text
stringlengths
0
512k
Không quân là một thành phần biên chế của quân đội là lực lượng giữ vai trò quan trọng, được tổ chức để tác chiến trên không; có hỏa lực mạnh, tầm hoạt động xa và là phần cơ động nhất của quân đội. Không quân có thể chia thành: Không quân của Không quân Không quân của Hải quân Không quân của Lục quân Không quân của Cảnh sát Không quân có khả năng độc lập hoặc hiệp đồng tác chiến với các lực lượng khác. Theo chức năng nhiệm vụ, có không quân: tiêm kích, tiêm kích-ném bom, ném bom, cường kích, trinh sát, vận tải... Trong quân đội ở các nước có tiềm lực quân sự mạnh, lực lượng không quân chia thành: Không quân tiêm kích: VD như F-16, MiG-21, MiG-29, Su-22, Su-27, Su-30, Su-57,... Không quân cường kích: VD như Su-25K, P-38 Lightning, Ilyushin Il-2, A-10 Thunderbolt II, SEPECAT Jaguar,... Không quân vận tải: VD như Il-76TD, C-141 Starlifter, Airbus A400M, Airbus A310 MRTT,... Không quân trinh sát Không quân trực thăng: VD như Mil Mi-8, Mil Mi-17, MD-500, Ka-28, Ka-32,... Các đơn vị chỉ huy, bảo đảm. Nhiều lực lượng không quân trên thế giới còn bao gồm binh chủng hàng không vũ trụ quân sự, tên lửa liên lục địa và thiết bị thông tin. Một số lực lượng không quân có thể bao gồm các khí tài bảo vệ bầu trời khác như pháo phòng không, tên lửa đất đối không hay các hệ thống tên lửa đánh chặn, cảnh báo và các hệ thống phòng vệ khác. Phần lớn các quốc gia có lực lượng không quân độc lập – Quân chủng Không quân – tương đương với Lục quân và Hải quân. Tuy vậy điều này không ngăn cản lục quân và hải quân xây dựng thành phần tác chiến trên không riêng để hỗ trợ hoạt động. Ví dụ tiêu biểu là quân đội Mỹ, lực lượng hải quân có bộ phận không quân rất mạnh mà căn cứ chủ yếu là các tàu sân bay; lực lượng lục quân phát triển thành phần trực thăng thành phương tiện di chuyển và chiến đấu hiệu quả. Với Quân đội Canada, Không quân điều hành tất cả các máy bay quân sự, kể các khi các máy bay thuộc phiên chế các đơn vị Lục quân. Lịch sử Phương tiện tiến công đường không đầu tiên đánh dấu là sự kiện tại cuộc chiến chống quân xâm lược Napoleon 1812 tại Mascow, kinh khí cầu có người điều khiển của Nga được dùng để ném bom quân Thập tự viễn chinh Pháp ở ngoại ô đã góp phần chiến lược vào sự thất bại của Napoleon tại đây. Lực lượng không quân đầu tiên trên thế giới là hàng không quân sự của lục quân Pháp thành lập năm 1910, lực lượng này sau đó trở thành quân chủng không quân. Khinh khí cầu, phát triển từ thế kỷ 19 đáng kể là ở Pháp và Mỹ, không thực sự gọi là không quân. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Đức, Ý, Pháp và Anh có lực lượng không quân đáng kể gồm máy bay chiến đấu (tiêm kích) và máy bay oanh tạc (oanh tạc cơ). Lực lượng không quân độc lập đầu tiên trên thế giới là Không quân Hoàng gia Anh (Royal Air Force – RAF). Ngày 1 tháng 4 năm 1918, lực lượng này ra đời với sự hợp nhất của Lực lượng hàng không của Hải quân Hoàng gia Anh và các quân đoàn máy bay của Quân đội Hoàng gia Anh. RAF sử dụng quân phục có màu sáng hơn quân phục xanh da trời của Hải quân Hoàng gia và có hệ thống cấp bậc khác nhiều lục quân và hải quân. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Đức bị cấm phát triển không quân theo quy định của Hiệp ước Versailles. Năm 1935, Đức phá bỏ quy định này, thành lập lực lượng không quân (Luftwaffe). Không quân Ý (Regia Aeronautica) trở thành lực lượng độc lập năm 1923, trong khi mãi đến giữa thập niên 1930 Pháp mới có quân chủng không quân tách biệt khỏi lục quân. Không quân Xô viết gần như vô danh mãi đến 1924, còn các quân đoàn không quân Hoa Kỳ chỉ giành được tự chủ một phần khi quân chủng không quân ra đời năm 1941, vài tháng trước sự kiện Trân Châu Cảng. Không quân Hoa Kỳ trở thành quân chủng độc lập năm 1947. Trong thập niên 1930, không quân bắt đầu được sử dụng vào các hoạt động ném bom chiến lược phá hoại cơ sở hạ tầng của đối thủ, đi đầu là Nhật và Đức tiến hành ở Trung Quốc và trong nội chiến Tây Ban Nha. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, vai trò của máy bay ném bom được hoàn thiện. Các cuộc đột kích không quân bằng hàng ngàn oanh tạc cơ cùng lúc không phải là hiếm. Sự phát triển máy bay tiêm kích thực hiện phi vụ bất kể ngày hay đêm là nhằm ngăn chặn những oanh tạc cơ kể trên. Một trong những sự kiện cuối cùng trong Chiến tranh thế giới thứ hai là pháo đài bay B-29 của Mỹ thả hai quả bom nguyên tử xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki của Nhật Bản vào tháng 8 năm 1945. Cùng với sự ra đời của Chiến tranh Lạnh, cả Không quân Hoa Kỳ và sau đó là Không quân Xô viết xây dựng lực lượng máy bay ném bom chiến lược có khả năng mang bom hạt nhân. Một số kỹ thuật hiện đại được phát triển và sử dụng rộng rãi trong thời gian này là tiếp dầu trên không, động cơ phản lực, tên lửa và máy bay trực thăng. Trung Quốc, ban đầu với sự giúp đỡ của Liên Xô, đã hình thành một lực lượng không quân đồ sộ độc lập với lục quân. Hoa Kỳ và Liên Xô cung cấp rất nhiều máy bay cho các nước trong hệ thống ảnh hưởng của họ. Trong thập niên 1960, Canada, khác với xu hướng chung, sáp nhập quân chủng không quân vào lục quân và hải quân, hình thành lực lượng chung là Quân đội Canada (Canadian Armed Forces) với đồng phục chung màu xanh lá cây. Đây là trường hợp hãn hữu và gần đây lực lượng không quân (cũng như hải quân) của Canada đã quay lại với các biểu hiện riêng. Lực lượng không quân Việt Nam là một thành phần của quân chủng phòng không-không quân ngày 24 tháng 1 năm 1959. Năm 1977, lực lượng này trở thành quân chủng độc lập - Không quân Nhân dân Việt Nam đến năm 1999 thì quay trở lại Quân chủng phòng không-không quân. Xếp loại sức mạnh quân sự của lực lượng không quân Theo bảng xếp hạng của tạp chí lâu đời nhất thế giới chuyên về hàng không - Flight International, sức mạnh quân sự của lực lượng không quân của 10 quốc gia đứng đầu thế giới gồm: Ví trị thứ nhất là Không quân Mỹ, khi lực lượng này đang nắm giữ 78% tổng số máy bay chiến đấu được chế tạo trên thế giới. Mỹ đang nắm giữ một số lượng lớn máy bay tiếp nhiên liệu, chỉ tính riêng Không quân Mỹ thì con số này đã lên tới 586 chiếc, nhiều hơn hẳn so với máy bay ném bom. Mỹ hiện có 13.717 thiết bị bay quân sự. Vị trí thứ hai là Không quân Nga. Nga hiện đang nắm giữ 3.547 phi cơ, chiếm 7% tổng số lượng máy bay chiến đấu hiện có trên toàn thế giới. Vị trí thứ ba là Không quân Trung Quốc. Hiện Trung Quốc có hơn 1.500 chiến đấu cơ và hơn 800 trực thăng, bao gồm 105 chiếc trực thăng tấn công. Bắc Kinh hiện có 2.942 máy bay quân sự, chiếm 6% tổng số lượng máy bay chiến đấu của thế giới. Vị trí thứ tư là lực lượng Không quân Ấn Độ với 2.086 máy bay. Vị trí thứ năm là lực lượng Không quân Nhật Bản với 1.590 máy bay. Vị trí thứ sáu là lực lượng Không quân Hàn Quốc với 1.429 máy bay. Vị trí thứ bảy là lực lượng Không quân Pháp với tổng cộng 1.282 máy bay và trực thăng chiến đấu, chiếm 2% tổng số lượng trên toàn thế giới. Vị trí thứ tám là lực lượng Không quân Ai Cập với 1.133 máy bay. Vị trí thứ chín là lực lượng Không quân Thổ Nhĩ Kỳ với trên 1.000 máy bay. Vị trí thứ mười là lực lượng Không quân Triều Tiên với 944 máy bay chiến đấu.
Pizza (phát âm tiếng Ý: , Tiếng Anh: ), Tiếng La tinh thường đọc là Pi-da , là một loại bánh dẹt, tròn được chế biến từ bột mì, nấm men,... sau khi đã được ủ bột để nghỉ ít nhất 24 tiếng đồng hồ và nhào nặn thành loại bánh có hình dạng tròn và dẹt, và được cho vào lò nướng chín trước khi ăn. Thuật ngữ "pizza" lần đầu tiên được ghi nhận vào thế kỷ 10 trong một bản thảo Latin từ thị trấn Gaeta ở phía Nam Ý, thuộc vùng Lazio, gần biên giới với Campania. Raffaele Esposito thường được coi là cha đẻ của pizza hiện đại. Pizza hiện đại được phát minh ở Naples. Năm 2009, pizza Neapolitan được đăng ký với Liên minh châu Âu như một món ăn Đặc sản Truyền thống Được Bảo đảm. Năm 2017, nghệ thuật làm pizza Neapolitan đã được thêm vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO. Pizza và các biến thể của nó là một trong những thực phẩm phổ biến nhất trên thế giới. Pizza được bán tại nhiều nhà hàng, bao gồm các tiệm pizza chuyên nghiệp, nhà hàng Địa Trung Hải, thông qua giao hàng và dưới hình thức thực phẩm đường phố. Tại Ý, pizza được phục vụ tại nhà hàng được trình bày chưa cắt và được ăn bằng dao và nĩa. Trong môi trường không chính thống, nó được cắt thành từng miếng để ăn bằng tay. Năm 2017, thị trường pizza toàn cầu đạt 128 tỷ USD, và tại Mỹ, con số này là 44 tỷ USD, phân bố trên 76.000 tiệm pizza. Tổng cộng, 13% dân số Mỹ từ hai tuổi trở lên đã tiêu thụ pizza vào bất kỳ ngày nào. Nguyên gốc từ Lần đầu tiên từ "pizza" được ghi nhận xuất hiện trong một văn bản Latin từ thị trấn Gaeta, vào thời điểm đó vẫn là một phần của Đế quốc Byzantine, vào năm 997 sau Công nguyên. Văn bản này nói rằng một người thuê một bất động sản nào đó phải đưa giám mục Gaeta duodecim pizze (nghĩa là "mười hai bánh pizza") mỗi Ngày Giáng sinh và một lần nữa vào Chủ Nhật Phục Sinh. Một số giả thuyết về nguồn gốc từ này bao gồm: Từ tiếng Hy Lạp Byzantine và Latinh muộn pitta đã trở thành pizza, tương tự với bánh pitta của Hiện đại Hy Lạp và pitta ở Apulia và Calabria (khi đó là Byzantine Italy), một loại bánh tròn mỏng được nướng trong lò ở nhiệt độ cao, đôi khi có những lớp phủ lên trên. Từ pitta có thể được truy nguồn từ Tiếng Hy Lạp cổ đại πικτή (pikte), "bánh mì lên men", sau này trong tiếng Latin trở thành "picta", hoặc từ Tiếng Hy Lạp cổ đại πίσσα (pissa, Attic πίττα, pitta), "nhựa đen", hoặc πήτεα (pḗtea), "cám" (πητίτης pētítēs, "bánh mì cám"). Từ điển nguyên gốc từ của tiếng Ý giải thích từ này xuất phát từ từ giọng địa phương pinza có nghĩa là "cái kẹp", giống như từ pinze trong tiếng Ý hiện đại nghĩa là "dụng cụ kẹp, cái nhíp, dụng cụ gắp". Từ gốc của nó là từ Latin pinsere có nghĩa "giã, đập nát". Từ Lombardic bizzo hoặc pizzo có nghĩa là "một miếng" (liên quan đến các từ tiếng Anh "bit" và "bite"), được mang đến Ý vào giữa thế kỷ thứ 6 sau Công nguyên bởi những kẻ xâm lược Lombards. Sự chuyển đổi từ b>p có thể được giải thích bằng sự thay đổi phụ âm của tiếng Đức cao và người ta đã chú ý rằng trong ngữ cảnh này, từ tiếng Đức Imbiss có nghĩa là "bữa ăn nhẹ". Một chiếc pizza nhỏ đôi khi được gọi là "pizzetta". Một người làm pizza được gọi là "". Lịch sử Trong suốt lịch sử cổ đại, có nhiều ghi chép về việc người ta thêm các thành phần khác vào bánh mì để làm cho nó thêm hương vị. Vào thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, binh sĩ Ba Tư thuộc Đế quốc Achaemenid trong thời kỳ của vị đế Darius Đại đế nướng bánh mì phẳng với phô mai và quả chà là lên phía trên của khiên chiến đấu của họ, và người Hy Lạp cổ đại thêm các loại dầu thực vật, thảo dược và phô mai vào bánh mì của họ. Một lần đề cập sớm đến món ăn giống pizza xuất hiện trong tác phẩm Aeneid của tác giả Virgil, khi nữ hoàng Celaeno của những người Harpies tiên tri rằng người Trôi sẽ không có được hòa bình cho đến khi họ phải ăn bàn của mình do đói (Sách III). Trong Sách VII, Aeneas và binh lính của ông được phục vụ một bữa ăn bao gồm bánh tròn (giống bánh pita) trên đó là các loại rau củ đã được nấu chín. Khi họ ăn bánh, họ nhận ra rằng đó chính là những "bàn" do Celaeno tiên tri. Năm 2023, các nhà khảo cổ đã phát hiện một bức tranh tường ở Pompeii có vẻ như miêu tả một món ăn giống pizza cùng với các thực phẩm và nguyên liệu khác trên một đĩa bạc. Bộ trưởng Văn hóa của Ý nói rằng đây "có thể là một hình mẫu xa xưa của món ăn hiện đại". Lần đầu tiên từ "pizza" được ghi nhận trong một văn bản công chứng viết bằng tiếng Latin và có ngày tháng là tháng 5 năm 997 tại Gaeta, yêu cầu thanh toán "mười hai cái pizza, một bắp vai heo và một thận heo vào ngày Giáng Sinh, và mười hai cái pizza và một vài con gà vào ngày Lễ Phục Sinh." Bánh pizza hiện đại phát triển từ các món bánh mì phẳng tương tự tại Naples, Italy, vào khoảng thế kỷ 18 hoặc đầu thế kỷ 19. Trước thời điểm đó, người ta thường trang trí bánh mì phẳng bằng tỏi, muối, mỡ và phô mai. Không chắc chắn khi nào cà chua được thêm vào và có nhiều thông tin trái chiều, mặc dù chắc chắn không thể xảy ra trước thế kỷ 16 và sự trao đổi Columbian. Đến khoảng năm 1830, bánh pizza được bán tại các quầy hàng ngoài trời và cửa hàng làm bánh pizza. Một câu chuyện phổ biến ngày nay cho rằng mẫu pizza cổ điển, pizza Margherita, được tạo ra vào năm 1889, khi Cung điện Hoàng gia Capodimonte ở Naples yêu cầu người làm pizza người Naples, Raffaele Esposito, tạo một loại pizza để tưởng nhớ Nữ hoàng Margherita đang thăm. Trong ba loại pizza khác nhau mà ông tạo ra, Nữ hoàng ưa thích mạnh một loại pizza có ba màu của cờ Italy: đỏ (cà chua), xanh (rau húng quế) và trắng (phô mai). Người ta tin rằng loại pizza như vậy sau đó được đặt tên theo Nữ hoàng, tuy nhiên, sau này có những nghiên cứu cho thấy câu chuyện này không chắc đã đúng. Một bức thư chính thức công nhận từ "người đứng đầu dịch vụ" của Nữ hoàng vẫn được trưng bày tại cửa hàng của Esposito, người nay tên gọi là Pizzeria Brandi. Bánh pizza được đưa vào Hoa Kỳ bởi những người nhập cư Ý vào cuối thế kỷ XIX và lần đầu xuất hiện ở những vùng mà họ tập trung. Quán pizza đầu tiên của nước này, Lombardi's, mở cửa tại New York City vào năm 1905. Sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai, những người trở về từ Chiến dịch Ý, nơi họ đã được làm quen với ẩm thực truyền thống của Italy, tạo ra một thị trường sẵn sàng cho pizza. Hội Verace Pizza Napoletana (tạm dịch: Hội Pizza Napoli Chính hiệu) là một tổ chức phi lợi nhuận được thành lập vào năm 1984, có trụ sở tại Naples, với mục tiêu thúc đẩy pizza Napoli truyền thống. Năm 2009, theo yêu cầu của Italy, pizza Napoli đã được đăng ký là món ăn đặc biệt truyền thống của Liên minh Châu Âu, và vào năm 2017, nghệ thuật làm pizza Napoli đã được đưa vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO. Các Loại và Phong cách Có nhiều biến thể pizza khác nhau, được định nghĩa bởi sự chọn lựa các thành phần phủ lên bề mặt và đôi khi cả lớp vỏ bánh. Ngoài ra, còn có một số phong cách pizza, được xác định bởi cách chế biến. Danh sách dưới đây chỉ liệt kê những biến thể nổi bật. Các Loại Phong cách Theo khu vực xuất xứ Ý Pizza Napoli chính hiệu (pizza napoletana) được làm từ cà chua loại San Marzano, được trồng trên các vùng đất núi lửa phía nam của núi Vesuvius. Ngoài ra, còn sử dụng phô mai mozzarella di bufala Campana, được làm từ sữa của trâu nước được nuôi trong đồng cỏ ở Campania và Lazio. Còn phô mai Fior-di-latte cũng là một lựa chọn. Đặc biệt, phô mai mozzarella từ trâu còn được bảo vệ với nguồn gốc địa lý riêng của châu Âu. Ngoài pizza Napoli, còn có các loại pizza truyền thống khác. Pizza alla marinara có lớp cà chua xếp trên cùng và được cho là loại pizza cà chua cổ điển nhất. Pizza capricciosa có phô mai mozzarella, thịt đùi lợn nướng, nấm, giăm bông và cà chua làm nhân. Còn pizza pugliese thì được làm từ cà chua, phô mai mozzarella và hành tây. Một biến thể phổ biến của pizza tại Ý là Sicilian pizza (được gọi là sfincione hoặc sfinciuni trong ngôn ngữ địa phương), gọi là pizza Sicilian là một loại pizza với đế dày hoặc đế cao xuất phát từ thế kỷ 17 tại Sicily. Thực tế, nó giống như một loại bánh focaccia với bề mặt thường được trải lớp sốt cà chua và các nguyên liệu khác lên trên. Trước thập kỷ 1860, sfincione là loại pizza phổ biến tại Sicily, đặc biệt ở phần phía Tây của hòn đảo. Tại các vùng khác của Ý, cũng có các biến thể khác của pizza, ví dụ như pizza al padellino hoặc pizza al tegamino, là một loại pizza nhỏ, đế dày, đế cao thường được phục vụ ở Turin, Piedmont. Hoa Kỳ nhỏ|Bữa tiệc pizza tại Nhà Trắng (2009) Cửa hàng pizza đầu tiên tại Hoa Kỳ được mở tại khu Little Italy của thành phố New York vào năm 1905. Các nguyên liệu phổ biến trên pizza tại Hoa Kỳ bao gồm cá cơm, thịt bò xay, thịt gà, thịt xông khói, nấm, ô liu, hành tây, ớt, sốt cay, xúc xích, cải xanh, thịt bò tái, và cà chua. Các kiểu pizza đặc trưng vùng miền phát triển trong thế kỷ 20, bao gồm phong cách Buffalo, California, Chicago, Detroit, Greek, New Haven, New York, và St. Louis. Các biến thể vùng miền bao gồm pizza đế dày, pizza nhồi, pizza gấp, pizza cuộn, và pizza trên que, mỗi loại có vô số kết hợp sốt và nhân. Mười ba phần trăm dân số Hoa Kỳ tiêu thụ pizza trong bất kỳ ngày nào. Các chuỗi cửa hàng pizza như Domino's Pizza, Pizza Hut, và Papa John's, pizza từ các cửa hàng chế biến và nướng tại nhà, cùng với pizza lạnh hoặc đông lạnh từ siêu thị đã làm cho pizza dễ dàng tìm thấy trên toàn quốc. Argentina Argentina, và cụ thể hơn là Buenos Aires, đã chứng kiến sự di cư đáng kể từ di cư Ý vào cuối thế kỷ 19. Người nhập cư từ Naples và Genoa mở ra những quán pizza đầu tiên, tuy nhiên sau này, người dân Tây Ban Nha đã trở thành chủ sở hữu chủ yếu của các cửa hàng pizza. Pizza Argentina chuẩn có vỏ dày hơn, gọi là "media masa" (nửa bột) so với kiểu pizza Ý truyền thống và sử dụng nhiều phô mai hơn. Tại Argentina, lát pizza thường được phục vụ kèm với món "fainá", một loại bánh chiên bột đậu nành theo kiểu Genoese, và kèm theo rượu moscato. Loại pizza phổ biến nhất được gọi là "muzzarella" (mozzarella), tương tự như Neapolitan pizza (bột, sốt cà chua và phô mai) nhưng có vỏ "media masa" dày hơn, ba lớp phô mai và sốt cà chua, thường cũng kèm theo ô liu. Loại pizza này có thể tìm thấy ở gần mọi ngóc ngách của đất nước; Buenos Aires được coi là thành phố có số lượng cửa hàng pizza trên người dân nhiều nhất trên thế giới. Những biến thể phổ biến khác bao gồm giăm bông, lát cà chua, ớt đỏ và longaniza. Hai loại pizza xuất xứ từ Argentina với hành tây, cũng rất phổ biến: fugazza with cheese, có vỏ bánh pizza thông thường được trải phô mai và hành tây lên trên, và fugazzetta, với lớp phô mai ở giữa hai vỏ bánh pizza và hành tây ở trên. Pizza và ảnh hưởng đến sức khỏe nhỏ|Hướng đạo viên cùng pizza Một số loại pizza được sản xuất hàng loạt bởi các chuỗi cửa hàng pizza đã bị chỉ trích vì chứa tỷ lệ thành phần không tốt cho sức khỏe. Pizza có thể có nhiều muối và chất béo, và chứa nhiều calo. Cơ quan Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) báo cáo rằng lượng sodium trung bình trong một chiếc pizza kích thước ở các cửa hàng thức ăn nhanh là 5.101 mg. Có mối lo ngại về tác động không tốt đến sức khỏe. Các kỉ lục Chiếc bánh Pizza lớn nhất là của Ý. Theo kỉ lục mới, chiếc bánh pizza được hoàn thành vào năm 2012 Chiếc bánh có đường kính lên tới 40m và sử dụng 9.000 kg bột và một loạt các thành phần khác gồm 4.536 kg nước sốt cà chua, 3.992 kg pho mát... 5 đầu bếp người Ý đã dành hơn 48 giờ nhào bột trong hơn 5.000 lô. Chiếc bánh này được đặt tên là Ottavia để đại diện cho hy vọng về một sự hồi sinh kinh tế và văn hóa trên thế giới lúc bấy giờ. Sau đó, chiếc bánh này cũng đã được cắt ra và tặng cho những “mái ấm” tình thương ở địa phương. Hơn 400 người làm bánh pizza của Ý đã hợp tác ở Napoli làm chiếc bánh pizza dài 1.853 mét vào ngày 18/5/2016, để ghi kỷ lục mới của thế giới về chiếc bánh pizza dài nhất. Những người làm bánh đã làm việc 11 tiếng đồng hồ và sử dụng 2 tấn phó mát mozzarella, 2 tấn bột mì, 1.497 ký lô sốt cà chua, 201 lít dầu ăn và 29,9 ký lô húng tây tươi. Chiếc bánh pizza lập kỷ lục trước đây được làm ở Milan nhân hội chợ năm 2015, là lúc chiếc bánh pizza dài 1,5 kilomet được nướng. Ở tại London một kỉ lục mới về quãng đường vận chuyển bánh pizza đã được xác lập. Một chiếc bánh pizza ra ra lò vào ngày 17/11/2004 và đã vượt qua 1 hành trình dài 16949 km để được chuyển tới 1 địa chỉ tại đường Ramsey, Melbourne vào ngày 19/11/2004. Kỉ lục này được ghi vào phiên bản sách kỉ lục thế giới Guinness năm 2006. Chiếc bánh pizza đắt nhất với đế mỏng đã được thực hiện bởi chuỗi các nhà hàng Domenico Crolla, nguyên liệu bao gồm bánh: sunblush-sốt cà chua, cá hồi hun khói của Scotland, thịt nai thượng hạng, vàng ăn được, tôm hùm ướp trong cognac thượng hạng và trứng cá muối, ngâm rượu sâm banh. Chiếc bánh pizza này được bán tại cuộc đấu giá từ thiện với giá £ 2.150.
Lục quân (còn gọi là lực lượng mặt đất hay lực lượng trên bộ) là lực lượng quân sự chiến đấu chủ yếu chiến đấu trên bộ. Theo nghĩa rộng nhất, nó là quân/binh chủng trên bộ của một quốc gia hoặc nhà nước. Lục quân cũng có thể bao gồm trang bị khí tài hàng không bằng cách sở hữu một binh chủng không quân lục quân. Ở những lực lượng vũ trang quốc gia, từ lục quân còn có nghĩa là tập đoàn quân. Ở một số quốc gia, chẳng hạn như Pháp và Trung Quốc, thuật ngữ "lục quân" có nghĩa rộng hơn là cả lực lượng vũ trang nói chung, nhưng vẫn giữ ngữ nghĩa thông tục của một lực lượng chiến đấu trên bộ. Để phân biệt quân chủng lục quân thông thường với khái niệm chính thức về lực lượng quân sự, người ta dùng thuật ngữ này như một tiêu chuẩn, ví dụ ở Pháp, lực lượng trên bộ được gọi là Armée de terre, nghĩa là Quân đội Trên bộ, còn lực lượng không quân vũ trụ được gọi là Armée de l'Air et de l'Espace, nghĩa là Quân đội Không quân và Vũ trụ. Lực lượng hải quân, mặc dù không sử dụng thuật ngữ "quân đội", nhưng cũng được bao gồm theo nghĩa rộng của thuật ngữ "quân đội" - do đó Hải quân Pháp là một bộ phận cấu thành của Lực lượng vũ trang Pháp trực thuộc Bộ Lực lượng Vũ trang. Mô hình tương tự cũng được thấy ở Trung Quốc, với Quân Giải phóng Nhân dân (PLA) là quân đội tổng thể, còn lực lượng trên bộ là Lục quân Quân Giải phóng Nhân dân, v.v. Đối với Không quân Quân Giải phóng Nhân dân, Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân và các quân chủng khác cũng như vậy. Theo quy ước, quân đội phi chính qui không phải lúc nào cũng được hiểu trái ngược với quân đội chính qui, vốn phát triển chậm lại từ những người lính vệ sĩ hoặc lực lượng dân quân tinh nhuệ. Chính qui trong trường hợp này đề cập đến học thuyết, đến quân phục, tổ chức được chuẩn hóa, v.v. Quân đội chính qui cũng có thể đề cập đến trạng thái toàn thời gian (quân đội thường trực), so với lực lượng dự bị động viên hoặc bán thời gian. Những cách phân biệt khác có thể là tách các lực lượng theo luật định (tức là được thành lập theo luật như Đạo luật Phòng vệ Quốc gia của Canada), khỏi các lực lượng "không theo luật" trên thực tế như một số quân du kích hay quân cách mạng. Quân đội cũng có thể là quân viễn chinh (để triển khai ở nước ngoài hoặc quốc tế) hoặc có thể chiến đấu (để phòng thủ nội địa). Lịch sử Ấn Độ Lục quân Ấn Độ là một trong những lục quân đầu tiên trên thế giới. Trận chiến đầu tiên được sử sách ghi lại là Trận Mười vị vua, xảy ra khi một vị vua Arya theo đạo Hindu tên là Sudas đánh bại liên minh mười vị vua khác cùng các thủ lĩnh ủng hộ họ. Trong thời kì đồ sắt, Đế quốc Maurya và Nanda đã có đội quân lớn nhất trên thế giới, khi đỉnh cao lên tới khoảng hơn 600.000 bộ binh, 30.000 kị binh, 8.000 chiến xa và 9.000 voi chiến, không bao gồm quân đồng minh của các quốc gia triều cống. Vào thời đại Gúpta, những đội quân cung thủ lớn đã được tuyển chọn để chống lại quân mã xạ thủ khác xâm lược. Ngoài ra còn có những đội quân đặc trưng khác như tượng binh, thương binh và kị binh. Vào thời Rajput, trang bị chính là áo giáp sắt hoặc giáp xích, khiên tròn, gươm cong hoặc kiếm thẳng, chakra và dao găm katar. Trung Quốc Các triều đại Trung Hoa đã phát triển quân đội trong ít nhất 1000 năm trước Kinh Xuân Thu. Đến thời Chiến Quốc, nỏ đã được hoàn thiện đến mức trở thành một bí mật quân sự, với mũi tên bằng đồng có thể xuyên thủng bất kì thứ giáp nào. Do đó, bất cứ quyền lực chính trị nào của một quốc gia đều nằm ở tổ chức quân đội của họ. Trung Quốc đã trải qua quá trình hợp nhất chính trị của các nhà nước Hàn (韓), Ngụy (魏), Chú (楚), Yên (燕), Triệu (趙) và Tề (齊), cho đến năm 221 TCN, Tần Thủy Hoàng (秦始皇帝), vị hoàng đế đầu tiên của triều đại nhà Tần nắm quyền lực tuyệt đối. Vị hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc này chỉ huy việc thành lập Đội quân đất nung để canh giữ lăng mộ của ông ở thành phố Tây An (西安), cũng như tái thiết Vạn Lý Trường Thành để củng cố đế chế của mình chống lại quân nổi dậy xâm lược. Binh pháp của Tôn Tử vẫn là một trong Võ kinh thất thư của Trung Hoa, cho dù nó đã hai nghìn năm tuổi. Vì không có nhân vật chính trị nào có thể tồn tại nếu không có quân đội, nên các biện pháp được thực hiện để đảm bảo chỉ những nhà lãnh đạo có năng lực nhất mới có thể kiểm soát quân đội. Sĩ đại phu (士大夫) hình thành để kiểm soát sức mạnh sản xuất của các nước, cũng như sức mạnh quân sự của họ. Các binh chủng 1- Bộ binh:Bộ binh là những người lính chiến đấu chủ yếu ở trên bộ với các vũ khí bộ binh loại nhỏ trong các đơn vị của quân đội mặc dù họ có thể được đưa đến chiến trường bằng ngựa, tàu thuyền, xe ô tô, máy bay hay các phương tiện khác. Vũ khí của họ là các loại vũ khí nhỏ như súng trường, súng lục, lựu đạn. Binh chủng chủ yếu của Lục quân, được trang bị nhẹ để tác chiến trên bộ; đảm nhiệm chức năng chủ yếu là tiêu diệt đối phương, đánh chiếm trận địa của chúng và giữ vững trận địa của mình. Là binh chủng cổ nhất trong lịch sử và thường là binh chủng đầu tiên được xây dựng trong các quân đội. Từ giữa thế kỉ XX, phần lớn các nước công nghiệp có xu hướng phát triển BB thành BB cơ giới. 2- Bộ binh cơ giới: Bộ binh cơ giới là lực lượng bộ binh được hỗ trợ và yểm hộ bởi các phương tiện cơ giới do đó khả năng hành quân cao, cơ động. Khi chiến đấu thì lực lượng này di chuyển bằng chân, còn khi hành quân thì bằng các phương tiện cơ giới. bộ binh được trang bị xe chiến đấu bọc thép để cơ động và chiến đấu, có thể thực hành chiến đấu ngay trên xe hoặc với đội hình đi bộ. So với bộ binh, BBCG được trang bị hoả lực mạnh hơn và có sức cơ động cao hơn. 3- Pháo binh là lực lượng hỏa lực chủ yếu của lục quân, thường được trang bị các loại pháo, tên lửa và súng cối, dùng để sát thương, tiêu diệt các mục tiêu và trực tiếp chi viện hỏa lực cho các lực lượng tác chiến trên mặt đất, mặt nước, có thể chiến đấu hiệp đồng hoặc độc lập. Pháo binh là lực lượng tác chiến của quân đội nhiều nước; lực lượng hỏa lực chủ yếu của lục quân, thường được trang bị các loại pháo, tên lửa và súng cối, dùng để sát thương, tiêu diệt các mục tiêu và trực tiếp chi viện hỏa lực cho các lực lượng tác chiến trên mặt đất, mặt nước, có thể chiến đấu hiệp đồng hoặc độc lập. 4- Tăng – Thiết giáp. chịu trách nhiệm tác chiến đột kích trên bộ và đổ bộ (Hải quân), được trang bị các loại xe tăng, xe thiết giáp, với hỏa lực mạnh, sức cơ động cao. Binh chủng Tăng - Thiết giáp là một binh chủng trong tổ chức quân đội, chịu trách nhiệm tác chiến đột kích trên bộ và đổ bộ (hải quân), được trang bị các loại xe tăng, xe bọc thép, với hỏa lực mạnh, sức cơ động cao. 5- Đặc công là một lực lượng đặc biệt tinh nhuệ được tổ chức, trang bị và huấn luyện đặc biệt, có phương pháp tác chiến linh hoạt, táo bạo, bất ngờ, thường dùng để đánh các mục tiêu hiểm yếu nằm sâu trong đội hình chiến đấu, bố trí chiến dịch và hậu phương của địch Biệt kích (đôi khi còn gọi là biệt động hay đặc công) có thể là một binh lính riêng lẻ hoặc một đơn vị quân đội đặc biệt. Theo quan điểm hiện đại, biệt kích là bộ binh hạng nhẹ đặc biệt tinh nhuệ hoặc/và các đơn vị thuộc lực lượng đặc biệt, nhất là trong các hoạt động nhảy dù, đổ bộ, đột kích... hay các kĩ thuật tương tự, để dẫn đường hoặc thực hiện nhiệm vụ tấn công. 6- Công binh có chuyên môn kỹ thuật với chức năng bảo đảm công binh trong chiến đấu và xây dựng, có thể trực tiếp chiến đấu bằng vũ khí công binh Công binh là một binh chủng trong quân đội, có chuyên môn kỹ thuật với chức năng bảo đảm công binh trong chiến đấu và xây dựng, có thể trực tiếp chiến đấu bằng vũ khí công binh. 7- Thông tin liên lạc  có chức năng bảo đảm thông tin liên lạc cho hệ thống chỉ huy trong toàn quân. Thông tin Liên lạc là một binh chủng chuyên môn kỹ thuật của quân đội, thuộc Quân chủng Lục quân, có chức năng bảo đảm thông tin liên lạc cho hệ thống chỉ huy trong toàn quân 8- Hóa học là một binh chủng chuyên môn kỹ thuật, có chức năng bảo đảm hóa học cho tác chiến, làm nòng cốt trong việc phòng chống vũ khí hủy diệt lớn, ngụy trang bảo vệ các mục tiêu quan trọng của Quân đội, nghi binh đánh lừa địch bằng màn khói. Bộ đội Hóa học còn có thể trực tiếp chiến đấu bằng vũ khí bộ binh và súng phun lửa. Binh chủng Hóa học là một binh chủng chuyên môn kỹ thuật của Quân đội nhân dân Việt Nam, có chức năng bảo đảm hóa học cho tác chiến, làm nòng cốt trong việc phòng chống vũ khí hủy diệt lớn, ngụy trang bảo vệ các mục tiêu quan trọng của Quân đội, nghi binh đánh lừa địch bằng màn khói. Bộ đội Hóa học còn có thể trực tiếp chiến đấu bằng vũ khí bộ binh và súng phun lửa. Thời xưa còn có Kỵ binh, tượng binh, thủy binh,...
Lực lượng Biên phòng là một lực lượng vũ trang của quốc gia, chuyên giữ nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh, trật tự biên giới quốc gia (trên đất liền, hải đảo, vùng biển, cửa khẩu). Biên phòng là một lực lượng vũ trang có chức năng hỗn hợp, vừa làm công tác phòng thủ của quân đội, vừa làm công tác an ninh và công tác quản lý hành chính ở vùng biên giới. Ở nhiều quốc gia, lực lượng Biên phòng chịu sự quản lý của Bộ Nội vụ, hoặc Hội đồng An ninh Quốc phòng.
Hwayobi (tiếng Hàn: 화요비, 火曜飛 Hỏa Diệu Phi), sinh ngày 11 tháng 2 năm 1982, là một nữ ca sĩ Hàn Quốc. Tiểu sử Hwayobi là nữ ca sĩ có giọng hát mạnh mẽ, được mệnh danh là "Mariah Carey của Hàn Quốc". Thật không phóng đại khi gọi cô ấy là diva của thể loại R&B Hàn Quốc, vì cô sở hữu một giọng hát cao và vang. Đặc biệt, Hwayobi rất nổi tiếng với những màn trình diễn sống mà giọng hát của cô gây áp đảo người nghe với chất giọng mạnh mẽ và quyến rũ. Cô đã phát hành 6 đĩa nhạc tại Hàn Quốc, 1 đĩa nhạc tại Nhật Bản, cùng một vài đĩa nhạc đặc biệt ghi âm lại những màn trình diễn sống hơn là xuất hiện trên những chương trình ca nhạc truyền hình. Hwayobi đã từng mơ ước trở thành một nghệ sĩ dương cầm khi còn bé. Tuy nhiên, khi đang học trung học, lần đầu tiên cô nghe nhạc của Mariah Carey và đã khiến cô yêu nhạc Soul/R&B. Cô tự học luyện thanh cho đến khi cô thắng giải quán quân trong một cuộc thi tài năng của đài phát thanh địa phương. Lúc đó, cô đang học năm thứ hai tại trường trung học. Điều này đã đưa Hwayobi trở thành một ca sĩ chuyên nghiệp. Ngay cả trước khi cô phát hành đĩa nhạc đầu tay, Hwayobi đã thu hút sự chú ý của giới truyền thông. Bằng cách tham gia vào những đĩa nhạc của các ca sĩ khác, như Park Hyo-Shin, và hát nhiều bài hát trong những bộ phim truyền hình, Hwayobi đã khiến những người yêu nhạc tò mò muốn biết cô là ai. Cuối cùng, cô đã chính thức phát hành đĩa nhạc đầu tiên vào năm 2000, với tên gọi "My All". Bài hát chủ đề của đĩa nhạc mang tên "Lie" đã trở thành một ca khúc thành công lớn. Khi đã trở thành sinh viên, cô vẫn duy trì đều đặn sự nghiệp âm nhạc của mình. Tháng 11 năm 2004, Hwayobi bắt đầu hoạt động âm nhạc tại Nhật Bản dưới nghệ danh Hwayobi với đĩa đơn "Fly Again". Cả hai ca khúc trong đĩa đơn ("Fly Again" và "eternally") đều là nhạc chủ đề trong trò chơi Magna Carta: Crimson Stigmata (tại Hoa Kỳ, trò chơi này có tên là Tears of Blood). Tháng 2 năm 2005, Hwayobi phát hành đĩa đơn thứ hai "天国の記憶" tại Nhật Bản. Tháng 3 năm 2006, Hwayobi phát hành đĩa nhạc đầu tiên bằng tiếng Nhật "火曜飛". Đĩa nhạc này cũng có ca khúc "Lie" được Hwayobi trình bày bằng tiếng Nhật. Tháng 2 năm 2006, với đĩa nhạc thứ năm bằng tiếng Hàn "5°", cô đã chính thức đổi tên nghệ danh thành Hwayobi tại thị trường âm nhạc Hàn Quốc. Đĩa nhạc Các đĩa nhạc tiếng Hàn [30.06.2000] Vol.1: My All [15.09.2001] Vol.2: Nineteen Plus One [09.10.2002] Vol.3: Because I Love You [24.10.2003] Best: Across the Romantic Bridge [08.07.2004] Vol.4: Uhn Je Ra Do (언제라도) [09.02.2006] Vol.5: 5° Các đĩa nhạc tiếng Nhật [29.03.2006] Hwayobi (火曜飛) Các đĩa đơn tiếng Nhật [17.11.2004] Fly Again [23.02.2005] Tengoku no Kioku (天国の記憶) Các đĩa nhạc phim [12.10.2004] Second Propose OST (두번째 프러포즈 OST) Track 03 Ijhyuh Jin Gye Jul (잊혀진 계절) [25.05.2005] Fashion 70's OST (패션 70's OST) Track 08 Geurim Ja (그림자) Các ca khúc hợp diễn [06.2001] Bul Ssuh 1 Nyun (벌써 1년) - Brown Eyes Track 05 Geu Nyuh Ga Na Reul Bo Neh (그녀가 나를 보네; adlib) [12.2001] I Have a Dream - Rich Track 05 Without You [29.05.2002] 2002 FIFA World Cup Official Album - Songs of Korea/Japan Track 07 Dream [28.06.2002] Leessang of Honey Family - Leessang Track 16 Kkeut Eu Ro (끝으로) [09.2004] Slow Jam - Honey Family Track 04 Joh Eun Ahchim (좋은 아침) [08.04.2002] Jun So Young Vol.1 - Jun So Young (전소영) Track 10 Irony [01.02.2006] 12 Memories of Love Track 05 Stars Track 06 Sarang Han Geu Nal Ehn (사랑한 그 날엔)
Gloria Macaraeg Macapagal Arroyo (sinh ngày 5 tháng 4 năm 1947) là tổng thống thứ 14 của Philippines. Bà là nữ chính khách thứ hai trở thành nguyên thủ quốc gia (sau Tổng thống Corazon Aquino), là phụ nữ đầu tiên đảm nhiệm chức vụ phó tổng thống của đảo quốc này và cũng là tổng thống Philippines đầu tiên sinh sau thế chiến II. Arroyo nhận lãnh chức vụ tổng thống năm 2001 do cuộc cách mạng EDSA lần thứ hai, đánh đổ Joseph Estrada khỏi quyền lực giữa những cáo buộc về tình trạng tham nhũng tràn lan. Năm 2004, Arroyo đắc cử tổng thống khi đánh bại diễn viên điện ảnh Fernando Poe, Jr.. Năm 2005, Arroyo được bình chọn bởi tạp chí Forbes trở thành nhân vật thứ tư trong danh sách những phụ nữ nhiều quyền lực nhất trên thế giới. Tuy nhiên, tháng 9 năm 2006, Arroyo rơi xuống vị trí thứ 45 trong danh sách bình chọn này của tạp chí Forbes . Thiếu thời Arroyo chào đời với tên Gloria Macaraeg Macapagal, con gái của Diosdado Macapagal và Evangelina Macaraeg. Gloria 14 tuổi khi cha của cô, Diosdado Macapagal, đắc cử tổng thống. Gloria được gởi đến Tu viện Assumption để theo đuổi chương trình giáo dục bậc tiểu học và trung học, tốt nghiệp thủ khoa năm 1964; sau đó theo học trong hai năm tại Trường Ngoại giao thuộc Đại học Georgetown ở Washington, D.C., tại đây cô trở thành bạn học cùng lớp với cựu Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton. Gloria nhận văn bằng cử nhân chuyên ngành kinh tế tại Đại học Assumption khi tốt nghiệp hạng xuất sắc năm 1968. Sau khi trở về Philippines, Arroy lấy bằng Thạc sĩ chuyên ngành kinh tế tại Đại học Ateneo de Manila và học vị Tiến sĩ Kinh tế học tại Đại học Philippines. Arroyo kết hôn với Jose Miguel Arroyo năm 1968. Họ có ba con, Juan Miguel (sinh năm 1969), Evangelina Lourdes (1971), và Diosdado Ignacio Jose Maria (1974). Từ năm 1977 đến năm 1987, Arroyo giảng dạy tại các trường học như Đại học Philippines và Đại học Ateneo de Manila. Bà cũng đảm nhận chức vụ chủ tịch Khoa Kinh tế Đại học Assumption. Năm 1987, nữ tổng thống đầu tiên của Philippines, Corazon Aquino, mời Arroyo tham chính trong cương vị Phụ tá Bộ trưởng Thương mại và Công nghiệp, hai năm sau bà được đề bạt vào chức vụ thứ trưởng. Đồng thời trong cương vị Giám đốc điều hành Ban Xuất khẩu hàng dệt may, Arroyo chứng kiến tốc độ tăng trưởng cao của công nghiệp dệt may trong thập niên 1980. Chính trường Mặc dù cha từng là tổng thống Philippines, Arroyo không chịu tham gia chính trường cho mãi đến năm 1992, hai mươi bảy năm sau khi ông rời khỏi chức vụ. Arroyo đắc cử vào Thượng viện Philippines năm 1992, tái đắc cử năm 1995, đứng đầu cuộc bầu cử thượng viện với 16 triệu phiếu cử tri bầu cho bà. Với tư cách một nhà lập pháp, Arroyo đệ trình hơn 400 dự luật và bảo trợ 55 đạo luật quan trọng về kinh tế suốt trong thời gian bà phục vụ tại Thượng viện. Năm 1998, mặc dù có xem xét đến khả năng ra tranh cử tổng thống, nhưng lại chịu thuyết phục bởi cựu tổng thống Fidel V. Ramos, Arroyo đồng ý gia nhập Đảng LAKAS để đứng chung liên danh với ứng cử viên tổng thống, Chủ tịch Hạ viện Jose De Venecia. De Venecia và Arroyo vận động tranh cử toàn quốc với sự hỗ trợ của Ramos và bộ máy đầy quyền lực của đảng LAKAS. Arroyo đắc cử phó tổng thống với 13 triệu phiếu, hơn hai lần so với số phiếu của ứng cử viên kế cận, Thượng nghị sĩ Edgardo Angara. Nhưng De Venecia thất bại trước phó tổng thống đương nhiệm rất được lòng dân, Joseph Estrada. Phó Tổng thống Ngày 30 tháng 6 năm 1998, Arroyo bắt đầu nhiệm kỳ phó tổng thống. Một thời gian ngắn sau đó, Estrada bổ nhiệm bà vào nội các đảm nhiệm chức vụ Bộ trưởng Phát triển và Phúc lợi Xã hội với nhiệm vụ chính là giám sát các chương trình của chính phủ phục vụ dân nghèo. Tháng 10 năm 2000, Arroyo từ nhiệm khỏi nội các để giữ khoảng cách với Tổng thống Estrada đang bị cáo buộc tham nhũng bởi chính những chính trị gia ủng hộ ông trước đó. Arroyo gia nhập tổ chức dân sự (civil society) cùng với nhiều công dân Philippines khác kêu gọi tổng thống từ chức. Ngày 20 tháng 1 năm 2001, sau nhiều ngày bất ổn chính trị với những cuộc biểu tình bùng phát trên đường phố, Tối cao Pháp viện công bố bỏ trống chiếc ghế tổng thống. Trước đó, quân đội và cảnh sát quốc gia rút lại sự trung thành dành cho Estrada và quay sang ủng hộ Arroyo. Ngay trong ngày, Arroyo tuyện thệ nhậm chức tổng thống thứ 14 của Philippines trước Chánh án Toà Tối cao Hilario Davide Jr. Tiến trình loại bỏ Estrada về sau được biết đến với tên gọi Cuộc cách mạng EDSA II, sau khi cuộc cách mạng EDSA năm 1986 lật đổ chính quyền Ferdinand Marcos. EDSA là bốn chữ cái đầu của Epifano de los Santos Avenue, một xa lộ thuộc Vùng đô thị Manila là địa điểm chính diễn ra các cuộc biểu tình. Sau này Estrada tra vấn về tính hợp pháp của phán quyết toà án khi ông tìm cách giành lại ghế tổng thống nhưng Tối cao Pháp viện công nhận sự kế nhiệm của Arroyo là hợp pháp. Ngay cả khi Estrada và những người ủng hộ ông không bao giờ công nhận chức vụ tổng thống của Arroyo, bà vẫn có thể hành xử đầy đủ quyền hạn và đặc quyền dành cho tổng thống. Cộng đồng quốc tế cũng công nhận Arroyo là tổng thống Philippines. Tổng thống Giai đoạn đầu: 2001 – 2004 Sự kiện Arroyo kế nhiệm tổng thống chia cắt đất nước Philippines thành hai phe, một phe ủng hộ bà trong khi phe kia đứng về phía Estrada. Suốt trong nhiệm kỳ đầu, những tra vấn về tính hợp pháp của chức vụ tổng thống luôn đeo đuổi Arroyo, mặc cho Toà án Tối cao đã phát quyết về vấn đề này. Mặt khác, những chính trị gia từng ủng hộ Estrada quay lưng lại với ông trong khi sự kiện các đồng minh chính trị của Arroyo giành được thắng lợi áp đảo trong cuộc bầu cử tổ chức vào tháng 5 năm 2004 được nhiều người xem là sự thừa nhận hiển nhiên của cử tri dành cho chức vụ tổng thống của Arroyo. Thách thức lớn nhất đối với Arroyo là cải cách một chính quyền luôn bị nhìn xem là thối nát. Khó khăn xuất hiện khắp mọi nơi khi thực thi sứ mạng dễ làm nản lòng này; công việc của Arroyo càng khó khăn hơn khi những người ủng hộ Estrada sẵn sàng chụp lấy mọi cơ hội để phá hoại quyền lãnh đạo của bà. Ngày 21 tháng 5 năm 2001, hàng ngàn người ủng hộ tổng thống bị phế truất diễu hành đến dinh tổng thống yêu cầu phóng thích và phục hồi chức vụ cho Estrada, đang bị giam giữ vì tội danh tham ô. Chỉ trong vài ngày, tình trạng bạo loạn lụi tàn khi những mối đe doạ cho chính phủ Arroyo bị dập tắt. Nỗ lực không thành công nhằm lật đổ Arroyo được gọi là EDSA 3 hay Sức mạnh của dân nghèo. Binh biến Oakwood Ngày 27 tháng 7 năm 2003, Arroyo đối mặt với một cuộc nổi dậy lộ diện khi hơn ba trăm sĩ quan cấp thấp và binh sĩ phản loạn (các phương tiện truyền thông gọi nhóm người này là "Magdalos" vì băng màu đỏ họ mang trên cánh tay) tạo ra một cuộc binh biến, chiếm giữ một khách sạn và một trung tâm mua sắm trong khu kinh doanh trong thành phố Makati thuộc Vùng đô thị Manila (Metro Manila). Cuối cùng, nhóm quân nhân phiến loạn đồng ý qui hàng khi đạt được một thoả thuận với chính phủ sau 22 giờ thương thuyết. Suốt trong lúc đàm phán, những thủ lĩnh của Magdalo, Trung uý Hải quân Antonio Trillanes IV và Đại uý Thủy quân lục chiến Gary Alejano nêu lên những yêu cầu đòi cải tổ Lực lượng vũ trang Philippines. Sáu trong số những thủ lĩnh này, trong đó có Trillanes và Alejano, muốn ra trước toà án binh trong khi binh sĩ dưới quyền chỉ muốn trở về doanh trại. Sau khi cuộc khủng hoảng chấm dứt, những điều kiện đạt được khi thương thảo đã bị chính phủ phớt lờ. Các phụ tá của Arroyo cho rằng cuộc binh biến có liên quan đến Estrada và những người ủng hộ ông. Một cựu phụ tá của Estrada bị bắt giữ liên quan đến cuộc nổi dậy. Tổng thống cho thành lập Uỷ ban Feliciano để điều tra về cuộc binh biến. Sau này, Uỷ ban nhận ra rằng cuộc nổi dậy, được gọi là Binh biến Oakwood (gọi theo tên khách sạn bị phiến quân nắm giữ), không phải là tự phát mà đã được hoạch định trước. Rõ ràng có kế hoạch nhắm lật đổ chính phủ Arroyo, mặc dù vẫn không có chứng cớ đầy đủ về sự dính líu của Estrada. Jose Pidal Tháng 8 năm 2003, chồng của Arroyo, Jose Miguel, bị cáo buộc bởi Thượng nghị sĩ Panfilo Lacson, cho rằng đệ nhất phu quân đã chuyển những đóng góp và ngân quỹ vận động tranh cử vào một tài khoản ngân hàng dưới một tên giả, Jose Pidal. Lacson còn trưng ra những bức ảnh cho thấy đệ nhất phu quân đang "tình tứ" với cô phụ tá Victoria Toh. Thế là những đồn đại cho rằng Mike Arroyo lừa dối vợ trở nên râm ran trên khắp cả nước. Những cáo buộc này không có giá trị pháp lý nhưng đủ để làm tổng thống bối rối và tức giận ông chồng. Vài tuần sau đó, trước các phóng viên, Mike Arroyo thể hiện một cử chỉ hoà giải khi tặng hoa cho bà vợ tổng thống của mình. Kinh tế Lễ hội Chính phủ ban hành chính sách điều chỉnh những ngày lễ sao cho có thể kéo dài các kỳ nghỉ cuối tuần - chẳng hạn, nếu ngày lễ Độc lập của Philippines (12 tháng 6) là vào thứ Tư, sẽ được dời đến thứ Sáu hoặc thứ Hai để kéo dài kỳ nghỉ cuối tuần nhằm phát triển du lịch trong nước - Chính sách này được áp dụng từ năm 2002 mặc cho những luận cứ phản bác cho rằng không cần thiết phải phá vỡ truyền thống trong khi giới doanh nghiệp than phiền chính phủ luôn chậm trễ trong việc ấn định các ngày lễ. Đến nay, dân chúng đòi hỏi phải công bố trước lịch lễ hội cả năm. Arroyo nhấn mạnh đến mục đích chính của chính sách kinh tế lễ hội là: Tạo điều kiện cho người dân Philippines dành nhiều thời gian hơn cho gia đình. Củng cố nền kinh tế Philippines bằng cách cổ xuý du hành và du lịch nội địa. Cuối tháng 8 năm 2005, giới doanh nghiệp và công chúng nhận ra họ bị rơi vào "bẫy lễ hội" khi chính phủ Arroyo đột ngột công bố ngày lễ kỷ niệm các anh hùng quốc gia vào ngày 29 tháng 8. Mãi cho đến cuối ngày 26 tháng 8 (thứ Sáu), thư ký báo chí Ignacio Bunye nói rõ rằng sẽ không có ngày lễ nào được công bố; đến cuối tuần, chính phủ công bố ngày lễ là ngày làm việc bình thường. Nhưng khi đến ngày 29 tháng 8, người dân kinh ngạc khi thấy cửa hiệu và văn phòng chính phủ đóng cửa. Sau đó, giới luật sư, nghiệp đoàn và thủ lĩnh doanh nghiệp tổ chức các buổi họp và các buổi tụ tập để yêu cầu Arroyo chấm dứt chính sách kinh tế lễ hội mà họ cho là "lợi bất cập hại". Những người chỉ trích phê phán chính phủ Arroyo là "cực kỳ luộm thuộm và vô trách nhiệm". Nhiều người tin rằng chính phủ hấp tấp công bố ngày lễ 29 tháng 8 là vì nỗi sợ bị Quốc hội ấn định lịch thảo luận và biểu quyết về vụ luận tội tổng thống (khi ấy đang bị đình hoãn), sẽ là ngày 5 và 6 tháng 8. Khi Arroyo không chịu công bố kỳ nghỉ lễ kéo dài 8 ngày trong tháng 12 năm 2005 (chỉ có ngày 26 và 30 tháng 12 được nghỉ lễ, nhưng ngày 27, 28 và 29 tháng 12 là ngày làm việc) nhiều người chỉ ra rằng chiến lược của nền kinh tế lễ hội là thủ phạm chính gây ra sự sút giảm lượng hàng hoá bán lẻ trên cả nước. Những người bán lẻ trên khắp Philippines báo cáo sút giảm 15% doanh số trong tháng 12 năm 2005 so với cùng kỳ năm 2004. Những nhà phân tích nhấn mạnh sự kiện số lượng đông đảo ngày lễ được công bố trải đều suốt năm 2005 khiến dân chúng đi nhiều và chi tiêu nhiều cho du lịch nên không còn nhiều tiền dành cho mua sắm trong mùa lễ hội. Bầu cử năm 2004 Ngày 30 tháng 12 năm 2002 tại thành phố Baguio, Arroyo tuyên bố sẽ không ra tranh cử trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2004, nhưng bà đã đổi ý và quyết định đấu tranh cho một nhiệm kỳ mới kéo dài sáu năm. Xuất hiện trong một cuộc tụ họp đông đảo tại tỉnh nhà Pampanga, Arroyo cho biết bà quyết định "hoãn lại kế hoạch nghỉ hưu", nhắc đến những yêu cầu đang gia tăng từ những người ủng hộ muốn bà ra tranh cử. Vì thái độ xoay chiều đột ngột này mà uy tín của Arroyo bị tổn thương. Cuộc bầu cử năm 2004 được xem là cơ hội cho Arroyo củng cố uy tín chính phủ của bà, vẫn luôn bị ám ảnh bởi tính hợp pháp từ cuộc chính biến năm 2001 đưa bà lên ghế tổng thống. Arroyo tranh đấu trong một cuộc vận động tranh cử đầy cay đắng chống lại một ứng viên tổng thống và là bạn thân của Estrada, diễn viên điện ảnh được ưa chuộng Fernando Poe, Jr. Trong mắt quần chúng, Arroyo có lợi thế là một nhà trí thức khi đối đầu với Poe, một người không hoàn tất nổi chương trình trung học. Những ứng viên khác là Thượng nghị sĩ Raul Roco, Thượng nghị sĩ Panfilo Lacson và nhà truyền bá phúc âm Eduardo Villanueva. Trong những lần thăm dò trước mùa bầu cử, Arroyo chỉ bám đuổi theo Poe, nhưng uy tín của bà tăng dần cho đến khi vượt qua Poe. Về sau người ta cho rằng Arroyo có được thành công này là nhờ bộ máy chính trị, Liên minh K4 với ảnh hưởng vượt trội của Đảng LAKAS (cùng với De Venecia, năm 2002, Arroyo đảm nhiệm chức vụ đồng chủ tịch đảng LAKAS); quyết định của bà khi chọn người đứng cùng liên danh, một thượng nghị sĩ được lòng dân, Noli De Castro; sự ủng hộ của bà dành cho các nhóm tôn giáo có nhiều ảnh hưởng; và lòng trung thành của các tỉnh như Cebu, Pampanga và những nơi khác. Như đã được tiên báo bởi các cuộc thăm dò dư luận, Arroyo dành thắng lợi trong cuộc bầu cử tổng thống tổ chức ngày 10 tháng 5 năm 2004, khoảng cách với đối thủ gần nhất, Poe, là một triệu phiếu bầu. Dù có những cáo buộc xuất hiện trong suốt cuộc vận động tranh cử cho rằng Arroyo sử dụng tiền thuế của người dân cho ngân quỹ vận động tranh cử, cũng có những cáo buộc về gian lận và có những bất thường không quan trọng được tìm thấy trong kỳ bầu cử nhưng những người cáo buộc không đưa ra được bằng chứng cho những cáo buộc gian lận và tham nhũng trên quy mô toàn quốc. Giai đoạn hai: 2004 đến 2010 Ngày 24 tháng 6 năm 2004, hơn một tháng sau ngày bầu cử, Quốc hội tuyên bố Arroyo thắng cử. Ngày 30 tháng 6 năm 2004, trên đảo Cebu, Arroyo tuyên thệ nhậm chức, là tổng thống đầu tiên của Philippines làm lễ nhậm chức ở đây. Động thái này thể hiện lòng biết ơn dành cho dân chúng đảo Cebu đã ủng hộ bà trong cuộc tuyển cử. Không theo nếp cũ, Arroyo chỉ đọc diễn văn nhậm chức tại Manila rồi đến đảo Cebu để tiến hành lễ nhậm chức. Vụ tai tiếng "Hello Garci" Ngày 10 tháng 6 năm 2005, một cựu phó giám đốc Văn phòng Điều tra Quốc gia (NBI), Samuel Ong, tiết lộ rằng ông có một bộ những cuộn băng gốc về cuộc nói chuyện giữa Tổng thống Arroyo và một viên chức thuộc Ủy ban Bầu cử. Theo nhận xét của Ong, nội dung cuộn băng cho thấy Arroyo đã gian lận trong kỳ bầu cử toàn quốc năm 2004 khoảng 1 triệu phiếu, với số phiếu này bà đã đánh bại đối thủ của mình. Ngày 27 tháng 6, Arroyo thừa nhận sai lầm khi nói chuyện với một viên chức bầu cử, nhưng cho đó chỉ là một "sai sót trong phán đoán" và khẳng định không tìm cách gây ảnh hưởng trên kết quả bầu cử. Ngày 8 tháng 7 năm 2005, mười thành viên nội các nộp đơn từ chức và yêu cầu tổng thống cũng làm như vậy. Sau đó trong ngày, Đảng Tự do và cựu tổng thống Corazon Aquino, cả hai từng là đồng minh của Arroyo, cùng kêu gọi bà từ chức. Tổng thống một lần nữa bác bỏ những yêu cầu này. Trong khi đó, cựu tổng thống Fidel Ramos tiếp tục ủng hộ Arroyo, cương quyết bác bỏ mọi lời yêu cầu tổng thống từ chức và đề nghị nên tiến hành tu chính hiến pháp để thay đổi thể chế chính quyền Philippines từ tổng thống chế sang thể chế đại nghị liên bang. Tháng 9 năm 2005, Viện Dân biểu biểu quyết 158 chống 51 dập tắt mọi nỗ lực đưa tổng thống ra luận tội, với lý do "chưa đủ chứng cớ". Phe đối lập đã không kiếm đủ 79 phiếu cần có để chuyển vụ việc lên Thượng viện. Có một số thành viện chủ chốt của phe đối lập vắng mặt lúc biểu quyết trong khi một số khác thay đổi ý kiến vào phút chót. Tuy nhiên, chính phủ Arroyo vẫn tiếp tục đối đầu với những chống đối không ngơi nghỉ với những cuộc tụ họp chống đối trên đường phố, trên các phương tiện truyền thông dù có gây ảnh hưởng bất lợi trên sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Cựu tổng thống Corazon Aquino, một đồng minh quan trọng của Arroyo trong cuộc Cách mạng Quyền lực Nhân dân năm 2001 (EDSA II), đứng về phe đối lập và lãnh đạo các cuộc tụ họp trên đường phố. Ngay sau quyết định của Viện Dân biểu, Social Weather Station (SWS) công bố một loạt những cuộc thăm dò cho thấy công luận vẫn tỏ ra nghi ngờ về vị trí của Arroyo trong chính phủ. 79% người trả lời cuộc thăm dò muốn tổng thống phải bị luận tội vì đã nói chuyện qua điện thoại với một viên chức bầu cử, hành động này đồng nghĩa với sự gian lận. 64% cho biết họ muốn Arroyo từ nhiệm, trong khi đó có 51% tin rằng cách mạng quyền lực nhân dân là giải pháp giúp loại bỏ tổng thống khỏi chức vụ. Thảm hoạ Wowowee Ngày 4 tháng 2 năm 2006, xảy ra thảm hoạ khi đám đông chen lấn hỗn loạn tại ULTRA, thành phố Pasig làm thiệt mạng 73 người và làm bị thương gần 400 người khác khi những người này đến tham dự trò chơi truyền hình Wowowee. Tổng thống đưa ra hạn định 72 giờ đồng hồ cho cuộc điều tra và đến an ủi thân nhân những người thiệt mạng trước và sau cuộc hỗn loạn. Bầu cử 2010 Trong cuộc bầu cử tổng thống Philippines nhiệm kỳ tiếp theo, bà bị ông Benigno Aquino III cáo buộc bà tham nhũng và gian lận bầu cử trong khi tại vị. Giai đoạn hậu tổng thống Ngày 18/11/2011, bà Gloria Arroyo đã bị bắt giữ tại một bệnh viện ở Manila vì vì những cáo buộc gian lận trong cuộc bầu cử năm 2007. Mặc dù Tòa án Tối cao Philippines đã cho phép bà Arroyo ra nước ngoài chữa bệnh, nhưng chính quyền đã yêu cầu cơ quan xuất nhập cảnh ngăn cựu lãnh đạo này rời khỏi đất nước đồng thời đẩy nhanh tiến trình cáo buộc bà Arroyo vi phạm luật bầu cử.
Giáo sư Cao Xuân Huy (1900 - 1983) là một nhà nghiên cứu chuyên về lịch sử tư tưởng triết học phương Đông, từng được gọi là "nhà đạo học" ngay từ thuở mới khoảng 30 tuổi. Ông được xem là một trong những người có những đóng góp to lớn trong việc đào tạo các nhà nghiên cứu cổ học Việt Nam. Ông để lại một số giáo trình đại học có giá trị về Kinh Dịch, Luận ngữ, Mạnh Tử, Bách gia chư tử. Ông còn là một Giáo sư của Viện Văn học. Con ông là Cao Xuân Hạo là một nhà ngôn ngữ học, dịch giả nổi tiếng tại Việt Nam. Tiểu sử Ông sinh ngày 28 tháng 5 năm 1900 năm tại làng Thịnh Mỹ, xã Cao Xá, phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình dòng dõi khoa bảng danh gia. Ông nội ông là Cao Xuân Dục. Cha ông là Cao Xuân Tiếu (1865-1939), đậu phó bảng khoa thi 1895, giữ chức thượng thư, Hiệp biện đại học sĩ kiêm Tổng tài Quốc sử quán triều nhà Nguyễn. Anh trai ông là Cao Xuân Tạo (1892-1935). Năm 1906, ông bắt đầu học chữ Hán với thầy của gia đình và được ông nội (là cụ Cao Xuân Dục, khi đấy là Tổng tài Quốc sử quán) rèn cặp. Năm 1915, ông thi Hương tại trường thi Nghệ An. Sau đó, ông đến Huế theo học bậc Thành chung và tốt nghiệp năm 1922. Sau đó, ông theo học trường Cao đẳng sư phạm Đông Dương và tốt nghiệp năm 1925. Sau khi tốt nghiệp, ông bước vào cuộc đời dạy học trong 55 năm chỉ gián đoạn chút ít. Cũng trong năm 1925, cụ Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt giam. Nhiều phong trào đấu tranh chính trị đòi thả cụ Phan. Vốn sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống yêu nước và chống Pháp, ông cũng bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng. Khi đó, ông đang dạy ở Trường Quốc học Huế. Năm 1926, ông gia nhập Tân Việt Cách mạng đảng. Năm 1927, thực dân Pháp tấn công đảng Tân Việt. Ông bị giải chức, đày ra Lao Bảo, sau đó giải về Nghệ An mãi đến năm 1929 mới được thả, ông về làm công tạm cho nhà in Đắc Lập, Huế. Từ năm 1935, ông vào Sài Gòn dạy tư thục Trung học Paul Doumer và Trung học Chấn Thanh. Năm 1938, thầy trở ra Huế dạy tư thục Hồ Đắc Hàm, Việt Anh, Thuận Hóa và tham gia viết báo tiếng Pháp: Revue pédagogique. Năm 1945, ông được Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mời ra Hà Nội dạy môn triết học phương Đông tại trường Đại học Việt Nam. Trường này đóng cửa sau 3 tháng vì tình hình chính trị Việt - Pháp căng thẳng. Sau khi chiến tranh nổ ra, ông trở về quê nhà và được cử làm hiệu trưởng trung học Nguyễn Xuân Ôn, Diễn Châu, Nghệ An. Trường năng khiếu huyện Diễn Châu mang tên ông, Cùng thời gian này, ông còn kiêm các chức vụ quan trọng như giáo viên dạy văn học và dạy Pháp văn, giáo viên trường trung học chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng, giáo sư triết học của lớp Đại học Văn khoa đầu tiên ở vùng Thanh - Nghệ. Năm 1949, ông là giáo sư triết học của lớp Đại học Văn khoa đầu tiên do Bộ Giáo dục nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập tại vùng tự do Liên khu IV. Lớp có 7 học sinh tốt nghiệp trung học chuyên khoa. Năm 1951, ông được mời làm Giáo sư Trường Dự bị Đại học Việt Nam tại Thanh Hóa. Tháng 12 năm 1954, ông được điều về Hà Nội giảng dạy môn triết học phương Đông, môn logic học và môn tâm lý học cho lớp Đại học Văn khoa (tiền thân của khoa văn ngữ, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và trường Đại học sư phạm Hà Nội. Năm 1957, ông được mời sang khoa ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, giảng dạy môn tâm lý học. Năm 1958, ông được phong chức Giáo sư. Cũng trong năm 1958, vì có liên quan đến hoạt động của nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm, ông bị đình chỉ nhiệm vụ. Đến năm 1959, Viện Văn học thành lập, ông được cử làm Trưởng ban Hán - Nôm, rồi Trưởng ban văn học cổ đại Việt Nam của Viện. Năm 1965, ông là giáo sư chính, giảng dạy môn triết học cho lớp đại học Hán Nôm tại Hà Nội, chịu trách nhiệm đào tạo lớp chuyên tu Hán Nôm trên đại học (1972-1974). Năm 1972, ông là chủ khảo kỳ thi tốt nghiệp 4 năm của Viện Văn Học. Trong thời gian ở ban Hán Nôm, ông được mời thỉnh giảng ở khoa ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Trường Đại học Y Dược Hà Nội, Viện Đông Y Việt Nam. Năm 1974, ông nghỉ hưu. Ông mất tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 22 tháng 10 năm 1983, thọ 83 tuổi. Giải thưởng Ông được Nhà nước Việt Nam tặng tưởng Huân chương Kháng chiến hạng nhì (1960), giải thưởng Hồ Chí Minh (truy tặng, 1996) cho công trình nghiên cứu Tư tưởng Phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu. Tên ông được đặt cho một phố tại Phường 25, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1985, một phố tại quận Nam Từ Liêm, Hà Nội và một con đường chính dài gần 1 km chạy từ bến xe khách chợ Vinh, Nghệ An đến Quốc lộ 1 tại thành phố Vinh. Tên ông được đặt cho một ngôi trường chuyên của huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.(Trường THCS Cao Xuân Huy) Những đóng góp triết học và văn học Nghiên cứu triết học Đông phương Nghiên cứu tư tưởng và văn hoá Việt Nam cổ, trung, đại Nghiên cứu về Nhận Thức Luận Động và Tĩnh trong Cấu Trúc Luận Tham gia nghiên cứu và hiệu đính bản dịch Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn, Nguồn gốc các loài của Charles Darwin, Đông Chu liệt quốc của Phan Kế Bính, Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh của Ngô Thì Nhậm. Chủ toàn và chủ biệt - Hai ngã rẽ của triết học Đông Tây (chuyên khảo triết học, 1958) Tư tưởng phương Đông, gợi những điểm nhìn tham chiếu (1995) Những nhận định về ông Giáo sư Đặng Thai Mai: "Ở Việt Nam không ai hiểu học thuyết Lão Trang sâu sắc hơn cụ Huy". Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, trong bài Cao Xuân Huy trong thế giới người hiền giới thiệu cuốn Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu viết: "Cái tên Cao Xuân Huy trong trí nhớ của hầu hết các thế hệ trí thức trong khoảng 50 năm nay là đại biểu cho một ngành học hình như ai nghe cũng thấy sợ: triết học Đông phương". Viện sĩ Eidelyn (Liên Xô): "Những nhà Trung Quốc học như cụ Cao Xuân Huy ở trên thế giới chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay!". Chú thích
Nước cường toan (còn gọi là Cường toan thủy hay Vương thủy) (Hán Việt: 強酸水,強水; tên tiếng Latinh là aqua regia, tức "nước hoàng gia") là chất ăn mòn mạnh, ở dạng lỏng, màu vàng, dễ bay hơi. Nó được tạo thành bằng cách trộn lẫn dung dịch axit nitric đậm đặc và dung dịch axít clohiđric đậm đặc, tối ưu là ở tỉ lệ mol 1:3. Nó là một trong số ít thuốc thử có khả năng hòa tan vàng và bạch kim. Nó có tên gọi "aqua regia" vì đặc tính có thể hòa tan được những kim loại "hoàng tộc" hoặc "quý tộc", mặc dù tantali, iridi, và một vài kim loại cực kỳ thụ động khác không bị hòa tan trong nước cường toan. Nó được sử dụng trong việc khắc bằng axít và trong những thủ tục phân tích. Do có sự hình thành các chất dễ bay hơi là nitrosyl chloride (NOCl) và khí clo, nước cường toan sẽ nhanh chóng mất tác dụng cho nên nó chỉ được pha trộn khi cần sử dụng. Một số phương trình phản ứng Các axít riêng biệt trong nước cường toan tự nó không thể hòa tan được vàng. Khi kết hợp với nhau tạo thành nước cường toan, mỗi axít thực hiện một nhiệm vụ khác nhau. Axít nitric (chất oxy hóa mạnh) sẽ hòa tan một lượng rất nhỏ vàng, tạo ra những ion vàng (Au3+). Axít clohiđric sẵn sàng cung cấp những ion clo (Cl-), các ion này sẽ kết hợp với ion vàng để tạo ra các anion cloraurat (AuCl4-). Vì phản ứng với axít clohiđric là phản ứng hoàn toàn nên các ion vàng sẽ kết hợp hết với các ion clo, cho phép sự oxy hóa vàng tiếp tục diễn ra. Cứ như vậy, vàng sẽ bị hòa tan hết. Thêm vào đó, vàng có thể bị oxy hóa bởi clo tự do. Các phương trình của những phản ứng trên được biểu diễn như sau: Au (rắn) + 3 NO3- (dung dịch) + 6 H+ (dung dịch) → Au3+ (dung dịch) + 3 NO2 (khí) + 3 H2O (lỏng) Au3+ (dung dịch) + 4 Cl- (dung dịch) → AuCl4- (dung dịch) Phản ứng oxy hóa trong trường hợp sản phẩm tạo thành là nitơ mônôxít thay vì nitơ dioxide: Au (rắn) + NO3- (dung dịch) + 4 H+ (dung dịch) → Au3+ (dung dịch) + NO (khí) + 2 H2O (lỏng) Chuỗi phản ứng hòa tan bạch kim trong nước cường toan (tương tự như với vàng): Pt (rắn) + 4 NO 3- (dung dịch) + 8 H+ (dung dịch) → Pt4+ (dung dịch) + 4 NO2 (khí) + 4 H2O (lỏng) Pt (rắn) + NO 3- (dung dịch) + H+ (dung dịch) → Pt4+ (dung dịch) + NO (khí) + H2O (lỏng) Ion bạch kim sau khi bị oxy hóa lại phản ứng với ion clo tạo thành ion cloroplatinat. Pt4+ (dung dịch) + 6 Cl- (dung dịch) → PtCl62- (dung dịch) Trong thực tế, phản ứng của bạch kim với nước cường toan phức tạp hơn. Những phản ứng ban đầu tạo ra hỗn hợp axít cloroplatinơ (H2PtCl4) và nitrosoplatinic chloride ((NO)2PtCl4). Nitrosoplatinic chloride là chất rắn. Nếu muốn hòa tan hoàn toàn bạch kim, thì phản ứng tạo ra kết tủa nitrosoplatinic chloride dư với axít clohiđric đậm đặc phải được thực hiện lặp đi lặp lại nhiều lần. Pt (rắn) + 2 HNO3 (dung dịch) + 4 HCl (dung dịch) → (NO)2PtCl4 (kết tủa) + 3 H2O (lỏng) + 1/2 O2 (khí) (NO)2PtCl4 (kết tủa) + 2 HCl (dung dịch) → H2PtCl4 (dung dịch) + NOCl (khí) Axít cloroplatinơ có thể bị oxy hóa thành axít cloroplatinic khi phản ứng với khí clo trong điều kiện đun nóng. H2PtCl4 (dung dịch) + Cl2 (khí) → H2PtCl6 (dung dịch) Sự phân ly của nước cường toan Nếu trộn lẫn dung dịch axít nitric đậm đặc và dung dịch axít clohiđric đậm đặc thì các phản ứng hóa học sẽ bắt đầu xảy ra. Những phản ứng này tạo ra các chất dễ bay hơi là nitrozyl chloride (NOCl) và khí clo, dẫn đến sự bốc khói tự nhiên của nước cường toan. Màu vàng của các chất này làm cho nước cường toan có màu vàng đặc trưng. Vì các chất tạo thành bay hơi khỏi dung dịch, nên nước cường toan sẽ mất hiệu nghiệm. HNO3 (dung dịch) + 3 HCl (dung dịch) → NOCl (khí) + Cl2 (khí) + 2 H2O (lỏng) Nitrozyl chloride có thể bị phân ly thành nitơ monoxit và khí clo. Đó là quá trình phân ly không hoàn toàn. Do đó, khói bốc lên từ nước cường toan có chứa nitrozyl chloride, nitơ mônôxít và khí clo. 2 NOCl (khí) → 2 NO (khí) + Cl2 (khí) Lịch sử Axít clohidric được phát hiện lần đầu tiên vào khoảng năm 800 bởi nhà giả kim người Hồi giáo Jabir Ibn Hayyan (Gaber), bằng cách trộn muối ăn với axít sulfuric. Phát minh của Jabir về nước cường toan, bao gồm axít clohiđric và axít nitric, đã đóng góp vào sự cố gắng tìm kiếm đá tạo vàng của những nhà giả kim thuật. Khi Đức xâm chiếm Đan Mạch trong Chiến tranh thế giới thứ II, nhà hóa học người Hungary George de Hevesy đã hòa tan những huân chương Nobel bằng vàng của Max von Laue và James Franck vào nước cường toan để ngăn không cho bọn phát xít ăn cắp chúng. Ông đã cất giữ dung dịch sau phản ứng trên ngăn sách trong phòng thí nghiệm của mình tại Viện Niels Bohr. Sau chiến tranh, ông trở lại, thấy dung dịch không hề suy chuyển, tiến hành kết tủa để thu lại vàng ra khỏi axít. Số vàng này đã được hoàn trả về Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển để đúc lại những huân chương mới cho Laue và Franck. Những nguồn tham khảo The Nobel Medals
Nguyễn Duy Hiệu (chữ Hán: 阮維效; 1847–1887), có sách ghi là Nguyễn Hiệu, tục gọi Hường Hiệu; là một chí sĩ và là một lãnh tụ trong phong trào Cần Vương tại Quảng Nam trong lịch sử Việt Nam. Thân thế & sự nghiệp Nguyễn Duy Hiệu sinh năm Đinh Mùi (1847) tại làng Thanh Hà, huyện Duyên Phúc (nay là phường Thanh Hà, thành phố Hội An) tỉnh Quảng Nam. Năm Bính Tý (1876), ông thi đỗ cử nhân. Năm Kỷ Mão (1879), ông thi đỗ Phó bảng lúc 32 tuổi, được triều đình Tự Đức bổ nhiệm làm quan phụ đạo tại kinh thành Huế, được phong Hồng lô tự khanh nên người đời gọi là Hường Hiệu. Tháng 5 năm Ất Dậu (tháng 7 năm 1885), cuộc phản công của phe chủ chiến ở Kinh thành Huế thất bại, Phụ chính Tôn Thất Thuyết phải phò vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị, xuống dụ Cần vương (13 tháng 7 năm 1885). Hưởng ứng lời kêu gọi cứu nước của vua, Nguyễn Duy Hiệu cùng Trần Văn Dư (1839-1885), Phan Bá Phiến (còn gọi là Phan Thanh Phiến, 1839-1887), Nguyễn Tiểu La (tức Nguyễn Hàm, 1863-1911), thành lập Nghĩa hội Quảng Nam (Trần Văn Dư làm Thủ hội) rồi ra bản cáo thị kêu gọi toàn dân trong tỉnh cùng đứng lên đáp nghĩa. Nghĩa hội Quảng Nam Ngày 4 tháng 9 năm 1885, nghĩa quân Quảng Nam bao vây chiếm tỉnh thành La Qua (còn gọi là La Thành, tức thành tỉnh Quảng Nam), buộc Bố chính Bùi Tiến Tiên và Tuần phủ Nguyễn Ngoạn phải dẫn quân rút chạy. Được tin khẩn, quân Pháp và quân Nam triều (triều vua Đồng Khánh thân Pháp) dưới quyền chỉ huy của tướng Schants đã phản công chiếm lại thành, rồi còn xua quân đi tấn công các căn cứ của nghĩa quân ở Đại Lộc, Quế Sơn, Tam Kỳ... Trước lực lượng đông đảo và vũ khí tối tân của đối phương, đến tháng 10 năm 1885, các căn cứ ở Dương Yên, An Lâm, Đại Đồng cũng đều lần lượt bị bao vây rồi thất thủ. Trước tình thế nguy ngập đó, bộ chỉ huy Nghĩa hội bàn nhau chọn kế "giải binh quy điền" để bảo toàn lực lượng. Tháng 12 năm 1885, Trần Văn Dư giao quyền Thủ hội cho Nguyễn Duy Hiệu để Huế gặp vua Đồng Khánh (từng là học trò của ông), nhằm tìm ra một giải pháp. Dọc đường, ông bị quyền Tổng đốc Quảng Nam Châu Đình Kế bắt giữ và báo với quân Pháp. Bất khuất, ông mắng chửi Tổng đốc Kế. Căm tức, viên quan này đã mượn tay quân Pháp để giết chết ông tại góc thành La Qua ngày 13 tháng 12 năm 1885. Đầu năm 1886, Nguyễn Duy Hiệu chính thức làm Hội chủ mới của Nghĩa hội, và ông đã chọn thung lũng Trung Lộc thuộc Quế Sơn đặt tổng hành dinh với tên gọi là Tân tỉnh Trung Lộc. Từ nơi đó, Nguyễn Duy Hiệu đã tổ chức đi đánh nhiều trận, gây cho đối phương nhiều thiệt hại, như trận tập kích đơn vị công binh Pháp đang mở con đường qua đèo Hải Vân (tiêu diệt trọn đội công tác này), trận Bãi Chài (phá đội ca nô ở vàm Vân Ly trên sông Thu Bồn), trận phục kích quân Pháp và quân triều đình ở Cẩm Muồng. Tháng 2 năm 1886, viên Khâm sứ Trung Kỳ là Hector đã điều động khoảng bốn trăm lính Pháp cùng khoảng hai trăm quân triều do Nguyễn Thân chỉ huy đã rầm rộ tiến vào căn cứ Tân tỉnh Trung Lộc. Tại trận kịch chiến ở Gò May, nghĩa quân đại bại, bản doanh bị đốt cháy, san bằng. Thấy không thể cầm cự được nữa, Nguyễn Duy Hiệu và Phan Bá Phiến liền ra lệnh đánh vượt vòng vây chạy về một làng ở gần cửa biển An Hòa thuộc Tam Kỳ. Tướng Nguyễn Thân liền xua quân theo càn quét rất ngặt. Lại thất trận ở căn cứ Phước Sơn (thuộc Tiên Phước), tuy Nguyễn Duy Hiệu và Phan Bá Phiến chạy thoát được nhưng thế và lực thật sự đã cùng. Không thể để nghĩa quân toàn ba tỉnh bị giết hại hết, nghe lời thủ lĩnh Hiệu, Phan Bá Phiến uống thuốc độc tự sát để tránh bị bắt, còn ông Hiệu thì tự trói mình nạp mạng cho đối phương để nhận lãnh hết trách nhiệm về mình...Hôm đó là ngày 5 tháng 8 năm Bính Tuất (21 tháng 9 năm 1887). Cái chết Kế tiếp, theo sử liệu thì: Chứng kiến xong cái chết của người đồng sự tâm phúc, Nguyễn Duy Hiệu trở về quê thăm viếng mẹ già. Xong, ông ra miếu thờ Quan Công ở giữa bãi cát Thanh Hà, mặc áo dài đen, đầu vấn khăn cẩn thận, ngồi xếp bằng trước bàn thờ, rồi sai người đi báo cho Nguyễn Thân đến bắt ông...<ref>Nhóm Nhân văn Trẻ, Hỏi đáp lịch sử Việt Nam (Tập 4, tr. 263). Tuy nhiên, theo sử nhà Nguyễn thì Nguyễn Duy Hiệu bị truy lùng và bị bắt sống: Tháng 7 (âm lịch)...Nguyễn Thân tìm ra bọn Nguyễn Hiệu ở miền thượng nguyên Phước Sơn, bắt sống được 8 người cừ mục và thân quyến...Nguyễn Thân sai người bắt được Nguyễn Hiệu, chạy cờ đỏ về báo tịệp, bỏ Nguyễn Hiệu vào củi giải về kinh...(Quốc triều sử toát yếu, tr. 524). Rất có thể, do người báo tâng công.</ref> Sau khi Nguyễn Duy Hiệu liền bị giải về Huế, triều đình Đồng Khánh bèn dùng danh lợi để dụ hàng, nhưng không được ông nghe. Cuối cùng, Viện cơ mật của Nam triều đã kết án tử hình ông vào ngày rằm tháng 8 năm Bính Tuất (15 tháng 10 năm 1887) tại Huế, hưởng dương 40 tuổi. Phần mộ Nguyễn Duy Hiệu hiện ở tại xã Cẩm Hà, thị xã Hội An. Đàn áp Nghĩa đảng Quảng Nam thành công, Nguyễn Thân được nhà cầm quyền Pháp tặng thưởng Bắc đẩu bội tinh ngũ hạng, còn vua Đồng Khánh thì ban cho Nguyễn Thân gia hàm Thượng thư nhưng sung Nghĩa Định Tiễu phủ sứ, lại thưởng thêm một kim khánh hạng lớn. Thơ tuyệt mệnh Trước khi bị chém chết, Nguyễn Duy Hiệu đã làm hai bài thơ tuyệt mệnh. Trích giới thiệu một bài: {|valign="top" | Phiên âm Hán-Việt: Cần Vương thệ dữ Bắc Nam đồng Vô nại khuông tương lộ vị thông. Vạn cổ cương thường vô Ngụy Tháo, Bách niên tâm sự hữu Quan công. Thiên thư phận dĩ sơn hà định, Địa thế sầu khan thảo mộc cùng. Ký ngữ phù trầm tư thế giả, Hưu tương thành bại luận anh hùng. | Chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng dịch thơ:Cần vương Nam Bắc kết tơ đồng, Cứu giúp đường kia khổ chẳng thông.Muôn thuở cương thường ai Ngụy Tháo? Trăm năm tâm sựu có Quan Công.Non sông phần tự thơ trời định, Cây cỏ buồn trông thấy đất cùng.Nhắn bảo nỗi chìm ai đó tá? Chớ đem thành bại luận anh hùng. |} Ghi nhận công lao Năm Ất Tỵ (1905), nhà chí sĩ Phan Bội Châu đã viết trong Việt Nam vong quốc sử như sau: ...Nguyễn Hiệu (và Phan Bá Phiến), người Quảng Nam, khởi nghĩa ba năm huyết chiến, người Pháp chưa lúc nào đánh thua được. Gặp phải Nguyễn Thân, người Quảng Ngãi, trước cũng dự tên Nghĩa hội, sau phản Nghĩa hội theo Pháp, (đây) là tay đầu sỏ nhất trong bọn nộ lệ Pháp, (đồng) đảng nó là Lê Khiết cũng là chó dữ của Pháp; (nên dù) Hiệu, Phiến ở đâu, tất nó hết sức dò la cho ra...Than ội! hai người ấy, nhà tan không nghĩ đến, chăm chăm chỉ nghĩ đến bảo toàn đảng để mưu về sau, trong mắt họ, trong bụng họ chỉ có Tồ quốc, có đồng bào mà thôi, can tràng như thế thật là trời đất phải khâm phục, quỷ thần phải kính nể... Vinh danh Nguyễn Duy Hiệu, tên ông được đặt cho nhiều trường học và đường phố tại Việt Nam.
Jang Hye-jin (tiếng Hàn: 장혜진, sinh ngày 15 tháng 5 năm 1968) là một nữ ca sĩ Hàn Quốc. Sự nghiệp Jang Hye-jin là nữ ca sĩ Hàn Quốc được người nghe nhạc yêu thích trong nhiều năm. Ban đầu, cô là thành viên của nhóm nhạc MBC Chorus, nhưng đã bắt đầu sự nghiệp đơn ca vào năm 1991 với bài hát "Always in My Dreams". Tuy nhiên, bài hát đã bị phê bình là "đạo nhạc" và Jang không thể tiếp tục biểu diễn bài hát này. Năm 1993, Jang Hye-jin phát hành đĩa nhạc thứ hai mà cô đã chuẩn bị nghiêm chỉnh để quảng bá tên tuổi với đông đảo người nghe. Chất giọng khàn và thu hút của cô đã được nhiều người người biết đến. Ca khúc chủ đề "Short Sky" đã rất thành công trên các bảng xếp hạng tại Hàn Quốc. Với đĩa nhạc thứ ba phát hành vào năm 1994, Jang đã nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới phê bình, cũng như công chúng, với những ca khúc như: "To Me" và "With Only the Name of Love". Nhiều nhạc sĩ hàng đầu như Kim Hyun-cheol đã tham gia vào quá trình sản xuất đĩa nhạc. Việc này đã thu hút thêm nhiều sự chú ý của công chúng. Đĩa thứ tư của Jang đã được phát hành vào năm 1996, nhưng bị thất bại so với đĩa thứ ba. Trong đĩa thứ năm được phát hành vào năm 1998, Jang Hye-jin đã cố gắng thay đổi phong cách âm nhạc. Hầu hết các bài hát trong đĩa này thuộc thể loại Latin pop. Cô cũng đã viết lời cho các bài hát "Dream" và "You're Lost". Sau ba năm tạm ngừng hoạt động, Jang Hye-jin trở lại sân khấu ca nhạc với đĩa thứ sáu và đĩa BEST. Sau đó, Jang Hye-jin ngừng biểu diễn để theo học thanh nhạc tại trường nhạc Berkely ở Boston, nhằm để được đào tạo một cách có hệ thống. Sau khi trở về lại Hàn Quốc, Jang phát hành đĩa nhạc thứ bảy vào năm 2006. Ấn phẩm Các đĩa nhạc tiếng Hàn Vol.1 - 장혜진 (1991) Vol.2 - WHITEISM (1993) Vol.3 - bEfoRe tHe pARtY (1994) Vol.4 - Temptation (1996) Vol.5 - Dream jhj V (1998) Vol.6 - 베스트: It`s My Life / Best Of The Best (2001) Vol.7 - 4 SEASON STORY / SPRING (2006)
Đây là Danh sách bãi biển ở Việt Nam, trang này liệt kê các Bãi biển ở Việt Nam, các bãi tắm có thể đã, đang và sẽ phục vụ du lịch dọc bờ biển Việt Nam, là một hệ thống gồm nhiều bãi nằm trải dài từ Bắc vào Nam. Việt Nam có bờ biển dài hơn 3.400 km. Những bãi biển chính, tính từ Móng Cái (Quảng Ninh) vào Hà Tiên (Kiên Giang) gồm: Miền Bắc Miền Trung Miền Nam
Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền của Bị cáo - Nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này. - Tham gia phiên tòa. - Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này. - Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị triệu tập người làm chứng, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người giám định, người định giá tài sản, người tham gia tố tụng khác và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tham gia phiên tòa. - Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu. - Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá. - Tự bào chữa, nhờ người bào chữa. - Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. - Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa. - Nói lời sau cùng trước khi nghị án. - Xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa. - Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án. - Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. - Các quyền khác theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ của Bị cáo - Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Trường hợp vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã. - Chấp hành quyết định, yêu cầu của Tòa án.
Amazon là một danh từ riêng có thể chỉ: Rừng mưa Amazon, khu rừng lớn nhất thế giới. Sông Amazon, dòng sông chứa đựng nhiều nước nhất trên thế giới. Châu thổ sông Amazon, lưu vực lớn nhất thế giới. Chiến binh Amazon, các nữ chiến binh trong thần thoại Hy Lạp. Amazon.com, mạng bán hàng trực tuyến. Vệ sĩ Amazon là những người phụ nữ còn trinh trong đội nữ cận vệ của nhà lãnh đạo Gadafi
Sông Amazon (tiếng Tây Ban Nha: Río Amazonas; tiếng Bồ Đào Nha: Rio Amazonas) là một dòng sông ở Nam Mỹ. Amazon được xem là con sông dài nhất thế giới theo một số nguồn thông tin và là sông có lưu vực rộng nhất và lưu lượng nước nhiều nhất thế giới. Sông Amazon chiếm khoảng 20% tổng lưu lượng nước ngọt cung cấp cho các đại dương . Chỗ rộng nhất của sông vào mùa khô khoảng 11 km (6,8 dặm). Vào mùa mưa lũ, chỗ rộng nhất của sông có thể lên đến 40 km (24,8 dặm) và khu vực cửa sông có thể rộng tới 325 km (202 dặm) . Do độ rộng của sông như vậy, người ta còn gọi là sông biển. Lịch sử Sông Amazon được Francisco de Orellana phát hiện năm 1542, ban đầu nó được đặt tên là Riomar. Con sông Amazon thuộc hàng dài nhất thế giới nằm ở khu vực Nam Mỹ được xác định đã 11 triệu năm tuổi. Nó có hình dạng như hiện nay từ 2,4 triệu năm trước. Đây là kết quả nghiên cứu của những nhà khoa học tại Đại học Liverpool Anh, Đại học Amsterdam Hà Lan và công ty dầu mỏ quốc gia Brazil Petrobras. Họ đưa ra kết luận này nhờ nghiên cứu những mẫu trầm tích lấy từ hai lỗ khoan ở cửa sông Amazon. Trước nghiên cứu này, độ tuổi chính xác của sông Amazon vẫn là một bí ẩn. Các nhà nghiên cứu vốn không thể xâm nhập vào Amazon Fan - một cột trầm tích dày tới 10 km - ở con sông này. Công ty Petrobras đã quyết định khoan hai lỗ ở cửa sông Amazon - một cái sâu tới 4,5 km dưới mực nước biển - để lấy trầm tích phục vụ cho nghiên cứu. "Trầm tích của sông cung cấp dữ liệu về khí hậu và địa lý thời cổ đại của khu vực", Jorge Figueiredo - thuộc khoa nghiên cứu đại dương và Trái Đất Đại học Liverpool - cho biết. "Nghiên cứu này cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc cung cấp hiểu biết cho chúng ta về địa lý học Nam Mỹ cũng như sự tiến hóa sinh vật biển ở khu vực Amazon và vùng bờ biển Đại Tây Dương". Tuy nhiên, Amazon, dù được xem là dài nhất thế giới, vẫn khá "trẻ" so với nhiều con sông khác trên thế giới. "Sông New ở Bắc Mỹ và Nile ở châu Phi được cho là đã hàng trăm triệu năm tuổi", Carina Hoorn, thuộc Đại học Amsterdam, cho hay. Địa lý Lưu vực Lưu vực sông bao phủ phần lớn rừng Amazon, khu rừng nhiệt đới lớn nhất trên thế giới, chiếm diện tích 5.500.000 km² (phần lớn ở Brazil). Amazon có lưu vực rộng nhất thế giới với hơn 1.000 sông nhánh đan chéo nhau dệt thành một mạng sông dày đặc, trong đó có hơn 17 nhánh có chiều dài 1.500 km. Lưu vực Amazon chiếm khoảng 40% tổng diện tích đại lục Nam Mỹ, lớn gấp đôi diện tích lưu vực sông Congo ở châu Phi. Sông Amazon và các phụ lưu của nó đặc trưng bởi những khu rừng rộng lớn bị ngập nước vào mỗi mùa mưa. Mỗi năm mực nước sông dâng cao hơn , làm ngập lụt các khu vực rừng lân cận, được gọi là várzea ("rừng bị ngập nước"). Các khu rừng bị ngập nước của Amazon là những ví dụ điển hình nhất cho kiểu môi trường sống này trên thế giới. Tính trung bình trong mùa khô, diện tích bị ngập nước khoảng , trong khi mùa mưa diện tích bị ngập nước trong lưu vực lên đến . Lượng nước từ sông Amazon đổ ra Đại Tây Dương rất lớn, lên đến trong mùa mưa, trung bình trong khoảng thời gian từ 1973 đến 1990. Amazon cung cấp khoảng 20% lượng nước ngọt trên thế giới đổ vào đại dương. Vùng nước mà con sông đổ vào đại dương trải dài và rộng . Nước ngọt nhẹ hơn nước biển, khi chảy vào đại dương sẽ nằm ở trên, pha trộn với nước mặn, làm thay đổi màu sắc của bề mặt đại dương trên một diện tích lên đến . Qua nhiều thế kỷ các tàu qua lại đã báo cáo rằng vùng nước ngọt gần cửa sông nằm ngoài tầm nhìn đến đất liền và có vẻ như là một đại dương mở. Năng lượng sóng và thủy triều của Đại Tây Dương đủ để mang hầu hết vật liệu trầm tích của sông Amazon ra biển, do đó Amazon không hình thành một đồng bằng châu thổ thực sự. Các đồng bằng châu thổ lớn trên thế giới tất cả nằm trong các vùng nước được bảo vệ một cách tương đối, trong khi Amazon không hội đủ những yếu tố như thế. Thượng nguồn Vào tháng 5 năm 2007, nhằm xác định thượng nguồn của con sông, các nhà khoa học Brasil và Peru đã làm một cuộc hành trình vất vả. Và họ thấy con sông này bắt nguồn từ vùng núi trẻ An-đét (5000 mét so với mực nước biển). Cửa sông Lũ lụt Không phải tất cả các nhánh sông của Amazon xuất hiện lũ cùng thời điểm trong một năm. Nhiều nhánh bắt đầu lũ vào tháng 11 và có thể tiếp tục dâng cao cho đến tháng 6. Nước sông Rio Negro dâng lên bắt đầu trong tháng 2 hoặc 3 và bắt đầu rút trong tháng 6. Sông Madeira dâng và hạ trong 2 tháng sớm hơn hầu hết các nhánh sông khác của Amazon. Độ sâu trung bình của Amazon giữa Manacapuru và Óbidos theo tính toán giữa . Tại Manacapuru, mực nước sông chỉ vào khoảng trên mực nước biển. Hơn phân nửa nước của hạ nguồn Amazon trên sông Manacapuru nằm dưới mực nước biển. Ở đoạn thấp nhất độ sâu trung bình của Amazon là , ở một số nơi có thể lên đến . Lũ hàng năm gây ra bởi sóng triều được gọi là "pororoca." Sóng xuất hiện vào cuối đông khi triều cao, khi đó Đại Tây Dương bao phủ vào trong sông. Sóng có thể cao đến 4 m và truyền sâu vào trong đất liền 13 km. Thế giới sinh vật Hơn một phần ba số loài động vật được biết đến sống ở rừng Amazon, một khu rừng nhiệt đới khổng lồ nằm trên lưu vực sông Amazon có diện tích hơn . Nó là rừng nhiệt đới giàu đa dạng sinh học nhất thế giới. Hiện có 3,000 loài cá có mặt ở lưu vực Amazon, với nhiều loài mới được tìm thấy hàng năm. Khoáng sản Phần lớn Rừng Amazon có núi, các loại khoáng sản có kim cương (phân bố ở Brasil), vàng ở Bôlivia, và các kim loại khác nhau. Hình ảnh Thực vật sông Amazon Các phụ lưu chính Amazon có hơn 1.100 phụ lưu, 17 trong số đó có chiều dài hơn . Một số sông nổi tiếng như:
Kiếm hay gươm là một loại vũ khí lạnh cấu tạo từ một thanh kim loại thẳng, dài và dẹt, được mài bén ở mũi và lưỡi chuyên dùng để đâm, chém trong tác chiến. Loại gươm có lưỡi cong, chỉ một lưỡi được mài bén thì được gọi là đao. Kiếm được sử dụng trong nhiều cuộc chiến trên khắp thế giới từ thời thượng cổ cho tới thế chiến II. Sau phát minh ra súng, kiếm dần dần mất hiệu lực trong chiến trường nhưng vẫn được dùng làm biểu tượng của gia tộc, quốc gia, quân đội (Ví dụ điển hình là sĩ quan kỵ binh trong Nội chiến Mỹ thường dùng kiếm đi trước để chỉ huy binh lính có súng theo sau). Một số thanh kiếm hiện diện trong các huyền thoại, truyền thuyết như thanh kiếm Thuận thiên của Lê Lợi, thanh Kusanagi của Thiên hoàng Jimmu (thần thoại Nhật Bản), và Excalibur của vua Arthur (Anh Quốc). Kiếm cũng được dùng để thi đấu như một môn thể thao. Cấu tạo của kiếm khá đơn giản - một thanh kim loại dài, có một hoặc hai cạnh sắc, chuôi bằng kim loại hoặc gỗ, phần lớn có quai bảo vệ cho bàn tay của kiếm sĩ. Phân loại Có nhiều loại kiếm, như kiếm 3 cạnh, liễu diệp kiếm (loại kiếm rất mỏng, nhẹ và dẻo dai, có thể cuốn tròn quanh người), kiếm lưỡi tròn, kiếm 2 lưỡi còn gọi là kiếm lá, kiếm 1 lưỡi (thường gọi là đao) v...v... Mỗi dân tộc lại có một hoặc vài kiểu kiếm khác nhau: kiếm Claymore của Scotland, đao Katana, thái đao Tachi của Nhật Bản v.v., theo đó cách sử dụng kiếm cũng khác nhau. Trung Quốc Trung Quốc có một nền võ thuật lâu đời và vững mạnh, kiếm pháp cũng không nằm ngoài quy luật này. Kiếm Trung Quốc có từ thời cổ đại khi con người tìm ra đồng và sắt. Trải qua suốt 5000 năm lịch sử, kiếm Trung Quốc ngày càng hoàn thiện và đa dạng hơn, đặc điểm chung là cấu tạo bởi một thanh kim loại (thường là thép) dài, sắc hai lưỡi, nhọn ở đầu. Thời Cổ Trung đại, Kiếm là loại vũ khí được trang bị khi chiến đấu và phòng thân. Qua mỗi thời kì, kiếm Trung Quốc có những nét đặc trưng riêng. Kiếm thời nhà Minh lưu truyền đến nay, sử dụng trong luyện tập võ thuật và làm lễ trong Đạo Giáo. Từ thời Tống, Trung Quốc xuất hiện nhiều môn phái sử dụng kiếm như: Toàn Chân Giáo, Võ Đang, Nga My, Ngũ Nhạc Kiếm Phái, môn sinh Thiếu Lâm cũng được luyện tập kiếm pháp. Kiếm Trung Quốc là một vũ khí thanh mảnh, sử dụng một tay một kiếm (đơn kiếm), hai tay hai kiếm (song kiếm). Loại to, nặng nhưng gọi là trọng kiếm không sắc bằng kiếm thường, sát thương chủ yếu bằng sức nặng để cắt. Thời Xuân Thu Nước Ngô có hai thanh kiếm Can Tương và Mạc Tà nổi tiếng chặt đá, do hai vợ chồng Can Tương và Mạc Tà đúc nên, được liệt vào hàng danh kiếm. Cùng học một thầy với hai vợ chồng Can Tương, Mạc Tà có Âu Giả Tử nước Việt, đúc được 5 thanh kiếm, được vua nước Việt dâng cho vua Ngô Thọ Mộng 3 thanh: Ngư trường là thanh trủy thủ (kiếm ngắn) mà Chuyên Chư đâm Vương Liêu. Bản sinh được vua Ngô Hạp Lư chôn theo con gái Thắng Ngọc. Trạm lư bỏ vua Ngô xuất hiện tại phòng vua Sở Chiêu vương. Nhật Bản Đặc trưng là Katana hay còn gọi là Đao Nhật, là vũ khí đặc trưng của người Nhật Bản. Katana thực chất là đao, có lưỡi dài và cán dài, cán đao thường được cầm bằng hai tay khi chiến đấu. Katana chỉ có một lưỡi, sắc bén, có sức sát thương cao. Sống và lưỡi đao có đặc tính hoàn toàn khác nhau, sống đao mềm trong khi lưỡi đao cứng, chính sự khác biệt về nhiệt trong việc tạo nên những đặc tính này khiến đao có hình dáng cong. Katana thường được đeo ở thắt lưng và lưỡi đao xoay lên trên. Theo một số nhà khoa học, sở dĩ katana đạt được độ cứng và bền là vì khi rèn đao, các nghệ nhân thường cho thêm oxít titan vào trong hợp kim. Điều này làm cho katana có độ sắc bén nhất, ngoài ra còn giúp chống oxy hóa, khiến cho thanh đao luôn sáng bóng. Những thanh katana cổ có độ tuổi ít nhất 300 năm nhưng khi rút khỏi vỏ vẫn có khả năng phản xạ ánh sáng. Việt Nam Thời cổ đại, lưỡi kiếm Việt Nam thẳng và rộng bản, có 2 cạnh sắc, dùng để chém lẫn đâm. Về hình dạng, kiếm Đông Sơn tương tự như kiếm tìm thấy ở Trung Quốc, Nhật Bản. Hoa văn trang trí trên chuôi và đốc kiếm rất đa dạng, có thể là hình chiến binh, hình người phụ nữ hay các con vật như gà, voi... Những kiếm mang tính chất nghi lễ của người tầng lớp trên có thể gắn cả nhạc, chuông. Thời Trung - Cận đại, người Việt sử dụng cả gươm thẳng 2 cạnh sắc, chuôi cầm 1 tay như của Trung Quốc lẫn loại gươm lưỡi cong, 1 cạnh sắc, chuôi dài và phải cầm cả hai tay (vẫn thường được gọi là trường đao). Ngày nay, loại trường đao này vẫn có thể nhìn thấy trên những bức tượng võ sĩ ở các lăng tẩm của giới quý tộc thời Lê, Mạc, Trịnh ở Thanh Hóa, Bắc Giang, trong bảo tàng Lịch sử quân sự Hà Nội (kiếm Tây Sơn) hay trong các lễ hội dân gian như hội đền Đô, Bắc Ninh. Một số lượng lớn đao kiếm cổ hiện nay đang nằm trong các bộ sưu tập tư nhân. Về danh kiếm thì Việt Nam nổi lên có thanh Thuận Thiên kiếm của Lê Lợi, gắn với sự tích trả gươm và rùa thần Kim Quy Từ nguyên Từ gươm trong tiếng Việt bắt nguồn từ từ tiếng Hán thượng cổ 劍 (có nghĩa là gươm, kiếm). William H. Baxter và Laurent Sagart phục nguyên âm tiếng Hán thượng cổ của từ 劍 là /*s.kr[a]m-s/. Chữ Hán 劍 có âm Hán Việt là kiếm.
Cười hoặc Tiếng cười là một lời đồng ý ai đó, là hành động thể hiện trạng thái cảm xúc thoải mái, vui mừng, đồng thuận và là một loại ngôn ngữ cơ thể thường được dùng như một cách gián tiếp, xã giao thường ngày giữa con người với con người. Tác dụng "Tiếng cười là liều thuốc bổ". Có nghiên cứu cho rằng 45 phút nghỉ ngơi của một người có ý nghĩa tương đương với một phút người ta cười thoải mái. Hình ảnh
Nghìn lẻ một đêm (tiếng Ả Rập: Kitāb 'Alf Layla wa-Layla; tiếng Ba Tư: Hazâr-o Yak Šab) là bộ sưu tập các truyện dân gian Trung Đông và Nam Á được biên soạn bằng tiếng Ả Rập trong thời đại hoàng kim Hồi giáo. Tác phẩm này được sưu tập qua nhiều thế kỷ bởi nhiều tác giả, dịch giả và học giả khắp Tây Á, Trung Á, Nam Á và Bắc Phi. Bản thân các câu truyện được truy tìm nguồn gốc ngược về nền văn chương và truyện kể dân gian Ả Rập, Ba Tư, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Do Thái và Ai Cập. Đặc biệt, nhiều truyện ban đầu là truyện dân gian từ thời đại Khalifah, trong khi đó một số truyện khác, đặc biệt là truyện nền, phần lớn có thể đã được lấy từ tác phẩm văn chương Ba Tư là Hazār Afsān (Một ngàn truyện) mà đến lượt chúng lại dựa một phần vào những yếu tố Ấn Độ. Điểm chung của các lần xuất bản bộ truyện là truyện nền ban đầu kể về vị vua Shahryār và vợ của ông là Scheherazade. Truyện nền đã giúp kết hợp chặt chẽ xuyên suốt cho chính các truyện kể khác. Các truyện kể tiến triển từ truyện kể ban đầu này; một số truyện kể được lồng vào bên trong các truyện kể khác trong khi đó có một số truyện kể tự mình bắt đầu và kết thúc. Một số lần xuất bản chỉ có chứa vài trăm đêm trong khi đó có một số lần xuất bản có chứa đến một nghìn lẻ một đêm hay nhiều hơn. Phần lớn các truyện kể được viết theo thể văn xuôi tuy đôi khi cũng được viết theo thể thơ dành cho các bài hát, câu đố và để diễn tả cảm xúc cao độ. Một số truyện kể được xem là rất có liên quan đến Nghìn lẻ một đêm, đặc biệt là "Aladdin và cây đèn thần", "Ali Baba và bốn mươi tên cướp", và "Thủy thủ Sinbad" lại không phải là một phần của Nghìn lẻ một đêm trong phiên bản nguyên thủy bằng tiếng Ả Rập. Chúng được Antoine Galland và các phiên dịch châu Âu đưa vào bộ truyện. Lịch sử Vào thế kỷ 8, Baghdad trở thành một trong những thành phố quan trọng bậc nhất trên thế giới. Các nhà buôn từ Ba Tư (Iran), Ấn Độ, châu Phi và châu Âu đều có mặt ở đây. Vào thời gian đó, các câu truyện dân gian (được truyền khẩu trong nhiều năm) được thu thập và biên soạn lại thành một cuốn sách. Những câu chuyện trong này thường là những câu chuyện dân gian truyền khẩu. Ở đâu cũng vậy, các chuyện kể dân gian không bao giờ là công trình sáng tạo của một người và có dạng hoàn chỉnh ngay từ đầu hay trong một thời gian ngắn. Cho đến một lúc nào đấy nó được những tài năng kiệt xuất chỉnh lý, định hình lần cuối cùng, rồi được nhân dân chấp nhận coi như dạng bản cuối cùng. Những người kể chuyện rong mang những chuyện đó kể khắp nơi. Trong quá trình ấy họ gọt đẽo cách diễn tả cho thích hợp và hấp dẫn người nghe. Người ta cho rằng chính những người Ai Cập kể chuyện rong thế kỷ 12 và 13 đã làm cho các chuyện trong Nghìn lẻ một đêm thêm phong phú về nội dung, linh hoạt về hình thức và sáng sủa về từ ngữ. Ngôn ngữ dùng trong tập truyện này gắn với tiếng nói của các tầng lớp bình dân A Rập hơn là ngôn ngữ kinh viện thời bấy giờ. Nội dung chủ yếu của những câu truyện này bắt nguồn từ một cuốn sách Ba Tư cổ tên là Hazâr Afsâna (Một nghìn truyện thần thoại).Theo R. Niconxơn trong Lịch sử văn học A Rập, năm 956 một học giả A Rập tên là Masadi đã nhắc tới tác phẩm này. Năm 988, Mohamed Ishaq, tác giả một tập thư mục những tác phẩm văn học A Rập và nước ngoài đã nói đến việc người A Rập soạn lại tập truyện cổ Ba Tư đó. Ông viết: "Tác giả tập Truyện các tể tướng là An Jasihiyari (Agdul Al Jahshitari) bắt tay soạn một cuốn sách trong đó ông chọn một nghìn truyện của người A Rập, người Ba Tư, người Hy Lạp và nhiều dân tộc khác, các truyện đều riêng biệt không có quan hệ gì với nhau. Ông tập hợp một số người làm nghề kể chuyện lại, mời họ kể cho nghe rồi chọn những truyện hay nhất, những ngụ ngôn, cổ tích mà ông thích nhất. Là một người có tài, ông đúc kết những câu chuyện ấy lại thành bốn trăm tám mươi đêm, mỗi đêm là một truyện trọn vẹn dài trên dưới năm chục trang. Nhưng ông chết bất ngờ trước khi hoàn thành một nghìn truyện như dự định". Theo các nhà nghiên cứu Nghìn lẻ một đêm ít ra là bản lưu truyền đến với chúng ta ngày nay được định hình rõ ràng vào khoảng cuối thế kỷ 15 ở Ai Cập. Thời kỳ này cả nước Ai Cập đã hoàn toàn theo đạo Hồi. Thật ra, sự xuất hiện của nó còn ngược lên đến thời xa xưa, bắt nguồn từ những truyện Ba Tư rất cổ và đã trải qua một thời kỳ tồn tại lâu dài trước khi được viết ra thành văn.. Nghìn lẻ một đêm như ta đã biết hiện nay, lần đầu tiên được giới thiệu với châu Âu rồi từ đó phổ cập hầu như rộng khắp trên toàn thế giới là nhờ công lao của một học giả người Pháp: Antoine Galland mà bản dịch từ khi ra đời cách đây gần ba thế kỷ đã mau chóng trở thành kinh điển. Khi ở Paris, một hôm tình cờ đọc được một bản chép tay bảy truyện cổ A Rập, ông có ý định dịch và cho xuất bản. Sách sắp in ra thì dịch giả được biết những truyện này thực ra rút ra từ "một pho đồ sộ gồm nhiều tập đề là Nghìn lẻ một đêm". Ông liền nhờ người tìm kiếm hộ, từ Syria người ta chỉ gửi đến cho ông có bốn tập. Ông dịch ngay tập đầu tiên cho xuất bản năm 1704. Món quà nhỏ mọn như lời ông viết trong thư gửi tặng hầu tước phu nhân O, lập tức được hoan nghênh nhiệt liệt. Thành công hết sức to lớn. Cùng với hầu tước phu nhân O cả triều đình nghị viện, từ giai cấp tư sản cho đến các tầng lớp nghèo hèn, tóm lại là tất cả những ai biết đọc biết viết ở Pháp đều đổ xô vào tranh nhau tập sách. Trong bốn năm, từ 1704 đến 1708, mười hai tập lần lượt ra đời. Năm 1709, A.Galland được một người bạn A Rập đến Paris trao thêm cho một số truyện nữa, ông lại dịch và cho in tiếp. Chừng hai thế kỷ sau A.Galland một bản dịch tiếng Pháp khác của Nghìn lẻ một đêm ra đời. Dịch giả là tiến sĩ J.C.Mardrus. Thật ra đây là một bản dịch theo quan niệm và phong cách hoàn toàn khác. Mardrus không bỏ sót một chi tiết nào, kể cả những đoạn rườm rà dâm tục và tất cả những thơ rải rác trong các truyện. Người đã bàn cãi khá nhiều về hai bản dịch đó. Các nhà nghiên cứu văn học đều nhất trí đánh giá cao bản dịch của A.Galland theo đúng như lời nhận xét của tạp chí Bách khoa (Pháp) số tháng một năm 1900: "Bản dịch của A.Galland cho chúng ta một ý niệm rất trung thành về tính cách và lời văn của người A Rập cũng như của bộ Nghìn lẻ một đêm". Chính vì vậy mà giờ đây bản dịch truyện của Galland được phổ biến và được người đọc đón nhận nồng nhiệt nhất. Nội dung Kho tàng truyện cổ vô cùng đa dạng của Nghìn lẻ một đêm được kết nối xoay quanh một trục đơn giản: Xưa kia ở miền Đông Ả-rập, thời Sassanid có một vị vua Ba Tư Shahriyar. Vị vua ngự trị trên một hòn đảo không rõ tên "ở giữa Ấn Độ và Trung Quốc" (trong các bản dịch tiếng Ả Rập hiện nay thì ông ta là vua của Ấn Độ và Trung Quốc). Ban đầu, ông vốn là một vị hoàng đế anh minh, hiền hậu nhưng do hoàng hậu và phi tần ngoại tình nên ông đâm ra chán ghét tất cả đàn bà, tính nết trở nên hung bạo. Để thỏa cơn thịnh nộ điên loạn, cứ mỗi ngày ông ta cưới một cô gái và sau một đêm mặn nồng lại sai lính đem giết (trong một số bản: ba đêm một lần). Nhằm thoát khỏi thảm kịch, các gia đình có con gái lần lượt bỏ xứ di cư. Thấy đất nước lâm nguy, Sheherazade xin cha cho mình được một đêm hưởng ân sủng của hoàng thượng. Viên tể tướng rất đau lòng khi thấy con mình như vậy vì ông biết sau đêm đó nàng sẽ chết. Nhưng trước sự quyết tâm của con ông đành phải đem con dâng cho vua Shahriyar. Là cô gái thông minh, tài trí lại giàu nghị lực, nên sau nàng đã tìm được cách để thoát khỏi cái chết. Nàng cùng với sự giúp đỡ của em gái nàng là Dinarzade, nàng nhờ em đánh thức mình dậy khi trời sắp sáng và yêu cầu nàng kể chuyện. Những câu chuyện được sắp xếp khéo léo để đúng khi mặt trời mọc là lúc hấp dẫn nhất, nàng kín đáo dừng lại khi chuyện chưa chấm dứt khiến vua còn nóng lòng muốn nghe đoạn tiếp, không thể ra lệnh xử tử nàng. Trong suốt một nghìn lẻ một đêm, nàng Sheherazade đã liên tục kể những chuyện về tình yêu, chiến tranh và pháp thuật, về những vị vua cũng như bọn ăn mày, về những xứ sở mà kim cương nhiều hơn đá sỏi, về những cô gái đẹp, về cả những mưu toan diễn ra trong các ngõ hẻm hay các khu chợ tại các thành phố phương Đông. Hai nàng cũng kể về những thị trấn, sa mạc, hải đảo xa xôi, nơi các vị phù thủy sử dụng pháp thuật, về các loài ngựa biết bay, chó biết nói, người hóa cá, cá lớn hơn cá voi, chim khổng lồ. Nàng kể về những cặp tình nhân trong các túp lều tồi tàn, họ có thể là người gan dạ hoặc hèn nhát, nhưng tất cả đều đa tình và biết hy sinh vì người yêu. Bối cảnh của các chuyện của nàng ở phương Đông, phần lớn xoay quanh các thành phố huyền thoại Bagdad, Cairo và Damascus. Hàng ngàn đêm trôi qua, cuối cùng nhà vua bị cảm hóa, tình yêu cuộc sống và con người trỗi dậy khiến ông ta đã quên khuấy việc giết người. Cảm phục nàng Sheherazade, vua đã bãi bỏ lệnh bắt con gái để giết một cách tàn nhẫn và đồng ý lập nàng làm hoàng hậu bằng một đám cưới linh đình, sau đó cùng nhau sống hạnh phúc đến bạc đầu và họ có với nhau ba người con trai. Ý nghĩa Cũng như truyện dân gian của các nước khác, những câu chuyện trong Nghìn lẻ một đêm phản ánh nguyện vọng và ước mơ của quần chúng nhân dân trong xã hội bị áp bức, đè nén. Họ luôn luôn mong muốn được sống trong cảnh thái bình yên vui, được gặp nhiều may mắn, hạnh phúc ấm no. Khát vọng này thể hiện qua những truyện nổi tiếng nhất của tập truyện, chẳng hạn truyện Aladdin và cây đèn thần kể về chàng trai Aladdin, con của một người thợ may. Bị một phù thủy dẫn dụ xuống hang ngầm, tại đây chàng tìm thấy một cây đèn, trong đó có nhốt vị thần đèn có thể biến mọi ước mơ thành hiện thực, nhờ đó chàng trở nên giàu có và được cưới công chúa Badroulboudour. Nhiều truyện phản ánh bản chất tốt đẹp của nhân dân lao động cần cù, chăm chỉ, kiên cường dũng cảm và thông minh tài trí, giàu lòng thương người đồng thời vạch trần bản chất tàn ác của bọn vua chúa, quan lại, phú thương, phù thủy,... thể hiện chân lý thiện thắng ác, chính thắng tà, ở hiền gặp lành, và mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Cuộc hành trình trên mặt biển của thủy thủ Sinbad là một ví dụ, với những cuộc phiêu lưu kỳ thú của chàng Sinbad lên một hòn đảo nhưng thực chất là một con cá khổng lồ, lạc đến một thung lũng đầy đá quý và chàng đã mưu trí trốn ra được, đâm mù mắt gã khổng lồ ăn thịt người và giết chết chúa tể của biển cả. Truyện Ali Baba và 40 tên cướp ca ngợi tài trí thông minh và dũng cảm của cô gái Morgiana đã cứu sống gia đình bác tiều phu Ali Baba khỏi những tên cướp. Câu chuyện Người câu cá với vị thần kể về một ngư phủ vớt chiếc lọ có nhốt một vị thần, nhờ tài trí mà gã ta đã khiến vị thần khuất phục và trung thành phục vụ cho mình. Với sự giúp đỡ của vị thần, gã đã cứu hoàng tử khỏi pháp thuật và được tưởng thưởng xứng đáng. Với hàng trăm câu chuyện hoàn chỉnh, bao gồm truyện lịch sử, truyện tình, bi kịch, hài kịch, thơ, truyện hài và truyền thuyết Hồi giáo cấu thành tác phẩm, Nghìn lẻ một đêm có một giá trị hết sức to lớn trong việc phản ánh một thế giới muôn mặt trong đời sống hiện thực xã hội Arap thời Trung cổ, thông qua một óc tưởng tượng cực kỳ phong phú, chủ đề vô cùng khác lạ, nhân vật đủ mọi loại vẻ, với những khung cảnh vừa rộng lớn vừa luôn luôn thay đổi. Về nghệ thuật, Nghìn lẻ một đêm hết sức hoàn chỉnh về kết cấu, bất ngờ trong việc dẫn dắt mạch truyện, phức tạp nhưng rất chặt chẽ trong các tình tiết và cũng rất điêu luyện trong việc sử dụng ngôn ngữ, mặc dù có một số truyện qua tay nhiều người, được nhiều thế hệ ghi chép nên đã ít nhiều bị pha tạp hoặc bị hiện đại hóa. Nhận xét, đánh giá Đề tựa bản dịch tiếng Nga xuất bản năm 1929 Lêningrát, Macxim Gorki viết: Nghìn lẻ một đêm không chỉ là một tập truyện cổ tích, đó là cả một thế giới. Thế giới người A Rập trong cuộc đời thực tại cũng như trong cảnh thần tiên ma quái, thế giới của đạo Hồi từ khi có sử thành văn và đạo Hồi qua các truyền thuyết dân gian. Người A Rập vẫn cho pho sách này là một tấm gương vĩ đại ai nấy có thể nhìn vào đấy mà suy ngẫm, mà soi xét bản thân mình. Lời nói đầu trong nguyên bản viết: Các truyện trong Nghìn lẻ một đêm rất phong phú và đa dạng. Lúc chuyện xảy ra trong thế giới thần tiên, lúc ở nơi đầu đường xó chợ. Về tôn giáo, có những người theo đạo Hồi, có những người theo đạo Thiên Chúa, đạo Do Thái, lại có những người thờ thần lửa...Về không gian, các chuyện xảy ra những nơi ngày nay được ghi trên bản đồ là Ấn Độ, Sri Lanka, Liên Xô, Trung Quốc, Jordan và Iran và trước hết là Tây Á, Bắc Phi, Ai Cập, Iraq, Syria...Tóm lại, khung cảnh rất rộng lớn, chủ đề thật đa dạng, tình tiết hết sức bất ngờ, ngôn ngữ vô cùng phong phú, nhân vật rất thực và cũng rất hư. Quả khó có cách nào diễn tả cho gãy gọn nếu ta không trở lại mượn hình tượng Gorki đã dùng:"những sợi tơ muôn màu lan khắp bốn phương, một tấm thảm từ ngữ đẹp lạ lùng phủ trên mặt đất." Một số điểm đặc biệt Những câu truyện nổi tiếng nhất của Sheherazade là Aladdin và cây đèn thần, thủy thủ Sinbad, Ali Baba và bốn mươi tên cướp, tuy vậy, thực tế thì Aladdin và cây đèn thần cùng với Ali Baba và bốn mươi tên cướp chỉ được đưa vào lúc thế kỷ 18 bởi Antoine Galland, một nhà đông phương học người Pháp, người cho rằng mình đã từng nghe kể về chúng ở Aleppo, Syria. Nhiều câu truyện kể về jinn, phù thủy và những nơi huyền thoại, thường được đặt lẫn với người và vùng địa lý thật. Một đặc điểm nổi bật và xuyên suốt của Nghìn lẻ một đêm là cách dừng câu chuyện lại giữa chừng, báo trước sẽ hạ hồi phân giải, câu chuyện này được lồng vào câu chuyện khác, cũng có khi là tác giả tập trung nhiều nhân vật có tính chất khác nhau lại với nhau, rồi tạo nên tình huống buộc mỗi người phải kể một chuyện về chính mình. Và cách này, truyện muốn kết thúc đâu cũng được, hoặc muốn kéo dài bao nhiêu cũng là hợp lý. Đặc điểm ấy xuất phát từ một sự cần thiết sống còn: nàng Sheherazade phải ngừng câu chuyện của mình vào lúc trời sáng, đoạn hay nhất, hoặc hứa hẹn một câu chuyện khác sẽ còn hấp dẫn hơn nữa; nếu không tên bạo chúa Shahriyar sẽ thi hành quyết định của hắn và người kể chuyện sẽ không thể sống tới ngày hôm sau. Đó cũng là nghệ thuật độc đáo của người kể chuyện rong nhằm thu hút sự chú ý của thính giả, sao cho những người nghe không chán, không mệt, không bỏ ra về giữa chừng, và tối hôm sau sẽ còn nghe đông hơn hôm trước. Những lúc nàng Sheherazade ngừng lại và nói: "Tiếc thay trời đã sáng rồi mà phần còn lại là đoạn hay nhất trong câu truyện..." hoặc "những truyện vừa rồi hay thật đấy nhưng không thể nào so sánh được chuyện bệ hạ sắp nghe đây..." chính là lúc người kể chuyện thưa với thính giả đang chăm chú: "Đêm đã khuya lắm rồi xin cho phép dừng lại đây, đêm mai tôi xin kể nốt hầu quý vị...". Lối ngắt chuyện này có những bản ghi thành văn ghi tóm tắt: "Muốn biết sự thể thế nào, xin xem hồi sau sẽ rõ" (như trong các tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc). Những câu chuyện chính Sheherazade đã kể cho nhà vua Shahryar nhiều câu chuyện nhỏ đan xen, móc xích vào nhau. Bản dịch của Phan Quang gồm các truyện sau: Nhà buôn và thần linh. Chuyện cụ già thứ nhất và con hươu cái. Chuyện cụ già thứ hai và hai con chó đen. Chuyện người đánh cá. Chuyện vua Hy Lạp và thầy thuốc Duban/Douban. Chuyện người chồng và con vẹt. Chuyện quan đại thần bị trừng phạt. Chuyện nhà vua của các nước Đảo Đen. Chuyện ba khất sĩ con vua và năm thiếu phụ ở Baghdad. Chuyện khất sĩ thứ nhất - con vua. Chuyện khất sĩ thứ hai - con vua. Chuyện khất sĩ thứ ba - con vua. Chuyện kẻ ghen ghét và người bị ghen ghét. Chuyện nàng Zobeide. Chuyện nàng Amine. Chuyện nhà đi biển Sinbad. Chuyến đi biển đầu tiên của Sinbad. Chuyến đi biển thứ hai của Sinbad. Chuyến đi biển thứ ba của Sinbad. Chuyến đi biển thứ tư của Sinbad. Chuyến đi biển thứ năm của Sinbad. Chuyến đi biển thứ sáu của Sinbad. Chuyến đi biển thứ bảy và cũng là chuyến đi biển cuối cùng của Sinbad. Chuyện ba quả táo. Chuyện người đàn bà bị thảm sát và ông chồng trẻ. Chuyện Noureddin Ali và cậu con trai Bedreddin Hassan. Chuyện chú gù. Chuyện người buôn Thiên Chúa giáo kể. Chuyện người tiếp phẩm của vua xứ Kashgar kể. Chuyện viên thầy lang Do Thái kể. Chuyện gã thợ may kể. Chuyện người thợ cạo. Chuyện người anh cả của lão thợ cạo. Chuyện người anh hai của lão thợ cạo. Chuyện người anh ba của lão thợ cạo. Chuyện người anh tư của lão thợ cạo. Chuyện người anh năm của lão thợ cạo. Chuyện người anh sáu của lão thợ cạo. Chuyện Abu Hassan Ali Ep Beca và ái phi của Khalid. Thiên tình sử của Camaralzaman - hoàng tử đảo Những đứa con của Khaledan, với Baddure - công chúa Trung Quốc Noureddin và người đẹp Ba Tư. Chuyện Bêđe - hoàng tử Ba Tư và Giauha - công chúa con vua thủy tề. Chuyện chàng Ghanim - con trai Abu Aibu, kẻ nô lệ của tình yêu. Chuyện hoàng tử Zein Alsamn và chúa tể các thần linh. Chuyện Codadad và bốn mươi chín hoàng tử. Chuyện nàng công chúa Daryabar. Chuyện người ngủ mê thức dậy. Aladdin và cây đèn thần. Chuyện những chuyến vi hành của Haroun Al Rashid. Chuyện lão mù Baba Abdalls Chuyện Sidi Nu'uman. Chuyện thương gia Hassan - thợ bện thừng. Ali Baba và bốn mươi tên cướp. Chuyện Ali Cogia - nhà buôn thành Baghdad. Chuyện con ngựa thần kỳ. Chuyện hoàng tử Ahmed và nàng tiên Pari-Banou. Chuyện hai người chị ganh tị với cô em út. Nhân vật Ảnh hưởng lên văn hóa thế giới Nghìn lẻ một đêm có tầm ảnh hưởng to lớn lên nền văn học thế giới. Bao nhà văn đã ám chỉ đến Nghìn lẻ một đêm trong tác phẩm của họ hoặc chịu ảnh hưởng từ tác phẩm này. Trong số đó có Henry Fielding, Naguib Mahfouz, John Barth, Jorge Luis Borges, Salman Rushdie, Johann Wolfgang von Goethe, Walter Scott, William Makepeace Thackeray, Wilkie Collins, Elizabeth Gaskell, Charles Nodier, Gustave Flaubert, Marcel Schwob, Stendhal, Alexandre Dumas, Gérard de Nerval, Arthur de Gobineau, Aleksandr Sergeyevich Pushkin, Lev Nikolayevich Tolstoy, Hugo von Hofmannsthal, Arthur Conan Doyle, William Butler Yeats, H. G. Wells, Constantine P. Cavafy, Italo Calvino, Georges Perec, H. P. Lovecraft, Marcel Proust, A. S. Byatt và Angela Carter. Nhiều nhân vật trong tập truyện đã trở thành biểu tượng trong văn hóa phương Tây, chẳng hạn Aladdin, Sinbad và Ali Baba. Một số yếu tố trong thần thoại Ả Rập và thần thoại Ba Tư đã trở nên phổ biến trong những truyện kỳ ảo hiện đại, chẳng hạn thần đèn, thảm thần, đèn thần,... Một ví dụ về sự phổ biến của các yếu tố này là khi tác giả L. Frank Baum đề xuất viết một câu chuyện kỳ ảo hiện đại trong đó từ bỏ mọi yếu tố rập khuôn thì những thứ khuôn mẫu mà theo ông cần bỏ là thần đèn, chú lùn và nàng tiên. Năm 1982, Liên minh Thiên văn học Quốc tế (IAU) bắt đầu dùng tên các nhân vật và nơi chốn trong tập truyện (theo bản dịch của Burton) để đặt tên cho nhiều đối tượng địa lý trên vệ tinh Enceladus của Sao Thổ. do "bề mặt vệ tinh này quá kỳ lạ và bí ẩn như những đêm Ả Rập". Trong văn hóa Ả Rập Có ít bằng chứng cho thấy trong quá khứ Nghìn lẻ một đêm đã được thế giới Ả Rập trân quý. Nó ít được nhắc đến trong danh sách các tác phẩm văn học phổ biến và có rất ít bản thảo trước thế kỷ 18 còn sót lại. Trong thế giới Ả Rập thời Trung cổ, truyện giả tưởng có địa vị văn hóa thấp hơn so với thơ. Người ta xem tập truyện này là thứ khurafa (truyện không chắc có thực chỉ dành cho phụ nữ và trẻ em giải trí). Theo Robert Irwin, "Ngay cả thời nay, trừ một số nhà văn và viện sĩ, Nghìn lẻ một đêm vẫn còn bị khinh bỉ trong thế giới Ả Rập. Những mẩu truyện này bị xem là thông tục, không chắc có thực, ấu trĩ và được viết rất tệ hại". Tuy nhiên, Nghìn lẻ một đêm vẫn là nguồn cảm hứng cho một số nhà văn hiện đại người Ai Cập, chẳng hạn Tawfiq al-Hakim (tác giả của vở kịch tượng trưng nhan đề Shahrazad, 1934), Taha Hussein (tác giả của Scheherazade's Dreams, 1943) và Naguib Mahfouz (tác giả của Những ngày và đêm Ả Rập, 1981). Các ảnh hưởng ban đầu lên văn học châu Âu Mặc dù bản dịch Nghìn lẻ một đêm ra ngôn ngữ nào đó ở châu Âu chỉ mới xuất hiện từ 1704 nhưng có khả năng tập truyện đã ảnh hưởng lên văn hóa phương Tây từ sớm hơn thế rất nhiều. Các nhà văn Kitô giáo ở Tây Ban Nha thời Trung cổ đã dịch thuật nhiều tác phẩm từ tiếng Ả Rập, chủ yếu có nội dung về triết học và toán học, nhưng vẫn có truyện giả tưởng Ả Rập. Bằng chứng cho điều này là tập truyện El Conde Lucanor của Juan Manuel và Cuốn sách của quái thú của Ramón Llull. Chủ đề và mô típ kể chuyện song song của Nghìn lẻ một đêm có trong tác phẩm Truyện cổ Canterbury của Chaucer và Mười ngày của Boccaccio. Có bằng chứng cho thấy tập truyện đã lan truyền đến vùng Balkkans; bản dịch bằng tiếng România cũng có từ trước thế kỷ 17 dựa trên bản tiếng Hy Lạp. Văn học phương Tây từ thế kỷ 18 Tập truyện Nghìn lẻ một đêm hiện đại bắt nguồn từ bản dịch của Antoine Galland (năm 1704). Thành công tức thì đến với bản dịch của Galland có lẽ là vì nó ra mắt đúng lúc diễn ra phong trào đọc contes de fées (tạm dịch: "truyện cổ tích") - khởi đầu từ Histoire d'Hypolite của Madame d'Aulnoy vào năm 1690. Cuốn sách của d'Aulnoy có kết cấu rất giống với tác phẩm Nghìn lẻ một đêm và cũng được dẫn dắt bởi một người nữ. Thành công của Nghìn lẻ một đêm lan tỏa khắp Âu châu. Cuối thế kỷ 18, nó đã được dịch từ tiếng Pháp sang tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Ý, tiếng Hà Lan, tiếng Đan Mạch, tiếng Nga, tiếng Flemish và tiếng Yiddish. Bản truyện của Galland cũng kích thích một dòng thác truyện nhái, khi một số nhà văn Pháp bắt đầu nhái phong cách và bịa đặt một cách gượng gạo, hời hợt trên nền bối cảnh phương Đông. Một số ví dụ về truyện loại này là Les quatre Facardins (1730) của Anthony Hamilton, Le sopha (1742) của Crébillon và Les bijoux indiscrets (1748) của Diderot. Các tác phẩm này thường chứa đựng những sự ám chỉ đầy úp mở về xã hội Pháp đương thời.Nghìn lẻ một đêm cũng là tác phẩm yêu thích của nhiều tác giả Anh thời Lãng mạn và Victoria. Theo A. S. Byatt, "Trong nền thi ca Lãng mạn Anh, Nghìn lẻ một đêm là điều tuyệt vời đối nghịch với thứ trần tục, là thứ giàu tính tưởng tượng đối nghịch với sự buồn tẻ và ngày một phi lý." Wordsworth và Tennyson còn nhắc về tập truyện trong những bài thơ của họ. Không khí của Nghìn lẻ một đêm được Charles Dickens mang vào đoạn mở đầu tiểu thuyết cuối cùng The Mystery of Edwin Drood (1870). Một số nhà văn còn cố gắng viết "Nghìn lẻ hai đêm", chẳng hạn Théophile Gautier (La mille deuxième nuit, 1842), Joseph Roth (Die Geschichte von der 1002. Nacht, 1939). và Edgar Allan Poe. Poe có tác phẩm "The Thousand and Second Tale of Scheherazade" (1845), trong đó mô tả thêm chuyến đi thứ tám cũng là cuối cùng của Sinbad. Truyện này kết thúc bằng việc nhà vua xử tử Scheherazade. Một số tác giả hiện đại chịu ảnh hưởng của Nghìn lẻ một đêm là James Joyce, Marcel Proust, Jorge Luis Borges và John Barth. Điện ảnh Những câu chuyện từ Nghìn lẻ một đêm từ lâu đã trở thành đề tài quen thuộc của các bộ phim, khởi đầu từ Le Palais des Mille et une nuits (1905) của Georges Méliès. Phim được biết đến nhiều nhất là phim hoạt hình Aladdin (1992) của Công ty Walt Disney. Robert Irwin cho rằng The Thief of Bagdad (bản 1924), The Thief of Bagdad (bản 1940) và Arabian Nights (1974) nằm trong số "những tuyệt tác của điện ảnh thế giới". Michael James Lundell gọi phim Il fiore là bản chuyển thể trung thành nhất với nguyên tác của Nghìn lẻ một đêm (nhấn mạnh mặt gợi dục trong truyện). Âm nhạc Nghìn lẻ một đêm đã ảnh hưởng đến các tác phẩm âm nhạc của: François-Adrien Boieldieu: Le calife de Bagdad (1800) Carl Maria von Weber: Abu Hassan (1811) Luigi Cherubini: Ali Baba (1833) Peter Cornelius: Der Barbier von Bagdad (1858) Ernest Reyer: La statue (1861) C. F. E. Horneman (1840–1906), Aladdin (overture), 1864 Nikolai Rimsky-Korsakov: Scheherazade Op. 35 (1888) Dikran Tchouhadjian (1837-1898), Zemire (1891) Henri Rabaud: Mârouf, savetier du Caire (1914) Carl Nielsen, Aladdin Suite (1918–1919) Renaissance: Scheherazade and Other Stories (1975) Fikret Amirov: Arabian Nights (Ballet, 1979) Ezequiel Viñao, La Noche de las Noches (1990) Carl Davis, Aladdin Kamelot, Nights of Arabia (1999) Sarah Brightman, Harem and Arabian Nights (2003) Ch!pz, "1001 Arabian Nights" (2004) Nightwish, Sahara (2007) Abney Park (band), Scheherazade (2013) Chú thích Sách Đọc thêm David Pinault Story-Telling Techniques in the Arabian Nights (Brill Publishers, 1992) Ulrich Marzolph, Richard van Leeuwen, Hassan Wassouf,The Arabian Nights Encyclopedia (2004) Ulrich Marzolph (ed.) The Arabian Nights Reader (Wayne State University Press, 2006) Eva Sallis Scheherazade Through the Looking-Glass: The Metamorphosis of the Thousand and One Nights (Routledge, 1999), Yamanaka, Yuriko and Nishio, Tetsuo (ed.) The Arabian Nights and Orientalism – Perspectives from East and West (I.B.Tauris, 2006) ISBN 1-85043-768-8 Ch. Pellat, "Alf Layla Wa Layla" in Encyclopaedia Iranica. Online Access June 2011 at In Arabian Nights: A search of Morocco through its stories and storytellers by Tahir Shah, Doubleday, 2008. Nurse, Paul McMichael. Eastern Dreams: How the Arabian Nights Came to the World'' Viking Canada: 2010. General popular history of the 1001 Nights from its earliest days to the present. Bài cơ bản dài Văn hóa Ả Rập Văn học Ả Rập Văn học Ba Tư
Trần Thủ Độ (chữ Hán: 陳守度, 1194 – 1264), cũng gọi Trung Vũ đại vương (忠武大王), là một nhà chính trị Đại Việt, sống vào thời cuối triều Lý đầu triều Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông đóng vai trò quan trọng trong các sự kiện lật đổ nhà Lý, lập nên nhà Trần, thu phục các thế lực người Man làm phản loạn và trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Cổ lần thứ nhất Năm 1209, trong nước có loạn Quách Bốc, Lý Cao Tông phải chạy ra khỏi kinh sư, Lý Huệ Tông Lý Hạo Sảm – khi ấy đang là Thái tử phải chạy đến nương nhờ Trần Lý. Họ Trần dẫn quân về triều dẹp loạn, rước vua về kinh sư, nhân đó mà khuynh loát triều đình. Với chức vụ Điện tiền chỉ huy sứ, Trần Thủ Độ đã sắp xếp cho người cháu họ của mình lấy Lý Chiêu Hoàng, sau đó Nữ hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Thái Tông (Trần Cảnh), lập ra triều Trần. Trần Thủ Độ một tay cáng đáng trọng sự, giúp Trần Thái Tông bình phục được giặc giã trong nước và chỉnh đốn lại mọi việc, làm cho nước Đại Việt bấy giờ được cường thịnh, có thể chống cự với Mông Cổ. Ông được nhiều nhà sử học qua các thời đại thừa nhận và đánh giá cao về tài năng, khả năng chính trị quyết đoán hiệu quả, nhưng cũng vì thế có rất nhiều sự phê bình tiêu cực về nhân phẩm của ông. Nhiều ý kiến cho rằng ông đã vi phạm các chuẩn mực đạo đức do ông đã bức tử Lý Huệ Tông cũng như cưới Huệ hậu (chị họ của ông) làm phu nhân; ép Trần Thái Tông lấy vợ của anh trai khi đang mang thai 3 tháng và nghi vấn tàn sát tôn tộc nhà Lý Nguồn gốc Nguồn gốc của Trần Thủ Độ không được các sách chính sử như Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, An Nam chí lược, Lịch triều hiến chương loại chí chép rõ. Sử chỉ chép rằng, Trần Lý ở Tức Mặc (Nam Định) sinh ra Trần Tự Khánh, Trần Thừa và con gái Trần Thị Dung. Trần Thủ Độ là em họ của ba người con của Trần Lý. Trần Thừa sinh ra Trần Thái Tông Trần Cảnh, Trần Thủ Độ là chú họ của Thái Tông. Theo bài viết chưa rõ Về Hoằng Nghị đại vương, ông có tên là Trần An Bang (陳安邦), còn Thủ Độ là biểu tự, quê tại hương Lưu Xá, phủ Long Hưng, lộ Sơn Nam Hạ (nay là thôn Lưu Xá, xã Canh Tân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Cùng với hai người anh Trần An Quốc và Trần An Hạ, ông là con trai út của Trần Quả, em trai của Trần Lý, sau được truy tôn Hoằng Nghị vương(弘毅王). Tuy nhiên, Các nhà sử học đã có hội thảo năm 2019 và khẳng định cái tên Trần Hoằng Nghị không phải nhân vật lịch sử có thật. Sự nghiệp Triều Lý Cao Tông và Lý Huệ Tông Năm 1175, Lý Anh Tông băng hà. Thái tử Lý Long Cán mới 3 tuổi lên ngôi, tức Lý Cao Tông. Theo lời nhận định của sách Đại Việt sử ký toàn thư, Cao Tông lớn lên chơi bời vô độ, chính sự hành pháp không rõ ràng, giặc cướp nổi như ong, đói kém liền năm, sự nghiệp nhà Lý suy từ đây. Năm 1209, viên tướng Phạm Bỉnh Di đem quân đi đánh dẹp quân làm phản Phạm Du ở Nghệ An. Phạm Du thua chạy, Bỉnh Di sai tịch thu tài sản đốt hết. Vua Cao Tông lại gọi Phạm Du vào kinh sư, Bỉnh Di đem quân trở về, vua bắt giam lại sai giết chết. Tướng của Bỉnh Di là Quách Bốc nghe tin, đem binh đánh vào kinh sư, khiến Lý Cao Tông phải chạy ra ngoài, đó gọi là loạn Quách Bốc. Thái tử Sảm chạy đến thôn Lưu Gia ở Hải Ấp nghe tiếng con gái của Trần Lý là Trần Nhị Nương có nhan sắc bèn cưới làm vợ. Gia đình họ Trần vốn làm nghề đánh cá, trở nên giàu có, người chung quanh theo về. Thái tử Sảm phong cho Trần Lý tước Minh tự, phong cho cậu của vợ (tức Trần thị) là Tô Trung Từ làm Điện tiền chỉ huy sứ. Gia tộc họ Trần đem hương binh về kinh sư, dẹp quân của Quách Bốc, rước Cao Tông về Kinh sư. Năm 1210, Trần Lý bị một đám quân giặc không rõ giết chết, người con Trần Tự Khánh thay cha mang quân vào kinh, được phong làm Thuận Lưu bá, cùng năm này Lý Cao Tông băng hà, truyền ngôi cho Thái tử Lý Sảm, tức Lý Huệ Tông. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Huệ Tông lên ngôi lúc giặc giã nổi lên tứ tung, mình bị bệnh nặng, lại không có con trai, họ Lý bèn mất. Thời bấy giờ, Hoàng đế dùng Thái úy Đàm Dĩ Mông vốn không được học hành, không có mưu thuật, lại nhu nhược khiến nước suy yếu, triều đình không có chính sách hay, nhân dân đói kém. Năm 1213, Trần Tự Khánh đem quân xâm phạm cửa khuyết, xin đón xa giá. Nhà vua hoảng sợ, không tin, xuống chiếu lấy quân các đạo đánh Trần Tự Khánh. Trần Tự Khánh đánh bại tất cả, lại xin xa giá, vua lánh ra ngoài. Do vậy, Thái hậu ngờ Trần thị có ý phản, sai đem thuốc độc, tìm cách giết đi, Huệ Tông che chở cho. Đến năm 1216, Huệ Tông cùng Trần thị lẻn ra ngoài, chạy đến nơi quân Tự Khánh đóng quân. Sau đó, Trần thị được sách phong làm Hoàng hậu, còn gia phong cho anh của Hoàng hậu là Trần Tự Khánh làm Thái úy phụ chính, anh Tự Khánh là Trần Thừa làm Nội thị phán thủ. Năm 1223, Trần Tự Khánh chết, anh trai là Trần Thừa được phong làm Phụ quốc thái úy, vào chầu không xưng tên. Bây giờ, Lý Huệ Tông mắc bệnh điên loạn, không có con trai chỉ có 2 công chúa. Họ đều được chia các lộ làm ấp thang mộc, ủy nhiệm chỉ một mình Chỉ huy sứ Trần Thủ Độ quản lĩnh các quân điện tiền hộ vệ cấm đình. Triều Lý Chiêu Hoàng Lý Huệ Tông và Thuận Trinh Hoàng hậu có hai con gái, người em tên là Lý Thiên Hinh, được phong là Chiêu Thánh công chúa, tháng 10 năm 1224 được lập làm Hoàng thái tử. Lý Huệ Tông xuất gia ở chùa Chân Giáo trong đại nội, Chiêu Thánh lên ngôi, tức Lý Chiêu Hoàng, mới 7 tuổi. Lúc ấy, Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ coi giữ mọi việc quân sự trong ngoài thành thị. Cháu gọi Thủ Độ bằng bác là Trần Bất Cập làm Cận thị thự lục cục chi hậu, Trần Thiêm làm Chi ứng cục, Trần Cảnh làm Chính thủ. Trần Cảnh là con của Trần Thừa, lúc ấy mới lên 8 tuổi, chực hầu ở bên ngoài. Một hôm phải giữ việc bưng nước rửa, nhân thế vào hầu bên trong. Chiêu Hoàng trông thấy làm ưa, mỗi khi chơi đêm cho gọi Cảnh đến cùng chơi, thấy Cảnh ở chỗ tối thì thân đến trêu chọc, hoặc nắm lấy tóc, hoặc đứng lên bóng. Có một hôm, Cảnh bưng chậu nước hầu, Chiêu Hoàng rửa mặt lấy tay vốc nước té ướt cả mặt Cảnh rồi cười trêu, đến khi Cảnh bưng khăn trầu thì lấy khăn ném cho Cảnh. Cảnh không dám nói gì, về nói ngầm với Thủ Độ. Thủ Độ nói: "Nếu thực như thế thì họ ta thành hoàng tộc hay bị diệt tộc đây?". Lại một hôm, Chiêu Hoàng lại lấy khăn trầu ném cho Cảnh, Cảnh lạy rồi nói: "Bệ hạ có tha tội cho thần không? Thần xin vâng mệnh". Chiêu Hoàng cười và nói: "Tha tội cho ngươi. Nay ngươi đã biết nói khôn đó". Cảnh lại về nói với Thủ Độ. Thủ Độ sợ việc tiết lộ thì bị giết cả, bấy giờ mới tự đem gia thuộc thân thích vào trong cung cấm. Thủ Độ đóng cửa thành và các cửa cung, sai người coi giữ, các quan vào chầu không được vào. Thủ Độ loan báo rằng: "Bệ hạ đã có chồng rồi". Các quan đều vâng lời, xin chọn ngày vào chầu. Đến tháng 12, năm 1225, Lý Chiêu Hoàng cởi áo nhường ngôi cho Trần Cảnh, tức Trần Thái Tông. Phong Trần Thủ Độ làm Quốc thượng phụ, nắm giữ mọi việc cai trị trong nước. Thủ Độ mới dâng sớ đề nghị cho cha của Trần Cảnh là Trần Thừa làm Thái thượng hoàng, nhiếp chính giúp vua nhỏ, bá quan đồng ý. Triều Trần Thái Tông Trừ bỏ Lý Huệ Tông và tôn thất họ Lý Sau khi Trần Thái Tông lên ngôi, họ Trần phế Thượng hoàng nhà Lý ra ở chùa Chân Giáo, gọi là Huệ Quang đại sư. Trước đây, thượng hoàng ra chơi ở chợ Đông, dân chúng tranh nhau tới xem, có người than khóc. Thủ Độ sợ lòng người nhớ vua cũ, sinh biến loạn, nên mới dời vua tới chùa Chân Giáo, nói để phụng nhưng thực ra để dễ bề giữ chặt. Có lần Thượng hoàng nhổ cỏ ở sân chùa, Thủ Độ đến chơi liền nói:"Nhổ cỏ thì phải nhổ cả rễ sâu". Thượng hoàng nói:"Điều ngươi nói ta hiểu rồi". Đến tháng 8, Thủ Độ sai người đưa hương hoa đến cho thượng hoàng Huệ Tông, nói:"Thượng phụ sai thần đến mời". Thượng hoàng nhà Lý nói: "Ta tụng kinh xong sẽ tự tử". Nói rồi vào buồng ngủ khấn rằng: "Thiên hạ nhà ta đã vào tay ngươi, ngươi lại còn giết ta, ngày này ta chết, đến khi các con cháu ngươi cũng sẽ bị như thế". Bèn thắt cổ tự tử ở vườn sau chùa. Thủ Độ ra lệnh cho các quan đến khóc, khoét tường thành phía nam cửa, đưa linh cữu ra phường Yên Hoa để thiêu, chứa xương vào tháp chùa Bảo Quang, tôn miếu hiệu là Huệ Tông. Giáng hoàng hậu của Huệ Tông tức Trần Thị Dung, làm Thiên Cực công chúa, gả cho Trần Thủ Độ, cho châu Lạng làm ấp thang mộc. Năm 1232, nhân lúc tông thất nhà Lý về quê ngoại ở làng Hoa Lâm (nay là xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội) làm lễ cúng tổ tiên, Thủ Độ đào ngầm hố sâu, làm nhà lên trên, đợi khi mọi người uống rượu say, giật máy chôn sống hết. Việc này chép theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, chép xong đoạn này sách có lời chua rằng: "Xét thời Trần Anh Tông còn có người họ Lý làm tướng, hơn nữa Phan Phu Tiên không ghi lại, việc này chưa chắc đã có thực, hãy tạm chép vào đây"., bắt những người sống sót đổi sang họ Nguyễn và một số họ khác để trừ tuyệt hậu họa. Mưu diệt trừ các thế lực cát cứ Lúc nhà Trần mới thay nhà Lý, nhân thế triều Lý suy yếu, giặc cướp tụ tập nhiều. Người Man ở vùng núi Tản Viên, vùng Quảng Oai xâm phạm lẫn nhau. Nguyễn Nộn chiếm cứ Bắc Giang, Đoàn Thượng chiếm cứ Hồng Châu, Thủ Độ điều động các quân đi đánh dẹp hết Bấy giờ Nộn và Thượng binh thế còn mạnh, chưa dễ hàng phục được, mới phong cho Nộn làm Hoài Đạo Vương, chia cho các huyện Bắc Giang Thượng, Bắc Giang Hạ, Đông Ngạn cũng hẹn phong làm vương cho Thượng định ngày đến thề, nhưng Thượng không đến. Lại đưa các cung nhân và con gái họ hàng nhà Lý Huệ Tông gả cho các tù trưởng người Man. Đến tháng 12 năm 1228, Nguyễn Nộn đánh được Đoàn Thượng, gộp cả quân của Thượng lại, thanh thế lừng lẫy. Thủ Độ lo lắm, chia quân chống giữ và sai sứ đem thư đến chúc mừng, gia phong Nộn làm Hoài Đạo Hiếu Vũ Vương, đưa công chúa Ngoạn Thiềm gả cho hắn để ngầm dò la tin tức. Nộn cũng chia nha tướng riêng cho công chúa ở. Vì thế công chúa không thể báo được tin gì. Đến năm sau Nguyễn Nộn ốm chết, từ đây thiên hạ thu về một mối. Phế lập Hoàng hậu Thái Tông hoàng đế và Lý Chiêu Hoàng lấy nhau đã lâu, sau khi Hoàng thái tử Trần Trịnh chết yểu vào năm 1233, Lý hoàng hậu không sinh thêm được người con nào. Lúc ấy, anh của vua là Trần Liễu, có vợ là công chúa Thuận Thiên họ Lý đang mang thai 3 tháng. Trần Thủ Độ cùng vợ (Trần Thị Dung) bàn kín với vua nên mạo nhận lấy để có chỗ dựa về sau. Năm 1237, lập công chúa Thuận Thiên, vợ của Trần Liễu làm hoàng hậu. Trần Liễu tức giận, họp quân ra sông Cái làm loạn. Vua trong lòng áy náy, ban đêm, ra khỏi kinh thành đến chỗ quốc sư(quốc sư là bạn cũ của Thái Tông) trên núi Yên Tử rồi ở lại đó. Hôm sau, Thủ Độ dẫn các quan đến mời vua trở về kinh sư. Vua nói: "Vì trẫm non trẻ, chưa cáng đáng nổi sứ mạng năng nề, phụ hoàng lại vội lìa bỏ, sớm mất chỗ trông cậy, nên không dám giữ ngôi vua mà làm nhục xã tắc". Thủ Độ cố nài xin nhiều lần vẫn chưa được vua nghe, mới bảo mọi người rằng:"Xa giá ở đâu tức là triều đình ở đó". Thế rồi Thủ Độ cắm nêu trong núi, chỗ này là điện Thiên An, chỗ kia là các Đoan Minh, sai người xây dựng. Quốc sư nghe thấy thế bèn, tâu rằng: "Bệ hạ nên gấp quay xa giá trở về, chớ để làm hại núi rừng của đệ tư". Vua bèn trở về kinh đô. Được hai tuần, Trần Liễu tự lượng thế cô, khó lòng đối lập được, ngầm đi thuyền độc mộc giả làm người đánh cá, đến chỗ vua xin hàng. Thủ Độ thấy thế, vội vàng rút gươm, huy động quân đến vây thuyền rồng và quát: "Giết chết tên giặc Liễu!". Thấy thế vua lấy thân hình ra che và phân trần: "Phụng Càn Vương (Phụng Càn là tên hiệu cũ của Liễu hồi còn nhà Lý) đến hàng đầy!" Thủ Độ tức lắm, ném gươm xuống sông nói: "Ta chỉ là con chó săn thôi, biết đâu anh em các người thuận nghịch thế nào?". Vua nói giải hòa, rồi bảo Thủ Độ rút quân về. Lấy đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang cho Liễu làm ấp thang mộc. Nhân đất được phong, mà Liễu có tên Hiệu là Yên Sinh vương, sau có con là Trần Quốc Tuấn. Binh lính theo Liễu làm loạn ở sông Cái đều bị giết. Về sau, người con của An Sinh vương mà Trần Thủ Độ sắp đặt để làm con Thái Tông, tức là Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang, cũng không được làm Hoàng thái tử dù là con trưởng. Năm 1240, Lý Kế hậu sinh được Trần Hoảng, lập làm Hoàng thái tử. Chiến tranh Nguyên Mông–Đại Việt lần 1 Ngày 12 tháng 12, năm 1257, tướng Mông Cổ Uriyangqatai (Ngột Lương Hợp Thai) dẫn quân xâm phạm Bình Lệ Nguyên. Trần Thái Tông đích thân đốc chiến, thế giặc mạnh, nhà vua lui quân về sông Lô, rồi lui về sông Thiên Mạc. Nhà vua ngự thuyền đến hỏi Thái úy Trần Nhật Hiệu kế sách chống quân Mông Cổ, Nhật Hiệu chấm nước viết chữ lên hai chữ Nhập Tống. Thái Tông lại hỏi quân Tinh Cương, quân do Nhật Hiệu chỉ huy, Nhật Hiệu nói rằng "Không gọi được chúng đến". Sau đó, Thái Tông lại dời thuyền đến hỏi Trần Thủ Độ , Thủ Độ tâu: "Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo". Ngày 24 tháng 12 năm đó, Trần Thái Tông tiến quân đến Đông Bộ Đầu, đánh bại quân Mông Cổ, khiến họ phải triệt thoái về Bắc. Đức độ của Trần Thủ Độ Sau việc ghi cái chết của Trần Thủ Độ, sách Đại Việt sử ký toàn thư đã dành riêng một đoạn dài để kể lại chuyện đức độ của Trần Thủ Độ khi làm quan, chép lại dưới đây: Thủ Độ tuy không có học vấn, nhưng tài lược hơn người, làm quan triều Lý được mọi người suy tôn. Thái Tông lấy được thiên hạ đều nhờ mưu sức của ông cả. Vì thế ông được nhà nước dựa cậy, quyền át cả vua. Bấy giờ có kẻ đàn hặc ông, vào gặp Thái Tông khóc mà nói rằng: "Bệ hạ còn thơ ấu mà Thủ Độ quyền át cả vua, xã tắc rồi sẽ ra sao?". Thái Tông lập tức lệnh xe ngựa đến dinh Thủ Độ, bắt cả người đàn hặc ấy đem theo và nói hết những lời người ấy nói cho Thủ Độ biết. Thủ Độ trả lời: "Đúng như những lời hắn nói". Rồi lấy ngay tiền lụa thưởng cho người ấy. Linh Từ quốc mẫu, vợ Trần Thủ Độ có lần ngồi kiệu đi qua thềm cấm, bị quân hiệu ngăn lại, về dinh khóc bảo Thủ Độ: "Mụ này làm vợ ông, mà bị bọn quân hiệu khinh nhờn đến thế". Thủ Độ tức giận, sai đi bắt. Người quân hiệu ấy nghĩ rằng mình chắc phải chết. Khi đến nơi, Thủ Độ vặn hỏi trước mặt, người quân hiệu ấy cứ theo sự thực trả lời. Thủ Độ nói: "Ngươi ở chức thấp mà giữ được luật pháp, ta còn trách gì nữa". Lấy vàng lụa thưởng cho rồi cho về. Thủ Độ có lần duyệt định số hộ khẩu, vợ ông là bà Linh Từ xin riêng cho một người làm chức nhỏ ở địa phương. Thủ Độ gật đầu, rồi ghi họ tên quê quán của người đó. Khi xét duyệt đến xã ấy, hỏi tên ở đâu, người đó mừng rỡ, Thủ Độ bảo: "Ngươi vì có Công chúa (tức bà Linh Từ) xin cho được làm câu đương (tên của chức vị ở địa phương), không thể ví những câu đương khác được, phải chặt một ngón chân để phân biệt với người khác". Người đó kêu van xin thôi mãi mới tha cho. Từ đó không ai dám đến thăm vì việc riêng nữa. Thái Tông có lần muốn cho người anh của Thủ Độ là An Quốc làm tể tướng. Thủ Độ tâu: "An Quốc là anh thần, nếu cho giỏi hơn thần thì thần xin trí sĩ, nếu cho thần giỏi hơn An Quốc thì không thể cử. Nếu anh em đều làm tể tướng cả thì việc triều đình sẽ ra làm sao?". Vua bèn thôi.. Qua đời Năm 1264, mùa xuân, tháng Giêng, Thái sư Trần Thủ Độ qua đời, thọ 71 tuổi. Ông được Trần Thái Tông truy tặng thụy hiệu là Thượng phụ Thái sư Trung Vũ đại vương (尚父太師忠武大王). Nhận định Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư:Trần Thủ Độ tuy làm Tể tướng, nhưng mọi việc không việc gì không để ý. Vì thế đã giúp nên vương nghiệp và giữ được tiếng tốt cho đến lúc mất. Thái Tông hoàng đế có làm bài văn bia ở sinh từ để tỏ lòng đặc biệt quý mến ông. Thế nhưng cái tội giết Lý Huệ Tông thì khó lẩn tránh với đời sau vậy. Thủ Độ tuy không có học vấn, nhưng tài lược hơn người, làm quan triều Lý được mọi người suy tôn. Thái Tông lấy được thiên hạ đều nhờ mưu sức của ông cả. Vì thế ông được nhà nước dựa cậy, quyền át cả vua.Theo Trần Trọng Kim viết trong Việt Nam sử lược: Thủ Độ là người gian ác đối với nhà Lý, nhưng lại là một đại công thần của nhà Trần. Một tay cáng đáng bao trọng sự, giúp Thái công bình phục được giặc giã trong nước và chỉnh đốn lại mọi việc, làm cho nước Nam bấy giờ được cường thịnh, ngày sau có thể chống cự với Mông cổ, khỏi phải làm nô-lệ những kẻ hùng-cường.Vua Tự Đức nhận định về Trần Thủ Độ trong Khâm định Việt sử Thông giám cương mục rằng "Thủ Độ là công thần nhà Trần, tức là tội nhân nhà Lý. Huống chi làm những nết xấu như chó lợn, dạ độc như hùm beo, dựng nước mà như thế thì làm thế nào mà lâu dài được? Nhưng chẳng qua cũng bởi nhà Lý tự rước lấy tai vạ, lại còn trách gì nữa!" Theo Trần Xuân Sính chép trong sách Thuyết Trần: Trần Thủ Độ tuy không đỗ đạt khoa cử nhưng mưu lược hơn người, không chỉ là quyền thần nhà Lý mà là quyền thần của ngay nhà Trần. Đối với tình thế Đại Việt, việc làm của ông được cho là có vai trò tích cực. Ông phò nhà Trần bình được nội loạn, làm cho Đại Việt kịp chấn hưng, và đó chính là cơ sở để đủ sức lực và tinh thần chống cự được Mông Cổ. Nhiều học giả nhất quán rằng sự thay thế của nhà Trần đối với nhà Lý trong thời điểm đó - mà sự thay thế và kiến thiết ban đầu không thể không nói tới Trần Thủ Độ - có vai trò quyết định sự tồn vong của Đại Việt trước nguy cơ ào tới của vó ngựa Mông mà Trung Hoa lớn mạnh ở phương Bắc cũng không trụ nổi. Sử chép: "Thái Tông lấy được thiên hạ đều là mưu sức của Thủ Độ cả, cho nên quốc gia phải nhờ cậy, quyền hơn cả vua.". Tưởng niệm phải|300px|thumb|Khu di tích lăng mộ Trần Thủ Độ, xã Liên Hiệp, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình Theo Lê Quý Đôn chép trong sách Kiến văn tiểu lục, Trần Thủ Độ sau khi chết, được chôn ở xã Phù Ngự, huyện Ngự Thiên (thuộc Hưng Hà, Thái Bình). Lăng có hổ đá, dơi đá, chim đá, bình phong bằng đá, chỗ đất ấy rộng 2 mẫu, cây cối um tùm. Về tự điển, được liệt vào hàng thượng đẳng, các quan phủ, huyện đến cúng tế. Hồi niên hiệu Chính Hòa (1680-1705) dân nơi ấy lấy cớ võng cáng cung đốn khổ sở, cùng làm tờ sớ chỉ xin 9 mẫu hoa lợi để cúng tiến, triều đình chuẩn y cho. Trước kia thần linh thiêng, sau quốc lễ bỏ đi, anh linh cũng giảm sút. Theo địa chỉ ngày nay, lăng Thái sư Trần Thủ Độ nằm ở thôn Ngừ (tên chữ là Phù Ngự) trước là xã Khuông Phù, sau đổi là xã Liên Hiệp, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Lăng nằm chếch về phía bắc Quốc lộ 39B, kiến trúc lăng xưa bề thế, có nhiều tượng thú tạc bằng đá nhưng phần lớn đã bị tiêu hủy. Riêng pho tượng hổ tiêu biểu của ngành điêu khắc thời Trần đã chuyển về Bảo tàng Lịch sử Việt Nam ở Hà Nội nên lăng mộ không còn gì là nguyên thủy. Năm 2008, nhà nước mới công nhận giá trị lịch sử của ngôi lăng đến năm 2012 công việc xây cất vẫn đang xúc tiến. Bên làng Nại cũng thuộc xã Liên Hiệp là đền thờ Linh từ Quốc mẫu Trần Thị Dung còn được gọi là Bà Chúa Ngừ, tức chính thất của Trần Thủ Độ. Đình Hoan Ái thờ thành hoàng làng là Thái Sư Trần Thủ Độ. Hàng năm đến ngày sinh của Trần Thủ Độ 20 tháng 1 (âm lịch), ngày mất của Trần Thủ Độ 24 tháng 1 (âm lịch) nhân dân địa phương mở hội làng: Rước kiệu, rước nước giữa dòng song Bắc Hưng Hải ở bến Hầu (cầu Hầu), tế lễ tổ chức nhộn nhịp. Mang đạm sắc thái văn hóa truyền thống trong nhân dân. Thành phố Hà Nội đặt tên đường Trần Thủ Độ cho một con đường tại khu đô thị Pháp Vân Tứ Hiệp thuộc phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai. Đường Trần Thủ Độ nối với Đường Vành đai 3 và kéo thẳng đến xã Tứ Hiệp, huyện Thanh Trì. Thành phố Hồ Chí Minh đặt tên đường Trần Thủ Độ cho một con đường ở Quận Tân Phú, phường Phú Thạnh. Thành phố Đà Nẵng đặt tên đường Trần Thủ Độ cho một con đường ở Quận Cẩm Lệ, phường Khuê Trung. Câu nói {{Cquote|Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo !"|author=Vào năm 1258, trong khi diễn ra Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 1}} Trong văn hoá đại chúng
SketchUp là một phần mềm mô hình hóa 3D, dành cho các kiến trúc sư, các kỹ sư, nhà phát triển trò chơi điện tử, các đạo diễn điện ảnh và các ngành nghề có liên quan. Phần mềm này khởi đầu được phát triển bởi công ty @Last Software, có trụ sở tại Boulder, Colorado, Mỹ. Phần mềm này nổi bật như một công cụ diễn tả ý tưởng đơn giản, nhanh gọn với giao diện đồ họa cho người sử dụng. Một vài đặc điểm nổi bật: Không cần phần cứng mạnh như các phần mềm mô hình hóa khác như 3D Max, FormZ, Maya. Hệ thống giao diện với con trỏ đồ họa thông minh cho phép người sử dụng dựng hình vẽ ba chiều trong không gian hai chiều của màn hình. Các mặt, diện (face) được định nghĩa đơn giản dựa trên một miền khép kín. Tạo khối đơn giản nhanh gọn bằng công cụ "kéo-đẩy" (push-pull tool) Công cụ chỉnh sửa khối (extrude - widen) và tạo khối theo đường sinh cho trước (follow me tool) Khả năng cho phép mô phỏng, hiệu chỉnh góc chiếu của mặt trời vào tất cả các thời điểm trong năm cũng như bao quát các góc nhìn cho hiệu quả gần như tức thời. Bản vẽ được kết xuất (render) ở tốc độ cao dựa trên tốt giản hệ mô hình đa giác thấp (low-poly), có phong cách trình bày độc đáo. Khả năng giao tiếp rộng rãi với các phần mềm mô hình khác. Có thể kết hợp với các trình kết xuất ngoài (Renderer) để cho ra những hình ảnh tốt hơn (etc. IRender, Podium, Indigo, Kerkythea...) Phiên bản đầu tiên của SketchUp được phát hành đầu năm 2001 với mục đích tạo các đối tượng ba chiều đơn giản, tuy nhiên SketchUp đã sớm tìm được vị trí trong thị trường kiến trúc và thiết kết, sau khi có một vài sửa đổi nhỏ để phù hợp với đặc điểm của các ngành chuyên môn. Chìa khóa quyết định cho thành công của phần mềm nằm ở độ nhận biết các đường cong, tuy không sâu như các phần mềm mô hình hóa ba chiều trên thị trường nhưng đã đem lại tốc độ xử lý nhanh. Tuy nhiên chính điều này cũng hạn chế khả năng mô phỏng thực tế của SketchUp. Một ứng dụng hữu hiệu của phần mềm này là thiết kế mẫu nhà. Sau khi thiết kế xong mô hình, người dùng có thể kết hợp sử dụng Google Earth để dán mẫu nhà vừa thiết kế lên hình ảnh khu vực có lô đất đó, để xem nó phù hợp với toàn cảnh ra sao. Ngoài ra, người sử dụng cũng có thể chia sẻ thiết kế của mình với những người dùng khác thông qua tính năng 3D warehouse các mô hình đã hoàn thành từ nhà cửa cho tới đồ đạc, vật dụng, xe cộ, tượng, cầu... Lịch sử SketchUp hiện tại thuộc sở hữu của Trimble Navigation, một công ty đo đạc, trắc địa, làm bản đồ và cung cấp thiết bị định hướng. SketchUp đã được phát triển độc lập từ năm 2000 tới năm 2006. Sau đó được Google mua lại từ 2006 đến 2012. Và công ty sở hữu gần đây nhất là Trimble. @Last Software SketchUp được khởi đầu và phát triển tại @Last Software ở Boulder, Colorado, đồng sáng lập năm 1999 bởi Brad Schell và Joe Esch. Google Google mua lại @Last Software vào ngày 14/3/2006 với số tiền khoảng 15-45 triệu đô la Mỹ, do bị hấp dẫn bởi sản phẩm của @Last's Software's trong khi đang phát triển trình cắm cho phần mềm Google Earth. Ngày 14 tháng 3 năm 2006, hãng Google đã thông báo mua SketchUp và bổ sung thêm phần phụ trợ (plugin) cho Google Earth. Các phần phụ trợ khác có thể tải về từ trang chủ của @Last. Ngày 27 tháng 5 năm 2006, Google phát hành phiên bản miễn phí của SketchUp được cung cấp ở website của Google. Phiên bản miễn phí không có nhiều chức năng như SketchUp Pro, nhưng nó có những công cụ để xuất mô hình theo định dạng Google Earth hay truyền lên Google 3D Warehouse, thư viện 3D khổng lồ chứa các mô hình được vẽ trong SketchUp. (Điều này đòi hỏi người dùng phải có tài khoản Google và đăng nhập trong SketchUp) Trimble Trimble Navigation mua lại SketchUp từ Google vào ngày 1/6/2012 với giá trị xấp xỉ 100 triệu đô la.
