonia mà không phải trả thuế. Mọi tù binh của hai bên đều được trả tự do. Sa hoàng cam kết không can dự vào nội bộ của Thụy Điển, do đó công nhận Frederik I là vua của Thụy Điển. Đánh giá Đại chiến Bắc Âu tạo nên bước ngoặt cực kỳ quan trong cho châu Âu nói riêng và cho cả thế giới nói chung. Là một ông vua - chiến binh liều lĩnh, những cuộc chinh chiến của vua Karl XII đã mang lại thảm họa cho đất nước ông: từ một đế quốc hùng mạnh, Thụy Điển bị giảm uy thế rất nhiều, bị mất tất cả đất đai trên lục địa châu Âu. Chính vì ông quá thèm khát sự huy hoàng, vinh dự mà ông đã không thể là một chính khách vĩ đại, và đại văn hào Pháp Voltaire có kết luận: Ngược lại, nước Nga từ vị trí dường như tụt hậu cả trăm năm so với Tây Âu, vươn mình lên hàng cường quốc. Đại chiến Bắc Âu đã tạo cho Sa hoàng Pyotr I cơ hội xây dựng nên thành phố Sankt-Peterburg, trong 200 năm tiếp theo đó là kinh đô của Đế quốc Nga. Không những thế, trong suốt những năm tháng chinh chiến, ông đã lợi dụng triệt để tình hình mâu thuẫn nội bộ của Ba Lan, và biến nước này thành chư hầu của Đế quốc Nga. Trận Poltava là trận đánh quyết định kết quả chung cuộc về sau của Đại chiến Bắc Âu, và là tiếng sấm đầu tiên báo hiệu với thế giới rằng một nước Nga mới đã được khai sinh. Ngay sau Hòa ước Nystad giữa Nga và Thụy Điển được ký kết, Sa hoàng Pyotr I được chính thức tôn vinh là Pyotr Đại đế, và những quân vương Nga từ lúc đó cho đến Cách mạng Nga năm 1917 đều xưng là hoàng đế, ngang hàng với những đế quốc hùng mạnh như Trung Hoa, Ba Tư, Ottoman, Thánh chế La Mã, và Pháp. Cuộc chiến tranh Bắc Âu lần thứ ba cũng chính là cuộc chinh chiến cuối cùng trong một loạt cuộc chiến tranh Bắc Âu. Trong những năm về sau, các chính khách Tây Âu – vốn chỉ để tâm đến những sự vụ của Sa hoàng hơn một chút so với Hoàng đế Ba Tư hoặc Đại vương Ấn Độ – biết rằng phải cân nhắc cẩn thận sức mạnh và quyền lợi của Đế quốc Nga. Cán cân quyền lực mới – được thiết lập từ thời Đại chiến Bắc Âu – sẽ được tiếp nối và phát triển suốt các thế kỷ 18, 19 và 20. Đọc thêm Trận Poltava Karl XII của Thụy Điển Pyotr Đại đế Chú thích
Tõnu Trubetsky (còn được biết như Tony Blackplait; sinh ngày 24 tháng 4 năm 1963) là người Estonia có gốc Ba Lan và Ruthenia. Trubetsky là một ca sĩ nhạc new romantic và punk rock, cũng như là một diễn viên và đạo diễn. Tạp chí Suosikki từng nói "Tony chính là new romantic" và phần lớn tác phẩm của Tony là hoàn hảo. Tiểu sử Các đĩa nhạc The Flowers Of Romance Sue Catwoman (2004, CDEP, MFM Records) Sue Catwoman (2004, CD, The Flowers Of Romance) Vennaskond Riga My Love/Girl In Black (1991, 7") Rockpiraadid (1992, MC, Theka) Mina Ja George (1996, MC, CD, Vennaskond/Harley Davidson) Insener Garini Hüperboloid (1999, MC) Priima (1999, 2MC, 2CD, HyperElwood) Warszawianka (1999, MC, CD, HyperElwood) Pirita Live (1999, CD, Fucking Cunt Records) News From Nowhere (2001, MC, CD, DayDream) Subway (2003, CD) Các bộ phim Đạo diễn Vennaskond. Millennium (1998, VHS, 90 min., Faama Film/Trubetsky Pictures) Vennaskond. Ma armastan Ameerikat (2001, VHS, 140 min., DayDream Productions/Trubetsky Pictures) Vennaskond. Sügis Ida-Euroopas (2004, 2DVD, 185 min., DayDream/Trubetsky Pictures) Diễn viên Serenade (đạo diễn: Rao Heidmets, 1987) The Sweet Planet (đạo diễn: Aarne Ahi, 1987) War (đạo diễn: Hardi Volmer & Riho Unt, 1987) Hysteria (đạo diễn: Pekka Karjalainen, 1992) Moguchi (nhạc: Vennaskond, đạo diễn: Toomas Griin & Jaak Eelmets, 2004)
Sahara (, , nghĩa là sa mạc lớn) là sa mạc lớn nhất trên Trái Đất, là hoang mạc lớn thứ 3 trên Trái Đất (sau Châu Nam Cực và Bắc Cực), với diện tích hơn 9.000.000 km², xấp xỉ diện tích của Hoa Kỳ và Trung Quốc. Sahara ở phía bắc châu Phi và có tới 2,5 triệu năm tuổi. Tổng quan Được bao bọc bởi biển Đại Tây Dương ở phía Tây, dãy núi Atlas và Địa Trung Hải ở phía Bắc, Biển Đỏ (Hồng Hải) và Ai Cập ở phía Đông; Sudan và thung lũng sông Niger ở phía Nam. Điểm cao nhất trong sa mạc là đỉnh núi Emi Koussi với độ cao 3415 m so với mực nước biển, thuộc dãy núi Tibesti phía Bắc nước Tchad. Trong suốt kỷ nguyên băng hà, vùng Sahara đã từng ẩm ướt hơn ngày nay rất nhiều. Và cũng đã từng có rất nhiều loài động, thực vật sinh sống nơi đây. Tuy nhiên ngày nay,ngoại trừ vùng thung lũng sông Nin là có thể trồng được nhiều rau và một số ít nơi khác như vùng cao nguyên phía Bắc, gần Địa Trung Hải là có thể trồng cây ôliu còn phần lớn vùng này không thể canh tác được. Với diện tích tương đương Hoa Kỳ nhưng chỉ có 2,5 triệu người sinh sống trong vùng. Chủ yếu tập trung ở Ai Cập, Mauritanie, Maroc và Algérie. Các dân tộc chính bao gồm chủng Tuareg, Ả Rập, và nhóm người da đen như Tubu, Nubians, Zaghawa, Kanuri, Peul hay Fulani, Hausa và Songhai. Thành phố lớn nhất vùng là Cairo, thủ đô của Ai Cập nằm ở thung lũng sông Nin. Một số thành phố quan trọng khác bao gồm Nouakchott, thủ đô của Mauritanie; Tamanrasset, Algérie; Timbuktu, Mali; Agadez, Niger; Ghat, Libya; và Faya, Tchad. Lịch sử khí hậu Khí hậu Sahara đã trải qua những biến đổi to lớn giữa ẩm và khô trong vài trăm nghìn năm qua. Trong kỷ băng hà cuối cùng, Sahara lớn hơn ngày nay, trải dài xa hơn về phía nam so với biên giới hiện tại. Sự kết thúc của kỷ băng hà mang tới giai đoạn ẩm ướt hơn cho Sahara, từ khoảng năm 8000 TCN đến 6000 TCN, có lẽ vì các vùng áp suất thấp trên khắp các phiến băng đang sụp đổ ở phía bắc. Khi các phiến băng đã mất đi, vùng phía bắc Sahara bắt đầu khô đi. Tuy nhiên, không lâu sau sự chấm dứt các phiến băng, gió mùa hiện nay mang mưa tới Sahel thổi xa hơn nữa về phía bắc và xung đột với xu hướng khô ở phía nam Sahara. Gió mùa tại châu Phi (và các nơi khác) xuất hiện vì sức nóng mùa hè. Không khí trên lục địa trở nên nóng hơn và tăng lên, kéo không khí ẩm và lạnh từ biển vào. Hiện tượng này gây ra mưa. Vì thế, một cách nghịch lý, Sahara từng ẩm hơn khi nó nhận được nhiều ánh nắng trong mùa hè. Trái lại, những thay đổi trong sự hấp thu nhiệt Mặt trời bị gây ra bởi những sự thay đổi trong tham số quỹ đạo Trái Đất. Tới khoảng năm 2500 TCN, gió mùa rút về phía nam tới gần vị trí hiện nay, dẫn tới sự sa mạc hoá Sahara. Sahara hiện nay khô như điều kiện nó từng có trước kia khoảng 13.000 năm. Lịch sử Giai đoạn gia súc Tới năm 6000 TCN các tiền triều đại Ai Cập ở vùng phía tây nam Ai Cập đã biết chăn nuôi gia súc và xây dựng những ngôi nhà lớn. Sự sinh sống tại các khu định cư cố định, có tổ chức trong xã hội tiền triều đại Ai Cập ở giữa thiên niên kỷ thứ 6 TCN tập trung chủ yếu vào ngũ cốc và gia súc nông nghiệp: gia súc, dê, lợn và cừu. Các đồ dùng kim loại thay thế các đồ dùng đá trước đó. Thuộc da gia súc, đồ gốm và dệt cũng đã xuất hiện nhiều trong thời kỳ này. Có những dấu hiệu cho thấy sự chiếm cứ theo mùa hay chỉ tạm thời của Al Fayyum trong thiên niên kỷ thứ 6 TCN, với các hành động tìm kiếm lương thực tập trung chủ yếu vào, câu cá, săn bắn và hái lượm. Các đầu mũi tên, dao và scraper đá có rất nhiều. Những đồ vật dùng trong mai táng như bình, đồ trang sức, công cụ nông nghiệp và săn bắn và các thực phẩm như thịt khô và hoa quả. Người chết được chôn quay mặt về hướng tây. Giai đoạn Berber Người Phoenicia đã tạo ra một liên bang các vương quốc ngang qua toàn bộ Sahara tới Ai Cập, nói chung các vương quốc này đều nằm trên bờ biển nhưng cũng có một số trường hợp nằm trong sa mạc. Tới năm 2500 TCN Sahara đã trở nên khô như ngày này và trở thành một bức tường chắn không thể xâm nhập đối với con người, chỉ có rải rác một số khu định cư xung quanh các ốc đảo, nhưng buôn bán và thương mại xuyên qua xa mạc hầu như chưa xuất hiện. Một trong những ngoại lệ chính là Thung lũng sông Nin. Tuy nhiên, con sông Nin có nhiều thác không thể vượt qua khiến thương mại và giao lưu khó thực hiện. Ở khoảng thời gian nào đó giữa năm 633 và 530 TCN Hanno nhà hàng hải đã lập ra hay tăng cường các thuộc địa của Phoenicia ở phía Tây Sahara, nhưng mọi dấu tích quá khứ đều đã mất và thực sự không còn lại một dấu vết gì. Xem Lịch sử Tây Sahara. Hy Lạp Tới năm 500 TCN ảnh hưởng mới từ Hy Lạp và Phoenicia đến tới vùng này. Các thương gia người Hy Lạp đi dọc bờ biển phía đông sa mạc, thành lập lên những khu vực buôn bán dọc theo bờ Biển Đỏ. Người Carthaginia đã khám phá bờ biển Đại tây dương của sa mạc. Vì thiếu nước và thị trường nên bước chân của con người chưa bao giờ vượt quá phía nam Maroc hiện nay. Vì thế, các nước bao quanh sa mạc ở phía bắc và phía đông; nó vẫn nằm ngoài quyền kiểm soát của các nước này. Những cuộc chinh phục của người du mục Berber vào sa mạc luôn làm những người sống bên rìa lo ngại. Văn minh đô thị Một nền văn minh đô thị, Garamantes, đã phát triển trong khoảng thời kỳ này ở trung tâm Sahara, trong một thung lũng hiện được gọi là Wadi al-Ajal tại Fazzan, Libya. Nền văn minh Garamantes phát triển nhờ vào những con kênh đào qua các sườn thung lũng tới các ngọn núi dẫn nước vào các cánh đồng. Nền văn minh Garamantes trở nên đông đúc và mạnh mẽ, chinh phục những vùng xung quanh và bắt giữ nhiều nô lệ (để sử dụng vào việc mở rộng hệ thống kênh đào). Người Hy Lạp và người La Mã đã biết tới nền văn minh Garamantes và coi họ là những người du mục mọi rợ. Tuy nhiên, họ vẫn buôn bán với người Garamantes, và một bồn tắm La Mã đã được tìm thấy ở thủ đô Garama của Garamantes. Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy tám thị trấn lớn và những khu định cư quan trọng khác trong lãnh thổ Garamantes. Nền văn minh Gartamantes cuối cùng đã sụp đổ sau khi họ không còn khai thác được nước ngầm dưới đất, và vì thế không thể tiếp tục mở rộng hệ thống kênh của mình vào sâu trong núi. Người Ả rập Sự thay đổi lớn nhất trong lịch sử Sahara đến cùng cuộc chinh phục của người Ả rập, chính họ đã đưa lạc đà vào vùng này. Lần đầu tiên một mạng lưới thương mại hiệu quả xuyên sa mạc Sahara có thể thực thi. Các vương triều Sahel, đặc biệt là Đế quốc Ghana và Đế quốc Mali sau này trở nên hùng mạnh và giàu có nhờ xuất khẩu vàng và muối sang Bắc Phi. Các tiểu vương quốc dọc Địa trung hải đã mang hàng hóa và ngựa của họ xuống được phía nam. Muối được xuất khẩu từ chính Sahara. Quá trình này biến những cộng đồng ốc đảo rải rác trở thành các trung tâm thương mại, và nằm dưới quyền kiểm soát của các đế quốc trên bờ sa mạc. Hệ thống thương mại này đã tồn tại qua hàng thế kỷ tới khi sự phát triển ở châu Âu và sự phát triển kỹ thuật hàng hải cho phép các con tàu, ban đầu từ Bồ Đào Nha nhưng ngay sau đó là toàn bộ Tây Âu, đi quanh sa mạc và thu thập các nguồn tài nguyên ở Guinea. Sahara nhanh chóng rơi lại vào tình trạng cô lập. Các cường quốc thuộc địa cũng không chú trọng tới vùng này, nhưng ở thời hiện đại một số mỏ và các cộng đồng dân cư đã được phát triển để khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong sa mạc. Các nguồn tài nguyên này gồm khối lượng lớn khoáng sản dầu mỏ và khí tự nhiên ở Algérie và Libya cũng như một lượng lớn khoáng sản phosphate tại Maroc và Tây Sahara. Những sự phân tích mtDNA đã cho thấy rằng nhiều cộng đồng dân cư đã góp phần tạo nên sắc dân hiện nay ở vùng Nam Maroc gồm Berber, Ả rập, Phoenicia, Sephardic Do Thái, và người Phi Hạ Sahara. Trên toàn bộ Sahara, người Berber, Ả rập, và người Phi Hạ Sahara đều có liên quan về mặt di truyền. Những đất nước trong khu vực Sahara Algérie Tchad Ai Cập Libya Maroc Mauritanie Mali Niger Sudan Tunisia Tây Sahara
Rafael Viñoly (1 tháng 6 năm 1944 – 2 tháng 3 năm 2023) là một kiến trúc sư nổi tiếng thế giới người Uruguay. Ông sinh ra tại Montevideo, Uruguay; bố ông, Román Viñoly Barreto, một đạo diễn điện ảnh và mẹ ông, bà Maria Beceiro, là một giáo viên toán. Năm 1964, ông cùng sáu người bạn người bạn thành lập xưởng thiết kế Estudio de Arquitectura, sau này trở thành hãng kiến trúc lớn nhất Nam Mỹ. Năm 1968, Viñoly tốt nghiệp khoa Kiến trúc và Đô thị thuộc Đại học Buenos Aires (tiếng Bồ Đào Nha: Universidad de Buenos Aires) tại Argentina. Năm 1978, Viñoly cùng gia đình di cư sang Mỹ và sống tại Thành phố New York. Ông bắt đầu làm giảng viên thỉnh giảng của trường Thiết kế thuộc Đại học Harvard từ năm 1979. Ông lập ra hãng kiến trúc Rafael Viñoly Architects năm 1982. Công trình đầu tiên của ông ở New York là Trường John Jay về Công lý Tội phạm (John Jay College of Criminal Justice), hoàn thành năm 1988. Năm 1989, Viñoly thắng trong cuộc thi quốc tế về Forum Quốc tế Tokyo (tiếng Nhật: 東京国際フォーラム) ở Nhật Bản. Hoàn thành năm 1996, công trình này được coi là trung tâm văn hóa phức tạp và lớn nhất của Nhật Bản. Từ sau công trình này, Viñoly được xem như một trong các kiến trúc sư thiết kế công trình văn hóa hàng đầu thế giới. Năm 2001, công trình Trung tâm Nghệ thuật Trình diễn Kimmel (Kimmel Center for the Performing Arts) ở Philadelphia cũng gây được tiếng vang lớn. Ông là một trong số các kiến trúc sư lọt vào vòng chung kết cuộc thi tái thiết cho Trung tâm Thương mại Thế giới. Người chiến thắng của cuộc thi này là kiến trúc sư Daniel Libeskind. Triết lý kiến trúc của Viñoly luôn dựa trên yếu tố tổng hợp. Theo ông, công trình kiến trúc không bao giờ là thành quả của một cá nhân. Đó là sự chia sẻ của một cộng đồng hướng đến việc thỏa mãn cao nhất mục đích của khách hàng. Hiện nay, Rafael Viñoly là thành viên của Hiệp hội kiến trúc sư Mỹ AIA, thành viên quốc tế của Hiệp hội kiến trúc sư Hoàng gia Anh RIBA, Hiệp hội kiến trúc sư Nhật Bản và một số tổ chức khác. Ông qua đời tại TP. New York vào ngày 2 tháng 3 năm 2023, hưởng thọ 78 tuổi. Một số công trình nổi tiếng Trung tâm Nghệ thuật Trình diễn Kimmel, Philadelphia, Pennsylvania, 2001 Học viện Van Andel, Grand Rapids, Michigan, 2002 Học viện nghiên cứu Watson, Đại học Brown, Providence, Rhode Island, 2002 Trung tâm Thông tin Khoa học và Kỹ thuật, Đại học Pennsylvania, Pennsylvania, 2003 Trung tâm hội nghị David L. Lawrence, Pittsburgh, Pennsylvania, 2003 Đại học Kinh doan Chicago, Trung tâm Hyde Park, Chicago, Illinois, 2004 Trung tâm Hội thảo Triển lãm, Boston, Massachusetts, 2004 Khu nhạc Jazz ở trung tâm Lincoln, New York, New York, 2004 Bảo tàng Nghệ thuật Nasher, Đại học Duke, Durham, Bắc Carolina, 2005
Trong toán học và thống kê, một phân phối xác suất hay thường gọi hơn là một hàm phân phối xác suất là quy luật cho biết cách gán mỗi xác suất cho mỗi khoảng giá trị của tập số thực, sao cho các tiên đề xác suất được thỏa mãn. Theo thuật ngữ kỹ thuật, một phân phối xác suất là một độ đo xác suất (probability measure) mà miền xác định là đại số Borel trên tập số thực. Một phân phối xác suất là một trường hợp đặc biệt của một khái niệm tổng quát hơn về độ đo xác suất, đó là một hàm thỏa mãn các tiên đề xác suất của Kolmogorov cho các tập đo được của một không gian đo được (measurable space). Định nghĩa chính thức Mỗi biến ngẫu nhiên tạo ra một phân phối xác suất, phân phối này chứa hầu hết các thông tin quan trọng về biến ngẫu nhiên đó. Nếu X là một biến ngẫu nhiên, phân phối xác suất tương ứng gán cho đoạn [a, b] một xác suất P[a ≤ X ≤ b], nghĩa là, xác suất mà biến X sẽ lấy giá trị trong đoạn [a, b]. Phân phối xác suất của biến X có thể được mô tả một cách duy nhất bởi hàm phân phối tích lũy (cumulative distribution function) F(x) được định nghĩa như sau: với mọi x thuộc R. Một phân phối được gọi là rời rạc nếu hàm phân phối tích lũy của nó bao gồm một dãy các bước nhảy hữu hạn, nghĩa là nó sinh ra từ một biến ngẫu nhiên rời rạc X: một biến chỉ có thể nhận giá trị trong một tập hợp hữu hạn hoặc đếm được nhất định. Một phân phối được gọi là liên tục nếu hàm phân phối tích lũy của nó là hàm liên tục, khi đó nó sinh ra từ một biến ngẫu nhiên X mà P[ X = x ] = 0 với mọi x thuộc R. Phân phối liên tục còn có thể được biểu diễn bằng hàm mật độ xác suất: một hàm f không âm khả tích Lebesgue được định nghĩa trên tập số thực như sau: với mọi a và b. Không có gì đáng ngạc nhiên về việc các phân phối rời rạc không có một hàm mật độ như vậy, nhưng có các phân phối liên tục, như phân phối cầu thang của quỷ (devil's staircase), cũng không có mật độ. Giá của một phân phối là một tập đóng nhỏ nhất mà các phần tử của nó có xác suất bằng 0. Phân phối xác suất của tổng hai biến ngẫu nhiên độc lập là tích chập (convolution) của các phân phối của chúng. Phân phối xác suất của hiệu hai biến ngẫu nhiên là tương quan chéo (cross-correlation) của các phân phối của chúng. Các phân phối xác suất quan trọng Một số phân phối xác suất có vai trò quan trọng trong lý thuyết và ứng dụng đến mức chúng đã được đặt tên: Các phân phối rời rạc Với biến ngẫu nhiên nhận hữu hạn giá trị Phân phối Bernoulli là phân phối của biên ngẫu nhiên X lấy giá trị 1 với xác suất p và giá trị 0 với xác suất q = 1 − p. Phân phối Rademacher là phân phối của biên ngẫu nhiên X lấy giá trị giá trị 1 với xác suất 1/2 và giá trị −1 với xác suất 1/2. Phân phối nhị thức (binomial distribution) là phân phối của biên ngẫu nhiên X biểu diễn số lần thành công trong một dãy thí nghiệm độc lập, trong đó mỗi lần thử xác suất thành công là số p cố định. Phân phối suy biến (degenerate distribution) tại x0 là phân phối của biên ngẫu nhiên X, trong đó X chắc chắn lấy giá trị x0. Phân phối này không có vẻ ngẫu nhiên, nhưng nó thỏa mãn định nghĩa về biến ngẫu nhiên. Nó có ích do nó đã đặt các biến tất định và các biến ngẫu nhiên trong cùng một dạng thức. Phân phối đều rời rạc (discrete uniform distribution)là phân phối của biến ngẫu nhiên X trong đó X nhân giá trị trong một tập hữu hạn và X nhận giá trị bằng mỗi phần tử của tập đó với xác suất bằng nhau. Đây chính là phân phối xác suất của biên ngẫu nhiên X nhận được khi gieo một đồng xu cân bằng, một con súc sắc không lệch, một vòng roulette, hoặc khi tráo kỹ một bộ bài. Ngoài ra, người ta còn có thể sử dụng các đo đạc về các trạng thái lượng tử (quantum state) để sinh các biến ngẫu nhiên đều. Mọi thiết bị "vật lý" hay "cơ khí" đều có thể có lỗi thiết kế hoặc bị trục trặc, và phân phối đều là một mô tả gần đúng hành vi của chúng. Phân phối siêu bội (hypergeometric distribution) là phân phối của biên ngẫu nhiên X biểu diễn số lần thành công trong m lần đầu tiên của một chuỗi n thực nghiệm độc lập, nếu cho trước tổng số lần thành công. Phân phối Zipf: một phân phối quy tắc lũy thừa (power law) rời, ví dụ nổi tiếng nhất của nó là mô tả về tần số của các từ trong tiếng Anh. Phân phối Zipf-Mandelbrot là một phân phối quy tắc lũy thừa rời rạc và là suy rộng của phân phối Zipf. Với biến ngẫu nhiên nhận vô hạn giá trị Phân phối Boltzmann, một phân phối rời rạc quan trọng trong vật lý học thống kê. Nó mô tả xác suất của các mức năng lượng rời rạc của một hệ thống trong cân bằng nhiệt. Nó có một mô hình liên tục. Các trường hợp đặc biệt gồm có: Phân phối Gibbs Phân phối Maxwell-Boltzmann Phân phối Bose-Einstein Phân phối Fermi-Dirac Phân phối hình học, là phân phối của biến ngẫu nhiên X rời rạc mô tả số thực nghiệm cần thiết để đạt đến thành công đầu tiên trong một dãy các thực nghiệm Có/Không độc lập. Phân phối lôga Phân phối nhị thức âm, một suy rộng của phân phối hình học cho thành công thứ n. Phân phối bật hai phân dạng Phân phối Poisson, là phân phối của biên ngẫu nhiên X biểu diên một số rất lớn các biến cố xảy ra trong một khoảng thời gian nhất định. Phân phối Skellam, phân phối của hiệu của hai biến ngẫu nhiên độc lập tuân theo phân phối Poisson. Phân phối Yule-Simon Phân phối zeta dùng trong thống kê ứng dụng và cơ học thống kê, và có lẽ được các nhà lý thuyết số quan tâm. Nó là phân phối Zipf cho tập vô hạn các phần tử. Các phân phối liên tục Phân phối của các biến ngẫu nhiên lấy giá trị trên một khoảng bị chặn Phân phối Beta trên đoạn [0,1], phân phối đều là trường hợp đặc biệt, hữu dụng cho việc ước lượng các xác suất thành công. Phân phối đều liên tục trên đoạn [a,b]là phân phối của biên ngẫu nhiên X, trong đó X nhận giá trị trong các khoảng con hữu hạn độ dài bằng nhau với xác suất bằng nhau. Phân phối chữ nhật là một phân phối đều trên đoạn [-1/2,1/2]. Hàm delta Dirac tuy không hoàn toàn là một hàm, là một dạng giới hạn của nhiều hàm xác suất liên tục. Nó biểu diễn một phân phối xác suất rời rạc tập trung tại 0 — một phân phối suy biến — (degenerate distribution) nhưng hệ thống biểu diễn đối xử với nó như thể nó là một phân phối liên tục. Phân phối Kumaraswamy cũng hữu dụng như phân phối Beta nhưng có dạng đóng đơn giản cho cả hàm phân phối tích lũy và hàm phân phối xác suất. Phân phối lôga (liên tục) Phân phối tam giác trên đoạn [a, b], trường hợp đặc biệt là phân phối của tổng hai biến ngẫu nhiên có phân phối đều (tính chập của hai phân phối đều). Phân phối von Mises Phân phối nửa hình tròn Wigner (Wigner semicircle distribution) quan trọng trong lý thuyết ma trận ngẫu nhiên (random matrices). Phân phối của các biến ngẫu nhiên lấy giá trị trên khoảng nửa hữu hạn, thường là [0,∞) Phân phối chi Phân phối chi không trung tâm (noncentral chi distribution) Phân phối chi-bình phương, là tổng của các bình phương của n biến ngẫu nhiên Gauss độc lập. Đây là trường hợp đặc biệt của phân phối the Gamma, nó được dùng cho các kiểm tra goodness-of-fit (mức độ khớp) trong Thống kê. Phân phối chi-bình phương nghịch đảo (inverse-chi-square distribution) Phân phối chi-bình phương nghịch đảo không trung tâm (noncentral chi-square distribution) Phân phối chi-bình phương nghịch đảo tỉ lệ (scale-inverse-chi-square distribution) Phân phối mũ, mô tả thời gian giữa các biến cố ngẫu nhiên hiếm gặp liên tiếp trong một quy trình không có bộ nhớ. Phân phối F, là phân phối của tỉ lệ giữa hai biến ngẫu nhiên có phân phối chi-bình phương (đã chuẩn hóa), dùng trong phân tích phương sai (analysis of variance). Phân phối F không trung tâm (noncentral F-distribution) Phân phối Gamma, mô tả thời gian cho đến khi n biến cố ngẫu nhiên hiếm gặp liên tiếp xảy ra trong một quá trình không có bộ nhớ. Phân phối Erlang, là trường hợp đặc biệt của phân phối Gamma với tham số hình dạng là số nguyên, được phát triển để dự đoán các thời gian đợi trong các hệ thống hàng đợi (queuing systems). Phân phối gamma đảo (inverse-gamma distribution) Phân phối z của Fisher (Fisher's z-distribution) Phân phối nửa chuẩn (half-normal distribution) Phân phối Lévy log-logistic distribution log-normal distribution, mô tả các biến có thể được mô hình dưới dạng tích của nhiều biến ngẫu nhiên độc lập nhỏ. Phân phối Pareto, hoặc phân phối "quy tắc lũy thừa", được dùng trong phân tích dữ liệu thương mại và hành vi tới hạn (critical behavior). Phân phối Rayleigh Rayleigh mixture distribution Phân phối Rice type-2 Gumbel distribution Phân phối Wald Phân phối Weibull, trong đó phân phối mũ là trường hợp đặc biệt, dùng để mô hình tuổi thọ của các thiết bị kỹ thuật. Phân phối của các biến ngẫu nhiên lấy giá trị trên toàn tập số thực Phân phối nguyên tố Beta Phân phối Cauchy, một ví dụ về một phân phối không có kỳ vọng hay phương sai. Trong vật lý, phân phối này thường được gọi là một Lorentzian profile, và có liên quan đến nhiều quá trình, trong đó có phân phối năng lượng cộng hưởng, impact and natural spectral line broadening and quadratic stark line broadening. Phân phối Fisher-Tippett, extreme value, or log-Weibull distribution Phân phối Gumbel, trường hợp đặc biệt của phân phối Fisher-Tippett The generalized extreme value distribution The hyperbolic secant distribution Phân phối Landau Phân phối Laplace The Lévy skew alpha-stable distribution is often used to characterize financial data and critical behavior. The map-Airy distribution Phân phối chuẩn (normal distribution) còn gọi là phân phối theo đường cong Gauss, là phân phối của biên ngẫu nhiên X có hàm mật đọ là đường cong Gauss. Nó rất phổ biến trong thiên nhiên và thống kê do định lý giới hạn trung tâm (central limit theorem): mọi biến mà có thể được mô hình bằng tổng của nhiều biến độc lập đều là xấp xỉ chuẩn. Phân phối Student, là phân phối của biên ngẫu nhiên biểu diễn giá trị trung bình chưa biết của phân phối Gauss. t-phân phối không tâm Phân phối Gumbel dạng 1 Các phân phối điều kiện Với tập hợp bất kỳ gồm các biến ngẫu nhiên độc lập, hàm mật độ xác suất của phân phối có điều kiện (joint distribution) là tích của từng hàm riêng. Phân phối đông thời của các biến ngẫu nhiên trên cùng một không gian mẫu (vectơ ngẫu nhiên) Phân phối Dirichlet,là tổng quát hóa của phân phối beta. The Ewens's sampling formula is a probability distribution on the set of all partitions of an integer n, arising in population genetics. phân phối bội, là tổng quát hóa của phân phối nhị thức. phân phối chuẩn bội, là tổng quát hóa của phân phối chuẩn. Các phân phối của các ma trận ngẫu nhiên Đó là phân phối của các biến ngẫu nhiên nhận giá trị là các ma trận Phân phối Wishart Phân phối ma trận chuẩn t-phân phối ma trận Hotelling's T-square distribution Các phân phối khác Phân phối Cantor
Bùi Tường Phong (1942 tại Việt Nam – 1975 tại Mỹ) là một nhà nghiên cứu hàng đầu và là một trong những người tiên phong trong ngành đồ họa máy tính. Năm 1973, trong luận án tiến sĩ của mình tại Đại học Utah với tựa đề "Chiếu sáng trong đồ họa máy tính" (Illumination for Computer-Generated Images), ông đã đề xuất ra phương pháp tô màu áp dụng cho các vật thể có tính phản xạ gương (specular reflection). Từ đó phương pháp này thường được gọi là Phong shading. Phong shading đã trở thành một phương pháp cực kỳ phổ biến và hiện vẫn còn được sử dụng rộng rãi. Tiểu sử Ông sinh ngày 14 tháng 12 năm 1942 tại Hà Nội, Việt Nam. Sau khi học trường Lycée Albert Sarraut, ông và gia đình chuyển vào Sài Gòn năm 1954, học trường Lycée Jean Jacques Rousseau. Phong sang Pháp năm 1964 và học ở trường École d’Ingénieur de Grenoble (ENSEHRMAG). Ông nhận bằng Licence en Science tại Grenoble năm 1966 và bằng kỹ sư của trường ENSEEHT, Toulouse năm 1968. Cũng trong năm 1968, ông làm việc ở Viện nghiên cứu kỹ thuật tự động hoá (Institut de Recherche d’Ingenieur et d’Automatique, IRIA), nghiên cứu về phát triển hệ điều hành cho máy tính số. Ông sang Utah năm 1971 để làm trợ lý nghiên cứu cho ngành khoa học máy tính của trường. Phong là một trong những người tiên phong trong ngành đồ họa máy tính. Ông đã phát minh ra mô hình phản chiếu Phong (Phong reflection model) và tô bóng Phong (Phong shading). Những kỹ thuật này hiện nay được sử dụng rất phổ biến trong ngành đồ họa máy tính. Ông viết hai bài báo khoa học rất nổi tiếng năm 1973 và 1975. Hầu hết những công trình nghiên cứu sau này đều dựa trên hai bài báo này của ông. Ông hoàn thành đề tài tiến sĩ của mình ở trường Đại học Utah năm 1973. Năm 1969 ở Paris, Pháp, ông Phong đã cưới bà Bùi Thị Ngọc Bích (quê ở Nha Trang) và có một người con gái. Ông mất năm 1975 vì bệnh bạch cầu giai đoạn cuối. Ông đã biết mình bị bệnh này khi còn là sinh viên. Công trình Phong, Bui Tuong: Illumination of Computer-Generated Images, Department of Computer Science, University of Utah, UTEC-CSs-73-129, tháng 7 năm 1973 Phong, Bui Tuong: Illumination for Computer Generated Images, Comm. ACM, Vol 18(6):311-317, tháng 6 năm 1975
Trong Lý thuyết xác suất và thống kê, phân phối mũ là một lớp của các phân bố xác suất liên tục. Chúng thường được dùng để mô hình thời gian giữa các biến cố xảy ra theo một tỷ lệ trung bình là hằng số.. Đặc tả về phân phối mũ Hàm mật độ xác suất Hàm mật độ xác suất của một phân phối mũ có dạng sau trong đó λ > 0 là tham số của phân bố, thường được gọi là tham số tỉ lệ (rate parameter). Phân bố được hỗ trợ trên khoảng [0,∞). Nếu một biến ngẫu nhiên X có phân bố này, ta viết X ~ Exponential(λ). Hàm phân bố tích lũy Hàm phân bố tích lũy được định nghĩa như sau: Đặc tả khác Một cách khác để định nghĩa hàm mật độ xác suất của một phân phối mũ như sau: Trong đó, λ > 0 là một tham số của phân bố và có thể được coi là nghịch đảo của tham số tỉ lệ được định nghĩa ở trên. Trong đặc tả này, λ là một tham số sống sót (survival parameter) theo nghĩa: nếu một biến ngẫu nhiên X là khoảng thời gian mà một hệ thống sinh học hoặc cơ học M cho trước sống sót được và X ~ Exponential(λ) thì . Nghĩa là, khoảng thời gian sống sót kỳ vọng của M là λ đơn vị thời gian. Đôi khi, đặc tả này thuận tiện hơn đặc tả đầu tiên, một số tác giả dùng đặc tả này làm định nghĩa chuẩn (nhưng trong bài này thì không). Rất tiếc là điều này làm nảy sinh nhập nhằng về ký hiệu. Nói chung, người đọc sẽ phải kiểm tra xem đặc tả nào trong hai đặc tả này được sử dụng khi một tác giả viết "X ~ Exponential(λ)." Ứng dụng Phân phối mũ được dùng để mô hình các quá trình Poisson, đó là các tình huống mà khi đó một đối tượng đang ở trạng thái A có thể chuyển sang trạng thái B với xác suất không đổi λ trong mỗi đơn vị thời gian. Thời điểm thay đổi trạng thái được mô tả bằng một biến ngẫu nhiên có phân phối mũ với tham số λ. Do đó, tích phân từ 0 đến T của f là xác suất đối tượng đang ở trạng thái B tại thời điểm T. Phân phối mũ có thể được xem là một phân bố liên tục tương ứng với phân bố hình học. Phân bố hình học mô tả số phép thử Bernoulli (Bernoulli trial) cần thiết cho một quá trình rời rạc thay đổi trạng thái. Trong khi đó, phân phối mũ mô tả thời điểm mà một quá trình liên tục chuyển trạng thái. Trong các tình huống thực, giả thuyết về một tỉ lệ hằng số (hay xác suất không đổi trong một đơn vị thời gian) hiếm khi được thỏa mãn. Ví dụ, tỉ lệ các cuộc điện thoại gọi đến thay đổi theo thời gian trong ngày. Tuy nhiên, nếu ta tập trung vào một khoảng thời gian khi tỉ lệ đó khá gần với hằng số, chẳng hạn từ 2 đến 4 giờ chiều trong ngày làm việc, phân phối mũ có thể là mô hình xấp xỉ tốt cho thời gian đến khi có cú điện thoại tiếp theo. Các dự đoán tương tự áp dụng cho các ví dụ sau, chúng cho ra các biến có phân bố xấp xỉ phân phối mũ: thời gian cho đến khi bạn bị tai nạn giao thông lần nữa thời gian cho đến khi một hạt phóng xạ phân rã, hay thời gian giữa hai tiếng bíp của một máy đếm geiger (geiger counter) số lần thả súc sắc cần thiết cho đến khi bạn thả được lục liên tục 11 lần. thời gian cho đến khi một thiên thạch lớn rơi xuống trái đất gây ra biến cố tuyệt chủng hàng loạt (mass extinction event). Các biến phân phối mũ còn có thể được dùng để mô hình các tình huống khi một số biến cố nhất định xảy ra với một xác suất không đổi trong mỗi đơn vị khoảng cách: khoảng cách giữa các đột biến trên một sợi DNA; khoảng cách giữa hai đoạn hay xảy ra tai nạn trên một con đường cho trước; Trong Lý thuyết hàng đợi, khoảng thời gian giữa các sự kiện đến (nghĩa là thời gian giữa các thời điểm khách hàng vào hệ thống) thường được mô hình bằng các biến phân phối mũ. Độ dài của một quá trình mà có thể được coi là một chuỗi các nhiệm vụ độc lập được mô hình tốt hơn bởi một biến theo phân bố Gamma (đó là tổng của một số biến độc lập theo phân phối mũ). Lý thuyết về độ tin cậy (Reliability theory), và reliability engineering (ngành kỹ nghệ đảm bảo rằng một hệ thống sẽ đáng tin cậy khi được vận hành theo một quy cách được định trước) cũng ứng dụng phân phối mũ rất nhiều. Do tính chất không bộ nhớ, phân phối mũ rất thích hợp cho việc mô hình phần tỉ lệ rủi ro hằng số của đường cong hình chậu (bathtub curve) sử dụng trong lý thuyết về độ tin cậy. Nó cũng thuận tiện cho việc bổ sung các tỉ lệ thất bại (failure rate) vào mô hình độ tin cậy. Tuy nhiên phân phối mũ không thích hợp cho việc mô hình toàn bộ đời sống của các cơ thể sống hoặc các thiết bị kỹ thuật, vì các "tỉ lệ thất bại" ở đây không phải hằng số: có nhiều thất bại xảy ra hơn đối với các hệ thống rất trẻ hoặc rất già. Trong vật lý, nếu ta quan sát một chất khí tại một nhiệt độ và áp suất không đổi trong một trọng trường đều, độ cao của các phân tử cũng tuân theo một phân phối mũ xấp xỉ. Đó là kết luận của tính chất entropy được nêu dưới đây. Các tính chất Giá trị trung bình và phương sai Giá trị trung bình hay giá trị kỳ vọng của một biến ngẫu nhiên phân phối mũ X với tham số tỉ lệ λ được cho bởi công thức: Như trong ví dụ về điện thoại ở mục trước, nếu ta nhận được các cú điện thoại với tỷ lệ trung bình hai cú mỗi giờ, thì ta có thể trông đợi khoảng thời gian nửa tiếng cho đến khi nhận được cú tiếp theo. Phương sai của X là . Không nhớ Một tính chất quan trọng của phân phối mũ là nó không nhớ. Nghĩa là nếu một biến ngẫu nhiên T có phân phối mũ, xác suất điều kiện của nó phải thỏa mãn: Công thức trên có nghĩa rằng xác suất điều kiện rằng ta cần đợi, chẳng hạn, 10 phút nữa trước khi cú điện thoại tiếp theo được gọi đến, biết rằng ta đã đợi nó 30 phút rồi, không khác gì với xác suất cho việc ta cần đợi thêm 10 phút nữa cho đến khi cú điện thoại tiếp theo được gọi đến, biết rằng ta vừa mới bắt đầu quá trình đợi. Sinh viên học môn xác suất thường gặp phải nhầm lẫn đó. Thực tế rằng P(T > 40 | T > 30) = P(T > 10) không có nghĩa rằng các biến cố T > 40 và T > 30 là độc lập. Tóm lại, tính chất không nhớ của phân bố xác suất của thời gian chờ đợi T cho đến khi có cú điện thoại tiếp theo có nghĩa là (Đúng) Nó không có nghĩa là (Sai) (Công thức trên có nghĩa độc lập. Nhưng hai biến cố này không độc lập) Chỉ có các phân phối mũ là các phân phối xác suất không nhớ liên tục. Phân phối mũ cũng có một hàm rủi ro (hazard function) là hằng số. Tứ phân vị Hàm điểm vi phân (quantile function - hàm phân bố tích lũy nghịch đảo) cho Exponential(λ) là với . Có các tứ phân vị sau: Tứ phân vị thứ nhất Trung vị (tứ phân vị thứ hai) Tứ phân vị thứ ba Entropy Trong số tất cả các phân bố xác suất liên tục với hỗ trợ [0,∞) và giá trị trung bình μ, phân phối mũ với λ = 1/μ có entropy lớn nhất. Ước lượng tham số Giả sử ta biết rằng một biến cho trước có phân bố mũ và ta muốn ước lượng tham số tỷ lệ λ. Khả năng cực đại Hàm khả năng (likelihood function) cho λ, nếu cho trước một mẫu phân bố đồng nhất và độc lập x = (x1,..., xn) lấy từ biến ngẫu nhiên của ta, là trong đó là giá trị trung bình của mẫu. Đạo hàm của lôga của hàm khả năng là Do đó, ước lượng khả năng cực đại (maximum likelihood) cho tham số tỷ lệ là . Suy diễn Bayes Tiên nghiệm liên hợp (conjugate prior) cho phân phối mũ là phân phối Gamma (mà phân phối mũ là một trường hợp đặc biệt). Dưới đây là cách tính tham số hữu ích cho hàm mật độ xác suất gamma: Khi đó, phân bố hậu nghiệm (posterior distribution) p có thể được biểu diễn theo hàm khả năng được định nghĩa ở trên và tiên nghiệm gamma: Đến đây, mật độ hậu nghiệm p đã được mô tả rõ ràng và chỉ còn thiếu một hằng số chuẩn hóa. Do nó có dạng của một hàm mật độ xác suất, ta dễ dàng điền thêm hằng số đó, và ta có Ở đây, tham số có thể được hiểu là số quan sát tiên nghiệm, và là tổng của các quan sát tiên nghiệm. Sinh biến ngẫu nhiên theo phân phối mũ Có một phương pháp đơn giản về mặt khái niệm cho việc sinh các biến sinh ngẫu nhiên (random variate) theo phân phối mũ. Phương pháp này dựa trên phương pháp lấy mẫu biến đổi nghịch: Cho trước một biến sinh ngẫu nhiên U rút ra từ phân bố đều trên khoảng đơn vị , biến sinh có một phân phối mũ, trong đó là hàm điểm vi phân, được định nghĩa như sau: Ngoài ra, nếu U là đều trên , thì cũng vậy. Nghĩa là ta có thể sinh các biến theo phân phối mũ theo cách sau:
Hãn quốc Kim Trướng là một tên gọi của một hãn quốc Hồi giáo gốc Mông Cổ, sau này đã Đột Quyết hoá - được thành lập ở vùng phía tây Đế quốc Mông Cổ sau chiến dịch xâm lược Rus của họ từ năm 1235-1240, bao gồm các lãnh thổ ngày nay là Nga, Ukraina, Moldova, Kazakhstan, và phía bắc dãy Kavkaz, lãnh thổ của Kim Trướng hãn quốc thời đỉnh điểm gồm hầu hết Đông Âu từ dãy núi Ural tới hữu ngạn sông Dnepr, kéo dài về phía đông sâu vào tận Siberi. Ở phía nam, đất đai của Kim Trướng hãn quốc kéo dài tới biển Đen, dãy núi Kavkaz và các lãnh thổ của một triều đại Mông Cổ khác được gọi là hãn quốc Y Nhi. Từ nguyên Nguồn gốc của cái tên Kim Trướng Hãn Quốc (được dịch từ chữ Hán: 金帳汗國) vẫn còn chưa được làm rõ, nhưng chắc chắn được phỏng dịch từ tên () cũng được phỏng dịch lại từ () hoặc (), một số nguồn nói rằng nó liên tưởng đến chiếc lều bạt bằng vàng của Bạt Đô (Batu) hoặc Nguyệt Tức Biệt (Ozbeg) và sau này là những vị vua cai trị của các vị hãn quốc, hoặc đã được ban tặng bởi các sứ giả triều cống Slav để chỉ sự phồn thịnh của các vị khả hãn. dù giả thuyết này chưa được công nhận. Trong tiếng Đột Quyết cổ Altan Orda có nghĩa là cung điện vàng hoặc căn lều vàng (, Altan Ordon), Altan (vàng) là màu của hoàng gia, orda được định nghĩa là đầu não của một hãn quốc. Trong những nguồn đương thời nhất, Kim Trướng hãn quốc là để chỉ Hãn quốc Qipchaq còn được gọi là Ulus Jochi, do người Qipchaq chiếm hầu hết dân cư du mục trong vùng. Khởi đầu Trước khi Thành Cát Tư Hãn của Đế quốc Mông Cổ băng hà, ông đã chia đều quyền lực và lãnh thổ của đế quốc cho bốn người con trai do hoàng hậu (khatun) Bột Nhi Thiếp (Borte) sinh ra cai quản. Theo đó, hoàng tử trưởng Truật Xích (Jochi), người vốn qua đời trước cha mình sáu tháng và bị nghi ngờ về huyết thống trong suốt cuộc đời, được trao vùng đất cực tây do người Mông Cổ chiếm đóng (gồm phía nam Nga và Kazakhstan). Sau đó, những người con lớn nhất của Truật Xích được thừa kế lãnh địa của cha: người con trưởng và cũng là cháu đích tôn của Thành Cát Tư Hãn, Oát Nhi Đáp (Orda), trở thành hãn của Bạch Trướng hãn quốc, còn người con thứ hai, Bạt Đô (Batu), cai trị Thanh Trướng hãn quốc. Năm 1235, dưới triều đại của Oa Khoát Đài Hãn (Ogedei, người con trai thứ ba lên thừa kế ngôi vị Khả hãn), Bạt Đô được giao nhiệm vụ cùng tướng quân Tốc Bất Đài (Subedei) chỉ huy 150.000 quân tiến về phía tây. Đây được xem là chiến dịch tiếp nối cho những cuộc tấn công chống lại người Cuman đã được người cha quá cố Truật Xích của Bạt Đô khởi động năm 1223 khi quân đội Mông Cổ tìm cách tiến vào bán đảo Krym. Đầu tiên, họ thành công trong việc đánh đuổi các bộ lạc người Bashkir, và Volga Bulgaria một năm sau đó, ra khỏi các vùng lãnh nguyên thuộc miền tây Siberi. Đến năm 1237, quân đội của Bạt Đô chinh phục một số vùng thảo nguyên phía nam Ukraina, cuối cùng buộc người Cuman địa phương phải rút khỏi bán đảo Krym năm 1239, và biến nơi đây trở thành một ulus của của Đế quốc Mông Cổ. Các tàn tích của người Cuman Krym còn lại ở dãy núi Krym trong khi hầu hết bán đảo trở thành nơi sinh sống của những người Tatar đi chinh phục. Tiến về phía bắc, Bạt Đô bắt đầu xâm lược Rus và trong ba năm đã tiêu diệt hoàn toàn công quốc Rus Kiev, trong khi những người em họ của ông là Mông Kha (Möngke), Hợp Đan (Kadan) và Quý Do (Guyuk) tiến về phía nam vào lãnh địa của người Alania. Dùng những người Cuman di cư làm casus belli (nguyên nhân gây chiến), đội quân của Bạt Đô tiếp tục đi về phía tây, cướp phá Ba Lan và Hungary sau những chiến thắng tại các trận Legnica và trận Mohi. Tuy nhiên, năm 1241, đại hãn Oa Khoát Đài (Ögedei) đột ngột băng hà tại Mông Cổ, buộc Bạt Đô phải từ bỏ kế hoạch vây hãm thành Viên của đế quốc La Mã Thần Thánh để trở về kinh đô Hoa Lâm (Karakorum) với mục tiêu kế thừa ngôi vị khả hãn. Từ đó, quân đội Mông cổ không bao giờ còn có thể đi xa thêm về phía tây. Năm 1242, sau khi rút qua Hungary (phá huỷ Pest trong quá trình đó), và chinh phục Bulgaria, Bạt Đô thiết lập kinh đô tại Sarai thuộc vùng hạ lưu sông Volga, vốn trước đây từng là kinh đô Atil của người Khazar. Đến năm 1255, Bạt Đô hãn băng hà và ngôi vị được truyền lại cho người con trai cả là Sartaq, dưới sự nhiếp chính của một người em trai của Bạt Đô là Biệt Nhi Ca (Berke). Nhưng chỉ trong 2 năm, lần lượt Sartaq và người em trai kế vị Ulaghchi đều băng hà, khiến cho ngôi khả hãn chính thức thuộc về nhiếp chính vương Bịet Nhi Ca. Dưới sự cai trị của ông, Kim Trướng trở thành một đế quốc bền vững và ổn định ở phía tây của đế quốc Mông Cổ. Năm 1259, ông tiêu diệt hoàn toàn phe đối lập của Danylo xứ Halych, phát động cuộc chiến tranh với Đại công quốc Lietuva lần thứ hai, do tướng Burundai chỉ huy. Từ năm 1260, Kim Trướng hãn quốc tiếp tục tiến xuống phía nam đến dãy Kavkaz, uy hiếp biên giới của Y Nhi hãn quốc do người em họ Húc Liệt Ngột cai trị. Năm 1265, quân Mông Cổ cướp phá Bulgaria và tỉnh Thrace của đế quốc Đông La Mã (Byzantine), buộc hoàng đế Michael VIII phải cống nạp vải quý cho Biệt Nhi Ca. Thời kỳ hoàng kim Sau khi Mông Kha chết năm 1259, cuộc chiến tranh giành quyền kế vị diễn ra giữa Hốt Tất Liệt và A Lý Bất Ca (Ariq Böke), gián tiếp đánh dấu sự chấm dứt của một đế quốc Mông Cổ thống nhất. Cuộc chiến giữa Kim Trướng hãn quốc dưới sự chỉ huy của hãn Biệt Nhi Ca (Berke) và hãn quốc Y Nhi của hãn Húc Liệt Ngột (Hulagu), cuộc chiến tranh Biệt Nhi Ca-Húc Liệt Ngột, nhanh chóng bùng phát năm 1262. Kim Trướng hãn quốc trở thành một quốc gia hoàn toàn độc lập sau đó. Dù hãn Uzbeg (sultan Mohammed Öz-Beg hay Nguyệt Tức Biệt) đã Hồi giáo hoá hãn quốc này năm 1315 và sử dụng tiếng Mông Cổ làm ngôn ngữ ngoại giao duy nhất, ký tự Mông Cổ đã được các hãn sử dụng cho tới cuối thế kỷ 14. Chúng ta biết rằng Janibeg đã viết một bức thư bằng tiếng Mông Cổ gửi sang Ai Cập và Tokhta, và Tokhtamysh đã đúc những đồng xu với ký tự Mông Cổ. Sau vụ lật đổ vị bá chủ danh nghĩa là Hoàng đế nhà Nguyên Nguyên Huệ Tông Thỏa Hoàn Thiếp Mục Nhĩ (Toghan Temur), Kim Trướng Hãn Quốc mất đi quan hệ với Mông Cổ và Trung Quốc. Khi đó, người dân Kim Trướng hãn quốc phần lớn là sự pha trộn giữa người Turk và người Mông Cổ đều theo đạo Hồi. Các sắc dân người Turk gồm có Kypchak, Volga Tatar, Khwarezm,... chiếm đa sô trong xã hội, gián tiếp đồng hóa văn minh của họ với bản sắc Mông Cổ của những hậu duệ của hoàng tộc Bột Nhi Chỉ Cân (Borjigin). Họ thường được người Nga và người châu Âu gọi là người Tatar. Người Nga giữ tên chung này cho cả nhóm tới thế kỷ 20. Tuy nhiên, hầu hết các thành viên của nhóm này tự phân biệt mình theo tên sắc tộc hay bộ lạc, một số người cũng tự coi mình là tín đồ Hồi giáo. Đa số dân cư, cả dân nông nghiệp và du mục, đều sử dụng tiếng Kypchak, một ngôn ngữ đã phát triển thành các ngôn ngữ khu vực của nhóm Kypchak sau khi hãn quốc tan rã. Các hậu duệ của Bạt Đô cai trị Kim Trướng hãn quốc từ Sarai Batu và sau này là Sarai Berke, đều kiểm soát một vùng từ sông Volga và dãy núi Karpat tới cửa sông Danube. Các hậu duệ của Orda cai trị vùng từ sông Ural tới hồ Balkhash. Những cuộc điều tra dân số đã ghi nhận người Trung Quốc sống trong các khu dân cư tại các vùng của người Tatar ở Novgorod, Tver và Moskva. Một bài thơ trên vỏ cây, được biết như là giấy cói Kim Trướng hãn quốc, là một trong những dấu vết còn lại tưởng nhớ về nền văn hoá hãn quốc này. Thơ được viết bằng tiếng Mông Cổ ở đầu thế kỷ 14. Nó nói về một chiến binh và người mẹ anh ta nhớ nhau trong bối cảnh những cuộc chiến tranh triền miên. Cơ cấu tổ chức nội bộ Vị vua cai trị tối cao của hãn quốc là hãn, được lựa chọn trong kurultai từ số các hậu duệ của hãn Bạt Đô. Tể tướng, cũng thuộc sắc tộc Mông Cổ, được gọi là "hoàng thân của các hoàng thân", hay beklare-bek. Các vị quan được gọi là vizier. Các vị lãnh chúa địa phương, hay các basqaq, chịu trách nhiệm thu thuế và xử lý các vụ bất tuân của dân chúng. Cơ cấu hành chính dân sự và quân sự không tách rời. Hãn quốc này đã phát triển như một nền văn hoá định cư chứ không phải du mục, và Sarai phát triển lên trở thành một đô thành lớn và thịnh vượng. Đầu thế kỷ 14, thủ đô được dời lên thượng nguồn tới Sarai Berqe, nó trở thành một trong những thành phố lớn nhất thế giới thời Trung cổ, với 600.000 dân. Dù có những nỗ lực của người Nga nhằm cải đạo ở Sarai, người Mông Cổ vẫn tuân theo các đức tin vật linh hay shaman giáo truyền thống của họ cho tới khi Uzbeg Khan (1312-41) chấp nhận đạo Hồi làm quốc giáo. Nhiều vị quân chủ của Rus Kiev - như Mikhail của Chernigov và Mikhail của Tver nằm trong số họ - được thông báo là đã bị ám sát ở Sarai, nhưng các hãn nói chung là khoan dung và thậm chí còn cho phép Nhà thờ Chính thống Nga không phải nộp thuế. Chư hầu và đồng minh Hãn quốc thu các khoản thuế từ các tộc người chư hầu - người Nga, người Armenia, người Gruzia, người Circassia, người Alan, người Hy Lạp Krym, người Goth Krym, và các sắc tộc khác (người Bulgar Balkan và người Serb). Các lãnh thổ của các thần dân theo Thiên chúa giáo được coi là các vùng đất ngoại biên không đáng chú ý lắm khi họ vẫn chịu nộp thuế. Các quốc gia chư hầu này không bao giờ bị sáp nhập vào hãn quốc, và những vị công tước Nga ban đầu có được quyền ưu tiên thu thuế cả của người Tatar. Để duy trì sự kiểm soát với Nga, các lãnh chúa Tatar thường tiến hành các cuộc cướp bóc trừng phạt vào hầu hết các công quốc Nga (các cuộc lớn nhất là vào năm 1252, 1293, 1382). Có một quan điểm, được Lev Gumilev quảng bá nhiều nhất, rằng hãn quốc và các thực thể Nga đã tham gia vào một liên minh phòng thủ chống lại các hiệp sĩ Teuton cuồng tín và người Litva dị giáo. Những người đề xuất chỉ ra rằng triều đình Mông Cổ là nơi các công tước Nga thường lui tới, đáng chú ý nhất là Feodor Đen của Yaroslavl, người khoe khoang ulus của riêng mình gần Sarai, và Aleksandr Nevsky của Novgorod, người anh em chí cốt của người kế vị Bạt Đô là hãn Sartaq. Một lực lượng Mông Cổ đã giúp đỡ cho người Novgorod tại trận chiến băng và người Novgorod phải trả thuế cho hãn quốc. Sarai đã có mối quan hệ thương mại phát đạt với các trung tâm thương mại của Genoa trên bờ biển Đen - Soldaia, Caffa, và Azak. Mamluk Ai Cập là đối tác thương mại lâu dài của các hãn và đồng minh tại Địa Trung Hải. Berke, hãn của Kipchak đã lập ra một liên minh với Mamluk Sultan Baibars chống lại hãn quốc Y Nhi năm 1261. Phát triển chính trị Sau cái chết của Bạt Đô năm 1255, sự thịnh vượng của đế chế của ông kéo dài đúng một thế kỷ, cho tới vụ ám sát Jani Beg năm 1357, dù những mưu đồ của Nogai quả thực có tạo ra một cuộc nội chiến cục bộ hồi cuối thập niên 1290. Đỉnh cao sức mạnh quân sự của hãn quốc là trong thời kỳ cai trị của Uzbeg (1312-41), quân đội của ông vượt quá 300.000 chiến binh. Chính sách với Nga của họ là luôn thay đổi các liên minh nhằm khiến Nga luôn yếu ớt và bị chia rẽ. Trong thế kỷ 14, sự nổi lên của Litva ở đông bắc châu Âu đã đặt ra một thách thức với sự kiểm soát của người Tatar với Nga. Vì thế Uzbeg Khan bắt đầu hỗ trợ Moskva trở thành nhà nước hàng đầu của Nga. Ivan I Kalita được trao danh hiệu đại công tước và có quyền thu thuế từ các vị công tước Nga khác. Phân rã và sụp đổ Tử thần Đen những năm 1340 là một yếu tố chủ chốt góp phần vào sự suy tàn của Kim Trướng hãn quốc. Sau thời kỳ cầm quyền thảm hoạ của Jani Beg và vụ ám sát ông sau đó, hãn quốc này rơi vào một cuộc nội chiến kéo dài, với sự xuất hiện mỗi hãn một năm trong vài thập kỷ sau đó. (Bạch Trướng hãn quốc của Orda tiếp tục phát triển và không gặp rắc rối gì lớn cho tới cuối những năm 1370). Tới những năm 1380, Khwarezm, Astrakhan, và Muscovy đã tìm cách thoát khỏi quyền lực của hãn quốc, trong khi vùng đất tới sông Dnepr của nó đã bị Litva sáp nhập sau thắng lợi quyết định của họ trong trận chiến sông Synyuk và Ba Lan năm 1380. (Các công quốc phía đông dần bị sáp nhập với ít sự kháng cự). Mamai, một vị tướng người Tatar không chính thức nắm ngôi báu, đã tìm cách tái lập quyền lực của Tatar với Nga. Quân đội của ông đã bị Dmitry Donskoi đánh bại tại trận Kulikovo trong thắng lợi thứ hai liên tiếp của ông trước người Tatar. Mamai nhanh chóng mất quyền lực. Năm 1378, Tokhtamysh, một hậu duệ của hãn Orda và người cai trị Bạch Trướng hãn quốc, đã xâm lược và sáp nhập lãnh thổ của Thanh Trướng hãn quốc, tái lập trong một thời gian ngắn Kim Trướng hãn quốc như là quyền lực thống trị trong vùng. Sau thất bại của Mamai, Tokhtamysh đã tìm cách tái lập sự thống trị của Kim Trướng hãn quốc với Nga bằng cách tấn công các vùng đất Nga năm 1382. Ông bao vây Moskva ngày 23 tháng 8, nhưng những người dân Moskva đã đánh bại ông, lần đầu tiên sử dụng súng trong lịch sử Nga. Ngày 26 tháng 8, hai người con của người ủng hộ Tokhtamysh là Dmitry của Suzdal, các công tước của Suzdal và Nizhny Novgorod Vasily và Semyon, có mặt trong các lực lượng của Tokhtamysh, đã thuyết phục những người Moskva mở cổng thành, hứa hẹn rằng các lực lượng sẽ không tàn phá thành phố. Điều này giúp quân đội của Tokhtamysh tiến vào và phá huỷ Moskva, giết hại 24.000 người. Tamerlane đã thực hiện một cú đánh chết người với hãn quốc, người đã thủ tiêu quân đội của Tokhtamysh, phá huỷ kinh đô, cướp phá các trung tâm thương mại Krym, và trục xuất hầu hết thợ thủ công có tài tới thủ đô của mình tại Samarkand. Trong những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 15, quyền lực được Edigu, một tư tế có nguồn gốc ở Vytautas tại Litva trong Trận chiến sông Vorskla thao túng và thành lập hãn quốc Nogai làm khu vực của riêng mình. Trong thập niên 1440, hãn quốc một lần nữa bị chia rẽ bởi nội chiến. Lần này, nó tan rã thành hai hãn quốc: hãn quốc Qasim, hãn quốc Kazan, hãn quốc Astrakhan, hãn quốc Kazakh, hãn quốc Uzbek, và hãn quốc Krym tất cả đều ly khai khỏi tàn tích cuối cùng của Kim Trướng hãn quốc - Đại hãn quốc. Không một hãn quốc mới nào mạnh hơn đại công quốc Moskva, cuối cùng đã thoát khỏi sự kiểm soát của người Tatar năm 1480. Mỗi hãn quốc cuối cùng đều bị nó sáp nhập, bắt đầu với Kazan và Astrakhan hồi thập niên 1550. Tới cuối thế kỷ hãn quốc Siberi đã là một phần của Nga. Các hậu duệ của các hãn cầm quyền đều phục vụ Nga. Mùa hè năm 1470 (những nguồn khác đưa ra con số 1469), hãn Ahmed tổ chức một cuộc tấn công vào Moldavia, Vương quốc Ba Lan, và Litva. Tới ngày 20 tháng 8, các lực lượng Moldavia dưới sự chỉ huy của Stephen Vĩ đại đánh bại quân Tatar trong Trận Lipnic. Vương quốc Ba Lan và Đại công quốc Lietuva (sở hữu hầu hết Ukraina ở thời điểm đó) bị số quân còn lại của hãn quốc tấn công năm 1487-1491. Họ đi tới tận Lublin ở trung tâm Ba Lan trước khi bị đánh bại một trận quyết định tại Zaslavl. Hãn quốc Krym trở thành một nhà nước chư hầu của Đế quốc Ottoman năm 1475 và khuất phục những gì còn lại của Đại hãn quốc năm 1502. Người Tatar Krym tiến hành cướp phá tại miền nam nước Nga, Ukraina và thậm chí cả Ba Lan trong thế kỷ 16 và đầu thế kỷ 17, nhưng họ không thể đánh bại Nga hay chiếm Moskva. Dưới sự bảo hộ của Ottoman, hãn quốc Krym tiếp tục sự tồn tại bấp bênh tới khi Ekaterina Đại đế sáp nhập nó vào ngày 8 tháng 4 năm 1783. Nó là nhà nước kế tục tồn tại lâu nhất của Kim Trướng hãn quốc. Danh sách các Hãn vương Kim Trướng Jochi Khan: 1225 - 1226 Orda Khan: 1226 - 1251 Batu Khan: 1240 - 1255 Sartaq Khan: 1255 - 1256 Ulaqchi Khan: 1257 Berke Khan: 1257 - 1266 Mengu-Timur: 1266 - 1280 Tuda Mengu: 1280 - 1287 Talabuga: 1287 - 1291 Tokhta Khan: 1291 - 1312 Muhammad I Uzbeg Khan: 1313 - 1341 Tini Beg: 1341 - 1342 Jani Beg I: 1341 - 1357 Berdi Beg: 1357 - 1359 Qulpa Khan: 1359 - 1360 Nawruz Beg: 1360 - 1361 Khidr Khan ibn Sasibuq Khan: 1361 Timur Khwaja ibn Khidr Khan: 1361 Urdu Malik Shaykh: 1361 Kildibek: 1361 Murad Khan: 1362 - 1364 Amir Pulad Khan: 1364 - 1365 Aziz Khan: 1365 - 1367 Abdullah Khan ibn Uzbeg Khan: 1367 - 1368 Hassan Khan: 1368 - 1369 Abdullah Khan ibn Uzbeg Khan: 1369 - 1370 Jani Beg II: 1369 - 1370 Muhammad II Bolaq: 1370 - 1372 Hajji Circassia: 1374 - 1375 Muhammad Bolaq: 1375 Ghiyath-ud-din Khaqan Beg Khan Aybak: 1375 - 1377 Arab Shah Muzaffar: 1377 - 1380 Tokhtamysh I Khan: 1378 - 1397 Temur Qutlugh: 1397 - 1399 Shadi Beg: 1399 - 1407 Pulad Khan ibn Shadi Beg: 1407 - 1410 Temur Khan ibn Temur Qutlugh: 1410 - 1412 Jalal al-Din Khan ibn Tokhtamysh II Green Sultan: 1411 - 1412 Karim Berdi ibn Tokhtamysh III: 1412 - 1414 Kebek Khan ibn Tokhtamysh IV: 1414 Chokra Khan ibn Akmyl: 1414 - 1417 Jabbar Berdi Khan: 1417 - 1419 Dervish Khan: 1419 Qadeer Berdi Khan ibn Tokhtamysh V: 1419 Hajji Muhammad Khan ibn Oghlan Ali: 1419 * Ulugh Muhammad: 1419 - 1421; Dawlat Berdi: 1419 - 1421 Baraq Khan bin Koirichak (con trai của ông Jani Beg Khan cùng với Kerey Khan thành lập Kazakhstan Khanate năm 1456): 1421 - 1427 Ulugh Muhammad (Thành lập Kazan Khanate năm 1438): 1428 - 1433 Syed Ahmed I: 1433 - 1435 Küchük Muhammad: 1435 - 1459 Mahmud bin Küchük (Thành lập Khanate of Astrakhan năm 1466): 1459 - 1465 Ahmed Khan: 1465 - 1481 Syed Ahmed II: 1481 Sheikh Ahmed: 1481 Murtada Khan: 1481 - 1502 Các tỉnh Người Mông Cổ tổ chức theo hệ thập phân được thừa hưởng từ Thành Cát Tư Hãn. Có thông tin cho rằng có tổng cộng 10 tỉnh hay ulus bên trong Kim Trướng hãn quốc. Khorazm, Desht-i-Kipchak, Khazaria, Krym (trung tâm tại Qırım), Các bờ sông Azov, Vùng đất của người Circassia, Vùng đất Bulgar, Walachia, Alania, Các vùng đất Nga.
Giải đua xe Công thức 1 năm 2006 là giải Công thức 1 vô địch thế giới lần thứ 57. Giải diễn ra từ 12 tháng 3 đến 22 tháng 10 gồm 18 chặng đua với sự tham gia của 11 đội đua. Tay đua người Tây Ban Nha, Fernando Alonso, và đội đua Renault đã bảo vệ thành công chức vô địch thế giới. Michael Schumacher chính thức giã từ sự nghiệp ở vòng đua Brasil với vị trí thứ 2 toàn mùa giải. Quy định mới Cuộc đua phân hạng sẽ diễn ra ba vòng đua: vòng đua đầu tiên, thứ hai và cuối cùng lần lượt xếp các tay đua vào các vị trí xuất phát từ 17 đến 22, 11 đến 16 và 1 đến 10. Các đội đua Lịch đua Kết quả xếp hạng Cá nhân Đội đua
Giao hưởng là các tác phẩm lớn trong nền âm nhạc cổ điển phương Tây, thường được viết cho dàn nhạc giao hưởng. Thuật ngữ "giao hưởng" bắt nguồn từ tận thời Hy Lạp cổ đại và từng mang nhiều nét nghĩa khác nhau. Đến cuối thế kỷ 18, "giao hưởng" mới được hiểu như ta biết ngày nay: một tác phẩm thường có nhiều chương (hay phần) riêng biệt, phổ biến là bốn, với chương đầu tiên được viết ở dạng sonata. Một dàn nhạc chơi giao hưởng thường gồm có bộ dây (violin, viola, cello và contrabass), bộ đồng, bộ gỗ (hay khí gỗ), và bộ gõ với khoảng 30 nhạc công. Bản giao hưởng thường được ghi ở dạng tổng phổ, tức là bản nhạc với tất cả các phần của tất cả nhạc cụ. Các nhạc công chơi trong dàn nhạc thì chỉ cần bản nhạc cho phần nhạc cụ của riêng họ. Một số ít bản giao hưởng cũng chứa cả phần thanh nhạc (phần lời hát) bên cạnh phần khí nhạc (phần của nhạc cụ), ví dụ như bản giao hưởng số 9 của Beethoven. Nguồn gốc Trong tiếng Anh, từ symphony (nghĩa là "giao hưởng") có nguồn gốc từ chữ συμφωί (symphonia) trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa là "sự đồng điệu hoặc phối hợp của âm thanh" hoặc "buổi hòa nhạc với giọng hát hoặc nhạc cụ". Thuật ngữ συμφωί lại xuất phát từ chữ σύμφωνος (symphōnos) với nghĩa là "hòa hợp". Trước khi được sử dụng để chỉ một thể loại tác phẩm âm nhạc như ta hiểu ngày nay thì từ này có rất nhiều nghĩa khác nhau. Trong nhạc lý cuối thời Hy Lạp và Trung cổ, từ này được sử dụng để nói đến khái niệm "thuận tai", đối nghĩa với δδφω (diaphōnia), có nghĩa là "nghịch tai". Vào thời Trung cổ và sau đó, từ symphonia trong tiếng Latin lại được sử dụng để mô tả các loại nhạc cụ khác nhau, đặc biệt là những nhạc cụ có khả năng tạo ra nhiều âm thanh cùng một lúc.Thánh Isidore xứ Seville là người đầu tiên sử dụng từ symphonia để chỉ một loại trống hai đầu. Khoảng năm 1155 đến 1377, từ symphonie trong tiếng Pháp được để chỉ organistrum hay đàn hurdy-gurdy. Ở nước Anh thời Trung cổ, từ symphony được sử dụng theo cả hai nghĩa trên, đến thế kỷ 16, từ này lại dùng để chỉ đàn dulcimer. Trong tiếng Đức, symphonie là một thuật ngữ để chỉ đàn spinet và đàn virginal nói chung từ cuối thế kỷ 16 đến thế kỷ 18. Với nghĩa "giao hưởng" (nhiều âm thanh cùng hòa hợp với nhau), từ này bắt đầu xuất hiện trong tựa đề của một số tác phẩm của các nhà soạn nhạc thế kỷ 16 và 17, có thể kể đến như Giovanni Gabrieli với Sacrae symphoniae và Symphoniae sacrae, liber secundus, xuất bản lần lượt vào năm 1597 và 1615; Adriano Banchieri với Eclesiastiche sinfonie, dette canzoni in aria francese, per sonare, et cantare, op. 16, xuất bản năm 1607; Lodovico Grossi da Viadana với Sinfonie musicali, op. 18, xuất bản năm 1610; và Heinrich Schütz với Symphoniae sacrae, op. 6, và Symphoniarum sacrarum secunda Pars, op. 10, xuất bản vào năm 1629 và 1647, tương ứng. Ngoại trừ bộ tác phẩm của Viadana với âm nhạc chỉ gồm khí nhạc và mang tính thế tục, tất cả các bộ tác phẩm còn lại đều có phần thanh nhạc bên cạnh phần nhạc cụ đệm và là các tác phẩm tôn giáo. Sang thế kỷ 17, vào phần lớn thời kỳ Baroque, thuật ngữ symphony và sinfonia đã được sử dụng cho một loạt các tác phẩm khác nhau, bao gồm cả các bản nhạc được chơi trong các vở opera, sonata và concerto. Giao hưởng lúc này không đứng độc lập mà thường là một phần của một tác phẩm lớn hơn. Vào thế kỷ 18, opera sinfonia, hay khúc dạo đầu kiểu Ý có cấu trúc ba chương tương phản điển hình: nhanh-chậm-nhanh, giống như trong một điệu nhảy. Cấu trúc điển hình này thường được coi là tiền thân trực tiếp của các bản giao hưởng sau này. Vào thời điểm này, các thuật ngữ "khúc dạo đầu", "symphony" và "sinfonia" được coi là đồng nghĩa hoàn toàn với nhau. Khác với các tác phẩm từ thế kỷ 19 đến ngày nay, vào thế kỷ 17, các tác phẩm viết cho các dàn nhạc cụ lớn không chỉ định chính xác nhạc cụ nào sẽ chơi phần nào. Khi các nhà soạn nhạc từ thế kỷ 17 viết tác phẩm, họ hy vọng rằng những tác phẩm này sẽ được trình diễn bởi bất kỳ nhóm nhạc sĩ nào có sẵn. Chẳng hạn, ở thế kỷ 19, phần bassline (phần đệm) trong bản nhạc được chỉ định được chơi bởi cello, contrabass và các nhạc cụ cụ thể khác thì ở các tác phẩm của thế kỷ 17, phần continuo basso cho sinfonia sẽ không chỉ định nhạc cụ nào sẽ chơi phần đó. Tác phẩm có thể được trình diễn với một nhóm continuo basso nhỏ chỉ gồm một cello và đàn harpsichord. Tuy nhiên, nếu phần trình diễn được đầu tư nhiều hơn và cần có âm thanh lớn hơn, nhóm continuo basso có thể có nhiều nhạc cụ chơi hợp âm (harpsichord, lute, v.v.) và một loạt các nhạc cụ bass như cello, contrebass, bass viol hoặc thậm chí là kèn serpent, một trong những nhạc cụ bộ gỗ đầu tiên. Thế kỷ 18 Trong thế kỷ 18, "giao hưởng phát triển với tốc độ đáng kinh ngạc". Thể loại này đóng một vai trò quan trọng tại nhiều khía cạnh trong đời sống công cộng, bao gồm cả trong các nhà thờ, nhưng nguồn hỗ trợ đặc biệt mạnh mẽ cho các buổi biểu diễn giao hưởng lại là tầng lớp quý tộc. Ở Viên, có lẽ là địa điểm quan trọng nhất ở châu Âu trong sự phát triển của các bản giao hưởng, "không nói quá khi ở đây có hàng trăm gia đình quý tộc ủng hộ cho các cơ sở âm nhạc, họ thường chia thời gian qua lại giữa Viên và cơ ngơi của mình [những nơi khác trong Đế chế]" Vì kích thước bình thường của dàn nhạc vào thời điểm đó là tương đối nhỏ, rất nhiều các cơ sở âm nhạc giống như trên có thể trình diễn được các bản giao hưởng. Khi còn trẻ, Joseph Haydn đảm nhận công việc đầu tiên là làm chỉ đạo âm nhạc cho gia đình Morzin vào năm 1757. Khi cùng gia đình Morzin đến Viên, ông nhận ra rằng: dàn nhạc riêng của ông chỉ là một phần nhỏ trong một sân khấu âm nhạc sôi động và cạnh tranh, với nhiều nhà quý tộc tài trợ cho nhiều buổi hòa nhạc với các dàn nhạc riêng của họ. Các tác giả LaRue, Bonds, Walsh và Wilson đã lần theo dòng phát triển của dàn nhạc giao hưởng vào thế kỷ 18. Ban đầu, các bản giao hưởng là chỉ được viết cho bộ dây, tức là chỉ được viết cho bốn phần: violin thứ nhất, violin thứ hai, viola và phần đệm (phần đệm có thể được chơi bởi cello hoặc contrabass, và có thể có cả bassoon; phần đệm được chơi thấp hơn quãng tám so với phần chính). Đôi khi, các nhà soạn nhạc ban đầu thậm chí còn bỏ qua phần của viola, thành ra bản giao hưởng chỉ có ba phần. Đôi khi, giao hưởng cũng có cả phần basso continuo-được chơi bởi bassoon, harpsichord hoặc một nhạc cụ chơi hợp âm khác. Bổ sung đầu tiên cho dàn nhạc đơn giản này là một cặp kèn cor, đôi khi là một cặp kèn oboe, và rồi là cả kèn cor và kèn oboe với nhau. Trong suốt thế kỷ này, những nhạc cụ khác cũng dần được thêm vào dàn nhạc: sáo (đôi khi dùng để thay thế kèn oboe), và thêm cả các phần riêng cho bassoon, clarinet, và kèn trumpet và trống định âm (timpani). Vì mỗi tác phẩm có một tính chất khác nhau nên các nhạc cụ bổ sung sẽ được thêm vào tùy lúc để phù hợp với bản nhạc. Cuối thế kỷ này, dàn nhạc với quy mô đầy đủ nhất, được sử dụng cho các bản giao hưởng quy mô lớn, gồm có bộ dây như đề cập ở trên, từng đôi nhạc cụ của bộ gỗ (sáo, oboe, clarinet, bassoon), một cặp kèn cor và trống định âm. Nhạc cụ với phím để chơi phần continuo (như harpsichord hoặc piano) cũng có thể xuất hiện. Phong cách "giao hưởng Ý", thường được sử dụng trong khúc dạo đầu và khúc nhạc giữa giờ nghỉ (entr'acte) trong các nhà hát opera, với ba chương: nhanh-chậm-nhanh đã trở thành tiêu chuẩn cho các tác phẩm thể loại này. Đến thế kỷ 18, các bản giao hưởng bốn chương lại dần phổ biến, còn giao hưởng với ba chương dần tàn đi. Khoảng một nửa trong số ba mươi bản giao hưởng đầu tiên của Haydn có ba chương; và vào lúc Mozart còn trẻ, giao hưởng ba chương vẫn là chuẩn mực cho ông, có lẽ dưới ảnh hưởng của người bạn Johann Christian Bach. Một ví dụ nổi bật cuối cùng của bản giao hưởng Cổ điển với ba chương là giao hưởng "Prague" của Mozart, viết vào năm 1787. Giao hưởng với bốn chương nổi lên trong thời kỳ này có cấu trúc điển hình như sau: Chương I với hình thức sonata mở đầu hoặc allegro Chương II với tiết tấu chậm, chẳng hạn như adagio Chương III viết dưới dạng minuet hoặc scherzo với tam tấu Chương IV với hình thức rondo hoặc sonata, với tiết tấu allegro Những biến thể trên cấu trúc này, chẳng hạn như thay đổi thứ tự của các chương nằm giữa hoặc thêm phần giới thiệu tiết tấu chậm cho chương đầu tiên, là phổ biến. Haydn, Mozart và những đương thời hạn chế sử dụng hình thức bốn chương cho nhạc giao hưởng hoặc nhạc thính phòng như tứ tấu. Những bản sonata độc tấu của Beethoven được viết ở dạng bốn chương cũng nhiều như ở dạng ba chương. Những bản giao hưởng đầu tiên ra đời quanh các thành phố như Milan, Vienna và Mannheim. Trường phái ở Milan có trung tâm là Giovanni Battista Sammartini và có thể kể đến các đại diện như Antonio Brioschi, Ferdinando Galimberti và Giovanni Battista Lampugnani. Những nhà soạn nhạc đi đầu trong diễn giải giao hưởng tại Vienna có thể kể đến như Georg Christoph Wagenseil, Wenzel Raimund Birck và Georg Matthias Monn; các nhà soạn nhạc giao hưởng Vienna quan trọng sau đó thì có Johann Baptist Wanhal, Carl Ditters von Dittersdorf và Leopold Hofmann. Trường phải Mannheim có điển hình là Johann Stamitz. Những nhà soạn nhạc giao hưởng quan trọng nhất của nửa sau của thế kỷ 18 phải kể đến Haydn, với ít nhất 107 bản giao hưởng được viết trong khoảng 36 năm, và Mozart, với ít nhất 47 bản giao hưởng trong 24 năm. Thế kỷ 19 Đầu thế kỷ 19, nhà soạn nhạc vĩ đại Beethoven đã nâng tầm cho thể loại giao hưởng. Từ chỉ là thể loại thường thức được sáng tác với số lượng lớn, giao hưởng giờ trở thành một dạng tác phẩm đỉnh cao: các nhà soạn nhạc sẽ cố gắng đạt được cảnh giới cao nhất của âm nhạc chỉ với một vài bản giao hưởng. Beethoven đã viết tổng cộng chín bản giao hưởng. Hai bản giao hưởng đầu tiên của ông vẫn còn ảnh hưởng từ Mozart và Haydn, nhưng bắt đầu từ bản giao hưởng số 3 ("Anh hùng ca"), quy mô và tham vọng của thể loại giao hưởng này được đẩy lên rõ rệt. Bản giao hưởng số 5 (hay còn được biết với tên là "Định mệnh") của ông có lẽ là bản giao hưởng nổi tiếng nhất từng được viết. Tác phẩm được bắt đầu với giọng Đô thứ đầy dữ dội nhưng kết thúc bằng giọng trưởng với âm hưởng chiến thắng. Kiểu cấu trúc giao hưởng như vậy cũng được các nhà soạn nhạc sau này như Brahms và Mahler sử dụng. Bản giao hưởng số 6 ("Đồng quê") của Beethoven lại thể hiện cả tiếng chim kêu và âm thanh của một trận bão; và, đây cũng là một bản giao hưởng đặc biệt khi có năm chương chứ không phải bốn như thường lệ. Đây cũng là tác phẩm duy nhất của ông có phần dẫn truyện cho mỗi chương. Bản giao hưởng số 9 ("Khải hoàn ca") của nhà soạn nhạc lại có kết hợp cả phần thanh nhạc trong chương cuối cùng, vì vậy, có thể coi đây là một bản giao hưởng hợp xướng. Trong số các bản giao hưởng của Franz Schubert, có hai tác phẩm là tiết mục cốt lõi và thường xuyên được biểu diễn. Với bản giao hưởng số 8 (1822) mang màu sắc Lãng mạn, Schubert mới chỉ hoàn thành hai chương đầu tiên; tác phẩm này do đó thường được gọi bằng biệt danh "Dang dở". Bản giao hưởng hoàn chỉnh cuối cùng của ông, bản giao hưởng số 9 (1826) là một tác phẩm đồ sộ với phong cách Cổ điển. Đến thời kỳ Lãng mạn, Felix Mendelssohn (với năm bản giao hưởng) và Robert Schumann (với bốn bản) tiếp tục viết giao hưởng dựa trên những khuôn mẫu cổ điển, nhưng họ cũng kết hợp ngôn ngữ âm nhạc của riêng họ. Ngược lại, Hector Berlioz thích các tác phẩm có cả phần dẫn, có thể kể đến những "bản giao hưởng kịch tính" như Roméo et Juliette và đặc biệt là Symphonie fantastique rất mới mẻ. Symphonie fantastique hay Bản giao hưởng cuồng tưởng cũng là một tác phẩm có lời dẫn; tác phẩm này còn có cả một hành khúc cùng với một điệu waltz. Bản giao hưởng này cũng có năm chương chứ không phải bốn như thường lệ. Bản giao hưởng số 4 và cũng là bản giao hưởng cuối cùng của Berlioz, giao hưởng Grande symphonie funèoust et triomphale (tựa ban đầu là Symphonie militaire) được sáng tác vào năm 1840 cho một ban quân nhạc diễu hành. Tác phẩm này thường được trình diễn ngoài trời và là một ví dụ sớm về các tác phẩm giao hưởng viết cho ban nhạc. Berlioz sau đó đã thêm phần cho bộ dây (không bắt buộc) và một màn hợp xướng ở đoạn kết. Năm 1851, Richard Wagner đã tuyên bố rằng tất cả các bản giao hưởng viết sau Beethoven sẽ chỉ như phần "hậu truyện", và không chứa đựng điều gì mới mẻ. Thật vậy, sau bản giao hưởng cuối cùng của Schumann, "Rhenish" sáng tác năm 1850, trong hai thập kỷ tiếp đó, giao hưởng thơ theo phong cách Liszt dường như đã thế chỗ giao hưởng truyền thống cho vị trí dẫn đầu trong các tác phẩm viết cho dàn nhạc. Nếu nói giao hưởng đã lắng xuống một thời gian, thì không lâu sau đó, thể loại này trở lại trong "thời đại thứ hai" vào những năm 1870 và 1880, với các bản giao hưởng của Anton Bruckner, Johannes Brahms, Pyotr Ilyich Tchaikovsky, Camille Saint-Saëns. Các tác phẩm của Antonín Dvořák và César Franck là những tiết mục chủ đạo trong vòng ít nhất một thế kỷ.Trong suốt thế kỷ 19, kích thước của dàn nhạc giao hưởng ngày càng được mở rộng. Khoảng đầu thế kỷ này, một dàn nhạc với quy mô đầy đủ sẽ có bộ dây cùng với các cặp sáo, oboe, clarinet, bassoon, kèn cor, kèn trumpet và cuối cùng là một bộ trống định âm. Chẳng hạn, đây chính là dàn nhạc được sử dụng trong các bản giao hưởng số 1, 2, 4, 7 và 8 của Beethoven. Kèn trombone, trước đây chỉ được sử dụng trong nhạc nhà thờ và nhạc kịch, cũng được thêm vào dàn nhạc giao hưởng; bản giao hưởng số 5, 6 và 9 của Beethoven có sử dụng nhạc cụ này. Sự kết hợp giữa trống bass, kẻnh tam giác và chũm chọe (đôi khi có cả: piccolo) tạo nên hiệu ứng âm thanh đầy màu sắc: các nhà soạn nhạc thế kỷ trước gọi đó là hiệu ứng "âm nhạc Thổ Nhĩ Kỳ". Sự kết hợp ngày càng được sử dụng nhiều cho các tác phẩm vào nửa sau của thế kỷ 19, dù tác phẩm có thể không liên quan gì đến "Thổ Nhĩ Kỳ". Đến thời của Mahler (xem bên dưới), một nhà soạn nhạc có thể sáng tác một bản giao hưởng được soạn cho "bản tóm lược của các nhạc cụ trong dàn nhạc".Bên cạnh tăng thêm về số loại nhạc cụ, bộ dây và bộ gỗ cũng được bổ sung thêm nhiều nhạc công hơn, vì vậy, kích thước dàn nhạc đã tăng lên đáng kể. Giống như vậy, quy mô các phòng hòa nhạc cũng phát triển rõ rệt. Thế kỷ 20 Đầu thế kỷ 20, nhạc sĩ người Áo-Bohemia Gustav Mahler đã viết những bản giao hưởng vô cùng dài và đồ sộ. Chẳng hạn, bản giao hưởng số 8 của ông, được sáng tác vào năm 1906 và có biệt danh là "Bản giao hưởng Ngàn người", tên goị như đã nói lên phần nào cho quy mô phần thanh nhạc của tác phẩm. Một ví dụ khác, bản giao hưởng số 3 của ông là một trong những bản giao hưởng được biểu diễn nhiều nhất, với độ dài trung bình khoảng 100 phút. Thế kỷ 20 cũng chứng kiến ​​sự đa dạng hơn nữa trong phong cách và nội dung của các tác phẩm mà các nhà soạn nhạc đặt là "giao hưởng" (Anon. 2008). Một số nhà soạn nhạc, như Dmitri Shostakovich, Sergei Rachmaninoff và Carl Nielsen, tiếp tục viết giao hưởng theo hình thức bốn chương truyền thống. Một số các nhà soạn nhạc khác lại phá cách và không viết theo hình thức kinh điển này: bản giao hưởng số 7 của Jean Sibelius, cũng là bản giao hưởng cuối cùng của ông, chỉ có một chương, còn bản giao hưởng số 9 của Alan Hovhaness-Saint Vartan, sáng tác năm 1949-50, lại có đến hai mươi bốn chương. Cuối thế kỷ 19 cũng có những nhạc sĩ muốn hợp nhất bốn chương của bản giao hưởng truyền thống chỉ thành một chương duy nhất. Đây được gọi là "hình thức giao hưởng hai chiều" và đạt tới bước ngoặt quan trọng với bản giao hưởng thính phòng số 1, Op. 9 của Arnold Schoenberg (1909). Phong cách được tiếp nối vào những năm 1920 với các bản giao hưởng Đức một chương đáng chú ý khác như bản giao hưởng số 1 của Kurt Weill (1921), giao hưởng thính phòng của Max Butting, Op. 25 (1923) và Giao hưởng năm 1926 của Paul Dessau. Dù có những đổi mới đáng kể, giao hưởng vẫn giữ lại một số xu hướng nhất định. Thuật ngữ "symphony" vẫn muốn đề cập đến một tác phẩm với đạt đến độ tinh vi và nghiêm trang nhất định. Do vậy, một thuật ngữ khác, "sinfonietta" được sử dụng để nói đến một tác phẩm tương tự nhưng ngắn và khiêm tốn hơn, hay "bớt nghiêm trọng hơn" so với "symphony", chẳng hạn như Sinfonietta cho dàn nhạc của Sergei Prokofiev (Kennedy 2006a).Trong nửa đầu thế kỷ, Edward Elgar, Gustav Mahler, Jean Sibelius, Carl Nielsen, Igor Stravinsky, Bohuslav Martinů, Roger Sessions và Dmitri Shostakovich đã sáng tác các bản giao hưởng "phi thường về quy mô, độ phong phú, tính nguyên bản và hàm chứa những cảm xúc mãnh liệt" (Steinberg 1995, 404). Một thước đo khác về tầm quan trọng của một bản giao hưởng là khả năng phản ánh các quan niệm của thời đại, đặc biệt là vào năm mà tác phẩm được sáng tác. Năm nhà soạn nhạc trải dài trong thế kỷ 20 đã thực hiện được mục đích này là Sibelius, Stravinsky, Luciano Berio (trong tác phẩm Sinfonia của ông, năm 1968-69), Elliott Carter (với Giao hưởng cho ba dàn nhạc, 1976) và Pelle Gudmundsen-Holmgreen (trong Giao hưởng/Phản giao hưởng, 1980). Giao hưởng, với lịch sử dài của mình, vẫn tiếp tuc được sáng tác trong nửa sau thế kỷ của thế kỷ 20 và thế kỷ 21 bây giờ. Nhạc giao hưởng ở Việt Nam Bản thơ giao hưởng "Thành đồng Tổ Quốc" (1960) của Hoàng Vân và bản "Quê hương" (1965) của Hoàng Việt có thể coi là những bản giao hưởng đầu tiên của Việt Nam. Nền âm nhạc giao hưởng còn non trẻ đã được tiếp nối với các tác phẩm như "Đồng khởi" (Nguyễn Văn Thương), Ouverture "Ngày hội" của Đặng Hữu Phúc (Đã được Dàn nhạc GH Nhạc viện Hà nội trình diễn 3 đêm tại Pháp dưới sự chỉ huy của Xavier Rist). "Trăm sông đổ về biển đông" (Trần Ngọc Xương), Rhapsody Bài ca chim ưng (Đàm Linh), "Rhapsody Việt Nam" (Đỗ Hồng Quân)..., cùng các tác phẩm của Chu Minh, Trọng Bằng, Nguyễn Đình Tấn, Nguyễn Đức Toàn... Hoàng Vân tiếp tục chấp bút với những bản giao hưởng hợp xướng hợp hơn với sở trường của mình như "Hồi tưởng" (1960), Điện Biên Phủ (2004), nhưng không quên bản giao hưởng số II (Tưởng Niệm, đổi tên là Trữ Tình) và bản giao hưởng thơ số III, chưa được công diễn. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Nam, học trò của ông đầu những năm 1960 trước khi đi học ở Liên Xô cũng tiếp nối say mê này, Nguyễn Văn Nam đã để lại chín bản giao hưởng. Từ những năm 2000 trở đi, mặc dù không còn ở giai đoạn hoàng kim, một số cây bút Việt Nam tiếp tục sáng tác giao hưởng nhưng do cơ cấu biểu diễn và quản lý đổi mới nên rất ít được dàn dựng, do đó sau thế hệ vàng 1960 - 2000, càng ngày càng ít tác phẩm giao hưởng Việt Nam. Chú thích
Vũ Trọng Khánh (1912 – 1996) là một luật sư người Việt Nam. Ông là Bộ trưởng Bộ Tư pháp đầu tiên của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Thị trưởng Thành phố Hải Phòng. Cuộc đời và sự nghiệp Ông sinh ngày 13 tháng 3 năm 1912 trong một gia đình tiểu thương ở Hà Nội, nguyên quán tại làng Cự Đà, xã Cự Khê, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Nhiều giấy tờ ghi ông sinh năm 1913, nhưng theo tờ Công an nhân dân ngày 17/10/2010 thì ông sinh năm Nhâm Tý (1912). Em trai ông là Vũ Trọng Tống, sau là Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ 11 tuổi đến 21 tuổi ông theo học Tây học ở trường Lyceé Alber Sarraut Hà Nội. Từ năm 1933, ông theo học trường Cao đẳng Luật tại Hà Nội. Tại đây, ông quen biết với Nguyễn Thế Rục và được ông này giới thiệu tham gia hoạt động tại Tổng hội Sinh viên Đông Dương. Năm 1936, ông tốt nghiệp cử nhân Luật nhưng chưa được phép hành nghề luật sư. Vì vậy, ông nhận làm thư ký cho một luật sư người Pháp tại Hải Phòng tên là Laubies. Trong thời kỳ Mặt trận Bình dân lên nắm quyền ở Pháp, ông tham gia nhóm làm báo Le Travail (Báo Lao động) đón Godard ở Hà Nội, tham gia vào các tổ nghiên cứu Mác-xít và tổ Thanh niên Dân chủ. Trong tổ có Đào Duy Kỳ, Vũ Đình Huỳnh, Phan Tử Nghĩa, Huỳnh Văn Phương. Năm 1938, Mặt trận Bình dân đổ, chính phủ của Thủ tướng Édouard Daladier lên cầm quyền tại Pháp. Các nhóm dân chủ tại Đông Dương đều bị giải tán và phải rút vào hoạt động bí mật. Năm 1939, ông được công nhận là Luật sư tập sự, được phân công nhận bào chữa cho nhiều chiến sĩ cách mạng tại tòa án của chính quyền thực dân Pháp. Một thời gian sau, ông được công nhận Luật sư chính thức. Thị trưởng Hải Phòng Sau khi Nhật đảo chính Pháp, chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập tháng 4 năm 1945. Tháng 7 năm 1945, ông được chính phủ này bổ nhiệm làm Đốc lý Hải Phòng (tương đương Thị trưởng). Trong Hồi ký Tôi làm Thị trưởng Hải Phòng, ông viết: "Lý do cấp bách tôi phải nhận làm Thị trưởng là sau khi Nhật đảo chính Pháp, thành phố như con ngựa đứt cương; công chức và nhân dân tụ tập, bàn tán, nghe ngóng, không ai cầm đầu. Viên lãnh sự Nhật Nô-mi chịu trách nhiệm hành chính thực ra chẳng biết làm gì, quân đội và hiến binh Nhật nắm chặt an ninh. Những tên Việt gian tống tiền; dịch vụ hốt rác đổ thùng phân trì trệ, nước, điện chập chờn… Không có người lương thiện ra nắm quyền chỉ huy thì kẻ bất lương chạy chọt sẽ nhảy vào ghế Thị trưởng để dựa vào Nhật làm hại dân. Nhất thiết tôi phải nắm ngay ghế Thị trưởng". Với mối quan hệ cũ từ thời Mặt trận Bình dân, các cán bộ Việt Minh đã vận động ông tham gia mặt trận. Đêm 21/8/1945, Vũ Quốc Uy, cán bộ Việt Minh phụ trách Hải Phòng đến nhà ông ở số 9 ngõ Thuận Thái, đường Cát Dài, làm việc đến 3 giờ sáng, bàn kế hoạch chuyển giao chính quyền. Cả hai bên cùng đi đến quyết định khởi nghĩa vào sáng 23/8/1945. Mọi việc được tiến hành đúng như kế hoạch. Sáng 23/8/1945, Hải Phòng giành chính quyền thắng lợi trọn vẹn. Trong cuộc mít tinh mừng thắng lợi tại Quảng trường Nhà hát thành phố với hơn một vạn quần chúng tham dự Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời thành phố Hải Phòng do đồng chí Vũ Quốc Uy làm Chủ tịch ra mắt đồng bào, luật sư Vũ Trọng Khánh là uỷ viên hành chính. Bộ trưởng Tư pháp đầu tiên Khi chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra mắt quốc dân, ông được cử làm Bộ trưởng Tư pháp đầu tiên của Việt Nam vào ngày 2 tháng 9 năm 1945. Ngày 20 tháng 9 năm 1945, ông được cử tham gia Ủy ban dự thảo Hiến pháp và là một trong 7 thành viên (Hồ Chí Minh, Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy - tức Bảo Đại, Đặng Thai Mai, Vũ Trọng Khánh, Lê Văn Hiến, Nguyễn Lương Bằng, Đặng Xuân Khu - tức Trường Chinh). Sau khi chính phủ mới được thành lập ngày 2 tháng 3 năm 1946, ông trở thành chuyên viên tư pháp của chính phủ. Ngày 3 tháng 5 năm 1946, ông được cử tham gia vào Hội đồng Phúc thẩm đặt tại Bộ Nội vụ (cùng với Huỳnh Thúc Kháng, Bùi Bằng Đoàn). Ngày 4 tháng 6 năm 1946, ông được cử làm Cố vấn cho Phái đoàn Việt Nam sang đàm phán tại Paris. Thay ông tại Hội đồng Phúc thẩm là Thẩm phán Vũ Văn Huyền từ 2/7/1946. Trên cương vị Bộ trưởng Bộ Tư pháp Việt Nam, ông đã trình và được chính phủ duyệt hai văn bản tư pháp nền tảng quan trọng: Sắc lệnh số 13 ngày 21 tháng 1 năm 1946 về tổ chức các tòa án thường, và Sắc lệnh số 21 ngày 14 tháng 2 năm 1946 về tổ chức tòa án quân sự. Tuy chỉ giữ chức vụ Bộ trưởng Tư pháp trong 181 ngày nhưng ông đã có những đóng góp quan trọng trong việc giữ gìn cơ sở, cán bộ cũng như xây dựng hệ thống tư pháp cho nền cộng hòa non trẻ. Lý do ông không tiếp tục làm Bộ trưởng Bộ Tư pháp sau ngày 2 tháng 3 năm 1946 được con trai ông là TS Vũ Trọng Khải giải thích như sau: Điều 47, Hiến pháp 1946 ghi: "… Thủ tướng chọn các Bộ trưởng trong Nghị viện và đưa ra Nghị viện biểu quyết toàn thể danh sách…". Tức là Bộ trưởng nhất thiết phải là đại biểu Quốc hội (chính vì Hiến pháp 1946 quy định Bộ trưởng phải là nghị viên (đại biểu quốc hội) nên Luật sư Vũ Trọng Khánh, do không đắc cử đại biểu Quốc hội ở Hải Phòng, không được giữ chức Bộ trưởng Tư pháp trong Chính phủ chính thức và chuyển sang giữ chức vụ Chưởng lý Tòa thượng thẩm, tức Viện trưởng Viện công tố tại Tòa án tối cao, và cụ Vũ Đình Hòe rời chức Bộ trưởng Bộ Quốc gia giáo dục trong Chính phủ lâm thời để nhận chức Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong Chính phủ chính thức. Về lý do Luật sư Vũ Trọng Khánh thất cử đại biểu Quốc hội ở Hải Phòng năm 1946, cụ Vũ Đình Hòe đã kể với tôi là do bọn Việt quốc, Việt cách phá hoại, muốn loại cụ Vũ Trọng Khánh, bằng cách bôi trên các tờ áp phích để biến tên "Vũ Trọng Khánh" thành tên "Vũ Hồng Khanh", một lãnh tụ Việt quốc; còn chính Luật sư Vũ Trọng Khánh đã kể với tôi rằng, do cụ đã không nhận lời giới thiệu là ứng viên của Mặt trận Việt minh, cụ rất tự tin ra ứng cử với tư cách ứng viên tự do không thuộc đảng phái nào. Sau khi thất cử đại biểu Quốc hội ở Hải Phòng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị Luật sư Vũ Trọng Khánh về ứng cử ở Hà Đông, quê nhà, theo sự giới thiệu của Mặt trận Việt minh, trong đợt bầu cử bổ sung, nhưng Luật sư Vũ Trọng Khánh tự ái không ra ứng cử nữa. Hoạt động trong ngành Tư pháp Việt nam Sau khi Hội nghị Fontainebleau thất bại, ông về nước và tiếp tục công tác trong vai trò thành viên Hội đồng phúc thẩm. Trong suốt thời gian chín năm kháng chiến chống Pháp, ông làm Giám đốc Tư pháp Liên khu 10, Trưởng ban Nghiên cứu pháp lý, Giám đốc Vụ Hành chính tư pháp - Bộ Tư pháp. Ngày 18 tháng 6 năm 1949, ông được cử tham gia Hội đồng tư vấn luật, với chức năng soạn thảo những dự án luật cho chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong suốt thời gian kháng chiến chống Pháp, ông đã tham gia soạn thảo nhiều văn bản pháp quy cho hệ thống luật chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Theo Hiệp định Genève, 1954, người Pháp phải rút quân khỏi Việt Nam. Ông cùng các thành viên chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về tiếp quản Hà Nội tháng 10 năm 1954, Tham gia chính quyền Hải phòng Sau đó ông tham gia công tác tiếp quản Hải Phòng tháng 5 năm 1955, giữ chức Ủy viên Ủy ban hành chính Hải Phòng. Trong các năm 1956-1961, cùng với ông Tô Duy, ông là phó Chủ tịch thường trực Ủy ban hành chính thành phố. Chủ tịch Ủy ban Hành chính Thành phố là ông Hoàng Hữu Nhân. Ông chịu trách nhiêm quản lý hành chính, Văn hóa xã hội và Nhà đất, Ủy viên Hội đồng nhân dân thành phố. Một thời gian sau, ông trở thành Chủ tịch Hội Luật gia Hải Phòng. Ông nghỉ hưu năm 1977, được nhà nước Việt Nam tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh (1994), Huân chương Kháng chiến hạng nhất (1961), Huân chương Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hạng nhất (1986). Luật sư Vũ Trọng Khánh mất ngày 22 tháng 1 năm 1996, hưởng thọ 84 tuổi. Gia đình Ông có các con trai là Thầy giáo Vũ Trọng Huỳnh (đã mất), Tiến sĩ Vật lý Vũ Trọng Hùng và Phó giáo sư, Tiến sĩ Vũ Trọng Khải, hiện đang là Giảng viên cao cấp ngành Kinh tế nông nghiệp, Trường Cán bộ Quản lý Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 2 tại TP.HCM. Hiện nay tên của ông được đặt tên cho một tuyến phố ở quận Hà Đông, Hà Nội, nối từ đường Tố Hữu đi qua khu đô thị Mộ Lao đến đường Trần Phú ở xế trước Học viện An ninh Nhân dân. Năm 2020 Tại cuộc họp HĐND thành phố Hải Phòng, tên ông được duyệt để đặt cho một con đường nối đường Văn Cao với đường Thiên Lôi qua địa bàn hai phường Đằng Giang và Đổng Quốc Bình. Chú thích
Hòa ước Versailles năm 1919 là hòa ước chính thức chấm dứt cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914–1918) được ký giữa nền Cộng hòa Weimar của Đức và các quốc gia thuộc phe Hiệp ước. Nội dung Hòa ước được soạn thảo bởi Georges Clemenceau, Thủ tướng Pháp, cùng với Hoa Kỳ và Vương quốc Anh – ba nước thắng trận. Sau nhiều trận đánh đẫm máu từ năm 1914 cho đến giữa năm 1918, quân đội Pháp đã khánh kiệt. Tuy nhiên, nhờ có sự hỡ trợ của quân đội Anh và Hoa Kỳ, Pháp đã tiếp tục nỗ lực chiến tranh của mình. Cuối cùng, khi tình hình nước Đức trở nên rối loạn, nước Pháp ăn mừng chiến thắng và mong ước có một hội nghị hòa bình nhằm xóa bỏ hoàn toàn mối đe dọa từ phía nước này đồng thời có được khoản bồi thường chiến phí. Hoà ước này đặt ra những điều khoản khắt khe lên nước Đức bại trận. Nó có thể được so sánh với Hòa ước Tilsit mà Napoléon Bonaparte áp đặt lên Vương quốc Phổ vào năm 1807, hoặc là Hòa ước Brest-Litovsk do Đế quốc Đức áp đặt lên nước Nga Xô Viết vào đầu năm 1918. Sau khi Nhà nước Đức Quốc xã được thành lập với sự lãnh đạo của Adolf Hitler, hoà ước đã bị Hitler lách luật ở 1 số điều khoản của hoà ước rồi cuối cùng Hitler đã xoá bỏ vào thập niên 1930. Nội dung Hòa ước quy định Đức phải trả lại cho Pháp miền Alsace-Lorraine, một mảnh đất cho Bỉ, một mảnh tương tự ở Schleswig cho Đan Mạch – tùy kết quả một cuộc trưng cầu ý dân – mà Thủ tướng Otto von Bismarck đã chiếm trong thế kỷ trước sau khi đánh bại Đan Mạch trong cuộc Chiến tranh Schleswig lần thứ hai. Hòa ước trả lại một số mảnh đất cho Ba Lan, vài nơi tùy kết quả cuộc trưng cầu ý dân, mà Đức đã chiếm trong sự phân chia của Ba Lan. Đây là một trong những điều khoản khiến dân Đức tức giận nhất. Họ bất mãn thấy việc miền Đông Phổ bị chia cắt khỏi nước Đức, nhường chỗ cho một hành lang thông ra biển của Ba Lan (người Đức vốn rất khinh thường người Ba Lan). Người Đức cũng giận dữ không kém khi thấy hòa ước đòi hỏi họ phải chấp nhận trách nhiệm đã khởi động cuộc chiến và đòi giao cựu Hoàng đế Wilhelm II – người bị kết án đã khởi động chiến tranh và khoảng 800 tội phạm chiến tranh cho phe Hiệp ước. Số tiền bồi thường chiến tranh sẽ được định sau, nhưng khoản đầu gồm 5 tỉ đô-la phải được trả trong thời gian 1919–1921. (Có thể giao vài loại hiện vật – than, tàu, gỗ, bò... thay cho tiền bồi thường.) Điều khoản nặng nhất là Hòa ước Versailles vô hình chung giải giới nước Đức với mục đích, ít nhất trong một thời gian, ngăn chặn bước đường bá quyền của Đức ở châu Âu. Hòa ước giới hạn Đức có tối đa quân số 100.000 người tình nguyện tức không được bắt thi hành nghĩa vụ quân sự, cấm sở hữu máy bay và xe tăng. Bộ Tổng Tham mưu phải bị dẹp bỏ. Hải quân bị giảm thành lực lượng tượng trưng, bị cấm chế tạo tàu ngầm hoặc tàu trọng tải trên 10.000 tấn. Phản ứng Nội dung của Hòa ước được công bố ở thủ đô Berlin ngày 7 tháng 5 năm 1919. Chính phủ lâm thời chống đối mạnh mẽ việc chấp nhận bản Hòa ước Versailles "Vô lý", theo tên gọi chế giễu bây giờ. Đại đa số nhân dân Đức, dù cho thiên về cánh Hữu hoặc cánh Tả, đều hậu thuẫn chính phủ. Ngày 9 tháng 5, đại biểu Đức tại Versailles viết thư cho Georges Clemenceau rằng một hòa ước như thế là "không thể chấp nhận được đối với bất cứ quốc gia nào." Chính phủ lâm thời hỏi ý kiến của quân đội: Nếu từ chối ký vào hòa ước, liệu quân đội có thể chống cự cuộc tấn công của Đồng minh hay không? Tổng thống lâm thời Friedrich Ebert đặt câu hỏi này cho Bộ Tư lệnh Tối cao. Ngày 17 tháng 6, Thống chế Paul von Hindenburg cho ý kiến: Lời kết luận của một vị Tổng Tham mưu trưởng được sùng kính là đúng theo truyền thống của quân đội Đức, nhưng có vẻ không được trung thực. Nhân dân Đức không biết Hindenburg đã nghĩ rằng nếu cố chống cự phe Hiệp Ước thì không những vô vọng, mà còn có thể khiến cho cấp chỉ huy quân đội quý giá bị tiêu diệt và từ đó nước Đức cũng bị hủy diệt theo. Qua việc này, Quân đội Đức bị chê trách là đã quá khôn lanh và hèn nhát đã thúc đẩy chính phủ lâm thời ký hiệp ước đình chiến, và sau đó kết án chính phủ là quá yếu đuối, làm tổn hại đến quyền lợi của Đức. Bây giờ, Đồng minh đang đòi hỏi Đức trả lời dứt khoát. Ngày 16 tháng 6, một ngày trước khi Hindenburg gửi văn bản trả lời cho Ebert, Đồng minh ra tối hậu thư: phải chấp nhận hòa ước chậm nhất là ngày 24 tháng 6, nếu không thỏa ước đình chiến sẽ bị chấm dứt và lực lượng Đồng minh sẽ "có biện pháp cần thiết để áp chế các điều khoản". Một lần nữa, Ebert kêu gọi đến Quân đội: Nếu Bộ Tư lệnh Tối cao nghĩ có cơ may nhỏ nhoi nào đó để chống cự được Đồng minh, Ebert hứa đảm bảo Quốc hội sẽ bác bỏ hòa ước. Nhưng ông phải có ngay câu trả lời. Thời hạn chót của tối hậu thư, 24 tháng 6, đã đến. Nội các họp vào lúc 16:30 giờ để lấy quyết định cuối cùng. Hindenburg và Tướng Wilhelm Groener, nhân vật số 2 trong Quân đội, hội ý với nhau. Vị Thống chế già nua, mệt mỏi nói: "Ông cũng như tôi biết rõ rằng không thể kháng cự bằng quân sự." Nhưng một lần nữa, ông không có can đảm nói sự thật với Tổng thống Lâm thời của nền Cộng hòa. Ông bảo Groener: "Ông có thể trả lời cho Tổng thống cũng tốt như tôi thôi." Và một lần nữa, vị tướng can đảm Groener nhận trách nhiệm cuối cùng đáng lẽ phải thuộc về vị Thống chế, dù ông biết rằng ông bị đưa ra làm vật tế thần cho quân đội. Ông gọi cho Tổng thống nói rõ về quan điểm của Bộ Tư lệnh Tối cao. Phê chuẩn và ký kết Cảm thấy nhẹ nhõm vì các cấp chỉ huy Quân đội đã nhận trách nhiệm – sự kiện mà nhiều người chẳng bao lâu quên bẵng – Quốc hội với đa số lớn chấp nhận việc ký kết hòa ước. Quyết định được thông báo cho Clemenceau chỉ mười chín phút sau thời hạn chót của tối hậu thư. Bốn ngày sau, 28 tháng 6 năm 1919, hội nghị hòa bình được ký kết trong Lâu đài Versailles ở Paris. Đây chính là nơi Đế quốc Đức được tuyên bố thiết lập vào ngày 28 tháng 1 năm 1871, trong giai đoạn cuối của cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ (1870 – 1871) – cuộc chiến đã chấm dứt vào tháng 5 năm 1871 với sự thất bại của Pháp. Điều này thể hiện tinh thần báo thù của người Pháp đối với Đức kể từ sau thất bại trong Chiến tranh Pháp-Phổ. Hòa ước Versailles được phê chuẩn bởi Hội Quốc liên (tiếng Pháp: Société des Nations) ngày 10 tháng 1 năm 1920. Riêng Hoa Kỳ không phê chuẩn Hòa ước Versailles, mà chủ trương đàm phán riêng lẽ với Đức. Hậu quả Thống chế Pháp là Ferdinand Foch phản đối Clemenceau và không bằng lòng với những điều khoản của hòa ước Versailles đối với nước Đức. Ông suýt nữa thì không cam chịu hội nghị hòa bình này. Foch cho rằng hội nghị quá mềm dẻo, không bắt thiết lập đầu cầu ở sông Rhine. Đồng thời, ông ta cũng nhận thấy những điềm báo về sự thất bại của hội nghị. Vào ngày 21 tháng 6, Foch cho rằng người Đức vẫn tiếp tục "xảo trá" khi ông chứng kiến cảnh họ tự hủy hoại hạm đội của mình không rơi vào tay Pháp. Chưa kể, Foch còn trở nên nổi cáu khi quần chúng nhân dân Đức đốt cháy mọi lá cờ Pháp mà quân đội Phổ giành lấy được trong cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ, nhằm ngăn cản việc trao trả những lá cờ này cho Pháp. Ông ta gửi thư cho vợ mình: "Bọn họ nhạo báng chúng ta. Toàn thể châu Âu là một đám nhốn nháo. Ấy là công trình của Clemenceau". Do đó, Foch từ chối làm lễ ký kết bản hòa ước 28 tháng 6 năm 1919 tại Versailles. Foch có lời tuyên bố, mà sau này càng trở nên đúng: Bất chấp những nỗ lực lớn nhất của Clemenceau, Hòa ước này đã thất bại trong việc thay đổi sự bất cân bằng chiến lược giữa nước Đức và Pháp: Đức vẫn còn đông dân hơn nhiều và có nền công nghiệp phát triển vượt trội Pháp. Quân đội Pháp thì quá yếu để có thể hủy diệt sức mạnh quân sự của Đức, và nhìn chung là Pháp không thể gây ảnh hưởng lớn trong khối Hiệp Ước để thuyết phục đồng minh của mình phân chia nước Đức. Thượng viện Hoa Kỳ từ chối phê chuẩn bản hòa ước này vào tháng 1 năm 1920, và liên minh giữa Anh Quốc và Pháp bắt đầu suy sụp. Thống chế Foch trở nên chán ghét lời đề nghị một liên minh quân sự giữa Pháp, Anh Quốc và Hoa Kỳ - cái mà Clemenceau đặt niềm tin to lớn. Tổng quan, không những thắng lợi của Pháp năm 1918 hoàn toàn là một chiến thắng kiểu Pyrros, mà Pháp đã thất bại trong việc thiết lập một nền hòa bình lâu dài. Quá trình hủy hoại Hòa ước Versailles của Đức Hậu quả của Hòa ước Versailles trong nhất thời là gây bất mãn và làm phẫn nộ cho toàn thể nước Đức. Nó cũng cho thấy sự thiếu hiểu biết về tâm lý và ngoại giao của phe Đồng minh để thuyết phục hoặc chuẩn bị tinh thần cho người Đức chấp nhận là họ phải gánh trách nhiệm đã gây ra chiến tranh và tự nguyện bồi thường thiệt hại. Thay vào đó, người Đức nghĩ rằng họ đã bị chèn ép một cách tủi nhục. Ngay trong ngày ký kết Hòa ước, tờ báo Deutsche Zeitung đã ghi nhận: Vào năm 1919, Tướng Hans von Seeckt chỉ huy Quân đội Liên bang Đức (Reichswehr) thời Cộng hòa Weimar trở nên đánh phá mạnh mẽ vào Hòa ước Versailles. Theo Điều khoản 160 thì Bộ Tổng Tham mưu Đức bị cấm chỉ, nhưng ông tái hiện Bộ Tham mưu Đức thông qua việc thành lập Bộ chỉ huy Quân đội Đức (Truppenamt). Dù các Điều khoản 176 và 177 cấm đoán các Hàn lâm viện Chiến tranh và Học viện đào luyện Sĩ quan, nhưng ông gầy dựng lại những tổ chức này. Vào năm 1922, nước Đức ký kết Hiệp định Rapallo với Liên bang Xô Viết. Dưới danh nghĩa là tái lập quan hệ ngoại giao, thỏa thuận thương mại và xóa bỏ đòi hỏi chiến phí của hai bên, Hiệp định Rapallo cho phép sĩ quan Quân đội Liên bang Đức đến huấn luyện cho chiến sĩ Hồng quân Liên Xô, là một sự phá vỡ hạn chế của Hòa ước Versailles về sự mở mang khả năng quân sự của Đức. Hiệp định này đã phá tan hy vọng về một liên minh Pháp - Xô, đồng thời Đức được công nhận ngầm là một cường quốc. Chính phủ Đức cũng dùng những biện pháp kinh tế để tránh né Hòa ước Versailles, thí dụ như chủ ý gây lạm phát tiền tệ đất nước. Cụ thể hơn, họ chủ trương không nộp khoản chiến phí mà Hòa ước này yêu cầu. Đồng thời, Hoa Kỳ khẩn cấp yêu cầu Pháp trả nợ cho mình. Điều này đã dẫn tới khủng hoảng vào năm 1923: trong tháng 1 năm ấy, liên quân Pháp - Bỉ xâm lược thung lũng Ruhr giàu sắt và than đá và chiếm đóng trong suốt 2 năm rưỡi. Cuối cùng, một giải pháp chính thức được đề xuất để chấm dứt cuộc khủng hoảng: đó là kế hoạch Dawes, quân xâm lăng rút khỏi Ruhr. Nhưng cuộc khủng hoảng còn có ý nghĩa to lớn hơn, đó là cuộc kháng cự bất bạo động của những người thợ mỏ Đức chống quân xâm lược Pháp - Bỉ đã khiến cho nhân dân đồng loạt ủng hộ họ, trong khi đó, việc quân Pháp kêu gọi họ làm việc trở lại chỉ khiến cho toàn dân Đức càng thêm căm ghét kẻ thù xâm lăng. Sau khi khủng hoảng kết thúc, khoảng chiến phí mà Đồng Minh áp đặt cho nước Đức trong Hòa ước Versailles bị giảm đi rất nhiều, và quan hệ Anh - Pháp càng thêm suy sụp do nước Anh có thiện cảm với cuộc kháng cự bất bạo động vì chính nghĩa của những người thợ mỏ Đức. Quan hệ quốc tế từ năm 1933 cho đến năm 1939 có một điểm bật là Hòa ước Versailles bị Lãnh tụ Đức Quốc xã là Adolf Hitler nghiền nát thành hàng trăm mảnh. Vốn trước thời Hitler, nhân dân Đức đã căm ghét Hòa ước đó, các nhà chính trị của Cộng hòa Weimar đã chú trọng việc phá vỡ Hòa ước này, và khi Hitler lên nắm quyền thì nó đã suy sụp. Anh Quốc và Pháp đã rút quân khỏi miền Rheinland, và các khoản bồi thường chiến phí đã bị xóa sổ. Nước Mỹ càng trở nên cô lập, trong khi Đế quốc Nhật Bản trỗi dậy mạnh mẽ ở vùng Viễn Đông làm cho Anh Quốc lo sợ. Khi mới lên lãnh đạo nước Đức, ông trở nên thận trọng trong đường lối đối ngoại. Ông chưa nghĩ đến chuyện phá vỡ trật tự Âu châu theo Hiệp định Versailles, dù đó là mục tiêu chính của ông và ông cũng muốn đánh gục Pháp. Thay vào đó, ông chỉ chớp lấy thời cơ một khi nó hiện ra, thay vì chấp nhận mạo hiểm. Ông đọc bài diễn văn kể lại sự kinh hoàng của cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất vẫn còn làm cho ông khiếp vía, và thể hiện lòng quyết tâm né tránh một cuộc chiến tranh mới. Ông cũng luôn luôn nhấn mạnh rằng nước Đức chỉ muốn Hòa ước Versailles "trong sạch" hơn, chứ không phải là phá bỏ nó. Dù cái Hòa ước chết tiệt này chỉ bắt buộc nước Đức phải từ giã vũ khí, Hitler tuyên bố rằng nó bắt mọi quốc gia phải làm điều ấy và ông rút Đức khỏi các thảo luận về giải trừ quân bị và "Hội Quốc Liên" vào Mùa Thu năm 1933. Với lý lẽ tương tự để chống lại Hòa ước Versailles, vào năm 1935 Lãnh tụ Hitler cho thiết lập lực lượng Không quân (Luftwaffe) và mở mang lực lượng Quân đội Đức gấp 5 lần quân số hiện tại, làm cho Anh Quốc và Pháp phải tập trung vào "Mặt trận Stresa". Anh Quốc và Pháp không thể chống nổi những thay đổi lớn lao này, làm cổ vũ cho chí khí của Hitler. Trong thỏa thuân Hải quân Anh-Đức vào năm 1935, Anh Quốc coi đó là thời cơ để hạn chế lực lượng Hải quân Đức Quốc xã, tuy nhiên thỏa thuận laị là một bước tiến cho việc xóa sổ Hòa ước Versailles. Bấy giờ Hội Quốc Liên suy yếu trong khi nước Ý liên minh với Đức. Trong một cuộc bỏ phiếu toàn dân, nước Đức lấy lại được vùng Saarland, và nhận thấy các quốc gia châu Âu khác rối loạn Hitler cho quân tiến vào vùng phi quân sự hóa Rheinland vào tháng 3 năm 1936. Đây là một hành động liều lĩnh, táo bạo của ông, đã chọc thủng tàn dư của Hòa ước Versailles, là chiến thắng to lớn của Hitler, dời đi cái vùng đệm giữa nước Đức và Pháp. Với việc phòng thủ biên giới phía Tây Đức, Hòa ước Versailles thì đổ nát còn Pháp thì khó thể tiến quân vào nước Đức. Anh Quốc thì thờ ơ khi người Đức hành binh vào lãnh thổ của chính họ, còn Pháp thì bất lực, không thể làm gì được. Không những thế, Đức can thiệp mạnh mẽ vào cuộc Nội chiến Tây Ban Nha, trong khi Anh Quốc và Pháp chẳng làm gì và điều này dẫn đến việc hình thành khối Trục Roma - Berlin vào tháng 11 năm 1936. Thất bại của Hòa ước Versailles tuy là nguyện vọng của Hitler nhưng đồng thời còn là mong ước của biết bao người dân Đức. Cho đến cuối năm 1937, dù chưa được chôn cất nhưng Hòa ước này đã bị tiêu diệt, và nước Đức với sức mạnh quân sự vô song trở thành một cường quốc trên thế giới, cùng với Ý và Nhật Bản đe dọa đến Pháp và Anh Quốc.
Rod là thuật ngữ liên quan đến việc ghi lại hình ảnh của một số vật thể di chuyển trong không khí với tốc độ cao đến mức có dạng trông như những cái que ánh sáng. Hầu hết các chứng cứ về sự tồn tại của Rod là các hình ảnh video. Mô tả Rod trong tiếng Anh nghĩa là cái que, có tên như vậy bởi vì chúng có dạng giống cái que. Tuy nhiên nó cũng được gọi là "cá trời" và "thực thể mặt trời". Chúng xuất hiện ở khắp nơi, dài từ 5 inch tới 3 foot (khoảng 15 đến 90 cm), và người ta cho là chúng có một màng mỏng dọc thân trục để đẩy đi trong không khí. Người ta gọi chúng là "cá trời" vì chuyển động của chúng giống hệt cá trong nước, và chúng có một cơ thể giống hệt con sứa. Giả thuyết Rod không gây được sự chú ý lớn đối với các nhà động vật học. Nhiều chứng cứ kết luận rằng chúng là kỹ xảo ánh sáng tạo hiệu ứng lên máy ảnh. Cụ thể là, một sự chuyển động nhanh của một con côn trùng đập cánh đi qua máy ảnh có thể tạo nên hiệu ứng rod – như một vết mờ. Thêm nữa là vật có tốc độ cực cao không thể ghi lại trong máy ảnh thông thường. Gần đây mọi người cho đó là kết quả của tin đồn trên các phương tiện thông tin đại chúng. Jose Escamilla, người lập trang web RoswellRods.com, đã xuất hiện trong nhiều cuộc phỏng vấn và nghiên cứu trên tivi.
Rod có nhiều nghĩa: Rod, đơn vị đo chiều dài trong hệ đo lường Anh. Rod (hiện tượng huyền bí), loài sinh vật được cho là di chuyển trong không khí với vận tốc cực cao tới mức mắt thường không thể nhìn thấy được, nhưng có thể xem trong video. Rod, một vị thần trong thần thoại Slav. Rod, nhà xuất bản nhạc trong những năm 1950 và 1960 tại Louisiana. Trong giải phẫu học, tế bào que (tiếng Anh: rod cell) ở trong võng mạc và có thể phân biệt giữa ánh sáng và bóng tối (trắng và đen) Edouard Rod (1857–1910), nhà văn Pháp – Thụy Sĩ. Rod, nhân vật trong vở kịch nhạc Avenue Q. UFO
Cứu rỗi, trong Kitô giáo, là "giải cứu một linh hồn ra khỏi tội lỗi và hậu quả của nó, bao gồm cái chết và xa lìa Thiên Chúa," thông qua sự chết và phục sinh của Chúa Kitô. Trong thần học, sự cứu rỗi là một ý niệm trừu tượng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Kitô giáo (Cơ Đốc giáo) định nghĩa cứu rỗi là giải cứu khỏi sự câu thúc của tội lỗi và sự đoán phạt để có thể nhận lãnh sự sống đời đời của Thiên Chúa. Cứu rỗi có lẽ là một trong những ý niệm thần học quan trọng nhất, chỉ sau lẽ đạo về thần tính của Chúa Giê-xu. Mục tiêu tôn giáo của tín hữu Cơ Đốc là tìm kiếm và nhận lãnh sự cứu rỗi, mặc dù không ít người cho rằng mục tiêu chính yếu của cuộc đời Cơ Đốc là tuân phục ý chỉ Thiên Chúa hoặc cả hai (sự cứu rỗi và sự tuân phục Thiên Chúa) có tầm quan trọng ngang nhau. Đối với nhiều người được cứu rỗi có nghĩa là được vào thiên đàng sau khi chết, nhưng hầu hết tín hữu Cơ Đốc thường nhấn mạnh đến yếu tố cho rằng sự cứu rỗi biểu trưng cho một cuộc sống được đổi mới ngay trên đất. Thần học Cơ Đốc đưa ra lời giải thích tại sao sự cứu rỗi là cần thiết và làm thế nào để được cứu rỗi. Ý niệm về sự cứu rỗi lập nền trên sự kiện loài người đang sống trong tình trạng hư mất, vì vậy họ cần được cứu. Theo quan điểm Cơ Đốc, con người bị đặt dưới sự đoán phạt của Thiên Chúa vì cớ nguyên tội (tội tổ tông) mà chúng ta thừa kế từ sự sa ngã của Adam (thừa kế bản chất tội lỗi của Adam sau khi phạm tội), và tội lỗi chúng ta phạm phải trong cuộc sống hằng ngày, để nhận biết rằng mọi người đều đã phạm tội. Chính thống giáo bác bỏ khái niệm nguyên tội, cho rằng giáo lý này là không phù hợp với lời dạy của Kinh Thánh. Chính thống giáo nhìn xem sự cứu rỗi là những nấc thang giúp cải thiện đời sống tâm linh và chữa lành bản chất của con người vốn đã bị hư hoại và tổn thương sau sự sa ngã của Adam. Phần lớn tín hữu Cơ Đốc đều đồng ý rằng con người được dựng nên là vô tội, tội lỗi chỉ xuất hiện sau khi con người sa ngã, và vì vậy, cần có một Cứu Chúa (Savior) để đem con người trở lại với mối tương giao vốn có với Thiên Chúa. Cứu Chúa là đấng cứu chuộc con người khỏi tội lỗi, và Chúa Giê-xu là Cứu Chúa. Cơ Đốc giáo Tây phương Theo Cơ Đốc giáo Tây phương, thần học về sự cứu rỗi bao gồm các chủ đề như sự chuộc tội, hoà giải, ân điển, sự xưng công chính, quyền tể trị của Thiên Chúa, và ý chí tự do của con người. Nhiều cách giải thích khác nhau về từng chủ đề được tìm thấy trong thần học Công giáo và thần học Kháng Cách. Trong cộng đồng Kháng Cách, sự dị biệt này lập nền trên hai trường phái thần học, một theo tư tưởng Calvin, hệ tư tưởng còn lại theo sự dạy dỗ của Arminus; về sau còn có các nhà thần học khác xác lập những học thuyết dung hoà dựa trên hai hệ tư tưởng này Giáo lý Công giáo dạy rằng cứu rỗi không chỉ đơn giản là được giải cứu khỏi tội lỗi và sức mạnh của tội lỗi: Sự cứu rỗi của Thiên Chúa không chỉ giải thoát mà còn ban thưởng cho chúng ta. Hành động của Thiên Chúa là một sự giải cứu tích cực nhằm đem con người vào địa vị siêu nhiên, nhận lãnh sự sống vĩnh cửu và cao quý hơn cuộc sống trần gian, hiệp nhất trong một thân thể với Chúa Cơ Đốc, một trong ba thân vị của Ba Ngôi, để nhận lãnh phẩm giá làm con Thiên Chúa và "sẽ thấy Ngài như vốn có thật vậy" (1 Giăng 3. 2) để có thể tương giao trong sự sống và tình yêu với Ba Ngôi và với các thánh (Giáo lý Giáo hội Công giáo, 1023-1025, 1243, 1265-1270, 2009). Theo đức tin của tín hữu thuộc trào lưu Tin Lành (Evangelical), tiền đề của sự cứu rỗi là mọi người đều đã phạm tội, vì vậy mọi người đều bị đặt dưới sự đoán phạt của Thiên Chúa. Sự đền tội thay để được phục hoà với Thiên Chúa được ban cho mọi người, chỉ qua Chúa Giê-xu Cơ Đốc, đấng đã sống cuộc đời trọn vẹn trên đất và đã chết trên thập tự giá như một sinh tế không tì vết gánh thay cái chết mà con người đáng phải chịu. Vì con người được Thiên Chúa ban cho ý chí tự do, họ có thể sử dụng ý chí này để chấp nhận hay khước từ sự cứu rỗi của Thiên Chúa, vì vậy sự chết đền tội thay của Chúa Giê-xu chỉ linh nghiệm cho những ai đồng ý: Xưng nhận tội lỗi của mình. Bởi đức tin, chấp nhận Chúa Giê-xu là Chúa và Cứu Chúa của mình. Kết quả của sự cứu rỗi là tội lỗi của người ấy được tha, người ấy sẽ trải nghiệm sự tái sinh để trở nên một con người mới, một Cơ Đốc nhân, một người sống bởi đức tin, trở nên con cái của Thiên Chúa và được ấn chứng bởi Chúa Thánh Linh ("Nhưng hễ ai tin nhận Ngài (Chúa Giê-xu), thì Ngài sẽ ban cho quyền phép trở nên con cái Thiên Chúa, là ban cho những người tin danh Ngài, là người chẳng phải sanh bởi khí huyết, bởi tình dục, hoặc bởi ý người, nhưng sanh bởi Thiên Chúa vậy". - Phúc âm Giăng 1. 12) Một số người, vì không hiểu biết đầy đủ, tìm cách lợi dụng đặc quyền này lập luận rằng nếu mọi tội đều được tha thì quy trình cứu rỗi cũng có thể lặp đi lặp lại nhiều lần, nghĩa là cứ tiếp tục phạm tội rồi sẽ tiếp tục được tha thứ. Trong thực tế điều này không xảy ra. Theo quan điểm của tín hữu Tin Lành, không phải mọi người đều được cứu rỗi, bởi vì không phải mọi người đều tin nhận Chúa Giê-xu. Những ai không tin nhận Chúa Giê-xu sẽ không được tha thứ tội lỗi và sẽ chịu đoán phạt nơi hoả ngục (Hell), ấy là sự phân rẽ đời đời với Thiên Chúa. Tín hữu Tin Lành tin rằng sự cứu rỗi không cống hiến một cuộc sống nhằm tuân giữ một số nguyên tắc đạo đức hoặc lễ nghi tôn giáo. Cứu rỗi có nghĩa là được phục hoà với Thiên Chúa, để bắt đầu một mối tương giao mật thiết giữa cá nhân tín hữu với Thiên Chúa, để được nuôi dưỡng và lớn lên trong tình yêu, sự công chính và sự thánh khiết của Thiên Chúa. Các giáo phái có khuynh hướng bảo thủ thuộc phong trào Restoration (như giáo phái Church of Christ) tin rằng điều kiện cần có để được cứu rỗi không chỉ là nghe Phúc âm và đáp ứng với đức tin, mà còn cần có sự ăn năn tội, chịu lễ báp têm và kiên định trong tinh thần vâng phục Thiên Chúa ("Peter đáp rằng: Hãy hối cải, ai nấy phải nhân danh Chúa Giê-xu mà chịu lễ báp têm, để được tha tội mình, rồi sẽ nhận lãnh sự ban cho Chúa Thánh Linh". Công vụ các Sứ đồ 2. 38-39 và 2 Corinthians 7.10, Hebrews 6.4-6). Một quan điểm khác, sự cứu rỗi dành cho mọi người (universal salvation), tồn tại trong suốt dòng lịch sử Cơ Đốc giáo rồi trở nên phổ biến tại Hoa Kỳ trong những thập niên đầu của thế kỷ 19, cho rằng tất cả mọi người, không phân biệt niềm tin tôn giáo, dần dần sẽ được cứu để được vào thiên đàng; đây là tâm điểm của thần học Phổ độ luận (Universalism) và nhiều giáo đoàn Nhất vị luận (Unitarianism). Họ thường nói "Thiên Chúa quá yêu con người nên ngài không đoán phạt bất kỳ ai". Phần đông tín hữu Cơ Đốc cho rằng quan điểm này là dị giáo vì ngụ ý rằng mọi tôn giáo đều đúng và có nhiều con đường dẫn đến sự cứu rỗi mà không cần đến ân điển của Chúa Cơ Đốc. Bên trong nền thần học phổ độ có quan điểm cho rằng chỉ có sự cứu rỗi qua Chúa Giê-xu; dù vậy, họ tin rằng sự chết và sự phục sinh của Chúa Giê-xu được dành cho mọi người, không phân biệt tôn giáo. Cơ Đốc giáo Đông phương Cơ Đốc giáo Đông phương ít bị ảnh hưởng bởi thần học Augustinus, cũng không chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng của Jean Calvin hay Jacobus Arminius. Cũng dễ hiểu khi họ không có nhiều câu trả lời mà chỉ đặt ra nhiều câu hỏi; ở đây quan điểm về sự cứu rỗi ít được trình bày trong ngôn từ pháp chế (ân điển, trừng phạt...) mà trong ngôn từ y thuật (bệnh tật, chữa lành....), vì vậy cũng ít chính xác hơn. Thay vào đó, họ nhìn xem sự cứu rỗi theo quan điểm thần học theosis - tìm kiếm một đời sống thánh khiết, ngày càng gần với Thiên Chúa hơn - một khái niệm vẫn được phát triển trải qua nhiều thế kỷ trong các giáo hội khác nhau thuộc cộng đồng Chính Thống giáo. Họ cũng nhấn mạnh đến lời dạy của Chúa Giê-xu được ký thuật trong các sách Phúc âm như là điều kiện tiên quyết cho sự tha thứ tội lỗi, bao hàm cả hành động tha thứ cho người khác. Trích dẫn Tân Ước Quan điểm của tín hữu Cơ Đốc về sự cứu rỗi lập nền trên lời dạy của Tân Ước. Nhiều luận giải về chủ đề này được tìm thấy trong Thư gởi tín hữu ở La mã, phần lớn là vì thư tín này chứa đựng hầu hết những luận giải của Sứ đồ Phao-lô về các chủ đề thần học. Tình yêu của Thiên Chúa: "Vì Thiên Chúa yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con độc sanh của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy, không bị hư mất mà được sự sống đời đời" (Giăng 3. 16) "Nhưng Thiên Chúa tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Chúa Cơ Đốc vì chúng ta chịu chết". (La mã 5. 8) Tội lỗi phân rẽ nhân loại khỏi Thiên Chúa: "Vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Thiên Chúa" (La mã. 3. 23) "Cho nên, như bởi một người mà tội lỗi vào trong thế gian, lại bởi tội lỗi mà có sự chết, thì sự chết đã trải qua hết thảy mọi người như vậy, vì mọi người đều phạm tội..." (La mã. 5. 12). Thiên Chúa ban cho sự sống vĩnh cửu bởi vì Chúa Giê-xu Cơ Đốc đã chết thay vì tội lỗi của chúng ta: "Vì tiền công của tội lỗi là sự chết; nhưng sự ban cho của Thiên Chúa là sự sống đời đời" (La mã. 6. 23). Được cứu khỏi tội lỗi bằng cách tha thứ cho người khác: "Vả, nếu các ngươi tha lỗi cho người ta, thì Cha các ngươi cũng sẽ tha thứ các ngươi. Song nếu không tha lỗi cho người ta, thì Cha các ngươi cũng sẽ không tha lỗi cho các ngươi". Mat. 6.14-15". Xưng nhận đức tin và tin: "Vậy nếu miệng ngươi xưng Chúa Giê-xu ra và lòng ngươi tin rằng Thiên Chúa đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại, thì ngươi sẽ được cứu; vì tin bởi trong lòng mà được sự công bình, còn bởi miệng làm chứng mà được sự cứu rỗi". (La mã 10. 9-10) "Vì ai kêu cầu danh Chúa thì sẽ được cứu". (La mã 10. 13). Được cứu rỗi bởi chịu lễ báp têm: "Những kẻ bội nghịch từ thuở trước, về thời kỳ Noah, khi Thiên Chúa nhịn nhục chờ đợi, chiếc tàu đóng nên, trong đó có ít người được cứu bởi nước, là chỉ có tám người. Phép báp têm bây giờ bèn là ảnh tượng của sự ấy để cứu anh em, phép ấy chẳng phải làm sự làm sạch ô uế của thân thể, nhưng là một sự liên lạc lương tâm tốt với Thiên Chúa, bởi sự sống lại của Chúa Giê-xu Cơ Đốc" (1 Peter 3. 20-21); "Hay là, anh em chẳng biết rằng chúng ta thảy đều đã chịu phép báp têm trong Chúa Giê-xu Cơ Đốc, tức là chịu phép báp têm trong sự chết Ngài sao? Vậy chúng ta đã bị chôn với Ngài bởi phép báp têm trong sự chết Ngài, hầu cho Chúa Cơ Đốc nhờ vinh hiển của Cha được từ kẻ chết sống lại thể nào, thì chúng ta cũng sống trong đời mới thể ấy" (La mã 6. 3-5). Được cứu bởi ân điển của Thiên Chúa: "Vả, ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Thiên Chúa. Ấy chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu cho không ai khoe mình" (Ephesians 2. 8-9). Được cứu bởi việc làm: "Nhân đó anh em biết người ta cậy việc làm được xưng công bình, chớ chẳng những là cậy đức tin mà thôi" (Gia-cơ 2. 24). Có sự tranh luận về câu Kinh Thánh này. Tín hữu Kháng Cách cho rằng từ "xưng công chính" không nên được hiểu là "làm cho trở nên công chính" mà chỉ là "bày tỏ sự công chính đã có sẵn". Điều này nên được hiểu theo ý nghĩa việc lành của một người chứng tỏ rằng người ấy đã được cứu rỗi, và Thiên Chúa đang thánh hoá người ấy, khiến người ấy ngày càng tốt hơn, sau khi trải nghiệm sự cứu rỗi. Trong khi đó, tín hữu Công giáo tách rời sự xưng công chính khỏi sự thánh hoá. Công đồng Trent cho rằng đức tin đồng công với việc lành nhằm gia tăng sự công chính mà tín hữu nhận lãnh qua ân điển của Chúa Giê-xu để họ ngày càng trở nên công chính hơn. Chú thích
Tái sinh là thuật từ được dùng rộng rãi trong các trào lưu Nền tảng (Fundamental), Tin Lành (Evangelical) và Ngũ Tuần (Pentecostal) thuộc cộng đồng Kháng Cách (Protestant) của Cơ Đốc giáo, khi đề cập đến sự cứu rỗi, trải nghiệm tiếp nhận đức tin Cơ Đốc và sự sinh lại về phương diện tâm linh. Khái niệm Cơ Đốc Được sinh lại, theo Cơ Đốc giáo, đồng nghĩa với sự tái sinh trong tâm linh, và trong nhiều truyền thống giáo hội, cũng đồng nghĩa với sự cứu rỗi, dù có sự khác biệt đôi chút khi thuật ngữ này được sử dụng trong các truyền thống khác nhau. Tái sinh được đề cập đến lần đầu trong chương thứ ba của Phúc âm Giăng, khi Nicodemus, một học giả Do Thái giáo, tìm đến gặp Giê-su: Trong vòng người Pharisee có một người tên Nicodemus, là một trong những kẻ cai trị dân Giu-đa (Do Thái). Ban đêm, người nầy đến cùng Chúa Giê-xu mà nói rằng: Thưa thầy, chúng tôi biết thầy là giáo sư từ Thiên Chúa đến; vì những phép lạ thầy đã làm đó, nếu Thiên Chúa không ở cùng thì không ai làm được. Giê-xu cất tiếng đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu một người chẳng sanh lại, thì không thể thấy nước Thiên chúa. Nicodemus thưa rằng: Người đã già thì sanh lại làm sao được? Có thể nào trở vào lòng mẹ và sanh lần thứ hai sao? Giê-xu đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu một người chẳng nhờ nước và Chúa Thánh Linh mà sanh, thì không được vào nước Thiên Chúa. Hễ chi sanh bởi xác thịt là xác thịt; hễ chi sanh bởi Thánh Linh là thần. Chớ lấy làm lạ về điều ta đã nói với ngươi: Các ngươi phải sanh lại. - Phúc âm Giăng 3: 1-7 Hầu hết các giáo hội Cơ Đốc đều tin rằng một người cần phải được sinh lại thì mới có thể trở thành tín hữu Cơ Đốc, như thế tất cả tín hữu Cơ Đốc, trong thực tế, đều phải là người đã trải nghiệm sự tái sinh thuộc linh. Điển hình, Giáo hội Công giáo La Mã cho rằng "Lễ rửa tội (báp têm) là.... bí tích, nhờ đó chúng ta được sinh lại bởi nước và Thánh Thần", mặc dù thuật từ này không được sử dụng thường xuyên trong giáo hội. Đây cũng là xác tín của Chính Thống giáo, Anh giáo, Giáo hội Luther, cùng các truyền thống Cơ Đốc khác. Tuy nhiên, chính là tín hữu thuộc các trào lưu Nền tảng, Ngũ Tuần và Tin Lành trong cộng đồng Kháng Cách là những người yêu thích và thường xuyên sử dụng thuật ngữ này để miêu tả những trải nghiệm của họ khi tiếp nhận đức tin Cơ Đốc, cũng như sự tiếp xúc cá nhân giữa họ với quyền năng của Thiên Chúa. Nhiều tín hữu Cơ Đốc được "tái sinh" theo ý nghĩa này thường không chịu chấp nhận một sự qui đạo nào là chân xác nếu không có trải nghiệm "tái sinh". Ý niệm được sinh lại đồng hành với một khái niệm thần học dạy rằng Cơ Đốc nhân là một sự tạo dựng mới (new creation), bởi quyền năng của Thiên Chúa mà người ấy được ban cho một sự khởi đầu mới, được giải cứu khỏi cuộc đời tội lỗi và được nhận lãnh năng lực để bắt đầu một cuộc đời mới trong mối tương giao mật thiết với Chúa Giê-xu qua Chúa Thánh Linh. Một tín hữu đã qua trải nghiệm tái sinh là người vĩnh viễn từ bỏ con người của bản chất cũ; đời sống cũ đã qua đi để bắt đầu một sự sống mới; nay người ấy là một tạo vật mới trong Chúa Giê-xu, đồng chết với ngài để được giải cứu khỏi sự định tội, và đồng sống lại với ngài trong cuộc sống công chính, theo sự miêu tả của Sứ đồ Phao-lô trong thư gởi cho hội thánh tại Corinth, Vậy, nếu ai ở trong Chúa Cơ Đốc, thì nấy là người được dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, này mọi sự đều trở nên mới. - Corinthians 5:17 John Wesley và các tín hữu thuộc Phong trào Giám Lý xem tái sinh là trải nghiệm cần có để trở nên con dân của Vương quốc Thiên Chúa. Xác tín này lập nền trên lời hứa được ghi lại trong Phúc âm Giăng 1:12-13 Nhưng hễ ai nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Thiên Chúa, là ban cho những kẻ tin danh Ngài, là kẻ chẳng phải sanh bởi khí huyết, hoặc bởi tình dục, hoặc bởi ý người, nhưng sanh bởi Thiên Chúa vậy. Hiện nay, tái sinh là thuật từ được gắn kết chặt chẽ với phong trào phục hưng Tin Lành, khởi phát từ cuối thập niên 1960 tại Hoa Kỳ, về sau lan rộng đến nhiều nơi trên thế giới. Thuật từ này ban đầu được dùng để miêu tả kinh nghiệm qui đạo cách sống động, dần dà được dùng để ám chỉ những tín hữu sùng kính. Giữa thập niên 1970, danh xưng Tín hữu Cơ Đốc được tái sinh (born again Christian) ngày càng được nhắc đến nhiều hơn bởi các phương tiện truyền thông đại chúng, đến nỗi trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1976, Jimmy Carter đã sử dụng thuật ngữ này để miêu tả trải nghiệm sống đạo của ông. Một tổng thống khác của Hoa Kỳ, George W. Bush, cũng được xem là một tín hữu có trải nghiệm tái sinh. Một tác phẩm xuất bản năm 1976 có tựa đề Born Again (Tái sinh) của Charles Colson, một chính trị gia từng chịu án tù vì dính líu đến vụ Watergate, miêu tả những trải nghiệm của ông dẫn đến việc chấp nhận đức tin Cơ Đốc trong thời gian chịu xét xử và ngồi tù, là nhân tố quan trọng góp phần biến khái niệm Tái sinh trở thành một phần trong cấu trúc văn hóa Hoa Kỳ. Những tên tuổi trong lĩnh vực âm nhạc như Mark Farner, Dan Peek, Little Richard, Donna Summer, Bob Dylan, Kerry Livgren, Dave Hope, Dave Mustaine, Nicko McBrain, Roger McGuinn, Johnny Cash, Keith Farley và Alice Cooper là những nghệ sĩ mà trải nghiệm tái sinh của họ để lại những dấu ấn quan trọng trên nền văn hóa đương đại.
nhỏ|389x389px|Các tiểu hành tinh trong Hệ Mặt Trời và Sao Mộc. Vành đai tiểu hành tinh tạo thành vòng tròn giữa Sao Hỏa và Sao Mộc Trong Hệ Mặt Trời, vành đai tiểu hành tinh bao gồm các tiểu hành tinh là các thiên thể nhỏ hơn hành tinh, thường không đủ khối lượng để giữ hình dạng hình cầu, có quỹ đạo nằm chủ yếu giữa quỹ đạo Sao Hoả và quỹ đạo Sao Mộc (giữa 2,3 và 3,3 AU từ Mặt Trời), và cấu tạo chủ yếu từ các khoáng chất không bay hơi. Tập hợp các tiểu hành tinh tạo thành vành đai các tiểu hành tinh. Vành đai chính có hàng nghìn các tiểu hành tinh lớn hơn 1 km, và hàng triệu các vật thể bé như bụi. Dù có số lượng lớn như vậy, tổng khối lượng của cả vành đai chính nhỏ hơn khối lượng Trái Đất 1000 lần. Các tiểu hành tinh với đường kính nhỏ hơn 500 m được gọi là thiên thạch. Các thiên thạch và bụi có thể va quệt vào khí quyển Trái Đất và tạo ra các "cơn mưa" sao băng. Các tiểu hành tinh có thể tập hợp thành những nhóm tiểu hành tinh và các gia đình tiểu hành tinh, dựa trên các tính chất quỹ đạo riêng biệt của chúng. Các mặt trăng của tiểu hành tinh là các tiểu hành tinh quay theo quỹ đạo lớn hơn các tiểu hành tinh. Chúng không được phân biệt rõ ràng như các mặt trăng của hành tinh, thỉnh hoảng chúng hầu như lớn bằng hành tinh bên cạnh. Có nhiều tiểu hành tinh chịu nhiễu lực hấp dẫn, đặc biệt từ Sao Mộc, đã bay với quỹ đạo đặc biệt nhiễu loạn. Bên trong Hệ Mặt Trời có đầy rẫy các tiểu hành tinh bay lung tung, nhiều trong số chúng còn cắt ngang quỹ đạo của các hành tinh bên trong. Đặc biệt, nhiều tiểu hành tinh bị Sao Mộc giữ lại trên quỹ đạo của nó, nằm trong cả điểm L4 hay L5 của Sao Mộc, gọi là các tiểu hành tinh Troia, dù thuật ngữ thiên thể Troia cũng được sử dụng cho các tiểu hành tinh ở những điểm Lagrange của các hành tinh khác. Lịch sử quan sát In 1596, Johannes Kepler dự đoán "Giữa Sao Hoả và Sao Mộc, tôi đặt một hành tinh" trong cuốn Mysterium Cosmographicum (Bí ẩn vũ trụ). Khi phân tích dữ liệu từ Tycho Brahe, Kepler nghĩ rằng giữa Sao Hoả và Sao Mộc có một khoảng cách quá lớn. Trong một chú thích cho bản dịch năm 1766 về cuốn Contemplation de la Nature của Charles Bonnet, nhà thiên văn học Johann Daniel Titius từ Wittenberg nhận thấy một mô hình sắp xếp các hành tinh. Nếu người ta bắt đầu một dãy số ở 0 tăng dần lên 3, 6, 12, 24, 48..., tức là số sau gấp đôi số trước, sau đó cộng 4 cho mỗi số và chia cho 10, điều này tạo ra một giá trị xấp xỉ gần đúng với bán kính của quỹ đạo của các hành tinh đã biết (năm 1766) được đo bằng đơn vị thiên văn. Ví dụ: Bán trục lớn của Sao Kim (0,728 213 AU) Điều này cho thấy rằng có một "hành tinh bị mất" (tương đương với số 24 trong chuỗi) giữa quỹ đạo của Sao Hoả (12) và Sao Mộc (48). Trong chú thích của mình, Titius tuyên bố "Liệu Chúa - vị kiến trúc sư có để trống không gian đó không? Không có gì ở đó cả." Khi William Herschel phát hiện ra Thiên Vương Tinh vào năm 1781, quỹ đạo của hành tinh này phù hợp với quy luật gần như hoàn hảo, vì thế các nhà thiên văn học hàng đầu kết luận rằng phải có một hành tinh giữa quỹ đạo của Sao Hoả và Sao Mộc. Vào ngày 1 tháng 1 năm 1801, Giuseppe Piazzi, chủ tịch hội thiên văn học tại Đại học Palermo, Sicilia, đã nhìn thấy một vật thể nhỏ di chuyển trong quỹ đạo với bán kính khá chính xác như dự đoán bởi mô hình trên. Ông gọi nó là "Ceres", đây là nữ thần La Mã của nông nghiệp và là người bảo trợ của Sicilia. Ban đầu Piazzi tin rằng nó là một sao chổi, nhưng thiếu đầu sao chổi sau đó ông cho rằng đó là một hành tinh. Như vậy, mô hình nói trên được gọi là quy luật Titius-Bode, dự đoán gần đúng bán trục lớn của tất cả tám hành tinh khi ấy (Sao Thủy, Sao Kim, Trái Đất, Sao Hoả, Ceres, Sao Mộc, Sao Thổ và Sao Thiên Vương). Mười lăm tháng sau, Heinrich Olbers tìm thấy vật thể thứ hai trong khu vực này, Pallas. Không giống như các hành tinh đã biết khác, Ceres và Pallas vẫn là những điểm sáng ngay cả dưới độ phóng đại lớn nhất của kính viễn vọng thay vì phân giải thành đĩa tròn. Ngoài chuyển động nhanh chóng, chúng xuất hiện gần như không thể phân biệt được với các vì sao. Theo đó, vào năm 1802, William Herschel cho rằng chúng nên được đặt vào một nhóm riêng biệt, được đặt tên là "tiểu hành tinh" (asteroids), từ tiếng Hy Lạp asteroeides có nghĩa là "giống như sao". Đến năm 1807, đã khám phá thêm hai vật thể mới trong khu vực: Juno và Vesta. Việc đốt cháy Lilienthal trong các cuộc chiến tranh Napoléon, nơi mà những công việc quan sát chính được thực hiện, làm cho những khám phá ban đầu bị phá huỷ. Mặc dù có đề xuất của Herschel, trong nhiều thập kỷ, người ta vẫn nghĩ các vật thể này là những hành tinh và đặt tên cho chúng bằng những con số đại diện theo thứ tự khám phá ra chúng: 1 Ceres, 2 Pallas, 3 Juno và 4 Vesta. Tuy nhiên, vào năm 1845, các nhà thiên văn học đã phát hiện một vật thể thứ năm (5.Astraea) và ngay sau đó, những vật thể mới được tìm thấy ngày càng nhiều. Và khi con số trở nên quá lớn, cuối cùng, chúng đã bị loại khỏi danh sách các hành tinh (lần đầu tiên được đề xuất bởi Alexander von Humboldt vào đầu những năm 1850) và lấy danh pháp theo sự đề xuất của Herschel, "các tiểu hành tinh", dần dần được sử dụng phổ biến. Việc phát hiện ra Sao Hải Vương vào năm 1846 đã cho thấy sai số lớn trong quy luật Titius-Bode trong con mắt của các nhà khoa học bởi vì quỹ đạo của nó không nằm gần vị trí dự đoán. Cho đến nay, không có giải thích khoa học nào cho quy luật này và các nhà thiên văn học coi nó như một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Cụm từ "vành đai tiểu hành tinh" được đưa vào sử dụng vào những năm đầu thập niên 1850, mặc dù rất khó để xác định ai đã đặt ra thuật ngữ này. Việc sử dụng tiếng Anh đầu tiên có vẻ là bản dịch năm 1850, sau đó, Benjamin Peirce đã áp dụng thuật ngữ đó trong những cuốn sách của mình và đã là một trong những nhà quảng bá nó. Một trăm tiểu hành tinh đã được phát hiện vào giữa năm 1868 và vào năm 1891, sự ra đời của astrophotography (nhiếp ảnh thiên văn) bởi Max Wolf đã tăng tốc độ phát hiện các tiểu hành tinh lên nhiều lần. Tổng cộng 1.000 tiểu hành tinh đã được tìm thấy vào năm 1921, 10.000 vào năm 1981, và 100.000 vào năm 2000. Hiện nay, các đài quan sát đã tự động tìm kiếm và phát hiện các tiểu hành tinh nhỏ nên số lượng đang ngày càng tăng. Va chạm Đây là nơi tập hợp nhiều tiểu hành tinh nên là một khu vực va chạm tích cực, va chạm giữa các tiểu hành tinh xảy ra thường xuyên (trên quy mô thời gian thiên văn). Va chạm giữa các tiểu hành tinh trong vành đai chính với bán kính trung bình 10 km được dự kiến ​​sẽ xảy ra khoảng 10 triệu năm một lần. Một vụ va chạm có thể phân chia một tiểu hành tinh thành nhiều mảnh nhỏ hơn (dẫn đến sự hình thành của một gia đình tiểu hành tinh mới). Ngược lại, va chạm xảy ra ở tốc độ tương đối thấp cũng có thể kết hợp hai tiểu hành tinh. Sau hơn 4 tỷ năm, các thành viên của vành đai tiểu hành tinh bây giờ không giống với thuở ban đầu. Cùng với các tiểu hành tinh, vành đai tiểu hành tinh cũng chứa các dải bụi có bán kính hạt khoảng vài trăm micromet. Vật liệu mịn này được tạo ra, ít nhất là một phần, từ va chạm giữa các tiểu hành tinh. Do hiệu ứng Poynting – Robertson, áp lực của bức xạ Mặt Trời khiến cho bụi này từ từ xoắn về phía Mặt Trời. Sự kết hợp của bụi mịn, cũng như các vật liệu sao chổi bị đẩy ra, tạo ra ánh sáng hoàng đạo. Ánh sáng hừng đông mờ nhạt này có thể được nhìn thấy vào ban đêm kéo dài từ hướng Mặt Trời dọc theo mặt phẳng của mặt phẳng hoàng đạo. Các hạt bụi tạo ra ánh sáng hoàng đạo có thể nhìn thấy có bán kính trung bình khoảng 40 μm. Thời gian tồn tại điển hình của các đám mây hoàng đạo tại vành đai chính là khoảng 700.000 năm. Do đó, để duy trì các dải bụi, các hạt mới phải được hình thành đều đặn trong vành đai tiểu hành tinh. Đã từng nghĩ rằng va chạm của các tiểu hành tinh tạo thành dải bụi chính của ánh sáng hoàng đạo. Tuy nhiên, mô phỏng máy tính của Nesvorný và các cộng sự cho kết quả là 85% bụi làm nên ánh sáng hoàng đạo là từ những mảnh vỡ của tiểu hành tinh cộng hưởng với Sao Mộc, chứ không phải sao chổi và va chạm giữa các thiên thạch trong vành đai tiểu hành tinh. Tối đa 10% bụi là do vành đai tiểu hành tinh. Thiên thạch Một số mảnh vụn từ va chạm có thể tạo thành các thiên thạch xâm nhập vào bầu khí quyển của Trái Đất. Trong số hơn 50.000 thiên thạch được tìm thấy trên Trái Đất cho đến nay, 99,8% được tin là có nguồn gốc từ vành đai tiểu hành tinh. Các tiểu hành tinh đặc biệt Tiểu hành tinh lớn nhất, Ceres, có đường kính khoảng 1.000 km; đủ lớn để có dạng hình cầu, làm nó có thể trở thành một hành tinh theo một số định nghĩa. Nguồn gốc Các tiểu hành tinh được cho là những gì còn sót lại của một hành tinh kiểu Trái Đất, hoặc nhỏ hơn đã không thể kết hợp lại từ khi Hệ Mặt Trời đang mới hình thành, vì sự gây nhiễu của lực hấp dẫn từ Sao Mộc.
Sự hình thành và tiến hóa của Hệ Mặt Trời bắt đầu từ cách đây khoảng 4,6 tỷ năm với sự suy sụp hấp dẫn của một phần nhỏ của một đám mây phân tử khổng lồ. Hầu hết khối lượng suy sụp tích tụ ở trung tâm, tạo nên Mặt Trời, trong khi phần còn lại dẹt ra hình thành một đĩa đám mây bụi tiền hành tinh tiến hóa dần thành các hành tinh, mặt trăng, tiểu hành tinh và các tiểu thiên thể khác trong Hệ Mặt Trời. Mô hình giả thuyết tinh vân được chấp thuận rộng rãi này do Emanuel Swedenborg, Immanuel Kant và Pierre-Simon Laplace đề ra từ thế kỉ 18. Lý thuyết về sự hình thành Hệ Mặt Trời đã phát triển liên tục nhờ kết quả của tiến bộ trong nhiều lĩnh vực khác nhau bao gồm thiên văn học, vật lý học, địa chất học và khoa học hành tinh. Từ buổi bình minh của Thời đại Không gian, mô hình này đã chịu nhiều thử thách và nó được hiệu chỉnh nhiều lần để thích ứng những phát hiện mới. Hệ Mặt Trời đã tiến hóa đáng kể từ dạng ban đầu của nó. Nhiều Mặt trăng được hình thành từ các đĩa khí và bụi quay xung quanh các hành tinh, trong khi một số khác sinh ra độc lập nhưng về sau bị bắt vào quỹ đạo của hành tinh. Một số khác nữa, như Mặt Trăng của Trái Đất, có thể là kết quả của những vụ va chạm khổng lồ. Va chạm thiên thể xảy ra thường xuyên cho tới tận ngày nay và đóng vai trò trung tâm trong sự tiến hóa của Hệ Mặt Trời. Vị trí các hành tinh thường xuyên thay đổi và hiện tượng dịch chuyển hành tinh này được cho là thiết yếu trong sự tiến hóa giai đoạn đầu của Hệ Mặt Trời. Trong khoảng 5 tỷ năm tới, Mặt Trời sẽ nguội dần và nở ra nhiều lần kích thước hiện tại (trở thành một sao khổng lồ đỏ), trước khi lớp ngoài của nó tách ra trở thành một tinh vân hành tinh và để lại một tàn tích sao, tức sao lùn trắng. Trong tương lai xa, hấp dẫn từ các ngôi sao băng qua sẽ từ từ tước mất các hành tinh của Mặt Trời. Một số sẽ bị hủy diệt, số khác sẽ tách ra đi vào không gian liên sao. Cuối cùng, trong một quá trình hàng chục tỷ năm, có thể Mặt Trời sẽ không còn một thiên thể ban đầu nào quay quanh nó. Lịch sử Những ý tưởng liên quan tới nguồn gốc và định mệnh của thế giới bắt nguồn từ những ghi chép cổ đại; nhưng ý tưởng về "Hệ Mặt Trời" như một hệ hành tinh, theo nhãn quan hiện đại, chỉ mới xuất hiện rất gần đây. Bước đầu tiên hướng tới một lý thuyết về sự hình thành và phát triển Hệ Mặt Trời là sự công nhận thuyết nhật tâm, xem Mặt Trời ở trung tâm và Trái Đất quay xung quay nó. Quan niệm này đã được thai nghén từ hàng nghìn năm trước (Aristarchus của Samos đã nói đến nó từ khoảng năm 250 trước Công nguyên) nhưng thuyết này chỉ được chấp nhận rộng rãi từ thế kỉ 17. Ghi chép đầu tiên nhắc tới thuật ngữ "Hệ Mặt Trời" xuất hiện vào năm 1704. Lý thuyết chuẩn hiện nay về sự hình thành Hệ Mặt Trời, giả thuyết tinh vân, đã trải qua nhiều thăng trầm kể từ khi xuất hiện trong thế kỉ 18 với Emanuel Swedenborg, Immanuel Kant, và Pierre-Simon Laplace, có lúc gần như bị bác bỏ. Sự chỉ trích đáng chú ý nhất đối với lý thuyết này là nó có vẻ giải thích không thỏa mãn việc Mặt Trời có tương đối ít mô men động lượng so với các hành tinh. Tuy nhiên, từ đầu những năm 1980 nghiên cứu về các ngôi sao trẻ cho thấy chúng cũng có các đĩa khí và bụi nguội bao quanh, chính xác như giả thuyết tinh vân tiên đoán, khiến cho gần đây nó được đa số giới khoa học đón nhận trở lại. Hiểu biết về cách thức Mặt Trời tiếp tục phát triển ra sao đòi hỏi một hiểu biết về nguồn gốc năng lượng của nó. Việc Arthur Stanley Eddington xác nhận thuyết tương đối tổng quát của Albert Einstein đã khiến ông nhận ra rằng năng lượng Mặt Trời sinh ra từ phản ứng nhiệt hạch bên trong lõi. Năm 1935, Eddington đi xa hơn tới chỗ đề xuất rằng các nguyên tố khác nặng hơn cũng có thể hình thành bên trong các ngôi sao. Fred Hoyle phát triển tiên đề này với lập luận rằng các ngôi sao đã tiến hóa được gọi là sao khổng lồ đỏ tạo ra nhiều nguyên tố nặng hơn hydro và heli trong lõi của chúng. Khi một sao khổng lồ đỏ tách bỏ các lớp ngoài, các nguyên tố này có thể quay lại hình thành nên các hệ thống sao mới. Sự hình thành Tinh vân tiền Mặt Trời Giả thiết tinh vân khẳng định rằng Hệ Mặt Trời hình thành từ một vụ suy sụp hấp dẫn của một phần của một đám mây phân tử khổng lồ. Đám mây này có kích thước khoảng 20 parsec (pc), trong khi các mảnh của nó cỡ khoảng gần 1 pc (tức 3,25 năm ánh sáng). Sự suy sụp các mảnh nhỏ dẫn tới hình thành những nhân đặc lớn cỡ 0,01–0,1 pc (2000–20000 AU). Một trong số các mảnh này, được gọi là tinh vân tiền Mặt Trời, sau này sẽ trở thành Hệ Mặt Trời. Cấu tạo của khu vực có khối lượng chỉ lớn hơn một chút Mặt Trời ngày nay này bao gồm hydro, cùng heli và những lượng rất nhỏ lithi sản sinh ra từ tổng hợp hạt nhân của Vụ Nổ Lớn, chiếm tới 96,69% khối lượng của nó. 3.31% còn lại bao gồm các nguyên tố nặng sinh ra từ tổng hợp hạt nhân ở các thế hệ sao trước nó. Ở cuối vòng đời sao, các sao thường phun trào các nguyên tố nặng vào không gian liên sao. Những khoáng vật cổ nhất tìm thấy trong các mảnh thiên thạch, vốn được xem là những tàn tích của những vật liệu thể rắn đầu tiên hình thành trong tinh vân tiền Mặt Trời, có tuổi 4568,2 triệu năm, là chỉ dấu về tuổi của bản thân Hệ Mặt Trời. Nghiên cứu về thiên thạch cổ phát hiện thấy những hạt nhân con của các đồng vị có chu kỳ bán rã ngắn, như Fe-60, vốn chỉ hình thành trong các sao tuổi đời ngắn phát nổ. Điều này cho thấy rằng một hoặc nhiều vụ nổ siêu tân tinh đã xảy ra gần Mặt Trời khi nó đang hình thành. Sóng xung kích từ siêu tân tinh đã kích hoạt sự hình thành Mặt Trời bằng việc tạo nên những vùng đậm đặc hơn bên trong đám mây, khiến cho các vùng này co sụp lại. Bởi vì chỉ có những sao lớn, tuổi đời ngắn mới hình thành được siêu tân tinh, Mặt Trời ắt hẳn phải sinh ra trong một vùng tạo sao đã tạo nên những sao lớn, tương tự như Tinh vân Lạp Hộ. Nghiên cứu về cấu trúc của Vành đai Kuiper và các vật liệu dị thường của nó gợi ý rằng Mặt Trời sinh ra trong một đám chứa khoảng từ 1 nghìn tới 10 nghìn sao đường kính từ 6,5 tới 19,5 năm ánh sáng với tổng khối lượng vào cỡ 3000 lần khối lượng Mặt Trời (M⊙). Đám này bắt đầu tách ra từ 135 triệu tới 535 triệu năm sau khi hình thành. Một số mô hình mô phỏng Mặt Trời khi còn trẻ tương tác với các sao ở gần băng qua trong 100 triệu năm đầu đời sinh ra các quỹ đạo dị thường như ở phía rìa Hệ Mặt Trời, chẳng hạn các "vật thể tách rời" bên ngoài Sao Hải Vương. Do bảo toàn mô men động lượng, tinh vân quay ngày càng nhanh trong lúc co lại. Khi vật liệu bên trong tinh vân ngưng tụ, các nguyên tử trong nó va đập với tần số tăng dần, chuyển động năng của nó thành nhiệt. Tâm của nó, nơi chứa phần lớn khối lượng, trở nên ngày càng nóng hơn phần đĩa bao quanh. Trong khoảng 100 nghìn năm, sự cạnh tranh giữa lực hấp dẫn, áp suất khí, từ trường và sự quay khiến cho tinh vân dẹt ra thành một đĩa tiền hành tinh với đường kính 200 đơn vị thiên văn (AU) và tạo nên một tiền sao (một ngôi sao chưa bắt đầu tổng hợp hydro) ở tâm. Vào chặng tiến hóa này, Mặt Trời được cho là ở giai đoạn sao T Tauri. Nghiên cứu về dạng sao này chỉ ra rằng chúng thường đi kèm với những đĩa vật chất tiền hành tinh với khối lượng cỡ 0,001-0,1 M⊙. Các đĩa này bao phủ những miền rộng hàng trăm AU—Kính viễn vọng Không gian Hubble đã từng quan sát các đĩa tiền hành tinh có đường kính lên tới 1000 AU trong các vùng tạo sao như Tinh vân Lạp Hộ—và tương đối nguội, có nhiệt độ bề mặt cao nhất chỉ khoảng 1000 K. Trong vòng 50 triệu năm, nhiệt độ và áp suất trong lõi Mặt Trời trở nên rất lớn, đủ để kích hoạt hydro phản ứng nhiệt hạch, tạo ra nguồn nội năng cưỡng lại sự suy sụp hấp dẫn cho đến khi đạt tới trạng thái cân bằng thủy tĩnh. Sự kiện này đánh dấu việc Mặt Trời bước vào giai đoạn quan trọng nhất trong vòng đời của nó, được gọi là "dãy chính", kéo dài tới tận ngày nay. Đặc trưng chủ yếu của các sao ở chuỗi chính là năng lượng sao lấy từ phản ứng nhiệt hạch tổng hợp heli từ hydro. Sự hình thành các hành tinh Các hành tinh khác nhau được tạo ra từ tinh vân Mặt Trời, đám mây bụi khí dạng đĩa còn lại sau khi Mặt Trời hình thành. Phương thức hình thành hành tinh được giới khoa học chấp nhận hiện nay là sự bồi tụ (accretion), trong đó các hành tinh khởi đầu từ những hạt bụi quay xung quanh tiền sao. Do va đập vào nhau, các hạt này gắn kết thành những khối đường kính lên tới 200 mét, và đến lượt mình các khối này va đập tạo thành những vật thể lớn hơn (planetesimal tức vi thể hành tinh) lớn chừng 10 km. Các vật thể này tiếp tục lớn dần thông qua va chạm, với tốc độ cỡ vài cm mỗi năm trong khoảng vài triệu năm sau đó. Phía trong Hệ Mặt Trời, khu vực trong vòng 4 AU từ tâm hệ, quá ấm cho những phân tử dễ bay hơi như nước và methan ngưng tụ, do đó các vi thể hành tinh sinh ra ở đây chỉ có thể tạo ra từ những hợp chất có điểm nóng chảy cao, như các kim loại sắt, nickel, và nhôm cùng những dạng đá silicat. Những vật thể rắn này sẽ trở thành các hành tinh đất đá (Sao Thủy, Sao Kim, Trái Đất, và Sao Hỏa). Các hợp chất này rất hiếm trong vũ trụ, chỉ chiếm 0,6% khối lượng tinh vân, cho nên các hành tinh đất đá không thể phát triển lớn được. Các vật thể phôi thai (tức tiền hành tinh) của các hành tinh đất đá lớn lên cỡ 0,05 khối lượng Trái Đất (M⊕) và ngừng tích tụ vật chất khoảng 100 000 năm sau khi Mặt Trời hình thành; những sự va chạm và kết hợp sau đó giữa các vật thể kích thước hành tinh cho phép chúng lớn lên thành kích thước hiện tại. Khi các hành tinh đất đá hình thành, chúng vẫn ngập chìm trong đĩa khí bụi. Chất khí chịu ảnh hưởng của áp suất và không quay quanh Mặt Trời nhanh bằng các hành tinh. Sức cản sinh ra giữa chúng gây nên một sự truyền mô men động lượng, khiến cho các hành tinh dần dần dịch chuyển vào các quỹ đạo mới. Các mô hình cho thấy sự thay đổi nhiệt độ trong đĩa chi phối tốc độ dịch chuyển, với xu hướng tổng thể là các hành tinh phía trong dịch chuyển về phía trong khi các đĩa tiêu tán đi cho tới khi hình thành quỹ đạo ổn định như ngày nay. Các hành tinh khí khổng lồ (Sao Mộc, Sao Thổ, Sao Thiên Vương, và Sao Hải Vương) hình thành phía ngoài "đường đóng băng" (frost line), điểm giữa quỹ đạo của Sao Hỏa và Sao Mộc nơi vật chất có nhiệt độ đủ thấp để cho các hợp chất dễ bay hơi nằm ở thể rắn. Băng hình thành nên các hành tinh kiểu Sao Mộc dồi dào hơn nhiều kim loại hay silicat, khiến cho các hành tinh này đủ lớn để bắt giữ được hydro và heli, những nguyên tố nhẹ nhất và phổ biến nhất. Các vi thể hành tinh phía ngoài đường đóng băng kết tụ lên tới 4 M⊕ trong khoảng 3 triệu năm. Ngày nay, bốn hành tinh khí khổng lồ, với tổng khối lượng bằng 445,6 M⊕, chiếm khoảng 99% tổng khối lượng các vật thể quay quanh Mặt Trời. Các nhà lý thuyết tin rằng không phải ngẫu nhiên mà Sao Mộc nằm vừa sát bên ngoài đường đóng băng. Bởi đường đóng băng tích tụ một lượng lớn nước bay hơi từ các vật liệu đóng băng rơi vào phía trong, nó tạo nên một vùng áp suất thấp tăng vận tốc quay của các hạt bụi và giảm chuyển động hướng tâm của chúng, trên thực tế, đường đóng băng đóng vai trò như một rào chắn khiến cho vật chất tích tụ nhanh chóng ở khoảng cách khoảng 5 AU tính từ tâm hệ. Khối lượng vật liệu này lớn dần thành một tiền hành tinh nặng 10 M⊕, sau đó phát triển nhanh chóng bằng cách hút lấy hydro từ đĩa khí bao quanh, đạt 150 M⊕ chỉ trong khoảng 1 nghìn năm và cuối cùng từ từ lớn lên cho tới khi trở thành Sao Mộc như hiện nay với khối lượng 318 M⊕. Sao Thổ có khối lượng nhỏ hơn nhiều đơn giản bởi vì nó hình thành vài triệu năm sau Sao Mộc, do đó còn lại ít khí cho nó hấp thụ hơn. Các ngôi sao T Tauri như Mặt Trời khi trẻ có gió sao mạnh hơn nhiều những sao già, ổn định. Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương có lẽ hình thành muộn hơn Sao Mộc và Sao Thổ, khi các đợt gió Mặt Trời mạnh thổi bay phần lớn đĩa khí bao quanh nó. Kết quả là các hành tinh này tích tụ được rất ít hydro và heli, chỉ cỡ 1 M⊕ mỗi hành tinh. Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương đôi khi được gọi là các "nhân thất bại". Vấn đề chính đối với các lý thuyết hình thành hành tinh này là khoảng thời gian hình thành chúng. Ở các vị trí như hiện nay sẽ cần hàng trăm triệu năm để cho nhân của chúng hình thành. Điều này bất hợp lý và nó có nghĩa là Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương hẳn phải hình thành gần với Mặt Trời hơn-ở gần thậm chí là ở giữa Sao Mộc và Sao Thổ-và sau đó dịch chuyển ra phía ngoài (xem mục Dịch chuyển hành tinh phía dưới). Chuyển động của kỷ nguyên các vi thể hành tinh không phải luôn luôn hướng tâm vào Mặt Trời; những mẫu vật mà Stardust thu thập được từ Sao chổi Wild 2 cho thấy rằng vật liệu từ giai đoạn hình thành ban đầu của Hệ Mặt Trời dịch chuyển từ miền trong ấm hơn tới khu vực vành đai Kuiper. Sau khoảng từ 3 tới 10 triệu năm, gió Mặt Trời dọn dẹp hết khí và bụi trong đĩa tiền hành tinh, thổi chúng vào không gian liên sao, chấm dứt sự phát triển của các hành tinh mới. Những phát triển về sau Ban đầu người ta cho rằng các hành tinh đã hình thành gần quỹ đạo hiện tại của chúng. Tuy nhiên quan điểm này đã thay đổi mạnh mẽ trong những năm cuối thế kỉ 20 và đầu thế kỉ 21. Hiện nay, người ta tin là Hệ Mặt Trời trông rất khác với hình dạng ban đầu của nó: một số vật thể nặng ít nhất cỡ Sao Thủy từng hiện diện trong miền trong Hệ Mặt Trời, miền ngoài thì từng nhỏ hơn nhiều ngày nay, và vành đai Kuiper từng gần Mặt Trời hơn nhiều. Các hành tinh đá Vào cuối kỷ nguyên hình thành hành tinh, miền trong Hệ Mặt Trời từng có tới 50-100 hành tinh phôi thai kích thước cỡ từ Mặt Trăng tới Sao Hỏa. Sự lớn lên có thể xảy ra được là nhờ các vật thể va đập và hợp nhất kéo dài ít hơn 100 triệu năm. Các vật thể này tương tác hấp dẫn với nhau, kéo quỹ đạo lại gần nhau và va đập để lớn lên thành 4 hành tinh đất đá mà chúng ta biết ngày nay. Một cú va đập lớn như vậy có thể đã hình thành nên Mặt Trăng (xem mục Mặt Trăng ở dưới), trong khi một cú khác đã tách mất lớp vỏ của Sao Thủy trẻ tuổi. Một vấn đề vẫn chưa được giải quyết trong mô hình này là nó không thể giải thích được làm thế nào các quỹ đạo ban đầu của các tiền hành tinh đất đá, cần phải có độ lệch tâm rất cao để va chạm với nhau, lại trở thành những quỹ đạo gần tròn và ổn định như ngày nay. Một giả thuyết cho cái gọi là "trút bỏ độ lệch tâm" này là kết quả của việc các hành tinh đất đá hình thành trong một đĩa khí chưa bị Mặt Trời đẩy đi. "Ma sát hấp dẫn" (gravitational drag) của lượng khí tồn lưu này dần dần làm giảm năng lượng của các hành tinh và khiến quỹ đạo của chúng trở nên ổn định. Tuy nhiên, nếu như một đĩa khí như vậy từng tồn tại, thì ngay từ đầu nó đã không cho phép các quỹ đạo lệch tâm xuất hiện. Một giả thuyết khác là ma sát hấp dẫn không xảy ra giữa các hành tinh và khí tồn lưu mà là giữa hành tinh với các vật thể nhỏ chưa bị hấp thụ còn lại. Khi các vật thể lớn di chuyển giữa một đám những vật thể nhỏ hơn, các vật thể nhỏ này bị hút bởi hấp dẫn của các vật thể lớn, tạo nên một vùng có mật độ cao hơn, hay một "vệt đuôi hấp dẫn" (giống như vệt sóng ở đuôi tàu thủy) trên đường đi của vật thể lớn. Hấp dẫn ngày càng tăng ở vệt đuôi làm cho vật thể lớn hơn chậm lại và đi vào một quỹ đạo đều đặn hơn. Vành đai tiểu hành tinh Rìa ngoài của vùng hành tinh đá, trong khoảng từ 2 tới 4 AU, tới Mặt Trời, được gọi là vành đai tiểu hành tinh. Vành đai này ban đầu chứa đủ vật chất để hình thành 2-3 hành tinh cỡ Trái Đất, và thực sự có rất nhiều vi thể hành tinh hình thành ở đây. Cũng như ở phía trong, các vi thể hành tinh này kết tụ thành cỡ 20–30 hành tinh phôi thai có kích thước từ cỡ Mặt Trăng tới Sao Hỏa; tuy nhiên, do ở gần Sao Mộc cho nên sau khi hành tinh khổng lồ này hình thành, tức khoảng 3 triệu năm sau khi Mặt Trời xuất hiện, khu vực này chịu tác động mạnh mẽ. Cộng hưởng quỹ đạo với Sao Mộc và Sao Thổ đặc biệt mạnh ở vành đai tiêu hành tinh, và tương tác hấp dẫn với những phôi thai nặng hơn đã phân tán rất nhiều vi thể hành tinh vào các miền cộng hưởng này. Lực hấp dẫn của Sao Mộc làm tăng vận tốc các vật thể trong miền cộng hưởng, khiến chúng vỡ vụn ra sau các va chạm thay vì dính vào và hợp nhất. Khi Sao Mộc dịch chuyển vào phía trong sau khi hình thành (xem mục Dịch chuyển hành tinh ở dưới), sự cộng hưởng quét qua vành đai tiểu hành tinh, kích thích các vật thể trong vùng này gia tăng vận tốc tương đối với nhau. Tác động kết hợp của cộng hưởng và các hành tinh phôi thai hoặc phân tán các vi thể hành tinh ra khỏi đĩa hoặc tăng cường độ nghiêng quỹ đạo và độ lệch tâm quỹ đạo của chúng. Chính một số phôi thai hành tinh lớn bị Sao Mộc đẩy ra, trong khi số khác có thể đã dịch chuyển vào phía trong hệ và đóng vai trò trong giai đoạn kết tụ cuối cùng của các hành tinh đất đá. Trong giai đoạn tiêu biến này, vành đai tiểu hành tinh mất đi hầu hết khối lượng ban đầu của nó, chỉ còn chừng dưới 1% M⊕, chủ yếu chứa các vi thể hành tinh nhỏ. Một giai đoạn tiêu biến thứ hai đã xảy ra sau khi Sao Mộc và Sao Thổ bước vào một giai đoạn cộng hưởng quỹ đạo 2:1 tạm thời, khiến chúng giảm khối lượng 10–20 lần, chỉ còn khoảng 1/2,000 khối lượng Trái Đất như ngày nay. Thời kỳ các vụ va chạm lớn ở miền trong Hệ Mặt Trời có thể đã đóng một vai trò hình thành nên lượng nước ngày nay trên Trái Đất (~6 kg) từ các vành đai tiểu hành tinh sơ khai. Nước quá dễ bay hơi để có mặt vào lúc hình thành Trái Đất và hẳn phải tới hành tinh này từ các miền lạnh hơn, xa hơn của Hệ Mặt Trời. Nước có lẽ đã đến từ những phôi thai hành tinh và các vi thể hành tinh bị Sao Mộc ném văng ra khỏi vành đai tiểu hành tinh. Năm 2006 người ta phát hiện một quần thể các sao chổi vành đai chính, đây cũng có thể là một nguồn gốc khác của nước trên Trái Đất. Trong khi đó, các sao chổi từ vành đai Kuiber hoặc các vùng xa hơn nhiều nhất chỉ có thể đem lại 6% lượng nước cho Trái Đất. Giả thuyết panspermia cho rằng bản thân sự sống có lẽ đã tới Trái Đất theo cách này, tuy nhiên ít người tán thành nó. Dịch chuyển hành tinh Theo giả thuyết tinh vân, hai hành tinh phía ngoài nằm "sai vị trí". Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương (gọi là những hành tinh băng khổng lồ) tồn tại ở một khu vực mà mật độ tinh vân suy giảm và chu kỳ quỹ đạo dài hơn khiến cho sự hình thành chúng khó mà xảy ra. Thay vì thế hai hành tinh này được cho là đã hình thành trong các quỹ đạo gần Sao Mộc và Sao Thổ (gọi là những hành tinh khí khổng lồ), nơi có nhiều vật chất hơn, và đã dịch chuyển ra phía ngoài tới vị trí ngày nay trong hàng trăm triệu năm. Sự dịch chuyển của các hành tinh phía ngoài cũng cần thiết để xét đến sự tồn tại và tính chất của các khu vực ngoài cùng Hệ Mặt Trời. Bên ngoài Sao Hải Vương, Hệ Mặt Trời tiếp nối bằng Vành đai Kuiper, Đĩa phân tán, và Đám mây Oort, ba quần thể các vật thể đóng băng nhỏ nơi sinh ra hầu hết những sao chổi quan sát được. Ở khoảng cách tới Mặt Trời này, sự bồi tụ quá chậm để cho các hành tinh có thể tạo thành trước khi tinh vân Mặt Trời khuếch tán, và do đó các đĩa ban đầu không đủ mật độ khối lượng để kết tụ lại thành hành tinh. Vành đai Kuiper nằm trong khoảng từ 30 tới 55 AU từ Mặt Trời, trong khi các đĩa phân tán mở rộng ra tới trên 100 AU, và đám mây Oort ở rất xa, bắt đầu từ khoảng cách 50 000 AU. Tuy nhiên ban đầu vành đai Kuiper từng đặc hơn và gần Mặt Trời hơn nhiều, với rìa ngoài xấp xỉ 30 AU. Rìa trong của nó có thể chỉ ngay ngoài quỹ đạo của Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương, vốn cũng gần Mặt Trời hơn nhiều hơn khi mới hình thành (rất có thể trong khoảng 15-20 AU) và ở vị trí hoán đảo, tức là Sao Thiên Vương khi đó xa Mặt Trời hơn là Sao Hải Vương. Sau khi hình thành Hệ Mặt Trời, quỹ đạo của tất cả các hành tinh khổng lồ tiếp tục thay đổi từ từ do tương tác với một lượng lớn các vi thể hành tinh còn lại. Sau khoảng 500-600 triệu năm (tức khoảng 4 tỉ năm trước) Sao Mộc và Sao Thổ rơi vào hiện tượng cộng hưởng 2:1: chu kỳ quỹ đạo Sao Mộc dài gấp đúng 2 lần chu kỳ quỹ đạo Sao Thổ. Sự cộng hưởng này tạo ra một cú đẩy hấp dẫn lên các hành tinh phía ngoài, khiến cho Sao Hải Vương băng vượt qua Sao Thiên Vương và rơi vào vành đai Kuiper cổ đại. Các hành tinh phân tán phần lớn các vật thể nhỏ đóng băng vào phía trong, trong khi chính chúng di chuyển ra phía ngoài. Quá trình này tiếp tục cho tới khi các vi thể hành tinh đi vào trong đủ sâu để tương tác Sao Mộc, hành tinh có hấp dẫn không lồ đẩy chúng vào các quỹ đạo rất lệch tâm hoặc thậm chí đẩy văng chúng ra khỏi Hệ Mặt Trời. Sao Mộc mất một phần năng lượng do quá trình này và dịch chuyển một chút vào phía trong. Những vật thể bị Sao Mộc phân tán vào các quỹ đạo rất lệch tâm tạo nên Đám mây Oort; những vật thể bị phân tán ở mức độ thấp hơn do Sao Hải Vương di chuyển tạo nên vành đai Kuiper và đĩa phân tán ngày nay. Kịch bản này giải thích thành công khối lượng nhỏ hiện tại của vành đai Kuiper và đĩa phân tán. Một số vật thể bị phân tán, bao gồm Sao Diêm Vương, gắn vào quỹ đạo Sao Hải Vương, khiến chúng rơi vào cộng hưởng chuyển động trung bình. Cuối cùng, ma sát bên trong đĩa vi thể hành tinh khiến quỹ đạo của Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương trở lại dạng tròn. Trái với các hành tinh phía ngoài, các hành tinh phía trong không dịch chuyển đáng kể qua các thời đại của Hệ Mặt Trời, bởi vì quỹ đạo của chúng không chịu ảnh hưởng lớn kể từ sau thời kỳ các vụ va chạm lớn. Một câu hỏi khác là tại sao Sao Hỏa lại quá nhỏ so với Trái Đất. Một nghiên cứu công bố tháng 6 năm 2011 đề xuất rằng Sao Mộc đã dịch chuyển phía trong tới 1,5 AU, và khi Sao Thổ hình thành, Sao Mộc dịch chuyển trở lại vị trí ngày nay. Do đó Sao Mộc đã hấp thụ phần lớn lượng vật chất đáng ra Sao Hỏa có thể có để lớn lên. Các mô phỏng tương tự cũng tái tạo được các đặc tính của vành đai tiểu hành tinh hiện nay, với các tiểu hành tinh khô và các vật thể chứa nhiều nước tương tự như sao chổi. Các đợt bắn phá sau này Sự đổ vỡ hấp dẫn từ sự dịch chuyển các hành tinh phái ngoài có lẽ đã đẩy một số lượng lớn các tiểu hành tinh vào miền trong Hệ Mặt Trời, làm tiêu biến dữ dội vành đai ban đầu cho đến khi nó đạt khối lượng cực kì nhỏ ngày nay. Sự kiện này có thể đã kích hoạt thời kỳ Bắn phá mạnh cuối (Late Heavy Bombardment) xảy ra khoảng 4 tỷ năm trước. Thời kỳ bắn phá này kéo dài vài trăm triệu năm và nó thể hiện rõ ràng với các hố thiên thạch vẫn còn thấy rõ trên các thiên thể hủy diệt về mặt địa chất của miền trong Hệ Mặt Trời như Sao Thủy và Mặt Trăng. Những bằng chứng cổ nhất mà người ta biết đến về sự sống trên Trái Đất có niên đại 3,8 tỷ năm- nghĩa là hầu như ngay sau khi thời kỳ Bắn phá mạnh cuối chấm dứt. Các vụ va chạm là một phần thường trực (dù gần đây không thường xuyên) trong sự tiến hóa của Hệ Mặt Trời. Chúng tiếp tục xảy ra mà những bằng chứng rõ rệt là vụ va chạm của Sao chổi Shoemaker–Levy 9 với Sao Mộc năm 1994, sự kiện va chạm Sao Mộc 2009, sự kiện Tunguska, Sao băng Chelyabinsk và Hố thiên thạch Barringer ở Arizona. Quá trình bồi tụ, do đó, chưa hoàn thành, và vẫn đặt ra một đe dọa lớn cho tồn vong của sự sống trên Trái Đất. Trong quá trình tiến hóa của Hệ Mặt Trời, các sao chổi bị đẩy ra ngoài miền trong Hệ Mặt Trời bởi hấp dẫn của các hành tinh khổng lồ, và đi tới hàng nghìn AU phía ngoài để tạo nên Đám mây Oort, một đám những nhân sao chổi rìa xa nhất của tầm hút hấp dẫn của Mặt Trời. Cuối cùng, sau khoảng 800 triệu năm, sự đổ vỡ hấp dẫn do thủy triều thiên hà, các ngôi sao băng qua và các đám mây phân tử khổng lồ bắt đầu tiêu trừ đám mây, tung những sao chổi đi vào miền trong Hệ Mặt Trời. Sự tiến hóa của miền ngoài Hệ Mặt Trời dường như cũng chịu ảnh hưởng của thời tiết không gian từ gió Mặt Trời, các vi thiên thạch, và các thành phần trung hòa trong môi trường liên sao. Sự tiến hóa của vành đai tiểu hành tinh sau thời kỳ Bắn phá mạnh cuối chủ yếu bị chi phối bởi các vụ va chạm. Các vật thể khối lượng lớn có đủ hấp dẫn để giữ lại bất kỳ lượng vật chất nào bắn ra bởi một vụ chạm mạnh. Trong vành đai tiểu hành tinh thì không như vậy. Kết quả là, nhiều hành tinh lớn hơn bị vỡ tách ra, và đôi khi những vật thể mới tạo nên từ tàn dư của những vụ va chạm ít kịch liệt hơn. Các vệ tinh xung quanh tiểu hành tinh ngày này chỉ có thể giải thích như là những sản phẩm gắn kết các vật liệu tách ra khỏi thiên thể gốc mà không có đủ năng lượng để thoát hẳn ra khỏi hấp dẫn của nó. Mặt trăng Các mặt trăng xuất hiện xung quanh hầu hết các hành tinh và các thiên thể khác của Hệ Mặt Trời. Các vệ tinh tự nhiên này sinh ra từ một trong ba cơ chế sau: Cùng tạo thành từ một đĩa tiền hành tinh (chỉ trong trường hợp các hành tinh khí khổng lồ); Hình thành từ các mảnh vỡ va chạm (với điều kiện xảy ra va chạm đủ mạnh ở một góc nông); và Bắt được một vật thể bay ngang qua đó Sao Mộc và Sao Thổ có một vài mặt trăng rất lớn, như Io, Europa, Ganymede và Titan, có lẽ bắt nguồn từ các đĩa khí xoay quanh các hành tinh khổng lồ này không khác gì các hành tinh sinh ra từ đĩa khí xung quanh Mặt Trời. Nguồn gốc này có thể suy đoán từ kích thước lớn của các mặt trăng và khoảng cách gần với các hành tinh tương ứng. Những đặc điểm như vậy không thể quy cho việc bắt giữ, trong khi bản chất khí của hành tinh khổng lồ này khiến chúng cho không thể nào tạo ra vệ tinh từ 'mảnh vỡ' va chạm. Các mặt trăng phía ngoài của các hành tinh khí khổng lồ có xu hướng nhỏ và quỹ đạo lệch tâm với độ nghiêng quỹ đạo bất thường; đây là những đặc trưng của các vật thể bị bắt giữ. Hầu hết các mặt trăng như vậy quay theo hướng ngược với hành tinh nó phụ thuộc. Mặt trăng bất thường lớn nhất là Triton của Sao Hải Vương, được cho là một vật thể vành đai Kuiper bị bắt. Các mặt trăng của những thiên thể rắn được tạo ra cả bởi va chạm và bắt giữ. Hai mặt trăng nhỏ của Sao Hỏa, Deimos và Phobos, có lẽ là những tiểu hành tinh bị bắt giữ. Mặt Trăng của Trái Đất được cho là hình thành của một vụ va chạm xiên duy nhất. Thiên thể va chạm vào Trái Đất đó hẳn phải có khối lượng tương đương với Sao Hỏa, và vụ va chạm có lẽ đã xảy ra gần cuối thời kỳ các vụ va chạm lớn. Vụ va chạm đã làm bật văng ra quỹ đạo một phần vỏ của thiên thể va chạm, về sau tụ lại thành Mặt Trăng. Sự kiện đó có lẽ là vụ va chạm cuối cùng trong một loạt các vụ hợp nhất tạo nên Trái Đất như ngày nay. Người ta còn phỏng đoán thêm rằng thiên thể kích cỡ Sao Hỏa đó đã có thể tạo nên một trong các điểm Lagrange bền của Mặt Trời-Trái Đất ( hoặc ) và trôi dạt khỏi vị trí của nó. Các mặt trăng của thiên thể bên ngoài Sao Hải Vương là Charon của Sao Diêm Vương và Vanth của Orcus cũng có thể đã hình thành từ các vụ va chạm lớn: các hệ Sao Diêm Vương–Charon, Orcus–Vanth và Trái Đất-Mặt Trăng là khác thường trong Hệ Mặt Trời, bởi chúng có khối lượng của vệ tinh lớn hơn 1% thiên thể nó quay quanh. Tương lai Các nhà thiên văn ước tính rằng Hệ Mặt Trời mà chúng ta biết ngày nay sẽ không thay đổi triệt để cho tới khi Mặt Trời sử dụng hầu hết nhiên liệu hydro trong nhân của nó, bắt đầu sự tiến hóa từ dãy chính của biểu đồ Hertzsprung-Russell và bước vào pha sao khổng lồ đỏ. Dù thế, Mặt Trời vẫn tiếp tục tiến hóa cho tới thời điểm đó. Ổn định dài hạn Hệ Mặt Trời trong trạng thái hỗn độn xét trên bậc thời gian hàng triệu hoặc hàng tỉ năm, với các quỹ đạo hành tinh có khả năng thay đổi trong dài hạn. Một ví dụ nổi bật của sự hỗn độn này là hệ Sao Hải Vương-Sao Diêm Vương, nằm trong hiện tượng cộng hưởng 3:2. Mặc dù sự cộng hưởng tự thân nó ổn định, không thể nào tiên đoán được vị trí của Sao Diêm Vương với độ chính xác lớn hơn 10-20 triệu năm (thời gian Lyapunov) trong tương lai. Một ví dụ khác là độ nghiêng trục quay của Trái Đất, do ma sát tăng lên trong lớp vỏ Trái Đất do tương tác thủy triều với Mặt Trăng, sẽ trở nên không tính toán được ở một điểm giữa 1,5 tỷ và 3,5 tỷ năm tới. Các quỹ đạo hành tinh hỗn độn trong bậc thời gian dài hơn, với thời gian Lyapunov trong khoảng 2-230 triệu năm nữa. Trong mọi trường hợp điều này có nghĩa là vị trí của một hành tinh trên quỹ đạo của nó cuối cùng trở nên không thể tiên đoán ở bất kỳ độ xác định nào (nên, chẳng hạn, thời gian mùa đông và mùa hè trở nên bất đinh), nhưng trong một số trường hợp bản thân quỹ đạo có thể thay đổi mãnh liệt. Những hỗn độn như vậy biểu hiện mạnh mẽ nhất trong sự thay đổi độ lệch tâm, với quỹ đạo vài hành tinh có thể trở nên êlip hơn hoặc tròn lại đáng kể. Xét tổng thể trong vài tỉ năm tới Hệ Mặt Trời là ổn định theo nghĩa có lẽ không có hành tinh nào va đập vào nhau hoặc bị văng ra khỏi hệ. Nhưng xa hơn nữa, trong khoảng 5 tỷ năm độ lệch tâm của Sao Hỏa có thể lên tới 0,2, khiến nó cắt ngang quỹ đạo Trái Đất, có khả năng dẫn đến một vụ va chạm. Cũng trong khoảng thời gian đó, độ lệch tâm của Sao Thủy có thể cao hơn thế nữa, có thể va chạm với Sao Kim và về mặt lý thuyết có thể đẩy Sao Thủy văng ra khỏi Hệ Mặt Trời hoặc hất Sao Thủy vào vị trí va chạm với Sao Kim hay Trái Đất. Điều này có thể xảy ra trong khoảng 1 tỷ năm, theo các mô phỏng số, trong đó quỹ đạo Sao Thủy bị nhiễu loạn. Hệ thống vành đai mặt trăng Sự tiến hóa của hệ thống mặt trăng chịu ảnh hưởng chi phối của các lực thủy triều. Một mặt trăng sẽ tạo ra chỗ trương lên ở thiên thể mà nó quay quanh do chênh lệch lực hấp dẫn qua đường kính của thiên thể chính. Nếu một mặt trăng quay cùng hướng với sự quay của hành tinh và hành tinh quay nhanh hơn chu kỳ quỹ đạo của mặt trăng, sự trương lên này sẽ không ngừng bị kéo phía trước mặt trăng. Trong trường hợp này, mô men động lượng sẽ truyền từ sự quay của thiên thể chính tới sự quay của vệ tinh. Mặt trăng hấp thụ năng lượng và dần dần chuyển động xoáy ra ngoài, trong khi thiên thể chính quay chậm dần đi theo thời gian. Mặt Trăng và Trái Đất là một ví dụ của một hệ như vậy. Ngày nay, Mặt Trăng trong trạng thái bị khóa bởi lực thủy triều vào Trái Đất, mỗi vòng của nó xung quanh Trái Đất (hiện nay khoảng 29 ngày) bằng đúng một vòng quanh trục của nó, vì thế nó luôn luôn hướng 1 mặt về Trái Đất. Mặt Trăng sẽ tiếp tục rút khỏi Trái Đất, và sự tự quay của Trái Đất sẽ tiếp tục chậm lại. Trong khoảng 50 tỉ năm, nếu chúng sống sót qua sự giãn nở của Mặt trời, Mặt Trăng và Trái Đất sẽ trở nên bị khóa vào nhau, mỗi thiên thể sẽ bị bắt vào thứ gọi là cộng hưởng "tự quay-quay quỹ đạo" trong đó Mặt Trăng sẽ quay quanh Trái Đất khoảng 47 ngày và cả Mặt Trăng và Trái Đất sẽ tự quay quanh trục của chúng bằng ấy thời gian mỗi vòng, và chỉ một bán cầu của mỗi thiên thể có thể nhìn thấy nhau. Những ví dụ khác là vệ tinh Galileo của Sao Mộc (cũng như các mặt trăng nhỏ hơn của siêu hành tinh này) và hầu hết các mặt trăng lớn hơn của Sao Thổ. Một kịch bản khác xảy ra khi mặt trăng hoặc quay xung quanh thiên thể chính nhanh hơn thiên thể đó quay, hoặc xoay theo hướng ngược lại sự quay của thiên thể chính. Trong các trường hợp này, sự trương thủy triều tụt lại phía sau mặt trăng trên quỹ đạo của nó. Trong trường hợp đầu, hướng truyền mô men động lượng ngược lại, cho nên sự quay của hành tinh chính tăng tốc trong khi quỹ đạo của vệ tinh co lại. Trong trường hợp sau, mô men động lượng của sự quay và sự tự quay có dấu ngược nhau, cho sự truyền mô men dẫn tới sự giảm biên độ của cả hai (khử lẫn nhau). Chú ý rằng trong khi tổng động lượng của hệ này bảo toàn, tổng năng lượng lại không do nhiệt ma sát bị thất thoát đi, và đây chính là nguyên nhân gây ra sự truyền mô men động lượng. Trong cả hai trường hợp, sự tăng tốc do lực thủy triều khiến cho mặt trăng chuyển động xoáy hướng vào thiên thể chính cho tới khi hoặc nó bị áp lực thủy triều xé tan, rồi tạo nên một hệ vành đai hành tinh, hoặc nó đâm thẳng vào bề mặt hoặc khí quyển hành tinh đó. Một kết cục như vậy đang chờ các mặt trăng Phobos của Sao Hỏa (trong khoảng 30  tới 50 triệu năm nữa), Triton của Sao Hải Vương (trong khoảng 3,6 tỉ năm nữa), Metis và Adrastea của Sao Mộc, cũng như ít nhất 16 vệ tinh nhỏ của Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương. Desdemona thậm chí có khả năng va đập với một trong số các vệ tinh lân cận. Một khả năng thứ 3 là khi hành tinh chính và mặt trăng khóa với nhau do lực thủy triều. Trong trường hợp này, sự trương thủy triều sẽ xảy ra tức thời không có độ trễ, và do đó không có sự truyền mô men động lượng, và chu kỳ quỹ đạo sẽ không đổi. Sao Diêm Vương và Charon là một ví dụ của một hệ như vậy. Trước khi tàu vũ trụ Cassini–Huygens đi đến vào năm 2004, các vành đai Sao Thổ thường được cho là trẻ tuổi hơn nhiều Hệ Mặt Trời và người ta kì vọng sẽ không sống sót được thêm 300 triệu năm nữa. Tương tác hấp dẫn với các mặt trăng của Sao Mộc có vẻ sẽ dần dần đẩy rìa ngoài của vành đai hướng vào hành tinh, và sự mài mòn của các tiểu vẫn tinh và hấp dẫn của Sao Thổ cuối cùng tước đi phần còn lại, khiến cho Sao Thổ không còn vành đai. Tuy nhiên dữ liệu từ sứ mệnh Cassini khiến các nhà khoa học chỉnh sửa lại quan điểm ban đầu. Các quan sát phát hiện ra những mạnh băng rộng 10 km không ngừng tách ra và tái hợp, khiến nó có vẻ mới. Các vành đai Sao Thổ lớn hơn nhiều vành đai của các hành tinh khí khổng lồ khác. Khối lượng lớn này có lẽ đã bảo tồn chúng từ lúc hành tinh hình thành 4,5 tỉ năm trước đây, và có thể sẽ tiếp tục bảo tồn chúng hàng tỉ năm tới. Mặt Trời và môi trường hành tinh Về dài hạn, những thay đổi lớn nhất trong Hệ Mặt Trời đến từ những thay đổi trong bản thân Mặt Trời khi nó già đi. Khi Mặt Trời đốt đi nguồn dự trữ hydro của nó, nó sẽ trở nên nóng hơn và do đó đốt phần dự trữ còn lại ngày càng nhanh. Kết quả là Mặt Trời sẽ tăng cường độ sáng với tốc độ 10% mỗi 1,1 tỉ năm. Trong thời gian một tỷ năm, khi công suất bức xạ Mặt Trời tăng lên, vùng cho phép sự sống của nó sẽ dịch chuyển ra ngoài, khiến cho bề mặt Trái Đất quá nóng để nước tiếp tục tồn tại một cách tự nhiên ở thể lỏng. Vào thời điểm này, tất cả sự sống trên mặt đất sẽ bị tuyệt diệt. Trước khi các đại dương hoàn toàn khô cạn, hơi nước bốc lên từ bề mặt đại dương tạo thành một nguồn khí nhà kính khổng lồ, làm tăng tốc quá trình tăng nhiệt độ, có thể chấm dứt sự sống trên Trái Đất còn sớm hơn nữa. Trong khoảng thời gian này, có thể là nhiệt độ bề mặt Sao Hỏa sẽ tăng từ từ, hơi nước và CO2 hiện tại đang đóng băng dưới regolith bề mặt sẽ giải phóng vào khí quyển tạo nên hiệu ứng nhà kính nung nóng hành tinh cho đến khi nó đạt những điều kiện tương đương với Trái Đất ngày nay, do đó cung cấp nơi trú chân tiềm năng trong tương lai cho sinh vật trên Trái Đất. Trong khoảng 3,5 tỉ năm tới, các điều kiện trên bề mặt Trái Đất sẽ tương tự như của Sao Kim ngày nay. Sau khoảng 5,4 tỉ năm tới, lõi Mặt Trời sẽ trở nên đủ nóng để kích hoạt phản ứng nhiệt hạch hydro ở lớp vỏ bao quanh nó. Điều này sẽ khiến các lớp bên ngoài nở ra mạnh mẽ, và ngôi sao sẽ bước vào một giai đoạn tiếp trong cuộc đời của nó, khi nó trở thành một sao khổng lồ đỏ. Trong khoảng 7,5 tỉ năm, Mặt Trời sẽ giãn nở tới bán kính cỡ 1,2 AU—tức gấp 256 lần kích thước hiện tại. Ở đỉnh của nhánh sao khổng lồ đỏ trong biểu đồ tiến hóa sao, do kết quả của diện tích bề mặt tăng cực lớn, bề mặt Mặt Trời sẽ trở nên nguội hơn nhiều hiện nay (khoảng 2600 K) và độ sáng của nó cũng tăng lên 2700 lần độ sáng hiện tại. Một đặc trưng khác của sao khổng lồ đỏ là gió sao từ nó sẽ rất mạnh, đem đi khoảng 33% khối lượng của nó ra không gian. Trong thời gian này, có thể là vệ tinh Titan của Sao Thổ đạt được nhiệt độ bề mặt cần thiết để đảm bảo cho sự sống tồn tại. Khi Mặt Trời giãn nở, nó sẽ nuốt các hành tinh ở gần gồm Sao Thủy và Sao Kim. Số phận của Trái Đất thì khó lường hơn; mặc dù Mặt Trời sẽ nở ra trùm cả quỹ đạo ngày nay của Trái Đất, sự mất mát khối lượng của ngôi sao làm suy yếu hấp dẫn của nó sẽ khiến quỹ đạo các hành tinh di chuyển ra xa hơn. Nếu chỉ tính đến điều này thì Sao Kim và Trái Đất có lẽ sẽ thoát khỏi sự thôn tính, nhưng một nghiên cứu gần đây hơn (2008) gợi ý rằng Trái Đất sẽ bị tiêu diệt do tương tác thủy triều với lớp vỏ ngoài gắn kết lỏng lẻo của Mặt Trời. Dần dần, hydro đốt cháy trong vỏ bao quanh Mặt Trời sẽ làm tăng khối lượng của nó cho tới khi nó đạt khoảng 45% khối lượng hiện tại của Mặt Trời. Vào thời điểm đó mật độ và nhiệt độ sẽ đạt rất cao tới nỗi sự tổng hợp heli thành cacbon sẽ bắt đầu, dẫn đến cái gọi là chớp heli; Mặt Trời sẽ co lại từ 250 lần kích thước hiện tại (dãy chính) xuống còn 11 lần. Độ sáng theo đó cũng giảm từ 3000 lần mức hiện tại xuống còn 54 lần, và nhiệt độ bề mặt sẽ tăng lên tới khoảng 4770 K. Mặt Trời sẽ trở thành một ngôi sao ở nhánh chân trời, đốt cháy heli trong nhân một cách ổn định giống như nó đang đốt hydro hiện nay. Pha nhiệt hạch heli này chỉ tồn tại chừng 100 triệu năm. Cuối cùng, nó một lần nữa lại quay về nguồn dự trữ hydro và heli ở các lớp bên ngoài và sẽ nở ra một lần nữa, trở thành một ngôi sao nhánh khổng lồ tiệm cận. Vào lúc đó độ sáng Mặt Trời sẽ lại tăng lần nữa, đạt 2090 lần mức hiện tại, và nó sẽ nguội lại xuống còn 3500 K. Pha này tồn tại kéo dài chừng 30 triệu năm, sau đó, trong một quá trình tốn khoảng 100 nghìn năm, các lớp ngoài còn lại của Mặt Trời sẽ tách ra, tuôn những dòng vật chất khổng lồ vào không gian và tạo nên một vầng hào quang bị gọi (hiểu lầm) là một tinh vân hành tinh. Vật chất phóng ra sẽ chứa heli và carbon tạo từ phản ứng hạt nhân của Mặt Trời, tiếp tục cung cấp các nguyên tố nặng vào không gian liên sao cho các thế hệ sao tương lai. Đây là một sự kiện tương đối yên bình, không hề giống với một vụ nổ siêu tân tinh mà Mặt Trời vì quá bé nên không thể tạo ra. Bất kỳ người quan sát nào có mặt để chứng kiến sự kiện này sẽ thấy sự tăng cường gió Mặt Trời quy mô lớn, nhưng nó sẽ không đủ để hủy diệt hoàn toàn một hành tinh. Tuy nhiên, sự mất mát khối lượng ngôi sao có thể khiến quỹ đạo các hành tinh sống sót rơi vào hỗn độn, khiến một số va đập vào nhau, một số văng ra khỏi Hệ Mặt Trời, và số khác bị xé vụn bởi tương tác thủy triều. Sau đó, tất cả những gì còn lại của Mặt Trời là một sao lùn trắng, một thiên thể cực kì đặc, với 54% khối lượng ban đầu nén vào một kích thước chỉ bằng Trái Đất. Ban đầu, sao lùn trắng này có thể sáng gấp 100 lần Mặt Trời hiện tại. Nó sẽ chứa oxy và carbon suy biến, nhưng không bao giờ đủ nóng để phản ứng nhiệt hạch với các nguyên tố này. Do đó sao lùn trắng Mặt Trời sẽ nguội dần, trở nên ngày càng mờ đi. Khi Mặt Trời chết dần, sức hút hấp dẫn lên các thiên thể quay quanh nó, như các hành tinh, sao chổi và tiểu hành tinh sẽ yếu đi do sự mất mát khối lượng. Tất cả các hành tinh còn lại sẽ giãn quỹ đạo quay; nếu Sao Kim, Trái Đất và Sao Hỏa vẫn còn sống sót, quỹ đạo của chúng một cách xấp xỉ sẽ tương ứng nằm trong khoảng , , và . Chúng và các hành tinh còn lại khác sẽ trở thành các khối vật thể lạnh lẽo, tối tăm, hoàn toàn tiêu diệt bất kỳ dạng sự sống nào. Chúng sẽ tiếp tục quay quanh ngôi sao, vận tốc giảm dần do khoảng cách tới Mặt Trời tăng và hấp dẫn Mặt Trời giảm. Hai tỉ năm sau đó, khi Mặt Trời nguội xuống khoảng 6000–8000 K, carbon & oxy trong lõi Mặt Trời sẽ đóng băng, với 90% khối lượng còn lại của nó mang một cấu trúc tinh thể. Cuối cùng, sau thêm hàng tỉ năm nữa, Mặt Trời sẽ hoàn toàn ngừng phát sáng, trở thành một sao lùn đen. Tương tác thiên hà Hệ Mặt Trời di chuyển cô độc trong Ngân Hà trong một quỹ đạo tròn cách xấp xỉ 30000 năm ánh sáng từ tâm thiên hà với vận tốc cỡ 220 km/s. Chu kỳ quay quanh tâm thiên hà, gọi là năm thiên hà, vào khoảng 220-250 triệu năm. Từ khi hình thành tới giờ Hệ Mặt Trời đã hoàn thành ít nhất 20 vòng như vậy. Các nhà khoa học khác nhau đã phỏng đoán rằng đường đi của Hệ Mặt Trời trong thiên hà là một yếu tố gây nên tính chu kỳ của các đợt tuyệt chủng hàng loạt mà các hóa thạch Trái Đất ghi dấu lại. Một giả thuyết đề xuất rằng các dao động dọc do Mặt Trời gây ra khi nó quay quanh tâm thiên hà khiến nó đều đặn vượt qua mặt phẳng thiên hà. Khi quỹ đạo Mặt Trời đi ra ngoài đĩa thiên hà, ảnh hưởng của thủy triều thiên hà yếu đi, khi nó quay trở lại đĩa thiên hà, theo những khoảng thời gian 20-25 triệu năm, nó chịu những thủy triều đĩa mạnh hơn nhiều mà, theo những mô hình toán học, sẽ tăng dòng sao chổi từ đám mây Oort lên 4 lần, dẫn tới sự tăng đột biến khả năng một vụ va chạm tàn khốc. Tuy nhiên, những người khác lập luận rằng Mặt Trời hiện nay đang gần mặt phẳng thiên hà, và dù thế sự kiện tuyệt chủng lớn cuối cùng đã xảy ra 15 triệu năm trước. Do đó chỉ vị trí chiều dọc của Mặt Trời thôi không đủ để giải thích sự tuyệt chủng theo chu kỳ như vậy, và thay vào đó những lần tuyệt chủng xảy ra khi Mặt Trời vượt qua các nhánh xoắn ốc của thiên hà. Các cánh tay xoắn ốc không chỉ là nơi cư trú của rất nhiều đám mây phân tử, mà hấp dẫn của chúng có thể làm nhiễu loạn đám mây Oort, mà cả một mật độ cao hơn những sao khổng lồ xanh sáng sống trong những khoảng thời gian ngắn và rồi bùng nổ mãnh liệt thành các siêu tân tinh. Va chạm thiên hà và đổ vỡ hành tinh Mặc dù đại đa số các thiên hà trong vũ trụ dịch chuyển ra xa khỏi Ngân Hà, Thiên hà Andromeda, thành viên lớn nhất của Nhóm Địa phương, đang hướng tới đây với vận tốc khoảng 120 km/s. Trong 4 tỉ năm tới, Andromeda và Ngân Hà sẽ đụng độ, khiến cả hai biến dạng khi các lực thủy triều xé các nhánh ngoài của chúng thành những đuôi thủy triều khổng lồ. Nếu sự đổ vỡ ban đầu này diễn ra, các nhà thiên văn tính toán rằng có xác suất 12% là Hệ Mặt Trời sẽ bị kéo ra phía ngoài vào đuôi thủy triều của Ngân Hà và 3% nó sẽ bị gắn bởi lực hấp dẫn của Andromeda và trở thành một phần của thiên hà này. Khi một chuỗi các cú đánh trượt qua ở các nhánh tiếp tục diễn ra, khả năng văng ra của Hệ Mặt Trời tăng lên 30%, và các hố đen siêu nặng ở tâm hai thiên hà sẽ hợp nhất. Cuối cùng, trong khoảng 6 tỉ năm tới, Ngân Hà và Andromeda sẽ hợp nhất hoàn toàn thành một nhiên hà xoắn ốc khổng lồ. Trong quá trình hợp nhất, nếu có đủ khí, hấp dẫn gia tăng sẽ buộc khí đi vào tâm của thiên hà xoắn ốc mới. Điều này có thể dẫn tới một thời kỳ hình thành sao mạnh mẽ trong thời gian ngắn, gọi là sự bùng nổ sao. Ngoài ra, các khí đi vào trong sẽ nuôi dưỡng hố đen mới hình thành chuyển hóa nó thành một nhân thiên hà hoạt động. Lực hình thành do những tương tác này có thể sẽ đẩy Hệ Mặt Trời vào vùng hào quang của thiên hà mới, khiến nó tương đối ít bị tổn hại từ bức xạ của những va chạm này. Có một quan niệm sai lầm phổ biến rằng sự va chạm này sẽ làm đổ vỡ quỹ đạo của các hành tinh trong Hệ Mặt Trời. Trong khi đúng là hấp dẫn của các sao bay ngang qua có thể tách các hành tinh vào không gian liên sao, khoảng cách giữa các sao là quá lớn khiến cho khả năng cuộc va chạm Ngân Hà-Andromeda gây ra một sự đổ vỡ như thế đối với bất cứ hệ thống sao riêng lẻ nào là rất nhỏ, có thể bỏ qua. Trong khi Hệ Mặt Trời xét như một toàn thể có thể chịu ảnh hưởng bởi các sự kiện này, Mặt Trời và các hành tinh nói chung sẽ không bị nhiễu loạn đáng kể . Tuy nhiên, theo thời gian, xác suất tích lũy của một cú va chạm với một ngôi sao tăng lên, và sự đổ vỡ của các hành tinh sẽ trở thành không thể tránh khỏi trong một bậc thời gian ngoài sức tưởng tượng. Giả sử rằng các kịch bản cáo chung của vũ trụ Vụ Co Lớn hoặc Vụ Xé Lớn không xảy ra, các tính toán gợi ý rằng hấp dẫn của các sao băng qua sẽ hoàn toàn tước đi các hành tinh còn lại của Mặt Trời đã chết trong vòng 1 triệu tỉ năm (1015 năm). Thời điểm đó đánh dấu sự chấm dứt của Hệ Mặt Trời: trong khi Mặt Trời và các hành tinh vẫn còn hiện hữu, Hệ Mặt Trời, theo nghĩa một hệ thống hành tinh, không còn tồn tại. Niên đại Khung thời gian của sự hình thành Hệ Mặt Trời được xác định bằng phương pháp định tuổi bằng đồng vị phóng xạ. Các nhà khoa học ước tính rằng Hệ Mặt Trời đã 4,6 tỉ năm tuổi. Các hạt khoáng chất cổ nhất trên Trái Đất có khoảng 4,4 tỉ năm tuổi. Các mảnh đá già như vậy rất hiếm, bởi vì bề mặt Trái Đất không ngừng thay đổi hình dạng do xói mòn, phun trào núi lửa, và kiến tạo mảng. Để đánh giá tuổi của Hệ Mặt Trời, các nhà khoa học sử dụng các vẫn thạch được hình thành từ giai đoạn ngưng tụ tinh vân Mặt Trời. Hầu hết tất cả các vẫn thạch đều có tuổi 4,6 tỉ năm, cho thấy Hệ Mặt Trời ít nhất phải già cỡ đó. Các nghiên cứu về các đĩa xung quanh các ngôi sao khác cũng giúp phần vào việc lập nên một khung thời gian hình thành Hệ Mặt Trời. Các ngôi sao khoảng từ 1 tới 3 triệu năm tuổi có những đĩa chứa nhiều khí, trong khi những đĩa xung quanh các sao hơn 10 triệu năm tuổi chứa rất ít hoặc không có khí, cho thấy rằng các hành tinh khí khổng lồ trong chúng đã ngừng hình thành. Niên biểu của Hệ Mặt Trời Chú ý: Tất cả thời gian năm tháng trong niên biểu này là có tính xấp xỉ.