Dưới đây là danh sách các môi trường phát triển tích hợp Các môi trường phát triển tích hợp nguồn mở/miễn phí Các môi trường phát triển tích hợp đa nền miễn phí GNAT Programming Studio hỗ trợ các hệ điều hành: GNU/Linux, MS Windows, Solaris, Sparc và có thể làm việc với các ngôn ngữ lập trình: Ada, C, C++ và Python Trình soạn thảo văn bản VIM có thể chạy trên 14 hệ điều hành với 39 trình biên dịch khác nhau. Ta cũng có thể mở rộng VIM để làm việc với các ngôn ngữ và các trình biên dịch khác. Môi trường phát triển phần mềm trực quan GNAVI là một thay thế của Delphi và Visual Basic. Bản GNAVI dành cho Microsoft Windows có nhiều tính năng tương tự như Borland Delphi và Visual Basic. Phiên bản này cũng đang được phát triển cho các hệ điều hành Mac OS X, Linux và các hệ kiểu Unix. Emacs (và XEmacs) là một trong số các môi trường phát triển tích hợp phổ biến và linh hoạt nhất hiện nay, tuy nhiên, nó lại có nhiều chế độ và dòng lệnh phức tạp nên không được quan tâm nhiều. Code::Blocks, môi trường phát triển tích hợp nguồn mở dành cho hệ điều hành Windows và Linux. Code::Blocks hỗ trợ GCC (MinGW / Linux GCC), VC++ Toolkit, Digital Mars Compiler, Borland C++ 5.5 và Open Watcom. Lazarus cũng là một thay thế của Borland Delphi phát triển từ Free Pascal, để tạo ra các ứng dụng với giao diện giống như trên chính hệ điều hành đang chạy. Các môi trường phát triển tích hợp miễn phí dành cho Windows Dev-C++, một môi trường phát triển tích hợp miễn phí, nguồn mở dành cho hệ điều hành Windows, sử dụng MinGW. SharpDevelop, cũng là một môi trường phát triển nguồn mở làm việc được với C#/VB.NET và các ngôn ngữ .NET khác. Maguma Open Studio FBSL (Freestyle Basic Language) là một môi trường phát triển tích hợp có giao diện ký tự, dùng để để lập trình FBSL cho Windows Các môi trường phát triển tích hợp miễn phí dành cho Linux/Unix KDevelop là một môi trường phát triển tích hợp nổi tiếng, phát triển từ dự án KDE, dựa trên các công cụ phát triển của GNU (gcc, make, và GDB). KDevelop có giao diện đồ họa. Anjuta hữu dụng để phát triển ứng dụng trên nền giao diện GNOME. Gambas là một môi trường phát triển có bản quyền tuân theo GPL. Gambas cho phép lập trình bằng BASIC và có các mở rộng dành cho các đối tượng. Nó tương tự như Visual Basic 6.0 trên nền Windows, nhưng được thiết kế để chạy trên Linux. Gambas sử dụng trình thông dịch của BASIC. OpenLDev là một môi trường phát triển có giao diện đồ họa, tích hợp sẵn nhiều công cụ như gcc, autotools và make. Trong khi các môi trường phát triển tích hợp thường cồng kềnh và khó sử dụng, thì OpenLDev lại cung cấp một giao diện rất dễ sử dũng, thích hợp cho cả người mới học lẫn các lập trình viên chuyên nghiệp. kinterdev Quanta Plus, còn gọi là Quanta, dùng để thiết kế Web MonoDevelop là môi trường phát triển.Net cho các hệ thống Unix, hỗ trợ C# với Mono framework. eric là một môi trường phát triển tích hợp dựa trên Qt. Tuy hỗ trợ được cho Java, C, HTML và nhiều ngôn ngữ khác, nhưng eric chủ yếu dành cho Python. Motor là một môi trường phát triển tích hợp có giao diện ký tự, dùng để lập trình C/C++ trên Linux. Các môi trường phát triển tích hợp miễn phí dựa trên Java Eclipse được thiết kế cho Java, nhưng cũng có thể dễ dàng được mở rộng để hỗ trợ thiết kế Web và các ngôn ngữ lập trình khác thông qua các plugins, như DevRocket. JGrasp, ngoài Java, JGrasp còn hỗ trợ Ada, VHDL, C, C++, và Objective C. Oracle JDeveloper hỗ trợ phát triển Java, XML, các dịch vụ web, PL/SQL, PHP,... jEdit là một trình soạn thảo mã được phát triển bở Slava Pestov. jEdit rất linh hoạt và cho phép cấu hình thông qua các plug-in để lập trình bằng các ngôn ngữ khác NetBeans được viết hoàn toàn bằng Java và có thể chạy được trên nhiều hệ điều hành khác nhau.
VTV1 là Kênh Thời sự - Chính luận - Tổng hợp và cũng là kênh truyền hình đầu tiên của Đài Truyền hình Việt Nam. Kênh tập trung vào các chương trình thời sự, chính luận do Ban Thời sự của đài thực hiện với hàng loạt các tin tức, chuyên mục cập nhật nhằm truyền tải thông tin đến người xem, đồng thời khẳng định vai trò chủ đạo trong công tác tuyên truyền, định hướng dư luận. Bên cạnh đó, vào một số khung giờ nhất định, VTV1 cũng dành một phần thời lượng để phát sóng các chương trình tổng hợp khác của VTV. VTV1 là 1 trong 7 kênh truyền hình thiết yếu của quốc gia theo Nghị định 06/2016/NĐ-CP về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ phát thanh, truyền hình. Hiện nay, VTV1 được phát sóng trong nước trên hệ thống truyền hình số mặt đất DVB-T2, truyền hình cáp, truyền hình số vệ tinh, IPTV và trực tuyến trên mạng Internet. Trưởng Ban Thời sự qua các thời kỳ 1990 - 2006: Trần Bình Minh. 2007 - 2011: Nguyễn Thị Thu Hiền. 2011 - 2019: Lê Ngọc Quang. 4/2021 - nay: Đỗ Đức Hoàng. Thời lượng phát sóng Trước ngày 19 tháng 1 năm 1994: 09:00 - 11:00; 14:00 - 16:00 và 19:00 - 23:00 hàng ngày. 19 tháng 1 năm 1994 - 30 tháng 3 năm 1996: 09:00 - 11:00 và 18:45 - 22:45 Thứ 2 - Thứ 7. 06:00 - 10:00 và 18:45 - 22:45 Chủ nhật. Trước ngày 31 tháng 3 năm 1996: 06:00 - 09:00 và 19:00 - 23:00 Thứ 2 - Thứ 7. 06:00 - 10:00 và 19:00 - 23:00 Chủ nhật. 31 tháng 3 năm 1996 - 30 tháng ̣3 năm 1997: 19:00 - 23:00 hằng ngày. 31 tháng 3 năm 1997 - 30 tháng 3 năm 1998: 6:00 - 8:00, 19:00 - 23:00 hằng ngày. 31 tháng 3 năm 1998 - 31 tháng 12 năm 2001: 05:30 - 10:00 và 17:00 - 24:00 hằng ngày. 1 tháng 1 năm 2002 - 31 tháng 8 năm 2010: 5:30 - 24:00 hằng ngày. 1 tháng 9 năm 2010 - 14 tháng 6 năm 2011: 05:00 - 24:00 hằng ngày. 15 tháng 6 năm 2011 - nay: 24/7. Chú thích Kênh địa phương Kênh truyền hình Việt Nam Kênh truyền hình thiết yếu quốc gia Kênh tin tức
Họ Viễn chí (danh pháp khoa học: Polygalaceae) là một họ thực vật có hoa thuộc bộ Đậu (Fabales). Chúng gần như phân bổ khắp thế giới, với khoảng 17-21 chi và 900-1.000 loài cây thân thảo, cây bụi và cây thân gỗ. Website của APG công nhận khoảng 21 chi và 965 loài. Khoảng một phần ba tổng số loài của họ này thuộc về chi Viễn chí (Polygala). Trong hệ thống Cronquist cũ thì họ Polygalaceae đã được đặt trong một bộ riêng của chính nó với tên gọi Polygalales. Các chi APG chia họ này ra thành 4 tông, sự phân bố các chi theo tông như sau: Xanthophylleae Chodat: 1 chi và khoảng 95 loài cây bụi hay cây gỗ tích lũy nhôm, tại khu vực Ấn Độ-Malesia. Đồng nghĩa: Xanthophyllaceae Reveal & Hoogland Xanthophyllum (bao gồm cả Eystathes): Săng đá hay săng ớt. Polygaleae Chodat: Khoảng 12-18 chi (tùy cách định nghĩa chi) và 830 loài cây thân thảo, dây leo và cây bụi. Các chi đa dạng nhất là Polygala (325 loài, giới hạn chi chưa rõ), Monnina (180 loài), Muraltia (120 loài), Securidaca (80 loài). Phân bố rộng khắp thế giới, ngoại trừ vùng ven Bắc cực và New Zealand Badiera Balgoya Bredemeyera (bao gồm cả Hualania) Comesperma Epirixanthes (viết khác Epirhizanthes): Thượng căn hoa Monnina Muraltia Nylandtia (bao gồm cả Mundia, Mundtia) Polygala (bao gồm cả Acanthocladus, Monrosia, Phlebotaenia): Viễn chí, kích nhũ Pteromonnina Salomonia: sa mông, sa môn, xa lô mông Securidaca (bao gồm cả Elsota): Đằng ca Carpolobieae Eriksen: 2 chi, khoảng 6 loài tại vùng nhiệt đới châu Phi. Atroxima Carpolobia Moutabeae Chodat: 4 chi và khoảng 15 loài cây thân gỗ tích lũy nhôm. Phân bố tại vùng nhiệt đới châu Mỹ, và từ New Guinea tới New Caledonia. Barnhartia Diclidanthera Eriandra Moutabea Phát sinh chủng loài Cây phát sinh chủng loài ở mức tông lấy theo Forest và ctv, 2007. Phát sinh chủng loài ở cấp độ chi, xem bài về các tông tương ứng. Hình ảnh Ghi chú
Bộ Đậu (danh pháp khoa học: Fabales) là một bộ thực vật có hoa. Nó nằm trong nhóm hoa hồng (rosids) của thực vật hai lá mầm thật sự (eudicots) trong hệ thống phân loại của APG II. Trong hệ thống này thì bộ Đậu bao gồm các họ như Fabaceae (bao gồm các phân họ như Caesalpinioideae, Cercideae, Faboideae, Mimosoideae), Quillajaceae, Polygalaceae (bao gồm các phân họ Carpolobieae, Moutabeae, Polygaleae và Xanthophylleae), và Surianaceae. Trong hệ thống Cronquist năm 1981 và một số hệ thống phân loại thực vật khác, bộ Đậu chỉ chứa mỗi họ Đậu (Fabaceae) còn các họ khác mà APG II xếp vào bộ này lại được đặt trong các bộ khác nhau, chẳng hạn Cronquist đã xếp họ Viễn chí (Polygalaceae) vào trong bộ của chính nó-gọi là bộ Viễn chí (Polygalales), còn hai họ Quillajaceae và Surianaceae nằm trong bộ Hoa hồng (Rosales). Bộ Đậu chiếm khoảng 9,6% sự đa dạng của thực vật hai lá mầm thật sự (Magallón và ctv. 1999). Wikström và ctv. (2001) cho rằng bộ này đã xuất hiện khoảng 94-89 triệu năm trước (Ma), sự đa dạng hóa của bộ bắt đầu khoảng 79-74 Ma. Họ Đậu (Fabaceae) nghĩa rộng, là họ thực vật lớn thứ ba trên thế giới, chứa phần lớn (khoảng 19.400) loài trong bộ Đậu, các họ khác chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong sự đa dạng của bộ này. Các nghiên cứu trong bộ này chủ yếu tập trung vào họ Đậu, một phần là do sự đa dạng sinh học lớn của nó, một phần là do tầm quan trọng của nó như là các loài cây cung cấp thực phẩm. Họ Viễn chí là họ được nghiên cứu tương đối kỹ trong số các họ thực vật, một phần là do sự đa dạng khá lớn (khoảng 325 loài) của chi Viễn chí (Polygala), và do các thành viên của họ này, tương tự như họ Đậu, là các loài cây cung cấp thức ăn cho nhiều loài côn trùng cánh vẩy (Lepidoptera). Trong khi các nhà phân loại học sử dụng các kỹ thuật phát sinh loài phân tử tìm thấy sự hỗ trợ mạnh cho bộ này, thì một điều cần lưu ý là vẫn tồn tại các nghi vấn về các quan hệ hình thái của hai họ Quillajaceae và Surianaceae đối với phần còn lại của bộ, một phần là do các nghiên cứu còn hạn chế đối với hai họ này. Phân bố Bộ Đậu là bộ phân bố rộng khắp thế giới, ngoại trừ phân họ Đậu (Papilionoideae hay Faboideae) của họ Đậu là khá tản mát tại phần phía bắc của khu vực ôn đới. Phát sinh chủng loài Biểu đồ phát sinh chủng loài dưới đây lấy theo Wang và ctv. (2009), với tên gọi các bộ lấy từ website của Angiosperm Phylogeny.. Các nhánh với mức hỗ trợ tự khởi động thấp hơn 50% bị bỏ qua. Các nhánh khác có mức hỗ trợ 100% ngoại trừ những nơi có con số chỉ ra mức hỗ trợ cụ thể. Phát sinh chủng loài trong nội bộ bộ Fabales như sau: Thư viện ảnh
{{Bảng phân loại | image = Flowering_kudzu.jpg | image_caption = Sắn dây (Pueraria lobata) | regnum = Plantae | unranked_divisio = Angiospermae | unranked_classis = Eudicots | unranked_ordo = Rosids | ordo = Fabales | familia = Fabaceae | familia_authority = Lindl., 1836 | subdivision_ranks = Các phân họ | subdivision = Caesalpinioideae - Vang (gồm cả Mimosoideae - Trinh nữ) Cercidoideae Detarioideae Dialioideae Duparquetioideae Faboideae - Đậu </td></tr>Tham khảo GRIN-CA ngày 1 tháng 9 năm 2002 | range_map = Legume Biogeography.svg | range_map_width = 250px | range_map_alt = Các quần xã sinh vật mà họ Fabaceae có mặt | range_map_caption = Họ đậu phân bố trong 4 quần xã chính: rừng mưa, ôn đới, đồng cỏ, và cây mọng nước. | synonyms = Caesalpiniaceae R.Br. Cassiaceae Link Ceratoniaceae Link Detariaceae (DC.) Hess Hedysareae (Hedysaraceae) Agardh Lathyraceae Burnett Lotaceae Burnett Mimosaceae R.Br. Papilionaceae Giseke Phaseolaceae Ponce de León & Alvares Robiniaceae Welw. Swartziaceae (DC.) Bartl. }} Họ Đậu hay còn gọi họ Cánh bướm (danh pháp khoa học: Fabaceae, đồng nghĩa: Leguminosae, Papilionaceae) là một họ thực vật trong bộ Đậu. Đây là họ thực vật có hoa lớn thứ ba, sau họ Phong lan và họ Cúc, với khoảng 730 chi và 19.400 loài. Các loài đa dạng tập trung nhiều trong các phân họ Trinh nữ (Mimosoideae) và phân họ Đậu (Faboideae), và chúng chiếm khoảng 9,4% trong tổng số loài thực vật hai lá mầm thật sự. Ước tính các loài trong họ này chiếm 16% các loài cây trong vùng rừng mưa nhiệt đới Nam Mỹ. Ngoài ra, họ này cũng có mặt nhiều ở các rừng mưa và rừng khô nhiệt đới ở châu Mỹ và châu Phi. Cho đến nay vẫn còn những tranh cãi về việc họ này bao gồm 3 phân họ hay tách các phân họ của nó thành các họ riêng biệt. Có rất nhiều thông tin về dữ liệu phân tử và hình thái học chứng minh họ Đậu là một họ đơn ngành. Quan điểm này được xem xét không chỉ ở cấp độ tổng hợp khi so sánh các nhóm khác nhau trong họ này và các quan hệ họ hàng của chúng mà còn dựa trên các kết quả phân tích về phát sinh loài gần đây dựa trên DNA. Các nghiên cứu này xác nhận rằng họ Đậu là một nhóm đơn ngành và có quan hệ gần gũi với các họ trong bộ Đậu là họ Viễn chí (Polygalaceae), họ Suyên biển (Surianaceae), và họ Quillajaceae. Phân loại Theo định nghĩa của hệ thống APG thì nó là một họ lớn: Fabaceae sensu lato (nghĩa rộng). ICBN cho phép sử dụng cả Fabaceae nghĩa rộng và Leguminosae như là các tên gọi thực vật học tương đương nhau ở cấp họ. Hệ thống APG sử dụng tên gọi Fabaceae. Tuy nhiên, họ Fabaceae có thể định nghĩa khác đi như là Fabaceae sensu stricto (nghĩa hẹp), ví dụ như trong hệ thống Cronquist. Trong các phân loại như thế thì các phân họ Trinh nữ (Mimosoideae) và Vang (Caesalpinioideae) được nâng lên thành cấp họ với tên gọi khoa học tương ứng là Mimosaceae và Caesalpiniaceae. Nhóm còn lại có các tên gọi thực vật học tương ứng là Fabaceae và Papilionaceae (nhưng không phải là Leguminosae). APG coi nhóm này ở mức độ phân họ, với tên gọi Faboideae (tên gọi tương đương của nó trong Leguminosae là Papilionoideae). Khi tra cứu hay tham khảo bất kỳ cuốn sách nào có sử dụng tên gọi Fabaceae, cần phải lưu ý là tên gọi này dùng trong ngữ cảnh nào. Các tên gọi như Leguminosae hay Papilionaceae là rõ ràng và các nhà phân loại học dùng các từ này chủ yếu cùng với tên gọi Leguminosae. Leguminosae (hay Fabaceae sensu lato) là họ lớn thứ hai của thực vật có hoa với 730 chi và trên 19.400 loài. Các tên gọi thông thường chủ yếu của các loài trong họ này là đỗ hay đậu, và họ này chứa một số loài cây quan trọng bậc nhất trong cung cấp thực phẩm cho con người, chẳng hạn các loại đậu, đỗ, lạc, đậu tương và đậu lăng v.v. Các loài khác trong họ cũng là các nguồn cung cấp thức ăn quan trọng cho gia súc, gia cầm hoặc để làm phân xanh, chẳng hạn đậu lupin, cỏ ba lá, muồng hay đậu tương. Một số chi như Laburnum, Robinia, Gleditsia, Acacia, Mimosa và Delonix là các loại cây cảnh. Một số loài còn có các tính chất y học hoặc diệt trừ sâu bọ (chẳng hạn Derris) hay sản sinh ra các chất quan trọng như gôm Ả Rập, tanin, thuốc nhuộm hoặc nhựa. Một số loài, như sắn dây, một loài có nguồn gốc ở khu vực Đông Á, đầu tiên được trồng tại miền đông nam Hoa Kỳ nhằm cải tạo đất và làm thức ăn cho gia súc, nhưng đã nhanh chóng trở thành một loài cỏ dại xâm hại nguy hiểm có xu hướng phát triển trên mọi thứ đất và chèn ép nhiều loài bản địa. Tất cả các thành viên trong họ này đều có hoa chứa 5 cánh hoa, trong dó bầu nhụy lớn khi phát triển được sẽ tạo ra quả thuộc loại quả đậu, hai vỏ của nó có thể tách đôi, bên trong chứa nhiều hạt trong các khoang riêng rẽ. Các loài trong họ này theo truyền thống được phân loại trong ba phân họ, đôi khi được nâng lên thành các họ riêng trong bộ Đậu (Fabales), trên cơ sở hình thái học của hoa (đặc biệt là hình dạng cánh hoa): Phân họ Vang (Caesalpinioideae) hay họ Vang (Caesalpiniaceae): Có khoảng 170 chi và 2.000 loài. Hoa của chúng đối xứng hai bên, nhưng thay đổi nhiều tùy theo từng chi cụ thể, chẳng hạn trong chi Cercis thì hoa tương tự như hoa của các loài trong phân họ Faboideae, trong khi tại chi Bauhinia thì nó là đối xứng với 5 cánh hoa bằng nhau. Phân họ Trinh nữ (Mimosoideae) hay họ Trinh nữ (Mimosaceae): Các cánh hoa nhỏ và thông thường có dạng hình cầu hay là cụm hoa dạng bông và các nhị hoa là bộ phận sặc sỡ nhất của hoa. Phân họ Đậu (Faboideae hay Papilionoideae) = họ Fabaceae nghĩa hẹp hay họ Papilionaceae: Một cánh hoa lớn và có nếp gấp trên nó, hai cánh hoa cận kề mọc bên cạnh còn hai cánh hoa dưới chúng nối liền với nhau ở đáy, tạo thành một cấu trúc tương tự như cái thuyền con. Phát sinh chủng loài Cây phát sinh chủng loài của họ Đậu là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhóm khoa học trên thế giới, họ sử dụng các phương pháp phân tích hình thái học, các dữ liệu DNA (trnL intron thể hạt, các gen thể hạt rbcL và matK, và các ITS) và phân tích miêu tả theo nhánh để dung giải các mối quan hệ của các dòng dõi khác nhau trong họ này. Bằng cách ấy người ta đã không thể xác nhận tính đơn ngành của các phân họ truyền thống là Mimosoideae và Faboideae, do chúng cùng nhau lồng sâu bên trong phân họ cận ngành Caesalpinioideae. Tất cả các nghiên cứu, thông qua cách tiếp cận khác nhau, là trước sau như một và đưa ra sự hỗ trợ mạnh cho các mối quan hệ giữa các nhánh chính của họ này, như sơ đồ dưới đây. Nhánh rẽ ra sớm nhất là tông Cercideae, tiếp theo đó là tông Detarieae, và chi đơn loài Duparquetia (trước đây chúng được xếp vào phân họ Caesalpinioideae). Sau các thảo luận rộng rãi trong cộng đồng các nhà nghiên cứu phát sinh chủng loài họ đậu, Legume Phylogeny Working Group đã phân loại lại họ Fabaceae thành 6 phân họ, trong đó tách ra 4 phân họ mới từ Caesalpinioideae nghĩa rộng (sensu lato) và sáp nhập Caesapinioideae nghĩa hẹp (sensu stricto) với phân họ Mimosoideae (gọi là nhánh mimosoid trong phân loại mới nhất). Dựa trên các dữ liệu phát sinh chủng loài và hóa thạch, người ta đề xuất rằng họ Đậu nguyên thủy phát triển ở các khu vực khô hạn và bán khô hạn dọc theo bờ biển của đại dương Tethys trong suốt đầu kỷ Đệ Tam. Tuy nhiên, các tài liệu khác thì cho rằng ở châu Phi (hoặc thậm chí châu Mỹ) không thể đưa ra kết luận về nguồn gốc như trên của họ này. Tiến hóa Bộ Đậu chứa khoảng 9,6% đa dạng sinh học của nhóm thực vật hai lá mầm thật sự và hầu hết chúng tập trung trong một trong 4 họ của nó là họ Đậu. Nguồn gốc của nhánh này bao gồm cả các họ Polygalaceae, Surianaceae và Quillajaceae được xác định là đã tồn tại từ 94 đến 89 triệu năm, và bắt đầu phát triển đa dạng vào khoảng 79 đến 74 triệu năm. Trong thực tế, các loài trong họ Đậu dường như đã đa dạng hóa trong suốt đầu kỷ Đệ Tam để trở thành thành viên phổ biến ở khắp mọi nơi của thực vật trên cạn hiện đại, giống như nhiều họ thực vật hạt kín khác. Hóa thạch của họ Đậu phong phú và đa dạng, đặc biệt là trong kỷ Đệ Tam. Các hóa thạch của hoa, quả, lá chét, gỗ và phấn hoa được tìm thấy ở nhiều nơi. Hóa thạch sớm nhất có thể chắc chắn gán cho họ Đậu đã xuất hiện vào Paleocen muộn (khoảng 56 triệu năm trước). Các đại diện của các phân họ được công nhận theo truyền thống là Caesalpinioideae, Papilionoideae và Mimosoideae - cũng như các nhánh lớn trong phạm vi các phân họ - như Genisteae - đã được tìm thấy trong các mẫu hóa thạch trong các giai đoạn muộn hơn một chút, cách đây khoảng 55 đến 50 triệu năm. Trong thực tế, việc phát hiện ra một số đơn vị phân loại đại diện cho các nhánh chính của họ Đậu trong thời kỳ Eocen giữa và muộn gợi ý rằng các nhóm hiện đại nhất của họ Đậu đã có mặt và đa dạng hóa trong giai đoạn này. Sau đó, họ Fabaceae bắt đầu đa dạng hóa cách đây khoảng 60 triệu năm và các nhánh chính được tách ra cách đây 50 triệu năm. Tuổi của các nhánh chính trong Caesalpinioideae được ước tính vào khoảng từ 56 đến 34 triệu năm và nhóm Mimosoideae vào khoảng 44 ± 2,6 triệu năm. Sự tách biệt giữa Mimosoideae và Faboideae đã diễn ra cách đây từ 59 đến 34 triệu năm và tuổi của các nhánh chính trong Faboideae vào khoảng 58,6 ± 0,2 triệu năm. Trong phân họ Faboideae, sự chia tách của các nhóm cũng đã được xác định tuổi. Theo đó, Astragalus đã tách ra từ Oxytropsis vào khoảng 16 đến 12 triệu năm trước, mặc dù sự đa dạng hóa trong mỗi chi chỉ xảy ra tương đối gần đây. Ví dụ, sự phân tỏa của các loài thể bội không chỉnh trong nhánh Neo-Astragalus (các loài thuộc chi Astragalus có ở châu Mỹ) đã bắt đầu khoảng 4 triệu năm trước. Inga, một chi khác trong phân họ Faboideae chứa khoảng 350 loài dường như đã tách ra khoảng 2 triệu năm trước. Miêu tả Sinh trưởng Các loài trong họ này có các kiểu phát triển đa dạng từ cây gỗ, cây bụi, thân thảo, dây leo, dây leo thân thảo. Các loài cây thân thảo có thời gian sinh trưởng 1 năm, 2 năm hoặc nhiều năm. Lá cây Các lá thường mọc xen kẽ và khép kín khi nhìn từ trên xuống. Chúng thường có dạng kết hợp chẵn - hoặc lẻ, thường có 3 lá chét và hiếm khi có dạng hình chân vịt, còn trong các phân họ Mimosoideae và Caesalpinioideae, thường là cặp lá kép. Cố định đạm Một đặc trưng nổi bật của các loài cây thuộc họ Đậu là chúng có quan hệ mật thiết với nhiều loài vi khuẩn tại các nốt sần trên rễ của chúng. Các loại vi khuẩn này được biết đến như là vi khuẩn nốt rễ (Rhizobium), có khả năng lấy khí nitơ (N2) trong không khí và chuyển hóa nó thành các dạng nitơ mà cây có thể hấp thụ được (NO3- hay NH4+). Hoạt động này được gọi là cố định đạm. Cây đậu cung cấp nơi ở và dinh dưỡng, còn vi khuẩn nốt rễ, trong vai trò của nhà cung cấp nitrat có ích, tạo ra một quan hệ cộng sinh. Mối quan hệ này không chỉ giúp tạo đạm cho cây Đậu sử dụng mà còn cho cả các cây khác xung quanh, do đó có tác dụng cải tạo đất. Biểu tượng Erythrina crista-galli là quốc hoa của Argentina và Uruguay. Enterolobium cyclocarpum là cây biểu tượng của Costa Rica, từ 31 tháng 8 năm 1959. Caesalpinia echinata là cây biểu tượng của Brasil từ năm 1978. Acacia pycnantha là quốc hoa của Úc. Bauhinia x blakeana là quốc hoa của Hồng Kông.
Cao bồi là những người chăn dắt bò, thường trên lưng ngựa, tại các điền trang ở Bắc Mỹ. Từ nguyên Từ cao bồi trong tiếng Việt bắt nguồn từ từ tiếng Pháp cow-boy. Từ cow-boy trong tiếng Pháp thì bắt nguồn từ từ tiếng Anh Mỹ cowboy. Trong tiếng Anh, cao bồi được hiểu là: người chăn gia súc ở miền Tây nước Mỹ và cưỡi ngựa trong khi làm việc. Rộng hơn, cao bồi chỉ một bộ phận người lao động sử dụng ngựa và chăn nuôi gia súc ở khắp châu Mỹ, châu Âu và châu Úc. Nghĩa kế tiếp của cao bồi là một người anh hùng ưa phiêu lưu. Trong tiếng lóng, những lái xe hay phi công ẩu trong khi điều khiển phương tiện cũng được gọi là cao bồi. Lịch sử Cao bồi gắn liền với nghệ thuật thuần hóa và sử dụng ngựa. Khoảng năm 1700 trước Công nguyên, người Hyksos, được cho là tiên phong trong lĩnh vực dùng ngựa, đánh chiếm Ai Cập và du nhập các kiến thức và kỹ năng dùng ngựa vào khắp vùng Tây Á. Thế kỷ thứ 5, người Ả rập đạt trình độ điêu luyện trong việc nuôi và dùng ngựa. Thế kỷ thứ 8, người Moors từ Bắc Phi xâm nhập và cai trị vùng bán đảo Iberia (Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Andorra, Gibraltar ngày nay), đem theo nghệ thuật cưỡi ngựa vào châu Âu và đặc biệt có ảnh hưởng lớn đến nền văn hóa đương thời của Tây Ban Nha. Thuật ngữ "a la gineta" dùng để chỉ nhánh văn hóa mới về ngựa này. Vào những năm 1490, các chiến binh Giáo hội Công giáo La Mã trục xuất người Moors khỏi lãnh thổ châu Âu sau gần 8 thế kỉ bị chiếm đóng. Khi người châu Âu tìm ra châu Mỹ, đoàn người của Christopher Columbus là một trong những người đầu tiên đem theo các đàn gia súc, thợ chuyên về ngựa và kiến thức chăn nuôi ngựa vốn du nhập từ người Moors vào châu Mỹ. Hernán Cortés cũng đóng góp phần lớn vào việc đem văn hóa dùng ngựa vào México. Người Tây Ban Nha cũng phổ biến nghệ thuật dùng ngựa khắp Nam Mỹ, đặc biệt là Argentina và Uruguay. Ngoài cowboy, các nước nói tiếng Tây Ban Nha dùng "gaucho", người Pháp dùng từ "gardian" để chỉ cao bồi. Thay đổi Tuy nhiên cùng với sự phát triển của loạt phim Hollywood về miền Tây, hình ảnh "chàng chăn bò" dần được thay thế, và được hiểu rộng rãi như một người (thường là đàn ông) tính tình thẳng thắn, thường chiến đấu chống lại cái ác. Chân dung Cao bồi thường đội mũ rộng vành, đi ủng có gắn miếng thép ở gót để thúc ngựa, mặc quần bò Levi's, cưỡi ngựa giỏi, hay tham gia đấu súng và bắn giỏi bằng cả hai tay, uống rượu trong quán cũng là nơi thường xảy ra các cuộc đánh lộn. Cao bồi trong tiếng Việt còn là từ chỉ người có trang phục, động tác hay cử chỉ thể hiện bản tính ngang tàng, bất cần. Hãng thuốc lá Philip Morris trong một thời gian dài thường dùng hình ảnh chàng cao bồi trong quảng cáo cho nhãn thuốc Marlboro.
Cobalt (bắt nguồn từ từ tiếng Pháp) là nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn có ký hiệu Co và số nguyên tử 27. Thuộc tính Cobalt là kim loại màu trắng bạc, có từ tính mạnh, nhiệt độ Curie vào khoảng 1388K. Cobalt và nickel là hai thành phần đặc trưng trong thép thiên thạch. Trong cơ thể động vật tồn tại một lượng nhỏ các muối cobalt. Đồng vị phóng xạ nhân tạo Cobalt-60 được sử dụng làm tác nhân kiểm tra phóng xạ và điều trị ung thư. Độ thấm từ của cobalt bằng của sắt. Cobalt kim loại thông thường biểu hiện ở dạng hỗn hợp của hai cấu trúc trục tinh thể là xếp chặt sáu cạnh (hcp) và lập phương tâm mặt (fcc) với nhiệt độ chuyển tiếp từ hcp→fcc vào khoảng 722°K. Trạng thái oxy hóa phổ biến của nó là +2 và +3, rất ít hợp chất trong đó cobalt có hóa trị +1 tồn tại. Ứng dụng Hợp kim, như là: Siêu hợp kim: cho những bộ phận trong tuabin khí của động cơ máy bay. Hợp kim chịu mài mòn, ăn mòn. Thép dùng trong ngành vận tải cao tốc. Carbide hàn (còn gọi là các kim loại cứng), dụng cụ bằng kim cương. Nam châm và lưu trữ từ tính (magnetic recording media): Nam châm alnico Chất xúc tác cho công nghiệp dầu khí và hóa chất. Dùng trong kỹ thuật mã điện vì cobalt có độ cứng, có màu trắng bạc, và khả năng chống oxy hóa. Tác nhân làm khô cho sơn, véc ni, mực. Dùng làm lớp phủ bề mặt cho gốm sứ, men, thủy tinh. Thuốc nhuộm (cobalt xanh dương Co(AlO2)2 và cobalt xanh lục CoZnO2). Điện cực trong pin điện. Đồng vị cobalt-60 dùng làm nguồn tạo tia gamma: Dùng trong xạ trị. Tiệt trùng thực phẩm theo phương pháp Pasteur. Dùng trong công nghiệp hạt nhân để tìm sai sót kết cấu trong những bộ phận bằng kim loại. Tạo cho thủy tinh có màu xanh dương. Hợp chất của cobalt và gadolini là chất siêu làm lạnh. Điều chế Dùng H2 khử cobalt(II) oxide hoặc các oxide khác: CoO + H2 → Co + H2O Điện phân dung dịch CoSO4 trong nước với cực dương bằng thép không gỉ đã được xử lý bề mặt và cực âm là 1 tấm chì tinh khiết. Sản phẩm thu được là 1 hỗn hợp gồm 99,1-99,2% còn lại là tạp chất nickel: 2CoSO4 + 2H2O → 2Co + O2 + 2H2SO4 Đốt cháy cobaltin (CoAsS) để chuyển hóa thành As2O3 & SO2. Chế hóa các oxide kim loại thành dạng chloride với HCl. Tăng độ pH dd chloride còn lại và thêm chloride vôi vào để oxy hóa cobalt(II) oxide: 2Co(OH)2 + CaOCl2 → 2Co(OH)3 + CaCl2. Nung kết tủa thành oxide rồi dùng carbon khử: Co3O4 + 4C → 3Co + 4CO↑ Đồng vị Co-60 được dùng làm nguồn tạo tia gamma vì nó có thể tạo ra một số lượng rất lớn, chỉ đơn giản bằng cách đặt cobalt tự nhiên dưới các neutron trong lò phản ứng với một khoảng thời gian nhất định. Ứng dụng trong y học Đồng vị Co-60 (Co60) là đồng vị phóng xạ dùng trong xạ trị. Nó tạo ra hai tia gamma với năng lượng lần lượt là: 1,17 MeV và 1,33 MeV. Nguồn Co-60 có đường kính khoảng 2 cm và được tạo ra bằng cách tạo một vùng nửa tối, làm cho góc của vùng bức xạ bị mờ đi. Kim loại này có đặc tính tạo ra bụi mịn, gây ra vấn đề về bảo vệ bức xạ. Nguồn Co-60 hữu dụng trong vòng khoảng 5 năm, nhưng ngay cả sau thời điểm này, mức độ phóng xạ vẫn rất cao. Vì vậy máy móc dùng cobalt đã không còn được sử dụng rộng rãi ở các nước phương Tây. Hiện nay, người ta sử dụng phổ biến máy gia tốc hạt tuyến tính thay cho máy móc dùng cobalt trước đây. Lịch sử Cobalt đã được biết đến từ thời cổ đại thông qua những hợp chất tạo cho thủy tinh có màu xanh dương đậm. Georg Brandt (1694-1768) là nhà khoa học đã phát hiện ra cobalt. Thời điểm phát hiện vào khoảng thời gian 1730 - 1737. Ông đã chứng minh rằng cobalt là nguồn gốc tạo ra màu xanh dương trong thủy tinh, mà trước đây được người ta cho là do bismuth (Bismuth) (được phát hiện cùng với cobalt). Trong suốt thế kỷ XIX, cobalt xanh dương được sản xuất tại nhà máy Blaafarveværket (Na Uy), sản lượng cobalt sản xuất tại đấy chiếm 70-80% sản lượng thế giới. Vào năm 1938, John Livingood và Glenn Seaborg đã phát hiện đồng vị Co-60. Tên gọi Cobalt (cobalt) có xuất xứ từ tiếng Đức kobalt hoặc kobold, nghĩa là linh hồn của quỷ dữ. Tên này do những người thợ mỏ đặt ra vì nó mang tính độc hại, gây ô nhiễm môi trường, và làm giảm giá trị những kim loại khác, như nickel. Những nguồn khác thì lại cho rằng tên gọi phát sinh từ những người thợ mỏ bạc vì họ tin rằng cobalt được đặt ra bởi kobolds là những người đã từng đánh cắp bạc. Một vài nguồn khác cho rằng tên gọi có xuất xứ từ tiếng Hy Lạp kobalos, nghĩa là 'mỏ', và có thể có nguồn gốc chung với kobold, goblin, và cobalt. Vai trò sinh học Nhiều sinh vật sống (kể cả người) phải cần đến một lượng nhỏ cobalt trong cơ thể để tồn tại. Cho vào đất một lượng nhỏ cobalt từ 0,13-0,30 mg/kg sẽ làm tăng sức khỏe của những động vật ăn cỏ. Cobalt là một thành phần trung tâm của vitamin cobalamin, hoặc vitamin B-12. Phổ biến Cobalt không thể tìm thấy như là một kim loại tự do, mà nói chung là ở trong các dạng quặng. Người ta luôn luôn không khai thác cobalt riêng rẽ, và có xu hướng được dùng làm sản phẩm phụ trong hoạt động khai thác nickel và đồng. Những quặng cobalt chính là cobaltite, erythrite, glaucodot, và skutterudite. Những quốc gia sản xuất nhiều cobalt nhất thế giới là Cộng hòa dân chủ Congo, Trung Quốc, Zambia, Nga, và Úc. Cobalt còn được tìm thấy ở Phần Lan, Azerbaijan, và Kazakhstan. Nó còn được sản xuất ở thành phố Cobalt, tỉnh Ontario, ở Canada ở dạng sản phẩm phụ của hoạt động khai thác bạc. Các hợp chất Do có nhiều trạng thái oxy hóa khác nhau, nên số lượng hợp chất cobalt khá phong phú. Các oxide không có từ tính ở nhiệt độ thấp như CoO (nhiệt độ Neel là 291 K), và Co3O4 (nhiệt độ Neel là 40 K). Các hợp chất cobalt(II) được dùng làm mực đỏ. Tuy nhiên màu bị chuyển thành xanh dương khi bị nung nóng đến nhiệt độ sôi. Thêm quá nhiều chloride cũng sẽ làm đổi màu từ màu hồng sang màu xanh dương, do sự tạo thành ion phức [CoCl4]2-. Trạng thái oxy hóa +3 ít ổn định hơn. Trạng thái +4 ít gặp. Trạng thái oxy hóa +5 cũng được biết đến, trong kali hypocobaltat K3CoO4. Trạng thái +6 cũng xuất hiện, trong kali cobaltat K2CoO4. Đồng vị Cobalt trong tự nhiên bao gồm 1 đồng vị ổn định là 59Co. Cobalt có 22 đồng vị phóng xạ. Những đồng vị phóng xạ ổn định nhất là 60Co có chu kỳ bán rã là 5,2714 năm, 57Co có chu kỳ bán rã là 271,79 ngày, 56Co có chu kỳ bán rã là 77,27 ngày, và 58Co có chu kỳ bán rã 70,86 ngày. Tất cả đồng vị phóng xạ còn lại có chu kỳ bán rã ít hơn 18 giờ và phần lớn những đồng vị này có chu kỳ bán rã ít hơn 1 giây. Nguyên tố này cũng có 4 đồng phân phóng xạ, tất cả các đồng phân này đều có chu kỳ bán rã ít hơn 15 phút. Các đồng vị của cobalt có trọng lượng nguyên tử từ 50 amu (50Co) đến 73 amu. Cảnh báo Bột kim loại cobalt dễ bùng cháy khi tiếp xúc với lửa. Các hợp chất của cobalt phải được xử lý cẩn thận do có độc tính nhẹ. 60Co là nguồn phát ra tia gamma mạnh nên tiếp xúc với nó sẽ dẫn đến nguy cơ ung thư. Nuốt 60Co sẽ khiến cobalt thâm nhập vào mô tế bào và quá trình thải ra rất chậm chạp.60Co là yếu tố rủi ro gây tranh cãi về vấn đề hạt nhân vì nguồn neutron sẽ chuyển hóa 59Co thành đồng vị này. Một số mô hình vũ khí hạt nhân có chủ ý gia tăng lượng 60Co phát tán dưới hình thức bụi phóng xạ nguyên tử – nên có khi người ta gọi đó là bom bẩn hoặc bom cobalt. Một nhà khoa học hàng đầu đã dự đoán rằng loại bom này có khả năng hủy diệt tất cả sự sống trên Trái Đất. Nếu nguyên nhân bắt nguồn không phải là một cuộc chiến tranh hạt nhân, thì cũng do việc xử lý không phù hợp (hoặc trộm cắp) các bộ phận của máy xạ trị y học. Tuy nhiên, tia gamma phát ra từ 60Co hiện đang được sử dụng để diệt vi khuẩn và tăng sức đề kháng trên rau quả.
Hội nhập kinh tế, theo quan niệm đơn giản nhất và phổ biến trên thế giới, là việc các nền kinh tế gắn kết lại với nhau. Theo cách hiểu này, hội nhập kinh tế đã diễn ra từ hàng ngàn năm nay và hội nhập kinh tế với quy mô toàn cầu đã diễn ra từ cách đây hai nghìn năm khi Đế quốc La Mã xâm chiếm thế giới và mở mang mạng lưới giao thông, thúc đẩy lưu thông hàng hóa trong toàn bộ lãnh địa chiếm đóng rộng lớn của họ và áp đặt đồng tiền của họ cho toàn bộ các nơi. Hội nhập kinh tế, hiểu theo một cách chặt chẽ hơn, là việc gắn kết mang tính thể chế giữa các nền kinh tế lại với nhau. Khái niệm này được Béla Balassa đề xuất từ thập niên 1960 và được chấp nhận chủ yếu trong giới học thuật và lập chính sách. Nói rõ hơn, hội nhập kinh tế là quá trình chủ động thực hiện đồng thời hai việc: một mặt, gắn nền kinh tế và thị trường từng nước với thị trường khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực thực hiện mở cửa và thúc đẩy tự do hóa nền kinh tế quốc dân; và mặt khác, gia nhập và góp phần xây dựng các thể chế kinh tế khu vực và toàn cầu. Trong các giáo trình nhập môn về kinh tế học quốc tê, hội nhập kinh tế thường được cho là có sáu cấp độ: khu vực/hiệp định thương mại ưu đãi, khu vực/hiệp định thương mại tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, liên minh kinh tế tiền tệ, và hội nhập toàn diện. Tuy nhiên trong thực tế, các cấp độ hội nhập có thể nhiều hơn và đa dạng hơn. Hội nhập kinh tế có thể là song phương - tức là giữa hai nền kinh tế, hoặc khu vực - tức là giữa một nhóm nền kinh tế, hoặc đa phương - tức là có quy mô toàn thế giới giống như những gì mà Tổ chức Thương mại Thế giới đang hướng tới. Thỏa thuận thương mại ưu đãi Đây là cấp độ thấp nhất của liên kết kinh tế, theo đó các quốc thủ tướng tham gia hiệp định dành các ưu đãi về thuế quan và phi thuế quan cho hàng hóa của nhau, tạo thành các khu vực thương mại ưu đãi vùng (Preferential Trade Area). Trong các thỏa thuận này, thuế quan và hàng rào phi thuế quan có thể vẫn còn, nhưng thấp hơn so với khi áp dụng cho quốc gia không tham gia hiệp định. Một ví dụ về thỏa thuận thương mại ưu đãi là Hiệp định về Thỏa thuận Thương mại Ưu đãi ASEAN được ký kết tại Manila năm 1977 và được sửa đổi năm 1995; hay Khu vực Thương mại Ưu đãi Đông và Nam Phi tồn tại từ năm 1981 đến năm 1994; hay như các hiệp định dành ưu đãi thương mại (hay tối huệ quốc) mà một số nước phát triển có thể dành cho các nước đang phát triển. Hiệp định thương mại tự do Là hiệp định theo đó các nước ký kết cam kết bãi bỏ thuế quan và hàng rào phi thuế quan cho tất cả hoặc gần như tất cả hàng hóa của nhau. Có thể có những dòng thuế sẽ được bãi bỏ chậm hơn; và người ta thường đưa các dòng thuế này vào "danh sách nhạy cảm". Chỉ một số ít dòng thuế sẽ không được bãi bỏ và được liệt kê trong "danh sách loại trừ". Quy tắc xuất xứ là một phần quan trọng của các hiệp định thương mại tự do nhằm đảm bảo chỉ những hàng hóa được sản xuất toàn bộ hoặc tối thiểu ở một tỷ lệ nhất định tại các nước thành viên hiệp định mới được buôn bán tự do nhằm tránh tình trạng nước không tham gia hiệp định sử dụng cách tái xuất hoặc chỉ lắp ráp tại một nước tham gia hiệp định mà có thể xuất khẩu sang nước còn lại của hiệp định không phải chịu thuế. Một hiệp định thương mại tự do nổi tiếng được thành lập từ năm 1960, đó là Hiệp hội Thương mại Tự do châu Âu. Sau những bế tác của đàm phán tự do hóa thương mại đa phương trong khuôn khổ GATT, các hiệp định thương mại tự do song phương (giữa hai nước) và khu vực xuất hiện ngày càng nhiều từ giữa thập niên 1990. Và trong số những quốc gia hăng hái nhất trong việc ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương phải kể đến Mexico, Singapore. Những khu vực thương mại tự do nổi tiếng mới thành lập từ thập niên 1990 điển hình là Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (thành lập năm 1994), Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (hiệp định được ký kết vào năm 1992). Ngoài ra, còn có những hiệp định thương mại tự do giữa một nước với cả một khối, như Hiệp định Khung về Hợp tác Kinh tế ASEAN-Trung Quốc (ký kết vào năm 2002). Do xóa bỏ gần như hoàn toàn thuế quan và hàng rào phi thuế quan, nên việc đàm phán để thành lập một hiệp định thương mại tự do rất mất thời gian và qua nhiều vòng thương thảo. Những nước hăng hái với tự do hóa thương mại có thể thỏa thuận tiến hành chương trình giảm thuế quan sớm (còn gọi là chương trình thu hoạch sớm) đối với một số dòng thuế trước khi đàm phán kết thúc và hiệp định được thành lập. Xem thêm: ASEAN+1. Hiệp định đối tác kinh tế Hiệp định đối tác kinh tế là cấp độ hội nhập kinh tế sâu hơn hiệp định thương mại tự do, theo nghĩa là ngoài việc tự do hóa thương mại hàng hóa thông qua bãi bỏ thuế quan và hàng rào phi thuế quan lại còn bao gồm cả tự do hóa dịch vụ, bảo hộ đầu tư, thúc đẩy thương mại điện tử giữa các nước ký kết hiệp định. Nhật Bản là quốc gia có xu hướng thích các hiệp định đối tác kinh tế vì nó cho phép quốc gia này thâm nhập toàn diện vào các thị trường của nước đối tác. Hiện Nhật Bản đã ký kết 8 hiệp định đối tác kinh tế song phương và một hiệp định đối với ASEAN, đang đàm phán để đi tới ký kết 5 hiệp định khác (Hàn Quốc, Ấn Độ, Việt Nam, Úc, Thụy Sĩ), có 15 quốc gia, lãnh thổ và khu vực đang có nguyện vọng đàm phán và ký kết hiệp định đối tác kinh tế với Nhật Bản. Xem thêm: Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện ASEAN - Nhật Bản (AJCEP). Thị trường chung Thị trường chung có đầy đủ các yếu tố của hiệp định đối tác kinh tế và liên minh thuế quan, cộng thêm các yếu tố như tự do di chuyển các yếu tố sản xuất (vốn, lao động) giữa các nước thành viên. Một thị trường chung như vậy đã từng được thành lập ở châu Âu vào năm 1957 theo Hiệp ước Rome và mất một thời gian dài mời hoàn thành mục tiêu. Khối ASEAN cũng đã thỏa thuận sẽ thực hiện được mục tiêu một thị trường chung và một cơ sở sản xuất thống nhất trong toàn khối vào năm 2020 trong khuôn khổ Cộng đồng Kinh tế ASEAN. Xem thêm: Cộng đồng Kinh tế ASEAN. Liên minh thuế quan Đây có thể hiểu là một khu vực thương mại tự do giữa các nước thành viên cộng với thuế quan thống nhất của các nước thành viên đối với hàng hóa từ ngoài khu vực. Việc thành lập liên minh thuế quan cho phép tránh được những phức tạp liên quan đến quy tắc xuất xứ, nhưng lại làm nảy sinh những khó khăn trong phối hợp chính sách giữa các nước thành viên. Xem thêm: Liên minh Thuế quan Liên minh châu Âu. Liên minh kinh tế và tiền tệ Hội nhập kinh tế đến cấp độ này tạo ra một thị trường chung giữa các nền kinh tế (không còn hàng rào kinh tế nào nữa) với một đơn vị tiền tệ chung. Ví dụ rõ nhất về cấp độ liên minh này là Khu vực đồng Euro. Các khu vực được thành lập với mục tiêu trở thành liên minh kinh tế tiền tệ nhưng chưa hoàn thành được mục tiêu này gồm: Cộng đồng Kinh tế Tây Phi, Cộng đồng Caribe (tiền thân là Cộng đồng và Thị trường Chung Caribe). Trong các liên minh từng tồn tại nhưng nay không còn có Liên minh Bỉ-Luxembourg. Trong lịch sử đã từng có những khu vực dùng một đơn vị tiền tệ chung, như Liên minh Tiền tệ Latinh hồi thế kỷ 19, nhưng họ chưa xây dựng được một thị trường chung nên không gọi đó là liên minh kinh tế và tiền tệ. Lại có một số nước chấp nhận đồng tiền của nước hay khu vực khác làm đơn vị tiền tệ chính thức của mình, nhưng giữa họ không có một thị trường chung, nên không gọi là liên minh kinh tế - tiền tệ. Hiện nay, tuy Anh đã tham gia Liên minh châu Âu, nhưng vì Anh vẫn giữ đơn vị tiền tệ riêng là đồng Bảng Anh, nên Anh không tham gia liên minh kinh tế tiền tệ ở châu Âu. Với một đơn vị tiền tệ chung, các nước thành viên sẽ phải từ bỏ quyền thực thi chính sách tiền tệ riêng của mình, mà thay vào đó là một chính sách tiền tệ chung của toàn khối do một ngân hàng trung ương chung của khối đó thực hiện, như trường hợp của Ngân hàng Trung ương châu Âu. Khi mà ngay cả chính sách tài chính cũng được thực hiện chung, hội nhập kinh tế đạt đến độ hoàn toàn. Xem thêm: Liên minh tiền tệ.
Một lý thuyết khoa học là một cách giải thích một lĩnh vực nào đó của thế giới tự nhiên mà có thể, căn cứ theo phương pháp khoa học, được kiểm nghiệm lặp lại được, sử dụng một phương cách quan sát và thực nghiệm đã được định sẵn. Những lý thuyết khoa học đã được công bố đã đứng vững trước sự xem xét kĩ lưỡng và là một thể thức bao hàm toàn diện của kiến thức khoa học. Các ví dụ về lí thuyết khoa học Sinh học: học thuyết tế bào Hóa học: thuyết Lewis, thuyết phân tử Vật lí: thuyết nguyên tử, Big Bang, thuyết trường lượng tử Khác: Thuyết biến đổi khí hậu (từ khí hậu học), thuyết mảng kiến tạo (từ địa chất học) Đọc thêm , essay by British/American meteorologist and a NASA astronaut on anthopogenic global warming and "theory" Chú thích
Thư viện liên kết động (tiếng Anh: Dynamic Link Library - viết tắt: DLL) là một thành phần của các phần mềm. Đặc điểm của nó là có tính khả chuyển cao, nhờ đó mà một DLL có thể được gắn vào một hoặc nhiều phần mềm khác nhau. DLL còn là đuôi của một tập tin chạy trên hệ điều hành Windows (.dll). Mở đầu Thư viện liên kết động, đúng như tên gọi của nó, là một thư viện cho phép các ứng dụng có thể liên kết đến và sử dụng nó. Nó được xem là một tổ hợp các hàm và dữ liệu mà có thể được sử dụng bởi nhiều ứng dụng khác nhau ở cùng một thời điểm. Ví dụ: thư viện user32.dll hoặc kernel32.dll là các thư viện liên kết động mà mỗi ứng dụng Windows đều phải dùng đến. Khi đã được viết và đóng gói trong một DLL, một hàm có thể được sử dụng ở bất cứ ứng dụng nào dưới dạng mã máy của nó mà không phải quan tâm đến mã nguồn nó được viết chi tiết ra sao. Với các ứng dụng trước kia, ta có thể đính kèm file mã nguồn và sử dụng các hàm trong chương trình; tuy nhiên, giả sử như để có thể thao tác với máy in, in một nội dung ta cần gọi hàm print() và ta đã có mã nguồn của hàm print này. Giả sử như không có DLL, thì bất cứ ứng dụng nào muốn sử dụng hàm print() sẽ bao gồm cả hàm này vào trong mã nguồn: từ chương trình Word, Excel, Internet Explorer,... như vậy trong hệ thống sẽ có rất nhiều bản sao của hàm print() này, làm cho dung lượng để chứa các chương trình tăng lên. Ngoài ra, khi phần cứng thay đổi, ta lại phải thay đổi mã nguồn của hàm print() để nó hoạt động đúng (nếu cần), việc này đẫn tới việc thay đổi theo dây chuyền đến các ứng dụng, gây ra rất nhiều khó khăn. Sau đây ta sẽ tìm hiểu chi tiết về ưu nhược điểm của việc sử dụng thư viện liên kết động. Các thư viện liên kết động là một thành phần không thể thiếu tạo nên hệ điều hành Windows. Ở đó, việc quản lý, trao đổi với phần cứng hay thiết bị ngoại vi đều thông qua các hàm có sẵn trong windows mà ta hay gọi là Windows API. Thay vì ta phải đưa lệnh điều khiển cho màn hình vẽ lên một cửa sổ giao diện như các ứng dụng, thì ta chỉ cần gọi một hàm trong một file DLL nào đó, hệ thống sẽ đảm bảo kết quả như ý muốn. Ưu và nhược điểm của thư viện liên kết động Giảm không gian sử dụng của bộ nhớ Hàm và dữ liệu trong các DLL được chia sẻ bởi các ứng dụng dùng nó. Như trong ví dụ ở trên, các ứng dụng Winword, Microsoft Excel, Internet Explorer sẽ dùng chung một hàm print() đã được biên dịch thành mã máy và để trong một DLL nào đó, mà không cần phải bao gồm toàn bộ mã nguồn của hàm. Bên cạnh đó, ta cũng có thể giảm được dung lượng bộ nhớ của chương trình tùy vào cách dùng các hàm DLL (Run-time hay Load-time, sẽ được trình bày sau): ứng dụng của ta sẽ chỉ nạp các hàm này khi nào dùng đến. Mã trong DLL nằm trong khu vực chỉ cho đọc (read-only) và được nạp vào các trang nhớ đánh dấu read-only. Nó cho phép hệ thống ánh xạ DLL vào trong không gian địa chỉ nhớ của các tiến trình sử dụng nó. Và như vậy, DLL được nạp chỉ một lần, và nếu một tiến trình yêu cầu sử dụng nó, hệ điều hành chỉ việc ánh xạ DLL tới không gian địa chỉ của ứng dụng gọi DLL. Giảm Swapping (thay trang bộ nhớ chính) Ta tưởng tượng có hai tiến trình sử dụng cùng một DLL, một tiến trình kết thúc công việc của nó và thoát ra. Nhưng DLL sẽ không gỡ bỏ ra khỏi bộ nhớ vì DLL quản lý thời gian tồn tại của nó bằng cách giữ một bộ đếm tham khảo cho các tiến trình sử dụng nó. Mỗi khi có một tiến trình nào đó yêu cầu sử dụng DLL, bộ đếm tham khảo sẽ tăng giá trị của nó lên 1; còn khi có một tiến trình gỡ bỏ không sử dụng nữa thì bộ đếm lại giảm đi 1. DLL sẽ tự động xóa bỏ ra khỏi bộ nhớ chừng nào bộ đếm tham khảo trở về 0, trạng thái cho biết không còn có tiến trình nào sử dụng DLL nữa. Bây giờ giả sử có một tiến trình bắt đầu chạy và yêu cầu hệ thống nạp một DLL hiện đang được dùng bởi một ứng dụng đã chạy trước đó. Chuyện gì sẽ xảy ra? Liệu hệ thống có nạp DLL một lần nữa không? Hiển nhiên là không, vì DLL được định nghĩa ra để có thể dùng chung giữa các ứng dụng khác nhau. Thành phần đã nạp DLL có tất cả các hàm và dữ liệu của nó trong bộ nhớ và hệ thống sẽ chỉ phải ánh xạ chúng tới không gian địa chỉ của tiến trình mới cho chúng hoạt động. Nó liên quan đến việc đọc các hàm và dữ liệu DLL từ trên đĩa. Có thể đóng gói và đưa vào chương trình khác Khi đã xây dựng được một DLL với các chức năng hợp lý, ta có thể sử dụng nó trong bất cứ ứng dụng nào mà ta cảm thấy thích hợp. Ví dụ trong một ứng dụng nhỏ, ta có tập hợp các hàm chuyển đổi giá trị từ String sang ngày tháng và đóng gói nó vào trong một DLL. Khi đó, ở một ứng dụng khác, khi có nhu cầu chuyển đổi như trên, thì ta sẽ không phải viết lại các hàm hoặc đính kèm mã nguồn của các hàm đó vào chương trình đó nữa mà sử dụng trực tiếp DLL mà ta đã biên dịch. Tạo ra khả năng tương tác giữa các ngôn ngữ lập trình Một ứng dụng có thể sử dụng các DLL viết bằng bất cứ ngôn ngữ lập trình nào. Các nhà phát triển phần mềm chỉ việc đóng gói các module của mình vào trong một DLL với ngôn ngữ ưa thích, sau đó module này có thể được sử dụng trong các ứng dụng viết bằng C++ hay Visual Basic. Mặc dù hầu hết các ngôn ngữ lập trình đều hỗ trợ việc sử dụng thư viện liên kết động, nhưng lại có rất ít ngôn ngữ lập trình cho phép tạo ra chúng. Với việc sử dụng DLL, người ta có thể tập trung nhiều hơn vào các xử lý logic của hệ thống, mà không cần phải quan tâm đến những xử lý thông thường, mà nếu phát triển từ đầu, sẽ chi phí rất nhiều thời gian và công sức. Các công việc này đã được thực hiện bởi một người nào đó, và đóng gói dưới dạng các DLL. Dễ dàng đưa ra sự hỗ trợ sau khi đã chuyển giao ứng dụng cho khách hàng Nếu như ta phát hiện có một số thành phần trong ứng dụng cần phải được thay đổi và sự thay đổi này cần phải được cập nhật cho khách hàng. Đóng gói và phân phối lại toàn bộ sản phẩm đã bán cho tất cả các khách hàng của chúng ta là một công việc hết sức khó khăn. Tuy nhiên ta có thể tránh được điều này nếu như ứng dụng của ta được thiết kế tốt thành các module và đóng gói chúng trong các DLL. Khi một module nào đó cần thay đổi, ta chỉ việc đóng gói lại DLL chứa module đó và gửi tới khách hàng, cho họ cập nhật. DLL Hell Là khó khăn lớn nhất thỉnh thoảng gặp khi dùng DLL. Ta có thể gặp những thông báo lỗi dạng như: The ordinal abc could not be located in the dynamic-link library xyz.dll hoặc khi cài đặt một ứng dụng mới, một số chương trình khác đang bình thường bỗng nhiên bị trục trặc hoặc thậm chí không thể nạp lên để chạy được. Đó là các dấu hiệu của DLL Hell trên máy tính của ta. Nguyên nhân cơ bản của sự cố trên là do chương trình cài đặt không kiểm tra phiên bản của các DLL trước khi sao lưu nó vào trong thư mục hệ thống. Khi một DLL mới thay thế một DLL cũ có sẵn, và nếu DLL mới này có một số thay đổi lớn làm cho nó không thể tương thích ngược lại với các chương trình sử dụng phiên bản cũ, nó sẽ làm rối loạn chương trình đó. Cấu trúc và phân loại DLL Cấu trúc DLL Các thành phần chứa trong của DLL Các DLL thường bao gồm mã lệnh, dữ liệu và các tài nguyên. Mã lệnh được lưu trữ trên một khu vực chỉ đọc (read-only), do đó nó có thể được sử dụng chung cho các yêu cầu từ các ứng dụng. Tuy nhiên, dữ liệu của DLL thì không như vậy. Mỗi một yêu cầu từ phía ứng dụng sẽ nhận được một bản sao riêng của các đoạndữ liệu (data segments) trừ phi đoạn đó được đánh dấu shared. Khu vực lưu trữ mã bao gồm các lớp và các hàm độc lập (không có quan hệ qua lại) với nhau được thể hiện qua trong DLL. Trong trường hợp các lớp (class) thì tất cả các chức năng và dữ liệu đã được giới hạn trong một thực thể, nhưng với các hàm độc lập có quan hệ với nhau thì ta cũng có một số dữ liệu chia sẻ toàn cục. Các lớp và hàm có trong DLL cung cấp cho ứng dụng sử dụng được gọi là thành phần export từ DLL. Còn nếu DLL của ta sử dụng các hàm từ các DLL khác, thì chúng được gọi là thành phần import tới DLL. Lấy ra các lớp và hàm ở trong DLL: để sử dụng được các mã lệnh trong DLL mà đã biên dịch, ta phải export nó ra cho các ứng dụng khác sử dụng. Có hai cách để thực hiện công việc này: Bằng cách tạo ra một module file định nghĩa (.def) và sử dụng file này khi xây dựng DLL. Cách làm này cũng thuận tiện cho việc export các hàm theo số thứ tự hơn là theo tên (mặc định là theo tên). Lúc này ta sẽ phải xác định đường dẫn tới thư mục /DEF khi sử dụng trình biên tập để xây dựng DLL. Bằng cách sử dụng từ khóa __declspec (dllexport) trong định nghĩa hàm. Trong trường hợp muốn export các lớp, ta đặt từ khóa này sau từ khóa class. Trình biên dịch sẽ đánh dấu các hàm hay lớp này trong DLL có thể export được. Ví dụ ta có hàm Foo(Type1 a, Type2 b), để export nó từ trong một DLL; ta có thể thêm từ khóa __declspec(dllexport) trước tên của hàm, hoặc viết một module file định nghĩa với nội dung như sau: LIBRARY FooLib EXPORTS Foo private @1 Dòng cuối cùng sẽ chỉ cho trình biên tập (linker) biết tên hàm sẽ được export. Hàm Entry-Point của DLL Một DLL có thể chứa rất nhiều hàm, nhưng có một hàm đặc biệt là hàm Entry-point (tạm dịch là hàm đầu vào). Theo định nghĩa của thư viện MSDN, hàm DLLMain() là điểm vào của một DLL (một DLL có thể tùy chọn có hoặc không có hàm này).Nếu như hàm này được sử dụng, nó có thể được gọi bởi hệ thống trong trường hợp: Các tiến trình và tuyến (thread) được khởi tạo hay kết thúc Khi có lời gọi tới hàm LoadLibrary hay FreeLibrary. Hàm này có một chút khác biệt so với các hàm khác trong DLL, theo nghĩa nó cho phép ta thực hiện một quá trình khởi tạo hoặc thu dọn nào đó theo nhu cầu của ta. Dưới đây là cấu trúc của một hàm DllMain: HINSTANCE g_hInstance; BOOL WINAPI DllMain(HINSTANCE hInstDLL,DWORD fdwReason,LPVOID lpvReserved) { switch(fdwReason) { case DLL_PROCESS_ATTACH: g_hInstance = hInstDLL; break;<br> case DLL_THREAD_ATTACH: break;<br> case DLL_THREAD_DETACH: break;<br> case DLL_PROCESS_DETACH: break; } return TRUE; } Hàm cung cấp cho ta bốn vị trí cho phép ta sử dụng để thực hiện việc dọn dẹp hay khởi tạo cụ thể trong ứng dụng, bao gồm: DLL_PROCESS_ATTACH: là giá trị của tham số fdwReson trong trường hợp một tiến trình nạp DLL lần đầu tiên. Mỗi ứng dụng sử dụng DLL này sẽ có một bản sao dữ liệu DLL riêng, trừ trường hợp ta sử dụng dữ liệu dùng chung cho các thể hiện của DLL này (DLL instances). DLL_THREAD_ATTACH: tương tự như DLL_PROCESS_ATTACH nhưng nó được dùng khi một tuyến (thread) gọi một hàm trong DLL. DLL_THREAD_DETACH: ngược lại với DLL_THREAD_ATTACH. Nó được gọi khi một tuyến kết thúc việc sử dụng DLL hoặc trong tuyến có lời gọi hàm FreeLibrary(). Các thao tác dọn dẹp tài nguyên mà ta đã cấp phát khi xử lý DLL_THREAD_ATTACH. DLL_PROCESS_DETACH: được dùng trong trường hợp một tiến trình gỡ bỏ ra khỏi DLL hoặc kết thúc việc dùng các hàm trong DLL, hoặc có lời gọi FreeLibrary(). Các thủ tục dọn dẹp các tài nguyên đã cấp phát trong DLL_PROCESS_ATTACH được thực hiện ở đây. Ta có thể loại bỏ các xử lý trong trường hợp DLL_THREAD_ATTACH và DLL_THREAD_DETACH bằng cách gọi hàm DisableThreadLibraryCalls(). Một điểm chú ý khác nữa là nếu có sự cấp phát bộ nhớ trong phạm vi DLL ở trong hàm Entry-point, thì nên dùng API TlsAlloc và TlsFree để thực hiện điều này (TLS: Thread Local Storage) Chi tiết các hàm trong bài viết xin xem thêm trong MSDN. Các loại liên kết động Liên kết động có hai dạng phụ thuộc vào cách nhúng thông tin vào trong file thực thi. Đó là liên kết không tường minh và liên kết tường minh (Implicit Linking và Explicit Linking). Liên kết không tường minh (Implicit Linking) Liên kết không tường minh hay liên kết ở thời điểm nạp (Load-time dynamic Linking) diễn ra ở thời điểm biên dịch, khi ứng dụng tạo một tham chiếu tới hàm DLL được export. Tại thời điểm mã nguồn của lời gọi đó được biên dịch, lời gọi hàm DLL dịch thành một hàm tham chiếu ngoài trong đối tượng mã. Để hiểu được tham chiếu ngoài này, ứng dụng phải liên kết với thư viện import (file có phần mở rộng là.LIB) đã được DLL tạo ra khi biên dịch. Ví dụ khi xây dựng một ứng dụng Windows sử dụng công cụ VC6: bản thân các cửa sổ chương trình không tự có mà phải được vẽ ra bởi chương trình. Tuy nhiên, khi lập trình với Windows, ta không phải lo lắng viết mã nguồn cho công việc này, bởi bản thân Windows đã cung cấp API đóng gói trong các DLL, được đặt trong thư mục hệ thống của Windows. Để sử dụng được các hàm đã có trong các DLL này, ta phải liên kết nó với ứng dụng của ta, bằng cách sử dụng các thư viện import như đã trình bày. Khi đã khai báo các thư viện import, ta có thể sử dụng các hàm các DLL tương ứng như đối với các hàm cục bộ viết trong chương trình. Thư viện import chỉ chứa các thông tin về thành phần được export từ DLL mà không có một dòng lệnh giúp trình biên tập (linker) xử lý các lời gọi hàm tới DLL. Khi trình biên tập tìm thấy thông tin về hàm export trong một file.lib, và giả sử như mã lệnh của hàm đó nằm trong một DLL có sẵn, thì để xử lý các tham chiếu đến hàm, trình biên tập phải nhúng thêm một số thông tin vào file thực thi cuối cùng, thành phần được dùng bởi bộ nạp hệ thống khi mà tiến trình khởi động. Khi bộ nạp (loader) chuẩn bị chạy một chương trình, trong đó có chứa các liên kết động, thì nó sẽ sử dụng thông tin được nhúng (ở thời điểm biên dịch, như đã nói ở trên) vào file thực thi chương trình để xác định các thư viện yêu cầu. Nếu như nó không thể tìm được DLL, thì hệ thống sẽ chấm dứt tiến trình và hiện ra một hộp thoại để thông báo lỗi tương ứng. Ngược lại, hệ thống sẽ nạp DLL (nếu như trước đó nó chưa được nạp) và ánh xạ các module DLL (hàm và lớp) vào trong không gian địa chỉ của tiến trình. Chú ý rằng mỗi tiến trình đều có một không gian địa chỉ riêng, do vậy nên nhiều tiến trình có thể sử dụng chung một DLL. Khi đó địa chỉ hàm được gọi sẽ nằm trong không gian này. Nếu như DLL nào đó có hàm Entry-point (như đã đề cập ở phần trước), hệ thống sẽ gọi hàm này. Tham số fdwReason sẽ có giá trị là DLL_PROCESS_ATTACH, xác định rằng DLL đang được gắn vào tiến trình. Nếu như giá trị trả về của hàm Entry-point không phải là TRUE, hệ thống sẽ bỏ dở việc nạp tiến trình và thông báo lỗi. Khi tất cả các bước trên diễn ra mà không có lỗi nào, cuối cùng thì bộ nạp (loader) sẽ cho phép các mã thực thi của tiến trình có thể gọi hàm DLL bất cứ khi nào tham chiếu đến nó được tạo ra. Các thành phần của DLL sẽ được ánh xạ sang không gian địa chỉ của tiến trình khi tiến trình bắt đầu chạy và nó chỉ được nạp vào bộ nhớ khi nào cần thiết. Liên kết tường minh (Explicit Linking) Liên kết tường minh hay còn gọi là liên kết ở thời điểm chạy (Run-time Dynamic Linking): sử dụng các con trỏ hàm ở thời điểm chạy chương trình để trỏ tới các hàm trong DLL mà ta cần sử dụng. Modul sẽ dùng hàm LoadLibrary hoặc hàm LoadLibraryEx để nạp DLL khi nào nó muốn sử dụng hàm trong DLL. Sau khi DLL đã được nạp, modul sử dụng hàm GetProcAddress để lấy về địa chỉ trỏ tới hàm xuất ra trong DLL và đưa vào một con trỏ hàm nào đó. Các thao tác tiếp theo của modul sẽ làm việc với con trỏ hàm này. Hầu hết các ứng dụng được phát triển đều sử dụng liên kết ở thời điểm nạp (load-time dynamic linking) bởi vì đó là cách liên kết dễ dàng nhất. Nhưng dựa vào một số các ràng buộc, thỉnh thoảng phương pháp trên là không cần thiết. Sau đây là một số trường hợp cụ thể nên dùng liên kết ở thời điểm chạy thay thế: Khi ứng dụng không biết tên của DLL hoặc thành phần export sẽ sử dụng để nạp. Ví dụ như ứng dụng có thể lưu giữ tên của DLL và thành phần export trong một file cấu hình. Sau khi chương trình đã đóng gói, việc thay đổi DLL đơn giản chỉ là việc thay đổi file cấu hình mà không phải biên dịch lại toàn bộ chương trình. Một tiến trình sử dụng liên kết ở thời điểm nạp có thể bị chấm dứt bởi hệ thống nếu như DLL không tìm thấy ở thời điểm bắt đầu chạy. Tuy nhiên, nếu sử dụng liên kết động ở thời điểm chạy thì chương trình không bị chấm dứt ngay, mà còn cho ta một số phương án để có thể khắc phục lỗi. Ví dụ như, khi không tìm thấy DLL, chương trình không dừng chương trình ngay lập tức mà có thể tùy chọn cho phép người dùng cung cấp một đường dẫn khác tới DLL. Một tiến trình sử dụng liên kết ở thời điểm nạp cũng có thể bị thoát nếu như một trong số các DLL nó liên kết đến có hàm Entry-point trả về giá trị không phải là TRUE. Trong khi đó tiến trình sử dụng liên kết ở thời điểm chạy không bị kết thúc trong trường hợp này nếu như ta có cách thức xử lý hợp lý. Một ứng dụng mà liên kết không tường minh tới quá nhiều DLL sẽ khởi động rất chậm bởi vị Windows nạp tất cả các DLL đó khi ứng dụng nạp để chạy. Để tăng hiệu suất khi khởi động, ứng dụng có thể có các liên kết không tường minh đến các DLL cần thiết được dùng ngay khi chương trình bắt đầu, và dùng liên kết tường minh tới các DLL khác ở thời điểm hợp lý hơn. Liên kết động ở thời điểm chạy sẽ loại bỏ được việc tạo các thư viện import. Nếu như những thay đổi trong DLL là do thứ tự export của các hàm thay đổi, ứng dụng sử dụng liên kết ở thời điểm chạy sẽ không phải liên kết lại (giả sử các lời gọi GetProcAddress với tham số là tên của hàm chứ không phải là giá trị chỉ số của hàm), còn các ứng dụng sử dụng liên kết ở thời điểm nạp sẽ phải liên kết lại tới thư viện import mới. Chú thích Định dạng tập tin Quản trị Windows Thư viện máy tính
Ban Tây Bắc hay còn gọi là hoa ban, ban trắng, ban sọc, móng bò sọc (danh pháp hai phần: Bauhinia variegata) là một loài thực vật có hoa trong họ Đậu (Fabaceae), có nguồn gốc ở miền đông nam châu Á, từ miền nam Trung Quốc kéo dài về phía tây tới Ấn Độ. Sinh học và phân bổ Cây bụi lớn hoặc gỗ nhỏ có thể cao tới 10-12 m. Tán cây dạng phân tán, thân cây dạng hợp trục. Cành non hơi có lông. Lá kép liền thân mọc cách. Kích thước phiến lá của nó dài khoảng 10-20 cm và rộng bản, tròn và lưỡng thùy ở gốc và đỉnh phiến lá. Mặt trên không lông, mặt dưới có ít lông. Hoa thường mọc ra từ nách lá còn non. Hoa của nó dễ thấy, có 5 cánh có màu thường là màu trắng có sọc hồng nhạt, tím hoặc là màu phớt tím có sọc tím đậm hơn, hồng nhạt có sọc đậm hơn. Đường kính hoa khoảng từ 8–12 cm. Mùa hoa vào tháng 3-4. Quả là loại quả đậu dài 15–30 cm, bên trong chứa vài hạt. Cây hàng năm rụng lá vào mùa khô. Thường phân bổ ở rừng bán rụng lá, savan hoặc ven rừng, ven làng bản. Khí hậu thích hợp là nhiệt đới gió mùa hoặc cận nhiệt đới. Nó mọc tự nhiên hoặc được trồng khắp miền Nam Trung Quốc, Việt Nam (phân bổ tự nhiên chỉ có ở Tây Bắc), Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar, Nepal, Ấn Độ. Tên và phân loại dưới loài Danh sách thứ Theo CatalogueofLife, NCBI và ThePlantList đang công nhận có 2 thứ/ giống của loài: Thứ/ giống Bauhinia variegata var. candida Thứ/ giống Bauhinia variegata var. variegata Theo Tropicos thì họ đang công nhận tồn tại 4 thứ/ giống: Thứ/ giống Bauhinia variegata var. alboflava de Wit Thứ/ giống Bauhinia variegata var. candida (Aiton) Buch.-Ham. Thứ/ giống Bauhinia variegata var. chinensis DC. Thứ/ giống Bauhinia variegata var. variegata L. Danh pháp đồng nghĩa Bauhinia chinensis Vogel Bauhinia decora Uribe Bauhinia variegata var. chinensis DC. Phanera variegata (L.) Benth. Sử dụng Cây được trồng làm cây cảnh quan đường phố, cảnh quan khuôn viên. Hoa ăn được như là món nộm hoặc dùng nấu canh. Gỗ dùng đóng các đồ dùng thông thường hoặc dùng làm củi đun. Ở Ấn Độ theo liều lượng dùng và cách chế biến khác nhau mà vỏ dùng làm thuốc hàn vết thương, chữa bệnh ngoài da, loét và tràng nhạc. Chồi khô dùng trị lỵ, trị ỉa chảy và trị giun; sắc nước rễ trị đầy hơi, trướng bụng và trị nọc rắn cắn. Thư viện ảnh Hoa ban trắng Hoa ban tím Chú thích
Dương tử kinh (danh pháp hai phần: Bauhinia blakeana) (chữ Hán: ) (người Việt Nam thường gọi là hoa móng ngựa hoặc là hoa móng bò) là một loại cây thân gỗ thường xanh, thuộc về chi Ban (Bauhinia), với các lá to và dày cùng các hoa đỏ ánh tía nổi bật. Các hoa tương tự như hoa phong lan, có mùi thơm thông thường có kích thước cỡ 10–15 cm, nở từ khoảng đầu tháng 11 năm trước đến cuối tháng 3 năm sau. Đôi khi nó còn được gọi là lan Hồng Kông ( - hương cảng lan). Hình dáng của lá lưỡng thùy tương tự như hình trái tim, dài 7–10 cm và rộng 10–13 cm, với kẽ nứt phân chia phần đỉnh phiến lá. Người Hồng Kông gọi nó lá này là thông minh diệp (聰明葉, "lá thông minh") và coi nó như là biểu tượng của sự thông minh. Một số người còn dùng lá để làm vật đánh dấu sách với hy vọng nó sẽ hỗ trợ họ học hành tốt hơn. Tuy nhiên, thông thường nó là vô sinh (không tạo hạt), điều này làm một số người cho rằng nó có nguồn gốc là một loại cây lai ghép, có lẽ là giữa ban trắng (Bauhinia variegata) và ban tía (Bauhinia purpurea), mặc dù điều này vẫn còn là một vấn đề gây tranh cãi. Việc nhân giống được thực hiện bằng cách chiết, ghép cành, và loài cây này ưa thích nơi nhiều ánh sáng và đất tốt. Lịch sử Tên khoa học của nó lấy theo tên gọi của Henry Blake, tổng trấn Hồng Kông thuộc Anh từ 1898 đến 1903. Là một nhà thực vật học có nhiệt tâm, ông đã phát hiện ra nó vào năm 1880 ở gần một khu nhà hoang bên bờ biển đảo Hồng Kông gần Bạc Phù Lâm (). Miêu tả khoa học đầu tiên về loài lan Hồng Kông này đã được S. T. Dunn, một người quản lý của "Cục thực vật và lâm nghiệp", công bố vào năm 1908. Ông đã đưa nó vào chi Bauhinia và đặt tên nó theo tên của Henry Blake. Biểu tượng Bauhinia blakeana đã được Hội đồng thị chính Hồng Kông phê chuẩn là biểu tượng của Hồng Kông vào năm 1965. Kể từ năm 1997, nó đã trở thành loài hoa biểu tượng cho đặc khu hành chính Hồng Kông của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và nó xuất hiện trên lá cờ của Hồng Kông, khu huy Hồng Kông và cũng như trên các đồng đô la Hồng Kông; tên gọi trong tiếng Trung gần đây cũng đã được làm ngắn gọn lại thành tử kinh () do dương () còn có nghĩa là "nước ngoài" trong ngôn ngữ này và điều đó có thể bị coi là không thích hợp đối với chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Một bức tượng mô phỏng loài hoa này cũng đã được dựng lên tại Quảng trường Golden Bauhinia ở Hồng Kông. Một điều thú vị là mặc dù hoa của nó có màu tía ánh hồng tươi màu nhưng nó lại được vẽ thành màu trắng trên lá cờ của Hồng Kông. Loài thực vật đặc hữu này của Hồng Kông cũng đã được đưa vào Đài Loan năm 1967. Vào năm 1984 nó đã được bầu chọn là loài hoa của thành phố Gia Nghĩa (嘉義), miền tây nam Đài Loan. Chú thích
Hungary (; phiên âm là Hung-ga-ri) là một quốc gia không giáp biển thuộc khu vực Trung Âu. Có diện tích thuộc lưu vực Carpathian, nước này giáp với Slovakia về phía bắc, Ukraine về phía đông bắc, Romania về phía đông và đông nam, Serbia về phía nam, Croatia và Slovenia về phía tây nam, và Áo ở phía tây. Hungary là một quốc gia không giáp biển và có dân số 10 triệu người, chủ yếu là người Hungary gốc và một dân tộc thiểu số Romani đáng kể. Tiếng Hungary, ngôn ngữ chính thức , là ngôn ngữ Uralic được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới và nằm trong số ít các ngôn ngữ không thuộc Ấn-Âu được sử dụng rộng rãi ở châu Âu. Budapest là thủ đô và thành phố lớn nhất của đất nước này; các khu vực đô thị lớn khác bao gồm Debrecen, Szeged, Miskolc, Pécs và Győr. Lãnh thổ của Hungary ngày nay trong nhiều thế kỷ đã là nơi qua lại của nhiều dân tộc khác nhau, bao gồm người Celt, người La Mã, các sắc tộc Đức, người Hung, người Tây Slav và người Avar. Nền tảng của nhà nước Hungary được thành lập vào cuối thế kỷ thứ chín sau Công nguyên với cuộc chinh phục lưu vực Carpathian của hoàng tử Hungary Árpád. Cháu cố của ông là Stephen I lên ngôi vào năm 1000, chuyển đổi vương quốc của mình thành một vương quốc Cơ đốc giáo. Đến thế kỷ 12, Hungary trở thành một cường quốc trong khu vực, đạt đến tầm cao văn hóa và chính trị vào thế kỷ 15. Sau Trận Mohács năm 1526, vương quốc này bị Đế chế Ottoman chiếm đóng một phần (1541–1699). Hungary nằm dưới sự cai trị của nhà Habsburg vào đầu thế kỷ 18, sau đó sát nhập với Đế quốc Áo để thành lập Đế quốc Áo-Hung, một cường quốc vào đầu thế kỷ 20. Đế quốc Áo-Hung sụp đổ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất và Hòa ước Trianon sau đó đã thiết lập biên giới hiện tại của Hungary, dẫn đến việc mất 71% lãnh thổ, 58% dân số và 32% dân số sắc tộc Hungary. Sau thời kỳ hỗn loạn giữa các cuộc chiến, Hungary gia nhập phe Trục trong Thế chiến thứ hai, chịu thiệt hại và thương vong đáng kể. Hungary thời hậu chiến trở thành một quốc gia vệ tinh của Liên Xô, dẫn đến việc thành lập Cộng hòa Nhân dân Hungary. Sau vụ bạo động thất bại vào năm 1956, Hungary trở thành một thành viên tương đối tự do hơn trong khối Đông Âu, mặc dù vẫn có trấn áp các nhóm chống đối. Việc Hungary dỡ bỏ hàng rào biên giới với Áo đã đẩy nhanh sự sụp đổ của Khối phía Đông, và sau đó là Liên Xô. Ngày 23 tháng 10 năm 1989, Hungary trở thành một nước cộng hòa dân chủ nghị viện. Hungary gia nhập Liên minh Châu Âu năm 2004 và là một phần của Khu vực Schengen từ năm 2007. Hungary là một cường quốc tầm trung trong các vấn đề quốc tế, phần lớn là do ảnh hưởng về văn hóa và kinh tế của nó. Nước này được coi là một quốc gia phát triển với nền kinh tế thu nhập cao và xếp hạng "rất cao" trong Chỉ số Phát triển Con người, với công dân được chăm sóc sức khỏe toàn dân và giáo dục trung học miễn phí. Hungary có một lịch sử lâu đời với những đóng góp đáng kể về nghệ thuật, âm nhạc, văn học, khoa học và công nghệ. Đây là điểm đến du lịch nổi tiếng thứ mười ba ở châu Âu, thu hút 15,8 triệu khách du lịch quốc tế vào năm 2017. Hungary là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế, bao gồm Liên Hợp Quốc, NATO, WTO, Ngân hàng Thế giới, IIB, AIIB, Hội đồng Châu Âu và Nhóm Visegrád. Lịch sử Thời kỳ Tiền Magyar (trước năm 896) Sau khi Đế chế Tây La Mã sụp đổ trước sự xâm nhập của các bộ tộc Đức và Carpath, nhiều dân tộc khác nhau đã di chuyển đến châu Âu sinh sống. Một trong số sớm nhất đó là người Hung, những người đã xây dựng hẳn một đế chế hùng mạnh tại châu Âu với vị thủ lĩnh nổi tiếng Attila. Trước đây có ý kiến cho rằng Attila là vị vua đầu tiên khai sinh ra dân tộc Hungary nhưng ngày nay, nhiều ý kiến lịch sử lại cho rằng nguồn gốc tên gọi "Hungary" không phải đến từ bộ lạc du mục người Trung Á này mà bắt nguồn từ người Magyar (chính là người Hungary sau này) vào thế kỷ VII, lúc đó là một phần của Liên minh Bulgar với tên gọi On-Ogour, có nghĩa là "Mười Mũi Tên". Sau khi đế chế của người Hung suy tàn, bộ tộc Đức Ostrogoth và sau đó là người Lombard đã đến vùng đồng bằng Pannonia, người Gepid đồng thời cũng hiện diện tại phía đông bồn địa Carpath trong vòng 100 năm. Vào khoảng năm 560, người Avar thành lập nước Avar Khaganate hùng mạnh, chinh phục các dân tộc láng giềng. Đất nước này sau đó bị suy yếu bởi những cuộc chinh chiến liên miên rồi kết thúc sự tồn tại 250 năm sau đó khi người Frank dưới sự lãnh đạo của Charlemagne tiến vào chinh phục từ phía tây và người Bulgaria dưới sự lãnh đạo của Krum uy hiếp từ phía đông. Không một quốc gia nào được thành lập trên lãnh thổ Hungary sau đó cho đến khi Arpad, thủ lĩnh của người Magyar (Hungary) thống nhất các bộ lạc Magyar lại và tiến vào vùng đồng bằng Pannonia sinh sống năm 896. Hungary thời trung cổ (896 – 1526) Hungary là một trong những quốc gia có lịch sử lâu đời nhất tại châu Âu. Đất nước này được thành lập năm 996, trước khi những tiểu vương quốc ở Pháp hay Đức được thành lập và sớm hơn cả sự thống nhất các vương quốc Anglo-Saxon tại đảo Anh. Nước Hungary trung cổ có diện tích lớn hơn nước Pháp và dân số đứng hàng thứ ba tại châu Âu lúc bấy giờ. Vào thế kỷ IX, Arpad, một thủ lĩnh người Magyar đã thống nhất các bộ lạc Magyar lại rồi đưa họ vào vùng đồng bằng Pannonia sinh sống. Với một lực lượng quân đội hùng mạnh, người Hungary đã mở nhiều cuộc chiến tranh chinh phục và thậm chí đã từng tấn công sang tận Tây Ban Nha. Đến thời hoàng tử Geza, ông đã quyết định đưa đất nước Hungary tiến theo mô hình chính trị và xã hội của các nước Tây Âu và trở thành một quốc gia theo Công giáo. Năm 1000 công nguyên, Vương quốc Hungary theo Công giáo được thành lập với sự kiện vua István I đăng quang với chiếc vương miện được gửi đến từ giáo hoàng. Ông là con trai của Geza và mang dòng máu của thủ lĩnh Arpad. Năm 1006, vua István I củng cố quyền lực, tiêu diệt những người đối lập theo truyền thống tôn giáo nguyên thủy hoặc định liên minh với Đế chế Byzantine. Ông hoàn thành việc biến Hungary thành một nhà nước phong kiến theo Công giáo, đồng thời mở rộng đáng kể lãnh thổ và dân cư. Năm 1222, vua Hungary András II khởi xướng Bộ luật Vàng (Golden Bull) của Hungary, có thể coi như bản hiến pháp đầu tiên trên lục địa châu Âu và tương tự như Magna Carta tại Anh mà sau đó, tất cả các vua Hungary khi đăng quang phải tuyên thệ. Bộ luật Vàng này hạn chế bởi quyền hạn của nhà vua và mở rộng quyền lực của giới quý tộc, hợp pháp hóa quyền bất tuân lệnh cũng như các quyền lợi khác của họ. Sau đó không lâu, Nghị viện Hungary được thành lập. Khoảng năm 1241-1242, đất nước Hungary bị tàn phá nặng nề trước sự xâm lăng hung hãn của quân Mông Cổ, lúc đó đang tấn công khắp nhiều vùng đất từ châu Á đến châu Âu. Các nhà sử học đã ước tính có khoảng một nửa trong số 2 triệu dân của Hungary bấy giờ đã thiệt mạng trong chiến tranh. Sau khi quân Mông Cổ rút đi, vua Béla IV đã củng cố lại sức mạnh phòng thủ của đất nước và cho xây dựng lại nhiều pháo đài bằng đá. Kết quả là khi người Mông Cổ lại sang xâm lấn năm 1286, họ đã bị hệ thống phòng thủ của người Hungary chặn lại và bị đánh thua tại Pest. Vương triều Arpad tồn tại đến năm 1301 thì chấm dứt. Sau đó, vua Károly Róbert, người có họ ngoại với Arpad đã lên ngôi và trở thành vị vua đầu tiên của triều đại Angevin. Dưới sự cai trị của ông, nhiều chính sách tài chính và tiền tệ đã được tiến hành, thúc đẩy nền kinh tế Hungary phát triển, nhiều đô thị phát triển rực rỡ. Vị vua tiếp nới của triều đại Angevin là Lajos I Đại đế (1342-1382) đã đưa lãnh thổ Hungary mở rộng từ bờ Biển Đen đến biển Adriatic và sau đó còn trở thành vua của Ba Lan, tạo tiền đề cho mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước Hungary - Ba Lan. Sau Ý, Hungary là quốc gia đầu tiên tại lục địa châu Âu xuất hiện phong trào Phục Hưng. Năm 1472, một xưởng in chính thức được thành lập tại thành phố Buda. Dưới triều vua Mátyás Corvin (1458-1490), Hungary trở thành một trung tâm văn hóa lớn của châu Âu. Thư viện Bibliotheca Corviniana là bộ sưu tập lớn nhất châu Âu các bộ biên niên sử, các tác phẩm triết học và khoa học trong thế kỷ XV. Thư viện này đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới. Vào cuối thế kỷ XV, Hungary bắt đầu suy tàn dưới sự cai trị của vị vua bất tài Ulászló II. Năm 1514, một cuộc khởi nghĩa nông dân bùng nổ tại Hungary nhưng sau đó bị giới quý tộc đàn áp đẫm máu. Trong khi đó, Đế chế Ottoman ngày một lớn mạnh và uy hiếp Hungary. Năm 1521, pháo đài quan trọng bậc nhất của Hungary tại Beograd ngày nay thất thủ, và đến năm 1526, quân đội Hungary bị tiêu diệt trong trận Mohács. Cuộc cải cách tôn giáo diễn ra cùng thời gian đó tại châu Âu càng khiến Hungary trở nên hỗn loạn và tiến đến bờ vực sụp đổ. Sự chiếm đóng của Ottoman giai đoạn 1526-1686 Thất bại tại trận Mohács với sự kiện vua Lajos II tử trận đã mở đầu một thời kỳ hỗn loạn kéo dài tại đất nước Hungary. Giới quý tộc Hungary cùng lúc bầu lên hai vị vua là Ferdinand Habsburg (1526-1540) và János Szapolyai (1527-1540), hai bên xây dựng quân đội của riêng mình và đánh lẫn nhau khiến đất nước ngày càng suy yếu. Năm 1541, người Ottoman chinh phục được thành phố Buda và khiến Hungary vỡ thành ba mảnh: một phần ba ở phía tây bắc nằm dưới sự cai trị của triều đình Habsburg, một phần ba ở miền trung (thuộc lãnh thổ Hungary ngày nay) bị Ottoman và một phần ba ở phía đông trở thành Công quốc Transilvania, một nước lớn bán độc lập, chư hầu của Ottoman. Khoảng 150 năm sau đó, triều đình Habsburg đã giành lại toàn bộ quyền kiểm soát Hungary. Trong thời gian này, thành phố Pozsony, tức Bratislava (thủ đô Slovakia ngày nay) đã trở thành thủ đô mới của Hungary. Thành phố Nagyszombat (nay là Trnava) trở thành một trung tâm tôn giáo lớn. Từ năm 1604 đến năm 1711, những cuộc chiến chống lại ách áp bức của người Áo cũng tăng lên, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Rakoczi Ferenc nhưng sau đó đã bị thất bại. Từ Cách mạng Hungary 1848 đến Đế chế Áo-Hung Ngày 15 tháng 3 năm 1848, những cuộc biểu tình lớn nổ ra trên các đường phố Pest và Buda trong cao trào cách mạng tư sản đang lan khắp châu Âu năm 1848. Đối mặt với những cuộc nổi dậy liên tiếp ngay tại chính kinh đô Viên, triều đình Habsburg đã phải tạm thời chấp nhận những yêu cầu của người Hungary. Nhưng sau khi cuộc cách mạng tại Áo bị đàn áp, triều đình Habsburg đã kích động người Croatia, Serbia và Romania chống lại chính phủ Hungary. Chính phủ cách mạng của Hungary cũng nhận được sự ủng hộ của một bộ phận lớn người Slovak, Đức, Rusyn, Do Thái. Tướng János Damjanich, một người Serbia đã trở thành người anh hùng lịch sử của dân tộc Hungary khi lãnh đạo một đội quân cách mạng của nước này. Lúc ban đầu, quân đội Hungary đã giành được một số thắng lợi bước đầu nhưng sau khi triều đình Habsburg cầu viện nước Nga, quân Nga hoàng đã tràn vào và dập tắt cuộc khởi nghĩa. Ngày 6 tháng 10 năm 1849, 13 vị tướng lĩnh trong quân đội cách mạng Hungary và thủ tướng Lajos Batthyany đã bị xử tử. Sau khi nước Áo bị quân Phổ đánh bại năm 1866, để củng cố quyền lực của mình tại châu Âu, đế quốc Áo đã liên kết với vương quốc Hungary để thành lập Đế quốc Áo-Hung (năm 1867). Đế quốc Áo-Hung gồm 2 phần là Áo và Hungary, mỗi nước có chính phủ và các chính sách quân sự, đối ngoại riêng biệt với nhau. Thời kỳ này, Vương quốc Hungary đã có những bước tiến ấn tượng về mặt kinh tế, bước đầu được công nghiệp hóa mặc dù cơ cấu kinh tế vẫn chủ yếu dựa trên nông nghiệp, còn khá lạc hậu so với các nước tư bản Tây Âu. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Áo-Hung chiến đấu bên phe Liên minh Trung tâm của Đế chế Đức, Bulgaria và Đế chế Ottoman. Những khó khăn về kinh tế, các thất bại quân sự cũng như sự bất mãn của người dân đã khiến Đế quốc Áo-Hung sụp đổ hoàn toàn vào năm 1918, trên cơ sở đó hình thành các quốc gia mới là Áo, Tiệp Khắc và Hungary. Hungary giữa hai cuộc thế chiến Vào tháng 3 năm 1919, những người cộng sản giành chính quyền ở Hungary. Vào tháng 4, Béla Kun tuyên bố thành lập Cộng hòa Xô viết Hungary, tuy nhiên chính thể xô viết này chỉ tồn tại được một thời gian ngắn ngủi. Vào ngày 13 tháng 6 năm 1919, Hội nghị Hòa bình Versailles đã ra lệnh cho Hungary phải từ bỏ các lãnh thổ phía bắc và Romania phải rời khỏi Tiszántúl. Hungary đã tuân thủ mệnh lệnh đó tính cho đến ngày 30 tháng 6 năm 1919. Nhưng quân đội Romania đã từ chối không chịu rời khỏi Tiszántúl. Chiến tranh nổ ra sau đó giữa Hungary và Romania đã dẫn tới thất bại của Hồng quân Hungary. Tính đến tháng 8 năm 1919, hơn một nửa của Hungary ngày nay, bao gồm cả Budapest, bị chiếm đóng bởi Romania. Sự chiếm đóng của quân Romania kéo dài đến tháng 11 năm 1919 khi quân đội Romania rút đi. Lực lượng quân đội cánh hữu Hungary, lãnh đạo bởi cựu Đô đốc Áo-Hungary Miklós Horthy, tiến vào Budapest ngay sau khi quân đội Romania rút đi và lấp đầy chỗ trống của quyền lãnh đạo nhà nước. Vào tháng 1 năm 1920, bầu cử diễn ra để bầu một quốc hội đa nguyên. Đô đốc Horthy được bầu vào chức thủ tướng, do đó đã phục hồi lại chính thức hoàng gia Hungary. Tuy nhiên, không còn có "Vua của Hungary" nữa mặc cho các cố gắng của nhà cai trị Habsburg trước đó để trở lại vị trí nắm quyền. Horthy đã nắm quyền thủ tướng cho đến 16 tháng 10 năm 1944. Nhưng sau năm 1932, các xu hướng độc tài đã dần dần trở lại vì ảnh hưởng của chủ nghĩa Phát xít và Đại khủng hoảng. Vào 4 tháng 6 năm 1920, Hòa ước Trianon được ký kết, thiết lập các đường biên giới của Hungary. Hungary mất 71% lãnh thổ và khoảng 66% dân số. Khoảng 1/3 dân số Magyar trở thành dân tộc thiểu số ở các nước lân cận. Hungary cũng bị mất cảng biển duy nhất tại Fiume (ngày nay là Rijeka). Do đó, chính trị Hungary và văn hóa thời kỳ giữa hai cuộc thế chiến bị ảnh hưởng lớn bởi chủ nghĩa khôi phục lại tổ quốc trong quá khứ. Xuyên suốt thời kì này kinh tế Hungary hết sức mất ổn định, tuy trở nên phồn thịnh sau chiến tranh nhưng lại tổn thất nặng trong và sau Đại khủng hoảng, và ổn định chỉ hơi ổn định một chút trước khởi đầu của Chiến tranh thế giới thứ hai. Nước này xích lại gần hơn các quốc gia phát xít Đức và Ý trong những năm của thập kỉ 1930 với cố gắng làm đảo ngược một số hậu quả của Hòa ước Trianon, với việc một số lãnh thổ bị mất trước kia được Đức và Ý nhượng lại cho Hungary. Hungary trong Chiến tranh thế giới thứ hai Vào năm 1941, Hungary tham dự cuộc xâm lược Nam Tư, chiếm được một số đất đai và tham dự vào Phe Trục trong quá trình đó (để phản đối, thủ tướng Pál Teleki đã tự sát). Vào 22 tháng 6 1941, khi quân Đức xâm lược Liên Xô trong Chiến dịch Barbarossa, Hungary tuyên chiến vào ngày 26 tháng 6, tham dự Chiến tranh thế giới thứ hai. Vào cuối năm 1941, quân Hungary ở Mặt trận phía đông đã chiến thắng tại Trận Uman. Đến năm 1943, sau khi Quân đoàn Hungary thứ 2 chịu thất bại nặng nề tại sông Don, nhà nước Hungary tìm cách thương lượng đầu hàng quân Đồng Minh. Vào ngày 19 tháng 3 năm 1944, để đối phó với sự trở mặt này, quân Đức lặng lẽ chiếm Hungary trong Chiến dịch Margarethe. Nhưng, đến bây giờ thì người ta biết rõ là người Hungary không muốn làm vệ tinh cho Đức. Vào ngày 15 tháng 10 1944, Horthy đã cố gắng yếu ớt để đưa đất nước ra khỏi cuộc chiến. Lúc này quân Đức mở Chiến dịch Panzerfaust và Horthy được thay thế bởi một nhà nước bù nhìn dưới quyền thủ tướng thân Đức Ferenc Szálasi. Szálasi và Đảng Mũi tên Chữ thập thân phát xít của ông ta trung thành với quân Đức cho đến hết cuộc chiến. Vào cuối năm 1944, quân Hungary ở Mặt trận phía đông lại chiến thắng một lần nữa ở trận đánh Debrecen. Nhưng ngay lập tức sau đó là sự xâm lăng Hungary của quân độ Xô viết và trận đánh Budapest. Trong khi quân Đức chiếm đóng vào tháng 5-6 năm 1944, Đảng Mũi tên Chữ thập và cảnh sát Hungary đã trục xuất gần 440.000 dân Do Thái, đa số là đến trại tập trung Auschwitz. Cuộc chiến đã làm Hungary thiệt hại nặng nề và tổn thất 60% nền kinh tế làm tổn thất nhiều nhân mạng. Vào 13 tháng 2 năm 1945, thành phố thủ đô Hungary đầu hàng không điều kiện. Vào 8 tháng 5 năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu chính thức chấm dứt. Thời đại Xô viết 1945-1989 Sau khi Phát xít Đức thất bại, quân đội Xô viết đã tiến vào hầu hết nước này. Chính phủ thân Đức Quốc xã bị giải tán, và qua ảnh hưởng của Liên Xô, Hungary dần dần trở thành một nước xã hội chủ nghĩa thân cận với Liên Xô. Sau năm 1948, lãnh đạo Cộng sản Rákosi Mátyás đã thiết lập chế độ kiểu Stalin với bắt buộc hợp tác xã hóa và kinh tế kế hoạch. Sự cầm quyền của nhà nước Rákosi đã vượt quá sức chịu đựng của người dân Hungary sau chiến tranh. Điều này đã dẫn tới cuộc chính biến tại Hungary 1956 và Hungary tạm thời rút lui khỏi khối Hiệp ước Warszawa. Liên Xô đã trả đũa mạnh mẽ với biện pháp vũ trang, gửi trên 150.000 quân và 2.500 xe tăng. Gần 200.000 người đã bỏ chạy khỏi đất nước để tránh chiến sự khi các biên giới để ngỏ vào năm 1956. Từ những năm thập niên 1960 đến cuối những năm thập niên 1980, tình hình trong nước Hungary tương đối yên tĩnh, kinh tế phát triển nhanh nhờ công nghiệp hóa. Trong thời kỳ này, đời sống nhân dân được cải thiện nhanh chóng, các ngành công nghiệp Hungary có sự phát triển nhanh. Điều này xảy ra dưới thời cầm quyền của nhà lãnh đạo mà vai trò còn nhiều tranh cãi, János Kádár. Người lính Xô viết cuối cùng rời đất nước Hungary vào năm 1991 và kết thúc sự hiện diện của quân đội Liên Xô ở Hungary. Cộng hòa Hungary 1989-đến nay Trong cuối thập kỉ 1980, Hungary đã dẫn đầu phong trào giải tán Hiệp ước Warszawa và chuyển sang một thể chế đa đảng. Điều này nghĩa là mặc dù có nhiều ứng cử viên, đảng cộng sản, MSZMP, vẫn không được đem ra bàn cãi. Tuy nhiên, các ứng cử viên độc lập được bầu lên để phản đối lại đảng. Vào thời điểm đó, áp lực cải cách tăng dần từ bên trong đảng. Họ cũng di chuyển về phía một nền kinh tế thị trường. Vào 23 tháng 10 năm 1989, Mátyás Szűrös tuyên bố thành lập Cộng hòa Hungary thứ III và trở thành tổng thống lâm thời. Bầu cử đa đảng ở Hungary diễn ra lần đầu tiên vào năm 1990. Theo sau sự tan rã của Liên Xô vào năm 1991, Hungary phát triển một mối quan hệ gần gũi hơn với Tây Âu cũng như các nước Trung Âu. Nước này trở thành một thành viên của nhóm Visegrad vào năm 1991, gia nhập NATO năm 1999, và trở thành một nước thành viên của Liên minh châu Âu vào 1 tháng 5 năm 2004. Địa lý Hungary nằm ở Trung Âu, Bắc giáp Slovakia, Đông giáp Ukraina và România, Nam giáp Serbia và Croatia, Tây giáp Slovenia và Áo. Địa lý của Hungary theo truyền thống được xác định bởi hai con sông chính: sông Danube và sông Tisza. Đất nước được chia thành ba miền địa lý: Dunántúl ("vượt qua sông Danube", Transdanubia), Tiszántúl ("ngoại Tisza"), và Duna-Tisza köze ("giữa sông Danube và Tisza"). Dòng Danube chảy theo hướng bắc-nam thông qua trung tâm Hungary hiện tại, và cả đất nước này nước nằm trong lưu vực thoát nước. Transdanubia, trải dài về phía tây trung tâm của đất nước cho đến Áo, là một vùng đồi núi chủ yếu với địa hình đa dạng bởi các ngọn núi thấp. Chúng bao gồm dải Alps ở phía đông, Alpokalja ở phía tây của đất nước. Dãy núi Transdanubian ở vùng trung tâm Transdanubia, dãy núi Mecsek và dãy núi Villány ở phía nam. Các vùng đồng bằng Alfold ở bắc Transdanubia. Hồ Balaton và hồ Hévíz là các hồ lớn nhất ở Trung Âu và hồ nhiệt đới lớn nhất trên thế giới, cũng như ở Transdanubia. Kisalfold trải dài trên hầu hết các khu vực phía đông và đông nam của đất nước. Phía bắc của vùng đồng bằng là chân núi Carpathians gần biên giới Slovakia. Kékes là ngọn núi cao nhất ở Hungary với độ cao 1.014 m. Theo WWF, lãnh thổ của Hungary thuộc vùng sinh thái của rừng hỗn giao Pannonian. Hungary có 10 vườn quốc gia, 145 khu bảo tồn thiên nhiên nhỏ và 35 khu bảo vệ cảnh quan. Khí hậu Khí hậu Hungary nằm trong miền khí hậu lục địa khô, mùa đông lạnh, mùa hè nóng và ẩm. Chính kiểu khí hậu này tạo điều kiện cho sự phát triên các thảm thực vật thảo nguyên phục vụ cho ngành chăn nuôi trên các đồng cỏ. Lượng mưa lớn và giảm dần từ Tây sang Đông. Môi trường Ô nhiễm không khí; ô nhiễm đô thị và công nghiệp (hồ Balaton); vấn đề cải thiện môi trường khi gia nhập Liên hiệp châu Âu đòi hỏi một khoản đầu tư khá lớn (4 tỉ USD/ 6 năm). Chính trị Thể chế nhà nước Hungary theo mô hình Cộng hòa nghị viện. Tổng thống do Quốc hội bầu, nhiệm kỳ 5 năm. Quốc hội 1 viện gồm 386 ghế, hình thành từ danh sách trúng cử của các đảng có chân trong Quốc hội (phải đạt 5% tổng số phiếu bầu hợp lệ trở lên) và các đại biểu thắng cử trực tiếp tại các khu vực bầu cử. Quốc hội có nhiệm kỳ 4 năm. Thủ tướng do Tổng thống đề cử từ đảng hoặc liên minh giành được đa số trong Quốc hội và phải được Quốc hội bỏ phiếu thông qua. Các thành viên Chính phủ do Thủ tướng đề cử và Tổng thống bổ nhiệm. Các đảng phái chính Liên minh Công dân Hungary - FIDESZ, chiếm 263 ghế trong Quốc hội, Chủ tịch Đảng: Viktor Orban; Đảng XHCN Hungary - MSZP, chiếm 59 ghế trong Quốc hội, Chủ tịch Đảng: Atilla Mesterhazy; Phong trào vì một Hungary tốt đẹp hơn - JOBBIK, chiếm 47 ghế trong Quốc hội, Chủ tịch: Gabor Vona; Đảng "Chính trị có thể khác đi" - LMP, chiếm 16 ghế trong Quốc hội. Phân cấp hành chính Hungary là một quốc gia thống nhất, được chia thành 19 hạt (megye). Ngoài ra, thủ đô (főváros) của nước này-Budapest, là một thực thể độc lập, không thuộc bất cứ tỉnh nào. Các hạt và thủ đô là 20 đơn vị NUTS cấp 3 của Hungary. Các tỉnh được chia tiếp thành 174 quận (járás) tính đến ngày 1 tháng 1 năm 2013. Ngoài ra còn có 23 thị trấn có quy chế cấp quận (megyei jogú város). Chính quyền địa phương của các thị trấn này được mở rộng quyền hạn, nhưng các thị trấn này thuộc về lãnh thổ của quận tương ứng thay vì là các đơn vị lãnh thổ độc lập. Hội đồng quận và các đô thị có vai trò khác nhau và trách nhiệm riêng biệt liên quan đến chính quyền địa phương. Vai trò của các quận về cơ bản là hành chính và tập trung vào phát triển chiến lược, trong khi các trường mẫu giáo, các công trình nước công cộng, xử lý rác thải, chăm sóc người cao tuổi và các dịch vụ cứu hộ được quản lý bởi các đô thị. Từ năm 1996, các quận trên và thành phố Budapest đã được gộp lại thành 7 vùng nhằm mục đích thống kê và phát triển. Bảy khu vực này tạo thành các đơn vị cấp hai của NUTS ở Hungary, bao gồm: Vùng Trung tâm Hungary, vùng Trung Transdanubia, vùng Bắc Đồng bằng Lớn, vùng Bắc Hungary, vùng Nam Transdanubia, vùng Nam Đồng bằng lớn, và vùng Tây Transdanubia. Đối ngoại Hungary có ảnh hưởng đáng kể ở Trung và Đông Âu và là một cường quốc trong các vấn đề quốc tế. Các chính sách đối ngoại của Hungary được dựa trên bốn cam kết cơ bản: Hợp tác với các nước Đại Tây Dương, hội nhập châu Âu, phát triển quốc tế và tuân theo luật pháp quốc tế. Nền kinh tế Hungary khá cởi mở và dựa rất nhiều vào thương mại quốc tế. Hungary là thành viên của Liên Hợp Quốc kể từ tháng 12 năm 1955 và là thành viên của Liên minh châu Âu, NATO, OECD, Tập đoàn Visegrád, WTO, Ngân hàng Thế giới, AIIB và IMF. Hungary đã đảm nhận vị trí chủ tịch của Hội đồng Liên minh châu Âu trong nửa năm vào năm 2011 và tiếp theo là vào năm 2024. Năm 2015, Hungary là nhà tài trợ phát triển OECD, DAC lớn thứ năm trên thế giới, chiếm 0,13% Tổng thu nhập quốc dân. Thành phố thủ đô của Hungary, Budapest, là nơi có hơn 100 đại sứ quán và cơ quan. Đây cũng là nơi đặt trụ sở chính nhiều tổ chức quốc tế, trong đó có Viện Đổi mới và Công nghệ Châu Âu, Trường Cao đẳng Cảnh sát châu Âu, Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn, Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc, Trung tâm Quốc tế về chuyển đổi Dân chủ, Viện Giáo dục Quốc tế, Tổ chức Lao động quốc tế, Tổ chức di trú Quốc tế, Hiệp hội Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế, Trung tâm môi trường khu vực Trung và Đông Âu, Ủy ban Danube và các tổ chức khác. Từ năm 1989, mục tiêu chính sách đối ngoại hàng đầu của Hungary đã đạt được sự hội nhập vào các tổ chức kinh tế và an ninh phương Tây. Hungary đã tham gia chương trình Đối tác vì Hòa bình vào năm 1994 và đã tích cực hỗ trợ các nhiệm vụ hòa bình ở Bosna. Hungary từ năm 1989 cũng đã cải thiện mối quan hệ láng giềng bằng cách ký kết các hiệp ước cơ bản với România, Slovakia và Ukraina. Những điều này từ bỏ tất cả các yêu sách lãnh thổ nổi bật và đặt nền tảng cho các mối quan hệ mang tính xây dựng. Tuy nhiên, vấn đề về quyền dân tộc thiểu số Hungary ở România, Slovakia và Serbia khiến căng thẳng song phương bùng lên. Kể từ năm 2017, quan hệ với Ukraina nhanh chóng xấu đi về vấn đề người Hungary ở Ukraina. Hungary từ năm 1989 đã ký kết tất cả các hiệp ước liên quan đến OSCE và làm Chủ tịch Văn phòng của OSCE vào năm 1997. Kinh tế Ngay từ những năm 1960, Hungary đã tìm cách tự do hóa nền kinh tế một cách giới hạn và từ năm 1990 đã chuyển hẳn sang nền kinh tế thị trường. Gần 1/5 lực lượng lao động làm nông nghiệp, chủ yếu sản xuất ngô, lúa mì, kiều mạch, củ cải đường, hoa quả, hạt hướng dương và nho. Mặc dù có trữ lượng than đáng kể, Hungary vẫn phải nhập hơn một nửa số nhiên liệu. Có bô xít và khí tự nhiên. Du lịch và các ngành sản xuất thép, hoá chất, phân bón, dược liệu, máy móc và xe cộ đóng vai trò quan trọng; sản xuất điện năng đạt 35,104 tỷ kw/h, điện nguyên tử 35%, thủy điện 1%, tiêu thụ 33,317 tỷ kWh. Từ đầu những năm 1990, các xí nghiệp tư nhân được thành lập (80% GDP do tư nhân sản xuất ra) và đầu tư nước ngoài được khuyến khích thu hút 50% số dự án đầu tư nước ngoài vào khu vực Trung - Đông Âu) Trong những năm 1990-1994, kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Từ tháng 7 năm 1994, Chính phủ liên hiệp trung tả đã điều chỉnh một số chính sách kinh tế theo hướng tích cực. Nền kinh tế đang bước vào ổn định, thu nhập đầu người 91997) đạt 4.510 USD, tăng trưởng đạt 4,7%; Xuất khẩu đạt 22,6 tỷ USD, nhập khẩu 25,1 tỷ USD; nợ nước ngoài: 27 tỷ USD. Từ năm 1997, nền kinh tế bắt đầu đi vào quỹ đạo phát triển ổn định, GDP tăng trưởng 4-5%/năm. Từ cuối năm 2008, Hungary bị ảnh hưởng mạnh của khủng hoảng tài chính thế giới, thâm hụt ngân sách cao (9,5% GDP), mỗi năm phải trả lãi nợ nước ngoài tới 4% GDP, gánh nặng an sinh xã hội cao nhất khu vực Trung Âu (60% GDP) và buộc phải đề nghị IMF hỗ trợ 25 tỉ USD để cứu hệ thống ngân hàng khỏi sụp đổ, đồng thời phải áp dụng các biện pháp khắc khổ. Năm 2009 nền kinh tế tăng trưởng âm 6,3%. Sang năm 2010, kinh tế Hungary đã phục hồi, thâm hụt ngân sách giảm còn 3,8%, lạm phát 4,5%, dự trữ ngoại tệ khá (45,7 tỷ USD), GDP tăng trưởng 0,8%. Tuy nhiên tỷ lệ thất nghiệp còn cao (11,5%), nợ nước ngoài nhiều (134,6 tỷ USD), nợ công lên tới mức 80% GDP. Tính đến năm 2016, GDP của Hungary đạt 117.065 USD, đứng thứ 58 thế giới và đứng thứ 22 châu Âu. Các ngành công nghiệp chủ chốt Chế tạo máy, thiết bị đo lường chính xác, ô tô, nhôm, lọc hóa dầu, hóa chất, dược phẩm, thiết bị y tế... Các sản phẩm nông nghiệp chủ yếu gồm: lúa mì, ngô, hạt hướng dương, củ cải ngọt, thịt gia súc, gia cầm, sữa... Thương mại Hungary quan hệ thương mại chủ yếu với các nước Châu Âu. Năm 2010, xuất khẩu của Hungary đạt 93,7 tỷ USD, các mặt hàng xuất chủ yếu gồm máy móc, thiết bị (chiếm 61%), các sản phẩm chế tạo khác (28,7%), thực phẩm (6,5%), nguyên liệu (2%)... Các đối tác chủ yếu là Đức (chiếm 25,5% tổng kim ngạch), Italia (5,7%), Anh (5,4%), Pháp (5,4%), România (5,3%), Slovakia (5%), Áo (4,5%). Nhập khẩu đạt 87,4 tỷ USD, các mặt hàng nhập chủ yếu gồm máy móc, thiết bị (50%), nhiên liệu và điện (11%), thực phẩm và nguyên liệu... Các đối tác chủ yếu là Đức (25%), Trung Quốc (8,6%), Nga (7,3%), Áo (6%), Hà Lan (4,7%), Pháp (4,5%), Slovakia (4%), Italia (4%), Ba Lan (4%). Tính tới ngày 31 tháng 12 năm 2010, Hungary đã thu hút được 72,6 tỷ USD vốn FDI và đã đầu tư ra nước ngoài 20,5 tỷ USD. Chính sách ODA Từ năm 2004, Hungary bắt đầu dành ngân sách cho việc cấp ODA và ngân sách ODA năm 2010 đã đạt mức 0,17% tổng thu nhập quốc gia (GNI), đúng như cam kết với EU. Các lĩnh vực Hungary ưu tiên cấp ODA bao gồm: chia sẻ kinh nghiệm chính trị - kinh tế của Hungary, chuyển giao phần mềm công nghệ thông tin, giáo dục, y tế, nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm, xử lý nước, phát triển hạ tầng, vận tải, đo vẽ bản đồ, bảo vệ môi trường. Tôn giáo Tính đến năm 2011, có 39% người Hungary là người Công giáo, 11,6% là Thần học Calvin, 2.2 là Giáo hội Luther, khoảng 2% theo các tôn giáo khác, 16,7% là không theo tôn giáo trong đó 1,5% là người vô thần. Trong cuộc thăm dò ý kiến ​​Eurobarometer năm 2005, 44% người Hungary đã trả lời họ tin rằng có một Thiên Chúa, 31% trả lời họ tin rằng có một số thế lực siêu nhiên, và 19% không tin rằng có một Thiên Chúa. Đa số người Hungary đã trở thành Kitô hữu trong thế kỷ XI. Vua đầu tiên của Hungary là István I, trở thành vị vua phương Tây đầu tiên theo Công giáo, mặc dù mẹ của ông là Sarolt, được rửa tội theo nghi lễ Chính Thống giáo Đông phương. Dân số Hungary vẫn chủ yếu là Công giáo cho đến thế kỷ XVI, khi cuộc Cải cách Kháng Cách diễn ra do Luther đề xướng đầu tiên và ngay sau đó là John Calvin, đã đưa Kháng Cách trở thành phái Kitô giáo lớn trong dân số. Trong nửa sau của thế kỷ XVI, các giáo sĩ dòng Tên đã dẫn đầu một chiến dịch khôi phục lại Công giáo trong toàn cõi Hungary. Các tu sĩ Dòng Tên đã thành lập các cơ sở giáo dục, bao gồm cả Đại học Công giáo Pázmány Péter, là một trong các trường đại học lâu đời nhất vẫn còn tồn tại ở Hungary. Vào thế kỷ XVII, Hungary một lần nữa trở thành quốc gia Công giáo. Phần phía đông của đất nước, đặc biệt là xung quanh thành phố Debrecen, vẫn còn có các cộng đồng Tin Lành đáng kể. Giáo hội Cải cách ở Hungary là nhà thờ lớn thứ hai ở Hungary với 1.622.000 tín hữu, và 600.000 tín hữu tích cực. Giáo hội có 1.249 hội chi nhánh và 27 Mục sư và 1.550 Truyền đạo. Giáo hội Cải cách hỗ trợ 129 cơ sở giáo dục và có 4 chủng viện thần học tại Debrecen, Sárospatak, và Budapest. Chính Thống giáo ở Hungary đã trở thành tôn giáo chủ yếu của một số dân tộc thiểu số trong cả nước, đặc biệt là cộng đồng người Romania, người Nga, người Ukraina, và người Serb. Hungary đã từng là quê hương của một cộng đồng Giáo hội Công giáo Armenia khá lớn. Họ thực hành theo nghi thức Armenia, nhưng họ đã hiệp thông với Giáo hội Công giáo Rôma dưới quyền tối thượng của giáo hoàng. Trong lịch sử, Hungary cũng từng có một cộng đồng Do Thái giáo lớn, đặc biệt là khi nhiều người Do Thái, bị khủng bố ở Nga, đã tìm thấy nơi trú ẩn trong Vương quốc Hungary vào thế kỷ XIX. Điều tra dân số của tháng 1 năm 1941 cho thấy 6,2% dân số, tức là 846.000 người, được coi là người Do Thái theo pháp luật phân biệt chủng tộc của thời điểm đó. Trong số này, 725.000 được coi là tín đồ Do Thái giáo. Một số người Do Thái Hungary đã có thể thoát khỏi Holocaust trong Thế chiến II, nhưng hầu hết (có lẽ 550.000 người), hoặc bị đưa đên các trại tập trung, từ đó phần lớn họ đã không trở lại, hoặc bị giết bởi phát xít Đức. Người Do Thái còn lại ở Hungary hiện nay sống ở trung tâm Budapest, đặc biệt là trong khu vực VI. Các giáo đường Do Thái lớn nhất châu Âu nằm ở Budapest. Trong những thập kỷ gần đây Phật giáo đã lan rộng đến Hungary, chủ yếu là Phật giáo Kim cương thừa thông qua các hoạt động truyền giáo của các tăng sĩ Phật giáo Tây Tạng. Vì ở Hungary, tôn giáo được khuyến khích nên các tổ chức Phật giáo khác nhau đã hình thành, trong đó có Giáo hội Phật giáo Hungary (Magyarországi Buddhista Egyházközösség), và những tổ chức khác, chủ yếu vẫn là Phật giáo hệ phái Kim cương thừa. Chú thích
Phan Huỳnh Điểu (sinh ngày 11 tháng 11 năm 1924 - mất ngày 29 tháng 6 năm 2015) là một trong những nhạc sĩ tiêu biểu nhất của dòng nhạc cách mạng Việt Nam trong thế kỉ XX. Phần lớn các ca khúc của Phan Huỳnh Điểu là nhạc đỏ, nhưng ông cũng có nhiều ca khúc trữ tình đặc sắc. Ông được mệnh danh là "Con chim vàng của nền âm nhạc Việt Nam" và được Nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật vì những đóng góp của mình cho sự nghiệp âm nhạc Việt Nam, ngoài ra còn có Huân chương Độc lập hạng Ba và Huân chương Kháng chiến hạng Nhất,... Rất nhiều các bài hát của ông có lời từ các tác phẩm thơ. Tiểu sử Ông sinh ngày 11 tháng 11 năm 1924 tại Đà Nẵng. Ông cũng là người con thứ 11 trong một gia đình cha làm thợ may. Tuy sinh ra và lớn lên ở Đà Nẵng, nhưng nguyên quán gốc của ông ở Điện Bàn, Quảng Nam. Ông bắt đầu hoạt động âm nhạc từ năm 1940 trong nhóm tân nhạc. Sau ca khúc đầu tay Trầu cau, sáng tác của ông được biết rộng rãi là bài Đoàn Vệ quốc quân viết cuối 1945. Một nhạc phẩm nổi tiếng khác của ông là Mùa đông binh sĩ được viết khoảng giữa thập niên 1940. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Phan Huỳnh Điểu gia nhập quân đội, công tác ở Liên khu 5. Thời gian này ông viết một số ca khúc như Nhớ ơn Hồ Chủ tịch, Quê tôi ở miền Nam... Năm 1955, sau khi tập kết ra Bắc, ông công tác ở Ban Nhạc vũ, Hội Văn nghệ Việt Nam. Năm 1957, khi thành lập Hội Nhạc sĩ Việt Nam, ông được cử vào Ban chấp hành là Ủy viên Thường vụ và công tác tại Hà Nội. Tháng 12 1964, Phan Huỳnh Điểu vào chiến trường Trung Trung Bộ ở trong Ban văn nghệ Khu. Thời gian đó ông viết bản hành khúc Ra tiền tuyến với bút danh Huy Quang. Sau 1975, Phan Huỳnh Điểu chuyển về Hội Âm nhạc Thành phố Hồ Chí Minh và sống ở đó. Ông đã sáng tác và công bố hơn 100 ca khúc, quá nửa trong số đó là các bài hát phổ thơ. Âm nhạc của Phan Huỳnh Điểu có giai điệu trau chuốt, trữ tình, ngay cả trong thể loại hành khúc, như Cuộc đời vẫn đẹp sao, Hành khúc ngày và đêm. Phan Huỳnh Điểu còn có nhiều ca khúc về đề tài tình yêu thành công như Tình trong lá thiếp, Những ánh sao đêm, Bóng cây Kơnia, Anh ở đầu sông em cuối sông, Sợi nhớ sợi thương, Ở hai đầu nỗi nhớ, Đêm nay anh ở đâu, Thuyền và biển, Thơ tình cuối mùa thu, Người ấy bây giờ đang ở đâu, Tình ca Đămbri, Tia nắng... Ông đã phổ nhạc thành công cho rất nhiều bài thơ. Ngoài ra, ông còn sáng tác một số tác phẩm dành cho thiếu nhi, tiêu biểu là: Đội kèn tí hon, Nhớ ơn Bác... Những nghệ sĩ thể hiện thành công tác phẩm của ông có thể kể đến Nghệ sĩ Nhân dân Quốc Hương, Nghệ sĩ ưu tú Vũ Dậu, Nghệ sĩ ưu tú Kiều Hưng và Nghệ sĩ ưu tú Tuấn Phong. Qua đời Sau khi có dấu hiệu không khỏe và sốt nhẹ vào ngày 23 tháng 6 năm 2015, ông được bác sĩ đến khám tại nhà và được thông báo bị thiếu máu. Sau đó, ông được nhập viện vào sáng ngày 26 tháng 6 trong tình trạng còn khỏe và tỉnh táo. Sau 2 ngày nhập viện, ông bị hôn mê sâu và qua đời vào lúc 10 giờ 15 phút sáng ngày 29 tháng 6 tại bệnh viện Thống Nhất (Thành phố Hồ Chí Minh) vì sốt xuất huyết. Linh cữu của nhạc sĩ được quàn tại Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng, Thành phố Hồ Chí Minh. và lúc 4h30 sáng 10 tháng 7, gia đình, người thân, bạn bè, văn nghệ sĩ... đã rải tro cốt của ông về với sông Hàn (Đà Nẵng) theo di nguyện của cố nhạc sĩ. Tưởng niệm Tối ngày 7 tháng 7 năm 2015, đêm nhạc tri ân, tưởng nhớ hai nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu và nhạc sĩ Phan Nhân do Báo Công an TP HCM phối hợp với Ngân hàng BIDV và Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức đã diễn ra trong không khí hết sức ấm áp. Chương trình mở màn với nét viết hiện trên màn hình: “ngày 29 tháng 6 năm 2015” (ngày mất của hai nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu, Phan Nhân), hình ảnh điện tâm đồ, những trang nhạc, bút ngừng viết… Người thân, đồng nghiệp, bạn bè, những người yêu mến hai nhạc sĩ gạo cội của nền âm nhạc Việt Nam đã được thưởng thức lại ca khúc bất hủ đi cùng năm tháng của hai nhạc sĩ qua những phần trình bày hết sức tuyệt vời của các nghệ sĩ tham gia chương trình. Trích dẫn Trong cuộc phỏng vấn đăng báo Thanh Niên ngày 27 tháng 4 năm 2006, nhạc sĩ nói: "Tôi cho rằng thơ phổ nhạc đạt đến mức độ cộng hưởng tâm hồn của nhạc sĩ và thi sĩ. Tìm thấy một bài thơ phù hợp, nhạc sĩ phổ nhạc và gửi gắm tâm trạng mình. Xét đến cùng, chất thơ trong ca từ của một nhạc sĩ thuần túy không thể bằng được chất thơ trong ca từ vốn là bài thơ của một nhà thơ. Nhà thơ chắt chiu từng con chữ, nhạc sĩ chăm chút từng nốt nhạc sẽ cho ra một tác phẩm toàn vẹn và đầy đặn. Bởi vậy, tôi hết sức thích phổ nhạc cho thơ. Thơ và nhạc như cặp anh chị em song sinh, thơ một cánh, nhạc một cánh cho tác phẩm bay lên..." Sáng tác Ánh điện cùng chắp cánh em bay (thơ Trình Vân) Anh ở đầu sông em cuối sông (1978, thơ Hoài Vũ) Ai ra ngoài Bạn đến chơi nhà Bác Hồ của chúng em Bến Tre xanh biếc quê dừa Bóng cây Kơ-nia (1971, thơ Ngọc Anh) Bóng nắng (thơ Vương Tâm) Chiều Paris Chiều tím Có ai về Quảng Nam Có một đàn chim Cuộc đời vẫn đẹp sao (1971) Đà Nẵng ơi, chúng con đã về (1975) Đây thôn Vỹ Dạ Đêm nay anh ở đâu (1974) Đoàn Vệ quốc quân (1945) Đội kèn tí hon (1959) Đời học sinh (1946) Em như áng mây Hai dòng sông hai nỗi nhớ Hai chú mèo ngoan Hành khúc ngày và đêm (1972) Hát về thành phố quê hương (1997) Khi không còn em nữa (1992) Ký họa mùa xuân (thơ Chính Hữu) Là thanh niên xung phong Làm cây thông reo Miền Nam nguyện theo Đảng Mùa đông binh sĩ (1946) Mưa miền Trung (thơ Đỗ Thị Thanh Bình) Một bông hoa xinh tươi (1983) Người ấy bây giờ đang ở đâu Nhớ (1973) Nhớ ơn Bác (1959) Nhớ lắm chiều nay Những ánh sao đêm (1962) Những em bé ngoan (1959) Những người đã chết (1946, là ca khúc phổ thơ đầu tiên, sử dụng thơ của Tế Hanh) Ở hai đầu nỗi nhớ (thơ Trần Hoài Thu) Phú Quốc một tình yêu Quảng Nam yêu thương Quê tôi ở miền Nam Ra tiền tuyến Sang sông (thơ Đào Hồng) Sợi nhớ sợi thương (1978, thơ Thúy Bắc) Thanh niên xung phong Thật là khó nói (1957) Thơ tình cuối mùa thu (thơ Xuân Quỳnh) Thuyền và biển (thơ Xuân Quỳnh) Tia nắng Tìm em bên giếng nước Tiếng thu (thơ Lưu Trọng Lư) Tình ca Đămbri Tình trong lá thiếp (1955) Tình yêu thì thầm (thơ Diệp Minh Tuyền) Trầu cau (Sáng tác đầu tay, 1945) Trong từng mũi chỉ đường kim Tương tư chiều (thơ Xuân Diệu) Tuyên truyền xung phong (1946)
Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam là từ điển tập hợp các khái niệm quân sự (biểu đạt bằng thuật ngữ) và tên riêng (tên sự kiện, tên người, tên đất...) để phục vụ người tra cứu hiểu rõ từng khái niệm, phạm trù, sự vật, hiện tượng, nhân vật. Từ điển này do Trung tâm Từ điển Bách khoa Quân sự (thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam) biên soạn, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân xuất bản. Phiên bản đầu tiên xuất bản năm 1996, phiên bản thứ hai xuất bản năm 2004 với khoảng 9.000 mục từ và gần 2.000 hình minh họa.
Pháo binh là lực lượng tác chiến của quân đội nhiều nước; lực lượng hỏa lực chủ yếu của lục quân, thường được trang bị các loại pháo, tên lửa và súng cối, dùng để sát thương, tiêu diệt các mục tiêu và trực tiếp chi viện hỏa lực cho các lực lượng tác chiến trên mặt đất, mặt nước, có thể chiến đấu hiệp đồng hoặc độc lập.
Hậu cần quân sự là các hoạt động quân sự nhằm bảo đảm vật chất, sinh hoạt, quân y, vận tải... cho lực lượng vũ trang hoạt động. Cụ thể các hoạt động này bao gồm: Thiết kế, bảo quản, tàng trữ, phân phối các trang thiết bị quân sự. Di chuyển, hộ tống, đưa quân nhân đi chữa trị. Cung cấp các dịch vụ quân sự.
Lực lượng biệt kích Hoa Kỳ và đồng minh trong Chiến tranh Việt Nam nói về những đơn vị quân sự đặc biệt trong Chiến tranh Việt Nam hoạt động dưới sự điều hành trực tiếp hoặc chỉ đạo gián tiếp của CIA và sau đó là MACVSOG. Cố vấn và huấn luyện lực lượng biệt kích Việt Nam Cộng hòa Tháng 2 năm 1956, sau khi tiếp nhận căn cứ GCMA (Groupement de Commandos Mixtes Aéroportés, Lực lượng biệt kích không vận hỗn hợp) của Pháp tại Nha Trang, với sự trợ giúp của Phái bộ Cố vấn Quân sự (Military Assistance Advisory Group - MAAG) Mỹ tại Việt Nam, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã cho thành lập Trung tâm Huấn luyện Biệt động đội, nhằm xây dựng cơ sở huấn luyện biệt kích cho VNCH với ngân sách do Mỹ đài thọ. Giữa năm 1957, CIA tuyển mộ một số thành viên lực lượng Mũ nồi xanh của Liên đoàn Biệt kích số 1 Hoa Kỳ sang Việt Nam làm nhiệm vụ huấn luyện 58 binh sĩ và sĩ quan VNCH để thành lập đơn vị biệt kích đầu tiên của VNCH dước tên gọi Liên đoàn Quan sát số 1, với nhiệm vụ tình báo quân sự, bí mật xâm nhập hàng ngũ đối phương ở khắp nông thôn miền Nam. Về danh nghĩa, Liên đoàn Quan sát số 1 trực thuộc Sở Liên lạc, sau đổi tên thành Sở Khai thác Địa hình, trực thuộc Phủ Tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Trên thực tế, toàn bộ công tác huấn luyện và chỉ huy hoạt động biệt kích đều do phân bộ CIA tại Việt Nam phụ trách. Phía VNCH chỉ làm công tác tuyển mộ và tham gia công tác điều hành. Cuối năm 1958, dưới sự tài trợ của Ban ngoại vụ Phân bộ CIA tại Việt Nam, Sở Liên lạc phát triển một cơ quan bí mật, mang mật danh Phòng 45, đặc trách công tách huấn luyện các toán biệt kích phá hoại, thám sát, trinh sát và viễn thám, thu thập thông tin tình báo quân sự ở ngoài lãnh thổ VNCH, gồm Campuchia, Lào, và quan trọng nhất là sâu trong vùng kiểm soát của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Toàn bộ thành viên người Việt của các toán biệt kích thuộc phòng 45 đều là người gốc miền Bắc, gồm cả quân sự lẫn dân sự, trong đó có một số lượng lớn là người dân tộc thiểu số, với mục đích dễ dàng xâm nhập vào sâu lãnh thổ miền Bắc. Một cơ quan khác là Phòng 55, đặc trách các hoạt động biệt kích trong vùng kiểm soát của đối phương trên lãnh thổ VNCH, cũng đóng một vai trò rất quan trọng. Ấn tượng trước khả năng tác chiến của các toán biệt kích, tháng 2 năm 1960, Tổng thống Diệm đã chỉ thị thành lập các đại đội Biệt động quân, huấn luyện kỹ năng hành quân độc lập, tác chiến chống du kích theo mô hình của các toàn biệt kích. Một số sĩ quan người Việt thuộc Liên đoàn quan sát số I được chuyển sang làm thành phần nòng cốt của Biệt động quân. Chiến thuật tác chiến ban đầu của các đại đội Biệt động quân chủ yếu là trang bị vũ khí gọn nhẹ với quần áo bà ba đen, cơ động truy kích và tiêu diệt các đơn vị du kích Cộng sản hoạt động trên địa bàn. Ngoài ra, từ năm 1961, Sở còn thành lập thêm một số đại đội Biệt cách dù biệt lập để làm thành phần hỗ trợ, ứng cứu cho những toán nhảy qua Lào hay ở những vùng biên giới nguy hiểm. Bên cạnh đó, một nhiệm vụ khác, tuy không chính thức, nhưng được xem là ưu tiên nhất của Sở Liên lạc là chỉ huy lực lượng cơ động tinh nhuệ chuyên dùng để bảo vệ Phủ Tổng thống chống những cuộc đảo chính. Chính vì vậy, mặc dù các hoạt động tung gián điệp biệt kích ra miền Bắc tỏ ra kém hiệu quả, quân số của Liên đoàn quan sát số 1 vẫn phát triển không ngừng. Tháng 11 năm 1961, Liên đoàn quan sát số 1 được đổi tên thành Liên đoàn 77. Tháng 2 năm 1963, Liên đoàn 31 được thành lập. Ngày 15 tháng 3 năm 1963, Tổng thống Diệm ra quyết định thành lập Lực lượng đặc biệt trên cơ sở bộ máy của Sở Khai thác địa hình và 2 đơn vị tác chiến là Liên đoàn biệt kích 77 và 31. Về nguyên tắc, Lực lượng đặc biệt được chuyển thuộc sang Bộ Quốc phòng, có quy mô tương đương cấp Lữ đoàn, nhưng trên thực tế, Tổng thống có toàn quyền điều động đơn vị này thông qua một cơ quan chỉ huy trực tiếp là Phòng Liên lạc Phủ Tổng thống, mà thực chất chính các Bộ chỉ huy Lực lượng đặc biệt, do Đại tá Lê Quang Tung làm Chỉ huy trưởng. Tái tổ chức Lực lượng Dân binh Tự vệ Mèo Ngay từ năm 1951, khi cuộc chiến tranh Đông Dương dần chuyển sang chiều hướng có lợi cho Việt Minh, Thiếu tá Roger Trinquier, thuộc Lực lượng biệt kích không vận hỗn hợp (Groupement de Commandos Mixtes Aéroportés - GCMA), thông qua từ trưởng Touby Ly Foung, đã tổ chức và tài trợ cho lực lượng dân binh biệt kích người Mông tại vùng Thượng Lào, dùng chiến thuật du kích, gây nhiều khó khăn cho Quân đội Nhân dân Việt Nam và Pathét Lào. Tuy nhiên, sau khi quân Pháp rút quân khỏi Đông Dương, hầu hết các đơn vị biệt kích này bị bỏ rơi. Một số ít được Touby Ly Foung giữ lại làm đội cận vệ riêng. Năm 1959, 2 nhân viên CIA là Lucien Conein và Edgar "Pop" Buell thâm nhập vùng Thượng Lào liên kết với các thủ lĩnh người Mông nhằm tạo đồng minh trong cuộc chiến chống lại hoạt động của lực lượng Cộng sản. Thay vì chọn Touby Ly Foung, vốn đang tìm kiếm vị thế chính trị trong chính phủ liên hiệp Lào, CIA lại chọn một thủ lĩnh Mông trẻ, quyết liệt hơn để chỉ huy lực lượng dân binh biệt kích mới do CIA trực tiếp huấn luyện và điều hành. Đó chính là Thiếu tá Vàng Pao. Tổ chức Lực lượng Dân sự chiến đấu Cao nguyên SOG trong chiến tranh Việt Nam Rút lui khỏi chiến trường Cũng chiến đấu trong hàng ngũ quân lực Việt Nam Cộng Hòa, nhưng được trực tiếp tuyển mộ, trả lương và chỉ huy bởi người Mỹ, là các binh lính biệt kích người gốc Nùng và người Thượng (Montagnard). Có khoảng 500 người gốc Bắc được huấn luyện và thả dù ra miền Bắc để thu thập tin tức, phá hoại, nhưng tất cả đều bị giết hoặc bắt sống, bị đi tù hàng chục năm. Năm 1973, khi quân đội VNDCCH tiến hành trao đổi tù binh với Hoa Kỳ và quân Việt Nam cộng hòa, phía Việt Nam coi những lính biệt kích này là lính đánh thuê, không được xếp loại tù binh chiến tranh nên không được trao trả. Hiện nay chừng 150 người còn sống đã đi định cư ở Hoa Kỳ, nhưng vẫn còn nhiều người còn ở Việt Nam. Nhiều người khác phục vụ trong các đội biệt kích SOG của Mỹ. Tổng cộng lực lượng biệt kích SOG lên đến trên 2.000 lính Mỹ và chừng hơn 8.000 lính đánh thuê, phần nhiều là người Thượng và người Nùng và một số người Việt. Số quân Mỹ đa phần mang cấp bậc sĩ quan và hạ sĩ quan, đa phần là các binh lính thiện chiến, dày dặn kinh nghiệm, nhiều thành tích chiến trường, được tuyển chọn kỹ lưỡng từ nhiều binh chủng. Số quân đánh thuê bản xứ cũng được huấn luyện và trang bị đặc biệt. Các sĩ quan Việt Nam Cộng hòa trong các đơn vị phối thuộc, nhất là các phi công, cũng có nhiều người được đánh giá là kiệt xuất, ông Nguyễn Cao Kỳ khi còn chưa tham gia chính trường cũng đã từng tham gia bay tung biệt kích dù ra bắc. Rất nhiều người bị giết trong các điệp vụ biệt kích. Thông thường một toán biệt kích thường bao gồm 2-3 lính Mỹ, và chừng 6-9 lính đánh thuê người Nùng hoặc người Thượng. Ngoài ra người Mỹ còn thành lập nhiều đại đội biệt kích gọi là Hatchet force hay Mike force. Quân lực Việt Nam Cộng hòa cũng có các lực lượng biệt kích tương tự, nhưng không thấy nói đến sự phối hợp giữa quân biệt kích Mỹ và biệt kích Việt Nam Cộng hòa, vì lý do an ninh, tất cả các hoạt động của SOG đều do người Mỹ đảm trách. Nhiệm vụ của các toán biệt kích rất nguy hiểm, nhiều toán bị tiêu diệt hoàn toàn, các lực lượng giải cứu cũng phải chấp nhận nhiều thiệt hại khi giải cứu các nhóm biệt kích, bị mất nhiều trực thăng và phi công giỏi. Cho tới 1972, hoạt động của các nhóm biệt kích trở nên đặc biệt khó khăn, thời gian hoạt động của các toán biệt kích từ khi được trực thăng vận vào hậu phương đối phương dọc đường mòn Hồ Chí Minh giảm đi từ hàng tuần lễ như khi mới bắt đầu chương trình còn vài giờ. Họ nhanh chóng bị phát hiện, bao vây, phải được ứng cứu để rút ra nếu không muốn bị bao vây tiêu diệt hoặc bắt sống. Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày càng trở nên hữu hiệu trong các hoạt động chống biệt kích, như sử dụng các đội đặc nhiệm chống biệt kích, phối hợp các lực lượng tại chỗ để truy quét, đặt các quan sát viên ở các vùng khả nghi là bãi đáp trực thăng, cài người xâm nhập vào căn cứ biệt kích, thậm chí dùng đặc công đánh vào căn cứ biệt kích ở ngay Đà Nẵng... Đặc biệt, khi chiến tranh kết thúc, người Mỹ mới được biết là tin tức hoạt động của các nhóm biệt kích bị lộ từ những nguồn cao nhất. Một trong những tùy viên của tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng quân đội Việt Nam Cộng hòa đã cung cấp những tin tức chính xác về thời gian, địa điểm hoạt động của các toán biệt kích SOG, nên Quân đội Nhân dân Việt Nam đã có thể tiến hành các hữu hiệu các biện pháp đối phó. Một trong những tổn thất nặng nề nhất của SOG là trận Làng Vây vào tháng 2 năm 1968. Chừng một tiểu đoàn Quân Giải phóng có xe tăng yểm trợ đã chọc thủng hàng rào phòng ngự Làng Vây do nhiều đại đội biệt kích Thượng trấn giữ, tổng số lên đến hơn 500 người, được 24 cố vấn Mỹ chỉ huy. Căn cứ Làng Vây thất thủ, Bộ đội Quân Giải phóng chiếm giữ làng Vây trong nhiều giờ trước khi rút đi, các hoạt động cứu viện của Mỹ quá yếu ớt và quá chậm nên không có tác dụng gì, và lại mất thêm một số thương vong nữa. Lính thủy đánh bộ Mỹ từ căn cứ Khe Sanh cũng từ chối ứng cứu Làng Vây do sợ bị phục kích. Kết quả lực lượng phòng ngự Làng Vây bị tiêu diệt gần như hoàn toàn, người Mỹ cũng bỏ hoang căn cứ Làng Vây từ đó. Hiện chưa có số liệu thống kê, chỉ biết rằng riêng số lính biệt kích Mỹ có ít nhất hơn 300 người bị giết, trong đó có 57 người mất tích, chưa kể đến số phi công bị bắn rơi và nhân lực phụ trợ, hơn thế nữa, đa phần số bị chết và bị thương đều là hạ sĩ quan và sĩ quan. Theo Schultz, thương vong trong các toán SOG lên đến trên 50%, nhiều người bị thương nhiều lần. Theo Plaster, nếu một lính biệt kích SOG đi đến lần thứ 12 mà vẫn chưa bị giết thì đã là một điều đáng ngạc nhiên. Số lính đánh thuê người Nùng và người Thượng chắc chắn còn bị thương vong cao hơn gấp nhiều lần. Sau khi Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa đầu hàng ngày 30 tháng 4 năm 1975, có nhiều toán biệt kích người gốc Khmer Krom bỏ chạy sang Campuchia, định kết hợp với chính quyền Khmer Đỏ tiếp tục cuộc chiến chống Việt Nam. Tuy nhiên số biệt kích này, tổng cộng lên đến 2000 người bị quân Khmer Đỏ nghi ngờ và tàn sát. Một số khác gia nhập lực lượng FULRO trở lại Việt Nam tiếp tục chống phá chính quyền Cộng sản. Những kết quả muôn mặt Đầu năm 1961, Tổng thống Kennedy ký lệnh triển khai “chiến dịch chiến tranh bí mật phá hoại miền Bắc Việt Nam”, với mục đích “đánh vào nguồn gốc xâm lược” từ Bắc Việt Nam. Chiến dịch này nằm dưới sự chỉ đạo của CIA, sau được Lầu Năm Góc tiếp quản năm 1964, đã đề ra các biện pháp chủ yếu là sử dụng Lực lượng Đặc biệt của Việt Nam Cộng hòa (gián điệp biệt kích) còn gọi là “Liên đội Quan sát số 1” thuộc Sở Liên lạc Tổng thống phủ (cơ quan tình báo trung ương Việt Nam Cộng hòa), gồm phần đông là lính Việt Nam Cộng hòa gốc từ miền Bắc di cư do CIA và Lực lượng Đặc biệt Mỹ trực tiếp chỉ đạo, huấn luyện, trang bị để đột nhập vào phá hoại miền Bắc. Hình thức chủ yếu là sử dụng các Tiểu đội Biệt kích Dù. Đến năm 1968 thì các chiến dịch đều đã thất bại nặng nề khi gần 500 lính biệt kích bị giết, bị bắt hoặc trỏ thành điệp viên hai mang Cựu bộ trưởng quốc phòng Mỹ Robert S. McNamara và cựu Tư lệnh các Lực lượng Mỹ tại Việt Nam, tướng William C. Westmoreland, đã bị chỉ trích nặng nề vì chiến dịch trên. Chương trình đã được đặc tả trong cuốn sách của Sedgwick Tourison nhan đề "Secret Army, Secret War: Washington's Tragic Spy Operation in North Vietnam" (Naval Institute Special Warfare) viết tháng 9 năm 1995. Sự thât bại của chiến dịch này thảm hại đến nỗi nếu chỉ riêng ngành Công an Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa với 19 chuyên án đã câu nhử, bắt sống và tiêu diệt được 121 lính biệt kích.
là một nhà sản xuất ô tô đa quốc gia của Nhật Bản có trụ sở tại Toyota, Aichi, Nhật Bản. Trong năm 2017, cơ cấu doanh nghiệp của Toyota bao gồm 364.445 nhân viên trên toàn thế giới. , đây là công ty lớn thứ sáu trên thế giới tính theo doanh thu. Tính đến năm 2017, Toyota là nhà sản xuất ô tô lớn nhất. Toyota là nhà sản xuất ô tô đầu tiên trên thế giới sản xuất hơn 10 triệu xe mỗi năm mà họ đã thực hiện kể từ năm 2012, khi đó họ cũng báo cáo việc sản xuất chiếc xe thứ 200 triệu của mình. , Toyota là công ty niêm yết lớn nhất tại Nhật Bản theo vốn hóa thị trường (trị giá hơn gấp đôi so với SoftBank xếp thứ 2) và theo doanh thu. Toyota là công ty dẫn đầu thị trường thế giới về doanh số bán xe điện hybrid và là một trong những công ty lớn nhất khuyến khích áp dụng thị trường xe hybrid trên toàn cầu. Toyota cũng là công ty dẫn đầu thị trường về xe chạy bằng pin nhiên liệu hydro. Doanh số toàn cầu tích lũy của các mẫu xe chở khách hybrid của Toyota và Lexus đạt mốc 10 triệu vào tháng 1/2017. Họ xe Prius của công ty là bảng tên xe lai bán chạy nhất thế giới với hơn 6 triệu xe đã được bán trên toàn thế giới tính đến tháng 1 năm 2017. Công ty được thành lập bởi Toyoda Kiichiro vào năm 1937, như một công ty con của công ty Toyota Industries của cha mình để tạo ra ô tô. Ba năm trước, vào năm 1934, trong khi vẫn là một bộ phận của Toyota Industries, họ đã tạo ra sản phẩm đầu tiên của mình, Toyota Type A engine và chiếc xe chở khách đầu tiên vào năm 1936, Toyota AA. Tập đoàn ô tô Toyota sản xuất xe dưới năm thương hiệu, bao gồm thương hiệu Toyota, Hino, Lexus, Ranz và Daihatsu. Nó cũng nắm giữ 16,66% cổ phần của Subaru Corporation, 5,9% cổ phần của Isuzu, 5,5% cổ phần của Mazda, cũng như liên doanh với hai công ty ở Trung Quốc (GAC Toyota và Tứ Xuyên FAW Toyota Motor), một ở Ấn Độ (Toyota Kirloskar), một ở Cộng hòa Séc (TPCA), cùng với một số công ty "không phải ô tô". TMC là một phần của Tập đoàn Toyota, một trong những tập đoàn lớn nhất tại Nhật Bản. Toyota được niêm yết trên thị trường chứng khoán Luân Đôn, Sở giao dịch chứng khoán New York và Sở giao dịch chứng khoán Tokyo. Hội đồng quản trị Chủ tịch: Akio Toyoda (từ tháng 4 năm 2023) Phó chủ tịch: Shigeru Hayakawa Chủ tịch & CEO: Koji Sato (từ tháng 4 năm 2023) Thành viên: Takeshi Uchiyamada James Kuffner Kenta Kon Masahiko Maeda Ikuro Sugawara Sir Philip Craven Teiko Kudo Danh sách cựu chủ tịch Vào năm 1950, Toyota đã được chia thành Toyota Motor Co. và Toyota Motor Sales Co. (công ty bán hàng của Toyota); hai công ty này đã sáp nhập vào năm 1982 để tạo ra một công ty thống nhất, với ông Eiji Toyoda, Tổng giám đốc Công ty Toyota Motor lúc đó, trở thành chủ tịch. Các chủ tịch được liệt kê dưới đây trước năm 1982 chỉ áp dụng cho Công ty Toyota Motor trước khi sáp nhập. Rizaburo Toyoda (1937–1948) Taizo Ishida (1948–1952) Shoichi Saito (1952–1959) Masaya Hanai (1959–1982) Eiji Toyoda (1982–1994) Shoichiro Toyoda (1994–1999) Hiroshi Okuda (1999–2006) Fujio Cho (2006–2013) Takeshi Uchiyamada (2013–2023) Danh sách cựu tổng giám đốc Tương tự với vị trí chủ tịch, vào năm 1982, ông Shoichiro Toyoda, tổng giám đốc Công ty Bán hàng Toyota Motor lúc đó, trở thành Tổng giám đốc. Các Tổng giám đốc trước năm 1982 được liệt kê dưới đây chỉ áp dụng cho Công ty Toyota Motor trước khi sáp nhập. Rizaburo Toyoda (1937–1941) Kiichiro Toyoda (1941–1950) Taizo Ishida (1950–1961) Fukio Nakagawa (1961–1967) Eiji Toyoda (1967–1982) Shoichiro Toyoda (1982–1992) Tatsuro Toyoda (1992–1995) Hiroshi Okuda (1995–1999) Fujio Cho (1999–2005) Katsuaki Watanabe (2005–2009) Akio Toyoda (2009–2023) Lịch sử Những năm 1920-1930 Vào năm 1924, Sakichi Toyoda phát minh ra cây cơ điện tự động Toyoda Model G. Nguyên tắc jidoka, có nghĩa là máy dừng lại khi xảy ra sự cố, sau đó trở thành một phần của Hệ thống Sản xuất Toyota. Các cây cơ được xây dựng trên một dây chuyền sản xuất nhỏ. Vào năm 1929, bằng sáng chế cho cây cơ điện tự động đã được bán cho công ty Anh Platt Brothers, tạo ra vốn khởi đầu cho phát triển ô tô. Dưới sự chỉ đạo của con trai người sáng lập, Kiichiro Toyoda, Toyoda Automatic Loom Works thành lập một Bộ phận Ô tô vào ngày 1 tháng 9 năm 1933 và chính thức tuyên bố ý định bắt đầu sản xuất ô tô vào ngày 29 tháng 1 năm 1934. Một nguyên mẫu động cơ Toyota Type A được hoàn thành vào ngày 25 tháng 9 năm 1934, với chiếc sedan nguyên mẫu đầu tiên của công ty, chiếc A1, hoàn thành vào tháng sau. Vì Kiichiro có ít kinh nghiệm về sản xuất ô tô, anh ban đầu tập trung vào sản xuất xe tải; chiếc xe tải đầu tiên của công ty, chiếc G1, hoàn thành vào ngày 25 tháng 8 năm 1935 và ra mắt vào ngày 21 tháng 11 tại Tokyo, trở thành mẫu xe sản xuất đầu tiên của công ty. Được mô phỏng theo một chiếc xe tải của Ford thời đó, chiếc G1 được bán với giá 2.900 Yên, rẻ hơn 200 Yên so với chiếc xe tải của Ford. Tổng cộng, đã sản xuất 379 chiếc xe tải G1. Vào tháng 4 năm 1936, chiếc xe hơi hạng sang đầu tiên của Toyoda, Model AA, đã được hoàn thành. Giá bán là 3.350 Yên, rẻ hơn 400 Yên so với xe hơi của Ford hoặc GM. Nhà máy của công ty tại Kariya đã hoàn thành vào tháng 5. Vào tháng 7, công ty thực hiện đơn hàng xuất khẩu đầu tiên, gồm bốn chiếc xe tải G1 xuất khẩu đến miền đông bắc Trung Quốc. Vào ngày 19 tháng 9 năm 1936, chính phủ hoàng gia Nhật Bản chính thức chỉ định Toyoda Automatic Loom Works là nhà sản xuất ô tô. Ban đầu, các phương tiện được bán dưới tên "Toyoda" (トヨダ), từ tên gia đình của người sáng lập công ty, Kiichirō Toyoda. Vào tháng 9 năm 1936, công ty tổ chức một cuộc thi công cộng để thiết kế một logo mới. Trong số 27.000 đề xuất, đề xuất chiến thắng là ba chữ cái katakana tiếng Nhật cho "Toyoda" trong một vòng tròn. Tuy nhiên, Rizaburo Toyoda, người đã kết hôn với gia đình và không sinh ra với tên đó, thích "Toyota" () vì viết bằng tám nét bút (một con số may mắn) trong tiếng Nhật, trực quan đơn giản hơn (bỏ đi dấu điệu ở cuối), và có một phụ âm voiceless thay vì âm có voice (phụ âm có âm thanh "mờ" hoặc "trơn" so với phụ âm không có voice, có âm thanh "rõ"). Vì toyoda có nghĩa là "ruộng lúa màu mỡ", việc thay đổi tên cũng ngăn chặn công ty bị liên kết với nông nghiệp cổ truyền. Từ mới này đã được đăng ký thương hiệu và công ty bắt đầu hoạt động kinh doanh vào ngày 28 tháng 8 năm 1937, với tên là Công ty Ô tô Toyota Ltd. Rizaburo Toyoda, em rể của Kiichiro Toyoda, được bổ nhiệm làm Chủ tịch công ty lần đầu tiên, còn Kiichiro làm Phó Chủ tịch. Toyoda Automatic Loom Works chính thức chuyển giao sản xuất ô tô cho thực thể mới vào ngày 29 tháng 9. Chính phủ Nhật Bản đã hỗ trợ công ty bằng cách ngăn chặn các đối thủ nước ngoài như Ford và General Motors nhập khẩu ô tô vào Nhật Bản. Khi bắt đầu Thế chiến II, Toyota gần như chỉ sản xuất xe tải tiêu chuẩn cho Quân đội Nhật Bản, mà trước tiên trả một phần năm giá trước và số tiền còn lại bằng tiền mặt khi giao hàng. Những năm 1940 Nhật Bản bị tàn phá nặng nề trong Thế chiến II, và các nhà máy của Toyota, được sử dụng cho nỗ lực chiến tranh, không thoát được tác động. Vào ngày 14 tháng 8 năm 1945, một ngày trước khi đầu hàng của Nhật Bản, Nhà máy Koromo của Toyota bị các lực lượng Đồng Minh đánh bom. Sau khi đầu hàng, các lực lượng đang chiếm đóng dẫn đầu bởi Mỹ đã cấm sản xuất ô tô hạng sang tại Nhật Bản. Tuy nhiên, các nhà sản xuất ô tô như Toyota được phép bắt đầu xây dựng xe tải để sử dụng dân dụng, nhằm tái thiết cơ sở hạ tầng của quốc gia. Quân đội Mỹ cũng đã ký hợp đồng với Toyota để sửa chữa các phương tiện của mình. Vào năm 1947, xung đột Chiến tranh Lạnh toàn cầu nổi lên giữa Liên Xô Xô viết và Hoa Kỳ, hai quốc gia đã từng là đồng minh trong Thế chiến II. Ưu tiên của Hoa Kỳ đã thay đổi (sự "đảo chiều") từ việc trừng phạt và cải cách Nhật Bản sang đảm bảo sự ổn định chính trị nội bộ, tái xây dựng kinh tế và, một phần, quân sự hóa lại Nhật Bản. Dưới các chính sách mới này, vào năm 1949, các nhà sản xuất ô tô Nhật Bản được phép tiếp tục sản xuất ô tô hạng sang, nhưng đồng thời, một chương trình ổn định kinh tế mới để kiểm soát lạm phát đã khiến ngành công nghiệp ô tô gặp khó khăn nghiêm trọng về nguồn vốn, trong khi nhiều chủ xe tải không trả được khoản vay của họ. Cuối cùng, Ngân hàng Nhật Bản, ngân hàng trung ương của quốc gia, đã cứu công ty, với yêu cầu công ty thực hiện các cải cách. Những năm 1950 Khi bước vào những năm 1950, Toyota đã vượt qua khủng hoảng tài chính và trở thành một công ty nhỏ hơn, đóng cửa các nhà máy và sa thải công nhân. Cùng lúc đó, Chiến tranh Triều Tiên bùng phát, và vì nằm gần tuyến chiến trường, Quân đội Mỹ đã đặt hàng 1.000 xe tải từ Toyota. Đơn đặt hàng này đã giúp cải thiện nhanh chóng hiệu suất kinh doanh của công ty đang gặp khó khăn. Năm 1950, các nhà điều hành công ty, bao gồm người họ hàng của Kiichiro là Eiji Toyoda, đã đi du lịch đến Hoa Kỳ để được đào tạo tại Công ty Ford và quan sát hoạt động của hàng chục nhà sản xuất Mỹ. Kiến thức họ thu được trong chuyến đi, cùng với những gì công ty đã học được từ việc sản xuất máy dệt, đã tạo nên The Toyota Way (một triết lý quản lý) và Hệ thống Sản xuất Toyota (một phương pháp sản xuất siêu hiệu quả) đã biến công ty trở thành một người lãnh đạo trong ngành công nghiệp sản xuất. Toyota bắt đầu phát triển chiếc xe hơi hạng sang đầu tiên của mình, Toyopet Crown, vào tháng 1 năm 1952. Trước đó, Toyota đã thuê ngoài thiết kế và chế tạo thân xe ô tô, sau đó gắn lên khung xe tải do Toyota sản xuất. Dự án này là một thử thách lớn đối với Toyota, công ty sẽ cần xây dựng thân xe và phát triển một khung xe mới phải thoải mái, nhưng vẫn chịu được những con đường bùn lầy, chậm chạp và không được lát nhựa phổ biến ở Nhật Bản vào thời điểm đó. Dự án này đã được nhà sáng lập Kiichiro Toyoda ủng hộ trong nhiều năm, nhưng ông đã tử nạn bất ngờ vào ngày 27 tháng 3 năm 1952. Các mẫu nguyên mẫu đầu tiên được hoàn thành vào tháng 6 năm 1953 và bắt đầu kiểm tra kỹ lưỡng, trước khi Crown được bán ra thị trường vào tháng 8 năm 1955. Xe được đánh giá tích cực trên toàn thế giới. Sau khi giới thiệu Crown, Toyota bắt đầu mở rộng mạnh mẽ vào thị trường xuất khẩu. Toyota bắt đầu gửi các bộ phận gắn ráp của mẫu xe Land Cruiser tới các nước Latinh vào tháng 11 năm 1955, gửi các Land Cruiser hoàn chỉnh tới Miến Điện (nay là Myanmar) và Philippines vào năm 1956 như là một phần của sự bồi thường chiến tranh từ chính phủ Nhật Bản, thành lập một chi nhánh tại Thái Lan vào tháng 6 năm 1957, và gửi các Land Cruiser tới Úc vào tháng 8 năm 1957. Toyota thành lập một nhà máy sản xuất tại Brasil vào năm 1958, đây là nhà máy đầu tiên của công ty ngoài Nhật Bản. Toyota gia nhập thị trường Hoa Kỳ vào tháng 7 năm 1958, cố gắng bán mẫu xe Toyopet Crown. Công ty gặp vấn đề gần như ngay lập tức, Crown không được người tiêu dùng Hoa Kỳ đón nhận vì giá cao và công suất yếu (do thiết kế cho đường xá xấu của Nhật Bản, không phải hiệu suất cao). Nhằm đáp ứng, xuất khẩu Crown tới Hoa Kỳ đã bị đình chỉ vào tháng 12 năm 1960. Sau cái chết của Kiichiro, người họ hàng Eiji Toyoda đã lãnh đạo công ty trong hai thập kỷ. Eiji đã giúp thành lập nhà máy đầu tiên của công ty độc lập so với nhà máy Loom Works. Những năm 1960–1970 Vào đầu những năm 1960, nền kinh tế Nhật Bản phát triển mạnh mẽ, một giai đoạn được biết đến với tên gọi là Kỳ tích kinh tế Nhật Bản. Khi nền kinh tế phát triển, thu nhập của người dân tăng lên, họ có khả năng mua được xe hơi. Đồng thời, chính phủ Nhật Bản đầu tư mạnh vào cải thiện hạ tầng giao thông đường bộ. Để tận dụng cơ hội này, Toyota và các nhà sản xuất ô tô khác bắt đầu cung cấp những chiếc ô tô kinh tế giá rẻ như Toyota Corolla, trở thành mẫu ô tô bán chạy nhất trên toàn thế giới. Toyota cũng thành công tại Hoa Kỳ vào năm 1965 với mẫu xe nhỏ Toyota Corona, được thiết kế lại đặc biệt cho thị trường Mỹ với động cơ mạnh mẽ hơn. Corona giúp tăng doanh số bán hàng của Toyota tại Mỹ lên hơn 20.000 đơn vị vào năm 1966 (tăng gấp ba lần) và giúp công ty trở thành thương hiệu nhập khẩu bán chạy thứ ba tại Hoa Kỳ vào năm 1967. Đầu tư sản xuất đầu tiên của Toyota tại Hoa Kỳ diễn ra vào năm 1972 khi công ty ký kết thỏa thuận với Atlas Fabricators để sản xuất thùng xe tải tại Long Beach, nhằm tránh 25% "chicken tax" đối với xe tải nhẹ nhập khẩu. Bằng cách nhập khẩu xe tải dưới dạng chassis cab (xe tải không có thùng), phương tiện chỉ phải chịu mức thuế 4%. Sau khi nhập khẩu vào Hoa Kỳ, Atlas sẽ sản xuất thùng xe tải và gắn chúng vào xe tải. Mối hợp tác này thành công và hai năm sau đó, Toyota mua lại Atlas. Kỳ tích năng lượng của thập kỷ 1970 là một điểm khởi đầu quan trọng trong ngành công nghiệp ô tô tại Hoa Kỳ. Trước khủng hoảng, xe lớn và nặng với động cơ mạnh mẽ nhưng không hiệu quả đã trở nên phổ biến. Nhưng sau đó, người tiêu dùng bắt đầu đòi hỏi những chiếc xe nhỏ chất lượng cao và tiết kiệm nhiên liệu. Các nhà sản xuất ô tô trong nước, đang gặp khó khăn trong thời kỳ suy thoái, đã gặp khó khăn trong việc sản xuất những chiếc xe này có lợi nhuận, trong khi các nhà sản xuất ô tô nước ngoài như Toyota lại có vị thế tốt. Điều này, cùng với sự gia tăng của ý kiến chống Nhật Bản, đã thúc đẩy Quốc hội Hoa Kỳ xem xét các hạn chế nhập khẩu để bảo vệ ngành ô tô trong nước. Những năm 1960 cũng chứng kiến sự mở nhẹ của thị trường ô tô Nhật Bản đối với các công ty nước ngoài. Nhằm tăng cường ngành công nghiệp ô tô của Nhật Bản trước khi thị trường mở cửa, Toyota mua cổ phần trong các nhà sản xuất ô tô Nhật Bản khác. Điều đó bao gồm việc mua cổ phần trong Hino Motors, một nhà sản xuất xe tải thương mại lớn, xe buýt và động cơ diesel, cùng với cổ phần 16,8% trong Daihatsu, một nhà sản xuất xe kei car, loại xe hơi nhỏ nhất phù hợp với quy định đường bộ của Nhật Bản. Đó là sự khởi đầu của mối quan hệ hợp tác lâu dài giữa Toyota và hai công ty này. Như một phần của sự hợp tác, Daihatsu sẽ cung cấp xe kei car để Toyota bán và đôi khi Toyota cung cấp xe toàn kích cỡ để Daihatsu bán (quá trình được gọi là rebadging), cho phép cả hai công ty có thể bán toàn bộ dòng sản phẩm. Những năm 1980 Sau những thành công của thập kỷ 1970 và những đe dọa về hạn chế nhập khẩu, Toyota đã tiến hành đầu tư bổ sung vào thị trường Bắc Mỹ vào những năm 1980. Năm 1981, Nhật Bản đồng ý áp dụng hạn chế xuất khẩu tự nguyện, giới hạn số lượng xe họ sẽ gửi đến Hoa Kỳ hàng năm, dẫn đến việc Toyota thành lập nhà máy lắp ráp tại Bắc Mỹ. Chính phủ Hoa Kỳ cũng đã đóng cửa mánh lới cho phép Toyota trả thuế thấp hơn bằng cách sản xuất thùng xe tại Mỹ. Cũng vào năm 1981, Eiji Toyoda từ chức Tổng giám đốc và đảm nhận chức vị Chủ tịch. Ông được kế nhiệm vị trí Tổng giám đốc bởi Shoichiro Toyoda, con trai của người sáng lập công ty. Trong vòng vài tháng, Shoichiro bắt đầu sáp nhập các tổ chức bán hàng và sản xuất của Toyota, và năm 1982, hai công ty kết hợp trở thành Tập đoàn Toyota. Hai nhóm được miêu tả như "dầu và nước" và Shoichiro mất nhiều năm để thành công trong việc kết hợp chúng thành một tổ chức. Nỗ lực mở nhà máy lắp ráp Toyota tại Hoa Kỳ bắt đầu vào năm 1980, khi công ty đề xuất hợp tác với Ford Motor Company. Tuy nhiên, cuộc đàm phán đã đổ vỡ vào tháng 7 năm 1981. Cuối cùng vào năm 1984, công ty ký kết thỏa thuận với General Motors (GM) để thành lập một nhà máy chế tạo xe gọi là NUMMI (New United Motor Manufacturing, Inc.) tại Fremont, California. GM xem dự án chung là cách để tiếp cận một mẫu xe nhỏ chất lượng và có cơ hội tìm hiểu về The Toyota Way và Toyota Production System. Đối với Toyota, nhà máy này mang lại cho công ty cơ sở sản xuất đầu tiên tại Bắc Mỹ, cho phép tránh các thuế trên xe nhập khẩu trong tương lai, và xem GM là một đối tác có thể chỉ cho họ cách điều hành trong môi trường lao động Mỹ. Nhà máy sẽ được lãnh đạo bởi Tatsuro Toyoda, em trai của Chủ tịch công ty Shoichiro Toyoda. Chiếc Toyota đầu tiên được lắp ráp tại Mỹ, một chiếc Corolla màu trắng, lăn bánh từ dây chuyền sản xuất của NUMMI vào ngày 7 tháng 10 năm 1986. Toyota nhận được Giải thưởng Kiểm soát Chất lượng Đầu tiên của Nhật Bản vào đầu những năm 1980 và bắt đầu tham gia vào nhiều loại hình đua xe. Toyota kiên nhẫn duy trì thiết kế hệ dẫn động cầu sau (rear-wheel-drive) lâu hơn hầu hết các hãng khác; trong khi đứng đầu về tổng sản xuất, nhưng chỉ xếp thứ ba trong sản xuất xe hơi hướng đầu (front-wheel-drive) vào năm 1983, sau Nissan và Honda. Một phần là do điều này, mẫu Nissan Sunny đã vượt qua Corolla về số lượng sản xuất trong năm đó. Trước khi thập kỷ kết thúc, Toyota giới thiệu Lexus, một thương hiệu mới được thành lập để tiếp thị và phục vụ các dòng xe sang trọng trên thị trường quốc tế. Trước khi ra mắt Lexus, hai mẫu xe đại diện hiện tại của Toyota, Toyota Crown và Toyota Century, chỉ phục vụ thị trường Nhật Bản và không có sức hấp dẫn toàn cầu để cạnh tranh với các thương hiệu sang trọng quốc tế như Mercedes-Benz, BMW và Jaguar. Công ty đã phát triển thương hiệu và các mẫu xe này bí mật từ tháng 8 năm 1983, với chi phí hơn 1 tỷ USD. Mẫu sedan sang trọng cỡ lớn LS 400 ra mắt vào năm 1989 với doanh số mạnh mẽ và đóng góp lớn cho sự thành công của thương hiệu Lexus. Những năm 1990 Vào thập kỷ 1990, Toyota bắt đầu mở rộng sản xuất các dòng xe lớn hơn và sang trọng hơn, bao gồm một chiếc xe bán tải cỡ lớn, Toyota T100 (và sau đó là Tundra), một số dòng xe SUV, phiên bản thể thao của Toyota Camry, được biết đến với tên gọi Camry Solara. Họ cũng sẽ ra mắt các phiên bản mới của các mẫu xe thể thao của họ, đặc biệt là MR2, Celica và Supra trong thời kỳ này. Vào tháng 12 năm 1997, Toyota giới thiệu mẫu xe hybrid xăng-điện đầu tiên trong quy mô lớn, Toyota Prius thế hệ đầu tiên. Trong hai năm đầu, mẫu xe này chỉ được sản xuất độc quyền cho thị trường Nhật Bản. Với sự hiện diện mạnh mẽ tại châu Âu, nhờ thành công của Toyota Team Europe trong đua xe, công ty quyết định thành lập Toyota Motor Europe Marketing and Engineering, TMME, để giúp tiếp thị xe hơi trên lục địa này. Hai năm sau đó, Toyota thành lập một cơ sở ở Vương quốc Anh, TMUK, vì các dòng xe của công ty đã trở nên rất phổ biến trong cộng đồng lái xe Anh. Các cơ sở ở Indiana, Virginia và Tianjin cũng được thành lập. Trong giai đoạn này, Toyota cũng tăng sở hữu của mình trong Daihatsu. Năm 1995, Toyota tăng tỷ lệ sở hữu trong công ty này lên 33,4%, cho phép Toyota có quyền phủ quyết các nghị quyết của cổ đông tại hội nghị thường niên. Năm 1998, Toyota tăng tỷ lệ sở hữu lên 51,2%, trở thành cổ đông chi phối. Vào ngày 29 tháng 9 năm 1999, công ty quyết định niêm yết trên Sàn giao dịch chứng khoán New York và London Stock Exchange (thiết bị định vị ô tô). Phần sau của thập kỷ 1990 cũng chứng kiến sự rút lui của hai anh em Toyoda khỏi công ty do cha của họ thành lập. Năm 1992, Shoichiro Toyoda rời chức vụ chủ tịch, nhường chỗ cho anh trai Tatsuro trở thành tổng giám đốc, chức vụ mà ông giữ cho đến khi nghỉ hưu vào năm 1995. Shoichiro rút lui khỏi chức vụ chủ tịch vào năm 1999. Cả hai vẫn giữ vai trò cố vấn danh dự trong công ty. Hiroshi Okuda đã dẫn dắt công ty làm tổng giám đốc từ năm 1995 đến 1999 khi ông trở thành chủ tịch và chức vụ Tổng giám đốc được điền bởi Fujio Cho. Những năm 2000 Tháng 8 năm 2000, việc xuất khẩu Prius bắt đầu. Năm 2001, Toyota mua lại đối tác lâu năm của mình, nhà sản xuất xe tải và xe bus Hino Motors. Năm 2002, Toyota tham gia cuộc đua Formula One và thành lập liên doanh sản xuất ở Pháp với các hãng ô tô Pháp Citroën và Peugeot. Một thương hiệu dành cho giới trẻ ở Bắc Mỹ, Scion, được giới thiệu vào năm 2003. Toyota đứng thứ tám trong danh sách các công ty hàng đầu thế giới của tạp chí Forbes năm 2005. Năm 2005, Fujio Cho chuyển sang chức vụ chủ tịch của Toyota và được thay thế bởi Katsuaki Watanabe làm tổng giám đốc. Năm 2007, Toyota ra mắt phiên bản cập nhật của chiếc xe tải cỡ lớn của họ, Tundra, được sản xuất tại hai nhà máy tại Mỹ, một ở Texas và một ở Indiana. Motor Trend đã bình chọn Toyota Camry 2007 là "Xe của năm" năm 2007. Toyota cũng bắt đầu xây dựng hai nhà máy mới, một ở Woodstock, Ontario, Canada và một ở Blue Springs, Mississippi, Hoa Kỳ. Toyota đã trở thành công ty ô tô bán chạy nhất trên toàn cầu trong quý đầu tiên năm 2008. Toyota đã chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 khi buộc phải dự báo lỗ hàng năm đầu tiên trong 70 năm vào tháng 12 năm 2008. Tháng 1 năm 2009, công ty thông báo đóng cửa tất cả các nhà máy tại Nhật Bản trong 11 ngày để giảm sản lượng và số lượng xe tồn kho chưa bán. Tháng 10 năm 2009, Toyota thông báo họ đang thành lập một văn phòng ở Hàn Quốc và ra mắt các mẫu xe Camry sedan, Camry hybrid, Prius và RAV4 trong sự kiện ra mắt tại khách sạn Grand Hyatt Seoul. Từ năm 2009 đến 2011, Toyota đã tiến hành các cuộc triệu hồi hàng triệu xe sau khi có báo cáo rằng một số tài xế đã gặp sự cố tăng tốc bất ngờ. Các cuộc triệu hồi nhằm ngăn chặn tấm lót sàn bên trước của tài xế phía trước trượt vào khoang bàn đạp chân, gây kẹt các bàn đạp và sửa chữa khả năng gắn kết cơ khí của bàn đạp ga. Ít nhất 37 người đã thiệt mạng trong các vụ tai nạn có liên quan đến tăng tốc bất ngờ, khoảng 9 triệu xe ô tô đã được triệu hồi, Toyota đã bị kiện vì thương tích cá nhân và tử vong không đúng quy định, trả 1 tỷ USD để giải quyết một vụ kiện tập thể để bồi thường cho chủ sở hữu doanh thu bán lại bị mất, và trả 1,2 tỷ USD tiền phạt hình sự cho chính phủ Hoa Kỳ vì cáo buộc rằng công ty đã giấu thông tin về các lỗi an toàn và đã đưa ra những phát ngôn sai lầm để bảo vệ hình ảnh thương hiệu. Trong bối cảnh scandal tăng tốc bất ngờ, Katsuaki Watanabe từ chức làm tổng giám đốc công ty. Ông được thay thế bởi Akio Toyoda, cháu trai của người sáng lập công ty Kiichiro Toyoda, vào ngày 23 tháng 6 năm 2009. Akio đã làm việc tại Toyota từ năm 1984, đảm nhiệm các công việc trong sản xuất, tiếp thị và phát triển sản phẩm, và trở thành thành viên trong hội đồng quản trị vào năm 2000. Việc bổ nhiệm Akio bởi hội đồng đánh dấu sự trở lại của một thành viên trong gia đình Toyoda vào vị trí lãnh đạo cao nhất lần đầu tiên kể từ năm 1999. Những năm 2010 Năm 2011, Toyota cùng với một phần lớn ngành công nghiệp ô tô Nhật Bản đã chịu ảnh hưởng từ một loạt thiên tai. Động đất và sóng thần Tōhoku năm 2011 đã gây ra sự gián đoạn nghiêm trọng trong nguồn cung cấp và sụt giảm sản xuất và xuất khẩu. Lũ lụt nghiêm trọng trong mùa mưa năm 2011 ở Thái Lan đã ảnh hưởng đến các nhà sản xuất ô tô Nhật Bản đã chọn Thái Lan làm cơ sở sản xuất. Toyota được ước tính đã mất sản xuất 150.000 xe do sóng thần và 240.000 xe do lũ lụt. Vào ngày 10 tháng 2 năm 2014, công ty thông báo rằng Toyota sẽ ngừng sản xuất xe và động cơ tại Úc vào cuối năm 2017. Quyết định này được đưa ra dựa trên đồng ý không thuận lợi của đồng Úc làm xuất khẩu không khả thi, chi phí cao của sản xuất địa phương và sự cạnh tranh cao trong một thị trường địa phương tương đối nhỏ. Công ty dự định tập trung các chức năng doanh nghiệp tại Melbourne vào cuối năm 2017 và duy trì nhà máy Altona để phục vụ các chức năng khác. Dự kiến số lượng nhân viên sẽ giảm từ 3.900 xuống còn 1.300. Cả Công ty Ford và General Motors (Holden) cũng làm theo, kết thúc việc sản xuất ô tô tại Úc vào năm 2016 và 2017 lần lượt. Trong nửa đầu năm 2014, Toyota vừa qua đã giành vị trí dẫn đầu về doanh số bán hàng toàn cầu, bán được 5,1 triệu xe trong sáu tháng kết thúc vào ngày 30 tháng 6 năm 2014, tăng 3,8% so với cùng kỳ năm trước. Tập đoàn Volkswagen, bán được 5,07 triệu xe, đã gần kề phía sau. Tháng 8 năm 2014, Toyota thông báo rằng họ sẽ cắt giảm giá linh kiện thay thế tại Trung Quốc lên đến 35%. Công ty thừa nhận rằng động thái này là phản ứng trước một cuộc điều tra đã được dự báo trước đó trong tháng của Ủy ban Phát triển và Cải cách Quốc gia của Trung Quốc về chính sách linh kiện thay thế Lexus của Toyota, như là một phần của cuộc điều tra toàn ngành về những mức giá cao đáng kể mà các nhà sản xuất ô tô đang tính phí cho linh kiện thay thế và dịch vụ sau bán hàng. Vào tháng 11 năm 2015, công ty thông báo rằng họ sẽ đầu tư 1 tỷ USD trong 5 năm tới cho nghiên cứu trí tuệ nhân tạo và robot. Năm 2016, Toyota đầu tư vào Uber. Năm 2020, một báo cáo về quản trị doanh nghiệp cho thấy Toyota sở hữu 10,25 triệu cổ phiếu của Uber, được định giá khoảng 292,46 triệu USD tính đến ngày 30 tháng 3 năm 2020. Theo Reuters, đây là khoảng 0,6% số cổ phiếu còn lại của Uber. Tháng 3 năm 2016, Toyota hợp tác với Yanmar để tạo ra một chiếc thuyền nhỏ bằng sợi thủy tinh sử dụng động cơ diesel biển ngoài Yanmar hoặc động cơ trong Toyota. Tháng 8 năm 2016, công ty mua lại tất cả tài sản còn lại của Daihatsu, biến nhà sản xuất xe nhỏ thành một công ty con trực thuộc của Toyota. Ngày 27 tháng 8 năm 2018, Toyota thông báo đầu tư 500 triệu USD vào các xe tự hành của Uber. Tháng 10 năm 2019, Toyota ủng hộ đề xuất của Chính quyền Trump rằng quyền hạn của chính phủ liên bang nên áp đặt lên khả năng của California để đặt các tiêu chuẩn khí thải riêng cho ô tô. Đề xuất này sẽ giảm tiêu thụ nhiên liệu của California vào năm 2025 từ khoảng 54,5 xuống còn 37 dặm một gallon. Sự chuyển đổi này của Toyota xa khỏi hiệu suất nhiên liệu đã làm tổn hại đến danh tiếng của công ty là một thương hiệu "xanh". Những năm 2020 Vào năm 2020, Toyota đã tái chiếm vị trí là nhà sản xuất ô tô lớn nhất trên thế giới, vượt qua Volkswagen. Dù doanh số bán hàng giảm 11,3% do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, Toyota vẫn bán được 9,528 triệu xe trên toàn cầu. Điều này bao gồm cả các công ty con như Daihatsu và Hino Motors. Vào ngày 2 tháng 4 năm 2020, BYD và Toyota thông báo thành lập một liên doanh mới giữa hai công ty có tên BYD Toyota EV Technology Co., Ltd., với mục tiêu "phát triển các xe điện dùng pin (Battery Electric Vehicles) hấp dẫn khách hàng." Vào tháng 3 năm 2021, Toyota, công ty con Hino và Isuzu thông báo về việc tạo ra một liên doanh chiến lược giữa ba công ty. Toyota sẽ mua 4,6% cổ phần của Isuzu trong khi Isuzu lên kế hoạch mua cổ phần của Toyota với giá trị tương đương. Ba công ty cho biết họ sẽ thành lập một liên doanh mới vào tháng 4 có tên là Công ty Công nghệ Đối tác Thương mại Nhật Bản với mục tiêu phát triển các xe tải nhẹ chạy bằng nhiên liệu cell pin và điện. Toyota sẽ sở hữu 80% cổ phần trong liên doanh, trong khi Hino và Isuzu sẽ sở hữu mỗi công ty 10%. Vào tháng 4 năm 2021, Toyota thông báo rằng họ sẽ mua đơn vị công nghệ tự lái của Lyft với giá 550 triệu USD và hợp nhất nó với đơn vị tự động hóa mới được tạo ra của họ, Woven Planet Holdings. Vào tháng 6 năm 2021, công ty bảo vệ việc quyên góp tiền cho các nhà lập pháp Cộng hòa của Hoa Kỳ sau khi họ bỏ phiếu chống chứng nhận kết quả của cuộc bầu cử tổng thống 2020, cho rằng họ không tin rằng "đánh giá các thành viên của Quốc hội" vì chỉ một phiếu đó. Một báo cáo của Axios cho biết Toyota là nhà tài trợ hàng đầu cho những người phản đối cuộc bầu cử 2020, với khoảng cách đáng kể. Tuy nhiên, công ty đã thay đổi quan điểm vào tháng 7 năm 2021 và ngừng quyên góp cho những người phản đối cuộc bầu cử, phát hành một tuyên bố cho biết họ hiểu rằng việc quyên góp từ PAC của họ cho những người phản đối, vượt xa so với bất kỳ công ty nào khác, "gây phiền lòng đối với một số bên liên quan." Vào tháng 12 năm 2021, Toyota thông báo sẽ đầu tư 8 nghìn tỷ JPY (tương đương 70 tỷ USD theo tỷ giá năm 2021) vào ô tô điện vào năm 2030, ra mắt 30 mẫu xe ô tô điện trên toàn cầu vào năm đó và đặt mục tiêu bán hàng là 3,5 triệu xe ô tô điện vào năm 2030. Toyota sẽ tăng số lượng kỹ sư phần mềm tuyển dụng lên khoảng 40% đến 50% của tổng số nhân sự kỹ thuật từ quý 2 năm 2022, việc này nhằm giải quyết sự chuyển đổi sang các công nghệ CASE - kết nối, tự lái, chia sẻ và điện - trong một môi trường cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt. Vào năm 2021, Toyota đã yêu cầu một số nhà cung cấp của mình tăng mức tồn kho linh kiện từ 3 tháng thông thường lên 5 tháng để đối phó với sự thiếu hụt chip toàn cầu do COVID-19. Chuỗi cung ứng "just-in-time" trong đó các linh kiện chỉ được giao khi cần thiết đã được điều chỉnh sau trận động đất và sóng thần ngày 11 tháng 3 năm 2011 ở Nhật Bản, làm tăng mức tồn kho trên toàn bộ mạng lưới cung ứng. Thời gian mà Toyota cần để xử lý tồn kho đã tăng khoảng 40% trong vòng 10 năm qua, đạt 36,36 ngày . Vào tháng 6 năm 2022, Toyota đã triệu hồi 2.700 chiếc ô tô điện đầu tiên do lo ngại về khả năng bánh xe có thể tuột khỏi trong quá trình lái xe. Phát hiện rằng bulong trên bánh xe của bZ4X có thể lỏng đến mức bánh xe đơn giản bị mất khỏi xe, gây mất kiểm soát và có thể gây tai nạn. Vào tháng 8 năm 2022, Toyota cam kết đầu tư tối đa 5,6 tỷ USD vào sản xuất pin ô tô điện và thông báo tăng đầu tư vào nhà máy gần Greensboro, Bắc Carolina. Ngoài ra, vào năm 2022, Toyota đã giữ vị trí nhà sản xuất ô tô bán chạy nhất thế giới trong ba năm liên tiếp. Vào tháng 1 năm 2023, CEO và Chủ tịch Toyota Akio Toyoda thông báo rằng ông sẽ từ chức và nhường vị trí đó cho Koji Sato. Akio là cháu trai của người sáng lập công ty Rizaburo Toyoda. Sato đã từng quản lý Lexus, thương hiệu ô tô sang trọng của Toyota. Thay đổi này dự kiến sẽ có hiệu lực từ ngày 1 tháng 4 năm 2023. Công việc doanh nghiệp Toyota có trụ sở chính tại thành phố Toyota, trước đây được gọi là Koromo cho đến năm 1951, khi thành phố thay đổi tên để phù hợp với hãng ô tô. Thành phố Toyota nằm ở tỉnh Aichi, Nhật Bản. Trụ sở chính của Toyota nằm trong một tòa nhà 4 tầng được mô tả là "khiêm tốn". Vào năm 2013, CEO của công ty, Akio Toyoda, cho biết công ty gặp khó khăn trong việc giữ chân nhân viên nước ngoài tại trụ sở do thiếu tiện nghi tại thành phố này. Hiện diện trên toàn cầu Xung quanh trụ sở chính là Trung tâm Kỹ thuật Toyota cao 14 tầng và nhà máy Honsha (thành lập năm 1938). Toyota và các công ty thành viên thuộc Toyota Group vận hành tổng cộng 17 cơ sở sản xuất tại tỉnh Aichi và tổng cộng 32 nhà máy tại Nhật Bản. Toyota cũng có văn phòng tại Bunkyo, Tokyo và Nakamura-ku, Nagoya. Ngoại trừ Nhật Bản, là một trong những hãng sản xuất ô tô lớn nhất thế giới về doanh số sản xuất, Toyota có các nhà máy tại hầu hết các vùng trên thế giới. Công ty lắp ráp xe tại Argentina, Bỉ, Brazil, Canada, Colombia, Cộng hòa Séc, Pháp, Indonesia, Mexico, Philippines, Ba Lan, Nga, Nam Phi, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Vương quốc Anh, Hoa Kỳ và Venezuela. Ngoài ra, công ty còn có các nhà máy liên doanh, có giấy phép hoặc đặt hàng tại Trung Quốc, Pháp, Ấn Độ, Malaysia, Pakistan, Đại Loan, Hoa Kỳ và Việt Nam. Bắc Mỹ Toyota Motor North America có trụ sở chính tại Plano, Texas, và hoạt động như một công ty chính cho tất cả các hoạt động của Toyota Motor Corporation tại Canada, Mexico và Hoa Kỳ. Hoạt động của Toyota tại Bắc Mỹ bắt đầu vào ngày 31 tháng 10 năm 1957, và công ty hiện tại được thành lập năm 2017 từ sự hợp nhất của ba công ty: Toyota Motor North America, Inc., chỉ điều khiển các chức năng của Toyota; Toyota Motor Sales, U.S.A., Inc. chịu trách nhiệm về tiếp thị, bán hàng và phân phối tại Hoa Kỳ; và Toyota Motor Engineering & Manufacturing North America quản lý hoạt động tại các nhà máy lắp ráp trong khu vực. Trong khi các công ty này tiếp tục tồn tại với tên pháp lý, họ hoạt động như một công ty duy nhất tại một khu đô thị trụ sở. Toyota có sự hiện diện lớn tại Hoa Kỳ với sau nhà máy lắp ráp chính tại Huntsville, Alabama, Georgetown, Kentucky, Princeton, Indiana, San Antonio, Texas, Buffalo, West Virginia, và Blue Springs, Mississippi. Vào năm 2018, Toyota và Mazda tuyên bố một nhà máy liên doanh sẽ sản xuất xe tại Huntsville, Alabama, bắt đầu từ năm 2021. Toyota đã bắt đầu sản xuất các loại xe bán tải lớn như Tundra mới nhằm mục tiêu thị trường xe bán tải cỡ đầy đủ tại Hoa Kỳ. Toyota cũng đang đẩy mạnh xe điện hybrid tại Hoa Kỳ như Prius, Camry Hybrid, Highlander Hybrid và các sản phẩm Lexus khác. Hiện tại, Toyota không có kế hoạch cung cấp tuỳ chọn động cơ diesel cho các sản phẩm tại Bắc Mỹ, bao gồm cả xe bán tải. Toyota Canada Inc., là một phần của Toyota Motor North America, đảm nhận việc tiếp thị, bán hàng và phân phối tại Canada. Toyota Motor Manufacturing Canada điều hành ba nhà máy lắp ráp: hai tại Cambridge, Ontario và một tại Woodstock, Ontario. Vào năm 2006, công ty con của Toyota là Hino Motors mở một nhà máy xe tải nặng, cũng tại Woodstock, với sự tham gia của 45 nhân viên và sự sản xuất 2.000 xe tải mỗi năm. Châu Âu/ Tây Á Toyota Motor Europe có trụ sở tại Brussels, Bỉ, và quản lý tất cả hoạt động của Toyota Motor Corporation tại châu Âu và phía tây châu Á. Hoạt động của Toyota tại châu Âu bắt đầu từ năm 1963. Toyota có mặt đáng kể tại châu Âu với chín nhà máy sản xuất tại Kolín, Cộng hòa Séc, Burnaston, Anh, Deeside, Anh, Onnaing, Pháp, Jelcz-Laskowice, Ba Lan, Wałbrzych, Ba Lan, Ovar, Bồ Đào Nha, Saint Petersburg, Nga, và Arifiye, Thổ Nhĩ Kỳ. Toyota cũng vận hành một nhà máy liên doanh với Citroën và Peugeot tại Valenciennes, Pháp. Úc Vào năm 1963, Úc là một trong những quốc gia đầu tiên lắp ráp các xe Toyota ngoài Nhật Bản. Tuy nhiên, vào tháng 2 năm 2014, Toyota là nhà sản xuất ô tô lớn cuối cùng của Úc tuyên bố chấm dứt hoạt động sản xuất tại Úc. Việc đóng cửa nhà máy của Toyota tại Úc đã hoàn thành vào ngày 3 tháng 10 năm 2017, và đã sản xuất tổng cộng 3.451.155 xe. Vào thời điểm cao nhất vào tháng 10 năm 2007, Toyota sản xuất 15.000 xe mỗi tháng. Trước Toyota, Ford và Holden của GM đã tuyên bố các động thái tương tự, đều trích dẫn việc đánh giá thuận lợi về tiền tệ và chi phí sản xuất cao. Tài chính Toyota niêm yết công khai trên sàn giao dịch Tokyo, Osaka, Nagoya, Fukuoka và Sapporo với mã công ty . Ở Nhật Bản, cổ phiếu Toyota là thành phần của các chỉ số Nikkei 225 và TOPIX Core30. Ngoài ra, Toyota cũng được niêm yết tại sàn giao dịch New York với và trên sàn giao dịch London với . Toyota đã niêm yết công khai tại Nhật Bản từ năm 1949 và quốc tế từ năm 1999. Dòng sản phẩm Cho đến năm 2009, Toyota chính thức liệt kê khoảng 70 mẫu xe khác nhau được bán dưới thương hiệu Toyota, bao gồm sedan, coupe, xe vận chuyển, xe tải, xe hybrid và xe đa dụng. Nhiều mẫu xe trong số này được sản xuất dưới dạng sedan hạng nhỏ như Toyota Yaris, sedan hạng trung như Corolla, sedan hạng trung cao cấp như Camry và sedan hạng lớn như Avalon. Có cả các dòng xe đa dụng như Innova, Alphard/Vellfire, Sienna và các mẫu khác. Một số mẫu xe nhỏ như xB và tC được bán dưới thương hiệu Scion. Xe SUV và xe đa dụng Dòng xe Toyota SUV và crossover tăng nhanh trong giai đoạn cuối những năm 2010 đến 2020 do sự chuyển đổi của thị trường sang SUV. Các mẫu xe crossover của Toyota bao gồm từ mẫu xe hạng nhỏ như Yaris Cross và C-HR, mẫu xe hạng trung như Corolla Cross và RAV4, đến mẫu xe hạng trung lớn như Harrier/Venza và Kluger/Highlander. Các mẫu xe crossover khác bao gồm Raize, Urban Cruiser. Các mẫu xe SUV của Toyota bao gồm từ mẫu xe hạng trung như Fortuner đến mẫu xe hạng lớn như Land Cruiser. Các mẫu xe SUV khác bao gồm Rush, Prado, FJ Cruiser, 4Runner, và Sequoia. Pickup trucks Toyota bước vào thị trường xe tải nhỏ (pickup truck) lần đầu vào năm 1947 với mẫu SB chỉ được bán tại Nhật Bản và một số thị trường châu Á hạn chế. Sau đó, vào năm 1954, mẫu RK (đổi tên thành Stout vào năm 1959) và vào năm 1968, dòng xe tải nhỏ Hilux được ra mắt. Với sự cải tiến liên tục, Hilux (được gọi đơn giản là Pickup ở một số thị trường) đã trở nên nổi tiếng với khả năng bền bỉ và đáng tin cậy tuyệt vời. Dòng xe đã được bổ sung thêm phiên bản cab mở rộng và cab hành khách và Toyota tiếp tục sản xuất chúng ngày nay dưới các tên gọi khác nhau tùy thuộc vào thị trường, với các độ dài cabin khác nhau, động cơ xăng hoặc dầu diesel, và phiên bản 2WD và 4WD. Tại Bắc Mỹ, Hilux trở thành một mẫu xe quan trọng cho công ty, dẫn dắt công ty ra mắt mẫu Tacoma vào năm 1995. Tacoma được phát triển dựa trên Hilux, nhưng với thiết kế nhằm phù hợp hơn với nhu cầu của người tiêu dùng Bắc Mỹ, nơi mà xe tải nhỏ thường được sử dụng làm phương tiện cá nhân. Thiết kế này đã thành công và Tacoma trở thành mẫu xe tải nhỏ bán chạy nhất ở Bắc Mỹ. Sau thành công của dòng xe tải nhỏ Hilux ở Bắc Mỹ, Toyota quyết định tham gia vào thị trường xe tải cỡ lớn (full-size pickup), mà trước đó thường được các hãng sản xuất xe trong nước chiếm ưu thế. Công ty giới thiệu mẫu T100 cho mùa xe 1993 tại Hoa Kỳ. T100 có kích thước giường dài cỡ đầy đủ 8 feet, nhưng hệ thống treo và động cơ tương tự như dòng xe tải nhỏ. Tuy nhiên, doanh số bán hàng không đạt kỳ vọng và T100 đã bị chỉ trích vì có động cơ V6 nhỏ (đặc biệt so với động cơ V8 phổ biến trong các xe tải cỡ lớn Mỹ), thiếu phiên bản cab mở rộng, quá nhỏ và quá đắt (do thuế 25% áp dụng cho xe tải nhập khẩu). Năm 1995, Toyota trang bị động cơ V6 mạnh mẽ hơn từ mẫu Tacoma mới cho T100 và cũng bổ sung phiên bản cab mở rộng. Năm 1999, Toyota thay thế T100 bằng mẫu Tundra lớn hơn, được sản xuất tại Mỹ với động cơ V8 và thiết kế gần giống các xe tải cỡ lớn Mỹ khác. Xe hạng sang Trên thị trường nội địa Nhật Bản, Toyota có hai mẫu xe đại diện: sedan cao cấp Crown và xe limousine Century. Vào những năm 1980, Toyota muốn mở rộng dòng xe hạng sang nhưng nhận thấy rằng các mẫu xe đại diện hiện có trên thị trường Nhật Bản gần như không có sức hấp dẫn toàn cầu và không thể cạnh tranh với các thương hiệu đã được công nhận như Mercedes-Benz, BMW và Jaguar, hoặc các thương hiệu Acura và Infiniti được ra mắt bởi các đối thủ Nhật Bản. Trước khi thập kỷ kết thúc, Toyota giới thiệu Lexus, một thương hiệu mới được thành lập để tiếp thị và cung cấp dịch vụ cho các xe hạng sang trên thị trường ngoài Nhật Bản. Công ty đã phát triển thương hiệu và các mẫu xe dưới danh nghĩa bí mật kể từ tháng 8 năm 1983, với chi phí hơn 1 tỷ đô la Mỹ. Mẫu sedan hạng sang Lexus LS ra mắt vào năm 1989 và gây ấn tượng mạnh với doanh số bán hàng, đồng thời chịu trách nhiệm lớn cho sự thành công của thương hiệu Lexus. Sau đó, bộ phận này đã thêm vào các mẫu sedan, coupe, convertible và SUV. Thương hiệu Lexus được giới thiệu tới thị trường Nhật Bản vào năm 2005, trước đó, tất cả các xe được tiếp thị quốc tế dưới thương hiệu Lexus từ năm 1989 đến 2005 đều được ra mắt tại Nhật Bản dưới thương hiệu Toyota. Xe buýt Toyota Coaster là một loại xe minibus được giới thiệu vào năm 1969 với sức chứa 17 hành khách. Coaster được sử dụng phổ biến tại Nhật Bản, Singapore, Hồng Kông và Úc, và cũng được sử dụng tại các nước đang phát triển như các nhà khai thác minibus ở Châu Phi, Trung Đông, Nam Á, Caribe và Nam Mỹ để phục vụ giao thông công cộng. Công nghệ Xe hybrid điện Toyota là nhà lãnh đạo toàn cầu về doanh số xe hybrid điện, là một trong những công ty lớn nhất khuyến khích việc áp dụng xe hybrid trên quy mô hàng loạt trên toàn cầu, và là công ty đầu tiên thương mại hóa và sản xuất hàng loạt các loại xe như vậy, với việc giới thiệu Toyota Prius vào năm 1997. Công nghệ hybrid chuỗi của công ty được gọi là Hybrid Synergy Drive và sau đó đã được áp dụng vào nhiều xe trong danh mục sản phẩm của Toyota, bắt đầu từ mẫu Camry và công nghệ này cũng được mang tới cho thương hiệu cao cấp Lexus. , Toyota Motor Corporation đã bán ra 44 mẫu xe hơi hybrid của Toyota và Lexus tại hơn 90 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới, và hãng đã bán được hơn 15 triệu xe hybrid kể từ năm 1997. Gia đình xe Prius là dòng xe hybrid chạy xăng-điện bán chạy nhất thế giới, với gần 4 triệu đơn vị đã được bán trên toàn cầu tính đến tháng 1 năm 2017. Ngoài Prius, Toyota còn có dòng xe hybrid hiện tại bao gồm Alphard/Vellfire/Crown Vellfire, Avalon, Aqua, Camry, C-HR/IZOA, Corolla/Levin, Corolla Cross/Frontlander, Crown, Harrier/Venza, Highlander/Kluger/Crown Kluger, Innova, Noah/Voxy, Raize, RAV4/Wildlander, Sequoia, Sienna, Sienta, Tundra, Urban Cruiser Hyryder, Yaris và Yaris Cross. Dòng xe hybrid hiện tại của Lexus bao gồm ES, IS, LC, LM, LS, NX, RC, RX và UX. Xe hybrid sạc điện Khái niệm Xe hybrid sạc điện Prius được trưng bày vào cuối năm 2009, và ngay sau đó, chương trình thử nghiệm toàn cầu với 600 xe thử nghiệm trước sản xuất được triển khai. Những chiếc xe này được cho thuê cho các đơn vị vận tải và khách hàng của chính phủ và được trang bị các thiết bị theo dõi dữ liệu để cho phép Toyota theo dõi hiệu suất của xe. Xe được phát triển dựa trên Toyota Prius thế hệ thứ ba và được trang bị hai pin lithium-ion bổ sung vượt quá pin hybrid thông thường. Những pin bổ sung này được sử dụng để vận hành xe với việc sử dụng ít nhất động cơ đốt trong đến khi chúng cạn kiệt, sau đó chúng sẽ ngừng hoạt động. Chúng không được sử dụng song song với pin hybrid chính. Sau khi kết thúc chương trình thử nghiệm, phiên bản sản xuất của Prius Plug-in Hybrid được giới thiệu vào tháng 9 năm 2011. Phiên bản sản xuất của Prius Plug-in có tốc độ tối đa chỉ bằng nguồn điện là 62 mph (khoảng 100 km/h), và Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ (EPA) xếp hạng xe có tầm hoạt động là 11 dặm (khoảng 18 km) trong chế độ kết hợp (chủ yếu sử dụng điện, nhưng được bổ sung bởi động cơ đốt trong). Cuối cùng, Toyota chỉ sản xuất một số lượng nhỏ với tổng cộng 75.400 xe được sản xuất từ năm 2012 đến năm 2016. Thế hệ thứ hai của Prius Plug-in (đổi tên thành Prius Prime tại Hoa Kỳ) được giới thiệu vào đầu năm 2016. Khác với thế hệ trước, nơi pin sạc được giới hạn bằng việc thêm vào Prius hiện có, mẫu xe này được phát triển song song với thế hệ thứ tư của Prius, cho phép Toyota tăng tầm hoạt động lên 25 dặm (khoảng 40 km), với tốc độ tối đa là 84 mph (khoảng 135 km/h), mà không cần sự trợ giúp của động cơ đốt trong. Thế hệ thứ hai của Prius Plug-in bắt đầu được bán vào cuối năm 2016, và Toyota dự kiến bán được tối đa 60.000 xe trên toàn cầu mỗi năm. Mẫu xe hybrid sạc điện thứ hai, Toyota RAV4 PHV (RAV4 Prime tại Hoa Kỳ) được giới thiệu vào tháng 12 năm 2019. Xe có tầm hoạt động hoàn toàn bằng điện ước tính theo EPA là 42 dặm (khoảng 68 km) và có công suất kết hợp là 302 mã lực, cho phép nó trở thành mẫu xe thứ hai nhanh nhất hiện đang được Toyota sản xuất (sau mẫu xe thể thao GR Supra 3.0). Bán hàng bắt đầu vào giữa năm 2020. Xe điện sạc pin Toyota đã bị chỉ trích vì chậm chân trong việc thêm các xe điện sạc pin vào danh mục sản phẩm của mình. Hãng công khai thể hiện sự hoài nghi về công nghệ xe điện sạc pin và đã lên án việc chính phủ yêu cầu chuyển đổi sang xe không khí thải đuôi khói không đáy. , công ty chỉ bán một tỷ lệ nhỏ các xe điện sạc pin, điều này đã khiến một số nhóm môi trường và lợi ích công cộng chỉ trích vì không áp dụng các xe điện sạc pin nhanh chóng và không cam kết mạnh mẽ chuyển sang xe điện sạc pin. Công ty dự định tăng doanh số bán xe điện lên 3,5 triệu xe mỗi năm vào năm 2030. Toyota đã tuyên bố rằng các công nghệ khác như xe chạy bằng hydro cũng sẽ đóng vai trò trong tương lai của công ty. Chiếc xe điện đầu tiên của Toyota được tạo ra như một phản ứng với yêu cầu của chính phủ. Công ty đã tạo ra thế hệ đầu tiên của Toyota RAV4 EV sau khi Hội đồng Tài nguyên Không khí California yêu cầu vào cuối những năm 1990 rằng mọi nhà sản xuất ô tô phải cung cấp một loại xe không khí thải đuôi khói không đáy. Tổng cộng có 1.484 xe được cho thuê và/hoặc bán tại California từ năm 1997 đến năm 2003, khi tiểu bang ngừng yêu cầu này sau áp lực pháp lý từ các vụ kiện được đệ đơn bởi các nhà sản xuất ô tô. Theo yêu cầu của người thuê, nhiều đơn vị đã được bán sau khi xe bị ngừng sản xuất. Một thế hệ thứ hai của RAV4 EV được phát triển vào năm 2010 như một phần của một thỏa thuận với Tesla. Phiên bản sản xuất được ra mắt vào tháng 8 năm 2012, sử dụng bộ pin, bộ điện tử và hệ thống truyền động từ Tesla Model S. RAV4 EV chỉ được sản xuất giới hạn với gần 3.000 xe được sản xuất trước khi ngừng sản xuất vào năm 2014. Theo thông tin từ Bloomberg News, mối hợp tác giữa Tesla và Toyota bị "gián đoạn do xung đột giữa các kỹ sư". Bắt đầu từ năm 2009, Toyota giới thiệu ba thế hệ xe điện khái niệm được gọi là FT-EV được xây dựng trên nền tảng xe Toyota iQ đã chỉnh sửa. Vào cuối năm 2012, công ty công bố kế hoạch sản xuất một phiên bản sản xuất của chiếc xe có tên Toyota iQ EV (Scion iQ EV ở Mỹ, Toyota eQ ở Nhật Bản), nhưng cuối cùng sản xuất bị giới hạn chỉ 100 xe dùng cho các đơn vị đặc biệt ở Nhật Bản và Hoa Kỳ. Vào cuối năm 2012, Toyota thông báo rằng họ sẽ rút lui khỏi việc phát triển các xe hoàn toàn điện, sau khi sản xuất dưới 5.000 xe. Lúc đó, Phó Chủ tịch công ty, Takeshi Uchiyamada, nói: "Năng lực hiện tại của xe điện không đáp ứng được nhu cầu của xã hội, cho dù đó có thể là khoảng cách mà xe có thể chạy, hoặc chi phí, hoặc thời gian nạp điện mất quá lâu." Toyota tập trung lại vào việc phát triển các xe hybrid và xe sử dụng nhiên liệu cell hydrogen. Các xe điện sớm này rộng rãi được coi là các xe tuân thủ quy định, có nghĩa là chúng được phát triển để đáp ứng tiêu chuẩn không khí không khí khí thải của California đối với các nhà sản xuất ô tô. Một sự thay đổi trong tư thế trước đây của Toyota, không chú trọng vào công nghệ pin, đã được nhìn thấy từ năm 2016, khi Giám đốc tài chính của Toyota, Takahiko Ijichi, "đã đưa ra tín hiệu mạnh mẽ rằng Toyota sẽ sớm tham gia vào cuộc đua xe điện và sản xuất các mẫu xe điện mặc dù có những quan điểm hoài nghi về quãng đường và thời gian sạc", như Wall Street Journal đã viết. Toyota cho biết họ sẽ sản xuất và bán các xe điện nếu và khi các quy định và thị trường yêu cầu. Một năm sau đó, Toyota đã đề ra kế hoạch về xe điện cho giai đoạn từ 2020 đến 2030 cho báo chí tại Tokyo, cho biết họ sẽ giới thiệu "hơn 10" mẫu xe điện trên toàn cầu vào đầu những năm 2020, bắt đầu từ Trung Quốc, sau đó là Nhật Bản, Châu Âu, Hoa Kỳ và Ấn Độ. Vào tháng 4 năm 2019, Toyota giới thiệu mẫu xe điện thuần túy đầu tiên của họ tại Trung Quốc, gồm hai phiên bản tương tự nhau gọi là C-HR EV và IZOA EV. Chúng được bán ra vào tháng 4 năm 2020 và tháng 5 năm 2020. Nikkei đưa tin vào tháng 10 năm 2020 rằng Toyota chỉ bán được dưới 2.000 xe trong tám tháng đầu năm. Toyota giới thiệu mẫu xe C+pod vào cuối năm 2020, một chiếc xe hai chỗ loại kei car với mức phạm vi ước tính là 100 km và tốc độ tối đa là 60 km/h. Vào tháng 12 năm 2020, Giám đốc điều hành của Toyota, Akio Toyoda, cho biết rằng xe điện đang bị "hoang tưởng" và ở Nhật Bản, chúng không nhất thiết giảm lượng khí thải carbon dioxide vì điện năng chủ yếu được tạo ra bằng cách đốt than và khí tự nhiên trong nước này. Ông cũng nói rằng cơ sở hạ tầng cần thiết cho Nhật Bản chuyển sang hoàn toàn sử dụng xe điện sẽ tốn từ 135 tỷ đến 358 tỷ USD và chuyển sang chỉ sử dụng xe điện sẽ làm mất hàng triệu việc làm và làm cho ô tô trở nên kém phổ biến hơn. Vào tháng 4 năm 2021, Toyota đã công bố mẫu xe Toyota bZ4X, một chiếc crossover SUV điện sẽ là chiếc xe đầu tiên được xây dựng trên nền tảng điện độc lập gọi là e-TNGA khi ra mắt vào giữa năm 2022. Đây là mẫu xe đầu tiên thuộc dòng sản phẩm bZ (viết tắt của "beyond Zero" - vượt xa số 0) của Toyota. Toyota cũng đã tuyên bố sẽ có tổng cộng bảy mẫu "bZ" sẽ được ra mắt trên toàn cầu trong số 15 mẫu xe điện vào năm 2025. Vào tháng 6 năm 2021, Transport & Environment xếp Toyota là nhà sản xuất ô tô ít sẵn sàng nhất chuyển đổi sang xe điện pin vào năm 2030, và cho biết: "Toyota chưa đặt mục tiêu cho năm 2030 và kế hoạch chỉ sản xuất 10% xe điện pin vào năm 2025. Dự kiến họ sẽ dựa vào công nghệ hybrid gây ô nhiễm." Vào tháng 12 năm 2021, Toyota đã thông báo tại Tokyo kế hoạch cho 30 mẫu xe điện vào năm 2030, bán 3,5 triệu xe điện pin mỗi năm vào ngày đó, và thương hiệu cao cấp Lexus của họ sẽ hoạt động 100% bằng pin vào năm 2030 tại Bắc Mỹ, Châu Âu và Trung Quốc. Công ty cũng đã thông báo đầu tư 70 tỷ USD vào việc điện hóa công ty. Trong một phiên họp song song với Hội nghị G-7 tháng 5 năm 2023, Akio Toyoda cho biết rằng xe điện pin không phải là tương lai duy nhất, thay vào đó, Toyota đề xuất một sự kết hợp giữa xe điện pin, xe trang bị động cơ đốt trong và xe chạy bằng hydro. Toyota đã phát triển công nghệ pin rắn (solid-state battery) trong kết hợp với Panasonic, trong đó công ty đã có hơn một nghìn bằng sáng chế liên quan đến pin rắn vào cuối năm 2020. Công nghệ này đã được triển khai trên mô hình Toyota LQ concept. Toyota hy vọng công nghệ này có thể tăng hiệu suất của các xe điện pin lên 30%, từ đó giảm chi phí pin tương ứng. Nhiên liệu Hydro Vào năm 2002, Toyota bắt đầu một chương trình phát triển và thử nghiệm để kiểm tra mẫu xe Toyota FCHV, một mẫu xe chạy bằng nhiên liệu hydro hybrid dựa trên mẫu SUV sản xuất Toyota Highlander. Toyota cũng xây dựng một chiếc xe buýt FCHV dựa trên mẫu xe buýt sàn thấp Hino Blue Ribbon City. Toyota đã xây dựng một số mẫu thử/kiểu mẫu của FCHV từ năm 1997, bao gồm Toyota FCHV-1, FCHV-2, FCHV-3, FCHV-4 và FCHV-adv. Mẫu xe điều khiển bằng nhiên liệu Toyota FCV-R đã được giới thiệu tại Triển lãm ô tô Tokyo 2011. Chiếc sedan FCV-R có 4 chỗ ngồi và được trang bị một bộ pin nhiên liệu bao gồm bình chứa hydro áp suất cao 70 MPa, có thể đi được khoảng 435 dặm theo chu trình kiểm tra JC08 của Nhật Bản. Toyota cho biết chiếc xe dự kiến sẽ ra mắt vào khoảng năm 2015. Vào tháng 8 năm 2012, Toyota công bố kế hoạch bán lẻ một sedan chạy bằng nhiên liệu hydro ở California vào năm 2015. Toyota kỳ vọng sẽ trở thành một nhà lãnh đạo trong công nghệ này. Nguyên mẫu của xe chạy bằng nhiên liệu hydro đầu tiên sẽ được trưng bày tại Triển lãm ô tô Tokyo tháng 11 năm 2013 và tại Hội chợ Điện tử Tiêu dùng tháng 1 năm 2014 tại Hoa Kỳ. Các mẫu xe chạy bằng nhiên liệu hydro đầu tiên của Toyota được bán thương mại là Toyota Mirai (tên tiếng Nhật có nghĩa là "tương lai"), được ra mắt tại Triển lãm ô tô Los Angeles tháng 11 năm 2014. Tháng 1 năm 2015, thông báo rằng sản xuất xe chạy bằng nhiên liệu hydro Mirai sẽ tăng từ 700 đơn vị vào năm 2015 lên khoảng 2.000 đơn vị vào năm 2016 và 3.000 đơn vị vào năm 2017. Bán lẻ tại Nhật Bản bắt đầu vào ngày 15 tháng 12 năm 2014, với giá khoảng 6,7 triệu JPY (khoảng 57.400 USD). Chính phủ Nhật Bản kế hoạch hỗ trợ việc thương mại hóa các xe chạy bằng nhiên liệu hydro bằng cách cung cấp một khoản trợ cấp 2 triệu JPY (khoảng 19.600 USD). Bán lẻ tại Hoa Kỳ bắt đầu vào tháng 8 năm 2015, với giá 57.500 USD trước các khoản khuyến mãi từ chính phủ. Ban đầu, Mirai chỉ có sẵn tại California. Ra mắt thị trường ở châu Âu dự kiến vào tháng 9 năm 2015, và ban đầu chỉ có sẵn ở Vương quốc Anh, Đức và Đan Mạch, sau đó mở rộng sang các quốc gia khác vào năm 2017. Giá bán ở Đức bắt đầu từ 60.000 euro (khoảng 75.140 USD) trước thuế giá trị gia tăng (78.540 euro). Năm 2015, Toyota công bố miễn phí sử dụng 5.600 bằng sáng chế liên quan đến nhiên liệu hydro cho đến năm 2020, hy vọng thúc đẩy phát triển công nghệ nhiên liệu cell hydro trên toàn cầu. Xe tự lái Toyota được coi là kém phát triển trong công nghệ xe thông minh và cần có sự đổi mới. Mặc dù vào năm 2017, Toyota đã giới thiệu mẫu xe thử nghiệm tự lái đầu tiên của mình và đã phát triển công nghệ tự lái riêng có tên gọi "Chauffeur" (dành cho tự lái hoàn toàn) và "Guardian" (hệ thống hỗ trợ người lái), nhưng chưa có một mẫu xe nào được trang bị công nghệ này trên thị trường. Vào năm 2018, Toyota đã thành lập một trung tâm nghiên cứu và phát triển lớn, chi tiêu gần 4 tỷ USD để thành lập Viện nghiên cứu xe tự lái tại Silicon Valley, California, và chi thêm 300 tỷ JPY vào một viện nghiên cứu tương tự tại Tokyo, Nhật Bản, hợp tác với các công ty thành viên của Tập đoàn Toyota và các nhà cung cấp ô tô như Aisin Seiki và Denso. Toyota cũng đã hợp tác với các nhà phát triển công nghệ xe tự lái và trong một số trường hợp, mua lại các công ty này. Toyota đã mua lại phân khúc xe tự lái của dịch vụ đặt xe Lyft với giá 550 triệu USD, đầu tư tổng cộng 1 tỷ USD vào phân khúc xe tự lái của dịch vụ đặt xe Uber, đầu tư 400 triệu USD vào công ty công nghệ xe tự lái Pony.ai, và thông báo hợp tác với công ty thương mại điện tử Trung Quốc Cogobuy để xây dựng một "Hệ sinh thái Xe Thông minh." Vào tháng 12 năm 2020, Toyota giới thiệu mẫu xe tự lái chia sẻ "e-Palette" chở được 20 hành khách, được sử dụng tại Thế vận hội Tokyo 2021. Toyota đã thông báo rằng họ dự định có mẫu xe này sẵn sàng cho các ứng dụng thương mại trước năm 2025. Từ tháng 2 năm 2021, Toyota đã xây dựng "Thành phố Woven" trang bị các cảm biến, được gọi là "thành phố thông minh, trang bị công nghệ cao diện tích 175 acre" ở chân núi Phú Sĩ. Khi hoàn thành vào năm 2024, Thành phố Woven sẽ được sử dụng để thực hiện các thử nghiệm trên các xe tự lái cho việc giao hàng, vận chuyển và các cửa hàng di động, trong đó cư dân của thành phố sẽ tham gia vào thí nghiệm phòng thí nghiệm sống. Hoạt động không liên quan đến ô tô Hàng không Toyota là một cổ đông minor trong Mitsubishi Aircraft Corporation, với việc đầu tư 67,2 triệu USD vào dự án mới này, sẽ sản xuất Mitsubishi Regional Jet, dự kiến ​​giao hàng đầu tiên vào năm 2017. Toyota cũng đã nghiên cứu tham gia vào thị trường hàng không tổng hợp và ký hợp đồng với Scaled Composites để sản xuất một chiếc máy bay chứng minh khái niệm, chiếc TAA-1, vào năm 2002. Thuyền giải trí Năm 1997, dựa trên mối quan hệ đối tác trước đó với Yamaha Marine, Toyota đã thành lập "Toyota Marine", xây dựng các tàu thuộc sở hữu riêng, hiện chỉ bán tại Nhật Bản. Một mạng lưới nhỏ ở Nhật Bản bán các loại tàu sang trọng tại 54 địa điểm, gọi là dòng "Toyota Ponam", và vào năm 2017, một chiếc thuyền được đánh dấu dưới thương hiệu Lexus, bắt đầu từ ngày 26 tháng 5 năm 2017. Từ thiện Toyota hỗ trợ nhiều hoạt động từ thiện trong các lĩnh vực như giáo dục, bảo tồn, an toàn và cứu trợ thiên tai. Một số tổ chức mà Toyota đã hợp tác tại Hoa Kỳ bao gồm Hội Chữ thập đỏ Mỹ, Câu lạc bộ Bé trai và Bé gái của Mỹ, Leaders in Environmental Action for the Future (LEAF), và Trung tâm Quốc gia về Học vụ gia đình. Quỹ Toyota USA được thành lập nhằm hỗ trợ giáo dục trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học. Ngoài ra, Toyota còn hợp tác với các tổ chức phi lợi nhuận nhằm cải thiện quy trình và hoạt động của chúng, ví dụ như Ngân hàng Thực phẩm cho Thành phố New York. Toyota cũng hỗ trợ nhiều công việc tại Nhật Bản. Quỹ Toyota có quan điểm toàn cầu, cung cấp các khoản tài trợ trong ba lĩnh vực môi trường con người và tự nhiên, phúc lợi xã hội và giáo dục và văn hóa. Giáo dục đại học Toyota thành lập Viện Công nghệ Toyota vào năm 1981, như Sakichi Toyoda đã dự định thành lập một trường đại học ngay khi ông và Toyota trở nên thành công. Viện Công nghệ Toyota thành lập Viện Công nghệ Toyota tại Chicago vào năm 2003. Toyota là người ủng hộ Chương trình Mong đợi Lái xe Toyota, Chương trình Học bổng Trao đổi Mùa hè cho Thanh thiếu niên Toyota Youth for Understanding, Chương trình Giáo viên Quốc tế Toyota, Toyota TAPESTRY, Học bổng Toyota Community Scholars (học bổng dành cho học sinh trung học), Chương trình Thực tập Kinh doanh của Phòng Thương mại Người Mỹ gốc Latin và Học bổng do Toyota tài trợ. Toyota đã đóng góp cho nhiều chương trình giáo dục và học bổng địa phương cho Đại học Kentucky, Indiana và các trường khác. Robot học Năm 2004, Toyota trình diễn robot chơi kèn của mình. Toyota đã phát triển các robot đa nhiệm dành cho chăm sóc người già, sản xuất và giải trí. Một ví dụ cụ thể về sự tham gia của Toyota trong lĩnh vực robot hỗ trợ người cao tuổi là Giao diện Máy não. Được thiết kế để sử dụng với xe lăn, nó "cho phép người điều khiển xe lăn điều khiển xe điện một cách chính xác, gần như trong thời gian thực", bằng suy nghĩ của mình. Các điều khiển suy nghĩ cho phép xe lăn di chuyển sang trái, phải và phía trước chỉ trong 125 miligiây sau suy nghĩ. Toyota cũng đã tham gia vào việc phát triển Kirobo, một 'robot nhà du hành vũ trụ'. Năm 2017, công ty giới thiệu T-HR3, một robot người có khả năng được điều khiển từ xa. Robot có thể sao chép các chuyển động của người kết nối. Phiên bản 2017 sử dụng dây cáp để kết nối nhưng phiên bản 2018 sử dụng công nghệ 5G từ khoảng cách lên đến 10 km. Công nghệ sinh học nông nghiệp Toyota đầu tư vào một số doanh nghiệp khởi nghiệp nhỏ và hợp tác trong lĩnh vực công nghệ sinh học, bao gồm: P.T. Toyota Bio Indonesia tại Lampung, Indonesia Australian Afforestation Pty. Ltd. ở Tây Australia và Nam Australia Toyota Floritech Co., Ltd. tại Rokkasho-Mura, Khu Kamikita, Tỉnh Aomori Sichuan Toyota Nitan Development Co., Ltd. tại Sichuan, Trung Quốc Toyota Roof Garden Corporation tại Miyoshi-Cho, Tỉnh Aichi Thương hiệu máy may Aisin, thành viên khác trong Tập đoàn Toyota các công ty, sử dụng cùng logo Toyota wordmark để tiếp thị các máy may sử dụng tại nhà. Aisin được thành lập bởi Kiichiro Toyoda sau khi ông thành lập Công ty Toyota Motor. Theo Aisin, ông rất hài lòng với chiếc máy may đầu tiên, ông quyết định áp dụng cùng thương hiệu Toyota như công việc ô tô của mình, mặc dù hai công ty này độc lập với nhau. Loại bỏ carbon Toyota Ventures, cùng với JetBlue Technology Ventures và Parley for the Oceans, là một trong những nhà đầu tư doanh nghiệp đã đầu tư 40 triệu đô la vào Air Company, một nhà sản xuất vodka tiêu cực carbon và rượu nước hoa và nước rửa tay sử dụng heterogeneous catalysis để chuyển đổi carbon bắt được thành ethanol. Các sáng kiến môi trường Toyota tuyên bố cam kết đạt tính khí thải carbon bằng không vào năm 2050, và họ đã đặt mục tiêu giảm tổng lượng khí thải carbon của mình xuống 90% vào năm 2050 so với mức năm 2010. Công ty đã đầu tư mạnh vào năng lượng mặt trời, với mục tiêu lắp đặt tấm pin mặt trời trên mái nhà của tất cả các đại lý trên toàn cầu vào năm 2050. Ngoài ra, Toyota đã hợp tác với các công ty năng lượng tái tạo khác để thúc đẩy việc sử dụng năng lượng gió và năng lượng mặt trời, bao gồm việc hợp tác gần đây với ENEOS Corporation để phát triển các trạm nạp hydro ở Nhật Bản. Toyota đã ra mắt chương trình "Global Environmental Challenge" 2050, đây là một sáng kiến toàn diện nhằm giảm ảnh hưởng môi trường của hoạt động của Toyota. Thách thức này bao gồm sáu mục tiêu môi trường mà Toyota hướng đến đạt được vào năm 2050, bao gồm giảm lượng khí thải carbon, tối thiểu hóa sử dụng nước, thúc đẩy tái chế và sử dụng lại vật liệu, và thúc đẩy việc sử dụng năng lượng tái tạo. Công ty cũng đã triển khai một loạt các sáng kiến nhằm thúc đẩy bền vững trong chuỗi cung ứng của mình, bao gồm nỗ lực giảm chất thải, sử dụng nước và thúc đẩy nông nghiệp bền vững. Ví dụ, Toyota đã triển khai một chương trình không chất thải tại các nhà máy sản xuất của mình, nhằm gửi không chất thải đến các bãi rác. Chiến lược công ty Toyota Way Toyota Way là một tập hợp các nguyên tắc và hành vi nằm dưới cơ sở của phương pháp quản lý và sản xuất của công ty (được xác định cụ thể hơn là Hệ thống Sản xuất Toyota). Công ty đã phát triển triết lý doanh nghiệp của mình từ năm 1948 và truyền nó như một kiến thức ngầm đối với nhân viên mới, nhưng khi công ty mở rộng quốc tế, các nhà lãnh đạo đã chính thức xác định và định nghĩa Toyota Way vào năm 2001. Toyota tóm tắt nó dưới hai trụ cột chính: cải tiến liên tục và tôn trọng con người. Dưới trụ cột cải tiến liên tục có ba nguyên tắc: thách thức (xây dựng tầm nhìn dài hạn), kaizen (quy trình cải tiến liên tục), và genchi genbutsu ("đi và xem" quá trình để đưa ra quyết định đúng). Dưới trụ cột tôn trọng con người có hai nguyên tắc: tôn trọng và làm việc nhóm. Vào năm 2004, Tiến sĩ Jeffrey Liker, một giáo sư công nghệ công nghiệp tại Đại học Michigan, đã xuất bản cuốn sách The Toyota Way. Trong cuốn sách của mình, Liker gọi Toyota Way là "một hệ thống được thiết kế để cung cấp các công cụ cho mọi người để liên tục cải thiện công việc của họ." Theo Liker, có 14 nguyên tắc của Toyota Way có thể được tổ chức thành bốn chủ đề: (1) triết lý dài hạn, (2) quy trình đúng sẽ tạo ra kết quả đúng, (3) tạo giá trị cho tổ chức bằng cách phát triển nhân viên, và (4) liên tục giải quyết các vấn đề gốc rễ thúc đẩy sự học tập của tổ chức. 14 nguyên tắc được xác định cụ thể hơn trong bài viết Wikipedia về Toyota Way. Hệ thống sản xuất Toyota Toyota Way cũng đã giúp định hình phương pháp sản xuất của công ty, nơi mà nó là một trong những người tiên phong đầu tiên trong những gì sau này được biết đến là sản xuất gọn nhẹ. Công ty xác định Hệ thống sản xuất Toyota dựa trên hai trụ cột chính: chỉ trong thời gian cần thiết (chỉ sản xuất những gì cần thiết, chỉ khi cần thiết, và chỉ trong số lượng cần thiết) và Jidoka (tự động hóa với sự tham gia của con người). Nguyên gốc của Hệ thống sản xuất Toyota đang gây tranh cãi, với ba câu chuyện về nguồn gốc của nó: (1) rằng trong chuyến đi năm 1950 để đào tạo với Công ty Ford Motor, các nhà điều hành công ty cũng nghiên cứu hệ thống phân phối chỉ trong thời gian cần thiết của công ty siêu thị Piggly-Wiggly, (2) rằng họ theo theo các bài viết của W. Edwards Deming, và (3) rằng họ học các nguyên tắc từ một chương trình đào tạo của chính phủ Hoa Kỳ trong Thế chiến II (Đào tạo trong Ngành công nghiệp). Sau khi phát triển Hệ thống sản xuất Toyota trong các cơ sở của chính mình, công ty bắt đầu dạy hệ thống này cho các nhà cung cấp linh kiện của mình vào những năm 1990. Các công ty khác quan tâm đến việc đào tạo này, và Toyota sau đó bắt đầu cung cấp các khóa đào tạo. Công ty cũng đã tặng các khóa đào tạo cho các tổ chức phi lợi nhuận để nâng cao hiệu quả làm việc của họ và từ đó năng lực phục vụ mọi người. Logo và nhãn hiệu Vào năm 1936, Toyota bước vào thị trường ô tô du lịch với mẫu xe Model AA và tổ chức một cuộc thi để thiết lập một logo mới nhấn mạnh tốc độ cho dòng sản phẩm mới của mình. Sau khi nhận được 27.000 đề xuất, một đề xuất đã được chọn và cũng đã dẫn đến việc thay đổi tên gọi từ "Toyoda", từ nguyên tên gia đình, thành "Toyota", có nghĩa là đồng cỏ. Tên mới được cho là nghe hay hơn, và con số tám nét trong ngôn ngữ Nhật được liên kết với sự giàu có và may mắn. Logo ban đầu là một phiên bản được thiết kế nghệ thuật nặng tay của các ký tự katakana cho Toyota (). Khi công ty bắt đầu mở rộng quốc tế vào cuối những năm 1950, logo chữ cái katakana được bổ sung bằng các dạng từ viết tắt của tên công ty bằng chữ in hoa tiếng Anh, "TOYOTA." Toyota giới thiệu một logo toàn cầu vào tháng 10 năm 1989 để kỷ niệm 50 năm thành lập công ty và để phân biệt nó với thương hiệu sang trọng mới ra mắt là Lexus. Logo này gồm ba hình oval kết hợp thành chữ "T", tượng trưng cho Toyota. Toyota cho biết việc chồng chéo hai hình oval vuông góc trong hình oval lớn biểu thị mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau và niềm tin giữa khách hàng và công ty, trong khi hình oval lớn bao quanh cả hai hình oval bên trong này biểu thị "sự mở rộng toàn cầu của công nghệ Toyota và tiềm năng không giới hạn cho tương lai". Logo mới này bắt đầu xuất hiện trên tất cả các tài liệu in, quảng cáo, biển hiệu đại lý và hầu hết các loại xe vào năm 1990. Ở các quốc gia hoặc khu vực sử dụng chữ Hán truyền thống, chẳng hạn như Hồng Kông và Đài Loan, Toyota được biết đến với tên "豐田". Ở các quốc gia sử dụng chữ Hán giản thể (như Trung Quốc và Singapore), Toyota được viết là "丰田" (đọc là Fēngtián trong tiếng Trung Quốc chuẩn và Hɔng Tshan trong tiếng Quảng Đông). Đây chính là các ký tự giống với tên gia đình người sáng lập "Toyoda" trong tiếng Nhật. Toyota vẫn sử dụng logo chữ cái katakana là biểu tượng công ty tại Nhật Bản, bao gồm cả trên tòa nhà trụ sở, và một số mẫu xe phiên bản đặc biệt vẫn sử dụng từ viết tắt "TOYOTA" trên tản nhiệt tạo sự gợi nhớ đến di sản của công ty. Vào ngày 15 tháng 7 năm 2015, công ty đã được cấp một tên miền cấp cao cấp riêng của mình, .toyota. Các vụ tranh cãi Vụ kiện gỉ sét Vào tháng 11 năm 2016, Toyota đã đồng ý trả 3,4 tỷ đô la để giải quyết cáo buộc rằng khoảng một triệu nửa chiếc xe bán tải Tacoma, Tundra và SUV Sequoia của hãng đã được trang bị khung gầm dễ bị gỉ sét và sự xuyên thủng. Theo hồ sơ tòa án, gỉ sét có thể đạt mức cao đủ để làm suy yếu tính chất kết cấu của xe. Tử vong do làm việc quá sức Vào ngày 9 tháng 2 năm 2002, Kenichi Uchino, 30 tuổi, một quản lý kiểm soát chất lượng, đã bất tỉnh và qua đời tại nơi làm việc. Vào ngày 2 tháng 1 năm 2006, một kỹ sư trưởng không tên của Camry Hybrid, 45 tuổi, qua đời do suy tim trong giường ngủ của mình. Khoản tiền phạt vi phạm môi trường Vào năm 2003, Toyota bị phạt 34 triệu đô la vì vi phạm Đạo luật Không khí Sạch Hoa Kỳ, khi 2,2 triệu xe mà họ bán có các máy tính kiểm soát khí thải bị lỗi. Vào tháng 1 năm 2021, Toyota đã bị phạt 180 triệu đô la vì việc trì hoãn báo cáo các khuyết điểm liên quan đến khí thải cho Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ (EPA) từ năm 2005 đến năm 2015. Người đại diện của Viện trưởng Cục Công tố Hoa Kỳ nói rằng những trì hoãn này "có thể đã dẫn đến việc trì hoãn hoặc tránh việc triệu hồi liên quan đến khí thải", mặc dù Toyota cho biết rằng mặc dù đã trì hoãn báo cáo vấn đề này cho EPA, họ đã thông báo cho khách hàng và sửa chữa các xe bị lỗi khí thải. Lúc đó, đây là khoản tiền phạt dân sự lớn nhất từng được áp đặt vì vi phạm yêu cầu báo cáo khí thải của EPA. Việc triệu hồi không ngừng từ 2009 đến 2011 vì vấn đề tăng tốc bất ngờ Từ năm 2009 đến 2011, Toyota đã triệu hồi hàng triệu xe sau khi có báo cáo cho thấy một số tài xế gặp phải tình trạng tăng tốc bất ngờ. Triệu hồi đầu tiên, vào tháng 11 năm 2009, nhằm ngăn chặn một chiếc thảm sàn bên trước của tài xế trượt vào khoang bàn đạp ô tô, làm kẹt bàn đạp. Triệu hồi thứ hai, vào tháng 1 năm 2010, được tiến hành sau khi phát hiện một số vụ tai nạn không phải do thảm sàn gây ra mà có thể do bàn đạp ô tô gặp phải vấn đề kẹt. Trên toàn thế giới, khoảng 9 triệu xe ô tô và xe tải đã bị ảnh hưởng bởi các vụ triệu hồi này. NHTSA đã nhận được báo cáo về tổng cộng 37 trường hợp tử vong có liên quan đến tăng tốc bất ngờ, mặc dù số lượng chính xác chưa được xác nhận. Do vấn đề này, Toyota đã đối mặt với gần 100 vụ kiện từ các gia đình của những người đã tử vong, các tài xế bị thương, chủ sở hữu xe ô tô mất giá trị bán lại và các nhà đầu tư đã thấy giá trị cổ phiếu của mình giảm. Trong khi hầu hết các vụ kiện về tổn thương cá nhân và tử vong đã được giải quyết một cách bảo mật, Toyota đã chi hơn 1 tỷ đô la để giải quyết một vụ kiện tập thể để bồi thường cho chủ sở hữu mất giá trị bán lại, và công ty đã đồng ý trả một khoản phạt hình sự 1,2 tỷ đô la cho chính phủ Hoa Kỳ vì cáo buộc rằng họ đã cố tình giấu thông tin về các khuyết điểm an toàn khỏi công chúng và đã đưa ra những tuyên bố đánh lừa để bảo vệ hình ảnh thương hiệu của mình. Số tiền phạt là số lớn nhất từng được áp đặt đối với một công ty ô tô. Triệu hồi túi khí Takata Toyota bị ảnh hưởng bởi việc triệu hồi bộ phận túi khí bị lỗi do Takata sản xuất. Bộ phận túi khí có thể nổ, bắn mảnh kim loại vào khoang cabin. Triệu hồi đã ảnh hưởng đến hàng triệu xe được sản xuất từ năm 2000 đến 2014, một số xe cần được sửa chữa nhiều lần. Cuộc đình công lao động Trung Quốc vào tháng 6 năm 2010 Vào ngày 21 tháng 6 năm 2010, một cuộc đình công lao động Trung Quốc đã xảy ra tại Công ty Tianjin Toyoda Gosei ở thành phố Tianjin. Toyoda Gosei là nhà cung cấp linh kiện cho Công ty Tianjin FAW Toyota Motor. Quảng cáo đánh lừa Trong chiến dịch quảng cáo của mình, Toyota thường xuyên đề cập đến các phương tiện hybrid không cắm điện của họ như là các phương tiện "tự sạc điện". Việc sử dụng thuật ngữ này đã gây ra một số chỉ trích rằng điều này là đánh lừa, vì một số người tiêu dùng đã bị dẫn nhầm rằng những phương tiện này tự sạc pin của mình khi không sử dụng. Có các khiếu nại về quảng cáo xe hybrid tự sạc tại Ireland, tuy nhiên, các khiếu nại đã bị Tổ chức Tiêu chuẩn Quảng cáo Ireland từ chối. Tuy nhiên, vào năm 2020, Cơ quan Tiêu dùng Na Uy đã cấm quảng cáo này hoàn toàn ở Na Uy, và cho biết: "Điều này là đánh lừa khi tạo cảm giác rằng việc cung cấp điện cho pin hybrid miễn phí, trong khi thực tế, việc tiêu thụ xăng dầu là điều kiện cần thiết." Trang web về xe điện IrishEVs đã chỉ trích Toyota Ireland vì trả tiền cho Đại học College Dublin để tiến hành một nghiên cứu chỉ trên bảy chiếc xe hybrid của họ trong vòng bảy ngày để làm thông cáo báo chí về hiệu suất của các phương tiện. Trang web cũng chỉ trích Toyota Ireland vì sử dụng các cuộc khảo sát ý kiến ​​để chứng thực một tuyên bố về lượng khí thải của họ trên Twitter. Gian lận kết quả thử va chạm Vào tháng 4 năm 2023, đã được tiết lộ rằng công ty con của Toyota, Daihatsu, đã gian lận bằng cách sắp đặt một số mẫu xe để đạt hiệu suất tốt hơn trong các bài thử va chạm so với các mẫu xe thực tế sản xuất. Các phương tiện có một phần của bảng nội thất của cửa trước có một rãnh tránh khả năng va chạm tạo ra một cạnh sắc có thể gây thương tích cho người sử dụng khi túi khí bên hông được triển khai. Rãnh này chỉ xuất hiện trên các phương tiện được thử nghiệm mà không có trên các phương tiện bán cho công chúng. Vấn đề này ảnh hưởng đến bốn mẫu xe, gồm Toyota Yaris Ativ (còn được gọi là Vios), Perodua Axia, Toyota Agya và một sản phẩm chưa được tiết lộ. Không có cuộc triệu hồi nào được tiến hành liên quan đến vấn đề này. Chú thích
Sir Bobby Robson (18 tháng 2 năm 1933 tại Sacriston, Anh – 31 tháng 7 năm 2009) là một cựu cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá người Anh nổi tiếng. Năm 2002, Bobby Robson được Nữ hoàng Anh phong tước Hiệp sĩ. Ông từng là huấn luyện viên Đội tuyển bóng đá quốc gia Ireland nhưng dưới danh nghĩa là "trợ lý bóng đá quốc tế". Khi còn là cầu thủ, Bobby Robson đã từng chơi cho các câu lạc bộ bóng đá Anh và Canada. Ông cũng được khoác áo đội tuyển Anh 20 lần, trong đó một lần tham dự World Cup 1958. Với cương vị huấn luyện viên, ông đã huấn luyện nhiều câu lạc bộ và đội tuyển quốc gia châu Âu. Sự nghiệp Cầu thủ bóng đá Fulham West Bromwich Albion Vancouver Royals (Canada) Huấn luyện viên Đội tuyển bóng đá quốc gia Anh: 1982–1990 Ireland: tháng 1, 2005 – nay (trợ lý bóng đá quốc tế) Câu lạc bộ Fulham: 1968–1969 Ipswich Town: 1969–1982 PSV Eindhoven: 1990–1992 và 1998–1999 Sporting Lisbon: 1992–1993 F.C. Porto: 1993–1995 FC Barcelona: 1995–1998 Newcastle United: 1999–2004 Danh hiệu Huấn luyện viên Ipswich Town FA Cup: 1977–78 Texaco Cup: 1972–73 UEFA Cup: 1980–81 National Fives Tournament: 1977 PSV Eindhoven Eredivisie: 1990–91, 1991–92 Johan Cruyff Shield: 1998 Porto Primeira Divisão: 1994–95, 1995–96 Taça de Portugal: 1993–94 Supertaça Cândido de Oliveira: 1993, 1994 Barcelona Copa del Rey: 1996–97 Supercopa de España: 1996 European Cup Winners' Cup: 1996–97
Suối là từ để chỉ những dòng nước chảy nhỏ và vừa, là dòng chảy tự nhiên của nước từ nơi cao xuống chỗ thấp hơn. Suối thường bắt nguồn từ các mạch nước ngầm hoặc từ các hồ nước thiên nhiên trong rừng, núi. Nước suối là loại nước ngọt. Các dòng suối thường khi hợp lại, lớn lên sẽ tạo thành các dòng sông. Hình ảnh
Không gian mở là khoảng trống không sử dụng vào mục đích xây dựng các công trình bất động sản, liền kề với không gian ở trong khu ở với nhiều cấp độ khác nhau trong khu ở, nó kết hợp với một hệ thống đường nội bộ có thiết kế hợp lý tạo ra được một khu vực có tính công cộng ở mọi cấp độ đô thị, từ cấp vùng cho đến cấp khu. Không gian mở được tạo nên thông qua ngôn ngữ biểu hiện của các công trình kiến trúc và cách tổ chức cảnh quan quy hoạch đô thị. Không gian mở đồng thời cũng thể hiện các yếu tố như: con người, các mối quan hệ xã hội, trình độ văn hóa, điều kiện kinh tế, cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, thể chế chính trị của xã hội.
Mangan, là nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn có ký hiệu Mn và số nguyên tử là 25. Nó được tìm thấy ở dạng tự do trong tự nhiên (đôi khi kết hợp với sắt), và trong một số loại khoáng vật. Ở dạng nguyên tố tự do, mangan là kim loại quan trọng trong các hợp kim công nghiệp, đặc biệt là thép không rỉ. Mangan phosphat được dùng để xử lý gỉ và chống ăn mòn trên thép. Tùy theo trạng thái oxy hóa của nó, các ion mangan có nhiều màu khác nhau và được dùng làm thuốc nhuộm trong công nghiệp. Các permanganat với các kim loại kiềm và kiềm thổ là các chất oxy hóa mạnh. Mangan dioxide được dùng làm vật liệu catốt trong các pin và pin khô kiềm và tiêu chuẩn. Các ion mangan(II) có chức năng làm cofactor trong một số enzyme ở sinh vật bậc cao, có vai trò quan trọng trong sự giải độc của các gốc peroxide tự do. Nguyên tố này cần thiết ở dạng vết trong các sinh vật sống. Khi hít phải Với lượng lớn hơn, mangan có thể gây hội chứng nhiễm độc ở động vật, gây tổn thương thần kinh mà đôi khi không thể phục hồi được. Tính chất Tính chất vật lý Mangan là kim loại màu trắng xám, giống sắt. Nó là kim loại cứng và rất giòn, khó nóng chảy, nhưng lại bị oxy hóa dễ dàng. Mangan kim loại chỉ có từ tính sau khi đã qua xử lý đặc biệt. Kim loại mangan và các ion phổ biến của nó có tính chất thuận từ. Đồng vị Mangan tự nhiên là bao gồm 1 đồng vị bền 55Mn. 18 đồng vị phóng xạ đã được miêu tả đặc điểm trong đó đồng vị phóng xạ ổn định nhất là 53Mn có chu kì bán rã 3,7 triệu năm, 54Mn có chu kì bán rã 312,3 ngày, và 52Mn là 5,591 ngày. Tất cả các đồng vị phóng xạ còn lại có chu kì bán rã nhỏ hơn 3 giờ và phần lớn trong số này có chu kì bán rã nhỏ hơn 1 phút. Nguyên tố này cũng có 3 trạng thái meta state. Mangan là một phần trong nhóm các nguyên tố sắt, chúng được cho là đã được tổng hợp trong các sao lớn trong thời gian ngắn trước khi xảy ra vụ nổ siêu tân tinh.53Mn phân rã thành 53Cr với chu kì bán rã 3,7 triệu năm. Do nó có chu kì bán rã tương đối ngắn, 53Mn chỉ có một ít trong các đá do phản ứng của các tia vũ trụ lên sắt. Các thành phần đồng vị mangan đặc biệt kết hợp với các hợp phần đồng vị crom và đã có những ứng dụng trong địa chất đồng vị và định tuổi đồng vị phóng xạ. Tỉ số đồng vị Mn–Cr cùng với bằng chứng từ 26Al và 107Pd về lịch sử ban đầu của Hệ Mặt Trời. Sự biến động về tỉ số 53Cr/52Cr và Mn/Cr trong một số thiên thạch ám chỉ tỉ số 53Mn/55Mn ban đầu rằng thành phần đồng vị Mn–Cr phải là kết quả tại chỗ của việc phân rã 53Mn trong các thiên thể phân dị. Do đó 53Mn cung cấp bằng chứng bổ sung cho quá trình tổng hợp hạt nhân tức thì trước sự hóa hợp của Hệ Mặt Trời. Các đồng vị của mangan xếp theo khối lượng nguyên tử từ 46 u (46Mn) đến 65 u (65Mn). Cơ chế phân rã ban đầu trước đồng vị bền phổ biến nhất 55Mn, là bắt electron và cơ chế phân rã ban đầu sau đó là phân rã beta. Tính chất hóa học Trạng thái oxy hóa phổ biến của nó là +2, +3, +4, +6 và +7, mặc dù trạng thái oxy hóa từ +1 đến +7 đã được ghi nhận. Mn2+ thường tương tác với Mg2+ trong các hệ thống sinh học, và các hợp chất có mangan mang trạng thái oxy hóa +7 là những tác nhân oxy hóa mạnh như Mn2O7. Các hợp chất có trạng thái oxy hóa +5 (lam) và +6 (lục) là các chất oxy hóa mạnh. Trạng thái oxy hóa ổn định nhất là mangan +2, nó có màu hồng nhạt, và một số hợp chất mangan (II) đã được biết như mangan(II) sulfat (MnSO4) và mangan(II) chloride (MnCl2). Trạng thái oxy hóa này cũng được gặp trong khoáng rhodochrosit, (mangan(II) cacbonat). Trạng thái oxy hóa +2 là trạng thái được sử dụng trong các sinh vật sống cho chức năng cảm giác; các trạng thái khác đều là chất độc đối với cơ thể con người. Ứng dụng Mangan có vai trò quan trọng trong sản xuất sắt thép vì có tác dụng khử lưu huỳnh, khử oxy, và mang những đặc tính của hợp kim. Luyện thép, và cả luyện sắt, sử dụng nhiều mangan nhất (chiếm khoảng 85-90% tổng nhu cầu). Trong những mục đích khác, mangan là thành phần chủ yếu trong việc sản xuất thép không rỉ với chi phí thấp, và có trong hợp kim nhôm. Nó còn được thêm vào dầu hỏa để giảm tiếng nổ lọc xọc cho động cơ. Mangan đioxít được sử dụng trong pin khô, hoặc làm chất xúc tác. Mangan được dùng để tẩy màu thủy tinh (loại bỏ màu xanh lục do sắt tạo ra), hoặc tạo màu tím cho thủy tinh. Mangan oxide là một chất nhuộm màu nâu, dùng để chế tạo sơn, và là thành phần của màu nâu đen tự nhiên. Kali pemanganat là chất oxy hóa mạnh, dùng làm chất tẩy uế trong hóa học và y khoa. Phosphat hóa mangan là phương pháp chống rỉ và ăn mòn cho thép. Nó thường hay được dùng để sản xuất tiền xu. Những loại tiền xu duy nhất có sử dụng mangan là đồng xu niken "thời chiến" ("Wartime" nickel) từ năm 1942 đến 1945, và đồng xu đôla Sacagawea (từ năm 2000 đến nay). Trình độ ứng dụng mangan ở Hoa Kỳ vẫn không có nhiều thay đổi. Hiện nay, không có giải pháp công nghệ thực tế nào có thể thay thế mangan bằng chất liệu khác hay sử dụng các trầm tích trong nước hoặc các công nghệ làm giàu khác để giảm hoàn toàn sự phụ thuộc của Hoa Kỳ vào các quốc gia khác đối với quặng mangan. Chất liệu thay thế: Mangan không có chất liệu thay thế thỏa mãn nào trong những ứng dụng lớn. Trong những ứng dụng nhỏ, kẽm hoặc vanadi có thể thay thế được cho phương pháp phosphat hóa mangan. Các hợp chất mangan được sử dụng để làm chất tạo màu và nhuộm màu cho gốm và thủy tinh. Màu nâu của gốm đôi khi dựa vào các hợp chất mangan. Trong ngành công nghiệp thủy tinh, các hợp chất mangan được dùng cho 2 hiệu ứng. Mangan(III) phản ứng với sắt(II) để tạo ra màu lục đậm trong thủy tinh bằng cách tạo ra sắt(III) ít màu hơn và màu hồng nhạt của mangan(II) kết hợp với màu còn lại của sắt (III). Phân bố và sản xuất Mangan chiếm khoảng 1000 ppm (0,1%) trong vỏ Trái Đất, đứng hàng thứ 12 về mức độ phổ biến của các nguyên tố ở đây. Đất chứa 7–9000 ppm mangan với hàm lượng trung bình 440 ppm. Nước biển chỉ chứa 10 ppm mangan và trong khí quyển là 0,01 µg/m³. Mangan có mặt chủ yếu trong pyrolusit (MnO2), braunit, (Mn2+Mn3+6)(SiO12), psilomelan (Ba,H2O)2Mn5O10, và ít hơn trong rhodochrosit (MnCO3). Quặng mangan quan trọng nhất là pyrolusit (MnO2). Các quặng quan trọng khác thường có sự phân bố liên quan đến các quặng sắt. Các nguồn trên đất liền lớn nhưng phân bố không đồng đều. Khoảng 80% nguồn tài nguyên mangan đã được biết trên thế giới được tìm thấy ở Nam Phi, các mỏ mangan khác ở Ukraina, Úc, Ấn Độ, Trung Quốc, Gabon và Brasil. Năm 1978, người ta đã tính có 500 tỉ tấn mangan dạng thận ở đáy biển. những nỗ lực tìm phương pháp có hiệu quả kinh tế để thu hồi mangan dạng thận này đã bị bỏ lửng trong thập niên 1970. Mangan được khai thác ở Nam Phi, Úc, Trung Quốc, Brasil, Gabon, Ukraine, Ấn Độ, Ghana và Kazakhstan. Nguồn nhập khẩu của Hoa Kỳ (1998–2001) từ: 1/ quặng mangan: Gabon, 70%; Nam Phi, 10%; Úc, 9%; Mexico, 5%; và nguồn khác, 6%. 2/ Ferromangan: Nam Phi, 47%; Pháp, 22%; Mexico, 8%; Úc, 8%; và nguồn khác, 15%. Mangan chứa trong các nguồn nhập khẩu gồm: Nam Phi, 31%; Gabon, 21%; Úc, 13%; Mexico, 8%; và nguồn khác, 27%. Về sản xuất ferromangan, quặng mangan được trộn với quặng sắt và cacbon, sau đó khử hoặc trong lò cao hoặc trong lò điện hồ quang. Ferromangan được tạo ra có hàm lượng mangan từ 30 đến 80%. Mangan tinh khiết được dùng để sản xuất các hợp kim không chứa sắt, được sản xuất bằng cách cho quặng mangan đã được ngâm chiết với acid sulfuric và tiếp theo là xử lý bằng điện triết. Vai trò sinh học Mangan là nguyên tố đóng vai trò thiết yếu trong tất cả dạng sống. Các lớp enzyme có các đồng yếu tố mangan rất rộng bao gồm oxidoreductases, transferases, hydrolases, lyases, isomerases, ligases, lectins, và integrins. Sao chép ngược của một số retrovirus (không phải lentivirus như HIV) chứa mangan. Polypeptitde chứa mangan nổi tiếng có thể là arginase, diphtheria toxin, và superoxide dismutase (Mn-SOD) chứa Mn.