Bộ Âu thạch nam hay bộ Đỗ quyên (danh pháp khoa học: Ericales) là một bộ thực vật hai lá mầm lớn và đa dạng. Trong một số sách giáo khoa về thực vật học gọi là họ đỗ quyên là lấy theo tên của chi Đỗ quyên (Rhododendron) thuộc họ Ericaceae, nhưng tại Wikipedia lấy theo tên chi Âu thạch nam (Erica) cũng thuộc họ Ericaceae. Bộ này chứa nhiều loại cây từ cây thân gỗ, cây bụi, dây leo và cây thân thảo. Cùng với các loài thực vật tự dưỡng thì bộ Ericales còn có cả các loài thực vật thiếu diệp lục sống cộng sinh cùng nấm (ví dụ Sarcodes sanguinea) và thực vật ăn thịt (ví dụ chi Sarracenia). Nhiều loài có 5 cánh hoa, thường mọc cùng nhau. Nấm rễ là một tính chất đặc biệt, thường gắn liền với bộ Ericales. Thực vậy, sự cộng sinh với nấm ở rễ là rất phổ biến trong các đại diện của bộ này, và thậm chí người ta còn tìm thấy có ba loại nấm chỉ có thể thấy ở bộ Ericales (gọi là ericoid, arbutoid và monotropoid mycorrhiza). Ngoài ra, vài họ trong bộ này còn đáng chú ý vì khả năng tích lũy nhôm rất cao của chúng (Jansen và những người khác, 2004). Ericales là một bộ phổ biến rộng khắp. Các khu vực phân bổ của các họ dao động rất lớn - trong khi một số họ chỉ sinh trưởng ở vùng nhiệt đới thì một số họ khác lại tồn tại chủ yếu ở vùng cận bắc cực hay khu vực ôn đới. Toàn bộ bộ này chứa trên 8.000 loài (APG II ước tính là 25 họ, còn APG III ước tính là 22 họ (3 họ Maesaceae, Myrsinaceae và Theophrastaceae gộp lại trong họ Primulaceae), 346 chi và 11.515 loài), trong đó riêng họ Âu thạch nam (Ericaceae) chiếm từ 2.000-4.000 loài (theo các nguồn ước tính khác nhau). Kinh tế Có lẽ loài cây quan trọng nhất trong bộ này là cây chè (Camellia sinensis) từ họ Chè (Theaceae). Bộ này cũng chứa một số loại cây cho quả ăn được, chẳng hạn cây kivi (Actinidia deliciosa), hồng (chi Diospyros) và một số loài cây ăn quả nhiệt đới khác. Nhiều loài trong bộ này cũng được trồng làm cây cảnh vì có hoa sặc sỡ. Phát sinh chủng loài Biểu đồ chỉ ra mối quan hệ phát sinh chủng loài của bộ Âu thạch nam với các bộ khác trong nhánh Cúc như sau: Phân loại Các họ sau là điển hình trong các phân loại mới nhất: Họ Actinidiaceae (họ kivi, đằng lê) Họ Balsaminaceae (họ bóng nước) Họ Clethraceae Họ Cyrillaceae Họ Diapensiaceae Họ Ebenaceae (họ hồng) Họ Ericaceae (họ Âu thạch nam, đỗ quyên) Họ Fouquieriaceae Họ Lecythidaceae Họ Marcgraviaceae Họ Mitrastemonaceae Họ Pentaphylacaceae Họ Ternstroemiaceae (thường được gộp trong họ Chè (Theaceae), như là phân họ Ternstroemioideae, chẳng hạn như trong Takhtadjan (1997)). Tuy nhiên, trong APG III thì nó được gộp trong họ Pentaphylacaceae. Họ Polemoniaceae (họ lá thang, thiên nam tú cầu hay hoa móng rồng) Họ Primulaceae (họ anh thảo) Họ Maesaceae (đơn nem). APG III coi là phân họ Maesoideae trong họ anh thảo mở rộng. Họ Myrsinaceae (họ xay). APG III coi là phân họ Myrsinoideae trong họ anh thảo mở rộng. Họ Theophrastaceae. APG III coi là phân họ Theophrastoideae trong họ anh thảo mở rộng. Họ Roridulaceae Họ Sapotaceae (họ hồng xiêm) Họ Sarraceniaceae (họ nắp ấm Tân thế giới) Họ Sladeniaceae Họ Styracaceae (họ bồ đề) Họ Symplocaceae (họ dung) Họ Tetrameristaceae Họ Pellicieraceae (thường gộp trong họ Tetrameristaceae) Họ Theaceae (họ chè) Các họ này tạo thành một nhóm cơ sở của nhóm Cúc (asterid). Trong hệ thống Cronquist cũ thì bộ Ericales là một nhóm nhỏ hơn, được đưa vào trong phân lớp Dileniidae. Nó bao gồm các họ sau: Họ Ericaceae Họ Cyrillaceae Họ Clethraceae Họ Grubbiaceae Họ Empetraceae Họ Epacridaceae Họ Pyrolaceae Họ Monotropaceae
Họ La bố ma (danh pháp khoa học: Apocynaceae) còn được gọi là họ Dừa cạn (theo chi Vinca/Catharanthus), họ Trúc đào (theo chi Nerium), họ Thiên lý (theo chi Telosma) với các danh pháp khoa học đồng nghĩa khác như Asclepiadaceae, Periplocaceae, Plumeriaceae, Stapeliaceae, Vincaceae, Willughbeiaceae. Tuy nhiên, trong Wikipedia lấy theo tên gọi của chi điển hình là chi Apocynum (la bố ma) nên gọi là họ La bố ma. Chúng là các loài cây thuộc thực vật có hoa bao gồm các loại cây thân gỗ, cây bụi, cây thân thảo hay cây dây leo. Nhiều loài là các loại cây thân gỗ cao trong các rừng mưa nhiệt đới, và chủ yếu là sinh trưởng trong các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới ẩm ướt—nhưng có một số loài sinh trưởng trong các môi trường khô hạn của vùng nhiệt đới. Cũng tồn tại một số loài cây lâu năm thân thảo ở khu vực ôn đới. Nhiều loài có nhựa trắng như sữa cũng như nhiều loài có chứa độc chất gây nguy hiểm cho tính mạng nếu ăn phải. Giống như một số chi khác trong họ Apocynaceae, chi Adenium có cả các loài có nhựa trắng dạng mủ latex và nhựa trong suốt; trong khi chi Pachypodium chỉ có nhựa trong suốt. Phân loại Hiện nay người ta công nhận trong họ này 4.555 loài và được chia ra thành khoảng 415-424 chi. Họ Asclepiadaceae trong hệ thống phân loại Cronquist cũ, hiện nay theo AGP II đã được đưa vào trong Apocynaceae (Endress & Bruyn, 2000). Hiện nay, họ Apocynaceae nghĩa rộng có 5 phân họ, bao gồm: Họ Apocynaceae nghĩa hẹp (sensu stricto): Apocynoideae - phân họ La bố ma Rauvolfioideae - phân họ Ba gạc Họ Asclepiadaceae (họ Bông tai hay họ Thiên lý) cũ: Asclepiadoideae - phân họ Bông tai Periplocoideae Secamonoideae - phân họ Rọ Phân bổ Các loài trong họ này phân bổ chủ yếu trong khu vực nhiệt đới: Trong các rừng mưa nhiệt đới và đầm lầy ở Ấn Độ và Malaya: các loại cây thân gỗ thường xanh từ nhỏ đến rất cao, thông thường với các rễ trụ, chẳng hạn như các chi Alstonia và Dyer. Tại miền bắc Australia: cây thân gỗ thường xanh nhỏ, chẳng hạn như các chi Cerbera và Ochrosia. Trong các rừng cây lá sớm rụng của châu Phi và Ấn Độ: các loại cây thân gỗ nhỏ, như các chi Carissa, Wrightia và Holarrhena. Trong khu vực nhiệt đới châu Mỹ, Ấn Độ, Myanmar và Malaya: các cây thân gỗ thường xanh và cây bụi, chẳng hạn các chi Rauwolfia, Tabernaemontana và Acokanthera. Tại Trung Mỹ: Plumeria hay frangipani, với hoa màu trắng sáp hay hồng và mùi thơm. Tại Nam Mỹ, châu Phi và Madagascar: nhiều loại dây leo như chi Landolphia. Tại khu vực Địa Trung Hải: chi Nerium, với loài cây được biết đến nhiều nhất là trúc đào (Nerium oleander). Các chi duy nhất tìm thấy ở khu vực ôn đới của châu Âu xa khu vực Địa Trung Hải là Vinca (Apocynoideae) và Vincetoxicum (Asclepiadoideae). Tại Bắc Mỹ: Apocynum, la bố ma hay gai dầu Anh điêng, bao gồm cả Apocynum cannabinum, một nguồn truyền thống để lấy sợi. Tại phần đại lục của khu vực miền nam châu Phi—Angola, Botswana, Mozambique, Nam Phi, Swaziland và Zimbabwe cũng như ở Madgascar (ngoại trừ các khu rừng ẩm ướt thường xanh ở phần phía đông của đảo này và không bao giờ trên độ cao 2.000 m cho toàn bộ đảo này): chi Pachypodium. Đặc trưng Lá đơn, thông thường mọc đối và chéo chữ thập hay mọc vòng xoắn; không có lá kèm. Hoa thông thường sặc sỡ, đối xứng tâm (đối xứng tỏa tia), tổ hợp thành các cụm hoa dạng hình xim hay chùm (ít khi thấy dạng chùm hay hoa đơn). Hoa lưỡng tính, với đài hoa duy nhất 5 thùy. Hoa mọc ở đầu ngọn hay ở nách lá. Các nhị hoa chèn vào bên trong ống của tràng hoa. Nhụy hoa thường là lớn. Quả là loại quả hạch, quả mọng, quả nang hay quả kén. Các chi Apocynoideae Acokanthera - Trường dược hoa Adenium - Sứ Thái, Sứ sa mạc, Mai côi sa mạc, Thiên bảo hoa Aganonerion - Dây dang Aganosma - Luyến hương, Chè bông Alafia - Thiết linh Allamanda - Dây huỳnh, Bông vàng, Huỳnh anh Allomarkgrafia - Phồn hiệu Allowoodsonia - A lạc sơn Alstonia - Hoa sữa, Xương gà Alyxia - Dây ngôn, Niệm châu Amalocalyx - Sơn đôn, Mác chim Ambelania - Lâm qua Amsonia - Cam thảo nước Ancylobotrys - Hạch Anechites - Trúc đào leo Angadenia - Kim hiệu Anodendron - Ngà voi, Cẩm lan Apocynum - La bố ma Arduina - Ngài trắng Artia - Luân kết Asketanthera - Bao giao Aspidosperma - Dương bôi hoa Baissea - Kim bình Beaumontia - Dái hoẵng, Thanh minh hoa Bousigonia - Bù liêu, Nãi tử Cabucala - Sâm châu Callichilia - An quả Calocrater - Kim ngưu quả Cameraria - Áp đản hoa Carissa - Xi rô, Giả hổ thử Carpodinus - Cáp đinh Carruthersia - Cà thơ Carvalhoa - Tiêu dại Catharanthus - Dừa cạn Madagascar, Trường xuân hoa Cerbera - Mướp xác, Hải mông quả Cerberiopsis - Trúc đào quả cánh Chamaeclitandra - Ải hạnh Chilocarpus - Thần quả trấn, Thần châu Chonemorpha - Quặn hoa, Lộc giác Cleghornia - Giả đỗ trọng Clitandra - Chu hạnh Condylocarpon - Tán tiết Couma - Sữa bò Craspidospermum - Khổ ngõa Crioceras - Công dương Cycladenia - Lạp bố ma Cyclocotyla - Lê môi Cylindropsis - Trường hạnh Delphyodon - Điệp đơn Dewevrella - Điêu qui Dictyophleba - Diệc li Dipladenia - Diếp lân Diplorhynchus - Giác tố hinh Dyera - Đại đường giao Ecdysanthera - Dây chua Echites - Giao Elytropus - Ơ ly Epigynium - Ngân đào Eucorymbia - Diêu cô Farquharia - Phát hà Fernaldia - Hoa bính Forsteronia - Phú tùng Funtumia - Phong thu Galactophora - Nãi phú Geissospermum - Thường sơn lê Gonioma - Hoàng dương lãm Grisseea - Lệ sơn Gymnema - Lõa ti Hancornia - Minh giáp quả Haplophyton - Trừ chương thảo Himatanthus - Đại Holarrhena - Hồ liên Hunteria - Bên bai Hymenolophus - Hiêm lộc Ichnocarpus - Mần trây Isonema - Yến ninh Ixodonerium - Néo Kamettia - Sức châu Kibatalia - Thần linh, Dùi đôi Kopsia - Cốp, Trang tây Lacmellea - Lạc miên Landolphia - Lăng đô Laubertia - Lâu bách Laxoplumeria - Mẫu nhũ Lepinia - Lê biên Lepiniopsis - Lê biên sĩ Leuconotis - Liêu công Lochnera - Lô na Lyonsia - Long sinh Macoubea - Anh vũ quả Macropharynx - Cự yết Macrosiphonia - Hoa rong biển Malouetia - Mang cá Mandevilla - Hoa ve đỏ Mascarenhasia - Mặc hà Melodinus - Giom Mesechites - Thuý tâm Micrechtites - Mỹ tịch Microplumeria - Mỹ lâm Molongum - Mô lông Mortoniella - Mộc tôn Motandra - Mộc đản Mucoa - Dầu ma Neobracea - Niêu bách Neocouma - Niêu câu Nerium - Trúc đào Nouettea - Nết nam Ochrosia - Chay lang Odontadenia - Tuyến nha Oncinotis - Ma tác Orthopichonia - Ô thô Pachypodium - Mã kì lân Pachouria - Bách châu Papuechites - Pháp chi Parahancornia - Nãi ngưu mộc Parameria - Song tiết Parepigynum - Dây phú ninh Parsonsia - Bạt son Peltastes - Bão tây Pentalinon - Kim hương Petchia - Bách giáp Picralima - Phích liên Plectaneia - Lạc tân Pleiocarpa - Lệ cách Pleioceras - Lệ sơ Plumeria - Đại, Sứ Pottsia - So côm Prestonia - Bách tông Pycnobotrya - Bích nô Quiotania - Quy tán Rauwolfia - Ba gạc, La phù mộc Rhabdadenia - Lạp đằng Rhazya - La đằng Rhigospira - Lựu qua Rhodocalyx - Hồng thụ Rhynchodia - Mô tử Saba - Tranh hương Salpinctes - Sao bình Schizozygia - Thủ sang Secondatia - Thứ đằng Sindechites - Mao dược Skytanthus - Kỳ tang Spirolobium - Luân thùy Spongiosperma - Chi qua Stemmadenia - Tuyến quan Stephanostegia - Sử đế gia Stephanostema - Sử đế ma Stipecoma - Tiệp cơ Strempeliopsis - Trâm biểu Strophanthus - Sừng trâu Tabernaemontana -Bánh hỏi, Lài trâu, Li lài, Ớt rừng Tabernanthe - Dạ linh Temnadenia - Thẩm đằng Thenardia - Thanh đằng Thevetia - Thông thiên, Huỳnh liên Tintinnabularia - Tân tân Trachelospermum - Cổ quả, Mo se Urceola - Mộc tinh, Dây rút, Răng bừa Urnularia - Quy lang Vahadenia - Vãn điền Vallariopsis - Lệ châu môi Vallaris - Hòa liệt Vallesia - Vạn sinh Vinca - Dừa cạn châu Âu Voacanga - Mã linh quả Willughbeia - Guồi, Dây guồi Woytkowskia - Quốc cảo Wrightia - Lòng mức Xylinabaria - Sĩ linh Xylinabariopsis - Râu chim, Dây rút Asclepiadoideae Xem bài Phân họ Bông tai Sử dụng Một vài loài cây trong họ này có sử dụng kinh tế trong quá khứ. Các chi Carpodinus, Landolphia, Hancornia, Funtumia và Mascarenhasia đã từng là nguồn thương mại cho sản xuất cao su (kém chất lượng). Nhựa của các loài trong chi Acokanthera, chẳng hạn như A. venenata và nhựa cây dạng sữa của các loài thuộc chi Pachypodium ở Namibia đã được sử dụng làm chất độc để tẩm đầu mũi tên của người Khwe. Tuy nhiên, một số nguồn (Rapananrivo và những người khác, trang 5) có ghi rằng Pachypodium không có nhựa màu như sữa. Các chi sau là các loại cây cảnh: Amsonia, Nerium (trúc đào), Vinca (dừa cạn), Carissa, Allamanda (cây huỳnh anh/càng cua), Plumeria (cây đại/hoa sứ), Thevetia, Mandevilla (hoa Savannah). Rauvolfia caffra là cây ba gạc chứa quinin. Rauvolfia serpentina hay ba gạc hoa đỏ chứa các ancaloit là reserpin và rescinnamin. Một số là các nguồn dược phẩm, chẳng hạn như các glycozit, có tác động tới các chức năng tim mạch: Acokanthera, Apocynum, Cerbera, Nerium, Thevetia và Strophantus. Chi Apocynum đã từng được sử dụng làm nguồn lấy sợi của người Mỹ bản địa.
Xe tăng T–34 là một xe tăng hạng trung sản xuất bởi Liên Xô từ năm 1940 đến năm 1958, chủ yếu được sử dụng trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại (1941-1945). T-34 đã cách mạng hoá cách thức thiết kế và chế tạo xe tăng trên thế giới; mặc dù về giai đoạn sau chiến tranh có nhiều xe tăng mang giáp trụ và hỏa lực trội hơn T-34, nó vẫn được đánh giá là loại xe tăng hiệu quả nhất và có thiết kế gây ảnh hưởng lớn nhất trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong Thế chiến thứ 2, T-34 là một trong những loại xe tăng có sự phối hợp tốt nhất giữa tính năng bảo vệ, tính cơ động, hỏa lực và độ tin cậy và khả năng bảo trì của xe; nó cũng là một trong những mẫu thiết kế có thời hạn phục vụ lâu nhất, một số chiếc hiện vẫn còn được sử dụng. Ở thời kỳ đầu chiến tranh, T-34 vượt trội hơn hẳn xe tăng Panzer III, Panzer IV của Đức về cả hỏa lực và vỏ giáp, tuy nhiên những lợi thế này bị hạn chế nhiều do thiếu hệ thống liên lạc bộ đàm và các tổ lái Liên Xô khi đó còn thiếu kinh nghiệm chiến thuật. Hệ thống tháp pháo hai người điều khiển - khá phổ biến ở xe tăng thời đó - khiến người xa trưởng phải kiêm luôn nhiệm vụ nạp đạn và nó tỏ ra kém hiệu quả hơn hệ thống tháp pháo ba người (xa trưởng, pháo thủ và người nạp đạn). Những điểm yếu này đã được các nhà thiết kế khắc phục ở phiên bản nâng cấp T-34/85. T–34 có buồng lái chật hẹp nên bị đánh giá thấp về mức độ tiện nghi cho kíp chiến đấu 4 người. T–34 cũng khá ồn nên có thể bị đối phương nghe thấy trong đêm từ khoảng cách 450 đến 500m. Ưu điểm của T–34 là thiết kế hiệu quả cao, giúp việc chế tạo rất dễ dàng và dễ sửa chữa. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, đã ghi nhận nhiều trường hợp T–34 bị bắn bay mất tháp pháo vẫn dễ dàng được sửa chữa trong điều kiện dã chiến, chỉ cần vài giờ lắp tháp pháo mới là xe lại tham gia chiến đấu được ngay. Xe cũng khá nhẹ và động cơ diesel làm mát bằng nước làm tăng độ tin cậy của động cơ cũng như tăng khoảng cách hoạt động của xe. Tốc độ của T–34 cũng là một lợi thế chính yếu so với các xe tăng Đức: Tốc độ tối đa trung bình của các xe tăng Đức là 25 dặm (khoảng 40 km)/giờ trong khi tốc độ tối đa của T–34 là 32 dặm (khoảng 50 km)/giờ. Vỏ thép nghiêng cũng giúp cho T–34 có được sự bảo vệ tốt chống lại đạn pháo Đức, thiết kế này hiệu quả đến nỗi Đức đã sao chép lại để áp dụng trên loại xe tăng Panther (Con Báo) và Tiger II (Vua Cọp). Ưu điểm lớn nhất của xe T-34 chính là thiết kế rất dễ sản xuất của nó: Liên Xô có thể chịu đựng được mức tổn thất lớn của T-34 trên chiến trường vì hệ thống nhà máy của họ cho phép sản xuất rất nhanh hàng nghìn chiếc khác. Trong khi xe tăng của Đức đòi hỏi nhiều giờ công lao động, chi phí và thợ lành nghề để chế tạo, xe T-34 có thể được chế tạo với các thiết bị đơn giản và thợ cơ khí bậc trung. Các nhà máy T-34 nằm sâu sau dãy Ural nơi không bị ảnh hưởng của các cuộc ném bom của không quân Đức và có thể tăng công suất sản xuất hỗ trợ cho nhau để bù cho số bị thiếu hụt khi một nhà máy gặp vấn đề. Với cùng một chi phí, phía Đức sản xuất được 1 xe tăng Tiger thì phía Liên Xô có thể sản xuất 7-8 xe T-34. Do đó trong chiến trận phía Đức phải tiêu diệt được 7-8 xe tăng T-34 với mức tổn thất 1 xe tăng Tiger của mình thì mới có cơ hội thay đổi được so sánh lực lượng có lợi về phía mình, tỷ lệ này phía Đức không thể nào có thể đạt được. Thành phố Chelyabinsk (Челябинск) tại vùng núi Ural Nga là nơi sản xuất chính loại xe tăng này nhiều đến nỗi thành phố này được gọi là Tankograd (танкоград)- thành phố xe tăng. Tổng cộng gần 58.000 chiếc T-34 đã được sản xuất trong Thế chiến 2, nhiều hơn bất kỳ loại xe tăng nào khác. Xe tăng T-34 liên tục được cải tiến trong suốt cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại nhằm tăng tính hiệu quả và giảm giá thành, điều này khiến càng lúc càng nhiều xe tăng T-34 được tung ra mặt trận. Đầu năm 1944, T-34 được trang bị pháo 85 mm hỏa lực mạnh hơn, cho phép nó có thể chiến đấu ngang cơ với loại Tiger ở cự ly gần; cùng với vỏ thép tốt hơn; tháp pháo ba người, phẳng hơn biến nó thành mục tiêu có kích thước nhỏ hơn. Kiểu này được gọi là xe tăng T-34/85. Cho đến cuối cuộc chiến, dòng tăng T-34 linh loạt và giá thành thấp đã thay thế nhiều loại xe tăng hạng nhẹ và hạng trung của Liên Xô, trở thành loại xe tăng được sản xuất chủ yếu trong quân đội Liên Xô lúc đó và cũng là loại xe tăng chủ lực của Liên Xô trong suốt Cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. Trên cơ sở khung thân của T-34, Liên Xô cũng chế tạo một loạt các thiết kế pháo tự hành rất thành công gồm SU-85, SU-100 và SU-122. Thiết kế cách mạng của T-34 cũng đã dẫn tới việc thiết kế và sản xuất dòng xe tăng lừng danh T-54/55. T-34 là loại xe tăng được sản xuất nhiều nhất trong Chiến tranh thế giới thứ hai và là xe tăng sản xuất nhiều thứ nhì trên thế giới, sau dòng T-54/55. Tới năm 2010, các xe tăng T-34 vẫn còn được phục vụ trong ít nhất là 27 quốc gia và một số nước sẽ còn tiếp tục sử dụng nó cho tới giữa thế kỷ 21, đưa nó trở thành loại xe tăng có thời gian phục vụ lâu nhất từ trước tới nay. Đã từng có thời điểm T-34 được mệnh danh là "Hội đồng" vì khả năng di chuyển linh hoạt, sản xuất nhiều và đội hình đông đúc của T-34 đã khiến nhiều đối thủ khiếp sợ Lịch sử sản xuất Cuộc cách mạng trong thiết kế xe tăng Giáo sư Norman Davis của Trường đại học tổng hợp Oxford, tác giả cuốn “Châu Âu trong chiến tranh 1939-1945. Không hề có chiến thắng dễ dàng” đã đặt câu hỏi: "Có ai, vào năm 1939, có thể nghĩ rằng, chiếc xe tăng tốt nhất của chiến tranh thế giới thứ hai lại được sản xuất ở Liên Xô? T-34 là tăng tốt nhất không phải vì nó mạnh nhất và nặng nhất. Nếu theo tiêu chí đó thì xe tăng hạng nặng của Đức vượt trội. Nhưng T-34 hiệu quả nhất trong cuộc chiến đó và cho phép giải quyết các nhiệm vụ chiến thuật. Hàng đoàn xe tăng Xô Viết cơ động như bầy sói săn đuổi các xe Tiger cồng kềnh và khó xoay xở của Đức. Các xe tăng của Mỹ và Anh sẽ không có được hiệu quả như vậy khi đối đầu với các xe tăng Đức." Vào năm 1939, kiểu xe tăng Liên Xô được sản xuất với số lượng lớn nhất chính là loại tăng hạng nhẹ T-26 và dòng xe tăng cơ động nhanh BT. T-26 thực chất là loại xe bọc thép trợ chiến bộ binh, tốc độ chậm và hỏa lực yếu, được thiết kế để yểm hộ các đơn vị bộ binh tấn công trong hành tiến. Còn các xe tăng BT là loại tăng trang bị cho kỵ binh thiết giáp (cavalry tank), tức là loại tăng hạng nhẹ có tốc độ cao, được sử dụng chủ yếu để tiêu diệt các loại xe tăng khác chứ không nhằm tấn công bộ binh. Nhưng cả hai loại xe tăng này đều có vỏ giáp khá mỏng, chỉ đủ để chống lại các đạn cỡ nhỏ chứ không thể chống chịu các loại vũ khí chống tăng như khẩu Pak 36 37 mm. Hơn nữa, các kiểu tăng này sử dụng loại động cơ xăng (loại động cơ thường dùng ở xe tăng thời kỳ đó), chúng rất dễ cháy nổ "dù chỉ với một kích thích rất nhỏ". Cả hai loại xe tăng này đều được thiết kế dựa trên các mẫu xe tăng nước ngoài trước thập niên 1930: loại T-26 dựa trên xe tăng Vickers 6-Ton của Anh, còn dòng BT dựa trên thiết kế của kỹ sư người Mỹ Walter Christie. Xe tăng T-34 được phát triển từ loại xe tăng trinh sát (cruiser tank) BT và được dùng để thay thế các loại xe tăng như BT-5, BT-7 và loại xe tăng hỗ trợ bộ binh (infantry tank)T-26. Thiết kế của T–34 đã phối hợp được những phát triển từ cả của người Mỹ và cả người Đức. Năm 1931, người Nga mua 2 chiếc xe tăng Christie của Mỹ. Hệ thống treo của chiếc Christie được hợp nhất vào xe T– 34. Thông thường, nó được lắp động cơ diesel kiểu chữ V 500 sức ngựa được phát triển từ động cơ diesel của BMW. Năm 1937, Hồng quân quyết định bổ nhiệm kỹ sư Mikhail Ilyich Koskin vào vị trí lãnh đạo một nhóm thiết kế xe tăng; nhiệm vụ của nhóm này là thiết kế một mẫu xe tăng mới thay thế cho các loại dòng tăng BT đang được sản xuất tại Nhà máy động cơ xe lửa Kharkov (KhPZ) tại thành phố Kharkov. Koskin đã bắt đầu phác thảo các ý tưởng đầu tiên về mẫu xe tăng hạng trung T-34, với các yêu cầu như hệ thống giáp dày, trang bị hỏa lực mạnh mẽ, có khả năng hoạt động bền bỉ ở mọi địa hình và dễ dàng trong quá trình sản xuất, sửa chữa bảo trì. Thành quả đầu tiên của họ là một mẫu tăng thử nghiệm mang cái tên A-20 hoàn thành vào đầu năm 1939, được trang bị vỏ giáp dày , một khẩu pháo chính cỡ nòng 45 ly (1.8 inch) và một động cơ kiểu mới mang tên V-2 sử dụng nhiên liệu dầu diesel ít gây cháy nổ hơn hệ thống V12 nhưng có công suất lớn hơn. Nó cũng có một hệ thống bánh đỡ 8 × 6 bánh xe tương tự như hệ thống 8 × 2 của BT, giúp cho A-20 có thể di chuyển mà không cần hệ thống xích. Đặc điểm này giúp cho việc sửa chữa vào bảo trì A-20 trở nên dễ dàng hơn rất nhiều so với các mẫu xe tăng khác ra đời vào đầu thập niên 1930, và giúp nó có thể đạt đến vận tốc trên 85 cây số/giờ (53 dặm/giờ) trên đường nhựa; tuy nhiên những ưu điểm này lại không đem đến lợi thế gì rõ rệt trong tác chiến. Bấy giờ, các nhà thiết kế coi đó là một sự lãng phí không gian và trọng lượng. Mẫu tăng A-20 cũng kết hợp những thành quả nghiên cứu trước đó (các kế hoạch BT-IS và BT-SW-2) và xây dựng nên vỏ giáp vát nghiêng: tức là vỏ giáp xe A-20 không thẳng đứng như nhiều xe tăng khác mà vát nghiêng, điều này giúp tăng khả năng khả năng làm chệch hướng các loại đạn pháo chống tăng so với vỏ giáp thẳng đứng thông thường.Koskin đã cố thuyết phục lãnh tụ Iosif Stalin cho phép ông phát triển một mẫu tăng thử nghiệm thứ hai, lần này với vỏ giáp và hỏa lực được tăng cường đáng kể nhằm có thể thay thế cả hai loại xe tăng T-26 và BT dùng trong Hồng quân Liên Xô lúc đó.. Koskin đặt tên mẫu thứ hai là A-32, số 32 lấy theo độ dày của vỏ giáp trước xe tăng là . Nó cũng mang một khẩu pháo F-34 với cỡ nòng lớn hơn (76.2 ly - tức 3 inch) L/30; còn động cơ thì vẫn là mẫu V-2 như phiên bản A-20 cũ. Cả hai mẫu xe đều được đưa đi thử nghiệm ở thao trường tại Kubinka năm 1939, và mẫu tăng A-32 tỏ ra linh hoạt, cơ động không thua kém gì mẫu A-20 nhẹ hơn. Các mẫu dự án A-20 và A-32 đã được trình bày tại Tại Hội nghị quân sự cao cấp ở Moscow. Lúc đầu, các quan chức quân sự không mặn mà với các dự án này. Nhưng đích thân lãnh tụ Iosif Stalin lúc đó đã can thiệp, cấp kinh phí và yêu cầu nhà máy Kharkov tiếp tục chế tạo và thử nghiệm các mẫu đó. Vào cuối tháng 12 năm 1939, Ủy ban Quốc phòng thuộc Hội đồng Dân ủy (Chính phủ) Liên Xô ra nghị định tiếp nhận mẫu xe tăng mới vào hệ trang bị với mã hiệu T-34. Nhóm của Koskin hoàn tất hai mẫu thử nghiệm của T-34 vào tháng 1 năm 1940. Trong tháng 4 và tháng 5, họ thực hiện một chuyến hành trình kéo dài đến 2.000 cây số (1,250 dặm) từ Kharkov đến Moskva để biểu diễn các tính năng của T-34 cho các lãnh tụ Liên Xô tại điện Kremlin, sau đó họ lại tới tuyến Mannerheim ở Phần Lan và quay trở về Kharkov thông qua ngõ Minsk và Kiev. Một số lỗi liên quan tới hệ thống truyền đồng đã được phát hiện và sửa chữa trong chuyến đi. Các chuyên gia quân sự nói tăng sẽ không đến được Moskva, chúng sẽ bị hỏng hóc giữa đường và Koshkin sẽ buộc phải đưa các xe của mình đến Moskva bằng tàu hỏa. Nhưng ngày 17/3/1940, cả hai chiếc tăng T-34 đã đến được thủ đô và được giới thiệu trước toàn bộ ban lãnh đạo cao cấp Liên Xô. Stalin đã rất hài lòng và nói “T-34 là con chim én đầu tiên của lực lượng tăng - thiết giáp chúng ta”. Kết quả chịu hỏa lực của T-34 trước pháo chống tăng 45mm trên thao trường ngoại ô Moskva cũng cho thấy mẫu xe tăng mới gần như không thể bị thương tổn bởi pháo chống tăng 45mm. Nhưng cuối tháng 9, thiết kế trưởng Koskin qua đời bởi căn bệnh viêm phổi - căn bệnh này đã trở nên trầm trọng hơn sau chuyến hành trình kiệt sức kéo dài 2.000 cây số từ Kharkov tới Moskva rồi lại quay trở về. Lẽ ra bệnh đã có thể khỏi, nhưng do Koskin lại lao ngay vào công việc, suốt ngày đêm ở nhà máy chỉ đạo việc sản xuất T-34 nên bệnh tình nặng thêm. Để cứu Koskin, Trung ương đã cử các bác sĩ giỏi từ Moskva đến để chữa chạy. Sau khi cắt phổi, ông được đưa đi an dưỡng. Nhưng ngày 26/9/1940, Koshkin qua đời. Oleksandr Oleksandrovych Morozov, người trợ thủ cho sự phát triển của dự án T-34 được bổ nhiệm vào vị trí của Koskin. Sau này, do quá căm tức khả năng của T-34, lãnh đạo Đức Quốc xã là Adolf Hitler đã tuyên bố Koskin là "kẻ thù riêng" của ông ta, và mộ của Koskin đã bị quân Đức san phẳng trong thời kỳ chiếm đóng Kharkov. Ngày 10/4/1942, Koskin được truy tặng giải thưởng Stalin, năm 1990 thi ông được truy tặng danh hiệu Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa vì thành tích thiết kế tăng T-34. Đã có nhiều ý kiến phản đối và quan ngại từ giới quân sự về giá thành sản xuất đại trà của T-34, nhưng tất cả những quan ngại ấy đều bị chìm lấp trước những chiến thắng chớp nhoáng của Đức tại Pháp cũng như sự thể hiện tệ hại của lực lượng tăng thiết giáp Xô Viết tại cuộc Chiến tranh Xô-Phần (1939-1940). Thế là, chiếc xe tăng T-34 đầu tiên đã ra đời tại KhPZ vào tháng 9 năm 1940, việc sản xuất nó hoàn toàn thay thế cho việc sản xuất các xe tăng T-26, BT và cả xe tăng hạng trung nhiều tháp pháo T-28 tại KhPZ. Mẫu T-34 được sản xuất thậm chí còn mạnh hơn phiên bản thử nghiệm A-32, với độ dày lớp giáp trước được tăng từ lên và xích xe tăng rộng hơn để có thể di chuyển trên bùn lầy tốt hơn. Koskin chọn cái tên T-34 nhằm ghi nhớ lấy năm 1934, năm mà ông bắt đầu nảy ra ý tưởng về mẫu thiết kế mới cho xe tăng Liên Xô, và nhằm tưởng niệm sắc lệnh mở rộng lực lượng tăng thiết giáp Xô Viết và việc Grigol Sergo Orjonikidze bổ nhiệm ông vào vị trí lãnh đạo công tác sản xuất xe tăng này. T–34 được trang bị pháo 76.2 mm L/42,5 mạnh hơn rất nhiều so với pháo 45mm trên mẫu thử nghiệm A-20. Nó cũng sử dụng hệ thống treo Chirstie với lò xo xoắn giống như dòng tăng BT, và hệ thống "slack track" với một bánh răng phát động đặt ở phần sau xe, không có hệ thống con lăn hồi chuyển. Giáp vát nghiêng của T-34 được thiết kế tốt, động cơ tương đối khỏe và xích xe rộng. Nó được chế tạo tại nhiều nhà máy khác nhau. Sản xuất hàng loạt T-34 được khởi động vào mùa hè năm 1940. Các đơn vị chiến đấu nêu nhiều ý kiến ​​về chiếc xe nên đầu năm 1941, các nhà thiết kế bắt đầu phát triển chiếc T-34M cải tiến. Phiên bản này có tháp pháo rộng hơn cho 3 người, trang bị pháo 76mm L/42,5 và cơ số đạn 100 viên. Hộp số đã hoàn chỉnh, động cơ tăng lên 600 mã lực, nóc xe cũng được trang bị vòm quan sát cho chỉ huy. Đáng tiếc là Đức Quốc xã tấn công Liên Xô vào tháng 6/1941 khiến các nhà máy không thể thay thế dây chuyền sản xuất, do vậy mẫu T-34M bị hủy bỏ. Vỏ giáp Các mẫu T-34 được sản xuất đều có giáp trước thân xe dày 45mm nghiêng 60 độ. Tuy nhiên, giáp trước tháp pháo thì khác nhau ở các phiên bản. T-34 Model 1941 có giáp trước tháp pháo dày 45mm vát nghiêng 50 độ, đến T-34 Model 1942 thì tăng lên 52mm, và tới T-34/85 thì tăng lên 90mm nghiêng hình bán cầu. Một số khu vực ở đằng sau khiên chắn của T-34/85 có lót thêm lớp thép dày 40mm, nên độ dày khu vực này lên tới 130mm thép cong hình bán cầu, còn cao hơn so với giáp trước tháp pháo xe tăng Tiger I và Panther của Đức. Lớp giáp được làm vát nghiêng của T-34 đem lại nhiều lợi thế: không chỉ làm giảm khối lượng thép cần thiết mà vẫn đảm bảo độ dày (tính trên khối lượng) của giáp xe tăng, mà giáp thép nghiêng còn tạo ra "hiệu ứng trượt", có tác dụng rất tốt chống lại các loại đạn xuyên giáp động năng được dùng trong Thế chiến 2. Ví dụ, giáp trước thân xe T-34 dày 45mm nghiêng 60 độ, tương đương 90mm thép đặt thẳng đứng, cộng thêm "hiệu ứng trượt" thì sẽ cho hiệu quả tương đương lớp thép dày 122mm khi chống lại đạn pháo cỡ 75mm trên Panzer IV. Những loại đạn xuyên giáp động năng khi va vào giáp nghiêng sẽ bị "hiệu ứng trượt" làm giảm lực xuyên, thậm chí nếu đạn có khối lượng riêng không đủ lớn, tốc độ không đủ cao hay đơn thuần bắn từ khoảng cách quá xa thì có thể bị trượt nảy ra mà không gây hại gì cho vỏ giáp xe tăng. Trong giai đoạn đầu chiến tranh (năm 1941-1942), đạn pháo 37mm hoặc 50mm trên xe tăng Panzer III thường xuyên bị trượt văng ra khi bắn vào giáp nghiêng của T-34. Quân Đức cũng phải công nhận sự hiệu quả của thiết kế giáp nghiêng trên T-34 và đã dựa vào đó để thiết kế ra loại xe tăng Panther (Con Báo). Một bản báo cáo của lính Đức trong một lần giao chiến với T-34 vào những tháng đầu của chiến dịch Barbarossa ghi lại: "Một nửa tá súng chống tăng của chúng tôi khai hỏa về phía nó, nghe như tiếng đánh trống. Nhưng nó vẫn kiên quyết vượt qua hàng phòng thủ của chúng tôi như một con quái vật bất khả xâm phạm trong truyện huyền thoại… Điều đáng chú ý ở đây là xe tăng của trung tá Steup bắn trúng nó với một viên đạn xuyên giáp ở khoảng cách 20 mét, với 4 viên ở khoảng cách 50 mét nhưng vẫn không để lại hiệu quả rõ rệt lên nó” Trong thời gian chiến tranh, sự phát triển công nghệ đã làm các loại pháo tăng trở nên lớn và mạnh hơn rất nhiều, nhất là với xe tăng hạng nặng. Nhìn chung, đến giai đoạn sau chiến tranh, lớp giáp của T-34 không còn đủ để chống chọi tốt với hỏa lực pháo 88mm trên xe tăng hạng nặng Đức, nhưng vẫn đủ để chống đỡ hiệu quả hỏa lực trên xe tăng hạng trung cùng "hạng cân" với nó là Panzer IV. Ở góc đứng đối diện, lớp giáp trước tháp pháo của T-34/85 đủ để chịu được đạn xuyên giáp APCBC của pháo 88mm L/56 (trên xe tăng hạng nặng Tiger I) của Đức từ cự ly trên 1.000 mét, hoặc đạn pháo APCBC cỡ 75mm L/48 (trên xe tăng hạng trung Đức Panzer IV) từ cự ly khoảng 300 - 500 mét. Các chỉ số tương ứng với giáp trước thân xe là 2.000 mét và 500 mét. So với xe tăng hạng trung cùng kích cỡ của các quốc gia khác (như Panzer IV của Đức, M4 Sherman của Mỹ) thì vỏ giáp của T-34/85 vẫn ở mức tốt nhất về các chỉ số. Ở giai đoạn đầu chiến tranh, vỏ giáp của T-34 trội hơn mọi loại xe tăng Panzer III, Panzer IV của Đức. Đến giữa chiến tranh, các loại xe hạng nặng của Đức như Panther, Tiger I đã có giáp trước dày hơn T-34 (nhưng đổi lại, các loại xe này đều nặng hơn T-34 rất nhiều khiến độ cơ động bị giảm sút và giá thành trở nên đắt đỏ). Do là xe tăng hạng trung nên lớp giáp của T-34 không thể tăng lên quá cao (vì sẽ bị mất tính cơ động và chi phí sản xuất bị đẩy lên cao), nhiệm vụ chống đỡ xe tăng hạng nặng Đức là của dòng xe tăng hạng nặng Iosif Stalin có vỏ giáp dày hơn nhiều. Tuy nhiên, bằng việc nâng cấp và hợp lý hóa thiết kế, T-34/85 vẫn duy trì được ưu thế vỏ giáp khi so với xe tăng hạng trung cùng hạng của Đức là Panzer IV, bất kể việc Đức đã liên tục nâng cấp cho Panzer IV. Đến cuối chiến tranh, phiên bản T-34/85 ra đời đã có vỏ giáp trước trội hơn nhiều so với T-34/76, gần bằng so với Tiger I, và phiên bản hiện đại hóa T-44 thì đã có giáp trước dày hơn cả Panther và Tiger I (tuy nhiên T-44 chưa kịp tham chiến thì chiến tranh đã kết thúc). Kính ngắm Các tài liệu phương Tây trước kia thường cho rằng xe tăng Liên Xô có kính ngắm chất lượng thấp. Nhưng thực ra, kính ngắm là một điểm mạnh của xe tăng Liên Xô (trước chiến tranh, Liên Xô đã mua được công nghệ chế tạo thủy tinh chất lượng cao từ Đức rồi sau đó tự chế tạo trong nước). Xe tăng T-34-76 (mang pháo 76mm) được trang bị kính ngắm kính ngắm TMFD-7 có độ phóng đại 2,5x với trường nhìn 15°, tính năng của nó vượt trội so với kính ngắm M38 trên xe tăng M4 Sherman các phiên bản đầu của Mỹ (chỉ có độ phóng đại 1,44x với trường nhìn 9°), và gần tương đương với kính ngắm TZF-5F của xe tăng Panzer IV Ausf-H của Đức (độ phóng đại 2,5x với trường nhìn 25°). Sau này, khi T-34 được nâng cấp lên phiên bản T-34-85 mang pháo 85mm, kính ngắm của xe cũng được nâng cấp để đáp ứng tầm bắn xa hơn của khẩu pháo. Xe tăng T-34-85 được trang bị kính ngắm TSh-16 có độ phóng đại 4x với trường nhìn 16°. Tính năng của TSh-16 vượt trội hơn kính ngắm trên hầu hết các phiên bản xe tăng hạng trung cùng thời như M4 Sherman của Mỹ hoặc Panzer IV, và gần tương đương với kính ngắm trên xe tăng hạng nặng của Đức (kính ngắm TZF-12A trên xe tăng Panther, kính ngắm TZF-9C trên xe tăng Tiger I, kính ngắm TZF-9D trên xe tăng Tiger II của Đức đều có mức phóng đại 2 chế độ: 2,5x với trường nhìn 28° hoặc 5x với trường nhìn 14°) Hỏa lực Phiên bản T-34 ban đầu được trang bị pháo 76,2 ly và thường được gọi với cái tên T-34/76 (lúc ban đầu đây là một mẫu thiết kế dành cho Chiến tranh thế giới thứ hai). Pháo 76mm L/42 khi dùng đạn xuyên giáp BR-350A có thể chọc thủng lớp giáp trước dày 50mm của xe tăng hạng trung Đức như Panzer III, Panzer IV Ausf-F từ cự ly 1.200 mét. Đây là loại pháo mạnh hơn so với hầu hết các loại pháo trang bị trên xe tăng hạng trung trên thế giới vào thời điểm năm 1940 (các loại xe tăng Mỹ, Anh, Pháp, Đức khi đó thường chỉ mang pháo từ 50mm trở xuống, hoặc mang pháo 75mm nhưng nòng ngắn). Điều này đem lại cho T-34 ưu thế hỏa lực trong giai đoạn đầu chiến tranh (năm 1941). Tới đầu năm 1942, để đối phó với T-34, Đức cải tiến và cho ra phiên bản Panzer IV Ausf-G có giáp trước thân xe dày 80mm, giáp trước tháp pháo dày 50mm. Pháo 76mm L/42 bắt đầu giảm hiệu quả, ở góc đối diện khi dùng đạn xuyên giáp BR-350B, nó vẫn có thể được giáp trước tháp pháo Panzer IV Ausf-G ở cự ly 1.800 mét, nhưng chỉ có thể bắn xuyên giáp trước thân xe ở cự ly khoảng 500 mét. Tới đầu năm 1943, Đức đưa ra sản xuất các loại xe tăng hạng nặng như Panther và Tiger I có giáp trước dày trên 100mm. Pháo 76mm trở nên lạc hậu, đạn xuyên giáp thông thường BR-350B APHEBC không thể bắn thủng giáp trước của Tiger I từ bất cứ cự ly nào, trong khi chỉ có thể bắn thủng giáp hông từ cự ly gần (khoảng 500 mét trở xuống). Đạn xuyên giáp cao cấp BR-350P APCR lõi tungsten thì chỉ có thể bắn xuyên mặt trước Tiger I ở cự ly 200 - 300 mét hoặc xuyên được giáp hông ở cự ly 700 mét, và loại đạn này cũng chỉ được sản xuất hàng loạt vào đầu năm 1944. Do vậy, đầu năm 1944, một phiên bản thứ hai của T-34 bắt đầu được sản xuất với cái tên T-34-85 hay T-34/85, được trang bị khẩu pháo có cỡ nòng 85 mm L/52, một tháp pháo lớn hơn dành cho ba người và vỏ giáp tháp pháo cũng được tăng cường. T-34/85 có lớp giáp trước tháp pháo dày 90mm cong hình bán cầu và trang bị pháo 85mm nòng dài, khiến nó trở thành loại xe tăng hạng trung có hỏa lực và vỏ giáp mạnh hàng đầu trong thế chiến thứ 2, hoàn toàn vượt trội loại Panzer IV của Đức và có thể đối đầu với cả xe tăng hạng nặng trong nhiều trường hợp. Ở góc chạm vuông góc, đạn xuyên giáp BR-365 APCBC của pháo 85mm có thể xuyên thủng ~138mm thép (cự ly 100 mét) hoặc 102mm thép (ở cự ly 1.000 mét), đủ sức chọc thủng lớp giáp trước dày 80mm của Panzer IV Ausf-G từ cự ly 1.500 mét, đem lại ưu thế cho T-34/85 khi đối đầu trực diện với tăng hạng trung của Đức. Ngoài ra, T-34/85 còn có loại đạn xuyên giáp cao cấp BR-365P APCR (lõi tungsten), có thể xuyên thủng ~175mm thép (ở cự ly 100 mét) hoặc ~100mm thép (ở cự ly 1.000 mét), chuyên dùng để đối phó với xe tăng hạng nặng như Panther hoặc Tiger I. T-34/85 được thiết kế để giành lại ưu thế trước xe tăng hạng trung của Đức, việc đối đầu với xe tăng hạng nặng Đức là nhiệm vụ của xe tăng Iosif Stalin. Tuy nhiên, T-34/85 vẫn đủ sức đối đầu với xe tăng hạng nặng Đức nếu tác chiến ở cự ly ngắn hoặc trung bình. Khi đứng đối diện, đạn xuyên giáp BR-365 APCBC của pháo 85mm có thể xuyên thủng giáp trước thân xe của xe tăng hạng nặng Đức là Tiger I ở cự ly khoảng 1.000 mét, xuyên được giáp trước tháp pháo ở cự ly 500 mét, còn nếu bắn ngang hông của Tiger I thì có thể xuyên thủng ở cự ly tới 1.600 mét. Nếu sử dụng đạn xuyên giáp cao cấp BR-365P APCR (lõi tungsten), T-34/85 có thể bắn xuyên mặt trước tháp pháo của Tiger I ở cự ly khoảng 800 mét hoặc xuyên được giáp trước thân xe ở cự ly 1.100 mét, đủ để hạ gục Tiger I ở cự ly chiến đấu tầm trung. Tuy nhiên, thử nghiệm ở Kubilka cho thấy T-34 còn có thể tiêu diệt Tiger I ở cự ly xa hơn so với các con số về lý thuyết ở trên, bởi kim loại làm vỏ giáp của Tiger I có chất lượng không cao (một vấn đề xảy ra với phần lớn các xe tăng Đức giai đoạn nửa sau thế chiến 2, bởi người Đức ngày càng khó tìm đủ quặng để sản xuất ra loại thép hợp kim chất lượng cao). Ngay cả ở cự ly 1.500 mét, đạn xuyên giáp 85mm dù không thể xuyên thủng được giáp trước thân xe của Tiger I nhưng động năng của viên đạn có thể gây nứt và suy yếu kết cấu vỏ giáp, và đến phát đạn thứ 2 (cũng ở 1.500 mét) thì viên đạn 85mm có thể xé rách giáp trước của Tiger I. Ngoài ra, T-34 còn được hưởng lợi thế nhờ ngành công nghiệp luyện kim tungsten của Liên Xô. Trước chiến tranh, Liên Xô là nước chế biến quặng tungsten với sản lượng lớn nhất thế giới, và đây lại là nguyên liệu để sản xuất đạn xuyên giáp cao cấp APCR. Ở thời điểm năm 1944, đạn APCR đều là loại đạn hiếm với cả xe tăng Đức và Mỹ: quân đội Mỹ chỉ có thể cố gắng trang bị cho mỗi xe tăng 1 viên đạn APCR, trong khi xe tăng Đức thường không được trang bị đạn APCR do thiếu nguồn cung quặng tungsten. Trong khi đó, mỗi chiếc T-34-85 thường được trang bị tới 5-6 viên đạn APCR mỗi xe Ở cự ly 1000 mét trở xuống, đạn APCR cỡ 85mm có sức xuyên còn cao hơn so với đạn 88mm APCBC của Tiger I hoặc đạn 75mm APCBC của Panther, giúp T-34 có thể cân bằng hỏa lực với xe tăng hạng nặng Đức khi tác chiến ở cự ly ngắn hoặc trung bình. Nhìn chung, nếu đánh trực diện ở cự ly xa (trên 1 km), Tiger với lớp giáp dày hơn và pháo mạnh hơn sẽ vượt trội hoàn toàn so với T-34. Tuy nhiên, do vật cản, khói bụi và sự hỗn loạn của chiến trường, phần lớn các cuộc đấu tăng thời đó chỉ xảy ra ở cự ly 1.000 mét đổ lại, do vậy ưu thế đánh xa của Tiger ít khi được phát huy. Ngược lại, nếu Tiger không phát hiện và bắn trúng được T-34/85 trước khi nó áp sát vào tầm 1.000 mét, lợi thế cận chiến khi đó sẽ nghiêng về T-34 nhờ tốc độ cao và độ linh hoạt của nó. Mặt khác, nếu T-34/85 dùng lối đánh tạt sườn và ngắm bắn được vào phần hông xe của Tiger (nơi có giáp mỏng hơn), nó có thể tiêu diệt Tiger từ cự ly tới 1,5 km. Cộng thêm ưu thế số lượng (do giá thành sản xuất rẻ và dễ sửa chữa), trong giai đoạn cuối chiến tranh, T-34/85 đã hoàn toàn áp đảo Tiger. Một ví dụ về tính hiệu quả của T-34/85 trong giai đoạn cuối chiến tranh là trận Kielce-Khmielnik, diễn ra trong Chiến dịch Wisla-Oder. Ngày 13/1/1945, Tiểu đoàn tăng hạng nặng số 524 của Đức có trong trang bị 23 xe tăng hạng siêu nặng Tiger II và 29 xe tăng hạng nặng Tiger I đã tấn công từ Khmielnik ở phía Nam và từ khu vực gần Kielce về phía bắc, ngoài ra tiểu đoàn 524 còn được yểm trợ bởi 13 xe tăng Panther từ Sư đoàn xe tăng số 16. Lữ đoàn xe tăng cận vệ số 61 của Liên Xô đã huy động 40 xe tăng T-34/85 chặn đánh ở làng Lisow. Các xe tăng T-34/85 đã ngụy trang khéo léo, chờ đến khi xe tăng Đức vào phạm vi 150 mét thì mới nổ súng, phá hủy ngay lập tức 4 chiếc Tiger và phá hủy tiếp 9 chiếc khác sau đó, khiến quân Đức phải rút lui. Sau thất bại của cuộc tấn công đầu tiên, người Đức huy động 30 xe tăng Tiger (một nửa trong số đó là Tiger II) và 13 xe tăng Panther để tấn công lần nữa. Bất chấp việc quân Đức có ưu thế vượt trội (40 xe tăng hạng trung T-34 Liên Xô phải chống lại 43 xe tăng hạng nặng Đức), các xe T-34-85 sử dụng ưu thế cơ động đã liên tục di chuyển giữa những ngôi nhà đang cháy, và tiếp tục bắn vào xe tăng Đức ở cự ly gần. Đến 6 giờ tối, trận đánh kết thúc. Quân Đức tổn thất nặng với 7 chiếc Tiger I, 5 chiếc Tiger II và 5 xe tăng Panther đã bị phá hủy hoặc bị bỏ lại, nhiều xe khác bị hỏng nặng nhưng được kéo về. Tổng cộng trong 2 đợt tấn công thất bại, phía Đức đã bị phá hủy ít nhất 35 xe tăng các loại (gồm phần lớn là các xe tăng hạng nặng Tiger I và Tiger II), nhiều xe khác bị hỏng nặng. Trong khi đó, Liên Xô chỉ tổn thất 11 xe tăng T-34/85 bị phá hủy và 11 chiếc khác bị hư hại nhưng có thể sửa lại dễ dàng (số xe hỏng được sửa chữa xong vào ngay hôm sau). Tiểu đoàn xe tăng hạng nặng số 524 tinh nhuệ của Đức gần như bị xóa sổ sau thất bại này, cả tiểu đoàn trưởng cũng tử trận Sản xuất Việc sản xuất T-34 là một thách thức mới của nền công nghiệp Liên Xô. Vỏ giáp được tăng cường của nó khiến T-34 trở nên nặng hơn bất cứ loại xe tăng hạng trung nào của Liên Xô trong thời gian đó, và nhiều bộ phận của xe tăng lại đến từ những nhà máy khác nhau: động cơ diesel V-2 do Nhà máy Diesel Kharkov số 75 sản xuất, Nhà máy Kirovsky ở Leningrad (trước đó mang tên là nhà máy Putilov) đảm trách khẩu pháo tăng L-11, và Nhà máy Dinamo tại Moskva sản xuất các phụ tùng điện tử cho T-34. Ban đầu T-34 được sản xuất tại nhà máy KhPZ số 183, đến đầu năm 1941 thì nó được chế tạo tại Nhà máy máy kéo Stalingrad (STZ), và từ tháng 7 trở đi (không lâu sau khi quân Đức xâm lược Liên Xô) thì Nhà máy Krasnoye Sormovo số 112 Gorky đảm trách việc sản xuất T-34. Tuy nhiên lúc đó vỏ giáp của xe tăng vẫn mắc nhiều khuyết điểm và gây ra khá nhiều phiền toái. Và do trong thời gian đó, động cơ diesel V-2 chưa được sản xuất với số lượng lớn tại Liên Xô, vì vậy những chiếc T-34 đầu tiên xuất xưởng ở Gorky (T-34 Model 1940) phải sử dụng động cơ xăng MT-17 của dòng tăng BT để thay thế. Chúng cũng buộc phải sử dụng hệ thống truyền động và khớp kém chất lượng hơn của các xe tăng BT. Động cơ xăng có nhược điểm so với động cơ diesel ở chỗ: nếu động cơ xăng hoạt động liên tục trong thời gian dài thì máy sẽ bị quá nóng và các chi tiết sẽ bị giãn nở không đồng đều, công suất của động cơ xăng sẽ bị yếu dần. Ngoài ra, chi phí sản xuất động cơ xăng và cả nhiên liệu xăng đều đắt hơn so với sản xuất diesel và động cơ diesel. Những xe tăng sử dụng động cơ xăng còn dễ bốc cháy hơn, vì xăng dễ bắt lửa hơn dầu diesel và khi đã cháy thì cực kỳ khó dập lửa. Do vậy, khi động cơ diesel V-2 được sản xuất với số lượng lớn, tất cả T-34 sản xuất từ năm 1941 trở về sau đều dùng động cơ diesel thay cho động cơ xăng. Thời kỳ đầu, chỉ có các xe tăng dành cho chỉ huy mới được trang bị hệ thống bộ đàm vì những thứ này rất đắt và hiếm ở Liên Xô lúc đó. Khẩu pháo tăng L-11 cỡ 76mm L/30,5 cũng không đạt hiệu quả như mong muốn, vì vậy Phòng thiết kế của Vasiliy Gavrilovich Grabin tại Nhà máy Gorky số 92 đã thiết kế cho T-34 một mẫu pháo 76,2 ly mạnh hơn mang tên F-34. Mặc dù chưa được sự cho phép của trung ương, nhà máy Gorky và KhPZ đã "xé rào" và tự ý sản xuất mẫu súng mới này. Mãi sau khi nhận được những báo cáo tích cực về khẩu F-34 từ mặt trận, Ủy ban Quốc phòng Xô Viết mới chính thức chấp thuận việc sản xuất đại trà khẩu pháo F-34. Khi những chiếc T-34 Model 1940 đầu tiên còn chưa kịp chuyển đến các đơn vị thì nó đã bị ngừng sản xuất để chuyển sang sản xuất phiên bản tiếp theo là T-34 Model 1941. T-34 Model 1941 sử dụng pháo F-34 76mm L/42,5 thay cho pháo L-11 76mm L/30,5 - cho phép tăng đáng kể độ xuyên giáp của Model 1941 so với phiên bản Model 1940 ban đầu. Thiết kế này cũng có giáp dày hơn thiết kế ban đầu nhưng trọng lượng nhỉnh hơn không đáng kể. Model 1941 tới tiền tuyến vừa kịp vào mùa hè năm 1941. Việc sản xuất T-34 chịu nhiều sức ép chính trị đến từ các thế lực bảo thủ trong Hồng quân Liên Xô, họ mong muốn quân đội tập trung tài lực cho việc phát triển các mẫu tăng T-26 và BT, hoặc muốn đình chỉ việc sản xuất T-34 cho đến khi hoàn tất việc thiết kế mẫu T-34M tân tiến hơn. So với T-34 nguyên mẫu, T-34M có vỏ giáp tốt hơn, tháp pháo rộng hơn cho 3 người, nắp quan sát cho chỉ huy và dự trữ đạn pháo tăng lên 100 viên). Sức ép này đến từ những nhóm thiết kế các mẫu KV-1, những đối thủ cạnh tranh với T-34. (Sức ép chính trị giữa các nhóm thiết kế và các nhà máy sản xuất những loại tăng khác nhau nhưng đáp ứng cùng một yêu cầu do cấp trên đưa ra vẫn tiếp tục trong nhiều năm sau chiến tranh, bao gồm cả quãng thời gian mà các loại tăng T-55, T-64, T-72, T-80 cùng được sản xuất tại những nhà máy xe tăng nằm dưới quyền của nhiều nhóm khác nhau trong nội bộ Xô Viết Tối cao). Tuy nhiên cuộc tấn công của phát xít Đức vào ngày 22 tháng 6 năm 1941 (tức chiến dịch Barbarossa) buộc Liên Xô phải tập trung vào việc sản xuất T-34 và đình chỉ mọi kế hoạch phát triển T-34M. Khi Đức tổ chức tổng tiến công Liên Xô thì đã có khoảng gần 1.000 xe tăng T-34 Model 1940 và Model 1941 được sản xuất từ hai nhà máy ở Kharkov và Stalingrad. Cuộc tấn công chớp nhoáng của Đức buộc các nhà máy xe tăng phải thực hiện một cuộc sơ tán gấp rút và với quy mô chưa từng thấy về khu vực Ural. Nhà máy sản xuất T-34 ở Kharkov cũng được lệnh sơ tán ngay lập tức khi cuộc chiến xảy ra và tới tháng 9 cùng năm, toàn bộ nhà máy này đã được xây dựng lại ở Nizhniy Tagil, phía Đông dãy Ural. Các cơ sở sản xuất của KhPZ được tái thiết lập tại Nhà máy ôtô ray Dzherzhinski Ural ở Nizhny Tagil và đổi tên thành Nhà máy xe tăng Stalin số 183. Nhà máy Kirovsky được sơ tán chỉ vài tuần trước khi Leningrad bị quân Đức bao vây, và cùng với Nhà máy máy kéo Stalin di chuyển về vùng Chelyabinsk - không lâu sau đó Chelyabinsk nhanh chóng có biệt danh "Thành phố xe tăng" (Tankograd) do xe tăng trở thành sản phẩm chủ yếu của khu công nghiệp này. Nhà máy xe tăng Voroshilov số 174 sơ tán từ Leningrad và sát nhập với Nhà máy Ural để hình thành nên Nhà máy Omsk số 174. Nhà máy cơ khí hạng nặng Ordzhonikidze Ural (UZTM) tại Sverdlovsk sát nhập một số nhà máy nhỏ với nó. Trong khi các nhà máy kể trên được sơ tán với một tốc độ kỷ lục, khu liên hợp xung quanh Nhà máy máy kéo Stalin sản xuất đến 40% số xe tăng T-34. Tới năm 1942, phiên bản T-34 Model 1942 được đưa vào sản xuất. So với Model 1941, phiên bản này có vài cải tiến không đáng kể, hiệu năng chiến đấu của xe gần như vẫn giữ nguyên. Những cải tiến ở phiên bản 1942 chủ yếu giúp cho quá trình lắp ráp và sản xuất xe tăng diễn ra nhanh hơn. Cụ thể như các phiên bản này sử dụng tháp pháo hình lục giác được đúc thay vì hàn, giúp thời gian hoàn thành tháp pháo giảm xuống đáng kể. Phiên bản này cũng thay thế cửa nóc to trên tháp pháo bằng hai cửa nắp nhỏ ở hai bên đối xứng nhau. Phiên bản hai cửa nóc này còn được lính Hồng quân gọi là “Chuột Mickey” vì khi mở cả hai cửa nóc, trông chiếc T-34 như có thêm đôi tai chuột trên nóc tháp pháo vậy. Phiên bản T-34 sử dụng pháo 76mm cuối cùng mang tên T-34 Model 1943 dù nó được đưa vào sản xuất từ giữa năm 1942. Nó cũng gần giống như Model 1942, nhưng được bổ sung thêm một hộp quan sát trên nóc tháp pháo (Cupola) dành cho trưởng xe để tăng khả năng quan sát chiến trường. Đến nửa cuối năm 1942, khi chiến sự lan đến tận khu vực Stalingrad và nhà máy bị bao vây bởi những cuộc chiến đấu đẫm máu giữa hai bên, tình hình sản xuất xe tăng trở nên tồi tệ vì thiếu hụt nguyên liệu, điều này dẫn đến nhiều thay đổi quan trọng trong quy trình sản xuất nhằm ứng phó với tình hình. Những xe tăng T-34 chưa được quét sơn, chưa được lắp ráp thiết bị phụ nhưng vẫn tiến thẳng ra mặt trận chiến đấu với quân Đức. Các nhà máy ở Stalingrad tiếp tục công việc sản xuất cho đến tháng 9 năm 1942 thì bị Đức ném bom phá hủy. Những xe tăng T-34/76 được chế tạo vội vã vào thời kỳ đầu chiến tranh (năm 1941, 1942) với nhân công không chuyên (có cả người già, phụ nữ, trẻ em) nên thường bị trục trặc kỹ thuật. Trong trận phản công của Liên Xô ở Stalingrad vào mùa Đông năm 1942, 326 chiếc trên tổng số 400 xe tăng T-34 của Liên Xô tung vào trận đã bị hỏng hoàn toàn, trong đó chỉ 66 chiếc bị phá hủy khi tham chiến trực tiếp, số còn lại là tự hỏng, không thể sửa chữa trong điều kiện chiến đấu nên kíp lái phải tự phá huỷ xe để rút lui. Các thử nghiệm được Liên Xô tiến hành vào năm 1942 cho thấy chỉ 7% xe tăng T-34 được xuất xưởng trong điều kiện “hoàn hảo”, 93% còn lại được xuất xưởng trong điều kiện có trục trặc kỹ thuật chưa kịp khắc phục. Trong số 93% này, phần lớn sẽ hỏng sau 300 km hoạt động và buộc phải sửa chữa lại, chỉ 8% chạy 300 km hành quân đường bộ mà không bị trục trặc gì. Trong thời kỳ này, mỗi lữ đoàn xe tăng của Liên Xô sẽ có từ 30% tới 50% xe tăng T-34 bị trục trặc trên đường hành quân ra chiến trường. Nhưng điểm vượt trội nhất của T-34 nằm ở thiết kế đơn giản, khiến cho việc sản xuất và sửa chữa rất nhanh. Dù có nhiều xe tự hỏng, lực lượng thiết giáp Liên Xô vẫn có đủ số lượng T-34 để áp đảo đối phương. Một câu nói, được cho là của lãnh đạo Liên Xô Stalin, khẳng định “Bản thân số lượng cũng là một dạng chất lượng” (“Quantity has a quality all its own”). Đến giai đoạn sau chiến tranh (năm 1943 trở về sau), việc cải thiện tay nghề nhân công, khắc phục các vấn đề trong dây chuyền sản xuất đã giúp độ bền của T-34 được cải thiện đáng kể. Phần lớn các xe T-34 có thể hành quân hàng trăm km mà không bị trục trặc như các loạt xe sản xuất trước đó. Hiệu quả chiến đấu của T-34 còn được thể hiện qua tính dễ sửa chữa của nó. Có những đơn vị T-34 vào hôm trước bị hỏng hầu hết số xe của họ, trong vòng một hoặc hai ngày sửa chữa đã lại có đủ xe tăng sẵn sàng chiến đấu. Trong khi đó, xe tăng của Đức khi bị hỏng cần rất nhiều thời gian sửa chữa, nhiều khi phải đưa về tận xưởng ở Đức để sửa chữa. Vì vậy, tỷ lệ xe tăng Đức sẵn sàng chiến đấu thường chỉ dao động trong khoảng 40-60% số xe của đơn vị đó, trong khi tỷ lệ này ở T-34 thường xuyên đạt tới 80-90%. Như vậy, dù số lượng xe tăng của 2 bên là ngang bằng nhau, thì Liên Xô vẫn có thể sẵn sàng tung vào trận đánh số xe tăng nhiều gấp đôi so với Đức. Tính năng dễ bảo dưỡng và sửa chữa của T-34 cũng là một trong những nhân tố tạo nên ưu thế của loại xe này trước các xe tăng Đức. Một điểm thú vị đó là xe tăng T-34 cũng là mẫu tăng đầu tiên trên thế giới có hệ thống xoay tháp pháo bằng máy chứ không phải bằng tay. Kèm theo đó là hệ thống khớp nối tháp pháo cực kỳ đơn giản, giúp giảm thời gian lắp ráp xuống khoảng 5 tới 6 lần so với kiểu khớp nối cũ. Năm 1943, dây chuyền sản xuất xe tăng của Liên Xô đạt công suất 1.300 xe tăng T-34 mỗi tháng, tương đương với khoảng 43 chiếc mỗi ngày. Tổng cộng trong khoảng ba năm, đã có gần 35.000 chiếc T-34/76 được ra đời. Đến giai đoạn sau chiến tranh, từ tháng 2/1944, Liên Xô ngừng sản xuất T-34/76 để chuyển sang sản xuất T-34/85. Đây là một bản nâng cấp hoàn toàn mới nhằm khắc phục những thiếu sót của T-34/76, nâng cao độ bền cũng như vỏ giáp, hỏa lực để đối phó những xe tăng kiểu mới của Đức. Tháp pháo được làm lại với đường kính vòng tháp pháo tăng từ 1.425mm trên T-34/76 lên tới 1.600mm. Tháp pháo đời mới có kích thước lớn hơn, giáp dày hơn, mang được pháo 85mm mạnh hơn, chứa được ba người mà vẫn còn khoảng trống để gắn radio liên lạc, trong khi chi phí sản xuất chỉ đắt hơn 30%. T-34/85 vượt trội hoàn toàn các xe tăng hạng trung của Đức cùng thời như Panzer IV và pháo tự hành chống tăng StuG-3. Vì là xe tăng hạng trung nên T-34/85 vẫn yếu hơn khi so với xe tăng hạng nặng như Tiger I hoặc Panther, nhưng T-34/85 rẻ hơn và sản xuất nhanh hơn nhiều, 1 chiếc Tiger I hay Panther của Đức sẽ không thể chọi với 10 chiếc T-34/85 được. Trong Thế chiến II, T-34 thể hiện rất tốt các tiêu chí như: chi phí chế tạo thấp, độ cơ động cao, hỏa lực tốt, cộng với độ tin cậy dễ bảo trì, sửa chữa và điều khiển. Có nhiều trường hợp xe tăng T-34 bị bắn bay mất tháp pháo, sau đó được lắp tháp pháo còn nguyên vẹn lấy từ các xe tăng bị hư hại khác và lại có thể tham gia chiến đấu ngay mà không mất nhiều thời gian sửa chữa. Cho tới 70 năm sau, nhiều chiếc T-34 vẫn duy trì được khả năng hoạt động và được biên chế trong lục quân một số nước như Lào. Tại Syria và Yemen, T-34 đã được cho nghỉ hưu từ hàng chục năm trước, nhưng khi xảy ra chiến tranh vào năm 2016, chúng vẫn có thể tái hoạt động để tham gia chiến đấu, trở thành xe tăng có thời gian phục vụ lâu dài nhất lịch sử. Chi phí chế tạo Vì tình hình chiến tranh, những cải tiến nhằm làm tăng tốc độ sản xuất và giảm chi phí chế tạo xe tăng liên tục được áp dụng. Những phương pháp mới đã được áp dụng vào kỹ thuật hàn tự động và tôi thép, bao gồm cả những cải tiến do giáo sư Yevhen Oskarovych Paton. Bản thiết kế của khẩu pháo 76,2 ly F-34 được sửa đổi: từ 861 chi tiết giảm xuống còn 614 chi tiết. Chỉ trong vòng 2 năm, chi phí sản xuất một chiếc xe tăng giảm từ 26,95 vạn rúp (1941) còn 19,3 vạn rúp và sau đó là 13,5 vạn rúp. Thời gian sản xuất cũng giảm một nửa vào cuối năm 1942 bất chấp thực tế là nhà nước Xô Viết đã phải tổng động viên nhiều công nhân lành nghề và lực lượng công nhân thay thế bao gồm 50% là phụ nữ, 15% là trẻ em trai, 15% là người già, người tàn tật. Vì vậy chiếc xe tăng T-34, từng được coi là "chiếc xe tăng được chế tạo tinh xảo với vẻ đẹp bên ngoài ngang ngửa, thậm chí là hơn hẳn các xe tăng của Tây Âu và Hoa Kỳ", trở thành một cỗ máy có bề ngoài thô thiển hơn, mặc dù chất lượng và độ tin cậy của xe tăng không vì thế mà suy giảm. Thời gian sản xuất mỗi chiếc T-34 liên tục giảm xuống: từ 8.000 giờ công lao động (năm 1941) giảm xuống còn 3.700 giờ (năm 1943) và chỉ còn 3.000 giờ vào năm 1944. Đối với T-34/85, thời gian sản xuất chỉ cao hơn đôi chút (3.250 giờ công lao động, số liệu ngày 1/1/1945 tại Nhà máy số 183). Tốc độ này là cực nhanh so với các mẫu xe tăng của các nước khác (ví dụ như M4 Sherman của Mỹ tốn khoảng 17.000-25.000 giờ công, Panther của Đức tốn 150.000 giờ công, Tiger I thì tốn đến 300.000 giờ công). Vì vậy, bất chấp việc các nhà máy thiếu hụt công nhân lành nghề, sản lượng T-34 vẫn liên tục tăng qua các năm và đưa nó trở thành loại xe tăng được sản xuất nhiều nhất trong thế chiến 2. Chi phí sản xuất ban đầu của mẫu tăng T-34-85 lớn hơn chừng 22% so với T-34-76 mẫu 1943 (164.000 rúp), nhưng đến năm 1945 thì giá thành của nó đã giảm xuống còn 142.000 rúp. Trong suốt cuộc chiến tranh, chi phí thực tế cho việc sản xuất xe tăng T-34 giảm một nửa so với ban đầu (chi phí năm 1941 là 27 vạn rúp), trong khi đó tốc độ tối đa của xe tăng được giữ nguyên, sức công phá của đạn pháo và giáp trước của nó thì tăng gần như gấp đôi. Khi so với xe tăng hạng trung của các nước khác, chi phí của xe tăng T-34 cũng khá rẻ. Tính theo USD (thời giá 1945), mỗi chiếc T-34 có giá khoảng 25.500 USD (phiên bản T-34/76) hoặc 27.000 USD (phiên bản T-34/85), trong khi xe tăng M4 Sherman của Mỹ có giá khoảng 46.000 USD, xe tăng Cromwell của Anh có giá khoảng 42.700 USD, xe tăng Panzer IV của Đức có giá khoảng 46.000 USD. Nhờ giá thành rẻ, Liên Xô có thể sản xuất một lượng lớn T-34 để bù đắp cho tổn thất trên chiến trường. Khả năng sản xuất với chi phí rẻ là một trong những ưu điểm lớn nhất của thiết kế T-34 để thích ứng với cường độ tổn thất cực lớn trong chiến tranh tổng lực. Số lượng T-34 Đến cuối năm 1945, hơn 57.000 chiếc xe tăng T-34 đã được sản xuất: 34.780 chiếc T-34-76 ra lò trong các năm 1940–44 và 22.559 xe tăng T-34-85 được sản xuất trong các năm 1944–45. Cơ sở sản xuất nhiều xe tăng T-34 nhất là Nhà máy số 183 của UTZ với sản lượng 28952 chiếc T-34 và T-34-85 từ năm 1941 đến năm 1945. Đứng thứ hai là Nhà máy số 112 của Krasnoye Sormovo tại Gorki với sản lượng 12.604 chiếc trong cùng thời gian. Năm 1946, sau chiến tranh, 2.701 chiếc T-34 được sản xuất, và sau đó việc sản xuất T-34 với quy mô lớn bị dừng lại. Việc sản xuất T-34-85 được tái khởi động sau đó và do Cộng hòa Nhân dân Ba Lan (1951–1955) và Tiệp Khắc (1951–1958) nắm bản quyền sản xuất; với sản lượng lần lượt 1.380 và 3.185 chiếc tính đến năm 1956. Sau đó các mẫu tăng hiện đại hơn như T-54/55 và T-72 cũng được sản xuất bên ngoài lãnh thổ Liên Xô. Đến cuối thập niên 1960, Liên Xô bắt đầu chương trình hiện đại hóa các xe tăng T-34-85 của mình thành mẫu T-34-85M dành cho lực lượng dự bị và dành cho việc xuất khẩu. Các mẫu xe tăng T-34 này được trang bị các bộ phận truyền động cho dòng T-54/55 — một dấu hiệu của mức độ tiêu chuẩn hóa trong việc thiết kế xe tăng của Liên Xô. Ước tính có tổng cộng 84.070 xe tăng T-34 cộng với 13.170 pháo tự hành đặt trên thân xe T-34 được chế tạo. T-34 là loại xe tăng được sản xuất nhiều thứ hai trong lịch sử (chỉ đứng sau T-54) trong khi thời gian phục vụ của nó lâu dài nhất trong các loại xe tăng. Một số trong T-34 vẫn được sử dụng trong các cuộc chiến tranh và xung đột vũ trang trong thời kỳ Chiến tranh lạnh và cho tới tận đầu thế kỷ 21, T-34 vẫn thỉnh thoảng xuất hiện trong các cuộc chiến tại châu Á và châu Phi. Các phiên bản T-34 Sự khác biệt giữa các phiên bản T-34 có thể nhận thấy được, ví dụ như hình dáng tháp pháo, các chi tiết bề mặt và các trang thiết bị khác nhau nhiều giữa các nhà máy. Ngoài ra, các mẫu tăng cũ cũng được nâng cấp với chi tiết mới, hoặc các chi tiết này được gắn vào các xe tăng đời cũ ngay khi chúng chưa được ráp xong. Các xe tăng bị bắn hỏng cũng được lắp ráp các phụ tùng mới trong quá trình sửa chữa chúng. Một số xe tăng có các mẩu giáp ghép làm bằng thép phế thải với độ dày khác nhau, hàn vào thân xe và tháp pháo. Các loại tăng "nâng cấp" kiểu này được gọi là с экранами (nghĩa là "có giáp"). Các xe tăng T-34 đời 1940 về sau được gắn thêm hệ thống bộ đàm sóng vô tuyến 10-RT 26E, không lâu sau đó được thay bằng loại 9-RS vốn được dùng trên pháo tự hành SU-100. Kể từ năm 1953 trở đi, các xe T-34-85 được trang bị hệ thống bộ đàm R-113 Granat. Các tài liệu tình báo phát xít Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai gọi hai dòng tăng T-34 chủ yếu là T-34/76 và T-34/85, còn các mẫu thứ yếu thì được thêm chữ cái vào cuối tên để phân biệt, ví dụ như T-34/76A. Cách đặt tên này trở nên thông dụng ở phương Tây, nhất là trong văn học đại chúng. Về phía Nga, thật ra Hồng quân chưa có một chính sách nhất quán nào cho việc đặt tên các mẫu xe tăng như vậy. Tuy nhiên kể từ năm 1980 trở đi nhiều tài liệu khoa học (nhất là các tài liệu của Steven Zaloga, chuyên gia nghiên cứu về phương tiện chiến đấu bọc thép) đã sử dụng cách đặt tên "kiểu Liên Xô": T-34 với T-34-85, và thêm năm sản xuất (chứ không phải thêm chữ cái) để phân biệt các dòng tăng T-34. Ví dụ như T-34 mẫu 1940. Đây là hệ thống đặt tên dùng trong bài này. Một số nhà sử học Nga dùng cách đặt tên hơi khác, ví dụ họ gọi dòng tăng T-34 đầu tiên là mẫu 1939 chứ không phải là mẫu 1940. Các mẫu T-34 với tháp pháo nguyên thủy và pháo tăng F-34 được gọi chung là mẫu 1941 (thay vì chia ra 1941 và 1942), còn các mẫu cải tiến với tháp pháo hình lục giác được gọi là mẫu 1942 (thay vì 1943). Những xe tăng T-34 bị phát xít Đức bắt được đổi tên là Panzerkampfwagen T-34(r), với chữ "r" là viết tắt của Russland, tức "Nga". Người Phần Lan gọi xe tăng T-34 là Sotka theo tên của loài vịt Common Goldeneye vì bóng của chiếc T-34 trông giống như một con vịt đang bơi dưới nước (điều này căn cứ theo hồi ký của người lính xe tăng Phần Lan Lauri Heino). Còn phiên bản T-34-85 được gọi là "Sotka nòng dài" (pitkäputkinen Sotka). T-34 (Định danh Đức: T-34/76) là xe tăng ban đầu với một khẩu pháo 76,2 mm trong một tháp pháo hai người. Model 1940 (T-34 / 76A): Thời kỳ đầu, sản xuất nhỏ (khoảng 400 chiếc) với pháo tăng L-11 76,2 mm . Model 1941 (T-34 / 76B): Sản xuất chính với lớp giáp dày hơn và pháo F-34 76,2 mm vượt trội . Model 1942 (T-34 / 76C): Giáp dày hơn, nhiều cải tiến chế tạo nhỏ. Model 1943 (T-34 / 76D, E và F): Được giới thiệu vào tháng 5 năm 1942 (không phải năm 1943). Nhiều đạn dược và nhiên liệu hơn, tăng giáp rất nhỏ. Tháp pháo hình lục giác mới, được người Đức đặt biệt danh là " Chuột Mickey " vì vẻ ngoài của nó với các nắp tháp pháo tròn, kép mở ra. Sản xuất sau đó đã có một vòm chỉ huy mới T-34-85 (Định danh Đức: T-34/85) là một cải tiến lớn với một khẩu pháo 85 mm trong một tháp pháo ba người. Tất cả các mẫu T-34-85 đều có bề ngoài rất giống nhau. Model 1943 : Sản xuất ngắn hạn từ tháng 1 đến tháng 3 năm 1944 với pháo D-5T 85 mm . Model 1944 : Được sản xuất từ ​​tháng 3 năm 1944 đến cuối năm đó, với pháo 85 mm ZiS-S-53 đơn giản hơn, đài vô tuyến chuyển từ thân xe vào tháp pháo với cách bố trí cải tiến và tầm nhìn của xạ thủ mới. Model 1945 : Được sản xuất từ ​​năm 1944 đến năm 1945, với động cơ đi ngang tháp pháo chạy bằng điện, vòm chỉ huy được mở rộng với cửa sập một mảnh và hệ thống khói TDP với hộp MDSh kích nổ bằng điện. Model 1946 : Mẫu sản xuất với động cơ V-2-34M cải tiến, bánh xe mới và các chi tiết nhỏ khác. Model 1960 : Một chương trình tân trang giới thiệu động cơ V-2-3411 mới và các hiện đại hóa khác. Model 1969 (còn gọi là T-34-85M): Một chương trình tân trang khác giới thiệu thiết bị lái xe ban đêm, nhiên liệu bổ sung và các hiện đại hóa khác. Phương tiện chiến đấu bọc thép khác OT-34 và OT-34-85: Xe tăng ném lửa có súng phun lửa ATO-41 (ATO-42 sau này) thay thế súng máy ở thân xe. 1170 chiếc OT-34-76 (hầu hết dựa trên phiên bản 1942/43) và 331 chiếc OT-34-85 đã được chế tạo. PT-1 T-34/76: P rotivominniy T ral (rà phản mìn) Xe tăng phóng mìn , chủ yếu được chế tạo trên khung gầm T-34 Model 1943 hoặc T-34-85. Samokhodnaya Ustanovka (Pháo tự hành và pháo chống tăng): SU-122ː Lựu pháo tự hành dựa trên khung gầm T-34 Model 1943. SU-85ː Pháo xung kích diệt xe tăng dựa trên khung gầm T-34 Model 1943. SU-100ː Pháo xung kích diệt xe tăng dựa trên khung gầm T-34-85. T-34/57 : 14 chiếc T-34 được trang bị pháo 57 mm ZiS-4 (1941, 10 xe tăng) hoặc ZIS-4M (1943/44, 4 xe tăng) để sử dụng làm pháo chống tăng. Phòng Không T-34: Đây là biến thể phòng không của T-34-85, lắp 2 khẩu pháo 37 mm. Phiên bản T-34-100 Cuối năm 1944, Liên Xô muốn tiếp tục nâng cao sức mạnh hỏa lực của T-34 bằng việc trang bị pháo 100mm, loại pháo này có thể dễ dàng bắn xuyên giáp trước của xe tăng hạng nặng Đức. Nhiệm vụ đặt pháo 100mm lên tháp pháo của T-34-85 được giao cho nhà máy số 9 và nhà máy 183. Phòng thiết kế của Nhà máy Gorky số 92, dẫn đầu bởi A. Savinov, đã thử nghiệm việc đặt pháo 100mm lên tháp pháo T-34-85 thông thường. Họ đã cải tiến pháo 100mm dựa trên những kinh nghiệm của pháo 85mm ZIS S-53, và đề xuất đặt tên cho loại pháo mới này là 100mm ZIS-100. Tuy nhiên, thử nghiệm đã thất bại do sức mạnh của pháo quá lớn, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới hệ truyền động và hệ thống treo, việc lắp đặt đầu giảm giật cũng không khắc phục được. Trong khi đó, A. A. Morozov và nhà máy 183 đưa ra một chiếc xe thử nghiệm kết hợp, với hệ thống treo, hệ truyền động và một số bộ phận của xe tăng T-34-85 với tháp pháo của xe tăng T-44, với thay đổi độ rộng của vòng tháp pháo từ 1600mm lên 1700mm, giáp ở trên và dưới ở động cơ được làm mỏng hơn, một số chỉnh sửa ở thân xe. Súng máy ở dưới thân xe đã được loại bỏ và do đó bớt đi một người trong tổ lái. Xe nặng 33 tấn xe đã được định danh là T-34-100. Giữa tháng 2 và tháng 3 năm 1945, xe đã được đưa đến Sverdlovsk và Gorokhevetsk để thử nghiệm, với pháo 100mm ZIS-100 và D-10T. Các thử nghiệm đã tương đối thành công, mặc dù pháo 100mm vẫn tỏ ra là một gánh nặng lớn cho thân xe, dù vậy Hồng quân tỏ ra thích chiếc xe này và yêu cầu các nhà phát triển tiếp tục phát triển. Vào cuối năm 1944, nhà máy số 92 đã phát triển một loại pháo 100mm mới là loại LB-1 với đầu giảm giật để việc lắp đặt trên T-34 dễ dàng hơn. Nói chung, khẩu pháo này vẫn tương tự như D-10T và ZIS-100. Từ ngày 6-14 tháng 4 năm 1945, T-34-100 lắp pháo LB-1 đã được thử nghiệm, với 1000 viên đạn đã bắn và hơn 501 km hành trình. Tốc độ bắn thực tế vào khoảng 5,2 - 5,8 phát một phút, độ chính xác cao hơn hai loại pháo 100mm trước đây và áp lực nó gây ra lên khung xe ít hơn nhiều. Các thử nghiệm đã thành công xuất sắc và quân đội thích chiếc xe này. Pháo 100mm có sức xuyên mạnh hơn khoảng 40% so với pháo 85mm L/52 của T-34-85 và tương đương với pháo 88mm L/71 trên xe tăng Tiger II của Đức, ngoài ra khi bắn đạn nổ chống công sự và bộ binh thì pháo 100mm mạnh hơn 50% so với pháo 88mm L/71. Pháo chính 100mm khi dùng đạn BR-412B APBC có thể xuyên thủng vỏ giáp 125mm để thẳng góc với mặt đất ở khoảng cách 2 km (tương đương độ dày giáp trước của xe tăng hạng nặng Tiger I), và có thể xuyên thủng vỏ giáp dày 85mm nghiêng 55 độ của xe tăng Panther ở khoảng cách 1,5 km. Khi dùng đạn xuyên giáp cao cấp BR-412P APCR, pháo 100mm có thể bắn xuyên giáp trước thân xe của Tiger II (Vua Cọp) ở cự ly 500 mét, hoặc xuyên được giáp trước tháp pháo ở cự ly 1.000 mét. Dù vẫn là xe tăng hạng trung có chi phí rẻ, nhưng với cải tiến mang pháo 100mm, T-34-100 có thể đấu ngang ngửa, thậm chí trội hơn các loại xe tăng hạng nặng của Đức là Panther và Tiger I. Tuy có tiềm năng lớn nhưng cuối cùng T-34-100 đã không bao giờ được đi vào sản xuất hàng loạt do chiến tranh đã kết thúc, không còn nhu cầu cho nó nữa. Việc sản xuất được chuyển sang loại T-44 và T-54/55 tiên tiến hơn. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai T-34-85 vẫn là xương sống của lực lượng xe tăng Liên Xô cho đến giữa những năm 1950, cho tới khi xe tăng T-54 được sản xuất với số lượng đủ lớn để thay thế nó. Sau khi được loại khỏi lực lượng tăng chiến đấu thường trực, nó được đưa vào phục vụ trong quá trình đào tạo huấn luyện của lực lượng tăng thiết giáp Liên Xô cho đến những năm 1970. Nó vẫn tiếp tục góp mặt vào hầu hết mọi cuộc xung đột sau Chiến tranh Thế giới thứ 2 trong suốt hơn 70 năm, từ sa mạc ở Ai Cập, rừng nhiệt đới ở Cuba đến thảo nguyên ở Angola và xa hơn thế nữa. T-34 đã chứng tỏ khả năng của nó trên chiến trường, thậm chí là khi phải đối đầu với các thế hệ xe tăng tiên tiến hơn của Phương Tây. Những chiếc T-34-85 được trang bị cho nhiều quân đội của các nước Đông Âu (sau này thành lập Hiệp ước Warsaw ) và quân đội của các quốc gia khách hàng của Liên Xô ở những nơi khác. Những chiếc T-34-85 của Đông Đức, Hungary và Liên Xô đã phục vụ trong việc trấn áp cuộc nổi dậy của Đông Đức ngày 17 tháng 6 năm 1953 cũng như Cách mạng Hungary năm 1956. Trung Quốc Sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập vào năm 1949, Liên Xô đã gửi nhiều chiếc T-34-85 cho Quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa (PLA). Mặc dù trong nhiều thập kỷ phục vụ, có rất nhiều sửa đổi tạo ra một số khác biệt về hình ảnh giữa T-34-85 nguyên bản và T-34-85 của Trung Quốc, và Nhà máy 617 có khả năng sản xuất từng bộ phận của T-34-85, không có chiếc T-34-85 nào thực sự được sản xuất ở Trung Quốc. Kế hoạch sản xuất T-34-85 ở Trung Quốc đã kết thúc ngay sau khi Trung Quốc nhận xe tăng chiến đấu chủ lực T-54A từ Liên Xô và bắt đầu chế tạo xe tăng Type 59, phiên bản sản xuất được cấp phép của T-54A. Chiến tranh Triều Tiên Trong Chiến tranh Triều Tiên, những chiếc xe tăng T-34 của Liên Xô được Quân đội Nhân dân Triều Tiên (KPA) sử dụng để chống lại Mỹ, Hàn Quốc và các nước đồng minh. Với việc triển khai một số lượng lớn tăng T-34 từ khu vực phi quân sự (DMZ), Quân đội Triều Tiên đã áp đảo hoàn toàn xe tăng M24 Chaffee của quân đội Mỹ trong giai đoạn đầu của cuộc chiến. Một lữ đoàn đầy đủ của Quân đội Nhân dân Triều Tiên (NKPA) được trang bị khoảng 120 chiếc T-34-85 do Liên Xô cung cấp đã làm tiên phong trong cuộc tấn công Hàn Quốc vào tháng 6 năm 1950. Bazooka 2,36 inch (60mm) thời Thế chiến II ban đầu được sử dụng bởi quân đội Mỹ tại Hàn Quốc tỏ ra vô dụng trước xe tăng T-34 của KPA, cũng như pháo chính 75 mm của xe tăng hạng nhẹ M24 Chaffee. Tuy nhiên, sau khi lực lượng Hoa Kỳ và Liên Hợp Quốc đưa các loại xe tăng nặng hơn và có hỏa lực tốt hơn vào cuộc chiến, chẳng hạn như xe tăng M4 Sherman, M26 Pershing và M46 Patton của Mỹ, cũng như xe tăng Comet và Centurion của Anh, xe tăng T-34 của KPA bắt đầu hứng chịu nhiều tổn thất hơn khi chiến đấu với thiết giáp đối phương, ngoài ra họ còn chịu tổn thất nặng nề hơn do nhiều cuộc không kích của Mỹ và hỏa lực chống tăng ngày càng hiệu quả của bộ binh Mỹ/Hàn Quốc trên mặt đất, chẳng hạn như loại súng M20 "Super Bazooka" 3,5 inch mới (thay thế cho mẫu 2,36 inch trước đó). Vào thời điểm KPA buộc phải rút khỏi miền nam, khoảng 239 chiếc T-34 và 74 pháo tự hành SU-76 đã bị tiêu diệt hoặc bị bỏ lại do hỏng hóc hoặc hết nhiên liệu. Sau tháng 10 năm 1950, thiết giáp KPA hiếm khi được bắt gặp. Bất chấp việc Trung Quốc tham gia vào cuộc xung đột vào tháng sau, họ không triển khai đội thiết giáp lớn nào, vì Trung Quốc tập trung vào các cuộc tấn công bộ binh hàng loạt hơn là các cuộc tấn công thiết giáp quy mô lớn. Một vài chiếc T-34-85 và một số xe tăng IS-2 được bố trí trên thực địa, chủ yếu phân tán trong số bộ binh của họ, do đó khiến các cuộc đấu xe tăng với lực lượng Hoa Kỳ và Liên Hợp Quốc trở nên hiếm hoi kể từ đó. Một chiếc xe tăng T-34 số hiệu 215 của Trung đoàn xe tăng 4, Sư đoàn xe tăng 2, được cho là đã tiêu diệt 4 xe tăng M46 Patton và bắn hỏng một chiếc xe tăng M46 Patton khác trong cuộc chiến từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 7 năm 1953. Nó cũng phá hủy 26 boong ke, 9 khẩu pháo, và một chiếc xe tải. Chiếc xe tăng đó hiện được bảo quản trong Bảo tàng Quân đội Cách mạng Nhân dân Trung Quốc. Một cuộc khảo sát quân sự năm 1954 của Mỹ kết luận rằng có tổng cộng 119 trận đấu xe tăng liên quan đến Quân đội Mỹ và các đơn vị Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ chống lại các lực lượng Triều Tiên và Trung Quốc, với 97 xe tăng T-34-85 bị phá hủy và 18 chiếc khác có thể đã bị phá hủy. Tổn thất của người Mỹ có phần ít hơn. Trung Đông Những chiếc T-34-85 do Tiệp Khắc sản xuất đã được Ai Cập sử dụng trong các cuộc Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1956 và Chiến tranh 6 ngày 1967 ở Bán đảo Sinai. Quân đội Syria cũng nhận được những chiếc T-34-85 từ Liên Xô và họ đã tham gia nhiều trận đấu với xe tăng Israel vào tháng 11 năm 1964. Trong Chiến tranh Sáu ngày vào năm 1967, do bị bất ngờ, tinh thần và chiến thuật thấp đã khiến lực lượng tăng thiết giáp Ai Cập mất tới 251 chiếc T-34-85, chiếm gần 1/3 tổng số xe tăng bị mất của Quân đội Ai Cập. Đa số xe tăng Ai Cập bị mất là do bị tổ lái bỏ lại dù chưa hề tham chiến. Trái ngược với Ai Cập, lực lượng tăng thiết giáp của Quân đội Syria có chiến thuật tốt, họ chỉ mất tổng cộng 73 chiếc xe tăng bao gồm T-34-85, T-54 và Panzer IV, trong khi đó phía Israel bị phá hủy tới 160 chiếc xe tăng các loại. Ai Cập tiếp tục chế tạo T-34-100, một phiên bản chuyển đổi cục bộ và duy nhất được tạo thành từ súng pháo dã chiến hạng nặng BS-3 100 mm của Liên Xô gắn trong tháp pháo được sửa đổi nhiều, cũng như T-34-122 lắp pháo D-30 cỡ 122mm. Năm 1956, chúng được sử dụng làm pháo tự hành để hỗ trợ bộ binh Ai Cập, loại xe này vẫn được sử dụng trong Chiến tranh Yom Kippur vào tháng 10/1973. Cuba Cuba đã nhận được 150 xe tăng T-34-85 do Liên Xô viện trợ quân sự vào năm 1960. T-34-85 là xe tăng đầu tiên của Liên Xô tham gia biên chế cho Lực lượng Vũ trang Cách mạng Cuba (FAR), cùng với IS-2. Những chiếc T-34 của Liên Xô cũng góp mặt tại chiến trường Cuba vào tháng 4/1961 trong sự kiện Vịnh Con Lợn. Khi đó, lực lượng vũ trang lưu vong người Cuba do Mỹ hậu thuẫn đã tiến hành đổ bộ lên bờ biển nước này nhằm hòng lật đổ chính phủ cách mạng Cuba. Dù được trang bị 5 chiếc xe tăng M41 Walker Bulldog và nhiều chiếc xe bọc thép, cụm quân này đã bị đánh tan hoàn toàn bởi những chiếc T-34 của Quân đội Cách mạng Cuba trong thời gian ngắn ngủi. Nhà lãnh đạo của cách mạng Cuba là Fidel Castro, đã đích thân chỉ huy một chiếc T-34 dẫn đầu đội hình chiến đấu của quân đội Cuba trong cuộc chiến trên vịnh Con lợn. Đặc biệt chiếc T-34 do ông chỉ huy đã bắn hạ 2 xe của địch khi tham chiến. Năm 1975, một lượng lớn T-34-85 cũng đã được Liên Xô tặng cho FAR để hỗ trợ cho cuộc can thiệp kéo dài của nước này vào Nội chiến Angola. Một trung đội gồm 5 chiếc T-34-85 của Cuba đã tham chiến ở Angola chống lại quân đội Nam Phi trong trận Cassinga. Các xe tăng này cùng với một đại đội bộ binh cơ giới hóa của Cuba được trang bị xe bọc thép chở quân BTR-152. Vào tháng 5 năm 1978, Nam Phi tiến hành một cuộc không kích lớn vào Cassinga với mục tiêu phá hủy một căn cứ của Tổ chức Nhân dân Tây Nam Phi (SWAPO) ở đó. Lực lượng Cuba đã được huy động để ngăn chặn chúng. Khi đến gần Cassinga, họ đã bị máy bay Nam Phi bay ngang, loại máy bay này đã phá hủy hầu hết các chiếc BTR-152 và 3 chiếc T-34-85; một chiếc T-34-85 thứ tư bị vô hiệu hóa bởi một quả mìn chống tăng chôn trên đường. Chiếc xe tăng còn lại tiếp tục giao tranh với lính dù Nam Phi cho đến khi trận chiến kết thúc. Hơn một trăm chiếc T-34-85 của Cuba và kíp lái tương ứng của họ vẫn ở Angola vào giữa những năm 1980. Vào tháng 9 năm 1986, chủ tịch Cuba Fidel Castro phàn nàn với Tướng Konstantin Kurochkin, trưởng phái đoàn quân sự Liên Xô tới Angola, rằng người của ông không còn được mong đợi sẽ chiến đấu với thiết giáp Nam Phi bằng những chiếc T-34 của "Thế chiến thứ hai"; Castro nhấn mạnh rằng Liên Xô sẽ trang bị cho lực lượng Cuba một số lượng lớn hơn T-55. Đến năm 1987, yêu cầu của Castro dường như đã được chấp thuận, vì các tiểu đoàn xe tăng Cuba đã có thể triển khai một số lượng đáng kể T-54B, T-55 và T-62; những chiếc T-34-85 không còn hoạt động. Việt Nam 18 giờ 33 phút ngày 13/7/1960, tại ga Vĩnh Yên, chiếc xe tăng T-34 mang số hiệu 114 dưới sự điều khiển của Trung sĩ Đào Văn Bàn đã rời toa tàu, đây là thời khắc bộ đội Tăng - Thiết giáp Việt Nam chính thức tiếp nhận những vũ khí trang bị đầu tiên. Chiếc xe tăng đầu tiên trong biên chế của quân đội Việt Nam là một chiếc T-34/85 mang số hiệu 114 được biên chế cho Trung đoàn xe tăng 202, trong năm 1960 đã có tổng số 100 chiếc T-34 và SU-76 được Liên Xô viện trợ cho Việt Nam. Ngày 29 tháng 2 năm 1962, Việt Nam tiếp nhận thêm một số trang bị mới bao gồm 19 xe PT-76, 11 xe T-54, 1 xe MTY-10, 4 xe dắt T-34 do Liên Xô viện trợ. Cuối năm 1963, Việt Nam tiếp nhận thêm 72 xe T-34, 11 xe T-54, 31 xe PT-76. Lúc này, tổng số xe tăng thiết giáp và các xe hỗ trợ của Việt Nam đã có là 164 chiếc các loại. Xe tăng T-34 đã được tân trang lại ở Liên Xô trước khi chuyển giao cho Việt Nam. Hầu hết nếu không muốn nói là tất cả đều có bánh xe đường trường kiểu T-54/55, có một điện đài mới hơn (kiểu 10RT). Ngoài ra, các xe T-34-85 của Việt Nam còn được bổ sung thêm một súng máy DShK cỡ nòng 12,7mm trên tháp pháo để bắn máy bay tầm thấp cũng như bộ binh (những chiếc T-34-85 nguyên bản không có vũ khí này). Tuy nhiên do nguyên bản tháp pháo không được trang bị súng máy 12,7mm nên việc bổ sung cần phải hàn thêm một bệ giá đỡ ở phía bên phải của tháp, khiến hạn chế tầm bắn của súng khi xạ thủ chỉ có thể quay súng về bên phải mà không thể quay sang bên trái nếu như vẫn ngồi trong xe. phải|nhỏ|250px|Xe tăng T-34-85 tại Bảo tàng Quân khu 5, Đà Nẵng Tuy nhiên, phải đến cuối năm 1970, Tiểu đoàn xe tăng 397 thuộc Trung đoàn 202 trang bị xe T-34 mới được đưa vào nam Quân khu 4 để chuẩn bị tham gia chiến dịch phản công Đường 9- Nam Lào cùng các Tiểu đoàn 297 (trang bị T-54/59) và 198 (trang bị PT-76). Khi đó, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã sử dụng xe tăng T-34-85 tiến công quân Mỹ lần đầu tiên trong Chiến dịch đường 9 - Nam Lào tháng 3/1971. Năm 1971, T-34 tham gia chiến dịch Cánh đồng Chum tại Lào. Tiểu đoàn 195 thuộc Trung đoàn 202, có 2 đại đội 9 và 18, trang bị 18 xe T-34, 3 xe PT-76 và 4 xe thiết giáp K-63. Các xe tăng đã dẫn đầu mũi tấn công, chi viện bộ binh tiêu diệt từng lô cốt công sự, đánh chiếm các cứ điểm. Năm 1972, tại Quảng Trị, lực lượng xe tăng tham gia cuộc Tổng tiến công năm 1972 gồm 2 trung đoàn 202 và 203, song số lượng T-34 chỉ có 10 xe được biên chế vào Đại đội 7, Tiểu đoàn 3 của Trung đoàn 203. Trong đó nổi bật là trận đánh ngày 17/8/1972, chỉ 1 xe T-34 số 164 đã đánh tan 1 đại đội ở La Vang, diệt 37 lính. Trận đánh xe tăng lớn nhất có sự tham gia của T-34 ở Việt Nam xảy ra vào ngày 27 tháng 7 trong trận Đồi 26 ở Quảng Trị. Một đại đội 11 chiếc M41 Walker Bulldog rút lui từ điểm cao thì bị 7 xe tăng T-34-85 (trong số 10 xe tăng của đại đội) tấn công. Kết quả là quân Việt Nam Cộng hòa đã bị bất ngờ, theo số liệu của Mỹ thì 3 chiếc M41 đã bị phá hủy bởi T-34, 5 chiếc nữa bị bắt giữ, chỉ có 3 chiếc M41 chạy thoát được. Chiều ngày 19/3/1975, trong chiến dịch Huế - Đà Nẵng, Đại đội xe tăng 7 (với 6 xe tăng T-34) bí mật cơ động vào tập kết ở Phương Lang Đông (Triệu Phong, Quảng Trị). Ngày 23/3, Đại đội đã phối hợp với Tiểu đoàn bộ binh 3 của Quảng Trị đánh tan Tiểu đoàn Thủy quân lục chiến 8 và giải phóng quận lỵ Mai Lĩnh, bắn cháy 2 xe tăng M41. Trong các ngày 24 và 25,3, Đại đội 7 tiếp tục cùng bộ binh tiến công quận lỵ Hướng Điền. Đại đội 7 (lúc này còn 4 xe T-34) vượt lên dẫn đầu đội hình truy kích, bắn cháy 1 xe tăng M48 Patton và 1 xe tăng M41, truy kích đến Bắc Thuận An, góp phần giải phóng tỉnh Thừa Thiên Huế ngày 25/3/1975. Đây cũng là trận đánh cuối cùng của xe tăng T-34 tại chiến trường Việt Nam. Trong suốt 15 năm (1960-1975), đã có hàng trăm chiếc T-34 được Liên Xô viện trợ cho Việt Nam trong suốt chiến tranh, tuy nhiên do đã lạc hậu cả về vỏ giáp và hỏa lực, nên nhìn chung vai trò của nó không nổi bật như xe tăng T-54. Trong chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979, Quân đội Trung Quốc trang bị chủ yếu các xe Type-59, Type-62, ước tính khoảng 550 xe tăng. Về phía đối diện, QĐNDVN huy động Trung đoàn tăng thiết giáp 407 thuộc Quân khu 1, chủ yếu là những xe T-34-85. So với xe tăng Type-59, T-34-85 kém hơn cả về hỏa lực và vỏ giáp, nhưng so với những xe tăng hạng nhẹ Type-62 thì T-34-85 không hề yếu thế. Các xe tăng T-34-85 đã tham gia một số trận đánh trong cuộc chiến này, nhưng không rõ thành tích cũng như thiệt hại. Đến thập niên 1980, một số chiếc T-34 đã được tháo dỡ để lấy tháp pháo làm công sự hỏa lực trên một số đảo ở Trường Sa. Quần đảo Síp Lực lượng Vệ binh Quốc gia Síp được trang bị khoảng 35 xe tăng T-34-85 đã giúp hỗ trợ cuộc đảo chính của quân đội Hy Lạp chống lại Tổng thống TGM Makarios vào ngày 15 tháng 7 năm 1974. Vào tháng 7 đến tháng 8 năm 1974, khi Thổ Nhĩ Kỳ tấn công đảo Síp đang do Hy Lạp nắm giữ tại Kioneli và tại Kyrenia, Hy Lạp đã điều động 32 chiếc T-34-85 đối đầu với 180 chiếc xe tăng M47/M48 Patton của Thổ Nhĩ Kỳ. Kết thúc cuộc chiến, Hy Lạp bị mất 10 chiếc T-34 bị phá hủy, 11 chiếc khác hết đạn hoặc xăng và bị tổ lái bỏ lại. Phía Thổ Nhĩ Kỳ bị phá hủy 11 chiếc xe tăng: 6 xe M47 và 5 xe M48 Patton, 12 xe M47 và M48 khác bị hư hại. Xe tăng T-34 đã gây ngạc nhiên lớn, bởi khi đó nó đã rất lạc hậu nhưng vẫn đánh thắng xe tăng chiến đấu hiện đại của Mỹ. Nội chiến Angola Một trong những cuộc xung đột hiện đại chứng kiến ​​việc triển khai chiến đấu rộng rãi của T-34-85 là Nội chiến Angola. Năm 1975, Liên Xô đã vận chuyển 80 chiếc T-34-85 tới Angola như một phần hỗ trợ cho cuộc can thiệp quân sự đang diễn ra của Cuba tại đây. Kíp lái Cuba hướng dẫn binh lính FAPLA cách vận hành; các lái xe và xạ thủ khác của FAPLA đã tháp tùng các kíp lái Cuba trong vai trò huấn luyện viên. FAPLA bắt đầu triển khai những chiếc T-34-85 chống lại lực lượng UNITA và FNLA vào ngày 9 tháng 6 năm 1975. Sự xuất hiện của FAPLA và xe tăng Cuba đã thúc đẩy Nam Phi tăng cường cho UNITA một chi đội xe bọc thép Eland-90. Afghanistan Những chiếc T-34-85 cũng thường xuất hiện ở Afghanistan. Trong Chiến tranh Xô Viết-Afghanistan, hầu hết T-34 đã được lực lượng an ninh nội bộ Sarandoy trang bị. Một số cũng được giữ lại phục vụ trong Quân đội Cộng hòa Dân chủ Afghanistan. Namibia Năm 1984, Tổ chức Nhân dân Tây Nam Phi (SWAPO) đã thực hiện một nỗ lực phối hợp để thành lập tiểu đoàn thiết giáp thông thường của riêng mình thông qua cánh vũ trang, Quân đội Giải phóng Nhân dân Namibia (PLAN).  Là một phần của nỗ lực này, các đại diện ngoại giao của SWAPO ở châu Âu đã tiếp cận Cộng hòa Dân chủ Đức với yêu cầu mua mười xe tăng T-34, số này đã được chuyển giao. T-34 của PLAN không bao giờ được triển khai trong các chiến dịch tấn công chống lại quân đội Nam Phi, chúng được giới hạn trong vai trò bảo vệ các căn cứ chiến lược bên trong miền bắc Angola. Đến năm 1988, những chiếc T-34-85 của PLAN được đóng quân gần Luanda, nơi các kíp lái của họ được huấn luyện bởi các chuyên gia Cuba. Vào tháng 3 năm 1989, xe tăng PLAN được huy động và di chuyển về phía nam theo hướng biên giới Namibia. Nam Phi cáo buộc PLAN đã lên kế hoạch cho một cuộc tấn công lớn nhằm gây ảnh hưởng đến cuộc tổng tuyển cử đang diễn ra của Namibia, nhưng các đơn vị xe tăng đã không vượt qua biên giới và không can thiệp vào một loạt các cuộc đụng độ mới vào cuối năm đó. Từ năm 1990 đến năm 1991, SWAPO đã ra lệnh cho các xe tăng của PLAN ở Angola hồi hương về Namibia bằng chi phí của mình. Bốn chiếc sau đó được đưa vào phục vụ trong Quân đội Namibia mới. Balkans Đầu năm 1991, Quân đội Nhân dân Nam Tư sở hữu 250 chiếc T-34-85, không chiếc nào trong số đó đang hoạt động. Trong sự tan rã của Nam Tư, những chiếc T-34-85 được quân đội quốc gia Croatia, Bosnia-Herzegovina, Serbia và Montenegro kế thừa và tiếp tục hoạt động trong các cuộc Chiến tranh Nam Tư. Một số cũng được quân đội ly khai Serbia mua lại từ kho dự trữ của Nam Tư, cụ thể là Quân đội Cộng hòa Serb Krajina (SVK) và Quân đội Cộng hòa Srpska (VRS). Hầu hết những chiếc xe tăng này đều ở trong tình trạng tồi tệ khi bắt đầu xung đột và một số chiếc đã sớm trở nên không hoạt động được, có thể là do bảo trì không đầy đủ và thiếu phụ tùng. Vào ngày 3 tháng 5 năm 1995, một chiếc VRS T-34-85 đã tấn công một tiền đồn của UNPROFOR do Trung đoàn 21 của Công binh Hoàng gia điều khiển ở Maglaj, Bosnia, làm bị thương sáu lính gìn giữ hòa bình của Anh, với ít nhất một người trong số họ bị thương tật vĩnh viễn. Một số T-34 đang được VRS cất giữ tại căn cứ ở Zvornik đã bị UNPROFOR tạm thời tịch thu như một phần của chương trình giải giáp vũ khí địa phương vào năm sau. Thế kỷ 21 Năm 2015, cả xe tăng T-34-85 Model 1969 và pháo tự hành SU-100 đều được chụp ảnh khi đang được sử dụng trong cuộc nổi dậy của Houthi ở Yemen. Một số xe tăng T-34 thậm chí còn bị bắn bằng ATGM. Trong Nội chiến Syria 2011 và Nội chiến Yemen năm 2018, một số chiếc T-34-85 được nhìn thấy là đã tham chiến, đánh dấu lịch sử chinh chiến bền bỉ tới 75 năm của loại xe tăng này. Lính tăng T-34 nổi tiếng Andreev, Nikolai Rodionovich (1921-2000) Aria, Semyon Lvovich (1922-2013) Aslanov, Hazi Agadovich (1910-1945) Barmin, Ilya Elizarovich (1916-1943) Bochkovsky, Vladimir Alexandrovich (1923-1999) Bryukhov, Vasily Pavlovich (1924-2015) Burda, Alexander Fedorovich (1911-1944) Bukhtuev, Mikhail Artemievich (1925-1944) Gorobets, Stepan Khristoforovich (1913-1942) Gintovt, Vitold Mikhailovich (1922-1984) Degen, Ion Lazarevich (1925-2017) Zamula, Mikhail Kuzmich (1914-1984) Zorin, Sergei Ivanovich (1911-1954) Kashnikov, Pyotr Mikhailovich (1912-1945) Komarov, Dmitry Evlampievich (1922-1944) Kosarev, Alexander Prokofievich  (1941-1945) Kaduchenko Joseph Andriyanovich (1906-1988) Kostrikova, Evgeniya Sergeevna (1921-1975) Lavrinenko, Dmitry Fedorovich (1914-1941) Lebedev, Nikolai Alexandrovich (1914-1942) Levchenko, Irina Nikolaevna (1924-1973) Lyubushkin, Ivan Timofeevich (1918-1942) Oktyabrskaya, Maria Vasilievna (1902-1944) Maksakov, Vladimir Nikolaevich (1923-1993) Markov, Vladimir Alexandrovich (1923-1955) Raftopullo, Anatoly Anatolyevich (1907-1985) Rudyk, Nikolay Martynovich (1918-1943) Samokhin, Konstantin Mikhailovich (1915-1942) Storozhenko, Vasily Yakovlevich (1918-1991) Fadin, Alexander Mikhailovich (1924-2011) Khazov, Vladimir Petrovich (1918-1942) Khokhryakov, Semyon Vasilievich (1915-1945) Chesak, Grigory Sergeevich (1922-1987) Sharipov, Fatykh Zaripovich (1921-1995) Nhà khai thác Hiện tại - 642, số lượng không xác định trong biên chế. - 5 chiếc T-34, tính đến năm 2011. - Số lượng không xác định trong kho niêm cất. - 650 Số lượng không xác định vẫn đang hoạt động - 45; 30 chiếc hoạt động tính đến năm 2021. - 10 chiếc T-34 tính đến năm 2021. - Nhận chuyển giao 4 chiếc, só lượng không xác định đang được niêm cất. - Phục vụ các hoạt động duyệt binh, hội thao và triển lãm. - Nhận được 250 chiếc. 30 chiếc hoạt động tới năm 2010. Số lượng không xác định đang hoạt động. - 300 chiếc được chuyển giao. 45 chiếc T-34, tính đến năm 2021. Quá khứ - Vận hành một số xe tăng bị bắt trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. (được định danh là "Pz. 747 (r)") - 175 - 380 - 138 - 113 - 80 - 25 - 599 - 872 - 1.000 - 2.500, 14 biến thể khác nhau của T-34 hiện được trưng bày trong các viện bảo tàng. - 32 (1964-1974). - 56 - 150 - 175 - Số lượng không xác đinh T-34 đã được chuyển giao vào năm 1987, hoạt động đến năm tính đến năm 2016. Năm 2018 chúng được đưa ra khỏi biên chế, 30 xe được chuyển giao cho Bộ Quốc phòng Nga trong tình trạng hoạt động tốt để phục vụ mục đích triển lãm và quay phim. - 65 - 30 - 40 chiếc T-34-85, được chuyển giao từ Liên Xô năm 1945-1953; loại khỏi biên chế năm 1951-1953. - 200 - 16 xe tăng T-34 đầu tiên được chuyển giao từ Liên Xô vào ngày 7 tháng 9 năm 1944 (65 chiếc được nhận vào cuối chiến tranh), thêm 6 chiếc Pz.Kpfw.747 (xe tăng T-34-76 của Liên Xô sản xuất năm 1941-1942. do quân Đức hiện đại hóa) thu được từ quân Đức vào đầu năm 1945. Sau khi chiến tranh kết thúc, vào năm 1947, 308 chiếc T-34-85 đã được mua từ Liên Xô. - 25 - 7 đến 9 chiếc thu được từ Hồng quân Liên Xô. - 2 thu được vào ngày 1 tháng 11 năm 1942, 4 nữa vào tháng 3 năm 1944. Nó được đề xuất nhiều sửa đổi phần đầu. - 935 chiếc T-34-85 nhận được từ Liên Xô và Tiệp Khắc từ năm 1949 đến năm 1957. Chúng có những sửa đổi cục bộ. Ngoài ra, 12 xe cứu kéo bọc thép và 12 xe cẩu di động SPK-5 (cả hai mẫu đều dựa trên khung gầm T-34-85) đã được mua vào năm 1955-58. - 120 - 20 - 200 - 1.800 - 7 - 24 - 10 UNITA - Vận hành số lượng không xác định xe tăng thu được trong Chiến tranh Thế gới thứ hai. - 150 - 80 - 10
Kính viễn vọng (phương ngữ miền Nam: kiếng viễn vọng) là một dụng cụ giúp quan sát các vật thể nằm ở khoảng cách xa so với mắt của con người. Kính viễn vọng được ứng dụng trong quan sát thiên văn học, hay trong công tác hoa tiêu của ngành hàng hải, hàng không hay công nghệ vũ trụ, cũng như trong quan sát và do thám quân sự. Trong các ứng dụng thiên văn, chúng còn được gọi là kính thiên văn. Trong lịch sử, kính viễn vọng đầu tiên được chế tạo sử dụng các dụng cụ quang học, để thu nhận ánh sáng đến từ vật thể ở xa và tạo ra hình ảnh phóng đại dễ dàng quan sát bởi mắt người. Chúng là các kính viễn vọng quang học. Sau này, các loại kính viễn vọng khác được chế tạo, sử dụng bức xạ điện từ nằm ở bước sóng khác, đến từ vật thể ở xa, như radio, hồng ngoại, tử ngoại, tia X, gamma,... Từ nguyên Chữ Hán: 鏡遠望, nghĩa: "kính nhìn xa"; 鏡天文, nghĩa: "kính thiên văn". Độ phân giải Xem thêm: Nhiễu xạ Lịch sử Phân loại theo cơ chế Kính viễn vọng khúc xạ Kính viễn vọng khúc xạ là loại kính viễn vọng dùng các thấu kính để thay đổi đường truyền của các bức xạ điện từ, thông qua hiện tượng khúc xạ, tạo ra ảnh rõ nét của vật thể ở xa. Một trong các kính viễn vọng khúc xạ đầu tiên do Galileo (1564–1642) chế tạo, sử dụng một vật kính, là thấu kính hội tụ để gom các tia sáng vào một mặt phẳng cách thấu kính hội tụ một khoảng được gọi là tiêu cự. Ánh sáng bị khúc xạ tạo ra một ảnh rất nhỏ của một vì sao hay hành tinh. Kế tiếp, ảnh đi qua thị kính, trong kính của Galileo là thấu kính phân kì. Hiện nay, ảnh đi qua vật kính còn được phóng đại qua thị kính là một thấu kính hội tụ. Kính viễn vọng khúc xạ có trở ngại chính là sự tán sắc. Vì thủy tinh hay các vật liệu làm thấu kính có chiết suất khác nhau cho các bước sóng bức xạ điện từ khác nhau. Ví dụ, trong kính viễn vọng quang học hoạt động với cơ chế khúc xạ, điều này khiến hình ảnh vật ở xa, ví dụ một vì sao hoặc một hành tinh, được bao quanh bởi những vòng tròn có màu sắc khác nhau. Kính viễn vọng phản xạ Kính viễn vọng phản xạ hoạt động dựa trên sự tảo ảnh của vật ở xa bằng các gương, thông qua hiện tượng phản xạ các bức xạ điện từ. Một trong các kính viễn vọng phản xạ đầu tiên do nhà thiên văn người Scotland James Gregory phát minh năm 1663, dùng một mặt gương lõm hội tụ thay vì thấu kính hội tụ để thu gom ánh sáng tới tạo ảnh. Ảnh có thể được thu thập hay được phóng đại thêm qua các gương phụ trợ. Kính viễn vọng phản xạ có ưu điểm lớn là tránh hiện tượng tán sắc. Với mọi kính viễn vọng, số photon thu được tỷ lệ thuận với diện tích phần thu (gương đối với kính viễn vọng phản xạ và thấu kính với kính viễn vọng khúc xạ). Đồng thời độ phân giải tỷ lệ với đường kính của phần thu. Ví dụ, khi dùng gương có bán kính gấp đôi, khả năng thu gom ánh sáng lên gấp bốn lần và độ phân giải tăng hai lần. Việc tăng kích thước gương có thể được thực hiện dễ dàng hơn so với tăng kích thước thấu kính. Đây cũng là ưu điểm của kính viễn vọng phản xạ. Đa số các kính viễn vọng ngày nay, có đường kính cỡ từ vài chục xentimét trở lên, phục vụ cho quan sát thiên văn, đều là kính viễn vọng phản xạ. Kính viễn vọng giao thoa Kính viễn vọng tổng hợp Kính viễn vọng quang phổ Quang phổ học (spectroscopy) là môn nghiên cứu các phổ (spectrum, số nhiều spectra) của vật chất, dựa trên cơ sở là mỗi nguyên tố hóa học có một phổ đặc trưng. Điều này có thể quan sát được qua hệ thống kính quang phổ, trong đó các tia sáng đi qua một khe hẹp, đến thấu kính chuẩn trực (collimating lens) được chỉnh thành những tia sáng song song, đi qua một lăng kính (prism), sau đó được phân tích và qua một kính lấy nét (focusing lens) ở thị kính. Qua kính quang phổ, có thể thấy một chuỗi những hình ảnh, mỗi hình ảnh có một màu khác nhau, vì ánh sáng đã được phân tích qua những phổ màu khác nhau. Kính quang phổ thường tách ánh sáng thành những dải màu tiếp nối nhau, với nhiều đường sậm chạy ngang được gọi là đường Fraunhofer. Mỗi tổ hợp các đường sậm tương ứng với một nguyên tố của vì sao đã hấp thụ những màu bị mất đi. Ví dụ: nguyên tố H cho một đường đỏ sậm, Na cho một cặp đường vàng sậm, Fe cho những đường của hầu hết các màu. Mỗi nguyên tố trong tầng khí quanh vì sao tạo nên những đường phổ đậm đặc trưng, tùy thuộc vào nhiệt độ và áp suất của khí. Vì thế, có thể quan sát những phổ của hàng trăm ngàn vì sao. Phân tích quang phổ của ánh sáng chiếu từ một vì sao cho phép phân tích thành phần hóa học của vì sao này. Ví dụ: nguyên tố helium được khám phá trên Mặt Trời nhiều năm trước khi được tìm thấy trên Trái Đất. Gần đây, nghiên cứu quang phổ của Mặt Trời cho thấy chứng cứ vững chắc về sự hiện diện của ion hydrogen âm. Vì thế, nghiên cứu quang phổ của các vì sao đã cung cấp nhiều tư liệu quý giá. Ví dụ, các tinh vân (nebula) cho thấy một nguyên tố mới, tạm thời được đặt tên là nebulium, không có trên Trái Đất. Sau đó vào năm 1927, vạch quang phổ này đã được xác định là của ion Oxy dương 2. Cũng nhờ nghiên cứu quang phổ các vòng quanh Sao Thổ, được biết các vòng này chủ yếu tạo thành bởi những mảnh băng ammonia. Quang phổ học cũng đã được ứng dụng để phân tích thành phần hóa học khí quyển của Mộc Tinh sau khi sao chổi Shoemaker-Levy 9 va đập vào. Quang phổ học cũng giúp khám phá những thiên thể ở rất xa. Ví dụ: các phổ của một vài vì sao ở xa thỉnh thoảng bị tách rời nhau, rồi sau đó hợp lại. Hiệu ứng này là do sự hiện diện của vì sao đôi, quay gần nhau đến đỗi một kính viễn vọng thông thường không thể phân biệt được. Các đường phổ dịch chuyển vị trí khi nguồn ánh sáng di chuyển tiến gần hoặc rời xa thiết bị quan sát. Sự dịch chuyển này giúp tính toán khá chính xác vận tốc tương đối của bất kỳ nguồn phát xạ nào. Nói chung, nếu mọi đường phổ của một vì sao dịch chuyển về phía màu đỏ, vì sao đó đang rời xa Trái Đất, và vận tốc có thể được tính toán từ mức độ dịch chuyển. Ngược lại, khi vì sao đang tiến gần Trái Đất, phổ dịch chuyển về phía màu tím. Qua cách này, có kết luận dẫn đến thuyết vũ trụ giãn nở. Phân loại theo bước sóng Kính viễn vọng quang học Kính viễn vọng quang học chủ yếu dựa trên sự thu thập và xử lý ánh sáng. Kính viễn vọng vô tuyến Kính viễn vọng vô tuyến là các kính viễn vọng hoạt động với cơ chế như kính viễn vọng giao thoa hoặc kính viễn vọng phản xạ, trong dải sóng vô tuyến. Kính viễn vọng vô tuyến được ứng dụng chủ yếu trong quan sát thiên văn và trong liên lạc thông tin trong công nghệ vũ trụ. Đối với quan sát thiên văn, các kính viễn vọng quang học, trong ứng dụng quan sát bầu trời từ Trái Đất, chỉ dùng được trong những đêm bầu trời không có mây và ban ngày không quan sát được vì Mặt Trời chiếu sáng. Các kính viễn vọng vô tuyến có thể giúp vượt qua trở ngại này, do tín hiệu vô tuyến ít bị nhiễu hơn vào ban ngày và đi xuyên qua các đám mây. Trở ngại chính của các kính viễn vọng vô tuyến là do bước sóng của sóng vô tuyến thường dài cỡ mét, để đạt độ phân giải cao, cần xây dựng các gương có đường kính khổng lồ. Cách giải quyết là dùng kỹ thuật của kính viễn vọng giao thoa, sử dụng những tín hiệu đồng bộ thu được từ những kính viễn vọng phản xạ nằm xa nhau. Khoảng cách lớn giữa từng kính viễn vọng phản xạ đơn lẻ có thể coi tương đương với "đường kính" của hệ các kính. Ví dụ, một mạng lưới gồm 25 đĩa thu tín hiệu có đường kính chỉ 25 m, trải dài từ đảo Hawaii đến quần đảo Virgin, tương đương với một kính viễn vọng vô tuyến duy nhất có đường kính gần 8.000 km. Một hạn chế khác của kính viễn vọng vô tuyến là sự nhiễu loạn do từ hoạt động của con người, kể cả việc sử dụng điện thoại di động. Một số kính được xây trong lòng một thung lũng để tránh nhiễu sóng, ví dụ như kính viễn vọng vô tuyến ở thung lũng Arecibo, Puerto Rico, có đĩa an-ten với đường kính 305 m. Kính viễn vọng hồng ngoại Kính viễn vọng hồng ngoại thường áp dụng thiết kế cơ bản của kính viễn vọng phản xạ, nhưng có một bộ phận ở tiêu điểm để chỉ ghi nhận tia hồng ngoại. Các vật thể có nhiệt độ khoảng vài trăm độ K có bức xạ vật đen với cực đại thường nằm trong dải hồng ngoại. Do vậy kính viễn vọng hồng ngoại giúp quan sát các vật thể nóng ấm ở xa, đặc biệt là trong đêm tối, khi không có bức xạ hồng ngoại của Mặt Trời gây nhiễu. Kính viễn vọng hồng ngoại được ứng dụng trong quan sát trong ban đêm các sinh vật, người hay vật thể có nhiệt độ cao hơn hay thấp hơn môi trường; đặc biệt trong do thám quân sự. Đối với quán sát thiên văn học, loại kính này có ít ứng dụng trên Trái Đất do, ngay cả vào ban đêm, tín hiệu đến từ không gian vũ trụ bên ngoài bị hấp thụ mạnh bởi khí quyển Trái Đất. Ngoài ra, tín hiệu còn có thể bị nhiễu do các nguồn nhiệt trên Trái Đất. Chúng được dùng nhiều hơn cho quan sát thiên văn từ không gian; thường kèm theo kỹ thuật loại bỏ bức xạ hồng ngoại nền của môi trường xung quanh. Bức xạ nền được thu riêng và ghi nhớ lại; sau đó hình ảnh không gian sẽ được trừ đi phần bức xạ nền. Kính viễn vọng hồng ngoại thường được giữ ở nhiệt độ rất thấp khi vận hành, để hạn chế bức xạ nền phát ra từ chính nó. Kính viễn vọng tử ngoại Kính viễn vọng tử ngoại cũng tương tự như kính viễn vọng phản xạ, nhưng các mặt gương được tráng thêm những lớp đặc biệt để phản chiếu tốt tia tử ngoại, đồng thời có các đầu thu nhạy với tia tử ngoại đặt tại phặt phẳng tạo ảnh của hệ gương. Trong ứng dụng thiên văn học, do bầu khí quyển Trái Đất, đặc biệt là tầng ozon, hấp thụ mạnh tia tử ngoại, kính viễn vọng tử ngoại chỉ được ứng dụng với các trạm quan sát bên ngoài khí quyển Trái Đất. Các vật thể nóng khoảng trên 10.000 độ K trong vũ trụ thường phát ra bức xạ vật đen có cực đại tại vùng tử ngoại. Do vậy, kính viễn vọng tử ngoại cung cấp nhiều thông tin về các vì sao nóng (thường là sao còn trẻ). Tia tử ngoại cũng hay được phát ra từ những vùng khí xung quanh các thiên hà hay các thiên thể đang hoạt động mạnh. Kính viễn vọng Hubble là một ví dụ về kính viễn vọng tử ngoại đã được phóng lên không gian, trở thành đài quan sát quay chung quanh Trái Đất. Kính viễn vọng tia X Kính viễn vọng tia X được đặt trên những vệ tinh phóng vào không gian để bắt lấy tia X phát ra từ những vật thể trong không gian. Năm 1999, hai kính viễn vọng tia X quan trọng được phóng, Chandra X-ray của NASA và XMM của Cơ quan Không gian châu Âu (ESA). Vài kính viễn vọng quang tuyến X có thiết kế tương tự như kính viễn vọng phản xạ, có điều khác biệt là gương phản chiếu có hình thể gần như hình trụ thay vì là mặt thấu kính. Các tia X từ vật thể cần quan sát phóng đến gương và được phản hồi đến bộ phận thu thập tia X. Để ngăn chặn các tia X không xuất phát từ vật thể cần quan sát (do đó gây nhiễu), các bộ phận thu tia X được bao bọc bằng một ống chì có đặc tính thu hút tia X. Kính viễn vọng tia gamma Tia gamma là bức xạ điện từ với độ dài sóng ngắn hơn cả tia X. Vì tia gamma không thể thâm nhập bầu khí quyển của Trái Đất, phải đưa kính viễn vọng tia gamma vào không gian. Vài hiện tượng phá hủy to tát nhất trong vũ trụ, như khi các vì sao trung tính va đập nhau hoặc lỗ đen, phóng ra không gian những tia gamma có năng lượng cao. Vào đầu thập niên 1990s, kính viễn vọng tia gamma Compton phát hiện những luồng tia gamma được phân bố đồng đều trong không gian. Vì sự phân bố này, có ý kiến cho rằng đó là kết quả của những hiện tượng lớn trong không gian, như việc va đập giữa hai vì sao trung tính, hoặc giữa một định vì sao trung tính và một lỗ đen. Kính viễn vọng tia gamma gồm có 2 hoặc nhiều hơn bộ phận phát hiện tia gamma đặt thẳng hàng. Một bộ phận sẽ được kích động khi có một tia gamma chiếu đến cho dù theo góc độ nào. Để có thể quan sát những tia gamma chiếu từ một vật thể, cần có ít nhất 2 bộ phận phát hiện đặt theo một đường thẳng hướng đến vật thể này. Chỉ những tia gamma phát ra từ vật thể cần quan sát có thể đi xuyên qua các bộ phận phát hiện. Trong không gian Với các quan sát thiên văn học, các kính viễn vọng quang học trên Trái Đất thường bị ảnh hưởng xấu của nhiễu loạn chiết suất khí quyển, chưa kể đến các hiện tượng khí tượng như mây, mưa, bụi. Với các kính thiên văn vô tuyến trên Trái Đất, sự nhiễu sóng vô tuyến do con người tạo ra là một trở ngại đáng kể. Thêm nữa, bầu khí quyển Trái Đất hấp thụ mạnh các tia hồng ngoại (do hơi nước), tử ngoại (do tầng ozon), tia X đến từ ngoài vũ trụ; khiến quan sát thiên văn tại các bước sóng này khó khăn. Các trạm quan sát đặt trong không gian có thể giúp thoát khỏi ảnh hưởng trực tiếp của khí quyển Trái Đất. Nếu được đặt xa Trái Đất, như ở trên bề mặt Mặt Trăng nơi không bao giờ hướng về Trái Đất, các kính thiên văn vô tuyến còn được Mặt Trăng che chắn khỏi các nhiễu loạn vô tuyến đến từ Trái Đất. Kính viễn vọng Hubble Kính viễn vọng Hubble, được nghiên cứu từ thập niên 1970 và phóng lên không gian năm 1990, là một bước đột phá quan trọng trong quan sát thiên văn trong phổ quang học, tử ngoại và hồng ngoại. Nó có thể thu nhận ánh sáng từ vật thể cách xa 12 tỉ năm ánh sáng. Nó lần đầu tiên sử dụng công nghệ Multi-Anode Microchannel Array (MAMA) để ghi nhận tia tử ngoại nhưng loại trừ ánh sáng. Nó có sai số trong định hướng nhỏ tương đương với việc chiếu một tia laser đến đúng vào một đồng xu cách đó 320 km và giữ yên như thế. Việc thiết kế kính này theo dạng mô-đun cho phép các phi hành gia tháo gỡ, thay thế hoặc sửa chữa từng mảng bộ phận dù họ không có chuyên môn sâu về các thiết bị. Trong một lần sửa, độ phân giải của Hubble đã được tăng lên gấp 10. Hubble cung cấp khoảng 5-10 GB dữ liệu một ngày. Vài khám phá quan trọng do Hubble mang lại gồm có:* chi tiết sự va đập của sao chổi Shoemaker-Levy 9 vào Sao Mộc; chi tiết những cơn bão rộng hàng ngàn km trên Sao Thiên Vương; xác định và tính toán sự giãn nở của vũ trụ.
Trong toán học, hàm mật độ xác suất (Tiếng Anh là Probability density function hay PDF) dùng để biểu diễn một phân bố xác suất theo tích phân. Hàm mật độ xác suất luôn có giá trị không âm và tích phân của nó từ −∞ tới +∞ có giá trị bằng 1. Nếu một phân bố xác suất có mật độ f(x), thì về mặt trực quan, khoảng vi phân (vô cùng bé) [x, x + dx] có xác suất bằng f(x) dx. Một cách không chính thức, hàm mật độ xác suất có thể được coi là phiên bản được làm mịn của một biểu đồ tần số: nếu ai đó liên tiếp đo đạc bằng thực nghiệm các giá trị của một biến ngẫu nhiên liên tục và tạo một biểu đồ tần số mô tả tần suất tương đối của các miền biến thiên của kết quả, thì biểu đồ tần số đó sẽ trông giống với mật độ xác suất của biến ngẫu nhiên đó (giả sử rằng biến được lấy mẫu đủ thường xuyên và các miền biến thiên của kết quả là đủ nhỏ). Một cách chính thức, một phân bố xác suất có mật độ f(x) nếu f(x) là một hàm không âm khả tích Lebesgue R → R sao cho xác suất của khoảng [a, b] được cho bởi công thức với hai số bất kỳ a và b. Điều đó hàm ý tích phân toàn phần của f phải bằng 1. Ngược lại, một hàm không âm khả tích Lebesgue bất kỳ với giá trị tích phân toàn phần bằng 1 là một mật độ xác suất của một phân bố xác suất được định nghĩa thích hợp. Giải thích đơn giản Một hàm mật độ xác suất là một hàm bất kỳ f(x) mô tả mật độ xác suất theo biến đầu vào x theo cách dưới đây. f(x) lớn hơn hoặc bằng 0 với mọi giá trị của x Tổng diện dích bên dưới đồ thị là 1: Khi đó xác suất thực sự của x có thể được tính bằng cách lấy tích phân của hàm f(x) theo khoảng tích phân của biến đầu vào x. Ví dụ: biến x trong đoạn [4.3,7.8] sẽ có xác suất thực sự là Biến ngẫu nhiên Một biến ngẫu nhiên, x, tuân theo hàm mật độ xác suất f(x) có liên hệ với biến ngẫu nhiên đều (có hàm mật độ xác suất là hằng số) y trong khoảng [0,1] thông qua công thức: x == F-1(y) Trong đó F(t) là hàm phân bố tích lũy ứng với f(x): và F−1(t) là hàm ngược của F(t).
Trong lý thuyết xác suất, hàm phân phối tích lũy (Tiếng Anh: Cumulative distribution function hay viết tắt CDF) mô tả đầy đủ phân phối xác suất của một biến ngẫu nhiên giá trị thực X. Với mỗi số thực x, hàm phân phối tích lũy được định nghĩa như sau: trong đó vế phải biểu diễn xác suất mà biến ngẫu nhiên X lấy giá trị nhỏ hơn hay bằng x. Do đó, xác suất X nằm trong khoảng [a, b] là F(b) − F(a) nếu a < b. Theo quy ước, chữ F hoa được dùng cho hàm phân phối tích lũy, còn chữ f thường được dùng cho hàm mật độ xác suất và hàm khối xác suất. Lưu ý rằng trong định nghĩa trên, dấu "nhỏ hơn hay bằng" ('≤') có thể được thay bằng dấu "nhỏ hơn" ('<'). Việc đó sẽ cho ra một hàm khác, nhưng hàm nào trong hai hàm đó cũng đều dễ dàng thu được từ hàm kia. Vấn đề cần nhớ là không nên dùng lẫn lộn hai kiểu trên, vì việc đó sẽ dẫn đến kết quả sai. Tại các nước nói tiếng Anh, người ta hầu như luôn luôn sử dụng quy ước dùng dấu "nhỏ hơn hay bằng" ('≤') thay vì dấu "nhỏ hơn" ('<'). "Xác suất điểm" (point probability) mà X có giá trị bằng đúng b là Liên hệ với hàm mật độ xác suất Một hàm phân phối tích lũy F(t) tương ứng với một hàm mật độ xác suất f(x) là: Biến ngẫu nhiên Một biến ngẫu nhiên, x, tuân theo hàm phân phối tích lũy F(x) có liên hệ với biến ngẫu nhiên đều y trong khoảng [0,1] thông qua công thức: x == F-1(y) trong đó F−1(y) là hàm ngược của F(x).
Hoang mạc là vùng có lượng mưa rất ít, ít hơn lượng cần thiết để hầu hết các loại thực vật sinh trưởng, là vùng đại diện cho những khu vực có khí hậu nhiệt đới lục địa khô. Hoang mạc được xác định là những khu vực có lượng mưa ít hơn 200 mm/năm (10 in/năm), do vậy nước ở hoang mạc rất hiếm, thường không có sông và suối, sự sống hiếm hoi vì có rất ít loại động vật và thực vật có thể thích nghi với môi trường khắc nghiệt này, chỉ có ít những cây bộ gai, họ xương rồng sống được điều kiện khô cằn ít nước. Sa mạc thường dùng để chỉ những hoang mạc cát. Trong các văn bản tiếng Việt dịch từ tiếng Anh đôi khi nhầm lẫn giữa khái niệm "hoang mạc" nói chung và "sa mạc", bởi trong tiếng Anh không tồn tại từ ngữ cụ thể chỉ "sa mạc" mà chỉ có "desert" dùng để chỉ "hoang mạc", ví dụ như Nam Cực đôi khi bị hiểu lầm là sa mạc. Ở một số sa mạc nóng, khí hậu thường nóng có thể tới 58°C như ở sa mạc México, Turfan (Tân Cương) nhiệt độ ban ngày mùa hạ lên tới 82,3 °C, có nơi lại lạnh đến -45 °C như ở sa mạc Gobi thuộc Châu Á. Ở vùng sa mạc Sinai, biên độ nhiệt độ chênh lệch giữa ngày và đêm có thể đến hơn 80 °C, đất đai cằn cỗi. Sa mạc thường có lượng bức xạ mặt trời lớn, nhiều cát và gió nóng luôn thổi mạnh tạo ra rất nhiều trận bão cát, hiện nay có khoảng 1/3 diện tích Trái Đất (lục địa) là sa mạc. Người ta thường dùng lạc đà làm phương tiện di chuyển trong sa mạc. Tiếng Việt vào cuối thế kỷ 19 còn dùng danh từ đại hạn hải (大旱海) để chỉ sa mạc. Đặc điểm Hoang mạc là vùng đất rất khô do có lượng giáng thủy thấp (chủ yếu là mưa, còn tuyết hay sương giá thì rất thấp), thường có ít lớp phủ thực vật, và trong đó có các dòng suốt khô trừ khi nó được cấp nước từ các khu vực bên ngoài. Đất ở hoang mạc thường nóng và có kết cấu sỏi thô, đất thường sẽ không màu mỡ do có rất ít thảm thực vật có thể cung cấp được rác và mùn. Đất ở hoang mạc thường thiếu chất hữu cơ và nước nên rất khô cằn và bạc màu. Các hoang mạc còn được mô tả là những khu vực mà nước bị mất theo phương thức thoát bốc hơi nhiều hơn so với mưa. Nhìn chung các hoang mạc có lượng mưa ít hơn mỗi năm. Bán hoang mạc là những vùng có lượng mưa trong khoảng và nếu có phủ cỏ thì được gọi là đồng cỏ khô. Các hoang mạc chiếm khoảng 1/3 diện tích bề mặt Trái Đất. Các hoang mạc nóng thường có sự chênh lệch nhiệt độ ngày đêm và theo mùa lớn với nhiệt độ ban ngày cao và ban đêm thấp. Ở các hoang mạc nóng, nhiệt độ ban ngày có thể lên đến 2000 °C/2023 °F hoặc cao hơn trong mùa hè, và xuống 0 °C/32 °F hoặc thấp hơn vào ban đêm trong mùa đông. Khí hậu của hoang mạc rất nóng, nhiệt độ cao theo ngày, hầu hết đều vượt quá 40 độ C. Tuy nhiên nhiệt độ vào ban đêm lại giảm đi một cách đáng kể, sự chênh lệch nhiệt độ giữa ban ngày và ban đêm khá cao. Hơi nước trong khí quyển đóng vai trò là một bẫy giữa các sóng hồng ngoại dài phản xạ từ mặt đất, và không khí các hoang mạc không có khả năng ngăn chặn ánh sáng mặt trời ban ngày (trời không mây) hoặc giữ nhiệt vào ban đêm. Do đó, vào ban ngày hầu hết nhiệt từ mặt trời sẽ tiếp cận đến mặt đất, và ngay sau khi mặt trời lặn, hoang mạc lạnh rất nhanh bằng cách bức xạ nhiệt của nó vào không gian. Các khu vực đô thị trong các hoang mạc không có sự dao động nhiệt độ hàng ngày lớn (hơn 14 °C/57.2 °F), một phần là do ảnh hưởng của đảo nhiệt đô thị. Sa mạc Sahara là hoang mạc lớn thứ 3 trên thế giới (sau châu Nam Cực và vùng Bắc Cực), nó chiếm hơn 30% diện tích Châu Phi. Các hoang mạc chiếm khoảng 1/3 diện tích bề mặt Trái Đất. Các hoang mạc nóng thường có sự chênh lệch nhiệt độ ngày đêm và theo mùa lớn với nhiệt độ ban ngày cao và ban đêm thấp. Ở các hoang mạc nóng, nhiệt độ ban ngày có thể lên đến 45 °C/113 °F hoặc cao hơn trong mùa hè, và xuống 0 °C/32 °F hoặc thấp hơn vào ban đêm trong mùa đông. Hơi nước trong khí quyển đóng vai trò là một bẫy giữa các sóng hồng ngoại dài phản xạ từ mặt đất, và không khí các hoang mạc không có khả năng ngăn chặn ánh sáng mặt trời ban ngày (trời không mây) hoặc giữ nhiệt vào ban đêm. Do đó, vào ban ngày hầu hết nhiệt từ mặt trời sẽ tiếp cận đến mặt đất, và ngay sau khi mặt trời lặn, hoang mạc lạnh rất nhanh bằng cách bức xạ nhiệt của nó vào không gian. Các khu vực đô thị trong các hoang mạc không có sự dao động nhiệt độ hàng ngày lớn (hơn 14 °C/57.2 °F), một phần là do ảnh hưởng của đảo nhiệt đô thị. Sa mạc Sahara là hoang mạc lớn thứ 3 trên thế giới (sau châu Nam Cực và vùng Bắc Cực), nó chiếm hơn 30% diện tích Châu Phi Do chính việc ít mưa và lượng nước bốc hơi nhiều mà hoang mạc rất hiếm có sống suối, vì vậy chỉ có loại động thực vật có khả năng chịu hạn cao mới có thể tồn tại. Đối với thực vật thì chúng sẽ có khả năng chịu hạn cao và thích hợp sống ở môi trường khắc nghiệt như: Vòng đời ngắn ngủi trong mùa mưa, hạt có thể tồn tại tốt trong điều kiện khắc nghiệt của mùa khô. Loại cây nhiều nước như xương rồng, có thể tích trữ được một lượng nước lớn, phần lá cũng được trở thành gai nhằm hạn chế tối đa sự mất nước của cây. Những loại cây lớn, có bộ rễ ăn sâu xuống để hút nước. Động vật ở hoang mạc khá phong phú, phần lớn là những loài có thể chịu được nắng nóng cùng sự thiếu nước như tắc kè, bọ cạp, lạc đà, linh cẩu, linh dương sừng xoăn, cáo…. Phần lớn những loài này đều kiếm ăn vào ban đêm, còn ban ngày sẽ trú ngụ trong những hang động hoặc tán cây để tránh nắng. Với những thông tin được cung cấp, hy vọng bạn đã hiểu hoang mạc là gì, nguyên nhân hình thành và các đặc điểm thường thấy ở khu vực này. Tóm lại hoang mạc không phải là vùng đất thích hợp mà con người sinh sống. Quá trình phong hóa Các hoang mạc thường có khoảng chênh lệch nhiệt độ rộng giữa ngày và đêm, và giữa các mùa, nhiệt độ cao vào ban ngày và sụt giảm nhanh vào ban đêm. Chênh lệch nhiệt độ ngày-đêm vào khoảng và các đá trên bề mặt chịu sự tác động lớn bởi sự thay đổi nhiệt độ này. Vào ban ngày, bầu trời thường trong và hầu hết bức xạ mặt trời chạm đến bề mặt, nhưng khi mặt trời lặn, hoang mạc lạnh rất nhanh do sự phản xạ năng lượng vào không gian. Ở các hoang mạc nóng, nhiệt độ vào ban ngày có thể vượt hơn trong mùa hè và xuống dưới điểm đóng băng vào ban đêm trong mùa đông. Sự dao động nhiệt độ lớn như thế làm phá hủy cấu trúc của đá lộ trên bề mặt, và các đá này bị phá vỡ theo loại phong hóa cơ học. Các tầng đá bị vỡ vụn trượt xuống thung lũng nơi chúng tiếp tục bị vỡ ra thành những mảnh nhỏ hơn. Các tầng nằm bên trong tiếp tục lộ ra và bị phong hóa tiếp theo. Sự giải phóng áp lực bên trong của khối đá nằm dưới mặt đất hàng trăm triệu năm có thể làm chúng tự phá vỡ khi lộ trên mặt đất. Bóc vỏ hóa tròn cũng có thể xuất hiện khi phần bên ngoài của khối đá bị tróc ra thành từng lớp. Hiện tượng này được cho là gây ra bởi áp lực đặt lên khối đá bằng sự giãn nở và co rút được lặp đi lặp lại, bao gồm việc tạo các vết nứt song song với bề mặt nguyên thủy. Các quá trình phong hóa hóa học có lẽ có vai trò quan trọng hơn ở các hoang mạc so với phong hóa cơ học. Độ ẩm cần thiết có thể có mặt ở dạng sương. Nước dưới đất có thể bị bay hơi và tạo thành các tinh thể muối có thể đẩy các hạt đá ở dạng cát hoặc các đá bở rời theo cách bóc vỏ. Các hang động nông thỉnh thoảng được hình thành tại chân các vách đá theo kiểu này. Khi các dãy núi hoang mạc bị phong hóa làm xuất hiện các khu vực rộng lớn các đá bị phá vỡ và các đống đổ nát. Quá trình này cứ tiếp tục và sản phẩm cuối cùng hoặc là bụi hoặc là cát. Bụi được tạo thành từ sét được cố kết hoặc các trầm tích núi lửa trong khi cát được tạo thành từ các mảnh vụn của đá granit, đá vôi và cách kết. Có một kích thước nhất định trong việc phong hóa (khoảng 500µ) bên dưới kích thước này quá trình phong hóa do nhiệt sau đó không xảy ra và đây là kích thước nhỏ nhất đối với các hạt cát. Khi dãy núi bị bào mòn, rất nhiều cát được tạo ra. Với tốc độ gió lớn, các hạt cát được tách ra khỏi bề mặt và mang đến nơi khác theo quá trình nhảy cóc. Các hạt cuộn theo gió sẽ được mang đi xa hơn trên đường đi, nhưng khi động năng của gió không còn khả năng mang chúng nữa thì chúng lắng đọng lại. Cuối cùng các hạt cát lắng đọng lại ở một khu vực có vùng cao độ được gọi là biển cát, hoặc tạo thành các cồn cát. Bão cát và bão bụi Các trận bão cát và bụi là các sự kiện tự nhiên xuất hiện những vùng mà mặt đất không được lớp thực vật bảo vệ. Các trận bão bụi thường bắt đầu ở các rìa hoang mạc nơi mà các vật liệu hạt mịn đã được gió mang đi một khoảng cách xa. Khi một cơn gió ổn định bắt đầu thổi, các hạt mịn nằm trên bề mặt đất bắt đầu lay chuyển. Khi tốc độ gió tăng lên, một số hạt được nâng lên theo dòng không khí. Khi chúng tiếp đất, chúng va chạm vào các hạt khác và có thể làm bắn tung các hạt này vào không khí, và cứ như thế nó tạo một phản ứng dây chuyền. Khi bị đẩy, các hạt chuyển động theo một trong 3 cách, tùy thuộc vào kích thước, hình dạng và tỉ trọng của chúng; lơ lửng, nhảy cóc, hoặc lăn. Chuyển động lơ lửng chỉ xảy ra đối với các hạt có đường kính nhỏ hơn 0,1 mm (0.004 in). Trong một trận bão bụi, các hạt mịn này được nâng lên và lan tỏa đến độ cao . Chúng làm giảm tầm nhìn và có thể tồn tại rất lâu trong không khí đến vài ngày, được gió mậu dịch mang đi khoảng cách xa đến . Các đám mây bụi dày đặc có thể được hình thành từ các cơn gió mạnh hơn, di chuyển qua nhiều vùng đất với phần rìa đầu cơn bão cuồn cuộn. Chúng có thể che khuất ánh sáng mặt trời và ngày có thể tối như đêm trên mặt đất. Trong một nghiên cứu về bão bụi ở Trung Quốc năm 2001, ước tính có khoảng 6,5 triệu tấn bụi được mang đi, che phủ một vùng rộng . Kích thước hạt trung bình khoảng 1,44 μm. Ở quy mô nhỏ hơn nhiều, các hiện tượng kiểu này tồn tại trong thời gian ngắn có thể xuất hiện trong các điều kiện thời tiết tĩnh lặng khi khối không khí nóng gần mặt đất dâng lên cao nhanh đi qua một túi khí lạnh hơn, áp suất không khí thấp bên trên tạo thành một cột xoáy các hạt bụi/cát thì được gọi là lốc cát. Các trận bão cát xuất hiện ít thường xuyên hơn bão bụi. Chúng thường bắt đầu từ những cơn bão bụi lớn và xuất hiện khi vận tốc gió vượt đến điểm mà nó có thể mang được những hạt nặng hơn. Các hạt kích thước cát này (đường kính khoảng ) bị đẩy vào không khi nhưng lại rơi xuống trên mặt đất và chúng lại đẩy các hạt khác trong quá trình này. Trọng lượng của chúng ngăn chúng bị gió mang đi khoảng cách xa và hầu hết chỉ mang đi trong khoảng vài mét. Cát chảy thành dòng song song với bề mặt đất như dòng nước, thường dâng lên cao khoảng . Trong một trận gió ổn định thật lớn, dòng cát này có thể dâng lên cao trong khi các hạt cát lớn nhất không thể được gió mang đi. Chúng được vận chuyển theo cách lăn trên nền hoang mạc hoặc nhảy khoảng cách ngắn. Trong một trận bão cát, các hạt cát được gió mang đi trở thành hạt được tích điện. Các trường điện này có độ lớn lên đến 80 kV/m, có thể tạo ra các tia lửa và có thể gây nhiễu động hệ thống viễn thông. Chúng cũng gây khó chịu cho con người và có thể gây đau đầu và buồn nôn. Điện trường gây ra bởi va chạm giữa các hạt trong không khí và tác động của nhảy cóc lắng trên mặt đất. Cơ chế này hơi khó hiểu nhưng các hạt thường tích điện âm khi đường kính dưới 250 μm và điện âm tích điện dương lớn hơn 500 μm. Các dạng địa hình Nhiều người nghĩ rằng sa mạc là bao gồm các khu vực rộng lớn có các cồn cát cuồn cuộn bởi vì đó là cách chúng thường được mô tả trên truyền hình và trong các bộ phim, nhưng các hoang mạc không phải lúc nào cũng như thế. Trên khắp thế giới, khoảng 20% là hoang mạc cát hay sa mạc, thay đổi từ chỉ 2% ở Bắc Mỹ đến 30% ở Úc và hơn 45% ở Trung Á. Nơi có sa mạc, nó thường có một lượng lớn cát hoặc một vùng rộng lớn bao gổm các cồn cát. Một lớp cát gần bề mặt, gồm các hạt một phần được cố kết thành lớp với bề dày thay đổi từ vài cm đến vài mét. Cấu trúc của các lớp cát mỏng nằm ngang này được cấu tạo từ các hạt bụi thô và cát mịnh đến cát hạt trung, tách biệt với các lớp cát hạt thô và cuội. Những hạt lớn hơn neo các hạt khác tại và cũng có thể kết chặt với nhau tạo thành một lớp đường sa mạc nhỏ. Các vết gợn sóng hình thành trên thảm cát khi gió vượt trên 24 km/h (15 mph). Chúng hình thành vuông góc với hướng gió và chuyển động từ từ trên bề mặt khi gió thổi liên tục. Khoảng cách giữa các đỉnh là chiều dài trung bình mà các hạt nhảy trong quá trình nhảy cóc. Các vết gợi sóng không tồn tại lâu và thay đổi khi hướng gió thay đổi. Các cồn cát là sự tích tụ của cát do gió mang đến, bao gồm các đỉnh hay các miệng. Chúng hình thành theo hướng gió từ các nguồn cát rất khô, bở rời và xuất hiện khi các điều kiện địa hình và thời tiết phát làm cho các hạt mang theo gió lắng đọng. Khi gió thổi, sự nhảy cóc và bò diễn ra ở hướng đón gió và các hạt cát chuyển động lên đỉnh. Khi lên đến đỉnh, chúng rơi về phía khuất gió. Sườn đón gió có độ dốc 10° đến 20° trong khi sườn khuất gió khoảng 32°, là góc ma sát trong của cát khô bở rời sẽ trượt. Khi sự chuyển động của cát diễn ra như vậy, cồn cát chi di chuyển một cách từ từ trên bề mặt đất. Các cồn cát đôi khi tồn tại riêng lẻ, nhưng chúng thường gồm một nhóm. Khi chúng mở rộng, chúng được gọi là biển cát. Hình dạng của cồn cát phụ thuộc vào đặc điểm gió thịnh hành. Các cồn cát Barchan được tạo ra bởi các cơ gió mạnh thổi qua bề mặt bằng, và có hình lưỡi liềm với bề lõm nằm dưới hướng gió. Khi có hai hướng gió thổi vuông góc nhau, một loạt các cồn cát kéo dài, thẳng hàng được gọi các cồn seif có thể hình thành. Chúng cũng xuất hiện song song với hướng gió mạnh chủ đạo. Các đụn cát sao được hình thành do gió thay đổi, và có một số đường gờ và mặt trượt tỏa ra từ một điểm trung tâm. Chúng có xu hướng phát triển theo chiều dọc; chúng có thể đạt đến độ cao 500 m (1.600 ft), khiến chúng trở thành loại cồn cát cao nhất. Những gò cát tròn không có mặt trượt là những đụn cát hình vòm hiếm gặp, được tìm thấy ở rìa gió ngược của biển cát. Phần lớn diện tích bề mặt của các hoang mạc trên thế giới là các đồng bằng bằng phẳng, bị phủ bởi đá được hình thành chủ yếu do gió. "Sự bào mòn do gió" là quá trình mà các vật liệu hạt min được gió mang đi liên tục. Quá trình này làm cho các vật liệu thạt thô hơn chủ yếu là cuội-sỏi với các hạt đá lớn hơn, còn sót lại, tạo thành một vùng đất bằng được phủ bởi các hòn đá tròn cạnh. Nhiều giả thuyết khác nhau đã được đưa ra nhằm giải thích lý do tại sao hình thành những bề mặt đá này. Có thể là sau khi cát và bụi bị gió thổi đi nơi khác, các hòn đá bị di chuyển nhỏ vào vị trí trống đó; một cách khác là các hòn đá trước đó nằm bên dưới bề mặt bằng cách nào đó nó lộ lên trên mặt. Xói mòn rất ít khi xảy ra sau khi hình thành một lớp thảm cuội sỏi, và mặt đất trở nên ổn định. Sự bốc hơi mang hơi ẩm lên trên bề mặt thông qua quá trình mao dẫn và các muối calci có thể kết tủa, liên kết các hạt vật liệu để tạo thành cuội hoang mạc. Cùng lúc, vi khuẩn sống trên bề mặt các hạt đá tích tụ các khoáng chất và các hạt sét, tạo thành một lớp màu nâu bóng phủ lên bề mặt các hạt đá được gọi là sơn hoang mạc (desert varnish). Các hoang mạc không được cấu tạo bởi cát khác thì bao gồm chủ yếu là các đá gốc, đất khô, và nhiều dạng địa hình khác chịu ảnh hưởng bởi dòng nước như các nón phóng vật, các hố sụt, các hồ tạm thời hoặc vĩnh cửu, và các ốc đảo. Hamada là một kiểu địa hình hoang mạc chủ yếu bao gồm các cao nguyên đá nơi mà cát bị bóc đi bởi các quá trình của gió. Các địa hình khác bao gồm các đồng bằng phần lớn được bao phủ bởi cuội, dăm trong khi các vật liệu hạt mịn hơn thì bị gió mang đi nơi khác. Các dạng này được gọi là "reg" ở tây Sahara, "serir" ở đông Sahara, "gibber plains" ở Úc và "saï" ở Trung Á. Cao nguyêen Tassili ở Algeria là một địa hình hỗn hợp bao gồm các nơi lộ cát kết bị bào mòn, hẻm vực, núi khối tảng, óng khói tiên, vết nứt, những tấm nằm ngang và các khe núi. Ở một vài nơi gió cắt qua tạo thành các hốc hoặc vòm, một số nơi khác tạo thành các trụ hình nấm ở chân hẹp hơn ở phần đỉnh. cao nguyên Colorado bị xâm thực do dòng nước, ở đây sông Colorado đã cắt qua địa hình này hơn hàng thiên niên kỷ qua nền hoang mạc tạo thành hẻm vực với độ sâu hơn 1.800 m, làm lộ ra các tầng đá có tuổi hơn 2 tỉ năm. Nước Một trong những nơi khô nhất trên Trái Đất là hoang mạc Atacama. Nơi này hầu như không có sự sống do nó không được đón nhận mưa do sự ngăn cản của dãy núi Andes ở phía đông và dãy núi ven biển Chile ở phía tây. Dòng hải lưu Humboldt và xoáy nghịch Thái Bình Dương góp phần làm cho khí hậu khô của Atacama. Lượng giáng thủy trung bình ở vùng Antofagasta của Chile chỉ /năm. Một số trạm thời tiết ở Atacama không bao giờ ghi nhận mưa. Bằng chứng cho thấy rằng Atacama có thể không có bất kỳ trận mưa nào từ 1570 đến 1971. Do quá khô nên các vùng núi có độ cao đến hoàn toàn bị đóng băng và ở phía nam của vĩ độ 25°N đến 27°N, có thể đã đóng băng trong suốt kỷ Đệ tứ, mặc dù băng vĩnh cửu kéo dài xuống đến độ cao và kéo dài lên trên . Tuy nhiên, có một số thực vật sống ở Atacama, chúng đặc biệt thích nghi khi hút ẩm và sương giá từ các luồng gió thổi vào từ Thái Bình Dương. Khi mưa rơi trên các hoang mạc, nó thường rất dữ dội. Bề mặt hoang mạc là bằng chứng cho điều này với các kênh dẫn khô được gọi là lạch hoặc các khúc uốn trên bề mặt của nó. Các dấu hiệu này cho thấy chúng trải qua các đợt lũ quét với các dòng xoáy có tốc độ đáng kinh ngạc, có thể kéo dài hàng km. Hầu hết các hoang mạc là các bồn trũng mà không có hệ thống thu-thoát nước đổ vào biển nhưng một vài hoang mạc cắt qua các con sông kỳ lạ có nguồn từ các dãy núi hoặc các khu vực có lượng mưa lớn ở bên ngoài ranh giới hoang mạc. Sông Nin, sông Colorado và Hoàng Hàn là như thế, chúng mất hầu hết nước qua việc ngấm xuống đất và bốc hơi khi chúng đi qua hoang mạc, đồng thời làm dâng cao mực nước ngầm của khu vực lân cận. Cũng có thể có các nguồn nước ngầm trong các hoang mạc ở dạng suối, tầng chứa nước, các sông ngầm hoặc hồ. Nơi các dạng nước này nằm gần bề mặt, các giếng nước có thể có nước và các ốc đảo có thể hình thành nơi thực vật và động vật có thể sinh sống. Hệ thống tần chứa nước cát kết Nubia dưới hoang mạc Sahara là nơi tích tụ nước chôn vùi lớn nhất đã được biết đến. Great Man-Made River được Colonel Gadaffi của Libya xây dựng đã lấy nước từ tầng chứa nước này và cung cấp cho các thành phố ven biển. Ốc đảo Kharga ở Ai Cập dài và là ốc đảo lớn nhất trong hoang mạc Libya. Một hồ chứa chiếm trọn vùng trũng này trong thời kỳ cổ và tạo ra một lớp trầm tích cát-sét dày. Các giếng được đào để lấy nước từ tầng cát kết chứa nước nằm bên dưới lớp cát-sét này. Sự thấm qua có thể xảy ra trong các bức tường của hẻm vực và các ao có thể tồn tại trong bóng râm gần nơi khô hạn của đoạn sông bên dưới. Các hồ có thể hình thành trong các bồn trũng nơi có đủ lượng mực hoặc nước tan chảy từ bằng ở bên trên. Cũng thường có các nguồn nước nông và mặn, và các luồng gió thổ qua bề mặt chúng làm cho nước di chuyển đến các vùng đất thấp lân cận. Khi các hồ khô đi, chúng để lại một lớp phủ được cấu tạo bởi sét, bột hoặc cát được gọi là playa. Các hoang mạc ở Bắc Mỹ có hơn một trăm playa, nhiều trong số chúng là các di tích của hồ Bonneville, hồ này bao phủ các vùng của Utah, Nevada và Idaho trong suốt thời kỳ băng hà gần đây nhất khi khí hậu lúc đó lạnh hơn và ẩm ướt hơn. Các hồ dạng này như Great Salt Lake, hồ Utah, hồ Sevier và nhiều hồ khô khác. Bề mặt bằng phẳng của các playa từng được dùng là cho các vụ thử xe tốc độ cao ở hoang mạc Black Rock và Bonneville Speedway và Không quân Hoa Kỳ sử dụng Rogers Dry Lake ở hoang mạc Mojave làm đường băng cho máy bay và tàu không gian. Các loại hoang mạc Hoang mạc được định nghĩa và phân loại theo nhiều cách, thường là kết hợp giữa giáng thủy dựa trên số ngày mưa/tuyết rơi, nhiệt độ, và độ ẩm, và đôi khi thêm các yếu tố khác. Ví dụ, Phoenix, Arizona có lượng mưa hàng năm ít hơn , và ngay lập tức được công nhận là nằm trong nhóm hoang mạc bởi vì các thực vật thích nghi khô hạn ở đó. Sườn Bắc Alaska của dãy Brooks thuộc Alaska cũng có lượng giáng thủy hàng năm nhỏ hơn và thường được xếp vào hoang mạc lạnh. Các vùng khác trên thế giới có hoang mạc lạnh, bao gồm cả Himalaya và các vùng ở độ cao lớn khác thuộc những nơi khác của thế giới. Các hoang mạc vùng Cực bao gồm chủ yếu là các khu vực đóng băng Bắc Băng Dương và Nam Băng Dương. Định nghĩa phi kỹ thuật nói rằng các hoang mạc là những bộ phận trên bề mặt Trái Đất có không đủ thảm thực vật để hỗ trợ sự sống cho con người. Hoang mạc đôi khi được phân loại theo "nóng" hoặc "lạnh", "bán khô hạn" hoặc "ven biển". Đặc điểm của hoang mạc nóng như có nhiệt độ cao vào mùa hè; lượng bay hơi lớn hơn lượng giáng thủy do nhiệt độ cao, gió mạnh và không có mây; sự dao động đánh kể về sự xuất hiện mưa, cường độ và phân bố mưa; và độ ẩm thấp. Nhiệt độ mùa đông thay đổi đáng kể giữa các hoang mạc và thường liên quan đến vị trí địa lý của hoang mạc trên các lục địa và vĩ độ. Biên độ dao động nhiệt độ hàng ngày rất cao đến 22 °C (40 °F) hoặc lớn hơn, với sự mất nhiệt do bức xạ vào ban đêm đang được tăng lên bởi bầu trời trong. Các hoang mạc lạnh, đôi khi được gọi là hoang mạc ôn đới, phân bố ở các vĩ độ cao hơn so với sa mạc nóng và khô cằn là do không khí khô. Một số hoang mạc lạnh ở xa đại dương và những loại khác được phân cách bởi các dãy núi từ biển và trong cả hai trường hợp không có đủ độ ẩm trong không khí để gây nhiều mưa. Hoang mạc lớn nhất kiểu này được tìm thấy ở Trung Á. Những hoang mạc khác ở phía đông của dãy núi Rocky, phía đông của miền Nam Andes và ở phía nam Úc. Hoang mạc ở Cực thuộc nhóm đặc biệt của hoang mạc lạnh. Không khí rất lạnh và mang chút hơi ẩm, rất ít giáng thủy, chủ yếu ở dạng tuyết, được mang theo trong các sơn gió thường mạnh mẽ và có thể hình thành những trận bão tuyết, trôi và cồn tương tự như của bão bụi và cát trong vùng sa mạc khác. Ở Nam Cực, ví dụ, lượng giáng thủy hàng năm khoảng trên cao nguyên trung tâm và gấp mười lần lượng đó trên một số bán đảo lớn. Chỉ dựa trên lượng mưa, hoang mạc siêu khô cằn nhận được ít hơn lượng mưa mỗi năm; chúng không có chu kỳ theo mùa hàng năm và trải qua các giai đoạn 12 tháng không hề có mưa. Hoang mạc khô cằn nhận được trong năm và hoang mạc bán khô cằn nhận được . Tuy nhiên, các yếu tố như nhiệt độ, độ ẩm, tốc độ bốc hơi và thoát hơi nước, và khả năng lưu trữ độ ẩm của đất có ảnh hưởng đáng kể vào mức độ khô hạn và các thực vật và động vật có thể được duy trì. Mưa rơi vào mùa lạnh có thể có hiệu quả hơn thúc đẩy tăng trưởng thực vật, và xác định ranh giới của hoang mạc và các vùng bán khô cằn bao quanh chúng chỉ dựa trên các căn cứ về mưa vẫn còn là vấn đề chưa được giải quyết. Hoang mạc ven biển chủ yếu được tìm thấy trên các rìa phía tây của các lục địa nơi mà các dòng hải lưu lạnh trỗi lên từ dưới đáy đại dương. Những cơn gió lạnh thổi qua mặt nước này nhận chút hơi ẩm và các khu vực ven biển có nhiệt độ thấp và lượng mưa rất thấp, giáng thủy chủ yếu là ở dạng sương mù và sương giá. Phạm vi nhiệt độ hàng ngày và hàng năm là tương đối thấp, tương ứng là 11 °C (20 °F) và 5 °C (9 °F) ở sa mạc Atacama. Các hoang mạc thuộc loại này thường dài và hẹp và được giới hạn phía đông bởi dãy núi. Chúng phân bố ở phía tây nam châu Phi, Chile, miền nam California và Baja California. Các hoang mạc ven biển khác chịu ảnh hưởng của dòng lạnh được tìm thấy ở Tây Úc, Bán đảo Ả Rập và Sừng châu Phi, và rìa phía tây của sa mạc Sahara. Vào năm 1961, Peveril Meigs chia các sa mạc trên Trái Đất thành ba loại theo lượng mưa mà chúng nhận được. Hệ thống này hiện được chấp nhận rộng rãi, vùng đất cực kỳ khô cằn có ít nhất mười hai tháng liên tục mà không có mưa, đất khô cằn có ít hơn 250 mm (10 in) lượng mưa hàng năm, và các vùng đất khô hạn có lượng mưa trung bình hàng năm từ 250 và 500 mm (10–20 in). Cả hai vùng đất cực kỳ khô cằn và khô cằn được coi là sa mạc trong khi các vùng đất khô hạn thường được gọi là thảo nguyên khi họ đồng cỏ. Hoang mạc cũng được chia theo vị trí địa lý và cấu trúc khí hậu chính, như gió mậu dịch, vĩ độ trung bình, bóng mưa, gió mùa hoặc hoang mạc vùng cực. Hoang mạc gió mậu dịch xuất hiện hoặc ở rỉa của vĩ độ từ 30°đến 35°Bắc và Nam. Các vành đai này liên quan đến gió thổi ngược cận nhiệt đới và các khối không khí khô lớn có nguồn gốc di chuyển từ vĩ độ cao về phía cực. Sa mạc Sahara là thuộc loại này. Hoang mạc vĩ độ trung bình giữa 30 °và 50 °Bắc và Nam. Chúng chủ yếu là ở vùng cách xa biển nơi mà hầu hết độ ẩm đã rơi/tách ra từ gió. Chúng bao gồm các hoang mạc Tengger, và Sonoran. Sa mạc gió mùa cũng tương tự. Chúng xuất hiện ở vùng có sự chênh lệch nhiệt độ lớn giữa biển và đất liền. Không khí ấm ẩm dâng lên trên đất liền, mang hơi nước và quay ngược trở lại biển. Vào sâu vào nội địa, khu vực nhận được rất ít mưa. Các sa mạc Thar gần biên giới Ấn Độ / Pakistan là thuộc loại này. Ở một số nơi trên thế giới, sa mạc được tạo ra bởi sự ảnh hưởng của bóng mưa. Vách địa hình xuất hiện khi các khối không khí dâng cao hơn địa hình mặt đất. Trong quá trình chúng lạnh đi và mất nhiều hơi ẩm bằng cách mưa trên các sườn đón gió của dãy núi. Khi chúng xuống qua sườn khuất gió, khối không khí trở nên ấm hơn và khả năng mang theo hơi ẩm tăng lên nên khu vực có lượng mưa tương đối ít xảy ra. Hoang mạc Taklamakan là ví dụ của loại này, nó nằm trong bóng mưa của Himalaya và nhận lượng giáng thủy hàng năm ít hơn . Các khu vực khác khô hạn do một chặng đường dài từ các nguồn ẩm sẵn có gần nhất. Hoang mạc vùng núi là các nơi khô cằn ở độ cao rất lớn; như trường hợp của bắc Himalaya, thuộc dãy núi Côn Lôn và cao nguyên Thanh Tạng. Nhiều nơi thuộc loại này có độ cao hơn và chế độ nhiệt có thể là hemiboreal. Các nơi này sở hữu tính khô cằn rõ rệt (lượng mưa trung bình hàng năm thường là ít hơn 40 mm hoặc 1,5 in) để cho là rất xa các nguồn ẫm có sẵn gần nhất và thường ở sườn đón và khuất gió của dãy núi. Hoang mạc núi thường là loại lạnh, hoặc có thể là thay đổi nóng ban ngày và lạnh vào ban đêm như trường hợp của các sườn núi phía đông bắc của núi Kilimanjaro. Các hoang mạc cực như McMurdo Dry Valleys vẫn đóng băng do các luồn gió khô katabatic thổi xuống sườn từ các dãy núi xung quanh. Các khu vực hoang mạc cũ hiện nay là môi trường không khô cằn, như hoang mạc cổ Sandhills ở Nebraska. Trong hệ thống phân loại khí hậu Köppen, các hoang mạc được xếp vào nhóm BWh (hoang mạc nóng) hoặc BWk (hoang mạc ôn hòa). Trong phân loại khí hậu Thornthwaite, hoang mạc được xếp vào nhóm khí hậu siêu nhiệt. Các hoang mạc lớn trên Trái Đất Các hoang mạc chiếm khoảng 1/3 diện tích đất liền trên Trái Đất. Phần đất bên dưới có thể bị phủ muối. Quá trình gió là các yếu tố chính định hình nên các cảnh quang hoang mạc. Các hoang mạc vùng cực (hay "hoang mạc lạnh") có những đặc điểm tương tự, ngoại trừ dạng giáng thủy chính là tuyết thay vì mưa. Nam Cực là hoang mạc lạnh lớn nhất (chiếm khoảng 98% lớp băng dày của lục địa này và 2% là đá). Các loại hoang mạc cả nóng và lạnh có vai trò quan trọng trong việc điều hòa nhiệt độ của Trái Đất. Sở dĩ có điều này là do chúng phản xạ nhiều ánh sáng tới và suất phản chiếu (albedo) của chúng cao hơn các khu rừng và biển. Sinh địa lý Hệ thực vật Hệ thực vật sống ở hoang mạc đối mặt với những thách thức nghiêm trọng trong môi trường khô cằn. Vấn đề mà chúng cần phải giải quyết bao gồm việc làm thế nào để có được đủ nước, làm thế nào để tránh bị ăn và làm thế nào để sinh sản. Quang hợp là chìa khóa để tăng trưởng thực vật. Nó chỉ có thể diễn ra trong ngày khi mà năng lượng mặt trời là đủ cần thiết, nhưng vào ban ngày, nhiều sa mạc trở nên rất nóng. Việc mở khí khổng cho phép hút lượng carbon dioxide cần thiết cho quá trình này đồng thời gây ra sự bốc thoát hơi nước, và việc bảo tồn nguồn nước là một ưu tiên hàng đầu cho thực vật ở sa mạc. Một số thực vật đã giải quyết vấn đề này bằng cách áp dụng chuyển hóa axít crassulacean, cho phép chúng mở khí khổng vào ban đêm để cho phép hút CO2 vào, và đóng chúng vào ban ngày, hoặc dùng cách cố định cacbon C4. Nhiều loài thực vật sa mạc đã làm giảm kích thước của lá hoặc bỏ chúng hoàn toàn. Xương rồng là "chuyên gia" sa mạc và trong hầu hết các loài lá đã bị thoái hóa thành gai và diệp lục di chuyển vào thân cây, cấu trúc tế bào trong đó đã được thay đổi để cho phép chúng lưu trữ nước. Khi mưa rơi, nước được hấp thu nhanh chóng bởi rễ nông và giữ lại để cho phép chúng tồn tại cho đến khi cơn mưa tiếp theo, có thể là vài tháng hoặc vài năm sau đó. Loài xương rồng khổng lồ saguaro của hoang mạc Sonoran tạo thành "rừng", cung cấp bóng râm cho các loài thực vật khác và nơi làm tổ của các loài chim sa mạc. Saguaro phát triển rất chậm nhưng có thể sống lên đến hàng trăm năm. Bề mặt thân cây được gấp lại như một concertina, cho phép chúng giãn ra, và các tiêu bản lớn có thể giữ được 8 tấn nước sau khi các trận mưa lớn. Cacti phân bố hạn chế ở Tân Thế giới nhưng các loài thực vật Xerophyta đã phát triển theo các kịch bản tương tự bởi quá trình tiến hóa hội tụ. Thực vật sống ở sa mạc đã hạn chế sự mất nước bằng cách giảm kích thước và số lượng lỗ khí, bởi có lớp phủ sáp và lá rậm hoặc nhỏ. Một số có lá rụng sớm, rụng lá vào mùa khô nhất, và những nhóm khác bị cong lá để giảm bớt bốc hơi. Những loài khác trữ nước trong lá mọng nước hoặc thân hoặc mọng nước. Các loài thực vật sa mạc tối đa hóa sự hấp thu nước bằng bằng cách có bộ rễ nông phát triển rộng, hoặc bằng cách phát triển dài rễ cọc đạt tới xuống tầng đất đá sâu để lấy nước ngầm. saltbush ở Úc có lá mọng nước và tiết ra các tinh thể muối, cho phép nó sống trong khu vực nhiễm mặn. Giống với xương rồng, nhiều loài đã phát triển gai để tránh các động vật ăn chúng. Một số thực vật sa mạc sinh hạt nằm ngủ trong đất cho đến khi có điều kiện phát triển khi có mưa. Các loài cây hàng năm như vậy phát triển với tốc độ rất nhanh và có thể ra hoa và kết hạt chỉ trong vòng vài tuần, nhằm hoàn thành vòng đời phát triển của chúng trước khi nước bị khô cạn. Đối với các loài cây lâu năm, sự sinh sản có nhiều khả năng thành công hơn nếu hạt nảy mầm ở một vị trí bóng râm, nhưng không quá gần với cây mẹ vì có sự cạnh tranh với nó. Một số hạt sẽ không nảy mầm cho đến khi nó đã được thổi trên mặt sa mạc để làm tróc vỏ hạt. Hạt giống của cây bụi mọc trong sa mạc ở Mỹ cứng và không nảy mầm ngay cả khi trồng một cách cẩn thận. Khi nó đã đi qua ruột của Pronghorn thì nó nảy mầm dễ dàng, và đống phân nhỏ ẩm cung cấp một khởi đầu tốt đẹp cho cuộc sống tốt ra khỏi cây mẹ. Thân và lá của một số cây nằm thấp hơn vận tốc bề mặt mà gió có thể mang hạt cát và bảo vệ đất khỏi bị xói mòn. Ngay cả nấm nhỏ và các thực vật cực nhỏ được tìm thấy trên bề mặt đất có thể là một liên kết quan trọng trong việc ngăn ngừa xói mòn và trợ cho các sinh vật sống khác sinh sống. Hoang mạc lạnh thường có nồng độ muối cao trong đất. Cỏ và cây bụi thấp là thảm thực vật chiếm ưu thế ở đây và mặt đất có thể được phủ bởi địa y. Hầu hết các bụi cây có lá gai và rụng lá vào thời kỳ lạnh nhất trong năm. Hệ động vật Động vật thích nghi để sống trong sa mạc được gọi là xerocole. Không có bằng chứng cho thấy nhiệt độ cơ thể của động vật có vú và các loài chim là thích nghi với khí hậu khác nhau, hoặc là nhiệt độ lớn hoặc quá lạnh. Trong thực tế, với một số rất ít trường hợp ngoại lệ, tốc độ trao đổi chất cơ bản của chúng được xác định bởi kích thước cơ thể, không phụ thuộc vào khí hậu mà chúng sống. Nhiều loài động vật sa mạc (và thực vật) cho thấy sự thích nghi tiến hóa đặc biệt rõ ràng cho việc bảo tồn nước hoặc khả năng chịu nhiệt và do đó thường được nghiên cứu trong sinh lý học so sánh, sinh lý học sinh thái và sinh lý học tiến hóa. Một ví dụ cũng được nghiên cứu đầy đủ là sự biệt hóa thận của động vật có vú thể hiện qua các loài sinh sống ở sa mạc. Nhiều ví dụ về tiến hóa hội tụ đã được xác định trong các sinh vật sa mạc, bao gồm giữa cây xương rồng và Euphorbia, chuột túi và jerboas, Phrynosoma và thằn lằn Moloch. Sa mạc thể hiện một môi trường đầy thách thức đối với động vật. Không chỉ những yêu cầu về nước và thức ăn mà chúng cũng cần phải giữ cho nhiệt độ cơ thể ở một mức độ chấp nhận được. Bằng nhiều cách khác nhau, chim là có khả năng nhất để làm điều này trong những động vật bậc cao. Chúng có thể di chuyển đến các khu vực có nhiều thức ăn sẵn có khi sa mạc nở hoa sau các trận mưa địa phương và có thể bay đến những trũng nước xa xôi. Trong hoang mạc nóng, chim lượn có thể tự loại bỏ nhiệt cao từ nền sa mạc quá nóng bằng cách sử dụng nhiệt để bay vút lên đới không khí lạnh ở độ cao lớn. Để bảo tồn năng lượng, các loài chim sa mạc khác chạy thay vì bay. cream-coloured courser flits chạy trên mặt đất trên đôi chân dài của mình, dừng định kỳ để bắt côn trùng. Như các loài chim sa mạc khác, nó có khả năng ngụy trang tốt bởi nó có thể ẩn mình vào cảnh quan xung quanh khi đứng yên. Các con gà gô cát là một chuyên gia về ngụy trang và làm tổ ở mở trên sa mạc cách các vũng nước mà chúng hay uống hàng ngày hàng chục km. Một số loài chim nhỏ sống ban ngày được tìm thấy ở các vị trí rất hạn chế nơi mà bộ lông của chúng giống với màu sắc của bề mặt bên dưới. chim sơn ca sa mạc tắm cát thường xuyên nhằm đảm bảo rằng nó giống với môi trường của nó sống. Nước và cacbon dioxide là sản phẩm cuối cùng của quá trình trao đổi chất và oxy hóa chất béo, protein, và các carbohydrat. Việc oxy hóa 1 gram carbohydrat tạo ra 0,60 gram nước; 1 gram protein sinh ra 0,41 gram nước; và 1 gram chất béo sinh ra 1,07 gram nước, làm cho các loài động vật sa mạc có thể sống mà cần ít hoặc không cần uống nước. chuột túi là một ví dụ về việc sử dụng nước của quá trình trao đổi chất này và bảo tồn nước bằng cách điều khiển tốc độ trao đổi chất thấp cơ bản và vùi mình dưới cát trong cái nóng của ban ngày, làm giảm mất nước qua bộ lông và hệ hô hấp khi chúng nghỉ ngơi. Các động vật có vú ăn cỏ lấy ẩm từ thực vật mà chúng ăn. Các loài như addax antelope, dik-dik, Grant's gazelle và oryx sử dụng rất hiệu quả phương pháp này nên chúng không cần uống nước. Lạc đà là một ví dụ tuyệt vời của một động vật có vú thích nghi với cuộc sống sa mạc. Nó giảm thiểu sự mất nước của mình bằng cách sản xuất nước tiểu đậm đặc và phân khô, và có thể mất 40% trọng lượng cơ thể của mình thông qua sự mất nước mà không chết do mất nước. Carnivores can obtain much of their water needs from the body fluids of their prey. Nhiều loài động vật sa mạc nóng khác sống về đêm thì tìm kiếm bóng mát vào ngày hoặc ở trong hang dưới lòng đất. Ở độ sâu hơn , những chúng vẫn duy trì ở mức từ 30 đến 32 °C (86 và 90 F) không phụ thuộc vào nhiệt độ bên ngoài. Chuột nhảy, chuột sa mạc, chuột túi và các loài gặm nhấm nhỏ khác ra khỏi hang của chúng vào ban đêm và do đó, làm cáo, chó sói, chó rừng và rắn săn chúng. Chuột túi giữ lạnh bằng cách tăng nhịp hô hấp của chúng, thở hổn hển, tiết mồ hôi và làm ẩm da của chân trước bằng nước bọt của chúng. Động vật có vú sống ở hoang mạc lạnh đã phát triển sự cách nhiệt cao hơn thông qua bộ lông cơ thể ấm hơn và các lớp cách nhiệt bằng mỡ dưới da. Chồn Bắc Cực có tốc độ trao đối chất lớn hơn gấp 2 đến 3 lần so với các loài động vật có vú cùng kích thước. Chim đã tránh được vấn đề mất nhiệt qua đôi chân của mình bằng cách không cố gắng để duy trì nhiệt của chân bằng với nhiệt của các phần còn lại của cơ thể, một dạng cách nhiệt thích nghi. Chim cánh cụt hoàng đế có bộ lông dày, một lớp cách nhiệt (đệm) không khí kế lớp da và nhiều, và các cơ chế nhiệt khác nhau để duy trì nhiệt cơ thể chúng trong một môi trường khắc nghiệt nhất trên Trái Đất. Là động vật máu lạnh, bò sát không thể sống trong hoang mạc lạnh nhưng rất phù hợp với những hoang mạc nóng. Trong cái nóng ban ngày của sa mạc Sahara, nhiệt độ có thể tăng lên . Loài bò sát không thể tồn tại ở nhiệt độ này và thằn lằn sẽ bị gục ngã do nhiệt ở . Chúng ít thích nghi với cuộc sống sa mạc và không thể để làm mát mình bằng cách đổ mồ hôi vì thế chúng cần ẩn nấp tránh cái nắng ban ngày. Trong phần đầu của đêm, khi mặt đất tỏa nhiệt hấp thụ trong ngày, chúng xuất hiện và chuẩn bị săn mồi. Thằn lằn và rắn là nhiều nhất trong các khu vực khô cằn và rắn nhất định đã phát triển một phương pháp di chuyển mới cho phép chúng di chuyển về hai bên và điều hướng các cồn cát cao. Các loài này bao gồm trong chi rắn sừng của châu Phi và Crotalus cerastes của Bắc Mỹ, sự tiến hóa riêng biệt nhưng có các hành vi giống như tiến hóa hội tụ. Nhiều loài bò sát sa mạc là động vật ăn thịt phục kích và thường chôn mình trong cát, chờ đợi con mồi đến trong phạm vi tấn công. Động vật lưỡng cư có vẻ không phải là cư dân sa mạc, vì chúng cần giữ cho da ẩm và phụ thuộc vào nước cho mục đích sinh sản. Trong thực tế, một số ít loài được tìm thấy trong môi trường sống này đã thực hiện một số sự thích nghi đáng chú ý. Hầu hết trong số đó là fossorial, trải qua những tháng khô nóng ngủ hè trong hang sâu. Trong khi đó chúng lột da nhiều lần và giữ lại các phần da đó xung quanh chúng để làm một lớp không thấm nước như kén để giữ độ ẩm. Trong sa mạc Sonoran, Couch's spadefoot toad dành phần lớn thời gian trong năm ngủ trong hang của nó. Mưa lớn là nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện và đầu tiên con đực tìm một cái ao phù hợp kêu gọi thu hút các con khác. Trứng được đẻ và những con nòng nọc phát triển nhanh chóng khi chúng phải đạt đến biến thái hoàn toàn trước khi nước bốc hơi hết. Khi sa mạc khô đi, con cóc trưởng thành lại chôn mình. Các con con ở lại trên bề mặt trong một thời gian, ăn và lớn lên, nhưng ngay sau đó chúng đào dang vùi mình xuống. Một ít trong số chúng có thể đến tuổi trưởng thành. The water holding frog in Australia has a similar life cycle and may aestivate for as long as five years if no rain falls. Desert rain frog của Namibia là loài sống về đêm và tồn tại nhờ vào độ ẩm của sương muối biển từ Đại Tây Dương. Động vật không xương sống, đặc biệt là arthropoda, đã thành công khi sống trong hoang mạc. Ruồi, bọ cánh cứng, kiến, mối, locust, Chiếu, bò cạp và nhện có các lớp biểu bì cứng, không thấp nước và nhiều trong số chúng đẻ trứng dưới mặt đất và con con phát triển khác xa với nhiệt độ cực cao trên mặt đất. Cataglyphis bombycina sử dụng protein chống sóc nhiệt theo một cách mới và kiếm ăn bên ngoài trong một khoảng thời gian rất ngắn trong ngày. Stenocara dentata ở Namibia đứng trên các chân trước của nó và nâng mai của nó để hứng sương mù buổi sáng ở dạng ngưng tụ, rồi chuyển nước vào miệng của nó. Một số loài arthropoda sử dụng các ao tạm hình thành sau cơn mưa và hoàn thành vòng đời của nó trong vài ngày. Tôm sa mạc thực hiện điều này, xuất hiện "một cách kỳ lạ" trong vũng nước mới được hình thành như những quả trứng đang ngủ nở ra. Những loài khác, chẳng hạn như brine shrimp, Anostraca và Notostraca, được ngừng trao đổi chất và có thể mất đến 92% khối lượng cơ thể của chúng, có thể khôi phục nước ngay sau khi trời mưa và hồ tạm thời của chúng xuất hiện trở lại. Quan hệ với con người Con người đã sử dụng hoang mạc từ lâu để làm nơi sinh sống, và gần đây là khai thác khoáng sản và thu lấy năng lượng mặt trời. Các hoang mạc có vai trò quan trọng trong văn hóa của con người với nhiều tác phẩm văn học viết về chúng. Lịch sử Con người đã và đang sống trong hoang mạc hàng thiên niên kỷ. Nhiều bộ tộc chẳng hạn như thổ dân Kalahari, thổ dân Úc và các bộ tộc khác nhau của người da đỏ châu Mỹ nguyên thủy sống bằng săn bắn hái lượm. Họ đã phát triển kỹ năng trong việc chế tạo và sử dụng vũ khí, theo dõi động vật, tìm nguồn nước, tìm kiếm thức ăn từ các loại cây ăn được và sử dụng những điều họ tìm thấy trong môi trường tự nhiên của họ để cung cấp nhu cầu hàng ngày của họ. Kỹ năng tự cung tự cấp và kiến ​​thức đã được truyền miệng qua nhiều thế hệ. Các nền văn hóa khác nhau phát triển đời sống du mục như những người chăn nuôi cừu, dê, gia súc, lạc đà, bò Tây Tạng hoặc tuần lộc. Họ đã đi qua khu vực rộng lớn với đàn gia súc của họ, di chuyển đến đồng cỏ mới theo mùa và lượng mưa thất thường đã thúc đẩy phát triển cây trồng mới. Họ mang theo lều làm bằng vải hoặc da treo trên các cây cột và chế độ ăn uống của họ bao gồm sữa, máu và đôi khi thịt. Những người du mục sa mạc cũng là các thương nhân. Sahara là một vùng đất rộng lớn của đất trải dài từ vành đai Đại Tây Dương đến Ai Cập. Các tuyến đường thương mại đã được phát triển liên kết Sahel ở phía nam với khu vực Địa Trung Hải màu mỡ ở phía bắc và một lượng lớn lạc đà được sử dụng để vận chuyển hàng có giá trị trên sa mạc. Người Tuareg là các thương nhân và hàng hóa được vận chuyển truyền thống bao gồm nô lệ, ngà voi và vàng đi về phía bắc và muối đi về phía nam. Người Berber với sự hiểu biết về khu vực này đã được sử dụng nó để hướng dẫn các đoàn lữ hành giữa các ốc đảo khác nhau và các giếng nước. Hàng triệu nô lệ đã bị bắt đưa về phía bắc qua Sahara trong khoảng từ thế kỷ VIII đến XVIII. Các phương tiện vận tải đường bộ truyền thống sụt giảm với sự ra đời của xe có động cơ, vận chuyển và vận tải hàng không, nhưng các đoàn lữ hành vẫn đi đi lại theo tuyến giữa Agadez và Bilma và giữa Timbuktu và Taoudenni mang muối từ bên trong sa mạc đến các cộng đồng ở rìa sa mạc. Xung quanh vành của sa mạc, nơi có lượng mưa nhiều hơn và điều kiện môi trường phù hợp hơn, một số nhóm đã trồng cây. Việc trồng trọt này có thể xảy ra khi hạn hán làm gia súc chết, buộc họ phải chuyển từ chăn nuôi gia súc sang canh tác. Với một ít nguyên liệu đầu vào, họ đã cảm ơn thời tiết và có thể đã sống tự cung tự cấp. Đất mà họ canh tác làm giảm diện tích có sẵn cho những người chăn nuôi du mục, gây ra các tranh chấp về đất đai. Rìa bán khô cằn của sa mạc có lớp đất trồng trọt mỏng, mà có nguy cơ bị xói mòn khi tiếp xúc, như đã xảy ra tại Mỹ Dust Bowl trong những năm 1930. Các loại cỏ giữ đất tại chỗ đã bị cày xới, và một loạt các năm khô gây ra mất mùa, trong khi cơn bão bụi khổng lồ thổi lớp đất mặt đi. Nửa triệu người Mỹ đã buộc phải rời khỏi đất đai của họ trong thảm họa này. Thiệt hại tương tự đang diễn ra ngày nay ở các khu vực bán khô hạn và khoảng mười hai triệu ha đất đang bị biến thành sa mạc mỗi năm. Sa mạc hóa do các yếu tố như hạn hán, thay đổi khí hậu, canh tác nông nghiệp, chăn thả quá mức và nạn phá rừng. Thảm thực vật đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định thành phần của đất. Trong nhiều môi trường, tỷ lệ xói mòn và dòng chảy mặt tăng lên đáng kể với sự suy giảm lớp phủ thực vật. Các bề mặt khô cằn không được bảo vệ có xu hướng bị gió thổi bay đi hoặc bị cuốn trôi bởi lũ quét, để lại lớp đất màu mỡ trơ trọi dưới ánh nắng mặt trời và trở thành lớp đất không hiệu quả. Mặc dù chăn thả quá mức trong lịch sử được coi là một nguyên nhân gây ra sa mạc hóa, có một số bằng chứng cho thấy động vật hoang dã và thuần thóa thực sự cải thiện khả năng sinh sản và thảm thực vật, và việc tiêu thụ lớp phủ làm thúc đẩy quá trình xói mòn. Khai thác tài nguyên thiên nhiên Các hoang mạc có nhiều nguồn tài nguyên khoáng sản đáng kể, đôi khi phủ toàn bộ bề mặt của chúng, làm cho chúng có những màu sắc đặc trưng. Ví dụ như nhiều sa mạc cát màu đỏ là do chúng chứa các khoáng laterit. Các quá trình địa chất trong khí hậu hoang mạc có thể tập trung các khoáng sản thành những mỏ có giá trị. Nước ngầm rò rỉ có thể trích xuất khoáng vật quặng và tích tụ chúng, theo mực nước ngầm để tạo thành dạng tập trung. Tương tự như vậy, sự bay hơn có khuynh hướng tập trụng các khoáng vật trong các hồ hoang mạc, làm cạn hồ hay làm giàu khoáng vật. Sự bốc hơi có thể tập trung nhiều loại khoáng vật tạo thành nhiều dạng mỏ evaporite như thạch cao, natri nitrat, natri chloride và khoáng vật borat. Evaporit được tìm thấy trong hoang mạc Great Basin ở Hoa Kỳ, đã được khai thác từ lâu bằng cách sử dụng "nhóm 20 con la" để kéo các xe chở borax từ Thung lũng Chết đến đường sắt gần nhất. Sa mạc đặc biệt giàu các khoáng sản muối như sa mạc Atacama ở Chile, nơi mà natri nitrat được khai thác dùng làm chất nổ và phân bón từ khoảng năm 1850. Các khoáng sản sa mạc khác như đồng ở Chile, Peru, và Iran, và sắt và urani ở Úc. Nhiều kim loại, muối khác và đá có giá trị thương mại như pumice cũng được khai thác từ sa mạc trên khắp thế giới. Dầu và khí hình thành ở đáy các vùng biển nông khi các vi sinh vật phân hủy trong điều kiện yếm khí và sau đó bị chôn vùi bởi các trầm tích. Nhiều hoang mạc có thời kỳ từng là biển nông và các loại khác có sự tích tụ hydrocarbon được vận chuyển đến do hoạt động kiến tạo mảng. Một số mỏ dầu lớn như Ghawar được phát hiện dưới cát của Ả Rập Saudi. Các nhà địa chất học tin rằng các loại mỏ khác dầu được hình thành từ các quá trình do gió trong các hoang mạc cổ như những trường hợp của các mỏ dầu ở Mỹ. Canh tác Hệ thống canh tác truyền thống trên sa mạch đã được thiết lập từ lâu ở Bắc Phi, tưới tiêu là chìa khóa thành công ở những khu vực mà áp lực về nước là nhân tố hạn chế cho sự phát triển. Các công nghệ có thể được sử dụng như tưới nhỏ giọt, việc sử dụng các chất thải hữu cơ hoặc phân chuồng như phân bón và thực hiện quản lý nông nghiệp truyền thống khác. Một khi khả năng sinh sản đã được xây dựng, sản xuất nông nghiệp tiếp tục giữ đất khỏi sự hủy diệt bởi gió và các hình thức khác của sự xói mòn. Người ta phát hiện ra rằng vi khuẩn thúc đẩy tăng trưởng thực vật đóng một vai trò trong việc tăng sức đề kháng của cây đối với các điều kiện khó khăn và việc giữ các rhizobacteria có thể được cấy vào đất trong vùng lân cận của thực vật. Một nghiên cứu về những vi khuẩn này đã phát hiện ra rằng canh tác trên sa mạc cản trở sa mạc hóa bằng cách thiết lập các đảo của khả năng sinh sản cho phép nông dân đạt được năng suất tăng bất chấp các điều kiện môi trường bất lợi. Một thử nghiệm thực địa ở sa mạc Sonoran khi để lộ gốc rễ của các loài cây khác nhau để rhizobacteria và vi khuẩn cố định nitơ Azospirillum brasilense khôi phục lại các vùng đất bị suy thoái chỉ mới thành công một phần. sa mạc Judean đã được canh tác vào thế kỷ VII TCN trong thời đại đồ sắt, cung cấp thực phẩm cho các pháo đài trên Sa mạc. Người Mỹ bản địa ở phía nam miền Tây Hoa Kỳ đã trở thành nhà nông nghiệp học khoảng năm 600 khi hạt giống và công nghệ từ Mexico. Họ đã sử dụng các kỹ thuật ruộng bậc thang và khu vườn tăng trưởng bên cạnh thấm, tại các khu vực ẩm ướt dưới chân cồn cát, gần suối để cấp nước tưới và trong khu vực được tưới bằng hệ thống kênh đào được xây dựng đặc biệt. Bộ tộc Hohokam đã xây dựng trên kênh mương lớn và duy trì chúng trong nhiều thế kỷ, một thành tích kỹ thuật ấn tượng vào thời đó. Họ trồng ngô, đậu, bí và ớt. Một ví vụ canh tác hiện đại trên sa mạc như ở Thung lũng Imperial ở California, nơi có nhiệt độ cao và lượng mưa trung bình năm chỉ . Nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp và đất được tưới tiêu thông qua một mạng lưới kênh rạch và đường ống dẫn hoàn toàn từ sông Colorado qua kênh đào All-American. Tầng đất sâu và màu mỡ, là một phần của đồng bằng ngập lũ của sông, và những gì nếu nó từng là sa mạc đã được chuyển thành một trong những vùng canh tác năng suất cao nhất ở California. Lượng nước khác từ sông được dẫn đến các cộng đồng đô thị, nhưng tất cả điều này đã được lấy tại con sông, làm cho vị trí lấy nước cao hơn mực nước sông trong nhiều thời điểm của năm. Một vấn đề khác của trồng cây theo cách này là sự gia tăng của độ mặn trong đất gây ra bởi sự bay hơi của nước trong các thửa ruộng. Phủ xanh sa mạc vẫn là một nguyện vọng và tại một thời điểm nào đó nó được xem là một công cụ tương lai để tăng sản xuất lương thực cho dân số ngày càng tăng trên thế giới. Sự mong đợi tiềm năng này đã được chứng tỏ là sai vì nó bỏ qua những thiệt hại môi trường gây ra ở những nơi khác của nguồn nước dùng để tưới tiêu cho dự án sa mạc. Thu năng lượng mặt trời Các sa mạc ngày càng được xem là những nguồn năng lượng mặt trời quan trọng, một phần vì ít mây che phủ. Nhiều nhà máy năng lượng mặt trời thành công khi xây dựng trên sa mạc Mojave. Các nhà máy này có tổng công suất 354 MW, là tổ hợp khai thác năng lượng mặt trời lớn nhất thế giới. Những mảng lớn của sa mạc này được bao phủ bởi các tấm gương, bao gồm 9 khu vực thu năng lượng mặt trời. Công viên năng lương mặt trời Mojave hiện đang được xây dựng và sẽ tạo ra 280MW khi hoàn thành. Tiềm năng phát điện mặt trời từ sa mạc Sahara là bao la. Giáo sư David Faiman thuộc Đại học Ben-Gurion đã chỉ ra rằng với công nghệ hiện tại có thể cung cấp toàn bộ nhu cầu điện cho thế giới chỉ từ 10% của sa mạc Sahara. Desertec Industrial Initiative đang tìm kiếm 560 tỉ USD để đầu tư bào điện mặt trời và điện gió ở Bắc Phi trong vòng 40 năm tới để cung cấp điện cho châu Âu thông qua các cáp điện chạy bên dưới Địa Trung Hải. Sự quan tâm của châu Âu ở sa mạc Sahara bắt nguồn từ hai khía cạnh: ánh nắng mặt trời vào ban ngày gần như liên tục và rất nhiều đất chưa sử dụng. Sahara nhận được ánh nắng mặt trời nhiều hơn trên mỗi mẫu Anh so với bất kỳ phần nào của châu Âu. Sa mạc Sahara cũng có không gian trống rỗng tổng cộng hàng trăm dặm vuông cần thiết để lắp đặt các tấm gương cho các nhà máy năng lượng mặt trời. Sa mạc Negev ở Israel, và khu vực xung quanh, bao gồm cả thung lũng Arava đón nhận nhiều ánh nắng và nói chung không thể trồng trọt được. Đây là những yếu tố thuận lợi để xây dựng các nhà máy năng lượng mặt trời. David Faiman cho rằng các nhà máy năng lượng mặt trời "khổng lồ" ở Negev có thể cung cấp tất cả nhu cầu điện của Israel. Chiến tranh Cả hai cuộc chiến tranh thế giới đã diễn ra trong sa mạc. Trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, các Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ đã tham chiến với quân đội chính quy của Anh trong một chiến dịch kéo dài tại bán đảo Ả Rập. Thổ Nhĩ Kỳ đã bị người Anh đánh bại, phía Anh đã được sự ủng hộ của lực lượng không chính quy Ả Rập đang tìm cách nổi dậy chống lại người Thổ Nhĩ Kỳ ở Hejaz, đã nổi tiếng trong quyển sách của T. E. Lawrence Seven Pillars of Wisdom. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, các chiến dịch Tây Sa mạc bắt đầu ở Libya thuộc Ý. Chiến tranh trong sa mạc cần có sự tiếp tế lớn cho chiến thuật sử dụng các không gian mở rộng lớn mà không gây thương vong cho dân thường. Xe tăng và xe bọc thép đã có thể đi lại một khoảng cách lớn không bị cản trở và mìn đã được đặt với số lượng lớn. Tuy nhiên kích thước và sự khắc nghiệt của địa hình có nghĩa là tất cả các nhu cầu thiết yếu cần được mang đến từ khoảng cách rất xa. Người chiến thắng trong một trận chiến sẽ có ưu thế và chuỗi cung ứng của họ nhất thiết sẽ trở nên dài hơn, trong khi quân đội bại trận có thể rút lui, tái tập hợp và cần tiếp tế. Với những lý do này, tiền tuyến thụt lùi và mặt trận kéo dài hàng trăm kim về mỗi bên để lấy lại đà. Điểm cận phía tây là tại El Alamein ở Ai Cập, nơi quân đồng minh đánh bại dứt điểm phe trục năm 1942. Trong văn hóa Sa mạc thường được coi là một cảnh quan cằn cỗi và trống rỗng. Nó đã được các nhà văn, các nhà làm phim, nhà triết học, nghệ sĩ và các nhà phê bình mô tả như là một nơi cực đoan, một ẩn dụ cho bất cứ điều gì từ cái chết, chiến tranh hay đức tin về quá khứ nguyên thủy hoặc tương lai hoang vắng. Có rất nhiều bài viết về chủ đề hoang mạc. Phải kể đến là những tài liệu của Marco Polo (c. 1254–1324), ông đã đi qua vùng Trung Á đến Trung Quốc, băng qua nhiều hoang mạc trong suốt hành trình 24 năm của ông. Một số tác giả miêu tả một cách sinh động về các môi trường hoang mạc, mặc dù thường các chuyến hành trình của họ băng qua hoang mạc được đan xen với những phản ảnh, như trường hợp trong tác phẩm chính của Charles Montagu Doughty, Travels in Arabia Deserta (1888). Antoine de Saint-Exupéry đã miêu tả chuyến bay của ông và hdescribed both hoang mạc trong tác phẩm Wind, Sand and Stars và Gertrude Bell đã đi qua nhiều nơi trong haong mạc Ả Rập vào đầu thế kỷ XX, trở thành người rành rọt về chủ đề này, ông viết sách và tư vấn cho chính phủ Anh thương thảo với các nước Ả Rập. Một nhà thám hiểm nữ là Freya Stark đã đi một mình ở Trung Đông, thăm Thổ Nhĩ Kỳ, Arabia, Yemen, Syria, Ba Tư và Afghanistan, đã viết hơn 20 quyển sách về những trải nghiệm của bà. Nhà tự nhiên học người Đức, Uwe George đã có nhiều năm sống trong sa mạc, ông đã ghi lại những trải nghiệm và nghiên cứu trong quyển, In the Deserts of this Earth. Hoang mạc trên các hành tinh khác Sao Hỏa là hành tinh duy nhất trong Hệ Mặt Trời được xác định là tồn tại các hoang mạc. Vì áp suất khí quyển ở gần bề mặt thấp (chỉ bằng 1/100 so với của Trái Đất), cấu trúc các vòng khí quyển trên Sao Hỏa tạo thành một vòng biển cát quanh cực với diện tích hơn 5 triệu km² (1,9 triệu dặm vuông), diện tích này lớn hơn nhiều so với các hoang mạc trên Trái Đất. Các hoang mạc trên Sao Hỏa chủ yếu bao gồm các cồn cát dạng bán nguyệt bằng phẳng ở gần các mũ văn vĩnh cửu của cực Bắc hành tinh này. Các cồn cát nhỏ hơn chiếm phần đáy của các hố va chạm nằm ở các vùng cực Sao Hỏa. Nghiên cứu các đá trên bề mặt bằng các tia laser của tàu thăm dò Mars Exploration Rover cho thấy bề mặt này là tập hợp nhẵn của các dạng giống như trên Trái Đất mặc dù nó có thể chỉ là lớp bụi bề mặt. Bề mặt của Titan, một mặt trăng của Sao Thổ, cũng có bề mặt giống như hoang mạc được cấu tạo bởi các biển cồn cát.
Trong Lý thuyết xác suất, giá trị kỳ vọng, giá trị mong đợi (hoặc kỳ vọng toán học), hoặc trung bình (mean) của một biến ngẫu nhiên là trung bình có trọng số của tất cả các giá trị cụ thể của biến đó, hay là được tính bằng tổng các tích giữa xác suất xảy ra của mỗi giá trị có thể của biến với giá trị đó. Như vậy, nó biểu diễn giá trị trung bình mà người ta "mong đợi" thắng cược nếu đặt cược liên tục nhiều lần với khả năng thắng cược là như nhau. Lưu ý rằng bản thân giá trị đó có thể không được mong đợi theo nghĩa thông thường; nó có thể ít có khả năng xảy ra hoặc không thể xảy ra. Một trò chơi hoặc một tình huống trong đó giá trị kỳ vọng bằng 0 được gọi là một "trò chơi công bằng" (fair game). Ví dụ, một vòng quay roulette có 38 kết quả có thể có khả năng như nhau. Mỗi đặt cược vào một số duy nhất thắng 35 (nghĩa là nếu thắng, ta được trả 35 lần số tiền đặt cược; ngược lại mất tiền). Do đó, xét cả 38 kết quả có thể, giá trị kỳ vọng của khoản lợi thu được từ 1 đôla đặt cược cho một số duy nhất là: nghĩa là khoảng -$0.0526. Do đó, giá trị kỳ vọng là ta sẽ mất trung bình hơn năm xu cho mỗi dola tiền đặt cược. Định nghĩa toán học Thông thường, nếu là một biến ngẫu nhiên xác định trên một không gian xác suất , thì giá trị kỳ vọng của (ký hiệu hoặc đôi khi hoặc ) được định nghĩa như sau trong đó sử dụng tích phân Lebesgue. Lưu ý rằng không phải mọi biến ngẫu nhiên đều có một giá trị kỳ vọng, do có thể không tồn tại tích phân (ví dụ phân bố Cauchy). Hai biến ngẫu nhiên có cùng phân bố xác suất sẽ có giá trị kỳ vọng bằng nhau. Nếu là một biến ngẫu nhiên rời rạc với các giá trị , ,... và các xác suất tương ứng là , ,... với tổng bằng 1, thì có thể được tính bằng tổng của chuỗi cũng như trong ví dụ đánh bạc nêu trên. Nếu phân bố xác suất của chấp nhận một hàm mật độ xác suất , thì giá trị kỳ vọng có thể được tính như sau Định nghĩa của trường hợp rời rạc trực tiếp suy ra rằng nếu là một hằng biến ngẫu nhiên (constant random variable), nghĩa là với một là một số thực không đổi nào đó, thì giá trị kỳ vọng của cũng bằng . Giá trị kỳ vọng của một hàm g(x) tùy ý của x, với hàm mật độ xác suất f(x) có công thức Các tính chất Tuyến tính Phép toán giá trị kỳ vọng (hay phép toán kỳ vọng) là phép toán tuyến tính theo nghĩa sau với hai biến ngẫu nhiên và bất kỳ (được định nghĩa trên cùng một không gian xác suất) và hai số thực bất kỳ và . Kỳ vọng có điều kiện Với hai biến ngẫu nhiên bất kỳ , ta có thể định nghĩa kỳ vọng có điều kiện (conditional expectation): Khi đó giá trị kỳ vọng của thỏa mãn Do đó, đẳng thức sau là đúng: Vế phải của đẳng thức được gọi là kỳ vọng lặp. Mệnh đề này được nói đến trong quy tắc kỳ vọng toàn thể (law of total expectation) Bất đẳng thức Nếu một biến ngẫu nhiên X luôn nhỏ hơn hay bằng một biến ngẫu nhiên Y khác, kỳ vọng của X cũng nhỏ hơn hay bằng kỳ vọng của Y: Nếu , thì . Đặc biệt, do và , giá trị tuyệt đối của kỳ vọng của một biến ngẫu nhiên nhỏ hơn hay bằng kỳ vọng của giá trị tuyệt đối của nó: Biểu diễn Công thức sau đúng với mọi biến ngẫu nhiên giá trị thực không âm (sao cho ), và số thực lớn hơn 0: Không có tính nhân Nói chung, phép toán giá trị kỳ vọng không có tính nhân, nghĩa là không nhất thiết bằng , ngoại trừ nếu và là độc lập hoặc không tương quan (uncorrelated). Sự không có tính nhân này dẫn đến nghiên cứu về hiệp phương sai (covariance) và sự tương quan (correlation). Không bất biến về hàm Nói chung, phép toán kỳ vọng và hàm của các biến ngẫu nhiên không có tính hoán vị; nghĩa là trừ trường hợp được ghi chú như ở trên. Ứng dụng của giá trị kỳ vọng Các giá trị kỳ vọng của các lũy thừa của được gọi là mômen (moment) của ; mômen quanh trung bình (moment about the mean) của là các giá trị kỳ vọng của các lũy thừa của . Mômen của một số biến ngẫu nhiên có thể được sử dụng để xác định phân bố của chúng, bằng các hàm sinh mômen (moment generating function) của chúng. Để ước lượng bằng thực nghiệm giá trị kỳ vọng của một biến ngẫu nhiên, người ta liên tục thực hiện các quan sát về biến đó và tính trung bình cộng của các kết quả. Quy trình này ước lượng giá trị kỳ vọng thực sự bằng một cách không thiên lệch và có tính chất cực tiểu hóa tổng bình phương của các thặng dư (tổng bình phương của các hiệu giữa các quan sát và ước lượng). Luật số lớn chứng minh rằng (trong điều kiện ôn hòa) khi kích thước của mẫu thống kê lớn lên thì phương sai của ước lượng này sẽ nhỏ đi. Trong Cơ học cổ điển, tâm khối (center of mass) là khái niệm tương đương với giá trị kỳ vọng. Ví dụ, giả sử là một biến ngẫu nhiên rời rạc với các giá trị và các xác suất tương ứng . Xét một thanh ngang có trọng lượng không đáng kể, trên đó đặt các quả cân, tại các vị trí là các khối lượng (với tổng bằng 1). Điểm mà tại đó thanh ngang được thăng bằng (trọng tâm của nó) là . (Tuy nhiên, cần lưu ý rằng tâm khối không đồng nghĩa với trọng tâm (center of gravity).) Kỳ vọng của ma trận Nếu là một ma trận , giá trị kỳ vọng của là một ma trận của các giá trị kỳ vọng: Tính chất này được dùng trong các ma trận hiệp phương sai (covariance matrix).
Trong toán học và thống kê, biến ngẫu nhiên là một hàm toán học với đặc điểm là nó gán một giá trị cho kết quả (đầu ra) của một phép thử ngẫu nhiên (thực nghiệm). Trong một phép thử ngẫu nhiên (randomness test), đầu ra (outcome) của nó có thể là giá trị số hoặc không phải. Ví dụ phép thử ngẫu nhiên là tung một đồng xu lên và xét mặt nào của đồng xu ở phía trên, thì kết quả đầu ra có thể là {sấp, ngửa} (đầu ra không phải là số). Ví dụ phép thử ngẫu nhiên là tung con súc sắc và xem mặt nằm phía trên là có mấy chấm, thì kết quả đầu ra có thể là {1,2,3,4,5,6} (đầu ra là số). Tuy nhiên, trong các ứng dụng của thống kê, người ta muốn mỗi đầu ra đều gắn với một đại lượng đo đạc được, hay còn gọi là thuộc tính có giá trị là số. Để thực hiện điều này, người ta định ra biến ngẫu nhiên để ánh xạ mỗi đầu ra của một phép thử ngẫu nhiên với một giá trị số. Biến ngẫu nhiên có hai loại chính bao gồm biến ngẫu nhiên liên tục và biến ngẫu nhiên rời rạc. với là đại diện cho đầu ra của một thực nghiệm, là một số thực, X là hàm ánh xạ (hay là biến ngẫu nhiên). Vì thế, người ta còn gọi X là biến ngẫu nhiên giá trị thực (real-valued random variable). Các định nghĩa Biến ngẫu nhiên Một số người cho rằng gọi tên biến ngẫu nhiên là một sự nhầm lẫn, do một biến ngẫu nhiên không phải là một biến mà là một hàm số ánh xạ các biến cố tới các số. Cho A là một σ-đại số và Ω là không gian các biến cố liên quan tới thực nghiệm đang được tiến hành. Trong ví dụ thả súc sắc, không gian các biến cố chính là các kết quả có thể của một lần thả, nghĩa là Ω = { 1, 2, 3, 4, 5, 6 }, và A sẽ là tập lũy thừa của Ω. Trong trường hợp này, một biến ngẫu nhiên thích hợp có thể là hàm đồng nhất (identity function) X(ω) = ω, sao cho nếu kết quả là nhất thì biến ngẫu nhiên cũng sẽ bằng 1. Một ví dụ cũng đơn giản nhưng ít tầm thường hơn là việc tung đồng xu: một không gian thích hợp cho các biến cố có thể là Ω = {S, N} (S: sấp, N: ngửa), và A cũng lại bằng tập lũy thừa của Ω. Một trong số nhiều biến ngẫu nhiên có thể được định nghĩa trên không gian này là Một biến ngẫu nhiên được định nghĩa như là một hàm đo được (measurable function) từ một không gian xác suất tới một không gian đo được nào đó. Không gian đo được này là một không gian của các giá trị có thể của biến, và nó thường được lấy là các số thực với Borel σ-đại số. Phần còn lại của bài này sử dụng giả thuyết đó, trừ khi được chỉ rõ. Cho không gian xác suất (Ω, A, P). Một hàm X: Ω → R là một biến ngẫu nhiên giá trị thực nếu với mọi tập con Ar = { ω: X(ω) ≤ r } trong đó r ∈ R, ta cũng có Ar ∈ A. Định nghĩa này có tầm quan trọng ở chỗ nó cho phép ta xây dựng hàm phân bố của biến ngẫu nhiên. Các hàm phân bố Nếu cho trước một biến ngẫu nhiên xác định trên không gian xác suất , ta có thể đặt các câu hỏi như "Khả năng giá trị của lớn hơn 2 là bao nhiêu?". Đó chính là xác suất của biến cố , thường được viết gọn là . Việc ghi nhận tất cả các xác suất này của các khoảng biến thiên kết quả của một biến ngẫu nhiên giá trị thực X cho ra phân bố xác suất của X. Phân bố xác suất "bỏ quên" không gian xác suất đã được dùng để định nghĩa X và chỉ ghi nhận các xác suất của các giá trị của X. Bao giờ cũng có thể mô tả một phân bố xác suất như vậy bằng hàm phân bố tích lũy của nó. và đôi khi còn dùng một hàm mật độ xác suất. Theo thuật ngữ lý thuyết độ đo, ta sử dụng biến ngẫu nhiên X để "đẩy" (push-forward) độ đo P trên Ω tới một độ đo dF trên R. Không gian xác suất Ω là một thiết bị kỹ thuật để đảm bảo sự tồn tại của các biến ngẫu nhiên, và đôi khi để xây dựng chúng. Trong thực tế, người ta thường bỏ qua không gian Ω và chỉ đặt một độ đo lên R mà độ đo này gán số đo bằng 1 cho toàn bộ đường số thực, nghĩa là người ta làm việc với phân bố xác suất thay vì các biến ngẫu nhiên. Hàm của các biến ngẫu nhiên Nếu ta có một biến ngẫu nhiên X trên Ω và một hàm đo được (measurable function) f: R → R, thì Y = f(X) cũng là một biến ngẫu nhiên trên Ω, do hợp của các hàm đo được cũng là một hàm đo được. Có thể sử dụng quy trình cho phép đi từ một không gian xác suất (Ω, P) tới (R, dFX) để thu được phân bố của Y. Hàm phân bố tích lũy của Y là Ví dụ Cho X là một biến ngẫu nhiên liên tục giá trị thực và Y = X2. Khi đó, Nếu y < 0, thì P(X2 ≤ y) = 0, do đó Nếu y ≥ 0, thì do đó nếu Các tham số đặc trưng của biến ngẫu nhiên Đối với một biến ngẫu nhiên nếu đã xác định được quy luật phân phối của nó thì xem như ta đã nắm được toàn bộ thông tin về biến ngẫu nhiên đó. Tuy nhiên trong thực tế ta không thể nắm bắt được từng giá trị riêng của biến ngẫu nhiên. Một yêu cầu rất tự nhiên được đặt ra là phải có giá trị đại diện phản ánh từng phần của biến ngẫu nhiên. Ta có thể phân loại các tham số đặc trưng như sau: - Các tham số đặc trưng cho xu hướng trung tâm của biến ngẫu nhiên: kỳ vọng toán (expected value), trung vị (median), mốt (mode),... - Các tham số đặc trưng cho độ phân tán của biến ngẫu nhiên: phương sai, độ lệch chuẩn, hệ số biến thiên, giá trị tới hạn, mômen (moment)... - Các tham số đặc trưng cho dạng phân phối xác suất; hệ số bất đối xứng (skewness), hệ số nhọn (kurtosis),... Kì vọng toán Tham khảo bài chính Kì vọng toán 1. Định nghĩa - Biến ngẫu nhiên rời rạc: Giả sử biến ngẫu nhiên rời rạc X nhận một trong các giá trị có thể có với xác suất tương ứng . Kì vọng toán của biến ngẫu nhiên rời rạc X, ký hiệu E(X) là tổng các tích giữa các giá trị có thể có của biến ngẫu nhiên với các xác suất tương ứng: - Biến ngẫu nhiên liên tục: Nếu X là biến ngẫu nhiên liên tục vớihàm mật độ xác suất f(x) thì kì vọng toán E(X) được xác định bằng biểu thức: 2. Các tính chất của kỳ vọng toán - Tính chất 1: E(C) = C; C = const - Tính chất 2: E(CX) = C.E(X); C = const - Tính chất 3: Với X và Y là 2 biến ngẫu nhiên bất kỳ thì: - Tính chất 4: Với X và Y là 2 biến ngẫu nhiên độc lập thì: 3. Bản chất và ý nghĩa của kì vọng toán - Bản chất: Kì vọng toán là trung bình theo nghĩa xác suất của biến ngẫu nhiên. - Ý nghĩa: kì vọng toán phản ánh giá trị trung tâm của phân phối xác suất của biến ngẫu nhiên. 4. Ứng dụng thực tế của kì vọng toán Trong kinh doanh và quản lý kinh tế, kì vọng toán được xem như là một tiêu chuẩn đề ra quyết định trong tình huống cần lựa chọn nhiều chiến lược kinh doanh khác nhau. tiêu chuẩn này thường được gọi là lợi nhuận kì vọng hay doanh số kì vọng. Phương sai Tham khảo bài chính Phương sai 1. Định nghĩa Phương sai của biến ngẫu nhiên X, ký hiệu V(X), là kỳ vọng toán của bình phương sai lệnh của biến ngẫu nhiên so với kì vọng toán của nó. Ta có thể biến đổi như sau: + Nếu X là biến ngẫu nhiên rời rạc: + Nếu X là biến ngẫu nhiên liên tục: 2. Các tính chất của phương sai - Tính chất 1: V(C) = 0; C = const - Tính chất 2:, C = const - Tính chất 3: Với X và Y là hai biến ngẫu nhiên độc lập thì 3. Bản chất và ý nghĩa của phương sai - Bản chất: Phương sai là trung bình số học của bình phương các sai lệnh giữa các giá trị quan sát của biến ngẫu nhiên so với giá trị quan sát của biến ngẫu nhiên so với giá trị trung bình của các giá trị đó. - Ý nghĩa: Phương sai phản ánh mức độ phân tán của các giá trị của biến ngẫu nhiên so với giá trị trung tâm là kỳ vọng toán. Phương sai càng nhỏ thì các giá trị càng tập trung ở gần giá trị trung tâm. 4. Ứng dụng thực tế của phương sai + Trong kỹ thuật: Phương sai đặc trưng cho sai số của thiết bị, chi tiết gia công so với kích thước tiêu chuẩn + Trong lĩnh vực kinh tế: Phương sai đặc trưng cho mức độ rủi ro của các quyết định. Mômen Phân bố xác suất của một biến ngẫu nhiên thường được đặc trưng bởi một số các tham số, các tham số này cũng có một cách hiểu thực dụng. Ví dụ, trong nhiều trường hợp, biết "giá trị trung bình" của biến ngẫu nhiên là đủ. Giá trị này được thể hiện bởi khái niệm toán học giá trị kỳ vọng của một biến ngẫu nhiên, được ký hiệu là E[X]. Lưu ý rằng, nói chung, E[f(X)] khác với f(E[X]). Một khi đã biết được "giá trị trung bình", người ta có thể đặt câu hỏi cái giá trị trung bình này cách bao xa đối với các giá trị điển hình của X, câu hỏi này được trả lời bởi các khái niệm phương sai và độ lệch tiêu chuẩn của một biến ngẫu nhiên. Trong toán học, bài toán (mở rộng) về các mômen (generalised problem of moments) được phát biểu như sau: cho trước một lớp gồm các biến ngẫu nhiên X, tìm một tập hợp {fi} gồm các hàm sao cho các giá trị kỳ vọng E[fi(X)] đặc trưng đầy đủ cho phân bố của biến ngẫu nhiên X. Tính tương đương của các biến ngẫu nhiên Các biến ngẫu nhiên có thể được coi là tương đương theo một số nghĩa. Hai biến ngẫu nhiên có thể bằng nhau, gần như bằng nhau, trung bình bằng nhau, hoặc phân phối bằng nhau. Định nghĩa chính xác của các khái niệm trên được cho dưới đây theo thứ tự tăng dần về độ mạnh. Phân phối bằng nhau Hai biến ngẫu nhiên và có phân phối bằng nhau nếu chúng có các hàm phân phối tích lũy giống nhau: Hai biến ngẫu nhiên có các hàm sinh mômen bằng nhau thì có phân phối bằng nhau. Để có phân phối bằng nhau, các biến ngẫu nhiên không nhất thiết được định nghĩa trên cùng một không gian xác suất. Khái niệm phân phối tương đương có quan hệ với khái niệm dưới đây về khoảng cách giữa hai phân phối xác suất, khoảng cách này có liên quan đến thử nghiệm Kolmogorov-Smirnov. Giá trị trung bình bằng nhau Hai biến ngẫu nhiên và là bằng nhau theo trung bình thứ nếu mômen thứ của bằng 0, nghĩa là Bằng nhau với trung bình thứ suy ra bằng nhau với trung bình thứ với mọi . Cũng như trong trường hợp trước, khái niệm này có liên quan đến khoảng cách theo trung bình thứ giữa các biến ngẫu nhiên, đó là Bằng nhau hầu chắc chắn Hai biến ngẫu nhiên và trên cùng một không gian xác suất gọi là bằng nhau hầu chắc chắn khi và chỉ khi xác suất chúng khác nhau là bằng 0: Điều này cũng tương đương với Bằng nhau Cuối cùng, hai biến ngẫu nhiên trên cùng một không gian xác suất gọi là bằng nhau nếu chúng bằng nhau với vai trò các hàm số trên không gian xác suất của chúng, nghĩa là, Sự hội tụ của dãy các biến ngẫu nhiên Một dãy gồm các biến ngẫu nhiên có thể hội tụ thành một biến ngẫu nhiên theo nhiều nghĩa khác nhau. Những kiểu đó được giải thích trong bài sự hội tụ của các biến ngẫu nhiên. Các kết quả trong thống kê toán học dựa vào việc chứng minh sự hội tụ đối với một số dãy biến ngẫu nhiên nhất định. Một trong những định luật hội tụ quan trọng nhất đó là luật số lớn và định lý giới hạn trung tâm.