Trần Khánh Dư (chữ Hán: 陳慶餘, 13 tháng 3, 1240 - 23 tháng 4, 1340), hiệu là Nhân Huệ vương (仁惠王), là một chính khách, nhà quân sự Đại Việt dưới thời đại nhà Trần. Ông nổi bật với việc giữ chức Phó đô tướng quân trong kháng chiến chống Nguyên lần 2 và 3, tiêu diệt đoàn thuyền lương quân Nguyên ở Vân Đồn năm 1288, tham gia chinh phục Chiêm Thành năm 1312 nhưng bị sử sách phê phán vì tính tham lam, thô bỉ thể hiện qua câu nói "Tướng là chim ưng, dân lính là vịt, dùng vịt để nuôi chim ưng thì có gì là lạ?". Tiểu sử Thiên tử nghĩa nam Trần Khánh Dư quê ở Chí Linh, Hải Dương, cha là Thượng tướng Nhân Huệ hầu Trần Phó Duyệt, tương truyền mẹ là Trần Thái Anh. Khi còn thiếu thời, rất ít chuyện ghi chép về ông. Trong lần chống quân Nguyên Mông vào năm 1258, Khánh Dư có công nhân sơ hở đánh úp quân giặc. Sau đó, ông đánh người Man ở vùng núi,thắng lớn, được nhận làm Thiên tử nghĩa nam, phong làm Phiêu Kỵ đại tướng quân. Chức Phiêu Kỵ tướng quân nếu không phải là hoàng tử thì không được phong. Vì Khánh Dư là Thiên tử nghĩa nam cho nên mới có lệnh đó. Rồi từ Quan nội hầu thăng mãi đến Tử phục Thượng vị hầu, quyền chức Phán thủ. Về vấn đề vị Hoàng đế nhà Trần nào là người nhận Trần Khánh Dư làm con nuôi, đến nay vẫn có nhiều điểm nghi hoặc. Nguyên văn trong Đại Việt sử ký toàn thư: "Nhâm Ngọ, Thiệu Bảo năm thứ 4 (1282)...Lần trước, quân Nguyên vào cướp, Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư nhân sơ hở đánh úp quân giặc. Thượng hoàng khen ông có trí lược, lập làm Thiên tử nghĩa nam". Lúc này Sử ký đang ghi kỷ về Trần Nhân Tông, nên Thượng hoàng có lẽ là Trần Thánh Tông. Tuy nhiên vào thời điểm ấy, nếu xét Trần Khánh Dư "vào lúc người Nguyên vào cướp" đã có quân công, thì phải là thời điểm năm 1257 khi Ngột Lương Hợp Thai dẫn quân vào. Mà vào thời điểm ấy, để có đủ trưởng thành lập quân công, ông ít nhất phải bằng tuổi Trần Thánh Tông (khi ấy khoảng 18 tuổi) và người nhận ông làm con là Trần Thái Tông mới phải. Tuy nhiên, nếu trường hợp ông bằng tuổi Trần Thánh Tông, tức là sinh năm 1240, thì đối chiếu năm mất 1340, ông xấp xỉ 100 tuổi, một tuổi thọ hơi khó tin. Cho nên, Trần Khánh Dư là được vị Hoàng đế nhà Trần nào nhận làm nghĩa nam, đến bây giờ cũng hoàn toàn không có kết luận chuẩn xác. Theo Lịch triều hiến chương loại chí thì ông được Trần Thánh Tông nhận làm Thiên tử nghĩa nam. Tư thông trọng án Sau khi có được địa vị, Trần Khánh Dư lại vướng phải vụ án gian dâm với Thiên Thụy công chúa là vợ chưa cưới của Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, con trai Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Bấy giờ Hưng Vũ vương Nghiễn vì là con trai Hưng Đạo vương Quốc Tuấn, lại có công đánh giặc nên rất có uy thế, nên Thượng hoàng mới gả Thiên Thụy công chúa cho. Đến đây, sự việc phát giác, tuy nhà Trần không xa lạ với chuyện thân thích cưới gả, thế nhưng Trần Khánh Dư thân là Thiên tử nghĩa nam lại có hành vi tư thông, là một loại quan hệ đáng lên án của xã hội xưa. Trong phiên tòa xử tội ông, Trần Thánh Tông sợ phật ý Hưng Đạo vương mà đã phạt tội đánh đến chết, nhưng Thánh Tông lại ngầm hạ lệnh cho lính đánh chúc đầu gông xuống, nhờ thế mà qua 100 roi Trần Khánh Dư vẫn sống. Theo luật thời đó, qua 100 roi mà không chết nghĩa là trời tha, nhờ vậy mà ông đã được miễn tội chết. Sau đó, ông bị phế truất binh quyền, tịch thu gia sản phải trở về Chí Linh làm nghề bán than củi. Phục chức Năm 1283, ông được Trần Nhân Tông phục chức và được phong làm Phó đô tướng quân trấn giữ Vân Đồn. Lúc đó, thuyền vua đỗ ở bến Bình Than, nước triều rút, gió thổi mạnh, có chiếc thuyền lớn chở than củi, người lái thuyền đội nón lá, mặc áo ngắn. Vua chỉ và bảo quan thị thần: "Người kia chẳng phải là Nhân Huệ vương đó sao?". Lập tức sai người chèo thuyền nhỏ đuổi theo. Đến cửa Đại Than thì kịp. Quân hiệu gọi: "Ông lái ơi, có lệnh vua triệu". Khánh Dư trả lời: "Lão là người buôn bán, có việc gì mà phải triệu". Quân hiệu trở về tâu thực như thế. Vua bảo: "Đúng là Nhân Huệ đấy, ta biết người thường tất không dám nói thế". Vua lại sai nội thị đi gọi. Khánh Dư mặc áo ngắn, đội nón lá đến gặp vua. Vua nói: "Nam nhi mà đến nỗi này thì thực là cùng cực rồi", bèn xuống chiếu tha tội cho ông. Khánh Dư lên thuyền lạy tạ. Vua ban cho áo ngự, cho ngồi các hàng dưới các vương, trên các công hầu, cùng bàn việc nước, nhiều điều hợp ý vua. Trần Khánh Dư có công lớn trong việc đánh tan đạo binh thuyền chở lương thực, khí giới của quân Nguyên do Trương Văn Hổ chỉ huy vào tháng 12 năm 1287, góp phần làm xoay chuyển tình thế chiến tranh. Tháng 5 năm 1312, ông theo Trần Anh Tông đem quân đi đánh Chiêm Thành. Trận này quân Đại Việt bắt được chúa Chiêm Thành là Chế Chí đem về. Viết lời tựa sách Không chỉ giỏi võ, Trần Khánh Dư còn có kiêm tài văn. Ông là người viết lời tựa cho cuốn Vạn Kiếp tông bí truyền thư của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Đại Việt Sử ký Toàn thư có chép lại lời tựa ấy. Người giỏi cầm quân thì không cần bày trận, người giỏi bày trận thì không cần phải đánh, người giỏi đánh thì không thua, người khéo thua thì không chết. Ngày xưa Cao Dao làm sĩ sư mà không ai dám trái mệnh, đến Vũ Vương, Thành Vương nhà Chu làm tướng cho Văn Vương, Vũ Vương, ngầm lo sửa đức, để lật đổ nhà Thương mà dấy nên vương nghiệp, thế là người giỏi cầm quân thì không cần phải bày trận vậy. Vua Thuấn múa mộc và múa lông trĩ mà họ Hữu Miêu đến chầu, Tôn Vũ nước Ngô đem ngươi đẹp trong cung thử tập trận mà phía tây phá nước Sở mạnh, phía bắc uy hiếp nước Tấn, nước Tần, nổi tiếng chư hầu, thế là người khéo bày trận không cần phải đánh vậy. Đến Mã Ngập nước Tấn theo bát trận đồ, đánh vận động hàng ngàn dặm, phá được Thụ Cơ Năng để thu phục Lương Châu. Thế gọi là người đánh giỏi không bao giờ thua vậy. Cho nên trận nghĩa là "trần", là bày ra, là khéo léo. Ngày xưa, Hoàng Đế lập phép tỉnh điền để đặt binh chế. Gia Cát xếp đá sông làm bát trận đồ, Vệ Công sửa lại làm thành Lục hoa trận. Hoàn Ôn lập ra Xà thế trận có vẽ các thế trận hay, trình bày thứ tự, rõ ràng, trở thành khuôn phép. Nhưng người đương thời ít ai hiểu được, thấy muôn đầu ngàn mối, cho là rối rắm, chưa từng biến đổi. Như Lý Thuyên có soạn những điều suy diễn của mình, những người đời sau cũng không hiểu ý nghĩa. Cho nên Quốc công ta mới hiệu đính, biên tập đồ pháp của các nhà, soạn thành một sách, tuy ghi cả những việc nhỏ nhặt, nhưng người dùng thì nên bỏ bớt chỗ rườm rà, tóm lược lấy chất thực. Sách gồm đủ ngũ hành tương ứng, cửu cung suy nhau, phối hợp cương nhu, tuần hoàn chẵn lẻ. Không lẫn lộn âm với dương, thần với sát, phương với lợi, sao lành, hung thần, ác tướng, tam cát, ngũ hung, đều rất rõ ràng, ngang với Tam Đại, trăm đánh trăm thắng. Cho nên, đương thời có thể phía bắc trấn ngự Hung Nô, phía nam uy hiếp Lâm Ấp. Kinh doanh Trong thời gian bị bãi chức, Trần Khánh Dư về đất cũ của cha mình (Thượng tướng Trần Phó Duyệt) ở Chí Linh, Hải Dương làm nghề buôn bán than để sống. Tác giả các bộ sử cũ, với quan điểm "sĩ, nông, công, thương", coi việc ông buôn than, bán nón là nghề "hèn mọn". Trong thời gian làm tướng ông cũng kinh doanh. Đây là điểm đặc biệt ở ông, khác với nhiều quan lại chỉ sống nhờ bổng lộc do chức tước, không quan tâm đến sản xuất và kinh doanh. Ông cũng nổi tiếng về tính "con buôn" khi đối xử với dân chúng và binh lính, chẳng hạn như khi ông trả lời Trần Anh Tông vào năm 1296 là "Tướng là chim ưng, dân lính là vịt, dùng vịt để nuôi chim ưng thì có gì là lạ?". Đại Việt Sử Ký Toàn thư có viết lại một chuyện, khi Khánh Dư trấn giữ Vân Đồn, tục ở đó lấy buôn bán làm nghề nghiệp sinh nhai, ăn uống, may mặc đều dựa vào khách buôn phương Bắc, cho nên quần áo, đồ dùng theo tục người Bắc. Khánh Dư duyệt quân các trang, ra lệnh: "Quân trấn giữ Vân Đồn là để ngăn phòng giặc Hồ, không thể đội nón của phương Bắc, sợ khi vội vàng khó lòng phân biệt, nên đội nón Ma Lôi, ai trái tất phải phạt". Nhưng Khánh Dư đã sai người nhà mua nón Ma Lôi từ trước, chở thuyền đến đậu trong cảng rồi. Lệnh vừa ra, sai người ngầm báo dân trong trang: "Hôm qua thấy trước vụng biển có thuyền chở nón Ma Lôi đậu". Do đấy, người trong trang nối gót tranh nhau mua nón, ban đầu mua không tới 1 tiền, sau giá đắt, bán 1 chiếc nón giá 1 tấm vải. Số vải thu được tới hàng ngàn tấm. Thơ mừng của một người khách phương Bắc câu: "Vân Đồn kê khuyển diệc giai kinh" (gà chó Vân Đồn đều khiếp sợ) là nói thác sợ phục uy danh của Khánh Dư mà thực là châm biếm ngầm ông ta. Khánh Dư tính tham lam, thô bỉ, những nơi ông ta trấn nhậm, mọi người đều rất ghét. Trần Nhân Tông chỉ tiếc ông có tài làm tướng, nên không nỡ bỏ mà thôi. Cuối đời Năm 1323, Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư xin về trí sĩ, tại vùng ấp ông được phong, thuộc xã Dương Hòa, lộ Lý Nhân (Hà Nam). Một lần, ông đi chơi đến Tam Điệp, Trường Yên (Ninh Bình), qua vùng đất thấy đồng cỏ bát ngát, sông nước hữu tình, ông bèn sai gia nhân đến khai khẩn, lập thành làng mới. Dần dần, người kéo đến làm ăn ngày càng đông. Ông đặt tên là trại An Trung. Sau đó, dân các vùng khác tiếp tục đến, lập thêm trại Động Khê và trại Tịch Nhi, thuộc hai xã Yên Nhân và Yên Đồng, huyện Ý Yên (Nam Định). Ông ở lại những nơi mới khai phá này 10 năm. Sau đó, ông trở về ấp Dưỡng Hòa cũ và giao lại các trại mới lập cho hai gia tướng họ Bùi và họ Nguyễn coi sóc. Trong buổi đầu khai hoang lập ấp, ông đã bỏ tiền nhà ra giúp vốn cho dân, ông còn hướng dẫn dân trại Tịnh Nhi trồng cây cói và làm nghề dệt cói. Năm 1340, Nhân Huệ vương mất, không lâu sau lễ mừng thọ 100 tuổi. Nhân dân trong vùng lập đền thờ ông ở trại An Trung, trên nền nhà xưa ông đã ở, để ghi tạc công đức của ông. Trong đền có bức đại tự: "Ẩm hà tư nguyên" (Uống nước nhớ nguồn) và đôi câu đối: Nhân Huệ Vương tân sáng giang biên, thố địa ốc nhiều kim thượng tại Bùi, Nguyễn tộc cựu mô kế chí, gia cư trù mật cổ do lưu. Tạm dịch: Nhân Huệ Vương mở mới bến sông, đồng ruộng tốt tươi nay vẫn đó Họ Bùi Nguyễn theo nền nối chí, cửa nhà đông đúc trước còn đây. Lễ hội Quan Lạn Ngày nay ở bến Đình thuộc xã Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, dân trong vùng vẫn tổ chức lễ hội Quan Lạn (còn gọi là hội đua bơi Quan Lạn), là hội làng của người dân xã đảo Quan Lạn, một hòn đảo nằm ở khu trung tâm thương cảng cổ Vân Đồn nhằm kỷ niệm chiến thắng Vân Đồn năm 1287 của Trần Khánh Dư. Lễ hội diễn ra từ ngày 10 - 20/6 âm lịch (Chính hội ngày 18/6 âm lịch). Lễ hội được tổ chức trên bến Đình, nơi có đình Quan Lạn, một ngôi đình cổ trong số ít những ngôi đình còn giữ được cho đến ngày nay. Vinh danh Tên ông được đặt cho nhiều đường phố và trường học ở Việt Nam như tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh hoặc các thành phố, thị xã tại Quảng Ninh: Hạ Long, Quảng Yên. Chú thích
Trúc Phương (1933–1995) là nhạc sĩ nhạc vàng tiêu biểu tại Việt Nam Cộng hòa trước 30 tháng 4 năm 1975. Nhiều ca khúc viết bằng giai điệu Bolero của ông trở thành bất hủ và vẫn được yêu thích cho đến tận nay. Cuộc đời Trúc Phương tên thật là Nguyễn Thiên Lộc, sinh năm 1933 tại Mỹ Hòa, Cầu Ngang, Trà Vinh. Ông sinh hoạt văn nghệ tại Ty Thông tin tỉnh Vĩnh Bình cuối thập niên 1950 trong một thời gian ngắn rồi lên Sài Gòn học nhạc ở lớp nhạc của nhạc sĩ Trịnh Hưng. Hai sáng tác đầu tiên của ông là Tình thương mái lá và Tình thắm duyên quê viết vào năm 1957. Tiếp sau đó là Chiều làng em (1958) và Đò chiều (1959). Bản nhạc Tàu đêm năm cũ bất hủ của ông được viết vào đầu thập niên 1960, tặng cho những người sĩ quan phải đi xa nhà vì lúc đó chính quyền Đệ Nhất Cộng hoà có sắc lệnh hoán chuyển công tác sĩ quan, công chức miền Nam ra miền Trung và ngược lại. Tổng số lượng sáng tác của ông gần 70 bài, nhiều bài phổ biến trong suốt thập niên 1960 và cho đến tận hiện nay. Xin cảm ơn đời là bản nhạc cuối cùng mà ông viết vào tháng 3 năm 1995 với ca từ coi như những tâm tình, uẩn khúc mà ông muốn gửi lại cho đời lần sau chót. Ông từng mở lớp nhạc ở số 33/230, đường Gia Long, Gò Vấp gọi là "Trúc Phương Tự Lực", đào tạo được một số ca sĩ như Thy Lệ Dung, Thy Lệ Huyền, Chinh Thông nhưng không mấy thành công. Tuy vậy, nhiều ca sĩ nổi tiếng nhờ trình bày những sáng tác của Trúc Phương như Thanh Thúy, Chế Linh, Duy Khánh... Với Thanh Thúy, ông viết tặng riêng 5 bài: Hình bóng cũ, Lời ca nữ, Mắt em buồn, Tình yêu trong mắt một người và Mắt chân dung để lại. Năm 1976, Trúc Phương vượt biên nhưng không thành công và bị tịch thu nhà số 301 Lý Thường Kiệt, Quận 11. Những năm sau, ông vượt biên thêm 2 lần nhưng vẫn không thành công. Lúc ra tù, vợ con ly tán, ông sống không nhà cửa, không giấy tờ tuỳ thân rồi lưu lạc về Trà Vinh, Vĩnh Long và vài nơi khác. Giữa năm 1985, ông được nhận vào công tác tại Hội Văn nghệ Cửu Long, được cấp một căn phòng tại số 6 Hưng Đạo Vương, thị xã Vĩnh Long để ở. Thời gian này ông sáng tác và tặng bản thảo chép tay cho bạn bè một số bài nói về tình yêu cây lá, tình yêu quê hương như Chiều phố huyện, Hoa sách về xa, Trà Vinh trong những tình mật ngọt, Về An Quảng Hữu... Hầu hết những bài này chính ông xác nhận rằng không thành công lắm, lý do bởi không còn cảm hứng dồi dào như những bài tình ca đã được đón nhận từ trước năm 1975. Ít lâu sau, ông trở về sống ở Thành phố Hồ Chí Minh rồi qua đời vào ngày 18 tháng 9 năm 1995 vì bệnh sưng phổi, được gia đình an táng tại nghĩa trang Lái Thiêu, tỉnh Sông Bé. Lúc ông mất, nhạc sĩ Nhật Ngân (lúc này đã định cư ở Mỹ) viết tặng bài Gửi người về cát bụi với lời nhạc có nhắc tên một số bài hát của ông. Năm 2014, Trung tâm Asia thực hiện chương trình Asia 74: Trúc Phương – Ông hoàng của dòng nhạc Bolero để vinh danh ông. Tác phẩm 24 giờ phép (1967) Ai cho tôi tình yêu (1964) Áo cưới mùa đông (1961) Bóng nhỏ đường chiều (1962) Bông cỏ may (1969) Buồn anh theo bước em Buồn một mình Buồn trong kỷ niệm (1963) Chắp tay lạy người (1971) Chiều cuối tuần (1962) Chiều làng em (1958) Chín dòng sông hò hẹn (1992) Chuyện chúng mình (1961) Chuyện ngày xưa(1962) Con đường mang tên em (Còn chuyện chúng mình, 1964) Để trả lời một câu hỏi (1967) Đêm gác trọ (1973) Đêm tâm sự (1966) Đêm trên vùng đất lạ (1968) Đêm Việt Nam (1963) Đò chiều (1959) Đôi mắt người xưa (1961) Đường chiều cao nguyên Đường về Bình Tuy Em bỏ dòng sông (1993) Hai chuyến tàu đêm (1960) Hai lối mộng (1962) Hình bóng cũ (1962) Kẻ ở miền xa (1968) Lời ca nữ Mắt chân dung để lại (1994) Mắt em buồn (1963) Một lần thương nhớ (1966) Một người đi xa(1967) Mưa nửa đêm (1962) Mười đầu ngón tay (1966) Người giãi bày tâm sự (1966) Người nhập cuộc 1, 2 Người xa về thành phố (1968) Người xóm cũ (1963) Người yêu lên tiếng Nhận diện tình đời Những lời này cho em (Cho chuyện chúng mình) (1965) Nửa đêm ngoài phố (1961) Quê hương ai nhớ thì về Sau lưng kỷ niệm (1964) Sông núi miền Tây Siết chặt bàn tay (Văn Khánh - Trúc Phương) (1968) Tàu đêm năm cũ (1962) Thói đời (1970) Thư gửi người miền xa (Viết thư tình, 1967) Tiếng chày bên sông Tình ca nữ Tình người chiến binh (Tình đôi mươi) (1963) Tình thắm duyên quê (1957) Tình thương mái lá (1957) Tình yêu trong mắt một người Trả nhau ngày tháng cũ (1992) Trên bốn vùng chiến thuật Trước mặt tình yêu (Lại chuyện chúng mình, 1965) Tơ vương (1963) Tôi thương tôi Tự tình trong đêm Tuổi tình yêu (1963) Vòng tay lửa (Nhận diện thời gian) Xin cảm ơn đời Đính chính Trúc Linh ‒ con trai ông chia sẻ: "Ba tui không bao giờ uống rượu. Ba lấy má tui trong những năm cuối 50 chớ không phải sau năm 70, năm nay tui 5 bó rồi. Má tui con nhà giáo, gia đình cũng khá nhưng ở Bến Tre. Chiều Làng Em là bài ba tui viết cho má tui. Ông già tui không phải tự học nhạc, mà có thầy dạy đàng hoàng. Chung quanh nhà bà nội tui ở Trà Vinh không hề có tre trúc gì hết ráo, mà nhà má tui ở Bến Tre thì có nhiều. Gia đình tui cũng không nghèo, ba tui thường lái Mazda và Peugeot 404. Thời xưa cũng có lúc khó khăn khi ông còn viết nhạc, nhưng sau này ba má tui làm ăn cũng khá lắm. Khi ‘giải phóng’ vào thì có sa sút, nhưng đó là tình trạng chung của tất cả dân miền Nam thời bao cấp. Gia đình tui có tới 6 anh chị em, có nghĩa là ba và má tui chung sống cũng khá lâu. Họ ly dị vào khoảng năm 1979. Nguyễn Trung viết rằng khi ba tui qua đời, chết chỉ còn đôi dép là nói LÁO. Ông không giàu có gì, nhưng cũng không đến nỗi thê thảm như vậy. Tui đã từng về thăm ông 3 tháng trước khi ông mất, cho thấy điều này ông Trung quá bôi bác gia đình chúng tôi. Nói như ông Trung có nghĩa là các con của ông không hề quan tâm tới ông. Điều này không đúng sự thật. Chúng tôi lúc nào cũng quan tâm đến ông." Chú thích
Trần Thái Tông (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là Trần Cảnh (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước Đại Việt. Ông giữ ngôi từ ngày 10 tháng 1 năm 1226 tới ngày 30 tháng 3 năm 1258, sau đó làm Thái thượng hoàng cho đến khi qua đời năm 1277. Trần Cảnh sinh ra vào thời Lý, quê ở huơng Tức Mặc, phủ Thiên Trường (nay là phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định). Ông là con của Trần Thừa là Phụ quốc Thái úy của Nhà Lý do có công phò tá vua Huệ Tông trong loạn Quách Bốc. Họ Trần lúc này đã là thế lực chính trị nắm triều đình nhà Lý. Lên bảy tuổi, ông được Điện tiền Chỉ huy sứ Trần Thủ Độ vốn là chú họ tiến cử làm Chi hậu chính chi ứng cục, hầu hạ cho nữ hoàng nhỏ tuổi Lý Chiêu Hoàng. Cuối năm 1225 – đầu năm 1226, Trần Thủ Độ buộc Lý Chiêu Hoàng cưới và nhường ngôi cho Trần Cảnh, tức Hoàng đế Trần Thái Tông. Tân hoàng đế mời cha là Trần Thừa làm Thái thượng hoàng, Trần Thủ Độ làm Thái sư, lại phong Chiêu Hoàng làm Chiêu Thánh Hoàng hậu. 12 năm sau, Trần Thủ Độ ép Thái Tông phế Chiêu Thánh vì không sinh được người kế vị, và lập chị Chiêu Thánh là Thuận Thiên lên thay. Thuận Thiên vốn là vợ của anh Thái Tông là Trần Liễu, và khi ấy đang có thai với Trần Liễu 3 tháng. Việc này đã khiến Trần Liễu làm loạn ở sông Cái, nhưng cuối cùng bị thất thế, Trần Thủ Độ muốn giết nhưng Thái Tông can thiệp, tha chết cho anh mình. Cùng với Thượng hoàng Trần Thừa (mất năm 1234) và Thái sư Trần Thủ Độ (mất năm 1264), Trần Thái Tông đã tiến hành cải tổ luật pháp, hành chính, đồng thời khuyến khích nông, thương nghiệp và phát triển nền giáo dục Tam giáo đồng nguyên. Ông cũng xây dựng quân đội mạnh và ngăn chặn quân Chiêm Thành cướp phá mạn nam. Theo nhà chép sử Lê Tung đời Lê sơ: "chế độ nhà Trần do đấy hưng thịnh". Trong thời gian đó, trên hướng bắc Đại Việt, dân tộc Mông Cổ đã trỗi dậy thành một đế quốc quân sự lớn. Năm 1258, tướng Mông Cổ Ngột Lương Hợp Thai đem quân tấn công Đại Việt. Trần Thái Tông trực tiếp lãnh đạo kháng chiến và cuối cùng đã đánh bại người Mông Cổ. Không lâu sau chiến thắng, ông nhường ngôi cho Thái tử Hoảng, tức Hoàng đế Trần Thánh Tông, và được tôn làm Hiển Nghiêu Thánh Thọ Thái Thượng Hoàng Đế (顯堯聖壽太上皇帝). Thượng hoàng vẫn có ảnh hưởng lớn đến việc triều chính cho đến khi mất năm 1277. Ông còn là một thiền sư Phật giáo, đã truyền dạy kinh nghiệm tu hành của mình qua các tác phẩm Khóa hư lục, Thiền tông chỉ nam, Chú giải Kinh Kim cương Tam muội và Lục thời sám hối khoa nghi. Ông được xem là người có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành Thiền phái Trúc Lâm – giáo hội thống nhất đầu tiên của đạo Phật tại Việt Nam – vào cuối thế kỷ XIII. Thân thế Trần Thái Tông nguyên tên thật là Trần Bồ (陳蒲) sau đổi thành Trần Cảnh (陳煚), các sách sử Trung Quốc gọi là Trần Nhật Cảnh (陳日煚) hoặc Trần Quang Bính (陳光昺), quê ở hương Tức Mặc (nay là phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định). Ông sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần, niên hiệu Kiến Gia thứ 8 thời Lý Huệ Tông (tức ngày 9 tháng 7 năm 1218), là con trai thứ hai của quan Nội thị phán thủ Trần Thừa, mẹ ông là Thuận Từ Hoàng hậu Lê thị. Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư, do sử quan Ngô Sĩ Liên biên soạn năm 1479 đời Lê Thánh Tông, mô tả ông có ngoại hình "mũi cao, mặt rộng, giống như Hán Cao Tổ". Khi Trần Cảnh sinh ra, Trần Thừa cùng em là Thái úy Trần Tự Khánh đã nắm quyền thao túng triều đình Nhà Lý. Do sinh ra vị trí thứ hai, nên ông còn được gọi là Trần Nhị Lang (陳二郎). Lên ngôi Trần Cảnh ra đời và lớn lên lúc họ Trần đang nắm quyền bính trong triều đình Nhà Lý, với trụ cột là chú ruột Trần Tự Khánh và sau là phụ thân Trần Thừa. Sau khi Trần Tự Khánh mất (1223), một người chú họ của ông là Trần Thủ Độ (em họ Trần Thừa) được phong chức Điện tiền Chỉ huy sứ, cai quản lực lượng cấm vệ hoàng cung. Năm 1225, Lý Huệ Tông truyền ngôi cho con gái 7 tuổi là Chiêu Thánh, tức vua Lý Chiêu Hoàng. Trần Thủ Độ tiến cử Trần Cảnh, lúc đó mới 8 tuổi, làm Chi hậu chính chi ứng cục hầu hạ trong cung. Trần Cảnh trạc tuổi với Chiêu Hoàng, được bà rất quý mến, gần gũi và hay trêu đùa. Trần Thủ Độ đã lợi dụng điều này để dàn xếp hôn nhân giữa Chiêu Hoàng với Trần Cảnh, sau đó ép Chiêu Hoàng truyền ngôi cho chồng. Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư kể rằng: Ngày 21 tháng 10 năm Ất Dậu (tức ngày 22 tháng 11 năm 1225) Chiêu Hoàng xuống chiếu nhường ngôi cho Trần Cảnh. Ngày 11 tháng 12 năm ấy (tức 10 tháng 1 năm 1226), Chiêu Hoàng trao hoàng bào cho Trần Cảnh ở điện Thiên An. Nhà Lý chấm dứt sau 216 năm tồn tại. Trần Cảnh lên ngôi Hoàng đế, tự xưng là Thiện Hoàng (善皇), sau đổi thành Văn Hoàng (文皇) và được quần thần tặng tôn hiệu Khải Thiên Lập Cực Chí Nhân Chương Hiếu Hoàng đế (啓天立極至仁彰孝皇帝). Sử sách gọi ông là Trần Thái Tông (陳太宗). Sau này, năm 1237, sau khi dẹp được loạn Hoài vương Trần Liễu, Trần Thái Tông được dâng thêm tôn hiệu là Thống Thiên Ngự Cực Long Công Hậu Đức Hiền Công Hựu Thuận Thánh Văn Thần Vũ Hiếu Nguyên Hoàng đế (綂天御極隆功厚德顯功佑順聖文神武孝元皇帝). Sau đó, Trần Thủ Độ lập mưu bức tử nhạc phụ ông là nhà sư Huệ Quang (Lý Huệ Tông trước đây) nhằm dẹp trừ hậu họa. Trị vì Sau khi lên ngôi, ông cử Trần Thủ Độ làm Quốc thượng phụ (国尚父) nắm toàn quyền chấp chính. Trần Thủ Độ đang bận đánh dẹp ở bên ngoài, lại tự nghĩ rằng mình vốn mù chữ, nên thuyết phục tân hoàng đế mời cha là Trần Thừa ra làm nhiếp chính. Đề xuất này được triều đình đồng ý, và vào tháng 10 âm lịch năm 1226 Thái Tông tôn Trần Thừa làm Thái thượng hoàng. Còn Trần Thủ Độ được giữ chức Thái sư thống quốc hành quân vụ chinh thảo sư.. Dưới triều đại của mình, Trần Thái Tông đã sử dụng các niên hiệu Kiến Trung (建中 tháng 2 âl năm 1225 – tháng 7 âl năm 1237), Thiên Ứng Chính Bình (天應政平 tháng 7 âl năm 1232 – tháng 2 âl năm 1251) và Nguyên Phong (元豐 tháng 2 âl năm 1251 – tháng 2 âl 1258). Chính sách trị nước Trong 9 năm đầu thời vua Thái Tông, Thượng hoàng Trần Thừa nắm quyền cai quản chính sự. Sau khi thượng hoàng mất (1234), Trần Thủ Độ được phong chức Thống quốc Thái sư, trở thành người có ảnh hưởng lớn nhất đến các chính sách của hoàng đế. Từ năm 1226 đến 1258, với sự giúp đỡ của thượng hoàng, Thái sư và các đại thần, Trần Thái Tông đã ban hành nhiều biện pháp về kinh tế, nông nghiệp, giáo dục, văn hóa và luật pháp để củng cố nền cai trị của triều Trần. Quan chế Sau khi lên ngôi, Hoàng đế Trần Thái Tông đã định lại quan chế Đại Việt. Từ đây có hệ thống quan lại gồm các văn võ đại thần (Tam thái, Tam thiếu, Thái úy, Tư mã, Tư đồ, Tư không), Tể tướng (được thêm danh hiệu là Tả hữu Tướng quốc Bình chương quân quốc trọng sự), thứ tướng (được thêm danh hiệu là Tham tri chính sự, Nhập nội hành khiển, hoặc Tả phù hữu bật), các chức quan văn trong triều (Thượng thư các bộ, Tả hữu tham tri, Tả hữu gián nghị, Trung thư thị lang, Thị lang các bộ, Tả hữu ty lang trung, Viên ngoại lang, Ngự sử đại phu, Ngự sử trung tướng,...), quan võ trong triều (Phiêu kỵ thượng tướng quân, Cấm vệ thượng tướng quân, Kim ngô đại tướng quân, Võ vệ đại tướng quân, Phó đô tướng quân,...), quan văn địa phương (An phủ sứ, Tri phủ, Thông phán, Thiêm phán,...), quan võ địa phương (Kinh lược sứ, Phòng ngự sứ, Thủ ngự sứ, Quan sát sứ, Đô hộ, Đô thống, Tổng quản,...). Vua Thái Tông còn đặt lệ: cứ 15 năm thì xét duyệt quan lại 1 lần, cứ 10 năm thì thăng lên 1 tướng cho các quan, và cứ 15 năm thì thăng lên 1 chức. Cơ quan nào bị thiếu chức phó, thì người giữ chức chánh sẽ kiêm nhiệm chức phó; còn nếu thiếu cả chánh lẫn phó thì cử quan khác làm tạm một thời gian, đến kỳ xét duyệt mới chính thức cho làm chức đó. Mùa xuân năm 1250, Trần Thái Tông cho đổi Đô vệ phủ (cơ quan coi việc kiện tụng của nhà nước) làm Tam ty viện (tức ba viện Phụng tuyên, Thanh túc, Hiến chính), cử Ngự sử trung tướng Lê Phụ Trần trông coi Tam ty viện. Cũng từ triều Trần Thái Tông, Nhà Trần có truyền thống chọn người tôn thất làm Tả hữu Tướng quốc Bình chương quân quốc trọng sự, người ngoài hoàng tộc dù có giỏi đến mấy vẫn không được giữ chức đấy. Trong thời kỳ này, vua và bầy tôi giữ quan hệ rất gần gũi, thân mật, ít đặt nặng lễ nghi. Khi có yến tiệc, các quan uống cho say xong rồi đứng lên nắm tay nhau cùng hát. Sử gia Ngô Sĩ Liên đã bình luận: "Xem thế đủ thấy, tuy bấy giờ vua tôi cùng vui, không gò bó vào lễ pháp, cũng là điều giản dị, chất phát của phong tục, nhưng không còn chừng mực gì nữa. Hữu Tử nói: "Biết được hòa đồng rồi hòa đồng, nhưng không lấy lễ mà tiết chế, thì cũng không thể làm được"... kỷ cương của triều đình để đâu?". Trước đây, triều Lý không có quy chế rõ ràng về việc cấp bổng lộc cho quan lại, chỉ có quan giữ hình ngục là được trả lương hàng năm. Đến năm 1236 Hoàng đế Trần Thái Tông đặt lệ cấp lương bổng cho bá quan văn võ trong triều, ngoài địa phương và các quan coi cung thất, lăng tẩm. Năm 1244 ông lại đặt thêm chế độ lương bổng cho các quan túc vệ. Sĩ phu đời Nguyễn, Phan Huy Chú trong bộ Lịch triều hiến chương loại chí có bình luận: "Chính sự Nhà Trần làm việc này là rất phải, thực rất đáng khen". Tháng 5 âl năm 1254, vua Thái Tông ban bố quy định về kiểu áo mũ, xe kiệu và số người hầu của vương hầu, văn quan, võ tướng: "Từ tông thất cho đến quan ngũ phẩm đều được đi kiệu, ngựa và võng. Tôn thất thì kiệu đầu đòn chạm phượng sơn son, tướng quốc thì kiệu đầu đòn chạm vẹt sơn đen, lọng tía; từ tam phẩm trở lên thì kiệu đầu đòn chạm mây, lọng xanh; từ tứ phẩm đến lục phẩm thì kiệu đầu đòn bằng dầu; ngũ phẩm trở lên thì lọng xanh; lục thất phẩm thì lọng giấy đen. Người theo hầu nhiều thì 1.000 người, ít thì 100 người". Hành chính, luật pháp Tháng 8 âm lịch năm 1228, Trần Thủ Độ, Trần Thái Tông cho kiểm tra dân đinh tại Thanh Hóa. Hai ông duy trì chính sách của triều Lý, sai các quan địa phương lập sổ trường tịch để thống kê số lượng trai tráng, người già, người bệnh tật, người đi phiêu bạt, người đến định cư, người đã làm quan văn, quan võ, binh sĩ, thư lại ở mỗi làng. Trong sổ trường tịch, bình dân được chia thành các thể loại như tiểu hoàng nam (nam giới 18-20 tuổi), đại hoàng nam (nam giới trên 20 tuổi), lão (người già 60 tuổi), long lão (người hơn 60 tuổi). Chính sách này giúp triều đình nắm bắt dân số, tiện cho việc quản lý nhân khẩu, thuế má, tuyển mộ lính tráng và động viên cả nước chống ngoại xâm. Tháng 2 âm lịch năm 1242, Trần Thái Tông chia Đại Việt làm 12 lộ; mỗi lộ gồm nhiều xã hợp thành. Triều đình đặt ra 2 chức quan văn là An phủ chánh, phó sứ để trấn thủ các lộ. Dưới An phủ sứ có các chức đại tư xã (mang hàm từ ngũ phẩm trở lên), tiểu tư xã (hàm từ lục phẩm trở xuống) cai quản 3-4 xã; mỗi xã do quan xã chánh và xã giám quản lý. Đối với kinh đô, năm 1231, Trần Thái Tông chia Thăng Long làm 61 phường. Ông còn lập Ty Bình bạc làm cơ quan quản lý hành chính của kinh sư. Đồng thời, Thái Tông tu sửa vòng thành ngoài cùng của Thăng Long (thành Đại La) và giao việc canh gác 4 cửa thành cho quân Tứ sương. Bên trong Hoàng thành nhà vua xây thêm nhiều cung điện mới ở hướng đông và hướng tây, tiêu biểu là cung Thánh Từ (nơi ở của thượng hoàng) và cung Quan triều (nơi ở của hoàng đế). Tháng 3 âm lịch năm 1230, vua Thái Tông sai nghiên cứu luật pháp thời Lý, rồi soạn ra bộ luật Quốc triều thông chế gồm 20 quyển. Ngày nay sách này đã bị thất truyền. Tuy nhiên, theo ghi nhận trong sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, luật Nhà Trần quy định các tội phạm trộm, cướp phải xăm lên trán 2 chữ "phạm đạo" và bồi thường cho nạn nhân; người nào tái phạm sẽ bị cắt tay, cắt chân hoặc cho voi giày. Người đào ngũ khỏi quân đội cũng bị chặt ngón chân hoặc cho voi đạp chết. Đại Việt Sử ký Toàn thư cũng chép việc nhà vua đề xuất hình phạt đối với người bị tội khổ sai, theo đó phạm nhân tội nhẹ hàng năm phải cày 3 mẫu ruộng công tại xã Nhật Cảo (nay thuộc Thái Bình) và dâng 300 thăng thóc; còn phạm nhân tội nhẹ phải đi nhổ cỏ tại Phượng Thành (Thăng Long) dưới sự giám sát của quân Tứ sương. Văn hóa – giáo dục Năm 1227, Hoàng đế Thái Tông khôi phục lệ hội thề đền Đồng Cổ (nay thuộc làng Yên Thái, Hà Nội) từ thời Lý. Theo đó ngày 4 tháng 4 âm lịch mỗi năm, Tể tướng cùng bá quan phải tập trung trước đền thần Đồng Cổ để tuyên thệ rằng: "Làm tôi tận trung, làm quan trong sạch, ai trái thề này, thần minh giết chết". Những viên quan không dự phải đóng phạt 5 quan tiền. Trần Thái Tông còn là một cư sĩ mộ đạo của Phật giáo. Năm 1231, ông và thượng hoàng hạ chiếu cho dựng tượng thờ Phật ở các quán trạm trong nước. Sử quan đời Lê-Trịnh là Ngô Thì Sĩ trong sách Việt sử tiêu án đã lý giải nguồn gốc của việc này rằng: "Tục nước ta: vì nắng bức, nên lập ra nhiều đình quán ở dọc đường cho hành khách nghỉ ngơi, tránh nắng. Khi Vua còn hàn vi, thường vào nghỉ ở một cái đình, có thày tăng bảo rằng: "Cậu bé này ngày sau phải đại quý", nói rồi, không biết thày tăng ấy đi đâu mất, cho nên đến khi bấy giờ phàm chỗ nào có quán trạm đều tô vẽ tượng Phật". Tháng 4 âm lịch năm 1248, Trần Thái Tông cho xây cầu Lâm Ba ở chùa Chân Giáo, chạy qua hồ Ngoạn Thiềm, tới quán Thái Thanh và cung Cảnh Linh (Thăng Long), sử Nhà Lê mô tả là "cực kỳ tráng lệ". Nhà vua cũng sai tu sửa chùa Diên Hựu vào năm 1249. Đối với đạo Lão, Đại Việt Sử ký Toàn thư kể nhà vua từng nhờ đạo sĩ cung Thái Thanh là Thậm cầu tự cho mình, kết quả ứng nghiệm, hậu cung có thai sinh ra hoàng tử thứ 6 – Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật. Hoàng đế Trần Thái Tông cũng có nhiều đóng góp cho sự lớn mạnh của nền giáo dục Nho giáo. Từ năm 1232 đến 1239, ông đã tổ chức các khoa thi Thái học sinh (lần đầu vào tháng 2 âm lịch năm 1232; lần hai vào tháng 2 âm lịch năm 1239) để tuyển nho sĩ giỏi ra giúp nước. Những người thi đỗ được phân theo 3 hạng trong tam giáp (đệ nhất giáp, đệ nhị giáp và đệ tam giáp); chẳng hạn, kỳ thi năm 1232 có Trương Hanh và Lưu Diễm đỗ đầu, trúng đệ nhất giáp; Đặng Diễn và Trịnh Phẫu trúng đệ nhị giáp; Trần Chu Phổ trúng đệ tam giáp. Tháng 8 âm lịch năm 1236, Thái Tông cho các nho sinh thi đỗ vào hầu vua, việc này sau trở thành lệ. Tháng 10 âm lịch cùng năm, ông lập Quốc tử viện làm nơi học của con em các văn thần, tụng thần; lấy Phạm Ứng Thần làm Thượng thư tri Quốc tử viện. Năm 1247, Thái Tông đặt lệ thi lấy Tam khôi gồm 3 người đỗ đầu là trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa (trên thái học sinh) và quy định cứ 7 năm mở 1 khoa thi. Tháng 2 âm lịch năm 1247, nhà vua mở khoa thi Tam khôi đầu tiên, lấy được Trạng nguyên Nguyễn Hiền, Bảng nhãn Lê Văn Hưu, Thám hoa Đặng Ma La cùng 48 Thái học sinh (trong đó, Lê Văn Hưu chính là người đã soạn bộ quốc sử đầu tiên của Việt Nam – Đại Việt sử ký và dâng lên Thượng hoàng Trần Thái Tông, vua Trần Thánh Tông năm 1272). Mùa xuân năm 1256, Thái Tông mở khoa thi Tam khôi thứ hai, đồng thời đặt lệ lấy 2 trạng nguyên: 1 kinh trạng nguyên dành cho các lộ phía bắc và 1 trại trạng nguyên dành cho Thanh Hóa và Nghệ An để khuyến khích việc học ở phương nam. Khoa này chấm đỗ 47 người. Bên cạnh việc tiến hành các khoa thi Nho học, Trần Thái Tông cũng tổ chức thi Tam giáo vào tháng 8 âm lịch năm 1247 để chọn người am hiểu 3 đạo Phật, Nho và Lão làm quan. Ngô Thì Sĩ đã nhận xét về nền khoa cử thời vua Thái Tông rằng: "điều lệ khoa thi ngày thêm đầy đủ, ân điển ngày một long trọng, ở đó mới sản xuất lắm nhân tài, so với triều Lý thịnh hơn nhiều". Tháng 6 âm lịch năm 1253, Trần Thái Tông sai dựng Quốc học viện, tại đây có tượng thờ Chu Công Đán, Khổng Tử, Mạnh Tử và tranh thờ Thất thập nhị hiền (72 môn sinh của Khổng Tử). Tháng 9 âm lịch năm này, ông triệu tập sĩ phu trong nước về Quốc tử viện giảng Ngũ kinh, Tứ thư. Kinh tài Để cải thiện nền kinh tế Đại Việt vốn đã suy thoái từ cuối thời Lý, vua Thái Tông ban hành một loại thuế mới (thuế thân), được đánh dựa trên diện tích ruộng của mỗi người dân. Mức thuế thân được quy định là 1 quan tiền đối với người có 1-2 mẫu ruộng (tức khoảng từ 3600 đến 7200 m²), 2 quan đối với người có 3-4 mẫu, và 3 quan đối với người có ít nhất 5 mẫu. Triều đình còn thu thuế ruộng ở các mức độ khác nhau tùy theo phân loại ruộng (ruộng tư nhân; ruộng công - gồm ruộng quốc khố và ruộng thác điền). Thuế các loại ruộng thường được tính bằng thóc, chẳng hạn mức thuế ruộng tư nhân là 100 thăng thóc trên một mẫu. Ngoài ra, sách Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục (sử quan thời Tự Đức soạn) còn viện dẫn An Nam tức sự (tập thơ của sứ giả Nhà Nguyên Trần Phu mô tả chuyến đi Đại Việt năm 1293) cho biết triều Trần áp thuế với trầu cau, dầu thơm và mọi mặt hàng rau quả, thủy sản. Cuối năm 1226, triều đình Thái Tông quy định "cho dân gian dùng tiễn "tỉnh bách" mỗi tiễn là 69 đồng. Tiền nộp cho nhà nước (tiễn "thượng cung") thì mỗi tiễn là 70 đồng" (theo Đại Việt Sử ký Toàn thư). Đây được xem là lần đầu tiên sử sách Việt Nam ghi lại quan hệ giữa các đơn vị tiền tệ. Nhà vua và Trần Thủ Độ rất chú trọng đến thủy lợi-nông nghiệp. Mùa xuân năm 1231, ông sai hoạn quan Nguyễn Bang Cốc đôn đốc quân bản phủ đào kênh Trầm, kênh Hào từ Thanh Hóa tới Diễn Châu. Bang Cốc đã hoàn tất công việc và được Thái Tông phong tước Phụ Quốc thượng hầu. Năm 1248, Thái Tông sai đào sông Mã, sông Lễ và đục núi Chiếu Bạch ở Thanh Hóa, tạo thành một con kênh chạy dài theo hướng bắc nam, dài hơn 8 km từ sông Hoạt (chỗ sát Cầu Cừ) đến sông Lèn (làng Bình Lâm) nhằm tiêu nước từ Tống Giang (Hà Trung, Thanh Hóa). Đến năm 1256, nhà vua sai vét sông Tô Lịch để hỗ trợ giao thông, đồng thời tạo nguồn tưới tiêu cho các địa phương quanh kinh thành. Công tác đê điều đã đạt được bước phát triển mới trong thời Trần Thái Tông. Trước đây Nhà Lý đã quan tâm đắp đê nhưng chưa có quy hoạch quy mô, nên nhiều lần nước vẫn tràn vào kinh thành. Năm 1238 và 1243, nước lại tràn vào cung điện. Tháng 3 âm lịch năm 1248, Thái Tông truyền cho các lộ đắp đê suốt từ đầu nguồn ra tới bờ biển để chống nước lũ dâng tràn, gọi là đê đỉnh nhĩ (quai vạc). Ông lập ra cơ quan Hà đê, có chánh sứ, phó sứ phụ trách đê điều trong cả nước. Nếu có đoạn đê lấn vào ruộng tư nhân, triều đình sẽ đền tiền cho chủ ruộng. Mỗi khi trong nước có hạn hán, triều đình thường ban hành luật miễn thuế khóa, mở lương thóc rồi đại xá. Các chính sách kinh tế-xã hội của Thượng hoàng Trần Thừa, Thái sư Trần Thủ Độ và Hoàng đế Trần Thái Tông đã khiến quốc lực mau chóng khôi phục, Đại Việt lại trở nên phồn thịnh và thái bình. Đại Việt Sử ký Toàn thư có mô tả tình hình Đại Việt thời Trần Thái Tông là "quốc gia vô sự, nhân dân yên vui". Bình Chiêm dẹp bắc Trần Thái Tông rất chú trọng việc xây dựng quân đội thiện chiến, gồm cấm quân và quân các lộ. Năm 1239 ông ra lệnh tuyển đinh tráng trong nước làm lính; chia làm 3 bậc thượng, trung, hạ. Tháng 2 âm lịch năm 1241, ông tìm người khỏe mạnh và thạo võ nghệ cho gia nhập Cấm quân, gọi là quân thượng đô túc vệ. Sau đó, mùa xuân năm 1246 Thái Tông lập ra 3 vệ cấm quân, tên là Tứ thiên, Tứ thần, Tứ thánh. Đối với quân các lộ, nhà vua quy định: đinh tráng của hai lộ Long Hưng, Thiên Trường thì gia nhập quân Thiên thuộc, Thiên cương, Cương thánh, Cung thần; đinh tráng lộ Hồng, lộ Khoái thì gia nhập quân Tả Hữu Thánh Dực; đinh tráng hai lộ Trường Yên, Kiến Xương thì gia nhập quân Thánh Dực, Thần sách. Đinh tráng các lộ còn lại được cho vào quân Cấm vệ hoặc các đoàn đội trạo nhi (lính chèo thuyền). Tháng 8 âm lịch năm 1253, Thái Tông thành lập Giảng Võ đường để huấn luyện cho quan võ. Sĩ phu đời Lê Ngô Thì Sĩ đã khen ngợi chính sách xem trọng văn, võ của vua sáng lập triều Trần: Dưới thời Thái Tông, một số cuộc xung đột đã xảy ra trên biên giới phía Bắc và Nam của Đại Việt. Ở phía Bắc, Nam Tống đang chịu sức ép tấn công từ đế quốc Mông Cổ. Do vậy, quan lại của Tống kiểm soát biên giới phía Nam rất lỏng lẻo, tạo điều kiện cho các toán cướp người Mán liên tục hoành hành. Điều này đã làm cản trở cho việc đi lại giữa Đại Việt với Tống. Sách Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục còn cho biết: "Sứ bộ Nhà Trần phái sang bên Tống, được đi độ bốn người, chỉ được đem giấy tờ đi theo, còn lễ cống thì niêm phong lại đưa đến biên giới, do quan địa phương chuyển đệ về triều, nhưng cũng không lần nào đệ về được đầy đủ." Tháng 10 âm lịch năm 1240, dân Thổ Mán từ nước Tống kéo sang Đại Việt, cướp phá Lạng Giang. Thái Tông cử thị thần Bùi Khâm lên biên giới giải quyết tình hình. Mùa đông năm 1241, người dân tộc nước Tống lại quấy phá biên giới Đại Việt. Thái Tông sai đốc tướng Phạm Kính Ân mang quân dẹp loạn, phá được quân Thổ, Mán. Cuối năm 1241, Trần Thái Tông thân chinh đánh vào đất Tống, hòng truy diệt các toán cướp Thổ Mán và nối lại đường giao thông giữa Đại Việt với Tống. Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư đã thuật lại cuộc hành quân này rằng: "Vua thân hành cầm quân đi đánh các trại Vĩnh An, Vĩnh Bình của nước Tống phía đường bộ, vượt qua châu Khâm, châu Liêm, tự xưng là Trai Lang, bỏ thuyền lớn ở trong cõi, chỉ đi bằng các thuyền nhỏ Kim Phụng, Nhật Quang, Nguyệt Quang. Người châu ấy không biết là vua, đều sợ hãi chạy trốn. Đến sau biết là vua mới chăng xích sắt giữa sông để chặn đường thủy. Khi trở về, vua sai nhổ lấy vài chục cái neo đem về." Sau khi về nước, tháng 4 âm lịch năm 1242, vua Thái Tông lại sai Thân vệ tướng quân Trần Khuê Kình đưa quân lên đóng tại biên ải Việt-Tống. Trần Khuê Kính thúc quân đánh chiếm lộ Bằng Tường (Trung Quốc), từ đây các tuyến giao thông giữa Đại Việt với Tống hoàn toàn được khôi phục. Ở phía Nam, kể từ cuối thời Lý, Chiêm Thành thường xua quân cướp phá vùng ven biển của Đại Việt. Sau khi Nhà Trần thành lập, vua Thái Tông đã sai sứ sang thông hiếu với Chiêm. Người Chiêm một mặt dâng triều cống, mặt khác cho quân đánh phá Đại Việt và đòi vua Trần trả lại lãnh thổ bị mất năm 1069. Tháng 1 âm lịch năm 1252, Thái Tông cử em là Trần Nhật Hiệu làm Lưu thủ kinh sư, rồi thân chinh đánh Chiêm Thành. Quân Đại Việt thắng trận, bắt được vương hậu Bố Da La cùng nhiều thê thiếp, quân dân của vua Chiêm. Cuối năm 1252, vua Thái Tông đem quân về nước, phong Nhật Hiệu làm Thái úy. Thất bại này khiến Chiêm Thành phải chính thức thần phục Nhà Trần; sử Việt và thư từ ngoại giao giữa vua Trần với vua Mông Cổ đều xác định từ năm 1252 đến năm 1285, Chiêm Thành đã nhiều lần sai sứ sang triều cống (thậm chí vào năm 1279, nhiều sứ thần Chiêm còn xin ở lại làm quan cho vua Trần) và không gây một cuộc chiến nào với Đại Việt. Phế lập Hoàng hậu Mùa xuân năm 1226, sau khi được vợ là Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi, Trần Thái Tông đã lập Chiêu Hoàng làm Hoàng hậu, đổi gọi là Chiêu Thánh Hoàng hậu. Trong thời gian này, Thái Tông có một hoàng tử đặt tên là "Trịnh" (鄭), nhưng không rõ mẹ là ai, cũng không có gì chứng minh đây là con do Chiêu Thánh sinh hạ. Sách "Đại Việt sử ký Toàn thư" gọi Trịnh là Hoàng thái tử, nhưng khi viết về việc Trịnh mất (năm 1233) thì Ngô Sĩ Liên phỏng đoán là Trịnh đã chết ngay khi sinh. Bản thân Ngô Sĩ Liên cũng không ghi chép mẹ của hoàng tử là ai, cũng không ám chỉ là Chiêu Thánh sinh ra. Thái sư Trần Thủ Độ cùng vợ là Thiên Cực công chúa bèn tính chuyện lập một người khác làm hoàng hậu để đảm bảo có con nối dõi cho Thái Tông. Năm 1236, thấy Thuận Thiên công chúa (chị của Chiêu Thánh và cũng là vợ Hoài vương Trần Liễu - anh Thái Tông) đang mang thai Trần Quốc Khang 3 tháng, Trần Thủ Độ ép nhà vua phế Chiêu Thánh xuống làm công chúa, rồi lấy Thuận Thiên làm hoàng hậu mới. Trần Liễu không chịu mất vợ, bèn tập hợp binh lực nổi dậy trên sông Cái. Điều này làm cho Thái Tông khó xử, và vào một đêm ngày 9/5 (mồng 3 tháng 4 âm lịch), ông bí mật rời Thăng Long lên núi Yên Tử, xin tu theo thiền sư Đạo Viên. Khi thiền sư hỏi ông có nhu cầu gì mà lên núi, nhà vua bày tỏ: "Trẫm còn thơ ấu vội mất hai thân, bơ vơ đứng trên sĩ dân không chỗ nương tựa. Lại nghĩ sự nghiệp các bậc đế vương đời trước, thạnh suy không thường, cho nên Trẫm đến núi này chỉ cầu làm Phật, chớ không cầu gì khác". Sư Đạo Viên trả lời: "Trong núi vốn không có Phật, Phật chỉ ở trong tâm. Tâm lặng mà biết gọi là Chân Phật. Nay Bệ hạ nếu ngộ tâm này thì tức khắc thành Phật, không nhọc tìm cầu bên ngoài." Sau đó, Trần Thủ Độ đưa các quan lên núi Yên Tử năn nỉ Thái Tông trở lại kinh đô. Sư Đạo Viên cũng khuyên rằng: "Phàm làm đấng nhân quân, phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy tâm của thiên hạ làm tâm của mình. Nay thiên hạ muốn đón Bệ hạ trở về, Bệ hạ không về sao được. Song phần nghiên cứu nội điển, mong Bệ hạ đừng xao lãng." Nghe lời sư Đạo Viên và Trần Thủ Độ, Trần Thái Tông cùng bách quan trở về kinh đô, tiếp tục trị nước. Hai tuần sau, Trần Liễu nhận thấy quân mình yếu thế và không thể chống lại triều đình. Trần Liễu chờ lúc Thái Tông đi thuyền qua sông Cái, rồi Liễu cải trang làm người đánh cá, đi thuyền độc mộc đến chỗ thuyền ngự để đầu hàng. Trần Thủ Độ rút gương toan chém Trần Liễu, nhưng Thái Tông lấy thân mình bảo vệ cho Trần Liễu, rồi khuyên Trần Thủ Độ thu quân. Nhà vua còn cấp cho Trần Liễu đất thái ấp ở Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng và Yên Bang (nay thuộc Quảng Ninh), ngoài ra tặng Liễu tước Yên Sinh vương (安生王). Các sử gia như Ngô Sĩ Liên và Phan Phu Tiên đã chỉ trích Thái Tông là "cướp vợ của anh" và quy cho ông là đặt tiền đề cho các hành vi trái "tam cương ngũ thường" của vua tôi triều Trần: Tuy nhiên, nhóm sử thần Đại Nam biên soạn bộ Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục có lời biện hộ cho Trần Thái Tông trước các phê bình của sử thần triều trước: Tháng 2 âm lịch năm 1237, Trần Thái Tông dựng điện Linh Quang (hay điện Phong Thủy) ở bến Đông Bộ Đầu, bờ nam sông Hồng, đoạn từ dốc Hàng Than tới cầu Long Biên ngày nay. Thường khi xe vua đi từ hoàng thành ra đây, bá quan đưa đón, dâng trầu cau và trà, nên dân gian quen gọi là điện Hô Trà (Gọi Chè). Cũng sau lần gặp Thiền sư Đạo Viên ở Yên Tử năm 1236, Trần Thái Tông bắt đầu chuyên tâm tu tập theo Thiền tông Phật giáo. Mặc dù bận việc coi chính sự và học Khổng giáo, ông vẫn dành nhiều thời gian cho việc nghiên cứu, áp dụng các triết lý trong kinh điển Đại thừa cùng những giáo huấn của Tổ sư Thiền. Nhà vua tu học với sự hỗ trợ của các thiền sư như Đạo Viên ở Yên Tử, Ứng Thuận, Tức Lực và Đại Đăng ở Thăng Long, cùng các vị tăng người Tống là Đức Thành, Thiên Phong. Theo cuốn Thánh đăng ngữ lục (một tác phẩm khuyết danh về việc tu học Thiền tông của 5 vua đầu thời Trần, được viết vào khoảng thế kỷ XIV), Thái Tông đọc kinh Kim Cương đến câu "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" thì ngộ đạo. Sau đó, khoảng năm 1247-1252, ông viết sách Thiền tông chỉ nam ca (Bài ca về yếu chỉ của Thiền tông) để truyền bá cho hậu sinh về kinh nghiệm giác ngộ của mình. Thiền sư Đạo Viên khi đọc được tác phẩm này đã nhận xét: "Tâm của chư Phật ở cả trong này", và khuyến khích nhà vua lưu hành rộng rãi trong nước. Ngoài ra, Thái Tông còn dựng chùa Tư Phúc trong nội đô Thăng Long, để trao đổi thêm kiến thức với các cao tăng, đồng thời giảng dạy Thiền học cho lớp hậu sinh. Thánh đăng ngữ lục kể rằng "hằng ngày vua cúng trai tăng cho hơn 500 vị, độ làm đệ tử hơn 30 người". Kháng chiến chống Mông Cổ Trong khi Đại Việt hưng thịnh dưới triều Trần, ở phương Bắc, Nhà Tống phải rút xuống phía nam trước sự xâm lấn từ nước Kim của người Nữ Chân. Phía tây bị nước Tây Hạ chia cắt. Tới đầu thế kỷ XIII, người Mông Cổ ở phía bắc nước Kim thống nhất dưới quyền Thành Cát Tư Hãn, trở nên lớn mạnh. Mông Cổ đánh xuống phía nam, tiêu diệt Tây Hạ (1227) và Kim (1234). Mặc dù đã mở rộng bờ cõi bao la sang phía tây, diệt nhiều nước Tây Á và đánh sang châu Âu, người Mông Cổ tiếp tục tiến xuống phía nam để tiêu diệt Nam Tống. Trước thế tấn công của Mông Cổ, tháng 2 âm lịch năm 1257, thổ quan châu Tư Minh của Tống là Hoàng Bính đem gia quyến sang nội thuộc Đại Việt. Trần Thái Tông nhận, lấy con gái Bính là Huệ Túc Phu nhân. Năm 1253, quân Mông Cổ do Thái soái Uriyangqatai (Ngột Lương Hợp Thai) chỉ huy chinh phục nước Đại Lý (Vân Nam ngày nay). Sau đó, năm 1257, khắc hãn Mông Cổ là Mông Kha lên kế hoạch sai Uriyangqatai đem quân từ Đại Lý xuống chiếm Đại Việt, hòng tạo thế "gọng kìm" đánh quặt lên các châu Ung (nay là Nam Ninh, Quảng Tây) và Quế (nay là Quế Lâm, Quảng Tây) của Tống. Uriyangqatai đã 3 lần gửi sứ sang đòi Đại Việt thần phục nhưng vua Thái Tông không những từ chối mà còn bắt các sứ giả giam vào ngục. Thái Tông cũng khẩn trương chuẩn bị kháng chiến. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, tháng 9 âm lịch năm 1257, ông sai Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn huy động quân thủy bộ trấn thủ biên giới, sau đó, tháng 11 âm lịch năm 1257, ông kêu gọi quân dân cả nước sửa soạn khí giới. Các vương hầu, tôn thất cũng chiêu mộ gia nô, dân binh, thổ binh… làm lực lượng cần vương, phối hợp chiến đấu với quân chính quy của triều đình. Tháng 12 âm lịch năm 1257, Uriyangqatai (Ngột Lương Hợp Thai) dẫn gần 3 vạn quân tiến vào Đại Việt. Ngày 12 tháng 12 âm lịch năm 1257 (tức ngày 17 tháng 1 năm 1258) quân Mông Cổ đến Bình Lệ Nguyên (nay là huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc), Trần Thái Tông thân đem sáu quân đi đánh. Sử cũ ghi nhận nhà vua và tướng Lê Phụ Trần đã chiến đấu rất cam đảm, nhưng không thể đánh bại quân Mông Cổ. Khi quan quân thất thế, có người khuyên Thái Tông ở lại tử thủ nhưng Lê Phụ Trần kiên quyết ngăn cản. Thái Tông thu quân đến bến Lãnh Mỹ, sau đó xuống thuyền đi về Phù Lỗ. Uriyanqatai sai Cacakdu tiến quân nhanh ra bến, hòng cướp thuyền, bắt sống vua quan Nhà Trần, nhưng không thành công. Cương mục chép: "Nhà vua... lui quân đóng ở sông..., Phụ Trần đi sau cùng để vén quân. Lúc ấy quân Mông Cổ đuổi gấp, bắn tứ tung, Phụ Trần lấy cái sạp thuyền che đỡ cho nhà vua được thoát nạn". Thất bại trong việc đuổi bắt bộ chỉ huy Nhà Trần và kết thúc sớm chiến tranh đã khiến cho Cacakdu bị Uriyanqatai trách phạt dữ dội, và phải uống thuốc độc tự tử. Sang ngày hôm sau, ngày 18 tháng 1 năm 1258, vua Trần Thái Tông dàn quân chặn địch bên sông Cà Lồ ở Phù Lỗ. Quân Mông Cổ vượt sang sông Cà Lồ và đánh bại quân Đại Việt. Vua Trần lại chủ động rút quân về phía Thăng Long. Uriyangqatai tung quân truy kích tới bến Đông Bộ Đầu (nay là phố Hòe Nhai, Hàng Than, Hà Nội) trên hướng đông Thăng Long. Để thoát khỏi tình thế nguy ngập, bộ chỉ huy Đại Việt quyết định di tản lực lượng khỏi kinh đô, và lui về sông Thiên Mạc (nay thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên). Tại đây vua Thái Tông đã thảo luận với Lê Phụ Trần những vấn đề cơ mật, hầu như không người nào được nghe. Nhà vua cũng đi thuyền nhỏ tới thuyền của Trần Nhật Hiệu (chỉ huy quân Tinh Cương) để xin ý kiến về kế sách giữ nước. Nhật Hiệu đưa ngón tay xuống chấm nước rồi ghi hai chữ "nhập Tống" (tức là nên trốn sang nước Tống) trên mạn thuyền. Thái Tông lại hỏi về tình hình quân Tinh Cương thì Nhật Hiệu chỉ đáp: "Không gọi được chúng đến". Sau đó Thái Tông tìm đến tham vấn Thái sư Trần Thủ Độ, và được thái sư khích lệ: Quân Mông Cổ chiếm được kinh thành Thăng Long, song gặp nhiều khó khăn do thiếu lương thực trầm trọng. Mông Cổ phải chia quân đi cướp bóc ở vùng ngoại vi và phụ cận, nhưng bị dân chúng chặn đánh quyết liệt. Quân Mông Cổ chịu tổn thất nặng nề. Trong khi đó, quân chủ lực Đại Việt đã được chỉnh đốn và hồi sức sau những thất bại đầu tiên. Ngày 28 tháng 1 năm 1258, vua Trần Thái Tông cùng Thái tử Trần Hoảng thúc quân phản kích vào bến Đông Bộ Đầu, đánh tan quân Mông Cổ. Uriyangqatai phải rút quân khỏi Thăng Long và tháo chạy về Vân Nam. Trên đường chạy, quân Mông Cổ lại bị một thổ quan người Tày là Hà Bổng tập kích, đánh tan tại Quy Hóa (vùng Lào Cai, Yên Bái). Quân Mông Cổ rút lui, không hề cướp phá, nên dân Việt gọi là "giặc Phật". Uriyangqatai kéo quân về thành Áp Xích (Đại Lý), phải tìm đường khác đánh đất Tống. Ngày mùng một Tết năm 1258, Trần Thái Tông tổ chức định công, phạt tội cho quan tướng tại Thăng Long. Lê Phụ Trần lãnh chức Nhập nội phán thủ, tước Bảo Văn hầu và được gả vợ cũ vua là Chiêu Thánh; Trần Khánh Dư được ban chức Thiên tử nghĩa nam; Hà Bổng cũng thụ phong tước hầu. Bộ Đại Việt Sử ký Toàn thư cũng kể chuyện Trần Thái Tông tha tội cho Hoàng Cự Đà, viên tiểu hiệu có hành vi bất trung trong cuộc chiến chống Mông Cổ: Trước kia có lần vua ban xoài cho những người hầu cận, Cự Đà không được ăn. Đến khi quân Nguyên tới Đông Bộ Đầu, Cự Đà ngồi thuyền nhẹ chạy trốn. Đến Hoàng giang gặp Hoàng thái tử đi thuyền ngược lên, Đà lánh sang bờ sông bên kia, thuyền chạy rất gấp. Quan quân gọi lớn: - Quân Nguyên ở đâu? Cự Đà trả lời: - Không biết, đi mà hỏi những người ăn xoài ấy! Đến đây, Thái tử xin khép Cự Đà vào cực hình để răn những kẻ làm tôi bất trung. Vua nói: - Cự Đà tội đáng giết cả họ, song đời xưa đã có chuyện Dương Châm không được ăn thịt dê, đến nỗi làm quân nước Trịnh bị thua. Việc Cự Đà là lỗi ở ta, tha cho hắn tội chết, cho phép hắn đánh giặc chuộc tội. Bang giao sau cuộc chiến Sau thất bại của cuộc tấn công Đại Việt năm 1258, đế quốc Mông Cổ vẫn không bỏ ý định thôn tính phương Nam. Lúc này Mông Cổ đang phải tập trung lực lượng đánh Nam Tống, nên họ chưa thể phát binh đánh Đại Việt lần hai, và tạm sử dụng biện pháp ngoại giao để thuyết phục vua Trần thần phục. Theo các sách Kinh thế đại điển tự lục và Nguyên sử, ngay sau khi lui quân về Vân Nam, Thái soái Mông Cổ Uriyangqatai (Ngột Lương Hợp Thai) đã gửi 2 sứ giả sang dụ vua Trần tới chầu. Trần Thái Tông trói hai sứ giả và trục về nước. Đồng thời ông vẫn duy trì quan hệ hữu hảo với Nam Tống. Nhưng một thời gian sau, thấy Mông Cổ còn rất mạnh và tiếp tục lấn vào đất Tống, triều đình Thái Tông nhận định Nam Tống không còn khả năng ảnh hưởng tới Đại Việt và chính Mông Cổ mới là mối đe dọa lớn nhất. Nhà vua bèn thay đổi phương sách ngoại giao; mùa xuân năm 1258, ông cử một phái bộ gồm Lê Phụ Trần làm Chánh sứ, Chu Bác Lãm làm Phó sứ sang thông hiếu với Mông Cổ. Sứ bộ này lấy danh nghĩa sang dâng cống vật cho Uriyanqatai tại Vân Nam; nhưng thực chất là đi thăm dò thực lực cũng như các động thái của Mông Cổ. Sau khi sứ bộ của Lê Phụ Trần về nước, hãn Mông Cổ sai Nur-ud-Dīn đi sứ sang Đại Việt, đem theo bức thư đòi Thái Tông đích thân đến chầu. Trong thư có đoạn: "Trước đây ta sai sứ sang thông hiếu, các ngươi bắt giữ không cho về, vì thế ta mới có cuộc xuất quân năm trước, khiến quốc chủ ngươi phải chạy ra nơi thảo dã. Lại lệnh hai sứ đến chiêu an, trả nước, ngươi lại bắt trói sứ ta rồi đuổi về. Nay đặc sai sứ đến dụ, nếu bọn ngươi có lòng thề nội phụ thì quốc chủ phải đích thân đến, nhược bằng không sửa lỗi, hãy báo cho ta rõ". Thái Tông không chấp thuận, chỉ trả lời bằng lời lẽ tế nhị: "Tiểu quốc thành tâm thờ bề trên, vậy đại quốc đối đãi thế nào?". Chuyến đi sứ của Nur-ud-Dīn hoàn toàn thất bại; nhưng sau đó, Mông Kha lại sai Nur-ud-Dīn sang Đại Việt với mục đích tương tự lần trước. Vua Trần vẫn không nhượng bộ, nhưng cũng trấn an sứ giả rằng "Đợi đức âm ban xuống sẽ lập tức sai con em sang làm con tin". Trên thực tế, việc này không bao giờ được thực hiện. Cuộc đấu tranh ngoại giao giữa hai nước tiếp tục diễn ra quyết liệt cho đến thời Trần Nhân Tông, khi Mông Cổ xâm lược Đại Việt lần thứ hai (1285). Đánh giá về tầm vóc của cuộc thắng lợi năm 1258 của Trần Thái Tông và quân dân Đại Việt, các tác giả phương Tây Peter D. Sharrock và Vũ Hồng Liên (người Anh gốc Việt) viết: Thái thượng hoàng Ngày 24 tháng 2 năm Nguyên Phong thứ 8 (tức ngày 30 tháng 3 dương lịch năm 1258), Trần Thái Tông truyền ngôi cho Thái tử Trần Hoảng, tức Hoàng đế Trần Thánh Tông. Trần Thái Tông lui về cung Thánh Từ làm Thái thượng hoàng, được Thánh Tông dâng tôn hiệu Hiển Nghiêu Thánh Thọ Thái Thượng Hoàng Đế (顯堯聖壽太上皇帝). Từ đây, Nhà Trần theo lệ truyền ngôi sớm cho thái tử, thứ nhất để tránh việc tranh giành ngôi báu giữa các con (do đã sớm được định đoạt), thứ nữa là rèn luyện cho vị hoàng đế mới cai trị đất nước càng sớm càng tốt. Trên cương vị là Thượng hoàng, Trần Thái Tông vẫn hỗ trợ, hướng dẫn con mình trị nước, củng cố nền thống trị của họ Trần, mở mang giáo dục, kinh tế, văn hóa và quan tâm theo dõi tình hình phương Bắc. Sách Việt sử tiêu án đã kể lại: "Thượng hoàng ban yến cho quần thần ở điện Diên Hiền, có sao chổi hiện ra ở phận vị sao Liễu, sáng rực trời; Thượng hoàng ra coi, bảo rằng: "Sao Liễu là địa phận Lâm An, không phải là thiên tai ở nước ta"... tháng 10 năm ấy [1264] thì vua Nhà Tống mất". Thượng hoàng cũng đích thân đón tiếp sứ bộ Mông Cổ do Trương Lập Đạo (Trương Hiền Khanh) làm Chánh sứ vào năm 1265. Trong thời gian này, hai vua Trần một mặt giao hảo với Nam Tống (năm 1262, Tống Lý Tông sắc phong Trần Thái Tông làm Kiểm hiệu Thái sư An Nam Quốc Đại vương, Thánh Tông làm An Nam Quốc vương, tặng thêm vàng và gấm vóc), mặt khác chấp nhận triều cống Mông Cổ 3 năm 1 lần, nhưng cự tuyệt mọi yêu sách nhằm biến Đại Việt thành một thuộc quốc của Mông Cổ. Sau khi nhường ngôi vua cho con, Trần Thái Tông có nhiều thời gian hơn cho việc nghiên cứu, giảng dạy Thiền tông. Thượng hoàng đã dựng chùa Phổ Minh tại Thiên Trường (Nam Định) và am Thái Vi tại hành cung Vũ Lâm (Hoa Lư, Ninh Bình) để tu tập, đồng thời chỉ đạo dân khai hoang, mở ấp. Thượng hoàng còn viết thêm nhiều sách dạy Phật học, trong đó có Khóa hư lục (Tập bài giảng về lẽ hư vô), Lục thì sám hối khoa nghi (Nghi thức sám hối vào sáu thời khắc trong một ngày), Kim Cương Tam Muội Chú Giải (Chú giải kinh Kim Cương Tam Muội, ngày nay đã thất lạc, chỉ còn bài tựa in trong quyển Khóa hư lục), Bình đẳng lễ sám văn (Bình đẳng sám hối) cùng một số bài luận giảng về việc tọa thiền, việc niệm Phật và một bài răn về tửu sắc... Trong bài Phổ thuyết sắc thân (Nói rộng về sắc thân) thuộc bộ Khóa hư lục, Thái Tông có giảng về sự vô thường, giả tạm của thân người và sự không thể tránh khỏi của cái chết: Hoặc như trong bài tựa Lục thì sám hối khoa nghi, Trần Thái Tông có giải thích công dụng của nghi thức sám hối trong việc chuyển ác làm lành: Sáng tác của Thượng hoàng trong giai đoạn này được Hòa thượng Thích Nhất Hạnh nhận xét là "còn chín chắn hơn Thiền Tông Chỉ Nam mà hồi viết vua chỉ mới trên 30 tuổi". Trần Thái Tông còn là một nhà thơ, đã để lại tập Trần Thái Tông ngự tập (1 quyển), được Phan Huy Chú khen là "lời thơ thanh nhã, đáng đọc". Ngày nay tập thơ này đã thất lạc, chỉ còn lại 2 bài Kỷ Thanh Phong am tăng Đức Sơn (Gửi nhà sư Đức Sơn ở am Thanh Phong) và Tống Bắc sứ Trương Hiền Khanh (Tiễn Bắc sứ Trương Hiền Khanh) chép trong An Nam chí lược, Việt âm thi tập và Toàn Việt thi lục. Qua đời Ngày 1 tháng 4 âm lịch (5 tháng 5 dương lịch) năm 1277, Thượng hoàng Trần Thái Tông qua đời tại điện Vạn Thọ (Thăng Long), hưởng thọ 60 tuổi. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, Thái Tông đã đoán trước được ngày mất của ông: Trước đó, Thượng hoàng đến ngự đường, bỗng thấy con rết bò trên áo ngự. Thượng hoàng sợ, lấy tay phủi nó rơi đánh "keng" xuống đất, nhìn xem thì hóa ra cái đinh sắt, đoán là điềm năm Đinh. Lại có lần đùa sai Minh tự Nguyễn Mặc Lão dùng phép nghiệm quan nghiệm xem điềm lành hay điềm dữ. Hôm sau Mặc lão tâu: "Thấy một chiếc hòm vuông bốn mặt đều có chữ "nguyệt", trên hòm có một cái kim, một chiếc lược". Thượng hoàng lại đoán: "Hòm tức là quan tài, chữ " nguyệt" (tháng) ở bốn bên tức là tháng 4, cái kim có thể cắm vào vật gì, tức là nhập vào quan tài, chữ "sơ" là chiếc lược, đồng âm với "sơ" là xa tức là sẽ xa rời các ngươi". Lại lúc ấy đương có trò múa rối, thường có câu: "Mau đến ngày mồng 1 thay phiên". Thượng hoàng lại đoán: "Thế là ngày mồng 1 ta chết". Năm trước, có một hôm thượng hoàng chợt bảo tả hữu: "Tháng 4 sang năm ta tất chết". Đến nay quả như vậy. Sách Thánh đăng ngữ lục cũng thuật lại những cuộc đàm đạo Phật pháp cuối cùng của Trần Thái Tông với Trần Thánh Tông và Quốc sư Đại Đăng: Vua bệnh, Thánh Tông thăm bệnh, nhân đó hỏi: – Chân không và ngoan không là đồng hay khác? Vua đáp: – Hư không là một, nhưng do tự tâm mê ngộ nên thành có chân và ngoan sai khác. Ví như phòng nhà, mở ra thì sáng, đóng lại thì tối, sáng và tối chẳng đồng, và phòng nhà là một. Ngày hôm sau, Quốc sư Đại Đăng vào thăm hỏi: – Bệ hạ bệnh chăng? Vua đáp: – Tứ đại là bệnh, cái này xưa nay sanh tử không can hệ, mà dính kẹt trong bệnh hoạn sao? Khoảng mấy ngày sau, Thái Tông lặng thinh không nói, đuổi hết kẻ hầu hạ, đem việc nước dặn dò Thánh Tông. Thánh Tông muốn nhờ hai Quốc sư Phù Vân (Đạo Viên) và Đại Đăng nói pháp xuất thế cho Thái Tông nghe. Thái Tông gằn giọng bảo: - Đến trong đây, bớt một mảy tơ dường trên thịt khoét thương, thêm một mảy tơ như trong mắt để bụi. Ba đời chư Phật, bốn mắt nhìn nhau, sáu đời Tổ sư thối thân có phần. Dù Phù Vân nói huyền, Đại Đăng thuyết diệu đều là lời thừa, có ích gì đối với cái này? Nói xong Ngài lặng lẽ thị tịch... Ngày 4 tháng 10 âm lịch (31 tháng 10 dương lịch) năm 1277, triều đình làm lễ mai táng Thái Tông tại Chiêu Lăng thuộc phủ Long Hưng (Tiến Đức, Hưng Hà, Thái Bình ngày nay). Ông được tôn miếu hiệu là Thái Tông (太宗), thụy hiệu là Thống Thiên Ngự Cực Long Công Mậu Đức Hiển Hòa Hựu Thuận Thần Văn Thánh Vũ Nguyên Hiếu Hoàng đế (統天御極隆功茂德顯和佑順神文聖武元孝皇帝). Nhận định Bộ Đại Việt Sử ký Toàn thư đã đánh giá về Trần Thái Tông: Lê Tắc, một sử gia người gốc Việt của Đại Nguyên, đã viết trong sách An Nam chí lược rằng Trần Thái Tông là người: "khoan nhân thông tuệ, văn võ toàn tài, lấy tư cách con rể Nhà Lý kế vị quốc vương." Quyển Đệ Thập cửu của sách này còn chép bài Đồ chí ca, có đoạn: Hết Đinh lại phong Lê và Lý. Lý truyền chín đời một trăm năm, Liền có Trần vương lên kế vị. Thái Bình lâu ngày trọng nho phong, Lễ nhạc, y quan có bề thế. Trong bộ Việt giám thông khảo tổng luận (biên soạn vào thời Hậu Lê), sử thần Lê Tung có lời bàn: Sử gia Ngô Thì Sĩ nhận định trong Việt sử tiêu án: Trần Nhân Tông - hoàng đế thứ ba của triều Trần - có bài thơ Ngày xuân thăm Chiêu Lăng (Xuân nhật yết Chiêu Lăng - Chiêu Lăng là tên lăng của Trần Thái Tông), trong đó bày tỏ sự tự hào đối với ông nội mình là Trần Thái Tông, cũng như với chiến thắng của quân dân Đại Việt do Thái Tông lãnh đạo trước quân Mông Cổ năm 1258. Bài thơ đã được chép lại trong sách Thơ văn Lý-Trần (tập II, quyển thượng) do Nguyễn Huệ Chi, Trần Thị Băng Thanh, Đỗ Văn Hỷ và Trần Tú Châu biên soạn: 春日謁昭陵 貔虎千門肅, 衣冠七品通。 白頭軍士在, 往往說元豐。 Xuân nhật yết Chiêu Lăng Tì hổ thiên môn túc Y quan thất phẩm thông Bạch đầu quân sĩ tại Vãng vãng thuyết Nguyên Phong Ngày xuân thăm Chiêu Lăng Nghìn cửa, nghiêm tì hổ, Bảy phẩm, đủ cân đai. Lính bạc đầu còn đó, Chuyện Nguyên Phong, kể hoài. Vua thứ 7 của triều Trần, Trần Dụ Tông, cũng làm bài thơ so sánh công đức của Trần Thái Tông với Đường Thái Tông: 裕宗賛太宗詩 唐越開基两太宗, 彼稱貞觀我元豐。 建成誅死安生在, 廟號雖同德不同。 Dụ Tông tán Thái Tông thi Đường Việt khai cơ lưỡng Thái Tông, Bỉ xưng Trinh Quán, ngã Nguyên Phong. Kiến Thành tru tử, An Sinh tại, Miếu hiệu tuy đồng, đức bất đồng. Thơ Dụ Tông tán tụng Thái Tông Sáng nghiệp Việt Đường hai Thái Tông, Kia xưng Trinh Quán, ta Nguyên Phong. Kiến Thành bị giết, Yên Sinh sống, Miếu hiệu như nhau, đức chẳng đồng. Trần Thái Tông còn được xem là một thiền sư-cư sĩ lớn của Phật giáo, người đã đặt nền móng về tư tưởng cho việc hợp nhất 3-4 dòng thiền có mặt tại Đại Việt thời bấy giờ thành một giáo hội thống nhất – Thiền phái Trúc Lâm. Vị tổ thứ nhất của thiền phái này chính là Điều ngự Trần Nhân Tông, cháu nội của ông. Hòa thượng Thích Nhất Hạnh đã nhận xét về Trần Thái Tông trên vai trò là một thiền sư Phật giáo: Ngày nay Trần Thái Tông được lập đền thờ ở nhiều nơi, tiêu biểu như đền Trần Thái Tông tại thôn Phù Nghĩa (Nam Định), đền Trần Thái Tông ở các xã Trung Phu, Trình Xuyên (huyện Vụ Bản, Nam Định); đền thờ Trần Thái Tông ở Thái Vi (huyện Hoa Lư, Ninh Bình), đền Hành cung Vũ Lâm ở Quần thể di sản thế giới Tràng An, miếu Trần Thái Tông ở các xã Trường Khê, Yên Mô (Ninh Bình) và đền thờ Trần Thái Tông ở làng Vọc (huyện Vụ Bản, tỉnh Hà Nam). Gia quyến ha: Trần Thừa, được truy tôn là Trần Thái Tổ (陳太祖). Mẹ: Lê thị Thái (黎氏 ? - 1230), truy tôn Thuận Từ Quốc Thánh Hoàng thái hậu (順慈國聖皇太后). Anh chị em: Yên Sinh vương Trần Liễu (安生王陳柳), anh trai. Khâm Thiên Đại vương Trần Nhật Hiệu (欽天大王陳日晈), em trai. Hoài Đức vương Trần Bà Liệt (懷德王陳婆列), em trai. Thụy Bà Công chúa (瑞婆公主), chị gái, mẹ nuôi của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Nhân Hòa Vương Trần Di Ái Hậu phi: Chiêu Thánh Hoàng hậu (昭聖皇后 1218 - 1278), húy Thiên Hinh (天馨), con gái Lý Huệ Tông và Linh Từ Quốc mẫu, Nữ hoàng đầu tiên và duy nhất trong lịch sử Việt Nam, trước khi nhường ngôi cho Thái Tông. Năm 1237, bà bị truất ngôi Hoàng hậu vì không có con, bị giáng trở lại làm Công chúa. Đến năm 1258, bà được Thái Tông gả cho Ngự sử đại phu Lê Phụ Trần. Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng hậu (順天皇后 1216 - 1248), húy Oánh (莹), chị ruột của Chiêu Thánh, nguyên là vợ của Trần Liễu. Năm 1237 bà bị ép bỏ Trần Liễu, trở thành hoàng hậu của Thái Tông. Có con với Trần Liễu là Vũ Thành vương Trần Doãn, Tĩnh Quốc Đại vương Trần Quốc Khang; với Thái Tông là Trần Thánh Tông, Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải. Huệ Túc Phu nhân Hoàng thị (惠肅夫人黃氏), con gái thổ quan nhà Tống Hoàng Bính. Nhiều phi tần không rõ danh tính, các hoàng tử là Trần Ích Tắc, Trần Nhật Duật cùng An Tư Công chúa đều sinh ra sau khi Thuận Thiên Hoàng hậu qua đời (1248). Hậu duệ Sử sách không ghi chép cụ thể số con của Trần Thái Tông, nhưng có đề cập đến một số người: Hoàng tử: Hoàng thái tử Trần Trịnh (皇太子陳鄭; ? - 1233), con trai cả trên thực tế của Trần Thái Tông. Nghi vấn là chết yểu, không rõ mẹ là ai, thường nói là Chiêu Hoàng. Tĩnh Quốc Đại vương Trần Quốc Khang (靖國大王陳國康), được xem là anh cả trong các con của Thái Tông, trên thực tế là con của Khâm Minh Đại vương Trần Liễu và Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng hậu. Trần Hoảng (陳晃), tức Hoàng đế Trần Thánh Tông (陳聖宗), mẹ là Thuận Thiên Hoàng hậu. Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải (昭明大王陳光啟), mẹ là Thuận Thiên Hoàng hậu. Chiêu Đạo vương Trần Quang Xưởng (昭道王陈光昶), anh cùng mẹ với Chiêu Quốc vương.  Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc (昭國王陳益稷), hoàng tử thứ 5 của Thái Tông. Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật (昭文王陳日燏), hoàng tử thứ 6 của Thái Tông. Vũ Uy vương Trần Duy (武威王陳維), không rõ thứ tự. Sách chính sử là Toàn thư khẳng định Quốc Khang là "anh cả", sau đến Thánh Tông, rồi tiếp là Quang Khải là "Hoàng tử thứ ba", mà Chiêu Đạo là anh của Chiêu Quốc, trong khi Chiêu Quốc được xác định rõ là "Hoàng tử thứ năm" của Thái Tông. Dựa theo những điều này, Vũ Uy vương có lẽ là con trai thứ 7 trở xuống của Thái Tông. Bình Nguyên vương Trần Nhật Vĩnh (平原王陳日永). Minh Hiến vương Trần Quốc Uất (明宪王陈國蔚), con trai út của Thái Tông, bạn thân của Phạm Ngũ Lão[106]. Hoàng nữ: Thiều Dương Công chúa (韶陽公主 ? - 4/1277), húy là Thúy, lấy Thượng vị Văn Hưng hầu (khuyết danh), mất ngay khi Trần Thái Tông qua đời. Đại Việt Sử ký Toàn thư có đoạn viết về công chúa như sau: "Hôm thượng hoàng băng, công chúa Thiều Dương (con gái thứ của Thượng hoàng tên là Thúy) đương ở cữ, bỗng nghe tiếng chuông liên hồi, mới hỏi: "Có thể nào không phải là tin dữ chăng?" Những người hầu bên cạnh nói dối, nhưng công chúa không nghe, cứ thương khóc, kêu gào, mắt nhắm nghiền rồi mất".  Thụy Bảo Công chúa (瑞寶公主), em cùng mẹ với Thiều Dương Công chúa, lấy Uy Văn vương Toại, sau lấy Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng. Trần Bình Trọng mất, công chúa một mình nuôi dạy con gái riêng của ông, coi như là con ruột của mình. Về sau, người con gái đó được đưa vào cung làm phi cho Trần Anh Tông, tức Chiêu Từ Hoàng thái hậu (昭慈皇太后), mẹ sinh của Trần Minh Tông. Hoa Dung công chúa, không rõ sự tích. An Tư Công chúa (安姿公主), con gái út của Thái Tông. Năm 1285, khi Mông-Nguyên đánh Đại Việt lần hai, Trần Thánh Tông gả An Tư cho Trấn Nam Vương Thoát Hoan, "là muốn làm thư giãn loạn nước vậy". Nhân vật trong thần tích: Cung phi Vũ thị, húy là Vượng, theo thần tích là mẹ của Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật. Lệ Trinh Nguyên phi Lê thị (厲貞元妃黎氏), húy là Tuyết. Thái Đường Công chúa, con gái trưởng của Thái Tông, có thuyết cho rằng bà do Thuận Thiên Hoàng hậu sinh ra. Nhân vật được ghi nhận trong thần tích không rõ nguồn gốc, về sau lấy Hầu tước tên Vũ Tỉnh, có một con trai là Vũ Thành. Sau khi chồng và con mất, bà về trông coi thái ấp cho anh là Thái úy Trần Quang Khải. Vấn đề về tên gọi Các sử gia hiện đại không đồng nhất trong việc xác định tên gọi một số vua Trần trong cổ sử Trung Hoa. Nhà sử học Nhật Bản là Yamamoto Tatsuro trong bộ An Nam sử nghiên cứu (1950) lập luận rằng, Nhật Cảnh và Quang Bính đều là tên gọi Trần Thái Tông trong các văn thư ngoại giao, dựa trên các chi tiết trong sử Trung Quốc như: An Nam chí lược: "Qua năm Mậu-Ngọ (1258) Vương [Trần Nhật Cảnh] đổi tên là Quang-Bính, khiến bồi-thần dâng biểu nạp khoản..." Nguyên sử, An Nam truyện: "(Chí Nguyên) năm thứ 14 (1277), Quang Bính mất, người trong nước lập thế tử Nhật Huyên, sai Trung thị đại phu Châu Trọng Ngạn, Trung lượng đại phu Ngô Đức Thiệu đến chầu". Ghi chép này của Nguyên sử trùng khớp với thời điểm Trần Thái Tông mất (1277), được mô tả trong Đại Việt Sử ký Toàn thư. Tuy nhiên, sử gia Lê Mạnh Thát, tác giả cuốn Trần Thái Tông toàn tập (2004) lại khẳng định rằng Trần Nhật Cảnh là tên gọi của Thái Tông, còn Quang Bính là tên của Trần Thánh Tông trong văn thư với Mông Cổ; Lê Mạnh Thát viện dẫn các trích đoạn như: Nguyên sử, An Nam chí lược: "Mậu Ngọ năm thứ 8 (1258) tháng 2, Nhật Cảnh truyền nước cho con trưởng là Quang Bính, cải nguyên Thiệu Long". Cũng trong Nguyên sử, An Nam chí lược – Đại Nguyên phụng sứ: "Năm Đinh Tỵ (1257), An Nam bắt đầu thần phục... năm Canh Thân (1260), Quốc vương An Nam Trần Nhật Cảnh sai sứ dâng biểu chúc mừng, cống phương vật. Năm sau, chiếu phong Quang Bính làm An Nam Quốc vương...". Chi tiết này, theo Lê Mạnh Thát, cho thấy sau năm 1258, Thái Tông vẫn dùng tên Nhật Cảnh, và Nhật Cảnh với Quang Bính là hai người khác nhau. An Nam truyện của Nguyên sử, sau khi chép về việc Quang Bính mất (năm 1277), lại ghi thêm việc năm 1278: "An Nam Quốc vương Quang Bính sai sứ dâng biểu đến cống". Lê Mạnh Thát lý giải rằng dữ liệu cho thấy Quang Bính có lẽ còn sống sau năm 1277, và vì vậy đây là Trần Thánh Tông. Ngoài ra, Lê Mạnh Thát cũng lập luận rằng các hoạt động của Quang Bính ghi lại trong Nguyên sử, An Nam chí lược hoàn toàn trùng khớp với ghi chép về Trần Thánh Tông trong Đại Việt Sử ký Toàn thư. Trong văn hoá đại chúng Đọc thêm Nam Ông mộng lục, Hồ Nguyên Trừng Lĩnh Nam chích quái, Trần Thế Pháp Việt điện u linh tập, Lý Tế Xuyên Viện sử học (2007), Lịch sử Việt Nam (tập 3) Nhà xuất bản Khoa học xã hội Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng, Các triều đại Việt Nam, Nhà xuất bản Thanh niên, 2007 Chú thích Thư mục Phạm Văn Sơn, Việt sử toàn thư (bản điện tử)
FTP Commander là một chương trình FTP cho máy trạm trên nền Windows. Nó được phát triển bởi InternetSoft Corp. Chương trình này giúp bạn tải về và đẩy lên dữ liệu hoặc hủy một hoặc nhiều tập tin, bao gồm cả những thư mục cùng với những thư mục con bên trong của nó. Ngoài ra, chương trình còn có thể tự động tiếp tục thực hiện và hoàn thành việc chuyển tập tin sau khi đã bị ngắt bởi một lý do nào đó. Điểm đặc trưng là nó cũng bao gồm những chuẩn bảo mật như SSL, SSH, PGP và mã hóa mật khẩu, mã hóa 128-256-bit, chế độ truyền dữ liệu đa tiến trình, chmod và những lệnh riêng khác, đồng bộ hóa tập tin và thư mục, hỗ trợ proxy, công cụ sao lưu và nó cũng đã được địa phương hóa sang 23 ngôn ngữ khác nhau bao gồm tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Trung Quốc. Bản quyền Không đăng ký bản quyền, FTP Commander miễn phí cho mục đích cá nhân, giáo dục hoặc sử dụng cho mục đích phi lợi nhuận. Để sở hữu một phiên bản FTP Commander Deluxe có bản quyền, bạn phải trả tiền sau khi dùng thử 30 ngày.
Bắc thuộc chỉ thời kỳ Việt Nam bị đặt dưới quyền cai trị của các triều đại Trung Quốc, nghĩa là thuộc địa của Trung Quốc: Giai đoạn Bắc thuộc từ khi Nhà Hán tiêu diệt nước Nam Việt năm 111 TCN đến khi thành lập nhà Ngô bằng việc Ngô Quyền xưng vương năm 939, cũng như giai đoạn nội thuộc nhà Minh từ khi nhà Hồ mất năm 1407 đến khi nhà Minh công nhận "An Nam" độc lập năm 1427. Khái quát Trong thời gian này Việt Nam bị đặt dưới quyền cai trị của các triều đình của phương Bắc như: Bắc thuộc lần thứ nhất (111 TCN - 40):nhà Hán lập quốc vào năm 202 TCN, đến 111 TCN chiếm Nam Việt dưới thời nhà Triệu Bắc thuộc lần thứ hai (43 - 541): nhà Đông Hán, Đông Ngô, Tào Ngụy, nhà Tấn, nhà Tề, nhà Lương Bắc thuộc lần thứ ba (602 - 939): nhà Tùy, nhà Đường, Nam Hán. Có giai đoạn Việt Nam tự trị từ 905-939 Bắc thuộc lần thứ tư (1407-1427): nhà Minh tái chiếm lại Việt Nam Chỉ có vài thời gian độc lập ngắn ngủi như thời kỳ Hai Bà Trưng (40-43), thời kỳ nhà Tiền Lý với nước Vạn Xuân (541-602). Một số tài liệu khác chia thành ba thời kì. Cách chia này gộp hai thời kỳ đầu (với gián đoạn là khởi nghĩa Hai Bà Trưng) thành thời kì Bắc thuộc lần thứ nhất. Bài này sử dụng cách chia làm bốn thời kì. Trong suốt các thời kỳ Bắc thuộc, các triều đại Trung Quốc không ngừng thực hiện đồng hóa người Việt nhằm biến Việt Nam thành một quận huyện của Trung Quốc. Dưới thời kỳ này người Việt phải đóng sưu thuế cho triều đình phía bắc. Ngoài số thuế của nhà nước, một số quan cai trị địa phương vì ở xa nên cũng bòn vét thêm của dân. Cũng có một số quan cai trị nghiêm minh, đúng đắn, nhưng số này ít hơn. Nền văn minh Trung Quốc cũng du nhập vào Việt Nam thời kỳ này. Sĩ Nhiếp, thái thú nhà Hán (187-226) được các nhà nho thời phong kiến coi là có công truyền bá chữ nho và đạo Khổng vào Việt Nam một cách có hệ thống, được coi là người mở đầu nền nho học của giới quan lại phong kiến ở Việt Nam. Nhiều người Trung Quốc đã di cư đến Việt Nam, họ ở lại, dần dần kết hôn với người Việt và hòa nhập vào xã hội Việt Nam, và con cháu trở thành người Việt Nam. Bắc thuộc lần thứ nhất Dấu mốc xác định thời Bắc thuộc đầu tiên không thống nhất giữa các tài liệu xưa và nay, do quan niệm khác nhau về nước Nam Việt và nhà Triệu. Quan điểm thời phong kiến cho rằng nhà Triệu là triều đại chính thống của Việt Nam thì xác định khi nhà Triệu bị Hán Vũ Đế diệt năm 111 TCN là lúc bắt đầu thời Bắc thuộc. Quan điểm hiện đại bác bỏ nhà Triệu là triều đại chính thống của Việt Nam, bởi nhà Triệu là do Triệu Đà - một viên tướng người Hoa lập ra, tức vẫn là người Hoa cai trị người Việt giống như thời kỳ thuộc nhà Hán sau đó. Thời Bắc thuộc do vậy bắt đầu từ khi Triệu Đà diệt Âu Lạc của An Dương Vương. Sử cũ thường xác định An Dương Vương và nước Âu Lạc bị diệt năm 207 TCN Sử hiện đại căn cứ theo ghi chép của Sử ký Tư Mã Thiên là Triệu Đà diệt phía Tây nước Âu Lạc "sau khi Lã hậu mất", tức là khoảng năm 179 TCN. Triệu Đà sau khi diệt Âu Lạc chia làm 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Năm 111 TCN, nhà Hán diệt nhà Triệu, chiếm được Nam Việt và chia làm 6 quận là Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, đồng thời lập thêm 3 quận mới là Chu Nhai, Đạm Nhĩ, Nhật Nam. Riêng đối với quận Nhật Nam, khi Lộ Bác Đức đánh bại nhà Triệu-Nam Việt, lãnh thổ Nam Việt chưa bao gồm quận Nhật Nam (từ Quảng Bình tới Bình Định). Quận Nhật Nam chỉ hình thành sau khi các quan cai trị bộ Giao Chỉ người Hán tiến xuống thu phục các bộ tộc phía Nam dãy Hoành Sơn Năm 39, thái thú quận Giao Chỉ là Tô Định tàn ác, giết chồng của Trưng Trắc là Thi Sách. Nợ nước thù nhà, Hai Bà Trưng dấy binh khởi nghĩa và đã giành được 65 thành ở Lĩnh Nam. Hai Bà lên ngôi vua, kết thúc thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất. Bắc thuộc lần thứ hai Năm 43, nhà Hán sai Phục ba tướng quân Mã Viện đem quân sang tái chiếm và đàn áp, Hai Bà Trưng chống không nổi phải rút về giữ Cấm Khê rồi tự vẫn ở sông Hát. Dân địa phương lập đền thờ ở Hát Giang. Sự cai trị của Đông Hán tại bộ Giao Chỉ tương đối ổn định đến cuối thế kỷ 2. Nhà Hán suy yếu, năm 192 dân huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam ở phía nam theo Khu Liên nổi dậy ly khai, lập ra nước Chăm Pa (Lâm Ấp). Trong lúc nhà Hán suy yếu, thái thú quận Giao Chỉ là Sĩ Nhiếp dùng người nhà trấn trị các quận, trở thành người cai trị tại đây, dù sau đó trên danh nghĩa, họ Sĩ vẫn chấp nhận các thứ sử do nhà Hán rồi Đông Ngô cử sang. Một dấu mốc quan trọng thời kỳ này là việc bộ Giao Chỉ được đổi gọi là Giao Châu, trở thành 1 châu ngang hàng như các châu khác của Trung Quốc theo đề nghị của Sĩ Nhiếp và thứ sử Trương Tân. Năm 226, Sĩ Nhiếp qua đời, nhà Đông Ngô đánh chiếm Giao Châu và chính thức cai trị. Trong chiến tranh Tam Quốc, các nước thay nhau giành quyền quản lý Giao Châu. Năm 263, Lã Hưng giết quan cai trị Đông Ngô, theo về Tào Ngụy. Tại trung nguyên năm 265 nhà Tấn diệt Ngụy, Giao Châu lại thuộc Tấn. Năm 271 Đông Ngô chiếm lại Giao Châu. Năm 280 Tấn diệt Ngô, Giao Châu trở lại thuộc Tấn. Sau thời Tam Quốc, Giao Châu không có biến động về chủ quyền quản lý cho tới khi chấm dứt thời Bắc thuộc thứ hai. Một số cuộc nổi dậy của người Việt thời kỳ này đều bị thất bại. Cuộc khởi nghĩa lớn nhất năm 248, ở quận Cửu Chân của anh em Triệu Quốc Đạt và Triệu Thị Trinh, sau bị Lục Dận là thứ sử Giao Châu đàn áp phải chịu thất bại. Một số cuộc nổi dậy khác của các thủ lĩnh người Việt như Lương Thạc, Lý Trường Nhân duy trì được quyền cai quản của người Việt trong vài năm. Thời Bắc thuộc lần thứ 2 chấm dứt năm 541 khi Lý Bí khởi binh chống nhà Lương và chính thức thành lập nhà Tiền Lý cùng nước Vạn Xuân năm 544. Bắc thuộc lần thứ ba Thuộc Tùy - Đường Năm 602, nhà Tùy cho quân sang xâm lược nước Vạn Xuân, Lý Phật Tử chưa đánh đã hàng, bị bắt về phương bắc rồi chết ở đó. Năm 605, nhà Tùy đổi Giao châu thành quận Giao Chỉ và Phủ Đô hộ Giao Chỉ để cai trị Việt Nam. Nhà Đường thay nhà Tùy bãi bỏ các quận do nhà Tùy lập ra, khôi phục lại chế độ các châu nhỏ thời Nam Bắc triều. Năm 622, nhà Đường lập Giao châu đô hộ phủ. Năm 679, nhà Đường đổi quận Giao Chỉ trở lại thành châu Giao, đặt ra Phủ Đô hộ Giao Châu. Sau đó, nhà Đường đổi Phủ Đô hộ Giao Châu thành Phủ Đô hộ An Nam. Tên gọi An Nam trong lịch sử Việt Nam bắt đầu từ thời điểm này. Chức quan đứng đầu Phủ Đô hộ An Nam lúc đầu gọi là kinh lược sứ, sau đổi thành Tiết độ sứ. Nhà Đường lại chia Giao Châu làm 12 châu: Giao, Lục, Phúc Lộc, Phong, Thang, Trường, Chi, Vũ Nga, Vũ An, Ái, Hoan, Diễn. Sau nhiều lần điều chỉnh, năm 866, nhà Đường đổi Phủ Đô hộ An Nam thành Tĩnh Hải quân. Tên gọi này duy trì qua thời Tự chủ của Việt Nam. Do chính sách bóc lột nặng nề của nhà Đường, người Việt nhiều lần nổi dậy chống nhà Đường. Tiêu biểu nhất là các cuộc nổi dậy của Lý Tự Tiên và Đinh Kiến (687), Mai Thúc Loan (722), Phùng Hưng (776-791) và Dương Thanh (819-820), song đều thất bại. Đầu thế kỷ 10, nhà Đường suy yếu nghiêm trọng vì nạn phiên trấn cát cứ (kéo dài từ sau loạn An Sử giữa thế kỷ 8) và quyền thần. Nhân lúc Tiết độ sứ Độc Cô Tổn bị điều đi chưa có người thay năm 905, hào trưởng người Việt là Khúc Thừa Dụ đã vào làm chủ thủ phủ Đại La và xác lập quyền tự chủ cho người Việt, năm 939 thì Ngô Quyền xưng vương và bên trong không còn nhận là quan Trung Quốc nữa. Người Việt tự chủ chống sự xâm chiếm của Nam Hán Năm 907, Khúc Thừa Dụ mất, con là Khúc Hạo lên thay tiếp tục thực hiệnTiết độ sứ. Năm 917, Khúc Hạo mất, con là Khúc Thừa Mỹ lên thay. Năm 923/930, vua Nam Hán sai Lý Khắc Chính đem quân sang đánh, bắt được Khúc Thừa Mỹ đem về nước, Lý Khắc Chính ở lại giữ Giao Châu. Năm 931, Dương Đình Nghệ là tướng cũ của Khúc Hạo đem quân đánh phủ thành Đại La, lại đánh tan quân Nam Hán do Trần Bảo dẫn sang cứu viện, giết Trần Bảo và tự xưng là Tiết độ sứ. Năm 937, bộ tướng của Dương Đình Nghệ là Kiều Công Tiễn giết ông để chiếm ngôi. Năm 938, bộ tướng khác, đồng thời là con rể Dương Đình Nghệ là Ngô Quyền đem quân giết Kiều Công Tiễn, rồi đánh tan đạo quân xâm lược Nam Hán do Lưu Hoằng Tháo dẫn đầu trên sông Bạch Đằng sang tiếp ứng cho Công Tiễn, lập ra nhà Ngô. Từ đó bắt đầu thời kỳ độc lập ổn định của Việt Nam. Bắc thuộc lần thứ tư Sau thời nhà Ngô đến thời nhà Đinh, Việt Nam chính thức có quốc hiệu sau ngàn năm Bắc thuộc là Đại Cồ Việt. Sang thời Lý, quốc hiệu được đổi là Đại Việt. Trong hơn 400 năm qua các triều đại Tiền Lê, Lý và Trần, Đại Việt đều đánh thắng các cuộc xâm lăng của các triều đại Trung Quốc. Năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần. Năm 1406, nhà Minh đem quân sang, lấy lý do là để khôi phục nhà Trần, nhưng thực chất đã sáp nhập Việt Nam thành quận huyện của Trung Quốc và cử quan lại người Hán sang cai trị. Năm 1407, Giản Định vương, con thứ của vua Trần Nghệ Tông xưng làm Giản Định Đế (1407-1409) để nối nghiệp nhà Trần (thành nhà Hậu Trần) và bắt đầu một cuộc khởi nghĩa chống quân Minh, đến năm 1413 thì hoàn toàn thất bại. Năm 1418, Lê Lợi khởi nghĩa tại Lam Sơn, Thanh Hóa. Năm 1427, cuộc khởi nghĩa thành công, kết thúc thời kỳ Bắc thuộc lần thứ tư, và mở đầu một triều đại mới của Việt Nam: nhà Hậu Lê. Theo truyền thuyết, Lê Lợi thắng do nhờ có kiếm thần của Long Quân. So với giai đoạn một nghìn năm Bắc thuộc, thời kỳ Bắc thuộc này tuy không dài bằng, nhưng chính sách đồng hóa và bóc lột được thực hiện mạnh mẽ hơn. Nhà Minh bắt người Việt phải theo kiểu người Trung Quốc, từ cách ăn mặc, học hành, đến việc cúng tế. Các tài sản quý như người tài, sách vở, báu vật đều bị đem về Trung Quốc. Trong số đó có các cuốn sách văn học, lịch sử, binh pháp... có giá trị và đã được truyền lại từ nhiều đời, hầu hết đã trở thành thất truyền ở Đại Việt kể từ đó. Khoảng 7600 thương gia và nghệ nhân Đại Việt (trong đó có nghệ nhân chế tạo súng Hồ Nguyên Trừng, nghệ nhân kiến trúc Nguyễn An) đã bị bắt đưa sang Nam Kinh, thủ đô Trung Quốc thời bấy giờ. Ngoài ra, nhà Minh còn áp dụng hệ thống sưu cao thuế nặng (bao gồm cả thuế muối) cùng với việc đẩy mạnh khai thác các sản vật quý phục vụ việc cống nộp.
"Money for Nothing" là tên một bài hát của ban nhạc Dire Straits lần đầu tiên được xuất hiện trong album Brothers in Arms vào năm 1985 và sau đó trở thành một hit quốc tế khi ra phiên bản dạng đĩa đơn. Bài hát nổi tiếng bởi sự tranh luận trong lời hát của nó, music video đầy mới lạ và diễn xuất cameo của nhạc sĩ Sting khi hát phần giới thiệu mỉa mai của bài hát và ở phần điệp khúc thì vay mượn tên một kênh truyền hình "I want my MTV". Bài hát lần đầu được phát trên MTV châu Âu khi kênh bắt đầu hoạt động vào ngày 1 tháng 8 năm 1987. Lời bát hát được viết bởi Mark Knopfler and Sting, mặc dù Sting chỉ đóng góp được câu "I Want My MTV", câu này cũng có trong bài "Don't Stand So Close To Me" của anh, phiên bản đầu tiên được ghi âm bởi The Police. Dire Straits trình diễn Money For Nothing vào Buổi hoà nhạc Live Aid năm 1985 ở sân vận động Wembley. Điều này đã tạo nên sự kiện trong lĩnh vực trình diễn ngoài trời. Sting là vị khách được mời trong buổi trình diễn này. Và kết quả của ngày hôm đó có được không chỉ là giới thiệu bài hát mà còn giúp Dire Straits đã trở thành một ban nhạc nổi tiếng trên thế giới. Sự tranh luận Có điều gì đó không bình thường trong lời bài hát, lời được viết từ quan điểm của một nhân vật, một người công nhân lao động đang xem các video âm nhạc và bình luận về những gì anh ta xem được. Người trưởng nhóm Dire Straits và người viết bài hát Mark Knopfler miêu tả về quá trình sáng tác bài hát trong cuộc phỏng vấn vào năm 1985 với nhà phê bình Bill Flanagan như sau: Nhân vật trong "Money for Nothing" là một chàng trai làm việc ở một kho lưu giữ các thiết bị của vô tuyến/tủ lạnh/lò vi sóng. Anh ta đang hát. Tôi đã viết bài hát khi tôi đang ở thực sự trong nhà kho. Tôi đã mượn một ít giấy và cầm bút bắt đầu viết lời bài hát. Tôi đã muốn sử dụng rất nhiều ngôn ngữ mà anh chàng đó đang hát và lời hát thực tế đúng như vậy. Sự quan sát nhân vật một cách lộ liễu bao gồm cả sự tham khảo của nhạc sĩ "banging on the bongos like a chimpanzee" và sự miêu tả của một ca sĩ như "little faggot with the earring and the makeup", và sự ca thán rằng người nghệ sĩ là "money for nothing and chicks for free". Những lời trong bài hát này đã bị chỉ trích mạnh mẽ như là những tuyên ngôn về giới tính, homophobia và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, và trong một vài phiên bản sau đó của bài hát, lời đã được hiệu chỉnh lại cho đỡ hơn. Ví dụ: từ "faggot" thường được thay thế bằng từ "mother"; "little mother, he's a millionaire". Phần còn lại trong đoạn thứ hai của bài hát đã bị bỏ đi khi biên soạn lại Sultans of Swing: The Very Best of Dire Straits and thay thế bằng âm thanh của nhạc cụ. Trong cuộc phỏng vấn cuối năm 1985 trên tạp chí Rolling Stone, Knopfler đã bày tỏ sự pha trộn cảm xúc trong cuộc tranh luận về vấn đề này: Tôi nhận được sự phản đối của người biên tập một tạp chí về đồng tính luyến ái ở London - thật sự anh ta đã nói nó ở dưới vành đai. Một phần từ sự thật rằng sự ngu ngốc của những người đồng tính cũng như những người khác, có lẽ là anh đừng để bài hát có nhiều nghĩa như vậy - anh phải chuyển hướng đi. Thực tế, tôi vẫn đang băn khoăn theo hai hướng là đó có phải là ý kiến hay để viết các bài hát xuất phát từ một người hay từ các người khác nữa. Đĩa video Video của bài hát sử dụng hoạt hình máy tính thời kỳ đầu để minh họa cho lời bài hát. Những hoạt cảnh này có vẻ thô sơ theo các tiêu chuẩn hiện đại, cuốn video là một trong những cuốn đầu tiên có các nhân vật tạo ra bởi hoạt hình máy tính - và được coi là đầy mới lạ tại thời điểm phát hành. Gavin Blair và Ian Pearson tạo hoạt hình ở xưởng sản xuất Rushes Post ở London, sử dụng hệ thống Bosch FGS-4000 CGI. Những người làm hoạt hình tiếp tục tìm kiếm hoạt hình máy tính ở xưởng phim Mainframe Entertainment, và bổ sung vào video "Money for Nothing" một đoạn hình trong sê-ri ReBoot của họ. Video này cũng có cả phần trình diễn của Dire Straits, với một phần hoạt hình rotoscoped trong ánh sáng màu của đèn neon, mà chúng ta có thể nhìn thấy nó ở bìa đĩa. Những ảnh hưởng Knopfler đã làm mẫu âm thanh ghi ta cho bài hát được ghi theo âm thanh ghi ta có thương hiệu của tay chơi Billy Gibbons trong ban nhạc ZZ Top, lúc đó các video nhạc của ZZ Top đang giữ vị trí chủ đạo trong thời kỳ đầu của MTV. Gibbons sau đó đã nói trong cuộc phỏng vấn với tạp chí Musician vào năm 1986 rằng Knopfler đã gạ Gibbons về việc sao lại âm thanh, thêm vào đó, "Anh ta không phải là một half-bad job, xét ra thì tôi chẳng nói gì với anh ta cả!" Cái "không phải là một half-bad job" của Knopfler chỉ đến việc Knopfler dùng một đàn guitar Gibson Les Paul thay vì đàn guitar Fender Stratocaster mà anh vẫn thường dùng. Như một lời chú thích, cuốn video TV Dinners của ZZ Top từ năm 1983 vẫn là sự mới lạ vì sự kết hợp của hoạt hình và những cảnh quay sống động. Một cảnh trong video Dire Straits, là sự tan rữa trong lò vi sóng của cái đầu đang bị đóng băng của một nhân vật, cảnh đó cũng đã xuất hiện trong những video đầu tiên của ZZ Top. Sự bắt chước "Weird Al" Yankovic đã viết một tên bắt chước như vậy "Money For Nothing/Beverly Hillbillies" cho bộ phim UHF của ông vào năm 1989. Theo ngụ ý của tiêu đề, bài hát này đã pha trộn chủ đề của The Beverly Hillbillies với âm thanh của "Money For Nothing". Knopfler đã thay đổi lại và ghi một phần đoạn ghi ta chơi trong bài hát, sửa lại một chút phần của ông trong phiên bản đầu tiên. Cuốn video cũng đã được Weird Al xử lý với hình ảnh thô sơ được tạo bằng máy tính của Yankovic xuất hiện trong cuốn băng.
Nhà Lê (chữ Nôm: 茹黎, chữ Hán: 黎朝, Hán Việt: Lê triều), hay còn được gọi là nhà Tiền Lê (chữ Nôm: 家前黎, Chữ Hán: 前黎朝, Hán Việt: Tiền Lê triều) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Đinh Phế Đế nhường ngôi cho Lê Hoàn vào năm 980, trải qua ba đời quân chủ và chấm dứt khi Lê Long Đĩnh qua đời. Quốc hiệu vẫn là Đại Cồ Việt. Triều đại này được kế tục bởi nhà Lý, được sáng lập bởi Lý Công Uẩn. Lịch sử Thành lập Sau khi Đinh Tiên Hoàng và con là Đinh Liễn bị ám hại, Vệ Vương Toàn lên ngôi, Lê Hoàn làm phụ chính, xưng là Phó vương. Triều thần sợ Lê Hoàn cướp ngôi vị của Thiếu đế, nên các công thần là Định Quốc công Nguyễn Bặc và Ngoại giáp Đinh Điền dẫn quân về kinh đô định giết Lê Hoàn. Lực lượng này thua trận và bị Lê Hoàn giết. Năm 981, quân Tống nhân cơ hội đem quân sang muốn cướp nước. Khi triều đình đang bàn kế hoạch xuất quân thì Phạm Cự Lạng cùng các tướng quân khác đều mặc áo trận đi thẳng vào Nội phủ, nói với mọi người: "Thưởng người có công, giết kẻ trái lệnh là phép sáng để thi hành việc quân. Nay chúa thượng còn trẻ thơ, chúng ta dẫu hết sức liều chết để chặn giặc ngoài, may có chút công lao, thì có ai biết cho ? Chi bằng trước hãy tôn lập ông Thập đạo làm Thiên tử, sau đó sẽ xuất quân thì hơn". Quân sĩ đều hô vạn tuế. Lúc đó, người đứng đầu triều đình là Dương Thái hậu không còn cách nào khác do mọi quân sĩ đều tôn lập Lê Hoàn, bèn thuận theo, sai lấy áo long cổn khoác lên người Lê Hoàn, đưa Lê Hoàn lên làm Hoàng đế. Đây chính là thời khắc lập ra nhà Tiền Lê. Cai trị Sau khi lên ngôi, Lê Hoàn tiến hành chuẩn bị chống lại nhà Tống trong Chiến tranh Tống–Việt năm 981, với chiến thắng thuộc về Lê Hoàn. Sau chiến thắng, Lê Hoàn liền sai sứ sang nhà Tống cống các đồ thổ sản và dâng biểu tạ lỗi nhằm giữ mối quan hệ hòa hảo không đáng đánh mất giữa Việt và Tống, đồng thời cũng thảo phạt Chiêm Thành đang rất mạnh ở phía Nam. Ngay sau bàn định ngoại trị, Lê Hoàn vì muốn ổn định chính trị bên trong, đã cưới Dương Thái hậu làm một trong các Hoàng hậu của mình. Theo quan điểm Nho giáo của các nhà chép sử sau này, như trong Đại Việt sử ký toàn thư đã viết, thì ông bị chê trách về đạo vợ chồng do ông đã lập Dương Thái hậu làm Hoàng hậu của mình. Tuy nhiên, điều đó cũng không cản trở ông có nhiều thành tựu xây dựng quốc gia, cũng như chứng minh được tài trị vì của mình. Trong khi cai trị, ông đã cho xây dựng nhiều công trình, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp để chấn hưng nền kinh tế. Ông là vị Hoàng đế trong lịch sử mở đầu cho lễ tịch điền nhằm khuyến khích sản xuất nông nghiệp dưới chế độ phong kiến Việt Nam. Mở đầu cho một lễ nghi trọng đại mà các vương triều sau tiếp tục noi theo để khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, trong thời gian ông trị vì, tôn hiệu của ông được quần thần dâng tôn là Minh Càn Ứng Vận Thần Vũ Thăng Bình Chí Nhân Quảng Hiếu Hoàng đế. Nội chiến giữa các Hoàng tử Lê Hoàn là một vị Hoàng đế có rất nhiều con trai. Con trưởng của ông là Lê Long Thâu đã được chọn làm người kế vị từ những năm đầu tiên khi ông lên ngôi, nhưng lại đột ngột qua đời sớm vào năm 1000, để lại ngôi vị Thái tử bỏ ngỏ. Vào lúc này, người con thứ năm của ông là Khai Minh vương Lê Long Đĩnh tự ứng cử mình làm Thái tử. Theo ghi nhận của Đại Việt Sử ký Toàn thư, Lê Hoàn rất thích Long Đĩnh và tính chọn làm Trữ quân, nhưng bị các đại thần thân cận ngăn lại vì nhiều người con lớn và tài ba hơn Long Đĩnh, trong đó có Lê Long Tích, giữ tước vị Đông Thành vương và là con trưởng nhất lúc đó của ông sau khi Lê Long Thâu qua đời. Lê Hoàn bỏ ý định lập Long Đĩnh làm Thái tử, nhưng cũng không chọn trưởng tử Long Tích, mà chọn người anh cùng mẹ của Long Đĩnh là Nam Phong vương Lê Long Việt. Năm 1005, Lê Hoàn sau 24 năm trị vì cũng qua đời tại Trường Xuân điện. Ngay lập tức, các hoàng tử là Khai Minh vương Lê Long Đĩnh, Đông Thành vương Lê Long Tích, Trung Quốc vương Lê Long Kính tranh vị với Thái tử Lê Long Việt. Trong nước 8 tháng không có ai làm chủ. Tới đầu năm 1006 (mùa đông năm 1005 âm lịch), Đông Thành vương Lê Long Tích bị Thái tử Long Việt đánh bại, chạy đến châu Thạch Hà (Hà Tĩnh) thì bị người bản địa giết chết. Vài tháng sau, Lê Long Việt thuận lợi lên ngôi Hoàng đế. Trước sự thắng thế của Lê Long Việt, các hoàng tử khác tạm thời án binh bất động. Tuy nhiên, Lê Long Việt lên ngôi được ba ngày thì bị em cùng mẹ là Khai Minh vương Lê Long Đĩnh giết chết lên thay. Lê Long Đĩnh lên ngôi, tôn hiệu Khai Thiên Ứng Vận Thánh Văn Thần Vũ Tắc Thiên Sùng Đạo Đại Thắng Minh Quang Hiếu Hoàng đế Lê Long Đĩnh trị vì Là một người có nhiều quân công, Lê Long Đĩnh liền sau đó hiểu rằng ông phải đích thân đi dẹp các hoàng tử khác thì mới mong có được sự trị vì vững chắc và yên ổn. Khi đó, Ngự Bắc vương Lê Long Cân và Trung Quốc vương Lê Long Kính chiếm trại Phù Lan để làm phản. Lê Long Đĩnh thân đi đánh, khiến Ngự Bắc vương Long Cân phải bắt Trung Quốc vương Long Kính đem nộp và xin đại xá. Long Đĩnh tha cho Long Cân, còn Long Kính bị xử tử. Ngự Man vương Lê Long Đinh do khiếp sợ cũng đầu hàng. Từ đấy về sau các vương và giặc cướp đều hàng phục cả. Sau đó, Lê Long Đĩnh đã củng cố ngoại giao bằng những chính sách rất mềm dẻo đối với nhà Tống. Ông rất chuộng Phật giáo, bằng việc xin thỉnh kinh Đại Tạng về. Trong "Việt Nam Phật giáo sử lược", thiền sư Thích Mật Thể viết: "Niên hiệu Ứng Thiên thứ 14 (1008), sau khi nước ta đã hòa với Tống rồi, vua Đại Hành sắc ông Minh Xưởng và ông Hoàng Thành Nhã sang sứ nước Trung Hoa, cống hiến đồ thổ sản và xin vua Tống ban cho bộ "Cửu kinh" và "Đại Tạng kinh". Vua Tống trao cho những bộ ấy và cho sứ giả đưa về. Đó là lần đầu tiên nước ta cho người sang cầu kinh bên Trung Hoa vậy". Cửu kinh gồm: Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu, Hiếu Kinh, Luận Ngữ, Mạnh Tử và Chu Lễ; là 9 bộ sách nền tảng của văn minh Trung Hoa lần đầu tiên nhập vào Việt Nam là do Lê Long Đĩnh lấy về. Còn kinh Đại Tạng là một bộ sách vĩ đại được rất nhiều thế hệ các cao tăng Trung Hoa sưu tầm và dịch thuật suốt 1.000 năm, từ thế kỷ thứ nhất đến cuối thế kỷ thứ 10 mới in thành sách lần đầu tiên gồm 5.000 quyển. Ngoài ra, ông cũng chăm lo kinh tế bằng cách cho xây đắp các tuyến đường lớn, những con đường thủy bộ cho vững chắc để tiện việc giao thương. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, năm 1009, Lê Long Đĩnh lại xin được đặt người coi việc tại chợ trao đổi hàng hóa ở Ung Châu thuộc Trung Hoa, nhưng Tống đế chỉ cho mua bán ở chợ trao đổi hàng hóa tại Liêm Châu và trấn Như Hồng, là những nơi giáp vùng biên giới thôi. Theo An Nam chí lược, vua Tống cho rằng Giao Chỉ thường cướp phá vùng bờ biển nước Tống, nay cho buôn bán ở Ung Châu không tiện, cứ theo lệ cũ là trao đổi hàng hóa tại Liêm Châu và trấn Như Hồng. Lê Long Đĩnh trong 4 năm cầm quyền đã 5 lần cầm quân đánh dẹp (ở các vùng đất thuộc Hưng Yên, Phú Thọ, Tuyên Quang, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay), vì nhà nước Đại Cồ Việt vẫn là nhà nước mới và vẫn chưa thực sự mạnh để các nơi tuân phục, điều này tiếp diễn nhiều năm trong thời kỳ đầu của nhà Lý. Sự trỗi dậy của họ Lý Vào những năm cuối đời, sách sử đa số nhận định rằng Lê Long Đĩnh là một hôn quân. Sách Đại Việt sử ký toàn thư nói, Lê Ngọa Triều tính hiếu sát thường thiêu sống, dìm nước hay dùng dao cùn mà tùng xẻo tù nhân; sư sãi vốn có thế lực rất lớn đối với chính sự nhưng Ngọa Triều từng sai người róc mía trên đầu sư Quách Ngang để làm trò cười; lại nuôi nhiều bọn hề làm trò khôi hài trong triều để làm loạn lời tâu việc của các quan. Do những việc làm đó, Ngọa Triều bị quan lại và dân chúng căm ghét. Sử cũng chép rằng, vì chơi bời sa đọa, nên Lê Long Đĩnh bị bệnh trĩ không ngồi được, phải nằm mà coi chầu, nên được gọi là Lê Ngọa Triều. Tuy nhiên, nhiều nhận định chơi bời sa đọa không phải là nguyên nhân sinh ra bệnh trĩ, mà có thể Lê Long Đĩnh bị suy nhược bởi nhiều nguyên nhân nào đó. Vào lúc này, vị vua họ Lê suy nhược đang không biết có một người mình tin cậy lại là người có khả năng thay thế mình. Chính là vị trưởng quản lính thân vệ Lý Công Uẩn. Theo Đại Việt sử ký toàn thư – Lê Ngọa Triều bản kỷ: Lúc đó, ở hương Diên Uẩn, châu Cổ Pháp, có cây gạo bị sét đánh, người hương ấy xem kỹ dấu sét đánh thấy có chữ:"Thụ căn điểu điểu, mộc biểu thanh thanh, hòa đao mộc lạc, thập bát tử thành, đông a nhập địa, mộc dị tái sinh, chấn cung kiến nhật, đoài cung ẩn tinh, lục thất niên gian, thiên hạ thái bình". (Dịch nghĩa: Gốc cây thăm thẳm, ngọn cây xanh xanh, cây hòa đao rụng, mười tám hạt thành, cành đông xuống đất, cây khác lại sinh, đông mặt trời mọc, tây sao náu hình, khoảng sáu bảy năm, thiên hạ thái bình). Sư Vạn Hạnh, một nhà sư có địa vị khi ấy tự đoán riêng rằng: "Thụ căn điểu điểu", chữ căn nghĩa là gốc, gốc tức là vua, chữ điểu đồng âm với yểu, nên hiểu là yếu; "Mộc biểu thanh thanh", chữ biểu nghĩa là ngọn, ngọn tức là bề tôi, chữ thanh âm gần giống với chữ thanh nghĩa là thịnh; Hòa, đao, mộc [ghép lại] là chữ Lê; Thập, bát, tử [ghép lại] là chữ Lý; Đông A là chữ Trần, nhập địa là phương Bắc vào cướp; "Mộc dị tái sinh" là họ Lê khác lại sinh ra; "Chấn cung kiến nhật", chấn là phương Đông, kiến là mọc ra, nhật là thiên tử; "Đoài cung ẩn tinh", đoài là phương Tây, ẩn cũng như lặn, tinh là thứ nhân. Mấy câu này ý nói là vua thì non yểu, bề tôi thì cường thịnh, họ Lê mất, họ Lý nổi lên, thiên tử ở phương Đông mọc ra thì thứ nhân ở phương Tây lặn mất, trải qua 6, 7 năm thì thiên hạ thái bình. Vạn Hạnh mới bảo Thân vệ Phó tướng Lý Công Uẩn rằng: "Mới rồi tôi thấy chữ bùa sấm kỳ lạ, biết họ Lý cường thịnh, tất dấy lên cơ nghiệp. Nay xem trong thiên hạ người họ Lý rất nhiều, nhưng không ai bằng Thân vệ là người khoan thứ nhân từ được lòng dân, lại đang nắm binh giữ quyền trong tay, đứng đầu muôn dân chẳng phải Thân vệ thì còn ai đương nổi nữa. Tôi đã hơn 70 tuổi rồi, mong được thư thả hãy chết, để xem đức hóa của ông như thế nào, thực là cái may nghìn năm có một". Lý Công Uẩn sợ câu nói ấy bị tiết lộ, bảo người anh đem Vạn Hạnh giấu ở Tiêu Sơn. Song từ ấy cũng lấy thế tự phụ mới nảy ra lòng nhòm ngó ngôi vua, mà người ta cũng quy phụ. Tương truyền, khi Lê Long Việt bị giết, triều đình phải bỏ chạy, không ai dám đến gần xác vị Hoàng đế trẻ, duy chỉ có Lý Công Uẩn là ôm đến gào khóc, Lê Long Đĩnh vì ấn tượng hành động này, về sau cất nhắc Lý Công Uẩn nhiều chức vụ quan trọng thân cận. Có lần, Lê Long Đĩnh ăn quả khế lại thấy hột mận (chữ Lý nghĩa là mận), mới tin lời sấm ngữ, ngầm tìm người họ Lý giết đi, thế mà Lý Công Uẩn ở ngay bên cạnh lại không hề bị nghi ngờ. Năm 1009, Lê Long Đĩnh qua đời lúc mới 24 tuổi, ở ngôi 4 năm. Nhân các con của Long Đĩnh còn bé, Điện tiền Lý Công Uẩn cùng Hữu điện tiền chỉ huy sứ là Nguyễn Đê mỗi người được đem 500 quân Tùy Long vào làm Túc vệ. Chi hậu là Đào Cam Mộc dò biết Công Uẩn có muốn nhận việc truyền ngôi, mới nhân lúc vắng nói khích rằng:"Gần đây chúa thượng ngu tối bạo ngược, làm nhiều việc bất nghĩa, trời chán ghét nên không cho hết thọ, con nối thơ ấu, không kham nổi nhiều khó khăn. Mọi việc phiền nhiễu thần linh không ưa, dân chúng nhao nhác, mong tìm chân chúa. Sao Thân vệ không nhân lúc này nghĩ ra mưu cao, quyết đoán sáng suốt, xa xem dấu cũ của Thang Vũ, gần xem việc làm của Đinh, Lê, trên thuận lòng trời, dưới theo ý dân, mà cứ muốn khư khư giữ tiểu tiết làm gì!" Lý Công Uẩn trong lòng thích lời nói đó nhưng còn ngờ Cam Mộc có mưu khác, mới giả cách mắng rằng: "Sao ông lại nói như thế, tôi phải bắt ông nộp quan!" Đào Cam Mộc thong thả bảo Công Uẩn rằng: "Tôi thấy thiên thời nhân sự như thế, cho nên mới dám phát ngôn. Nay ông lại muốn cáo giác tôi thì tôi không phải là người sợ chết". Công Uẩn nói: "Tôi đâu nỡ cáo giác ông, chỉ sợ lời nói tiết lộ thì chết ráo, nên răn ông đó thôi". Hôm sau, Đào Cam Mộc lại bảo Lý Công Uẩn: "Người trong nước ai cũng nói họ Lý khởi nghiệp lớn, lời sấm đã hiện ra rồi, đó là cái họa không thể che giấu được nữa. Chuyển họa làm phúc, chỉ trong sớm chiều. Đây là lúc trời trao người theo, Thân vệ còn nghi ngại gì nữa?". Công Uẩn nói:"Tôi đã hiểu rõ ý ông, không khác gì ý của Vạn Hạnh, nếu thực như lời ấy thì nên tính kế thế nào?". Cam Mộc nói:"Thân vệ là người khoan thứ, nhân từ, lòng người chịu theo. Hiện nay trăm họ mỏi mệt kiệt quệ, dân không chịu nổi, Thân vệ nên nhân đó lấy ân đức mà vỗ về, thì người ta tất xô nhau kéo về như nước chảy chỗ thấp, có ai ngăn được!" Đào Cam Mộc biết việc cần kíp, sợ sinh biến, mới nói chuyện với khanh sĩ và các quan, ai cũng vui theo. Ngay ngày hôm ấy, đều họp cả ở trong triều, bàn rằng:"Hiện nay, dân chúng ức triệu khác lòng, trên dưới lìa bỏ, mọi người chán ghét tiên đế hà khắc bạo ngược, không muốn theo về vua nối mà đều có lòng suy tôn quan Thân vệ, bọn ta không nhân lúc này cùng nhau sách lập Thân vệ làm thiên tử, lỡ bối rối có xảy ra tai biến gì, liệu chúng ta có giữ được cái đầu hay không?" Thế rồi cùng nhau dìu Công Uẩn lên chính điện, lập làm thiên tử, lên ngôi Hoàng đế. Trăm quan đều lạy rạp dưới sân, trong ngoài đều hô "vạn tuế", vang dậy cả trong triều. Đại xá cho thiên hạ, lấy năm sau làm niên hiệu Thuận Thiên năm đầu. Đốt giềng lưới, bãi ngục tụng, xuống chiếu từ nay ai có việc tranh kiện cho đến triều tâu bày, vua thân xét quyết. còn tiếp Nội trị Bộ máy chính quyền Nhà Tiền Lê nối tiếp và hầu như giữ nguyên mọi quy củ của nhà Đinh. Năm 980, sau khi lên ngôi, Lê Hoàn đặt chức quan trong triều, phong Hồng Hiến làm Thái sư, Phạm Cự Lạng làm Thái úy, Từ Mục làm Đại tổng quản, Đinh Thừa Chinh làm Nha nội đô Chỉ huy sứ. So với nhà Đinh tập trung hết quyền hành về tay hoàng đế, vua Lê đã chia trách nhiệm cho các đại thần. Chỉ riêng việc đánh dẹp thì nhà vua thường thân chinh cầm quân. Đánh dẹp trong nước Trong thời gian cai trị, các vua Tiền Lê vẫn gặp phải sự chống đối của các tù trưởng địa phương, nhất là những nơi xa xôi hẻo lánh. Năm 989, Lê Đại Hành sai viên Quảng giáp là Dương Tiến Lộc đi thu thuế hai châu Hoan và Ái. Tiến Lộc đem người hai châu ấy xin theo về với Chiêm Thành. Chiêm Thành không nhận. Dương Tiến Lộc lấy hai châu Hoan, Ái làm phản. Lê Đại Hành thân hành đi đánh, giết chết Tiến Lộc và rất nhiều người 2 châu đó. Năm 999, Lê Đại Hành lại thân đi đánh Hà Động, dẹp được tất cả 49 động. Sau đó vua Lê lại phá được động Nhật Tắc, châu Định Biên (Cao Bằng). Người Cử Long làm loạn không phục triều đình. Năm 1001, Lê Đại Hành lại thân chinh đi đẹp được loạn. Sang thời Ngọa Triều vẫn phải đối phó với sự chống đối của các địa phương. Năm 1008, Ngọa Triều thân hành đi đánh hai châu Đô Lương, Vị Long, bắt được vài trăm người bản địa. Cùng năm, vua Lê lại đi đánh châu Hoan và châu Thiên Liễu, bắt được tù binh về giết. Tháng 7 năm 1009, Lê Long Đĩnh lại thân đi đánh các châu Hoan Đường, Thạch Hà. Giao thông Sau khi đánh thắng Chiêm Thành, năm 983, Lê Đại Hành sai quan Phụ quốc Ngô Tử An đem 3 vạn người đi mở đường bộ từ cửa biển Nam Giới đến châu Địa Lý. Năm 1003, vua Lê lại thân hành đi Hoan Châu, ra lệnh vét kênh Đa Cái cho thông thẳng đến Tư Củng trường ở Ám châu. Năm 1009, triều thần đề nghị xin đào kênh, đắp đường và dựng cột bia ở Ái Châu. Lê Ngọa Triều xuống chiếu cho lấy quân và dân ở châu Ái đào đắp từ cửa quan Chi Long qua Đỉnh Sơn đến sông Vũ Lung. Sau đó Lê Long Đĩnh lại ra lệnh đóng thuyền để ở các bến sông Vũ Lung, Bạt Cừ, Động Lung bốn chỗ để chở người qua lại. Tháng 7 năm đó, nhân đi đánh châu Hoan Đường, hành quân đến Hoàn Giang, Lê Long Đĩnh sai Hồ Thủ Ích đem hơn 5000 quân của châu Hoan Đường, sửa chữa đường từ sông Châu Giáp đến cửa biển Nam Giới để tiện cho việc hành quân về phía nam. Kinh tế Các loại thuế Nhà Tiền Lê đặt ra lệ đánh thuế căn cứ vào số lượng tài sản về ruộng đất. Thuế thân chia ra hai loại: Tiền công dung là tiền công dịch (như lao động công ích) mà người dân phải chịu mỗi năm 10 ngày và có thể nộp tiền thay vào việc tạp dịch. Tiền thuế hộ: là tiền mỗi gia đình phải nộp hàng năm. Tiền thuế điệu: Tiền mỗi hộ phải nộp để đóng vào việc quân. Nhà Tiền Lê đặt ra thuế thổ sản theo phép thời Tam Đại (Hạ, Thương, Chu) của Trung Quốc, chỉ lấy cống phẩm mà không thu bằng tiền. Đồng thời, triều đình có chính sách khuyến khích thương mại. Những người buôn bán không phải nộp thuế, coi như họ chỉ bán những nông phẩm sản xuất ra mà đã chịu thuế ruộng đất rồi. Nông nghiệp Nhà Tiền Lê xem trọng nông nghiệp. Vào đầu xuân năm 987, vua Lê Đại Hành đã thực hiện lễ cấy Tịch điền để động viên, khuyến khích nhân dân sản xuất nông nghiệp. Đó là lễ Tịch điền đầu tiên mà một vị vua Việt Nam thân hành đi cày và được sử sách ghi nhận lại. Thương mại Sử sách không chép rõ về hoạt động thương mại trong nước. Đối tác quan hệ buôn bán ngoại thương chủ yếu của Đại Cồ Việt là Trung Quốc. Hai bên lập ra những nơi giao dịch song phương gọi là Bạc dịch trường đặt trên đường thông lộ biên giới. Những Bạc dịch trường quan trọng trong thời kỳ này là trại Vĩnh Bình (được Lê Văn Siêu phỏng đoán là chợ Kỳ Lâm hiện nay) tại Sách Nam Giang thuộc trại Cổ Vạn và châu Tô Hậu (Lê Văn Siêu phỏng đoán là châu Thất Khê), trại Hoành Sơn (Na Chàm ở ải Nam Quan). Trại Hoành Sơn tụ tập nhiều nhà buôn từ châu Quảng Nguyên của Đại Cồ Việt và châu Đặc Ma của nước Đại Lý (Vân Nam) và các lái buôn từ Quảng Châu của nhà Tống. Bạc dịch trường lớn nhất gần biên giới là điểm giao dịch hai nước nằm ở trại Như Hồng, Khâm châu. Tác giả Chu Khứ Phi mô tả việc buôn bán giữa hai bên lúc đó trong sách Lĩnh ngoại đại pháp như sau: Hai bên gặp nhau thường uống rượu làm vui rồi mới bàn chuyện buôn bán. Người Tống làm nhà ở tại chỗ lâu ngày và thường dìm giá làm người bán phải bán rẻ; nhưng phú thương người Việt cũng không chịu, cầm giữ giá lâu. Các quan chức địa phương biên giới cũng hỗ trợ cho quan hệ buôn bán của các thương gia hai bên. Nếu xảy ra việc kêu ca vì người bán cân thiếu thì phía Đại Cồ Việt lại cử sứ sang Khâm châu để thử lại cân để kiểm tra. Không những thế, chính triều đình nhà Tiền Lê cũng sai người sang giao dịch thẳng với khách buôn người Tống. Hàng bán của Đại Cồ Việt gồm có vàng, bạc, tiền đồng. Lê Văn Siêu cho rằng đây không chỉ là thị trường hàng hóa mà còn là thị trường tiền tệ mà hai bên trao đổi ngoại hối. Văn hóa Sử sách không ghi chép nhiều về những dấu ấn văn hóa thời Tiền Lê. Ảnh hưởng lớn nhất trong các tôn giáo là đạo Phật đã có từ thời thuộc Đường. Các nhà sư đã được sự tin cậy của hoàng đế, cho làm quan trong triều để bàn kế sách quốc gia. Sử sách ghi lại hai tác phẩm tiêu biểu thời kỳ này là bài thơ của nhà sư Đỗ Pháp Thuận đối đáp với sứ Tống và bài từ khúc của sư Khuông Việt tiễn sứ Tống ra về năm 987. Lê Quý Đôn có lời ca ngợi hai ông: "Sư Thuận thơ ca làm sứ Tống kinh sợ, Chân Lưu có từ khúc vang danh một thời". Đối ngoại Với Trung Quốc Thực hiện chính sách "thuần phục giả độc lập thật", về cơ bản quan hệ ngoại giao giữa nhà Tiền Lê với nhà Tống có nhiều thuận lợi. Nhà Tống tỏ ra dè dặt, mềm dẻo với các vua Lê vì luôn phải đối phó với nguy cơ từ người Khiết Đan ở phía bắc. Sau thất bại năm 981, vua Tống bằng lòng công nhận Lê Hoàn, phong ông làm Tiết độ sứ và không hỏi tới dòng dõi nhà Đinh nữa. Năm 986 và 987, Tống Thái Tông sai Lý Giác đi sứ sang Đại Cồ Việt. Trong lần đi sứ năm 987, Lý Giác làm thơ tiễn có câu: "Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu", nghĩa là: Ngoài trời lại có trời soi nữa. Sư Khuông Việt nói rằng thơ này có ý tôn Lê Hoàn không khác gì vua Tống. Năm 990, nhà Tống lại cử Tống Cảo đi sứ Đại Cồ Việt lần nữa. Lê Văn Siêu bình luận điều này cho rằng: thượng quốc ít khi chịu mất công vì nước nhỏ như vậy, vì nhà Tống trong thời kỳ giao tranh với nước Liêu năm 986 và bộ lạc Thảng Cốt năm 990. Khi sứ Tống là Tống Cảo sang phong chức, Lê Hoàn nhận tờ chiếu của vua Tống mà không chịu quỳ, nói thác rằng bị ngã ngựa đau chân. Lúc đó sứ Tống im lặng không thắc mắc gì. Lê Văn Siêu cho rằng điều này hoàn toàn là do sự ngang ngạnh của vua Lê và không phải Tống Cảo không biết, nhưng đã không phản ứng. Trong sớ tâu Tống Thái Tông sau này, Tống Cảo nói rằng dù thác cớ đau chân nhưng ngay sau đó Lê Hoàn lại có thể đi chân đất, cầm cần câu lội xuống nước câu cá. Trong lần tiếp sứ Tống, Lê Hoàn còn làm những việc khác trêu chọc sứ phương Bắc như sai người mang con hổ đến công quán cho sứ Tống xem; lại sai mang con trăn lớn đến công quán, hỏi sứ Tống có ăn được thì làm cơm thết đãi. Sứ Tống khước từ không nhận và không dám nổi nóng theo tư thế của sứ giả thiên triều. Sau đó Lê Hoàn nói với Tống Cảo về việc ngoại giao: Sau này có quốc thư thì cho giao nhận ở đầu địa giới, khỏi phiền sứ thần đến tận đây nữa. Tống Cảo về tâu lại, Tống Thái Tông bằng lòng với đề nghị của vua Lê. Năm 995, nhà Tống lại phong Lê Hoàn làm Giao Chỉ quận vương. Năm 995-996 ở biên giới hai bên đã có biến cố vì sự bạo loạn của các thổ quan vùng khe động. Tướng nhà Tống bắt hơn 100 người làm loạn trả lại cho Đại Cồ Việt. Phía nhà Lê cũng bắt 27 người trả lại phía Tống và sai sứ sang tạ ơn. Nhà Tống lại sai Lý Nhược Chuyết mang chiếu thư và đai ngọc sang ban cho Lê Hoàn. Năm 997, nhà Tống lại gia phong vua Lê làm Nam Bình vương. Năm 1004, vua Lê sai Hoàng tử Lê Minh Đề đi sứ Tống. Sang năm 1005, Lê Hoàn mất, các con tranh ngôi, trong nước loạn lạc. Mình Đề phải ở lại trú ở Quảng Châu. Triều thần nhà Tống xui Tống Chân Tông phát binh đánh, nhưng vua Tống cho rằng nhà Lê giữ lệ tiến cống và sai con sang chầu, không nên đánh để giữ cho phía nam yên ổn. Năm 1006, Lê Long Đĩnh giết anh là Trung Tông giành được ngôi vua. Nhà Tống không can thiệp. Sang năm 1007, Tống Chân Tông sai sứ sang phong cho Long Đĩnh làm Giao Chỉ quận vương và đúc ấn đưa sang. Năm 1009, Lê Ngọa Triều sai sứ đem biếu nhà Tống con tê ngưu thuần. Vua Tống cho rằng tê ngưu từ xa đến, không hợp thủy thổ muốn trả lại; nhưng sợ phật ý vua Lê, đợi cho sứ Đại Cồ Việt về rồi mới mang thả ra biển. Lê Ngọa Triều sau đó lại xin áo giáp mũ trụ dát vàng, vua Tống bằng lòng cho. Với Chiêm Thành (Champa) Năm 981, Lê Đại Hành sai Từ Mục, Ngô Tử Canh sang sứ Chiêm Thành, bị vua Chiêm bắt giữ. Lê Đại Hành nổi giận, sai đóng chiến thuyền sửa binh khí, tự làm tướng đi đánh. Năm 982, vua Lê khởi binh thân hành nam tiến. Quân Đại Cồ Việt thắng lớn, chém chết vua Chiêm là Ba Mi Thuế tại trận. Chiêm Thành thua to, nhiều quân sĩ bị bắt sống. Quân Lê bắt lính cùng kỹ nữ trong cung trăm người và một nhà sư người Thiên Trúc, lấy các đồ quý đem về, thu được vàng bạc của báu kể hàng vạn, san phẳng thành trì, phá hủy tông miếu nước Chiêm. Một viên tướng là Quảng giáp Lưu Kế Tông trốn ở lại Chiêm Thành và chiếm lấy ngôi vua Chiêm Thành vào năm 986. Năm 992, vua Chiêm mới là Harivarman II sai sứ sang xin lại 360 tù binh bị bắt giữ mang về châu Ô Lý. Harivarman II sai sứ là Chế Đông sang dâng sản vật địa phương, vua Lê trách là trái lễ, không nhận. Harivarman II sợ hãi, năm 994 lại sai cháu là Chế Cai sang chầu. Từ đó quan hệ hai bên khá yên ổn không xảy ra xung đột.
Alabama (, phiên âm tiếng Việt: A-la-ba-ma) là một tiểu bang nằm ở vùng đông nam Hoa Kỳ, giáp với Tennessee về phía bắc, Georgia về phía đông, Florida và vịnh Mexico về phía nam, và Mississippi về phía tây. Alabama là bang rộng thứ 30 và đông dân thứ 24 (2010) của Hoa Kỳ. Ở đây có một trong những thủy lộ nội địa dài nhất đất nước (dài ). Alabama có biệt danh là Yellowhammer State (Tiểu bang Chim cổ vàng), theo loài biểu tượng của bang. Alabama còn được gọi là "Heart of Dixie" (Tâm Dixie) và Cotton State (Tiểu bang Bông). Loài cây tượng trưng là thông lá dài (Pinus palustris), và loài hoa tượng trưng là hoa trà. Thủ phủ của Alabama là Montgomery. Thành phố lớn nhất theo dân số là Birmingham, mà từ lâu đã là thành phố được công nghiệp hóa mạnh mẽ nhất; thành phố lớn nhất theo diện tích là Huntsville. Thành phố cổ nhất là Mobile, thành lập bởi thực dân Pháp năm 1702 như thủ phủ của Louisiane thuộc Pháp. Từ cuộc Nội chiến Hoa Kỳ đến Chiến tranh thế giới thứ hai, Alabama, như nhiều bang ở Nam Hoa Kỳ, phải đối mặt với khó khăn kinh tế, một phần bởi vì sự phụ thuộc vào nông nghiệp. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Alabama phát triển nhờ sự chuyển hướng kinh tế từ chủ yếu dựa trên nông nghiệp sang một nền kinh tế đa dạng hơn. Nền kinh tế thế kỷ 21 của Alabama dựa trên quản lý, sản xuất ô tô, tài chính, chế tạo, hàng không vũ trụ, khai thác quặng, y tế, giáo dục, bán lẻ, và công nghệ. Từ nguyên Những người Âu-Mỹ đặt tên sông Alabama và bang Alabama theo người Alabama, một tộc người nói ngôn ngữ Muskogee sinh sống ngay cạnh nơi hợp lưu của sông Coosa và sông Tallapoosa. Trong tiếng Alabama, từ dành cho người thuộc dòng dõi Alabama là Albaamo (hoặc Albaama hoặc Albàamo, tùy theo phương ngữ; dạng số nhiều Albaamaha). Từ Alabama do vậy nhiều khả năng đến từ tiếng Alabama, giả thuyết rằng nó được mượn từ tiếng Choctaw khó mà chính xác. Cách viết của từ "Alabama" biến thiên đáng kể trong các tài liệu lịch sử. Từ năm 1702, người Pháp gọi người Alabama là Alibamon, còn con sông là Rivière des Alibamons. Những biến thể của cái tên này gồm Alibamu, Alabamo, Albama, Alebamon, Alibama, Alibamou, Alabamu, Allibamou. Một số học giả đề xuất rằng nó xuất phát từ tiếng Choctaw: alba ("cây" hay "cỏ") và amo ("cắt", "xém", hay "thu lượm"). Ý nghĩa có thể là "người dọn sạch bụi cây" hay "người thu lượm thảo dược", chỉ việc dọn đất để trồng trọt hay thu thập cây thuốc. Tại bang cũng có nhiều địa danh bắt nguồn từ ngôn ngữ bản địa. Địa lý Alabama là bang lớn thứ 30 tại Hoa Kỳ với tổng diện tích : 3,2% diện tích là nước, khiến Alabama trở thành bang có diện tích mặt nước lớn thứ 23. Đây cũng là nơi có hệ thống thủy lộ nội địa lớn thứ nhì Hoa Kỳ. Khoảng ba phần năm diện tích là đồng bằng thoai thoải với xu hướng thấp xuống khi về gần sông Mississippi và vịnh Mexico. Vùng Bắc Alabama nhiều núi non hơn, với sông Tennessee chảy qua một thung lũng lớn và tạo ra nhiều lạch, suối, sông, hẽm núi, và hồ. Alabama giáp với Tennessee về phía bắc, Georgia về phía đông, Florida về phía nam, và Mississippi về phía tây. Alabama có một đường bờ biển, ở góc tây nam của bang. Độ cao biến thiên từ ngang mực nước biển tại vịnh Mobile tới hơn 1.800 feet (550 m) tại dãy Appalachia miền đông bắc. Điểm cao nhất là đỉnh núi Cheaha, đạt . Alabama có đất rừng (tức 67% tổng diện tích). Quận Baldwin, dọc theo duyên hải Vịnh, là quận lớn nhất của bang về cả diện tích đất liền và diện tích mặt nước. Những khu vực tại Alabama được quản lý bởi Dịch vụ Vườn Quốc gia gồm vườn quân sự quốc gia Horseshoe Bend gần thành phố Alexander; khu bảo tồn quốc gia Little River Canyon gần Fort Payne; tượng đài quốc gia hang Russell tại Bridgeport; khu lịch sử quốc gia Tuskegee Airmen tại Tuskegee; và khu lịch sử quốc gia học viện Tuskegeee gần Tuskegee. Thêm vào đó, Alabama sở hữu bốn rừng quốc gia: Conecuh, Talladega, Tuskegee, và William B. Bankhead. Alabama còn có đại lộ Natchez Trace, đường lịch sử quốc gia Selma To Montgomery, và đường lịch sử quốc gia Trail Of Tears. Một thắng cảnh tự nhiên nổi bật ở Alabama là cầu đá "Natural Bridge", chiếc cầu tự nhiên dài nhất, ở phía đông của dãy Rocky, ngay phía nam của Haleyville. Khí hậu Khí hậu của Alabama là khí hậu cận nhiệt đới âm (Cfa) theo phân loại khí hậu Köppen. Nhiệt độ trung bình hằng năm là 64 °F (18 °C). Miền nam thường ấm hơn do sự lân cận với vịnh Mexico, còn miền bắc, nhất là ở dãy Appalachia mạn đông bắc, thường lạnh hơn. Thường, Alabama có mùa hè nóng và mùa đông dịu và mưa nhiều gần như quanh năm. Alabama nhận lượng mưa trung bình mỗi năm và mùa trồng trọt kéo dài đến 300 ngày ở miền nam. Mùa hè Alabama thuộc loại nóng nhất đất nước, với nhiệt độ đạt mức suốt mùa hè ở một vài phần của bang. Alabama cũng hứng chịu bão nhiệt đới. Những nơi cách xa biển cũng không thoát khỏi tác động của bão, và thường phải tiếp nhận mưa lớn khi bão đi vào đất liền và suy yếu. Nam Alabama chịu nhiều dông. Vùng duyên hải Vịnh, quanh vịnh Mobile, trung bình dông được ghi nhận trong 70-80 ngày mỗi năm. Hoạt động này giảm dần khi đi về phía bắc, nhưng thậm chí ở vùng viễn bắc của bang, mỗi năm vẫn có đến 60 ngày dông. Đôi khi, dông đi kèm với sét và mưa đá. Alabama đứng thứ chín về số người chết cho sét và thứ mười về số người chết do sét trên bình quân dân số. Nhiệt độ cao nhất từng được ghi nhận tại Alabama là ngày 5 tháng 9 năm 1925, ở Centerville. Nhiệt độ thấp nhất được ghi nhận là ngày 30 tháng 1 năm 1966, ở New Market. Hệ động-thực vật Alabama là nơi có một hệ động thực vật phong phú, chủ yếu là do sự đa dạng về môi trường sống, từ thung lũng Tennessee, cao nguyên Appalachia, và Ridge-and-Valley Appalachians của miền bắc đến Piedmont, Canebrake và Black Belt của miền trung đến đồng bằng duyên hải Vịnh và bãi biển dọc vịnh México của miền nam. Alabama thường được xếp vào tốp đầu về đa dạng sinh học. Alabama nằm trong quần xã sinh vật rừng cây hạt trần cận nhiệt đới và từng hỗ trợ rừng thông trãi rộng khắp nơi, mà vẫn chiếm một phần lớn trong tổng diện tích rừng toàn bang. Alabama được xếp thứ năm toàn quốc về sự đa dạng của thực vật. Đây là nơi có gần 4.000 loài thực vật không có hoa và thực vật có hạt. Các loài động vật bản địa gồm 62 loài động vật có vú, 93 loài động vật bò sát, 73 loài động vật lưỡng cư, khoảng 307 loài cá nước ngọt, và 420 loài chim. Động vật không xương sống gồm 83 loài tôm hùm đất và 383 loài động vật thân mềm. 113 trong số những loài động vật thân mềm này chưa bao giờ thu thập được ở nơi nào ngoài Alabama. Chú thích
Chi Móng bò, chi Hoàng hậu (danh pháp khoa học: Bauhinia) là một chi chứa hơn 200 loài thực vật có hoa trong phân họ Vang (Caesalpinioideae) của một họ lớn là họ Đậu (Fabaceae), với sự phân bổ rộng khắp vùng nhiệt đới. Chi này được đặt tên khoa học theo tên gọi của anh em nhà Bauhin, các nhà thực vật học người Pháp gốc Thụy Sĩ. Nhiều loài được trồng rộng rãi trong khu vực nhiệt đới như là các "cây lan", cụ thể là ở miền bắc Ấn Độ, Việt Nam và đông nam Trung Quốc. Chúng đôi khi được gọi theo màu hoa như là lan tía, lan nhà nghèo. Bauhinia blakeana là loài hoa biểu tượng của Hồng Kông. Một số loài Bauhinia acuminata - Ban trắng, móng bò trắng, móng bò hoa trắng, móng bò nhọn Bauhinia baccacensis - Móng bò Hậu Giang. Bauhinia blakeana - Dương tử kinh Bauhinia bracteata - Dây mấu, dây cánh giơi, mấu đỏ, móng bò rừng. Bauhinia cardinalis - Móng bò đỏ, dây mấu tràm, dây mấu hăng. Bauhinia championi (đồng nghĩa: Phanera championii, Bauhinia bonii, B. lecomtei, B. gnomon) - Móng bò Champion. Bauhinia coccinea - Dây quạch, dây mấu, móng bò hoa đỏ. Bauhinia corymbosa Bauhinia curtisii - Móng bò Curtis, dây mấu, móng bò hoa xanh. Bauhinia forticata Bauhinia galpinii Bauhinia glauca - Móng bò mốc. Bauhinia hirsuta - Móng bò lông phún. Bauhinia khasiana - Móng bò nhung, dây mấu, dây quạch. Bauhinia lakhonensis - Móng bò Lakhon, móng bò lông xám. Bauhinia malabarica - Chân trâu, móng bò tai voi. Bauhinia mastopoda - Ban đỏ Bauhinia monandra- Móng bò một nhị, móng bò đơn hùng, gõ bông điểm. Bauhinia purpurea - Cây móng bò, ban tía, móng bò hoa tím, móng bò lan. Bauhinia pyrrhoclada - Móng bò lửa. Bauhinia racemosa - Móng bò chùm. Bauhinia saccocalyx - Móng bò đài túi. Bauhinia scandens - Móng bò leo. Bauhinia tomentosa- Móng bò vàng Bauhinia touranensis - Làu máu, móng bò hoa chanh. Bauhinia variegata - Ban trắng, móng bò sọc ở vùng tây bắc Bắc Bộ, Việt Nam. Bauhinia vahlii Bauhinia viridescens - Móng bò hoa xanh nhạt, móng bò trở xanh. Hoa ban Hoa ban có từ 4 - 5 cánh. Nhị hoa có vị ngọt, thu hút nhiều loài côn trùng, nhất là các loài lấy mật như ong, bướm. Tên gọi hoa ban trắng (Bauhinia variegata) theo tiếng của người Thái có nghĩa hoa ngọt. Hằng năm, đầu tháng hai âm lịch, hoa ban lác đác nở, rộ nhất và đẹp nhất là vào khoảng đầu tháng ba, đến đầu tháng tư thì hoa bắt đầu tàn. Lúc nở rộ, trông cây ban như thể chỉ có hoa mà không có lá. Người vùng cao Tây Bắc Việt Nam thường dựa vào hoa ban để làm nông, họ phát nương vào lúc hoa nở và tra hạt vào lúc hoa tàn. Biểu tượng Hoa ban trắng (Bauhinia variegata) là biểu tượng văn hóa của vùng Tây Bắc Bắc Bộ Việt Nam, thường tượng trưng cho sự thủy chung trong tình yêu đôi lứa. Hoa dương tử kinh (Bauhinia blakeana) từ năm 1997 đã trở thành loài hoa biểu tượng cho Hồng Kông và nó xuất hiện trên lá cờ của Hồng Kông cũng như trên các đồng đô la Hồng Kông. Còn tại Đài Loan, nó đã được bầu chọn là loài hoa của thành phố Gia Nghĩa ở miền tây nam Đài Loan. Văn học Hoa ban thường xuất hiện trong các trường ca và truyền thuyết dân gian các dân tộc thiểu số Tây Bắc Việt Nam. Trong cộng đồng các dân tộc Tây Bắc, tồn tại ba kiểu truyện kể về sự tích hoa ban; đó là các truyện Pi Khun-Noọng Ban, truyện Cầm Đôi-Hiến Hom và truyện Bun Trai-Bun Nhinh (hay truyện hai Bun). Cách kể và tên nhân vật của các truyện tuy có khác nhau, nhưng đều giống nhau ở chỗ dùng hoa ban làm biểu tượng cho sự thủy chung trong tình yêu đôi lứa. Nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã viết bài thơ Gửi Lai Châu, trong đó có câu: Hoa Ban nở thành người con gái Thái. Tình ca Thái có câu: Trăm năm ngắm ban nở còn ngắm mãiMỗi mùa bạn lại thêm trẻ ra, không già... Ẩm thực Tại vùng Tây Bắc Việt Nam, hoa ban cùng với lá có thể được chế biến thành những món ăn độc đáo như: xôi, xào, nấu canh, làm nộm, đồ lên chấm với dấm ớt măng chua... Hình ảnh Chú thích