Táo ta hay táo chua (danh pháp hai phần: Ziziphus mauritiana) là loại cây ăn quả của vùng nhiệt đới, thuộc về họ Táo (Rhamnaceae). Tại Trung Quốc, nó được gọi là táo chua, táo Ấn Độ hay táo Điền (táo Vân Nam), táo gai Vân Nam. Cây có thể lớn rất nhanh thậm chí trong các khu vực khô và cao tới 12 mét và đạt tuổi thọ 25 năm. Nó có nguồn gốc ở châu Á (chủ yếu là Ấn Độ) mặc dù cũng có thể tìm thấy ở châu Phi. Quả là loại quả hạch, khi chín nó mềm, chứa nhiều nước, có vị ngọt. Các quả chín vào các khoảng thời gian khác nhau ngay cả khi chỉ trên một cây và có màu lục nhạt khi còn xanh và vàng nhạt khi chín. Kích thước và hình dạng quả phụ thuộc vào các giống khác nhau trong tự nhiên cũng như loại được trồng. Quả được dùng để ăn khi đã chín hoặc ngâm rượu hay sử dụng để làm đồ uống. Nó là một loại quả giàu chất dinh dưỡng và chứa nhiều vitamin C. Lịch sử phân loại Loài này được Carl Linnaeus đặt danh pháp Rhamnus jujuba năm 1753, với trích dẫn từ như sau: "Jujuba indica spinosa, folio & fructu rotundo. Pluk. alm. 199. Raj. dendr. 44."; trong đó Pluk. alm. 199 là trích dẫn trang 199 sách Almagestum botanicum năm 1696 của Leonard Plukenet (1641-1706). Năm 1789, từ trang 316 đến trang 320 sách Encyclopedie Methodique. Botanique Jean-Baptiste Lamarck cung cấp mô tả cho 12 loài Ziziphus, trong đó tại trang 319 viết về loài số 7 mà ông gọi là Jujubier de l’Isle de France (táo đảo Pháp, tên gọi khác của Mauritius thời thuộc Pháp từ 1715 tới 1810) với danh pháp Ziziphus mauritania, dẫn chiếu tới trang 199 sách Almagestum botanicum năm 1696 của Leonard Plukenet. Nội dung đoạn trích trang 199 như sau: "C’est peut-être le Jujuba indica spinosa, folio & fructu longiori de Pluknet (Alm. 199); mais ce n’est point le Prunus zeylanica spinosa, longiori folio viridi, &c. du même auteur (tab. 216, f. 6);". Trang 199 sách Almagestum botanicum ghi chép về Jujuba indica spinosa như sau: Như vậy, Linnaeus mô tả R. jujuba theo loại có lá và quả tròn (rotundo) của Jujuba Indica spinosa, trong khi Lamarck mô tả Z. mauritania theo loại có lá và quả dài hơn (longiori) của của Jujuba Indica spinosa trong Almagestum botanicum nên về thực chất chúng là hai danh pháp cho cùng một loài. Lamarck khi mô tả Z. jujuba tại trang 318-319 không dẫn chiếu tới trang 199 sách Almagestum botanicum mà dẫn chiếu tới Bauh. pin. 446 và R. jujuba của Linnaeus, như vậy là có sự pha trộn mô tả của cả R. zizyphus (mô tả R. zizyphus của Linnaeus dẫn chiếu tới Bauh. pin. 446) và R. jujuba của Linnaeus. Bên cạnh đó, danh pháp Ziziphus jujuba đã được Philip Miller sử dụng từ năm 1768 khi chuyển R. zizyphus sang chi Ziziphus nên danh pháp Ziziphus jujuba của Lamarck không thể coi là hợp lệ. Vì thế, từ năm 1789 thì loài này có danh pháp Ziziphus mauritania. Mô tả Loài cây này lớn nhanh và phát triển mạnh rễ cái. Chúng có thể là loại cây bụi rậm rạp, cao từ 1,2-1,8 m (4– 6 ft) hoặc cây thân gỗ cao từ 3–9 m (10–30 ft) hay thậm chí tới 12 m (40 ft); mọc thẳng hoặc tỏa tán rộng, với các cành rủ xuống và có hoặc không có lông bao phủ, các cành nhánh ngoằn ngoèo, không gai hoặc có các gai nhỏ, thẳng và sắc. Chúng có thể là loại cây thường xanh hoặc không có lá trong vài tuần trong mùa hè nóng bức. Lá so le, hình trứng hoặc elip thuôn dài, kích thước 2,5-6,25 cm (1- 2,5 in) chiều dài, 2–4 cm (0,75- 1,5 in) chiều rộng; dễ phân biệt với táo tàu (Ziziphus jujuba) bởi sự có mặt của các sợi lông tơ dày dặc, mềm như lụa, có màu nâu hay trắng ở mặt dưới cũng như cuống lá non thì ngắn và có lông. Ở mặt trên, chúng có màu xanh lục thẫm, bóng mặt và với 3 gân lá theo chiều dọc, dễ thấy và bị nén xuống cũng như các răng cưa rất rõ nét ở mép lá. Hoa nhỏ, có 5 cánh hoa, màu vàng nhạt, tạo cụm 2-3 hoa trong nách lá. Quả của loại mọc hoang có kích thước dài 1,25-2,5 cm (0,5 – 1 in). Các loại được nuôi trồng tốt có thể đạt kích thước dài tới 6,25 cm (2,5 in) và rộng tới 4,5 cm (1,75 in). Quả có thể có dạng hình trứng xuôi, hình trứng ngược, tròn hay thuôn dài; lớp vỏ trơn, bóng hay sần sùi, mỏng nhưng cứng, chuyển từ lục nhạt sang vàng, nếu để chín kỹ sẽ trở thành một trong các màu như cam cháy/nâu đỏ/đỏ một phần hay toàn bộ. Khi chưa chín, lớp cùi thịt có màu trắng, giòn, nhiều nước, vị từ chua tới ngọt, có tính chất làm se nhẹ, tương tự như ở quả táo tây dại. Quả đã chín ít giòn hơn và chuyển dần sang dạng bột; quả quá chín nhăn nhúm, lớp cùi thịt có màu vàng sẫm, mềm, xốp và có mùi thơm. Lúc đầu hương vị giống như quả táo tây và dễ chịu nhưng nó trở thành có mùi xạ kỳ lạ khi đã chín kỹ. Quả chứa một hạt cứng hình ôvan hay thuôn dài, cứng. Hạt chứa 2 hạt hình elip, màu nâu, dài 6 mm (0,25 in). Hình ảnh
Lịch sử Trung Quốc đề cập đến Trung Hoa, 1 trong 4 nền văn minh cổ nhất thế giới, bắt nguồn từ lưu vực phì nhiêu của hai con sông: Hoàng Hà (bình nguyên Hoa Bắc) và Trường Giang (đồng bằng Trường Giang) trong Thời đại đồ đá mới, nhưng cái nôi của nền văn minh dân tộc của quốc gia Trung Hoa đầu tiên được cho là tại trung và hạ lưu của sông Hoàng Hà trước tiên (Đồng bằng Hoa Bắc) mà dần mở rộng và phát triển và duy trì như ngày nay. Với hàng ngàn năm lịch sử tồn tại và phát triển, đây là một trong những nền văn minh lâu đời, vĩ đại nhất thế giới. Người tiền sử đã bắt đầu cư trú tại Trung Quốc từ ít nhất là gần 1 triệu năm trước, với một số ước tính cho rằng mốc này có thể lên tới 2,24 triệu năm trước.. Các nền văn minh nông nghiệp đầu tiên bắt đầu xuất hiện ở Trung Quốc từ khoảng 10.000 - 13.000 năm trước, đến khoảng hơn 5.000 năm trước thì các nền văn minh nông nghiệp này phát triển hoàn thiện, đã bắt đầu xuất hiện đồ đồng và các cơ cấu Nhà nước đầu tiên như quý tộc, đô thị với các cung điện, công trình tôn giáo... Dân tộc Trung Hoa hình thành từ vùng Trung Nguyên của lưu vực sông Hoàng Hà ở Đồng bằng Hoa Bắc, Văn hóa Hồng Sơn góp phần định hình văn minh cùng đất nước Trung Hoa. Trải qua hơn 5.000 năm, văn minh Trung Hoa đã phát triển trở thành một trong số nền văn minh rực rỡ nhất thế giới trong thời cổ đại và trung cổ, đặc trưng bởi hệ thống triết học thâm sâu (trong đó có Nho giáo, Đạo giáo và thuyết Âm dương ngũ hành), các thành tựu khoa học kỹ thuật (phát minh ra giấy, la bàn, thuốc súng, địa chấn kế, kỹ thuật in ấn...), hoạt động giao thương xuyên châu Á (Con đường tơ lụa) và những đô thị có quy mô dân số và trình độ kiến trúc hàng đầu thế giới vào thời trung cổ. Trung Quốc là 1 trong 4 nền văn minh cổ đại lớn của thế giới (cùng với Ai Cập cổ đại, văn minh Lưỡng Hà và văn minh lưu vực sông Ấn), và là nền văn minh duy nhất trong số đó vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Bề dày lịch sử và văn hoá do các thế hệ nối nhau giữ gìn suốt 5.000 năm là điều mà không nước nào khác có được và là niềm tự hào lớn nhất của quốc gia này. Các di tích cung điện của Trung Quốc có niên đại sớm nhất là từ đời nhà Thương (khoảng 1.600-1.046 TCN), mặc dù một vài bộ sách sử như Sử ký (khoảng 100 TCN) và Trúc thư kỷ niên khẳng định rằng triều đại nhà Hạ (khoảng 2.070 - 1.600 TCN) đã tồn tại trước nhà Thương. Một số phong tục văn hóa, văn học, chính trị và cả triết học được phát triển cực kỳ mạnh trong suốt thời kỳ nhà Chu. Năm 221 TCN, được coi là năm Trung Quốc bắt đầu trở thành một đế chế lớn mạnh, với 1 vị Hoàng đế-Tần Thủy Hoàng cai trị, đánh dấu sự khởi đầu của đế quốc Trung Hoa. Vào thời kỳ này, Tần Thủy Hoàng cho nối các đoạn tường thành đã xây từ các triều đại trước, đặt tên là Vạn Lý Trường Thành để bảo vệ đất nước khỏi các tộc người phương Bắc. Ông cho thống nhất chữ viết, các đơn vị đo lường và tiền tệ. Trong hơn 2000 năm phong kiến sau đó, có hai nền đế chế trên toàn Trung Quốc phụ thuộc vào các tộc người dân tộc thiểu số (không phải người Hán) là người Mông Cổ (Nay đã thành lập quốc gia độc lập và dân chủ riêng) lập nên nhà Nguyên và người Mãn Châu (nay thuộc Trung Quốc) lập nên nhà Thanh. Năm 1911, Cách mạng Tân Hợi nổ ra lật đổ nhà Thanh, triều đại phong kiến cuối cùng và mở ra giai đoạn lịch sử hiện đại ở Trung Quốc. Hiện nay Trung Hoa vẫn chưa hoàn toàn thống nhất lãnh thổ vì đang xảy ra chia cắt giữa 2 chính phủ giống như 2 quốc gia riêng: Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Trung Quốc đại lục và Trung Hoa Dân Quốc tại đảo Đài Loan. Sự chia cắt này xảy ra từ năm 1949 và hiện nay 2 bên vẫn ở trong tình trạng thù địch. Thời đồ đá Có lẽ hơn một triệu năm trước, người Homo erectus đã cư ngụ ở Trung Quốc. Những cuộc khai quật tại Nguyên Mưu và sau đó tại Lam Điền đã hé lộ những dấu tích cư trú đầu tiên. Có lẽ mẫu vật nổi tiếng nhất của Homo erectus được tìm thấy tại Trung Quốc là người vượn Bắc Kinh (北京人) được phát hiện năm 1923. Homo sapiens hay người hiện đại có thể đã tới Trung Quốc từ khoảng 65.000 trước từ Châu Phi. Trong thời gian từ năm 1927 đến năm 1937, tại Chu Khẩu Điếm phía tây nam Bắc Kinh, các nhà khảo cổ Trung Quốc đã phát hiện được di tích người vượn Trung Quốc, còn gọi là người vượn Bắc Kinh, với hài cốt đã hóa thạch và các di tích văn hóa còn tồn tại. Người vượn Trung Quốc là giống người nguyên thủy Trung Quốc sinh sống hàng 50 đến 60 vạn năm trước đây. Họ có thể chế tạo và sử dụng đồ đá đơn giản như rìu, búa, cũng biết dùng đồ xương của người xưa. Những nơi có người vượn Bắc Kinh sinh sống đã phát hiện được nhiều xương hóa thạch cùng các dụng cụ bằng đá, các nồi chảo đã có lửa đốt đun, chứng minh họ đã biết dùng lửa. Trong 2 năm 1922 và 1923 đã phát hiện được người Hà Sáo (河套) ở Nội Mông, giống người này gần người hiện đại hơn, cách đây khoảng 20 vạn năm. Trong 2 năm 1933 và 1934 đã phát hiện được người Sơn Đỉnh Động (山顶洞人) ở Chu Khẩu Điếm. Giống người này đã dùng nhiều đồ đạc chế tạo bằng xương, đồ đá ít. Xã hội nguyên thủy thành lập các công xã không có bóc lột, không có giai cấp, cuộc sống lạc hậu, mông muội. Bằng chứng sớm nhất về việc trồng cấy kê tại Trung Quốc được xác định niên đại bằng cacbon phóng xạ vào khoảng năm 6000 TCN, và có liên quan tới Văn hóa Bùi Lý Cương (裴李崗文化) ở huyện Tân Trịnh, tỉnh Hà Nam. Cùng với nông nghiệp, dân cư ngày càng đông đúc, tăng khả năng tích trữ và tái phân phối lương thực và đủ cung cấp cho những người thợ thủ công cũng như quan lại. Cuối thời kỳ đồ đá mới, vùng châu thổ Hoàng Hà bắt đầu trở thành một trung tâm văn hóa, nơi những làng xã đầu tiên được thành lập; những di tích khảo cổ đáng chú ý nhất của chúng được tìm thấy tại di chỉ Bán Pha (半坡遗址), Tây An. Những nền văn minh đầu tiên ở Trung Quốc Xem thêm: Danh sách các nền văn hóa thời đại đồ đá mới Trung Quốc Những mảnh đồ gốm có niên đại sớm nhất trên thế giới đã được tìm thấy tại Di chỉ Tiên Nhân Động, cho thấy người Trung Quốc đã biết làm đồ gốm từ ít nhất là khoảng 20.000 đến 19.000 năm trước, vào cuối Thời kỳ băng hà cuối cùng, chúng được dùng để đựng thực phẩm và nấu ăn Các phát hiện tại Di chỉ Nam Trang Đầu cho thấy người Trung Quốc đã biết thuần hóa chó từ khoảng 12.000 năm trước. Các nghiên cứu gần đây đã xác định quê hương của văn minh lúa nước là vùng đồng bằng sông Dương Tử (Trung Quốc), nơi lúa nước được thuần hóa lần đầu tiên trên thế giới Nghiên cứu di truyền vào năm 2011 cho thấy rằng tất cả các dạng lúa nước châu Á, gồm cả indica (lúa Ấn Độ) và japonica (lúa Nhật Bản), đều phát sinh từ một sự kiện thuần hóa duy nhất đã xảy ra cách đây khoảng 13.500 đến 8.200 năm ở miền Nam Trung Quốc, từ giống lúa hoang Oryza rufipogon. Vết tích bữa cơm tiền sử nấu với gạo từ lúa mọc hoang xưa nhất thế giới, 13.000 năm trước, được một nhóm khảo cổ Mỹ-Trung Hoa tìm thấy trong hang Diaotonghuan phía nam sông Dương Tử (bắc tỉnh Giang Tây). Bằng chứng sớm nhất về việc trồng cấy kê tại Trung Quốc được xác định niên đại bằng cacbon phóng xạ vào khoảng năm 6000 TCN, và có liên quan tới Văn hóa Bùi Lý Cương (裴李崗文化) ở huyện Tân Trịnh, tỉnh Hà Nam. Cùng với nông nghiệp, dân cư ngày càng đông đúc, tăng khả năng tích trữ và tái phân phối lương thực và đủ cung cấp cho những người thợ thủ công cũng như quan lại. Cuối thời kỳ đồ đá mới, vùng châu thổ Hoàng Hà bắt đầu trở thành một trung tâm văn hóa, nơi những làng xã đầu tiên được thành lập; những di tích khảo cổ đáng chú ý nhất của chúng được tìm thấy tại di chỉ Bán Pha (半坡遗址), Tây An. Tình trạng lụt lội của Hoàng Hà tồi tệ hơn rất nhiều so với khu vực dọc Trường Giang về hướng nam. Dọc theo Trường Giang, qua lòng chảo Hồ Bắc và ở đồng bằng ven biển về hướng vịnh Hàng Châu, việc trồng trọt cũng đã phát triển, nhưng người dân sống gần Hoàng Hà phải chống chịu với thiên nhiên khắc nghiệt hơn để chế ngự lũ lụt và tưới tắm mùa màng, và có lẽ điều này đã kích thích một nỗ lực tổ chức tốt hơn. Ở bất kỳ mức độ nào, đồng bằng phía bắc Trung Quốc đã trở thành vùng phát triển nền văn minh sớm nhất với số dân cư tập trung đông đảo nhất. Vào khoảng năm 5.000 TCN, các cộng đồng nông nghiệp đã trải dài khắp trên đa phần lãnh thổ phía đông Trung Quốc hiện nay, và đã có những làng nông nghiệp từ đồng bằng sông Vị chạy về phía đông, song song với sông Hoàng Hà, bắt nguồn từ dãy núi Côn Lôn chảy về hướng vùng hoàng thổ nơi có cánh rừng trụi lá ở đồng bằng phía bắc Trung Quốc. Ở đó con người có rừng và có nước để trồng kê, họ săn hươu, nai và các loài thú khác, câu cá làm thức ăn. Họ thuần hóa chó, lợn và gà. Họ đào đất để xây những ngôi nhà một phòng, với mái bằng đất sét hay rạ, nhiều ngôi nhà ngầm như vậy tạo thành một làng. Họ đã có guồng quay tơ và biết đan cũng như dệt sợi. Họ cũng biết chế tạo đồ gốm có trang trí. Một số học giả còn khẳng định rằng một hình thức chữ viết nguyên thủy đã xuất hiện ở Trung Quốc ngay từ năm 3.000 TCN. Trên cơ sở văn minh nông nghiệp, các nền văn hóa dần phát sinh ở các địa phương khác nhau dọc theo 2 dòng sông lớn là Hoàng Hà và Trường Giang, các nền văn hóa này có ảnh hưởng qua lại hoặc tiếp nối nhau: Lưu vực sông Hoàng Hà: Văn hóa Từ Sơn (~8.000 - 5.500 TCN), Văn hóa Bùi Lý Cương (~7.000 - 5.000 TCN), Văn hóa Lão Quan Đài (~5.800 - 5.000 TCN), Văn hóa Hậu Lý (~6.500 - 5.500 TCN), Văn hóa Hưng Long Oa (6.200-5.400 TCN), Văn hóa Triệu Bảo Câu (~5.400 - 4.500 TCN), Văn hóa Bắc Tân (~5.300 - 4.100 TCN), Văn hóa Ngưỡng Thiều (~5.000 - 3.000 TCN), Văn hóa Hồng Sơn (~4.700 - 2.900 TCN), Văn hóa Đại Vấn Khẩu (~4.100 - 2.600 TCN), Văn hóa Mã Gia Diêu (~3.300 - 2.100 TCN), Văn hóa Long Sơn (~2.600 - 2.000 TCN), Văn hóa Nhị Lý Đầu (~2.000 - 1.600 TCN). Lưu vực sông Trường Giang: Văn hóa Bành Đầu Sơn (7.500 - 6.100 TCN), Văn hóa Hà Mỗ Độ (~5.000 - 4.500 TCN), Văn hóa Mã Gia Banh (~5.000 - 3.000 TCN), Văn hóa Đại Khê (~4.500 - 3.000 TCN), Văn hóa Lương Chử (~3.400 - 2.250 TCN), Văn hóa Khuất Gia Lĩnh (~3.000 - 2.600 TCN), Văn hóa Thạch Gia Hà (2.500-2.000 TCN), Văn hóa Bảo Đôn (~2.500 - 1.750 TCN). Ở những nơi con người sản xuất ra được nhiều lương thực hơn nhu cầu của họ, các chiến binh đã được thúc đẩy để không chỉ đi cướp đoạt mà còn để chinh phục. Và các vị vua chinh phục đã bắt đầu nổi lên ở đồng bằng phía bắc Trung Quốc cũng như tình trạng ở phía tây châu Á. Giai đoạn đầu, lịch sử Trung Quốc chưa được ghi chép chính xác mà chỉ được chuyển tải cho đời sau bằng truyền thuyết. Theo truyền thuyết, các vua đầu tiên của Trung Quốc là ở thời kỳ Tam Hoàng Ngũ Đế, cách đây khoảng 5.000 - 4.200 năm. Theo các nhà nghiên cứu, các truyền thuyết này phản ánh thời kỳ công xã nguyên thủy đang sắp tan rã, liên minh các bộ lạc đang dần trở thành triều đình nắm quyền lực cai trị dân chúng. Vào khoảng 3.000 TCN, xã hội nguyên thủy ở Trung Quốc bước vào giai đoạn tan rã hoàn toàn, xã hội chiếm hữu nô lệ với các giai cấp, triều đại bắt đầu hình thành. Trong dự án "Nghiên cứu tổng hợp về nguồn gốc và sự phát triển trong thời kỳ đầu của nền văn minh Trung Hoa" (dự án khảo cổ khổng lồ cấp quốc gia, huy động gần 70 cơ quan nghiên cứu, đại học và cơ quan khảo cổ địa phương của Trung Quốc, triển khai từ năm 2001), các nhà khảo cổ đã điều tra và khai quật quy mô lớn ở 4 di chỉ mang tính đô thị có lịch sử 3.500 - 5.500 năm gồm: Di chỉ Lương Chử ở Dư Hàng - Chiết Giang, Di chỉ Đào Tự ở Tương Phần - Sơn Tây, Di chỉ Thạch Mão ở Thần Mộc - Thiểm Tây, Di chỉ Nhị Lý Đầu ở Yển Sư - Hà Nam, cũng như hơn chục thôn làng trên toàn quốc. Dự án đã phát hiện các chứng cứ cụ thể về nền văn minh Trung Hoa có lịch sử 5.000 năm, bao gồm phát hiện di tích hệ thống đập nước cổ nhất thế giới (niên đại 5.100 năm), kiến trúc cung đình cổ nhất Trung Quốc ở hạ du sông Trường Giang (niên đại 5.000 năm), phát hiện chữ viết xuất hiện sớm nhất Trung Quốc, những đồ dùng làm bằng đồng đỏ sớm nhất Trung Quốc (niên đại 4.900 năm), đài quan sát thiên văn sớm nhất thế giới (niên đại 4.100 năm) ở khu vực trung du sông Hoàng Hà. Dự án chứng thực đặc trưng tổng thể của nền văn minh Trung Hoa là "đa nguyên, nhất thể, thu gom tất cả trong giao lưu, tương tác lâu dài, cuối cùng hội nhập, ngưng tụ hình thành cốt lõi văn minh với Văn hóa Nhị Lý Đầu là đại diện, mở ra văn minh ba triều đại Hạ, Thương và Chu" Trên thế giới, ra đời cùng thời với văn minh Trung Hoa còn có 3 nền văn minh khác là văn minh Ai Cập cổ đại, văn minh Lưỡng Hà và Văn minh lưu vực sông Ấn. Tuy nhiên, cả ba nền văn minh đó đều đã bị diệt vong; các phong tục, tôn giáo và chữ viết cũng theo đó mà thất truyền từ lâu (Văn minh lưu vực sông Ấn sụp đổ vào khoảng năm 1.800 TCN, văn minh Ai Cập và Lưỡng Hà bị diệt vong vào khoảng thế kỷ 1 TCN). Chỉ có văn minh Trung Hoa là vẫn tồn tại, phát triển và được kế tục cho tới ngày nay. Sau này, nhiều học giả phương Tây thời cận đại khi tìm hiểu về văn minh Trung Hoa đã phải kinh ngạc về sự tồn tại lâu dài của nó. Voltaire cho rằng: "Chúng ta nhận thấy rằng quốc gia ấy tồn tại một cách rực rỡ từ trên 4.000 năm rồi mà luật pháp, phong tục, ngôn ngữ, cách ăn mặc vẫn không thay đổi bao nhiêu..." Học giả Keyserling thì kết luận: "Chính ở Trung Hoa thời thượng cổ người ta đã tạo ra được những mẫu mực nhân loại thông thường hoàn bị nhất... Trung Quốc đã tạo dựng được một nền văn hóa cao nhất từ trước đến nay." Khởi điểm văn hóa là nền Văn hóa Hồng Sơn ở phương Bắc đã manh nha cho cả Trung Hoa và Triều Tiên phát triển... Vương quốc Nhà Hạ Xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc bắt đầu ở đồng bằng phía bắc Trung Quốc đã được miêu tả là thuộc về nhà Hạ – giai đoạn cai trị của họ được tin rằng đã bắt đầu khoảng năm 2.200 TCN. Theo truyền thuyết, trong thời gian Hạ Vũ trị vì, Vũ đã phát minh ra lối tát nước vào ruộng, lại bắt sống được một số người dân tộc Man về làm nô lệ. Vũ bắt đầu xây dựng thành quách để giữ gìn của riêng và người trong dòng họ. Của cải của Vũ, để lại cho con là Hạ Khải thừa hưởng. Khải lên ngôi, tình thế chưa ổn định, phải lấy đất An Ấp (thuộc tỉnh Sơn Tây ngày nay) để đóng đô. Những con cháu sau này nối ngôi Khải đều nhiều lần đánh phá lẫn nhau, luôn gây ra các cuộc chiến tranh chinh phạt nhỏ. Kinh tế xã hội lúc bấy giờ đã phát triển khá tiến bộ. Phương pháp làm lịch cũng bắt đầu xuất hiện. Từ khi lên ngôi, Khải cho đặt tên triều đại là Hạ. Theo truyền thuyết, đời Hạ đã có chín cái vạc đồng do Khải cho đúc. Như vậy, có thể thời kỳ này đã có đồng và nghề đúc đồng. Những ghi chép của Tư Mã Thiên về thời gian thành lập Nhà Hạ là từ khoảng 4.000 năm trước, nhưng điều này không thể được chứng thực. Một số nhà khảo cổ học cho rằng nhà Hạ có liên quan tới di vật khai quật được tại Nhị Lý Đầu (二里头) ở trung tâm tỉnh Hà Nam, một bức tượng đồng niên đại từ khoảng năm 2000 TCN. Những dấu hiệu sớm của thời kỳ này được tìm thấy trên các bình gốm và mai rùa trông tương tự như những đường nét đầu tiên của chữ Trung Quốc hiện đại, nhưng nhiều học giả vẫn không chấp nhận ý kiến này. Bằng chứng về sự tồn tại của Nhà Hạ vẫn cần phải được hỗ trợ thêm nữa qua các cuộc khảo cổ. Vì không có những văn bản ghi chép rõ ràng như các văn bản trên các loại xương hay mai rùa dùng để bói của nhà Thương hay những ghi chép trên vại đồng của nhà Chu nên thời đại nhà Hạ vẫn còn chưa được biết đến kỹ lưỡng. Nhà Hạ truyền được 17 đời vua, từ Hạ Vũ đến Hạ Kiệt được hơn 400 năm thì diệt về tay Thành Thang nhà Thương. Nhà Thương Từ thời Nhà Thương có lẽ ở thế kỷ 13 TCN, người Trung Quốc đã có những đoạn văn khắc dùng để bói toán trên xương thú hoặc mai rùa—được gọi là giáp cốt văn (甲骨文). Nhờ có giáp cốt văn mà ngày nay các nhà khảo cổ có thể kiểm chứng được các sự kiện chính trị, tôn giáo diễn ra vào thời nhà Thương. Những hiện vật khảo cổ cho thấy bằng chứng về sự tồn tại của nhà Thương, 1600 TCN–1046 TCN và nhà Thương được chia làm hai khuynh hướng. Khuynh hướng thứ nhất, từ đầu thời nhà Thương (1600–1300 TCN) với các bằng chứng tại Nhị Lý Cương (二里崗), Trịnh Châu và Thương Thành. Khuynh hướng thứ hai từ cuối thời nhà Thương hay giai đoạn Ân (殷), gồm rất nhiều văn bản giáp cốt. An Dương. Các nhà sử học Trung Quốc sống ở cuối những giai đoạn này đã làm quen với khái niệm về những triều đại nối tiếp nhau, nhưng tình hình thực tế chính trị ở giai đoạn đầu trong lịch sử Trung Quốc thì phức tạp và rắc rối hơn nhiều. Vì thế, như một số nhà sử học Trung Quốc đề xuất, nhà Hạ và nhà Thương có lẽ chỉ các thực thể tồn tại đồng thời, giống như nhà Chu ở giai đoạn sớm (triều đại kế tiếp nhà Thương), đã được chứng minh là đã cùng tồn tại đồng thời với nhà Thương. Thời nhà Thương, đồ đồng đã được dùng phổ biến, đạt trình độ chế tác cao. Nhà Thương thường phái quân đội đi chiến đấu chống lại những bộ tộc lân cận. Những lăng mộ vua nhà Thương được khai quật cho thấy họ có những đội quân từ 3.000 đến 5.000 binh lính. Trong cuộc chiến chống Khương Phương, vua Vũ Đinh (cai trị vào khoảng 1.200 TCN) đã huy động 13.000 quân, vào thời bấy giờ thì đó là một đội quân đại quy mô. Các đồ vật chôn theo nhà vua được tìm thấy là các đồ trang sức cá nhân, những chiếc giáo mũi đồng và những phần còn lại của những chiếc cung và mũi tên. Ngựa và xe ngựa để chở lính ra trận cũng được chôn cùng với vua. Và khi vị vua chết, người đánh xe, chó, người hầu và những nhóm mười người cũng bị tuẫn táng cùng với vua. Nhà Thương truyền được 30 đời vua, kéo dài khoảng 600 năm thì bị diệt về tay Chu Vũ Vương của nhà Chu. Nhà Chu Tới cuối thế kỷ thứ 12 trước Công nguyên, nhà Chu bắt đầu nổi lên ở châu thổ Hoàng Hà, tiêu diệt nhà Thương. Có lẽ ban đầu nhà Chu đã bắt đầu thời kỳ cai trị của mình theo một hệ thống nửa phong kiến. Vị vua nhà Chu là Vũ Vương, với sự hỗ trợ của người em là Chu Công trong vai trò nhiếp chính đã đánh bại nhà Thương tại trận Mục Dã. Lúc ấy vị vua nhà Chu đã viện dẫn khái niệm Thiên mệnh để hợp pháp hóa vai trò cai trị của mình, một khái niệm về sau này sẽ có ảnh hưởng trên mọi triều đại kế tiếp. Ban đầu nhà Chu đóng đô ở vùng Tây An ngày nay, gần sông Hoàng Hà, nhưng họ đã thực hiện nhiều cuộc chinh phục mở rộng vào châu thổ sông Dương Tử. Đây là lần đầu tiên trong số nhiều lần di dân từ phía bắc xuống phía nam trong lịch sử Trung Quốc. Nhà Chu đã hoàn thiện các nền tảng chính của Văn hóa Trung Quốc thông qua các chính sách Tỉnh Điền Chế, Tông pháp chế, Quốc dã chế và Lễ nhạc. Để tăng tính chính đáng của quyền lực triều đình, nhà Chu lập ra một hệ thống quan niệm mới gọi là "Thiên mệnh", còn nhà vua chính là Thiên tử, đây là quan niệm sẽ được duy trì suốt 3.000 năm phong kiến Trung Hoa. Việc sử dụng đồ sắt cũng đã xuất hiện ở Trung Quốc vào đầu nhà Chu. Nhà Chu có 37 vua kéo dài khoảng 800 năm, là triều đại tồn tại lâu dài nhất trong lịch sử Trung Quốc. Thời Xuân Thu Từ thế kỷ 8 TCN, trước sức ép của các bộ tộc phía tây thường xuyên tấn công và cướp bóc, nhà Chu đã bỏ kinh đô phía tây để chuyển sang phía đông ở châu thổ Hoàng Hà. Nhà Chu đã nhờ cậy các vương hầu của mình bảo vệ trước sự tấn công của các bộ lạc, nhân cơ hội nhà Chu suy yếu các vương hầu đã lần lượt tiêu diệt các đối thủ nhỏ hơn. Cuối cùng, còn lại vài chục nước, trong đó các chư hầu mạnh nhất lần lượt nổi lên tranh ngôi bá chủ Trung Quốc là Tề, Tấn, Sở, Tần, Tống, Ngô, Việt. Trên danh nghĩa nhà Chu nắm thiên mệnh, nhưng thực sự quyền lực nằm trong tay các chư hầu. Nhà tư tưởng, nhà giáo dục đầu tiên và quan trọng nhất trong lịch sử Trung Quốc – Khổng Tử, cũng sinh ra trong thời đại này. Khổng Tử là người đầu tiên mở trường tư thục để dạy trẻ em và thanh niên bất kỳ thuộc giai cấp nào, nhằm đào tạo ra những thanh niên ưu tú thông hiểu văn hóa - đạo đức để trợ giúp nhân dân và triều đình. Nhờ có Khổng Tử mở đường, chế độ quý tộc huyết thống dần chuyển qua quý tộc trí thức, sớm hơn 2.000 năm trước phương Tây, khiến các học giả phương Tây rất ngạc nhiên và thán phục, khen văn minh Trung Hoa là vô cùng độc sáng. Ngoài ra còn có Lão Tử, Trang Tử, Liệt Tử là tiểu biểu của Đạo Giáo; Hàn Phi là tiêu biểu của Pháp Gia; Mặc Tử là tiêu biểu của Mặc Gia. Họ là những người đề ra các trường phái tư tưởng ảnh hưởng sâu sắc tới văn hóa Trung Quốc sau này. Thời Chiến quốc Thời đại này xảy ra vì sự cân bằng mong manh giữa các nước chư hầu biến thành hỗn loạn trong một thế kỷ và vì một phần ở sự kết thúc thời đại cai trị của nhà Chu. Các liên minh dễ thay đổi và thường bị tan rã khi các nước lớn bắt đầu xâm chiếm và sáp nhập các nước nhỏ hơn. Bắt đầu từ thế kỷ 4 TCN, chỉ tám hay chín nước lớn còn sót lại. Vua nhà Chu vẫn còn tồn tại trên danh nghĩa cho đến năm 256 TCN nhưng chỉ là bù nhìn và nắm giữ rất ít thực quyền. Dân số Trung Quốc đã tăng mạnh ở giai đoạn Xuân Thu; công cụ bằng sắt và ảnh hưởng của nó đến nông nghiệp đã làm tăng mạnh dân số (vào thế kỷ thứ 4 TCN, Trung Quốc là vùng đông dân nhất thế giới, không có thời điểm nào trong lịch sử mà điều này không chính xác). Nhiều phát triển trong văn hóa và toán học đã xuất hiện trong thời kỳ này. Một số thành tựu quan trọng có thể kể đến như Tả truyện trong Kinh Xuân Thu - tóm tắt thời kỳ Xuân Thu trước đó và một bó gồm 21 thanh tre gọi là Thẻ tre Thanh Hoa có niên đại đến năm 305 TCN, là một trong những ghi chép về bảng cửu chương thập phân đầu tiên trên thế giới, cho thấy rằng số học thương mại phức tạp đã được thành lập trong thời kỳ này. Chiến tranh đã trở thành một công việc lớn trong thời đại Xuân Thu, quân đội nhỏ và dưới sự chỉ đạo của tầng lớp quý tộc không còn nữa. Chúng đã thành những đội quân to lớn và gồm những người lính chuyên nghiệp. Một triều đình gồm tầng lớp chuyên nghiệp ngày càng phát triển, một tầng lớp quý tộc tự gọi mình bằng cái tên "quân tử" hay "những người bên trên". Các lãnh thổ lân cận các nước thời Chiến quốc, nay là vùng Tứ Xuyên và Liêu Ninh cũng bị sát nhập và được quản lý theo hệ thống hành chính địa phương mới gồm các quận và huyện. Hệ thống này đã được sử dụng từ thời Xuân Thu. Cuối cùng, nước thống nhất Trung Quốc là nhà Tần, một nước ở miền tây bắc Trung Quốc ngày nay. Nhà Tần chinh phục nước Thục ở đồng bằng Thành Đô và đã đánh bật nước Sở khỏi quê hương của nó ở thung lũng sông Hán. Nhà Tần đã sao chép các cải cách hành chính của các nước khác để trở thành một cường quốc. Sự mở rộng cuối cùng trong thời kỳ này bắt đầu dưới thời trị vì của Tần Vương Doanh Chính. Sau khi thống nhất sáu nước, ông tự xưng là Hoàng đế đầu tiên (Tần Thủy Hoàng). Thời đế quốc Thời phong kiến ở Trung Quốc có thể được chia thành ba thời kỳ nhỏ: Sơ kỳ, Trung kỳ và Hậu kỳ. Các sự kiện chính vào Sơ kỳ phong kiến bao gồm việc nhà Tần thống nhất Trung Quốc và sự thay thế của họ bởi nhà Hán, Cuộc chia cắt đầu tiên sau đó là sự thống nhất của nhà Tấn và sự mất mát của miền bắc Trung Quốc. Thời kỳ Trung kỳ được đánh dấu bởi sự thống nhất của nhà Tùy và sự bổ sung của họ bởi sự thống nhất của nhà Đường, cuộc phân chia thứ hai và nhà Tống. Hậu kỳ bao gồm các triều đại Nguyên, Minh và Thanh. Nhà Tần (221–206 TCN) Các nhà sử học thường coi thời kỳ từ khi bắt đầu nhà Tần tới khi kết thúc nhà Thanh là giai đoạn Đế quốc Trung Quốc. Dù thời gian thống nhất dưới sự cai trị của Tần Thủy Hoàng Đế chỉ kéo dài mười lăm năm, ông đã chinh phục được những vùng đất rộng lớn để tạo nên cơ sở cho nhà Hán sau này và thống nhất chúng dưới một chính phủ Pháp gia trung ương tập quyền chặt chẽ, thủ đô đặt tại Hàm Dương (咸陽) (Tây An ngày nay). Học thuyết của Pháp gia của nhà Tần đặt trọng tâm trên sự tôn trọng triệt để một hệ thống pháp luật và quyền lực tuyệt đối của hoàng đế. Học thuyết này tỏ ra rất hữu dụng để mở rộng đế chế bằng quân sự nhưng lại không tốt trong thời bình. Nhà Tần dùng những biện pháp tàn bạo để dẹp yên chống đối, thậm chí gồm cả việc Đốt sách chôn nho. Điều này khiến cho nhà Hán kế tục sau này phải đưa thêm vào các trường phái cai trị có tính ôn hòa hơn. Các đóng góp quan trọng khác của nhà Tần gồm thống nhất và tiêu chuẩn hóa pháp luật, chữ viết, tiền tệ, đo lường Trung Quốc sau giai đoạn Xuân Thu và Chiến Quốc đầy biến loạn. Thậm chí cả chiều dài trục xe cũng được quy định thống nhất ở thời kỳ này để đảm bảo hệ thống thương mại có thể hoạt động trên khắp đế chế. Nhà Tần đã khởi đầu công trình Vạn lý trường thành, sau này được sửa chữa và xây dựng thêm ở thời nhà Minh. Nền kinh tế của Nhà Tần dựa trên thuế ngũ cốc mà các thần dân của nó phải trả cũng như lao động mà họ phục vụ khi hết mùa vụ. Điều này hiện đã được hiểu rõ bởi vì một số lượng lớn các văn bản hành chính của Tần đã được khai quật. Cuộc chinh phục và thuộc địa hóa Thung lũng Dương Tử của Tần đóng một vai trò quan trọng trong việc đưa khu vực này nằm dưới sự kiểm soát của các đế chế Trung Quốc. Các bộ lạc phía bắc được nhà Tần gọi chung là Ngũ Hồ, đã thoát khỏi sự thống trị của Trung Quốc trong phần lớn triều đại. Bị cấm giao thương với nông dân nhà Tần, bộ tộc Hung Nô sống trong vùng Sa mạc Ngạc Nhĩ Đa Tư ở tây bắc Trung Quốc thường xuyên đột kích họ khiến nhà Tần trả đũa. Sau do tướng Mông Điềm chỉ huy, khu vực này đã bị chinh phục vào năm 215 trước Công nguyên và nền nông nghiệp được thiết lập; những người nông dân đã bất bình và sau đó nổi dậy. Triều đại nhà Hán kế vị cũng mở rộng sang Ngạc Nhĩ Đa Tư do dân số quá đông nhưng làm cạn kiệt tài nguyên của họ trong quá trình này. Thật vậy, điều này đúng với biên giới của vương triều theo nhiều hướng; Nội Mông, Tân Cương, Tây Tạng, Mãn Châu hiện đại và các khu vực ở phía đông nam là xa lạ với nhà Tần và ngay cả những khu vực mà họ kiểm soát bằng quân sự cũng khác biệt về văn hóa. Các luật lệ của đế chế rất chặt chẽ và ác nghiệt, đặc biệt đối với người trong triều đình. Hình phạt cho tham nhũng dành cho mọi thành viên triều đình là tử hình. Các pháp gia cũng tin rằng việc tập trung hoá về tư tưởng, sợ rằng bất kỳ một cách suy nghĩ nào khác ngoài Pháp gia có thể dẫn tới việc phá vỡ hay nổi loạn. Vì thế mọi trường phái triết học khác bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, đặc biệt là Khổng giáo và sách vở của họ bị đốt, giáo viên bị hành quyết. Nhà Tần cũng mạnh tay đối với thương mại. Coi đó là một kiểu tiêm nhiễm hay sự ăn bám, nhà Tần cấm ngặt buôn bán và chủ nghĩa trọng thương, đánh thuế nặng đối với thương nhân và hành quyết các thương nhân vì những lỗi nhỏ nhất. Việc huy động đông đảo dân chúng xây dựng các công trình công cộng cũng như cung điện, sự phân biệt đối xử giữa người nước Tần và dân sáu nước bị chinh phục gây cho họ sự phẫn nộ lớn. Ngay sau khi Tần Thủy Hoàng chết, các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi trong đế chế và quân đội Tần không thể dẹp yên. Cuối cùng, hai lực lượng mạnh nhất do Hạng Vũ và Lưu Bang lãnh đạo đã lật đổ nhà Tần. Vua Tần cuối cùng là Tử Anh đầu hàng đánh dấu sự kết thúc của đế chế đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Nhà Hán (206 TCN – 220) Tây Hán Năm 202 TCN, Lưu Bang đã đánh bại kẻ thù nguy hiểm và hung bạo của mình là Hạng Vũ. Ông lên ngôi Hoàng đế. Do từng được phong ở đất Hán Trung, ông đặt tên triều đại của mình là Hán, mà người đời sau gọi là vương triều Lưu Hán. Cuộc đấu tranh cho quyền lực của Lưu Bang vẫn tiếp diễn, ông phải chiến đấu nhiều cuộc chiến nhỏ để củng cố quyền lực, một số cuộc chiến để chống lại các đồng minh cũ. Một việc khác để củng cố quyền lực mà Lưu Bang phải đối mặt là liên minh các bộ lạc ở biên giới phía bắc Trung Quốc, có họ ngữ âm Đột Quyết, gọi chung là Hung Nô, cầm đầu bởi một Thiền vu. Các bộ tộc Hung Nô là những bộ tộc du mục và trong giai đoạn chiếm hữu nô lệ. Và cũng giống như những bộ tộc du mục khác, người Hung Nô có truyền thống chiến tranh và đã từng nhiều lần tiến hành các vụ tấn công vào Trung Quốc. Lưu Bang tin rằng ông vẫn chưa đủ mạnh để đánh bại các bộ tộc phương bắc, vì thế ông đút lót thực phẩm và quần áo cho họ để đổi lấy sự thỏa thuận của họ không xâm phạm vào đế quốc mới của ông. Thậm chí ông đã phải gả cho vị Thiền vu Hung Nô một cô gái mang danh là công chúa Trung Quốc. Tất nhiên, triều đình của Lưu Bang bắt buộc phải quay lại kiểu cai trị độc tài. Dân chủ không bao giờ là vấn đề đối với người Trung Quốc như nó đã từng có ở các nền văn minh khác ở khoảng năm 200 TCN. Giống với Jeroboam ở Israel, Lưu Bang không phải là nhà cách mạng. Đối với ông triều đình tốt là một triều đình mạnh, một triều đình có thể duy trì sự phục tùng đầy đủ. Lưu Bang đã bắt đầu xây dựng một kinh đô mới tại Trường An, đây sẽ trở thành thành phố lớn nhất thế giới thời kỳ đó. Nhưng ngoài mục tiêu xây dựng một triều đình mạnh ông muốn tập trung sự quản lý đế chế của mình, và vì thế ông cần một đội quân gồm những bầy tôi dân sự trung thành. Để có thể kiểm soát một cách đáng tin cậy đế chế vĩ đại của mình, ông đưa các anh em, chú bác, họ hàng làm những lãnh chúa địa phương. Ông tìm kiếm những sự ủng hộ tiếp tục của các tướng lĩnh địa phương những người từng góp phần trong đồng minh của ông để giành quyền lực, và những người từng làm tướng văn tướng võ của ông, ông phong thành các quý tộc ở cấp nhỏ hơn. Những quan lại địa phương cũ của nhà Tần đã từng ủng hộ ông vẫn được giữ chức vụ cũ, và một số nhà quý tộc thân thiện với ông vẫn được giữ đất đai của mình. Lưu Bang cũng tìm kiếm sự ủng hộ từ phía nông dân. Ông giảm thuế cho họ và cho những người khác. Ở khắp nơi, ông đều tìm cách bảo vệ nông dân khỏi những nhà quý tộc cũ đang tìm cách lấy lại đất đai đã mất. Ông cải thiện đời sống cho họ bằng cách không bắt họ phải đi làm việc nhiều như dưới triều đại cũ, Tần Thủy Hoàng. Và các nông dân tin rằng bởi vì Lưu Bang cũng từng là một nông dân nên ông sẽ tiếp tục cai trị theo cách có lợi cho họ. Sự bắt đầu của tầng lớp quý tộc nhỏ Trung Quốc Dựa vào nguồn gốc nông dân của mình, Lưu Bang tỏ thái độ khinh thị với người trí thức bằng cách đái vào trong mũ của một người trí thức trong triều, nhưng trong nỗ lực để cai trị quốc gia ông đã thấy lợi ích trong việc sử dụng người trí thức, và ông đã dàn hòa với họ. Nhiều người trí thức là thuộc Khổng giáo, và ông đã bắt đầu đối xử với Khổng giáo với sự khoan dung lớn hơn trong khi ông tiếp tục đặt ra ngoài vòng pháp luật những sự tố cáo của Khổng giáo đối với các quan điểm của Pháp gia. Với sự hỗ trợ bên cạnh của Khổng giáo, Lưu Bang tìm cách thu hút các bầy tôi dân sự giỏi và ông đã tìm thấy họ trong những gia đình thuộc tầng lớp trung lưu mới trong nông nghiệp gọi là những quý tộc nhỏ, một tầng lớp khác biệt với quý tộc. Đầu tiên, Lưu Bang và quan lại xung quanh tìm cách đưa những người bạn chiến đấu của mình vào các vị trí quản lý dân sự, nhưng sau đó họ thấy rằng những người đó không đủ khả năng làm quản lý hành chính. Và sau khi có sai lầm vì thấy các tướng quân đội không có khả năng quản lý hành chính, Lưu Bang không cho họ giữ các chức vụ đó nữa. Các triều đình trước thường rất thành công khi cho các nhà buôn giữ các chức vụ quản lý dân sự, nhưng đối với Lưu Bang và quan lại xung quanh vốn có nguồn gốc nông dân nên họ không tin các nhà buôn. Thay vào đó, họ dùng những người thuộc gia đình trồng trọt giàu có, đa phần số họ trở nên giàu ở một vài thế hệ gần đây. Tầng lớp mới này (quý tộc nhỏ) đã gửi những đứa con ưu tú nhất của mình đi làm việc trong triều đình và cho những đứa kém hơn ở nhà làm ruộng. Và với quyền lợi mới trong việc cưới xin hợp lúc, tầng lớp mới đã bắt đầu có nhiều ảnh hưởng hơn nhờ vào họ ngoại. Hán Văn Đế: Khởi đầu một thời đại mới Lưu Bang chết năm 195 TCN ở tuổi sáu mươi ba, được trao thụy hiệu là Cao Đế. Quyền lực rơi vào tay vợ ông, Lã Hậu. Ở Trung Quốc cũng như ở những nơi khác cai trị độc tài đồng nghĩa với cai trị gia đình, và những cuộc tranh giành quyền lực diễn ra bên trong hoàng tộc. Lã Hậu tống các thành viên hoàng tộc họ Lưu ra khỏi các vị trí quyền lực và thay thế họ bằng những người họ Lã. Sau 15 năm cai trị bà mất, và họ hàng của Lưu Bang lại quay lại nắm quyền cai trị, họ giết tất cả các thành viên gia tộc Lã Hậu. Một người con thứ của Lưu Bang với người thiếp là vợ cũ của Ngụy vương Báo tên là Lưu Hằng được lập làm hoàng đế, phục hồi lại quyền cai trị nhà Hán, tức là Hán Văn Đế. Với hệ thống quan liêu triều đình, sự cai trị nhà Hán đang dần hướng về thảm họa, nhưng trong ngắn hạn thì dưới triều Hán Văn Đế ông là người biết cai trị, biết chú ý đến quyền lợi của nhân dân. Khi nạn đói xảy ra ông cho tổ chức cứu tế, trợ cấp cho người già. Ông thả tự do nhiều nô lệ và bãi bỏ nhiều cách hành hình man rợ. Trong thời cai trị của ông, kinh tế được nghiên cứu kỹ lưỡng, và Hán Văn đế rất coi trọng những nội dung kinh tế. Ông phát triển kinh tế bằng cách giảm bớt ngăn cấm khai mỏ đồng, bằng cách chi tiêu tiết kiệm và giảm thuế đánh vào nông dân. Dưới thời Văn đế, Trung Quốc có hòa bình bên trong và một sự thịnh vượng chưa từng có. Điều này giúp nghệ thuật phát triển cao và vẫn còn làm thế giới ngày nay chiêm ngưỡng. Và cùng với sự thịnh vượng, dân số Trung Quốc bắt đầu tăng lên, người dân lao vào khai phá và trồng cấy các vùng đất mới. Tầng lớp quý tộc nhỏ được nhiều lợi ích từ phát triển kinh tế và nhiều người trong số họ chuyển tới thành phố. Quý tộc nhỏ muốn được coi là những người quý phái giống tầng lớp quý tộc cũ. Sự phát triển tầng lớp ưu tú này, cộng với sự thịnh vượng, đã giúp Khổng giáo phát triển. Có thời gian học tập, quý tộc nhỏ trở nên hứng thú với những trường phái học cũ. Với một sự phục hưng những trường phái học cũ, các cố gắng đã có nhằm tái tạo lại các cuốn sách đã bị đốt dưới thời cai trị của Tần Thủy Hoàng. Bị lôi cuốn bởi sự ngưỡng mộ của Khổng giáo đối với chính quyền và cách xử sự đúng mực, các trí thức học giả trở nên rất nhiều thuộc Khổng giáo. Văn đế khuyến khích môn đệ Khổng giáo vào các chức vụ cao nhất trong chính quyền. Ông đã trở thành vị vua đầu tiên hoàn toàn chấp nhận việc lưu truyền Khổng giáo – như Khổng Tử từng mơ về một vị vua như vậy. Nhưng sự lớn mạnh của Khổng giáo không cứu vãn được Trung Quốc khỏi thảm họa chính trị và xã hội. Hán Vũ Đế: Mở rộng và suy tàn Năm 156 TCN, con trai Văn Đế, Cảnh Đế, kế tục cha. Ông cai trị 16 năm và cố gắng mở rộng sự thống trị của gia đình đối với các gia đình quý tộc. Các cuộc chiến giữa các quý tộc đó và Cảnh Đế đã kết thúc một cách có lợi cho ông. Nó kết thúc trong sự thỏa hiệp rằng các quý tộc vẫn giữ một số quyền ưu tiên và quyền lực nhưng không được phép chỉ định quan lại trong đất đai của mình nữa. Năm 141 TCN, con Cảnh Đế là Hán Vũ Đế kế vị. Vị vua mười sáu tuổi thông minh và mạnh mẽ, luôn thích liều mạng trong những cuộc săn lớn. Vũ Đế kéo dài thời thịnh vượng của Hán triều. Vũ Đế bắt đầu thời cai trị của mình bằng một nỗ lực không can thiệp vào thương mại và các cơ hội kinh tế, điều này cho phép kinh tế tư nhân phát triển. Ông vẫn giữ các vị quan dân sự dưới sự quản lý chặt chẽ và trừng phạt sự bất tuân nhỏ nhất cũng như sự không trung thành. Ông kết thúc sự thỏa hiệp của Cảnh Đế bằng một cuộc chiến quý tộc chống lại các hoàng tử có ảnh hưởng nhất của Trung Quốc, và ở tầm địa phương ông trao nhiều quyền lực cho các vị quan đại diện của mình. Vũ Đế thay đổi luật thừa kế. Thay vì việc đất đai gia đình rơi vào tay người con trai cả, ông trao cho mọi người con trong gia đình phần chia bằng nhau đối với đất đai của ông cha, điều này phá vỡ các khoảnh đất lớn thành cách mảnh nhỏ. Và vào năm 138 TCN, Vũ Đế tiến hành cuộc thám hiểm được biết đến lần đầu tiên của Trung Quốc, Trương Khiên đến Tây Á, phía tây của Đại Hạ để thiết lập quan hệ với Quý Sương (Kushan) (Nguyệt Chi Yuzhi). Khổng giáo trở thành chính thức Trong hai mươi năm cai trị, Vũ đế biến Khổng giáo thành triết lý chính trị chính thức của Trung Quốc. Khổng giáo trở thành thống trị trong giới quan lại dân sự trong khi các đối thủ Pháp gia vẫn giữ được vị trí của mình. Các cuộc thi cử được tổ chức để chọn ra 130.000 hoặc còn hơn thế nhân viên dân sự, họ phải trải qua cuộc thi về sự hiểu biết lý thuyết Khổng giáo, hiểu biết về chữ viết cổ và các nguyên tắc thứ bậc xã hội hơn là sự thành thạo kỹ thuật. Về mặt lý thuyết, các cuộc thi đó cho phép mọi người dân tham dự, nhưng trên thực tế chỉ những người có đủ sự tôn trọng, trong đó không bao gồm thợ thủ công, nhà buôn và các tầng lớp bên dưới quý tộc nhỏ tham dự - không nghi ngờ rằng nhiều người trong số họ có khả năng để phụng sự Trung Quốc. Việc huấn luyện làm việc cho các nhân viên dân sự được tiến hành ở cấp quan liêu địa phương. Và việc thích hợp với truyền thống Khổng giáo đã trở thành một thứ để truyền dạy trong thời gian học việc. Một người trẻ tuổi chứng minh được mình có khả năng như một thư ký có thể được phong làm một nhà quản lý. Và sau khi đã chứng minh được khả năng quản lý của mình anh ta sẽ được thăng chức làm cố vấn và được tham dự vào triều đình, hay anh ta sẽ có một vị trí cao hơn trong một triều đình địa phương. Mở cửa ra phía tây và các cuộc chiến mở rộng lãnh thổ Nhờ nền kinh tế thịnh vượng, Trung Quốc có nhiều khả năng hơn để chi phí chiến tranh. Vũ đế tin rằng ông đủ mạnh để không cần phải cống nạp cho Hung nô, vốn bắt đầu từ thời Lưu Bang nữa. Ông lo ngại rằng Hung nô có thể phái quân vào thảo nguyên miền bắc dân cư thưa thớt của Trung Quốc hay họ có thể lập thành liên minh với người Tạng, và ông muốn lập nên một con đường thương mại nhằm buôn bán với vùng Trung Á bảo đảm được an toàn. Vì thế Vũ đế mở nhiều chiến dịch quân sự. Chúng được các tướng của ông ta chỉ huy, nhưng chúng lại mang lại cho Vũ đế sự công nhận như là một vị vua mạnh mẽ và can đảm. Việc Vũ đế quay sang chống lại Hung Nô làm tốn nhiều nhân lực nhưng nó giúp đẩy lùi Hung nô ra khỏi biên giới phía bắc Trung Quốc. Có lẽ khoảng hai triệu người Trung Quốc đã di cư đến các vùng mới chinh phục được và Vũ đế thành lập các thuộc địa ở đó với các binh sĩ và nhân viên dân sự của mình. Những người Hung Nô bị bắt phải chuyển sang làm nghề trồng trọt, công nhân xây dựng và lao động tại các trang trại. Một số trong số họ gia nhập quân đội Trung Quốc, gia đình của họ bị bắt buộc phải ở tại nơi cũ làm con tin để đảm bảo họ không phản bội. Cuộc chiến chống lại Hung nô khuyến khích việc khai phá xa hơn về phía tây. Sau mười ba năm vắng mặt và mười năm bị Hung nô bắt giữ, nhà thám hiểm Trương Khiên quay trở về triều đình Vũ đế và mang theo miêu tả đáng tin cậy đầu tiên về Trung Á. Vũ đế ra lệnh cho Trương Khiên và tay chân quay trở lại Trung Á, và họ đã thu thập thông tin về Ấn Độ và Ba Tư và khám phá các vùng đất trồng trọt màu mỡ ở Bactria. Các cuộc thám hiểm đó, và sự thắng lợi của Trung Quốc trước Hung nô mang lại một sự trao đổi sứ thần thường xuyên giữa Trung Quốc và các nước phía tây, và nó mở ra cho Trung Quốc con đường thương mại dài 4.000 dặm sau này sẽ được biết đến với cái tên Con đường tơ lụa. Trung Quốc bắt đầu nhập khẩu các ngũ cốc và ngựa tốt, họ cũng bắt đầu trồng cỏ đinh lăng và nho. Vũ đế biết thêm nhiều về nguồn gốc của những hàng hóa mà Trung Quốc nhập khẩu. Để kiếm thêm lợi nhuận ông yêu cầu các nước lân cận trả thuế cho mình để được phép bán hàng cho người dân Trung Quốc, và tiến hành các chiến dịch quân sự nhằm buộc họ phải làm thế. Trong lúc đó, Vũ đế gửi quân đội của mình tới phía bắc và phía nam. Năm 108 TCN vì muốn kiểm soát vùng đông bắc, Vũ đế chinh phục một vương quốc đang ở thời đồ sắt phía bắc Triều Tiên, vương quốc Cổ Triều Tiên. Đây là một vương quốc tồn tại cùng mức với nhiều tiểu quốc tại Trung Quốc trước khi chúng thống nhất với nhau năm 221 TCN, và nó cũng có nhiều người tị nạn Trung Quốc chạy đến từ những thế kỷ trước. Ở phía nam, quân đội của Vũ đế chinh phục lại những đất đai mà Trung Quốc đã mất trong cuộc nội chiến đưa nhà Hán lên ngôi, gồm cả thành phố cảng Quảng Châu. Những người di cư Trung Quốc theo chân quân đội. Sau đó, với những trận chiến lớn, quân đội của Vũ đế chinh phục phía bắc Việt Nam, một vùng mà người Trung Quốc gọi là An Nam, hay "miền nam yên ổn". Suy tàn kinh tế và nạn nhân mãn Các cuộc chiến mở mang đất đai của Vũ đế và việc cung cấp cho một quân đội chiếm đóng đông đảo là một gánh nặng cho kinh tế Trung Quốc. Chúng lớn hơn nhiều nhưng lợi ích thu lại được từ việc tăng trưởng thương mại theo sau các cuộc chinh phục. Nhập khẩu góp phần thỏa mãn nhu cầu của người giàu hơn là góp phần tăng sinh khí cho kinh tế Trung Quốc. Các quan chức triều đình theo phái Pháp gia thậm chí làm mọi việc trở nên tồi tệ hơn. Họ rất thù địch với những thương nhân, và họ vận động việc triều đình quản lý kinh tế. Dưới ảnh hưởng của họ, triều đình đánh thuế mới trên các tàu và xe buôn bán hai loại hàng mang lại nhiều lợi nhuận nhất trong công nghiệp của Trung Quốc đó là muối và sắt. Và với việc triều đình ngày càng can thiệp sâu, kinh tế suy yếu. Tích tụ ruộng đất đã từng làm thay đổi nông nghiệp của đế quốc La Mã giờ đây cũng làm thay đổi nông nghiệp Trung Quốc, ngoại trừ việc dân số vùng nông thôn Trung Quốc đã tăng lên. Với việc ruộng đất của người giàu ngày càng tăng và nông dân cũng tăng, một sự thiếu hụt đất đai xuất hiện. Quan liêu tiểu quý tộc tìm cách ngăn chặn sự bấp bênh bằng cách mua đất và thường lợi dụng ưu thế của mình để làm việc đó, và thông thường họ có thể miễn trừ thuế cho đất đai của mình. Những người dân thường phải chịu phần thuế nặng hơn, dẫn tới kết quả là họ phải vay mượn nhiều hơn - với lãi rất nặng. Khả năng sản xuất nông nghiệp giảm sút. Nhiều nông dân bị đuổi đi hay bị buộc phải rời bỏ đất đai, làm cho tiểu quý tộc càng có nhiều đất hơn. Một số nông dân rời ruộng đất để làm nghề ăn cướp, và một số nông dân bắt buộc phải bán con làm nô lệ. Chế độ bắt lính và bắt lao động cũng làm tăng sự bất mãn của nông dân. Học giả Trung Quốc Đổng Trọng Thư, bất bình trước cảnh tuyệt vọng của người dân và ông đã bày tỏ những lo lắng về tình trạng suy tàn của xã hội. Ông phàn nàn về sự mở rộng to lớn của những vùng đất của người giàu trong khi người nghèo không có chỗ đứng chân. Ông phàn nàn rằng những người canh tác trên đất của người khác phải mất năm mươi phần trăm thu hoạch cho chủ đất. Đổng Trọng Thư công nhận sự bất mãn đối mặt với những người nông dân không thể có tiền để mua công cụ bằng sắt, những người phải trồng cấy bằng dụng cụ gỗ và phải nhổ cỏ bằng tay. Ông phàn nàn rằng người dân thường phải bán mùa màng của mình khi giá thấp và sau đó lại phải vay tiền vào mùa xuân để bắt đầu gieo hạt khi mức lãi rất cao. Và ông phàn nàn về việc hàng nghìn người bị giết hàng năm vì tội ăn cướp. Đổng Trọng Thư đề nghị Vũ đế một phương thuốc chữa khủng hoảng kinh tế: giảm thuế đánh vào người nghèo và giảm số nhân công bắt buộc mà người dân phải thực hiện cho nhà nước; bãi bỏ độc quyền nhà nước về muối và sắt; và cải thiện phân phối đất đai bằng cách hạn chế số đất sở hữu của mọi gia đình. Không một đề xuất nào của Đổng Trọng Thư được thi hành. Vũ đế muốn nông dân được phồn thịnh nhưng ông quá bị ảnh hưởng bởi bọn quý tộc nhỏ quan liêu những người cai trị địa phương ở mọi cấp. Cuộc vận động cải cách do những người theo Khổng giáo đề xuất nhưng những quý tộc Khổng giáo lại không chống lại quyền lợi kinh tế của mình. Sự trả lời quan trọng duy nhất của Vũ đế cho sút giảm kinh tế là đánh thuế cao hơn vào người giàu và gửi điệp viên đi khám phá các vụ trốn thuế. Ông không muốn phân phối lại đất đai, không muốn tấn công những chủ đất giàu có, tin rằng ông cần sự hợp tác của họ để có tiền chi cho các chiến dịch quân sự. Những người kế tục Vũ đế Năm 91 TCN, khi thời đại trị vì 54 năm của Vũ đế dần tới hồi kết, quanh thủ đô các cuộc chiến nổ ra về việc ai sẽ kế tục ông. Một phía là hoàng hậu vợ Vũ đế cùng con thừa kế của ông, bên kia là gia đình người thiếp của ông. Hai gia đình gần đạt tới mức hủy diệt lẫn nhau. Cuối cùng, chỉ ngay trước khi Vũ Đế chết, một vị thừa tự thỏa hiệp mới được lựa chọn: một đứa trẻ tám tuổi là Chiêu Đế, đặt dưới quyền nhiếp chính của một cựu tướng lĩnh tên là Hoắc Quang. Hoắc Quang tổ chức một hội nghị để thu thập những bất bình của dân chúng. Mời các quan chức triều đình thuộc phái Pháp gia và những người có uy tín phái Khổng giáo. Pháp gia phàn nàn việc giữ tình trạng không thay đổi. Họ kêu ca rằng các chính sách kinh tế của họ giúp Trung Quốc tự bảo vệ chống lại những thù nghịch ngày càng tăng từ phía người Hung nô và họ đang bảo vệ người dân khỏi sự bóc lột của những thương gia. Họ đòi hỏi triều đình phải có một chính sách khai thác đất đai phía tây sẽ giúp đế chế có thêm ngựa, lạc đà, hoa quả và nhiều đồ xa xỉ nhập khẩu khác, như lông thú, thảm và đá quý. Những người theo Khổng giáo, trái lại, đưa ra vấn đề đạo đức đối với những khó khăn của nông dân. Họ cũng đòi hỏi rằng người Trung Quốc không nên buôn bán với vùng Trung Á và rằng Trung Quốc chỉ cần sống trong lãnh thổ của mình và sống hòa bình với các nước láng giềng. Phái Khổng giáo cho rằng thương mại không phải là hành động đúng đắn của triều đình, rằng triều đình không nên cạnh tranh với những nhà buôn tư nhân, và họ phàn nàn rằng những hàng hóa nhập khẩu mà phái Pháp gia nói chỉ có thể thỏa mãn người giàu. Dưới sự nhiếp chính của Hoắc Quang, thuế được cắt giảm và các cuộc thương lượng hòa bình với các thủ lĩnh Hung nô bắt đầu. Vị vua trẻ Chiêu Đế chết năm 74 TCN, và xung đột trong triều đình lại một lần nữa diễn ra. Người nối ngôi Chiêu Đế là Xương Ấp vương (Lưu Hạ) chỉ làm vua trong 27 ngày và bị Hoắc Quang thay thế bằng một người khác mà Hoắc Quang cho rằng mình có thể kiểm soát là Tuyên Đế. Sáu năm sau, Hoắc Quang chết yên ổn, nhưng những đối thủ trong triều đình trả thù gia đình ông: vợ ông, con và nhiều họ hàng của Hoắc Quang và họ đã bị hành quyết. Sau đó Tuyên Đế cai trị trong hai sáu năm, trong thời gian đó ông luôn phải mệt mỏi với việc giảm bớt tình trạng thạm nhũng vốn đã lan tới triều đình, và cố gắng giúp người nông dân đỡ khó khăn. Nhưng những cố gắng của ông không đạt mục đích, và con trai thừa kế của ông, Nguyên Đế, là điểm tựa chính đầu tiên của triều đình hoạt động không bình thường – cơ hội của một triều đình vô nghĩa nhận được quyền lực để tự thể hiện nó. Nguyên Đế nắm quyền năm 48 TCN ở tuổi hai bảy. Ông là một trí thức rụt rè, người chỉ dành phần lớn thời gian cho thê thiếp của mình - họ nhiều đến nỗi ông không biết được hết số họ. Thay vì cai trị, Nguyên Đế trao quyền vào tay các hoạn quan của mình và các thành viên gia đình bên họ mẹ. Con của Nguyên Đế, Thành Đế, lên làm vua năm 32 TCN ở tuổi 19, và ông ta cũng không chú tâm lắm tới việc trị nước và chỉ lo ăn chơi, kể cả việc đến các nhà thổ vào buổi tối. Trong hai bảy năm cầm quyền của Thành Đế ông tìm sự hướng dẫn từ các thầy bói và để làm giảm sự ghen tuông của một trong những bà vợ của mình, ông giết hai đứa con của mình với một phụ nữ khác. Năm thứ 6 TCN, Ai Đế nối ngôi Thành Đế, sống cùng những đứa trẻ đồng tính, một trong số chúng được cử làm tổng tư lệnh quân đội. Với sự suy tàn về chất lượng triều đình tiếp sau thời cai trị của Vũ đế, một số người trí thức Khổng giáo tuyên bố rằng vương triều Hán đã mất Thiên mệnh và điều này được người dân mạnh mẽ tin tưởng. Âm Dương và học thuyết triết học khác Như ở thời Chiến Quốc (475-221 TCN) và như ở thời Hy Lạp trong thời gian diễn ra chiến tranh Peloponnesus, thời kỳ khó khăn của Trung Quốc không gây trở ngại cho sự nảy nở của kiến thức. Sự suy tàn ở Trung Quốc dẫn tới những bất mãn, và với sự bất mãn đã trở thành sự hồi sinh của trí thức Đạo giáo, trong khi trường phái Pháp gia tiếp tục giữ vị trí của mình, đặc biệt trong triều đình. Khổng giáo tìm cách phản công các triết thuyết của đối thủ bằng cách lập ra nhiều quan điểm toàn diện hơn về con người và vũ trụ. Đổng Trọng Thư mang rất nhiều tư tưởng vào trong triết lý Khổng giáo, gồm cả ý tưởng Âm và Dương - một ý tưởng đã mọc ra để giải thích mọi sự thay đổi, về cả vật chất và xã hội. Để phát triển quan điểm của mình về vũ trụ, phái Khổng giáo chấp nhận một sự giải thích về những nguồn gốc của vũ trụ. Họ tin rằng lúc khởi đầu tất cả là mơ hồ và vô định, tiếp theo là trạng thái trống rỗng, rồi cái trống rỗng đó tạo nên vũ trụ. Họ tin rằng những thứ sáng và nhẹ bị đẩy lên trên thành trời, những thứ tối và nặng liên kết với nhau thành đất. Sự liên kết tinh hoa của trời và đất tạo thành Âm và Dương và một sự thống nhất vĩ đại. Nhà Tân Năm thứ 6, Bình Đế được con trai hai tuổi là Nhũ Tử Anh nối ngôi. Sự ngự trị triều đình thuộc về tay bà quả phụ của vị vua từ năm 48 đến 32 TCN, Nguyên Đế, và bà đưa cháu trai mình là Vương Mãng, nhiếp chính cho Tử Anh. Vương Mãng là một nhà nho và nhiều nhà nho coi ông là hy vọng để Trung Quốc sẽ lại được cai trị với những tư tưởng đạo đức, và một số người trông chờ vào ông sẽ có được một vương triều mới. Được khuyến khích bởi những ủng hộ ngày càng tăng trong giới Khổng giáo, năm 9 CN, Vương Mãng tuyên bố lập làm hoàng đế nhà Tân, kết thúc sự cai trị của Hán triều. Và Vương Mãng bắt đầu chiến đấu để được công nhận sự hợp pháp của mình. Vương Mãng hy vọng có được sự ủng hộ của người dân thông qua các cuộc cải cách. Giống như thầy tế Do Thái (Yawhist) dưới thời vua Josiah, Vương tuyên bố phát hiện ra một bản sách: những cuốn sách do Khổng Tử viết, được cho là đã tìm thấy ở nhà Khổng Tử vốn đã bị phá hủy hai trăm năm trước. Những bản sách tìm thấy chứa những tuyên bố ủng hộ những cuộc cải cách mà Vương Mãng đang tiến hành. Vương bảo vệ các chính sách của mình bằng cách công bố những đoạn trong các cuốn sách được tìm thấy. Theo những thứ được coi là được miêu tả bởi Khổng Tử, ông quy định sẽ quay trở lại vào một thời kỳ vàng son khi mọi người đều có đất đai để canh tác, và trên nguyên tắc đất đai thuộc về nhà nước. Ông tuyên bố rằng một gia đình dưới tám người mà có hơn 15 mẫu Anh đất đai bị bắt buộc phải phân phát chỗ dư thừa cho người không có. Ông cố giảm bớt gánh nặng thuế má trên những người dân nghèo, và ông nghĩ ra một kiểu ngân hàng nhà nước nhằm cho người cần tiền vay với mức lãi suất mười phần trăm một năm, trái với mức lãi ba mươi phần trăm của những kẻ cho vay tư nhân. Nhằm làm ổn định giá lương thực, ông đưa ra những kế hoạch lập kho thóc nhà nước, hy vọng rằng nó có thể làm cho người giàu không còn tích trữ lúa gạo và ăn lãi khi giá thay đổi. Vương cũng uỷ quyền cho một hội đồng quan chức quản lý kinh tế và ấn định giá ba tháng một lần, và ông ra lệnh rằng những kẻ chỉ trích dành cho kế hoạch của mình sẽ bị bắt lính. Vương tuyên bố rằng ông đang làm theo ý nguyện của Khổng Tử. Ông tuyên bố rằng cách cai trị của ông là lấy theo nhà Chu thời kỳ đầu - một thời kỳ mà các nhà Khổng giáo Mạnh Tử cho rằng cứ năm trăm năm lại xuất hiện một lần. Từ khi nhà Chu xuất hiện đến lúc đó đã khoảng 1.000 năm và cách Khổng Tử 500 năm. Vương tin rằng thần dân của mình sẽ tuân theo lệnh ông, nhưng một lần nữa quan liêu tiểu quý tộc lại không quan tâm nhiều tới Khổng giáo bằng tới sự giàu có của mình. Họ và những kẻ có nhiều đất đai khác không hợp tác với nhau để thực hiện những cải cách của Vương. Còn người dân địa phương thì không hề hay biết gì về các cải cách đó. Những thương nhân giàu có mà triều đình Vương Mãng sử dụng để thực hiện cái cách không chống nổi sự mua chuộc và chỉ có tác dụng làm họ giàu thêm lên. Vương cần có một cơ sở tuyên truyền để ủng hộ ông và một lực lượng muốn cải cách chống lại những kẻ đang vi phạm luật cải cách của ông, nhưng ông vẫn ngù ngờ và trung thành với lý tưởng hòa bình chủ nghĩa. Thay vì huy động quân đội nông dân tăng cường cho những cải cách của mình, thì một đội quân nông dân dưới sự lãnh đạo của những chủ đất giàu có nổi lên chống lại ông. Nạn đói và nội chiến Năm 11, sông Hoàng Hà vỡ đê, tạo ra lũ lụt từ phía bắc Sơn Đông cho tới chỗ nó chảy ra biển. Những cố gắng không thành để tích trữ lương thực cho những lúc khó khăn đã làm cho người dân không có thực phẩm. Và vào năm 14 tình trạng ăn thịt người diễn ra. Tin rằng chương trình cải cách là một sai lầm, Vương bãi bỏ nó. Nhưng những cuộc nổi loạn quân sự chống lại ông đã diễn ra. Ở tỉnh Sơn Đông, gần cửa sông Hoàng Hà, Vương phải đối mặt với một phong trào gồm các nhóm nông dân vũ trang có tổ chức gọi là giặc Xích Mi, xuất thân là một toán cướp. Tại các tỉnh lân cận cho đến phía bắc, những cuộc nổi loạn khác cũng diễn ra, và tình trạng hỗn loạn lan khắp Trung Quốc. Ở một số nơi, những người nông dân nổi loạn dưới cờ chủ đất. Một số nhóm nổi loạn coi sự cai trị của Vương là trái pháp luật, mà một trong số đó đặt dưới sự lãnh đạo của Lưu Tú, hậu duệ của Lưu Bang. Các đội quân nông dân giết hại và cướp bóc, và những người nông dân kéo tới kinh đô giết hại các quan chức. Những đội quân Vương cử đi dẹp loạn lại theo quân nổi loạn hay chỉ chè chén và cướp bóc, lấy đi dù chỉ một chút lương thực kiếm được. Lòng tốt cơ bản của con người mà Khổng giáo tin tưởng dường như đã tan biến. Vào năm 23, một đội quân nổi loạn xông vào và đốt kinh đô Trường An. Binh sĩ của họ tìm thấy Vương Mãng trên ngai đang đọc lại những cuốn sách của Khổng Tử trước kia, và Vương Mãng đã bị một tên lính chặt đầu. Đông Hán Nhà Hán phục hồi và thịnh vượng Năm năm sau cái chết của Vương Mãng, hàng triệu người chết trong các cuộc chiến tranh phe phái nhằm giành quyền lực. Phe thắng lợi nhất do hoàng thân nhà Hán Lưu Tú dẫn đầu. Ông có nhiều tay chân học thức và có tiếng trong binh sĩ. Quân đội của ông là lực lượng duy nhất không cướp bóc sau khi chiếm được các thành phố, và điều đó giúp ông chiếm được trái tim và tình cảm của người dân. Lưu Tú kiểm soát được thủ đô Trường An đã bị đốt phá. Ông tự xưng làm hoàng đế, tức là Hán Quang Vũ Đế, khôi phục Hán triều - được gọi là Hậu Hán. Ông chuyển thủ đô về Lạc Dương phía đông, do đó nhà Hậu Hán cũng gọi là nhà Đông Hán. Trong 11 năm sau đó ông phải dẹp yên các đối thủ. Ông thu hút một số nhóm Xích Mi vào quân đội của mình, và sau đó quân đội của ông cũng giết hại rất nhiều quân Xích mi. Những điều chưa được hoàn thành bởi các cuộc cải cách lại được hoàn thành bằng bạo lực: rất nhiều người đã chết đột ngột đến mức mọi người nếu muốn đều có đất, và nhiều kẻ cho vay lãi cũng đã chết nên lại có càng nhiều hơn nữa những nông dân đã thoát khỏi nợ nần. Lưu Tú phát triển kinh tế bằng cách giảm thuế, nhiều đến mức tối đa mà ông cho là có thể: ở mức mười hay mười ba phần trăm sản lượng hay lợi nhuận. Trong thời kỳ cai trị dài 32 năm của ông, ông cố gắng đưa ra các cải thiện bằng cách thúc đẩy học hành và cắt bớt ảnh hưởng của hoạn quan và một số kẻ khác xung quanh gia đình hoàng gia. Ông bảo vệ biên giới phía tây và phía bắc Trung Quốc bằng cách tung ra nhiều chiến dịch quân sự thắng lợi trên các mặt trận đó, đẩy lùi Hung Nô, cho phép ông kiểm soát Tân Cương (điểm cực tây bắc Trung Hoa hiện đại). Cũng như vậy, ông thắt chặt sự kiểm soát của Trung Quốc đối với các vùng quanh sông Liêu và phía bắc Triều Tiên, và ông đã có thể mở rộng tầm kiểm soát tới mọi vùng từng thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Việc khôi phục Hán triều dường như đã lấy lại được "Thiên mệnh". Sự thịnh vượng quay trở lại Năm 57, Lưu Tú chết. Ông được tôn thụy hiệu là Quang Vũ đế, và con trai ông là Minh Đế lên nối ngôi, cai trị trong vòng 18 năm, trong khi kinh tế Trung Quốc tiếp tục hồi phục. Thời cai trị của Minh Đế được coi là tàn bạo. Ông tự đồng hóa mình với Đạo giáo và thần học Khổng giáo, ông tự cho mình là một nhà tiên tri. Ông ủng hộ sự phát triển của cái mà hồi bấy giờ cho là giáo dục, và ông thuyết giảng về lịch sử tại trường đại học mới của đế quốc ở Lạc Dương - một buổi thuyết giảng có hàng ngàn người tham gia. Chương Đế nối ngôi Minh Đế và cai trị từ năm 75 đến 88. Hòa Đế tiếp tục nối ngôi từ 88 đến 106. Dù Hòa Đế là một người tầm thường, Trung Quốc vẫn tiếp tục được hưởng sự thịnh vượng ngày càng tăng. Đại học ở Lạc Dương có đến 240 căn nhà và 30.000 sinh viên. Thương mại của Trung Quốc đạt tới tầm cao mới. Tơ từ Trung Quốc đã trở nên quen thuộc với những người ở tận vùng Đế chế Roma – lúc ấy cũng đang ở thời vàng son. Và đổi lại, Trung Quốc có được kính, ngọc bích, ngựa, đá quý, mai rùa và vải vóc. Việc Trung Quốc trở nên thịnh vượng lại làm xuất hiện cố gắng mở rộng về phía tây. Một vị tướng quân đội Trung Quốc, Ban Siêu, dẫn một đội quân sáu mươi nghìn người không hề bị ngăn cản đến tận bờ phía đông biển Caspi. Ông muốn gửi sứ thần đến tận Roma, nhưng người Đế quốc Parthia sợ sẽ có một liên minh giữa Trung Quốc và La Mã nên đã khuyên Ban Siêu từ bỏ ý định với những câu chuyện thêu dệt về sự nguy hiểm, và ông đã quay lại. Đạo giáo và Thiên đường Sau khi đã có hiểu biết nhiều hơn về thế giới bên ngoài Trung Quốc, người Trung Quốc được nghe nhiều tin đồn về những nơi tuyệt vời. Những tín đồ đạo giáo - những người vẫn coi văn minh Trung Hoa là xấu xa và lý tưởng hóa thiên nhiên cũng như sự chất phác – giúp truyền bá những miêu tả về những nơi tuyệt vời xa xăm và thiên đường. Các câu chuyện về những nơi chất phác và thiên đường xuất hiện trong triều đình, do những người đến để trình diễn ma thuật và giải trí, và thỉnh thoảng triều đình lại trả lời bằng cách tài trợ một số chuyến thám hiểm để tìm kiếm những nơi thiên đường. Một câu chuyện như vậy miêu tả thiên đường dọc theo bờ biển viễn đông bắc Trung Quốc. Thời tiết ở đó êm dịu hơn trong đất liền, và họ nói rằng ở đó không hề có bệnh tật, con người không bao giờ đau ốm và tự quản lý lấy mình. Họ nói rằng ở thiên đường đó người già và người trẻ đều có quyền như nhau, rằng người dân thì lịch sự và không cãi cọ, rằng không bao giờ có xung đột giữa con người và thiên nhiên, rằng con người nhận được số lương thực mà họ cần từ một dòng sông từ thiện, rằng uống nước từ con sông đó có thể làm thân thể con người có lại sự hoàn hảo và khoẻ mạnh của tuổi thanh xuân, và rằng con người ở đó sống lâu hàng trăm tuổi. Một thiên đường khác được đồn đại là ở vùng núi Tây Tạng xa xôi. Ở đó, có thiên đường do Tây vương mẫu cai trị; bà có rất nhiều người hầu kẻ hạ. Ở thiên đường đó, có gió mát thổi – trái với ẩm và nóng ở vùng lục địa và châu thổ Trung Hoa vào mùa hè. Họ cho rằng ở thiên đường đó có những vườn treo, với những ao và hồ tuyệt đẹp, rằng nước ở đó cho người ta sự bất tử, rằng mọi người có thể trèo lên đỉnh núi và trở thành thần linh có quyền lực đối với gió và mưa, và rằng mọi người có thể trèo sang đỉnh núi bên cạnh để lên thiên đường. Đạo giáo mới Tín đồ Đạo giáo vẫn giữ niềm tin vào đức tin vào sự đồng điệu và sự an ủi của thiên nhiên. Họ tin vào một số mệnh bên ngoài sự thay đổi liên tục của cuộc sống vật chất, và họ vẫn giữ niềm tin vào đức tin ở sự mộc mạc cảm xúc. Ví dụ, một người Đạo giáo mộ đạo sẽ vẫn giải thích việc anh ta không khóc cho người vợ vừa chết bằng cách nói rằng nếu anh ta khóc than như vậy thì sẽ chứng tỏ rằng anh ta còn kém hiểu biết về số mệnh. Đạo giáo vẫn giữ những sự bày tỏ trái ngược như vậy, và nó vẫn giữ các quan niệm chống Khổng giáo như con trai và con gái của một người thì không thuộc sở hữu của người đó. Đạo giáo mở ra nhiều ý tưởng mới, gồm cả việc tìm cách sống lâu hay trường sinh bằng cách chấp nhận một thái độ đúng đắn và những kỹ thuật thể chất. Một số người theo đạo giáo tìm cách tìm kiếm sự cứu rỗi trong tự nhiên bằng cách tập trung vào niềm vui sướng trong quan hệ tình dục, và một số người sùng đạo tìm cách có được cuộc sống vĩnh cửu bằng các kiểu tập thần thành hay các chế độ ăn kiêng - một sự trải nghiệm theo kiểu sẽ hỏng nếu có một người chết. Nhưng thay vì chấp nhận rằng cuộc sống vĩnh cửu là không thể có được bằng cách thực hiện một số chương trình đặc biệt, những người theo đạo giải thích sự sai lệch như là một kết quả của hoàn cảnh chứ không phải là do cái chết của con người. Đạo giáo thu nhập những hoạt động ma thuật đã từng tồn tại ở một số cộng đồng nông nghiệp Trung Quốc. Một số đạo sỹ chấp nhận các vị thần vốn bị quý tộc nhỏ và người theo Nho giáo chế nhạo. Trái với niềm tin ban đầu của Đạo giáo ở sự vô vi, một số đạo sỹ hăng hái tìm cách cải đạo, và một số đạo sỹ trở thành những nhà hoạt động nhằm thay đổi xã hội và khởi xướng các chương trình chính trị. Đạo giáo không có định nghĩa rõ ràng về tính chính thống hay sự tổ chức chặt chẽ các nhà hành đạo, nhưng ở nơi này và nơi khác, các tổ chức do các nhà hành đạo chỉ huy vẫn phát triển. Các nhà hành đạo đạo sỹ tập hợp quanh mình những kẻ sùng tín, những người tin rằng họ đã gia nhập vào một nhóm đặc biệt, lúc nào cũng lo lắng cho sự tồn tại đúng đắn của mình. Cái này làm chính quyền Trung Quốc khó chịu – các nhà Nho và giới quan lại tiểu quý tộc - vốn sợ rằng sự thờ cúng các đạo giáo không được cho phép có thể phát triển thành một điểm đối lập với chính quyền của họ. Trong số những nhóm thờ cúng Đạo giáo có một do Trương Lăng lãnh đạo (hay Trương Đạo Lăng) ở tỉnh Tứ Xuyên. Trương Lăng đi loanh quanh vùng nông thôn hứa hẹn những người thú nhận trước công chúng tội lỗi của mình sẽ được ông ta chữa khỏi bệnh tật và sự kém may mắn. Ông tuyên bố rằng bệnh tật là một sản phẩm của những suy nghĩ đen tối. Sử dụng sự mê hoặc và bùa chú ông đòi phải được tôn làm người chữa bệnh, và những buổi thú nhận trước công chúng của ông làm cho người nông dân có cảm giác rằng họ đang tự làm sạch mình khỏi tội lỗi và gia nhập vào một cộng đồng. Năm 142, Trương Lăng lập ra tôn phái Đạo giáo, gọi là "Thiên sư đạo" (Đạo của những pháp sư vĩ đại), chuyển Đạo giáo của mình từ một cách bắt buộc của cuộc sống thành một tôn giáo được tổ chức. Tôn giáo của ông cũng được gọi là "Ngũ đấu mễ đạo" (Đạo của năm thùng gạo); năm thùng gạo trở thành một nhiệm vụ hàng năm mà các tín đồ phải thực hiện. Trương Lăng hứa những người theo ông sẽ sống lâu và bất tử, và ông có được lòng biết ơn của người dân địa phương bằng cách làm được những việc mà chính quyền của nhà vua không làm được: sửa đường sá và cầu, tích trữ lúa gạo và phân phối lương thực cho người đói. Trương Lăng đã tạo ra một triều đình địa phương đối lập với chính quyền của nhà vua. Không biết đến điều đó, các đạo sỹ lại chui lại vào thế giới của quyền lực chính trị. Những cuốn sách thần thánh về hòa bình Một tư tưởng bao trùm ở Trung Quốc, dù muốn hay không, rằng xã hội đang chuyển sang một trạng thái nhà nước tuyệt vời và công bằng, và đi kèm với tư tưởng đó là khái niệm phục vụ cộng đồng, nó sống dậy từ thời đại và ảnh hưởng của Mặc Địch. Khái niệm phục vụ cộng đồng đã xuất hiện trong sách Lã thị Xuân Thu của Lã Bất Vi, vốn được một số người coi là sự khởi đầu của truyền thống xã hội của Trung Quốc. Các vị hoàng đế và các quý tộc Khổng giáo coi những cuốn sách đó là có tính phá hoại, và thỉnh thoảng chính quyền tịch thu chúng. Một số cuốn sách cho rằng hòa bình và bình đẳng sẽ xuất hiện nếu có một sự can thiệp của trời. Một số kêu gọi người dân tỏ thái độ sùng kính và tìm kiếm sự cứu rỗi. Có những người dân coi những cuốn sách đó là thuộc thần thánh và ít nhất có một cuốn được coi là do một người nào đó viết ra và gửi về từ thiên đường. Một số cuốn được gọi là Những cuốn sách của Nền hòa bình cao hơn và chứa nhiều sự lên án tính tham lam và ích kỷ của những ông vua, và các cuốn sách cho rằng xã hội là để dành cho những người dân bình thường. Một cuốn như vậy, tên là Thái Bình Kinh (太平經), tìm cách loại bỏ vũ khí và nhờ đó con người sẽ sống trong hòa bình vĩnh cửu. Sự suy yếu của vương triều Hán Trong khi những người Trung Quốc lao vào tìm tòi trong thế giới của sự thần bí và linh hồn thì họ cũng khám phá ra một số điều và phát triển khả năng châm cứu và bấm huyệt. Tới thế kỷ thứ hai, Trung Quốc đã đuổi kịp và ở một số lĩnh vực đã vượt qua trình độ khoa học và kỹ thuật của Châu Âu và Tây Á. Giấy bắt đầu được sử dụng ở Trung Quốc. Trung Quốc đã có một chiếc đồng hồ nước với độ chính xác mà người châu Âu không thể chế tạo nổi trong hơn một nghìn năm sau đó. Trung Quốc có một lịch Mặt Trăng mà tới thế kỷ XXI chúng ta vẫn sử dụng tốt. Họ có một máy ghi địa chấn đã được phát minh vào năm 132 – có tám chân và làm bằng đồng. Người Trung Quốc quan sát các vết đen trên mặt trời, ở châu Âu mãi về sau này Galileo là người đầu tiên làm việc đó. Người Trung Quốc đã vẽ bản đồ 11.500 ngôi sao và đo đạc quỹ đạo quay của Mặt Trăng. Người Trung Quốc có một cái máy gieo hạt và một cái máy xay lúa. Họ có bơm nước, và không giống như nền văn minh Roma, người Trung Quốc có xe cút kít có bánh. Người Trung Quốc cũng có hàm thiếc và bàn đạp cho ngựa. Họ cải thiện cách dùng thảo mộc làm thuốc và biết thêm nhiều về giải phẫu người và sự chẩn đoán sự rối loạn về cơ thể. Họ đã biết làm các phẫu thuật nhỏ và thuật châm cứu, và họ biết được những lợi ích của một chế độ ăn kiêng tốt. Nhưng cuộc sống của người dân thường Trung Quốc - những nông dân - vẫn rất khó khăn. Họ vẫn bị đánh thuế nặng. Họ vẫn phải đi lao động công ích mỗi tháng một lần cho nhà vua. Những sự trừng phạt vẫn rất khốc liệt. Một nông dân nghèo có thể bị hành quyết chỉ vì dám đi ở giữa đường lớn, nó chỉ dành cho nhà vua. Và họ không có đủ lương thực dự trữ cho những khi cần thiết. Sự thịnh vượng của Trung Quốc đã tăng lên dưới thời Hán Hòa Đế (giữa năm 88 và 106), và triều đình Hòa Đế đã trở nên cũng xa hoa như những triều đình trước Hán đó. Trong triều, vua có hàng trăm thê thiếp cùng một số lượng lớn hoạn quan để cai quản họ. Dưới thời Hòa Đế, các hoạn quan và các gia đình họ hàng vua có ảnh hưởng lớn hơn, qua hoạn quan họ có thể gây ảnh hưởng đến nhà vua. Những người có liên quan tới việc lựa chọn người kế vị ngai vàng thường thích một đứa trẻ bởi vì họ dễ dàng cai quản nó hơn so với một người lớn, nên họ có được một quyền lực cực lớn. Tất cả các vị vua Hán kể từ thời Hán Minh Đế đều được lên làm vua khi còn vị thành niên, hai người mới chỉ lên hai tuổi, và đa số đều bắt đầu thời cai trị của mình với hoàng hậu nhiếp chính. Những người đàn bà đó thường bị cô lập và phụ thuộc vào những người đàn ông - thường là họ hàng. Khi vua đến tuổi thành niên, nếu ông bãi chức những người cố vấn họ hàng đó thì ông lại phải nhờ ở những người đàn ông mà ông có quan hệ - những hoạn quan – và ông đưa họ lên những vị trí cao để làm đối lập với ảnh hưởng của mẹ. Trong thời cai trị của Hán Thuận Đế (125-144), những lời đồn đại nổi lên ở trong đám nông dân Trung Quốc rằng các vị vua Hán một lần nữa lại mất Thiên Mệnh. Khắp nơi, những cuộc nổi loạn nông dân lại diễn ra. Trong thời Hán Hoàn Đế (146-168) sự suy sụp chính trị tiếp tục diễn ra. Năm 159 vị hoàng hậu nhiếp chính qua đời, các hoạn quan quanh Hoàn Đế, cảm thấy thời cơ đã đến, liền hạn chế ảnh hưởng của đối thủ bằng cách xếp đặt sự hủy diệt các thành viên thuộc phe cánh hoàng hậu. Hoàn Đế trở nên phụ thuộc vào hoạn quan. Ông uỷ quyền cho bọn họ, và các hoạn quan chiếm hết các vị trí triều đình cho họ hàng mình, đòi các vị quan hay tướng được phong chức phải hối lộ vàng cho họ. Hoàn Đế chết năm 168, và ngày hôm sau vợ ông, Đậu hoàng hậu, tuyên bố lên làm hoàng hậu nhiếp chính. Bà thỏa thuận lựa chọn một đứa trẻ mười hai tuổi ở nông thôn tên là Lưu Hoằng, chút của Hán Chương Đế. Sau đó, bà cùng với Đậu Vũ đón Lưu Hoằng vào cung lập làm hoàng đế, tức Hán Linh Đế. Trong thời Linh Đế một cuộc xung đột xảy ra giữa hoạn quan và các quan chức theo Khổng giáo. Phái Khổng giáo từ lâu vốn không thích các hoạn quan, coi họ là thiếu giáo dục và gây trở ngại cho một triều đình tốt. Chiến tranh xảy ra giữa các hoạn quan và phái Khổng giáo về sự ảnh hưởng của một vị phù thủy Đạo giáo. Vị phù thủy Đạo giáo tiên đoán rằng một lòng khoan dung khắp nơi sắp đến và sai con mình đi giết một người nào đó để bày tỏ sự tin tưởng vào sự tiên tri đó. Con trai của ông là người hầu cận của các hoạn quan, và các hoạn quan đã ngăn chặn sự hành hình của vị phù thủy. Tuy nhiên vị quan cai trị vẫn hành hình con vị phù thủy. Các hoạn quan buộc tội vị quan cai trị vi phạm vào điều luật của đế chế và âm mưu với nho sinh và những bậc trí thức để thành lập một liên minh bất hợp pháp nhằm chống lại chính quyền. Các hoạn quan có được lệnh từ Linh Đế, ra lệnh bắt giữ các nho sinh dám biểu tình và dám tìm cách khấn nguyện lên hoàng đế. Và nhanh chóng, họ giết nhiều nho sinh trong ngục. Tại các tỉnh, sự tôn trọng quyền lực của vua ngày càng suy tàn. Các quan lại hành chính địa phương và quan cai trị mất quyền lực vào tay những người giàu, vì họ thường đút lót cho bọn hoạn quan ở triều đình. Những người địa phương đó thường có thói quen che giấu những tên côn đồ để bảo vệ quyền lợi của họ. Và với sự bùng nổ xung đột giữa hoạn quanh và tiểu quý tộc trong triều, những vị quan võ đang nắm quân đội tại các tỉnh Trung Quốc ngày càng trở nên độc lập. Một người theo Đạo giáo tên là Trương Giác, tự cho mình là "đại hiền lương sư", đã đi quanh vùng làng quê giống như Trương Lăng. Ông trình diễn những trò ma thuật, chữa khỏi các phiền não bằng nước và những lời khấn mà ông gọi là "thái bình yếu thuật". Trương Giác cũng nói rằng nhà Hán đã mất Thiên Mệnh, và ông tự tuyên bố sự sụp đổ sắp tới của họ. Trong vòng mười năm, phong trào của ông có hàng trăm nghìn người. Phong trào của ông phân chia vào các tỉnh, và mỗi tỉnh có một thủ lĩnh lãnh đạo. Năm có tính chất quyết định đối với phong trào của Trương Giác là năm 184. Ngày mùng năm tháng ba âm lịch được hẹn làm ngày cho một cuộc khởi nghĩa tổng thể ở Lạc Dương và các vùng lân cận. Nhưng triều đình đã biết được tin đó, và chính quyền bắt các thủ lĩnh địa phương của cuộc nổi loạn và hành quyết họ. Trương Giác thay đổi kế hoạch và kêu gọi một cuộc nổi dậy ngay lập tức, kêu gọi những người theo ông đốt những trụ sở chính phủ và cướp bóc thành phố. Đây được gọi là cuộc khởi nghĩa khăn vàng, được đặt theo kiểu đội đầu của phong trào – màu vàng biểu thị sự liên kết của họ với yếu tố đất như đối kháng với yếu tố lửa, mà họ coi là của nhà Hán. Cuộc nổi loạn lan rộng, và người dân khắp mọi nơi trong nước bắt đầu cướp phá, giết chóc và kéo nhau đến thủ đô. Các hoạn quan và quan lại ở Lạc Dương bỏ qua sự khác biệt giữa hai bên vì sợ cuộc nổi dậy Khăn Vàng. Các lực lượng chính phủ củng cố quanh Lạc Dương, và chính phủ cho phép quan cai trị địa phương được tổ chức quân đội riêng để chiến đấu chống nổi loạn. Các chúa đất giàu có cũng tổ chức quân đội để tự bảo vệ mình. Nhưng hết thành phố này tới thành phố khác rơi vào tay quân Khăn Vàng, quan đầu tỉnh và cấp dưới bỏ trốn không đối đầu với họ để tránh bị đem ra hiến tế cho thần thánh của quân nổi loạn. Ở giữa cuộc hỗn loạn, Hung nô lại bắt đầu tổ chức các cuộc tấn công Trung Quốc. Và tại Triều Tiên, các bộ tộc chiến binh trên lưng ngựa tràn từ trên cao nguyên xuống đánh Trung Quốc. Chính phủ ở Lạc Dương không thể giúp đỡ, và người Triều Tiên tràn qua vùng đất của họ trước đó bị đặt dưới sự thống trị của Trung Quốc. Trong nỗ lực nhằm tự bảo vệ mình, triều đình Hán bắt đi lính rất nhiều người, lập lên những đội quân đông đảo với chi phí rất lớn, và mặc dù quân Hán yếu kém và không có hiệu quả vì nạn tham nhũng, quân Khăn Vàng cũng không phải là đối thủ của họ. Về mặt quân sự, quân Khăn Vàng không được tổ chức, và họ bị tuyên truyền rằng chúa của họ biến họ thành một đội quân vì cái tốt đẹp, rằng họ không thể bị tấn công, và thậm chí họ cũng chẳng cần đến vũ khí - một quan điểm không thích hợp cho một chiến dịch quân sự. Đạo thần bí là một phần của sự thành lập phong trào và cũng là một phần của sự hủy diệt của nó. Trong năm đầu tiên của cuộc nổi loạn, Trương Giác chết, và chỉ trong vòng một năm cuộc khởi nghĩa bị đánh bại. Trong năm năm thỉnh thoảng có những cuộc nổi loạn rời rạc vẫn tiếp diễn. Chín tỉnh của Trung Quốc bị tàn phá, Các lực lượng đối lập với Khăn Vàng tiêu diệt hết nhóm Khăn Vàng nọ đến nhóm kia. Những cuộc chiến rời rạc vẫn tiếp diễn trong hàng thập kỷ sau, trong khi những người nông dân ủng hộ cho Khăn Vàng quay trở về với công việc của mình kiếm sống bằng cách làm việc và hy vọng về một thế giới thiên đường ở đâu đó. Nhà Hán sụp đổ, mở đầu thời Tam Quốc (220–280) Linh Đế chết năm 189, ở tuổi 33, trong khi các tướng lĩnh ngày càng đòi nhiều quyền lực hơn so với lúc họ chiến đấu chống lại Khăn Vàng. Đại tướng quân Hà Tiến, một người anh em họ của vị thái hậu nhiếp chính tìm cách tóm lấy quyền lãnh đạo triều đình. Ông âm mưu chống lại bọn hoạn quan trong triều và những kẻ ủng hộ họ, và mời tướng Đổng Trác đem quân về kinh đô để tiêu diệt bọn hoạn quan. Nhưng trước khi Đổng Trác đến, chiến tranh nổ ra trong triều. Tập đoàn hoạn quan giết Hà Tiến. Các thế lực quân sự ủng hộ Hà Tiến phản công và đốt cung điện, giết mọi hoạn quan mà họ gặp – hay bất kỳ ai trông giống với hoạn quan vì không có râu. Và hơn hai nghìn hoạn quan, cùng những kẻ ủng hộ bị giết. Ngay sau đó, Đổng Trác đến kinh đô và phế Thiếu Đế, giết Hà thái hậu nhiếp chính. Ông chọn Lưu Hiệp, hoàng tử chín tuổi, là em của Thiếu Đế lên làm vua, tức là Hán Hiến Đế. Đổng Trác doạ nạt cả triều đình bằng thanh gươm của mình, với cách cư xử được miêu tả là trác táng và cục súc, trong khi quân đội của ông ta, đa phần đến từ Hung Nô, cướp phá và giết hại cho sướng tay quanh kinh đô. Trước sự thao túng triều đình của Đổng Trác, nhiều trấn chư hầu nổi dậy chống lại. Đổng Trác thua trận mang Hiến Đế di cư đến Trường An. Trước khi đi, ông đốt cháy Lạc Dương. Sách vở nói, họ mang theo hơn một triệu thường dân, đa phần đã chết vì kiệt sức và cái đói dọc đường. Sự vô tình của Đổng Trác với nhân dân khiến mọi người chống lại ông. Sự khát máu vô biên của ông cùng tâm tính nóng nảy làm binh lính bên dưới xa lánh, và trong năm 192, Lã Bố, một thuộc tướng đã ám sát ông. Một cuộc chiến giành quyền kiểm soát ngôi báu diễn ra giữa các tướng lĩnh. Tới năm 196, một vị tướng chư hầu khác là Tào Tháo đã tìm được vị vua trẻ con Hiến Đế. Ông kiểm soát vua nhỏ và tuyên bố mình là "Thừa tướng", có quyền bảo vệ đế chế. Tào Tháo là một vị tướng mạnh mẽ, khôn ngoan và có khả năng lãnh đạo. Quân đội của ông được tuyên bố là có hàng triệu người. Trong những trận chiến đẫm máu ở phía bắc Trung Quốc, ông đã đánh bại hết đối thủ này đến đối thủ khác và lập lại trật tự ở đó. Năm 208, Tào Tháo tiến về phía nam trong một nỗ lực nhằm thống nhất Trung Quốc. Trận chiến tiếp theo ở Xích Bích, dọc sông Dương Tử, đã trở thành nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc. Trong trận đó, Tào Tháo giáp mặt với đội quân đồng minh của Lưu Bị và Tôn Quyền, và đồng minh đó đã đánh bại ông, buộc Tào Tháo phải quay trở về phía bắc. Sau khi quay về phía bắc, Tào Tháo đã dốc sức tham gia các chiến dịch quân sự để đánh bại các thế lực cát cứ còn lại là Mã Siêu, Hàn Toại trong các trận Đồng Quan và Ký Thành, ổn định được hậu phương của mình. Lưu Bị vốn là một thành viên trong Hán tộc, có tiếng là người nhân từ. Ông liên kết với Tôn Quyền để chống lại Tào Tháo hùng mạnh phía bắc và mưu thống nhất Trung Quốc. Tôn Quyền dựng lên nước Đông Ngô ở phía đông nam Trung Quốc và liên minh với Tào Tháo, người đã lập lên nhà Ngụy ở phía bắc - lấy theo tên nước Ngụy ở thời Chiến Quốc (475-221 TCN), còn Lưu Bị lập ra nhà Thục ở tỉnh Tứ Xuyên. Giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc được gọi là thời Tam Quốc bắt đầu từ đó. Thời kỳ này được đặc trưng bởi sự phân quyền dần dần của nhà nước tồn tại dưới thời Tần và nhà Hán và sự gia tăng quyền lực của các gia tộc lớn. Năm 266, nhà Tấn lật đổ nhà Ngụy và sau đó thống nhất đất nước vào năm 280 nhưng chỉ được thời gian ngắn. Sự nổi lên và sụp đổ của một nhà nước thần quyền độc lập Tuy nhiên, dọc sông Dương Tử gần Tứ Xuyên, một nhánh thuộc Đạo giáo vẫn tồn tại với quân đội riêng đã lập nên một nhà nước thần quyền. Người sáng lập là Trương Lỗ, hậu duệ của Trương Lăng. Giống như Trương Lăng, ông ta thực hiện những thứ mà ngày nay chúng ta gọi là chữa bệnh bằng cách thần bí, và ông ta thuyết giảng những thông điệp của Trương Lăng về cách có một tinh thần và thể chất khoẻ mạnh, tuyên bố rằng các bệnh tật là sự trừng phạt cho những hành vi xấu xa và rằng bệnh tật có thể được chữa trị bằng sự ăn năn và sự thú tội ở các buổi lễ. Cộng đồng của Trương Lỗ có những bữa ăn tập thể, "thân mật", và giống như Trương Lăng, ông ta có hệ thống phúc lợi cho cộng đồng của mình và tích trữ lương thực và thịt. Ông thúc đẩy sự công bằng. Cộng đồng của ông cho những kẻ lang thang không nhà một chỗ trú ngụ và bữa ăn, và họ tỏ ra khoan dung đối với những kẻ phạm tội. Một người theo Đạo giáo khác, Trương Tu lập ra một nhà nước độc lập khác ở bên cạnh. Dù họ có chung sự sùng bái đối với Đạo giáo, nhưng hai cộng đồng Trương Lỗ và Trương Tu lại đánh lẫn nhau. Trương Lỗ, như kể lại, đã giết được Trương Tu. Ngay sau đó, Trương Lỗ có một đối thủ còn kinh khủng hơn, Tào Tháo. Với quân đội của mình, Tào Tháo chiếm đất đai của Trương Lỗ. Trương Lỗ đầu hàng Tào Tháo và được ban thưởng thái ấp. Lịch sử kể rằng Trương Lỗ chết một thời gian ngắn sau đó – năm 217. Và có truyền thuyết rằng 26 năm sau khi ông chết, nhiều người đã thấy ông bay lên trời. Truyền thuyết cũng nói rằng khi khai quật mộ ông vào năm 259, thân thể ông vẫn còn nguyên vẹn, có nghĩa là ông chỉ chết theo nghĩa ông đã tách khỏi thể xác và đã lên thiên đường. Nhà Tấn (266–420) Chấm dứt thời Tam quốc Một tiểu thuyết thế kỷ mười bốn, Tam quốc diễn nghĩa, miêu tả thời đại Tam quốc như là một giai đoạn lãng mạn, anh hùng và thượng võ. Nhưng đối với người dân sống ở thời kỳ đó thì nó kém lãng mạn hơn nhiều. Về mặt quân sự, Ngụy là mạnh nhất trong số ba nước, một sức mạnh được nâng đỡ nhờ kinh tế và các cảng biển. Nước Thục có dân cư thưa thớt hơn, và là một vùng đa phần là rừng, với nhiều bộ tộc không phải là người Hán. Năm 263, Ngụy đánh và chiếm Thục, chỉ còn lại Ngô làm đối thủ. Sau đó vua Ngụy bị quyền thần họ Tư Mã thao túng và chính thức đoạt ngôi năm 265. Tư Mã Viêm nối chức cha ông phế vua Ngụy lập ra nhà Tấn, tức là Tấn Vũ Đế (265-290). Năm 280, Tấn Vũ đế chinh phục nốt nước Ngô. Trung Quốc lại được thống nhất, và Tấn Vũ đế mở rộng quyền lực của mình về phía bắc đến trung tâm Triều Tiên và phía nam đến hết An Nam (Việt Nam). Một triều đại mới, gọi là Tây Tấn đã bắt đầu ở Trung Quốc. Tấn Vũ Đế Trước sự hùng mạnh của Tây Tấn, những sự cướp phá chống Trung Quốc của Hung Nô và những bộ tộc khác tạm dừng trong một thời gian. Và chính sách định cư các bộ tộc bên trong Trung Quốc đã có kết quả. Triển vọng về một nền hòa bình, thống nhất và thịnh vượng bắt đầu. Năm 280, Tấn Vũ Đế bắt đầu thi hành chính sách mới. Các đội quân được nghỉ ngơi, và các vũ khí kim loại bị đúc thành tiền. Nhưng cố gắng của Tấn Vũ Đế nhằm giải ngũ quân đội không có nhiều kết quả. Một số binh sĩ giải ngũ nhưng vẫn giữ vũ khí, các binh sĩ buôn bán vũ khí của họ với Hung Nô để đổi lấy đất, còn các hoàng thân ở vùng xa không chịu giải giáp hay giản tán quân đội của mình. Vũ đế tìm cách quay lại thời kỳ vĩ đại của triều Hán, khi hòa bình và thịnh vượng có ở khắp đất nước và nhà Hán có được quyền lực trung ương mạnh. Tấn Vũ Đế đặt ra các cải cách nhằm mục đích kiềm chế quyền lực địa phương - quyền lực của các gia đình lớn. Nhưng những cải cách đó không thành công. Ông chết năm 290 khi thế lực của các chư hầu, lãnh chúa lớn ở Trung Quốc vẫn có quân đội riêng. Bát vương chi loạn Cùng với cái chết của Vũ đế sự suy yếu đã đến với triều đình: con Vũ đế là Huệ Đế, một hoàng đế đần độn. Quyền hành rơi vào tay hoàng hậu Giả Nam Phong. Bà vốn đa nghi và bắt đầu bắt giữ và hành quyết bất kỳ ai mà bà cho là một mối đe doạ cho vị trí của mình, kể cả những kẻ đối lập bên trong hoàng gia. Cuộc xung đột nổ ra giữa các hoàng thân nhà Tấn, sử gọi là "loạn tám vương" (Bát vương chi loạn) Nhiều vương công và hàng nghìn người khác bị giết. Giả Hoàng hậu không thể giết tất cả những kẻ đối nghịch với mình, và đến năm 300, một hoàng thân là Triệu vương Tư Mã Luân đã làm đảo chính, giết Giả Hoàng hậu và nhiều người khác, đồng thời ép vị vua nhu nhược phải nhường ngôi. Đến lượt các vương hầu khác khởi binh chống lại Tư Mã Luân và giết ông chỉ sau 3 tháng. Vị vua nhu nhược Tư Mã Trung lại được lập làm hoàng đế lần thứ hai. Tuy nhiên, cuộc chiến giữa các vương hầu không hề kết thúc. Thêm vào đó, hạn hán và nạn đói liên tiếp xảy ra. Chính phủ trung ương suy yếu và hoàn toàn bất lực trước sức mạnh của các lãnh chúa địa phương. Trung Quốc bước qua giai đoạn thống nhất giờ lại bước vào giai đoạn tan rã. Khổng giáo, Phật giáo thời Tây Tấn Với sự tan rã của Hán triều, các bộ tộc Hung nô từ phía bắc Trung Quốc thấy cơ hội để tiếp tục cướp phá những vùng đông dân của Trung Quốc. Giống như điều xảy ra ở châu Âu, sự đổ vỡ của chính phủ thúc đẩy nông dân từ bỏ sự độc lập của mình và tập hợp lại với nhau để được bảo vệ dưới một ông chúa đất có lực lượng gồm những người có trang bị vũ khí. Các nông dân chạy trốn để khỏi phải đóng thuế cho nhà nước và đi lao động công ích, nhưng lại trở thành nông nô của ông chúa đất. Giống như sự suy tàn của tôn giáo chính thức trong thời đại khó khăn ở La Mã, Khổng giáo cũng bị như vậy trong thời hỗn loạn ở Hán triều. Khổng giáo từng là tư tưởng của tầng lớp tiểu quý tộc và quý tộc Trung Quốc và vốn thống trị trong giáo dục và hành chính của đế chế, nhưng với việc đạo đức rất ít thấy trong số những người nắm quyền, nhiều người tinh hoa Trung Quốc quay sang coi Khổng giáo là biện hộ cho sự trung thành đối với kẻ cai trị là thứ không thích hợp và nhiều người coi Khổng giáo là đã không đáp ứng được với nhu cầu của thời đại. Họ không nghiên cứu Khổng giáo nữa mà tìm kiếm một tư tưởng khác để thay thế và một trong số đó là Đạo giáo. Một thứ khác nữa là Phật giáo, mà theo truyền thuyết đã du nhập vào Trung Quốc năm 65, trong một giấc mơ của Hán Minh Đế. Một lý thuyết đối nghịch cho rằng Phật giáo đã nhập với Ấn Độ giáo khi phát triển về phía đông với những nhà buôn Ấn Độ, Phật giáo vào Trung Quốc qua những nhà buôn vào lục địa qua Trung Á trong thế kỷ đầu tiên. Triều đình nhà Hán, theo ghi chép, chào đón Phật giáo vào Trung Quốc. Nhưng Phật giáo vẫn bị cô lập trong thời nhà Hán, chỉ được các nhà buôn Ấn Độ gia nhập - những người chi tiền và hiến đất để xây các chùa Phật giáo và sử dụng chúng làm nhà băng và nơi cất giữ hàng hóa. Người Trung Quốc đầu tiên đổi sang Phật giáo là những người thuê đất đai của nhà chùa. Các kinh điển Phật giáo được dịch sang tiếng Trung Quốc. Sau đó với sự sụp đổ của Hán triều, Phật giáo ngày càng phát triển trong dân chúng Trung Quốc. Họ không biết nhiều về học thuyết của Phật giáo, nhưng họ có được sự an ủi trong Phật giáo. Các chùa Phật giáo và những lễ nghi phức tạp rất ấn tượng, và Phật giáo là một thông điệp ấm áp hơn thông điệp của Khổng giáo: một thông điệp về sự cứu rỗi thông qua sự tiết chế hay kiêng khem và thông điệp về lòng trắc ẩn cho mọi sinh vật. Cả Phật giáo Đại thừa và Tiểu thừa đều có mặt ở Trung Quốc, nhưng phái Đại thừa với các thần phật cứu rỗi và hay giúp đỡ ở mức thống trị. Chia cắt Ngũ Hồ loạn Hoa và Nam Bắc triều (420–589) Ngũ Hồ loạn Hoa Sau loạn bát vương, Tây Tấn suy yếu cực độ và bị các tộc phương bắc xâm chiếm. Năm 316, vua nước Hán Triệu là Lưu Thông tiêu diệt Tây Tấn. Các quý tộc nhà Tấn chạy xuống phía nam tái lập nhà Đông Tấn (ở đất nhà Ngô thời Tam Quốc cũ). Vùng đất phía bắc do các tộc người Hồ chiếm giữ, gọi là thời Ngũ Hồ loạn Hoa, gồm 16 nước. Bị cai trị bởi chế độ quân chủ là một điều không may cho Trung Quốc, với những cuộc chiến tranh và đổ máu là phương tiện để tìm ra người kế tục ngôi báu. Những vị vua có năng lực lại bị tiếp nối bởi những vị không năng lực, với tình trạng tham nhũng trong chính phủ và sự xao nhãng quan tâm tới quyền lợi của thường dân. Nếu những người nắm quyền phục thuộc vào nguyện vọng của nhân dân họ sẽ phải làm nhiều việc cho quyền lợi của người dân – như tích trữ lương thực vào những năm được mùa để phòng khi hữu sự. Các chính quyền không có khả năng và luôn thay đổi làm cho Trung Quốc dễ rơi vào tranh giành. Ở miền nam, Đông Tấn luôn gặp phải nạn bè phái và sự trỗi dậy của các quyền thần, loạn thần nhân khi "thiên tử" suy yếu, điển hình là Vương Đôn, cha con Hoàn Ôn - Hoàn Huyền. Thêm vào đó, những cuộc nổi dậy của nông dân, nhất là khởi nghĩa Lư Tuần đầu thế kỷ 5 khiến nhà Tấn càng suy yếu. Điều đó khiến Đông Tấn rất ít khi có cơ hội mở các cuộc tấn công bắc phạt để giành lại quyền kiểm soát trung nguyên, dù ở miền bắc đã không ít lần có những biến động thuận lợi - sự tan rã, suy yếu của các chính quyền Ngũ Hồ - để làm điều đó. Năm 420, quyền thần Lưu Dụ, phát triển thế lực nhờ dẹp khởi nghĩa Lư Tuần và diệt được 2 trong số các nước Ngũ Hồ phía bắc, mở đất đến Quan Trung và sông Hoài, thực hiện cướp ngôi nhà Tấn, lập ra nhà Tống, sử gọi là Lưu Tống. Trong khi đó ở miền bắc sau khi nhà Tấn mất quyền kiểm soát, các bộ tộc Hồ gây chiến liên miên với nhau và với người Hán. Có hơn 20 quốc gia đã hình thành và diệt vong trong thời gian đó, nhưng 16 nước được sử hay nhắc tới. Tình hình miền bắc được các sử gia chia làm hai giai đoạn lớn: Từ năm 383 trở về trước và sau năm 383. Trước năm 383, sử Ngũ Hồ loạn Hoa có sự ra đời và diệt vong của các nước Hán Triệu (304-329), Hậu Triệu (319-352), Thành Hán (303 - 347), Tiền Lương (314-376), Tiền Yên (317-371), Tiền Tần (351-394). Các quốc gia này, song song với việc đánh chiếm được đất đai của nhà Tấn và chống lại những cuộc bắc phạt của nhà Tấn đã quay sang đánh lẫn nhau. Tới năm 376, khi hoàng đế Tiền Tần là Phù Kiên diệt nước Tiền Lương và Bắc Đại (nước của người Tiên Ti, không được nhắc tới trong 16 nước), thống nhất miền bắc, cơ bản Trung Quốc chỉ còn 2 nước Tần và Tấn chống nhau. Năm 383, Phù Kiên huy động 100 vạn quân đa sắc tộc đi đánh Đông Tấn để thống nhất Trung Quốc, nhưng bị thảm bại ở trận Phì Thủy. Ngay sau trận Phì Thủy 383, Tiền Tần suy yếu và tan rã nhanh chóng. Các bộ tộc cũ của người Hung Nô, Tiên Ty, Khương lại nổi dậy chia cắt miền bắc, hình thành các nước Hậu Lương, Bắc Lương, Tây Lương, Nam Lương, Hậu Yên, Bắc Yên, Nam Yên, Tiền Tần, Hậu Tần và Tây Tần và Hạ. Nước Bắc Đại của họ Thác Bạt cũng phục hồi năm 386 với tên là Bắc Ngụy và dần dần lớn mạnh. Bắc Ngụy lần lượt diệt các nước Ngũ Hồ phía bắc, thống nhất miền bắc năm 439. Nam Bắc triều Không lâu sau khi Lưu Dụ lập ra nhà Tống, Bắc Ngụy cũng thống nhất miền bắc, kết thúc thời Ngũ Hồ loạn Hoa. Từ đó trong một thời gian dài, miền nam và miền bắc ít bị chia cắt hơn loạn Ngũ Hồ, duy trì biên giới tương đối ổn định và có sự kế tục nhau của các thế lực phong kiến cai trị hai miền. Năm 453, vua Bắc Ngụy dốc toàn quân đánh Lưu Tống để thống nhất Trung Quốc. Vua Tống Văn Đế Lưu Nghĩa Long cũng mang sức cả nước ra chống lại. Kết quả không ai thắng ai, nhưng sau đó cả hai bên đều suy yếu, nhất là nhà Tống ở miền nam vốn có tiềm lực nhỏ hơn. Bắc Ngụy tập trung vào phát triển kinh tế và xây dựng. Sau một thời gian, triều đình này Hán hóa rất mạnh, tới cuối thế kỷ 5 đổi từ họ Thác Bạt sang họ Nguyên. Ở phía nam, một chuỗi các gia tộc Hán vốn đã leo lên và rơi xuống khỏi quyền lực trong khi lao vào các trận chém giết, coi đó là cách để giải quyết xung đột về việc ai sẽ cai trị. Nhà Tống suy yếu, bị quyền thần Tiêu Đạo Thành tiêu diệt lập ra nhà Nam Tề (479). Được hơn 20 năm (502), một người em họ của Tiêu Đạo Thành là Tiêu Diễn diệt cháu chắt của anh họ mình, lập ra nhà Lương. Theo sách Mưu lược người xưa, các nhà sử học Trung Quốc đã thống kê ra: chỉ từ cuối thời Đông Hán tới khi Lương Vũ Đế Tiêu Diễn lên ngôi đã có gần 300 người xưng vương hay xưng đế. Điều đó đủ cho thấy mức độ loạn lạc của Trung Quốc từ thời Tam Quốc tới Nam Bắc triều. Ở cả miền nam và miền bắc, tuy chiến tranh chấm dứt nhưng bạo loạn, tranh chấp trong cung đình vẫn liên tục xảy ra giữa những người thân tộc. Để chống họa ngoại thích, các vua Bắc Ngụy đặt ra lệ: trong các hoàng tử, ai được lập làm thái tử thì mẹ người đó phải chết. Nhưng tới Tuyên Vũ đế Nguyên Khác lại phá lệ vì yêu Hồ hậu, nên để cho mẹ thái tử Hủ được sống. Năm 515, Nguyên Khác chết, Nguyên Hủ lên thay. Quyền lực nhà Bắc Ngụy lập tức rơi vào tay Thái hậu nhiếp chính họ Hồ. Bà là người rất sùng đạo Phật, tuy vậy lại sử dụng thủ đoạn rất tàn độc với những người mà bà không thích, kể cả những người cùng gia tộc. Năm 528, bà hành quyết cả Nguyên Hủ vì Hủ không ngừng muốn thoát khỏi tình trạng giám hộ của bà. Lập tức, các tướng lãnh nổi loạn. Năm 530, Nhĩ Chu Vinh, một đại tướng đang cầm quân bên ngoài đã đem quân vào kinh thành giết chết Hồ Thái hậu và cả Nguyên Tử Du, vị vua kế vị mới vừa được bà lập nên. Từ đó đại loạn bắt đầu nổ ra. Nhĩ Chu Vinh và em là Nhĩ Chu Triệu cùng hàng loạt vua Ngụy bù nhìn như Nguyên Diệp, Nguyên Cung, Nguyên Lãng, Nguyên Tu bị giết trong cuộc hỗn chiến. Hai quyền thần mới, vốn là thủ hạ của các lực lượng quân phiệt hỗn chiến, nổi lên trong chính trường sau khi lớp trước bị thủ tiêu là Cao Hoan và Vũ Văn Thái, chia nhau giữ đất Bắc Ngụy. Tình trạng loạn lạc kéo dài dẫn đến việc triều đình Bắc Ngụy bị chia làm hai là Đông Ngụy và Tây Ngụy vào năm 534. Tuy nhiên, cả hai triều đình này không tồn tại được lâu, vì quyền lực thực tế đều nằm trong các tướng lĩnh quân sự. Ở phía đông, Cao Hoan khống chế Đông Ngụy, phía tây Vũ Văn Thái thao túng Tây Ngụy. Năm 550 con thứ Cao Hoan là Cao Dương đã phế truất vị vua duy nhất của triều Đông Ngụy là Nguyên Thiện Kiến để lên làm vua, lập nên triều đình Bắc Tề vào. Không lâu sau đó, ở Tây Ngụy, quyền thần Vũ Văn Giác (con Vũ Văn Thái) ép vị vua cuối cùng của nhà Tây Ngụy là Nguyên Khuếch nhường ngôi cho mình vào năm 557, lập nên nhà Chu, sử gọi là Bắc Chu. Các vị vua của Bắc Chu không ngừng lại ở đó mà tiếp tục thực hiện các chiến dịch quân sự để đánh phá người láng giềng Bắc Tề. Vào năm 577, vua Bắc Chu là Vũ Đế Vũ Văn Ung tiêu diệt Bắc Tề, thống nhất miền bắc bằng vũ lực. Tuy nhiên, ngay sau đó Chu Vũ Đế mất, con trai ông là Chu Tuyên Đế lại mải chơi không thể giữ gìn được sự nghiệp và chết yểu. Nhà Tùy (581–618) Một quý tộc người Hán là Dương Kiên đã chiếm lấy quyền lực. Ông thẳng tay giết hại hoàng thất nhà Bắc Chu, dọn sạch con đường bước lên ngai vàng. Năm 581, ông phế truất vị vua cuối cùng của Bắc Chu là Vũ Văn Xiển, lên ngôi hoàng đế, lập nên nhà Tùy. Chín năm sau, ông tiêu diệt vương quốc Trần ở phía nam, thống nhất toàn bộ Trung Quốc sau gần 300 năm phân liệt. Tùy Văn đế Từ cuối thời Tây Tấn đến thời đại Nam Bắc triều, các tộc thiểu số phía bắc và phía tây tiến vào Trung Nguyên, ảnh hưởng của văn hóa kinh tế phong kiến của dân tộc trường kỳ chống áp bức và bóc lột, hình thành một sự hòa hợp chủng tộc mà dân tộc Hán là trung tâm. Dân tộc Hán chạy về phía nam cũng đem theo công cụ sản xuất kỹ thuật sản xuất tiến bộ, nhân dân và sĩ phu cùng nhau cần cù xây dựng miền Nam làm cho miền Nam Trung Quốc lúc bấy giờ phát triển cả về kinh tế và xã hội. Với xu thế xã hội lúc bấy giờ, Tùy Văn đế Dương Kiên tiến xuống phía nam diệt nhà Trần của Trần Thúc Bảo, đó là điều kiện có lợi cho thống nhất Trung Quốc để xây dựng vương triều Tùy lấy dân tộc Hán làm chủ. Nhà Tùy tiếp tục thực hiện các cuộc cải cách về kinh tế và chính trị. Những cuộc cải cách này cũng đã củng cố được nền thống trị mới, xúc tiến được sự phát triển của miền Bắc Trung Quốc, phục hồi sản xuất, thế lực của nhà Tùy tăng lên nhanh chóng. Năm 589, sau khi diệt được triều Trần, kết thúc cục diện chia cắt lâu dài, nhà Tùy đã thực hiện hàng loạt chính sách ổn định xã hội, phát triển sản xuất. Tùy Văn đế đầu tiên đã trấn áp hết các thế lực phiến loạn và bạo động., tiêu diệt các mầm mống phản loạn, đồng thời vẫn tôn trọng các quý tộc Tiên Ty, lấy việc hòa hoãn để giải quyết mâu thuẫn giữa các tập đoàn thống trị. Theo đà phát triển của nông nghiệp, Văn đế đã phái các quan đến nhiều nơi xem xét và chia lại ruộng đất, nhân dân đều có ruộng, nơi nào thiếu ruộng đất, họ buộc phải đi khẩn hoang, do đó diện tích cầy cấy tăng lên nhanh chóng. Ngoài việc giải quyết vấn đề sức lao động và phân phối lại ruộng đất, còn thực hiện bỏ các quận, lập các châu, cải tổ hệ thống pháp luật, trừng trị tham quan, xây dựng các kho dự trữ để phòng lúc đói kém trợ giúp nhân dân. Vương triều Tùy lúc đầu để tập trung và nắm vững vật chất củng cố chính quyền trung ương, đã thi hành nhiều biện pháp tiến bộ, dân chúng tuân theo, hăng hái đóng góp sức người sức của để xây dựng đất nước. Về mặt công nghiệp, triều đình đặc biệt chú ý đào mương, sông ngòi, nối các dòng sông với nhau. Ví dụ như việc nối Hoàng Hà với sông Vị tạo nước tưới, đồng thời cũng tạo điều kiện cho việc thông thương. Một trong những tiêu chuẩn để nhà Tùy tăng thêm sức lực là khẩn điền và tăng thêm nhân khẩu. Mục đích tăng nhân khẩu là để là để lấy người lao động và bổ sung vào quân đội thường trực, vì một thời gian dài chiến tranh liên miên nên dân số quá hao hụt. Những tài sản do nhân dân lao động làm ra để nuôi dưỡng tập đoàn thống trị thì nay nhà Tùy đã đem phân phát bớt cho dân chúng, nên chính quyền được dân tin, củng cố. Những tiến bộ trên chỉ được duy trì và thực hiện khi Văn đế nắm quyền, còn khi Tùy Dạng đế lên kế vị thì đã không còn. Tùy Dạng đế Năm 604, Dương Quảng lên ngôi, lấy niên hiệu là Đại Nghiệp (大業). Do sự phát triển của kinh tế xã hội thời kì đầu nhà Tùy, nhờ sự cần mẫn của vua cha, vương triều đã tích lũy được nhiều của cải. Nhưng Dạng đế lại đi ngược chính sách của cha, tàn bạo bóc lột nhân dân, mặt khác tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược, chinh phạt. Dạng đế bỏ nhiều tiền của để xây dựng kinh đô Lạc Dương, cung điện thành quách nguy nga, bắt dân lên rừng xuống biển để tìm thú quý, cá đẹp, cây lạ để đem về nuôi ở vườn Ngự Uyển. Tây Uyển ở gần Lạc Dương, chu vi đến 200 dặm, có hồ lớn chu vi hơn 10 dặm, có cả núi giả. Để thỏa mã thú vui, Dạng đế đã bắt dân tìm hàng triệu con đom đóm cho vào vườn Ngự Uyển để thay cho ánh đèn, tăng vẻ đẹp cho vườn lạ. Bên cạnh đó, Dạng đế đã phát động các cuộc chiến tranh xâm lược Cao Câu Ly, chỉ toàn thất bại. Bao sức người sức của mà Văn đế dày công vun đắp đến thời Dạng đế đã bị hủy hoại, cơ nghiệp nhà Tùy tan rã. Dân chúng không biết dựa vào đâu mà sống, liền nổi dậy chống lại triều đình ở khắp mọi nơi. Năm 616, Tùy Dạng đế trước các cuộc khởi nghĩa của nông dân, vẫn chưa chịu nhận ra, lại tuần du xuống Giang Đô. Thuyền rồng của Dạng đế còn chưa về đến Giang Đô, thì đường quay về ở phía bắc đã bị cắt đứt. Năm Đại Nghiệp thứ 13 (617), Dạng đế bị thống lĩnh Cấm vệ quân là Vũ Văn Hóa Cập sát hại. Vương triều Tùy dựng được 38 năm bị diệt vong. Nhà Đường (618–907) Đường Cao Tổ (618 - 626) Năm 618, cuộc nội chiến kết thúc, Đường quốc công Lý Uyên là người thắng trận. Ông tái thống nhất Trung Quốc, mở đầu thời đại nhà Đường và được tôn xưng là Đường Cao Tổ. Tuy nhiên, các con ông lại đánh nhau để giành quyền thừa kế ngai vàng. Hai người con trai của ông là Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát đã thiệt mạng trong cuộc tranh giành quyền lực này. Lý Uyên chỉ còn một sự lựa chon duy nhất là Lý Thế Dân, con trai dòng đích duy nhất còn sống sót. Năm 626, Lý Uyên nhường ngôi cho Lý Thế Dân, người mà về sau đã đưa đất nước Trung Quốc quay trở lại thời thịnh vượng và vàng son. Trinh Quán chi trị (626 - 649) Đường Cao Tông và Võ Tắc Thiên (650 - 705) Tuy nhiên, người thừa kế của Thái Tông Lý Thế Dân là Cao Tông lại là một người ốm yếu nhu nhược, và là nguyên nhân làm cho Trung Quốc rơi vào xung đột và giết chóc. Quá trình hỗn loạn này bắt đầu khi người thiếp của Cao Tông là Võ Tắc Thiên, tìm cách thúc đẩy ông ta đưa bà lên thay hoàng hậu. Võ Tắc Thiên dùng những phương cách truyền thống để tống khứ những kẻ đối nghịch: bà giết hoàng hậu cùng một số kẻ khác. Võ Tắc Thiên trở thành Hoàng hậu, và bà đày ải, giết hại và bắt hàng chục quan chức lớn tuổi tự sát. Vua Cao Tông phải chịu một sự khủng hoảng trong 11 năm cầm quyền của mình, trở nên yếu đuối và tầm thường. Võ Hậu củng cố hơn nữa quyền lực của mình. Bà giết các tôn thất họ Lý mà bà coi là đối thủ, và bà đưa các thành viên gia tộc của mình lên nắm quyền. Năm 690, bà phế truất chính người con của mình là Lý Đán để tự mình lên làm vua khi đã 67 tuổi, lập nên một triều đình ngắn ngủi với danh hiệu là Chu. Võ Tắc Thiên là vị Nữ hoàng đế duy nhất trong lịch sử Trung Quốc. Bằng cách sử dụng những kẻ chỉ điểm, bà lập lên một chính quyền cai trị dựa trên sự sợ hãi. Bà thanh lọc các trí thức Khổng giáo và các thành phần chống đối khác. Nhưng bà cũng xây dựng lên một nền tảng chính trị bằng cách cung cấp đủ những nhu cầu công cộng và thăng chức cho những vị quan ủng hộ mình. Bà rất sùng kính đạo Phật và tập trung quanh mình những người đàn ông sùng đạo như bà, các nhà sư và ra lệnh dựng chùa ở mọi quận huyện. Khi tuổi đã già, nữ hoàng họ Võ mất dần quyền kiểm soát triểu đình, và năm 705 các quan lại ở triều buộc bà rút lui để trả lại ngôi vua cho một người con của bà là Lý Hiển, vốn đã bị bà phế truất vào năm 684. Biến loạn trong hoàng tộc (705 - 712) Trung Tông Lý Hiển trở lại ngai vàng và cai trị tới tận khi ông chết vào năm 710 - vợ ông, hoàng hậu họ Vi, bị nghi ngờ đã đầu độc ông. Vi hậu tìm cách cai trị giống như Võ hậu. Bà bán chức tước và quyền làm sư sãi, và bà cũng đứng đằng sau những vụ tham nhũng trong triều. Bà đã tạo ra các đối thủ mà bà không thể tiêu diệt, và họ đã tập hợp lực lượng để làm cuộc đảo chính giết chết Vi hậu, đưa vị vua vốn cũng bị Võ Tắc Thiên phế truất là Lý Đán trở lại ngai vàng. Đến lượt các đồng minh này lại đánh nhau. Tuy nhiên, cuộc tranh giành quyền lực nhanh chóng kết thúc với ưu thế tuyệt đối của một hoàng tử nhà Đường, người được kế thừa ngôi vua vào năm 712, Huyền Tông Lý Long Cơ. Thịnh Đường (712 - 755) Huyền Tông lên nắm quyền ở tuổi 28 và ở ngôi 44 năm. Ông năng động và can đảm, và dưới thời ông, sự thịnh vượng quay trở lại. Nhưng vào những năm cuối đời ông ngày càng bị lôi cuốn vào tư tưởng Đạo giáo và không quan tâm đến cai trị nữa. Sau năm 745 ông say mê một người thiếp của mình là Dương Quý Phi và bỏ rơi triều chính. Triều đình trở nên hỗn loạn bởi sự tranh giành ảnh hưởng của các đại thần trong triều và các quân phiệt địa phương. Trung Quốc nhanh chóng lại rơi vào tình trạng suy sụp. Năm 715, các đội quân Hồi giáo đánh bại Trung Quốc ở Trung Á, cắt đứt con đường dẫn tới phía tây và Ấn Độ của Trung Quốc. Những người Hồi giáo thay thế người Trung Quốc trong vị thế ảnh hưởng thống trị dọc theo Con đường tơ lụa, và các tiểu quốc bộ tộc ở biên giới Trung Quốc dần dần có nhiều ảnh hưởng. Năm 755, An Lộc Sơn, một vị tướng có nguồn gốc Đột Quyết và là tình nhân của Dương Quý Phi tiến đánh kinh thành Trường An, buộc Huyền Tông và triều thần phải lưu vong. Cuộc bạo loạn này tuy chỉ kéo dài trong 8 năm (756-763) và con Huyền Tông là Lý Hanh cuối cùng cũng lấy lại được ngai vàng, nhưng cuộc tranh quyền lực giữa các đại thần trung ương và các tiết độ sứ địa phương vẫn diễn ra gay gắt. Trong cuộc tranh giành quyền lực triều đình, bất ngờ trỗi lên một lực lượng thứ ba. Đó là nhóm các vị hoạn quan. Nhóm này tỏ ra biết các luồn lách khéo léo, lợi dụng của hai bên kia để nắm được quyền lực triều đình. Ở những năm cuối của triều Đường, các hoạn quan hoàn toàn thao túng triều đình, thậm chí có thể lựa chọn người sẽ lên làm vua. Trong 22 vị hoàng đế của nhà Đường, thì đã có 10 vị do các hoạn quan lập nên. Tất cả đều ở những năm cuối cùng của triều Đường. Mầm mống suy vong xuất hiện Từ năm 742 (niên hiệu Thiên Bảo), Huyền Tông sa vào hưởng lạc, đồng thời giai cấp thống trị nhà Đường cũng có cuộc sống xa hoa. Sự tiêu pha lãng phí của triều đình tuy vậy lại trái ngược với đời sống của dân chúng do họ đã bị vắt kiệt qua sưu cao thuế nặng khiến nhiều người bỏ trốn, chế độ binh dịch lại trở nên nặng nề để phục vụ cho những cuộc chiến với các nước khác. Trong triều đình, lực lượng hoạn quan bắt đầu có nhiều quyền hành, vua lại tin dùng gian thần Lý Lâm Phủ (683 – 753) vốn là người chỉ giỏi xu nịnh, ngoài ra dòng họ của Dương Ngọc Hoàn là vợ yêu của vua cũng có thế lực lớn mạnh trong triều, đứng đầu là Dương Quốc Trung, là người không khác gì Lý Lâm Phủ. Lý Lâm Phủ kiến nghị Huyền Tông đặt ra chính sách tiết độ sứ, chuyên nghiệp hóa binh lính vùng biên cương làm cho quyền lực triều đình không còn đủ sức kiểm soát phiên trấn gây ra tình trạng "trong nhẹ ngoài nặng", đây là mầm mống cho loạn An Lộc Sơn bùng nổ. Những đại thần trung lương không còn được tin dùng bắt đầu rút khỏi triều đình gần hết. Nền tảng của Khai Nguyên thịnh thế đã bị chính một tay Huyền Tông dựng nên và phá hủy. Tại vùng Hà Bắc tập trung nhiều người dân tộc thiểu số tập trung sinh sống chủ yếu gồm người Khiết Đan và Đột Quyết, họ vốn chỉ thuần phục nhà Đường trên danh nghĩa, từ thập niên 40 của thế kỷ 8 quan hệ giữa triều đình với người thiểu số Đông Bắc lại diễn biến theo chiều hướng xấu, mở đường cho An Lộc Sơn khởi loạn từ khu vực này. Ở Tây Vực nhà Đường đại bại trong trận Talas trước người Hồi Giáo (751), khiến cho Tây Vực không còn phụ thuộc nhà Đường nữa. Hai khu vực nhạy cảm nhất của triều đình (Tây Bắc và Đông Bắc) đã gần như thoát ly chính quyền trung ương làm cho triều đình bị đe dọa nặng nề về mặt an ninh. Loạn An - Sử (755 - 762) Tạm trị lần 1 (762 - 820) Từ sau loạn An - Sử, nhà Đường bắt đầu suy vi liên tục khi chứng kiến quyền lực của các tiết độ sứ địa phương ngày càng gia tăng, đồng thời quyền lực của thế lực hoạn quan nổi lên từ cuối thời Đường Huyền Tông bắt đầu thao túng triều đình và lấn át cả quyền quyết định của hoàng đế, khiến nhà vua phải tiến hành các chiến dịch để tiêu diệt các hoạn quan lộng quyền. Các vua Đường từ Túc Tông đến Hiến Tông hầu như đều là các hoàng đế có năng lực, tuy nhiên những căn bệnh của đế quốc đã bị loạn An - Sử làm cho trở nên trầm trọng khiến cho những nỗ lực của triều đình chỉ đủ sức duy trì được ngai vàng. Trong thời kỳ này, tiêu biểu là sự biến Phụng Thiên do các trấn nổi dậy làm loạn đã khiến Đường Đức Tông phải chạy khỏi kinh thành đến Phụng Thiên (783) và cuộc loạn chính của tập đoàn hoạn quan buộc Đường Thuận Tông phải thoái vị (806), cuộc Vĩnh Trinh duy tân do ông khởi xướng cũng bị dừng lại. Dù vậy những cố gắng của họ đã tạo ra một thời kỳ ổn định tương đối kéo dài 58 năm (762 - 820), mà đỉnh cao là Nguyên Hòa trung hưng dưới thời Đường Hiến Tông (805 - 820), đây là thời kỳ các tiết độ sứ quy thuận triều đình trước khi cát cứ trở lại sau khi Hiến Tông qua đời. Tan rã lần 1 (820 - 846) Sau Nguyên Hòa trung hưng nhà Đường bước vào giai đoạn tan rã bước đầu khi Đường Mục Tông lên ngôi và sau đó là ba người con trai của ông (Kính Tông, Văn Tông và Vũ Tông), thời kỳ này kéo dài 26 năm từ 820 đến 846 khi các tiết độ sứ trở lại uy hiếp triều đình và hoạn quan thực hiện việc giết vua (Kính Tông bị hoạn quan Lưu Khắc Minh ám sát). Đường Văn Tông và Vũ Tông đã thực hiện một số cải cách để cứu vãn đế quốc nhưng mang lại hiệu quả thấp, sự biến Cam Lộ dưới thời Văn Tông đã không thể tiêu diệt được hoạn quan khiến hoàng đế bị hoạn quan quản thúc cho đến khi qua đời. Đường Vũ Tông tiến hành chiến dịch đàn áp tôn giáo nhưng không đem lại hiệu quả thiết thực mà chỉ gây thêm sự bất mãn trong nhân dân. Trong thời Vũ Tông Lý Viêm, vốn là người theo Đạo giáo, ông cho đóng cửa chùa Phật giáo, bắt sư sãi đạo Phật phải hoàn tục và tịch thu hàng triệu mẫu đất trồng trọt cho nhà nước sử dụng. Đạo Phật ở Trung Quốc sống sót nhưng không bao giờ đạt lại được mức cũ, trong khi đối thủ của Phật giáo, Khổng giáo lại hồi phục lại trong giới trí thức. Đạo giáo tuy được trọng dụng nhưng không phát triểu được thành quốc giáo. Tuy nhiên, những người theo Đạo giáo đã kiếm lợi được từ việc thực hiện các thí nghiệm hóa học. Những người theo Khổng giáo xem đó như là một phần của sự thô tục của Đạo giáo – như thuộc về những người bình dân. Những nhà Nho vốn có thành kiến xấu về khoa học, điều này đã làm cho khoa học ở Trung Quốc chậm phát triển. Nho giáo tin tưởng việc học tập tốt nhất là dành cho văn học và lịch sử - những kiểu văn học và lịch sử của họ. Tạm trị lần 2 (846 - 859) Giai đoạn tan rã bước đầu tạm thời kết thúc khi Đường Tuyên Tông lên ngôi (846-859), ông vốn là con thứ 13 của Hiến Tông và đã sống an vị với tước hiệu Quang Vương trong suốt triều đại của anh ông (Mục Tông) và các con của Mục Tông, trong thời kỳ này ông thường được xem là bị đần. Nhưng Tuyên Tông đã bắt đầu hoàng vị của mình với sự thông sáng và mẫn tiệp lạ lùng, khiến cho các hoạn quan đưa ông lên ngôi - những kẻ âm mưu muốn chọn người đần độn để dễ bề thao túng, kinh hoàng tột độ. Vì thế trong thời này quyền hành của chúng tạm thời bị thu hẹp. Năm 847, nhà Đường thu phục được các vùng lãnh thổ bị Thổ Phiên chiếm được sau loạn An - Sử. Thời kỳ này được gọi là Đại Trung tạm trị. Tuyên Tông được đánh giá là hoàng đế giỏi thứ ba của nhà Đường sau Thái Tông và Huyền Tông. Năm 859, Tuyên Tông mắc bệnh do lạm dụng đan dược nhằm mong trường sinh bất tử. Ông đã dự định lập con thứ tư Lý Tư làm người kế vị, nhưng phút cuối cùng Lý Ôn – người con vốn không được ông yêu quý đã lên ngôi sau khi Tuyên Tông băng đột ngột. Đường Ý Tông sớm tỏ ra là người nối ngôi không phù hợp với lối sống xa xỉ, bỏ bê triều chính. Nhà Đường bước vào giai đoạn tan rã lần hai trước khi sụp đổ hoàn toàn, giai đoạn này kéo dài 47 năm (860 - 907). Tan rã lần 2 (860 - 907) Điểm nổi bật vương triều Ý Tông là sự xa xỉ và lòng sùng mộ Phật giáo cao độ của nhà vua. Nhưng ít nhất dưới thời ông những cuộc nổi loạn nhỏ như loạn Khang Toàn Thái nhanh chóng được dập tắt, đế quốc vẫn giữ được sự ổn định trên danh nghĩa. Vua Đường Hy Tông (873-888) kế vị là một thiếu niên chỉ chuyên tâm vào các trò giải trí và thể thao trong cung cùng những hoạn quan, ông không dành sự quan tâm nào đến những lời cảnh báo nghiêm trọng từ các đại thần, triều đình có thực hiện một số hoạt động xoa dịu nạn đói đang lan tràn nhưng không mấy hiệu quả. Thời kỳ tan rã lần hai này chứng kiến những sự kiện thảm khốc nhất trong lịch sử nhà Đường bao gồm sự biến Bàng Huân và đỉnh cao là loạn Hoàng Sào (875 - 884) đã đánh một đòn trí mạng vào chút quyền lực còn sót lại của nhà Đường, đã tàn phá nghiêm trọng trên toàn lãnh thổ bao gồm cả Quảng Châu, là một trung tâm ngoại thương quan trọng của chính quyền. Vua Đường Hy Tông đã phải chạy trốn trước sự uy hiếp của quân nổi loạn, một sự kiện tương tự như cuộc trốn chạy của Đường Huyền Tông trong loạn An - Sử hơn 100 năm trước. Hoàng Sào thậm chí đã chiếm được Trường An, xưng đế và đặt quốc hiệu Đại Tề, bề ngoài tuy hô hào vì bách tính nhưng triều chính mau chóng hủ bại ngay khi chiếm được kinh đô, chỉ biết tàn sát dân chúng. Tuy cuộc nổi loạn cuối cùng bị dẹp tan nhưng một tướng của Hoàng Sào đã đầu hàng triều đình là Chu Ôn đã nhanh chóng nắm được quyền trong triều, sau này Chu Ôn cướp ngôi và thành Thái Tổ Nhà Hậu Lương. Đường Chiêu Tông (888 - 904) là em Hy Tông được Dương Phục Cung đưa lên nối ngôi đã tiến hành các hoạt động quân sự để cứu vãn đế quốc khỏi sụp đổ và chia cắt nhưng đều phản tác dụng. Thông minh và anh tuấn lạ thường như tổ phụ mình là Huyền Tông, cũng như ông nội Tuyên Tông, ông đã dấy nên niềm hy vọng trong triều đình và dân chúng về một sự phục hưng mới, nhưng tình trạng đế quốc Đường đã quá bi đát để thay đổi. Thời gian 16 năm ở ngôi của ông là một quá trình phân ly - tái hợp trong mối quan hệ với các tiết độ sứ, quá trình này không thành công trong việc giúp nhà Đường khỏi sụp đổ mà chỉ định hình ra các vùng lãnh địa sẽ chính thức ly khai sau năm 907. Tuy nhiên ở góc độ tích cực, các nỗ lực của Chiêu Tông đã làm cho quyền lực của nhà Hậu Lương hết sức hạn chế sau khi thành lập, chỉ quản lý được vùng Hoa Bắc, và triều Đường vẫn còn được sự hy vọng phục hưng từ các tiết độ sứ khác, chỉ khi đã hết hy vọng họ mới bắt đầu xưng đế và lập quốc. Ban đầu Chiêu Tông tấn công hai tiết độ sứ Trần Kính Tuyên ở Tứ Xuyên và Lý Khắc Dụng ở Sơn Tây nhưng thất bại, khiến triều đình rơi vào khánh kiệt, tuy nhiên năm 891, Vương Kiến đã đánh bại được Trần Kính Tuyên và kiểm soát Tứ Xuyên. Sau đó hoạn quan Dương Phục Cung mâu thuẫn với vua và nổi loạn tại Sơn Nam tây đạo, năm 892 Lý Mậu Trinh đánh bại họ Dương và chế nhạo nhà vua kém cỏi. Năm 893, Chiêu Tông tức giận điều quân đánh họ Lý nhưng cũng thất bại, vua phải cho ông nắm quyền trên các quân mà ông ta mong muốn. Năm 896, Lý Mậu Trinh đưa quân đến Trường An uy hiếp hoàng đế, Chiêu Tông chạy đến Hoa Châu, chịu sự giám sát của Hàn Kiến - vốn là đồng minh của Lý Mậu Trinh. Năm 898, Chiêu Tông giảng hòa với Mậu Trinh về lại Trường An. Dù có các hành động lạm dụng quyền hành, Lý Mậu Trinh lại là một tiết độ sứ trung quân, các chiến dịch của ông chủ yếu nhằm chiếm sự tin tưởng của nhà vua. Sau khi trở về kinh đô, Chiêu Tông trở nên trầm cảm, ông giết một số hoạn quan khiến họ lo sợ và tiến hành binh biến trong cung buộc ông thoái vị để nhường ngôi cho con trưởng là Lý Dụ vào năm 900, song Thôi Dận liên kết với Chu Ôn đã phục vị cho ông vào năm 901, các hoạn quan gây loạn đều bị giết. Tuy nhiên ngay sau đó, quyền lực của hoạn quan lại nổi lên, Thôi Dận giục Chu Ôn tiến quân về Trường An tiêu diệt hoạn quan vì thế hoạn quan buộc vua cùng hoàng gia chạy đến Phượng Tường. Chu Ôn sau đó hạ thành Phượng Tường. Hoàng đế rơi vào sự kiểm soát của Chu Ôn. Năm 903, lực lượng hoạn quan bị Chu Ôn đồ sát toàn bộ khi ông ta và hoàng đế trở về Trường An. Sang năm 904, Chiêu Tông bị Chu Ôn ép dời đô đến Lạc Dương, ông cố gắng bí mật liên lạc để kêu gọi sự giúp đỡ từ các tiết độ sứ hùng mạnh khác như Lý Khắc Dụng và Dương Hành Mật nhưng không được hồi đáp cũng như hỗ trợ ngay lúc đó. Vào cùng năm này, Chu Ôn cho người ám sát ông và lập con là Lý Tộ lên ngôi, tức Đường Ai Đế (904 - 907). Ai Đế ở ngôi trong ba năm cuối cùng của Nhà Đường, đánh dấu sự kết thúc hoàn toàn quyền lực của hoàng đế. Ngay năm sau (905), Chu Ôn tiến hành giết sạch các quan lại triều đình gồm khoảng 30 người và ném xác xuống sông, đây gọi là Bạch Mã chi họa. Sau đó, toàn bộ các con của Chiêu Tông cũng bị giết nốt, chỉ còn sót lại Ai Đế. Cuối cùng năm 907, Chu Ôn buộc Ai Đế nhượng vị, nhà Đường chính thức diệt vong. Ai Đế bị đưa đến Sơn Đông và bị quản thúc chặt chẽ trong một phủ có hàng rào kẽm gai bao quanh. Đến năm 908, Chu Ôn giết nốt ông bằng rượu độc. Ai Đế có thể là người cuối cùng trong hoàng tộc Đường ở Hoa Bắc còn sống đến thời điểm đó. Tuy nhiên khả năng vẫn còn nhiều thành viên hoàng tộc vẫn sống sót tại Giang Nam, nơi nằm ngoài tầm kiểm soát của nhà Hậu Lương. Nhà Hậu Đường (923 – 936) sau này thành lập trên danh nghĩa kế tục nhà Đường nhưng các vua Hậu Đường chỉ là những người được ban cho quốc tính (họ Lý) trong khi họ là người Sa Đà - một dân tộc Đột Quyết. Sự duy trì quyền lực của họ Lý thật sự có thể đã được tiếp tục ở Giang Nam khi Lý Biện thành lập nước Nam Đường (937 - 975) sau khi Hậu Đường sụp đổ, ông tự xưng là cháu nhiều đời của Đường Hiến Tông dù ít có bằng cớ nào chứng minh. Nam Đường đã trở thành quốc gia mạnh và văn minh nhất ở phương nam, vào thời kỳ đầu nước này thậm chí còn có năng lực tiến hành Bắc phạt nhưng cuối cùng đã chịu thất bại trước nhà Tống. Năm 907 được xem là năm bản lề trong lịch sử Trung Quốc khi nó mở ra một giai đoạn dài suy thoái về khả năng kháng cự của người Hán trước các dân tộc xung quanh, và cũng kết thúc thời kỳ vinh quang nhất của Trung Quốc. Các triều đại nhà Tống, nhà Minh dù thống nhất được lãnh thổ nhưng không thể lấy lại được uy danh như trước kia và cuối cùng bị đánh bại bởi người Mông Cổ, Nữ Chân. Ngũ đại Thập quốc Năm 907, một lãnh chúa là Chu Ôn lật đổ ngai vàng nhà Đường và lập lên triều Lương, một trong năm triều đại ngắn ngủi kế tiếp nhau thống trị bắc Trung Quốc trong nửa thế kỷ: Hậu Đường (923-936), Hậu Tấn (936-947), Hậu Hán (947-950), Hậu Chu (951-959). Ở phía nam, các lãnh chúa cát cứ vùng đất của mình và lần lượt thành lập mười tiểu quốc nhỏ và không ngừng tìm kiếm phương cách để thôn tính lẫn nhau: Tiền Thục, Hậu Thục, Ngô, Ngô Việt, Nam Đường, Mân, Sở, Nam Hán, Nam Bình. Tới năm 951, một hoàng thân nhà Hậu Hán chiếm giữ vùng Thái Nguyên lập ra nước Bắc Hán. Thời kỳ này, người Trung Quốc gọi là Ngũ Đại Thập Quốc. Ở cực bắc Trung Quốc, những bộ tộc người du mục và bán du mục nhiều sắc tộc đã thống nhất lại thành một vương triều vào năm 916, một chính quyền chiếm hữu nô lệ hoàn chỉnh với tên gọi là Khiết Đan, đôi lúc gọi là Liêu. Thậm chí, họ còn phát triển thế lực mạnh mẽ, chiếm hữu của người Trung Quốc vùng lãnh thổ cực bắc, vùng đất bao gồm cả thành phố Bắc Kinh ngày nay, tới tận khi nhà Tống chấm dứt được cục diện chia cắt mười nước vẫn không lấy lại được vùng đất đó. Nhà Tống Thống nhất lãnh thổ Năm 960, trong khi Trung Quốc ở vào tình trạng rối ren, vị tướng phụ trách an ninh nơi cung cấm ở thủ đô mới Khai Phong là Triệu Khuông Dận nhân khi vua nhà Hậu Chu mới lên ngôi còn bé, bèn làm binh biến lên làm vua. Ông lập ra Nhà Tống. Tống Thái Tổ cai trị trong 16 năm. Ông có công lớn trong việc thống nhất lãnh thổ Trung Quốc trở lại, chấm dứt thời Ngũ Đại đầy chia cắt. Trước khi Tống Thái Tổ đánh dẹp, các nước phía nam đã tự triệt hạ lẫn nhau và chỉ còn lại Nam Đường, Nam Hán, Nam Bình và Hậu Thục. Ông ra quân tiêu diệt các nước này. Trong 10 nước trước đây chỉ còn lại Bắc Hán và vùng đất Yên Vân mà Thạch Kính Đường đã dâng cho người Khiết Đan năm 936 là chưa khôi phục được. Ông và người kế tiếp (em ông, là vua Tống Thái Tông) thống nhất những phần lãnh thổ Trung Quốc không bị người nước ngoài cai trị - chinh phục từng quận huyện, và ngăn cản quân lính không cướp bóc dân địa phương, ân xá cho các thủ lĩnh quân đội địa phương đã chống lại ông. Các thủ lĩnh địa phương được cho về nghỉ với khoản lương hưu lớn, và họ bị thay thế bởi các quan hành chính dân sự. Kiểu chính trị giết hại và chiến tranh dường như đã kết thúc. Thời kỳ thịnh vượng và đỉnh cao văn hóa Sự thống nhất về chính trị giúp mang lại sự thịnh vượng. Các nguồn lợi dưới thời nhà Tống lớn gấp ba lần thời nhà Đường. Cuộc sống dễ chịu phát triển, và nghệ thuật nảy nở với sự phát triển dân số. Các thành phố - thủ đô văn hóa - trở nên đông đúc hơn. Những người chủ đất cũng mò về đấy, và những người giàu có thì hàng đống. Các khu vườn điểm tô cho thành phố. Có các trung tâm vui chơi, với các tiệm trà hay rượu, các nhà chứa, rạp hát, múa rối, xiếc và tung hứng – trong khi có rất ít người lo ngại về tính trái đạo đức của tình trạng thái quá. Trung Quốc xây dựng một nền công nghiệp sắt lớn - nền tảng cho một xã hội công nghiệp hiện đại. Sản lượng gang hàng năm của họ gấp đôi sản lượng của Anh vào những năm 1700. Các tàu buôn Trung Quốc có số lượng rất lớn, và ngày càng tăng. Số lượng thương mại tăng lên. Nhưng Trung Quốc vẫn ở dưới ảnh hưởng của Khổng giáo, và các nhà Nho không coi trọng thương mại. Ở Trung Quốc, khi một ai đó có tiền dư từ thương mại thì thay vì đầu tư vào sản xuất anh ta lại mua đất và sau đó được kính trọng. Một vị thương gia độc lập và sáng tạo ở Trung Quốc không tìm cách tăng ảnh hưởng chính trị và quyền lực như ở Anh. Vì thế cả thương mại tư nhân và doanh nghiệp công nghiệp tư nhân không hề phát triển. Dưới thời nhà Tống, các doanh nghiệp không thuộc nhà nước được phát triển tự do nhưng các nhà buôn vẫn phụ thuộc vào quan chức chính phủ. Việc trả cho họ một phần coi như là đóng góp cho hoạt động của chính phủ và quà cáp cá nhân là công việc bắt buộc khi làm ăn. Các doanh nghiệp tư nhân trồng trọt và buôn bán nhỏ phát triển nhưng không theo kiểu tích lũy tài sản cần thiết cho sự phát triển tư bản. Trung Quốc vẫn là một nước nông nghiệp với giới nhà nho và một chút ít người thuộc các trường phái khác. Con đường tốt nhất để phát triển cho một người bình thường là vào quân đội. Con đường vào chính phủ - làm việc hành chính - vẫn bị ngăn chặn đối với những người đó nếu họ không thuộc những gia đình giàu có. Như ở đa phần các nền văn minh khác, phụ nữ không có tài sản, và họ không được giáo dục. Hơn nữa khả năng làm việc của họ cũng bị hạn chế. Việc bó chân trở thành mốt. Nó bắt đầu từ tầng lớp quý tộc. Việc có được một bàn chân nhỏ, biến dạng được đàn ông coi là gợi tình, và khả năng cung cấp cho một phụ nữ không thể đi lại mà không được giúp đỡ được coi là dấu hiệu của sự giàu có. Nhanh chóng, đàn ông ở tầng lớp dưới cũng thích phụ nữ có cái chân kiểu đó, và nó trở thành thông tục tới mức những người phụ nữ có bàn chân bình thường bị coi là quái đản. Bó chân là một quá trình dài và đau đớn trong thời gian phát triển của cô gái. Và ngoài những sự khó chịu cho việc tạo ra đôi bàn chân biến dạng, nó còn làm giảm khả năng lao động của phụ nữ, họ chỉ có thể đi tập tễnh trong nhà và làm nội trợ. Trung Quốc đang ở đỉnh cao về kinh tế và văn hóa. Họ có giấy viết, máy in di chuyển được và ngành in. Trung Quốc có thuốc súng, vũ khí bằng kim loại và những thứ sơ khai của tên lửa. Nhưng về mặt quân sự Trung Quốc không mạnh. Các quan chức bản thân là nhà Nho là những người chịu trách nhiệm về sự yếu kém của quân đội. Tầng lớp Nho giáo ưu tứ luôn muốn có hòa bình. Họ coi binh lính là nhóm người thấp nhất trong mọi nhóm. Rèn luyện thể chất và các kỹ năng chiến đấu không được quý trọng. Trung Quốc có quân đội nhưng không có tầng lớp chiến binh chuyên nghiệp, và quân đội của họ cũng bị sao lãng, ít quan tâm tới các chiến thuật tác chiến. Các buổi tập trận và kỷ luật quân đội bị coi nhẹ. Trung Quốc tìm cách thỏa mãn nhu cầu quân sự của mình bằng cách mướn lính đánh thuê nhưng bản thân điều này chưa đủ giải quyết tình hình. Tính tự phụ và sự yếu kém quân sự Tính tự phụ của tầng lớp ưu tú Trung Quốc làm họ tin rằng họ không cần phải điều chỉnh lại thực tế quân sự. Họ tin rằng các nước láng giềng sẽ nể sợ sự vĩ đại của Trung Quốc cùng sự ưu ái của Thượng đế với họ. Thực thi Khổng giáo, họ tin rằng nếu quốc gia Trung Quốc chỉ cần đơn giản thực thi nhiều đạo đức hơn thì các vị vua láng giềng sẽ phải tỏ ra kính trọng Trung Quốc một cách đầy đủ, rằng họ sẽ công nhận vai trò đích thực của Trung Quốc như một siêu cường và sẽ phải nộp cống đầy đủ cho Trung Quốc. Trung Quốc đã không thể đối mặt với sự thật rằng sức mạnh quân sự của họ đã luôn bị thử thách với những cuộc chạm trán liên tục với người Khiết Đan, một dân tộc sống ở hầu hết vùng Mãn Châu và đang chiếm đóng vùng cực bắc của họ. Sau khi nhiều lần bị người Khiết Đan đánh bại, Tống Chân Tông, năm 1004 đã ký một thỏa ước với người Khiết Đan, nhường lại vĩnh viễn cho người Khiết Đan phần đất Trung Quốc mà họ đang chiếm, gồm cả Bắc Kinh và ông đồng ý triều cống hàng năm cho họ. Ở tây bắc, người Trung Quốc chiến đấu chống lại nước Tây Hạ của người Đảng Hạng (Tangut) – và Trung Quốc cũng phải chịu với người Tây Hạ điều họ chịu với người Khiết Đan, cho phép Tây Hạ chiếm đất đai Trung Quốc. Năm 1044, Trung Quốc có hòa bình với người Tây Hạ bằng cách đồng ý nộp cống giống như nộp cống cho người Khiết Đan. Khó khăn tài chính Các vua nhà Tống bắt đầu cảm thấy sự thiếu thốn về thuế. Dân số tăng vượt quá mức tăng kinh tế. Các chi phí chiến tranh cộng với chi phí ở biên giới phía bắc làm chảy máu nền kinh tế Trung Quốc, cũng như chi phí tăng kỷ lục cho bộ máy quan liêu. Hơn nữa, sự quan liêu còn bị chia sẻ bởi các phe cánh đưa ra các biện pháp khác nhau nhằm về vấn đề cải cách thuế và phân phối ruộng đất. Các cuộc cải cách đó không thành công, cũng như các cuộc cải cách trước dưới thời nhà Hán, và với cùng một lý do: sự chống đối từ đa phần tiểu quý tộc Khổng giáo, những người coi quyền lợi kinh tế riêng quan trọng hơn quyền lợi chung. Năm 1101, vị vua lúc bấy giờ là Huy Tông, cũng là một nhà thơ, một nhà thư pháp và sùng Đạo giáo. Huy Tông chi rất nhiều tiền cho những cuộc rước xách Đạo giáo rất tốn kém và cho việc bảo dưỡng cung điện cùng các vườn hoa. Giai đoạn này ông cũng tăng thuế. Mặc khác, cùng với việc các quan lại trong triều cũng không biết gì nhiều về kinh tế, các giải pháp của họ nhằm tránh bội chi là in thêm tiền. Dẫn đến lạm phát và thuế tăng tạo nên nổi loạn, và Tống Huy Tông dẹp tan các cuộc nổi loạn như một phần hoạt động của đế chế thiên tử của ông cần thực hiện. Tai họa từ nước Kim Sau đó Huy Tông quyết định tăng thêm các thành công của mình bằng cách giải phóng Bắc Kinh khỏi sự cai trị của người Khiết Đan. Biết rõ sự yếu kém của quân đội Trung Quốc, ông liên minh với người Nữ Chân ở Mãn Châu. Người Nữ Chân là nhiều bộ tộc bên trong vương triều Liêu của Khiết Đan. Người Nữ Chân nổi loạn chống lại sự cai trị của Khiết Đan, và năm 1125 người Nữ Chân đã làm được điều mà Trung Quốc với dân số đông đảo của mình không làm được: đánh bại Khiết Đan, thành lập nhà Kim. Sau đó người Nữ Chân quay lại tấn công Tống và tiến sâu hơn nữa vào Trung Quốc, tràn qua thủ đô Tống là Khai Phong vào năm 1126. Tống Huy Tông và những bầy tôi trung thành nằm trong số khoảng 3.000 người bị Nữ Chân bắt làm tù binh, và Huy Tông bị chết trong cảnh giam cầm. Từ Nữ Chân, một triều đại tên là Kim lên cai trị ở vùng đông bắc Trung Quốc. Ở phía tây bắc Trung Quốc người Tây Hạ cai trị - ở vùng, giống như đông bắc, từ lâu là nơi có nhiều sắc tộc, với những người thuộc tộc Hán là thiểu số. Về mặt dân tộc, Trung Quốc không có biên giới phía bắc - kết quả của những cuộc di cư và đổ bộ vào Trung Quốc trong nhiều thế kỷ qua và người Trung Quốc đã di cư đến những vùng ở miền bắc. Người con trai thứ chín của Huy Tông sống sót và tiếp tục vương triều Tống ở miền Nam Trung Quốc ở đồng bằng phía nam sông Dương Tử, và kéo dài về phía tây tới tỉnh Tứ Xuyên. Một lần nữa, Trung Quốc chỉ còn giữ được vùng phía nam, triều đình ở đó được gọi là nhà Nam Tống. Và nhà Nam Tống lại tìm cách chinh phục phía bắc. Nhà Nguyên Thành Cát Tư Hãn Các hiệp sĩ với các cuộc đấu trên lưng ngựa, vũ khí và các biểu tượng của tổ tiên, tin rằng họ là các chiến binh đầu tiên trên thế giới, trong khi các chiến binh Mông Cổ lại nghĩ khác. Những con ngựa Mông Cổ nhỏ bé nhưng những kỵ binh trên lưng nó trang bị nhẹ và họ di chuyển với tốc độ cao. Đó là những người dày dạn, lớn lên trên lưng ngựa và săn bắn, làm họ trở thành những chiến binh tốt hơn những người sống trong xã hội nông nghiệp và các thành phố. Vũ khí chính của họ là cung và tên. Và những người Mông Cổ đầu những năm 1200 có kỷ luật cao, phối hợp tốt và có thủ đoạn khôn ngoan. Người Mông Cổ Người Mông Cổ mù chữ, tin vào bái vật giáo, dân cư thưa thớt, có lẽ chỉ vào khoảng 700.000 người. Ngôn ngữ của họ hiện được miêu tả là kiểu Altaic – có nguồn gốc từ vùng núi Altay ở phía tây Mông Cổ - một ngôn ngữ không liên quan tới ngôn ngữ Trung Quốc. Họ là những kẻ du mục trên những đồng bằng cỏ mọc phía bắc sa mạc Gô bi và phía nam các cánh rừng Siberi. Trước năm 1200, người Mông Cổ bị chia lẻ thành những nhóm nhỏ do một thủ lĩnh dẫn đầu gọi là hãn, và sống trong những cái lều da có thể mang đi được gọi là ger. Người Mông Cổ thường phải chịu cướp bóc và chăn thả lẻ tẻ. Họ thường đánh nhau để giành bãi chăn, và trong thời khó khăn họ thỉnh thoảng đi cướp bóc, thích cướp đồ đạc hơn là đổ máu. Họ không sưu tập đầu lâu hay da đầu làm chiến lợi phẩm và không khía lên gỗ để ghi lại số người đã giết. Thiết Mộc Chân Từ khi sắp trưởng thành đến tuổi ba tám vào năm 1200, một người Mông Cổ tên là Thiết Mộc Chân (Temüjin) nổi lên làm hãn đối với nhiều gia đình. Ông là một nhà quản lý giỏi, khéo thu phục lòng dân. Ông là chư hầu của Vương Hãn (Ong Khan), người cầm đầu một liên minh các bộ lạc được tổ chức tốt hơn các liên minh Mông Cổ khác. Thiết Mộc Chân gia nhập với Vương Hãn trong một chiến dịch quân sự chống lại người Thát Đát (Tatar) ở phía đông, và tiếp theo sự thành công của chiến dịch đó Vương Hãn tuyên bố Thiết Mộc Chân là con nuôi và là người thừa kế của ông. Con trai của Vương Hãn, Tang Côn (Senggüm, 桑昆), vốn đã chờ đợi được nối ngôi cha và vạch kế hoạch ám sát Thiết Mộc Chân. Thiết Mộc Chân biết điều đó, và những người trung thành với Thiết Mộc Chân đã đánh bại những người trung thành với Tang Côn. Thiết Mộc Chân trở thành người đứng đầu cái từng là liên minh của Ong Khan. Và vào năm 1206, ở tuổi 42, Thiết Mộc Chân lấy danh hiệu là Thành Cát Tư Hãn (có nghĩ là Vị vua cai trị thế giới), và ông đưa những người ủng hộ mình lên làm quan để cảm ơn sự ủng hộ của họ. Giống như những người khác, dân chúng của Thành Cát Tư Hãn coi họ ở trung tâm của vũ trụ, là dân tộc vĩ đại nhất và được chúa trời ưu đãi. Họ coi những chiến thắng của Thành Cát Tư Hãn trong chiến tranh cho thấy ông chính là người chủ không chỉ của "dân tộc của những chiếc lều da" mà còn của cả thế giới. Hãn của các hãn Thành Cát Tư Hãn tiếp tục cải thiện tổ chức quân sự của mình, cũng là để biến nó thành một chính quyền quan liêu chính trị di động, và ông phá vỡ cái tồn tại còn lại của các bộ tộc thù địch, chỉ để lại tính đồng nhất về dân tộc những bộ tộc đã trung thành với ông. Ông tạo ra một khung luật pháp mà ông sẽ làm việc trong cả cuộc đời. Việc bắt cóc phụ nữ đã dẫn tới mối hận thù giữa những người Mông Cổ, và khi còn ở tuổi thanh niên, Thiết Mộc Chân đã phải chịu đau khổ vì người vợ trẻ của ông là Borte người ông tự nhủ phải giải cứu, bị bắt cóc, và ông lập ra luật cấm bắt cóc phụ nữ. Ông tuyên bố mọi đứa trẻ đều là hợp pháp, dù mẹ nó là người thế nào. Ông biến nó thành luật rằng không phụ nữ nào bị bán cho hôn nhân. Việc ăn trộm gia súc vốn là thứ bất đồng giữa người Mông Cổ, và Thành Cát Tư Hãn biến nó thành tội tử hình. Rất nhiều gia súc đã được trả về cho chủ, và việc chiếm giữ đồ bị mất cắp của người khác cũng bị coi như ăn cắp và cũng bị tử hình. Thành Cát Tư Hãn điều chỉnh lại việc săn bắn - một hoạt động mùa đông - cải thiện khả năng cung cấp thịt cho mọi người. Ông đưa ra việc lưu giữ số liệu bằng cách áp dụng kinh nghiệm của mình trước khi ông đặt ra chữ viết cho ngôn ngữ mẹ đẻ của mình. Ông tạo ra những con dấu chính thức. Ông đặt ra những quan chức cao cấp nhất về pháp luật, những người thu thập và giữ gìn tất cả các quyết định về phán xử, để kiểm soát các cuộc xử án những người có hành vi sai trái và có quyền ra lệnh xử tử hình. Ông cũng tạo ra thứ tự ở trong vương quốc của mình và làm nó mạnh mẽ hơn cũng như làm tăng khả năng bành trướng lãnh thổ của ông. Các cuộc chinh phục ở miền bắc Trung Quốc Thành Cát Tư Hãn liên minh với người Duy Ngô Nhĩ, về phía nam, những người ở gần Con đường tơ lụa hơn người Mông Cổ và vì thế cũng thịnh vượng hơn. Thành Cát Tư Hãn gả con gái cho hãn của người Duy Ngô Nhĩ, và vị hãn này mang tới làm đồ cưới một xe đầy vàng, bạc, ngọc trai, vải thêu, tơ tằm và satin. Người Mông Cổ chỉ có da, lông thú và nỉ dạ - một sự bẽ bàng đối với vị vua của cả thế giới. Thành Cát Tư Hãn cần chiến lợi phẩm để thưởng cho đội quân đang bảo vệ biên giới phía bắc của ông và khuất phục một kẻ thù cũ ở đó, người Miệt Nhi Khất (Merkit). Genghis hành động với tư cách người có quyền cai trị toàn bộ thế giới và tấn công những vị vua vùng chăn thả và trồng cấy khác ở vùng tây bắc Trung Quốc, người Tây Hạ vốn cũng có nhiều hàng hóa như người Duy Ngô Nhĩ. Về số lượng binh lính, người Mông Cổ nhiều gấp đôi, và họ phải học một kiểu chiến tranh mới, chống lại các thành phố phòng thủ vững chắc, gồm cả việc cắt đứt các đường tiếp tế và làm lệch dòng chảy của các dòng sông. Thành Cát Tư Hãn và đội quân của mình bách chiến bách thắng, và năm 1210 được người Tây Hạ chấp nhận là vị lãnh tụ tối cao. Cũng vào năm 1210, Nữ Chân, tộc người cai trị vùng phía bắc Trung Quốc gồm cả Bắc Kinh, gửi một phái đoàn tới Thành Cát Tư Hãn đề nghị người Mông Cổ chấp nhận làm chư hầu. Nữ Chân kiểm soát con đường thông thương hàng hóa dọc theo Con đường tơ lụa, và việc từ chối họ có nghĩa là không thể tiếp cận các hàng hóa ở đó. Thành Cát Tư Hãn và những người Mông Cổ bàn bạc và quyết định lựa chọn chiến Tranh. Theo nhà sử học Jacq Weatherford, Genghis đã một mình cầu nguyện trên một ngọn núi, cúi mình và trình bày trường hợp của mình lên "những người bảo vệ siêu nhiên" của ông, miêu tả sự bất bình, những sự tra tấn và giết hại mà nhiều thế hệ dân tộc ông đã phải chịu dưới bàn tay người Nữ Chân. Và ông biện hộ rằng ông không phải là người bày ra chiến tranh với người Nữ Chân và không gây nên những sự cãi nhau. Năm 1211, Thành Cát Tư Hãn và quân đội của mình tấn công. Người Nữ Chân có một đội quân lớn và hiệu quả nhưng họ bị sức ép mạnh mẽ cả của người Mông Cổ và cả những cuộc chiến tranh biên giới với người Tây Hạ. Họ cũng bị Trung Quốc tấn công ở phía nam, vua Nam Tống muốn lợi dụng cuộc xung đột Nữ Chân-Mông Cổ để giải phóng miền bắc Trung Quốc. Nhưng người Nữ Chân đã buộc quân Trung Quốc phải tháo lui. Người Mông Cổ hưởng lợi từ việc người Trung Quốc luôn thua trận trong các thế kỷ trước để biến họ thành một quyền lực quân sự mạnh mẽ. Họ cũng lợi dụng việc Nữ Chân chế ngự mọi người. Người Mông Cổ sử dụng các mưu mẹo chinh phục và chia rẽ, sử dụng sự rộng lượng đối với những người sát cánh với họ và khủng bố và máu đối với những người không chịu. Họ tàn phá vùng nông thôn, thu thập tin tức và chiến lợi phẩm, đẩy dân chúng đi phía trước họ, cắt đứt các con đường, và nhốt người Nữ Chân trong các thành phố của họ, nơi người dân Nữ Chân chuẩn bị làm loạn. Họ dùng những lao động lính để tấn công các thành phố và trong việc điều hành các dụng cụ hãm thành Trung Quốc mà họ mới chiếm được. Người Mông Cổ có lợi thế ở khẩu phần ăn, gồm rất nhiều thịt, sữa và sữa chua, và họ có thể nhịn ăn một hay hai ngày tốt hơn lính Nữ Chân, những người ăn ngũ cốc. Thành Cát Tư Hãn và quân đội của mình vượt qua Bắc Kinh và lao vào vùng trung tâm miền bắc Trung Quốc. Các thành công quân sự làm cho người dân ở những vùng bị chiếm có cảm giác rằng Thành Cát Tư Hãn có được mệnh trời và rằng việc chống lại ông ta chính là chống lại trời. Vị vua Nữ Chân công nhận quyền lực Mông Cổ và đồng ý nộp cống, và, sau sáu năm chiến tranh, Thành Cát Tư Hãn quay trở lại Mông Cổ, để một trong những vị tướng giỏi nhất của mình ở lại những vị trí phòng thủ người Nữ Chân. Cùng quay về với Thành Cát Tư Hãn và đội quân Mông Cổ của ông là những kỹ sư, những người đã trở thành một bộ phận thường xuyên trong quân đội đó, và còn có cả những nhạc sĩ, phiên dịch, bác sĩ và người viết chữ, lạc đà và các toa xe hàng hóa bị tóm được. Trong số hàng có tơ, gồm cả áo tơ, đệm, chăn, áo choàng, thảm, tranh treo tường, đồ gốm, ấm sắt, vũ khí, nước hoa, đồ trang sức, rượu, mật ong, thuốc, đồng, bạc và vàng cùng nhiều thứ khác. Và hàng hóa từ Trung Quốc đã trở thành một dòng chảy bền vững. Người Mông Cổ rất mừng khi quay về quê nhà, đất đai quê hương họ cao, khô và lạnh hơn. Họ coi những người dân ở phía bắc Trung Quốc, những người ăn ngũ cốc như gia súc và sống gần nhau giống như những bầy vật nuôi. Nhưng họ thích những thứ mà Trung Quốc làm ra, và ở quê hương họ đã có sự thay đổi. Dòng chảy liên tục của hàng hóa Trung Quốc được cung cấp và phân phối công bằng và phải xây các khu nhà để tích trữ hàng hóa. Thành công trong chiến tranh đã làm thay đổi Mông Cổ - giống như người La Mã và người Ả rập cũng đã từng có. Hốt Tất Liệt ở Trung Quốc và tiến tới Nhật Bản Sau hai năm chuẩn bị, quân đội của Mông Kha (Mongke) đã tiến vào khu vực Tứ Xuyên của Trung Quốc. Tại đó, năm 1259, Mông Kha chết trong chiến trận, và ông là vị Đại Hãn cuối cùng cai trị từ Cáp Lạp Hòa Lâm (Karakorum) và là người cuối cùng điều hành quyền lực trên toàn đế chế Mông Cổ. Một cuộc chiến khác xảy ra về người sẽ trở thành Đại Hãn. Người kế tục Mông Kha là một trong những anh em của ông, người sau này được gọi là vị hãn Hốt Tất Liệt (Khubilai) - một người cháu 41 tuổi của Thành Cát Tư Hãn người đã chiến đấu bên cạnh Mông Kha ở Trung Quốc. Những người khác ở phía tây, muốn trở thành Đại Hãn tuyên bố họ là Đại Hãn và thành lập các vương quốc độc lập, dẫn tới sự chia rẽ làm thành tai họa của các đế chế. Từ thủ đô Bắc Kinh của mình, Hốt Tất Liệt tiếp tục sự nô dịch vùng nam Trung Quốc, bị cuốn rũ bởi sự giàu có của nó, gồm cả thặng dư ngũ cốc và các thành thị dọc theo bờ biển phía nam Trung Quốc vốn thịnh vượng nhờ vào thương mại dọc bờ biển. Trung Quốc từ quanh Trường Giang đến phía nam là vùng rộng lớn nhất, có dân số đông nhất và có những nguồn lợi lớn nhất so với mọi vùng Mông Cổ từng chiếm được. Hốt Tất Liệt tìm cách thuyết phục hoàng đế Tống khuất phục ông một cách hòa bình, và khi điều này không xảy ra ông đưa quân đội gồm nhiều sắc tộc (gồm cả người Trung Quốc và Ba Tư) lao sâu vào Trung Quốc, trong khi thủy binh của ông, do người Nữ Chân và Cao Ly điều khiển, bơi về phía nam dọc theo bờ biển Trung Quốc. Cuộc xâm chiếm kéo dài mười sáu năm, và kết thúc vào năm 1276 - một năm sau khi một lái buôn người Venezia, Marco Polo đến Bắc Kinh. Hốt Tất Liệt, không can thiệp nhiều vào kinh tế Trung Quốc, và Khổng giáo không bị ảnh hưởng nhiều, các lái buôn Trung Quốc sau khi tạm thời gián đoạn lại tiếp tục đi buôn. Người Mông Cổ ít đồng hóa với người Trung Quốc, Hốt Tất Liệt không muốn thấy đội quân chiếm đóng của ông biến thành người Trung Quốc. Tuy nhiên, một số sự pha trộn giữa những kẻ chinh phục và người bị chinh phục đã diễn ra – đa phần các binh sĩ Mông Cổ lấy vợ Trung Quốc. Sau khi củng cố sự cai trị của mình ở Trung Quốc, Hốt Tất Liệt gửi các đoàn sứ để yêu cầu Nhật Bản cống nạp và đe doạ trả đũa nếu họ không chịu. Từ triều đình ở Kyoto, người Nhật Bản trả lời, nói rằng giống như những kẻ cai trị khác, đất nước của họ cũng có nguồn gốc thần tiên. Vì vậy, họ cho rằng, Nhật Bản không phải chịu hàng phục bất kỳ kẻ nào, và họ bắt đầu chuẩn bị chiến tranh. Hốt Tất Liệt tin rằng ông không thể cho phép một sự xuất hiện của sự cưỡng lại của Nhật Bản. Năm 1274, từ phía nam Cao Ly, ông tung ra một cuộc tấn công - một lực lượng hỗn hợp Mông Cổ, Trung Quốc và Triều Tiên, với 600 đến 900 chiếc thuyền, 23.000 quân, máy bắn đá, tên lửa cháy được, cung và tên. Thời tiết xấu đã đẩy lùi lực lượng tấn công phải quay trở về khỏi các đảo chính của Nhật Bản: Kyushu. Vào mùa hè năm 1281, Hốt Tất Liệt lại cố một lần nữa, lần này ông gửi 4.000 tàu. Trong năm mươi ba ngày người Nhật giữ chân những kẻ xâm lược ở vị trí đổ bộ chật hẹp ở Kyushu. Sau đó một trận bão lớn xảy ra. Người Mông Cổ lại rút lui, chỉ một nửa số quân về được tới Trung Quốc. Người Nhật coi cơn bão là một trận gió của thần – kamikaze (thần phong). Hốt Tất Liệt lại thấy được những giới hạn mà Hulegu đã gặp ở Trung Đông. Đây là nỗ lực cuối cùng nhằm xâm lược Nhật Bản cho tới tận năm 1945, tại Okinawa khi Kamikaze cũng là một từ đáng chú ý. Sự cai trị của Mông Cổ Những người Mông Cổ ở Trung Quốc cai trị với nhiều quan lại, binh lính và những người hầu hạ - Thổ Nhĩ Kỳ, Ả rập, một ít người Âu, Nữ Chân và Ba Tư. Người Mông Cổ theo truyền thống của mình ủng hộ nhiều tôn giáo – không chỉ Phật giáo mà cả Hồi giáo, Đạo giáo và Thiên chúa giáo cùng được tôn thờ bởi những người Mông Cổ ở Trung Quốc. Và dưới sự cai trị của Mông Cổ, sự ảnh hưởng của Khổng giáo trong triều đình giảm sút. Vua Mông Cổ cai trị Trung Hoa là Hốt Tất Liệt, chết năm 1294 ở tuổi 79. Cháu nội của ông, Thiết Mộc Nhĩ (Temur), kế tục ông, hòa bình với Nhật Bản và tiếp tục giữ được sự thịnh vượng đáng có. Thiết Mộc Nhĩ là người chu đáo và có năng lực, nhưng các ông vua tiếp sau ông sau khi ông chết sớm vào năm 1307 lại yếu kém hơn ông và Hốt Tất Liệt. Trong hai sáu năm từ 1307 đến 1333 có bảy ông vua cai trị. Cháu trai của Thiết Mộc Nhĩ, Khúc Luật (Külüg) đã cai trị từ năm 1308. Ông chỉ định những người bất tài vào các vị trí chính phủ, gồm cả các tu sỹ Phật giáo và Đạo giáo, và ông chi tiền vào các đền đài và cung điện hoang phí và tăng gấp ba nguồn cung tiền giấy. Sau cái chết của ông năm 1311, em trai ông, Ái Dục Lê Bạt Lực Bát Đạt (Ayruabarwada), nắm quyền lực ở tuổi hai sáu. Tuy nhiên Ái Dục Lê Bạt Lực Bát Đạt có trình độ cai trị đối lập nổi lên chống lại ông trong triều đình vì coi ông là quá thân thiện với người Trung Quốc. Ông chết năm 1320, và con trai cả của ông, Thạc Đức Bát Lạt (Shidebala), kế tục, ở tuổi mười tám. Thạc Đức Bát Lạt đưa ra các cải cách chống tham nhũng, ủng hộ những người Phật giáo Tây Tạng chống lại Hồi giáo và bị án sát năm 1232. Ông được kế tục bởi Yesun Temur, người có phong cách truyền thống Mông Cổ nhất. Những người ủng hộ ông tham dự vào việc ám sát Thạc Đức Bát Lạt, và ông tự tách mình khỏi họ và quay trở lại truyền thống của Mông Cổ đối xử với mọi tôn giáo công bằng. Nhà Minh Thành lập Sự chống đối của người Trung Quốc với sự cai trị Mông Cổ tăng lên. Người Mông Cổ không chỉ khác người Trung Quốc ở ngôn ngữ mà còn ở cách ăn mặc và các thói quen khác, và người Trung Quốc coi người Mông Cổ là mọi rợ. Họ không thích cách ăn uống của người Mông Cổ, và họ coi người Mông Cổ bốc mùi (vì bẩn). Bộ máy quân sự Mông Cổ đã suy sút. Các đội quân thông thường của Mông Cổ đã bị đưa vào làm các việc trồng cấy để tự nuôi mình – có sử dụng nô lệ. Trong nhiều thập kỷ hòa bình khả năng chiến đấu của chiến binh Mông Cổ đã bị giảm. Một số chiến binh Mông Cổ cũng không thành công trong việc làm ruộng và mất ruộng đất. Một số thành những kẻ lang thang, trong khi các sĩ quan Mông Cổ vẫn là một tầng lớp quý tộc ăn lương tách biệt khỏi những binh sĩ thông thường. Khó khăn đã nổ ra giữa những người Mông Cổ ở Krym năm 1347, và khó khăn tàn phá người Mông Cổ ở Trung Quốc. Các trận lũ lụt tàn phá Trung Quốc. Các lực lượng quân đội đồn trú Mông Cổ tiếp tục chiếm giữ các điểm chiến lược ở Trung Quốc, nhưng người Mông Cổ kém số lượng rất nhiều và không được chuẩn bị để chiến đấu với cuộc nổi dậy lớn. Các sĩ quan chỉ huy Mông Cổ bắt đầu điều khiển chính phủ, và Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ (Toghon Temur) chuyển qua hình thức bán nghỉ hưu. Người ta bảo ông chỉ thích các chú bé đồng tính và cầu nguyện với các vị sư Phật giáo ở Tây Tạng. Sự truỵ lạc của Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ và sự sùng bái của ông đối với Phật giáo Tây Tạng càng làm tăng sự bất bình của các nhà Nho. Và những sự chống đối Toghon Temur nổi lên cả bên trong Phật giáo. Một giáo phái Phật giáo bí mật, Bạch Liên giáo, bắt đầu tổ chức nổi loạn và tiên đoán sự xuất hiện của một đấng cứu thế Phật giáo. Mới đầu cuộc nổi loạn diễn ra ở quanh Quảng Châu năm 1352. Một nhà sư Phật giáo và là một chú bé cựu ăn mày, Chu Nguyên Chương, quẳng áo lễ, gia nhập nổi loạn, và trí thông minh khác người của mình đã giúp ông dẫn đầu đội quân khởi nghĩa. Tới năm 1355 cuộc nổi loạn đã lan rộng ra đa phần Trung Quốc, dẫn tới tình trạng vô chính phủ. Chu Nguyên Chương được lòng dân chúng bởi ông cấm quân lính cướp bóc. Năm 1356, Chu Nguyên Chương chiếm được Nam Kinh và biến nó thành thủ đô của ông, và ở đó ông được một trí thức Khổng giáo giúp đỡ tung ra các tuyên bố cho ông và tổ chức các lễ nghĩ tuyên bố Mệnh Trời. Và ông đánh bại các đội quân làm loạn khác. Trong lúc ấy, người Mông Cổ đánh lẫn nhau, làm giảm sút khả năng đàn áp nổi loạn của họ. Năm 1368, Chu Nguyên Chương mở rộng quyền kiểm soát tới Quảng Châu, cùng năm đó vị vua cai trị người Mông Cổ Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ bỏ chạy đến Cáp Lạp Hòa Lâm. Chu Nguyên Chương và quân đội vào thủ đô cũ của Mông Cổ, Bắc Kinh và năm 1371 quân của ông đến Tứ Xuyên. Năm 1387 – sau hơn ba mươi năm chiến tranh – Chu Nguyên Chương đã giải phóng toàn bộ Trung Quốc. Và là hoàng đế Trung Quốc ông lấy tên hiệu là Hồng Vũ và lập ra một triều đại mới – nhà Minh. Sơ kỳ nhà Minh (1368-1436) Điều lo toan đầu tiên của vị vua mới ở Trung Quốc năm 1370 là sức mạnh quân sự và ngăn cản sự hồi sinh của người Mông Cổ. Hoàng đế Hồng vũ lập ra các đội binh đồn trú tại các vị trí chiến lược và lập lên một đẳng cấp quân đội cha truyền con nối tự kiếm sống bằng việc đồng áng và luôn sẵn sàng cho chiến tranh. Và Hồng vũ cho các tướng lĩnh của mình thành tầng lớp quý tộc quân sự mới. Các đội quân bị cấm làm ảnh hưởng tới dân. Chế độ của Hồng vũ đã hành hình nhiều kẻ vi phạm pháp luật và bị nghi là mưu phản. Ông cấm các hội kín. Và ông tìm cách khôi phục kinh tế. Các trang trại vốn bị tàn phá được khôi phục và ông định cư cho nhiều nông dân tại những nơi từng là đất hoang và giảm thuế cho họ. Giữa năm 1371 và 1379 số lượng đất đai canh tác tăng lên gấp ba, và số thu về cũng vậy. Chính phủ tài trợ việc trồng cây và trồng lại rừng. Những con đê vốn bị sao lãng và các kênh được sửa chữa lại và hàng nghìn hồ chứa nước được xây dựng lại hay khôi phục lại. Hồng Vũ chết năm 1398, ở tuổi bảy mươi. Và, như thường lệ, người đã gắng sức thu lấy quyền lực và lập ra một triều đình thường bị tiếp sau bởi những đứa con cháu kém khả năng hơn mình. Cái chết của Hồng Vũ dẫn tới một cuộc nội chiến bốn năm. Cháu của Hồng Vũ là Minh Huệ Đế được chọn làm người kế vị nhưng chỉ được ở ngôi trong vòng 5 năm. Chu Đệ, người chú của Huệ Đế đã lật đổ ngai vàng của cháu mình để trở thành Hoàng đế năm 1403, Chu Đệ – cũng được gọi là Hoàng đế Vĩnh Lạc (Hạnh phúc vĩnh cửu), được cho là sinh ra bởi một người thiếp người Triều Tiên. Ông cai trị tới năm 1424, sử dụng các hoạn quan làm điệp viên và chỉ định họ vào các chức vụ cao ở triều đình. Một trong những hoạn quan của hoàng đế Vĩnh Lạc, Trịnh Hòa, là một người Hồi giáo, cha ông từng hành hương tới Mecca. Trịnh Hòa hiểu biết về thế giới ít hơn người khác, và ông dẫn đầu một nhóm hoạn quan có chức tước (can-do) để thực hiện các nhiệm vụ đặc biệt của hoàng đế. Hoàng đế Vĩnh Lạc ra lệnh cho Trịnh Hòa tiến hành các cuộc thám hiểm trên biển. Những nhà vua Minh học được từ người Mông Cổ các quan hệ hàng hải rộng rãi và kỹ thuật. Dưới thời Mông Cổ, nhiều tàu hàng lớn của Trung Quốc chạy trên biển quanh Trung Quốc, gồm cả những chuyến đi thường xuyên chở ngũ cốc từ phía nam, dọc theo bờ biển, tới phía bắc. Và các tàu Trung Quốc đã buôn bán qua Đông Nam Á đến đảo Lanka (Sri Lanka) và đến Ấn Độ. Nhà Minh không giữ việc buôn bán này nữa, cuộc thám hiểm của Trịnh Hòa bắt đầu năm 1405, không phải vì mục đích thương mại mà để thám hiểm địa lý và ngoại giao - một cuộc thám hiểm với sáu mươi ba tàu và 27.000 người. Sáu cuộc thám hiểm sau đó cũng được Trịnh Hòa chỉ huy, cuộc cuối cùng năm 1433 dưới triều vua Minh Tuyên Tông, tức Tuyên Đức đế. Các cuộc thám hiểm tới tận Surabaya ở đào Java, và họ đến Ấn Độ và sáu đó là Mogadishu ở bờ biển Châu Phi, Hormuz ở Vịnh Ba Tư, và lên đến biển Đỏ ở Jeddah. Họ trao đổi quà tặng, và các hương liệu hiếm, các loại cây và thú vật, gồm cả hươu cao cổ, cũng được mang về Trung Quốc. Trung Quốc có đội hải quân lớn nhất thế giới, với ước tính 317 tàu, một số chiếc dài đến 440 feet và rộng 180 feet, những chiếc tàu có từ bốn đến chín cột buồm cao tới 90 feet, và với đội thủy thủ lên đến 500 người. Nhưng sự chú ý của Trung Quốc vào một đội ngũ hàng hải to lớn và các tàu buôn đã bị che mờ bằng sự lo lắng về bảo vệ quân sự trên đất liền. Các cố gắng nhằm kiểm soát An Nam không thành công và rất đắt đỏ. Vào giữa thế kỷ người Mông Cổ tiến hành các cuộc cướp bóc ở biên giới và là mối đe doạ lớn nhất với Trung Quốc. Cùng với việc độc lập từ sự cai trị Mông Cổ, ảnh hưởng Khổng giáo đã tăng lên ở triều đình. Các nhà Nho có mặt ở mọi cấp quan liêu và vẫn tỏ ý thù địch đối với thương mại và các tiếp xúc với nước ngoài. Các nhà Nho rất ít hoặc không chú ý đến sự phát triển của Trung Quốc thành một quyền lực về thương mại trên biển. Với sự thoát khỏi sự cai trị Mông Cổ, các nhà lãnh đạo Trung Quốc hăm hở khôi phục những thứ thuộc về Trung Quốc, gồm cả việc chạy tàu trên các kênh đào của Trung Quốc - vốn không được sửa chữa dưới thời Mông Cổ. Họ coi thương mại trong nước là đủ. Chính phủ chấm dứt tài trợ cho các cuộc thám hiểm hàng hải, và với tư tưởng co lại bên trong, chính phủ đặt ra ngoài vòng pháp luật việc những chiếc tàu nhiều cột buồm rời khỏi Trung Quốc. Sự phát triển của thế giới thương mại trên biển để dành cho người khác. Trung kỳ nhà Minh (1436-1573) Việc truyền ngôi từ cha sang con một lần nữa lại làm sự lãnh đạo mất khả năng. Vào năm 1506 Chính Đức, một đứa trẻ mười bốn tuổi con vua Minh là Hoằng Trị nối ngôi. Hoằng Trị đã cảnh báo rằng con mình là Chính Đức rất có xu hướng về tình yêu sự dễ dàng và chơi bời. Và Chính Đức trở thành một người cai trị thích giải trí như âm nhạc, đấu vật, ảo thuật và nhào lộn, ông cũng thích cưỡi ngựa, bắn cung và săn bắn, và không chú ý lắm tới công việc quốc gia. Chính Đức bị ốm và chết năm 1521 ở tuổi 31, và vì ông không có con trai, quyền lực được trao cho một trong những đứa con nuôi của ông, Gia Tĩnh, người mới mười lăm tuổi. Vị hoàng hậu nhiếp chính và một Đại thư ký cai trị trong một thời gian. Quyền lực của các hoạn quan bị kiềm chế và sự giàu có mà các hoạn quan đã tích lũy được bị sung công: 70 hòm vàng và 2200 hòm bạc của riêng một hoạn quan. Nền kinh tế được khôi phục. Nhưng cuối cùng thì Gia Tĩnh cũng lớn và vị Đại thư ký chết. Sau đó chính phủ ngập ngừng khi Gia Tĩnh chú tâm vào Đạo giáo và sự bất tử. Ông chi tiền vào xây dựng các đền Đạo giáo, nhưng chủ nghĩa duy linh của ông không biến ông thành một vị vua xứng đáng và ít nhất trong mắt của mười tám người thiếp của ông. Năm 1542 họ âm mưu bóp cổ ông khi ông đang ngủ. Tất cả số họ bị hành hình trừ người thiếp đã cảnh báo trước cho hoàng hậu. Gia Tĩnh làm rất ít để cải thiện Trung Quốc về mặt quân sự. Các thuộc địa ở biên giới chỉ có khoảng bốn mươi phần trăm số người có ý định chống lại người Mông Cổ và những tộc dân khác. Các sư đoàn trong nước không có được mười phần trăm sức mạnh đúng đắn của mình. Chính phủ không trả lương cho binh lính bằng với khẩu phần. Cái chết và sự đào ngũ làm giảm số quân, và nhiều người trong số họ bị tuyển vào lính mà không muốn mất mạng trong các trận chiến. Người Mông Cổ ở phía đông bắc đã liên hiệp lại dưới một người con cháu của Thành Cát Tư Hãn và đang tiến hành các cuộc tấn công vào Trung Quốc. Trong một tháng thuộc năm 1542 họ đốt nhà cửa, ăn cắp gia súc, ngựa và tàn sát, như được viết lại, hơn 200.000 người. Năm 1550, người Mông Cổ tiến về cổng thành Bắc Kinh và cướp bóc và đốt cháy các vùng ngoại ô. Các cuộc cuộc tấn công cũng đến từ những người Trung Quốc (bị cho là người Nhật, uy khấu) có dính đến buôn lậu với người nước ngoài. Những người đó lập nên các cơ sở ở bờ biển và cướp bóc hay chiếm các làng mạc và các thị trấn ở gần sông. Một đội quân tư nhân, do Thích Kế Quang tổ chức, cuối cùng đã đánh bại các quân ăn cướp từ bờ biển, trong khi Gia Tĩnh vẫn mải mê với Đạo giáo. Gia Tĩnh rút khỏi việc điều hành chính phủ trong một thời gian dài, và những cuộc nghiên cứu về Đạo giáo của ông cho một cuộc sống vĩnh cửu thông qua các loại thuốc ma thuật dẫn tới việc ông chết vì thuốc độc năm 1566. Con của Gia Tĩnh, Long Khánh, cũng không chú ý tới việc trị nước. Nhưng ông đã trục xuất mọi người Đạo giáo ra khỏi triều đình, và một vị quan trong triều là Trương Cư Chính, đã thương lượng hòa bình với người Mông Cổ. Long Khánh cai trị đến năm 1572 và được nối ngôi bởi Vạn Lịch, người cai trị tới năm 1620, trong 47 năm – giai đoạn cai trị dài nhất ở Trung Quốc từ đầu đời Hán mười bảy thế kỷ trước đó. Hậu kỳ nhà Minh (1573-1644) Vạn Lịch lên làm vua lúc mười tuổi, và chế độ của ông bắt đầu với sự lãnh đạo của mẹ ông và Trương Cư Chính. Họ lập lại kỷ luật và sự hiệu quả trong chính phủ. Tài chính được ổn định, và các cuộc tấn công vào biên giới Trung Hoa bị đẩy lùi. Nhưng sau khi Vạn Lịch đã lớn, và Trương Cư Chính chết, lịch sử gần đó của các vua Trung Quốc lại lặp lại. Vạn Lịch ngày càng sao nhãng việc quốc gia. Các vị trí chính phủ bỏ trống, và người dân mòn mỏi ở trong tù vì không có người nào xét xử họ. Vạn Lịch cho phép các hoạn quan có được ảnh hưởng ở triều đình. Các hoạn quan lấy tiền thuế của ngân khố quốc gia làm của riêng. Khi một vùng đất bị tàn phá bởi động đất, lũ lụt hay hạn hán, Vạn Lịch muốn cứu tế, nhưng có rất ít (nếu có) cứu tế được thành hiện thực. Và những người dân mất hy vọng lại tụ tập thành băng đảng và nổi loạn. Thuế cao tiếp tục đè nặng lên người dân nhưng không với tới tầng lớp trên cao. Hàng triệu ở tầng lớp trung gian dính dáng tới việc thu thuế, lấy phần của họ trước khi nộp tới triều đình. Tại một số hành tỉnh, nửa số thuế bị quý tộc địa phương chiếm giữ. Một số người có tiền dư đem cho vay với lãi suất cắt cổ, và Vạn Lịch tiêu hàng đống tiền nhà nước vào các cung điện và những đồ xa xỉ cho gia đình. Trong lúc đó, Vạn Lịch trở nên béo đến mức ông không thể đứng dậy được. Trung Quốc vốn khéo léo nhưng có quá ít lãnh đạo trí thức chủ trương cải cách chính trị và xã hội. Các trí thức ủng hộ sự thanh bình qua việc rút lui hay quay về sự tuân phục truyền thống và sự cai trị độc tài đúng đắn. Không giống tầng lớp tư sản ở châu Âu, không có nhiều người Trung Quốc nghĩ tới việc tìm ra các biện pháp tốt hơn nhằm tăng năng suất thông qua cải tiến công cụ - trong khi những người lao động nghĩ về vấn đề này lại không có phương tiện để cải thiện công cụ an sinh. Tầng lớp tiểu quý tộc Trung Quốc, luôn là các nhà Nho ở cả trong việc trồng cấy và trong chính phủ, đã trở thành xa lánh hơn khỏi chính phủ và quay sang phía Phật giáo và bảo trợ cho nhà chùa Phật giáo. Điều này được thúc đẩy bởi các cuộc chiến bè phái bên trong Khổng giáo và bởi các nguy cơ từ việc quyền lực nằm trong tay hoạn quan. Các môn sinh Khổng giáo không thích sự suy tàn trong các tiêu chuẩn Khổng giáo. Các nhà Nho bị chia rẽ thành nhiều phe phái. Nhiều phe Khổng giáo tư nhân phát triển, trong khi rất ít người theo Khổng giáo tìm thấy lỗi của chế độ quân chủ hay chuyên chế. Các nhà Nho tiếp tục coi sự cứu rỗi linh hồn trong việc gia nhập vào việc cư xử theo đạo đức hơn là thay đổi thể chế. Và họ tiếp tục coi thương mại và nghề thủ công là các thứ dành cho tầng lớp bên dưới. Mức độ rút khỏi công việc quốc gia của Vạn Lịch rốt cuộc có lợi cho thương mại và buôn bán. Trung Quốc sản xuất đồ sứ, tơ và vải bông. Một nền kinh tế tiền tệ đúng đắn phát triển, và các thành phố đang phát triển của Trung Quốc có một số các nhà buôn giàu có. Nông nghiệp Trung Hoa cũng tiến bộ - với một số loại ngũ cốc mới như ngô, khoai lang và lạc từ châu Mỹ. Điều này góp phần vào sự vươn lên của Trung Quốc - tới 100 triệu người - gấp đôi dân số khoảng năm 1368, khi nhà Minh mới bắt đầu. Nhưng không nhiều của cải được dùng vào việc đầu tư cho phát triển kinh tế. Thay vì đầu tư vào thương mại, tiền thường được dùng trong việc cho vay với lãi suất cắt cổ an toàn hơn. Hơn nữa, chính phủ sử dụng thương mại như một nguồn tài sản, và quan điểm của Khổng giáo coi thương mại là hổ thẹn, tầng lớp Trung Hoa giàu có - tiểu quý tộc và các lái buông giàu có – tiêu rất nhiều tiền vào việc tiêu thụ. Các thương nhân cũng như các chủ đất giàu có thường coi đầu tư vào đất đai là cách tốt hơn đầu tư phát triển buôn bán. Đa phần công nghiệp là thủ công trong tay các nông dân, và ngay khi sức sản xuất của họ tăng lên, nó sẽ bị làm giảm xuống bởi các chủ đất. Cũng vậy, chính phủ tài trợ cho các phường hội thủ công và đưa ra các quy định cấm cạnh tranh và phát triển. Các ngành công nghiệp thường bị ép buộc phải bán hàng cho chính phủ với giá quá thấp. Phát triển thương mại bị cản trở bởi những người dân thường không thể tăng khả năng tiêu thụ. Và chính phủ tiếp tục áp đặt các giới hạn đối với ngoại thương, gồm cả việc cấm các lái buôn Trung Quốc đi ra biển. Thay vì các lái buôn Trung Quốc đến châu Âu, các lái buôn châu Âu lại tới Trung Quốc. Vào khoảng giữa thời cai trị của Vạn Lịch, các thương gia Hà Lan và Anh đã đến bờ biển Trung Quốc. Các nhà truyền giáo Thiên chúa, Matteo Ricci, đến Trung Quốc ở Ma Cao năm 1582. Ông lấy tên là Li Mateo và biến mình thành phục tùng người Trung Quốc bằng cách chấp nhận ăn mặc như một môn đồ Khổng giáo, và ông biến Thiên chúa giáo thành dễ chấp nhận hơn đối với người Trung Quốc bằng cách kết nối nó với các tư tưởng Khổng giáo. Ông định cư ở Nam Kinh, và học tiếng Trung Quốc và văn học kinh điển Trung Quốc, và bày tỏ sự tôn trọng đối với hệ thống cai trị độc tài và ưu tiên, Ricci được các trí thức và quý tộc Trung Quốc chấp nhận. Đầu năm 1601, Ricci nhận được giấy phép đến Bắc Kinh, nơi ông trình bày với triều đình cây đàn clavico, một bản đồ thế giới và hai chiếc đồng hồ có chuông báo giờ. Ông giới thiệu mình với triều đình là một kẻ thần dân hèn mọn của Vạn Lịch và rất quen thuộc với "trời hình cầu, địa lý, hình học và toán học". Ricci khuấy động sự chú ý và sự nhận thức về các tiến bộ kỹ thuật của phương Tây. Và giấy phép hoạt động ở Trung Quốc cho phép Ricci mở rộng Thiên chúa giáo ở đó, tới năm 1610 Trung Quốc có hơn ba trăm nhà thờ Thiên chúa. Vạn Lịch chết ở tuổi năm bảy, khá già cho một người béo nặng như ông. Người kế ngôi ông là Quang Tông trị vì chưa đầy một tháng trong năm 1620. Hy Tông, mới mười lăm tuổi và dốt nát lên ngôi. Sự rút lui của nhà vua khỏi công việc quốc gia tiếp diễn. Hy Tông thích nghề thợ mộc trong khi triều đình và bộ máy hành chính bị áp chế bởi các hoạn quan, Ngụy Trung Hiền, người xua đuổi bất kỳ ai khỏi chức vụ chính phủ nếu ông nghĩ rằng có thể không trung thành với ông. Nổi loạn xuất hiện năm 1624, được dẫn đầu bởi sáu nhà Nho đang cố gắng phục hưng Khổng giáo "chính thống". Họ được gọi là sáu anh hùng. Họ là những kẻ mộng mơ và thích phục hưng đạo đức hơn là tổ chức một cuộc đấu tranh vũ trang, và, giống như nhà Nho Vương Mãng nhiều thế kỷ trước, họ đã phải trả giá bằng mạng sống của mình. Họ bị tra tấn và đánh đến chết, và bảy trăm người ủng hộ họ bị thanh trừng khỏi các vị trí chính phủ. Một số người ở Trung Quốc kết luận rằng sự khủng bố của Ngụy Trung Hiền và sự chấp nhận thụ động của Thiên Khải chỉ ra rằng triều Minh đã mất Thiên mệnh. Hy Tông chết năm 1627 và được kế tục bởi đứa em nhu nhược, Nghị Tông, và dưới thời Nghị Tông Trời dường như can thiệp chống lại nhà Minh, vì Trung Quốc (và nhiều vùng khác trên thế giới) phải chịu tình trạng thời tiết xấu bất thường: trời lạnh, hạn hán và lũ lụt từ việc mưa quá nhiều. Cũng vậy tình trạng suy đốn thương mại đã phát triển ở châu Âu những năm 1620, có một số ảnh hưởng đến Trung Quốc. Khắp nước Trung Quốc, người dân nổi lên làm loạn. Về quân sự hoàng đế vẫn yếu kém. Và nhiều cuộc đột nhập lại xuất hiện ở phía bắc – không phải từ phía người Mông Cổ mà từ Mãn Châu, các cuộc đột nhập từ nơi mà ngày nay ta gọi là Manchuria. Chính người Trung Quốc đã phát triển kiểu canh tác của mình đến Mãn Châu. Ở vùng Cát Lâm, hậu duệ của những người Nữ Chân bán du cư đã lập lên nhà Kim ở phía bắc Trung Quốc năm 1100. Tới đầu năm 1600, trong số họ, Nỗ Nhĩ Cáp Xích (Nurhaci) đã thống nhất các bộ tộc Mãn Châu dưới quyền quản lý của mình. Con kế vị của ông, Hoàng Thái Cực, cai trị từ Thẩm Dương, gọi thần dân của mình là Mãn tộc. Ông liên kết với các bộ lạc Mông Cổ, lập một thỏa thuận với người Triều Tiên và dự định một cuộc tấn công Trung Quốc. Nhà Thanh Người Mãn Châu lập nên nhà Thanh vào năm 1636 và vẫn tiến hành các cuộc xâm nhập vào phía bắc Đại Minh mà cùng lúc dân cư Trung Quốc nổi dậy chống lại vua Sùng Trinh. Năm 1644 quân khởi nghĩa Lý Tự Thành tràn vào Bắc Kinh. Sùng Trinh tự treo cổ. Quân Thanh tiến vào Trung Quốc, đánh bại quân khởi nghĩa Lý Tự Thành. Trong bảy năm tiếp theo các cuộc chiến đấu bên ngoài Bắc Kinh tiếp diễn, người Mãn Châu chiếm được các vị trí quân sự chiến lược, những người ủng hộ nhà Minh chạy sang Đài Loan, và không chịu hàng Mãn Châu mãi tới tận năm 1683. Mãn Châu nắm quyền ở Bắc Kinh và cuối cùng chiếm toàn bộ Trung Quốc. Các vua Trung Quốc bây giờ thuộc gia đình Mãn Châu gọi là nhà Thanh, một triều đại cai trị tới tận đầu thế kỷ 20(1912). Một số ít người Trung Quốc chọn cái chết thay vì phục vụ cho nhà Mãn Châu. Nhưng người Mãn Châu – không bao giờ vượt quá hai phần trăm dân số Trung Quốc – có thể cai trị Trung Quốc bởi vì sự phục tùng của người Trung Quốc. Người Mãn Châu sử dụng Khổng giáo làm ủng hộ chính quyền chính trị, thúc đẩy học tập cổ điển và sự sùng kính tổ tiên, gồm cả ý tưởng rằng nhà vua cai trị bằng đức hạnh của lòng tốt của mình. Người Trung Quốc chiếm nhiều vị trí trong triều đình quan lại nhà nước Mãn Châu. Các vị nhà vua Mãn Châu giữ quyền quân sự ngoài tay người Trung Quốc và trong tay những anh chàng người Mãn Châu, và họ tìm cách ngăn cản những người Mãn Châu không bị đồng hóa bởi Trung Quốc. Người Mãn Châu ở Trung Quốc bị bắt buộc phải dành cả đời để đi lính. Họ bị cấm tham gia buôn bán và lao động, và cấm cưới người Trung Quốc. Với hòa bình do người Mãn Châu mang lại cho Trung Quốc, sự thịnh vượng và sự phát triển dân số lại diễn ra, và thương mại với châu Âu tăng lên. Một vị vua Mãn Châu, Khang Hi cai trị sáu mốt năm từ 1661 đến 1722 và sẽ được coi là vị vua vĩ đại nhất Trung Quốc. Ông được những người theo đạo Thiên chúa ở Trung Quốc tán dương về "trái tim quý phái", sự thông minh cùng trí nhớ tuyệt vời của ông, khẩu vị đọc của ông cũng như việc ông là "vị vua toàn bị đối với mọi cảm xúc của mình." Trung Quốc tới cuộc chiến Nha phiến lần 1 Dân số Trung Quốc đã tăng gấp đôi từ 1700 và 1794 tới 313 triệu người. Sự mở rộng trồng trọt ở các tỉnh Giang Tây và Hồ Nam đã tàn phá đa số rừng ở đó. Đài Loan lúc này đã là một phần của Trung Quốc, bị sáp nhập từ năm 1683, và một cuộc điều tra dân số năm 1811 cho thấy số dân Trung Quốc ở Đài Loan gần đến hai triệu người. Năm 1756 và 1757 quân đội của vua Càn Long đã mở rộng biên giới đến điểm cực tây của mình, và ông cai trị cả Tây Tạng lẫn Mông Cổ. Sản xuất nông nghiệp ở Trung Quốc không tăng kịp với mức tăng dân số, và vì không có lương thực giá rẻ, người dân thường Trung Quốc không có tiền để mua bất kỳ thứ gì khác, và không có bùng nổ trong chế tạo và trong việc thuê người thất nghiệp. Trung Quốc xuất khẩu trà sang Anh Quốc, làm đồ sứ để xuất khẩu và chế tạo tơ tằm và hàng bông, nhưng lao động đầy rẫy giá rẻ đến mức giống như nô lệ, nó làm giảm bớt sự khuyến khích đầu tư vào máy móc. Các thương gia không ở trong một môi trường khuyến khích sự liên kết, chính phủ cung cấp ít an ninh cho các thương gia và các doanh nghiệp tư nhân. Kinh tế không phải là một vấn đề đáng chú ý của những người có nhiều ảnh hưởng. Những người có thời gian rỗi rãi để học hành không thích quan tâm đến kỹ thuật. Họ thích văn học, nghệ thuật, Khổng giáo và tôn giáo. Trung Quốc bị cai trị một cách chuyên quyền và thần quyền bởi vua Mãn Châu từ thị tộc Ái Tân Giác La ở vùng Mãn Châu, nhà Thanh, đã cầm quyền từ năm 1644. Từ cung điện đế quốc, tại Tử cấm thành, Bắc Kinh, nhà Thanh giữ quân đội ở Mãn Châu và tìm cách giữ sự khác biệt của người Mãn Châu khỏi người Trung Quốc, trong khi vẫn ủng hộ nghệ thuật Trung Quốc và tự giáo dục mình bằng tư tưởng Khổng giáo chính thống. Vào cuối thế kỷ 18, sự thiếu thốn đất đai, tham nhũng trong chế độ quan liêu và quân sự, và sự bần cùng hóa đã tạo ra tình trạng náo động. Người dân thường biểu lộ sự bất bình thông qua các tổ chức tôn giáo, các tổ chức bắt buộc giữ bí mật đối mặt với chính quyền đế quốc thù địch. Một tổ chức tôn giáo chống Mãn Châu bị bần cùng hóa ở một vùng núi miền trung Trung Quốc đã tiên đoán sự giáng sinh của đức Phật, sự tái lập triều Minh và sự cứu rỗi cho những người ủng hộ họ. Nó tự tin tung ra một phong trào chống thuế. Từ năm 1796 đến 1804, khắp Trung Quốc các hội kín nổi loạn chống chính quyền Mãn Châu. Đây được gọi là Khởi nghĩa Bạch Liên giáo. Vua Gia Khánh (1796-1820) theo đuổi một chương trình có hệ thống nhằm tái lập hòa bình, gồm cả việc tiêu diệt các băng đảng du kích kháng chiến và ân xá cho những kẻ đảo ngũ. Bạo lực lại diễn ra năm 1813 khi những kẻ nổi loạn có sự giúp đỡ của các hoạn quan trong triều, chút nữa ám sát được vua Gia Khánh. Đây là loạn Quý Dậu (癸酉之变). Một trong những lãnh đạo của nó, Lâm Thanh (林清), đã tuyên bố mình là hiện thân của đức Phật và nói rằng các lãnh đạo khác của phong trào, Lý Văn Thành (李文成) sẽ cai trị trên Trái Đất như là "Vua của loài người". Nhưng điều này bị quân đội của vua Gia Khánh ngăn chặn. Lý Văn Thành và hơn 70.000 người khởi nghĩa bị giết hại. Ngoại xâm và bạo loạn Một trong những vấn đề lớn ở thế kỷ 19 của Trung Quốc là cách thức đối phó với các nước khác bên ngoài. Trước thế kỷ mười chín, Đế chế Trung Quốc là cường quốc bá chủ ở châu Á. Tuy nhiên, trong thế kỷ 18, các đế chế châu Âu dần mở rộng ra khắp thế giới, khi các nước châu Âu phát triển các nền kinh tế hùng mạnh dựa trên thương mại hàng hải. Mặt khác, đế chế Trung Quốc rơi vào tình trạng tù hãm sau nhiều thế kỷ dẫn đầu thế giới. Tới cuối thế kỷ 18, các thuộc địa của châu Âu đã được lập nên ở gần Ấn Độ và trên những hòn đảo hiện là các vùng thuộc Indonesia, trong khi Đế quốc Nga đã sáp nhập các vùng phía bắc Trung Quốc. Ở thời các cuộc chiến tranh của Napoléon, Anh Quốc từng muốn thành lập liên minh với Trung Quốc, gửi các hạm đội tàu tới Hồng Kông mang theo quà tặng gửi tới vị Hoàng đế, gồm nhiều vật phẩm được chế tạo bởi những kỹ thuật và phong cách nghệ thuật mới nhất của châu Âu thời kỳ đó. Khi các phái đoàn Anh nhận được một lá thư từ Bắc Kinh giải thích rằng Trung Quốc không cảm thấy ấn tượng trước những thành tựu của châu Âu và rằng triều đình Trung Quốc sẵn lòng nhận sự kính trọng của vua George III nước Anh, chính phủ Anh cảm thấy bị xúc phạm và từ bỏ mọi kế hoạch nhằm thiết lập các quan hệ với nhà Thanh. Năm 1793, nhà Thanh chính thức cho rằng Trung Quốc không cần tới các hàng hóa châu Âu. Vì thế, các lái buôn Trung Quốc chỉ chấp nhận dùng bạc làm vật trao đổi cho hàng hóa của họ. Nhu cầu to lớn của châu Âu đối với các hàng hóa Trung Quốc như tơ, trà, và đồ sứ chỉ có thế được đáp ứng khi các công ty châu Âu rót hết số bạc họ có vào trong Trung Quốc. Tới cuối những năm 1830, các chính phủ Anh và Pháp rất lo ngại về các kho dự trữ kim loại quý của họ và tìm cách đưa ra một phương thức trao đổi mới với Trung Quốc - và cách tốt nhất là đầu độc Trung Quốc bằng thuốc phiện. Khi nhà Thanh tìm cách cấm buôn bán thuốc phiện năm 1838, Anh Quốc đã tuyên chiến với Trung Quốc. Chiến tranh nha phiến lần thứ nhất cho thấy sự lạc hậu của quân đội Trung Quốc. Dù có quân số áp đảo so với người Anh, kỹ thuật và chiến thuật của họ không thể so sánh với các cường quốc kỹ thuật thời ấy. Hải quân nhà Thanh, gồm toàn các tàu gỗ và không phải là đối thủ của các tàu chiến bọc thép chạy hơi nước của Hải quân Hoàng gia Anh. Binh sĩ Anh sử dụng súng có rãnh xoắn và pháo binh vượt trội dễ dàng tiêu diệt các lực lượng nhà Thanh trên chiến trường. Việc nhà Thanh đầu hàng năm 1842 đánh dấu một tai họa mang tính quyết định và nhục nhã của Trung Quốc. Trung Quốc bắt buộc phải chấp nhận thua trận và thừa nhận các yêu cầu của Anh Quốc. Với Hiệp ước Nam Kinh năm 1842, kỹ trên tàu chiến Cornwallis, Trung Quốc chấp nhận buôn bán với Anh Quốc. Họ đồng ý một mức thuế quan "đúng mức và ổn định" và mở cửa các cảng ở Quảng Châu, Hạ Môn, Phúc Châu, Ninh Ba và Thượng Hải cho các thương nhân nước ngoài và trao cho người Anh bất kỳ sự nhượng bộ nào mà Trung Quốc trao cho các cường quốc khác. Trung Quốc chấp nhận trả cho Anh Quốc một khoản bồi thường 20.000.000 đô la bạc và nhượng đảo Hồng Kông cho Anh Quốc. Điều đó cho thấy nhiều tình trạng tồi tệ của chính phủ nhà Thanh và khiến cho nhiều cuộc khởi nghĩa chống chế độ diễn ra. Cuộc khởi nghĩa Thái bình thiên quốc bùng nổ vào giữa thế kỷ 19 phản ánh tư tưởng chống Mãn Châu đe dọa sự ổn định của nhà Thanh. Tuy nhiên, số lượng thương vong kinh khủng của cuộc khởi nghĩa này - tới 30 triệu người - và sự tàn phá nghiêm trọng các vùng đất rộng lớn ở phía nam đất nước vẫn còn bị che mờ bởi một cuộc xung đột khác. Dù không đẫm máu bằng, nhưng thế giới bên ngoài cùng với những tư tưởng và kỹ thuật của nó đã có một ảnh hưởng rất lớn và cuối cùng mang lại tác động có tính cách mạng đối với một triều đình nhà Thanh đang ngày càng suy yếu và dao động. Các cường quốc phương tây, chưa hài lòng với Hiệp ước Nam Kinh, chỉ miễn cưỡng hỗ trợ nhà Thanh trong việc tiêu diệt các cuộc nổi dậy Thái Bình Thiên Quốc và cuộc khởi nghĩa Niệm Quân. Thu nhập của Trung Quốc giảm sút rõ rệt trong thời gian chiến tranh khi nhiều vùng đất canh tác rộng lớn bị hủy hoại, hàng triệu người thiệt mạng và số lượng binh lính đông đảo cũng như trang bị vũ khí cho họ để chiến đấu. Năm 1854, Anh Quốc tìm cách đàm phán lại Hiệp ước Nam Kinh, thêm vào các điều khoản cho phép các thương gia người Anh đi lại trên sông ngòi Trung Quốc và lập một đại sứ quán thường trực của họ tại Bắc Kinh. Điều khoản cuối cùng này xúc phạm tới chính quyền nhà Thanh và họ đã từ chối ký kết, gây ra một cuộc chiến tranh khác giữa hai bên. Cuộc chiến tranh nha phiến lần thứ hai chấm dứt với một thất bại nặng nề khác của Trung Quốc, với Hiệp ước Thiên Tân, Cùng các điều khoản như: cho phép tàu thuyền người Anh có thể tự do đi lại và neo đậu trên sông Dương Tử, bồi thường chiến phí và chấp nhận mở rộng thêm một số hải cảng cho người nước ngoài vào ra buôn bán. Thái hậu Từ Hy Cuối thể kỷ 19, Trung Quốc nằm dưới quyền cai trị thực sự của Từ Hi Thái Hậu. Từ Hi đã ngấm ngầm tiến hành cuộc đảo chính để tước quyền nhiếp chính của đại thần Túc Thuận theo di chiếu của tiên hoàng. Bà nắm quyền nhiếp chính và trở thành người đứng đầu không chính thức của Trung Hoa suốt 47 năm. Bà còn được biết tới bởi sự nhúng tay vào chính sự kiểu "Thùy liêm thính chính" (垂簾聽政-tức can thiệp chính trị từ sau hậu đài). Tới những năm 1860, triều đình nhà Thanh đã tiêu diệt được các cuộc nổi dậy nhờ sự hỗ trợ của lực lượng dân quân do tầng lớp quý tộc tổ chức. Sau đó, chính phủ Thanh tiếp tục giải quyết vấn đề hiện đại hóa, từng được đưa ra trước đó với Phong trào tự cường. Nhiều đội quân hiện đại được thành lập gồm cả Hạm đội Bắc Hải; tuy nhiên Hạm đội Bắc Hải đã bị tiêu diệt trong Chiến tranh Trung Nhật (1894-1895), khiến cho ngày càng xuất hiện nhiều kêu gọi cải cách sâu rộng hơn nữa. Đầu thế kỷ 20, nhà Thanh rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Nếu tiếp tục theo đuổi cải cách, họ sẽ khiến giới quý tộc bảo thủ mích lòng, nếu ngăn cản việc đó họ lại khiến những người theo đường lối cách mạng tức giận. Nhà Thanh tìm cách đi theo con đường trung dung, nhưng việc này lại khiến tất cả các bên cùng bất mãn. Mười năm trong giai đoạn cai trị của Hoàng đế Quang Tự (r. 1875 - 1908), áp lực của phương Tây đối với Trung Quốc lớn tới mức họ phải từ bỏ mọi hình thức quyền lực. Năm 1898 Quang Tự nỗ lực tiến hành Bách nhật duy tân (百日維新), còn được biết dưới cái tên "Mậu Tuất biến pháp" (戊戌變法), đưa ra các luật mới thay thế cho các quy định cũ đã bị bãi bỏ. Những nhà cải cách, với đầu óc tiến bộ hơn như Khang Hữu Vi được tin tường và những người có đầu óc thủ cựu như Lý Hồng Chương bị gạt bỏ khỏi các vị trí quan trọng. Nhưng các ý tưởng mới đã bị Từ Hi dập tắt, Quang Tự bị nhốt trong cung. Từ Hi chỉ tập trung vào việc củng cố quyền lực của riêng mình. Tại buổi lễ sinh nhật lần thứ 60, bà đã chi 30 triệu lạng bạc để trang trí và tổ chức, số tiền đã định dùng để cải tiến vũ khí cho Hạm đội Bắc Hải. Năm 1901, sau khi Đại sứ Đức bị ám sát, Liên quân tám nước (八國聯軍) cùng tiến vào Trung Quốc lần thứ hai. Từ Hi phản ứng bằng cách tuyên chiến với tám nước, nhưng chỉ một thời gian ngắn đã để mất Bắc Kinh và cùng với Hoàng đế Quang Tự chạy trốn tới Tây An. Để đòi bồi thường chiến phí, Liên quân đưa ra một danh sách những yêu cầu đối với chính phủ nhà Thanh, gồm cả một danh sách những người phải bị hành quyết khiến cho Lý Hồng Chương, thuyết khách số một của Từ Hi, buộc phải đi đàm phán và Liên quân đã có một số nhượng bộ đối với các yêu cầu của họ. Sụp đổ triều đại, chấm dứt thời phong kiến Tới đầu thế kỷ 20, hàng loạt các vụ náo động dân sự xảy ra và ngày càng phát triển. Từ Hi và Hoàng đế Quang Tự cùng mất năm 1908, để lại một khoảng trống quyền lực và một chính quyền trung ương bất ổn. Phổ Nghi, con trai lớn nhất của Thuần Thân Vương, được chỉ định làm người kế vị khi mới hai tuổi, và Thân Vương trở thành người nhiếp chính. Tiếp theo sự kiện này Tướng Viên Thế Khải bị gạt khỏi chức vụ của mình. Tới giữa năm 1911 Thuần Thân Vương lập ra "Chính phủ gia đình hoàng gia", một hội đồng cai trị của Chính phủ Hoàng gia hầu như gồm toàn bộ các thành viên thuộc dòng họ Ái Tân Giác La. Việc này khiến các quan lại cao cấp như Trương Chi Động tỏ thái độ bất mãn. Cuộc Khởi nghĩa Vũ Xương diễn ra vào ngày 10 tháng 10 năm 1911, và tiếp sau đó là sự tuyên bố thành lập một chính phủ trung ương riêng biệt, Cộng hòa Trung Hoa, tại Nam Kinh với Tôn Dật Tiên làm lãnh đạo lâm thời. Nhiều tỉnh bắt đầu "ly khai" khỏi quyền kiểm soát của nhà Thanh. Chứng kiến tình trạng này, chính phủ Thanh dù không muốn cũng buộc phải đưa Viên Thế Khải trở lại nắm quân đội, kiểm soát Bắc Dương quân của ông, với mục tiêu nhằm tiêu diệt những người cách mạng. Sau khi lên giữ chức Tể tướng (內閣總理大臣 Nội các tổng đại thần) và lập ra chính phủ của riêng mình, Viên Thế Khải còn tiến xa nữa khi buộc triều đình phải cách chức nhiếp chính của Thuần Thân Vương. Việc cách chức này sau đó được chính thức hóa thông qua các chỉ thị của Hiếu Định hoàng hậu. Khi Thuần Thân Vương đã buộc phải ra đi, Viên Thế Khải và các vị chỉ huy bên trong Bắc Dương quân của mình hoàn toàn nắm quyền chính trị của triều đình nhà Thanh. Ông cho rằng không có lý do gì để tiến hành một cuộc chiến tranh gây nhiều tốn phí, đặc biệt khi nói rằng chính phủ nhà Thanh chỉ có một mục tiêu thành lập một nền quân chủ lập hiến. Tương tự như vậy, chính phủ của Tôn Dật Tiên muốn thực hiện một cuộc cải cách dân chủ, vừa hướng tới lợi ích của nền kinh tế và dân chúng Trung Quốc. Với sự cho phép của Hiếu Định hoàng hậu, Viên Thế Khải bắt đầu đàm phán với Tôn Dật Tiên, người đã cho rằng mục tiêu của mình đã thành công trong việc lập ra một nhà nước cộng hòa và vì thế ông có thể cho phép Viên Thế Khải nhận chức vụ Tổng thống của nền Cộng hòa. Năm 1912, sau nhiều vòng đàm phán, Hiếu Định đưa ra một chiếu chỉ tuyên bố sự thoái vị của Phổ Nghi vị hoàng đế nhỏ tuổi. Sự sụp đổ của nhà Thanh năm 1912 đánh dấu sự kết thúc của hơn 2000 năm chế độ phong kiến Trung Quốc và sự khởi đầu của một giai đoạn bất ổn kéo dài. Trung Quốc hiện đại Trung Hoa Dân Quốc (từ năm 1912) Chính phủ lâm thời Trung Hoa Dân Quốc được thành lập tại Nam Kinh vào ngày 12 tháng 3 năm 1912. Tôn Trung Sơn trở thành Tổng thống của Trung Hoa Dân Quốc nhưng ông đã chuyển giao quyền lực cho Viên Thế Khải, người chỉ huy Tân quân. Trong vài năm tiếp theo, họ Viên tiến hành bãi bỏ các hội đồng cấp quốc gia và cấp tỉnh và tuyên bố mình là hoàng đế của Đế quốc Trung Hoa vào cuối năm 1915. Tham vọng đế quốc của Viên Thế Khải đã bị phản đối dữ dội bởi cấp dưới; đối mặt với viễn cảnh nổi loạn, ông thoái vị vào tháng 3 năm 1916 và chết vào tháng 6. Cái chết của Viên Thế Khải năm 1916 để lại khoảng trống quyền lực; chính phủ cộng hòa đã tan rã. Điều này đã mở đường cho Thời kỳ quân phiệt mà phần lớn Trung Quốc bị cai trị bằng cách thay đổi liên minh của các nhà lãnh đạo quân sự cấp tỉnh cạnh tranh và chính phủ Bắc Dương. Giới trí thức thất vọng về sự thất bại của nền Cộng hòa đã phát động Phong trào Tân văn hóa. Năm 1919, Phong trào Ngũ Tứ bắt đầu nhằm đáp trả các điều khoản có lợi cho Nhật do Hiệp ước Versailles áp đặt lên Trung Quốc sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Nó nhanh chóng trở thành một phong trào phản đối trên toàn quốc. Các cuộc biểu tình thành công về mặt đạo đức khi nội các sụp đổ và Trung Quốc từ chối ký Hiệp ước Versailles, hiệp ước trao quyền nắm giữ Sơn Đông của Đức cho Nhật Bản. Ký ức về sự ngược đãi ở Versailles thổi bùng sự phẫn nộ vào thế kỷ 21. Sự kích động chính trị và trí thức đã bùng lên mạnh mẽ trong suốt những năm 1920 và 1930. Theo Patricia Ebrey: "Chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa yêu nước, tiến bộ, khoa học, dân chủ và tự do là mục tiêu; đế quốc, phong kiến, lãnh chúa, chuyên quyền, gia trưởng và mù quáng tuân theo truyền thống là những kẻ thù. Giới trí thức đấu tranh với việc làm thế nào để trở nên mạnh mẽ và hiện đại nhưng vẫn là người Trung Quốc, làm thế nào để duy trì Trung Quốc như một thực thể chính trị trong thế giới của các quốc gia cạnh tranh" Vào những năm 1920, Tôn Trung Sơn thành lập căn cứ cách mạng ở Quảng Châu và đặt mục tiêu đoàn kết các quốc gia bị chia cắt. Ông hoan nghênh sự hỗ trợ từ Liên Xô (bản thân nó mới được tiếp quản bởi Đảng Cộng sản của Lenin) và ông tham gia vào một liên minh với Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) non trẻ. Sau khi Tôn chết vì bệnh ung thư vào năm 1925, một trong những người được ông bảo vệ là Tưởng Giới Thạch đã giành quyền kiểm soát Quốc dân Đảng (KMT) và đã thành công trong việc đưa hầu hết miền nam và miền trung Trung Quốc nằm dưới sự cai trị của mình trong cuộc Bắc phạt (1926–1927). Sau khi đánh bại các lãnh chúa ở miền nam và miền trung Trung Quốc bằng lực lượng quân sự, Tưởng có thể đảm bảo lòng trung thành trên danh nghĩa của các lãnh chúa ở miền Bắc và thành lập Chính phủ Quốc dân ở Nam Kinh. Năm 1927, Tưởng lật tẩy ĐCSTQ và không ngừng thanh trừng các phần tử Cộng sản trong NRA của mình. Năm 1934, bị đánh đuổi từ các căn cứ trên núi của họ như Cộng hòa Xô Viết Trung Hoa, lực lượng ĐCSTQ đã tiến hành cuộc Vạn lý Trường chinh xuyên qua địa hình hoang vắng nhất của Trung Quốc tiến về phía tây bắc, nơi họ thiết lập một căn cứ du kích tại Diên An ở tỉnh Thiểm Tây. Trong Vạn lý Trường chinh, những người cộng sản đã tổ chức lại dưới tay nhà lãnh đạo mới, Mao Trạch Đông. Nội chiến Trung Quốc ác liệt giữa hai phe Quốc dân đảng và Cộng sản vẫn tiếp diễn, công khai hoặc bí mật trong cuộc chiếm đóng kéo dài 14 năm của Nhật Bản trên nhiều vùng của đất nước (1931–1945). Hai phe trên danh nghĩa đã thành lập Mặt trận thống nhất để chống lại người Nhật vào năm 1937 trong Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai (1937–1945), trở thành một phần của Chiến tranh thế giới thứ hai. Quân đội Nhật Bản đã thực hiện nhiều hành vi tàn bạo chống lại dân thường, bao gồm cả chiến tranh sinh học (xem Đơn vị 731) và Chính sách Tam Quang ( Sankō Sakusen ) là: "giết hết, đốt hết và cướp hết" ". Sau thất bại của Nhật Bản vào năm 1945, cuộc chiến giữa các lực lượng chính phủ Quốc dân đảng và ĐCSTQ lại tiếp tục sau những nỗ lực hòa giải và thương lượng không thành. Đến năm 1949, ĐCSTQ đã thiết lập quyền kiểm soát hầu hết đất nước. Odd Arne Westad nói rằng những người Cộng sản đã thắng trong Nội chiến vì họ mắc ít sai lầm quân sự hơn Tưởng Giới Thạch và vì trong quá trình lập chính phủ tập trung quyền lực, Tưởng đã chống lại quá nhiều nhóm lợi ích ở Trung Quốc. Hơn nữa, đảng của ông đã bị suy yếu trong cuộc chiến chống lại quân Nhật. Trong khi đó, những người Cộng sản nói với các nhóm khác nhau, chẳng hạn như nông dân, chính xác những gì họ muốn nghe và khoác lên mình lớp vỏ bọc của Chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc. Trong cuộc nội chiến, cả phe Quốc dân đảng và Cộng sản đều tiến hành những hành động tàn sát hàng loạt với hàng triệu người không tham chiến bị giết bởi cả hai bên. Chúng bao gồm những cái chết do bắt buộc phải nhập ngũ và những vụ thảm sát. Khi quân chính phủ Quốc dân đảng bị đánh bại bởi lực lượng ĐCSTQ ở Trung Quốc đại lục vào năm 1949, chính phủ Quốc dân đảng rút về Đài Loan cùng với lực lượng của họ cùng với Tưởng và một số lượng lớn những người ủng hộ; Chính phủ Quốc dân đảng đã kiểm soát Đài Loan một cách hiệu quả vào cuối Thế chiến II như một phần của sự đầu hàng tổng thể của Nhật Bản, khi quân đội Nhật Bản ở Đài Loan đầu hàng quân đội Trung Hoa Dân Quốc. Cho đến đầu những năm 1970, Trung Hoa Dân Quốc là chính phủ hợp pháp duy nhất của Trung Quốc. Liên hợp quốc, Hoa Kỳ và hầu hết các quốc gia phương Tây từ chối công nhận CHND Trung Hoa vì Chiến tranh Lạnh. Điều này đã thay đổi vào năm 1971 khi CHND Trung Hoa gia nhập Liên hợp quốc thay thế cho Trung Hoa Dân quốc. Quốc Dân Đảng cai trị Đài Loan trong tình trạng thiết quân luật cho đến năm 1987 với mục tiêu đã nêu là cảnh giác chống lại sự xâm nhập của Cộng sản và chuẩn bị chiếm lại Trung Quốc đại lục. Do đó, bất đồng chính kiến không được dung thứ trong thời kỳ đó. Trong những năm 1990, Trung Hoa Dân Quốc đã trải qua một cuộc cải cách dân chủ lớn, bắt đầu bằng việc các thành viên của Lập pháp viện Trung Hoa Dân Quốc và Quốc hội được bầu vào năm 1947. Những nhóm này ban đầu được tạo ra để đại diện cho các khu vực bầu cử ở Trung Quốc đại lục. Các hạn chế về việc sử dụng tiếng Đài Loan trên các phương tiện truyền thông và trong trường học cũng được dỡ bỏ. Điều này lên đến đỉnh điểm với cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp đầu tiên vào năm 1996 chống lại ứng cử viên Đảng Tiến bộ Dân chủ (DPP) và nhà bất đồng chính kiến, Bành Minh Mẫn. Năm 2000, tình trạng đảng cầm quyền của Quốc dân đảng chấm dứt khi DPP lên nắm quyền, chỉ để giành lại vị thế của mình trong cuộc bầu cử năm 2008 của Mã Anh Cửu. Do tính chất gây tranh cãi của Tình trạng chính trị của Đài Loan, Trung Hoa Dân Quốc hiện được 14 quốc gia thành viên Liên hợp quốc và Tòa thánh công nhận kể từ với tư cách là chính phủ hợp pháp của "Trung Quốc". Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (từ năm 1949) Trận chiến lớn trong Nội chiến Trung Quốc kết thúc vào năm 1949 với việc Quốc Dân Đảng (KMT) rút khỏi đại lục, với việc chính phủ chuyển đến Đài Bắc và chỉ duy trì quyền kiểm soát đối với một số hòn đảo. ĐCSTQ đã giành lại quyền kiểm soát Trung Quốc đại lục. Vào ngày 1 tháng 10 năm 1949, Mao Trạch Đông tuyên bố là Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. CHND Trung Hoa được định hình bởi một loạt các chiến dịch và kế hoạch 5 năm. Kế hoạch kinh tế xã hội Đại nhảy vọt ước tính đã làm 45 triệu người chết. Chính phủ của Mao đã tiến hành hành quyết hàng loạt địa chủ, thực hiện canh tác tập thể và lập ra hệ thống trại Lao Cải (Lao động Cải tạo). Hành quyết, chết vì lao động cưỡng bức và các hành động tàn bạo khác dẫn đến hàng triệu người chết dưới thời Mao. Năm 1966, Mao và các đồng minh của ông đã phát động Cách mạng Văn hóa kéo dài cho đến khi Mao qua đời một thập kỷ sau đó. Cách mạng Văn hóa được thúc đẩy bởi các cuộc tranh giành quyền lực trong Đảng và nỗi sợ Liên Xô đã dẫn đến một sự biến động lớn trong xã hội Trung Quốc. Năm 1972, ở đỉnh điểm của Chia rẽ Trung-Xô, Mao và Chu Ân Lai gặp tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon tại Bắc Kinh để thiết lập quan hệ với Hoa Kỳ. Trong cùng năm, CHND Trung Hoa được kết nạp vào Liên hợp quốc thay cho Trung Hoa Dân Quốc với tư cách là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an. Một cuộc tranh giành quyền lực diễn ra sau cái chết của Mao vào năm 1976. Tứ nhân bang bị bắt và bị đổ lỗi cho những hành vi thái quá của Cách mạng Văn hóa, đánh dấu sự kết thúc của một kỷ nguyên chính trị hỗn loạn ở Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình vượt trội hơn chủ tịch kế nhiệm được Mao nâng đỡ là Hoa Quốc Phong và dần dần nổi lên như một nhà lãnh đạo trên thực tế vài năm sau đó. Đặng Tiểu Bình là Lãnh đạo tối cao của Trung Quốc từ năm 1978 đến năm 1992, mặc dù ông chưa bao giờ trở thành người đứng đầu đảng hoặc nhà nước và ảnh hưởng của ông trong Đảng đã giúp đất nước cải cách kinh tế đáng kể. ĐCSTQ sau đó đã nới lỏng quyền kiểm soát của chính phủ đối với đời sống cá nhân của công dân và Công xã nhân dân đã bị giải tán với nhiều nông dân nhận được nhiều hợp đồng thuê đất, điều này đã khuyến khích sản xuất nông nghiệp tăng cao. Ngoài ra, đã có nhiều khu vực thị trường tự do được mở ra. Các khu vực thị trường tự do thành công nhất là Thâm Quyến. Nó nằm ở Quảng Đông và là khu vực miễn thuế bất động sản vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Sự kiện này đánh dấu sự chuyển đổi của Trung Quốc từ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế hỗn hợp với thị trường ngày càng mở, một hệ thống được một số người gọi là là "chủ nghĩa xã hội thị trường" và được ĐCSTQ chính thức gọi là "Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc". CHND Trung Hoa đã thông qua hiến pháp hiện hành vào ngày 4 tháng 12 năm 1982. Năm 1989, cái chết của cựu tổng bí thư Hồ Diệu Bang đã góp phần châm ngòi cho Các cuộc biểu tình tại Quảng trường Thiên An Môn trong năm đó, trong đó, sinh viên và những người khác đã vận động trong nhiều tháng, lên tiếng chống tham nhũng và ủng hộ cải cách chính trị sâu rộng, bao gồm các quyền dân chủ và tự do ngôn luận. Tuy nhiên, cuối cùng các cuộc biểu tình đã bị dập tắt vào ngày 4 tháng 6 khi Quân đội và phương tiện tiến vào và cưỡng bức dọn sạch quảng trường với nhiều người chết. Sự kiện này đã được báo cáo rộng rãi và bị cả thế giới lên án và trừng phạt chống lại chính phủ.. Một sự cố được quay phim liên quan đến "người chặn xe tăng" đã được nhìn thấy trên toàn thế giới. Tổng bí thư ĐCSTQ kiêm Chủ tịch CHND Trung Hoa Giang Trạch Dân và Thủ tướng CHND Trung Hoa Chu Dung Cơ đều là cựu thị trưởng Thượng Hải, lãnh đạo CHND Trung Hoa thời hậu Thiên An Môn vào những năm 1990. Dưới sự điều hành của Giang và Chu trong 10 năm, thành tích kinh tế của CHND Trung Hoa ước tính đã kéo khoảng 150 triệu nông dân thoát khỏi đói nghèo và duy trì tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội trung bình hàng năm là 11,2%. Nước này chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới vào năm 2001. Đến năm 1997 và 1999, các thuộc địa cũ của châu Âu là Hồng Kông và Ma Cao trở thành Đặc khu hành chính. Mặc dù Trung Quốc cần tăng trưởng kinh tế để thúc đẩy sự phát triển của mình nhưng chính phủ bắt đầu lo ngại rằng tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng đang làm suy giảm tài nguyên và môi trường của đất nước. Một mối quan tâm khác là một số thành phần trong xã hội không được hưởng lợi đầy đủ từ sự phát triển kinh tế của CHND Trung Hoa; một ví dụ về điều này là khoảng cách quá lớn giữa thành thị và nông thôn. Kết quả là, dưới thời cựu tổng bí thư và Chủ tịch ĐCSTQ Hồ Cẩm Đào và Thủ tướng Ôn Gia Bảo, Trung Quốc đã khởi xướng các chính sách để giải quyết các vấn đề về phân phối công bằng các nguồn lực nhưng kết quả không rõ ràng. Hơn 40 triệu nông dân phải bỏ đất, thường là để phát triển kinh tế, góp phần vào 87.000 cuộc biểu tình và bạo loạn trên khắp Trung Quốc vào năm 2005. Đối với phần lớn dân số của CHND Trung Hoa, mức sống được cải thiện rất đáng kể và tự do tăng lên nhưng các biện pháp kiểm soát chính trị vẫn chặt chẽ và các khu vực nông thôn vẫn còn nghèo. Một số khái niệm về giai đoạn lịch sử và các triều đại Ngoài những giai đoạn loạn lạc được gọi tên chính thức trong và phân định rõ bằng niên biểu trong lịch sử như Xuân Thu - Chiến Quốc, Ngũ Hồ thập lục quốc, Ngũ đại Thập quốc, trong lịch sử Trung Quốc còn có những cách gọi khái quát về các giai đoạn, các triều đại: Tam đại: Gọi chung 3 triều đại nhà Hạ, nhà Thương, nhà Chu Tiên Tần: Giai đoạn trước khi thành lập nhà Tần (221-206 TCN) Lưỡng Hán: Tức là hai nhà Tây Hán (206 TCN - 8) và Đông Hán (25 - 220). Lưỡng Tấn: Tức là hai nhà Tây Tấn (265 - 316) và Đông Tấn (317 - 420). Lục triều: Chỉ 6 triều đại kế tục nhau cai trị ở Giang Nam, đóng đô ở Kiến Khang (trước là Kiến Nghiệp): Đông Ngô, Đông Tấn, Lưu Tống, Nam Tề, nhà Lương và nhà Trần. Lưỡng Tống: tức là hai nhà Bắc Tống (960 - 1127) và Nam Tống (1127 - 1279). Xem thêm Lịch sử Trung Hoa Dân Quốc Lịch sử Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Hợp nhất Tây Tạng vào Trung Quốc Áo giáp Trung Hoa Gia phả hoàng đế Trung Quốc Cổ đại - thời kỳ đầu - Trung đại - Cận đại Các cuộc thăm dò của Trung Hoa Thuật chép sử Trung Quốc Chủ quyền Trung Quốc Lịch sử kinh tế Trung Quốc Các dân tộc trong lịch sử Trung Quốc Quan hệ ngoại giao của đế quốc Trung Quốc Tứ dân Thời kỳ vàng son của Trung Quốc Lịch sử kênh đào ở Trung Quốc Lịch sử Hồng Kông Lịch sử Hồi giáo ở Trung Quốc Lịch sử Ma Cao Lịch sử khoa học và công nghệ ở Trung Quốc Lịch sử Đài Loan Lịch sử Vạn Lý Trường Thành của Trung Quốc Danh sách vua Trung Quốc Danh sách các nền văn hóa thời đồ đá mới của Trung Quốc Danh sách các cuộc khởi nghĩa ở Trung Quốc Danh sách những nước nhận cống phẩm từ Trung Quốc Danh sách các quốc gia triều cống Trung Quốc Lịch sử quân sự Trung Quốc trước năm 1911 Chế độ quân chủ Trung Quốc Lịch sử hải quân Trung Quốc Sơ lược về Trung Quốc cổ đại Lịch sử dân số Trung Quốc Tôn giáo ở Trung Quốc Biên niên sử Trung Quốc Phụ nữ ở Trung Quốc cổ đại và thời phong kiến Tham khảo Đọc thêm Laufer, Berthold. 1912. JADE: A Study in Chinese Archaeology & Religion. Reprint: Dover Publications, New York. 1974. Korotayev A., Malkov A., Khaltourina D. Introduction to Social Macrodynamics: Secular Cycles and Millennial Trends.'' Moscow: URSS, 2006. ISBN 5-484-00559-0 (Chapter 2: Historical Population Dynamics in China).