Võ Tắc Thiên (chữ Hán: 武則天, 17 tháng 2, 624 - 16 tháng 12, 705) hay Vũ Tắc Thiên, thường gọi Võ hậu (武后) hoặc Thiên hậu (天后), là một phi tần ở hậu cung của Đường Thái Tông Lý Thế Dân, sau trở thành Hoàng hậu thứ hai của Đường Cao Tông Lý Trị, về sau trở thành Hoàng đế triều đại Võ Chu làm gián đoạn nhà Đường. Bà là mẹ của 2 vị hoàng đế kế tiếp, Đường Trung Tông Lý Hiển và Đường Duệ Tông Lý Đán. Cùng với tôn hiệu Thiên hậu của bà và tôn hiệu Thiên hoàng (天皇) của Đường Cao Tông, 2 người đã đồng trị vì nhà Đường trong một thời gian dài và cùng được gọi là Nhị Thánh (二聖). Sau khi Đường Cao Tông qua đời, Thiên hậu trải qua các đời Đường Trung Tông và Đường Duệ Tông với tư cách Hoàng thái hậu, và cuối cùng trở thành Hoàng đế duy nhất của triều đại Võ Chu, triều đại mà bà sáng lập tồn tại từ năm 690 đến năm 705. Do đó, Võ Tắc Thiên trở thành Nữ hoàng duy nhất được công nhận trong lịch sử Trung Quốc. Dù vậy, Cựu Đường thư và Tân Đường thư vẫn chỉ gọi bà là "Thái hậu" ngay cả sau khi bà tự xưng hoàng đế, đó là vì vấn đề không nhìn nhận địa vị của bà trong thời đại cũ. Trong 15 năm cai trị với tôn hiệu Thánh Thần Hoàng đế (聖神皇帝), Võ Tắc Thiên mở mang lãnh thổ Trung Quốc, vươn sang Trung Á, hoàn thành cuộc chinh phục bán đảo Triều Tiên. Nội địa khuyến khích phát triển Phật giáo, tập trung phát triển kinh tế - xã hội, duy trì sự ổn định trong nước. Tuy nhiên, do tư tưởng nam tôn-nữ ti đã ăn sâu trong lòng xã hội phong kiến, lại thêm tính cách độc ác, hà khắc trong việc cai trị khiến đông đảo cựu thần nhà Đường không phục. Cuối đời, bà có hai nam sủng là anh em họ Trương, Trương Xương Tông và Trương Dịch Chi, cùng họ dâm loạn trong cung, vì sủng ái hai anh em mà bà dung túng cho 2 người chuyên quyền, khiến nhiều quần thần bất bình. Tới năm 705, Tể tướng đương triều là Trương Giản Chi cùng các đại thần phát động binh biến, ép Võ hậu thoái ngôi và đưa Đường Trung Tông lên ngôi lần thứ hai. Bà bị giam lỏng ở Thượng Dương cung tại Lạc Dương cho đến khi qua đời không lâu sau đó, thọ 82 tuổi. Bà cũng trở thành 1 trong 3 vị Hoàng đế Trung Hoa có tuổi thọ cao nhất, bên cạnh Lương Vũ Đế Tiêu Diễn (87 tuổi) và Thanh Cao Tông Càn Long hoàng đế (89 tuổi). Việc bà nổi lên nắm quyền cai trị bị các nhà sử học Khổng giáo chỉ trích mạnh mẽ, thường so sánh bà với Lã hậu nhà Hán bởi sự chuyên quyền và tàn độc, được gọi chung là Lã Võ (吕武). Khi đánh giá khái quát lịch sử Trung Hoa, Võ Tắc Thiên cùng 2 vị "Nữ hoàng không miện" khác là Lã hậu và Từ Hi Thái hậu là 3 phụ nữ nắm quyền lực tối cao nhất từng xuất hiện trong các triều đình phong kiến Trung Hoa, bị dân gian coi là những người phụ nữ tàn ác bất nhân với cả người thân, làm nghiêng đổ xã tắc. Tuy nhiên, các nhà sử học từ sau những năm 1950 đã đánh giá bà cân bằng hơn. Võ Tắc Thiên có những chỗ dở như tàn nhẫn giết hại nhiều người thân, hà khắc làm người dân khiếp sợ, nhưng bà biết trọng dụng người tài, thuởng phạt nghiêm minh, nhân dân sống dười thời bà được ăn no mặc ấm, an cư lạc nghiệp. Thân thế và tên thật Tên thật nguyên bản của Võ Tắc Thiên không được ghi lại, cái tên Võ Chiếu (武曌) là bà tự sáng tạo ra, ví mình như mặt trời (nhật: 日), mặt trăng (nguyệt: 月) trên không trung (không: 空): (日+月+空=曌). Năm sinh của bà, căn cứ theo các cuốn Cựu Đường thư, Tân Đường thư lẫn Tư trị thông giám đều có mâu thuẫn. Trong sách Cựu Đường thư, Võ thị được ghi qua đời khi năm 83 tuổi, suy ra bà ra đời ở năm Vũ Đức thứ 7 (624), tuy nhiên Tân Đường thư lại ghi nhận bà qua đời năm 81 tuổi, mà Tư trị thông giám là năm 82 tuổi, đảo suy ra là sinh hạ vào khoảng năm Vũ Đức thứ 8 (625). Bản thân Tư trị thông giám vào năm Trinh Quán thứ 11 (637), ghi chép "Võ thị 14 tuổi nhập cung" là hoàn toàn mâu thuẫn. Một số đưa ra rằng Võ thị sinh ra năm Trinh Quán thứ 2 (628), đến cuối cùng, nhiều nhận định vẫn lấy năm Vũ Đức thứ 7 làm năm sinh của bà. Bà xuất thân từ gia tộc họ Võ có nguồn gốc từ vùng Văn Thủy, Tinh Châu (nay là Thái Nguyên, Sơn Tây, Trung Quốc). Cha bà là Võ Sĩ Hoạch, xuất thân trong một gia đình quý tộc danh tiếng ở Sơn Tây, ông nội Võ Hoa, từng nhậm Quận thừa Lạc Dương giàu có. Mẹ bà là Dương thị, xuất thân từ gia đình quý tộc hoàng gia nhà Tuỳ, là con gái của tông thất Dương Đạt (楊達) - em trai của Kiến Đức vương Dương Hùng (杨雄), con trai của Dương Thiệu (杨绍), tộc huynh của Tùy Văn Đế Dương Kiên của nhà Tùy. Trong nhà bà có 2 anh trai là Võ Nguyên Khánh và Võ Nguyên Sảng là con của chính thất Tương Lý thị (相里氏) đã qua đời; 1 người chị cùng mẹ là Võ Thuận và 1 em gái là phu nhân của Quách Hiếu Thuận (郭孝慎). Ban đầu, Võ Sĩ Hoạch làm nghề buôn bán gỗ, cuộc sống gia đình tương đối khá giả, được triều Tùy ban chức "Ưng Dương phủ đội chính". Những năm Đại Nghiệp thời Tùy Dượng Đế, Đường Cao Tổ Lý Uyên khi ấy giữ tước Đường quốc công, từng nhiều lần đến vùng Phần, Tấn và thăm nhà họ Võ, hai bên có quan hệ thân thiết với nhau. Khi nhà Đường thành lập, nhà họ Võ được Đường Cao Tổ hậu đãi, ban cho bổng lộc, đất đai và trang sức rất nhiều. Về sau, Võ Sĩ Hoạch được ban nhiều chức vị quan trọng, làm đến chức Đô đốc Kinh châu, Thượng thư bộ Công, tước Ứng Quốc công (應國公). Năm Trinh Quán thứ 9 (635), Võ Sĩ Hoạch qua đời. Đường huynh của Võ thị là Võ Duy Lương, Võ Hoài Vận cùng anh thứ Võ Nguyên Sảng đối xử với mẹ bà là Dương phu nhân rất vô lễ, từ đó Võ thị và các anh em có hiềm khích. Phi tần của Đường Thái Tông Năm Trinh Quán thứ 11 (637), tháng 11, Đường Thái Tông Lý Thế Dân nghe nói Võ thị có tiếng xinh đẹp nên triệu Võ thị vào cung, phong làm Tài nhân, cấp bậc thứ năm trong chín bậc thuộc hậu cung. Lúc đó, mẹ bà là Dương thị than khóc không thôi, bà cố gắng an ủi mẹ mình: "Cớ chi mẹ lại bảo gặp được Thiên tử không phải là phúc phận của con". Qua lời an ủi đó, Dương thị đoán ra được chí lớn của con mình, nên thôi không khóc nữa. Khi vào cung, Võ thị được Đường Thái Tông ban cho chữ Mị (媚) làm tên, vì thế người ta cũng thường gọi bà là Võ Mị (武媚), tuy đời sau lại thường gọi thành Võ Mị Nương nhưng đương thời không thấy ai gọi như vậy. Võ thị cùng Yến Đức phi, Dương Tiệp dư cùng Sào Lạt vương phi Dương thị của Thái Tông đều có họ hàng bên ngoại. Sử sách ghi chép rất ít về những hành trạng của bà trong thời gian này. Sách Tư trị thông giám dẫn lời của Võ thị khi về già, kể về một sự tích thuần phục ngựa như sau: Thái Tông Hoàng đế có một con ngựa do Tây Vực tiến cống, tên là Sử Tử Thông. Con ngựa đó rất cao to và dữ dằn, không chịu cho ai cưỡi trên lưng cả. Lúc đó trẫm chỉ là cung thiếp hầu hạ, đã bảo rằng: "Thiếp có thể, chỉ cần ba thứ, roi sắt, búa sắt và dao. Trước hết dùng roi sắt mà đánh nó bắt khuất phục; nếu không chịu thì dùng búa sắt đánh vào đầu nó; còn nếu dùng búa sắt đánh vẫn không được thì dùng dao đâm chết nó đi, vì thứ không trị được thì để làm gì?". Thái Tông Hoàng đế vẫn khen ta vì việc đó. Nay ông tự thấy có đáng làm bẩn con dao găm của ta không. Năm Trinh Quán thứ 17 (643), Đường Thái Tông phế truất Thái tử Lý Thừa Càn, lập Tấn vương Lý Trị làm Thái tử. Từ đây, Võ Tài nhân thường ở bên cạnh phụng dưỡng, hầu thuốc cho Thái Tông, liền bị Thái tử trông thấy mà say mê. Năm thứ 23 (649), Đường Thái Tông qua đời. Thái tử Lý Trị lên nối ngôi, tức Đường Cao Tông. Trong hơn 10 năm làm tài nhân, Võ thị không hề sinh được một người con nào, vì thế theo di mệnh của tiên hoàng đế, bà và tất cả các phi tần không có con khác phải cạo tóc, xuất gia làm ni cô, vào tu ở Cảm Nghiệp tự (感業寺). Năm Vĩnh Huy nguyên niên (650), tháng 5, nhân ngày giỗ của cha, Cao Tông đến Cảm Nghiệp tự và tình cờ gặp lại bà, hai người ôm nhau mà khóc. Võ thị lúc đó đã cạo đầu song nhan sắc vẫn diễm lệ, nói năng êm tai nên tình cũ trỗi dậy, ông nảy ý rước bà về cung. Khi ấy trong hậu cung, Vương Hoàng hậu và Tiêu Thục phi đấu đá lẫn nhau. Hoàng hậu không có con, nhận nuôi thái tử Lý Trung, còn Thục phi sinh ra hoàng tử Lý Tố Tiết và hai vị công chúa. Trông thấy Thục phi được sủng ái, Hoàng hậu ghen ghét, muốn mượn tay Võ thị giành lấy sự sủng ái của Thục phi, bèn xin lệnh cho Võ thị nuôi tóc, còn thường xuyên nói tốt khiến Cao Tông cho rước về cung. Vào lúc này, Võ thị đang mang thai đứa con đầu lòng, là Lý Hoằng. Quay lại hậu cung Năm Vĩnh Huy thứ 3 (652), Võ thị sinh con trai Lý Hoằng, là hoàng tử thứ 5 của Cao Tông. Thời gian Võ thị chính thức mang thai và hạ sinh Lý Hoằng không được ghi lại tỉ mỉ, thậm chí thời điểm Võ thị trở về cung cũng không rõ ràng, do đó có nhiều giả thiết cho rằng bà mang thai và hạ sinh tại chùa Cảm Nghiệp, và đó là lý do càng khiến Cao Tông muốn đưa bà hồi cung trao danh phận. Tháng 5 năm ấy, gần như ngay lập tức, Võ thị được bái làm Chiêu nghi, tước vị rất cao trong hàng ngũ cung tần. Từ khi về cung, Võ thị ra sức lấy lòng Đường Cao Tông và Vương Hoàng hậu, cả ba người Võ thị, Vương thị cùng Tiêu thị tranh sủng khiến hậu cung không yên, đến Cao Tông cũng không thấy thoải mái. Võ thị biết tính khí Cao Tông, lại biết thông đồng cùng những người hầu không tận tâm của Vương thị và Tiêu thị, vì vậy chỉ có Võ thị có thể tùy cơ hành xử, dần dần được Cao Tông nghe theo. Tuy Võ Chiêu nghi sinh hạ con trai, được nhà vua rất mực yêu quý, song ngôi vị Hoàng thái tử trong cung vẫn đang thuộc về Lý Trung, tuy chỉ là do một tỳ thiếp sinh ra nhưng lại là con trai trưởng của Cao Tông, được Vương Hoàng hậu nhận làm con nuôi. Năm Vĩnh Huy thứ 5 (654), tháng giêng, Võ Chiêu nghi hạ sinh một con gái, An Định Tư Công chúa, tuy nhiên vị công chúa này không bao lâu sau thì mất. Căn cứ theo hai cuốn sách đều được soạn dưới thời nhà Tống là Tân Đường thư và Tư trị thông giám, cả hai đều chỉ ra rõ ràng chính Võ thị đã giết đứa bé để hãm hại Vương Hoàng hậu, trở thành một nguyên do khiến Cao Tông muốn phế hậu và đưa Võ thị lên thay. Theo cách nói của hai cuốn sách này, vào lúc Vương thị đi thăm công chúa và trở về cung, thì Võ Chiêu nghi liền dùng chăn bịt mũi công chúa đến chết, sau đó lại đắp chăn lên che giấu. Khi đó, Cao Tông đến thăm công chúa, Võ thị vui vẻ chào đón, lúc mở chăn ra thì phát hiện công chúa đã chết. Cao Tông buồn bực hỏi người thị nữ, tất cả đều nói "Hoàng hậu từng ở đây", Võ thị khóc bi thương, còn Cao Tông thì tức giận mắng: "Hoàng hậu giết con gái ta, trước cùng Phi sàm mạo, nay thực có ý tà niệm!", nước cờ đổ lỗi của Võ Chiêu nghi hoàn thành mỹ mãn. Ngay khi Cao Tông nói lời ấy, Võ thị mới khóc tố tội của Hoàng hậu, trong khi Vương Hoàng hậu không còn cách nào để tự biện minh. Từ đó, Đường Cao Tông nảy ý phế truất Vương thị và đưa Võ Chiêu nghi lên thay. Tuy nhiên, sự việc này có vấn đề về tính chân thật, bởi vì Cựu Đường thư và Đường hội yếu (唐会要) đều chỉ nói qua việc An Định chết đột ngột mà không nói nguyên nhân, sách Cựu Đường thư cũng là sách soạn thời gian sau khi nhà Đường diệt vong chứ không phải là trong triều Đường, nếu có bất kì lời đồn đương thời thì cũng không thể không ghi vào, không cần phải đợi hai sách chính phủ đời Tống soạn mới xuất hiện. Sau sự kiện trên, Đường Cao Tông đã có ý triển khai phế Vương Hoàng hậu mà lập Võ Chiêu nghi, đây được gọi là Phế Vương lập Võ (廢王立武). Lúc ấy triều đình lấy Trưởng Tôn Vô Kỵ cùng Chử Toại Lương (褚遂良) là nguyên thủ lĩnh triều, xuất thân đại tộc và huân công thế gia, đương thời có quyền lực cực lớn, mà Đường Cao Tông tuy lên ngôi nhiều năm vẫn luôn bị áp chế. Do vấn đề này, không ít nhận định tin tưởng Cao Tông mượn chuyện phế hậu là nhằm công kích phe cựu thần, chấn chỉnh triều cương. Võ Chiêu nghi từ đấy cũng trở thành "chiến hữu" của Cao Tông. Trong triều, Trung thư xá nhân Lý Nghĩa Phủ (李義府), Lễ bộ Thượng thư Hứa Kính Tông (許敬宗) đều ủng hộ lập Võ thị làm hoàng hậu, tình hình phe phái cũng càng gay gắt hơn. Thời gian sau, Đường Cao Tông đề nghị muốn phong Võ Chiêu nghi làm Thần phi (宸妃), cuối cùng vì Thị trung Hàn Viện (韩瑗) và Trung thư lệnh Lai Tế (來濟) phản đối mới bèn thôi. Năm Vĩnh Huy thứ 6 (655), mùa hạ, tháng 6, Võ Chiêu nghi tố cáo mẫu thân của Vương Hoàng hậu là Ngụy Quốc phu nhân Liễu thị đã cùng Hoàng hậu dùng bùa phép hãm hại mình, từ đó Liễu thị không được vào cung nữa. Cậu của hoàng hậu là Trung thư lệnh Liễu Thích (柳奭) bị giáng chức. Trong lúc đó, Trung thư Xá nhân Lý Nghĩa Phủ vốn bị Trưởng Tôn Vô Kỵ ghét, vốn bị Vô Kỵ biếm chức, nhân đó dâng sớ xin phế Hậu lên Cao Tông. Cao Tông vui mừng, bèn cho triệu Lý Nghĩa Phủ vào cung, cho phục chức. Phe cánh của Võ Chiêu nghi ngày càng lớn mạnh. Mùa thu năm ấy, Cao Tông triệu Trưởng Tôn Vô Kỵ, Chử Toại Lương và Lý Thế Tích vào hỏi ý kiến việc phế hậu, Lý Thế Tích cáo ốm không tới. Trong buổi nghị sự, Chử Toại Lương đều lên tiếng can ngăn Cao Tông, còn Trưởng Tôn Vô Kỵ im lặng để tỏ ra không hài lòng. Khi Lý Thế Tích nhập triều, Cao Tông đến hỏi Lý Thế Tích, Tích nói: "Đó là gia sự của bệ hạ, không cần hỏi đến ngoại thần". Vấn đề "Phế Vương lập Võ" càng lúc càng có lợi cho Võ Chiêu nghi. Hoàng hậu nhà Đường Giành lấy quyền lực Năm Vĩnh Huy thứ 6 (655), ngày 13 tháng 10 (tức ngày 27 tháng 11 dương lịch), Đường Cao Tông lấy tội danh "Âm mưu hạ độc" (謀行鴆毒), ra chỉ phế truất Hoàng hậu Vương thị và Thục phi Tiêu thị làm thứ nhân, đều giam vào biệt viện, đồng thời đày gia tộc đến Lĩnh Nam. Sau đó 7 ngày, tức ngày 20 tháng 10 (âm lịch), Đường Cao Tông lần nữa hạ chiếu đem lập Võ Chiêu nghi làm hoàng hậu. Đường Cao Tông lệnh hai người Lý Tích cùng Vu Chí Ninh đem tỉ thụ hoàng hậu đến làm lễ sách lập cho Võ hậu, đồng thời cũng mệnh "Tứ di tù trưởng" đến ngoài chúc mừng ở Túc Nghĩa môn (肅義門) và mệnh phụ vào nội điện triều bái Võ hậu. Điển lệ quan viên và mệnh phụ triều bái hoàng hậu trong dịp sách lập của các triều đại sau đều từ đó mà thành. Tuy đã là hoàng hậu, Võ thị vẫn không dừng lại việc thủ tiêu các kẻ thù của mình, bắt đầu từ Vương thị, Tiêu thị cùng thái tử đương nhiệm là Lý Trung. Kể từ khi bị phế thì Vương thị và Tiêu thị được chuyển vào một biệt viện, Cao Tông mềm lòng hay đến thăm và dự định thả họ ra, Võ hậu hay tin bèn giết cả hai người một cách rất tàn nhẫn. Sau khi xử lý hai người này rồi, Võ hậu tiếp tục giải quyết Thái tử Lý Trung để đem ngôi vị về cho con trai mình. Đầu năm Hiện Khánh nguyên niên (656), Hoàng thái tử Lý Trung bị phế truất. Trước đó, đại thần Hứa Kính Tông dâng sớ xin thay luôn ngôi hoàng thái tử, phế Lý Trung mà lập con trai cả của Võ Hoàng hậu là Lý Hoằng. Vì lý do này, Đường Cao Tông ép Thái tử viết biểu nhường ngôi, Thái tử bất đắc dĩ phải nghe theo. Tháng 2 năm ấy, Cao Tông lập Đại vương Lý Hoằng làm hoàng thái tử và giáng Thái tử Lý Trung làm "Lương vương" (梁王), lại cho Trung nhậm lĩnh Đô đốc Lương châu, đây đều là thông lệ của tất cả các phiên vương tông thất nhà Đường. Từ năm Hiện Khánh thứ 2 (657), Võ hậu cùng phe đảng tìm cách trả thù những người không ủng hộ mình, ban đầu là Chử Toại Lương và Hàn Viện. Cùng năm ấy, Đường Cao Tông hạ chỉ giáng Chử Toại Lương làm Đô đốc Đàm Châu. Cuối cùng, Chử Toại Lương bị biếm đến Quế Châu rồi Ái Châu, An Nam, cuối cùng uất ức mà chết vào tháng 10 (ÂL) sang năm, tức năm 658 công lịch. Vào năm Hiện Khánh thứ 4 (659), Võ hậu giật dây cho Hứa Kính Tông và Lý Nghĩa Phủ hãm hại Trưởng Tôn Vô Kỵ cùng các thế lực chống đối khác dứt điểm. Lúc đó, có người tố cáo hai viên quan là Vi Quý Phương (韋季方) và Lý Sào (李巢) mưu làm việc trái phép, Đường Cao Tông giao cho Hứa Kính Tông điều tra. Kính Tông dụ dỗ Quý Phương khai rằng Triệu Quốc công Trưởng Tôn Vô Kỵ có thông đồng với mình. Cao Tông bất ngờ về việc này, lại sai Kính Tông đưa Vô Kị ra tra xét. Cuối cùng, Vô Kị bị bãi bỏ phong ấp và chức Thái úy, giáng làm Dương Châu Đô đốc, đày đến Kiềm Châu. Hứa Kính Tông nhân đó tố cáo Chử Toại Lương cùng Hàn Viện và Liễu Thích. Viện và Thích bị bãi chức, còn Chử Toại Lương tuy đã chết cũng bị trừ quan tước. Cuối cùng, Trưởng Tôn Vô Kỵ cũng bị bức tử trong năm đó. Kết cuộc của Hàn Viện cũng không khá hơn, sau khi bị đoạt chức tước thì ông bị biếm làm Thứ sử Ái Châu. Những người khác như Vu Chí Ninh (于志寧) và Lai Tế (來濟), khi trước cũng thuộc phe Cựu thần phản đối lập Võ thị, nay cũng đều bị điều đi khỏi kinh sư. Đến tận đây, Đường Cao Tông Lý Trị mới bắt đầu công cuộc quân chủ tập quyền để nắm được quyền lực tuyệt đối cho các hoàng đế nhà Đường về sau. Từ khi Tào Ngụy và nhà Tấn đến khi sự kiện "Phế Vương lập Võ" diễn ra, quân chủ của nền chính trị Trung Quốc chịu thời gian dài bị tầng lớp quan lại kiềm chế. Nhờ sự kiện này, chính quyền quân chủ một lần nữa được cải thiện, đối với cục diện lịch sử về sau cũng ảnh hưởng rất lớn. Tranh chấp gia tộc Trước kia, Võ Sĩ Hoạch lấy vợ cả là Tương Lý thị, sinh hai con trai Nguyên Sảng, Nguyên Khánh; sau lại lấy Dương thị sinh ba con gái: người con đầu là Võ Thuận lấy Hạ Lan An Thạch (賀蘭安石), thứ hai là Võ hậu, người thứ ba lấy Quách Hiếu Thân (郭孝慎) và mất sớm. Sĩ Hoạch chết, Nguyên Sảng, Nguyên Khánh cùng con người anh Sĩ Hoạch là Võ Duy Lương (武惟良), Võ Hoài Vận (武懷運) tỏ ra bất kính với Dương thị nên bị bà ta ghét. Khi đó, An Thạch và Hiếu Thận cũng đã chết, vợ An Thạch sinh ra Hạ Lan Mẫn Chi (賀蘭敏之) và một người con gái. Võ hậu từ khi được lập, Dương thị trở thành "Vinh Quốc phu nhân" (榮國夫人); vợ An Thạch là Võ Thuận làm "Hàn Quốc phu nhân" (韓國夫人), bọn Nguyên Sảng đều được phong chức vị cao. Vào một hôm, Vinh Quốc phu nhân bày tiệc rượu trong gia đình, bọn Duy Lương tỏ thái độ bất mãn, phu nhân rất giận. Võ hậu biết chuyện, liền đày bọn Duy Lương làm Thứ sử các Châu xa. Nguyên Khánh, Nguyên Sảng lo buồn mà chết. Gia tộc hiển quý, Hàn Quốc phu nhân Võ Thuận và con gái Hạ Lan thị thường ra vào cung, có tin đồn cả hai là tình nhân của Cao Tông. Khi Hàn Quốc phu nhân đột ngột qua đời, Cao Tông phong cho con gái Võ thị là Hạ Lan thị làm "Ngụy Quốc phu nhân" (魏國夫人), lại muốn nạp vào cung để tư thông. Võ hậu nảy sinh ghen tuông, tỏ ra không bằng lòng. Khi bọn Duy Lương, Hoài Vận về kinh và dâng đồ ăn, Võ hậu bí mật bỏ độc vào đó và đem đến cho Ngụy Quốc, khiến Hạ Lan thị bị trúng độc mà chết. Sau đó, Võ hậu quy tội cho Duy Lương, Hoài Vận và giết hết đi. Khi mẹ Võ hậu là Dương phu nhân qua đời, Võ hậu bắt tất cả đại thần phải đến đưa tang và khóc tang. Cuối năm này, trong nước hạn hán, Võ hậu dâng sớ nói việc đó là do mình, xin từ bỏ ngôi vị, Cao Tông không chấp nhận. Sau đó, Võ hậu xin biểu truy phong Võ Sĩ Hoạch, vốn là "Chu Định công", nay trở thành "Thái Nguyên Quận vương" (太原郡王), Dương thị là "Thái Nguyên Quận vương phi" (太原郡王妃). Con trai Hàn Quốc phu nhân là Hạ Lan Mẫn Chi, vốn được cải họ Võ làm kế tự cho Võ Sĩ Hoạch, nên từ trước đã được kế tập tước "Chu Quốc công" (周國公). Sau khi mẹ và em gái chết, Mẫn Chi ngày càng trở nên phóng túng, Võ hậu sinh lòng chán ghét. Mẫn Chi cư nhiên tư thông với con gái Dương Tư Kiệm (杨思俭) - vốn đang chờ tuyển làm Thái tử phi cho Thái tử Lý Hoằng. Biết tin, Võ hậu tức giận mà đem Mẫn Chi đày đi Lôi Châu, đổi sang họ cũ là họ Hạ Lan, tước đi tước hiệu Chu Quốc công. Con trai Võ Nguyên Sảng là Võ Thừa Tự (武承嗣) được triệu về kinh kế thừa tước Chu Quốc công thay thế Mẫn Chi. Nhị Thánh lâm triều Từ năm Hiện Khánh thứ 5 (660), Võ hậu cùng với Cao Tông đi tuần du vùng quê nhà là Bân Châu. Bà tổ chức yến tiệc thật lớn, mời hàng xóm và thân tộc đến dự. Cuối năm này, Đường Cao Tông phát chứng đau đầu, sức khỏe suy yếu nghiêm trọng. Có lời đồn việc đó là do Võ hậu ngầm bỏ thuốc độc bộc phát chậm vào đồ ăn của ông. Nhân việc này, Võ hậu can dự vào triều chính, quyết định nhiều việc trong triều, bắt đầu lấn át Cao Tông. Sử sách ghi nhận bà tinh thông văn sử, giải quyết công việc hiệu quả nhanh gọn, quyền lực của Cao Tông từ đây bị thu hẹp. Việc Võ hậu can thiệp vào công việc triều chính quá nhiều khiến Đường Cao Tông không hài lòng, dần dần giữa hai người xuất hiện mâu thuẫn. Bởi vì khi trước Võ hậu luôn nhu thuận, làm đúng ý niệm của Cao Tông, cho nên Cao Tông luôn muốn lập bà làm hoàng hậu để chứng tỏ quyền hạn của mình. Đến đây khi Võ hậu bộc lộ rõ khả năng của mình, đối với Đường Cao Tông hẳn nhiên là cảm giác không hài lòng. Năm Lân Đức nguyên niên (664), đạo sĩ Quách Hành Chân (郭行真) thường ra vào cung cấm làm tà thuật. Đường Cao Tông biết việc này là do Võ hậu chủ mưu nên rất tức giận, triệu đại thần Thị lang Thượng Quan Nghi (上官儀) vào cung. Nghi tâu rằng: "Hoàng hậu chuyên quyền, không giữ đạo làm vợ, cần phải phế đi". Cao Tông chấp thuận, lệnh cho Nghi tìm cơ hội mà ra tay. Có quan viên hầu trực đem chuyện này tố cáo với Võ hậu, bà bèn đến chỗ Cao Tông kêu khóc thảm thiết. Cao Tông không biết trả lời ra sao, bèn đổ hết mọi chuyện cho Thượng Quan Nghi. Tháng 12 năm đó, Võ hậu sai Hứa Kính Tông tố cáo Thượng Quan Nghi và Phế Thái tử Lương vương Lý Trung phản nghịch, bắt Nghi hạ ngục rồi ban rượu độc cho Lương vương Lý Trung. Sang đầu năm sau (665), mùa xuân, Thượng Quan Nghi và con là Thượng Quan Đình Chi (上官庭芝) bị chém đầu. Từ đây mỗi khi Cao Tông thiết triều, Võ hậu đều buông rèm ngồi sau bảo tọa cùng tham dự, sử gọi là Nhị Thánh (二聖). Thời Đường hay xưng thiên tử là Thánh nhân (聖人), nên khi Võ hậu cũng cùng Cao Tông lâm triều, tự nhiên có tới hai vị thánh nhân. Do đó, lịch sử gọi giai đoạn này là Nhị Thánh lâm triều (二聖臨朝). Từ khi nắm chính quyền, triều đình Cao Tông dưới bàn tay của Võ hậu ngày càng hưng thịnh. Do đó, bà tích cực khuyên ông tiến hành khuếch trương thế lực cùng địa vị của hai người bằng cách tiến hành đại lễ Phong thiện (封禅) ở núi Thái Sơn. Cái gọi là "phong thiện", chính là một loại đại lễ cổ đại, xảy ra vào lúc thái bình thịnh thế, các thiên tử vì muốn chứng tỏ quyền uy mà tiến hành các loạt lễ tế cáo Trời và Đất - hai nhân tố tối cao trong văn hóa Trung Hoa. Đây được gọi là đại lễ bởi vì cần trải qua một chu kì lễ nghi phức tạp ở một địa điểm xa kinh thành, hơn nữa là tụ tập đủ loại quan viên trong triều đình, do đó phương tiện đi lại cùng nhân lực đều tiêu tốn rất lớn. Theo quy tắc, trong buổi lễ thì thiên tử sẽ tế với vai trò "Sơ hiến" (初献), còn công khanh là "Á hiến" (亚献), nhưng Võ hậu vì thấy lý do thiên tử biểu thị Hoàng Thiên, còn hoàng hậu vị biểu thị Hậu Thổ, do đó muốn tự mình đảm nhận vị trí Á hiến sau Cao Tông. Ý kiến này của bà nhanh chóng được Cao Tông đồng thuận. Vì thế vào năm Lân Đức thứ 2 (665), tháng 10, Đường Cao Tông dẫn suất Văn võ bá quan, còn Võ hậu suất dẫn mệnh phụ, đồng thời từ Đông Đô Lạc Dương xuất phát đến Thái Sơn. Đi cùng đến dự có các đặc sứ nhóm quốc gia có quan hệ triều bái với nhà Đường là Đột Quyết, Nhật Bản, Ba Tư,... để chứng kiến đại lễ vinh hiển này của vợ chồng Cao Tông. Năm Thượng Nguyên nguyên niên (674), tháng 8, Đường Cao Tông nhân dịp truy tôn thêm thụy hiệu cho các hoàng đế và hoàng hậu, thì đổi xưng là Thiên hoàng (天皇), Võ hậu là Thiên hậu (天后), để tránh danh xưng hoàng đế và hoàng hậu của các vị đời trước, nhân dịp này cũng đại xá thiên hạ. Thiên hậu dâng lên Thiên hoàng một danh sách gồm 12 điều để trị quốc, được gọi là Kiến ngôn thập nhị sự (建言十二事), tất cả đều được Thiên hoàng thông qua. Do tư liệu thiếu khuyết, không có bất kỳ thông tin nào về sự hiệu quả của 12 điều này. Nội dung đại khái: Đẩy mạnh việc làm ruộng, chăn tằm, giảm bớt khó nhọc cho trăm họ. Bỏ thuế cho các trấn miền bắc. Phục hồi đạo đức chung sống hòa bình. Không được xa xỉ lãng phí. Bớt lấy lính. Cho phép trình bày ý kiến nguyện vọng riêng. Loại bỏ quan lại tham nhũng và những kẻ chỉ biết làm theo lệnh trên một cách nịnh bợ ngu dốt. Mọi con cháu họ Lý và trăm quan phải học tập "Đạo Đức kinh". Để tang bố mẹ thời gian như nhau (cùng ba năm). Quan lại về hưu được giữ nguyên phẩm hàm. Tăng lương cho quan lại từ bát phẩm trở lên. Những quan lại lâu năm được xét thăng trật, bổng nếu có công trạng. Sang năm sau (675), Thiên hoàng bị bệnh đau đầu rất nặng. Do ông không thể quản lý triều chính, liền cùng các đại thần thương nghị, thảo luận việc cho phép Thiên hậu tiến hành nhiếp chính. Các đại thần là Tể tướng Hác Xử Tuấn (郝處俊) và đồng liêu Lý Nghĩa Diễm (李義琰) can ngăn, dẫn lại chuyện Ngụy Văn Đế Tào Phi từng ra lệnh cấm để hoàng hậu lâm triều, việc bèn thôi. Khi Thiên hậu biết chuyện, liền triệu tập rất nhiều văn nhân học sĩ, soạn nhiều sách cổ như Liệt nữ truyện, Thần quỹ (臣軌),... rồi mật lệnh các học giả này dâng sớ tham quyết triều đình, làm cho quyền lực tể tướng bị ảnh hưởng. Đó gọi là "Bắc Môn học sĩ" (北門學士). Thay ngôi Thái tử Thiên hoàng sức khỏe ngày càng suy yếu, có ý nhường ngôi cho Thái tử Lý Hoằng, nhưng Thiên hậu không đồng tình. Về phần mình, Thái tử vốn thông minh, tri thư đạt lễ, nhân nghĩa hiếu thảo, nhiều lần giúp Cao Tông xử lý chính sự nên rất được vua cha yêu quý. Nhưng từ khi vua cha lâm bệnh, Thái tử vì cha mà gồng mình xử lý chính sự cộng thêm thể chất yếu ớt, bệnh tật, cuối cùng do quá lao lực mà tái phát bệnh cũ rồi qua đời. Thiên hoàng quá đau lòng vì cái chết của con trai, bèn truy tặng làm "Hiếu Kính Hoàng đế" (孝敬皇帝). Sau đó, Thiên hoàng ra chỉ lập Hoàng lục tử là Ung vương Lý Hiền làm thái tử. Thái tử Lý Hiền là người thông minh, quyết đoán mạnh mẽ, xử lí chính sự dứt khoát quyết đoán, thưởng phạt công minh, được cả triều đình và Cao Tông kì vọng rất lớn. Nhưng không may cho Lý Hiền, thời điểm ông lên làm thái tử là lúc Võ hậu tham quyền nhất, muốn thao túng triều chính, thấy con trai mình tài năng nổi trội lại có tham vọng lấn lướt mình nên cực kì không vui. Khi ấy, trong cung có lời đồn đãi Thái tử vốn do Hàn Quốc phu nhân Võ Thuận sinh ra, Thái tử Hiền biết chuyện này trong lòng cảm thấy bất an, thái độ tỏ ra ngoài nét mặt. Thiên hậu nghe vậy càng ghét hơn. Đạo sĩ Minh Sùng Nghiễm (明崇儼) được Thiên hoàng và Thiên hậu coi trọng, thường gièm pha với bà: "Thái tử không thể thừa kế được, Anh vương có dung mạo giống Thái Tông, Tương vương về sau sẽ đại quý". Sau đó, Thiên hậu cho soạn Thiếu Dương chánh phạm (少陽政範) và Hiếu tử truyện (孝子傳) ban cho ông, lại nhiều lần quở trách ông ta vô cớ, nên Thái tử khi ấy trong lòng luôn rất bất an. Năm Điều Lộ thứ 2 (680), Minh Sùng Nghiễm bị cuồng bạo đánh giết, Thiên hậu nghi ngờ là do Thái tử Hiền làm, nên càng ghét hơn. Không lâu sau, các phe cảnh Tiết Nguyên Siêu (薛元超), Bùi Viêm (裴炎), Cao Trí Chu (高智周) với sự giật dây của Thiên hậu đã tố cáo Thái tử Hiền mưu đồ bất chính. Thiên hoàng sai điều tra, lục soát được trong phủ Thái tử nhiều đồ binh khí. Khi biết được, Thiên hoàng không nỡ trị tội thế nhưng Thiên hậu nói: "Là con dân mà mưu nghịch, thiên địa bất dung; nay đại nghĩa diệt thân, có thể nào xá được?". Thế là Thiên hậu liền hạ lệnh phế Thái tử, đày ra Ba Thục. Sau đó, Thiên hậu lập tức chọn lập Anh vương làm thái tử thay thế, đổi thành "Hiển" làm húy danh. Thái tử khi còn là Chu vương đã kết hôn với Triệu thị, con gái Thường Lạc Công chúa (常樂公主) - cô của Thiên hoàng, đồng thời là con gái út của Đường Cao Tổ Lý Uyên, so với Thái tử thì Triệu thị là biểu cô. Thiên hoàng rất tán thành cuộc hôn nhân này, và vì duyên cố của Thường Lạc Công chúa mà rất thiên vị Triệu thị, song Thiên hậu không ưa Công chúa, vì thế đối với Triệu thị cũng chán ghét. Vào một dịp, Triệu thị do đắc tội với Thiên hậu liền bị giam lỏng trong Nội thị tỉnh, chỉ được đưa rau, thịt sống cho tự nấu ăn. Dần dần Triệu thị chết đói, Thiên hậu bèn đày cha Triệu thị là Triệu Côi (趙瑰) cùng Thường Lạc Công chúa ra đến Hoạt Châu. Lâm triều xưng chế Phế truất Trung Tông Năm Vĩnh Thuần thứ 2, tức Hoằng Đạo nguyên niên (683), Thiên hoàng di giá Phụng Thiên cung (奉天宮) lâm bệnh. Biết mình không xong, ông bèn triệu Hoàng thái tử từ Trường An về Lạc Dương, mệnh Thái tử giám quốc và giao cho đại thần Bùi Viêm cùng Lưu Cảnh Tiên (劉景先) và Quách Chính Nhất (郭正一) cùng phụ chính. Sau đó, ông chuyển về Lạc Dương, bệnh chuyển nặng hơn, tể tướng cùng đại thần đều không thể tấn kiến. Ngày 4 tháng 12 (tức ngày 27 tháng 12 dương lịch), Thiên hoàng băng hà ở Trinh Quán điện (貞觀殿). Khi ông lâm chung, cho cận thần viết di chiếu: "Sau 7 ngày tạm quàn, Hoàng thái tử lên ngôi hoàng đế trước linh cữu. Về chế độ viên lăng, nên chủ trương tiết kiệm. Quân quốc đại sự có việc không thể quyết định, liền nhờ Thiên hậu quyết định!". Theo di chiếu này, Hoàng thái tử Lý Hiển nối ngôi, tức là Đường Trung Tông, Thiên hậu Võ thị trở thành Hoàng thái hậu. Căn cứ theo di chiếu của Cao Tông thì mọi việc trong triều đều do Võ Thái hậu quyết đoán, do đó Võ hậu là vị hoàng thái hậu đầu tiên của nhà Đường, chính thức thực hiện việc nhiếp chính, thay quyền Trung Tông xử lý phần lớn đại sự. Sách sử gọi việc thái hậu nhiếp chính là Lâm triều xưng chế (臨朝稱制). Ở các triều đại trước, mẫu hậu lâm triều chỉ khi nhà vua còn nhỏ, lúc này Trung Tông kế vị đã 28 tuổi, nhưng bởi vì di chiếu của Cao Tông mà Võ Thái hậu tiếp tục nắm giữ quyền lực, điều này khiến trong triều dần xảy ra tranh chấp. Năm Tự Thánh nguyên niên (684), tháng 2 (ÂL), Trung Tông muốn tạo đối trọng với Võ Thái hậu trong triều, nên phong nhạc phụ Vi Huyền Trinh làm Thị trung trông coi Môn hạ tỉnh, chức vụ này có quyền uy quá lớn, trong khi họ Vi không có tài cán. Tể tướng Bùi Viêm hết sức can ngăn nhưng Trung Tông không nghe, nói lại: "Ta đem cả thiên hạ cho Vi Huyền Trinh còn được, huống hồ một chức Thị trung lang sao?!". Bùi Viêm cố cãi lại không được, bèn mật cáo với Thái hậu. Ngày 26 tháng 2 (dương lịch), Thái hậu được Bùi Viêm, Lưu Y Chi, Trình Vụ Đĩnh, Trương Kiền Úc đưa vào triều, tuyên chiếu phế truất Trung Tông làm Lư Lăng vương. Khi bị lôi xuống, Trung Tông cố hỏi: "Con có tội gì?!", Võ Thái hậu đanh thép đáp: "Nhà ngươi đem thiên hạ đưa cho Vi Huyền Trinh, còn không có tội ư?!", do đó Thái hậu bèn giam Trung Tông vào biệt cung, đổi tên thành "Triết". Thái hậu đưa Dự vương Lý Đán lên ngôi, tức là Đường Duệ Tông. Võ Thái hậu đày Lư Lăng vương ra Quân Châu rồi Phòng Châu, ở ngôi nhà mà Bộc vương Lý Thái từng ở sau khi bị Thái Tông giáng tước. Sau khi lập Duệ Tông, bà tiếp tục lâm triều xưng chế, tự mình chuyên chính như trước. Bà lập tức hạ chiếu nói Vi Huyền Trinh mưu nghịch, tước bỏ tất cả chức vị, giáng làm thứ dân và tống vào ngục, sau cũng bị lưu đày. Đường Duệ Tông khi ấy tuy ở ngôi vị và đã trưởng thành, nhưng bị ép phải sống ở cung riêng, không được tham gia chính sự, việc lớn nhỏ trong triều đều do Võ Thái hậu quyết đoán. Bà cho lập con trai của Tân Đế là Lý Thành Khí kế thừa vị trí trữ quân. Độc bá triều cương Ngày Giáp Tý tháng ấy (ÂL), Võ Thái hậu ngự ở Võ Thành điện (武成殿), Duệ Tông suất vương công đến dâng tôn hiệu. Mấy hôm sau, sai Võ Thừa Tự công bố chế sách lập hoàng đế mới. Từ lúc này, Thái hậu lên triều nghe chính ở Tử Thần điện (紫宸殿), buông rèm màu tím nhạt để triều kiến quần thần. Vừa yên vị, Võ Thái hậu mệnh Thái thường khanh, Kiểm giáo Dự vương phủ Vương Đức Chân làm Thị trung, Trung thư Thị lang Lưu Y Chi và Lễ bộ Thượng thư Võ Thừa Tự làm Đồng trung thư Môn hạ Bình chương sự. Lúc này Thái tử bị truất phế trước đây, Lý Hiền, đã bị ép phải uống rượu độc mà chết, Thái hậu quy tội Tả Kim ngô tướng quân Khâu Thần Tích, biếm làm Thứ sử Điệp Châu, nhưng không lâu sau thì phục chức, rồi truy tặng Lý Hiền là "Ung vương". Tháng 9 (ÂL) cùng năm, Thái hậu cải nguyên là Văn Minh, đổi Đông Đô Lạc Dương thành Thần đô (神都), cung riêng của bà gọi là Thái Sơ cung (太初宮), ngự chế cờ xí đều dùng sắc vàng, lại cho cải Thượng thư tỉnh là Văn Xương đài, Tả hữu bộc xạ là Tả Hữu tướng; Lục tào thành Lục quan; Trung thư tỉnh đổi là Phụng các; Thị trung là Nạp ngôn; Trung thư lệnh là Nội sử lệnh; Ngự sử đài thành Tả túc chánh đài. Từ năm đầu Thùy Củng (685), Võ Thái hậu đổi tên của Càn Nguyên điện thành Minh đường (明堂), bắt đầu dan díu với một tên hòa thượng giả danh gọi là Tiết Hoài Nghĩa. Sau đó, Tiết Hoài Nghĩa dần được phong các chức vụ cao, trở thành tâm phúc riêng của Thái hậu. Tiết Hoài Nghĩa là người đất Hộ, nguyên danh là Phùng Tiểu Bảo, một lần được con gái nuôi của Thái hậu là Thiên Kim Công chúa tiến cử, Thái hậu nhìn thấy liền rất ưa thích, bèn cho giả làm tăng sư với tên "Hoài Nghĩa", cho theo họ với Phò mã Tiết Thiệu. Được sủng ái, Tiết Hoài Nghĩa tự do ra vào cung cấm, thế lực rất lớn, đến cả Võ Thừa Tự, Võ Tam Tư cũng tìm cách lấy lòng. Sau khi hoàn thành Minh đường, Hoài Nghĩa được bái làm "Tả Uy vệ Đại tướng quân" (左威衛大將軍), tước "Lương Quốc công" (梁國公). Năm Thùy Củng thứ 2 (686), mùa xuân, Võ Thái hậu cảm thấy muốn nắm tiếp chính quyền nhưng không có chính danh do Duệ Tông đã trưởng thành, nếu tiếp tục nắm quyền thì sẽ bị phản đối, bèn hạ chiếu giao lại chính quyền do Duệ Tông. Thế nhưng Duệ Tông biết mẹ mình không thực tâm nên không dám chấp nhận, vẫn "cố gắng" khuyên mẹ mình tiếp tục lâm triều xưng chế như trước. Võ Thái hậu nhân danh nghĩa đó mà tiếp tục nắm giữ quyền hành. Phe cánh chống đối Cuối năm Tự Thánh (684), Thứ sử Mi Châu, Anh Quốc công Từ Kính Nghiệp, cùng em là Từ Kính Du và các thuộc tướng như Đường Chi Kỳ, Lạc Tân Vương, Đỗ Cầu... hợp nhau nổi dậy ở Dương Châu, lấy danh nghĩa khôi phục Đường Trung Tông. Sử gọi đây là Từ Kính Nghiệp chi phản (徐敬業之反). Trong nhiều năm cầm quyền của Võ hậu trước khi chính thức tự xưng hoàng đế, đây là một trong những cuộc chống đối lớn nhất và quy mô nhất. Từ Kính Nghiệp vốn là cháu của Anh Trinh Vũ công Lý Tích - một trong những công thần hàng đầu của triều Đường, vốn là họ Từ. Vì công lao hiển hách, được Đường Thái Tông Lý Thế Dân ban quốc tính là "Lý", nhưng khi Kính Nghiệp chính thức tạo phản thì Võ Thái hậu đổi thành họ Từ như cũ. Bọn họ loan tin trưởng sử Trần Kính Chi mưu phản để Kính Chi bị bắt vào ngục, mấy hôm sau thì Kính Nghiệp tiến hành nổi dậy, xưng niên hiệu cũ là Tự Thánh, xưng Khương phục phủ Thượng tướng, Dương Châu đại đô đốc; sai Lạc Tân Vương viết hịch kể tội Thái hậu gửi đi khắp nơi. Kính Nghiệp lại trá xưng là Thái tử Lý Hiền vẫn còn sống và đang ở chỗ mình. Thái hậu sai Lý Hiếu Dật làm Tương Châu đại tổng quản, dẫn 300.000 quân cùng Lý Tri Sĩ, Mã Kính Thần làm phó, thảo phạt Kính Nghiệp. Khi bà hỏi Bùi Viêm về kế sách đối với quân phản loạn, Viêm nói rằng Hoàng đế đã lớn tuổi, chỉ cần Thái hậu giao trả quyền chính thì tất vô sự. Thái hậu tức giận, giam Viêm vào ngục, đưa Kiến Vị Đạo, Lý Cảnh Kham lên thay; sau đó khép Bùi Viêm vào tội chết; lại lưu đày những người nói hộ cho Viêm. Lý Kính Nghiệp đưa quân đánh sang Nhuận Châu. Thái hậu tước chức quan của ông ta, bắt trở về họ Từ. Lúc này quân của Lý Hiếu Dật không thu được thành quả nào, Hiếu Dật tỏ ra nao núng. Nhưng có tướng dưới quyền Ngụy Nguyên Trung khích lệ, Hiếu Dật mới quyết tâm hơn, cho quân đánh mạnh vào lực lượng của Từ Kính Nghiệp. Sau đó Kính Nghiệp đại bại, phải bỏ trốn. Tướng Vương Na Tướng làm phản giết anh em Kính Nghiệp, Lạc Tân Vương rồi ra hàng, cuộc nổi dậy bị dẹp tan. Sau vụ của Từ Kính Nghiệp, Võ Thái hậu sợ rằng các đại thần và tông thất oán mình chuyên quyền nên tìm cách trừ khử bớt đi. Vào cùng năm ấy, Võ Thái hậu sai chế ra một cái hộp bằng đồng đặt trước triều đường, để cho những người hiến kế hay hoặc dự báo được tinh tượng, hoặc muốn tố cáo gian ác, hoặc muốn tiến cử nhân tài... mà ngại không dám nói thì cho bỏ thư vào đó. Ý của Thái hậu là để cho người ta bỏ thư tố cáo bí mật của người khác, nhất là các đại thần đang bị Thái hậu nghi ngờ để bà có cớ xử tội họ. Thường thì những người bị tố cáo đều bị Thái hậu xử tội mà không cần tra xét gì cả. Có người Hồ là Sách Nguyên Lễ đoán biết ý, nên dùng chuyện cáo mật mà được phong làm "Du Kích tướng quân" (游擊將軍). Nguyên Lễ tính tình tàn nhẫn, thích dùng ngục hình, thường thì một người bị tố cáo thì lôi ra cái mà hắn gọi là "đồng đảng" hơn 10 người, dùng hình rất nặng khiến ai ai cũng bất an. Lại có bọn ngục lại là Chu Hưng, Lai Tuấn Thần cũng thừa cơ mượn gió bẻ măng; Hưng được phong Thu quan thượng thư còn Tuấn Thần làm tới Ngự sử trung thừa. Bọn này hè nhau mượn việc cáo mật mà vu oan hãm hại người khác, làm triều chính mấy phen điên đảo; lại còn chế ra nhiều cực hình tàn khốc để hành hạ phạm nhân: định bách mạch, đột địa hống, tử trư sầu, cầu phá gia, phụng hoàng sái sí, lư câu bạt quyệt, ngọc nữ đăng thê. Mỗi lần có đại xá, Tuấn Thần lại ra giết hết người phạm tội nặng rồi mới ban lệnh xá, thế mà Thái hậu vẫn cho là trung thành và càng tín nhiệm. Khi ấy đại thần là Lưu Y Chi được dùng làm vị trí đồng cấp tể tướng với chức vụ "Trung thư thị lang đồng Tam phẩm" (中書侍郎同三品), từ thời kỳ Cao Tông còn tại vị thì ông đã rất được Võ Thái hậu tín nhiệm, khi Duệ Tông lên ngôi thì ông là người quyền tể tướng đều tiên. Vào năm Thùy Củng thứ 3 (687), ông cùng Phượng các Xá nhân là Giả Đại Ẩn nói đại ý: "Thái hậu có thể phế hôn quân để lập minh quân, vì điều gì mà không để hoàng thượng chưởng quyền, làm an lòng thiên hạ?!". Thế là Giả Đại Ẩn liền mật cáo lên Thái hậu, điều này khiến Thái hậu rất tức giận, thất vọng mà nói người bên cạnh: "Y Chi là người do ta dìu dắt, thế mà còn phản ta sao?!". Cùng lúc đó lại có tố cáo là Lưu Y Chi nhận vàng hối lộ từ Đô đốc Thành Châu người Khiết Đan tên Tôn Vạn Vinh, đồng thời còn có tố giác Lưu Y Chi còn tư thông với thiếp của Hứa Kính Tông, thế là Võ Thái hậu sai người bắt ông ta vào ngục. Đường Duệ Tông nghe vậy muốn cứu Y Chi, nhưng ông cho rằng hành động của Duệ Tông sẽ càng làm mình chết chóng. Quả nhiên ông ta liền bị Thái hậu xử tử. Dần dần, Võ Thái hậu đã lộ rõ có ý soán ngôi, nên tìm cách loại trừ một số tôn thất nhà Đường mang họ Lý, như Hàn vương Lý Nguyên Gia, Hoắc vương Lý Nguyên Quỹ, Lỗ vương Lý Linh Quỳ, Việt vương Lý Trinh, Giang Đô vương Lý Tự, Phạm Dương vương Lý Ái, Đông Hoàn công Lý Dung và Lang Tà vương Lý Xung - con Việt vương. Những người này trong hàng tông thất đều có tiếng tốt, nên Võ Thái hậu rất kiêng kị. Trong số này thì Hàn vương Lý Nguyên Gia là người đầu tiên cảm giác bất an, bèn lén lút viết thư thăm dò Việt vương Lý Trinh, bày tỏ muốn làm chính biến khôi phục quyền lực cho hoàng tộc họ Lý. Bản thân Lý Trinh cũng biết ý đó, tỏ ra bất an và muốn nổi dậy. Mùa thu năm Thùy Củng thứ 4 (688), tháng 8 (ÂL), Lang Tà vương Lý Xung triệu tập quân các nơi cùng đánh vào Thần Đô Lạc Dương, Thái hậu sai Khâu Thần Tích dẫn quân thảo phạt, ngay sau đó thì Việt vương Lý Trinh khởi binh từ Dự Châu, còn Lý Xung từ Bác Châu. Tuy nhiên các lộ chư hầu khác vẫn chưa kịp khởi binh, do đó lực lượng của ông bị đè bẹp nhanh chóng. Cuối cùng Lý Xung bị tên giữ thành Bác Châu giết chết, hơn 1000 quan lại cũng bị liên can và bị Khâu Thần Tích giết chết, Lý Trinh cũng bị đánh bại liên tục và phải tự tử trong thành. Thái hậu hạ chiếu đổi họ của cha con Việt vương thành họ "Hủy" (虺氏), rồi còn nhân đó bắt tội Hàn vương, Lỗ vương, Thường Lạc Công chúa, Hoàng công Lý Soạn, bắt họ tự sát rồi đổi tất cả sang họ Hủy hết thảy. Phò mã Tiết Thiệu cùng hai anh là Tiết Nghĩ, Tiết Tự cũng bị liên can, Nghĩ và Tự bị giết, Thiệu bị đánh 100 trượng rồi cũng chết trong ngục. Truy phong họ Võ Năm Quang Trạch nguyên niên (684), tháng 9, người trong họ Võ Thái hậu là Võ Thừa Tự dâng biểu xin truy phong cho tổ tiên họ Võ lên tước Vương, lập nên 7 ngôi miếu họ Võ được gọi là Võ thị Thất miếu (武氏七廟), có ý khuếch trương dòng dõi nhà họ Võ. Thái hậu nghe thế mà bằng lòng, thế nhưng truy phong tước Vương là thuộc điều cấm kị của rất nhiều triều đại, trong đó có nhà Đường. Tể thần là Bùi Viêm lại dẫn câu chuyện Lã hậu thời nhà Hán khi trước ra can ngăn, nói rằng: "Thái hậu mẫu lâm thiên hạ, nên chí công vô tư mới phải. Ngài quên cái bại của họ Lã khi xưa chăng?!". Thái hậu không nghe, nói lại: "Lã hậu đó là cậy quyền phong cho người sống. Nay ta truy phong người chết, có hại gì?"; bèn truy phong tổ 6 đời là Võ Khắc Kỷ làm "Lỗ Tĩnh công" (魯靖公), vợ là phu nhân; tổ 5 đời là Võ Cư Thường làm Thái úy, thụy "Bắc Bình Cung Túc vương" (北平恭肅王); tằng tổ Võ Kiệm là Thái úy, thụy "Kim Thành Nghĩa Khang vương" (金城義康王); tổ phụ Võ Hoa là Thái uý, thụy "Thái Nguyên An Thành vương" (太原安成王). Còn thân phụ Võ Sĩ Hoạch làm Thái sư, thụy "Ngụy Định vương" (魏定王), còn tất cả các nữ quyến đều truy phong làm vương phi; cho người xây từ đường ngũ đại tại quê nhà Văn Thủy. Năm Vĩnh Xương nguyên niên (689), mùa xuân, Võ Thái hậu tôn cha mình thành "Chu Trung Hiếu Thái hoàng" (周忠孝太皇), vợ là "Trung Hiếu Thái hậu" (忠孝太后), thiết mộ gọi là Chương Đức lăng (章德陵). Truy thêm các đời trước, Lỗ công là "Thái Nguyên Tĩnh vương" (太原靖王); Bắc Bình vương là "Triệu Cung Túc vương" (趙肅恭王), Kim Thành vương là "Ngụy Nghĩa Khang vương" (魏義康王); Thái Nguyên vương là "Chu An Thành vương" (周安成王). Lập triều Võ Chu Thánh Thần Hoàng đế Từ năm Thùy Củng thứ 4 (688), Võ Thái hậu bắt đầu xây Minh đường bằng cách hủy bỏ Càn Nguyên điện cũ và xây dựng trên nền điện ấy. Vào lúc này, quyền lực của Võ Thái hậu đã lớn, khiến nhiều kẻ xu nịnh bắt đầu tạo những thứ gọi là "điềm lành", hòng mua chuộc và lấy lòng bà. Người cháu trong họ là Văn Xương Tả tướng Võ Thừa Tự đã cho làm giả bảo thạch, trên có khắc 8 chữ "Thánh mẫu lâm nhân, Vĩnh xương Đế nghiệp" (聖母臨人,永昌帝業), có ý đề cao việc bà đích thân quản lý chính sự thay Duệ Tông. Đối với những thứ này, Võ Thái hậu không ngần ngại tỏ ra cực kỳ thích thú, đặt tên viên bảo thạch là Bảo đồ (寶圖), sau đó còn tự xưng tôn hiệu Thánh mẫu Thần hoàng (聖母神皇), đại xá thiên hạ, sau lại nghĩ ra tên khác, cho bảo thạch thành Thiên thụ Thánh đồ (天授聖圖). Cũng trong thời gian này là sự kiện nổi loạn của hai cha con Lang Tà vương. Sau khi đánh bại phe phái chống đối mấu chốt này, sự "thần thánh" của Võ Thái hậu ngày càng lớn và không còn ai đủ sức có thể ngăn chặn con đường tự lập của Võ Thái hậu nữa. Cùng năm ấy, Minh đường hoàn thành, ấy là Vạn Tượng Thần Cung (萬象神宮) nổi tiếng, cao 394 xích, gồm 3 tầng. Liền ngay đó, bà cho cải niên hiệu thành Vĩnh Xương, theo tên Thánh đồ của bà, nhưng được hết năm thì lại cho đổi thành Tái Sơ. Năm Tái Sơ nguyên niên (690), tháng giêng, Võ Thái hậu lâm hạnh Minh đường, đại xá thiên hạ. Trong lần này, bà cho ban chữ "Chiếu" (曌) làm tên húy kị của mình. Chữ "Chiếu" được đề cập với hình Mặt trời (日), Mặt trăng (月) trên không (空), để tỏ quyền uy tối thượng. Chữ "Chiếu" này cùng 11 chữ khác về sau được gọi là Võ hậu tân tự. Mùa hạ năm đó, sư Pháp Minh dâng bốn quyển "Đại Vân kinh" (大雲經) ca ngợi Thái hậu là Phật Di Lặc xuống trần, là chủ của thiên hạ. Thái hậu sai in rồi phát ra khắp nơi, đề cao Phật giáo trên Đạo giáo. Cùng lúc, Võ Thừa Tự bàn với Chu Hưng tố cáo các Trạch vương Lý Thượng Kim và Hứa vương Lý Tố Tiết có mưu phản, Thái hậu sai bắt trị tội, thắt cổ giết Tố Tiết; Thượng Kim cũng phải tự tử, lúc này hoàng thất họ Lý đã không còn ai có thể đe dọa Võ hậu nữa. Lại nói từ khi Tiết Thiệu bị giết, Thái Bình Công chúa đi khắp nơi tìm kiếm nam sủng. Võ Thái hậu sợ mang tiếng, nên đem công chúa gả cho cháu họ của mình là Hữu vệ Trung lang tướng Võ Du Kỵ. Du Kỵ là cháu trong tộc của Thái hậu nhưng đã có chính thê từ trước, mà công chúa gả vào không thể làm thiếp, do đó Thái hậu lệnh cho người giết chính thê ấy. Trong các con thì Thái hậu ưng công chúa nhất, thường cho là giống mình, mọi chuyện chính sự đều cho công chúa tham gia. Theo thông lệ thì tước thân vương không có thực ấp quá 1.000 hộ, các công chúa không thể quá 350 hộ, nhưng riêng Thái Bình được Thái hậu ban hơn 3.000 hộ. Tông thất nhà Đường bị quản chế nghiêm ngặt, bốn người con của Thái tử Lý Hiền quá cố là Lý Quang Thuận, Lý Thủ Lễ, Lý Thủ Nghĩa, Trường Tính Huyện chúa và các con của Duệ Tông đều bị canh giữ trong nội cung, hơn 10 năm không ra khỏi cửa cung. Tháng 9 (ÂL) năm ấy, Thị ngự sử Phó Du Nghệ cùng hơn 900 đại thần đến Thần Đô, dâng thư xin Võ Thái hậu xưng làm Hoàng đế, đổi quốc hiệu thành Chu (周), sửa quốc tính thành họ Võ. Võ Thái hậu khước từ. Thấy vậy, đủ loại quan lại, tông thích, thậm chí là nhiều Tù trưởng các Di tộc đều lần lượt xin dâng biểu mời Võ Thái hậu đăng vị. Trước tình thế ấy, cả Đường Duệ Tông cũng đành phải xin bà cho đổi thành họ Võ, quan viên trong triều cũng tâu thỉnh, nói thấy có phượng hoàng bay vào Thượng Dương cung (上陽宮), tắc là điềm lành. Những điều này càng lúc càng thúc đẩy, khiến Võ Thái hậu quang minh chính đại soán vị. Thế rồi vào ngày 9 tháng 9 (ÂL) năm ấy, Võ Thái hậu chính thức lên ngôi ở Tắc Thiên môn (則天門), đổi tên triều đại từ "Đường" thành "Chu", đổi niên hiệu làm Thiên Thụ (天授). Ngày 12 (ÂL) tháng ấy, quần thần tôn hiệu là Thánh Thần Hoàng đế (聖神皇帝), sử thường gọi sự kiện này là "Tắc Thiên cách mệnh" (則天革命) hoặc "Chu Đường cách mệnh" (周唐革命). Vừa lên ngôi, Võ hoàng cho giáng Duệ Tông làm "Hoàng tự" (皇嗣), Hoàng thái tử Lý Thành Khí giáng làm "Hoàng tôn" (皇孫), đều cho đổi làm họ Võ. Sau đó, Võ hoàng còn phong cho Văn Xương Tả tướng Võ Thừa Tự là Ngụy vương; Thiên Quan Thượng thư Võ Tam Tư làm Lương vương, lại gia phong các cháu trong họ cộng 10 người làm quận vương, cô dì phong là Trưởng công chúa, con gái của Đường Cao Tổ Lý Uyên là Thiên Kim Công chúa, nhanh chóng lấy lòng Võ hoàng, tự nhận làm con, tự đổi thành họ Võ thị, do đó công chúa được phong làm Diên An Đại trưởng công chúa. Võ hoàng chính thức cho lập miếu tổ tiên họ Võ ở Thần đô, tiến hành truy tặng: Chu Văn vương là "Thủy Tổ Văn Hoàng đế" (始祖文皇帝), Thái Tự là "Văn Định Hoàng hậu" (文定皇后); Con trai nhỏ của Chu Bình vương là Cơ Võ tôn làm "Duệ Tổ Khang Hoàng đế" (睿祖康皇帝), vợ là Khương thị làm "Khang Huệ Hoàng hậu" (康惠皇后); Thái Nguyên Tĩnh vương Võ Khắc Dĩ làm "Nghiêm Tổ Thành Hoàng đế" (嚴祖成皇帝); Triệu Cung Túc vương Võ Cư Thường là "Cung Tổ Chương Kính Hoàng đế" (肅祖章敬皇帝); Ngụy Nghĩa Khang vương Võ Kiệm là "Liệt Tổ Chiêu An Hoàng đế" (烈祖昭安皇帝); Chu An Thành vương Võ Hoa là "Hiển Tổ Văn Mục Hoàng đế" (顯祖文穆皇帝); Trung Hiếu Thái hoàng Võ Sĩ Hoạch cải tôn "Thái Tổ Hiếu Minh Cao Hoàng đế" (太祖孝明高皇帝). Tất cả các phi, vợ của các ông đều cải tôn là hoàng hậu. Lý thuyết chính trị Trung Quốc truyền thống không cho phép một phụ nữ được lên ngôi Đế vị, Võ Tắc Thiên quyết định dẹp yên chống đối và đưa các quan lại trung thành vào triều. Thời cai trị của bà để dấu ấn về sự xảo quyệt tài tình và chuyên quyền hung bạo. Dưới thời cai trị, Võ hoàng lập ra tuần tra mật để đối phó với bất kỳ chống đối nào có thể nổi lên, với cái tên khét tiếng Lai Tuấn Thần, Chu Hưng, nhưng đồng thời cũng có những hiền tài như Địch Nhân Kiệt. Quan hệ đối ngoại và cuộc nổi dậy của người Khiết Đan, người Cao Câu Ly Giao tranh với Thổ Phồn, Thất Vi và Đột Quyết những năm 692 - 695 Ở biên cương, nhà Chu đang có xung đột với Thổ Phiên và Hãn quốc Hậu Đột Quyết, thực tế những vấn đề này đã tồn tại từ trước ở thời Đường Cao Tông, khi Võ hoàng lên ngôi, những vấn đề biên giới tiếp tục gia tăng với sự nổi dậy của người Khiết Đan và người Cao Câu Ly. Năm Như Ý nguyên niên (692), tháng 2, bộ lạc Đảng Hạng của Thổ Phồn quy phục nhà Chu. Võ hoàng cả mừng, đem tộc thuộc đều phân trí riêng ra khắp 10 Châu trong cả nước. Tháng 5 cùng năm, thủ lĩnh Hạt Tô (曷苏) cũng dẫn tộc nhân quy phụ nhà Chu, Võ hoàng cho Trương Huyền Ngô (张玄遇) xuất tinh binh 20.000 quân ra nghênh đón. Nhưng Hạt Tô sau đó bị người Thổ Phồn bắt về, lại gặp đúng lúc một tộc người Khương dẫn 8000 người quy phụ, Trương Huyền Ngô mới đem an trí Xuyên Châu. Cùng năm, Hiệt Điệt Lợi Thi Khả hãn A Sử Na Cốt Đốc Lộc của Đột Quyết qua đời, em trai là A Sử Na Mặc Xuyết lên kế vị, xưng là Thiên Thiện Khả hãn. Cùng năm ấy, tháng 9, đại tướng Vương Hiếu Kiệt (王孝杰) và A Sử Na Trung (阿史那忠) xuất chinh Tây Bắc, đại phá được Thổ Phồn, thu phục 4 địa phương và cho đổi thành An Tây Tứ trấn (安西四镇), củng cố vị thế cho An Tây đô hộ phủ của nhà Chu tại đó. Cục diện phía Tây tạm yên, thẳng đến đời Đường Huyền Tông. Mùa xuân năm Trường Thọ thứ 3 (694), tháng giêng, người Thất Vi (thuộc nhóm người Mông Cổ) ở phía đông bắc nhà Chu nổi dậy chống lại Võ hoàng, tấn công biên giới phía bắc của nhà Chu. Võ hoàng phái Đại tướng quân Lý Đa Tộ (thủ lĩnh bộ lạc Phất Niết Mạt Hạt) dẫn quân Chu đi chống cự quân Thất Vi. Lý Đa Tộ nhanh chóng đánh đuổi được quân Thất Vi về đông bắc. Tháng 2 năm 694, quân Chu do Vương Hiếu Kiệt công phá liên minh hơn 300.000 người giữa Bột Phác Luận Tán Nhuận của Thổ Phồn và Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết của Đột Quyết, lại thắng lợi. Tháng 8 năm 694, Lương vương Võ Tam Tư lĩnh suất "Tứ di Tù trưởng" thỉnh lấy đồng thiết đúc Thiên trụ (天樞) đặt ngoài Đoan môn, để biểu thị công đức của Võ hoàng. Vì lý do này mà triều đình gom hết đồ vật làm bằng đồng trong nước, sau khi hoàn thành thì liền cho khắc tên của bách quan cùng vua của các chư hầu. Sau đó, chính tay Võ hoàng đích thân đề cái tên Đại Chu vạn quốc tụng đức Thiên trụ (大周萬國頌德天樞), ngụ ý Võ Chu triều là trung tâm của thiên hạ, thống lĩnh vạn quốc. Tuy nhiên cùng năm đó, liên quân Đột Quyết (do Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết chỉ huy) và Thổ Phồn (do Luận Khâm Lăng và Luận Tán Bà chỉ huy) đánh bại quân Chu, chiếm đóng An Tây đô hộ phủ của nhà Chu. Năm Chứng Thánh nguyên niên (695), tháng giêng, tôn hiệu của bà được đổi thành Từ Thị Việt Cổ Kim Luân Thánh Thần Hoàng đế (慈氏越古金輪聖神皇帝). Ngày 16 (ÂL) tháng ấy, sủng nam Tiết Hoài Nghĩa vì bị Võ hoàng thất sủng mà đốt Thiên đường cùng Minh đường. Tòa nhà được gọi là "Thiên đường" (天堂) là tòa phật đường được xây dựng ngay sau khi Võ hoàng làm xong Minh đường, vị trí đằng sau Minh đường để thờ tượng Phật, cao hơn trăm thước, sau khi Tiết Hoài Nghĩa châm lửa thì cả hai tòa đường đều cháy rụi trọn đêm. Thiệt hại quá nặng nề và điều kiện không cho phép, Võ hoàng chỉ có thể xây lại Minh đường. Võ hoàng lệnh cho Thái Bình công chúa giết chết Tiết Hoài Nghĩa. Cùng tháng ấy, Võ hoàng phái Vương Hiếu Kiệt đánh vào Đột Quyết, khiến vào tháng 10 cùng năm đó, Thiên Thiện Khả hãn là A Sử Na Mặc Xuyết (默啜) phải hàng và quy phụ Đại Chu. Võ hoàng mừng, làm lễ phong thiện ở Tung Sơn, đại xá thiên hạ, đổi tôn xưng thành Thiên Sách Kim Luân Thánh Thần Hoàng đế (天冊越古金輪聖神皇帝), cải niên hiệu mới làm Thiên Sách Vạn Tuế, sau lại đổi thành Vạn Tuế Đăng Phong. Cùng năm đó, quân Chu do Vương Hiếu Kiệt và Lâu Sư Đức chỉ huy giao chiến với hai tướng Thổ Phiên là Luận Khâm Lăng và Luận Tán Bà ở núi Tố La Hãn và đại bại, bà bèn giáng chức Lâu Sư Đức và Vương Hiếu Kiệt. Người Khiết Đan, người Cao Câu Ly nổi dậy vào những năm 696 - 697 Năm Vạn Tuế Đăng Phong nguyên niên (696), tháng 3, Võ hoàng cho trùng kiến và xây dựng thêm Minh đường, thiết đặt Thông Thiên cung (通天宮). Mật độ xây dựng của Đại Chu vào lúc này lên đến đỉnh điểm, nhằm biểu thị uy quyền mà Võ hoàng khao khát. Liền sau đó, bà cho đổi niên hiệu mới Vạn Tuế Thông Thiên. Dù đang ở đỉnh cao quyền lực, Đại Chu của Võ hoàng vào ngay lúc ấy gặp một chiến loạn lớn ở phương Bắc, làm lung lay chính quyền của Võ hoàng. Khi ấy, theo "chính sách nới lỏng", khu vực Khiết Đan nằm dưới sự kiểm soát của nhà Chu bởi Thứ sử Doanh Châu (thuộc khu vực Triều Dương, Liêu Ninh, Trung Quốc hiện nay) là Triệu Văn Hối. Hai thủ lĩnh Khiết Đan địa phương là Tùng Mạc đo đốc Lý Tận Trung và Thành Châu Thứ sử Tôn Vạn Vinh, em vợ của Lý Tận Trung là cấp dưới của Triệu Văn Hối. Sự phản đối gia tăng do hành vi của Triệu Văn Hối, người đã coi các thủ lĩnh Khiết Đan như người hầu của mình và từ chối giúp đỡ trong nạn đói xảy ra ở khu vực Khiết Đan vào năm 696. Theo "chính sách nới lỏng", nhà Chu phải cung cấp sự cứu viện nạn đói. Khi Triệu Văn Hối không làm như vậy, Lý Tận Trung và Tôn Vạn Vinh đã phát động một cuộc nổi loạn vào tháng 5 năm 696 (khi Võ hoàng lên ngôi được 6 năm). Họ dẫn quân từ đất Tùng Mạc và Thành Châu đánh chiếm Doanh Châu, giết Thứ sử là Triệu Văn Hối. Tướng cũ của Cao Câu Ly là Đại Trọng Tượng (大仲象 Dae Jung-sang) và con trai là Đại Tộ Vinh (大祚榮 Dae Jo-young) ở núi Đông Mưu (Dongmo, nay thuộc Mãn Châu, Trung Quốc) đã liên minh với thủ lĩnh Bạch Sơn Mạt Hạt là Khất Tứ Bỉ Vũ (걸사비우, 乞四比羽 bính âm: Gulsabiwu) và các thủ lĩnh của các bộ tộc vùng Hắc Long Giang hỗ trợ cho Lý Tận Trung và Tôn Vạn Vinh chống lại Đại Chu. Lý Tận Trung tự xưng là "Vô Thượng Khả hãn" (無上可汗), kiến lập quốc gia Đại Khiết Đan Quốc. Tôn Vạn Vinh đã hỗ trợ Lý Tận Trung với tư cách là vị tướng đã dẫn dắt thành công hàng chục nghìn quân Khiết Đan hành quân về phía nam và đánh chiếm một số thành trì khác của nhà Chu. Võ hoàng phản ứng đầu tiên bằng cách cử một đội quân 28 tướng nhà Chu (trong đó có thủ lĩnh Phất Niết Mạt Hạt là Lý Đa Tộ) chỉ huy đến đàn áp, đổi gọi Lý Tận Trung thành Lý "Tận Diệt" ("盡滅", nghĩa là "tiêu diệt tận gốc họ Lý"), Tôn Vạn Vinh là Tôn "Vạn Trảm" ("萬斬", nghĩa là "trảm vạn lần họ Tôn"). Tuy nhiên lực lượng nhà Chu đi đàn áp này bị quân Khiết Đan đánh bại ở hẻm núi Hạp Thạch Cốc (gần huyện Lư Long, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc ngày nay) vào tháng 8 năm 696, liên tiếp các tướng nhà Chu đều chết trận. Võ hoàng đã rất ngạc nhiên trước thông báo về sự thất bại này và bà ta nhanh chóng ban hành các sắc lệnh phát động một cuộc tấn công mới vào quân Khiết Đan nổi dậy này. Quân Khiết Đan tiếp tục giành chiến thắng trên chiến trường. Thủ lĩnh Phất Niết Mạt Hạt là Lý Đa Tộ phải thu nhặt tàn quân Chu rút về Lạc Dương. Sau đó quân Đại Khiết Đan quốc của Lý Tận Trung và Tôn Vạn Vinh đánh chiếm Chongzhou ở phía đông bắc Doanh Châu. Dưới tình thế ấy, Thiên Thiện Khã hãn của Hãn quốc Hậu Đột Quyết là A Sử Na Mặc Xuyết trong lúc này lại đem quân đánh Lương Châu nhà Chu, bắt đô đốc Hứa Khâm Minh. Nhận lệnh của Vô Thượng Khả hãn Lý Tận Trung, Đại Trọng Tượng (大仲象 Dae Jungsang) và Đại Tộ Vinh (大祚榮 Dae Joyoung), Khất Tứ Bỉ Vũ (乞四比羽 Gulsabiwu) dẫn 8000 tàn dân quân gồm người Cao Câu Ly và người Mạt Hạt (Malgal) quay về núi Đông Mưu (Dongmo, nay thuộc Mãn Châu, Trung Quốc) phối hợp với quân đội của các bộ tộc quanh Hắc Long Giang chuẩn bị đánh chiếm các thành trì của nhà Chu ở Liêu Đông. Bên cạnh đó, Vô Thượng Khả hãn Lý Tận Trung còn lệnh cho Lý Giai Cố (李楷固) cùng tướng dưới quyền Lý Giai Cố là Lạc Vũ Chỉnh (駱務整) dẫn quân Khiết Đan từ đất Tùng Mạc phía tây bắc Doanh Châu vượt Vạn Lý Trường Thành, chiếm Du Quan (nay là Sơn Hải quan, Trung Quốc), phối hợp với quân đội của bộ tộc Khố Mạc Hề (Kumo Xi) phía tây nam cùng tấn công vùng đất Đàn Châu nhà Chu. Đại Trọng Tượng và Đại Tộ Vinh ở núi Đông Mưu đưa quân đánh phá gây tiêu hao binh lực nhà Chu của Võ hoàng ở thành Khứ Đán Châu (Hangul: 거단주, Keodanju; chữ Hán: 去旦州), Mộc Để Châu (Hangul: 목저주; chữ Hán: 木底州), Bái Hán Châu (Hangul: 배한주,; chữ Hán: 拜漢州/拜汉州),… tại Liêu Đông. An Đông đô hộ là Bùi Huyền Khê (裴玄珪) ở nhiệm sở Tân Thành (nay là Phú Thuận, Liêu Ninh, Trung Quốc) cũng bị quân của Đại Tộ Vinh tấn công nhiều lần. Bùi Huyền Khê phải rút quân Chu khỏi Tân Thành và Tân Thành nhà Chu bị Đại Tộ Vinh chiếm đóng. Quân Chu ở ba thành trì Khứ Đán Châu, Mộc Để Châu, Bái Hán Châu và ba thành trì khác xung quanh Tân Thành đều quy hàng Đại Trọng Tượng. An Đông đô hộ phủ của nhà Chu bị chấn động. Còn Lý Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh dẫn quân Khiết Đan chiếm hàng loạt các thành trì nhà Chu của Võ hoàng ở Đàn Châu. Sau khi chiếm xong Đàn Châu, Lý Giai Cố tiếp tục tiến quân chiếm Bắc Bình (nay là Tần Hoàng Đảo, Hà Bắc, Trung Quốc), Ngư Dương (nay thuộc Kế Châu, Thiên Tân, Trung Quốc), rồi đánh vào U Châu (nay là Bắc Kinh, Trung Quốc) của nhà Chu. U Châu đô đốc là Tiết Nột (薛訥 con trai của Tiết Nhân Qúy, dân gian gọi là Tiết Đinh San) liên tiếp bại trận. Tiết Nột cũng phải rút quân Chu và để vùng đất U Châu rộng lớn nhà Chu vào tay Lý Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh người Khiết Đan. Các lực lượng nhà Chu bị quân Khiết Đan đánh bại vào mùa thu cùng năm, liên tiếp các tướng nhà Chu đều chết trận. Các thành trì Úy Châu (nay tương đương với Trương Gia Khẩu, Trung Quốc), Dịch Châu (nay thuộc một phần của Bảo Định, Hà Bắc, Trung Quốc), Mã Ấp (nay thuộc Sóc Châu, Sơn Tây, Trung Quốc), Nhạn Môn Quan (nay thuộc Hãn Châu, Sơn Tây, Trung Quốc) của nhà Chu liên tiếp rơi vào tay quân Khiết Đan của Lý Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh. Quân nhà Chu được Võ hoàng phái đến để ngăn quân Khiết Đan của Lý Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh nhưng cũng thua trận và phải bỏ chạy về phía tây Trường An. Đại Trọng Tượng (Dae Jungsang) và Đại Tộ Vinh (Dae Joyoung) ở Tân Thành thuộc Liêu Đông tiếp tục chia quân cho Khất Tứ Bỉ Vũ (Gulsabiwu) đánh chiếm Liêu Thành của nhà Chu và chia quân cho Gaepilsamun đánh chiếm thành Baekham cùa nhà Chu. Tuy nhiên khi Đại Trọng Tượng, Đại Tộ Vinh, Gaepilsamun, Khất Tứ Bỉ Vũ mang toàn quân tấn công thành Ansi nhà Chu (nay thuộc Liêu Ninh, Trung Quốc) thì gặp rất nhiều khó khăn do sự kiên cố của tòa thành Ansi (thành Ansi này từng đánh tan quân Tùy và quân Đường xâm lược Cao Câu Ly ngày xưa). An Đông đô hộ Bùi Huyền Khê (裴玄珪) biết tin thì nhanh chóng đưa quân Chu tái chiếm nhiệm sở của An Đông đô hộ phủ là Tân Thành (nay là Phú Thuận, Liêu Ninh, Trung Quốc) từ tay quân Cao Câu Ly của Đại Trọng Tượng. Không lâu sau, thấy Đại Trọng Tượng và Đại Tộ Vinh vì muốn khôi phục Cao Câu Ly nên mới nỗ lực tấn công thành Ansi, dân chúng Cao Câu Ly trong thành Ansi nổi dậy chống lại quân Chu, mở cổng thành Ansi cho quân của Đại Trọng Tượng và Đại Tộ Vinh tràn vào thành. Các tướng nhà Chu giữ thành Ansi đều bị giết. Thành Ansi rơi vào tay quân Cao Câu Ly của cha con Đại Trọng Tượng. Tháng 10 (ÂL) cùng năm 696, Vô Thượng Khả hãn của Đại Khiết Đan quốc là Lý Tận Trung qua đời vì bệnh tật, em vợ là Tôn Vạn Vinh lên thay làm Khả hãn để tiếp tục công cuộc chống đối nhà Chu. Quyền lực đang lên của người Khiết Đan cũng đe dọa đến Hãn quốc Hậu Đột Quyết của Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết, người đã ủng hộ cuộc nổi dậy của người Khiết Đan trước đó, đã chuyển sang phe của Võ hoàng sau khi Võ hoàng hứa với ông ta một số điều, bao gồm cả một cuộc hôn nhân giữa con gái của ông với hoàng tộc của Võ hoàng, được nhận làm con trai của Võ hoàng, việc di dời người dân của ông đến Hành lang Hà Tây và khôi phục quyền thống trị của người Đột Quyết đối với người Khiết Đan. Cuộc phản công lớn thứ hai của Võ hoàng với người Khiết Đan diễn ra cùng tháng 10 năm 696, lợi dụng cái chết gần đây của Vô Thượng Khả hãn Lý Tận Trung. Lần này, quân Chu tấn công Khiết Đan từ phía nam và quân Đột Quyết xâm lược Khiết Đan từ phía bắc. Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết cùng con là A Sử Na Bặc Câu và tướng A Sử Đức Nguyên Trân đánh vào đất Tùng Mạc của Đại Khiết Đan quốc (nơi Khả hãn Tôn Vạn Vinh đang ở), bắt được thê tử, gia quyến của Lý Tận Trung và Khả hãn Tôn Vạn Vinh cùng gia quyến của Tôn Vạn Vinh, tàn sát người Khiết Đan trong thành. Tàn quân Khiết Đan thua trận phải rút về Doanh Châu phía nam. A Sử Na Mặc Xuyết, A Sử Na Bặc Câu và A Sử Đức Nguyên Trân lại đánh chiếm Doanh Châu, tiếp tục tàn sát người Khiết Đan trong thành. Tàn quân Khiết Đan lại lui sang Chongzhou và Thành Châu phía đông bắc Doanh Châu. Quân nhà Chu của Võ hoàng cũng kéo đến Doanh Châu hội quân với Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết của Hãn quốc Hậu Đột Quyết. Liên quân Chu - Đột Quyết tấn công thành Chongzhou và Thành Châu nhằm diệt tàn quân Khiết Đan ở đây nhưng người Khiết Đan quá dũng mãnh khiến liên quân chỉ còn cách cho quân vây thành Chongzhou và Thành Châu, chờ tàn quân Khiết Đan trong thành hết lương thực sẽ quy hàng. Liên quân Chu - Đột Quyết kế đó chia quân đi tấn công các thành trì mà quân Khiết Đan của Lý Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh đang kiểm soát ở phía nam Doanh Châu gồm Du Quan, Đàn Châu, Bắc Bình, Ngư Dương, U Châu, Úy Châu, Dịch Châu, Mã Ấp và Nhạn Môn Quan. Thấy quân Khiết Đan còn mạnh nên liên quân cũng tiến hành bao vây những thành trì này đợi người Khiết Đan hết lương thực sẽ lui quân. Võ hoàng bằng lòng khi Tôn Vạn Vinh đã bị bắt và bọn Lý Giai Cố cũng sắp bị tiêu diệt rồi nên bà ban cho Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết nhiều vàng, lụa, sắt cùng công cụ cày cấy. Quân Đột Quyết trao hai thành Doanh Châu và Tùng Mạc cho quân Chu rồi lui về phía tây. Người Khiết Đan chịu tổn thất nặng nề trong chiến dịch này, nhưng Khả hãn Tôn Vạn Vinh đã vượt ngục và chạy đến thành Chongzhou. Tôn Vạn Vinh đã cố gắng đứng vững và thúc đẩy tinh thần người Khiết Đan, tụ tập lại người Khiết Đan. Cuối năm 696, Khả hãn Tôn Vạn Vinh phát triển thế lực Đại Khiết Đan quốc ở Chongzhou, đánh đuổi được quân Chu đang vây thành Chongzhou và Thành Châu, lại tiếp tục chống đối nhà Chu của Võ hoàng. Tôn Vạn Vinh dẫn quân Khiết Đan tái chiếm Doanh Châu và Tùng Mạc từ tay quân Chu. Quân Chu đang bao vây các thành trì của Lý Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh ở phía nam Doanh Châu cũng bị đánh tan. Sau đó, quân Khiết Đan của Lý Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh ở các thành trì phía nam Doanh Châu được lệnh của Khả hãn Tôn Vạn Vinh tiến thẳng xuống tây nam tấn công Ký Châu (nay là huyện Lâm Chương, địa cấp thị Hàm Đan, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc) làm rung chuyển cả vùng Hà Bắc, uy hiếp kinh đô Lạc Dương của nhà Chu (nơi Võ hoàng đang ở). Thứ sử Ký Châu là Độc Cô Tư Trang (獨孤思莊) do lo ngại cuộc tấn công của người Khiết Đan nên đã ra lệnh cho dân chúng phải rời bỏ nhà cửa của mình để vào trong thành, làm gia tăng nỗi lo sợ và phẫn nộ của dân chúng. Quốc gia sắp bị diệt đến nơi khiến các quan lại nhà Chu ai ai cũng hoang mang. Để ổn định tình thế, Võ hoàng dùng lại Địch Nhân Kiệt (người từng bị Võ hoàng giáng chức 4 năm trước vì bị Lai Tuấn Thần và Võ Thừa Tự vu oan) làm thứ sử Ký Châu và Ngụy Châu (nay là Hàm Đan, Trung Quốc) cận kề thay cho Độc Cô Tư Trang. Khi Địch Nhân Kiệt tới nơi, nhận thấy quân Khiết Đan còn ở xa, đã ra lệnh cho dân chúng trở về nhà. Năm Vạn Tuế Thông Thiên thứ hai (697), Lý Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh dẫn quân Khiết Đan tấn công Ký Châu. Địch Nhân Kiệt chống không nổi nên rút quân Chu khỏi Ký Châu rồi về Ngụy Châu (nay là Hàm Đan, Trung Quốc) phía nam. Lý Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh tiếp tục tiến quân tấn công Ngụy Châu. Địch Nhân Kiệt bại trận, tiếp tục cho rút quân Chu khỏi Ngụy Châu rồi về phía nam. Khi thấy lực lượng Khiết Đan do Lý Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh chỉ huy đã tiến sâu vào lãnh thổ nhà Chu, Võ hoàng liền phục chức cho Vương Hiếu Kiệt (một trong những vị tướng giỏi nhất của nhà Chu bấy giờ) và phong cho Vương Hiếu Kiệt làm quyền chỉ huy quân đội nhà Chu chống lại quân Khiết Đan, với sự hỗ trợ của Tô Hoằng Huy (蘇宏暉), chỉ huy khoảng 170.000 quân Chu. Mùa xuân năm đó, Vương Hiếu Kiệt dẫn quân Chu, bỏ qua đại quân Khiết Đan của Lý Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh đang đóng ở Ngụy Châu, đi theo hướng đông bắc, vượt Vạn Lý Trường Thành tiến đến Đông Hạp Thạch Cốc (gần Đường Sơn, Hà Bắc, Trung Quốc hiện nay) phía đông U Châu. Khả hãn Tôn Vạn Vinh nghe tin thì lệnh cho Lý Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh rút quân từ Ngụy Châu theo hướng đông bắc để giáp chiến với Vương Hiếu Kiệt ở Đông Hạp Thạch Cốc. Võ hoàng liền mở cuộc phản công lớn thứ ba với người Khiết Đan bằng cách phái quân Chu tái chiếm lại các thành trì đã mất của nhà Chu gồm Ngụy Châu, Ký Châu, Nhạn Môn Quan, Mã Ấp, Dịch Châu, Úy Châu và U Châu từ tay người Khiết Đan. Vương Hiếu Kiệt đích thân chỉ huy quân tiền phương và giành được những thắng lợi ban đầu trước quân Khiết Đan, nhưng do không quen thuộc với địa lý và địa hình địa phương, Vương Hiếu Kiệt và Tô Hoằng Huy bị Tôn Vạn Vinh phục kích ở vách đá tại Đông Hạp Thạch Cốc. Tô Hoằng Huy đã bỏ chạy. Vương Hiếu Kiệt bị quân Khiết Đan đẩy và bị rơi xuống vách đá tử chiến vào ngày 8 tháng 2 cùng năm. Quân đội nhà Chu bị tổn thất nặng nề. Một tướng của Vương Hiếu Kiệt là Trương Duyệt về Lạc Dương, báo cáo lại với Võ hoàng ở Lạc Dương rằng: "Vương Hiếu Kiệt rất dũng cảm và sẵn sàng chiến đấu đến chết. Ông ấy trung thành phục vụ cho quốc gia, chiến đấu trong lãnh thổ của kẻ thù và chiến đấu với kẻ địch có quân số nhiều hơn. Nhưng ông ấy không có sự hỗ trợ, và vì vậy ông ta đã bị đánh bại.". Võ hoàng truy tặng Vương Hiếu Kiệt làm Cảnh công. Bà ta cũng ra lệnh xử tử Tô Hoằng Huy. Trước khi các sứ giả của Võ hoàng đến tiền tuyến, Tô Hoằng Huy đã thắng quân Khiết Đan của Tôn Vạn Vinh, Lý Giai Cố, Lạc Vũ Chỉnh các trận chiến khác và nên được miễn án tử hình. Nhưng Tô Hoằng Huy vẫn bị Võ hoàng xử tử. Nhuệ khí của quân Chu bị giảm sút nghiêm trọng. Nhân cơ hội đó, quân Khiết Đan của Lý Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh lại đánh chiếm U Châu (nay là Bắc Kinh, Trung Quốc) một lần nữa. U Châu là cửa ngõ quan trọng dẫn đến đồng bằng phía bắc Trung Quốc. Trong khi cuộc phản công lớn thứ tư của Võ hoàng với người Khiết Đan vẫn chưa được phát động và bất chấp các đề xuất liên minh trước đó, Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết của Hãn quốc Hậu Đột Quyết đã tấn công các lãnh thổ của nhà Chu để thể hiện rõ ràng rằng họ rất mạnh vào tháng 3 năm 697. Võ hoàng bị A Sử Na Mặc Xuyết ép phải thả các tù binh người Đột Quyết đang bị nhà Chu giam giữ tại 6 quận phía bắc nhà Chu từ những năm 670 - 674. Trong cuộc phản công lớn thứ tư của Võ hoàng với người Khiết Đan vào tháng 5 năm 697, Võ hoàng đã cử Lâu Sư Đức và Shatuo Zhongyi cùng với 200.000 quân Chu đi ngăn chặn Khả hãn Tôn Vạn Vinh của Đại Khiết Đan quốc tiến xa hơn về phía nam. Tôn Vạn Vinh đã cố gắng yêu cầu quân tiếp viện từ Hãn quốc Hậu Đột Quyết của Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết. Tuy nhiên, Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết đã từ chối đề xuất thành lập liên minh giữa Khiết Đan và Đột Quyết. Thay vào đó, bằng cách nào đó, Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết đã liên minh với Võ hoàng và mở một cuộc tấn công lớn vào Đại Khiết Đan quốc. Trong khi đó, Khố Mạc Hề (Kumo Xi), một nhóm người thiểu số khác ban đầu liên minh với người Khiết Đan trong cuộc nổi loạn này, đã chuyển sang đầu hàng nhà Chu của Võ hoàng. Người Khiết Đan phải đối mặt với các cuộc tấn công tàn khốc của quân Đột Quyết từ phía bắc và lực lượng đồng minh 200.000 quân của nhà Chu và Khố Mạc Hề (Kumo Xi) tấn công từ phía nam. Ba thành Tùng Mạc, Thành Châu và Chongzhou của người Khiết Đan ở phía bắc lần lượt bị quân Đột Quyết đánh hạ. Quân Chu và Khố Mạc Hề (Kumo Xi) cũng nhanh chóng đánh chiếm lại Đàn Châu, Ngư Dương, Bắc Bình, Đàn Châu, Du Quan từ tay người Khiết Đan ở phía nam. Đánh bại quân Khiết Đan liên tiếp, Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết của Hãn quốc Hậu Đột Quyết cùng con là A Sử Na Bặc Câu và tướng A Sử Đức Nguyên Trân dẫn quân Đột Quyết đánh thẳng vào kinh đô Doanh Châu của Đại Khiết Đan quốc. Trong tình huống nguy cấp này, Khả hãn Tôn Vạn Vinh lại bị ám sát bởi chính một trong những thuộc hạ của mình, và lực lượng Đại Khiết Đan quốc sụp đổ. Quân Đột Quyết tiến hành tàn sát người Khiết Đan trong thành Doanh Châu không thương tiếc. Người Khiết Đan bỏ chạy sang Liêu Hà ở phía đông trong sự hỗn loạn. Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết, A Sử Na Bặc Câu và A Sử Đức Nguyên Trân dẫn quân Đột Quyết, phối hợp với quân nhà Chu và Khố Mạc Hề (Kumo Xi) do Lâu Sư Đức và Shatuo Zhongyi chỉ huy, tấn công dân chúng Khiết Đan ở Liêu Hà. Đại Tộ Vinh (Dae Joyoung) ở thành Ansi nghe tin thì đưa quân Cao Câu Ly đến Liêu Hà để cứu dân chúng Khiết Đan đang bị liên quân Chu - Đột Quyết - Khố Mạc Hề tấn công. Liên quân Chu - Đột Quyết - Khố Mạc Hề bị Đại Tộ Vinh đánh lui. Đại Tộ Vinh chỉ cứu được một nhóm dân chúng Khiết Đan và Đại Tộ Vinh cho an trí họ ở 9 thành trì do mình kiểm soát tại Liêu Đông. Tuy nhiên vẫn còn nhiều nhóm người Khiết Đan ở xung quanh khu vực Liêu Hà đó, họ tụ tập lại chờ thời cơ đánh trả lại nhà Chu của Võ hoàng. Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết sau đó trao lại bốn thành trì Tùng Mạc, Thành Châu, Chongzhou và Doanh Châu cho quân Chu rồi lại rút về phía tây. Tướng của Khả hãn Tôn Vạn Vinh là Lý Giai Cố (李楷固) và tướng dưới quyền Lý Giai Cố là Lạc Vũ Chỉnh (駱務整) quy hàng Võ hoàng nhà Chu. Võ hoàng ban đầu muốn xử trảm Lý Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh vì họ từng làm lung lay chính quyền của bà, nhưng Địch Nhân Kiệt đã can ngăn và khuyên bà phong cho 2 người họ làm tướng nhà Chu. Võ hoàng đồng ý và làm theo lời của Địch Nhân Kiệt. Thủ lĩnh Phất Niết Mạt Hạt là Lý Đa Tộ được Võ hoàng trao chức vụ lớn hơn là Hữu Vũ Lâm Đại tướng quân (右羽林大將軍) và trở thành chỉ huy của đội cận vệ hoàng gia ở cổng phía bắc của cung điện Lạc Dương. Đại Tộ Vinh chiếm cứ đông bắc nhà Chu lập ra nước Đại Chấn vào năm 698 Sau cuộc nổi dậy của Lý Tận Trung và Tôn Vạn Vinh bị dập tắt, tộc người Khiết Đan ở phía bắc Doanh Châu nhà Chu bắt đầu trung thành với người Đột Quyết như Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết và Võ hoàng đã lên kế hoạch từ ban đâu vào năm 696. Người Khố Mạc Hề (Kumo Xi) cũng thần phục A Sử Na Mặc Xuyết. Võ hoàng cũng bổ nhiệm một thủ lĩnh người Khiết Đan mới tên là Lý Thất Hoạt (李失活) làm Khả hãn mới của tộc Khiết Đan phía bắc Doanh Châu nhà Chu. Lý Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh sau đó được Võ hoàng phái đi trấn áp các lực lượng Khiết Đan còn chống đối nhà Chu ở Liêu Hà phía đông bắc nhà Chu. Cha con Đại Trọng Tượng (Dae Jungsang) và Đại Tộ Vinh (Dae Joyoung) khi đó đang di dời quân đội, dân cư từ các thành Ansi, Liêu Thành và Baekham sang núi Đông Mưu (Dongmo, nay thuộc Mãn Châu, Trung Quốc) và núi Bạch Đầu (Baekdu), với ý định xây dựng kinh đô cho quốc gia mới ở núi Đông Mưu. Quân Chu do Lý Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh chỉ huy sau đó trấn áp thành công các lực lượng người Khiết Đan ở Liêu Hà. Một lực lượng Khiết Đan còn lại tiếp tục chạy sang phía đông đi theo đoàn quân của cha con Đại Trọng Tượng và Đại Tộ Vinh. Năm Thánh Lịch nguyên niên (698) Đại Trọng Tượng (大仲象 Dae Jung-sang) và con trai là Đại Tộ Vinh (大祚榮 Dae Jo-young) cùng với thủ lĩnh Bạch Sơn Mạt Hạt là Khất Tứ Bỉ Vũ (걸사비우, 乞四比羽 bính âm: Qǐsì bǐyǔ) vẫn chống đối nhà Chu của Võ hoàng. Theo Tân Đường thư, Võ hoàng đã phái sứ giả sang Liêu Đông sắc phong cho Đại Trọng Tượng là Chấn Quốc công và phong cho Khất Tứ Bỉ Vũ là Hứa Quốc công để yên lòng họ. Khất Tứ Bỉ Vũ đã từ chối chức danh Hứa Quốc công này. Nghe tin Đại Trọng Tượng, Đại Tộ Vinh và Khất Tứ Bỉ Vũ đang di dời quân đội và dân chúng từ ba thành Ansi, Liêu Thành và Baekham đến núi Đông Mưu và núi Bạch Đầu (Baekdu), tháng 5 (ÂL) cùng năm, Võ hoàng phái Lý Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh dẫn 200.000 quân Chu tấn công đoàn quân của Đại Trọng Tượng và Khất Tứ Bỉ Vũ. Lý Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh liền dẫn quân Chu chiếm lại các thành Ansi, Liêu Thành và Baekham đang bị bỏ trống, rồi tiếp tục dẫn quân Chu đuổi theo để chặn đánh nghĩa quân của Đại Trọng Tượng và Khất Tứ Bỉ Vũ giữa đường. Hai lãnh đạo Đại Trọng Tượng và Khất Tứ Bỉ Vũ đã cố gắng chống lại cuộc tấn công của Lý Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh nhà Chu nhưng do quân số ít hơn nên đành phải rút lui. Quân Chu của Lý Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh tàn sát dân chúng của nghĩa quân rất nhiều. Thấy Lý Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh cho quân Chu hạ trại chặn đường đến núi Đông Mưu, Đại Trọng Tượng và Khất Tứ Bỉ Vũ, Đại Tộ Vinh sau đó cho đoàn quân và dân chúng di chuyển vòng qua doanh trại quân Chu đi theo hướng đông bắc, liên tiếp để các toán quân đoạn hậu chặn quân Chu truy kích, giúp nghĩa quân có nhiều thời gian di dời dân chúng đến gần núi Đông Mưu và Bạch Đầu (Baekdu) hơn. Lý Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh liên tục tấn công nghĩa quân, giết dân chúng. Đại Trọng Tượng và Đại Tộ Vinh cùng đoàn quân và dân chúng đến chân núi Cheonmunryeong (tiếng Trung: 天門嶺; Hán-Việt: Thiên Môn Lĩnh; bính âm: Tiānmén lǐng) thì phái Khất Tứ Bỉ Vũ (Gulsabiwu) dẫn 5000 quân Mạt Hạt chặn đường vào núi của quân Chu. Sau đó Đại Trọng Tượng và Đại Tộ Vinh dẫn dân chúng đi vào hẻm núi Cheonmunryeong để đến núi Đông Mưu và núi Bạch Đầu (Baekdu). Đại Trọng Tượng và Đại Tộ Vinh dẫn 8000 tàn quân và dân chúng (chủ yếu là người Cao Câu Ly và người Mạt Hạt) đến được núi Đông Mưu và núi Baekdu thì cho an trí quân đội và dân chúng. Sau đó Đại Trọng Tượng và Đại Tộ Vinh dẫn quân quay lại Cheonmunryeong (Thiên Môn Lĩnh) giúp Khất Tứ Bỉ Vũ ngăn cản quân Chu của Lý Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh. Lý Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh liên tục tấn công nghĩa quân ở Cheonmunryeong. Cả Khất Tứ Bỉ Vũ và Đại Trọng Tượng đều chết trong cuộc đại chiến tại Cheonmunryeong gần núi Đông Mưu này, nhưng Đại Tộ Vinh đã lãnh đạo những quân lính Cao Câu Ly và Mạt Hạt còn lại và tiếp tục chống lại quân nhà Chu do Lý Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh chỉ huy. Đại Tộ Vinh đặt 1000 địa điểm mai phục, tiến hành đánh du kích, tập kích quân Chu của Lý Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh 1000 lần. Trận đánh giữa Đại Tộ Vinh và quân nhà Chu của Lý Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh rất ác liệt tiếp tục diễn ra tại Cheonmunryeong (tiếng Trung: 天門嶺; Hán-Việt: Thiên Môn Lĩnh; bính âm: Tiānmén lǐng) cùng năm 698, và kết quả là quân của Đại Tộ Vinh đã chiến thắng. Để thực hiện giấc mơ của cha mình, Đại Tộ Vinh giành lấy 1 miền lãnh thổ rộng lớn của Mãn Châu ngày nay, lập ra vương quốc Đại Chấn (Daejin), tự xưng là Chấn vương, xây dựng kinh thành tại gần núi Đông Mưu, nên thành cũng được đặt tên là Đông Mưu (nay thuộc tỉnh Cát Lâm, Trung Quốc). Chấn vương Đại Tộ Vinh phái sứ giả sang Hãn quốc Hậu Đột Quyết, lập liên minh chống nhà Chu với Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết. A Sử Na Mặc Xuyết đánh phá phía bắc nhà Chu, Đại Tộ Vinh đánh phá An Đông đô hộ phủ của nhà Chu Cùng năm 698, Thiên Thiện Khả hãn của Hãn quốc Hậu Đột Quyết là A Sử Na Mặc Xuyết đòi hòa thân với nhà Chu. Võ hoàng cho cháu mình là Võ Diên Tú thành hôn với Công chúa Đột Quyết, A Sử Na Mặc Xuyết không chịu và bắt giam Võ Diên Tú, sau đó gây hấn với Chu, dẫn quân vượt Vạn Lý Trường Thành, tiến đánh đến Triệu Châu (thuộc khu vực Thạch Gia Trang, Hà Bắc hiện nay) của nhà Chu. A Sử Na Mặc Xuyết lập tướng nhà Chu là Diêm Trí Vi (阎知微) làm Nam Diện Khả hãn (南面可汗) rồi thuyết phục Diêm Trí Vi giúp ông xâm chiếm các thành phố Triệu Châu và Định Châu (thuộc Hà Bắc, Trung Quốc hiện nay). Tướng nhà Chu là Mộ Dung Huyền Kiểu (慕容玄皦) mang 5000 binh lính Chu quy hàng A Sử Na Mặc Xuyết. Tháng 8 cùng năm, A Sử Na Mặc Xuyết tấn công Định Châu nhà Chu, chiếm được Định Châu và giết chết tướng nhà Chu là Tôn Ngạn Cao (孙彦高), đồng thời thiêu rụi thành phố Định Châu. Võ hoàng tức giận đến mức ban bố rằng nếu ai giết được Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết sẽ được phong làm Hoàng tử nhà Chu. Sau đó, Võ hoàng đổi tên A Sử Na Mặc Xuyết thành A Sử Na "Trảm Xuyết" ("斩啜", nghĩa là A Sử Na "đầu bị chặt") như một cách chơi chữ của cái tên Mặc Xuyết của ông. A Sử Na Mặc Xuyết nghe tin thì nổi giận, vào tháng 9 cùng năm, Triệu Châu cũng bị A Sử Na Mặc Xuyết tấn công. Phó tướng nhà Chu giữ thành Triệu Châu là Đường Ba Nhược (唐波若) mở cổng thành Triệu Châu và chủ tướng nhà Chu giữ thành Triệu Châu là Cao Duệ (高睿) ngay lập tức bị quân Đột Quyết xử tử. Võ hoàng lệnh cho Thái tử Võ Hiển làm nguyên soái, Địch Nhân Kiệt làm phó nguyên soái để trừng phạt người Đột Quyết và ổn định tình hình tại đó. Các tù trưởng ở phía bắc thấy Võ Hiển đến thì đều lần lượt hưởng ứng, lực lượng của Võ Hiển đông đến 5 vạn quân. Tuy nhiên, người Đột Quyết của Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết đã rút lui trước khi quân đội nhà Chu tới nơi. Vào tháng 10 cùng năm, A Sử Na Mặc Xuyết để Nam Diện Khả hãn (南面可汗) là Diêm Trí Vi (阎知微) trở về nhà Chu. Diêm Trí Vĩ lập tức bị bắt và bị Võ hoàng xử tử vì tội phản quốc. Năm Thánh Lịch thứ 2 (699), quốc chủ của Thổ Phồn giết chết Luận Khâm Lăng, con của Luận Khâm Lăng là Luận Cung Nhân cùng Luận Tán Bà đầu hàng Chu, đồng thời trao trả An Tây đô hộ phủ lại cho Võ hoàng. Kể từ lúc đó, Thổ Phồn lâm vào tình cảnh rối ren, xung đột và trong một thời gian không còn gây hấn với Trung Hoa như trước nữa. Chấn vương Đại Tộ Vinh dẫn quân Đại Chấn đánh chiếm nhiệm sở của An Đông đô hộ phủ là Tân Thành (này là Phú Thuận, Liêu Ninh, Trung Quốc). An Đông đô hộ Bùi Huyền Khê (裴玄珪) phải bỏ Tân Thành chạy trốn. Võ hoàng đổi nhiệm sở An Đông đô hộ phủ từ Tân Thành đã rơi vào tay Đại Tộ Vinh sang khu vực phía tây của Liêu Đông. Cao Đức Vũ nổi dậy chiếm cứ Liêu Đông lập ra Tiểu Cao Câu Ly năm 699 Cũng trong năm 699 này, nhà Chu của Võ hoàng cử hoàng tử Cao Câu Ly trước đây là Cao Đức Vũ (Go Deokmu), con trai thứ ba của vua Cao Câu Ly cuối cùng là Bảo Tạng Vương (Bojangwang), đến bán đảo Liêu Đông và đặt cho ông tước hiệu "Triều Tiên vương" (Joseonwang) và chức danh đô úy một quận của An Đông đô hộ phủ. Giống như cha mình những năm 677 - 681 từng lập hội Đông Minh Thiên (東明天氣盖世) chống lại nhà Đường, Cao Đức Vũ lên kế hoạch nổi loạn chống lại nhà Chu và hồi sinh Cao Câu Ly. Cao Đức Vũ giết hết quan lại nhà Chu ở Liêu Đông rồi lên ngôi vua, hình thành vương quốc Tiểu Cao Câu Ly ở Liêu Đông chống đối nhà Chu. Năm Thánh Lịch thứ 3 (700), theo Tân Đường thư, thấy Chấn vương Đại Tộ Vinh (Dae Joyoung) đang xây dựng nước Đại Chấn (Daejin) ở đông bắc Liêu Đông và Cao Câu Ly vương Cao Đức Vũ (Go Deokmu) lập quốc Tiểu Cao Câu Ly ở Liêu Đông, Võ hoàng phong cho Lý Giai Cố (李楷固) làm Yên Quốc công, ban quốc tính họ Võ cho Lý Giai Cố (gọi là Võ Giai Cố), rồi phái Võ Giai Cố dẫn 200.000 quân Chu tấn công Đại Tộ Vinh và Cao Đức Vũ bởi Võ Giai Cố biết rõ về Đại Tộ Vinh và Cao Đức Vũ. Yên Quốc công Võ Giai Cố chia quân cho Lạc Vũ Chỉnh tấn công biên giới Tiểu Cao Câu Ly rồi đích thân dẫn quân Chu tấn công các thành trì biên giới nước Đại Chấn. Chấn vương Đại Tộ Vinh dẫn quân đến hỗ trợ các thành trì chống quân Chu. Cao Câu Ly vương Cao Đức Vũ cũng dẫn quân đến biên giới giao tranh với quân đội nhà Chu của Lạc Vũ Chỉnh. Chấn vương Đại Tộ Vinh và Cao Câu Ly vương Cao Đức Vũ cùng Yên Quốc công Võ Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh kịch chiến với nhau ở bắc Liêu Đông và đông bắc Liêu Đông. Võ hoàng sau đó phát động một cuộc tấn công vào Hãn quốc Hậu Đột Quyết của Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết nhưng bị quân Đột Quyết đánh lui. Mùa thu cùng năm, tể tưởng nhà Chu là Địch Nhân Kiệt qua đời, Võ hoàng vô cùng thương tiếc, khóc và nói rằng "Triều đình từ nay trống không". Đột Quyết, Đại Chấn và Tiểu Cao Câu Ly cùng chống lại nhà Chu Năm Trường An nguyên niên (701), quân Hãn quốc Hậu Đột Quyết của Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết lại vượt Vạn Lý Trường Thành, xâm phạm biên giới nhà Chu. Chấn vương Đại Tộ Vinh đánh tan quân Chu của Yên Quốc công Võ Giai Cố, giải vây cho các thành trì biên giới nước Đại Chấn. Cao Câu Ly vương Cao Đức Vũ (Go Deokmu) cũng đánh tan quân đội nhà Chu của Lạc Vũ Chỉnh ở biên giới Tiểu Cao Câu Ly. Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết sai sứ sang nước Đại Chấn yêu cầu Chấn vương Đại Tộ Vinh hỗ trợ mình chống lại nhà Chu. Chấn vương Đại Tộ Vinh đồng ý và gửi 1 cánh quân Đại Chấn sang giúp A Sử Na Mặc Xuyết đánh các thành trì nhà Chu. Yên Quốc công Võ Giai Cố nghe tin thì kêu gọi Khả hãn Lý Thất Hoạt của tộc Khiết Đan phía bắc Doanh Châu và tộc Hắc Sơn Mạt Hạt đông bắc nước Đại Chấn cùng tấn công biên giới nước Đại Chấn. Chấn vương Đại Tộ Vinh chia quân làm ba cánh: cánh quân thứ nhất đi trấn áp tộc Hắc Sơn Mạt Hạt phía đông bắc, cánh quân thứ hai đánh đuổi tộc Khiết Đan phía tây bắc và cánh quân thứ ba tấn công các thành Baekam, Liêu Thành của nhà Chu phía tây nam. Cánh quân Đại Chấn thứ nhất đánh tan quân Hắc Sơn Mạt Hạt, chiếm lấy lãnh thổ của họ, chiếm lại ngọn núi đầy muối ven biển vốn thuộc Cao Câu Ly (Goguryeo) ngày xưa. Người Hắc Sơn Mạt Hạt phải chạy lên phía bắc. Cánh quân Đại Chấn thứ hai đánh tan quân Khiết Đan của Khả hãn Lý Thất Hoạt. Lý Thất Hoạt phải lui quân về Liêu Hà phía tây. Cánh quân Đại Chấn thứ ba thì bị Yên Quốc công Võ Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh cầm chân ở phía bắc Liêu Đông. Trong khi đó Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết cùng A Sử Na Mặc Cức Liên liên tục đánh chiếm các thành trì ở tây bắc nhà Chu. Tướng Chu có nhiệm vụ ngăn A Sử Na Mặc Xuyết và A Sử Na Mặc Cức Liên là Ngụy Nguyên Trung (魏元忠) thì bại trận liên tiếp. Lương Châu, Triệu Châu và Định Châu đều rơi vào tay của quân Đột Quyết. Quân Đột Quyết sắp tiến đến Trường An (nơi Võ hoàng đang ở). Chính quyền của Võ hoàng một lần nữa bị lung lay giống như 5 năm trước Khả hãn Tôn Vạn Vinh người Khiết Đan từng cho quân Khiết Đan nam hạ đánh sắp đến Lạc Dương. Thấy tình hình nguy cấp, Võ Đán phụng mệnh Võ hoàng đi đánh dẹp quân Đột Quyết của A Sử Na Mặc Xuyết đang tiến sâu vào lãnh thổ nhà Chu, nhưng sau đó quân Đột Quyết của A Sử Na Mặc Xuyết lui quân trước. Năm Trường An thứ 2 (702), Võ Đán được Võ hoàng phong làm Đô đốc Tĩnh châu, nhằm để cho Võ Đán canh chừng Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết xâm phạm bờ cõi nhà Chu của bà. Chấn vương Đại Tộ Vinh gọi cánh quân Đại Chấn đang đánh với quân Chu của Yên Quốc công Võ Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh ở phía bắc Liêu Đông trở về. Võ hoàng dường như đang dự tính thêm hành động quân sự ở phía đông bắc và giao tể tướng Ngụy Nguyên Trung chỉ huy. Thủ lĩnh Phất Niết Mạt Hạt là Lý Đa Tộ được Võ hoàng phong làm quyền chỉ huy tại U Châu (幽州, gần Bắc Kinh ngày nay), với sự hỗ trợ của các tướng Tiết Nột (con trai của Tiết Nhân Quý, nhân gian gọi là Tiết Đinh San) và Lạc Vũ Chỉnh (駱務整). Tuy nhiên, có vẻ như hành động quân sự này đã không được phát động trong năm 702. Sang năm Trường An thứ 3 (703), Võ Đán được Võ hoàng phong làm Ung châu mục, cai trị các vùng lãnh thổ phía tây, bao gồm cả Trường An. Cùng năm 703, Thiên Thiện Khả hãn của Hãn quốc Hậu Đột Quyết là A Sử Na Mặc Xuyết gửi sang nhà Chu một yêu cầu hòa thân khác cho A Sử Đức Nguyên Trân (một đại tướng của Hãn quốc Hậu Đột Quyết). Võ hoàng kỳ này chấp nhận lời hòa thân; đổi lại, Võ Diên Tú được trả tự do sau 5 năm giam cầm ở Hãn quốc Hậu Đột Quyết theo lệnh của A Sử Na Mặc Xuyết. Yên Quốc công Võ Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh tiếp tục dẫn quân Chu tấn công Tiểu Cao Câu Ly của Cao Câu Ly vương Cao Đức Vũ (Go Deokmu) ở Liêu Đông nhưng lại thất bại, phải lui quân. Năm Trường An thứ 4 (704), Võ hoàng phong cho Đường Hưu Cảnh (唐休璟) làm U Châu và Doanh Đẳng Châu đô đốc kiêm An Đông đô hộ, nhiệm sở ở phía tây Liêu Đông. Yên Quốc công Võ Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh lại dẫn quân Chu tiến đánh nước Đại Chấn của Chấn vương Đại Tộ Vinh. Năm Thần Long nguyên niên (705) Đường Trung Tông lấy lại quyền lực từ Võ hoàng, tôn Võ hoàng lên làm Thái thượng nữ hoàng, lấy lại quốc hiệu Đại Đường khiến cờ xí của Yên Quốc công Võ Giai Cố đang đánh Chấn vương Đại Tộ Vinh phải đổi từ Đại Chu sang Đại Đường. Võ Giai Cố cũng lấy lại họ Lý (gọi là Lý Giai Cố). Trận đánh giữa Chấn vương Đại Tộ Vinh và quân nhà Đường của Yên Quốc công Lý Giai Cố rất ác liệt diễn ra cùng năm 705, và kết quả là quân của Chấn vương Đại Tộ Vinh đã chiến thắng. Tướng Lạc Vũ Chỉnh của quân Đường tử trận. Yên Quốc công Lý Giai Cố cùng 1000 tàn quân Đường rút chạy về Liêu Hà phía tây Liêu Đông. Đại Tộ Vinh dẫn quân Đại Chấn đánh chiếm lại các thành Baekam, Liêu Thành và Ansi từ quân Đường, sau đó bao vây Liêu Hà của nhà Đường. Lý Giai Cố dẫn quân Đường ra quyết chiến với quân Đại Chấn của Đại Tộ Vinh. Kết cục, Yên Quốc công Lý Giai Cố tử trận ở Liêu Hà, quân đội nhà Đường thua tan tác. Đại Tộ Vinh cho quân rút khỏi Liêu Hà, lui về phía đông để tránh quân đội Tiểu Cao Câu Ly của Cao Câu Ly vương Cao Đức Vũ (Go Deokmu) ở Liêu Đông. Nhận thấy nhà Đường đã lấy lại quyền lực từ Võ hoàng nên Chấn vương Đại Tộ Vinh bèn thay đổi chính sách, hòa giải với nhà Đường (đến năm 712, Đại Tộ Vinh đổi lại quốc hiệu từ Đại Chấn sang Bột Hải). Đại Tộ Vinh còn phái con trai thứ hai là Đại Môn Nghệ (大門藝, Dae Mun-ye) sang Trường An nhà Đường làm con tin. Trong năm 705, vua Đường Trung Tông dời nhiệm sở của An Đông đô hộ phủ từ phía tây Liêu Đông sang U Châu (nay là Bắc Kinh, Trung Quốc), đồng thời gọi An Đông đô hộ Đường Hưu Cảnh (唐休璟) từ phía tây Liêu Đông về U Châu. Cũng trong năm 705, quân đội Hãn quốc Hậu Đột Quyết do A Sử Na Mặc Cức Liên chỉ huy tiến vào đất Lingwu nhà Đường, đánh bại tướng nhà Đường là Sa Tra Trung Nghĩa (沙吒忠义). Sa Tra Trung Nghĩa sau đó bị vua Đường Trung Tông cách chức. Vua Đường Trung Tông tức giận từ chối yêu cầu hòa thân của Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết và tuyên bố trao thưởng cho bất kỳ ai giết được A Sử Na Mặc Xuyết. Tranh chấp Lý-Võ Không bao lâu sau khi chiếm ngôi, Võ hoàng cho xây chùa Đại Vân ở Trường An và Lạc Dương, đồng thời phong cho 9 nhà sư lên tước Công. Có thể nói, vào thời Võ hoàng lâm triều trị quốc, Phật giáo luôn chiếm địa vị độc tôn trong hệ thống tư tưởng ở Trung Quốc. Về tổ tiên của mình, bà cho đem bài vị tổ tiên trong vòng 7 đời vào thờ ở Thái miếu, tuy nhiên bà vẫn tiếp tục cúng bái 3 vị Hoàng đế họ Lý là Đường Cao Tổ, Đường Thái Tông và Đường Cao Tông của nhà Đường. Mặc dù Duệ Tông được lập làm Hoàng tự, nhưng thế lực của Thân vương khác là Võ Thừa Tự, Võ Tam Tư cũng rất lớn mạnh. Năm Thiên Thụ thứ 2 (691), các đại thần Trương Gia Phúc, Vương Khánh Chi muốn lấy lòng Võ hoàng, nên dâng thư xin bà lập Võ Thừa Tự làm Thái tử, vì người họ Võ thì nên truyền ngôi cho người họ Võ. Bà ban đầu có vẻ bằng lòng. Tháng 7 (ÂL) cùng năm ấy, các Tể tướng Sầm Trường Sai, Cách Phụ Nguyên và Tư lễ khanh kiêm Phán Nạp ngôn sự Âu Dương Thông lên tiếng phản đối một cách gay gắt. Võ Thừa Tự ghét lắm, bày mưu với Lai Tuấn Thần vu hãm cả ba cùng các quan viên ủng hộ 3 người, đến tháng 10 cùng năm thì toàn bộ đều bị giam và giết hại. Đại thần Lý Chiêu Đức cũng vì bất bình với Võ Thừa Tự, liền sau đó bị lưu đày và bị giết, rất có thể do Võ Thừa Tự hãm hại. Tuy nhiên Võ hoàng vẫn chưa lập Võ Thừa Tự làm thái tử, chỉ cho Thừa Tự có thể tự do vào cung thỉnh an. Về sau do Vương Khánh Chi vào cung quá nhiều và tỏ ra vô lễ, bà bàn với tướng Lý Hiếu Dật trừng phạt hắn ta. Lý Du Đạo nhân cơ hội đó, cho đánh chết Vương Khánh Chi và khuyên bà giữ lại ngôi kế vị cho họ Lý, vì nếu họ Võ làm Hoàng đế thì 3 vị Hoàng đế nhà Đường sẽ không còn được thờ ở Thái miếu. Võ hoàng bằng lòng, sau đó bà còn hạ lệnh tước quyền tể tướng của Võ Thừa Tự, chỉ trao cho các chức vụ trên danh nghĩa, không nắm thực quyền. Lúc này thế lực của bọn Lai Tuấn Thần ngày càng lớn mạnh, ngoi lên chức Tả Thái trung thừa. Mùa xuân năm Trường Thọ nguyên niên (692), Tuấn Thần tố cáo 3 vị Bình chương sự là Nhậm Tri Giả, Địch Nhân Kiệt và Bùi Hành Bổn cùng bọn đại thần Bùi Tuyên Lễ, Lư Hiến, Ngụy Nguyên Trung, Lý Tự Chân mưu phản. Bảy người này đều bị tống vào ngục. Địch Nhân Kiệt ở trong ngục bí mật viết sớ kêu oan, rồi tìm cơ hội gửi cho con ông ta là Địch Quang Viễn để trình lên trên cho Võ hoàng xem xét. Cuối cùng, 7 vị đại thần thoát chết nhưng bị lưu đày. Về sau các Tể tướng Lý Du Đạo, Chu Kính Tắc, Chu Củ ra sức kiềm chế bọn Tuấn Thần nên thế lực không còn được như trước. Năm Trường Thọ thứ 2 (693), người phụ nữ được Võ Tắc Thiên sủng ái là "Đoàn Nhi" (團兒) oán hận Hoàng tự Võ Đán vì dụ dỗ không thành, thường gièm pha trước mặt Võ hoàng. Sau đó Vi thị vu cáo vợ Hoàng tự là Lưu thị cùng người thiếp của ông, Đậu thị, lập đàn bùa phép mưu hại Võ hoàng, do đó Võ hoàng nhân lúc hai người vào thỉnh an đã bí mật giết chết. Hoàng tự rất lo sợ, mình sẽ bị liên lụy, do đó ông không dám khóc thương cho hai người, sinh hoạt vẫn tiến hành như bình thường. Tuy nhiên sau đó Đoàn Nhi lại tiếp tục tìm cớ hãm hại Hoàng tự, Võ hoàng không còn tin thị nữa, sai giết đi. Cũng trong lúc đó, mẹ của Đậu Đức phi là Bàng thị bị người đến tố cáo, Bàng thị bị khép tội chết, cho giảm một bậc. Có lời đồn các đại thần Bùi Phỉ Cung, Phạm Nhân Tiên bí mật gặp Hoàng tự, Võ hoàng liền cho xử tử cả hai. Lai Tuấn Thần còn tố cáo Hoàng tự mưu phản, Võ hoàng liền tin mà tức giận, sai giam lỏng ông trong phủ, không cho đại thần gặp mặt, đồng thời phế các con ông từ thân vương làm quận vương. Những người bị nghi đồng mưu đều bị Lai Tuấn Thần tra tấn dã man. Bấy giờ có An Kim Tàng tự mổ bụng của mình để giải oan cho Hoàng tự. Bà nghe tin cảm động, cho ngự y tới chữa trị Kim Tàng và xá miễn cho Hoàng tự khỏi phải mang tội nữa. Võ Hiển về kinh Đối với Võ hoàng, cháu trai Võ Thừa Tự thực sự được tín nhiệm, từ khi Võ hoàng lên ngôi đến khi Thừa Tự chết, các tôn hiệu dành cho bà đều do Thừa Tự đích thân vận động. Cũng những dịp này, Võ hoàng rất cao hứng mà nhiều lần đại xá. Trong sự kiện chọn lựa lập Lý hay lập Võ kế thừa, Võ Thừa Tự cũng nằm trong danh tuyển. Nhưng vì vấn đề của Lý Chiêu Đức và Địch Nhân Kiệt, Võ hoàng do dự và quyết định hủy bỏ tư cách của Võ Thừa Tự, hạn chế đi quyền lực đáng kể của ông ta trong triều. Sau khi loại Võ Thừa Tự, thế lực của Lý Du Đạo trở nên lớn mạnh nên Võ hoàng có phần e ngại, bèn bãi chức ông ta. Mùa thu năm Diên Tải (694), Lai Tuấn Thần từng bị biếm làm Tham quân Đồng Châu, Vương Hoằng Nghĩa bị đày ra Quỳnh Châu rồi bị giết. Nhưng không lâu sau đó, Lai Tuấn Thần và Lý Du Đạo lại được Võ hoàng bổ dụng. Năm Thần Công (697), Tuấn Thần lập mưu tố cáo Du Đạo làm phản, nhân cơ hội đó sẽ tìm cách hãm hại hai hoàng tử (Lý Triết và Lý Đán) cùng Thái Bình Công chúa, thế là công chúa bèn liên kết với người họ Lý và họ Võ, tố cáo ngược lại Tuấn Thần. Cuối cùng, Võ hoàng cho giết cả Lai Tuấn Thần và Lý Du Đạo. Từ đó thế lực của Lai Tuấn Thần từng tác quái nhiều năm trong triều đã bị đánh đổ. Năm Thánh Lịch nguyên niên (698), hai người cháu dòng họ Võ của bà là Võ Thừa Tự và Võ Tam Tư muốn giành ngôi thái tử, kết bè kết cánh chống lại nhau và cùng âm mưu lật đổ Hoàng tự Lý Đán, nên thường lệnh cho người bên cạnh Võ hoàng to nhỏ: "Từ xưa đến nay, chẳng có quân vương nào lập người khác họ làm trữ tự thừa kế!". Với vấn đề này, Võ hoàng luôn cảm thấy bất an vì không có ý muốn lập ai trong hai người này làm thái tử. Đại thần Địch Nhân Kiệt dâng sớ nói rằng Cao Tông lúc chết đem hai con phó thác cho bà, nay dù Võ hoàng lên ngôi nếu như muốn đem thiên hạ giao cho người cùng họ là trái ý trời, mà không có tiền lệ gì mà cô nhường ngôi cho cháu. Nếu lập con thì sau này bà còn được vào Thái miếu, nếu lập cháu thì về sau không biết địa vị của bà sẽ ở đâu. Võ hoàng bèn nghe theo. Sau đó Nhân Kiệt lại khuyên bà triệu Lư Lăng vương là Lý Triết về kinh, được Vương Phương Khánh, Vương Cập Thiện và U Châu tướng Tôn Vạn Vinh khuyến khích, Võ hoàng cuối cùng xiêu lòng. Tháng 4 (ÂL) năm ấy, Võ hoàng ra lệnh rằng Lư Lăng vương Lý Triết trong người có bệnh, đặc cách cho về kinh, lại cho phép vợ con đi theo. Tháng 9 (ÂL) cùng năm, Hoàng tự Võ Đán dâng sớ xin nhường ngôi kế vị cho Lư Lăng vương, bà bằng lòng, giáng Hoàng tự Võ Đán làm Tương vương và chính thức lập Lư Lăng vương Triết làm hoàng thái tử, đổi tên là "Hiển" như cũ, nhưng phải đổi sang họ Võ. Điều này khiến Võ Thừa Tự uất ức thống hận và qua đời không lâu sau đó. Sau khi Võ Hiển được làm thái tử, Võ hoàng do sợ rằng sau khi mình qua đời thì hai nhà Lý, Võ sẽ không dung nhau, nên hạ lệnh bắt Võ Hiển, Võ Đán, Thái Bình Công chúa và phò mã Võ Du Kỵ phải thề độc rằng không làm hại họ Võ. Lúc này, Võ hoàng dần dần sa vào hưởng lạc. Từ sau khi Tiết Hoài Nghĩa thất sủng, Thái Bình Công chúa còn tiến cử Trương Xương Tông có tài thổi sáo, rất đẹp trai lại có tài trong phòng the khiến Võ hoàng rất vui. Xương Tông lại tiến cử anh mình là Trương Dịch Chi vào hầu hạ. Hai anh em nhanh chóng được Võ hoàng sủng ái, ban cho chức tước, mẹ ruột được phong tặng làm thái phu nhân, điều này khiến các quan viên có thế lực luôn muốn dò ý Võ hoàng là Võ Thừa Tự, Võ Tam Tư và Tông Sở Khách luôn nịnh nọt hai anh em họ Trương, còn thường xuyên làm khách trong nhà, không tiếc liêm sỉ gọi Dịch Chi là "Ngũ lang" (五郎) và Xương Tông là "Lục lang" (六郎). Không những thế, họ Trương còn liều lĩnh cặp ngay với một nha đầu thân cận của Võ hoàng. Vào một ngày bị Võ hoàng bắt gặp, bà đã rút gươm và chém sượt qua đầu. Tuy nhiên sau đó chuyện này đã được giải quyết êm vì Thái Bình Công chúa có ý kiến rằng: "Không nên làm to chuyện, làm trò cười cho thiên hạ". Lúc này bà tuổi cao, anh em họ Trương dần tìm cách can dự vào triều chính, khiến các con của Võ Hiển là Thiệu vương Lý Trọng Nhuận, Vĩnh Thái Công chúa Lý Tiên Huệ, Phò mã Võ Diên Cơ (con trai Võ Thừa Tự) đều rất bất bình. Anh em họ Trương nhân đó gièm pha, Võ hoàng phái người ban chết. Quyền hành ngày một hưng thịnh khiến cả Tương vương và Thái Bình Công chúa dâng tấu xin ban cho hai anh em tước vương, hòng dò ý tứ của Võ hoàng, nhưng chung quy Võ hoàng vẫn tỉnh táo về vấn đề này, chỉ ban cho Xương Tông tước "Nghiệp Quốc công" (鄴國公). Năm Trường An thứ 3 (703), anh em họ Trương oán giận tể tướng Ngụy Nguyên Trung vì Nguyên Trung không coi trọng bọn Trương Xương Nghi và Trương Xương Kỳ, anh em họ của Dịch Chi. Hai người này cũng lo sợ sau khi bà chết đi thì Nguyên Trung sẽ tìm cách hại mình, nên đã cáo buộc Nguyên Trung cùng Cao Tiển, thân cận của Thái Bình Công chúa, ngày đêm mong cho bà chóng chết. Anh em họ Trương còn thuyết phục Trương Thuyết ra làm chứng, nhưng Trương Thuyết nói hết âm mưu của hai tên đó trước mặt Võ hoàng. Nhưng rốt cục, Võ hoàng vì mải mê nam sủng nên vẫn lưu đày Ngụy Nguyên Trung, Cao Tiển và Trương Thuyết. Mùa thu năm thứ 4 (704), nhiều quan lại lên tiếng cáo buộc Trương Dịch Chi, Trương Xương Tông và anh em họ là Đồng Hưu, Xương Kỳ nhận hối lộ; Võ hoàng bèn giáng chức Đồng Hưu và Xương Kì nhưng lại giật dây cho Tể tướng Dương Tái Tư không được động tới hai nam sủng của mình, nên anh em họ Trương được vô sự. Thoái vị và qua đời Chính biến Thần Long Năm Trường An thứ 4 (704), tháng 12 (ÂL), Võ hoàng lâm bệnh ở Trường Sinh viện (長生院). Các đại thần đều không được gặp mặt, chỉ có anh em họ Trương được vào hầu mà thôi. Nhiều đại thần e ngại bọn họ Trương sẽ tìm cách chiếm ngôi, nên lũ lượt dâng sớ tố cáo chúng về tội phản quốc. Sau khi bệnh tình của bà có thuyên giảm, Tể tướng Thôi Huyền Vĩ đề nghị chỉ nên cho Thái tử Võ Hiển và Tương vương Võ Đán được vào hầu mà thôi, nhưng bà không theo. Về sau còn có Hoàn Ngạn Phạm và Tống Cảnh dâng sớ cáo buộc, bà cho Tống Cảnh điều tra việc đó, nhưng không được bao lâu lại hạ lệnh xá miễn cho bọn họ Trương. Sang mùa xuân năm sau (705), cải niên hiệu là Thần Long (神龍). Sau khi cải nguyên không lâu, Võ hoàng lại lâm bệnh, thường xuyên ở Nghênh Tiên cung (迎仙宮) và không hỏi đến chính sự. Anh em Dịch Chi và Xương Tông tiếp tục trông giữ mọi việc, lúc này cả hai lần lượt được ghi đảm nhiệm Lân đài giám (麟台監) cùng Xuân Quan Thị lang (春官侍郎). Các đại thần là Phụng Các Thị lang Trương Giản Chi, Loan Đài Thị lang Thôi Huyền Vĩ, Trung Đài Hữu thừa Kính Huy, Tư Hình Thiếu khanh Hoàn Ngạn Phạm, Tương vương phủ Tư mã Viên Thứ Kỷ và Tả Tán kỵ Thị lang Lý Trạm muốn diệt trừ hai tên gian thần này, khôi phục lại nhà Đường. Trương Giản Chi hỏi Hữu Vũ Lâm Đại tướng quân Lý Đa Tộ (thủ lĩnh bộ lạc Phất Niết Mạt Hạt đang làm tướng cho nhà Chu) rằng: Ai đã cho ngài vinh quang và vinh dự này, thưa tướng quân? Lý Đa Tộ đã khóc và trả lời rằng: Là Đại hoàng đế (tức là Đường Cao Tông, phu quân của Võ Tắc Thiên). Trương Giản Chi sau đó nói tiếp: Bây giờ, các con trai của Đại hoàng đế đang bị hai tên lưu manh (tức là Trương Dịch Chi và Trương Xương Tông) gây nguy hiểm, và tướng quân không muốn báo đáp lại Đại hoàng đế hay sao? Lý Đa Tộ đáp: Miễn là có lợi cho quốc gia (tức là nhà Đường), ta sẽ làm theo chỉ đạo của ngài, thưa tể tướng. Ta không dám coi thường sự an toàn của bản thân và gia đình. Sau đó Lý Đa Tộ tham gia vào âm mưu chính biến của Trương Giản Chi. Sau đó bọn họ thuyết phục Võ Hiển cho phép bọn họ làm binh biến. Đấy gọi là Thần Long cách mệnh (神龍革命) hay Chính biến Thần Long. Để dễ bề hành động, Trương Giản Chi tiến Hoàn Ngạn Phạm và Kính Huy đều là Tả Hữu Tướng quân của Vũ Lâm vệ, nắm lấy binh quyền. Dịch Chi sinh nghi, để cho đồng đảng là Võ Du Nghi làm Hữu Vũ Lâm Đại tướng quân. Việc vẫn không dừng lại, Giản Chi và Kính Huy bèn đến Đông Cung, nơi Thái tử Võ Hiển cư trú để bàn định kế sách, đều thông qua. Ngày Quý Mão, tức ngày 22 tháng 1 (nhằm ngày 20 tháng 2 dương lịch), Trương Giản Chi, Hoàng Ngạn Phạm cùng Tả Uy vệ Tướng quân Tiết Tư Hành, cùng tất cả quan lại ủng hộ (hơn 10 người) dẫn hơn 500 quân Thiết kỵ tiến vào Huyền Vũ môn, sai Lý Đa Tộ và Phò mã Đô úy Vương Đồng Hiệu đến Đông cung để nghênh đón Hoàng thái tử Võ Hiển vào cung. Thái tử nghi ngờ, cứ do dự mãi, bọn họ nói: "Thần phụng mệnh tiên đế phò tá điện hạ, không may sự bị phế, chúng thần đều đau buồn, ròng rã 23 năm trời! Nay thời cơ đến, Bắc môn, Nam nha, tất đều đồng tâm hiệp lực, khôi phục cơ đồ xã tắc họ Lý. Mong điện hạ tạm di giá Huyền Vũ môn, đừng làm chúng thần thất vọng!" Thế rồi Võ Hiển lên ngựa đến Huyền Vũ môn, trảm quan gác cổng để vào cung. Trong khi ấy, bọn người Trương Giản Chi tiến vào trong cung, giết chết anh em Trương Dịch Chi và Trương Xương Tông rồi kéo nhau vào Trường Sinh điện, nơi ở của Võ hoàng. Khi bên ngoài ồn ào, Võ hoàng thất kinh, hỏi rằng: "Bọn loạn giả là ai?!" Trương Giản Chi nói: "Trương Dịch Chi, Trương Xương Tông mưu phản, chúng thần phụng mệnh Thái tử mà giết chết. Sự việc nguy cấp, nên làm có chút hồ đồ. Xưng binh cung cấm, tội đương vạn tử!". Võ hoàng thấy Võ Hiển thì biết rõ cơ sự, bảo: "Tiểu tử đã giết được rồi, mau về Đông cung đi". Hoàn Ngạn Phạm không đồng ý, tiến lên nói rằng: "Thái tử an đắc canh quy! Cố nhớ Thiên hoàng năm xưa để cho con trai ký thác bệ hạ. Nay ngài đã lớn tuổi mà vẫn mãi ở Đông cung, trong khi thiên hạ nhân tâm đều thương nhớ họ Lý. Chúng quần thần không quên ân đức của Thái Tông và Thiên hoàng, nên cố trừ đi bọn loạn thần. Nay xin bệ hạ truyền ngôi cho Thái tử, ấy là thuận theo ước vọng của thiên hạ!". Võ hoàng trầm ngâm hồi lâu, nhìn thấy Lý Trạm, vốn là con trai Lý Nghĩa Phủ, bà bèn nói: "Ngươi cũng tham gia chuyện này, giết đi Dịch Chi tướng quân của ta?! Ta đối với cha con ngươi không bạc, hà cớ lại phản ta?!" Lý Trạm sợ hãi không dám đáp, bà bèn nói với Trương Giản Chi: |"Bọn chúng ai cũng đều là kẻ khác tiến cử, duy có khanh là do ta cất nhắc! Thế mà khanh cũng hùa theo sao?!". Trương Giản Chi xúc động nói: "Thần làm thế là để bảo vệ đại ân đại đức của bệ hạ". Sau đó, trảm hết tất cả những thân thuộc họ Trương. Tôn xưng Tắc Thiên Hoàng đế Ngày hôm sau, Giáp Thìn (ÂL), Võ hoàng mệnh Thái tử giám quốc, đại xá thiên hạ. Tất cả các đại thần đều trọng thưởng, trong đó có năm người đi đầu: Trương Giản Chi, Thôi Huyền Vĩ, Kính Huy, Hoàn Ngạn Phạm và Viên Thứ Kỷ đều phong làm quận công, Lý Đa Tộ thụ phong "Liêu Dương Quận vương" (遼陽郡王), Vương Đồng Hiểu thụ phong "Lang Tà Quận công" (琅邪郡公), Lý Trạm thụ phong "Triệu Quốc công" (趙國公), còn các quan viên khác đều được thưởng theo thứ bậc. Sang ngày Ất Tị (ÂL), Võ hoàng chính thức thiện nhượng, thế là Thái tử Võ Hiển lên ngôi lần thứ hai, tức Đường Trung Tông, đổi quốc tính từ họ Võ lại thành họ Lý như cũ. Ngày 4 tháng 2 (tức ngày 3 tháng 3 dương lịch), quốc hiệu "Đường" chính thức được khôi phục, nhà Võ Chu chấm dứt. Tổng cộng Võ hoàng ở ngôi 15 năm. Ngày Đinh Mùi (ÂL) tháng 1 năm ấy, sau khi Trung Tông lên ngôi, Võ hoàng được mời dời qua Thượng Dương cung (上陽宮). Sang hôm sau, Trung Tông dẫn đầu bá quan đến Thượng Dương cung để dâng tôn hiệu, là Tắc Thiên Đại Thánh Hoàng đế (則天大聖皇帝). Theo như vậy mà nói, dẫu không được đề cập, nhưng Võ hoàng đã vẫn giữ vị trí hoàng đế sau khi thiện nhượng, hẳn được xem là thái thượng hoàng nữ giới duy nhất trong lịch sử Trung Quốc. Tháng 2 (ÂL), Trung Tông dẫn trăm quan đến Thượng Dương cung vấn an Võ hoàng, từ đó cứ 10 ngày thì Trung Tông sẽ dẫn quan viên đến vấn an, lấy đó làm lệ thường. Ngày 26 tháng 11 (tức ngày 16 tháng 12 dương lịch) cùng năm, Võ hoàng triệu chế lệnh về chuyện xưng hô ra sao, lệnh bỏ đi đế hiệu, phục lại hai họ Vương, họ Tiêu của Vương Hoàng hậu cùng Tiêu Thục phi, nhân đó cũng cho con cháu của Chử Toại Lương và Hàn Viện về kinh sư phục mệnh. Cũng trong ngày, bà băng hà tại Tiên Cư điện (仙居殿) trong Thượng Dương cung. Theo Cựu Đường thư, Võ hoàng hưởng thọ 83 tuổi, trong khi Tân Đường thư ghi là 81 tuổi, mà Tư trị thông giám ghi nhận bà thọ 82 tuổi. Do Võ hoàng trước khi qua đời đã tự lệnh bỏ đi đế hiệu, vì vậy thụy hiệu của bà là thụy hiệu của một vị hoàng hậu, tức là Tắc Thiên Đại Thánh Hoàng hậu (則天大聖皇后). Qua các đời sau, vì nhiều lý do mà thụy hiệu của bà có sự thay đổi, cuối cùng thụy hiệu đầy đủ của bà là Tắc Thiên Thuận Thánh Hoàng hậu (則天順聖皇后). Sang tháng 5 (ÂL) năm sau (706), chính thức làm lễ hợp táng với Đường Cao Tông ở Càn lăng. Trước đó, Võ hoàng cảm thấy mình sắp không qua khỏi, bèn bàn chuyện hợp táng cùng Cao Tông ở Càn lăng, quan Chấp sự trung Nghiêm Thiện Tư (嚴善思) dâng sớ can gián, đại ý nói rằng: "Huyền môn của Càn lăng lấy đá làm cửa, nay mở ra, tức phải tu sửa làm lại hết thảy, quá lại sức dân. Huống hồ hợp táng không phải phép cổ, triều Hán thiết các lăng, hoàng hậu đa phần đều không hợp lăng cùng hoàng đế, từ Ngụy-Tấn trở đi mới có phép này. Kính nghĩ nên chọn đất bên cạnh Càn lăng, sửa đổi để làm lăng cho đức bà vậy!". Nhưng ý kiến này của Nghiêm Thiện Tư cuối cùng vẫn không được nghe theo, Võ hoàng kiêng quyết hợp táng cùng Cao Tông trong Càn lăng. Vì sự biến động của thụy hiệu, bài vị của bà lúc phối thờ trong miếu của Cao Tông thường không hợp quy cách, đến đời Đường Huyền Tông thì quan Thái thường tự kiến nghị: "Tắc Thiên Hoàng hậu phối thờ trong miếu Cao Tông, trên bài vị ghi là 'Thiên hậu Thánh đế', không hợp lẽ, nên sửa lại là 'Tắc Thiên Hoàng hậu Võ thị' cho theo khuôn phép", Huyền Tông bèn y theo sửa bài vị cho bà nội mình. Có thể thấy vào lúc cuối đời, Võ hoàng mới có được tôn xưng "Tắc Thiên". Người đời sau hay sử dụng 2 chữ này ghép với họ Võ của bà thành tên gọi Võ Tắc Thiên (武則天). Lăng mộ Theo di nguyện trước lúc băng hà, di hài của bà được hợp táng vào Càn lăng cùng với Đường Cao Tông. Bia mộ của bà là một tấm bia để trống hoàn toàn, được gọi là "Vô tự bia" (無字碑). Càn lăng của nhà Đường đã ít nhất 17 lần bị âm mưu đục phá, trong đó có 3 lần nghiêm trọng nhất. Lần đầu trong loạn Hoàng Sào, có tới 40 vạn binh sĩ đào bới tây đồi Lương Sơn, vạt hẳn một nửa quả đồi. Lần thứ 2 do Ôn Thao, tiết độ sứ tại Diệu Châu thời Ngũ Đại Thập Quốc, kẻ trước đó đã đào trộm 17 ngôi hoàng lăng nhà Đường. Lần thứ 3 do quân Quốc Dân đảng của Tôn Liên Trọng thời Trung Hoa Dân Quốc, đã dùng cả thuốc nổ để phá. Nhưng cả ba lần đều không thành, và Càn lăng vẫn nguyên vẹn cho tới ngày nay, trở thành di tích khảo cổ và tham quan quý báu. Về điểm này, Võ Tắc Thiên và chồng đã may mắn hơn những vị hoàng đế nổi tiếng khác, khi mà Mậu lăng của Hán Vũ đế, Chiêu lăng của Đường Thái Tông... đã bị phá sạch trong thời chiến loạn. Đầu tháng 5 năm 2008, khi các nhà khảo cổ Trung Quốc khai quật lăng mộ Võ Tắc Thiên tại Huyện Càn cách 80 km về phía Tây Bắc thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc, họ đã tìm được hơn 500 tấn văn vật trong mộ. Việc tìm ra mộ phần và các cổ vật trong mộ Võ Tắc Thiên đã giúp các nhà sử học xác định được nhiều thông tin xung quanh thân thế, sự nghiệp của vị nữ hoàng này. Các nhà khảo cổ phát hiện thấy Đường Cao Tông và Võ Tắc Thiên cùng hợp táng ở tầng ngầm sâu cuối cùng của lăng mộ. Khu lăng tẩm này có ba cửa Đông, Bắc, Tây. Ba cửa này có kết cấu giống nhau, đều có các đài tế lễ trước cửa cung điện, có hành lang đặt vũ khí gươm giáo và cửa cung điện. Tại cửa phía Bắc, các nhà khảo cổ phát hiện thấy rất nhiều ngựa đá, hổ đá, tảng đá trạm trổ điêu khắc, trong đó hổ đá đặc trưng của đời Đường vẫn còn nguyên vẹn. Khu lăng tẩm có quy mô rất lớn với những bức tường bao quanh được xây theo hình vuông rất vững chắc, mỗi cạnh có chiều dài tới 380 mét vuông. Viện trưởng danh dự Viện nghiên cứu khảo cổ tỉnh Thiểm Tây, Thạch Hưng Bang, đã cho biết, qua những văn vật khai quật được trong mộ cho thấy, thời kỳ Đường Cao Tông và Võ Tắc Thiên trị vì là thời kỳ hưng thịnh nhất của triều đại nhà Đường. Khi Đường Cao Tông chết, giá trị của vật tùy táng quý báu chôn theo vua chiếm tới 1/3 quốc khố. Hơn 20 năm sau, khi Võ Tắc Thiên qua đời, triều đình cũng chôn theo số báu vật trị giá tới 1/3 quốc khố trong mộ bà. Đánh giá Các vụ hành quyết tập thể, xử tử hay lưu đày là quy tắc của Võ Tắc Thiên để loại bỏ đối thủ, kể cả là người thân và những triều thần từng ủng hộ bà. Theo cuốn “Võ Tắc Thiên chính truyện” của học giả Lâm Ngữ Đường, ông kiệt kê rằng: cả đời Võ Tắc Thiên đã mưu sát hoặc ra lệnh giết 93 người (không kể những người thân của họ phải chết theo), trong số đó có 23 người là người thân của bà, 34 người là tôn thất nhà Đường, 36 sáu người là triều thần. Trong số này có bao nhiêu người chết đích đáng, có bao nhiêu bị oan, có bao nhiêu người bị Võ Tắc Thiên cố ý hãm hại, khó có thể xác định được. Sau khi Võ Tắc Thiên qua đời, các sử gia thời Thịnh Đường, Trung Đường và Vãn Đường đều không chỉ trích nặng nề những việc làm của Võ Tắc Thiên, bởi vì những vị Hoàng đế nhà Đường sau này đều là con cháu trực hệ của bà. Chỉ khi đến thời nhà Tống, quan điểm Nho giáo dưới học thuyết Chu Hi lấy Tuân Tử làm nền tảng, mà Tuân Tử lại xếp "Nữ chủ chuyên chính" làm 1 trong 3 lý do khiến một quốc gia suy vong, nên các sử gia thời kỳ này về sau mới bắt đầu có những lời chỉ trích Võ Tắc Thiên. Tư tưởng Nho giáo chính thống trong xã hội phong kiến Trung Quốc không bao giờ chấp nhận để một người phụ nữ "Vượt quá giới hạn" mà bước lên đỉnh cao quyền lực. Sau thời Đường, cứ khi nói đến việc ngoại thích, hậu cung làm loạn triều chính, gây họa cho xã tắc thì người ta đều lấy Võ Tắc Thiên làm ví dụ điển hình. Có thể nói Võ Tắc Thiên là hiện tượng độc nhất vô nhị trong lịch sử. Những vị Nữ chủ nổi tiếng từ cổ chí kim ở Trung Hoa, có thể kể đến Tuyên Thái hậu nhà Tần, Phùng Thái hậu Bắc Ngụy, Tiêu Xước triều Liêu, và kể cả Từ Hi Thái hậu nhà Thanh tuy đều có thực quyền cai trị, song đều phải có danh nghĩa của một Hoàng đế đại diện (thường là con trai/cháu trai của họ) mà không một ai dám làm việc công khai xưng làm Hoàng đế như bà. Người có thể so sánh gần nhất với Võ Tắc Thiên, ấy chính là Lã hậu nhà Hán, vì tuy bà phải nắm quyền dưới danh nghĩa Lưu Cung và Lưu Hồng, song bà đã thực sự nắm trọn quyền hành triệt để, và cũng chỉ có Lã hậu có thời kỳ trị vì được biên thành "Kỷ" như Võ Tắc Thiên mà thôi. Võ Tắc Thiên còn được cho là đã sử dụng tuyên truyền tôn giáo để đảm bảo vị trí hoàng đế của mình. Vốn tôn sùng Phật giáo, bà đã ra lệnh đục các tượng Phật tại khu vực hang đá Long Môn. Tại đây pho tượng chính giữa lớn nhất là tượng Phật Đại Nhật (Tỳ lô giá na - Vairocana) được điêu khắc theo khuôn mặt của bà. Trước khi Võ Tắc Thiên chính thức xưng Đế, có cuộc nổi dậy của Từ Kính Nghiệp, sự oán hận dành cho bà được bộc lộ công khai rất hiếm hoi. Một thiên hịch văn do văn sĩ đương thời là Lạc Tân Vương (駱賓王) khi tham gia cuộc khởi nghĩa đã viết ra để kể tội ác của bà. Câu hịch này được tìm thấy trong Cổ văn quan chỉ (古文观止), quyển thứ 7, nội dung như sau: Nhưng thái độ của Võ Tắc Thiên khi đọc bài hịch văn trên khá kỳ lạ. Võ Tắc Thiên hịch lên đọc, rồi nói với cận thần: "Ai là người viết bài hịch này?". Có người đáp: "Kẻ đó là Lạc Tân Vương". Võ hậu lại hỏi: "Người này trước kia đã từng làm chức ngự sử, nhưng sau lại phải biếm". Lại nhìn các đại thần hồi lâu, rồi phán: "Người có tài văn chương thế này, mà để họa phải lưu lạc không được dùng, đó là lỗi của tể tướng trước kia vậy". Mặc dù chỉ tồn tại một thời gian ngắn, theo một số nhà sử học, nhà Võ Chu đã có được một hệ thống bình đẳng giới tốt hơn so với nhà Đường giai đoạn tiếp sau nó. Nhiều người đời sau xem Võ Tắc Thiên là điển hình của sự độc ác, khi mà vì quyền lực, bà sẵn sàng hạ thủ người thân, thậm chí bà sát hại ngay cả con ruột của mình (một số người cháu nội ruột, cháu họ cũng bị bà ra lệnh sát hại). Nhìn vào các sự kiện trong cuộc đời bà theo ám chỉ trong văn chương có thể mang lại nhiều ý nghĩa: "Một phụ nữ đã vượt qua những giới hạn của mình một cách không thích hợp, thái độ đạo đức giả khi thuyết giáo về lòng trắc ẩn, trong khi cùng lúc ấy lại tiến hành mô hình tham nhũng và hành xử một cách xấu xa, tàn nhẫn ngay cả với người thân và cai trị bằng cách điều khiển từ phía sau hậu trường". Tuy nhiên, trong triều cũng có nhiều người ủng hộ bà, vì phục bà là người quyết đoán, có tài trị nước. Trong số đó có cả những đại thần hiền năng, được trọng vọng như Lâu Sử Đức, Địch Nhân Kiệt, Tống Cảnh; và bà biết tin dùng những người đó, nên việc chính không rối loạn, dân chúng vẫn yên ổn làm ăn, coi những vụ lộn xộn ở triều chỉ là việc riêng của họ Lý. Khi đọc bài Hịch dẹp Võ Chiếu, trong đó Lạc Tân Vương mạt sát bà thậm tệ, bà đã không giận, còn khen Lạc là có tài và trách viên Tể tướng đã không biết thu phục. Bà cũng là người tạo ra nền móng cho nền thịnh trị Khai Nguyên, do nhiều đại thần tài năng thời Huyền Tông là những người được bà được trọng vọng. Sử gia Tư Mã Quang đánh giá về bà trong Tư trị thông giám: Học giả người Tây là Denis C. Twitchett, tên chữ Hán Thôi Thụy Đức (崔瑞德), đã bình luận về bà: Tôn hiệu và thụy hiệu Võ Tắc Thiên rất thích các tôn hiệu mỹ miều, do đó đã nhiều lần thay đổi, thêm bớt chữ vào tôn hiệu, bao gồm: Năm 688, tôn xưng Thánh mẫu Thần hoàng (聖母神皇). Năm 690, tôn xưng Thánh Thần Hoàng đế (聖神皇帝). Năm 693, tôn xưng Kim Luân Thánh Thần Hoàng đế (金輪聖神皇帝). Năm 694, tôn xưng Việt Cổ Kim Luân Thánh Thần Hoàng đế (越古金輪聖神皇帝). Năm 695, tôn xưng Từ Thị Việt Cổ Kim Luân Thánh Thần Hoàng đế (慈氏越古金輪聖神皇帝). Tháng 9 năm 695, đổi xưng Thiên Sách Kim Luân Thánh Thần Hoàng đế (天册金輪聖神皇帝). Năm 705, tôn xưng Tắc Thiên Đại Thánh Hoàng đế (則天大聖皇帝). Các thụy hiệu của đời sau tôn phong: Năm 705, đời Đường Trung Tông, thụy ban đầu Tắc Thiên Đại Thánh Hoàng hậu (則天大聖皇后). Năm 710, đời Đường Duệ Tông, cải tôn thụy thành Thiên hậu (天后). Cũng năm 710 đời Đường Duệ Tông, lại cải tôn thụy Đại Thánh Thiên hậu (大聖天后). Năm 712, cải thụy thành Thánh đế Thiên hậu (聖帝天后) hoặc Thiên hậu Thánh đế (天后聖帝). Không lâu sau lại cải thành Thánh hậu (聖后). Năm 716, đời Đường Huyền Tông, tôn thụy thành Tắc Thiên Hoàng hậu (則天皇后). Năm 749, đời Đường Huyền Tông, dâng đế thụy và hậu thụy cho các đời, thụy hiệu các vị hoàng hậu đều thêm hai chữ "Thuận Thánh", do đó thụy của Tắc Thiên hậu được cải tôn đầy đủ thành Tắc Thiên Thuận Thánh Hoàng hậu (則天順聖皇后). Nhà Chu (690 - 705) Gia đình Thân phụ: Võ Sĩ Hoạch (武士彠), truy tặng Hiếu Minh Cao Hoàng đế (孝明高皇帝). Thân mẫu: Vinh Quốc phu nhân Dương thị (榮國夫人楊氏), truy tặng Hiếu Minh Cao Hoàng hậu (孝明高皇后). Phối ngẫu: Đường Thái Tông Lý Thế Dân, Đường Cao Tông Lý Trị. Hậu duệ: Thời gian làm Tài nhân của Đường Thái Tông, Võ Tắc Thiên không sinh hạ cho ông một người con nào. Về sau khi lấy Đường Cao Tông thì bà sinh được 6 người con, gồm 4 hoàng tử và 2 công chúa. Trong đó, thái tử Lý Hoằng mất sớm, còn An Định Tư công chúa chết yểu, như vậy chỉ còn 3 hoàng tử và 1 công chúa của bà sống sót đến tuổi trưởng thành. Hiếu Kính Hoàng đế Lý Hoằng (李弘), sơ phong Đại vương (代王), đến năm 656 được lập làm Hoàng thái tử. Qua đời ở cung Hợp Bích, nghi là do Võ hậu đầu độc, được Đường Cao Tông truy tặng thụy hiệu Hiếu Kính Hoàng đế (孝敬皇帝), miếu hiệu Nghĩa Tông (義宗). An Định Tư công chúa (安定思公主), chết do bị đột tử khi mới mấy tháng tuổi, có người nghi là do Võ hậu ám hại. Chương Hoài Thái tử Lý Hiền (李賢), sơ phong Lộ vương (潞王), lại đổi thành Phái vương (沛王) rồi Ung vương (雍王). Sau khi Lý Hoằng qua đời, được sách lập làm Hoàng thái tử, đến năm 681 thì bị phế truất. Thời kỳ Duệ Tông, bị Kim Ngô vệ Đại tướng quân Khâu Thần Tích ép tự sát, nghi là do Võ hậu ngầm ra lệnh. Đường Trung Tông Lý Hiển (李顯), sơ phong Chu vương (周王), rồi Anh vương (英王). Năm 680, sau khi Lý Hiền bị phế, ông được lập làm Hoàng thái tử. Ông có tổng cộng 8 con trai và 8 con gái, 2 người trong số đó bị Võ Tắc Thiên ra lệnh giết hại là Lý Trọng Nhuận và Lý Tiên Huệ. Đường Duệ Tông Lý Đán (李旦), sơ phong Dự vương (豫王), rồi cải thành Tương vương (相王). Sau khi Trung Tông bị phế, được Võ Tắc Thien chọn làm hoàng đế kế nhiệm. Thái Bình Công chúa (太平公主), hạ giá lấy Tiết Thiệu, sau lấy Võ Du Kỵ. Con nuôi: Thiên Kim Công chúa (千金公主), hạ giá lấy Ôn Đĩnh (溫挺), tái giá Trịnh Kính Huyền (鄭敬玄). Bà là con gái của Đường Cao Tổ Lý Uyên. Hết sức lấy lòng Võ Tắc Thiên, tiến nam sủng, tự xin đổi họ Võ, do vậy dưới triều Võ Chu, bà không bị Võ Tắc Thiên xem là người cần tiêu diệt. Như vậy, Võ Tắc Thiên đã ra lệnh giết hại 2 người con ruột và 2 người cháu nội ruột của chính mình, chưa kể 2 người con ruột chết không rõ nguyên nhân, dư luận đồn rằng cũng do bà giết hại. Theo cuốn “Võ Tắc Thiên chính truyện” của Lâm Ngữ Đường, ông kiệt kê rằng cả đời Võ Tắc Thiên đã mưu sát hoặc ra lệnh giết hại 23 người là người thân, họ hàng của bà. Các giai thoại Hình phạt Cốt túy Từ khi trở lại hậu cung, Võ hậu cùng Vương hậu và Tiêu phi thường xảy ra tranh chấp dữ dội. Khi lên được ngôi hoàng hậu rồi, Võ hậu trả thù Vương hậu và Tiêu phi bằng cách sai chặt hết chân tay họ rồi bỏ vào chum rượu ngâm để họ không chết ngay. Từ khi bị phế, Tiêu thị và Vương thị bị giam ở biệt viện, Đường Cao Tông chưa dứt hẳn tình mà nhiều lần đến thăm. Một ngày ông đến và hô lên: "Hoàng hậu và Thục phi ở đâu rồi, hai người có khỏe không?!". Thế là Vương thị cùng Tiêu thị nhân đó khóc lóc xin Cao Tông thương tình, cúi nói: "Bọn tôi bị tội giáng làm tỳ, sao có thể khỏe, nào dám nhận tôn xưng 'Hoàng hậu' của đức ngài?!". Sau đó Vương thị khóc nói: "Đức ngài nhớ thương tình cũ, chúng tôi như cải tử hoàn sinh, xin ban nơi này là 'Hồi Tâm viện' để an ủi ngày sau", do mềm lòng nên Cao Tông cũng đáp ứng, dự định sẽ tha cho họ ra. Võ hậu nghe tin thì rất tức giận, sai người đem cả hai ra đánh mấy trăm trượng, lại cho chặt hết tay chân hai người đem đi ngâm giấm, gọi là "Cốt túy" (骨醉). Trước khi chết, Vương hậu khấn: "Đức vua muôn tuổi! Chiêu nghi nhận ân thánh hậu hĩnh, ta tất không thể sống!", còn Tiêu phi trực tiếp rủa xả: "A Võ, mày yêu hoạt gian trá! Tao ước sẽ chuyển sinh thành mèo, còn mày là chuột, để cắn đứt cổ họng mày cho hả dạ!". Sau đó Võ hậu cho đổi họ của Vương thị làm "Mãng" (蟒), còn Tiêu thị thành "Kiêu" (梟). Tương truyền lời nguyền của Tiêu phi rất ám ảnh bà, từ khi nghe thấy lời rủa ấy thì Võ hậu không cho nuôi mèo trong cung, đồng thời cũng dần chuyển về kinh đô phụ của nhà Đường khi ấy là Lạc Dương do ám ảnh về cái chết của hai người này. Sách Tân Đường thư cùng Tư trị thông giám đều ghi lại Võ hậu thường trông thấy hình ảnh hai người Vương thị và Tiêu thị mặc áo trắng xõa tóc, khóc ra máu oán than, do đó Võ hậu từng chuyển đến Bồng Lai cung (蓬萊宮). Nhưng không lâu sau lại trông thấy, bèn chuyển luôn ở Lạc Dương mà không về Trường An. Thượng uyển giục hoa Theo sách Đường thi kỷ sự (唐诗纪事), vào năm Thiên Thụ thứ 2 (691), Võ Tắc Thiên vào một ngày cuối đông ra vườn ngự uyển thấy cỏ cây xác xơ trơ trọi, liễu đào ủ rũ điêu tàn, liền truyền lệnh bằng bài tứ tuyệt khắc ngay cửa vườn: Sau khi viết xong, Võ hậu sai sứ giả đi trước Thượng uyển tuyên chiếu, lấy báo cho Hoa thần. Chỉ trong một đêm bừng nở khắp vườn, mùi thơm sực nức nhân gian, sang ngày "Lạp bát tiết" (腊八节) đã nở đầy thượng uyển. Võ Tắc Thiên lấy làm tự mãn cho rằng mình quyền uy tột đỉnh, sai khiến được cả tạo hóa. Câu chuyện này về sau được ghi lại trong tác phẩm gian dân tên Khổng Hạc giám bí ký (控鹤监秘记), đem liên họa sự tích hoa mẫu đơn liên đới với truyền thuyết này. Đó là một ngày đông, Võ Tắc Thiên hứng làm bài thơ trên, cũng cho truyền Sứ giả đem tuyên cáo Hoa thần, cả Thượng uyển đều nở rộ và Võ Tắc Thiên hãnh diện đưa quần thần tham quan. Bỗng dưng Võ Tắc Thiên nhìn một cây mẫu đơn cứng đầu cứng cổ bất tuân thượng mệnh, thân cây khẳng khiu cứng cỏi, không hoa không lá. Máu giận sôi lên, Võ Tắc Thiên ra lệnh đày loài mẫu đơn ngoan cố xuống tận Lạc Dương. Lạ kỳ thay, vừa xuống phía Nam, mẫu đơn đâm chồi nảy lộc, bung mình thành những cánh hoa đỏ thắm. Võ Tắc Thiện càng giận, cho người đốt chết cây hoa này. Mẫu đơn tuy bị đốt trọi, nhưng đến năm thứ hai, mẫu đơn ngược lại nở càng tăng lên. Đấy là sự tích Võ Tắc Thiên nộ biếm Mẫu đơn (武则天怒贬牡丹), và loài hoa mẫu đơn Lạc Dương từ đó trở thành biểu tượng cương liệt. Đấy là sự tích giải thích vì sao từ đó vùng Giang Bắc vắng hẳn loài hoa vương giả, biểu trưng cho quốc sắc thiên hương thường được ví với những trang tuyệt sắc giai nhân. Giai thoại này còn được hiểu một cách khác là Võ Tắc Thiên luôn ghen ghét với những giai nhân tuyệt sắc khác, thường kiếm cớ giết hại hoặc hủy hoại nhan sắc của họ để bảo vệ vị trí của mình trong lòng quân vương. Câu chuyện đày hoa mẫu đơn này cũng thường được liên tưởng đến mỗi khi nhắc lại câu chuyện Võ hậu trả thù tình địch và đóng dấu lên trán Thượng Quan Uyển Nhi. Vết sẹo của Thượng Quan Uyển Nhi Chiêu dung Thượng Quan Uyển Nhi là cháu của Thượng Quan Nghi, bởi vì thông tuệ nên được Võ Tắc Thiên dùng làm nữ quan lo tất cả các việc văn thư trong hoàng cung và ngoài triều đình. Về sau Uyển Nhi phạm tội với Võ hậu, bị chịu phạt thích sẹo lên trán. Về sau Uyển Nhi phải lấy hoa mai đỏ che đi, cũng có cách nói nguyên bản Võ hậu khắc lên trán là hình hoa mai, dù thế nào thì việc này cũng khiến Uyển Nhi trông xinh đẹp hơn, thế là từ đó lan truyền ra thành một lối trang điểm. Các tiểu thư, mệnh phụ đều bắt chước vẽ chấm đỏ hoặc hình hoa mai vào giữa trán, trở thành một kiểu trang điểm rất được ưa chuộng dưới triều nhà Đường. Đời sau gọi cách trang điểm này là Hồng mai trang (红梅妆) hay Hoa điền trang (花鈿妝). Nguyên nhân Uyển Nhi bị Võ hậu phạt có nhiều cách nói, phiên bản phổ biến nhất là Thượng Quan Uyển Nhi có tư thông với nam sủng rất có thế lực của Võ hậu là Trương Xương Tông, tuy nhiên việc này không được chính sử ghi lại mà chỉ là tình tiết xuất phát từ tiểu thuyết Khổng Hạc giám bí ký. Một thuyết khác là Uyển Nhi được Võ hậu giao nhiệm vụ ghi chép lời đáp mỗi khi bà cùng quan tể tướng trao đổi, nhưng một hôm Uyển Nhi trộm nhìn tể tướng (không rõ tên), Võ hậu phát hiện và tức giận, cho là thất trách, bèn dùng đao thích lên trán không cho rút xuống, Uyển Nhi phải dâng thơ xin rút đao nhưng trán đã sớm có sẹo. Về sau Uyển Nhi phải lấy hoa để trám vào chỗ ấy. Sự thật trong những câu chuyện này đến đâu hậu thế khó lòng định đoán nhưng đã phần nào làm chứng minh cho những ghi chép từ xưa về một Võ Tắc Thiên có tính cách mạnh mẽ đến khắc nghiệt, chuyên quyền độc đoán, đầy mưu mô thâm độc và nhất là luôn lạnh lùng, tàn nhẫn mỗi khi ra tay thanh toán địch thủ. Nuôi dưỡng nam sủng Có nhiều câu chuyện về sự dâm loạn của Võ Tắc Thiên, một phần do đời sau thêu dệt, một phần là sự thật. Bấy giờ, Võ hậu được con gái nuôi là Thiên Kim Công chúa tiến cử một kẻ lực lưỡng là Phùng Tiểu Bảo, giả bắt hắn tu làm sư để thường xuyên gọi vào cung thông dâm, đổi gọi là Tiết Hoài Nghĩa. Võ hậu khi ấy vô cùng sủng ái và dần được ban nhiều chức vụ quan trọng, Tiết Hoài Nghĩa cũng chính là người khởi công dựng Minh đường, tạo tác tượng Phật Di Lặc khổng lồ và một ngôi chùa rất vĩ đại được gọi là Thiên đường để vui lòng Võ hậu. Tuy nhiên sau đó Võ hậu lạnh nhạt với Hoài Nghĩa vì có quan ngự y trong Ngự y viện là Thẩm Nam Cầu (沈南璆) được Võ hậu để mắt, sự sủng ái của Nam Cầu khiến Hoài Nghĩa tức giận nổi lửa đốt cháy toàn bộ tượng, Minh đường lẫn Thiên đường. Cảm thấy Hoài Nghĩa có hành vi ngông cuồng không thích hợp, Thái Bình Công chúa chủ trương đem Hoài Nghĩ giết chết. Sau đó không lâu Nam Cầu cũng không còn, Thái Bình Công chúa liền tiến cử Trương Xương Tông có tài thổi sáo, rất đẹp trai lại có tài trong phòng the khiến Võ hậu rất vui. Được nữ hoàng đế sủng ái, Trương Xương Tông lại tiến cử anh mình là Trương Dịch Chi vào hầu hạ, cả hai anh em vì thỏa mãn được Võ hậu nên được phong chức tước và bổng lộc cực hậu hĩnh, anh em họ Trương do đó cũng từng bước tác động đến chính trị và có sự ảnh hưởng lớn trong thời kì cuối mà Võ hậu cầm quyền. Các quan thấy Võ hậu đa dâm lụy tình cũng tiến cử con em, thậm chí chính mình vào để hầu Võ hậu hòng kiếm lợi lộc. Vào năm Thánh Lịch nguyên niên (698), Võ hậu bèn lập ra Khổng Hạc phủ (控鶴府) với danh nghĩa là nuôi chim hạc, nhưng thực chất lại là nơi tập hợp các thanh niên tuấn tú nhằm thỏa mãn mình. Trong Khổng Hạc phủ đặt ra chức "Giám" (監), chức "Thừa" (丞) cùng "Chủ bộ" (主簿) theo cơ chế phù hợp của triều đình, trong đó chức giám trật Tam phẩm và Võ hậu giao cho Dịch Chi đảm nhiệm. Không lâu sau, Võ hậu lại sửa "Khổng Hạc phủ" thành Phụng Thần phủ (奉宸府), đổi chức giám thành chức "Lệnh" (令), vẫn cho Trương Dịch Chi cai quản. Trong văn hóa đại chúng Điện ảnh Nhân vật Võ Tắc Thiên xuất hiện trong nhiều phim điện ảnh Trung Quốc, Hồng Kông và Đài Loan: Võ Tắc Thiên (1939), phim Trung Quốc với sự tham gia của diễn viên Cố Lan Quân vai Võ Tắc Thiên. Võ Tắc Thiên (1949), phim Hồng Kông. Nhân vật chính do Khổng Tú Vân thủ vai. Võ Tắc Thiên (1963), phim điện ảnh Hồng Kông. Diễn viên Lý Lệ Hoa thủ vai Võ Tắc Thiên. Lục Tổ Tuệ Năng truyện (1987), phim Đài Loan. Nhân vật Võ Tắc Thiên do diễn viên Lăng Ba thủ diễn. Địch Nhân Kiệt thông thiên đế quốc (Trung Quốc, 2010): Lưu Gia Linh Địch Nhân Kiệt chi thần đô long vương (Trung Quốc, 2013) Địch Nhân Kiệt: Tứ đại Thiên Vương (2018): Lưu Gia Linh Truyền hình Nhân vật Võ Tắc Thiên xuất hiện trong nhiều bộ phim truyền hình Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan và Hàn Quốc: Võ Tắc Thiên (1976), phim Hồng Kông, diễn viên Lý Thông Minh và Tương Y vào vai Võ Tắc Thiên. Võ Tắc Thiên (Trung Quốc, 1984): Phùng Bửu Bửu Nhất đại nữ hoàng (Đài Loan, 1985): Phan Nghinh Tử Đường Minh Hoàng (Trung Quốc, 1990) Võ Tắc Thiên (Trung Quốc, 1995): Lưu Hiểu Khánh Kính Hoa duyên truyền kỳ (Hồng Kông ATV, 2000): Uông Minh Thuyên Đại Minh cung từ (Trung Quốc, 2000): Quy Á Lôi Đại Đường tình sử (Trung Quốc, 2001): Tần Lam Thiên tử tầm long (Hồng Kông TVB 2003): La Quán Lan Chí Tôn hồng nhan (Đài Loan, 2004): Giả Tịnh Văn Thần thám Địch Nhân Kiệt (Trung Quốc): Lã Trung Vô tự bi ca (Trung Quốc 2006): Tư Cầm Cao Oa Trinh Quán chi trị (Trung Quốc, 2006): Trương Địch Yeon Gaesomun (Hàn Quốc 2006 - 2007): Jang Eun-bi Dae Joyoung (Hàn Quốc 2006 - 2007): Yang Geum-seok Nhật nguyện lăng không (Trung Quốc, 2007): Lưu Hiểu Khánh Thịnh thế Nhân Kiệt (Hồng Kông TVB, 2009): Trần Tú Châu Võ Tắc Thiên bí sử (Trung Quốc, 2011). Nhân vật Võ Tắc Thiên được thể hiện bởi ba diễn viên nữ Ân Đào, Lưu Hiểu Khánh và Tư Cầm Cao Oa. Thái Bình Công chúa bí sử (Trung Quốc, 2011). Nhân vật Võ Tắc Thiên được thể hiện bởi hai diễn viên nữ Lưu Võ Hân và Lý Tương. Đại Đường nữ tuần án (Trung Quốc, 2011): Vương Cơ Đường cung mỹ nhân thiên hạ (Trung Quốc, 2011): Trương Đình Đường cung yến chi nữ nhân thiên hạ (Trung Quốc, 2013): Huệ Anh Hồng Chế tạo mỹ nhân (Trung Quốc, 2014): Đặng Tụy Văn Thiếu niên thần thám Địch Nhân Kiệt (Trung Quốc, 2014): Lâm Tâm Như Võ Mỵ Nương truyền kỳ (Trung Quốc, 2014): Phạm Băng Băng. Tùy Đường Anh Hùng 5 - Tiết Cương Phản Đường (Trung Quốc): Huệ Anh Hồng.
Vũ Hồng Khanh (1898 – 1993) là một nhà cách mạng và chính khách Việt Nam. Ông là một trong các lãnh tụ của Việt Nam Quốc dân đảng; từng là thành viên trong Chính phủ liên hiệp kháng chiến thành lập ngày 2 tháng 3 năm 1946, giữ chức Phó Chủ tịch Kháng chiến Ủy viên Hội. Thân thế và bước đầu tham gia cách mạng Ông tên thật là Vũ Văn Giảng, sinh năm Mậu Tuất (1898), quê ở làng Thổ Tang, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên (về sau giai đoạn 1946-1954 gọi là xã Thổ Tang thuộc quận Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc Yên; ngày nay là thị trấn Thổ Tang thuộc huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc). Xuất thân là một thầy giáo làng, đầu thập niên 1920, ông sớm được Nguyễn Khắc Nhu vận động đi vào con đường cách mạng và trở thành một thành viên tích cực của phong trào Việt Nam Dân quốc. Đầu năm 1928, Việt Nam Dân quốc sáp nhập với Việt Nam Quốc dân Đảng. Ông trở thành một trong những yếu nhân của Đảng. Tham gia khởi nghĩa Yên Bái và lãnh đạo Hải ngoại bộ Do tác động của vụ ám sát Bazin, nhiều cán bộ và cơ sở của Việt Nam Quốc dân Đảng bị chính quyền thực dân bắt bớ, truy lùng. Các lãnh tụ Đảng buộc phải tiến hành cuộc khởi nghĩa sớm để tránh cho các cơ sở đang gặp nguy cơ bị tiêu diệt hoặc tan rã. Tháng 5 năm 1929, tại Hội nghị Đức Hiệp, ông được bổ sung vào Trung ương. Tại Hội nghị Mỹ Xá bàn việc tổng khởi nghĩa, ông được giao công tác cùng 2 đồng chí Nguyễn Văn Chấn và Phạm Văn Tình, phát động các trận tấn công Kiến An và Hải Phòng. Ngày 10 tháng 2 năm 1930, khởi nghĩa nổ ra tại nhiều nơi ở miền Bắc Việt Nam như Yên Bái, Lâm Thao, Hưng Hóa, Hà Nội, Đáp Cầu, Phả Lại, Kiến An, Phụ Dực, Vĩnh Bảo, Thái Bình v.v. Tuy nhiên, do tin tức bị lộ nên cuộc tổng khởi nghĩa chỉ xảy ở Yên Bái, Hưng Hóa, Lâm Thao, Phụ Dực, Vĩnh Bảo. Mặt khác, vì do thiếu vũ khí và phương tiện liên lạc yếu kém, nên lực lượng khởi nghĩa không cố thủ được lâu dài ở các nơi họ đã đánh chiếm. Ngày 20 tháng 2 năm 1930, lãnh tụ Nguyễn Thái Học bị bắt tại làng Cổ Vịt, gần đồn Chi Ngại, tỉnh Hải Dương; đến ngày 17 tháng 6 năm 1930, thì bị tử hình cùng 12 đồng chí khác tại pháp trường Yên Bái. Khởi nghĩa thất bại, nhiều yếu nhân của Đảng bị bắt. Riêng ông trốn thoát được, đến ngày 20 tháng 6 năm 1930, thì vượt biên giới trốn sang Côn Minh, đổi tên là Vũ Hồng Khanh. Ông bắt liên lạc với các đồng chí ở hải ngoại hoạt động trong Vân Nam Đệ nhất Đạo bộ và được bầu làm Đạo bộ trưởng thay cho Nguyễn Thế Nghiệp, lúc đấy đang lẩn trốn sự lùng bắt tại Mông Tự. Ông cùng với các đồng chí trong Đạo bộ tích cực móc nối với các đồng chí trốn thoát từ trong nước sang, tiếp tục vận động trong giới kiều bào, mở rộng tổ chức, nhanh chóng trở thành một trong những nhóm hoạt động mạnh nhất của Đảng ở hải ngoại. Được sự hỗ trợ và khuyến khích của Trung Quốc Quốc Dân Đảng, từ 15 đến 24 tháng 7 năm 1932, tại Nam Kinh, các nhóm hải ngoại đã họp hội nghị hợp nhất, thành lập một tổ chức chung mang tên Việt Nam Quốc dân Đảng Hải ngoại Biện sự xứ (Bureau d’Outre – Mer du Việt Nam Quốc dân Đảng), còn gọi là Hải ngoại bộ. Ông được cử làm Ủy viên Hải ngoại bộ. Năm 1942 tại Liễu Châu (Trung Quốc), ông cùng với Nghiêm Kế Tổ đại diện cho Việt Nam Quốc dân đảng, Nguyễn Tường Tam (Đại Việt Dân chính đảng), Nguyễn Hải Thần thành lập Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội, thường được gọi tắt là Việt Cách. Tháng 5 năm 1945, tại Trùng Khánh (Trung Quốc), Việt Nam Quốc dân Đảng liên minh với Đại Việt Quốc dân đảng (lãnh tụ Trương Tử Anh) và Đại Việt Dân Chính đảng (lãnh tụ Nguyễn Tường Tam) thành một tổ chức mới, ở trong nước thì lấy tên là Đại Việt Quốc dân đảng, còn ở Trung Quốc thì lấy tên là Quốc dân Đảng Việt Nam, tránh dùng danh xưng Đại Việt vì lý do tế nhị trong giao tế với bạn đồng minh Trung Hoa. Từ Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến đến Chính phủ Quốc gia Ngày 1 tháng 9 năm 1945, ông từ Côn Minh về nước qua ngả Mường Khương, vào Lào Cai. Do cần phải hợp tác để đối phó với Việt Minh ngày 15 tháng 12 năm 1945 các đảng phái chống Việt Minh đã thống nhất thành lập một lực lượng gọi là Mặt trận Quốc dân Đảng Việt Nam. Vũ Hồng Khanh giữ chức Bí thư trưởng tổ chức này. Ngày 2 tháng 3 năm 1946 ông tham gia Chính phủ liên hiệp kháng chiến và đảm nhận chức vụ Phó Chủ tịch Kháng chiến Ủy viên hội (sau đổi là Ủy ban Kháng chiến). Ông cùng Hồ Chí Minh đã ký với Jean Sainteny Hiệp định sơ bộ 1946. Tháng 7 năm 1946, xảy ra vụ án phố Ôn Như Hầu ở Hà Nội, lực lượng công an khám xét các trụ sở của Việt Nam Quốc dân đảng, phát hiện nhiều vũ khí, truyền đơn hiệu triệu chống chính phủ. Tuy nhiên theo Việt Nam Quốc dân Đảng, trụ sở ở phố Ôn Như Hầu chỉ là một chỗ làm việc bình thường của Việt Nam Quốc dân Đảng bị tấn công trong lúc không nghĩ là mình sẽ bị tấn công và các đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng không có vũ khí nặng nào. Vũ Hồng Khanh và các lãnh đạo các đảng phái chống Việt Minh như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam phải lưu vong sang Trung Quốc. Cuối tháng 12 năm 1949, Đảng Cộng sản Trung Quốc đánh thắng Trung Quốc Quốc Dân Đảng trên toàn Trung Quốc và dồn tàn quân Quốc dân đảng chạy về biên giới Việt Nam. Vũ Hồng Khanh cầm đầu chừng bảy đến tám ngàn tàn quân Quốc dân đảng tiến vào Việt Nam qua ngả Nacham, giữa Lạng Sơn và Cao Bằng. Khi quân trú phòng Pháp định tước vũ khí đoàn quân này, đụng độ nổ ra. Bị cả quân Pháp và Việt Minh vây đánh, mất chừng hai nghìn người sau các cuộc đụng độ, đến ngày 6 tháng 1 năm 1950, Vũ Hồng Khanh và số tàn quân còn lại hạ vũ khí đầu hàng quân Pháp. Năm 1952, Vũ Hồng Khanh giữ chức Bộ trưởng Bộ Thể thao và Thanh niên trong nội các Nguyễn Văn Tâm của Quốc gia Việt Nam. Dưới thời Việt Nam Cộng hòa Từ năm 1954 đến 1975, ông lãnh đạo một hệ phái Việt Nam Quốc dân đảng tại miền Nam Việt Nam. Những năm cuối đời Sau sự kiện năm 1975, Vũ Hồng Khanh theo lệnh chính quyền Cách mạng mới đưa đi tập trung học tập cải tạo, dù ông đã 77 tuổi. Năm 1986 ông được trả tự do và về sống trong tình trạng bị quản thúc tại quê nhà ở làng Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc với người con gái lớn là bà Vũ Thị Được. Đây cũng là quê hương Nguyễn Thái Học. (Một tài liệu khác nói rằng năm 1977 đích thân Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn đã vào trại cải tạo để thả sớm Vũ Hồng Khanh vì năm 1943 ông có công can thiệp với tướng Trung Hoa Quốc dân Đảng Trương Phát Khuê thả Lý Thụy - bí danh của Hồ Chí Minh - tại Liễu Châu, Trung Quốc.) Năm 1992, ông được phép vào Thành phố Hồ Chí Minh thăm con gái và con rể. Ngày 14 tháng 11 năm 1993 ông mất tại quê nhà làng Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, hưởng thọ 95 tuổi. Chú thích Chính khách Việt Nam Nhà cách mạng Việt Nam Nhà dân tộc chủ nghĩa Việt Nam Người chống cộng Việt Nam Đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng Khởi nghĩa Yên Bái Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội Bộ trưởng Quốc gia Việt Nam Người Vĩnh Phúc Người họ Vũ tại Việt Nam
Lý Bí có thể là: Tên của vị vua sáng lập nhà Tiền Lý, xem Lý Nam Đế. Tên của một vị tể tướng nhà Đường. Xem Lý Bí (nhà Đường)
Vũ khí kiến tạo gây động đất là một loại phương tiện có thể kiến tạo động đất dựa trên phương thức điều chuyển chế độ chuyển dịch mảng ở các đoạn đứt gãy, đã được đăng ký bằng sáng chế bởi các nhà địa chấn học tại Phòng thí nghiệm Địa lý Địa chấn học - Viện vỏ Trái Đất ở Irkutsk thuộc Viện hàn lâm khoa học Liên bang Nga
Me (tiếng Ả Rập تمر هندي tamr hindī - nghĩa là chà là Ấn Độ), danh pháp hai phần: Tamarindus indica, là một loại cây nhiệt đới, có nguồn gốc ở miền đông châu Phi, nhưng hiện nay được trồng nhiều hơn ở khu vực nhiệt đới của châu Á cũng như châu Mỹ Latinh. Quả của nó ăn được. Đặc điểm Tamarindus indica là loài duy nhất trong chi Tamarindus thuộc họ Đậu (Fabaceae). Là loại cây thân gỗ, nó có thể cao tới 20 mét và là cây thường xanh trong những khu vực không có mùa khô. Gỗ của thân cây me bao gồm lớp gỗ lõi cứng, màu đỏ sẫm và lớp dác gỗ mềm có màu ánh vàng. Lá của nó có dạng lá kép lông chim, bao gồm từ 10 đến 40 lá nhỏ. Hoa tạo thành dạng cành hoa (cụm hoa với trục kéo dài và nhiều cuống nhỏ chứa một hoa, giống như ở cây đậu lupin). Quả là loại quả đậu màu nâu, bên trong chứa cùi thịt và nhiều hạt có vỏ cứng. Hạt có thể có đường rạch đôi để tăng cường khả năng nảy mầm. Tại Malaysia nó được gọi là asam theo tiếng Mã Lai và swee boey trong tiếng Mân Nam. Tại Ấn Độ nó được gọi là imlee. Trong tiếng Sinhala tên gọi của nó là siyambala, trong tiếng Telugu nó được gọi là chintachettu (cây) và chintapandu (quả) còn trong tiếng Tamil và Malayalam nó là puli. Me là cây biểu tượng của tỉnh Phetchabun ở Thái Lan. Sử dụng Cùi thịt của quả me được dùng như là một loại gia vị trong ẩm thực ở cả châu Á cũng như ở châu Mỹ Latinh và nó là một thành phần quan trọng trong nước sốt Worcestershire và nước sốt HP. Cùi thịt quả non rất chua, vì thế nó thích hợp trong các món ăn chính, trong khi cùi thịt của quả chín có vị ngọt hơn và có thể sử dụng như là một loại đồ tráng miệng, làm đồ uống hay làm đồ điểm tâm. Do tỷ trọng riêng lớn và độ bền của nó, lõi gỗ của cây me có thể dùng để đóng đồ gỗ và làm ván lót sàn. Gỗ lấy từ lõi gỗ của cây me có màu đỏ rất đẹp. Cây me rất phổ biến ở miền nam Ấn Độ, cụ thể là tại khu vực Andhra Pradesh. Tại đây, nó được trồng để tạo bóng mát trên các con đường, tương tự như cây sồi. Một số loài khỉ rất thích ăn quả me chín. Cùi thịt, lá và vỏ thân cây có một số ứng dụng trong y học. Ví dụ tại Philipin, lá của nó được dùng trong một số loại trà thuốc để giảm sốt rét. Nó còn là một thành phần chủ yếu trong đồ ăn ở miền nam Ấn Độ, tại đó nó được sử dụng để làm sambhar (gia vị trong súp đậu lăng với nhiều loại rau), cơm pulihora, và nhiều loại tương ớt. Me có sẵn trong mọi cửa hàng bán đồ ăn kiểu Ấn Độ trên toàn thế giới. Nó được bán như là một loại kẹo ở México (ví dụ loại kẹo pulparindo) và xuất hiện trong nhiều dạng đồ điểm tâm ở khu vực Đông Nam Á (quả khô ướp muối hay quả khô tẩm đường trong đồ uống lạnh, kem que v.v). Do các tính chất y học của mình lên nó còn được dùng trong y học Ayurveda để điều trị một số bệnh liên quan đến dạ dày hay đường tiêu hóa nói chung. Me là một loại thực phẩm phổ biến ở Mexico và nó được làm thành nhiều loại kẹo. Trong tiếng lóng ở Mexico (đặc biệt là tại Thành phố Mexico), thuật ngữ me còn dùng để chỉ những người làm nhiệm vụ kiểm soát giao thông, do màu quần áo của họ giống như màu vỏ quả me. Me đối với người Việt Vì me có thân gỗ rất bền bỉ nên thân cây me già thường được người Việt cưa ra làm thớt. Me được dùng ở Việt Nam đa số là để: Trái me đôi khi cả lá me non được dùng nấu canh chua, vị chua của me thơm và tốt hơn là dùng dấm. Trái me chín được dầm ra pha với nước chấm tạo hương vị đặc biệt. Nước mắm me được người dân miền Nam sử dụng để chấm với các loại khô nướng nhất là khô cá khoai rất độc đáo. Me ngày nay còn được cho vào các thức ăn nhanh đóng gói dạng "mì ăn liền" nhưng chất lượng và mùi hương đã giảm đi nhiều. Mứt me cũng được nhiều người yêu chuộng trong ngày tết. Me trái lớn, còn sống được ngâm cho mềm với nước cam thảo rồi rút bỏ hột, ăn với muối hay với mắm ruốc có ớt rất ngon. Loại này thường được bán rong ở các trường học trong miền Nam. Tuy nhiên, một số người bán xử lý không kỹ dễ nhiễm bẩn có thể gây tiêu chảy. Me chín bỏ hột ngào đường dùng để ăn hay chan lên bánh tráng nướng. Trái me non, hột chưa phát triển thân dẹp, được dầm ra, ăn với nước mắm, đường, ớt hay đôi khi dầm thêm vào với dái mít rất ngon. Sau này có giống me Thái Lan, vỏ giòn, dễ bóc, ăn ngọt không có vị chua. Tác dụng chữa bệnh của me Cùi thịt, lá và vỏ thân cây me đều có tác dụng trong y học. Như tại Philippines, lá được dùng để giảm sốt rét. Là thành phần chủ yếu trong đồ ăn của người dân ở miền Nam Ấn Độ, tại đây, me được sử dụng để làm sambhar (gia vị trong súp đậu lăng với nhiều loại rau), cơm pilihora và nhiều loại tương ớt. Me có sẵn trong mọi cửa hàng ăn theo ẩm thực người Ấn Độ trên khắp thế giới. Nó được bán như một loại kẹo ở México (ví dụ: loại kẹo pulparido) và xuất hiện trong nhiều dạng đồ điểm tâm ở khu vực Đông Nam Á (quả khô ướp muối hay quả khô tẩm đường trong đồ uống lạnh, kem que...). Do chứ các hoạt chát y học nên me được dùng nhiều trong Ayurveda để điều trị một số bệnh liên quan đến dạ dày hay đường ruột, như: Tiêu hóa: Bột trái me chín có tác dụng trong điều trị nôn mửa, đầy hơi và khó tiêu. Người ta có thể pha bột me trong nước để uống, có tác dụng chữa chứng mất cảm giác ngon miệng và kén ăn. Tăng cường khả năng miễn dịch: Do giàu vitamin C nên me giúp tăng cường khả năng miễn dịch cho cơ thể, hạn chế các nguy cơ mắc bệnh nhiễm trùng. Chữa cảm lạnh: Bột và thịt me có thể làm món súp nóng dùng để trị bệnh cảm lạnh theo như cách chữa bệnh cổ truyền của người Ấn Độ. Chữa Sốt: Bột me khô rất hữu ích trong việc trị sốt. Chữa đau họng: Súc miệng nước me hàng ngày có thể giảm đau rát họng. Chữa suy nhược: Từ vựng về me Trái me có một từ đặc biệt được dùng là "me dốt" dùng để chỉ trái me chưa chín hẳn, thịt bên trong màu xanh bột mà vỏ bên ngoài đã bắt đầu khô dễ lột ra khỏi thịt trái me, ăn rất ngon. Chú thích
Bài này nói về một loài chim, nó còn là tên gọi của một chi thực vật là chi Saraca thuộc phân họ Vang. Vàng anh Á Âu hay hoàng anh Á Âu (danh pháp hai phần: Oriolus oriolus), là một loài chim trong họ Vàng anh (Oriolidae) thuộc bộ Sẻ (Passeriformes). Phân loại và hệ thống học Vàng Anh Á Âu ban đầu được Carl Linnaeus mô tả trong chi Coracias (chứa các loài sả rừng). Cho tới năm 2011 nó được cho là đồng loài với vàng anh Ấn Độ cho đến khi được chia tách. Một quần thể nhỏ có tên gọi turkestanica được Charles Vaurie coi là không thể phân biệt được với O. o. oriolus. Các tên gọi khác còn có vàng anh châu Âu và vàng anh Tây Á Âu. Mô tả Vàng anh trống nổi bật với bộ lông vàng và đen điển hình, nhưng vàng anh mái lại có bộ lông vàng ánh xanh lục buồn tẻ. Chúng là loài chim khá nhút nhát và thậm chí cả chim trống cũng rất khó phát hiện trong các tán lá có màu xanh lục và vàng lốm đốm. Kiểu bay lượn của chúng tương tự như ở các loài chim hoét, thẳng và mạnh với độ nghiêng nhỏ trên một khoảng cách lớn. Tiếng kêu của chúng giống như tiếng kêu của chim giẻ cùi, nhưng của chúng thì thánh thót tựa như là uyla-uy-u hay or-iii-ole, không lẫn vào đâu được khi đã nghe thấy. Tên gọi trong tiếng Anh của nó là "oriole" có nguồn gốc từ tiếng Latinh oriolus lần đầu tiên được ghi nhận bởi Albertus Magnus vào khoảng năm 1250, và ông đã coi nó là từ tượng thanh để làm tên gọi cho loài chim này, dựa theo tiếng hót của nó. Các loài vàng anh Tân thế giới có bề ngoài tương tự như họ Vàng anh (Oriolidae), nhưng chúng thuộc họ Icteridae và không có quan hệ họ hàng gì với họ Vàng anh của Cựu thế giới. Tập tính, sinh thái Là loài duy nhất trong họ Vàng anh sinh sản ở khu vực ôn đới Bắc bán cầu. Nó là loài chim di cư, về mùa hè nó di cư đến khu vực châu Âu và miền tây châu Á còn mùa đông thì di cư đến khu vực nhiệt đới ở miền trung và miền nam châu Phi. Nó là loài chim đậu trên các cây cao lá sớm rụng trong các khu vực đồng rừng, vườn cây ăn quả hay công viên. Một quần thể nhỏ tại Anh sinh sản trong các khu vực trồng cây dương đen (Populus nigra). Chúng làm tổ trên các chạc cây và đẻ từ 3-6 trứng. Thức ăn chủ yếu của chúng là côn trùng và quả, được chúng tìm kiếm trên các tán lá. Chú thích
Carlos Slim Helú (; sinh ngày 28 tháng 1 năm 1940 tại Mexico) là một ông trùm kinh doanh, nhà đầu tư và nhà từ thiện người Mexico. Từ năm 2010 đến 2013, Slim được tạp chí kinh doanh Forbes xếp hạng là người giàu nhất thế giới. Ông có được tài sản từ việc nắm giữ nhiều cổ phần của mình trong một số lượng đáng kể các công ty Mexico thông qua tập đoàn Grupo Carso thuộc sở hữu của chính ông. Tính đến tháng 2 năm 2020, ông là người giàu thứ năm trên thế giới theo danh sách các tỷ phú thế giới của Forbes, ông và gia đình có tài sản ròng ước tính 68,9 tỷ đô la. Đồng nghĩa với việc là người giàu nhất ở Mỹ Latinh. Tập đoàn của ông tham gia vào các lĩnh vực như giáo dục, chăm sóc sức khỏe, sản xuất công nghiệp, giao thông vận tải, bất động sản, truyền thông, năng lượng, khách sạn, giải trí, công nghệ cao, bán lẻ, thể thao và dịch vụ tài chính. Lĩnh vực chiếm 40% danh sách trên Sở giao dịch chứng khoán Mexico, trong khi giá trị tài sản ròng của ông tương đương khoảng 6% tổng sản phẩm quốc nội của Mexico. Tính đến năm 2016, ông là cổ đông đơn lẻ lớn nhất của The New York Times Company. Tiểu sử Gia đình Slim sinh ngày 28 tháng 1 năm 1940, tại Thành phố Mexico, có cha là ông Julián Slim Haddad (tên khai sinh là Khalil Salim Haddad Aglamaz) và mẹ là Linda Helú Atta, người theo nhóm Cơ đốc giáo Maronite đến từ Li-băng. Người cha nhập cư đến Mexico năm 14 tuổi vào năm 1902 và đổi tên thành Julián. Vì không có gì lạ khi trẻ em Li-băng được gửi ra nước ngoài trước khi chúng 15 tuổi để tránh bị bắt đi lính vào quân đội Ottoman, bốn người anh trai của Haddad đã sống ở Mexico vào thời điểm ông đến. Mẹ ông, bà Linda Helú Atta được sinh ra ở Parral, Chihuahua, có cha mẹ di cư từ Li-băng đến Mexico vào cuối thế kỷ 19. Cha mẹ của bà Linda khi nhập cư đến Mexico đã thành lập một trong những tạp chí tiếng Ả Rập đầu tiên cho cộng đồng người Mexico gốc Li-băng, bằng cách sử dụng một chiếc máy in mà họ mang theo khi sang lánh nạn. Năm 1911, cha của Slim, ông Julián thành lập một cửa hàng bán đồ khô, La Estrella del Oriente (Ngôi sao của Phương Đông). Đến năm 1921, ông đã mua bất động sản ở khu thương mại phồn hoa của Thành phố Mexico. Các doanh nghiệp này trở thành nguồn của cải đáng kể. Tháng 8 năm 1926, ông Julián Slim và bà Linda Helú kết hôn. Gia đình có sáu người con: Nour, Alma, Julián Jr., José, Carlos và Linda. Ông Julián, cha của Slim là người đã có ảnh hưởng trong cộng đồng kinh doanh Liban-Mexico và đã qua đời năm 1953. Thời niên thiếu Từ khi còn nhỏ, Slim đã bộc lộ mong muốn trở thành một doanh nhân và nhận được những bài học kinh doanh từ cha mình, người đã dạy cho các con về tài chính, quản lý và kế toán, cách đọc báo cáo tài chính cũng như tầm quan trọng của việc lưu giữ hồ sơ tài chính chính xác. Năm 11 tuổi, Slim đầu tư vào một trái phiếu chính phủ, giúp ông hiểu về khái niệm lãi suất kép. Sau cùng, Silm có thói quen lưu mọi giao dịch tài chính và kinh doanh mà mình thực hiện vào một cuốn sổ cái (ledger book) riêng, ông vẫn giữ đến hiện giờ. Năm 12 tuổi, ông mua cổ phiếu đầu tiên, cổ phiếu của một ngân hàng Mexico. Năm 15 tuổi, Slim đã trở thành cổ đông của ngân hàng lớn nhất Mexico. Năm 17 tuổi đã kiếm được 200 peso mỗi tuần khi làm việc cho công ty của cha mình. Slim tiếp tục theo học ngành xây dựng dân dụng tại Đại học Tự trị Quốc gia Mexico, nơi ông đồng thời được dạy về đại số và lập trình tuyến tính. Mặc dù Slim là một sinh viên chuyên ngành kỹ thuật dân dụng, ông cũng thể hiện sự quan tâm đến kinh tế. Ông đã tham gia các khóa học kinh tế ở Chile sau khi hoàn thành bằng kỹ sư của mình. Tốt nghiệp chuyên ngành xây dựng dân dụng, Slim cho biết khả năng toán học và kiến thức nền tảng về lập trình tuyến tính của bản thân là yếu tố then chốt giúp mình có được lợi thế trong thế giới kinh doanh, đặc biệt là khi đọc các báo cáo tài chính. Sự nghiệp kinh doanh Thập niên 1960 Sau khi tốt nghiệp đại học năm 1961, Slim bắt đầu sự nghiệp của mình với tư cách là môi giới chứng khoán ở Mexico, thường làm việc 14 giờ mỗi ngày. Năm 1965, lợi nhuận từ các khoản đầu tư riêng của Slim đạt , cho phép ông bắt đầu mở công ty môi giới chứng khoán Inversora Bursátil. Ngoài ra, ông cũng bắt đầu đặt nền tảng tài chính cho Grupo Carso. Năm 1965, ông cũng mua lại Jarritos del Sur. Năm 1966, trị giá 4, ông thành lập Inmobiliaria Carso. Thập niên 70 Các công ty trong ngành xây dựng, nước giải khát, in ấn, bất động sản, đóng chai và khai thác mỏ là trọng tâm trong sự nghiệp kinh doanh đang phát triển ban đầu của Slim. Sau đó, ông mở rộng sang nhiều ngành công nghiệp bao gồm phụ tùng ô tô, nhôm, hàng không, hóa chất, thuốc lá, sản xuất dây cáp và dây điện, giấy và bao bì, khai thác đồng và khoáng sản, lốp xe, xi măng, bán lẻ, khách sạn, nhà phân phối đồ uống, viễn thông và dịch vụ tài chính nơi Slim's Grupo Financiero Indowa - bán bảo hiểm và đầu tư tiền tiết kiệm, quỹ tương hỗ và các kế hoạch lương hưu của hàng triệu người Mexico bình thường. Đến năm 1972, ông đã thành lập hoặc mua thêm bảy doanh nghiệp trong các lĩnh vực này, trong đó có một doanh nghiệp cho thuê thiết bị xây dựng. Năm 1976, ông mở rộng nhánh bằng cách mua 60% cổ phần của Galas de México, một nhà máy in nhãn bao thuốc lá nhỏ với và vào năm 1980, ông củng cố lợi ích kinh doanh của mình bằng cách thành lập Grupo Galas làm công ty mẹ của một tập đoàn có các quyền lợi trong ngành công nghiệp, xây dựng, khai thác mỏ, bán lẻ, thực phẩm và thuốc lá. Năm 1981, Slim mua lại phần lớn cổ phần của Cigarros la Tabacelera Mexicana (Cigatam), nhà sản xuất và tiếp thị thuốc lá lớn thứ hai Mexico, với giá đã được giảm. Thập niên 80 Năm 1982, nền kinh tế Mexico suy thoái nhanh chóng. Khi nhiều ngân hàng đang gặp khó khăn và các nhà đầu tư nước ngoài đang cắt giảm đầu tư và đổ xô, Slim bắt đầu đầu tư mạnh và mua nhiều công ty hàng đầu với mức định giá thấp. Mua tài sản gặp khó khăn với giá thấp để bán lại sau đó với giá hấp dẫn là chiến lược kinh doanh mà Slim đã thực hiện trong suốt sự nghiệp của mình. Có con mắt đầu tư nhạy bén đối với giá trị, Slim tuân thủ các phương pháp đầu tư giá trị của mình với lịch sử lâu dài về việc mua cổ phần trong các công ty mà ông coi là được định giá thấp. Phần lớn các giao dịch kinh doanh của Slim liên quan đến một chiến lược đơn giản, đó là mua một doanh nghiệp và bám trụ nó để lấy dòng tiền hoặc cuối cùng bán cổ phần với lợi nhuận lớn hơn trong tương lai, do đó thu được lợi nhuận từ vốn cũng như tái đầu tư số tiền gốc ban đầu vào một doanh nghiệp mới. Ngoài ra, cấu trúc tập đoàn của ông cho phép Slim mua nhiều cổ phần khi có biểu hiện suy thoái nếu một hoặc nhiều lĩnh vực của nền kinh tế không hoạt động tốt. Từ giữa những năm 1960 đến đầu những năm 1980, Slim cùng với số thành viên đang tăng lên trong gia đình lại sống một cuộc sống khiêm tốn, trong khi thu nhập từ nhiều hoạt động kinh doanh của Slim được tái đầu tư vào việc mở rộng và mua lại nhiều hơn. Slim mua lại các công ty có tỷ suất sinh lợi cao mà ông tin rằng đã bị định giá thấp và cải tổ ban quản lý của họ. Ông đa dạng hóa một cách có phương pháp trong nhiều lĩnh vực công nghiệp trên khắp nền kinh tế Mexico, đầu tư vào bất động sản, sau đó là công ty thiết bị xây dựng và công ty khai thác mỏ. Danh mục đầu tư của các công ty Slim đã phát triển bao gồm một công ty in ấn, một công ty thuốc lá và các cửa hàng bán lẻ. Trong thời kỳ kinh tế Mexico suy thoái trước khi phục hồi vào năm 1985, Slim đã đầu tư rất nhiều. Anh ta đã mua toàn bộ hoặc một tỷ lệ lớn của nhiều doanh nghiệp Mexico, bao gồm Empresas Frisco, một công ty khai thác và hóa chất sản xuất bạc, vàng, đồng, chì và kẽm từ quặng khai thác, và cả các sản phẩm hóa học như axit flohydric và molypden với giá chỉ 50 triệu USD, Industrias Nacobre, nhà sản xuất các sản phẩm bằng đồng, Reynolds Aluminio, Compania Hulera Euzkadi, nhà sản xuất lốp xe lớn nhất Mexico, các khách sạn Bimex, và phần lớn cổ phần của nhà bán lẻ thực phẩm, cửa hàng quà tặng và chuỗi nhà hàng Sanborn Hermanos. Slim đã dành ra để mua công ty bảo hiểm Seguros de México vào năm 1984, và sau đó đã sáp nhập vào công ty Seguros Indowa. Giá trị cổ phần của ông trong Seguros cuối cùng thành tính đến 2007, sau 4 vòng spin-off. Ông cũng có được 40% và 50% cổ phần trong các công ty British American Tobacco và The Hershey Company ở Mexico, cũng như mua lại các lô đất (chính phủ cấp cho tư nhân) lớn của Denny's và Firestone Tires. Ông cũng chuyển sang lĩnh vực dịch vụ tài chính, mua Seguros de México và tạo ra từ nó, cùng với các giao dịch mua khác như Fianzas La Guardiana và Casa de Bolsa Indowa, Grupo Financiero Indowa. Nhiều thương vụ mua lại này được tài trợ bởi doanh thu và dòng tiền từ Cigatam, một công ty kinh doanh thuốc lá mà ông đã mua sớm trong thời kỳ suy thoái kinh tế. Năm 1988, Slim mua lại nhóm công ty Nacobre, kinh doanh các sản phẩm đồng và nhôm, cùng với công ty kinh doanh hóa chất, Química Fluor và các công ty khác. Thập niên 90 Slim đã kiếm được một khối tài sản lớn vào đầu những năm 1990 khi Mexico tư nhân hóa ngành viễn thông của mình và Grupo Carso mua lại Telmex từ chính phủ Mexico Grupo Carso cũng mua lại phần lớn quyền sở hữu của Porcelanite, một công ty sản xuất gạch vào năm 1990. Khoản đầu tư này được giao cho một công ty liên kết, nhưng vào năm 1995, Grupo Carso bắt đầu tăng cổ phần của mình lên 83% và sau đó biến nó thành công ty con. Sau đó vào năm 1990, Slim hợp tác với France Télécom và Southwestern Bell Corporation để mua lại công ty điện thoại cố định Telmex từ chính phủ Mexico, khi Mexico bắt đầu tư nhân hóa các ngành công nghiệp quốc gia của mình. Slim là một trong những nhà đầu tư ban đầu của Telmex, doanh thu của công ty cuối cùng đã hình thành nên phần lớn tài sản của Slim. Đến năm 2006, 90% đường dây điện thoại ở Mexico được điều hành bởi Telmex và công ty điện thoại di động của ông, Telcel, được tạo ra từ công ty Radiomóvil Dipsa, vận hành gần 80% tổng số điện thoại di động của đất nước. Đến năm 2012, América Movil, công ty điện thoại di động của Slim, đã tiếp quản Telmex và biến nó thành một công ty con do tư nhân nắm giữ. Năm 1991, ông mua lại Hoteles Calinda (nay là OSTAR Grupo Hotelero), và vào năm 1993, ông tăng cổ phần của mình trong General Tire và Grupo Aluminio đến mức có lợi ích đa số cổ đông. Vào tháng 7 năm 1997, Grupo Carso đã đồng ý về nguyên tắc bán Procter & Gamble de México, một công ty con của The Procter & Gamble Co., một nhà máy sản xuất ở Apizaco và Lypps, Pampys, và các nhãn hiệu khăn giấy vệ sinh khác của công ty với giá khoảng 170 triệu đô la nhưng giữ nguyên công ty sản xuất các sản phẩm giấy vệ sinh của mình, Fábricas de Papel Loreto y Peña Pobre. Năm 1999, Slim bắt đầu mở rộng sở thích kinh doanh của mình ra ngoài châu Mỹ Latinh. Mặc dù phần lớn tài sản ông nắm giữ chủ yếu vẫn ở Mexico, nhưng ông bắt đầu hướng tới Hoa Kỳ để đầu tư ra nước ngoài. Ghi chú
Chi Vàng anh (danh pháp khoa học: Saraca) L. là một chi thực vật thuộc họ Đậu (Fabaceae) với khoảng 11 loài cây thân gỗ có nguồn gốc ở các vùng đất từ Ấn Độ và Ceylon tới Malaysia và Celebes. Loài Saraca asoca (một số người cho rằng loài này và Sacara indica chỉ là một) với tên gọi trong tiếng Việt là vô ưu được tin là loại cây mà Phật đã sinh ra dưới gốc nó. Saraca declinata là loài cây biểu tượng của tỉnh Yala của Thái Lan. Các loài Saraca asoca - Cây vô ưu Saraca bijuga Saraca celebica Saraca declinata - thô, vàng anh hoa nhỏ Saraca dives - là má, mép mé, vàng anh lá lớn Saraca griffithiana Saraca hullettii Saraca indica - vàng anh lá bé, vàng anh lá nhỏ Saraca lobbiana Saraca monodelpha Saraca thaipingensis - Cây vàng anh cam Saraca tubiflora
Cúp bóng đá Mùa xuân 2006 hay còn gọi VTV–T&T Cup là giải bóng đá thi đấu giao hữu giữa đội tuyển quốc gia Việt Nam với một số đội tuyển U-23 của các quốc gia khác, do Liên đoàn Bóng đá Việt Nam (VFF) tổ chức. Giải đấu được VTV và Tập đoàn T&T tài trợ với một thỏa thuận trị giá 126,000 USD. Giải đấu diễn ra từ ngày 16 tháng 4 đến 20 tháng 4 năm 2006 trên Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình với 4 đội bóng tham dự, gồm đội tuyển quốc gia Việt Nam, U-23 Iran, U-23 Úc và U-23 Uzbekistan Đội vô địch, á quân và hạng ba được thưởng lần lượt 40.000, 20.000 và 10.000 USD. Đội tuyển U-23 Iran đã đoạt cúp vô địch với thành tích 1 trận thắng và 2 trận hoà. Cũng được 5 điểm, nhưng U-23 Úc nhận huy chương bạc vì kém hiệu số bàn thắng bại, bộ huy chương đồng thuộc về Việt Nam với 3 điểm. Xếp chót bảng là U-23 Uderbekistan với vỏn vẹn 1 điểm. Bảng xếp hạng và kết quả
Đồng dao (僮謠) là thơ ca dân gian truyền miệng của trẻ em Việt Nam dùng để hát khi đi làm đồng, làm ruộng. Đồng dao bao gồm nhiều loại: các bài hát, câu hát trẻ em, lời hát trong các trò chơi, bài hát ru em... Thường gặp nhất là các bài đồng dao gắn liền với các trò chơi trẻ em. Nói chung, đồng dao trong các trò chơi trẻ em ở các vùng miền đều khá giống nhau ở nội dung, chỉ khác một vài tiếng địa phương.
Honoré de Balzac tên tiếng việt là Ban-dắc (sinh ngày 20 tháng 5 năm 1799 tại Tours, Pháp, mất ngày 18 tháng 8 năm 1850). Ông là nhà văn hiện thực Pháp lớn nhất nửa đầu thế kỷ 19, bậc thầy của tiểu thuyết văn học hiện thực. Ông là tác giả của nhiều câu truyện như người viết truyện thật thà... Đặc biệt bộ tiểu thuyết đồ sộ Tấn trò đời (La Comédie humaine). Cuộc đời Honoré de Balzac là con trai của Bernard-François Balssa và Anne-Charlotte-Laure Sallambier, họ Balzac được lấy của một gia đình quý tộc cổ Balzac d'Entraigues. Cuộc đời ông là sự thất bại toàn diện trong sáng tác và kinh doanh - đó là tổng kết chung về thời thanh niên của Balzac từ khi vào đời cho đến năm (1828): Hai lần ứng cử vào Viện Hàn lâm Pháp đều thất bại. Ông chỉ thật sự được văn đàn Pháp công nhận sau khi mất. Người ủng hộ ông nhiều nhất khi còn sống là Victor Hugo. Ông có một sức sáng tạo phi thường, khả năng làm việc cao. Thường chỉ ngủ một ngày khoảng 2 đến 3 tiếng, thời gian còn lại làm việc trên một gác xép. Sự nghiệp Giai đoạn 1829-1841 Sau tiểu thuyết lịch sử Những người Chouan (Les Chouans, 1829), Balzac cho ra đời liên tiếp nhiều tác phẩm nổi tiếng, trong nhiều cảm hứng và chủ đề khác nhau: Miếng da lừa (La Peau de chagrin, 1831), Thầy thuốc nông thôn (Le Médecin de campagne, 1833), Đi tìm tuyệt đối (La Recherche de l'absolu, 1833), Eugénie Grandet (1833), Lão Goriot (Le Père Goriot, 1834). Trong sự nghiệp sáng tác Balzac đã viết về nhiều đề tài và mỗi vấn đề đều có một số tác phẩm, tạo nên sự đa dạng trong tư tưởng cũng như trong nghệ thuật của ông. Balzac đã lần lượt đi qua nhiều phong cách trữ tình, châm biếm, triết lý và dần dần thiết lập một hệ thống cho các sáng tác của mình, bao gồm các chủ đề: nghiên cứu triết học (như các tác phẩm Miếng da lừa, Đi tìm tuyệt đối, Kiệt tác không người biết...), cảm hứng thần bí (như Louis Lambert, Séraphita), nghiên cứu phong tục (trong đó ông thiết lập một hệ thống các đề tài mà ông gọi là các "cảnh đời" vì cuộc đời được ông ví như một tấn hài kịch lớn). Giai đoạn 1841-1850 Balzac đã bắt đầu công việc tập hợp lại các tác phẩm theo chủ đề và thống kê sắp đặt lại trong một hệ thống có tên chung là Tấn trò đời. Tư tưởng và tài năng nghệ thuật Balzac là nhà văn sớm có ý thức về sự tái hiện cuộc đời một cách hoàn chỉnh ở đủ mọi góc cạnh của nó và được đặt trong hệ thống mà ông ví như một "công trình kiến trúc của vũ trụ" với tính chất vừa hệ thống vừa hoành tráng từ các tác phẩm của ông. Vũ trụ ấy là cuộc đời nhìn qua nhãn quang của ông tạo nên một "thế giới kiểu Balzac" in rõ dấu ấn của "cảm hứng vĩ mô". Vì vậy, vũ trụ trong tiểu thuyết Balzac là một "vũ trụ được sáng tạo hơn là được mô phỏng". Honoré de Balzac từng nói một câu nổi tiếng " ai cũng có thể làm thầy ta" sự sâu sắc của ông trong những câu nói của ông ảnh hưởng sâu về cách sống của ông trong nghệ thuật thơ văn. Chú thích: Cảm hứng vĩ mô: Được hiểu là những tác phẩm văn chương phản ánh hiện thực thời đại của xã hội và số phận của con người xã hội như sự tha hóa của con người trong xã hội mà đồng tiền chi phối tất cả giá trị đạo đức và các mối quan hệ xã hội. Như những nhân vật trong Lão Goriot (Le peré Goriot) sẵn sàng chạy theo đồng tiền và quyền lực chà đạp lên những giá trị đạo và tình cảm thiêng liêng nhất. Cảm hứng vi mô: Được hiểu là những tác phẩm văn chương đi sâu vào thế giới nội tâm của con người khi con người đứng những khó khăn thách thức của cuộc sống. Cuộc đấu tranh đó là cuộc tranh đấu thầm lặng và gay gắt giữa cái thiện và cái ác, giữa cái cao cả và cái thấp hèn diễn ra trong nội tâm của con người. Như nhân vật ông già trong Ông già và biển cả của Ernest Hemingway hay nhân vật Hộ trong "Đời thừa" của Nam Cao. Phê phán hay chất phủ định cao là khía cạnh được chú ý khi nói về tiểu thuyết Balzac: qua sự nghiệp sáng tác của Balzac cả một xã hội và con người dưới thể chế tư sản bị phơi bày với tất cả xấu xa tiêu cực, cũng từ đây những nỗi khổ đau, những tấn bi kịch xảy ra cho nhiều người, ở nhiều hoàn cảnh trong một xã hội mà đồng tiền là chân lý. Vì sở trường của Balzac là việc miêu tả cái xấu, cái ác trong xã hội tư sản một cách thấu đáo và sắc sảo qua hệ thống ngôn từ và phong cách thích hợp, và đây cũng chính là nguyên nhân gây ra mối ác cảm của giới phê bình đương thời đối với Balzac.Ông từng nói câu: ai cũng là thầy ta ? câu nói thể hiện sự sâu sắc trong thơ văn của đời ông với cuộc sống ngoài xã hội. Nên những nhân vật gây ấn tượng mạnh nhất và thành công nhất của Balzac là những nhân vật phản diện, thường được tác giả cho xuất hiện nhiều lần trong nhiều tác phẩm để người đọc theo dõi chặng đường phát triển tính cách, số phận, những bước thăng trầm trong cuộc chen chân trong thế giới đồng tiền, âm mưu và tội ác (Rastignac xuất hiện trong ba quyển: Lão Goriot, Vinh và nhục của kỹ nữ, Miếng da lừa, hay Lucien Chardon xuất hiện trong Ảo tưởng tiêu tan, Vinh và nhục của kỹ nữ, và Vautrin trong Lão Goriot. Ngược lại, khía cạnh khẳng định cái đẹp trong các tác phẩm của Balzac bị cho là yếu: "Những nhân vật đức hạnh trong tiểu thuyết Balzac khá mờ nhạt...". hoặc: "Những nhân vật trong tiểu thuyết Balzac đều có cử chỉ tình cảm và phong cách thông tục. Khi muốn diễn tả sự thanh lịch quý phái, hào hiệp thì Balzac thường khoa trương một cách cầu kỳ: người phụ nữ đức hạnh và các cô thiếu nữ được khắc họa một cách ngượng nghịu...". Vd: Trong tác phẩm " Những quý bà cầu kỳ rởm", thì một số nhân vật đã bảo gia nhân mang ra "một thứ chất lỏng cần thiết cho cuộc sống" (nước) để mời khách. Tiểu thuyết của Balzac phản ánh hiện thực xã hội không mấy tốt đẹp, nhưng chính Balzac lại từng khẳng định:" Xã hội đã tự tách ra hoặc xích lại gần hơn với những quy tắc vĩnh cửu, với cái chân thực, cái đẹp, tiểu thuyết phải là một thế giới tốt lành hơn..." (Lời tựa Tấn trò đời). Như vậy, thế giới nghệ thuật của Tấn trò đời không đơn thuần là phản ánh cái thiện, cái ác trong xã hội, mà điều Balzac mong mỏi chính là cải tạo xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Nghệ thuật của Balzac cũng là vấn đề đã từng gây tranh cãi, khi vẫn có ý kiến cho rằng "ông có một bút pháp thiếu thoải mái, thiếu sự thuần chất, nhưng vững vàng cụ thể đầy cá tính thể hiện một khí chất mạnh mẽ", "lối văn tối tăm hỗn độn" (confus), "sự thông tục" (vulgaire)... Đứng trước những biểu hiện đó nhiều nhà phê bình thời trước như: nhà lý luận lãng mạn Sainte Beuve không thích lối thể hiện (văn phong) của Balzac, nhà hiện thực duy mỹ_ nhà văn Gustave Flaubert đã "cau mày" nhận xét "giá như Balzac biết viết văn". Và đến thế kỷ XX nhà văn André Gide cho rằng Balzac đã làm cho tác phẩm của ông trở nên cồng kềnh bằng "những yếu tố hỗn tạp, hoàn toàn không thể đồng hóa được bằng tiểu thuyết". Còn Marcel Proust lưỡng lự trước câu hỏi "nghệ thuật của Balzac có hay không?". Đồng thời André Gide và Marcel Proust cũng thừa nhận rằng "có những nhược điểm không thể tách rời khỏi những tác phẩm của ông".
Chi Cá mè trắng (danh pháp khoa học: Hypophthalmichthys)</small>) là một chi thuộc họ Cá chép (Cyprinidae), chi này gồm có 3 loài, toàn là cá sinh sống ở khu vực châu Á. Ở Việt Nam, cả ba loài đều được gọi theo tên gọi chung là cá mè, nhưng chỉ có 2 trong số 3 loài là sinh sống tại các ao hồ của quốc gia này. Phân loại Hiện tại được công nhận thuộc chi Hypophthalmichthys là 3 loài: Hypophthalmichthys harmandi (Sauvage, 1884) - Cá mè trắng Việt Nam. Hypophthalmichthys molitrix (Valenciennes trong Cuvier và Valenciennes, 1844), đồng nghĩa: Hypophthalmichthys dybowskii Herzenstein, 1888 - Cá mè trắng Hoa Nam. Hypophthalmichthys nobilis (Richardson, 1845) - Cá mè hoa. Nhận dạng Cá mè có thân dẹp, dài thon, vảy rất nhỏ, có màu trắng, trong cơ thể có những tuyến tiết ra một chất có mùi tanh. Hai loài cá mè trắng Việt Nam và cá mè trắng Hoa Nam có vảy óng ánh nên các nước tây phương gọi là "cá chép bạc", như trong tiếng Anh gọi cá mè trắng Việt Nam là silver carp và cá mè trắng Hoa Nam là largescale silver carp. Cả ba loài đều có đầu to, to nhất là loài Hypophthalmichthys nobilis. Hypophthalmichthys molitrix (cá mè trắng Hoa Nam) và Hypophthalmichthys nobilis (cá mè hoa) có thể đạt chiều dài trên 100 cm và trọng lượng trên 25 kg. Hypophthalmichthys harmandi (cá mè trắng Việt Nam) có thể đạt chiều dài 54 cm, chưa tìm được hồ sơ ghi trọng lượng tối đa có thể đạt được của loài cá này. Cá mè có 1 vây (kỳ) lưng, hai vây (kỳ) mang và 3 vây (kỳ) bụng, đuôi hình chữ V. Nơi sống Cá mè là cá nước ngọt, sống ở từng gần mặt nước, những nơi nước đứng hay nước chảy yếu, như ao, hồ, đầm lầy, sông nhánh. Cá mè không đẻ trong ao, đầm mà chỉ đẻ ở nơi có dòng nước chảy mạnh, tới mùa đẻ trứng (tháng 6-tháng 7), cá lội ngược dòng sông tìm những nơi ngã ba để đẻ, trứng trôi theo dòng nước về hạ lưu và nở con tại đây. Muốn cá đẻ trong ao, người ta phải chích kích thích tố (hormone) vào tuyến não cá bố mẹ và dùng bơm tạo dòng nước nhân tạo trong ao. Ba loài cá này tuy gốc châu Á nhưng hiện nay đã được đưa sang các châu lục khác gây giống. Ở Việt Nam, cá mè bành trướng ở Bắc Bộ và bắc Trung Bộ.
James Byron Dean (8 tháng 2 năm 193130 tháng 9 năm 1955) là một nam diễn viên người Mỹ. Anh được biết đến như một huyền thoại của lịch sử điện ảnh Hollywood, đại diện cho những thay đổi của giới trẻ và tầng lớp xã hội Mỹ thập niên 1950. Bộ phim gắn liền với tên tuổi của anh là Rebel Without a Cause (Nổi loạn vô cớ) với vai diễn một cậu thanh niên cố gắng hòa nhập với bạn bè cùng trang lứa và bất bình với những ý kiến của bố mẹ mình, phản ánh khoảng cách thế hệ cũng như những thay đổi trong nhận thức thanh thiếu niên Mỹ đương thời. Hai vai diễn lớn khác bao gồm vai chính trong phim East of Eden (Phía đông vườn địa đàng) và phim Giant (Gã khổng lồ). Sau cái chết vì tai nạn xe hơi năm 1955, Dean trở thành diễn viên đầu tiên nhận được đề cử giải Oscar cho Nam diễn viên chính xuất sắc nhất sau khi qua đời. Năm 1999, anh được Viện phim Mỹ xếp hạng 18 trong danh sách những ngôi sao vĩ đại nhất của lịch sử điện ảnh Hoa Kỳ. Dù sự nghiệp ngắn ngủi chỉ với ba bộ phim thủ vai chính, nam diễn viên được vinh danh như một biểu tượng văn hóa đại chúng Mỹ thập niên 1950 với vai trò là người khởi đầu trào lưu "thanh niên nổi loạn" ("bad boy") và phong cách thời trang "cool" ("ngầu"). Ảnh hưởng của tài tử Hollywood còn lan tới nền âm nhạc rock và rock and roll của thế hệ sau này. Thơ ấu James Byron Dean sinh ngày 8 tháng 2 năm 1931 tại Marion, Grant, Indiana. Anh là người con duy nhất của ông Winton Dean, người Mỹ gốc Anh với một phần nhỏ gốc Mỹ bản địa và bà Mildred Marie Wilson, có gốc gác từ những người nhập cư Anh trên chuyến tàu Mayflower thế kỷ 17. Sau khi ông Winton bỏ nghề nông để theo nghề nha sĩ sáu năm, gia đình chuyển đến sống ở Santa Monica, California. Dean ban đầu theo học tại Trường Công lập Brentwood ở Los Angeles nhưng sau đó chuyển sang Trường Tiểu học McKinley ở khu phố lân cận. Thời thơ ấu, Dean rất thân với mẹ vì bà là người duy nhất hiểu được con trai mình. Khi anh lên bảy, bà đột nhiên mắc chứng đau ở bụng và sút cân nhanh chóng. Cuối cùng, bà mất vì ung thư tử cung khi con mình mới chín tuổi. Cha của Dean sau đó gửi anh đến sống chung với người cô và chú là Ortense và Marcus Winslow ở Fairmount, Indiana. Trong những năm tháng thiếu niên, Dean thường xuyên tiếp xúc với một mục sư Tin Lành tên James DeWeerd; ông là người có sức ảnh hưởng lớn tới những sở thích của anh sau này như đấu bò, đua xe và kịch. Hai người có mối quan hệ khá thân thiết kéo dài từ khi Dean học năm cuối trung học. Từng có vài ý kiến cho rằng hai người có quan hệ tình dục với nhau. Sau này, vào năm 2011, nữ diễn viên Elizabeth Taylor tiết lộ rằng Dean từng thú nhận với cô anh bị lạm dụng tình dục bởi một người đàn ông lớn tuổi hơn khoảng hai năm sau khi mẹ anh mất. Dean là một học sinh năng nổ ở trường trung học; anh tham gia đội bóng chày và bóng rổ, học kịch và tham gia cuộc thi hùng biện tổ chức bởi Hiệp hội Pháp y Trung học Indiana (Indiana High School Forensic Association). Sau khi tốt nghiệp Trường Trung học Fairmount năm 1949, anh chuyển về California cùng với chú chó Max và chung sống với cha và mẹ kế. Tại California, anh ban đầu nhập học tại Cao đẳng San Monica chuyên ngành luật, nhưng sau đó chuyển tiếp qua Đại học California tại Los Angeles (UCLA) và chuyển chuyên ngành sang nghệ thuật sân khấu. Người cha phản đối quyết định đó và mối quan hệ cha con trở nên tồi tệ đi. Trong quãng thời gian tại UCLA, Dean được chọn từ nhóm 350 người để thủ vai Malcolm cho vở Macbeth. Tháng 1 năm 1951, anh rời UCLA để theo đuổi sự nghiệp diễn viên. Sự nghiệp diễn xuất Những vai diễn đầu: 1951–1954 Lần xuất hiện đầu tiên trên truyền hình của Dean là một vai diễn công chúng trong một thước phim quảng cáo Pepsi. Vai diễn truyền hình đầu tiên của anh là vai Gioan Tông đồ trong chương trình truyền hình Family Theater nhân dịp kỷ niệm Lễ Phục sinh năm 1951. Trong thời gian này, Dean làm việc tại cánh đồng Iverson chuyên được các đạo diễn dùng để quay phim ở khu Chatsworth thuộc Los Angeles. Vì không có trình độ chuyên môn, anh thủ vai quần chúng trong các phim gồm Fixed Bayonets! (vai một người lính), Sailor Beware (vai nhân viên trong trường đấu boxing) và Has Anybody Seen My Gal? (vai một cậu thanh niên). Trong khoảng thời gian bươn chải với cuộc sống Hollywood, Dean làm việc tại bãi đỗ xe của đài CBS và được đạo diễn radio Rogers Brackett giúp đỡ tư vấn cho sự nghiệp diễn xuất cũng như chỗ ở tạm. Tháng 7 năm 1951, Dean xuất hiện trong chương trình Alias Jane Doe của đài CBS. Tháng 10 năm đó, cùng với sự ủng hộ từ Brackett và diễn viên James Whitmore, anh chuyển đến Thành phố New York và làm thử nghề đóng thế cho trò chơi truyền hình Beat the Clock, nhưng sau đó bị đuổi vì "làm việc quá nhanh." Nam diễn viên cũng xuất hiện trên một vài chương trình truyền hình của CBS bao gồm The Web, Studio One và Lux Video Theatre, sau đó được nhận vào hội The Actors Studio theo học kỹ năng diễn xuất với sự dẫn dắt của Lee Strasberg. Tự hào với thành tựu ấy, anh viết thư gửi về gia đình năm 1952 và ngợi ca Actors Studio là "trường học diễn xuất vĩ đại nhất. Những người theo học ở đây gồm có Marlon Brando, Julie Harris, Arthur Kennedy, Mildred Dunnock, Eli Wallach... Rất ít người được nhận vào... Đây là điều tuyệt nhất có thể xảy ra với một diễn viên. Và con là người trẻ nhất trong số họ". Sự nghiệp của Dean bắt đầu khấm khá hơn: anh thủ vai trong một vài chương trình truyền hình nữa bao gồm Kraft Television Theatre, Robert Montgomery Presents, The United States Steel Hour, Danger và General Electric Theater. Vai diễn cậu bé tinh nghịch Bắc Phi tên Bachir trong vở kịch dựa trên cuốn sách The Immoralist của André Gide năm 1954 nhận được phản ứng tích cực từ các nhà phê bình và giúp Dean nhận được cuộc gọi thử vai đầu tiên từ Hollywood. East of Eden Đạo diễn Elia Kazan năm 1953 đang tìm kiếm một diễn viên quan trọng để thủ vai Cal Trask, một nhân vật được cho là có những cung bậc cảm xúc phức tạp để sản xuất bộ phim East of Eden (Phía đông vườn địa đàng) dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên năm 1952 của tác giả John Steinbeck. Cuốn tiểu thuyết kể về câu chuyện của hai gia đình Trask và Hamilton qua ba thế hệ và tập trung vào cuộc sống của hai thế hệ sau tại Thung lũng Salinas ở California từ giữa thế kỷ 19 đến những năm thập niên 1910. Bộ phim chỉ tập trung vào phần cuối của cuốn tiểu thuyết, đặc biệt là nhân vật Cal Trask. Nội dung chính của phim tập trung vào mâu thuẫn cha con và sự nổi loạn của người con ngược lại những gì người cha mong đợi. Cal Trask có một người anh là Aron Trask, so với người anh, Cal trông có vẻ dễ bị cảm xúc chi phối hơn, nhưng thực tế Cal là người có khiếu ăn nói và khôn ngoan hơn cả người cha hay càu nhàu và than phiền về những người con của mình (Raymond Massey). Cal luôn thắc mắc về người mẹ tưởng như đã chết của mình theo lời người cha, sau đó phát hiện ra mẹ mình vẫn còn sống và hành nghề tú bà nhà chứa (Jo Van Fleet). Đạo diễn Kazan muốn tìm kiếm một diễn viên tài năng như Marlon Brando cho vai Cal, và biên kịch Paul Osborn gợi ý việc tuyển James Dean, lúc đấy vẫn chưa có tiếng tăm trong làng điện ảnh. Nam diễn viên sau đó trực tiếp gặp Steinbeck, tác giả cuốn tiểu thuyết không thích tính cách của Dean vì "có vẻ buồn và phức tạp" nhưng đồng ý rằng anh là một diễn viên hoàn hảo cho vai Cal. Anh được nhận vào đoàn phim ngày 8 tháng 4 năm 1954 và chuyển từ New York về lại Los Angeles để bắt đầu cảnh quay. Phần lớn diễn xuất của Dean trong bộ phim đều không cần kịch bản: Cal Trask nhảy nhót giữa cánh đồng, cuộn tròn người lại trên tàu sau khi tìm mẹ mình ở Monterey, hay ôm bố mình rồi bật khóc khi ông từ chối nhận tiền anh tự thân kiếm được, mặc dù kịch bản ghi rõ là Cal sẽ chạy ra khỏi nhà. Với East of Eden, nam diễn viên nhận được đề cử cho Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại Giải Oscar năm 1956 khi đã qua đời và trở thành diễn viên đầu tiên được để cử Oscar sau khi mất. Rebel Without a Cause, Giant và những vai diễn dự kiến Dean nhanh chóng thủ vai chính thứ hai trong bộ phim Rebel Without a Cause (Nổi loạn vô cớ), sau này trở nên rất phổ biến với thanh thiếu niên Mỹ. Trong phim, Dean thủ vai Jim Stark, một cậu thanh niên cố gắng hòa nhập với bạn bè trang lứa và bất bình với ý kiến của bố mẹ mình. Gia đình Jim chuyển nhà vì bố cậu mong cậu sẽ có bạn, nhưng Jim lại vướng vào nhiều rắc rối vì gây sự với những người chê cậu là "con gà" ("chicken"). Sau này, Jim gặp Judy (Natalie Wood) và yêu cô, nhưng phát hiện cô ta là bạn với hội đã chế nhạo Jim. Bộ phim được công nhận là tiếng nói cho những chuyển biến tâm lý của giới trẻ đương thời, thể hiện khoảng cách thế hệ giữa phụ huynh và con cái và cho thấy những giá trị đạo đức bị mài mòn của xã hội Mỹ thập niên 1950. Dù East of Eden và Rebel Without a Cause đều thành công, Dean không muốn hình tượng của mình bị bó buộc trong những vai diễn thanh niên nổi loạn và bất bình với cuộc đời như Cal Trask hay Jim Stark. Anh quyết định thay đổi hình ảnh và thủ vai Jett Rink, một người làm nông ở Texas sau đó phát hiện ra mỏ dầu và trở nên giàu có trong phim Giant (Gã khổng lồ). Bộ phim được phát hành năm 1956 sau khi Dean đã qua đời. Bạn cùng diễn gồm Rock Hudson và Elizabeth Taylor. Giant trở thành bộ phim cuối cùng mà Dean thủ vai chính. Sau Giant, tài tử Hollywood có một vài vai diễn được cân nhắc, bao gồm trong phim Somebody Up There Likes Me. Theo đạo diễn của Rebel Without a Cause Nicholas Ray, Dean và ông đã có dự định quay một bộ phim tình mang tên Heroic Love cùng nhau. Tất cả các dự định đều bị hủy vì cái chết đột ngột của nam minh tinh vào tháng 9 năm 1955. Đời tư Sau khi mẹ mất, cha Dean gửi anh tới sống cùng cô và chú ở Indiana, do đó anh lớn lên mà không có tình thương của cha. Dù sau này trong thời gian ở California, anh có sống chung với cha và mẹ kế, nhưng có vẻ ông không muốn nhìn thấy mặt anh. Quan hệ cha con trở nên tồi tệ hơn khi tài tử Hollywood chuyển chuyên ngành sang kịch, và cuối cùng bỏ học để theo đuổi sự nghiệp điện ảnh, điều mà người cha phản đối kịch liệt. Chính vì lẽ đó, bạn bè và đồng nghiệp đều nhận thấy Dean thật sự muốn có được tình yêu và sự công nhận từ cha mình, điều mà khán giả có thể cảm nhận qua hai vai diễn trong phim East of Eden và Rebel Without a Cause đều là những cậu thanh niên có trăn trở và cảm xúc khá giống với con người thật của anh. Kể cả sau khi Dean qua đời và trở thành huyền thoại của Hollywood, người cha vẫn không muốn nhắc đến đứa con của mình. Biên kịch William Bast là một người bạn thân thiết của Dean, ông là bạn cùng phòng với tài tử Hollywood khi học ở UCLA và sau này cùng anh chuyển tới sống ở New York. Bast cũng là tác giả đầu tiên viết về cuộc đời James Dean sau khi anh tử nạn năm 1955. Sau khi hoàn thành bộ phim East of Eden, Dean kết thân với nhiếp ảnh gia Dennis Stock của tạp chí Life, người chụp những bức ảnh nổi tiếng về cuộc sống của nam diễn viên trong thời gian ở New York và Fairmount, Indiana. Tình bạn của hai người được khắc họa qua bộ phim Life năm 2015, do Robert Pattinson và Dane DeHaan thủ vai. Trong thời gian học ở UCLA, Dean hẹn hò với một nữ diễn viên cho đài CBS tên Beverly Wills. Hai người chia tay vì anh "bùng lên cơn ghen" khi một người đàn ông khác mời cô cùng khiêu vũ ở một bữa tiệc. Khi chuyển đến New York, anh có mối quan hệ với một nữ diễn viên tên Barbara Glenn trong vòng hai năm. Lá thư tình của Dean cho bạn gái được đấu giá năm 2011 với giá 36.000 đô la Mỹ. Trong những năm đầu sự nghiệp điện ảnh, sau khi ký kết hợp đồng với Warner Bros., hãng phim bắt đầu tung tin hẹn hò của Dean với một loạt các nữ diễn viên trẻ qua sự mai mối của một quản lý tại Hollywood tên Dick Clayton. Mối tình được biết tới nhiều nhất của tài tử Hollywood là với nữ diễn viên người Ý Pier Angeli. Hai người biết nhau khi cô đang quay phim The Silver Chalice tại một phim trường của Warner Bros. Anh tỏ tình cô bằng cách gửi cô những món trang sức đắt tiền. Theo lời Angeli, hai người có một tình yêu nồng nhiệt: "Chúng tôi thường trốn khỏi cánh nhà báo tới bờ biển California và dành thời gian ở đó, đùa giỡn như hai đứa trẻ [...] Chúng tôi giống như Romeo và Juliet, luôn cùng nhau và không thể lìa nhau." Mặc dù mối tình của họ được báo chí quan tâm, họ không hưởng hạnh phúc trọn vẹn vì sự phản đối từ mẹ của Angeli. Bà không chấp nhận những hành động hoang dại của Dean: trang phục luộm thuộm, hay trễ giờ và sở thích đua xe. Ngoài ra lý do tôn giáo cũng khiến bà phản đối Dean vì anh không theo Công giáo. Dù nam diễn viên rất muốn kết hôn với Angeli và sẵn sàng cho phép con của họ theo Công giáo, hãng phim Warner Bros. thuyết phục anh từ bỏ ý định kết hôn, sau này chính Dean cũng tự mình chấm dứt mối quan hệ với Angeli. Sau khi hoàn thành phim East of Eden, tài tử Hollywood du lịch ngắn ngày đến New York tháng 10 năm 1954. Trong thời gian đó, Angeli bất ngờ thông báo hôn nhân của mình với ca sĩ người Mỹ gốc Ý Vic Damone. Giới báo chí bị một phen bất ngờ, và Dean trở nên tức giận. Một tháng sau, Angeli và Damone kết hôn. Có tin đồn Dean đã tới hôn lễ và đứng nhìn từ phía bên kia đường trên chiếc mô tô, và đôi lúc nhấn ga gây ồn; bản thân anh phủ nhận tin đồn "ngu ngốc" đó. Nhiều người cho rằng mối tình của Dean với Angeli chỉ là một chiêu trò thu hút dư luận, trong đó có cả bạn thân William Bast. Nhiều nhân chứng lại phản đối ý kiến này, cho rằng hai người họ thật sự yêu nhau nồng nhiệt. Có người kể rằng sau khi Dean biết tin Angeli mang thai, anh đã khóc nức nở và luôn miệng cho rằng đó là đứa con của anh. Sau hai cuộc hôn nhân đổ vỡ, Angeli thổ lộ với bạn bè của mình rằng Dean là "mối tình của cả đời cô". Xu hướng tình dục của Dean cũng là một chủ đề mà giới báo chí quan tâm. Khi được hỏi về xu hướng tình dục của mình, anh trả lời: "Không, tôi không đồng tính. Nhưng tôi cũng sẽ không thể không thử trước khi tôi qua đời." Bạn thân Bast của anh tiết lộ rằng họ từng một lần "trải nghiệm" với nhau, nhưng không giải thích rõ. Nhà báo Joe Hyams cho rằng tài tử Hollywood có thể có quan hệ với những người cùng giới, nhưng cho rằng đó đều là "hành động thương mại" nhằm phục vụ cho thăng tiến sự nghiệp. Tuy nhiên, nhiều người phản đối ý kiến này, bao gồm bạn thân lâu năm Bast. Bạn cùng đua mô tô với Dean, John Gilmore, khẳng định rằng hai người bọn họ đã "trải nghiệm" quan hệ tình dục đồng tính nhiều lần với nhau khi ở New York, miêu tả những lần trải nghiệm ấy là "những chàng trai hư hỏng (bad boys) chơi với nhau và bộc lộ những khía cạnh song tính của nhau." James Bellah, bạn cùng học với nam diễn viên ở UCLA nói rằng "Tôi không nghĩ anh ấy đồng tính. Nhưng nếu như anh ấy cảm thấy có lợi từ việc đó thì..." Một vài đồng nghiệp cho rằng Dean là người đồng tính nam, bao gồm đạo diễn Rebel Without a Cause Nicholas Ray và bạn diễn Elizabeth Taylor trong phim Giant. Một số các nhà báo cho rằng Dean hoặc là người song tính, hoặc là người toàn tính, và những lần quan hệ đồng tính đều nhằm mục đích phục vụ cho thăng tiến sự nghiệp chứ không nhất thiết là xu hướng tình dục của nam minh tinh. Qua đời Sở thích đua xe Dean bắt đầu trở nên hứng thú với đua xe hơi vào năm 1954 và có dự định theo đuổi sự nghiệp đua xe. Anh mua một vài chiếc xe sau khi hoàn thành bộ phim East of Eden, bao gồm chiếc Triumph Tiger T110 và Porsche 356. Trước khi bắt đầu quay Rebel Without a Cause, anh hoàn thành cuộc đua chuyên nghiệp đầu tiên của mình tại Palm Springs, California ngày 26 và 27 tháng 3 năm 1955. Dean về nhất trong cuộc đua cho những người mới nhập, và về nhì trong cuộc đua chính. Một tháng sau, anh đua tiếp ở Bakersfield, California, về nhất trong những người cùng đua và thứ ba nếu xét tất cả các ngày đua. Dean cũng mong muốn tham gia cuộc đua Indianapolis 500 ở bang Indiana, nhưng không tham gia vì lịch trình quay phim bận rộn. Cuộc đua cuối cùng của Dean diễn ra tại Santa Barbara, California ngày 30 tháng 5 năm 1955. Tuy nhiên anh không hoàn thành cuộc đua vì piston bị hư. Sự nghiệp đua xe của anh bị tạm hoãn khi hãng phim Warner Brothers cấm anh không tham gia đua xe khi quay phim Giant. Tử nạn Mong muốn được trở lại đua xe để trải nghiệm "những cảm xúc tự do", Dean đăng ký tham gia một cuộc đua ở Salinas, California, được dự định lịch diễn ra vào ngày 1 và 2 tháng 10 năm 1955. Anh đi cùng với điều phối viên Bill Hickman, nhiếp ảnh gia Sanford Roth và thợ máy người Đức Rolf Wütherich, người bảo trì chiếc Porsche 550 Spyder "Little Bastard" ("Kẻ ngốc nhỏ bé") của Dean. Trước đó Wütherich khuyên Dean nên tự lái chiếc Porsche từ Los Angeles tới Salinas để trình làng chiếc xe mới, và hai người họ cùng nhau du hành trên chiếc Porsche ngày 30 tháng 9 năm 1955. Lúc 3 giờ rưỡi chiều, nam diễn viên bị cảnh sát giao thông phạt trên Cao tốc Liên bang 99—anh lái xe với vận tốc 65 dặm trên giờ (105 km trên giờ) trên đoạn đường giới hạn tốc độ 55 dặm trên giờ (88 km trên giờ). Lúc 5 giờ 45 phút chiều, khi Dean cùng các bạn đồng hành lưu thông trên Cao tốc Liên bang 466 (nay là Cao tốc bang California số 46), một chiếc Ford Tudor đời 1950 đang băng qua ngã tư đường ngay phía trước chiếc Porsche. Do không kịp thắng, Dean đâm vào phía bên cạnh chiếc Ford, khiến chiếc Porsche bị hất vào lề đường cao tốc. Thợ máy Wütherich bị hất ra khỏi chiếc Porsche, còn Dean bị kẹt trong chiếc xe với nhiều vết thương nghiêm trọng và bị gãy cổ ngay tức khắc. Tài xế trên chiếc Ford, Donald Turnupseed, chỉ bị thương nhẹ. Vụ tai nạn được một vài nhân chứng đi đường chứng kiến và dừng lại để giúp đỡ. Một người phụ nữ có kinh nghiệm y tế đã tới và cố giúp đỡ, nhưng bà nhận thấy nhịp tim của Dean quá yếu và "cái chết là không thể tránh khỏi". Dean qua đời ngay khi vừa được đưa vào cấp cứu tại Bệnh viện Tưởng niệm chiến tranh Paso Robles lúc 6 giờ 20 tối. Ngày 2 tháng 10, vụ việc được hàng loạt các phương tiện truyền thông trong nước cũng như quốc tế loan tin. Tang lễ của tài tử Hollywood được tổ chức ngày 8 tháng 10 năm 1955 tại Nhà thờ Fairmount ở bang Indiana, nơi anh lớn lên và dành những năm tháng tuổi trẻ của mình. Thi hài anh được che đậy kỹ càng để che giấu những vết thương trầm trọng. Khoảng 600 người dự tang lễ và 2400 người hâm mộ có mặt ở ngoài nhà thờ ngày hôm đó. Anh được chôn cất ở Nghĩa trang Park tại Fairmount. Ngày 30 tháng 5 năm 2005, để kỷ niệm 50 năm ngày mất của Dean, bang California dựng cột tưởng niệm ở ngã tư giao Cao tốc bang số 46 và 41 gần nơi tai nạn xảy ra và đặt tên "Ngã tư tưởng niệm James Dean" (James Dean Memorial Junction). Một cuộc điều tra vụ tai nạn được tiến hành bởi Tòa án Quận San Luis Obispo, California. Tòa tuyên án Dean là người chịu trách nhiệm hoàn toàn cho vụ tai nạn của mình, còn tài xế trên chiếc Ford vô tội. Sau này, một bài báo trên tờ Los Angeles Times ngày 1 tháng 10 năm 2005 tiết lộ rằng theo lời một nhân viên tuần tra đường cao tốc bang California có mặt tại hiện trường vụ tai nạn, tốc độ chiếc Porsche vào thời điểm vụ việc xảy ra vào khoảng "55 dặm trên giờ" (khoảng 88 km/h) dựa trên những thương tích trên cơ thể Dean cũng như vị trí chiếc xe sau va chạm. Di sản Dù chỉ với ba bộ phim lớn và sự nghiệp ngắn ngủi trước khi qua đời ở tuổi 24, James Dean trở thành huyền thoại Hollywood mà ảnh hưởng vẫn tồn tại tới ngày nay. Thanh thiếu niên Mỹ những năm thập niên 1950 tôn vinh anh như một đại diện cho những xúc cảm và suy nghĩ của họ – một tầng lớp luôn lo âu và bất bình với cuộc sống và cảm thấy không có ai, kể cả bạn bè trang lứa, có thể hiểu họ. Diễn viên Humphrey Bogart bình luận rằng cái chết đột ngột là nhân tố khiến cho hình ảnh của Dean tồn đọng mãi mãi với thời gian và "nếu anh ấy sống sót, anh ấy có thể sẽ không có sức ảnh hưởng lớn như ngày hôm nay." Tờ The New York Times đồng tình và cho rằng điều đó đóng vai trò to lớn trong việc củng cố hình ảnh mà "không cần phải đổi mới" và khiến cho cái tên James Dean trở thành một đặc trưng của văn hóa Mỹ đương đại có thể ví như nhãn hiệu Coca Cola. Năm 1999, anh được Viện phim Mỹ xếp hạng 18 trong danh sách những ngôi sao vĩ đại nhất của lịch sử điện ảnh Hoa Kỳ. Dean là một diễn viên thể hiện được sức hút cả nam tính lẫn nữ tính. Nhà báo Joe Hyams cho rằng anh là một trong số hiếm những ngôi sao mà "cả đàn ông lẫn phụ nữ đều bị cuốn hút." Nhà báo Marjorie Garber đồng tình và viết rằng "đấy là nhân tố quyết định tạo nên một ngôi sao." Dean trở thành chủ đề cho nhiều chương trình truyền hình, phim, sách và kịch. Bộ phim ngày 30 tháng 9 năm 1955 phát hành năm 1977 kể lại phản ứng của cư dân ở một thị trấn nhỏ miền nam nước Mỹ sau khi tài tử Hollywood tử nạn năm 1955. Ngày 20 tháng 4 năm 2010, một tập phim bị "mất" của chương trình General Electric Theater mang tên "The Dark, Dark Hours" ("Những thời khắc đen tối"), trong đó có hai vai diễn do Dean và cựu tổng thống Ronald Reagan thủ vai, được phát hành bởi đài NBC. Một bộ phim về tiểu sử của huyền thoại Hollywood, đóng bởi diễn viên James Franco, được phát hành vào năm 2001. Anh được vinh danh là một trong những biểu tượng văn hóa đại chúng thế giới của thế kỷ 20 bởi báo Variety và tạp chí People. Hình tượng thanh niên nổi loạn ("bad boy") của Dean, đặc biệt qua vai diễn trong phim Rebel Without a Cause, mở ra một trào lưu thời trang và phong cách sống mới đương thời. Anh được nhớ tới là một trong những biểu tượng sex nam nổi bật nhất của thời Hoàng kim Hollywood. Phong cách thời trang của tài tử Hollywood, tiêu biểu là áo thun trắng cùng quần jean Lee và áo jacket bomber đỏ trong Rebel khiến anh trở thành một biểu tượng thời trang và thu hút nhiều người hâm mộ bắt chước. Cùng với câu nói nổi tiếng "Sống như thể bạn sẽ chết vào hôm nay" ("Live as if you'll die today"), huyền thoại Hollywood trở thành người khởi xướng phong trào "cool" (tạm dịch: "ngầu") của giới trẻ Mỹ. Với tư cách là người đi đầu phong trào "bad boy", Dean được cho là người có tầm ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ tới nhạc rock and roll thời kỳ giữa thập niên 1950; nhà nghiên cứu David Shumway tại Đại học Carnegie Mellon có ý kiến rằng nam diễn viên là biểu tượng đầu tiên cho những hành động nổi loạn của giới trẻ và là "điềm báo cho phong trào chính trị của thanh thiếu niên." Hình ảnh của anh được những nghệ sĩ âm nhạc thế hệ sau như Elvis Presley tiếp nhận và bắt chước. Mặc dù Rebel Without a Cause không hề có nhạc rock trong album nhạc phim đi kèm, cảm xúc mà bộ phim mang lại cũng như hình ảnh mà nam minh tinh thủ vai khiến cho giới truyền thông cảm nhận "Dean và nhạc rock là hai thứ có mối liên hệ mật thiết với nhau" và tạp chí Music Connection còn vinh danh anh là "ngôi sao nhạc rock đầu tiên" của thế hệ. Cùng với sự trỗi dậy của nhạc rock trong văn hóa giới trẻ khắp thế giới những năm sau đó, Dean trở thành một tượng đài văn hóa đại diện cho sự bất bình của thanh thiếu niên trước những giá trị văn hóa lỗi thời và quan điểm bảo thủ của các bậc phụ huynh, một chủ đề được thể hiện khá thường xuyên trong các ca khúc rock. Nét quyến rũ tới mọi người không kể giới tính và tuổi tác cũng là nhân tố góp phần tạo nên hình ảnh bất tử của huyền thoại Hollywood. Các nghệ sĩ nhạc rock và rock and roll tiêu biểu chịu ảnh hưởng của huyền thoại Hollywood gồm Elvis Presley, Buddy Holly, Bob Dylan, David Bowie và The Beatles. Bob Dylan được gọi là "James Dean với cây đàn guitar" và thể hiện sự mến mộ với ngôi sao điện ảnh qua các album The Freewheelin' Bob Dylan (1963) và Highway 61 Revisited (1965). John Lennon, thành viên của The Beatles khẳng định rằng: "Nếu không có James Dean, The Beatles có lẽ đã không tồn tại." Cái tên cùng hình tượng James Dean đã và đang được đề cập rất nhiều trong các ca khúc rock, nổi tiếng gồm có "A Young Man Is Gone" của The Beach Boys (1963), "James Dean" của Eagles (1974) và "James Dean" của Goo Goo Dolls (1989). Danh sách kịch Broadway See the Jaguar (1952) The Immoralist (1954) Ngoài Broadway The Metamorphosis (1952) The Scarecrow (1954) Women of Trachis (1954) Danh sách phim Phim điện ảnh Truyền hình Danh sách phim tiểu sử Giải thưởng và đề cử Chú thích Nguồn tham khảo
Trần Liễu (chữ Hán: 陳柳; 1211 - 1251), hay An Sinh vương (安生王) hoặc Khâm Minh Đại vương (欽明大王), một tông thất vương công thuộc hoàng tộc nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông là trưởng tử của Trần Thái Tổ (Trần Thừa) và là đại ca của Trần Cảnh - vị hoàng đế đầu tiên của triều đại nhà Trần. Ngoài việc là đại ca của Trần Thái Tông, ông còn là nhân vật chính trị có vai trò đặc biệt trong chế độ nhà Trần thuở ban đầu. Về sau, ông trở thành nhân tố mấu chốt trong sự kiện năm Đinh Dậu (1237), khi vợ đầu của ông là Thuận Thiên Công chúa bị đem vào cung và trở thành hoàng hậu của Trần Thái Tông. Sự việc này khiến Trần Liễu phát sinh biến loạn tại sông Cái, và dù nhanh chóng bị dẹp yên, thế nhưng sự kiện này cũng hình thành nên vết rạn nứt trong mối quan hệ giữa ông và em trai. Cột mốc này tạo nên sự rạn nứt giữa hai nhánh lớn nhất của hoàng thất nhà Trần: nhánh hậu duệ kế vị của Trần Thái Tông và nhánh con cháu của Trần Liễu. Về sau đến tận thời Trần Anh Tông Trần Thuyên, giữa hoàng thất và con cháu của Trần Liễu luôn có hôn nhân nội tộc, đây thường được cho là một hình thức khiến hai phân nhánh này xóa bỏ mâu thuẫn của cha ông, đồng thời còn là một biện pháp kiểm soát của hoàng thất đối với nhánh Trần Liễu. Bên cạnh vai trò chính trị đặc biệt, Trần Liễu còn được chú ý vì là cha ruột của nhiều nhân vật lịch sử rất quan trọng của triều Trần, bao gồm Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Quốc Tung, Hoàng hậu của Trần Thánh Tông là Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng hậu và Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn - một nhân vật nổi tiếng nhất nhì trong lịch sử Việt Nam. Thân thế Trần Liễu sinh vào khoảng niên hiệu Kiến Gia thứ 1 (1211), tại phủ đệ Tinh Cương, phủ Long Hưng (nay là xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Ông là trưởng tử của Trần Thừa, không rõ mẹ là ai, thông thường đều mặc định là Lê thị - vợ cả của Trần Thừa và là mẹ ruột của Trần Thái Tông Trần Cảnh. Theo thông tin hiện có, Trần Liễu có lẽ là trưởng tử trong số những người con của Trần Thừa, dưới Liễu là Trần Thái Tông, Khâm Thiên Đại vương Trần Nhật Hiệu. Ngoài ra còn có Thụy Bà công chúa, Thiên Thành công chúa và người anh em trai ngoài giá thú là Hoài Đức vương Trần Bà Liệt, cả ba hiện đều không rõ thứ tự trong nhà. Khi ông sinh ra và trưởng thành, họ Trần lúc đó dẫn đầu là Trần Lý đang là thế lực quân phiệt có sức ảnh hưởng tại thôn Lưu Gia, buộc vị thái tử của nhà Lý là Lý Hạo Sảm phải nương nhờ gia tộc này. Sau khi cô của Trần Liễu là Trần Thị Dung gả cho thái tử, gia tộc họ Trần chính thức tham gia vào cuộc chiến chính trị khi ấy. Thái tử lên ngôi, tức Lý Huệ Tông, gia tộc họ Trần lại bị xoay vần vì tình hình chính trị phức tạp và dã tâm của người chú Trần Tự Khánh - một người không hề giấu diếm việc muốn thao túng hoàng gia nhà Lý. Tới giai đoạn năm Bính Tý thời kỳ Kiến Gia (1216), lúc này Trần Liễu lên 6 tuổi, chính quyền nhà Lý cơ bản hoàn toàn nằm trong tay họ Trần, sau khi Lý Huệ Tông quyết định nương nhờ người chú Trần Tự Khánh đồng thời sách lập Trần thị làm hoàng hậu. Không rõ vào thời gian nào, Trần Liễu cuối cùng được ban hôn với Thuận Thiên Công chúa Lý Oánh, chị của Lý Chiêu Hoàng, con gái lớn nhất của Lý Huệ Tông đồng thời còn là chị em họ của ông, vì mẹ của Thuận Thiên là Trần Hoàng hậu. Dù còn nhỏ, Trần Liễu cũng giống con trai Trần Hải của Trần Tự Khánh đều được nhà Lý ban tước vị vương hầu, trong khi Hải là tước Vương thì Liễu là Quan nội hầu (關內侯). Tuy nhiên không rõ vào năm nào, Trần Liễu lại một lần nữa thụ phong tước vương, vị hiệu là Phụng Càn vương (奉乾王). Theo tài liệu văn bản cố được gọi là Trần triều thế phả hành trạng, trước khi lấy Thuận Thiên thì bản thân Trần Liễu đã có người vợ tên là "Trần Thị Nguyệt", tức Thiện Đạo Quốc mẫu, vì Thuận Thiên là công chúa, phải là chính thất, nên Thiện Đạo liền thành thiếp thất. Tiểu sử Năm Giáp Thân, Kiến Gia năm thứ 14 (1224), Chiêu Thánh công chúa Lý Thiên Hinh được Huệ Tông truyền ngôi, sử gọi là Lý Chiêu Hoàng. Người chú họ và cô ruột của Trần Liễu, Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ cùng hoàng hậu của Huệ Tông là Trần thị, đã sắp xếp rất nhiều anh em của Trần Liễu thuộc gia tộc họ Trần vào cung. Em trai ông là Trần Cảnh vào cung làm quan nội thị để phục vụ gần vị nữ hoàng đế. Trong thời gian đó, Trần Cảnh và Chiêu Hoàng gần gũi với nhau, dẫn đến việc Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh vào cuối năm sau (1225), chấm dứt triều đại nhà Lý tồn tại hơn 200 năm. Sau khi Trần Cảnh lên ngôi thì tự xưng là Văn Hoàng (文皇), Chiêu Hoàng bị đổi thành "Chiêu Thánh" và được sách lập làm hoàng hậu. Năm Mậu Tý, Kiến Trung năm thứ 4 (1228), vào tháng 8 (âm lịch), ông được Thái Tông phong cho làm Thái úy, một chức vụ khiến ông được dự hàng tể tướng dù lúc đó ông chỉ mới 17 tuổi. Đến năm Giáp Ngọ (1234), sau khi cha của hai người là Thái thượng hoàng Trần Thừa qua đời, Trần Liễu vì là đại ca nên được Thái Tông ban vị trí "Phụ chính" (輔政) với tư cách thái úy, đồng thời được sách phong vị hiệu làm Hiển Hoàng (顯皇). Từ thời kỳ Chiêu Hoàng và đến Thái Tông tự xưng "Văn Hoàng", có thể thấy hậu tố -Hoàng đều do một hoàng đế tự xưng, điều này cho thấy Trần Thái Tông rất cất nhắc ông, từ đây ông chính thức ra chính trường phụ chính cho Thái Tông bên cạnh Thái sư Trần Thủ Độ. Việc sách phong anh trai làm "Hiển Hoàng" của Trần Thái Tông khiến Ngô Sĩ Liên bất bình, cho rằng tuy là anh trai nhưng Liễu chỉ là thần tử, Thái Tông ban phong hiệu cho anh trai ngang với danh xưng hoàng đế đã khiến "Danh không chính, ngôn không thuận, thế thì việc không thành". Tuy nhiên không lâu sau đó, vào năm Bính Thân (1236), Trần Liễu khi ấy làm chức Tri sự của Thánh Từ cung nhưng nổi tính cưỡng gian một cung phi cũ triều Lý tại cung Lệ Thiên. Nhân tội này, Trần Liễu bị giáng làm Hoài vương (怀王). Năm Đinh Dậu, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 6 (1237), vì Thái Tông lấy Chiêu Thánh mãi không có con, Thái sư Trần Thủ Độ cùng Thiên Cực công chúa lên kế sách đưa Thuận Thiên - lúc ấy đã có mang 3 tháng - vào cung làm hoàng hậu thay thế, giáng Chiêu Thánh làm công chúa, đứa trẻ sinh ra là Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang. Trước tình cảnh đó, Trần Liễu phẫn uất họp quân nổi dậy ở sông Cái rất dữ, Trần Thái Tông cảm thấy hổ thẹn nên bỏ đi lên núi Yên Tử và không chịu về cung điện, nhưng sau khi bị Trần Thủ Độ gây sức ép thì Thái Tông cũng đành phải quay về. Nổi loạn được 2 tuần, Trần Liễu biết không làm gì được phải đóng giả làm người đánh cá trốn lên thuyền Thái Tông xin tha tội. Khi ấy Trần Thủ Độ biết được, cầm gươm đến định giết Liễu nhưng Thái Tông lấy thân mình che cho Liễu, do đó mới thoát được bị nghị tội. Thái Tông tha tội Trần Liễu nhưng quân lính theo ông nổi loạn thì đều bị giết. Để an ủi ông, Trần Thái Tông lấy các đất An Phụ, An Dưỡng, An Sinh, An Hưng và An Bang cho ông làm ấp thang mộc, và sửa phong hiệu là An Sinh vương (安生王). Dù rằng nhận ở thế thua cuộc và tự xin hàng, Trần Liễu vẫn rất hậm hực và bất mãn với em trai mình, đến tận khi chết thì Trần Liễu vẫn giữ mối thù này mà không buông bỏ được. Biểu hiện rõ nhất của tâm lý này chính là việc Trần Liễu tìm người đào tạo con trai thứ là Trần Quốc Tuấn khi nghe thầy xem tướng nói Quốc Tuấn có tướng đại quý, dồn rất nhiều tâm huyết để đào tạo Quốc Tuấn giỏi giang hòng uy hiếp con cháu của Thái Tông. Năm Tân Hợi, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 20 (1251), Trần Liễu sắp hấp hối, ông dặn người con trai của mình là Trần Quốc Tuấn phải cướp ngôi nhà Trần từ tay hậu duệ Trần Thái Tông, cụ thể câu nói là: "Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được?". Và tuy rằng Quốc Tuấn nhận lời vì đạo hiếu đối với cha mình, nhưng trong thâm tâm không cho điều này là đúng. Vào tháng 4 (âm lịch) năm ấy, Trần Liễu qua đời, hưởng dương 41 tuổi, gia tặng làm "Đại vương", không rõ mộ táng ở khu vực nào. Về sau ông được truy thụy hiệu là "Khâm Minh Đại vương". Trang ấp và đền thờ Trần Liễu được cho là đã cho lập trang ấp ở dưới chân núi An Phụ, nay thuộc phường An Sinh, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương, riêng sách Cương mục ghi chú An Sinh ngày nay thuộc huyện Đông Triều. Sau khi Trương Phụ đánh bại nhà Hồ, chính quyền triều Minh đã cho tàn phá tất cả những di tích của nước Đại Việt xưa, cũng gây nên tổn thất nghiêm trọng về thông tin cụ thể phần mộ địa của hoàng tộc nhà Trần. Ngày nay, tượng thờ của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đặt tại đỉnh An Phụ, thấp hơn đền Trần Liễu. Đền thờ ông ở núi An Phụ, được gọi là đền Cao An Phụ. Ngày mất của ông không được chính sử truyền lại, dân gian lấy ngày 1 tháng 4 âm lịch (tức 23 tháng 4 năm 1251) trở thành ngày hội của đền Cao. Gia đình Thê thiếp: Sử không ghi rõ ông có bao nhiêu bà vợ cả lẫn vợ lẽ, chỉ xác định có 2 người. Thuận Thiên Công chúa, Lý thị, tên húy là "Oanh" (莹), công chúa lớn nhất của Lý Huệ Tông Lý Hạo Sảm và Linh Từ quốc mẫu. Thiện Đạo Quốc mẫu (善道國母), tên húy là "Nguyệt" (月). Hậu duệ: Ông có ít nhất 5 người con đã được xác định danh tính. Trần Tung (陳嵩), hiệu Tuệ Trung Thượng sĩ (慧中上士). Mẹ không rõ, thường được cho là Thiện Đạo Quốc mẫu. Trần Doãn (陳尹), hiệu Vũ Thành vương (武成王), mẹ là Thuận Thiên Công chúa. Năm Bính Thìn (1256), sau khi Thuận Thiên qua đời, cảm thấy bị thất thế nên Trần Doãn đem cả nhà qua nhà Tống thì bị bắt lại. Trần Quốc Tuấn (陳國峻), hiệu Hưng Đạo vương (興道王). Mẹ không rõ, thường được cho là Thiện Đạo Quốc mẫu. Có hai con gái là Khâm Từ Bảo Thánh Hoàng hậu cùng Tuyên Từ Hoàng hậu, đều là vợ của Trần Nhân Tông Trần Khâm. Có một con trai thứ, tức Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng, người sinh ra Bảo Từ Thuận Thánh Hoàng hậu - vợ cả của Trần Anh Tông Trần Thuyên. Trần Quốc Khang (陳國康), hiệu Tĩnh Quốc Đại vương (靖國大王), mẹ là Thuận Thiên Công chúa. Sau sự kiện Đinh Dậu thì trở thành con trai cả của Trần Thái Tông. Được ban cho quản lý đất Diễn Châu, các con thứ đều là người Diễn Châu và chia nhau ra làm chức quan trị hạt tại đấy. Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng hậu, húy là Thiều (韶), lại có húy là Hâm (歆), con gái thứ 5, mẹ không rõ. Về sau trở thành hoàng hậu của Trần Thánh Tông Trần Hoảng, đồng thời là mẹ đẻ của Trần Nhân Tông. Ngoài ra còn ít nhất 4 người con gái, cũng có thể còn nhiều con trai khác. Xem Thêm Nhà Trần Nhà Lý Lý Huệ Tông Trần Thái Tông Trần Thừa Trần Tự Khánh Chú thích
Thời đại Đồ đá hay Paleolithic là một thời kỳ tiền sử kéo dài mà trong giai đoạn này đá đã được sử dụng rộng rãi để tạo ra các công cụ có cạnh sắc, đầu nhọn hoặc một mặt để đập. Thời kỳ này kéo dài khoảng gần 3.4 triệu năm, và kết thúc vào giai đoạn khoảng từ 8700 TCN tới năm 2000 TCN, cùng với sự ra đời của các công cụ bằng kim loại. Mặc dù một số công cụ đơn giản bằng các kim loại dễ uốn mà đặc biệt là vàng và đồng vốn được dùng vào mục đích trang trí đã được biết đến trong giai đoạn thời đại đồ đá, việc con người biết cách nung chảy và luyện đồng đã đánh dấu sự chấm hết của Thời đại Đồ Đá. Ở Tây Á, điều này diễn ra vào khoảng năm 3000 TCN khi đó đồng đã trở nên phổ biến. Thuật ngữ Thời đại đồ đồng được sử dụng để miêu tả thời kỳ nối tiếp thời đại Đồ đá, đồng thời nó cũng được sử dụng để miêu tả các nền văn hóa đã phát triển những công nghệ và các kỹ thuật để chế tác đồng thành công cụ thay thế cho công cụ bằng đá. Các công cụ đá được chế tạo từ nhiều kiểu đá khác nhau. Ví dụ, đá lửa và đá phiến silic được mài sắc (hay được đẽo) để làm công cụ cắt gọt và vũ khí, trong khi đá basalt và sa thạch được dùng làm công cụ (ground stone), như đá nghiền. Gỗ, xương, vỏ sò và sừng thú cũng được sử dụng nhiều. Ở thời kỳ cuối của giai đoạn này, những trầm tích (như đất sét) được sử dụng làm đồ gốm. Nhiều cải tiến trong kỹ thuật gia công kim loại đã định rõ đặc điểm cho thời kỳ đồ đồng và thời kỳ đồ sắt. Thời kỳ này là giai đoạn đầu tiên con người sử dụng kỹ thuật một cách rộng rãi trong tiến trình tiến hóa loài người và con người tiến từ phía các thảo nguyên ở Đông Phi về các phần còn lại của thế giới. Nó kết thúc với sự phát triển nông nghiệp, sự thuần hoá một số loài súc vật và sự nấu chảy quặng đồng để gia công kim loại. Nó được đặt thuật ngữ là tiền sử, bởi vì con người vẫn chưa bắt đầu biết viết - sự khởi đầu truyền thống của lịch sử (như sử được ghi chép). Thuật ngữ "Thời đồ đá" được các nhà khảo cổ học sử dụng để chỉ giai đoạn tiền kim loại kéo dài này, trong đó các dụng cụ đá được sử dụng nhiều hơn bất kỳ một loại vật liệu (mềm hơn) nào khác. Nó là thời kỳ đầu tiên trong hệ thống ba thời kỳ và được chia nhỏ thêm ra thành ba giai đoạn là giai đoạn đồ đá cũ, giai đoạn đồ đá giữa và giai đoạn đồ đá mới bởi John Lubbock trong cuốn sách kinh điển của ông Những thời đại tiền sử năm 1865. Ba giai đoạn đó lại được chia nhỏ nữa. Trên thực tế, những giai đoạn tiếp theo khác biệt nhau rất lớn theo từng vùng (và theo văn hoá). Thực vậy, con người tiếp tục tiến đến các vùng mới thậm chí tới tận thời đồ kim loại vì thế tốt nhất là chỉ nói về một Thời đồ đá, thay vì nói chung Thời đồ đá. Thời kỳ đồ đá trong khảo cổ học Phạm vi thời gian của giai đoạn này rất mơ hồ, bị tranh cãi, và khác nhau tùy theo vùng. Trong khi không thể đưa ra được một giai đoạn "Thời kỳ đồ đá" chung cho toàn nhân loại, một số nhóm người không bao giờ phát triển kỹ thuật nấu chảy kim loại, vì vậy họ vẫn ở trong "Thời kỳ đồ đá" cho tới khi họ gặp những nền văn hóa có kỹ thuật phát triển hơn. Tuy nhiên, nói chung, mọi người tin rằng thời kỳ này đã bắt đầu vào khoảng 3 triệu năm trước, bắt đầu cùng lúc với vượn người biết chế tạo dụng cụ ở Châu Phi. Đa số những người vượn phương Nam có lẽ đã không sử dụng dụng cụ đá (mặc dầu có lẽ chúng đã được phát minh bởi Paranthropus robustus) nhưng việc nghiên cứu những di vật của họ vẫn đang để dành cho các nhà khảo cổ học nghiên cứu về giai đoạn này. Năm 2010, các mẫu xương động vật hóa thạch được gọt đẽo từ các công cụ đồ đá được phát hiện trong thung lũng Hạ Awash ở Ethiopia. Nhóm công tác quốc tế do Shannon McPherron dẫn đầu đã phát hiện ra rằng các công cụ đồ đá cổ nhất đã từng được sử dụng có tuổi 3,4 triệu năm. Các công cụ đồ đá cổ nhất từng được biết đến đã được khai quật ở nhiều nơi thuộc Gona, Ethiopia, trong các trầm tích cổ của sông Awash. Tất cả các công cụ trong hệ tầng Busidama, nó nằm trên một bất chỉnh hợp (thiếu lớp) có tuổi từ 2,9 đến 2,7 triệu năm. Các vị trí khảo cổ cổ nhất có chứa công cụ đồ đá định tuổi được từ 2,6–2,55 triệu năm. Vì sự phong phú của đồ vật tạo tác bằng đá, chúng thường là những di vật duy nhất còn sót lại, việc phân tích đá là cách chính và chuyên biệt để khảo sát về giai đoạn này. Nó liên quan tới việc đo đạc các công cụ bằng đá để xác định các kiểu hình thức, chức năng và kỹ thuật có liên quan của công cụ. Thường là phân tích cách đẽo đá từ nguyên liệu thô, nghiên cứu cách thức chế tác thực tế của những vật đó. Điều này cũng có thể được xem xét dựa trên khảo cổ học thực nghiệm, bằng cách cố sức tạo ra các dụng cụ tương tự. Việc này được thực hiện bởi những người tạo tác đá lửa, họ đẽo một viên đá lửa để tạo ra một công cụ bằng đá lửa. Cách sử dụng mới của thuật ngữ Một vấn đề với thuật ngữ này là nó ngụ ý rằng sự tiến bộ của loài người và các giai đoạn thời đại ở tiền sử chỉ được đo đạc bằng kiểu dụng cụ được sử dụng nhiều nhất ở thời gian đó, hơn là, ví dụ, kiểu tổ chức xã hội, nguồn thức ăn được khai thác, hay sự thích nghi theo các kiểu khí hậu khắc nghiệt. Đây là một sản phẩm của mức độ hiểu biết về quá khứ đã xa ở thế kỷ 19 khi hệ thống ba thời kỳ được phát triển, thời điểm mà việc tìm ra các dụng cụ tạo tác là mục đích chính của một cuộc khai quật khảo cổ. Các kỹ thuật khảo cổ hiện đại mang lại nhiều thông tin hơn và giúp chúng ta có được hiểu biết tốt hơn về thời tiền sử và nêu ra những sự phân chia rõ ràng cho thuật ngữ "Thời đồ đá" đã ngày càng lỗi thời. Hiện nay chúng ta biết rằng những thay đổi trong xã hội quá khứ trong hàng nghìn năm là rất phức tạp và liên quan tới nhiều nhân tố như sự chấp nhận nông nghiệp, định cư hay tôn giáo và rằng việc sử dụng công cụ chỉ là một dấu hiệu không mang ý nghĩa đại diện cho thực tiễn và đức tin của một xã hội. Một vấn đề khác liên quan tới thuật ngữ Thời kỳ đồ đá là nó được tạo ra để miêu tả văn hóa khảo cổ của Châu Âu, và rằng nó không thích hợp để sử dụng trong mối quan hệ với các vùng như một số vùng ở Châu Mỹ và Châu Đại Dương, nơi những người trồng cấy hay những người săn bắt và hái lượm sử dụng công cụ bằng đá tới tận khi công cuộc thực dân hóa của người châu Âu bắt đầu. Việc chế tác kim loại là một thứ không có tầm quan trọng lớn đối với người dân ở đó và nên dùng những thuật ngữ khác để phân chia thời tiền sử ở những vùng đó. Một sự phi lý giống như vậy khi áp đặt Thời đại đồ sắt ra khắp thế giới, bởi vì sắt (không phải đồng, bạc hay vàng) không được biết tới ở châu Mỹ cho tới tận năm 1492, ở châu Đại Dương tới tận thế kỷ 17. Tiếp sau Thời kỳ đồ đá thường là Thời kỳ đồ đồng, trong đó kỹ thuật chế tác kim loại cho phép các công cụ bằng đồng (đồng và thiếc hay các kim loại khác) trở nên nhiều hơn. Sự chuyển giao của thời đồ đá diễn ra khoảng giữa 6000 TCN và 2500 TCN đối với đa số dân cư sống tại Bắc Phi, châu Á và châu Âu. Ở một số vùng, như châu Phi Hạ Sahara, thời đại đồ đá được nối tiếp trực tiếp bởi thời đồ sắt. Mọi người thường cho rằng các vùng ở Trung Đông và Đông Nam Á đã tiến triển vượt qua kỹ thuật thời đồ đá vào khoảng năm 6000 TCN. châu Âu và phần còn lại của châu Á đã ở thời xã hội hậu đồ đá vào khoảng năm 4000 TCN. Các nền văn hóa tiền-Inca ở Nam Mỹ tiếp tục ở trình độ thời đồ đá đến tận khoảng năm 2000 TCN, khi vàng, đồng và bạc bắt đầu xuất hiện, những nơi khác xảy ra muộn hơn. Australia vẫn ở thời đồ đá tới tận thế kỷ 17. Chúng ta cũng biết rằng sự chuyển đổi từ Thời đồ đá sang Thời đồ đồng không phải là một thời điểm rõ ràng mà lâu dài, sự chế tác vàng và đồng dần xuất hiện ở những điểm ở Thời đồ đá mới. Giai đoạn "chuyển tiếp" này được gọi là Thời đại đồ đồng đá hay Chalcolithic. Nó là một sự phát triển ngắn và mang nhiều tính địa phương bởi vì việc tạo hợp kim thiếc với đồng đã bắt đầu khá sớm, trừ khi tại những vùng không có thiếc. Ví dụ Người băng Ötzi, một xác ướp từ khoảng năm 3300 TCN có mang bên mình một cái rìu đồng và một con dao bằng đá lửa. Việc chế tạo công cụ bằng đá vẫn tiếp diễn ngay cả ở thời đại dùng đồ kim loại, có lẽ tới tận đầu thời Trung Đại. Tại châu Âu và Bắc Mỹ, những chiếc cối xay đá vẫn được dùng tốt ở thế kỷ 20, và hiện vẫn đang được dùng ở nhiều nơi trên thế giới. Sự tiến hóa của loài người trong thời đồ đá Thời đồ đá chiếm một khoảng thời gian rất dài, và trong thời gian đó các thay đổi lớn về khí hậu và các điều kiện sống khác đã diễn ra, nó làm ảnh hưởng tới tiến trình tiến hóa loài người. Con người tới lượt mình lại làm tiến hóa kiểu hình thái tiến triển ở hậu kỳ thời kỳ đồ đá. Thời đại đồ đá cũ Thời đại đồ đá cũ bắt đầu từ khoảng 2 triệu năm trước đây và kết thúc vào khoảng cuối thế Pleistocen hay 10.000 năm trước. Ở những vùng chuyển tiếp ngay sang thời đại đồ đá mới thì thời đại đồ đá cũ gồm cả thời đại đồ đá cũ trên (epipalaeolithic) - thuật ngữ áp dụng cho các khu vực ngoài đại lục Á-Âu, như Cận Đông; tương đương thời đại đồ đá giữa ở một số nơi khác tại đại lục Á-Âu; và kết thúc vào khoảng 8.000 năm trước. Thời đại đồ đá cũ được đặc trưng bằng việc sử dụng các công cụ bằng đá được ghè đẽo, mặc dù người nguyên thủy vào thời gian đó cũng sử dụng các công cụ bằng gỗ và xương. Các sản phẩm nguồn gốc hữu cơ cũng được sử dụng làm công cụ, bao gồm da và các sợi thực vật; tuy nhiên các loại công cụ này đã không được bảo quản ở mức độ đáng kể. Theo truyền thống, thời đại đồ đá cũ được chia ra thành ba thời kỳ, là thời kỳ đồ đá cũ sớm, thời kỳ đồ đá cũ giữa và thời kỳ đồ đá cũ muộn. Các thời kỳ này đánh dấu các tiến bộ trong công nghệ và văn hóa ở các xã hội loài người nguyên thủy khác biệt. Thời kỳ đồ đá cũ sớm Gần cuối thế Pliocen ở châu Phi, một tổ tiên đầu tiên của người hiện đại, được gọi là Homo habilis, đã phát triển những công cụ đá đầu tiên từng được biết. Chúng là những công cụ đơn giản như các loại dao. Homo habilis được cho là đã sử dụng thành thạo công cụ thời kỳ Olduvai như các mảnh đá và lõi hạt. Công nghệ chế tạo dụng cụ đá này được đặt tên theo địa điểm hẻm vực Olduvai ở Tanzania. Những người này được cho là sống bằng cách tìm thịt thối và những loài cây dại, hơn là săn bắn con mồi. Khoảng 1,5 triệu năm trước, một chủng người tiến hóa hơn, Homo erectus, đã xuất hiện. H. erectus học cách kiểm soát lửa và chế tạo các công cụ cắt phức tạp hơn, cũng như mở rộng phạm vi sinh sống ra ngoài khu vực châu Phi đến tận châu Á, như tại các địa điểm ở Chu Khẩu Điếm Trung Quốc. 1 triệu năm trước, bằng chứng đầu tiên về loài người ở châu Âu đã xuất hiện, và họ sử dụng rìu đá tiến bộ hơn. Thời kỳ đồ đá cũ giữa Giai đoạn này bắt đầu khoảng 200.000 năm trước và nổi tiếng nhất vì nó là giai đoạn sinh sống của người Neanderthal (khoảng 120.000–35.000 năm trước). Các kỹ thuật chế tạo dụng cụ đá của người Neanderthal thường được gọi là tổ hợp kỹ thuật Moustier. Người Neanderthal cuối cùng biến mất khỏi ghi chép khảo cổ học, được thay thế bởi người hiện đại đầu tiên xuất hiện ở miền nam châu Phi khoảng 100.000 năm trước. Mặc dù thường được mọi người coi là nguyên thủy, vẫn có bằng chứng rằng người Neanderthal nuôi dưỡng những người già và tiến hành lễ nghi chôn chất minh chứng cho một xã hội đã được tổ chức. Bằng chứng đầu tiên của sự định cư là ở Australia khoảng 40.000 năm trước khi người hiện đại dường như đã vượt từ châu Á tới bằng cách đi từ đảo này tới đảo khác. Những dân cư trung kỳ thời kỳ đồ đá cho thấy những bằng chứng sớm nhất về nghệ thuật và một số khái niệm trừu tượng như vẽ mình bằng đất hoàng thổ. Thời kỳ đồ đá cũ muộn Từ khoảng 35.000 đến 10.000 năm trước (cuối thời kỳ băng hà cuối cùng) người hiện đại đã mở rộng thêm vùng sinh sống trên khắp Trái Đất trong giai đoạn hiện được coi là hậu kỳ Thời đại đá cũ. Sau khi người hiện đại đầu tiên tới ở châu Âu kỹ thuật chế tạo dụng cụ đá khá phức tạp đã xuất hiện trong giai đoạn này, gồm các công nghiệp khảo cổ như công nghiệp Châtelperron (45.000-36.000 năm trước ngày nay), công nghiệp Aurignac (43.000-28.000 năm), công nghiệp Solutré (22.000-17.000 năm), công nghiệp Gravette (33.000-21.000 năm) và công nghiệp Madeleine (17.000 -12.000 năm). Châu Mỹ được loài người định cư thông qua cầu lục địa Bering thời kỳ đó vẫn còn nổi trên mực nước vì nước biển lúc đó ở mức thấp. Những người này được gọi là cổ thổ dân châu Mỹ, và thời điểm sớm nhất được chấp nhận là những thời điểm của các địa điểm thuộc văn hóa Clovis, khoảng 13.500 năm trước. Trên khắp địa cẩu, các xã hội thuộc kiểu săn bắn và hái lượm nhưng bằng chứng về nét nhận dạng theo vùng bắt đầu xuất hiện với rất nhiều kiểu công cụ đá được phát triển để thích hợp cho từng môi trường sống khác nhau. Epipalaeolithic/Thời đại đá giữa Main articles: Epipalaeolithic, Mesolithic Khoảng thời gian giữa điểm kết thúc của kỷ băng hà cuối cùng, từ 10.000 năm đến khoảng 6.000 năm trước có đặc trưng với sự nâng lên của mực nước biển và một nhu cầu thay đổi để thích ứng với sự thay đổi của môi trường và tìm kiếm nguồn thức ăn mới. Sự phát triển của các dụng cụ microlith đã bắt đầu để thích ứng với những thay đổi đó. Chúng xuất phát từ những công cụ thời kỳ đồ đá cũ trước đó, vì vậy xuất hiện thuật ngữ Epipalaeolithic. Tuy nhiên, ở châu Âu thuật ngữ Mesolithic (Thời đại đá giữa) lại được sử dụng, bởi vì các công cụ (và cách thức sống) được nhập cảng từ Cận Đông. Ở đó, các công cụ microlith cho phép săn bắn một cách hiệu quả hơn, trong khi những sự định cư phức tạp hơn, như Lepenski Vir đã phát triển dựa trên đánh cá. Việc thuần hóa chó thành một người bạn săn có lẽ cũng diễn ra trong giai đoạn này. Thời đại đá mới Thời đại đá mới (Neolithic) có đặc trưng bởi sự chấp nhận nông nghiệp (cũng được gọi là Cuộc cách mạng thời đại đá mới), sự phát triển của đồ gốm và nhiều nơi định cư phức tạp hơn như Çatal Hüyük và Jericho. Những văn hóa thời đại đá mới đầu tiên bắt đầu vào khoảng năm 8.000 TCN ở Lưỡi liềm Màu mỡ. Nông nghiệp và văn hóa dẫn tới đã mở rộng tới Địa Trung Hải, lưu vực sông Ấn, Trung Quốc, và Đông Nam Á. Vì nhu cầu thu hoạch và chăm sóc cây cối, các dụng cụ đá để làm đất và các dụng cụ đá được chế tạo kỹ lưỡng khác trở nên phong phú hơn, gồm cả công cụ nghiền, cắt, thái và rìu. Những công trình to lớn lần đầu tiên được xây dựng, gồm cả các tháp để ở và những bức tường (ví dụ ở Jericho) và các địa điểm nghi lễ (ví dụ như bức tường đá Stonehenge). Những điều này cho thấy đã có những nguồn lực và sự cộng tác đầy đủ cho phép các nhóm người cùng thực hiện các dự án đó. Sự mở rộng thêm về sự phát triển của tầng lớp trên và hệ thống cấp bậc vẫn còn đang được bàn cãi. Bằng chứng sớm nhất về thương mại đã xuất hiện ở thời kỳ đồ đá mới với việc những người mới định cư nhập khẩu những hàng hóa từ bên ngoài với khoảng cách hàng trăm dặm. Vật liệu văn hóa thời đồ đá Thức ăn và đồ uống Các nguồn thức ăn của những người săn bắn hái lượm thời kỳ đồ đá gồm cả động vật và thực vật sống trong môi trường nơi họ sống. Những người dân cư này thích ăn thịt nội tạng thú, gồm cả gan, thận và óc. Họ ăn ít đồ có nguồn gốc từ sữa hay thức ăn thực vật có nhiều carbohydrate- như các loại rau hay ngũ cốc. Nghiên cứu hiện nay cho thấy rằng hai phần ba năng lượng cần thiết của họ có nguồn gốc động vật. Hàm lượng chất béo trong chế độ ăn được cho là tương tự như hiện nay, nhưng tỷ lệ các kiểu chất béo tiêu thụ thì lại khác biệt: tỷ lệ Omega-6 với Omega-3 là khoảng 3: 1 so với 12:1 hiện nay. Gần cuối thời kỳ băng hà cuối cùng, 15.000 đến 9.000 năm trước, một sự tuyệt chủng trên diện rộng các loài thú có vú diễn ra ở châu Á, châu Âu, Bắc Mỹ và Australia. Đây là sự kiện tuyệt chủng Holocene đầu tiên. Thậm chí có thể điều này đã buộc loài người ở thời kỳ đó phải thay đổi thói quen ăn uống và cùng với sự xuất hiện của việc trồng cấy nông nghiệp, các loại thức ăn nguồn gốc thực vật cũng đã trở thành một phần thường thấy của chế độ ăn. Một báo cáo ở Tạp chí National Geographic đã chỉ ra rằng "loại đồ uống có vị rượu đầu tiên có thể đã xuất hiện khi người dân thời kỳ đồ đá mới uống thứ nước quả nho dại được làm lên men bên trong các túi bằng da thú hay trong các thùng gỗ thô." Chỗ ở và môi trường sống Khoảng 2 triệu năm trước, Homo habilis được cho là đã xây dựng kết cấu đầu tiên do con người xây dựng lên ở Đông Phi, nó chỉ bao gồm những sự sắp đặt đơn giản các hòn đá lại với nhau để giữ các cành cây ở vị trí. Một sự sắp đặt đá thành hình tròn cũng được cho là đã xảy ra khoảng 500.000 năm trước được khám phá ở Terra Amata, gần Nice (Pháp). Nhiều địa điểm cư trú của loài người thời đồ đá cũng đã được phát hiện ở nhiều nơi trên Trái Đất, gồm: Một kết cấu kiểu lều bên trong một cái hang gần Grotte du Lazaret, Nice, Pháp. Một kết cấu có mái được chống đỡ bằng cây gỗ, được phát hiện ở Dolni Vestonice, Cộng hòa Séc, có niên đại khoảng 23.000 TCN. Các bức tường được làm bằng các khối đất sét nện và đá. Nhiều túp lều được làm bằng xương voi voi ma mút được tìm thấy ở Đông Âu và Siberia. Những người đã dựng những cái lều này là những thợ săn voi mammouth chuyên nghiệp. Nhiều cái tương tự đã được tìm thấy ở dọc vùng thung lũng sông Dniepr ở Ukraina, gần Chernihiv, ở Moravia (tại Cộng hòa Séc) và ở phía nam Ba Lan. Một cái lều bằng da thú niên đại khoảng 15.000 đến 10.000TCN (ở Magdalenian) đã được tìm thấy tại Cao nguyên Parain, Pháp. Các lăng mộ cự thạch, nhiều phòng và các mộ đá một phòng có chôn nhiều thanh đá lớn chồng lên nhau giống như những phiến đá lớn. Chúng được tìm thấy trên khắp châu Âu, và được xây dựng vào thời đồ đá mới. Nhiều mộ có các dụng cụ bằng đồng và bằng đá cũng đã được tìm thấy, minh họa các vấn đề cố gắng xác định các giai đoạn dựa trên kỹ thuật. Nghệ thuật Nghệ thuật tiền sử chỉ có thể được truy nguyên dựa vào những đồ vật còn sót lại. Âm nhạc tiền sử được suy luận ra từ những nhạc cụ được tìm thấy, trong khi nghệ thuật trên vách có thể được tìm thấy trên bất kỳ loại đá nào. Chúng được gọi là hình khắc trên đá (petroglyph) và tranh vẽ trên đá. Nghệ thuật có thể có hoặc không có chức năng tôn giáo. Hình khắc trên đá Hình khắc trên đá đã xuất hiện trong thời đại đồ đá mới. Một Hình khắc trên đá là một hình ảnh trừu tượng hay biểu tượng được ghi lại trên đá, thường là bởi những người tiền sử, bằng cách đục, khoét hay những cách khác lên trên những bề mặt đá tự nhiên. Chúng là kiểu thông thường nhất hay là những biều tượng trước khi có chữ viết được sử dụng để thông tin. Hình khắc trên đá đã được phát hiện ở nhiều nơi trên Trái Đất, gồm cả châu Á (Bhimbetka, Ấn Độ), Bắc Mỹ (Vườn quốc gia Thung lũng Chết), Bắc Mỹ (Cumbe Mayo, Peru), và châu Âu (Finnmark, Na Uy). Những bức tranh đá Những bức tranh đá được "vẽ" trên đá và được miêu tả theo kiểu tự nhiên hơn là thuật khắc đá. Ở thời đồ đá cũ, sự hiện diện của con người trong những bức tranh đá rất hiếm hoi. Đa phần chúng thể hiện các con vật: không chỉ những loài vật được sử dụng làm thức ăn mà cả những con vật thể hiện sức mạnh như tê giác hay các loài mèo to lớn (như ở Hang Chauvet). Các dấu hiệu như các chấm thỉnh thoảng cũng được vẽ. Hiếm có sự hiện diện của con người như các dấu in tay và những hình nửa người nửa thú. Hang Chauvet ở département Ardèche, ở Pháp, hiện lưu giữ những hình vẽ trong hang quan trọng nhất của thời đồ đá cũ, được vẽ vào khoảng 31.000 năm TCN. Các bức tranh trong hang Altamira ở Tây Ban Nha được vẽ vào khoảng 14.000 đến 12.000 năm TCN và có những con bò rừng bison. Gian phòng của những con bò ở Lascaux, Dordogne, Pháp là một trong những hang có tranh đá từ khoảng 15.000 đến 10.000 TCN. Ý nghĩa của những bức tranh này hiện vẫn chưa được biết. Các hang đó đều không nằm trong khu vực có người ở, vì thế có thể chúng đã từng được dùng cho những lý do lễ nghi. Các con vật được vẽ thêm các dấu hiệu có thể là ma thuật. Những biểu tượng hình mũi tên đôi khi được coi như là được sử dụng để làm lịch hay almanac. Nhưng bằng chứng của nó thì vẫn chưa được quyết định. Công việc quan trọng nhất của thời đại đồ đá giữa là những chiến binh đang diễu hành, một bức tranh tường tại Cingle de la Mola, Castellón de la Plana ở Tây Ban Nhan niên đại vào khoảng 7.000–4.000 TCN. Kỹ thuật được sử dụng có thể là phun hay thổi các chất màu lên đá. Các bức tranh khá theo chủ nghĩa tự nhiên, mặc dù có được cách điệu hoá. Các hình ảnh không theo kiểu không gian ba chiều, thậm chí chúng còn chồng lên nhau. Lễ nghi và Đức tin thời đồ đá Những nghiên cứu hiện đại và sự phân tích kỹ lưỡng những đồ vật tìm thấy từ thời kỳ đồ đá chỉ ra một số lễ nghi và đức tin của con người ở thời tiền sử đó. Hiện nay mọi người tin rằng các hoạt động của con người thời tiền sử vượt xa khỏi những yêu cầu trước mắt về tìm kiếm thức ăn, đồ mặc, và nơi ở. Các nghi thức đặc biệt liên quan tới cái chết và sự chôn cất đã được tiến hành, mặc dù chắc chắn là khác biệt về cách thức và sự tiến hành ở từng nền văn hoá. Một số địa điểm thời kỳ đồ đá ở những vùng khác nhau trên thế giới cho thấy những dấu vết của sự nhảy múa, nhảy múa theo hàng và những nghi thức đầu tiên. Những dấu vết cuộc sống thời đồ đá hiện nay Các nhà nhân chủng học đã sử dụng nhiều bộ lạc để nghiên cứu và làm sáng tỏ cuộc sống ở thời kỳ đồ đá từng như thế nào. Những bộ lạc đó có thể thấy ở Papua New Guinea, Quần đảo Andaman và Nicobar (Ấn Độ), Châu Phi và Nam Mỹ. Thời đồ đá trong văn hóa đại chúng Là một thuật ngữ kiểu tiếng lóng, "Thời kỳ đồ đá" có thể được sử dụng để miêu tả một nền văn minh hiện đại hay một nhóm người sống trong các điều kiện nguyên thủy, thậm chí sự sử dụng của nó thường là không chính xác. Câu "ném bom đưa chúng trở về thời kỳ đồ đá" ngụ ý một cuộc tấn công dữ dội phá hủy toàn bộ cơ sở hạ tầng tại mục tiêu, buộc những người sống sót phải quay về sử dụng kỹ thuật nguyên thủy để tồn tại. Hình ảnh người ở hang thường đi chung với thời kỳ đồ đá. Ví dụ một series phim tài liệu về tiến trình phát triển của con người ở thời kỳ đồ đá đã được đặt tên là Cùng đi với người ở hang, mặc dù chỉ chương trình cuối cùng là có hình ảnh con người sống trong hang. Trong khi ý tưởng rằng loài người và khủng long từng cùng tồn tại thỉnh thoảng cũng được sử dụng trong phim hoạt hình, phim và các trò chơi máy tính, như The Flintstones và One Million Years B.C., khái niệm về những động vật linh trưởng và khủng long từng tồn tại với nhau chỉ đơn giản là một điều tưởng tượng và chỉ được xem xét nghiêm túc bởi Trái Đất trẻ thuyết sáng tạo thế giới. Một số miêu tả thời kỳ đồ đá gồm cả cuốn sách bán rất chạy là cuốn Những đứa trẻ của Trái Đất một serie sách viết bởi Jean M. Auel, được đặt ở thời đồ đá cũ và dựa rất ít vào những khám phá khảo cổ học và nhân chủng học. Bộ phim Tìm kiếm lửa năm 1981 của Jean-Jacques Annaud kể câu chuyện về một nhóm người tìm kiếm ngọn lửa đã mất của họ. Ghi chú "Diet and Eating Habits in the Stone-Age," annecollins.com (accessed ngày 11 tháng 6 năm 2005). William Cocke, "First Wine? Archaeologist Traces Drink to Stone Age," National Geographic News, ngày 21 tháng 7 năm 2004 (accessed ngày 11 tháng 6 năm 2005). M. Hoover, "Art of the Paleolithic and Neolithic Eras ," from Art History Survey 1, San Antonio College (July 2001; accessed ngày 11 tháng 6 năm 2005). "Paleolithic, Mesolithic and Neolithic Art " (lecture 2, Rice University, Houston, TX, ngày 2 tháng 9 năm 1998; accessed ngày 11 tháng 6 năm 2005). Christopher L. C. E. Witcombe, "Women in the Stone Age," in the essay "The Venus of Willendorf" (accessed ngày 11 tháng 6 năm 2005). See note 4 above. Burial and mysticism in prehistory (accessed ngày 11 tháng 6 năm 2005). Chú thích
{{Thông tin nghệ sĩ | nền = nhạc sĩ | tên = Nguyễn Ánh 9 | tên gốc = | image =NS Nguyen Anh 9.jpg | kích thước hình = 230px | caption = | tên khai sinh = Nguyễn Đình Ánh | ngày sinh = | quốc tịch = | nơi sinh = Phan Rang, Trung Kỳ, Đông Dương thuộc Pháp | ngày mất = | nơi mất = Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam | vợ = Ngọc Hân | con = Nguyễn QuangNguyễn Anh | nhạc cụ = Dương cầm | nghệ danh âm nhạc = Nguyễn Ánh 9 | nghề nghiệp = Nhạc sĩNhạc công | hợp tác với = Khánh Ly | dòng nhạc = Tình khúc 1954–1975Nhạc vàng | ca khúc = Ai đưa em về Buồn ơi chào miKhôngTình khúc chiều mưa | ca sĩ = }} Nguyễn Đình Ánh (1 tháng 1 năm 1940 – 14 tháng 4 năm 2016) thường được biết đến với nghệ danh Nguyễn Ánh 9, là một nhạc sĩ, nhạc công dương cầm người Việt Nam. Tiểu sử Ông sinh ngày 1 tháng 1 năm 1940 tại tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam (cũng có nguồn viết ông sinh năm 1939), là út trong một gia đình khá giả có 3 người con. Gia đình Nguyễn Đình Ánh chuyển đến Nha Trang và năm ông 11 tuổi thì vào Sài Gòn. Nguyễn Đình Ánh theo học trường Taberd đến năm 1954 rồi lên Đà Lạt, ở nội trú trường Yersin cho đến năm 1958. Ông bỏ nhà đi năm 18 tuổi để theo đuổi con đường âm nhạc. Ông tập chơi dương cầm từ nhỏ và trong thời gian học ở Đà Lạt, Nguyễn Đình Ánh có quen biết với nhạc sĩ Hoàng Nguyên và được Hoàng Nguyên dìu dắt vào con đường âm nhạc. Sau khi tốt nghiệp Tú tài 2, qua sự giới thiệu của nhạc sĩ Hoàng Nguyên, Nguyễn Ánh 9 được vào tham gia chương trình Tuổi Xanh của Đài phát thanh Sài Gòn và Đài phát thanh Đà Lạt. Ông cũng cộng tác với chương trình Tiếng hát sinh viên do Duy Trác thực hiện. Từ đó, Nguyễn Ánh 9 đi khắp nơi biểu diễn dương cầm ở các bar, các nhà hàng nổi tiếng và những ban nhạc thanh niên. Nguyễn Ánh 9 bắt đầu sự nghiệp viết nhạc một cách rất tình cờ trong một chuyến đi Nhật biểu diễn cùng ca sĩ Khánh Ly. Sau buổi diễn tại hội chợ Ōsaka, khi cùng với Khánh Ly đứng chờ thang máy lên phòng khách sạn, thấy người bạn mình mang vẻ mặt buồn buồn, Khánh Ly lên tiếng hỏi: "Còn thương nó không bạn?", ý muốn hỏi về một người bạn gái quen biết Nguyễn Ánh 9 vào thời đó. Sẵn cây đàn guitar trên tay, Nguyễn Ánh 9 gảy ngay rồi cất tiếng hát: "Không! Không! Tôi không còn, tôi không còn yêu em nữa...". Đến khi trở về Việt Nam, Khánh Ly đề nghị ông soạn nhạc phẩm này. Trước đề nghị đó, ông đã hoàn tất nhạc phẩm đầu tiên của mình trong một thời gian ngắn. Ca khúc "Không" được Khánh Ly thu lần đầu trong đĩa nhựa của nhãn đĩa Tình ca quê hương. "Không" trở thành một trong những nhạc phẩm gắn liền với cuộc đời ca hát của Elvis Phương, cũng như một số ca khúc khác của Nguyễn Ánh 9 như "Ai đưa em về", "Chia phôi", "Lời cuối cho em",... được Elvis Phương trình bày thường xuyên trên sân khấu của vũ trường Queen Bee tại thành phố Sài Gòn vào đầu thập niên 1970. Những năm đầu thập niên 1970, Nguyễn Ánh 9 cộng tác với nhiều vũ trường lớn ở Sài Gòn. Ông đã từng đệm dương cầm cho những ca sĩ nổi tiếng như Khánh Ly, Thái Thanh. Trong một cuộc phỏng vấn, Nguyễn Ánh 9 đã nói ông mê nhất được đệm đàn cho hai danh ca này. Cũng thời gian đó, ông viết thêm một vài nhạc phẩm nổi tiếng khác như "Mùa thu cánh nâu", "Đêm tình yêu". Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, thời gian đầu ông có đi diễn ở các tỉnh với đoàn văn nghệ của Duy Khánh cùng với nhạc sĩ Quốc Dũng. Từ 1976, ông làm nhân viên kiểm soát xe lưu thông tại Xa cảng miền Tây cho đến năm 1978. Một thời gian Nguyễn Ánh 9 có mở một lớp dạy dương cầm. Năm 1982, Nguyễn Ánh 9 trở lại với âm nhạc; ông tiếp tục tham gia các chương trình hòa tấu và biểu diễn dương cầm ở nhiều nơi. Nguyễn Ánh 9 còn được mời viết nhạc nền cho một số phim như Lệnh truy nã, Mảnh tình nghiệt ngã, Mênh mông tình buồn, Những đứa con thành phố. Những năm cuối thập niên 1980, đầu thập niên 1990 Nguyễn Ánh 9 có viết thêm một số ca khúc nữa như "Tình yêu đến trong giã từ", "Mênh mông tình buồn", "Cho người tình xa" và "Cô đơn". Cho đến những năm cuối đời, Nguyễn Ánh 9 vẫn biểu diễn, tham gia một số đêm nhạc của ca sĩ Ánh Tuyết. Ông thường chơi dương cầm hàng tuần tại khách sạn Sofitel Plaza Saigon. Vinh danh Ngày 27 tháng 5 năm 2006, Trung tâm Thúy Nga tổ chức đại nhạc hội trực tiếp thu hình Paris By Night 83 - Những Khúc Hát Ân Tình tại California, Hoa Kỳ để vinh danh ba nhạc sĩ Xuân Tiên, Thanh Sơn và Nguyễn Ánh 9. Tối ngày 21 tháng 11 năm 2010, chương trình Con đường âm nhạc tháng 11 vinh danh nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 đã diễn ra tại Nhà hát Quân đội, thành phố Hồ Chí Minh và được truyền hình trực tiếp trên kênh VTV3. Ngày 1 tháng 1 năm 2016 cũng là lễ mừng sinh nhật lần thứ 76 của ông. Ngày 24 tháng 4 cùng năm, đêm gala “Vàng son một thuở” diễn ra tại Hà Nội dành nhiều thời lượng để hát những ca khúc tưởng nhớ nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9. Với sự tham gia của các ca sĩ như: Tuấn Ngọc, Lưu Bích, Khánh Hà… Đời tư Nguyễn Ánh 9 là một tín hữu Công giáo Rôma, ông có tên thánh là Giêrôm (Jerome). Vợ của ông tên Ngọc Hân - một vũ công ông quen biết trong thời gian làm tại vũ trường Anh Vũ. Hai người kết hôn vào năm 1965 sau khi ông đã nhờ mẹ năn nỉ với bố cho quay về nhà cũng như xin phép được lấy vợ. Trước đó bố ông đã đuổi ông khỏi nhà khi thấy ông quyết tâm theo con đường âm nhạc. Vợ chồng Nguyễn Ánh 9 và Ngọc Hân có với nhau hai con trai là nhạc sĩ Nguyễn Quang và Nguyễn Đình Quang Anh - cả hai đều theo con đường âm nhạc. Ngoài ra, ông còn có một số người con nuôi trong nghề nghiệp như: Hương Giang, Diệu Hiền, Hoàng Quân, Quang Hà, Xuân Phú... Qua đời Sau một thời dài chịu đựng căn bệnh viêm phổi, suy tim, vào lúc trưa 14 giờ 00, ngày 14 tháng 4 năm 2016 ông hôn mê, và trút hơi thở cuối cùng tại Bệnh viện Đại học Y – Dược Thành phố Hồ Chí Minh, không lâu sau lễ mừng sinh nhật 76 tuổi. Trước đó, nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 đã nhập viện cấp cứu tại bệnh viện Hoàn Mỹ hôm 20 tháng 3 năm 2016 khi có dấu hiệu khó thở và mệt. Thông tin khác Nghệ danh Nguyễn Ánh 9 là do người yêu đầu tiên của ông đặt cho. Trong một cuộc phỏng vấn, ông nói: "Đây là tên mà cô ấy đặt cho tôi. Khi tôi viết những bản nhạc đầu tiên, lấy tên thật là Nguyễn Đình Ánh thì dài quá, mà viết là Nguyễn Ánh thì lại trùng với tên của vua Gia Long. Bởi vậy, cô ấy bảo, chữ Nguyễn Ánh có 9 ký tự, mà số 9 theo quan niệm phương Đông là số may mắn, bởi vậy, nên lấy bút danh là Nguyễn Ánh 9". Danh sách tác phẩm Một số băng đĩa, chương trình sau 1975 CD Lặng lẽ tiếng dương cầm gồm 13 ca khúc (Viết Tân - Kim Lợi Studio) Đĩa LP (33 vòng) Nguyễn Ánh 9 - Lặng lẽ tiếng dương cầm gồm mười ca khúc (nhạc sĩ Đức Trí và Gia Định Audio hợp tác). Liveshow Nguyễn Ánh 9 - Nửa thế kỷ âm nhạc'' diễn ra tối ngày 29 tháng 12 năm 2011 tại Hà Nội. Trong phần hai của chương trình có sự tham gia của chín nghệ sĩ, một ban nhạc chín người và chín cây vĩ cầm đến từ Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam. Nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 trực tiếp đệm đàn cho các nghệ sĩ hát cùng dàn nhạc. Chú thích
Phong trào Thánh khiết qui tụ các tín hữu Cơ Đốc là những người xác tín và rao giảng đức tin cho rằng "bản chất xác thịt" của con người có thể được thanh tẩy qua đức tin và bởi quyền năng của Chúa Thánh Linh nếu người ấy tin nhận Chúa Giê-xu để được tha thứ tội lỗi. Theo quan điểm của Phong trào Thánh khiết, những lợi ích đến từ đời sống Thánh khiết gồm có "linh quyền" và khả năng duy trì sự thanh sạch của tấm lòng (tư tưởng và hành động không còn bị ô uế bởi tội lỗi). Học thuyết này được biết đến trong vòng các giáo hội thuộc phong trào Thánh khiết như là "sự Thánh hóa toàn diện", mặc dù thuật ngữ "sự toàn hảo Cơ Đốc" được sử dụng rộng rãi hơn. Khởi nguyên Phong trào Thánh khiết khởi phát từ: Cuộc Cải cách Kháng nghị, với sự chú trọng đặc biệt vào giáo lý con người được cứu rỗi chỉ bởi ân điển và chỉ qua đức tin. Phong trào Thanh giáo thế kỷ 17 tại nước Anh, sau phát triển sang Mỹ, tập chú vào việc tuân giữ Kinh Thánh và quyền được tách rời khỏi quốc giáo (Anh giáo). Phong trào Sùng tín thế kỷ 17 tại Đức, dưới sự lãnh đạo của Philipp Jakob Spener và tín hữu Giáo hội Moravia, đặc biệt quan tâm đến đời sống tâm linh của cá nhân cùng với trách nhiệm theo đuổi một cuộc sống công chính. Quietism, được rao giảng bởi Hội đoàn tôn giáo Bạn hữu (Quaker), tập chú vào kinh nghiệm cá nhân để trải nghiệm về Thiên Chúa và nhận biết ý chỉ của ngài cho chính mình. Cuộc Chấn hưng Tin Lành (Evangelical Revival in England) bùng phát tại Anh Quốc trong thập niên 1730 bởi John Wesley và em trai ông, Charles Wesley, đã đem đến nước Anh, sau đó là Hoa Kỳ, một phiên bản đậm nét Wesley về giáo lý Sùng tín từ nước Đức. Cuộc Đại Tỉnh thức lần thứ nhất trong thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19 tại Hoa Kỳ, bùng phát bởi sự thuyết giảng của George Whitefield, Jonathan Edwards và những nhà thuyết giáo khác, nhấn mạnh vào kinh nghiệm qui đạo của tín hữu. Cuộc Đại Tỉnh thức lần thứ hai khởi phát trong thế kỷ 19 tại Hoa Kỳ bởi Charles Grandison Finney, Lyman Beecher, Francis Asbury và những nhà thuyết giáo khác, cũng tập chú vào sự cần có trải nghiệm qui đạo. Dẫn lược Phong trào Thánh khiết cổ xuý cho một Cơ Đốc giáo tập chú vào trải nghiệm cá nhân, sống đạo và sự thay đổi triệt để trong nếp sống. Ba khái niệm trọng tâm của Phong trào Thánh khiết là: Trải nghiệm sự tái sinh, bởi ân điển và qua đức tin. Tín hữu cần được Thánh hóa, cũng bởi ân điển và qua đức tin. Sự xác chứng về sự cứu rỗi bởi lời chứng của Chúa Thánh Linh. Khái niệm đầu là giáo lý trọng yếu của toàn thể trào lưu Tin Lành thuộc cộng đồng Kháng Cách. Hai khái niệm còn lại là đặc thù của Phong trào Thánh khiết. Tín hữu thuộc Phong trào Thánh khiết nhận thức về khái niệm đầu (sự tái sinh tâm linh) với sự chú trọng vào khía cạnh cảm xúc và trải nghiệm cá nhân cũng như tính huyền nhiệm nhiều hơn những trào lưu khác thuộc Cơ Đốc giáo. Khái niệm thứ hai thường được xem là một trải nghiệm cá nhân, một người sau khi được tái sinh, hết lòng cung hiến cho Thiên Chúa, sẽ nhận lãnh năng lực cho một đời sống Thánh khiết. Một vài nhóm Thánh khiết cho rằng con người có thể sống mà không phạm tội, trong khi nhiều người khác tin rằng sau khi nhận lãnh trải nghiệm Thánh hoá, mỗi ngày họ trở nên Thánh khiết hơn. Kinh nghiệm này thường được gọi là "sự thăm viếng thứ nhì" hoặc "phước hạnh thứ nhì", hoặc là "được đầy dẫy Chúa Thánh Linh". Khái niệm thứ ba miêu tả sự nhận biết tự nhiên đến với những người đã nhận lãnh trải nghiệm tái sinh, gọi là "sự xác chứng về sự cứu rỗi". Lịch sử Một sự quan tâm đặc biệt về đức hạnh Thánh khiết của Cơ Đốc giáo được làm sống lại trong vòng các tín hữu Giám Lý trong thế kỷ 19. Họ tìm thấy lại giáo lý này trong lời giảng của John Wesley về Sự toàn hảo Cơ Đốc. Năm 1836 tại thành phố New York, một tín hữu Giám Lý, Sarah Worral Lankford, khởi xướng những buổi nhóm vào thứ Ba nhằm cổ xuý cho sự Thánh khiết. Năm 1837, Timothy Merrit thành lập một tạp chí gọi là Đường dẫn đến sự Toàn hảo Cơ Đốc với mục đích truyền bá và cổ xuý tư tưởng của Wesley, cho rằng tín hữu Cơ Đốc có thể sống mà không phạm phải những tội trọng. Năm 1837, Phoebe Palmer, em gái của Sarah Lankford, trải nghiệm điều bà gọi là "sự Thánh hoá toàn diện". Palmer bắt đầu hướng dẫn các buổi nhóm họp vào thứ Ba cổ xuý cho sự Thánh khiết. Ban đầu chỉ có phụ nữ đến dự, nhưng dần dần các giám mục Giám Lý và các chức sắc cũng đến. Palmer trở nên biên tập viên cho tạp chí của Merritt, nay được gọi là Đường dẫn đến Thánh khiết. Năm 1859, bà xuất bản tác phẩm The Promise of the Father (Lời hứa của Cha), tranh luận theo hướng ủng hộ phụ nữ được tham gia các chức vụ trong hội Thánh. Quyển sách sau này có ảnh hưởng trên Catherine Booth, người đồng sáng lập Cứu Thế Quân. Tại những buổi nhóm họp vào thứ Ba của Palmer, các tín hữu Giám Lý bắt đầu tiếp xúc với những người ngoài giáo hội như Thomas Upham thuộc giáo phái Tự trị Giáo đoàn. Upham là nam giới đầu tiên đến tham dự các buổi nhóm, từ đó ông tìm hiểu về những trải nghiệm thần bí, tìm kiếm những giáo huấn trước đó về sự Thánh khiết của các tác giả như Johann Arndt và Madame Guyon. Những người khác không thuộc giáo phái Giám Lý cũng đóng góp đáng kể cho Phong trào Thánh khiết. Suốt trong giai đoạn này, có hai nhân vật có quan hệ với Đại học Oberlin, Asa Mahan, viện trưởng và Charles Grandison Finney, nhà truyền bá phúc âm, cổ xuý và phát triển tư tưởng Thánh khiết Cơ Đốc. Năm 1836, Mahan trải nghiệm điều mà ông gọi là "báp têm bởi Chúa Thánh Linh". Mahan tin rằng kinh nghiệm này giúp tẩy sạch khỏi ông mọi ước muốn và khuynh hướng về tội lỗi. Trong khi đó, Finney tin rằng sự trải nghiệm "báp têm bởi Chúa Thánh Linh" cung ứng giải pháp thích đáng cho vấn nạn ông thường gặp trong các cuộc phục hưng tôn giáo. Có nhiều người xưng nhận đã từng trải qua kinh nghiệm qui đạo nhưng sau đó lại sa ngã trở về nếp sống cũ. Finney tin rằng trải nghiệm được "đầy dẫy Chúa Thánh Linh" giúp tân tín hữu tiếp tục đứng vững trong nếp sống Cơ Đốc. Một nhân vật thuộc giáo phái Trưởng Lão, William Boardman, góp phần cổ xuý tư tưởng Thánh khiết, qua các chiến dịch truyền bá phúc âm và qua một tác phẩm của ông, The Higher Christian Life (Nếp sống Cơ Đốc cao đẹp hơn), xuất bản năm 1858. Năm 1870, Phong trào Thánh khiết phát triển đến Anh, được gọi với một tên khác Phong trào Nếp sống cao đẹp hơn, theo tựa đề cuốn sách của William Boardman The Higher Life. Các hội nghị của phong trào này tổ chức tại Broadlands và Oxford trong năm 1874 và tại Brighton và Keswick năm 1875. Keswick sau đó trở thành trụ sở của phong trào tại Anh. Năm 1874, Albert Benjamin Simpson, sau khi đọc tác phẩm The Higher Life của Boardman, cảm thấy cần có một trải nghiệm như thế cho chính mình. Về sau Simpson tiến tới việc thành lập một tổ chức truyền giáo, Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp (Christian and Missionary Alliance – CMA). Năm 1911, CMA gởi các nhà truyền giáo đến Đà Nẵng, thiết lập các cơ sở tôn giáo và bắt đầu truyền bá đức tin Kháng Cách trên lãnh thổ Việt Nam. Ảnh hưởng Lập nền trên giáo thuyết Toàn hảo Cơ Đốc của Phong trào Thánh khiết, chịu ảnh hưởng bởi nhiệt tâm truyền giáo cùng việc ứng dụng những phương pháp linh hoạt trong công tác truyền bá phúc âm đã hình thành một số giáo phái và hội đoàn Cơ Đốc. Các giáo phái và hội đoàn Cơ Đốc này trở nên những nhân tố tích cực chuyển tải nền thần học tập chú và nếp sống Thánh khiết đến nhiều nơi trên thế giới: Giáo hội Wesley Giáo hội Giám Lý Tự do Giáo hội người Nazareth Cứu Thế Quân Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp Church of God (Anderson, Indiana) Church of God (Holiness) Phong trào Thánh khiết Bảo thủ Tổ chức Sứ mạng Phúc âm Thế giới
Francis Asbury (//, 20 tháng 8 năm 1745 – 31 tháng 3 năm 1816) là người thành lập, phát triển, và là một trong hai Giám mục đầu tiên của Giáo hội Giám nhiệm Giám lý (Methodist Episcopal Church) tại Hoa Kỳ. Tháng 10 năm 1771, chàng thanh niên trẻ tuổi từ giã nước Anh để đến Mỹ. Trong suốt 45 năm, Asbury cống hiến đời mình cho công cuộc xây dựng hội thánh còn non trẻ trên vùng đất mới. Ông du hành - phần lớn trên lưng ngựa - hàng ngàn dặm, tìm đến những cụm dân cư sống rải rác ở vùng biên địa. Asbury đóng góp tích cực cho sự phát triển của phong trào Giám Lý tại Mỹ như là một phần trong cuộc Đại Thức tỉnh. Trong suốt đời mình, ông thành lập trường học mặc dù gia cảnh khó khăn khiến ông không thể tiến xa trong học vấn. Ông cũng phát triển mạng lưới Trường Chúa Nhật dạy trẻ em học đọc, viết, và làm toán. Tiểu sử Francis Asbury sinh tại Hansworth, gần Birmingham, Anh Quốc trong một gia đình lao động là tín hữu Giám Lý (Methodist). Cậu bé Francis phải bỏ học trước khi được 12 tuổi để theo học nghề thợ rèn, đến 14 tuổi Francis bắt đầu quan tâm đến đức tin Cơ Đốc. Khi 18 tuổi Asbury trở nên một truyền đạo địa phương, và được phong chức mục sư lúc 22 tuổi. Năm 1771, Asbury tình nguyện sang Mỹ. Phát triển hội thánh tại Mỹ Tháng 10 năm 1771, Asbury đến Philadelphia, khi ấy số tín hữu Giám Lý trên đất Mỹ chỉ có khoảng 600 người. Trong vòng vài ngày sau khi đặt chân lên tân thế giới, Asbury khởi sự làm việc cật lực. Đó là thời điểm khởi đầu cho một thời kỳ kéo dài 45 năm hoạt động không mệt mỏi của Asbury để gieo trồng đức tin Giám Lý trên vùng đất mới. Khi cuộc chiến giành độc lập bùng nổ năm 1776, Asbury là mục sư Giám Lý duy nhất ở lại trên đất Mỹ. Suốt trong giai đoạn này, Asbury theo đuổi lập trường trung lập trong các vấn đề chính trị; do đó bị buộc phải ẩn mình trong vài tháng để khỏi phải ký vào bản tuyên thệ khước từ trung thành với vương quyền Anh, và để tránh gia nhập quân đội Mỹ. Khi ấy nhiều người xem ông "là kẻ thù, đáng bị bắt giữ". Sau khi người Mỹ dành độc lập, Asbury được phục hồi danh dự và tiếp tục thi hành mục vụ. Năm 1784, John Wesley bổ nhiệm Asbury và Thomas Coke làm đồng quản nhiệm các hoạt động của Giáo hội Giám nhiệm Giám lý tại Mỹ. Sự kiện này đánh dấu sự khởi đầu của Giáo hội Giám nhiệm Giám lý. Vào này Lễ Giáng sinh Asbury được phong chức chấp sự, ngày hôm sau trưởng lão, đến ngày 27 tháng 12 năm 1784, ông được tấn phong Giám mục, như lời Coke thuật lại, "Chúng tôi phải vội vàng, có nhiều việc phải làm trong một thời gian ngắn." Sáu tháng sau, Coke trở về Anh. Trong 32 năm kế tiếp, Asbury là nhà lãnh đạo của toàn thể tín hữu Giám Lý trên toàn nước Mỹ.<ref name="fras">[http://www.christianitytoday.com/history/special/131christians/asbury.html Francis Asbury, Methodist on Horseback] - Christianity Today.</ref> Vào cuối thập niên 1700, 95% người Mỹ sống rải rác trong những cụm dân cư ít hơn 2.500 người nên thường ít có cơ hội tiếp xúc với các giáo hội và giới chức sắc. Asbury cho thành lập các giáo hạt, bổ nhiệm các truyền đạo du hành, và gởi họ đến thuyết giảng và cử hành thánh lễ, nhất là ở những vùng thôn quê hẻo lánh. Giống Wesley, Asbury đi ra tìm kiếm cơ hội rao giảng phúc âm bất cứ nơi nào có thể: công sở, hàng quán, hãng xưởng, đồng ruộng, quảng trường, tóm lại bất kỳ nơi nào có người chịu tụ họp lại để nghe ông thuyết giáo. Asbury du hành trên lưng ngựa trung bình 6.000 dặm mỗi năm, mỗi ngày đều giảng dạy hoặc chủ tọa các buổi hội họp hoặc hội nghị. Dưới sự lãnh đạo của Asbury, hội thánh phát triển từ số thành viên 1.200 người lên đến 214.000 người với 700 mục sư. Khi bùng nổ cuộc Nội chiến, số tin hữu Giám Lý tại Mỹ đã lên đến hơn 1,5 triệu người. Không chỉ là nhà lãnh đạo tôn giáo thành công trong giai đoạn quyết định của lịch sử nước Mỹ, Asbury còn được nhìn nhận là một nhà thuyết giáo xuất chúng. Người viết tiểu sử Asbury, Ezra Squier Tipple, đã viết,Nếu rao giảng phúc âm với thẩm quyền của người được Thiên Chúa sai phái...nếu có nhận thức sâu sắc về sự hiện hữu vĩnh cửu của Thiên Chúa - Đấng Kêu gọi, Đấng Xức dầu, Đấng Phán xét - và thể hiện nhận thức ấy trong các bài thuyết giáo khiến người nghe phải kinh hãi, tan chảy trong sự khiếp sợ, và ngã đổ như những người chết; nếu một người như thế xứng đáng được gọi là nhà thuyết giáo vĩ đại, thì Asbury là một nhà thuyết giáo vĩ đại." Asbury căm ghét chế độ sở hữu nộ lệ, ông thỉnh cầu George Washington ban hành luật chống chế độ nô lệ. Ông viết: "Lòng tôi đau xót khi nhìn thấy cách cư xử của một số tín hữu Giám Lý, họ ra chợ, trả giá để thuê mướn nô lệ, rồi hành hạ và bỏ đói họ." Tính cách Asbury dị ứng với danh vọng, càng không quan tâm đến việc xây dựng hình ảnh cá nhân. Sau 23 năm sống trên đất Mỹ và 10 năm phục vụ trong cương vị giám mục, ông mới chịu nhượng bộ lời yêu cầu của một người bạn, James McCannon, để người ta vẽ chân chung cho ông. Đôi lúc Asbury cũng khá bi quan, nghĩ rằng mình là "một nhà tiên tri báo hung tin". Ông thích nếp sống giản dị và thường khi đắm mình trong sự trầm mặc. Theo nhận xét của những người quen biết Asbury, ông là người rất nhạy cảm. Nhật ký của ông ghi lại những thất bại và sai sót trong mục vụ hơn là những thành tựu. Ông thường thiếu kiên nhẫn đối với những ai trì hoãn không chịu sớm chu toàn bổn phận. Asbury có thói quen dậy sớm vào lúc 5 giờ sáng để suy ngẫm Kinh Thánh. Nhiều người xem Asbury là "một trong số những người khôn ngoan nhất và có tầm nhìn sâu rộng nhất trong thời của ông." Vinh danh Ngôi nhà thuở thiếu thời của Asbury, the Bishop Asbury Cottage, ở Sandwell, Anh Quốc, nay là viện bảo tàng. Trường đại học Giám nhiệm Giám lý đầu tiên mang tên Đại học Cokesbury (1785 – 1796) để vinh danh Asbury và Thomas Coke. Có ít nhất sáu ngôi trường mang tên Asbury: Trường Tiểu học Giám Lý Asbury tại Lai King, Hong Kong. Đại học Asbury và Chủng viện Thần học Asbury tại Wilmore, Kentucky. Đại học DePauwn ở Greencastle, Indiana (lúc đầu có tên Indiana Asbury College). Trường Tiểu học Francis Asbury, tại Hampton, Virginia. Trường Trung học Asbury, Marshall County, Alabama. James A. Bradley, một người tiếp nhận đức tin Giám Lý, đặt tên thị trấn do ông thành lập trên bờ biển New Jersey là Asbury Park. Năm 1921, một pho tượng của Asbury được đặt tại Washington, D. C. Nhà thờ Giám Lý đầu tiên ở bắc Trung Hoa xây dựng năm 1870 mang tên Asbury, nay là Nhà thờ Chongwenmen. Đại lộ Asbury ở Evanston, Illinois - Đại học Northwestern tọa lạc tại đây - được thành lập bởi những tín hữu Giám Lý. Trong thập niên 1830, những tín hữu Giám Lý đến Hạt Dubuque, Iowa, và thành lập một thị trấn. Họ đã chọn tên Asbury để đặt cho thị trấn này.
Dire Straits là album xuất hiện đầu tiên, mang tên của chính ban nhạc rock Dire Straits của Vương quốc Anh, phát hành năm 1978. Album nổi tiếng do bài hát "Sultans of Swing" và đó cũng là một trong những album bán chạy nhất ở Mỹ sau khi phát hành album được 5 tháng. Quentin Tarantino nằm trong số những người hâm mộ nổi tiếng nhất của album. Danh sách các bài hát trong album "Down To The Waterline" – 3:55 "Water Of Love" – 5:23 "Setting Me Up" – 3:18 "Six Blade Knife" – 4:10 "Southbound Again" – 2:58 "Sultans of Swing" – 5:47 "In the Gallery" – 6:16 "Wild West End" – 4:42 "Lions" – 5:05 Thành viên Mark Knopfler - ghi ta, hát John Illsley - ghi ta bass, hát David Knopfler - ghi ta, hát Pick Withers - trống Sản xuất Người sản xuất: Muff Winwood Thiết kế: Rhett Davies Remastering: Gregg Geller Project coordinator: Jo Motta Chỉ đạo nghệ thuật: Alan Schmidt Vị trí bình bầu trong các bảng xếp hạng Album - Tạp chí Billboard (Bắc Mỹ) Đĩa đơn - Billboard (Bắc Mỹ)
Communiqué là album thứ hai của ban nhạc rock Dire Straits đến từ Anh Quốc, phát hành vào năm 1979. Danh sách các bài trong album (các bài đều do Mark Knopfler hát) "Once upon a Time in the West" – 5:25 "News" – 4:14 "Where Do You Think You're Going?" – 3:49 "Communiqué" – 5:49 "Lady Writer" – 3:45 "Angel of Mercy" – 4:36 "Portobello Belle" – 4:29 "Single-Handed Sailor" – 4:42 "Follow Me Home" – 5:50 Tham gia Mark Knopfler - ghi ta, hát John Illsley - ghi ta bass, hát David Knopfler - ghi ta (đệm), hát Pick Withers - trống B. Bear - keyboard Sản xuất Nhà sản xuất: Barry Beckett, Jerry Wexler Kỹ thuật: Jack Nuber Trộn âm: Gregg Hamm Mastering: Bobby Hata Mastering supervisor: Paul Wexler Remastering: Bob Ludwig Project coordinator: Jo Motta Series concept: Gregg Geller Chỉ đạo nghệ thuật: Alan Schmidt Minh họa: Geoff Halpin Xếp hạng Album - Tạp chí Billboard (Bắc Mỹ) Đĩa đơn - Billboard (Bắc Mỹ)
Trường Đại học Tôn Đức Thắng (TDTU) là một trường đại học công lập của Việt Nam. Trường trực thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Trường hoạt động theo cơ chế tự chủ toàn diện. Trường hiện có tổng cộng năm cơ sở tại bốn thành phố khác nhau gồm TP. Hồ Chí Minh, Nha Trang, Bảo Lộc và Cà Mau. Lịch sử Tiền thân của Trường Đại học Tôn Đức Thắng là Trường Đại học Công nghệ Dân lập Tôn Đức Thắng, được thành lập theo quyết định 787/TTg-QĐ ngày 24 tháng 9 năm 1997 của Thủ tướng Chính phủ. Trường do Liên đoàn lao động Thành phố Hồ Chí Minh sáng lập, đầu tư và lãnh đạo trực tiếp thông qua Hội đồng quản trị nhà trường do Chủ tịch Liên đoàn Lao động Thành phố đương nhiệm qua các thời kỳ là Chủ tịch. Với sự tăng trưởng ngày càng nhanh, để Trường có pháp nhân phù hợp bản chất thực của nó (là Trường của tổ chức công đoàn và hoàn toàn không có yếu tố tư nhân), ngày 28 tháng 1 năm 2003, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 18/2003/TTg-QĐ chuyển đổi pháp nhân của Trường thành Trường Đại học Bán công Tôn Đức Thắng, trực thuộc Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 11 tháng 6 năm 2008, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân đã ký Quyết định số 747/QĐ-TTg về việc đổi tên Trường Đại học Bán công Tôn Đức Thắng trực thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thành Trường Đại học Tôn Đức Thắng (công lập) và chuyển về trực thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Xếp hạng đại học Tháng 8 năm 2022, Trường Đại học Tôn Đức Thắng được bảng xếp hạng đại học thuộc trường Đại học Giao thông Thượng Hải (ARWU) xếp thứ 601-700 trên thế giới, TDTU được vào bảng xếp hạng ARWU lần đầu vào năm 2019 với vị trí 901-1000. Năm 2020, tăng lên vị trí 701-800 và năm 2021 là 601-700. Tháng 7/2022, tổ chức xếp hạng đại học thế giới theo thành tựu học thuật URAP (University Ranking by Academic Performance) xếp TDTU thứ 427 trong bảng xếp hạng đại học tốt nhất thế giới năm 2021-2022. TDTU xuất hiện lần đầu tiên trong bảng xếp hạng của URAP năm 2018-2019 với vị trí 1.422. Năm 2019-2020, thứ hạng của TDTU trong bảng này là 960. Năm 2020-2021, thứ hạng của TDTU là 639. Tháng 9/2021, hệ thống xếp hạng đại học thế giới (THE World University Rankings) xếp TDTU vào Top 500 đại học tốt nhất toàn cầu cho kỳ xếp hạng 2022. Đây là lần đầu tiên TDTU có mặt trong bảng xếp hạng này. Tháng 10/2022, TDTU tiếp tục duy trì ở vị trí 401-500 trong kỳ xếp hạng 2023 của THE. Tháng 2/2022, tổ chức xếp hạng đại học THE World University Rankings đã công bố kết quả xếp hạng các đại học trẻ toàn cầu năm 2022. Trường Đại học Tôn Đức Thắng (TDTU) đã được xếp thứ 98 trong tổng số 790 đại học được đưa vào bảng xếp hạng. Với kết quả xếp hạng này, TDTU là trường đại học đầu tiên và duy nhất của Việt Nam vào Top 100 đại học trẻ tốt nhất thế giới. Tổ chức Trường có tổ chức theo các khối đơn vị như sau : Khối giảng dạy Khoa Công nghệ thông tin Khoa Dược Khoa Điện - Điện tử Khoa Kế toán Khoa Khoa học thể thao Khoa Khoa học ứng dụng Khoa Khoa học xã hội và Nhân văn Khoa Kỹ thuật công trình Khoa Lao động và Công đoàn Khoa Luật Khoa Môi trường và Bảo hộ lao động Khoa Mỹ thuật công nghiệp Khoa Ngoại ngữ Khoa Quản trị kinh doanh Khoa Tài chính - Ngân hàng Khoa Toán - Thống kê Phân hiệu Khánh Hòa Cơ sở Bảo Lộc Cơ sở Cà Mau Trường TCCN Tôn Đức Thắng Khối đào tạo, ứng dụng khoa học - kỹ thuật - công nghệ Viện Hợp tác, Nghiên cứu và Đào tạo quốc tế (INCRETI) Viện Khoa học tính toán (INCOS) Viện tiên tiến khoa học vật liệu (AIMaS) Viện chính sách kinh tế và kinh doanh (IBEP) Viện nghiên cứu di truyền và giống (GRIS) Trung tâm An toàn lao động và Công nghệ môi trường (COSENT) Trung tâm Bồi dưỡng văn hóa, tin học và ngoại ngữ (CIFLEET) Trung tâm Chuyên gia Hàn Quốc (KEC) Trung tâm Tin học (CAIT) Trung tâm Đào tạo phát triển xã hội (SDTC) Trung tâm Đào tạo và Phát triển các giải pháp Kinh tế (CATDES) Trung tâm Giáo dục quốc tế (CIS) Trung tâm Giáo dục Quốc phòng an ninh (DSEC) Trung tâm Hợp tác Châu Âu (ECC) Trung tâm Hợp tác doanh nghiệp và Cựu sinh viên (CECA) Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo kinh tế ứng dụng (CAER) Trung tâm Ngôn ngữ sáng tạo (CLC) Trung tâm Phát triển Khoa học quản lý và Công nghệ ứng dụng (ATEM) Trung tâm Tư vấn và Kiểm định xây dựng (TUL) Trung tâm Ứng dụng và Phát triển mỹ thuật công nghiệp (ADA) Trung tâm Việt Nam học và tiếng Việt cho người nước ngoài (VSLC) Công ty TNHH DVKT Tôn Đức Thắng Tạp chí Công nghệ tiên tiến và Tính toán (JAEC) Tạp chí Công nghệ thông tin và Viễn thông (JIT) Quỹ Phát triển khoa học công nghệ (Fostect) Khối quản lý, hành chính, phục vụ Phòng Công tác học sinh - sinh viên Phòng Đại học Phòng Sau đại học Phòng Điện toán - Máy tính Phòng Quản lý phát triển khoa học công nghệ Phòng Khảo thí và Kiểm định chất lượng Phòng Quản trị thiết bị Phòng Tài chính Phòng Tổ chức hành chính Phòng Thanh tra, Pháp chế và An ninh Phòng Kế hoạch - Dự án Ký túc xá Ban Truyền thông và quan hệ công chúng Thư viện Lãnh đạo qua các thời kỳ Chủ tịch hội đồng trường Hoàng Thị Khánh (1997 - 1998) Đặng Ngọc Tùng (1998 - 2003) Nguyễn Huy Cận (2004 - 2013) Trần Thanh Hải (2013 - 2014) Đặng Ngọc Tùng (2014 - 2016) Bùi Văn Cường (2016 - 2019) Vương Đức Hoàng Quân (4/2021 - 6/2022) Vũ Anh Đức (6/2022 - nay) Hiệu trưởng Châu Diệu Ái (1997 - 1998) Bùi Ngọc Thọ (1999 - 2006) Lê Vinh Danh (2006 - 2020) Trần Trọng Đạo (2020 - nay) (Quyền Hiệu trưởng, từ 16/11/2022 là Hiệu trưởng) Chất lượng đào tạo Các chứng nhận Chứng nhận đạt chuẩn kiểm định của HCÉRES: Ngày 02/07/2018, Hội đồng cấp cao về kiểm định nghiên cứu và giáo dục Cộng hòa Pháp (HCÉRES) đã có quyết định công nhận đại học đạt chuẩn đại học Cộng hòa Pháp (và cũng là đạt chuẩn Châu Âu) cho Đại học Tôn Đức Thắng (TDTU). Thời hạn công nhận là 05 năm (từ tháng 7/2018 đến tháng 7/2023). Có 15 chương trình đạt chuẩn kiểm định của AUN-QA: Bốn chương trình đào tạo được AUN-QA chứng nhận đợt đầu tiên bao gồm: Kỹ thuật điện tử - viễn thông, Kỹ thuật phần mềm, Khoa học môi trường và Tài chính - Ngân hàng. Theo kết quả chứng nhận, 4 chương trình đào tạo này đạt mức “Adequate as Expected” (Đáp ứng yêu cầu) hoặc "Better than Edaquate" (Đáp ứng tốt hơn yêu cầu). Tháng 3/2021, AUN-QA công nhận thêm 4 chương trình đào tạo bậc đại học của TDTU gồm: Toán ứng dụng, Kế toán, Công nghệ sinh học và Ngôn ngữ Anh. Thời hạn công nhận là 5 năm, từ ngày 01/3/2021 đến ngày 28/02/2026. Tháng 11/2021, AUN-QA tiếp tục công nhận 3 chương trình đào tạo bậc đại học gồm: Kiến trúc, Thiết kế đồ họa và Bảo hộ lao động. Thời hạn công nhận là 5 năm, từ ngày 01/11/2021 đến ngày 31/10/2026. Tháng 03/2023, AUN-QA đã công nhận 4 chương trình đào tạo bậc đại học bao gồm các ngành: Dược, Kỹ thuật hóa học, Thiết kế nội thất, Công nghệ kỹ thuật môi trường. Thời hạn công nhận là 5 năm, từ ngày 22/01/2023 đến ngày 21/01/2028. Có 04 chương trình đạt chuẩn kiểm định FIBAA: Tháng 11/2021, Hội đồng xét công nhận chất lượng của tổ chức FIBAA (Foundation for International Business Administration Accreditation) đã chính thức công nhận và cấp con dấu chất lượng (Quality Seal) cho 4 chương trình đào tạo bậc đại học của Trường Đại học Tôn Đức Thắng (TDTU). Thời hạn công nhận là 5 năm (2021-2026). Các chương trình được kiểm định và chứng nhận bởi FIBAA bao gồm: Quan hệ lao động, Quy hoạch vùng và đô thị, Xã hội học, Việt Nam học - chuyên ngành Du lịch và Quản lý du lịch.