Chi Táo ta (danh pháp khoa học: Ziziphus) là một chi của khoảng 40 loài cây bụi và cân thân gỗ nhỏ có gai trong họ Táo (Rhamnaceae), phân bổ trong các khu vực ôn đới nóng và cận nhiệt đới của Cựu thế giới. Lá của chúng mọc so le, với ba gân lá cơ bản dễ thấy và dài 2–7 cm; một số loài là cây sớm rụng, các loài khác là cây thường xanh. Hoa nhỏ, có màu vàng-lục không dễ thấy. Quả thuộc loại quả hạch ăn được, có màu nâu-vàng, đỏ, đen, hình cầu hay thuôn dài, dài từ 1–5 cm, thông thường có vị đường và ngọt, tương tự như quả chà là về cấu trúc và hương vị. Các loài trong chi Ziziphus bị ấu trùng của một số loài côn trùng trong bộ Cánh vẩy (Lepidoptera) phá hoại, bao gồm Bucculatrix zizyphella (loài này chỉ phá hoại chi Táo ta) và Endoclita malabaricus. Táo tàu Z. zizyphus có lẽ là loài được biết đến nhiều nhất. Các loài khác như Z. spina-christi ở tây nam châu Á, Z. lotus ở khu vực Địa Trung Hải và táo ta Z. mauritiana ở miền tây châu Phi kéo dài về phía đông tới Ấn Độ, Vân Nam, miền bắc Việt Nam. Từ nguyên Danh pháp khoa học Ziziphus có nguuồn gốc từ tiếng Latinh cổ điển vay mượn từ tiếng Hy Lạp cổ ζίζυφονn (zízuphon), bản thân tiếng Hy Lạp có thể cũng là vay mượn từ ngôn ngữ khác, rất có thể là từ zizfum hoặc zizafun trong tiếng Ba Tư để chỉ Z. lotus. Táo là một từ Hán-Việt, và trong cả Hán-Việt lẫn Hán-Nôm đều được viết là 棗 (U+68D7). Các từ điển như Nam Việt–Dương Hiệp Tự vị (南越洋合字彙, Dictionarium Anamitico-Latinum) của Jean-Louis Taberd (1838) hay Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của (1895-1896) đều sử dụng Hán tự này; với giải thích của Taberd như sau: "彙 Táo, rhamnus jujuba". Từ táo trong tiếng Việt viết bằng ký tự Latinh có lẽ xuất hiện lần đầu tiên trong Từ điển Việt–Bồ–La của Alexandre de Rhodes xuất bản năm 1651, trong đó tại trang 724 tác giả diễn giải như sau: "táo, blái táo: maçãa de nafega; ziziphum, i.". Phân loại Trong một thời gian dài các loài của chi Sarcomphalus P.Browne, 1756 ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Mỹ được gộp trong chi Ziziphus. Năm 2016 người ta phục hồi và tách chúng ra khỏi Ziziphus. Các loài Danh sách 75 loài lấy theo Plants of the World Online: Ziziphus abyssinica Hochst. ex A.Rich., 1847: Châu Phi nhiệt đới. Ziziphus acuminata Benth., 1844: Tây nam Mexico. Ziziphus affinis Hemsl., 1886: Malaysia bán đảo, Borneo. Ziziphus andamanica Bhandari & Bhansali, 1990: Assam, quần đảo Andaman và Nicobar. Ziziphus angustifolia (Miq.) Hatus. ex Steenis, 1960: Lào, Malaysia bán đảo, quần đảo Sunda Nhỏ, New Guinea, Philippines, quần đảo Solomon, Thái Lan. Ziziphus apetala Hook.f., 1875: Trung Himalaya, đông bắc Ấn Độ. Ziziphus attopensis Pierre ex Weberbauer, 1895: Campuchia, Lào, Thái Lan, Trung Quốc (Quảng Tây, Vân Nam), Việt Nam. Ziziphus borneensis Merr., 1929: Borneo. Ziziphus brunoniana C.B.Clarke ex Brandis, 1906: Quần đảo Andaman, Assam, Bangladesh, Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan. Ziziphus budhensis Bhattarai & M.L.Pathak, 2015: Nepal. Ziziphus calophylla Wall., 1824: Từ miền nam Đông Dương tới Tây Malesia; bao gồm Borneo, Campuchia, Lào, Malaysia bán đảo, Sumatra, Thái Lan, Việt Nam. Ziziphus cambodiana Pierre, 1894 - Táo Capuchia, táo Cambốt: Đông Dương. Ziziphus colombiana Suess. & Overkott, 1941: Colombia. Ziziphus cotinifolia Reissek, 1861: Brasil. Ziziphus crebrivenosa C.B.Rob., 1908: Borneo, Philippines (Samar, Mindanao), Sulawesi. Ziziphus cumingiana Merr., 1906: Borneo (Sabah), Philippines. Ziziphus cupularis Suess. & Overkott, 1941: Borneo. Ziziphus djamuensis Lauterb., 1922: New Guinea. Ziziphus elegans Wall., 1824: Malaysia bán đảo. Ziziphus elmeri Merr., 1929: Borneo. Ziziphus forbesii Baker f., 1923: New Guinea. Ziziphus fungii Merr., Chun & F.C.How, 1958: Miền nam Vân Nam, Hải Nam. Ziziphus funiculosa Buch.-Ham. ex M.A.Lawson, 1875 - Táo Lào: Từ Nepal, bắc Ấn Độ tới Đông Dương, Philippines. Ziziphus glabrata B.Heyne ex Wight & Arn., 1833: Bán đảo Ả Rập, tiểu lục địa Ấn Độ, quần đảo Nicobar. Ziziphus globularis Wall., 1831: Myanmar. Ziziphus guaranitica Malme, 1901: Brasil, Paraguay. Ziziphus hajarensis Duling, Ghaz. & Prend., 1998: Oman. Ziziphus hamur Engl., 1910: Đông và nam Ethiopia, đông bắc Kenya, Somalia. Ziziphus havilandii Ridl., 1931: Borneo. Ziziphus hoaensis Pierre, 1894 - Táo Biên Hòa: Miền nam Việt Nam. Ziziphus horrida Roth, 1821: Ấn Độ. Ziziphus horsfieldii Miq., 1856: Quần đảo Andaman và Nicobar, Malaysia bán đảo. Ziziphus hutchinsonii Merr., 1909: Philippines. Ziziphus incurva Roxb., 1824 - Táo cong: Từ Nepal tới Hoa Nam và miền bắc Đông Dương; bao gồm Assam, Bangladesh, Đông Himalaya, Lào, Myanmar, Nepal, Thái Lan, Trung Quốc (trung nam, đông nam, Tây Tạng), Việt Nam. Ziziphus javanensis Blume, 1823: Tây Sumatra tới Tây Java. Ziziphus jujuba Mill., 1797 - Táo tàu: Miền bắc và miền đông Trung Quốc, bán đảo Triều Tiên. Du nhập vào khu vực từ Trung Á qua Trung Đông tới Nam Âu và Bắc Phi, Ấn Độ, Nhật Bản, miền nam Hoa Kỳ, Trung Mỹ, Caribe, miền bắc Nam Mỹ. Ziziphus kunstleri King, 1896: Miền nam Thái Lan, Malaysia bán đảo. Ziziphus laui Merr., 1935 - Táo Lau, táo Lâu: Trung Quốc (Hải Nam), Việt Nam. Ziziphus lenticellata Merr., 1922: Borneo. Ziziphus leucodermis (Baker) O.Schwartz, 1939: Tây nam Oman, nam Yemen. Ziziphus linnaei M.A.Lawson, 1875: Sri Lanka. Ziziphus lotus (L.) Lam., 1789 không Blanco, 1845: Ven Địa Trung Hải, từ Nam Âu, Bắc Phi tới Trung Đông. Ziziphus mairei Dode, 1909: Trung Quốc (Vân Nam). Ziziphus mauritiana Lam., 1789 - Táo ta: Từ tây bắc tới đông trung Châu Phi, từ Iran tới miền đông Trung Quốc, Đông Dương. Du nhập vào miền bắc Nam Mỹ, Caribe, miền nam Hoa Kỳ, Trung Mỹ, đông nam châu Phi, Đài Loan. Ziziphus melastomoides Pittier, 1925 không A.Cunn. ex Steud., 1841: Venezuela. Ziziphus montana W.W.Sm., 1917: Từ miền đông Tây Tạng tới tây Tứ Xuyên, đông bắc Vân Nam. Ziziphus mucronata Willd., 1809: Châu Phi (gồm cả Madagascar), bán đảo Ả Rập. Ziziphus nummularia (Burm.f.) Wight & Arn., 1833: Từ miền đông Địa Trung Hải tới tiểu lục địa Ấn Độ. Ziziphus oenopolia (L.) Mill., 1768 - Táo rừng: Từ tiểu lục địa Ấn Độ, Hoa Nam qua Đông Dương tới New Guinea và miền bắc Australia. Ziziphus oligantha Merr. & L.M.Perry, 1939: New Guinea. Ziziphus ornata Miq., 1856: Sumatra. Ziziphus otanesii Merr., 1915: Philippines (Luzon). Ziziphus oxyphylla Edgew., 1846: Từ miền đông Afghanistan tới miền tây Nepal. Ziziphus palawanensis Elmer, 1913: Philippines (Palawan). Ziziphus papuana Lauterb., 1922: New Guinea. Ziziphus pernettyoides Ridl., 1922: Malaysia bán đảo. Ziziphus poilanei Tardieu, 1946 - Táo Poilane: Việt Nam. Ziziphus pubescens Oliv., 1887: Miền đông châu Phi, từ Ethiopia tới Mozambique, về phía tây tới Angola, Cộng hòa Dân chủ Congo và Cameroon. Phân tích của Wang et al. (2021) cho rằng loài này không thuộc về Ziziphus mà có quan hệ họ hàng gần với Bathiorhamnus. Ziziphus pubinervis Rehder, 1937: Trung Quốc (Tứ Xuyên, tây Quảng Tây). Ziziphus quadrilocularis F.Muell., 1862: Tây và tây bắc Australia. Ziziphus rivularis Codd, 1958: Đông nam châu Phi, từ miền nam Mozambique tới Nam Phi. Ziziphus robertsoniana Beentje, 1996: Kenya. Ziziphus rubiginosa D.G.Long & Rae, 1990: Từ Đông Himalaya tới Myanmar. Ziziphus rugosa Lam., 1789 - Táo nhám: Từ Pakistan về phía đông tới tây nam Trung Quốc, Đông Dương. Ziziphus spina-christi (L.) Willd., 1798: Từ miền tây Bắc Phi và tây Trung Phi tới Pakistan. Ziziphus subquinquenervia Miq., 1861: Sumatra. Ziziphus suluensis Merr., 1926: Philippines (Tawitawi). Ziziphus talanae (Blanco) Merr., 1918: Philippines. Ziziphus timoriensis DC., 1825: Quần đảo Sunda Nhỏ, Marquesas, Queensland, quần đảo Society, Timor. Ziziphus trinervia (Cav.) Poir., 1813 không Roth, 1821: Philippines. Ziziphus truncata Blatt. & Hallb., 1918: Tây bắc Ấn Độ. Ziziphus williamii Bhandari & Bhansali, 1990: Ấn Độ (Gujarat, Maharashtra). Ziziphus xiangchengensis Y.L.Chen & P.K.Chou, 1979: Trung Quốc (Tứ Xuyên). Ziziphus xylopyrus (Retz.) Willd., 1798 không Hochst. ex A.Rich., 1847: Tiểu lục địa Ấn Độ. Ziziphus zeyheriana Sond., 1860: Miền nam châu Phi; bao gồm Angola, Botswana, Nam Phi (tỉnh Free State, các tỉnh miền bắc), Zimbabwe. Sử dụng và thần thoại Trong y học cổ truyền Trung Quốc, hột quả táo chua (Ziziphus jujuba spinosa) được coi là có vị chua (toan) và ngọt (cam) cũng như trung hòa trong phản ứng (tính bình, không độc). Nó có tác dụng đối với tim, gan, mật, lá lách. Sử dụng trong điều trị các chứng cáu kỉnh, mất ngủ và hạ huyết áp. Cây cho quả ăn được mà trong thần thoại Hy Lạp gọi là quả hưởng lạc thông thường được coi là Z. lotus, mặc dù chà là cũng có khả năng là một ứng cử viên. Tên gọi trong ngôn ngữ của người Ấn Độ cho Ziziphus là Ber. Hình ảnh
Anton Pavlovich Chekhov (tiếng Nga: Антон Павлович Чехов; phiên âm: An-tôn Páp-lô-vích Sê-khốp, 1860–1904) là nhà viết kịch, nhà văn chuyên thể loại truyện ngắn người Nga. Ông được xem là một trong những nhà văn chuyên thể loại truyện ngắn vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại. Sự nghiệp viết kịch của ông để lại cho hậu thế bốn tác phẩm kinh điển, còn những truyện ngắn đặc sắc nhất của ông luôn được giới văn sĩ và giới phê bình quý trọng. Cùng với Henrik Ibsen và August Strindberg, Chekhov được xem là một trong ba trụ cột lớn cho sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực trong các loại hình sân khấu. Chekhov làm nghề bác sĩ trong phần lớn sự nghiệp viết văn, với ông:"Y học là vợ trên pháp luật của tôi, còn văn học là bà xã của tôi." Chekhov rời bỏ sự nghiệp viết kịch sau khi cho ra đời vở kịch Chim hải âu năm 1896. Vở kịch đã trở nên nổi tiếng tại Nhà hát Nghệ thuật Moskva, nhà công của Konstantin Stanislavski, sau đó Chekhov tiếp tục viết vở Cậu Vanya và sáng tạo nốt hai vở kịch cuối cùng, Ba chị em và Vườn anh đào. Bốn tác phẩm kịch này thực sự là một thử thách với các đoàn kịch cũng như với khán giả bởi thay vì diễn biến truyền thống, Chekhov lại đưa vào trong kịch một "sân khấu của cảm xúc" và một "cuộc đời chìm nổi trong các câu văn." Hồi đầu, Chekhov định viết truyện ngắn để kiếm thêm thu nhập, nhưng khi khát vọng nghệ thuật trỗi dậy, ông đã sáng tạo nên những đổi mới chính thức, ảnh hưởng tới toàn tiến trình phát triển của truyện ngắn hiện đại. Ông không cảm thấy có lỗi với độc giả vì sự đổi mới này vì ông luôn nhấn mạnh rằng "Vai trò của một nghệ sĩ là đặt ra câu hỏi chứ không phải trả lời chúng". Tiểu sử và sự nghiệp Chekhov sinh ngày 29 tháng 1 năm 1860 ở thị trấn Taganrog miền nam nước Nga, nơi cha ông làm chủ một cửa hiệu tạp hóa nhỏ. Năm 1879, ông theo học ngành y tại Đại học Quốc gia Moskva. Ở đây, ông bắt đầu vẽ biếm họa cho một số tạp chí hài để hỗ trợ gia đình. Sau khi tốt nghiệp năm 1884, Chekhov hành nghề y nhưng vẫn tiếp tục sáng tác. Đến năm 1887, văn tài của ông đã được chấp nhận rộng rãi, và việc sáng tác không cho phép ông dành nhiều thì giờ cho y khoa. Thời kỳ từ 1886 đến 1888 là giai đoạn Chekhov chuyển tiếp từ thể loại truyện ngắn khôi hài dưới 1.000 chữ qua những truyện ngắn dài hơn, có chủ đề nghiêm túc hơn và văn phong chững chạc hơn. Những truyện ngắn trong thập niên 1890 đem lại một cái nhìn rộng lớn về xã hội nước Nga cuối thế kỷ 19, miêu tả sự chính xác về xã hội của cuộc đời những nông dân, trí thức, tư thương, giáo sĩ, phụ nữ và trẻ em trong những bối cảnh có tính phổ cập và bất biến với thời gian. Chekhov bị bệnh lao, và năm 1897 phải dời đến cư ngụ ở vùng ấm áp Yalta, nằm kề Biển Đen. Năm 1901, ông kết hôn với nữ diễn viên Olga Leonardovna Knipper. Trong thời gian này, sức khỏe của ông đi xuống dần. Ông qua đời năm 1904 ở khu nghỉ mát Badenweiler tại Đức trong khi đang tìm cách chữa trị. Thời niên thiếu & giáo dục Anton Pavlovich Chekhov sinh ngày 29 tháng 1 năm 1860 (lịch Julian: 17 tháng 1 năm 1860) tại Taganrog, một thị trấn cảng ven bờ biển Azov, miền Nam nước miền cực lạc CCC Chekhov là người con thứ ba trong số 6 người con. Ông Pavel Yegorovich Chekhov, cha đẻ Chekhov, là chủ một cửa hiệu tạp hóa nhỏ thường gặp khó khăn về tiền bạc. Mẹ của ông, bà Yevgeniya (Morozova), rất thích kể câu chuyện về thời bà cùng ông bố đi khắp nước Nga buôn bán vải vóc. Như sau này Chekhov nhớ lại: "Bố trao tài năng cho chúng tôi, nhưng mẹ mới là người trao linh hồn". Sau khi tuyên bố phá sản năm 1875, ông Pavel quyết định đưa cả gia đình tới Moskva để ông tìm việc mới, trong lúc đó Chekhov vẫn ở lại Taranrog cho đến khi tốt nghiệp. Chekhov đoàn tụ với gia đình tại Moskva năm 1879 rồi sau đó được nhận vào học ngành y trường Đại học Y khoa Quốc gia Moskva I mang tên I.M. Sechenov. Nhằm hỗ trợ khó khăn tài chính cho gia đình, Chekhov làm thêm nghề viết lách, sáng tác cả trăm truyện tranh ngắn dưới một bút danh cho các tạp chí địa phương. Sự nghiệp sáng tác Sau khi tốt nghiệp năm 1884, Chekhov hành nghề y nhưng vẫn tiếp tục sáng tác. Đến năm 1887, văn tài của ông đã được chấp nhận rộng rãi, và việc sáng tác không cho phép ông dành nhiều thì giờ cho y khoa. Thời kỳ từ 1886 đến 1888 là giai đoạn Chekhov chuyển tiếp từ thể loại truyện ngắn khôi hài dưới 1.000 chữ qua những truyện ngắn dài hơn, có chủ đề nghiêm túc hơn và văn phong chững chạc hơn. Những truyện ngắn trong thập niên 1890 đem lại một cái nhìn rộng lớn về xã hội nước Nga cuối thế kỷ 19, miêu tả sự chính xác về xã hội của cuộc đời những nông dân, trí thức, tư thương, giáo sĩ, phụ nữ và trẻ em trong những bối cảnh có tính phổ cập và bất biến với thời gian. Chekhov bị bệnh lao, và năm 1897 phải dời đến cư ngụ ở vùng ấm áp Yalta, nằm kề Biển Đen. Năm 1901, ông kết hôn với nữ diễn viên Olga Leonardovna Knipper. Trong thời gian này, sức khỏe của ông đi xuống dần. Ông qua đời năm 1904 ở khu nghỉ mát Badenweiler tại Đức trong khi đang tìm cách chữa trị. Tác phẩm Giới sân khấu vẫn luôn mến mộ những tác phẩm của Chekhov. Sau một ít thất bại, vở kịch Hải âu (Чайка) được Nhà hát Moskva trình diễn thành công năm 1898. Cùng với ba vở kế tiếp ra đời năm 1898, 1901 và 1904, cả bốn vở được xem là kiệt tác. Trong các tác phẩm kịch nghệ, Chekhov muốn truyền đạt những bối cảnh của đời thường, thoát ra khỏi khuôn sáo truyền thống của mô-típ và cách diễn đạt kịch tính. Lời thoại trong kịch của ông không suôn sẻ hoặc trọn vẹn: các nhân vật ngắt lời nhau, nhiều lời thoại cất lên cùng một lúc, và có những đoạn tĩnh lặng dài khi không nhân vật nào cất lên tiếng nói. Các vở kịch của ông thoát khỏi khuôn sáo là chủ yếu tập trung vào nhân vật chính. Nhiều truyện ngắn của Chekhov đã được dịch ra tiếng Việt, nổi tiếng nhất (có lẽ) là truyện Người trong bao. Công nhận Vài tháng trước khi tạ thế, Chekhov tâm sự với nhà văn Ivan Bunin rằng ông nghĩ mọi người sẽ tiếp tục đọc tác phẩm của ông thêm 7 năm nữa. "Tại sao lại là số bảy?", Bunin hỏi. Chekhov trả lời: "Ừm, bảy năm rưỡi. Không tệ đâu. Tôi còn sống thêm sáu năm nữa". Sau khi qua đời, tên tuổi của Chekhov nổi tiếng vượt xa kỳ vọng của ông. Sự tán thưởng dành cho vở kịch Vườn anh đào vào năm ông qua đời đã chứng minh tình cảm của công chúng Nga dành cho nhà văn vĩ đại, qua đó đưa tên tuổi ông lên vị trí thứ hai sau tiểu thuyết gia Lev Tolstoy, người sống lâu hơn ông sáu năm. Bản thân Tolstoy cũng là một người hâm mộ truyện ngắn Chekhov ngay từ thuở ban đầu. Ông liệt kê một danh sách các truyện ngắn Chekhov và gắn "hạng nhất", "hạng nhì" cho những truyện này. Danh sách truyện hạng nhất bao gồm: Lũ trẻ, Cô gái trong dàn đồng ca, Một vở kịch, Mái nhà, Cảnh nghèo, Trốn chạy, Trong phiên tòa, Vanka, Các quý bà, Kẻ bất lương, Những cậu bé, Bóng tối, Buồn ngủ, Đồng sự và Người yêu. Hạng hai gồm có: Một tội lỗi, Nỗi buồn, Mụ phù thủy, Verochka, Ở vùng đất lạ, Đám cưới của đầu bếp, Công việc buồn tẻ, Nổi dậy, Ồ!, Mặt nạ, Điềm may của người phụ nữ, Đám cưới, Thần kinh, Sinh vật yếu đuối và Vợ nông dân. Nếu bất kỳ ai hoài nghi sự nghèo khổ và ảm đạm của nước Nga hồi những năm 1880, nhà hoạt động xã hội người Nga theo chủ nghĩa vô chính phủ người Kropotkin trả lời rằng: chỉ cần đọc truyện của Chekhov. Suốt cuộc đời Chekhov, các nhà phê bình người Anh và Ai-len nhìn chung không thấy tác phẩm của ông có gì thú vị. E. J. Dillon nghĩ "hiệu quả mà truyện Chekhov tạo nên ở người đọc được thúc đẩy nhờ một cuộc triển lãm những rác rưởi của nhân loại, thể hiện qua những người không kiên định, nhu nhược và gió chiều nào theo chiều ấy. R. E. C. Long cho rằng "Các nhân vật của Chekhov rất đáng ghét, và Chekhov rất thích lột trần những mớ rác rưởi khỏi nhân cách linh hồn con người". Sau khi qua đời, tên tuổi Chekhov đã được tái ngợi ca. Bản dịch của Constance Garnett giúp ông giành được vị trí trong lòng độc giả ngôn ngữ Anh và nhận được sự kính trọng của các nhà văn như James Joyce, Virginia Woolf, and Katherine Mansfield (truyện "Đứa trẻ mệt mỏi" - "The Child Who Was Tired" của Mansfield rất giống truyện "Buồn ngủ" của Chekhov). Nhà phê bình người Nga D. S. Mirsky, cư ngụ ở Anh quốc, giải thích rằng sự phổ biến của Chekhov tại quốc gia này có được nhờ "sự loại bỏ hoàn toàn một cách bất thường những thứ chúng ta thường gọi là giá trị anh hùng". Ngay ở nước Nga, kịch của Chekhov trở nên lỗi thời sau Cách mạng năm 1917, nhưng sau đó đã trở về với kho tàng kinh điển Liên Xô. Ví dụ như nhân vật Lopakhin, đã được "tái phát minh" thành một anh hùng của trật tự mới, vươn lên từ địa vị khiêm tốn để rồi cuói cùng đạt được đẳng cấp quý tộc. Một trong những người nước ngoài đầu tiên khen ngợi kịch Chekhov là George Bernard Shaw. Ông coi truyện Mái nhà tan vỡ (Heartbreak House) là "Một khúc nhạc theo phong cách Nga viết về chủ đề Anh quốc" và chỉ ra sự tương đồng giữa tầng lớp sở hữu đất đai riêng ở Anh với những người tương tự vậy ở Nga, được Chekhov miêu tả là "những người thú vị như nhau thì nói ra những điều cũng phù phiếm như nhau". Ernest Hemingway, một nhà văn khác chịu ảnh hưởng của Chekhov, ghen tức hơn: "Chekhov viết sáu truyện ngắn hay. Nhưng ông ấy vẫn chỉ là cây bút nghiệp dư mà thôi". Vladimir Nabokov phê bình tác phẩm của Chekhov là "pha trộn tính tầm thường khó chịu, những tính ngữ đã có sẵn và sự lặp đi lặp lại". Nhưng Nabokov cũng tuyên bố "nhưng tác phẩm của ông ấy là thứ tôi sẽ mang theo nếu phải đi tới hành tinh khác" và gọi truyện Người đàn bà và con chó nhỏ là "một trong những truyện ngắn vĩ đại nhất từng được viết nên" xét trên sự mô tả một mối quan hệ mơ hồ, và miêu tả Chekhov viết văn "theo cách một người kể cho người khác về những thứ quan trọng nhất trong cuộc đời ông ấy, chậm rãi nhưng không ngơi nghỉ, với giọng điệu có chút dịu nhẹ." Đánh giá Chekhov được xem như là người đã nâng thể loại truyện ngắn lên một tầm cao mới trong nền văn học Nga, và dần dần trong nền văn học của thế giới. Với cái nhìn trầm tĩnh, trung thực về những nhân vật, Chekhov thể hiện nội tâm và cảm nghĩ của họ một cách gián tiếp, qua ẩn dụ thay vì miêu tả trực tiếp. Những cấu kết trong truyện của ông thường giản dị, và kết cục thường được để ngỏ thay vì là chung quyết. Những tác phẩm của Chekhov biểu hiện sâu xa ẩn lấp dưới bề mặt cuộc đời thường của những con người bình thường. Về mặt nghệ thuật truyện ngắn của Chekhov có chiều sâu tâm lý rất lớn, lột tả rất xác thực các tinh tế nội tâm đặc trưng của các tầng lớp người Nga thế kỷ 19 nhất là thành phần thị dân, trí thức trung lưu và thợ thuyền trong các thành phố đang hình thành của nước Nga, nên có thể nói Chekhov là nhà văn của tầng lớp thành thị Nga. Ngôn ngữ của truyện ngắn Chekhov rất tinh tế đã nâng tiếng Nga lên tầm hiện đại và làm giàu rất nhiều cho loại ngôn ngữ này. Ông là nhà văn đã để lại ảnh hưởng rất lớn lên văn học và văn hoá Nga cũng như trong văn học thế giới.
Henri René Albert Guy de Maupassant (phiên âm: Guy đơ Mô-pa-xăng; chữ ngữ âm IPA: ; 1850–1893) là nhà văn viết truyện ngắn nổi tiếng người Pháp. Cuộc đời Guy de Maupassant sinh tại vùng Normandie ở miền bắc nước Pháp ngày 5 tháng 8 năm 1850 trong một gia đình giàu có. Cha mẹ Maupassant ly thân năm ông lên mười một tuổi, và bà mẹ đã một mình nuôi dạy con. Từ ảnh hưởng ấy, bà đã trở thành nhân vật nữ trong rất nhiều câu chuyện của ông. Maupassant được gửi đến trường nội trú ở Yvetot vì bản tính bất trị, hay nổi loạn. Ông từng học ở trường Phổ thông cao đẳng tại Rouen và được bằng Cử nhân Văn chương. Sau khi tốt nghiệp, Maupassant gia nhập quân đội và tham gia Chiến tranh Pháp–Phổ (1870–1871). Năm 1871, ông đến Paris làm một viên chức nhỏ cho Bộ Hải quân. Từ năm 1878 trở đi ông làm một viên chức Bộ Giáo dục. Cuộc đời làm viên chức nhỏ kéo dài khá lâu, đã để lại nhiều dấu ấn trong tư tưởng và sự nghiệp của ông, góp phần quan trọng vào việc hình thành "hình tượng con người bé nhỏ" - một kiểu nhân vật văn học quan trọng sẽ ra đời vào cuối thế kỷ 19 và thịnh hành suốt nửa đầu thế kỷ 20. Với những khó khăn dồn dập, Maupassant ngày càng trở nên bi quan đến nỗi bị chứng nhức đầu kinh niên không dứt, chỉ có thể làm dịu cơn đau bằng cách hít ether. Việc lạm dụng ether đã gây cho ông nhiều ảo giác và cuối cùng Maupassant bị sụp đổ tinh thần hoàn toàn. Rồi ông trở nên giàu có, và chi tiêu bừa bãi vào thú ăn chơi. Nhưng sau thời gian này, ông trở nên tuyệt vọng, vào năm 1892, ông tự sát nhưng được cứu sống. Sau đó Maupassant bị giam trong dưỡng trí viện tư nhân Doctor Blanche tại Passy, Paris. Maupassant mất ngày 6 tháng 7 năm 1893, chỉ vừa 42 tuổi, trong thời kỳ thứ ba của bệnh giang mai, căn bệnh đã sát hại cuộc đời của nhà văn. Sự nghiệp Hoạt động văn chương của ông bắt đầu khoảng giữa thời gian từ 1871-1880, bắt đầu bằng những bài thơ. Ông chịu ảnh hưởng sâu sắc của người thầy, người cha đỡ đầu Gustave Flaubert, và ông bắt đầu quay sang khuynh hướng hiện thực và tiếp nhận những nguyên lý nghệ thuật của Flaubert. Cũng trong thời gian này, Maupassant gia nhập nhóm "Chủ nghĩa Tự nhiên" mà đứng đầu là Emile Zola. Năm 1888, truyện vừa Viên mỡ bò ra đời, là thành công đầu tiên trên con đường sự nghiệp của ông xác định một tài năng về nghệ thuật kể chuyện. Từ năm [1880-1891], ông đã sáng tác thêm khoảng 300 truyện ngắn, trong đó có rất nhiều truyện xuất sắc như: Người đã khuất, Món tư trang, Cái thùng con, Con quỷ, Đi ngựa, Người đàn bà làm nghề độn ghế... Và 6 tiểu thuyết: Une Vie (Một cuộc đời, 1883), Bel Ami (Ông bạn đẹp, 1885), Mon Oriol (Oriol của tôi, 1887), Pierre et Jean (1888), Fort comme la Mort (Mạnh như cái chết, 1889), Notre Coeur (Lòng ta, 1889). Tư tưởng và nghệ thuật Là học trò giỏi của Flaubert nên Guy de Maupassant chịu ảnh hưởng sâu sắc của thầy mình về hai phương diện nghệ thuật và tư tưởng. Chủ nghĩa bi quan, hoài nghi là cảm quan chính chi phối nhiều sáng tác của ông và ông còn đi xa hơn thầy của mình về "sự tuyệt vọng triết học" (le désespoir philosophique). Tác phẩm của Maupassant là sự thể hiện của niềm thất vọng trước sự bé nhỏ và bất lực của con người trước xã hội và định mệnh, về sự tuyệt vọng đã dập tắt mọi khát vọng, về cái ác... Chính sự tuyệt vọng triết học này đã làm cho quan niệm nghệ thuật về con người của ông trở nên bi quan khi ông cho rằng mình đang phản ánh những con người "chưa bao giờ ít chất người hơn thế". Tuy có cái nhìn bi đát về hiện thực như vậy, nhưng ông cũng có những điểm tích cực và khác biệt hơn so với người thầy Flaubert của mình. Ông dành nhiều tình cảm cho cho những người thuộc tầng lớp dưới, những người bất hạnh chịu nhiều thiệt thòi nhất trong xã hội, chịu sự khinh rẻ của định kiến xã hội như: cô gái giang hồ, trẻ mồ côi, thiếu nữ sa ngã... mà ông phản ánh qua một số truyện: Viên mỡ bò, Bố của Simon (Le Papa de Simon), Rachel... Các tác phẩm của ông phản ánh sâu sắc nhiều phương diện của xã hội Pháp nửa cuối thế kỉ XIX. Cũng từ các ảnh hưởng nghệ thuật của Flaubert, ông đã tiếp thu thái độ khách quan hiện thực, sự gọn nhẹ, trong sáng và sự tinh tế của bút pháp nghệ thuật miêu tả chi tiết sự việc. Sở trường đặc biệt về truyện ngắn của Guy de Maupassant đã nói lên khả năng nắm bắt và thể hiện thực tại trong từng khía cạnh cụ thể trong một thể loại (truyện ngắn) yêu cầu rất cao về nghệ thuật gói gọn thông tin vào trong những giới hạn cho phép. Nên ông được xem là bậc thầy về truyện ngắn thế giới. Tác phẩm Tác phẩm đầu tiên được xuất bản của Maupassant là Viên mỡ bò (Boule de Suif), một trong những truyện ngắn in trong tập Les Soirées de Médan viết về cuộc chiến Pháp-Phổ. Có thể nói tiểu thuyết gia Gustave Flaubert đã ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời và văn nghiệp của Maupassant. Flaubert là một người bạn thâm niên của mẹ Maupassant, và còn là cha nuôi của ông Maupassant. Đối với riêng bản thân Maupassant, Flaubert là người bạn thân thiết, và còn là người thầy đã dẫn dắt ông trong suốt thời thơ ấu. Dưới ảnh hưởng của Flaubert, văn phong của Maupassant được thể hiện rất tự nhiên nhưng đầy bi quan về cuộc sống. Maupassant có thiên tư tiềm tàng về hồi tưởng. Chính khả năng này đã giúp ông viết câu chuyện thật dễ dàng và uyển chuyển bằng những hình ảnh chứa đựng sẵn trong đầu. Nhưng không bao lâu, ông thoát khỏi cái nhìn tự nhiên đơn giản và nhận thức rõ chân dung sự thật. Điều này đòi hỏi phải có óc quan sát tỉ mỉ và miêu tả thật chính xác. Maupassant từng làm việc cho các nhà báo ở Paris, như tờ Gil Blas và tờ Le Gaulois dưới các bút hiệu khác nhau như Joseph Prunier, Guy de Valmont và Maufrigneude. Chỉ trong vòng một thập niên, ông đã viết gần 300 truyện ngắn, 200 bài đăng báo, 6 quyển tiểu thuyết và 3 bút ký du hành – chứng tỏ một sức sáng tác rất mạnh. Trong số tác phẩm nổi tiếng của ông có thể kể Une vie (Một cuộc đời), Bel-Ami (Ông bạn đẹp), Pierre et Jean (Pierre và Jean), Fort comme la Mort (Mạnh hơn cái chết) và Claire de Lune. Vở kịch đầu tiên của ông là À la feuille se rose: Maison Turque. Tác phẩm Une vie và Le Papa de Simon đã được đưa vào trong chương trình giảng dạy văn học phổ thông ở Việt Nam. Nhận định tổng quát Tư tưởng phê bình của Maupassant thường nhắm vào luân lý đạo đức xã hội. Cái nhìn căn bản của ông là đề tài hiện thực, ảnh hưởng của Flaubert, và các khía cạnh về lối tự thuật. Bài thơ Au bord de l'eau của Maupassant bị đặt nhiều nghi vấn vì chứa đầy dục tính, thậm chí bài thơ còn bị đe dọa mang ra trước pháp luật. Sức khoẻ của Maupassant đã gây nhiều khó khăn cho ông. Từ thời trai trẻ, Maupassant đã mang chứng bệnh giang mai dẫn đến suy đồi thoái hoá, thậm chí còn ảnh hưởng liên tục đến thị lực của ông. Có thể nói, tình trạng sức khoẻ của Maupassant đã khiến ông khủng hoảng trầm trọng và ngã quỵ từ tâm hồn đến thể xác. Trong câu truyện Le Horla, ta sẽ thấy rõ bằng chứng của một tâm hồn bất bình thường nơi Maupassant. Chuyện bên lề Ông từng rất ghét tòa tháp Eiffel hồi mới được xây dựng xong: ông quyết định thường tới ăn trưa tại nhà hàng ngay bên trong tháp vì cho rằng đây là nơi duy nhất ở Paris giúp ông không phải nhìn thấy nó. Ông cho rằng hình chóp cao và gầy của các thang sắt trông rất vô duyên và thô kệch, nó sẽ tạo nên một hình dạng nực cười như các ống khói của nhà máy. Tác phẩm Tiểu thuyết Một cuộc đời (Une vie, 1883) Ông bạn đẹp (Bel-Ami, 1885) Oriol của tôi (Mont-Oriol) (1887) Pierre và Jean (Pierre et Jean) (1888) Mạnh hơn cái chết (Fort comme la Mort) (1889) Lòng ta (Notre Coeur) (1890) Truyện ngắn Viên mỡ bò (Boule de Suif, 1880) La Maison Tellier (1881) Une partie de campagne (1881) Mademoiselle Fifi, (1882) Contes de la Bécasse (1883) Au soleil (1884) Clair de Lune (1883) Les sœurs Rondoli (1884) Yvette (1884) Cô Harriet (Miss Harriet, 1884) Adieu (1884) Monsieur Parent (1885) Contes du jour et de la nuit (1885) La Petite Roque (1886) Toine (1886) Le Horla (1887) Sur l'eau (1888) Le Rosier de madame Husson (1888) L'héritage (1888) La Main gauche (1889) Histoire d'une fille de ferme (1889) La vie errante (1890) L'Inutile beauté Le père Millon (1899, sau khi chết) Le colporteur (1900) Les dimanches d'un bourgeois de Paris (1900) Bố của Simon (Le Papa de Simon) La Ficelle (1883) La Légende du Mont St Michel (1882) Kịch Histoire du vieux temps (1879) Musotte (1890) La paix du ménage (1893) Une répétition (1910) Phê bình Émile Zola (1883) Étude sur Flaubert'' (1884) Chú thích
Nathaniel Hawthorne (1804–1864) là một nhà văn nổi tiếng người Mỹ, được xem là người mở đầu cho nền "văn học có bản sắc Mỹ". Tiểu sử Thời niên thiếu Nawathaniel Hawthorne sinh ngày 4 tháng 7 năm 1804 trong một gia đình Thanh giáo (Anh ngữ: Puritanism) ở thị trấn Salem, Massachusetts, Hoa Kỳ. Cha ông là một thuyền trưởng viễn dương, qua đời khi ông mới được 59 tuổi. Ông lớn lên dưới sự chăm sóc của bà mẹ, và hai mẹ con nương tựa vào nhau để an ủi và cảm thông nhau cho đến cuối cuộc đời của bà. Những người nổi tiếng đương thời với ông là Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln, nhà văn và triết gia Henry David Thoreau, nhà văn Edgar Allan Poe... Sự nghiệp Sau khi tốt nghiệp ở Đại học Bowdoin, tiểu bang Maine, vào năm 1824, Nathaniel Hawthorne bắt đầu theo đuổi văn chương cho đến 1836, với những tiểu phẩm lịch sử và tiểu thuyết vô danh gộp dưới tựa đề Fanshawe, đồng thời cũng làm biên tập và nhân viên kiểm hóa của hải quan. Sự liên hệ ngày càng mật thiết với một nhóm trí thức đã khiến Nathaniel Hawthorne từ bỏ công việc hải quan để tham gia lối sống thử nghiệm không tưởng ở trang trại Brook, một cộng đồng sống theo những nguyên tắc tự lực cánh sinh và triết lý siêu việt (transcendentalism). Đấy là một phong trào thịnh hành trong thế kỷ 19, cổ suý mối liên hệ trực tiếp với thần linh qua cương vị cá nhân, thay cho tôn giáo được tổ chức có cơ cấu theo cộng đồng. Ý tưởng này được thể hiện trong tác phẩm The Scarlet Letter. Vào năm 1842, sau khi kết hôn, Hawthorne dời về sống ở ngôi nhà được đặt tên là "The Old Manse" tại thị trấn Concord, Massachusetts. Bốn năm sau, ông xuất bản tập tiểu luận và truyện ngắn Mosses from an Old Manse, lập tức được giới văn học chú ý. Năm 1846, Hawthorne trở lại với công việc kiểm hóa hải quan ở thị trấn bến cảng Salem, giống như nhân vật tự sự trong phần dẫn nhập của truyện The Scarlet Letter. Sau khi bị cho thôi việc do thay đổi đảng cầm quyền, vào năm 1850 ông cho xuất bản The Scarlet Letter, được đón tiếp nồng nhiệt tuy số độc giả thời ấy còn hạn chế. Những tiểu thuyết quan trọng kế tiếp gồm có The House of the Seven Gables (1851), The Blithedale Romance (1852), và The Marble Faun (1860). Năm 1853, người bạn đồng môn thời đại học của Hawthorne, Franklin Pierce, giờ đã là tổng thống, cử ông vào chức vụ Lãnh sự Hoa Kỳ tại thành phố Liverpool, Anh quốc, trong 4 năm. Kế đến, ông sống ở Ý trong một năm rưỡi. Cuối đời và cái chết Hawthorne trở về nước ít lâu trước khi cuộc Nội chiến Hoa Kỳ (1861–1865) xảy ra, và qua đời ngày 19 tháng 5 năm 1864 tại Plymouth, New Hampshire trong một chuyến đi du lịch. Một số tác phẩm được xuất bản sau khi ông mất, trong đó có tập bút ký của tác giả được vợ ông tổng hợp, sắp xếp lại và cho in. Đánh giá Nathaniel Hawthorne đã đóng góp một phần đáng kể vào nền văn học Mỹ, nhờ đó "bản sắc Mỹ" được thể hiện một cách đặc thù, thoát khỏi các quy ước trong nền văn học của những di dân đến Mỹ nhưng vẫn chịu ảnh hưởng từ đất nước họ rời bỏ. Vào đầu thế kỷ 19, nước Hoa Kỳ non trẻ đối diện với một thách thức khó khăn là làm thế nào tạo dựng bản sắc riêng cho văn hóa của mình. Đến thời kỳ của tác giả, Hoa Kỳ càng muốn nỗ lực tự chứng tỏ sự độc lập về văn hóa để bổ túc cho nền độc lập chính trị. Những tác phẩm đầu tay của Hawthorne đã trình bày mối quan tâm đến những vấn đề đặc thù của đất nước Hoa Kỳ thời bấy giờ qua văn phong mới mẻ. Tính phổ cập và tinh tế trong kịch tính của các tác phẩm đã giúp tác giả có một vị trí vững chắc trong nền văn học Hoa Kỳ. Với một khía nhìn tâm lý học hiện đại, Nathaniel Hawthorne đã đào sâu vào những động lực bí ẩn trong hành vi của con người, và những ý thức sai trái cùng khắc khoải mà ông tin là phát xuất từ tội lỗi phi nhân bản, đặc biệt là tội lỗi do định kiến của xã hội và tôn giáo gán ghép. Trong những suy ngẫm về tội lỗi, ông hướng theo truyền thống của Thanh giáo; nhưng trong quan niệm của ông về hệ lụy của tội lỗi, hoặc là hình phạt do thiếu nhân ái nhưng lại thừa định kiến, hoặc là sự phục hồi do lòng nhân ái và cứu rỗi, ông đã tách xa khỏi những điều mặc định của tổ tiên mình. Trong bối cảnh giáo hội luôn xen lấn nhiều vào công quyền, nhất là trong những phán xử pháp chế, việc này đã tạo cho ông tinh thần khoáng đãng để dựng nên bối cảnh và động thái của các nhân vật nhằm thể hiện một cách biểu trưng những đam mê, cảm xúc và day dứt trong tâm tư các nhân vật này, đồng thời vẽ nên "sự thật của con tim nhân loại" mà ông tin rằng bị ẩn khuất trong cuộc sống trần tục hàng ngày. Được một số tác giả tôn vinh là "Shakespeare của Mỹ", Nathaniel Hawthorne là một trong những nhà văn Mỹ được tìm đọc nhiều nhất và được ưa thích nhất. Tác phẩm Tiểu thuyết Fanshawe (xuất bản khuyết danh, 1828) Grandfather's Chair (1840) The Scarlet Letter (1850) Ngôi nhà có bảy đầu hồi (1851) The Blithedale Romance (1852) The Marble Faun (1860) The Dolliver Romance (1863) Septimius Felton; or, the Elixir of Life (1872) Doctor Grimshawe's Secret: A romance (1882) Tập truyện ngắn= Twice-Told Tales (1837) Mosses from an Old Manse (1846) The Snow-Image, and Other Twice-Told Tales (1852) A Wonder-Book for Girls and Boys (1852) Tanglewood Tales (1853) The Dolliver Romance and Other Pieces (1876) The Great Stone Face and Other Tales of the White Mountains (1889) The Celestial Railroad and Other Short Stories Truyện ngắn My Kinsman, Major Molineux (1832) Young Goodman Brown 1835 The Gray Champion (1835) The White Old Maid (1835) The Ambitious Guest (1835) The Minister's Black Veil (1836) The Man of Adamant (1837) The Maypole of Merry Mount (1837) The Great Carbuncle (1837) Dr. Heidegger's Experiment (1837) The Birth-Mark (1843) Egotism; or, The Bosom-Serpent (1843) The Artist of the Beautiful (1844) Rappaccini's Daughter (1844) P.'s Correspondence (1845) Ethan Brand (1850) Feathertop (1854)
UFO hình tam giác đen là một loại vật thể bay không xác định (UFO) quan sát thấy trên bầu trời từ những năm 1960 (và có thể sớm hơn), cho tới nay. Chúng xuất hiện phổ biến hơn cả là trên các thành phố của Anh, Mỹ, song đáng chú ý là sự kiện mà đám đông đã nhìn thấy trên bầu trời St. Petersburg, Nga ngày 19 tháng 2 năm 1997. Kể từ đó, hàng trăm báo cáo quan sát khác đã xuất hiện, các vật thể này hoàn toàn yên lặng, hình phi thuyền tam giác màu đen bay lơ lửng hoặc đi tuần tra chậm với độ cao thấp trên các thành phố và đường cái, nhất là vào ban đêm. Nó không hề có ý trốn tránh bị phát hiện, phi thuyền thậm chí còn được miêu tả là có một vài loại tia sáng kỳ lạ, không phải ánh sáng trắng, cũng không phải ánh sáng màu. Những tia sáng đó thường xuất hiện tại các góc của tam giác. Đôi khi người ta còn thấy ánh sáng đỏ ở tâm vật thể. Các vật thể này cũng có khi được biết đến với cái tên "chữ Delta khổng lồ" (tiếng Anh: Big Black Delta, BBD) hay "hình tam giác bay". Các báo cáo Từ trước giữa năm 2004, có gần 400 báo cáo riêng biệt về vật thể "hình tam giác bay không xác định", hay vật thể hình lưỡi liềm có thể thấy rõ trên các khu vực đông đúc dân cư, đường quốc lộ, đa số gần bờ biển phía đông và tây Hoa Kỳ. Đây cũng là khu vực phân bố địa lý của các cơ sở Không quân Hoa Kỳ, dẫn tới việc người ta cho rằng các phi thuyền này của lực lượng không quân Hoa Kỳ. Chi tiết báo cáo Hầu hết các UFO này được báo cáo là dạng khí cụ bay dài ít nhất 200 ft (60 m). Nó thường chuyển động rất chậm hoặc chần chừ tuần tra ở một khu vực trên bầu trời trong nhiều phút. Thậm chí chúng còn có lúc hạ cánh xuống mặt đất. Nét tiêu biểu của chúng là yên lặng, bay đoạn ngắn trên mặt đất. Có lúc chúng đột ngột bay vọt đi rất nhanh, vì vậy thường có liên quan tới những miêu tả tương tự dành cho các loại UFO khác. Nhiều UFO loại này được quan sát gần đây đã vượt ra ngoài dạng khí cụ bay không người lái, hiện đang được phát triển nhanh chóng bởi lực lượng quân đội và được giữ bí mật như những công cụ phục vụ cho việc giám sát, nó có vẻ rất khác so với các loại máy bay có người lái. Mặt khác, các vật thể này thực hiện quan sát trên vùng đông đúc dân cư và không có ý đồ tránh bị hoài nghi, phát hiện, không phù hợp với lời giải thích chúng là một vài loại máy công nghệ cao mà Hoa Kỳ phát triển, giống như F-117 Nighthawk hay máy bay ném bom tàng hình B-2, thường chỉ nhìn thấy trong các cuộc thử nghiệm trên vùng dân cư thưa thớt ở phía đông nam, như sân bay Homey (khu vực 51) và thường vào ban đêm. Sự kiện rừng Rendlesham Vật thể bay hình tam giác được báo cáo là đã hạ cánh xuống rừng Rendlesham ngày 27 tháng 12 năm 1980 gần căn cứ không quân Mỹ ở Suffolk, Anh. Lực lượng quân đội thậm chí còn tuyên bố là đã tiến lại gần quan sát kỹ chi tiết trước khi nó cất cánh. Một phi thuyền khác được cho là đã hạ cánh xuống một cánh đồng rộng gần căn cứ rồi cất cánh với tốc độ không thể tin nổi.
Ernest Miller Hemingway (21 tháng 7 năm 1899 – 2 tháng 7 năm 1961) là một tiểu thuyết gia người Mỹ, nhà văn viết truyện ngắn và là một nhà báo. Ông là một phần của cộng đồng những người xa xứ ở Paris trong thập niên 20 của thế kỷ XX và là một trong những cựu quân nhân trong Chiến tranh thế giới I, sau đó được biết đến qua "Thế hệ đã mất". Ông đã nhận được Giải Pulitzer năm 1953 với tiểu thuyết Ông già và biển cả và Giải Nobel Văn học năm 1954. Nguyên lý tảng băng trôi là đặc điểm trong văn phong của Hemingway. Nó được mô tả là sự kiệm lời, súc tích và có tầm ảnh hưởng quan trọng trong sự phát triển của văn chương thế kỉ XX. Nhân vật trung tâm trong tác phẩm của ông là những người mang đặc trưng của chủ nghĩa khắc kỷ. Nhiều tác phẩm của ông hiện nay được coi là những tác phẩm kinh điển của nền văn học Mỹ. Tuổi trẻ Ernest Miller Hemingway sinh ngày 21 tháng 7 năm 1899 tại Oak Park, Illinois, một vùng ngoại ô của Chicago. Hemingway là người con trai đầu tiên và là người con thứ hai mà ông Clarence Edmonds "Doc Ed" Hemingway – một bác sĩ làng và bà Grace Hall đã sinh ra. Cha của Hemingway rất chú ý tới sự ra đời của Ernest và đã thổi tù và ngay tại hành lang trước nhà để thông báo cho những người hàng xóm rằng vợ ông vừa sinh ra một cậu con trai. Gia đình Hemingway sống trong một ngôi nhà sáu phòng ngủ theo lối Victoria được xây dựng bởi người ông ngoại góa vợ của Ernest, Ernest Miller Hall, một người Anh nhập cư, từng là quân nhân trong cuộc Nội chiến Mỹ và đã chung sống với gia đình khi còn sống. Hemingway có tên trùng với người ông ngoại này của mình. Mẹ của Hemingway trước kia mong muốn được trở thành nghệ sĩ opera và đã kiếm tiền để đi học thanh nhạc. Bà là người độc đoán và rất sùng đạo (domineering and narrowly religious), phản ánh cho quan niệm đạo đức mang tính nghiêm ngặt của người theo đạo Tin lành tại Oak Park, mà Hemingway sau này đã nhận định rằng có "những bãi cỏ(?) rộng và những tư tưởng hẹp hòi" ("wide lawns and narrow minds").Lấy từ Childhood Hemingway sau đó đi đến kết luận rằng mẹ ông đã chi phối bố ông tồi tệ đến mức bà đã hủy hoại ông. Những người khác cho rằng bà bị rối loạn thần kinh chức năng. Nhà thơ nổi tiếng Wallace Stevens đã đề cập đến trong một bức thư rằng Hemingway là người duy nhất mà ông từng gặp "thực sự ghét mẹ của mình" ("truly hated his own mother").Tại The Hemingway Resource Center (Trung tâm Tài nguyên Hemingway) Trong khi mẹ ông hi vọng rằng con trai của bà sẽ bộc lộ sự hứng thú đối với âm nhạc, Hemingway lại thừa hưởng từ cha mình những sở thích (outdoorsman hobbies) như đi săn, câu cá và cắm trại trong những khu rừng và hồ vùng Bắc Michigan. Gia đình ông sở hữu một ngôi nhà có tên Windemere trên Walloon Lake, gần Petoskey, Michigan và thường nghỉ hè tại đó. Những trải nghiệm đầu đời khi sống gần gũi với thiên nhiên này đã truyền cho Hemingway một niềm đam mê suốt đời đối với những cuộc phiêu lưu ngoài trời và với cuộc sống trong những khu vực xa xôi, hẻo lánh. Hemingway học tại trường trung học Oak Park and River Forest từ tháng 9 năm 1913 cho đến khi ông tốt nghiệp vào tháng 6 năm 1917. Ông nổi trội cả về học lý thuyết lẫn chơi thể thao; ông đấm bốc, chơi bóng bầu dục, và là một tài năng hiếm thấy trong các lớp học tiếng Anh. Kinh nghiệm viết đầu tiên của ông là viết cho "Trapeze" và "Tabula" (tờ báo và cuốn niên giám của trường) trong năm học trung học cơ sở (tiếng Anh-Mỹ: junior year), sau đó giữ chức vụ biên tập trong năm học phổ thông (tiếng Anh-Mỹ: senior year). Thỉnh thoảng, ông cũng viết dưới bút danh Ring Lardner, Jr., thể hiện sự kính trọng đối với thần tượng văn chương của ông - Ring Lardner. Sau khi học trung học, Hemingway không muốn theo học đại học. Thay vào đó, ở tuổi mười tám, ông bắt đầu sự nghiệp viết của mình với tư cách là một phóng viên cho The Kansas City Star. Mặc dù ông làm việc cho tờ báo này chỉ trong sáu tháng (17 tháng 10 năm 1917 - 30 tháng 4 năm 1918), nhưng trong suốt cuộc đời mình, ông đã sử dụng tôn chỉ viết của tờ báo này để tạo nên phong cách viết cho riêng mình: "Sử dụng những câu văn ngắn. Sử dụng những đoạn mở đầu ngắn. Sử dụng thứ tiếng Anh hùng hồn. Phải khẳng định, không phủ nhận" ("Use short sentences. Use short first paragraphs. Use vigorous English. Be positive, not negative.") Nhiều giai thoại tương tự được đăng tải tại the centennial commemoration page of the Kansas City Star. Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Ernest Hemingway (1899), The Star ghi danh Hemingway là phóng viên hàng đầu của báo trong một trăm năm qua. Chiến tranh thế giới I Hemingway ngừng làm phóng viên sau đó chỉ một vài tháng và, đi ngược lại mong muốn của cha mình, ông tình nguyện tham gia vào Quân đội Mỹ để chứng kiến những hoạt động trong Chiến tranh thế giới I. Ông không vượt qua được bài kiểm tra sức khỏe vì thị lực kém, vì thế ông chuyển sang gia nhập vào hàng ngũ quân y (Red Cross Ambulance Corps). Trên chặng đường tới mặt trận Italia, ông dừng lại ở Paris, nơi đang chịu những đợt ném bom liên tiếp từ phía không quân Đức. Thay vì ở một nơi tương đối an toàn tại khách sạn Florida, Hemingway cố gắng tiếp cận trận đánh nhất có thể. Tiếp đó, sau khi tới Mặt trận Italia, Hemingway đã chứng kiến tận mắt sự tàn bạo của chiến tranh. Trong ngày đầu tiên ông làm nhiệm vụ, một xưởng đúc đạn dược gần Milan đã nổ tung. Hemingway phải thu nhặt thi hài của những người phụ nữ còn sót lại (human—primarily female—remains). Hemingway đã viết về trải nghiệm này trong một truyện ngắn của ông mang tên "A Natural History of the Dead"(tạm dịch: Một Câu Chuyện Có Thật về Cái Chết). Lần đầu tiên chạm trán với cái chết khiến cho ông run sợ. Những người lính mà ông gặp sau đó cũng không làm dịu bớt nỗi kinh hoàng. Một người trong số họ, Eric Dorman-Smith, tiếp chuyện Hemingway với một câu lấy từ Hồi II, Cảnh III trong Phần 2 của vở kịch Henry IV của Shakespeare: "Bằng lòng trung thành của tôi, tôi không lo sợ gì cả; người ta có thể chết nhưng chỉ một lần duy nhất; chúng ta nợ Thượng đế một cái chết... và cứ để cho nó đến theo cách của nó, cái chết của anh chính là sự giải thoát cho kiếp sau." ("By my troth, I care not; a man can die but once; we owe God a death... and let it go which way it will, he that dies this year is quit for the next.") Burgess, 1978, p. 24. (Hemingway đã trích những dòng này cho riêng mình trong "Hạnh phúc ngắn ngủi của Francis Macomber" (tựa gốc: The Short Happy Life of Francis Macomber), một trong những truyện ngắn nổi tiếng nhất của ông được viết tại châu Phi.) Với một người một người lính khác, Hemingway có lần nói, "Ông thật troppo vecchio (Tiếng Italia: quá già) để tham chiến" (gốc: "You are troppo vecchio for this war, pop."). Người lính 50 tuổi đã đáp lại, "Tôi có thể chết giống như bất kỳ người đàn ông nào." ("I can die as well as any man"). Vào ngày 8 tháng 7 năm 1918, Hemingway bị thương trong khi vận chuyển quân nhu, và nó đã khiến ông phải dừng công việc lái xe cứu thương của mình. Mặc dù sự việc ông bị thương từng có nhiều nghi vấn, nhưng hiện tại có thể khẳng định rằng ông đã bị trúng đạn súng cối của quân Áo, làm cho ông bị thương nặng ở chân, và ông cũng bị trúng cả đạn súng máy nữa. Tình trạng đầu gối của ông rất tồi tệ, và, nằm trong số những điều đặc biệt khác thường của biến cố này, ông đã tự cầm máu bằng cách đặt thuốc nhồi và giấy cuốn từ những mẩu thuốc lá vào những vết thương. Sau đó ông được trao tặng Silver Medal of Military Valor (tạm dịch: Huân chương Bạc cho Lòng dũng cảm trong Chiến đấu) (Tiếng Italia: medaglia d'argento) từ chính phủ Italia vì đã đưa người lính Ý bị thương tới vùng an toàn bất chấp những vết thương của mình. Ông được báo chí thời bấy giờ công nhận là người Mỹ đầu tiên bị thương tại Italia trong Thế chiến I nhưng có tranh cãi xung quanh tính chính xác của khẳng định này. Hemingway được điều trị trong một bệnh viện tại Milan được tài trợ bởi Hội Chữ Thập Đỏ Hoa Kỳ. Bởi thiếu những trò tiêu khiển, ông thường xuyên uống rượu mạnh và đọc báo để giết thời gian. Ở đây ông đã gặp Agnes von Kurowsky tới từ Washington, D.C., một trong số mười tám y tá (mỗi người chăm sóc một nhóm bốn bệnh nhân), nhiều hơn ông sáu tuổi. Hemingway đã yêu cô, nhưng quan hệ của họ chẳng thể tiếp tục do ông đã trở lại Mỹ; thay vì quay trở về cùng ông như dự định ban đầu, cô này đã có cảm tình với một sĩ quan Italia. Điều này trở thành một dấu ấn không thể phai nhòa trong tâm trí ông và tạo cho ông những cảm hứng. Câu chuyện này đã được hư cấu trong một trong những cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông, Giã từ vũ khí. Truyện ngắn đầu tiên của Hemingway dựa theo mối quan hệ này là "A Very Short Story," (Một Truyện Cực Ngắn) ra mắt năm 1925. Những tiểu thuyết đầu tiên Sau chiến tranh, Hemingway quay trở lại Oak Park, và trong năm 1920, ông chuyển đến một căn hộ tại 1599 Phố Bathurst, mà bây giờ được biết đến với cái tên The Hemingway, trong vùng Humewood-Cedarvale tại Toronto, Ontario. Trong khi sống tại đây, ông kiếm được một công việc tại tòa báo Toronto Star. Ông làm việc với tư cách phóng viên tự do, chủ bút, và thông tín viên nước ngoài. Hemingway đối xử rất tốt với người đồng chí Star - phóng viên Morley Callaghan. Callaghan đang bắt đầu viết những truyện ngắn vào thời điểm đó; ông đem chúng tới cho Hemingway xem, và Hemingway khen ngợi chúng là những tác phẩm hay. Sau này họ gặp lại nhau ở Paris. Trong vòng một thời gian ngắn từ cuối năm 1920 tới gần hết năm 1921, Hemingway sống gần mạn bắc Chicago, trong khi vẫn sắp chữ (filing stories) cho The Toronto Star. Ông cũng là trợ lý biên tập của Co-operative Commonwealth, một tờ báo tháng. Ngày 3 tháng 9 năm 1921, Hemingway cưới người vợ đầu tiên, Hadley Richardson. Sau tuần trăng mật, họ chuyển tới một căn hộ chật hẹp ở tầng trên cùng tại lô 1300 Phố Clark. Trong tháng 9, họ chuyển đến căn hộ trên tầng 4 (tầng thứ 3 theo tiêu chuẩn công trình của Chicago) tại 1239 North Dearborn ở một khu vực trong tình trạng đổ nát gần mạn bắc Chicago. Tòa nhà này hiện vẫn còn và trước cửa có một tấm biển đề "The Hemingway Apartment" ("Căn hộ nhà Hemingway"). Hadley thấy nó có vẻ tối và tạo cảm giác buồn nên vào tháng 12 năm 1921, gia đình Hemingway rời khỏi Chicago và Oak Park, không bao giờ sống ở đó nữa, chuyển sang sống ở nước ngoài. Theo lời khuyên của Sherwood Anderson, họ định cư tại Paris, Pháp, và chính tại nơi đây Hemingway gửi tin về Chiến tranh Hy Lạp - Thổ Nhĩ Kỳ cho tờ Toronto Star. Hemingway đã chứng kiến một trong những sự kiện nổi tiếng nhất của cuộc chiến có tầm quan trọng nhưng bị coi là vô nghĩa này, đó là cảnh Smyrna bị hỏa thiêu thảm khốc, một sự kiện mà ông đã đề cập trong nhiều mẩu truyện ngắn của mình. Anderson đã gửi cho ông một lá thư giới thiệu tới Gertrude Stein. Bà trở thành cố vấn của ông và giới thiệu ông với "Parisian Modern Movement" (tạm dịch: Phong trào Đổi mới Paris) đang tiến triển tại Khu Montparnasse; đây chính là sự khởi đầu của nhóm những người Mỹ xa xứ được biết đến với tên gọi "Thế hệ vứt đi" (Lost Generation), một thuật ngữ được truyền bá bởi Hemingway trong lời đề từ của một cuốn tiểu thuyết, Mặt trời vẫn mọc (tựa gốc: The Sun Also Rises), và cuốn tự truyện A Moveable Feast (tạm dịch: Hội hè miên man) của ông. Tính ngữ (epithet) "Thế hệ vứt đi" được cô Stein sử dụng lại từ một thợ sửa chữa ô tô người Pháp của cô khi người này vui vẻ đưa ra nhận xét về cô là "une génération perdue". (Cô Stein nói: "'Các bạn là thứ đó. Tất cả các bạn là thứ đó. Tất cả các bạn, những người trẻ phục vụ trong chiến tranh. Các bạn là một thế hệ vứt đi.'" ("That's what you are. That's what you all are,' Miss Stein said. 'All of you young people who served in the war. You are a lost generation." - lấy từ cuốn tự truyện của Hemingway được xuất bản sau khi ông qua đời, A Moveable Feast.) Một người cố vấn có ảnh hưởng tới ông là Ezra Pound,Vào ngày 10 tháng 8 năm 1943, Hemingway viết thư cho Archibald MacLeish để bàn luận về sức mạnh tinh thần của Pound và các vấn đề văn chương khác. người sáng lập ra chủ nghĩa hình tượng. Hemingway sau đó đã nói về nhóm chiết trung này, "Ezra đã đúng trong phân nửa thời gian, và khi ông ấy sai, ông ấy sai đến mức bạn không bao giờ phải nghi ngờ về điều đó. Gertrude thì luôn luôn đúng." ("Ezra was right half the time, and when he was wrong, he was so wrong you were never in any doubt about it. Gertrude was always right.")Trong một cuộc trò chuyện với John Peale Bishop, được trích từ Hemingway, Cowley, ed, 1944, p. xiii. Nhóm thường tới cửa hàng sách của Sylvia Beach, Shakespeare & Co., tại 12 Phố Odéon (Rue de l'Odéon). Sau lần xuất bản năm 1922 và lệnh cấm của Mỹ đối với cuốn tiểu thuyết Ulysses của người đồng sự James Joyce, Hemingway đã nhờ những người bạn tại Toronto mang lén những bản sao của cuốn tiểu thuyết về Mỹ (Hemingway viết về cuộc gặp mặt và trò chuyện với Joyce tại Paris trong A Movable Feast). Cuốn sách đầu tiên của ông, có tên Three Stories and Ten Poems (tạm dịch: Ba câu chuyện và mười bài thơ) (1923), được xuất bản tại Paris bởi Robert McAlmon. Sau nhiều thành công với tư cách là thông tín viên nước ngoài, Hemingway trở lại Toronto, Canada năm 1923 và viết dưới bút danh Peter Jackson. Trong lần thứ hai sinh sống (stint living) tại Toronto, ông có người con trai đầu tiên. Cậu bé được đặt tên là John Hadley Nicanor Hemingway, nhưng sau đó được quen gọi là Jack. Hemingway đã đề nghị Gertrude Stein làm cha đỡ đầu của cậu. Cũng vào thời điểm đó, có những bất hòa gay gắt xảy ra giữa Hemingway và người biên tập của ông - Harry Hindmarsh, người tin rằng Hemingway đã trở nên tồi tệ trong thời gian ông sống ở nước ngoài.Dateline: Toronto, Foreword, pp xxv-xxvii, Charles Scribner Jr. Hindmarsh giao cho Hemingway những nhiệm vụ tầm thường (mundane assignments), khiến Hemingway thất vọng và ông quyết định viết đơn xin thôi việc vào tháng 12 năm 1923. Tuy nhiên, việc này không được chấp thuận, và Hemingway vẫn tiếp tục viết cho The Toronto Star nhưng không thường xuyên cho đến hết năm 1924. Hầu hết những bài mà Hemingway viết cho Star sau này được xuất bản trong tuyển tập Dateline: Toronto vào năm 1985. Sự nghiệp văn chương tại Mỹ của Hemingway bắt đầu với việc tập truyện ngắn Trong thời đại của chúng ta (tựa gốc: In Our Time) của ông được xuất bản (1925). Những đoản văn tạo nên các chương của phiên bản tại Mỹ (that now constitute the interchapters of the American version) ban đầu được xuất bản ở châu Âu với tựa in our time (1924). Tác phẩm này rất quan trọng đối với Hemingway, vì nó tái khẳng định với ông rằng văn phong cực kì đơn giản của ông vẫn có thể được chấp nhận bởi giới văn học. "Big Two-Hearted River"(tạm dịch: Dòng Sông Rộng Có Hai Tâm Hồn) là truyện nổi tiếng nhất của tuyển tập này. Vào tháng 4 năm 1925, hai tuần sau khi The Great Gatsby (tạm dịch: Gatsby Vĩ đại) được xuất bản, Hemingway đã gặp F. Scott Fitzgerald tại quán bar Dingo. Fitzgerald và Hemingway đã trở thành bạn thân ngay lần đầu gặp mặt, và từ đó họ thường xuyên uống rượu và trò chuyện cùng nhau. Thỉnh thoảng họ trao đổi cho nhau những bản thảo, cùng với đó Fitzgerald đã cố gắng rất nhiều để giúp công việc Hemingway tiến triển và đưa tuyển tập truyện đầu tiên của ông ra công chúng. Hemingway và vợ của Fitzgerald - Zelda tỏ ra không hề ưa nhau khi Zelda gọi Hemingway là một kẻ "đểu giả" (gốc: "phony"). Quan hệ vợ chồng Fitzgerald và Zelda xuất hiện những bất hòa trong thời gian này, và Zelda đã nói với Scott rằng đời sống tình dục của họ đã xuống dốc bởi vì ông là một kẻ đồng tính (gốc: "a fairy") và có quan hệ luyến ái với Hemingway. Chưa có bắng chứng rằng hai người là đồng tính, nhưng dù sao Scott đã quyết định ngủ với một người gái điếm để chứng minh mình là đàn ông thực sự. Những mối liên hệ của Hemingway ở Pháp tạo cảm hứng cho sự ra đời của cuốn tiểu thuyết dài đầu tiên, Mặt trời vẫn mọc (tựa gốc: The Sun Also Rises) (1926) (được xuất bản tại Vương Quốc Anh với tựa đề "Fiesta").Đây là một tiểu thuyết có tính chất nửa tự truyện, kể về một nhóm những người Mỹ xa xứ quanh Paris và Tây Ban Nha. Bối cảnh của truyện được đặt tại Pamplona, trong kì lễ hội. Tiểu thuyết trở nên nổi tiếng khắp châu Âu và Mỹ và nhận được nhiều lời khen trong giới phê bình. Hemingway ly dị với Hadley Richardson năm 1927 và cưới Pauline Pfeiffer, một người sùng đạo Thiên Chúa đến từ Piggott, Arkansas. Pfeiffer là một phóng viên thời trang không thường xuyên, làm xuất bản trong các tạp chí như Vanity Fair và Vogue. Hemingway cũng trở thành một tín đồ Thiên chúa giáo vào thời gian này. Đây là năm mà tuyển tập truyện ngắn Men Without Women] (tạm dịch: Đàn Ông Không Đàn Bà) được xuất bản, trong đó The Killers(tạm dịch: Những Kẻ Sát Nhân) là một trong những truyện ngắn nổi bật nhất và được chọn in nhiều lần nhất của ông. Năm 1928, Hemingway và Pfeiffer chuyển đến Key West, Florida, để bắt đầu một cuộc sống mới. Tuy nhiên, cuộc sống mới của họ sớm rạn nứt bởi bi kịch khác lại đến với cuộc đời ông. Năm 1928, cha Hemingway, Clarence, gặp rắc rối với bệnh tiểu đường (gốc: Diabetes mellitus) và tình trạng mất ổn định về tài chính, nên đã tự vẫn bằng một khẩu súng lục cũ từ thời Nội Chiến. Điều này khiến Hemingway đau đớn tột cùng và có vẻ đã được ông tái hiện qua chuyện cha của Robert Jordan tự tử trong cuốn tiểu thuyết Chuông nguyện hồn ai. Ông ngay lập tức tới Oak Park để làm lễ mai táng và gây ra tranh cãi khi nói rằng theo quan điểm Thiên chúa giáo, ông nghĩ cha ông sẽ phải xuống địa ngục. Cũng trong khoảng thời gian đó, Harry Crosby, người sáng lập Black Sun Press và một người bạn của Hemingway khi ông ở Paris, cũng quyết định tự tử. Cùng năm đó, người con trai thứ hai của Hemingway, Patrick, sinh ra ở Kansas City (người con trai thứ ba của ông, Gregory, ra đời vài năm sau đó). Cậu bé được sinh ra nhờ cách phẫu thuật (gốc: Caesarean section) do vợ ông bị khó sinh. Chi tiết của sự việc này đã xuất hiện trong phần cuối của Giã từ vũ khí. Hemingway sống và viết phần lớn tiểu thuyết Giã từ vũ khí và vài ba truyện ngắn ở nhà của cha mẹ Pauline tại Piggott, Arkansas. Nhà của Pfeiffer và Nhà của Carriage nay đã trở thành viện bảo tàng thuộc sở hữu của Đại học bang Arkansas. Được xuất bản năm 1929, Giã từ vũ khí (tựa gốc: A Farewell to Arms) kể lại chuyện tình lãng mạn giữa Frederic Henry,một sĩ quan Mỹ, và Catherine Barkley, một y tá Anh. Tiểu thuyết mang nặng tính tự truyện: cốt truyện lấy cảm hứng trực tiếp từ mối quan hệ của ông với Agnes von Kurowsky ở Milan; quá trình sinh con của Catherine lấy cảm hứng từ những cảm giác rất đau đớn của Pauline khi sinh ra Patrick; cuộc đời thực của Kitty Cannell là cảm hứng cho nhân vật Helen Ferguson; người linh mục dựa theo Don Giuseppe Bianchi, một linh mục trong trung đoàn thứ 69 và 70 của Brigata Ancona. Trong khi đó, cảm hứng về nhân vật Rinaldi khá mơ hồ, nhân vật này đã từng xuất hiện trong Trong thời đại của chúng ta. Giã từ vũ khí đã được xuất bản trong thời điểm mà những cuốn sách viết về Chiến tranh thế giới I khá nhiều, như Her Privates We của Frederic Manning, All Quiet on the Western Front của Erich Maria Remarque, Death of a Hero của Richard Aldington, và Goodbye to All That của Robert Graves. Sự thành công của Giã từ vũ khí giúp cho Hemingway ổn định hơn về tài chính. Key West Theo lời khuyên của John Dos Passos, Hemingway quay về Key West, Florida năm 1931, nơi ông tạo dựng cơ ngơi đầu tiên của ông tại Mỹ, mà nay đã được chuyển đổi thành một viện bảo tàng. Đây là một ngôi nhà bằng đá vôi khá vững chãi được xây năm 1851, là một món quà cưới từ người bác của Pauline. Từ khi sống ở đây, Hemingway thường câu cá tại vùng hồ Dry Tortugas cùng người bạn lâu năm của ông Waldo Pierce, tới quán bar nổi tiếng Sloppy Joe's và có dịp du lịch sang Tây Ban Nha, thu thập tài liệu cho cuốn Chết vào lúc xế trưa và Winner Take Nothing (Kẻ thắng chẳng được gì). Hơn 9 năm sau đó, đến tận khi cuộc hôn nhân của ông chấm dứt năm 1940, và tiếp đó, trong suốt những năm 50 của thế kỷ XX, cũng là những năm cuối cuộc đời, Hemingway đã thực hiện ước chừng 70% việc viết văn trong đời trong một phòng viết nhỏ tại tầng trên của một ga-ra ô tô được cải tạo, phía sau ngôi nhà này. Chết vào lúc xế trưa, một cuốn sách về đấu bò tót, được xuất bản năm 1932. Hemingway đã trở thành một "aficionado" của môn thể thao này sau khi chứng kiến lễ hội Pamplona năm 1925, đã được hư cấu trong Mặt trời vẫn mọc. Trong Chết vào lúc xế trưa, Hemingway luận bàn một cách bao quát về sự siêu hình của việc đấu bò: sự nghi thức hóa, gần như là hoạt động tôn giáo. Hemingway đã có ý định trở thành một người đấu bò và tỏ ra có thiên hướng qua nhiều novieros trước khi quyết định rằng nghiệp viết là cuộc sống của ông và là nghề nghiệp duy nhất phù hợp với ông. Trong thời kì viết văn của ông tại Tây Ban Nha, ông đã bị ảnh hưởng bởi bậc thầy người Tây Ban Nha Pío Baroja. Khi Hemingway được trao Giải Nobel, ông tới thăm Baroja. Bên giường bệnh, ông bảo với Baroja rằng ông nghĩ Baroja xứng đáng đạt giải thưởng này hơn mình. Baroja đã đồng ý và dường như một mối bất hòa giữa Hemingway với nhà văn này đã nảy sinh cho dù mục đích của ông cơ bản là tốt. Vào một cuộc đi săn trong mùa thu năm 1933, ông đã đến Mombasa, Nairobi, và Machakos ở Kenya, tiếp đó là Tanganyika. Ở đây, ông đã săn bắn trong Serengeti, quanh Hồ Manyara và vùng phía tây và đông nam của Công viên Quốc gia Tarangire ngày nay. Hemingway đã bị bệnh trong chuyến đi này. Vì thế, ông đã được chuyển tới Nairobi bằng máy bay, và trải nghiệm này đã được hư cấu trong tập truyện "The Snows of Kilimanjaro" (tạm dịch: Tuyết vùng Kilimanjaro) của ông. Năm 1935 đánh dấu sự xuất bản của Những ngọn đồi xanh châu Phi, miêu tả lại cuộc đi săn của ông. Các tác phẩm The Snows of Kilimanjaro và Hạnh phúc ngắn ngủi của Francis Macomber chính là những thành quả từ những trải nghiệm của nhà văn tại châu Phi. Trong chuyến đi này, người hướng dẫn cho Hemingway là Philip Hope Percival, người đã từng làm hướng dẫn cho Theodore Roosevelt vào chuyến đi săn năm 1909. Percival cũng hướng dẫn cho Hemingway vào cuộc đi săn tàn khốc năm 1954. Bimini Hemingway sống ở Bimini, Bahamas từ 1935 tới 1937, tại Khách sạn Compleat Angler. Ông làm việc cho To Have and Have Not và viết một số bài báo, nhưng phần lớn thời gian ông sống trên con thuyền Pilar của mình, để đánh bắt cá cờ, cá thu và cá kiếm ở vùng nước ngoài khơi xanh thẳm. Bimini đã gây ấn tượng với Hemingway qua những câu chuyện kể về những cuộc đánh bắt cá phi thường vốn có tại Gulf Stream, "dòng sông" huyền thoại vùng nước ấm chảy qua mạn bắc Bahamas. Nội chiến Tây Ban Nha Năm 1936, Hemingway tới Tây Ban Nha làm phóng viên về Nội chiến Tây Ban Nha cho tờ North American Newspaper Alliance (Liên Minh Báo chí Bắc Mỹ). Trong khi ở đó, tình bạn giữa Hemingway và John Dos Passos đã đổ vỡ, bởi bất chấp những sự cảnh báo, Dos Passos tiếp tục đưa tin về những hành động tàn bạo không chỉ của những người chủ nghĩa dân tộc phát-xít mà Hemingway căm thù, mà cả của những nhà cầm quyền cánh tả Đảng Cộng Hòa mà Hemingway ủng hộ; thậm chí, Hemingway còn phổ biến một câu chuyện về Dos Passos, rằng ông này đã trốn sang Tây Ban Nha vì hèn nhát. Trong bối cảnh này, một người đồng nghiệp và cộng tác với Hemingway là Herbert Matthews, người sau này đã trở nên nổi tiếng qua những phóng sự về Fidel Castro, đã bày tỏ sự ủng hộ của mình đối với phe Cộng hòa giống như Hemingway. Hemingway đã chuyển sang theo đạo Thiên Chúa khi chung sống với người vợ Pauline và tôn giáo trở thành một vấn đề đối với ông trong thời gian này, đến mức ông muốn rời bỏ Giáo hội (tuy nhiên những người bạn của ông nhận thấy rằng ông có những ràng buộc khá buồn cười với Thiên Chúa giáo trong phần còn lại của cuộc đời). Chiến tranh cũng đã gây ra căng thẳng với cuộc sống hôn nhân của ông. Pauline Pfieffer là một tín đồ Công giáo và vì thế bà đứng về phe phát-xít, chính quyền thân Công giáo của Franco, trong khi thông qua những lời bình phẩm của Hemingway, ông lại tỏ ra ủng hộ chính phủ Cộng hòa. Suốt thời kì này, Hemingway đã viết một bài luận ít được biết đến mang tên The Denunciation (Sự tố cáo), mà tới tận năm 1969 mới được xuất bản, trong một tuyển tập là Fifth Column and Four Stories of the Spanish Civil War. Câu chuyện dường như mang tính tự truyện, chỉ ra rằng Hemingway từng là người đưa tin cho Đảng Cộng hòa cũng như một hướng dẫn viên về vũ khí trong chiến tranh. Cuộc sống của Hemingway thời kì này còn bị ảnh hưởng bởi một số vấn đề về sức khỏe: nhiễm bệnh thán thư (anthrax), phải đi phẫu thuật mắt, bị thương ở trán, bị cúm, đau răng, trĩ, gặp rắc rối về thận lúc đi đánh cá, rách cơ vùng bẹn, gãy ngón tay khi tập đấm bốc, cùng các vết rách trên tay, chân và mặt trong khi phi ngựa qua vùng rừng Wyoming, và bị gãy tay trong một tai nạn ô tô. First Forty-Nine Stories Vào năm 1938 – cùng với vở kịch dài duy nhất của ông, mang tựa đề The Fifth Column—49 tựa truyện đã được xuất bản trong tuyển tập The Fifth Column and the First Forty-Nine Stories. Trong lời đề tựa, Hemingway đã dự định viết nhiều hơn thế nữa. Nhiều truyện trong tuyển tập có thể tìm thấy trong các tuyển tập khác, bao gồm Trong thời đại của chúng ta, Men Without Women, Winner Take Nothing, và The Snows of Kilimanjaro. Một số truyện đặc sắc của tuyển tập này là Old Man at the Bridge (tạm dịch: Ông Già Trên Cây Cầu), On The Quai at Smyrna, Hills Like White Elephants (tạm dịch: Những Ngọn Đồi Như Những Con Voi Trắng), One Reader Writes (tạm dịch: Một Độc Giả Viết), The Killers và A Clean, Well-Lighted Place (tạm dịch: Một Nơi Sạch Sẽ, Sáng Sủa). Bên cạnh những truyện ngắn này, cuốn sách cũng bao gồm một số truyện dài hơn, trong số đó có The Snows of Kilimanjaro và Hạnh phúc ngắn ngủi của Francis Macomber. Chuông nguyện hồn ai Vào mùa xuân năm 1939, Francisco Franco và những người Đảng Dân tộc đánh bại những người Đảng Cộng hòa, kết thúc Nội chiến Tây Ban Nha. Hemingway mất đi mảnh đất quê hương được thừa kế vào tay bè đảng phát-xít của Franco, và tiếp đó mất đi ngôi nhà thân yêu ở [[Key West, Florida]] do cuộc ly hôn năm 1940.Ít tuần sau cuộc ly hôn, ông cưới người bạn gái mà ông quen tại Tây Ban Nha từ bốn năm trước, đó là Martha Gellhorn, người vợ thứ ba của ông. Tiểu thuyết Chuông nguyện hồn ai (For Whom the Bell Tolls) được xuất bản vào năm 1940, đoạt Giải Pulitzer cho tác phẩm hư cấu năm 1941. Nó được viết năm 1939 tại Cuba và Key West, hoàn thành vào tháng 7 năm 1940. Tác phẩm dài này lấy bối cảnh là Cuộc nội chiến Tây Ban Nha, được viết dựa theo những sự kiện có thật, kể về một nhân vật người Mỹ tên Robert Jordan chiến đấu với những người lính Tây Ban Nha theo phe Cộng Hòa. Phần lớn tiểu thuyết là dựa theo những trải nghiệm về cuộc sống tại Tây Ban Nha và về thời kì làm phóng viên chiến trường. Tác phẩm được coi là một trong những thành quả văn chương nổi bật của ông. Chiến tranh thế giới II Hoa Kỳ tham gia Chiến tranh thế giới II vào ngày 8 tháng 12 năm 1941, và lần đầu tiên trong cuộc đời mình, Hemingway tham gia chiến đấu trong hàng ngũ hải quân. Chu du trên con tàu Pilar, mà bây giờ là một Q-Ship, đội của Hemingway được giao nhiệm vụ đánh chìm những chiếc tàu ngầm Đức đang đe dọa giao thông hàng hải ngoài khơi Cuba và Hoa Kỳ. Sau khi FBI tiếp quản công tác phản gián tại Caribbean, ông tới châu Âu với công việc phóng viên chiến tranh cho tạp chíCollier's. Ở đó, Hemingway đã chứng kiến cuộc đổ bộ D-Day từ một tàu đổ bộ (LCVP, landing craft, vehicle, personel), mặc dù ông không được phép lên bờ. Tiếp đó, ông trở nên tức giận khi lúc đó vợ ông, Martha Gellhorn – một người phóng viên chiến tranh hơn là một người vợ – đã xoay xở để lên bờ rạng ngày hôm mồng 7 tháng 6 với một bộ đồng phục y tá, sau khi bà vượt qua Đại Tây Dương tới Anh trong một con tàu chất đầy thuốc nổ. Hemingway đóng vai một sĩ quan liên lạc không chính thức tại Château de Rambouillet (Lâu đài Rambouillet). Sau chiến tranh, Hemingway bắt đầu viết The Garden of Eden (Vườn Địa Đàng). Tác phẩm tuy chưa được hoàn thành nhưng một bản tóm lược về nó được xuất bản năm 1986 sau khi ông qua đời. Có một giai đoạn, ông lập kế hoạch viết một bộ ba tác phẩm chính gồm có "The Sea When Young"(tạm dịch: Biển Khi Còn Trẻ), "The Sea When Absent"(tạm dịch: Biển Khi Thẫn Thờ) và "The Sea in Being"(tạm dịch: Biển Sống) (cuốn thứ ba rốt cuộc cũng được xuất bản vào năm 1952 với tựa đề Ông già và biển cả). Ông đã dành thời gian trong một thị trấn nhỏ của Italy tên là Acciaroli (cách Napoli khoảng 136 km về phía nam). Cũng có một truyện "dính đến biển" nữa (từ gốc: Sea-Chase); ba mẩu chuyện này đã được biên tập và kết dính với nhau thành một cuốn tiểu thuyết được xuất bản sau khi ông qua đời Islands in the Stream (1970). Mới 4 năm sau ly dị với Gellhorn, Hemingway đã cưới phóng viên chiến tranh Mary Welsh Hemingway, người ông đã gặp ở hải ngoại năm 1944. Ông đã trở lại Cuba, và vào 1945 tại Đại sứ quán Liên Xô, ông đã trở thành nhân chứng công khai cho phe ly khai Rolando Masferrer trong nội bộ Đảng cộng sản Cuba. Sau Chuông nguyện hồn ai, cuốn tiểu thuyết tiếp theo của Hemingway là Across the River and into the Trees (Qua Dòng Sông và vào trong Cánh Rừng) (1950), với bối cảnh Venice hậu chiến tranh thế giới II. Ông lấy tựa bắt nguồn từ những lời cuối cùng của tướng Liên bang trong cuộc Nội chiến Mỹ Stonewall Jackson. Phải lòng một cô gái trẻ người Italy (Adriana Ivancich) vào thời điểm đó, Hemingway đã viết Across the River and into the Trees giống như một mối tình lãng mạn giữa Colonel Cantwell, một chàng trai bị chiến tranh làm cho kiệt quệ (dựa theo nguyên mẫu một người bạn của ông, Colonel Charles Lanham) và cô gái trẻ Renata (lấy theo nguyên mẫu Adriana; "Renata" đồng âm với "rinata", có nghĩa là 'tái sinh" theo tiếng Italy). Tiểu thuyết nhận được những phê bình không tốt, nhiều trong số đó cho rằng Hemingway viết thật vô vị, văn phong lạc lõng và ủy mỵ quá mức; tuy nhiên cũng có những nhà phê bình không đồng ý với quan điểm này. Những năm sau đó Một phần của bộ ba tác phẩm về biển được xuất bản với tựa Ông già và biển cả năm 1952. Cuốn tiểu thuyết ngắn này là một thành công lớn, về cả mặt thương mại lẫn phê bình, khiến Hemingway thật sự hài lòng và mãn nguyện. Nhờ tác phẩm này, ông được nhận Giải thưởng Pulitzer năm 1953. Một năm sau đó, ông đạt Giải Nobel Văn học. Lúc nhận giải thưởng này, ông đã bày tỏ rằng ông thực sự hạnh phúc, nhưng còn hạnh phúc hơn nữa... nếu như giải thưởng được trao cho nhà văn Isak Dinesen. Lấy từ The New York Times Book Review, 7 tháng 11 năm 1954. Những giải thưởng này đã giúp ông phục hồi danh tiếng của mình trên thế giới. Trong một cuộc đi săn, ông đã bị thương nặng sau hai tai nạn máy bay liên tiếp; ông bị bong gân vai - tay bên phải và chân trái, bị chấn động mạnh, mắt trái ông bị mất thị lực tạm thời đồng thời mất khả năng nghe ở tai trái, bị liệt xương sống, một đốt sống bị vỡ, gan, lá lách và thận bị tổn thương, mặt, tay và chân ông bị bỏng cấp độ một. Một số tờ báo tại Mỹ nghĩ rằng ông đã bị sát hại nên đã mắc sai lầm khi đăng cáo phó cho Hemingway. Hemingway đã bị thương nặng một tháng sau đó trong một vụ hỏa hoạn làm cho chân, thân trên phía trước, môi, bàn tay trái và cánh tay phải của ông bị bỏng cấp độ hai. Vết thương để lại cho ông nỗi đau đớn kéo dài, và ông không thể tới Stockholm để nhận giải Nobel. Một tia hi vọng le lói xuất hiện khi ông tìm lại một số bản thảo cũ của mình từ hồi 1928 trong những hầm chứa Ritz. Đó chính là bản thảo mà ông sử dụng để viết Hội hè miên man. Mặc dù sức khỏe của ông có được phục hồi đôi chút, nhưng chính chứng nghiện rượu đã kéo ông đi xuống. Huyết áp và lượng cholesterol ở mức nguy hiểm, ông đau đớn vì bị viêm động mạch chủ, và suy nhược ngày một trầm trọng vì nghiện rượu. Tuy nhiên, tháng 10 năm 1956, Hemingway đã kịp lấy lại sức khỏe để tới Madrid và tham dự lễ tang Pío Baroja, một trong số những nhà văn gây ảnh hưởng tới Hemingway. Sau khi cuộc cách mạng tại Cuba diễn ra và tướng Fulgencio Batista bị trục xuất năm 1959, việc tài sản thuộc sở hữu của ngoại quốc bị tước đoạt khiến cho nhiều người Mỹ phải trở lại Tổ quốc. Hemingway quyết định ở lại thêm một thời gian nữa. Có thể nói theo cách thông thường, ông vẫn gìn giữ một mối quan hệ tốt đẹp với Fidel Castro và đã từng tuyên bố ủng hộ cuộc cách mạng này, và chúc Castro "luôn may mắn" ("all luck") khi điều hành đất nước. Tuy nhiên xung đột giữa Hemingway và Fidel Castro đã tồn tại từ trước năm 1948. Hemingway bị FBI giám sát trong suốt Chiến tranh thế giới II (rất có thể vì sự hợp tác lâu năm giữa ông và những nhân vật theo chủ nghĩa Marx kì cựu thời Nội Chiến Tây Ban Nha, những người đã hoạt động trở lại tại Cuba) và quá trình ông cư trú và hoạt động tại Cuba sau đó. Năm 1960, ông rời xa hòn đảo và Finca Vigía, điền trang của ông ở bên ngoài Havana mà ông đã làm chủ trong hơn hai mươi năm. Quan chức Cu-ba coi những tài sản trên của ông giờ thuộc quyền ở hữu của chính phủ Cu-ba, và sẽ được chuyển làm bảo tàng để tưởng nhớ ông. Năm 2001, tập đoàn du lịch nhà nước Cu-ba, El Gran-Caribe SA, bắt đầu cấp phép cho chuỗi nhà hàng quốc tế La Bodeguita del Medio hoạt động chủ yếu dựa vào nhà hàng ở Havana nơi Hemingway thường xuyên lui tới. Vào tháng 2 năm 1960, Ernest Hemingway không thể chuyển câu chuyện kể về đấu bò mang tựa đề The Dangerous Summer tới nhà xuất bản. Bởi vậy ông đã nhờ Mary vợ mình mời người bạn của ông, Will Lang Jr. chủ tịch tòa soạn (bureau head) Life Magazine, rời Paris và tới Tây Ban Nha. Hemingway thuyết phục Lang cho phép in bản thảo này, cùng với một bức ảnh. Mặc dù chẳng có từ nào liên quan đến tấm ảnh trong bài viết, lời đề nghị đã được chấp thuận. Phần đầu của câu chuyện được đăng trên Life Magazine ngày 5 tháng 9 năm 1960, và sau đó là các phần còn lại đã rất thành công và nhận được sự quan tâm của độc giả. Những bức ảnh trong bài báo The Dangerous Summer (Mùa hè nguy hiểm) đã khiến ông ngã bệnh và phải chuyển tới Ketchum, Idaho để điều trị cao huyết áp và viêm gan. Trên thực tế, có thể chính điều này đã nhanh chóng đẩy ông nghĩ đến việc tự tử, kể từ khi có tin ông bị mất trí nhớ sau những phiên sốc điện. Ông cũng trở nên hốc hác hơn trước, với thân hình cao 6-foot (183 cm) nhưng cân nặng chỉ có 170 pound (77 kg, 12st 2 lb). Tự sát Hemingway đã dự định tự sát vào mùa xuân 1961, và tiếp tục được chữa trị bằng liệu pháp sốc điện (Electroconvulsive therapy, ETC). Vào buổi sáng ngày 2 tháng 7 năm 1961, vài ba tuần trước sinh nhật lần thứ 62 của mình, ông đã chết tại nhà riêng tại Ketchum, Idaho, sau khi tự nã đạn vào đầu mình bằng một khẩu súng săn (shotgun). Chưa được phán xét chịu trách nhiệm về mặt tinh thần đối với hành động cuối cùng này, ông được mai táng tại một nghĩa trang của đạo Thiên chúa La Mã. Người ta tin rằng Hemingway đã mua khẩu súng săn của Boss & Co., khẩu súng mà ông dùng để tự sát, tại Abercrombie & Fitch - sau này là một nhà bán lẻ các đồ dùng phục vụ dã ngoại và nhà cung cấp các loại súng cầm tay. Đó là một vụ tự sát thực sự khủng khiếp, ông đặt báng của khẩu súng săn hai nòng trên sàn của tiền sảnh nhà mình, tựa trán mình lên hai họng súng rồi kéo cò. Nhân viên điều tra theo yêu cầu của gia đình đã không tiến hành khám nghiệm tử thi. Những người gần gũi nhất trong gia đình của Hemingway cũng quyết định tự sát, gồm có cha của ông, Clarence Hemingway, chị em gái của ông Ursula và Leicester, cô cháu gái Margaux Hemingway. Một số tin rằng một vài thành viên trong dòng họ Hemingway nhiễm một bệnh di truyền mang tên haemochromatosis (một dạng bệnh tiểu đường - bronze diabetes), trong đó một sự dư thừa về tập trung sắt trong máu gây tổn thương tuyến tụy và cũng gây ra sự suy nhược hay bất ổn định trong não bộ. Cha của Hemingway đã phát bệnh haemochromatosis trong thời gian trước khi ông tự sát ở tuổi năm mươi chín. Suốt cuộc đời mình, Hemingway là một người nghiện rượu nặng, và không thể kháng cự chứng nghiện rượu (alcoholism) trong những năm tiếp đó. Hemingway có thể đã rất đau đớn vì rối loạn thần kinh, và rồi được chữa trị bằng liệu pháp sốc điện (electroshock therapy) tại Mayo Clinic. Sau đó ông đổ lỗi cho những phiên ETC đã gây nên việc mất trí nhớ của mình - cũng là một lý do khiến ông không muốn sống nữa. Hemingway yên nghỉ tại một nghĩa trang ở phía bắc thị trấn Ketchum, Idaho. Một bia tưởng niệm đã được dựng năm 1966 tại một địa điểm khác, nhìn ra Trail Creek, phía bắc Ketchum. Trên đó có khắc một bài thơ chúc tụng Hemingway viết tặng một người bạn của ông, Gene Van Guilder: Để tưởng nhớ tình yêu mà Hemingway dành cho Idaho và vùng ngoại vi nơi đây, Lễ Ernest Hemingway được tổ chức hàng năm tại Ketchum và Sun Valley vào cuối tháng 9 với sự góp mặt của những nhà nghiên cứu, một buổi diễn thuyết dành cho người được trao Giải thưởng PEN/Hemingway và nhiều sự kiện khác, bao gồm những tour tham quan di tích lịch sử, những đêm open mic và một bữa tối từ thiện tại nhà của Hemingway tại Warm Springs mà nay Ủy ban bảo vệ tự nhiên tại Ketchum đang bảo quản. Di sản Hemingway viết nhiều thư, năm 1981, phần nhiều trong số chúng được Scribner cho in thành sách với nhan đề Ernest Hemingway Selected Letters (Tuyển tập thư Hemingway). Cuốn sách đã vấp phải phản ứng trái chiều vì Hemingway trước đó đã không muốn cho xuất bản những bức thư của mình. Những bức thư khác in trong một cuốn sách tập hợp các bức thư mà ông từng trao đổi với biên tập viên của mình Giờ đây một dự án nhằm xuất bản hàng ngàn bức thư mà Hemingway viết khi ông còn sống đang được tiến hành. Dự án được thực hiện với sự hợp tác của Đại học bang Pennsylvania và Quỹ Ernest Hemingway. Sandra Spanier, giáo sư tiếng Anh - vợ ngài hiệu trưởng Đại học Pennsylvania Graham Spanier, đóng vai trò là tổng biên tập của tổng tập này. Hemingway vẫn tiếp tục sáng tác cho tới khi ông mất; hầu hết các tác phẩm đơn lẻ của ông được in sau khi ông qua đời; bao gồm Hội hè miên man, Islands in the Stream, The Nick Adams Stories (vài phần của tác phẩm này chưa được xuất bản trước đó), The Dangerous Summer, và The Garden of Eden (tạm dịch: Vườn địa đàng). Các thông tin về các tác phẩm của Hemingway sau khi ông mất được lấy từ lời đề tựa của Charles Scribner, Jr cho cuốnThe Garden of Edenin năm 1987. Trong lời tựa cho cuốn Islands in the Stream, Mary Hemingway cho biết bà đã cùng với Charles Scribner, Jr. để "chuẩn bị xuất bản các tác phẩm từ bản thảo gốc của Ernest". Bà cũng cho biết "ngoài việc vẫn thường làm là sửa lỗi chính tả và dấu câu, chúng tôi cũng cắt một số chỗ trong bản thảo, tôi cảm thấy chắc chắn rằng nếu còn sống ông ấy cũng sẽ làm vậy. Tất cả nội dung cuốn sách vẫn là của Ernest. Chúng tôi không hề thêm thắt gì cả". Còn một số tranh cãi xung quanh việc xuất bản những tác phẩm này, cho rằng không cần thiết phải có sự quyết định của người thân Hemingway hay các nhà xuất bản đối với việc có hay không đưa những tác phẩm này ra công chúng. Ví dụ, một số học giả phản đối việc tác phẩm The Garden of Eden (Vườn địa đàng) được Charles Scribner's Sons xuất bản năm 1986, mặc dù chắc chắn là nguyên bản của Hemingway, nhưng bị cắt mất hai phần ba so với bản thảo. Ảnh hưởng và di sản Ảnh hưởng của văn phong Hermingway tới văn học Mỹ thực sự rất lớn và vẫn còn cho đến ngày nay. James Joyce gọi "A Clean, Well Lighted Place" là "một trong số những truyện hay nhất từng được viết". (Truyện này cũng đã ảnh hưởng tới Edward Hopper's thông qua nhiều bức vẽ nổi tiếng của ông, mà nổi bật nhất là "Nighthawks)." Hunter S. Thompson thường so sánh mình với Hemingway, và có thể tìm thấy những câu văn ngắn gọn kiểu Hemingway trong tiểu thuyết đầu tay của ông, The Rum Diary. Gia đình Cha mẹ Cha: Clarence Hemingway. Sinh ngày 2 tháng 9 năm 1871, mất ngày 6 tháng 12 năm 1928 Mẹ: Grace Hall Hemingway. Sinh ngày 15 tháng 6 năm 1872, mất ngày 28 tháng 6 năm 1951 Anh chị em ruột Marcelline Hemingway. Sinh ngày 15 tháng 1, 1898, mất ngày 9 tháng 12 năm 1963 Ursula Hemingway. Sinh ngày 29 tháng 4 năm 1902, mất ngày 30 tháng 10 năm 1966 Madelaine Hemingway. Sinh ngày 28 tháng 11 năm 1904,mất ngày 14 tháng 11 năm 1995 Carol Hemingway. Sinh ngày 19 tháng 7 năm 1911, mấtt ngày 27 tháng 10 năm 2002 Leicester Hemingway. Sinh ngày 1 tháng 4 năm 1915, mất ngày 13 tháng 9 năm 1982 Người trong gia đình Elizabeth Hadley Richardson. Cưới ngày 3 tháng 9 năm 1921, ly hôn ngày 4 tháng 4 năm 1927. Con trai, John Hadley Nicanor "Jack" Hemingway (còn gọi là Bumby). Sinh ngày 10 tháng 10 năm 1923, chết ngày 1 tháng 12 năm 2000. Cháu gái, Joan (Muffet) Hemingway Cháu gái, Margaux Hemingway. Sinh ngày 16 tháng 2 năm 1954, chết ngày 2 tháng 7 năm 1996 Cháu gái, Mariel Hemingway. Sinh ngày 22 tháng 11 năm 1961 Pauline Pfeiffer. Cưới ngày 10 tháng 5 năm 1927, ly hôn ngày 4 tháng 11 năm 1940. Con trai, Patrick. Sinh ngày 28 tháng 6 năm 1928. Cháu gái, Mina Hemingway Con trai, Gregory Hemingway (được Hemingway gọi là 'Gig'; sau đó được ông gọi là 'Gloria'). Sinh ngày 12 tháng 11 năm 1931, chết ngày 1 tháng 10 năm 2001. Các cháu, Patrick, Edward, Sean, Brendan, Vanessa, Maria, John Hemingway và Lorian Hemingway Martha Gellhorn. Cưới ngày 21 tháng 11 năm 1940, ly hôn ngày 21 tháng 12 năm 1945. Mary Welsh. Cưới ngày 14 tháng 3 năm 1946. Vào 19 tháng 8 năm 1946, bà bị sẩy thai do thụ thai ngoài dạ con. Những giải thưởng, vinh danh Trong suốt cuộc đời mình, Hemingway đã được nhận các giải thưởng sau: Silver Medal of Military Valor (Huân chương Bạc cho Lòng dũng cảm trong Chiến đấu) (medaglia d'argento) trong Chiến tranh thế giới I; Bronze Star Medal (Huân Chương Sao Đồng) (cho Phóng viên quân đội không chính quy trong Chiến tranh thế giới II), 1947; Giải Cống hiến của Học viện Văn học - Nghệ thuật Hoa Kỳ, 1954; Giải Pulitzer trong hạng mục hư cấu cho Ông già và biển cả, năm 1953; Giải Nobel Văn học cho những cống hiến văn học trọn đời của ông, năm 1954; Hai huy chương cho đấu sĩ bò tót. Một tiểu hành tinh, được tìm ra năm 1978 tại Liên bang Soviet bởi nhà thiên văn học Nikolai Stepanovich Chernykh, được đặt theo tên của ông — 3656 Hemingway. Vào 17 tháng 7 năm 1989, Sở Bưu chính Hoa Kỳ phát hành một loại tem bưu chính mệnh giá 25-cent để vinh danh Hemingway. Các tác phẩm Đây là danh sách các tác phẩm của Ernest Hemingway (1899 - 1961). Danh sách này bao gồm các tiểu thuyết, truyện ngắn và truyện có thật cũng như các chương trình truyền hình và phim ảnh có sử dụng tác phẩm của ông. Các tác phẩm đã được dịch sang tiếng Việt có tựa Tiếng Việt được để trong ngoặc kép bên cạnh tên tựa gốc, trong khi các tác phẩm khác có tựa tạm dịch bởi người viết và không để trong ngoặc kép để tiện tra cứu. Tác phẩm Tiểu thuyết (1926) The Torrents of Spring (1926) The Sun Also Rises (Mặt trời vẫn mọc) (1929) A Farewell to Arms (Giã từ vũ khí) (1937) To Have and Have Not (Có và không có) (1940) For Whom the Bell Tolls (Chuông nguyện hồn ai) (1950) Across the River and Into the Trees (Bên con sông và dưới vòm lá cây) (1952) The Old Man and the Sea (Ông già và biển cả) (1970) Islands in the Stream (1986) The Garden of Eden (Vườn địa đàng) (1999) True at First LightTuyển tập (1923) Three Stories and Ten Poems (1925) In Our Time (Trong thời đại chúng ta) (1927) Men Without Women (Đàn ông không có đàn bà) (1933) Winner Take Nothing (Kẻ thắng chẳng được gì) (1936) The Snows of Kilimanjaro (Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro) (1938) The Fifth Column and the First Forty-Nine Stories (1969) The Fifth Column and Four Stories of the Spanish Civil War (1972) The Nick Adams Stories (1987) The Complete Short Stories of Ernest Hemingway (1995) Everyman's Library: The Collected StoriesHợp tuyển - biên tập bởi Hemingway Men at WarTruyện có thật (1932) Death in the Afternoon (Chết vào lúc xế trưa) (1935) Green Hills of Africa (Những ngọn đồi xanh châu Phi) (1962) Hemingway, The Wild Years (1964) A Moveable Feast (Hội hè miên man) (1967) By-Line: Ernest Hemingway (1970) Ernest Hemingway: Cub Reporter (1981) Ernest Hemingway Selected Letters (1985) The Dangerous Summer (Mùa hè nguy hiểm) (1985) Dateline: Toronto (1999) Hemingway on Writing (2000) Hemingway on Fishing (2003) Hemingway on Hunting (2003) Hemingway on War (2005) Under Kilimanjaro (2008) Hemingway on ParisKịch sân khấu (1961) A Short Happy Life (1967) The Hemingway Hero (working title was: Of Love and Death) Phóng tác Chương trình truyền hình (1958) Scouting on Two Continents, by Frederick Russell Burnham (not completed) (1959) For Whom the Bell Tolls (1959) The Killers (CBS Buick Electra Playhouse) (1960) The Fifth Column (1960) The Snows of Kilimanjaro (1960) The Gambler, The Nun and the Radio (1960) After the Storm (not completed) Phim ảnh Mỹ/Liên hiệp Anh (1932) A Farewell to Arms (starring Gary Cooper) (1943) For Whom the Bell Tolls (Gary Cooper/Ingrid Bergman) (1944) To Have and Have Not (Humphrey Bogart/Lauren Bacall) (1946) The Killers (starring Burt Lancaster) (1947) The Macomber Affair (1950) The Breaking Point (1952) The Snows of Kilimanjaro (starring Gregory Peck) (1957) A Farewell to Arms (starring Rock Hudson) (1957) The Sun Also Rises (starring Tyrone Power) (1958) The Old Man and the Sea (starring Spencer Tracy) (1962) Hemingway's Adventures of a Young Man (1964) The Killers (starring Lee Marvin) (1965) For Whom the Bell Tolls (1977) Islands in the Stream (starring George C. Scott) (1984) The Sun Also Rises (1990) The Old Man and the Sea (starring Anthony Quinn) (1996) In Love and War (starring Chris O'Donnell) (1999) The Old Man and the Sea''
Graham Henry Greene (2 tháng 10 năm 1904 – 3 tháng 4 năm 1991) là tiểu thuyết gia người Anh. Ông sinh tại Berkhamsted, Hertfordshire, Anh quốc, là con của một hiệu trưởng, và theo học Đại học Oxford. Ông làm việc cho tờ báo London Times trong giai đoạn 1926-1929 rồi hành nghề ký giả tự do. Năm 1935, ông nhận chân điểm phim cho tờ Spectator, và đến in 1940 nhận chân chủ bút văn học. Trong thời gian 1942-1943, ông phục vụ Bộ Ngoại giao Anh ở miền đông châu Phi. Sau Thế chiến thứ Hai (1939-1945), ông đi đến nhiều nơi. Graham Greene khởi đầu sự nghiệp văn chương với những sách thuộc loại "giải trí" vì thuộc thể loại hành động, như truyện gián điệp. Dần dà, ông mới chuyển qua thể loại "tiểu thuyết," nổi tiếng nhất là The quiet American (Người Mỹ trầm lặng - 1955), gần đây được dựng thành phim hợp tác với điện ảnh Việt Nam. Ông cũng viết một kịch bản dành riêng cho phim truyện, và một số tác phẩm cho trẻ em. Graham Greene có xu hướng viết về những đấu tranh tâm linh trong một thế giới đang mục rữa. Tác phẩm của ông có đặc tính đi vào chi tiết sống động, và lấy bối cảnh đa dạng ở nhiều nơi (México, châu Phi, Haiti, Việt Nam), miêu tả nhiều nhân vật sống dưới những áp lực khác nhau về xã hội, chính trị hoặc tâm lý. Tác phẩm cuối cùng, A world of my own: A dream diary (1994), được viết trong những tháng cuối cùng trong cuộc đời của tác giả, có tính nửa hư cấu nửa tự thuật dựa trên 800 trang tác giả ghi lại qua 24 năm. Graham Greene được trao Giải Jerusalem năm 1981. Tác phẩm Tiểu thuyết The Man Within (1929) The Name of Action (1930) Rumour at Nightfall (1931) Stamboul Train (1932) It's a Battlefield (1934) England Made Me (1935) A Gun for Sale (1936) Brighton Rock (1938) The Confidential Agent (1939) The Power and the Glory (1940) The Ministry of Fear (1943) The Heart of the Matter (1948) The Third Man (Người thứ ba, 1949), truyện vừa The End of the Affair (Kết thúc một chuyện tình, 1951) The Quiet American (Người Mỹ trầm lặng, 1955) Loser Takes All (1955) Our Man in Havana (1958) A Burnt-Out Case (1960) The Comedians (1966) Travels with My Aunt (Những chuyến đi cùng dì, 1969) The Honorary Consul (1973) The Human Factor (1978) Doctor Fischer of Geneva (1980) Monsignor Quixote (1982) The Tenth Man (Người thứ mười, 1985) The Captain and the Enemy (1988) Tuyển tập truyện ngắn The Bear Fell Free (1935) Twenty-One Stories (21 truyện ngắn, 1954) A Visit to Morin (1960) A Sense of Reality (1963), 4 truyện ngắn May We Borrow Your Husband? (1967), 12 truyện ngắn Collected Stories (Tuyển tập truyện ngắn, 1973) How Father Quixote Became a Monsignor (1980) The Last Word and Other Stories (1990), 12 truyện ngắn The Complete Short Stories (Toàn tập truyện ngắn, 2005) No Man's Land (2005) Du kí Journey Without Maps (1936) The Lawless Roads (1939) In Search of a Character: Two African Journals (1961) A Weed Among the Flowers (1990), xuất bản bởi Sylvester & Orphanos Biên kịch The Future's in the Air (1937) The New Britain (1940) 21 Days (21 ngày, 1940) (chuyển thể từ The First and The Last của John Galsworthy) Brighton Rock (1947) (chuyển thể từ cuốn sách cùng tên do ông sáng tác) The Fallen Idol (1948) The Third Man (1949) Loser Takes All (1956) Saint Joan (Nữ thánh Joan, 1957) (chuyển thể từ Nữ thánh Joan của George Bernard Shaw) Our Man in Havana (1959) The Comedians (1967) Kịch The Great Jowett (1939) [radio play] The Living Room (1953) The Potting Shed (1957) The Complaisant Lover (1959) Carving a Statue (1964) The Return of A.J. Raffles (1975) Yes and No (Có và không, 1980) For Whom the Bell Chimes (1980) Sách thiếu nhi The Little Train (Con tàu nhỏ, 1946) The Little Fire Engine (1950) The Little Horse Bus (1952) The Little Steamroller (1955) Tự truyện A Sort of Life (1971) Ways of Escape (1980) Getting to Know the General: The Story of an Involvement (1984) A World of My Own: A Dream Diary (1992)
Stephen King (sinh ngày 21 tháng 9 năm 1947) là nhà văn người Mỹ thiên về thể loại kinh dị hoặc giả tưởng rất được tán thưởng khắp thế giới, đặc biệt với mô-típ biến đổi những tình huống căng thẳng bình thường thành hiện tượng khiếp đảm. Những cốt truyện kinh dị và lối viết đa dạng của King đã giúp giới phê bình chấp nhận thể loại kinh dị giả tưởng là một thành phần của nền văn học trong thế kỷ 20. Cuối năm 2006, tổng số sách ông đã bán có khoảng 350 triệu cuốn. Tiểu sử Sinh năm 1947 tại Portland, Maine, Stephen King viết truyện đầu tay vào năm lên 7 và bán bản quyển đầu tiên năm 18 tuổi. Ông nhận bằng bằng thạc sĩ tại Đại học Maine, Orono vào năm 1970. Nhiều tác phẩm của King đã được dựng thành phim, như Carrie (1976), The Shining (1980), Misery (1990), The Shawshank Redemption (1994), The Green Mile (1999)... Stephen King là người đi tiên phong trong việc xuất bản "sách điện tử" (e-book) trên mạng internet. Ông đã đoạt nhiều giải thưởng văn học, kể cả giải Hugo cho tác phẩm Danse Macabre (1980) và Giải thưởng Tưởng niệm O. Henry cho truyện ngắn The Man in the Black Suit (1994). Tác phẩm mới nhất của ông là Lisey's Story, đã đạt mức bán chạy nhất nhiều tuần liền. Hầu hết tất cả các tác phẩm của ông khi tung ra đều đạt mức bán chạy nhất, nhưng có người gọi ông chỉ là một kẻ "viết truyện rùng rợn", như một cách chê bai thể loại văn học bình dân. Tác phẩm Tiểu thuyết Tuyển tập truyện Phi hư cấu Danse Macabre (1981), khảo luận Nightmares in the Sky (Cơn ác mộng trên bầu trời, 1988) On Writing: A Memoir of the Craft (Về việc viết, 2000), tự truyện Secret Windows: Essays and Fiction on the Craft of Writing (Những cửa sổ bí ẩn, 2000), tập tiểu luận Faithful (2005) cùng với Stewart O'Nan, đối thoại Tác phẩm khác Những tác phẩm được chuyển thể thành phim Stephen King là nhà văn có nhiều sáng tác được các nhà làm phim Mỹ chuyển thể thành các tác phẩm điện ảnh và chúng cũng rất ăn khách. Một số ví dụ như: Thinner nói về gã béo nặng hai tạ do vô tình gây tai nạn giao thông làm chết một bà lão thuộc bộ tộc Gypsy và bị dính phải lời nguyền của cha bà lão - vua bộ tộc Gypsy là mỗi ngày phải sụt vài chục kg cho đến khi gầy đét như bộ xương khô. Cat Eye một tập truyện ngắn kể về hành trình của một chú mèo hoang quanh các khu dân cư nơi chú đến và chứng kiến nhiều tội ác kinh hoàng cũng như những việc dị thường khác. Maximum Overdrive dựa theo tác phẩm "Trucks" có nội dung chính là sự nổi loạn của các loại máy móc và chúng quay sang tấn công con người. Carrie kể về một cô gái tuổi teen tên Carrie, cô có một người mẹ sùng đạo đến mù quáng và luôn bị bạn bè ghẻ lạnh, trêu chọc, tình cờ một ngày Carrie phát hiện mình có năng lực di chuyển đồ vật bằng ý nghĩ. Trong một lần phải hứng chịu một trò đùa quá đáng vào đêm vũ hội của trường, Carrie đã sử dụng năng lực của mình để trả thù tất cả học sinh trong trường. Đặc biệt nổi tiếng: Mist: Sương mù, 1 thị trấn nhỏ, bất ngờ bị 1 làn sương mù bao phủ, kéo theo đó là vô vàn biến cố và những sinh vật kỳ lạ xuất hiện, câu chuyện càng nặng nề hơn khi những nhân vật trong phim bế tắc... Kết phim cũng mang lại cho người xem sự hụt hẫng và bài học cho những người mất niềm tin vào cuộc sống! The Green Mile dựa theo tác phẩm cùng tên mô tả cuộc sống của những người quản giáo trại tù Green Mile và các tử tội trong những ngày cuối đời của họ, kết hợp nhiều yếu tố kì dị vốn có trong phong cách truyện của King. Under The Dome: Một TV series, xuất hiện mùa đầu tiên vào 2013, Một mái vòm bất ngờ xuất hiện bao trùm 1 thị trấn, biến mọi thứ thành nội bất xuất, ngoại bất nhập. Một bộ phim nhiều bí ẩn, bí ẩn bao trùm bí ẩn. Những bí ẩn, những câu chuyện mập mờ, liên tục xuất hiện. khiến người xem không thể ngừng theo dõi. Nổi lên ý chính trong bộ phim là những nhân cách, những cá tính con người trong xã hội Khi biến cố xẩy ra những cá tính đó sẽ bộc lộ rõ ràng, bản chất người của con người sẽ mạnh mẽ hơn bao giờ hết! Dưới Under The Dome là 1 xã hội thu nhỏ! It: Kể về một nhóm những đứa trẻ chống lại thế lực tà ác mang hình dạng một tên hề Còn khá nhiều tác phẩm khác, hay có dở có nhưng chúng đã đánh dấu một số thành tựu nhất định của Stephen King trên con đường văn chương mang đậm màu sắc dị thường của ông.
John Ernst Steinbeck, Jr. (27 tháng 2 năm 1902 – 20 tháng 12 năm 1968) là một tiểu thuyết gia người Mỹ được biết đến như là ngòi bút đã miêu tả sự đấu tranh không ngừng nghỉ của những người phải bám trên mảnh đất của mình để sinh tồn. Ông đạt giải Giải Nobel Văn học năm 1962 “vì những tác phẩm văn chương vừa hiện thực vừa đầy hoang tưởng, nổi bật với một sự hài hước đầy cảm thông và một cách nhìn xã hội thấu đáo." Ông được nhà báo Alison Flood của tờ The Guardian nhận định là "A giant of American letters" (Người khổng lồ của văn học Mỹ), và nhiều tác phẩm của ông được xem như là cổ điển của văn học phương Tây. Trong suốt sự nghiệp viết văn của mình, John Steinbeck đã hoàn thành 33 cuốn sách, bao gồm 16 cuốn tiểu thuyết, 6 cuốn truyện phi hư cấu, và 2 tập truyện ngắn. Ông được biết đến rộng rãi qua các tiểu thuyết hài như Thị trấn Tortilla Flat (Tortilla Flat, 1935), Phố Cannery Row (Cannery Row, 1945), hay qua tác phẩm sử thi như Phía đông vườn Địa đàng (East of Eden, 1952), hoặc các tiểu thuyết ngắn điển hình là Của chuột và người (Of Mice and Men, 1937) và The Red Pony (1937). Tác phẩm đạt giải Pulitzer mang tên Chùm nho uất hận (The Grapes of Wrath, 1939) được xem là kiệt tác của Steinbeck và là một phần của kinh điển văn học Mỹ. Tác phẩm này đã bán được 15 triệu bản sau 80 năm kể từ ngày nó được xuất bản lần đầu tiên. Phần lớn, các tác phẩm của Steinbeck lấy bối cảnh ở miền trung tiểu bang California, cụ thể hơn là ở thung lũng Salinas và vùng dãy núi duyên hải California. Các tác phẩm của ông tập trung xoay quanh các chủ đề như số phận và sự bất công trong xã hội, và những điều này được thể hiện qua nhân vật chính với hình tượng một người bị áp bức hoặc đơn thuần chỉ là một người bình thường trong hoàn cảnh vô cùng đặc biệt. Tiểu sử Sinh ra trong một gia đình chủ xưởng bột mì ở Salinas, California, John Steinbeck học ở Đại học Stanford. Thuở thiếu thời, ông phụ giúp việc trong nông trại, thu hái nông phẩm, và chịu ảnh hưởng sâu sắc văn học Hy Lạp cổ điển, Kinh Thánh và văn học châu Âu cổ điển ngay trong những ngày niên thiếu. Năm 1918 John Steinbeck hoàn thành bậc học trung học. Từ năm 1920 đến 1925 ông chọn môn văn học Anh và sinh vật học hải dương ở trường đại học Stanford. Trong cuộc đời ông đã làm rất nhiều nghề nghiệp khác nhau, đặc biệt là việc hay tiếp xúc với người lao động đã tích lũy những tư liệu hết sức phong phú cho công việc sáng tác của ông sau này. Sự nghiệp Tác phẩm đầu tiên gây tiếng vang của John Steinbeck là cuốn Của chuột và người (1937), dựng nên một câu chuyện bi thảm về hai nông dân ít học thức hằng mong mỏi một mảnh đất cho riêng mình để canh tác. Tác phẩm được đánh giá cao nhất là Chùm nho uất hận (1939; đoạt giải Pulitzer năm 1940), dựng nên câu chuyện của gia đình Joad, bị nghèo khó ở vùng hoang hóa Dust Bowl của tiểu bang Oklahoma, phải chuyển đến California trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế của thập niên 1930. Quyển tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi, được xem không những là truyện hư cấu nhưng có tính hiện thực mà còn là lời phản kháng xã hội đầy cảm động, đã trở nên một tác phẩm kinh điển trong nền văn học Mỹ. Là một trong những "tượng đài" văn học từ thập kỷ 1930, Steinbeck lấy chủ đề trung tâm là phẩm giá trầm lặng của những người cùng khổ, những người bị áp bức. Dù những nhân vật của ông thường bị vây bọc trong thế giới thiếu công bằng, họ vẫn giữ mình như là những con người đầy cảm thông và có anh hùng tính, tuy có thể bị khuất phục. John Steinbeck nhận Giải Nobel Văn học năm 1962. Tác phẩm Cup of Gold: A Life of Sir Henry Morgan, Buccaneer, With Occasional Reference to History (Chén vàng) (1929) tiểu thuyết The Pastures of Heaven (Đồng cỏ nhà trời) (1932) truyện dài The Red Pony (Chó hung Pony) (1937) tiểu thuyết ngắn To a God Unknown (Gửi vị Thượng đế không quen biết) (1933) tiểu thuyết Tortilla Flat (Thị trấn Tortilla Flat) (1935) tiểu thuyết In Dubious Battle (Trận đánh mạo hiểm) (1936) tiểu thuyết Paradise Lost của John Milton The Harvest Gypsies: On the Road to the Grapes of Wrath (1936) Of Mice and Men (Của chuột và người) (1937) tiểu thuyết ngắn, tên sách là dựa vào bài thơ To a Mouse của Robert Burns The Long Valley (Thung lũng dài) (1938) tập truyện ngắn The Chrysanthemums (Những đóa hoa cúc) (1938) The Grapes of Wrath (Chùm nho uất hận) (1939): Tên sách là dựa vào bài hát The Battle Hymn of the Republic trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ Forgotten Village (1941) Sea of Cortez: A Leisurely Journal of Travel and Research (Biển Cortez: Báo cáo về chuyến đi và nghiên cứu đã hoàn thành) (1941) (cùng với Ed Ricketts) khảo cứu The Moon Is Down (Trăng lặn) (1942) tiểu thuyết, tên sách là dựa vào vở kịch Macbeth của William Shakespeare Bombs Away: The Story of a Bomber Team (Bom rơi xuống đất) (1942) khảo cứu Cannery Row (Phố Cannery Row) (1945) tiểu thuyết The Pearl (Viên trân châu) (1947) tiểu thuyết The Wayward Bus (Chuyến xe định mệnh) (1947) tiểu thuyết A Russian Journal (Nhật kí Nga) (1948) (với hình ảnh của nhiếp ảnh gia Robert Capa) phóng sự Burning Bright: A Play in Story Form (1950) Log from the Sea of Cortez (1951) Kira Zapata (1952) kịch East of Eden (Phía đông vườn Địa đàng) (1952): Tên sách là dựa vào Kinh Thánh, đặc biệt là Genesis 4:16,tiểu thuyết Sweet Thursday (Ngày thứ Năm ngọt ngào) (1954) tiểu thuyết The Short Reign of Pippin IV (Thời trị ngắn ngủi của Pippin IV) (1957) truyện châm biếm Once There Was A War (Đã từng có một cuộc chiến tranh) (1958) tiểu thuyết The Winter of Our Discontent (Mùa đông lo âu) (1961): Tên sách là dựa vào vở kịch Richard III của William Shakespeare, tiểu thuyết Travels With Charley: In Search of America (Du hành với chú chó Charley) (1962) (một hồi ký về cuộc du hành của ông, và con chó Charley, tại nhiều nơi trong Hoa Kỳ) America and Americans (Nước Mỹ và người Mỹ) (1966) tiểu thuyết Acts Of King Arthur And His Noble Knights (Hành trạng của vua Arthur và các hiệp sĩ quý tộc) (1976) tiểu thuyết Bản dịch tiếng Việt Tiểu thuyết của John Steinbeck đã được dịch ra tiếng Việt gồm có: Đồng cỏ nhà trời (The Pastures of Heaven, 1932) Những ngày tranh đấu, Tuyết Sinh dịch và giới thiệu, Sài Gòn, Trẻ xuất bản, 1974. Rời nẻo đường quen, Nxb Văn Nghệ TPHCM, 1999. Thị trấn Tortilla Flat, Lâm Vũ Thao dịch, TPHCM: Nxb Trẻ, 2012. (Tortilla Flat, 1935) Of Mice and Men, 1937: Của chuột và người, Hoàng Ngọc Khôi và Nguyễn Phúc Bửu Tập dịch, Sài Gòn, 1967. Tái bản: Nxb Hội nhà văn và Công ty CP Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam, 2019. John Steinbeck, Của chuột và người & Achebe, Đàn bà trong chiến tranh, Hà Nội: Nxb Tác phẩm mới. Của chuột và người, Phạm Văn dịch, Hà Nội: Nxb Hội nhà văn và Công ty CP Sách Tao Đàn, 2018. The Grapes of Wrath, 1939 (Giải Pulitzer năm 1940): Chùm nho uất hận, 2 tập, Võ Lang dịch, Sài Gòn: Nhà xuất bản Khai Trí, 1972. Chùm nho phẫn nộ, 2 tập, Phạm Thủy Ba dịch, Hà Nội, Nxb Tác phẩm mới (tập 1 có 410 trang khổ 19 cm in năm 1975, tập 2 có 408 trang khổ 19 in năm 1989). Tái bản: Nxb Hội Nhà văn, 1994. Được gộp thành một tập, 940 trang, Nxb Hội nhà văn, 2000. Tái bản: Nxb Văn học, 2007. Chùm nho thịnh nộ, Phạm Văn dịch, Hà Nội: Nxb Hội nhà văn và Công ty CP Sách Tao Đàn, 2020. Phố Cannery Row, Phạm Văn dịch, Hà Nội: Nxb Hội nhà văn và Công ty CP Sách Tao Đàn, 2018 (Cannery Row, 1945) * Viên ngọc trai, Nxb Thanh niên. (The Pearl, 1947) Phía đông vườn địa đàng, Đinh Văn Quý dịch, Hà Nội: Nxb Văn hóa Thông tin. (East of Eden, 1952) Tôi, Charley và hành trình nước Mỹ, Tuấn Việt dịch, TPHCM: Nxb Trẻ, 2012. (Travels with Charley: In Search of America, 1962)
Chekhov (tiếng Nga: Че́хов) được dùng trong các trường hợp sau: Anton Pavlovich Chekhov, nhà văn nổi tiếng với thể loại truyện ngắn và kịch nghệ Mikhail Aleksandrovich Chekhov, một đạo diễn người Mỹ gốc Nga, cháu gọi Anton Pavlovich Chekhov là chú Pavel Chekov, một nhân vật trong chương trình truyền hình Star Trek Chekhov (Moskva Oblast), một thị trấn của Moskva Oblast thuộc Nga Chekhov (Sakhalin Oblast), một thị trấn của Sakhalin Oblast thuộc Nga
Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu; (chữ Hán: 孝欽顯皇后; ; ; trước đây La Mã hóa là Từ Hi Thái hậu T'zu-hsi; 10 tháng 10 năm 1833 – 15 tháng 11 năm 1908), thường được gọi là Từ Hi Hoàng thái hậu (慈禧皇太后), Từ Hi Thái hậu (慈禧太后), Tây Thái hậu (西太后) hoặc Từ Hi Thái hoàng thái hậu (慈禧太皇太后), là đệ nhất sủng phi của Thanh Văn Tông Hàm Phong Đế, sinh mẫu của Thanh Mục Tông Đồng Trị Đế, dưỡng mẫu của Thanh Đức Tông Quang Tự Đế và là tổ mẫu trên danh nghĩa của Tuyên Thống Đế. Bà trải qua 5 đời Hoàng đế từ Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Đế đến Tuyên Thống Đế và trở thành Hoàng thái hậu nhiếp chính của triều đình nhà Thanh cùng với Từ An Thái hậu khi Đồng Trị Đế lên ngôi. Sau khi Đồng Trị Đế qua đời, Thanh Đức Tông Quang Tự Đế lên ngôi, bà lại tiếp tục nhiếp chính. Sau khi Quang Tự Đế qua đời, bà trở thành Thái hoàng thái hậu dưới thời Tuyên Thống Đế. Vào năm 1861, Hàm Phong Đế mất, di chiếu cho Cố mệnh Bát đại thần cùng nhiếp chính cho vua mới là Đồng Trị Đế còn nhỏ tuổi. Từ Hi Thái hậu đã cùng Từ An Thái hậu - dưới sự giúp đỡ của Cung Thân vương Dịch Hân - đã tạo nên chính biến phế trừ cả Tám đại thần nhằm đạt được quyền lợi chính trị trước mâu thuẫn gay gắt với Túc Thuận, người đứng đầu Tám vị đại thần, sử gọi là Chính biến Tân Dậu. Sau sự kiện này, Từ Hi Thái hậu và Từ An Thái hậu đồng nhiếp chính cho Tân Hoàng đế, trở thành 2 vị Hoàng thái hậu duy nhất của triều đại Thanh thực hiện [Thùy liêm thính chánh; 垂簾聽政]. Theo cách hiểu thông thường, Từ Hi Thái hậu đã nắm đại quyền triều đại nhà Thanh trong vòng 47 năm, từ năm 1861 tới tận khi qua đời. Nhưng thực tế, bà chỉ có nắm toàn quyền ở hai giai đoạn: từ năm 1881 sau cái chết của Từ An Thái hậu, cho đến năm 1889 khi Quang Tự Đế thân chính; và từ năm 1898 đến khi qua đời năm 1908, sau sự kiện Bách nhật Duy tân. Tuy vào năm 1889, Quang Tự Đế tuyên bố thân chính, nhưng Từ Hi Thái hậu vẫn nắm thế lực đằng sau, gọi là [Huấn chính; 訓政]. Như vậy, bà nắm quyền thực tế tầm 27 năm. Sự kiện Bách nhật Duy tân của Quang Tự, là một sự kiện phát sinh do mâu thuẫn giữa Hoàng đế và Từ Hi Thái hậu trong vấn đề chính trị, và một trong những dự định của Quang Tự Đế là mật mưu cùng với Khang Hữu Vi để giam lỏng cùng ám sát Thái hậu, từ đó nắm được đại quyền trong tay. Sau khi Biến pháp thất bại, Quang Tự Đế bị giam lỏng, Từ Hi Thái hậu tiếp tục là nhà lãnh đạo tối cao, tiếp tục thực hiện [Huấn chính], và đây là khoảng thời gian đỉnh cao quyền lực nhất mà người đời sau biết về bà. Khi khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn bùng nổ, liên quân 8 nước phương Tây tấn công Trung Quốc, Từ Hi Thái hậu và hoàng tộc phải chạy tới Tây An. Năm 1901, sau khi Hòa ước Tân Sửu được ký kết, bà mới quay trở lại Bắc Kinh. Những năm cuối đời, Từ Hi Thái hậu nhận thấy thế nước quá suy yếu, nên cố gắng thực hiện nhiều cải cách nhất định ảnh hưởng đến nền chính trị Trung Quốc khi ấy, một trong những điều nổi tiếng nhất là việc giải phóng phụ nữ Trung Hoa khỏi tục bó chân. Nhiều nhà sử học hiện đại ở Trung Quốc và hải ngoại thường miêu tả Từ Hi Thái hậu như một bạo chúa, người phải chịu trách nhiệm cho sự sụp đổ của triều đại nhà Thanh, trong khi một số khác thì lại cho rằng các đối thủ của Thái hậu đã quá thành công trong việc quy tội bà về những vấn đề nằm ngoài khả năng kiểm soát của bà lúc đó. Đánh giá khách quan, Từ Hi không tàn nhẫn hơn hay kém những vị vua khác trên thế giới khi đó, nếu không muốn nói là đã ít nhiều thi hành cải cách trong những năm cuối đời, cho dù hành động này của bà có phần miễn cưỡng bởi tình thế khó khăn của triều Thanh vào lúc ấy. Trong văn hóa đại chúng ở Trung Hoa đại lục, Từ Hi Thái hậu cùng với Võ Tắc Thiên thời Đường và Lã hậu thời Hán được xem là 3 người phụ nữ nắm quyền lực cao nhất của đế quốc Trung Hoa trong một thời gian dài, bị dân gian coi là những "gian hậu loạn triều" tàn ác bất nhân với cả người thân, làm nghiêng đổ giang sơn xã tắc. Xuất thân Dòng dõi Từ Hi Thái hậu sinh ngày 10 tháng 10 (âm lịch) năm Đạo Quang thứ 15, xuất thân từ Diệp Hách Na Lạp thị thuộc Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, nguyên là Mãn Châu Tương Lam kỳ, con cháu nhà quan gia thế tập. Sau thời Trung Hoa Dân quốc, có nhiều học giả nhận định bà ắt hẳn là con cháu Diệp Hách bối lặc Kim Đài Cát, thuộc dòng dõi của Nạp Lan Minh Châu, thế nhưng sự thực hoàn toàn không phải như vậy. Cứ theo hồ sơ có tên Đức Hạ Nột Thế quản Tá lĩnh tiếp tập gia phổ (德贺讷世管佐领接袭家谱) tại Trung Quốc đệ nhất lịch sử đương án quán (中国第一历史档案馆), thì tổ tiên của bà được gọi là Khách Sơn (喀山). Khách Sơn sau khi nhập kỳ, nhận chức Kỵ Đô úy, sau do tòng chinh Liêu Đông lập rất nhiều quân công, sau do có công "Dưỡng dục công chúa" mà thụ tước [Nhị đẳng Tử; 二等子], thụy là [Mẫn Tráng; 敏壮]. Hậu duệ đại tông một chi thừa kế tước hiệu [Nhất đẳng Nam; 一等男] cùng hai chức Thế quản Tá lĩnh (世管佐領). Cao tổ phụ Khách Anh A (喀英阿) là huyền tôn của Khách Sơn, thế tập Nam tước cùng chức Tá lĩnh. Khách Anh A sinh ra con trưởng Trát Lang A (扎郎阿) thế tước, còn con thứ Cát Lang A (吉朗阿) - chính là cụ nội của Từ Hi Thái hậu. Cát Lang A, tự Ải Đường (霭堂), do là con thứ nên đành phải xuất sĩ để tiến thân, làm đến Viên ngoại lang bộ Hộ. Ông cưới Tông Thất nữ quyến, vào năm Càn Long thứ 45 sinh ra Cảnh Thụy (景瑞), làm đến Lang trung bộ Hình. Sau Cảnh Thụy cưới Qua Nhĩ Giai thị, sinh ra hai con: con trưởng Huệ Trưng (惠徵), con thứ Huệ Xuân (惠春). Bên cạnh đó, có nguồn tư liệu từ Đài Loan ghi lại, trên Huệ Trưng còn có 1 anh cả tên Huệ Trừng (惠澂), nguyên sính con gái của Hắc Long Giang tướng quân Quả Tề Tư Hoan (果齐斯欢), nhưng chưa kịp thành hôn đã chết yểu. Tư liệu này không khớp với Ngọc điệp của nhà Từ Hi Thái hậu, tuy nhiên Huệ Trưng quả thực được gọi là [Huệ nhị thái gia; 惠二太爷], cho nên vẫn còn tồn nghi. Gia cảnh Phụ thân bà là Huệ Trưng, sơ kì là "Bút thiếp thức" ở bộ Lại. Năm Hàm Phong thứ 2, Huệ Trưng được phong hàm Tứ phẩm, làm đến An Huy Ninh Trì Thái Quảng đạo Đạo viên (安徽寧池廣太道道員). Sau, Huệ Trưng cưới Phú Sát thị thuộc Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, con gái Phó Đô thống Huệ Hiện (惠顯), sinh 3 nam 4 nữ, trong đó Từ Hi Thái hậu là con gái thứ 2, do đích thê Phú Sát thị sinh ra. Vào năm Từ Hi Thái hậu ra đời, Huệ Trưng đang làm việc tại Bắc Kinh, dẫn đến một số suy đoán rằng bà cũng được sinh ra tại đó. Ba con trai của Huệ Trưng, theo thứ tự là Chiếu Tường (照祥), Quế Tường (桂祥) cùng Phật Hữu (佛佑). Chiếu Tường sinh năm không rõ, mất vào năm Đạo Quang thứ 7; Quế Tường sinh vào năm Đạo Quang thứ 24, sinh ra Long Dụ Hoàng thái hậu. Con trai út Phật Hữu, sinh vào Hàm Phong nguyên niên, mất vào năm Quang Tự thứ 25. So về độ tuổi, có thể thấy cả ba người con trai đều là em của Từ Hi Thái hậu. Bốn cô con gái của Huệ Trưng, xét theo Trung cung đương soa vụ tạp lục (宫中档差务杂录), có đề cập việc tế tự trong nhà Từ Hi Thái hậu, và bà tự gọi mình là [Hiếu thứ nữ; 孝次女] - chứng tỏ bà là con gái thứ hai trong nhà. Nhưng tư liệu chị em gái của bà chỉ ghi lại 2 người em gái, một vị trường tỷ rất có thể là chết non. Hai em gái còn lại của bà, một vị sinh vào năm Đạo Quang thứ 21, được chỉ hôn cho Thuần Hiền Thân vương Dịch Hoàn - ấy chính là Uyển Trinh. Một vị còn lại sinh năm không rõ, gả cho em trai ruột của Khánh Mật Thân vương Dịch Khuông là Dịch Huân. Khoảng những năm 30 niên hiệu Đạo Quang, có vụ án phát sinh ở bộ Hộ, Đạo Quang Đế tiến hành điều tra. Lúc đó Cát Lang A đã từng làm quan Ngân khố Tư viên, nên trách nhiệm đều giáng lên người Cảnh Thụy, không lâu sau Cảnh Thụy bị tống giam. Con trai Cảnh Thụy là Huệ Trưng phải vơ vét tài sản mới cứu được Cảnh Thụy ra ngoài. Đây cũng là kiếp đại nạn đầu tiên trong gia đình bà. Chi Trát Lang A là chi trưởng của Khách Sơn, nhiều đời thế tập tước Nam tước, tuy nhiên vẫn khá có giao du với nhánh của gia đình bà, nên quan hệ toàn gia tương đối không tệ. Điều này minh chứng việc một người cháu dâu của Từ Hi Thái hậu, được gọi là [Nguyên đại nãi nãi; 元大奶奶], theo ghi chép cuối thời Thanh thường xuyên vào cung thăm Từ Hi Thái hậu. Nguyên đại nãi nãi là vợ của Đức Viên (德垣), trực hệ của Trát Lang A, nên còn được gọi là [Viên đại nãi nãi; 垣大奶奶]. Đánh giá tổng quan, dòng dõi Na Lạp thị của Từ Hi Thái hậu là quân công thế gia, nhưng gia đình của bà lại là dòng thứ, địa vị không mấy cao, dù không phải là thấp kém. Dẫu vậy, đời của bà tách ra khỏi nhánh đại tông không xa, cho nên tương đối có quyền thế, ông và cha bà vẫn giữ được các chức quan tương đối, bên cạnh đó hôn nhân của gia đình vẫn thuộc diện có thể liên hôn với các nhà tầm trung hoặc cao hơn, quả thực không tầm thường. Tuy không thể so với đệ nhất thế gia nhưng cũng hơn những nhà bình thường. Nhập cung Trải qua tuyển tú Năm Hàm Phong thứ 2 (1852), ngày 11 tháng 2 (âm lịch), sau khi vượt qua 60 cô gái cùng tham gia thi tuyển tú nữ, Na Lạp thị được vào vòng cuối cùng dự tuyển tần phi. Cùng năm, bà được chỉ định làm Quý nhân. Ngày 9 tháng 5 (âm lịch) năm ấy, Na Lạp thị nhập cung, được gọi là Lan Quý nhân (蘭貴人). Trong số những người được chọn còn có Lệ Quý nhân Tha Tha Lạp thị, Anh Quý nhân Y Nhĩ Căn Giác La thị và Trinh tần Nữu Hỗ Lộc thị, người sau này là Hiếu Trinh Hiển Hoàng hậu. Bởi vì tư liệu tuyển tú thời Hàm Phong chỉ vỏn vẹn, nên trước mắt không rõ thời điểm Na Lạp thị tuyển tú có xảy ra chuyện gì kì lạ hay không. Ngoại trừ Trinh tần Nữu Hỗ Lộc thị là dự bị cho ngôi vị Hoàng hậu, đối đãi có khác biệt, thì Na Lạp thị cùng Tha Tha Lạp thị và Y Nhĩ Căn Giác La thị đều là Quý nhân, có thể thấy rõ tương đối bình đẳng. Năm Hàm Phong thứ 4 (1854), ngày 26 tháng 2 (âm lịch), Na Lạp thị được tấn phong lên 1 cấp là Tần. Ngày 25 tháng 11 (âm lịch) cùng năm, lấy Hiệp bạn Đại học sĩ Giả Trinh (贾桢) làm Chính sứ, Lễ bộ Tả Thị lang Túc Thuận (肃顺) làm Phó sứ, hành lễ sách phong Tần, phong hiệu Ý tần (懿嫔). Căn cứ Hồng xưng thông dụng (鴻稱通用) của Nội vụ phủ, phong hiệu Ý có Mãn văn là 「Fujurungga」, ý là "Đoan trang", "Văn nhã", "Có phong thái". Sinh hạ hoàng tử Năm Hàm Phong thứ 6 (1856), ngày 23 tháng 3 (tức ngày 27 tháng 4 dương lịch), sinh hạ Hoàng trưởng tử Tải Thuần (載淳), con trai duy nhất của Hàm Phong Đế, tức Thanh Mục Tông Đồng Trị Hoàng đế sau này. Ngày 24 tháng 3 hôm sau, bà được sắc phong thành Ý phi (懿妃). Ngày 1 tháng 12 (âm lịch) cùng năm, lấy Đại học sĩ Bành Uẩn Chương (彭蕴章) làm Chính sứ, Lễ bộ Thượng thư Thụy Lân (瑞麟) làm Phó sứ, hành lễ sách phong Phi. Một năm sau (1857), ngày 2 tháng 1, khi Tiểu hoàng tử gần tròn 1 tuổi, Ý phi Na Lạp thị lại được tấn phong làm Quý phi. Ngày 13 tháng 12 cùng năm, lấy Nội các đại học sĩ Dụ Thành (裕诚) làm Chính sứ, Đại học sĩ Hoàng Tông Hán (黄宗汉) làm Phó sứ, đem kim sách kim bảo chính thức cử hành lễ sắc phong. Sách phong viết: Sinh hoạt cung đình Hàm Phong triều tổng cộng 11 năm, mà hậu cung Hàm Phong chỉ đến năm thứ 2 mới định, cho nên thực tế cuộc sống hậu cung của Na Lạp thị chỉ vỏn vẹn 10 năm. Mà trong 10 năm ấy, lại chia ra làm 3 giai đoạn, và giai đoạn đầu tiên là từ Hàm Phong năm thứ 2 đến năm thứ 5. Lúc này hậu cung chỉ vừa mới định, tựa hồ có không ít vấn đề. Giai đoạn thứ 2 là từ năm Hàm Phong thứ 5 đến năm thứ 8, trong khoảng thời gian này hậu cung dần ổn định, cũng là thời gian mà Na Lạp thị đã có địa vị chắc chắn. Cuối cùng là 2 năm cuối, khi ấy chính sự bất ổn, Hàm Phong Đế đã sa vào hưởng lạc. Ở giai đoạn thứ nhất, Na Lạp thị bình bình yên dị vô sủng, điều này hình như có liên quan đến thời tang kỳ của cha bà là Huệ Trưng, khiến Na Lạp thị vào cung cũng chưa thực sự được đoái hoài đến. Lúc này, Trinh tần đăng vị Hoàng hậu, Anh Quý nhân độc sủng phong Tần. Nhưng Anh tần sau đó liên tiếp thất sủng giáng vị, Na Lạp thị cùng Lệ Quý nhân vào năm Hàm Phong thứ 4 mới bắt đầu được sủng ái, đồng loạt thăng Tần. Sau đó vào năm Hàm Phong thứ 5 và thứ 6, Lệ tần cùng Na Lạp thị do sinh dục Hoàng trưởng nữ cùng Hoàng trưởng tử, mà đều thăng Phi. Và cũng vì do sinh hạ Hoàng trưởng tử, Na Lạp thị một bước tấn Quý phi chỉ sau vỏn vẹn vài tháng dụ tấn Phi, điều này hiển nhiên là công lao "Sinh dục Hoàng tử" mới khiến bà có được địa vị này. Trong triều Hàm Phong đương thời, có thể thấy Na Lạp thị là Quý phi duy nhất, lại là sinh mẫu của Hoàng trưởng tử, cho nên địa vị trong hậu cung của bà vào lúc ấy chỉ sau mỗi Hoàng hậu. Vào giai đoạn cuối, hậu cung thu nạp đủ loại tần phi với thân phận hỗn loạn, hẳn đây cũng là thời gian Na Lạp thị để bảo toàn cho con trai mà thu mình vào nhất, một phần vì thời gian này tổ phụ của bà Cảnh Thụy qua đời khiến bà phải "thủ hiếu". Theo một số truyền thuyết kể lại, Ý Quý phi Na Lạp thị không như những người phụ nữ khác an phận, mà nổi tiếng với trí thông minh và khả năng đọc viết thông thạo tiếng Hán, nhờ vậy bà có nhiều cơ hội tham gia chính sự khi sức khỏe của Hàm Phong Đế không được tốt. Trong nhiều trường hợp, Hoàng đế để Ý Quý phi đọc tấu chương và ghi lời phê cho mình, điều này khiến các đại thần đối với Ý Quý phi đã sớm bất mãn. Tuy nhiên, những truyền thuyết trên đã có phần cường điệu, đặc biệt là dưới nhãn quan của người phương Tây, có phần lệch lạc không ít. Bên cạnh cái nhìn của người phương Tây cho thấy một phụ nữ can chính, người Trung Quốc nhìn về bà khi còn là Ý Quý phi Na Lạp thị lại theo hướng hậu cung tranh sủng. Qua các thuyết này, Na Lạp thị hãm hại vô số cung nhân, nổi tiếng nhất là việc đem Lệ phi Tha Tha Lạp thị biến thành [Nhân trư; 人彘]. Cơ bản tất cả đều là bịa đặt vô căn cứ. Mặt khác, có người tên là Vương Văn Phổ (王文普), vốn là hậu duệ chi rất xa của Cát phi Vương thị, vào thời buổi đầu tân Trung Quốc đã viết cuốn sách Từ Hi tảo niên dật sự (慈禧早年轶事) miêu tả một đoạn tranh sủng của Ý Quý phi. Theo tự nhận của Vương Văn Phổ nghe theo người trong hệ tộc thuật lại, Cát phi cùng Ý Quý phi Na Lạp thị khi ấy mang thai, nhưng Na Lạp thị tính kế khiến Cát phi sẩy thai, còn mình an toàn sinh ra hoàng tử. Tuần tra qua các tài liệu, Cát phi Vương thị nhỏ hơn Na Lạp thị 5 tuổi, nguyên là cung nữ của Hoàng hậu, vào năm Hàm Phong thứ 8 mới được thụ phong làm Quý nhân, là vị hậu cung cuối cùng tấn phong triều Hàm Phong. Trong khi đó, Na Lạp thị sinh Hoàng tử vào năm Hàm Phong thứ 6, thời gian chênh lệch quá lớn, thập phần không đáng tin. Đảo chính Tân Dậu Hàm Phong Đế băng hà Năm Hàm Phong thứ 10 (1860), liên quân Anh - Pháp tấn công Bắc Kinh. Hàm Phong cùng hoàng tộc, trong đó có Ý Quý phi, phải rời Tử Cấm Thành đến Thừa Đức để lánh nạn. Khi nghe tin vườn Viên Minh xa hoa tráng lệ bị liên quân đốt phá, Hoàng đế đau buồn khôn xiết. Ngài bắt đầu lạm dụng rượu và thuốc phiện khiến sức khỏe ngày càng suy sụp. Năm Hàm Phong thứ 11 (1861), ngày 17 tháng 7 (tức ngày 22 tháng 8 dương lịch), Hàm Phong Đế băng hà ở Tị Thử Sơn Trang. Người kế vị ông, Hoàng tử Tải Thuần, lúc này chỉ mới 5 tuổi. Trước lúc lâm chung, Hàm Phong Đế ban cho Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị con dấu [Ngự Thưởng; 御赏], và con dấu [Đồng Đạo Đường; 同道堂] cho Hoàng tử Tải Thuần. Do Hoàng tử còn nhỏ nên con dấu được mẹ Hoàng tử là Ý Quý phi Na Lạp thị tạm thời bảo quản, với hy vọng cả hai sẽ hợp sức cùng nhau nuôi dạy Hoàng đế tương lai khôn lớn. Hàm Phong Đế cũng di chiếu lại cho tám vị đại thần bao gồm Di Thân vương Tải Viên, Trịnh Thân vương Đoan Hoa, Hộ bộ Thượng thư Túc Thuận, Ngạch phụ Cảnh Thọ, Binh bộ Thượng thư Mục Ấm, Lại bộ Tả Thị lang Khuông Nguyên, Lễ bộ Hữu thị lang Đỗ Hàn, Thái bộc Thiếu Khanh tự Tiêu Hữu Doanh làm phụ chính hỗ trợ cho Tiểu Hoàng đế, đương thời gọi Cố mệnh Bát đại thần. Điều này có nghĩa thực quyền sẽ nằm trong tay nhóm tám vị này, do Túc Thuận đứng đầu. Ban đầu, niên hiệu của Tân Hoàng đế dự định sẽ là [Kỳ Tường; 祺祥]. Sau khi Hàm Phong Đế băng hà, Tải Thuần kế vị. Theo thông lệ nhà Thanh, phàm [Mẫu hậu Hoàng hậu] - Đích mẫu của Hoàng đế cùng [Thánh mẫu] - sinh mẫu của Hoàng đế đều còn sống và tại vị, thì nên đồng tôn Hoàng thái hậu. Theo đó, Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị được tấn tôn làm [Mẫu hậu Hoàng thái hậu; 母后皇太后], tức Từ An Hoàng thái hậu. Sinh mẫu của Hoàng đế là Ý Quý phi Na Lạp thị trở thành [Thánh mẫu Hoàng thái hậu; 聖母皇太后]. Theo Edward Behr, chính Thánh mẫu Hoàng thái hậu Na Lạp thị cho rằng hai người đều là phụ nữ, Hoàng đế thì còn nhỏ tuổi, nếu để tám vị đại thần phụ chính ắt không tránh khỏi việc bị chèn ép. Vì vậy, bà gợi ý với Mẫu hậu Hoàng thái hậu nên cùng nhau chấp chính, đoạt lấy quyền lực. Với việc này, trong tương lai cả hai vị Thái hậu đều có thể tham gia chính sự, chứ không phải chịu sự chèn ép của phe Cố mệnh Bát đại thần. Diễn ra chính biến Trong lúc chờ ngày lành tháng tốt để đưa di hài của Hàm Phong Hoàng đế về Bắc Kinh, quan hệ giữa Lưỡng cung Thái hậu và nhóm của Tái Viên cùng Túc Thuận ngày một xấu đi. Dưới tình thế đó, hai vị Thái hậu liên kết triệt bỏ Túc Thuận. Trong số đồng minh quan trọng nhất khi ấy, có Cung Thân vương Dịch Hân và Thuần Quận vương Dịch Hoàn. Cung Thân vương vốn là một người đầy tham vọng nhưng lại bị gạt khỏi vị trí đầu triều sau di chiếu của Hàm Phong Đế nên rất tích cực ủng hộ cuộc đảo chính. Ngoài ra còn có Quân cơ đại thần Văn Tường (文祥) - một người luôn ủng hộ Dịch Hân trong vấn đề chính trị, do bất mãn cũng quyết định thỉnh an Lưỡng cung Thái hậu, âm mưu dự việc chính biến. Ngày 1 tháng 8 (ngày 5 tháng 9 dương), Cung Thân vương giả trang thành Tát mãn, mật họp với Lưỡng cung Thái hậu, sau đó về kinh sư bố trí sẵng. Ngày 11 tháng 8 (ngày 14 tháng 9 dương), Sơn Đông Ngự sử Đổng Nguyên Thuần (董元醇) tấu thỉnh Lưỡng cung Thái hậu quản lý triều chính. Gặp phải sự phản đối của Tái Viên cùng Túc Thuận, lấy lý do nhà Thanh chưa có tiền lệ Thái hậu buông rèm nhiếp chính. Hai bên tranh cãi kịch liệt. Trong khi đó, Cung Thân vương ở Bắc Kinh bố trí thế lực, có Đại học sĩ Quế Lương (桂良), Giả Trinh (贾楨) cùng Hộ bộ Thượng thư Thẩm Triệu Lâm (沈兆霖) liên lạc các thế lực ngoại quốc. Ông còn huy động một số vây cánh đã thiết lập ngầm từ lâu, trong đó có Tả Dực Hậu Khoa Nhĩ Thấm Thân vương Tăng Cách Lâm Thấm. Ngày 23 tháng 9 (ngày 26 tháng 10 dương), kim quan của Hàm Phong Đế rục rịch được đưa về Bắc Kinh. Lưỡng cung Thái hậu theo đúng kế hoạch, trước an dụ Tân Hoàng đế bồi giá 1 ngày, sau lấy lý do Hoàng đế tuổi nhỏ vất vả, bèn phủ dụ đám người Túc Thuận ở lại đi theo hộ tống, còn cả hai vị Thái hậu sẽ cùng Tân Hoàng đế trở về Bắc Kinh trước để lo liệu. Ngày 29 tháng ấy (âm lịch), Tân Hoàng đế bồi Lưỡng cung Thái hậu về Bắc Kinh bằng đường tắt, về trước so với linh giá 4 ngày. Ngay lập tức, Lưỡng cung Thái hậu gọi gấp Cung Thân vương, phát hiệu lệnh bố trí sẵng sàng thực hiện kế hoạch. Ngày 30 tháng 9 (tức ngày 2 tháng 11 dương lịch), khi Tám phụ chính đại thần về đến Bắc Kinh, Lưỡng cung Thái hậu chính thức phát động chính biến, ra chỉ phái Thuần Quận vương Dịch Hoàn đọc tuyên tội trạng của Cố mệnh Bát đại thần, rồi để Thuần Quận vương hiệp lĩnh Quản thiện bộ doanh sự lập tức bắt giam Tái Viên, Đoan Hoa cùng Túc Thuận. Khi Túc Thuận bị bắt, còn mắng to nói:"Hối hận không sớm trị mấy ả tiện tỳ này!". Ngày 5 tháng 10 (tức ngày 7 tháng 11 dương lịch), đổi niên hiệu từ [Kỳ Tường] thành [Đồng Trị; 同治]. Ngày 6 tháng 10 (tức ngày 8 tháng 11 dương lịch) năm ấy, cả tám người bị khép tội phản nghịch cùng một loạt tội danh lớn nhỏ khác. Để thể hiện sự khoan dung, Lưỡng cung Thái hậu chỉ xử tử 3 trong số họ là Túc Thuận, Tái Viên cùng Đoan Hoa. Cung Thân vương cho rằng Túc Thuận và hai người có vị trí cao nhất phải chịu lăng trì, nhưng Lưỡng cung Thái hậu quyết định Túc Thuận chỉ bị chém đầu, còn hai người kia được tự sát. Trong lịch sử Trung Quốc, đây gọi là [Tân Dậu chính biến; 辛酉政变] hay Chính biến Tân Dậu. Đề nghị Thùy liêm Triều đại nhà Thanh, dù Hoàng đế có nhỏ tuổi thì cũng dựa vào các đại thần, hoặc tông thân phụ tá, đơn cử như Duệ Trung Thân vương Đa Nhĩ Cổn thời Thuận Trị; bốn vị Phụ chính đại thần Sách Ni, Ngao Bái, Át Tất Long cùng Tô Khắc Tát Cáp thời Khang Hi. Hoặc gần nhất chính là [Cố mệnh Bát đại thần] do chính Hàm Phong Đế chỉ định - những người đã bị Lưỡng cung Thái hậu dùng chính biến hạ bệ. Các vị Thái hậu thời kì ấy, Hiếu Trang Văn Hoàng hậu hay Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu hoàn toàn không có tiền lệ nhiếp chính như các Thái hậu thời nhà Hán. Cũng bởi vì lý do này, Cung Thân vương Dịch Hân sau sự kiện này trở thành người đứng đầu hàng tông thất, được Lưỡng cung Thái hậu phong tước hiệu Nghị Chính vương (議政王) - có trách nhiệm đứng đầu Quân cơ xứ, được gọi là các [Quân cơ đại thần; 军机大臣]. Không những được phong làm Nghị Chính vương đứng đầu Quân cơ xứ, con gái của ông cũng được phong là Vinh Thọ Cố Luân Công chúa, đây là một đặc ân rất đáng kể bởi vì tước vị [Cố Luân Công chúa] vốn là tước vị chỉ dành cho con gái của Hoàng hậu, đồng thời lương bổng của ông cũng tăng gấp đôi. Bên cạnh đó, Lưỡng cung Thái hậu cũng không vì thế mà muốn mất đi thực quyền, nên đề ra chính sách cả hai cùng lâm triều nghe chính sự, được gọi là [Lưỡng cung thính chính; 兩宮聽政]. Năm Hàm Phong thứ 11 (1861), ngày 26 tháng 10 (âm lịch), Lễ Thân vương Thế Đạc (世铎) dâng [Thùy liêm chương trình; 垂帘章程] để giải thích việc Thùy liêm của Lưỡng cung Thái hậu. Theo chương trình này, khi Lưỡng cung Thái hậu thượng triều nghe chính thì đặt bày ở Đông Noãn các của Dưỡng Tâm điện, đều ngồi sau một tấm rèm the màu vàng được gọi là [Hoàng Mạn; 黄幔] đặt ở sau ngự tọa của Hoàng đế; các Quân cơ đại thần được dẫn đầu bởi Nghị Chính vương theo thứ tự tiến vào dâng tấu biểu. Từ đây, Lưỡng cung Thái hậu theo quy định về thiết triều của nhà Thanh sẽ đều triệu các Quân cơ đại thần vào điện nghe chính sự. Quy trình này khá phức tạp, khi Quân cơ Đại thần dâng tấu chương, Lưỡng cung Thái hậu cùng xem xét, từ Cung thân vương đề nghị thỉnh chỉ, hôm sau Cung Thân vương trình tấu sự vụ lên, Lưỡng cung Thái hậu cùng xem xét và duyệt định, lấy con dấu [Đồng Đạo đường] do chính Mẫu hậu Hoàng thái hậu ấn lên, rồi lấy danh nghĩa Đồng Trị Đế mà ban phát chỉ dụ. Ngày 1 tháng 11 (âm lịch) năm ấy, Đồng Trị Đế chính thức phụng Lưỡng cung Thái hậu thùy liêm tại Dưỡng Tâm điện. Mẫu hậu Hoàng thái hậu ở phía Đông của Noãn các tại Dưỡng Tâm điện, vì theo nguyên tắc hướng Đông là chính, nên bà còn được gọi là [Đông Thái hậu; 東太后]. Còn Thánh mẫu Hoàng thái hậu ở phía Tây của Noãn các, còn được gọi là [Tây Thái hậu; 西太后]. Lưỡng cung Thái hậu chính thức Thùy liêm thính chính, trở thành 2 vị Hậu cung đầu tiên và duy nhất tiến hành nhiếp chính của nhà Thanh. Thời đại Đồng Trị Thượng tôn huy hiệu Năm Đồng Trị nguyên niên (1862), ngày 25 tháng 4 (âm lịch), triều thần định huy hiệu cho Tây Thái hậu là Từ Hi Hoàng thái hậu (慈禧皇太后). Đây chính là lúc bà chính thức có huy hiệu này. Ngày hôm đó, chử chư Vương, Bối lặc, Văn võ đại thần, dâng kim sách thượng tôn huy hiệu. Sách tôn viết: Đồng Trị trung hưng Vai trò của Từ Hi Thái hậu cũng như Từ An Thái hậu lúc này chỉ là đóng con dấu của mình lên các sắc chỉ mà thôi, bởi vì tất cả nội dung và tấu biểu của triều đình đều do Nghị Chính vương cùng Quân cơ xứ soạn thảo cũng như chính thức ban bố. Tuy nhiên, người trực tiếp quản lý con dấu là Từ An Thái hậu, còn vai trò của Từ Hi Thái hậu căn bản là quản lý nội vụ. Căn cứ theo Thanh cung di văn (清宫遗闻): "Đông Cung trội ở Đức, mà thực sự nắm quản việc đại sự; Tây Cung trội ở Tài, mà việc phê duyệt tấu chương, chi tiệu lợi hại chỉ quản được". Như vậy có thể thấy, Từ An Thái hậu tuy là người bên ngoài không tham quyền thế, nhưng lại là người nắm những đại quyền. Công việc do Từ Hi Thái hậu xử lý đa phần là những việc lặt vặt, chi tiêu sinh hoạt trong cung, ở những việc trọng đại thì phải thông qua quyết định của Từ An Thái hậu. Ngoài ra, vì Từ An Thái hậu ở vị trí chính cung, bây giờ ở phía Đông Noãn các của Dưỡng Tâm điện, thực lực quá rõ ràng, những việc Từ An Thái hậu thấy không cần nhúng tay vào thì đều để cho Từ Hi Thái hậu nhận lãnh, giải quyết ổn thỏa. Bởi cái đánh giá Từ Hi Thái hậu "tài cán" rốt cục là vì bà xử lý ổn thỏa, còn Từ An Thái hậu quản xuyến trên dưới nghiêm ngặt, dẫu Từ Hi Thái hậu cũng không tự tiện làm trái, ấy chính là "Đức" vậy. Điều đó cho ta thấy vai trò của Từ An Thái hậu vô cùng to lớn trong triều. Trước Chiến tranh Nha phiến, Đại Thanh tự hào là [Thiên triều] và xem thường các nước Tây phương là ngoại di. Sau khi liên quân Anh – Pháp tới Bắc Kinh thời Hàm Phong, triều đình Đại Thanh buộc phải ký điều ước nhục nhã với họ, và lúc này Hoàng tộc Thanh mới chịu nhìn nhận cải thiện về quân sự. Vài người Mãn như Cung Thân vương Dịch Hân cùng Quế Lương nghĩ đến việc tự cường, bàn với Tăng Quốc Phiên, Lý Hồng Chương và Tả Tông Đường. Họ đồng ý với nhau rằng: "Muốn tự cường thì việc luyện binh là quan trọng nhất, mà muốn luyện binh thì trước hết phải chế tạo vũ khí giới", và họ giao cho Lý Hồng Chương thi hành. Dưới sự lãnh đạo của Tăng Quốc Phiên, Tương Quân liên tiếp giành thắng lợi và cuối cùng đã tiêu diệt quân Thái Bình Thiên Quốc sau trận quyết đấu ở Thiên Kinh (Nam Kinh ngày nay) vào tháng 7 năm 1864. Tăng Quốc Phiên được phong [Nhất đẳng Dũng Nhị hầu], hàm Thái tử Thái bảo. Em trai của ông là Tăng Quốc Thuyên, cùng với Tả Tông Đường và Lý Hồng Chương, cũng được ban thưởng hậu hĩnh. Khoảng năm (1872-1873), lại trấn áp thành công Vân Nam Hồi biến cùng Thiểm Cam Hồi biến. Thế cục hỗn loạn của nhà Thanh dần dần ổn định, sử xưng [Đồng Trị trung hưng; 同治中興]. Các vấn đề nội vụ thì mỗi lúc một rối ren với nạn quan liêu và tham nhũng. Một thách thức đáng kể đối với Lưỡng cung Thái hậu là sự tha hóa của đội ngũ quý tộc Mãn Châu. Từ khi Đại Thanh lập quốc, các vị trí quan trọng nhất trong triều đình đều được giao cho người Mãn, còn người Hán bị khinh rẻ. Trái với truyền thống, triều đình Mãn Thanh cuối cùng quyết định giao quyền thống lãnh quân đội chống lại Thái Bình Thiên Quốc vào tay Tăng Quốc Phiên - một người Hán. Bên cạnh đó, 2 vị Thái hậu còn bổ nhiệm người Hán vào nhiều vị trí lãnh đạo cấp cao ở các tỉnh phía Nam Trung Hoa. Từ khi buông rèm chấp chính, Lưỡng cung Thái hậu liền tiếp thu Ngự sử Từ Khải Văn ý kiến, lệnh trung thần trong ngoài triều nói thẳng phê bình khuyết điểm; lại tiếp thu Ngự sử Chung Bội Hiền ý kiến, sùng tiết kiệm, trọng danh khí; tiếp thu Ngự sử Biện Bảo Đệ ý kiến, nghiêm thưởng phạt, nghiêm túc lại chế, thận tiến cử. Vào năm đầu triều Đồng Trị, triều đình tổ chức đánh giá bộ máy hành chính. Quan lại thuộc tất cả các cấp phải gửi về Bắc Kinh bản báo cáo hoạt động của mình trong vòng 3 năm gần nhất. Lưỡng cung Thái hậu tự mình đảm nhiệm việc đánh giá, vốn là nhiệm vụ của bộ Lại. Ngoài ra, Lưỡng cung Thái hậu cũng khuếch trương Dương vụ vận động (洋务运动) hay [Sự vận động tự cường], với mục tiêu là hướng tới giao thiệp và học tập người phương Tây, do Từ An Thái hậu chủ trương cùng Cung Thân vương Dịch Hân và các lãnh đạo khác như Tăng Quốc Phiên, hướng tới trung hưng Đại Thanh. Tăng Quốc Phiên và Lý Hồng Chương tiếp xúc với Dung Hoành (容閎), một sinh viên nghèo ở Ma Cao và là du học sinh đầu tiên ở Mỹ, do một hội truyền giáo trợ cấp, năm 1854 đậu bằng cấp Đại học Yale. Tăng Quốc Phiên phái Dung Hoành qua Mỹ mua máy, ông này thuyết phục Tăng Quốc Phiên gởi 120 thanh niên đi du học. Một số lớn qua Mỹ, ba chục người sang Anh, ba chục qua Pháp, một số nhỏ qua Đức. Phong trào tự cường ngay lập tức gặp nhiều trở ngại. Khi ấy, Quân đội Đại Thanh đang rất bức thiết cần một cuộc cải cách toàn diện và sâu rộng, và với sự cố vấn của các quan viên, Lưỡng cung Thái hậu cho mua bốn tàu chiến từ nước Anh. Tuy nhiên, những chiến hạm này khi về tới Trung Quốc đã chở theo toàn thủy thủ Anh quốc và chỉ tuân lệnh của chính phủ Anh. Cảm thấy bị xúc phạm, cuộc mua bán lập tức chấm dứt và Trung Quốc gửi trả tất cả tàu chiến về Anh. Một số học giả lấy ví dụ này để lập luận, tuy Từ Hi Thái hậu đã có cái nhìn cởi mở hơn đối với các vấn đề đối ngoại so với các triều đại trước đó, nhưng nhìn chung bà vẫn là người bảo thủ với không nhiều kiến thức về tình hình quốc tế. Bên cạnh đó, vì cho rằng sự ồn ào của tàu hỏa sẽ "Ảnh hưởng đến giấc ngủ của Tiên đế", Lưỡng cung Thái hậu đã cho hoãn thi công các tuyến đường sắt. Thậm chí khi hoạt động xây dựng được khôi phục lại năm 1877 dưới sự gợi ý của Lý Hồng Chương, Từ Hi Thái hậu đã hỏi tàu hỏa có phải do ngựa kéo không, chứng tỏ bà không phải là người hiểu rõ về các tiến bộ của khoa học kỹ thuật cũng như tác dụng của chúng. Từ Hi Thái hậu còn đặc biệt cảnh giác với các tư tưởng bình đẳng, tự do của những người du học phương Tây trở về và coi đó là mối đe dọa với sự thống trị của triều đại. Vụ án Cung Thân vương Với mối họa Thái Bình Thiên Quốc được dẹp bỏ, Lưỡng cung Thái hậu mới có thể bắt tay vào việc củng cố quyền lực của mình ở trung ương, mà mối lưu tâm hàng đầu lúc đó không khác hơn là vị thế của Cung Thân vương Dịch Hân, người đang đứng đầu hội đồng Quân cơ xứ. Mặc dù đã sát cánh cùng hai vị Thái hậu trong cuộc đảo chính Tân Dậu, cũng như có công tiến cử Tăng Quốc Phiên, nhưng ảnh hưởng và uy tín của Dịch Hân trong triều đình phần nào hạn chế quyền quyết định của Từ Hi, đặc biệt là Cung Thân vương luôn dùng Từ An Thái hậu để trấn áp, khiến Từ Hi nhiều lần bị gạt ra khỏi chính sự. Năm Đồng Trị thứ 4 (1865), ngày 5 tháng 3 (âm lịch), biên tu Thái Thọ Kỳ (蔡寿祺) buộc tội Cung Thân vương Dịch Hân, nói Vương "ôm quyền nạp hối, làm việc thiên tư kiêu doanh", Lưỡng cung Thái hậu mệnh lệnh điều tra, 7 ngày liền lấy này mục vô quân thượng, miễn đi chức Nghị Chính vương của Dịch Hân. Tuy nhiên, do các đại thần cầu tình, cũng như Từ An Hoàng thái hậu chủ trương, Cung Thân vương vẫn đi lại được trong cung và vẫn giữ các chức vụ quản lý Nội vụ phủ. Đây là lần xích mích đầu tiên giữa Từ Hi Hoàng thái hậu và Cung Thân vương. Trước đây, Cung Thân vương chủ trương Dương vụ vận động là một cuộc vận động giữa triều đình, phái người Trung Quốc sang Tây phương thực hiện du học. Nhiều ý kiến cho rằng Từ Hi Thái hậu cũng có công trong vấn đề này, nhưng xét ra, Từ Hi Thái hậu vốn rất ghét người Tây dương là sự thật rất hiển nhiên, còn thì Từ An Thái hậu thực tế lại là Chân chính quốc mẫu, lại có Cung Thân vương Dịch Hân luôn ra sức dùng biện pháp "Đích thứ chi phân", nên có thể thấy rất rõ những thành tựu của Dương vụ vận động đều là do Từ An Thái hậu chủ trương. Khi cả hai Thái hậu thùy liêm, Từ An Thái hậu vốn nể trọng Cung Thân vương, nhiều lần đứng về phía ông, trong vấn đề trị vì nhiếp chính này vô hình trung tạo nên liên minh giữa Từ An Thái hậu - Cung Thân vương và cả hai dần áp chế Từ Hi Thái hậu, khiến hầu như Từ Hi Thái hậu chỉ có thể đứng ngoài những sự vụ quan trọng, chỉ quản lý vấn đề nội trị. Sự mâu thuẫn từ từ vì quyền lợi này, theo nhiều nhận định chính là cơ sở để người đời sau nhận đoán Từ Hi Thái hậu có hiềm khích rất lớn với Từ An Thái hậu vậy, và đây có lẽ chính là lý do lớn để Từ Hi Thái hậu quyết định ra tay với Cung Thân vương. Sự kiện này khiến triều đình nhà Thanh rúng động, nhiều người đã gửi tấu chương kiến nghị phục chức cho Cung Thân vương, còn bản thân Cung Thân vương khi đối chất trước hai vị Thái hậu đã không cầm được nước mắt. Từ Hi Thái hậu đành phải cho ông làm Ngoại vụ sứ, tuy nhiên vẫn không cho phép ông trở về vị trí lãnh đạo Quân cơ xứ. Từ đó, Cung Thân vương Dịch Hân không bao giờ lấy lại vị thế trước kia một lần nữa. Việc hạ bệ Cung Thân vương chỉ sau chưa đầy 4 năm nắm quyền là một vụ án nghiêm trọng, là cơ sở để người đời phán đoán sự ảnh hưởng của Từ Hi Thái hậu trong triều. Tuy vậy, việc bà nắm quyền cũng hết sức khó khăn, vì Từ An Thái hậu với thân phận [Mẫu hậu Hoàng thái hậu] vẫn áp chế bà một bậc. Vụ án An Đức Hải Năm Đồng Trị thứ 8 (1869), tháng 7, Thái giám An Đức Hải (安德海), một thân tín của Từ Hi Thái hậu đi Nam hạ nhân danh Hoàng đế đại đôn, thu mua long bào. Theo Thanh triều quy chế, Thái giám không thể tùy tiện xuất cung, đằng này An Đắc Hải còn đánh trống khoa chiêng, dương dương tự đắc, thản nhiên nhận hối lộ của quan viên, Thuận Thiên phủ lẫn Trực Lệ Tổng đốc đều không dám làm gì. Nhưng đến Sơn Đông, Tuần phủ Đinh Bảo Trinh (丁宝桢) lấy việc Thái giám ra khỏi kinh thành đã vi phạm tổ chế, liền thỉnh chỉ xử trí. Lúc đấy Từ Hi Thái hậu cáo bệnh, Từ An Thái hậu lấy quyền lực tối cao, triệu Cung Thân vương Dịch Hân và Quân cơ đại thần nhất trí cho rằng: "Tổ chế không được ra đều môn, người vi phạm giết không tha, đương ngay tại chỗ tử hình". Sau đó, Từ An Hoàng thái hậu ra chỉ dụ: Ngày 7 tháng 8, An Đắc Hải ngay lập tức bị xử tử ở ngoài cổng Tây thành Tế Nam, bạo thi 3 ngày, hơn 20 người tùy tùng cũng bị đem đi xử tử. Hành động của Từ An Thái hậu gây nên tiếng vang lớn, được Đồng Trị Đế cũng như triều thần ủng hộ. Hành động của bà lan truyền tới dân gian, trong dân gian có câu ca dao: "Đông Cung ngẫu nhiên hành một chuyện, thiên hạ đều ngạch tay ca tụng" để tán thưởng tầm ảnh hưởng và tài trị quốc của bà. Tuy nhiên vô hình trung bà đã tạo hiềm khích đối với Từ Hi Thái hậu. Đại hôn và hoàn chính Đồng Trị Đế ngay từ nhỏ nhận được một sự giáo dục nghiêm khắc của sư trưởng Miên Du và 4 sư phó nổi tiếng do đích thân Từ Hi Thái hậu tuyển chọn. Những người này cố gắng nhồi nhét cho hoàng đế đủ loại kinh sách, từ bài học trị dân trị nước đến đạo làm người. Theo nhiều truyền thuyết, sức ép lớn từ việc học tập cũng như kỳ vọng cao càng khiến vị Hoàng đế trẻ tuổi thêm chán nản và lười biếng. Đặc biệt cuốn dã sử Thanh triều dã sử Đại quan (清朝野史大观) còn chỉ ra việc Đồng Trị Đế ưa thích chơi vui, hưởng lạc hơn là quan tâm học hành. Dẫu vậy, đó cũng chỉ là những truyền thuyết dã sử, được người sau tưởng tượng khi hình dung về Đồng Trị Đế - đang bị trói buộc bởi 2 vị Thái hậu trong cung. Năm Đồng Trị thứ 11 (1872), Đồng Trị hoàng đế tròn 17 tuổi. Với sự ủng hộ của Từ An Thái hậu, ông chọn Mông Cổ quý tộc nữ A Lỗ Đặc thị làm Hoàng hậu. Khoảng đầu ngày 3 tháng 2, khi tiến hành tuyển tú, Từ An Thái hậu là người đề bạt và đưa A Lỗ Đặc thị dự vào đợt tuyển. Trong khi đó, Từ Hi Thái hậu quyết liệt chọn Phú Sát thị, con gái của Phượng Tú thuộc dòng dõi Phú Sát thị danh môn, đối chọi với Từ An Thái hậu rất gay gắt. Cụ thể quá trình này, trước mắt vẫn không có hồ sơ công khai minh bạch, nhưng cuối cùng Đồng Trị Đế vẫn chọn A Lỗ Đặc thị làm Hoàng hậu, và điều này khiến Từ Hi Thái hậu rất không vui. Còn Phú Sát thị trở thành Tuệ phi. Hoàng hậu A Lỗ Đặc thị rất không được lòng Từ Hi Thái hậu, vì ông ngoại của Hoàng hậu chính là Trịnh Thân vương Đoan Hoa, người đã bị giết trong Chính biến Tân Dậu khi xưa và là người khiến Từ Hi rất chán ghét. Bên cạnh đó, vị A Lỗ Đặc thị này lại là cháu của Từ An Hoàng thái hậu, vì vợ của Đoan Hoa là cô mẫu của Thái hậu, do đó A Lỗ Đặc thị cũng xem như là thân thích của Từ An, nên Từ Hi điềm nhiên không có chân can thiệp. Bên cạnh đó, vốn Đồng Trị Đế rất thân với Từ An Thái hậu, và cũng rất vừa ý với A Lỗ Đặc thị nên ý tứ Hoàng đế đứng về phía bà, điều này khiến mẹ đẻ như Từ Hi Thái hậu cảm thấy bị phản bội và sỉ nhục. Những vấn đề trên khiến nhiều người cho rằng Từ Hi Thái hậu dần hiềm khích với Từ An Thái hậu. Ngày 8 tháng 10 năm đó, dâng thêm 2 chữ Đoan Hựu (端佑). Năm thứ 12 (1874), Đồng Trị Đế bắt đầu thân chính. Ngày 9 tháng 2, dâng thêm 2 chữ Khang Di (康颐), toàn xưng Từ Hi Đoan Hựu Khang Di Hoàng thái hậu (慈禧端佑康颐皇太后). Đồng Trị Đế dành nhiều thời gian ở bên Hoàng hậu hơn bất cứ phi tần nào khác, trong đó có Tuệ phi Phú Sát thị - người mà Từ Hi Thái hậu vốn muốn lập làm Hoàng hậu. Theo nhiều cách nói từ dã sử truyền miệng, A Lỗ Đặc Hoàng hậu có cuộc sống cung đình không mấy vui vẻ, đặc biệt là mối quan hệ với Từ Hi Thái hậu được cho là cực kém. Nếu việc tuyển tú xảy ra, đúng là có mâu thuẫn giữa Lưỡng cung Thái hậu, thì A Lỗ Đặc Hoàng hậu trong tình thế đó bị kẹp giữa 2 vị Thái hậu, phi thường áp lực đè nén. Tuy không hề có bất kì cứ liệu nào nói đến mối bất hòa giữa Hoàng hậu và Từ Hi Thái hậu, song sự truyền miệng của người Bát kỳ đều nhắc đến vấn đề mẹ chồng nàng dâu này. Trong đó, chuyện dã sử được nhắc đến nhiều nhất là việc A Lỗ Đặc Hoàng hậu từng nói:"Tây Thái hậu xuất thân chỉ là một phi tần, nhập cung qua cửa bên. Còn ta là Trung cung Hoàng hậu, được kiệu vào cung qua Đại Thanh môn với lễ đại hôn theo đúng di huấn của tổ tiên". Tuy nhiên, câu nói này cũng xuất hiện trong truyền khẩu là do Đôn Thân vương Dịch Thông nói với Từ Hi Thái hậu. Đôn Thân vương Dịch Thông nổi tiếng ngay thẳng, không hề để tâm ai có thích lời nói của ông hay không. Khi đó Từ Hi Thái hậu phàn nàn việc Hoàng hậu không nghe lời quản giáo, muốn phế bỏ, Đôn Thân vương liền nói:"Muốn phế người đi từ Đại Thanh môn vào, thì phải do người đi vào từ Đại Thanh môn quyết định". Giải thích một chút, quy chế Đại Thanh nghiêm ngặt, Hoàng hậu được cử hành đại hôn đi từ cổng chính Đại Thanh môn vào, là chủ nhân chân chính của hậu cung, còn phi tần phải đi cửa bên cạnh thành để vào. Ý của Đôn Thân vương là Từ Hi Thái hậu vốn chỉ là phi thiếp, không có tư cách phế truất Hoàng hậu do Hoàng gia tuyển lựa. Những câu chuyện này, dĩ nhiên vẫn chỉ ở trong phạm vi tin đồn lưu truyền. Nhưng thông qua sự "bằng mặt mà không bằng lòng" giữa Từ Hi cùng liên minh Từ An và Cung Thân vương. Đồng Trị Đế kính Từ An Thái hậu hơn bản thân mẹ đẻ Từ Hi, lại thêm sự xuất hiện của Hoàng hậu A Lỗ Đặc thị, thì cho dù những tin đồn này tuy có thể không chính xác đến chi tiết, song ít nhiều quả thực có sự [căng thẳng] giữa Từ Hi Thái hậu với các thành viên Hoàng thất Mãn Thanh khác. Vào lúc này, Từ Hi Thái hậu chỉ vỏn vẹn ở vai trò [Đế mẫu], vai vế trong Hoàng thất có Từ An Thái hậu áp chế, về phương diện lại có Cung Thân vương danh chính ngôn thuận lãnh đạo Quân cơ xứ, chúng ta có thể hình dung hoàn cảnh bị cản trở đủ đường của Từ Hi Thái hậu. Đồng Trị Đế băng hà Trong thời kỳ trị vì ngắn ngủi của mình, Đồng Trị Đế đã có 2 quyết định quan trọng. Một trong số đó là vào mùa hè năm Đồng Trị thứ 12, ngay trong năm tự mình chấp chính, Đồng Trị Đế đã ra lệnh xây dựng lại cung điện mùa hè Viên Minh Viên, vốn đã bị liên quân Anh - Pháp phá hủy trong Chiến tranh Nha phiến lần 2, để dâng lên Từ An Thái hậu và Từ Hi Thái hậu. Một số sử gia nhận xét đây chỉ là cái cớ để Đồng Trị Đế đẩy Từ Hi ra khỏi Tử Cấm Thành, tạo điều kiện cho ông có thể độc lập quyết định chuyện hậu cung. Tuy nhiên, việc thi công gặp trở ngại do quốc khố đã khánh kiệt sau nhiều binh biến, bị các đại thần phản đối. Ngày 17 tháng 8, Cung Thân vương Dịch Hân, Đại học sĩ Văn Tường (文祥) lãnh thêm ba vị Quận vương, ba vị Ngự tiền đại thần, ba vị Quân cơ đại thần cùng một vị Sư phó liên hợp thỉnh tấu, đình chỉ sửa sang Viên Minh Viên. Lưỡng cung Thái hậu phải đích thân điều đình. Năm Đồng Trị thứ 13 (1874), ngày 10 tháng 11 (âm lịch), Đồng Trị Đế bệnh nặng, Lưỡng cung Thái hậu lại [Tạm lãnh triều chính; 暂览朝政]. Sang ngày 5 tháng 12 (tức ngày 13 tháng 1 năm 1875), Đồng Trị Đế băng hà khi mới 19 tuổi tại Dưỡng Tâm điện. Theo nhiều truyền thuyết, với sự hỗ trợ của một số tiểu thái giám và bạn thân là Tải Chính (con trai của Cung Thân vương), Đồng Trị Đế đã tìm cách trốn khỏi Tử Cấm Thành, cải trang thành thảo dân và đến tìm vui trong các kỹ viện ở Bắc Kinh. Những cuộc vui chơi của Hoàng đế thường xuyên đến nỗi nhiều người đã biết đến nó và trong cung bắt đầu lan truyền nhiều lời đàm tiếu. Huyền sử cho rằng trong một lần như vậy, Hoàng đế đã mắc bệnh giang mai. Tuy nhiên, các Thái y trong cung tuyên bố ông bị đậu mùa. Dựa trên góc nhìn của y học hiện đại, bệnh giang mai không thể gây ra cái chết nhanh chóng đến vậy. Do đó, các sử gia tin rằng Đồng Trị Đế thực sự đã mất vì bệnh đậu. Thời đại Quang Tự Vua mới lên ngôi Đồng Trị không con mà chết, chính quyền rơi vào tình trạng bất ổn, vì phải chọn ra người thích hợp để thừa kế. Vì Đồng Trị Đế là con trai độc nhất của Hàm Phong, nên tính ra thứ hệ là dòng dõi Hàm Phong đã tuyệt tự. Sau khi Đồng Trị băng hà khoảng 2 canh giờ, tại Tây Noãn các của Dưỡng Tâm điện đã diễn ra họp mặt của các Hoàng thúc, gồm: Đôn Thân vương Dịch Thông, Cung Thân vương Dịch Hân, Thuần Thân vương Dịch Hoàn, Phu Quận vương Dịch Huệ cùng các đại thần khác như Dịch Khuông, Cảnh Thọ. Đầu tiên có người thỉnh vì Đồng Trị Hoàng đế lập tự, hơn nữa nhắc tới Phổ Khản, Phổ Luân là 2 người có khả năng, nhưng Đôn Thân vương phản đối và nói "Thân thích họ xa thì không được", thế rồi Từ Hi Thái hậu liền nhân đó tán thành, liền cơ hội đề nghị Tải Điềm (載湉), con trai của Thuần Thân vương cùng em gái của bà là Uyển Trinh. Từ An Hoàng thái hậu cuối cùng cũng đồng ý. Sau đó, ngày 7 tháng 12, Tải Điềm lên ngôi tại Dưỡng Tâm điện, tức là Thanh Đức Tông Quang Tự Hoàng đế. Lưỡng cung Hoàng thái hậu tiếp tục thùy liêm thính chính, chỉ dụ của Lưỡng cung gọi là Ý chỉ (懿旨), còn của Hoàng đế gọi là Dụ chỉ (谕旨). Lúc này, Từ An Hoàng thái hậu bắt đầu ngụ ở Đông lục cung Chung Túy cung, còn Từ Hi Hoàng thái hậu trú tại Trường Xuân cung. Năm Quang Tự nguyên niên (1875), ngày 20 tháng 1, Lưỡng cung Hoàng thái hậu ý chỉ để Tải Điềm chính thức đăng quang tại Thái Hòa điện, tế cáo thiên địa, Tông miếu, Xã tắc. Sau khi đăng ngai, Hoàng đế đến Càn Thanh cung lạy trước ngự dung của Đồng Trị Đế, sau đó đến Chung Túy cung lạy Từ An Hoàng thái hậu, Trường Xuân cung lạy Từ Hi Hoàng thái hậu, và đến Trữ Tú cung lạy Gia Thuận Hoàng hậu. Từ Hi Thái hậu ép Quang Tự Đế gọi Từ An Thái hậu là [Hoàng ngạch niết; 皇額捏], còn gọi mình là [Thân ba ba; 親爸爸] với mục đích xác lập vị trí trụ cột cho bản thân. Lên ngôi khi còn trẻ, Quang Tự Đế bắt đầu việc học hành khi lên 5 tuổi dưới sự hướng dẫn của Ông Đồng Hòa, người sau này trở thành bạn thân và một vị đại thần tin cẩn của Hoàng đế. Năm Quang Tự thứ 2 (1876), ngày 3 tháng 7, dâng thêm huy hiệu 4 chữ, toàn xưng là Từ Hi Đoan Hựu Khang Di Chiêu Dự Trang Thành Hoàng thái hậu (慈禧端佑康颐昭豫莊誠皇太后). Bệnh tật và cái chết của Từ An Thái hậu Năm Quang Tự thứ 6 (1880), Từ An Thái hậu lại lâm bệnh nặng, theo nhiều bằng chứng thì đó là bệnh kiết lỵ. Cơn bệnh này của Từ An Thái hậu kéo dài từ giữa năm đến cuối năm ấy, sau một thời gian tạm thời ổn định thì qua năm Quang Tự thứ 7 đầu năm lại tái phát. Lần tái phát này thực sự nghiêm trọng, vì căn cứ cung đình ghi chép, đã có dấu hiệu chuẩn bị an táng. Cùng năm Quang Tự thứ 7 ấy, ngày 10 tháng 3 (tức ngày 8 tháng 4 dương lịch), Từ An Thái hậu cảm thấy không khỏe nên không đến Dưỡng Tâm điện nghe chính, đêm đó đột nhiên qua đời tại Chung Túy cung trong sự kinh ngạc của triều thần, hưởng thọ 44 tuổi. Mặc dù trẻ hơn Từ Hi Thái hậu tới 2 tuổi, nhưng với địa vị chí Trung cung Hoàng hậu của Hàm Phong Đế, Từ An Thái hậu là người quyết định hầu hết các vấn đề trong nội bộ hoàng tộc. Một số giả thuyết cho rằng đã có sự rạn nứt trong mối quan hệ giữa 2 vị Thái hậu sau khi Từ An Thái hậu chém đầu thái giám thân cận của Từ Hi là An Đức Hải khi trước, sau đó là việc đại hôn của Đồng Trị Đế - khi Hoàng đế đã chọn A Lỗ Đặc thị mà Từ An Thái hậu chọn lựa, hơn là Phú Sát thị người được Từ Hi Thái hậu yêu mến. Do Từ An Thái hậu qua đời quá nhanh, nghi vấn về sự liên quan của Từ Hi Thái hậu trong cái chết của bà là không tránh khỏi. Có lời đồn cho rằng chính Từ Hi Thái hậu đã thủ tiêu bà vì bà có di chiếu bí mật của Hàm Phong Đế để lại trước khi băng hà. Đây cũng chính là lời đồn đoán được lưu truyền phổ biến nhất về cái chết của bà. Lời đồn nói rằng: ngay trước khi lâm chung, Hàm Phong Đế đã cảm thấy Từ Hi về sau ắt tạo loạn, nên bí mật lập chiếu dụ, dặn dò Từ An Thái hậu nếu Từ Hi cậy tử làm xằng làm bậy thì lấy đạo dụ này ra, căn cứ theo tổ tông gia pháp mà trị tội. Sau khi Hàm Phong Đế băng hà, Từ An Thái hậu từng gọi Từ Hi Thái hậu đến và đưa ra mật dụ, lấy cảnh báo tỉnh, khiến Từ Hi nơm nớp lo sợ. Vì thế, suốt thời Đồng Trị, Từ Hi Thái hậu an phận thủ thường, đối với Từ An Thái hậu muôn phần cung kính, không hề làm trái. Do thấy Từ Hi Thái hậu như vậy phụng dưỡng mình, Từ An Thái hậu dần tháo bỏ cảnh giác. Một ngày, Từ An Thái hậu bị bệnh, uống thuốc khác không khỏi, nhưng đến khi ăn thứ của Từ Hi Thái hậu thì kỳ diệu khỏi hẳn. Phấn chấn, Từ An đi dạo Di Hòa Viên, thấy cánh tay Từ Hi Thái hậu băng bó mới tra hỏi. Từ Hi thuật lại việc mình cắt cổ tay làm mồi nhử thuốc cho Từ An uống, trần tình rất là thống khổ cảm động. Từ An là người nhân từ, nghe thế rất cảm động, mới hồi cung, trước mặt Từ Hi Thái hậu mà đốt mật dụ năm nào. Sau đó, Từ Hi Thái hậu không còn kiêng dè gì, câu kết Thái y hại chết Từ An Thái hậu, dần giành quyền độc bá triều chính. Câu chuyện này thậm chí ghi vào Sùng Lăng truyện tín lục (崇陵传信录), về sau dù cho có vài dị bản của câu chuyện đi nữa, nhưng những giả thiết cùng dị bản ấy đều thống nhất rằng: [Từ Hi đã giết chết Từ An]. Tuy nhiên, đó chỉ là một dạng tác phẩm văn học dân gian, bị ảnh hưởng qua rất nhiều đồn đoán, sự thực không thể tham khảo được. Do thiếu nhiều bằng chứng nên các nhà sử học vẫn chưa thống nhất về câu chuyện này. Từ khi Lưỡng cung thính chính, vấn đề lớn nhất từng giải quyết là Thái Bình Thiên Quốc, dù có cực kỳ lớn thế nhưng vẫn chỉ gói gọn ở [Nội loạn]. Sau khi Từ An Thái hậu băng hà, Từ Hi Thái hậu một mình nhiếp chính, Đại Thanh bước vào liên miên những vấn đề chiến tranh với nước Pháp và nước Anh, chiến tranh Giáp Ngọ,... áp lực đều không như nhau. Từ năm 1881 tới 1883, Từ Hi Thái hậu chủ yếu trao đổi với các đại thần qua văn bản Thêm vào đó, Quang Tự Đế có cũng vài lần buộc thiết triều mà không có Từ Hi Thái hậu ở đằng sau thính chính. Giáp Thân dịch xu Sự kiện [Giáp Thân dịch xu; 甲申易枢] là một trong 3 chính biến lớn nhất mà Từ Hi Thái hậu tham dự (lần đầu chính là Chính biến Tân Dậu, và lần cuối là Chính biến Mậu Tuất). Sự việc này xảy ra khi Từ Hi Thái hậu đột ngột biếm truất Cung Thân vương Dịch Hân. Năm Quang Tự thứ 10 (1884), Trữ Tú cung được trùng tu quy mô lớn, nối với Dực Khôn cung ở phía Nam vào làm một. Từ Hi Thái hậu dọn từ Trường Xuân cung sang ở cung điện mới này để tỏ rõ danh phận của mình. Cũng vào chính lúc đó, Cung Thân vương Dịch Hân - người đã từng nắm giữ vị trí lãnh đạo triều đình, cảm thấy bị đe dọa bởi sự chuyên quyền của Từ Hi Thái hậu. Ông tự mình quyết định nhiều vấn đề, trong đó đỉnh cao là tuyên chiến với nước Pháp, dẫn đến Chiến tranh Pháp - Thanh mà Trung Quốc là kẻ bại trận. Nhân cơ hội này, Từ Hi Thái hậu loại bỏ Cung Thân vương và những người ủng hộ ông trong Quân cơ xứ, bao gồm Bảo Vân (宝鋆), Lý Hồng Tảo (李鸿藻) cùng Cảnh Liêm (景廉). Thầy dạy của Quang Tự Đế là Ông Đồng Hòa cũng bị cách chức, rời khỏi Quân cơ xứ. Tháng 3 năm ấy, Từ Hi Thái hậu giáng Cung Thân vương xuống chức Cố vấn, bắt giam lỏng tại nhà riêng, cắt hết lương bổng Thân vương. Cùng một ngày, lại ban phát chỉ dụ: Như vậy, Từ Hi Thái hậu đã mượn cuộc bại chiến này với nước Pháp để gạt bỏ Cung Thân vương, cũng như thay thế toàn bộ Quân cơ xứ - cơ quan có quyền điều hành Đại Thanh nhất. Bà thay thế Cung Thân vương bởi Thuần Thân vương Dịch Hoàn - cha ruột của Quang Tự Đế. Thuần Thân vương Dịch Hoàn sau đó được bổ nhiệm vào một số vị trí quan trọng khác, trong đó có Đô đốc Hải quân. Với nỗ lực chứng tỏ sự trung thành và để bảo vệ con trai của mình đang ở bên Từ Hi Thái hậu, ông đã quyết định dùng số tiền nâng cấp hải quân để xây dựng Di Hòa Viên làm nơi Từ Hi Thái hậu sẽ an dưỡng tuổi già. Đối với chính biến lần này của Từ Hi Thái hậu, đương thời đánh giá tiêu cực, vì cả ba người Thế Đạc, Dịch Hoàn cùng Dịch Khuông đều là những người không mấy tài cán lại nhu nhược, so về ý chí cũng như khả năng ngoại giao đều thua xa Cung Thân vương. Dẫu vậy, do Cung Thân vương đe dọa quá lớn đến vị trí của mình, Từ Hi Thái hậu thà chọn những người tài năng có hạn còn hơn là một vị Thân vương có quá nhiều danh tiếng lừng lẫy. Đương thời dân gian có câu châm chọc: [Dịch trung xu dĩ nô mã, đại lô phục dĩ sài hồ; 易中枢以驽马,代芦服以柴胡]. Trong đó, [nô mã] tức là "con ngựa ngu", còn [sài hồ] là một loại cỏ cao hơn cỏ lau một chút; ý tứ của câu này "Bỏ tốt lấy dốt", so sánh toàn thể Quân cơ xứ chỉ là một đám bù nhìn của Từ Hi Thái hậu. Từ đây trở đi, quyền lực của Từ Hi Thái hậu lại dần được mở rộng, không còn ai có thể ngăn cản bà chuyên quyền được nữa, dù cho là Quang Tự Đế. Đại hôn của Quang Tự Đế Theo nguyên tắc, Quang Tự Đế bắt đầu được cai trị độc lập khi lên 16 tuổi, lúc đó Lưỡng cung Thái hậu sẽ thôi nhiếp chính và triệt liêm hoàn chính cho Hoàng đế, điều này đã là một "khế ước" vào ngày Quang Tự Đế được đón vào cung. Mỗi ngày mỗi tháng Quang Tự Đế trưởng thành, quyền lực của Từ Hi Thái hậu cũng dần giảm đi. Năm Quang Tự thứ 12 (1886), ngày 10 tháng 6 (âm lịch), trong [Ý chỉ] của Từ Hi Thái hậu đã nhắc lại khế ước năm xưa, ngoài ra còn nói: ["Khâm Thiên giám lựa chọn ngày lành, sang năm cử hành đại điển đăng cơ cho Hoàng đế"]. Ngoài mặt, Từ Hi Thái hậu ra vẻ không tham quyền lực, luôn sẵn sàng trao lại quyền cho Hoàng đế, thế nhưng thực tế bà lại ngấm ngầm muốn tìm biện pháp mình có thể tiếp tục nắm đại quyền mà không quá lộ liễu như việc buông mành nhiếp chính. Thuần Thân vương Dịch Hoàn, sau sự kiện [Giáp Thân dịch xu] có thể thay thế Cung Thân vương vào Quân cơ xứ, do đó ông bị buộc phải trở thành tâm phúc của Từ Hi Thái hậu. Với bản tính thận trọng, nên Dịch Hoàn đã sớm nhìn ra ý tứ này của bà. Thế là chỉ 5 ngày sau khi [Ý chỉ] trên được ban ra, Dịch Hoàn dẫn các đại thần của Quân cơ xứ tấu thỉnh Hoàng thái hậu thực hiện [Huấn chính; 訓政] như Thanh Cao Tông Càn Long Hoàng đế khi xưa. Trong tấu chương còn chỉ rõ: ["Cần thiết dần thay đổi quy chế hiện tại, trước hết mời Ý chỉ, sau tấu lên Hoàng đế"; 必须永照现在规制,一切事件,先请懿旨,再于皇帝前奏闻]. Vào tháng 10 năm ấy, Lễ Thân vương Thế Đạc vào cung dâng tấu, xin Từ Hi Thái hậu "huấn chính", còn ghi rõ ra trình tự huấn chính như sau: ["Phàm hễ triều kiến dẫn kiến, Hoàng thái hậu thăng tọa huấn chính"; 凡遇召见引见,皇太后升座训政]. Vòng vo một hồi, rốt cuộc Từ Hi Thái hậu vẫn tiếp tục nắm quyền ["giáo huấn"] Hoàng đế các sự việc quan trọng. Tuy vậy, việc này cuối cùng cũng bị chính Từ Hi Thái hậu khước từ, tỏ vẻ không muốn. Năm Quang Tự thứ 13 (1887), tháng giêng, Quang Tự Đế chính thức cử hành đại điển thân chính. Năm Quang Tự thứ 14 (1888), Quang Tự Đế đã 18 tuổi, có thể coi là già trong truyền thống cưới hỏi của cung đình Trung Hoa. Từ Hi Thái hậu đã đưa cháu gái ruột của mình, Diệp Hách Na Lạp Tĩnh Phân tham gia Bát Kỳ tuyển tú. Sau cuộc tuyển tú diễn ra vào năm ấy, Từ Hi Thái hậu tuyên bố lễ đại hôn giữa Quang Tự Đế và Diệp Hách Na Lạp thị, ngày định hôn là ngày 27 tháng giêng, năm Quang Tự thứ 15 (tức ngày 26 tháng 2 năm 1889 dương lịch). Quá trình tuyển vòng cuối, quyết định Hậu và phi tần được diễn ra ở Thể Hòa điện (體和殿), và câu chuyện này được lưu truyền qua rất nhiều dã sử. Trong đó, phổ biến nhất là câu chuyện truyền miệng từ một vị Thái giám đời Dân Quốc. Lúc này, Quang Tự Đế tuyển chọn 5 tú nữ còn lại là Diệp Hách Na Lạp thị, 2 chị em thuộc gia tộc Tha Tha Lạp thị (他他拉氏), con gái Tả Thị lang bộ Lễ Trường Tự (長敘) cùng hai con gái của Tuần phủ Đức Hinh (德馨). Quang Tự Đế đặc biệt để mắt đến con gái của Đức Hinh, định trao ngọc tỷ song Từ Hi Thái hậu kịch liệt phản đối, bắt Quang Tự Đế trao cho cháu gái mình. Vì vậy, Diệp Hách Na Lạp thị được phong Hậu, hai con gái nhà Tha Tha Lạp thị, người em được phong Trân tần, cùng với chị gái phong Cẩn tần, hai con gái nhà Đức Hinh hoàn toàn bị loại. Tuy câu chuyện truyền miệng này khá phổ biến, song căn cứ theo thư tịch tuyển tú, số lượng tú nữ được tuyển thời đó phải có tầm 30 người. Số lượng 5 người như vậy là nhỏ nên thiếu căn cứ, không đáng tin. Đang lúc hậu cung chuẩn bị đại lễ thì việc hệ trọng xảy ra: ngày 15 tháng 12 cuối năm ấy (tức ngày 16 tháng 1 năm 1889), lửa cháy phát sinh thiêu trụi Thái Hòa môn (太和門). Thái hậu mặc kệ, bắt buộc lễ thành hôn của Diệp Hách Na Lạp thị phải tuân theo quy tắc hôn lễ dành cho Hoàng hậu Đại Thanh, tức kiệu của Hoàng hậu được chở qua Đại Thanh môn (大清門) rồi Thái Hòa môn nhập cung. Do vậy, Thái hậu sai người đẩy nhanh tốc độ sửa chữa, làm một tòa cửa lớn đánh tráo giả Thái Hòa môn. Sự việc được giải quyết khéo léo, nhìn bên ngoài không ai phát hiện ra đây là cửa giả. Đúng ngày 27 tháng 1 năm Quang Tự thứ 15, Diệp Hách Na Lạp thị được lập làm Hoàng hậu. Vốn không có tình cảm, Quang Tự luôn lấy cớ bệnh trong người để xa lánh Hoàng hậu. Tuy một phần vì dung mạo bà tầm thường, lại lớn hơn ông 3 tuổi, nhưng nguyên nhân chính của việc này là vì Hoàng hậu vốn là cháu gái của Từ Hi Thái hậu, người luôn khắt khe và áp đặt Quang Tự Đế mọi việc nên khiến ông cảm thấy bất an. Ngược lại, Quang Tự Đế vô cùng sủng ái Trân tần, nhanh chóng tấn phong Trân phi. Rút lui vào hậu trường Năm Quang Tự thứ 15 (1889), sau khi diễn ra đại hôn, Từ Hi Thái hậu chuẩn bị hoàn chính. Ngày 3 tháng 2 (tức ngày 5 tháng 3 dương lịch), Từ Hi Thái hậu tuyên bố rút lui khỏi chuyện triều chính. Ngày 16 tháng 2, nhân Quang Tự Đế tự mình chấp chính, dâng 2 chữ Thọ Cung (壽恭). Ngày 15 tháng 3, lại nhân đại hôn định thêm 2 chữ Khâm Hiến (欽獻), toàn xưng Từ Hi Đoan Hựu Khang Di Chiêu Dự Trang Thành Thọ Cung Khâm Hiến Hoàng thái hậu (慈禧端佑康颐昭豫莊誠壽恭欽獻皇太后). Theo đó, Từ Hi Thái hậu phải rời khỏi Tử Cấm Thành đến Di Hòa Viên, danh nghĩa [Bảo dưỡng tuổi thọ]. Nhưng với tư cách là người đứng đầu hoàng gia, Từ Hi Thái hậu vẫn thường xuyên ban thưởng cho các đại thần và còn mời họ vào hoàng cung xem Kinh kịch, và những người này tỏ ra trung thành với Từ Hi Thái hậu hơn là với Hoàng đế. Ngay cả khi Từ Hi đã lui về nghỉ ở Di Hòa Viên, Quang Tự Đế và bá quan vẫn phải thường xuyên lui tới vấn an bà, chính qua những lần thăm hỏi này mà các vấn đề quốc gia đại sự sẽ được quyết định với sự can thiệp của Thái hậu. Ông Đồng Hòa nhận xét, Quang Tự Đế chỉ có thể tự mình giải quyết các tấu chương lặt vặt thường ngày, trong khi Quân cơ xứ cố vấn Hoàng đế khi gặp phải các vấn đề quan trọng hơn, còn với những trường hợp đặc biệt quan trọng vẫn phải xin ý kiến của Thái hậu. Năm Quang Tự thứ 20 (1894), cuộc chiến tranh Trung - Nhật bùng nổ. Quang Tự Đế vốn thiếu kinh nghiệm chính trị lẫn quân sự nên triều đình phải quay sang nhận chỉ đạo của Từ Hi Thái hậu. Tuy nói là đã rút lui vào hậu trường, nhưng vai trò của Từ Hi Thái hậu thực tế lại không hề thua kém so với trước kia, nếu không muốn nói là ngày càng mạnh hơn. Năm Quang Tự thứ 21 (1895), đại thọ thứ 60 của Từ Hi Thái hậu. Này 15 tháng 8, dâng thêm tôn hiệu hai chữ Sùng Hi (崇熙), toàn xưng Từ Hi Đoan Hựu Khang Di Chiêu Dự Trang Thành Thọ Cung Khâm Hiến Sùng Hi Hoàng thái hậu (慈禧端佑康颐昭豫莊誠壽恭欽獻崇熙皇太后). Dựa trên các lễ đại thọ lần thứ 70 và 80 tổ chức cho Hiếu Thánh Hiến Hoàng hậu, Từ Hi Thái hậu dự định tổ chức một buổi lễ xa hoa bao gồm trang trí trục đường nối liền Di Hòa Viên và Tử Cấm Thành, biểu diễn văn nghệ miễn phí cho bá tánh, đồng thời đại xá thiên hạ. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh Trung Nhật kéo dài buộc Từ Hi Thái hậu phải từ bỏ kế hoạch này và chỉ tổ chức một buổi lễ nhỏ ở trong cung. Bách nhật duy tân và Mậu Tuất chính biến Sau vụ Thanh Nhật chiến tranh, thấy một nước lớn như Trung Quốc mà bị một nước nhỏ xưa nay mình vẫn khinh khi là Nhật Bản đánh thua, người Trung Hoa nhận ra rằng công cuộc tự cường hơn hai chục năm không có kết quả gì cả, vũ khí không đủ để cứu nước, phải cải cách từ gốc, thay đổi chế độ, như Vương Thao đã cảnh cáo thì mới được. Họ cổ vũ canh tân chính trị, tổ chức lại điều đình, giảm phung phí trong xã hội, bỏ hệ thống khoa cử cũ, tuyển nhân tài theo cách mới. Do đó mà có cuộc vận động duy tân (đổi mới) khắp trong nước. Các tài liệu lịch sử gọi sự kiện này là [Mậu Tuất biến pháp; 戊戌变法] hay Bách nhật Duy tân [百日維新; có nghĩa là "100 ngày cải cách"]. Hai người đề xướng sự kiện này là Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu đưa ra khẩu hiệu "toàn biến, tốc biến" (thay đổi triệt để và mau). Lương Khải Siêu làm đại biểu cho một nhóm 190 cử nhân Quảng Đông lên kinh thi, dâng thư lên triều đình bàn về thời cuộc. Khang Hữu Vi cùng nhóm 1,300 cử nhân khác dâng thư xin biến pháp. Rồi hai nhóm họp làm một. Kể từ thế kỷ XII đời Nam Tống (trên bảy thế kỷ), bây giờ mới lại thấy một phong trào học sinh dâng thỉnh nguyện lên vua. Lần này, thỉnh nguyện của nhóm Khang, Lương không được chấp nhận. Năm Quang Tự thứ 22 (1896), Khang Hữu Vi lần nữa dâng thư xin biến pháp. Lần này ông đạt được đến Quang Tự Đế qua Ông Đồng Hòa. Quang Tự Đế lúc này tuy đang tự mình nắm quyền, nhưng Từ Hi Thái hậu dù lui về nghỉ ở Di Hòa Viên vẫn theo dõi hành động của ông, điều này càng khiến Hoàng đế nôn nóng tìm biện pháp mà mình có thể tự mình nắm quyền, rồi tiến hành biến pháp. Hoàng đế vào lúc đó tuy e sợ thế lực của Thái hậu, nhưng nhiệt tâm muốn cải cách nên cho mời Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu lên kinh bàn việc. Ông tiếp Khang-Lương suốt một buổi, phong cho họ chức tước để cùng mưu việc biến pháp. Đề nghị nào họ đưa ra Quang Tự Đế cũng chấp nhận: cải cách việc triều đình cho mới mẻ, bỏ lối văn bát cổ trong các khoa thi mà lấy môn luận về thời vụ thay vào, lập học hiệu, khuyến khích kẻ viết sách mới và kẻ chế khí cụ mới, bỏ những nha thự ít việc, luyện tập quân đội theo lối mới, trù lập ngân hàng, làm đường xe lửa, khai mỏ, mở nông và công nghiệp, lập hội buôn, mỏ rộng đường ngôn luận, cầu nhân tài... Năm Quang Tự thứ 24 (1898), tháng 4, Quang Tự Đế tiến hành cuộc duy tân. Thế rồi trong khoảng chưa đầy ba tháng, hơn một trăm đạo chiếu được ban ra, làm cho cả trong triều lẫn ngoài tỉnh xôn xao. Những thay đổi này là quá đột ngột đối với tình hình xã hội nói chung của Trung Quốc. Ngoài ra, duy tân tiến hành mà không có chính sách và chủ trương cụ thể. Hoàng đế nghe Khang Hữu Vi gợi ý gì thì nghe đó, Khang Hữu Vi thì thấy các nước Âu - Nhật làm sao thì làm y như vậy mà thiếu sự cân nhắc cho phù hợp với hoàn cảnh đặc thù của đất nước. Bên cạnh đó, có một số ý kiến nghi ngờ vai trò của Nhật Bản trong việc lợi dụng sự cả tin của Quang Tự Đế và Khang Hữu Vi để làm lệch hướng cuộc biến pháp theo hướng có lợi cho Nhật. Khang Hữu Vi biết rằng nhóm cựu thần tất phản đối, nên khuyên Hoàng đế đừng vội bỏ hết các nha môn, mà giữ họ lại, phong đất cho họ để không mất lộc. Nhưng Từ Hi Thái hậu hay biết, liền bổ nhiệm một người cùng phe là Vinh Lộc - Tổng đốc Trực Lệ, chỉ huy quân đội ở Bắc Kinh để củng cố thế lực của bà. Quang Tự cương quyết bảo: "Không cho ra biến pháp thì giết ta còn hơn!". Đàm Tự Đồng thấy Thái hậu cản trở công cuộc đổi mới, khuyên Quang Tự đoạt lại chính quyền. Nghe lời Đàm Tự Đồng, Quang Tự triệu Viên Thế Khải lúc đó đang thống lĩnh 7.000 quân tâm phúc về Bắc Kinh bàn việc, có ý dùng quân của Viên để bao vây Di Hòa Viên. Thậm chí Khang Hữu Vi còn có ý định ám sát Từ Hi Thái hậu. Chẳng may, sự việc bị tiết lộ do sự phản bội của Viên Thế Khải. Ngày 3 tháng 8 (âm lịch), Vinh Lộc đến Di Hòa Viên báo tin cho Từ Hi Thái hậu, thế là bà vội vàng từ Di Hòa Viên trở về Bắc Kinh, họp Quang Tự Đế và các đại thần lại, bắt Hoàng đế quỳ một bên, các đại thần quỳ một bên, trừng mắt, lớn tiếng mắng Hoàng đế rồi quay sang phía các đại thần mắng là bất lực, không tận tâm với quốc sự... Từ Hi Thái hậu sau đó đem hoàng đế giam lỏng ở Doanh Đài, đồng thời tuyên bố ông bị bệnh, không thể tiếp tục việc triều chính. Ngày 6 tháng 8 (âm lịch), Từ Hi Thái hậu khôi phục việc thùy liêm, ở tiện điện tiến hành [Huấn chính]. Sự trị vì của Quang Tự Đế đến đây cơ bản là chấm dứt, Từ Hi Thái hậu hạ lệnh bắt đám người Khang-Lương, đấy gọi là [Mậu Tất chính biến]. Lúc ấy, Khang Hữu Vi hay tin trước bèn bỏ trốn. Lương Khải Siêu, sau khi việc xảy ra mới trốn qua Nhật. Riêng Đàm Tự Đồng không chịu trốn, muốn lấy máu mình nuôi cách mạng, nên bị giết với năm người nữa: Khang Quảng Nhân (em Khang Hữu Vi), Lưu Quang Đệ, Lâm Húc, Dương Nhuệ, Dương Thâm Tú, đương thời xưng gọi [Lục quân tử; 六君子]. Khang Hữu Vi ở Nhật lập đảng Bảo hoàng mong lật đổ Từ Hi Thái hậu, phò trợ Quang Tự lên cầm quyền; Lương Khải Siêu còn xuất bản tờ báo "Thanh Nghị" mạt sát Thái hậu thậm tệ. Ngày 8 tháng 8 (âm lịch) năm ấy, Từ Hi Thái hậu chính thức làm lễ lâm triều huấn chính. Quang Tự Đế bị giam cầm ở Hàm Nguyên điện (涵元殿) tại Doanh Đài, Trung Nam Hải. Đối với Quang Tự Đế, Từ Hi Thái hậu đã có ý bỏ rơi, một trong những hành động thể hiện rõ nhất chính là bà đã chọn Phổ Tuấn (溥儁) - con của Đoan Quận vương Tái Y (载漪) vào cung, tôn gọi [Đại a ca; 大阿哥]. Đây có thể nói là bước đầu của việc lập Trữ, sử gọi là [Kỷ Hợi kiến trữ; 己亥建储]. Tuy nhiên, ý đồ này của Từ Hi Thái hậu nhanh chóng thất bại do không được sự đồng tình của thành viên hoàng thất, cũng như là thế lực của các cường quốc bên ngoài. Khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn Năm Quang Tự thứ 26 (1900), phong trào Nghĩa Hòa Đoàn bùng nổ ở miền Bắc Trung Quốc, Liên quân tám nước tham chiến. Tôn chỉ của phong trào là chống lại sự bành trướng thế lực nước ngoài trong các lĩnh vực giao thương, chính trị, văn hóa, công nghệ, và Thiên chúa giáo. Chính quyền của Từ Hi Thái hậu vốn đã ác cảm với phương Tây, ban đầu tỏ ra ủng hộ phong trào. Thế là, trong ngày 20 tháng 5 đến ngày 23 tháng 5, Từ Hi Thái triệu trong vòng 4 ngày không ngừng nghỉ triệu tập các Quân cơ đại thần họp bàn tại Dưỡng Tâm điện để bàn luận chính sự. Quang Tự Đế ở bên hầu, muốn chủ hòa, còn các đại thần Đoan Quận vương Tái Y, Bối lặc Tái Liêm (载濂) cùng Quân cơ đại thần Cương Nghị (刚毅) muốn Thái hậu ủng hộ Nghĩa Hòa Đoàn, bịa đặt ra cái gọi là "Đoàn ngoại giao gửi thông điệp" đến với nội dung: [Thỉnh Thái hậu hoàn chính, truất Đại a ca]. Từ Hi Thái hậu cực kỳ tức giận, bèn ra chỉ dụ: [Bọn nước ngoài vô lý đến thực quá lắm, ta tất sẽ báo thù!], thế là ngày 25 tháng 5 ra một cái [Chỉ dụ]. Thế rồi sau 4 ngày "tuyên chiến", Từ Hi Thái hậu lại tỏ vẻ lưỡng lự, đối với các tòa công sứ nói: [Triều đình thận trọng bang giao, cũng không khiêu khích!]. Quân đội triều đình đứng về phía các thành viên Nghĩa Hòa Đoàn tiêu diệt khoảng 2,000 binh lính và hàng trăm dân thường ngoại quốc. Các nhà ngoại giao, tướng lĩnh, thường dân nước ngoài cũng như một vài tín đồ Cơ Đốc Giáo người Hoa phải rút lui tới các tòa công sứ và cầm cự 55 ngày cho đến khi 8 nước gửi 20,000 quân tới giải cứu. Thế cuộc không ổn thỏa, Từ Hi Thái hậu gửi thông ngôn đến các tòa thông sứ tỏ vẻ: [Đám loạn dân này, thiết nghĩ các khanh nên tự hành xử]. Từ Hi Thái hậu qua loa quyết định tuyên chiến, Quang Tự Đế nhịn không được phải hỏi Lại bộ Thị lang Hứa Cảnh Trừng (许景澄) rằng:"Hứa khanh đi sứ nước ngoài nhiều năm, lại ở Tổng thự làm việc, việc ở ngoại quốc thì khanh là rõ nhất, thế khanh có nghĩ Đại Thanh có thể thắng ngoại quốc qua một cuộc chiến chính quy không?". Hứa Cảnh Trừng tâu:"Thánh thượng đã hỏi, thần xin nói thẳng. Tình hình hiện tại khó có phần thắng, ngược lại nên hòa hoãn liên minh khôn khéo với họ". Từ Hi Thái hậu nghe thế thì nổi trận lôi đình, đem Hứa Cảnh Trừng và một số người chủ hòa như Thái Thường tự khanh Từ Dụng Nghi (徐用仪), Hộ bộ Thượng thư Lập Sơn (立山) cùng Nội các Đại học sĩ Liên Nguyên (联元) xử tử tập thể. Ngày 14 tháng 8 năm ấy, Liên quân đánh bại quân chính quy nhà Thanh, chiếm đóng Bắc Kinh , giải vây khu lãnh sự. Tiếp đó liên quân cướp phá Bắc Kinh và các khu vực lân cận, hành quyết các tù binh tình nghi là thành viên Nghĩa Hòa Đoàn bị bắt. Bắc Kinh thất thủ, ngày 15 tháng 8 (tức ngày 21 tháng 7 âm lịch), cả hoàng tộc và bá quan văn võ phải rời Tử Cấm Thành đến Tây An lánh nạn. Liên quân 8 nước sau đó gửi một loạt yêu sách tới Từ Hi Thái hậu và Quang Tự Đế. Rất nhiều quan đại thần kiến nghị triều đình nên tiếp tục cuộc chiến chống ngoại quốc. Tuy nhiên, Từ Hi Thái hậu đã nhận ra sai lầm khi khiêu khích các liệt cường phương Tây. Bà hiểu rõ Nghĩa Hòa Đoàn hay quân đội yếu ớt của triều đình không có cơ hội chiến thắng liên quân hùng hậu cùng trang thiết bị hiện đại của họ. Thêm vào đó, Liên quân cam kết tiếp tục để nhà Thanh cai trị Trung Quốc (thực ra phải là hạn chế tối đa sự can thiệp bởi họ cần một chính quyền đủ mạnh để đàn áp các tư tưởng bài ngoại khác trong tương lai, cũng như đủ yếu ớt để dễ bề thao túng). Hoàng đế Trung Hoa vẫn là lãnh đạo tối cao của một nước Trung Quốc độc lập. Để tránh đổ máu vô ích, Từ Hi Thái hậu liền gửi Lý Hồng Chương - thuyết khách số một của mình - đi đàm phán. Năm Quang Tự thứ 27 (1901), hòa ước Tân Sửu được ký kết. Triều đình cam kết duy trì sự hiện diện của phương Tây ở Bắc Kinh, mở cửa tất cả thương cảng của mình cho người nước ngoài tự do buôn bán, đồng thời phải bồi thường chiến phí 450 triệu lượng bạc, tương đương với 67 triệu bảng Anh và bằng một năm thu nhập của triều đình. Trong số các nước đế quốc nhận bồi thường thì Hoa Kỳ dùng phần bồi thường của mình để lập ra trường Đại học Thanh Hoa ngày nay. Ngoài ra, Nhà Thanh còn phải cử Thân vương và đại thần sang Đức và Nhật bày tỏ hối tiếc, bắt giam và xử tử những kẻ chủ chiến, mở rộng thêm 1200 mẫu đất cho các đế quốc lập tô giới và để các đế quốc lập đội quân đồn trú trong 12 địa điểm từ kinh sư tới biển. Những nơi nào trước đây có sự ngược đãi người nước ngoài thì phải cấm thi trong 5 năm, nếu còn tổ chức thi cử thì quan lại địa phương sẽ bị cắt chức ngay. Khoảng 18 tháng sau khi điều ước được ký kết, Từ Hi Thái hậu và Quang Tự Đế quyết định về lại Bắc Kinh. Dự bị lập hiến Năm Quang Tự thứ 27 (1901), ngày 20 tháng 10 (âm lịch), Phổ Tuấn bị tước đi danh vị [Đại a ca]. Sang ngày 28 tháng 11 (âm lịch) năm ấy, Từ Hi Thái hậu cùng Quang Tự Đế được triều thần bồi hầu trở về Bắc Kinh với một nghi lễ long trọng. Xa giá đi từ Tây An đến phủ Chính Định thì chuyển lên một đoàn tàu hỏa gồm 21 toa chạy thẳng về Bắc Kinh. Khi đến kinh thành, sứ thần các nước cũng như dân chúng đổ ra xem các thành viên trong hoàng tộc. Sau khi về đến Tử Cấm Thành, Quang Tự Đế bấy giờ không bị giam cầm ở Hàm Nguyên điện nữa, thường xuyên lâm triều dù về cơ bản vẫn bị Từ Hi Thái hậu khống chế. Tuy nhiên khi lên nghe chính sự, ông luôn tỏ ra lãnh đạm thờ ơ, chỉ đến khi Thái hậu hỏi qua, ông mới miễn cưỡng tỏ thái độ đại khái. Từ Hi Thái hậu quyết định sửa đổi chính sách, một số sắc lệnh biến pháp của Quang Tự Đế mà bà đã hủy bỏ vào năm Mậu Tuất (tức năm 1898) bây giờ được lấy ra thực hiện, lại lập nhiều cơ quan mới như hội nghị chính vụ xứ, thượng bộ, học bộ, luyện tân quân, chấn hưng công nghiệp cùng thương nghiệp. Năm Quang Tự thứ 31 (1905), sĩ phu tại Trung Hoa thấy Đế quốc Nhật theo chế độ quân chủ lập hiến mà mạnh, thắng được Đế quốc Nga theo chế độ quân chủ chuyên chế, nên càng tin ở chế độ lập hiến, và đòi triều đình nhà Thanh phải thực hiện lập hiến theo, chứ chỉ sửa đổi chính sách gọi là [Tân Chính; Chính sách mới] đối với họ vẫn chưa đủ. Ngay một số đại thần người Hán vốn trung với triều Thanh như Trương Chi Động và Viên Thế Khải cũng chủ trương lập hiến, thế là phong trào lập hiến sôi nổi trong nước. Từ Hi Thái hậu phái năm đại thần đi Nhật, Anh, Đức để khảo sát chế độ lập hiến của ba quốc gia đó. Năm sau, họ trở về đều chủ trương lập hiến, Từ Hi Thái hậu liền xuống dụ: "Trước hết cải cách quan chế rồi đến chính trị, khiến sĩ dân hiểu rõ quốc chính để dự bị cơ sở cho việc lập hiến, vài năm sau, xét lại tình hình, xem tiến bộ mau chóng mà định kỳ hạn xa gần". Rồi triều đình sửa đổi quan chế: đặt ra Tư chính viện ở kinh sư, Tư nghị cuộc ở các tỉnh để làm cơ sở cho Quốc hội và Tỉnh nghị hội, lập thẩm kê viện, thẩm phán sảnh, ban bố Hình luật mới. Sau cùng, năm Quang Tự thứ 34 (1908), mùa xuân, triều đình ban bố Khâm định Hiến pháp đại cương (钦定宪法大纲) gồm 15 điều. Dự bị chín năm sau sẽ hoàn thành. Thời đại Tuyên Thống Thái hoàng thái hậu một ngày Năm Quang Tự thứ 34 (1908), tháng 10 đầu đông, Quang Tự lâm bệnh. Đúng vào lúc này Từ Hi Thái hậu cũng phát bệnh theo, có vẻ chuyển biến nghiêm trọng. Theo [Thanh cung y án] ghi lại các chuyển biến bệnh trạng trong cung thời Thanh, từ khi phát bệnh ở năm Quang Tự thứ 6, Từ Hi Thái hậu đã luôn chú ý điều phối cơ thể. Từ đó, trải dài đến đầu năm Quang Tự thứ 34, tất thảy đều là bệnh nhỏ nhặt. Tuy nhiên vào tháng 10 năm này, Từ Hi Thái hậu đột ngột phát bệnh, hơn nữa dường như là cùng chứng bệnh với Quang Tự Đế. Theo Y án liệt kê, Từ Hi Thái hậu có triệu chứng mệt mỏi toàn thân, ho khan, nhiệt đô cơ thể luôn ở trạng thái lạnh ngắt, ngực lại đau nhói. Căn cứ phân tích của các chuyên gia y học hiện đại, những biểu hiện này của Từ Hi Thái hậu dường như là bệnh viêm phổi, sau dẫn đến suy hô hấp, bệnh tình cứ thế nặng thêm đến khi bà qua đời. Đại khái vào thời điểm ấy, dường như đã biết rõ Hoàng đế sẽ qua đời, Từ Hi Thái hậu lập tức quyết định chọn Tự Hoàng đế thay thế. Vì lần này yêu cầu chọn lựa, là để thừa tự Đồng Trị Đế lẫn Quang Tự Đế - người trên lý thuyết vẫn không bị phế, do đó bối tự chữ ["Phổ"] là cần thiết, nhưng vẫn yêu cầu tiên quyết là nhỏ tuổi để tiện giáo dục. Sau khi suy tính (xem bài Ba lần lập Tự của nhà Thanh), Từ Hi Thái hậu mệnh chiếu con trai của Thuần Thân vương Tái Phong là Phổ Nghi vào cung, cho đọc sách tại Thượng Thư phòng, dự bị chỉ định lên ngôi. Ngày 21 tháng 10 (tức ngày 14 tháng 11 dương lịch), giờ Dậu, Quang Tự Đế băng hà, hưởng niên 38 tuổi. Sang hôm sau, ngày 22 tháng 10 (tức ngày 15 tháng 11 dương lịch), Từ Hi Thái hậu chỉ định Phổ Nghi lên ngôi, cho Thuần Thân vương Tái Phong làm [Nhiếp Chính vương], quản lý tất cả sự vụ. Phổ Nghi lên ngôi, lấy niên hiệu là [Tuyên Thống], lấy danh nghĩa "Thừa tự Đồng Trị Đế cùng Quang Tự Đế", năm ấy 3 tuổi, được Long Dụ Hoàng thái hậu nuôi dưỡng trong cung. Do Phổ Nghi lên ngôi đã nhận thừa tự con trai của Từ Hi Thái hậu là Đồng Trị Đế, cho nên bà là bà nội trên danh nghĩa của Tân đế, do vậy được tôn thành Thái hoàng thái hậu. Cùng ngày hôm ấy, vào giờ Mùi (tức khoảng từ 1 giờ chiều đến 3 giờ chiều), Từ Hi Thái hoàng thái hậu băng hà tại Nghi Loan điện (儀鸞殿) ở Trung Nam Hải. Chung quy mà tính, Từ Hi Thái hoàng thái hậu hưởng thọ 74 tuổi, có 27 năm độc bá triều cương. Từ Hi Thái hoàng thái hậu còn sắp đặt cho Tuyên Thống còn nhỏ tuổi làm Hoàng đế. Trong các chỉ dụ của Từ Hi Thái hoàng thái hậu trước khi lâm chung, ý chỉ rất rõ rằng tuy giao quyền cho cha ruột Hoàng đế là Thuần Thân vương Tái Phong, nhưng bà vẫn chừa đường cho người cháu Long Dụ Hoàng thái hậu có thể ảnh hưởng lên Hoàng đế bằng việc giao cho Long Dụ công việc giáo dục. Ngoài ra, khi còn đang trong thời gian cầm quyền, Từ Hi Thái hoàng thái hậu đã lo liệu rất nhiều cuộc hôn nhân cho các nữ tử trong gia tộc, tất cả đều kết hồn với nhánh gần của Hoàng thất, ý đồ rằng dòng họ [Diệp Hách Na Lạp thị] luôn có thể sinh ra Hoàng đế của Đại Thanh. Dù có thế nào đi nữa, phải công nhận rằng Từ Hi Thái hoàng thái hậu dường như đã biết chuẩn bị mọi thứ rất chu đáo và hoàn mỹ. Truy tôn thụy hiệu Năm Tuyên Thống nguyên niên (1909), ngày 22 tháng 1 (âm lịch), mùa xuân, triều đình suất chư Vương, Bối lặc, Văn võ đại thần, tôn Đại Hành Thái hoàng thái hậu thụy hiệu, viết Hiếu Khâm Từ Hi Đoan Hựu Khang Di Chiêu Dự Trang Thành Thọ Cung Khâm Hiến Sùng Hi Phối Thiên Hưng Thánh Hiển Hoàng hậu (孝欽慈禧耑祐康頤昭豫莊誠壽恭欽獻崇熙配天興聖顯皇后). Sang ngày 23 tháng 1, hoàn tất lễ dâng thụy. Chiếu cáo thiên hạ. Viết: Căn cứ Hồng xưng thông dụng (鴻稱通用) của Nội vụ phủ, chữ thụy hiệu "Khâm" của Từ Hi Thái hậu có Mãn văn là 「Kobton」, là một từ kết hợp Hán văn, nguyên là 「Kobtolombi」, có nghĩa là "Cung kính", "Kính cẩn". Theo nhật ký của Ông Đồng Hòa, thụy hiệu này vốn dĩ do Từ An Hoàng thái hậu chuẩn bị từ trước, bởi đại khái Từ An Hoàng thái hậu và Từ Hi Hoàng thái hậu đều là nhiếp chính, có hàm nghĩa "Khâm mệnh nghe báo cáo và quyết định sự việc". Từ sau khi dâng tôn thụy hiệu, Từ Hi không còn được gọi là [Từ Hi Thái hậu] nữa, mà là [Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu; 孝钦顯皇后]. Năm Tuyên Thống nguyên niên (1909), ngày 4 tháng 10 (âm lịch), Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu được hợp táng cùng với Hiếu Trinh Hiển Hoàng hậu trong Định Đông Lăng (東定陵), thuộc quần thể Thanh Đông lăng cách Bắc Kinh 125 km về phía đông. Ngày 9 tháng 10 (âm lịch) cùng năm, triều thần làm đại lễ thăng phụ thần vị của Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu lên Thái Miếu cùng Phụng Tiên điện. Lăng mộ xa hoa Nguyên tên của lăng mộ này là [Phổ Đà Dục Định Đông Lăng; 菩陀峪定東陵] - lấy từ tên của Phổ Đà sơn, một trong Trung Hoa tứ đại Phật giáo danh sơn. Ngoài ra, lăng nằm ở phía đông của Định lăng - nơi yên nghỉ của Hàm Phong hoàng đế, nên cũng gọi [Định Đông lăng] là vì thế. Từ Hi Thái hậu vốn thích xa xỉ nên không hài lòng với lăng mộ ban đầu, đã cho phá bỏ và xây mới hoàn toàn vào năm 1895. Sau khi xây dựng lại, nơi đây đã vượt xa quy chế của một "lăng Hoàng hậu". Việc xây dựng lại này, chỉ riêng việc thiếp vàng đã tiêu tốn hơn 4.592 lượng bạc. Chỉ riêng khoảng thời gian từ năm thứ 21 đến năm thứ 25 (1899), việc xây lăng tiêu tốn hết 150 vạn lượng. Còn những khoảng chi tiêu ở những khoảng thời gian khác không cách nào thống kê được. Trên vách tường khảm nạm hơn 30 viên gạch khắc hoa lớn nhỏ không đều nhau, tổng cộng 237 mét vuông. Bên trong Long Ân điện có 64 cột thiếp vàng, đây là số lượng lớn nhất trong tất cả các Đế lăng và Hoàng Hậu lăng của nhà Thanh. Các cột, kèo, xà và các điện phụ trong khu lăng mộ của bà cũng như các cửa sổ đều được làm bằng gỗ quý. Trên các cột, kèo, xà không dùng loại tranh màu và sơn dầu bình thường mà dùng phấn bột vàng thật vẽ trực tiếp lên những bức tranh có rồng, phượng, mây, và những chữ thọ. Các bức tranh màu, trong và ngoài ba ngôi điện, vẽ hơn 2400 con rồng vàng được giữ gìn khá nguyên vẹn nên đến nay vẫn lấp lánh ánh vàng. Trên mặt tường của ba ngôi điện, các tác phẩm điêu khắc to nhỏ, toàn bộ dùng gạch đắp nên hình năm con dơi đội chữ thọ và chữ thập ngoặc nối liền nhau không dứt. Loại hoa văn nối nhau liên tiếp không dứt này tượng trưng cho sự sống dài lâu, hạnh phúc và may mắn. Những bản điêu khắc đó đều sơn son thếp vàng tương phản với những hình vẽ óng ánh màu vàng trên các thanh xà, ánh lên những gam màu làm người xem phải lóa mắt. Nội thất điện trang hoàng lộng lẫy như vậy vẫn chưa đủ. Ngoài lan can người ta còn chạm trổ rồng, phượng và hai mặt của 69 tấm chắn lan can được vẽ 138 bức tranh phượng bay, rồng đuổi. Các đầu cột lan can cũng chạm trổ rồng, phượng; cứ một rồng, một phượng nối tiếp nhau. Nhưng ở đây trên đầu 74 cây cột đều khắc phượng hoàng trong mây, còn thân cột vẽ rồng bay khỏi nước. Loại tranh khắc trên phượng dưới rồng ở đây chưa thấy nơi nào có. Tháng 7 năm 1928, lăng mộ của Từ Hi Thái hậu bị khai quật bởi quân đoàn của Tôn Điện Anh - một tướng lĩnh của Quốc Dân đảng. Những kẻ xâm nhập đã lấy đi các vật dụng trang trí có giá trị, cũng như dùng pháo binh mở đường vào nơi chôn cất quan tài, vứt xác của Từ Hi Thái hậu (được kể là vẫn còn nguyên vẹn) xuống nền nhà và vơ vét tất cả đồ tùy táng. Trong số đó nổi tiếng nhất là viên minh châu lớn đặt trong miệng của Từ Hi Thái hậu để bảo quản xác chết không bị hư hoại. Có thuyết cho rằng, viên minh châu đã được tặng cho Tống Mỹ Linh, phu nhân của Quốc trưởng Quốc Dân đảng Tưởng Giới Thạch, và được bà sử dụng để trang trí cho đôi giày dạ tiệc của mình, tuy nhiên việc này chưa có bằng chứng xác thực. Sau năm 1949, quần thể lăng mộ của Từ Hi Thái hậu được khôi phục và bảo tồn bởi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, và cho tới nay vẫn là một trong những lăng mộ Hoàng gia ấn tượng nhất ở Trung Quốc. Nhận định Theo khuynh hướng của những người theo chủ nghĩa dân tộc, sử sách thường miêu tả Từ Hi Thái hậu như một bạo chúa và phải chịu trách nhiệm cho sự suy tàn của Trung Hoa cuối thế kỷ XIX. So với một nhà lãnh đạo cùng thời khác là Thiên Hoàng Minh Trị, Từ Hi Thái hậu ích kỷ hơn do nghĩ đến lợi ích cá nhân nhiều hơn. Bà đã nhiều lần sử dụng quốc khố cho mục đích riêng của bản thân. Các cung điện, hoa viên, lăng mộ cũng như chi tiêu của bà được đánh giá là quá xa hoa tốn kém trong bối cảnh đất nước đang trên bờ vực phá sản. Vụ việc nổi tiếng nhất là việc ngân sách hải quân bị Từ Hi cắt bớt để lấy tiền xây Di hòa viên làm nơi hưởng thụ, góp phần khiến hải quân Thanh thảm bại trong Chiến tranh Thanh - Nhật năm 1895. Điều này đương nhiên khiến người dân oán hận, đẩy nhanh sự sụp đổ của nhà Thanh. Dù nổi tiếng thông minh, nhưng do ít học và thiếu nhiều kiến thức về tình hình quốc tế - tương tự các Hoàng đế nhà Thanh trước đó như Đạo Quang Đế hay Hàm Phong Đế - nên bà có tầm nhìn hạn hẹp và tư duy bảo thủ hơn so với Minh Trị. Tuy nhiên, các nhà sử học cho rằng bước ngoặt đáng kể của lịch sử Trung Quốc, đánh dấu sự suy tàn của đế chế Đại Thanh, lại xảy ra khi Từ Hi đã lui về nghỉ ở Di Hòa Viên. Đó là lúc chiến tranh Thanh - Nhật bùng nổ dưới sự chấp chính của Quang Tự. Nhà Thanh sau đó phải bồi thường cho Nhật một khoản tiền khổng lồ, làm khánh kiệt quốc gia. Từ Hi buộc phải quay lại chấp chính để khắc phục những hậu quả do sự cai trị kém cỏi của hoàng đế. Từ Hi nổi tiếng với những cuộc thanh trừng đối thủ một cách tàn bạo. Một cuộc khảo cổ gần đây hé lộ nguyên nhân cái chết của Quang Tự Đế là do bị đầu độc bằng thạch tín. Ngoài ra, còn nhiều ví dụ khác như việc xử tử Túc Thuận, việc ép Cung Thân vương Dịch Hân từ chức, hay đơn cử như cái chết mờ ám của Trân phi. Tuy nhiên, ngay cả các bậc quân vương nổi tiếng khác trên thế giới như Nữ vương Elizabeth I, Augustus Caesar cũng có những cuộc thanh trừng đẫm máu như vậy để củng cố quyền thống trị của mình. Thậm chí, so với một lãnh tụ nổi tiếng khác của Trung Quốc là Mao Trạch Đông, người đã tàn sát hàng trăm, thậm chí hàng ngàn người, thì những đả kích nhắm vào một mình Từ Hi dường như không hợp lý. Những ý kiến gần đây cho rằng các nhận xét tiêu cực về sự cai trị và cuộc sống riêng của Từ Hi đều mang màu sắc của nạn phân biệt nam - nữ, như trong trường hợp các nhà sử học Khổng giáo chỉ trích Võ Tắc Thiên. Thậm chí khi so với Võ Tắc Thiên, giai đoạn của Từ Hi Thái hậu còn có phần bất lợi hơn. Võ Tắc Thiên lên ngôi giữa lúc nhà Đường đang thịnh trị, trong nước chính trị trong sạch, bên ngoài mở mang bờ cõi. Thời của Từ Hi Thái hậu, Trung Quốc chứng kiến sự xâm nhập mạnh mẽ của các đế quốc phương Tây. Ngoài ra, những vấn đề nghiêm trọng nhất của xã hội, như nạn thuốc phiện, tham nhũng, quan liêu, cùng với khởi nghĩa nông dân Thái Bình Thiên Quốc, đều đã diễn ra từ các triều vua trước đó. Khi so với Thiên Hoàng Minh Trị, Từ Hi cai quản một đất nước với lãnh thổ rộng lớn hơn, dân số đông hơn, bộ máy hành chính cồng kềnh hơn, và dĩ nhiên là miếng mồi béo bở hơn cho các cường quốc Âu - Mỹ lao vào xâu xé. Ảnh hưởng của Nho giáo tại Nhật Bản cũng không thâm căn cố đế như ở Trung Quốc, nên các cải cách cũng phần nào dễ dàng hơn. Do vậy, sự sụp đổ của nhà Thanh nói riêng và chế độ phong kiến nói chung ở Trung Quốc là hệ quả mang tính tất yếu. Có những sai lầm của Từ Hi Thái hậu (chống lại cải cách, ăn tiêu xa xỉ...) đã góp phần làm nhà Thanh sụp đổ, nhưng cũng có những nguyên nhân khác (như áp lực ngoại xâm) thì không thể quy trách nhiệm cho bà. Katherine Karl Bà Katherine Karl sinh ra ở New Orleans, tác giả của cuốn With the Empress Dowager (Tạm dịch: "Ở bên Hoàng thái hậu") miêu tả cuộc sống của mình khi đến Tử Cấm Thành diện kiến Từ Hi Thái hậu. Bà vốn là một họa sĩ, được triệu đến Tử Cấm Thành do lời mời của Sarah Pike Conger - vợ của Đại sứ Mỹ khi ấy là Edwin H. Conger. Mùa hè năm 1903, Katherine đến Tử Cấm Thành. Bà ở cùng với Từ Hi Thái hậu trong 9 tháng để vẽ 4 bức chân dung của Thái hậu, và quyết định đăng ký bức họa để trình diễn trong Buổi triển lãm Louisiana diễn ra năm 1904. Khoảng 2 năm sau đó, Katherine xuất bản cuốn sách có tựa đề "With the Empress Dowager" để miêu tả lại những trải nghiệm của mình. Trong lời đề tựa cho cuốn sách, Katherine viết rằng bà quyết định xuất bản cuốn sách vì: "Sau khi trở về Mỹ, tôi đã nhiều lần đọc được trên báo chí (hay nghe thấy) những lời bịa đặt được gán cho mình dù bản thân tôi chưa bao giờ phát biểu những điều đó". Trong cuốn sách, Katherine Carl miêu tả Từ Hi Thái hậu như một người sáng suốt, chu đáo và thận trọng. Bà còn có thần thái ung dung thu hút, cùng một cá tính hấp dẫn. Carl nhớ lại, Thái hậu rất yêu thích chó cảnh, hoa cỏ, chèo thuyền, Kinh kịch, cũng như hút thuốc lá phương Tây từ loại tẩu truyền thống của Trung Quốc. Katherine còn cho biết, Từ Hi Thái hậu là một người thủy chung và có tấm lòng vị tha. Cuốn sách kể trường hợp: "Một nhũ mẫu người Hán đã chăm nom Thái hậu khi bà bị ốm trong suốt 25 năm, thậm chí còn đem sữa của mẹ mình dâng cho Thái hậu uống để lấy lại sức khỏe. Thái hậu chưa bao giờ quên ân đức đó, nên đã giữ người nhũ mẫu này bên mình trong cung điện. Là một người Hán, bà phải chịu tục bó chân hết sức đau đớn và không thể đi lại thoải mái. Thái hậu đã hạ lệnh tháo các lớp bó chân và chăm sóc nhũ mẫu cho đến khi bà có thể đi lại bình thường. Thái hậu còn giúp nuôi dạy con trai của bà từ lúc nhỏ cho tới khi anh ta được xét vào làm việc trong triều đình". Luke Kwong Trong bài nghiên cứu về Bách nhật duy tân, giáo sư Luke Kwong đã chỉ ra rằng những cáo buộc nhằm vào Từ Hi Thái hậu, tô vẽ bà như một kẻ độc tài ham mê quyền lực, là không xác đáng. Ông miêu tả Thái hậu là một người luôn lo lắng cho địa vị của mình. Do mặc cảm về xuất thân thấp kém trong hậu cung, bà phải cố gắng chính thống hóa sự cai trị bằng cách xây dựng phe cánh ủng hộ mình trong một thời gian dài. Kwong cũng lập luận, lần phụ chính thứ hai của Từ Hi năm 1898 không hẳn bắt nguồn từ sự khao khát quyền lực, mà đúng hơn là do những kẻ thủ cựu - vốn lo sợ những biến pháp của Quang Tự sẽ làm ảnh hưởng đến lộc vị của mình - đã tìm cách lôi kéo thái hậu quay lại tham chính. Trên thực tế, Quang Tự là một vị vua ngây thơ, nếu không muốn nói là bất tài trong việc điều hành quốc sự. Chính quyết định gây chiến với Nhật Bản của nhà vua đã đẩy đất nước đến chỗ phá sản. Ngài còn cùng Khang Hữu Vi lên kế hoạch bao vây Di Hòa Viên và giam lỏng thái hậu. Khang Hữu Vi thậm chí đã muốn ám sát Từ Hi - một kịch bản đã bị chôn giấu trong nhiều thế kỷ cho đến khi được các nhà sử học tìm thấy trong một tàng thư ở Nhật Bản, có thể đã được họ Khang đem tới Tokyo khi trốn chạy sự trừng phạt của Từ Hi. Trước những thách thức đó, Từ Hi Thái hậu càng bị buộc phải sử dụng bàn tay sắt để bảo vệ Triều đại của bà. Sterling Seagrave Nhà sử học Sterling Seagrave phân tích những tình tiết giật gân về cuộc đời của Từ Hi Thái hậu đều do Khang Hữu Vi và đồng đảng của mình thêm thắt và phát tán cho báo chí phương Tây để bôi nhọ bà, dù bản thân họ chưa một lần được gặp thái hậu. Ngoài ra, có nhiều câu chuyện về bà được viết bởi J. O. P. Bland và Edmund Backhouse, những người sống sau Từ Hi tới 30 năm và chưa từng bước chân vào Tử Cấm Thành hay Di Hòa Viên. Những chi tiết thiếu khách quan này sau đó lại được sử dụng trong nhiều tài liệu học thuật trong thế kỷ XX, dẫn đến chân dung của thái hậu trở nên méo mó trong mắt công chúng. Seagrave miêu tả Từ Hi Thái hậu như một nhà lãnh đạo bị mắc kẹt giữa một bên là tư tưởng bài ngoại vốn xuất hiện từ lâu trong triều đình, với một bên là mong muốn xử lý các vấn đề đương đại của Trung Quốc một cách thực tế và hợp thời hơn. Seagrave kết luận, thái hậu không hề khao khát quyền lực cho riêng mình mà chỉ đơn giản là bằng mọi cách duy trì sự thống trị tối cao của Thanh triều trong hoàn cảnh có quá nhiều sức ép từ bên ngoài. Lôi Gia Thánh Dựa trên các nghiên cứu của giáo sư Lôi Gia Thánh (雷家聖), khi cuộc Bách nhật duy tân đang diễn ra, thủ tướng Nhật lúc đó là Itō Hirobumi (伊藤博文; Y Đằng Bác Văn) đã đến Trung Quốc vào ngày 11 tháng 9 năm 1898. Cùng thời gian, nhà truyền giáo người Anh Timothy Richard được Khang Hữu Vi mời tới Bắc Kinh, và Richard đã gợi ý Trung Quốc nên chuyển giao một số quyền lực chính trị cho Itō để cuộc duy tân diễn ra thuận lợi. Ngày 18 tháng 9, Richard thuyết phục Khang Hữu Vi tham gia một liên minh bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ và Anh với 100 thành viên cao cấp. Gợi ý này không phải đến từ các quốc gia nói trên mà từ chính Timothy Richard (cũng có thể từ Itō Hirobumi) để lừa Trung Quốc từ bỏ quyền tự chủ của mình. Tuy vậy, Khang Hữu Vi vẫn yêu cầu Lương Khải Siêu đem gợi ý này lên vua Quang Tự. Ngày 20 tháng 9, Lương Khải Siêu chính thức gửi tấu chương đến hoàng đế. Trong một bản tấu khác, những người duy tân cũng thể hiện sự ủng hộ đối với việc thành lập liên minh và chuyển các quyền ngoại giao, tài chính, quân sự của bốn nước cho liên minh chung này. Có thể đó chính là lý do khiến Từ Hy Thái Hậu quyết định phế bỏ biến pháp vào ngày 21 tháng 9, chỉ sau 2 ngày trở về từ Di Hoà Viên. Các nghiên cứu của Lôi Gia Thánh cũng chỉ ra, ngày 13 tháng 10, sau cuộc đảo chính, sứ thần Anh quốc là Sir C. MacDonal đã báo cáo về tình hình ở Trung Quốc đến chính phủ. Ông cho rằng công cuộc duy tân đã bị chính Khang Hữu Vi và bè phái của mình làm phương hại. Nhà ngoại giao Anh Baurne tuyên bố Khang Hữu Vi là một người ảo tưởng và đã bị mờ mắt trước những lời đường mật của Timothy Richard. Ông cho rằng Richard chỉ là một kẻ cơ hội. Chính phủ Anh và Mỹ không hay biết gì về cái gọi là "liên minh" của Richard. Chính phủ Nhật có thể đã biết về kế hoạch này, vì Itō Hirobumi là đồng minh của Richard, nhưng không có bằng chứng nào cho chuyện đó. Đức Linh công chúa Dụ Đức Linh (裕德齡), tên thánh là Elisabeth Antoinette, sinh ở Bắc Kinh vào tháng 6 năm 1885 và mất ở Berkeley, California vào tháng 11 năm 1944, là con gái của Vũ Khang, một quan lại thuộc Chính Bạch Kỳ, và vợ là Louisa Pierson - con của nhà buôn người Mỹ và một người thiếp Trung Quốc. Năm 1903, sau khi cha của Đức Linh được gọi về Trung Quốc từ Paris, nơi ông đang làm đại sứ, bà cùng mẹ và em gái được Từ Hi thái hậu triệu vào cung làm nữ quan. Nhiệm vụ của họ là hầu cận bên thái hậu, cùng với phiên dịch và tiếp đón các vị khách nước ngoài. Đức Linh đã hầu hạ trong cung từ tháng 3 năm 1903 cho tới tháng 10 năm 1905. Năm 1907, bà kết hôn với một người Mỹ tên Thaddeus Cohu White. Sau khi Từ Hi qua đời năm 1908, Đức Linh tuyên bố bà hết sức tức giận khi thấy hình ảnh của Từ Hi Thái hậu bị xuyên tạc qua sách vở và báo chí. Vì vậy, bà quyết định viết một cuốn sách nhan đề "Two years in the Forbidden City" ("Hai năm trong Tử Cấm Thành"), kể về quá trình hầu hạ "Lão Phật Gia". Cuốn sách xuất bản năm 1911, ngay trước khi Nhà Thanh sụp đổ, và bán rất chạy. Trong cuốn sách, Từ Hi Thái hậu không phải là một kẻ suy đồi, tàn bạo như mô tả của báo chí hay hồi ký của những người nước ngoài từng sống tại Bắc Kinh, mà chỉ đơn giản là một bà lão thích chơi với những vật dụng đẹp đẽ. Thái hậu cũng có nhiều nỗi luyến tiếc trong lòng về cách bà đối phó với những thách thức trong thời gian nắm quyền. Từ Hi Thái hậu sủng ái Đức Linh đến độ cho phép bà cài chiếc nút chỉ dành riêng cho công chúa lên mũ của mình. Nhiều năm sau, khi tìm một từ tiếng Anh để miêu tả vị trí của mình trong cung điện, Đức Linh đã quyết định dùng chữ "Princess" (công chúa). Danh hiệu này không chỉ khiến bà trở nên nổi tiếng ở Trung Quốc mà còn nâng tầm quan trọng cho bà khi đi diễn thuyết trước công chúng Hoa Kỳ về cuộc sống trong cung với Từ Hi. Đức Linh sau đó hoàn thành một cuốn tiểu sử về Từ Hi mang tên "Old Buddha" ("Lão Phật"). Đức Linh còn tiếp tục viết 7 cuốn sách khác về quãng thời gian ngắn ngủi mà bà được ở ngay trung tâm của đế chế Đại Thanh đang trên đà sụp đổ. Việc viết cũng như quảng bá cho các cuốn sách khiến Đức Linh bất hòa với chính gia đình mình. Điều này khiến giới học giả khó khăn trong việc đánh giá tính khách quan trong các tác phẩm của bà. Nhưng sự thật thì Đức Linh vẫn là người phụ nữ đầu tiên được tiếp xúc với Từ Hi khi còn sống và viết về thái hậu như những điều mắt thấy tai nghe. Dù còn thiếu một số dữ kiện và đối chứng, nhưng các tác phẩm của Đức Linh phần nào hé lộ nhiều khía cạnh khác trong cuộc đời của Từ Hi thái hậu. Cùng với cuốn tiểu sử "Dragon Lady: The Life and Legend of the Last Empress of China" của Sterling Seagrave, những cuốn hồi ký của Đức Linh đã được phục hồi trong một nỗ lực nhằm đánh giá lại Từ Hi thái hậu. Tháng 1 năm 2008, nhà xuất bản Đại học Hồng Kông đã phát hành cuốn tiểu sử đầu tiên về Đức Linh mang tên "Imperial Masquerade: The Legend of Princess Der Ling". Các nguồn khác Trong cuốn hồi ký của mình khi đang làm phái viên của Anh ở Bắc Kinh, Ernest Satow miêu tả Từ Hi Thái hậu thường xuất hiện trong các nghi lễ long trọng. Một cuốn tiểu sử nổi tiếng nhưng cũng gây nhiều tranh cãi của J. O. P. Bland và Edmund Backhouse mang tên China Under the Empress Dowager (Dịch là: "Trung Hoa dưới sự cai trị của Thái hậu") có cái nhìn khá tiêu cực về bà. Edmund Backhouse bị phát hiện đã giả mạo nhiều nguồn tư liệu khi viết sách, và không chỉ bóp méo Từ Hi Thái hậu, Edmund Backhouse còn khoác lác về quan hệ tình ái của mình với nhiều nhân vật nổi tiếng khác như Paul Verlaine, Oscar Wilde, thậm chí cả một Công chúa của đế quốc Ottoman, v.v... Chính cuốn sách này đã hình thành các quan điểm tiêu cực đối với Từ Hi Thái hậu ở phương Tây. Năm 2013, học giả Jung Chang phát hành một cuốn tiểu sử khác nhằm mục đích hiệu đính lại những sai lầm lịch sử trong tác phẩm của Bland và Backhouse. Jung Chang đánh giá Từ Hi Thái hậu là nhà lãnh đạo có năng lực nhất mà triều đại nhà Thanh có ở thời điểm đó. Không thể phủ nhận Từ Hi Thái hậu là một chính trị gia lão luyện. Tuy nhiên vào thời của bà, chính trị đã không chỉ đơn thuần là đấu đá trong hoàng thất hay thao túng triều đình nữa. Chính trị Trung Quốc cuối thế kỷ XIX là một tập hợp của những mâu thuẫn xã hội, xung đột trong tư tưởng, sự thay đổi trong phương thức sản xuất, cùng với vô vàn sức ép từ phương Tây. Từ Hi Thái hậu nói riêng và triều đình phong kiến Mãn Thanh nói chung - vốn là thai nghén của hàng ngàn năm quân chủ chuyên chế, vốn luôn tự coi mình là "thiên triều" ở trung tâm của thế giới - đã không thích ứng được với những biến động to lớn đó. Là người đại diện cao nhất của chế độ, Từ Hi Thái hậu đã quyết liệt bảo vệ những giá trị căn bản của nó như quyền lực trung ương, lộc vị của giới quý tộc, phương thức sản xuất cũ, hệ thống quan lại, truyền thống Nho giáo v.v... Cách thức cai trị của bà có thể coi là bảo thủ, cố chấp, nhưng cũng có thể là quyết đoán, tận tâm, tùy theo những góc nhìn khác nhau. Sau khi bà qua đời, Thanh triều không còn một lãnh tụ nào đủ sức gánh vác một hình thái nhà nước đã lỗi thời như vậy nữa, tất yếu dẫn đến diệt vong. Một nhận định cho rằng: "Đã có rất nhiều ý kiến khác nhau về di sản của Từ Hi Thái hậu, từ những tin đồn rằng bà là một hôn quân dâm dật cho tới nghiên cứu gần đây của Jung Chang tuyên bố "Từ Hi đã phải chịu nhiều bất công suốt hàng trăm năm qua" và "các lực lượng chính trị thống trị Trung Quốc từ sau khi Nhà Thanh sụp đổ cho tới nay đã cố tình bôi đen hình ảnh cũng như những thành tựu của bà". (Tuy vậy) nếu xét riêng về thành tựu, kể cả trên vũ đài chính trị cũng như cuộc sống cá nhân, Từ Hi đã đạt được nhiều điều mà hiếm phụ nữ nào sánh nổi." Từ Hi Thái hậu trong văn hóa đại chúng Là một trong những nhân vật lịch sử nổi bật nhất ở châu Á thời kỳ cận đại, Từ Hi Thái hậu đã được miêu tả trong vô số sách truyện, báo chí, phim ảnh. Cộng thêm những bí mật về cuộc sống phía sau Tử Cấm Thành luôn là một chủ đề thu hút trí tò mò của công chúng, hình ảnh của thái hậu không tránh khỏi bị thêm thắt, đồn thổi. Một số chi tiết hư cấu đã trở nên nổi tiếng đến mức được nhắc lại nhiều lần trong các tác phẩm khác, khiến đông đảo người tin vào đó như những sự thật lịch sử. Thanh Cung Thập Tam Hoàng Triều là một trong những bộ truyện nổi tiếng nhất có nhắc về Từ Hi Thái hậu. Đây thuần túy là một tiểu thuyết diễm sử được phóng tác dựa trên những sự kiện và nhân vật có thật, nhưng sự nổi tiếng của cuốn sách và các bộ phim truyền hình ăn theo đã làm cho nhiều người đánh đồng nó thành chính sử. Cuốn sách đã góp phần phổ biến nhiều chi tiết không chính xác hoặc chưa được kiểm chứng về Từ Hi Thái hậu như chuyện hoàng tử Tải Thuần là con riêng của Từ Hi và người tình, hoàng đế Đồng Trị chết vì bệnh giang mai, Từ Hi đầu độc Từ An vì một di chiếu của Hàm Phong, hay chuyện bà dan díu với nhà sư và thái giám, v.v... Bản thân tác giả - Hứa Tiếu Thiên – là một người có khuynh hướng "phản Thanh phục Hán", nên ngòi bút của ông cũng đậm tính đả kích, bêu rếu triều đình Mãn Thanh. Không riêng gì Từ Hi, mà nhiều nhân vật khác cũng bị "Thanh Cung Thập Tam Hoàng Triều" hư cấu tiêu cực như Thuận Trị Đế xuất gia, Ung Chính Đế bị Lã Tứ Nương chém đầu, Càn Long Đế thực chất là con của Trần Các Lão cùng nhiều giai thoại giật gân khác. Bên cạnh những miêu tả Từ Hi Thái hậu như một nhân vật đồi bại và khát máu, cũng có nhiều tác phẩm nhắc đến bà dưới góc nhìn nhân văn hơn: "Imperial Woman" của nhà văn Pearl S. Buck (xuất bản tại Việt Nam dưới tên "Từ Hi Thái hậu" của dịch giả Nguyễn Thế Vinh) kể về cuộc đời của Từ Hi qua lời tự sự của chính bà, từ lúc rời gia đình vào cung làm tú nữ cho đến khi đã nắm cả giang sơn trong tay. Từ Hi Thái hậu hiện lên như một người phụ nữ với những tâm tư, nguyện vọng hết sức bình thường, nhưng đứng trước những sóng gió của Trung Hoa trong thời khắc tranh tối tranh sáng, đã buộc phải gác lại những tình cảm cá nhân của mình để ra sức hàn gắn một đế quốc đang tan rã. Tác giả cũng đặt ra giả thuyết Từ Hi có mối tình thanh mai trúc mã với Vinh Lộc, người sau này là Tổng đốc Trực Lệ. "Nhật Lạc Tử Cấm Thành" là một tiểu thuyết khá nổi tiếng của Lương Phụng Nghi, sau được chuyển thể thành phim truyền hình năm 1997 với Tư Cầm Cao Oa trong vai Từ Hi Thái hậu (đã được VTV phát sóng ở Việt Nam với cái tên "Mặt trời lặn sau Tử Cấm Thành"). Truyện kể về nhân vật Ngâm Nhi, một cung nữ trong Tử Cấm Thành, bị cuốn vào vòng xung đột giữa Từ Hi và Quang Tự. Những mâu thuẫn trong truyện không chỉ đơn thuần là giữa cái xấu – cái tốt, mà là giữa cái cũ và cái mới, giữa cứng rắn và nhu nhược, giữa thủ cựu và tiến bộ. Tây thái hậu là một nhà lãnh đạo hà khắc, tàn nhẫn, nhưng quyết đoán và biết cách cai trị. Trong khi đó, vua Quang Tự tuy nhiệt tình muốn chấn hưng đất nước nhưng lại mềm yếu, nóng vội, thiếu chính kiến. Phim kết thúc khi Từ Hi và Quang Tự đồng loạt qua đời, Ngâm Nhi được xuất cung lấy người mình yêu. Nhưng sau quá nhiều biến cố, đổi thay, nàng quyết định cùng chồng uống thuốc độc tự vẫn vào ngày cưới để khép lại mọi bi kịch. Cái chết của các nhân vật cũng là lời cáo chung cho văn hóa cũ, chế độ cũ, con người cũ. "Tiến tới nền cộng hòa" năm 2003, một bộ phim nói về Cách mạng Tân Hợi được trình chiếu trên CCTV, với diễn viên Lữ Trung đóng vai Từ Hi Thái hậu. Bộ phim miêu tả Từ Hi như một nhà cầm quyền cứng rắn, tận tụy. Mặc dù được khán giả đón nhận nồng nhiệt nhưng bộ phim sau đó đã bị kiểm duyệt bởi Đảng Cộng sản Trung Quốc vì các lý do chính trị. Từ 60 tập ban đầu, phim bị cắt còn 59 tập. "Thương khung chi Mão" là một bộ tiểu thuyết của nhà văn Nhật Bản Asada Jiro (tên tiết Nhật của tiểu thuyết là Sokyu no Subaru, tiếng Anh The Firmament of the Pleiades), sau được chuyển thể thành phim truyền hình cùng tên do đạo diễn Uông Tấn thực hiện năm 2009. Bộ phim xoay quanh sự kiện Bách nhật Duy Tân, mối quan hệ giữa Từ Hi Thái hậu cùng con nuôi Quang Tự và tiểu thái giám tên Lý Xuân Vân. Vai diễn Từ Hi Thái hậu do nữ diễn viên Tanaka Yuko thủ diễn. Năm 2011, bộ phim đoạt giải Phim cổ trang xuất sắc nhất tại Liên hoan điện ảnh Cầu vồng Á Châu lần thứ 1. Bên cạnh đó, trên màn ảnh nhỏ Từ Hi Thái hậu từng được nhiều diễn viên nổi tiếng thể hiện như Mễ Tuyết ("Thanh cung thập tam hoàng triều", "Đại thái giám"), Lưu Hiểu Khánh ("Hỏa thiêu Viên Minh viên", "Thùy liêm thính chính"), Cai Lệ Lệ ("Thái bình thiên quốc"), Lý Minh Khởi ("Đầu bếp làm quan"), Lưu Tuyết Hoa ("Thiếu nữ Từ Hi"), Đặng Tiệp ("Từ Hi tây hành"), v.v... Trong điện ảnh, Từ Hi Thái hậu cũng xuất hiện trong một phân cảnh của phim "The Last Emperor" ("Hoàng đế cuối cùng") năm 1987 của đạo diễn Bernardo Bertolucci, khi bà trao quyền thừa kế đế quốc Đại Thanh vào tay đứa trẻ 2 tuổi Phổ Nghi. Bộ phim sau đó giành tới 9 giải Oscar, bao gồm Phim xuất sắc nhất và Đạo diễn xuất sắc nhất. Các tên hiệu Bà thường được biết đến dưới cái tên [Từ Hi Thái hậu], nhưng đây không phải là tên thật của bà mà là tôn hiệu do các Hoàng đế Đồng Trị cùng Quang Tự chọn dâng lên. Tên khai sinh của Từ Hi Thái hậu không được sử sách ghi lại, nhưng trong một cuốn sách gần đây do hậu duệ của em trai bà xuất bản có nhắc đến cái tên Hạnh Trinh (杏貞). Vào cuối tháng 8 năm 1861, Hàm Phong Đế qua đời. Con trai bà lên nối ngôi, lấy niên hiệu là Đồng Trị. Với thân phận mẹ của Hoàng đế nhưng chỉ là phi tần, ban đầu bà được tôn làm Hoàng Quý Thái Phi. Về sau, Đồng Trị Đế dựa vào điển chế cũ, bà được tôn phong là [Thánh Mẫu Hoàng thái hậu] với tên hiệu là Từ Hi (慈禧; có nghĩa là "hiền hòa" và "tốt lành"). Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị của Hàm Phong Đế do là Trung cung Hoàng hậu, được tôn phong làm [Mẫu Hậu Hoàng thái hậu] - danh hiệu để chỉ rằng địa vị của bà cao hơn Từ Hi - với tên hiệu là Từ An (慈安; có nghĩa "hiền hòa" và "tĩnh lặng"). Trong thế giới Đông Á, phía Đông là dành cho chính, nên Từ An Thái hậu khi ngồi sau rèm nghe chính, ở hướng Đông, đương thời thông gọi là [Đông Thái hậu]; Từ Hi Thái hậu ở hướng Tây nên đương thời thông gọi [Tây Thái hậu]. Kể từ năm 1861, Từ Hi Thái hậu được thêm tên hiệu 7 lần (mỗi lần 2 chữ) theo điển lệ (Thái Hậu được thêm tên hiệu 9 lần, nâng tổng số chữ đầy đủ có thể lên đến 20 chữ). Đến cuối đời, tên hiệu của bà dài đến 16 chữ, bắt đầu bằng Từ Hi, đầy đủ là: Đại Thanh quốc Đương Kim Từ Hi Đoan Hựu Khang Di Chiêu Dự Trang Thành Thọ Cung Khâm Hiến Sùng Hi Thánh Mẫu Hoàng thái hậu (大清國當今慈禧端佑康頤昭豫莊誠壽恭欽獻崇熙聖母皇太后), gọi ngắn gọn lại là Đại Thanh quốc Đương Kim Thánh Mẫu Hoàng thái hậu (大清國當今聖母皇太后). Trong đại nội, Từ Hi Thái hậu còn được gọi là [Lão Phật gia; 老佛爺] - một danh hiệu tôn kính được người trong cung để tôn địa vị thần thánh của Từ Hi Thái hậu, và bà được tung hô là Đại Thanh quốc Đương Kim Thánh Mẫu Hoàng Thái hậu Vạn tuế Vạn tuế Vạn vạn tuế (大清國當今聖母皇太后萬歲萬歲萬萬歲). Danh xưng [Vạn tuế], theo điển lệ trước nay, chỉ có Hoàng đế được dùng, còn Thái hậu vốn chỉ được dùng danh xưng [Thiên tuế; 千歲], điều này cho thấy quyền hành lớn của Từ Hi Thái hậu vào lúc ấy. Lúc qua đời, Từ Hi Thái hậu được mang thuỵ hiệu của Hoàng hậu gồm các tên hiệu bà có lúc còn sống cùng với một số tên hiệu mới. Bà chỉ là Quý phi của Hàm Phong Đế, vì sinh ra Đồng Trị Đế mới được tôn Thái hậu, nhưng về sau vẫn gọi là Hoàng hậu. Đây là vì danh xưng Thái hậu vốn dành cho "Hoàng hậu của Tiên đế", nên dù trước đó chỉ là tần phi, nhưng đã được tôn làm Thái hậu thì thụy hiệu của người đó vẫn sẽ trở thành Hoàng hậu, như trường hợp trước đó là Hiếu Trang Văn Hoàng hậu, Hiếu Thánh Hiến Hoàng hậu hoặc Hiếu Tĩnh Thành hoàng hậu. Thuỵ hiệu đầy đủ của bà là Hiếu Khâm Từ Hi Đoan Hựu Khang Di Chiêu Dự Trang Thành Thọ Cung Khâm Hiến Sùng Hi Phối Thiên Hưng Thánh Hiển Hoàng hậu (孝欽慈禧耑祐康頤昭豫莊誠壽恭欽獻崇熙配天興聖顯皇后). Bà là Hoàng hậu có thuỵ hiệu dài nhất trong lịch sử Nhà Thanh, thậm chí còn dài hơn hai chính cung của Hàm Phong là Hiếu Đức Hiển Hoàng hậu và Hiếu Trinh Hiển Hoàng hậu. Hình ảnh Chú thích
MS-DOS (viết tắt của Microsoft Disk Operating System, Hệ điều hành đĩa từ Microsoft) là hệ điều hành của hãng phần mềm Microsoft. Đây là một hệ điều hành có giao diện dòng lệnh (command-line interface) được thiết kế cho các máy tính họ PC (Personal Computer). MS-DOS đã từng rất phổ biến trong suốt thập niên 1980, và đầu thập niên 1990, cho đến khi Windows 95 ra đời. Lịch sử Phiên bản DOS đầu tiên ra đời vào tháng 8 năm 1981, với tên chính thức là PC DOS 1.0. Tên gọi MS-DOS chỉ được biết đến kể từ tháng 5 năm 1982 (MS-DOS 1.25). Sau đó, Microsoft lần lượt cho ra đời các phiên bản tiếp theo của MS-DOS song song cùng với PC-DOS. MS-DOS 5.0 ra đời vào tháng 6 năm 1991. MS-DOS 6.22 ra đời tháng 6 năm 1994 là bản cuối cùng được chạy như một hệ điều hành độc lập (standalone version). Sau khi Windows 95 ra đời vào năm 1995, các phiên bản MS-DOS tiếp theo đều được phát hành đi kèm với Windows, chẳng hạn như MS-DOS 7.0 (8/1995) là nền để cho Windows 95 khởi động, và MS-DOS 8.0 đi kèm với Windows ME. Đây cũng là phiên bản cuối cùng của hệ điều hành này. Đặc điểm MS-DOS là hệ điều hành đơn nhiệm. Tại mỗi thời điểm chỉ thực hiện một thao tác duy nhất. Nói một cách khác, MS-DOS chỉ cho phép chạy một ứng dụng duy nhất tại mỗi thời điểm. Điều này khác hẳn với Windows, vốn là một hệ điều hành đa nhiệm (multi-tasking) - người dùng có thể thi hành nhiều ứng dụng cùng một lúc. Mặc dù vậy, về sau người ta đã thiết kế một số ứng dụng chạy thường trú (TSR, Terminate and Stay Resident) cho MS-DOS. Các ứng dụng này có thể chạy trên nền của các ứng dụng khác, khiến người sử dụng có thể thực hiện nhiều thao tác cùng lúc. Ở Việt Nam, phần mềm chạy thường trú trên MS-DOS rất phổ biến là một chương trình hỗ trợ gõ tiếng Việt, VietRes. Một số môi trường làm việc đa nhiệm (multi-tasking environment) như Deskmate hay Desqview đã được thiết kế để chạy trên DOS. Những phiên bản Windows đầu tiên cũng đều phải khởi động từ dấu nhắc DOS. Tuy nhiên, ngày nay, MS-DOS đã trở nên ít phổ biến hơn. Nó chỉ còn tồn tại trong các phiên bản Windows sau này (2000, XP) dưới dạng một ứng dụng cho phép người dùng kích hoạt chế độ dòng lệnh (command prompt), và thường chỉ được dùng để thực hiện những tác vụ liên quan mật thiết đến hệ thống mà giao diện đồ họa của Windows không làm được. Quản lý ổ cứng Quá trình định dạng đĩa từ (Đĩa mềm hay đĩa cứng logic) trong MS-DOS sẽ chia không gian đĩa đó ra làm 2 phần cơ bản là: Vùng hệ thống (System Area) và vùng dữ liệu (Data Area). Đồng thời hệ thống ghi các thông tin cần thiết vào vùng hệ thống để chuẩn bị cho việc lưu trữ và quản lý dữ liệu sau này. Vùng dữ liệu: gồm các block (cluster) có kích thước bằng nhau và được đánh địa chỉ (12 hay 16 bit)để phân biệt. Đây chính là các cluster trên đĩa. Vùng hệ thống: Bao gồm các thành phần như Boot Sector; bảng FAT1; bảng FAT2; Root Directory(RD). chứa các chương trình, các thông tin liên quan đến file, directory để giúp hệ điều hành quản lý các file và directory sau này.
{{Thông tin nhân vật hoàng gia | hình = Qinshihuang.jpg | cỡ hình = 250px | tên = Tần Thủy Hoàng | tên gốc = 秦始皇 | tên đầy đủ = ;Họ Tính: Doanh (嬴) Thị: Triệu (趙) hoặc Tần (秦) Tên Chính (政) | kiểu tên đầy đủ = Họ tên | tước vị = Hoàng đế Trung Hoa | thêm = | chức vị = Vua nước Tần | tại vị = 6 tháng 7 năm 247 TCN – 10 tháng 9 năm 221 TCN() | kiểu tại vị = Trị vì | tiền nhiệm = Tần Trang Tương vương | nhiếp chính = Lã Bất Vi (247 TCN - 237 TCN)Triệu Cơ (247 TCN - 237 TCN) | kế nhiệm = Thay đổi tước hiệu | chức vị 1 = Hoàng đế nhà Tần | tại vị 1 = 10 tháng 9 năm 221 TCN – 11 tháng 7 năm 210 TCN() | kiểu tại vị 1 = Trị vì | tiền nhiệm 1 = | kế nhiệm 1 = Tần Nhị Thế | hoàng tộc = Nhà Tần | kiểu hoàng tộc = Triều đại | tước hiệu = Thủy Hoàng Đế (始皇帝) | cha = Tần Trang Tương vươngLã Bất Vi (nghi vấn) | mẹ = Triệu Cơ | con cái = Khoảng 30 người con trai và 15 con gái, trong đó có:Phù TôCông tử CaoTương LưTần Nhị Thế | sinh = 18 tháng 2, 259 TCNHàm Đan | mất = 11 tháng 7, 210 TCN | nơi mất = Cự Lộc quận (鉅鹿郡) | nơi an táng = Lăng mộ Tần Thủy Hoàng | chữ ký = 始皇帝 (篆文).svg | nơi sinh = }} Tần Thủy Hoàng (tiếng Trung: 秦始皇) (sinh ngày 18 tháng 2 năm 259 TCN – mất ngày 11 tháng 7 năm 210 TCN), tên huý là Chính (政), tính Doanh (嬴), thị Triệu (趙) hoặc Tần (秦), là vị vua thứ 36 của nước Tần, đồng thời là Hoàng đế đầu tiên thống nhất Trung Hoa sau khi tiêu diệt sáu nước chư hầu, chấm dứt thời kỳ Chiến Quốc vào năm 221 TCN. Ông lên ngôi Tần vương năm 13 tuổi và trở thành Hoàng đế năm 38 tuổi. Thay vì tiếp tục xưng vương như các vị vua thời nhà Thương và nhà Chu, để đánh dấu mốc cho việc thống nhất Trung Hoa và chứng tỏ nhà Tần còn vĩ đại hơn các triều đại trước, ông tự tạo ra một danh hiệu mới là "Hoàng đế" (皇帝) và tự gọi mình là Thủy Hoàng đế (始皇帝). Tần Thủy Hoàng là người đã đánh dấu sự khởi đầu của đế quốc phong kiến tập quyền Trung Hoa kéo dài mãi đến khi nhà Thanh sụp đổ vào năm 1912. Sau khi thống nhất Trung Hoa, ông và thừa tướng Lý Tư đã thông qua một loạt cải cách lớn về kinh tế và chính trị, bao gồm thiết lập hệ thống quan lại nắm quyền ở địa phương do triều đình chỉ định thay vì phân chia ban tước cho các quý tộc như trước kia, cho phép nông dân sở hữu đất, thống nhất hệ thống đo lường, tiền tệ, đi lại, đồng thời xây dựng hệ thống luật pháp chặt chẽ. Ông đã tiến hành nhiều đại dự án, bao gồm việc xây dựng trường thành ở phương bắc, đặt nền móng cho Vạn Lý Trường Thành, kênh Linh Cừ, cung A Phòng, lăng mộ Tần Thủy Hoàng được bảo vệ bởi đội quân đất nung, chinh phạt phương Nam để mở rộng lãnh thổ. Những chính sách này đặt nền móng thống nhất lâu dài cho nước Trung Hoa rộng lớn sau gần 500 năm chia cắt và chiến tranh liên miên, nhưng với cái giá phải trả là rất nhiều mạng người và sự lao dịch mệt nhọc, nỗi oán hận của người dân. Để dập tắt những ý kiến trái chiều và áp đặt tư tưởng theo trường phái Pháp gia, ông đã cho đốt cháy nhiều cuốn sách và chôn sống nhiều học giả. Ông trị vì 37 năm, trong đó xưng vương 25 năm, xưng đế 12 năm, qua đời vì bệnh vào năm 210 TCN ở tuổi 49. Sau khi ông qua đời, nhà Tần sớm diệt vong chỉ 3 năm sau đó. Tên gọi Phần lớn các nguồn tham khảo hiện đại của Trung Quốc lấy Doanh Chính là tên cá nhân của Tần Thủy Hoàng, với Doanh là họ và Chính là tên. Tuy nhiên, thời Trung Quốc cổ đại có cách gọi tên khác với thời hiện đại. Trường hợp của ông, vì sinh ra ở nước Triệu nên Triệu có thể dùng làm họ. Theo Sử ký Tư Mã Thiên, ông được giới thiệu tên Chính, họ Triệu. Dù vậy, sau này Trung Quốc lấy họ của tổ tiên mà gọi, do đó Doanh Chính là tên được đại đa số đồng thuận khi nhắc đến tên riêng của Tần Thủy Hoàng, vì ông là con cháu nhà Doanh, họ chung của các vua Tần. Những người cai trị nhà Tần đã tự phong Vương từ thời Tần Huệ Văn vương năm 325 TCN. Sau khi lên ngôi, Doanh Chính được gọi là Tần vương Chính. Danh hiệu này nhấn mạnh ông đứng ngang hàng về mặt danh nghĩa với người cai trị nhà Thương và nhà Chu. Trong thời gian trước thời nhà Chu và sau đó, các nhà cai trị các quốc gia độc lập của Trung Quốc theo quy ước đều xưng "Vương" (王). Sau khi đánh bại vị vua chư hầu cuối cùng của Chiến Quốc vào năm 221 TCN, Tần vương Chính chính thức trở thành người cai trị trên toàn lãnh thổ Trung Hoa. Để ăn mừng thành tích này và củng cố cơ sở quyền lực của mình, Doanh Chính đề nghị các đại thần bàn danh hiệu cho mình. Sau khi bàn bạc, các đại thần tâu lên Tần vương Chính: Tuy vậy, Doanh Chính quyết định không lấy chữ "Thái", mà lấy chữ "Hoàng" (皇) và chữ "Đế" (帝) theo thần thoại Tam Hoàng Ngũ Đế (三皇五帝), tạo ra một danh hiệu mới là Hoàng đế. Ông tự xưng là Tần Thủy Hoàng Đế (秦始皇帝), thường được rút ngắn là Tần Thủy Hoàng (秦始皇), thay thế cho tên gọi Tần Vương (秦王). Những lời tâu khác thì ông đều làm theo, từ đó mệnh ban ra gọi là chế, lệnh ban ra gọi là chiếu, thiên tử tự xưng là trẫm. Ông truy tôn vua cha Tần Trang Tương vương là Thái thượng hoàng. Ý nghĩa của tên hiệu "Tần Thủy Hoàng Đế": Chữ Thủy (始), lấy từ từ Thủy Tổ, có nghĩa là đầu tiên. Người thừa kế sau đó sẽ được gọi tiếp là "Nhị Thế", "Tam Thế" và như vậy cho đến muôn đời. Ngoài ra, theo Lý Tư, nhà Tần lấy được thiên hạ từ nhà Chu, nhà Chu mệnh Hoả nên nhà Tần nên sử dụng hành thủy để tỏ rõ là hơn nhà Chu một bậc Chữ Hoàng Đế (皇帝) được lấy từ thần thoại Tam Hoàng Ngũ Đế (三皇五帝), nơi chữ này được trích ra. Bằng cách thêm vào một tiêu đề như vậy, Tần Thủy Hoàng hy vọng sẽ có sự thiêng liêng và uy tín của Hoàng Đế (皇帝) trước kia. Ngoài ra, chữ "Hoàng" (皇) có nghĩa là "sáng" hay "lộng lẫy" và "thường xuyên nhất được sử dụng như là một chữ chỉ thiên đường". Thân thế Tần Thủy Hoàng Doanh Chính là con trai của Tần Trang Tương vương Doanh Dị Nhân (tên khác là Doanh Tử Sở).‘‘Records of the Grand Historian: Qin Dynasty (English translation). (1996). Ssu-Ma, Ch'ien. Sima, Qian. Burton Watson as translator. Edition: 3, reissue, revised. Columbia. University Press. ISBN 0-231-08169-3, 9780231081696. pg 35. pg 59. Mẹ của Doanh Chính là Triệu Cơ, mỹ nhân nước Triệu, đàn hay múa giỏi, vốn là thiếp của Lã Bất Vi, một thương nhân giàu có. Doanh Chính sinh năm 259 TCN ở kinh đô Hàm Đan của nước Triệu (趙). Sử ký Tư Mã Thiên ghi chép về song thân và nơi sinh của Doanh Chính, nhưng cũng chép giả thuyết Doanh Chính là con đẻ của Lã Bất Vi. Năm 265 TCN, Tần Chiêu Tương vương lập con trai thứ là An Quốc quân Doanh Trụ làm Thái tử. Dị Nhân là con trai giữa của Thái tử với người vợ thứ là Hạ Cơ. Hạ Cơ không được An Quốc quân yêu mến, nên Dị Nhân phải đi làm con tin của Tần ở nước Triệu để đảm bảo hai nước không động binh đao.Huang, Ray. China: A Macro History Edition: 2, revised. (1987). M.E. Sharpe publishing. ISBN 1-56324-730-5, 9781563247309. pg 32. Tần nhiều lần đánh Triệu, chôn sống bốn mươi vạn quân Triệu ở trận Trường Bình, nên nước Triệu bạc đãi Dị Nhân. Đại phú thương Lã Bất Vi ở Triệu thấy vậy đã kết giao và chu cấp cho Dị Nhân, mưu giúp Dị Nhân làm thái tử nước Tần để mình có thể nhờ Dị Nhân được thành danh. Đồng thời, Lã Bất Vi dâng Triệu Cơ cho Dị Nhân, lại giúp Dị Nhân về Tần làm Thái tử rồi đưa ông lên ngôi vua. Giả thuyết cho rằng Doanh Chính không phải là con ruột của Dị Nhân, mà là con ruột của Lã Bất Vi, được tin tưởng rộng rãi trong suốt lịch sử Trung Quốc, đã góp thêm cái nhìn tiêu cực về Tần Thủy Hoàng. Giả thuyết này cho rằng, khi Triệu Cơ được dâng cho Dị Nhân, bà đã có bầu với Lã Bất Vi.東漢班固《漢書·五行志第七下之上》:曰,諸畜生非其類,子孫必有非其姓者,至於始皇,果呂不韋子。京房易傳曰:「方伯分威,厥妖牡馬生子。亡天子,諸侯相伐,厥妖馬生人。」 Tuy nhiên, nhiều học giả nghi ngờ về giả thuyết này, do dựa vào thời gian mang thai của Triệu Cơ. Như Vương Tiễn cầm quân đánh dẹp Phàn Ô Kỳ đã nói: "Thái hậu có mang mười tháng mới sinh, vậy nay tức là con tiên vương đẻ ra..." Ngay trong thời đó, những người theo thuyết gán Lã Bất Vi là cha ruột của Doanh Chính cũng không thể lý giải một cách khoa học vì sao Triệu Cơ lại mang thai Doanh Chính tới 12 tháng mà lập luận theo cách "thiên mệnh" rằng: "Có thể tại lòng trời muốn sinh ra một vị chân mạng thiên tử nên mới để người mẹ hoài thai lâu như vậy..." Các nhà sử học lý giải rằng: Thực tế, Doanh Chính vẫn chỉ nằm trong bụng mẹ 10 tháng như những đứa trẻ khác kể từ khi Triệu Cơ về với Dị Nhân. Do cộng thêm thời gian Triệu Cơ ở với Bất Vi, thời gian mới là 12 tháng. Ngoài ra, giả thuyết này cũng được cho là sản phẩm của sĩ phu các nước chư hầu Sơn Đông bị Tần Thủy Hoàng tiêu diệt. Họ căm giận Tần đã đoạt nước của mình, nên nhân việc mẹ vua Tần từng là thiếp của Bất Vi đã đặt ra chuyện này nhằm hạ thấp Tần. Các giáo sư John Knoblock và Jeffrey Riegel khi biên dịch Lã thị Xuân Thu bình rằng chuyện Doanh Chính con của Lã Bất Vi "rõ ràng là sai, nhằm mục đích phỉ báng Bất Vi và xúc phạm Thủy Hoàng đế". Việc cho rằng Lã Bất Vi - một thương nhân - là cha đẻ của Tần Thủy Hoàng là một sự phỉ báng sâu sắc, vì xã hội Nho giáo sau này coi thương nhân là tầng lớp thấp nhất trong xã hội. Học giả thời nhà Thanh là Lương Ngọc Thằng (梁玉繩) căn cứ nguyên văn mà Tư Mã Thiên chép trong Sử ký về việc Triệu Cơ sinh hạ, có ghi: [Cơ tự nặc hữu thân, chí đại kỳ thời, sinh tử Chính; 姬自匿有身,至大期時,生子政]. Trong đó, "Đại kỳ" một từ là chỉ ý việc phụ nữ đủ tháng sinh nở thời cổ, ám chỉ việc Triệu Cơ cùng Doanh Dị Nhân sau khi chung chạ thì mang thai, xác thực Triệu Cơ sau khi mang thai 10 tháng mới sinh ra Doanh Chính. Lương Ngọc Thằng chỉ ra rằng, Tư Mã Thiên đem cả hai cụm từ rất mâu thuẫn là [Tự nặc hữu thân; ý là "đang có thai"] cùng [Đại kỳ; ám chỉ "sau khi chung chạ mới có thai"] để chung trong một câu như vậy, là một loại bút pháp Xuân Thu, ám chỉ tin đồn rất phổ biến khi ấy là Triệu Cơ có thai trước khi hầu ngủ Doanh Dị Nhân nhưng không tiện phủ nhận. Thời trẻ lưu lạc Thời Chiến Quốc Thất Hùng, vì lợi ích nhất thời mà bảy nước có lúc liên minh, có lúc lại chiến tranh. Để biểu thị thành tâm, ngoài việc cam kết, nước đó còn phải gửi con cháu của mình đến nước liên minh làm con tin. Doanh Dị Nhân, cha của Doanh Chính, được Tần gửi đến Triệu làm con tin. An Quốc quân, thái tử của Tần Chiêu vương, có đến hơn 20 người con trai, nên cơ hội nối ngôi của Dị Nhân là rất thấp. Tuy nhiên, Lã Bất Vi, một thương gia giàu có người nước Vệ, lại đặc biệt chú ý đến Dị Nhân. Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng, Lã Bất Vi quyết định đầu tư gia sản của mình vào Dị Nhân để mưu tính đại sự của mình ở nước Tần. Doanh Chính ra đời ở kinh đô Hàm Đan của nước Triệu không lâu sau trận Trường Bình. Năm 257 TCN, Tần Chiêu Vương sai tướng Vương Hột (王齕) vây kinh đô Hàm Đan, Triệu cùng quẫn muốn giết Dị Nhân. Dị Nhân cùng Lã Bất Vi mưu đưa sáu trăm cân vàng cho kẻ canh ngục nên trốn thoát khỏi nước Triệu, nhưng Triệu Cơ cùng Doanh Chính không kịp trốn theo. Quân Triệu muốn giết cả hai người nhưng Triệu Cơ là con nhà tai mắt ở Triệu, lẩn trốn được, vì thế hai mẹ con đều sống sót. Năm 250 TCN, Tần Chiêu Tương vương qua đời, An Quốc quân lên ngôi, tức là Tần Hiếu Văn vương, lập Dị Nhân làm Thái tử, nước Triệu bèn đưa Triệu Cơ và Doanh Chính về Tần. Hiếu Văn Vương làm vua không lâu thì chết, Dị Nhân kế thừa vương vị, tức là Tần Trang Tương Vương, phong Lã Bất Vi chức Thừa tướng, tước Văn Tín hầu. Năm 247 TCN, Tần Trang Tương vương mất sau ba năm trị vì, Doanh Chính khi ấy mới 13 tuổi được lập làm vua nước Tần.Donn, Lin. Donn, Don. Ancient China. (2003). Social Studies School Service. Social Studies. ISBN 1-56004-163-3, 9781560041634. pg 49. Thời đại Tần vương Chính Củng cố quyền lực Năm 247 TCN, sau khi Tần Trang Tương Vương qua đời, Doanh Chính lên ngôi, tôn Triệu Cơ làm thái hậu, phong Lã Bất Vi làm thừa tướng, gọi là trọng phụ, coi như người cha thứ hai của mình. Lã Bất Vi vốn là người tình cũ của thái hậu, thường ra vào hậu cung để tư thông với bà ta. Tần vương còn nhỏ không hay biết, hoặc giả vờ không hay biết. Sau đó, Lã Bất Vi sợ chuyện bại lộ nên ngầm sai người tìm kiếm một nam nhân cường tráng, có nam căn lớn tên là Lao Ái. Theo Sử ký Tư Mã Thiên, Bất Vi trước tiên dùng Lao Ái làm người nhà rồi dâng Ái vào hậu cung, giả làm hoạn quan bằng cách nhổ râu để "hầu hạ" thái hậu. Sau một thời gian, thái hậu sợ Tần vương Chính biết chuyện, xin dời sang sống ở Ung Thành cùng Lao Ái và sinh được hai con trai. Nhờ thái hậu, Lao Ái được phong làm Trường Tín hầu, cũng mưu xây dựng thế lực, mở phủ nuôi thực khách như Lã Bất Vi. Lao Ái mưu đồ cho con của mình và thái hậu nối ngôi khi Tần vương Chính chết. Tuy nhiên, Lao Ái trong lúc uống rượu say đã khoe khoang mình là cha dượng của vị vua trẻ. Năm 238 TCN, Lao Ái chiếm con dấu của thái hậu và dấy binh mưu phản. Triều đình treo thưởng hơn 100 vạn đồng cho ai bắt sống Ái và 50 vạn đồng cho ai chém được đầu Lao Ái. Vì thiếu sự ủng hộ rộng rãi và quân đội lỏng lẻo, Lao Ái cùng quân của mình nhanh chóng bị quân do Xương Bình quân chỉ huy đánh bại ở Hàm Dương. Ông bị xử ngũ mã phanh thây, cả ba họ và môn hạ đều bị giết. Tần vương còn tìm giết hai con riêng của Lao Ái với thái hậu và đày thái hậu sang đất Ung giam lỏng. Lã Bất Vi bị điều tra và phát giác. Tần vương Chính muốn giết Lã Bất Vi, nhưng vì ông có công lớn trong những năm làm thừa tướng, được các biện sĩ nói đỡ, nên không bị xử tử. Lã Bất Vi bị cách chức, triều đình cấp cho một cái ấp nhỏ ở Hà Nam. Tuy đã bị cách chức, danh tiếng Lã Bất Vi được nhiều người biết đến khắp Trung Hoa, nhiều tân khách và sứ giả của các chư hầu biết đến Lã Bất Vi và vẫn thường xuyên đến chỗ ông. Sau hơn một năm, lo ngại Lã Bất Vi làm phản, Tần vương Chính bắt ông và thuộc hạ dời sang đất Thục. Tự liệu mình sẽ bị sát hại, vào năm 235 TCN, Lã Bất Vi uống rượu độc tự tử. Do có công dẹp loạn Lao Ái, Xương Bình quân được phong làm thừa tướng, thay cho Lã Bất Vi. Ngoài Lã Bất Vi và Lao Ái, Tần vương còn tranh đấu với em trai cùng cha khác mẹ của mình là Thành Kiệu (成蟜). Sau khi Doanh Chính lên ngôi, Thành Kiệu làm phản ở Đồn Lưu và đầu hàng nước Triệu. Nước Triệu trao cho Thành Kiệu đất Nhiêu (nay thuộc Nhiêu Dương). Vào năm 239 TCN, quân Tần đánh chiếm đất Nhiêu, Thành Kiệu tử vong tại đây. Bị hành thích lần thứ nhất Sau khi sự việc làm phản của Lao Ái kết thúc, Tần vương Chính tiếp tục cho quân đội của mình đi đánh chiếm các nước khác. Nước Yên yếu thế, thường bị binh lính sách nhiểu, không thể chống chọi với Tần. Vì vậy, Thái tử Đan mưu dùng Kinh Kha hành thích Tần vương Chính vào năm 227 TCN. Khi mở bản đồ Kinh Kha rút thanh chủy thủ đâm Doanh Chính. Nhà vua liền lùi lại và rút thanh kiếm sau lưng để bảo vệ mình . Vào thời điểm đó, các quan đều không được phép mang vũ khí. Kinh Kha đuổi theo, cố gắng để đâm nhà vua nhưng lại trượt. Doanh Chính lại rút kiếm của mình và chém vào đùi Kinh Kha. Kinh Kha liền ném con dao găm nhưng lại tiếp tục nhắm trượt. Chịu tám vết thương từ kiếm của nhà vua, Kinh Kha biết rằng đại sự đã hỏng. Cả Kinh Kha và Tần Vũ Dương đều bị giết. 5 năm sau, Yên bị Tần tiêu diệt. Bị hành thích lần thứ hai Cao Tiệm Ly là bạn thân của Kinh Kha, muốn báo thù cho cái chết của bạn mình. Tiệm Ly vốn giỏi gảy đàn trúc. Một ngày kia ông được triệu đến chơi nhạc cho Tần vương Chính. Trong cung có người có biết ông, liền nói: "Đây là Cao Tiệm Ly". Tần vương Chính tiếc tài nghệ, không giết Tiệm Ly mà móc mắt, nhưng vẫn cho phép Cao Tiệm Ly chơi đàn cho mình. Tần vương Chính say mê tiếng đàn, mỗi ngày lại cho phép xích lại gần hơn. Cao Tiệm Ly lén đổ chì vào bầu đàn rồi nhân dịp Doanh Chính ngồi cạnh mà đánh nhưng vì mắt đã bị mù nên đánh không trúng. Cao Tiệm Ly sau đó bị xử tử. Thống nhất Trung Nguyên Đến thời Chiến quốc, các chư hầu của nhà Chu đánh diệt lẫn nhau cuối cùng ở Trung Nguyên chỉ còn lại bảy nước lớn gọi là Chiến Quốc Thất hùng cùng một số nước nhỏ và nhà Đông Chu còn tồn tại thoi thóp. Trong bảy nước có nước Tần ở phía Tây thi hành tân pháp Thương Ưởng mà trở nên giàu mạnh, lấn át sáu nước còn lại. Nước Tần nhiều lần đánh Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Yên, liên tục mở đất, các nước chư hầu phía Đông luôn bị đẩy vào thế chống đỡ, nhiều lần tổ chức liên minh hợp tung chống Tần nhưng chỉ đạt được một số thắng lợi tạm thời, không ngăn cản được Tần đông tiến. Tần vương tiếp tục duy trì chính sách "thân xa đánh gần", giao hảo với nước Tề, uy hiếp lấn chiếm các nước còn lại. Nước Tề vì giao hảo với nước Tần nên không ra quân cứu các chư hầu khác, nhưng cuối cùng cũng bị nước Tần thôn tính. Tần vương Chính kế ngôi vào giai đoạn cuối của Chiến Quốc, lúc đó thế lực của Tần đã rất mạnh, tập hợp nhiều nhân tài. Tần vương Chính bên trong dùng Úy Liêu, Lý Tư bày mưu kế, bên ngoài dùng các tướng tài như Vương Tiễn, Vương Bí, Mông Ngao, Mông Vũ, Mông Điềm, Lý Tín làm tướng đánh dẹp các nước. Năm 230 TCN, Tần đánh Hàn. Hàn từng bại dưới tây Tần nhiều lần, lại là nước nhỏ yếu nhất trong 7 nước, nên là nước đầu tiên bị diệt. Hàn vương An sợ hãi, vội thu hết sổ sách, địa đồ trong nước sang đầu hàng nộp đất. Tần vương đặt đất đai còn lại của nước Hàn làm quận Dĩnh Xuyên. Năm 229 TCN, Tần vương hạ lệnh đánh Triệu. Tướng Triệu Lý Mục cầm quân đẩy lui được quân Tần. Tần vương bèn dùng kế ly gián, sai người đút lót cho gian thần nước Triệu là Quách Khai, xúi Quách Khai nói rằng Lý Mục đang có âm mưu tạo phản. Triệu U Mục vương nghe lời gièm pha, bèn giết chết Lý Mục. Cùng năm đó Triệu lại gặp phải động đất, quần Tần chớp thời cơ đánh riết, dồn Triệu vào đường cùng.Haw, Stephen G. (2007). Beijing a Concise History. Routledge. ISBN 978-0-415-39906-7. p 22 -23. Năm 228 TCN, quân Tần chiếm kinh thành Hàm Đan, bắt sống Triệu vương Thiên. Anh Thiên là Triệu Gia chạy lên đất Đại phía bắc xưng vương. Năm 227 TCN, sau khi bị Kinh Kha ám sát hụt, Tần vương cho đại tương Vương Tiễn và phó tướng Mông Vũ cầm quân đánh Yên. Quân Yên đại bại tại Dịch Thủy, đất đai quá nửa bị Tần chiếm. Sau đó quân Tần công phá Kế Thành, Yên vương Hỉ cùng thái tử Đan dẫn quân lui về Liêu Đông, Lý Tín xuất quân truy đuổi và giành thắng lợi lớn. Yên vương trong thế bị dồn ép đã giết thái tử Đan (người đã ra lệnh cho Kinh Kha ám sát Doanh Chính) rồi dâng thủ cấp để cầu hòa. Quân Tần chấp nhận lời cầu hòa, Yên được thoi thóp được thêm ba năm nữa. Năm 225 TCN, Vương Bí chỉ huy quân Tần đánh kinh đô Đại Lương của Ngụy. Quân Tần cho quân dẫn nước sông Hoàng Hà làm ngập thành làm chết hàng vạn người. Ngụy vương Giả không chống nổi phải ra hàng. Năm 225 TCN, Tần vương Chính sai Lý Tín mang 20 vạn quân đánh Sở. Lý Tín bị tướng Sở là Hạng Yên đánh bại. Tần vương bèn nghe theo lão tướng Vương Tiễn, tổng động viên 60 vạn quân giao cho Vương Tiễn ra mặt trận. Vương Tiễn đánh Sở trong 2 năm, đánh bại Hạng Yên, bắt sống Sở vương Phụ Sô. Hạng Yên chạy thoát, lập vua Sở mới là Xương Bình quân lên ngôi. Vương Tiễn lại đánh tiếp xuống phía nam, giết chết vua Sở và Hạng Yên, bình định nước Sở. Nước Sở, chư hầu lớn nhất và kình địch lớn nhất của Tần bị tiêu diệt vào năm 223 TCN. Năm 222 TCN, quân Tần do Vương Bí chỉ huy tiến vào Liêu Đông để diệt nốt Yên đang thoi thóp. Yên vương Hỉ bị bắt, nước Yên bị diệt. Quân Tần nhân đó tiến sang đánh đất Đại. Đại vương Gia (anh Triệu vương Thiên) tự sát. Năm 221 TCN, Doanh Chính lấy cớ Tề vương Kiến đem 30 vạn quân phòng thủ ở biên giới phía tây là hành động gây hấn, bèn sai Vương Bí mang quân từ nước Yên tiến thẳng xuống phía nam tiến vào kinh đô Lâm Truy. Nước Tề suốt mấy chục năm không động binh đao, dân quen liềm hái hơn cung nỏ, vì vậy thấy quân Tần hùng hậu tiến vào thì mau chóng tan vỡ. Tề vương Kiến quyết định đầu hàng. Cả sáu nước hoàn toàn bị thôn tính. Lần đầu tiên trong lịch sử, toàn Trung Hoa được thống nhất. Trong cùng năm đó, Doanh Chính tự xưng là "Thủy Hoàng Đế" (始皇帝), không còn là một vị vua theo nghĩa cũ và vượt qua thành tựu của các vị vua nhà Chu. Thời đại Tần Thủy Hoàng Cải cách hành chính Tần Thủy Hoàng dời hết các vương công quý tộc của sáu nước bị diệt về kinh đô Tần là Hàm Dương để dễ bề khống chế, đất đai của họ đều bị sung công. Để tránh họa chư hầu cát cứ đời nhà Chu, hoàng đế loại bỏ phong đất đặt chư hầu mà triệt để thi hành chế độ quận huyện, chia cả nước thành 36 quận (郡) (sau đó tăng lên 40 quận); quận thú, huyện lệnh do triều đình bổ nhiệm, có thể bị điều động bất cứ lúc nào. Quận là một quân khu lớn, nhất là ở những miền mới chiếm được. Mỗi quận thành nhiều huyện (县), hương (乡) và lý (里), mỗi quận có quận thú coi việc dân và quân uý coi việc quân. Ở trên cùng, có một viên giám ngự sử chỉ chịu trách nhiệm với nhà vua, vì vậy quan lại không thể chuyên quyền, làm chúa ở cõi riêng. Quan lại được Hoàng đế bổ nhiệm dựa theo công trạng thay vì tập tục cha truyền con nối như trước kia. Hệ thống này trái ngược với các đời trước vốn cấu kết lỏng lẻo, người dân cũng không còn được gọi theo tên các nước cũ trước đây nữa (như "người Sở" ám chỉ người đến từ đất cũ của nước Sở)Nguồn tin cũng đề cập đến ch'ien-shou là tên mới của người Tần. Đây có lẽ là chữ do Wade-Giles phiên âm chữ (秦受) có nghĩa là "người dân của đế chế Tần". mà đều là con dân của nhà Tần. Cải cách kinh tế và văn tự Trong những năm cầm quyền của mình, Tần Thủy Hoàng và thừa tướng Lý Tư đã thống nhất đơn vị đo lường và tiền tệ trên toàn Trung Hoa. Hoàng đế cũng cho thống nhất chiều dài trục bánh xe để tiện việc vận chuyển đường bộ, xây dựng thêm nhiều hệ thống đường sá, kênh mương kết nối các vùng miền với nhau để người dân được thuận tiện hơn trong việc đi lại. Thời Chiến Quốc, văn tự ở mỗi nước ít nhiều có những sự khác nhau. Quan lại Tần đi cai trị đất đai chư hầu cũ nhiều khi không hiểu được văn tự tại địa phương, khó làm tốt việc. Vì vậy, Tần Thủy Hoàng ra lệnh mọi văn bản trên toàn quốc đều sử dụng một loại văn tự được chuẩn hóa bởi Lý Tư, nhờ đó mà thống nhất được chữ viết trên toàn quốc. Tư tưởng Tần Thủy Hoàng tin vào thuyết Ngũ hành, tin rằng nhà Chu trước đó cai trị bởi sức mạnh của Hỏa, đại diện bởi màu đỏ. Vì vậy nhà Tần kế tục lấy hành Thủy (nước) mà cai trị, đại diện là màu đen. Màu đen trở thành màu của y phục, cờ hiệu. Các mối liên quan khác bao gồm phía bắc là hướng hồng y, mùa đông và số sáu. Trong khi thời kỳ Xuân Thu và Chiến Quốc chiến tranh xảy ra triền miên, nó cũng được xem như là thời kỳ của tự do tư tưởng. Tuy nhiên, đến thời Tần Thủy Hoàng, hoàng đế ra lệnh cấm hết tất cả các trường phái tư tưởng khác,Chaurasia, Radhey Shyam. (2004). History of Modern China. Atlantic Publishers & Distributors. ISBN 81-269-0315-5, 9788126903153. pg 317. lấy trường phái Pháp gia là tư tưởng chính thống của nhà Tần. Trường phái Pháp gia thời nhà Tần bài trừ chế độ phong kiến cũ ​​và khuyến khích các hình phạt nghiêm khắc, đặc biệt là khi không tuân lệnh hoàng đế. Quyền cá nhân bị gạt đi khi chúng mâu thuẫn với mong muốn của chính quyền, thương nhân và học giả không được coi trọng và thích hợp để loại bỏ. Năm 213 TCN, quan đại phu Thuần Vu Việt xin vua phong đất lập chư hầu và noi theo lệ của người xưa, nhưng bị thừa tướng Lý Tư phản đối. Lý Tư cũng nhân đó dâng thư đề nghị cấm học theo sách cổ để phê phán những điều hoàng đế làm thời nay. Tần Thủy Hoàng nghe theo, ra lệnh đốt bỏ hết phần lớn các sách đương thời, chỉ giữ lại những cuốn sách bói toán, nông nghiệp, y học, thần thoại, và lịch sử nhà Tần. Việc này cũng phục vụ cho việc thay đổi văn tự bằng cách loại bỏ các văn bản chứa văn tự lỗi thời. Kẻ nào không tuân lệnh mà lén lút giữ sách thì bị phạt nặng. Sử ký Tư Mã Thiên ghi lại, có 460 Nho sĩ bị chôn sống ở Hàm Dương vì sở hữu sách cấm vào năm 212 TCN.Wood, Frances. (2008). China's First Emperor and His Terracotta Warriors. p 33. Công tử Phù Tô đứng ra can ngăn vì sợ thiên hạ không yên, hoàng đế nổi giận sai Phù Tô đi lên miền bắc để giám sát tướng Mông Điềm ở Thượng Quận. Bản sao các sách cấm vẫn được cất giữ trong thư viện của triều đình nhưng hầu hết chúng đều bị phá hủy khi Hạng Vũ đốt cháy cung điện Hàm Dương vào năm 206 TCN. Âm mưu ám sát thứ ba Năm 230 TCN, Tần tiêu diệt Hàn. Trương Lương là sĩ tộc của Hàn thề trả thù hoàng đế Tần. Năm 218 TCN, Lương bán hết gia sản, thuê sát thủ và cho làm chiếc chùy sắt một trăm hai mươi cân (khoảng 160 lb hoặc 79kg) lập mưu ám sát Tần Thủy Hoàng. Lương và sát thủ mai phục trong bụi cây dọc theo tuyến đường Thủy Hoàng du ngoạn và khi đoàn xa giá đến gần ném chùy làm vỡ tan chiếc xe đi đầu. Tuy nhiên, Tần Thủy Hoàng khi đó đang ở trong chiếc xe thứ hai, trông giống hệt chiếc xe thứ nhất, nên thoát chết. Hoàng để cho truy lùng khắp thiên hạ nhưng cả hai thích khách đều trốn thoát. Xây dựng công trình Trường Thành Ở phía Bắc, tộc người Hung Nô thường xuyên quấy nhiễu biên giới. Để chống người Hung Nô xâm lấn, Tần Thủy Hoàng đã ra lệnh xây dựng một bức tường phòng thủ rộng lớn.Li, Xiaobing. (2007). A History of the Modern Chinese Army. University Press of Kentucky, 2007.ISBN 0-8131-2438-7, 9780813124384. p.16 Bức trường thành này chính là tiền thân của Vạn Lý Trường Thành sau này. Trường Thành được xây dựng bằng cách kết nối nhiều khúc tường thành đã được xây dựng bởi các nước Tần, Triệu, Yên, trải dài hơn 5000 km từ Lâm Thao (nay thuộc tỉnh Cam Túc) ở phía tây đến Liêu Đông (nay ở tây bắc Liêu Dương, tỉnh Liêu Ninh) ở phía đông, tạo nên một mạng lưới những bức tường thành nối các tuyến phòng thủ ở sông tới những vách đá không thể vượt qua.Huang, Ray. (1997). China: A Macro History. Edition: 2, revised, illustrated. M.E. Sharpe publishing. ISBN 1-56324-731-3, 9781563247316. p 44 Vận chuyển số lượng lớn vật liệu cần thiết cho công trình khổng lồ này là vô cùng khó khăn, vì vậy những người xây trường thành luôn cố gắng sử dụng tài nguyên ở địa phương. Đá được lấy từ các ngọn núi, trong khi đất nung được sử dụng để xây dựng ở đồng bằng. Không có ghi chép lịch sử nào còn sót lại cho thấy chiều dài và tiến trình chính xác của các bức tường thành thời Tần. Hầu hết các bức tường cổ đã bị xói mòn trong nhiều thế kỷ, và rất ít phần còn tồn tại cho đến ngày nay. Uớc tính có đến hàng trăm ngàn người, thậm chí có thể lên tới một triệu người"Defense and Cost of The Great Wall". Paul and Bernice Noll's Window on the World. p. 3. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2011. đã chết khi xây trường thành thời nhà Tần. Kênh Linh Cừ Miền Nam Trung Quốc có một câu nói nổi tiếng "Ở miền Bắc có Trường Thành, ở miền Nam có kênh Linh Cừ" (北有长城,南有灵渠). Năm 214 TCN, Tần Thủy Hoàng cho xây một kênh đào lớn để vận chuyển quân lương, tấn công một số vùng lãnh thổ ở phía nam. Kênh đào dài 34 km này điều chuyển dòng chảy của hệ thống sông ngòi giữa miền bắc và miền nam Trung Hoa, nối sông Tương với Dương Tử và Li Giang rồi lại chảy vào Châu Giang. Kênh Linh Cừ nối hai tuyến đường thủy chính của Trung Quốc, giúp nhà Tần mở rộng cương vực xuống miền Tây Nam, được đánh giá là một trong ba công trình kỹ thuật lớn của Trung Quốc cổ đại, bên cạnh Vạn Lý Trường Thành và Đô Giang Yển của Tứ Xuyên. Cung điện Một trong những công trình lớn mà Tần Thủy Hoàng cho xây dựng là cung A Phòng nằm ở phía nam sông Vị. Ước tính triều đình đã phải dùng tới hơn 70 vạn người để xây dựng cung A Phòng và lăng mộ Tần Thủy Hoàng. Theo Sử ký Tư Mã Thiên, riêng phần tiền sảnh của cung A Phòng rộng tới mức chiều từ Đông sang Tây dài 500 bộ (hơn 800m), chiều từ Nam sang Bắc dài 50 trượng (hơn 150m), có thể ngồi được một vạn người, phía trước có thể dựng được cột cờ 5 trượng (hơn 15m). Ngay từ khi xây dựng, cung A Phòng đã là một công trình gây tranh cãi, làm hao tiền, tốn của, kiệt quệ sức dân và mang tới cho vị hoàng đế không ít lửa hận thù từ muôn dân trăm họ. Khi chiếm được kinh đô một nước chư hầu, Tần Thủy Hoàng sai người vẽ kiểu cung điện của nước đó để về xây dựng lại y hệt tại Hàm Dương, ở bên cung điện của ông, thành một dãy dài cả mấy dặm. Bao nhiêu châu báu, nhạc công và vũ nữ của lục quốc, ông gom cả về để làm vui tai vui mắt. Tương truyền rằng, vào cuối thời nhà Tần, kinh đô Hàm Dương bị chiếm và cung điện nhà Tần bị đốt cháy, lửa cháy ba tháng chưa tắt. Mở mang bờ cõi Mới hoàn thành sự nghiệp thống nhất Trung Hoa chưa lâu, Tần Thủy Hoàng đã nghĩ đến việc mở mang bờ cõi. Biên cương phía Bắc, ngay từ thời Thương, Chu vẫn thường có giao tranh với các bộ tộc Hung Nô du mục. Người Hung Nô thường xâm lấn biên giới, có chỗ sống lẫn lộn với người Trung Nguyên, đến đầu đời Tần đã đến vùng Hà Nam. Tần Thủy Hoàng bèn cho Mông Điềm làm chánh tướng, Vương Ly (王離) (con của Vương Bí) cầm quân trấn thủ biên cương và chống người Hung Nô. Trong hơn một năm Mông Điềm cầm quân đánh lui quân Hung Nô ở phía bắc, giành được thắng lợi. Tần Thủy Hoàng cho xây thành dọc theo sông Hoàng Hà làm biên giới, tiếp tục sai Mông Điềm vượt sông Hoàng Hà lấy đất Cao Khuyết, Đào Sơn, Bắc Giả, xây đình và thành lũy ở đấy để đuổi người Nhung, rồi đưa những người bị đày đến đấy để ở, lần đầu biến những nơi này trở thành huyện của nhà Tần. Mông Điềm cũng chú trọng khai phá vùng biên ải, lấy các vùng đất mới làm thành "Tân Tần Địa", chia thành 44 huyện, cắt đặt quan lại. Năm 214 TCN, Tần Thủy Hoàng để lại 10 vạn quân ở phía bắc và đưa hơn 50 vạn quân xuống phía nam để chinh phục lãnh thổ của các bộ lạc phía nam. Quân Tần không quen thuộc với địa hình rừng rậm, bị đánh bại bởi chiến thuật đánh du kích của các bộ lạc phía nam, mất hơn 10 vạn quân. Tuy thua trận ở những chiến dịch đầu tiên, quân Tần đã xây dựng được hệ thống kênh đào giúp vận chuyển rất nhiều quân lương để chuẩn bị cho lần nam chinh thứ hai. Lần này quân Tần lấy được nhiều đất đai thuộc các tỉnh Chiết Giang, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam ngày nay cùng một phần vùng đất hiện nay thuộc miền bắc Việt Nam. Tần Thủy Hoàng liền cho dời hơn 10 vạn tù nhân và người bị tù đày đến đấy để khai khẩn. Các lãnh thổ do Tần Thủy Hoàng mở rộng tiếp tục được các triều đại tiếp theo cai trị cho đến ngày nay trừ một vài vùng đất sau đó đã ly khai khỏi Trung Quốc như Việt Nam. Trong mắt dân chúng Nhìn chung, mặc dù đạt được những thành tựu lớn, Tần Thủy Hoàng thời đó bị nhiều người căm hận. Những quý tộc bị tước hết quyền lợi, đối xử cay đắng căm hận ông. Những trí thức chống đối tư tưởng của ông căm ghét ông. Ông còn bị căm hận vì là một kẻ chinh phục và đánh thuế nặng nề, đặt ra nhiều luật lệ hà khắc, ép nhiều dân thường lao động đến chết để xây dựng những đại dự án của ông. Những năm cuối đời Tìm kiếm sự trường sinh Trong những năm cuối đời, Tần Thủy Hoàng sợ cái chết và tuyệt vọng tìm kiếm thuốc trường sinh. Ông bị ám ảnh với việc sự bất tử và bị lừa bởi nhiều người nói có thể cung cấp thuốc trường sinh. Ông cũng viếng thăm đảo Chi Phù ba lần để tìm kiếm sự bất tử. Trong một lần, Tần Thủy Hoàng cũng cấp cho Từ Phúc những con thuyền chở hàng trăm đồng nam và đồng nữ tìm kiếm núi Bồng Lai thần bí. Họ cũng được gửi đi để tìm An Cơ Sinh, một pháp sư 1.000 năm tuổi mà Tần Thủy Hoàng cho là đã gặp trong một chuyến vi hành và là người đã mời ông đi tìm mình ở Bồng Lai. Những người này không bao giờ trở lại, có lẽ bởi vì họ biết rằng nếu họ quay về mà không có thuốc trường sinh như đã hứa, họ chắc chắn sẽ bị tử hình. Truyền thuyết cho rằng họ đến Nhật Bản và chiếm nó làm thuộc địa. Có thể là việc đốt sách chôn Nho, vốn được xem như là một sự mất mát về văn hóa, là một phần trong nỗ lực của Tần Thủy Hoàng để tập trung tâm trí của các học giả giỏi nhất của ông trong việc nghiên cứu giả kim thuật. Một số học giả bị tử hình là những người không thể cung cấp bất kỳ bằng chứng về khả năng siêu nhiên của họ. Điều này có thể là phương pháp cuối cùng để kiểm chứng khả năng của họ: nếu bất kỳ người trong số họ có sức mạnh siêu nhiên, họ chắc chắn sẽ sống lại. Do Tần Thủy Hoàng sợ cái chết và các "linh hồn xấu xa", ông cho xây dựng một loạt các đường hầm và lối đi thông qua mỗi cung điện của mình (ông sở hữu hơn 200 cung điện), bởi vì chúng sẽ giữ cho ông an toàn từ các linh hồn xấu xa vì ông di chuyển mà không bị nhìn thấy. Cái chết Năm 211 TCN, một thiên thạch được cho là rơi xuống Đông Quận (东郡) ở vùng hạ lưu của sông Hoàng Hà. Trên đó có người ghi dòng chữ "Thủy Hoàng sẽ chết và đất nước sẽ bị chia cắt". Khi Thủy Hoàng biết được, ông đã phái người đi điều tra. Không ai nhận là người đã viết dòng chữ nên tất cả những người sống gần đó đều bị giết. Tảng đá sau đó bị đốt cháy và nghiền thành bột. Sau đó, Tần Thủy Hoàng đi kinh lý phía đông, Tả Thừa tướng Lý Tư đi theo, Hữu Thừa tướng Khứ Tật ở nhà. Hồ Hợi, con nhỏ của Thủy Hoàng, được nhà vua yêu mến xin đi theo, vua bằng lòng. Sau khi tế vua Hạ Vũ ở Cối Kê, Tần Thủy Hoàng trở về kinh. Trên đường trở về phía tây đến bến Bình Nguyên thì bị bệnh. Tần Thủy Hoàng ghét người ta nói đến việc chết, cho nên quần thần không ai dám nói với nhà vua về việc chuẩn bị cho việc ông qua đời. Khi bệnh càng nặng, nhà vua viết thư đóng dấu của vua gửi đến hoàng tử Phù Tô nói: "Con về Hàm Dương tổ chức đám tang, và chôn cất ta ở đấy." Bức thư đã niêm phong ở trong phủ trung xa thuộc quyền Triệu Cao. Bức thư có dấu của nhà vua làm tin chưa giao cho sứ giả, thì Tần Thủy Hoàng qua đời ở Bình Đài (平台), thuộc đất Sa Khâu (沙丘), là nơi cách kinh thành Hàm Dương khoảng hai tháng đi bằng đường bộ vào ngày 10 tháng 9 năm 210 TCN theo lịch Julius.O'Hagan Muqian Luo, Paul. (2006). 讀名人小傳學英文: famous people. 寂天文化. publishing. ISBN 986-184-045-1, 9789861840451. p16. Sử liệu phương Tây cho rằng có thể ông chết do uống phải thủy ngân trong thuốc trường sinh do các nhà giả kim thuật và các ngự y chế ra. Âm mưu về người kế vị Thừa tướng Lý Tư thấy nhà vua mất ở xa kinh đô nên đã trở thành vô cùng lo lắng rằng tin tức về cái chết của Tần Thủy Hoàng có thể kích hoạt một cuộc nổi dậy lớn trên toàn quốc, bèn giấu kín điều đó, không báo tang, chở quan tài trong một cỗ xe mát, cho một hoạn quan được hoàng đế yêu quý ngồi trong xe, đến đâu thì dâng thức ăn, trăm quan vẫn tâu việc như thường. Viên hoạn quan ở trong xe nghe lời tâu, liền bảo: "Được!". Chỉ có Hồ Hợi, Triệu Cao và một vài hoạn quan thân tín của nhà vua, tất cả có năm sáu người biết là hoàng đế đã băng hà. Lý Tư cũng ra lệnh cho hai xe ngựa chứa cá ươn đi trước và sau xe của hoàng đế để đánh lẫn mùi thối phát ra từ cơ thể phân hủy của hoàng đế. Sau khoảng hai tháng, đoàn của Lý Tư trở lại Hàm Dương, từ đó tin tức về cái chết của Tần Thủy Hoàng mới được công bố. Tần Thủy Hoàng không thích nói về cái chết của mình và không hề viết di chúc. Sau khi ông chết, con trai cả Phù Tô theo lệ sẽ là hoàng đế nối ngôi. Lý Tư và Triệu Cao âm mưu giết Phù Tô vì vị tướng được yêu thích bởi Phù Tô là Mông Điềm, người mà họ không ưa và sợ hãi. Trong khi đó, em trai của Mông Điềm là Mông Nghị đã từng khép Triệu Cao vào tội tử hình. Triệu Cao được hoàng đế yêu quý nên được xá tội, nhưng cũng vì thế căm thù Mông Nghị.Sima Qian: The First Emperor. Tr. Raymond Dawson. Oxford University Press. Edition 2007. p. 54 Họ đã sợ rằng nếu Phù Tô được lên ngôi, họ sẽ bị mất quyền lực, vì vậy Triệu Cao bèn cùng Lý Tư âm mưu phá hủy bức thư của Thủy Hoàng gửi cho hoàng tử Phù Tô, đặt ra chuyện thừa tướng Lý Tư đã nhận được tờ chiếu của Thủy Hoàng ở Sa Khâu trước khi chết bảo lập Hồ Hợi làm thái tử; sau đó lại làm một bức thư khác gửi cho hoàng tử Phù Tô và tướng Mông Điềm kể tội hai người, ra lệnh cho hai người phải chết. Kế hoạch này đã thành công, Phù Tô tự sát, em trai của Phù Tô là Hồ Hợi nối ngôi, tức là Nhị Thế hoàng đế. Tuy nhiên, Tần Nhị Thế lại không có khả năng như người cha của mình. Các cuộc khởi nghĩa nhanh chóng nổ ra. Triều đại của ông là một thời điểm bất ổn về dân sự và tất cả mọi thứ được xây dựng bởi Tần Thủy Hoàng sụp đổ chỉ trong một thời gian ngắn. Một trong những nỗ lực nổi dậy ngay lập tức là việc Trần Thắng và Ngô Quảng khởi nghĩa ở làng Đại Trạch vào năm 209 TCN. Năm 206 TCN, nhà Tần diệt vong. Triều đại mà Tần Thủy Hoàng khổ công gây dựng với mong ước nó sẽ tồn tại "Thiên thu vạn thế", rốt cuộc chỉ tồn tại được 15 năm. Lăng mộ Tần Thủy Hoàng Một trong những công trình lớn mà Tần Thủy Hoàng cho xây dựng là lăng mộ của chính mình. Nhà sử học thời Hán Tư Mã Thiên đã viết trong cuốn sử ký của mình rằng có khoảng 70 vạn người được điều động cho việc xây dựng lăng mộ. Nhà sử học người Anh John Man nghi ngờ con số này, tính toán rằng nền móng của lăng mộ có thể đã được xây dựng bởi 16.000 người trong vòng hai năm. Bố cục của lăng mộ được mô phỏng theo kinh thành Hàm Dương, được chia thành khu nội thành và khu ngoại thành. Chu vi của khu vực nội thành là 2,5 km và khu vực ngoại thành là 6,3 km. Ngôi mộ chính (nằm ở vị trí ) có chứa xác của Tần Thủy Hoàng vẫn chưa được mở ra và có bằng chứng cho thấy rằng nó vẫn còn tương đối nguyên vẹn. Trong khi Tư Mã Thiên không bao giờ đề cập đến đội quân đất nung, những bức tượng này đã được phát hiện bởi một nhóm các nông dân đào giếng vào ngày 29 tháng 3 năm 1974. Các binh sĩ này được tạo ra với một loạt các hỗn hợp khuôn đất sét và sau đó tiếp tục được cá nhân hóa bằng tay bởi các nghệ sĩ. Có khoảng 7.000 chiến binh đất nung và mục đích của họ là để bảo vệ hoàng đế khỏi các linh hồn xấu xa ở thế giới bên kia. Trong đội quân này có nhiều xe ngựa và 40.000 vũ khí thực sự bằng đồng. Mô tả về lăng mộ này của Tư Mã Thiên bao gồm các bản sao của cung điện và các tháp ngắm cảnh, rất nhiều châu báu, có một trăm dòng sông được làm bằng thủy ngân, và những chiếc nỏ được trang bị để bắn vào bất cứ kẻ nào đột nhập lăng mộ. Lăng mộ được xây dựng trên núi Li Sơn, cách Tây An 30 km. Các nhà khảo cổ học hiện đại đã định vị ngôi mộ, và đưa tàu thăm dò sâu bên trong. Các thăm dò cho thấy hàm lượng thủy ngân cao bất thường, tỷ lệ cao khoảng 100 lần so với tự nhiên, cho thấy rằng một số phần của truyền thuyết là đáng tin cậy. Bí mật của ngôi mộ được duy trì vì hầu hết những người xây dựng lăng mộ đều bị sát hại.Leffman, David. Lewis, Simon. Atiyah, Jeremy. Meyer, Mike. Lunt, Susie. (2003). China. Edition: 3, illustrated. Rough Guides publishing. ISBN 1-84353-019-8, 9781843530190. pg 290. Gia đình Sau đây là một số thành viên gia đình của Tần Thủy Hoàng: Cha mẹ Tần Trang Tương Vương Triệu Cơ Anh em Thành Kiệu, em trai cùng cha khác mẹ Hai em cùng mẹ khác cha, do Triệu thái hậu tư thông với Lao Ái Thê thiếp : có hơn 10000 người trong hậu cung. Hoàng hậu : không rõ tên họ , Lý Khai Nguyên cho rằng bà là Hùng cơ - công chúa của nước Sở. Cổ Cầm Cơ nhân (không rõ họ) Tùy Duyên Mỹ nhân (không rõ họ) Hồ cơ (không được ghi trong chính sử) , được cho là sinh mẫu Doanh Tử Anh. Trịnh cơ (không được ghi trong chính sử) , được cho là sinh mẫu Doanh Phù Tô. Lệ cơ (không được ghi trong chính sử) , được cho là sinh mẫu Doanh Thanh Minh. Con cái Doanh Phù Tô (con cả, tự sát), mẹ là Trịnh cơ. Doanh Thanh Minh, mẹ là Lệ cơ. Tự nguyện tuẫn táng teo vua cha , nhờ đó gia đình của ông được tha. Được chôn cất tại núi Lệ Sơn. Doanh Tử Anh. Doanh Hồ Hợi, sau là Tần Nhị Thế (con thứ 18) Doanh Cao (bị Tần Nhị Thế giết) Doanh Tương Lư (bị Tần Nhị Thế giết) 10 con gái (bị Tần Nhị Thế giết) , tất cả đều bị giết và xé xác , đều không rõ tên tuổi , tước hiệu... Dựa trên chiếc nhẫn được tìm thấy trong một ngôi mộ nữ thời Tần , xác định được một trong các cô con gái của Tần Thủy Hoàng có tên "Dương Tư" Các con trai của quyền thần Lý Tư , Lý Do và một vài người khác kết hôn với các hoàng nữ trước khi bị giết. Cháu Thiên Đại Hải Sơn Thiên Đại Vũ Anh Thiên Đại Thế Anh Thiên Đại Thế Phương. Tần Thủy Hoàng có khoảng 50 người con, nhưng hầu hết tên của họ đều chưa được biết. Tần Thủy Hoàng có vô số thê thiếp nhưng chính sử không nhắc đến tên một người vợ nào của ông. Nhận định Trong truyền thống biên soạn lịch sử của Trung Quốc thời phong kiến, Tần Thủy Hoàng luôn được miêu tả như một vị vua tàn bạo, người bị ám ảnh bởi các vụ ám sát. Sau này, ông bị các nhà sử học Khổng giáo lên án việc ông cho đốt sách và chôn sống Nho sĩ. Họ cuối cùng đã biên soạn danh sách Mười tội ác của Tần để làm nổi bật hành động bạo ngược của Thủy Hoàng. Nhà thơ và chính khách nổi tiếng đời nhà Hán là Giả Nghị kết luận bài viết Kiều Tần Di (过秦论) của mình với những gì đã trở thành bản án Nho giáo tiêu chuẩn trong những lý do cho sự sụp đổ của nhà Tần. Bài viết của Giả Nghị, được ngưỡng mộ như kiệt tác của thuật hùng biện và lý luận, đã được chép trong 2 tác phẩm lịch sử đời Hán và đã có ảnh hưởng sâu rộng về tư tưởng chính trị Trung Quốc như một minh hoạ cổ điển của lý thuyết Nho giáo. Ông cho rằng sự sụp đổ của nhà Tần là do sự thất bại trong việc biểu thị nhân tính và sự công bằng, và không nhận ra sự khác biệt giữa sức mạnh chinh phạt và sức mạnh để cai trị. Trong thời cận đại, những đánh giá lịch sử về Hoàng đế đầu tiên khác với sử học truyền thống Trung Quốc đã bắt đầu xuất hiện. Các đánh giá lại này được thúc đẩy bởi việc Trung Quốc bị phương Tây liên tục ức hiếp trong nửa cuối của thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, khiến chủ nghĩa dân tộc ngày càng tăng lên và nhiều người Trung Quốc muốn đất nước có một vị vua mạnh mẽ với quân đội hùng mạnh như thời Tần Thủy Hoàng. Ông chỉ xưng đế sau khi thống nhất hơn 10 năm mà làm cho Trung Hoa thống nhất về mọi mặt, mở mang thêm bờ cõi, trở thành một đế quốc lớn thời cổ đại. Trung Quốc được định hình từ khi Tần Thủy Hoàng thống nhất thiên hạ và tiếp tục bành trướng trong các triều đại tiếp theo. Trong giai đoạn 1911 - 1949, lãnh thổ Trung Quốc bị chia cắt bởi nạn quân phiệt cát cứ, rồi lại xâm lược bởi các quốc gia nước ngoài. Quốc Dân Đảng nhấn mạnh vai trò của Tần Thủy Hoàng trong việc thống nhất quốc gia, đẩy lui các cuộc xâm lược từ các bộ tộc du mục phương Bắc, đặc biệt là trong việc xây dựng Vạn lý trường thành. Một nhà sử học tên là Mã Phi Bách (馬非百) đã cho xuất bản một tiểu sử xét lại về Hoàng đế đầu tiên mang tên Tần Thủy Hoàng Đế Truyền (秦始皇帝传) vào năm 1941, gọi ông là "một trong những anh hùng vĩ đại của lịch sử Trung Quốc". Với sự ra đời của chính quyền mới Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào năm 1949, một sự nhìn nhận mới về Tần Thủy Hoàng được nổi lên với góc nhìn đánh giá của chủ nghĩa Marx. Điều này được minh họa trong Trung Hoa Sử ký toàn thư, được biên soạn vào tháng 9 năm 1955 như là một bản tóm lược lịch sử Trung Quốc. Công trình này mô tả những bước tiến lớn của Tần Thủy Hoàng theo hướng thống nhất và tiêu chuẩn hóa vì lợi ích của nhóm cầm quyền và tầng lớp địa chủ, chứ không phải là vì lợi ích của nhân dân, và sự sụp đổ của triều đại của ông sau đó là một biểu hiện của đấu tranh giai cấp. Trong thời đại mới, Tần Thủy Hoàng được xem như là một nhà lãnh đạo nhìn xa trông rộng, tiêu diệt sự chia rẽ và thành lập nhà nước tập trung đầu tiên. Các thuộc tính cá nhân, chẳng hạn như cuộc tìm kiếm của ông cho sự bất tử, được nhấn mạnh trong sử học truyền thống, gần như không được đề cập. Các đánh giá mới mô tả trong thời gian trị vì của mình (một kỷ nguyên thay đổi lớn về chính trị và xã hội), ông không ngần ngại sử dụng vũ lực để trấn áp các thế lực phản động, như đã làm với "kẻ chủ nô" Lã Bất Vi. Thêm vào đó, một lý giải khác cho sự sụp đổ nhanh chóng của triều đại nhà Tần được đưa ra trong một bài báo mang tên "Cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ giữa Tần và Hán" trong số ra năm 1974 của tờ Cờ Đỏ nhằm thay thế cho những lý giải cũ. Tần Thủy Hoàng muốn con cháu sẽ đời đời truyền ngôi cai trị thiên hạ, nhưng sau 15 năm thì vương triều bị mất trong tay Tần Nhị Thế. Dù vậy , Tần Thủy Hoàng đã chú ý cấu tạo một đế chế và một bộ máy quốc gia hoàn chỉnh, khai sáng cơ nghiệp cho đế quốc Trung Hoa kéo dài hơn 2000 năm. Từ góc độ này mà xét, thì ý nghĩ “ mãi mãi “ của Tần Thủy Hoàng không phải là thất bại . Trong văn hóa Sách giả tưởng Tác phẩm Lord of the East (1956) là một chuyện tình lãng mạn lịch sử về con gái yêu của Tần Thủy Hoàng, người đã bỏ đi với người yêu của mình. Câu chuyện sử dụng Tần Thủy Hoàng để tạo ra các rào cản cho cặp vợ chồng trẻ. Tác phẩm Bridge of Birds (1984) của Barry Hughart miêu tả Tần Thủy Hoàng là một người hoang tưởng đạt được sự bất tử do có trái tim bị lấy đi bởi "Ông già trên núi". Tác phẩm The Chinese Emperor (1984) của Jean Levi mô tả từ cuộc thảo luận chính trị và pháp luật của nhà Tần đến thăm dò tâm lý của Tần Thủy Hoàng, trong đó đội quân đất nung của ông thực ra là công cụ tự động tạo ra để thay thế con người. Tiểu thuyết Contact (1985) của Carl Sagan, nhân vật Xi Qiaomu, người tham gia vào cuộc khai quật lăng mộ của Hoàng đế Tần trong Cách mạng Văn hóa, được viếng thăm bởi một người ngoài hành tinh trong hình dạng của Tần Thủy Hoàng. Trong tác phẩm Interesting Times (1994) của Terry Pratchett, một pháp sư tên Rincewind, phát hiện ra một bộ áo giáp thuộc sở hữu trước kia của Tần Thủy Hoàng cho phép anh ta kiểm soát đội quân đất nung. Trong bộ sách Area 51 của Bob Mayer, Tần Thủy Hoàng được tiết lộ là một người ngoài hành tinh bị trục xuất và mắc kẹt trên Trái Đất trong một cuộc nội chiến giữa các vì sao. Vạn Lý Trường Thành thực ra được thiết kế để hiển thị biểu tượng cho 'giúp đỡ' trong ngôn ngữ của ông, và ông ra lệnh cho xây dựng nó với hy vọng rằng tàu vũ trụ đi qua sẽ nhận thấy và giải cứu ông. Trong tác phẩm Hydra's Ring (2006), tiểu thuyết thứ 39 của bộ sách Outlanders, Tần Thủy Hoàng được tiết lộ là vẫn còn sống vào đầu thế kỷ XXIII thông qua công nghệ nano ngoài hành tinh đã ban cho ông một hình thức của sự bất tử. Tác phẩm Emperor!: A Romance of Ancient China (2007) của Lanny Fields lấy trọng tâm quanh Tần Thủy Hoàng và một cựu chiến binh La Mã tên là Scipio Lucius Marcus, người mà Tần Thủy Hoàng trở thành bạn sau khi Marcus Scipio cứu ông nhiều lần. Tác phẩm hư cấu này được kể qua cái nhìn của nhà sử học Tư Mã Thiên, người viết về Marcus Scipio sau khi ông này đi từ Roma đến Trung Quốc. Tác phẩm The Tiger Warrior (2009) của David Gibbins thêu dệt lịch sử của Tần Thủy Hoàng và cuộc tìm kiếm sự bất tử của ông với lính lê dương La Mã, các bộ lạc Ấn Độ, các binh sĩ Anh thời Victoria và một câu chuyện khảo cổ học-phiêu lưu thời hiện đại. Phim điện ảnh Hoàng đế đầu tiên (秦・始皇帝 1963) - Bộ phim miêu tả Tần Thủy Hoàng (Shintaro Katsu) là một hoàng đế giỏi chiến đấu với nguồn gốc từ trong quân đội. Mặc cho thứ hạng của mình, Tần Thủy Hoàng được thể hiện ngồi xung quanh lửa trại với những người đàn ông bình thường. Tần Thủy Hoàng chuyển đổi Sở phu nhân từ kẻ thù thành một người vợ lẽ trung thành.Big Trouble in Little China (1986) - Bộ phim đề cập đến tên của Tần Thủy Hoàng hai lần là người đã áp đặt lời nguyền không có xác thịt cho David Lo Pan.Bản hùng ca thời Tần (秦頌 1996) - Bộ phim tập trung vào mối quan hệ của Tần Thủy Hoàng với Cao Tiệm Ly, một người bạn của sát thủ Kinh Kha. Tiệm Ly chơi bài Song of Yishui cho Kinh Kha trước khi ông bắt tay vào nhiệm vụ ám sát Thủy Hoàng. Vai Tần Thủy Hoàng do Khương Văn đảm nhiệm.Kinh Kha hành thích Tần vương (荆轲刺秦王 1999) - Bộ phim tập trung dựa trên danh tính của cha Tần Thủy Hoàng, sự đối xử nhẫn tâm của ông với các quan, và sự phản bội bởi người yêu thời thơ ấu của ông, mở đường cho nỗ lực ám sát của Kinh Kha. Đạo diễn Trần Khải Ca đã tìm cách đặt câu hỏi liệu động cơ của Tần Thủy Hoàng có xứng đáng hay không. Một chủ đề chính trong bộ phim này là cuộc xung đột giữa sự cống hiến của Tần Thủy Hoàng với sự thề ước của ông và người yêu, Triệu phu nhân (do Củng Lợi nhập vai). Đạo diễn Trần Khải Ca cũng đảm nhận vai Lã Bất Vi trong phim. Anh hùng (2002) - Bộ phim của đạo diễn Trương Nghệ Mưu với Lý Liên Kiệt đóng vai kẻ ám sát Tần Thủy Hoàng do Trần Đạo Minh nhập vai. Nội dung của bộ phim dựa trên sự kiện Kinh Kha hành thích Tần Thủy Hoàng.Thần thoại (2005) - Bộ phim có Thành Long trong vai Mông Nghị, một vị tướng theo Tần Thủy Hoàng. Nghị được đầu thai vào thời hiện tại là nhà khảo cổ học. Kim Hee-sun đồng đóng vai chính là một công chúa Triều Tiên, người buộc phải kết hôn với Tần Thủy Hoàng.Xác ướp: Lăng mộ Hoàng đế Rồng (2008) - Bộ phim có Lý Liên Kiệt đóng vai chính, một xác ướp sống lại được gọi là "Hoàng đế Rồng" và có thể là một tham chiếu đến Tần Thủy Hoàng. Phim truyền hình Tần Thủy Hoàng (1986) - Phim truyền hình 63 tập ghi lại những sự kiện từ khi sinh ra cho đến khi qua đời của Tần Thủy Hoàng. Nó được sản xuất bởi ATV của Hồng Kông. Ca từ của bài hát chủ đề mở tóm tắt câu chuyện như sau: "Mặt đất sẽ nằm ngay dưới chân ta; không ai có thể ngang hàng với ta cả".Vạn lý trường thành (1999) - Một trong các tập phim của History Bites. Bob Bainborough trong vai Tần Thủy Hoàng.Khử tà diệt ma 2 (1999) - Phim truyền hình giả tưởng siêu nhiên của Hồng Kông. Có một cảnh hồi tưởng Tần Thủy Hoàng bị lừa rằng biến thành ma cà rồng là chìa khóa để đạt được sự bất tử.Tầm Tần ký (2001), tựa Việt là Cỗ máy thời gian, dựa trên cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng của Hoàng Dị, do TVB sản xuất. Lâm Phong đóng vai Triệu Bàn, một công tử nước Triệu lấy danh tính của Doanh Chính và trở thành Tần Thủy Hoàng. Ông được sự hỗ trợ của Hạng Thiếu Long (Cổ Thiên Lạc), một nhà du hành vượt thời gian từ thế kỷ XXI.Tần Thủy Hoàng (2002) - Phim truyền hình do Trung Quốc đại lục sản xuất. Phim là một câu chuyện bán giả tưởng cuộc đời của hoàng đế từ thời thơ ấu cho đến khi chết. Trương Phong Nghị đóng vai Tần Thủy Hoàng.Thần thoại (2010) - Phim truyền hình Trung Quốc sản xuất bởi Thành Long và dựa trên bộ phim cùng tên năm 2005. Hai nhân vật vô tình quay ngược thời gian về thời kỳ nhà Tần. Họ lấy nhân dạng của Mông Nghị và Triệu Cao và trở thành đối thủ trong cung đình của nhà Tần. Tần thời lệ nhân minh nguyệt tâm (Lệ Cơ Truyện) (2017) - Phim truyền hình cổ trang của Trung Quốc với Trương Bân Bân thủ vai Tần Thủy Hoàng, đóng cặp là Địch Lê Nhiệt Ba thủ vai nữ chính Công Tôn Lệ. Hạo Lan truyện (2019) - Phim truyền hình cổ trang Trung Quốc với Ngô Cẩn Ngôn trong vai Lý Hạo Lan (Triệu Cơ), Mao Tử Tuấn trong vai Doanh Dị Nhân, Đồng Mộng Thực trong vai Tần Thủy Hoàng. Trò chơi điện tử Trong trò chơi nhập vai Wraith: the Oblivion (1994), bóng ma Tần Thủy Hoàng tiếp tục cai trị thế giới bên kia của Trung Quốc cho đến ngày nay, với sự hỗ trợ bởi một đội quân bất khả chiến bại dựa trên đội quân đất nung. Trò chơi Qin: Tomb of the Middle Kingdom (1995) mô tả nhiệm vụ của một học giả khảo cổ tưởng để khám phá điểm an táng của Hoàng đế đầu tiên. Trong Tomb Raider II (1997), nhà thám hiểm Lara Croft phát hiện ra "Dagger of Xian" sau khi viếng thăm "Temple of Xian". Màn chơi này cho thấy một sự tương đồng với mô tả của lăng mộ của Tần Thủy Hoàng, bao gồm cả một căn phòng với được trang trí bằng đội quân đất nung. Trong Prince Of Qin (2002), người chơi đóng vai con cả của Tần Thủy Hoàng là Phù Tô, người bị buộc phải tự tử ngoài đời thật. Nhưng trong trò chơi thì Phù Tô không chết mà sẽ chiến đấu cho quyền thừa kế ngai vàng của mình và tìm kiếm sự thật về cái chết của Tần Thủy Hoàng. Trong Emperor: Rise of the Middle Kingdom (2002), chiến dịch của nhà Tần có các người chơi là kiến trúc sư trưởng của Tần Thủy Hoàng, phụ trách giám sát việc xây dựng kinh đô, kênh Linh Cừ, Vạn Lý Trường Thành, cũng như ngôi mộ của Thủy Hoàng và đội quân đất nung, mặc dù trò chơi có quyền tự do với các khung thời gian mà trong đó các sự kiện thực sự diễn ra. Trò chơi Indiana Jones and the Emperor's Tomb (2003) mô tả Indiana Jones tiến vào lăng mộ của Tần Thủy Hoàng để thu hồi "Trái tìm của rồng". Trong Civilization IV (2005), Tần Thủy Hoàng là một trong hai nhân vật có thể chơi được của Trung Quốc. Trong Romance of the Three Kingdoms XI (2006) của Koei, Tần Thủy Hoàng là một trong 32 nhân vật lịch sử xuất hiện như là nhân vật đặc biệt. Ông được gọi bằng tên "Doanh Chính" trong trò chơi và có các chỉ số cao hơn tất cả các nhân vật khác, ngoại trừ Quản Trọng. Trong Assassin's Creed II (2010), một sát thủ tên là Wei Yu đã giết chết Tần Thủy Hoàng bằng một cây giáo. Assassin's Creed Encyclopedia cũng nói rằng Tần Thủy Hoàng được hỗ trợ bởi Templars, nhóm đối lập chính trong dòng game Assassin's Creed. Trong trò chơi Civilization VI (2016) được phát triển bởi Firaxis Games, Tần Thủy Hoàng là người lãnh đạo nền văn minh Trung Hoa. Âm nhạc Tần Thủy Hoàng là nhân vật chính trong vở opera The First Emperor. Nhạc sĩ Thụy Điển Evert Taube cho thấy các hành động và động cơ của Tần Thủy Hoàng trong bài hát "Muren Och Böckerna" ("The Wall And The Books"). Khác Jorge Luis Borges (1899-1986), nhà văn Argentina đã viết bài luận nổi tiếng về Tần Thủy Hoàng mang tên "The Wall and the Books" ("") trong bộ sưu tầm năm 1952 của Other Inquisitions (). Nó tập trung vào sự đối lập giữa quy mô xây dựng của Vạn lý trường thành và việc đốt sách đã xác định triều đại của ông. Bí mật của Tần Thủy Hoàng, bạo chúa và tầm nhìn (2006) - Phim tài liệu của National Geographic. Nó cung cấp một cái nhìn sâu sắc về nhà cai trị gây tranh cãi này.Tần Thủy Hoàng - Người tạo nên đất nước Trung Hoa (2006) - Phim tài liệu đặc biệt về Tần Thủy Hoàng. James Pax đóng vai Tần Thủy Hoàng. Nó được chiếu trên kênh Channel 4 ở Anh Quốc.Tần Thủy Hoàng (2008) - Phim tài liệu 3 tiếng của The History Channel. Xu Pengkai đóng vai Tần Thủy Hoàng. Vương giả thiên hạ (2006 - nay) - Bộ truyện tranh nổi tiếng của tác giả Hara Yasuhisa. Sau khi lên ngôi vua vào năm 13 tuổi, Doanh Chính phải chạy trốn khỏi cuộc truy sát trong một âm mưu phản loạn của phe Thành Kiệu. Trong cuộc chạy trốn này, ông gặp được Tín (được lấy cảm hứng từ tướng Tần Lý Tín) và Tín giúp ông thoát khỏi cuộc truy sát. Sau khi trải qua một số sự kiện trong cuộc chạy trốn, Tín quyết định sẽ trở thành "thanh kiếm" của Chính trong công cuộc thống nhất Trung Hoa. Xem thêm Lã Bất Vi Triệu Cơ Lý Tư Triệu Cao Vương Tiễn Chiến tranh thống nhất Trung Hoa của Tần Lăng mộ Tần Thủy Hoàng Tần Nhị Thế Tham khảo Sử ký Tư Mã Thiên, thiên: Tần bản kỷ Tần Thủy Hoàng bản kỷ Truyện Lã Bất Vi Chú thích Liên kết ngoài History of China China's Great Pyramid - Terracotta Warriors, Traps, Treasure & Rivers of Mercury... What's Inside Qin Shi Huang's Tomb?'' MalcolmJ Mon, 08/03/2009 - 17:52 |- Vua nhà Tần Sinh năm 259 TCN Mất năm 210 TCN Bài cơ bản dài Sinh năm 260 TCN Năm 210 TCN Mất thập niên 210 TCN Năm 260 TCN
Bộ Thài lài (danh pháp khoa học: Commelinales) là một bộ thực vật một lá mầm, trong đó bao gồm họ thài lài (Commelinaceae). Một điều không may là thành phần của bộ phận còn lại trong nhóm đã thay đổi rất nhiều giữa các hệ thống phân loại. Trong hệ thống Cronquist bộ này được đặt trong phân lớp Commelinidae của lớp Liliopsida và bao gồm họ Commelinaceae cùng 3 họ bổ sung sau đây: Rapataceae Xyridaceae Mayacaceae Tuy nhiên, nhiều tác giả hiện nay cho rằng các họ này có quan hệ họ hàng gần gũi hơn với các nhóm khác, như APG, đã chuyển cả ba họ này vào bộ Hòa thảo (Poales). Ngược lại, một loạt các dạng trước đây được phân loại trong bộ Loa kèn (Liliales) đã được công nhận là có quan hệ gần gũi hơn với Commelinidae, và vì thế hoặc là được nhóm vào bộ Commelinales hoặc đưa vào bộ riêng, có thể là bộ đa ngành với tên gọi Philydrales. Theo cập nhật của APG II thì các họ được đưa vào Commelinales là như sau: Commelinaceae: Họ Thài lài Haemodoraceae: Họ Huyết bì thảo Hanguanaceae: Họ Thuốc giun Philydraceae: Họ Cỏ đuôi lươn Pontederiaceae: Họ Lục bình Sự thay đổi trong quan hệ thành viên này tạo ra sự rất khó xác định các đặc trưng của bộ Commelinales (ngoại trừ họ Commelinaceae và các họ hàng gần của nó). Phát sinh chủng loài Cây phát sinh chủng loài của bộ Thài lài so với các bộ thực vật một lá mầm khác trong nhánh Thài lài lấy theo APG III. Cây phát sinh chủng loài trong nội bộ bộ Thài lài lấy theo APG III. Ghi chú
Tupolev Tu-144 (Tên hiệu NATO: Charger) là chiếc máy bay vận tải siêu thanh (SST) đầu tiên, được chế tạo dưới sự chỉ đạo của phòng thiết kế Tupolev Xô viết do Alexei Tupolev (1925–2001) lãnh đạo. Các nhà quan sát phương tây đã đặt biệt danh cho chiếc máy bay này là Concordski vì nó nhìn giống với chiếc Concorde. Một nguyên mẫu đã cất cánh lần đầu ngày 31 tháng 12 năm 1968 gần Moskva, hai tháng trước Concorde. Tu-144 lần đầu vượt bức tường âm thanh ngày 5 tháng 6 năm 1969, và vào ngày 15 tháng 7 năm 1969 nó trở thành chiếc máy bay vận tải đầu tiên vượt tốc độ Mach 2, và là chiếc máy bay chở khách bay nhanh nhất từng có. Tuy về mặt hình thức, Tu-144 trông rất giống Concorde nhưng thật ra nó có rất nhiều điểm khác biệt, đa phần là do những giải pháp kém tinh tế hơn so với những giải pháp mà nhóm các kỹ sư chế tạo Concorde đã tìm ra. Khi chiếc Tu-144 đi vào chở khách năm 1977 hóa ra nó lại chật chội, lộn xộn và ồn ào không thể chịu nổi, khác hẳn Concorde. Nó chỉ có thể duy trì được tốc độ siêu thanh khi sử dụng động cơ đốt sau, như máy bay phản lực. Thiết kế và phát triển Người Liên Xô đã quảng cáo ý tưởng về Tu-144 trong một bài báo vào tháng 1 năm 1962 trên tờ Technology of the Air Transport (Kỹ thuật Vận tải Hàng không). Bộ không vận đã bắt đầu phát triển Tu-144 ngày 26 tháng 7 năm 1963, sau khi được Hội đồng Bộ trưởng phê chuẩn mười ngày trước đó. Bản vẽ với dự tính chế tạo năm nguyên mẫu có thể bay trong bốn năm. Chiếc máy bay đầu tiên sẵn sàng năm 1966. Được cho rằng được thiết kế để đạt yêu cầu của Aeroflot về một máy bay dân dụng tầm xa loại lớn, chiếc Tu-144 có số phận rủi ro đầu tiên được chế tạo để làm minh chứng cho sự tự hào dân tộc của đất nước Xô viết cũng như để cạnh tranh với Concorde và một phương tiện siêu thanh có thể có của người Mỹ. Mặc dù có bề ngoài giống với Concorde, Tu-144 dù sao vẫn được thiết kế lớn hơn có thể chứa 140 hành khách và bay với tốc độ lên tới Mach 2.35. Thiết kế của nó lấy cảm hứng từ những nghiên cứu trước đó của mẫu máy bay ném bom Tu-125 và Tu-135. Mặc dù những chiếc đó không bao giờ được sản xuất, chúng đã mang lại cho các kỹ sư của Tupolev kinh nghiệm trong việc đánh giá một cách chính xác các tác động khí động học ở tốc độ Mach 2 của các loại hình dạng, giải quyết vấn đề nhiệt, thiết kế lối vào động cơ, và biết đến các vấn đề khác liên quan tới việc bay ở vận tốc lớn, như những tiếng nổ siêu thanh. Bản thiết kế cuối cùng có các đặc điểm có cánh hình cung nhọn được viền nhiều (highly-contoured), giống cánh của Concorde và sử dụng bộ phận cử động được để kiểm soát độ lên xuống (pitch) chứ không dùng cánh ngang ở đuôi kiểu truyền thống. Cũng giống như Concorde, các động cơ được đặt thành cặp gần bộ phận lái ở đuôi dưới mỗi cánh, và thân trước sử dụng một cơ cấu mũi chúc xuống để cải thiện tầm nhìn của phi công khi cất và hạ cánh. Có hai lĩnh vực chính mà Tu-144 bị tụt hậu phía sau Concorde là bộ phận phanh và bộ phận điều khiển động cơ. Concorde là một trong những chiếc phi cơ đầu tiên có sử dụng phanh làm từ sợi cabon có khả năng chịu được nhiệt lượng cao xả ra trong quá trình hãm cho máy bay di chuyển chậm lại khi tiếp đất thì Nga chưa có khả năng bắt chước kiểu thiết kế này. Concorde cũng là chiếc máy bay chở khách đầu tiên có phần kiểm soát hành trình bay hoàn toàn do máy tính điều khiển, hệ thống kiểm soát bay có thể điều chỉnh được hình dạng cánh máy bay nhằm giảm bớt lực cản khi máy bay di chuyển ở tốc độ siêu thanh. Cánh máy bay được điều khiển bằng máy tính cũng có mặt trên Concorde. Dự án phát triển chiếc Tu-144 bị cáo buộc có liên quan đến vụ gián điệp công nghiệp do Liên Xô thực hiện chống lại nhà sản xuất máy bay Concorde là Aérospatiale của Pháp năm 1965, 10 năm trước khi chiếc Tu-144 cất cánh. Một đại diện của hãng Aeroflot tại Paris là Sergei Pavlov đã bị giữ khi ông ta bị phát hiện sở hữu các bản vẽ về hệ thống thắng, bánh đáp cũng như khung máy bay của chiếc Concorde. Sau đó ông ta đã chuyển các bản vẽ này về Nga từ năm 1965. Mặc dù được quảng cáo lần đầu tiên với công chúng vào năm 1965, nhưng đa phần thế giới vẫn không được nhìn kỹ chiếc máy bay mới cho tới tận khi một chiếc Tu-144 xuất hiện ở cuộc Triển lãm hàng không Paris năm 1973. Không may thay, chiếc máy bay này lao xuống đất trước mắt báo chí thế giới và là một tai hoạ lớn cho chương trình của Xô viết. Sau nhiều sửa đổi, gồm cả việc lắp thêm cánh mũi có thể thụt vào để cải thiện tính năng bay tốc độ thấp, thiết kế đường dẫn vào mới, tăng sải cánh, một thân máy bay được kéo dài hơn và bỏ ghế phóng của phi công vốn có ở mẫu đầu tiên, chiếc máy bay đã có vẻ đáng tin cậy. Một thuyết âm mưu kỳ quặc được đưa ra là chiếc Tupolev đã gặp nạn khi tránh va chạm với máy bay Mirage của Pháp khi đó đang tìm cách chụp ảnh nó. Tuy nhiên Giáo sư Ilya Grinberg, cựu chuyên gia hàng không, Giáo sư kỹ thuật của Liên Xô tại Đại học Buffalo State (Mỹ) đã bác bỏ điều này: "Mirage không liên quan gì đến vụ tai nạn đó. Nguyên nhân thực sự, là màn cơ động mạnh mẽ của Tu-144 đã vượt quá giới hạn căng thẳng cho phép" đồng thời “Các phi công đã cố gắng gây ấn tượng với công chúng và truyền thông thế giới, để chứng tỏ rằng máy bay Liên Xô ‘gợi cảm’ hơn so với màn trình diễn ‘bảo thủ’ của Concorde”. Các cảnh quay vụ tai nạn cho thấy chiếc Tupolev lao đi với mũi chúi xuống, được cho là nhằm kích hoạt lại các động cơ sau khi chúng đã bốc cháy. Dưới áp lực quá lớn, đôi cánh máy bay đã vỡ rời ra. Vụ tai nạn năm 1973 làm nổi lên một số vấn đề đang diễn ra với thiết kế máy bay, hãng hàng không của Liên Xô Aeroflot bắt đầu lo lắng về việc đưa nó vào hoạt động. Tupolev đã phải khắc phục vô số vấn đề trước khi máy bay có thể được ký kết để phục vụ. Thậm chí sau đó, các chuyến bay đầu tiên của hãng vào năm 1975 vẫn là những chuyến thử nghiệm chủ yếu mang theo thư thay vì những hành khách từ Moscow đến Kazakhstan. Phải tới năm 1977 chiếc Tu-144 mới bắt đầu chở hành khách. Liên Xô không thể tìm ra một giải pháp tao nhã để giảm thiểu tiếng ồn bên trong cabin hành khách. Các động cơ và các máy điều hòa không khí hút không khí từ các cửa hút động cơ, đều tạo ra tiếng ồn rất lớn. Điều hòa không khí rất quan trọng - cabin sẽ có nguy cơ nóng lên do nhiệt độ tạo ra bởi sự ma sát không khí trên mặt phẳng của vỏ ngoài. Năm 1977 Tupolev đã cố gắng mua một số máy tính mà Concorde sử dụng nhưng người Anh từ chối. Trong vòng đời ngắn ngủi chỉ với 55 chuyến bay, những chiếc Tu-144 đã trải qua hàng trăm sự cố, đa số là ngay trên chuyến bay, từ việc giảm áp, hỏng động cơ dẫn đến báo động ầm ĩ mà không thể tắt. Nhiều câu chuyện đã lan truyền về những rắc rối kỳ quặc với chiếc máy bay, trong đó có việc hành khách phải giao tiếp với nhau bằng chữ viết vì những tiếng ồn điếc tai. Đáng chú ý hơn, là câu chuyện mỗi chuyến bay từ Moskva chỉ có thể khởi hành sau khi chiếc máy bay được trực tiếp kiểm tra bởi đích thân nhà thiết kế Alexei Tupolev ... Aeroflot thậm chí không hề đề cập gì đến chiếc máy bay này trong kế hoạch 5 năm của mình từ năm 1976 đến năm 1982. Nó đã bay chỉ có 102 chuyến bay thương mại, và chỉ có 55 trong số đó đã mang hành khách. So sánh với Concorde, đã bay hơn 25 năm, kéo lên hàng ngàn chuyến bay và trở thành một trong những thiết kế mang tính biểu tượng nhất của thế kỷ 20. Kiểu mẫu duy nhất tiếp tục bay là kiểu Tu-144D được cải tiến, được sử dụng như một testbed nghiên cứu siêu thanh. Một trong những chiếc đó được cải tiến tiếp thành loại Tu-144.LL có tiêu chuẩn và được vận hành hỗn hợp bởi Nga và Mỹ như một phần của chương trình Vận tải hàng không dân dụng tốc độ cao (HSTC) của NASA. Trong những năm 1990, Nasa đã bắt đầu một dự án trị giá hàng tỷ đô la để xây dựng thế hệ tiếp theo của vận tải siêu âm (HSR). Bởi vì Mỹ chưa bao giờ chế tạo một chiếc máy bay siêu âm - kế hoạch của riêng họ trong thế kỷ 20 đã bị hủy bỏ - Nasa cần sự giúp đỡ từ những nơi khác để thực hiện các chuyến bay thử nghiệm nhưng cả British Airways lẫn Air France đều không có máy bay Concorde có thể sử dụng cho các thí nghiệm nên thỏa thuận đã được thực hiện vào năm 1993 để thuê Tu-144. Chiếc máy bay này đã hoàn thành 27 chuyến bay nghiên cứu để tiến hành các cuộc thử nghiệm về các kỹ thuật động cơ siêu thanh, các hệ thống nhiên liệu, quản lý bay tân tiến, kỹ thuật giảm tiếng ồn, và các khái niệm khác nhằm làm cho các chuyến bay siêu thanh trở nên kinh tế và thân thiện hơn với môi trường. Chiếc Tu-144LL duy nhất sau đó được bán cho một nhà sở hữu tư nhân qua mạng eBay với giá 11 triệu đô la Mỹ năm 2001. Các phiên bản Tu-144 Kiểu ban đầu Tu-144S Kiểu sản xuất hàng loạt đầu tiên; khoảng 14 chiếc Tu-144D Kiểu cải tiến, có thể có động cơ hiệu suất nhiên liệu cao hơn, ban đầu được sử dụng để nghiên cứu tốc độ cao. Tu-144LL Kiểu đã được sửa chữa của Tu-144D với động cơ mạnh hơn, thiết bị điện tử tiên tiến và nhiều thiết bị thử nghiệm và được vận hành hỗn hợp bởi Nga và NASA để nghiên cứu tốc độ cao. Các hãng khai thác Aeroflot NASA Tai nạn Năm 1973 tại Paris Tu-144 bị vỡ giữa không trung và rơi xuống ngôi làng Goussainville, giết chết 6 người trên máy bay và 8 người ở mặt đất. Ngày 23/5/1978, một chiếc máy bay đã bốc cháy gần Moskva và phải hạ cánh khẩn cấp, khiến hai kỹ sư chuyến bay thiệt mạng. Đặc điểm kỹ thuật (Tu-144LL với động cơ Kuznetsov NK-321) Có đặc điểm kỹ thuật cho loại Tu-144LL với các động cơ tuốc bin cánh quạt đẩy phiên bản quân sự. Những động cơ này không được xuất khẩu. Đặc điểm chung Phi đội: 3 Sức chở: 120-140 hành khách Chiều dài: 65.50 m (215.54 ft) Sải cánh: 28.80 m (94.48 ft) Chiều cao: 10.50 m (34.42 ft) Diện tích cánh: 438.0 m² (4.715 ft²) Trọng lượng rỗng: 85.000 kg (187.400 lb) Trọng lượng chất tải: Trọng lượng cất cánh tối đa: 180.000 kg (397.000 lb) Dung tích nhiên liệu: 70.000 kg (154.000 lb) Động cơ: 4 động cơ tuốc bin phản lực cánh quạt đẩy Kuznetsov NK-144 có buồng đốt lần hai, 200 kN (44.122 lbf) mỗi chiếc Đặc điểm bay Tốc độ tối đa: Mach 2.35 (2.500 km/h, 1.550 mph) Tốc độ bay tiết kiệm nhiên liệu: Mach 2.16 (2.300 km/h, 1.430 mph) Trần bay: 18.000 m (59.100 ft) Tầm hoạt động: 6.500 km (3.500 nm, 4.000 mi) Tốc độ lên: 9.840 ft/min (3000 m/min) Chất tải cánh: 410.96 kg/m² (84.20 lb/ft²) Lực đẩy/Trọng lượng: 0.44
Thaksin Shinawatra (tiếng Thái: ทักษิณ ชินวัตร, phiên âm: Thặc-xỉn Chin-na-vắt, sinh ngày 26 tháng 7 năm 1949) là một chính khách người Thái Lan, cựu Thủ tướng của Vương quốc Thái Lan và là nhà lãnh đạo Đảng Người Thái yêu người Thái. Thaksin là người đứng đầu tập đoàn Shin kiểm soát công ty cung cấp dịch vụ điện thoại di động lớn nhất Thái Lan Avanced Info Service (AIS). Ông là người giàu nhất Thái Lan trước khi chuyển nhượng quyền sở hữu công ty cho gia đình, người giúp việc và tài xế. Vợ ông, Potjaman Shinawatra, luôn sát cánh bên chồng trên chính trường và trong các hoạt động kinh doanh ở hậu trường. Thaksin Shinawatra có 3 con: Phathongtae Shinawatra, Pinthongtha Shinawatra và Paethongtarn Shinawatra. Ngày 19 tháng 9 năm 2006, Quân đội Hoàng gia Thái Lan đảo chính và lật đổ chính phủ ông trong lúc ông đang tham gia cuộc họp Đại hội đồng Liên Hợp Quốc tại Thành phố New York. Đảng của ông và ông bị cấm hoạt động chính trị. Thaksin từ đó sống lưu vong. Ông bị kết án vắng mặt hai năm tù vì lạm dụng quyền lực. Từ nước ngoài, ông đã tiếp tục dùng ảnh hưởng của mình đến chính trị Thái Lan, thông qua Đảng Nhân quyền và Đảng Pheu Thai cũng như phong trào áo đỏ. Em gái ông là Yingluck Shinawatra đắc cử thủ tướng Thái Lan từ năm 2011 đến năm 2014 thì bị đảo chính. Năm 2009, Thaksin cho biết trong một cuộc phỏng vấn rằng ông đang sống ở Dubai và vẫn có quyền truy cập vào khoảng 100 triệu đô la tiền của mình. Tiểu sử Thaksin Shinawatra sinh ngày 26 tháng 7 năm 1949 tại huyện San Kamphaeng, tỉnh Chiang Mai. Cụ nội của Thaksin, Seng Sae Khu, là một di dân người Hẹ từ Mai Châu, Quảng Đông đến nước Xiêm trong thập niên 1860. Năm 1908, ông đến sống ở Chiang Mai và kết hôn với một phụ nữ Thái tên Sangdi. Cậu con cả, Chiang Sae Khu, sinh năm 1890 tại Chanthaburi, kết hôn với một phụ nữ Thái tên Saeng Somma. Con trai đầu của Chiang, Sak, năm 1938 đổi sang họ Thái, Shinawatra. Khi chế độ Phibun tiến hành chiến dịch chống người Hoa, mọi người trong gia đình đều đổi họ, kể cả Lert Shinawatra, cha của Thaksin, sinh năm 1919 tại Chiang Mai. Lert kết hôn với Yindi Ramingwong. Khi Thaksin chào đời thì gia đình Shinawatra đã là một trong số các gia tộc giàu có và quyền thế nhất Chiang Mai, có mối quan hệ thân cận với hoàng gia, quân đội và giới tinh hoa trong bộ máy hành chính cũng như những gia đình giàu có trong vùng. Sau khi tốt nghiệp Học viện Cảnh sát, năm 1973 Thaksin gia nhập Bộ Cảnh sát Hoàng gia Thái, rồi theo học tại Đại học Eastern Kentucky, Hoa Kỳ, để lấy bằng Thạc sĩ tư pháp tội phạm vào năm 1975. Năm 1978 Thaksin nhận học vị Tiến sĩ tư pháp tội phạm tại Đại học Sam Houston, tiểu bang Texas. Sau khi lên đến vị trí Phó Chủ nhiệm Ban Chính sách và Kế hoạch thuộc Bộ Tổng tham mưu, Văn phòng Cảnh sát Đô thành. Năm 1987 Thaksin ra khỏi ngành để thành lập Tập đoàn Truyền thông và Vi tính. Một trong những thành viên của tập đoàn, công ty Shinawatra Paging, nay trở thành mạng lưới điện thoại di động lớn nhất Thái Lan AIS. Năm 1990, Thaksin tiến hành một giao dịch liều lĩnh nhưng thành công, nhận gói thầu trị giá 20 tỷ baht để được nhượng quyền điều hành vệ tinh Thaicom. Phó Thủ tướng chính phủ Chavalit Vào ngày 15 tháng 8 năm 1997, Thaksin được bổ nhiệm chức Phó thủ tướng trong chính quyền thuộc Chavalit Yongchaiyudh. Sự kiện này xảy ra sau khi Thai Baht bị thả nổi và mất giá vào ngày 2 tháng 7 năm 1997, làm phát ra cơn khủng hoảng tài chính châu Á. Thaksin giữ vị trí này được 3 tháng, rời chức vào ngày 14 tháng 11 sau khi Chavalit từ chức. Trong một cuộc tranh luận chỉ trích thất bại ngày 27 tháng 9 năm 1997, dân biểu Suthep Thaugsuban buộc tội Thaksin kiếm lời từ nguồn tin bên trong nội bộ chính phủ về quyết định thả nổi đồng baht. Tuy nhiên, sự buộc tội này đã không được điều tra trong quá trình điều hành của Đảng Dân chủ hay TRT. Trong suốt năm 1997, công ty AIS, công ty chủ chốt của Thaksin, bị thiệt hại 1.8 tỷ baht sau vụ khủng hoảng và nợ gần gấp đôi sau khi đồng tiền bị mất giá. Tuy nhiên, các nhà chỉ trích vẫn cho rằng sự thua lỗ của thương nghiệp của Thaksin vẫn còn ít hơn nhiều so với sự thiệt thòi của các công ty cạnh tranh. Sự hình thành của Đảng người Thái Yêu người Thái và cuộc bỏ phiếu 2001 Thaksin sáng lập Đảng Thai Rak Thai ("Người Thái yêu Người Thái" - TRT) năm 1998 cùng với Somkid Jatusripitak, PDP liên kết với Sudarat Keyuraphan, Purachai Piumsombun, và 19 người khác. Dựa vào nền tảng theo chủ nghĩa dân kiểm từ Somkid, TRT hứa hẹn sẽ đem lại quyền được chăm sóc sức khỏe cho mọi người trong cộng đồng, hoãn trả nợ 3 năm cho nông dân, và 1 triệu baht phát triển dành cho các làng mạc. Sau khi Thủ tướng Chuan giải tán nghị viện vào tháng 11 năm 2000, TRT thắng đậm trong cuộc bầu cử vào tháng 1 năm 2001, cuộc bầu cử đầu tiên được tổ chức dưới sự kiểm soát của Hiến pháp Nhân dân 1997. Nó được đánh giá là hầu như tự do tham gia bầu cử nhất trong lịch sử của Thái. Lần đầu tiên, chế độ dân chủ của Thái, một đảng duy nhất thắng nắm toàn quyền chủ đạo. Thủ tướng Thái Lan Sau khi nắm giữ chức vụ Thủ tướng, Thaksin Shinawatra đề xướng nhiều chính sách khác nhau ảnh hưởng đến kinh tế, sức khỏe xã hội, giáo dục, năng lượng, thuốc, các mối quan hệ ngoại giao quốc tế. Ông thắng phiếu lớn trong 2 lần tranh cử sau đó. Các chính sách của Thaksin mang lại hiệu quả đặc biệt vào việc giảm nghèo vùng nông thôn, và thiết lập được một nền y tế mà mọi người đều có thể chi trả. Vì những điều trên, có thể nói, ông là thủ tướng dành cho những người nghèo. Tuy nhiên, chính phủ của ông luôn thường xuyên bị thử thách bởi những lý lẽ cho rằng ông lãnh đạo độc đoán, mị dân, tham nhũng, những xung đột về quyền lợi, vi phạm quyền con người, hành xử không khéo léo, sử dụng quyền hành thái quá và có thái độ thù địch với báo chí tự do. Không những bị xem như là một nhà lãnh đạo được lắm kẻ ưa và cũng nhiều người ghét, ông còn là mục tiêu của hàng luận điệu đả kích về phạm thượng với vua, phản quốc, chiếm đoạt tài sản tôn giáo và hoàng gia, bán tài sản cho các nhà đầu tư nước ngoài, báng bổ tôn giáo. Giống Thủ tướng Silvio Berlusconi của nước Ý, Thaksin luôn bị đeo đuổi bởi những xung đột quyền lợi giữa chức vụ thủ tướng và nguồn lợi kết sù trong doanh nghiệp, năm 2001 Thaksin suýt chút nữa bị kết án che giấu tài sản (cùng với lệnh cấm giữ chức vụ công trong 5 năm). Nhiều người tin rằng các thẩm phán đã nhận hối lộ để tha bổng Thaksin và các cuộc điều tra vẫn chưa khép lại. Biện minh cho mình, Thaksin nhấn mạnh rằng việc che giấu tài sản chỉ là một sai lầm không cố ý. Trọng tâm của các chính sách được ban hành bởi chính phủ Thaksin là nhằm thu hút cảm tình của quảng đại quần chúng, chi tiêu những số tiền lớn cho các trợ giúp như những khoản tiền vay lãi suất thấp dành cho nông dân cùng những khoản phụ cấp y tế. Những người ủng hộ ông cho rằng chính sách kinh tế này, được gọi là nền kinh tế Thaksin (Thaksinomics), giúp phục hồi kinh tế Thái Lan sau cuộc Khủng hoảng Tài chính Á châu năm 1997. Song, những người chỉ trích cáo buộc rằng Thaksinomics chẳng khác gì đối sách của nhà kinh tế học John Maynard Keynes chủ trương bơm tiền vào để giải quyết khủng hoảng, nhưng được gán cho nhãn hiệu mới để được gọi là cách mạng. Năm 2003, Thaksin tiến hành chiến dịch chống các tay buôn ma tuý với biện pháp hành quyết bên ngoài luật pháp với số nghi can bị thiệt mạng lên đến vài trăm người, đã bị chỉ trích dữ dội bởi các tổ chức bảo vệ nhân quyền. Cũng có những lời than phiền cho rằng Thaksin thường cài người thân hoặc đối tác kinh doanh của mình vào cơ cấu chính quyền, điển hình như đem một người anh em họ, tướng Chaiyasit Shinawatra, từ một huyện xa xôi vào vị trí Tổng tư lệnh Lục quân. Mặc dù có những báo cáo về tình trạng tham nhũng phổ biến trong chính phủ, Thaksin vẫn giành được chiến thắng vang dội khi tái tranh cử trong cuộc bầu cử tổ chức vào tháng 1 năm 2005; đảng Thai Rak Thai chiếm 374 trong tổng số 500 ghế tại Quốc hội, trong khi đảng đối lập chính, Đảng Dân chủ, mất hơn một phần tư số đại biểu, chỉ còn 96 ghế. Phần lớn số ghế mà đảng của Thaksin giành được là từ các khu vực phía Bắc và Đông Bắc, nơi chiến dịch tranh cử của ông nhắm tranh thủ tình cảm dân nghèo đã hoạt động hiệu quả. Cung cách của Thaksin khi xuất hiện trên các chương trình truyền hình quốc gia sau Thảm họa Sóng thần Ấn Độ Dương đã gây ấn tượng mạnh trên giới trung lưu ở Bangkok với thái độ chính trị lâu nay vẫn được xem là khó lường khi đảng Thai Rak Thai giành chiến thắng ở 32 trong số 37 đơn vị bầu cử, mặc dù mãi đến tháng 11 năm 2005, các cáo buộc về gian lận trong bầu cử ở 3 trong số các quận này vẫn chưa được điều tra. Đảng TRT cũng hoạt động tốt tại các tỉnh miền Trung, thành lũy lâu đời của Đảng Chart Thai. Dù vậy, ở các tỉnh biên giới phía Nam, nơi các cuộc nổi dậy đòi ly khai đang hoạt động mạnh, đảng của Thaksin chỉ giành được một ghế. Cuối năm 2005, Thaksin đâm đơn kiện về tội phỉ báng chống lại Sondhi Limthongkul, nhà báo và chủ nhân của một trong ba nhật báo lớn nhất Thái Lan, cũng là người kiên trì chỉ trích thủ tướng. Vụ kiện được rút lại sau khi Nhà vua Bhumibol Adulyadej, trong bài diễn văn sinh nhật, ngụ ý chống lại vụ kiện. Trước những chỉ trích ngày càng gia tăng từ giới truyền thông, tháng 11 năm 2005 Thaksin quyết định huỷ bỏ các buổi họp báo hằng tuần cho đến cuối năm, cho rằng sao Thủy không hợp với sao chiếu mệnh của ông, và như thế sẽ gây tai họa cho ông. Về sau một phát ngôn viên chính phủ giải thích rằng có quyết định này là do thủ tướng quá bận rộn và thủ tướng muốn các thành viên nội các có cơ hội giải đáp các câu hỏi đặc biệt chứ không phải do các nguyên nhân về môn chiêm tinh. Giao dịch 1,88 tỉ Mỹ kim của tập đoàn Shin Thứ hai ngày 23 tháng 1 năm 2006, ba ngày sau khi đạo luật Viễn thông được thông qua, gia đình của Thaksin bán toàn bộ phần hùn trong tập đoàn Shin (Shin Corporation), công ty truyền thông hàng đầu tại Thái Lan, cho Temasek Holdings, tập đoàn tài chính của Singapore, mà không phải chịu thuế. Gia đình Shinawatra và gia đình Damapong (nhũ danh của Potjaman, phu nhân thủ tướng) thu được mẻ lưới trị giá 73 tỉ baht (khoảng 1,88 tỉ USD) mà không phải chịu thuế nhờ vận dụng những quy định cho phép cá nhân (không phải công ty) bán cổ phần trên thị trường chứng khoán mà không phải chịu thuế thu nhập. Biểu tình chống Thaksin Thủ tướng đang đối diện với áp lực ngày càng gia tăng đòi ông phải từ chức, khởi phát từ vụ giao dịch của gia đình ông bán toàn bộ số cổ phần giúp ông nắm quyền kiểm soát tập đoàn Shin cho tập đoàn Temasek Holdings của Singapore. Những người chỉ trích cáo buộc Thaksin, cùng với một số vụ việc bất thường khác, đã dàn xếp trong nội bộ và dựng nên vụ giao dịch nhằm mục đích tránh khỏi phải nộp một khoản thuế khổng lồ. Ngày 11 tháng 2, có khoảng 50.000 người phản đối tụ tập tại Quảng trường Hoàng gia, tố cáo Thaksin tham nhũng và lạm dụng quyền lực. Đây là cuộc biểu tình lớn thứ hai chống Thaksin. Cuộc biểu tình lần đầu xảy ra ngày 4 tháng 2 qui tụ khoảng 100.000 người. Ngày 5 tháng 3 năm 2006, trong khi Thaksin đang vận động tranh cử tại những vùng nông thôn, hàng chục ngàn người phản kháng tụ tập tại Bangkok, hô to "Thaksin cút đi", đòi thủ tướng từ chức. Cuộc biểu tình được xem là lớn nhất kể từ năm 1992. Vận động luận tội thủ tướng Tháng 2 năm 2006, 28 thượng nghị sĩ đệ đơn lên Toà án Hiến pháp yêu cầu ngưng chức thủ tướng với lý do có xung đột quyền lợi và những hành xử bất xứng trong giao dịch tài chính nhằm bán cổ phần thuộc tập đoàn Shin, chiếu theo điều 96, 216 và 209 của Hiến pháp Thái Lan. Những thượng nghị sĩ này cho rằng, chiếu theo điều 209, thủ tướng đã vi phạm hiến pháp và không còn thích hợp cho chức vụ, nhưng toà án đã bác đơn vào ngày 16 tháng 2. Điều 209, Bộ trưởng không được có phần hùn hoặc cổ phần trong một công ty hoặc duy trì phần hùn hoặc cổ phần có sẵn trong một công ty đến mức giới hạn theo luật định. Trong trường hợp một bộ trưởng muốn tiếp tục nhận tiền lãi từ chúng, người ấy phải thông báo cho Chủ tịch Ủy ban Chống tham nhũng trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày được bổ nhiệm và phải chuyển phần hùn hoặc cổ phần ấy cho nhân viên pháp lý để người này quản lý số tài sản ấy vì quyền lợi của thân chủ theo luật định. -- Bộ trưởng không được có bất kỳ hành động nào nhằm tham gia quản lý số cổ phần cũng như các công việc khác trong công ty. Một nỗ lực khác đang được tiến hành bởi mạng lưới sinh viên đại học Thái dưới sự hướng dẫn của sinh viên Đại học Thammasat. Họ cho lưu hành một kiến nghị nhằm tiến tới việc luận tội thủ tướng tại Thượng nghị viện. Đến ngày 27 tháng 2 năm 2006, đã có hơn 50.000 chữ ký cho bản kiến nghị, con số tối thiểu theo quy định của Hiến pháp để lập thủ tục luận tội. Từ chức, nắm quyền, và bị đảo chính Thaksin tuyên bố Giải tán Quốc hội vào ngày 24/2/2006, nhằm chấm dứt tình trạng chính trị căng thẳng. Một cuộc bỏ phiếu rộng rãi được đề ra vào 2/4/2006. Sau khi quyết định của Thaksin được công bố trên Đài tiếng nói hàng tuần (thuộc sở hữu của Thaksin), ông đã hứa một loạt những cải cách trong nội các, đồng thời nâng lương cho các viên chức chính phủ, nâng mức lương trung bình hàng tuần và giảm nhẹ nợ cho nông dân. Trong khi đảng Dân chủ, Đảng Hải đồ Thái(Chart Thai) và Mahachon công bố tẩy chay kết quả bỏ phiếu hôm 27/2/2006 Ngày 24 tháng 3 năm 2006, trước sự tập hợp của hơn 50.000 chữ ký, chỉ huy đảng Dân chủ Abhisit Vejjajiva đã hỏi ý kiến vua chỉ đạo một người thay thế Thủ tướng. Khối Liên Minh Nhân dân vì nền Dân chủ (PAD), Luật Xã hội Thái, và Hội đồng các Doanh nghiệp Thái cũng kêu gọi sự can thiệp từ hoàng gia. Đảng TRT của Thaksin giành thắng lợi trong cuộc bỏ phiếu bị tẩy chay, với 462 ghế trong nghị viện, với tỉ lệ 16-10 số người bỏ phiếu và người không bỏ phiếu. Vào ngày 3/4/2006, Thaksin Shinawatra xuất hiện trên truyền hình để tuyên bố thắng lợi cho cuộc bầu cử 2006, đề xuất một chính phủ dân chủ thống nhất, và đưa ra sáng lập cho một hội đồng hòa giải hoạt động độc lập để quyết định xem ông có nên giữ chứ Thủ tướng nữa hay không. Đảng Dân chủ và PAD lập tức từ chối giải pháp hòa giải. Chamlong Srimuang cho rằng: "Đã quá muộn để đi đến công cuộc hòa giải". Sau cuộc hội kiến với Vua Bhumipol, Thaksin tuyên bố vào ngày 4/4/2006 rằng ông ta sẽ không chấp thuận thủ tướng thay thế sau khi nghị viện triệu tập lại, và sẽ tiếp tục lãnh đạo chỉ với cương vị Quyền Thủ tướng tạm thời. Ông tuyên bố trong một lần phát biểu trên kênh truyền hình quốc gia: "Lý do chính mà tôi không chấp nhận thủ tướng thay thế vì rằng năm nay là một năm đầy triển vọng đối với đức vua, kỷ niệm lên ngôi 60 năm vừa hãy còn mới cách đây 60 ngày... Tôi mong rằng tất cả dân Thái sẽ hợp nhất lại" Sau đó, ông ủy thác trách nhiệm lại cho Phó Thủ tướng Tạm thời Chidchai Wannasathit, rời bỏ nhà Quốc hội và đi nghỉ mát một thời gian. Tuyên bố của Thaksin đã khiêu khích những phản ứng khác nhau. Một cuộc thăm dò Bangkok sau 3 tuần tuyên bố của Thaksin cho thấy những chính sách của TRT vẫn chiếm áp đảo Bangkok, với 54% hưởng ứng TRT so với 8% của Đảng Dân chủ. Dù vậy, một cuộc thăm dò khác vào những ngày cuối tháng 5 lại cho thấy chỉ có 43% người dân Bangkok mong Thaksin trở lại như lúc ban đầu, 57% quả quyết rằng Thakisn không nên tiếp tục làm thủ tướng. Nhưng bản thăm dò ở 20 tỉnh thành khác, 55% người dân mong sự trở về của Thaksin và 45% ý kiến trái ngược. Tuy vậy, bầu cử mới cần thiết cho hơn 40 TRT ứng cử viên (hầu hết từ những người thuộc đảng Dân chủ miền nam), những người không có được 20% số phiếu bầu. Đảng Dân chủ từ chối thừa nhận cuộc bỏ phiếu và cùng với Hội đồng Nhân dân vì Dân chủ, yêu cầu Tòa án Chính phủ Trung ương bãi bỏ chúng. Chamlong Srimuang tuyên bố PAD phải phớt lờ cuộc bỏ phiếu và tiếp tục tập hợp nhân dân cho đến khi Thaksin từ chức và Thai có được sự chấp thuận từ hoàng gia trong việc chỉ định thủ tướng mới. Ngày 26 tháng 4 năm 2006, Đức Vua đã giải tán quan điểm trên, Người cho rằng hành động như vậy không phù hợp với hiến pháp: "Xin phép hoàng gia chỉ đạo thủ tướng là một hành động không dân chủ. Nói một cách khác: có nghĩa là phi lý" Thaksin bị chỉ trích khắp nơi vì kêu gọi bỏ phiếu mướn. Trong một bài báo, The Nation miêu tả rằng cuộc bỏ phiếu đã "phạm phải những sai lầm khi quá chú trọng vào khái niệm sai lầm chính (của tư tưởng dân chủ, đặc biệt khi áp dụng vào nền dân chủ kém dân chủ của chúng ta, nơi mà thiếu kém, nghèo nàn về thông tin mà số đông quần chúng dễ dàng bị chi phối bởi những người thuộc phe cánh của Thaksin khi mà sự lôi kéo vận động của Thaksin đã được chuẩn bị đầy đủ. Cuộc bỏ phiếu bị tẩy chay trong số 40 cử tri vào ngày 25/4 cho thấy TRT thu được 25 số phiếu và mất 2 số phiếu. Một cuộc bỏ phiếu lại vào 29/4 dành cho 13 cử tri còn lại. Những cuộc bỏ phiếu được đình chỉ tạm thời bởi Tòa Kiểm Phiếu một cách thận trọng có nên hay không duy trì sự bỏ phiếu không đạt chất lượng. Vào ngày 8/5/2006, Tòa kiểm Phiếu đưa ra có 8-6 số phiếu không hợp lệ trong cuộc bỏ phiếu vào tháng 4 và ra quyết định một cuộc bỏ phiếu mới phải được tiến hành. Tòa án không thành công trong việc gây áp lực khiến cho các nhân viên hội đồng kiểm phiếu từ chức. Đảng Dân chủ, đã từng tuyên bố tẩy chay cuộc bỏ phiếu vào tháng 4, nay tỏ thái độ sẽ sẵn sàng cho cuộc bầu cử mới. Ngày 19 tháng 9 năm 2006, trong lúc ông đang tham dự cuộc họp của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc tại Thành phố New York, một số chỉ huy trong Quân đội Hoàng gia đã đưa xe tăng bao vây tòa nhà chính phủ tại Bangkok. Chính phủ ông đã bị lật đổ, và theo tướng Sonthi Boonyaratglin, người lãnh đạo cuộc đảo chính này, Phó thủ tướng Chitchai Wannasathit và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Thammarak Isaragura na Ayuthaya đã bị bắt giữ. Sau khi bị lật đổ, Thaksin sang Anh Quốc với con gái. Tại đây ông mua câu lạc bộ bóng đá Manchester City với giá 82 triệu bảng Anh và thuyết phục cựu huấn luyện viên trưởng đội tuyển bóng đá quốc gia Anh Sven Goran Eriksson làm HLV trưởng cho câu lạc bộ này . Trong khi đó tại Thái Lan, chính quyền quân sự đã tiến hành điều tra và Tòa án Tối cao ra lệnh bắt rồi truy nã Thaksin. Trở về Ngày 28 tháng 2 năm 2008, sau 17 tháng lưu vong, Thaksin quay trở lại Thái Lan và ngay lập tức bị bắt giữ tại sân bay Suvarnabhumi. Tuy vậy, hàng ngàn người ủng hộ đã chào đón ông tại sân bay. Sau khi nộp tiền bảo lãnh, ông được thả và tiến hành họp báo. Án tù Ngày 21 tháng 10 năm 2008, Toà án Tối cao Thái Lan đã tuyên án ông Thaksin tù chung thân vì lạm dụng quyền lực để giúp vợ mình là bà Potjaman mua một mảnh đất ở khu vực Ratchadapisek của Bangkok với giá rẻ hơn rất nhiều so với giá thị trường . Vợ ông, cũng là một bị cáo trong vụ án này, được tuyên trắng án. Giới truyền thông Thái Lan đã gọi đây là phán quyết lịch sử bởi nó là án tù đầu tiên dành cho một vị thủ tướng. Theo vụ án này, hồi năm 2003, khi mới lên làm thủ tướng được 2 năm, ông Thaksin đã sử dụng ảnh hưởng của mình để giúp vợ mua mảnh đất ở Ratchadapisek với giá 772 triệu baht, một cái giá được cho là rẻ gấp 3 lần giá thị trường lúc đó. Sau khi cuộc đảo chính ngày 19 tháng 9 năm 2006, lực lượng đảo chính đã lập nên Ủy ban Kiểm tra Tài sản (ASC) để điều tra các cáo buộc chính quyền Thaksin tham nhũng và lạm quyền. ASC đã lôi nhiều vụ liên quan đến ông Thaksin ra, mà trong đó có vụ mua đất ở Ratchadapisek. Ông Thaksin đã không có mặt ở toà để nghe tuyên án vì ông đang sống lưu vong cùng vợ ở London. Các công tố viên Thái Lan đã bắt đầu tiến hành các thủ tục cần thiết để dẫn độ ông Thaksin về nước. Ngày 30/8/2019, Tòa án tối cao Thái Lan đã tuyên trắng án cho cựu thủ tướng Thái Lan Thaksin Shinawatra sau nhiều năm bị cáo buộc đứng sau vụ bê bối thao túng tại ngân hàng Krungthai năm 2003. Chuyện bên lề Tháng 1 năm 2006, Thaksin xuất hiện trong một chương trình truyền hình người thật việc thật Back Stage Show: The Prime Minister ("Hậu cảnh: Thủ tướng") tường thuật những hoạt động của ông trong nỗ lực xoá đói giảm nghèo tại Amphoe At Samat, tỉnh Roi Et. Mặc cho các học giả và nhiều người khác phê phán rằng chương trình này chẳng gì khác hơn là một nỗ lực tiếp thị nhằm đánh bóng hình ảnh của thủ tướng, Thaksin tuyên bố rằng chương trình là một hình mẫu để các viên chức chính phủ học tập. Biểu dương sức mạnh Thaksin chứng tỏ là ông vẫn còn có sự ủng hộ mạnh mẽ của quần chúng và biểu dương sức mạnh của mình khi đang phải lưu vong ngoại quốc, tạo rắc rối cho liên minh cầm quyền, theo một bài báo đăng trên trang nhà "The Malaysian Insider" ngày 28/8, 2009. Kế hoạch vận động hàng ngàn người ủng hộ nhà tỉ phú lưu vong để họ kéo đến tham dự cuộc biểu tình diễn ra vào ngày 30/8/2009 là một nhắc nhở về sự thất bại của Thủ tướng Abhisit Vejjajiva trong việc vượt qua được sự chia rẽ chính trị trầm trọng ở Thái Lan, và tạo khả năng sẽ có thêm tình trạng bất ổn sau các cuộc biểu tình bạo động chống chính phủ vào tháng 4/2009. Qua việc đàn áp cuộc biểu tình vào tháng 4/2009, quân đội Thái Lan coi như đã phá vỡ giấc mơ phục hồi chính trị của Thaksin. Tuy có sự hậu thuẫn của giới hoàng tộc, quân đội và thành phần doanh gia giàu có; Thủ tướng Abhisit Vejjajiva vẫn chưa thu phục được giới dân nghèo, bất mãn vì bị gạt ra bên ngoài đời sống chính trị ở Thái Lan, không được hưởng lợi lộc từ các thành quả kinh tế của Thái Lan trong thời gian qua và bị giới thượng lưu ở Bangkok khinh rẻ. "Thaksin vẫn còn được người dân yêu mến. Ông ta đang tạo sự rạn nứt trong liên minh cầm quyền một cách rất hiệu quả," theo Stephen Vickers, giám đốc điều hành FTI International Risk Inc., chuyên cố vấn khách hàng đầu tư vào Thái Lan. Các cơ quan an ninh Thái Lan khuyến cáo Abhisit bố trí khoảng 5.000 binh sĩ ngày 30/8 và cấm người biểu tình không được tụ tập trước văn phòng của ông. Theo các phân tích gia chính trị, chính phủ Thái Lan lo ngại sẽ tái diễn tình trạng bao vây kéo dài nhiều tuần như đã xảy ra tại văn phòng thủ tướng vào tháng 4/2009, đưa tới cuộc bạo động trên đường phố trầm trọng nhất tại Thái Lan từ 17 năm qua. Dân Thái biểu tình ủng hộ Thaksin, 2009 Thành phần chống chính phủ Thái Lan tổ chức biểu tình ngày 19/9/2009, để kỷ niệm ngày quân đội đảo chính lật đổ chính phủ của Thaksin trong lúc một nhóm chính trị khác tuần hành đòi chính phủ phải chiếm đóng một ngôi đền cổ ở biên giới với Cambodia. Có 17 người bị thương, không ai trầm trọng, tại tỉnh Sisaket ở phía Đông Bắc sau khi thành viên Liên minh Dân chủ Nhân dân (:en:People's Alliance for Democracy - PAD), gồm thành phần bảo hoàng, cảnh sát, quân đội và giới trung lưu ở Bangkok, tuần hành đến cổng ngôi chùa gần khu vực đang có tranh chấp giữa Thái Lan và Cambodia, đòi hỏi chính phủ Thái phải chiếm lấy nơi này. Những người tổ chức biểu tình ở thủ đô Bangkok dưới sự canh chừng nghiêm ngặt của hơn 6.000 cảnh sát viên để ngăn ngừa xảy ra tình trạng bạo động như từng thấy vào tháng 4/2009 làm hai người chết và hàng trăm người khác bị thương. Hơn 20.000 người tới tham dự cuộc biểu tình ngày 19/9/2009 để đòi Thủ tướng Abhisit Vejjajiva phải từ chức, nói rằng ông lên nắm quyền nhờ những hành động không chính thống, với sự hỗ trợ của quân đội và tòa án, hai cột trụ của giai cấp cầm quyền hiện nay. Hàng trăm dân làng Thái Lan, chống lại cuộc biểu tình của Liên minh Dân chủ Nhân dân, kéo ra ngăn cản và hai bên đụng độ bằng gậy gộc, giáo mác, ná thung. Cảnh sát được lệnh không dùng biện pháp mạnh nên chỉ mang theo khiên che, do đó bất lực trong việc ngăn cản hai bên. Phía lực lượng Liên minh Dân chủ Nhân dân sau đó rút lui khi trời bắt đầu tối. Trở về lần 2 Cựu thủ tướng Thái Lan Thaksin Shinawatra về đến sân bay ở Bangkok sau 15 năm lưu vong, được đại gia đình và nhiều người ủng hộ chào đón. Chiếc máy bay tư nhân chở ông Thaksin hạ cánh lúc 9h hôm nay tại sân bay Don Mueang. Ba người con của cựu thủ tướng cùng các cháu đến đón ông. Khi bước ra khỏi cửa sân bay, ông chắp tay và vẫy chào người ủng hộ. Hàng trăm người ủng hộ mặc áo đỏ giơ biểu ngữ, ca hát và hô vang tên ông. Ông Thaksin quỳ xuống, cúi đầu bày tỏ lòng kính trọng trước ảnh Vua Maha Vajiralongkorn. Ông sau đó tiến đến gần nhóm người ủng hộ, bắt tay và cảm ơn họ trước khi bị quan chức đưa đi. Theo Channel News Asia, cựu Thủ tướng Thái Lan Thaksin Shinawatra đến Tòa án Tối cao. Ở đó, ông phải chịu án tù 8 năm nhưng sau đó được nhà vua âm xá giảm xuống 1 năm, liên quan tới 3 tội danh. Với tình hình sức khỏe không tốt, cựu Thủ tướng đang cân nhắc tiếp tục nộp đơn xin được trả tự do trước thời hạn. Theo báo Bangkok Post, ông Thanaporn Sriyakul - giám đốc Viện Chính trị và Phân tích chính sách Thái Lan - nhận định cựu thủ tướng Thaksin Shinawatra trở về Thái Lan vào ngày 22-8 sau gần 17 năm sống lưu vong bởi ông cảm thấy tự tin Đảng Pheu Thai (Vì nước Thái) sẽ thành công trong việc thành lập chính phủ. Đọc thêm Thái Lan Bhumibol Adulyadej Chú thích
Stefan Zweig (28 tháng 11 năm 1881 - 22 tháng 2 năm 1942) là một nhà văn, nhà báo, nhà viết kịch và nhà viết tiểu sử người Áo nổi tiếng trên thế giới. Zweig sinh ra ở Viên (Áo). Cha ông là Moritz Zweig (1845–1926), nhà sản xuất dệt may giàu có người Do Thái; mẹ là Ida Brettauer (1854–1938), con gái một chủ ngân hàng người Do Thái. Ông là bà con của nhà văn Tiệp Khắc Egon Hostovský, người này mô tả Zweig là "một họ hàng xa"; có thuyết nói hai người là anh em họ. Không tìm thấy động lực rõ ràng, ông bỏ học sớm. Việc học của ông chỉ bắt đầu khi ông đi qua nhiều nước ở châu Âu và kết giao với nhiều nhân vật quan trọng vào thời đại của ông. Ông có nhiều chuyến đi đến Ấn Độ, châu Phi, Bắc và Trung Mỹ, cũng như Nga. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, vì lý do sức khỏe yếu, ông không phải ra mặt trận mà được làm thủ thư, phụ trách quản lý tư liệu chiến tranh. Nhưng chỉ đến khi sống một thời gian ngắn gần trận tuyến, ông mới nhận ra sự điên rồ của chiến tranh, và từ đó trở thành người cổ vũ mạnh mẽ cho hoà bình. Là một nhà văn có sức làm việc mạnh, ông đã viết nhiều tập tiểu sử (như quyển Ba bậc thầy bàn về Honoré de Balzac, Charles Dickens và Fyodor Dostoyevsky, xuất bản năm 1920), thêm truyện dài và truyện ngắn. Ông được ca ngợi là có óc phân tích tâm lý độc đáo, và có tài chắt lọc bỏ ra những tiểu tiết khiến cho những tập tiểu sử của ông đọc hấp dẫn như tiểu thuyết. Đến thập niên 1930, ông là một tác giả có tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất. Năm 1934, Adolf Hitler lên nắm quyền tại Đức, Zweig rời Áo sang Anh, ban đầu sống ở Luân Đôn, đến năm 1939 chuyển đến Bath. Năm 1939 Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đức Quốc xã nhanh chóng chinh phục Tây Âu, Zweig và người vợ thứ 2 phải vượt Đại Tây Dương sang Hoa Kỳ, định cư tại Thành phố New York năm 1940. Hai người có 2 tháng làm khách của Đại học Yale ở New Haven, Connecticut, về sau thuê 1 căn nhà tại Ossining, New York. Ngày 22 tháng 8 năm 1940, Zweig và vợ di cư tới Brasil, định cư ở Petrópolis, một thị trấn miền núi có đông đảo người Đức sinh sống, cách Rio de Janeiro 68 km về hướng bắc. Tháng 2 năm 1942, trong thời gian lễ hội ở Rio de Janeiro (Brasil), vì tâm trạng cô đơn và mệt mỏi, Stefan Zweig và vợ Lotte cùng nhau tự tử. Năm 1948, truyện Bức thư của người đàn bà không quen biết đã được dựng thành phim có tựa Letter from an unknown woman, với Joan Fontaine thủ vai cô gái nhân vật chính, Howard Koch viết kịch bản và John Houseman là nhà sản xuất. Howard Koch cũng đã viết kịch bản cho phim Casablanca (1942), và John Houseman là nhà đồng sản xuất của phim "Công dân Kane" (Citizen Kane) (1941) – cả hai phim này được xếp vào nhóm 10 phim hay nhất mọi thời đại. Phim Letter from an unknown woman lấy bối cảnh là thành phố Wien vào khoảng năm 1900. Phim làm rơi lệ nhiều khán giả này nằm trong nhóm 100 phim hay nhất mọi thời đại, được Thư viện Quốc hội Mỹ xếp hạng "có ý nghĩa về mặt văn hóa," và được tuyển chọn để lưu trữ tại Cơ quan Lưu trữ Phim ảnh Quốc gia của Hoa Kỳ. Gần đây (2005), một phim khác được thực hiện ở Trung Quốc cũng dựa trên truyện này. Năm 1968, một truyện khác được chuyển thể thành phim "24 giờ làm phụ nữ" (24 hours in a woman's life), với nữ diễn viên chính là Ingrid Bergman, cũng khá thành công. Năm 2014, Bộ phim Khách sạn Đế vương, xây dựng dựa trên cảm hứng từ các công trình ghi chép của ông với nội dung tôn vinh những "tia sáng mong manh của nền văn minh sót lại trong chốn man rợ vốn từng được biết đến là nhân đạo", ra mắt trong sự ca ngợi của các nhà phê bình phim. Bộ phim dẫn đầu danh sách đề cử giải BAFTA với 11 đề cử, nhiều hơn bất kỳ bộ phim nào khác. Nó cũng giành được Giải Quả cầu vàng cho phim ca nhạc hoặc phim hài hay nhất và chín đề cử giải Oscar, bao gồm cả giải Phim hay nhất và Đạo diễn xuất sắc nhất. Bộ phim sau đó đã giành được 4 giải Oscar cho Thiết kế sản xuất xuất sắc nhất, Nhạc phim hay nhất, Thiết kế trang phục và Hóa Trang. Chú thích
Trương Chi, hay Trương Chi và Mị Nương là tên một nhân vật hoặc nói đến cả một câu chuyện cùng tên trong kho tàng truyện cổ tích ở Việt Nam. Tương truyền, ngày xưa có chàng Trương Chi là một ngư dân mang giọng hát rất hay, đem lòng yêu say đắm nàng Mị Nương, con gái quan tể tướng. Thế nhưng chàng ta dung mạo xấu xí, và đó cũng là nguyên nhân khiến tình yêu của Trương Chi thành bi kịch. Đây được xem là một trong những truyện cổ dân gian nổi tiếng nhất kho tàng Việt Nam, là nguồn cảm hứng cho rất nhiều lĩnh vực ca nhạc, sân khấu, kịch và phim, đa số đều theo hướng phê phán hiện thực xã hội và rất nổi tiếng ở vùng Kinh Bắc. Xuất xứ Không rõ xuất xứ cổ nhất của câu chuyện này. Tương truyền nó có từ trong một tập thơ bằng chữ Nôm đầu thế kỉ 18 hoặc thế kỉ 19. Câu chuyện này rất phổ biến ở vùng Kinh Bắc, theo nhà thơ Nguyễn Khôi (Khôi Đình Bảng) nói rằng câu chuyện này gắn liền với sông Tiêu Tương ở quê nhà Quan Họ, Bắc Ninh. Còn trong các bài ca Quan họ có câu: Ngày xưa có anh Trương ChiNgười thì thậm xấu, hát thì thậm hay Cô Mị nương vốn ở lầu tâyCon quan Thừa tướng ngày rày cấm cung Trương Chi có chiếc thuyền chàiChào thuyền ngang dọc hôm mai dãi dầu Trương Chi mới hát một câuGió đưa phảng phất tới lầu Mị Nương Mị Nương nghe hát thì thươngNhưng trông thấy mặt anh chường lại chê Trương Chi buồn bã ra vềCắm sào giữa bến hát thề một câu Kiếp này đã dở dang nhauCó sang kiếp khác lấy nhau cũng không thành. Cũng theo lời Khôi Đình Bảng, Lầu Tây chính là đồi Hồng Vân (hay đồi Lim), là nơi trai gái các làng ra tháng giêng thường đến hẹn lại lên về đây thi hát Quan Họ (còn gọi hội Lim) để tưởng nhớ mối tình "Trương Chi - Mỵ Nương" và để kết bạn tình. Tương truyền trai gái Quan Họ chỉ được yêu nhau chứ không được lấy nhau, có lẽ là vì theo họ kết hôn là mồ chôn luyến ái, tình chỉ đẹp khi còn dang dở. Câu chuyện Ngày xưa, có nàng Mị Nương là một cô gái xinh đẹp tuyệt trần, con của một vị quan đại thần. Nàng sống mà như con chim bị giam lỏng bởi chiếc lồng khổng lồ, chính là nhà quan phủ nên lúc nào cũng buồn bã. Cha nàng thấy vậy liền cất cho nàng một ngôi nhà nhỏ ở bên con sông cạnh nhà để nàng ra đó thư giãn. Nàng vẫn thường ra căn nhà đó thêu thùa, đọc sách và say đắm một tiếng sáo trên dòng sông. Tiếng sáo ấy là của Trương Chi, một anh thanh niên ở làng chài ven sông, thổi sáo hay nhưng tướng mạo vô cùng xấu xí. Bỗng có một thời gian tiếng sáo không còn xuất hiện và Mị Nương do quá thương nhớ tiếng sáo mà sinh bệnh. Đã rất nhiều vị đại phu được cha nàng mời đến mà vẫn không tìm ra nguyên nhân căn bệnh. Một hôm, vô tình cha nàng biết được tiếng sáo của anh thanh niên tên Trương Chi chính là nguyên nhân của căn bệnh của con gái. Ông liền mời chàng đến để chữa bệnh cho Mị Nương. Nhưng khi chàng đến phủ, ông thấy chàng xấu xí thì lệnh chỉ được thổi sáo từ ngoài sân vọng vào chứ không được ra mắt Mị Nương để tránh cho nàng phải thất vọng. Mị Nương nghe thấy tiếng sáo quen thuộc thì hồi phục nhanh chóng. Rồi nàng khỏi bệnh và xin cha cho mời người sáo ngoài sân vào để nàng cảm ơn. Bất đắc dĩ, cha nàng đành cho gọi chàng Trương Chi vào. Vừa thấy Trương Chi, Mị Nương đã vô cùng thất vọng vì dung mạo của chàng vô cùng xấu xí. Nàng tỏ ý lạnh nhạt, bảo Trương Chi đi ra, và không còn mê tiếng sáo của chàng như trước kia nữa. Trương Chi kể từ khi về nhà đã thầm yêu Mỵ Nương. Một hôm chàng tìm đến nhà của Mị Nương và thổ lộ nỗi lòng mình với nàng. Nhưng nàng từ chối. Trương Chi thất vọng và đau buồn cho thân phận nghèo hèn của mình, không thiết làm ăn gì nữa, mang bệnh tương tư, biếng ăn, mất ngủ, sầu héo dần mà chết. Những người bạn cùng làng chài vớt xác chàng và đem chôn. Đến khi bốc mộ mọi người thấy một khối cầu, to bằng quả cam, trong suốt như pha lê bèn đem gắn vào mạn chiếc thuyền cũ của chàng. Một lần tình cờ, cha Mị Nương đi ra bến sông, thấy có một viên hình cầu đẹp và sáng như ngọc ở mạn một chiến thuyền câu liền mua về rồi sai thợ ngọc làm thành chiếc chén uống trà. Nghe nói cha vừa đặt làm chiếc chén mới rất đẹp Mị Nương đòi cha cho dùng thử. Nhưng vừa rót trà vào, nàng thấy trong chén trà hiện lên hình bóng Trương Chi, tức thì tiếng sáo năm xưa hiện lên như than như trách. Mị Nương chạnh lòng nhớ lại mối tình đã qua. Một giọt nước mắt của nàng rơi xuống chén và chiếc chén tan ra thành nước. Văn hóa Hình ảnh Trương Chi và mối tình tuyệt vọng đã được khá nhiều nhà văn, nhạc sĩ phản ánh vào tác phẩm của mình: "Trương Chi": ca khúc nổi tiếng của nhạc sĩ Văn Cao. "Khối tình Trương Chi": ca khúc của nhạc sĩ Phạm Duy. "Trương Chi & Mị Nương": bài hát của Tùng Châu & Lê Hựu Hà. "Trương Chi - Mị Nương" bài hát của nhạc sĩ Hoài An Vở kịch thơ "Trương Chi" của thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Truyện ngắn "Trương Chi" của Nguyễn Huy Thiệp. Truyện ngắn "Nàng và Trương Chi" của Vũ Giang. Bài hát "Chuyện tình Trương Chi, Mị Nương" của Anh Bằng. Bài hát "Hận Trương Chi" của Hùng Lân. Khúc hát "Trương Chi" của Đặng Hữu Phúc. "Chuyện anh Trương Chi" của Đỗ Thành. "Phía tối tâm hồn tôi" của Phú Quang
Raymond Carver (25 tháng 5 năm 1938 - 2 tháng 8 năm 1988) là nhà văn viết truyện ngắn và nhà thơ người Mỹ. Raymond Carver sinh tại Clatskanie, tiểu bang Oregon, trong một gia đình công nhân. Ông bắt đầu sáng tác vào năm 1958 sau khi đã học qua khóa viết văn tại Chico State College ở California. Ông nhận bằng cử nhân từ Humboldt State College vào năm 1963. Trước khi cho xuất bản tập truyện ngắn đầu tay Put Yourself in My Shoes (1974), Raymond Carver đã sáng tác hai tập thơ, Near Klamath (1968) và Winter Insomnia (1970). Vào cuối thập kỷ 1960s và trong thập kỷ 1970s, Raymond Carver phải nhập viện nhiều lần do chứng nghiện rượu. Qua việc thể hiện những kinh nghiệm này vào các tác phẩm của mình, ông đã tạo dựng thành công bước đầu, với những nhân vật trong các mẩu truyện liên hệ đến những khó khăn do chứng nghiện rượu gây ra. Raymond Carver được biết đến qua những truyện ngắn có sức thu hút mạnh. Cuộc sống và thời niên đầy khó khăn đã cung cấp nhiều tư liệu cho các tác phẩm của ông, vốn thường chú trọng vào những giấc mơ bị đánh mất, những mối liên hệ bị tan vỡ, và ảo vọng. Ông được nhìn nhận là một trong những cây bút truyện ngắn Anh ngữ hàng đầu, và đã có công khơi lại mối yêu thích truyện ngắn trong lòng người đọc vào thập kỷ 1980s. Vào năm 1999, 11 năm sau ngày ông mất, vợ ông là nhà văn Ted Gallagher phát hiện một số truyện ngắn và bài thơ chưa hề được ra mắt bạn đọc. Tác phẩm Tập thơ Near Klamath (1968) Winter Insomnia (1970) At Night The Salmon Move (1976) Fires (Những ngọn lửa, 1983) Where Water Comes Together With Other Water (1985) Ultramarine (1986) A New Path to the Waterfall (1989), xuất bản sau khi qua đời. All of Us: The Collected Poems (1998) Tập truyện ngắn Put Yourself in My Shoes (1974) Will You Please Be Quiet, Please? (Em làm ơn, im đi được không, 1976), 21 truyện ngắn Furious Seasons and other stories (1977) We Talk About When We Talk About Love (Mình nói chuyện gì khi mình nói chuyện tình, 1981), 17 truyện ngắn Cathedral (Thánh đường, 1983), 12 truyện ngắn Elephant (Con voi, 1988), 7 truyện ngắn Where I’m Calling From (1988) Kịch Dostoevsky (1985, cùng với Tess Gallagher)
Trong toán học, khoảng là một khái niệm liên quan đến dãy và tích thuộc về tập hợp của một hoặc nhiều số. Giới thiệu trên số thực Trên trường số thực, một khoảng là một tập hợp chứa mọi số thực nằm giữa hai số được cho trước, và có thể chứa cả hai số đó. Ký hiệu khoảng là ký hiệu biểu diễn các giá trị nằm trong một khoảng. Ví dụ: 5 < x < 9 Trong ký hiệu khoảng truyền thống, cặp ngoặc đơn, "()", có nghĩa là tập hợp khoảng không chứa hai điểm đầu mút, còn cặp ngoặc vuông, "[]", hàm ý chứa cả hai đầu mút. Ví dụ, (10,20) ký hiệu tập hợp mọi số thực x nằm giữa 10 và 20 nhưng không bao gồm hai giá trị đầu và cuối của khoảng (10 và 20). Tức là 10 < x < 20 Trong khi đó, khoảng [10,20] bao gồm tất cả các số nằm giữa 10 và 20 và cả hai đầu mút 10 và 20. Tức là: 10 ≤ x ≤ 20 Khoảng sử dụng cặp ngoặc vuông còn được gọi là đoạn, có ý nghĩa gần giống đoạn thẳng trong hình học. Có thể kết hợp "[)" hay "(]": [10,20) tức là 10 ≤ x < 20 (10,20] tức là 10 < x ≤ 20 Tổng quát Định nghĩa tổng quát của khoảng được phát biểu như sau: Một khoảng là một tập con liên tục S của một tập thứ tự đầy đủ (totally ordered set) T có tính chất như sau: Với mọi phần tử x và y thuộc S và x<z<y thì z thuộc S. Trường hợp ở mục trên tương ứng với T là tập hợp số thực. Phân loại trên số thực Các khoảng của trên tập hợp số thực thuộc một trong 11 loại sau: chính là tập tất cả các số thực tập rỗng Với a và b là các số thực, và a < b; chúng được gọi là các đầu mút của khoảng. Như vậy ngoặc vuông [ hoặc ] có nghĩa rằng đầu mút đó được bao hàm trong khoảng, trong khi ngoặc (hoặc) có nghĩa ngược lại. Để biết thêm thông tin về ký hiệu trên, xem lý thuyết tập hợp ngây thơ (Naive set theory). Các khoảng thuộc các loại (1), (5), (7), (9) và (11) được gọi là các khoảng mở (vì chúng là các tập mở. Các khoảng thuộc các loại (2), (6), (8), (9), (10) và (11) được gọi là các khoảng đóng (vì chúng là các tập đóng. Các khoảng thuộc loại (3) và (4) đôi khi được gọi là các khoảng nửa-đóng (hoặc nửa-mở). Lưu ý rằng các khoảng (9) và (11) vừa mở vừa đóng, điều đó không giống với nửa-đóng và nửa-mở. Các khoảng (1), (2), (3), (4), (10) và (11) được gọi là các khoảng bị chặn hay khoảng đóng, và các khoảng (5), (6), (7), (8) và (9) là các khoảng không bị chặn hay khoảng mở. Độ dài của các khoảng đóng (1), (2), (3), (4) là tương ứng cho mỗi trường hợp. Khoảng đóng vai trò quan trọng trong lý thuyết về tích phân, vì chúng là các tập hợp đơn giản nhất với "kích thước", "độ đo" (measure) hay "độ dài" dễ định nghĩa. Khái niệm độ đo có thể được mở rộng cho các tập phức tạp hơn, dẫn đến độ đo Borel và cuối cùng là độ đo Lebesgue. Trong tô pô học, thì khái niệm khoảng được mở rộng thành khái niệm tập mở. Khái niệm "tập mở" cũng là một trong những khái niệm nền tảng của tô pô học.