Dire Straits là một ban nhạc rock của Vương quốc Anh, thành lập vào năm 1977 gồm Mark Knopfler (hát và chơi ghi ta), em trai David Knopfler (chơi ghi ta), John Illsley (chơi ghi ta bass) và Pick Withers (chơi trống), và người quản lý là Ed Bicknell. Mặc dù ban nhạc được thành lập vào thời kỳ thịnh hành của punk rock, Dire Straits đã hoạt động theo "classic" rock. Những ngày đầu hoạt động âm nhạc, Mark và David thường sử dụng thiết bị có công suất thấp, cho phép người chủ quán rượu có thể trò chuyện trong khi họ chơi nhạc. Mặc dù việc làm này có vẻ kỳ quặc khi chơi nhạc rock and roll, Dire Straits sớm thu được thành công lớn với album bạch kim đầu tiên của mình. Những bài hát nổi tiếng nhất của ban nhạc là: "Sultans of Swing", "Romeo and Juliet", "Money for Nothing" và "Brothers in Arms". Lịch sử Dire Straits đã ghi âm và phát hành album đầu tiên, album cùng tên vào năm 1978 chỉ để phô trương một ít nhưng 5 tháng sau khi đĩa đơn "Sultans of Swing" được phát hành, nó đã trở thành đĩa đơn bán chạy nhất và các album thì được mua hết sạch. Album thứ hai, Communiqué, được phát hành sớm ngay sau đó; cả hai album đều mang đặc điểm âm thanh là stripped-down, khuynh hướng blues của nhóm dần lộ rõ với những ca khúc chậm rãi. Abum thứ ba, Making Movies sản xuất năm 1980 có sự tham gia của Roy Bittan, một nhạc công chơi keyboard đến từ ban nhạc của Bruce Springsteen), đánh dấu một hướng phát triển mới trong tổ chức và sản xuất trong sự nghiệp âm nhạc của ban nhạc. "Making Movies" cũng đánh dấu sự ra đi của David Knopfler. Đây là album mang nhiều âm hưởng rock của Dire Straits nhất. Tháng 3 năm 1979, Bob Dylan đã mời Dire Straits cùng chơi nhạc trong album Slow train coming của mình và đây được coi như là một hành động vinh danh các tài năng đến từ bên kia Đại Tây Dương. Tay chơi keyboard Alan Clark và Californian, tay chơi ghi ta Hal Lindes đã tham gia ban nhạc Dire Straits cho album thứ tư của họ, Love Over Gold vào năm 1982, do Mark Knopfler tự sản xuất. Ngay sau khi album phát hành, tay trống Pick Withers rời khỏi ban nhjac để theo nghiệp nhạc jazz. Vị trí này đã bị thay thế bởi cựu thành viên, tay trống của ban nhạc Rockpile là Terry Williams. Hai album thu trực tiếp Alchemy làm năm 1984 được sản xuất trước khi phát hành album Brothers in Arms vào năm 1985. Nó tiếp tục là album bán chạy nhất ở Vương quốc Anh năm đó và cũng là album nổi tiếng trên thế giới, bài "Money for Nothing" là một trong những bài được chiếu đầu tiên trên kênh truyền hình MTV của Anh. Sự thành công về tài chính của album Brothers in Arms đã trợ giúp lớn trong việc trở thành một trong những đĩa ghi âm kỹ thuật số đầu tiên và việc sản xuất dạng đĩa compact mới. Tại buổi ra mắt bài "Money For Nothing" Dire Straits đã trình diễn với Sting. Sau chuyến lưu diễn Brothers In Arms với 10 đêm ở sân Wembley Arena, ban nhạc tiếp tục có sự gián đoạn một thời gian dài, và Mark Knopfler vào dự án hát solo và làm việc với Notting Hillbillies. Dire Straits đã tập hợp lại trong buổi hoà nhạc kỷ niệm sinh nhật lần thứ 70 của Nelson Mandela vào năm 1988 và Eric Clapton cũng tham gia cùng, trước lần tập hợp lại để thu âm cho album mới vào năm 1990. Kết quả đạt được là album cuối cùng, On Every Street phát hành năm 1991, 6 năm sau khi phát hành Brothers In Arms, là sự khen chê lẫn lộn và thành công vừa phải. Nó không được bán chạy như các đĩa khác và chuyến lưu diễn sau đó cũng không thành công như tua diễn vào năm 1985 - 1986. Album On The Night, phát hành vào năm 1993, là tư liệu cho chuyến lưu diễn đó. Sau khi phát hành album Live at the BBC một tuyển tập của những bài thu âm trực tiếp từ năm 1978, Dire Straits dã giải tán ban nhạc vào năm 1995, sau khi Knopfler từ chối chuyến một lưu diễn có quy mô lớn và anh ngay lập tức đi làm một công việc khác và hát solo, và các thành viên khác cũng theo nghiệp solo riêng của họ. Thành phần ban nhạc thay đổi theo các năm, chỉ có Mark Knopfler và John Illsley là những thành viên tham gia từ đầu. Hal Lindes đã rời ban nhạc vào năm 1985 trong khi đang ghi đĩa Brothers in Arms và người thay thế là Jack Sonni. Vào năm 1990 Dire Straits gồm có 4 thành viên chính: Knopfler, Illsley, Alan Clark và Guy Fletcher. Terry Williams đã rời ban nhạc vào năm 1988. Album On Every Street bắt đầu thực hiện và chuyến lưu diễn tiếp theo được triển khai đã gia tăng số thành viên làm part-time, cả tay trống người Mỹ được đề cao là Jeff Porcaro từ ban nhạc Toto (mặc dù Chris Whitten đã chơi trống trong chuyến lưu diễn đó). Bài hát "The Bug", từ album On Every Street có giọng hát của Vince Gill, người đã từ chối lời mời tham gia ban nhạc với tư cách là một thành viên chính thức. Ba album hay nhất đã phát hành, album được biên tập lại gần đây nhất là Private Investigations: The Best of Dire Straits and Mark Knopfler vào tháng 11 năm 2005, nó tổng hợp từ phần nhiều những album được làm từ phòng thu âm của Dire Straits và phần hát solo của Mark Knopfler. Mặc dù nổi tiếng là một ban nhạc rock, nhưng nhạc của Dire Straits chưa bao giờ thể hiện được khuynh hướng rock một cách rõ ràng, nó luôn là phong cách rock/blues. Cho đến nay, Dire Straits và Mark Knopfler đã bán hơn 118 triệu album. Các thành viên của Dire Straits Mark Knopfler - chơi ghi ta và hát chính (1977-1995) John Illsley - chơi ghi ta bass và hát đệm (1977-1995) Alan Clark - chơi keyboard (1980-1995) Guy Fletcher - chơi keyboard và hát đệm (1984-1995) Thành viên cũ David Knopfler - chơi ghi ta, keyboard và hát đệm (1977-1980) Pick Withers - chơi trống và bộ gõ (1977-1982) Hal Lindes - chơi ghi ta và hát đệm (1980-1985) Terry Williams - chơi trống và bộ gõ (1982-1988) Jack Sonni - chơi ghi ta (1985-1987) Hoạt động Các album chính 1978 Dire Straits (Bán được 15 triệu bản trên khắp thế giới) 1979 Communiqué (Bán được 7 triệu bản trên khắp thế giới) 1980 Making Movies (Bán được 1 triệu bản ở Mỹ) 1982 Love Over Gold (Bán được 500.000 bản ở Mỹ) 1983 ExtendedancEPlay 1985 Brothers in Arms (Bán ở Mỹ: 9 triệu bản, YThế giới: 25 triệu bản.) 1991 On Every Street (Bán được 1 triệu bản ở Mỹ) Các album thu trực tiếp 1984 Alchemy (Bán được 0,5 triệu bản ở Mỹ) (hát ở London) 1993 On The Night 1995 Live at the BBC Tái bản 1988 Money for Nothing (Bán được 1 triệu bản ở Mỹ) 1998 Sultans of Swing: The Very Best of Dire Straits (có cả đĩa DVD) 2005 The Best of Dire Straits & Mark Knopfler: Private Investigations Các đĩa đơn nổi tiếng "Sultans of Swing" (1979) #8 Anh; #4 Mỹ "Lady Writer" (1979) #51 Anh "Romeo and Juliet" (1981) # Anh "Skateaway" (1981) #37 Anh "Private Investigations" (1982) #2 Anh "Twisting by the Pool" (1983) #14 Anh "So Far Away" (1985) #20 Anh; #19 Mỹ "Money for Nothing" (1985) #4 Anh; #1 (3 tuần) Mỹ "Brothers in Arms" (1985) #16 Anh "Walk of Life" (1986) #2 Anh; #7 Mỹ "Your Latest Trick" (1986) #26 Anh "Calling Elvis" (1991) #21 Anh "Encores EP" (1993) #31 Anh
Lee Hae-chan (chữ Hàn: 이해찬; chữ Hán: 李海瓚; âm Hán Việt: Lý Hải Toản; sinh ngày 10 tháng 7 năm 1952) là cựu thủ tướng của Hàn Quốc. Ông được Tổng thống Roh Moo-hyun tiến cử vào ngày 8 tháng 6 năm 2004, đã được Quốc hội Hàn Quốc thông qua vào ngày 29 tháng 6, và bắt đầu chức vụ vào ngày 30 tháng 6 cùng năm đó. Ông là thành viên của đảng Tự do Uri, và đã được bầu vào Quốc hội 5 lần. Ngày 14 tháng 3 năm 2006, ông đệ đơn từ chức vì xì-căng-đan chơi golf. Ông đã từng giữ chức Bộ trưởng bộ Giáo dục dưới thời tổng thống Kim Dae-jung từ năm 1998 đến năm 1999. Lúc đó, ông đã đưa ra nhiều chính sách cải tổ giáo dục gây tranh cãi, bao gồm thay đổi chính sách đầu tư giáo dục cho các trường trung học và hạ thấp độ tuổi về hưu của giáo viên. Việc tiến cử ông vào chức vụ Thủ tướng đã gặp một số trở ngại do thời gian giữ chức Bộ trưởng bộ Giáo dục, mà nhiều người coi như là một sự thất bại. Tuy nhiên, kể từ khi nhậm chức Thủ tướng, ông Lee đã chứng tỏ là một thủ tướng có năng lực, được coi là một vị thủ tướng quyền lực nhất mà Hàn Quốc từng có. Ngày 1 tháng 3 năm 2006, Hội liên hiệp công nhân ngành đường sắt Hàn Quốc và Hội liên hiệp tàu điện ngầm Seoul cùng tổ chức đình công. Cuộc đình công của cả hai hội liên hiệp đã gây ra hậu quả nghiêm trọng cho hoạt động kinh tế của Hàn Quốc, đặc biệt là khu vực Seoul (là nơi giao thông phụ thuộc rất lớn vào tàu điện ngầm và được điều khiển bởi cả hai hội liên hiệp). Đáng lẽ vào thời điểm đó, ông Lee phải xuất hiện để điều khiển và điều đình với cuộc đình công. Tuy nhiên, ông lại đang chơi golf ở Busan với những doanh nhân địa phương. Điều này khiến công chúng Hàn Quốc bày tỏ sự chán ghét chống lại ông Lee vì đã không quan tâm đến chính phủ và nhân dân. Ông Lee cũng là người thân của cố hoàng tử Yi Gu (con trai của vị hoàng thái tử cuối cùng của Hàn Quốc). Thông tin cá nhân Nơi sinh: Cheongyang, tỉnh Nam Chungcheong, Hàn Quốc Gia đình: Bố mẹ, vợ, và một con gái. Trình độ học vấn Tốt nghiệp trường trung học Yongsan ở Seoul vào năm 1971 Tốt nghiệp đại học quốc gia Seoul vào năm 1985 (bằng cử nhân xã hội học) Sự nghiệp 1974-1975: Bị cầm tù vì có liên quan đến vụ án Mincheong Hakryeon 1988-1992: Thành viên của Quốc hội thứ 13 1992-1995: Thành viên của Quốc hội thứ 14 1996: Trưởng ban kế hoạch bầu cử 1995: Phó chủ tịch phụ trách các vấn đề chính trị, thủ đô Seoul 1996-2000: Thành viên của Quốc hội thứ 15 1996-1997: Chủ tịch Ủy ban chính sách chính trị mới của Quốc hội 1998-1999: Bộ trưởng bộ Giáo dục 2000: Chủ tịch Ủy ban chính sách chính trị mới của Quốc hội 2000-2004: Thành viên của Quốc hội thứ 16 2000: Chủ tịch hội liên hiệp hữu nghị nghị trường Hàn-Áo 2001: Chủ tịch Ủy ban chính sách chính trị mới của Quốc hội 2003: Thành viên Ủy ban trung tâm của đảng Uri 2004: Thành viên của Quốc hội thứ 17
Ngày cá tháng Tư, hay Ngày nói dối là một phong tục hàng năm vào ngày 1 tháng Tư dương lịch bao gồm những trò đùa và trò lừa bịp vô hại, trò chơi khăm đánh lừa người khác nhằm mục đích mua vui cho bản thân và mọi người mà có thể không chịu những lời chỉ trích, tác hại nào. Trong ngày này, những người thích đùa thường cố gắng lừa những người thân, bạn bè của họ tin vào điều gì đó không đúng sự thật, nhưng một cách vô hại và hài hước và không có nghĩa lừa lọc hoặc khiến người khác bực bội. Sau màn đùa và lừa, người đùa thường hét lên "Cá tháng tư" để giải tỏa thắc mắc và tiết lộ trò đùa. Truyền thống về ngày Cá tháng Tư tồn tại ở hầu hết các nước Châu Âu cũng như Bắc Mỹ. Các phương tiện thông tin đại chúng (các tờ báo, tạp chí, đài phát thanh và đài truyền hình và đôi khi trên các trang mạng) có thể tham gia vào những trò đùa này, với những tin vịt hoặc thông tin phóng đại ra ngoài sự thật, chia sẻ những câu chuyện hài hước vào ngày 1 tháng 4, và thường là đính chính hoặc tiết lộ vào ngày hôm sau. Cá tháng tư dù không phải là ngày nghỉ lễ chính thức nhưng vẫn là phong tục truyền thống tại nhiều quốc gia kỷ niệm hàng năm vào đúng ngày 1 tháng 4, bằng cách tung nhiều tin đồn hoặc nói xạo, nói đùa vô hại về rất nhiều chủ đề khác nhau nhằm tạo niềm vui hay trêu chọc ai đó. Những tin giả như thế thường được tung ra trong cả ngày 1 tháng 4 ở hầu hết các quốc gia như Hoa Kỳ, Pháp, Ireland,... trong khi tại một số quốc gia khác, nó phải được chấm dứt vào giữa trưa như Anh, Canada, Úc, New Zealand. Tại Ý, Pháp, Bỉ, và các khu vực nói tiếng Pháp của Thụy Sĩ và Canada, 1 tháng 4 truyền thống thường được gọi là "Cá tháng Tư" (Poisson d'avril tiếng Pháp hoặc Pesce d'aprile trong tiếng Ý). Điều này bao gồm cả cố gắng để lén dán một con cá bằng giấy vào lưng của nạn nhân mà không bị phát hiện. Những cá giấy như vậy cũng nổi bật trên nhiều bưu thiếp tại Pháp ngày đầu tháng tư vào cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Ghi nhận sớm nhất về ngày đùa tháng tư có thể tìm thấy trong tập The Canterbury Tales của nhà thơ Geoffrey Chaucer (1392). Một số ý kiến cho rằng sự phục hồi ngày 1 tháng Giêng là ngày đầu năm mới trong thế kỷ 16 đã là lý do tạo thành phong tục này, nhưng giả thuyết này không được ghi chép trong các tài liệu tham khảo trước đó. Lịch sử Phong tục dành riêng cho một ngày để bày ra những trò chơi khăm vô hại với hàng xóm được phổ biến trên khắp thế giới. Tiền thân của ngày Cá tháng Tư, bao gồm lễ hội La Mã của Hilaria (Hilaria (tiếng Hy Lạp: ἱλάρια; Latin: hilaris, "vui nhộn") là lễ hội tôn giáo thời La Mã cổ đại tổ chức vào ngày xuân phân để vinh danh nữ thần Cybele) được tổ chức ngày 25 tháng 3, và lễ của kẻ đùa thời Trung Cổ (lễ hội dân gian, thường xuyên được tổ chức bởi các giáo sĩ và giáo dân từ thế kỷ thứ 5 cho đến thế kỷ thứ 16 ở một số quốc gia châu Âu, chủ yếu là Pháp, Tây Ban Nha, Đức, Ba Lan, Anh và Scotland) được tổ chức ngày 28 Tháng 12, vẫn còn là một ngày mà trò đùa được bày ra ở các quốc gia nói tiếng Tây Ban Nha. Theo thần thoại La Mã, thần cai quản địa ngục Pluto đã bắt cóc nàng Proserpina và đưa nàng tới sống cùng ông ở địa ngục. Cô gái đã gọi mẹ nhưng nữ thần Ceres chỉ nghe thấy âm vang giọng nói của con gái và đi tìm kiếm cô trong tuyệt vọng. Những cuộc tìm kiếm vô vọng đó, hay các cuộc rượt đuổi ngỗng trời, đã trở thành chuyện cười phổ biến tại châu Âu trong các thế kỷ trước. Bertha R. McDonald, trong Harper's Weekly đã giải thích nguồn gốc của ngày Cá tháng Tư, nói rằng "một số nhà cầm quyền đã nghiêm túc trở lại với thời kì Nô-ê và con tàu của ông. Trên tờ Public Advertiser ở Luân Đôn đăng ngày 13 tháng 3 năm 1769 đã in một đoạn trích liên quan đến thuyết này: "Sai lầm của Nô-ê khi đưa chim bồ câu ra khỏi tàu trước khi mực nước giảm, vào ngày đầu tiên của tháng tư, và để ghi nhớ ký ức về sự giải thoát này, mọi người đã quên mất một tình huống đáng chú ý này..." Trong Canterbury Tales của Chaucer (1392), Các nữ tu Priest Tale được đặt tên là Syn March bigan thritty dayes and two. Các nhà học giả hiện đại tin rằng có một lỗi sao chép trong bản thảo vẫn còn tồn tại, và Chaucer thực sự viết Syn March was gon. Do đó đoạn văn ban đầu nghĩa là 32 ngày sau tháng ba - 2 tháng 5, lễ kỉ niệm đính ước của Vua Richard II với Anne của Bohemia, Vương hậu Anh diễn ra vào năm 1381. Những người đọc hiểu lầm dòng này nghĩa là 32 tháng 3, tức ngày 1 tháng 4. Năm 1508, nhà thơ người Pháp Eloy d'Amerval đã nhắc đến Poisson d'avril ("Cá tháng Tư"), có thể là ý nói đến ngày này. Nhà thơ flemish Eduard de Dene đã viết về một nhà quý tộc sai những người đầy tớ của mình làm những chuyện vặt ngu ngốc vào ngày 1 tháng 4. Năm 1686, John Aubrey đã đề cập ngày lễ là "một ngày lễ thánh của kẻ ngốc" (Fooles holy day). Ngày 1 tháng 4 năm 1698, hàng ngàn người bị lừa đến tháp Luân Đôn để xem sư tử tắm. Trong thời Trung cổ, cho đến cuối thế kỷ 16, ngày đầu năm mới đã được tổ chức vào ngày 25 tháng 3 (Lễ Truyền Tin) trong hầu hết các thị trấn châu Âu. Trong một số khu vực của nước Pháp, năm mới là một kỳ nghỉ kéo dài một tuần kết thúc vào ngày 1 tháng 4. Năm 1564, vua Pháp là Charles IX, lúc đó 14 tuổi, quy định ngày 1 tháng 1 là ngày đầu năm, thống nhất trong toàn quốc. Quyết định này được áp dụng năm 1567. Tuy nhiên, do phương tiện liên lạc rất lạc hậu nên nhiều người không nhận được tin đổi lịch, những người này tiếp tục coi ngày 1 tháng 4 là năm mới và bị những người khác cười vì điều này. Sau này nhiều người cho rằng phong tục Cá tháng Tư bắt nguồn từ đây. Nhiều người lại tìm lý do khác để giải thích vì sao ngày đầu tháng Tư là ngày để cười đặc biệt. Nhà thần học Manfred Becker-Huberti cho là trong tín ngưỡng dân gian cổ xưa, nhiều người tin rằng đây là ngày không may mắn (tương tự như Thứ Sáu ngày 13). Vì theo truyền thuyết, ngày 1 tháng 4 được cho là ngày sinh và ngày chết của Judas Iscariot, người đã phản bội Chúa Giêsu Kitô và cũng được cho là ngày quỷ Lucifer bị đày xuống địa ngục. Tại Hà Lan, nguồn gốc của ngày tháng tư tượng trưng cho chiến thắng của người Hà Lan tại Brielle năm 1572, nơi công tước người Tây Ban Nha Álvarez de Toledo bị đánh bại. "Op 1 april verloor Alva zijn bril" là một câu tục ngữ Hà Lan, có thể dịch là "Ngày 1 tháng tư, Alva mất kính". Trong trường hợp này, chiếc kính ("bril" trong tiếng Hà Lan) nhằm ẩn dụ cho Brielle. Tuy nhiên thuyết này không cung cấp lời giải thích nào về lễ kỉ niệm quốc tế của ngày Cá tháng Tư. Phong tục Pháp Một câu chuyện được kể lại là Henry IV, vua nước Pháp trong những năm 1589-1610, đã gửi thư cho một cô gái mười sáu tuổi, không rõ tên, bí mật hẹn hò trong một lâu đài. Khi Henry đến nơi hẹn, đã ngạc nhiên khi người chào đón ông lại là hoàng hậu Marie de Medici, vợ ông còn khiêm tốn cảm ơn ông vì ông đã theo lời mời của bà để đến dự dạ vũ vui nhộn. Những người hay đùa thường dính cá vào những người theo truyền thống cũ, nên mới có tên gọi là "Poisson d'Avril" hay Cá tháng Tư. Nhưng giả thuyết này cũng không lý giải được tại sao ngày hội nói dối lại lan sang nhiều nước khác ở châu Âu vốn không sử dụng lịch Gregorian cho tới tận sau này. Scotland Tại Scotland, ngày Cá tháng Tư xưa kia có tên gọi là săn chim cúc-cu (Hunt-the-Gowk) ("gowk" trong phương ngữ Scotland là tên khác của một loài chim cúc cu hay là kẻ ngốc). Những trò đùa truyền thống là yêu cầu một người nào đó chuyển giúp một tin nhắn được niêm phong có yêu cầu xin được giúp đỡ. Thông điệp trong tin nhắn ghi: "Dinna cười to, dinna cười mỉm. Hãy săn chim cúc cu ở nơi khác" ("Dinna laugh, dinna smile. Hunt the gowk another mile") và người nhận được yêu cầu tiếp tục chuyển tiếp tin nhắn đến "nạn nhân" khác. Nguồn gốc của tấm biển "Đá tôi" cũng có thể xuất phát lễ kỷ niệm ngày April "Gowks" của người Scotland. Anh Quốc Tại Anh, một trò đùa tháng tư là bất ngờ la hét "April fool!" (trò lừa hay là kẻ ngốc tháng Tư) và người nghe sẽ là "kẻ ngốc tháng Tư". Một nghiên cứu vào những năm 1950 của nhà nghiên cứu văn học dân gian Iona và Peter Opie, phát hiện ra rằng ở Anh, và ở các quốc gia có truyền thống bắt nguồn từ Vương quốc Anh, bao gồm Úc, các trò đùa chấm dứt vào buổi trưa. Một người mà đùa giỡn sau buổi trưa thì cũng tự là "kẻ ngốc". Iran Tại Iran, những trò vui nhộn được chơi vào ngày thứ 13 của năm mới Ba Tư (Nowruz), thường rơi vào ngày 1 hoặc ngày 2 tháng 4. Ngày này, được ghi nhận tổ chức từ năm 536 trước Công nguyên, được gọi là Sizdah Bedar và là trò đùa-truyền thống lâu đời nhất trên thế giới và vẫn còn tồn tại đến nay, thực tế này đã khiến nhiều người tin rằng ngày Cá tháng Tư có nguồn gốc từ truyền thống này. Ấn Độ Tại Ấn Độ, đã có rất nhiều điều liên quan về Ngày Cá tháng Tư trong cả điện ảnh và văn học phổ thông và mọi người đều vui vẻ với ngày này. Trong nền điện ảnh Ấn Độ, phim April Fool (phim năm 1964) của Hindi cùng với bài hát chủ đề rất phổ biến. Romania Tại Romania, một trò đùa ngày Cá tháng Tư được tiết lộ bằng cách hét lên "Păcăleală de 1 Aprilie!" (nghĩa là chơi khăm ngày Cá tháng Tư) với người đối diện và người đó trở thành "kẻ ngốc tháng tư". Những cú lừa Cá tháng Tư ngoạn mục Năm 1957, đài BBC lập ra một trò đùa thông qua phóng sự mang tên Mùa thu hoạch mì ống Thụy Sĩ (Swiss Spaghetti Harvest, Trò lừa bịp cây spaghetti) khi phát sóng bộ phim giả mạo cảnh các nông dân Thụy Sĩ đang thu hoạch mì ống Thụy Sĩ (mì Spaghetti) tươi từ những cành cây. Ngay lập tức đài BBC nhận về nhiều cuộc gọi hỏi mua một cây mì ống như thế. Điều này buộc đài phải thú nhận trò đùa trong tin tức ngày hôm sau. Trước năm 1962 ở Thụy Điển chỉ có một kênh truyền hình và phát màu đen trắng. Nhưng vào ngày 1 tháng 4 năm 1962, ông Kjell Stensson, chuyên gia kỹ thuật của trạm đã xuất hiện trên các tin tức thông báo rằng nhờ có công nghệ mới mà người xem có thể chuyển đổi ti vi của mình để có thể xem hình ảnh với màu sắc sinh động. Tất cả những gì chủ nhân của các ti vi cần làm là trùm một chiếc nilon màu lên màn hình tivi. Để thuyết phục hơn, Stensson đã làm mẫu ngay trong chương trình. Nhưng đó chỉ là trò bịp và phải đến ngày 1 tháng 4 năm 1970 mới có chương trình phát sóng màu đầu tiên trên đài truyền hình Thụy Điển. Trong một cuộc phỏng vấn của Đài phát thanh BBC Radio 2 diễn ra vào sáng ngày 01 tháng 4 năm 1976, nhà thiên văn học được người Anh Patrick Moore thông báo về một sự kiện thiên văn hiếm gặp sắp xảy ra nhưng thính giả có thể trải nghiệm tại nhà, đó là: Vào lúc 9 giờ 47 phút, Trái Đất sẽ bị giảm trọng lực vì thẳng hàng với sao Diêm Vương và sao Mộc. Phần nhiều người dân địa phương khá háo hức để chứng kiến sự kiện này, tuy nhiên đa số nhận về thất vọng. Một số người lên tiếng chỉ trích trò cợt nhã, trong đó có một người đàn ông giận dữ gọi đến BBC đòi bòi thường và than phiền việc Trái Đất giảm trọng lực đã khiến ông bay lên khỏi mặt đất rồi va đầu vào trần nhà với tốc độ cao. Năm 1980, BBC đưa tin rằng người ta sẽ chuyển đồng hồ Big Ben sang chế độ điện tử bằng cách lắp bảng hiện số mới thay cho mặt đồng hồ cũ. Tin tức này lập tức khiến thính giả Anh bị sốc. Một số người bức xúc và giận dữ gọi điện đến đài để yêu cầu tìm ra phương án bảo vệ đồng hồ Big Ben. Một ấn phẩm Cá thángTtư năm 1983 của Durand Express, một tờ tuần báo ở Durand, Michigan, đưa tin rằng dihydro oxide được tìm thấy trong các ống dẫn nước của thành phố sẽ gây chết người nếu hít phải. Lần đầu trò lừa bịp này xuất hiện là khi trang báo mạng Pittsburgh Post-Gazette nhắc tới với tên gọi Liên minh chống Dihydro Monoxide, - một tổ chức tại UC Santa Cruz sau các cuộc thảo luận trên diễn đàn Usenet vào năm 1990. Theo đó, trò lừa bịp này liệt kê một số tác hại của dihydro monoxide ở mức báo động, như đẩy nhanh tốc độ ăn mòn và gây chết đuối. Thật ra, tên gọi dihydro monoxide (DHMO, gồm hai hydro và một oxy) đề cập tới cách gọi nước bằng phương pháp liệt kê nguyên tử hóa học ít phổ biến. Năm 1986, báo Le Parisien đưa tin chính phủ Pháp quyết định di dời tháp Eiffel đến công viên Disneyland để thay thế cho sân vận động dành cho Thế vận hội Mùa hè 1992. Năm 2003, CNN đưa tin Chủ tịch tập đoàn Microsoft Bill Gates bị ám sát tại Công viên MacArthur ởLos Angeles trong khi đang tham gia một sự kiện từ thiện. Tin tức này lập tức được 3 kênh truyền hình MBC, YTN và SBS của Hàn Quốc đồng loạt đưa tin. Theo BBC, trên thực tế, thông tin đó là một trò lừa bịp lấy từ website CNN. Tổ chức quyền động vật PETA đã công bố kết quả nghiên cứu một công nghệ giúp các con hưu có khả năng ngụy trang. Theo đó, công nghệ này lần lượt các bước: bắn thuốc gây mê, sơn lên người chúng bằng một loại sơn đặc chế không phai giúp hòa lẫn vào môi trường, sau đó thả trở lại rừng. Đến cuối ngày, bài báo được gỡ bỏ và thay bằng một câu: "Bạn biết hôm nay là ngày gì không?". Vào ngày Cá tháng Tư năm 2007, công cụ tìm kiếm trên internet Google đã thông báo cung cấp dịch vụ mới Gmail Paper, nơi người sử dụng dịch vụ thư miễn phí có thể lưu giữ email vào kho lưu trữ giấy mà Google sẽ in ra và rồi gửi cho họ miễn phí. Năm 2008, Google đã mời mọi người tham gia dự án thám hiểm sao Hoả. Ngày Cá tháng 4 năm 2013, Google tung clip đóng cửa Youtube. Ngày 1 tháng 4 năm 2008, kênh BBC phát một đoạn video về bầy chim cánh cụt biết bay và khẳng định rằng họ đã phát hiện ra loài này tại Đảo King George gần Nam Cực. Thực tế là các nhà làm phim đã sử dụng hình ảnh về những loài chim trông giống chim cánh cụt và bắt chước chuyển động của chúng để tạo ra hình ảnh về một loài mới được phát hiện. Một ngày sau khi xuất hiện, đoạn video đã thu hút 100 nghìn lượt xem. Vào ngày Cá tháng 4 năm 2016, kênh tin tức bóng đá trực tuyến Goal.com đã đưa tin tiền đạo câu lạc bộ Barcelona Lionel Messi đã đạt thỏa thuận 500 triệu € để kí hợp đồng với Real Madrid. Tên của phóng viên sử dụng trong bài viết là "Lirpa Loof", viết ngược lại của từ "April Fool". Với sự xuất hiện của dịch vụ internet và các dịch vụ tin tức toàn cầu sẵn có, những trò lừa Cá tháng Tư có thể xuất hiện và lừa số đông khán giả hơn bao giờ hết. Những ngày đùa khác trên thế giới 1 tháng 5 cũng được tổ chức tại Thụy Điển như một ngày đùa thay thế. Khi một người nào đó đã bị lừa ở Thụy Điển, và sau khi được tiết lộ rằng đó là một trò đùa, các kẻ đùa giỡn thường hay nói vần "april april din dumma sill, jag kan lura dig vart jag vill" ("tháng Tư, tháng Tư, bạn cá trích dại khờ, tôi có thể đánh lừa bạn bất cứ khi nào tôi muốn") 28 tháng 12 là ngày tương đương ở Tây Ban Nha và nam châu Mỹ.
Bãi Cháy là một phường thuộc thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam. Địa lý Phường Bãi Cháy nằm ở trung tâm thành phố Hạ Long, có vị trí địa lý: Phía đông giáp các phường Hồng Gai, Yết Kiêu và Cao Xanh với ranh giới là eo Cửa Lục Phía tây giáp phường Hùng Thắng Phía nam giáp vịnh Hạ Long Phía bắc giáp phường Giếng Đáy và xã Lê Lợi. Phường có diện tích 19,37 km², dân số năm 1999 là 15.645 người, mật độ dân số đạt 808 người/km². Điều kiện tự nhiên Bãi Cháy nguyên là một đảo hình thoi dài 6 km, chỗ rộng nhất là 2 km, diện tích 1145,85 ha. Địa hình đồi núi, đỉnh cao nhất 162m. Phía Bắc đảo là vịnh Cửa Lục, quốc lộ 18A mở từ những năm 1930. Phía Nam đảo nhìn ra Vịnh Hạ Long có đường Hạ Long xây dựng từ năm 1959. Phường có đảo Rều cách bờ 300m (dễ dàng thấy khi đi từ Cảng tàu du lịch Bãi Cháy ra Vịnh). Phía Đông đảo có bến phà (nay là cầu) nối với phường Hồng Gai. Cảng xăng dầu B12 là cảng xăng dầu lớn nhất cả nước, trước 1965 là cảng Hải Quân. Bãi Cháy có một bãi biển nhân tạo, nằm dọc vịnh Hạ Long, bãi cát có chiều dài hơn 1000m và rộng 100m. Đây là bãi tắm thu hút rất đông du khách vào mùa du lịch biển. Đặc điểm địa hình là một dải đồi thấp chạy thoai thoải về phía biển, kéo dài hơn 2 km ôm lấy hàng thông cổ thụ, nằm xen là những khách sạn, những biệt thự nhỏ kiến trúc riêng biệt. Lịch sử Nơi đây có tên cổ là Vạ Cháy, bản thời Pháp thuộc thường ghi là Vat Chay hoặc Ile aux buissons (đảo bụi rậm). Tên Bãi Cháy hay Vạ Cháy ngày xưa là khu bãi cát ven biển do ngư dân bảo dưỡng thuyền gỗ bằng cách đốt lửa thui thuyền (dưới đáy và bên sườn thuyền thường có con hà bám vào rất chắc có thể ăn hỏng thuyền vì thế dân chài phải lấy lá phi lao đốt xung quanh), lửa khói quanh năm trong bãi mà thành tên. Theo dã sử, Bãi Cháy chính là nơi đoàn thuyền lương của quân Nguyên Mông do Trương Văn Hổ cầm đầu vào xâm lược Việt Nam đã bị tướng nhà Trần là Trần Khánh Dư cùng quân dân nhà Trần thiêu cháy và bị dạt vào bờ. Do nhiều thuyền giặc bị cháy, gió mùa Đông Bắc lại thổi tạt lửa vào bờ phía tây Cửa Lục làm cháy luôn khu rừng đang hanh khô. Chính vì vậy mà khu rừng bị cháy đó có tên như ngày nay. Trước năm 1979, Bãi Cháy là một thị trấn rộng, giáp địa phận xã Việt Hưng và huyện Hoành Bồ. Tháng 4/1979, tách khu phía tây lập thị trấn Giếng Đáy. Ngày 10/8/1981 thị trấn Bãi Cháy trở thành phường thuộc thị xã Hồng Gai. Vào ngày 27/12/1993, thành phố Hạ Long được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hồng Gai, qua đó đưa Bãi Cháy sang thành một phường của thành phố. Kinh tế Với lợi thế nằm bên bờ vịnh Hạ Long, Bãi Cháy đóng vai trò là trung tâm lưu trú và các dịch vụ ven bờ, phát triển với quy mô quốc tế. Cơ sở vật chất kỹ thuật, dịch vụ ngành du lịch được đầu tư, khai thác hiệu quả đáp đã ứng được nhu cầu đa dạng của khách du lịch trong và ngoài nước. Trên địa bàn phường (tập trung tại đường Hạ Long, phố Vườn Đào, phố Anh Đào và khu Cái Dăm) hiện có 322 cơ sở lưu trú du lịch với 6.888 phòng, 12.478 giường; trong đó: 2 cơ sở đạt tiêu chuẩn 5 sao, 11 cơ sở đạt tiêu chuẩn 4 sao, 15 cơ sở đạt tiêu chuẩn 3 sao, 23 cơ sở đạt tiêu chuẩn 2 sao, 17 cơ sở đạt tiêu chuẩn 1 sao với 4.012 phòng được xếp hạng và trên 400 tàu du lịch. Bên cạnh đó, một số dự án khách sạn 5 sao đang được triển khai thực hiện và đưa vào hoạt động trong thời gian tới. Bên cạnh du lịch, Bãi Cháy còn là khu vực tập trung phát triển của nhiều ngành kinh tế quan trọng, trong đó cảng nước sâu Cái Lân có khả năng đón tàu từ 3-5 vạn tấn, các nhà máy đóng tàu có khả năng đóng mới tàu trên 5 vạn tấn. Trên địa bàn phường hiện có 3 trường mẫu giáo và 12 điểm mầm non tư thục, một trường tiểu học, một trường trung học cơ sở, một trường phổ thông cơ sở và một trường trung học phổ thông. Các trường học trên địa bàn đều đã được đầu tư xây dựng cao tầng hoá với quy mô hiện đại, nhiều trường đạt chuẩn Quốc gia. Đền Cái Lân trên địa bàn phường vốn là nơi ngư dân thờ Mẫu Thoải, nay là một điểm du lịch tâm linh hấp dẫn, nổi tiếng vô cùng linh thiêng. Hình ảnh
Đại Huệ là tên một trong hai dãy núi bao quanh huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Thông tin chính Dãy núi còn có tên là Phong Vân Sơn bắt đầu từ huyện Thanh Chương, chạy dọc phía bắc và đông của huyện Nam Đàn, kéo dài tới huyện Hưng Nguyên, với chiều dài khoảng 30 km, chiều rộng 5 km. Trong dãy có những đỉnh cao khoảng 350 m.
Giải đua ô tô Công thức 1 Úc là một chặng đua Công thức 1 diễn ra hàng năm ở Úc. Ngoài ra, đây là giải đua ô tô lâu đời thứ hai tại Úc còn tồn tại chỉ sau giải đua ô tô Phillip Island được tổ chức 83 lần từ năm 1928. Lịch sử Giai đoạn trước khi trở thành chặng đua Công thức 1 chính thức (1928-1985) Những năm khởi đầu (1928-1945) Giải đua ô tô Công thức 1 Úc có nguồn gốc từ giải đua xe 100 dặm (tức là giải đua ô tô Úc 1928) tại trường đua đảo Phillip. Tại chặng đua này, Arthur Waite giành chiến thắng với chiếc xe Austin 7 của nhà sản xuất ô tô Austin Motor Company của Anh. Trong tám năm sau đó, thời đại của sự pha trộn cơ học "đặc biệt" của Úc gồm khung gầm và động cơ khác nhau có khả năng ngang ngửa với những cỗ máy của các xe đua nhập khẩu từ châu Âu bắt đầu hưng thịnh. Với sự khéo léo của những bộ phận cơ khí từ Úc vào những năm khởi đầu, Bugatti đã thống trị kết quả sau khi giành bốn chiến thắng liên tiếp từ năm 1929 đến năm 1932. Vào năm 1935, sự kiện này được diễn ra lần cuối cùng tại trường đua Phillip Island và sau đó, địa điểm tổ chức của sự kiện này được chuyển sang trường đua Victor Harbor, Nam Úc. Vào năm 1938, giải đua ô tô Công thức 1 Úc đã được tổ chức tại trường đua Mount Panorama ở Bathurst. Cũng vào năm này, Mount Panorama trở thành một trong những trường đua nổi tiếng nhất thế giới. Trong cuộc đua này, tay đua người Anh Peter Whitehead đã giành chiến thắng với chiếc xe voiturette hạng ERA B-Type. Vào năm 1939, giải đua ô tô Úc được tổ chức tại trường đua Lobethal gần thị trấn Lobethal ở Nam Úc trước khi Úc bị lôi kéo vào Thế chiến II. Thời kỳ hậu chiến (1945-1985) Trong thời kỳ hậu chiến, các cuộc đua được tổ chức rất thưa thớt với các tay đua sử dụng những chiếc xe thời kỳ tiền chiến với nguồn cung cấp được tập hợp lại với nhau xung quanh việc phân phối nhiên liệu và lốp xe. Vào năm 1947, Mount Panorama đã tổ chức cuộc đua đầu tiên vào thời kỳ hậu chiến vào năm 1947 và sau đó, địa điểm tổ chức sự kiện này luân phiên giữa các bang của Úc dưới sự thúc đẩy của Hiệp hội Ô tô Úc cho đến năm 1984. Chặng đua Công thức 1 chính thức (1985-nay) Trường đua đường phố Adelaide (1985-1995) Vào năm 1985, giải đua ô tô Công thức 1 Úc đã trở thành một chặng đua của giải đua xe Công thức 1 1985 và cũng là một chặng đua Công thức 1 chính thức. Thêm vào đó, chặng đua này được tổ chức với tư cách là chặng đua cuối cùng của mùa giải được tổ chức tại trường đua đường phố Adelaide. Trong suốt giai đoạn này, giải đua ô tô Công thức 1 Úc ít khi xảy ra những cuộc đua liên quan đến những khoảnh khắc trong cuộc tranh giành chức vô địch. Tại chặng đua vào ngày 26 tháng 10 năm 1986, Alain Prost đã vượt qua Nigel Mansell trong bảng xếp hạng các tay đua sau khi giành chiến thắng và đồng thời, Prost đã giành được chức vô địch lần thứ hai trong sự nghiệp Công thức 1 của ông. Tại chặng đua vào ngày 13 tháng 11 năm 1988, Ayrton Senna đã có thể bảo đảm vị trí dẫn đầu của mình trước Prost mặc dù Senna không giành chiến thắng cuộc đua và do đó, Senna lần đầu tiên giành chức vô địch đầu tiên trong sự nghiệp Công thức 1 của mình. Trong giai đoạn này, giải đua ô tô Công thức 1 Úc 1991 là cuộc đua ngắn nhất trong lịch sử Công thức 1 vì cuộc đua chính chỉ diễn ra trong vòng 24 phút 34,899 giây với tổng cộng 14 vòng đua (tương đuơng với 52,920 km theo chiều dài đường đua là 3,780 km/vòng) do thời tiết giông tố. 20 năm sau đó, kỷ lục này được phá sau khi chặng đua GP Bỉ 2021 diễn ra với điều kiện thời tiết tuơng tự. Tại chặng đua nổi tiếng vào ngày 13 tháng 11 năm 1994, Michael Schumacher và Damon Hill, hai tay đua tranh giành chức vô địch trong giải đua xe Công thức 1 1994 chỉ cách nhau trong bảng xếp hạng các tay đua một điểm, đã va chạm với nhau và phải bỏ cuộc ngay lập tức. Mặc dù phải bỏ cuộc do va chạm với Damon Hill, Schumacher đã giành chức vô địch Công thức 1 đầu tiên của mình. Tại chặng đua cuối cùng ở Adelaide vào ngày 10 tháng 11 năm 1995, Mika Häkkinen đã bị thương nặng khi xe của ông đâm vào hàng rào giới hạn đường đua với tốc độ khoảng 190 km/h do nổ lốp. Sau vụ tai nạn này, Häkkinen bị chấn thương đe dọa đến tính mạng.
Bùi Thị Xuân (; 1752 – 1802) là một trong Tây Sơn ngũ phụng thư, là chính thất của Thái phó Trần Quang Diệu và là một Đô đốc của vương triều Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Thân thế và sự nghiệp Bùi Thị Xuân là con của Bùi Đắc Chí, gọi Bùi Đắc Tuyên bằng chú, người thôn Xuân Hòa, một thôn nằm về phía đông Phú Phong (nay thuộc thôn Phú Xuân, xã Bình Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Sinh trưởng trong một gia đình khá giả, Bùi Thị Xuân sớm được học văn và học võ. Tương truyền bà vừa có sức mạnh vừa có sắc đẹp, nữ công khéo, chữ viết đẹp, nhưng thích làm con trai, thích múa kiếm đi quyền, lại. Nghe kể chuyện bà Trưng bà Triệu cỡi voi đánh giặc, Bùi Thị Xuân náo nức muốn được theo gương bà Triệu bà Trưng, luyện đánh voi ra trận. Còn những chuyện Tô Tiểu Muội cùng chồng xướng họa, chuyện bà Mạnh Quang cử án tề mi thì Bùi Thị Xuân cho là nhảm nhí. Lúc nhỏ đi học thường mặc áo con trai. Lớn lên tự chế kiểu áo các nữ hiệp vẽ trong sách mà mặc. Năm 12 tuổi, Bùi Thị Xuân đến trường học chữ. Bị đùa cợt, Bùi Thị Xuân cả thẹn, vung quyền đánh vào mặt hai người sanh sự rồi trở về nhà. Từ ấy bỏ học chữ, ở nhà chuyên học võ. Từ khi bỏ học văn thì đêm đêm có một lão bà đến dạy. Dạy từ đầu hôm đến gà gáy lần thứ nhất thì bà lão lui gót. Không ai hiểu lai lịch ra sao. Suốt ba năm trời, trừ những khi mưa gió, đêm nào bà lão cũng đến cũng đi đúng giờ giấc. Dạy quyền, dạy song kiếm. Rồi dạy cách nhảy cao nhảy xa. Nhảy cao thì cột hai bao cát nơi chân mà nhảy, ban đầu bao nhỏ rồi đổi bao to dần, cuối cùng mới nhảy chân không. Còn nhảy xa thì ban đầu dùng sào, sau dùng tre tươi ngoài bụi, níu đọt uốn cong xuống thấp rồi nương theo sức bung của cây mà nhảy. Đêm học ngày tập, đến 15 tuổi thì tài nghệ đã điêu luyện. Theo cụ Bùi Sơn Nhi ở Xuân Hòa thì đó là bà cao tổ của ông Hương mục Ngạc, một võ sư trứ danh ở An Vinh thời Pháp thuộc. Sau khi luyện tập võ nghệ thuần thục, Bùi Thị Xuân bèn rủ một số chị em khác trong vùng đến nhà mình luyện quyền múa kiếm. Đệ tử của bà ban đầu còn ít, dần dần lên đến vài chục người. Tài nghệ đã tinh mà cách đối xử, cách dạy dỗ lại đứng đắn nên Bùi Thị Xuân được chị em kính yêu, quý trọng. Trong số đệ tử xuất sắc có bà Bùi Thị Nhạn. Năm 1771, Bùi Thị Xuân lúc 20 tuổi đã dùng kiếm để giải nguy cho Trần Quang Diệu khi vị tráng sĩ này bị một con hổ dữ tấn công. Và cũng từ lần gặp này mà hai người trở thành vợ chồng khi ông Diệu đến ở nhà người con gái Xuân Hòa để trị thương, rồi cùng nhau về tòng quân dưới ngọn cờ Tây Sơn ở chiến khu Phú Lạc. Hết lòng vì nhà Tây Sơn Năm Tân Mão, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 32, Định Vương Nguyễn Phúc Thuần thứ 6, tức năm 1771, Nguyễn Nhạc được các người cùng hợp tác và các nhân sĩ đồng bào địa phương tôn làm Tây Sơn Vương. Lấy danh nghĩa chống lại Quốc phó Trương Phúc Loan, ủng hộ Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương là cháu đích tôn của Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát. Nguyễn Nhạc tổ chức lại cơ sở: Quân sự giao cho Nguyễn Huệ, Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng, Võ Đình Tú. Kinh tế tài chánh giao cho Nguyễn Thung, Bùi Thị Xuân và Nguyễn Lữ. Dân sự (hành chánh, ngoại giao, tuyên truyền...) giao cho Võ Xuân Hoài và Trương Mỹ Ngọc. Với tài nghệ (ngoài tài kiếm thuật, bà còn giỏi bắn cung, cưỡi ngựa và luyện voi) cộng với lòng dũng cảm, Bùi Thị Xuân cùng chồng nhanh chóng trở thành những tướng lĩnh trụ cột, góp công lớn trong công cuộc dựng nghiệp của nhà Tây Sơn ngay từ buổi đầu. Tháng 7 năm 1775, Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ đánh Phú Yên. Nguyễn Huệ liền giao Tây Sơn cho Bùi Thị Xuân và Võ Đình Tú quản đốc, đem quân đánh Phú Yên. Quân Nguyễn tan vỡ, Tống Phúc Hiệp phải rút về Hòn Khói. Bùi Công Kế ở Bình Khang và Tống Văn Khôi từ Khánh Hòa đem quân ra chiếm lại Phú Yên đều thất bại, Kế bị bắt sống còn Khôi tử trận. Tháng 11 năm 1775, Tôn Thất Quyền và Tôn Thất Xuân dấy binh chiếm lại phủ Thăng Bình và phủ Điện Bàn, Quảng Nam. Bùi Thị Xuân và Võ Đình Tú tiến cử Đặng Xuân Phong. Nguyễn Nhạc liền sai Đặng Xuân Phong đi đánh dẹp. Không phải dùng nhiều công sức, Đặng Xuân Phong mới xáp chiến trận đầu là lấy ngay được Thăng Bình rồi Điện Bàn. Tôn Thất Quyền và Tôn Thất Xuân đều tử trận. Năm 1785, Bùi Thị Xuân cùng chồng ở trận Rạch Gầm-Xoài Mút đánh tan 2 vạn quân Xiêm La, cũng đã lập đại công. Vợ chồng ông điều khiển bộ binh, tướng Võ Văn Dũng cùng Nguyễn Huệ chỉ huy thủy quân. Bùi Thị Xuân đã chém bay đầu tướng Xiêm là Lục Côn. Theo tài liệu, trong trận đại phá quân Mãn Thanh vào đầu xuân Kỷ Dậu (1789), bà chỉ huy đội tượng binh của đạo Trung quân do vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) chỉ huy. Trong những năm tiếp theo, bà cùng chồng cầm quân đi đánh dẹp các phe chống đối vương triều mới (nhà Tây Sơn), trong số đó có lực lượng của hoàng thân nhà Lê là Lê Duy Chỉ cấu kết với Tù trưởng Bảo Lạc (Hà Tuyên)... Giữa lúc nhà Tây Sơn đang từng bước ổn định tình hình trong nước, ngày 29 tháng 7 năm 1792, vua Quang Trung đột ngột qua đời. Kể từ đấy, vương triều này bắt đầu suy yếu do vua Cảnh Thịnh (Nguyễn Quang Toản) còn nhỏ, lại bị người cậu ruột là Thái sư Bùi Đắc Tuyên chuyên quyền. Thời gian này, Bùi Thị Xuân được cử vào trấn thủ Quảng Nam, còn chồng bà (Trần Quang Diệu) thì được cử vào Diên Khánh chống ngăn quân Nguyễn. Đến khi nghe tin cha con Bùi Đắc Tuyên bị tướng Võ Văn Dũng bắt giết, Trần Quang Diệu cả sợ, phải kéo quân về kinh đô đóng ở bờ Nam sông An Cựu, thì bà cũng nhận được lệnh hồi triều. Nghe mật thám báo tin nội bộ nhà Tây Sơn đang lục đục, chúa Nguyễn Phúc Ánh liền tổ chức ngay những cuộc tấn công. Nhưng quân Nguyễn vừa tiến vào thành Quảng Nam thì bị đánh một trận tơi bời. Tức tối vì thua mưu trí đàn bà, chúa Nguyễn thề sẽ sớm rửa mối nhục. Thấy Chúa Nguyễn rút lui hết, đến lúc ấy, Bùi Thị Xuân mới kéo quân về Phú Xuân để cùng chồng dàn xếp việc triều chính... Mùa xuân năm 1802, vua Cảnh Thịnh sai em là Nguyễn Quang Thùy vào trấn giữ Nghệ An, còn tự mình cầm quân đi đánh chiếm lại Phú Xuân. Trong chiến dịch này, Bùi Thị Xuân được lệnh đem 5.000 quân đi hộ giá. Thấy thế trận ngày càng bất lợi, Bùi Thị Xuân cưỡi voi liều chết đánh riết vào lũy Trấn Ninh, nơi Nguyễn Phúc Ánh đang cố thủ, từ sáng đến chiều, máu và mồ hôi ướt đẫm áo giáp. Rồi bà còn giành lấy dùi tự tay thúc trống liên hồi. Lúc bấy giờ chúa Nguyễn cùng tướng tá đã hốt hoảng vội chia quân vượt sông Linh Giang đánh bọc hậu hòng mở đường máu thoát thân. Nào ngờ vua Cảnh Thịnh thấy quân Nguyễn tràn qua nhiều, tưởng nguy khốn liền cho lui binh. Bùi Thị Xuân bèn nắm áo ngự bào của nhà vua để khuyên cố đánh. Nhưng khi nghe tin tướng Nguyễn Văn Trương phá tan thủy binh Tây Sơn ở cửa biển Nhật Lệ (Quảng Bình), cướp được hầu hết tàu thuyền và tướng giữ cửa Nguyễn Văn Kiên cũng đã đầu hàng thì đội quân của bà hốt hoảng bỏ cả vũ khí, đạn dược để tháo chạy... Đây có thể nói là trận chiến đấu oanh liệt cuối cùng của bà để hòng cứu vãn tình thế. Nhưng ngờ đâu nhà Tây Sơn sau trận này thêm trượt dài trên đà suy vong, không sao gượng lại được nữa... Bị voi giày Được tin đại quân Tây Sơn thua to ở Trấn Ninh, Tư đồ Vũ Văn Dũng và chồng Bùi Thị Xuân là Thái phó Trần Quang Diệu, dù biết không thể giữ được Quy Nhơn nhưng vẫn gắng gượng đến tháng 3 cùng năm trên mới rời bỏ thành, đem binh tượng đi đường thượng đạo qua Ai Lao ra Nghệ An, ý là để hội quân với vua Cảnh Thịnh cùng lo chống giữ. Sử gia C. B. Mabon kể: Trần Quang Diệu cùng vợ và con gái, dẫn theo một số tàn quân chạy ra Bắc bằng đường thượng đạo Ai Lao. Đến châu Quy Hợp, Diệu xuống Hương Sơn thì biết tin Nghệ An đã mất. Quân sĩ của Diệu bỏ cả rồi, mấy hôm sau vợ chồng Quang Diệu đều bị bắt cả... Vua Cảnh Thịnh cùng hai em và vài tướng tá vượt qua sông Nhị Hà, tính trốn lên vùng Thượng du cũng bị dân chúng bắt và đóng cũi nộp cho quân Nguyễn... Trước khi trích dẫn tài liệu của một giáo sĩ phương Tây tên là De La Bissachère (nghe kể lại buổi hành hình) được viết năm 1807, mô tả lại cái chết của mẹ con bà Bùi Thị Xuân, sử gia Phạm Văn Sơn đã có lời giới thiệu như sau: Mẹ con bà Bùi Thị Xuân, người ta (ý nói đến vua Gia Long) cũng rất căm thù, nên cũng dùng hình phạt dã man nhất. Nguyên nhân là bà đã điều khiển binh sĩ đánh vào lũy Trấn Ninh hết sức kịch liệt, đã làm cho chúa Nguyễn và các tướng sĩ có phút phải thất thần, tưởng chừng nguy khốn đến nơi. Trích tài liệu của giáo sĩ De La Bissachère: Đứa con gái trẻ của bà (Bùi Thị Xuân), một thớt voi từ từ tiến đến. Cô gái biến sắc rồi mặt trắng bệch như tờ giấy. Nàng ngoảnh nhìn mẹ, kêu thất thanh. Bà Xuân nghiêm mặt trách: Con phải chết anh dũng để xứng đáng là con của ta!... Đến lượt bà, nhờ lớp vải ở bên trong quấn kín thân thể, nên tránh khỏi sự lõa lồ. Và bà rất bình thản bước lại trước đầu voi hét một tiếng thật lớn khiến voi giật mình lùi lại. Bọn lính phải vội vàng bắn hỏa pháo, đâm cây nhọn sau mông con vật để nó trở nên hung tợn, chạy bổ tới, giơ vòi quấn lấy bà tung lên trời... Nhưng trái với lệ thường, nó không chà đạp phạm nhân như mọi bận mà bỏ chạy vòng quanh pháp trường, rống to lên những tiếng đầy sợ hãi khiến hàng vạn người xem hoảng hốt theo... Sau đó Nguyễn Ánh thấy không giết được Bùi Thị Xuân bèn cho lấy dây sắt quấn người bà vào cột rồi cho thiêu chết một cách dã man. Được ca ngợi Công luận bình phẩm, hầu hết đều khen ngợi oai danh và tiết tháo của Bùi Thị Xuân. Theo sử liệu, sở dĩ được vậy là vì trong cuộc đời bà có mấy sự việc đáng chú ý sau: Có tấm lòng thương dân Gặp năm mất mùa, nhiều phủ huyện ở trấn Quảng Nam sinh loạn, quan quân địa phương không kiềm chế nổi. Triều thần lập tức tiến cử Bùi Thị Xuân ra nơi đó làm Trấn thủ. Đến nơi, bà tự mình đi thị sát khắp các hạt, rồi cho mở kho phát chẩn. Thấy viên quan nào chiếm công vi tư, ăn của hối lộ... bà đều thẳng tay cách chức, chọn người tài đức lên thay. Ngoài ra, bà còn ra lệnh bãi bỏ các cuộc truy lùng những nhóm người nổi dậy, và mạnh dạn ra tuyên cáo rằng: Ai vác cày bừa, nông cụ thì được coi là dân lành... Vì thế nạn trộm cướp và chống đối ở Quảng Nam (nhất là ở huyện Quế Sơn) nhanh chóng chấm dứt, dân chúng lại được yên ổn làm ăn... Không vì tình riêng Thái sư Bùi Đắc Tuyên, người làng Xuân Hòa (huyện Tuy Viễn), là cậu của vua Cảnh Thịnh và là chú của Đô đốc Bùi Thị Xuân. Năm 1795, ông bị Võ Văn Dũng giết chết vì tội chuyên quyền. Bấy giờ có nhiều người nghi ngại Bùi Thị Xuân, vì bà là cháu ruột của Đắc Tuyên. Nhưng khác với những gì xầm xì, bà đã không hề thù oán người giết chú ruột mình, cũng như lợi dụng sự rối ren đó mà đi theo đối phương hay tìm nơi cát cứ... đổi [[ ]] Chữ đậm===Nỗ lực đến giây phút cuối cùng=== Đề cập đến tinh thần quyết chiến của Bùi Thị Xuân trong trận Trấn Ninh (1802), trong bài thơ dài Bùi phu nhân ca của danh sĩ Nguyễn Trọng Trì (1854-1922) có đoạn: Bại trận vẫn hiên ngang Ngoài thái độ hiên ngang khi bị hành hình, người ta còn truyền rằng khi nghe Bùi Thị Xuân bị bắt, Nguyễn Ánh bèn sai người áp giải đến trước mặt rồi hỏi với giọng đắc chí: Ta và Nguyễn Huệ ai hơn? Bà trả lời: Chúa công ta, tay kiếm tay cờ mà làm nên sự nghiệp. Trong khi nhà người đi cầu viện ngoại bang, hết Xiêm đến Tây làm tan nát cả sơn hà, cùng đều bị chúa công ta đánh cho không còn manh giáp. Đem so với chúa công ta, nhà ngươi chẳng qua là ao trời nước vũng. Còn nói về đức độ, thì Tiên đế ta lấy nhân nghĩa mà đối xử với kẻ trung thần thất thế, như đã đối với Nguyễn Huỳnh Đức, tôi nhà ngươi. Còn ngươi lại dùng tâm của kẻ tiểu nhân mà đối với bậc nghĩa liệt, đã hết lòng vì chúa, chẳng nghĩ rằng ai có chúa nấy, ái tích kẻ tôi trung của người là khuyến khích tôi mình trung với mình. Chỗ hơn kém rõ ràng như ban ngày và đêm tối. Nếu Tiên đế ta đừng thừa long quá sớm, thì dễ gì nhà ngươi trở lại đất nước này. Nguyễn Ánh gằn giọng: Người có tài sao không giữ nổi ngai vàng cho Cảnh Thịnh? Bà đáp: Nếu có một nữ tướng như ta nữa thì cửa Nhật Lệ không để lạnh. Nhà ngươi khó mà đặt chân được tới đất Bắc Hà... Các công trình gắn liền với tên tuổi của Bùi Thị Xuân Tên bà được đặt cho nhiều đường phố trên cả nước, đặc biệt, tên bà còn được đặt cho con đường đi qua THPT cùng tên ở Đà Lạt – nơi đào tạo ra những học sinh tài năng. Không những vậy, tên bà còn được đặt cho một ngôi trường THPT nổi tiếng ở Thành phố Hồ Chí Minh, học sinh của ngôi trường này vinh dự được học tập dưới mái trường mang tên của vị nữ tướng anh hùng Bùi Thị Xuân nguyện cố gắng tiếp nối truyền thống tốt đẹp ấy mà ra sức phấn đấu học tập hết mình, xây dựng đất nước ngày càng phát triển và vững mạnh hơn.
Chi Cá cháy (danh pháp khoa học: Tenualosa) là một chi thuộc phân họ Alosinae của họ Cá trích (Clupeidae). Phân loại Theo Fish Base thì chi Tenualosa có 5 loài. Tenualosa ilisha Hamilton, 1822: Cá cháy Hilsa. Ven biển từ Ấn Độ tới Myanma. Tenualosa macrura Bleeker, 1852: Cá cháy đuôi dài. Sinh sống tại trung tây Thái Bình Dương (Indonesia, Malaysia, miền nam Thái Lan) Tenualosa reevesii Richardson, 1846: Cá cháy thường. Sinh sống tại tây bắc Thái Bình Dương, chủ yếu trong khu vực biển Đông Trung Hoa. Tenualosa thibaudeaui Durand, 1940: Cá cháy nam hay cá cháy Lào. Sinh sống trong hệ thống sông Mê Kông. Tenualosa toli Valenciennes, 1847: Cá cháy bẹ hay cá cháy Toli. Sinh sống trong khu vực Ấn Độ Dương và Tây Thái Bình Dương trong môi trường nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Trong danh sách tiếng Việt có 2 loài cá cháy là cá cháy nam và cá cháy bẹ. Cá cháy nam (T. thibaudeaui): có thể dài 30 cm và có thể đạt trọng lượng 1 kg. Cá cháy bẹ (T. toli): có thể dài 60 cm, không có tài liệu ghi về trọng lượng tối đa cho loài cá này, nhưng với chiều dài gấp đôi cá cháy nam, loài này có thể đạt trọng lượng tối đa độ là 3 kg. Tenualosa ilisha: Trong một danh sách tiếng Đức có nói tới một loài thứ ba cùng chi, ở vịnh Bắc Bộ. Loài này có thể đạt chiều dài 60 cm và trọng lượng đạt được 2,49 kg. Nhầm lẫn Theo Từ điển Tiếng Việt do Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội xuất bản năm 1977 thì cá cháy là các loài cá nước ngọt, cùng loài với cá chép, buồng trứng rất lớn. Tuy nhiên định nghĩa này có điểm sai khi cho cá cháy cùng loài với cá chép. Theo phân loại khoa học thì cá cháy chẳng những không cùng loài, mà khác cả chi lẫn họ với cá chép. Đặc trưng Đặc điểm của cá cháy là có trứng to và buồng trứng to, nên cũng dùng sản xuất một loại "caviar cá cháy". Cá cháy nam có bộ phận lọc trong mồm, thích ứng để ăn những vật vi thể như vi khuẩn và rêu. Nhận dạng Cá cháy thân dẹp, có một kỳ (vây) lưng, hai kỳ (vây) mang và 3 kỳ (vây) bụng, đuôi hình chữ V. Cá cháy nam có sọc đen trên lưng xanh xám; cá cháy bẹ màu trắng tới vàng đất, không sọc còn loài Tenualosa ilisha ở vịnh Bắc Bộ màu trắng không sọc. Trong nhận dạng của nhân dân, cá cháy có thân hình giống cá lẹp, nhưng lưng tròn và dày hơn, vảy to óng ánh. Con lớn có thể đến 3 kg, thông thường là 1 kg, chiều dài cá khoảng 4-5 tấc. Môi trường sinh sống Tất cả các loài trong chi cá cháy đều phổ biến trong vùng có khí hậu gió mùa của châu Á; tất cả có chu kỳ sống: đẻ trứng trong vùng nước ngọt, cá con sống trong vùng nước lợ và cá lớn sống ven biển. Cá lớn quay về sông ngòi để sinh đẻ, ngoại trừ cá cháy nam. Cá cháy nam: theo các nhà khảo cứu, chỉ sống trong lưu vực sông Cửu Long, nhưng vẫn có thể có một thời kỳ sống ở ngoài các cửa sông của Cửu Long, biểu hiện bằng sự tụ họp của chúng vào đầu mùa gió nồm ở các cửa sông. Đầu mùa gió chướng là thời điểm cá cháy nam di chuyển về nơi sinh đẻ, và nơi sinh đẻ là vùng phía thượng nguồn của thác Khône ở Hạ Lào, tức thuộc lãnh thổ Lào và Thái Lan. Cá cháy bẹ: sinh sống khắp ven biển Ấn Độ Dương sang tận Mã Lai, một phần bờ biển Nam Dương. Trong lãnh thổ Việt Nam, cá cháy bẹ hiện diện nhưng số lượng không đáng kể. Một số thông tin khác Cá cháy nam thuộc vào danh sách đỏ từ năm 1996. Cá này di chuyển vào đầu mùa gió chướng (từ cuối tháng giêng đến cuối tháng hai dương lịch), ngược dòng sông Cửu Long sang bên kia (thượng nguồn) của thác Khône để sinh đẻ. Sau đó, cá con sẽ theo dòng nước vượt thác Khône về hạ lưu sông Cửu Long và Biển Hồ vào mùa gió nồm (tháng 6-7 dương lịch). Năm 1984 là năm cuối cùng cá cháy nam di chuyển với tầm vóc quy mô về nơi sinh đẻ, về sau hầu như không có sự di chuyển đáng chú ý của cá cháy nam nữa. Các nhà nghiên cứu hiện chưa lý giải được lý do nào đưa đến sự suy tàn của cá cháy nam trong vòng 2 thập niên. Có thể là một sự kết hợp của nhiều nguyên nhân: xây đê đập khiến cá không còn nơi sinh đẻ; gia tăng sử dụng phân bón trong nông nghiệp khiến cá mất khả năng sinh đẻ; sự săn bắt quá mức cung ứng của thiên nhiên, dù rằng kỹ thuật bắt cá quy mô bằng bẫy, lọp đã bị chính phủ cũ của Lào cấm từ năm 1968; sự giới hạn môi trường sống trong vùng hạ lưu sông Cửu Long kể từ thác Khône, do việc xây đê đập để bành trướng canh nông ở Cam pu chia và Việt Nam. Niên vụ Theo số liệu của FAO, mức sản xuất cá cháy bẹ năm 2004 là 5.000 tấn, còn rất khiêm nhường nhưng trong đà tiến mạnh, không thấy báo cáo niên vụ của cá cháy nam. Ẩm thực Cá cháy nhiều xương nhưng thịt rất ngọt. Cá cái có cặp trứng to chật cả khoang bụng và trứng cá ăn rất béo, bổ, tuy vậy ăn nhiều có thể bị tháo dạ. Trứng thường dầm nước mắm khi ăn. Chế biến cá cháy đơn giản có vài cách: có thể nấu mẳn với nước dùng và các loại rau thơm; có thể nấu canh chua với các loại rau thơm như bạc hà, đậu bắp, giá, bông điên điển. Ngoài ra còn có cách rim nguyên con, nguyên vảy, bên dưới đáy nồi lót một lớp mía chẻ. Cá chín mềm thịt xương nhưng đặc biệt là không bị bã mà vẫn có độ dai nhất định. Ngoài các cách nấu canh chua và kho cá nói trên, cá cháy còn có thể dùng để nấu cháo. Tuy ẩm thực Nam Bộ Việt Nam đặc trưng với một số loại cháo nấu có sử dụng nước cốt dừa, cháo cá cháy lại là ngoại lệ vì vốn cá đã rất béo. Cháo nấu nhừ, cho cá cháy nguyên con đã đánh sạch vảy vào nồi và đun sôi lại cho đến khi cá chín, gắp ra gỡ thịt, bỏ xương. Cháo cá cháy thường ăn với rau tần ô, rau đắng đất, xà lách, chút lá gừng non xắt nhuyễn. Một điểm nữa cũng được người nội trợ chú ý, cá cháy vốn rất ngọt nên các món cá cháy thường không dùng mì chính. Chú thích
David Hume (; phiên âm tiếng Việt: Đavít Hium; 7 tháng 5 năm 1711 – 25 tháng 8 năm 1776), tên khai sinh là David Home, là một nhà triết học, kinh tế học và sử học người Scotland. Ông được coi là một trong những nhân vật quan trọng nhất trong thời kỳ Khai sáng Scotland. Các sử gia thường xem triết học Hume như là một dạng thức triệt để của chủ nghĩa hoài nghi, nhưng nhiều người khác đã lý luận rằng trong triết học Hume, thành phần chủ nghĩa tự nhiên cũng không kém phần quan trọng. Hume chịu ảnh hưởng lớn bởi các nhà kinh nghiệm chủ nghĩa John Locke và George Berkeley, cùng với nhiều tác giả tiếng Pháp như Pierre Bayle, và nhiều tác giả tiếng Anh như Isaac Newton, Samuel Clarke, Francis Hutcheson, và Joseph Butler. Ông có ảnh hưởng lớn tới các triết gia và nhà khoa học khác như Adam Smith, Adam Ferguson, Kant, Bentham, James Madison, Alexander Hamilton, Auguste Comte, William James, Darwin, Russell, T. H. Huxley, J. S. Mill, Einstein, Ayer, J. L. Mackie. Tiểu sử Hume sinh ngày 26 tháng 4 theo lịch Julius, tức 7 tháng 5 năm 1711 theo lịch Gregory, tại Edinburgh. Trong suốt cuộc đời, thỉnh thoảng ông sống ở ngôi nhà gia đình tại Ninewells, Chirnside, Berwickshire. Ông được gia đình gửi vào Đại học Edinburgh khi mới 12 tuổi. Ban đầu, ông định theo nghề luật, nhưng rồi ông cảm thấy "một ác cảm không thể vượt qua đối với tất cả mọi thứ trừ việc theo đuổi triết học và sự Học nói chung". Năm 1729, khi được 18 tuổi, ông đã có một phát kiến triết học mà nó đã mở ra cho ông "một màn mới của tư tưởng". Ông đã không thuật lại: đó là cái gì?, nhưng có vẻ như đó chính là thuyết nhân quả của ông - rằng niềm tin của ta vào nguyên nhân và kết quả phụ thuộc vào cảm tính, truyền thống và thói quen, chứ không phụ thuộc vào lý tính hay các quy luật tổng quát, phi thời gian và trừu tượng của thiên nhiên Năm 1734, sau vài tháng ở Bristol, ông rút về để tự nghiên cứu và một mình thực hiện các thí nghiệm tư duy tại La Fleche ở Anjou, Pháp. Trong bốn năm ở đó, ông đã đặt ra kế hoạch của cuộc đời mình. Cũng trong thời gian đó, ông hoàn thành cuốn "A Treatise of Human Nature" (Một luận thuyết về bản chất con người) vào tuổi 26. Mặc dù ngày nay, nhiều học giả coi Luận thuyết là tác phẩm quan trọng nhất của Hume và là một trong các cuốn sách quan trọng nhất trong lịch sử triết học, ban đầu, công chúng ở Anh quốc không cho là như vậy. Sau khi Luận thuyết không được công chúng đón nhận, Hume viết An Abstract Of A book lately published; Entituled, A Treatise Of human nature, - Wherein The chief argument of that Book is farther illustrated and Explained với mục đích làm cho tác phẩm của mình dễ đọc hơn. Tuy nhiên, Luận thuyết vẫn không được quan tâm. Sau khi xuất bản cuốn Essays Moral and Political (Các bài luận về đạo đức và chính trị) vào năm 1744, ông xin vị trí giáo sư môn luân lý học và tâm lý học tại Đại học Edinburgh nhưng bị từ chối. Trong cuộc nổi dậy Jacobite năm 1745, ông đã dạy Hầu tước Annandale. Đó là khi ông bắt đầu cuốn lịch sử đồ sộ của mình The History of Great Britain (Lịch sử Vương quốc Anh), cuốn sách được viết trong 15 năm và dài hơn một triệu từ, được xuất bản thành 6 tập trong thời kỳ từ 1754 đến 1762. Năm 1748 ông bắt đầu phục vụ 3 năm trong quân đội với vai trò thư ký của tướng St Clair và viết cuốn Philosophical Essays concerning Human Understanding (Các bài luận triết học về hiểu biết của con người), và sau được xuất bản với tên An Enquiry concerning Human Understanding (Một câu hỏi về hiểu biết của con người). Cuốn sách này cũng không thành công hơn Luận thuyết. Hume bị buộc tội dị giáo nhưng ông đã được tuyên bố trắng án. Nhưng có lẽ do sự chống đối của Thomas Reid xứ Aberdeen, người mà năm đó đã đưa ra phê phán mạnh mẽ của Cơ Đốc giáo đối với lý thuyết siêu hình học của Hume, ông đã không nhận được vị trí giáo sư triết học tại Đại học Glasgow. Năm 1752, ông được nhận vào làm quản lý thư viện của Khoa Luật. Đây chính là nguồn tài liệu cho ông tiếp tục các nghiên cứu của mình về lịch sử. Hume đạt được tiếng tăm lớn với danh nghĩa một nhà sử học và một người viết tiểu luận. Tác phẩm "Lịch sử Vương quốc Anh" (History of Great Britain) từ thời các vương quốc Saxon cho tới Cách mạng Anh 1688 đã là một trong các cuốn sách bán chạy nhất thời đó. Trong tác phẩm đó, Hume đã trình bày con người chính trị như là một sinh vật của thói quen, với một khuynh hướng yên lặng tuân theo chính phủ trừ khi gặp phải các tình huống không chắc chắn. Theo quan điểm của ông, chỉ có các khác biệt về tôn giáo mới có thể làm lệch hướng con người khỏi cuộc sống hàng ngày để nghĩ về các vấn đề chính trị. Bài luận thời kỳ đầu của Hume "Về mê tín và tôn giáo" (Of Superstition and Religion) đã đặt nền móng cho hầu hết các tư tưởng thế tục về lịch sử tôn giáo. Ở thời của Hume, phê phán về tôn giáo phải được biểu đạt một cách cẩn trọng. Chưa đầy 15 năm trước khi Hume sinh ra, Thomas Aikenhead, một sinh viên 18 tuổi, đã bị xử vì đã công khai nói rằng Cơ Đốc giáo là thứ vô nghĩa. Anh ta đã bị kết án treo cổ vì tội báng bổ. Hume cũng theo cách thông thường, ông biểu đạt kiến giải của mình một cách mơ hồ, thông qua các nhân vật trong các đoạn hội thoại. Hume đã không thừa nhận là tác giả của "Luận thuyết" cho đến tận năm ông qua đời, năm 1776. Các bài luận của ông với tựa đề "Về việc tự vẫn" (Of Suicide), và "Về sự bất tử của linh hồn" (Of the Immortality of the Soul) và "Đối thoại về tôn giáo tự nhiên" (Dialogues Concerning Natural Religion) đã bị giữ không được xuất bản cho đến sau khi ông qua đời (được xuất bản lần lượt vào các năm 1778 và 1779), và khi đó chúng vẫn không mang cả tên tác giả lẫn tên nhà xuất bản. Trong việc ngụy trang quan điểm của chính mình, Hume đã tài tình đến nỗi ngày nay vẫn đang tiếp diễn các cuộc tranh luận về thực chất Hume là người vô thần hay Thần giáo tự nhiên. Từ năm 1763 tới năm 1765, Hume là thư ký cho Huân tước Hertford tại Paris, nơi ông đã được Voltaire ngưỡng mộ và các quý bà trọng vọng. Ông đã kết bạn và sau đó bất hòa với Rousseau. Năm 1768, ông định cư tại Edinburgh. Sự quan tâm đến các tác phẩm triết học của Hume lên cao sau khi triết gia người Đức, Immanuel Kant, ghi nhận Hume đã đánh thức ông ra khỏi "giấc ngủ giáo điều" (khoảng năm 1770), và từ đó Hume đạt được sự thừa nhận của công chúng. James Boswell đã đến thăm Hume một vài tuần trước khi ông qua đời. Hume nói với ông ta rằng ông thành thực tin rằng khả năng có cuộc sống sau cái chết là một "sự tưởng tượng vô lý nhất". Hume viết văn bia của chính mình: "Sinh năm 1711, Chết [----]. Phần còn lại để cho hậu thế viết thêm." Câu đó đã được khắc thêm năm mất của ông, 1776, lên một "ngôi mộ Roman đơn giản" mà ông đã yêu cầu. Ngôi mộ đứng trên sườn phía đông đồi Calton, nhìn về phía ngôi nhà của ông ở số 1 phố St David, New Town, Edinburgh, như ông đã mong muốn. Di sản Dưới đây là tóm tắt về một số trong số các công trình triết học có ảnh hưởng lớn nhất của ông: Ý niệm và ấn tượng Hume tin rằng tất cả kiến thức của con người đều đến với chúng ta qua các giác quan. Các nhận thức của chúng ta, theo như cách gọi của ông, có thể được chia thành hai loại: các ý niệm và các ấn tượng. Ông định nghĩa các thuật ngữ này trong tác phẩm An Enquiry Concerning Human Understanding (Một câu hỏi về sự hiểu biết của con người) như sau: "Với thuật ngữ ấn tượng, tôi muốn nói đến tất cả các nhận thức sống động hơn của chúng ta, khi ta nghe thấy, nhìn thấy, hoặc cảm thấy, hoặc yêu, hoặc ghét, hoặc ước, hoặc muốn. Và ấn tượng phân biệt với ý niệm; các ý niệm là những nhận thức ít sống động hơn, ta nhận ra chúng khi ta suy ngẫm về một trong các cảm giác hoặc các hoạt động kể trên." Ông miêu tả rõ hơn về các ý niệm: "... tất cả các ý niệm của ta chỉ là các bản sao của các ấn tượng của ta. Nói cách khác, ta không thể nghĩ về bất cứ cái gì mà ta chưa hề cảm nhận được từ trước đó, hoặc bằng các giác quan bên ngoài hoặc bằng các giác quan nội tại." Điều này tạo thành một khía cạnh quan trọng của chủ nghĩa hoài nghi của Hume, vì ông nói rằng ta không thể chắc chắn rằng một thứ gì tồn tại, chẳng hạn Thượng đế, một linh hồn, hoặc một bản ngã, trừ khi ta có thể chỉ ra ấn tượng mà ý niệm về sự vật đó đã được rút ra từ đó. Luận đề về nhân quả Khi một sự kiện xảy ra tiếp sau một sự kiện khác, hầu hết mọi người cho rằng một mối quan hệ giữa hai sự kiện "làm cho" sự kiện thứ hai theo sau sự kiện thứ nhất (post hoc ergo propter hoc). Hume thách thức niềm tin này lần đầu trong tác phẩm đầu tay của ông Treatise of Human Nature (Luận thuyết về bản chất con người), và sau đó là trong tác phẩm Enquiry Concerning Human Understanding. Ông ghi nhận rằng, mặc dù ta chứng kiến một sự kiện xảy ra tiếp sau sự kiện kia, ta không chứng kiến bất cứ một quan hệ cần nào giữa hai sự kiện. Hume lấy ví dụ về hai quả bi-a: quả bóng đen lăn tới đập vào quả bóng trắng, và quả bóng trắng bắt đầu lăn. Ông nói rằng, thực chất, ta chỉ chứng kiến các sự kiện bóng lăn mà không chứng kiến rằng quả bóng trắng lăn là vì bị quả bóng đen đập phải, (tuy nhiên, ta lại có kỳ vọng rằng quả bóng trắng sẽ lăn sau khi bị quả bóng đen đập phải). Và theo nhận thức luận hoài nghi của ông, ta chỉ có thể tin vào các tri thức mà ta thu được từ các nhận thức của mình. Do đó, quan hệ nhân quả kia không nằm trong bản chất của sự vật mà chỉ nằm trong tâm thức của ta. Hume thiết lập rằng ý niệm của con người về nhân quả chẳng qua chỉ là sự trông đợi rằng một số sự kiện nhất định nào đó sẽ xảy ra sau các sự kiện khác đã đến trước. Một quan niệm như vậy tước bỏ tất cả động lực của thuyết nhân quả, và sau này một số người theo trường phái Hume như Bertrand Russell đã loại bỏ hoàn toàn khái niệm nhân quả như thể một cái gì đó tương tự mê tín dị đoan. Nhưng quan niệm đó thách thức kinh nghiệm thông thường (common sense), từ đó sinh ra vấn đề về nhân quả; cái gì biện minh cho niềm tin của ta vào một quan hệ nhân quả, và ta có thể có được tri thức về loại quan hệ nào? – một vấn đề không có một lời giải được chấp nhận. Hume khẳng định rằng con người (và các động vật khác) có một niềm tin bản năng vào luật nhân quả dựa trên sự phát triển của các thói quen trong hệ thần kinh, một niềm tin mà ta không thể xóa bỏ, nhưng cũng không thể chứng minh bằng bất cứ luận cứ nào, diễn dịch hay quy nạp. Đó cũng là trường hợp của niềm tin của chúng ta vào thực tại của thế giới bên ngoài. Luận đề về quy nạp Hume là người đầu tiên xây dựng luận đề về quy nạp(cùng với diễn dịch là một phương pháp suy luận quan trọng logic học) là dựa trên căn cứ nào mà ta có kết luận từ suy luận quy nạp. Câu trả lời là dựa trên thực tế quan sát thấy tức là sử dụng cách suy luận quy nạp. Và nói như vậy là lý luận vòng quanh. Một ví dụ đơn giản về phương pháp quy nạp là hầu hết mọi người đều chắc chắn rằng mỗi khi thả một hòn đá thì hòn đá sẽ rơi. Nhưng thực tế là người ta chỉ được chứng kiến hòn đá đã rơi nhiều lần, chứ chưa hề chứng kiến rằng hòn đá sẽ rơi, hay luôn luôn rơi. Có thể giải thích rằng hòn đá rơi là do định luật hấp dẫn. Nhưng chúng ta chưa hề trải nghiệm định luật đó, ta mới chỉ chứng kiến các vật rơi. Cố gắng giải thích bằng một luận cứ viện dẫn đến một "nguyên lý đồng nhất" rằng quá khứ và tương lai tương tự nhau chắc chắn thất bại: Một nguyên lý như vậy có thể đã được thiết lập chỉ từ kinh nghiệm, trong khi kinh nghiệm lại chỉ được chứng minh là đúng trong quá khứ. Như đã giải thích ở trên, vì đã nhiều lần chứng kiến hòn đá rơi, nên chính thói quen đã làm cho ta trông đợi rằng hòn đá sẽ lại rơi khi được thả. Rõ ràng, ta không có cách nào khác là phải dựa vào các kỳ vọng đó, nghĩa là phải học bằng kinh nghiệm. Từ quan điểm thực tiễn, việc đó được đánh giá là hoàn toàn hữu ích. Tuy nhiên, nhìn từ phía lý tính, nó vẫn là một việc làm không hợp lý. Vấn đề về bản ngã Tuy nhiên, Hume phủ nhận sự phân biệt giữa các đặc điểm đa dạng của một con người và cái bản ngã kỳ bí được cho là chứa đựng các đặc điểm đó. Hume chỉ ra rằng, khi xem xét nội tâm, ta nhận thấy một bó các suy nghĩ, cảm xúc, tri giác và những thứ tương tự, nhưng ta không bao giờ thấy một cái gì mà có thể gọi là "bản ngã". Nhận thức về bản ngã trong thực tế là một chuỗi dài những ấn tượng đơn mà ta không bao giờ trải nghiệm trong cùng thời điểm. Tâm thức là "một kiểu nhà hát, nơi một vài tri giác nối tiếp nhau xuất hiện: qua, lại, lướt đi, và hòa vào trong vô số các tư thế và tình thế". Theo cách nhìn của Hume, các tri giác này không "thuộc" về bất cứ cái gì, không có một cái gì liên quan đến bản ngã trong đó. Thay vào đó, Hume so sánh linh hồn với một khối thịnh vượng chung, cái gìn giữ định danh của mình không phải bằng một chất cốt lõi bền lâu mà bằng cách được hợp thành từ nhiều thành phần khác nhau, có quan hệ với nhau và liên tục biến đổi. Khi đó, câu hỏi về đặc tính cá nhân trở thành vấn đề miêu tả đặc điểm của khối kết dính lỏng lẻo các trải nghiệm của một người. Phân tích của Hume về tâm thức con người và sự phủ nhận bản ngã bất biến cũng tương đồng với tư tưởng của Phật giáo đã được đưa ra 2500 năm trước thời của ông. Lý tính thực tiễn: thuyết công cụ và thuyết hư vô Hầu hết chúng ta thấy một số hành vi hợp lý hơn các hành vi khác. Ví dụ, việc ăn giấy nhôm có vẻ có cái gì đó không hợp lý. Nhưng Hume phủ nhận lý tính có bất cứ vai trò quan trọng nào trong việc thúc đẩy hoặc không khuyến khích hành vi. Dù sao thì lý tính cũng chỉ là một dạng máy tính dành cho các khái niệm và kinh nghiệm. Hume cho rằng, điều có ý nghĩa tối cao là chúng ta cảm thấy như thế nào về hành vi đó. Nghiên cứu của ông liên quan đến thuyết công cụ (instrumentalism). Học thuyết này nói rằng một hành động được gọi là hợp lý khi và chỉ khi nó phục vụ các mục đích và mong muốn của người thực hiện nó, bất kể các mục đích và mong muốn ấy là những gì. Lý tính bước vào bức tranh đó chỉ với vai trò một kẻ phục vụ, nó thông báo cho chủ thể hành động các cơ sở lập luận hữu ích về hành động nào sẽ phục vụ mục tiêu và mong muốn của anh ta, nhưng nó không bao giờ khuyên chủ thể rằng anh ta nên có những mục tiêu và ước muốn nào. Do vậy, nếu ta muốn ăn giấy nhôm, lý tính sẽ bảo ta nơi tìm thấy thứ đó, và không có gì bất hợp lý trong việc ăn nó hay thậm chí việc muốn làm điều đó (tất nhiên, trừ khi mong muốn có sức khỏe hay có bề ngoài tỉnh táo của người đó mạnh hơn). Tuy nhiên, ngày nay, nhiều nhà dẫn giải lý luận rằng thực ra Hume đã đi xa hơn một bước tới thuyết hư vô (nihilism) và nói rằng không có gì bất hợp lý trong việc cố ý làm thất bại mục đích và ước muốn của mình ("Tôi muốn ăn giấy nhôm, vậy thì tôi sẽ khâu mồm mình lại"). Một hành vi như vậy chắc chắn sẽ rất bất thường vì nó không cho lý tính một vai trò nào, nhưng nó không trái ngược với lý tính. Thuyết luân lý dựa trên cảm tính Hume bàn về chủ đề này lần đầu trong A Treatise of Human Nature. Sau đó, ông trích ra và trình bày chi tiết về các tư tưởng mà ông đã đề xuất trong đó trong một bài luận ngắn hơn với tựa đề An Enquiry Concerning the Principles of Morals (Một câu hỏi về các nguyên tắc đạo đức). Cách tiếp cận của Hume trong tác phẩm đó về cơ bản là cách tiếp cận kinh nghiệm chủ nghĩa. Thay vì trình bày đạo đức nên hoạt động như thế nào, ông miêu tả cách chúng ta thực hiện các đánh giá đạo đức trong thực tế. Sau khi đưa ra nhiều ví dụ, ông đi đến kết luận rằng hầu hết nếu không phải tất cả các hành vi mà ta ủng hộ có tác dụng làm tăng lợi ích công cộng. Vậy có phải điều đó có nghĩa rằng chúng ta thực hiện các đánh giá đạo đức chỉ dựa trên lợi ích cá nhân? Không như triết gia kinh nghiệm chủ nghĩa Thomas Hobbes, Hume lý luận rằng thực ra điều đó không đúng. Ông khẳng định rằng bên cạnh việc suy xét các lợi ích cá nhân, ta còn chịu ảnh hưởng của sự cảm thông dành cho những người gần gũi của mình. Hume còn bảo vệ thuyết đạo đức dựa trên cảm tính này bằng cách tuyên bố rằng ta không bao giờ có thể đưa ra các đánh giá đạo đức mà chỉ dựa vào lý tính. Lý tính của ta làm việc với các sự kiện và rút ra các kết luận từ đó, nhưng tất cả đều bình đẳng, nó không thể dẫn ta tới việc chọn một lựa chọn này thay vì lựa chọn kia; chỉ có cảm tính tự nhiên của ta mới có thể làm được điều này. Luận cứ này chống lại việc đặt nền móng của đạo đức lên trên lý tính, và ngày nay là một trong các luận cứ đạo đức ổn định của thuyết chống thực tiễn (anti-realism). Như một nhà triết học trường phái Hume, John Mackie, diễn tả, về mặt đạo đức, để cho các sự kiện trần trụi về thế giới có được tính chất thúc đẩy một cách bản chất, chúng phải là các sự kiện rất kỳ quặc. Do đó, ta có mọi lý do để không tin vào chúng. Ý chí tự do và thuyết quyết định Hume Hầu như ai cũng từng nhận thấy sự xung đột không thể chối cãi giữa ý chí tự do và thuyết quyết định – nếu các hành động của bạn đã được tiền định từ hàng tỉ năm trước thì làm sao chúng có thể là tùy ở bạn được? Nhưng Hume còn ghi nhận một xung đột khác đã biến vấn đề ý chí tự do thành một song đề hoàn chỉnh: ý chí tự do không tương thích với thuyết vô định. Giả sử các hành động của bạn không được quyết định bởi sự kiện nào đã xảy ra trước đó, khi đó có vẻ như các hành động của bản hoàn toàn ngẫu nhiên. Hơn nữa, điểm quan trọng nhất với Hume là chúng không được quyết định bởi tính cách của bạn – ước muốn, sở thích, các giá trị, v.v... Làm sao ta có thể bắt ai đó chịu trách nhiệm về một hành động đã xảy ra một cách ngẫu nhiên? Ý chí tự do có vẻ đòi hỏi thuyết quyết định, vì nếu không, chủ thể và hành động sẽ không thể được kết nối theo cách mà các hành động được lựa chọn một cách tự do đòi hỏi. Vậy là hiện nay khi hầu như ai cũng tin vào ý chí tự do, ý chí tự do vừa có vẻ mâu thuẫn với thuyết quyết định, vừa có vẻ đòi hỏi thuyết quyết định. Quan niệm của Hume là hành vi của con người, cũng như mọi vật khác, có nguyên nhân, và do đó, việc giữ cho mọi người có trách nhiệm với hành động của mình phải tập trung vào việc khen thưởng hoặc trừng phạt họ theo một cách mà khi đó họ sẽ cố gắng làm những điều đáng ước muốn và tránh những việc đáng bị chê trách, xét trên quan điểm đạo đức. (Xem thêm Compatibilism.) Luận đề miêu tả-quy chuẩn Hume ghi nhận rằng nhiều tác giả đưa ra các phát biểu "nên thế nào" trên cơ sở các phát biểu "là gì" (Luận đề miêu tả-quy chuẩn). Chẳng hạn, "Có nhiều học sinh cấp 3 học lệch, vậy ta nên cộng điểm thi Đại học cho những học sinh nào học đều các môn." Nhưng có lẽ có một sự khác biệt lớn giữa các phát biểu có tính miêu tả (là gì) và các phát biểu mang tính quy chuẩn (nên thế nào). Hume kêu gọi các tác giả cảnh giác với việc thay đổi chủ đề theo kiểu này mà không đưa ra một lời giải thích các phát biểu "nên" được suy diễn từ các phát biểu "là" theo cách nào. Nhưng chính xác là bằng cách nào mà ta có thể rút ra một câu "nên" từ một câu "là"? Câu hỏi đó đã trở thành một trong những câu hỏi trung tâm của lý thuyết luân lý, và Hume thường đứng về phe cho rằng một sự suy diễn như vậy là không thể được. Có người cho rằng Hume không nói rằng người ta không thể đi từ một phát biểu về sự kiện đến một phát biểu về luân lý, mà rằng người ta không thể làm điều đó mà lại bỏ qua cảm tính của con người. Ví dụ, phát biểu sau được cho là không có đạo đức: "Trái Đất đang có nguy cơ lâm vào khủng hoảng do dân số quá cao, do đó việc hàng năm có nhiều người chết do thiên tai là chuyện tốt." Tuy nhiên, nó không mâu thuẫn với lý tính mà chỉ bị phản đối bởi cảm tính của con người. Có lẽ Hume là một trong những tác giả đầu tiên phân biệt giữa các mệnh đề miêu tả (là gì) và các mệnh đề quy chuẩn (nên như thế nào), đây là vấn đề phổ biến trong các ngành khoa học xã hội và triết học đạo đức. G. E. Moore đã bảo vệ một quan điểm tương tự với "luận cứ câu hỏi mở" của ông, với ý định chứng minh rằng mọi sự xác định các phẩm chất đạo đức theo các đặc điểm tự nhiên đều là sai - cái gọi là thuyết ngụy biện tự nhiên chủ nghĩa (naturalistic fallacy). Thuyết vị lợi Có lẽ Hume đã là người đầu tiên, cùng với các thành viên khác của thời kỳ Khai sáng Scolland, đề ra tư tưởng rằng có thể tìm giải thích cho các nguyên tắc đạo đức trong lợi ích mà chúng khuyến khích. Tuy Francis Hutcheson, một đồng bào của ông, là người đặt ra khẩu hiệu "hạnh phúc tối đa cho số đông" ("greatest happiness for the greatest numbers"), nhưng từ việc đọc Luận thuyết của Hume mà Jeremy Bentham đã lần đầu tiên cảm thấy sức mạnh của một hệ thống vị lợi chủ nghĩa. Tuy nhiên, chủ nghĩa vị lợi sơ khai của Hume rất đặc biệt từ góc nhìn của chúng ta. Ông không cho rằng sự kết hợp của các con số đếm về lợi ích có thể cho ra một công thức để đi tới chân lý đạo đức. Ngược lại, Hume là một người theo chủ nghĩa cảm tính đạo đức, ông cho rằng các nguyên tắc đạo đức không thể được minh giải bằng tri thức. Đơn giản là ta cảm thấy một số nguyên tắc là đúng và những người khác thì không; và lý do tại sao các nguyên tắc đạo đức theo chủ nghĩa vị lợi được ta công nhận là vì chúng khuyến khích lợi ích của cả ta và những người khác, những người mà ta có sự thông cảm. Con người được cấu tạo để đồng ý với những gì giúp cho xã hội, nghĩa là lợi ích công cộng. Hume đã sử dụng hiểu biết sâu sắc này để giải thích cách chúng ta đánh giá nhiều hiện tượng đa dạng, từ các thể chế xã hội và các chính sách của chính phủ cho đến các tính cách và tài năng. Vấn đề về các phép mầu Viện dẫn đến các phép màu là một cách hay được dùng để chứng minh cho một tôn giáo. Nhưng Hume lý luận rằng, các phép màu không bao giờ có thể hỗ trợ tôn giáo được là bao. Trong bài luận của Hume có một số luận cứ mà tất cả đều dựa vào khái niệm của ông về một phép màu: một sự vi phạm các quy luật của tự nhiên được thực hiện bởi Chúa trời. Một luận cứ khẳng định rằng các quy luật của thiên nhiên không thể bị vi phạm. Một luận cứ khác cho rằng các lời chứng của con người không bao giờ đủ tin cậy, hay nói cách khác là có bằng chứng đủ mạnh, để hủy bỏ các bằng chứng mà ta đã có về các quy luật tự nhiên. Nói tóm lại, các tuyên bố phi thường đòi hỏi các bằng chứng phi thường. Điểm này đã được áp dụng nhiều nhất cho câu hỏi về sự phục sinh của Jesus, vấn đề mà chắc chắn Hume sẽ đặt câu hỏi "Điều gì có khả năng xảy ra hơn – việc một người chết sống lại hay bằng chứng này đã bị nhầm lẫn bằng cách nào đó?" Hoặc, thẳng thừng hơn, "Điều gì có khả năng xảy ra hơn – ngài Uri Geller quả thực có thể dùng ý nghĩ để bẻ cong thìa, hay là có một trò bịp nào đó?". Luận cứ này là xương sống của phong trào hoài nghi và là một vấn đề mang tính thời sự đối với các nhà lịch sử tôn giáo. Luận cứ thiết kế Một trong những luận cứ cổ và phổ biến về Sự tồn tại của Chúa trời là luận cứ thiết kế. Luận cứ đó nói rằng tất cả các trật tự và 'mục đích' trong thế giới chứng tỏ một nguồn gốc thần thánh. Hume đã phê phán luận cứ thiết kế trong "Đối thoại về tôn giáo tự nhiên" và "Câu hỏi về hiểu biết của con người" và mặc dù vấn đề vẫn chưa dứt, nhiều người tin rằng Hume đã giết chết hẳn luận cứ đó. Dưới đây là một số luận điểm của ông: Luận cứ thiết kế chỉ khả thi khi trật tự và mục đích được quan sát thấy khi chúng được tạo ra từ thiết kế. Nhưng trật tự được quan sát một cách đều đặn, từ những quá trình có vẻ như vô thức như sự kết tinh của các bông tuyết hay sự tạo tinh thể. Thiết kế chỉ giải thích cho một phần nhỏ xíu của trải nghiệm của chúng ta về trật tự và 'mục đích'. Hơn nữa, luận cứ thiết kế được dựa trên một phép tương tự không hoàn chỉnh: nhờ có kinh nghiệm của ta với các đối tượng, ta có thể nhận ra các đối tượng do con người thiết kế, chẳng hạn khi so sánh một đống đá với một bức tường gạch. Nhưng để chỉ ra một Vũ trụ được thiết kế, ta sẽ cần phải có trải nghiệm về một loạt các vũ trụ khác nhau. Vì ta chỉ trải nghiệm một vũ trụ, nên phép tương tự không thể được áp dụng. Ngay cả nếu luận cứ thiết kế hoàn toàn thành công, nó không thể thiết lập một thuyết hữu thần (theism) vững chắc; người ta có thể dễ dàng đi đến kết luận rằng cấu hình của vũ trụ là kết quả của một tác nhân nào đó mơ hồ về mặt đạo đức và có thể không có trí thông minh, hay một số tác nhân mà phương pháp của chúng hầu như không tương tự với thiết kế của con người. Nếu một thế giới tự nhiên có trật tự đòi hỏi một nhà thiết kế đặc biệt, thì tâm thức của Chúa trời (cũng rất trật tự) "cũng" đòi hỏi một nhà thiết kế đặc biệt. Và khi đó nhà thiết kế này lại cần đến một nhà thiết kế khác, cứ tiếp tục như vậy mãi mãi. Nếu ta có thể bằng lòng với một tâm thức thần thánh với trật tự tự thân một cách không giải thích được, thì tại sao lại không thể bằng lòng với một thế giới tự nhiên với trật tự tự thân một cách không giải thích được? Thông thường, cái có vẻ là mục đích, khi trông có vẻ như đối tượng X có tính chất F để có được kết quả O, có thể được giải thích rõ hơn bằng một quá trình lọc: nghĩa là, đối tượng X chắc đã không thể tồn tại nếu nó không có tính chất F, và kết quả O chỉ đáng quan tâm đối với chúng ta như là một cách con người quy chiếu mục đích lên tự nhiên. Cách giải thích mục đích theo cơ chế này đã đoán trước về lý thuyết chọn lọc tự nhiên (xem thêm Anthropic principle)
Con ngựa thành Troia, còn được nhắc đến là ngựa Tơ-roa hay ngựa thành Tơ-roa trong một số tài liệu, là một điển tích văn học nổi tiếng, có nguồn gốc từ thần thoại Hy Lạp. Điển tích Con ngựa thành Troia là con ngựa gỗ mà quân Hy Lạp đã sử dụng để chiến thắng quân Troia trong cuộc chiến thành Troia. Sau 10 năm chiến đấu ở thành Troia, quân Hy Lạp không thể chiến thắng quân Troia bằng sức mạnh quân đội nên đã buộc phải làm theo kế của Odyssey là dỡ tàu ra và lấy gỗ để làm thành một con ngựa, sau đó giả vờ rút khỏi và chỉ để lại một người. Người này có nhiệm vụ đánh lừa quân Troia, khiến họ tưởng rằng ngựa gỗ là món quà của quân Hy Lạp đền bù cho bức tượng Athena đã bị phá hủy. Thực chất trong con ngựa chứa đầy lính. Khi quân Troia no say sau bữa tiệc chiến thắng, quân Hy Lạp trong bụng ngựa đã xông ra đánh và mở cổng thành cho quân bên ngoài vào. Nhờ có ngựa gỗ mà quân Hy Lạp đã chiến thắng và hoàn toàn đánh bại quân địch. Phần mềm ác tính Trojan Horse (tiếng Anh của "Ngựa Troia") sau này được đặt tên cho một loại phần mềm ác ý có chức năng hủy hoại tương tự virus máy tính hoặc chứa đựng các phần mềm gián điệp nhằm cho phép máy tính bị điều khiển từ xa qua hệ thống mạng.
Cá mè là một số loài cá nước ngọt, cùng họ với cá chép, có thân dẹp, đầu to, vẩy nhỏ, trắng (Theo định nghĩa trong từ điển trực tuyến của Trung tâm Từ điển). Một số từ điển song ngữ Việt-Anh, Việt-Pháp dịch cá mè là Hypophthalmichthys. Định nghĩa này chưa bao gồm hết các loài cá mè trong tiếng Việt. Dưới đây liệt kê một số loài cá mè, tất cả thuộc họ cá chép (Cyprinidae), trong lãnh thổ Việt Nam. Chi Cá mè trắng Chi Cá mè trắng (Hypophthalmichthys) có thể gọi là chi cá chép đầu to. Chi này chỉ có 3 loài, cả ba loài đều là cá bành trướng ở Trung Quốc và Việt Nam. Có thể gọi là cá mè phương bắc. Ba loài của chi Hypophthalmichthys là: Hypophthalmichthys harmandi - Cá mè trắng Việt Nam Hypophthalmichthys molitrix - Cá mè trắng Hoa Nam Hypophthalmichthys nobilis (đồng nghĩa: Aristichthys nobilis, Leuciscus nobilis) - Cá mè hoa. Loài cuối cùng có tên gọi trong tiếng Pháp và tiếng Anh được dịch theo đúng nguyên văn sang tiếng Việt thành cá chép đầu to, thí dụ tên tiếng Anh: bighead carp; những nước nói tiếng Đức, căn cứ vào màu vảy có vân, có tên gọi dịch sang tiếng Việt thành cá chép vân cẩm thạch (Marmorkarpfen). Loài này cũng có ở Việt Nam. Sự thật thì cả ba loài đều có đầu to và có màu trắng, dễ lầm lẫn. Chi Cá mè phương nam Theo Fish Base hiện nay chi này (Osteochilus) có 35 loài. Có thể gọi là cá mè phương nam. Trong danh sách của Đại học Cần Thơ, cá trong lưu vực sông Cửu Long có 4 loài thuộc chi Chi Cá mè phương nam: Osteochilus melanopleurus - Cá mè hôi Ostechilus schlegelii - Cá mè hương Osteochilus hasseltii - Cá mè lúi Osteochilus spilopleura - Cá linh rìa Cá linh rìa còn có tên khoa học là Cirrhinus spilopleura và Cirrhinus molitorella; xếp cá linh rìa vào chi Cirrhinus có lẽ đúng hơn vì chiều dài cá này, nếu xét theo tỷ lệ cân xứng của hình dạng thì nó quá dài khi xếp vào chi Osteochilus. Tuy nhiên, hiện nay Fish Base coi danh pháp chính thức của nó là Cirrhinus molitorella. Chi Cá he đỏ Một loài cá khác cũng được gọi là cá mè là cá mè vinh, cá này từ xưa được đặt tên là cá trà vinh. Cá trà vinh hay cá mè vinh thuộc chi Cá he đỏ (Barbonymus). Chi này có 5 loài sinh sống ở các nước Đông Nam Á: Barbonymus altus: Cá he vàng Barbonymus balleroides Barbonymus collingwoodii Barbonymus gonionotus: Cá mè vinh, cá trà vinh. Barbonymus schwanenfeldii: Cá he đỏ, cá kim sơn. Niên vụ Hiện cá mè chưa là một nhóm cá có niên vụ đáng kể ở Việt Nam, nhưng trong tương lai có triển vọng phát triển mạnh mẽ trong ngành cá nuôi với chi cá mè Hypophthalmichthys, tức cá mè phương Bắc. Tuy chi cá mè Hypophthalmichthys thuộc vào hạng cá nuôi chủ yếu ở phương bắc nhưng còn trong tình hình tự phát, không có thống kê chính thức. Những loài cá mè phương nam thuộc chi Ostechilus, vì độ sâu của chúng sống và vì mực độ tăng trưởng chậm, khó có thu hoạch cao trong ngành nuôi cá. Cá mè lúi có thể là cá xuất khẩu dưới hình thức cá cảnh. Cá trà vinh hay cá mè vinh có tương lai trong ngành du lịch cho người thích câu cá vì loài này cần một nghệ thuật câu rất đặc biệt. Ghi chú Họ Cyprinidae là một họ rất lớn, gồm 318 chi, khó xác định được chính xác số loài trong họ này là bao nhiêu, ước đoán từ 2.000 tới ngoài 3.000 loài. Đôi khi một loài cá được xếp vào 2 chi như trường hợp cá linh rìa, nên việc tìm một loài cá trong họ này không phải là vấn đề đơn giản, không nói tới việc nêu ra tổng số các loài cho cả họ. Trong định nghĩa của từ điển đã nêu, cho cá mè cùng họ với cá chép, tuy không sai nhưng không làm sáng nghĩa thêm. Cá mè trong đời sống người Việt Trong người Việt, giống như các loài các nước ngọt khác, cá mè được chế biến rất đa dạng như làm mắm, làm khô, chế biến làm các món ăn như kho, hấp, nướng, chiên, và làm các món gia vị như gỏi, nấu cháo,... Thành ngữ: ''Cá mè một lứa Chú thích
KOSDAQ (từ viết tắt của Korean Securities Dealers Automated Quotations, tiếng Hàn: 코스닥) là một hội đồng giao dịch của Sở giao dịch chứng khoán Hàn Quốc (KRX) tại Hàn Quốc được thành lập vào năm 1996. Ban đầu được thành lập bởi Hiệp hội đầu tư tài chính Hàn Quốc như một thị trường chứng khoán độc lập với Sở giao dịch chứng khoán Hàn Quốc, nó được đánh giá từ đối tác của Mỹ, NASDAQ. KOSDAQ là một thị trường chứng khoán điện tử, giống như NASDAQ. Giờ mở cửa của thị trường là 09:00 AM đến 03:30 PM KST. Nó hiện được điều hành với tư cách là Bộ phận Thị trường SME của KRX. Tính đến tháng 2 năm 2021, 1476 công ty được niêm yết trên KOSDAQ để giao dịch. Lịch sử Chính phủ Hàn Quốc vào tháng 7 năm 1986, đã thông qua "Đạo luật của Tổ chức thị trường về tài sản được giao dịch công khai cho các doanh nghiệp nhỏ" nhằm cung cấp cách thức cho các doanh nghiệp nhỏ và trung gian huy động vốn thông qua cổ phiếu được giao dịch công khai và cung cấp cho các nhà đầu tư các tuyến đầu tư. Vào tháng 4 năm 1987, Tổ chức Thị trường đã đạt được, và ba công ty đầu tiên đã được đăng ký. Vào tháng 5 năm 1996, Sở giao dịch chứng khoán KOSDAQ (코스닥 증권 시장) được thành lập nhằm mục đích quan trọng hóa, hiện đại hóa và tin học hóa hoàn toàn thị trường. KOSDAQ đi vào hoạt động đầy đủ vào ngày 1 tháng 7 năm 1996. Trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 , chỉ số thị trường KOSDAQ đã giảm mạnh và các nhà đầu tư bị thiệt hại nặng nề, nhưng do sự phục hồi nhanh chóng của nền kinh tế Hàn Quốc, KOSDAQ đã chứng kiến ​​sự phục hồi nhanh chóng và tăng vốn hóa thị trường trong suốt đầu thế kỷ 21.
Danh sách các giải thưởng âm nhạc Việt Nam bao gồm: Giải thưởng Hồ Chí Minh văn học nghệ thuật Giải thưởng Nhà nước văn học nghệ thuật Giải Mai vàng (Báo Người Lao động tổ chức từ năm 1995) Giải Sao Mai (là tên gọi của Liên hoan tiếng hát truyền hình toàn quốc từ mùa giải 2001 do Đài Truyền hình Việt Nam tổ chức từ năm 1997) Làn sóng xanh (Đài Tiếng nói Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức từ năm 1997) VTV Bài hát tôi yêu (do Đài Truyền hình Việt Nam tổ chức từ năm 2002) Ngôi sao Bạch kim (Báo Màn ảnh - Sân khấu tổ chức từ 2003) Sao Mai điểm hẹn (VTV3, Đài Truyền hình Việt Nam tổ chức từ năm 2004) Bài hát Việt (Đài Truyền hình Việt Nam tổ chức từ năm 2005 đến năm 2016) Cống hiến (Báo Thể thao & Văn hóa, Thông tấn xã Việt Nam tổ chức từ năm 2005) Diva Thế hệ mới (Báo Điện ảnh - Kịch trường tổ chức từ năm 2005) Chuông vàng vọng cổ truyền hình (Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức từ năm 2006) HTV Awards (Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức từ năm 2006) YAN Music Award (Diễn đàn âm nhạc của giới trẻ - Yeuamnhac tổ chức từ năm 2010) Zing Music Awards (Zing MP3 tổ chức từ năm 2010) We Choice Awards (VCCorp tổ chức từ năm 2014 nhằm tôn vinh những câu chuyện truyền cảm hứng; những hạng mục giải trí, đời sống, du lịch được giới trẻ yêu thích) POPS Awards (do Pops WorldWide tổ chức từ năm 2014) Giải thưởng âm nhạc Hội Nhạc sĩ Việt Nam (Hội Nhạc sĩ Việt Nam tổ chức) Vinaphone Spin Awards (là giải thưởng âm nhạc điện tử dành cho các DJ đầu tiên ở Việt Nam do Vinaphone tổ chức từ năm 2017) Keeng Young Awards (Mạng xã hội âm nhạc Keeng và dịch vụ nhạc chờ Imuzik - Viettel tổ chức từ năm 2017 dành cho nghệ sĩ dưới 30 tuổi từ năm 2017) VLive Awards (VLive tổ chức từ năm 2017)
Ramadan (tiếng Ả Rập: رمضان, Ramadān) là tên gọi tháng thứ 9 của âm lịch Ả Rập, tháng Ramadan theo dương lịch thay đổi từng năm, không có ngày thống nhất. Nhiều người gọi Ramadan một cách đơn giản là "tháng nhịn ăn" hoặc "tháng ăn chay", nhưng cả hai cách gọi đó đều không đúng, bởi vì các tín đồ chẳng ăn chay hoàn toàn, cũng không nhịn ăn hoàn toàn. Tên gọi tháng Ramadan là chính xác nhất. Trong suốt một tháng lễ này, tất cả các tín đồ đạo Hồi đều thực hiện nghiêm túc quy định: không ăn, không uống, không hút thuốc nghĩa là không được đưa bất kể thứ gì vào miệng (kể cả không sinh hoạt tình dục), nhưng chỉ áp dụng vào ban ngày, cụ thể là từ lúc mặt trời mọc đến khi mặt trời lặn. Luật của đạo cũng quy định rõ: Cho những người đang ốm, phụ nữ có thai, trẻ em dưới 5 tuổi và những người đang đi du lịch ở nước ngoài mà nước này không lấy đạo Hồi làm quốc giáo, được miễn trừ. Tại một số quốc gia theo đạo Hồi còn có quy định: Đối với học sinh nhỏ tuổi, binh lính và công nhân lao động nặng thì không phải nhịn. Iftār (tiếng Ả Rập إفطار‎, 'phá vỡ sự nhịn ăn') là bữa ăn mà người Hồi giáo ăn vào mỗi buổi tối sau khi mặt trời lặn trong tháng Ramadan. Khi chấm dứt tháng chay, người Hồi giáo có lễ Eid al-Fitr (còn gọi là Bayram). Tháng Ramadan là một trong năm tín điều bắt buộc của những người theo đạo Hồi. Đây là tín điều thứ tư, có nội dung là các tín đồ Hồi giáo phải thực hiện những quy định trong 30 ngày của tháng Ramadan. Ý nghĩa Khi chuẩn bị bước vào tháng Ramadan, báo chí các nước Ả Rập cũng như các nước theo đạo Hồi, đều có những bài viết nói rõ ý nghĩa của từng quy định nói trên. Thứ nhất, nhịn ăn uống là để có sự thông cảm với những người nghèo đói, những đồng đạo còn chưa đủ ăn, đủ mặc. Thứ hai, hành động này nhằm luyện cho con người một sự tiết chế, chống những cám dỗ vật chất, để tạo thuận lợi cho việc sau này lên thiên đàng. Về điểm này, đây là có một sự rèn luyện rất kiên cường. Tại các nước Ả Rập, nước nào cũng có sa mạc; và thời tiết của xứ sa mạc thì nóng, khô nhưng suốt một ngày trong tháng Ramadan, không ai được động đến một giọt nước. Các ngày trong tháng Ramadan được phân ra theo mức độ như sau: từ 1-10 Ramadan được coi là những ngaỳ cầu nguyện để được "sự nhân từ của Allah", từ 11-20 Ramadan được coi là những ngày "Allah xoá tội", từ 20-30 Ramadan được coi là những ngày cầu nguyện để "tránh phải xuống Địa Ngục. Các nước Hồi giáo đều là "xứ sở uống trà" và hay uống cà phê nhưng đến các cơ quan làm việc trong tháng Ramadan, thì sẽ không có trà, thậm chí không có cả nước lọc. Mỗi buổi chiều trong suốt cả tháng Ramadan này, ở các phường trong thủ đô và các thành phố lớn, đều tổ chức những bữa ăn từ thiện. Bàn ghế được kê thành từng dãy tại vườn hoa hoặc những vỉa hè rộng. Khoảng 17 giờ, những người nghèo mang theo cả con cái đến những tụ điểm này, ngồi vào bàn một cách rất trật tự. Mặc dù đã nhịn ăn, nhịn uống cả ngày, trước mặt lại là những hộp thức ăn đang tỏa mùi thơm và những ly nước lạnh rót sẵn, nhưng không một ai động đến, có người còn lẩm nhẩm đọc kinh Coran. Chỉ đến khi tiếng loa từ các giáo đường vang lên, đọc xong câu nguyện: "Không có thần linh nào xứng đáng để được tôn thờ ngoài Thượng đế (Allah), và Muhammad là Thiên sứ của Ngài", mọi người mới bắt đầu ăn uống. Các gia đình khá giả thì tổ chức ăn ở nhà một cách linh đình. Sau khi ăn uống, mọi người đi chơi, hoặc ra vườn hoa ngồi nói chuyện râm ran. Phải thật khuya, mọi người mới về nhà nằm nghỉ. Khoảng 2 giờ-3 giờ sáng, mỗi phố lại có một người mang một cái trống nhỏ, tiếng rất đanh, vừa đi thong thả vừa đánh theo nhịp ngũ liên, vừa hô to để đánh thức mọi người dậy lo nấu nướng, kịp ăn uống trước khi mặt trời mọc để sang một ngày nhịn mới . Một thống kê của nhà nước Ai Cập cho biết trong tháng Ramadan, lượng thực phẩm tiêu thụ trong dân thường gấp 2 hoặc 2,5 lần các tháng khác trong năm. Theo một khảo sát toàn cầu, tương tự với các nước tham gia tháng lễ Ramadan, trung bình 51% người dân chi tiêu nhiều hơn vào thực phẩm và đồ uống. Điều này cũng dễ dàng giải thích cho việc đây là thời gian gắn kết và đoàn tụ với những người thân yêu, nên họ sẽ dành thời gian nấu ăn và dùng bữa tại nhà cùng với gia đình. Nghi thức nhịn ăn trong suốt tháng lễ Ramadan này cũng giúp những người đủ đầy hơn đánh giá và thẩm định sự đói khát của bản thân, từ đó hình thành lòng bao dung và đồng cảm với những người khó khăn hơn họ. Vì thế, tháng Ramadan chính là lúc mọi người tham gia các hoạt động từ thiện. Theo số liệu khảo sát năm 2023, các nước Châu Phi đứng đầu về hoạt động tặng quà từ thiện với tỉ lệ lên đến 75%. Thời điểm
Hệ tiêu hóa ở người bao gồm đường tiêu hóa cộng với cơ quan phụ trợ tiêu hóa (lưỡi, tuyến nước bọt, tụy, gan và túi mật). Trong hệ thống này, quá trình tiêu hóa có nhiều giai đoạn, là hệ đầu tiên bắt đầu ở miệng (khoang miệng). Tiêu hóa liên quan đến sự phân hủy thức ăn thành các thành phần nhỏ hơn mà có thể hấp thụ và đồng hóa vào cơ thể. Tiết nước bọt giúp thức ăn có thể nuốt được để vượt qua thực quản và tiến vào dạ dày. Thức ăn được vào đường tiêu hóa và trải qua sự tiêu hoá, là quá trình phân hủy những phân tử lớn thức ăn thành những phân tử nhỏ hơn. Tuy nhiên những phân tử dinh dưỡng nhỏ phải rời khỏi hệ tiêu hóa và đi vào cơ thể ngay trước khi chúng có thể được sử dụng. Điều này được hoàn thành bằng quá trình thứ hai được gọi là sự hấp thu, khi các phân tử thức ăn đi qua các màng huyết tương của ruột non vào máu. Quá trình tiêu hóa xảy ra trong đường tiêu hóa hoặc ống tiêu hoá, trải dài từ miệng đến hậu môn. Hệ tiêu hóa được chia thành từng phần, với mỗi phần thích nghi với từng chức năng riêng. Ống tiêu hóa: miệng, hầu, thực quản, dạ dày, ruột non, ruột già, trực tràng, ống hậu môn và hậu môn. Những cấu trúc phối hợp: răng, môi, má, lưỡi, tuyến nước bọt, tuỵ, gan và túi mật. Những phần của đường tiêu hóa có các chức năng chuyên biệt, nhưng tất cả đều được tạo bằng cùng những lớp mô cơ bản giống nhau. Thành của ống từ trong ra ngoài: niêm mạc, dưới niêm mạc, lớp cơ và lớp thanh mạc.
Dale Breckenridge Carnegie (trước kia là Carnagey cho tới năm 1922 và có thể một thời gian muộn hơn) (24 tháng 11 năm 1888 – 1 tháng 11 năm 1955) là một nhà văn và nhà thuyết trình Mỹ và là người phát triển các lớp tự giáo dục, nghệ thuật bán hàng, huấn luyện đoàn thể, nói trước công chúng và các kỹ năng giao tiếp giữa mọi người. Ra đời trong cảnh nghèo đói tại một trang trại ở Missouri, ông là tác giả cuốn Đắc Nhân Tâm, được xuất bản lần đầu năm 1936, một cuốn sách thuộc hàng bán chạy nhất và được biết đến nhiều nhất cho đến tận ngày nay, nội dung nói về cách ứng xử, cư xử trong cuộc sống. Ông cũng viết một cuốn tiểu sử Abraham Lincoln, với tựa đề Lincoln con người chưa biết, và nhiều cuốn sách khác. Carnegie là một trong những người đầu tiên đề xuất cái ngày nay được gọi là đảm đương trách nhiệm, dù nó chỉ được đề cập tỉ mỉ trong tác phẩm viết của ông. Một trong những ý tưởng chủ chốt trong những cuốn sách của ông là có thể thay đổi thái độ của người khác khi thay đổi sự đối xử của ta với họ. Tiểu sử Dale Carnegie sinh năm 1888 tại Maryville, Missouri, trong một gia đình nông dân, con trai thứ hai của James William Carnagey (sinh tại Indiana, tháng 2 năm 1852 – 1910) và vợ là Amanda Elizabeth Harbison (sinh tại Missouri, tháng 2 năm 1858 – 1910) Tuổi thanh niên, dù phải dậy từ bốn giờ sáng mỗi ngày để vắt sữa bò cho gia đình, ông vẫn cố gắng tốt nghiệp State Teacher's College tại Warrensburg. Công việc đầu tiên của ông sau khi tốt nghiệp là bán phiếu theo học các lớp hàm thụ cho những người nông dân; sau đó ông chuyển sang bán thịt lợn xông khói, xà phòng và mỡ lợn cho Armour & Company. Ông đã thành công trong việc thiết lập thị trường tiêu thụ tại Nam Omaha, Nebraska trở thành thị trường chính của công ty. Sau khi để giành được $500, Carnegie bỏ nghề bán hàng năm 1911 để theo đuổi giấc mơ từ lâu là trở thành một nhà thuyết trình Chautauqua. Nhưng cuối cùng ông lại theo học Học viện Nghệ thuật Kịch Mỹ tại New York, nhưng hầu như không có thành công với tư cách một diễn viên, dù có tài liệu ghi lại ông đã đảm nhiệm vai Dr. Hartley trong một chuyến biểu diễn lưu động của Gánh xiếc Polly. Khi công việc chấm dứt, ông quay trở về New York, thất nghiệp, gần phá sản, và sống tại YMCA ở Phố 125. Chính tại đây ông nảy sinh ý tưởng giảng dạy môn nói trước công chúng, và ông đã theo đuổi một vị quản lý "Y" nhằm cho phép ông mở một lớp học và trao cho họ 80% lợi nhuận. Trong khóa học đầu tiên, ông hầu như không có tài liệu để dạy: ứng tác, ông đề nghị các sinh viên nói về "điều đã khiến họ nổi giận", và phát hiện ra rằng kỹ thuật này khiến diễn giả không cảm thấy sợ khi nói trước đám đông. Từ khởi đầu năm 1912 này, các khóa học của Dale Carnegie bắt đầu phát triển. Carnegie đưa được vào trong mỗi người Mỹ một tham vọng phát triển tự tin hơn, và tới năm 1914, ông đã kiếm được $500 - con số tương đương $10.000 ngày nay - mỗi tuần. Có lẽ một trong những hành động marketing thành công nhất của Carnegie là thay đổi cách đánh vần họ của ông từ "Carnegey" thành Carnegie, ở thời điểm khi Andrew Carnegie, ông vua thép, một người không hề có họ hàng với ông đang nổi tiếng và được ngưỡng mộ khắp nơi. Tới năm 1916, Dale đã có khả năng thuê Carnegie Hall để diễn thuyết.. Tuyển tập các bài viết đầu tiên của Carnegie là Nói trước Công chúng: một khóa học Thiết thực cho Người làm Kinh doanh (1926), sau này được lấy tựa đề Nói trước Công chúng và Gây ảnh hưởng tới mọi Người trong Kinh doanh (1932). Tuy nhiên, thành tựu lớn nhất của ông chính là cuốn Đắc Nhân Tâm do Simon & Schuster xuất bản. Cuốn sách trở thành một bestseller từ khi xuất hiện năm 1937, và được tái bản tới lần thứ 17 chỉ trong vài tháng.. Khi Carnegie mất, cuốn sách của ông đã được bán tới con số 5 triệu bản bằng 31 ngôn ngữ, và đã có 450.000 người tốt nghiệp các khóa học tại Học viện Dale Carnegie Cuốn sách nói rằng ông đã nghiên cứu hơn 150.000 bài phát biểu trong phong trào giáo dục cho người lớn ở thời điểm đó. Trong Thế chiến I ông phục vụ trong Quân đội Mỹ. Ông ly hôn người vợ đầu năm 1931. Ngày 5 tháng 11 năm 1944, tại Tulsa, Oklahoma, ông cưới Dorothy Price Vanderpool, người cũng đã một lần ly dị. Vanderpool có hai con gái; Rosemary, từ cuộc hôn nhân đầu tiên, và Donna Dale từ cuộc hôn nhân với Dale Carnegie. Tiểu sử chính thức do Dale Carnegie & Associates, Inc. nói rằng ông mất vì bệnh Hodgkin ngày 1 tháng 11 năm 1955. Có lời đồn đại từ lâu rằng Dale Carnegie đã tự tử. Nhiều người cho rằng lời đồn này xuất phát từ Irving Tressler, tác giả cuốn, "How to Lose Friends and Alienate People", một cuốn sách nhại không được phép cuốn sách kinh điển của Dale Carnegie. Ông mất tại Forest Hills, New York, và được hỏa thiêu tại nghĩa trang Belton, Cass County, Missouri. Lớp học của Dale Carnegie The Dale Carnegie Course là một khóa học cho những nhà kinh tế dựa trên những bài giảng của Carnegie được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Khóa học được thành lập năm 1912 và vẫn được duy trì tại trên 75 quốc gia. Khoảng 7 triệu người đã hoàn thành khóa đào tạo Dale Carnegie. Các cuốn sách Nói trước công chúng và gây ảnh hưởng tới người khác trong kinh doanh. Association Press. Đắc Nhân Tâm. Một cuốn sách tự học về các mối quan hệ giữa mọi người. Simon and Schuster. Quẳng gánh lo đi và vui sống. Một cuốn sách tự học về điều khiển stress. Simon & Schuster. Lincoln người chưa biết của Dale Carnegie. Một cuốn tiểu sử Abraham Lincoln. Dale Carnegie & Associates, Inc. The Quick and Easy Way to Effective Speaking. Principles and practical implementation of expressing oneself before groups of people. Dale Carnegie & Associates, Inc. The Leader In You. How to Win Friends, Influence People, and Succeed in a Changing World The Dale Carnegie Scrapbook, edited by Dorothy Carnegie. A collection of quotations that Dale Carnegie found inspirational interspersed with excerpts from his own writings. Simon and Schuster. How To Develop Self-Confidence and Influence Others Through Public Speaking. Managing Through People. The application of Dale Carnegie's principles of human relations to management. Simon and Schuster. Ghi chú
Queen là một ban nhạc rock người Anh được thành lập tại London vào năm 1970. Đội hình kinh điển của họ bao gồm Freddie Mercury (hát chính, piano), Brian May (guitar, hát), Roger Taylor (trống, hát) và John Deacon (bass). Những sản phẩm âm nhạc đầu tay của Queen mang nhiều ảnh hưởng từ progressive rock, hard rock và heavy metal, nhưng sau này họ ngày càng phát triển theo phong cách gần gũi với công chúng hơn và kết hợp với nhiều thể loại khác, bao gồm cả arena rock và pop rock. Trước khi thành lập Queen, May và Taylor đã chơi cùng nhau trong ban nhạc Smile. Mercury rất hâm mộ Smile, khuyến khích họ thử nghiệm những kỹ thuật sân khấu và thu âm phức tạp hơn. Ông vào nhóm năm 1970 và gợi ý cái tên "Queen". Deacon tham gia ban nhạc vào tháng 2 năm 1971, trước khi họ phát hành album đầu tay cùng tên vào năm 1973. Queen lần đầu tiên được xếp hạng tại Vương quốc Anh với album thứ hai, Queen II, vào năm 1974. Sheer Heart Attack phát hành vào cuối năm đó và A Night at the Opera ra mắt năm 1975 đã mang lại cho họ thành công quốc tế. Đĩa đơn "Bohemian Rhapsody", giữ vị trí quán quân tại Anh trong chín tuần và giúp phổ biến định dạng video âm nhạc. Album năm 1977 của ban nhạc News of the World bao gồm "We Will Rock You" và "We Are the Champions", đã trở thành ca khúc biểu trưng tại các sự kiện thể thao. Vào đầu những năm 1980, Queen là một trong những ban nhạc arena rock nổi tiếng nhất thế giới. "Another One Bites the Dust" từ The Game (1980) đã trở thành đĩa đơn bán chạy nhất của họ, trong khi album tổng hợp Greatest Hits năm 1981 là album bán chạy nhất ở Anh và được chứng nhận chín lần đĩa bạch kim tại Mỹ. Màn trình diễn của họ tại buổi hòa nhạc Live Aid năm 1985 được xếp vào hàng vĩ đại nhất trong lịch sử nhạc rock. Vào tháng 8 năm 1986, Mercury có buổi biểu diễn cuối cùng với Queen tại Knebworth, Anh. Năm 1991, ông qua đời vì bệnh viêm phế quản - một biến chứng của AIDS - và Deacon cũng nghỉ hưu vào năm 1997. Từ năm 2004, May và Taylor đã đi lưu diễn dưới cái tên "Queen +" với các ca sĩ Paul Rodgers và Adam Lambert. Ước tính doanh số bán đĩa của Queen dao động từ 170 triệu đến 300 triệu đĩa, giúp họ trở thành một trong những nghệ sĩ âm nhạc bán đĩa nhạc chạy nhất thế giới. Năm 1990, Queen nhận được giải Brit cho những đóng góp xuất sắc đối với nền âm nhạc Anh Quốc từ Công nghiệp ghi âm Anh. Họ đã được giới thiệu vào Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll vào năm 2001. Mỗi thành viên đều sáng tác các đĩa đơn ăn khách và cả bốn người đều được giới thiệu vào Đại sảnh Danh vọng Nhà soạn nhạc vào năm 2003. Năm 2005, Queen nhận được giải Ivor Novello cho Bộ sưu tập các bài hát xuất sắc từ Học viện Nhạc sĩ, Nhà soạn nhạc và Tác giả Anh Quốc. Vào năm 2018, họ được trao giải Grammy Thành tựu trọn đời. Lịch sử hoạt động 1968–74: Những năm đầu Năm 1968, tay guitar Brian May, một sinh viên của Đại học Imperial, Luân Đôn và tay bass Tim Staffell quyết định thành lập một nhóm nhạc. May dán tờ rơi trên bảng thông báo trường, muốn tìm một tay trống "theo phong cách Mitch Mitchell/Ginger Baker". Roger Taylor, một sinh viên nha khoa trẻ tuổi, tới chơi thử và được nhận vào nhóm. Ban nhạc tự đặt tên cho mình là Smile. Khi còn ở Đại học nghệ thuật Ealing, Tim Staffell kết bạn với Farrokh Bulsara, một sinh viên khóa dưới lấy tên tiếng Anh là Freddie. Bulsara nhận thấy mình và ban nhạc có chung niềm yêu thích âm nhạc và nhanh chóng trở thành người hâm mộ cuồng nhiệt của Smile. Cuối năm 1970, Staffell rời nhóm để gia nhập Humpy Bong. Các thành viên còn lại, dưới lời gợi ý của Bulsara, quyết định đổi tên thành "Queen" và trình diễn đêm nhạc đầu tiên vào ngày 18 tháng 7. Trong giai đoạn này, ban nhạc đã thuê một vài tay guitar bass không phù hợp với phong cách của ban nhạc. Cho đến tháng 2 năm 1971, họ lựa chọn John Deacon vào vị trí này và bắt đầu chuẩn bị cho album đầu tay. Nhóm thu âm bốn bài hát "Liar", "Keep Yourself Alive", "The Night Comes Down" và "Jesus" trong một cuốn băng thu thử mà không có hãng thu âm nào chú ý tới. Cũng trong thời gian này, Freddie đổi họ thành "Mercury", lấy cảm hứng từ câu hát "Mother Mercury, look what they've done to me" trong bài hát "My Fairy King". Ngày 2 tháng 7 năm 1971, Queen lần đầu trình diễn với đội hình nổi tiếng bao gồm Mercury, May, Taylor và Deacon tại Đại học Surrey, gần Luân Đôn. Do đang học tại trường đại học về nghệ thuật, Mercury đã thiết kế biểu trưng cho nhóm với tên gọi "huân chương Queen", không lâu trước khi ra mắt album đầu tay. Logo này bao gồm biểu tượng cung hoàng đạo của các thành viên: hai con sư tử (Deacon và Taylor), một con cua (May) và hai tiên nữ (Mercury). Các tiên nữ đứng bên dưới những chú sư tử đang chồm lấy ký tự Q cách điệu, con cua nằm trên cùng với ngọn lửa dội xuống. Trong chữ Q có một vương miện và nền của logo là một con phượng hoàng khổng lồ. Biểu tượng này có điểm tương quan với Quốc huy Vương quốc Anh, đặc biệt là những con sư tử. Logo gốc, nằm trên ảnh bìa ngược của album đầu tay, chỉ là một bức vẽ tay đơn giản. Năm 1972, Queen bàn bạc với hãng Trident Studios sau khi được John Anthony tìm thấy tại De La Lane Studios. Norman Sheffield đề nghị một hợp đồng quản lý dưới sự kiểm soát của Neptune Productions, một công ty con của Trident, nhằm giúp họ tận dụng cơ sở phương tiện ở Trident để thu âm, trong lúc tìm kiếm hợp đồng thu âm. Điều này có lợi cho cả hai, vừa khiến Trident mở rộng quản lý, vừa giúp Queen tiếp cận phương tiện thu âm công nghệ cao, được nhiều nghệ sĩ như the Beatles và Elton John sử dụng. Roger Taylor sau đó đã mô tả những giờ thu âm ngoài giờ cao điểm này là "bụi vàng". Năm 1973, Queen ký hợp đồng với Trident/EMI. Tới tháng 7 năm ấy, họ phát hành album đầu tay cùng tên, mang nhiều ảnh hưởng của heavy metal và progressive rock. Các nhà phê bình đưa ra đánh giá tích cực; Gordon Fletcher của Rolling Stone gọi album này "phi thường", Daily Herald miêu tả đây là "sự mở đầu trên mức trung bình". Dù vậy, album thu hút ít sự chú ý và đĩa đơn "Keep Yourself Alive" bán rất chậm. Đến sau này, đĩa đơn được xem là điểm nhấn của album, xuất hiện trong danh sách "100 bài hát guitar vĩ đại nhất" của tạp chí Rolling Stone năm 2008, được mô tả là "tập hợp những đoạn riff đáng giá nhất trong album gói gọn trong một bài hát duy nhất". Album đạt chứng nhận Vàng tại Anh và Hoa Kỳ. LP thứ hai của nhóm, Queen II ra mắt năm 1974; bìa đồ họa là hình ảnh nổi tiếng của nhóm do nhiếp ảnh gia Mick Rock thực hiện. Ảnh này là tiền đề chính trong video âm nhạc "Bohemian Rhapsody" (1975) của nhóm. Album đạt hạng 5 trên UK Album Chart và là album đầu tiên của nhóm xếp hạng tại Anh. Đĩa đơn "Seven Seas of Rhye" do Mercury sáng tác đạt hạng 10 tại Anh. Album này là phép thử đầu tiên cho âm nhạc đặc biệt của nhóm, xuất hiện nhiều đoạn nhạc khí phức tạp, lời ca về sự tưởng tượng, cùng sự điêu luyện về âm nhạc. Album còn bao gồm ca khúc "đầy đe dọa" dài 6 phút và không có điệp khúc mang tên "The March of the Black Queen". Các đánh giá về album này đa phần là trái chiều; Winnipeg Free Press khen ngợi đĩa đầu tay của nhóm và miêu tả Queen II là một "con quái vật bị làm quá tay". Allmusic cho rằng đây là album yêu thích của những người hâm mộ ban nhạc, là album đầu tiên trong số 3 album của Queen xuất hiện trong quyển sách 1001 Albums You Must Hear Before You Die. 1974–76: Sheer Heart Attack và A Night at the Opera Tháng 5 năm 1974, một tháng sau khi ban nhạc nhận lời mở màn chuyến lưu diễn Hoa Kỳ cho Mott the Hoople, Brian May được chẩn đoán mắc bệnh viêm gan, buộc phải hủy những đêm diễn còn lại. Sau một thời gian hồi phục, May trở lại lúc ban nhạc đang thực hiện album phòng thu thứ ba. Ra mắt năm 1974, Sheer Heart Attack đạt hạng hai tại Anh Quốc, bán chạy xuyên khắp châu Âu và giành chứng nhận Vàng ở Hoa Kỳ. Đây là thành công quốc tế đầu tiên của nhóm và hãng Atlantic. Album thể nghiệm nhiều thể loại âm nhạc khác nhau, bao gồm British music hall, heavy metal, ballad, ragtime và nhạc Caribbean. Tới đây, Queen bắt đầu loại bỏ những khuynh hướng từ hai đĩa nhạc đầu tiên, mà chú trọng vào phong cách mang tính đại chúng hơn. Sheer Heart Attack giới thiệu âm thanh và nhịp điệu mới, tạo tiền đề cho album A Night at the Opera. Đĩa đơn "Killer Queen" trích từ Sheer Heart Attack xếp thứ 2 trong bảng xếp hạng ở Anh và đứng thứ 12 ở Mỹ. "Now I'm Here", mang thể loại hard rock truyền thống, đạt hạng 11 tại Anh; một đĩa đơn khác mang tên "Stone Cold Crazy" có xuất hiện đoạn riff tiết tấu nhanh của May, được xem là tiền thân của thể loại speed metal. Thời gian sau này, album được nhiều ấn phẩm âm nhạc khen ngợi: năm 2006, Classic Rock xếp album vào vị trí thứ 28 trong "100 album Anh Quốc vĩ đại nhất", Mojo xếp vị trí thứ 88 trong "100 đĩa nhạc thay đổi thế giới". Đây cũng là album thứ hai của Queen xuất hiện trong quyển 1001 Albums You Must Hear Before You Die. Tháng 1 năm 1975, ban nhạc tổ chức chuyến lưu diễn thế giới, với mỗi thành viên mặc trang phục của Zandra Rhodes cùng hệ thống đèn và hiệu ứng sân khấu. Họ lưu diễn mở đầu tại Mỹ và lần đầu tiên chơi nhạc ở Canada. Họ xuất hiện tại 7 thành phố của Nhật Bản từ giữa tháng 4 đến đầu tháng 5. Vào tháng 9, sau một cuộc chia tay gay gắt với Trident, ban nhạc thương lượng để chấm dứt hợp đồng với Trident Studios và tìm một quản lý mới. Một trong những lựa chọn được cân nhắc là quản lý của Led Zeppelin, Peter Grant. Grant muốn nhóm ký với hãng sản xuất riêng của Led Zeppelin mang tên Swan Song Records. Ban nhạc cảm thấy không thể chấp nhận bản hợp đồng này và liên lạc với quản lý của Elton John, John Reid, người nhận lời vào vị trí này. Vào năm 1975, Queen thu âm và phát hành A Night at the Opera, lấy tựa đề từ bộ phim nổi tiếng của anh em nhà Marx. Vào thời gian này, đây là album đắt nhất được sản xuất. Giống như những sản phẩm trước, toàn bộ album thể hiện đa dạng các thể loại nhạc và thể nghiệm với âm thanh stereo. Trong ca khúc "The Prophet's Song" dài 8 phút, ở giữa bài là các lớp tiết tấu mang âm hưởng của dàn đồng ca. Ca khúc do Mercury sáng tác mang tên "Love of My Life" còn xuất hiện đàn hạc và hòa âm được ghi đè. Album này đạt thành công lớn ở Anh và 3 lần nhận danh hiệu đĩa Bạch kim ở Mỹ. Trong một cuộc bầu chọn của Channel 4 vào năm 2004, công chúng Anh Quốc xem đây là album vĩ đại thứ 13 trong lịch sử. A Night at the Opera còn nằm trong danh sách "500 album vĩ đại nhất" của tạp chí Rolling Stone năm 2003. Đây cũng là album cuối cùng của Queen xuất hiện trong quyển 1001 Albums You Must Hear Before You Die. Đĩa đơn ăn khách của album này, "Bohemian Rhapsody" đứng đầu bảng ở Anh trong 9 tuần. Người bạn thân kiêm cố vấn của Mercury, DJ đài phát thanh Capital London Kenny Everett, đóng vai trò quan trọng trong thành công của đĩa đơn này. Đây là đĩa đơn bán chạy thứ 3 mọi thời đại tại Anh, đứng sau "Do They Know It's Christmas?" của Band Aid và "Candle in the Wind 1997" của Elton John. Bản gốc của bài hát đứng thứ 9 ở Mỹ và đứng thứ 2 trong 5 tuần khi tái bản vào năm 1992. "Bohemian Rhapsody" là đĩa đơn duy nhất bán hơn 1 triệu bản trong hai dịp khác nhau và trở thành nhà quán quân trong dịp Giáng sinh tại Anh đến hai lần. Bài hát cũng xuất hiện trong nhiều danh sách hay nhất mọi thời đại. Ban nhạc quyết định thực hiện một video đi kèm với đĩa đơn và thuê Trilion, một chi nhánh của công ty quản lý Trident Studios, để tận dụng công nghệ trong video này. Đây được xem là video âm nhạc "thực thụ" đầu tiên. Bài hát đầu tiên trong album, "Death on Two Legs" được cho là sáng tác của Mercury về Norman Sheffield và cựu quản lý tại Trident, người đã giúp video này phổ biến rộng rãi. Dù nhiều nhóm khác, như the Beatles, đã quay nhiều bộ phim hoặc video quảng bá bài hát trước đó, hầu hết chỉ trình chiếu cho các chương trình truyền hình đặc biệt. Nhắc tới ảnh hưởng của "Bohemian Rhapsody", Rolling Stone viết: "Ảnh hưởng của ca khúc này quá lớn, sáng tạo nên video âm nhạc 7 năm trước khi MTV lên sóng." Đĩa đơn thứ hai trích từ album, "You're My Best Friend" là một sáng tác của John Deacon, đứng thứ 16 trong bảng xếp hạng ở Mỹ và nằm trong top 10 khắp thế giới. Chuyến lưu diễn A Night at the Opera Tour của nhóm bắt đầu từ tháng 11 năm 1975, trải dài xuyên khắp châu Âu, Mỹ, Nhật Bản và Úc. 1976–79: A Day at the Races và Live Killers Năm 1976, Queen thu âm A Day at the Races, thường được xem là album tiếp nối của A Night at the Opera. Album này tiếp tục mượn một tựa đề phim khác của anh em nhà Marx và ảnh bìa thiết kế gần giống với A Night at the Opera, có hình biểu tượng của Queen. Groucho Marx mời Queen tới thăm nhà tại Los Angeles vào tháng 3 năm 1977; tại đó ban nhạc trực tiếp cảm ơn Marx và trình bày "'39" a cappella. Về mặt âm nhạc, album này là một sự tiến bộ mạnh mẽ, đạt hạng 1 tại Anh và Nhật Bản, hạng 5 tại Mỹ. Ca khúc nhạc phúc âm ăn khách "Somebody to Love" đứng thứ 2 trong bảng xếp hạng của Anh và thứ 13 trong bảng xếp hạng các đĩa đơn của Mỹ. Bài hát do Mercury, May và Taylor kết hợp và cho ra 100 âm hưởng khác nhau. Album còn chứa bài hát "Tie Your Mother Down" thường xuyên xuất hiện trong đêm nhạc của nhóm. Năm 1976, Queen chơi một trong những buổi hoà nhạc nổi tiếng nhất ở Hyde Park, Luân Đôn. Đêm nhạc miễn phí do Richard Branson dàn dựng thu hút 150.000 người tham dự. Trong A Day at the Races Tour năm 1977, Queen trình diễn trong nhiều đêm nhạc cháy vé ở Madison Square Garden, New York vào tháng 2 và Earls Court, Luân Đôn vào tháng 6. Album thứ sáu của nhóm, News of the World ra mắt năm 1977, 4 lần đạt chứng nhận Bạch kim ở Hoa Kỳ và 2 lần tại Anh. Nhiều bài hát trong album được sáng tác riêng để nhóm trình diễn trực tiếp, bao gồm hai khúc ca rock nổi tiếng "We Will Rock You" và bản rock ballad "We Are the Champions", xuất hiện trong nhiều sự kiện thể thao quốc tế, với "We Are the Champions" đạt hạng 4 ở Mỹ. Queen công diễn News of the World Tour vào tháng 10 năm 1977, Robert Hilburn của Los Angeles Times gọi đây là "chương trình dàn dựng công phu và nhạy bén nhất" của nhóm". Vào năm 1978, ban nhạc phát hành Jazz, đạt hạng 2 tại Anh và hạng 6 tại Mỹ. Album ra mắt hai bài hát ăn khách "Fat Bottomed Girls" và "Bicycle Race" trên đĩa đơn hai mặt. Queen thuê lại Sân vận động Wimbledon để quay video trong 1 ngày, với 65 người mẫu nữ khỏa thân trong một cuộc đua xe đạp. Nhận xét về album trở nên tích cực hơn trong những năm gần đây. Một bài hát khác, "Don't Stop Me Now" phô bày khả năng hòa giọng phong phú của nhóm. Năm 1978, Queen lưu diễn khắp Hoa Kỳ và Canada, rồi đến châu Âu và Nhật Bản năm 1979. Họ phát hành album trực tiếp đầu tiên, Live Killers vào năm 1979, hai lần chứng nhận Bạch kim tại Mỹ. Đĩa đơn "Crazy Little Thing Called Love" vươn đến top 10 tại nhiều quốc gia, trong đó có 7 lần liên tiếp giữ vị trí quán quân tại ARIA Charts Úc và dẫn đầu tại Billboard Hot 100 Hoa Kỳ trong 4 tuần. Ca khúc này viết theo phong cách của Elvis Presley. Mercury sáng tác bằng guitar và chơi nhịp trong lúc thu âm, rồi tiếp tục chơi guitar lúc trình diễn trực tiếp. Tháng 12 năm 1979, Queen mở màn cho Concert for the People of Kampuchea tại Luân Đôn, theo lời đề nghị của Paul McCartney. 1980–84: The Game và The Works Queen bắt đầu thập niên 1980 với album The Game. Đĩa đơn "Crazy Little Thing Called Love" và "Another One Bites The Dust" đạt hạng nhất tại Mỹ. Sau khi dự một đêm nhạc của Queen ở Los Angeles, Michael Jackson gợi ý với Mercury sau cánh gà rằng "Another One Bites the Dust" nên phát hành làm đĩa đơn và vào tháng 10 năm 1980, bài hát giữ vị trí quán quân trong 3 tuần. Album dẫn đầu Billboard 200 trong 5 tuần và bán hơn 4 triệu bản ở Mỹ. Đây là album đầu tiên của Queen xuất hiện đàn synthesizer. Trước đây, album của nhóm có đề dòng ghi chú "No Synthesisers!", được cho là để phản ánh lập trường pro-"hard"-rock và anti-synth. Tháng 9 năm 1980, Queen trình diễn trong 3 đêm cháy vé ở Madison Square Garden. Năm 1980, Queen còn phát hành album nhạc phim Flash Gordon. Tại Giải thưởng Âm nhạc Mỹ 1981, "Another One Bites the Dust" giành giải "Đĩa đơn Pop/Rock được yêu thích" và Queen nằm trong đề cử hạng mục "Ban nhạc Pop/Rock được yêu thích". Tháng 2 năm 1981, Queen đến Nam Mỹ để thực hiện The Game Tour, là ban nhạc rock lớn đầu tiên trình diễn tại sân vận động Mỹ La Tinh. Chuyến lưu diễn gồm năm đêm nhạc ở Argentina, thu hút lượng khán giả lớn nhất trong một đêm diễn trong lịch sử quốc gia này, với gần 300.000 người tham dự tại Buenos Aires. Họ đã phá vỡ kỷ lục thế giới về số người tham dự, 131.000 người trong đêm đầu tiên và 251.000 trong hai ngày ở sân vận động Morumbi, São Paulo, Brazil. Tháng 10 năm đó, Queen trình diễn trước hơn 150.000 người hâm mộ tại Monterrey (Estadio Universitario) và Puebla (Estadio Zaragoza), Mexico. Một trong những màn trình diễn nổi bật của nhóm trong The Game là "Save Me" tại Montreal và được thu lại trong album Queen Rock Montreal. Trong năm này, Queen hợp tác với David Bowie trong đĩa đơn quán quân tại Anh "Under Pressure". Bản thân sự hợp tác này mang tính chất tự phát khi Bowie tình cờ tới phòng thu khi Queen đang tiến hành thu âm. Tháng 10 năm đó, Queen phát hành album tổng hợp đầu tiên mang tên Greatest Hits, tập hợp những điểm nhấn của nhóm từ năm 1974–1981. Đây là album bán chạy nhất trong lịch sử xếp hạng Anh Quốc, có 450 tuần nằm trong bảng xếp hạng UK Album Chart. Album giành 8 lần chứng nhận Bạch kim tại Mỹ và bán hơn 25 triệu bản toàn thế giới. Taylor là thành viên đầu tiên của nhóm ra mắt album đơn ca vào năm 1981, mang tựa đề Fun in Space. Năm 1982, ban nhạc ra mắt album Hot Space, phối hợp nhiều thể loại như rock, pop rock, dance, funk và R&B. Hầu hết album này thu âm tại Munich trong giai đoạn bất ổn của nhóm: Taylor và May không hài lòng với giai điệu mới, chỉ trích sự can thiệp của quản lý Paul Prenter đối với Mercury. May cũng gay gắt đối với Prenter vì sự phủ nhận của ông về sức quan trọng của đài phát thanh và truyền thông đối với nhóm nhạc. Nhà phê bình và người hâm mộ đưa ra phản hồi tiêu cực đến album này. Ngày 14 và 15 tháng 9 năm 1982, ban nhạc chơi hai đêm cuối với giọng ca chính Mercury tại The Forum, Inglewood, California. Sau Hot Space Tour, lần cuối cùng nhóm trình diễn tại Bắc Mỹ với Mercury là trong Saturday Night Live mùa thứ 8 vào tháng 9 năm đó. Queen rời khỏi Elektra Records, là hãng đĩa của họ tại Mỹ, Canada, Nhật Bản, Úc và New Zealand, để ký kết cùng EMI/Capitol Records. Sau khi hợp tác trong hơn 10 năm, Queen quyết định ngừng trình diễn trực tiếp vào năm 1983. Trong thời gian này, họ thu âm album mới tại Record Plant Studios, Los Angeles và Musicland Studios, Munich. Một vài thành viên của nhóm bắt đầu khám phá thêm các lĩnh vực bên ngoài và làm việc độc lập. Taylor ra mắt album riêng Strange Frontier, May kết hợp với Eddie Van Halen phát hành mini-album có tên là Star Fleet Project. Tháng 2 năm 1984, Queen phát hành album phòng thu thứ 11 The Works, cùng các đĩa đơn thành công "Radio Ga Ga", "Hammer to Fall" và "I Want to Break Free". Album này không thể hiện tốt tại Mỹ, trong khi giành 3 lần chứng nhận Bạch kim tại Anh và nằm trong UK Albums Chart suốt hai năm. Năm đó, Queen bắt đầu thực hiện The Works Tour, chuyến lưu diễn đầu tiên có sự góp mặt của keyboard Spike Edney. Nhóm biểu diễn vài ngày ở Bophuthatswana, Nam Phi trên vận động ở Sun City vào tháng 10 Trên đường trở về Anh, Queen bị chỉ trích sau khi biểu diễn ở Sun City trong khi nạn phân biệt chủng tộc ở đó đang lên cao. Queen xác nhận rằng họ chỉ chơi nhạc cho những ai muốn nghe và nhấn mạnh rằng buổi biểu diễn đã được tổ chức trước nhiều thành phần khán giả khác nhau. Nhóm quyên góp nhân đạo cho trường khiếm thính và khiếm thị, trong khi Liên đoàn Nhạc sĩ Anh Quốc ra lệnh phạt và đưa nhóm vào danh sách đen. 1985–88: Live Aid và những năm sau đó Tháng 1 năm 1985, ban nhạc dẫn đầu hai đêm diễn Rock in Rio tại Rio de Janeiro, Brazil trước 300.000 khán giả mỗi đêm. Boston Globe mô tả đây là "màn trình diễn đáng nhớ". Chương trình được thu lại và phát hành dưới định dạng VHS với tựa đề Queen: Live in Rio, trình chiếu trên kênh MTV tại Mỹ. Tháng 4 và 5 năm 1985, nhóm hoàn thành Works Tour với nhiều đêm cháy vé tại Úc và Nhật Bản. Tại Live Aid, Queen trình diễn trước 72.000 khán giả tại Wembley ngày 13 tháng 7 năm 1985, thu hút 1.9 tỷ người xem trên truyền hình. Ban tổ chức chương trình, Bob Geldof và Midge Ure, nhiều nghệ sĩ khác như Elton John, Cliff Richard và Dave Grohl, cùng nhiều nhà báo âm nhạc từ BBC, CNN, Rolling Stone, MTV, The Telegraph khẳng định Queen là điểm nhấn của đêm diễn. Một cuộc bình chọn năm 2005 cho thấy đây là màn trình diễn rock vĩ đại nhất. Sau màn trình diễn thành công, doanh thu đĩa của nhóm tăng cao và cuối năm 1985, Queen phát hành đĩa đơn "One Vision", bài hát thứ ba mà cả bốn thành viên cùng ghi danh sáng tác. Một bộ đĩa giới hạn bao gồm toàn bộ album của nhóm được ra mắt với tựa đề The Complete Works. Bộ đĩa còn chứa nhiều ca khúc chưa phát hành, nổi bật có đĩa đơn "Thank God It's Christmas" năm 1984. Đầu năm 1986, Queen thu âm A Kind of Magic, gồm một loạt những ca khúc phối lại cho bộ phim hành động kỳ ảo Highlander của Russell Mulcahy. Album phát hành đĩa đơn thành công "A Kind of Magic", cùng những ca khúc xuất hiện trên bảng xếp hạng như "Who Wants to Live Forever", "Friends Will Be Friends" và "Princes of the Universe". Mùa hè 1986, Queen thực hiện chuyến lưu diễn cuối cùng với Freddie Mercury. Chương trình lần nữa hợp tác với Spike Edney. Điểm nhấn của chuyến lưu diễn được thu lại trong album trực tiếp Queen at Wembley, phát hành dưới dạng CD và VHS/DVD, 5 lần giành chứng nhận Bạch kim tại Mỹ và 4 lần tại Anh. Vì không thể trình diễn tại Wembley trong đêm nhạc thứ 3, họ chơi tại Knebworth Park, bán hết vé trong chưa đầy hai tiếng và thu hút hơn 120.000 người hâm mộ. Queen bắt đầu lưu diễn tại Stockholm, Thụy Điển. Tại Slane Castle, Ireland, họ trình diễn trước 95.000 khán giả, phá vỡ kỷ lục tham dự tại nơi này. Tại Budapest, họ trình bày trong đêm nhạc cùng Iron Curtain, thu hút 80.000 khán giả, là lượng người xem trong đêm hòa nhạc rock cao nhất tại khu vực Đông Âu. Hơn 1 triệu người xem đã Queen lưu diễn—400.000 người trong số đó đến từ Anh Quốc, một kỷ lục vào thời điểm đó. Sau khi hợp tác trong nhiều dự án đơn ca năm 1988 (gồm sự kết hợp của Mercury và Montserrat Caballé trong Barcelona), nhóm phát hành The Miracle năm 1989. Album tiếp nối định hướng trong A Kind of Magic, phần lớn sử dụng âm nhạc pop-rock. Album cho ra các đĩa đơn thành công tại khu vực châu Âu "I Want It All", "Breakthru", "The Invisible Man", "Scandal" và "The Miracle". Trong The Miracle, các bài hát được sáng tác một cách liên thông giữa các thành viên và ghi danh bằng tên nhóm Queen. Trước đây, sáng tác của nhóm ghi nhận ở mỗi thành viên riêng lẻ. 1988–92: Mercury: bệnh tật, qua đời và tri ân Năm 1988, giới truyền thông và người hâm mộ tin rằng Mercury đang mắc căn bệnh AIDS, khiến sức khỏe của ông giảm sút và để lộ thân hình gầy guộc. Mercury dứt khoát phủ nhận thông tin này, khẳng định mình chỉ "mệt mỏi" và quá bận rộn trong các buổi phỏng vấn. Mercury được chẩn đoán dương tính với HIV năm 1987, nhưng không công bố và liên tục phủ nhận điều này. Mặc cho sức khỏe của Mercury, ban nhạc vẫn quyết định thực hiện nhiều album, mở đầu với The Miracle vào mùa hè năm 1989 cùng với Innuendo vào đầu năm 1991. Trong thời gian này, Mercury vẫn là giọng ca chính của nhóm. Năm 1990, Queen kết thúc hợp đồng với Capitol và ký kết cùng Hollywood Records của hãng Disney, nơi sở hữu danh mục âm nhạc của nhóm tại Mỹ và Canada cho đến nay. Tháng 2 năm đó, Mercury xuất hiện lần cuối cùng trước công chúng khi nhận giải Brit cùng nhóm cho "Đóng góp nổi bật cho âm nhạc Anh Quốc". Innuendo ra mắt đầu năm 1991, với ca khúc cùng tên đạt hạng nhất tại Anh và nhiều đĩa đơn xếp hạng khác, bao gồm "The Show Must Go On". Ca khúc này lần nữa phát hành trong Greatest Hits II vào tháng 10 năm 1991, có bổ sung những màn trình diễn của Queen giữa năm 1981 và 1989. Lúc thu âm "The Show Must Go On", Mercury không thể bước đi nổi, khiến May lo lắng liệu ông có thể trình bày được hay không. May kể: "anh ta bước vào và thể hiện rất tốt, hoàn toàn thả hồn theo giọng hát ấy". Những thành viên còn lại của ban nhạc sẵn sàng thu âm cùng Mercury, mỗi lần khoảng 1–2 tiếng. May nhớ lại "Anh ấy cứ bảo 'Sáng tác thêm cho tôi đi. Viết cho tôi đi. Tôi chỉ muốn hát và thực hiện hết, đến khi tôi đi rồi hãy hoàn thiện nốt.' Anh ta chẳng sợ gì cả, thật đấy." Album tổng hợp thứ hai của nhóm, Greatest Hits II ra mắt tháng 10 năm 1991, là album bán chạy thứ 8 mọi thời đại ở Anh và tiêu thụ 16 triệu bản khắp thế giới. Vào ngày 23 tháng 11 năm 1991, Mercury xác nhận mình dương tính với AIDS trên giường bệnh. Trong chưa đầy 24 giờ sau thông báo trên, ông qua đời vì viêm cuống phổi, cộng hưởng từ căn bệnh AIDS. Đám tang tổ chức ngày 27 tháng 11 tại Kensal Green, Đông Luân Đôn trong khuôn khổ gia đình và đạo thờ lửa của ông. "Bohemian Rhapsody" được tái phát hành làm đĩa đơn không lâu sau cái chết của Mercury, với ca khúc "These Are the Days of Our Lives" nằm trên mặt A. Video âm nhạc của "These Are the Days of Our Lives" xuất hiện nhiều hình ảnh cuối cùng của Mercury trên ống kính. Đĩa đơn này lập kỷ lục dẫn đầu tại Anh Quốc 2 lần trong dịp Giáng sinh và trong 4 năm khác nhau (1975, 1976, 1991 và 1992). Lợi nhuận ban đầu của đĩa đơn này – xấp xỉ 1 triệu bảng Anh – được trao tặng cho Terrence Higgins Trust, một quỹ từ thiện dành cho bệnh nhân AIDS. Queen bắt đầu nổi tiếng trở lại ở khu vực Bắc Mỹ lúc "Bohemian Rhapsody" góp mặt trong bộ phim hài Wayne's World (1992), đạt hạng hai trên Billboard Hot 100 trong 5 tuần (bài hát có 41 tuần nằm trong bảng xếp hạng, tính cả thời gian xếp hạng năm 1976) và thắng một giải Video âm nhạc của MTV. Album tổng hợp Classic Queen còn vươn tới hạng 4 trên Billboard 200 và 3 lần giành chứng nhận Bạch kim tại Mỹ. Vào ngày 20 tháng 4 năm 1992, một buổi hòa nhạc tưởng nhớ Freddie Mercury được tổ chức ở sân vận động Wembley, London trước 72.000 khán giả. Các nghệ sĩ và ban nhạc như Def Leppard, Robert Plant, Guns N' Roses, Elton John, David Bowie, George Michael, Annie Lennox, Seal, Extreme và Metallica cùng với 3 thành viên còn lại của Queen đã trình diễn phần lớn các bài hát nổi tiếng của ban nhạc. Sách kỷ lục Guinness ghi nhận đây là "đêm nhạc rock từ thiện lớn nhất", thu hút hơn 1.2 tỷ người theo dõi khắp thế giới và quyên góp 20 triệu bảng Anh cho các quỹ từ thiện bệnh AIDS. Ngày 25 tháng 11 năm 1996, một bức tượng của Mercury hướng về Hồ Geneva được khánh thành tại Montreux, gần 5 năm sau khi ông mất. 1995–2003: Made in Heaven và 46664 Concert Album cuối cùng của Queen phát hành vào năm 1995 là Made in Heaven, 4 năm sau cái chết của Freddie Mercury. Album bao gồm các bài hát như "Too Much Love Will Kill You" và "Heaven for Everyone", trích từ những bản thu âm cuối cùng của Freddie trong năm 1991 và kết hợp thêm một số bài từ các album trước. Bài hát "Mother Love" là bản thu âm cuối cùng của Mercury, sử dụng máy đánh trống, sau đó May, Taylor và Deacon sau đó chèn thêm nhạc nền. Sau khi gần hoàn thành, Mercury cảm thấy chưa hoàn thiện và khẳng định "Tôi sẽ hoàn thành nó khi tôi trở lại"; dù vậy, ông chưa bao giờ trở lại phòng thu, vậy nên May thu đoạn cuối của bài hát. Toàn bộ giai đoạn thu âm diễn ra tại phòng thu của ban nhạc ở Montreux, Thụy Sĩ. Album này dẫn đầu tại Anh ngay sau khi phát hành và bán ra hơn 20 triệu bản trên toàn cầu. Năm 1997, Queen trở lại phòng thu để thu âm "No-One but You (Only the Good Die Young)", ca khúc tưởng nhớ đến Mercury và những người ra đi quá sớm. Bài hát xuất hiện trong album tổng hợp Queen Rocks cuối năm đó. Tháng 1 năm 1997, Queen trình diễn trực tiếp "The Show Must Go On" cùng Elton John và Béjart Ballet trong đêm nhạc tưởng nhớ Mercury, đánh dấu lần trình diễn và xuất hiện cuối cùng của John Deacon, sau khi ông quyết định từ giã sân khấu. Đêm nhạc tại Paris là lần thứ hai mà Queen trình diễn sau khi Mercury qua đời, khiến Elton John thúc giục họ trở lại. Brian May và Roger Taylor cùng nhau trình bày tại nhiều đêm hòa nhạc và lễ trao giải, hát với nhiều khách mời. Thời gian này, họ biểu diễn bằng nghệ danh Queen + theo sau bằng tên nghệ sĩ khách mời. Năm 1998, May trình bày "Too Much Love Will Kill You" bên cạnh Luciano Pavarotti, "Radio Ga Ga", "We Will Rock You" và "We Are the Champions" cùng Zucchero trong đêm nhạc từ thiện của Pavarotti. Họ còn tham dự trong một đêm nhạc khác của Pavarotti tại Modena, Ý vào tháng 5 năm 2003. Nhiều nghệ sĩ khách mời thu âm lại nhiều bài hát của Queen dưới nghệ danh Queen +, như Robbie Williams trong bài hát "We Are the Champions" thuộc album nhạc phim A Knight's Tale (2001). Năm 1999, album tuyển tập Greatest Hits III được phát hành. Trong album, "Queen + Wyclef Jean" trình bày một phiên bản rap của "Another One Bites the Dust". Một phiên bản trực tiếp của "Somebody to Love" do George Michael trình bày và "The Show Must Go On" cùng Elton John cũng xuất hiện. Đến thời điểm này, Queen trở thành nghệ sĩ có đĩa đơn bán chạy thứ hai trong lịch sử Anh Quốc, đứng sau the Beatles. 