Coca-Cola (hay còn gọi là Coca, Coke) là một thương hiệu nước ngọt có ga chứa nước cacbon dioxide bão hòa được sản xuất bởi Công ty Coca-Cola. Coca-Cola được điều chế bởi dược sĩ John Pemberton vào cuối thế kỷ XIX với mục đích ban đầu là trở thành một loại biệt dược. Tuy nhiên, doanh nhân người Mỹ Asa Griggs Candler sau đó đã mua lại công thức loại thuốc uống này, và bằng những chiến thuật tiếp thị thông minh, ông đã đưa Coca-Cola trở thành một trong những sản phẩm dẫn đầu thị trường nước ngọt có ga trong thế kỷ XX. Tên của Coca-Cola bắt nguồn từ hai thành phần nguyên bản của thức uống này: hạt côla (chứa nhiều caffein) và lá cây côca. Hiện nay, công thức Coca-Cola vẫn còn là một bí mật thương mại, và chỉ có một số ít công nhân giấu tên biết. Mặc dù vậy, nhiều công thức thử nghiệm khác nhau đã được công bố rộng rãi. Công ty Coca-Cola sẽ chịu trách nhiệm sản xuất phần chất lỏng cô đặc. Phần nước này sau đó sẽ được bán cho các nhà máy đóng chai Coca-Cola có giấy phép kinh doanh trên khắp thế giới. Các nhà máy này đã có hợp đồng độc quyền theo từng khu vực với công ty,và sẽ tiếp tục hoàn thành sản phẩm bằng cách đóng lon hoặc chai đựng chất cô đặc kèm với nước đã qua xử lý và các chất tạo ngọt.Một lon Coca-Cola 1.2 oz cơ bản ở Mỹ (tức lon 350 ml) có thể chứa tới 38 gram (tức 1,3 oz) đường (thường ở dưới dạng đường HFCS). Các loại Coca-Cola đóng chai sau đó sẽ được bày bán phân phối và vận chuyển tới các cửa hàng bán lẻ, nhà hàng và máy bán hàng tự động trên toàn thế giới. Công ty Coca-Cola ngoài ra cũng bán phần cô đặc trong các thùng chứa nước ngọt tại các nhà phân phối dịch vụ thực phẩm và các nhà hàng lớn. Công ty Coca-Cola đã giới thiệu nhiều loại sản phẩm dưới thương hiệu Coke. Một trong những sản phẩm nổi tiếng trong số này là Diet Coke Ngoài ra còn có thể kể tới Caffeine-Free Coca-Cola, Caffeine-Free Diet Coke, Coca-Cola Cherry, Coca-Cola Zero, Coca-Cola Vanilla, Coca-Cola Plus và các phiên bản đặc biệt có vị chanh tây, chanh và cà phê. Vào năm 2013,các sản phẩm Coke đã được phân phối tại hơn 200 quốc gia trên toàn thế giới. Dựa trên nghiên cứu về "thương hiệu toàn cầu tốt nhất" năm 2015 của Interbrand, Coca-Cola xếp thứ ba về mức độ giá trị thương hiệu và thương mại. Lịch sử Nguồn gốc ra đời Coca-Cola được phát minh bởi dược sĩ John Stith Pemberton, chủ một phòng thí nghiệm và hiệu thuốc tư nhân. Ban đầu, Pemberton chỉ định sáng chế ra một loại thuốc bình dân giúp chống đau đầu và mệt mỏi. Ông đã mày mò và thử nghiệm, pha chế thành công một loại siro có màu đen như cà phê. Loại siro này trộn với nước lạnh sẽ có thể được một thứ nước giảm nhức đầu và tăng sảng khoái. Pemberton giữ lại công thức sáng chế này, chỉ biết rằng thành phần quan trọng nhất của loại thức uống này chứa một tỷ lệ nhất định tinh dầu được chiết suất từ quả và lá của cây Kola. Đây là loại cây chỉ có ở khu vực rừng nhiệt đới Nam Mỹ, thành phần chứa một lượng đáng kể cocain và caffeine. Vì thế thuốc có tác dụng làm sảng khoái, chống đau đầu, mệt mỏi. Cái tên Coca-Cola cũng bắt nguồn từ đó. Pemberton đã thay chữ "K" bằng chữ "C" để có vẻ dễ nhìn và quen thuộc hơn. Sau khi sáng chế ra Coca-Cola, Pemberton rất vui sướng và đã đi khắp nơi chào bán loại nước uống này, đặc biệt tại các quán "Soda-bar" đang thịnh hành ở thành phố Atlanta. Tuy nhiên, Pemberton đã rất thất vọng vì không ai chịu uống thử Coca-Cola. Nó có màu nâu đen và mọi người đều coi đó là thuốc chứ không phải một loại nước giải khát đơn thuần. Công thức Coca-Cola chỉ thực sự trở thành nước giải khát nhờ một nhân viên trong quán bar "Jacobs Phamarcy" khi nhân viên này đã nhầm lẫn pha siro Coca-Cola với nước soda thay vì nước lọc bình thường theo công thức của Pemberton. Loại Coca-Cola được pha nhầm đó lại ngon miệng hơn bình thường, làm sảng khoái khác thường và lúc đó Coca-Cola mới có thể phục vụ số đông người tiêu dùng. Từ đó quán bar này mỗi ngày pha và bán được từ 9 đến 15 ly Coca-Cola. Tuy nhiên, cả năm đầu tiên Pemberton mới chỉ bán được 95 lít siro Coca-Cola. Thế kỷ XX Bức tranh quảng cáo ngoài trời đầu tiên của Coca-Cola được vẽ vào năm 1894 tại Cartersville, Georgia. Xi rô Cola được bán dưới dạng một thực phẩm chức năng dùng luôn để điều trị bệnh đau dạ dày. Sau khoảng thời gian Coca-Cola xuất hiện được 50 năm, thức uống này đã trở thành một biểu tượng quốc gia của Hoa Kỳ. Vào năm 1935, Coca-Cola đã được chứng nhận kosher (tức là một thực phẩm phù hợp các yêu cầu về chế độ ăn uống của Đạo luật Do Thái) bởi Atlanta Rabbi Tobias Geffen, sau khi công ty có một sự thay đổi nhỏ về nguồn gốc một số thành phần trong đồ uống. New Coke Vào ngày 23 tháng 4 năm 1985, Coca-Cola đã công khai việc thay đổi công thức đồ uống với sản phẩm mới có tên "New Coke". Các khảo sát sau đó cho thấy hầu hết người tiêu dùng yêu thích vị của New Coke hơn là Coke và Pepsi, tuy nhiên quản lý của Coca-Cola lại không lường trước đến sự hoài niệm của công chúng đối với loại đồ uống cũ, dẫn đến việc người dân biểu tình phản đối rất nhiều. Ngày 10 tháng 7 năm 1985, Công ty Coca-Cola đã một lần nữa thay đổi trở lại công thức truyền thống với sản phẩm Coca-Cola Classic, sử dụng đường HFCS thay vì đường mía làm chất tạo ngọt chính. Coca-Cola Life Coca-Cola Life được ra mắt tại Argentina vào tháng 6 năm 2013, tại Chile vào tháng 11 năm đó, tại Thụy Điển vào tháng 6 năm 2014 và tại Anh vào tháng 9 năm 2014. Sau đó nó đã được tung ra ở nhiều quốc gia khác. Coca-Cola Life đã cố gắng cùng tồn tại với Diet Coke và Coca-Cola Zero tại thị trường Argentina và Chile, nhưng nó đã dần bị loại khỏi những thị trường đó do sự đón nhận của khách hàng thấp. Coca-Cola life ra đời để hướng đến những người lớn muốn hương vị coca truyền thống nhưng vẫn đảm bảo sức khỏe bởi vì coca dùng lá stevia để tạo độ ngọt và giảm calories cho người sử dụng. Ngày nay, Coca-life đã được phân phối ở 42 nước trên toàn Thế Giới. Thành công và doanh thu Từ khi được thành lập và đặt trụ sở chính tại Atlanta, bang Georgia, tập đoàn Coca-Cola hiện đang hoạt động trên 200 nước khắp thế giới. Thương hiệu Coca-Cola luôn là thương hiệu nước ngọt bán chạy hàng đầu và tất cả mọi người trên thế giới đều yêu thích Coca-Cola hoặc một trong những loại nước uống hấp dẫn khác của tập đoàn. Ngày nay, tập đoàn Coca-Cola đã thành công trong công cuộc mở rộng thị trường với nhiều loại nước uống khác nhau ban đầu là nước có gas, và sau đó là nước trái cây, nước tăng lực cho thể thao, nước suối, trà và một số loại khác. Coca-Cola chiếm 3.1% tổng lượng sản phẩm thức uống trên toàn thế giới. Trong 33 nhãn hiệu nước giải khát không cồn nổi tiếng trên thế giới, Coca-Cola sở hữu tới 15 nhãn hiệu. Mỗi ngày Coca-Cola bán được hơn 1 tỷ loại nước uống, mỗi giây lại có hơn 10.000 người dùng sản phẩm của Coca-Cola. Trung bình một người Mỹ uống sản phẩm của công ty Coca-Cola 4 ngày 1 lần. Coca-Cola hiện đã có mặt tại tất cả các châu lục trên thế giới và được biết đến rộng rãi bởi phần lớn dân số thế giới. Năm 2007, Coca-Cola đã trả cho các nhà cung cấp nguyên vật liệu là 11 tỷ USD và tiền lương cho 73.000 công nhân là gần 4 tỷ USD. Sản xuất tiêu thụ hết 36 triệu lít nước, 6 tỷ J (Joule/Jun) năng lượng. Có khoảng 1.2 triệu các nhà phân phối sản phẩm của Coca-Cola, 2.4 triệu máy bán lẻ tự động, nộp 1.4 tỷ USD tiền thuế và đầu tư cho cộng đồng 31.5 triệu USD. Quảng cáo và tiếp thị Quảng cáo đầu tiên của Coca-Cola, đó là quảng cáo trên The Atlanta Journal Các quảng cáo, tiếp thị của Coca-Cola bắt đầu với biểu tượng "Uống Coca-Cola" trên vải dầu ở các mái hiên nhà thuốc. Asa Candler sau đó đã đặt tên Coca-Cola không chỉ trên các chai nước ngọt mà còn trên cả quạt, lịch và đồng hồ. Từ ngày đó, những chiến dịch tiếp thị kết hợp với chất lượng tuyệt hảo của Coca-Cola đã khiến thương hiệu này trở thành một trong những thương hiệu được yêu thích nhất thế giới. Một trong những cách mà Coca-Cola luôn giữ vững quan hệ tốt đẹp với người tiêu dùng là luôn hòa nhập vào hoạt động của họ. Công ty tổ chức các hoạt động thể thao rộng khắp thế giới để quảng bá thương hiệu. Coca-Cola thường mượn hình ảnh ông già Noel trong bộ đồ trắng và đỏ để quảng bá hình ảnh của mình. Các hoạt động quảng cáo của Coca-Cola luôn cực kỳ phong phú và sáng tạo, thường được làm theo các chiến dịch vô cùng hoành tráng. Mỗi chiến dịch lại có một câu Slogan riêng cho nó. Trong 100 chiến dịch quảng cáo vĩ đại nhất thế kỷ XX do tạp chí Advertising Age bình chọn, riêng Coke đã độc chiếm đến 3. Hoạt động tài trợ Thời điểm những năm 1903, Coca-Cola đã sử dụng các cầu thủ của đội bóng chày nổi tiếng bấy giờ để quảng cáo. Tuy nhiên, hoạt động lừng lẫy nhất của Coca-Cola là việc tài trợ cho một trong những sự kiện thể thao nổi tiếng và tồn tại lâu dài nhất: Thế vận hội Olympics. Coca-Cola là nhà tài trợ của Olympics từ năm 1928 và trở thành nhà tài trợ lâu đời nhất của thế vận hội. Là thành viên sáng lập chương trình TOP vào năm 1986, Coca-Cola trở thành nhà cung cấp nước uống không cồn cho thế vận hội với rất nhiều sản phẩm. Năm 2012, công ty đã cung cấp cho Thế vân Olympics 23 triệu chai nước uống trong vòng 8 tuần. Tập đoàn còn có mốt quan hệ giao hữu rất tốt với Liên đoàn bóng đá thế giới FIFA, NASCAR, Hiệp hội bóng chày và Giải Khúc Côn Cầu, Mỹ. Một loạt các bảng hợp đồng dài hạn với Hiệp hội vận động viên Quốc gia đã giúp Coca-Cola kiếm được rất nhiều cơ hội tiếp thị lớn với 22 vận động viên và 87 quán quân trong mỗi năm. Nhạc hiệu Open happiness - Patrick Stump, Travis McCoy, Janelle Monae, & Brendon Urie (2009 - 2015) Wavin' flag - K'naan (2010 - nay) Taste the feeling - Avicii ft. Conrad Sewell (từ 2016) David Correy - The World Is Ours Colors - Jason Derulo Turn it up - Amee ......... Và một số nhạc nền khác. Phương tiện truyền thông Bên cạnh các hoạt động tài trợ, Coca-Cola còn mạnh tay chi cho việc quảng bá hình ảnh trên các phương tiện truyền thông như báo, đài, truyền hình và Internet. Những quảng cáo của Coca-Cola xuất hiện liên tục trên truyền hình và vô cùng mạnh mẽ, ấn tượng. Internet cũng là một phương tiện tuyệt vời của Coca-Cola. Vào thời điểm tháng 11 năm 2012, Coca-Cola đã có 54 triệu fan trên Facebook, 600.000 người theo dõi trên Twitter và hơn 100 triệu lượt xem ở YouTube trên kênh của Coca-Cola. Những hoạt động quảng cáo trên mọi phương diện đã góp phần không nhỏ đem lại hình ảnh của Coca-Cola in đậm trong tâm trí người tiêu dùng. Ứng dụng y học Coca-Cola đôi khi được sử dụng để điều trị phytobezoar dạ dày. Trong khoảng 50% trường hợp được nghiên cứu, chỉ riêng Coca-Cola đã được tìm thấy có hiệu quả trong việc hòa tan phytobezoar dạ dày. Thật không may, cách điều trị này có thể dẫn đến nguy cơ tắc ruột non trong một số ít trường hợp, cần phải can thiệp phẫu thuật. Thuế Thực hiện nghĩa vụ thuế tại Việt Nam Từ tháng 3 năm 2017 đến tháng 12 năm 2019, Tổng cục Thuế đã thực hiện một đợt thanh tra thuế tại công ty, thanh tra lượng hồ sơ từ năm 2007 - 2015. Trong quá trình thanh tra, Coca-Cola Việt Nam đã mắc phải những sai sót nhỏ và công ty đã thông báo với Tổng cục Thuế sẽ hoàn thành đầy đủ các nghĩa vụ được yêu cầu. Theo Tổng Cục Thuế, Coca-Cola đang trong quá trình thực hiện, Tổng cục Thuế cũng chưa kết luận là doanh nghiệp không thực hiện. Đồng thời, trong văn bản gửi tới báo chí ngày 10 tháng 1 năm 2020, Coca-Cola Việt Nam thể hiện sự tôn trọng cho đa số các kết luận của Tổng Cục Thuế, và công ty giữ nguyên quan điểm của mình rằng công ty đã hoạt động hoàn toàn tuân thủ theo pháp luật. Quan điểm này được thể hiện rõ ràng trong tất cả các văn bản giải trình và tài liệu được chuẩn bị và nộp lên Tổng Cục Thuế theo quy định thường kỳ và trong đợt thanh tra.
Hwang Woo-Suk (Tiếng Hàn: 황우석; Hanja: 黃禹錫; sinh ngày 29 tháng 1 năm 1953) là nhà nghiên cứu sinh học Hàn Quốc. Ông là giáo sư tại Đại học Quốc gia Seoul (bị cách chức ngày 20 tháng 3 năm 2006) và đã nổi tiếng sau một loạt đột phá trong lĩnh vực nghiên cứu tế bào gốc. Cho đến tháng 11 năm 2005, ông đã được xem là một trong những chuyên gia tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu tế bào gốc, nổi tiếng với các bài đăng trên tạp chí Science năm 2004 và 2005 nơi ông đã báo cáo lừa dối là đã thành công trong việc tạo ra tế bào gốc phôi người thông qua nhân bản. Ông trở nên nổi tiếng thế giới nhờ các công trình nghiên cứu về nhân bản người. Cuối năm ngoái, ông công bố nghiên cứu của ông về tế bào mầm. Nhưng sau đó, các cuộc điều tra đã phát hiện ra rằng các nghiên cứu của ông Hwang đều không có thật. Ông đã nhận rất nhiều tiền của nhà nước để nghiên cứu, nhưng lại đưa ra những kết quả giả mạo. Trong khi đó, mọi người đều đã tin ông. Ông đã nói dối cả thế giới. Hậu quả là gì? Ông đã bị mất việc, mất lòng tin của mọi người, mất danh dự. Ông còn phải đền bù lại tiền cho nhà nước. Ông ấy phải cảm thấy xấu hổ với những người đã tin tưởng mình,
Iván Ramiro Córdoba Sepúlveda (sinh ngày 11 tháng 8 năm 1976 tại Medellín) là một cầu thủ bóng đá Colombia. Córdoba là cựu cầu thủ câu lạc bộ Inter Milan (Ý) ở vị trí hậu vệ (áo số 2). Anh cao 173 cm và nặng 70 kg. Hiện nay, anh là thành viên trong BHL Inter. Có năng lực tuyệt vời và là 1 cầu thủ đã để lại những dấu ấn rõ nét, Cordoba tính toán một cách tài ba khi nào cần tấn công và rất đáng tin cậy khi có yêu cầu lui về phòng thủ nhanh chóng. Với thể lực siêu khỏe, dù hơi thấp nhưng anh là người bật lên đánh đầu tốt. Cordoba nổi trội so với những cầu thủ khác nhờ khả năng đá bằng chân trái rất mạnh. Cordoba đã từ chối lời mời chuyển tới Real Madrid, vì vậy anh có thể tới Inter Milan và mặc chiếc áo xanh đen của Inter. Chàng trai người Colombia này là cha của Paloma, anh đã thể hiện tình yêu với đứa con gái đầu lòng bằng cách in một bức ảnh phóng to vào chiếc áo phông mà anh mặc dưới sắc màu của đội tuyển. Năm 2001, anh cùng đội tuyển lên ngôi vô địch Copa América lần đầu tiên sau khi vượt qua ở trận chung kết. Các đội đã và đang thi đấu Các danh hiệu Vô địch Ý: 1 2006 Cúp bóng đá Ý: 2 2005, 2006
Sông Thao (chữ Hánː 洮江) là dòng chính của sông Hồng, bắt nguồn từ Nguy Sơn, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, vào Việt Nam ở tỉnh Lào Cai, chảy đến ngã ba Hạc ở Việt Trì, tỉnh Phú Thọ thì hợp lưu với sông Đà và sông Lô. Tại Việt Nam, sông chảy qua các tỉnh Lào Cai, Yên Bái và Phú Thọ. Ngữ hệ Tày Thái gọi sông này là Nậm Tao gọi theo tiếng Việt là sông Thao. Khi qua tỉnh Yên Bái, sông có bốn phụ lưu lớn là ngòi Thia, ngòi Hút, ngòi Lâu và ngòi Lao. Lượng nước theo năm bình quân là 24,2 tỉ m³, cực đại là 41 m³ và cực tiểu là 18,4 m³ (đo tại Yên Bái). Trong ba nhánh lớn của sông Hồng, sông Thao tuy có diện tích lưu vực xấp xỉ sông Đà nhưng có lượng dòng chảy nhỏ nhất (chỉ chiếm 19%, trong khi sông Lô là 25,4%, sông Đà là 42%). Núi Fansipan đóng vai trò đường phân nước giữa sông Đà với sông Thao, còn dãy núi Con Voi - chạy gần như song song với sông Thao - là đường phân nước giữa sông Thao với sông Lô. Lưu lượng nước của sông thay đổi thất thường; vào mùa khô lưu lượng giảm xuống rất thấp so với mức trung bình, gây thiếu nước cho sản xuất nông nghiệp và cho sinh hoạt của người dân. Phù sa sông Thao có màu đỏ vì chứa nhiều oxit sắt. Ở tỉnh Đồng Nai cũng có một con sông tên là sông Thao. Trong văn học và nghệ thuật Sông Thao được nhắc đến trong một số tác phẩm văn học - nghệ thuật như bài thơ "Sông Thao" của Nguyễn Duy (tập thơ Mẹ và em, 1980), bài hát "Du kích sông Thao" (1949) của Đỗ Nhuận hoặc trong câu hát ru:
William III hoặc Willem III xứ Oranje (14 tháng 11 năm 1650 – 8 tháng 3 năm 1702) là Thân vương của xứ Orange, từ năm 1672 là Thống đốc các tỉnh lớn của Cộng hòa Hà Lan, rồi được tôn làm Quốc vương của Vương quốc Anh, Scotland và Ireland kể từ năm 1689. Là một thành viên của Nhà Oranje-Nassau, William III trị vì Anh, Scotland, và Ireland sau cuộc Cách mạng Vinh Quang, khi nhạc phụ của ông, James II của Anh, bị phế truất. William đồng trị vì với vợ, Mary II, cho đến khi Mary mất ngày 28 tháng 12 năm 1694. Ông là "William II" ở Scotland, và là "William III" ở Anh và Ireland. Tại Bắc Ireland và Scotland, người ta còn gọi ông là "Vua Billy". Là tín hữu Kháng Cách, William tham gia các cuộc chiến chống Louis XIV của Pháp, một quân vương Công giáo đầy quyền lực, trong bối cảnh châu Âu đang bị chia cắt bởi các thế lực Công giáo và Kháng Cách. Phần lớn là nhờ thanh danh ấy mà William được tôn làm vua nước Anh nơi có nhiều người luôn e sợ một sự phục hồi ảnh hưởng Công giáo do những nỗ lực của James đem cựu giáo trở lại vương quốc này. Chiến thắng của William III tại trận sông Boyne khi ông đánh bại James II năm 1690 vẫn được Hội Orange ở Bắc Ireland kỷ niệm cho đến ngày nay. Thời trị vì của William nổi bật với sự khởi đầu của giai đoạn chuyển đổi quyền lực từ thể chế cai trị độc đoán của dòng họ Stuart sang thể chế tập trung nhiều quyền lực hơn cho Quốc hội dưới triều Hanover. Thiếu thời Dòng dõi Willem Hendrik xứ Oranje chào đời tại La Hay (Den Haag trong tiếng Hà Lan) thuộc Cộng hòa Hà Lan ngày 4 tháng 11 năm 1650, là con duy nhất của Willem II, Thân vương xứ Orange, và Mary, Công chúa nước Anh. Cha của William mất vì bệnh đậu mùa chỉ tám ngày trước khi con trai ra đời. Vì vậy, William trở thành người sẽ thừa kế tước hiệu Thân vương xứ Orange từ lúc mới sinh. Ngay lập tức bùng nổ cuộc tranh chấp giữa Mary và bà của William, Amalia xứ Solms-Braunfels, trong việc giành quyền đặt tên cho cậu bé. Mary muốn con trai mang tên Charles theo tên anh của bà, nhưng bà nội cậu bé muốn cháu có tên William hoặc Willem nhằm củng cố triển vọng của cậu bé trở thành Thống đốc trong tương lai. Trong di chúc, William II đã ủy nhiệm vợ quyền bảo hộ con trai, nhưng vì chưa kịp ký tên trước khi chết nên văn kiện này không được công nhận. Ngày 13 tháng 8 năm 1651 "Hoge Raad" (Hội đồng Tối cao) của Hà Lan ra quyết định giao quyền bảo hộ cho mẹ và bà nội của cậu bé, cùng Tuyển đế hầu Brandenburg (vợ ông, Louise Henriette, là chị cả của William). Học vấn Mẹ của William cũng không mấy quan tâm đến con trai, có khi vắng mặt cả năm, và luôn tìm cách tránh xa xã hội Hà Lan. Ban đầu việc giáo dục dành cho William được ủy thác cho các nữ gia sư người Hà Lan, và một số gia sư gốc Anh, trong đó có Walburg Howard. Từ tháng 4 năm 1656, William tiếp nhận giáo huấn theo đức tin Cải cách từ Cornelis Trigland, nhà thuyết giáo theo Thần học Calvin. Một tiểu luận, có lẽ của một trong những thầy giáo của William, Constantijn Huyens, đã miêu tả chi tiết nền giáo dục hoàn thiện mà William thụ hưởng có tựa đề Discours sur la nourriture de S.H. Monseigneur le Prince d'Orange. William được dạy dỗ rằng Chúa đã chọn cậu để hoàn thành sứ mạng lịch sử của nhà Orange. Từ đầu năm 1659, William dành bảy năm để theo học tại Đại học Leiden, dù không chính thức ghi danh, dưới sự dẫn dắt của Hendrik Bornius, giáo sư môn đạo đức học. William cũng học tiếng Pháp với Samuel Chappuzeau. Ngày 23 tháng 12 năm 1660, mẹ của William qua đời tại Lâu đài Whitehall, Luân Đôn, khi cậu bé mới 10 tuổi. Bà để lại di chúc yêu cầu anh trai của bà, vua Charles II, chăm sóc quyền lợi của con trai, do đó Charles II yêu cầu Nghị viện Hà Lan (Staten van Holland en Westfriesland) chấm dứt mọi sự can thiệp. Ngoài ra, quyền bảo hộ và giáo dưỡng William còn trở thành mục tiêu tranh chấp giữa phe bảo hoàng với các nhóm đấu tranh cho Hà Lan theo khuynh hướng cộng hòa. Lúc đầu, giới chức trách Hà Lan tìm mọi cách che giấu những cuộc vận động ngầm này, nhưng sau khi xảy ra chiến tranh Anh–Hà Lan lần thứ hai, một trong những điều kiện vua Charles đưa ra để ký hòa ước là khẳng định địa vị của cháu trai nhà vua. Năm 1666, phản ứng trước áp lực của Charles, Nghị viện Hà Lan chính thức công bố William, khi ấy 16 tuổi, là "Người con của Đất nước". De Witt, chính trị gia hàng đầu của nền cộng hòa, đảm trách việc học tập của William, mỗi tuần chỉ dẫn cậu chuyện quốc sự và cùng chơi quần vợt với cậu. Tham chính Mất chức Thống đốc Từ lúc cha William qua đời, các tỉnh ở Hà Lan bãi bỏ chức thống đốc. Một trong các điều khoản của Hiệp ước Westminster chấm dứt chiến tranh Anh–Hà Lan lần thứ nhất, theo yêu cầu của Oliver Cromwell, cấm tỉnh Holland bổ nhiệm thành viên nhà Orange làm thống đốc. Sau khi vương quyền Anh được phục hồi, điều khoản này bị thu hồi. Năm 1660, Mary và Amalia cố thuyết phục các tỉnh ở Hà Lan chấp nhận William làm thống đốc tương lai của họ, nhưng bị từ chối. Năm 1667, khi William mới vừa mười tám, những người trung thành với nhà Orange vận động cho cậu vào các chức vụ thống đốc và thống chế quân đội. Nhằm ngăn chặn sự hồi phục ảnh hưởng của nhà Orange, De Witt cho phép thị trưởng (pensionary) Haarlem, Gaspar Fagel, vận động Nghị viện Holland ban hành sắc lệnh Perpetual (1667), cấm thống chế quân đội hoặc đô đốc hải quân kiêm nhiệm chức vụ thống đốc. Tuy nhiên, đến tháng 9 năm 1668, Nghị viện Zealand nhận William làm "Quý tộc thứ nhất". William phải trốn các gia sư để đến Middlburg để nhận tước vị. Một tháng sau, Amalia tuyên bố William đã đến tuổi trưởng thành. Tỉnh Holland, trung tâm của khuynh hướng chống nhà Orange, tuyên bố bãi bỏ chức thống đốc. Trong tháng 3 năm 1670, bốn tỉnh khác noi theo, cùng thiết lập một liên minh mang tên "Harmony". De Witt yêu cầu các nghị viên hội đồng thành phố tuyên thệ ủng hộ sắc lệnh. William thấy mình đã thất bại, nhưng trong thực tế, đây là một giải pháp thỏa hiệp: con đường dẫn William tiến đến vị trí tổng tư lệnh ngày càng rõ ràng. Thậm chí De Witt còn chịu nhượng bộ để William nhận ghế thành viên Hội đồng Quốc gia là định chế có quyền quản lý ngân sách quốc phòng. Tranh chấp với phe Cộng hòa Tháng 11 năm 1670, William được phép đến Anh để thuyết phục Charles trả ít nhất là một phần của số tiền 2.797.859 guilder mà nhà Stuart nợ nhà Orange. Charles không có khả năng chi trả nhưng William đồng ý giảm nợ còn 1.800.000 guilder. Khi nhận ra cháu mình là một người Kháng Cách mộ đạo và là một người Hà Lan yêu nước, Charles bỏ ý định tỏ cho William biết hiệp ước bí mật ký kết với Pháp mà chỉ bàn về việc khống chế phe cộng hòa, và thành lập vương quyền ở Hà Lan. Mặt khác, ngoài những khác biệt trong chính kiến, William thấy lối sống của Charles và James là hoàn toàn xa lạ với mình, họ chỉ quan tâm đến rượu, bài bạc, và nô đùa với đám tì thiếp. Năm sau, nền cộng hòa bị đe dọa nghiêm trọng khi nguy cơ bị liên minh Anh–Pháp tấn công đang đến gần. Dù còn trẻ tuổi và thiếu kinh nghiệm, Nghị viện Tỉnh Gelderland vẫn muốn bổ nhiệm William vào chức Thống chế càng sớm càng tốt. Ngày 15 tháng 12 năm 1671, Nghị viện Tỉnh Utrecht tiếp bước Gelderland. Song Nghị viện Holland hạn chế nhiệm kỳ của William trong một chiến dịch. Ông hoàng từ chối, ngày 25 tháng 2 năm 1672 tiến tới một thỏa hiệp, Quốc hội đồng ý kéo dài nhiệm kỳ của William trong một mùa hè, rồi bổ nhiệm trọn đời khi William đủ 23 tuổi. Tháng 1 năm 1672, William bí mật gởi thư cho Charles đề nghị bác làm áp lực trên Quốc hội bổ nhiệm cậu vào chức vụ thống đốc. Đổi lại, Cộng hòa Hà Lan sẽ là đồng minh với Anh, và phục vụ các quyền lợi của Charles trong mức độ "danh dự và lòng trung thành với tổ quốc cho phép". Charles không quan tâm đến đề nghị của người cháu, tiếp tục tiến hành kế hoạch chiến tranh với sự hỗ trợ của đồng minh Pháp. Thống đốc Hà Lan Năm thảm họa: 1672 Đối với Cộng hòa Hà Lan, năm 1672 là năm thảm họa (tiếng Hà Lan: rampjaar) do chiến tranh Pháp–Hà Lan và chiến tranh Anh–Hà Lan lần thứ ba khi đất nước này bị Louis XIV của Pháp, Anh, Münster, và Cologne xâm lăng. Dù hạm đội liên quân Anh–Pháp bị đánh bại tại trận thủy chiến Solebay, trong tháng 6 bộ binh Pháp tràn ngập hai tỉnh Gelderland và Utrecht. Ngày 14 tháng 6, William rút quân về tỉnh Holland. Khi quân Pháp cách Amsterdam khoảng 35 km, ngày 8 tháng 6, Nghị viện ra lệnh mở cửa đập xả lũ nhằm bảo vệ phần đất còn lại. Nước biển tràn vào, làm ngập lụt hoa màu và đồng cỏ, nhấn chìm nhà cửa và hoa viên, dìm chết bò và heo, khiến cho công lao khổ nhọc hàng thế kỷ phút chốc phải tiêu tán. Amsterdam trước ở vào vị trí không thể bảo vệ được, giờ trở thành một hòn đảo. Quân Pháp không có tàu thuyền, chỉ đành đứng từ xa mà ngắm nhìn thành phố họ định chiếm đóng. Cùng lúc, William vận động ngoại giao với Habsburg, Brandenburg, Hannover, Đan Mạch và Tây Ban Nha, ông vạch ra rằng sức mạnh và tham vọng của Louis XIV không chỉ là mối đe dọa với Hà Lan, mà còn cả các quốc gia khác. Các nước đều có ấn tượng với lý luận của ông, càng thêm ấn tượng với cuộc kháng chiến dai dẳng của Hà Lan. Louis XIV, tin rằng cuộc chiến đã kết thúc, khởi sự thương thảo để đòi được nhiều tiền càng tốt. Trong khi đó, sự hiện diện của binh lính Pháp ngay tại trung tâm của Cộng hòa Hà Lan làm người dân phẫn nộ, họ quay sang chống đối De Witt và những người ủng hộ ông. Ngày 4 tháng 7, Nghị viện tỉnh Holland bổ nhiệm William vào chức vụ thống đốc, ông tuyên thệ nhậm chức năm ngày sau đó. Hôm sau, đặc sứ của Charles, Lord Arlington, đến Nieuwerbrug phong William làm Thân vương trị vì Hà Lan, đổi lại là một thỏa ước hàng phục. Khi bị từ chối, Arlington dọa rằng William sẽ chứng kiến sự kết thúc của nền cộng hòa, William khẳng khái đáp trả bằng câu nói trứ danh: {{cquote|Chỉ có một cách duy nhất để tránh điều này: chiến đấu cho đến khi ngã chết trong chiến hào cuối cùng.'''|||William III}} Vào ngày 7 tháng 7, các cơn lũ đã kịp phong tỏa quân đội Pháp. Ngày 16 tháng 7, tỉnh Zealand bổ nhiệm William làm thống đốc. Vào ngày 15 tháng 8, William phổ biến một bức thư của Charles, trong đó vua nước Anh cho biết ông khởi binh là do sự lộng quyền của phe de Witt, khiến dân chúng càng thêm bất bình. Ngày 20 tháng 8, Johan de Witt và em trai, Cornelis, bị một dân quân trung thành với nhà Orange ám sát tại The Hague. Kế đó, William thay thế nhiều quan nhiếp chính người Hà Lan bằng những người ủng hộ ông. William tiếp tục chiến đấu chống lực lượng ngoại xâm đến từ Anh và Pháp, ông tìm cách liên minh với Tây Ban Nha và lãnh địa Brandenburg. Tháng 11 năm 1672, ông đem quân đến Maastricht đe dọa cắt đường tiếp tế của quân Pháp. Đến năm 1673, tình hình dần sáng sủa. Mặc dù Louis chiếm Maastricht và William thất bại khi tập kích Charleroi, Phó Đô đốc Michiel de Ruyter ba lần đánh bại hạm đội Anh–Pháp, buộc Charles phải rút khỏi Hiệp ước Westminster; kể từ năm 1673, quân Pháp dần dà triệt thoái khỏi lãnh thổ Hà Lan, ngoại trừ Maastricht. Fagel đề nghị trừng phạt các tỉnh vừa được giải phóng như Utrecht, Gelderland và Overijssel bằng cách xem họ là lãnh thổ bị chiếm đóng, bởi vì trước đó họ đã sớm hàng phục quân thù. William bác bỏ ý kiến của Fagel, và nhận được sự ủy nhiệm đặc biệt Quốc hội để bổ nhiệm toàn bộ thành viên Quốc hội đại diện những tỉnh này. Ngày 26 tháng 4 năm 1674, phe ủng hộ William trong nghị viện Tỉnh Utretcht bổ nhiệm ông làm thống đốc. Ngày 30 tháng 1 năm 1675, Nghị viện Gelderland ban ông tước vị Công tước Guelder và Bá tước Zutphen. Nhưng những phản ứng tiêu cực từ Zealand và thành phố Amsterdam khiến William từ chối các tước vị này, thay vì vậy, ông được chỉ định làm thống đốc Gelderland và Overijssel. Hôn nhân Giữa lúc còn chiến tranh với Pháp, William đã tìm cách nâng cao vị trí đối ngoại của mình bằng cách kết hôn với cô em họ nhỏ hơn mình 11 tuổi, Mary Stuart, con gái của vua James II, nữ Công tước xứ York. William tin rằng cuộc hôn nhân này sẽ mang đến cho ông nhiều cơ hội kế thừa các vương quốc của Charles, và lôi kéo vương quyền Anh khỏi lập trường thân Pháp. James không đồng ý, nhưng Charles gây áp lực trên em trai vì muốn lợi dụng cơ hội để lập thế quân bình trong đàm phán, song William nhấn mạnh rằng cần có sự tách bạch trong vấn đề này. Ngày 4 tháng 11 năm 1677, Giám mục Henry Compton cử hành lễ hôn phối cho hai người. Do một lần sẩy thai và sau đó là bệnh tật, Mary không có con. Hòa bình với Pháp, vận động ở Anh Trong năm 1678, Louis muốn có hòa bình với Cộng hòa Hà Lan. Dù vậy, vẫn còn căng thẳng giữa hai nước: William vẫn nghi ngờ vua Pháp còn nuôi tham vọng về một vương quyền cho toàn thể châu Âu. Louis từng gọi William là "kẻ thâm thù", xem ông là kẻ hiếu chiến đáng tởm. Thêm vào đó là quyết định của Louis thu hồi Chiếu chỉ Nantes dấy lên làn sóng tị nạn của người Huguenot tràn vào Hà Lan. Đó là những lý do thúc đẩy William gia nhập các liên minh chống Pháp như Association League, rồi Liên minh Ausburg (gồm có Đế quốc La Mã Thần thánh, Thụy Điển, Tây Ban Nha, và một số lãnh địa Đức). Sau khi kết hôn với Mary nhà Stuart, tên William được đưa vào danh sách kế vị trong trường hợp James, nhạc phụ và cũng là cậu của William, bị tước quyền kế vị vì là người Công giáo. Suốt trong lúc xảy ra cuộc khủng hoảng Exclusion Bill năm 1680, lúc đầu Charles mời William đến Anh nhằm củng cố vị thế của vương quyền, nhưng về sau đổi ý. William ngầm thuyết phục Quốc hội Hà Lan thỉnh nguyện vua Anh đừng trao quyền kế vị cho người Công giáo, dù không nhắc đến tên James. Sau những phản ứng giận dữ của Charles và James, William cắt đứt quan hệ với họ. Năm 1685, James II lên kế vị Charles, William tìm cách hòa giải với James trong khi cố xoa dịu những người Kháng Cách ở Anh. William hi vọng James gia nhập Liên minh Ausburg, nhưng đến năm 1687 đã rõ ràng là James không muốn gia nhập liên minh chống Pháp. Mối quan hệ giữa hai người ngày càng xấu đi. Tháng 11, vợ của James tuyên bố có thai. Trong tháng đó, William gởi dân chúng Anh một bức thư mở chỉ trích chính sách tôn giáo của James. Vốn đã có mối quan hệ thân tình với William từ nhiều năm, đông đảo chính trị gia người Anh bắt đầu đàm phán với William để sắp xếp một cuộc chính biến. Cách mạng Vinh quang Tiến vào nước Anh Lúc đầu William chống đối kế hoạch, nhưng đến tháng 4 năm 1688, khi nhận thấy do phải đối đầu với Đức và Ý, nước Pháp không thể tấn công Hà Lan nếu William đem quân tiến vào Anh Quốc, ông khởi sự chiêu tập binh mã chuẩn bị cho một cuộc viễn chinh. (Subscription required) Tin chắc rằng nhân dân Anh sẽ không phản ứng trước lực lượng ngoại xâm, William viết thư cho Đề đốc Arthur Herbert cho biết hầu hết những nhân vật quan trọng của cộng đồng Kháng Cách tại Anh mời ông đến. Tháng 6, vợ của James sinh con trai, James Francis Edward Stuart, người thế chỗ Mary Stuart, vợ của William, trong cương vị người đứng đầu danh sách kế vị. Trong khi đó, sự phẫn uất của dân chúng gia tăng khi bảy Giám mục phản đối chính sách tôn giáo của James bị truy tố. Ngày 30 tháng 6 năm 1688 – ngày bảy Giám mục được tòa tha bổng – một nhóm chính trị gia, về sau được mệnh danh là "Bảy người Bất tử", gởi thư mời William đến Anh. Đến tháng 9 năm 1688, kế hoạch của William tiến vào Anh nhận được sự ủng hộ rộng rãi của công chúng. Ngày 5 tháng 11 năm 1688, với sự hộ tống của 11.000 bộ binh và 4.000 kỵ binh, từ chiến thuyền Brill, William đổ bộ xuống Brixham ở đông nam nước Anh với tuyên cáo: Không còn ai theo James, các sĩ quan bỏ hàng ngũ – đặc biệt là Lord Churchill xứ Eyemouth, tư lệnh quân đội giỏi nhất của James, còn giới quý tộc trên khắp nước tuyên bố ủng hộ William. James cố chống trả William, nhưng khi nhận ra tình trạng tuyệt vọng của mình, ông sai sứ giả đến đàm phán với William, rồi bí mật đào thoát vào ngày 11 tháng 12. Các ngư phủ bắt giữ James và giải giao về Luân Đôn. Ngày 23 tháng 12, ông lại tìm cách đào thoát, lần này thành công. Tôn vương Năm 1689, William triệu tập Quốc hội để thảo luận nhằm tìm ra đối sách thích hợp với tình hình mới. William muốn có thực quyền chứ không đơn thuần là phu quân của Nữ vương Các nhà quý tộc thuộc khối Tory muốn tôn Mary làm Nữ vương, nhưng bà từ chối. Ngày 13 tháng 1 năm ấy, Quốc hội thông qua đạo luật Declaration of Rights, còn gọi là Bill of Rights, tuyên bố ngai vàng bị bỏ trống. Vương miện không được trao cho James Francis Edward mà cho William và Mary. Ngày 11 tháng 4 năm 1689, Giám mục Luân Đôn, Henry Compton cử hành lễ đăng quang cho William và Mary tại Tu viện Westminster. Thông thường, Tổng Giám mục Canterbury đảm nhận công việc này, nhưng tổng Giám mục đương chức, William Sancroft, không chịu công nhận quyết định phế truất James của Quốc hội. Ngày 11 tháng 5, Quốc hội Scotland tôn William cùng Mary làm vua. Và như vậy, William cũng là William II của Scotland. Ổn định chính sự Năm 1689, với sự thúc giục của William III, Đạo luật Khoan dung được thông qua, bảo đảm quyền tự do cho các tín hữu Kháng Cách ngoài quốc giáo, nhưng trái với sự mong đợi của William, vẫn còn hạn chế đối với tín hữu Công giáo Rôma và các tôn giáo khác. Tháng 12 năm 1689 chứng kiến sự ra đời của một trong những văn kiện hiến pháp quan trọng nhất trong lịch sử Anh, Đạo luật Declaration of Rights, thường gọi là Bill of Rights. Đạo luật thiết lập những giới hạn đối với quyền lực hoàng gia như không được trì hoãn ban hành các đạo luật đã được Quốc hội thông qua, chỉ đánh thuế khi có sự đồng thuận của Quốc hội, không được vi phạm quyền kiến nghị, không được triệu tập quân đội trong thời bình nếu không có sự đồng thuận của Quốc hội, không được bác bỏ quyền trang bị vũ khí của các công dân Kháng Cách, không được can thiệp vào các cuộc bầu cử Quốc hội, không được trừng phạt các thành viên Quốc hội vì những điều họ phát biểu trong các cuộc tranh luận, không được đòi hỏi tiền bảo lãnh tại ngoại quá cao, không được áp dụng các biện pháp trừng phạt bất thường hoặc tàn bạo. William chống đối những điều khoản này, nhưng vì không muốn đối đầu với Quốc hội, cuối cùng nhà vua đã đồng ý chấp hành. Cùng Magna Carta (1215), và Parliament Acts (1911-1949), Bill of Rights được xem là một trong ba văn kiện chủ chốt cấu thành Hiến pháp bất thành văn của nước Anh. Đạo luật cũng giải quyết vấn đề chọn người kế vị William và Mary. Nếu một người qua đời, người còn lại sẽ trị vì. Nhưng quyền kế vị sau cùng thuộc về em gái của Mary II, Công chúa Anne, và hậu duệ của bà. Cùng năm đó, đạo luật Toleration 1689 được thông qua, bảo vệ quyền lợi của cả người Kháng Cách biệt giáo lẫn người Công giáo. Đồng trị vì với Mary II Mặc dù có được sự ủng hộ của đảng Whig trong Quốc hội, William cố duy trì thế quân bình giữa đảng Whig và đảng Tory. Hầu tước Halifax, nổi tiếng với khả năng hoạch định chính sách trung dung, được William tin cậy trong những năm đầu nhà vua trị vì. Đảng Whig chiếm đa số trong Quốc hội cũng muốn lập thế đa số trong chính phủ, tỏ ra thất vọng vì William không chịu dành cho họ cơ hội này. Tuy nhiên, "thế quân bình" trong chính phủ không thể tồn tại quá năm 1690, sự tranh chấp đảng phái trở nên quyết liệt, William phải cho tổ chức bầu cử sớm trong năm. Sau cuộc bầu cử, William ngả về đảng Tory dưới quyền lãnh đạo của Danby và Nottingham. Mặc dù chủ trương duy trì quyền lực nhà vua, đảng Tory không đủ sức thuyết phục Quốc hội ủng hộ quyết định của William tiếp tục chiến tranh chống Pháp. William quay sang một nhóm thuộc đảng Whig gọi là Junto. Năm 1694, đồng thuận với chính phủ Whig, William cho phép thành lập Ngân hàng Anh, một định chế tài chính tư, do các nhà ngân hàng thành lập. Động thái này được xem là một trong những di sản quan trọng nhất của William để lại cho nền kinh tế của đất nước, thiết lập nền tảng cho giai đoạn chuyển tiếp khi nước Anh thay thế vai trò trung tâm của Cộng hòa Hà Lan và Ngân hàng Amsterdam trong giao thương toàn cầu thế kỷ XVIII. Năm 1695, William giải tán Quốc hội, ngay trong năm Quốc hội mới được triệu tập với thế đa số thuộc về đảng Whig. Sau khi âm mưu ám sát nhà vua của nhóm Jacobite bị lộ, Quốc hội thông qua luật chống lại thủ lĩnh nhóm này, John Fenwick. Năm 1697, Fenwick bị xử chém. Chiến tranh ở châu Âu William thường xuyên vắng mặt tại triều đình vì phải ra trận trong cuộc chiến chống Pháp, từ mùa xuân đến mùa thu mỗi năm. Lúc ấy nước Anh gia nhập Liên minh Augsburg, còn gọi là Đại Liên minh. Trong khi William chinh chiến phương xa, vợ ông, Mary II, trị vì đất nước theo lời cố vấn của ông. Mỗi khi William trở về, Mary trao quyền lại cho chồng, và cứ như thế cho đến khi bà qua đời năm 1694. Bình định trong nước Dù phần lớn dân chúng ở Anh chấp nhận William, nhưng lại có sự chống đối đáng kể ở Scotland và Ireland. Phe Jacobite tại Scotland – họ tin rằng James VII mới là vua hợp pháp – giành được chiến thắng đáng kinh ngạc tại trận Killiecrankie, dù bị đánh bại chỉ trong vòng một tháng sau đó. Thanh danh của William bị tổn hại do cuộc thảm sát Glencoe xảy ra trong năm 1692, khi 78 người Scotland hoặc bị giết hoặc bị để cho chết vì không chịu tuyên thệ trung thành với Quốc vương và Nữ vương Trước áp lực của công luận, William tìm cách đổ trách nhiệm cho người khác, mặc dù những người này vẫn tiếp tục tại vị, theo lời của sử gia John Dalberg-Action, "một người là đại tá, người kia là hiệp sĩ, người thứ ba là một quý tộc, và người thứ tư là một bá tước." Tại Ireland, với sự trợ giúp của người Pháp, phe phiến loạn đủ sức kéo dài cuộc tranh chấp, dù James II phải đào thoát khỏi đảo quốc sau chiến thắng của William ở trận sông Boyne năm 1690. Hằng năm, vào ngày 12 tháng 7, người dân Bắc Ireland và người Kháng Cách Scotland vẫn kỷ niệm sự kiện này. Sau khi thủy binh Anh - Hà Lan đánh tan nát thủy quân Pháp trong trận thủy chiến tại La Hogue vào năm 1692, liên quân có lúc làm chủ các bể, và Ireland được bình định với Hiệp định Limerick. Cùng lúc, phe Đại Liên minh bị suy yếu đáng kể khi William thất trận tại Namur ở Hà Lan thuộc Tây Ban Nha vào năm 1692, rồi bị đánh tan tác ở trận Landen năm 1693. Vào năm 1694, vua William III lại thân chinh xuất quân, đoạt lại được thành Huy. Năm sau tức là năm 1695, ông giành được thắng lợi ở Namur. Còn ở ngoài khơi, trước khó khăn về tài chính và quân Đồng minh vẫn liên tiếp đánh thắng thủy binh Pháp, Louis XIV phải cắt bớt chi tiêu cho chiến tranh trên bể. Nghi vấn đồng tính luyến ái Trong thập niên 1690, có những lời đồn đại về nghi vấn William III có thể là người đồng tính luyến ái, từ đó lan truyền những tờ rơi châm biếm nhắm vào nhà vua. William gần gũi với một vài cận thần người Hà Lan được ông ban cho tước vị ở Anh: Hans Willem Bentinck được phong Bá tước Portland, Arnold Joost van Keppel trở thành Bá tước Albemarle. Do không có nhân tình mà lại quan hệ thân thiết với các cận thần nam giới, kẻ thù của William cho rằng ông là người có khuynh hướng đồng tính. Cho đến nay vẫn còn bất đồng về tính chính xác của các cáo buộc này, một số người viết tiểu sử William khẳng quyết chúng chỉ là sự tưởng tượng của những người thù ghét ông, trong khi những người khác tin rằng vẫn có một ít sự thật trong đó.Henry and Barbara Van der Zee, William and Mary, Luân Đôn, 1973 Sự thân cận giữa Bentinck với vua William III khiến nhiều người ganh tị, nhưng các sử gia đương đại tin rằng khó có yếu tố đồng tính trong mối quan hệ này. Tuy nhiên, có những nghi vấn trong trường hợp của Keppel, một thanh niên rất thanh lịch nhỏ hơn William 20 tuổi, từ danh phận tiểu đồng trở thành bá tước. Năm 1697, Portland viết cho William III "những ưu ái Bệ hạ dành cho chàng trai trẻ… dấy lên những đồn đại mà Hạ thần cảm thấy xấu hổ khi nghe đến." Điều này, ông nói, "làm vấy bẩn thanh danh của Bệ hạ trước đây chưa hề bị đặt dưới những nghi vấn như thế." William III trả lời, "Đối với Trẫm, thật là bất thường và là một tội nếu không thể dành cho một người trẻ tuổi sự trọng vọng xứng đáng." Năm 1694, Mary II mất vì bệnh đậu mùa, để lại William III trị vì một mình. Quốc vương William sầu khổ thương tiếc vợ. Và dù đã chấp nhận đức tin Anh giáo, uy tín của Quốc vương William III tại Anh giảm sút rõ rệt khi không có vợ mình bên cạnh. Hòa bình với Pháp Năm 1696, lãnh thổ Drenthe của Hà Lan công nhận William là Thống đốc. Cũng trong năm ấy, phe những người Jacobite, trong nỗ lực phục hồi vương quyền cho James, mưu sát William III nhưng bị bại lộ. Ngày 20 tháng 9 năm 1697, Hiệp ước Rijswijk được ký kết, kết thúc cuộc Chiến tranh Chín năm. Louis XIV công nhận William III là vua nước Anh và ngưng trợ giúp James II. Giống như các vua chúa ở châu Âu, William III quan tâm đến việc kế vị ngai vàng Tây Ban Nha, ngoài Tây Ban Nha còn có các lãnh thổ rộng lớn ở Ý, Low Countries (gồm Hà Lan thuộc Nhà Burgundy, Hà Lan thuộc Pháp, Hà Lan thuộc Tây Ban Nha, và Hà Lan thuộc Áo), và Tân Thế giới. Do vua Tây Ban Nha, Carlos II, không có con nối ngôi, ngôi báu có thể thuộc về một trong những họ hàng gần nhất, trong đó có Louis XIV của Pháp), và Hoàng đế La Mã Thần thánh Leopold I. William III tìm cách ngăn cản không cho quyền kế vị rơi vào tay họ vì e sợ thế cân bằng quyền lực sẽ bị đảo lộn. Có sự đồng thuận giữa hai vua William III và Louis XIV về Hiệp ước Partition lần thứ nhất, chia cắt Đế quốc Tây Ban Nha: Công tước Joseph Ferdinand xứ Bavaria được Tây Ban Nha, trong khi vua Pháp và Hoàng đế La Mã Thần thánh chia phần với nhau những lãnh thổ nằm giữa hai nước này. Carlos II chấp nhận Joseph Ferdinand là người kế vị, nhờ vậy châu Âu tránh được nguy cơ bùng nổ chiến tranh. Tuy nhiên, khi Joseph Ferdinand mất vì bệnh đậu mùa, vấn đề lại trở nên nóng bỏng. Năm 1700, William III và Louis XIV đồng ý với Hiệp ước Partition thứ nhì (còn gọi là Hiệp ước Luân Đôn), theo đó nước Ý sẽ vào tay con trai của Vua Pháp, còn những lãnh thổ khác của Tây Ban Nha sẽ thuộc về con trai Hoàng đế La Mã Thần thánh. Thỏa hiệp này gây căm phẫn trong vòng dân chúng Tây Ban Nha – vẫn tìm cách ngăn chặn sự tan rã của đế quốc – lẫn Hoàng đế La Mã Thần thánh, đối với ông các lãnh thổ của Ý có giá trị hơn nhiều so với những vùng đất khác. Hoàn toàn bất ngờ, cuối năm 1700 khi đang hấp hối, Vua Tây Ban Nha, Carlos II, quyết định để tất cả lãnh thổ Tây Ban Nha cho Philippe cháu của Louis XIV. Vua Pháp liền bỏ lơ Hiệp ước Partition thứ nhì để nhận phần đất từ Tây Ban Nha. Kế đó, Louis XIV còn có thái độ thù địch với William III khi chính thức công nhận James Francis Edward Stuart – con trai của cựu vương James II – làm vua nước Anh khi James II mất năm 1701. Cuộc tranh chấp giữa vua Anh và vua Pháp kéo dài đến năm 1713 trong Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha. Kế vị ngôi vua nước Anh Việc kế vị ở Tây Ban Nha không phải là mối bận tâm duy nhất của William. Hôn nhân với Mary II không cho ông đứa con nào, mà ông không có ý định tái hôn sau khi Mary qua đời. Em gái của Mary, Công chúa Anne (kế vị William III năm 1702 và là người cuối cùng của dòng họ Stuart), có nhiều con nhưng tất cả đều chết trẻ. Quốc hội thông qua Đạo luật Settlement 1701, quy định ngai vàng sẽ thuộc về Sophia nhà Hanover. Qua đời Ngày 8 tháng 3 năm 1702, William qua đời vì bệnh viêm phổi, biến chứng từ chấn thương gãy xương đòn vì bị ngã khỏi lưng con ngựa Sorrel. Nhà vua được an táng bên cạnh vợ trong Tu viện Westminster. Cái chết của William cũng là sự kết thúc của nhà Orange. Các thành viên dòng họ này từng nắm giữ chức vụ thống đốc tỉnh Holland và hầu hết các tỉnh khác thuộc Cộng hòa Hà Lan kể từ William the Silent (1533-1584). William là thống đốc của năm tỉnh: Holland, Zealand, Utrecht, Gelderland và Overijssel. Theo di chúc của William, Johan Willem Friso thừa kế lãnh địa Orange và vài vùng đất khác ở Hà Lan. Friso là hậu duệ của William the Silent. Trong khi đó, vua Friedrich I của Phổ cũng giành quyền thừa kế lãnh thổ trong tư cách hậu duệ về họ ngoại. Đến năm 1713, theo Hiệp ước Utrecht, con trai của Friedrich I là Friedrich Wilhelm I nhượng lãnh địa Orange cho vua Pháp Louis XIV. Sau Hiệp ước Phân chia (1732), con trai của Friso, William IV, chia sẻ tước hiệu "Thân vương xứ Orange" với vua Friedrich Wilhelm I. Di sản Ông là người đã tái gầy dựng quân đội Hà Lan, giúp họ đủ sức chống trả cuộc xâm lăng của Louis XIV. Thành tựu lớn nhất của vua William III là kiềm chế Pháp khi nước này đang ở trong vị thế có thể áp đặt ý muốn của mình trên toàn châu Âu. Cả cuộc đời ông là một cuộc đối đầu dai dẳng với Louis XIV của Pháp. Ngay cả sau khi ông qua đời, nỗ lực này cũng được nối tiếp trong Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha. Một thành quả quan trọng khác của triều đại William III là chấm dứt sự tranh chấp cay đắng giữa Vương quyền và Quốc hội khởi phát từ thời James I (đăng quang năm 1603) - vị vua đầu tiên của Nhà Stuart. Sự tranh chấp quyền lực giữa vương quyền và quốc hội là nguyên nhân dẫn đến cuộc Nội chiến Anh trong thập niên 1640, và cuộc Cách mạng Vinh quang năm 1688. Tình trạng đối đầu này đã kết thúc trong thời trị vì của William III với sự ra đời của Đạo luật Declaration of Rights năm 1689, Triennal Act năm 1694, và Act of Settlement năm 1701, dành cho Quốc hội nhiều quyền lực hơn. Sự chấp nhận hạn chế Vương quyền của William III đã mở ra một cơ cấu chính trị tự do cho Anh Quốc, "đây sẽ là một kỳ công của thế kỷ XVIII." Các nhà sử học tự do chủ nghĩa thế kỷ XIX như Thomas Babington Macaulay, Nam tước Macaulay thứ nhất coi ông là vị vua vĩ đại nhất trong lịch sử Anh Quốc, với gốc gác Hà Lan được thể hiện qua chính sách tự do tôn giáo của ông. Đến cuối thế kỷ XVII, ông được coi là vượt trội hơn hẳn mọi chính khác châu Âu khác . Năm 1693, William thành lập Đại học William and Mary (nay tại Williamsburg, Virginia). Nassau, thủ đô Bahamas, được đặt tên để vinh danh ông vào năm 1695. Tương tự là Quận Nassau, New York. Long Island từng mang tên Nassau trong thời kỳ cai trị của người Hà Lan. Tước hiệu và huy hiệu Tước hiệu Từ năm 1672, William là "Thống đốc Hà Lan, Thân vương xứ Orange và Công tước xứ Nassau-Dillenburg" Khi trị vì Vương quốc Anh, William và Mary sử dụng danh hiệu "Đức Vua và Nữ vương Anh, Scotland, Pháp và Ireland; Người Bảo vệ Đức tin…" Ngoài ra, William III cũng mang danh hiệu "Vua nước Pháp" do các vị Quốc vương và Nữ vương Anh truyền lại kể từ Edward III bất chấp việc họ không có chút quyền lực nào trên đất Pháp. Huy hiệu Huy hiệu của Vua và Nữ vương là: Quarterly, I and IV Grandquarterly, Azure three fleurs-de-lis Or (cho Pháp) and Gules three lions passant guardant in pale Or (cho Anh); II Or a lion rampant within a tressure flory-counter-flory Gules (cho Scotland); III Azure a harp Or stringed Argent (cho Ireland); overall an escutcheon Azure billetty and a lion rampant Or (cho Nassau). Trong văn hóa nghệ thuật Trong điện ảnh, hình tượng vua William III của Anh từng được nhiều diễn viên thể hiện: Bernard Lee trong The Black Tulip (Hoa tulip đen, 1937), dựa trên tiểu thuyết của Alexandre Dumas Henry Daniell trong Captain Kidd (1945) Olaf Hytten trong Against All Flags (1952) Alan Rowe trong loạt phim kịch của BBC The First Churchills (1969) Laurence Olivier trong Peter the Great ("Pyotr Đại đế") của NBC (1986) Thom Hoffman trong Orlando (1992), dựa trên tiểu thuyết của Virginia Woolf Corin Redgrave trong England, My England (1995), về nhà soạn nhạc Henry Purcell Jochum ten Haaf trong Charles II: The Power & the Passion của BBC (2003) Russell Pate trong King Billy Above All của BBC (2008) The Baroque Cycle (sách nhiều tập) của Neal Stephenson về William of Orange. Gia phả </center> Xem thêm Mary II của Anh Mary, Vương nữ Vương thất Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha Louis XIV của Pháp John Churchill Marlborough Chú thích • a) Vào khoảng thời gian William III sống, có hai lịch được sử dụng ở châu Âu: lịch Julius tại Anh cùng một phần của châu Âu và lịch Gregory ở những nơi khác, bao gồm cả tỉnh của Hà Lan mà William III sinh ra. Lúc William sinh, lịch Gregory vượt trước 10 ngày so với lịch Julius. Do vậy William sinh vào ngày 14 tháng 11 năm 1650 theo lịch Gregory, nhưng vào ngày 4 tháng 11 năm 1650 theo lịch Julius. Ngoài ra, năm mới của người Anh bắt đầu vào ngày 25 tháng 3 (lễ hiện thân của Chúa), không phải 1 tháng 1 (chỉ được áp dụng khi lịch Gregory được dùng ở Anh và Ireland vào năm 1752). Thời điểm William qua đời, lịch Gregory vượt 11 ngày so với lịch Julius. Vì vậy, William mất vào 8 tháng 3 năm 1702 theo lịch Julius – khi đó vẫn được áp dụng ở Anh – nhưng vào 19 tháng 3 năm 1702 theo lịch Gregory. Bài viết này sử dụng ngày theo lịch Julius, trừ những thời điểm được chú thích. Tham khảo Baxter, Stephen B., William III and the Defense of European Liberty, 1650-1702 (1966) ASIN: B000OKZST4 Chapman, Hester W., Mary II: Queen of England (1953) Churchill, Winston. A History of the English-Speaking Peoples: Age of Revolution. Weidenfeld & Nicolson, (2002). ISBN 0-304-36393-6 Claydon, Tony, William III: Profiles in Power (2002) ISBN 0-582-40523-8 Crompton, Louis, Homosexuality and Civilization. Harvard University Press (31-10-2006). ISBN 0-674-02233-5. Davies, Norman, The Isles: A History (1999) ISBN 0-19-513442-7 Israel, Jonathan I., The Dutch Republic: Its Rise, Greatness, and Fall, 1477-1806 (1995) ISBN 0-19-820734-4 Mijers, Esther & Onnekink, David, eds., Redefining William III. The Impact of the King-Stadholder in International Context (Ashgate, 2007) Meinel, Freidrich, Samuel Chappuzeau 1625-1701. Dissertation, University of Leipzig, (1908) Miller, John, James II: A Study in Kingship (1991) ISBN 0-413-65290-4 Robb, Nesca, William of Orange (1962) Troost, Wout, William III, The Stadholder-king: A Political Biography (2005) (translation by J.C. Grayson) ISBN 0-7546-5071-5 Van der Kiste, John, William and Mary (2003) ISBN 0-7509-3048-9 Van der Zee, Henri and Barbara, William and Mary (1973) ISBN 0-394-48092-9 Waller, Maureen, Sovereign Ladies: Sex, Sacrifice, and Power. The Six Reigning Queens of England. St. Martin's Press, New York (2006) ISBN 0-312-33801-5 Liên kết ngoài Correspondentie van Willem III en van Hans Willem Bentinck, eersten graaf van Portland'' Official House of Orange website "King Billy", BBC House of Orange Het Loo Palace Lịch sử Hà Lan Lịch sử Vương quốc Liên hiệp Anh Vua Anh Vua Scotland Thống đốc Hà Lan Thân vương xứ Oranje Tín hữu Trưởng Lão Tín hữu Anh giáo Sinh năm 1650 Mất năm 1702 Bài Anh chọn lọc Vương tộc Oranje-Nassau
Tôn Vũ (545 TCN - 470 TCN) () tên chữ là Trường Khanh, là một danh tướng kiệt xuất của nước Ngô ở cuối thời Xuân Thu, nhờ cuốn binh thư của mình mà được tôn là Tôn Tử, lại bởi hoạt động chủ yếu ở nước Ngô, nên được gọi là Ngô Tôn Tử để phân biệt với Tôn Tẫn (Tề Tôn Tử là người nước Tề ở thời Chiến Quốc). Ông là một trong Mười vị thánh trong lịch sử Trung Quốc. Nguồn gốc Một nghiên cứu gần đây cho rằng, tổ tiên Tôn Vũ là Vĩ Ngao (tự Tôn Thúc), người làng Bạch Thổ, bên hồ Hải Tử thuộc Dĩnh Đô. Đời Sở Trang Vương, được phong làm lệnh doãn (令尹). Sau khi ông mất, theo lời khuyên của lệnh doãn Ưu Mạnh, vua Sở Trang vương phong 400 hộ của đất Tẩm Khâu , cho người con của Ngao để thờ phụng ông. Vài năm sau đó, trong nước xảy ra nội loạn, các hoàng thân tranh giành quyền lực, cộng thêm sự lớn mạnh của các nước chư hầu phía Đông như Ngô, Việt đã mang quân tấn công vào lãnh thổ Sở, chiếm được nhiều đất đai của Sở. Gia tộc họ Vĩ vì không muốn sống trong loạn binh đao, nên đã tị nạn đến đất Lạc An nước Tề (nay là Huệ Dân, tỉnh Sơn Đông), đổi sang họ Tôn để ghi nhớ quê hương gốc tổ ở Tôn Gia sơn. Tôn Vũ có ông tổ là công tử Trần Hoàn người nước Trần chạy nạn sang Tề năm 672 TCN và được phong chức Công Chính Lệnh. Từ đó Trần Hoàn đổi sang họ Điền và gây dựng lên một dòng tộc hưng thịnh, đời nào cũng có chức Khanh đại phu. Cho đến thời Chiến Quốc đã lên ngôi Tề Vương(404TCN). Gia tộc họ Điền còn có Điền Nhương Thư, thuộc chi khác, lớn tuổi hơn Tôn Vũ và làm đến Đại Tư Mã. Một bi kịch lớn trong gia tộc đã khiến ông phải bỏ Tề sang Ngô khi ông khoảng hơn 30 tuổi. Tiểu sử Tôn Vũ tên chữ là Trường Khanh, sinh năm 545 TCN, tức năm Chu Linh Vương thứ 27, Tề Cảnh Công năm thứ 3 ngày 28 tháng 8, người Lạc An nước Tề. Vì nổi loạn nên gia đình phải chạy đến La Phù Sơn ở ngoại thành Cô Tô là kinh đô của nước Ngô, cầy cấy dệt cửi để sinh sống, ông để tâm nghiên cứu binh pháp. Thời gian này Tôn Vũ với Ngũ Tử Tư (trọng thần nước Ngô) kết thành mối quan hệ bằng hữu gắn bó. Ngũ Tử Tư liền tiến cử Tôn Vũ với Ngô vương. Tôn Vũ dâng 13 chương binh pháp lên Ngô vương là Hạp Lư, được Ngô vương rất tán thưởng, Tôn Vũ dùng ngay các cung nữ để diễn tập binh pháp, chém mỹ nhân để thị uy, khiến Ngô vương rất nể vì, lệnh cho làm thượng tướng quân, rồi phong làm quân sư. Tôn Vũ sau đó cùng với Ngũ Tử Tư trợ giúp Ngô vương cải cách chính sự, tăng cường quốc lực. Tư Mã Thiên viết trong Sử Ký: Hạp Lư biết Tôn Tử có tài dùng binh và cho Tôn Tử làm tướng. Phía tây quân Ngô phá nước Sở mạnh, đi vào đất Sính; phía bắc uy hiếp nước Tề, nước Tấn, nổi tiếng ở chư hầu, Tôn Tử có công ở đấy. Tuy nhiên có mấy vấn đề luôn gây ra sự tranh cãi kịch liệt từ trước đến nay; Tôn Vũ sinh vào năm nào, rốt cuộc Tôn Vũ đã thân chinh chỉ huy bao nhiêu trận đánh. Vừa qua giới nghiên cứu lịch sử cổ đại Trung Quốc khi đã nghiên cứu, đối chiếu, tổng hợp, so sánh từ các sử liệu: Ngô Việt Xuân Thu, Việt sắc thư, Tả truyện, Sử ký... đã đưa ra kết luận: Trong sự nghiệp quân sự của mình, Tôn Vũ trực tiếp chỉ huy năm trận đánh và chính năm trận chiến "để đời" này đã góp phần đưa tên tuổi của ông bất hủ cùng thời gian . Lần chỉ huy thứ nhất Tháng 12 năm 512 TCN, khi đó Ngô vương là Hạp Lư ra lệnh cho Tôn Vũ chỉ huy quân tiêu diệt hai nước nhỏ là nước Chung Ly và nước Từ. Trong lần cầm quân đầu tiên này, Tôn Vũ đã xuất sắc hạ gọn hai nước trên đồng thời thừa thắng chiếm được đất Thư thuộc nước Sở, lập công lớn, được Ngô vương ban thưởng. Lần chỉ huy thứ hai Năm 511 TCN, Tôn Vũ lại thống lĩnh ba quân cùng Ngũ Tử Tư, Bá Hi đi chinh phạt nước Sở bởi lý do "Sở vương từ chối không chịu trao thanh bảo kiếm Trạm Lư cho Ngô vương Hạp Lư". Dưới quyền chỉ huy của Tôn Vũ quân Ngô đánh hai trận thắng cả hai, chiếm được hai xứ Lục và Tiềm thuộc đất Sở. Lần chỉ huy thứ ba Năm 510 TCN, lúc này giữa nước Ngô và nước Việt lần đầu tiên xảy ra cuộc chiến tranh quy mô lớn mà sử sách còn ghi lại đó là cuộc "Đại chiến Huề – Lý". Trong cuộc chiến này lần đầu tiên Tôn Vũ đưa ra cách dụng binh Quý hồ tinh bất quý hồ đa trong đánh trận, do vậy chỉ với ba vạn quân với phép dụng binh tài tình của mình, Tôn Vũ đã đánh bại 16 vạn quân nước Việt. Lần chỉ huy thứ tư Năm 509 TCN xảy ra cuộc Đại chiến Dự Chương giữa nước Ngô và nước Sở. Khi đó vua Sở sai con trai là công tử Tử Thường và công tử Tử Phàm dẫn đại quân tiến đánh nước Ngô, nhằm báo thù nỗi nhục mất đất năm xưa. Một lần nữa Ngô vương Hạp Lư lại giao cho Tôn Vũ cầm quân chống giặc. Lần này Tôn Vũ khôn khéo vòng tránh đội quân chủ lực của công tử Tử Thường; dùng lối đánh vu hồi tập kích doanh trại bắt sống công tử Tử Phàm, quân Sở từ thế mạnh, chuyển sang yếu cầm cự chưa đầy một tháng phải rút chạy về nước. Lần chỉ huy thứ năm Hai nước Ngô - Sở một lần nữa xảy ra chiến tranh vào ngày 18 tháng 11 năm 506 TCN sử sách gọi đây là cuộc chiến Bách Cử. Đây là cuộc chiến lớn nhất trong lịch sử hai nước. Lần này quân Sở huy động 25 vạn quân tiến đánh nước Ngô, khí thế báo thù rất sôi sục. Theo kế của Tôn Vũ và Ngũ Tử Tư, vua Ngô bí mật liên kết với hai nước nhỏ là Đường và Sái làm thành liên minh chống Sở. Khi tác chiến, Tôn Vũ triệt để lợi dụng địa hình thuận lợi của hai nước đồng minh để triển khai chiến thuật "Khống chế chính diện", "Tập kích vu hồi mạn sườn" của mình. Sau năm lần giao chiến với quân Sở, Tôn Vũ đều giành thắng lợi. Cuối cùng 3 vạn quân Ngô đã phá tan 25 vạn quân Sở buộc Sở vương phải tháo chạy. Cuối đời Với năm trận đánh "để đời" này, uy danh và tài thao lược quân sự của Tôn Vũ lừng lẫy khắp thiên hạ. Sau khi về đến nước Ngô Hạp Lư luận công ban thưởng, xem ai là người có công đầu trong việc đánh Sở. Người có công đầu chính là Tôn Vũ. Ngô Vương Hạp Lư muốn trọng thưởng nhưng Tôn Vũ không nhận, vừa không muốn làm quan, cũng không muốn nhận một xu nào.Hạp Lư đưa tặng mấy xe vàng lụa, khi đi đường, Tôn Vũ đều đem ban phát cho những dân nghèo khổ, không giữ lại một xu nào. Ông ung dung trở về núi non, tiếp tục viết bộ binh pháp để đời của mình. Chú thích Đọc thêm Mười nguyên lý trong Tôn Tử Binh Pháp ứng dụng vào cuộc sống. DDH. Nhà xuất bản Mũi Cà Mau, 1996. Tôn Ngô Binh pháp. Lê Xuân Mai. Nhà xuất bản Thanh Hoá, 1996. Tôn Tử, thiên tài quân sự. Trương Diên Hồng. Nhà xuất bản Mũi Cà Mau, 1999. Tôn Tẫn binh pháp Tôn Tử binh pháp Tam thập lục kế Tôn Tẫn Ngũ Tử Tư
Agota Kristof (tiếng Hungary: Kristóf Ágota, 30 tháng 10 năm 1935 – 27 tháng 7 năm 2011) là một nhà văn Thụy Sĩ gốc Hungary, viết bằng tiếng Pháp. Tiểu sử Agota Kristof sinh tại Csikvand, Hungary. Năm 21 tuổi bà rời Hungary khi cuộc Cách mạng Công nhân (1956) bị quân đội Xô viết đàn áp. Agota Kristof cùng chồng và đứa con gái 4 tháng tuổi chạy trốn về Neuchâtel, Thụy Sĩ. Cuộc chạy trốn này đã để lại dấu ấn trong một số tác phẩm của bà. Từ năm 1956, bà sống tại vùng nói tiếng Pháp của Thụy Sĩ. Bà có làm việc trong một nhà máy. Agota Kristof khởi đầu sự nghiệp văn chương bằng việc viết kịch, sau viết tiểu thuyết. Các tác phẩm của bà được dịch sang nhiều thứ tiếng. Agota Kristof được biết tới với thành công lớn của bộ ba tiểu thuyết kể về câu chuyện hai anh em sinh đôi Claus, Klaus trong và sau Thế chiến thứ 2: Cuốn sổ lớn (Le Grand Cahier), Chứng cứ (La preuve) và Lời nói dối thứ ba (Le Troisième Mensonge). Bà đoạt Giải thưởng Sách châu Âu (Prix du Livre Européen) cho tập đầu tiên Cuốn vở lớn năm 1987. Năm 1992, Lời nói dối thứ ba được trao giải Prix du Livre Inter. Bộ ba tiểu thuyết này đã được dịch ra tiếng Việt. Năm 2008, bà đoạt Giải quốc gia Áo cho Văn học châu Âu. Tác phẩm Kịch John và Joe (John et Joe, 1972) Chiếc chìa khóa thang máy (La Clé de l'ascenseur, 1977) Un rat qui passe (1972, bản cuối cùng 1984) L'Heure grise ou le dernier client (1975, bản cuối cùng 1984) Tiểu thuyết Cuốn sổ lớn (Le Grand Cahier, 1986), Giải thưởng Sách châu Âu 1987 Chứng cứ (La preuve, còn được dịch Bằng chứng, 1990) Lời nói dối thứ ba (Le Troisième Mensonge) (1992), Giải thưởng Prix du Livre Inter 1992 Ngày hôm qua (Hier, 1995) Người đàn bà mù chữ (L'Analphabète, 2004)
Chương trình tàu vũ trụ sử dụng nhiều lần Buran (Бура́н có nghĩa là "bão tuyết" hay "trận bão tuyết" trong tiếng Nga) được khởi động năm 1976 tại TsAGI như một đối trọng với Chương trình tàu con thoi của Hoa Kỳ. Các nhà chính trị Xô viết tin rằng các tàu vũ trụ sẽ là một vũ khí hiệu quả bởi vì Bộ Quốc phòng Mỹ có tham gia vào dự án, và có thể đặt ra một mối đe doạ tiềm tàng tới sự cân bằng quyền lực trong Chiến tranh Lạnh. Dự án này là lớn nhất và đắt tiền nhất trong lịch sử khám phá vũ trụ Xô viết. Bởi vì chương trình Buran được bắt đầu sau Tàu con thoi Columbia và bởi vì có nhiều điểm tương đồng thị giác giữa các tàu vũ trụ của hai chương trình - một trường hợp làm nhớ lại sự tương đồng giữa hai chiếc máy bay siêu thanh Tupolev Tu-144 và Concorde - nhiều người cho rằng hoạt động tình báo thời Chiến tranh Lạnh đóng một vai trò trong sự phát triển của Xô viết. Tuy nhiên, mọi người cũng biết rằng tuy hình dáng bên ngoài giống như tàu con thoi của Mỹ (vì các luật của khí động học), bên trong tàu của Liên Xô được sắp đặt và phát triển bởi các nhà khoa học Nga. Mặc khác, Các nhà lãnh đạo Liên Xô đã giao nhiệm vụ cho các kỹ sư chế tạo một tàu vũ trụ theo kiểu Mỹ bởi vì người Mỹ đã trải qua một chặng đường dài thử nghiệm và khắc phục những sai lầm. Bảy năm sau khi tàu con thoi Columbia đầu tiên của Mỹ được phóng vào năm 1981, tàu Buran của Liên Xô đã thực hiện chuyến bay huyền thoại. Những khác biệt căn bản so với tàu con thoi của NASA Buran không phải là một phần có tính toàn bộ của hệ thống, mà là một tải trọng cho tên lửa phóng Energia. Các tải trọng khác ngoài Buran, khối lượng lên đến 80 tấn, có thể được tên lửa đẩy Energia nhấc lên, như trong trường hợp phóng đầu tiên của nó. Energia ngay từ đầu được thiết kế để sử dụng vào nhiều mục đích, ngoài việc phóng tàu con thoi. Cấu hình lớn nhất (không bao giờ được chế tạo) có thể đưa 200 tấn lên quỹ đạo. Vì Buran được thiết kế cho cả những chuyến bay có người lái và không người lái, nó có khả năng hạ cánh tự động, kiểu tàu có người lái không bao giờ được dùng. Phần bay vào quỹ đạo không có các động cơ rocket chính, dành không gian cần thiết để mang thêm tải trọng. Kết cấu hình trụ lớn nhất là tên lửa phóng Energia, không chỉ đơn giản là một bình chứa nhiên liệu. Tên lửa đẩy dùng nhiên liệu lỏng (kerosene/oxygen). Tên lửa Energia, gồm các cả động cơ chính, được thiết kế để có thể sử dụng nhiều lần nhưng việc nguồn tài chính dành cho nó bị cắt nên một phiên bản sử dụng nhiều lần của Energia không bao giờ được hoàn thành. Tàu con thoi của NASA có các động cơ chính sử dụng nhiều lần ở phần vào quỹ đạo và tên lửa đẩy dùng nhiên liệu rắn sử dụng nhiều lần, nhưng mỗi lần phóng nó phải thay mới bình nhiên liệu bên ngoài vì bình chứa không thể thu hồi lại được và nó bị đốt bỏ trong khí quyển. Buran ở cấu hình tiêu chuẩn có thể nhấc 30 tấn lên quỹ đạo, so với 25 tấn của tàu con thoi của NASA. Buran có tỷ lệ nâng/lực cản cao: 6,5, so với 5,5 của tàu con thoi của NASA. Buran được thiết kế để có thể mang 20 tấn trọng lượng từ quỹ đạo trở về, so với 15 tấn của tàu con thoi của NASA. Các viên gạch chống nhiệt của Buran và của tàu con thoi Mỹ được xếp đặt khác kiểu nhau. Các kỹ sư Xô viết tin rằng thiết kế của họ ưu việt hơn về nhiệt động. Hệ thống chống nhiệt (TPS) của Buran không có các thanh Carbon-Carbon Tăng cường (RCC) màu xám hay chỏm mũi của STS, chính sự thiệt hại đến các thanh RCC là nguyên nhân chính dẫn tới thảm hoạ tàu Columbia năm 2003. Thành phần của Buran tương đương với Hệ thống Vận chuyển Quỹ đạo (Orbital Maneuvering System) tại tàu con thoi sử dụng nhiên liệu ít độc hại hơn (GOX/Kerosene) và có tính năng hoạt động tốt hơn. Buran được thiết kế để có thể di chuyển tới bệ phóng theo chiều ngang trên các đường ray đặc biệt, và sau đó dựng thẳng đứng lên tại điểm phóng. Điều nay cho phép nó được triển khai nhanh hơn tàu con thoi Mỹ, vốn phải di chuyển theo chiều dọc và vì thế rất chậm chạp. Sự phát triển Chương trình tàu vũ trụ sử dụng nhiều lần của Xô viết bắt đầu từ ngay những ngày đầu tiên của kỷ nguyên vũ trụ, cuối thập niên 1950. Ý tưởng về tàu vũ trụ sử dụng nhiều lần của Xô viết có từ rất lâu dù không mang tính liên tục, cũng không được tổ chức rõ ràng, kiên định mục tiêu. Trước Buran, không có chương trình hay dự án nào tiến tới giai đoạn sản xuất. Sự lặp lại ý tưởng lần đầu là máy bay tên lửa ở khí quyển tầm cao Burya, nó tiến tới giai đoạn sản xuất mẫu thử nghiệm. Nhiều chuyến bay thử nghiệm đã được thực hiện, trước khi nó bị huỷ bỏ theo lệnh của Ủy ban trung ương. Burya có mục tiêu vận chuyển một khối lượng nguyên tử, có lẽ là đến Mỹ, và sau đó quay về căn cứ. Sự huỷ bỏ dự án dựa trên quyết định cuối cùng về việc phát triển ICMB. Lần tiếp sau ý tưởng này được lặp lại bởi Zvezda từ đầu thập niên 1960, có vẻ nó cũng tiến đến giai đoạn sản xuất mẫu thử nghiệm, mặc dù không có chi tiết nào khác về dự án này được biết rõ ràng. Sau Zvezda, đã có một khoảng đứt quãng trong các dự án sử dụng nhiều lần đến tận Buran. Sự phát triển Buran bắt đầu vào đầu thập niên 1970 để đối trọng với chương trình tàu con thoi của Mỹ. Trong khi các kỹ sư Xô viết ưa thích một kiểu phương tiện nhỏ, nhẹ và có thân nhỏ hơn, các nhà lãnh đạo quân đội lại muốn có một bản copy đúng tỷ lệ của tàu con thoi với cánh tam giác trong nỗ lực nhằm giữ vững sự cân bằng giữa các siêu cường. Việc chế tạo các tàu con thoi bắt đầu năm 1980 và tới năm 1984 chiếc Buran đúng tỷ lệ đã xuất xưởng. Chuyến bay thử nghiệm dưới quỹ đạo đầu tiên của mẫu có tỷ lệ nhỏ diễn ra vào khoảng tháng 7 năm 1983. Khi dự án được xúc tiến, thêm năm chuyến nữa diễn ra của mẫu theo tỷ lệ diễn ra. Một phương tiện thử nghiệm được chế tạo với bốn động cơ phản lực ở hai bên, phương tiện này thường được gọi là OK-GLI, hay là "Phiên bản khí động lực tương tự của Buran". Các máy bay phản lực được sử dụng để cất cánh từ một khoảng đường băng thông thường, và sau khi đã tới điểm được chỉ định, các động cơ sẽ bị ngắt và OK-GLI lướt đi để hạ cánh. Việc thử nghiệm này cung cấp các thông tin có giá trị về những đặc thù vận dụng trong thiết kế Buran, và thuận tiện hơn so với cách dùng máy bay thường đưa mẫu lên rồi thả ra như Mỹ và các hãng khác làm để thử nghiệm máy bay. Hai mươi bốn chuyến bay thử nghiệm của OK-GLI được tiến hành và sau đó tàu con thoi đã "rách rưới". Chuyến bay đầu tiên Chuyến bay quỹ đạo đầu tiên và duy nhất (không người lái) của tàu con thoi Buran 1.01 diễn ra lúc 3:00 UTC ngày 15 tháng 11 năm 1988. Nó được đưa lên quỹ đạo bởi tên lửa Energia được thiết kế đặc biệt. Hệ thống cứu mạng các nhà du hành không được lắp đặt và cũng không có phần mềm được cài đặt trên bảng hiển thị CRT. Tàu con thoi này bay quanh Trái Đất hai lần trong 206 phút trước khi quay về, trình diễn một màn tự động hạ cánh ấn tượng ở trên đường băng sân bay vũ trụ Baikonur. Một phần cuộc phóng được đưa lên truyền hình nhưng cảnh tàu rời bệ phóng không được quay. Điều này dẫn đến một số suy đoán rằng sứ mệnh này có thể đã bịa đặt và rằng vụ hạ cánh tiếp sau có thể không phải là từ quỹ đạo mà là từ một máy bay chở tàu vũ trụ. (Cần lưu ý rằng ở Mỹ, hành động này chỉ được sử dụng để kiểm tra các đặc điểm bay của tàu con thoi trong việc tiếp cận và hạ cánh bằng cách sử dụng phương tiện thử nghiệp tiếp cận và hạ cánh của Tàu con thoi Enterprise, vì thế khi nhiệm vụ STS-1 sắp kết thúc, cách thức xử lý đặc điểm của Tàu con thoi Columbia đã được biết đến.) Từ đó, băng video về vụ phóng được giới thiệu với công chúng, xác nhận rằng tàu thật sự được phóng lên, với các điều kiện thời tiết xấu do các phương tiện truyền thông Nga miêu tả dễ nhận thấy vào thời điểm đó. Kết quả Sau chuyến bay đầu tiên dự án bị treo lại vì thiếu ngân sách và tình hình chính trị ở Liên Xô. Hai chiếc tàu vũ trụ sau, dự kiến hoàn thành năm 1990 (thường gọi là Ptichka, nghĩa là "con chim nhỏ") và 1992 không bao giờ hoàn thành. Dự án bị chính thức kết thúc vào ngày 30 tháng 6 năm 1993 bởi Tổng thống Boris Yeltsin. Vào thời điểm nó bị huỷ bỏ, 20 tỷ rúp đã được chi tiêu cho chương trình. Trong khi sự thiếu hụt tài chính được mọi người coi là nguyên nhân dẫn tới sự huỷ bỏ chương trình Buran, vẫn có nhiều lời đồn đại rằng nguyên bản tàu Buran đã bị hư hại khi nó quay trở về sau chuyến bay duy nhất vào vũ trụ dẫn tới việc những vụ phóng sau đó không thể xảy ra được. Các bức ảnh và video về tàu Buran quay về từ quỹ đạo không ủng hộ giả thuyết này. Chương trình Buran được thiết kế với mục đích nâng cao sự tự hào quốc gia, tiến hành nghiên cứu và đạt tới những mục đích kỹ thuật tương tự với chương trình tàu con thoi của Mỹ, gồm cả việc tiếp tế cho trạm không gian Mir, đã được phóng lên năm 1986 và được sử dụng đến tận năm 2001. Khi Mir lần cuối ghép nối với một tàu con thoi, vị khách không phải là Buran mà là một tàu con thoi Mỹ. Buran SO, một module lắp ghép định dùng để ghép nối với trạm vũ trụ Mir, cuối cùng được chỉnh lại để phù hợp với các tàu con thoi của Mỹ trong các nhiệm vụ Tàu con thoi–Mir. Các tàu con thoi đã được hoàn thành 1.01 (11F35 K1, "Buran") và 1.02 (11F35 K2, thường gọi là "Ptichka"), và những thứ còn lại của dự án hiện là tài sản của Kazakhstan. Năm 2002, nhà chứa chiếc tàu Buran 1.01 duy nhất từng bay lên vũ trụ và một mô hình tên lửa Energia sụp đổ vì không được bảo dưỡng thường xuyên, làm hư hỏng con tàu. Tám công nhân cũng thiệt mạng trong vụ sụp mái nhà này. Burans 2.01 (11F35 K3) và 2.02 (11F35 K4) (một serie thứ hai với thiết kế buồng lái đã được sửa đổi, được trang bị các ghế phóng Zvezda K-36RB cho những chuyến bay có người lái) không bao giờ rời khỏi xưởng chế tạo, nhà máy Tushino, và hiện vẫn ở đó trong tình trạng kém. Các phần của các tàu đang được rao bán trên Internet. Chiếc Buran 2.03 (11F35 K5), chỉ được chế tạo từng phần, đã bị tháo dỡ khi chương trình bị đóng lại và không còn tồn tại nữa. Cùng với tám chiếc Buran được "sản xuất", có tám thiết bị thử nghiệm. Chúng được dùng để thử nghiệm sự nhiễu khí quyển hay thử nghiệm khí quyển, và một số thì đơn giản được dùng làm mô hình tử nghiệm lắp ráp điện, quy trình xử lý của đội bay, v.v. Các serie và tình trạng hiện tại OK-M (sau đó OK-ML-1) Thử nghiệm tĩnh điện, hiện ở sân bay vũ trụ Baikonur OK-GLI Thử nghiệm hàng không OK-KS Thử nghiệm điện/tích hợp, hiện ở nhà máy Energia ở Korolev OK-MT (sau đó OK-ML-2) Mô hình kỹ thuật Hiện ở sân bay vũ trụ Baikonur OK-??? Thử nghiệm tĩnh điện, tình trạng không rõ OK-TVI Static heat/vacuum testbed, tình trạng không rõ OK-??? Thử nghiệm tĩnh điện, tình trạng không rõ OK-TVA Thử nghiệm tĩnh điện, hiện ở Công viên Gorky, Moskva Thiết bị thử nghiệm OK-GLI được lắp bốn động cơ phản lực ở phía sau (bình nhiên liệu cho động cơ chiếm một phần tư khoang chứa hàng). Chiếc Buran này có thể cất cánh bằng lực đẩy riêng của mình cho các chuyến bay thử nghiệm, trái ngược với các thiết bị thử nghiệm Mỹ, hoàn toàn không có lực đẩy riêng phải được phóng từ trên không. Sau khi chương trình bị huỷ bỏ, OK-GLI được cất giữ ở căn cứ không quân Zhukovsky, gần Moskva, và cuối cùng được một công ty Úc mua lại. Nó được chuyển bằng tàu thủy về Sydney, Úc qua Gothenburg, Thụy Điển — tới nơi vào ngày 9 tháng 2 năm 2000 – và xuất hiện như một thứ để thu hút khách du lịch bên dưới một kết cấu tạm ở cảng Darling trong vài năm. Các vị khách có thể đi quanh và chui vào trong (một lối đi được làm dọc theo khoang chứa hàng), và đang có kế hoạch kéo nó đi quanh các thành phố ở Úc và châu Á. Tuy nhiên, người sở hữu bị phá sản và thiết bị chuyển ra ngoài trời, nó hiện đang bị hư hỏng và bị phá hoại. Tháng 9 năm 2004 một đội nhà báo người Đức tìm thấy tàu con thoi gần Bahrain. Nó được Bảo tàng Sinsheim Auto & Technik mua lại, nhưng vẫn chưa được chuyển về Đức. Vụ tai nạn năm 2003 của tàu con thoi Mỹ làm nhiều người tự hỏi liệu tên lửa phóng Energia hay tàu Buran của Nga có thể được tái sử dụng. Tuy nhiên, tới lúc đó tất cả các thiết bị cho cả hai thứ (gồm cả các thân tàu) đã ở trong tình trạng ọp ẹp hay bị sử dụng vào mục đích khác sau khi bị bỏ đi sau sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết. Buran trong khoa học viễn tưởng Tàu con thoi Buran, cùng với chương trình tàu vũ trụ khác của Xô viết, Spiral, được sử dụng trong tiểu thuyết "Zvezdy - holodnie igrushki" (Các ngôi sao là những đồ chơi lạnh giá) của Sergei Vasiljevitch Lukyanenko. Được trang bị một "động cơ nhảy" viễn tưởng, Buran là một trong những phương tiện đầu tiên để thực hiện thương mại liên sao với người hành tinh khác. Giống với kiểu cốt truyện đặc trưng về tàu vũ trụ vốn là điển hình của khoa học viễn tưởng phương Tây. Tuy nhiên, có khả năng dù nước nào hay liên minh nào đảm nhận chuyến bay có người lái vượt qua vành đai van Allen của Trái Đất, họ sẽ sử dụng khí cụ vũ trụ truyền thống chứ không dùng các máy bay vũ trụ. Tàu con thoi Buran cũng lên phim trong một trò chơi video Rainbow Six, phiên bản mở, Eagle Watch.
{{Infobox Greek deity | Image = Jupiter Smyrna Louvre Ma13.jpg | Caption = Tượng Jupiter de Smyrne, phát hiện năm 1680 tại Smyrna. | Name = Zeus | native_name = | God_of = Chúa tể các vị thầnThần của bầu trời, sấm sét, pháp luật, trật tự, công bằng | Abode = Đỉnh Olympus | Symbol = Sấm sét, đại bàng, bò và sồi | Consort = Hera và nhiều người tình khác | Parents = Cronus và Rhea | Siblings = Poseidon, Hades, Demeter, Hestia, Hera | Children = Ares, Athena, Apollo, Artemis, Dionysus, Hebe, Hermes, Heracles, Helen, Hephaestus, Perseus, Minos, các nữ thần Muse, Tyche và Elisa | Mount = Olympus | Roman_equivalent = Jupiter | Norse_equivalent = Thor | Hindu_equivaleny = Ân Đà La }}Zeús, hay Dzeús (tiếng Hy Lạp: Ζεύς, đọc là thần Dớt) hay Dias (tiếng Hy Lạp: Δίας), còn gọi là thần Sấm Sét, là thần trị vì các vị thần và là thần của bầu trời cũng như sấm và sét trong thần thoại Hy Lạp. Zeus được coi tương đương như thần Jupiter trong thần thoại La Mã, một trong những vị thần tối cao. Thần thoại về Zeus và sức mạnh của Zeus là tương tự, mặc dù không giống với thần thoại của các vị thần Ấn-Âu như Jupiter, Perkūnas, Perun, Indra, Dyaus và Thor. Entry: "Dyaus". Từ nguyên Tiếng Hy Lạp là một ngôn ngữ có sự biến tố cách ngữ pháp. Vì lẽ đó, danh từ Zeus sẽ thay đổi tùy thuộc vai trò của nó trong câu, cụ thể như sau: danh cách: Ζεύς (Zeús); hô cách: Ζεῦ (Zeû); đối cách: Δία (Día); sinh cách: Διός (Diós); tặng cách: Διί (Dií). Danh từ Zeus có căn nguyên từ *Di̯ēus, tên của vị thần trời và ban ngày trong thần thoại Ấn-Âu nguyên thủy, còn được gọi là *Dyeus ph2tēr (nghĩa là "Cha trời").R. S. P. Beekes, Etymological Dictionary of Greek, Brill, 2009, tr. 499. Những vị thần chung gốc với Zeus ở các tôn giáo Ấn-Âu khác là Dyáus/Dyaus Pita trong Rigveda (tiếng Phạn Vệ Đà) và Jupiter hay Iuppiter trong thần thoại La Mã (tiếng Latinh, bắt nguồn từ dạng hô cách của từ nguyên *dyeu-ph2tēr). Tóm lại đều bắt nguồn từ căn tố *dyeu- (nghĩa là "rạng sáng, ban mai" hay "bầu trời/thiên/thần"). Zeus là vị thần duy nhất thuộc gia phả Ô-Lim mà ta có thể dễ dàng nhận ra ngay gốc từ nguyên Ấn-Âu như vậy. Zeus được nhắc đến sớm nhất trong các bảng kim thạch viết bằng chữ Linear B thời kì Mykenai là 𐀇𐀸 di-we hay 𐀇𐀺 di-wo. Sơ khởi Zeus là sự tiếp nối của Dyēus, vị thần tối cao trong tôn giáo Tiền Ấn-Âu, và tiếp tục hóa thân thành Dyaus Pitar trong Rigveda (hay Jupiter) cũng như thành Tyr (Ziu, Tiw, Tiwaz) trong thần thoại Đức và thần thoại Bắc Âu. Tuy nhiên, Tyr sau đó đã bị Odin chiếm ngôi vị cao nhất trong các bộ lạc Đức cổ và họ không đồng nhất Zeus/Jupiter với Tyr hay Odin, mà là với Thor. Ngoài sự kế thừa trong hệ Ấn-Âu, Zeus còn có nguồn gốc từ những hình tượng tiêu biểu trong các nền văn hóa Cận Đông cổ đại, chẳng hạn như là vương trượng. Zeus được các nghệ sĩ Hy Lạp hình dung chủ yếu trong hai tư thế: đứng, tay phải giơ cao cầm lưỡi tầm sét hoặc là ngồi uy nghi. Vai trò và các tên gọi Zeus đóng một vai trò thống trị, lãnh đạo tất cả các vị thần trên đỉnh Olympus của Hy Lạp cổ đại. Zeus đã sinh ra rất nhiều các anh hùng và anh thư (xem danh sách ở cuối trang) và xuất hiện trong rất nhiều các câu chuyện của họ. Dù trong tác phẩm của Homer, "người gom mây" chính là Cha Trời, thần của bầu trời và sấm sét giống như nguồn gốc từ khu vực Cận Đông, Zeus cũng là một tạo tác văn hóa tối thượng: xét về nghĩa nào đó, Zeus là hiện thân của tín ngưỡng tôn giáo Hy Lạp và là vị thần nguyên mẫu của Hy Lạp. Các tên gọi hay tước hiệu của Zeus càng khẳng định các khía cạnh khác nhau trong quyền năng to lớn của vị thần này: Olympios: thể hiện vương quyền của Zeus đối với các vị thần cũng như lễ hội tôn giáo toàn Hy Lạp tại Thung lũng Olympia. Một tên gọi có liên quan là Panhellenios (Zeus của người Hy Lạp) và đã được thờ tại ngôi đền nổi tiếng nhất của vua Aiakos trên đảo Aegina. Xenios: với tên gọi này, Zeus là vị thần của lòng hiếu khách, luôn sẵn sàng để trừng phạt những hành vi sai trái đối với những người khách lạ. Horkios: với tên gọi này, Zeus là người giữ các lời thề. Những kẻ nói dối bị phát hiện phải dâng một bức tượng cho Zeus, thường là tại thánh đường ở Olympia. Agoraios: Zeus là người coi sóc việc kinh doanh tại các agora (khu chợ, nơi tụ tập của nhân dân trong các thành bang Hy Lạp cổ đại), và ông sẽ trừng phạt những thương nhân thiếu trung thực. Sự sùng bái của người Hy Lạp đối với Zeus Thung lũng Olympia là trung tâm mà nơi đó người Hy Lạp thờ cúng các vị thần trên đỉnh Olympus. Điểm đặc biệt của nơi đây là nguồn gốc của Thế vận hội được tổ chức mỗi 4 năm một lần. Ở đây cũng có một bệ thờ của Zeus nhưng không phải làm bằng đá mà làm bằng tro của các con vật dùng để hiến tế ròng rã qua nhiều thế kỷ bao gồm bò, cừu, dê,... nhưng chủ yếu là bò trắng. Ngoài các trung tâm thờ cúng liên thành bang, còn có những hình thức sùng bái Zeus khác có thể tìm thấy trong khắp thế giới Hy Lạp. Ví dụ như, hầu hết những tên gọi trên đều có thể được tìm thấy tại bất kỳ một ngôi đền Hy Lạp nào từ Tiểu Á đến vùng Sicilia. Các hình thức cúng tế cũng có điểm chung: giết một con vật có lông trắng trên một bệ thờ cao. Mặt khác, các thành bang khác cũng có những hình thức sùng bái Zeus rất khác biệt. Một số hình thức sùng bái địa phương Bên cạnh những tên gọi và ý niệm đã được nói ở trên, các hình thức sùng bái Zeus ở các địa phương cũng có những ý tưởng riêng của họ về vị vua của các thần và con người, ví dụ như: Zeus của người dân đảo Crete Trên đảo Crete, Zeus được thờ ở một số hang động tại Knossos, Ida và Palaikastro. Những câu chuyện của Minos và Epimenides cho thấy rằng những hang động này đã từng được nhiều vua và thầy tế lễ dùng như những nôi sinh (incubatory) cho các tiên tri thần thoại của họ. Trên đảo Crete, hình tượng Zeus được thể hiện là một thanh niên tóc dài chứ không phải là một người đàn ông trưởng thành và được ca tụng là ho megas kouros ("người thanh niên vĩ đại"). Đối với Kouretes, một nhóm các vũ công đặc biệt, Zeus là người chịu trách nhiệm cho việc huấn luyện về quân sự - thể thao khắc nghiệt cũng như các nghi thức bí mật của quá trình paideia (một quá trình rèn luyện cho thanh niên trở thành những con người thật sự với những bản chất tự nhiên xác thực) của người dân đảo Crete. Tác giả người Hy Lạp Euhemerus đề xuất một thuyết cho rằng Zeus thật ra là một vị vua vĩ đại của đảo Crete và sau khi mất thì chính thanh danh vĩ đại của ông đã giúp ông hóa thành thần. Các công trình của Euhemerus ngày nay đã không còn nữa nhưng các cha giáo lý của Kitô giáo đã tiếp tục công việc này. Zeus Lykaios của Arcadia Tên gọi Lykaios xét về mặt hình thái có liên hệ với lyke (có nghĩa là "sự rực rỡ, sáng sủa"), và trông nó còn rất giống lykos (có nghĩa là "con sói"). Sự đa nghĩa này được phản ánh trong hình thức sùng bái Zeus rất khác lạ của các bộ lạc ở những vùng xa xôi, hẻo lánh của Arcadia, nơi mà vị thần này mang một dạng vừa trong sáng vừa có các đặc điểm của chó sói. Thêm nữa, vị thần này trị vì đỉnh Lykaion ("ngọn núi rực rỡ") là ngọn núi cao nhất ở Arcadia và ở trong một khu vực bóng tối không thể nào đến được (theo Pausanias 8.38). Mặt khác, thần còn có mối liên hệ với Lycaon ("người sói") là người mà các tộc ăn thịt người cổ xưa thờ cúng với các nghi thức định kỳ rất bí hiểm và kỳ quặc. Theo Platon (Republic 565d-e), một bộ lạc cụ thể sẽ tập trung tại ngọn núi và tiến hành lễ hiến tế cho Zeus Lykaios mỗi 8 năm một lần. Một miếng ruột người sẽ được trộn lẫn với ruột của động vật và người ta tin rằng bất cứ ai ăn phải miếng ruột người đó sẽ hóa sói và chỉ có thể thành người trở lại nếu trong suốt thời gian 8 năm cho đến lễ hiến tế lần sau anh ta không ăn miếng thịt người nào nữa. Zeus dưới lòng đất Dù từ nguyên của Zeus là vị thần của bầu trời nhưng nhiều thành bang Hy Lạp lại thờ một thần Zeus sống dưới đất. Thành bang Athena và Sicilia thờ thần Zeus Meilichios ("tốt bụng" hay "ngọt ngào") trong khi một số thành bang khác thờ thần Zeus Chthonios ("Trái Đất"), Katachthonios ("dưới lòng đất") và Plousios ("mang lại thịnh vượng"). Các vị thần này có thể được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau như là rắn hay là người trong các tác phẩm điêu khắc và hội họa. Họ cũng nhận các vật hiến tế là một con vật có lông đen bị giết trong các hố sâu như là các thần ở âm phủ Persephone và Demeter, và các anh hùng ở mộ của họ. Trong khi đó, ngược lại, các thần trên đỉnh Olympus thường được cúng tế bằng con vật có lông trắng và người ta giết chúng trên một bệ thờ cao. Trong vài trường hợp, các thành bang cũng không hoàn toàn xác định được là "con vật" bị giết là hiến tế cho một vị anh hùng hay cho Zeus dưới lòng đất. Do đó, đền thờ tại Lebadaea thuộc Boeotia có thể là nơi thờ vị anh hùng Trophonius hoặc là thờ Zeus Trephonius ("đấng nuôi nấng") tùy thuộc vào việc viện dẫn nguồn sử liệu nào: của Pausanias hay của Strabo. Người anh hùng Amphiaraus được thờ như là Zeus Amphiaraus tại Oropus nằm ngoài Thebes, và người Sparta thậm chí còn có đền thờ Zeus Agamemnon. Đền thờ thần Zeus Hầu hết các khu đền thờ thường thờ thần Apollo, các anh hùng hay các nữ thần khác như Themis, nhưng vẫn có một số đền thờ thần Zeus. Đền thờ ở Dodona Sự sùng bái thần Zeus tại Dodona thuộc Epirus, nơi có những bằng chứng cho thấy sự hiện diện của các hoạt động tôn giáo ở đây từ thiên niên kỷ thứ 2 trước Công nguyên, tập trung xung quanh một cây sồi thiêng. Khi thiên sử thi Odyssey được sáng tác (vào khoảng năm 750 TCN), nơi đây đã có những lời tiên tri của các nhà tu chân đất được gọi là Selloi là những người nằm trên mặt đất và quan sát những chuyển động rì rào của lá và cành cây sồi (Odyssey 14.326-7). Khoảng thời gian mà Herodotus viết về Dodona, các nữ tu gọi là peleiades ("sứ giả của hòa bình") đã thay thế các nhà tu Selloi. Tại đền thờ Dodona, vợ của Zeus không phải là Hera mà là nữ thần Dione - Dione là tên dạng giống cái của "Zeus". Vị trí của nữ thần là một nữ thần khổng lồ Titan cho thấy nữ thần Dione là một vị thần rất nhiều quyền năng thời tiền Hy Lạp và nguyên thủy khu đền thờ này được dùng để thờ bà. Đền thờ ở Siwa Đền thờ Ammon ở ốc đảo Siwa trong vùng sa mạc phía Đông của Ai Cập vốn không thuộc biên giới của Hy Lạp cho đến thời của Alexander Đại đế nhưng đã phổ biến trong tâm thức của người Hy Lạp suốt thời cổ đại: Herodotus đã đề cập đến sự tư vấn giúp đỡ của Zeus Ammon trong bài viết của ông về Chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư. Zeus Ammon đặc biệt ủng hộ cho thành bang Sparta nơi có một đền thờ ông vào thời của cuộc chiến Peloponnesian (Pausanias 3.18). Sau khi Alexander thực hiện một chuyến đi vất vả vào sa mạc để xin ý thần tại đền thờ ở Siwa, vị thần trả lời là Libyan Sibyl. Các đền thờ khác của Zeus Các thần Zeus (hay anh hùng) thuộc âm phủ Trophonius và Amphiaraus đều được cho rằng đã có những sấm truyền tại đền thờ mình. Zeus và các vị thần Zeus tương đương với thần Jupiter của La Mã (từ Jovis Pater hay "Father Jove'") và liên quan đến những liên tưởng cổ xưa về thuyết Hỗn mang (xem interpretatio graeca) cùng với các vị thần khác như là Ammon của thần thoại Ai Cập và Tinia của thần thoại Etrusc. Zeus (cùng với Dionysos) đã đảm nhận vai trò của vị thần đứng đầu của Phrygia là thần Sabazios trong các vị thần của thuyết Hỗn mang mà ở thời La Mã người ta gọi là Sabazius. Thần thoại về Zeus Ra đời Cronus cùng với Rhea trước khi sinh ra Zeus đã hạ sinh rất nhiều con: Hestia, Demeter, Hera, Hades, Poseidon, nhưng tất cả đều bị Cronus nuốt vào bụng ngay khi mới ra đời; vì Cronus lo sợ những gì học được từ bài học của cha mẹ hắn là Uranus và Gaia, vốn đã bị chính hắn tước ngôi, cùng một lời sấm rằng sẽ có một đứa con ra đời và đoạt ngôi của Cronus. Khi Zeus chuẩn bị được sinh ra đời, Rhea xin với Gaia tìm cách cứu đứa bé và như thế Cronus mới có thể bị trừng phạt bởi những gì hắn đã làm với cha và những đứa con của mình. Rhea sinh ra Zeus ở đảo Crete và bà chỉ trao cho Cronus một tảng đá quấn trong đám tã lót. Cronus đã nuốt ngay tảng đá ấy và nghĩ Zeus đã nằm trong bụng, còn Rhea đã đem Zeus đến cạnh một cái hang ở đảo Crete. Thời thơ ấu Rhea giấu Zeus trong một hang động trên đỉnh Ida của đảo Crete. Có nhiều dị bản như sau: Thần được bà nội Gaia nuôi dưỡng. Thần được một con dê tên là Amalthea nuôi dưỡng, trong khi một nhóm các Kouretes - các chiến binh hay các thần nhỏ - nhảy múa, la hét và lấy giáo đập vào khiên ầm ĩ làm át đi tiếng khóc của em bé. (xem cornucopia.) Thần được một tiên nữ tên là Adamanthea nuôi dưỡng. Bởi vì Cronus là người cai quản cả mặt đất, bầu trời và biển cả nên Adamanthea phải giấu Zeus bằng cách treo lủng lẳng cậu bé trên một cái cây để cậu lơ lửng giữa đất, trời và biển. Và như thế, Zeus trở thành vô hình trước mắt Cronus. Thần được nuôi dưỡng bởi tiên nữ Cynosura. Để tỏ lòng biết ơn, Zeus đã đặt tên tiên nữ cho các vì sao. Thần được tiên nữ Melissa nuôi bằng sữa dê. Zeus trở thành vua của các thần Khi bước vào tuổi trưởng thành, Zeus đã buộc Cronus phải nôn ra trở lại những người anh chị của mình: đầu tiên là hòn sỏi thế mạng của Zeus (sau này được đặt tại Pytho trong khu Thung lũng của Parnassus để làm dấu hiệu cho những người chết) và cuối cùng là Pmphalos. Theo một số dị bản khác, nữ thần Metis đã cho Cronus uống một thứ thuốc gây nôn để buộc hắn nôn ra những đứa trẻ hoặc là chính Zeus đã mổ dạ dày của Cronus để giải thoát cho anh chị mình. Zeus còn giải thoát cho cả các chú bác của mình, những người anh em của Cronus vốn bị nhốt dưới Tartarus (Vực thẳm), là Gigantes, Hecatonchires và Cyclopes bằng cách giết chết người coi ngục là nữ quỷ Campe. Để trả ơn, Cyclopes đã cho Zeus sấm và sét là những quyền năng mà trước đây đã bị Gaia giấu đi. Rồi cùng với nhau, Zeus và các anh chị cũng như các Gigantes, Hecatonchires và Cyclopes đã đánh bại Cronus và những thần khổng lồ Titan khác trong một cuộc chiến gọi là Titanomachy. Các thần khổng lồ Titan bại trận sau đó lại bị nhốt vào lòng đất tăm tối là Tartarus. Sau trận chiến với các Titan, Zeus chia sẻ thế giới với các anh của mình là Poseidon và Hades bằng cách rút thăm: Zeus cai trị bầu trời và không khí, Poseidon thì có mặt nước và Hades là vua của âm phủ. Mẹ Đất cổ đại là Gaia không còn vai trò nữa mà nhường lại cho ba người (cháu nội) tùy theo quyền năng của mỗi người - điều này giải thích vì sao Poseidon lại được gọi là "người gây động đất" (vị thần của động đất) và Hades quản lý tất cả những người chết. (Xem thêm Penthus) Gaia rất phẫn nộ với những gì mà Zeus đã làm với các Titan khác vì họ chính là con cái của bà (và là chú bác của Zeus). Chẳng bao lâu sau khi lên ngôi Vua của các vị thần, Zeus lại phải chiến đấu với các người con khác của Gaia là các quái thú Typhon và Echidna. Thần Zeus đã đánh bại Typhon và nhốt dưới một ngọn núi nhưng lại tha cho Echidna và con cái để làm thành thử thách cho các anh hùng trong tương lai. Zeus và Hera Zeus là em trai và là chồng của Hera. Kết quả của sự kết hợp này là thần Ares, Hephaistos, Eileithyia và Hebe. Những cuộc phiêu lưu tình ái khác của Zeus với các tiên nữ, mỹ nhân loài người và những tổ tiên huyền thoại của các Triều đại Hy Lạp thì vô cùng nổi tiếng. Thần thoại về các vị thần trên đỉnh Olympus thậm chí còn ghi lại mối quan hệ của Zeus với các nữ thần Demeter, Latona, Dione và Gaia. Đối với con người thì có: Semele, Io, Europa và Leda... Trong các giai thoại, Hera luôn luôn ghen tuông trước những cuộc chinh phục tình ái của Zeus và là một đối thủ "khó xơi" của các tình nhân và các con riêng của Zeus. Có một thời gian, một tiên nữ tên là Echo muốn tách Hera ra khỏi chuyện yêu đương của Zeus bằng cách nói không ngừng nghỉ bên Hera. Khi biết được âm mưu này, Hera đã trừng phạt Echo phải suốt đời lặp lại những lời người khác nói. Vợ và các con Các người vợ là thần Người phàm/tiên nữ/những người khác Các giai thoại khác về Zeus Dù có khi Zeus cũng nhỏ nhen và hiểm độc nhưng thần cũng là người công bằng. Có thể minh chứng rõ ràng nhất cho điều này là thần đã giúp đỡ cho vua Atreus và việc thần giết chết Capaneus vì sự kiêu ngạo của ông này. Thần cũng là người bảo vệ cho những người khách lạ, những người du hành đối với những ai muốn làm hại họ. Zeus biến Pandareus thành một hòn đá vì tội đã dám trộm cắp một con chó bằng đồng thiếc từ một trong những ngôi đền thờ thần ở đảo Crete. Zeus giết Salmoneus bằng một tia sét vì đã cố ngang hàng với Zeus bằng cách cưỡi một cỗ xe ngựa bằng đồng thiếc và giả làm ra sấm ầm ĩ. Khi còn là một đứa trẻ, Zeus có một người bạn là Celmis. Nhiều năm sau đó, Hera bị xúc phạm bởi trò hề của Celmis nên bà đã yêu cầu Zeus biến anh ta thành một cục sắt hay kim cương và Zeus đã làm điều đó. Zeus biến Periphas thành một con đại bàng sau cái chết của ông này như một phần thưởng cho sự chính trực và công bằng. Tại lễ cưới của Zeus và Hera, một tiên nữ tên là Chelone đã từ chối tham dự và Zeus buộc tiên nữ này phải im lặng vĩnh viễn. Khi Memnon chết, Zeus cảm thấy thương xót mẹ ông ta là Eos, nữ thần bình minh và ban phép cho ông ta thành bất tử. Zeus quyết định gả Aphrodite cho Hephaestus để tránh các cuộc tàn sát lẫn nhau giữa các thần mê đắm nhan sắc của nữ thần sắc đẹp. Zeus và Hera biến vua Haemus và hoàng hậu Rhodope thành những ngọn núi (các ngọn núi vùng Balkan, hay Stara Planina và các ngọn núi Rhodope theo thứ tự) vì tính tự cao tự đại của họ. Zeus biến Atalanta và Hippomenes (hay Melanion) thành sư tử vì họ đã có hành vi tính dục trong đền thờ của thần. Zeus làm Tiresias mù nhưng đồng thời cũng ban cho ông ta món quà là khả năng tiên tri (dù theo một số bản khác thì chính Hera mới là người làm cho Tiresias bị mù). Zeus trừng phạt Hera bằng cách treo bà bằng các ngón chân lơ lửng giữa trời. Zeus trừng phạt Prometheus bằng cách xiềng Prometheus vào một ngọn núi và hàng ngày cho con đại bàng của mình xuống mổ bụng, ruột gan vì Prometheus đã lấy trộm lửa của các vị thần rồi trao cho con người. Zeus thỉnh thoảng biến thành đại bàng và bắt các chàng trai đẹp lên đỉnh Olympus làm người hầu rượu cho các vị thần trong các bữa tiệc. Zeus trong Chủ nghĩa thờ thần mới Rất khác so với vai trò trong thần thoại cổ đại, những người theo Chủ nghĩa thờ thần mới chỉ xem Zeus là một kẻ bù nhìn. Hầu hết họ phủ nhận các truyền thuyết cổ đại về thần Zeus và thần hầu như không được tôn thờ. Dù có nhiều người xem Zeus là "Vua" hay "Vua Bù nhìn" quản lý tất cả các vị thần trên đỉnh Olympus nhưng đối với họ Zeus đóng một vai trò ít quan trọng hơn nhiều so với Gaia và các thần khổng lồ Titan khác là những người mà họ tin rằng không hề bị giam cầm dưới Tartarus. Quyền năng và ảnh hưởng của thần Zeus theo họ là ít quan trọng hơn so với Hades và những thần khác có liên quan trực tiếp đến đời sống sau khi chết. Nhiều người theo chủ nghĩa thờ thần mới cho rằng Hades có những quyền năng mạnh hơn rất nhiều so với Zeus và các quyết định cũng như sự cai trị của ông, đặc biệt là với những người đã chết, thường làm cho các tác động của Zeus trở nên yếu đi. Những người này thậm chí bao gồm cả những người thờ thần Zeus cũng thường có suy nghĩ như thế nên thường bỏ qua hay chỉ đơn giản gộp chung Zeus vào các vị thần khác do các mối quan hệ của ông trong thần thoại. Hầu như không có sự tương thích nào giữa các thần thoại cổ đại và nhận thức hiện đại của những người theo Chủ nghĩa thờ thần mới''. Nhìn chung có thể thấy rằng những ý niệm hiện đại của Chủ nghĩa thờ thần mới về Zeus là New Age và không thể tìm thấy trong bất cứ một tư liệu lịch sử hay thần thoại cổ đại nào. Sự sùng bái Zeus đôi khi gắn liền với việc đốt dầu hay thường hơn là chỉ có những đề cập thoáng qua về Zeus trong vai trò là người cai trị của đỉnh Olympus hay là chồng của Hera (một vị thần phổ biến hơn nhiều trong Chủ nghĩa thờ thần mới).
Lý Hạ (chữ Hán: 李贺; 790/791 – 816/817) là một nhà thơ sống vào thời Trung Đường. Ông có tên tự là Trường Cát, còn có các biệt hiệu Thi Quỷ và Quỷ Tài. Lý Hạ bị cấm tham gia khoa cử vì phạm vào tội húy kỵ. Ông qua đời khi tuổi còn rất trẻ và được miêu tả là có ngoại hình ốm yếu. Lý là một nhà thơ rất chuyên cần, ông thường đi du ngoạn vào ban ngày và mỗi khi nảy ra một câu thơ, ông ghi lại nó và hoàn tất bài thơ lúc ông đặt chân về nhà vào buổi tối. Những tác phẩm của ông nổi tiếng là khai thác về đề tài kỳ quái, ma quỷ và siêu nhiên. Danh tiếng và tên tuổi của Lý Hạ trong nền văn học Trung Quốc đã được lưu truyền suốt nhiều thế kỷ. Vào thời nhà Thanh, các hậu bối tại Trung Quốc đã học theo phong cách thơ có một không hai của ông. Dưới triều Thanh, danh tiếng làm thơ của ông đã vấp phải thay đổi lớn trong thị hiếu văn học khi những tác phẩm của ông bị lược khỏi cuốn Đường thi tam bách thủ nổi tiếng, tuy nhiên những người yêu thơ dần tái chú ý đến ông trong thế kỉ 20. Lý Hạ là một trong số những nhà thơ Đường được Mao Trạch Đông ngưỡng mộ nhất. Cuộc đời Tư liệu Chương 137 trong cuốn Cựu Đường thư và chương 203 trong cuốn Tân Đường thư đều ghi chép ngắn gọn, vắn tắt về cuộc đời của Lý Hạ. Một nhà thơ đương thời là Lý Thương Ẩn cũng viết một cuốn tiểu sử mang tên Lý Hạ tiểu truyện (). Năm 831, thi sĩ Đỗ Mục viết lời tựa cho tập thơ của Lý Hạ có nhan đề Lý Hạ tập tự (, với nội dung bị lược bỏ nhiều hơn so với tác phẩm của Lý Thương Ẩn, nhưng đem đến rất ít thông tin về tiểu sử mà chủ yếu khai thác sâu vào sức hấp dẫn trong thơ của Lý. Tất cả những bản chép sử chính thức đều chịu ảnh hưởng lớn từ hai tác phẩm kể trên, trong đó đặc biệt là bản chép của Lý Thương Ẩn. Xuất thân Gia đình của Lý Hạ có dòng dõi hoàng tộc từ lâu đời (họ Lý là gia tộc cai trị đất nước dưới triều Đường), nhưng gia tài của nhánh tộc Lý Hạ vốn đã bị suy vi từ sớm, do đó vào thời của thi sĩ này họ chỉ đứng ở cấp bậc thấp. Cả hai bộ quốc sử triều Đường thường xem ông là "hậu duệ của Trịnh Vương", nhưng lại nảy ra tranh cãi về danh tính của Trịnh Vương. Một vài học giả ủng hộ giả thuyết rằng gốc gác của Lý có liên quan đến Lý Lượng (sống dưới thời nhà Tùy) là một người chú của Lý Uyên, hoàng đế nhà Đường đầu tiên. Có giả thuyết khác cho rằng dòng dõi của vị thi sĩ có liên hệ tới Lý Nguyên Ý, con trai thứ 13 của Lý Uyên. Những năm đầu đời Lý Hạ sinh vào năm 790 hoặc 791. Dường như Lý chào đời vào năm Ngọ, vì 23 trong số các bài thơ còn sót lại của ông đều dùng con ngựa làm biểu tượng cho ông. Ông là người gốc huyện Phúc Xương, tức phía Tây huyện Nghi Dương, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc ngày nay. Lý bắt đầu sáng tác thơ từ năm 7 tuổi, đến năm 15 tuổi ông được đem so sánh với danh sĩ nhạc phủ Lý Ích. Sự nghiệp chính trị Năm 20 tuổi, Lý Hạ cố gắng tham gia khoa cử, nhưng rồi bị cấm thi vì phạm vào húy kỵ: tên cha ông, Lý Tấn Túc có từ "Tấn" đồng âm với từ "Tiến" trong Tiến sĩ, chức vị ông sẽ được sắc phong nếu đỗ đạt. Cuốn học thuật Ueki et al. (1999) suy đoán rằng đây là một cái cớ mà các đối thủ của Lý – những kẻ đố kị với tài năng thi ca của ông bày ra, nhằm ngăn vị thi sĩ dự thi. Một danh sĩ nổi tiếng đương thời là Hàn Dũ vì mến tài ông mà viết bài Húy biện (諱弁) để dâng lên nhưng vẫn không thể giúp Lý dự thi. Thế là ông chỉ giữ chức quan nhỏ Phụng lễ lang (奉禮郎; trông coi về nghi lễ) trong 3 năm trước khi từ quan về quê nhà. Bệnh tật và qua đời Lý Hạ được miêu tả là một người có ngoại hình rất ốm yếu, với thân hình mảnh khảnh, đôi lông mày liền nhau và để móng tay dài. Lý trút hơi thở cuối cùng lúc đang giữ một chức quan nhỏ và gia cảnh nghèo khó vào năm 816 hoặc 817, thọ 26 hoặc 27 tuổi. Cuốn Lý Hạ tiểu truyện kể rằng vào canh giờ mà Lý qua đời, ông được một nhân vật mặc áo lụa đào ghé thăm; người này nói với vị thi sĩ rằng Thượng đế đã cho gọi ông lên thiên đàng để làm thơ. Các tên gọi Tên tự của Lý Hạ là Trường Cát, đôi khi ông còn được gọi với cái tên ghép từ họ và tên tự là Lý Trường Cát. Người đời cũng mệnh danh ông là Quỷ Tài (鬼才), với lối làm thơ đối lập với Thiên Tài (天才) Lý Bạch và Nhân Tài (人才) Bạch Cư Dị. Biệt hiệu này do học giả thời nhà Tống Tiền Dị (錢易) đặt cho Lý Hạ trong tác phẩm Nam bộ tân thư (南部新書). Vị thi sĩ cũng được mệnh danh là "Thi Quỷ" (詩鬼), trong khi Lý Bạch được gọi là "Thi Tiên" (詩仙) còn Đỗ Phủ là "Thi Thánh" (詩聖). Thơ Trong lịch sử văn học, Lý Hạ thường được xem là một nhà thơ thuộc kỷ nguyên Trung Đường, kéo dài từ cuối thế kỉ 8 đến đầu thế kỉ 9. Những nguồn ảnh hưởng lên lối sáng tác của Lý có thể kể đến danh sĩ tiền bối đương thời Mạnh Giao và Hàn Dũ. Lối làm thơ của Lý Hạ cũng được xem là chịu ảnh hưởng từ các yếu tố shaman của Sở Từ và phong cách bình dị của Lý Bạch. Cho đến nay khoảng 240 bài thơ của Lý Hạ còn sót lại. Cuốn Tân Đường thư cho biết có rất ít bài thơ của Lý được lưu trữ bởi những sáng tác đó đều mang màu sắc độc lạ cũng như do Lý mất sớm. Giai thoại trong cuốn Thái bình quảng ký (太平广记) kể rằng một người anh họ của Lý được vị thi sĩ đề nghị biên soạn một tập thơ cho ông, nhưng vì người này không ưa Lý nên đã bí mật vứt hết đống thơ đó đi. Ngày nay có hai tập thơ của Lý Hạ còn sót lại, đó là Lý Hạ ca thi thiên () và Ngoại tập (). Lý Hạ tiểu truyện miêu tả Lý là một nhà thơ chuyên cần. Ông luôn xách bên mình chiếc túi gấm cũ để mỗi khi nảy ra một ý thơ trên đường du ngoạn, ông liền ghi chép lại nó và bỏ vào trong túi. Sau khi trở về nhà, ông sắp xếp các câu thơ đã viết thành một bài thơ hoàn chỉnh. Những tác phẩm của Lý Hạ luôn độc nhất vô nhị với màu sắc kỳ dị và khác thường, do đó ông mới được gắn cho cái nghệ danh Thi Quỷ. Hầu như không có bài thơ nào của Lý được viết theo lối cận thể (近體詩), bên cạnh đó những sáng tác của ông thường xuyên dùng những từ mang điểm gở như "lão" () và "tử" (). Trong những bài thơ như "Thiên thượng dao" (天上謠) và "Mộng Thiên" (xem bên dưới), ông viết theo lối gợi lên thế giới của thượng đế và Đức Phật. Ngòi bút của Lý Hạ cũng mang đến những nét miêu tả kỳ lạ về thế giới ma quỷ trong các bài thơ "Thu lai" (秋来) và "Thần huyền khúc" (神弦曲). Bút pháp tượng trưng tâm linh mà Lý dùng trong các bài thơ sau này còn khiến cho nhiều độc giả "khó có thể lĩnh hội" được. "Thần huyền khúc" là tên của một ca khúc dân gian nổi tiếng, xuất hiện sớm nhất vào thời Lục triều và Lý đã vay mượn tên của ca khúc này cho thơ của ông. Ca khúc có xuất xứ tại ở vùng Nam Kinh, là một bài ca lễ nghi dùng trong các buổi lễ tôn giáo để mời gọi các vị thần linh. Thơ của Lý miêu tả thế giới siêu nhiên nhưng không giống với nội dung trong nguyên tác dân gian. Ông thường xuyên kết hợp những hình tượng màu sắc và cảm quan trong thơ của mình, chẳng hạn như trong hai bài "Thiên thượng dao" và "Tần vương ẩm tửu" (xem bên dưới). Phong cách làm thơ của Lý Hạ được mệnh danh là Trường Cát thể () bởi các nhà phê bình sau này, đặt theo tên tự của ông. Học giả đời Tống Nghiêm Vũ (严羽) liệt Trường Cát thể là một trong những lối sáng tác tự sự thường xuyên được bắt chước. Đón nhận Một số phê bình gia phương Tây và Nhật Bản đương đại như A. C. Graham, Naotarō Kudō và J. D. Frodsham đều nhất trí rằng thơ của Lý Hạ không có nhiều người đón đọc rộng rãi cho đến thời hiện đại, tuy nhiên quan điểm này không hoàn toàn chính xác. Trong cuộc khảo sát năm 1994, học giả Ngô Khải Minh cho biết vào thời Trung Quốc tiền hiện đại, Lý Hạ là nhà thơ thường được bắt chước nhiều hơn là bị thờ ơ. Thời nhà Đường và Tống Hai nhà thơ đương thời với Lý Hạ là Đỗ Mục và Lý Thương Ẩn đều tri ân vị danh sĩ trong những tác phẩm văn xuôi của họ; trong khi Đỗ viết lời tựa cho tập thơ của Lý thì Thương Ẩn viết hẳn một cuốn tiểu sử về Lý Hạ. Riêng lời tựa do Đỗ Mục viết có vai trò như bằng chứng cho thấy thơ của Lý được soạn và chỉnh sửa trong vài thập kỷ sau khi ông qua đời; chúng giống như bằng chứng về những văn bản lưu hành nội bộ trước thời điểm Đỗ Mục viết lời tựa vào năm 831. Thi sĩ đời Đường Bì Nhật Hưu (皮日休) cũng đề cập đến thơ của Lý Hạ cùng với thơ của Lý Bạch trong tác phẩm phê bình văn học "Lưu tảo cường bi" (). Lý Hạ còn nằm trong nhóm những nhà thơ Đường thường được trích dẫn làm ca từ bởi những nhạc sĩ đời Tống như Chu Bang Ngạn (周邦彥; 1056–1121). Trong cuốn Thương lãng thi thoại (滄浪詩話), Nghiêm Vũ đã đem Lý Hạ so sánh với tiền bối Lý Bạch. Những bản chép thơ cổ nhất còn lại của Lý Hạ được sưu tầm và chú giải vào thời Nam Tống. Thời nhà Nguyên và Minh Nhiều thi sĩ triều Nguyên đã bắt chước lối sáng tác của Lý Hạ, có thể kể đến những cái tên như Thành Đình Khuê (成廷珪), Dương Duy Trinh (楊維楨) và Cố Anh (顧瑛) cũng như nhà thơ đầu triều Minh Cao Khởi (高启). Học giả đời Minh Hồ Ứng Lân nhận xét thơ của Lý về mặt chính trị là "màu sắc của một quốc gia bị suy tàn", đồng thời nhận ra rằng phong cách thơ của Lý đặc biệt giàu ảnh hưởng trong những năm cuối của nhiều triều đại. Thời nhà Thanh Thơ của Lý Hạ bỗng chốc trở nên phổ biến từ cuối triều Minh đến giữa triều Thanh. Một lượng lớn tập thơ của Lý có kèm chú thích xuất hiện trong giai đoạn này, từ đó thơ của ông được nhiều người bắt chước. Học giả Vương Kỳ (王琦) đã viết một bài luận dài tới 5 tập để bàn về thơ của Lý. Dù thịnh hành vào giữa triều Thanh, nhưng một bộ phận các văn sĩ có tiếng nói lại không ưa chuộng thơ của Lý Hạ. Nhà soạn thơ Trần Đức Tiềm (沈德潜) đã chọn ra 10 bài thơ của Lý Hạ để cho vào cuốn sách nổi tiếng Đường thi biệt tài tập (唐诗别裁集). Trần đã bị chỉ trích dữ dội vì bắt chước lối làm thơ của Lý. Thơ của Lý Hạ cũng vắng mặt trong cuốn Đường thi tam bách thủ, một ấn phẩm về thẩm mỹ văn học ra đời vào cuối triều Thanh và đầu thế kỉ 20. Thời hiện đại Bên cạnh Lý Bạch và Lý Thương Ẩn, Lý Hạ là một trong "Tam Lý" (三李) mà chính khách Mao Trạch Đông ngưỡng mộ. Năm 1968, nhạc sĩ Roger Waters của ban nhạc rock Pink Floyd đã vay mượn những câu thơ của Lý để sáng tác ca từ cho bài hát "Set the Controls for the Heart of the Sun". Viết về Lý Hạ trong cuốn Chūgoku Bunkashi Daijiten, Hán học giả người Nhật Fukazawa Kazuyuki ví vị thi sĩ như "nhà thơ tiêu biểu của thời Trung Đường". Theo nhà Hán học người Pháp François Jullien, thơ của Lý Hạ được tái thừa nhận vào hàng ngũ danh tác kinh điển của văn học Trung Quốc "vào cuối thể kỉ 19... [khi mà]... những quan niệm về bút pháp lãng mạn của phương Tây [cho phép] người Hoa tái thẩm định lại nhà thơ này, cho phép bút pháp tượng trưng trong thơ của ông được lên tiếng, giải phóng thế giới tưởng tượng của ông khỏi những cuộc truy tìm ẩn ý chẳng bao giờ kết thúc". Trong chương viết về Thơ Đường trong cuốn The Columbia History of Chinese Literature, Paul W. Kroll gọi Lý là "nhà thơ Đường lập dị nhất, có lẽ là trong toàn bộ nền thi ca Hoa ngữ" và mệnh danh ông là "Mallarmé của Trung Quốc" bởi lối làm thơ và cách sử dụng hình ảnh vô cùng khó hiểu của thi sĩ này. Tại Việt Nam, rất ít người biết đến thơ của Lý Hạ, kể cả trong giới nghiên cứu văn học, nên chỉ có một lượng ít ỏi các tài liệu dịch thuật và nghiên cứu ông bằng tiếng Việt. Mặc dù vậy, thơ của ông tiếp cận giới nghiên cứu văn học Việt từ khá sớm, cụ thể là vào thập niên 60 của thế kỷ 20, khi các học giả Việt dịch bộ Lịch sử văn học Trung Quốc của Sở nghiên cứu văn học thuộc Viện Khoa học xã hội Trung Quốc. Trong cuốn Lịch sử văn học Trung Quốc tập 2, dịch giả-giáo sư Nguyễn Khắc Phi nhận xét: "… Kỳ lạ, phóng túng, tươi đẹp buồn thương, cố tâm theo đuổi cái mới lạ khiến cho thơ ca của ông tuyệt nhiên khác thường". Năm 1995, trong cuốn Diện mạo thơ Đường, tác giả Lê Đức Niệm nhận định: "Lý Hạ sáng tác theo khuynh hướng lãng mạn. Những tác phẩm của ông đều có ký thác tâm sự cá nhân, nhưng cũng có nhiều nét của cuộc sống hiện thực, dùng bút pháp tượng trưng để gửi gắm lý tưởng và nỗi u sầu". Trong khi đó học giả Nguyễn Tôn Nhan trong cuốn Thơ siêu thực của Lý Hạ (2000) viết: "Thơ ông thích miêu tả cảnh giới siêu hiện thực với ảo giác thần kỳ quái đản... Nhiều bài thơ có sắc thái nồng diễm, lạnh lẽo, thê lương, chữ dùng lại tân kỳ, mới lạ". Chú thích Ghi chú
John Churchill là một tên người. Một số nhân vật nổi bật mang tên này như: John Churchill, Công tước thứ nhất của Marlborough (1650–1722), nhà quân sự và chính trị gia người Anh. John Churchill, Hầu tước xứ Blandford (1686–1703) John C. Churchill (1821–1905), luật sư và chính khách Mỹ John Churchill, Công tước thứ 7 của Marlborough (1822–1883)
Mười hai Sứ đồ (Hi văn "απόστολος" apostolos, có nghĩa là "người được sai phái", "sứ giả"), còn được gọi là Mười hai Tông đồ hoặc Mười hai Thánh Tông đồ, Mười hai Thánh đồ là những người Do Thái xứ Galilee (10 vị có tên bằng tiếng Aram, 4 vị có tên bằng tiếng Hy Lạp) được tuyển chọn trong số các môn đệ, rồi được Chúa Giê-su sai đi rao giảng Phúc âm cho người Do Thái và các dân tộc khác. "Ngài gọi các môn đồ đến, chọn mười hai người, gọi là sứ đồ" (Phúc âm Lu-ca 6. 13). Thuật ngữ "sứ đồ" được tìm thấy trong Tân Ước, cả thảy có 79 lần: 10 lần xuất hiện trong các sách Phúc âm, 28 lần trong sách Công vụ các Sứ đồ, 38 lần trong các Thư tín hữu và 3 lần trong sách Khải Huyền. Trong Hi văn, apostolos (sứ đồ) bắt nguồn từ apostellein, nghĩa là sai đi. Từ apostellein nhấn mạnh đến yếu tố uỷ quyền - từ thẩm quyền và trách nhiệm của người sai phái. Như vậy, sứ đồ là người được uỷ quyền để thực thi một sứ mạng, người ấy sẽ hành động với thẩm quyền đầy đủ nhân danh người sai phái. Cần biết rằng, trong Tân Ước Chúa Giê-su đã được đề cập đến như là sứ đồ ("...hãy suy kỹ đến tông đồ và vị thượng tế mà chúng ta tin theo, tức là Chúa Giê-su". Hebrew 3. 1), ở đây cũng giải thích rằng Chúa Giê-su vinh hiển và cao trọng hơn Moses. Mười hai Sứ đồ Trong các sách Phúc âm, mười hai vị này vẫn thường được gọi là sứ đồ, khi ấy nhiệm vụ chính của họ, giống các môn đệ khác, là sống kề cận bên Chúa Giê-su và nhận lãnh sự dạy dỗ của Ngài. Chỉ từ khi họ được Chúa Giê-su chọn và sai đi ra để rao giảng Phúc âm và trừ ma quỷ (Mark 3. 14-15; 6. 30), họ mới được gọi là sứ đồ; song cũng chỉ giới hạn trong thời gian được sai phái. Sau ngày Lễ Ngũ Tuần, mười hai vị thường xuyên được gọi là sứ đồ với sự tôn trọng đặc biệt. Nhiệm vụ của các tông đồ là thuyết giảng, dạy dỗ và quản trị. Lời giảng của họ lập nền trên mối quan hệ thân cận mà họ từng có với Chúa Giê-su, sự dạy dỗ mà họ nhận lãnh từ Ngài và lời chứng của họ về sự phục sinh của Chúa Giê-su (Công vụ 1. 22). Họ gánh vác trách nhiệm chăm sóc đời sống và phúc lợi của cộng đồng Cơ Đốc giáo còn non trẻ. Khi Hội Thánh phát triển đến nhiều vùng khác, các tông đồ phải dành nhiều thì giờ hơn để chăm sóc các nhóm tín hữu sống rải rác nhiều nơi (Công vụ 8. 14, 9. 32). Phúc âm Nhất lãm Theo Phúc âm Nhất lãm (Phúc âm Đồng quan): Phúc âm Mátthêu (10. 1-4), Phúc âm Máccô (3. 13-19) và Phúc âm Luca (6. 12-16), Mười hai sứ đồ được Chúa Giê-su chọn gần như ngay từ khi ngài bắt đầu chức vụ, Chúa Giê-su "gọi họ là sứ đồ", gồm có: Simon được Chúa Giê-su gọi là Peter – trong tiếng Việt là Phê-rô hoặc Phi-e-rơ – (Hi văn petros, petra; Aram kēf; Anh văn rock) nghĩa là đá, còn được gọi là Simon con Jonah hay Simon con Jochana (tiếng Aram), Phao-lô gọi ông là Cephas (tiếng Aram), cũng gọi là Simon Peter. Ông là một ngư phủ đến từ thành Bethsaida xứ Galilee (Phúc âm Gioan 1. 44; 12. 21). Ông được trao quyền cai quản Hội Thánh. Anrê, anh hoặc em của Phêrô, ngư phủ thành Bethsaida và là một môn đệ của Gioan Baotixita hoặc Giăng Báp-tít (John the Baptist). James "Lớn" (trong tiếng Việt là Giacôbê hoặc Gia-cơ). Con của Zebedee và Mary Salome(chị em ruột với Mary mẹ Jesus) John (Gioan hay Giăng), con của Zebedee, được Chúa Giê-su gọi là Boanerges (theo tiếng Aram nghĩa là "Con trai của sấm sét" – Mc 3. 17). Philip người thành Bethsaida xứ Galilee (Gioan1. 44, 12. 21). Bartholomew (Tiếng Việt là Batôlômêô), "con trai của Talemai", thường được gọi là Nathanael. Thomas, cũng gọi là Thomas Didymus, tiếng Aram T’oma’, "sinh đôi", tiếng Hy Lạp Didymous, cũng có nghĩa là "sinh đôi" James "Nhỏ", phiên âm tiếng Việt là "Giacôbê", con ông Anphê và Mary of Clopas(chị em ruột với Mary mẹ Jesus) Matthew (Mát-thêu hoặc Ma-thi-ơ), người thu thuế, đôi khi được cho là Levi, con trai của Alphaeus. Simon người Canaan, được gọi là "người Nhiệt Thành" (Zealot). Con của Alphaeus Judas Iscariot "kẻ bội phản"; được cho là người muốn phục hồi quốc gia Do Thái; sau khi Judas Iscariot tự vẫn, Matthias được chọn vào chỗ của Judas Iscariot trong các tông đồ. Thaddaeus, trong Phúc âm Luca gọi là Judas, em của Gia cô bê con ông anphê Phúc âm John Phúc Âm Gioan (Giăng hay Gioan), không giống ba sách phúc âm nhất lãm, không đưa ra danh sách các tông đồ, cũng không liệt kê số lượng; dù vậy, tên của chín tông đồ được tìm thấy trong sách Phúc âm thứ tư này: Andrew, Judas Iscariot, Peter, Thomas (còn gọi là Judas), Nathanael, Philip, Các con trai của Zebedee James John, và Judas, không phải Iscariot. Mười hai tông đồ cũng được phong là mười hai vị thánh:An-rê, Phi-líp-phê, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Simon, Gia-cô-bê tiền, Gia-cô-bê hậu, Gio-an, Giu-đa Ta-đê-ô, Tô-ma, Phê-rô, Mát-thi-a Sứ đồ thứ mười ba (Sau-lơ / Phao-lô) Trong các trước tác của mình, Saul, về sau gọi là Phao-lô, dù không ở trong số Mười hai Tông đồ được chọn lúc ban đầu, vẫn xem mình là một sứ đồ, ("Phao-lô, tôi tớ của Chúa Giê-su Cơ Đốc, được gọi làm sứ đồ, biệt riêng ra đặng giảng Phúc âm của Thiên Chúa" Rôma 1. 1 và các thư tín hữu khác), công bố rằng ông được sai phái bởi chính Chúa Giê-su sau khi ngài phục sinh vào lúc ông gặp Ngài khi ông đang trên đường đến thành Damascus; Phao-lô cũng thường nhận mình là sứ đồ cho các dân tộc không phải Do Thái (Rôma 11. 13, Galatians 2. 8). Ông cũng thường gọi đồng lao của ông là sứ đồ (Barnabas, Silas, Apollos, Andronicus và Junia), cũng gọi một số người chống đối là "siêu-sứ đồ" (2 Corinthians 11. 5 và 12. 11). Bách khoa toàn thư Công giáo: "Theo quan điểm Cơ Đốc, điều này là rõ ràng, bất kỳ ai nhận lãnh sứ mạng từ Thiên Chúa, hoặc từ Chúa Cơ Đốc, để phục vụ người khác nhằm được gọi là Sứ đồ". Như thế, ý nghĩa của chức vụ tông đồ không nên bị hạn chế trong con số mười hai lúc ban đầu. Không giống mười hai sứ đồ kia, Phao-lô khẳng định thẩm quyền của mình từ việc nhận lãnh Phúc âm qua sự mặc khải của Chúa Giê-xu (Gal 1. 12; Công vụ 9. 3-19; 26-27, 22. 6-21, 26. 12-23) sau khi Chúa Giê-xu chết trên thập tự giá và sống lại, ông thường phải biện minh cho thẩm quyền của mình, và công bố rằng ông đã gặp gỡ Chúa Giê-xu và được Ngài xức dầu khi ông đang trên đường đến thành Damascus; các tông đồ lãnh đạo hội thánh tiên khởi - James, Peter và John – công nhận chức vụ sứ đồ của Phao-lô với sứ mạng rao giảng Phúc âm cho dân ngoại, có thẩm quyền như Peter trong chức vụ sứ đồ cho người Do Thái (Gal. 2. 7-9). Đôi khi Phao-lô được xem như là người thế chỗ của Matthias để được kể là trong số "Mười hai Sứ đồ". Constantinus I Hoàng đế La Mã Constantinus I đôi khi cũng được gọi là Sứ đồ thứ mười ba, chẳng hạn như Giáo hội Chính thống Mỹ: "Ông được gọi là 'vĩ đại' là vì ông là người nhiệt tâm tranh đấu cho sự thuần khiết của tinh thần chính thống. Trong bài Ca ngợi thứ sáu thuộc bộ kinh dành cho Lễ thánh, ông được gọi là 'Sứ đồ thứ mười ba'. Ông có tên trong danh sách các tông đồ và bình đẳng với họ." Các Sứ đồ khác Judas Iscariot Theo các sách Phúc âm, Judas là kẻ phản bội Chúa Giê-su rồi sau đó treo cổ tự sát, khi ấy chỉ còn lại 11 sứ đồ. Theo ký thuật của sách Công vụ các Sứ đồ 1. 16-20, Peter nói rằng "...Judas, người dẫn đường cho họ đến bắt Chúa Giê-su... Vì (Judas) thuộc về chúng ta, và đã nhận phần trong chức vụ này... đã được tiên báo trong sách Thi thiên rằng: Nguyền chỗ nó ở trở nên hoang loạn, chớ có ai ở đó; lại rằng: Nguyền cho có một người khác nhận lấy chức nó". Matthew Sau khi Chúa Giê-su về trời, các tông đồ họp nhau lại để chọn sứ đồ thứ 12 thế chỗ của Judas Iscariot theo cách bốc thăm, cách mà người Do Thái thường dùng để xem ai là người được chọn theo ý của Thiên Chúa. Thăm trúng vào Matthew, người này trở nên sứ đồ thứ mười hai (Công vụ 1. 23-26). Cũng cần lưu ý rằng, về sau, khi các sứ đồ lần lượt qua đời, không ai được tuyển chọn để thay thế các vị này. Môn đệ được Chúa yêu John (Gioan hoặc Giăng) – Cách giải thích được chấp nhận rộng rãi trong cộng đồng Cơ Đốc giáo cho rằng "môn đệ được Chúa yêu" được đề cập trong Phúc âm John chính là John, tác giả của sách phúc âm này – John là một trong số 12 sứ đồ được chọn lúc ban đầu. Mary Magdalene - Một số người tin rằng Mary Magdalene là một môn đệ được Chúa yêu quý. Vài ý kiến cho rằng bà là tác giả của cuốn Phúc âm theo Mary Magdalene, tuy nhiên đa số học giả cho rằng cuốn sách này bắt đầu được viết vào thế kỷ thứ 2 bởi những người phái Ngộ giáo. Barnabas Trong Công vụ 14. 14, Barnabas, người đã giới thiệu Phao-lô gia nhập vào cộng đồng Cơ Đốc giáo tiên khởi, được nhắc đến như là một sứ đồ. James người công chính Là em trai hoặc em họ (theo truyền thống Công giáo và Chính Thống giáo) của Chúa Giê-su, theo ký thuật của Paul: "James, Cephas (tức Peter), và John, là những người được tôn như cột trụ" (Gal 2. 9), cũng được miêu tả trong sách Công vụ các Sứ đồ như là nhà lãnh đạo của Hội Thánh tại Jerusalem. Cái chết của các Sứ đồ Vào thời các Tông đồ đi rao giảng, Giáo hội còn non trẻ và luôn bị nhiều thế lực bách hại, bản thân các ông cũng bị truy bắt, hầu hết đều có một kết cục bi thảm. Cái chết của các Tông đồ là minh chứng về thời kỳ gian khổ của Giáo hội khi mới thành lập. • Phêrô, bị đóng đinh vào thập giá lộn ngược khoảng năm 67. • Anrê, bị đóng đinh vào thập giá hình chữ X năm 60. • Giacôbê Lớn, bị chém đầu năm 44. Người đầu tiên trong 12 sứ đồ tử vì đạo • Philipphê, bị tra tấn và đóng đinh năm 80. • Bathôlômêô, bị lột da và chém đầu năm 52. • Tôma, bị đâm bằng lưỡi giáo năm 72. • Giacôbê Nhỏ, bị ném đá đến chết năm 62. • Matthêu, bị thiêu sống. • Simon Nhiệt thành, bị cưa đôi người năm 61 • Giuđa Tađêô, bị đóng đinh. • Giuđa Iscariot, treo cổ tự tử sau khi bán đứng Chúa Giêsu. • Gioan, người duy nhất qua đời tự nhiên (khoảng cuối thế kỷ I).
T-90 là một trong những loại xe tăng chiến đấu chủ lực hiện đại trong biên chế của quân đội Liên bang Nga. Nó được sản xuất với số lượng ít vào năm 1993 và chính thức phục vụ trong quân đội Nga năm 1995, dựa trên kiểu mẫu đầu tiên được gọi bí danh là Obyject 188. T-90 nguyên gốc là một phiên bản hiện đại hóa sâu của T-72B, được tích hợp nhiều đặc tính thiết kế của T-80. Ban đầu được đặt tên là "T-72B nâng cấp" (Т-72Б усовершенствованный), viết tắt T-72BU nhưng đến năm 1992 được đặt lại tên mã là T-90. Từ năm 2001 đến 2010, theo thống kê của Nga thì T-90 là loại xe tăng chủ lực được bán chạy nhất thế giới. Tuy nhiên, từ cuối năm 2011, quân đội Nga đã ngưng đặt hàng thêm T-90 để chuyển sang mua loại xe tăng hiện đại hơn là T-14 Armata.. Mặt khác, Nga cũng sử dụng nhiều công nghệ trên T-90 để nâng cấp và hiện đại hóa hàng ngàn xe tăng T-72, T-80 đang còn niêm cất đưa ra sử dụng để tiết kiệm chi phí, vừa tận dụng sử dụng, vừa để xuất khẩu. Dù vậy, dây chuyền sản xuất T-90 vẫn được hoạt động ở mức cao để phục vụ xuất khẩu cho các quốc gia có nhu cầu. T-90 là loại xe tăng đầu tiên trên thế giới được trang bị hệ thống bảo vệ 5 lớp: lớp 1 là hệ thống ngụy trang "Nakidka" để làm giảm khả năng bị đối phương phát hiện bởi ống nhòm, radar hoặc tín hiệu hồng ngoại; lớp thứ 2 là hệ thống phòng thủ chủ động quang điện gây nhiễu Shtora-1 để chống lại các tên lửa dẫn đường bằng laser, hồng ngoại cũng như gây rối các hệ thống hiển thị mục tiêu; lớp thứ 3 là hệ thống phòng thủ chủ động ARENA chuyên đánh chặn các loại đạn chống tăng trước khi chúng lao vào xe, lớp thứ 4 là giáp phản ứng nổ gắn ngoài, và lớp thứ 5 là vỏ giáp được kết hợp giữa thép độ bền cao và vật liệu tổng hợp (composite). Trước khi T-14 Armata ra đời, T-90 được coi là mẫu xe tăng có khả năng phòng vệ tốt nhất thế giới. Hệ thống chống mìn bằng xung điện EMT-7 cũng được thử nghiệm trên T-90 nhưng nó chưa được gắn đại trà vào các T-90 đang hoạt động. Theo xếp hạng của trang web quân sự Military Today (Hoa Kỳ) về top 10 loại xe tăng tốt nhất trên thế giới năm 2015, T-90 xếp ở vị trí thứ 10 trong khi một dòng xe tăng khác của Nga là Armata xếp thứ 5 còn M1A2 Abrams của Mỹ xếp thứ 3 (tuy nhiên nhiều yếu tố như khả năng thực sự của vỏ giáp được các nước giữ bí mật nên xếp hạng này chỉ dựa theo các thông số được công bố rộng rãi). Theo trang web China.org.cn vào năm 2012, T-90 xếp ở vị trí thứ 10 trong số những loại xe tăng mạnh nhất thế giới thời điểm đó, đứng sau cả loại Type-96 và Type-99 của Trung Quốc cũng như M1A2 SEP của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, theo National Interest (Hoa Kỳ), những bảng xếp hạng kiểu này cần xác định lại sau khi lần lượt T-90, M1 Abrams, Leopard 2 trải qua thực chiến tại Trung Đông, tại đó hàng loạt M1 và Leopard 2 bị tên lửa chống tăng bắn cháy trong khi T-90 thì lại có những màn thể hiện khả năng chống đạn rất ấn tượng, và theo đó thì T-90 được National Interest xếp vào top 5 xe tăng hiện đại nhất năm 2016 Một số lượng lớn xe tăng M1 Abrams của Mỹ đã bị tên lửa chống tăng lỗi thời bắn cháy tại chiến trường Trung Đông, cho thấy những điểm yếu rất lớn của Abrams trong cuộc chiến tranh phi đối xứng, điều đó buộc quân đội Iraq phải chuyển sang mua T-90 Cũng có ý kiến cho rằng lí do Iraq chuyển sang mua T-90 không hẳn là vì nó có thông số trên lý thuyết mạnh hơn xe tăng của Mỹ, mà bởi hiệu suất toàn diện của T-90 đã tỏ ra vượt trội hơn trong thực tế chiến đấu (động cơ phù hợp với môi trường sa mạc, dễ bảo trì hơn, chống tên lửa tốt hơn, có cả hệ thống bảo vệ chủ động và thụ động trong khi giá lại rẻ hơn một nửa). Ngoài Nga, T-90 còn được sử dụng bởi quân đội các nước Ấn Độ, Việt Nam, Iraq, Algérie và Azerbaijan. Thông tin chung Xe tăng chủ lực T-90 trang bị pháo nòng trơn 125mm với sự tăng cường độ chính xác, hệ thống cân bằng pháo – tăng hai chiều dọc – ngang, đồng trục với pháo là súng máy 7,62mm (PKT hoặc PKTM) và súng phòng không 12,7mm (NSVT-12,7 hoặc KORD). Trên T-90 lắp tổ hợp điều khiển hỏa lực tự động với máy tính toán đường đạn kỹ thuật số và kính ngăm hồng ngoại hoạt động trong điều kiện ngày/đêm, thiết bị nạp đạn tự động (AZ) đảm bảo hiệu quả chiến đấu cao của các loại vũ khí trong xe. Thiết bị súng máy phòng không (ZPU) với thiết bị ngắm và dẫn bắn từ xa cho phép bắn mục tiêu trên không và trên mặt đất từ trong buồng chiến đấu của xe tăng. T-90 trang bị tổ hợp chế áp quang điện (KOEP) TShU-1 "Shtora-1" làm giảm xác suất bị bắn cháy bởi các tên lửa chống tăng có điều khiển (PTUR) của đối phương bằng cách tạo ra các dải nhiễu có điều khiển và các thiết bị chống tăng (PTS) với sự chỉ thị mục tiêu và đo xa bằng tia laze. Trên T-90 hệ thống phòng thủ tập thể (SKZ) khỏi tác động của vũ khí hủy diệt hàng loạt (OMP), hệ thống chữa cháy một cách nhanh chóng (PPO) trên cơ sở bộ cảm biến quang học với đám cháy, trang bị dành cho việc tự ủi, trang bị cho việc vượt chướng ngại vật nước (vượt vũng, sông) theo đáy (OPVT). Trong xe tăng đã thực hiện được lời giải về cấu trúc nhằm giảm hiệu quả của các thiết bị phát hiện và dẫn bắn theo tia hồng ngoại và đảm bảo sự bảo vệ cho xe tăng khỏi ảnh hưởng khỏi sự cháy của các hỗn hợp "napal". Xe tăng có khả năng trang bị thiết bị quét mìn dạng lưỡi dao KM7-6M2 hoặc bánh quét mìn dạng lưỡi dao KMT-7 hoặc thiết bị quét mìn KMT-8 với đầu nối điện từ. Lịch sử ra đời và phát triển T-90 nguyên thủy là một phiên bản hiện đại hóa sâu của T-72B, mang tên "Object 188" (Obyekt 188) của nhà máy Uralvagonzavod tại Niznhy Tagil. Lãnh đạo chương trình là kỹ sư trưởng Vladimir Ivanovich Pokin. Từ năm 1989, xe tăng được chuyển giao cho GSI. Cuối thập niên 1980, phương Tây cho ra đời các loại xe tăng mới như Leopard-2A4 của Đức, M1A1HA của Mỹ... Để duy trì ưu thế kỹ thuật, Liên Xô đề ra 2 dự án hiện đại hóa chiếc T-72B và được tiến hành song song, bao gồm: Object 187 (Dự án 187, còn gọi là T-72BI): Đây là phiên bản bản hiện đại hóa toàn diện của T-72B. Xe tăng được trang bị khẩu pháo mới 125mm 2A66, có thể bắn được các loại đạn xuyên giáp mạnh hơn so với loại 2A46M của T-72B. Động cơ được thay mới bằng loại 1200 mã lực, mạnh hơn đáng kể so với động cơ 840 mã lực của T-72B. Đặc biệt, T-72BI tập trung vào việc tăng mức độ của vỏ giáp lên mức cực cao, bằng cách sử dụng tháp pháo hàn kiểu mới, dùng nhiều hơn lớp giáp composite và giáp gốm mật độ cao cho tháp pháo và mặt trước thân, cùng bộ giáp giáp phản ứng nổ kiểu mới thế hệ thứ 3 (nguyên mẫu của loại giáp Relikt trên T-90MS sau này), và hệ thống bảo vệ chủ động Shtora-1. Trọng lượng xe tăng vào khoảng 50 tấn. Độ dày của vỏ giáp trước tương đương 900 - 950mm thép cán tiêu chuẩn, cùng với giáp phản ứng nổ thế hệ 3 sẽ làm tăng chỉ số này thêm ít nhất là 50%. Mức bảo vệ này thậm chí vượt qua tất cả các xe tăng hiện đại trên thế giới vào thập niên 2010 (cho tới khi T-14 Armata ra đời), hoàn toàn đủ sức chống lại mọi loại đạn cỡ 120mm trên xe tăng phương Tây. Object 188 (Dự án 188, còn gọi là T-72BU): Đây là phiên bản bản cải tiến ít tham vọng hơn so với T-72BI. Về cơ bản, nó là T-72B được cải tiến các thiết bị điện tử, điều khiển hỏa lực... bằng các công nghệ trên xe tăng T-80U. Động cơ, vỏ giáp và pháo chính được giữ nguyên so với T-72B. Mục tiêu của "Obyekt 188" - cùng với người anh em có thiết kế tinh vi hơn là Obyekt 187 - là nâng cấp T-72B lên cùng mức độ với T-80U/UD, thậm chí là mạnh hơn. Một nhược điểm của T-72B thời đó là không có hệ thống điều khiển bắn hiện đại. Hệ thống ngắm bắn 1A40-1 tuy đơn giản và đáng tin cậy nhưng không mang lại các tính năng mà xe tăng hiện đại cần có. Giải pháp nâng cấp đó là tích hợp hệ thống điều khiển hỏa lực 1A45 "Irtysh" đang sử dụng trên T-80U/UD.. Đến năm 1991, đã có 6 mẫu thử của T-72BI được chế tạo, các thử nghiệm cho thấy nó có tiềm năng rất lớn. Nếu được sản xuất, đây chắc chắn sẽ là loại xe tăng hiện đại nhất thế giới, không có đối thủ ngang tầm từ phương Tây. Tuy nhiên, việc Liên Xô tan rã khiến kinh phí quốc phòng bị cắt giảm, và chương trình T-72BI bị đình chỉ. Quân đội quyết định lựa chọn T-72BU là dự án được tiếp tục do nó đòi hỏi ít kinh phí hơn. Obyekt 188 được thử nghiệm ở cấp độ quốc gia vào tháng 1 năm 1989, và kết quả thử nghiệm cho thấy mẫu xe tăng này có độ tin cậy cao. Đến ngày 27 tháng 3 năm 1991, Bộ Quốc phòng cũng như cơ quan phụ trách sản xuất xe tăng của ngành công nghiệp quốc phòng đã chấp thuận biên chế Obyekt 188 vào quân đội Liên Xô. Mẫu Obyekt 187 bị loại. Tuy nhiên, mọi thứ đột ngột bị gián đoạn do sự sụp đổ của Liên Xô cũng như thiệt hại nặng nề của các xe T-72M của Iraq trong Chiến tranh Vùng Vịnh. Quá trình biên chế Obyekt 188 bị dừng lại. Nhà máy Uralvagonzavod (UVZ) - nơi phát triển Obyekt 188 - tiếp tục các công việc nghiên cứu nhằm cải thiện mức độ bảo vệ cho mẫu xe tăng. Ví dụ, mẫu tăng đã được bổ sung hệ thống gây nhiễu quang điện tử TSHU-1 "Shtora-1". Mẫu Obyekt 188 cải tiến đầu tiên được thử nghiệm vào ngày 30 tháng 9 năm 1992 và đến ngày 5 tháng 10 nó đã được chấp thuận để biên chế vào quân đội Liên bang Nga theo sắc lệnh số 759-98. Tổng thống Boris Yeltsin đã ký lệnh đặt tên cho chiếc xe này là T-90. Cuộc chiến tranh Chechnya xảy ra trong thời gian đó là một nguyên nhân để T-90 đánh bại đối thủ cạnh tranh của nó là T-80U do Omsk Transmash sản xuất. Những sai lầm chiến thuật của quân đội Nga khiến cho lực lượng xe tăng của họ bị thiệt hại nặng, trong đó nhiều chiếc T-72 và T-80 đã bị phá hủy và bắn hỏng. Uy tín của T-72 và T-80 bị ảnh hưởng nặng nề do giới chức cố ý dồn các chỉ trích vào thiết kế xe tăng hơn là sai lầm trong chỉ huy tác chiến. Tuy nhiên, việc UVZ sử dụng tên T-90 cho mẫu tăng mới của họ giúp mẫu tăng tránh được các chỉ trích nhằm vào "tiền bối" T-72. Đồng thời, T-80 còn bị phê phán vì sử dụng động cơ turbin khí đắt tiền, hao nhiên liệu và vị trí bố trí đạn dược dễ tổn thương hơn T-72/90. Kết quả, tháng 1/1996, lãnh đạo Ban Giám đốc lực lượng Tăng thiết giáp trực thuộc Bộ Quốc phòng, tướng Alexandre Galkin cho biết T-90 đã được lựa chọn là nòng cốt của lực lượng Tăng thiết giáp Nga. Nhiều kế hoạch được đặt ra nhằm thay thế các mẫu xe tăng cũ bằng những chiếc T-90 tại Quân khu quân sự Viễn Đông. Đến giữa năm 1996 đã có 107 chiếc T-90 được điều tới nơi này. Trong Cuộc tấn công của Nga vào Chechnya năm 1999, T-90 được sử dụng trên chiến trường lần đầu tiên và theo tạp chí, một chiếc trong số đó đã trúng vài quả tên lửa chống tăng và đạn B-41 nhưng vẫn tiếp tục sống sót. Tạp chí này kết luận rằng T-90A tỏ ra là loại xe tăng được bảo vệ tốt nhất của Nga, đặc biệt là nếu như chúng được trang bị hệ thống phòng thủ chủ động Shtora và hệ thống đánh chặn Arena. Năm 2007, Bộ Quốc phòng Nga tiếp tục chuyển giao 60 chiếc T-90A cho quân đội. Và, hai biến thể xuất khẩu của nó T-90S và T-90E, cũng được đánh giá là rất hứa hẹn trên thị trường quốc tế. Vì vậy, mặc dù T-14 Armata đã được trang bị cho quân đội Nga vào năm 2015, T-90 vẫn được xem như là "xương sống" của bộ đội tăng thiết giáp Nga cho đến tận năm 2025. Theo kế hoạch của công ty xuất khẩu vũ khí độc quyền Rosoboronexport của Nga, trong giai đoạn 2020 – 2025, T-90 sẽ là vũ khí chính của quân đội Nga. Đến năm 2020, T-90 sẽ chiếm 50% trong tổng số xe tăng của Nga; phần còn lại sẽ là các dòng tăng như T-72, T-80 hoặc loại xe tăng T-14 Armata hiện đại mà Nga đưa vào sử dụng năm 2015. Vào năm 2006, có khoảng 120 chiếc phục vụ trong Quân đoàn xe tăng cận vệ số 5 của Lục quân Nga đóng ở Quân khu Siberia và 7 chiếc phục vụ trong Hải quân Nga. Khoảng 120 chiếc mới được đưa vào hoạt động vào năm 2007 và 300 vào năm 2008. Tính đến năm 2014, quân đội Nga có 930 chiếc T-90 trong biên chế. Tuy nhiên do vấn đề kinh phí, các mẫu T-80 và T-72 vẫn tiếp tục được sử dụng song song với T-90 trong thời gian tới.. Thông tin kỹ thuật Có cảm hứng từ T-72, chiếc GPO Uralvagonzavod T-90 là loại tăng hiện đại nhất của quân đội Nga trong giai đoạn 1990-2015. Về hình dáng quy ước bên ngoài, T-90 có thể hiện sự nâng cấp ở mọi hệ thống, gồm cả pháo chính. Lớp bảo vệ thân và tháp pháo cũng hoàn toàn là thế hệ mới. Có thể nói T-90 là một nỗ lực lớn nhằm cải thiện các tính năng của dòng T-72 sao cho vượt tầm của T-80, tuy nhiên về tính cơ động cho đến nay dòng T-80 vẫn hơn. Hệ thống điều khiển hỏa lực So với T-72B, T-90 có hệ thống điều khiển hỏa lực hiện đại hơn. Ngay từ các phiên bản đầu tiên, nó đã được trang bị hệ thống điều khiển hỏa lực 1A45 "Irtysh" (đã được sử dụng trên T-80U/UD), bao gồm máy tính đạn đạo, máy đo xa laser cùng kính nhìn đêm của pháo thủ cho phép T-90 chiến đấu hiệu quả với các mục tiêu di động và chiến đấu vào buổi đêm. Hệ thống bao gồm: Tổ hợp ngắm ban ngày tự động tính toán thông tin 1A43, gồm thiết bị ngắm và đo xa laser 1G46 để ngắm và điều khiển vũ khí, bao gồm hệ thống kinh ngắm quang học kiểu tiềm vọng với độ khuếch đại từ 2,7x đến 12x, thiết bị đo xa laser có phạm vi từ 400m đến 5000m, hệ thống ổn định tầm hướng, hệ thống điều khiển tên lửa ПТУР (chiếu xạ laser). Trong hệ thống 1G46 có lắp đặt thiết bị kiểm tra vũ khí đồng trục với kính ngắm không cần phải ra khỏi xe – thời gian kiểm tra đến 1 phút. Tổ hợp các cảm biến thông tin phục vụ cho máy tính quỹ đạo đường đạn (cảm biến vị trí pháo, tốc độ gió, tốc độ xe tăng và góc của hướng xe so với mục tiêu); Máy tính quỹ đạo đường đạn 1V528-1 tự động tính toán góc bắn tầm hướng cho pháo và giữ cho pháo ở vị trí ổn định với góc bắn đã được tính toán, máy tính đường đạn tính toán tất cả các thông số liên quan đến góc bắn của pháo, đồng thời còn thực hiện nhiệm vụ khóa súng và cho phép khai hỏa. Hệ thống ổn định tầm hướng 2E42-4 Zasmin (2Э42-4) sử dụng thiết bị nâng hạ thủy lực – điện, cho phép ngắm chính xác mục tiêu khi xe đang di chuyển, đồng thời tăng tốc độ ngắm bắn. Trong một cuộc trình diễn vào thập niên 1990, một chiếc T-90 đã phóng tên lửa đánh trúng mục tiêu ở khoảng cách 4 km. Sau đó, nó di chuyển với tốc độ 25 km/h, bắn trúng 7 mục tiêu xe bọc thép ở cự ly 1.500-2.500 mét, tất cả chỉ diễn ra trong vòng 54 giây (tức là chỉ cần chưa đầy 8 giây để ngắm bắn chính xác 1 mục tiêu mới ở cự ly khá xa, trong khi xe đang di chuyển) Theo nguồn tin phía Nga thì trong cùng điều kiện và thời gian, xe tăng Leopard 2 của Đức bắn trúng 6 mục tiêu, và M1 Abrams của Mỹ bắn trúng 5 mục tiêu Mẫu đầu tiên của T-90 (năm 1992) được trang bị hệ thống nhìn toàn cảnh PNK-4S/AGAT-S dành cho xa trưởng (hệ thống này được dùng trên T-80U từ giữa thập niên 1980), có khả năng phát hiện xe tăng trong tầm khoảng 800-1.300 mét vào ban ngày và 700 mét vào ban đêm (hoặc đạt tới 1.200 mét vào đêm trăng sáng). Trong điều kiện ban ngày, độ khuếch đại của kính ngắm đến 7,5х, trong chế độ ngắm đêm độ khuếch đại là 5,1х. Hệ thống PNK-4S được cho là còn vượt trội hơn các hệ thống nhìn toàn cảnh cho xa trưởng tốt nhất trên xe tăng NATO vào cuối thập niên 1980, như là PERI-R17 trên xe tăng Leopard 2: cả hai đều kết nối trực tiếp với máy tính đạn đạo của xe tăng, cho phép xa trưởng chiếm quyền điều khiển pháo để thực hiện chức năng "Hunter-Killer", tuy nhiên PNK-4S có khả năng nhìn đêm mà PERI-R17 không có (phải tới năm 1998 thì Leopard 2 mới được trang bị hệ thống PERI-R17A2 có khả năng nhìn đêm) Từ năm 2012, các phiên bản hiện đại hóa dành riêng cho quân đội Nga (như T-90M) đã thay thế PNK-4S/AGAT-S bằng hệ thống mới hơn là T01-K04DT/AGAT-MDT do hãng Krasnogorsky Zavod sản xuất. Nhờ thay thế thiết vị khuếch đại ánh sáng bằng thiết bị ảnh nhiệt mới, AGAT-MDT có tầm phát hiện mục tiêu cỡ xe tăng ở cự ly lên tới 3.500 - 4.000 mét, một tùy chọn cho phép AGAT-MDT nâng cự ly phát hiện xe tăng lên tới 5.000 mét cũng đã có sẵn Đối với xạ thủ, hệ thống nhìn đêm T01-K01 BURAN với thước ngắm ban đêm TPN-4-49 "Buran PA" có thể phát hiện xe tăng trong tầm khoảng 1.200 mét với chế độ thụ động, hoặc đến 1.500 mét trong chế độ chủ động (được chiếu bởi đèn hồng ngoại của hệ thống TSU-1 Shtora-1). Độ khuếch đại là 6.8х, trường nhìn 5.25 độ. Năm 2005, phiên bản T-90A được giới thiệu với kính ngắm mới T01-K05 Buran-M, có thể phát hiện xe tăng trong tầm khoảng từ 1.800 mét. Một số mẫu T-90 cải tiến đã được thử nghiệm sử dụng hệ thống nhìn đêm hiện đại hơn là thiết bị ảnh nhiệt T01-P02T "Agava-2" (hệ thống này được lắp trên T-80UK từ năm 1990), có thể xác định các mục tiêu có kích cỡ xe tăng ở cự ly khoảng 2.600 mét, tuy nhiên Agava-2 có giá thành khá cao (khoảng 250.000 USD thời giá năm 1990) nên Nga không lắp đại trà cho T-90. Từ năm 2009, các xe T-90 của Nga, kể cả xe xuất khẩu, đều được trang bị thiết bị nhìn nhiệt do Thales sản xuất . Việc sản xuất được cấp phép của họ được thành lập tại nhà máy cơ khí quang học Vologda. Theo chuyên gia quân sự Viktor Murakhovsky, camera ảnh nhiệt Agava và Agava-2" của Nga trên xe tăng Т-80U và Т-90 kém hiệu quả hơn xe tăng của các nước NATO. Kết quả là các mẫu T-90 sản xuất từ năm 2009 (ví dụ T-90A, T-90S) đã thay thế T01-K05 Buran-M bằng hệ thống nhìn hồng ngoại ESSA, với camera ảnh nhiệt thế hệ 2 CATHERINE-FC sản xuất bởi Thales Optronique, cho phép phát hiện mục tiêu là xe tăng trong khoảng 10.500 mét vào ban ngày và khoảng 2.200 mét vào ban đêm (một tùy chọn cho phép nâng cự ly phát hiện ban đêm lên 3.300 mét). Vào tháng 8 năm 2007, khoảng 100 camera loại này đã được Nga nhập từ Pháp và đến năm 2010 Nga đã mua bản quyền hệ thống CATHERINE-FC để tự sản xuất và trang bị cho dòng xe tăng T-90. Năm 2012, Nga tiếp tục mua bản quyền sản xuất hệ thống ảnh nhiệt thế hệ 3 là CATHERINE-XP So với CATHERINE-FC, nó nhỏ gọn hơn, tiết kiệm năng lượng hơn và có trường nhìn rộng hơn, cho phép phát hiện mục tiêu là xe tăng ở cự ly khoảng 4.600 mét vào ban đêm Chuyên gia quân sự Nga Pavel Felgenhauer cho biết việc chuyển sang sản xuất được cấp phép là một động thái hợp lý và cần thiết vì Nga có thể rút ngắn quá trình phát triển ngành công nghiệp của mình bằng cách mua bản quyền công nghệ từ phương Tây, giống như Liên Xô đã từng mua thiết bị chế tạo công cụ và dây chuyền lắp ráp xe cơ giới tại Mỹ vào những năm 1930. Tuy nhiên kể từ năm 2016, để tránh phụ thuộc vào linh kiện nhập khẩu, T-90 các phiên bản hiện đại hóa dành riêng cho Quân đội Nga (T-90AM, T-90M) đã chuyển sang sử dụng hệ thống kính ngắm ảnh nhiệt thế hệ 3 nội địa là "IRBIS-K" do hãng Krasnogorsky Zavod sản xuất, nó có cự ly phát hiện xe tăng đối phương là khoảng 3.240 - 4.000 mét. Nhìn chung, IRBIS-K có tính năng tương đương so với hệ thống ngắm bắn ảnh nhiệt trên hầu hết các xe tăng hiện đại của phương Tây (ở thời điểm năm 2016, chỉ có rất ít xe tăng phương Tây có hệ thống ngắm bắn ảnh nhiệt thế hệ 3 tiên tiến hơn). Năm 2016, nhà máy Krasnogorsk đã hoàn thành các cuộc thử nghiệm hệ thống quan sát tầm nhiệt IRBIS-K cho các xe tăng hiện đại hóa T-80U và T-90 và sẽ được cung cấp cho quân đội sau năm 2017 theo hợp đồng đã được ký kết với kính ngắm có khả năng xác định mục tiêu cỡ xe tăng ở cự ly 3.240 mét cả ngày lẫn đêm. T-90 đời đầu cũng được trang bị hệ thống ngắm bắn ban ngày 1G46 dành cho pháo thủ, bao gồm một thiết bị đo khoảng cách bằng laser, một kênh dẫn hướng cho tên lửa. Hệ thống cũng có khả năng phát hiện các mục tiêu có kích cỡ xe tăng trong tầm 5–8 km vào ban ngày. Các thiết bị mới hơn ở các phiên bản cải tiến (T-90A, T-90M) cho phép nâng cự ly này lên cao hơn, độ chính xác tốt hơn. Phiên bản xuất khẩu T-90SM (ra mắt năm 2016) thì được trang bị hệ thống kiểm soát hỏa lực SOSNA-U do hãng Peleng (Belarus) sản xuất, bao gồm camera ảnh nhiệt thế hệ 2 CATHERINE-FC (mua bản quyền từ Pháp), kính ngắm cho pháo thủ PN-72U Sosna-U, kính ngắm toàn cảnh PKP-72 Sokolinyi Glaz tích hợp hệ thống ảnh nhiệt thế hệ ba dành cho trưởng xe. Hệ thống SOSNA-U cũng được Nga sử dụng cho phiên bản T-72 nâng cấp là T-72B3. SOSNA-U có tầm phát hiện mục tiêu cỡ xe tăng ở cự ly lên tới 2.200 mét (một tùy chọn cho phép nâng cự ly này lên gấp rưỡi, tức là 3.300 mét). Ở phiên bản T-90 đời đầu, lái xe sử dụng thiết bị có trường nhìn rộng TNPO-168 "ТНПО-168" kèm theo hệ thống nhìn ngày và đêm TVN-5. Tuy nhiên hệ thống ở thế hệ đầu tiên này có lẽ không có khả năng tương đương với các hệ thống của các đối thủ phương Tây, do vậy TVN-5 đã bị thay thế ở các phiên bản sau bằng những hệ thống tiên tiến hơn. Đầu những năm 2000, trên xe T-90 sử dụng thiết bị quan sát của lái xe tổng hợp 2 chế độ ngày và đêm TVK-2 với bộ phận chuyển hóa quang điện thế hệ 3, khả năng nhìn đêm thụ động là 400 mét. Các phiên bản T-90 hiện đại hoá vào thập niên 2020 (như T-90M) còn có thể kết nối thông tin với UAV trinh sát để cung cấp toạ độ mục tiêu ngoài tầm nhìn. Với sự hỗ trợ về tọa độ mục tiêu của UAV, xe T-90 có thể tăng cự ly tiêu diệt nhờ bắn pháo theo quỹ đạo hình vòng cung giống như các loại lựu pháo, thay vì chỉ bắn thẳng như xe tăng đời cũ. Tháng 6/2023, Bộ Quốc phòng Nga công bố video cho thấy một xe tăng T-80BVM sử dụng công nghệ bắn tương tự đã bắn pháo diệt xe bọc thép M2 Bradley của Ukraine từ khoảng cách tới 9,5 km, lập kỷ lục về cự ly tiêu diệt mục tiêu trong thực chiến của xe tăng trên thế giới. Vũ khí T-90 vẫn giữ pháo chính nòng trơn loại 125 ly 2A46, bản nâng cấp của kiếu pháo chống tăng Sprut đã từng xuất hiện trên các mẫu T-72 và T-80. Loại pháo này có một đặc điểm tiện lợi là có thể dễ dàng tháo nó ra khỏi xe tăng mà không cần phải gỡ toàn bộ tháp pháo kèm theo. Pháo của T-90 là loại 2A46-M (với T-90 đời đầu), 2A46-M2 (với T-90S) hoặc 2A46-M5 (với T-90A/AM/SM), được sản xuất bởi tổ hợp công nghiệp đa ngành Baricadur thuộc khu vực thành phố Vogagrad. Nòng pháo dài 6 mét (gấp 48 lần cỡ đạn). Góc nâng - hạ của pháo là -6 tới +13,5 độ. So với phiên bản pháo 125mm 2A46 trước đó trang bị cho T-64 và T-72, pháo 2A46-M5 có tuổi thọ nòng được nâng cao thêm (đạt 1.200 phát bắn thông thường hoặc 500 phát bắn đạn APFSDS), áp suất buồng đốt tăng lên 608 Bar để bắn được đạn APFSDS kiểu mới, độ tản mát của đạn giảm 15-20%, và độ chính xác khi bắn trong lúc di chuyển đã tăng 1,7 lần. Phiên bản T-90M (ra mắt năm 2016) thì dự kiến dùng pháo 2A82-1M, cũng có cỡ nòng 125mm nhưng chiều dài nòng lớn hơn (7 mét so với 6 mét), giúp bắn các loại đạn xuyên giáp APFSDS kiểu mới có sức xuyên mạnh hơn, chính xác hơn khoảng 15-17%. So với pháo 120 mm L/55 của Đức (loại pháo xe tăng mạnh nhất cùng thời của phương Tây), 2A82-1M tạo ra động năng đạn mạnh hơn 17% (15,24 MJ so với 13 MJ). Theo tuyên bố của nhà sản xuất, thì sơ tốc đạn APFSDS của 2A82-1M đạt tới 2.050 m/s, cao hơn tới 20% so với con số 1.750 m/s trên pháo 120mm L/55 của Đức. Tầm bắn thẳng hiệu quả của pháo 2A82-1M đạt 4.700 mét, trong khi pháo 120mm L/55 của Đức theo phía Nga chỉ đạt 4.000 mét. Pháo chính có thể bắn đạn xuyên giáp APFSDS, phóng đạn nổ HEAT và đạn ghém HE-FRAG cũng như bom phóng hẹn giờ và tên lửa chống tăng ATGM loại 9M119 Refleks (còn được biết tới với cái tên AT-11 Sniper do NATO đặt). 9M119 Refleks là tên lửa có hệ thống dẫn đường bán tự động bằng laser với một đầu nổ lõm (hollow-charge) có khả năng chọc thủng cả các mục tiêu có vỏ thép bảo vệ dày tới 950 mm và có thể bắn hạ các loại máy bay trực thăng tầm thấp. Tên lửa có thể tiêu diệt mục tiêu ở cự ly vào khoảng 100m tới 5–6 km, và có thể di chuyển tới vị trí xa nhất trong vòng 17,5 giây. 9M119 Refleks có thể hạ mục tiêu có tốc độ tối đa 70 km, tốc độ di chuyển cho phép của T-90 khi bắn tên lửa là từ 0 – 30 km/giờ. Hệ thống điều khiển hỏa lực hiện đại kết hợp với 9M119 Refleks cho phép T-90 có thể tấn công và tiêu diệt các loại xe cơ giới và máy bay trực thăng trước khi những thứ này kịp tấn công lại T-90. Nó có thể vừa di chuyển với vận tốc 30 km/h vừa có thể tiêu diệt xe tăng địch từ cự ly tới 5–6 km với độ chính xác đạt trên 90%, kể cả khi xe tăng địch đang di chuyển với vận tốc 70 km/h (trong khi xe tăng dùng đạn pháo thông thường rất khó có thể bắn trúng mục tiêu di động ở khoảng cách trên 2.500 mét)). Trong một cuộc thử nghiệm cấp Nhà nước năm 1999, 24 tên lửa 9M119 Refleks đã được T-90 bắn vào các mục tiêu trong cự ly 4–5 km và tất cả chúng đều trúng mục tiêu (tất cả những phát bắn tên lửa được thực hiện bởi các kíp lái thiếu kinh nghiệm). Trong cuộc triển lãm ở Abu Dhabi, một xạ thủ có kinh nghiệm đã bắn 52 tên lửa ở khoảng cách 5 km và tất cả các tên lửa đều trúng mục tiêu Chính vì vậy T-90 có tên gọi là tăng hỏa tiễn chứ không phải tăng pháo như thông thường. Trong tương lai, theo thông báo tại Russian Expo Arms-2008 của ông Sergei Maev, lãnh đạo Rosoboronexport, T-90 sẽ còn được trang bị hỏa lực mạnh hơn với loại tên lửa cải tiến có tầm bắn đạt 6–7 km. Tờ báo Nga Sputnik cho rằng khả năng phóng tên lửa cho phép T-90 nắm ưu thế khai hỏa ngoài tầm bắn của M1 Abrams hay Leopard 2, tuy nhiên đó là căn cứ trên điều kiện lý tưởng. Thực tế tên lửa chống tăng khó khai hỏa ở cự ly tối đa do vướng phải yếu tố địa hình, trừ khi xe phóng chiếm lĩnh sẵn vị trí trên cao, hay chiến trường là vùng thảo nguyên, sa mạc trống trải. Còn khi ở trong tầm bắn của nhau (2000 mét trở xuống), tên lửa có tốc độ bay chỉ vào khoảng 200 - 250 m/s (so với 1.500 - 1.800 m/s của đạn pháo dưới cỡ, hoặc 850 - 900 m/s của đạn xuyên lõm), đồng thời xe tăng khi dẫn bắn tên lửa buộc phải đứng yên hoặc di chuyển chậm để bảo đảm độ chính xác, khiến nó dễ bị dính đòn phản công bằng đạn pháo dưới cỡ nếu đối phương xác định được nguồn chiếu laser, cuộc đấu tăng khi đó lại quay trở về với đạn pháo truyền thống. Không phải ngẫu nhiên mà các cường quốc quân sự như Mỹ, Đức… không chú trọng phát triển vũ khí này mà lại đầu tư nghiên cứu đạn pháo dưới cỡ. Tóm lại, không thể phủ nhận tên lửa chống tăng phóng qua nòng pháo có những ưu điểm riêng, tuy nhiên nó chưa phải là yếu tố đảm bảo chắc chắn thắng lợi cho xe tăng Về đạn xuyên giáp động năng (APFSDS), pháo 125mm 2A-46M5 có thể trang bị các loại đa dạng từ cũ tới mới, tùy theo đối tượng khách hàng đặt mua, ví dụ như: đạn 3BM-44 "Mango" lõi bằng tungsten (chế tạo năm 1986) có thể bắn xuyên 500mm thép ở cự ly 2.000 mét, mới hơn là đạn 3BM-48 "Svitnetz" lõi bằng tungsten (chế tạo năm 1991) có thể bắn xuyên 650mm thép ở cự ly 2.000 mét. Những chiếc T-90 của quân đội Nga thì được trang bị những loại đạn mới nhất như 3BM-69/70 "Vaccum" (lõi bằng uranium làm nghèo hoặc tungsten) chế tạo năm 2005, có thể xuyên thủng 800 - 900mm thép ở cự ly 2.000m, có khả năng chọc thủng giáp trước của các loại xe tăng hiện đại nhất của phương Tây ở thập niên 2010 như M1A2 SEP, Leopard 2A7... từ khoảng cách 1.500 tới 3.000 mét. Xem thêm: Các loại đạn của pháo nòng trơn 125mm Giống như T-64, T-72 và T-80, hệ thống nạp đạn trên T-90 là tự động, thời gian nạp đạn là khoảng 7 - 8 giây cho 1 viên. Ổ quay của hệ thống nạp đạn tự động có thể chứa tối đa 22 viên. Từ phiên bản T-90A, hệ thống nạp đạn của T-90 đã được cải tiến nhằm phù hợp với các loại đạn APFSDS mới có lõi xuyên dài hơn, thí dụ đạn APFSDS kiểu 3BM-48 hoặc 3BM-60. Trường hợp máy nạp đạn bị hỏng, xạ thủ có thể nạp đạn bằng tay với tốc độ khoảng 2 viên/phút. Ngoài ra, hệ thống kích nổ Ainet cũng được lắp đặt trên T-90, để cho phép kích nổ loại đạn ghém HE-FRAG sau khi nó bay được một đoạn đường nhất định, quãng đường này quyết định bởi hệ thống đo khoảng cách bằng laser do pháo thủ sử dụng. Hệ thống này giúp làm tăng khả năng chống bộ binh và chống trực thăng của T-90. Trang bị vũ khí thứ hai gồm một đại liên đồng trục 7,62 ly PKT và một đại liên NSV 12,7 ly để đối phó với các mục tiêu trên không và trên bộ (vào cuối thập niên 1990, NSV được thay thế bằng đại liên Kord). Đại liên phòng không được điều khiển từ xa ở trong xe, vì vậy có thể được xạ thủ ngắm bắn khi đang ngồi phía trong xe tăng mà không cần phải nhô người ra ngoài tháp pháo, giúp giảm khả năng thương vong cho xạ thủ. Súng có tốc độ bắn 650-750 viên/phút, tầm bắn xa nhất 2 km, tầm bắn hiệu quả là 1600 mét và có khả năng tấn công các mục tiêu trên không có tốc độ bay từ 100 – 300 m/s. Trên xe tăng có trang bị chừng 300 viên đạn 12,7mm cho đại liên phòng không. Đại liên đồng trục PKT hoặc PKMT cỡ 7,62 ly có khối lượng 10,5 kg, còn số đạn dược của nó là khoảng 2.000 viên (8 băng đạn với 250 viên/băng, mỗi băng đạn nặng chừng 9,5 kg). Ngoài ra T-90 còn được trang bị súng ngắn và 10 quả lựu đạn F-1 đặt ở phía trong khoang xe để tổ lái sử dụng trong trường hợp phải rời khỏi xe tăng và ra ngoài.. Ngoài ra, kíp lái được trang bị súng tiểu liên 5,45mm AKS-74U với 15 băng đạn 30 viên, 10 lựu đạn F1 hoặc RGD, súng pháo hiệu 26mm với 12 gói. Phiên bản T-90MS được tích hợp hệ thống ngắm bắn mới có khả năng "khóa" và tự động theo dõi mục tiêu, giúp các pháo thủ không cần phải liên tục bám theo mục tiêu khi xe tăng đang chuyển động. Thiết bị nhìn đêm ảnh nhiệt ở T-90MS cũng cung cấp những hình ảnh sắc nét hơn trong tầm 3–4 km và có khả năng phân biệt được nhiệt độ của người thường với nhiệt độ của xe tăng. T-90MS cũng sử dụng pháo chính 2A46M-5 có tuổi thọ nòng cao hơn, bắn xa hơn và chính xác hơn bản đời cũ 2A46M, cùng với hệ thống điều khiển từ xa T05BV-1 dùng cho đại liên phòng không 12,7 ly trên tháp pháo. Phiên bản hiện đại hóa T-90M dành cho quân đội Nga (được ra mắt năm 2016) thì vẫn được trang bị pháo chính 2A46M5, cùng hệ thống điều khiển hỏa lực hiện đại giống như xe tăng T-14 Armata. Giáp trụ T-90 có hình dáng thấp giống như những tăng thời kỳ đầu của Nga, với một tháp pháo tròn thấp nằm chính giữa thân, nó được trang bị cả hệ thống bảo vệ chủ động và bị động, biến T-90 thành chiếc tăng chiến đấu được bảo vệ tốt nhất trên thế giới. Lớp vỏ nghiêng được bao phủ bởi một lớp áo giáp bằng những viên gạch chất nổ (ERA) Kontakt-5 thế hệ hai, giống như phần tháp pháo. Lớp ERA này làm cho tháp pháo có mặt ngoài được tạo góc, với các viên gạch ERA tạo thành một bề ngoài "con trai bắt đạn" (clam shell). Các viên gạch ERA ở mái tháp pháo bảo vệ nó khỏi các vũ khí tấn công từ trên cao. So với T-72, dạng hình vỏ giáp bảo vệ của T-90 không có nhiều thay đổi lớn nhưng chất liệu làm vỏ giáp thì tiên tiến hơn, vì vậy khả năng bảo vệ cũng cao hơn. Vỏ giáp T-90 là giáp thế hệ thứ ba, làm bằng chất liệu tổng hợp gồm nhiều lớp kim loại và gốm, được đánh giá là một tuyệt tác của các chuyên gia quân sự Nga. Vào năm 1999, một đợt kiểm tra về vỏ giáp của T-90 đã được tiến hành với các loại đạn được thử là RPG-29, tên lửa chống tăng (ATGM) và đạn xuyên giáp động năng (APFSDS) cỡ 125mm. Theo báo cáo, ATGM và APFSDS không thể phá hủy được chiếc T-90 được trang bị thêm lớp giáp phản ứng nổ Kontakt-5. Và giáp trụ của chiếc tăng này hoàn toàn ưu việt hơn một chiếc tăng T-80U tham gia cùng buổi kiểm tra hôm đó. Nhìn chung giáp trụ của T-90 hoàn toàn có thể chịu được các loại đạn pháo nòng 120mm thường thấy trên các xe tăng hiện đại phương Tây như M1 Abrams hay Leopard 2, hoặc các loại đạn pháo bắn từ trên xuống nhằm vào phần nóc xe. Sức mạnh thật sự của lớp vỏ giáp T-90 vẫn còn trong vòng bí mật, nhưng theo ước tính của một số nguồn thông tin thì vỏ giáp trước tháp pháo (nơi có độ dày và chất lượng giáp tốt nhất) của T-90 đời đầu (dùng tháp pháo đúc) có độ bền tương đương 550mm thép cán (khi chống chọi với đạn động năng APFSDS) hay 650mm (khi chống đạn nổ lõm - HEAT). Khi được trang bị thêm giáp phản ứng nổ thế hệ 2 là Kontakt-5 thì thông số này tăng lên 800-830mm (chống đạn APFSDS) và 1.150-1.350mm thép (chống đạn HEAT). Phiên bản T-90A và T-90S dùng tháp pháo hàn kiểu mới chắc chắn hơn tháp pháo kiểu đúc của T-90 đời đầu, nên các chỉ số này có thể tăng thêm khoảng 10-15%. Cần lưu ý rằng phiên bản đầu tiên của Kontakt-5 (không chứa chất nổ kiểu 4S22) chỉ có thể làm giảm khoảng 20% mức độ xuyên giáp của đạn APFSDS và hầu như không hiệu quả đối với đạn nổ lõm có đầu nối tiếp (tandem). Kontakt-5 sau đó đã được hiện đại hóa (thay thế chất nổ EDS và BB bằng loại 4S22 tiên tiến hơn) để chống đạn nổ lõm tandem hiệu quả hơn. Loại Kontakt-5 cải tiến này được lắp đặt trên các T-90 loạt sản xuất từ đầu thập niên 2000 (có thể là từ phiên bản T-90S và T-90A). Kontakt-5 cải tiến đã chứng minh được tính hiệu quả của việc chống đạn nổ lõm tandem khi có những chiếc T-90 đã chịu được tên lửa TOW-2A (phiên bản TOW-2 cải tiến có đầu nổ tandem) trong cuộc xung đột vũ trang ở Syria năm 2016. Giáp phản ứng nổ thế hệ 3 là Relikt thì khả năng bảo vệ còn được nâng cao thêm nữa với loại chất nổ 4S23 cải tiến. Relikt có thể làm giảm khoảng 40-50% mức độ xuyên giáp của đạn APFSDS và vô hiệu hóa đạn nổ lõm tandem. Phiên bản T-90AM hoặc T-90SM sử dụng loại giáp này có khả năng bảo vệ đạt tới 1.200 - 1.300mm thép (chống đạn APFSDS) và 1.650 - 1.850mm thép (chống đạn HEAT). Với mức độ bảo vệ này, giáp trước của T-90AM/T-90SM/T-90M là gần như không thể bị xuyên phá bởi hỏa lực pháo 120mm của xe tăng phương Tây dù ở cự ly rất gần. Những khu vực khác của xe tăng như nóc tháp pháo, hai bên xe,... thì vỏ giáp mỏng hơn và khả năng bảo vệ nhìn chung yếu hơn, nhưng cũng rất khó để xuyên phá nếu chỉ sử dụng vũ khí chống tăng kiểu cũ. Đạn pháo T-90 đều nằm trong khoang chiến đấu, sát cạnh kíp xe. Điều đó làm giảm mạnh cơ hội sống sót của lính tăng khi xe bị diệt trên chiến trường. Khác với các xe tăng hiện đại của phương Tây, xe tăng Nga sử dụng hệ thống nạp đạn tự động nên phải chứa nhiều đạn ngay bên trong tháp pháo. Điều này khiến các cỗ xe của Nga tiết kiệm không gian và khiến xe tăng có thiết diện nhỏ ở bên ngoài nên khó bị đối phương bắn trúng khi xung trận nhưng lại dễ bị tổn thương ngay cả khi trúng phải một phát đạn gián tiếp của đối phương. Phát đạn có thể khởi động một phản ứng dây chuyền bên trong xe, khiến toàn bộ đạn dược tích trong xe (khoảng 40 quả đạn pháo) phát nổ đồng loạt. Khi dòng xe T-90 (kế thừa dòng T-72) được đưa vào hoạt động trong năm 1992, lớp giáp của loại xe này đã được nâng cấp nhưng hệ thống nạp đạn vẫn tương tự như xe tiền nhiệm, khiến xe vẫn dễ bị tổn thương như thường. Các hệ thống bảo vệ chủ động (APS) T-90 là xe tăng đầu tiên được trang bị hệ thống phòng vệ chủ động quang điện tử học Shtora-1 (tiếng Nga: Штора-1, có nghĩa là "Bức màn chắn") sản xuất bởi Elektromashina. Shtora được thiết kể để chống lại sự chỉ định mục tiêu bằng laser và thiết bị đo xa của Tên lửa điều khiển chống tăng. Hệ thống gồm thiết bị gây nhiễu quang điên tử (electro-optical), khi hoạt động nó sẽ làm nhiễu quá trình điều khiển đường ngắm bán tự động (semiautomatic command to line of sight - SACLOS) của hệ thống định hướng của tên lửa chống tăng có điều khiển, làm nhiễu máy dò laser và máy chỉ thị mục tiêu của kẻ địch khiến tên lửa chống tăng bắn vào T-90 bay chệch mục tiêu, hệ thống cảnh báo khi T-90 đang bị chiếu laser, các ống phóng lựu khói tự động phóng khi bị chiếu laser. Có thể nói Shtora-1 là một hệ thống phòng vệ chủ động mềm. Nó hiệu quả nhất khi được sử dụng cùng với một hệ thống tiêu diệt cứng như Arena, tạo ra hàng phòng ngự nhiều lớp ngay từ bên ngoài xe tăng. Trong Triển lãm quốc phòng quốc tế (IDEX) được tổ chức tại Abu Dhabi năm 1995, hệ thống này lắp đặt vào một xe tăng trưng bày của Nga. Hệ thống Shtora-1 bao gồm bốn thành phần chủ yếu: trạm giao diện điện quang gồm một đài làm nhiễu âm, một thiết bị điều biến, và thanh điều khiển; một bảng làm nổ lựu đạn tạo màn khói ở mỗi bên tháp pháo; một hệ thống cảnh báo khi xe bị chiếu xạ bởi tia laser; một hệ thống kiểm soát gồm thanh kiểm soát, máy tính xử lý và thanh điều khiển bằng tay. Thiết bị này xử lý thông tin từ các cảm biến và kích hoạt hệ thống tạo màn khói. Shtora-1 có trường quan sát tới 360 độ theo chiều ngang và từ -5 đến +25 độ theo chiều dọc, nó có 12 ống phóng đạn tạo màn khói, cả hệ thống cân nặng 400 kg. Nguyên lý hoạt động của hệ thống Shtora-1 như sau: Hai đèn hồng ngoại OTShU-1-7, mỗi chiếc ở một bên của tháp pháo, liên tục phát ánh sáng hồng ngoại công suất lớn để làm giả tín hiệu hồng ngoại, khiến hệ thống điều khiển bắn của tên lửa chống tăng nhầm lẫn giữa tín hiệu tên lửa và Shtora, làm nó dẫn hướng sai khiến tên lửa bay chệch hướng. Ngoài ra, khi các cảm biến của hệ thống phát hiện xe tăng đã bị "chiếu xạ" bởi tia laser định vị thì máy tính sẽ tính toán xác định các thông số về quỹ đạo của tia laser và sẽ phát lệnh phóng các quả đạn khói về phía đó. Màn khói chỉ chưa cần tới 3 giây đã có thể hình thành và kéo dài khoảng 20 giây. Phạm vi triển khai của màn khói từ 50—70 mét. Màn khói này sẽ gây nhiễu các thiết bị chỉ định bằng laser cũng như ngụy trang cho xe tăng trước các thiết bị ngắm bắn quang học. Khi gặp màn khói này, tín hiệu điều khiển bằng laser sẽ bị nhiễu và tên lửa sẽ mất điều khiển, nó chỉ còn bay theo quán tính. Trong khi đó, xe tăng tiếp tục cơ động và di chuyển tới vị trí khác, khiến tên lửa trượt mục tiêu. Shtora-1 được thiết kế để chống lại các tên lửa chống tăng thế hệ 2 điều khiển bằng hồng ngoại. Các phân tích sâu hơn cho thấy các biện pháp đối phó của Shtora-1 sẽ không hiệu quả trước tên lửa chống tăng thế hệ 3 như FGM-148 Javelin của Mỹ. Nghiên cứu từ Viện Chiến tranh hiện đại tại West Point cho rằng: “Hệ thống Shtora-1 không có tác dụng đối với tên lửa Javelin hay súng trường không giật. Khi nhắm mục tiêu vào một phương tiện sử dụng hệ thống Shtora, xạ thủ có thể sử dụng hệ thống ngắm bắn mục tiêu cải tiến ITAS không sử dụng dẫn đường bằng laser. Điều này sẽ cho phép xạ thủ tránh bị Shtora phát hiện”. Điểm yếu của xe tăng T-90 nằm ở đỉnh tháp pháo, nơi ít được bảo vệ hơn. Tên lửa chống tăng Javelin của Mỹ được phóng từ trên cao có thể lao xuống đỉnh tháp pháo và hạ gục nó. Các xe tăng T-90M mới nhất được cho là sẽ không sử dụng các biện pháp đối phó hồng ngoại từ Shtora-1. Hệ thống tạo khói mù 81 mm PU kiểu 902B Tutra trên tháp pháo xe tăng (12 ống phóng), được sử dụng để tạo màn khói mù ngụy trang, gây nhiễu bức xạ laser chỉ thị mục tiêu. Đạn khói azot 3D17 – có thời gian tạo màn khói 3 giây, tầm bắn tạo màn khói 50 – 80 m, kích thước màn khói là 15 mét theo chiều cao và 10m theo chiều rộng. Với các xe T-90 không được lắp đặt thiết bị TShU-1-7 Shtora-1, loại đạn khói đơn giản hơn là 3D6M được sử dụng. Ngoài T-90, Shtora-1 hiện còn được lắp đặt trên một số phiên bản T-72 cải tiến, T-80UK, T-80BVM. Tuy nhiên T-90S "Bhisma" của Ấn Độ và một số phiên bản xuất khẩu lại không được trang bị Shtora-1 do các nước này không đặt mua. Hệ thống phòng thủ chủ động (APS - Active Protection Systems) ARENA trên T-90 là lớp bảo vệ thứ hai của xe nếu Shtora-1 không gây nhiễu được tên lửa của địch. Arena-E được thiết kế để lắp đặt trên nhiều phương tiện chiến đấu khác nhau, có khả năng bảo vệ xe tăng trước tên lửa chống tăng, đạn chống tăng các loại với góc bảo vệ đạt tới gần 300 độ xung quanh xe (trừ hướng phía sau có bộ binh). Hệ thống gồm một radar mm lắp trên nóc tháp pháo, máy tính điều khiển và 26 đạn nổ đánh chặn chứa trong các hộp lắp xung quanh tháp pháo, cung cấp khả năng bảo vệ hữu hiệu trước đạn chống tăng có tốc độ bay đạt tới 700m/giây và thời gian phản ứng là khoảng 0,07 giây. Nguyên tắc hoạt động của hệ thống APS ARENA là: Anten cảm biến phát hiện vũ khí chống tăng ở cự ly 50m; hệ thống máy tính thu nhận và tính toán tốc độ, quỹ đạo đường đạn cũng như góc tiếp xúc..., từ đó ra chỉ thị kích hoạt phóng đạn nổ, và tiêu diệt chúng ở cự ly cách xe từ 7-10m. Với các mục tiêu có tốc độ bay từ 50–70 m/s thường được coi là không nguy hiểm với xe tăng nên máy tính của hệ thống Arena không ra lệnh đánh chặn, chỉ những mục tiêu có vận tốc trên 70 m/s, thiết bị phóng đạn mới được kích hoạt. Khi được kích nổ, quả đạn phóng ra một luồng mảnh đạn định hướng gồm hàng nghìn mảnh nhỏ để phá hủy tên lửa hay đầu đạn của vũ khí chống tăng. Sau khi đánh chặn, chỉ từ 0,2-0,4 giây sau, xe đã có khả năng đánh chặn tiếp 1 quả đạn khác. Phiên bản xuất khẩu của ARENA là ARENA-E, có giá khoảng 300.000 USD/hệ thống (thời giá năm 2000). Do giá khá cao nên ARENA-E không được gắn kèm T-90, khách hàng muốn trang bị thì phải chi thêm tiền để mua, do đó ít khi thấy T-90 các phiên bản xuất khẩu được gắn ARENA-E. Năm 2017, Nga tiếp tục cải tiến và cho ra mắt phiên bản hiện đại hóa là ARENA-M, có khả năng đánh chặn tốt hơn Ở phiên bản hiện đại hóa T-90M (ra mắt năm 2017), xe được trang bị hệ thống phòng thủ chủ động thế hệ mới là "Afganit". Hệ thống có thể đánh chặn mục tiêu có tốc độ tới 1.700 m/s (tức là tốc độ siêu thanh Mach 5), nghĩa là có thể đánh chặn được cả đạn xuyên giáp động năng APFSDS của pháo chống tăng. Khả năng này vượt trội so với hệ thống ARENA trên T-90 (chỉ đánh chặn được mục tiêu có tốc độ khoảng 700 m/s). Hệ thống phòng thủ của xe tăng cũng được áp dụng công nghệ tàng hình, sử dụng các lớp sơn đặc biệt, làm bằng vật liệu hấp thụ sóng điện từ, giảm thiểu các nguồn bức xạ nhiệt, điện từ và hồng ngoại, khiến các thiết bị trinh sát của địch khó phát hiện ra. Bộ vật liệu ngụy trang Nakidka cũng có sẵn cho T-90, nó được thiết kế để giảm thiểu các loại tín hiệu mà xe tăng phát ra gồm sóng hồng ngoại, tín hiệu nhiệt, độ bộ lộ trước sóng radar. Bên cạnh các hệ thống bảo vệ thụ động và chủ động, T-90 cũng được lắp hệ thống bảo vệ sinh-hóa-phóng xạ (NBC), thiết bị quét mìn KMT, và hệ thống chống cháy tự động. Hệ thống điện tử chống mìn EMT-7 cũng có thể được cài đặt trên T-90. EMT-7 phát ra các xung điện từ để vô hiệu hóa các loại mìn từ tính và các thiết bị nhận tín hiệu kích nổ từ xa trước khi xe tăng tiếp cận chúng. Từ năm 2006, T-90 còn được trang bị hệ thống ngụy trang "Nakidka" để làm giảm khả năng bị đối phương phát hiện. Nakidka gồm các tấm phủ làm bằng vải quét vật liệu hấp thụ radar (RAM), cũng như làm giảm các tín hiệu hồng ngoại, ảnh nhiệt mà xe tăng phát ra (Theo NII Stali (Viện nghiên cứu khoa học về thép), Nakidka làm giảm 30% khả năng bị phát hiện bởi ống nhòm quang học, giảm 2-3 lần khả năng bị phát hiện bởi thiết bị quan sát hồng ngoại, giảm 6 lần tín hiệu radar, và giảm tín hiệu ảnh nhiệt xuống mức gần bằng môi trường xung quanh). Trong tương lai, T-90 có thể được trang bị hệ thống thông tin thế hệ mới nhất và cơ cấu điều khiển được tự động hóa hoàn toàn để tiến tới điều khiển xe tăng từ xa. Tính an toàn Giống như các loại xe tăng khác của Liên Xô trước đây, khả năng sống còn của binh sĩ trong các điều kiện trên chiến trường không phải là điểm mạnh của Т-90. Điều này trước hết là do bố trí cực kỳ phức tạp của bộ phận động cơ-truyền động, nên chỗ dành cho các khoang nhiên liệu trong đó đã không còn, chúng phải chuyển phần nào sang buồng tác chiến và một phần vào phần trước của khối này - nơi xác suất bị trúng đạn của đối phương là cao hơn đáng kể. Hơn nữa, trong khi khoang nhiên liệu với các xe tăng của Hoa Kỳ và phương Tây được bố trí trong bộ phận động cơ-truyền động và cách ly với tổ lái, các thùng nhiên liệu của T-90 thì không. Dù vậy, so sánh với các sơ đồ bố trí tương tự, độ bảo vệ của các thùng nhiên liệu trên tăng Т-90 cao hơn khi bị xạ kích từ hướng hai bên hông nhờ các tấm chắn bổ sung bên hông và bảo vệ động lực ở hông của bộ phận điều khiển; tuy rằng vấn đề mức độ nguy hiểm cho tổ lái trong trường hợp bị bắn trúng khoang nhiên liệu vẫn không giảm xuống. Vấn đề khác của Т-90 là sự bố trí khối đạn dược của nó, cũng nằm trong bộ phận tác chiến và cũng không được cách ly với tổ lái, như thế sự kích nổ nó chắc chắn sẽ dẫn tới việc xe tăng T-90 bị tiêu diệt hoàn toàn. Trên Т-90А vấn đề này đã được giải quyết phần nào nhờ vào các tấm che chắn bổ sung của hệ thống nạp đạn tự động và cách sắp xếp đạn dược bên ngoài nó, tuy nhiên vấn đề về độ an toàn cho tổ lái trong trường hợp sự kích nổ xảy ra vẫn chưa được giải quyết rốt ráo. Tuy vậy, độ hiệu quả của các biện pháp bảo vệ tổ lái được áp dụng trên các xe tăng phương Tây — đưa khối đạn dược vào khoang riêng (theo thông lệ vào phía sau tháp pháo) và được trang bị các tấm giảm nổ cũng bị nghi vấn. Theo quan điểm của các tác giả Nga như Spasibukhov, chẳng hạn, các xe tăng M1 Abrams được bảo vệ theo kiểu này trong quá trình chiến đấu cũng đã bị tiêu diệt do sự kích nổ của khối đạn dược — mặc cho sự thoát hơi của các tấm giảm nổ, vụ nổ đủ để tiêu diệt xe tăng, mặc dù theo khẳng định của Hoa Kỳ, sơ đồ bố trí này đã thể hiện được độ tin cậy của mình. Đồng thời, theo ý kiến của một số tác giả, sự phân bố của khối đạn dược của T-72 và T-90 theo chiều nằm ngang trên sàn của khối tác chiến và trong khu vực ít bị bắn trúng hơn, và trong chiến trận trên thực tế xác suất khoang đạn của T-90 bị kích nổ thấp hơn nhiều khi so sánh với các mẫu xe tăng cũ hơn của Liên Xô là T-80, trong đó khối đạn dược cũng được bố trí trên sàn của khối tác chiến nhưng theo chiều đứng. Theo một số ý kiến khác thì sự co gọn dung tích của hệ thống nạp đạn tự động khi so với nạp đạn cơ học đã làm tăng số lượng khối đạn dược không cơ giới hóa, được phân bố cao hơn hệ thống nạp đạn tự động và trong một loạt các trường hợp cao hơn tháp pháo, nhanh chóng nâng cao tính dễ bị tổn thương của khối đạn dược. Trên các xe tăng phương Tây, giải pháp tiêu chuẩn là sắp xếp khối đạn dược ở phía đuôi tháp pháo. Điều này khiến tháp pháo bị kéo dài, dễ bị bắn trúng hơn, nhưng cho phép thực hiện các tấm giảm nổ (giải pháp được sao chép trên các xe tăng hậu Xô viết Obyekt 291 và Obyekt 640). Tuy nhiên, khối đạn dược trong phiên bản T-90MS mới nhất đã được bố trí lại: ngoài 22 viên đạn chính nằm sẵn trong hệ thống tự động nạp đạn, số đạn dự trữ còn lại được đặt trong hộp đạn phụ chứa được 20 viên đạn nằm ngoài xe, đặt phía sau tháp pháo nhằm giảm khả năng bị kích nổ, và có thiết kế sao cho khi bị xạ kích thì sức nổ của khối đạn dược không ảnh hưởng quá nhiều đến thân xe và tháp pháo. Có điều, việc lấy đạn từ hộp đạn phụ phải được làm thủ công tại các điểm dừng chân trên chiến trường. Tính cơ động T-90 có động cơ diesel đa nhiên liệu V-84MS 840 mã lực (618 kW) bốn thì V-12 piston, có thể chạy bằng nhiên liệu T-2, TS-1 kerosene và A-72 benzine. Động cơ này cho tỷ lệ sức mạnh trên trọng lượng chỉ đạt 18,06 mã lực/tấn, kém đáng kể so với loại T-80U và T-84 (xấp xỉ 26 mã lực/tấn). Về sau, T-90 và các mẫu T-72 mới được trang bị các động cơ mạnh hơn như V-92 950 mã lực và V-96 1100 mã lực, cuối cùng nâng tỷ lệ này lên 20,4 mã lực/tấn và 23,7 mã lực/tấn, mặc dù vẫn còn kém so với T-84. Tuy nhiên, do khối lượng thấp (47 tấn so với 61 tấn của M1 Abrams và 48 tấn của T-84), xe tăng T-90 vẫn đạt được tốc độ đáng kể, có thể ngang ngửa với "xe tăng bay" T-80 và T-84. Đồng thời trục lăn của T-90 rộng hơn T-72B nên nó chịu tải lớn hơn, và vòng sắt của T-90 có thể là loại xích hỗn hợp sắt-cao su hoặc xích sắt có khớp nối đều được. Phiên bản T-90A trở về trước sử dụng hộp số gồm 7 số tiến và một số lùi giống như trên T-64 và T-72. Nó có nhược điểm là tốc độ lùi xe khá chậm, chỉ đạt 4–5 km/h. Phiên bản mới nhất T-90MS có động cơ diesel với công suất 1.130 mã lực với hộp số tự động kiểu mới. Tốc độ tối đa của T-90MS được nâng lên 72 cây số/giờ (trên đường nhựa), tốc độ lùi xe thì tăng lên tới 30 km/h. Tầm hoạt động đạt 550 km khi mang đầy nhiên liệu. T-90MS cũng sử dụng hệ thống treo và hệ thống truyền động được cải tiến với 6 cặp bánh xích có vành cao su cùng với một bánh răng truyền động ở sau cùng, bánh xe dẫn hướng ở trước và 3 bánh đỡ xích. Nửa trên của hệ thống bánh xe được bảo vệ bởi giáp phản ứng nổ. Ngoài ra T-90MS cũng được trang bị một động cơ phụ, hoạt động khi động cơ chính được tắt nhằm giảm thiểu việc hao phí nhiên liệu, giảm lượng nhiệt phát ra để tránh bị "bắt" bởi các thiết bị nhìn hồng ngoại. Các mẫu T-90 có thể lội sâu 5 mét khi lắp đặt hệ thống lội nước, việc lắp đặt chỉ mất 20 phút, đây là một ưu điểm của T-90 (để so sánh, M1 Abrams của Mỹ chỉ có thể lội nước sâu không quá 2 mét). Xe cũng có một thiết bị dạng lưỡi dao nhằm "neo" chiếc xe tại chỗ. Nhìn chung, T-90 có độ tin cậy cao về dễ sửa chữa, ưu điểm được kế thừa từ T-72. T-90 là chiếc xe tăng duy nhất đã hoàn toàn vượt qua các cuộc chạy thử trên địa hình sa mạc tại Ả-rập Xê-út mà không gặp sự cố. T-90 cũng là xe tăng duy nhất đã vượt qua được bài thử nghiệm về khả năng dã chiến ở Malaysia và Ấn Độ (tháo bỏ, sửa chữa, cài đặt lại động cơ chỉ trong 3 giờ trong điều kiện dã chiến), trong khi ba loại xe khác là Leclerc (Pháp), M1 Abrams (Mỹ), Leopard 2 (Đức) đã không vượt qua được. Linh kiện nước ngoài Các lực lượng Ukraine đã chiếm giữ được một trong những xe tăng T-90 tối tân của quân đội Nga vào cuối tháng 5/2022 và phát hiện ra rằng Nga đã sử dụng một số linh kiện do nhà thầu quốc phòng Pháp Thales sản xuất. Công ty Thales phản hồi rằng các thiết bị quang điện tử này được bán theo các hợp đồng công khai đã ký trước khi EU thực hiện cấm vận Nga năm 2014, và “kể từ khi các biện pháp cấm vận của châu Âu được thực hiện vào năm 2014 – chúng tôi đã không ký bất kỳ hợp đồng nào với Nga trong lĩnh vực quốc phòng” Việc phát hiện ra công nghệ quang điện tử của Pháp trong một chiếc T-90 bị lực lượng Ukraine bắt giữ đã đặt ra câu hỏi về độ bền của chuỗi cung ứng hỗ trợ sản xuất T-90. Đánh giá chung Trước hết, cần phải lưu ý đến ý kiến của một số tác giả cho rằng những so sánh về lý thuyết của các loại xe tăng không phản ánh đầy đủ sự thành công của các xe tăng ấy nếu được đưa ra chiến trường. Thành bại của một trận đánh còn phải tính đến sự luyện tập và kỹ năng của kíp lái, chiến thuật của các chỉ huy quân sự, công tác bảo trì các trang thiết bị và sự tương tác, hiệp đồng giữa các quân binh chủng (nhất là công tác phòng ngự chống lại các máy bay cường kích và các trực thăng mang tên lửa chống tăng), tất cả những điều này quan trọng hơn rất nhiều so với những thông số kỹ thuật của chính chiếc xe tăng đó. Như đã thấy trong các cuộc chiến tranh, cùng sử dụng một chiếc xe tăng nhưng một kíp lái có kỹ năng cao và kỷ luật tốt có thể phát huy sức mạnh của nó lên gấp nhiều lần so với một kíp lái kém và vô kỷ luật. Theo phía Nga thì T-90A có nhiều đặc điểm ưu việt về hỏa lực, độ cơ động và độ tin cậy. Cho tới hiện nay đã có nhiều bài viết so sánh giữa T-90 và xe tăng của các nước khác, và các đánh giá này thường là trái chiều nhau. Một mặt, một số ý kiến cho rằng các mẫu T-90A, S, M và các phiên bản nâng cấp khác đủ mạnh để vượt qua các xe tăng hiện đại nhất của các nước khác.. Mặt khác, một số ý kiến cho rằng T-90 đã lạc hậu hơn so với các phiên bản tối tân và mạnh nhất của xe tăng các nước khác.Танки ХХI века. Một trong những đặc điểm nổi bật của T-90 so với các xe tăng hiện đại khác là hệ thống nạp đạn tự động. Việc tích hợp hệ thống này giúp cho kíp lái giảm xuống từ 4 còn 3 người (bớt đi binh sĩ nạp đạn), giảm đáng kể thao tác chuẩn bị trong khi vẫn duy trì được an toàn và tăng tốc độ bắn (so với nạp đạn bằng tay). Đồng thời xe tăng cũng có kích thước và khối lượng nhỏ gọn, đảm bảo tính cơ động chiến lược cao cũng như ít bị phát hiện trên chiến trường. Một đặc điểm quan trọng của T-90 đó chính là sự thành công về mặt thương mại của T-90S như cho phép khách hàng lựa chọn và đặt trước các yêu cầu trang bị vũ khí, khí tài; việc thực hiện các thủ tục kiểm tra và nghiệm thu do các đơn vị đọc lập tiến hành... Tuy nhiên cũng cần phải tính đến việc chọn lựa đối tác mua hàng có thể có lý do về chính trị thay vì về chất lượng của sản phẩm. Các biến thể Có ít nhất 7 biến thể khác nhau của T-90. Người Nga xác nhận sự tồn tại của một mẫu dành cho xuất khẩu vào tháng 6 năm 1996 với các trang bị và động cơ đã bị biến đổi, và người Nga cũng đã sản xuất hai kiểu T-90S (hay "C" một số khi dùng khi không dịch tiếng Kirin) và biến thể xe chỉ huy T-90SK. Xe chỉ huy T-90K khác về thiết bị radio và thiết bị lội nước và một hệ thống nổ từ xa Ainet để chống lại đạn HEF. Cũng có một số tham khảo về một kiểu T-90E, nhưng vẫn chưa được chứng minh. Các phiên bản xuất khẩu cho Ấn Độ: T-90S Bhisma và T-90SM Hợp đồng bán các loại xe tăng T-80UD và T-84 của Ukraina cho Pakistan đã khiến cho Ấn Độ, đối thủ truyền kiếp của Pakistan lo lắng vì các loại tăng Ấn Độ lúc đó như Ajeya MK (một phiên bản của T-72 sản xuất tại Ấn Độ) đang có dấu hiệu lạc hậu (nhất là sau những thông tin về việc T-72 thể hiện rất kém trước các mẫu tăng hiện đại). Rõ ràng, Ấn Độ nhận thấy họ đang cần một loại xe tăng mới nhằm tạo một đối trọng với T-80UD và T-84. Những thất bại và trì hoãn trong việc phát triển mẫu tăng nội địa Arjun càng khiến ưu thế về tăng thiết giáp và quân sự của Ấn Độ bị xói mòn so với đối thủ Pakistan. Cuối cùng, T-90 xuất hiện như một lựa chọn phù hợp với tình hình Ấn Độ lúc đó. Năm 2001 Ấn Độ đã đặt mua 310 xe tăng T-90S của Nga, trong đó có 120 chiếc đã hoàn thành, 100 chiếc đã lắp đặt xong các thiết bị cơ bản, còn 90 chiếc mới hoàn tất một nửa. T-90 được chọn vì nó là bản nâng cấp của mẫu T-72 mà Ấn Độ sử dụng thành thục, đồng thời sức mạnh của nó cũng có thể cạnh tranh ngang ngửa với T-80UD và T-84 của Pakistan. Giá trị của hợp đồng lên tới 795 triệu USD, bao gồm cả chi phí chuyển nhượng công nghệ và các hệ thống vũ khí của T-90. Ngày 26/10/2006, một hợp đồng 330 chiếc T-90S trị giá 800 triệu USD cũng được ký kết Tổng cộng, Ấn Độ đang muốn sở hữu hơn 1500 xe tăng T-90S cho đến năm 2020. Một nguồn tin khác nói cụ thể hơn là T-90 sẽ là thành phần nòng cốt của lực lượng Tăng thiết giáp Ấn Độ, với số lượng là 1657 chiếc. Đồng thời, vào năm 2006-2007, Ấn Độ cũng đã tiến hành sản xuất mẫu T-90 "Bhisma" nội địa với sự giúp đỡ của các chuyên gia Pháp và Nga. Tuy nhiên trong quá trình phát triển và sản xuất, một số trục trặc cũng phát sinh, thí dụ như thiết bị nhìn hồng ngoại của Pháp không thích hợp với một quốc gia có khí hậu nóng như Ấn Độ. Dù sao, năm 2006 nhà máy quân sự Ordance đã nhận giải thưởng trị giá 2,5 tỉ USD của chính phủ vì thành tích đã sản xuất hơn 1.000 xe tăng Bhisma. Cần chú ý là các mẫu T-90 Ấn Độ sản xuất không có hệ thống gây nhiễu tên lửa Shtora vì Ấn Độ không đặt mua, mặc dù có thông tin cho rằng một hợp đồng sản xuất phiên bản mới hơn được trang bị hệ thống này hiện đang được bàn thảo. Cuối cùng, vào tháng 4 năm 2008, quân đội Ấn Độ đã gửi một đề nghị các hãng Rafael, BAE Systems, Raytheon, Rosoboronexport, Saab, và IBD Deisenroth Engineering nhằm đặt mua hệ thống gây nhiễu tên lửa cho Bhishma. Giá trị hợp đồng này được ước tính lên tới 270 triệu USD. Hệ thống LEDS-150 của Hãng Saab (Thụy Điển) cuối cùng đã thắng thầu vào tháng 1 năm 2009. Tuy nhiên, việc thực hiện bị chậm trễ, đến năm 2016 thì liên doanh Ấn Độ - Saab mới bắt đầu sản xuất hệ thống này Một hợp đồng thứ 3 trị giá 1,23 tỉ Mỹ kim đã được ký vào tháng 12 năm 2007, với nội dung đặt mua 347 xe tăng T-90S nâng cấp, phần lớn số này sẽ được lắp ráp bởi HVF. Phía Ấn Độ hy vọng rằng họ sẽ có thể tổ chức một lực lượng xe tăng bao gồm 21 trung đoàn T-90 và 40 trung đoàn T-72 nâng cấp. Việc chuyển giao số xe tăng T-90S sẽ bắt đầu vào cuối năm 2009. Loạt 10 chiếc T-90M "Bhishma" đầu tiên đã được giới thiệu với quân đội Ấn Độ vào ngày 24 tháng 8 năm 2009. Số xe tăng này được chế tạo tại Nhà máy Cơ giới Hạng nặng ở Avadi, Tamil Nadu. Mẫu xe T-90SM khi mới được quảng bá lập tức gây được sự chú ý của giới quân sự Ấn Độ và có ý kiến lo ngại rằng việc nhập khẩu mẫu xe tăng này sẽ làm hại đến tương lai của loại xe tăng do Ấn Độ tự nghiên cứu - Arjun Mk2, tuy nhiên giới quân sự Ấn Độ đã bác bỏ thông tin về việc "khai tử" Arjun Mk2 và cho rằng cả hai mẫu tăng đều quan trọng cho Ấn Độ. Tháng 9 năm 2013, Ấn Độ ký hợp đồng sản xuất 235 xe tăng T-90SM dưới sự chuyển giao công nghệ của Nga, trị giá lên tới 1 tỉ đôla Mỹ.Đức Vinh, Ấn Độ chi đậm để sản xuất 235 xe tăng T-90MS mạnh nhất thế giới, báo An Ninh Thủ Đô, ngày 18 tháng 9 năm 2013 Ấn Độ dự kiến triển khai 6 trung đoàn xe tăng sở hữu tổng cộng 354 xe tăng T-90SM tại biên giới Ấn Độ-Trung Quốc, bởi vì thiết kế của T-90SM tỏ ra phù hợp với điều kiện của khu vực đó. Năm 2019, Ấn Độ và Nga đã ký kết thỏa thuận sản xuất được cấp phép đối với 464 xe tăng T-90S với chi phí khoảng 3,12 tỷ USD. Tổng cộng người Ấn hy vọng tổ chức được 21 trung đoàn xe tăng T-90 cho đến năm 2020, với mỗi trung đoàn có 45 xe tăng trong tình trạng chiến đấu và 17 xe tăng dùng để huấn luyện và xe tăng dự bị. Xuất khẩu T-90 đã được cấp phép xuất khẩu ngay từ ngày 5 tháng 10 năm 1992. Tuy nhiên trong suốt một thời gian dài, các lãnh đạo công nghiệp quốc phòng Nga chưa bao giờ cho T-90 xuất hiện tại các buổi triển lãm vũ khí quốc tế mà chỉ cho trình làng các mẫu T-72 mới của nhà máy Uralgavonzavod mà thôi, có lẽ với mục đích nhằm dồn sức cho việc quảng cáo các mẫu xe tăng thuộc dòng T-80U của Nga. T-90 xuất hiện lần đầu tiên tại buổi triển lãm IDEX tại Abu Dhabi vào năm 1997, nhưng các thông tin về nó không được giới thiệu kèm theo, điều này có nghĩa là T-90 không được giới thiệu chính thức trong buổi triển lãm đó. Nhưng trong lần này bản thân T-90 đã thể hiện hết sức thành công và đã lôi kéo được rất nhiều sự chú ý của các chuyên gia quân sự trên thế giới. Trong những năm qua, xe tăng chiến đấu T-90S là sản phẩm quân sự đã được cung cấp chủ yếu cho Ấn Độ và Algérie, ngoài những quốc gia này không có bước đột phá nào đáng kể. Theo Phó Giám đốc Trung tâm Phân tích Chiến lược và Công nghệ Nga Konstantin Makiyenko, sau các hợp đồng ký kết với Ấn Độ, Algérie, Nga sẽ không còn những khách hàng chủ yếu và doanh số bán hàng có thể bắt đầu suy giảm. Bên cạnh đó, các nước khác đã đẩy mạnh việc phát triển các thiết kế dựa trên xe tăng của Liên Xô và Nga, từ đó, quay lại cạnh tranh với hoạt động xuất khẩu của Nga. Tiêu biểu là Trung Quốc, các sản phẩm của nước này như Xe tăng chủ lực kiểu 98 dù có sức mạnh thấp hơn T-90 nhưng mức giá thì rẻ hơn rất nhiều, đối với những nước nghèo thì xe tăng mang công nghệ vừa phải với mức giá thấp là lựa chọn ưu tiên hơn là xe tăng công nghệ cao. Mức giá cao hơn của T-90S so với các mẫu xe của Trung Quốc là nguyên nhân chính dẫn đến việc xe tăng này của Nga bị thất bại trong nhiều cuộc đấu thầu. Tuy nhiên, sau màn thể hiện hiệu quả trong Nội chiến Syria năm 2015, nhiều quốc gia ở Trung Đông và châu Á đã tỏ ra quan tâm tới T-90. Đầu năm 2017, Nga đã ký một hợp đồng quy mô lớn bán xe tăng chủ lực T-90MS cho một nước giấu tên ở khu vực Trung Đông, mà sau đó được xác định chính là Kuwait. Iraq cũng quyết định mua 73 xe tăng T-90 cũng vào năm 2017. Việt Nam cũng đã đặt mua dòng xe tăng này để thay thế dần các xe tăng T-54/55 đã cũ. Lô T-90S/SK đầu tiên cũng đã đến Việt Nam vào ngày cuối cùng của năm 2018. Lịch sử chiến đấu Trong chiến tranh Chechen năm 1999, T-90 được sử dụng trên chiến trường lần đầu tiên, một chiếc trong số đó đã trúng vài quả tên lửa chống tăng và súng chống tăng, tuy nhiên xe không hề hấn gì nhờ lớp giáp dày Trung Đông Trong Nội chiến Syria, theo ước tính của quân đội Syria, các nhóm phiến quân có khoảng 6.000 tổ hợp tên lửa chống tăng BGM-71 TOW được Mỹ và Ả Rập Xê Út viện trợ, cùng hàng ngàn hệ thống tên lửa chống tăng xuất xứ từ các nước khác như Nga và Trung Quốc, chưa kể hàng vạn súng chống tăng các loại RPG-7 và SPG-9. Số vũ khí chống tăng này đã gây thiệt hại nặng cho lực lượng xe tăng (gồm chủ yếu là T-55, T-62 và T-72 đời cũ) của quân đội chính phủ Syria. Để hỗ trợ chính phủ Syria, ít nhất 15 xe tăng T-90A đã được Nga viện trợ cho quân đội Syria để chống lại phiến quân Đến năm 2018, khoảng 30 chiếc T-90A đã được Nga chuyển cho Syria, được biên chế cho Sư đoàn thiết giáp số 4, cùng Lữ đoàn Chim ưng Sa mạc và Đặc nhiệm Hổ, các đơn vị tinh nhuệ thường tiến hành các chiến dịch ác liệt nhất của quân đội Syria. Tại chiến trường Syria, loại xe tăng Leopard 2A4 của Thổ Nhĩ Kỳ đã bị bắn cháy hàng loạt. Leopard 2A4 là loại xe tăng mà Thổ Nhĩ Kỳ mua từ trong kho của quân đội Đức, đây là phiên bản nâng cấp được sản xuất trong giai đoạn 1987-1992, với công nghệ vỏ giáp phức hợp gồm các tấm titan/wolfram phẳng và composite, tương đương kiểu giáp Chobham tuyệt mật của Anh, có khả năng bảo vệ cao trước các loại đạn xuyên giáp và tên lửa chống tăng, nhưng phần hông tháp pháo cũng như hông thân xe thì mỏng hơn khiến chúng vẫn bị xuyên qua dễ dàng. Loại xe này đã bị phá hủy 10 chiếc sau 3 tháng chiến đấu cuối năm 2016 Các nguồn tin của Nga cho biết trong 10 chiếc Leopard 2A4 thì có một phần bị tiêu diệt bởi vũ khí chống tăng còn một số khác bị tiêu diệt bởi mìn IED. Tại chiến trường Yemen năm 2015, quân đội Arab Saudi có trong tay 440 chiếc M1 Abrams, theo nhà sản xuất thì họ đã nâng cấp tất cả M1A1, M1A2 và M1A2 của Ả Rập Xê Út lên phiên bản M1A2S, đây là biến thể áp dụng các công nghệ hiện đại của M1A2 SEP mà quân đội Mỹ sử dụng.). Tuy nhiên, các xe tăng Abrams xuất khẩu cho Arab Saudi chỉ được trang bị giáp thông thường thay vì giáp uranium nghèo (DU) như trên xe tăng của Mỹ do Washington vẫn duy trì chính sách cấm xuất khẩu xe tăng Abrams mang giáp DU. Uranium nghèo có độ đặc gần gấp đôi chì và cũng cứng hơn rất nhiều, khiến chúng rất phù hợp để chế tạo giáp cho xe tăng. Khi xe tăng bị bắn trúng, lớp giáp DU khiến viên đạn pháo mất phần lớn động năng do chúng quá đặc và quá cứng. Nhiều chiếc M1A2S đã bị phá hủy bởi quân Houthi ở Yemen. Không rõ số lượng tổn thất cụ thể, nhưng đến tháng 8/2016, Arab Saudi đã mua thêm 153 chiếc M1 Abrams, 20 chiếc trong số đó để thay thế cho những xe bị mất khi chiến đấu Cũng trong giai đoạn này, ít nhất 15 chiếc T-90A được Nga viện trợ cho quân đội Syria từ tháng 11/2015. Đây là phiên bản T-90A cũ sản xuất từ năm 1992, cũng không được gắn kèm hệ thống phòng vệ chủ động ARENA mà chỉ sử dụng các thiết bị do Syria tự chế tạo. T-90A đã tỏ ra rất hiệu quả trong thực chiến. Hệ thống gây nhiễu Shtora-1 thì được gắn kèm và đã phát huy tác dụng, khiến các tên lửa chống tăng bắn vào nó bị gây nhiễu và bay chệch mục tiêu. Tính tới hết năm 2016, sau hơn 1 năm T-90 tham chiến tại Syria mà không có chiếc nào bị phá hủy. Trước đó một tháng, ngày 26/2/2016, do sơ suất của tổ lái (không bật hệ thống Shtora trên xe), một T-90A đã bị tên lửa đánh trúng nhưng nhờ sự bảo vệ của lớp giáp phản ứng nổ loại Kontakt-5, vỏ giáp của chiếc tăng T-90 không bị xuyên thủng và nó chỉ bị hư hại nhẹ, kíp lái không bị thương tích gì. Đây là lần đầu tiên T-90 bị trúng tên lửa BGM-71 TOW của Mỹ và đã chứng tỏ khả năng bảo vệ tốt của nó trước một hệ thống chống tăng vốn được Mỹ đưa vào biên chế quân đội từ năm 1970. Ngoài ra còn có một chiếc T-90 mà Nga cung cấp cho Quân đội Syria đã chịu hư hại nhỏ ở mặt trận Raqqa, một trong hai đèn hồng ngoại Shtora-1 và bánh xe bị bắn hỏng. Đến cuối năm 2016, đã có ít nhất 4 lần phiến quân dùng tên lửa hoặc súng chống tăng bắn trúng T-90A nhưng chưa một lần chiếc xe tăng này bị phá hủy hoàn toàn mà chỉ bị hư hại nhẹ ở các bộ phận bên ngoài. Sang năm 2017, sau 1 năm rưỡi thì đã có 1 xe T-90 bị thu giữ và 1 xe bị phá hủy. Phiến quân tuyên bố thu giữ 1 chiếc T-90 vào ngày 18/4/2016 (nhưng nguồn tin sau đó cho biết đây chỉ là tin giả, bởi không hề có ảnh phiến quân đứng chụp cạnh xe để tuyên truyền chiến tích như thông thường). Chiếc T-90 duy nhất bị bắt vào ngày 10/6/2016, tổ lái đã tự bỏ xe sau khi hứng chịu nhiều cuộc tấn công từ nhiều hướng khiến nhiều bộ phận gắn ngoài của xe như kính ngắm, hai đèn hồng ngoại hệ thống Shtora-1, ốp cách nhiệt nòng pháo, nhiều phần giáp ERA Kontakt-5 bị hỏng Chiếc T-90 bị bắt vẫn chạy được bình thường, chứng tỏ rằng xe chỉ bị hư hại bên ngoài, nhưng do sự vô kỷ luật và tinh thần chiến đấu kém nên kíp lái đã tự bỏ xe chạy ra ngoài, khiến cho xe bị bắt giữ (nhiều binh lính Syria thường vứt vũ khí để bỏ chạy khi gặp nguy hiểm, nên xe tăng T-90A bị bắt giữ khi còn nguyên vẹn là điều rất dễ xảy ra). Tháng 1 năm 2017, chiếc T-90A đầu tiên bị phá hủy ở gần Khanasir bởi tên lửa chống tăng của ISIS, chỉ huy và pháo thủ rời xe sau khi bị bắn trúng trong khi lái xe bị thương đã được sơ tán sau đó Lá cờ trên tháp pháo cho thấy kíp xe là các chiến binh Hezbollah – lực lượng quân tình nguyện được Iran hậu thuẫn chiến đấu cùng với quân đội Syria. Cũng giống như lần đầu T-90A bị tên lửa tấn công hồi đầu năm 2016, cách vận hành kém, sự vô kỷ luật và hàng loạt sai lầm của kíp lái bị cho là nguyên nhân chính khiến chiếc T-90A bị mất. Sai lầm thứ nhất của kíp lái là đã không bật hệ thống Shtora trên chiếc T-90A (khiến xe bị trúng tên lửa), sai lầm thứ 2 là cắm lá cờ vàng trên tháp pháo khiến nó trở thành điểm ngắm dễ nhìn cho xạ thủ đối phương, sai lầm thứ ba là để mở nắp tháp pháo của xe trong quá trình tham chiến, sai lầm thứ 4 là việc kíp lái tự bỏ xe mà không kích hoạt hệ thống chữa cháy. Dù bị trúng liên tiếp 2 quả tên lửa nhưng ban đầu xe chỉ bị cháy nhỏ, nếu thành viên kíp xe tiến hành dập tắt lửa trên tháp pháo thì chiếc xe vẫn có thể hoạt động. Nhưng vì kíp lái đã tự bỏ xe chạy ra ngoài nên không có ai dập lửa, sau nhiều giờ ngọn lửa dần cháy lan vào trong xe khiến chiếc T-90 bị phá hủy Tính đến hết năm 2018, chỉ có 4 trường hợp T-90 bị mất ở Syria, 1 chiếc là T-90 Model 1992 bị mất vào năm 2016 ở Aleppo, 3 chiếc còn lại là T-90A. Trong 4 trường hợp, chỉ có 1 chiếc là bị phá hủy (xe của Hezbollah bị trúng TOW-2 vào tháng 1/2017, tổ lái bỏ xe như đã nêu trên), 3 chiếc còn lại không bị phá hủy nhưng bị đối phương chiếm giữ vì tổ lái đã bỏ chạy giữa chừng (Trường hợp đầu tiên, xe bị hư hại do trúng TOW-2 và tổ lái bỏ xe lại. Trường hợp 2, không rõ bối cảnh, xe bị mảnh đạn làm hỏng cả ba kính ngắm và bị tổ lái bỏ lại. Trường hợp cuối là xe của đặc nhiệm Syria ở Dier Ezzor, IS nhân bão cát đã tấn công, thu được một xe T-90A còn nguyên vẹn trong xưởng bảo trì). Khi so sánh với mức độ thiệt hại của M1 Abrams và Leopard-2A4, việc chỉ có 1 chiếc T-90A bị phá hủy sau 3 năm tham chiến (mà chủ yếu là do lỗi của kíp lái) là thành tích rất ấn tượng của T-90A so với các mẫu xe tăng phương Tây. Thực tế cho thấy xe tăng Mỹ và Đức đã nhiều lần bị bắn cháy bằng súng phóng lựu hoặc tên lửa chống tăng được phát triển từ những năm 1970, trong khi đã có những chiếc T-90 trúng vài phát đạn vũ khí chống tăng nhưng vẫn sống sót và kíp điều khiển không hề hấn gì. Chuyên gia quân sự Andrei Koshkin đánh giá: "Khu vực Trung Đông từ lâu đã đánh giá cao khả năng hoạt động của xe tăng Liên Xô và Nga. Các dòng xe tăng T-62, T-72 tỏ ra rất phù hợp với khí hậu sa mạc, bán sa mạc và khô nóng tại Trung Đông... Mỹ luôn quảng cáo xe tăng M1 Abrams là dòng xe tăng hiệu quả tác chiến nhất thế giới, nhưng thực tế chiến trường mấy năm trở lại đây tại Iraq đã chỉ ra, xe tăng Mỹ dễ tổn thương và hiệu quả tác chiến thấp. Chính thực tế chiến trường đã chứng minh xe tăng Nga (T-90) có hiệu quả hơn hẳn xe tăng của các quốc gia khác. Điều này cũng giải thích tại sao xe tăng Nga đang được rất nhiều quốc gia Cận Đông quan tâm và đặt mua". Tổng giám đốc Công ty Uralvagonzavod (nơi sản xuất T-90), cho rằng sức mạnh của T-90 trên chiến trường Syria đã được minh chứng rõ ràng khi các tên lửa chống tăng rất khó tiêu diệt được nó, kể cả là các vũ khí chống tăng dùng đầu đạn kép (Tandem), chuyên dùng để phá giáp phản ứng nổ cũng bất lực trước T-90. Bởi màn trình diễn ấn tượng này, một số quốc gia như Việt Nam đã tỏ ra quan tâm và muốn mua loại xe tăng này Ông trả lời phỏng vấn: "Hiện nay ở Syria và nhiều quốc gia Trung Đông khác đang xảy ra các cuộc xung đột vũ trang, thực tế cho thấy ý nghĩa của khí tài thiết giáp do Nga sản xuất vẫn hết sức hữu dụng... Có lẽ, tất cả các chuyên gia quân sự trên thế giới đã xem những hình ảnh khi phiến quân tại Syria sử dụng các tổ hợp tên lửa chống tăng tốt nhất của Mỹ để tìm cách bắn hạ xe tăng T-90 của quân đội Syria và kết quả là cả xe tăng lẫn tổ lái đều bình yên. Điều này gây sự khó hiểu và hàng loạt những bình luận mang tính khâm phục... Chiến dịch quân sự tại Syria cho thấy sự ổn định và chất lượng khí tài quân sự do Uralvagonzavod sản xuất, trong đó xe tăng T-90 là minh chứng không thể hoàn hảo hơn."Theo báo Quân đội nhân dân, trong khi tại Iraq, Yemen và Syria, xe tăng M1 Abrams và xe tăng Leopard 2 cùng chịu thất bại, thì nhiều hình ảnh về những xe tăng T-90 bị trúng đạn nhưng vẫn sống sót được công khai rộng rãi trên mạng xã hội và kênh truyền thông chính thống. Nhờ kết quả trên, Tập đoàn Uralvagonzavod, nơi sản xuất T-90, cho biết các đơn hàng đặt mua xe tăng Nga đã tăng gấp nhiều lần trong vài năm tới. Chuyên gia quân sự Sebastien Roblin của tờ National Interest nhận xét rằng T-90A có kết quả chiến đấu rất khác biệt so với các loại xe tăng phương Tây như M1 Abrams, Leopard-2 và M60T Sabra. Một chiếc T-90A chỉ nặng khoảng 50 tấn, nhẹ hơn nhiều so với mức 60-70 tấn của xe tăng Leopard 2 hoặc M1A2 Abrams. Hệ thống nạp đạn tự động giúp tổ lái rút gọn chỉ còn ba người, khiến T-90A có hình dáng nhỏ gọn, khó bị phát hiện và bắn trúng trên chiến trường. Roblin nhận xét: "T-90A sở hữu nhiều lớp bảo vệ mà xe tăng Abrams và Leopard 2 không có, giúp nó đối phó hiệu quả với ATGM. Phần lớn thiệt hại của xe thiết giáp trong hàng chục năm gần đây đều bắt nguồn từ tên lửa và vũ khí chống tăng vác vai, chứ không phải do pháo chính trên xe tăng đối phương... Dòng T-90A tương đối thành công trên chiến trường, bất chấp những thiệt hại do khả năng phối hợp kém giữa lính bộ binh và tăng thiết giáp, vấn đề từ lâu của quân đội Syria. Không có chiếc T-90A nào bị phá hủy bởi vũ khí tầm ngắn như RPG-7 và RPG-29, do chúng luôn đóng vai trò yểm trợ hỏa lực tầm xa"Chiến tranh Ukraina Trong cuộc chiến Nga-Ukraine năm 2022, xuất hiện trên internet nhiều hình ảnh về xe T-90A của quân đội Nga bị phá huỷ, bị Ukraine thu giữ hoặc bị tổ lái bỏ lại mà không rõ nguyên nhân. Trong cuộc chiến này, Ukraine đã sử dụng lượng tên lửa chống tăng rất lớn để chống lại xe tăng Nga. Chỉ trong vòng chưa đầy một tuần đầu chiến tranh, Hoa Kỳ và NATO đã chuyển hơn 17.000 vũ khí chống tăng cho Ucraine, bao gồm cả tên lửa kiểu mới nhất như Javelin Trước cuộc chiến Ukraine, Nga có khoảng 2.600 xe tăng đang hoạt động và 10.000 xe tăng trong kho, ở các trạng thái sửa chữa khác nhau, bao gồm kiểu xe mới nhất là T-90, nhưng phần lớn đội hình là những chiếc T-80 và T-72 cũ - nhiều chiếc được sản xuất trong Chiến tranh Lạnh hoặc ngay sau đó. Trong khi những chiếc T-90 đi kèm với các hệ thống nhắm mục tiêu và điện tử tinh vi, thì những chiếc T-80 và T-72 kém tiên tiến hơn. Ngày 22 tháng 4 năm 2022, lần đầu tiên một chiếc T-90M Proryv-3 của quân đội Nga bị phá hủy hoàn toàn ở tỉnh Kharkiv. Dù dự đoán cho rằng T-90M có khả năng sống sót khá cao trước tên lửa chống tăng Javelin, có vẻ như trên thực tế, mẫu xe tăng này vẫn có thể bị tấn công. Những chiếc T-90M đầu tiên chỉ mới được trao cho một sư đoàn súng trường cơ giới của Nga tại Quân khu miền Tây vào mùa xuân năm 2020. Một số ước tính cho rằng chỉ có khoảng 100 chiếc T-90M đã được biên chế vào thời điểm Nga khởi động chiến sự vào tháng 2. Ngày 19 tháng 9 năm 2022, bộ quốc phòng Ukraine công bố video tịch thu một chiếc T-90M Proryv-3 còn nguyên vẹn trong cuộc phản công tại tỉnh Kharkiv. Ngày 25 tháng 11 năm 2022, xuất hiện đoạn video về một chiếc T-90M Proryv-3 bị phá hủy trong đội hình một đoàn vận tải của Nga bị tiêu diệt ở Kyslivka, tỉnh Kharkiv. Ngày 4 tháng 12 năm 2022, chiếc T-90M Proryv-3 thứ 2 bị tịch thu trong trạng thái còn nguyên vẹn tại tỉnh Luhansk. Phiên bản T-90M là loại xe tăng tiên tiến nhất của Nga trong cuộc chiến Hệ thống phòng thủ chủ động ARENA trên xe tăng T-90 (được cho là ngang ngửa với Trophy của Israel) được thiết kế để đánh chặn những tên lửa chống tăng lao tới xe, nhưng trong cuộc chiến Ukraina, chúng đã không được lắp đặt mà không rõ lý do Quân đội Ukraine tuyên bố đã dùng tên lửa chống tăng vác vai AT4 của Thụy Điển để tiêu diệt 1 chiếc T-90M ở khu vực lân cận 2 ngôi làng Novoselivske và Kuzemivka, vùng Luhansk. Một nguồn khác thì cho rằng chiếc T-90M này bị phá huỷ bởi đạn pháo bắn trúng nóc xe Tác giả David Hambling của tờ Forbes nhận định T-90 là nạn nhân của sai lầm về chiến thuật mà quân Nga gặp phải. Chiếc xe tăng đã tấn công về phía trước mà không có sự hỗ trợ của bộ binh - khiến nó trở nên cực kỳ dễ bị tổn thương. Đây là bài học mà Nga đã không học được trong giai đoạn đầu của cuộc chiến và lại đang tiếp tục với những xe tăng đắt tiền hơn. Những chiếc xe tăng T-72 cơ bản có giá khoảng 500.000 USD nhưng những chiếc T-90M mới được cho là có giá tới 4,5 triệu USD. Đến ngày 20/2/2023, theo blog nguồn mở Oryx thống kê dựa trên các bức ảnh hoặc video trên internet, tổng cộng Nga đã mất 50 xe tăng T-90, bao gồm 34 chiếc T-90A (19 bị tiêu diệt, 2 bị tổ lái bỏ lại, 13 bị Ukraine bắt giữ), 6 chiếc T-90S (4 bị tiêu diệt, 1 bị hỏng và bỏ lại, 1 bị bắt giữ) và 10 chiếc T-90M (4 bị tiêu diệt, 4 bị hỏng, 2 bị bắt giữ). Thống kê của Oryx được nhiều hãng truyền thông lớn trên thế giới dẫn lại như CNN, Deutsche Welle, The Washington Post, Le Figaro Nikkei Asia, Bloomberg, Reuters, Al Jazeera, The Guardian, The Eurasian Times Tuy nhiên, Liên minh châu Âu cảnh báo rằng số liệu từ những nguồn mở như Oryx là thiếu chính xác, ví dụ như các hình ảnh và video được tuyên bố là các sự kiện khác nhau, nhưng thực tế là từ cùng một sự kiện được chụp từ các góc máy khác nhau. Trong tình hình chiến tranh, việc đếm sai như vậy có thể là vô tình hoặc có chủ đích. Do đó dữ liệu cần được kiểm tra và đưa vào ngữ cảnh trước khi công bố. Ngày 12/1/2023, xuất hiện một video về T-90M làm chệch hướng tên lửa chống tăng tại khu vực Svatovo-Kremennaya ở Donbass. Theo Avia Pro, đoạn video cho thấy T-90M dường như đã kích hoạt hệ thống phòng thủ TShU-2 "Shtora-1" để vô hiệu hóa quả tên lửa Ukraine. Đây là video đầu tiên quay lại cảnh hệ thống Shtora-1 của T-90M hoạt động ở Ukraine. Quân đội Ukraine trước đây đã và đang sử dụng các mẫu T-62 và T-72. Trung úy người Ukraine Oleksander Romanchuk, chỉ huy đại đội xe tăng và là cựu chiến binh 10 năm, nói với Eurasian Times: "Nếu bạn bắt gặp một chiếc T-90, bạn cần ba chiếc của chúng tôi để xử lý nó - hoặc rất may mắn." Trong 1 đoạn video do kíp lái xe tăng T-90M ghi lại có thể thấy chiếc xe tăng Nga phá hủy toàn bộ tuyến phòng thủ của quân đội Ukraine, việc ngắm bắn được thực hiện cùng với máy bay không người lái, cho phép nhanh chóng phát hiện chuyển động của đối phương và tung ra các đòn tấn công chính xác từ khoảng cách xa bên ngoài tầm bắn của vũ khí Ukraine Tờ Businessinsider của Mỹ cho rằng việc T-14 chậm trễ đi vào hoạt động sẽ khiến Nga không còn lựa chọn nào khác ngoài việc duy trì đội T-90 của mình trong tương lai gần. Tuy nhiên, lính xe tăng Nga lại tỏ rõ sự hài lòng với T-90M, gồm khả năng việt dã và di chuyển nhanh nhẹn, dữ liệu được hiển thị trên bảng điện tử, được trang bị một một máy phát điện cho phép khởi động xe ngay cả trong thời tiết lạnh nhất, và được phủ lớp ngụy trang giúp nó ít bị nhìn thấy hơn trong quang phổ hồng ngoại và các thiết bị dẫn đường bằng laser. Một thành viên của Ủy ban Quốc phòng Đức cho rằng, những chiếc xe tăng Leopard-2 của Đức gửi đến Ukraine vẫn không thể đối phó được với T-90M, nhất là trong môi trường chiến đấu đô thị Các dây chuyền sản xuất T-90 của Nga đang tăng tốc giữa bối cảnh chiến tranh ở Ukraine. Việc 40-50 chiếc T-90 bị mất sau 1 năm giao tranh sẽ không ảnh hưởng nhiều đến cục diện chiến sự, bởi việc mở rộng sản xuất có thể cho phép quân đội Nga nhận thêm vài trăm chiếc T-90M trong năm 2023. Nhà máy UVZ trong thời kỳ Xô viết có khả năng sản xuất hơn 1.000 phương tiện có kích thước tương tự mỗi năm Chỉ trong 5 tháng đầu năm 2023, Nga cho biết nước này đã sản xuất được 600 xe tăng, hầu hết là T-90M Các phiên bản của T-90 T-90 1992: nguyên mẫu. T-90K: mẫu tăng dành cho chỉ huy , với hệ thống liên lạc mới (rađiô R-163-50K) và hệ thống định vị mới (TNA-4-3). T-90E: mẫu T-90 xuất khẩu, không có Shtora nhưng có hệ thống phòng thủ chủ động được cải tiến. T-90EK: mẫu T-90E chỉ huy với hệ thống liên lạc và định vị mới. T-90A (Obyekt 188A1): còn gọi là T-90 Vladimir, lấy theo tên của Thiết kế trưởng T-90 Vladimir Potkin, người qua đời năm 1999, cùng năm mẫu này được trình làng. Có tháp pháo hàn kiểu mới, kiên cố hơn 10-15% so với tháp pháo đúc trên T-90 nguyên thủy. Động cơ mới V-92S2, kính ngắm ảnh nhiệt đa kênh ESSA, hệ thống phòng thủ thụ động Shtora-1, bồn nhiên liệu chứa được đến 1000 lít xăng cùng một số nâng cấp khác. Toàn bộ số lượng xe tăng T-90A được sản xuất là để dành riêng cho quân đội Nga, đến năm 2015 Nga đã có tổng số vài trăm chiếc T-90A. T-90AM - Phiên bản hiện đại hóa của T-90A. Thiết kế tháp pháo được cải tiến và hiện đại hóa, sử dụng hệ thống điều khiển bắn "Kalina" được tích hợp hệ thống điều khiển và thông tin tác chiến, thiết bị nạp đạn tự động kiểu mới, pháo chính 125mm phiên bản 2A46M-5 được nâng cao độ chính xác, cũng như súng phòng không điều khiển từ xa "UDP T05BV-1". Giáp phản ứng nổ Kontakt-5 được thay thế bằng giáp Relikt có khả năng bảo vệ mạnh hơn. Các nâng cấp khác bao gồm động cơ 1.130 mã lực, hệ thống điều hòa không khí và hệ thống định vị bằng vệ tinh. Năm 2015, Nga có kế hoạch nâng cấp toàn bộ số T-90A của mình lên phiên bản này. T-90S: phiên bản xuất khẩu của T-90A. So với T-90A, T-90S bị cắt giảm một số tính năng. Mẫu này được các chuyên gia quân sự đánh giá là không hề thua kém các xe tăng cùng loại của các quốc gia khác, nhưng giá thành lại rẻ hơn 40-50%. T-90S có hai biến thể với 2 kiểu giáp tháp pháo khác nhau. T-90S cũng được trang bị thiết bị nhìn đêm mới. T-90SA: T-90S xuất khẩu cho Algerie với các cải tiến nhằm phù hợp với khí hậu nhiệt đới dựa trên các kinh nghiệm tại Ấn Độ. T-90SK: mẫu tăng chỉ huy của T-90S với hệ thống liên lạc và định vị mới. Hệ thống lập trình đạn nổ trên không AINET T-90S Bhisma: Mẫu T-90S sản xuất tại Ấn Độ. Không có các hệ thống phòng vệ chủ động như ARENA hoặc Shtora-1 do Ấn Độ không đặt mua. T-90SM: Phiên bản hiện đại hóa của T-90S. Động cơ 1.130 mã lực, camera hồng ngoại kiểu mới, thiết bị ngắm dành cho xạ thủ PNM Sosna-U có tầm quan sát ban đêm đạt tới 3.300 mét, tháp súng máy điều khiển từ xa 7,62mm UDP T05BV-1 RWS, hệ thống định vị toàn cầu GLONASS và giáp phản ứng nổ thế hệ 3 "Relikt" thay thế cho Kontakt-5 Phía sau tháp pháo được gắn thêm khoang chứa đạn phụ (chứa được thêm 10 viên đạn pháo. T-90S dành cho Iraq: Phiên bản T-90S cho Iraq. Đèn nhiễu OTShU-1-7 bị tháo bỏ, đồng thời có thêm một số thiết bị phụ theo yêu cầu của Iraq. Xe được gắn thêm bộ điều hòa nhiệt độ KTE-VT phía trái tháp pháo (do Iraq có khí hậu rất nóng bức). Máy phát điện phụ trợ - APU được gắn phía sau đuôi, cho phép kíp lái vận hành các hệ thống điện tử (và cả điều hòa nhiệt độ) mà không cần phải khởi động động cơ chính, giúp làm giảm tiêu hao nhiên liệu và tránh bộc lộ tín hiệu hồng ngoại trước các phương tiện trinh sát của đối phương. Kính ngắm của trưởng xe và pháo thủ có thêm các tấm thép bảo vệ bên ngoài, giúp chúng an toàn trước sóng xung kích từ các vụ nổ hay mảnh đạn, đất đá văng vào gây hư hại. T-90M "Proryv-3" (tiếng Nga: Прорыв, nghĩa là "Đột phá"): Phiên bản hiện đại hóa, giới thiệu cuối năm 2016. Xe áp dụng nhiều công nghệ mới trên T-14 Armata, bao gồm: sử dụng mẫu động cơ mới công suất lên đến 1.130 mã lực (mạnh hơn 130 mã lực so với T-90A); trang bị hệ thống chỉ huy và kiểm soát chiến đấu mới cùng với hệ thống điều khiển hỏa lực "Kalina", có khả năng bám bắt mục tiêu tự động và máy tính điều khiển hỏa lực thế hệ mới có tốc độ và độ chính xác trong xử lý cao hơn; dùng giáp phản ứng nổ thế hệ 3 "Relikt" thay thế loại Kontakt-5 (thế hệ 2) trên T-90A; trang bị pháo 125mm nòng trơn 2A46M-5. Khối lượng dự kiến của T-90M là 50 tấn, nặng hơn 2 tấn so với T-90SM và 3,5 tấn so với T-90A. Nga có kế hoạch nâng cấp khoảng 400 xe tăng T-90A sản xuất từ đầu những năm 1990 lên chuẩn T-90M. Biến thể BREM-72: xe phục hồi thiết giáp . MTU-90: Xe thiết giáp bắc cầu với chiếc "cầu" MLC30 IMR-3: Xe công binh chiến đấu. BMR-3: Xe gỡ mìn. Số lượng phục vụ Nga: Theo kế hoạch ban đầu của Bộ Quốc phòng Nga, số lượng T-90 trong lực lượng vũ trang phải đạt đến 1.400 xe Tuy nhiên sau đó Nga giảm số lượng T-90 mua mới để chuyển sang nâng cấp tận dụng số lượng T-72 và T-80 vẫn còn tồn rất nhiều để tiết kiệm chi phí. Đầu năm 2022, Nga có 417 chiếc T-90/T-90A và T-90M đang hoạt động, 200 chiếc khác trong kho lưu trữ Tất cả những chiếc T-90 này sẽ được nâng cấp lên T-90M từ 2020 tới 2025. Khi chiến tranh Nga-Ucraina nổ ra vào tháng 2/2022, Nga đã nối lại việc sản xuất mới T-90 và đảy nhanh việc nâng cấp T-90 cũ lên T-90M Algérie: 185 chiếc được chuyển giao vào năm 2009 và 120 chiếc được bàn giao vào năm 2011 với trị giá lên đến 470 triệu Đô la Mỹ.«Рособоронэкспорт» поставит Туркмении и Алжиру 150 танков Т-90С. Ấn Độ: 1.250 xe T-90 tính đến thời điểm 2015: Nhà máy Heavy Vehicle Factory (HVF) ở Avadi đã chuyển giao 24 chiếc trong giai đoạn 2009-10, 51 chiếc trong năm 2010-11, 50 chiếc năm 2012, và dự tính 1.000 chiếc nữa sẽ được Ấn Độ tự sản xuất cho đến năm 2020. Ngoài ra còn có hợp đồng trang bị 354 xe tăng T-90SM trị giá 100 tỷ crone (1,6 tỷ USD) cho 6 trung đoàn dự kiến đóng ở biên giới giáp Trung Quốc. Turkmenistan: đã đặt hàng 10 xe tăng T-90S vào năm 2009 trong một hợp đồng trị giá gần 30 triệu đô la Mỹ và tiếp tục đặt hàng thêm 30 xe tăng nữa trong một hợp đồng năm 2011. Uganda: 44 Т-90S vào năm 2011. Được chuyển giao theo một hợp đồng ký vào năm 2010. Azerbaijan: 100 chiếc. Kuwait: Mua 146 xe tăng T-90MS, tuy nhiên, thỏa thuận bị hoãn lại từ năm 2019 Iraq: Mua 73 xe tăng T-90SM vào năm 2017. Theo nhà sản xuất, Iraq đã chi 1 tỷ USD để mua T-90 (số tiền này mua được khoảng 200-250 xe tăng T-90), như vậy 73 xe tăng này chỉ là đợt giao hàng đầu tiên. 75 xe đã được giao hàng vào tháng 6/2018. Hai đợt giao hàng tiếp theo diễn ra vào tháng 4/2019. Việt Nam: Đặt mua 64 chiếc T-90S/SK để bổ sung cho lực lượng T-54/55. Lô đầu tiên đã được chuyển tới Việt Nam vào ngày 31/12/2018, 64 xe đã giao hàng xong trong năm 2019. Phần lớn số lượng xe tăng T-90S và T-90SK này được biên chế tại Lữ đoàn 201 Xuân Mai (Hà Nội) Xem thêm Đạn pháo nòng trơn 125 ly Xe tăng Black Eagle Danh sách xe tăng Danh sách xe tăng Nga- Liên Xô M-2001, M-95 Degman Xe tăng Bão Phong Hổ Chú thích
Methan ( hoặc ) là một hợp chất hóa học với công thức hóa học (một nguyên tử carbon và bốn nguyên tử hydro). Nó là một hydride nhóm 14 và là alkan đơn giản nhất, và là thành phần chính của khí tự nhiên. Sự phong phú tương đối của khí methan trên Trái Đất làm cho nó trở thành một loại nhiên liệu hấp dẫn, mặc dù việc thu giữ và lưu trữ nó đặt ra những thách thức do trạng thái khí của nó trong điều kiện bình thường về nhiệt độ và áp suất. Methan xuất hiện tự nhiên được tìm thấy cả dưới mặt đất và dưới đáy biển, và được hình thành bởi cả quá trình địa chất và sinh học. Hồ chứa khí methan lớn nhất nằm dưới đáy biển dưới dạng clathrat methan. Khi khí methan đến bề mặt và khí quyển, nó được gọi là khí methan trong khí quyển. Nồng độ khí methan trong khí quyển của Trái Đất đã tăng khoảng 150% kể từ năm 1750 và nó chiếm 20% tổng lượng bức xạ cưỡng bức từ tất cả các loại khí nhà kính tồn tại lâu dài và hỗn hợp trên toàn cầu. Khí methan cũng đã được phát hiện trên các hành tinh khác, bao gồm Sao Hỏa, và có ý nghĩa đối với nghiên cứu sinh vật học. Thuộc tính và liên kết Methan là một phân tử tứ diện có bốn liên kết C-H tương đương. Cấu trúc điện tử của nó được mô tả bởi bốn quỹ đạo phân tử liên kết (molecular orbital) do sự chồng chéo của các quỹ đạo hóa trị trên C và H. MO năng lượng thấp nhất là kết quả của sự chồng lấp của quỹ đạo 2s trên carbon với sự kết hợp cùng pha của quỹ đạo 1s trên bốn nguyên tử hydro. Trên mức năng lượng này là một tập hợp các MO suy biến ba lần liên quan đến sự chồng chéo của các quỹ đạo 2p trên carbon với các tổ hợp tuyến tính khác nhau của các quỹ đạo 1s trên hydro. Sơ đồ liên kết "ba trên một" kết quả phù hợp với phép đo phổ quang điện tử. Ở nhiệt độ phòng và áp suất tiêu chuẩn, methan là một loại khí không màu, không mùi. Mùi khí tự nhiên quen thuộc được sử dụng trong nhà đạt được bằng cách thêm chất tạo mùi, thường là hỗn hợp có chứa tert-butylthiol, như một biện pháp an toàn. Khí methan có nhiệt độ sôi −164°C (−257,8°F) ở áp suất của một bầu khí quyển. Là một chất khí, nó dễ cháy trong một phạm vi nồng độ (5,4-17%) trong không khí ở áp suất tiêu chuẩn. Methan rắn tồn tại trong một số đa hình. Hiện tại chín thù hình của chất này được biết đến. Làm lạnh methan ở áp suất bình thường dẫn đến sự hình thành methan I. Chất này kết tinh trong hệ thống khối (nhóm không gian Fm m). Vị trí của các nguyên tử hydro không cố định trong methan I, tức là các phân tử methan có thể xoay tự do. Do đó, nó là một tinh thể nhựa. Tính chất hóa học Phản ứng oxy hóa hoàn toàn (Phản ứng cháy) Trong phản ứng cháy của methan có một số bước. Trước tiên, methan tạo ra gốc metyl (CH3), gốc này phản ứng với oxy sinh ra formaldehyde (HCHO) cho gốc formyl (HCO) để tạo thành carbon monoxide. Quá trình này được gọi là sự nhiệt phân oxy hóa: CH4 + 2O2 → CO2 + 2H2O (ΔH = −891 kJ/mol ở 25oC, 1 atm) Sau đó, hydro bị oxy hóa tạo ra H2O và giải phóng nhiệt. Quá trình này diễn ra rất nhanh, thường chưa tới một phần nghìn giây. 2H2 + O2 → 2H2O Cuối cùng, CO bị oxy hóa tạo thành CO2, và giải phóng thêm nhiệt. Quá trình này chậm hơn quá trình trên và thường mất vài phần nghìn giây để phản ứng. 2CO + O2 → 2CO2 Phản ứng oxy hóa không hoàn toàn Được dùng trong sản xuất formaldehyde, bột than, khí đốt,... CH4 + O2 ->[200atm, 300oC] HCHO + H2O 2CH4 + O2 ->[500oC,Ni]2CO + 4H2 CH4 + O2 -> C + H2O(đốt trong điều kiện thiếu không khí) Phản ứng nhiệt phân methan: Methan bị nhiệt phân bằng cách nung nóng nhanh methan với 1 lượng nhỏ oxy ở nhiệt độ khoảng 1500oC: 2CH4 -> C2H2 + 3H2 (ΔH = 397kJ/mol) Oxy được dùng để đốt cháy 1 phần methan, cung cấp thêm nhiệt cho phản ứng. Hoạt hóa Hydro Liên kết cộng hóa trị giữa C-H trong methan thuộc loại bền nhất trong hydrocarbon. Tuy nhiên, methan vẫn là nguyên liệu khởi đầu chính trong sản xuất hydro. Việc tìm kiếm các xúc tác có tác dụng thúc đẩy dễ dàng sự hoạt hóa hydro trong methan và các alkan bậc thấp khác là một lĩnh vực nghiên cứu khá quan trọng trong công nghiệp. Phản ứng thế halogen Methan phản ứng với halogen cho ra dẫn xuất halogen của methan và hydro halide. Ví dụ: Methan phản ứng với chlor trong ánh sáng khuếch tán theo nhiều giai đoạn: CH4 + Cl2 → CH3Cl + HCl CH3Cl + Cl2 → CH2Cl2 + HCl CH2Cl2 + Cl2 → CHCl3 + HCl CHCl3 + Cl2 → CCl4 + HCl Phản ứng phân hủy Methan có thể bị phân hủy ở nhiệt độ trên 1000oC : CH4 → C + 2H2 hoặc khi tác dụng với Cl2 khi đun nóng hoặc fluor ở điều kiện thường, tạo thành muội than và hydro chloride : CH4 + 2Cl2 → C + 4HCl Phương pháp điều chế Từ nhôm carbide Al4C3 Al4C3 + 12H2O → 4Al(OH)3 + 3CH4↑ Al4C3 + 12HCl → 4AlCl3 + 3CH4↑ Từ CH3COONa (phản ứng với natri hydroxide) có xúc tác CaO ở nhiệt độ cao. CH3COONa + NaOH ->[to] CH4 + Na2CO3 Phản ứng trực tiếp có xúc tác nickel (hiệu suất rất thấp) C + 2H2 ->[Ni] CH4 Từ CO CO + 3H2 → H2O + CH4↑ Từ đường glucose (C6H12O6) C6H12O6 → 3CO2 + 3CH4 Từ khí thiên nhiên Phản ứng cracking alkan từ 3C trở lên (thường là cracking propan tại propan sẽ cho ra sản phẩm là methan trực tiếp) C3H8 ->[cracking] CH4 + C2H4 Ứng dụng Nhiên liệu Methan là một nhiên liệu quan trọng. So với than đá, đốt cháy methan sinh ra ít CO2 trên mỗi đơn vị nhiệt giải phóng. Ở nhiều nơi, methan được dẫn tới từng nhà nhằm mục đích sưởi ấm và nấu ăn. Nó thường được biết tới với cái tên khí thiên nhiên. Trong công nghiệp Methan được dùng trong nhiều phản ứng hóa công nghiệp và có thể được chuyên chở dưới dạng khí hóa lỏng. Trong hóa công nghiệp, methan là nguyên liệu sản xuất hydro, methanol, acid acetic và anhydride acetic. Methan trong khí quyển Trái Đất Methan trong khí quyển là một khí gây hiệu ứng nhà kính. Mật độ của nó đã tăng khoảng 150% từ năm 1750 và đến năm 1998, mật độ trung bình của nó trên bề mặt Trái Đất là 1745 ppb. Mật độ ở bán cầu Bắc cao hơn vì ở đó có nhiều nguồn methan hơn (cả thiên nhiên lẫn nhân tạo). Mật độ của methan thay đổi theo mùa, thấp nhất vào cuối mùa hè.Đ Quá trình tiêu huỷ Cơ chế phá hủy chính của methan trong khí quyển là qua tác dụng với gốc hydroxide (OH): CH4 + OH → CH3 + H2O Phản ứng này diễn ra ở trong tầng đối lưu làm cho methan tồn tại được từ 6 đến 9 năm. Sự giải phóng đột ngột của sàng methan Ở áp suất lớn, ví dụ như ở dưới đáy đại dương, methan tạo ra một dạng sàng rắn với nước, được gọi là methan hydrat. Một số lượng chưa xác định nhưng có lẽ là rất nhiều methan bị giữ lại dưới dạng này ở đáy biển. Sự giải phóng đột ngột của một thể tích lớn methan từ những nơi đó vào khí quyển là một giả thuyết về nguyên nhân dẫn tới những hiện tượng Trái Đất nóng lên trong quá khứ xa, đỉnh cao là khoảng 55 triệu năm trước. Một tổ chức đã ước tính trữ lượng quặng methan hydrat dưới đáy đại dương vào khoảng 10 triệu triệu tấn (10 exagram). Giả thuyết rằng nếu Trái Đất nóng lên đến một nhiệt độ nhất định, toàn bộ lượng methan này có thể một lần nữa bị giải phóng đột ngột vào khí quyển, khuếch đại hiệu ứng nhà kính lên nhiều lần và làm Trái Đất nóng lên đến mức chưa từng thấy. Methan bên ngoài Trái Đất Methan đã được phát hiện hoặc tin là tồn tại ở vài nơi trong Hệ Mặt Trời. Người ta cho rằng nó được tạo ra nhờ những quá trình phản ứng vô sinh. Sao Mộc Sao Hoả Sao Thổ Iapetus Titan Sao Hải Vương Triton Sao Thiên Vương Ariel Miranda Oberon Titania Umbriel Sao chổi Halley Sao chổi Hyakutake 2003 UB313 Dấu vết của khí methan cũng được tìm thấy ở bầu khí quyển mỏng trên Mặt Trăng của Trái Đất. Methan cũng được dò thấy ở các đám mây giữa những vì sao trong vũ trụ.
Người Mỹ trầm lặng (nguyên tác tiếng Anh: The Quiet American) là một tiểu thuyết xuất bản lần đầu năm 1955 bởi tác giả người Anh Graham Greene. Được kể lại trong ngôi thứ nhất của nhà báo Thomas Fowler, cuốn tiểu thuyết mô tả sự tan vỡ của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam và sự can dự của người Mỹ vào Chiến tranh Việt Nam. Một tuyến truyện phụ liên quan đến mối tình tay ba giữa Fowler, một nhân viên CIA người Mỹ tên là Alden Pyle và Phượng, một phụ nữ trẻ người Việt. Cuốn tiểu thuyết ngầm đặt ra câu hỏi về nền tảng của sự dính líu ngày càng tăng của người Mỹ tại Việt Nam vào những năm 1950, tiểu thuyết mang nét độc đáo trong việc khám phá chủ đề này thông qua các liên kết giữa ba nhân vật chính của nó – Fowler, Pyle và Phượng. Cuốn tiểu thuyết đã nhận được nhiều sự chú ý do dự đoán về kết quả của Chiến tranh Việt Nam và chính sách đối ngoại tiếp theo của Mỹ kể từ những năm 1950. Greene miêu tả Pyle như bị mù quáng bởi chủ nghĩa ngoại lệ Hoa Kỳ (American exceptionalism), đến mức anh ta không thể nhìn thấy những tai họa mà anh ta mang lại cho người Việt Nam. Cuốn sách sử dụng những trải nghiệm của Greene với tư cách là phóng viên chiến trường của The Times và Le Figaro ở Đông Dương thuộc Pháp những năm 1951–1954. Ông rõ ràng đã được truyền cảm hứng để viết Người Mỹ trầm lặng trong tháng 10 năm 1951, khi lái xe trở về Sài Gòn từ tỉnh Bến Tre. Ông đi cùng với một nhân viên cứu trợ người Mỹ, người đã giảng giải cho ông về việc tìm kiếm một "lực lượng thứ ba tại Việt Nam". Cuốn tiểu thuyết được chuyển thể thành hai bộ phim khác nhau, một vào năm 1958 và một phim khác vào năm 2002.
Tứ đại mỹ nhân (chữ Hán: 四大美人; bính âm: sì dà měi rén) là cụm từ dùng để tả 4 người đẹp nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, theo quan điểm hiện nay thì cụm từ này dùng để chỉ đến 4 người đẹp gồm: Tây Thi, Vương Chiêu Quân, Điêu Thuyền, Dương Quý phi. Sắc đẹp của họ được mô tả qua 4 cụm ngữ tu từ nổi tiếng để tả mỹ nhân, theo thứ tự là: 「Trầm ngư; 沉鱼」: có nghĩa là cá chìm sâu dưới nước; 「Lạc nhạn; 落雁」: có nghĩa là chim nhạn sa xuống đất; 「Bế nguyệt; 閉月」: có nghĩa là mặt trăng phải giấu mình; 「Tu hoa; 羞花」: có nghĩa là khiến hoa phải xấu hổ; Thời điểm sinh ra khái niệm này không thống nhất, ngay cả sự đề cập xưa nhất cũng không liệt kê đúng với 4 nhân vật mà hiện nay chấp nhận. Các tài liệu lịch sử về họ cũng bị ảnh hưởng nhiều do một số truyền thuyết và lời đồn dân gian. Họ nổi tiếng và được gọi là ["Tứ đại mỹ nhân"] đều do những lưu truyền phổ biến thời nhà Minh và nhà Thanh đúc kết lại, tôn vinh sắc đẹp và ảnh hưởng của họ đối với các vị Hoàng đế Trung Quốc và những tác động của họ đến với lịch sử Trung Quốc. Tất cả bốn người mỹ nhân đều có những kết thúc không có hậu hoặc vẫn còn là bí ẩn, số phận họ đúng như các câu dân gian "Phụng nhân bạc mạng" (phục vụ cho người khác nhưng kết cục khổ) và "Hồng nhan bạc mệnh" (có sắc đẹp thì số xấu). Ngoài ra, còn có khái niệm Tứ đại yêu cơ, cũng để chỉ 4 người đẹp nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, nhưng họ không đem lại điều tốt lành mà lại là "Hồng nhan họa thủy" (四大妖姬 - sắc đẹp gây tai họa cho đất nước, làm sụp đổ triều đại), đó là Muội Hỉ, Đát Kỷ, Bao Tự và Ly Cơ. Khái lược Xa xưa, người Trung Hoa và các nước đồng văn Đông Á đều dùng cụm ngữ "Trầm ngư lạc nhạn, bế nguyệt tu hoa" (沉鱼落雁; 闭月羞花), có nghĩa là Cá lặn chim sa, nguyệt thẹn hoa nhường, dùng để mô tả hình dung về mỹ nhân. Trong đó "Trầm ngư lạc nhạn" là cụm từ xuất hiện tương đối sớm và kinh điển, trong sách của Trang Tử, phần Tề vật luận (齐物论) đã xuất hiện:「"Mao Tường và Lệ Cơ, có tiếng là xinh đẹp. Cá thấy thì lặn sâu dưới nước, chim thấy thì bay cao, hươu Mi Lộc thấy thì chạy nhanh. Những thứ vật này nào đâu biết đến cái đẹp chứ!"; 毛嫱、丽姬,人之所美也,鱼见之深入,鸟见之高飞,糜鹿见之决骤,四者孰知天下之正色哉。」. Nguyên bản thấy rõ, "Trầm ngư lạc nhạn" ban đầu ví von động vật không biết thưởng thức cái đẹp, ý nói động vật thấy người là trốn, là kinh sợ, có đẹp hay không cũng là vô dụng. Thi nhân đời Đường là Tống Chi Vấn (宋之问) viết về Tây Thi có bài: 「"Điểu kinh nhập tùng la, ngư úy thẩm hà hoa"; 鸟惊入松萝,鱼畏沈荷花。」, những ví von chim sa cá lặn ban đầu chỉ sự tỏ vẻ kinh sợ của động vật khi thấy người đơn thuần, qua thi ca mới dần dùng để chỉ người đẹp. Còn như Hoa (花), từ xưa là danh từ tiêu biểu để hình dung về người đẹp, Nguyệt (月) nói đến mặt trăng cũng thuộc về một khái niệm đẹp của tự nhiên. Cho nên đẹp như hoa, đẹp như trăng là tả dung mạo phi phàm; cá bơi trong nước, chim bay trên cao, là hình dung sự rung động của người thường khi thấy mĩ nhân, cho nên ví liên quan đến cá, chim là ý chỉ dung mạo hơn người. Đây là một số các chữ nổi tiếng để nói về bốn nàng mỹ nhân. Nguồn gốc chính xác của những câu này hiện nay vẫn còn gây tranh cãi. Có nghĩa là: Nếu Tây Thi có nét đẹp làm cá phải lặn (Trầm Ngư), Vương Chiêu Quân khiến chim nhạn mãi ngắm nhìn quên bay nên rơi rớt (Lạc Nhạn), Điêu Thuyền đẹp đến nỗi trăng cũng phải khép, núp vào mây (Bế Nguyệt, bế ở đây là khép cửa, ngừng), thì Dương Quý Phi mỗi khi ngắm hoa, hoa đều rũ héo vì hổ thẹn (Tu Hoa, tu là xấu hổ, e thẹn). Điển tích về Tứ đại mỹ nhân Tây Thi Nàng Tây Thi sống ở thời Xuân Thu, là một người con gái nước Việt, làm nghề dệt vải ở núi Trữ La, Gia Lãm (nay là Chư Kỵ). Tương truyền Tây Thi đẹp đến nỗi, ngay cả khi nàng nhăn mặt cũng khiến người ta mê hồn. Một hôm, nàng cùng các thôn nữ khác đến bên sông giặt giũ như thường lệ. Khi nàng giặt áo bên bờ sông, bóng nàng soi trên mặt nước sông trong suốt làm nàng thêm xinh đẹp. Cá nhìn thấy nàng, say mê đến quên cả bơi, dần dần lặn xuống đáy sông. Từ đó, người trong vùng xưng tụng nàng là "Trầm Ngư" (沉鱼). Nổi tiếng xinh đẹp, nàng gặp gỡ và yêu mến một đại thần nước Việt là Phạm Lãi, một trọng thần của Việt vương Câu Tiễn. Khi nước Việt bị Ngô vương Phù Sai đánh bại và bắt Việt vương làm con tin, Phạm Lãi đã dùng kế mỹ nhân để giúp Việt vương. Tây Thi được chọn là một trong các mỹ nhân tiến cho Ngô vương, và nàng đã khiến Ngô vương say đắm, thả Việt vương về. Sau khi quay về, Việt vương đã gây dựng binh lực, đánh bại Ngô vương, trở thành một giai thoại nổi tiếng trong lịch sử thời Xuân Thu. Về kết cục của Tây Thi, có rất nhiều dị bản. Có thuyết cho là nàng tự sát cùng Ngô vương, có thuyết cho rằng nàng bị vợ của Câu Tiễn giết vì sợ trở thành mầm họa làm loạn đất nước, như việc nàng đã khiến nước Ngô bị diệt. Nhưng truyền thuyết nổi tiếng nhất là nàng đã cùng Phạm Lãi chu du đến Ngũ Hồ, sống cuộc đời ẩn dật. Ngoài ra, trong sách của Trang Tử, phần Tề vật luận (齐物论) có câu:"Mao Tường và Lệ Cơ, có tiếng là xinh đẹp. Cá thấy thì lặn sâu dưới nước, chim thấy thì bay cao, hươu Mi Lộc thấy thì chạy nhanh." Do vậy, danh hiệu Trầm Ngư có người cho rằng đúng ra phải là của Mao Tường, ái thiếp của Việt Vương Câu Tiễn cuối thời Xuân Thu, nhưng nàng chỉ là một sủng phi an phận ở hậu cung nên ít được hậu thế biết đến như Tây Thi. Vương Chiêu Quân Nàng Vương Chiêu Quân sống dưới thời nhà Tây Hán, con gái của một gia đình thường dân ở Nam Quận (nay là huyện Hưng Sơn, tỉnh Hồ Bắc). Chiêu Quân nhập cung làm Gia nhân tử của Hán Nguyên Đế Lưu Thích, nhưng không được Hoàng đế biết đến. Khi Thiền vu Hung Nô là Hô Hàn Tà đến cầu thân, Hoàng đế đã chọn 5 vị Gia nhân tử trong cung ban cho Thiền vu. Ở quá lâu trong hậu cung mà chưa từng được Hoàng đế đoái hoài, Chiêu Quân tự mình đề cử lên quan quản Dịch đình là Dịch đình lệnh cho mình dự vào trong những người nguyện theo Thiền vu đi đến Hung Nô. Tương truyền khi Chiêu Quân đến đại điện, Hán Nguyên Đế đã sửng sốt trước vẻ đẹp của nàng nhưng không thể thu hồi thành mệnh. Nàng xuất giá đi Hung Nô trong sự luyến tiếc của Hán Nguyên Đế. Câu chuyện về Chiêu Quân được gọi Chiêu Quân xuất tái (昭君出塞) trở thành một điển tích nổi tiếng trong thi ca Trung Quốc về sau. Truyền thuyết nói rằng, khi Chiêu Quân đi ngang một hoang mạc lớn, lòng nàng chan chứa nỗi buồn vận mệnh cũng như lìa xa quê hương. Nhân lúc ngồi lưng ngựa buồn u uất, liền đàn "Xuất tái khúc". Có một con ngỗng thiên nga trên trời bay ngang, nghe nỗi u oán cảm thương trong khúc điệu liền ruột gan đứt đoạn và sa xuống đất. Bấy giờ nàng được xưng tụng là "Lạc Nhạn" (落雁). Vương Chiêu Quân đi vào lịch sử Trung Quốc như một người đẹp hòa bình, sự quên mình của nàng góp phần mang lại hòa bình trong 60 năm giữa nhà Hán và Hung Nô. Điêu Thuyền Nàng Điêu Thuyền là một hình tượng trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa. Theo truyện, nàng Điêu Thuyền sống vào thời Tam Quốc, khoảng thế kỷ thứ 3, là con gái nuôi của Tư đồ Vương Doãn. Khi đó, triều đình Đông Hán bị suy thoái do sự chuyên quyền của Đổng Trác, một người hung bạo, phá hoại cương thường, bị người đương thời gọi là Quốc tặc. Giai thoại kể rằng, khi Điêu Thuyền ra ngoài trời đêm bái trăng thì mây kéo đến che khuất mặt trăng. Vương Doãn cho là lạ, lại muốn làm tôn lên vẻ đẹp của con gái, nên nói phao lên rằng Điêu Thuyền đẹp đến nỗi trăng cũng phải giấu mình. Từ đó, nàng được mọi người xưng tụng nhan sắc là "Bế nguyệt" (闭月). Tư đồ Vương Doãn đa mưu túc trí, dùng "liên hoàn kế", mượn Điêu Thuyền khiến Đổng Trác và con nuôi là Lữ Bố mê mẩn nàng, muốn chiếm đoạt nàng. Vương Doãn ra kế gả nàng cho Đổng Trác làm thiếp, sau đó chọc tức Lữ Bố, khiến Bố đang tâm muốn giết Trác để giành lại Điêu Thuyền. Cuối cùng, vào năm 192, Đổng Trác bị Lữ Bố giết hại. Kết cục của Điêu Thuyền không thật sự rõ ràng, rất nhiều dị bản khác nhau trong dân gian. Trong tiểu thuyết, sau khi Đổng Trác bị giết, Điêu Thuyền trở thành thê thiếp của Lữ Bố. Dương Quý Phi Nàng Dương Ngọc Hoàn, một thiếu nữ sống vào thời nhà Đường. Nàng là người Thục Quận (nay là Thành Đô – tỉnh Tứ Xuyên), nguyên quán Bồ Châu. Bà là con út trong số bốn người con gái của một vị quan tư hộ đất Thục Chân. Gia đình này nguyên gốc ở một quận Hòa Âm thuộc Trung Đông, có tổ tiên là Dương Uông Chi (楊汪之), một hậu duệ hoàng tộc nhà Tùy. Khi đến tuổi trưởng thành, nổi tiếng vì sắc đẹp tuyệt trần, nàng được cưới cho Thọ vương Lý Mạo, con trai của Đường Huyền Tông Lý Long Cơ. Sau khi mẹ của Thọ vương Mạo là Võ Huệ phi qua đời, Đường Huyền Tông ngày đêm đau buồn, nhưng rồi Huyền Tông mau chóng vơi đi khi nhìn thấy con dâu là Dương thị trong lễ tang của Huệ phi. Nàng được Huyền Tông say mê, và Hoàng đế quyết tâm đoạt nàng từ tay con trai đưa vào cung. Không lâu sau, Dương thị được phong làm Quý phi. Tương truyền, một hôm Quý phi đến hoa viên thưởng hoa giải buồn, nhìn thấy hoa Mẫu Đơn, Nguyệt Quý nở rộ, nghĩ rằng mình bị nhốt trong cung, uổng phí thanh xuân, lòng không kiềm được, buông lời than thở: 「"Hoa à, hoa à! Ngươi mỗi năm mỗi tuổi đều có lúc nở, còn ta đến khi nào mới có được ngày ấy?"」. Lời chưa dứt lệ đã tuôn rơi, nàng vừa sờ vào hoa, hoa chợt thu mình, lá xanh cuộn lại. Nào ngờ, loài hoa nàng sờ phải là loại hoa trinh nữ (cây xấu hổ). Lúc này, có một cung nữ nhìn thấy, người cung nữ đó đi đâu cũng nói cho người khác nghe việc ấy. Từ đó, mọi người gọi Dương Ngọc Hoàn là "Tu hoa" (羞花). Khi Loạn An Sử nổ ra, Dương Quý phi cùng Đường Huyền Tông phải rời khỏi Trường An. Khi đến Mã Ngôi, quân sĩ thấy anh trai Quý phi là Dương Quốc Trung tham tàn hiểm ác, bèn giết chết Trung và ép Huyền Tông phải xử tử Dương Quý phi. Nàng bị Huyền Tông sai người thắt cổ. Sau khi chết, xác Quý phi chỉ chôn vội ven đường. Ảnh hưởng Các thuyết khác về Tứ đại mỹ nhân Danh tứ đại mỹ nhân sẽ là Điêu Thuyền Tây Thi, Vương Chiêu Quân, và Dương Ngọc Hoàn. Tứ đại mỹ nhân còn có thuyết khác rằng: 「"Tiếu Bao Tự; bệnh Tây Thi; ngận Đát Kỷ; túy Dương phi"; 笑褒姒、病西施、狠妲己,醉杨妃」, tức nói đến: Bao Tự nở nụ cười, Tây Thi đau nhức, Đát Kỷ hung ác và Dương Quý phi say xỉn là 4 vẻ đẹp điển hình. Cả bốn người này đều nổi tiếng về việc khiến một triều đại bị hủy hoại, khiến vị quân vương si mê đến nỗi tiêu tan sự nghiệp. Năm 1909, tại Cam Túc, phát hiện một bức tranh thời Nam Tống gọi là "Tùy triều yểu điệu trình khuynh quốc chi phương dung đồ" (隋朝窈窕呈倾国之芳容图), còn xưng là "Tứ mĩ đồ" (四美图). Theo đó, có 4 mỹ nữ gồm: Lục Châu, Vương Chiêu Quân, Triệu Phi Yến và Ban Cơ. Thi sĩ nhà Minh là Trương Nguyên Khải (张元凯) có viết thơ ngâm về Tứ đại mỹ nhân, theo đó: Minh phi, Phi Yến, Văn Quân và Lục Châu; gọi là Cổ đại Tứ mỹ nhân. Các thuyết về đặc điểm Dù chỉ là hình tượng thi ca hư cấu, nhưng tựa theo các tác phẩm Trung Quốc, Tứ đại mỹ nhân mỗi người đều có những đặc trưng riêng. Ví dụ điển hình vào năm 2008, nhà văn Kỷ Liên Hải (紀連海) viết một quyển sách nói về Tứ Đại Mỹ Nhân với tựa đề "Kỷ Liên Hải khen chê Tứ Đại Mỹ Nhân" (紀連海嘆說四大美人). Trích dẫn một phần trong quyển sách là "西施腳大,昭君肩溜,貂蟬耳小,貴妃腋臭" nghĩa là Tây Thi chân to, Vương Chiêu Quân vai xệ, Điêu Thuyền tai nhỏ, Dương Quý Phi mùi thân. Tây Thi được biết tới là bị đau ngực, tuy nhiên nỗi đau làm mặt nàng đẹp hơn bao giờ hết. Một số người nói nàng có chân to hơn bình thường. Dương Quý Phi thì được nói tới rằng bị thân thể có mùi hôi, nàng thường tìm cách gỡ bỏ mùi bằng cách dùng bột thơm trong khi tắm. Điêu Thuyền thì bị đồn có tai to tai nhỏ. Vương Chiêu Quân thì được nhắc tới với một bên vai cao, một bên thấp. Trong văn hóa đại chúng Trong các tác phẩm điện ảnh, thi ca, đề tài mỹ nhân luôn được quan tâm để ý. Vô số các tác phẩm nghệ thuật ra đời để nói về họ. Một đô thị ở Singapore tên là Simei (:en:Simei được viết theo bính âm :zh:四美 có nghĩa là Tứ Đại Mỹ' Nhân) để vinh danh bốn nàng mỹ nhân của Trung Quốc bởi bộ trưởng Bộ phát triển Quốc gia Teh Cheang Wan. Tô Đông Pha đã so sánh Tây Thi với sắc đẹp Tây Hồ thuộc Hàng Châu trong cuốn sách có tên (飲湖上初睛居雨). Một danh thơ, Lý Bạch, sống trong thời nhà Đường viết một bài thơ về Tây Thi. Ca sĩ nhạc hiện đại mandopop, Trương Chân Phi (張真菲) viết một bài hát về tứ đại mỹ nhân lịch sử và ý nghĩa của họ. Trong mùa thứ chín của America's Next Top Model, bốn cô gái cuối trong phần chung kết được học những bài học về "Tứ đại Mỹ Nhân". Chú thích
Shareware là một loại phần mềm độc quyền được chủ sở hữu chia sẻ ban đầu cho việc sử dụng thử với ít hoặc không tốn chi phí. Thường thì phần mềm này có chức năng hạn chế hoặc tài liệu hướng dẫn không hoàn chỉnh cho đến khi người dùng gửi tiền cho nhà phát triển phần mềm. Shareware thường được cung cấp dưới dạng tải về từ một trang web hoặc trên đĩa CD gắn kèm với một tạp chí. Shareware khác với freeware, phần mềm có đầy đủ tính năng được phân phối miễn phí cho người dùng nhưng không có mã nguồn được cung cấp; phần mềm tự do và phần mềm nguồn mở, trong đó mã nguồn được cung cấp miễn phí cho bất kỳ ai muốn kiểm tra và chỉnh sửa. Có nhiều loại shareware và dù không đòi hỏi thanh toán ban đầu, nhiều shareware được định hướng để tạo ra doanh thu theo một cách nào đó. Một số chỉ giới hạn sử dụng cho mục đích không thương mại cá nhân và yêu cầu phải mua giấy phép để có thể sử dụng trong doanh nghiệp. Phần mềm có thể bị giới hạn theo thời gian, hoặc có thể nhắc người dùng rằng họ nên gửi thanh toán để ủng hộ dự án. Phần mềm nguồn mở/tự do Phần mềm nguồn mở/tự do và phần mềm chia sẻ đều giống nhau ở chỗ chúng có thể nhận được và sử dụng mà không mất một khoản phí nào cả. Thường thì phần mềm chia sẻ khác với phần mềm nguồn mở/tự do ở chỗ chúng đã được tự nguyện trả phí yêu cầu và mã nguồn của chương trình chia sẻ nói chung không có sẵn trong mẫu để có thể cho phép người khác thừa kế lại chương trình. Thỉnh thoảng việc trả phí và nhận được mật khẩu truy cập để mở rộng tính năng, tài liệu, hoặc sự hỗ trợ. Trong vài trường hợp việc không trả phí sử dụng phần mềm sẽ bị giới hạn thời gian hoặc tính năng, trường hợp đó tiếng lóng gọi là phần mềm què quặt. Cũng vài dạng phần mềm không yêu cầu trả phí, chỉ để 1 địa chỉ email, để người cung cấp có thể dùng chúng vào mục đích của họ Phần mềm dùng thử Có 1 sự khác nhau về kỹ thuật giữa phần mềm chia sẻ và phần mềm dùng thử. Đến tận đầu những năm 1990, phần mềm chia sẻ có thể dễ dàng nâng cấp lên bản chính thức bằng cách thêm vào những phần khác hoặc đoạn đầy đủ của chương trình; điều này cho phép không làm ảnh hưởng tới phần mềm hiện hành. Bản dùng thử thì khác ở chỗ chúng cũng là chương trình đó nhưng được nâng cấp lên bản đầy đủ. Một ví dụ cụ thể cho điều này là phần mềm chia sẻ Descent ngược với phần mềm dùng thử Descent II. Người dùng có thể giữ lại trò chơi đã lưu trước đây nhưng không được cho sau đó. Lợi ích Với phần mềm chia sẻ, 1 nhà phát triển có thể phân phối đơn giản, bỏ qua chi phí hoa hồng của người bán lẻ trung gian và bán trực tiếp tới người dùng cuối. Kết quả cuối cùng là giảm bớt giá cả cho người dùng cuối so với qua kênh bán lẻ. Các phần mềm chia sẻ được khuyến khích sao chép lại và phân phối bản không cần đăng ký tới bạn bè, đồng nghiệp và người thân. Hy vọng điều này họ sẽ tìm thấy chương trình hữu ích hoặc vừa ý và sẽ trả tiền để đăng ký để có thể truy cập tất cả các tính năng. Cộng đồng người dùng phần mềm chia sẻ Những người phát triển phần mềm chia sẻ thường là người lập trình máy tính thông thường, đủ sức để đi đầu và nắm lấy nguy cơ, kể cả nhà doanh nghiệp. Bởi vậy cộng đồng các tác giả phần mềm chia sẻ trực tuyến, như nhóm alt.comp.shareware.author, là nơi cho những người tìm kiếm phần mềm gửi những ý tưởng phần mềm mới cho sự thi hành tiềm năng. Động lực phát triển Đầu những năm 1990, sự phân phối phần mềm chia sẻ là 1 phương thức phổ biến của việc xuất bản trò chơi cho các nhà phát triển nhỏ hơn, kể cả những công ty thiếu kinh nghiệm như Apogee Software, bây giờ là Epic Games, và id Software. Nó đưa cho khách hàng cơ hội để thử một phần của trò chơi, thường thì bị hạn chế đối vớí đoạn đầu tiên hoặc đoạn đầy đủ của trò chơi, trước khi mua bản đầy đủ (khám phá). Những đoạn của trò chơi trên đĩa mềm đơn 5 dài 1/4 inch và sau đó là 3.5 inch đã phổ biến trong việc lưu trữ. Tuy nhiên, những hệ thống bảng tin (BBS) và sự mô tả máy tính như phần mềm tạo BBS là những nhà phân phối chính của phần mềm giá rẻ. Phần mềm tự do từ BBS là động lực cho khách hàng mua một máy tính trang bị 1 mô đem để nhận những phần mềm không tính phí. Theo sự giải thích máy tính, hiện có ngày nay, phần mềm chia sẻ thực chất miễn phí, việc trả phí chỉ là để cho vỏ đĩa và công đóng gói. Một số nhà phân phối phần mềm khác, thêm hậu tố "ware" vào có hướng dẫn kèm theo. Họ không yêu cầu người sử dụng phải có hình thức thanh toán đặc biệt nào cho tác giả. Dĩ nhiên thỉnh thoảng họ cũng yêu cầu người dùng gửi cho tác giả một cái bưu thiếp hoặc chuyển tặng cho một hội từ thiện đặc biệt.
Zeus (tiếng Hy Lạp: Ζεύς) có thể là: Vị thần tối thượng Zeus, thần của bầu trời và sấm sét, trong thần thoại Hy Lạp Zeus (web server) Zeus (trò chơi máy tính) Zeus (máy dò hạt)
Vương Chiêu Quân (chữ Hán: 王昭君), cũng gọi Minh phi (明妃) hoặc Minh Quân (明君), là một nhân vật chính trị thời nhà Hán, nguyên là cung nhân của Hán Nguyên Đế, rồi trở thành vợ của Thiền vu Hung Nô là Hô Hàn Tà. Với sắc đẹp khiến chim phải sa xuống - được ví là Lạc nhạn (落雁) cùng điển tích Chiêu Quân xuất tái (昭君出塞), câu chuyện về Chiêu Quân trở thành một hình ảnh Hòa thân, là đề tài sáng tác phổ biển của thi ca, nghệ thuật. Vương Chiêu Quân đi vào lịch sử Trung Quốc như một người đẹp hòa bình, trở thành một trong Tứ đại mỹ nhân của lịch sử Trung Quốc. Tiểu sử Tên gọi Vương Chiêu Quân tên thật là Tường (薔, 牆, 檣 hoặc 嬙), tự là Chiêu Quân (昭君), cũng trong Hậu Hán thư lại nói "tên Chiêu Quân, tự là Tường", người ở quận Nam (南郡; nay là huyện Hưng Sơn, tỉnh Hồ Bắc). Cái tên [Chiêu Quân; 昭君] có một ý nghĩa rất lớn. Sách Thuyết văn (说文) nói: 「"Chiêu, nhật minh dã"; 昭,日明也。」, có nghĩa chữ "Chiêu" là nói đến ánh sáng của mặt trời, mà mặt trời khi xưa thường ví Thiên tử. Còn như "Quân", là một phong hiệu từ thời Tiên Tần dùng cho các vương thất công tử, như Mạnh Thường quân hay Xuân Thân quân, đời nhà Hán thường hay phong tước Quận quân cho các nữ quý tộc (như chị cùng mẹ của Hán Vũ Đế là Tu Thành quân Kim Tục), hoặc lại có lệ đặt tên con gái theo chữ này, như Hứa Bình Quân, Hoắc Thành Quân và Vương Chính Quân. Cái tên "Chiêu Quân", ý nói Hán Hoàng rọi sáng Hung Nô, một biểu trưng rất lớn, nên nhiều người cho rằng "Vương Chiêu Quân" là có được tên này chỉ sau khi Vương thị được chọn làm vợ cho Thiền vu. Thời nhà Tấn, Tư Mã Chiêu được tôn làm Vũ Hoàng đế, kị húy "Chiêu", do đó Chiêu Quân bị sửa thành [Minh Quân; 明君], sử thường gọi là [Minh phi; 明妃]. Nhập cung Hán Hành trạng của Vương Chiêu Quân được ghi tương đối vắn tắt, đều chỉ tìm thấy trong mục "Truyện về Hung Nô" của cả hai sách Hán thư và Hậu Hán thư. Theo cả hai sách này ghi lại, Chiêu Quân tiến vào Hán cung của Hán Nguyên Đế, thân phận là một Gia nhân tử, tức hàng phi tần vô danh không có tước hiệu trong chế độ nhà Hán. Năm Cánh Ninh nguyên niên (33 TCN), Thiền vu Hung Nô là Hô Hàn Tà (呼韓邪) đến kinh đô Trường An để tỏ lòng thần phục nhà Hán, đề nghị được trở thành con rể của Nguyên Đế. Hoàng đế thuận theo, ban cho cho 5 cung nhân trong hậu cung, và một trong số ấy là Vương Chiêu Quân. Sách Hậu Hán thư có nói khá chi tiết về câu chuyện của Chiêu Quân, khi ấy Chiêu Quân nhập cung nhiều năm mà chưa từng được diện Thánh, oán hận, bẩm Dịch đình lệnh tự tiến cử mình đi Hung Nô. Khi đến triều bái kiến, nàng được tả 「"Phong dung tịnh sức, quang minh Hán cung. Cố cảnh bùi hồi, tủng động tả hữu"; 豐容靚飾,光明漢宮,顧景裴回,竦動左右。」. Trông thấy Chiêu Quân như vậy, Hán Nguyên Đế kinh ngạc, muốn lưu lại nhưng không thể thất tín, bèn luyến tiếc để Chiêu Quân đi. Từ đó Chiêu Quân trở thành vợ của Hô Hàn Tà, xưng hiệu Yên chi (閼氏), là tên hiệu những người vợ có địa vị của các Thiền vu Hung Nô. Trước khi cưới Chiêu Quân, Hô Hàn Tà đã có khá nhiều Yên chi, trong đó có Chuyên Cừ Yên chi (颛渠阏氏) và Đại Yên chi, người sinh ra con trưởng Phục Chu Luy Nhược Đề của Hô Hàn Tà. Sau khi về Hung Nô, Chiêu Quân lại được Hô Hàn Tà theo lệ lập làm Yên chi với phong hiệu Ninh Hồ Yên chi (寧胡阏氏), trong đó hai chữ "Ninh Hồ" về mặt chữ Hán có nghĩa là "Yên ổn người Hồ". Theo phân tích, "Chiêu Quân" cùng "Ninh Hồ" về căn bản đều là những cái tên mang màu sắc chính trị lớn, không hề tầm thường. Hai cái tên này đối ứng nhau, mang hàm nghĩa chính trị tương quan giữa Hán và Hung Nô, kết quả khiến Vương Chiêu Quân mang trọng trách làm cầu nối giữa hai nước. Cuộc sống ở Hung Nô Từ khi làm Yên chi của Hô Hàn Tà, Vương Chiêu Quân tại Hung Nô đã sinh được 1 người con trai, tên gọi là Y Chư Trí Nha Sư (伊屠智牙師), về sau có xưng hiệu là Hữu Nhật Trục vương (右日逐王). Nhưng vấn đề này Hậu Hán thư ghi Chiêu Quân sinh 2 con trai. Theo thể chế Hung Nô, "Nhật Trục vương" thuộc về sở hạt của Tả Hiền vương (左賢王), quản lý các bộ phía Đông của Hung Nô, thường đều lấy con trai của Thiền vu đảm nhiệm. Năm Kiến Thủy thứ 2 (31 TCN), Hô Hàn Tà chết, con trai lớn của Hô Hàn Tà lên làm Thiền vu tiếp theo, tên là Phục Chu Luy Nhược Đề (復株累若鞮). Chiêu Quân muốn trở về Trung Quốc, nhưng Hán Thành Đế đã buộc Chiêu Quân phải theo tập quán nối dây của người Hung Nô và Chiêu Quân phải làm Yên chi của Phục Chu Luy Nhược Đề. Trong cuộc hôn nhân mới này Chiêu Quân có hai người con gái, Tu Bốc Cư Thứ (須卜居次) và Đương Vu Cư Thứ (當于居次). Con gái cả tên [Vân; 云], chồng là Tu Bốc Đương (須卜當), nên gọi ["Tu Bốc Cư Thứ"], trong đó "Cư Thứ" ý là công chúa. Con gái thứ không rõ tên. Năm Hồng Gia nguyên niên (20 TCN), Phục Chu Luy Nhược Đề qua đời. Không rõ khi nào Vương Chiêu Quân qua đời, được táng tại Thanh Trủng. Thời Hán Bình Đế, Thái hoàng thái hậu Vương Chính Quân lâm triều xưng chế, đem Tân Đô hầu Vương Mãng bỉnh chính quốc sự, con gái của Vương Chiêu Quân là Tu Bốc Cư Thứ vào Trường An để hầu Thái hoàng thái hậu, được thưởng hậu. Sau đó, Vương Mãng lập nhà Tân, cùng Hung Nô tranh chấp, đến năm Thiên Phượng nguyên niên (14), vợ chồng Tu Bốc Cư Thứ tại Trường An khuyên Hung Nô nghị hòa, nên phong cháu trai của Chiêu Quân là Vương Hấp (王歙) tước hiệu Hòa Thân hầu (和親侯). Truyền thuyết Họa công khí thị Có một truyền thuyết về Vương Chiêu Quân, gọi là Họa công khí thị (畫工棄市). Sách Tây Kinh tạp ký (西京雜記) cuối đời Hán có ghi lại câu chuyện này như sau: Câu chuyện bức tranh chân dung của Vương Chiêu Quân gắng liền với Mao Diên Thọ tương đối nổi tiếng, gần như truyền thuyết và dị bản về sau của Vương Chiêu Quân đều sẽ đề cập việc bị Mao Diên Thọ vẽ xấu hoặc lấp liếm chân dung đi. Lại có thuyết khác nói rằng khi vẽ Chiêu Quân, Mao Diên Thọ đã vẽ thêm một nốt ruồi dưới khóe mắt và tâu với Hán Nguyên Đế đó là 「Thương phu trích lệ; 伤夫滴泪」 hoặc 「Thương phu lạc lệ chí; 伤夫落泪痣」, ám chỉ nốt ruồi biểu thị người đó có tướng sát chồng. Vì vậy Hán Nguyên Đế không cho vời nàng tới tận khi Chiêu Quân bị cống sang Hung Nô. Một thuyết khác thì Chiêu Quân tài hoa tự vẽ chân dung của mình, nhưng bức tranh đó bị Mao Diện Thọ điểm thêm nốt ruồi. Nhà sử học Ngô Căng (吴兢) thời Đường đã cho ra một dị bản về câu chuyện của nàng như sau: Oán hận xin đi Sách Hậu Hán thư cho rằng, Hán Nguyên Đế đã từng gặp Vương Chiêu Quân nhưng không biết cảm nhận vẻ đẹp của nàng. Chiêu Quân vô cùng thất vọng và đau khổ sau nhiều năm sống cô độc trong cung cấm. Khi Hô Hàn Tà đến cầu thân, Chiêu Quân đã "oán hận", tự nguyện xin gả cho Hô Hàn Tà như một quyết định phản kháng. Còn trong Cầm Thao (琴操) của Thái Ung, ghi lại một hành trạng của Vương Chiêu Quân như sau: Chiêu Quân xuất tái Câu chuyện về Chiêu Quân đến biên cương, được gọi Chiêu Quân xuất tái (昭君出塞) trở thành một trong những điển tích nổi tiếng nhất trong thi ca Trung Quốc về sau, thường xuyên là đề tài sáng tác của các thi nhân. Truyền thuyết nói rằng, khi Chiêu Quân đi ngang một hoang mạc lớn, lòng nàng chan chứa nỗi buồn vận mệnh cũng như lìa xa quê hương. Nhân lúc ngồi lưng ngựa buồn u uất, Chiêu Quân liền cầm cây đàn tỳ bà, đàn một khúc gọi là "Xuất tái khúc". Có một con ngỗng trời bay ngang, nghe nỗi u oán cảm thương trong khúc điệu liền ruột gan đứt đoạn và sa xuống đất. Từ "Lạc nhạn" trong câu "Trầm ngư lạc nhạn" (沉魚落雁; chim sa cá lặn) do đó mà có. Khi qua Nhạn Môn Quan, cửa ải cuối cùng, Chiêu Quân được cho là đã cảm tác nhiều bài thơ rất cảm động. Tiếng đàn của Chiêu Quân ở Nhạn Môn Quan trở thành điển tích "Hồ Cầm". Cũng từ đó về sau, đề tài Chiêu Quân trong hội họa không hề thiếu đi hình ảnh cây đàn tỳ bà, tựa hồ tỳ bà cũng trở thành một biểu tượng gắn liền với hình ảnh Chiêu Quân. Những năm tháng sống trên đất Hung Nô, dẫu được hết lòng chiều chuộng và sủng ái nhưng nàng Chiêu Quân vẫn đau đáu nỗi nhớ quê. Nàng mang theo một ước nguyện được hồi hương để được chút thỏa lòng. Nỗi nhớ quê như người con nhớ mẹ. Mong muốn được về ấp ủ trong vòng tay yêu thương. Hạnh phúc nhung lụa chẳng thể lấp đầy được khát khao về quê nhà. Ánh mắt nhìn xa xăm theo cánh chim mà tựa đầu ủ dột hoài cố hương. Ngày mà đáng lẽ Chiêu Quân được về với quê nhà thì lại là ngày mà một lần nữa nàng phải cam chịu ở lại miền đất Hung Nô mà không bao giờ được quay trở về nữa. Nỗi lòng buồn đau vời vợi, tâm can kia như ai xéo dày. Nàng chỉ biết khóc mà tủi thân trách phận. Vậy là biền biệt quê hương chẳng được về. Ngôi làng quê hương của nàng ngày nay mang tên là "làng Chiêu Quân", dòng suối nơi tương truyền nàng từng ra giặt vải trước khi được tuyển vào hoàng cung, được đặt tên là Hương Khê (suối thơm) để tưởng nhớ nàng. Trong miền Nội Mông Cổ có hai địa điểm được cho là mộ của Chiêu Quân, một gần Hohhot và một gần Bao Đầu, cả hai đều xanh ngắt cỏ tươi, nên đều được gọi là Thanh Trủng (mồ xanh). Kể từ thế kỉ 3 trở đi, câu chuyện về Chiêu Quân đã được phóng tác nên như là hình tượng của một nhân vật nữ đầy bi thương trong nhiều tác phẩm thơ ca hay kịch, thông qua ngòi bút của các thi sĩ như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Vương An Thạch, Quách Mậu Thiến, Mã Trí Viễn, Tào Ngu, Quách Mạt Nhược, Tiễn Bá Tán,… Hình tượng văn hóa Thi ca Những tác phẩm thơ ca viết về Chiêu Quân xuất hiện vào khoảng từ đầu thế kỷ 7 đến cuối thế kỷ 13, thường dựa trên những dị bản của Ngô Quân. Đa số đều nói về sự ra đi cùng nỗi oán hận của nàng. Chiêu Quân thường xuất hiện với một vẻ đẹp u buồn, choàng khăn đỏ, mặc áo lông, ôm đàn tỳ bà, cùng với một con bạch mã. Nhà thơ Lý Bạch viết hai bài thơ về Chiêu Quân: Thi thánh Đỗ Phủ cũng để lại những bình phẩm sâu sắc qua bài "Vịnh hoài cổ tích": Thi sĩ Bạch Cư Dị làm về Chiêu Quân: Nhà cải cách thời Tống là Vương An Thạch đã viết hai bài thơ về Chiêu Quân, đưa ra những cách nhìn nhận khá độc đáo. Một trong hai bài đó: Không chỉ Trung Hoa, những nhà thơ Việt Nam cũng cảm thán cho số phận của Vương Chiêu Quân. Ta có thể thấy qua bài Chiêu Quân của Quang Dũng: Tuyết lạnh che mờ trời Hán Quốc Tì bà lanh lảnh buốt cung Thương Tang tình năm ngón sầu dâng lệ Chiêu Quân sang Hồ xừ hồ xang Đây Nhạn Môn Quan đường ải vắng Trường Thành xa lắm Hán Vương ơi! Chiêu Quân che khép mền chiên bạch Gió bấc trời Phiên thấm lạnh rồi Ngó lại xanh xanh triều Hán Đế Từng hàng châu lệ thấm chiên nhung Quân vương chắc cũng say và khóc Ái khanh! Ái khanh! Lời nghẹn ngùng Hồ xang hồ xang xự hồ xang Chiêu Quân nàng ơi lệ dâng hàng Lã chã trời Phiên mưa tuyết xuống Chiêu Quân sang Hồ, xừ hồ xang. Tế Chiêu Quân của Tản Đà: Tản Đà chú thích: Bài này khi tôi ở chơi chùa Non Tiên, làm bằng chữ Nho để tế nàng Chiêu Quân giữa đêm hôm 13 tháng 3 năm Duy Tân thứ 7. Sau về đến Nam Định, quan huyện Nẻ (Nễ Xuyên Nguyễn Thiện Kế) mới dịch ra Nôm cho Cô ơi, cô đẹp nhất đờiMà cô mệng bạc, thợ trời cũng thua Một đi, từ biệt cung vuaCó về đâu nữa, đất Hồ nghìn năm! Mả xanh còn dấu còn căm,Suối vàng lạnh lẽo cô nằm với ai? Má hồng để tiếc cho ai,Đời người như thế có hoài mất không! Khóc than nước mắt ròng ròngXương không còn vết, giận không có kì. Mây mờ trăng bạc chi chiHôi tanh thôi có mong gì khói nhang, Ới hồng nhan, hỡi hồng nhan!Khôn thiêng cũng chẳng ai van ai mời. Trời Nam thằng kiết là tôi.Chùa Tiên đất khách khóc người bên Ngô. Cô với tôi, tôi với cô,Trước sân lễ bạc có mồ nào đây. Hồn cô có ở đâu đây,Đem nhau đi với lên mây cũng đành. Sân khấu Từ thế kỷ 13 đã xuất hiện nhiều tác phẩm kịch nghệ về Chiêu Quân. Kịch tác gia nổi tiếng Mã Trí Viễn (1252-1321) dẫn đầu với vở kịch Hán Cung Thu, tập trung vào chủ đề bảo vệ đất nước. Khi người Hung Nô đe dọa biên cương nhà Hán, triều đình, đứng đầu là Hán Nguyên Đế, không tìm được một phương sách hiệu quả nào. Chiêu Quân được miêu tả như một người phụ nữ thông minh tuyệt đỉnh, luôn hết lòng vì hòa bình và sự bảo tồn giang sơn nhà Hán. Nàng hoàn toàn tương phản với vị hoàng đế kém cỏi và hèn nhát, viên thừa tướng thối nát bất tài, và tên thợ vẽ tư lợi Mao Diên Thọ. Tiếc thay, vở kịch có chỗ còn chưa đạt. Hai phần ba nội dung của kịch được dành để nói về chuyện tình giữa hoàng đế và người cung phi, làm giảm đi hình ảnh anh hùng của Chiêu Quân. Vào thời hiện đại, học giả Quách Mạt Nhược đã sáng tác một vở kịch mang tên "Vương Chiêu Quân", miêu tả bi kịch của Chiêu Quân như là hậu quả của mâu thuẫn giữa tinh thần dũng cảm và khao khát tự do của nàng và những âm mưu đen tối của Nguyên Đế và Mao Diên Thọ. Phim ảnh
Nghệ thuật Phật giáo là sự phản ánh các khái niệm trong đạo Phật dưới các hình thức nghệ thuật khác nhau – nhất là các lĩnh vực kiến trúc, điêu khắc và hội họa có liên quan đến Phật, Pháp và Tăng – bắt đầu từ thời ban sơ trước đây 2.500 năm đã phát triển một hệ thống đồ tượng biểu trưng đa dạng và phức tạp. Nghệ thuật Phật giáo bắt nguồn từ tiểu lục địa Ấn Độ, ngay sau khi Phật Thích-ca Mâu-ni (≈563–483 TCN) viên tịch. Trong thời kì tối sơ, nghệ thuật Phật giáo thuộc loại phi thánh tượng (), như vậy là chưa thể hiện hình tượng Phật dưới hình người. Thời kì hưng thịnh của nghệ thuật Phật giáo đầu tiên có lẽ là thời vua A-dục trị vì (≈268–232 TCN), ông đã đóng góp rất nhiều cho việc truyền bá Phật giáo tại Ấn Độ cũng như phổ biến đến các khu vực khác như Trung Á, Tích Lan, và ngay cả khu vực Đông Nam Á như các ghi nhận trong lịch sử. Những hình tượng đầu tiên, đặc biệt là các tượng tạc hình Phật, xuất hiện vào khoảng thế kỉ thứ 1 CN ở các vùng Càn-đà-la (Gandhāra) và Ma-thâu-la (Mathurā). Với việc phổ biến Phật giáo đến những vùng Trung, Đông, và Đông Nam Á thì nghệ thuật Phật giáo lại trải qua nhiều ảnh hưởng của các nền văn hóa khác, thu nhận chúng và phát triển một hệ thống đồ tượng tinh tế và phức tạp. Thời kì phi thánh tượng – thế kỉ thứ 5 TCN đến thế kỉ thứ 1 CN Người ta không thể xác định rõ ràng nguồn gốc của nghệ thuật Phật giáo. Những tác phẩm nghệ thuật đầu tiên được xem là thuộc về Phật giáo xuất phát từ lĩnh vực kiến trúc. Đó là những Tháp-bà (zh. 塔婆, sa. stūpa, pi. thūpa), thường được gọi tắt là "tháp", ban đầu có cấu trúc vòm và là nơi chứa Xá-lợi (sa. śarīra) của Phật. Ở các tháp này, người ta cũng tìm thấy những minh họa nghệ thuật cổ nhất dưới dạng chạm trổ (relief sculpture). Tuy nhiên, các tác phẩm này không có những nội dung đặc thù Phật giáo – có nhiều cảnh được miêu tả rất có thể có nguồn trước Phật giáo, ví dụ như hình của một phụ nữ đang sầu muộn, lõa thể với búi tóc xõa, hoặc các loại La-sát, những thần linh đã có trong truyền thống Ấn Độ giáo. Nhiều hình chạm trổ mang những nét đặc thù Phật giáo xuất hiện trong thế kỉ thứ 2 TCN. Mặc dù nghệ thuật Ấn Độ đã có truyền thống điêu khắc hình người trước đó rất lâu, nhưng Phật ban đầu không được trình bày dưới hình người, mà thông qua các hình ảnh ẩn dụ như hoa sen, cây bồ đề, bánh xe pháp luân. Thường thì Phật và giáo lý của Phật được thể hiện bằng những biểu trưng khác nhau và chúng đã trở thành những thành phần chính trong nghệ thuật Phật giáo đến ngày nay. Hoa Sen (liên hoa 蓮華, sa. padma, kamala, puṇḍarīka): vì không để nước và chất bẩn bám vào lá, là biểu tượng của sự trong sạch và Phật tính trong mỗi chúng sinh. Hoa sen dưới dạng mãn khai hoặc dạng bán khai cũng là biểu tượng của sự hạ sinh của thái tử Tất-đạt-đa Cồ-đàm. Bồ-đề thụ (zh. 菩提樹, sa. aśvattha, bodhiruma, bodhitaru, lat. ficus religiosa). Tương truyền Phật đắc đạo dưới cây này và vì vậy nó mang tên "bồ-đề", là cách phiên âm của từ "giác ngộ". Nhưng biểu tượng này cũng đã có nguồn từ những phong tục tín ngưỡng lực phồn thực vốn sẵn có trong xã hội Ấn Độ trước Phật giáo, được xem là "cây của sự sống". Thỉnh thoảng người ta cũng thấy cách trình bày một toà ngồi trống dưới cây bồ-đề, nhắc đến sự thành đạo của Phật. Pháp luân (zh. 法輪, sa. dharmacakra) - bánh xe (cakra) pháp (dharma), tượng trưng cho Tứ thánh đế và Bát chính đạo. Nhưng Pháp luân cũng nhắc đến lần Phật thuyết pháp đầu tiên tại Lộc Dã uyển, được gọi là lần đầu tiên "quay bánh xe pháp" (zh. 轉法輪, sa. dharmacakrapravartana) và qua đó, phổ biến Phật pháp khắp nơi trên thế gian. Pháp luân vừa được thể hiện qua những hình điêu khắc nổi, vừa được chạm trổ trên đỉnh các cột trụ mà vua A-dục đã dựng trên khắp vương quốc của ông (xem thêm A-dục vương thạch khắc văn). Sư tử (zh. 獅子, sa. siṃha), biểu tượng của sự cai trị và hoàng gia của vị Phật lịch sử Thích-ca Mâu-ni ("Trí giả trầm lặng của dòng Thích-ca"). Thời vua A-dục, người ta cũng gọi Phật là Thích-ca Sư tử (sa. śākyasiṃha), "Sư tử xuất thân từ dòng Thích-ca". Tương tự Pháp luân, sư tử cũng là một biểu tượng của Phật giáo được vua A-dục đặt trên những cột trụ của ông. Quốc huy Ấn Độ hiện nay là một cột trụ có hình sư tử xuất phát từ Sarnath. Phật túc thạch (zh. 佛足石, sa. buddhapada)- bàn chân Phật trên đá, được xem là một biểu trưng cho sự "khắc Phật pháp" vào thế giới của Phật Thích-ca. Thông thường, biểu tượng này thường đi cùng với hàng loạt biểu tượng khác, ví như pháp luân, bát cát tường (zh. 八吉祥, sa. aṣṭamaṅgala), v.v. Tháp-bà (zh. 塔婆, sa. stūpa, pi. thūpa), tượng trưng cho vũ trụ, đặc biệt là Niết-bàn. Trong thế kỉ thứ 2 và đầu thế kỉ 1 TCN, các tác phẩm hình tượng, điêu khắc, và hội họa dưới nhiều dạng như đai viền trang trí (en. frieze), bài vị thờ cúng (en. votive tablet) miêu tả các giai đoạn trong cuộc đời đức Phật, ngày càng quan trọng và phổ biến vì chúng được xem là những tác phẩm nghệ thuật minh họa Phật pháp cho người không biết đọc. Mặc dù hình người được trình bày trong các tác phẩm này nhưng Phật vẫn được miêu tả bằng những biểu tượng nêu trên. Nguyên nhân ở đây có thể là một lời nói của Phật trong Trường bộ kinh và theo đó, Phật không tán thành việc trình bày ngài trong tranh tượng sau khi ngài nhập Niết-bàn. Theo các nhà sử học tôn giáo thì có lẽ các nghệ nhân, tăng sĩ thời đó thấy việc miêu tả một nhân vật đã vượt ra khỏi vòng sống chết, đã lìa xa tất cả những việc đời thường cũng như vật chất, tâm thức,... bằng hình tượng là một việc không thể thực hiện. Thời kì thánh tượng - thế kỉ thứ 1 đến nay Tại Nam Ấn Độ, truyền thống biểu hiện Phật bằng biểu tượng vẫn còn được gìn giữ đến thế kỉ thứ 2 (xem trường phái A-ma-la-bà-đề, sa. amāravatī). Nhưng trong thế kỉ 1, hình tượng trình bày đức Phật đầu tiên đã xuất hiện ở hai khu vực miền Bắc Ấn. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, hình tượng Phật có thể đã xuất hiện trước đó nữa, nhưng vì được khắc hoặc vẽ trên những vật liệu nhanh mục như gỗ, vải hoặc lá cọ nên chúng không thể lưu dấu tích để chứng minh. Tuy nhiên, cho đến bây giờ người ta vẫn chưa tìm được một bằng chứng cho giả thuyết này từ phía khảo cổ học. Càn-đà-la và Ma-thâu-la Tại khu vực Càn-đà-la (vị trí hiện nay là miền Đông Afghanistan, miền Tây Bắc Pakistan và có thời kì lấn sâu vào Punjab) và Ma-thâu-la (phía nam thủ đô Delhi của Ấn Độ ngày nay), các trào lưu nghệ thuật trình bày Phật dưới hình người xuất hiện gần như cùng lúc và ảnh hưởng lẫn nhau. Nhưng người ta vẫn chưa xác định được việc trình bày Phật dưới hình người thực sự có trước ở miền nào. Trong mọi trường hợp, phong cách của các nghệ nhân Ma-thâu-la chịu ảnh hưởng Ấn Độ giáo truyền thống trong khi nghệ thuật Càn-đà-la lại phản ánh ảnh hưởng của nghệ thuật Hi Lạp vốn đã có mặt ở đó hơn vài thế kỉ. Trong cuộc viễn chinh cuối Alexander Đại đế (356 – 323 TCN) đã chiếm đóng được Taxila (gần Peshawar), là thủ đô kể từ thời vua người Achaemenid là Darius I (549 - 486 TCN). Càn-đà-la trở thành một phần của khu vực cai trị rộng lớn của Alexander Đại đế và tiếp tục là khu vực cai trị của Hi Lạp sau khi ông qua đời. Do vậy, ở nơi này, tín ngưỡng Phật giáo và truyền thống nghệ thuật cũng như mĩ học Cổ Hi Lạp và sau đó mĩ học địa phương La Mã đã hòa hợp nhau. Trong thế kỉ 1, cả Càn-đà-la và Ma-thâu-la đều bị vương triều Quý Sương (zh. 貴霜王朝, Kuṣāṇa) chiếm đóng và chịu ảnh hưởng của nó nhiều thế kỉ (tk. thứ 5 vương triều mới rơi vào tay quân Bạch Hung - Hephthalite). Trong thời gian này, vua Ca-nị-sắc-ca (zh. 迦膩色迦, sa. Kaniṣka) giữ một vai trò quan trọng với việc ủng hộ Phật giáo nói chung và nghệ thuật Phật giáo nói riêng. Sự hòa hợp và ảnh hưởng lẫn nhau của nghệ thuật mang đậm sắc thái Ấn Độ tại Ma-thâu-la và của nghệ thuật mang dấu ấn Hi Lạp tại Càn-đà-la đã tạo ra một dạng nghệ thuật căn bản cho tất cả các trường phái nghệ thuật Phật giáo sau này, đó là Phật giáo Hy Lạp. Mặc dù không xác định được những đồ tượng miêu tả Phật dưới nhân dạng xuất phát từ nơi nào, nhưng trong các tượng được tạc, người ta vẫn thấy được những dấu tích của hai truyền thống nguyên thủy: tóc xoắn, pháp y che hai vai, giày hoặc những nét trang trí với những chiếc lá Acanthus được xếp theo trật tự Ca-lâm-đa (Corinthian order) được xem là bắt nguồn từ Càn-đà-la. Ngược lại, pháp y với những nét tinh tế hơn và chỉ che bên vai trái, đài hoa sen làm chỗ ngồi của Phật cũng như Pháp luân trong bàn tay của ngài được xem có nguồn từ Ma-thâu-la. Tại Ấn Độ, nghệ thuật Phật giáo tiếp tục phát triển trong các thế kỉ tiếp theo trên cơ sở này. Đáng kể là nghệ thuật của các nhà tạc tượng tại Ma-thâu-la, đặc biệt là việc sử dụng sa thạch đỏ làm chất liệu trong thời kì vương triều Cấp-đa (Gupta, tk 4-6). Nơi đây, các sắc thái nghệ thuật chính được kết tụ trong thế kỉ thứ 7-8, được xem là tiêu chuẩn cho hầu hết tất cả những nước ở châu Á có truyền thống Phật giáo sau này: thân và tứ chi của Phật thanh nhã và cân xứng, lỗ tai dài có lỗ bấm nhắc đến thời kì ngài còn là thái tử Tất-đạt-đa, búi tóc trên đầu gợi nhớ lại thời Phật tu khổ hạnh như một Du-già sư (sa. yogin) và cuối cùng, cặp mắt chỉ hé mở, không nhìn người đối diện mà chỉ hướng nội thiền định. Từ đó về sau, cách trình bày Phật đều mang những nét hiện thực được lý tưởng hóa. Tại Ấn Độ, từ thế kỉ thứ 10 trở đi, Phật giáo và nền nghệ thuật hệ thuộc dần dần bị Ấn Độ giáo trong lúc đang phục hưng lấn át. Sau đó, Ấn Độ bị Hồi giáo từ phương Tây xâm chiếm, Phật giáo gần như hoàn toàn bị mai một ở xứ Ấn. Cùng với sự phổ biến Phật giáo, nhiều trường phái nghệ thuật Phật giáo xuất hiện song song với các trường phái giáo lý Phật giáo lớn như là Tiểu thừa, Đại thừa và Kim cương thừa. Các trường phái này có nhiều điểm giống nhau, nhưng mặt khác cũng phát triển những nét rất đặc thù. Thông thường, người ta phân biệt giữa hai nhánh chính, đó là Nghệ thuật Phật giáo Bắc truyền (Đại thừa) và Nghệ thuật Phật giáo Nam truyền (Tiểu thừa). Trong khi các thành phần đối xứng và tư thế ngày càng được nghệ thuật Bắc truyền lý tưởng hóa nhằm ứng đáp quan điểm Phật là "xuất thế nhân", mang những đặc tướng siêu việt thì các trường phái Nam truyền có vẻ vẫn biểu hiện Phật với những nét của "thế nhân", xem Phật vẫn là một người, mang thân thể của con người. Phật giáo Bắc truyền Phật giáo Bắc truyền dưới dạng Đại thừa được truyền bá có gốc xuất phát là Càn-đà-la, trước hết xuyên Con đường tơ lụa đến Trung Á và Trung Quốc, sau đó tiếp tục đến Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam. Một cung cách riêng với hệ thống đồ tượng rất đa dạng và đặc thù được tìm thấy trong Kim cương thừa tại Tây Tạng. Phật giáo Bắc truyền, như trường hợp Đại thừa nói chung, được đánh dấu bằng một hệ thống đồ tượng phức tạp với rất nhiều vị Phật và Bồ Tát khác nhau. Trung Á Khu vực ảnh hưởng Phật giáo Càn-đà-la tồn tại đến thế kỉ thứ 7, khi Hồi giáo bắt đầu chiếm lĩnh phần lớn khu vực Trung Á. Song song với những tác phẩm xác lập phong cách của các nhà điêu khắc, các tượng Phật tại Ba-mễ-dương (Bāmiyān) cũng thuộc vào những di sản của nền văn hóa Phật giáo đầu mùa này. Vì địa thế đặc biệt nên Trung Á luôn là một địa điểm hội tụ của các nền văn minh cổ - văn minh Trung Hoa bên phía Đông, văn minh Ấn Độ và Ba Tư ở miền Nam, sau đó là các nước dưới quyền Alexander Đại đế, vương triều Tắc-lưu-tây (en. seleucid), và cuối cùng là văn minh La Mã từ miền Tây. Người Hán đã tiếp xúc với văn minh Hy Lạp trong thế kỉ thứ 2 TCN trong thời kì bành trướng sang hướng Tây. Những mối quan hệ ngoại giao được thành lập và cuối cùng, các tuyến lộ thương mại xuất hiện, được biết đến ngày nay dưới tên "Con đường tơ lụa". Phật giáo được phổ biến dọc theo con đường này. Tháp, tự viện, và một số vương quốc Phật giáo nhỏ được kiến lập trong những ốc đảo bên cạnh Con đường tơ lụa. Rất nhiều công trình kiến trúc và đồ tượng của thời kì này còn được tìm thấy tại nhiều vùng phía đông của Trung Á, miền Tây Bắc Trung Quốc hiện nay (Thổ Nhĩ Kỳ Tư Thản - Turkestan - Bồn địa Tháp-lí-mộc - Tarim Basin - và Tân Cương), chẳng hạn như những bức hoạ và chạm trổ trên tường trong một loạt tự viện được xây trong hang đá, những bức tranh được vẽ trên vải, tượng đá và những khí cụ được dùng trong nghi lễ. Đặc biệt là những tác phẩm cổ nhất ở đây cho thấy rõ ảnh hưởng của nghệ thuật Càn-đà-la. Ngay cả văn bản được viết bằng chữ Kharoṣṭhī của vùng Càn-đà-la cũng được tìm thấy ở những ốc đảo. Với sự phát triển quan hệ thương mại, ảnh hưởng của Trung Quốc tăng trưởng rất nhanh, văn hóa và nghệ thuật của những dân tộc sống dọc theo Con đường tơ lụa sau cũng biến đổi theo. Trung Quốc Truyền thuyết cho rằng, thời vua A-dục trị vì (thế kỉ thứ 3 TCN) đã cử nhiều vị tăng đến Trung Quốc truyền đạo. Việc truyền bá Phật giáo đến Trung Quốc được ghi nhận rõ ràng bắt đầu vào thế kỉ thứ 1 CN. Từ thế kỉ thứ 4 trở đi, người ta có thể tìm thấy một nghệ thuật Phật giáo tự lập và đa dạng, đặc biệt trong lĩnh vực tạc tượng, vẽ tranh trên tường và sau đó, dưới dạng tranh cuốn (Thangka). Ngoài vị Phật lịch sử Thích-ca Mâu-ni, tranh tượng còn trình bày Phật A-di-đà, Đại Nhật và các vị Bồ Tát khác (Quán Thế Âm,...). Các vương triều miền Bắc - Bao gồm khu vực cai trị của các vương triều (Bắc Ngụy 北魏, Đông Ngụy 東魏, Tây Ngụy 西魏, Bắc Tề 北齊, Bắc Chu 北周) về mặt địa lý đều rất xa nguồn gốc Phật giáo tại Ấn Độ. Trong thế kỉ thứ 5-6, một phong cách nghệ thuật rất đặc thù được hình thành, bao gồm những thành phần biểu đạt trừu tượng có tính chất sơ đồ. Ban đầu, cách trình bày còn mang những đặc điểm được tìm thấy trong các hình tượng thần linh truyền thống bản địa: trán rộng, sống mũi thon, sắc nét và miệng nhỏ cười mỉm. Hào quang không tròn với mũi nhọn đưa lên tương tự một chiếc lá. Chỗ thờ cúng và tưởng niệm thường được trình bày trong hang động theo truyền thống Ấn Độ (xem A-chiên-đà). Các hình tượng thường được biểu hiện dưới dạng chạm trổ, đục từ vách đá ra. Những di tích quan trọng và nổi tiếng nhất được tìm thấy trong những hang đá tại Long Môn (Long Môn thạch quật, bắt đầu từ thế kỉ thứ 5 nhà Bắc Nguỵ, nhà Đường; gần Lạc Dương, tỉnh Hà Nam). Đến thế kỉ thứ 6 người ta còn tìm thấy nhiều hình tượng được làm bằng đất nung, sau đó tượng đồng ngày càng xuất hiện nhiều hơn và cũng được truyền đến Hàn Quốc. Nhà Đường - Hai vương triều kế đến là nhà Tùy và nhà Đường lại chú tâm đến các tài liệu gốc Ấn Độ hơn. Nhiều cao tăng Trung Quốc đã sang Ấn Độ trong thời gian giữa thế kỉ thứ 4 và 11. Một trong những cao tăng du học trong thế kỉ thứ 7 được nhắc đến là Huyền Trang và nhờ vị này mà người ta có được một bài tường thuật về các tượng Phật tại Ba-mễ-dương. Cuộc giao lưu văn hóa giữa Trung Quốc và Ấn Độ dưới vương triều Cấp-đa đã dẫn đến sự một kiện quan trọng là: từ lúc này, nghệ thuật Phật giáo Trung Quốc ngày càng có xu hướng đi sát với nghệ thuật Ấn Độ; Nếu tranh tượng của các vị Phật và Bồ Tát trước đây thon gầy và theo truyền thống Càn-đà-la, mang pháp y có nhiều nếp pli phủ từ cổ xuống chân, thì giờ đây, thân thể của chư vị có vẻ "mập" hơn và cũng có một phần thân không được che phủ (vai bên phải, bán thân phía trên). Cổ của chư vị có ba "ngấn thẩm mĩ", mô típ hoa sen ngày càng được dùng như một thành phần trang trí, hào quang giờ đây có hình tròn. Mặc dù tư thế được trình bày vẫn còn cứng và không tự nhiên, nhưng gương mặt lại mang những nét dễ gần và tự nhiên hơn. Kể từ thế kỉ thứ 7 người ta lại thấy một phong cách nghệ thuật mới: gương mặt tròn trịa, bộ tóc được trang điểm phức tạp hơn với nhiều trang vật khác nhau. Song song với nghệ thuật tạc tượng, ban đầu hội họa trên vách của các tự viện và thạch động là chủ yếu. Nhưng đến cuối đời nhà Đường thì một phong cách hội họa đặc thù được phát triển trên những bức tranh cuốn. Các nghệ nhân thời đó thường lấy hình tượng các vị Bồ Tát hoặc chư thiên, hộ thần đã được thuyết phục ủng hộ Phật pháp - vốn được trang trí rực rỡ hơn - làm mô típ thay vì lấy hình tượng giản dị của Phật Thích-ca Mâu-ni. Nhà Đường rất rộng mở cho những ảnh hưởng bên ngoài. Trong thế kỉ thứ 9, vào khoảng cuối nhà Đường, sự phóng khoáng nghệ thuật này cuối cùng đã chuyển biến thành cực biên khác. Vào năm 845, Đường Vũ Tông (武宗 814–846, tức Lý Viêm 李炎) ra lệnh đàn áp tất cả những "tôn giáo ngoại lai" như Cảnh giáo (景教, Nestorianism), Toả-la-á-tư-đức giáo (瑣羅亞斯德教, Zoroastrianism) và Phật giáo. Tự viện Phật giáo bị đóng cửa và Phật tử giờ đây bị đàn áp, buộc phải ẩn náu tu hành. Phần lớn những thành tích nghệ thuật đời Đường chỉ trong vài năm đã bị phá huỷ. Qua Pháp nạn này, sự phát triển của nghệ thuật Phật giáo tại Trung Quốc cũng bị đình chỉ gần như hoàn toàn. Thiền tông - Là một trong những tông phái Phật giáo sống sót sau Pháp nạn 845, Thiền tông đã được chấn hưng vào đời nhà Tống (1126-1279). Các thiền viện lúc này cũng được xem là trung tâm của văn hóa và giáo dục. Từ thế kỉ 13 trở đi, Thiền tông chính thức được truyền sang Nhật Bản.
Nhạn Môn Quan, (雁門關) cửa ải của vạn Lý Trường Thành thuộc huyện Đại, tỉnh Sơn Tây. Sở dĩ cửa ải mang tên này vì nơi đó có rất nhiều chim nhạn. Nhạn Môn Quan nổi tiếng qua điển tích Chiêu Quân Cống Hồ. Nhạn Môn Quan cũng là nơi Dương Nghiệp đánh thắng quân Liêu năm 981. Nhạn Môn Quan cũng được biết đến trong tiểu thuyết võ hiệp Thiên Long Bát Bộ của nhà văn Kim Dung. Nhân vật Kiều Phong đã dùng chính sinh mạng của mình để đổi lấy sự bình yên của nhân dân hai nước Tống-Liêu.
Vương Tường trong tiếng Việt có thể là: Tên thật (王牆) của Vương Chiêu Quân, một trong Tứ đại mỹ nhân Trung Hoa, sống trong khoảng thế kỷ 1 TCN ở thời Tây Hán. Vương Tường (王祥) (186-269), một trong Nhị thập tứ hiếu thời Tam quốc ở Trung Quốc. Vương Tường (王庠), học sĩ thời nhà Tống.
Tô Vũ có thể là: Nhạc sĩ Tô Vũ, một nhạc sĩ tiền chiến Việt Nam nổi tiếng. Tô Vũ, nhân vật đời Hán của Trung Quốc, nổi tiếng với điển tích Tô Vũ chăn dê.
Quang Dũng có thể là: Nhà thơ Quang Dũng Ca sĩ Quang Dũng Đạo diễn Nguyễn Quang Dũng (đạo diễn) Chính trị gia Nguyễn Quang Dũng Doanh nhân, chính trị gia Phạm Quang Dũng (Phạm Văn Nấng)
Minsk (, ; , ,Tiếng Việt phát âm: Min-xcơ) là thủ đô và thành phố lớn nhất của Belarus, nằm trên dòng chảy hai con sông Svislach và Nyamiha. Đóng vai trò thủ đô, Minsk có địa vị hành chính đặc biệt, vừa là thủ phủ của vùng Minsk (voblast) và raion (huyện) Minsk. Tính đến năm 2013, nó có dân số 2.002.600 người. Minsk cũng là trụ sở hành chính Cộng đồng các Quốc gia Độc lập (CIS). Những ghi chép cổ nhất nhắc đến Minsk có niên đại từ thế kỷ XVI (1067), khí nó là một phần của Công quốc Polotsk. Năm 1242, Minsk sáp nhập vào Đại công quốc Lietuva. Nó được ban cho đặc quyền thị trấn năm 1499. Năm 1569, nơi đây trở thành thủ phủ của Województwo Minsk, Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva. Minsk bị sáp nhập vào đế quốc Nga năm 1793, sau đợt phân chia Ba Lan lần II. Từ 1919 đến 1991, sau Cách mạng Tháng Mười, Minsk là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Byelorussia, Liên Xô. Địa lý Minsk tọa lạc bên sườn đông nam của dãy đồi Minsk, một vùng đồi thoải chạy từ phía tây nam (đoạn thượng lưu sông Neman) về phía đông bắc. Độ cao trung bình của thành phố là trên mực nước biển. Địa mạo của Minsk được định hình nhờ hai kỷ băng hà gần đây nhất. Sông Svislach, chảy ngang qua thành phố theo chiều tây bắc-đông nam, nằm trong một urstromtal, tức một thung lũng sông cổ đại hình thành bằng nước chảy từ các dải băng đang tan vào kỷ băng hà mới nhất. Có sáu con sông nhỏ hơn khác chảy qua địa phận thành phố, cả sáu đều thuộc lưu vực biển Đen. Minsk nằm trong vùng rừng hỗn giao đặc trưng chung cho Belarus. Những rừng thông và rừng hỗn giao giáp rìa thành phố, đặc biệt là ở mặt bắc và đông. Một phần rừng được giữ lại trong các công viên (ví dụ, trong công viên Chelyuskinites) khi thành phố lan rộng. Khí hậu Minsk có khí hậu lục địa ẩm (phân loại khí hậu Köppen Dfb). Thành phố thường có sương mù, đặc biệt là vào mùa thu và mùa xuân.
Marguerite Germaine Marie Donnadieu (, 4 tháng 4 năm 1914 – 3 tháng 3 năm 1996), được biết với bút danh Marguerite Duras (), là một tiểu thuyết gia, kịch tác gia, biên kịch, nhà viết tiểu luận và nhà làm phim thể nghiệm người Pháp. Kịch bản cho bộ phim Hiroshima mon amour (1959) của bà đã được nhận đề cử Giải Oscar cho kịch bản gốc xuất sắc nhất. Niên thiếu và giáo dục Duras sinh ra tại Gia Định, Nam Kỳ, Liên bang Đông Dương (nay thuộc Việt Nam) với tên khai sinh Margarite Donnadieu, là con gái duy nhất trong trong gia đình có cha mẹ đều là giáo viên, đã tới định cư ở vùng đất thuộc địa theo lời kêu gọi của chính quyền Pháp. Cha và mẹ bà là Henri và Marie Donnadieu, đã rời bỏ nước Pháp sang Đông Dương sau khi mới lấy nhau. Cuộc hôn nhân này đều là lần thứ 2 của họ. Từ năm 1913 đến 1917, gia đình họ sống ở Sài Gòn, sau đó chuyển đến Hà Nội. Marguerite có người anh nghiện ngập nhiều lần lấy cắp tiền và người em thì quá yếu đuối. Cha bà là giáo sư toán, quay về Pháp năm 1918 rồi mất vì bệnh kiết lị. Mẹ bà làm giáo viên tiểu học với đồng lương khốn khó đã ở vậy nuôi 3 người con trong cảnh nghèo túng. Mẹ bà trải qua nhiều nhiệm sở Hà Nội, Phnôm Pênh, Vĩnh Long rồi sau được bổ nhiệm là hiệu trưởng Trường École de jeunes filles (nay là trường tiểu học Trưng Vương) ở Sa Đéc, Đồng Tháp. Năm 1928, bà Donnadieu khánh kiệt vì đã dồn hết tiền để dành đổ vào miếng đất ở Campuchia thuê lại của chính quyền thuộc địa, một phần để xây bờ đê (nhiều lần) chắn biển tràn vào đất trồng trọt, phần khác để kiện tụng các viên chức thuộc địa đã lừa gạt bà. Ký ức này đã truyền cảm hứng cho tác phẩm Bờ đê chắn biển (Un barrage contre le Pacifique) của bà. Ký ức về người cha của Marguerite Duras hầu như không rõ ràng bởi ông đã qua đời khi bà mới lên 4. Catherine Bouthors - Paillart thì cho rằng ông mất năm Marguerite 7 tuổi rưỡi. Sau này Duras kể lại rằng cuộc sống của gia đình bà giáo không hạnh phúc, gọi đúng phải là bi kịch. Dù không phải đói, nhưng rất khổ, có lúc họ phải ăn cả đồ lòng cò, vạc, cá sấu. Trải qua tuổi thơ và thời niên thiếu ở Việt Nam, những kỷ niệm ở đây đã gợi nên nhiều cảm hứng và in đậm trong những tác phẩm của bà. Ở tuổi 17, Duras trở về Pháp, quê gốc của cha mẹ, và bắt đầu học lấy bằng toán học, nhưng sớm bỏ ngang để tập trung vào khoa học chính trị, sau đó là luật. Sau khi hoàn thành việc học, đến năm 1941, bà làm việc cho chính phủ Pháp ở Bộ Thuộc địa; trong những năm 1930, bà cũng đổi tên thành Marguerite Duras, theo tên một làng ở vùng Lot-et-Garonne, nơi có ngôi nhà của cha mẹ. Năm 1939, bà cưới nhà văn Robert Antelme. Trong Chiến tranh thế giới thứ 2, từ 1942 tới 1944, Duras làm việc cho chính phủ Vichy trong một văn phòng phân bổ hạn ngạch giấy cho các nhà xuất bản và trong quá trình vận hành một hệ thống kiểm duyệt sách de facto. Bà cũng trở thành một thành viên tích cực của Đảng Cộng sản Pháp (PCF) và là thành viên của phong trào Kháng chiến Pháp với tư cách là thành viên của một nhóm nhỏ bao gồm cả François Mitterrand, sau này trở thành Tổng thống Pháp và vẫn là bạn suốt đời của Duras. Người chồng của bà, Antelme, bị bắt và bị gửi tới trại tập trung Buchenwald vào năm 1944 vì dính líu tới phong trào Kháng chiến, và gần như không thể sống sót khi rời khỏi trại tập trung Dachau (cân nặng khi ông được phóng thích, theo Duras, chỉ là 38 kg). Năm 1945, mặc dù đã có ý muốn ly dị, nhưng bà vẫn ở lại chăm sóc chồng một năm sau khi ông rời khỏi trại tập trung, và 2 ông bà chia tay ngay sau khi ông hồi phục. Sự nghiệp Duras được biết tới vào năm 1950 với cuốn tự truyện Un barrage contre le Pacifique. Những tác phẩm sau của bà đã góp phần làm mới cho thể loại tiểu thuyết. Năm 1984, Duras đoạt giải thưởng Goncourt với Người tình (L'Amant), cuốn tiểu thuyết viết về cuộc tình nồng nàn và lãng mạn giữa bà với điền chủ gốc Hoa giàu có Huỳnh Thủy Lê tại Sa Đéc. Cả hai bắt đầu gặp gỡ nhau trên một bến phà nối liền Vĩnh Long và Sa Đéc hơn 75 năm trước, khi bà và gia đình đến sống tại Sa Đéc. Người tình là một thành công lớn, với giải thưởng Goncourt năm 1984, được dịch ra hơn 40 thứ tiếng và được dựng thành phim vào năm 1992. Tác phẩm Duras gồm khoảng bốn mươi tiểu tuyết và mười vở kịch. Bà cũng đã thực hiện nhiều bộ phim, trong đó có India Song và Les enfants. Cuộc đời của Duras cũng như một cuốn tiểu thuyết. Bà không ngừng viết, những câu chuyện về nỗi đau, về bão tố, về rượu và những nỗi muộn phiền, về những lời nói và sự im lặng... Những tác phẩm đầu của Duras thường được viết theo một dạng nhất định (tính chất lãng mạn của chúng đã bị nhà văn bạn Raymond Queneau chỉ trích), nhưng kể từ Moderato Cantabile bà đã thử các lối viết mới, đặc biệt là cắt bỏ những đoạn văn dài để làm tăng phần quan trọng của những gì không được viết ra. Bà thường được xếp vào phong trào Tiểu thuyết mới trong văn học Pháp. Các phim của bà cũng mang tính chất thực nghiệm, thường tránh dùng âm thanh thu cùng hình ảnh mà dùng lời của người kể truyện, không phải để kể lại câu truyện mà để ám chỉ đến một truyện có thể xảy ra với các hình ảnh đó. Năm 1989, bà được trao Giải quốc gia Áo cho Văn học châu Âu. Đời tư Năm 1939, Duras kết hôn với nhà thơ Robert Antelme. Họ có một con trai đã qua đời vào năm 1942. Cùng năm đó, Marguerite Duras làm quen với người tình sau này là Dionys Mascolo. Marguerite Duras và Robert Antelme từng tham gia kháng chiến chống phát xít Đức. Một lần đội của họ bị mai phục, Marguerite Duras trốn thoát nhờ sự giúp đỡ của François Mitterrand nhưng Robert Antelme bị bắt và bị gửi tới một trại ngày 1 tháng 6 năm 1944. Năm 1945, mặc dù đã có ý muốn ly dị, nhưng bà vẫn ở lại chăm sóc chồng một năm sau khi Antelme ra khỏi trại tập trung Dachau. Bà đã kể lại thời kỳ đó trong cuốn La Douleur. Họ ly dị vào năm 1946. Duras cũng từng gia nhập Đảng cộng sản Pháp nhưng bị khai trừ vào năm 1955. Qua đời Những năm cuối đời, Marguerite Duras còn có một mối tình với Yann Andréa, một sinh viên trẻ say mê các tác phẩm của bà, kém Duras tới 38 tuổi. Andréa thuộc giới đồng tính luyến ái và nhận làm người bạn đường suốt quãng đời còn lại của bà. Mặc dù đã bị liệt cánh tay mặt và đi lại khó khăn, bệnh gan thận vì nghiện rượu nhưng Duras vẫn sáng tác bằng cách đọc cho Andréa chép rồi đánh máy lại. Chính Duras nhìn nhận cuốn "M.D." (1983) Andréa viết về bà đã gợi hứng cho bà viết "L’Amant". Marguerite Duras mất ngày 3 tháng 3 năm 1996 ở Paris, được chôn cất tại Nghĩa trang Montparnasse. Trên bia mộ của bà khắc hai đóa hoa và hai chữ viết tắt M.D. của tên tuổi Marguerite Duras cùng hai tấm chân dung, một khi còn trẻ và một khi đã già. Tác phẩm Văn học Les Impudents, Nhà xuất bản Plon, 1943. La Vie tranquille, Gallimard, 1944. Un barrage contre le Pacifique, Gallimard, 1950. Le Marin de Gilbaltar, Gallimard, 1950. Les Petits chevaux de Tarquinia, Gallimard, 1953. Des journées entières dans les arbres, Le Boa, Madame Dodin, Les Chantiers, Gallimard, 1954. Le Square, Gallimard, 1955. Moderato Cantabile, Les Éditions de Minuit, 1958. Les Viaducs de la Seine et Oise, Gallimard, 1959. Hiroshima mon amour, Gallimard, 1960. L'après-midi de M. Andesmas, Gallimard, 1960. Le Ravissement de Lol V. Stein, Gallimard, 1964. Théâtre I: les Eaux et Forêts-le Square-La Musica, Gallimard, 1965. Le Vice-consul, Gallimard, 1966. L'Amante Anglaise, Gallimard, 1967. Théâtre II: Suzanna Andler-Des journées entières dans les arbres-Yes, peut-être-Le Shaga-Un homme est venu me voir, Gallimard, 1968. Détruire, dit-elle, Les Éditions de Minuit, 1969. Abahn Sabana David, Gallimard, 1970. L'Amour (Người tình), Gallimard, 1971. "Ah! Ernesto", Hatlin Quist, 1971. India Song, Gallimard, 1973. Nathalie Granger, tiếp theo La Femme du Gange, Gallimard, 1973. Le Camion, tiếp theo Entretien avec Michelle Porte, Les Éditions de Minuit, 1977. L'Eden Cinéma, Mercure de France, 1977. Le Navire Night, tiếp theo Césarée, les Mains négatives, Aurélia Steiner, Mercure de France, 1979. Vera Baxter ou les Plages de l'Atlantique, Albatros, 1980. L'Homme assis dans le couloir, Les Éditions de Minuit, 1980. L'Eté 80, Les Éditions de Minuit, 1980. Les Yeux verts, trong les Cahiers du cinéma, n°312-313, tháng 6 năm 1980 và lần xuất bản mới năm 1987. Agatha (Người tình Hoa Bắc), Les Éditions de Minuit, 1981. Outside, Albin Michel, 1981. L'Homme atlantique, Les Éditions de Minuit, 1982. Savannah Bay, Les Éditions de Minuit, 1982, lần xuất bản thứ hai năm 1983 có viết thêm. La Maladie de la mort, Les Éditions de Minuit, 1982. Théâtre III: -La Bête dans la jungle, dựa theo Henry James, adaptation de James Lord và M. Duras; -Les Papiers d'Aspern, dựa theo H. James, adaptation de M. Duras và Robert Antelme; -La Danse de mort, dựa theo August Strindberg, adaptation de M. Duras, Gallimard, 1984. L'Amant, Les Éditions de Minuit, 1984; giải Goncourt. La Douleur, POL, 1985. La Musica deuxième, Gallimard, 1985. Les Yeux bleus Cheveux noirs, Les Éditions de Minuit, 1986. La Pute de la côte normande, Les Éditions de Minuit, 1986. La Vie matérielle, POL, 1987. Emily L., Les Éditions de Minuit, 1987. La Pluie d'été, POL, 1990. L'Amant de la Chine du Nord, Gallimard, 1991. Điện ảnh 1967: La Musica 1969: Détruire, dit-elle 1972: Jaune le soleil 1972: Nathalie Granger 1974: La Femme du Gange 1975: India Song 1976: Des journées entières dans les arbres 1976: Son nom de Venise dans Calcutta désert 1977: Le Camion 1977: Les Plages de l'Atlantique (Baxter, Vera Baxter) 1978: Les Mains négatives (phim ngắn) 1978: Cesarée 1979: Aurélia Steiner (Vancouver) (phim ngắn) 1979: Aurelia Steiner (Melbourne) (phim ngắn) 1979: Le Navire Night 1981: Agatha et les lectures illimitées 1981: L'Homme atlantique 1982: Il Dialogo di Roma (phim tài liệu) 1984: Les Enfants
Tô Vũ (chữ Hán: 蘇武, bính âm: Su Wŭ) là một nhà ngoại giao đời vua Hán Vũ Đế (140 TCN-87 TCN), nổi tiếng qua điển tích Tô Vũ chăn dê. Đất Bắc giá lạnh hoang vu, không có người. Tô Vũ ở nơi đi đày, ngày chăn dê, tối ngủ hang đá, thiếu thốn, cực khổ và tuyệt vọng. Gặp mùa chim nhạn thiên di về phương Nam, Tô Vũ viết một lá thư nhờ chim nhạn mang về nhà cho đỡ nỗi nhớ nhung. Hán Vũ Đế tình cờ nhặt được thư mới biết Tô Vũ đang phải chăn dê khổ cực ở phương Bắc. Ở nơi đi đày, Tô Vũ chỉ còn biết làm bạn với cỏ cây, cầm thú và đã kết bạn tình với một nàng vượn người. Mặc dù cuộc sống của "họ" là hoang dã nhưng họ luôn âu yếm nhau và đã có với nhau một đứa con. Sau 19 năm, nhờ sự can thiệp của Hán Vũ Đế, Tô Vũ chia tay người vợ vượn người trở về Hán. Điển tích Tô Vũ chăn dê trở thành một đề tài đặc sắc trong thi ca. Theo sử sách Vào khoảng đầu thế kỉ 2 TCN, một ông vua Đại Nhục Chi bị Hung Nô chém đầu rồi dùng cái sọ làm bình rượu, triều đình Đại Nhục Chi uất hận. Năm 100, Hán Vũ Đế sai Tô Vũ đi sứ Đại Nhục Chi nữa để hai nước liên kết đánh Hung Nô. Dọc đường Tô Vũ bị Hung Nô bắt, không giết mà cũng không cho về, đành phải tạm ở lại Hung Nô, chăn cừu sống với một phụ nữ Hung Nô trong núi, được một đứa con, sau trốn thoát, chịu không biết bao nhiêu gian nan, tới được Đại Nhục Chi, nhưng lúc này họ hết muốn trả thù Hung Nô rồi, chỉ muốn sống yên ổn, làm ruộng, trồng trọt. Tô Vũ đành trở về tay không, trên đường lại bị Hung Nô bắt một lần nữa.
{{Infobox Weapon |name= T-54/55 |image= 250px |caption=Một chiếc T-54 của Quân đội nhân dân Việt Nam đang diễn tập bắn đạn thật |origin= |type= Xe tăng hạng trung Xe tăng chiến đấu chủ lực thế hệ 1 |is_vehicle= yes |is_UK= yes |service= 1950 - nay |used_by=Xem chi tiết Hơn 1500 xe tăng T-54/T-55 được Liên Xô sản xuất từ năm 1946 đến năm 1983 và cung cấp cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và vẫn nâng cấp và sử dụng đến ngày nay. |wars= |designer= Morozov (T-54), OKB-520 (T-54A và sau đó) |design_date= 1945 |manufacturer= KhPZ, UVZ (Liên Xô), Bumar-Łabędy (Ba Lan), ZTS Martin (Tiệp Khắc) |unit_cost=T-55: 115.000 USD (thời giá 1970) |production_date= 1946 – 1981 (Liên Xô) 1956 – 1979 (Ba Lan) 1957 – 1983 (Tiệp Khắc) |number= 96.000 – 100.000 (ước tính) |variants=Xem chi tiết |spec_label= T-55 |weight= 39,7 tấn |length= 6,45 m |width= 3.37 m |height= 2,40 m |crew= 4 |armour= Tháp pháo: 203mm thép cong hình bán cầu.Mặt trước thân xe: 100mm thép nghiêng 60 độ (tương đương 200mm thép đặt thẳng đứng). |primary_armament= Pháo D-10T 100mm và Pháo D-10T2S 100mm (pháo D10T2S có thêm lớp bọc ở đầu pháo) |secondary_armament= 2 súng máy SGMT 7,62mm (đồng trục và mặt trước xe).Súng máy PKT 7,62 mm đồng trục. Súng máy hạng nặng DShK 12,7mm trên nóc xe. |engine= Động cơ diesel V-55 12 xi lanh |engine_power= 581 mã lực (433 kW) |pw_ratio= 14,6 mã lực/tấn |transmission= |suspension= Thanh xoắn |clearance= 425 mm |fuel_capacity= 961 lít |vehicle_range= 501 km, 600 km với loại đặc biệt |speed= 55 km/h }} T-54 và T-55 là một thế hệ xe tăng sản xuất tại Liên Xô và trang bị cho quân đội nước này từ năm 1947. Đây là mẫu xe tăng sản xuất nhiều nhất trong lịch sử với tổng số 95.000 xe được xuất xưởng (một số nguồn khác thì ước lượng con số sản xuất này dao động từ 85.000 - 100.000 chiếc, bao gồm cả những chiếc sản xuất tại nước ngoài với tên gọi khác). T-54 xuất hiện lần đầu năm 1949 như một mẫu tăng hạng trung thay thế cho T-34 thời Thế chiến II. Nguyên mẫu T-54 đầu tiên được hoàn thành năm 1946 và được chế tạo lần đầu năm 1947. T-54 liên tục được sản xuất và cải tiến, và sau khi được sửa chữa, nó được đổi tên thành T-55. T-55 ra mắt vào năm 1958 và có đầy đủ mọi sự cải tiến của series T-54 mà không có khác biệt căn bản trong thiết kế và vẻ ngoài. T-55A xuất hiện vào đầu thập niên 1960. Việc sản xuất loại xe này tiếp tục đến tận năm 1981 ở Liên Xô và cũng được sản xuất ở Trung Quốc (Type 59), Tiệp Khắc và Ba Lan. Một số lượng lớn loại này vẫn còn được các nước sử dụng, mặc dù đến thập niên 1980, T-54/55 đã bị Liên Xô thay thế bằng T-62, T-64, T-72 và T-80 trong vai trò loại tăng chủ yếu tại các đơn vị xe tăng của Hồng quân Liên Xô. T-54 được sử dụng rộng rãi trong các cuộc chiến từ sau năm 1950, như Hungary năm 1956, Tiệp Khắc năm 1968, và Syria năm 1970. Nó là xe tăng chính của các nước Ả Rập trong cuộc chiến 1967 và 1973 với Israel. Trong thập niên 1960, T-54 tham chiến ở Việt Nam, Campuchia và Uganda. Đến đầu thế kỷ XXI, T-54 và các phiên bản nâng cấp của nó vẫn phục vụ tích cực trong biên chế nhiều quân đội trên thế giới. Miêu tả T-54 được chế tạo ở phòng thiết kế Hạ Tagil dưới sự chỉ đạo của A. Morozov năm 1946 và trong quá trình chế tạo mang tên "Obyekt 137". Xe tăng được tiếp nhận vào biên chế năm 1950 và sản xuất hàng loạt ở Kharkov, Hạ Tagil và Omsk. Trong quá trình sản xuất đã tiến hành nâng cấp xe tăng mà không thay đổi mác xe. Xe tăng T-54 có hai biến thể - T-54A và T-54B: T-54A được chế tạo ở phòng thiết kế tại Hạ Tagil và tiếp nhận vào biên chế năm 1955. Việc sản xuất hàng loạt được thực hiện từ năm 1955 đến 1957 tại Kharkov, Hạ Tagil và Omsk. Lần đầu tiên trên xe tăng, Liên Xô đã lắp pháo 100mm D-10TG có hệ thống ổn định nòng (STP-1 "Gorizont") với bộ hút khói đầu nòng sau phát bắn. T-54B được chế tạo bởi phòng thiết kế Hạ Tagil và tiếp nhận vào trang bị ngày 11 tháng 9 năm 1956. Việc sản xuất hàng loạt từ năm 1957 đến 1959 ở Kharkov, Hạ Tagil và Omsk. Xe tăng sử dụng pháo D-10T2S với hệ thống cân bằng pháo hai trục dọc - ngang STP-2 "Tsiklon". T-55 được chế tạo dưới tên gọi "Công trình 155" bởi phòng thiết kế Hạ Tagil dưới sự chỉ đạo của L. Kartsev. Xe tăng được tiếp nhận vào trang bị ngày 24 tháng 5 năm 1958. Việc sản xuất hàng loạt được thực hiện ở Kharcov, Hạ Tagil và Omsk từ năm 1958 đến 1962. So với T-54, trên xe tăng này đã áp dụng các điểm mới: tăng cường công suất động cơ từ 520 lên 580 mã lực; sử dụng thùng – bệ để tăng khối lượng nhiên liệu và cơ số đạn, lắp máy nén khí để đảm bảo hơn việc khởi động động cơ, duy trì tuổi thọ pin ắc quy, lắp hệ thống cứu nạn (PAZ), hệ thống khói nhiệt (TDA) để tạo thành màn khói từ sự bốc hơi của nhiên liệu thải ra từ ống xả, hệ thống chữa cháy tự động, khí tài quan sát của lái xe và bộ truyền động. Ngoài ra, cơ số đạn xe tăng từ 34 tăng lên 43 viên đạn pháo 100mm. Khác với T-54B, T-55 không có súng phòng không 12,7mm trên nóc xe (tuy nhiên đến năm 1969, T-55 lại được lắp súng phòng không DShK). T-55 chạy bánh xích, khung gầm gồm năm bánh với một khoảng trống giữa bánh thứ nhất và bánh thứ hai và không có những trục lăn hồi chuyển. Nó có thân ngắn, tháp pháo hình vòm nằm bên trên bánh xe thứ ba. Pháo chính có cỡ nòng 100mm và có một lỗ thoát hiểm ở gần chân nòng. Xe tăng được trang bị một súng máy đồng trục 7,62mm và một súng máy 7,62mm dưới thân xe. Các mẫu T-55A về sau này không được trang bị súng đó. T-55 được phân biệt với T-54 vì nó không có vòm ở bên phải và quạt thông gió của tháp pháo được lắp phía trước so với quạt thông gió của T-54, và tất cả các mẫu T-55 đều có một bộ phận tìm kiếm ánh sáng hồng ngoại dành cho pháo thủ lắp bên phải súng chính. Tuy nhiên, bộ phận tìm kiếm ánh sáng này không phải là một đặc điểm phân biệt, bởi vì nó cũng được trang bị thêm cho nhiều mẫu T-54. Giống như T-34, T-54/55 được thiết kế để có thể sản xuất nhanh với chi phí rẻ. Năm 1970, mỗi chiếc T-55 có giá khoảng 115.000 USD theo thời giá khi đó, chỉ bằng 37% so với giá 1 chiếc M48 Patton của Mỹ (1 chiếc M48A3 có giá 309.090 USD thời giá năm 1961) Xe tăng T-55 và biến thể T-55A được xuất khẩu tới 40 nước trên thế giới. Ngoài ra, T-55 còn được chế tạo theo giấy phép sản xuất ở Trung Quốc, Tiệp Khắc và Ba Lan. Khả năng Độ cơ động T-55 kết hợp một khẩu pháo uy lực mạnh (theo tiêu chuẩn thời bấy giờ) với một thân tăng rất cơ động và nòng rất dài. Các cải tiến so với loại T-54 bao gồm: động cơ diesel V12 làm mát bằng nước với công suất 580 mã lực, tăng tầm hoạt động lên 500 km (lên tới 715 km với hai bình xăng phụ, mỗi bình 200 lít). T-55 có thể lội qua độ sâu 1,4m mà không cần chuẩn bị trước, có thiết bị thông hơi cho phép nó vượt qua độ sâu lên đến 5,5m với tốc độ 2 km/giờ. Thiết bị này cần phải được chuẩn bị trước từ 15 đến 30 phút, nhưng có thể được vứt bỏ ngay sau khi ra khỏi nước. Hệ thống ngắm bắn Tài liệu phương Tây (nhất là thời Chiến tranh Lạnh) thường chỉ trích xe tăng T-54/55 có hệ thống ngắm bắn chất lượng thấp. Điều này một phần là do tuyên truyền chính trị, một phần khác là bởi các phát bắn thiếu chính xác của tổ lái các nước châu Á, châu Phi (tuy nhiên nguyên nhân chính là do các nước này huấn luyện tổ lái sơ sài, áp dụng chiến thuật kém chứ không phải do chất lượng xe tăng). Sau Chiến tranh Lạnh, khi các thông số của T-54/55 được công bố rộng rãi, có thể thấy hệ thống ngắm bắn trên T-54/55 được thiết kế rất tốt, rất thuận tiện để sử dụng và có những điểm ưu việt hơn so với các xe tăng phương Tây đương thời. Các kiểm tra kỹ lưỡng cho thấy T-54/55 có thiết kế rất tối ưu vào thập niên 1950, và vẫn có khả năng hoàn thành nhiệm vụ tốt sau khi các thiết kế mới hơn ra đời. Kính ngắm cho trưởng xe T-54 obr. 1949 có kính tiềm vọng TPK-1 cho chỉ huy. Đó là một cải tiến so với kính ngắm MK-4 trên phiên bản thử nghiệm T-54-1, bởi nó cung cấp độ phóng đại 2,5x thay vì không phóng đại. Khi nhìn ở cự ly xa, TPK-1 không đủ độ phóng đại. Thay vào đó, người chỉ huy phải dựa vào ống nhòm cá nhân 8x30 của mình. Ống nhòm Liên Xô nhìn chung là có chất lượng tuyệt vời, vì hầu hết được làm dựa theo các công nghệ thu được từ nhà máy Zeiss-Jena của Đức Quốc Xã thời Thế chiến II. Điều đặc biệt của TPK-1 là nó có thể được sử dụng để chỉ định mục tiêu cho xạ thủ. Điều này được thực hiện bằng cách nhắm vào mục tiêu và nhấn nút trái, một tín hiệu điện được gửi đi để tháp pháo tự động xoay về hướng mục tiêu, rồi sau đó xạ thủ sẽ ngắm bắn. Đây có thể coi là một hệ thống "Hunter - Killer" sơ khai, giúp đẩy nhanh tốc độ phát hiện và ngắm bắn mục tiêu. T-54 là chiếc xe tăng đầu tiên trên thế giới triển khai hệ thống như vậy (tiếp theo là xe tăng hạng nặng Conqueror của Anh vào năm 1955). Phiên bản T-54B thì có kính tiềm vọng TPKUB và sau đó là TPKU-2B cho chỉ huy, có hai chế độ phóng đại có thể điều chỉnh là 1x (trường nhìn 17,5 độ) hoặc 5x (trường nhìn 7,5 độ). Vì kính tiềm vọng TPK-1 không có khả năng nhìn đêm, kính nhìn đêm TKN-1 được giới thiệu vào năm 1951 cho chiếc T-54 obr. 1951, và tiếp tục được sử dụng trên T-54A, T-54B và T-55 (bản cải tiến TKN-1S). Khi vào ban đêm, chỉ huy phải tháo kính TPK-1 để thay bằng TKN-1, điều này không mất nhiều thời gian nhưng cũng gây phiền toái (từ T-62 thì kính tiềm vọng cho chỉ huy đều có 2 chế độ ngày - đêm nên không cần thao tác này). TKN-1 có độ phóng đại 2,75x, nó sử dụng công nghệ khuếch đại ánh sáng thế hệ thứ 1, với khả năng nhìn ban đêm ở chế độ chủ động (đi kèm đèn hồng ngoại OU-3) cho phép người chỉ huy xác định các mục tiêu kích cỡ xe tăng ở khoảng cách khoảng 400 mét. Kính ngắm cho xạ thủ Xạ thủ T-54 sử dụng kính ngắm TSh-20. TSh-20 cung cấp độ phóng đại cố định 4x với trường nhìn 16°. Chỉ số này là kém theo tiêu chuẩn hiện đại, nhưng là mức chấp nhận được đối với một sản phẩm vào cuối thập niên 1940 (ví dụ, kính ngắm M71C trên xe tăng M26 Pershing của Mỹ có độ phóng đại cố định 5x với trường nhìn 13°). Một tính năng tuyệt vời của TSh-20 là có ốp cao su vừa vặn với trán của pháo thủ - ngay cả khi đội mũ bảo hiểm, cho dù cơ thể của xạ thủ lắc lư khi xe di chuyển thì mắt anh ta vẫn sẽ bám chắc chắn vào thị kính. Đây là tính năng truyền thống của hầu hết các kính ngắm trên các xe tăng Liên Xô và Nga cho tới nay. Tới năm 1951, kính ngắm TSh-20 được thay thế bởi TSh2-22, được giới thiệu cùng với mẫu T-54 Model 1951. Cải tiến lớn nhất là TSh2-22 có 2 chế độ phóng đại: 3,5x và 7x, dùng cho các tình huống tác chiến khác nhau. TSh2-22 có thể so sánh trực tiếp với kính ngắm No.1 của xe tăng Centurion (độ phóng đại 1x hoặc 6x) và kính ngắm M20 của M48 Patton (cũng có độ phóng đại 1x hoặc 6x). TSh2-22 tiếp tục được thay thế bởi TSh2B-32, được giới thiệu vào năm 1955 và được triển khai trong phiên bản T-54A. Sự khác biệt là TSh2B-32 được thiết kế để kết nối với thiết bị ổn định mặt phẳng đơn STP-1 mới, cho phép ổn định tầm ngắm theo chiều dọc. Nó tiếp tục được sử dụng trong T-54B với bộ ổn định mặt phẳng kép STP-2 mới. Vào tháng 1 năm 1965, TSh2B-32P được lắp đặt cho T-54B và T-55, sự khác biệt duy nhất giữa nó và TSh2B-32 là thang đo phạm vi mới cho đạn 3UBM8 APDS. Chữ "P" trong "TSh2B-32P" có lẽ mang nghĩa là "podkaliberniy" hoặc "dưới cỡ nòng", đề cập đến đạn APDS. Các phiên bản T-54 và T-55 trước đó đã được cài đặt kính ngắm trong quá trình sửa chữa để cho phép chúng sử dụng loại đạn mới. Năm 1957, chiếc T-54 được cải tiến, trở thành T-54B, với kính ngắm ngày/đêm TPN-1-22-11. TPN-1-22-11 có độ phóng đại cố định là 5,5x và trường nhìn rộng 6°. Nó có thể hoạt động ở chế độ thụ động hoặc chủ động. Ở chế độ chủ động, nó phải hoạt động song song với đèn hồng ngoại L-2 "Luna", cho phép xạ thủ xác định mục tiêu xe tăng ở khoảng cách 800 mét, tuy là không rõ ràng, nhưng không kém hơn các xe tăng phương Tây cùng thời. Trong chế độ thụ động, nó có thể xác định mục tiêu xe tăng ở khoảng cách 400 mét trong điều kiện đêm tối có độ sáng không nhỏ hơn 0,005 lux. Kính ngắm đêm dùng đèn hồng ngoại là công nghệ mới, rất hiện đại trong thập niên 1950 - 1960, giúp các xe tăng T-54/55 thể hiện khả năng tác chiến tốt hơn xe tăng phương Tây vào ban đêm. Khi tác chiến ban đêm, các kíp lái xe tăng Centurion (Anh) và M48 Patton (Mỹ) thời đó chỉ có thể dựa vào đạn vạch sáng và đèn pha. Dùng đèn pha thì sẽ bị lộ vị trí xe tăng, còn đạn vạch sáng thì thường không chiếu sáng đủ lâu để quan sát thấy đối phương. T-54/55 có kính nhìn đêm sử dụng đèn hồng ngoại nên không gặp vấn đề đó. T-54 thiếu một máy đo khoảng cách chuyên dụng như M48 Patton, khiến việc bắn đạn nổ (HE hoặc HEAT) trở nên thiếu chính xác (điểm rơi của đạn ở trước hoặc sau mục tiêu). Nguyên nhân không phải là do Liên Xô không chế tạo được thiết bị này, mà đây là biện pháp có chủ đích để làm giảm chi phí chế tạo, bởi theo học thuyết tác chiến chiều sâu của Liên Xô thời kỳ đó, T-54 là vũ khí tiến công cơ động, tác chiến trực diện ở cự ly trung bình nên không cần máy đo khoảng cách quang học lập thể. Mặt khác, máy đo khoảng cách thời đó dùng công nghệ quang học lập thể (như loại M17 trên xe tăng M48 Patton của Mỹ), muốn sử dụng thì xe bắt buộc phải đứng yên, điều này trái ngược với chiến thuật tiêu chuẩn của xe tăng là phải di chuyển liên tục để tránh bị đối phương ngắm bắn), do vậy nó thích hợp hơn với các vũ khí chuyên về phục kích, tác chiến từ xa như pháo tự hành chống tăng (những loại pháo tự hành chống tăng của Liên Xô thời đó như SU-122-54 hoặc Object-268 thì đều có máy đo khoảng cách quang học lập thể gắn trên vòm chỉ huy). Tới thập niên 1970, khi pháo tự hành chống tăng trở nên lỗi thời (bởi tên lửa chống tăng) thì T-54/55 đã được trang bị máy đo khoảng cách bằng laser. Phiên bản T-55A được trang bị máy đo khoảng cách bằng laser KTD-1 vào năm 1974. KTD-1 có khoảng cách đo tối đa là 4000 mét và tối thiểu là 400 mét, biên độ sai số tối đa trong phép đo là 20 mét. Tuy còn những thiếu sót (việc nhập cự ly, tính toán đường đạn phải làm thủ công), KTD-1 vẫn là công nghệ rất hiện đại vào thời điểm đó. Thứ tốt nhất mà xe tăng của Đức có vào lúc đó là máy đo khoảng cách quang học lập thể EMES 12A1 trên mẫu Leopard 1A4 vào năm 1974. Sự hiện diện của máy đo xa laser cải thiện độ chính xác của xe tăng khi bắn phạm vi trung bình, và tăng mạnh độ chính xác khi bắn vào các mục tiêu ở khoảng cách lớn hơn 1 km. Bộ ổn định nòng pháo Được giới thiệu trên chiếc T-54A vào năm 1954, bộ ổn định nòng pháo STP-1 cho khẩu D-10TG 100mm làm cho chiếc T-54 trở thành chiếc xe tăng thứ hai trên thế giới có được bộ ổn định nòng, sau chiếc xe tăng Centurion MK-3 của Anh (nó có một hệ thống ổn định hai mặt phẳng tiên tiến vào năm 1948). Tuy nhiên, STP-1 chỉ có chức năng ổn định theo chiều dọc. Mùa hè năm 1954, Nhà máy số 183 tại Kharkov thử nghiệm thành công bộ ổn định nòng 2 chiều, đã cải thiện tỷ lệ bắn trúng ở phát bắn đầu tiên cao hơn 2 lần và tốc độ ngắm bắn giảm 1,5 lần. Tuy nhiên, bộ ổn định hai chiều tiên tiến chưa thể được sản xuất trên quy mô lớn. Kết quả là, STP-1 được sản xuất hàng loạt vào năm 1954 như một giải pháp tình thế. Tới năm 1956, bộ ổn định hai chiều STP-2 "Tsyklon" đã được giới thiệu cho T-54B cùng pháo D-10T2S. Hệ thống ổn định hai trục là thiết bị rất tiên tiến so với xe tăng phương Tây vào thời điểm đó, chỉ có xe tăng Centurion của Anh là có hệ thống tương tự. Xe tăng M60A1 chỉ có được một bộ ổn định nòng hai trục vào năm 1972 dưới dạng hệ thống AOS (Add-On Stabilizer), thậm chí hệ thống AOS này có một loạt các vấn đề, bao gồm việc đôi khi tháp pháo quay không kiểm soát được. Leopard 1 của Đức chỉ có hệ thống ổn định mặt phẳng hai trục Cadillac-Gage vào năm 1970 với bản nâng cấp Leopard 1A1. Trong thời gian cuối những năm 1950, gần như tất cả xe tăng T-54 obr. 1949 (được sản xuất từ 1949 đến 1951) và T-54 obr. 1951 (được sản xuất từ năm 1952 đến năm 1954) đã trải qua một chương trình hiện đại hóa để cải thiện khả năng chiến đấu tới cấp độ của T-54B. Tất cả các phiên bản T-55 cũng có bộ ổn định nòng hai chiều (two-plane) chứ không chỉ có bộ ổn định dọc như T-54 đời đầu. Độ chính xác của STP-2 "Tsyklon" được báo cáo là 1,0 mil theo chiều dọc, và 1,5 mils theo chiều ngang, nghĩa là độ lệch trung bình là 1 mét theo chiều ngang và 1,5 mét theo chiều đứng ở cự ly 1 km. Nó cung cấp sự cải thiện khá lớn về độ chính xác khi bắn. Khi tiếp cận mục tiêu ở khoảng cách 800 - 1200 mét và di chuyển theo đường thẳng, tỷ lệ bắn trúng đã tăng 5,25 lần, tỷ lệ bắn trúng trong khi di chuyển ở một góc 15 độ so với mục tiêu đã được cải thiện 4 lần. Tóm lại, "Zarya" cho phép T-54/55 bắn trúng các mục tiêu kích thước xe tăng từ tầm ngắn đến trung bình với độ chính xác hợp lý ở tốc độ từ 12 đến 25 km/h và nâng cao tỷ lệ bắn trúng ở cự ly xa hơn. Các nâng cấp Phiên bản nâng cấp toàn diện T-55AM được giới thiệu vào năm 1983 đã được trang bị hệ thống điều khiển hỏa lực tự động "Volna". Tất cả các thành phần điều khiển bắn ban đầu của T-54/55 đã được thay thế và một số công nghệ mới đã được bổ sung, bao gồm: Kính ngắm TShSM-32PV kiểu mới, kết nối với bộ ổn định nòng hai chiều được cải tiến, chính xác hơn nhiều so với bộ ổn định trên T-54/55 và T-62 đời đầu. Kính ngắm đêm 1K13-2 (thay thế kính ngắm TPN-1-22-11) có thể dùng để điều khiển tên lửa chống tăng phóng qua pháo 100mm, có độ phóng đại tối đa là 8x ở chế độ ban ngày và 5,5x ở chế độ ban đêm. Ở chế độ ban đêm, 1K13-2 có hai chế độ: thụ động và chủ động, cả hai đều hoạt động với độ phóng đại 5,5x. Trong chế độ thụ động, nó có thể xác định mục tiêu xe tăng ở khoảng cách 800 mét trong điều kiện đêm tối có độ sáng không nhỏ hơn 0,005 lux. Ở chế độ chủ động với ánh sáng từ đèn hồng ngoại L-2G Luna, cự ly này là 1100 mét. Bộ đo xa laser KTD-2 có giao diện hiện đại hơn, bao gồm bảng điện tử hiển thị kết quả đo xa. Tuy nhiên, T-55AM vẫn không được trang bị cảm biến áp suất gió, nhiệt độ, áp suất không khí, nhiệt độ buồng súng hoặc hệ thống ghi âm điện tử để tự động tính toán hao mòn nòng pháo. Vào thời đó, đây là những thiết bị đắt tiền chỉ được trang bị cho dòng xe cao cấp T-80. Nhìn chung, hệ thống "Volna" không không phải là một sản phẩm tiên tiến vào những năm 1980, nó không vượt trội hơn chiếc Leopard 1A4 (được chế tạo từ năm 1974 đến năm 1976) hoặc các loại xe tăng hiện đại vào đầu thập niên 1980. Thay vào đó, Volna là một biện pháp với chi phí thấp để nâng cao khả năng bắn chính xác của một chiếc T-54/55 cũ lên gần bằng mức của T-72B, và nó hoàn toàn thành công trong mục đích này. Đến đầu thế kỷ XXI, nhiều quốc gia đã cho ra mắt nhiều gói nâng cấp hệ thống điều khiển hỏa lực (FCS) cho T-54/55, áp dụng nhiều công nghệ mới, ví dụ như El-Op Red Tiger của Israel, hệ thống điều khiển hỏa lực Matador, ống nhòm NobelTech T-series của Thuỵ Điển, Atlas MOLF của Đức, SUV-T55A FCS của Nam Tư, Marconi Digital FCS của Anh, SABCA Titan của Bỉ,... Một trong những hệ thống tốt nhất là EFCS-3 của Slovenia được tích hợp với FCS. Rất nhiều kiểu ống ngắm nhiệt khác cũng có thể được trang bị, gồm cả ống ngắm Nga/Pháp ALIS và Namut-type của hãng Peleng (Belarus). Có nhiều kiểu ống ngắm nhiệt có thể được trang bị cho phép phóng ATGM vào buổi tối. Hỏa lực T-54 được trang bị pháo rãnh xoắn 100mm mẫu D-10T. D-10T nặng 1.950 kg, áp suất buồng đốt tối đa là 289 MPa. Pháo có thể đạt góc nâng lên cao 16,5° hoặc hạ xuống 5°. Nó mạnh hơn các khẩu pháo M3A1 90mm của xe tăng M48 Patton và pháo 20 pounder (84mm) của xe tăng Centurion. Năm 1958, xe tăng T-55 được giới thiệu với pháo cải tiến D-10T2S. Pháo D-10T có 2 hạn chế: không có bầu hút khói (bore evacuator, có chức năng ngăn khói thuốc phóng bay ngược lại khoang lái) và để thay thế nòng thì cần phải nhấc tháp pháo khỏi vòng tháp pháo và kéo toàn bộ cụm pháo ra phía sau. Dù sao thì những hạn chế đó cũng là điểm chung của hầu hết các loại pháo tăng thập niên 1950. Tất cả các biến thể T-54 được sản xuất giữa năm 1947 và 1958 chỉ có thể mang theo 34 viên đạn pháo. Đến phiên bản T-55, cơ số đạn cho pháo chính được nâng lên 43 viên. Hướng dẫn sử dụng cho xe tăng T-55A (phiên bản có bộ ổn định nòng pháo) cho biết tốc độ bắn khi xe đứng yên là 7 phát/phút và tốc độ bắn khi xe di chuyển là 4 phát/phút. Ngoài pháo chính, bản gốc T-54-1 có một súng máy đồng trục 7,62mm, cùng 1 đại liên DShK 12,7mm gắn trên nóc xe để phòng không hoặc bắn bộ binh địch, thuộc quyền sử dụng của pháo thủ. Tuy nhiên, một số phiên bản T-54/55 đã loại bỏ khẩu 12,7mm. Trong một số phiên bản T-54/55 cải tiến từ thập niên 1990, đại liên 12,7mm có thể được gắn hệ thống điều khiển từ xa ở trong xe (đây là công nghệ mới áp dụng kể từ T-64), nhờ vậy có thể được xạ thủ ngắm bắn khi đang ngồi phía trong xe tăng mà không cần phải nhô người ra ngoài tháp pháo, giúp giảm khả năng thương vong cho xạ thủ. Đạn pháo Khi chiếc T-54 được đưa vào phục vụ trong Hồng quân, chỉ có hai loại đạn xuyên giáp có sẵn cho nó: BR-412 AP và BR-412B APBC. BR-412B được chính thức ra mắt vào khoảng năm 1946 (dường như nó đã được sản xuất vào đầu năm 1945) như một phiên bản sửa đổi của BR-412, có mũi cùn và mũ đạn để duy trì mũi nhọn khí động học. Đạn nặng 30,1 kg, sơ tốc 895 m/s. Theo cách tính của Mỹ (tỷ lệ xuyên 50%, thép mục tiêu có độ cứng khoảng 200 BHN), với góc chạm 0°, BR-412B có độ xuyên: 235mm thép ở cự ly 100 mét, 226mm thép ở 500 mét, 185mm thép ở 1000 mét, 161mm thép ở 1500 mét, 141mm thép ở 2000 mét. Theo cách tính của Liên Xô (tỷ lệ xuyên 80%, thép mục tiêu có độ cứng 250-350 BHN), các con số này là: 160mm thép ở cự ly 100 mét, 150mm thép ở 500 mét, 135mm thép ở 1000 mét, 125mm thép ở 1500 mét, 105mm thép ở 2000 mét. BR-412B vượt trội rõ ràng so với đạn M318A1 APCBC cỡ 90mm của xe tăng Mỹ. Tuy nhiên, T-54 không được cấp phát đại trà đạn xuyên giáp cao cấp HVAP, mặc dù đạn HVAP BR-412P 100mm đã được sản xuất với một số lượng nhỏ (do giá thành đạn HVAP rất cao, nên có lẽ Liên Xô chỉ sản xuất số lượng lớn nếu xảy ra chiến tranh). Vào năm 1953, BR-412B được thay thế bởi đạn BR-412D. Cả BR-412B và BR-412D tiếp tục được sử dụng song song trong một thời gian (một số quốc gia đồng minh cũ của Liên Xô thì vẫn sử dụng đạn BR-412B vào những năm 2000). Đạn nặng 30,4 kg, sơ tốc 887 m/s. Theo cách tính của Liên Xô (tỷ lệ xuyên 80%, thép mục tiêu có độ cứng 250-350 BHN), sức xuyên giáp là: 200mm thép ở cự ly 100 mét, 185mm thép ở 500 mét, 170mm thép ở 1000 mét, 155mm thép ở 1500 mét, 125mm thép ở 2000 mét. Nhìn chung, BR-412D cải thiện sức xuyên giáp 20% so với BR-412B. Theo những con số này, BR-412D có khả năng xuyên giáp phía trước của Leopard 1 ở khoảng cách 1500 mét. Đối với M48 Patton, BR-412D có thể bắn xuyên mặt trước tháp pháo ở khoảng cách 1800 mét, hoặc xuyên mặt trước thân xe ở khoảng cách 500 mét. Năm 1967, đạn 3BM8 APDS cho pháo D-10T đi vào hoạt động. Việc phát triển đạn pháo chống tăng của Liên Xô rất bất thường khi đạn APFSDS đi vào phục vụ trước đạn APDS. Đạn nặng 20,9 kg, trong đó thanh xuyên nặng 4,13 kg làm bằng tungsten, sơ tốc 1415 m/s. Ở cự ly 2000 mét, đạn có độ xuyên 190mm thép ở góc chạm 0° hoặc 80mm ở góc chạm 60°. Sau đó, đạn 3BM8 được thay thế bằng đạn 3BM20 APFSDS, nó có một lõi hỗn hợp thép - carbon wolfram trong cùng một thiết kế như đạn 115mm 3BM3. Thiết kế của mũ xuyên giáp 3BM20 cho hiệu năng vượt trội với mục tiêu nghiêng so với đạn 3BM8 APDS. Ở cự ly 2000 mét, đạn có độ xuyên 240mm thép ở góc chạm 0° hoặc 110mm ở góc chạm 60°. Sau đó là loại đạn 3BM25 "Izomer" được chế tạo năm 1976 (kế hoạch hiện đại hóa đạn dược cho xe tăng đã được ban hành vào năm 1972 và dẫn đến việc tạo ra các loại đạn 3BM25 "Izomer" cỡ 100mm cho T-54/55, 3BM21 "Zastup" cỡ 115mm cho pháo U-5TS trên T-62 và 3BM22 "Zakolka" cho pháo 125mm D-81T trên T-64, T-72). Ở cự ly 1000 mét, đạn có độ xuyên 320mm thép ở góc chạm 0°. Ở cự ly 2.000 mét, đạn có độ xuyên 300mm thép ở góc chạm 0° hoặc 140mm ở góc chạm 60°. Đây là loại đạn APFSDS cuối cùng được Liên Xô phát triển cho T-54/55 trước khi nó được rút khỏi phục vụ. Do T-54/55 đã được Liên Xô rút khỏi phục vụ vào cuối thập niên 1980, nên đạn pháo của nó đã lâu không có cải tiến. Theo thời gian, uy lực của pháo chính trên T-54/55 bị đánh giá không còn hiệu quả khi đối đầu những dòng xe tăng hiện đại, kém xa các loại pháo tiên tiến cỡ 125mm trên T-64/72/80/90, hay pháo 120mm tiêu chuẩn NATO. Nhưng số lượng T-54/55 đang hoạt động trong quân đội các nước ở châu Á, châu Phi vẫn rất lớn, nên một số nước đã nghiên cứu loại đạn xuyên động năng thế hệ mới cỡ 100mm để xuất khẩu cho các nước vẫn đang duy trì hoạt động của T-54/55. Công ty Mecar SA của Bỉ đã giới thiệu đạn xuyên động năng M1000A1 cỡ 100mm. Loại đạn này nặng 21 kg, trong đó lõi xuyên bằng hợp kim tungsten nặng 5 kg được đẩy đi bởi 8 kg thuốc súng, cho sơ tốc đầu nòng 1475 m/s, có thể xuyên thủng được 380 mm giáp đồng nhất (RHA) từ cự ly 2000 mét ở góc chạm 0°. Hoặc công ty Aeroteh SA của Rumani đã liên doanh với Israel để chế tạo loại đạn BM-421 SG, ở góc chạm 0°, nó có thể xuyên thủng được 444 mm RHA từ cự ly 500 mét, 425 mm RHA từ cự ly 1000 mét và 328 mm RHA từ cự ly 2000 mét. Về đạn nổ lõm (HEAT), T-54/55 được trang bị đạn BK-5M ra đời năm 1961, có sức xuyên 390mm thép (không phụ thuộc vào khoảng cách). Sức xuyên này đủ để xuyên thủng giáp trước của hầu hết các loại xe tăng thời kỳ đó như M48 Patton của Mỹ, Centurion của Anh, hoặc Leopard 1 của Đức (thời điểm đó chỉ có T-64 của chính Liên Xô mới có giáp trước chịu được BK-5M). Tuy nhiên ở thập niên 1960, việc thiếu thiết bị đo khoảng cách khiến độ chính xác của đạn HEAT kém hơn nhiều so với đạn APFSDS, nên BK-5M thường chỉ dùng để tấn công mục tiêu đứng yên hoặc ở gần (dưới 1000 mét) chứ ít khi dùng để hạ mục tiêu di động ở xa. Khả năng bảo vệ Ở thời điểm ra đời, T-54 là một thiết kế rất thành công. So với T-34/85, T-54 có vỏ giáp trước dày hơn 2,2 lần (200mm so với 90mm), pháo chính 100mm mạnh hơn 1,5 lần so với pháo 85mm của T-34/85, trong khi đó trọng lượng xe không cao hơn đáng kể (36 tấn so với 32 tấn). So với đối thủ là M47 Patton và M48 Patton của Mỹ, T-54 nhẹ hơn rất nhiều (M48 nặng tới 50 tấn) trong khi vỏ giáp thì nhỉnh hơn và hỏa lực thì mạnh hơn (M48 chỉ trang bị pháo 90mm). Kích thước nhỏ gọn của xe cũng khiến T-54 trở thành mục tiêu khó bị bắn trúng hơn so với M48. Ngoài ra, mặt trước thân xe của T-54 được làm bằng thép hàn, có độ vững chắc tốt hơn so với mặt trước thân xe của M47 Patton được làm bằng thép đúc, dù độ dày danh nghĩa là như nhau (thử nghiệm của Nam Tư đã xác nhận điều này). Nhìn chung, T-54 có thể được coi là là ngang bằng với xe tăng M60 Patton về vỏ giáp thân xe (trong khi M60 ra đời sau 10 năm và nặng hơn 10 tấn). Trong thử nghiệm của Nam Tư, mặt trước của tháp pháo T-54 chỉ có thể bị xuyên thủng bởi đạn PzGr-39-1 APCBC bắn từ pháo KwK-43 88mm trên xe tăng Tiger II ở khoảng cách gần hơn 600 mét. Mặt trước thân xe là hoàn toàn không thể xuyên thủng, thậm chí từ 100 mét. Một thử nghiệm với pháo 90mm M3A1 trang bị trên M47 Patton cho thấy vỏ giáp của T-54 là rất tốt theo tiêu chuẩn thời bấy giờ. Đạn 90mm T33 APBC hoàn toàn không thể xuyên thủng mặt trước tháp pháo T-54 ở bất kỳ phạm vi nào, phần phía trước của mặt bên tháp pháo chỉ có thể bị đánh bại ở phạm vi rất gần là 250 mét. Khi đạn T33 được bắn ra từ khẩu pháo M36 mới hơn trên M48 Patton, nó vẫn không thể xuyên thủng mặt trước thân xe, hoặc chỉ xuyên được mặt trước của tháp pháo T-54 ở khoảng cách ở 350 m, hoặc phần phía trước của mặt bên tháp pháo ở cự ly 850 m. Khi đấu với T-54, xe tăng M48 bắt buộc phải dùng đạn xuyên giáp cao cấp M304 APDS thì mới có thể xuyên được mặt trước tháp pháo T-54 ở cự ly 750 mét, hoặc xuyên được mặt trước thân xe ở cự ly 200 - 300 mét. Ngược lại, pháo 100mm của T-54 khi sử dụng đạn BR-412D APCBC có thể bắn xuyên giáp trước tháp pháo của M48 Patton ở cự ly 1.200 mét, xuyên được giáp trước thân xe ở cự ly 500 mét, và nếu sử dụng đạn BR-412D APCR thì cự ly tiêu diệt được M48 còn xa hơn nữa. Về sau, khi đạn 3BM-8 APDS ra đời (năm 1967) thì T-54 không gặp khó khăn trong việc bắn xuyên giáp trước xe tăng M60 ở cự ly 1000 mét. Một số phiên bản T-54/55 cải tiến có mặt trước thân xe và hông tháp pháo được bổ sung lớp giáp yếm BDD tăng cường, làm tăng khả năng kháng chịu đạn nổ lõm chống tăng. Đây là một hình thức của áo giáp hộp NERA, bao gồm các tấm thép xen kẽ với các lớp vật liệu tổng hợp. Bộ giáp yếm BDD có tác dụng tương đương lớp thép dày 120mm khi chống đạn động năng hoặc 250mm thép khi chống đạn nổ lõm, nó giúp tăng cường khả năng bảo vệ T-54/55 lên gần bằng mức của T-72M, đồng thời cũng khiến trọng lượng của T-54/55 tăng lên 40 tấn. Sức kháng cự của giáp trước tháp pháo (gồm lớp giáp yếm BDD kết hợp với giáp xe) tương đương 330mm thép khi chống đạn động năng hoặc 450mm thép khi chống đạn nổ lõm, đủ để chống lại các loại đạn APFSDS 105mm đầu thập niên 1970 cũng như tăng đáng kể khả năng sống sót trước súng chống tăng bộ binh như M72 LAW và RPG-7. Khi giáp phản ứng nổ Kontakt-1 ra đời vào đầu những năm 1980, một số chiếc T-54/55 được trang bị loại giáp này nhưng chỉ để đánh giá. Mỗi khối Kontakt-1 có thể làm giảm sức xuyên của đạn nổ lõm lên đến 55% ở góc chạm 0 độ, và lên đến 80% khi góc chạm ở 60 độ. Việc bổ sung Kontakt-1 sẽ làm cho T-54/55 chống lại được tất cả các loại súng và tên lửa chống tăng không có đầu đạn nối tiếp. Tuy nhiên, thay vì Kontakt-1, T-54/55 nâng cấp được Liên Xô trang bị chủ yếu là giáp yếm BDD, bởi giáp yếm rẻ hơn và dễ lắp đặt hơn, và bởi T-54/55 đã trở nên lỗi thời vào thời kỳ đó (giáp phản ứng nổ được ưu tiên cho các loại xe mới hơn là T-72 và T-80). Sau này, khi giáp phản ứng nổ trở nên phổ biến, nhiều nước đã tự nâng cấp T-54/55 trong biên chế của họ bằng việc mua giáp phản ứng nổ để gắn lên xe. Để xuất khẩu, Nga tiến hành một số gói nâng cấp cho T-54/55. Tiêu biểu là T-55M5, là gói nâng cấp thiên về khả năng phòng thủ, xe được lắp đặt thêm giáp phản ứng nổ thế hệ 2 Kontakt-5 quanh mặt trước tháp pháo và mặt trước thân. Kontakt-5 có khả năng giảm 50% sức xuyên phá của đạn nổ lõm và giảm 25% độ xuyên phá của đạn xuyên giáp động năng. T-54/55 khi được gắn Kontakt-5 được cho là có thể chịu được đạn xuyên giáp động năng APFSDS cỡ 105mm ở cự ly 1500 mét, hoặc chịu được đạn nổ lõm (HEAT) cỡ 105mm từ mọi cự ly. Một số nước cũng tự tìm cách nâng cấp vỏ giáp của T-54/44 với công nghệ nội địa. T-55 Enigma của Iraq là một trong số những nỗ lực nâng cấp đáng chú ý hồi những năm 1980. Những tấm giáp được kỹ sư Iraq thiết kế đặc biệt đã được gắn vào bên hông xe và phần tháp pháo. Những tấm giáp này có lõi gồm nhiều khe, mỗi khe được cấu thành từ những tấm thép, nhôm và cao su. Mỗi xe tăng T-55 Enigma có 32 khối giáp được lắp đặt thêm, trong đó 8 khối bảo vệ hai phần thân, hai khối lớn được sử dụng bảo vệ động cơ, 8 khối được sử dụng để bảo vệ tháp pháo và nhiều tấm cỡ nhỏ khác để bảo vệ những chi tiết quan trọng của chiếc xe tăng. Trọng lượng của T-55 Enigma lên tới 41 tấn so với nguyên bản 36 tấn. Những tấm giáp do Iraq tự chế có hiệu quả thấp hơn giáp yếm BDD và giáp phản ứng nổ của Liên Xô, nhưng vẫn có hiệu quả khá tốt khi chống đạn nổ lõm, đồng thời nó rất rẻ và dễ chế tạo. Trong chiến tranh Vùng Vịnh, T-55 Enigma thể hiện được khả năng sống sót rất tốt khi đối đầu với bộ binh Mỹ, những thứ vũ khí chống tăng bộ binh phổ biến của Mỹ thời bấy giờ thường bị vô hiệu hóa bởi các tấm giáp đặc biệt này. Có trường hợp 1 chiếc T-55 Enigma bị trúng tới 4 quả tên lửa chống tăng MILAN mà vẫn không bị phá hủy. Tất cả các xe T-55 đều có hệ thống dò tìm bức xạ PAZ, và T-55A cũng có thiết bị chống bức xạ. Một số chiếc T-55 được trang bị một hệ thống bảo vệ tổng thể NBC (lọc không khí và áp suất). Một màn khói dày có thể được tạo ra bằng cách phun nhiên liệu diesel bay hơi vào một hệ thống hút khí để tạo ra những chùm khói trắng đục, giúp che khuất tầm nhìn của các thiết bị ngắm bắn quang học và ảnh nhiệt trên xe tăng địch. Một số phiên bản T-54/55 nâng cấp được trang bị hệ thống phóng lựu đạn khói, giúp tạo màn khói nhanh hơn. Một số cải tiến khác có thể được trang bị thêm gồm một đáy vỏ được tăng cường chống mìn, động cơ tốt hơn, xích bằng các miếng cao su, và ống bọc cho súng. Để đổi lấy khung thân nhỏ, vỏ giáp dày và tốc độ sản xuất nhanh (nhằm đáp ứng nhu cầu của chiến tranh tổng lực với cường độ tổn thất cực lớn), độ tiện nghi của T-54 kém hơn các xe của Mỹ (đặc điểm thường thấy của các xe tăng Liên Xô) và thiết kế của T-54 gây khó khăn cho việc nạp đạn. Theo đài Discovery của Mỹ, họ xếp T-54 vào hàng thứ 9 trong top 10 xe tăng thành công nhất trong lịch sử, với các tiêu chí được đánh giá: tốc độ sản xuất nhanh hàng đầu, hỏa lực và vỏ giáp khá tuy nhiên độ tiện nghi kém. Hệ thống bảo vệ hoạt động tích cực (APS) đầu tiên trên thế giới, được gọi là Drozd, được phát triển ở Liên Xô vào giữa những năm 1977 và 1982. Hệ thống này được lắp đặt trên khoảng 250 chiếc T-55A của cả hải quân và bộ binh (sau đó được đổi tên thành T-55AD) vào đầu những năm 1980, và được thiết kế để bảo vệ khỏi ATGM và súng chống tăng cá nhân loại như B40/B41. Nó sử dụng các cảm biến vi sóng radar đầu tiên ở mỗi bên tháp pháo để dò tìm đạn đang bay đến. Một máy lọc bên trong bộ xử lý radar được dùng để đảm bảo rằng hệ thống chỉ phản ứng lại với các mục tiêu đang bay ở tốc độ đặc trưng của ATGM. Những mục tiêu đó sẽ bị một hay nhiều rocket có mang các đầu đạn nhiều mảnh (giống với đạn súng cối), được phóng ra từ bốn ống được lắp ở mỗi bên tháp pháo. Dù khá hiệu quả, nhưng Drozd dù sao vẫn là hệ thống đời đầu và vẫn còn nhiều thiếu sót. Drozd chỉ cung cấp sự bảo vệ hướng ra phía trước 60 độ ở phần tháp pháo, hai bên cạnh và phía sau có thể bị tấn công, để thay đổi hướng bảo vệ của hệ thống thì kíp lái phải quay tháp pháo. Radar của nó không thể xác định đe doạ ở nhiều mức góc nâng một cách thoả đáng, và các rocket phòng vệ có thể gây ra tổn hại với bộ binh đi theo ở 2 bên xe. Trong thập niên 1990, hệ thống này được thay thế bởi hệ thống ARENA tiên tiến hơn. Những hạn chế T-55 được chế tạo hiệu quả để tiêu diệt xe tăng hạng trung của đối phương. Cơ số đạn cho pháo chính là 43 viên. Các thùng nhiên liệu bên ngoài làm cho xe rất dễ bị tổn hại, vì nó được bảo vệ bằng vỏ thép mỏng. T-55 có khả năng hạn chế trong việc hạ pháo chính, gây trở ngại cho xe trong việc bắn từ trên khu đất cao. Ở những phiên bản T-54 đầu tiên, ống ngắm của pháo thủ bị gắn với súng chính, không cho phép pháo thủ kiếm được các mục tiêu một cách nhanh chóng. Mặc dù tháp pháo hình nửa quả trứng của T-55 có các tính chất tốt, nó cản trở điều kiện làm việc của kíp lái. Theo cùng một tiêu chuẩn, thiết bị kiểm soát của nó cũng còn thô thiển so với các thiết kế xe tăng sau này. Vũ khí và nhiên liệu được bố trí ở vị trí dễ bị nguy hiểm. Việc thiếu rổ tháp pháo làm cho việc nạp đạn khó khăn. Người lái, chỉ huy, và pháo thủ tất cả đều trên một hàng, do đó nếu xe bị trúng đạn thì khả năng thương vong cả tổ lái sẽ tăng lên. Bởi tháp pháo nhỏ và thấp nên góc hạ nòng của T-54/55 thường thấp hơn so với xe tăng phương Tây. Các nhà thiết kế phương Tây cho rằng đây là nhược điểm, bởi xe tăng sẽ không tận dụng được chiến thuật "Hull-Down" (nấp thân xe sau mô đất dốc, chỉ để hở nòng pháo) khi phòng thủ, khi ở địa hình cao hơn đối phương thì T-54 phải thò ra một phần thân xe để chiến đấu. Tuy nhiên, các nhà thiết kế Liên Xô không xem đây là một nhược điểm, bởi phương thức tác chiến chủ yếu của xe tăng không phải là phòng ngự mà là cơ động tấn công, tháp pháo nhỏ sẽ giúp giảm đáng kể xác suất trúng đạn khi tác chiến vận động. Nhiệm vụ ẩn nấp phòng ngự là của lực lượng pháo chống tăng chứ không phải của xe tăng, tuy nhiên nếu bắt buộc phải bố trí phòng thủ (vốn ít khi diễn ra) thì T-54/55 vẫn hoàn toàn có thể dùng lưỡi ủi đất (gắn trước thân xe) để tự đào hố ẩn nấp kiểu "Hull-Down" chỉ trong mấy phút. T-55 không hoàn toàn kín không khí nên tổ lái có thể bị ảnh hưởng bởi vũ khí hóa học hay phóng xạ. Dù các thành viên kíp lái được bảo vệ khỏi bụi phóng xạ bởi một hệ thống lọc, họ bắt buộc phải đeo mặt nạ bảo vệ cá nhân và mặc đồ chống chất hoá học và sinh học. Xe tăng vì thế phải đi qua những vùng bị ô nhiễm nhanh chóng và sau đó lại phải được tẩy rửa trước khi hoạt động trở lại. Xe tăng có thể được chế tạo kín nước để vượt qua chướng ngại nước với độ sâu lên đến 1,4m (5,5m với ống thông hơi). Tuy nhiên, có thể mất đến nửa giờ để chuẩn bị một đơn vị tăng trung bình để hoạt động được, và điểm vượt sông cũng cần được chuẩn bị. Sản xuất Liên Xô Việc sản xuất T-54-1 lúc đầu khá chậm, vì chỉ có 3 chiếc được chế tạo vào năm 1946 và 22 chiếc vào năm 1947. 285 xe tăng T-54-1 được chế tạo vào năm 1948 bởi Nhà máy xe tăng Ural số 183 (Uralvagonzavod) của Stalin; sau đó nó đã thay thế hoàn toàn việc sản xuất T-44 tại Uralvagonzavod, và Nhà máy Diesel Kharkiv số 75(KhPZ). Việc sản xuất bị ngừng do chất lượng sản xuất kém và thường xuyên bị hỏng hóc. T-54-2 được đưa vào sản xuất năm 1949 tại nhà máy sản xuất xe tăng Uralvagonzavod số 423 vào cuối năm 1950. Nó thay thế T-34 được sản xuất tại Nhà máy Omsk số 183 vào năm 1950. Năm 1951, hơn 800 chiếc T-54-2 được sản xuất. T-54-2 vẫn được sản xuất cho đến năm 1952. T-54A được sản xuất từ ​​năm 1955 đến năm 1957. T-54B được sản xuất từ ​​năm 1957 đến tháng 4 năm 1959. Năm 1958, Liên Xô bắt đầu sản xuất hàng loạt xe tăng T-55 và các biến thể của nó tại Nhà máy số 75, Nhà máy số 183 và Nhà máy số 174, kéo dài đến năm 1979. Xe tăng chỉ huy T -55K bắt đầu được sản xuất từ ​​năm 1959. Xe tăng phun lửa TO-55 (Ob'yekt 482) được sản xuất cho đến năm 1962. Qua nhiều năm sản xuất hàng loạt, chỉ tại nhà máy số 174, 13.032 xe tăng T-55, T-55K, T-55A và T-55AK đã được sản xuất. Theo báo cáo của các phương tiện truyền thông phương Tây, có tổng cộng hơn 20 nghìn xe T-55 thuộc các biến thể cải tiến khác nhau đã được sản xuất tại Liên Xô. Tổng cộng 35.000 xe tăng T-54-1, T-54-2, T-54 (T-54-3), T-54A, T-54B, T-54AK1, T-54AK2, T-54BK1 và T-54BK2 đã được được sản xuất từ ​​năm 1946 đến 1958 và 27.500 xe tăng T-55, T-55A, T-55K1, T-55K2, T-55K3, T-55AK1, T-55AK2 và T-55AK3 được sản xuất từ ​​năm 1955 đến 1981. Sản xuất tại nước ngoài Ba Lan Ba Lan đã sản xuất 3.000 xe tăng T-54, T-54A, T-54AD và T-54AM từ năm 1954 đến năm 1964 và 7.000 xe tăng T-55 (từ năm 1964 đến năm 1978), T-55L, T-55AD-1 và T-55AD-2 (từ năm 1968 đến năm 1979). Tiệp Khắc Tiệp Khắc đã sản xuất 2.700 xe tăng T-54A, T-54AM, T-54AK, T-54AMK (từ năm 1957 đến năm 1966, trong đó có 1.800 chiếc T-54) và 8.300 xe tăng T-55 và T-55A (từ năm 1964 đến năm 1983; Trong đó có 1700 chiếc T-55, T-55A có lẽ được sản xuất từ ​​năm 1968) được sản xuất theo giấy phép tại nhà máy ZTS ở Martin. Hầu hết trong số chúng được xuất khẩu. Romania 400 chiếc T-55 được sản xuất dưới tên gọi TR-580 và TR-77 từ năm 1970 đến 1977. Trung Quốc Các xe tăng T-54A nhận được đã được sao chép và sản xuất dưới tên gọi Type 59. Hơn 10.000 chiếc được sản xuất từ ​​năm 1959 đến giữa những năm 1980. Triều Tiên 300 xe tăng được lắp ráp từ các bộ xe tăng từ năm 1969 đến năm 1974. Lịch sử chiến đấu T-54/55 là dòng xe tăng được Liên Xô sản xuất nhiều nhất, và đã tham gia vào rất nhiều các cuộc chiến tranh từ Việt Nam đến Trung Đông, Israel - Ả Rập, Ấn Độ - Pakistan, Afghanistan,.. 1955–1975: Chiến tranh Việt Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam) 1956: Cách mạng Hungary năm 1956 (Liên Xô) 1961–1991: Xung đột Iraq - Kurd (Iraq và Peshmerga) 1966–1990: Chiến tranh biên giới Nam Phi (Angola) 1967: Chiến tranh sáu ngày (Ai Cập và Syria) 1968: Khối Warszawa tấn công Tiệp Khắc (Liên Xô và Ba Lan) 1970: Tháng 9 đen (Syria) 1971: Chiến tranh Ấn-Pakistan (Ấn Độ) 1973: Chiến tranh Yom Kippur (Ai Cập và Syria) 1974–1991: Nội chiến Ethiopia (Ethiopia) 1975–1990: Nội chiến Liban (quân chính phủ và dân quân Liban) 1975–1991: Chiến tranh Tây Sahara (Maroc và Polisario) 1975–2002: Nội chiến Angola (Angola và UNITA) 1977–1978: Chiến tranh Ogaden (Ethiopia, Somalia và Cuba) 1978–1987: Xung đột Chadian – Libya (Libya) 1986–1987: Chiến tranh Toyota 1978: Chiến tranh Uganda-Tanzania (Uganda và Libya) 1978–1989: Chiến tranh Campuchia-Việt Nam (Việt Nam) 1979–1988: Chiến tranh Liên Xô-Afghanistan (Afghanistan và Liên Xô) 1979: Chiến tranh Rhodesian Bush (Rhodesia) 1980–1988: Chiến tranh Iran-Iraq (Iran và Iraq) 1982–1983: Chiến tranh Liban (Syria và PLO) 1983-2009: Nội chiến Sri Lanka (quân chính phủ Sri Lanka và LTTE) 1983-2005: Nội chiến Sudan lần thứ hai (quân chính phủ Sudan và SPLA) 1989: Cách mạng Romania (Romania) 1988–1993: Nội chiến Gruzia 1991–1992: Chiến tranh Nam Ossetia (Gruzia) 1992–1993: Chiến tranh Abkhazia (Gruzia và Abkhazia) 1990–1991: Chiến tranh vùng Vịnh (Iraq) 1991 – nay: Nội chiến Somali 1991–1995: Chiến tranh Nam Tư (Nam Tư) 1991: Chiến tranh 10 ngày (Nam Tư) 1991–1995: Chiến tranh giành độc lập Croatia (Nam Tư, Croatia và Cộng hòa Krajina của Serbia) 1991–1995: Chiến tranh Bosnia (Bosnia và Herzegovina và Cộng hòa Srpska) 1994: Nội chiến Yemen 1997: Xung đột Campuchia (quân chính phủ Campuchia) 1998–1999: Chiến tranh Kosovo (Quân đội Nam Tư) 1998–2000: Chiến tranh Eritrean – Ethiopia (Eritrea và Ethiopia) 1998: Nội chiến Guinea-Bissau 2001 – 2021: Chiến tranh Afghanistan (2001 – 2021) (liên minh phương Bắc và Afghanistan) 2003 – nay: Chiến tranh Darfur (quân chính phủ Sudan) 2003–2011: Chiến tranh Iraq 2003: Xâm lược Iraq (Iraq) 2005-2010: Nội chiến Chadian (Lực lượng chính phủ Chadian) 2008: Chiến tranh Nga-Gruzia (Abkhazia và Nam Ossetia) 2011: Nội chiến Libya (Chính phủ Gaddafi) 2011 – nay: Nội chiến Syria (quân chính phủ Syria, ISIS và phiến quân) 2011 – nay: Xung đột Sudan ở Nam Kordofan và Nile Xanh (lực lượng Chính phủ Sudan) 2012-2013: Cuộc nổi dậy M23 (Cộng hòa Dân chủ Congo và Phong trào 23 tháng 3) 2014-2017: Chiến tranh Iraq (Quân chính phủ Iraq, Peshmerga và ISIS) 2014 – nay: Nội chiến Libya (Quân đội quốc gia Libya và Chính phủ hiệp định quốc gia) 2014 – nay: Nội chiến Yemen (Lực lượng chính phủ Hadi và Houthis) 2020: Xung đột Nagorno-Karabakh (Lục quân Azerbaijan) 2020-nay: Chiến tranh Tigray (quân chính phủ Ethiopia) 2021-nay: Chiến Dịch Quân Sự Đặc Biệt (Nga-Ukraine) Trung Đông Khi cuộc chiến tranh Israel - Ả rập xảy ra năm 1967, khối Ả Rập (trừ quân Jordan) được trang bị chủ yếu là xe tăng T-34 (cũ) và T-54/55 của Liên Xô, còn Israel dùng xe tăng Centurion của Anh và M4 Sherman (cũ) của Mỹ. Lực lượng xung kích chính của các lữ đoàn thiết giáp Israel là 385 xe tăng Centurion (đã được nâng cấp với pháo 105mm) và 250 xe M48 Patton (chủ yếu là pháo 90mm). Do tinh thần thấp và chiến thuật kém, huấn luyện sơ sài, lính tăng Ai Cập đã không phát huy được những ưu điểm của T-54/55 trước đối thủ. Khi Tư lệnh quân đội Ai Cập – tướng Amer ra lệnh rút khỏi bán đảo Sinai, lính tăng Ai Cập đã nhanh chóng mất hàng ngũ, họ vứt bỏ hàng loạt các vũ khí hạng nặng còn nguyên vẹn để rút chạy một cách vô tổ chức. Ai Cập mất gần 820 xe tăng (291 T-54, 82 T-55, 151 T-34/85, 72 IS-3M, 29 PT-76, 50 M4 Sherman), một số lượng lớn vẫn còn nguyên vẹn và bị Israel thu giữ. Còn về phía mình, Israel mất trên bán đảo Sinai 120 xe tăng – ít hơn nhiều so với số xe tăng chiến lợi phẩm thu được. Tuy nhiên, tại mặt trận Syria, lực lượng tăng thiết giáp của Quân đội Syria tỏ ra có chiến thuật tốt hơn nhiều so với quân Ai Cập. Họ chỉ mất tổng cộng 73 chiếc xe tăng bao gồm T-34-85, T-54 và Panzer IV, trong khi đó phía Israel bị phá hủy tới 180 chiếc xe tăng các loại. Trong thập niên 1960, các xe tăng T-55 thể hiện khả năng tác chiến tốt hơn xe tăng phương Tây vào ban đêm. Các kíp lái xe tăng Centurion và M48 Patton chỉ có thể dựa vào đạn vạch sáng và tên lửa, đèn pha và đèn chiếu, trong khi T-54/55 có kính nhìn đêm sử dụng đèn hồng ngoại. Lúc đầu, lính tăng Israel đã bật đèn pha để tham chiến, nhưng làm như vậy sẽ lộ vị trí xe tăng. Còn đối với đạn vạch sáng, các trưởng xe Israel không kịp quan sát thấy đối phương để chỉ thị mục tiêu cho pháo thủ. Xét về tổng thể, các xe tăng T-54/55 đáp ứng mức độ hiện đại đối với xe tăng phương Tây ở chiến trường Trung Đông. Mức tổn thất cao chủ yếu là do chiến thuật nghèo nàn, việc huấn luyện sơ sài và tinh thần kém của các kíp lái Ả Rập. Ví dụ như quân thiết giáp Jordan được trang bị phần lớn xe tăng phương Tây giống hệt như quân Israel (xe tăng Centurion và M48 Patton), nhưng họ vẫn thua nặng khi đấu với Israel. Việc này được công nhận bởi chính người Israel – một sỹ quan cao cấp trong quân đội Israel đã từ chối so sánh các xe tăng Mỹ với T-54 và T-62 khi nhấn mạnh rằng quân Ả Rập "đơn giản là thể hiện không đúng lúc và đúng chỗ, gây ra tổn thất cao về xe tăng". Quân đội Israel đã sử dụng hàng trăm xe tăng T-54/55 chiến lợi phẩm với tên gọi Ti-67, Tiran-4Sh và Tiran-5Sh. Những xe này được Israel thay khẩu súng máy DShK trên nóc xe bằng khẩu M2 Browning của Mỹ, thay pháo 100mm bằng pháo 105mm để bắn được đạn của khối NATO. Trong Nội chiến Jordan năm 1970, các xe tăng T-54/55 của Syria đã gây ra những tổn thất nặng nề cho các xe tăng Centurion mà Jordan mua từ Anh quốc. Trong một trường hợp, một đội T-55 đã ngăn chặn đà tiến của 1 đoàn lớn xe tăng Jordan, 10 chiếc T-55 của Syria đã bị tổn thất đổi lấy 19 xe tăng Centurion của Jordan. Trong toàn cuộc chiến, khoảng 90 chiếc Centurion của Jordan đã bị phá hủy, chủ yếu là bởi T-54/55 của Syria. Trong Chiến tranh Lebanon năm 1982, các xe tăng T-55 của Syria đã chiến đấu với những chiếc Centurion, M48 Patton và cả Merkava 1 của Israel. Trong trận Sultan Yacoub, một đội hình hỗn hợp T-55 và T-62 đã phục kích ngăn chặn đà tiến của đơn vị lớn xe tăng Israel. 10 chiếc xe tăng, 3 xe thiết giáp của Israel bị phá hủy, phía Syria chỉ bị thiệt hại nhẹ. Quân đội Syria đã thể hiện kỹ năng chiến thuật tốt hơn nhiều so với cuộc chiến năm 1967, và cuối cùng đã ngăn chặn được đà tiến của 5 sư đoàn Israel. Quân Israel thất bại trong việc chiếm thung lũng Beka'a, Syria vẫn giữ được đường cao tốc Beirut-Damascus sau khi chiến đấu với một đối thủ vượt trội cả về số lượng và chất lượng. Chiến tranh Iran-Iraq Chiếc xe tăng này cũng được Iraq sử dụng nhiều trong Chiến tranh Iran-Iraq 1980-1988, và thu được khá nhiều thành công. Vào ngày 15 tháng 10 năm 1980, một tiểu đoàn thiết giáp của Iraq gồm các tăng T-55 và T-62 đã phục kích một đoàn xe lớn của Iran, được hộ tống bởi một tiểu đoàn xe tăng Chieftain, đến từ thành phố Ahwaz của Iran. Sau trận chiến ngắn ngủi nhưng mãnh liệt, quân Iraq phá huỷ 20 xe tăng Chieftain và toàn bộ đoàn xe của Iran T-54/55 cũng đã tham gia vào trận đánh xe tăng lớn nhất của cuộc chiến vào đầu tháng 1 năm 1981, chiến dịch Nasr. Iran đã mất khoảng 214 xe tăng Chieftain và xe tăng M60A1, cùng khoảng 100 xe thiết giáp trong trận chiến. Đổi lại, Iraq chỉ mất 45 tăng T-55 và T-62 cùng khoảng 50 xe thiết giáp. Ấn Độ Những chiếc T-55 đã phục vụ cho quân đội Ấn Độ từ thập niên 1960. Nó là một trong những chiếc xe tăng đầu tiên của Nga được sử dụng bởi quân đội Ấn Độ và đóng một vai trò quan trọng trong cuộc chiến tranh Ấn Độ - Pakistan năm 1971 và được triển khai tại Punjab. Trong trận Basantar, những chiếc T-55 (phối hợp cùng một vài chiếc Centurion) của Ấn Độ đã đánh bại lực lượng xe tăng M48 Patton của Pakistan, 10 chiếc xe tăng của Ấn Độ bị phá hủy, trong khi Pakistan bị tổn thất 46 xe tăng. Trong 1 tình huống tác chiến tại trận này, 3 chiếc xe tăng T-55 của Ấn Độ đã giao chiến với 14 xe tăng M48 Patton của Pakistan. Phía Ấn Độ đã bắn hạ 10 chiếc xe tăng địch, trong đó chiếc T-55 của Trung úy Arun Khetarpal đã bắn cháy 7 chiếc. Chiếc T-55 của Trung úy Arun Khetarpal sau đó bị trúng đạn và Khetarpal tử trận, sau đó anh được truy tặng danh hiệu cao quý nhất của quân đội Ấn Độ. T-55 tiếp tục phục vụ quân đội Ấn Độ cho tới năm 2011, sau đó nó được thay thế bởi T-72 và T-90 hiện đại hơn. Việt Nam T-54 là xe tăng chiến đấu chủ lực của lực lượng tăng thiết giáp Việt Nam trong Chiến tranh Việt Nam. Ngoài ra, Việt Nam còn sử dụng hai loại xe tăng khác là T-34 và PT-76, tuy nhiên hai loại xe tăng này chỉ đóng vai trò phụ trợ, lực lượng tác chiến chính vẫn là những chiếc T-54 và Type 59 (phiên bản T-54 do Trung Quốc sản xuất). Trong suốt chiến tranh, Việt Nam đã được Liên Xô và Trung Quốc viện trợ tổng cộng khoảng 1.000 xe T-54 và Type 59, trong đó riêng Liên Xô viện trợ 687 xe tăng gồm khoảng 400 chiếc T-54 (tuy nhiên trong giai đoạn này, Liên Xô không viện trợ loại xe mới hơn là T-55 cho Việt Nam). Trong năm 1960, một số đoàn học viên được gửi đi Liên Xô để được đào tạo nâng cao và học về loại T-54. Ngày 29 tháng 2 năm 1962, Việt Nam tiếp nhận đơn vị tăng thiết giáp đầu tiên, bao gồm 19 xe PT-76, 11 xe T-54, 1 xe MTU-10, 4 xe lai dắt T-34 do Liên Xô viện trợ. Cuối năm 1963, Việt Nam tiếp nhận thêm 72 xe T-34, 11 xe T-54, 31 xe PT-76. Lúc này, tổng số xe tăng thiết giáp và các xe hỗ trợ của Việt Nam đã có là 164 chiếc các loại. Trong Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào năm 1971, đây là lần đầu tiên xe tăng T-54 tham chiến tại chiến trường Đông Dương. Bộ đội Tăng thiết giáp với trang bị 88 xe tăng (bao gồm 33 xe tăng T-54) đã cùng các đơn vị bạn đập tan cuộc tấn công của địch, góp phần bảo vệ con đường vận chuyển chiến lược Trường Sơn. Trong các chiến dịch năm 1972, Việt Nam huy động 322 xe tăng, xe thiết giáp các loại (trong đó hơn một nửa là T-54), lực lượng tăng thiết giáp Việt Nam đã tham gia nhiều chiến dịch, đánh 82 trận, vận dụng nhiều hình thức chiến thuật, phương pháp tác chiến và giành nhiều thành tích. Ngày 24/4/1972, trong chiến dịch Bắc Tây Nguyên, kíp xe tăng T-54 số hiệu 377 (gồm Thiếu úy Nguyễn Nhân Triển - Trung đội trưởng - trưởng xe, Hạ sĩ Hoàng Văn Ái - pháo thủ, Hạ sĩ Cao Trần Vịnh - lái xe, Hạ sĩ Nguyễn Đắc Lượng - pháo thủ) đã cùng với trung đoàn 1 bộ binh thuộc sư đoàn 2 tấn công căn cứ Đăk Tô 2. Xe 377 dẫn đầu hai xe 354 và 369 lao thẳng vào cứ điểm, nhưng vì gặp chướng ngại vật nên hai xe kia bị tụt lại phía sau. Quân địch cho xuất kích 10 chiếc tăng M41 chia làm 2 mũi bao vây. Chiếc xe tăng 377 đã một mình đối chọi với 10 chiếc xe tăng M41 của địch, tiêu diệt 7 xe tăng M41 trước khi bị trúng đạn và bốc cháy. Cả bốn người đều hy sinh, về sau kíp xe đã được trao tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân. Trong chiến dịch Tây Nguyên năm 1975, chiến sỹ Đoàn Sinh Hưởng là Đại đội trưởng Đại đội 9, Trung đoàn xe tăng 273, kiêm chỉ huy xe tăng T-54 số hiệu 980 đánh trận nổi tiếng trên Đường số 14, góp phần giải phóng Buôn Ma Thuột, tiến quân xuống giải phóng tiếp Phú Yên. Trong chiến dịch, xe tăng của ông đã tiêu diệt hàng chục bộ binh Việt Nam Cộng hòa, bắn cháy 2 xe bọc thép M113, 3 xe tăng, 15 xe vận tải quân sự, đè bẹp 1 trận địa pháo 105mm gồm 4 khẩu, bắn cháy 1 tàu chiến cỡ nhỏ và 1 xuồng chiến đấu. Sau khi giải phóng Phú Yên, Đại đội 9 đã hành quân vào Sài Gòn. Đến Cầu Bông, cửa ngõ Tây Bắc Sài Gòn, 4 xe tăng T-54 của Đại đội 9 giao chiến với 1 đoàn gồm 24 xe tăng - xe thiết giáp của địch. Đại đội 9 bắn cháy 12 xe địch, hỗ trợ bộ binh thu giữ 12 xe còn lại, rồi tiếp tục tiến đánh trại Quang Trung tại ngã tư Bảy Hiền; đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Tháng 9 năm 1975, Đoàn Sinh Hưởng được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Bộ Tổng Tư lệnh đã huy động 398 xe tăng, thiết giáp (gồm nhiều xe chiến lợi phẩm) tiến vào chiến đấu dẫn đầu đội hình năm cánh quân giải phóng Sài Gòn - Gia Định. Một trong những trận đấu tăng cuối cùng trong cuộc chiến diễn ra sáng sớm ngày 30/4/1975 khi Đại đội Xe tăng 1, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn xe tăng 273 trang bị xe tăng T-54 cùng với bộ binh tiến công từ khu vực Ngã ba Bà Quẹo vào sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa. 2 chiếc M48 Patton của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã phục kích tại ngã tư, bắn trúng đầu chiếc xe tăng T-54 số hiệu 985 làm hỏng khẩu pháo. Không thấy pháo xe mình bắn (sau này mới biết pháo đã bị hỏng), trưởng xe 985 ra lệnh tăng tốc vọt lên, húc thẳng vào chiếc M48. Hoảng sợ, tổ lái của chiếc M48 bỏ xe chạy ra ngoài, chiếc M48 còn lại cũng chạy mất. Chiếc Type 59 số hiệu 390 là chiếc xe tăng đầu tiên húc đổ cổng Dinh Độc Lập vào 10h45' ngày 30/4/1975. Đại đội trưởng Đại đội xe tăng 4 Bùi Quang Thận (kiêm chỉ huy xe tăng T-54 số hiệu 843) đã nhảy xuống xe, chạy lên cắm lá cờ chiến thắng trên nóc Dinh Độc Lập. Tính chung từ năm 1968 cho đến hết năm 1975, các đơn vị tăng thiết giáp Việt Nam đã tham gia chiến đấu trong 14 chiến dịch, 211 trận đánh, tiêu diệt 2 vạn lính bộ binh, phá hủy gần 2.000 xe tăng - xe thiết giáp và 870 xe quân sự các loại; đánh sập 3.500 lô cốt, ụ súng và trận địa pháo, bắn chìm hoặc bắn cháy 18 tàu, xuồng chiến đấu; bắn rơi 35 máy bay các loại, đồng thời hỗ trợ các đơn vị bạn thu giữ 1.672 xe tăng - xe thiết giáp, 250 súng cối và nhiều trang thiết bị quân sự của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa. Trong thành tích chung này, chiếm tỷ lệ lớn nhất là thành tích của T-54. Đổi lại, khoảng 250 xe T-54/Type 59 của Việt Nam đã bị phá hủy trong suốt chiến tranh (gồm vài xe bị phá hủy trong năm 1971, 136 xe bị phá hủy trong năm 1972, khoảng hơn 100 xe bị phá hủy trong các năm 1973-1975). Các biến thể Dòng xe tăng T-54/55 được chế tạo với số lượng lớn hơn bất kỳ loại xe tăng nào khác trên thế giới. Sáu kiểu chính đã được sử dụng rộng rãi tại các nước thuộc khối Hiệp ước Warsaw và nhiều nước khác. Các mẫu T-54/55 từng được chế tạo tại Tiệp Khắc, Ba Lan cũng như ở Trung Quốc, nơi nó được gọi là Type 59. Hơn 12 nước đã chế tạo các biến thể của T-54/55 với khả năng bảo vệ và khả năng tấn công được nâng cấp. Qua 70 năm, hàng chục quốc gia đã nâng cấp T-54/55 với các trang thiết bị khác nhau (thay pháo chính, trang bị thêm giáp hộp hoặc giáp phản ứng nổ, hệ thống ngắm bắn hiện đại hơn, thay động cơ...), dẫn tới việc có hàng trăm biến thể T-54/55 tồn tại trên khắp thế giới vào năm 2020, rất khó có thể liệt kê đầy đủ. Dưới đây chỉ nêu ra một số biến thể T-54/55 phổ biến: Phiên bản tiêu chuẩn T-54 nhỏ|T-54 tại bảo tàng Parola Tank, Phần Lan thế=|nhỏ|T-54A của Ba Lan tại bảo tàng tăng thiết giáp ở, Thụy Sỹ Có nhiều khác biệt giữa xe T-54 thời kỳ đầu và thời kỳ sau, một số chiếc có giáp rộng hơn và tháp pháo bị cắt ngắn ở bên cạnh. Thỉnh thoảng chúng được coi là T-54 (1949), T-54 (1951) và T-54 (1953). T-54-1 (Ob'yekt 137) hay T-54 Model 1946 (sản xuất 1946 - 1948): Với tháp pháo bo cong nhiều góc và phần giáp pháo chính được mở rộng, hình dáng tương đồng với T-44, động cơ V-54 mới, pháo chính D-10T 100mm không có hệ thống ổn định nòng và hai súng máy SG-43 ở hai bên thân trước. Chỉ có một số lượng nhỏ được chế tạo cho các cuộc thử nghiệm nên đây được xem là một thất bại, kết quả là việc sản xuất hàng loạt T-54 bị đình trệ cho đến khi được thực hiện các sửa đổi bổ sung cải tiến. T-54-2 (Ob'yekt 137R) hay T-54 Model 1949 (sản xuất 1949 - 1952): Nó kết hợp một số cải tiến cho tháp pháo, cũng như xích xe rộng hơn (580mm) và hộp số được hiện đại hóa. Tháp pháo có hình vòm với các mặt phẳng 2 bên (lấy cảm hứng từ xe tăng hạng nặng IS-3), tương tự như những chiếc T-54 sau này nhưng có phần nhô ra đặc biệt ở phía sau. Súng máy ở thân xe đã thay thế bởi thanh chắn bùn. Được trang bị hệ thống giáp tăng cường bảo vệ xe ZET-1. Nó có cấu trúc dạng lưới dù được gắn ở mặt trước xe trên nòng pháo chính và những tấm giáp dạng vảy rắn ở 2 bên hông xe. T-54-3 (Ob'yekt 137Sh) hay T-54 Model 1951: Được sản xuất 1952 - 1954, ở Ba Lan 1956 - 1964. Sử dụng tháp pháo hình trứng và trang bị kính viễn vọng TSh-2-22 thay thế cho TSh-20. Ngoài ra, tháp pháo T-54 thiếu ống lặn. Xe tăng cũng có thể sử dụng hệ thống xả khói để tạo ra màn hình khói bằng cách trích bơm nhiên liệu diesel vào hệ thống xả. Tính năng này được sử dụng trong toàn bộ dòng T-54/T-55 và được sử dụng trong dòng xe tăng T-62. T-54A (Ob'yekt 137G): Được sản xuất 1955 - 1957, ở Ba Lan 1956 - 1964, ở Tiệp Khắc 1957 - 1966, và ở Trung Quốc là Type 59. Bổ sung hệ thống ổn định nòng một trục STP-1 "Gorizont" cho pháo D-10T 100 mm và trang bị vũ khí mới này đã được chỉ định tên gọi là D-10TG. Ngoài ra, xe tăng cũng được bổ sung ống thở OPVT, kính viễn vọng cải tiến TSh-2A-22, kính tiềm vọng hồng ngoại cho lái xe TVN-1 và đèn pha hồng ngoại, radio R-113 mới, bộ lọc khí đa lớp mới và bộ điều khiển tản nhiệt để cải thiện hiệu suất cho động cơ, một máy bơm dầu bằng điện, bình chữa cháy tự động và bình nhiên liệu phụ. T-54B (Ob'yekt 137G2): Được sản xuất 1957 - 1958. Nó được trang bị pháo chính D-10T2S 100 mm với hệ thống ổn định 2 trục STP-2 "Tsyklon". Từ năm 1959, bổ sung thêm các thiết bị hồng ngoại cho chiến đấu ban đêm: đèn tìm kiếm hồng ngoại L-2 "Luna", kính ngắm hồng ngoại ngày/đêm cho pháo thủ IRN-1-22-11, đèn hồng ngoại cho chỉ huy IR-3. Định danh NATO cho xe là T-54 (M). T-54K1, T-54K2, T-54AK1, T-54AK2, T-54BK1, T-54BK2, T-54MK1, T-54MK2: là biến thể xe tăng chỉ huy tương ứng với các phiên bản sản xuất tiêu chuẩn tương đương, với các thiết bị liên lạc bổ sung thêm, đổi lại số lượng đạn mang theo giảm đi 5 viên. Phiên bản K1 có radio R-113 (hoặc R-123) thứ hai dành cho chỉ huy đại đội, phiên bản K2 có cột ăng ten cao 10 m dành cho tiểu đoàn trưởng và trung đoàn trưởng. Ngoài ra, chúng cũng được trang bị hệ thống dẫn đường TNA-2. T-55 nhỏ|T-55 tại đồi Poklonnaya, Nga nhỏ|Bản phác thảo T-55A với hệ thống đo khoảng cách bằng la-de trên pháo chính Là T-54 với tháp pháo mới và nhiều cải tiến, các kiểu được chế tạo về sau này có một súng máy hạng nặng DShK để phòng không. Các cải tiến từ T-54 bao gồm một động cơ diesel làm mát bằng nước V12 và tầm hoạt động rộng hơn (500 km thay vì 400 km). Tầm hoạt động có thể tăng lên đến 715 km với hai bình xăng phụ 200 lít ở hai bên xe. T-55 có tháp pháo hoàn toàn khác so với T-54, sự khác biệt dễ nhận thấy nhất là T-55 không có quạt gió nóc và thay vào đó là hai thanh nóc hình chữ D. Các xe T-55 đầu tiên không có súng máy hạng nặng DShK, cửa sập của nạp đạn viên hơi nhô lên. T-55 (Ob'yekt 155): Được sản xuất 1958 - 1963, ở Ba Lan 1958 - 1964, ở Tiệp Khắc từ năm 1958 - 1983. Trang bị một tháp pháo mới, bổ sung hệ thống bảo vệ trước vụ nổ hạt nhân PAZ và hệ thống áp nén phòng chống sinh hóa học NBC, máy dò tia gamma, động cơ V-55 cải tiến với công suất 580 mã lực, bộ lọc dầu bên trong, máy nén AK-150S cho phép khởi động bằng khí nén của động cơ thay cho khởi động bằng kích điện, bình nhiên liệu tích hợp mới bên trong có dung tích 300 lít nằm ở phía trước thân xe (tăng dung tích tổng thể của bình nhiên liệu xe lên mức 680 lít), số lượng đạn tăng từ 34 lên 43 viên (trong đó 18 viên được lưu trữ trong "thùng chứa ẩm", nằm bên trong vị trí thùng nhiên liệu thân xe), hệ thống chống cháy "Rosa" và hệ thống tạo màn khói TDA. Khoang động cơ được trang bị hệ thống sưởi. Để bù đắp cho sự gia tăng trọng lượng xe gây ra, lớp giáp thân sau được làm mỏng. Súng máy hạng nặng DShK của nạp đạn viên bị loại bỏ. Bánh xe hình "sao biển" thay thế cho kiểu bánh xe "tơ nhện". Ngoài ra, một ống thở có thể được lắp đặt trên T-55 cho phép xe tăng lội qua độ sâu 5,5 m với tốc độ 2 km/h (nếu không cần lắp đặt thì T-55 có thể vượt qua độ sâu 1,4 m). Thiết bị này mất khoảng 30 phút chuẩn bị, nhưng có thể tháo liền ngay lập tức sau khi rời khỏi mặt nước. T-55A (Ob'yekt 155A): Được sản xuất 1963 - 1981, ở Ba Lan 1964 - 1979. T-55A được phát triển chủ yếu để tích hợp với lớp lót chống bức xạ mới và hệ thống lọc hóa học PAZ/FVU. Một trong những bổ sung chính là việc sử dụng tấm chì dẻo để chống bức xạ. Có thể nhận ra được biến thể này rõ ở bên ngoài do sử dụng cửa sập của lái xe được mở rộng lớn hơn và cũng như cửa sập của chỉ huy và nạp đạn viên do việc tích hợp loại vật liệu mới. Cải thiện khả năng tầm quan sát khi tích hợp hệ thống chống bức xạ (dẫn đến các tháp pháo nhô ra trông rõ ràng) và hệ thống phòng chống sinh hóa học NBC. Súng máy SG-43 Goryunov được thay thế bằng súng máy PK. Súng máy thân xe bị loại bỏ, nhường chỗ cho thêm sáu viên đạn pháo 100mm. Từ năm 1970, xe tăng T-55A bắt đầu bổ sung thêm với súng máy hạng nặng DShK trên tháp pháo nhằm phòng không. T-55K1 (Ob'yekt 155K1), T-55K2 (Ob'yekt 155K2), T-55K3 (Ob'yekt 155K3), T-55AK1 (Ob'yekt 155AK1), T-55AK2 (Ob'yekt 155AK2), T-55AK3 (Ob'yekt 155AK3), T-55MK1 (Ob'yekt 155MK1), T-55MK2 (Ob'yekt 155MK2), T-55MK3 (Ob'yekt 155MK3): Xe tăng chỉ huy, được trang bị thêm các bộ radio. Các phiên bản phụ là các mẫu K1 và K2 với thêm hai radio R-123 (hoặc R-123M) được sử dụng ở cấp đại đội và tiểu đoàn. Xe tăng mang ít hơn 5 viên đạn pháo chính so với xe tăng tiêu chuẩn. Chỉ huy trung đoàn K3 được trang bị radio R-130M, R-123M, cột ăng ten cao 10 mét và máy phát AB-1-P/30, đổi lại, mang ít hơn 12 viên đạn pháo chính so với xe tăng tiêu chuẩn. Phiên bản hiện đại hóa T-54 T-54-2 được trang bị hệ thống phòng vệ ZET-1 cùng với cấu trúc thép dạng lưới bảo vệ quanh tháp pháo xe và giáp hông xích của xe. T-54M (Ob'yekt 137M) (giữa thập niên 60) - Chương trình nâng cấp T-54 lên chuẩn T-55. T-54M (Ob'yekt 137M) (1977) - Các nâng cấp bổ sung, bao gồm ống lặn OPVT và hệ thống đo khoảng cách bằng laser KTD-1. T-54AM (Ob'yekt 137M) (giữa thập niên 60) - Chương trình nâng cấp tiếp theo, bao gồm tăng lượng đạn mang theo, radio mới, động cơ V-55 mới. Một số xe được trang bị xích RMSh và ổ phanh đĩa mới được phát triển trong chương trình xe tăng T-72 vào cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980. Các chương trình tương tự đã được thực hiện ở các quốc gia khác. T-55 Những chiếc T-55 sản xuất đầu tiên được trang bị hệ thống kính quan sát TSh-2B-32P. Bắt đầu từ năm 1970, những chiếc T-55 sản xuất tại Uralwagonzavod được trang bị súng máy phòng không hạng nặng DShK hoặc KPV. Những chiếc xe tăng này được biết với tên gọi là Model 1970, hoặc đôi khi là T-55AM. Hệ thống đo khoảng cách bằng laser KTD-1 hoặc KTD-2 và bộ radio R-123 hoặc R-123M được trang bị cho các xe tăng cũ từ năm 1974 (Model 1974). Đồng thời những nỗ lực đã được thực hiện để hiện đại hóa và kéo dài tuổi thọ của xe. T-55M (Ob'yekt 155M)/T-55AM (Ob'yekt 155AM): Biến thể hiện đại hóa với hệ thống điều khiển hỏa lực "Volna" mới, tên lửa chống tăng bắn qua nòng pháo 9M117 Bastion với hệ thống quan sát/dẫn đường BOM 1K13 mới, cải tiến hệ thống ổn định nòng "Tsiklon-M1" và hệ thống quan sát TShSM-32PV. Cải tiến động cơ V-55U, hệ thống ổ phanh đĩa và xích RMSh, tăng lớp giáp, bổ sung hệ thống chống mìn, chống napalm và cải thiện khả năng chống bức xạ và bộ radio R-173/173P mới. Sự khác biệt dễ nhận biết bao gồm hệ thống đo khoảng cách bằng laser được đặt trong hộp bọc thép nằm trên pháo chính, váy giáp 2 bên thân xe, hệ thống phóng lựu khói 81mm "Tucha", giáp BDD ở mặt trước tháp pháo. T-55M-1 (Ob'yekt 155M-1)/T-55AM-1 (Ob'yekt 155AM-1): Hậu tố "-1" được đặt cho biến thể này là do được trang bị động cơ V-46-5M 691 mã lực, là phiên bản rút gọn từ động cơ V-46 780 mã lực của T-72. T-55AMD "Drozd" (Ob'yekt 155AD): T-55A được trang bị hệ thống phòng thủ chủ động Drozd (KAZ - kompleks aktivnoj zashchity). Hải quân đánh bộ Liên Xô đã tiết kiệm ngân sách bằng cách lắp đặt "Drozd" trên một số lượng nhỏ xe tăng thay vì lắp thêm giáp BDD hoặc mua mới T-72. Khoảng 250 chiếc được cất giữ trong kho bí mật, nhưng sau đó chuyển đôi sang sử dụng giáp phản ứng nổ. T-55AD cũng được trang bị bộ radio R-173, kính ngắm TShSM-32PV, bộ ổn định "Tsiklon-M1",... của T-55AM. T-55AD-1 (Ob'yekt 155AD-1): Phiên bản T-55AD được trang bị động cơ V-46-5M 691 mã lực. T-55MV (Ob'yekt 155MV)/T-55AMV (Ob'yekt 155AMV) - "V" viết tắt cho vzryvnoj ("nổ"), mang theo giáp phản ứng nổ "Kontakt-1" (ERA) thay vì giáp BDD. Các khối ERA thường được gắn ở mặt trước tháp pháo, mặt trước thân xe và các mặt bên thân xe, giúp xe có khả năng chịu được các loại đạn nổ lõm đời cũ. Pháo chính 100mm bổ sung thêm khả năng phóng tên lửa chống tăng 9M117 Bastion qua nòng, tăng khả năng đánh trúng mục tiêu ở cự ly 4.000m với khả năng xuyên giáp dày 550mm. Xe được trang bị hệ thống kiểm soát bắn Volna với máy tính đường đạn kỹ thuật số. Kính ngắm 1K13 kiểu cũ được thay thế bằng camera quang ảnh nhiệt có phạm vi quan sát đến 8 km và độ phân giải cao, hình ảnh được hiển thị trên một màn hình tinh thể lỏng thay vì nhìn qua kính ngắm như trước đây. T-55MV là phiên bản hiện đại hóa của T-55M và T-55AMV là phiên bản hiện đại hóa của T-55AM. Các biến thể T-55MV-1/T-55AMV-1 về sau được trang bị động cơ V-46-5M 691 mã lực. Biến thể này được Hải quân đánh bộ Liên Xô áp dụng trước tiên và bởi Quân đội Nga sau khi Liên Xô sụp đổ. Syria là quốc gia nước ngoài đầu tiên đặt hàng nâng cấp 200 chiếc T-55 của họ lên chuẩn T-55MV. T-55MV1 (Ob'yekt 155MV-1) / T-55AMV-1 (Ob'yekt 155AMV-1) – Được trang bị động cơ loại V-46-5M với công suất 691 mã lực (515 kW). T-55M5 (Ob'yekt 155M5) – Gói nâng cấp hiện đại hóa được trang bị giáp phản ứng nổ "Kontakt-5" (ERA) quanh tháp pháo, bổ sung thêm giáp mặt trước thân xe, thân xe được kéo dài, hệ thống điều khiển hỏa lực mới với bộ ổn định hướng TVK-3 và kính ngắm TKN-1SM cho pháo thủ và chỉ huy, động cơ V-55U (hoặc V-46-5M) và hệ thống ổn định pháo chính. Giữ nguyên pháo chính 100 mm D-10T2S. T-55M6 (Ob'yekt 155M6) – Bản nâng cấp toàn diện kéo dài thân xe và bổ sung thêm 1 bánh chịu lực nâng tổng số lên 6 bánh chịu lực mỗi bên xe, động cơ V-46-5M diesel với công suất 690 mã lực và hệ thống nạp đạn tự động cho pháo 125mm 2A46M. Hệ thống phòng vệ được nâng cấp lên mức độ bảo vệ ngang T-80U. Gói nâng cấp còn đựoc tùy chọn trang bị hệ thống điều khiển hỏa lực 1A40-1 có khả năng phóng tên lửa 9K120 "Svir" hoặc với hệ thống điều khiển hỏa lực 1A42 có khả năng phóng tên lửa 9K119 "Refleks". Phương tiện dựa trên T-54/55 Pháo phòng không tự hành ZSU-57-2 ( Ob'yekt 500 ) - Pháo phòng không tự hành (SPAAG); những thay đổi đáng kể so với T-54 như giáp mỏng hơn nhiều và ít bánh xe hơn, với tháp pháo mới được trang bị hai khẩu pháo 57 mm. Xe phục hồi bọc thép BTS-1 (Bronetankoviy Tyagach Sredniy- Máy kéo bọc thép hạng trung) - T-54A chuyển đổi thành ARV được trang bị giỏ xếp. BTS-1M - Cải tiến hoặc tái sản xuất BTS-1. BTS-2 (Ob'yekt 9)(Bronetankoviy Tyagach Sredniy- Máy kéo bọc thép hạng trung) - BTS-1 được trang bị một cần trục và một cần trục gấp nhỏ có tải trọng 3 tấn. Nó được phát triển trên thân xe T-54 vào năm 1951; Sản xuất hàng loạt bắt đầu vào năm 1955. Ob'yekt 9 nguyên mẫu có vòm chỉ huy được trang bị súng máy hạng nặng DShK1938/46, nhưng mẫu sản xuất có cửa sập chỉ huy hình vuông, mở ra bên phải. Xe có trọng lượng chiến đấu là 32 tấn. Chỉ có một số lượng rất nhỏ còn lại đang phục vụ.. BTS-4 (Bronetankoviy Tyagach Sredniy- Máy kéo bọc thép hạng trung) - ARV tương tự như BTS-2 nhưng được trang bị ống thở. Ở phương Tây, nó được biết đến với cái tên T-54T. Có nhiều mẫu khác nhau, dựa trên T-44, T-54, T-55 và T-62. BTS-3 (Bronetankoviy TyagachSredniy- Máy kéo bọc thép hạng trung) - JVBT-55A phục vụ trong Quân đội Liên Xô. BTS-4B - T-54-1 và T-54-2 được chuyển đổi thành xe phục hồi bọc thép trang bị lưỡi ủi. BTS-4BM - Phiên bản thử nghiệm của BTS-4B với khả năng tời phía trước xe. Cầu công binh cơ giới MT-55 hoặc MTU-55 ( Tankoviy Mostoukladchik ) - Tên gọi của Liên Xô dành cho xe tăng tầng cầu MT-55A của Tiệp Khắc được trang bị cầu kiểu kéo. MTU-12 (Tankoviy Mostoukladchik) - Xe tăng dạng cầu được trang bị một nhịp cầu dài 12 m với tải trọng 50 tấn. Nó đi vào hoạt động năm 1955; ngày nay chỉ còn một số lượng rất nhỏ còn hoạt động. Nó có trọng lượng chiến đấu 34 tấn. MTU-20 (Ob'yekt 602) (Tankoviy Mostoukladchik) - T-54 chuyển đổi thành xe tăng một lớp cầu. Nó có cấu trúc thượng tầng đường đôi gắn trên khung gầm đã được sửa đổi. Mỗi mặt đường được tạo thành từ một dầm nhôm dạng hộp với một đoạn đường gấp được gắn ở hai đầu để tiết kiệm diện tích trong khi cầu ở vị trí di chuyển. Chiếc xe ở vị trí cầu đang đi có chiều dài 11,6 m. Khi được thiết lập, cây cầu dài 20 m. Đây là mức tăng khoảng 62% so với MTU-1 cũ hơn. Cầu được hạ thủy bằng phương pháp đúc hẫng. Đầu tiên, các đường dốc được hạ xuống và mở rộng hoàn toàn trước khi các đường gai hướng về phía trước với toàn bộ tải trọng của cầu nằm trên tấm đỡ phía trước khi khởi động. Nhịp được di chuyển ra ngoài trên dầm phóng cho đến khi đầu xa chạm đến bờ xa. Tiếp theo, đầu gần được hạ xuống bờ gần. Phương pháp khởi động này mang lại cho người lái cầu nối một hình bóng thấp. MTU-20 dựa trên khung gầm T-55. Xe kỹ thuật T-54 / T-55 được trang bị lưỡi ủi BTU để dọn đất, chướng ngại vật và tuyết trong các tình huống chiến đấu. Nó được sử dụng bởi các đơn vị xe tăng cần sự hỗ trợ của kỹ sư chuyên ngành. Bản thân lưỡi ủi có thể được lắp trong 1 giờ 30 phút và tháo ra trong 1 giờ. Ở phương tây, nó được biết đến với cái tên T-54 / T-55 Dozer./> ALT-55 - T-55 chuyển đổi thành xe ủi bánh xích bọc thép. Nó có cấu trúc thượng tầng tấm phẳng lớn, lưỡi dozer lõm góc cạnh được gắn ở phía trước và các rãnh thủy lực cho lưỡi dozer. T-55 chuyển đổi thành máy xúc bọc thép có bánh xích. Tháp pháo đã được thay thế bằng một chiếc ca-bin bọc thép có thể xoay được với một cần và một thùng. Một lưỡi ủi được lắp vào phía trước của thân xe. T-55 MARRS - T-55 được chuyển đổi thành một chiếc xe công binh được trang bị bộ phụ tùng xe bọc thép MARRS Vickers. Tháp pháo đã được thay thế bằng một thiết kế mới: tấm phẳng lớn với các cạnh hơi vát, phía sau thẳng đứng, phía trước rất vát và một cần trục khung chữ A lớn được gắn ở phía trước. Cần trục có thanh chắn dây tời hình trụ giữa các chân của cần trục. Một lưỡi ủi được lắp vào mặt trước của thân xe. IMR (Ob'yekt 616) (IMR là viết tắt của Inzhenernaya Mashina Razgrazhdeniya ) - T-55 chuyển đổi thành xe công binh. Tháp pháo đã được thay thế bằng một cần trục vận hành bằng thủy lực có tải trọng 2 tấn, có khả năng xoay 360° và vận hành từ một mái vòm bọc thép có tấm che. Cần trục cũng có thể được lắp với một gầu nhỏ và được sử dụng như cánh tay máy xúc, hoặc với một cặp gắp kiểu gọng kìm (như trong hình) để loại bỏ các chướng ngại vật như cây cối. Cần trục của nó có dạng ống lồng, khi di động được thu lại và đặt vào một giá đỡ ở phía sau thân xe, đến lượt nó sẽ được gập xuống so với boong động cơ khi cần trục được sử dụng. Một lưỡi gạt vận hành bằng thủy lực được gắn vào phía trước của thân xe; nó chỉ có thể được sử dụng trong cấu hình thẳng hoặc V. Xe cũng được gắn đèn rọi. IMR được phát triển vào năm 1969 và đi vào hoạt động 5 năm sau đó. SPK-12G (SPK là viết tắt củaSamokhodniy Pod'yomniy Kran) - Cần trục hạng nặng gắn trên khung gầm T-55. Chỉ có hai chiếc được chế tạo. MTP-3 (MTP là viết tắt củaMashina Tekhnicheskoj Pomoshchi) - SU-122-54 được chuyển đổi thành xe hỗ trợ kỹ thuật gắn cần cẩu hạng nhẹ. Việc chuyển đổi này được thực hiện bắt đầu từ năm 1973. Ở phương Tây, nó đôi khi được gọi là ARV M1977 và T-62T. Xe rà phá mìn BMR-1 (Bronirovannaya Mashina Razminirovaniya) - MTP-3 chuyển đổi thành xe rà phá bom mìn. Việc chuyển đổi này được thực hiện bắt đầu từ năm 1975. Nó được trang bị hệ thống rà phá bom mìn KMT-5M và được trang bị tháp súng máy từ BTR-60. BMR-1 đã được quân đội Liên Xô sử dụng trong cuộc chiến ở Afghanistan và gần đây là lực lượng UNIFIL của Ukraine ở Lebanon. BMR-2 (Boyevaya Mashina Razminirovaniya) - Xe tăng rà phá bom mìn dựa trên khung gầm T-55. Phương tiện này không có tháp pháo mà là cấu trúc thượng tầng cố định, được trang bị súng máy NSVT. Nó được trang bị bộ rà phá bom mìn KMT-7 và được đưa vào hoạt động vào khoảng năm 1987 trong cuộc chiến ở Afghanistan. BMR-2 được trang bị nhiều loại thiết kế con lăn mìn. Xe phun lửa OT-54 (Ob'yekt 481) - T-54 trang bị súng phun lửa ATO-54 thay vì súng máy hạng trung đồng trục SGMT 7,62 mm. TO-55 (OT-55, Ob'yekt 482) - Phiên bản súng phóng lửa này của xe tăng T-55 tích hợp máy chiếu ngọn lửa ATO-200. Súng bắn lửa được đốt cháy bởi các điện tích pháo hoa, và 12 điện tích là tải cơ bản. Thùng chứa đồ, thay thế giá đạn bên cạnh người lái, chứa 460 lít chất lỏng dễ cháy, và mỗi vụ nổ trung bình 36 lít. Phạm vi hiệu quả tối đa của hệ thống là 200 mét, với dòng chảy có sơ tốc đầu nòng khoảng 100 mps. Ob'yekt 483 - Nguyên mẫu xe tăng phun lửa, dựa trên T-54B. Phiên bản này có lắp đặt súng phun lửa ATO-1 trong nòng ngắn to với ống bên trong thay vì pháo chính, dẫn đến giảm hỏa lực của xe tăng. Ngoài ra còn có một lỗ thông hơi thẳng đứng hình tròn ở phía sau tháp pháo và một mức giá đỡ với đỉnh của khẩu độ lò sưởi. Sau khi thử nghiệm với chiếc xe nguyên mẫu, công việc phát triển trên chiếc xe này đã ngừng lại. Xe bọc thép chở quân BTR-T - Xe bọc thép chở quân hạng nặng dựa trên T-55. DPM - Xe hộ tống đoàn. Achzarit - Quân đội Israel đã chuyển đổi những chiếc T-55/54 bị bắt giữ thành một chiếc xe bọc thép chở quân bánh xích. Pháo tự hành SU-122-54 (Ob'yekt 600) ( Samokhodnaya Ustanovka ) - Pháo tự hành 122 mm, dựa trên T-54A và đôi khi được gọi là IT-122. Từ năm 1955 đến năm 1957, 77 xe đã được chế tạo với sự khác biệt nhỏ giữa các lô sản xuất (vòm chỉ huy khác nhau, v.v.). SU-122-54 có khung gầm sửa đổi, với các khoảng trống nhỏ giữa cặp bánh thứ nhất, thứ hai và thứ tư và khoảng cách lớn giữa bánh thứ ba, tương tự như T-62'NS; và một cấu trúc tháp pháo, được lắp vào thân xe, chứa pháo 122 mm D-49 L / 48.4 mà xe mang theo 35 viên đạn. Vũ khí trang bị thứ cấp bao gồm hai súng máy hạng nặng KPVT, một khẩu được gắn làm súng máy phòng không gần cửa chỉ huy và khẩu còn lại gắn đồng trục với pháo chính. Xe chở được 600 viên đạn cho súng máy. Pháo chính có bộ phận hút khói được bố trí ngay sau phanh đầu nòng, một số loại xe không có bộ phận hút khói. Xe chữa cháy GPM-54 ( gusenichnaya pozharnaya mashina - xe chữa cháy có bánh xích ) - T-54 được chuyển đổi thành xe chữa cháy có bánh xích. Nó được trang bị một lưỡi gạt ở phía trước xe, két nước và một bộ phận phun gắn ở phía trước nóc xe tăng. T-55 được cải tiến để chống lại các đám cháy dầu lớn. Tháp pháo được thay thế bằng động cơ phản lực kép và nhiều vòi phun nước. Biến thể nước ngoài Tiệp Khắc T-54A được sản xuất theo giấy phép tại Tiệp Khắc. Do có chất lượng cao hơn so với T-54A do Liên Xô sản xuất nên nó đã trở thành một cú hích trên thị trường xuất khẩu. Không giống như những chiếc T-54A do Liên Xô sản xuất, nó có các tấm tiếp cận động cơ được thiết kế lại, ba tấm được lắp vào thân xe để giảm sự đổ đường và các tấm lưới động cơ hình bầu dục trong sàn động cơ. T-54AK sản xuất tại Tiệp Khắc theo giấy phép. Nó được gắn một tấm đế trên nóc tháp pháo cho cột đài. T-54AR "Rieka" ( Rieka - sông) - Hiện đại hóa T-54 với ống thở giả. Nó tương tự như T-54AM của Liên Xô. T-54AM - T-54B được sản xuất theo giấy phép tại Ba Lan và Tiệp Khắc. T-54AMK - Xe tăng chỉ huy T-54BK được sản xuất tại Tiệp Khắc. T-55AMB - Tiệp Khắc đã nâng cấp T-55A với máy đo xa laser do Tiệp Khắc sản xuất, hệ thống điều khiển hỏa lực và cột cảm biến gió với phần tâm dày được gắn ở phía sau nóc tháp pháo. T-55AM1 - Phiên bản T-55AM do Tiệp Khắc sản xuất với hệ thống điều khiển hỏa lực "Kladivo" do Tiệp Khắc sản xuất với máy tính đường đạn, thiết bị tìm khoảng cách bằng laser (khác với KTD-1 của Nga) trên đầu pháo và cảm biến gió xuyên. cột buồm gắn phía sau nóc tháp pháo. T-55AM1K3 - Phiên bản xe tăng chỉ huy của T-55AM1. T-55AM2- T-55AM1 được trang bị giáp gắn BDD thụ động cho tháp pháo (hình móng ngựa) và thân trước (trang bị cho tấm băng phía trên), các sườn xe được trang bị phần mở rộng bảo vệ thùng nhiên liệu trên sàn catwalk, động cơ V-55U cải tiến với bộ siêu nạp tích hợp cung cấp 620 mã lực và hệ thống radio R-173P. Các tấm áo giáp BDD bao gồm các hộp thép bọc thép chứa đầy Penpolyurethane. Ngoài ra, có các hốc có thể được lấp đầy bằng nước hoặc cát để bảo vệ thêm. Các tấm áo giáp BDD bao gồm các hộp thép bọc thép chứa đầy Penpolyurethane và các tấm thép mỏng HHS. Giáp bán phản ứng nổ BDD bổ sung thêm 120mm bảo vệ chống lại APDS và 200-250mm bảo vệ chống lại đạn HEAT, do đó những xe tăng này có khả năng bảo vệ tương tự như các phiên bản đầu tiên của T-72. Ngoài ra còn có một cụm 8 ống phóng lựu đạn khói ở bên phải tháp pháo. T-55AM2 được lắp thêm đèn pha trên chắn bùn trước. T-55AM2 Dyna-1 - T-55AM2 được trang bị giáp mới. T-55AM2B - T-55AM2 với khả năng bắn đạn tên lửa 9M117 "Bastion" (AT-10 Stabber) dẫn đường bằng laser thông qua pháo chính. T-55AM2B được trang bị ống ngắm của xạ thủ 1K13 BOM thay cho TPN-1M-22 ban đầu. T-55AM2K1 - Xe tăng chỉ huy dành cho đại đội trưởng có thêm bộ đàm R-173. T-55AM2K2 - Xe tăng chỉ huy cho các tiểu đoàn trưởng có thêm bộ đàm R-173. T-55AM2K3 - Phiên bản dành cho trung đoàn trưởng với bộ radio R-173 và R-143T2, một máy phát điện NS1250B và một cột ăng ten mỏng 10m. Chở ít hơn 12 vòng so với xe tăng tiêu chuẩn. VT-55A (xe tăng vyprošťovací-xe tăng phục hồi) - ARV Tiệp Khắc được chế tạo trên thân xe T-55A và lắp một cần trục có tải trọng 15 tấn, một tời chính có tải trọng 44 tấn và một tời phụ có tải trọng 800 kg. Lần đầu tiên nó được gọi là MT-55 nhưng tên gọi này được đặt cho xe tăng đặt cầu và do đó tên gọi này phải được thay đổi. VT-55KS (kapitalistické státy) - Phiên bản xuất khẩu cho các nước không thuộc Khối Warszawa như Iraq và Syria. Tổng cộng có 2.321 chiếc được sản xuất từ ​​năm 1967 đến năm 1983. ZS-55A (ženijní stroj) - VT-55A được trang bị lưỡi ủi BTU-55. MT-55A ( Mostni Tank - xe tăng lớp cầu) - Phiên bản thiết kế lại của MT-55 của Tiệp Khắc. Theo một số nguồn tin phương Tây, có hai mẫu xe, cụ thể là mẫu cơ bản - còn được gọi là MT-55K - và MT-55L với cầu dài hơn. Từ năm 1969 đến năm 1983, 1.278 chiếc MT-55A đã được chế tạo bởi TS Martin. MT-55KS (kapitalistické státy) - Phiên bản xuất khẩu cho các nước không thuộc Hiệp ước Warsaw như Ấn Độ, Iraq và Syria. 183 chiếc được sản xuất từ ​​năm 1971. PM-55L (přepravník mostu) - Phiên bản hạng nhẹ sử dụng xe tải Tatra T-813 làm xe bọc thép và xe mang phóng. JVBT-55A (jeřábový vyprošťovací buldozerový tank) - Xe tăng cần cẩu của Tiệp Khắc, được trang bị cần cẩu lớn 15 tấn, tời và lưỡi ủi BTU-55. Trọng lượng chiến đấu là 42 tấn. Từ năm 1967, 508 chiếc đã được sản xuất. JVBT-55KS (kapitalistické státy) - Phiên bản xuất khẩu của JVBT-55A cho các quốc gia không thuộc Hiệp ước Warsaw như Iraq. 172 chiếc được sản xuất. Romania TR-85: xe tăng chiến đấu chủ lực của Rumani, thiết kế dựa trên kiểu T-55 nhưng có powerpack kiểu hình chữ T, động cơ V8 830 mã lực của Đức, hệ thống điều khiển bắn "Ciclop", hệ thống truyền động 6 cặp bánh xích (tăng thêm 1 bánh so với T-54/55), quanh tháp pháo được bổ sung thêm khối giáp bán nguyệt dày 20mm và váy bảo vệ bằng kim loại. Trọng lượng tăng lên 50 tấn. Pháo chính 100mm được giữ nguyên nhưng được trang bị các loại đạn mới (Romania đã hợp tác với Israel để sản xuất loại đạn xuyên giáp động năng BM-412VN - có thể xuyên giáp cán đồng nhất có độ dày 444mm ở góc chạm 90 độ từ khoảng cách 500 mét, 425mm ở khoảng cách 1000 mét và 328mm ở khoảng cách 4000 mét). TR-85M1 được trang bị máy tính điều khiển hỏa lực Ciclop-M thế hệ 3. Ngoài ra, pháo chính còn được trang bị hệ thống ổn định hai trục giúp cải thiện độ chính xác khi bắn và giảm thời gian khóa mục tiêu. Theo nhà sản xuất, máy tính đường đạn mới đảm bảo khả năng tiêu diệt mục tiêu đến 95% ở khoảng cách dưới 2000 mét, trên 75% cho mục tiêu ở khoảng cách từ 2000 - 3000 mét. Gói nâng cấp này có chi phí ở mức trung bình (khoảng 1 triệu USD/xe). Trong cuộc tập trận hồi giữa năm 2014, TR-85 được ghi nhận là đã đánh bại nhiều xe tăng chiến đấu chủ lực hiện đại nhất của Mỹ M1 Abrams trong cuộc chiến giả định ở gần thị trấn Hohenfels, Bavaria, Đức. TR-85M3: Phiên bản nâng cấp từ TR-85, được trang bị động cơ mạnh mẽ hơn, thay thế pháo 100mm bằng cỡ 120mm hoặc 125mm cũng như nâng cấp giáp, nâng cấp hệ thống điện tử. Hungary T-55AM là phiên bản hiện đại hóa xe tăng T-55 cơ bản những năm 1980. 144 xe tăng T-55AM nhận được hệ thống điều khiển hỏa lực "Kladivo" do Tiệp Khắc sản xuất, ống bọc nhiệt trên pháo, lắp mới cho HMG 12,7mm, máy đo xa laser, gắn trên nòng, bên trong một hộp bọc thép hình chữ nhật lớn. Xe tăng Hungary được trang bị các khối giáp bổ sung BDD trên khu vực phía trước tháp pháo và glacis (được gọi là "giày ngựa" hoặc "giáp lông mày Brezhne"). Các tấm giáp BDD bao gồm các hộp thép bọc thép chứa đầy Penpolyurethane và các tấm thép mỏng HHS. Lớp giáp bán phản ứng nổ BDD có thêm 120mm bảo vệ chống lại APDS và 200-250mm bảo vệ chống lại đạn HEAT, do đó, những xe tăng này có khả năng bảo vệ tương tự như các phiên bản đầu tiên của T-72 (tương tự như AM2 của CH Séc). Loại này không thành công một phần do Kladico FCS không đáng tin cậy và tính cơ động kém (các phương tiện của Hungary chưa bao giờ nhận được động cơ mới). Xe tăng T-55AM đã bị rút khỏi biên chế trong thời gian những năm đầu của thập niên 2000, một số bị loại bỏ, một số bị hỏng, chỉ còn lại một số ít xe T-72B và T-72M đang hoạt động trong quân đội Hungary. Ba Lan Các xe tăng do Ba Lan sản xuất thường có các cách bố trí khác nhau. Sự sắp xếp bao gồm một hộp hình chữ nhật được gắn ở bên trái của tháp pháo, một hộp xếp hình vuông nhỏ hơn ở bên trái của phần sau tháp pháo và một sàn phía sau hơi khác một chút. T-54AD - Xe tăng chỉ huy T-54A của Ba Lan có thêm bộ đàm và tầm hoạt động 100 dặm. T-54AM - Sản xuất T-54B của Ba Lan và Tiệp Khắc theo giấy phép. T-55U - Bản nâng cấp T-54 của Ba Lan. T-54 được trang bị các tấm giáp độc lập được trang bị cho các tấm chắn phía trước thân xe và lưới thép xung quanh tháp pháo để bảo vệ chống lại ATGM. T-55L - Phiên bản Ba Lan mới của T-55A. T-55LD - Xe tăng T-54 của Ba Lan được chế tạo lại theo tiêu chuẩn T-55A. 200 xe tăng T-54 đã được chế tạo lại vào năm 1975. T-55AD-1 - Xe tăng chỉ huy T-55A của Ba Lan có thêm đài R-130 và giảm lượng đạn còn 38 viên. T-55AD-2 - Xe tăng chỉ huy T-55A của Ba Lan có thêm đài R-123 và giảm lượng đạn còn 38 viên.\ T-55AM "Merida" - Phiên bản Ba Lan của T-55AM được phát triển từ cuối những năm 1970 đến đầu những năm 1980, được trang bị SKO "Merida" mới (SKO là viết tắt của System Kierowania Ogniem - hệ thống điều khiển hỏa lực) với hệ thống điều khiển hỏa lực với cảm biến gió chéo và một hệ thống máy ngắm ngày / đêm CDDN-1 mới (CCDN là viết tắt của celownik-dalmierz dzienno-nocny - máy ngắm ngày / đêm). Xe tăng cũng được trang bị thêm giáp thụ động (loại BDD) ở mặt trước thân và tháp pháo, và với hệ thống bảo vệ bao gồm hệ thống cảnh báo laser WPL-1 "Bobrawa" ( Wykrywacz Promieniowania Laserowego ) và WWGD-1 "Erb "( Wyrzutnia Wybuchowych Granatów Dymnych ) và WPD-1" Tellur ") Súng phóng lựu khói 81 mm, cả hai đều được bố trí theo cụm 8 viên ở mỗi bên tháp pháo. Cuối cùng, động cơ ban đầu đã được thay thế bằng W-55 WAX nâng cấp với công suất 613 mã lực (457 kW). Một số được trang bị bộ radio mới như R-123 hoặc R-173. Được coi là MBT thế hệ thứ hai vì mức độ hiện đại hóa cao. Năm 2016, T-55AM Merida cũng trở thành xe tăng đầu tiên được lắp đặt hệ thống lắp đặt nhiên liệu thay thế LPG (tự động) . Đây được thực hiện như một dự án đóng thế công khai và R&D của công ty STAG từ Białystok. T-55AMS - Phiên bản không có giáp ở mặt trước thân xe, có thể được trang bị hệ thống rà phá bom mìn ZB / WLWD hoặc KMT-5 hoặc một lưỡi ủi USCz-55. T-55AD-1M - Xe tăng chỉ huy T-55AM "Merida" có thêm đài R-130 và giảm lượng đạn dự trữ xuống còn 38 viên. T-55AD-2M - Xe tăng chỉ huy T-55AM "Merida" có thêm đài R-123 và giảm lượng đạn dự trữ xuống còn 38 viên. T-55AM2BP - Phiên bản cấp phép của Ba Lan của T-55AM2B của CH Séc. Chỉ dành cho xuất khẩu. W-125SC - T-55A, hay WZT-1 và BLG-67, được chuyển đổi thành bệ phóng lắp thẳng vận tải của hệ thống tên lửa phòng không S-125SC "Newa-SC". Một bệ phóng xoay hoàn toàn cho 4 tên lửa 5V27 đang thay thế tháp pháo. Các cánh tay phóng bên ngoài gập so với bên trong khi di chuyển và do đó hai tên lửa được mang theo khi di chuyển và bốn khi xe đang giữ vị trí. WZT-1 ( Wóz Zabezpieczenia Technicznego - Xe bọc thép) - Xe bọc thép của Ba Lan dựa trên BTS-2 của Liên Xô. Nó được đóng trên thân T-55 và sau này là T-55A. Nó được sản xuất từ ​​năm 1970 đến 1978. WZT-2 ( Wóz Zabezpieczenia Technicznego - Xe bọc thép) - Xe bọc thép của Ba Lan được chế tạo trên thân xe T-55. Nó được chế tạo để thực hiện sửa chữa trên xe tăng T-55 và T-55A. Khi đi vào hoạt động năm 1973, nó không chỉ là loại xe cứu kéo tốt nhất trong toàn khối Hiệp ước Warsaw mà còn có thể là trên toàn thế giới. Nó vẫn có thể thực hiện các nhiệm vụ mà NATO giao cho các loại ARV cùng loại. Không giống như T-55 và WZT-1, WZT-2 vẫn là khẩu ARV cơ bản của quân đội Ba Lan được sử dụng để sửa chữa thực địa. Nó có thể thực hiện sửa chữa không chỉ trên xe tăng Liên Xô như T-54/T-55 và T-72 mà còn trên của Ba Lan và Leopard 2A4 của Đức. Tuy nhiên, do tất cả các xe tăng hiện đang trong biên chế của Ba Lan đều nặng hơn 40 tấn nên không thể kéo chúng. Nó được sử dụng để kéo các phương tiện nhẹ hơn như BMP-1 và 2S1. Tổng cộng 600 chiếc đã được sản xuất. 80 chiếc được đưa vào hoạt động tính đến năm 2004. Một số chiếc được Ratownictwo Kolejowe (Dịch vụ ứng cứu khẩn cấp của Đường sắt) sử dụng. Nhiều chủ sở hữu tư nhân đã mua chúng từ Quân đội Ba Lan. 196 chiếc trong số này cũng đã được bán cho Ấn Độ. Các phương tiện này cũng được mua bởi Iraq và Nam Tư. Xe tăng công binh T-55A với mỏ cày KMT-4 ở phía trước và các hộp chứa hệ thống phá nổ nhanh PW-LWD (tương tự như Giant Viper). IWT ( Inżynieryjny Wóz Torujący ) - Xe kỹ thuật chiến đấu của Ba Lan, dựa trên WZT-2 và được trang bị một lưỡi gạt thủy lực, một cánh tay thủy lực và các hệ thống rà phá bom mìn PW-LWD và KMT-5. Nó sử dụng súng máy hạng nặng DShK 1938/46 để bảo vệ phòng không. Được đưa vào phục vụ với số lượng rất nhỏ vào năm 1978. BLG-67 - Phiên bản Ba Lan của lớp cầu Đông Đức BLG-60. BLG-67M - Tương tự BLG-60M: mô hình cải tiến giúp gắn 3 cầu lại với nhau để thu hẹp khoảng trống lên đến 52 m. BLG-67M2 - Tương tự BLG-60M2: mẫu cải tiến, được nới rộng thêm 20 cm. Ukraine Phiên bản T-55 do Phòng thiết kế chế tạo máy Kharkiv Morozov hiện đại hóa được trang bị 4 cụm phóng lựu đạn khói được trang bị ở mỗi bên phía trước tháp pháo và máy đo xa laser được trang bị phía trên vũ khí chính. Phiên bản T-55 do Phòng thiết kế chế tạo máy Kharkiv Morozov hiện đại hóa trang bị pháo nòng trơn 125mm KBM1. T-55AGM- Hiện đại hóa T-54 / T-55 của Ukraine. Nó đưa các xe tăng T-54/T-55 lên tiêu chuẩn T-80. Nó cũng có thể được áp dụng cho Type 59 do Trung Quốc sản xuất và T-62 của Liên Xô. Xe được trang bị động cơ diesel tăng áp đa nhiên liệu 5TDFM, hai kỳ làm mát bằng chất lỏng với các piston đối nghịch, phát triển công suất 850 mã lực (634 kW), thiết bị chạy được cải tiến, hệ thống điều khiển chuyển động tự động với điều khiển tay lái, bảo vệ thụ động bổ sung, tích hợp- giáp phản ứng nổ, hệ thống đối phó, hệ thống chế áp hỏa lực mới với các phương tiện vượt cấp tại trạm chỉ huy, máy nạp đạn tự động chứa 18 viên đạn và súng máy phòng không có thể ngắm và bắn từ trong tháp pháo dưới lớp giáp bảo vệ hoàn chỉnh. Súng máy phòng không được lắp trên vòm chỉ huy và có mục đích bắn vào các mục tiêu trên không và trên mặt đất. Người mua có thể chọn giữa hai tùy chọn vũ khí chính: pháo nòng trơn 125 mm KBM1 hoặc pháo nòng trơn 120 mm KBM2. Cả hai loại đều sử dụng đạn thông thường và ATGM phóng từ nòng nâng cao có thể đánh bại các loại xe tăng hiện đại ở cự ly 2000–3000 m và tới 5.000 m bằng ATGM. Xe tăng có thể mang ít nhất 30 viên đạn. Pháo nòng trơn 125 mm KBM1 nặng 2,5 tấn, có chiều dài nòng 6 m (48 cữ) và có thể bắn các loại đạn APFSDS, HEAT và HE-FRAG trong khi pháo nòng trơn 120 mm KBM2 nặng 2,63 tấn, có chiều dài nòng 6 m (50 calibers) và có thể bắn tất cả các loại đạn đáp ứng các yêu cầu của tiêu chuẩn NATO và ATGM do Ukraine sản xuất. Cả hai khẩu đều có độ dài độ giật thông thường là 26–30 cm và độ giật tối đa là 31 cm. Xe tăng có thể được trang bị súng máy đồng trục KT-7.62 hoặc PKT-7.62 và có thể mang theo 3 khẩu. Xe tăng cũng có thể được trang bị súng máy hạng nặng KT-12.7 hoặc NSVT-12.7 để bảo vệ và có thể mang theo 450 viên đạn. Tầm bắn hiệu quả gần đúng là 2 km vào ban ngày và 800m vào ban đêm. AA HMG có thể được nâng lên từ -5 đến +70 độ. Điều khiển từ xa cho súng máy phòng không được ổn định theo trục thẳng đứng trong chế độ tự động (bằng cách sử dụng ống ngắm TKN-5) và đang sử dụng ống ngắm PZU-7 cho chế độ bán tự động. T-55-64 - Với hệ thống treo và động cơ T-64. T-55MV - Các nhà máy sửa chữa xe tăng cũ Quân đội Liên Xô số 7 ở Kiev và số 17 ở Lviv, Ukraine đã quảng cáo T-55MV trên thị trường thế giới trong vài năm. Tháp pháo, phần trước thân và các giáp bên của phiên bản này được bảo vệ bằng giáp phản ứng nổ Kontakt-5 có khả năng chịu được các đòn tấn công từ loại đạn uranium làm nghèo M829 120mm xuyên giáp của Mỹ. Vũ khí chính của T-55MV được cải tiến bằng cách sử dụng 9M117 "Bastion" (AT-10 Stabber) có thể phóng qua nòng của pháo tiêu chuẩn T-54/55. Với tầm bắn hiệu quả 4.000 m, 9M117 "Bastion" (AT-10 Stabber) có khả năng xuyên giáp tương đương 550mm thép cán. Nếu tên lửa được trang bị đầu đạn song song, khả năng xuyên giáp của nó sẽ tăng lên. Hệ thống điều khiển hỏa lực Volna với máy tính đạn đạo kỹ thuật số của nó cũng được trang bị. Syria là quốc gia đầu tiên đặt hàng 200 chiếc T-55 được nâng cấp thành T-55MV. Nam Tư TZI-JVBT - Czechoslovak JVBT-55A phục vụ trong Quân đội Nam Tư. T-55TZI - Xe bọc thép VT-55A do Nam Tư sửa đổi. T-55AI "Igman" - Bản nâng cấp của Nam Tư của T-55A, nhằm hiện đại hóa phân đội T-55 đã già cỗi. Nó sử dụng các thành phần phức tạp từ M-84, phiên bản tiên tiến được sản xuất trong nước của T-72, mà nó đang được phát triển song song. Những cải tiến chính bao gồm việc gắn bên ngoài 2 băng phóng cho tên lửa AT-3 Sagger, một động cơ từ T-72, một chiếc SUV đơn giản hóa với cảm biến sao băng và máy đo xa laser từ M-84, bổ sung lớp giáp cách nhau trên tháp pháo và thân trước cũng như lắp đặt bộ điều hòa khói. Khoảng 20 chiếc đã được thực hiện trước khi Nam Tư tan rã. Các nguyên mẫu đã được đưa vào phục vụ thường xuyên, tuy nhiên không có dữ liệu nào về chúng được sử dụng trong chiến đấu. Một biến thể của sự sửa đổi này, được thiết kế để xuất khẩu, được trang bị pháo L7A1 105 mm. Cộng hòa Dân chủ Đức T-54Z (Z choZusatzausrüstung- trang bị bổ sung) - Đông Đức hiện đại hóa T-54 tương tự như T-54AM. T-54AZ (Z choZusatzausrüstung- trang bị bổ sung) - Đông Đức hiện đại hóa T-54 tương tự như T-54AM. T-54AMZ (Z choZusatzausrüstung- trang bị bổ sung) - Đông Đức hiện đại hóa T-54 tương tự như T-54AM. T-54T (Panzerzugmaschine ohne Bergesatz) - Đông Đức phát triển với thiết bị phục hồi và hàn. 10 chiếc được chế tạo trên khung gầm T-54A do Ba Lan sản xuất. Mã NATO: T-54 (A). T-54TB (Panzerzugmaschine mit Bergesatz) - Tương tự như T-54T, nhưng có tời 140t. 10 chiếc được chế tạo trên khung gầm T-54A do Ba Lan sản xuất. Mã NATO: T-54 (B). T-55AM2B với thùng chứa bên trái tháp pháo. T-55 NAL NRD - Hiện đại hóa T-55 củaĐông Đức. Nó đã không hoàn thành vì những thay đổi chính trị vào năm 1990. T-55T - VT-55A đã được sửa đổi với thanh đẩy và ván trượt trên tấm băng để phục vụ cho Quân đội Việt Nam. T-55T với bộ kéo trên tấm băng với giá đỡ nhô ra phía trước xe. Bộ phận kéo phía trước cũng có một 'mắt' linh hoạt được lắp cố định. Mã NATO: T-55T . Minenräumfahrzeug (Pz) - Nguyên mẫu phương tiện rà phá bom mìn do Đông Đức phát triển. Hai phiên bản: Được trang bị hệ thống rà phá mìn điện tử KMT-6 M2, EMT-5 và hệ thống dẫn đường WLWD. Được trang bị hệ thống rà phá KMT-5 T-54 M1975 / 1 - Phương tiện rà phá bom mìn kết hợp ống lăn / cánh bích thử nghiệm của Đông Đức. T-54 M1975 / 2 - Biến thể duy nhất có cánh của M1975 / 1. T-55TK - Đông Đức đã nhận được 119 chiếc JVBT-55A của Tiệp Khắc từ năm 1968 đến năm 1979 và gọi chúng là Kranpanzer T-55TK. BLG-60 (Brückenlegegerät) - Lớp cầu kiểu kéo Đông Đức. Phát triển bắt đầu vào năm 1965 (một năm sau khi dự án BLG-34 bị hủy bỏ ) và chiếc đầu tiên được chuyển giao vào năm 1967. Gần 200 chiếc BLG-60 được chế tạo bởi STAG Genthin và SKET Magdeburg. BLG-60 - Cầu huấn luyện. BLG-60M - BLG-60 được cải tiến giúp có thể gắn 2 cầu lại với nhau để thu hẹp khoảng cách lên đến 36 m. Đi vào hoạt động từ năm 1973. BLG-60M2 - Vì sự ra đời của xe tăng T-72 lớn hơn, khoảng 30 cầu của BLG-60M phải được nới rộng thêm 20 cm. Có thể gắn 3 cây cầu với nhau để tạo ra những khoảng trống lên đến 52 m hiện nay. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Type 59 - xe tăng chiến đấu chủ lực của Trung Quốc chế tạo từ thập niên 1960, dựa trên mẫu T-54A của Liên Xô. Type 59D - Còn có tên WZ120C. Type 59D được phát triển từ thập niên 1990, giới thiệu vào năm 1992, quá trình thử nghiệm hoàn thành vào năm 1993 và đến năm 1995 thì được triển khai trên quy mô lớn để nâng cấp Type 59 cũ nhằm đáp ứng các yêu cầu cho chiến tranh lục quân trong tương lai. Type 59D được trang bị giáp phản ứng nổ ở mặt trước cũng như tháp pháo, thiết bị nhìn đêm và đo xa laser, 8 ống phóng đạn khói ngụy trang, đi kèm hệ thống kiểm soát hỏa lực Type 37A hiện đại. Khẩu pháo 105 mm của Type-59D là loại Type 79 hoặc Type 83A được ổn định 2 mặt phẳng với cơ số đạn 44 viên, đây là một bản sao dựa trên pháo L7 (M68) trang bị trên các xe tăng của NATO, khác biệt lớn nhất là nòng pháo của Trung Quốc dài hơn loại L7 nguyên bản. Pháo Type 83A có tầm bắn hiệu quả khoảng 2 km, bắn được đạn nổ phá mảnh (HE), đạn xuyên lõm (HEAT), đạn xuyên động năng (KE). Vũ khí phụ của Type-59D gồm 1 súng máy hạng nặng 12,7 mm (cơ số đạn 500 viên), 1 súng máy 7,62 mm của lái xe và 1 súng máy đồng trục 7,62 mm. Khả năng cơ động của Type 59D cũng được nâng cao đáng kể khi thay thế động cơ diesel 12150L7 công suất 580 mã lực bằng động cơ V-46-6 V-12 730 mã lực Tập đoàn Công nghiệp Quốc phòng Sudan (Sudan's Military Industry Corporation - MIC) đã xin giấy phép sản xuất T-59D dưới tên gọi xe tăng Al-Zubair 2. Type 59G: Biến thể hiện đại hóa thập niên 2010, tiếp cận công nghệ của xe tăng thế hệ thứ 3. Type 59G được trang bị tháp pháo mới kiểu hàn, giống như tháp pháo của xe tăng Type 96G với bề ngoài góc cạnh thay vì tháp pháo đúc hình chỏm cầu kiểu cũ. Thay thế pháo 100mm cũ bằng pháo nòng trơn 125 mm có hệ thống nạp đạn bán tự động. Pháo chính của Type 59G có thể bắn tất cả các loại đạn gồm đạn nổ phá mảnh (HE-FRAG), đạn xuyên lõm (HEAT), đạn xuyên dưới cỡ ổn định bằng cánh đuôi có ốp giữ tự hủy (APFSDS) và cả tên lửa chống tăng. Xe có giáp phản ứng nổ phủ kín mặt trước, giáp hông cũng được thiết kế mới, lắp đặt thiết bị nhìn đêm thế hệ 2, thay thế động cơ 580 mã lực bằng động cơ diesel 800 mã lực, nâng cấp hệ thống kiểm soát hỏa lực hiện đại. Ưu thế lớn nhất của Type-59G là đơn giá chỉ vào khoảng 750.000 USD/chiếc, rẻ hơn rất nhiều xe tăng nâng cấp của Nga và Ukraine. Hoạt động trong Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc và Quân đội Bangladesh. 300 chiếc đã được sản xuất và nâng cấp cho Quân đội Bangladesh. Type 69: xe tăng chiến đấu chủ lực của Trung Quốc từ thập niên 1970, cải tiến từ Type 59. Type 79: xe tăng chiến đấu chủ lực của Trung Quốc từ thập niên 1980, cải tiến từ Type 69. Afghanistan T-55s đã phục vụ trong quân đội Afghanistan một vài năm. Kể từ khi không có bất kỳ chăm sóc thực hiện, nhiều T-55s có sự pha trộn từ một số các biến thể khác nhau. Argentina Quá trình hiện đại hóa T-55 được phát triển vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990 bởi công ty TENSA của Argentina cho Peru. Xe tăng được trang bị giáp đính trên tháp pháo, váy bên bằng cao su, thiết bị định vị tầm xa bằng laser trên vũ khí chính và hệ thống điều khiển hỏa lực với máy tính đạn đạo và cột buồm với cảm biến thời tiết gắn trên đỉnh tháp pháo. Ai Cập T-55E Mark 0 ("E" là viết tắt của biến thể Ai Cập) - Hiện đại hóa T-55 được trang bị động cơ mới của Nga có công suất 580 mã lực. Nó có hai biến thể: T-55E Mark 0 được trang bị đèn soi trắng / hồng ngoại AEG của Đức ở phía bên tay phải của vũ khí chính và máy đo xa laser "Iskra" của Nam Tư. T-55E Mark 0 được trang bị súng máy hạng nặng phòng không DShK 1938/46 và đèn rọi AEG của Đức. T-55E MK I ("E" là viết tắt của biến thể Ai Cập) - T-55 hiện đại hóa được trang bị động cơ mạnh hơn có công suất 650 mã lực, hệ thống điều khiển hỏa lực (bao gồm máy tính đạn đạo), đèn rọi, máy đo xa laser và giáp. Tất cả những sự bổ sung đó dẫn đến trọng lượng tăng lên 41 tấn. Nó vẫn giữ nguyên pháo tăng 100 mm ban đầu nhưng hiệu suất và cơ số đạn đã được cải thiện. T-55E MK II ("E" là viết tắt của biến thể Ai Cập) - T-55 được tân trang và hiện đại hóa vào giữa những năm 1990. Nó được trang bị động cơ Đức phát triển công suất 880 mã lực, pháo tăng M68 105 mm, hệ thống điều khiển hỏa lực của Ý (bao gồm máy tính đạn đạo của Ý), thiết bị hồng ngoại, máy đo xa laser, hệ thống ổn định, hệ thống treo hiện đại hóa, sáu ống phóng lựu đạn khói ở mỗi bên. tháp pháo, hệ thống bảo vệ NBC, áo giáp đính đá và váy bên hông được bọc thép. Tất cả những sự bổ sung đó dẫn đến trọng lượng tăng lên 44 tấn. Các chuyển đổi đã được hoàn thành vào cuối năm 2008. Ramses II - Hiện đại hóa T-54. Vào tháng 11 năm 1984, tập đoàn Teledyne Continental Motors của Mỹ (do tập đoàn General Dynamics Land Systems tiếp quản) đã được trao hợp đồng nâng cấp hỏa lực và khả năng cơ động của một chiếc T-54. Tên gọi ban đầu của quá trình hiện đại hóa là T-54E nhưng sau đó nó được đổi tên thành Ramses II. Nguyên mẫu đầu tiên được gửi đến Ai Cập để thử nghiệm hỏa lực và khả năng cơ động rộng rãi vào tháng 1 năm 1987 và chúng kết thúc vào cuối năm đó. Cuối năm 1989, Ai Cập đã ký một thỏa thuận hỗ trợ kỹ thuật với TCM để hỗ trợ Ai Cập tiếp tục thử nghiệm Ramses II. Bộ thử nghiệm mới bắt đầu vào mùa hè năm 1990. Ramses II được đưa vào sản xuất và phục vụ từ năm 2004-2005. Croatia T-55A được trang bị giáp bổ sung ở hai bên hông và giáp đính trên tháp pháo. T-55 Minočistač - T-55được trang bị hệ thống quét mìn kiểu vòi nổ UZR-3. Cuba T-55 chuyển đổi thành Xe mang phóng tự hành S -75 Dvina Xe có khung đỡ bánh xe cho phần mũi tên lửa. T-55 chuyển đổi thành Xe mang phóng tự hành S -125. Xe được lắp một ống luồn cáp lớn gắn phía sau. Cộng hòa Séc T-55C-1 "Bublina" - Xe công binh không tháp pháo với lưỡi ủi BTU-55. T-55C-2 "Favorit" - Xe đào tạo lái xe của Cộng hòa Séc. SPOT-55 ( Xe tăng Speciální POžárnický ) - Xe tăng chữa cháy của Cộng hòa Séc với xe tăng cỡ lớn có các cạnh vát đặt trên khung gầm T-55, hai bộ phận phun lắp phía trước mui xe tăng và lưỡi gạt lắp phía trước thân xe. Nó được phát triển bởi VOP 025 và có hai bồn chứa nước với tổng dung tích 11.000 lít. Trọng lượng là 45 tấn. Phần Lan T-55M - 70 xe tăng T-55A / T-55K của Phần Lan được nâng cấp lên cấp T-55M / MK. Bản nâng cấp bao gồm hệ thống điều khiển hỏa lực Bofors FCS-FV / K, đạn Mecar M-1000 APFSDS-T, súng phóng lựu Bofors Lyran 71 mm, ống phóng lựu đạn khói Wegmann 8x 76 mm, ống bọc nhiệt quanh nòng pháo, đèn rọi IR 1 triệu cd, váy bên mới và hộp chứa đồ, rãnh RMSh tương tự như T-72 và súng máy 12,7 mm ITKK 96 cho bộ nạp đạn. Giáp bổ sung đã được thử nghiệm, nhưng không được đưa vào bản nâng cấp cuối cùng. Một số được trang bị trục cuốn mìn KMT-5M. T-55MK - Phiên bản chỉ huy của bản nâng cấp T-55M. KAM-1 - Xe tăng thu hồi hạng trung của Phần Lan được chế tạo trên thân T-54, được phát triển vào năm 1984. Chỉ là nguyên mẫu. KAM-2 - Xe tăng thu hồi hạng nhẹ của Phần Lan được chế tạo trên thân T-54, được phát triển vào năm 1985. Chỉ là nguyên mẫu. 155GH52-SP-T55 - Loại pháo 155 mm Tampella của Phần Lan đặt trên khung gầm T-55. Chỉ nguyên mẫu. ITPSV 90 Marksman - Phần Lan chuyển đổi SPAAG của Ba Lan trang bị tháp pháo Marksman của Anh. Đức Bản nâng cấp T-54 do Jung Jungenthal phát triển năm 1991 để đáp ứng yêu cầu của quân đội Ai Cập (nhưng không bao giờ được mua). T-54 nâng cấp được trang bị thêm giáp thụ động, hộp số LSG 3000 mới, hệ thống làm mát cải tiến, hệ thống điều khiển pháo hoàn toàn bằng điện mới, thùng nhiên liệu dưới giáp "Superflexit" ở hai bên thân xe và lựu đạn khói 76mm phóng điện. Khẩu 100mm nguyên bản được giữ lại. Vương quốc Anh T-54A , một đề xuất của Hoàng gia nhằm nâng cấp T-54A của Quân đội Ai Cập lên pháo 105mm tiêu chuẩn của NATO. Gói nâng cấp T-55 do AF Budge, FFG và Perkins thực hiện, nó bao gồm động cơ Perkins Condor V8 800TCA, hộp số XTG-411-5, hệ thống làm mát mới làm mát bằng dầu, hệ thống điều khiển hỏa lực Pilkington, ống ngắm nhiệt IR25 và pháo L7 105mm . Ấn Độ T-54 / T-55 được trang bị các ống thép tấm đặt trên thùng để bắt chước bộ hút khói trong cuộc chiến tranh Ấn-Pakistan năm 1971 để phân biệt với những chiếc Type 59 của Pakistan. Sau đó, họ được trang bị cho Xe tăng 'Vijayanta' pháo 105 mm có bộ phận hút khói thật. T-54B do Ấn Độ sửa đổi. T-55A được nâng cấp với pháo 105mm. Iraq T-55 Enigma - Xe tăng T-55, Type 59 và Type 69 được sử dụng bởi các chỉ huy Lữ đoàn Iraq có giáp gắn trên tháp pháo và thân xe gồm 3 (thân) hoặc 6 (tháp pháo) lớp NERA (phản ứng nổ không nổ do trong nước thiết kế) được bao bọc trong các hộp thép, bộ giáp hỗn hợp này được đặt tên không chính thức là "Haji". Mỗi lớp NERA bao gồm 3 lớp phụ: một tấm nhôm dày 10mm, một cao su tự nhiên dày 4mm (như phần tử phản ứng) sau đó là một tấm thép có độ cứng cao dày 4,7mm. Loại giáp phồng thô sơ này kém hiệu quả hơn loại giáp Burlington hoặc BDD, nhưng nó đã thành công trong việc đánh bại các đầu đạn tích điện hình dạng hiện đại. Trận chiến Khafji, một đơn vị được cho là đã sống sót sau một vài lần trúng đạn từ tên lửa (có thể hạ gục một chiếc T-72M1 từ mặt trước) trước khi được trực thăng tiếp viện. T-55 Enigma với súng phóng lựu khói. T-55QM - T-55 được trang bị pháo 105 mmL7 hoặc M68t iêu chuẩn NATO thay cho pháo 100 mm cũ. Xe tăng được trang bị một thiết bị tìm tầm xa bằng laser của Pháp. Việc nâng cấp được thực hiện từ giữa đến cuối những năm 1980. T-55QM2 - T-55 được các kỹ thuật viên Liên Xô nâng cấp với pháo nòng trơn 125 mm / L52 của Liên Xô và thiết bị đo xa laser của Pháp, 1986-1991. Kiểu-72Z- Tại Triển lãm vũ khí quốc tế diễn ra ở Baghdad từ ngày 28 tháng 4 đến ngày 2 tháng 5 năm 1989, một chiếc T-55 được trang bị pháo 2A46 125mm với bộ phận hút khói ở 1/3 đường xuống nòng từ xe tăng T-72 đã được trưng bày. Phương tiện hiện đại hóa này được đặt tên là T-72Z, điều này thoạt tiên đã đánh lừa các chuyên gia nước ngoài vì cho rằng dự án này dựa trên xe tăng T-72. Trên thực tế, con số "72" có nguồn gốc từ năm hiện đại hóa - 1372 theo lịch Hồi giáo. Cơ cấu nạp đạn của loại xe này cũng được lấy từ T-72. Việc lắp cơ cấu nạp đạn yêu cầu tăng phần phía sau của tháp pháo. Một cổng phóng vỏ sơ khai ở phía sau tháp pháo. Lớp giáp bảo vệ của xe tăng cũng được tăng cường thông qua việc sử dụng giáp bổ sung trên băng trước của xe tăng. Xe cũng lắp hệ thống điều khiển hỏa lực EFCS-3 do hãng 'Fotona' của Slovenia phát triển và một hộp số mới. Một bộ áo giáp phản ứng nổ là phụ kiện tùy chọn. Người ta tin rằng khoảng 200 xe tăng T-54/T-55 và 150 xe tăng Type-59 của Trung Quốc đã được trang bị theo tiêu chuẩn T-72Z. T-55 được sửa đổi để bắn rocket 122 mm bằng cách tháo vũ khí chính và lắp một bệ phóng rocket đa nòng ở phía sau tháp pháo. Đồ tiếp sức dường như đã được xếp gọn trong tháp pháo và được chuyển ra ngoài thông qua một lối vào được cắt thô sơ ở phía sau tháp pháo. Nó có giá đỡ nền hình vuông với các cạnh thả xuống và phía sau. T-54 được trang bị súng cối 160mm. T-55 được trang bị súng phòng không S-60 trong bệ đỡ hình vuông có cạnh thả xuống và phía sau. BTS-2 - Sản xuất muộn được xây dựng lại BTS-2 được trang bị giá treo súng máy hạng nặng phòng không và các hộp chứa đồ bổ sung. BTS-Saddam - Xe bọc thép phục hồi do Iraq sản xuất dựa trên khung gầm T-54 đã lỗi thời. Nó được trang bị tháp pháo cố định nhỏ bên trái người lái được trang bị súng máy hạng nặng phòng không, tời lớn trong khoang chiến đấu được bao phủ bằng khung kim loại, mỏ neo đất ở phía sau thân xe. Giống như hầu hết các thiết bị do Iraq sản xuất, nó được đặt tên để vinh danh Saddam Hussein. T-55/130 - Tên không chính thức của một loại pháo tự hành được sử dụng bởi Nhân dân Mujahideen của Iran. Về cơ bản là T-55 với pháo 130mm Kiểu 59-1 được gắn trong cấu trúc thượng tầng thô sơ thay cho tháp pháo. Iran T-72Z / Type 72Z / Safir-74 - Iran nâng cấp T-54/55 và Type-59 (bản sao T-54A của Trung Quốc), T-72Z là tên đặt cho những chiếc T-55 nâng cấp, Safir 74 là tên được đặt cho những chiếc T-54 được nâng cấp và Type 72Z là tên được đặt cho những chiếc Type-59 được nâng cấp. Các nâng cấp bao gồm hệ thống điều khiển hỏa lực mới Fotona EFCS-3B (với máy đo xa laser, cảm biến gió xuyên, máy tính đạn đạo và thiết bị nhìn đêm thụ động của xạ thủ), pháo tăng 105mm, váy bên, súng phóng lựu khói, gói ERA, sức mạnh mới -đóng gói với động cơ diesel 12 xi-lanh V-46-6 780 mã lực và bánh xích mới. Các nguồn tin Iran tiết lộ cũng có kế hoạch trang bị pháo 2A46 125mm cho xe tăng, nhưng có vẻ như dự án này đã bị hủy bỏ. Safir-86 - T-55 tiêu chuẩn được trang bị bộ ERA do Iran phát triển. Safir-86 với bố cục ERA cải tiến. Israel Tiran-1 - T-54 hầu như không được sửa đổi đã được biên chế trong Quân đội Israel. Tiran-2 - T-55 hầu như không được sửa đổi đã được biên chế trong Quân đội Israel. Ti-67 - một tên gọi chung cho cuộc xung đột Israel-nâng cấp xe tăng T-54s và T-55s bị bắt vào năm 1967 và 1973. Không còn phục vụ tại Israel. Tiran-4 - T-54 được sửa đổi với pháo 100 mm nguyên bản. Nó có hai lon nước được lắp vào phía sau tháp pháo, chắn bùn mới, cửa sập của bộ nạp mới mở ra phía sau và một giá gắn ăng-ten mới. Được trang bị sau đó là một thùng xếp tròn ở phía sau tháp pháo, súng máy hạng trung Browning.30 cal M1919A4 được lắp đặt ở phía trước cửa nạp đạn viên và lon xăng được lắp vào chắn bùn phía trước. Tiran-4Sh - Tiran-4 nâng cấp, trang bị pháo 105 mm Sharir . Nó cũng được trang bị một loại ăng-ten mới hơn, đèn chiếu hồng ngoại mới cho chỉ huy, một hệ thống ngắm bắn từ xe tăng hạng trung Sherman, bình cứu hỏa gắn phía trước đèn rọi, đèn pha mới, máy bay hạng trung Browning .30 cal M1919A4 được gắn ở trung tâm súng, giá treo cờ hiệu và một can dầu gắn phía sau chắn bùn bên trái.  Nó cũng có các giá để đạn được sửa đổi cho phù hợp với loại đạn 105mm, thiết bị liên lạc mới, ghế chỉ huy được sửa đổi, ghế của xạ thủ mới, lắp chỉ báo phương vị, cửa lái được sửa đổi để có thể mở từ bên ngoài, súng máy đồng trục được thay thế bằng khẩu 7,62 Súng máy mm Browning và gắn vòm hầu súng máy hạng nặng phòng không DShK 1938/46 được thay thế bằng súng máy hạng nặng 12,7 mm Browning, điều khiển hỏa lực mới, thiết bị nhìn ban đêm, hệ thống điện, hệ thống điều hòa không khí, ăng ten gắn ở phía sau tháp pháo, xe tăng bộ binh-điện thoại ở phía sau thân xe, cửa xả hướng lên trên, lắp đặt thêm hệ thống chữa cháy. Tiran-5 - T-55 cải tiến với pháo 100 mm nguyên bản. Nó có hai lon nước được lắp vào phía sau tháp pháo, chắn bùn mới, một thùng xếp tròn ở phía sau tháp pháo và súng máy hạng trung .30 cal M1919A4 Browning gắn ở phía trước cửa sập của người nạp đạn. Được trang bị sau đó là súng máy hạng nặng .50 cal M2 trên nòng pháoxe tăng, lon xăng bổ sung, hộp sơ cứu, vòng quanh nắp của bộ nạp đạn cho khẩu .30 cal, đèn mới tương tự như đèn được sử dụng trong M60 Patton, một cáng gấp ở bên trái xe và một điện đài xe tăng bộ binh ở phía sau thân xe. Tiran-5Sh - T-55 nâng cấp, lắp pháo Sharir 105 mm. Nó cũng có các giá để đạn được sửa đổi để phù hợp với loại đạn 105mm, thiết bị liên lạc mới, ghế chỉ huy được sửa đổi, ghế của xạ thủ mới, lắp chỉ báo phương vị, cửa lái xe được sửa đổi để có thể mở từ bên ngoài, súng máy đồng trục được thay thế bằng súng máy Browning 7,62mm và vòm treo gắn súng máy hạng nặng DShK 1938/46 được thay thế bằng súng máy hạng nặng Browning 12,7 mm, điều khiển hỏa lực mới, thiết bị nhìn ban đêm, hệ thống điện, hệ thống điều hòa không khí, ăng ten gắn ở phía sau tháp pháo, cửa xả hướng lên trên, lắp đặt thêm hệ thống xếp hàng theo dõi và hệ thống chữa cháy. Nó còn được gọi là T-55S. Tiran-5Sh được trang bị một lưỡi gạt. Ti-67 được trang bị Blazer ERA. Ti-67s- Đây là Ti-67 với nhiều cải tiến khác ngoài tất cả các sửa đổi trước đó. Chúng bao gồm lắp động cơ Detroit Diesel 8V-71T của Mỹ có công suất 609 mã lực, hộp số thủy động cơ bán tự động mới được trang bị bộ biến mô, bộ làm sạch không khí mới, giáp phản ứng nổ Blazer được bổ sung vào thân và tháp pháo, hệ thống ổn định súng Cadillac-Gage-Textron , lắp đặt hệ thống điều khiển hỏa lực vi tính EL-OP Matador, vòm chỉ huy cấu hình thấp, thiết bị dò hồng ngoại, thiết bị nhìn đêm tăng cường hình ảnh cho chỉ huy, xạ thủ và lái xe, hệ thống phát hiện và chế áp hỏa lực Spectronix, giỏ tháp pháo mới, kho chứa rộng rãi bên ngoài, Trạm lái xe được hiện đại hóa bao gồm việc thay thế các bánh xe xới bằng vô lăng, hệ thống truyền động cuối cùng mới, hệ thống nhiên liệu hoàn toàn mới và hệ thống treo cải tiến. Achzarit - Xe tăng T-55 được chuyển đổi thành xe bọc thép hạng nặng. VT-55A chiếm được từ Ai Cập hoặc Syria và được sửa đổi để đáp ứng nhu cầu của Quân đội Israel. Nó có một trụ gắn phía trước của các chỉ huy hình vòm cho 50cal HMG. VT-55KS thu được từ Ai Cập hoặc Syria và được sửa đổi để đáp ứng nhu cầu của Quân đội Israel. MT-55 bắt giữ từ Ai Cập hoặc Syria và được sửa đổi để đáp ứng nhu cầu của Quân đội Israel. Nó được gắn một ăng-ten mở rộng. T-54 chuyển đổi thành một xe bọc thép ứng biến. Được xây dựng lại / sửa đổi bởi Quân đội Israel, những người nhanh chóng chuyển giao chúng cho lực lượng dân quân Cơ đốc giáo Nam Liban. Tháp pháo được thay thế bằng các tấm chắn giáp xung quanh vòng tháp pháo và các tấm chắn giáp được trang bị cho hai bên cửa sập của trình điều khiển. Được biết đến với cái tên Tiran hoặc T-54 APC, nó có kíp lái 5 người và mang theo một số lượng binh sĩ không xác định. T-55M3: Xe tăng chiến đấu của Việt Nam được Israel nâng cấp từ T-54B, ứng dụng một số công nghệ mới thiết kế theo kiểu phương Tây, bổ sung thêm giáp yếm, giáp phản ứng nổ, diềm chắn xích, trang bị hệ thống điều khiển hỏa lực kiểu mới để xe tăng có thể bắn với độ chính xác cao khi hành tiến (trước kia vừa chạy vừa bắn chỉ có độ chính xác thấp). T-55M3 được trang bị giáp ERA thế hệ thứ hai có khả năng chống lại đạn tên lửa chống tăng B-72 và các loại đạn lõm chống tăng thông thường, thay pháo 100mm bằng pháo nòng xoắn 105 mm M68/L7 của Israel. Lắp đặt thêm súng cối 60 mm, súng máy PKT 7,62 mm, bộ cảm biến MAWS6056B của Pháp và động cơ diesel 1000 mã lực của Đức. Phiên bản này chỉ dừng ở mức thử nghiệm. Pakistan Al-Zarrar - Type 59 hiện đại hóa mà cũng có thể được áp dụng cho T-54s và T-55ss . Vào tháng 6 năm 2015, Serbia đã bán 282 xe tăng T-55 hiện đại hóa của mình cho Pakistan. Peru Hiện đại hóa T-55 thay thế động cơ diesel V-55 bằng động cơ diesel Caterpillar. Nó không được Quân đội Peru chấp nhận. T-55M1 Leon 1 - Hiện đại hóa T-55 do kỹ sư người Peru Sergio Casanave thiết kế. Dự án được đặt tên là DIEDE 2005. Quân đội Peru đã hỗ trợ dự án kể từ khi nó bắt đầu. Việc hiện đại hóa này phù hợp với T-55 với hệ thống điều khiển hỏa lực mới, máy đo xa laser và hệ thống song song SACLOS 9M14-2T HEAT Các bệ phóng ATGM Malyutka 2M ở mỗi bên tháp pháo. Ngoài ra, khẩu pháo chính cũng được sửa đổi để bắn M-43A1 APFSDS 100 mm. Ít nhất ba chiếc trình diễn vật lý đã được thực hiện, nhưng không có chiếc nào trở thành nguyên mẫu hoạt động. Bị từ chối bởi Quân đội Peru. T-55M2A1 Leon 2 - Cũng được thiết kế bởi kỹ sư người Peru Sergio Casanave, đề xuất nâng cấp này bao gồm hệ thống điều khiển hỏa lực tầm nhiệt và quang học mới, khả năng bắn đạn M-43A1 / M-43A3 APFSDS (lên đến 2.600 m) và bệ phóng cho tên lửa chống tăng dẫn đường bằng tia laser 9M117 Bastion (3UBK23-1)có tầm bắn lên tới 6.000 m và độ xuyên giáp RHAe 750 mm sau ERA, động cơ mới phát triển 630 mã lực và hệ thống nhìn đêm mới. Ít nhất ba chiếc trình diễn vật lý đã được thực hiện, nhưng không có người nào trở thành nguyên mẫu hoạt động. Bị từ chối bởi Quân đội Peru. Tifón-2 ( (tiếng Anh Typhoon-2 ) - Hiện đại hóa T-55 do kỹ sư Sergio Casanave thiết kế và được phát triển bởi Desarrollos Industriales Casanave de Perú (DICSA), (Casanave Industrial Developments Peru) và Phòng thiết kế chế tạo máy Kharkiv Morozov của Ukraina. Nó dựa trên T-55AGM của Ukraine và gần như giống hệt nhau, ngoại trừ động cơ, vũ khí trang bị chính, Hệ thống điều khiển hỏa lực với ống ngắm xạ thủ 1G46M, ống ngắm chỉ huy PKN-5 và cả hai đều được tích hợp với ống ngắm nhiệt Buran - Catherine, có máy lạnh hệ thống,áo giáp thép hợp kim đặc biệt Deflek Ceramic, và Noshgiáp phản ứng nổ. Xe tăng được trang bị động cơ diesel tăng áp đa nhiên liệu 5TDFMA hai kỳ làm mát bằng chất lỏng mới với piston tăng công suất 1.050 mã lực và có tốc độ tối đa trên 75 km / h trên đường ở số tiến và hơn 35 km / h ở số lùi. Vũ khí trang bị chính là pháo nòng trơn 125 mm KBM-1M 48 có khả năng bắn các loại đạn thông thường với hiệu suất nâng cao, có thể tiêu diệt các loại xe tăng hiện đại từ cự ly lên đến 3.500 m (APFSDS và HEAT-TANDEM) và các khẩu có nòng phóng ATGM Kombat có sức xuyên 800 mm RHAe sau ERA và có khả năng tiêu diệt xe tăng hiện đại từ khoảng cách lên tới 5.000 m. Pháo nặng 2,5 tấn, có chiều dài nòng 6 m và có thể bắn các loại đạn APFSDS, HEAT và HE-FRAG. Pháo có độ dài độ giật thông thường là 26–30 cm và độ dài độ giật tối đa là 31 cm. Quân đội Peru không coi là một lựa chọn để nâng cấp. Hỗ trợ hỏa lực T-55 -Uralvagonzavod đang cung cấp cho Quân đội Peru bản nâng cấp cho những chiếc T-55 của họ như một phương án thay thế bằng xe tăng mới. Đề xuất là thay thế tháp pháo của các xe tăng hiện tại của họ bằng tháp pháo của BMPT. Tháp pháo BMPT được trang bị hai khẩu pháo tự động 2A42 30 mm, hai súng phóng lựu AGS-17, bốn ATGM 9M120 Ataka-V và một súng máy PKTM. Mỗi người điều khiển tháp pháo đều có một ống ngắm và người điều khiển vũ khí chính có một máy ảnh nhiệt, một ống ngắm quang học và một máy ảnh toàn cảnh. Nó cũng được trang bị một hệ thống phát hiện laser. Mặc dù thiết kế BMPT phù hợp với khung gầm xe tăng T-72, nó có thể được điều chỉnh để phù hợp với T-55. Cộng hòa Srpska SO 76 M-18 Mod - Những chiếc MBT đời sau T-55 được Serbia ở Bosnia trang bị tháp pháo của pháo chống tăng M18 Hellcat . Chúng được sử dụng để đào tạo thợ máy trước chiến tranh. Lực lượng Bosniak đã bắt được ít nhất một chiếc. T-55 do người Serbia ở Bosnia chuyển đổi thành SPAAG trang bị súng Bofors AA. Rhodesia T-55LD với bộ radio chiến thuật FM của Nam Phi được lấy từ xe bọc thép Eland. Thông tin liên lạc của Eland sử dụng micrô kích hoạt ở cổ họng và được coi là ưu việt hơn so với các mẫu của Liên Xô; Hệ thống này cũng đặc biệt ở chỗ, radio được vận hành bởi một chỉ huy xe tăng Rhodesian, chứ không phải người nạp đạn như tiêu chuẩn của học thuyết T-55. Tám xe tăng T-55 do Ba Lan sản xuất dành cho chế độ của Idi Amin ở Uganda đã được người Nam Phi chuyển hướng tới Rhodesia, vào năm cuối cùng của Chiến tranh Rhodesian Bush. Serbia T-55H- Cải thiện khả năng vận động: động cơ tăng công suất bằng cách lắp máy bơm cao áp mới, sản xuất trong nước, lắp đặt bộ làm mát nước và làm mát dầu mới và sửa đổi bộ truyền động bằng cách lắp bánh răng mới. Cải tiến hỏa lực: lắp súng máy phòng không 12,7mm M-87 và lắp súng máy 7,62mm M-84. Cải thiện khả năng bảo vệ trong: lắp giáp bảo vệ chống nổ, lắp tấm chắn chống tích tụ, lắp đặt bình chữa cháy mới sử dụng halon, hiện đại hóa thiết bị bảo vệ hạt nhân, lắp đặt màn khói hệ thống bảo vệ tích cực (mặt nạ chủ động) và lắp đặt khối lắp ráp để cố định một phần nắp vòm của kíp xe đã đóng cửa. Các cải tiến khác bao gồm lắp đặt thiết bị tự cố thủ, lắp đặt thiết bị đào và hủy kích hoạt mỏ KMT-6, lắp đặt khối lắp ráp để cố định nắp vòm của phi hành đoàn, đóng một phần và hiện đại hóa các thiết bị IR chủ động (hồng ngoại) và chuyển chúng thành thụ động. Vào tháng 6 năm 2015, Serbia bán 282 xe tăng T-55 đã lỗi thời cho Pakistan. VIU-55 Munja - T-55 chuyển đổi thành IFV kỹ thuật, tương tự như IDF Achzarit của Israel. Slovakia UOS-155 "Belarty" (Univerzálny Odtarasovací Stroj) - Xe kỹ sư chiến đấu của Slovakia có gắn bộ phận dọn mìn. Xe bao gồm khung gầm T-55 với tháp pháo bọc thép (với máy xúc thủy lực có gắn xẻng) của xe công binh UDS-214. UOS-155B (Univerzálny Odtarasovací Stroj) - UOS-155 "Belarty" với máy xúc thủy lực có gắn thiết bị rà phá bom mìn. SPOT-55 Xe tăng chữa cháy với 2 vòi rồng và 11.000 lít nước, được tân trang lại bởi Đội cứu hỏa tình nguyện POLE để sử dụng trong các hoạt động đặc biệt. Slovenia T-55S - Nguyên mẫu của M-55S. M-55S - T-55 Hiện đại hóa do công ty STO RAVNE và các kỹ sư của công ty Elbit của Israel phát triển. Slovenia hiện đại hóa 30 xe tăng T-55 trong kho vũ khí của mình. Chiếc T-55 cuối cùng được hiện đại hóa lên tiêu chuẩn M-55S vào tháng 5 năm 1999. Pháo tăng 100 mm ban đầu được thay thế bằng loại 105 mm với ống dẫn nhiệt. Lớp giáp bảo vệ của xe tăng đã được cải thiện đáng kể bằng cách gắn khối ERA Rafael vào thân xe và tháp pháo. Một máy tính đạn đạo kỹ thuật số đã được lắp đặt để cải thiện hệ thống điều khiển hỏa lực (FCS). Xạ thủ có kính ngắm ngày đêm ổn định hai trục Fotona SGS-55 với máy đo xa laser tích hợp. Ngoài tầm nhìn quang học tích hợp, người chỉ huy còn có ống ngắm Fotona COMTOS-55 với tính năng ổn định đường ngắm độc lập, cho phép anh ta thu được mục tiêu và đặt súng một cách độc lập nếu được yêu cầu. Người lái xe có kính tiềm vọng quan sát ngày / đêm kết hợp Fotona CODRIS. Bộ thu cảnh báo chiếu sáng bằng laser LIRD-1A được kết hợp với súng phóng lựu khói IS-6 gắn phía trước (trong đó có sáu trong hai cụm, mỗi cụm một bên tháp pháo) và có thể được tự động kích hoạt trong trường hợp khẩn cấp. Việc hiện đại hóa động cơ diesel V-12 giúp tăng công suất từ ​​520 mã lực lên 600 mã lực. Thiết bị chạy có váy bên bằng cao su và xe tăng được trang bị các rãnh cao su và kim loại mới. Các cải tiến cũng được thực hiện đối với các thiết bị hỗ trợ thông tin liên lạc. M-55S-USP - M-55S chuyển đổi thành xe huấn luyện lái xe. Tháp pháo đã được thay thế bằng một khung huấn luyện với chỗ ngồi cho một người hướng dẫn và hai người lái xe tập sự. Người lái xe thứ ba đang ở vị trí lái xe bình thường. Nó còn được gọi làLM-55 -55, M-55USP và USP9. Sudan Digna - Bản sao T-55 do Sudan sản xuất. Việt Nam T-55M: Phiên bản cải tiến của T-54B/T-55 mà Việt Nam áp dụng, thay thế cho phiên bản T-55M3 của Isreal đã bị dừng. Xe được bổ sung thêm giáp yếm, giáp phản ứng nổ, diềm chắn xích, trang bị hệ thống điều khiển hỏa lực kiểu mới TIFCS-3BU bao gồm hệ thống ngắm bắn TSGS-54BU do Tây Ban Nha sản xuất. Hệ thống kiểm soát hoả lực TIFCS-3BU được tích hợp máy đo xa laser và bộ ổn định đường ngắm giúp bắn chính xác kể cả khi xe đang di chuyển, kính ngắm ảnh nhiệt có thể giúp xác định được mục tiêu trong đêm tối một cách dễ dàng và khai hoả chính xác. Khẩu pháo 100mm được giữ lại, nhưng được bổ sung thêm các tấm bọc cách nhiệt để làm giảm độ cong nòng pháo do nhiệt độ, giúp đường đạn bắn chính xác hơn. Nhà khai thác Hiện tại - Một số chiếc T-55 đã được phục vụ vào đầu Chiến tranh 1992–1993 ở Abkhazia. Tất cả những thứ này đều bị mất trong 4 tháng đầu của cuộc giao tranh, tại thời điểm đó lực lượng Abkhazian đã bắt được 8 chiếc T-55 từ tay quân Gruzia. Những lúc cao điểm, có 100 chiếc T-55 và T-72 trong biên chế. Hơn 50 chiếc T-55 và T-72 đã được đưa vào sử dụng trong năm 2004. 87 chiếc T-55 và T-72 đã được phục vụ trước cuộc chiến tranh Nam Ossetia năm 2008. Khoảng 50 đến 60 chiếc T-55 và T-72 hiện đang được biên chế. - 40 chiếc T-54 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1963 và chuyển giao vào năm 1963 (những chiếc này trước đây thuộc biên chế của Liên Xô). 25 chiếc T-54 và 25 chiếc T-55 đã được đặt hàng vào năm 1965 và được chuyển giao vào năm 1966 (những chiếc T-54 trước đây thuộc biên chế của Liên Xô). 100 chiếc T-54 đã được đặt hàng vào năm 1966 và được chuyển giao trong khoảng thời gian từ năm 1966 đến năm 1967 (những chiếc xe trước đây thuộc biên chế của Liên Xô). 100 chiếc T-55 được đặt hàng vào năm 1966 và giao hàng vào năm 1967. 50 chiếc T-55 được đặt hàng năm 1981 và được chuyển giao vào năm 1982 (những chiếc này có lẽ trước đây đã thuộc biên chế của Liên Xô). 324 chiếc T-54 và T-55 trong biên chế vào đầu năm 2001, 320 chiếc trong những năm năm 2003, 2004 và 270 chiếc vào năm 2006., 2004 và 270 vào năm 2006. - 50 chiếc T-54 và có thể cả T-55 đã được đặt hàng vào năm 1975 và được chuyển giao trong khoảng thời gian từ 1975 đến 1978 (những chiếc này trước đây thuộc biên chế của Liên Xô). 100 chiếc T-55 được đặt hàng vào năm 1987 và được chuyển giao trong khoảng thời gian từ năm 1987 đến năm 1988 (những chiếc này có lẽ trước đây thuộc biên chế của Liên Xô). 30 chiếc T-55 nhận từ Nga năm 1993 đến 1994 (20 chiếc năm 1993 và 10 chiếc năm 1994). 62 chiếc T-55M được đặt hàng vào năm 1999 từ Belarus và giao hàng vào năm 1999 (những chiếc xe này trước đây thuộc biên chế Liên Xô và sau đó là Belarus). 31 chiếc T-55 được đặt hàng vào năm 1999 từ Bulgaria và được giao vào năm 1999 (các xe này trước đây thuộc biên chế của Bulgaria). 205 chiếc T-55AM2 được đặt hàng từ Slovakia năm 1999 với 150 chiếc được giao vào năm 1999 và 55 chiếc vào năm 2000 (những chiếc này trước đây thuộc biên chế của Tiệp Khắc và sau đó là Slovakia). 90 chiếc T-54 và T-55 được đưa vào biên chế năm 2000. Khoảng 560 chiếc T-54, T-55, T-62 và T-72 được đưa vào biên chế đầu năm 2001. 400 chiếc T-54 và T-55 được đưa vào biên chế năm 2004 và khoảng 200 chiếc vào năm 2005 và 2006. - 3 chiếc T-54 tính đến năm 2017. - 350 chiếc T-54 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1960 và được chuyển giao từ năm 1961 đến năm 1966 (những chiếc xe này có thể là từ dây chuyền sản xuất của Tiệp Khắc). 150 chiếc T-55 đã được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1963 và được chuyển giao trong khoảng thời gian từ năm 1964 đến năm 1966. Ai Cập đã mất 820 chiếc trong Chiến tranh 6 ngày, trong đó có 82 chiếc T-55. 800 chiếc T-54 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1967 và được chuyển giao trong khoảng thời gian từ năm 1967 đến năm 1972 (một số xe có thể là từ dây chuyền sản xuất của Tiệp Khắc và /hoặc Ba Lan). 550 chiếc T-55 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1967 và được giao trong khoảng thời gian từ 1969 đến 1973. 50 chiếc T-54 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1972 và được chuyển giao vào năm 1973 (những chiếc này trước đây thuộc biên chế của Liên Xô). 895 chiếc T-54 và T-55 trong biên chế đầu những năm 2003 và 2004. 840 chiếc T-54 và T-55 được đưa vào biên chế vào năm 2006. 260 chiếc Ramses II được đưa vào biên chế trong năm 2004 và 2006. - 300 chiếc T-54 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1964 và được giao trong khoảng thời gian từ 1965 đến 1967. 225 chiếc T-55 được đặt hàng vào năm 1968 từ Liên Xô và được giao trong khoảng thời gian từ 1968 đến 1971. 650 chiếc T-55 đã được đặt hàng vào năm 1971 từ Liên Xô và được chuyển giao từ năm 1971 đến năm 1974.  274 chiếc T-54, 44 chiếc T-55 và 7 chiếc T-55AK được đặt hàng vào năm 1970 từ Tiệp Khắc và được giao trong khoảng thời gian từ năm 1970 đến năm 1971 (một số chiếc trước đây thuộc biên chế của Tiệp Khắc). 300 chiếc T-55 đã được đặt hàng vào năm 1971 từ Ba Lan và được chuyển giao vào năm 1971 (một số chiếc trước đây thuộc biên chế của Ba Lan). 800 chiếc T-55 và những chiếc T-55 hiện đại hóa đã được đưa vào phục vụ năm 1990, khoảng 750 chiếc vào năm 1995, khoảng 700 chiếc vào năm 2000, đầu năm 2001 và đầu năm 2003, 450 chiếc vào các năm 2002, 2005 và 2008. Số lượng T-55 và T-55 hiện đại hóa trong biên chế sẽ ở mức 450 chiếc vào năm 2010 và giảm xuống còn 220 chiếc vào năm 2015. Có khoảng 550 chiếc T-55 trong biên chế và khoảng 200 chiếc được niêm cất vào năm 1999. Năm 2004, Quân đội Ấn Độ có tổng cộng 700 chiếc T-55, 450 chiếc trong số đó đang hoạt động. Năm 2006, Quân đội Ấn Độ có 715 chiếc T-55, được hiện đại hóa với thiết bị chiến đấu ban đêm và hệ thống điều khiển hỏa lực mới, khoảng 67 chiếc trong số đó được dự bị. Vào tháng 5 năm 2011, nhiều chiếc T-55 được cho thôi phục vụ và chuyển sang kho niêm cất. Một số lượng xe bọc thép phục hồi nhất định dựa trên T-54 tính đến năm 2017. - 30 chiếc T-54 được đặt hàng từ Ai Cập vào năm 1975 và chuyển giao vào năm 1975 (với tư cách viện trợ, những chiếc này trước đây thuộc biên chế của Ai Cập). 100 chiếc T-54 và T-55 trong biên chế vào các năm 2004 và 2006. - 900 chiếc T-54 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1953 và được giao từ năm 1954 đến năm 1959. 900 chiếc T-55 được đặt hàng vào năm 1961 từ Liên Xô và được giao trong khoảng thời gian từ năm 1962 đến năm 1970. 1475 chiếc T-54, T-55 và T-72 được biên chế vào đầu năm 2001. 1042 chiếc T-54 và T-55 hoạt động vào đầu năm 2003, 2004 và 2006. Hiện tại, có tới 430 chiếc đang trong biên chế hoặc niêm cất. Một số được sử dụng để đào tạo lái xe tăng cơ bản. - 10 chiếc T-55 được đặt hàng từ Ai Cập vào năm 1997 và chuyển giao vào năm 1997 (những chiếc này trước đây thuộc biên chế của Ai Cập). 170 chiếc T-34, T-55, M60A3 và AMX-30 trong biên chế vào đầu năm 2001. 192 chiếc T-34, T-54/T-55, M60A3s, M-84 và AMX-30 trong biên chế vào đầu năm 2003. Hiện tại, quân đội Bosnia Herzegovina vận hành 180 chiếc T-55.  80 chiếc T-55 được đưa vào biên chế đầu năm 2004, 69 chiếc T-55 và 13 chiếc T-54 vào năm 2005 và 75 chiếc T-55 vào năm 2006. - 10 chiếc T-55 đã được đưa vào biên chế vào đầu năm 2003, 2004 và 2006. - 10 chiếc T-54 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1983 và được chuyển giao vào năm 1983 (những chiếc này trước đây thuộc biên chế Liên Xô). 100 chiếc T-55 được đặt hàng từ Liên Xô năm 1988 và chuyển giao vào năm 1989 (hình thức viện trợ, các xe này trước đây có thể thuộc biên chế Liên Xô, các xe này có thể do Việt Nam cung cấp). 15 chiếc T-55 được đặt hàng từ Liên Xô năm 1990 và giao hàng vào năm 1990. 40 chiếc T-55AM2 được đặt hàng vào năm 1994 từ Cộng hòa Séc và giao hàng vào năm 1994 (những chiếc này trước đây thuộc biên chế Tiệp Khắc và sau này là của Séc). 50 chiếc T-55AM2BP được đặt hàng từ Ba Lan vào năm 1994 và chuyển giao vào năm 1994 (những chiếc này trước đây thuộc biên chế của Ba Lan). 150 chiếc T-55, Type 59 và PT-76 trong biên chế vào đầu năm 2001 và 170 chiếc vào đầu năm 2003. Hơn 100 chiếc T-54 và T-55 đã được đưa vào biên chế trong các năm 2004 và 2006. 103 chiếc T-54 trong biên chế năm 2007. Campuchia đã mua 50 xe tăng chiến đấu chủ lực T-55A từ Đông Âu. Ngày 20 tháng 9 năm 2010, Campuchia có 220 chiếc T-54 / T-55 được biên chế vào năm 2011. - 20 chiếc T-55 được đặt hàng từ Ukraine vào năm 2005 và chuyển giao vào năm 2006 (những chiếc này trước đây thuộc biên chế Liên Xô và sau này là Ukraine).  20 chiếc T-55 được đưa vào biên chế năm 2006. - 25 chiếc T-54 và T-55 đã được đặt hàng vào năm 1982 từ một nhà cung cấp không xác định và được giao vào năm 1982 (những chiếc xe này có lẽ đã qua sử dụng). 25 chiếc T-54 và T-55 đã được đưa vào biên chế trong các năm 2004 và 2006. Hiện có 25 chiếc T-54 và T-55 đang được biên chế. - 4 chiếc T-55 được đặt hàng năm 1982 từ Libya và được chuyển giao vào năm 1982 (viện trợ, những chiếc xe này trước đây có thể thuộc biên chế của Libya). 4 chiếc T-55 được đưa vào biên chế vào đầu năm 2001 và 3 chiếc vào đầu năm 2003, 2004 và 2006. - 60 chiếc T-55 đã được đưa vào biên chế vào đầu năm 2001, 2003, 2004 và 2006. Hiện có 60 chiếc T-55 đang được biên chế. - 100 chiếc T-55 đã được Liên Xô viện trợ vào năm 1963 (những chiếc xe này trước đây thuộc biên chế Liên Xô). 1200 chiếc T-55 đã được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1964 và được giao trong khoảng thời gian từ năm 1964 đến 1975. 25 chiếc T-55 và T-54 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1981 và được chuyển giao vào năm 1981 (những chiếc xe này trước đây thuộc biên chế Liên Xô). Hiện tại Cuba sở hữu 1100 chiếc T-55, hầu hết trong số đó đang được cất giữ hoặc được sử dụng làm khung gầm pháo tự hành và khung gầm gắn tên lửa SA-3 và SA-2. 120 chiếc T-55 được hiện đại hóa lên tiêu chuẩn T-55M và 20 chiếc nữa lên T-55AM. - 120 chiếc T-55A được đặt hàng từ Bulgaria vào năm 2004 và được giao vào năm 2005 (những chiếc này trước đây thuộc biên chế của Bulgaria). 150 chiếc T-54 và T-55 đã được đưa vào biên chế vào đầu năm 2003, 2004 và 2006. - 200 chiếc T-54 và 200 chiếc T-55 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1977 và được chuyển giao trong khoảng thời gian từ 1977 đến 1978 (những chiếc T-54 trước đây thuộc biên chế Liên Xô trong khi những chiếc T-55 trước đây có thể thuộc biên chế Liên Xô). 60 chiếc T-54 được đặt hàng từ Đông Đức vào năm 1978 và được chuyển giao trong khoảng thời gian từ năm 1979 đến năm 1980 (những chiếc xe này trước đây thuộc biên chế Đông Đức). 700 chiếc T-55 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1980 và được giao trong khoảng thời gian từ 1980 đến 1988 (những chiếc xe này có thể là từ dây chuyền sản xuất của Tiệp Khắc). 90 chiếc T-55 được đặt hàng từ Libya vào năm 1983 và được chuyển giao vào năm 1984 (những chiếc xe này trước đây thuộc biên chế của Libya). 50 chiếc T-55 được đặt hàng từ Đông Đức vào năm 1989 và được giao vào năm 1989 (những chiếc này trước đây thuộc biên chế Đông Đức, nhiều chiếc đã được đặt hàng thêm nhưng đơn đặt hàng đã bị hủy bỏ). 40 chiếc T-55 được đặt hàng từ Belarus vào năm 1998 và được chuyển giao vào năm 1998 (những chiếc này trước đây thuộc biên chế của Belarus). 50 chiếc T-55 được đặt hàng vào năm 1998 từ Bulgaria và được giao vào năm 1999 (những chiếc này trước đây thuộc biên chế của Bulgaria, một số có thể là xe cũ của Ukraine và/hoặc của Romania được bán qua Bulgaria). 140 chiếc T-55 đã được đặt hàng từ Bulgaria vào năm 1999 và được giao trong khoảng thời gian từ 1999 đến 2002 (những chiếc này trước đây thuộc biên chế của Bulgaria, một số có thể là xe cũ của Ukraine và/hoặc Romania được bán qua Bulgaria, việc giao 40 chiếc cuối cùng là bị đình chỉ từ năm 2000 đến năm 2001 do lệnh cấm vận của Liên hợp quốc). Khoảng 160 chiếc T-55 và T-62 được đưa vào biên chế vào đầu năm 2001 và hơn 270 chiếc vào đầu năm 2003. Hơn 250 chiếc T-54, T-55 và T-62 đã được đưa vào biên chế năm 2004 và 2006. - 120 chiếc T-55AM2 và T-54 được đặt hàng từ Cộng hòa Séc năm 1998, 10 chiếc T-55AM2 được chuyển giao vào năm 2000 và số còn lại vào năm 2001 (các xe này trước đây thuộc biên chế Tiệp Khắc và sau này là của Séc). 108 chiếc T-55M được phục vụ vào đầu cuộc Chiến tranh 1992–1993 ở Abkhazia. Khoảng 40 chiếc T-55 được đưa vào phục vụ trong các năm 1992 và 1995, 48 chiếc năm 2000, 59 chiếc năm 2002, 55 chiếc năm 2004, 2005, 2006 và 56 chiếc năm 2008. - 8 chiếc T-54 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1974 và được chuyển giao vào năm 1974 (những chiếc xe này có lẽ đã qua sử dụng). 8 chiếc T-54 đã được đưa vào biên chế trong các năm 2004 và 2006. Hiện có 8 chiếc T-54 đang được biên chế. - 300 chiếc T-54 được chuyển giao từ Liên Xô trong năm 1959-1960. Một số phương tiện phục hồi bọc thép dựa trên T-54 cho năm 2017. - Một số lượng xe bọc thép phục hồi nhất định dựa trên T-54 tính đến năm 2017. - 250 chiếc T-54 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1958 và được giao trong khoảng thời gian từ 1959 đến 1965. 50 chiếc T-54 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1967 và chuyển giao vào năm 1968. Khoảng 80 đến 120 chiếc T-54 đã bị thất lạc trong Chiến tranh Yom Kippur. 300 chiếc T-55 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1973 và được giao trong khoảng thời gian từ 1974 đến 1975. 50 chiếc T-54 và T-55 được đặt hàng vào năm 1980 từ Đông Đức và được giao vào năm 1981 (những chiếc xe này trước đây thuộc biên chế Đông Đức). 400 chiếc T-55 và T-54 được đặt hàng từ Ba Lan vào năm 1980 và giao hàng trong khoảng thời gian từ năm 1981 đến năm 1982 (những chiếc xe này trước đây có thể thuộc biên chế của Ba Lan). 250 chiếc T-55 được đặt hàng từ Ai Cập vào năm 1981 và được giao trong khoảng thời gian từ 1981 đến 1983 (những chiếc này trước đây thuộc biên chế của Ai Cập). 150 chiếc TR-580 được đặt hàng vào năm 1981 từ Romania và được giao trong khoảng thời gian từ năm 1981 đến năm 1984 (những chiếc xe này được giao qua Ai Cập). 400 chiếc T-55 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1981 và được giao trong khoảng thời gian từ năm 1982 đến năm 1985 (các xe này thuộc dây chuyền sản xuất của Tiệp Khắc). Khoảng 200 chiếc T-54 và T-55 đã được nâng cấp lên tiêu chuẩn T-72Z (đừng nhầm với T-54/55 / ​​Type 59 hiện đại hóa Safir-74 của Iran còn được gọi là T-72Z). 1.500 chiếc T-54, T-55 và TR-580 phục vụ trong Quân đội chính quy Iraq năm 1990 và 500 chiếc vào các năm 1995, 2000 và 2002. 406 chiếc T-54 và T-55 được phục vụ trong biên chế Quân đội Chính quy Iraq năm 2003. Tất cả đều bị phá hủy hoặc loại bỏ ngoại trừ 4 chiếc T-55 hiện đang được biên chế trong Quân đội Iraq Mới. 76 chiếc T-55 được biên chế trong Quân đội Iraq mới kể từ năm 2004. 4 chiếc VT-55A được đặt hàng từ Hungary vào năm 2005 và được chuyển giao vào năm 2005 (viện trợ, những chiếc này trước đây thuộc biên chế của Hungary). Iraq cũng đã nhận được 2 chiếc JVBT-55A vào năm 2005 từ Hungary. - 60 chiếc T-54 và 65 chiếc T-55 được đặt hàng từ Libya vào năm 1981 và được chuyển giao vào năm 1981 (viện trợ, các xe này trước đây thuộc biên chế của Libya). 120 chiếc T-55 được đặt hàng từ Syria vào năm 1982 và được chuyển giao vào năm 1982 (những chiếc xe này trước đây thuộc biên chế của Syria). Iran cũng mua một số lượng Tirans từ Israel trong Chiến tranh Iran-Iraq. Một số phương tiện đã bị bắt giữ từ Iraq trong Chiến tranh Iran-Iraq. 100 chiếc T-54 và T-55 được đưa vào biên chế năm 1990, 110 chiếc năm 1995, 500 chiếc năm 2000 và khoảng 250 chiếc vào năm 2002. 540 chiếc T-54, T-55 và Type 59 được đưa vào biên chế vào các năm 2004, 2005, 2006 và 2008. 200 chiếc T-54, T-55 và Type 59 đã được nâng cấp thành tiêu chuẩn Safir-74 (còn được gọi là T-72Z mặc dù không nên nhầm lẫn nó với hiện đại hóa cùng tên của Iraq) (20 chiếc có thể là xe của Sudan hiện đại hóa cho Sudan). - 250-300 chiếc T-54, T-55 và Type 59 bị bắt từ quân đội Iraq trước đây. Không phải tất cả đều hoạt động. 95 chiếc phục vụ tính đến năm 2011 và 120 chiếc dự bị. Hiện chưa rõ số phận của những chiếc xe tăng bị bắt còn lại. - 15 chiếc T-54 và 15 chiếc T-55 được đặt hàng từ Liên Xô năm 1973 và chuyển giao vào năm 1975 (viện trợ, những chiếc xe này có lẽ trước đây thuộc biên chế Liên Xô). 15 chiếc T-54 và T-55 đã được đưa vào phục vụ trong năm 2004 và 2006. Những chiếc T-54 và T-55 đã được duyệt binh gần đây nhất là vào tháng 1 năm 2019. - 5 chiếc T-55AM Mérida được Ba Lan tặng vào năm 1999. 3 chiếc T-55AM được đưa vào sử dụng vào đầu năm 2001, đầu năm 2003, 2004 và 2006. Hiện tại 3 chiếc T-55AM2 là phục vụ. - 180 chiếc T-54 và T-55 đã được đặt hàng từ Syria vào năm 1991 và được chuyển giao trong khoảng thời gian từ năm 1992 đến 1993 (viện trợ, những chiếc xe này trước đây thuộc biên chế của Syria). 40 chiếc T-54 và T-55 Tiran được Israel cung cấp cho Lực lượng Dân quân Liban Cơ đốc giáo sau năm 1980, 20 chiếc T-54/55 khác bị bắt từ quân đội Syria vào mùa hè năm 1982 và 60 chiếc nữa được Iraq cung cấp từ năm 1986 đến năm 1989. Tất cả đều phục vụ trong Lực lượng Lebanon cho đến khi kết thúc cuộc nội chiến năm 1991. - 35 chiếc T-55 được đặt hàng từ Liên Xô năm 1990 và chuyển giao vào năm 1991 (những chiếc xe này đã qua sử dụng). 16 chiếc T-55 được đặt hàng từ Ba Lan vào năm 2001 và được giao vào năm 2002 (những chiếc này trước đây thuộc biên chế của Ba Lan). 35 chiếc T-55 trong biên chế vào đầu năm 2001, đầu năm 2003, 2004 và 2006. Hiện có 35 chiếc T-55 đang được biên chế. - 60 chiếc T-54 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1981 và được chuyển giao vào năm 1982 (những chiếc xe này trước đây thuộc biên chế của Liên Xô). 50 chiếc T-55 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1982 và được chuyển giao vào năm 1983 (những chiếc xe này trước đây thuộc biên chế của Liên Xô). 60 chiếc T-55 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1982 và được chuyển giao từ năm 1983 đến năm 1985 (những chiếc xe này trước đây thuộc biên chế của Liên Xô). Khoảng 60 chiếc T-54 trong biên chế năm 2005 và hơn 60 chiếc vào năm 2006. - 250 chiếc T-54 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1960 và được giao trong khoảng thời gian từ năm 1961 đến năm 1964. 250 chiếc T-55 được đặt hàng vào năm 1963 từ Liên Xô và được giao trong khoảng thời gian từ năm 1964 đến năm 1967. 650 chiếc T-54, T- 55 và T-62 trong biên chế vào đầu năm 2001 và 370 chiếc vào đầu năm 2003. 370 chiếc T-54 và T-55 trong biên chế các năm 2004 và 2006. Hiện tại là 370 chiếc T-54 và T-55 đang trong biên chế. - 10 chiếc T-55 nhận từ Ấn Độ. - Có tới 20 chiếc T-34 và T-55 trong biên chế vào đầu năm 2001 và một số ít vào đầu năm 2003. Một số T-34, T-54 và T-55 trong biên chế vào những năm năm 2004 và 2006. - 20 chiếc T-55 được đặt hàng vào năm 1981 từ một nhà cung cấp không xác định và được giao vào năm 1981 (những chiếc xe này trước đây có thể thuộc biên chế của Libya). 66 chiếc T-55 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1984 và được chuyển giao vào năm 1984 (những chiếc xe này trước đây thuộc biên chế của Liên Xô). 20 chiếc T-54 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1984 và chuyển giao vào năm 1985 (những chiếc xe này trước đây thuộc biên chế của Liên Xô). 50 chiếc T-55được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1986 và chuyển giao vào năm 1987 (những chiếc xe này trước đây thuộc biên chế của Liên Xô). 127 chiếc T-55 phục vụ và niêm cất vào đầu năm 2001 và đầu năm 2003, 62 chiếc trong biên chế và 65 chiếc được bảo quản vào năm 2004 và 2006. Hiện tại 31 chiếc T-55 đang phục vụ. - Khoảng từ 50 đến 100 chiếc T-55 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1979 và được chuyển giao vào năm 1981 (những chiếc xe này có lẽ trước đây thuộc biên chế của Liên Xô). Khoảng 200 chiếc T-55 và Vickers Mk III trong biên chế vào đầu năm 2001 và khoảng 250 chiếc vào đầu năm 2003. 100 chiếc T-55 trong biên chế vào các năm 2004 và 2006. Hiện có 50 chiếc T-55 đang phục vụ và chiếm 50% số xe tăng có thể sử dụng được. Novorossiya - 1 chiếc T-54 được mua lại từ một bảo tàng ngoài trời vào tháng 7 năm 2014, với hy vọng khôi phục xe tăng ở trạng thái sẵn sàng chiến đấu. Không rõ liệu xe tăng hiện đang hoạt động. - 100 chiếc T-54 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1968 và được chuyển giao vào năm 1969 (những chiếc xe này trước đây thuộc biên chế Liên Xô). 100 chiếc T-55 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1968 và được chuyển giao vào năm 1968. Tính đến năm 2010, 54 xe tăng T-54/55 trong lực lượng Dự bị. 100 xe tăng T-55H đặt hàng từ Serbia và được giao kế hoạch đến tháng 4 năm 2020 (các xe này trước đây thuộc biên chế củaSerbia). - 850 chiếc T-55 được đặt hàng từ Liên Xô năm 1969 và giao hàng từ năm 1970 đến năm 1977. 400 chiếc TR-580 được đặt hàng năm 1975 và được sản xuất từ ​​năm 1977 đến năm 1981. 150 chiếc TR-580 được sản xuất cho Iraq. Romania cũng mua một số T-54 hiện đang trong lực lượng dự bị. 398 chiếc TR-580 phục vụ trong Quân đội Romania năm 1993, khoảng 88 chiếc TR-580 vào đầu năm 1999, 717 chiếc T-55 và 227 chiếc TR-580 vào đầu năm 2003 và 2004, 268 chiếc T-55 và 43 TR-580 vào năm 2006. Theo Hiệp ước đăng ký vũ khí thông thường của Liên Hợp Quốc, Lực lượng Vũ trang Romania vận hành 710 chiếc T-55 và 227 chiếc TR-580 vào năm 2006, 750 chiếc T-55 và 226 chiếc TR-580 vào năm 2007, 394 chiếc T-55 và 227 chiếc TR-580 vào năm 2017, 120 chiếc TR-580 được biên chế trong Lực lượng Bộ binh Hải quân Romania vào đầu năm 2001 và đầu năm 2003. - 12 chiếc T-54 và T-55 trong biên chế vào đầu năm 2001, 30 chiếc vào đầu năm 2003, 24 chiếc vào năm 2005 và 2006. Ít nhất 10 chiếc Ti-67 đang hoạt động. - 510 chiếc T-55 năm 2006 và từ 240 đến 260 chiếc trong lực lượng dự bị năm 2015. Một số lượng không xác định của các phương tiện phục hồi bọc thép JVBT đang hoạt động trong Quân đội Serbia. Vào tháng 4 năm 2020, Serbia đã chuyển giao 100 chiếc T-55H hiện đại hóa cho Pakistan. - 150 chiếc T-54 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1956 và được giao trong khoảng thời gian từ 1957 đến 1958. 300 chiếc T-54 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1967 và được giao trong khoảng thời gian từ năm 1967 đến 1972 (những chiếc xe này trước đây thuộc biên chế của Liên Xô). 75 chiếc T-55 đã được đặt hàng vào năm 1967 từ Liên Xô và được giao từ năm 1967 đến năm 1968. 300 chiếc T-55 được đặt hàng vào năm 1968 từ Liên Xô và được giao trong khoảng thời gian từ 1969 đến 1972. 400 chiếc T-54 và 400 chiếc T-55 đã được đặt hàng trong 1973 từ Liên Xô và được chuyển giao trong khoảng thời gian từ 1973 đến 1978 (T-54 và có thể là T-55 trước đây thuộc biên chế Liên Xô). 600 chiếc T-55 được Liên Xô đặt hàng vào năm 1978 và được chuyển giao từ năm 1979 đến năm 1981. 2050 chiếc T-54 và T-55 trong biên chế và niêm cất vào năm 1990, 2100 chiếc vào năm 1995, 2150 chiếc vào năm 2000, 2000 chiếc vào năm 2001, 2003 và khoảng 2000 chiếc vào năm 2005. - 46 chiếc T-55 (14 chiếc đang được niêm cất) cùng 12 chiếc M-55S và M-55S-1 trong biên chế năm 1998. Tổng cộng 30 chiếc T-55 đã được hiện đại hóa lên tiêu chuẩn M-55S/M-55S-1. 30 chiếc M-55S-1 trong biên chế vào đầu năm 2003, 2004 và 2006. Hiện tại 30 chiếc M-55S-1 trong biên chế và đang trong quá trình thu hồi. - 100 chiếc T-54 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1972 và được giao trong khoảng thời gian từ năm 1973 đến năm 1974. 50 chiếc T-55 được đặt hàng vào năm 1973 từ Liên Xô và được chuyển giao vào năm 1975 (những chiếc xe này trước đây thuộc biên chế của Liên Xô). 35 chiếc T-54 được đặt hàng từ Ai Cập vào năm 1977 và được giao vào năm 1977 (những chiếc này trước đây thuộc biên chế của Ai Cập). - 85 - Lúc cao điểm có 12 chiếc T-55 và 75 chiếc T-72 trong biên chế. 15 chiếc T-55 và T-72 phục vụ trước cuộc chiến tranh Nam Ossetia năm 2008. Tất cả T-55 trong lực lượng dự bị kể từ năm 2011. - Một số chiếc T-54 và T-55 bị bắt. - 50 chiếc T-54 và 50 chiếc T-55 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1969 và được chuyển giao trong khoảng thời gian từ 1969 đến 1970. 9 chiếc T-55 được đặt hàng vào năm 1996 từ Belarus và giao hàng vào năm 1996 (các xe này trước đây thuộc Liên Xô và sau đó là Belarus). 20 chiếc T-55AM2BP được đặt hàng từ Ba Lan vào năm 1998 và được giao vào năm 1999 (đây là lô đầu tiên trong số 50 chiếc ban đầu được bán cho Yemen, nơi nó được chuyển hướng bất hợp pháp đến Sudan sau đó việc giao 30 chiếc còn lại đã bị tạm dừng, các xe này trước đây trong biên chế Ba Lan). 60 chiếc T-55M được đặt hàng vào năm 1999 từ Belarus với 40 chiếc được chuyển giao vào năm 1999 và 20 chiếc vào năm 2001 (những chiếc xe này trước đây thuộc biên chế Liên Xô và sau đó là Belarus). 20 chiếc T-72Z đặt hàng năm 2005 từ Iran và được giao vào năm 2006 (có thể là những chiếc T-54, T-55 hoặc Type 59 của Sudan được hiện đại hóa theo tiêu chuẩn T-72Z). 170 chiếc T-55 và Type 59 trong biên chế vào đầu năm 2001, 200 chiếc vào đầu năm 2003. 200 chiếc T-54 và T-55 trong biên chế vào năm 2004 và 2006. - 32 chiếc T-54 được đặt hàng từ Đông Đức vào năm 1979 và giao hàng trong khoảng thời gian từ 1979 đến 1980 (những chiếc xe này có lẽ trước đây thuộc biên chế Đông Đức). 65 chiếc T-54 và Type 59 trong biên chế vào đầu năm 2001 và 45 chiếc vào đầu năm 2003. 30 chiếc T-54 trong biên chế vào các năm 2004 và 2006. - 2 chiếc T-54 và 2 chiếc T-55 được đặt hàng vào năm 1982 từ Ai Cập và được chuyển giao vào năm 1982 (những chiếc xe này đã qua sử dụng). 1 T-54 và 1 T-55 trong biên chế vào đầu năm 2001, đầu năm 2003, 2004 và 2006. - 6.000 chiếc Type 59 được đưa vào biên chế vào các năm 1985, 1990, 1995 và 2000; 5.000 chiếc vào năm 2003 và 2005; và khoảng 5.000 vào năm 2010. - 400 chiếc T-54 và 250 chiếc T-55 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1966 và được giao từ năm 1967 đến năm 1970. 300 chiếc T-54 được đặt hàng vào năm 1967 từ Liên Xô và được giao trong khoảng thời gian từ 1969 đến 1974 (những chiếc xe này có lẽ là sản xuất hoặc lắp ráp tại Triều Tiên). 50 chiếc T-55 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1970 và được giao trong khoảng thời gian từ năm 1972 đến năm 1973. 500 chiếc T-55 đã được đặt hàng vào năm 1973 từ Liên Xô và được giao từ năm 1975 đến năm 1979 (Nhà cung cấp có thể là CHND Trung Hoa, trong trường hợp đó các xe sẽ không phải là T-55 mà là Type 59). 19 chiếc T-55 được đặt hàng từ Nga và giao hàng vào năm 1992 (những chiếc xe này được chuyển giao qua Belarus). Có 1.600 chiếc T-54 trong biên chế vào các năm 1985, 1990, 1995 và 2000. Có 3.500 chiếc T-34, T-54, T-55, T-62 và Type 59 từ đầu năm 2001 đến năm 2004 và hơn 3.500 vào năm 2006. - 16 chiếc T-54 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1974 và chuyển giao vào năm 1975 (những chiếc xe này có lẽ trước đây thuộc biên chế của Liên Xô). 60 chiếc T-55 được đặt hàng từ Ukraine vào năm 1994 và chuyển giao vào năm 1995 (những chiếc này trước đây thuộc biên chế Liên Xô và sau này là Ukraine). 62 chiếc T-55 được đặt hàng từ Ukraine vào năm 1998 và được giao vào năm 1998 (những chiếc này trước đây thuộc biên chế Liên Xô và sau này là Ukraine). 28 chiếc T-55 được đặt hàng từ Bulgaria vào năm 1998 và được giao vào năm 1998 (những chiếc này trước đây thuộc biên chế của Bulgaria, một phần của thỏa thuận trị giá 35 triệu USD cho 90 chiếc, bao gồm một số chiếc được Bulgaria mua từ Ukraine và có thể là Romania để xuất khẩu sang Uganda). 10 chiếc T-55M  đã được đặt hàng vào năm 2000 từ Belarus và chuyển giao vào năm 2000 (những chiếc này trước đây thuộc biên chế Liên Xô và sau này là Belorussia). 140 chiếc T-54 và T-55 và PT-76 trong biên chế vào đầu năm 2001. 180 chiếc T-54 và T-55 trong biên chế vào đầu năm 2003, 152 chiếc vào năm 2005 và 2006. - 15 chiếc Tiran-4Sh và Tiran-5Sh được mua từ Israel vào năm 1997 và chuyển giao cùng năm (xe trước đây phục vụ Israel). 15 chiếc Tiran-4Sh và Tiran-5Sh trong biên chế vào đầu năm 2001, đầu năm 2003, năm 2004 và năm 2006. - Hơn 1.939 chiếc T-34, T-54, T-55, T-62, PT-76 và Type 59 trong biên chế vào đầu năm 2001. 850 chiếc T-54 và T-55 và 350 chiếc Type 59 trong biên chế vào đầu năm 2003, 2004 và tới năm 2022 ngày nay - 6 chiếc T-55 được nhận từ Bulgaria vào năm 1994. 97 chiếc T-55 và 35 chiếc T-55AM2 được đặt hàng vào năm 1999 từ Cộng hòa Séc cùng với những chiếc T-55 được giao vào năm 2000 và T-55AM2 vào năm 2002 (trước đây là những chiếc xe này trong biên chế Tiệp Khắc và sau đó là CH Séc và có thể đã được hiện đại hóa trước khi được chuyển giao). 990 chiếc T-34 , T-54, T-55, T-62 và M60 trong biên chế vào đầu năm 2001. 450 chiếc T-54 và T-55 được biên chế trong giai đoạn đầu 2003, 2004 và 2006. - 5 chiếc T-54 được đặt hàng từ Liên Xô năm 1975 và giao hàng năm 1976. 20 chiếc T-55 được đặt hàng từ Liên Xô năm 1980 và giao hàng vào năm 1981 (một phần của hợp đồng trị giá 72–100 triệu USD). 60 chiếc T-55, PT-76 và Type 59 trong biên chế vào đầu năm 2001 và đầu năm 2003. 10 chiếc T-55 được biên chế trong các năm 2004 và 2006. - 20 xe tăng T-54 nhận được từ Liên Xô vào tháng 9 năm 1984. Quá khứ - 50 chiếc T-54 và 50 chiếc T-55 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1961 và được chuyển giao từ năm 1962 đến năm 1964 (những chiếc T-54 trước đây thuộc biên chế Liên Xô). 200 chiếc T-54 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1978 và được giao trong khoảng thời gian từ năm 1978 đến năm 1979 (những chiếc xe này trước đây thuộc biên chế Liên Xô). 705 chiếc T-55 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1978 và được giao trong khoảng thời gian từ năm 1978 đến năm 1991 (những chiếc xe này trước đây thuộc biên chế Liên Xô). 1.000 chiếc T-54, T-55, T-62 và PT-76 được biên chế vào ngày 1 tháng 4 năm 1992. - Albania khai thác 75 chiếc T-54 và 300 chiếc T-55 cùng với 750 chiếc Type 59, hiện nay tất cả đều đã bị loại bỏ dần. Al-Qaeda tại bán đảo Ả Rập - Vận hành một số lượng nhỏ T-55 thu được từ kho dự trữ của Yemen. Phong trào Amal - 50 chiếc T-55A được đặt hàng vào năm 1985–86 từ Syria và chuyển giao trong năm 1985–86 (viện trợ, những chiếc xe này trước đây đã được phục vụ tại Syria). - 3.000 chiếc T-54, T-54A, T-54AD và T-54AM được sản xuất từ ​​năm 1956 đến năm 1964. 7.000 chiếc T-55, T-55L, T-55AD-1 và T-55AD-2 được sản xuất từ ​​năm 1964 đến năm 1979. Một số T-54A nâng cấp lên tiêu chuẩn T-55. 200 xe tăng T-54 đã được nâng cấp thành T-55LD vào năm 1975, 10 trong số đó sau đó đã được bán cho Libya. Năm 1980 vận hành 1.207 T-55L, T-55LD, T-55AD-1 và T-55AD-2, 146 T-55, 986 T-55U và 340 T-54, T-54A, T -54AD và T-54AM. Cuối cùng hầu hết tất cả các xe tăng T-54 và T-55 đều đã được nâng cấp lên tiêu chuẩn T-55AM "Merida" (có một số chiếc không được nâng cấp trong bảo tàng). 839 chiếc cuối cùng được rút khỏi biên chế vào năm 2002. Tất cả T-54 và T-55 của Ba Lan được rút khỏi biên chế đều được sử dụng làm bia tập bắn tại các bãi tập, bán cho các quốc gia khác hoặc đưa cho các viện bảo tàng. - 200 chiếc T-54 được chuyển giao từ Liên Xô từ năm 1979 đến năm 1980. - 20 chiếc T-54 được chuyển giao từ Liên Xô trong giai đoạn từ năm 1972 đến năm 1973. - Phần lớn số T-55 của Croatia thu được từ lực lượng quân đội Nam Tư. Khoảng 209 chiếc T-55 vào phục vụ năm 1998 và 222 chiếc vào các năm 2003, 2004 và 2006. - Ít nhất 4 chiếc T-54 và T-55 của Ai Cập bị bắt giữ đã được Israel bán vào năm 1978 và chuyển giao vào năm 1979, để huấn luyện các kíp lái Chile vận hành những chiếc T-55 bị bắt giữ của Peru. - Ít nhất 296 chiếc T-54 và T-55, 2 chiếc MT-55, 25 chiếc VT-55 được kế thừa từ Tiệp Khắc. 792 chiếc T-55 và T-72 trong biên chế vào đầu năm 2001. Theo đăng ký vũ khí thông thường của Liên hợp quốc, Lực lượng vũ trang CH Séc vận hành 948 chiếc T-55 và T-72 vào năm 1997, 938 trong 1998, 792 vào năm 1999 và 652 vào ngày 1 tháng 1 năm 2001. Phương tiện cuối cùng đã được rút khỏi biên chế vào những năm đầu của thập niên 2000. - 1.800 chiếc T-54 được đặt hàng vào năm 1957 và được sản xuất theo giấy phép từ năm 1958 đến năm 1963. 1.700 chiếc T-55 được đặt hàng vào năm 1963 và được sản xuất theo giấy phép từ năm 1964 đến năm 1973. Tổng cộng 2.700 chiếc T-54 đã được sản xuất theo giấy phép từ năm 1957 và năm 1966 và 8.300 chiếc T-55 và T-55A từ năm 1964 đến năm 1983 (T-55A có lẽ được sản xuất từ ​​năm 1968) (hầu hết để xuất khẩu). Được truyền lại cho các nước kế thừa. - 202 chiếc T-54 v vào năm 1956 và được giao trong khoảng thời gian từ 1956 đến 1957. 488 chiếc T-54A và T-54AM được đặt hàng từ Ba Lan và được giao trong khoảng thời gian từ 1959 đến 1964. 1766 chiếc T-55 và T-55A là được đặt hàng vào năm 1964 từ Tiệp Khắc và được giao từ năm 1964 đến năm 1980. 333 chiếc T-55 và T-55A (P) đã được đặt hàng từ Ba Lan và được giao từ năm 1965 đến năm 1973. 362 chiếc VT-55 đã được đặt hàng vào năm 1964 từ Tiệp Khắc và được giao từ năm 1965 và 1969. Được chuyển giao cho nước Đức thống nhất. - Lấy từ quân đội của CHDC Đức, tất cả được loại bỏ, bán cho các nước khác hoặc tặng cho các viện bảo tàng. - 3 chiếc T-55 phục vụ vào đầu năm 2001, 30 chiếc vào đầu năm 2003, hơn 30 chiếc vào năm 2004 (có thể không còn hoạt động tính đến năm 2005) và hơn 30 chiếc được niêm cất vào năm 2006. - Hoạt động với số lượng nhỏ bị bắt từ các kho dự trữ của Syria và có thể là Iraq. Hezbollah - Vận hành xe Tiran 4 hoặc 5 Bị bắt giữ từ Quân đội Nam Lebanon năm 2000. - Quân đội Israel đã chiếm được trong Chiến tranh 6 ngày, sửa chữa, hiện đại hóa và đưa vào trang bị khoảng 200 chiếc T-54, T-55 và PT-76. Những chiếc T-54 và T-55 đã được hiện đại hóa lên tiêu chuẩn Tiran 4 hoặc 5 trước Chiến tranh Yom Kippur. Trong cuộc xung đột, Israel đã chiếm được thêm những chiếc T-54 và T-55. Tirans đã được rút khỏi biên chế vào cuối những năm 1980. Một số đã được bán và một số được chuyển đổi thành xe thiết giáp Achzarit. Tuy nhiên, một số xe Tirans vẫn thuộc sở hữu của Quân đội Israel, có thể là quân dự bị hoặc đang được niêm cất. Quân đội Israel có 1500 chiếc T-54 và T-55 vào năm 1990, 300 chiếc vào năm 1995, 200 chiếc vào đầu năm 2001, 2003 và 114 chiếc vào năm 2004, 126 chiếc T-54, T-55 và Tiran 6s vào năm 2006, 2008, 488 Tirans vào năm 1990, 300 chiếc vào năm 1995, 200 chiếc vào năm 2000, 2001, 2002, 261 chiếc vào năm 2006, 2008. Những chiếc Achzarit được phục vụ trong Quân đội Israel ít nhất là từ năm 1995. Có 270 chiếc Achzarit được phục vụ tại 2004, 276 vào năm 2006 và 2008. - 540 T-54, T-55 và M-77, tính đến năm 2010. - 100 chiếc T-54 và 100 chiếc T-55 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1970 và được chuyển giao trong khoảng thời gian từ 1970 đến 1971 (những chiếc T-54 trước đây có thể thuộc biên chế của Liên Xô). 150 chiếc T-55 được Liên Xô đặt hàng năm 1973 và chuyển giao năm 1974. 500 chiếc T-54 được đặt hàng từ Liên Xô năm 1975 và chuyển giao vào năm 1976 (những chiếc xe này trước đây thuộc biên chế Liên Xô). 200 chiếc T-54 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1976 và được chuyển giao trong khoảng thời gian từ năm 1976 đến 1977 (những chiếc xe này trước đây thuộc biên chế của Liên Xô). 2.000 chiếc T-55 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1976 và được chuyển giao trong khoảng thời gian từ 1977 đến 1978. Khoảng 2.200 chiếc T-55 trong biên chế năm 1986. 1.600 chiếc T-54 và T-55 đang được phục vụ và niêm cất. Vào đầu năm 2001, 500 chiếc trong biên chế. Vào đầu năm 2003, 500 chiếc trong biên chế và khoảng 1.040 chiếc được niêm cất trong năm 2004 và 2006. 210 chiếc T-54 và T-55 được phục vụ năm 2010. - 35.000 T-54-1 (T-54 Model 1946), T-54-2 (T-54 Model 1949), T-54 (T-54-3 hoặc T-54 Model 1951), T-54A , T-54B, T-54AK1, T-54AK2, T-54BK1 và T-54BK2 được sản xuất từ ​​năm 1946 đến 1958. 27.500 chiếc T-55, T-55A, T-55K1, T-55K2, T-55K3, T-55AK1, T-55AK2 và T-55AK3 được sản xuất từ ​​năm 1955 đến năm 1981. Được chuyển giao cho các quốc gia kế nhiệm. - Có khoảng 58 đến 114 chiếc T-55 được đặt hàng từ Bulgaria vào năm 1999 và được giao vào năm 1999 (viện trợ, những chiếc này trước đây thuộc biên chế của Bulgaria, có tới 56 chiếc được mua để dự phòng). 36 chiếc T-55AM-2 đã được đặt hàng vào năm 1999 và chuyển giao vào năm 1999 (viện trợ, các xe này trước đây thuộc biên chế của Bulgaria). 94 chiếc T-55 được đưa vào phục vụ vào đầu năm 2001, 125 chiếc T-55 và T-72 vào đầu năm 2003, 30 chiếc T-55A vào năm 2004 và 2006. and 2006. - 21 chiếc T-34, T-54 và T-55 trong biên chế vào đầu năm 2001, 33 chiếc vào đầu năm 2003. 12 chiếc T-54 và T-55 trong biên chế năm 2004, 2006 và 2013 nhưng với điện đài cũ hoặc hỏng. - 40 chiếc T-54B được đặt hàng từ Liên Xô năm 1960 và chuyển giao vào năm 1962. 80 chiếc T-54 được đặt hàng từ Liên Xô năm 1966 và được giao trong khoảng thời gian từ năm 1967 đến năm 1968 (những chiếc xe này có lẽ từ dây chuyền sản xuất của Tiệp Khắc). Thiệt hai trong các cuộc chiến tranh (chiến tranh năm 1973 và chiến tranh phía tây Sahara) hoặc bị loại bỏ do thiếu phụ tùng thay thế. - 61 chiếc T-55 bị loại biên. - 160 chiếc T-54 và 1600 chiếc T-55 trong niên chế năm 1991. Được chuyển giao cho các quốc gia kế nhiệm. - Ít nhất 3.000 xe thừa kế từ Liên Xô. 412 chiếc T-54 và T-55 trong biến chế vào năm 1995 và 20 chiếc vào năm 2000. 1.200 chiếc T-54 và T-55 được niêm cất trong các năm 2000, 2005 và 2008. Tính đến năm 2013 có 100 chiếc T-55 được niêm cất và chưa đến 500 chiếc, tuy nhiên những chiếc trong kho có thể đã bị loại bỏ. Quân giải phóng nhân dân (Lebanon) - 70 chiếc T-55A được đặt hàng từ Syria và Libya vào năm 1983–87 và được chuyển giao vào năm 1983–87 (viện trợ, các xe này trước đây thuộc biên chế của Syria và Libya). - 24 chiếc T-54 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1973 và được chuyển giao vào năm 1973. 250 chiếc T-55 được đặt hàng vào năm 1973 từ Liên Xô và được giao trong khoảng thời gian từ 1974 đến 1975. Lúc cao điểm có 375 chiếc T-54 và T-55 trong biên chế. 300 chiếc T-54 và T-55 trong biên chế vào đầu năm 2001 và 275 chiếc (khoảng 200 chiếc còn hoạt động trong năm 2005 và 2006) trong biên chế vào đầu năm 2003, 2004 và 2006. 300 chiếc T-54 và T-55 cũng như số lượng xe thiết giáp dựa trên T-54/55 không xác định trong biên chế năm 2014. - 50 chiếc T-54 được đặt hàng từ Liên Xô năm 1960 và giao hàng từ năm 1960 đến năm 1961. 70 chiếc T-55 được đặt hàng từ Liên Xô năm 1965 và được giao trong khoảng thời gian từ năm 1965 đến năm 1967. Thêm 10 chiếc T-55AM được mua từ Ba Lan và được chuyển đổi thành T-55AM-Marksman SPAAGs (các tháp pháo được giao làm hai đợt, chiếc đầu tiên được đặt hàng vào năm 1988 và giao từ năm 1990 đến năm 1991 và chiếc thứ hai được đặt hàng vào năm 1992 và được giao vào năm 1993). 230 chiếc T-55 và T-72 được đưa vào biên chế vào đầu năm 2001. 74 chiếc T-55 được đưa vào biên chế vào đầu năm 2003.  33 chiếc T-54 và 74 chiếc T-55M được cất giữ vào năm 2004 và 74 chiếc T-55M vào năm 2005. 56 tháp pháo T-55 được mua từ Liên Xô vào cuối những năm 1960 và được bố trí trong các công sự ven biển như 100 khẩu pháo ven biển hạng nhẹ 56 TK . Chiếc cuối cùng trong số này đã ngừng hoạt động vào năm 2012. Số lượng T-55M vẫn được sử dụng làm phương tiện rà phá bom mìn hoặc phương tiện cứu kéo. - 1980 T-54 và T-55 được chuyển giao từ Liên Xô trong giai đoạn 1962 đến 1970. - Ít nhất 206 chiếc được thừa kế từ Tiệp Khắc. 1 chiếc T-55AM2B nhận từ Cộng hòa Séc năm 2000. 1 chiếc T-55AM2 nhận từ Cộng hòa Séc năm 2001. 2 chiếc T-55AM2 nhận từ Cộng hòa Séc năm 2005. 275 chiếc T-55 và T-72 trong biên chế năm 1999. 3 chiếc T-55 trong biên chế vào đầu năm 2001. - 72 chiếc T-55 trong biên chế vào năm 2005. Được chuyển giao cho Lực lượng Vũ trang Bosnia và Herzegovina. - 62 chiếc T-55A / AM2 được đặt hàng từ Tiệp Khắc và được chuyển giao trong khoảng thời gian từ 1990 đến 1995. T-55 phục vụ trong giai đoạn đầu Nội chiến. Những chiếc xe cuối cùng đã được rút khỏi biên chế vào năm 2010. - 8 xe tăng T-55LD do Cộng hòa Nam Phi trao tặng sau khi bị bắt giữ trên một con tàu đang trên đường tới Uganda, cùng với các cố vấn SADF nhằm mục đích huấn luyện kíp lái Rhodesia. Các xe tăng được giao cho Chi đội E của Quân đoàn Thiết giáp Rhodesian. Không rõ liệu những chiếc xe tăng này đã được chuyển giao cho quốc gia kế thừa hay bị phá hủy trong Chiến tranh Rhodesian Bush. - 34 Cầu Công binh bọc thép T-55 BLG-60m2 nhận vào năm 1994 từ Đức, ban đầu được thừa kế từ Đông Đức. Tên gọi của Thụy Điển là Brobv 971 ( Brobandvagn 971 hoặc Xe cầu có bánh xích 971). Lớp cầu đã được sử dụng từ năm 1997 cho đến năm 2011 khi chúng được thay thế bằng một mô hình dựa trên Leopard 2. - Ít nhất 700 chiếc T-54 và T-55 ban đầu được kế thừa từ Liên Xô. 680 chiếc T-54 và T-55 trong biên chế năm 1995 và 149 chiếc năm 2000. Trong các năm 2004, 2005, 2006 và 2010, có 112 chiếc T-55 thuộc biên chế. Ngoài ra còn có một số lượng xe IMR và MTP-3 không xác định đang được sử dụng. - 400 chiếc T-54 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1969 và chuyển giao từ năm 1970 đến năm 1972 (viện trợ). 600 chiếc T-54 được đặt hàng từ Liên Xô vào năm 1973 và được chuyển giao từ năm 1973 đến 1975 (viện trợ). Chuyển giao cho Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. - Chuyển giao cho Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Đánh giá - 10 xe tăng T-55LD do Ba Lan sản xuất (một phần trong lô 200 chiếc T-54 được chế tạo lại vào năm 1975) bị bắt giữ từ một con tàu của Pháp, chiếc Astor, đang vận chuyển một lô hàng vũ khí hạng nặng từ Libya cho Idi Amin ở Uganda. Chế độ của Amin sụp đổ vào ngày con tàu cập cảng Mombasa, và nó được chuyển hướng đến Angola. Con tàu ghé đến Durban, nơi hàng hóa bị bắt giữ. Hai chiếc xe tăng T-55LD đã được người Nam Phi giữ lại để đánh giá trong khi 8 chiếc được trao cho Rhodesia, cùng với các cố vấn của SADF nhằm mục đích đào tạo các kíp lái Rhodesia. Tin đồn được lan truyền rằng những chiếc xe tăng đã bị bắt ở Mozambique để che khuất một phần của Nam Phi trong thỏa thuận. Chú thích
{{Infobox Weapon |name= T-80 |image= |caption= T-80B ở Bảo tàng Pháo binh St. Petersburg |origin=|type= Xe tăng chiến đấu chủ lực (MBT) |is_vehicle= yes |is_UK= yes |service= 1976 – nay |used_by= |wars=Chiến tranh Chechnya lần thứ nhấtChiến tranh Chechnya lần thứ haiChiến tranh Nam Ossetia 2008Chiến dịch quân sự đặc biệt của Nga tại Ukraine 2022 |designer= Nikolay Popov, LKZ (T-80), Morozov (T-80UD) |design_date= 1967 – 1975 |manufacturer= LKZ và Omsk Transmash tại Nga, Malyshev tại Ukraine |unit_cost= 824.000 rúp (T-80U, thời giá 1986)2,2 triệu USD (T-80U, xuất khẩu năm 1994). |production_date= 1976 – |number= 5.404 (tới năm 2005) |variants= Công binh/trình & cứu kéo, cầu phao di động, phá mìn với hệ thống xới đất KMT-6 hay KMT-7. |spec_label= T-80B / T-80U |weight=42,5 tấn (T-80B)46 tấn (T-80U) |length=9,9 m (32 ft 6 in) (T-80B)9,654 m (31 ft 8,1 in) (T-80U) (tính cả nòng pháo)7,4 m (24 ft 3 in) (T-80B)7 m (23 ft 0 in) (T-80U) |width=3,4 m (11 ft 2 in) (T-80B)3,603 m (11 ft 9,9 in) (T-80U) |height=2,202 m (7 ft 2,7 in) (T-80B, T-80U) |ground pressure= 0.86kg/cm² T-80B, 0.92 kg/cm² |crew= 3 người (trưởng xe, xạ thủ & lái xe) |armour= T-80B: tháp pháo dày 500 mm thép tiêu chuẩnT-80U trang bị Kontakt-5: tháp pháo dày 780 mm thép tiêu chuẩn khi chống đạn xuyên động năng và 1.320 mm khi chống đạn nổ chống tăng |primary_armament=Pháo 2A46-2 125 mm nòng trơn, 36 viên đạn với T-80B, 2A46M-1 cùng 45 viên đạn với T-80U4 tên lửa chống tăng 9M112 Kobra với T-80B, 6 tên lửa chống tăng9M119 Refleks với T-80U |secondary_armament=Súng máy đồng trục PKT 7.62 mmSúng máy phòng khôngNSVT 12.7 mm |engine=Động cơ turbine khí GTD-1000 (T-80B), GTD-1250 (T-80U), hay động cơ diesel 6TD (T-80UD) |engine_power= 1.000 mã lực (T-80B), 1.250 mã lực (T-80U) |pw_ratio=25,9 mã lực/tấn (T-80B)27,2 mã lực/tấn (T-80U) |transmission=Bằng tay5 bánh lái phía trước, 1 phía sau (T-80B)4 bánh lái phía trước, 1 phía sau (T-80U) |suspension= Bánh xích |clearance=0,38 m (1,2 ft) (T-80B)0,446 m (1,46 ft) (T-80U) |fuel_capacity=1.100 lít (240 imp gal) bình nhiên liệu chính740 lít (160 imp gal) thùng nhiên liệu phụ |vehicle_range=335 km (208 mi) trên đường thẳng, không dùng thùng nhiên liệu phụ440 km (270 mi) trên đường thẳng, dùng thùng nhiên liệu phụ |speed=70 km/h (43 mph) trên đường thẳng48 km/h (30 mph) trên địa hình gồ ghề |Thế hệ tiếp=T-90}} T-80 là xe tăng chiến đấu chủ lực do Liên Xô thiết kế và chế tạo, được đưa vào sử dụng năm 1976. Nó là một bản nâng cấp của dòng tăng tiền nhiệm T-64, nhưng trái với T-64, T-80 được sản xuất với số lượng lớn hơn và sau năm 1990 thì xuất hiện nhiều biến thể xuất khẩu và nâng cấp khác nhau. Vì vậy nó xuất hiện ở nhiều quốc gia ngoài Liên Xô: đảo Síp, Pakistan, Hàn Quốc... Chỉ huy nhóm thiết kế là kỹ sư Nikolay Popov, phần tháp xe được thiết kế tại Cục Thiết kế Morozov ở Kharkov (cũng là đơn vị đã thiết kế T-64, phần thân xe được thiết kế tại Nhà máy Bolshevik số 232 ở Omsk. Thông số kỹ thuật Loại: Xe tăng chiến đấu chủ lực (MBT). Nước sản xuất: Năm phục vụ: 1976 – nay. Nặng: 46 tấn (T-80, T-80UD). 49,1 tấn (T-80B). 43,7 tấn (T-80BV). 51,9 tấn (T-80A). 50,7 tấn (T-80U). Dài (tính cả nòng pháo): 7 m (T-80). 6,98 m (T-80B). 7,01 m (T-80U). 7.085 m (T-80UD). Rộng: 3,58 m (T-80B). 3,60 m (T-80U, T-80). 3,56 m (T-80UD). Cao: 2,22 m (T-80B). 2,20 m (T-80U, T-80). 2,74 m (T-80UD). Tổ lái: 3 người (trưởng xe, lái xe, pháo thủ). Giáp trụ: Thép RHA + composite + gạch ERA Kontakt-1 (T-80BV, T-80BVK), Kontakt-5 (T-80U) hoặc Relikt (T-80BVM). Vũ khí chính: Pháo nòng trơn 125 mm 2A46-1 (T-80). Pháo nòng trơn 125 mm 2A46-2 (T-80B). Pháo nòng trơn 125 mm 2A46M-1 (D-81TM "Rapira-3") (T-80A, T-80U). Pháo nòng trơn 125 mm KBA3 (T-80UD). Vũ khí phụ: Đại liên đồng trục 7,62 mm PKT (1250 viên). Đại liên đồng trục 7,62 mm PKT KT-7.62 (1250 viên) (T-80UD) Đại liên phòng không 12,7 mm NSVT (500 viên). Đại liên phòng không 12,7 mm KT-12.7 (450 viên) (T-80UD). Các loại tên lửa chống tăng 9M112 Kobra (AT-8 Songster) (T-80, T-80B); 9M119 Svir (AT-11 Sniper) và 9M119M Refleks (AT-11B Sniper) (T-80U). Động cơ: các loại động cơ turbine khí đa nhiên liệu: GTD-1000T 1.000 mã lực (746 kW) (T-80, T-80B, T-80BK). GTD-1000TF 1.100 mã lực (820 kW) (T-80B, T-80BK; đến năm 1980 thì trang bị cho T-80BV, T-80BVK). GTD-1000M 1.200 mã lực (895 kW) (T-80A). GTD-1000F 1.100 mã lực (820 kW) (T-80U). GTD-1250 1.250 mã lực (932 kW) (T-80U, dùng từ năm 1992). Riêng T-80UD dùng động cơ diesel 6TD 1.006 mã lực (750 kW), 2 kỳ, 6 xilanh, đa nhiên liệu, làm mát bằng chất lỏng. Hệ thống giảm xóc: Bánh xích. Sức kéo: 21,7 mã lực/tấn (16,2 kW/tấn) (T-80). 20,4 mã lực/tấn (15,2 kW/tấn) and 22,4 mã lực/tấn (16,7 kW/tấn) (kể từ năm 1980, T-80B). 25,2 mã lực/tấn (18,8 kW/tấn) (T-80BV). 26,5 mã lực/tấn (19,8 kW/tấn) (T-80A). 24,7 mã lực/tấn (18,4 kW/tấn) (T-80U). Tầm hoạt động: 335 km, 600 km với thùng nhiên liệu phụ (đường nhựa) (T-80). 370 km, 500 km với thùng nhiên liệu phụ (đường nhựa) (T-80B). 500 km, 900 km với thùng nhiên liệu phụ (đường nhựa) (T-80U). 580 km (đường nhựa) 450 km (đường gồ ghề) (T-80UD). Tốc độ: 70 km/h (đường nhựa), 48 km/h (đường gồ ghề) (T-80). 70 km/h (đường nhựa), 40 km/h (đường gồ ghề) (T-80B, T-80U). 65 km/h (đường nhựa), 45 km/h (đường gồ ghề) (T-80UD). Lịch sử sản xuất Sự ra đời của T-80 có liên quan tới quá trình đưa động cơ turbine khí vào sử dụng trong Binh chủng Tăng - Thiết giáp Liên Xô. Chúng ta được biết T-80 là loại xe tăng chủ lực đầu tiên của Liên Xô dùng động cơ turbine khí. Nhưng kế hoạch chế tạo xe tăng dùng động cơ loại này đã có từ năm 1949, thiết kế bởi kỹ sư nhà máy Kirov tên là A. Ch. Stariostienko. Có điều, chất lượng của động cơ turbine khí lúc đó lại quá kém do trình độ luyện kim thời đó chưa đáp ứng được, rồi kết cục dự án bị dừng lại. Nhưng năm 1955, cũng tại nhà máy Kirov, hai động cơ mẫu công suất 1.000 mã lực đã được chế tạo thành công dưới sự chỉ đạo của G. A. Oglobin. Đến năm 1957 thì đội thiết kế xe tăng của kỹ sư nổi tiếng Z. J. Kotin lại cho ra đời hai mẫu tăng dùng động cơ turbine khí tên là Obyekt 278 (Dự án 278) dựa trên các mẫu xe tăng hạng nặng IS-7 và T-10. Động cơ mới đã nâng tốc độ xe lên 57,3 km/h nhưng xe chỉ chạy được 300 km do bình xăng nhỏ (1950 lít). Obyekt 178 sau đó bị đình chỉ và được xem như mẫu thử nghiệm. Năm 1963, ở nhà máy Uralvagonzavod, nhóm của L. N. Kratsev thiết kế mẫu Obyekt 167 động cơ tuốc bin khí GTD-3T 801 mã lực. Khi T-64 đã thay thế vai trò của xe tăng hạng nặng như IS-7 và T-10 thì người ta cũng thử sản xuất những mẫu T-64 mới mang động cơ tuốc bin khí. Cùng năm 1963, tại cục thiết kế Morozov, mẫu T-64T thử nghiệm dùng động cơ GTD-3TL 700 mã lực được sản xuất đồng thời với T-64 dùng động cơ diesel truyền thống. T-64T được thử nghiệm cho đến năm 1965. Năm sau mẫu xe tăng bắn tên lửa chống tăng Obyekt 288 ra đời, mang 2 động cơ GTD-350 với tổng công suất 691 mã lực. Tuy nhiên, ngay sau đó người ta nhận ra rằng hệ thống 2 động cơ cũng không tốt hơn hệ 1 động cơ, nhất là những động cơ được sản xuất tại nhà máy Kirov KB-3 (LKZ) hay WNII Transmash kế từ năm 1968 trở đi. Thí dụ như mẫu T-64T "Obyekt 291 SP1" (1969) do nhà máy LKZ chế tạo trang bị động cơ GTD-1000T công suất tới 1.000 mã lực. Đến đây thì một vấn đề mới phát sinh: hệ thống bánh xích cũ không còn phù hợp với các loại động cơ mới công suất cực lớn và việc xe tăng Liên Xô càng ngày càng nặng. Thế là, cùng năm, mẫu T-64 "Obyekt 291 SP2" ra đời với đĩa bánh xích truyền động (drive sprocket) to hơn, thêm trục lăn hồi chuyển (return roller) và số bánh xích tăng từ 4 lên 5 cặp. Cấu trúc tháp pháo, pháo chính 2A46 125mm, hệ thống nạp đạn tự động, nơi chứa đạn và một số trang bị khác được thiết kế giống T-64A. Obyekt 291 SP2 được LKZ liên tục cải tiến suốt bảy năm sau đó, rồi cuối cùng chính thức đi vào hoạt động dưới cái tên T-80. Như vậy, rõ ràng T-80 là một hậu duệ trang bị động cơ turbine khí của T-64, nên dĩ nhiên nó mang những tính năng đặc trưng của dòng họ mình. Có một điều thú vị là nhiều chuyên gia quân sự, nhất là phương Tây hay lầm lẫn giữa T-64, T-80 với một loại xe tăng chủ lực nổi tiếng khác của Liên Xô: T-72. Có sự nhầm lẫn này vì các xe tăng Liên Xô từ T-62 trở đi thường có vẻ ngoài hao hao như nhau. Đặc biệt bộ ba T-64, T-72, T-80 nếu không quan sát kỹ thì cứ tưởng là cùng một loại xe (mặc dù T-64 ngắn hơn T-80 chừng 90 cm), các mẫu nâng cấp về sau lại càng khó nhận biết. Nhưng thực chất là hai dòng này khác nhau hoàn toàn. Chúng chỉ giống nhau vẻ bề ngoài mà thôi. T-80 là hậu duệ trực tiếp của T-64, còn T-72 là bản nâng cấp của T-62 cộng thêm một số trang thiết bị của T-64. Vì vậy cấu trúc bên trong của T-72 khác biệt rõ rệt so với T-64 và T-80. Nhìn chung, T-80 có hệ thống điều khiển hỏa lực, kính ngắm ban đêm... hiện đại hơn hẳn so với T-72. T-80 và T-64 chỉ được sản xuất hạn chế, hiếm khi xuất khẩu, thường được trang bị cho những đơn vị đặc biệt tinh nhuệ của Quân đội Liên Xô và chỉ đóng ở những khu vực xung yếu của các nước thuộc Khối Warszawa (như Đông Đức, Hungary). T-72 thì được sản xuất đại trà, đóng vai trò như xương sống của Binh chủng Tăng - Thiết giáp Liên Xô cùng nhiều quốc gia khác. Vì vậy T-80 và T-64 tuy mạnh hơn nhưng đắt hơn, phức tạp hơn, khó sản xuất, khó sửa chữa và bảo dưỡng hơn T-72. T-72 cùng hậu duệ của nó là T-90 được sản xuất tại nhà máy Uralvagonzavod tại Nizhny Tagil, còn T-64 và T-80 được thiết kể bởi cục SKB-2 tại nhà máy Kirov ở Leningrad (LKZ), về sau chuyển giao cho cục Omsk Transmash ở Siberia. Do các tính năng mới ưu việt của nó, T-80 xứng đáng là người viết tiếp những huyền thoại về T-64. Thật vậy, trong suốt hơn một phần tư thế kỷ tồn tại, T-80 cùng với T-64, T-72 và T-90 là những xe tăng chủ lực của Quân đội Liên Xô và Quân đội Nga sau này. Tất nhiên, để đổi lấy tính năng cao cấp, giá thành của T-80 khá đắt: phiên bản T-80 đời (Model 1976) đã tốn chi phí 480.000 rúp (trong khi T-64A chỉ 143.000 rúp), còn phiên bản cải tiến T-80U (năm 1986) tốn tới 824.000 rúp (~800-900 nghìn USD theo tỷ giá thời đó), trong khi T-72B chỉ có giá 280.000 rúp. Tuy nhiên, mức giá đắt của T-80 là khi so sánh với các loại xe tăng khác của Liên Xô. So với các loại xe tăng chủ lực của phương Tây thì giá của T-80 vẫn khá rẻ. Ví dụ như xe tăng M60A3 Patton của Mỹ có giá tới 1,69 triệu USD (thời giá 1985). Tới đầu thế kỷ 21, dù được liên tục cải tiến và nâng cấp, T-80 và T-72 vẫn dần dần trở nên lạc hậu trong khi T-90 chỉ là giải pháp tình thế (mặc dù là giải pháp tình thế rất hiệu quả). Hiện tại, giới quân sự Nga đã từ bỏ việc phát triển tiếp thế hệ mới của dòng T-80 bởi các lý do sau: Nhà máy Morozov chế tạo T-80 hiện nay thuộc về Ukraine, Nga không có bản quyền sản xuất dòng xe tăng này. Do vậy, Nga không sản xuất mới T-80 mà chỉ nâng cấp và hiện đại hóa những xe hiện có lên các phiên bản hiện đại (ví dụ như T-80BVM, T-80UM1 và T-80UM2). Do tình hình thế giới đã thay đổi, đối thủ chủ yếu của các xe tăng Nga hiện nay không phải là các binh đoàn thiết giáp địch, mà là các đơn vị du kích mang súng và tên lửa chống tăng. Trong kiểu tác chiến này, dòng xe tăng đắt đỏ chuyên về đấu tăng như T-80 sẽ không có dịp phát huy ưu điểm, trong khi nhược điểm thì lại bộc lộ rõ. Trong 2 cuộc chiến tranh ở Chechnya giai đoạn 1994 - 2001, các mẫu tăng T-80B, T-80BV và T-80U bị phàn nàn là phức tạp và khó bảo dưỡng hơn T-72, động cơ tốn nhiều nhiên liệu, trong khi ưu điểm của T-80 là khả năng đấu tăng mạnh (tốc độ nhanh, độ cơ động cao, giáp dày, hỏa lực mạnh, hệ thống điều khiển hỏa lực hiện đại) thì lại không cần tới vì đối thủ gần như chẳng có chiếc xe tăng nào. Thêm nữa, T-90 mặc dù là giải pháp tình thế nhưng đã tỏ ra hiệu quả hơn, nó đã được trang bị rộng rãi cho Quân đội Nga và được nhiều nước ưa chuộng. Nhu cầu trong nước về T-80 giảm nhanh chóng trong khoảng thời gian gần đây khiến cục Omsk Transmash, nơi sản xuất T-80 gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, không ngạc nhiên khi Omsk đang cố gắng hướng tới những khách hàng ngoại quốc tiềm năng hơn, dẫn tới việc là T-80 đang dần được sản xuất theo hướng chủ yếu là xuất khẩu (một điều thú vị là việc này lại trái với truyền thống xưa nay của T-64 và T-80: xe tăng chiến đấu chủ lực cao cấp sản xuất và trang bị trong nước, không xuất khẩu). T-80UD "Beryoza" Song song với T-80U, năm 1985 cục Morozov ở Ukraine cũng cho ra đời mẫu T-80UD dùng động cơ diesel 6 xilanh 6TD-1 1.006 mã lực. Mặc dù công suất thấp hơn động cơ turbine khí nhưng hiệu suất cao hơn, đảm bảo hành quân tốt trên những chặng đường dài. Động cơ có thể chịu nóng tới 55°C và vẫn hoạt động tốt khi xe lặn sâu 1,8m. Mẫu xe tăng mới này mang tên T-80UD Beryoza (có nghĩa là cây bulô). T-80UD giống như T-80U, nhưng khoang động cơ, ống thải khói và vị trí sắp xếp đồ vật ở tháp pháo có thiết kế khác. Khác với T-80U, T-80UD vẫn dùng khẩu súng máy phòng không điều khiển từ xa của xa trưởng. T-80UD được sản xuất chủ yếu ở nhà máy Malyshev trên đường phố Morozov thuộc tỉnh Kharkov. Trong giai đoạn 1987 - 1991, có 500 chiếc T-80UD được chế tạo, trong đó đến 300 chiếc phục vụ trong Quân đội Ukraine – nơi nó ra đời – sau khi Liên Xô tan rã. Vì vậy hình ảnh T-80UD thường gắn liền với Ukraine. Tuy nhiên, Nga lại chia sẻ bản quyền của T-80UD, thế là việc hợp đồng bán 320 chiếc T-80UD cho Pakistan bị đình trệ giữa chừng do Nga từ chối cung cấp tháp pháo cùng nhiều chi tiết khác cho Ukraine. Ukraina buộc phải tự phát triển các mẫu T-80UD 100% trong nước để có thể tự do bán "Cây bulô" của mình. Đó cũng là lý do ra đời của T-84. T-80UM2 Phiên bản mới nhất của T-80U đang được phát triển là loại T-80UM2 hay Black Eagle, nhằm mục đích có khả năng chống lại các mục tiêu khi đang dừng hay đang chuyển động. Nó có tháp pháo thép đúc liền với giáp phản ứng nổ ở trước thân và quanh tháp pháo, một hệ thống nạp đạn tự động và vị trí xếp đạn dược được dời ra khung tháp pháo để tăng tỷ lệ sống sót. Các cải tiến khác gồm một hệ thống kiểm soát bắn computer, kính ngắm ảnh nhiệt cho chỉ huy và pháo thủ cùng hệ thống ăngten phòng vệ chủ động. Cùng với việc tìm kiếm khách hàng ngoại quốc, Omsk Transmash đang cố gắng lấy lại lòng tin của Quân đội Nga bằng những mẫu tăng mới hiện đại. Rất có thể T-80 sẽ lại tung hoành trên lãnh thổ Nga, nhưng xét đến tình hình của Omsk Transmash hiện nay, việc T-80UM2 được xuất khẩu cũng không nằm ngoài dự đoán. Thông tin kỹ thuật Vũ khí T-80 được trang bị 6 tên lửa điều khiển chống tăng: T-80B dùng hỏa tiễn chống tăng 9K112 Korba (NATO gọi là AT-8 Songster) của T-64. Tên lửa được bắn qua nòng pháo, có thể tiêu diệt mục tiêu từ cự ly xa 4.000 mét (trong khi cự ly hiệu quả của đạn pháo tăng thông thường chỉ khoảng 3.000 mét), cho phép T-80 tiêu diệt xe tăng địch trước khi chúng có thể bắn trả. 9K112 Kobra cũng có thể tiêu diệt được trực thăng địch (nếu nó đang bay chậm và ở độ cao thấp). Đến T-80U thì dùng loại tên lửa mới là 9M119 Svir (NATO: AT-11 Sniper) hoặc 9M119M Refleks (NATO: AT-11B Sniper). Tầm hoạt động của tên lửa từ 100 đến 5.000 mét. Hệ thống được thiết kế để chống lại các xe tăng có trang bị ERA (giáp phản ứng nổ) cũng như các mục tiêu bay chậm và thấp như máy bay trực thăng, trong phạm vi lên đến 5 km. Hệ thống tên lửa bắn ra cả hai loại tên lửa 9M119 hay 9M119M, có hướng dẫn bán tự động bằng chùm laser. Tổ hợp 9M119 đảm bảo bắn mục tiêu đứng yên và di chuyển với tốc độ 70 km/h trên các cự ly từ 100 đến 5.000 mét khi xe tăng di chuyển với tốc độ là 30 km/h. Đây là ưu điểm khác biệt so với tổ hợp 9K112 Kobra, vốn chỉ có thể bắn khi xe đứng yên tại vị trí cố định. T-80 sử dụng các phiên bản của khẩu pháo chính 125 mm nòng trơn 2A46 cùng với một hệ thống nạp đạn tự động (giống như "mốt" của dòng họ T trong nửa cuối thế kỷ 20) với ống bọc cách nhiệt bên ngoài, có thể bắn từ 6 đến 8 viên/phút. Nạp đạn thủy cơ học với băng đạn 28 viên. Trong xe có 45 viên đạn. Súng chính bắn đạn liều rời đặt trong vỏ chống bắt lửa. Đạn có thể là APDS (Armour Piercing Discarding Sabot) hoặc APFSDS, HEAT (High Explosive Anti-Tank) và HE-FRAG (High Explosive-Fragmentation). T-80UD của Ukraine cũng trang bị pháo 125 mm, nhưng là kiểu KBA3 chứ không phải là 2A46 như những mẫu T-80 của Nga. Ngoài pháo chính, T-80 được trang bị một đại liên đồng trục PKT 7,62 mm và đại liên phòng không NSVT 12,7 mm điều khiển từ trong vị trí chỉ huy của xa trưởng. Ngoài ra còn đại liên đồng trục PKT KT-7.62 7,62 mm và đại liên phòng không KT-12.7 12,7 mm dành cho T-80UD. Các phiên bản T-80 hiện đại hoá vào thập niên 2020 (như T-80BVM) còn có thể kết nối thông tin với UAV trinh sát để cung cấp toạ độ mục tiêu ngoài tầm nhìn. Với sự hỗ trợ về tọa độ mục tiêu của UAV, xe T-80 có thể tăng cự ly tiêu diệt nhờ bắn pháo theo quỹ đạo hình vòng cung giống như các loại lựu pháo, thay vì chỉ bắn thẳng như xe tăng đời cũ. Tháng 6/2023, Bộ Quốc phòng Nga công bố video cho thấy T-80BVM đã bắn pháo trúng xe bọc thép Bradley của Ukraine trên mặt trận Kupyansk từ khoảng cách 9,5 km, lập kỷ lục cự ly tiêu diệt mục tiêu trong thực chiến của xe tăng trên thế giới. Giáp trụ và hệ thống bảo vệ Giáp trụ của T-80 thay đổi tùy theo phiên bản, các phiên bản hiện đại hóa có giáp dày hơn những phiên bản cũ. Nhưng nhìn chung, T-80 có hệ thống giáp bảo vệ tốt hơn so với T-64 nhờ sử dụng giáp dày hơn, phẩm chất tốt hơn và thừa hưởng những đặc tính tốt từ T-64. Kế tục T-64, T-80 cũng dùng giáp composite. Lớp composite của T-80 dày hơn, có các lớp thép đúc + sợi thủy tinh và lớp thép đúc + phi kim. T-80B thì dùng giáp composite K với lớp gốm. Đến T-80U thì có thêm có váy bảo vệ với những tấm cao su chống mìn. Váy trước bọc giáp và dùng vỏ bọc hút sóng radar. Có 5 ống phóng lựu đạn khói nằm ở bên phải tháp pháo và bảy cái bên trái. Độ dày lớp giáp quy đổi của T-80 là khoảng 500mm thép RHA ở trước tháp pháo và khoảng 450mm thép RHA ở mặt trước thân xe, có thể chống đạn 105 mm. Độ dày lớp giáp của T-80B/T-80U cao hơn như vậy một chút. Từ giữa thập niên 1980, hai biến thể nâng cấp của dòng T-80B là T-80BV và T-80BVK có thêm hệ thống hỗn hợp bảo vệ với loại giáp phản ứng nổ (gạch ERA) thế hệ 1 là Kontakt-1. Loại Kontakt-1 có tác dụng làm giảm tới 50% sức xuyên phá của đạn nổ lõm chống tăng, tức là khi trang bị loại giáp này thì khả năng chống chịu của xe tăng khi bị trúng đạn nổ lõm sẽ tăng lên gấp đôi. Trong cuộc Chiến tranh Chechnya lần thứ nhất năm 1994, có 1 chiếc xe tăng T-80BV số hiệu 171 của Tiểu đoàn Xe tăng Cận vệ 133 đã bị trúng tới 18 quả đạn súng chống tăng mà vẫn không bị phá hủy nhờ được giáp phản ứng nổ Kontakt-1 bảo vệ. Còn biến thể cải tiến T-80U dùng loại giáp phản ứng nổ thế hệ 2 là Kontakt-5. Kontakt-5 có khả năng giảm 50% sức xuyên phá của đạn nổ lõm và giảm 25% độ xuyên phá của đạn xuyên giáp động năng APFSDS. Phiên bản T-80U khi được trang bị giáp Kontakt-5 sẽ đạt độ dày bảo vệ tương đương 780mm thép cán tiêu chuẩn ở mặt trước tháp pháo khi chống đạn APFSDS hoặc đạt 1.300mm thép khi chống đạn nổ lõm. Trong suốt thập niên 1990-2000, các chỉ số này là không thể xuyên phá bởi các loại đạn pháo cỡ 120mm của M1 Abrams, Leopard 2 hoặc Leclerc (các loại xe tăng chủ lực của phương Tây giai đoạn 1990-2020). Phải tới cuối thập niên 2000, khi công nghệ phát triển hơn thì đạn pháo APFSDS cỡ 120mm của xe tăng NATO mới có thể xuyên được lớp giáp này, nhưng cũng chỉ ở cự ly gần hơn 2.000 mét. Năm 2006, Nga cho ra mắt loại giáp phản ứng nổ thế hệ 3 tên là Relikt, loại này sẽ trang bị cho biến thể T-80 hiện đại hóa sâu (T-80BVM). So với Kontakt-5, Relikt có hiệu quả cao gấp đôi khi chống đạn xuyên giáp động năng, tức là có thể giảm 50% sức xuyên phá của đạn xuyên giáp động năng. Nếu trang bị loại giáp phản ứng nổ này, mặt trước tháp pháo của T-80BVM có thể đạt mức bảo vệ ~1.000mm thép chống đạn xuyên giáp động năng, mức độ này là rất khó xuyên phá với pháo cỡ 120mm trên xe tăng phương Tây, kể cả khi sử dụng các loại đạn APFSDS mới nhất. Các phiên bản hiện đại hóa của dòng T-80U như T-80UK/UE/UM có dùng hệ thống ngăn chặn quang điện tử học TShU-1-7 Shtora-1 (tiếng Nga: ТШУ-1-7 Штора-1, có nghĩa là "Bức màn chắn") sản xuất bởi Elektromashina. Shtora-1 được thiết kể để phá hoại sự chỉ định mục tiêu bằng laser và thiết bị đo xa của tên lửa điều khiển chống tăng đang bay đến. Shtora-1 là một thiết bị gây nhiễu âm điện quang (electro-optical), khi hoạt động nó sẽ làm nhiễu quá trình điều khiển đường ngắm bán tự động (semiautomatic command to line of sight - SACLOS) của hệ thống định hướng của tên lửa chống tăng có điều khiển, làm nhiễu máy dò laser và máy chỉ thị mục tiêu của kẻ địch. Có thể nói Shtora-1 là một hệ thống tiêu diệt mềm hay hệ thống trả đũa. Nó hiệu quả nhất khi được sử dụng cùng với một hệ thống phòng vệ chủ động như ARENA. Trong Triển lãm Quốc phòng Quốc tế (IDEX) được tổ chức tại Abu Dhabi năm 1995, hệ thống này được lắp đặt trên một chiếc xe tăng trưng bày của Nga. Hệ thống Shtora-1 bao gồm bốn thành phần chủ yếu: trạm giao diện điện quang gồm một đài làm nhiễu âm, một thiết bị điều biến, và thanh điều khiển; một bảng làm nổ lựu đạn tạo màn khói ở mỗi bên tháp pháo; một hệ thống cảnh báo khi xe bị chiếu xạ bởi tia laser; một hệ thống kiểm soát gồm thanh kiểm soát, máy tính xử lý và thanh điều khiển bằng tay. Thiết bị này xử lý thông tin từ các cảm biến và kích hoạt hệ thống tạo màn khói. Shtora-1 có trường quan sát tới 360 độ theo chiều ngang và từ -5 đến +25 độ theo chiều dọc, nó có 12 ống phóng đạn tạo màn khói, cả hệ thống cân nặng 400 kg. Nguyên lý hoạt động của hệ thống Shtora-1 như sau: Hai đèn hồng ngoại OTShU-7-1, mỗi chiếc ở một bên của tháp pháo, liên tục phát ánh sáng hồng ngoại công suất lớn để làm giả tín hiệu hồng ngoại, khiến hệ thống điều khiển bắn của tên lửa chống tăng nhầm lẫn giữa tín hiệu tên lửa và Shtora, làm nó dẫn hướng sai khiến tên lửa bay chệch hướng. Ngoài ra, khi các cảm biến của hệ thống phát hiện xe tăng đã bị "chiếu xạ" bởi tia laser định vị thì máy tính sẽ tính toán xác định các thông số về quỹ đạo của tia laser và sẽ phát lệnh phóng các quả đạn khói về phía đó. Màn khói chỉ chưa cần tới 3 giây đã có thể hình thành và kéo dài khoảng 20 giây. Phạm vi triển khai của màn khói từ 50—70 mét. Màn khói này sẽ gây nhiễu các thiết bị chỉ định bằng laser cũng như ngụy trang cho xe tăng trước các thiết bị ngắm bắn quang học. Khi gặp màn khói này, tín hiệu điều khiển bằng laser sẽ bị nhiễu và tên lửa sẽ mất điều khiển, nó chỉ còn bay theo quán tính. Trong khi đó, xe tăng tiếp tục cơ động và di chuyển tới vị trí khác, khiến tên lửa trượt mục tiêu. Các phiên bản hiện đại hóa của Nga như T-80UM1, T-80BVM có thể trang bị thêm hệ thống phòng thủ chủ động Drozd hoặc ARENA. Hệ thống phòng thủ chủ động (APS - Active Protection Systems) ARENA trên T-90 là lớp bảo vệ thứ hai của xe nếu Shtora-1 không gây nhiễu được tên lửa của địch. ARENA-E được thiết kế để lắp đặt trên nhiều phương tiện chiến đấu khác nhau, có khả năng bảo vệ xe tăng trước tên lửa chống tăng, đạn chống tăng các loại với góc bảo vệ đạt tới gần 300 độ xung quanh xe (trừ hướng phía sau có bộ binh). Hệ thống gồm một radar sóng mm lắp trên nóc tháp pháo, máy tính điều khiển và 26 đạn nổ đánh chặn chứa trong các hộp lắp xung quanh tháp pháo, cung cấp khả năng bảo vệ hữu hiệu trước đạn chống tăng có tốc độ bay đạt tới 700m/giây và thời gian phản ứng là khoảng 0,07 giây. Nguyên tắc hoạt động của hệ thống APS ARENA là: Ăngten cảm biến phát hiện đạn pháo hoặc tên lửa chống tăng ở cự ly 50m; hệ thống máy tính thu nhận và tính toán tốc độ, quỹ đạo đường đạn cũng như góc tiếp xúc..., từ đó ra chỉ thị kích hoạt phóng đạn nổ, và tiêu diệt chúng ở cự ly cách xe từ 7-10m. Với các mục tiêu có tốc độ bay từ 50–70 m/s thường được coi là không nguy hiểm với xe tăng nên máy tính của hệ thống ARENA không ra lệnh đánh chặn, chỉ những mục tiêu có vận tốc trên 70 m/s, thiết bị phóng đạn mới được kích hoạt. Khi được kích nổ, quả đạn phóng ra một luồng mảnh đạn định hướng gồm hàng nghìn mảnh nhỏ để phá hủy tên lửa hay đầu đạn của vũ khí chống tăng. Sau khi đánh chặn, chỉ từ 0,2-0,4 giây sau, xe đã có khả năng đánh chặn tiếp 1 quả đạn khác. Nói chung là giáp trụ của T-80 rất chắc chắn, đúng như trường phái tăng Liên Xô hiện đại. Việc này là nhờ vào kích cỡ thon gọn và dung tích tối ưu (đặc trưng của các dòng xe tăng T đến từ Liên Xô). Mặc dù to và nặng hơn T-64, T-72, T-90 khá nhiều nhưng so với xe tăng phương Tây và Mĩ như M1 Abrams, Leopard 2, Challenger,... thì T-80 vẫn rất "mi nhon". Nhờ đó mà diện tích bề mặt cần bọc giáp nhỏ, nên mật độ giáp rất cao, lượng nguyên liệu cần dùng giảm, khối lượng xe tăng giảm đáng kể. Giống như T-64, T-80 to hơn T-72 để cho khoang lái rộng, tổ lái được thoải mái, vì thế nó cũng nặng hơn. Cũng như các loại xe tăng khác của Liên Xô, hòm đạn được đặt ở nơi an toàn nhất: trong khoang lái, phía dưới tổ lái, nằm trong ổ quay đạn. Bản thân ổ quay đạn cũng ở vị trí an toàn. Tuy nhiên, việc này vẫn tiềm ẩn nguy hiểm tính mạng cho tổ lái: khi hòm đạn bị bắn nổ thì mảnh đạn sẽ văng trúng tổ lái gây thương vong, thậm chí còn hất tung tháp pháo lên trời. Viên đạn nằm ngoài thiết bị nạp cũng nguy hiểm: tổ lái hầu như không được bảo vệ khỏi những mảnh kim loại nóng phừng phừng khi chỗ nạp đạn bị bắn nổ, nhất là khi các loại đạn pháo tăng của Liên Xô thường dùng vỏ đạn bằng chất bán cháy thay vì bằng đồng. Vì vậy thường thì người ta chỉ mang theo 28 viên đạn trong 1 xe (dù xe có thể chứa được tới 40-45 viên), mặc dù điều này khiến T-80 tác chiến bất lợi hơn trong những nhiệm vụ có cường độ cao. Nhưng một số mẫu T-80UD cải tiến của Ukraine dùng tháp pháo lai kiểu phương Tây (làm thêm khoang chứa đạn phía sau tháp pháo) nên hạn chế được nhược điểm này. T-80 cũng được bảo vệ các thanh vỏ giáp kiểu yếm xung quanh. Các biện pháp đối phó khác còn gồm chế độ chạy ít tiếng ồn và động cơ turbine khí chạy nhiên liệu không khói, hệ thống cách nhiệt bên trên và bên dưới đã được cải tiến, thông gió cho hệ thống truyền động động cơ, hệ thống làm mát, hệ thống phun khói và quạt khói. Hệ thống điều khiển hỏa lực Hệ thống điều khiển bắn và quan sát của xe là loại 1A42 gồm hệ thống computer dẫn đường 1V517, hai hệ thống ổn định vũ khí thủy điện hai trục, ống ngắm tầm xa được ổn định trên hai trục cũng như một dụng cụ chỉ thị góc phương vị GPK-59 hydro-semicompass và một dụng cụ chỉ thị góc phương vị cho chuyển động xoay của tháp pháo. Hệ thống kiểm soát bắn bằng máy tính, máy đo xa laser cùng kính nhìn đêm của pháo thủ cho phép T-80 chiến đấu hiệu quả với các mục tiêu di động và chiến đấu vào buổi đêm. T-80 cũng có máy đo khoảng cách dùng laser, vị trí nhìn (visual key) to hơn. Đến T-80U/UD thì được trang bị hệ thống điều khiển hỏa lực tiên tiến 1A45 "Irtysh" (tiếng Nga: 1А45 Иртыш), bao gồm máy tính đạn đạo, máy đo xa laser cùng kính nhìn đêm của pháo thủ cho phép T-80 chiến đấu hiệu quả với các mục tiêu di động và chiến đấu vào buổi đêm, bao gồm: Thiết bị ngắm và đo xa laser 1G46 để ngắm và điều khiển vũ khí, bao gồm hệ thống kinh ngắm quang học kiểu tiềm vọng với độ khuếch đại từ 2,7x đến 12x, thiết bị đo xa laser có phạm vi từ 400 mét đến 5.000 mét, hệ thống ổn định tầm hướng, hệ thống điều khiển tên lửa ПТУР (PTUR - chiếu xạ laser). Trong hệ thống 1G46 có lắp đặt thiết bị kiểm tra vũ khí đồng trục với kính ngắm mà không cần phải ra khỏi xe – thời gian kiểm tra chỉ 1 phút. Máy tính quỹ đạo đường đạn 1V528-1 tự động tính toán góc bắn tầm hướng cho pháo và giữ cho pháo ở vị trí ổn định với góc bắn đã được tính toán, máy tính đường đạn tính toán tất cả các thông số liên quan đến góc bắn của pháo tăng, máy tính quỹ đạo đường đạn còn thực hiện nhiệm vụ khóa súng và cho phép khai hỏa. Tổ hợp các cảm biến thông tin phục vụ cho máy tính quỹ đạo đường đạn (cảm biến vị trí pháo, tốc độ gió, tốc độ xe tăng và góc của hướng xe so với mục tiêu); Hệ thống ổn định tầm hướng 2E42-4 Zasmin (tiếng Nga: 2Э42-4 Засмин) sử dụng thiết bị nâng hạ thủy lực – điện, cho phép ngắm chính xác mục tiêu khi xe đang di chuyển, đồng thời tăng tốc độ ngắm bắn. Trong một cuộc trình diễn vào thập niên 1990, một chiếc T-90 (dùng hệ thống điều khiển hỏa lực giống như T-80U) đã phóng tên lửa đánh trúng mục tiêu ở khoảng cách 4 km. Sau đó, nó di chuyển với tốc độ 25 km/h, bắn trúng 7 mục tiêu xe bọc thép ở cự ly 1.500-2.500 mét, tất cả chỉ diễn ra trong vòng 54 giây (tức là chỉ cần chưa đầy 8 giây để ngắm bắn chính xác 1 mục tiêu mới ở cự ly khá xa, trong khi xe vẫn đang di chuyển) Hệ thống quan sát Loại T-80 đời đầu (Model 1976) những loạt sản xuất đầu tiên được trang bị hệ thống xác định khoảng cách cho pháo thủ bằng hình ảnh quang học lập thể TPD-2-49 (tiếng Nga: ТПД-2-49) (được trang bị cho T-64A vào năm 1967). Nó có độ chính xác ± 200 mét ở khoảng cách 4 km, hoặc ± 30 mét ở phạm vi 1 km. So với các loại xe tăng chủ lực của các nước NATO cùng thời kỳ, TPD-2-49 có tính năng ít nhất là ngang bằng so với thiết bị tương tự trên xe tăng Leopard 1 của Tây Đức, và vượt trội so với hệ thống M17 trên xe M60A1 Patton của Mỹ. Mẫu T-80 model 1976 những loạt sản xuất sau thay thế TPD-2-49 bằng hệ thống ngắm TPD-K1 (tiếng Nga: ТПД-К1) xác định tầm bắn bằng laser, tích hợp với máy tính đạn đạo có thể tính toán đường đạn dựa trên nhiệt độ môi trường xung quanh, nhiệt độ nòng pháo, áp suất khí quyển. Hệ thống này có sai số tối đa 10 mét ở khoảng cách 3 km, hoặc 15 mét ở khoảng cách 4 km. Nó giúp tăng đáng kể khả năng bắn trúng mục tiêu di chuyển ở khoảng cách trên 2.000 mét hoặc xa hơn. Hệ thống TPD-K1 ra đời năm 1975, sớm hơn 3 năm so với hệ thống xác định tầm bắn bằng laser AN/VVG-2 trên xe tăng chủ lực M60A3 Patton của Mỹ. Các xe tăng Leopard 1 của Tây Đức đã không có máy đo khoảng cách bằng laser cho đến những năm 1980, và các xe tăng Anh phải đến năm 1988 mới có thiết bị này. Phiên bản T-80B (1978) được trang bị hệ thống nhìn đêm TPN-3-49 (tiếng Nga: ТПН-3-49) dành cho pháo thủ, nó sử dụng công nghệ khuếch đại ánh sáng thế hệ thứ 3 mới hơn, tốt hơn so với hệ thống TKN-3MK (tiếng Nga: ТКН-3МК) trên T-80 đời đầu, nhưng vẫn kém hơn so với hệ thống ngắm ảnh nhiệt thế hệ đầu tiên. Hệ thống có tầm phát hiện xe tăng là 1.300 mét trong chế độ chủ động và 850 mét trong chế độ thụ động trong điều kiện đêm tối gần như hoàn toàn (độ sáng 0.003 lux) (các cự ly này có thể tăng thêm vài trăm mét vào đêm trăng sáng). Phiên bản xe tăng chỉ huy T-80UK (cuối thập niên 1980) được trang bị hệ thống ngắm ảnh nhiệt T01-P02 Agava-2 (tiếng Nga: Т01-П02 Агава-2) dành cho pháo thủ, độ phóng đại tối đa 18x, có tầm quan sát trong đêm đạt tới 4.600 - 6.400 mét, và có thể xác định rõ mục tiêu kích cỡ xe tăng trong khoảng 2.600 mét. Hệ thống ngắm ảnh nhiệt này có chất lượng tương đương với những hệ thống ảnh nhiệt thế hệ 1 trang bị trên xe tăng phương Tây vào cuối thập niên 1980. Tuy nhiên do giá thành khá đắt (khoảng 250.000 USD theo thời giá 1990) nên chỉ có phiên bản chỉ huy T-80UK mới được trang bị hệ thống này, còn phiên bản thông thường T-80U được trang bị hệ thống ngắm bằng tia hồng ngoại T01-K04 Buran-R (tiếng Nga: Т01-К04 Буран-Р) cho xa trưởng và hệ thống đo xa laser 1G46M cho pháo thủ; kênh tăng cường hình ảnh thay cho đèn hồng ngoại ở nóc tháp pháo dành cho xa trưởng, có tầm quan sát trong đêm đạt khoảng 1.500 - 1.750 mét. Đến năm 1993, Nga cho ra mắt phiên bản hiện đại hóa T-80UM-1, trang bị hệ thống ngắm ảnh nhiệt hiện đại hơn là T01-P06 Agava-M1 (Т01-П06 Агава-М1) sử dụng camera ảnh nhiệt NOCTURNE do công ty ZENIT (tiếng Nga: ЗЕНИТ) sản xuất. Agava-M1 gọn nhẹ hơn, nó sử dụng ma trận điểm ảnh (MCT) có độ phân giải 512x256 pixel và các cảm biến mạnh hơn, giúp tăng cự ly quan sát. Nó có tầm quan sát trong đêm đạt tới 7.500 mét, và có thể xác định rõ mục tiêu kích cỡ xe tăng trong khoảng 2.800 mét. Tuy nhiên, trong bối cảnh nước Nga lâm vào khủng hoảng kinh tế vào đầu thập niên 1990 sau khi Liên bang Xô viết tan rã, chỉ có rất ít hệ thống Agava-M1 được chế tạo. Các phiên bản T-80 nâng cấp do Ukraine sản xuất vào cuối thập niên 1990 (T-80UD, T-84) thì trang bị hệ thống ngắm ảnh nhiệt BURAN-MATIS do nước này tự chế tạo. Nó có tầm quan sát trong đêm đạt 7.000 mét, và có thể xác định rõ mục tiêu kích cỡ xe tăng trong khoảng 2.500 mét. Kể từ năm 2016, các phiên bản hiện đại hóa sâu dành riêng cho Quân đội Nga (T-80BVM) đã chuyển sang sử dụng hệ thống nhìn đêm ảnh nhiệt nội địa là "IRBIS-K" (tiếng Nga: ИРБИС-К) do hãng Krasnogorsky Zavod (tiếng Nga: Красногорский Завод) sản xuất, nó có thể xác định rõ mục tiêu kích cỡ xe tăng trong khoảng 3.240 - 4.000 mét. Đối với xa trưởng, mẫu T-80U (năm 1986) được trang bị hệ thống nhìn toàn cảnh PNK-4S/AGAT-S (tiếng Nga: ПНК-4С/АГАТ-С) dành cho xa trưởng, có khả năng phát hiện xe tăng trong tầm khoảng 800 mét vào ban ngày và 700 mét vào ban đêm. Hệ thống PNK-4S được cho là còn vượt trội hơn các hệ thống nhìn toàn cảnh cho xa trưởng tốt nhất trên xe tăng NATO vào cuối thập niên 1980, như là PERI-R17 trên xe tăng Leopard 2 của Tây Đức: cả hai đều kết nối trực tiếp với máy tính đạn đạo của xe tăng, cho phép xa trưởng chiếm quyền điều khiển pháo để thực hiện chức năng "Hunter-Killer", tuy nhiên PNK-4S có khả năng nhìn đêm mà PERI-R17 không có (phải tới năm 1998 thì Leopard 2 mới được trang bị hệ thống PERI-R17A2 có khả năng nhìn đêm). Từ năm 2012, các phiên bản T-80 hiện đại hóa dành riêng cho Quân đội Nga đã thay thế hệ thống PNK-4S/AGAT-S bằng hệ thống mới hơn là T01-K04DT/AGAT-MDT (tiếng Nga: Т01-К04ДТ/АГАТ-МДТ) do Krasnogorsky Zavod sản xuất. Nhờ thay thế thiết vị khuếch đại ánh sáng bằng thiết bị ảnh nhiệt mới, AGAT-MDT có tầm phát hiện mục tiêu cỡ xe tăng ở cự ly lên tới 3.500 - 4.000 mét, một tùy chọn cho phép AGAT-MDT nâng cự ly phát hiện xe tăng lên tới 5.000 mét cũng đã có sẵn. Khả năng cơ động và tốc độ Như đã nói, T-80 được trang bị động cơ turbine khí, nên công suất của nó thuộc loại cực cao trong các loại xe tăng của Quân đội Liên Xô. Ban đầu là GTD-1000T 1.000 mã lực, sau đó tăng dần đến đỉnh điểm là GTD-1250 1.250 mã lực của T-80U (chú ý là loại động cơ diesel trang bị trên T-72 và T-90 hiện đại nhất là V-92S2F chỉ có công suất tối đa là 1.130 mã lực). Xung lực của T-80 có thể lên tới 26,5 mã lực/tấn (T-90 là 24 mã lực/tấn). GTD-1250 là động cơ ba trục với hai tầng nén khí. Có một động cơ GTA-18 phụ trợ độc lập khác dùng khi xe tăng đứng yên. Vì vậy không ngạc nhiên khi T-80 cực kỳ cơ động (vận tốc tối đa 70 km/h, trong khi T-90 chỉ là 65 km/h). Nó chia sẻ danh hiệu "xe tăng bay" của xe tăng Leopard 2 của Tây Đức. Tất nhiên một số xe tăng phương Tây cũng dùng động cơ turbine khí (động cơ của xe tăng M1 Abrams của Mỹ có công suất 1.500 mã lực) nhưng kích thước và khối lượng của T-80 nhỏ hơn (phiên bản nặng nhất của dòng tăng T-80 là T-80A có trọng lượng là 51,9 tấn, còn M1 Abrams phiên bản nhẹ nhất cũng đã nặng 62 tấn) nên T-80 vẫn đạt khả năng cơ động tốt hơn. Bởi tháp pháo nhỏ và thấp nên góc hạ nòng của T-80 thường thấp hơn so với xe tăng phương Tây (xe tăng phương Tây có thể hạ nòng khoảng 8-10 độ). Phương Tây cho rằng đây là nhược điểm, bởi xe tăng sẽ không tận dụng được chiến thuật "Hull-Down" (nấp thân xe sau mô đất dốc, chỉ để hở một phần tháp pháo) khi phòng thủ. Tuy nhiên, các nhà thiết kế Liên Xô không xem đây là một nhược điểm, mà thực sự đó là một ưu thế của các xe tăng chủ lực thuộc trường phái Xô viết. Bởi phương thức tác chiến chủ yếu của xe tăng không phải là phòng ngự mà là cơ động tấn công, tháp pháo nhỏ sẽ giúp giảm đáng kể xác suất trúng đạn khi tác chiến vận động. Nhiệm vụ ẩn nấp phòng ngự là của lực lượng pháo chống tăng chứ không phải là của xe tăng. Ngoài ra, nếu bắt buộc phải bố trí phòng thủ (vốn ít khi diễn ra) thì T-80 vẫn hoàn toàn có thể dùng lưỡi ủi đất (gắn trước thân xe) để tự đào hố ẩn nấp kiểu "Hull-Down" chỉ trong vài phút. Hơn nữa, động cơ của T-80 có thể sử dụng nhiều loại nhiên liệu: từ xăng dùng cho động cơ phản lực đến xăng có chỉ số octane thấp, cho dầu diesel cũng chạy tốt. Động cơ cũng hoạt động khá ổn định, tuổi thọ cao, và GTD-1250 thì có thêm hệ thống tự loại bỏ bụi bẩn. Có điều, công suất nào xăng nấy, động cơ turbine khí ngốn quá nhiều nhiên liệu, ngay cả lúc xe đứng yên nó cũng "ăn" nhiên liệu dữ dội, cho nên Ukraine đã phát triển các phiên bản T-80 và T-84 dùng động cơ diesel công suất thấp hơn một chút nhưng hiệu suất cao hơn, ít hao nhiên liệu. Nói chung T-80 của Ukraine vẫn giữ được danh hiệu "xe tăng bay" của dòng họ mình. Để phù hợp với động cơ mới, T-80 có một hệ thống truyền lực kiểu hành tinh với hệ thống dẫn nước phụ (hydraulic servo-system) để tăng khả năng cơ động. Xích và hệ thống treo được trang bị kiểu xích RMSh và các bánh xe cao su để chạy trên đường, các lò xo treo giảm xóc có hai tầng giảm chấn bằng chất lỏng lồng vào nhau. Xuất khẩu 320 chiếc T-80UD đã được Pakistan đặt hàng từ Ukraine, và đã được giao hàng vào năm 2005. Nga từng có kế hoạch bán một lô hàng khoảng 150 chiếc xe tăng T-80B cho Việt Nam nhằm giúp Việt Nam hiện đại hóa Binh chủng Tăng - Thiết giáp (Quân đội Nhân dân Việt Nam) nhưng không thành do ngân sách quốc phòng của Việt Nam không đáp ứng nổi. Hàn Quốc đã cho Liên Xô vay 1 tỷ USD tiền mặt và 470 triệu USD hàng hóa, trong gói cung cấp tài chính có thời hạn là 5 năm. Sau khi Liên Xô tan rã, nhằm trả nợ, Nga đã chuyển giao cho Hàn Quốc một số vũ khí hạng nặng của mình, trong đó có 80 chiếc xe tăng chủ lực T-80U. Vào năm 1990, T-80U là loại xe tăng chiến đấu chủ lực tiên tiến nhất trong biên chế của Quân đội Hàn Quốc, vượt trội so với xe tăng K1 88 nội địa. Tuy nhiên qua 20 năm, K1 đã được nâng cấp lên phiên bản K1A1 và sau đó là dòng xe tăng chủ lực nội địa thế hệ mới tiên tiến hơn là K2 Black Panther đi vào hoạt động, trong khi những chiếc T-80U thì không được Hàn Quốc nâng cấp tiếp và dần cho nghỉ hưu, do việc thay thế phụ tùng, đạn dược cũng khá rắc rối bởi xe tăng Hàn Quốc theo chuẩn NATO, khác hẳn với T-80U theo chuẩn Liên Xô/Nga. Lịch sử chiến đấu Trong Chiến tranh Chechnya lần thứ nhất, đã có 84 chiếc T-80 được Quân đội Nga huy động. Phần lớn nguy hiểm mà T-80 gặp phải tại đây là từ vũ khí chống tăng cá nhân của bộ binh đối phương. Do khi đó Liên Xô vừa tan rã nên Quân đội Nga khi đó gặp khủng hoảng về nhân sự và tài chính, họ phải sử dụng các xe tăng chưa chuẩn bị sẵn sàng cho chiến đấu (chưa được gắn giáp phản ứng nổ, một số linh kiện bị hư hỏng, tổ lái chưa được huấn luyện kỹ…), các phân đội Nga gồm nhiều tân binh cũng không có sự phối hợp tốt giữa xe tăng và lính bộ binh cơ giới trong điều kiện chiến tranh đường phố. Trong khi đó, các chiến binh Chechen được chuẩn bị tốt, nhiều người từng là cựu binh trong Quân đội Liên Xô nên có nhiều kinh nghiệm chiến đấu, lại được trang bị số lượng lớn các vũ khí chống tăng vác vai. Nhiều xe tăng trong quá trình chiến đấu ở đường phố tại Grozny đã bị trúng 6 – 7 phát đạn từ súng RPG-7 hoặc tên lửa chống tăng. Hỏa lực chống tăng được ngắm sẵn vào những chỗ dễ bị tổn thương nhất của xe tăng như 2 bên hông xe, đuôi xe, nóc buồng động lực và phía sau tháp pháo. Dù chống chọi tốt với các cú bắn trực diện, nhiều xe tăng T-80 đã bị phá hủy sau khi bị trúng đạn chống tăng RPG-7V và RPG-18 của phiến quân Chechnya bắn từ nhiều hướng trúng vào hông và nóc xe, do thiết bị nạp đạn tự động Korzhina (tiếng Nga: Коржина) của T-80 chứa liều phóng ở vị trí thẳng đứng và chỉ được bảo vệ phần nào bởi các bánh xe. Đạn chống tăng RPG bắn xuyên giáp xe ở vị trí này rất dễ gây cháy liều phóng và khiến chiếc xe tăng phát nổ Trong 3 tháng chiến đấu, trong số 200 xe tăng ban đầu, đã có 62 xe tăng các loại của quân Nga bị phá hủy (một vài nguồn thống kê thiệt hại bao gồm: 15 chiếc T-72B và 5 chiếc T-72A, 18 chiếc T-80B hoặc T-80BV, còn lại là T-62). Đáng chú ý, trong số 62 xe tăng bị mất, chỉ có 1 xe bị phá hủy do trúng đạn vào khu vực có giáp phản ứng nổ, trong khi có những xe tăng bị trúng nhiều phát đạn nhưng vẫn sống sót do có giáp phản ứng nổ bảo vệ (điều đáng chú ý là có 1 chiếc xe tăng T-80BV số hiệu 171 của Tiểu đoàn Xe tăng Cận vệ 133 đã bị trúng tới 18 quả đạn súng chống tăng mà vẫn không bị phá hủy nhờ được giáp phản ứng nổ Kontakt-1 bảo vệ). Điều này cho thấy thiệt hại của quân Nga là do sự chuẩn bị không kỹ lưỡng và chiến thuật vụng về, chứ không phải do thiết kế xe tăng. Nó cũng cho thấy tầm quan trọng của giáp phản ứng nổ đối với xe tăng trong tác chiến đô thị. Trong Chiến tranh Chechen lần thứ hai, thiệt hại về tăng thiết giáp của Quân đội Nga ít hơn đáng kể so với lần thứ nhất. Đã có số lượng lớn các sĩ quan có nhiều kinh nghiệm chiến đấu, sự huấn luyện các kíp xe và tổ chức phối hợp chính xác, cùng sự đảm bảo về kỹ thuật trong các hoạt động chiến đấu (xe được trang bị đầy đủ giáp phản ứng nổ). Lớp giáp phản ứng nổ đã bảo vệ xe tăng an toàn trước hầu hết các phát bắn trúng từ vũ khí chống tăng của bộ binh địch, kể cả khi xe bị trúng đạn vào hông (là nơi có vỏ giáp mỏng hơn phía trước). Tính từ năm 1997 tới 2003, quân Nga chỉ tổn thất 3 chiếc T-72 bị phá hủy, trong đó duy nhất 1 chiếc bị phá hủy trong Chiến tranh Chechen lần thứ hai Tuy nhiên, T-80 không tham gia cuộc chiến này, vì lần này Nga quyết định chỉ sử dụng T-72 (do T-72 dễ bảo dưỡng hơn và ít tốn nhiên liệu hơn nên thích hợp cho kiểu chiến tranh chống du kích hơn nhiều so với T-80). Các mẫu T-80 chủ yếu Obyekt 219 Việc thử nghiệm động cơ GTD-1000 đầu tiên được thực hiện trên thân xe T-64 với tên gọi Obyekt 219 sp.1 (sp là spetsifikatsiya - tiếng Nga: пецификация, có nghĩa là "chi tiết"), còn được gọi là Groza (tiếng Nga: Гроза - Bão sấm). Trong suốt những lần thử nghiệm đầu tiên, Izotov than phiền rằng bộ phận chuyển động của T-64 có thể hạn chế rất lớn tốc độ tiềm tàng của động cơ turbine khí vì những bánh chịu lực và dải xích bằng kim loại bị rung lắc rất khủng khiếp khi xe chạy tốc độ cao. Vì vấn đề này, Obyekt 219 được trang bị một hệ thống giảm sóc mới, nhưng nó vẫn chưa đạt được những tiêu chuẩn như của hệ thống giảm xóc của đối thủ T-72 từ Uralvagonzavod tại Nizhny Tagil. Phiên bản Obyekt 219 sp.2 đầu tiên với hệ thống giảm xóc mới được xuất xưởng năm 1971. Người Liên Xô đã chế tạo khoảng 60 mẫu thử nghiệm được tiến hành từ 1968 đến 1971 nghiên cứu kết hợp rất nhiều hệ thống giảm xóc và linh kiện đi kèm. Vấn đề lọc bụi vẫn còn tồn tại, các kĩ sư đã khắc phục nó bằng cách sử dụng các diềm chắn cao su và nâng cấp hệ thống lọc khí của động cơ. Năm 1973, đơn vị thử nghiệm giới thiệu một loại động cơ turbine khí mới (để tăng cường khả năng cơ động của xe) có sức mạnh ngang bằng với T-64 nhưng động cơ này không đạt được yêu cầu thiết kế là 500 giờ hoạt động liên tục. Cuối năm 1972, chỉ 19 trên tổng số 27 động cơ được sản xuất hàng loạt đạt thời gian hoạt động khoảng 300 giờ. Trong giai đoạn 1974-1975, tiểu đoàn thử nghiệm của Quân khu Volga than phiền rằng dù ngốn rất nhiều nhiên liệu nhưng công suất hoạt động thực tế của động cơ lại quá thấp. Xe tăng mới cần bình xăng phụ lớn để có thể đạt được tầm hoạt động cơ bản là 450 km. Ngay cả với phiên bản Obyekt 219 sp.8 mới nhất, lượng nhiên liệu tiêu thụ vẫn cao gấp 1,6 đến 1,8 lần so với T-64A. Nền công nghiệp xe tăng Liên Xô tiến lên rất chậm chạp, một phần lý do là việc giải quyết các vấn đề với các chương trình T-64 và T-72 trong khi vẫn phải sản xuất hàng loạt T-55 và T-62 sau khi Ai Cập và Syria bất ngờ mất quá nhiều xe tăng vào năm 1973 trong cuộc Chiến tranh Yom Kippur. Tháng 11 năm 1975, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Liên Xô, Nguyên soái Andrei Grechko đã bác bỏ kế hoạch đưa Obyekt 219 vào sản xuất dựa trên lý do, hao tốn nhiêu liệu gấp đôi T-64A nhưng khả năng của giáp và hỏa lực vẫn không hề thay đổi. Obyekt 219 có thể đã rơi vào quên lãng như nhiều dự án thất bại khác nhưng vào tháng 4 năm 1976, Nguyên soái Andrei Grechko qua đời và Nguyên soái Dmitry Ustinov được bổ nhiệm thay thế. Việc bổ nhiệm Nguyên soái Ustinov là một trường hợp ngoại lệ đầu tiên trong truyền thống của Quân đội Liên Xô, Ustinov không phải là chỉ huy chiến trường, mà là người đứng đầu nền công nghiệp quốc phòng Xô viết kể từ Thế chiến thứ 2. Ustinov là một trong những người ủng hộ hăng hái nhất việc chuyển đổi sử dụng động cơ turbine khí từ giữa thập niên 1960, và Obyekt 219 chính là đứa con cưng của ông. Kết quả đến khá nhanh, tháng 8 năm 1976, Obyekt 219 bất ngờ được chấp thuận được đưa vào sản xuất với cái tên T-80 do quân đội đặt. T-80 (Obyekt 219) (1976) Các vấn đề nổi cộm trong khi thử nghiệm được để sang một bên để được giải quyết khi sản xuất hàng loạt. Việc sản xuất T-80 bắt đầu tiến hành tại Leningrad (LKZ) thay thế cho T-64A. Đã từng có một kế hoạch chuyển đổi Nhà Máy Số 13 tại Omsk từ sản xuất T-55 sang sản xuất T-72, nhưng nó đã bị thay đổi, nhà máy cũng được chuyển sang sản xuất T-80. Cuối cùng, Ustinov cũng đã lên kế hoạch chuyển Nhà máy Kharkov sang sản xuất T-80. Ustinov không hề có hứng thú với T-72 chi phí thấp của Nhà máy Uralvagonzavod tại Nizhny Tagil nhưng công nhận sự cần thiết của một tùy chọn có tính kinh tế để thay thế các dòng xe tăng cũ hơn như T-54/55 và T-62, cũng như là một sự huy động với giá rẻ trong trường hợp nổ ra một cuộc chiến tranh tổng lực. Nhưng Ustinov khẳng định sự ưu tiên hàng đầu trong đổi mới như hệ thống điều khiển hỏa lực mới nên được tích hợp cho T-80 chứ không phải T-72. Quyết định sản xuất T-80 được đưa ra lúc Aleksandr Morozov về hưu vào tháng 5 năm 1976 và chương trình T-74 NST bị loại bỏ. Trên phiên bản gốc, T-80 được trang bị hỏa lực giống như T-64A, nó sử dụng cùng kiểu tháp pháo với máy đo xa quang học. Nhưng giá thành nó khá đắt: 480.000 rúp trong khi T-64A chỉ có 143.000 rúp. Đối với việc điều khiển tháp pháo và hỏa lực, T-80 đã đi sau T-64 của Kharkov đã được nâng cấp thành T-64B với hệ thống điều khiển hỏa lực kết hợp một máy đo xa bằng laser và có khả năng phóng tên lửa điểu khiển Kobra từ năm 1976. Kết quả là việc sản xuất T-80 diễn ra rất ngắn, từ 1976 đến 1978 tại nhà máy Leningrad Kirov (LKZ). Tài liệu được giải mật từ Hiệp ước Các Lực lượng vũ trang thông thường ở châu Âu tháng 11 năm 1990 cho thấy, chỉ có khoảng 112 xe T-80 ở phía Tây dãy Ural, điều này chứng tỏ, tổng số lượng T-80 được sản xuất chỉ khoảng dưới 200 chiếc. T-80B (Obyekt 219R) (1978) Từ khi Ustinov quyết định chuyển việc sản xuất xe tăng T-80 thay cho các loại khác (trừ nhà máy Uralvagonzavod ở Nizhny Tagil), việc nâng tiêu chuẩn cho hệ thống điều khiển hỏa lực lên chuẩn của T-64B trở nên rất cấp bách. Do sự cạnh tranh giữa cá nhà máy, Leningrad tỏ ra thích đưa các tính năng tiên tiến của T-64B vào T-80 hơn là dùng loại tháp pháo nguyên bản của Kharkov. 9K112 Kobra là loại tên lửa chống tăng có điều khiển đầu tiên bắn qua nòng pháo xe tăng được trang bị trong Quân đội Liên Xô. Nó bắt đầu được phát triển từ năm 1960 vì sự ám ảnh của nhà lãnh đạo Nikita S. Khrushchev với tên lửa và niềm tin của ông ta vào tương lai của việc trang bị tên lửa trên xe tăng. Đầu tiên, xe được trang bị tên lửa chống tăng thông thường, nhưng việc áp dụng điều này đã làm cho các nhà thiết kế đặt ra câu hỏi liệu có nên để một chiếc xe tăng mang ít tên lửa hơn mang đúng số lượng đạn dược thông thường. Thế hệ đầu tiên của tên lửa bắn qua nòng pháo không được chấp thuận, và thế hệ tiếp theo được bắt đầu vào ngày 20 tháng 5 năm 1968 dựa trên cấu hình pháo D-81 Rapira 125mm. Tên lửa dẫn bắn bằng vô tuyến 9K112 Kobra được phát triển bởi A. E. Nudelman của Viện Thiết Kế Tochmash ở Moskva, trong khi loại tên lửa dẫn đường bằng tia hồng ngoại là Gyurza (tiếng Nga: Гюрза) được phát triển bởi P. Nepobidimy của Viện Thiết Kế Công nghiệp (Konstruktorskoye Byuro Mashinostroyeniya: KBM - Конструкторское Бюро Машиностроения: КБМ) ở Kolomna. Thế nhưng, tên lửa Gyurza lại bị đánh giá là có thiết kế quá cấp tiến, vượt xa công nghệ tại thời điểm đó có thể hỗ trợ nên bị đình chỉ vào tháng 1 năm 1971 và tất cả đều được tập trung vào phát triển tên lửa Kobra. Lần bắn thử đầu tiên của Kobra trên xe tăng T-64A cải tiến được tiến hành vào tháng 2 năm 1971, và 9K112 Kobra được chấp thuận trang bị cho biến thể T-64B mới vào năm 1976. Tên lửa 9M112 được chia thành hai phần trong băng chuyền của hệ thống nạp đạn tự động, phần phía trước mang đầu đạn và động cơ đẩy, phần đuôi mang hệ thống điều khiển bay và bộ vận dẫn đường cùng với ống phóng 9D129 dùng để tống tên lửa ra khỏi nòng. Khi tên lửa được đưa vào nòng pháo bằng hệ thống nạp đạn tự động, cả hai phần sẽ được nối với nhau, tầm bắn hiệu quả của Kobra là 4 km đối với mục tiêu xe tăng, và 5 km với mục tiêu là máy bay trực thăng bay cao dưới 500m (nhưng phải bắn trong chế độ bắn đặc biệt). Hệ thống điều khiển tên lửa dùng 2 tầng số điều khiển từ ăngten chỉ huy GTN-12 nằm trong một hộp bảo vệ đặt bên phải của mặt trước tháp pháo. Vì giá tên lửa khá cao nên mỗi xe tăng chỉ được trang bị vài quả, thông thường mỗi xe có 4 tên lửa trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu. Năm 1975, giá mỗi quả tên lửa Kobra là 5.000 rúp (vào thời điểm đó, một động cơ xe tăng chạy bằng dầu diesel có giá chỉ 9.000 rúp). Thập niên 1990, hệ thống tên lửa Kobra được nâng cấp lên phiên bản 9M128 Agona trang bị đầu đạn có khả năng xuyên 600 đến 650mm giáp. Phiên bản Obyekt 219R được nâng cấp thế hệ giáp tấm mới nhất của Liên bang Xô viết lúc bấy giờ trên tháp pháo với tên gọi "Tổ hợp K" (tiếng Nga: Комплекс К - Kompleks K), được cấu tạo từ một khoang với lớp giáp thép đúc ở mặt trước tháp pháo với các que gốm từ loại sứ siêu bền (ultrafarforov - tiếng Nga: ултрафафоров) kết dính lại. Kiểu giáp tấm thế hệ 3 này là cuộc cách mạng của thế hệ giáp tấm, phát triển bởi Học viện Nghiên cứu Khoa học Thép (Nauchno Issledovatelskiy Institut Stali: NII Stali - Научно Исследовательский Институт Стали: НИИ Стали), hai thế hệ đầu trên T-64 sử sụng nhôm trong khoang chứa, sau đó dùng các viên sứ kết dính bằng chất kết dính kim loại. Tổ hợp K cho khả năng bảo vệ tương đương 550mm thép ở mặt trước tháp pháo. Dốc nghiêng trước thân xe sử dụng một loại thép tấm khác bao gồm 80mm giáp thép, tiếp phía sau là 105mm nhựa gia cố thủy tinh, sau là 20mm giáp thép, có khả năng bảo vệ tương đương 500mm thép bao gồm cả độ dốc. Tất cả các loại giáp composite này đều nhằm mục đích bảo vệ xe tốt hơn khi so sánh với các loại giáp thông thường khi chống lại các loại đạn chống tăng nổ lõm (HEAT). Obyekt 219R được chấp thuận đưa vào trang bị của Quân đội Liên Xô với tên gọi T-80B và bắt đầu được sản xuất tại nhà máy Leningrad Kirov (LKZ) cùng năm đó để thay thế cho dòng T-80 nguyên bản. Nhà máy Omsk bắt đầu sản xuất T-80B năm 1979, thay thế cho việc sản xuất T-55 xuất khẩu. Nhà máy Omsk đồng thời được chỉ định phát triển Obyekt 630, phiên bản xe tăng chỉ huy của T-80B, có tên gọi chính thức là T-80BK. Phiên bản xe tăng chỉ huy được tích hợp thêm hệ thống định vị mặt đất ăngten chỉ huy. T-80B trở thành dòng xe tăng thông dụng nhất trong các dòng T-80, và là phiên bản đầu tiên được quyết định trang bị cho các lực lượng Xô viết đóng tại Đông Đức (GSFG) năm 1981. NATO lần đầu tiên thấy T-80B tiến vào lãnh thổ nước Đức tháng 4 năm 1983 gần Halle, là xe của Trung đoàn Xe tăng số 29 thuộc Sư đoàn Xe tăng số 9, Tập đoàn quân Xe tăng Cận vệ số 1 và các đơn vị của Tập đoàn quân Xe tăng Cận vệ số 8 vào năm 1984. Năm 1985, mỗi sư đoàn của Tập đoàn quân Xe tăng Cận vệ số 1 và số 8 nhận thêm một ít T-80B. Theo tài liệu giải mật của Hiệp ước Các Lực lượng vũ trang thông thường ở châu Âu tháng 11 năm 1990, có 3.518 chiếc T-80B và 217 chiếc T-80BK chỉ huy phục vụ phía Tây dãy Ural, 217 T-80BK chỉ huy, cộng thêm 617 xe được nâng cấp lên chuẩn T-80BV, tổng cộng có khoảng 4.352 xe, chiếm 90% toàn số lượng T-80. Có rất ít T-80 đóng ở phía Đông dãy Ural, ngoại trừ số lượng nằm tại Omsk trong các kho dự trữ và các trường tập lái. T-80BV (Obyekt 219RV) (1985) Trong suốt cuộc chiến tại Liban năm 1982, lần đầu tiên trong lịch sử Israel sử dụng giáp phản ứng nổ (ERA) trên xe tăng chủ lực. Thế hệ ERA đầu tiên được thiết kế để vô hiệu hóa đầu đạn nổ lõm. Đầu đạn nổ lõm khác đầu đạn thông thường ở chỗ, nó định hình thuốc nổ trong một hình chóp nón trước đầu đạn. Khi đầu đạn chạm nổ, khối thuốc nổ sẽ phá vỡ chóp nón kim loại, tạo một thành luồng nổ hình mũi tên có hạt lõi thép bên trong, đâm xuyên qua các lớp giáp thép thông thường. Viên gạch ERA là gồm một hộp kim loại đặt tại những vị trí dễ bị trúng đạn nhất của xe như: mặt trước thân xe, mặt trước tháp pháo và nửa trước hông xe. Nhân bên trong bao gồm thuốc nổ dẻo và các miếng thép. Khi đầu đạn HEAT chạm vào ERA, thuốc nổ dẻo bên trong phát nổ, đưa các miếng thép ra trước luồng xuyên của đầu đạn lõm, làm giảm ảnh hưởng của đầu đạn. Học viện nghiên cứu NII Stali đã phát triển loại giáp này từ thập niên 1960 nhưng nó không được ưa chuộng và không được sử dụng. Sự xuất hiện của loại Blazer ERA của Israel năm 1982 đã làm Quân đội Liên Xô chú ý và quyết định trang bị nó cho các xe tăng chủ lực của nước này. Đặc biệt là lực lượng đồn trú tại Đông Đức (GSFG). Loại giáp ERA do NII Stali phát triển được đặt tên là "Kontakt-1" (tiếng Nga: Контакт-1) và được trang bị loại thuốc nổ thế hệ đầu tiên 4S20. NII Stali ước tính giáp Kontakt-1 có thể giảm thiệt hại đến khoảng 86% từ đầu đạn tên lửa 125mm, 58% với đạn HEAT, và 92% với đạn hỏa tiễn chống tăng hạng nhẹ (M72 LAW cỡ 93mm). Kontakt-1 nhẹ hơn Blazer của Israel và được NII Stali nâng hiệu quả cao hơn 15%. Kontakt-1 bắt đầu được trang bị trên xe tăng Liên Xô năm 1983 và được trang bị cho lực lượng đồn trú tại Đông Đức năm 1984. Năm 1985, Leningrad Kirov bắt đầu sản xuất T-80B với giáp Kontakt-1, đặt tên là T-80BV (Obyekt 219RV), phiên bản xe tăng chỉ huy tên là T-80BVK. Kí tự V được thêm vào để chỉ từ "Nổ" (Vzryvnoy - tiếng Nga: Взрывной). Trong thời gian bảo trì định kì, những chiếc xe cũ được lắp thêm các khối giáp Kontakt-1. Theo tài liệu giải mật của Hiệp ước Các Lực lượng vũ trang thông thường ở châu Âu tháng 11 năm 1990, có khoảng 594 chiếc T-80BV và 23 chiếc T-80BVK phục vụ tại phía Tây dãy Ural, chiếm khoảng 13% số lượng T-80. Xe tăng T-80BV được trang bị cho các sư đoàn ở tuyến đầu, trong đó có các sư đoàn thuộc Tập đoàn quân Phương Bắc đóng tại Ba Lan, gồm sư đoàn Súng trường Cơ Giới Cận Vệ Vitebsk ở Paromenia và Sư đoàn Xe tăng số 20 Zvenigorod đóng tại Silesia. Trong thời bình, giáp Kontakt-1 không được gắn ở diềm hai bên hông xe, mà chỉ được gắn xung quanh tháp pháo. T-80A (Obyekt 219A) (1982) Phát triển từ T-80B. Động cơ GTD-1000M 1.200 mã lực, hệ thống 9K119 điều khiển bắn tên lửa chống tăng 9M119M Refleks, một số chốt trục cho đại liên phòng không NSVT,... T-80A chứa nhiều đạn hơn T-80B (40 viên so với 38 viên). Có một số chi tiết của T-80U tương lai: giáp tốt hơn, hệ thống điều khiển bắn mới, thiết bị ngắm 1G46 của pháo thủ. Vì vậy T-80A nặng hơn 2,8 tấn. Năm 1984 dùng gạch ERA giống T-80BV (nhưng không có thiết bị điều khiển bắn trên nóc tháp pháo). T-80A obr. 1984 là phiên bản T-80A trang bị giáp phản ứng nổ Kontakt-1. T-80AK là phiên bản xe tăng chỉ huy của T-80A. T-80U (Obyekt 219AS) (1986) T-80U (Uluschennyy - tiếng Nga: Улучшенный, có nghĩa là "cải tiến") (1986) là bản nâng cấp của T-80A. Trang bị giáp ERA thế hệ 2 có tên là "Kontakt-5" (tiếng Nga: Контакт-5) chống được đạn xuyên giáp động năng (một số bản cũ vẫn dùng Kontakt-1). Thiết bị ngắm 1G46, tháp pháo mới, động cơ GTD-1000F 1.200 mã lực. Hệ thống 9K120 điều khiển được tên lửa 9M119M Refleks và 9M119 Svir. Đại liên phòng không NSVT được điều khiển từ xa trong tháp pháo giống như T-64. Kênh tăng cường hình ảnh thay cho đèn hồng ngoại ở nóc tháp pháo dành cho xa trưởng. Thiết bị chỉ định laser đặt ở nóc xe, phía trước chỗ của xa trưởng và nằm trong một cái hộp bảo vệ hình chữ nhật. Nó phóng ra một chùm laser đã được điều chỉnh. Váy bảo vệ hông được bọc giáp ở phần che phủ 3 bánh trước và có tay cầm để nhấc lên. Váy trước có giáp chống sóng radar. Các núm cao su ở trước xe chống lại mìn (loại có ngòi nổ tay đòn nghiêng tilt-rod fuse) và đạn HEAT. Nóc tháp pháo có thêm lớp bảo vệ. Ghế lái xe được treo lên nóc để tránh mìn. Hai cụm ống xả khói mù 81 ly 902B Tucha nằm hai bên tháp pháo. Có những họa tiết ngụy trang. Năm 1992, xe được lắp đặt thêm ống thông hơi "Brod-M" và động cơ turbine khí mới GTD-1250D. Phiên bản xe tăng chỉ huy T-80UK có thêm khả năng chỉ huy và kiểm soát trên chiến trường và có đường liên lạc lên cấp chỉ huy cao hơn. Nó tương tự như T-80U nhưng có một số tính năng phụ trợ. Nó được lắp đặt hệ thống phòng vệ mềm Shtora-1 cùng loại được lắp cho xe tăng T-90. Shtora-1 do Elektronintorg của Nga sản xuất. Hệ thống này gồm máy nhiễu âm hồng ngoại, hệ thống cảnh báo laser, hệ thống vô hiệu hoá lựu đạn và một hệ thống kiểm soát bắn computer. Tầm hoạt động 200m. Xe có một ăngten tích hợp lưỡng cực đối xứng dùng được cho thông tin trên cả băng tần UHF và HF. Ăngten này có tầm hoạt động tốt hơn khi xe đứng yên – lên tới 40 km cho sóng vô tuyến R-163-50U và 350 km cho sóng vô tuyến R-163-50K. Một máy phát điện chạy bằng benzene AB-1-P28 1 kW cung cấp năng lượng cho hệ thống thông tin khi xe đứng yên. T-80UK cũng có một hệ thống kiểm soát bắn hiện đại, nạp đạn tự động, bảo vệ tháp pháo ERA gắn liền và hỗ trợ lội nước TNA-4-3. T-80 cải tiến thời kỳ hậu Xô viết T-80UM (Obyekt 219AS-M): Phiên bản hiện đại hóa của Nga năm 1995. Có hệ thống điều khiển bắn mới đối với tên lửa chống tăng 9M119M Refleks, thiết bị nhìn hồng ngoại "Agava-M1" (cũng có thể dùng "Agava-2" hoặc "Buran-R"), tháo bỏ đèn hồng ngoại L-4 "Luna". T-80UM-1 "Bars" (tiếng Nga: "Барс" - Báo tuyết): Mẫu thử nghiệm năm 1997 với hệ thống phòng thủ chủ động ARENA (Zaloga 2000:4). T-80UM-2: Mẫu thử nghiệm năm 1997 với hệ thống phòng thủ chủ động Drozd-2 (Zaloga 2000:4). Xe tăng Black Eagle (Obyekt 640): Một loạt các nguyên mẫu trình diễn của Nga với tháp pháo mới bao gồm khoang tổ lái và khoang chứa đạn riêng biệt, hệ thống nạp đạn tự động mới, giáp phản ứng nổ "Kaktus" (tiếng Nga: Кактус, có nghĩa là "cây xương rồng"), hệ thống ngắm mục tiêu cải tiến (không được tiết lộ chi tiết). 6-7 chiếc đã được chế tạo. Không được sản xuất do thiếu kinh phí. T-80BVM: Phiên bản hiện đại hóa sâu của Nga, được giới thiệu vào năm 2017. Trang bị giáp phản ứng nổ thế hệ 3 có tên là "Relikt" (tiếng Nga: Реликт), hệ thống điều khiển hỏa lực hiện đại Kalina (giống như trên T-72B3M và T-90M "Proryv-3"), nâng cấp lớn các hệ thống khác nhau. Nga có kế hoạch nâng cấp và hiện đại hóa 3.000 chiếc T-80 trong kho lên phiên bản này. T-80UD "Beryoza" (Ob'yekt 478B) (1985): Mẫu T-80 của Ukraine với động cơ diesel 6TD 1.006 mã lực (750 kW). Dùng gạch ERA Kontakt-1 hoặc Kontakt-5. T-84 (1994): Xem T-84. Chú thích
2! hay Chuyên đề 2! là một ấn phẩm bán nguyệt san của báo Sinh viên Việt Nam, một tạp chí có nội dung về phong cách sống, bên cạnh đó đề cập tới nhiều vấn đề trong xã hội, định hướng thời trang cho các bạn trẻ cùng các cụm tin giải trí, với đối tượng độc giả chủ yếu là học sinh, sinh viên, thanh niên Việt Nam, được phát hành vào ngày 1 và 15 hàng tháng. Lịch sử phát hành Ngày 2 tháng 5 năm 2002: Chuyên đề 2! Hoa Học Trò ra đời với hình thức ban đầu là một chuyên đề giải trí của báo Hoa Học Trò, được phát hành mỗi tháng một số. Sau đó, 2! đã được phát hành hằng tuần vào mỗi sáng thứ Ba với số lượng phát hành mỗi kỳ khoảng 200.000 bản mỗi số. Suốt 12 năm liên tiếp, tạp chí này giữ nguyên giá 10.000 đồng Ngày 24 tháng 3 năm 2013: 2! Luxe - ấn phấm đặc biệt dành cho người trẻ A+ ra đời và phát hành hằng tháng với các chuyên mục chính như: First in, Vùng tiểu khí hậu, Relationship, Giải trí. Phụ kiện của 2! Luxe thường là những vật phẩm hấp dẫn với giới trẻ lúc bấy giờ như: day-runner, cheating book, travel book,... Ngày 7 tháng 4 năm 2015: 2! Người trẻ Việt số 410 ra đời với hình thức thể hiện mới: mỗi số có một vấn đề để cùng phân tích, bàn luận. Chuyên đề ở số này có tên là Make Over với đại diện là ca sĩ Tóc Tiên. Bắt đầu từ số này, các số phát hành vào sáng thứ 3 cách tuần với giá 25.000đ/số, mỗi số tặng kèm một cuốn Menu Giải trí, có nội dung về thông tin âm nhạc, phim ảnh cùng các bài phân tích. Tới số 413, ngày 19 tháng 5, mục Menu Giải trí được gộp vào trong quyển báo, thay vào đó là cuốn phụ kiện Boiz đề cập tới thời trang, phong cách sống của các nam thanh niên Tháng 1 năm 2016, tạp chí này đổi ngày phát hành sang ngày 1 và 15 hàng tháng với giá 20.000đ/số. Số đầu tiên theo lịch phát hành mới này là số 431, ngày 15 tháng 1 Tháng 4 năm 2016, 2! thay đổi cách thức thể hiện nội dung, hình ảnh, thiết kế và chất liệu giấy in. Số đầu tiên theo phiên bản mới này là số 436, ra ngày 1 tháng 4, với tiêu đề trang bìa BEGIN AGAIN. Người mẫu ảnh bìa cho số này là thành viên Isaac của nhóm nhạc 365daband Các cuộc thi và hoạt động Là đối tác truyền thông của nhiều sự kiện lớn như HEC Korea, Soundfest, YAN Beatfest,... và các buổi gặp gỡ người hâm mộ của Kim Jae Joong, T-Ara, Lee Kwang Soo,... tại Việt Nam. Cuộc thi 2! Ngôi sao thời trang, cuộc thi đầu tiên dành cho người mẫu ảnh do 2! tổ chức. Nơi đây đã sản sinh ra rất nhiều những gương mặt được yêu thích như Sam, Ngọc Thảo, Mie, Hạ Anh, Noo Phước Thịnh, Jun (nhóm nhạc 365daband), Dương Minh Tuấn... Một số chuyên mục ở phiên bản cũ NGƯỜI TRẺ VIỆT NGHĨ TRẺ- NÓI THẲNG Chẩn bệnh người Việt trẻ 2!skool Gia đình thân yêu Teenstory Menu giải trí Phòng Chứa Bí Mật Tuổi Yêu Sức khỏe giới tính Khách mời 2! Bắt mạch trái tim Cuối tuần vui vẻ 2!U Cú sốc dậy thì Giải mã con trai Giác quan thứ 7 Mật Thư Thời trang Hàng ghế đầu Nói bởi trái tim Ngoài ra, hằng tuần báo còn tặng kèm 1 cuốn phụ san miễn phí SHOPPING 24/7 chuyên về mua sắm, quà tặng, coupond, giảm giá.... 16 trang 4 màu. SHOPPING 24/7 phát hành 3 phiên bản Hà Nội- Đà Nẵng- TP HCM
Hoa Học Trò (còn gọi là H2T, HHT) là ấn phẩm của báo Tiền phong, là tờ báo dành cho lứa tuổi thanh thiếu niên. Số đầu tiên của Hoa Học Trò bắt đầu phát hành từ ngày 15 tháng 10 năm 1991, dưới sự hỗ trợ của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Lịch sử Vào ngày 15 tháng 10 năm 1991, Hoa Học Trò phát hành số báo đầu tiên, mỗi tháng ra một kỳ. Lúc đó, phần thiết kế của báo vẫn còn khá đơn giản với một vài mục như.Thơ, Truyện cười,... Tháng 9 năm 1993, HHT tăng lên hai kỳ một tháng, sau đó phát hành hàng tuần kể từ năm 1995. Tháng 10 năm 1998, trên cơ sở quy hoạch báo chí của Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, báo Sinh viên Việt Nam chính thức ra mắt. Hoa Học Trò tách khỏi báo Thiếu niên Tiền phong và trở thành tuần san của báo Sinh viên Việt Nam kể từ đó. Cho đến số thứ 100, Hoa Học Trò đã được cải tiến với nhiều mục báo phong phú hơn, đặc biệt là về các tin tức giải trí trong nước và nước ngoài. Trở thành một trong những tờ báo được thanh niên đón đọc và yêu thích nhất. Từ năm 2006 trở đi, Hoa Học Trò đã chú trọng về việc thiết kế trang báo, hình ảnh, tin tức,... Ngoài ra, Hoa Học Trò còn tổ chức nhiều chương trình như Tôi làm ngôi sao (Make Me A Superstar), HHT Icon hay chương trình ca nhạc H2Teen Concert vào năm 2011 được đông đảo khán giả tham gia. Nhiều kì báo được phát hành đính kèm các album đĩa nhạc, ảnh khổ lớn hay các cuộc thi bốc thăm trúng thưởng dành cho các độc giả... Cuộc thi ảnh bìa Ngôi sao mùa hè diễn ra mỗi năm, thu hút đông đảo lượng độc giả tham gia và bình chọn. Ngày 19 tháng 2 năm 2020, báo Sinh viên Việt Nam được sáp nhập vào báo Tiền Phong, Hoa Học Trò chính thức trở thành ấn phẩm của báo Tiền Phong. === Các Tổng Biên tập === Nguyễn Phong Doanh (1991–2005) Đoàn Công Huynh (2005–2008) Nguyễn Huy Lộc (2008–2020) Các ấn phẩm khác Trà sữa cho tâm hồn: Các truyện ngắn dành cho tuổi trẻ, phát hành thứ tư đầu tháng Thiên Thần Nhỏ: Dành cho độc giả từ 9-13 tuổi với các thông tin học đường, giải trí, ra thứ hai cách tuần Chuyên đề 2!: Giải trí và phong cách sống cho giới trẻ, ra ngày 1 và 15 hàng tháng. Hiện nay vẫn đang còn xuất bản định kỳ.
Khăn quàng đỏ là biểu tượng và đồng phục của đội viên Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, cũng như một số tổ chức thiếu niên tại các quốc gia xã hội chủ nghĩa. Khăn quàng đỏ thường là một miếng vải màu đỏ hình tam giác cân, cạnh đáy tối thiểu là 1 mét, đường cao bằng 1/4 cạnh đáy, thường làm từ vải bông, lụa hoặc valise. Khăn quàng đỏ được thắt lên cổ áo, theo một quy tắc nhất định. Đội viên đeo khăn quàng đỏ trong mọi hoạt động của tổ chức Đội. Tại Việt Nam, Khăn quàng đỏ thường được mang bởi học sinh là Đội viên Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh tại các Trường Tiểu học, Trung học cơ sở. Ý nghĩa Khăn quàng đỏ là một khăn quàng màu đỏ, cũng như một số loại trang phục, có ý nghĩa là biểu trưng cho một tập thể, một tổ chức nào đó, hoặc biểu thị cho một tư cách, địa vị xã hội. Một thiếu niên Việt Nam đeo khăn quàng đỏ là biểu trưng cho việc người đó đã gia nhập Đội Thiếu niên Tiền phong, cũng giống như chiếc áo nâu của một nhà sư nói lên việc nhà sư thuộc giáo hội Tăng già (Bắc Tông), chiếc áo vàng quấn quanh thân của một nhà sư nói lên nhà sư ấy thuộc phái Nam Tông... Ngoài ý nghĩa đó, ba góc của chiếc khăn quàng đỏ hình tam giác còn được nhiều người theo chủ nghĩa cộng sản hay xã hội chủ nghĩa cho là biểu trưng của sự liên kết giữa ba thế hệ trong gia đình và ba tổ chức nòng cốt của chủ nghĩa xã hội: thế hệ cha - thế hệ anh - thế hệ em tương ứng với ba tổ chức Đảng Cộng sản - Đoàn Thanh niên Cộng sản - Đội thiếu niên tiền phong. Đây là điều mà trước đây các gia đình có ba thế hệ đều theo lý tưởng của và phục vụ cho Đảng Cộng sản rất tự hào. Việt Nam Khăn quàng đỏ là 01 trong 05 biểu trưng của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh (bên cạnh cờ Đội, huy hiệu Đội, khẩu hiệu Đội, Đội ca). Ý nghĩa của khăn quàng đỏ của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh:Khăn quàng đỏ là một phần cờ Tổ quốc, màu đỏ tượng trưng cho lý tưởng cách mạng. Đeo khăn quàng đỏ, đội viên Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh tự hào về Tổ quốc, về Đảng Cộng sản Việt Nam, về Bác Hồ vĩ đại, về nhân dân Việt Nam anh hùng và nguyện phấn đấu để trở thành đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Kiểu thắt Việt Nam Cách thắt khăn Tay phải cầm một phần ba chiều dài của khăn. Dùng hai tay dựng cổ áo. Tay trái vuốt nhẹ chiều dài mép khăn, cầm một phần hai phần dải khăn còn lại. Gấp xếp đổi chiều cạnh đáy khăn, để phần chiều cao khăn còn khoảng 15 cm. Đặt khăn vào cổ áo, so hai đầu khăn bằng nhau. Đặt dải khăn bên trái lên trên dải khăn bên phải, vòng đuôi khăn bên trái vào trong, đưa lên kéo ra phía ngoài tạo thành nút thứ nhất với dải khăn bên phải (vị trí nút khăn tương đương với khuy áo thứ hai từ trên xuống). Lấy dải khăn bên trái vòng xuống phía dưới dải khăn bên phải theo chiều từ trái sang phải và buộc tiếp thành nút thứ hai với dải khăn bên phải. Chỉnh cho hai dải khăn xòe ra, sửa nút khăn vuông vắn, chỉnh đỉnh khăn nằm giữa sống lưng, bẻ cổ áo xuống. Cách tháo khăn Tay trái cầm nút khăn, tay phải cầm dải khăn phải phía trên nút, rút khăn ra. Liên Xô Trước khi Liên Xô tan rã năm 1991, học sinh các trường phổ thông cơ sở của Liên Xô cũng đeo khăn quàng đỏ khi gia nhập Đội Thiếu niên Tiền phong Lenin. Nhưng quy tắc thắt khăn quàng đỏ ở Liên Xô có khác với Việt Nam. Đông Đức Ở Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức) trước đây nó lại có màu xanh lam (khăn quàng xanh), một phần để không gợi lại ký ức của Chiến tranh thế giới thứ hai trước đó. Nhưng từ năm 1973, các đội viên Thälmann đeo khăn quàng đỏ giống kiểu của Liên Xô.