2004–09: Queen + Paul Rodgers Cuối năm 2004, May và Taylor thông báo họ sẽ tái hợp và trở lại lưu diễn vào năm 2005 với Paul Rodgers (nhà sáng lập kiêm cựu giọng ca chính của Free và Bad Company). Trang web của May Rodgers cũng ghi rằng Rodgers sẽ "góp mặt" cùng Queen dưới dự án mang tên "Queen + Paul Rodgers", chứ không phải để thay thế Mercury. Cựu thành viên nhóm đã giải nghệ là Deacon đã quyết định không tham gia. Tháng 11 năm 2004, Queen là một trong những nghệ sĩ đầu tiên được tiến cử vào Đại sảnh Danh vọng âm nhạc Vương quốc Liên hiệp Anh; lễ trao giải này còn là sự kiện đầu tiên mà Rodgers góp mặt trong vai trò hát chính cùng May và Taylor. Vào ngày 19 tháng 9 năm 2005, một album đôi thu trực tiếp đã được phát hành, Return of the Champions có Paul Rodgers tham gia. Nó được thu âm vào tháng 5 năm 2005 trong tua diễn Queen và Paul Rodgers ở sân vận động Sheffield Arena ở Sheffield, Anh. Để phục vụ cho việc kỷ niệm 30 năm ngày ra album A Night at the Opera, một phiên bản mới, gồm 2 đĩa đã được phát hành, ngoài đĩa CD ra còn có cả đĩa DVD với những video của mọi bài hát, ngoại trừ bài "Bohemian Rhapsody" và "You're My Best Friend". Vào tháng 3 năm 2006, Queen và Paul Rodgers bắt đầu tua diễn ở Mỹ và Canada. Tua diễn này độc lập với chuyến diễn 2 ngày ở Mỹ trong tua đầu tiên của Queen va Paul Rodgers, đánh dấu một tua diễn khá trọn vẹn từ khi tổ chức tua "Hot Space" vào năm 1982. John Deacon đã không tham gia diễn cùng cả nhóm. Queen và Paul Rodgers đã giới thiệu bài hát đầu tiên của họ như là một sự hợp tác, có tên là "Take Love" trong tua diễn tại Mỹ. Queen và Paul Rodgers chính thức chia tay mà không có thù oán vào ngày 12 tháng 5 năm 2009. Rodgers tuyên bố: "Sự sắp xếp của tôi với [Queen] tương tự như sự sắp xếp của tôi với Jimmy [Page] của ban The Firm ở chỗ nó không bao giờ có nghĩa là một sự sắp xếp lâu dài". Rodgers không loại trừ khả năng làm việc với Queen một lần nữa. 2009-2011: Tách khỏi EMI, kỷ niệm 40 năm thành lập Vào ngày 20 tháng 5 năm 2009, May và Taylor đã biểu diễn "We Are the Champions" trong đêm chung kết mùa của American Idol với người chiến thắng Kris Allen và á quân Adam Lambert cùng hát bản song ca. Vào giữa năm 2009, sau khi chia tay Queen + Paul Rodgers, trang web trực tuyến của Queen đã công bố một bản tổng hợp các hit lớn nhất có tên Absolute Greatest. Album được phát hành vào ngày 16 tháng 11 và đạt vị trí thứ 3 trong Bảng xếp hạng chính thức của Vương quốc Anh. Album bao gồm 20 bản hit lớn nhất của Queen bao trùm toàn bộ sự nghiệp của họ và được phát hành ở bốn định dạng khác nhau: đĩa đơn, đĩa đôi (có chú thích), đĩa đôi với sách đặc trưng và bản ghi vinyl. Trước khi phát hành, Queen đã tổ chức một cuộc thi trực tuyến để đoán danh sách ca khúc là quảng cáo cho album. Vào ngày 30 tháng 10 năm 2009, May đã viết một lá thư fanclub trên trang web của mình nói rằng Queen không có ý định lưu diễn vào năm 2010 nhưng có khả năng có một buổi biểu diễn. Vào ngày 15 tháng 11 năm 2009, May và Taylor đã biểu diễn "Bohemian Rhapsody" trực tiếp trên chương trình truyền hình Anh The X Factor cùng với các thí sinh. Vào ngày 7 tháng 5 năm 2010, May và Taylor tuyên bố rằng họ đã tách khỏi hãng thu âm của họ, EMI, sau gần 40 năm. Vào ngày 20 tháng 8 năm 2010, người quản lý của Queen, Jim Beach đã đưa ra một Bản tin cho biết ban nhạc đã ký hợp đồng mới với Universal Music. Trong một cuộc phỏng vấn cho HARDtalk trên BBC vào ngày 22 tháng 9, tháng 5 đã xác nhận rằng thỏa thuận mới của ban nhạc là với Island Records, một công ty con của Universal Music Group. Tuy nhiên, Hollywood Records vẫn là nhãn hiệu của nhóm tại Hoa Kỳ và Canada. Như vậy, lần đầu tiên kể từ cuối những năm 1980, danh mục của Queen giờ đây có cùng một nhà phân phối trên toàn thế giới, vì Universal phân phối cho cả hai nhãn hiệu Island và Hollywood (trong một thời gian cuối những năm 1980, Queen đã có mặt trên Capitol Records thuộc sở hữu của EMI tại Mỹ). Vào ngày 14 tháng 3 năm 2011, đánh dấu kỷ niệm 40 năm của ban nhạc, năm album đầu tiên của Queen đã được phát hành lại ở Anh và một số vùng lãnh thổ khác dưới dạng phiên bản cao cấp được làm lại (phiên bản Mỹ được phát hành vào ngày 17 tháng 5). Năm album thứ hai của danh mục trở lại của Queen đã được phát hành trên toàn thế giới vào ngày 27 tháng 6, ngoại trừ Hoa Kỳ và Canada (27 tháng 9). Năm album cuối cùng đã được phát hành tại Anh vào ngày 5 tháng 9. Vào tháng 5 năm 2011, giọng ca của Jane's Addiction, Perry Farrell đã lưu ý rằng Queen hiện đang săn tay bass cũ và hiện tại của họ, Chris Chaney để tham gia ban nhạc. Farrell tuyên bố: "Tôi phải giữ Chris tránh xa Queen, vốn muốn anh ta và họ sẽ không lấy được anh ta trừ khi chúng tôi không làm gì cả. Sau đó, họ có thể có anh ta. " Trong cùng tháng đó, Paul Rodgers tuyên bố anh có thể đi lưu diễn cùng Queen một lần nữa trong tương lai gần. Tại lễ trao giải Broadcast Music 2011, Incorporated (BMI) được tổ chức tại London vào ngày 4 tháng 10, Queen đã nhận được giải thưởng Biểu tượng BMI để ghi nhận thành công khi phát sóng ở Mỹ. Tại lễ trao giải âm nhạc MTV châu Âu 2011 vào ngày 6 tháng 11, Queen đã nhận được giải thưởng Biểu tượng toàn cầu mà Katy Perry đã trao cho Brian May. Queen đã kết thúc lễ trao giải, với Adam Lambert hát biểu diễn các bài "The Show Must Go On", "We Will Rock You" và "We Are the Champions". Sự hợp tác đã thu được một phản ứng tích cực từ cả người hâm mộ và các nhà phê bình, dẫn đến suy đoán về các dự án trong tương lai cùng nhau. 2011-nay: Queen + Adam Lambert, Queen Forever Vào ngày 25 và 26 tháng 4, tháng 5 và Taylor đã xuất hiện trên chương trình American Idol thứ 11 tại Nhà hát Nokia, Los Angeles, biểu diễn một chuỗi bài medley của Queen với sáu người vào chung kết trong chương trình đầu tiên và ngày hôm sau đã biểu diễn " Somebody to Love " với ban nhạc 'Queen Extravaganza'. Queen đã được lên kế hoạch để hát chính trong Sonisphere tại Knebworth vào ngày 7 tháng 7 năm 2012 với Adam Lambert trước khi lễ hội này bị hủy bỏ. Buổi hòa nhạc cuối cùng của Queen với Freddie Mercury là ở Knebworth năm 1986. Brian May nhận xét: "Đó là một thử thách xứng đáng với chúng tôi và tôi chắc chắn Adam sẽ gặp được sự chấp thuận của Freddie." Queen bày tỏ sự thất vọng về việc hủy bỏ lịch diễn và đưa ra một tuyên bố rằng họ đang muốn tìm một địa điểm khác. Queen + Adam Lambert đã chơi hai chương trình tại Hammersmith Apollo, London vào ngày 11 và 12 tháng 7 năm 2012. Cả hai chương trình đều bán hết vé trong vòng 24 giờ sau khi vé được mở bán. Một buổi biểu diễn thứ ba ở London đã được lên kế hoạch vào ngày 14 tháng 7. Vào ngày 30 tháng 6, Queen + Lambert đã biểu diễn tại Kiev, Ukraine trong buổi hòa nhạc chung với Elton John cho Quỹ Elena Pinchuk ANTIAIDS. Queen cũng đã biểu diễn với Lambert vào ngày 3 tháng 7 năm 2012 tại Sân vận động Olympic của Moscow, và vào ngày 7 tháng 7 năm 2012 tại Sân vận động Thành phố ở Warsaw, Ba Lan. Vào ngày 12 tháng 8 năm 2012, Queen đã biểu diễn tại lễ bế mạc Thế vận hội Mùa hè 2012 tại London. Buổi biểu diễn tại Sân vận động Olympic London đã mở đầu bằng một video clip được làm lại đặc biệt của Mercury trên sân khấu thực hiện thói quen gọi và trả lời của anh ấy trong buổi hòa nhạc năm 1986 của họ tại Sân vận động Wembley. Sau đó, May đã biểu diễn một phần của " Brighton Rock " trước khi được Taylor và nữ nghệ sĩ solo Jessie J tham gia biểu diễn cho "We Will Rock You". Vào ngày 20 tháng 9 năm 2013, Queen + Adam Lambert đã biểu diễn tại Liên hoan âm nhạc iHeartRadio tại MGM Grand Hotel &amp; Casino ở Las Vegas. Queen + Adam Lambert đã đi lưu diễn Bắc Mỹ vào mùa hè 2014 và Úc và New Zealand vào tháng 8 / tháng 9 năm 2014. Trong một cuộc phỏng vấn với Rolling Stone, May và Taylor nói rằng mặc dù các chuyến lưu diễn với Lambert có số lượng hạn chế, họ vẫn sẵn sàng để anh trở thành thành viên chính thức và xử lý tài liệu âm nhạc mới với anh. Vào tháng 11 năm 2014, Queen đã phát hành album mới Queen Forever. Album phần lớn là một bản tổng hợp các tài liệu được phát hành trước đó nhưng có ba bài hát Queen mới có giọng hát từ Mercury với sự hỗ trợ được thêm vào bởi các thành viên còn sống của Queen. Một ca khúc mới, " Phải có nhiều thứ hơn cuộc sống này ", là bản song ca giữa Mercury và Michael Jackson. Queen + Adam Lambert đã biểu diễn dưới bóng của Big Ben tại Hội trường Trung tâm, Westminster, trung tâm Luân Đôn tại buổi hòa nhạc mừng năm mới của Big Ben vào đêm giao thừa năm 2014 và ngày đầu năm mới 2015. Năm 2016, nhóm bắt đầu đi khắp châu Âu và châu Á trong tour diễn lễ hội mùa hè 2016 của Queen + Adam Lambert. Điều này bao gồm việc khép lại Lễ hội Isle of Wight ở Anh vào ngày 12 tháng 6, nơi họ biểu diễn "Who Wants to Live Forever " như một sự tưởng nhớ đến các nạn nhân của vụ xả súng hàng loạt tại một hộp đêm đồng tính ở Orlando, Florida vào đầu ngày hôm đó. Vào ngày 12 tháng 9, họ đã biểu diễn tại Công viên Hayarkon ở Tel-Aviv, Israel lần đầu tiên trước 58.000 người. Là một phần của Queen + Adam Lambert Tour 2017 mùa hè 2018, ban nhạc đã lưu diễn Bắc Mỹ vào mùa hè năm 2017, lưu diễn châu Âu vào cuối năm 2017, trước khi chơi ngày ở Úc và New Zealand vào tháng 2 và tháng 3 năm 2018. Vào ngày 24 tháng 2 năm 2019, Queen + Adam Lambert đã khai mạc lễ trao giải Oscar lần thứ 91 được tổ chức tại Nhà hát Dolby ở Hollywood, Los Angeles. Họ sẽ biểu diễn ở Bắc Mỹ trong The Rhapsody Tour vào tháng 7 và tháng 8 năm 2019. Phong cách nghệ thuật và ảnh hưởng Queen đã lấy cảm hứng nghệ thuật từ các ban nhạc rock của Anh những năm 1960 và đầu thập niên 1970 như The Beatles, Kinks, Cream, Led Zeppelin, Pink Floyd, Who, Black Sabbath, Slade, Deep Purple, David Bowie, Genesis và Yes, tay guitar người Mỹ Jimi Hendrix, Mercury còn được truyền cảm hứng từ ca sĩ phúc âm Aretha Franklin. Họ gọi The Beatles là "kinh thánh của chúng tôi theo cách họ sử dụng phòng thu và họ vẽ tranh và sử dụng hòa âm theo bản năng tuyệt vời của họ." Khi bắt đầu vào đầu những năm 1970, âm nhạc của Queen đã được đặc trưng là "Led Zeppelin kết hợp với Yes" do sự kết hợp của "thái cực của âm guitar điện / âm thanh và sử thi nhiều phần lấy cảm hứng từ tưởng tượng". Trong cuốn sách của mình, Essential Hard Rock và Heavy Metal, Eddie Trunk mô tả Queen là "một ban nhạc cốt lõi là hard rock nhưng là một ban nhạc rock có mức độ uy nghi và sân khấu cao mang đến một chút gì đó cho mọi người", cũng như quan sát rằng ban nhạc "nghe rất Anh". Rob Halford of Judas Priest nhận xét: "Thật hiếm khi bạn đấu tranh để gắn nhãn cho một ban nhạc. Nếu bạn là một ban nhạc heavy metal, bạn có nghĩa là trông và nghe giống như một ban nhạc heavy metal nhưng bạn thực sự không thể gọi Queen là bất cứ cái gì. Họ có thể là một ban nhạc pop một ngày nào đó hoặc ban nhạc đã viết 'Bicycle Race' và sau đó lại viết một bài hát metal đầy đủ kế tiếp. Xét về độ sâu của bối cảnh âm nhạc mà họ sáng tác, nó rất giống với mức độ sáng tác đa dạng của The Beatles." Queen sáng tác các ca khúc lấy cảm hứng từ nhiều thể loại nhạc khác nhau, thường với thái độ tặc lưỡi. Các phong cách âm nhạc và thể loại mà họ đã kết hợp bao gồm progressive rock (còn được gọi là rock giao hưởng), art rock, glam rock, arena rock, heavy metal, pop rock, psychedelic rock, baroque pop, và rockabilly. Queen cũng viết những bài hát lấy cảm hứng từ các phong cách âm nhạc đa dạng mà thường không liên quan đến các nhóm nhạc rock như opera, nhạc dân gian, phúc âm, ragtime, và dance/disco. Đĩa đơn năm 1980 của họ "Another One Bites the Dust" trở thành một hit lớn trong thể loại nhạc funk rock. Một số bài hát của Queen được sáng tác với sự tham gia của khán giả khi hát, như "We Will Rock You" và "We Are the Champions". Tương tự như vậy, "Radio Ga Ga" đã trở thành một tuyệt phẩm vì "đám đông vỗ tay giống như họ đang ở trong một cuộc biểu tình ở Nuremberg". Năm 1963, cậu thiếu niên Brian May và cha anh đã tự chế tạo cây đàn guitar đặc biệt Red Special, được thiết kế nhằm mục đích phản hồi âm thanh. May đã sử dụng bộ khuếch đại Vox AC30 gần như độc quyền kể từ cuộc gặp với người anh hâm mộ lâu năm Rory Gallagher tại một buổi biểu diễn ở London vào cuối những năm 1960 / đầu những năm 1970. Thử nghiệm âm thanh sonic có rất nhiều trong các bài hát của Queen. Một đặc điểm đặc biệt trong âm nhạc của Queen là những bản hòa âm giọng hát thường được tạo nên từ những giọng ca của May, Mercury và Taylor được nghe nhiều nhất trong các album phòng thu A Night at the Opera và A Day at the Races. Một số công việc cơ bản cho sự phát triển của âm thanh này có thể được quy cho nhà sản xuất Roy Thomas Baker và kỹ sư Mike Stone. Bên cạnh những hòa âm các giọng hát, Queen còn được biết đến với những giọng hát đa kênh để bắt chước âm thanh của một dàn hợp xướng lớn thông qua các âm bội. Chẳng hạn, theo Brian May, có hơn 180 giọng hát chồng lên nhau trong "Bohemian Rhapsody". Cấu trúc giọng hát của ban nhạc đã được so sánh với Beach Boys. Video âm nhạc Được Bruce Gowers đạo diễn, video âm nhạc của Bohemian Rhapsody cho thấy ban nhạc chấp nhận sự nhạy cảm "suy đồi". Làm lại bức ảnh của ban nhạc Mick Rock từ bìa của Queen II - được lấy cảm hứng từ một bức ảnh của nữ diễn viên Marlene Dietrich trong Shanghai Express (1932) - video mở đầu với "Queen đứng trong đội hình kim cương, đầu nghiêng về phía sau như Những bức tượng trên đảo Phục sinh trong bóng tối gần khi họ hát một đoạn cappella". Một trong những đạo diễn video âm nhạc hàng đầu thế giới David Mallet đã đạo diễn một số video tiếp theo của họ. Một số video sau này của họ sử dụng các cảnh quay từ các bộ phim kinh điển: "Under Pressure" kết hợp các bộ phim câm của thập niên 1920 Battleship Potemkin của Sergei Eisenstein và Nosferatu của F. W. Murnau; video năm 1984 cho "Radio Ga Ga" bao gồm các cảnh quay từ Fritz Lang 's Metropolis (1927); "Calling All Girls" là một sự bày tỏ tôn kính đối với THX 1138 của George Lucas; và video "Heaven for Everyone" năm 1995 cho thấy các cảnh quay từ A Trip to the Moon (1902) và The Impossible Voyage (1904) của Georges Méliès. Phần đầu của video ca nhạc của Mallet cho "I Want to Break Free" đã mô phỏng vở opera nổi tiếng của Anh Coronation Street. Video âm nhạc cho bài "Innuendo" kết hợp hoạt hình tĩnh vật với rotoscoping và các thành viên ban nhạc xuất hiện dưới dạng hình minh họa và hình ảnh được lấy từ các video âm nhạc của Queen trước đó trên màn hình điện ảnh giống như trong bộ phim Nineteen Eighty-Four. Queen cũng xuất hiện trong các video âm nhạc thông thường hơn. "We Will Rock You" được quay ngoài trời trong khu vườn sau nhà của Roger Taylor trong một ngày giá lạnh đầu tháng 1 năm 1977. Được quay tại Nhà hát New London vào cuối năm đó, video âm nhạc cho "We Are the Champions" có sự tham gia của ban nhạc - với Mercury trong trang phục thương hiệu Harlequin - biểu diễn trước một đám đông nhiệt tình, vẫy chiếc khăn Queen theo cách tương tự như người hâm mộ bóng đá Anh. Di sản Vào năm 2002, "Bohemian Rhapsody" của Queen đã được bình chọn là "ca khúc được yêu thích nhất mọi thời đại tại Vương quốc Anh" trong một cuộc thăm dò được thực hiện bởi Guinness World Records British Hit Singles Book. Năm 2004, bài hát được giới thiệu vào Đại sảnh Danh vọng Grammy. Nhiều học giả coi video âm nhạc "Bohemian Rhapsody" là bước đột phá, ghi nhận nó đã giúp phổ biến hình thức video âm nhạc. Nhà sử học nhạc rock Paul Fowles nói rằng bài hát này "được công nhận rộng rãi là đĩa đơn ăn khách toàn cầu đầu tiên mà video âm nhạc đi kèm là trung tâm của chiến lược tiếp thị". Bài hát đã được ca ngợi là video mở đường cho thời đại MTV. Vào tháng 12 năm 2018, "Bohemian Rhapsody" trở thành bài hát được phát trực tiếp nhiều nhất từ thế kỷ 20 và là bài hát nhạc rock cổ điển được phát trực tuyến nhiều nhất mọi thời đại. Số lượt tải xuống của bài hát và video gốc đã vượt quá 1,6 tỷ trên các dịch vụ phát trực tuyến toàn cầu. Được ca ngợi vì dòng nhạc stadium rock, vào năm 2005, một cuộc thăm dò ý kiến trong ngành đã xếp hạng màn trình diễn của Queen tại Live Aid năm 1985 là buổi diễn trực tiếp hay nhất trong lịch sử. Năm 2007, họ cũng được các thính giả của BBC Radio 2 bầu chọn là ban nhạc vĩ đại nhất trong lịch sử. Tính đến năm 2005, theo Sách Kỷ lục Guinness, các album của Queen đã dành tổng cộng 1,322 tuần (26 năm) trên UK Albums Chart, nhiều hơn bất kỳ ban nhạc nào khác. Cũng trong năm 2005, với việc phát hành album trực tiếp của họ với Paul Rodgers, Queen đã đứng vị trí thứ ba trong danh sách các nghệ sĩ có thời gian trụ hạng lâu nhất trên bảng xếp hạng âm nhạc Anh. Vào năm 2006, album Greatest Hits là album bán chạy nhất mọi thời đại trong lịch sử bảng xếp hạng Vương quốc Anh, với doanh số 5,407,587 bản, nhiều hơn 604,295 bản so với đối thủ cạnh tranh gần nhất, album Sgt. Pepper's Lonely Hearts Club Band của The Beatles. Tính đến tháng 8 năm 2020, album đã dành 400 tuần trên Billboard 200 của Hoa Kỳ. Album Greatest Hits II của họ là album bán chạy thứ mười ở Vương quốc Anh, với doanh số 3,746,404 bản. Dựa trên doanh thu bán đĩa, vị trí trên bảng xếp hạng Billboard, lượt xem trực tuyến và mức độ phổ biến trên Spotify, năm 2018 trang Business Insider của Mỹ đã xếp Queen đứng thứ ba trong danh sách những ban nhạc rock nổi tiếng nhất mọi thời đại, sau The Beatles và Led Zeppelin. Ban nhạc đã phát hành tổng cộng 18 album số một, 18 đĩa đơn số một và 10 đĩa DVD số một trên toàn thế giới, giúp họ trở thành một trong những nghệ sĩ âm nhạc bán đĩa nhạc chạy nhất thế giới. Queen đã bán được hơn 170 triệu đĩa, với một số ước tính vượt quá 300 triệu đĩa trên toàn thế giới, bao gồm 34,5 triệu album ở Mỹ tính đến năm 2004. Được giới thiệu vào Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll năm 2001, ban nhạc là nhóm duy nhất mà mọi thành viên đã sáng tác nhiều hơn một đĩa đơn đứng đầu bảng xếp hạng và cả bốn thành viên đều được giới thiệu vào Đại sảnh Danh vọng Nhạc sĩ năm 2003. Vào năm 2009, "We Will Rock You" và "We Are the Champions" đã được giới thiệu vào Đại sảnh Danh vọng Grammy, và sau đó đã được bình chọn là bài hát được yêu thích nhất trên thế giới trong cuộc thăm dò âm nhạc toàn cầu năm 2005 của Sony Ericsson. Ban nhạc đã nhận được giải thưởng Ivor Novello cho những đóng góp xuất sắc đối với nền âm nhạc Anh Quốc vào năm 1987 và Bộ sưu tập bài hát xuất sắc vào năm 2005 từ Học viện sáng tác, nhà soạn nhạc và tác giả người Anh. Để ghi nhận sự hòa âm giọng hát của Mercury, May và Taylor, năm 2006, Queen đã được giới thiệu vào Đại sảnh Danh vọng Giọng hát. Năm 2018 họ đã được trao giải Thành tựu trọn đời Grammy. Trong danh sách top 10 cho Nghệ sĩ thu âm toàn cầu của năm, IFPI đã vinh danh Queen là nghệ sĩ bán chạy thứ sáu trên toàn thế giới vào năm 2018 và bán chạy thứ năm vào năm 2019. Vào tháng 1 năm 2020, Queen trở thành ban nhạc đầu tiên cùng với Nữ hoàng Elizabeth II được khắc tên trên một đồng tiền của Anh. Được phát hành bởi Royal Mint, đồng xu kỷ niệm £5 có các nhạc cụ của cả bốn thành viên ban nhạc. Vào tháng 7 năm 2020, Queen trở thành ban nhạc thứ ba (sau The Beatles và Pink Floyd) có mặt trên một loạt tem bưu chính của Vương quốc Anh do Royal Mail phát hành. Queen là một trong những ban nhạc được yêu thích nhất từ trước đến nay, theo Nick Weymouth, người quản lý trang web chính thức của ban nhạc. Một cuộc khảo sát năm 2001 đã phát hiện ra sự tồn tại của 12,225 trang web dành riêng để viết về Queen, con số cao nhất của bất kỳ ban nhạc nào. Các bản thu âm lậu đã góp phần vào sự phổ biến của ban nhạc ở một số quốc gia nơi âm nhạc phương Tây bị kiểm duyệt, chẳng hạn như Iran. Trong một dự án có tên Queen: Top 100 Bootlegs, nhiều trong số này đã được cung cấp chính thức để tải xuống với một khoản phí danh nghĩa từ trang web của Queen, với phần lợi nhuận sẽ được trao cho Mercury Phoenix Trust. Năm 2004, Queen trở thành nghệ sĩ nhạc rock phương Tây đầu tiên được chính thức chấp nhận ở Iran sau khi phát hành album Greatest Hits của họ. Rolling Stone xếp Queen ở vị trí thứ 52 trong danh sách "100 nghệ sĩ vĩ đại nhất mọi thời đại", trong khi xếp hạng Mercury là ca sĩ vĩ đại thứ 18, và May là tay guitar vĩ đại thứ 26. Độc giả của Rolling Stone đã bầu chọn Mercury là thủ lĩnh vĩ đại thứ hai. Queen được VH1 xếp hạng thứ 13 trong danh sách 100 nghệ sĩ vĩ đại nhất của Hard Rock, và vào năm 2010 ban nhạc cũng được VH1 xếp thứ 17 trong danh sách 100 nghệ sĩ vĩ đại nhất mọi thời đại. Năm 2012, độc giả Gigwise gọi Queen là ban nhạc hay nhất trong 60 năm qua. Eddie Trunk lập luận rằng tầm quan trọng của Queen, tương đồng với Thin Lizzy và Deep Purple, "không được công nhận đầy đủ" ở Hoa Kỳ bởi vì ở những nơi khác, họ "thường chơi với đám đông lớn hơn nhiều ở các địa điểm sân vận động". Queen đã ngừng lưu diễn ở Mỹ vào năm 1982 vì thành công của họ đã bắt đầu suy tàn, nhưng họ vẫn là một "đỉnh cao" của lưu diễn, lấp đầy các sân vận động và đấu trường quốc tế trong những năm 1980 cho đến chuyến lưu diễn cuối cùng (với Mercury) vào năm 1986. Ảnh hưởng Queen đã được coi là có đóng góp đáng kể cho các thể loại như hard rock và heavy metal. Ban nhạc đã được cho là có ảnh hưởng đến nhiều nhạc sĩ khác nhau. Hơn nữa, giống như âm nhạc của họ, nhiều ban nhạc và nghệ sĩ từng chịu ảnh hưởng từ Queen, họ đã bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với Queen, trải dài qua nhiều thế hệ, quốc gia và thể loại nhạc khác nhau, bao gồm cả nhạc heavy metal: Judas Priest, Iron Maiden, Metallica, Dream Theater, Trivium, Megadeth, Anthrax, Melvins, Slipknot và Rage Against the Machine; hard rock: Guns N' Roses, Def Leppard, Van Halen, Mötley Crüe, Steve Vai, The Cult, The Darkness, Kid Rock và Foo Fighters; alternative rock: Nirvana, Radiohead, Trent Reznor, Muse, Red Hot Chili Peppers, Jane's Addiction, The Flaming Lips, và The Smashing Pumpkins; shock rock: Marilyn Manson; pop rock: The Killers, My Chemical Romance và Panic! at the Disco; pop: George Michael, Robbie Williams, Adele, Lady Gaga, Katy Perry và Psy. Đầu những năm 1970, Queen đã giúp thúc đẩy sự phát triển của thể loại heavy metal bằng việc loại bỏ phần lớn ảnh hưởng của nhạc blues. Bài hát "Stone Cold Crazy" năm 1974 của Queen đã được trích dẫn là tiền thân của nhạc speed metal. Metallica đã thu âm một phiên bản hát lại của "Stone Cold Crazy", lần đầu tiên xuất hiện trong album Rubáiyát: Elektra's 40th Anniversary vào năm 1990, và họ vẫn biểu diễn nó trực tiếp vào những năm 2000. Nghệ sĩ guitar người Thuỵ Điển Yngwie Malmsteen, một trong những người tiên phong của dòng nhạc "metal tân cổ điển", đã nghe nhạc của Queen từ khi còn nhỏ, và nhận xét Brian May "rất sáng tạo về sắc điệu và cách điều chỉnh pickup. Brian thường cũng không phụ thuộc vào ngũ cung mà trộn tất cả lại với nhau, và tôi cũng thích làm như vậy." Thom Yorke của Radiohead đã nhận được cây đàn guitar đầu tiên của mình năm 7 tuổi, được khuyến khích sau khi xem May trong buổi phát sóng màn biểu diễn của Queen. Năm 10 tuổi, Yorke đã tự làm cây đàn guitar, cố gắng bắt chước những gì May đã làm với cây Red Special của mình, nhưng anh không hài lòng với kết quả này. Sau đó, Queen là một trong những người có ảnh hưởng đầu tiên đến ban nhạc của Yorke. Truyền thông Kịch nghệ Vào tháng 5 năm 2002, một vở nhạc kịch hay "sân khấu nhạc rock" dựa trên các bài hát của Queen, mang tên We Will Rock You đã công chiếu tại Nhà hát Dominion ở West End, London. Vở nhạc kịch này được diễn viên hài kiêm tác giả người Anh Ben Elton phối hợp sáng tác cùng với Brian May và Roger Taylor, được Robert De Niro sản xuất. Nó được tổ chức tại nhiều thành phố trên thế giới. Sự ra mắt của vở nhạc kịch trùng với năm thánh của Nữ hoàng Elizabeth II. Là một phần của lễ kỷ niệm Năm Thánh, Brian May đã biểu diễn một bản độc tấu guitar "God Save the Queen", như ông đã thể hiện trong album A Night at the Opera, từ trên nóc Cung điện Buckingham. Bản thu của buổi biểu diễn này đã được sử dụng làm video âm nhạc cho bài hát trong phiên bản DVD kỷ niệm 30 năm ra mắt của A Night at the Opera. Sau buổi biểu diễn ở Las Vegas vào ngày 8 tháng 9 năm 2004, Queen được giới thiệu vào Hollywood RockWalk ở Sunset Boulevard, Los Angeles. Sản phẩm ban đầu của nhạc kịch này tại London dự kiến đóng cửa vào Thứ Bảy ngày 7 tháng 10 năm 2006 tại Nhà hát Dominion, nhưng do nhu cầu của công chúng, chương trình đã diễn ra cho đến tháng 5 năm 2014. We Will Rock You trở thành vở nhạc kịch dài nhất từng trình diễn liên tục tại London, vượt qua vở diễn giữ kỷ lục trước đó của vở nhạc kịch Greas. Brian May tuyên bố vào năm 2008 rằng họ đang xem xét viết phần tiếp theo cho We Will Rock You. Vở nhạc kịch đã đi vòng quanh Vương quốc Anh vào năm 2009, biểu diễn tại Nhà hát Manchester Palace, Sunderland Empire, Birmingham Hippodrome và Edinburgh Playhouse. Sean Bovim đã làm ra vở "Queen at the ballet", một tác phẩm tôn vinh Mercury, sử dụng âm nhạc của Queen như một nhạc nền cho các vũ công của chương trình, người diễn giải những câu chuyện đằng sau các bài hát như "Bohemian Rhapsody", "Radio Ga Ga" và "Killer Queen". Âm nhạc của Queen cũng xuất hiện trong sản phẩm Power Balladz của Off-Broadway, đáng chú ý nhất là bài hát " We Are the Champions", với hai người biểu diễn vở này tin rằng bài hát là "đỉnh cao của thành tựu nghệ thuật trong thời đại của nó". Kỹ thuật số Kết hợp với Electronic Arts, Queen đã phát hành trò chơi điện tử Queen: The eYe vào năm 1998. Bản thân âm nhạc trong vô số ca khúc của Queen được phối lại thành các phiên bản cover với nhạc cụ mới, đã được đón nhận rất hào hứng, nhưng trải nghiệm trò chơi bị cản trở bởi cách chơi kém. Thêm vào vấn đề là trò chơi này có một thời gian phát triển cực kỳ dài, dẫn đến các yếu tố đồ họa dường như đã lỗi thời trước thời điểm phát hành game. Dưới sự giám sát của May và Taylor, nhiều dự án phục hồi đã được tiến hành liên quan đến danh mục video âm nhạc và ca khúc khổng lồ của Queen. DVD phát hành buổi hòa nhạc Wembley năm 1986 của họ (có tên Live at Wembley Stadium), buổi hòa nhạc Milton Keynes năm 1982 (Queen on Fire – Live at the Bowl), và hai Greatest Video Hits (tập 1 và 2, tập trung vào những năm 1970 và 1980) đã tập hợp các tác phẩm âm nhạc của ban nhạc phối lại thành âm thanh vòm 5.1 và DTS. Cho đến nay, chỉ có hai album của ban nhạc A Night at the Opera và The Game, đã được phối lại đầy đủ thành âm thanh đa kênh có độ phân giải cao trên DVD-Audio. A Night at the Opera đã được phát hành lại với một số bản phối âm thanh vòm 5.1 đã được sửa đổi và các video đi kèm vào năm 2005 để kỷ niệm 30 năm phát hành ban đầu của album (bộ CD + DVD-Video). Vào năm 2007, một phiên bản Blu-ray của các buổi hòa nhạc được phát hành trước đó của Queen, Queen Rock Montreal và Live Aid đã được phát hành, đánh dấu dự án đầu tiên của họ ở độ phân giải 1080p HD. Queen được nhắc đến nhiều lần trong loạt thương hiệu Guitar Hero: bản cover "Killer Queen" trong Guitar Hero gốc, "We Are The Champions", "Fat Bottomed Girls", và sự hợp tác "C-lebrity" của Paul Rodgers trong một track cho Guitar Hero World Tour, "Under Pressure" với David Bowie trong Guitar Hero 5, "I Want It All" trong Guitar Hero: Van Halen, "Stone Cold Crazy" trong Guitar Hero: Metallica và "Bohemian Rhapsody" trong Guitar Hero: Warriors of Rock. Vào ngày 13 tháng 10 năm 2009, Brian May tiết lộ có "cuộc nói chuyện" đang diễn ra "đằng sau hậu trường" về một trò chơi Queen Rock Band. Queen cũng đã được giới thiệu nhiều lần trong thương hiệu Rock Band: nó gồm 10 bài hát tương thích với Rock Band, Rock Band 2 và Rock Band 3 (ba trong số đó cũng tương thích với Lego Rock Band). Bản hit "Bohemian Rhapsody" của họ đã được giới thiệu trong Rock Band 3 với sự hỗ trợ đầy đủ về hòa âm và phím. Ban nhạc cũng xuất hiện trong trò chơi video Lego Rock Band dưới dạng hình đại diện Lego có thể chơi được. Vào tháng 3 năm 2009, Sony Computer Entertainment đã phát hành phiên bản thương hiệu Queen của thương hiệu nhượng quyền karaoke của công ty, SingStar. Trò chơi, có sẵn trên PlayStation 2 và PlayStation 3, có tựa đề là Singstar Queen và có 25 bài hát trên PS3 và 20 trên PS2. "We Will Rock You" và các bài hát khác của Queen cũng xuất hiện trong DJ Hero. "One Vision" đã được giới thiệu trong trò chơi điện tử thành công Grand Theft Auto IV trên đài phát thanh giả tưởng Liberty Rock Radio 97.8, trong khi "Radio Ga Ga" được giới thiệu trong đoạn giới thiệu cho nhân vật Michael và nhạc nền của trò chơi Grand Theft Auto V. Điện ảnh và truyền hình Nhạc nền cho bộ phim Flash Gordon (1980) là của Queen. Ban nhạc cũng đã đóng góp âm nhạc cho Highlander (bộ phim gốc năm 1986), với "A Kind of Magic", "One Year of Love", "Who Wants to Live Forever", "Hammer to Fall", và ca khúc chủ đạo "Princes of the Universe", cũng được sử dụng làm chủ đề của loạt phim truyền hình Highlander (1992–1998). Tại Hoa Kỳ, "Bohemian Rhapsody" được phát hành lại dưới dạng đĩa đơn vào năm 1992 sau khi xuất hiện trong bộ phim hài Wayne's World. Đĩa đơn này sau đó đã đạt vị trí thứ hai trên Billboard Hot 100 (với "The Show Must Go On" là ca khúc đầu tiên trong đĩa đơn) và giúp khơi dậy sự nổi tiếng của ban nhạc ở Bắc Mỹ. Một số bộ phim có bài hát của họ được thực hiện bởi các nghệ sĩ khác. Một phiên bản "Somebody to Love" của Anne Hathaway được đưa vào bộ phim năm 2004 Ella Enchanted. Năm 2006, Brittany Murphy cũng đã thu âm một bản cover cùng một bài hát cho bộ phim Happy Feet năm 2006. Năm 2001, một phiên bản của "The Show Must Go On" đã được trình diễn bởi Jim Broadbent và Nicole Kidman trong bộ phim nhạc kịch Moulin Rouge!. Bộ phim A Knight's Tale năm 2001 có phiên bản "We Are the Champions" do Robbie Williams và Queen thực hiện; bộ phim cũng có bài "We Will Rock You" do khán giả thời Trung cổ trình diễn. "I Was Born to Love You" được sử dụng làm bài hát chủ đề của bộ phim truyền hình Nhật Bản Pride trên Fuji tivi năm 2004, với sự tham gia của Kimura Takuya và Yūko Takeuchi. Nhạc phim của chương trình cũng có các bài hát khác của Queen. Một bài hát đã trở nên phổ biến bốn thập kỷ kể từ khi phát hành, sự tái sinh của "Don't Stop Me Now" lúc đầu đã được quy cho sự xuất hiện của nó trong bộ phim khải huyền zombie kinh điển năm 2004 Shaun of the Dead. Bài hát đã được giới thiệu trong chương trình truyền hình Top Gear của BBC và vào năm 2005, nó đã được người xem của loạt phim bầu chọn là "Bài hát gây cảm hứng vĩ đại nhất". Giữ truyền thống đặt tên các tập trong mỗi mùa theo các bài hát của các ban nhạc rock thập niên 1970, mùa thứ tám và cuối cùng của That '70s Show có các tập được đặt tên theo các bài hát của Queen. "Bohemian Rhapsody" là tập buổi ra mắt mùa chiếu mới. Với một mục cho năm 1977, Queen nổi bật trong sê-ri VH1 I Love the '70s, phát sóng ở Mỹ. The Simpsons đã thực hiện các cốt truyện có các bài hát của Queen như "We Will Rock You", "We Are the Champions" (cả hai được Homer hát) và "You're My Best Friend". Phần sau cũng xuất hiện trong Family Guy, với "Another One Bites the Dust", trong khi một tập của chương trình, "Killer Queen", được đặt theo tên của bài hát. Queen được mô tả trong phần 1, tập 16 của VH1's Legends, phát sóng năm 1998. Vào ngày 11 tháng 4 năm 2006, Brian May và Roger Taylor đã xuất hiện trong chương trình truyền hình cuộc thi ca hát của Mỹ American Idol. Mỗi thí sinh được yêu cầu hát một bài hát của Queen trong tuần thi đấu đó. Các bài hát xuất hiện trong chương trình bao gồm "Bohemian Rhapsody", "Fat Bottomed Girls", "The Show Must Go On", "Who Wants to Live Forever" và "Innuendo". Brian May sau đó đã chỉ trích chương trình vì đã chỉnh sửa một số cảnh cụ thể, một trong số đó khiến thời gian làm việc của nhóm với thí sinh Ace Young có vẻ tiêu cực, mặc dù thực tế là ngược lại. Taylor và May một lần nữa xuất hiện trong đêm chung kết American Idol mùa 8 vào tháng 5 năm 2009, biểu diễn "We Are the Champions" với thí sinh vào tới vòng chung kết Adam Lambert và Kris Allen. Vào ngày 15 tháng 11 năm 2009, Brian May và Roger Taylor đã xuất hiện trong chương trình truyền hình của cuộc thi hát The X Factor ở Anh. Năm 2007, Queen với tư cách là một trong những nghệ sĩ chính trong tập thứ năm của loạt phim Seven Ages of Rock tại BBC/VH1—tập trung vào stadium rock, chính tập phim được đặt tên là "We Are the Champions". Vào mùa thu năm 2009, Glee giới thiệu dàn hợp xướng của trường trung học giả tưởng hát bài "Somebody to Love" như là màn trình diễn thứ hai của họ trong tập phim "The Rhodes Not Taken". Buổi biểu diễn được bao gồm trong CD nhạc phim Volume 1 của chương trình. Vào tháng 6 năm 2010, dàn hợp xướng đã biểu diễn "Another One Bites the Dust" trong tập "Funk". Tập tiếp theo của tuần sau, "Journey to Regionals", có một dàn hợp xướng đối thủ biểu diễn toàn bộ "Bohemian Rhapsody". Bài hát đã được giới thiệu trên EP của tập phim. Vào tháng 5 năm 2012, dàn hợp xướng đã biểu diễn "We Are the Champions" trong tập "Nationals", và bài hát này cũng xuất hiện trong The Graduation Album. Bohemian Rhapsody Trong một cuộc phỏng vấn của BBC vào tháng 9 năm 2010, Brian May tuyên bố rằng Sacha Baron Cohen sẽ đóng vai Mercury trong một bộ phim tiểu sử về ban nhạc. Tạp chí Time đã bình luận với sự chấp thuận về khả năng ca hát và sự tương đồng về hình ảnh của anh với Mercury. Tuy nhiên, vào tháng 7 năm 2013, Baron Cohen đã từ bỏ vai này do "sự khác biệt về sáng tạo" giữa anh và các thành viên ban nhạc Queen còn sống. Vào tháng 12 năm 2013, có thông báo rằng Ben Whishaw, được biết đến với vai Q trong bộ phim James Bond Skyfall, là một sự thay thế khả dĩ cho Baron Cohen trong vai của Mercury, nhưng Whishaw đã bỏ vai này vài tháng sau đó vì không chắc chắn về cách thức bộ phim đang tiến triển. Dự án lấy lại đà trong năm 2016. Nó đã được công bố vào ngày 4 tháng 11 rằng bộ phim đã đảm bảo sự ủng hộ của 20th Century Fox, New Regency và GK Films. Vào thời điểm này, tiêu đề làm việc của bộ phim là Bohemian Rhapsody, lấy tên theo bài hát cùng tên của ban nhạc. Freddie Mercury được Rami Malek thủ vai, việc quay phim dự kiến bắt đầu vào đầu năm 2017. Phim được Anthony McCarten viết kịch bản, với một câu chuyện của McCarten và Peter Morgan, người đã nhận được đề cử Oscar cho các kịch bản phim The Queen và Frost/Nixon. Được phát hành vào tháng 10 năm 2018, Bohemian Rhapsody tập trung vào các năm hình thành của Queen và giai đoạn dẫn đến buổi biểu diễn nổi tiếng tại buổi hòa nhạc Live Aid năm 1985. Bộ phim đã thu về hơn 900 triệu đô la trên toàn thế giới, khiến nó trở thành bộ phim tiểu sử âm nhạc có doanh thu cao nhất mọi thời đại. Mặc dù nhận được nhiều ý kiến trái chiều, nó đã giành giải Quả cầu vàng cho Phim chính kịch hay nhất. Malek đã nhận được nhiều lời khen ngợi cho vai diễn Mercury, bao gồm cả giải Oscar cho Nam diễn viên xuất sắc nhất. Trong khi phân khúc Live Aid được ca ngợi, những lời chỉ trích đến từ việc không khám phá các chủ đề phức tạp hơn liên quan đến Mercury, với Johnny Oleksinski của tờ New York Post, "Điều cuối cùng chúng tôi muốn từ Bohemian Rhapsody không phải là các buổi biểu diễn được sao chép y hệt, mà là đằng sau nó - làm sâu sắc về một ngôi sao vô cùng riêng tư, phức tạp, được quốc tế yêu mến." Sau khi phát hành bộ phim, bài hát "Bohemian Rhapsody" đã trở lại Billboard Hot 100 của Mỹ lần thứ ba (đã được xếp hạng trước đó vào năm 1976 và 1992), xếp hạng ở vị trí 33 vào ngày 12 tháng 11 năm 2018. Bohemian Rhapsody: The Original Soundtrack đã nhận được giải thưởng âm nhạc Mỹ cho nhạc phim hay nhất. Thành viên Thành viên hiện tại Brian May – guitar chính, keyboard, dương cầm, hát (1970–nay) Roger Taylor – trống, bộ gõ, rhythm guitar, tambourine, hát (1970–nay) Cựu thành viên Freddie Mercury – hát chính, dương cầm, rhythm guitar, tambourine (1970–1991; qua đời) John Deacon – bass guitar, rhythm guitar, keyboard, hát bè, kẻng (1971–1997) Giọng ca khác Paul Rodgers (2004–2009) Adam Lambert (2011–nay) Giọng ca khách mời David Bowie (1981, 1992) Annie Lennox (1992) Lisa Stansfield (1992–1993) George Michael (1992–1993) Elton John (1992, 1997) Zucchero (1992, 1998) Robbie Williams (2001) Kris Allen (2009) Jessie J (2012) Nate Ruess (2013) Lady Gaga (2014) Thành viên lưu diễn Morgan Fisher – keyboard, dương cầm (1982) Fred Mandel – keyboard, dương cầm (1982) Spike Edney – keyboard, dương cầm, rhythm guitar, hát bè (1984–nay) Jamie Moses – rhythm guitar, hát bè (1998–2009) Danny Miranda – bass guitar, hát bè (2005–2009) Rufus Tiger Taylor – bộ gõ, trống, hát bè (2011–nay) Neil Fairclough – bass guitar, hát bè (2011–nay) Thành viên sớm nhất Mike Grose – bass (1970) Barry Mitchell – bass (1970–1971) Doug Ewood Bogie – bass (1971) Niên biểu Lưu diễn Queen I Tour (1973–74) Queen II Tour (1974) Sheer Heart Attack Tour (1974–75) A Night at the Opera Tour (1975–76) Summer Gigs 1976 (1976) A Day at the Races Tour (1977) News of the World Tour (1977–78) Jazz Tour (1978–79) Crazy Tour (1979) The Game Tour (1980–81) Hot Space Tour (1982) The Works Tour (1984–85) The Magic Tour (1986) Queen + Paul Rodgers Tour (2005–06) Rock the Cosmos Tour (2008) Queen + Adam Lambert Tour 2012 (2012) Queen + Adam Lambert Tour 2014–2015 (2014–15) Queen + Adam Lambert 2016 Summer Festival Tour (2016) Danh sách đĩa nhạc Queen (1973) Queen II (1974) Sheer Heart Attack (1974) A Night at the Opera (1975) A Day at the Races (1976) News of the World (1977) Jazz (1978) The Game (1980) Flash Gordon (1980) – nhạc phim Hot Space (1982) The Works (1984) A Kind of Magic (1986) The Miracle (1989) Innuendo (1991) Made in Heaven (1995)
Đài tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam, hay Bức tường Chiến tranh Việt Nam (tiếng Anh: Vietnam Veterans Memorial), là đài tưởng niệm có hình một bức tường dài, hình chữ V, bằng đá, khắc tên của hơn 58.000 chiến binh Mỹ đã thiệt mạng hoặc mất tích khi tham gia trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Kiến trúc Đài tưởng niệm này bao gồm 3 phần riêng biệt: Tượng 3 người lính (The Three Soldiers): bằng đồng, được thêm vào để giữ những truyền thống cũ. Đài tưởng niệm phụ nữ phục vụ tại Việt Nam (The Vietnam Women's Memorial): Tượng của 3 phụ nữ Hoa Kỳ mặc đồng phục chăm sóc một binh lính bị thương. Mục đích là để ghi nhớ sự đóng góp của phụ nữ Hoa Kỳ đã phục vụ trong chiến tranh Việt Nam. Họ đa số là các y tá. Khu tưởng niệm các Cựu chiến binh Chiến tranh Việt Nam (The Vietnam Veterans Memorial Wall): Với một Bức tường tại trung tâm thủ đô Washington D.C. và được khánh thành ngày 13 tháng 9 năm 1982 với diện tích 8.100 m². Đây là nơi đón tiếp hơn 3 triệu người tới thăm viếng mỗi năm. Được chọn lựa từ hơn 1.000 bức mẫu, bức tường ngày nay do cô Maya Ying Lin, một nữ sinh viên kiến trúc người Mỹ gốc Hoa của Đại học Yale và sống tại Athens, Ohio, thiết kế mẫu. Được làm từ hai tấm đá hoa cương đen mang về từ thành phố Bangalore ở Ấn Độ. Trên thế giới chỉ có ba nơi có nhiều loại đá hoa cương đen và lớn như vậy là Ấn Độ, Thụy Điển và Nam Phi. Chiều dài bức tường là 75 m, cao 3 m. Điều kiện ghi danh Bức tường không có ghi tên tuổi của một nhân viên dân sự nào, và cũng không phải quân nhân nào bị thiệt mạng cũng được khắc tên trên bức tường này. Chỉ khi nào một cá nhân bị thiệt mạng hoặc bị mất tích được Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ xem là do Chiến tranh Việt Nam, dựa theo các tiêu chuẩn đã được quy định, thì tên của cá nhân đó mới được khắc trên bức tường này. Với sự thêm tên mới đây nhất của 10 người nữa trong năm 2004, bức tường này có tất cả 58.245 tên của các quân nhân nam nữ, trong số đó có khoảng 1.200 người nằm trong danh sách quân nhân Mỹ mất tích trong Chiến tranh Việt Nam.
Kim Liên có thể là: Địa danh Phường Kim Liên, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội Xã Kim Liên, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương Xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An Làng Kim Liên, tức làng Sen với khu di tích lịch sử Kim Liên quê hương của Hồ Chí Minh, thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn. Làng cổ Kim Liên có tên nôm là làng Đồng Nầm, nay là phố Kim Hoa, phường Phương Liên, quận Đống Đa Ô Kim Liên tức Ô Đồng Nầm, trước kia là Ô Kim Hoa ở làng Kim Liên, phường Phương Liên, quận Đống Đa Chùa Kim Liên, ngôi chùa ở thôn Nghi Tàm, phường Quảng An, quận Tây Hồ Đình và đền Kim Liên ở làng Kim Liên cũ, nay là phường Phương Liên, quận Đống Đa Nhân vật Phan Kim Liên (潘金莲), một nhân vật trong tiểu thuyết Thủy Hử của nhà văn Thi Nại Am Lê Thị Kim Liên Đặng Thị Kim Liên Trường học Trường Trung học phổ thông Kim Liên phố Đặng Văn Ngữ, quận Đống Đa, Hà Nội Trường Trung học phổ thông Kim Liên, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An
Hoàng Nguyên (3 tháng 1 năm 1930 - 21 tháng 8 năm 1973) là một nhạc sĩ người Việt Nam. Ông là tác giả hai ca khúc nổi tiếng Ai lên xứ hoa đào, Cho người tình lỡ. Tiểu sử Ông tên thật là Cao Cự Phúc, sinh ngày 3 tháng 1 năm 1930 tại xã Diễn Bình, huyện Diễn Châu, Nghệ An. Lúc nhỏ theo học trường Quốc học Huế. Đầu thập niên 1950, Hoàng Nguyên tham gia kháng chiến nhưng rồi từ bỏ quay về thành phố. Lên ở Đà Lạt, Hoàng Nguyên dạy học tại trường tư thục Tuệ Quang, thuộc chùa Linh Quang, khu số 4 Đà Lạt, do Thượng tọa Thích Thiện Tấn làm Hiệu trưởng. Thầy giáo Cao Cự Phúc dạy Việt văn lớp đệ lục. Trong ở đó, ông là thầy giáo dạy nhạc cho Nguyễn Ánh 9, người sau này trở thành một nhạc sĩ nổi tiếng đồng thời là nhạc công chơi đàn dương cầm. Năm 1956, trong một đợt lùng bắt ở Đà Lạt, do trong nhà có cả bản Tiến quân ca của nhạc sĩ Văn Cao, người mà Hoàng Nguyên rất ái mộ, Hoàng Nguyên bị bắt và đày ra Côn Đảo khoảng năm 1957. "... Ở Côn Sơn, thiên tình sử của người nghệ sĩ Hoàng Nguyên mở đầu với cảnh tình éo le và tan tác. Là một tài hoa đa dạng, người tù Hoàng Nguyên được vị Chỉ Huy Trưởng đảo Côn Sơn mến chuộng nên đã đưa chàng ta về tư thất dạy Nhạc và Việt văn cho con gái ông, tên H. năm đó khoảng 19 tuổi... Mối tình hai người nhóm lên vũ bảo. Trăng ngàn sóng biển đã là môi trường cho tình yêu ngang trái nầy nẩy nở. Chợt khi người con gái của Chúa Đảo mang thai. Mối tình hai nhịp so le bị phát giác. Để giữ thể thống cho gia đình. Vị Chúa Đảo giữ kín chuyện nầy và chỉ bảo riêng với người gây ra tai họa là nhạc sĩ Hoàng Nguyên: ông ta đòi hỏi Hoàng Nguyên phải hợp thức hóa chuyện lứa đôi của hai người với điều kiện vận động cho người nhạc sĩ được trả tự do..." (Lâm Tường Dũ - Tình Sử Nhạc Khúc). Hoàng Nguyên được trả tự do, trở về Sài Gòn, tiếp tục sáng tác và dạy học ở trường tư thục Quốc Anh. Năm 1961, Hoàng Nguyên theo học tại Đại học Sư Phạm Sài Gòn, ban Anh văn. Trong thời gian theo học đại học, Hoàng Nguyên có quen biết với ông Phạm Ngọc Thìn, thị trưởng thành phố Phan Thiết. Bà Phạm Ngọc Thìn là nữ diễn viên Huỳnh Khanh, mến mộ tài năng của Hoàng Nguyên đã nhận ông làm em nuôi. Hoàng Nguyên dạy kèm cho Ngọc Thuận, con gái ông bà Phạm Ngọc Thìn. Hai người yêu nhau và Hoàng Nguyên trở thành con rể ông bà Phạm Ngọc Thìn. Trước đó Hoàng Nguyên có ý định quay lại với cô gái ở Côn Sơn, nhưng cô đã đi lấy chồng. Ca khúc Thuở ấy yêu nhau ra đời trong khoảng thời gian đó. Năm 1965, Hoàng Nguyên bị động viên vào Trường Bộ binh Thủ Đức của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Sau đó ông chuyển về Cục Quân Cụ, dưới quyền của Đại tá nhạc sĩ Anh Việt Trần Văn Trọng và được giao quản lý ban nhạc Hương Thời Gian của Anh Việt. Hương Thời Gian xuất hiện trên truyền thanh và truyền hình Sài Gòn đã thu hút khá đông khán thính giả. Ông qua đời vào ngày 21 tháng 8 năm 1973 ở Vũng Tàu trong một vụ tai nạn giao thông. Tác phẩm Ai lên xứ hoa đào (1961) Anh đi mai về (1954) Anh đi về đâu (1961) Bài thơ hoa đào (1960) Cho người tình lỡ (1970) Đà Lạt mưa bay (Hoàng Nguyên & Ngô Xuân Hậu) Đàn ơi xa rồi (1954) Đi giữa quê hương (1970) Đừng trách gì nhau (1970) Đường nào em đi Đường nào lên Thiên Thai (1960) Duyên nước tình trăng (1957) Em chờ anh trở lại (1963) Gió mới (1955) Gió trăng ngàn (1965) Gió thu về (1960) Hương thu về (1954) Lá rụng ven song (1960) Lời dặn dò (1965) Lời người ở lại Người em Tây Đô (Hoàng Nguyên & Đỗ Kim Bảng) (1963) Nước mắt đêm xuân (Tâm sự đêm xuân) (1964) Sao em không đến (1968) Tà áo tím (1963) Thuở ấy yêu nhau (1964) Tiếng hai đêm (1957) (Hoàng Nhân) Tiếng chuông Linh Mụ (Hoàng Nguyên & Tô Kiều Ngân) (1968) Tình người miền Nam (Hoàng Nguyên & Hồ Đình Phương) (1957) Tìm về nhà em (1961) Tôi sẽ về thăm em (1962) Trăng về quê hương (1956) (Hoàng Nhân)
Đèo Ngang là đèo trên Quốc lộ 1 cũ vượt núi Hoành Sơn tại ranh giới của hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình. Đèo Ngang là một thắng cảnh của miền Trung Việt Nam, nổi tiếng qua bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan. Từ năm 2004 Hầm đường bộ Đèo Ngang được xây dựng, thay thế đoạn đường đèo vượt núi Hoành Sơn. Đèo Ngang có độ cao 250m (so với mục nước biển) Vị trí Đèo Ngang nằm trên Quốc lộ 1 ở ranh giới xã Kỳ Nam thị xã Kỳ Anh tỉnh Hà Tĩnh và xã Quảng Đông huyện Quảng Trạch tỉnh Quảng Bình, trên dãy Hoành Sơn Hoành Sơn là đoạn dãy Trường Sơn chạy ngang ra biển Đông. Đèo dài 6 km, đỉnh cao khoảng 250 m (750 ft), phần đất phía Quảng Bình (tức phần phía Nam) thuộc xã Quảng Đông, huyện Quảng Trạch, phần đất phía Hà Tĩnh (tức phần phía Bắc) thuộc xã Kỳ Nam,thị xã Kỳ Anh. Đèo Ngang cách thị xã Ba Đồn 24 km, cách bờ sông Gianh (một giới tuyến Bắc-Nam khác trong lịch sử Việt Nam về sau này) 27 km, cách thành phố Đồng Hới tỉnh Quảng Bình 80 km về phía Bắc (Đồng Hới ở phía Nam đèo Ngang), cách thành phố Hà Tĩnh tỉnh Hà Tĩnh 75 km về phía Nam (Hà Tĩnh ở phía Bắc đèo Ngang). Mới đây, Đèo Ngang được nhà nước Việt Nam lấy làm ranh giới giữa hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình. Còn xưa kia, Đèo Ngang là ranh giới giữa Đại Việt (và trước đó là Đại Cồ Việt, nhà Tiền Lê đào sông Nhà Lê nối từ Hoa Lư tới Đèo Ngang) với Chiêm Thành, từ sau khi người Việt giành được độc lập (năm 939, thời nhà Ngô) và trước thời kỳ Nam tiến của người Việt (năm 1069, thời nhà Lý). Thời Pháp thuộc đèo có tên trên bản đồ là Porte d'Annam. Đèo Ngang trong văn học Đèo Ngang là con đèo lịch sử đã đi vào ca dao, huyền thoại. Lê Thánh Tông, Nguyễn Thiếp, Vũ Tông Phan, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du, vua Thiệu Trị, Nguyễn Hàm Ninh, Bà huyện Thanh Quan, Nguyễn Phước Miên Thẩm, Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát... đã lưu dấu tại đèo Ngang và những tuyệt phẩm thơ cổ. Đặc biệt, bài thơ "Qua Đèo Ngang" của Bà huyện Thanh Quan rất nổi tiếng, được xem như vẽ lên bức tranh thủy mặc. Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà, Cỏ cây chen đá, lá chen hoa. Lom khom dưới núi, tiều vài chú, Lác đác bên sông, chợ mấy nhà. Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc, Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia. Dừng chân đứng lại, trời, non, nước, Một mảnh tình riêng, ta với ta.
Phạm Hữu Lầu (1906 - 1959) là người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên tại tỉnh Đồng Tháp. Ông là một trong bảy ủy viên của Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng do Trịnh Đình Cửu đứng đầu. Ban được lập ra để hợp nhất các cơ sở đảng ở trong nước, sau khi thành lập của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 2 năm 1930. Sau hiệp định Genève, ông làm Phó Bí thư Xứ uỷ, rồi Bí thư Xứ ủy Nam bộ cho đến năm 1959. Ông từ trần ngày 16 tháng 12 năm 1959 trên đất Campuchia do căn bệnh lao phổi. Ngày nay, ở thành phố Cao Lãnh và thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp, một số con đường mang tên ông. Tên của ông cũng được đặt cho trường Chính trị tỉnh Đồng Tháp. Cuộc đời Ông Phạm Hữu Lầu bí danh là Tư Lộ, sinh năm 1906 tại làng Hòa An, tổng An Tịnh, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là phường 4, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Thuở nhỏ, Ông học giỏi, nhưng vì gia đình nghèo, cha mất sớm, nên ông phải nghỉ học để làm nhiều nghề (thợ sơn, thợ hớt tóc...)để có tiền nuôi các em ăn học. Tháng 8 năm 1926, ông cùng một số bạn trẻ tham gia tổ chức lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh ở thị trấn Cao Lãnh. Tháng 9 năm 1928, Phạm Hữu Lầu được kết nạp vào tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội, được bầu làm tổ trưởng, đến tháng 10 năm 1929 được kết nạp vào An Nam Cộng sản Đảng, được đề cử vào Ban chấp hành lâm thời trung ương An Nam Cộng sản Đảng, được rút lên Sài Gòn và chỉ định đi "Vô sản hoá" ở đề pô xe lửa Dĩ An. Năm 1930, ông được đề cử vào Ban chấp hành lâm thời trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Giữa năm 1930, ông đi dự hội nghị BCH trung ương lâm thời lần thứ nhất ở Hương Cảng. Đến cảng Hải Phòng thì bị mật thám Pháp bắt đưa về nhà lao Hỏa Lò (Hà Nội), sau đó đưa về Sài Gòn xét xử, bị kết án chung thân, phát lưu và đày ra Côn Đảo. Ngày ngày 24 tháng 7 năm 1930, Phạm Hữu Lầu bị bắt tại Hải Phòng và bị Hội đồng đề hình Hà Nội họp tại Hỏa Lò ngày ngày 30 tháng 7 năm 1930 ra lệnh tống giam về tội "tham gia cuộc âm mưu nhằm phá hoại và thay đổi chính phủ Đông Dương và kích động các công dân hoặc là dân thường vũ trang chống lại các nhà cầm quyền". Năm 1936, Mặt trận Bình Dân lên cầm quyền ở nước Pháp đã quyết định ân xá một số lớn chính trị phạm ở Đông Dương, trong đó có Phạm Hữu Lầu. Sau khi ra tù, ông tham gia xứ ủy Nam kỳ và hoạt động trong nhóm Dân Chúng "Le peuple" ở Sài Gòn. Đến cuối năm 1939 ông lại bị thực dân Pháp bắt, kết án 5 năm tù và đày đi Côn Đảo. Cách mạng tháng Tám thành công, ông trở về Sa Đéc, được giao trách nhiệm làm Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Sa Đéc. Khi Pháp trở lại chiếm Sa Đéc (25/01/1946), ông lãnh đạo, tổ chức các phòng tuyến chiến đấu, ngăn chặn kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch. Để bảo tồn lực lượng, Ông và Tỉnh ủy quyết định chia lực lượng Quân, Dân, Chánh, Đảng của tỉnh ra làm 3 bộ phận, hai bộ phận do ông và Nguyễn Hữu Xuyến chỉ huy rút xuống miền Tây, một bộ phận ở lại bám Đồng Tháp Mười tiếp tục kháng chiến. Tháng 4 năm 1946, ông cùng bộ phận đi miền Tây trở về. Ông được bầu làm chủ nhiệm Việt Minh, sau đó làm Chủ tịch Ủy ban Hành chánh Kháng chiến tỉnh Sa Đéc. Cuối năm 1949, Ông được rút lên khu ủy khu VIII, rồi về Ban đại diện Ủy ban kháng chiến Hành chánh Nam bộ. Tháng 5 năm 1951, Ông về làm Bí thư Tỉnh ủy Mỹ Tho, kiêm ủy viên Ủy ban Kháng chiến Hành chánh phân liên khu miền Đông, phụ trách vùng Đồng Tháp Mười. Tháng 4 năm 1952, ông được phân công làm ủy viên ủy ban Kháng chién Hành chánh Nam Bộ phụ trách Công An và Thương Binh cho đến năm 1954. Sau hiệp định Genève, Ông làm Phó Bí thư Xứ uỷ, rồi Bí thư Xứ ủy Nam bộ cho đến năm 1959. Ông từ trần ngày 16 tháng 12 năm 1959 trên đất Campuchia do căn bệnh lao phổi. Năm 1985, Lãnh đạo tỉnh Đồng Tháp đưa hài cốt ông vế an táng tại nghĩa trang liệt sĩ của tỉnh (tại TP Cao Lãnh), và quyết định đặt tên trường Chính trị của tỉnh là Trường Phạm Hữu lầu, và đặt tên cho một số con đường ở nội ô thành phố Sa Đéc, thành phố Cao Lãnh mang tên ông. Tại quận 7 (TP Hồ Chí Minh) cũng có một con đường mang tên Phạm Hữu Lầu. Cuộc đời và sự nghiệp Cách mạng của Phạm Hữu Lầu mãi là tấm gương sáng cho hậu thế. Người dân Đồng Tháp tự hào về Phạm Hữu Lầu, người Cộng sản đầu tiên của tỉnh Đồng Tháp
Trần Thị Nhượng (tức Sáu Ngài hay cô giáo Ngài) là người tham gia Cách mạng tháng Tám năm 1945, sau đó trở thành bí thư Tỉnh ủy đầu tiên của tỉnh Sa Đéc thời đó (ngày nay là tỉnh Đồng Tháp), nơi có một ngôi trường và một con đường mang tên Trần Thị Nhượng để nhớ ơn bà. Thân thế và cuộc đời Bà còn có tên gia đình là Trần Thị Ngài, thường gọi là Sáu Ngài (theo thông lệ miền Nam), sinh ngày 15 tháng 3 năm 1896, tại làng Mỹ Trà, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là xã Mỹ Trà, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Cha mẹ và 6 anh em làm thợ thủ công hoặc buôn bán nhỏ. Năm 15-16 tuổi, bà vừa nuôi heo vừa học chữ tại nhà. Sau đó lên Sài Gòn học lấy được bằng Certificat, rồi trở về làng Hòa An, Cao Lãnh xin đi dạy học. Lúc này cả tỉnh Sa Đéc mới có 3 giáo viên là nữ giới. Bà chuyển xuống dạy ở Tân Dương, Cái Tàu Hạ, rồi trở về dạy ở trường làng Hòa An. Năm 1916, bà lên Sài Gòn học thêm tiếng Pháp. Một năm sau về trường Hòa An tiếp tục dạy học. Bà được thầy giáo Sa, giáo Cảnh tuyên truyền giác ngộ cách mạng. Ngày 15 tháng 6 năm 1928, bà được kết nạp vào Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Năm 1929, bà được kết nạp vào An Nam Cộng sản Đảng và làm Bí thư Chi bộ liên xã vào năm 1930. Tháng 12 năm 1930, bà bị Phủ Mẫn quận Cao Lãnh khám xét, bắt tại nhà, và giải bà về tỉnh khảo tra. Việc lấy cung không có kết quả, chính quyền thực dân chuyển bà lên giam tại Khám Lớn Sài Gòn. Cuối năm 1931, bà bị kêu án 8 tháng tù treo, bị quản thúc ở Cao Lãnh rồi Sa Đéc. Năm 1933-1934, bà cùng chồng lên Đốc Vàng, vừa sản xuất vừa xây dựng cơ sở cách mạng. Năm 1936, trở về Cao Lãnh, hoạt động phong trào Đông Dương Đại hội, bà công khai đứng ra bán sách báo. Năm 1939, khi Mặt trận Bình dân Pháp đổ, chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương thẳng tay đàn áp các phong trào yêu nước, bà bị bắt quản thúc tại nhà số 115, đường Vĩnh Phước, Sa Đéc cùng với hai con nhỏ. Bà tiếp tục hoạt động cách mạng và bị bắt kêu án 8 tháng tù giam. Chồng bà bị chính quyền thực dân bắt đi đày và hy sinh ngoài Côn Đảo. Ra tù bị quản thúc ở Sa Đéc, nhưng bà tìm mọi cách móc nối với cơ sở, tích cực đi tuyên truyền vận động cách mạng, lập lại Chi bộ, cử người đi liên hệ tìm lãnh đạo Đảng. Được bà Nguyễn Thị Thập giúp đỡ hướng dẫn, bà trở về Cao Lãnh gặp các đồng chí Cương, Nhạc, Lăng, Lương v.v. bàn và quyết định thành lập Tỉnh ủy lâm thời trong tháng 3 năm 1945. Bà được phân công làm Bí thư Tỉnh ủy, Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh. Cách mạng Tháng Tám 1945 nổ ra, bà trực tiếp chỉ huy quần chúng khởi nghĩa. Bà cùng đoàn đại biểu Mặt trận Việt Minh tiến vào dinh tỉnh trưởng và toà hành chính Sa Đéc, cưỡng chiếm chính quyền tại tỉnh. Cách mạng thành công, bà được phân công phụ trách công tác tài chính và nuôi quân. Từ giữa năm 1946 đến cuối năm 1949, bà làm Bí thư Tỉnh ủy Sa Đéc; sau đó được điều động về làm công tác Kinh tế - Tài chính của Trung ương cục, rồi công tác Phụ nữ Nam Bộ đến ngày đình chiến 1954. Những ngày đầu kháng chiến, để tập trung lo công tác, bà gởi con cho người thân nuôi dưỡng. Sau đó, cả hai người con đều bị bệnh nặng, từ trần ở tuổi thiếu nhi. Tập kết ra miền Bắc, năm 1955, bà làm Phó Giám đốc trại Nhi đồng. Từ năm 1959-1962, bà là Hiệu trưởng Trường Học sinh miền  số 6, ở Hải Phòng. Năm 1964, bà là Phó Giám đốc Trường Cán bộ Phụ nữ Trung ương. Năm 1966, bà nghỉ hưu. Sau năm 1975, bà trở về quê hương. Bà mất năm 1988, thọ 92 tuổi. Vinh danh Bà được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh. Tên bà được đặt cho trường trung học cơ sở ở xã Tân Qui Tây (nay là phường An Hoà), thành phố Sa Đéc và con đường trong nội ô thành phố Cao Lãnh, thành phố Sa Đéc. Chú thích
Sa Đéc là một thành phố thuộc tỉnh Đồng Tháp, Việt Nam. Vùng đất Sa Đéc xưa có tên Khmer là Phsar Dek, có hai cách hiểu thứ nhất người ta cho rằng Phsar Dek là tên của một vị nữ thần, thứ hai có thể hiểu từ Phsar Dek có nghĩa là Chợ Sắt. Xét về mặt lịch sử đây là đô thị lâu đời nhất tỉnh Đồng Tháp với tuổi đời trên 300 năm cùng lúc với Sài Gòn. Sa Đéc từng là tỉnh lỵ của tỉnh Sa Đéc cũ vào thời Pháp thuộc trước năm 1956 và trong giai đoạn 1966-1975 dưới thời Việt Nam Cộng hòa. Đặc biệt, thị xã Sa Đéc cũ lại giữ vai trò là tỉnh lỵ của tỉnh Đồng Tháp trong suốt giai đoạn 1976-1994, và sau đó theo Nghị định số 36-CP ban hành ngày 29 tháng 4 năm 1994, tỉnh lỵ tỉnh Đồng Tháp lại dời về thị xã Cao Lãnh (ngày nay là thành phố Cao Lãnh) cho đến nay. Sa Đéc trở thành thành phố trực thuộc tỉnh Đồng Tháp vào ngày 14 tháng 10 năm 2013 theo Nghị quyết số 113/NQ-CP. Thành phố Sa Đéc được công nhận là đô thị loại II ngày 10 tháng 2 năm 2018. Địa lý Thành phố Sa Đéc nằm ở vị trí trung tâm vùng nam sông Tiền, cách Thành phố Hồ Chí Minh 140 km về phía tây nam, cách thành phố Cần Thơ 40 km về phía tây bắc, cách thành phố Cao Lãnh 30 km và cách thành phố Hồng Ngự ở biên giới 90 km, giáp với tất cả các huyện phía nam của tỉnh Đồng Tháp, có vị trí địa lý: Phía đông và phía nam giáp huyện Châu Thành Phía tây giáp huyện Lấp Vò và huyện Lai Vung Phía bắc giáp huyện Cao Lãnh qua sông Tiền. Thành phố có diện tích 59,81 km², dân số năm 2019 là 106.198 người, mật độ dân số đạt 1.776 người/km². Thành phố Sa Đéc cùng với thành phố Cao Lãnh và thành phố Hồng Ngự tạo thành ba trung tâm kinh tế của tỉnh Đồng Tháp. Thành phố Sa Đéc là trung tâm kinh tế, tài chính, giáo dục và văn hóa, du lịch ở phía nam tỉnh Đồng Tháp. Thành phố Sa Đéc giữ vai trò trọng yếu là trung tâm của khu vực phía nam sông Tiền tỉnh Đồng Tháp. Hành chính Thành phố Sa Đéc có 9 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 6 phường: 1, 2, 3, 4, An Hòa, Tân Quy Đông và 3 xã: Tân Khánh Đông, Tân Phú Đông, Tân Quy Tây. Lịch sử Thời phong kiến Trước khi chúa Nguyễn khai phá miền đất phía Nam, Sa Đéc thuộc đất Tầm Phong Long của Thủy Chân Lạp, với tên gọi nguyên gốc là Phsar Dek. Nhiều người cho rằng Sa Đéc theo tiếng Khmer nghĩa là "chợ sắt". Tuy nhiên Sơn Nam và nhiều nhà nghiên cứu khác không chắc chắn lắm với luận điểm này, lại có quan điểm cho rằng nguyên gốc tên gọi Phsar Dek là tên một vị thủy thần Khmer. Khoảng cuối thập niên 1750, Chúa Nguyễn thành lập năm đạo ở miền Tây Nam Bộ, để bảo vệ cho Dinh Long Hồ trong đó có Đông Khẩu Đạo là thành phố Sa Đéc và một số huyện lân cận. Trong một thời gian dài, Sa Đéc từng là một trong những khu chợ sung túc nhất ở phía Nam. Năm 1832, sau khi Lê Văn Duyệt qua đời, vua Minh Mạng chia lại miền Nam thành ngũ trấn gồm lục tỉnh. Khi đó Sa Đéc lại thuộc phủ Tân Thành, tỉnh An Giang. Vào thời nhà Nguyễn độc lập, vùng đất huyện Châu Thành và thành phố Sa Đéc ngày nay ban đầu thuộc địa bàn các tổng An Hội, An Mỹ, An Thạnh, An Trung cùng thuộc huyện Vĩnh An, phủ Tân Thành, tỉnh An Giang. Năm 1839, đặt thêm huyện An Xuyên thuộc phủ Tân Thành do tách ra từ huyện Vĩnh An. Từ đó, các tổng An Thạnh và An Trung thuộc huyện Vĩnh An; các tổng An Hội và An Mỹ thuộc huyện An Xuyên. Năm 1836, các tổng An Hội, An Mỹ, An Thạnh, An Trung có các thôn trực thuộc như sau: Tổng An Hội gồm 5 thôn: An Tịch, Sùng Văn, Tân Lâm, Tân Quy Đông, Tân Xuân; Tổng An Mỹ gồm 7 thôn: An Thuận, Phú An, Phú Hựu, Phú Nhơn, Tân An Đông, Tân Hựu, Tân Nhơn; Tổng An Thạnh gồm 7 thôn: Hội An, Mỹ An, Tân An Trung, Tân Đông, Tân Khánh, Tân Khánh Tây, Tân Mỹ; Tổng An Trung gồm 6 thôn: Bình Tiên, Tân Phú, Tân Phú Đông, Tân Phú Trung, Tân Quy Tây, Vĩnh Phước. Thời Pháp thuộc Sau khi chiếm hết được ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ vào năm 1867, thực dân Pháp dần xóa bỏ tên gọi tỉnh An Giang cùng hệ thống hành chính phủ huyện cũ thời nhà Nguyễn, đồng thời đặt ra các hạt Thanh tra. Lúc bấy giờ, hạt Thanh tra Tân Thành được thành lập trên địa bàn phủ Tân Thành, tỉnh An Giang cũ. Trụ sở hạt Thanh tra Tân Thành đặt tại Sa Đéc. Lúc đầu, hạt Thanh tra tạm gọi tên theo tên các phủ huyện cũ, sau mới đổi tên gọi theo địa điểm đóng trụ sở. Về sau, hạt Thanh tra Tân Thành cũng được đổi tên thành hạt Thanh tra Sa Đéc., hạt Thanh tra Sa Đéc đổi thành hạt tham biện Sa Đéc. Theo Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 20 tháng 12 năm 1889 đổi tất cả các hạt tham biện thành tỉnh thì kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1900, tỉnh Sa Đéc được thành lập trên cơ sở đổi tên hạt tham biện Sa Đéc trước đó. Tỉnh lỵ Sa Đéc ban đầu đặt tại làng Vĩnh Phước thuộc quận Châu Thành (kể từ năm 1924). Sau này, thực dân Pháp hợp nhất 6 làng Tân Quy Đông, Tân Quy Tây, Tân Hưng, Tân Phú Đông, Vĩnh Phước và Hòa Khánh lại thành một làng lấy tên là Tân Vĩnh Hòa. Từ đó, tỉnh lỵ Sa Đéc thuộc địa bàn làng Tân Vĩnh Hòa. Thời Pháp thuộc, làng Vĩnh Phước và sau đó là làng Tân Vĩnh Hòa vừa đóng vai trò là quận lỵ quận Châu Thành và là tỉnh lỵ tỉnh Sa Đéc. Từ ngày 9 tháng 2 năm 1913 đến ngày 9 tháng 2 năm 1924, tỉnh Sa Đéc bị giải thể, toàn bộ diện tích tỉnh bị sáp nhập vào tỉnh Vĩnh Long. Sau năm 1924, tỉnh Sa Đéc được tái lập với 3 quận trực thuộc: Quận Châu Thành: tức thành phố Sa Đéc, một phần huyện Châu Thành và các vùng lân cận, trong đó có một phần huyện Lấp Vò ngày nay nằm dọc theo sông Tiền Quận Cao Lãnh: tức thành phố Cao Lãnh, huyện Cao Lãnh và một phần huyện Tháp Mười ngày nay Quận Lai Vung: tức huyện Lai Vung ngày nay và các vùng lân cận. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, chính quyền Việt Minh cho thành lập thị xã Sa Đéc trực thuộc tỉnh Sa Đéc. Tháng 6 năm 1951, thị xã Sa Đéc thuộc tỉnh Long Châu Sa. Nhưng đến tháng 10 năm 1954, tỉnh Long Châu Sa lại chia làm 3 tỉnh là Sa Đéc, Châu Đốc, Long Xuyên như cũ. Giai đoạn 1956-1976 Việt Nam Cộng hòa Năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa bỏ tỉnh Sa Đéc, phần bắc tỉnh này ở bờ trái (bờ bắc) sông Tiền nhập vào tỉnh Kiến Phong, phần nam tỉnh này ở bờ phải (bờ nam) sông Tiền (giữa sông Tiền và sông Hậu, gồm các huyện Lai Vung, Lấp Vò, Châu Thành, thị xã Sa Đéc) nhập vào tỉnh Vĩnh Long. Quận Châu Thành thuộc tỉnh Sa Đéc cũ được đổi tên thành quận Sa Đéc thuộc tỉnh Vĩnh Long. Lúc này, xã Tân Vĩnh Hòa (sau năm 1956 các làng gọi là xã) chỉ còn giữ vai trò là quận lỵ quận Sa Đéc. Nhưng đến ngày 24 tháng 9 năm 1966, chính quyền Việt Nam Cộng hòa lại tái lập tỉnh Sa Đéc. Tỉnh Sa Đéc mới tách ra từ tỉnh Vĩnh Long, chỉ gồm phần đất nằm giữa hai con sông Tiền Giang và Hậu Giang, với diện tích khoảng 900 km². Khi đó, quận Sa Đéc lại đổi tên thành quận Châu Thành như cũ. Ngày 14 tháng 3 năm 1968, quận Châu Thành lại bị đổi tên thành quận Đức Thịnh. Tỉnh lỵ tỉnh Sa Đéc khi đó có tên là "Sa Đéc", về mặt hành chánh vẫn thuộc xã Tân Vĩnh Hòa. Trong giai đoạn 1966-1975, xã Tân Vĩnh Hòa vẫn tiếp tục vừa đóng vai trò là quận lỵ quận Châu Thành (sau năm 1968 là quận Đức Thịnh) và là tỉnh lỵ tỉnh Sa Đéc. Trong thời kỳ trước năm 1975, Sa Đéc là một khu vực quân sự, chính trị quan trọng của Hoa Kỳ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa với một Căn cứ Sa Đéc tọa lạc tại trường Cao đẳng nghề Đồng Tháp ngày nay. Nhưng những hoạt động cách mạng không vì thế mà suy giảm, vẫn có những cơ sở đảng được thành lập và được người dân che chở. Chính quyền Cách mạng Chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cũng phân chia, sắp xếp lại các đơn vị hành chính trong tỉnh như bên chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Năm 1957, chính quyền Cách mạng cũng giải thể và sáp nhập tỉnh Sa Đéc vào tỉnh Vĩnh Long. Đồng thời, huyện Châu Thành cũ cũng đổi tên thành huyện Sa Đéc. Như vậy, lúc bấy giờ thị xã Sa Đéc và huyện Sa Đéc là hai đơn vị hành chính cấp huyện ngang bằng nhau và cùng thuộc tỉnh Vĩnh Long. Trong giai đoạn 1966-1974, địa bàn tỉnh Sa Đéc của chính quyền Việt Nam Cộng hòa vẫn do tỉnh Vĩnh Long của chính quyền Cách mạng quản lý. Do đó, huyện Sa Đéc và thị xã Sa Đéc vẫn thuộc tỉnh Vĩnh Long trong giai đoạn này. Bên cạnh đó, tên gọi "quận Đức Thịnh" cũng không được phía chính quyền Cách mạng công nhận và sử dụng. Tháng 8 năm 1974, Trung ương Cục miền Nam quyết định giải thể các tỉnh Kiến Phong và An Giang để tái lập các tỉnh Long Châu Tiền, Long Châu Hà và Sa Đéc. Tỉnh Sa Đéc gồm các huyện Chợ Mới, Cao Lãnh, Kiến Văn, Mỹ An và thị xã Cao Lãnh của tỉnh Kiến Phong cũ và các huyện Lấp Vò, Lai Vung, Châu Thành, thị xã Sa Đéc của tỉnh Vĩnh Long giao lại; tỉnh lỵ đặt tại thị xã Sa Đéc. Lúc này, huyện Sa Đéc cũng được đổi lại tên cũ là huyện Châu Thành thuộc tỉnh Sa Đéc. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn đặt thị xã Sa Đéc thuộc tỉnh Sa Đéc như trước đó cho đến đầu năm 1976. Từ năm 1976 đến nay Từ tháng 2 năm 1976, tỉnh Sa Đéc được sáp nhập với tỉnh Kiến Phong thành tỉnh Đồng Tháp. Thị xã Sa Đéc ban đầu vẫn là tỉnh lỵ tỉnh Đồng Tháp cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1994. Sau đó tỉnh lỵ được dời về thị xã Cao Lãnh (ngày nay là thành phố Cao Lãnh). Thị xã Sa Đéc ban đầu gồm 5 xã: Vĩnh Phước, Tân Quy Đông, Tân Quy Tây, Tân Hưng, Tân Phú Đông. Ngày 10 tháng 9 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 62-HĐBT về việc thành lập một số phường và xã mới thuộc thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp: Giải thể các xã Vĩnh Phước, Tân Quy Đông, Tân Quy Tây, Tân Hưng, Tân Phú Đông Thành lập các phường và xã sau đây: Thành lập phường 1 gồm có 4 khóm: 1, 2, 3, 4 (trước đây gọi là các ấp Vĩnh Hiệp, Vĩnh Thuận, Vĩnh Thới và Tân Bình) Thành lập phường 2 gồm có 3 khóm: 1, 2, 3 (trước đây gọi là ấp Hoà Khánh, Phú Mỹ và một phần của ấp Phú Thuận) Thành lập phường 3 gồm có 3 khóm: 1, 2, 3 (trước đây gọi là ấp Tân Long) Thành lập phường 4 gồm có 2 khóm: 1, 2 (trước đây gọi là ấp Tân Hưng và ấp An Thuận) Thành lập xã Tân Quy Tây gồm có 2 ấp: Tân Hoà, Tân An và một phần của xã Vĩnh Phước cũ Thành lập xã Tân Phú Đông gồm có 3 ấp: Phú Long, Phú Thuận và Phú Hoà Thành lập xã Tân Quy Đông gồm có 3 ấp: Tân Mỹ I, Tân Mỹ II và Sa Nhiên. Sau khi thành lập các phường, xã thuộc thị xã Sa Đéc thì thị xã có 7 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 4 phường: 1, 2, 3, 4 và 3 xã: Tân Quy Đông, Tân Quy Tây, Tân Phú Đông. Ngày 16 tháng 2 năm 1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 36-HĐBT về việc điều chỉnh địa giới hành chính thị xã Sa Đéc thuộc tỉnh Đồng Tháp: Tách 2 ấp Tân Huề, Tân Lợi gồm 890 hécta diện tích tự nhiên với 4.508 nhân khẩu của xã Tân Dương thuộc huyện Thạnh Hưng; 3 cồn Cát Sậy và Bồng Bồng gồm 152 hécta diện tích tự nhiên với 505 nhân khẩu của xã Bình Hàng Trung thuộc huyện Cao Lãnh để sáp nhập vào thị xã Sa Đéc. Thị xã Sa Đéc gồm 4 phường, 3 xã, có 4.005 hécta diện tích tự nhiên với 72.670 nhân khẩu. Địa giới thị xã Sa Đéc: Phía đông giáp huyện Châu Thành và sông Tiền Phía tây giáp huyện Lai Vung,Lấp Vò Phía nam giáp huyện Châu Thành Phía bắc giáp sông Tiền. Ngày 29 tháng 4 năm 1994, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 36-CP về việc di chuyển tỉnh lỵ tỉnh Đồng Tháp từ thị xã Sa Đéc về thị xã Cao Lãnh. Ngày 30 tháng 11 năm 2004, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 194/2004/NĐ-CP về việc thành lập các phường thuộc thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp: Thành lập phường Tân Quy Đông trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Tân Quy Đông. Thành lập phường An Hòa trên cơ sở 641,10 ha diện tích tự nhiên và 7.490 nhân khẩu của xã Tân Quy Tây. Sau khi các phường thuộc thị xã Sa Đéc thì thị xã có 9 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 6 phường: 1, 2, 3, 4, An Hoà, Tân Quy Đông và 3 xã: Tân Khánh Đông, Tân Quy Tây, Tân Phú Đông. Ngày 15 tháng 12 năm 2005, thị xã Sa Đéc được công nhận là đô thị loại III. Ngày 14 tháng 10 năm 2013, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị quyết số 113/NQ-CP về việc thành lập thành phố Sa Đéc thuộc tỉnh Đồng Tháp trên cơ sở toàn bộ 5.981 ha diện tích tự nhiên, 152.237 nhân khẩu và 09 đơn vị hành chính cấp xã của thị xã Sa Đéc. Thành phố Sa Đéc có 5.981 ha diện tích tự nhiên, 152.237 nhân khẩu và 09 đơn vị hành chính cấp xã gồm 06 phường: 1, 2, 3, 4, An Hòa, Tân Quy Đông và 03 xã: Tân Khánh Đông, Tân Quy Tây, Tân Phú Đông. Ngày 10 tháng 2 năm 2018, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định 210/QĐ-TTg 2018 công nhận thành phố Sa Đéc là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Đồng Tháp và là đô thị loại II đầu tiên của tỉnh Đồng Tháp. Kinh tế - xã hội Kinh tế Sa Đéc vốn đã rất nổi tiếng về sự hưng thịnh của mình từ khi mới thành lập. Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí nói Sa Đéc (Đồng Tháp) là vùng "lưu thông quán khái" (sông sâu nước chảy), đất đai phì nhiêu, giao thông thủy tiện lợi, nối liền hai miền Tiền và Hậu Giang". Lần hồi, với vị trí địa lý đặc biệt của mình, "Sa Đéc vừa là trung tâm sản xuất vừa là trung tâm thu gom, tập kết lúa gạo, lâm thủy sản và hàng hóa khác của địa phương, rồi dùng phương tiện vận tải thủy, chuyên chở lên bán tận Sài Gòn, Nam Vang và nhiều nơi khác, rồi thu mua hàng hóa ở các nơi này, chở về bán lại cho địa phương nhà". Trong Đại Nam nhất thống chí có ghi: Chợ Vĩnh Phúc tục gọi chợ Sa Đéc ở phía đông lỵ sở huyện Vĩnh An, chợ và phố ở ven sông liên tiếp với nhau dài đến năm dặm, dưới sông là trúc gác lên(hiểu là làm nhà bè trên tre) cửa nhà la liệt thành hàng hoặc mua bán tơ lụa và đồ dùng, hoặc mua bán dầu trám, dầu rái, nguyên liệu chính làm nghề xăm trét ghe thuyền, than gỗ chủ yếu làm nghề gốm thô, gạch ngói, mây tre, muối mắm, trên bờ và giữa sông hàng hóa san sát thật là nơi phồn hoa . Ngày nay thành phố vẫn không ngừng phát triển và lớn mạnh. Theo ông Tống Kim Quảng, Chủ tịch UBND thành phố Sa Đéc, tốc độ tăng trưởng GDP trong năm 2006 của thành phố tăng 19,04%; trong đó khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 26,06%, thương mại – dịch vụ tăng 16,87%, nông lâm thủy sản tăng 6,5%. Năm 2007 tốc độ tăng trưởng GDP của thành phố là 22%, thu nhập bình quân đầu người đạt 100,881 tỷ đồng. Nếu như năm 2006, giá trị sản xuất công nghiệp của thành phố đạt trên 1.374 tỷ đồng (tăng 26,47% so với năm 2005), thì năm 2007 ước đạt trên 1.899 tỷ đồng, tăng 41,91% so với năm 2006. Trong 6 tháng đầu năm 2008, nền kinh tế của thành phố tiếp tục có những diễn biến tốt, kinh tế tăng trưởng ở mức cao 20,03%, xấp xỉ mục tiêu kế hoạch cả năm 2008 (20,5%);giá trị sản xuất công nghiệp tăng trên 23,53%, tổng mức lưu chuyển hàng hoá và doanh thu dịch vụ tăng khoảng 26,5%, kim ngạch xuất khẩu tăng 55,45%, các khu vực kinh tế đều tăng cao so với năm 2007, thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt khá cao (trên 60%), vốn đầu tư xây dựng cơ bản thực hiện trên 51%. Năm 2011, nền kinh tế thành phố tiếp tục có những bước tiến ổn định. Tổng giá trị GDP ước đạt trên 11100.696 tỷ đồng tăng 15000,92% so năm 2008 trong đó công nghiệp- xây dựng tăng 18,51%, thương mại - dịch vụ tăng 15,36%, nông nghiệp tăng 3,98%, thu nhập bình quân đầu người ước đạt 26,87 triệu đồng/ người/ năm (giá thực tế). Công nghiệp Ước tính ngành công nghiệp - xây dựng chiếm 33,84% trong tổng cơ cấu GDP của thành phố. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp chiếm khoảng 40% giá trị của cả tỉnh. Ngày nay, toàn thành phố có 3 khu công nghiệp là A và C và C mở rộng, gọi chung là Khu công nghiệp Sa Đéc với tổng diện tích quy hoạch là 323 ha, tọa lạc tại phường Tân Quy Đông và phường An Hòa. Khu C có diện tích 180 ha nằm ở mạn bắc thành phố; tập trung sản xuất, chế biến các mặt hàng nông lâm thủy sản, thức ăn gia súc với một cảng nước sâu có thể tiếp nhận tàu 5000 DWT. Khu A có diện tích 140 ha, ở phía tây bắc thành phố. Các khu công nghiệp này có ảnh hưởng tác động không những với thành phố mà với các khu vực lân cận như Lai Vung, Lấp Vò, Châu Thành và đang là nơi thu hút nguồn lao động lớn. Do có vị trí trung tâm, nơi đây còn là đầu mối chính chuyển hàng hoá từ TP. Hồ Chí Minh về các huyện xung quanh và là đầu mối thu hút nhiều nguồn nông sản từ các tỉnh khác về để chế biến xuất khẩu. Năm 2009, giá trị sản xuất công nghiệp- TTCN là 3.101,73 tỷ đồng đạt 81,69% kế hoạch và tăng 10,74% so cùng kỳ Thương mại, dịch vụ Ngành thương mại – dịch vụ chiếm 57,68% trong tổng cơ cấu GDP của thành phố, có tốc độ phát triển nhanh, phân bố rộng khắp trong nội thành. Do đó thành phố được xem là đầu mối dịch vụ hàng đầu của toàn tỉnh. Hệ thống giao dịch, trao đổi hàng hóa phân bố rộng và ngày càng được nâng cao về quy mô lẫn chất lượng. Trên địa bàn thành phố hiện đã có nhiều ngân hàng chọn nơi đây để mở các chi nhánh và phòng giao dịch của mình. Phía đông nam là Bến xe Sa Đéc và Cảng Saigonshipmarin Đồng Tháp II có công suất 500 tấn - một cảng quan trọng trong hệ thống cảng của tỉnh Đồng Tháp, có thể đón tàu có trọng tải lớn và là nơi trung chuyển hàng hóa của tỉnh. Đến năm 2009, tổng mức lưu chuyển hàng hóa và doanh thu dịch vụ khoảng 3.731 tỷ đồng đạt 107,34% kế hoạch, tăng 28,86% so với năm 2008. Các trung tâm mua sắm Trung tâm thương mại thành phố Sa Đéc (khu siêu thị Vinatex cũ). Chợ Sa Đéc. Chợ đêm Sa Đéc. Chợ Nàng Hai. Chợ Cầu Đốt. Chợ Tân Quy. Chợ Phú Long (chợ Cái Cỏ). Trung tâm thương mại Vincom. Siêu thị Coopmart. Siêu thị Điện máy Chợ lớn. Hệ thống siêu thị VinMart+. Hệ thống Bách hóa xanh. Hệ thống Dienmayxanh Và nhiều điểm mua sắm khác. Các trung tâm vui chơi, giải trí Công viên Sa Đéc (công viên Chiến Thắng - Quảng trường Hồ Chí Minh). Làng hoa Sa Đéc (điểm du lịch nổi tiếng của tỉnh Đồng Tháp). Làng bột Sa Đéc. Nông nghiệp Nông nghiệp là ngành chiếm tỉ trọng thấp nhất-8,48% trong cơ cấu GDP. Điều đó đã thể hiện nên quá trình Công nghiệp hóa của thành phố. Ngành nông nghiệp phân bố chủ yếu tại các xã Tân Khánh Đông, Tân Quy Tây, một phần các phường An Hòa và Tân Quy Đông. Sa Đéc nổi tiếng với nghề trồng hoa mà tiêu biểu nhất là làng hoa Tân Quy Đông. Mỗi độ Tết về, nơi đây lại ngập tràn hương sắc, với đủ mọi loại hoa đa dạng. Ngoài ra, còn có các làng nghề nổi tiếng như Làng bột và bánh phồng tôm Sa Giang. Đặc biệt, Hủ tiếu Sa Đéc là một trong những loại hủ tiếu ngon nhất đồng bằng và được hầu hết các tỉnh biết đến. Y tế Sa Đéc có bệnh viện tuyến tỉnh là Bệnh viện Đa Khoa Sa Đéc. Trọng trách của bệnh viện Sa Đéc là bảo vệ sức khỏe của nhân dân thành phố Sa Đéc và các huyện: Châu Thành, Lai Vung, Lấp Vò. Nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân được đưa về các trạm Y tế xã, phường. Các trạm Y tế xã phường gồm: Phường 1, phường 2, phường 3, phường 4, phường Tân Quy Đông, Phường An Hòa, xã Tân Khánh Đông, Xã Tân Quy Tây, xã Tân Phú Đông. Trung tâm điều hành các hoạt động của các trạm Y tế là Trung tâm Y tế thành phố Sa Đéc. Ngoài ra thành phố còn có các bệnh viện tư nhân như Bệnh viện quốc tế Phương Châu, Bệnh viện mắt Quang Đức. Giáo dục Đây là nơi có truyền thống hiếu học lâu đời của tỉnh Đồng Tháp. Là địa phương đi đầu của ngành giáo dục tỉnh nhà nên ngành giáo dục của thành phố Sa Đéc đạt rất nhiều thành công. Nơi đây hiện đã có 12 nhà giáo đạt danh hiệu Nhà giáo ưu tú. Đặc biệt ngày ngày 23/9/2020, Sa Đéc được Tổ chức Giáo dục - Khoa học và Văn hóa Liên Hợp quốc (UNESCO) công nhận là ''Thành phố học tập toàn cầu'' cùng với thành phố Vinh của tỉnh Nghệ An. Hiện nay thành phố có: 7 trường đạt chuẩn quốc gia là: trường Trung học phổ thông thành phố Sa Đéc, trường Trung học cơ sở Trần Thị Nhượng, trường Trung học cơ sở Võ Thị Sáu,trường Trung học cơ sở Tân Khánh Đông, trường Trung học cơ sở Lưu Văn Lang, trường tiểu học Kim Đồng, trường mẫu giáo Sen Hồng. Và trường chuyên đầu tiên của tỉnh Đồng Tháp là trường Trung học phổ thông chuyên Nguyễn Đình Chiểu (được thành lập năm 2008 trên cơ sở cũ của trường Trung học phổ thông tư thục Đồ Chiểu đã giải thể và trường đã có cơ sở mới trên diện tích 5 ha-tọa lạc tại xã Tân Phú Đông). Cũng trong năm 2008, trường Trung học phổ thông Nguyễn Du chính thức được thành lập. Hạ tầng kỹ thuật Khu đô thị VinHomes Khu đô thị FLC LA VISTA Sa Đéc (đang xây dựng) Khu liên hợp thể dục thể thao thành phố Sa Đéc (đang xây dựng) Tổ hợp trung tâm thương mại 25 tầng tại khu đất trung tâm thương mại thành phố do tập đoàn T&T đầu tư xây dựng (đang xây dựng) Khách sạn Quốc tế Sao Mai quy mô 17 tầng nổi, 01 tầng hầm (chuẩn bị khởi công xây dựng) Khu đô thị ven sông phường 3 (chuẩn bị khởi công xây dựng). Giao thông Nằm ở vị trí thuận lợi nên thành phố có mạng lưới giao thông thủy bộ khá phát triển, với các trục giao thông chính như: Quốc lộ 80. Đường Vành đai Quốc lộ 80-Tránh thành phố Sa Đéc (đường cấp 1 đồng bằng với 6 làn xe, bề mặt đường rộng 18-20m). Đường ĐT848, ĐT852, ĐT853... Đường Vành đai Tây Bắc thành phố-ĐT852B. Đại lộ Hùng Vương và Hùng Vương nối dài. Đại lộ Trần Thị Nhượng. Đường Nguyễn Sinh Sắc (Quốc lộ 80 cũ). Đường Nguyễn Huệ. Đường Trần Hưng Đạo. Đường Nguyễn Tất Thành (đường Thống Nhất). Đường Trần Phú. Đường Nguyễn Cư Trinh. Đường Tôn Đức Thắng. Đường Nguyễn Văn Phát. Đường Phan Bội Châu. Đường Lý Thường Kiệt. Đường Lê Lợi. Đường Lê Thánh Tôn. Đường Lạc Long Quân. Đường Âu Cơ. Đường Ngô Gia Tự. Đường Sa Nhiên (đường Làng Hoa). Đường Phạm Hữu Lầu. Đường Hồ Tùng Mậu. Đường Đinh Tiên Hoàng. Đường Nguyễn Hữu Cảnh. Đường Nguyễn Thái Bình. Đường Nguyễn Chí Thanh. Đường Lê Duẩn. Đường Nguyễn Thị Minh Khai. Đường Võ Văn Phát. Đường Hoàng Sa (bên bờ sông Tiền). Đường Trần Văn Voi. Đường Lê Thị Riêng Cầu Hòa Khánh (cầu Nhà Thờ). Cầu Sắt Quay và cầu Hang. Cầu Sa Đéc. Cầu Sa Đéc 2. Bến phà Sa Đéc (nối Sa Đéc và huyện Cao Lãnh kết nối với ĐT650 và QL30). Cầu Cái Cỏ. Cầu Đội Thơ. Cầu Đốc Phủ Hiền. Cầu Bình Tiên. Cầu Trái Bí. Cầu Cái Sơn 1. Cầu Cái Sơn 2. Cầu Cái Sơn 3. Cầu Cái Sơn 4. Cầu Đình. Cầu Ngã Bát. Cầu Rạch Rắn. Cầu Nguyễn Tất Thành. (đang xây dựng) Sông Sa Đéc, sông Tiền, kênh Mương Khai (hướng đi Cần Thơ). Và hàng trăm con đường trong nội ô. Đây chính là những trục giao thông quan trọng, nối liền thành phố với các địa phương khác trong và ngoài tỉnh. Bên cạnh đó, hệ thống giao thông nội thị đang được nâng cấp và mở rộng, tất cả các tuyến đường đều được trải nhựa và có hệ thống đèn giao thông khá hoàn chỉnh, phục vụ tốt cho nhu cầu đi lại và phát triển kinh tế, đảm bảo mỹ quan đô thị. Sau khi tuyến cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận và cầu Mỹ Thuận 2 được đưa vào sử dụng sẽ rút ngắn thời gian đi từ Sa Đéc đến thành phố Hồ Chí Minh theo đó từ Sa Đéc đi theo Quốc lộ 80 chưa đến 20 km tới cầu Mỹ Thuận 2 rồi vào nút giao cao tốc đi thẳng tới TP.HCM. Cùng với đó tuyến cao tốc Mỹ Thuận - Cần Thơ sau khi hoàn thành cũng rút ngắn thời gian đi từ Sa Đéc đến Cần Thơ. Hiện nay thành phố có 4 tuyến xe buýt hiện đại do công ty Phương Trang khai thác gồm các tuyến: Sa Đéc - Cần Thơ, Sa Đéc - TP. Vĩnh Long, Sa Đéc - Ngã 3 Lộ Tẻ, Phà Sa Đéc - Tháp Mười. Tên đường của Sa Đéc trước 1975 Đường Bác sĩ Thinh, Nguyễn Tri Phương nay là đường Hùng Vương (đoạn đi qua xã Tân Phú Đông cũ). Đường Tống Phước Hòa nay là đường Trần Hưng Đạo. Đường Phan Thanh Giản và Quan Thánh nay là đường Nguyễn Huệ. Đường Tạ Thu Thâu nay là đường Đinh Tiên Hoàng. Đường Trần Hưng Đạo nay là đường Lê Thánh Tôn và đường Trần Quốc Toản. Đường Võ Tánh nay là đường Lý Thường Kiệt. Đường Quang Trung nay là đường Ngô Thời Nhiệm Đường Trưng Vương nay là đường Hồ Xuân Hương. Đường Lê Văn Duyệt nay là đường Trần Phú. Đại lộ Gia Long nay là đường Hai Bà Trưng. Đường Lê Quang Hiền nay là đường Bà Triệu. Đường Yersin nay là đường Lý Tự Trọng. Đường Đốc Phủ Hiền nay là đường Trần Văn Voi và Hoàng Sa. Đường Tạ Thu Thâu nay là đường Đinh Tiên Hoàng. Văn hóa Đặc sản Sa Đéc là vùng đất được thiên nhiên ưu đãi, với vị trí địa lý nằm giữa hai dòng sông Tiền và sông Hậu thuộc đồng bằng sông Cửu Long, cùng với hệ thống kênh rạch chằng chịt, thuận lợi cả về giao thông đường thủy lẫn đường bộ. Trong quá khứ, nơi đây đã trở thành đầu mối giao thương, tập trung lúa gạo lớn của khu vực miền Tây Nam Bộ với dân cư tập trung đông đúc. Là cầu nối giữa hai vựa lúa lớn nhất nước là Đồng Tháp Mười và vùng tứ giác Long Xuyên, Sa Đéc từ lâu tập trung nhiều doanh nghiệp kinh doanh, chế biến lúa gạo. Từ nguồn nguyên liệu phong phú là tấm (gạo khi xay xát bị bể vụn), làng bột Sa Đéc đã hình thành và phát triển hơn 100 năm qua. Theo UBND TP Sa Đéc, hiện làng nghề có gần 350 hộ sản xuất bột với hơn 2.000 lao động chủ yếu ở phường 2, xã Tân Quy Tây và Tân Phú Đông, mỗi năm cung ứng cho thị trường 30.000 tấn bột gạo. Sản phẩm bột gạo gồm hai loại: bột tươi cung cấp cho các nhà máy, cơ sở chế biến thực phẩm và bột khô dùng dự trữ, chế biến dần. Từ bột gạo Sa Đéc, người ta làm ra phở, hủ tiếu, bún, bánh canh, bánh ngọt và các sản phẩm ăn liền... Thực phẩm được chế biến từ bột Sa Đéc dai mà mềm, thơm ngon đặc trưng. Hiện nơi đây là đầu mối cung ứng bột cho các tỉnh miền Tây, TP.HCM, miền Đông Nam Bộ, xuất khẩu sang các nước Đông Nam Á và một số nước châu Âu. Một số đặc sản của vùng Sa Đéc như: Hủ tiếu Sa Đéc Lẩu gà nòi hầm sả Bánh tầm bì Bún cá Nem chua Bánh phồng tôm Tôn giáo Với lịch sử lâu đời nơi đây cũng là địa phương có đa tôn giáo như Phật giáo, Công giáo, Tin Lành (MN), Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Tịnh độ cư sĩ Phật hội, Cơ đốc phục lâm.v.v. Là địa phương có nhiều chùa nhất của tỉnh Đồng Tháp, thành phố Sa Đéc được nhiều người ví von là "đất Phật" với khoảng 50 ngôi chùa lớn nhỏ khác nhau. Những cơ sở thờ tự tiêu biểu của các tôn giáo: Phật giáo: - Chùa Bửu Quang (số 459 Hùng Vương, phường 1) là nơi đặt Văn phòng Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Đồng Tháp. - Chùa Phước Hưng (chùa Hương) là ngôi chùa cổ lâu đời, nơi đặt văn phòng Ban Trị sự GHPGVN Thành phố Sa Đéc. Chùa Phước Hưng có kiến trúc khá đặc biệt so với nhiều chùa cổ ở miền Nam, trông giống đình làng hơn là chùa. Chùa có 8 mái và 2 cấp, được lợp ngói âm - dương, gồm chánh điện, nhà tổ, nhà tiếp khách và một số hạng mục phụ khác. Năm 1846, sau một biến cố, chùa Minh Hương của người Hoa sáp nhập vào chùa Phước Hưng, khiến cho chùa có thêm tên gọi khác là chùa Hương. Trong chánh điện có bộ tượng phật A Đi Đà được tạc từ năm 1838, bằng đất sét thếp vàng không nung. Chùa còn có chiếc mõ gỗ từ năm 1888, có đặc tính khá thú vị khi trời nắng tiếng sẽ thanh hơn, còn trời mát tiếng sẽ trầm ấm. Sau gần 200 năm, chùa Phước Hưng vẫn còn những nét đặc trưng của kiến trúc xưa. Hiện, chùa đang được trùng tu cũng như xây dựng thêm. - Chùa Kim Huê bên rạch Cái Sơn là ngôi tổ đình lớn, nơi xuất phát của nhiều vị cao tăng ở miền Nam qua nhiều thời kỳ. - Chùa Phước Huệ là ngôi chùa lớn dành cho chư ni, cơ sở đào tạo ni giới của trường trung cấp Phật học tỉnh Đồng Tháp. 02 ngôi phủ của người Hoa (không phải chùa Phật giáo) nhưng đã gia nhập Giáo hội Phật giáo Việt Nam: - Thất Phủ Thiên Hậu Cung tục gọi Chùa Bà là ngôi phủ toạ lạc tại số 143, đường Trần Hưng Đạo, P.1, TP. Sa Đéc. Ngay từ cổng chùa, ngôi chùa mang kiến trúc đặc trưng của người Hoa tại Sa Đéc. Chùa Bà Thiên Hậu Sa Đéc có ngày lễ lớn chính trong năm, nhằm 23/3 và 9/9 âm lịch. Vào dịp Tết Nguyên đán hay rằm tháng Giêng, đây cũng là nơi được nhiều người lui tới để cầu nguyện. Chùa Bà Thiên Hậu Sa Đéc đã được UBND tỉnh Đồng Tháp công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh vào năm 2003. - Kiến An Cung (Chùa Ông Quách): Kiến An Cung tục gọi chùa Ông Quách là ngôi đền có niên đại trên trăm năm tuổi tọa lạc ngay trung tâm thành phố Sa Đéc, một trong những điểm du lịch Đồng Tháp thu hút đông đảo khách đến tham quan. Công trình khiến trúc tiêu biểu của văn hoá Trung Hoa này đã được công nhận là di tích lịch sử quốc gia năm 1990. Công giáo (Giáo phận Vĩnh Long): - Nhà thờ Sa Đéc (nhà thờ Hòa Khánh, phường 2), nhà thờ lớn nhất của giáo hạt Sa Đéc. Hạt Sa Đéc bao gồm thành phố Sa Đéc và các huyện Châu Thành, Lai Vung, Lấp Vò của tỉnh Đồng Tháp. - Nhà thờ Tân Quy (phường 3). - Nhà thờ Phú Long (xã Tân Phú Đông). - Tu viện Chúa Quan Phòng (phường 2). Hội thánh Tin Lành Miền Nam: - Nhà thờ Tin Lành Sa Đéc (đường Hùng Vương, phường 1). Cao Đài: - Cao Đài Tây Ninh - Thánh thất Sa Đéc (đường Lê Lợi, phường 3). - Cao Đài Ban Chỉnh Đạo (đường Hoàng Sa, phường 3). Tịnh Độ cư sĩ Phật hội Việt Nam: - Hưng Trung tự còn gọi là chùa Tịnh Độ (đường Phan Bội Châu, phường 1) là ngôi chùa của cư sĩ Phật hội đồng thời là cơ sở khám chữa bệnh Đông y từ thiện. Phật giáo Hòa Hảo: - Ban Trị sự xã Tân Phú Đông (ấp Phú Long, xã Tân Phú Đông). Cơ Đốc phục lâm: - Cơ sở sinh hoạt tọa lạc trên đường Nguyễn Văn Phát, phường 1. Và nhiều cơ sở khác. Sa Đéc trong văn học, nghệ thuật Địa danh Sa Đéc đã được nhiều người biết đến qua ca khúc Về miền Tây của 2 nhạc sĩ Y Vân- Vân Thế Bảo. Ngoài ra còn có 1 quyển sách phần nhiều nói về sự hình thành và phát triển của thành phố Sa Đéc, tập sách đó có tên Hương quê thương nhớ của tác giả Nhất Thống do Nhà xuất bản tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh phát hành năm 2009. Tác phẩm Người tình (tiểu thuyết) kể về mối tình lãng mạn và phức tạp của một thiếu nữ mới lớn của một gia đình Pháp đang gặp khó khăn về tài chính với một người đàn ông gốc Hoa giàu có. Năm 1929, trên chuyến phà qua Đồng bằng sông Cửu Long trở về trường nội trú ở Sài Gòn sau kỳ nghỉ tại nhà ở Sa Đéc, cô gái trẻ 15 tuổi thu hút sự chú ý của một người đàn ông giàu có 27 tuổi, con trai một nhà tài phiệt người Hoa. Anh được thừa hưởng một khối tài sản. Anh bắt chuyện với cô và cô đồng ý trở lại thị trấn với anh trên chiếc xe limousine sang trọng. Du lịch Công viên Sa Đéc (công viên Chiến Thắng): Tại đây, giữa một khoảng không gian rộng lớn của trung tâm của quảng trường là tượng đài chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong dịp kỷ niệm những ngày lễ lớn, nơi đây còn diễn ra những cuộc mít tinh ngoài trời dưới chân tượng Bác Hồ có thể đủ chỗ cho 15 đến 20 ngàn người dự lễ, có nhiều công trình vui chơi dành cho thiếu nhi, nhiều công trình văn hoá - thể thao như: Trung tâm văn hoá mà trong đó được thiết kế nhiều phòng chức năng, có hội trường 1500 chỗ ngồi, có sân khấu ngoài trời,... Hiện tại công viên Sa Đéc (bao gồm cả quảng trường) đang thực hiện mở rộng với tổng diện tích 22 ha, nhiều công trình vui chơi, giải trí hiện đại được xây dựng và đã mở cửa chào đón du khách vào ngày 24/12/2009, bao gồm các trò chơi như: tàu lượn siêu tốc, đĩa bay, ếch nhảy, thảm bay,... tất cả các trò chơi đều được đầu tư chu đáo, phục vụ nhu cầu giải trí của mọi người. Làng hoa Sa Đéc - một trong những làng hoa lớn nhất Việt Nam, có diện tích trên 250ha với gần 2.000 hộ làm nghề. Ở đây có tới 1.000 chủng loại hoa. Nhờ sự khéo léo của người trồng hoa, chăm hoa; nhờ khí hậu thích hợp, hoa Sa Đéc đẹp có tiếng. Hoa Sa Đéc được xuất đi các tỉnh thành và cả sang Lào, Campuchia và Trung Quốc. Làng bột Sa Đéc - có tuổi đời hàng trăm năm với rất nhiều hộ làm nghề, tập trung chủ yếu ở xã Tân Phú Đông và một phần của phường 2. Ngoài ra còn có khu nhà cổ của ông Huỳnh Thủy Lê tại bờ kè Nguyễn Huệ, cạnh đó còn có chợ đêm nhộn nhịp, tại đây có rất nhiều hàng hoá dùng để trao đổi và mua bán không thua kém gì chợ ban ngày. Nhưng cơ sở hạ tầng du lịch nhất là khách sạn còn ít hiện tại chỉ có 1 khách sạn 3 sao là khách sạn Bông Hồng cùng một số khách sạn 2 sao và 1 sao. Nhiều dự án xây dựng Trung tâm Thương mại - Tài chính, khu du lịch, khu đô thị mới và khách sạn đang được triển khai xây dựng. Hiện nay thành phố Sa Đéc có 2 di tích cấp quốc gia đó là: - Nhà cổ Huỳnh Thủy Lê - Kiến An Cung (Chùa Ông Quách) Là một thành phố lâu đời, được hình thành gần như cùng lúc với Sài Gòn nên vùng có rất nhiều chùa miếu, nơi thờ tự, được mệnh danh là đô thị có nhiều chùa, miếu nhất tỉnh Đồng Tháp. Bên cạnh đó, nơi đây còn có nhiều di tích cấp tỉnh như: đình thần Vĩnh Phước, đình Tân Quy Tây (Tân Tây Võ Miếu), chùa Bà Thiên Hậu... Các ngôi chùa có lịch sử lâu đời: Chùa Kim Huê bên rạch Cái Sơn, chùa Phước Hưng (chùa Hương) trên đường Hùng Vương, chùa Phước Thạnh do vua Gia Long ra chiếu xây dựng... Ngoài ra, Sa Đéc còn có 17 ngôi nhà cổ được xây cất vào cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20 đều mang dấu ấn của kiến trúc Pháp. Hầu như bất kỳ du khách Pháp nào đến Sa Đéc đều đã từng ghé qua trường tiểu học Trưng Vương. Đây là một ngôi trường được xây dựng thời Pháp thuộc với nét kiến trúc khá hiện đại thời bấy giờ và nhà cổ Huỳnh Thủy Lê - nơi người tình của bà Marguerite Duras từng sinh sống. Danh nhân Bác vật Lưu Văn Lang - kĩ sư đầu tiên của Đông Dương và châu Á. Đào Thiên Hải- Đại kiện tướng cờ vua đầu tiên của Việt Nam. Anh hùng Phan Văn Út. Kinh Môn Quận công Nguyễn Văn Nhơn, ông là Tổng trấn đầu tiên của Gia Định Thành và là một trong Ngũ hổ tướng Gia Định. Nhất giai Lệnh Phi Nguyễn Thị Nhiệm, bà là con gái của Kinh Môn Quận công Nguyễn Văn Nhơn, năm 1823 bà cùng với bà Phạm Thị Hằng (sau này là Từ Dụ Hoàng Thái Hậu) được triều đình Nhà Nguyễn làm lễ cưới nạp vào phủ cho Hoàng trưởng tử Nguyễn Phúc Miên Tông (sau này là Vua Thiệu Trị). Cô Năm Sa Đéc, người sáng lập Thiện Tiền Ban - gánh hát bội đầu tiên ở Sa Đéc năm 1915, từng được vinh danh là một trong ngũ trân châu của ngành nghệ thuật tuồng cổ, tên tuổi cô Năm Sa Đéc còn sáng chói trong kịch nói và điện ảnh. Bà mất ngày 26.1.1988, yên nghỉ tại quê nhà Tân Khánh Đông. Nghệ sĩ Minh Nhí, một diễn viên Hài-Kịch nói từng 2 lần được trao giải Mai Vàng dành cho "Diễn viên kịch nói xuất sắc nhất" do báo Người Lao động tổ chức vào những năm 1998-1999[1]. Hiện nay, bên cạnh công việc biểu diễn, Minh Nhí còn đảm đương nhiều lĩnh vực và vị trí khác nhau như: diễn viên điện ảnh, đạo diễn sân khấu, giáo viên dạy diễn xuất[2], và giám đốc của công ty Hoàng Kim, một đơn vị chuyên tổ chức và dàn dựng các buổi biểu diễn nghệ thuật[3] Cát Phượng, là một nữ diễn viên hài, diễn viên kịch và diễn viên điện ảnh. Cô từng nhận được giải thưởng nữ diễn viên sân khấu được yêu thích nhất với vai Thị Nở trong vở kịch Chí Phèo của giải Mai Vàng 2001 và Giải Mai Vàng 2010 (với vai Nương trong vở kịch Cánh đồng bất tận).[1] Nghệ sĩ Phi Điểu tên thật Nguyễn Thị Phi, sinh năm 1933. Năm 1954, bà từ miền Nam tập kết ra Bắc, trở thành phát thanh viên giọng Nam bộ của Đài tiếng nói Việt Nam. Sau này về lại TP HCM, bà chuyển công tác vào đài phát thanh TP HCM. Nhà giáo ưu tú, Phó Giáo sư - Tiến sĩ Lê Bảo Lâm nguyên Bí thư Đảng ủy khối các trường đại học, cao đẳng thành phố Hồ Chí Minh; nguyên Bí thư Đảng ủy, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh. Tống Anh Hào, nguyên Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, nguyên Bí thư Thành ủy Sa Đéc. Phan Tấn Trung (Thầy giáo Ba), cựu tuyển thủ chuyên nghiệp bộ môn Liên Minh Huyền Thoại Việt Nam. Vân Quang Long, là một nam ca sĩ từng là cựu thành viên của nhóm nhạc nam 1088, sau đó trở thành ca sĩ hát đơn độc quyền của Kim Lợi Studio và có sự nghiệp solo thành công với nhiều bản hit đình đám trong những năm 2000. Hình ảnh
Mariah Carey (; sinh ngày 27 tháng 3 năm 1969) là một nữ ca sĩ kiêm sáng tác nhạc, nhà sản xuất thu âm và diễn viên người Mỹ. Được biết đến với quãng giọng dài 5 quãng tám, chất giọng du dương và khả năng sử dụng quãng sáo đặc trưng, bà được gọi là "Songbird Supreme" và Nữ hoàng nhạc Giáng sinh. Bà trở nên nổi tiếng vào năm 1990 với album đầu tay cùng tên, được phát hành dưới sự hướng dẫn của Tommy Mottola, giám đốc điều hành Columbia Records, người đã kết hôn với bà ba năm sau đó. Carey là nghệ sĩ đầu tiên trong lịch sử có 5 đĩa đơn đạt vị trí quán quân trên Billboard Hot 100, từ "Vision of Love" đến "Emotions". Bà đạt được thành công trên toàn cầu với các album tiếp theo Music Box (1993), Merry Christmas (1994) và Daydream (1995). Những album này bao gồm một số đĩa đơn thành công nhất của Carey, bao gồm "Hero", "Without You", "All I Want for Christmas Is You", "Fantasy", "Always Be My Baby", cũng như "One Sweet Day", đứng đầu bảng xếp hạng cuối thập kỷ Billboard Hot 100 của Mỹ (những năm 1990). Sau khi tách khỏi Mottola, Carey dần thay đổi hình ảnh và kết hợp nhiều yếu tố hip hop hơn vào âm nhạc của mình với Butterfly (1997). Billboard vinh danh bà là nghệ sĩ thành công nhất của đất nước những năm 1990, trong khi Giải thưởng Âm nhạc Thế giới vinh danh bà là nghệ sĩ âm nhạc bán đĩa nhạc chạy nhất thế giới những năm 1990 và nữ nghệ sĩ nhạc pop bán đĩa nhạc chạy nhất thiên niên kỷ. Sau 10 năm liên tiếp đứng đầu bảng xếp hạng đĩa đơn Hoa Kỳ, Carey chia tay Columbia vào năm 2001 và ký hợp đồng thu âm trị giá 100 triệu đồng với Virgin Records vào tháng 4 năm đó. Tuy nhiên, sau sự suy sụp về tinh thần và thể chất, cộng với thất bại về mặt thương mại và phê bình của bộ phim Glitter (2001) và nhạc phim đi kèm, hợp đồng của bà đã được Virgin mua lại với giá 28 triệu đô và bà đã ký hợp đồng với Island Records một năm sau đó. Sau một thời gian dài tương đối không thành công, bà đã trở lại vị trí quán quân bảng xếp hạng âm nhạc với The Emancipation of Mimi (2005), album bán chạy thứ hai thế giới năm 2005. Đĩa đơn thứ hai, "We Belong Together", đứng đầu bảng xếp hạng Billboard Hot 100 của Mỹ cuối thập kỷ (những năm 2000). Diễn xuất của bà trong bộ phim Precious năm 2009 đã giúp bà giành được Giải thưởng Nữ diễn viên đột phá tại Liên hoan phim Quốc tế Palm Springs. Các dự án tiếp theo của Carey bao gồm việc làm giám khảo cho American Idol, đóng vai chính trong loạt phim tài liệu Mariah's World, và xuất hiện trong các bộ phim The Butler (2013), A Christmas Melody (2015) và The Lego Batman Movie (2017). Với doanh số hơn 200 triệu đĩa trên toàn thế giới bà là một trong những nghệ sĩ âm nhạc bán đĩa nhạc chạy nhất mọi thời đại. Carey đã có mười chín bài hát đứng đầu bảng xếp hạng Billboard Hot 100 và giữ kỷ lục về số đĩa đơn quán quân của một nghệ sĩ solo, một nữ nhạc sĩ và một nữ nhà sản xuất thu âm. Theo Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA), bà là nữ nghệ sĩ được có nhiều chứng nhận nhất tại Hoa Kỳ, với 68,5 triệu đơn vị album được chứng nhận cùng với Barbra Streisand. Năm 2012, bà đứng thứ hai trong danh sách 100 phụ nữ vĩ đại nhất trong diễn xuất của VH1. Năm 2019, Billboard vinh danh bà là nữ nghệ sĩ vĩ đại nhất mọi thời đại tại Hoa Kỳ, dựa trên thành tích ở cả hai bảng xếp hạng album và đĩa đơn. Bên cạnh những thành công thương mại, Carey đã giành được năm giải Grammy, mười chín giải thưởng Âm nhạc Thế giới, mười giải thưởng Âm nhạc Mỹ, mười lăm giải thưởng Âm nhạc Billboard. Là thành viên chính thức của Đại sảnh Danh vọng Nhà soạn nhạc, bà được ghi nhận là người truyền cảm hứng đến nhiều nghệ sĩ khác, là thần tượng của nhiều bạn trẻ một thời. Cuộc đời và sự nghiệp Thời thơ ấu Mariah Carey sinh ngày 27 tháng 3 năm 1969 tại Huntington, New York, là con gái trong gia đình của Alfred Roy, một kỹ sư hàng không người Venezuela gốc Phi và Patricia (Hickey), người mang dòng máu Mỹ gốc Ireland. Họ Carey được lấy từ người ông có gốc gác từ Venezuela, Francisco Núñez, sau khi nhập cư tại New York. Patrica từng là một ca sĩ opera và giảng viên thanh nhạc trước khi gặp gỡ Alfred vào năm 1960. Một năm sau, cả hai kết hôn và dời đến khu ngoại ô tại New York. Dù vậy, gia đình của Patricia đã khước từ bà vì kết hôn với một người đàn ông da màu. Carey giải thích mình cảm nhận được sự ghẻ lạnh từ gia đình bên ngoại trong thời gian trưởng thành, điều mang ảnh hưởng to tát đến bà. Trong thời gian mang thai Carey và chị gái Alison, gia đình đa chủng tộc của bà phải chịu nhiều sự gièm pha từ cộng đồng. Tên của bà được lấy từ bài hát "They Call the Wind Maria", nằm trong vở nhạc kịch Broadway Paint Your Wagon (1951). Bố mẹ Carey ly hôn năm bà mới ba tuổi. Sau khi gia đình đổ vỡ, Alison về sống cùng bố, trong khi Mariah và em trai Morgan vẫn ở cùng mẹ. Carey trưởng thành tách biệt với bố mình và sau đó không còn gặp gỡ ông nữa. Năm 4 tuổi, Carey bắt đầu lén nghe đài phát thanh dưới chăn vào ban đêm, tập hát và cố tìm sự bình yên từ âm nhạc. Tại trường tiểu học, bà vượt trội trong nhiều môn học như âm nhạc, mĩ thuật và văn học, nhưng không thể tìm thấy niềm yêu thích ở các môn học khác. Sau nhiều năm gặp khó khăn tài chính, Patricia kiếm được đủ tiền để chuyển gia đình đến một khu vực ổn định và sung túc hơn ở New York. Carey bắt đầu làm thơ và thêm giai điệu vào chúng, trong khi tự thân trở thành ca sĩ kiêm sáng tác nhạc lúc theo học tại trường Trung học Harborfields, Greenlawn, New York. Carey trở nên vượt trội trong âm nhạc, tự nắm vững và kiểm soát quãng sáo thông qua các buổi luyện thanh cùng mẹ. Dù giới thiệu con gái mình về opera cổ điển, Patricia chưa từng áp đặt Carey đi theo con đường sự nghiệp chính quy, khi bà tỏ vẻ không quan tâm đến thể loại này. Carey nhớ lại việc mình phải giữ các sáng tác như một bí mật, nhận thấy Patricia "chưa bao giờ là một bà mẹ tự đề cao" và cảm thấy "vô cùng tôn trọng opera, nhưng chúng chưa bao giờ tạo cảm hứng cho tôi." Lúc ở trường Trung học, Carey sáng tác nhạc cùng Gavin Christopher. Họ cần một trợ lý có thể chơi keyboard: "Chúng tôi có gọi một người nhưng anh ta không đến, thế nên chúng tôi tình cờ gặp phải Ben [Margulies]. Ben đến phòng thu và chơi keyboard không thành thục cho lắm — anh ấy giống như một tay trống hơn — nhưng sau ngày hôm đó, chúng tôi giữ liên lạc và trở thành những nhà sáng tác nhạc ăn ý." Carey và Christopher bắt đầu sáng tác trong tầng hầm cửa hàng của bố ông, lúc Carey đang học năm cuối cấp. Sau khi cùng nhau soạn thảo bài hát đầu tiên, "Here We Go Round Again", được Carey mô tả mang hơi hướng Motown, cả hai tiếp tục sáng tác cho bản thu thử đầy đủ. Carey sau đó dọn đến một căn hộ tại Manhattan, nơi bà phải ở cùng 4 nữ sinh khác và làm công việc của một bồi bàn tại nhiều nhà hàng, dù thường bị đuổi việc chỉ sau hai tuần. Trong lúc phải làm việc để trả tiền thuê nhà, Carey vẫn mang nhiều hoài bão âm nhạc và tiếp tục miệt mài hợp tác cùng Margulies, với hi vọng hoàn thành bản thu thử. Sau khi hoàn tất băng thu thử gồm 4 bài hát, Carey dự định gửi chúng đến nhiều hãng thu âm nhưng đều thất bại. Không lâu sau, bà được giới thiệu đến ca sĩ nhạc pop đang nổi danh lúc bấy giờ, Brenda K. Starr. 1988–92: Mariah Carey và Emotions Khi tình bạn giữa Carey và Starr dần trở nên thắm thiết, cũng là lúc Starr mong muốn giúp bà đạt thành công trong ngành công nghiệp. Vào tháng 12 năm 1988, cả hai đến dự một buổi gala của hãng thu âm, nơi Starr đưa bản thu thử đến chủ hãng thu âm Columbia Records, Tommy Mottola. Chỉ sau hai bài hát đầu tiên, ông yêu mến giọng hát của Carey đến nỗi quay trở lại bữa tiệc lúc bà đã rời khỏi đó. Sau khi tìm kiếm Carey trong 2 tuần, ông ngay lập tức ký kết cùng bà và bắt đầu lập kế hoạch cho lần ra mắt thương mại đầu tiên. Trong khi bà vẫn mong muốn hợp tác cùng Margulies, Mottola lại đưa ra nhiều nhà sản xuất hàng đầu vào thời điểm trên, bao gồm Ric Wake, Narada Michael Walden và Rhett Lawrence. Mottola và đội ngũ của Columbia dự định quảng bá Carey như là nữ nghệ sĩ nhạc pop chính của hãng, cạnh tranh cùng Whitney Houston (Arista Records) và Madonna (Sire Records). Sau khi Carey hoàn thành album đầu tay cùng tên, Columbia chi trả hơn 1 triệu đô-la Mỹ để quảng bá nó. Dù không có khởi đầu khả quan, album này sau cùng vươn đến ngôi đầu Billboard 200, sau sự bùng nổ của Carey tại giải Grammy lần thứ 33. Mariah Carey nằm ở vị trí quán quân trong suốt 11 tuần liên tiếp, giúp bà giành giải Grammy cho "Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất" và "Trình diễn giọng pop nữ xuất sắc nhất" cho đĩa đơn "Vision of Love". Ngoài đĩa đơn này, album còn phát hành các đĩa đơn quán quân Billboard Hot 100 "Someday", "I Don't Wanna Cry" và "Love Takes Time". Carey trở thành nghệ sĩ đầu tiên kể từ The Jackson 5 có 4 đĩa đơn đầu tay đạt ngôi quán quân. Mariah Carey trở thành album bán chạy nhất tại Hoa Kỳ trong năm 1991, với doanh số vượt 15 triệu bản. Carey bắt đầu thu âm album thứ hai, Emotions vào năm 1991. Bà mô tả đây là sự thành kính trước dòng nhạc soul Motown, là thể loại âm nhạc gây ảnh hưởng đến bà khi còn nhỏ. Trong dự án này, Carey bắt tay cùng Walter Afanasieff, người có đóng góp ít ỏi trong lần ra mắt của bà, cùng Robert Clivillés và David Cole, từ nhóm nhảy C+C Music Factory. Mối quan hệ giữa Carey và Margulies trở nên xấu hơn bởi thỏa thuận hợp đồng cá nhân giữa Carey và ông trước khi bà ký kết cùng Columbia, không những chia hoa hồng tác quyền bài hát mà còn lấy đi phân nửa thu nhập của bà. Dù vậy, trong thời điểm sáng tác cho Emotions, hãng Sony khẳng định chỉ trả cho ông số tiền ngang bằng với các đồng tác giả khác. Margulies đệ đơn kiện Sony và sau cùng cả hai tan rã. Emotions ra mắt vào ngày 17 tháng 9 năm 1991 và nhận được hầu hết là các đánh giá tích cực, với nhiều ý kiến khen ngợi nét trưởng thành của album. Album đạt doanh số 8 triệu bản trên toàn cầu. Sau khi phát hành album đầu tay, nhiều nhà phê bình nghi ngờ liệu Carey có thể thực hiện một chuyến lưu diễn thế giới để quảng bá sản phẩm của mình hay không. Dù Carey giải thích chứng sợ sân khấu và phong cách bài hát của bà có thể khiến việc lưu diễn gặp nhiều khó khăn, nhiều suy đoán cho rằng âm vực 5 quãng tám của Carey bị chi phối ít nhiều bởi kỹ thuật phòng thu. Với mong muốn dẹp bỏ những suy luận cho rằng bà là một nghệ sĩ chế tạo, Carey và Walter Afanasieff quyết định xuất hiện trên MTV Unplugged, một chương trình truyền hình âm nhạc giới thiệu nghệ sĩ thông qua nhạc cụ mộc, phát sóng trên MTV. Trong khi Carey lựa chọn những bài hát nội tâm và mạnh mẽ, chương trình lại quyết định trình diễn những bài hát mang tính đại chúng hơn. Nhiều ngày trước khi ghi hình chương trình, Carey và Afanasieff dự định trình bày lại một bài hát cũ nhằm mang đến một điều gì đó khác biệt và bất ngờ. Vào ngày 16 tháng 3 năm 1992, Carey thu một loạt 7 bài hát tại Phòng thu Kaufman Astoria, đặt ở Queens, New York, trong đó có ca khúc "I'll Be There" của The Jackson 5. Chương trình được giới phê bình khen ngợi, với tần suất xuất hiện trên sóng truyền hình cao gấp 3 lần những tập khác. Thành công này khiến Sony quyết định quảng bá thông qua một EP ngắn với giá thành thấp. EP này đạt thành công, khi 3 lần được chứng nhận Bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) trong khi giành thêm nhiều chứng nhận đĩa Vàng và Bạch kim khác tại thị trường châu Âu. 1993–96: Music Box, bứt phá thành công và Daydream Carey bắt tay thực hiện album phòng thu thứ 3, Music Box vào đầu năm 1993. Sau khi Emotions không thể vượt qua thành công của album đầu tay, Carey và Columbia đi đến quyết định đưa dòng nhạc pop nhiều hơn trong album sắp tới, nhằm tiếp cận đến tầng lớp khán giả rộng hơn. Afanasieff là đồng tác giả và hợp tác sản xuất trong hầu hết album Music Box. Cũng trong thời gian thu âm, bà hẹn hò cùng Mottola và kết hôn vào ngày 5 tháng 6 năm 1993. Vào ngày 31 tháng 8, Music Box được phát hành trên toàn cầu và đạt vị trí quán quân Billboard 200. Các nhà phê bình đưa ra phản hồi trái chiều đến album; trong khi nhiều người khen ngợi ảnh hưởng pop cùng nội dung vững chắc của album, những ý kiến khác lại cảm thấy Carey ít sử dụng quãng giọng vốn có của mình. Nhà quán quân thứ 8 của Carey tại Hot 100, "Hero" trở thành một trong những bài hát phổ biến và gây cảm hứng nhất trong sự nghiệp của bà. Phiên bản trình bày lại "Without You" của bà được phát hành làm đĩa đơn thứ 3, trở thành đĩa đơn dẫn đầu tại Đức, Thụy Điển và Vương quốc Liên hiệp Anh. Music Box dẫn đầu tại các bảng xếp hạng album ở nhiều quốc gia và trở thành một trong những album bán chạy nhất mọi thời đại, với doanh số vượt 32 triệu bản. Sau khi từ chối lưu diễn từ hai album trước, Carey đồng ý mở đầu một loạt đêm nhạc ngắn hạn tại Mỹ mang tựa đề Music Box Tour. Chỉ kéo dài 6 ngày tại khu vực Bắc Mỹ, các đêm nhạc mang lại thành công và là một bước tiến lớn cho Carey. Theo sau Music Box, Carey bỏ ra một khoảng thời gian tương đối lớn nhằm tránh ánh mắt của dư luận và bắt đầu thực hiện một dự án bí mật trong suốt 1994. Vào tháng 10 năm 1994, Billboard thông báo Carey sẽ phát hành một đĩa nhạc mừng Giáng sinh vào thời điểm cuối năm. Cùng năm đó, Carey thu âm bản song ca cùng Luther Vandross; một phiên bản trình bày lại "Endless Love" của Lionel Richie và Diana Ross. Album Merry Christmas của Carey ra mắt cùng lúc với đĩa đơn đầu tiên, "All I Want for Christmas Is You" vào ngày 1 tháng 11 năm 1994. Merry Christmas trở thành album Giáng sinh bán chạy nhất mọi thời đại, với doanh số toàn cầu đạt 16 triệu đĩa. Giới phê bình khen ngợi "All I Want for Christmas Is You" và gọi đây là "một trong số ít những bài hát hiện đại xứng đáng có trong dịp lễ hội kinh điển." Rolling Stone mô tả bài hát là một "tiêu chuẩn cho mùa lễ hội" và xếp vào danh sách "Những bài hát Giáng sinh vĩ đại nhất của kỷ nguyên Rock and Roll". Về mặt thương mại, bài hát trở thành nhạc chuông dịp lễ bán chạy nhất mọi thời đại và là đĩa đơn bán chạy nhất bởi một nghệ sĩ ngoài châu Á tại Nhật Bản, với doanh số đạt 2.1 triệu bản (bao gồm cả tải nhạc số và nhạc chuông). Đến cuối dịp lễ hội năm 1994, Carey và Afanasieff đã bắt đầu sáng tác cho album phòng thu kế tiếp, được dự định phát hành vào cuối năm tới. Phát hành vào ngày 3 tháng 10 năm 1995, Daydream kết hợp những xúc cảm về pop của Music Box với những ảnh hưởng từ R&B và hip-hop. Đĩa đơn thứ 2 trích từ album, "One Sweet Day" được Carey lấy cảm hứng từ cái chết của David Cole và chị gái Alison, người được phát hiện mắc bệnh AIDS. Bài hát dẫn đầu Hot 100 trong suốt 16 tuần lễ, trở thành đĩa đơn quán quân có thời gian trụ hạng dài nhất lịch sử xếp hạng Hoa Kỳ. Daydream là album bán chạy nhất của bà tại Hoa Kỳ và là album thứ hai của bà đạt chứng nhận đĩa Kim cương bởi RIAA, sau Music Box. Ngoài ra, đây còn là album bán chạy nhất bởi một nghệ sĩ quốc tế tại Nhật Bản, khi đạt ngưỡng 2.2 triệu bản; với doanh số toàn cầu vượt 25 triệu bản. Giới phê bình gọi Daydream là tác phẩm xuất sắc nhất trong sự nghiệp của Carey; The New York Times xếp Daydream vào danh sách album xuất sắc nhất năm 1995 và viết rằng "những ca khúc hay nhất trong đĩa này đã đưa việc tạo những bản pop ngọt ngào lên một đỉnh cao mới của sự tinh tế [...] Khả năng sáng tác của Carey đã tiến một bước nhảy vọt, trở nên có tính giải trí hơn, gợi cảm hơn và ít dựa dẫm vào những ca từ sáo rỗng." Carey lần nữa tổ chức một chuyến lưu diễn toàn thế giới mang tên Daydream World Tour, bao gồm 3 ngày tại Nhật Bản và 4 ngày nữa tại khu vực châu Âu. Trong thời gian bán vé, Carey lập nên kỷ lục khi toàn bộ 150.000 vé trong 3 đêm diễn tại sân vận động lớn nhất Nhật Bản, Tokyo Dome, đã bán hết trong chưa đến 3 giờ đồng hồ, phá vỡ kỷ lục do The Rolling Stones nắm giữ. Theo thành công của album, Carey còn giành 2 giải Âm nhạc Mỹ cho hạng mục "Nữ nghệ sĩ Pop/Rock được yêu thích nhất" và "Nữ nghệ sĩ Soul/R&B được yêu thích nhất". Daydream cùng các đĩa đơn lần lượt giành được 6 đề cử tại giải Grammy lần thứ 38. Carey, cùng với Boyz II Men, mở đầu sự kiện này bằng màn trình diễn "One Sweet Day". Dù vậy, Carey không mang về bất cứ giải thưởng nào, khiến bà phát biểu "Bạn còn có thể làm được gì? Tôi sẽ không bao giờ bị thất vọng lần nữa. Sau khi ngồi xem cả chương trình và không thắng lấy một lần, tôi có thể chịu đựng tất cả." Vào năm 1995, dựa theo lượng doanh số lớn của Daydream tại Nhật Bản, Billboard vinh danh Carey là "Nghệ sĩ hải ngoại của năm" tại Nhật Bản. 1997–2000: Hình ảnh mới, Butterfly và Rainbow Sau thành công của Daydream, Carey bắt đầu tập trung vào đời sống cá nhân, khía cạnh thường xuyên gặp trục trặc của bà vào thời điểm trên. Mối quan hệ giữa Carey và Mottola dần đổ vỡ, dựa trên những bất đồng sáng tạo trong khi thực hiện album, cũng như bản tính khống chế của Mottola. Vào ngày 30 tháng 5 năm 1997, cả hai thông báo ly thân và chính thức ly hôn trong thời gian Mottola tái hôn lần thứ 3 vào ngày 11 tháng 10 năm 1997. Carey bắt đầu giành thế chủ động và kiểm soát âm nhạc trong album kế tiếp, trong khi hòa quyện nhiều thể loại vào tác phẩm của mình hơn. Trong Butterfly, bà hợp tác cùng nhiều nhà sản xuất và tác giả như Sean Combs, Kamaal Fareed, Missy Elliott, Jean Claude Oliver và Samuel Barnes từ Trackmasters. Cũng từ việc ly hôn cùng Mottola, Carey gọi album này là cách mà bà tận hưởng niềm tự do và một chương mới trong cuộc sống. Bên cạnh nội dung khác biệt, giới phê bình còn chú ý đến chất giọng mang tiếng thở (breathy vocals) của Carey trong album này. Phong cách ca hát mới này của bà gặp phải nhiều đánh giá trái chiều; một vài nhà phê bình xem đây là dấu hiệu của sự trưởng thành, trong khi nhiều người khác lại cho đây là sự suy yếu trong giọng hát của bà. Đĩa đơn đầu tiên trích từ album, "Honey" cùng video âm nhạc giới thiệu hình ảnh gợi cảm của Carey và thông báo sự tự do của bà trước Mottola. Carey tin rằng hình tượng của bà "không quá khác biệt trước những gì tôi đã thực hiện trong quá khứ [...] Đây không phải do tôi nổi điên và nghĩ mình muốn biến thành một rapper. Bản thân tôi cho rằng đây là đĩa nhạc mà tôi muốn làm bất cứ điều gì cũng được." Các đánh giá đến Butterfly đa phần là tích cực: Rolling Stone viết rằng "Không phải vì Carey hoàn toàn bỏ qua phong cách ngọt ngào đậm chất Houston trước đây [...] nhưng phong thái chủ đạo của 'Butterfly' là sự mơ màng gợi tình một cách điềm tĩnh." Stephen Thomas Erlewine từ AllMusic mô tả chất giọng của Carey "gợi cảm và đè nén hơn bao giờ hết" và gọi Butterfly là một trong những "đĩa thu âm xuất sắc nhất và cho thấy Carey vẫn tiếp tục cải thiện và định hình nên âm nhạc của chính mình." Album này giành được thành công về thương mại, dù không thể đạt đến ngưỡng của Mariah Carey, Music Box và Daydream. Carey nảy sinh quan hệ với cầu thủ bóng chày Derek Jeter của đội New York Yankees trong thời gian thực hiện một video âm nhạc vào tháng 9 năm 1997, trước khi tan vỡ vào năm 1998 do sức ép của giới truyền thông. Carey bắt đầu triển khai nhiều dự án vào cuối thập niên 1990. Vào ngày 14 tháng 4 năm 1998, Carey tham dự đêm nhạc từ thiện VH1 Divas cùng Aretha Franklin, Celine Dion, Shania Twain, Gloria Estefan và Carole King. Carey còn triển khai dự án phim All That Glitters, sau này được đổi tên thành Glitter và sáng tác nhiều bài hát cho các dự án khác, bao gồm Men in Black (1997) và How the Grinch Stole Christmas (2000). Sau khi Glitter gặp bế tắc, Carey hoãn lại dự án này và sáng tác cho album mới. Giám đốc hãng Sony Music muốn bà chuẩn bị cho một album tổng hợp trong dịp lễ hội sắp tới, bao gồm những đĩa đơn quán quân của bà tại Hoa Kỳ và phiên bản châu Âu của những bài hát dẫn đầu bảng xếp hạng quốc tế, mà không chứa bất kỳ nội dung mới nào. Album mang tên #1's (1998), bao gồm bản song ca "When You Believe" cùng Whitney Houston trong nhạc phim Hoàng tử Ai Cập (1998). #1's trở thành một hiện tượng tại Nhật Bản, khi đạt doanh số 1 triệu bản ngay trong tuần đầu lên kệ, giúp Carey trở thành nghệ sĩ quốc tế duy nhất mang về thành công này. Album vượt ngưỡng 3.25 triệu đĩa chỉ trong vòng 3 tháng đầu phát hành và giữ kỷ lục là album bán chạy nhất mọi thời đại bởi một nghệ sĩ ngoài châu Á tại quốc gia này. Mùa xuân 1999, Carey bắt đầu thực hiện album cuối cùng trong hợp đồng với hãng Sony. Vì áp lực và mối quan hệ lúng túng nảy sinh cùng Sony, bà hoàn thiện album này chỉ trong thời gian 3 tháng, nhanh hơn bất kỳ album nào của bà. Mang tựa đề Rainbow (1999), album có sự xuất hiện của nhiều nhà sản xuất và tác giả mới, như Jay-Z và DJ Clue?. Carey còn sáng tác hai bản ballad cùng David Foster và Diane Warren, người mà bà sử dụng để thay thế Afanasieff. Rainbow ra mắt vào ngày 2 tháng 11 năm 1999, mang về doanh số tuần đầu cao nhất trong sự nghiệp của bà vào thời điểm đó và mở màn tại vị trí thứ 2 trên Billboard 200. Trong khi đó, Carey lại gặp nhiều rắc rối cùng hãng Columbia, khi họ dừng việc quảng bá sau hai đĩa đơn đầu tiên của album. Họ cảm thấy Rainbow không có đĩa đơn nào đủ lực để phát hành, trong khi Carey mong muốn ra mắt một bản ballad. Vụ việc dẫn đến tranh cãi công khai, khi Carey bắt đầu đăng tải thông tin trên trang mạng của mình, tiết lộ thông tin đang còn tranh chấp, cũng như chỉ dẫn họ yêu cầu bài hát "Can't Take That Away (Mariah's Theme)" trên các trạm phát thanh. Bài hát sau cùng được phát hành giới hạn mà hầu như không có hoạt động quảng bá nào. Các đánh giá đến Rainbow đa phần là tích cực, với lời khẳng định từ Sunday Herald cho rằng album là "sự chập chững ấn tượng giữa các bản tình ca đậm chất soul và sự cộng tác với những nhân vật nặng ký trong thể loại R&B/hip-hop như Snoop Dogg và Usher [...] Đây là một tuyển tập tao nhã của thể loại pop-soul." Rainbow từng là album có doanh số thấp nhất trong sự nghiệp của Carey. 2001–04: Glitter, Charmbracelet và khó khăn cá nhân Sau khi nhận giải thưởng "Nghệ sĩ của thập niên" do tạp chí Billboard trao tặng và giải thưởng Âm nhạc Thế giới cho "Nữ nghệ sĩ bán chạy nhất thiên niên kỷ", Carey rời khỏi hãng Columbia và ký một hợp đồng thu âm 5 album trị giá 100 triệu đô-la Mỹ cùng hãng Virgin Records (EMI Records). Vào tháng 4 năm 2001, Carey được trao toàn quyền kiểm soát khái niệm và sáng tạo với dự án này. Bà muốn thực hiện một album hòa trộn với phong cách disco những năm 1980 và những thể loại tương tự, nhằm ăn khớp với bối cảnh của bộ phim. Carey thường đề cập rằng Columbia từng coi bà như một thứ hàng hóa, cùng sự chia tay với Mottola đã làm trầm trọng thêm mối quan hệ của bà với ban lãnh đạo trong hãng. Chỉ vài tháng sau, vào tháng 7 năm 2001, thông tin được công bố rộng rãi rằng Carey đang nhiều suy sụp nặng nề về thể chất lẫn tinh thần. Bà đăng tải thông điệp trên trang điện tử của mình, giải thích lý do vì làm việc quá sức và mối quan hệ với ca sĩ Luis Miguel đã kết thúc. Trong một buổi phỏng vấn vào năm kế tiếp, bà nói rằng "Những người xung quanh không thật sự hiểu tôi và tôi chẳng có người nào để giúp đỡ chuyện cá nhân. Tôi đã phải thực hiện những buổi phỏng vấn dài cả ngày, chỉ có 2 giờ mỗi đêm để ngủ." Do áp lực từ giới truyền thông, lịch trình công việc dày đặc và việc chia tay cùng Miguel, Carey bắt đầu đăng tải một loạt những thông điệp nhiễu loạn trên trang mạng của bà và cho thấy nhiều hành vi bất thường trong nhiều chương trình quảng bá trực tiếp; như lần xuất hiện bất ngờ trong giờ nghỉ quảng cáo của chương trình Total Request Live (TRL) của MTV, nơi bà mặc một chiếc áo thun lớn và bắt đầu múa thoát y, gây nên nhiều sự chú ý từ dư luận. Vào ngày 26 tháng 7, bà đột ngột nhập viện với lý do "vô cùng kiệt sức" và "suy sụp về thể chất lẫn tinh thần". Carey được chuyển vào một bệnh viện không được tiết lộ tại Connecticut và nhập viện trong vòng 2 tuần. Hãng Virgin Records và 20th Century Fox sau đó cũng dời lại lịch phát hành của Glitter lẫn album nhạc phim cùng tên. Cả hai sản phẩm đều vấp phải những lời chỉ trích từ giới phê bình và gặp thất bại về thương mại, khi Glitter trở thành album có doanh số thấp nhất của Carey vào thời điểm trên. Khi đề cập đến phản ứng thương mại yếu kém từ dự án này, Carey đổ lỗi cho tinh thần của bà vào thời điểm phát hành, sự trì hoãn và album nhạc phim ra mắt vào đúng sự kiện 11 tháng 9. Theo sau những tai tiếng về đời tư của Carey vào thời điểm trên, cùng thất bại về dự án điện ảnh, hãng Virgin Records (EMI Records) chính thức chấm dứt hợp đồng 100 triệu đô-la Mỹ cùng bà, cùng với số tiền đền bù 50 triệu đô-la Mỹ. Không lâu sau, Carey bay đến Capri, Ý trong 5 tháng nhằm sáng tác cho album mới và đúc kết những trải nghiệm cá nhân trong năm vừa qua. Carey sau đó phát biểu về quãng thời gian của bà tại Virgin "hoàn toàn căng thẳng [...] Tôi quyết định vội vàng chỉ vì tiền và tôi chưa bao giờ quyết định điều gì dựa trên tiền bạc. Tôi đã rút ra được một bài học lớn từ điều ấy". Cuối năm đó, bà ký một hợp đồng trị giá 24 triệu đô-la Mỹ cùng hãng Island Records và mở hãng đĩa riêng mang tên MonarC. Việc bố của bà qua đời vào mùa hè năm đó vì bệnh ung thư đã tạo thêm gánh nặng tinh thần cho Carey. Vào năm 2002, Carey được tuyển vai trong bộ phim độc lập WiseGirls, cùng với Mira Sorvino và Melora Walters trong vai những nữ bồi bàn tại một nhà hàng. Phim ra mắt lần đầu tại Liên hoan phim Sundance trong những phản hồi tiêu cực, dù vai diễn của Carey nhận được nhiều kết quả khả quan hơn; Roger Friedman từ Fox News gọi bà là "Thelma Ritter trong thiên niên kỷ mới" và viết rằng "Lời thoại của bà sắc bén và mang đến tiếng cười đúng nghĩa". Cuối năm đó, Carey nhận những lời khen ngợi khi trình bày quốc ca Hoa Kỳ tại giải đấu Super Bowl XXXVI, diễn ra ở Louisiana Superdome, New Orleans, Louisiana. Đến cuối năm 2002, Carey phát hành album phòng thu Charmbracelet, đánh dấu "một chương mới trong cuộc đời" của bà. Doanh số khiêm tốn của Charmbracelet và chất lượng giọng ca của Carey gặp phải nhiều tranh cãi. Joan Anderson từ The Boston Globe gọi đây là "album tồi nhất trong sự nghiệp của bà và bộc lộ một giọng hát không còn mềm mại và điêu luyện". Vào tháng 4 năm 2003, Carey thông báo về chuyến lưu diễn vào cuối năm mang tên Charmbracelet World Tour: An Intimate Evening with Mariah Carey, xuyên khắp Bắc Mỹ và khu vực Đông Á trong 3 tháng tại các sân khấu nhỏ. Riêng tại Hoa Kỳ, các buổi hòa nhạc diễn ra tại rạp hát nhằm mang ảnh hưởng từ Broadway và "mang tính thân mật hơn". Carey trình diễn tại nhiều sân vận động tại châu Á và châu Âu, với 35.000 khán giả tại Manila, 50.000 khán giả tại Malaysia và hơn 70.000 khán giả tại Trung Quốc. Charmbracelet World Tour: An Intimate Evening with Mariah Carey nhận được các đánh giá tích cực từ các nhà phê bình lẫn khán giả, với nhiều lời ngợi khen chất lượng giọng hát trực tiếp của Carey cùng phần sản xuất của chương trình. 2005–07: Sự trở lại ngoạn mục với The Emancipation of Mimi Trong suốt năm 2004, Carey tập trung sáng tác cho album phòng thu thứ 10, The Emancipation of Mimi (2005). Bà hợp tác phần lớn cùng Jermaine Dupri, Bryan-Michael Cox, Manuel Seal, The Neptunes và Kanye West. Album mở đầu tại vị trí số 1 trên các bảng xếp hạng tại nhiều quốc gia và được các nhà phê bình đánh giá tích cực. Caroline Sullivan của The Guardian gọi album này "tuyệt vời, tập trung và thời thượng [... một trong] những giai điệu đầu tiên của Mariah Carey trong nhiều năm qua mà tôi không cần được trả tiền để nghe lại", trong khi Elysa Gardner từ USA Today viết rằng "Những bài hát ballad và nhịp trung thực sự phản ánh được sự tự tin mới mẻ ở giọng ca vàng, người đã nắm bắt cơ hội và tiếp tục vút bay." Đĩa đơn thứ hai, "We Belong Together" trở thành bài hát "xác định lại sự nghiệp" của Carey vào thời điểm mà giới phê bình nhìn nhận sự nghiệp của bà đã chấm dứt và cảm thấy bài hát này có thể hồi sinh lại "niềm tin" vào triển vọng ở dòng nhạc ballad của Carey. "We Belong Together" phá vỡ nhiều kỷ lục tại Hoa Kỳ, là nhà quán quân thứ 16 của bà trên Billboard Hot 100 và trở thành bài hát quán quân có thời gian trụ hạng dài thứ hai trong lịch sử xếp hạng Hoa Kỳ, chỉ đứng sau "One Sweet Day" của chính bà cùng Boyz II Men vào năm 1996. Billboard gọi đây là "bài hát của thập niên" và là bài hát phổ biến thứ 9 mọi thời đại. Theo Nielsen BDS, bài hát phá vỡ kỷ lục khán giả phát thanh lớn nhất trong 1 ngày và 1 tuần tại Hoa Kỳ. Trong tuần lễ ngày 25 tháng 9 năm 2005, Carey trở thành nữ nghệ sĩ đầu tiên chiếm lĩnh hai vị trí cao nhất tại Hot 100, với "We Belong Together" nằm ở vị trí quán quân và "Shake It Off" tại ngôi Á quân. Trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 Year-end 2005, "We Belong Together" là bài hát đầu tiên trong sự nghiệp của Carey giành vị trí dẫn đầu. Album mang về 10 đề cử giải Grammy trong năm 2006–07: 8 đề cử vào năm 2006 cho phiên bản phát hành gốc (lần đề cử nhiều nhất của Carey trong 1 năm) và hai đề cử nữa vào năm 2007 cho phiên bản Ultra Platinum Edition. Vào năm 2006, Carey thắng giải "Album R&B đương đại xuất sắc nhất" cho The Emancipation of Mimi, cùng "Trình diễn giọng R&B nữ xuất sắc nhất" và "Bài hát R&B xuất sắc nhất" cho "We Belong Together". The Emancipation of Mimi là album bán chạy nhất tại Hoa Kỳ vào năm 2005, với gần 5 triệu bản tiêu thụ. Đây là album đầu tiên của một nữ nghệ sĩ đơn ca đạt được thành công này kể từ Jagged Little Pill của Alanis Morissette vào năm 1996. Cuối năm 2005, IFPI báo cáo The Emancipation of Mimi đã vượt ngưỡng 7.7 triệu đĩa tiêu thụ trên toàn cầu và là album bán chạy thứ hai trong năm, đứng sau X&Y của Coldplay. Đến nay, album đã chạm mốc 12 triệu bản trên toàn cầu. Để quảng bá album, Carey thực hiện chuyến lưu diễn đầu tiên trong 3 năm, mang tên The Adventures of Mimi: The Voice, The Hits, The Tour. Chuyến lưu diễn dừng chân tại 40 địa điểm, tại khu vực Bắc Mỹ, châu Phi và Nhật Bản. 2008–09: E=MC² và Memoirs of an Imperfect Angel Mùa xuân 2007, Carey bắt đầu thực hiện album phòng thu thứ 11, E=MC² tại một biệt thự riêng ở Anguilla. Dù E=MC² mang về các đánh giá tích cực, vẫn có một vài ý kiến chỉ trích album quá giống The Emancipation of Mimi. Hai tuần trước khi phát hành, "Touch My Body", đĩa đơn đầu tiên của album, trở thành nhà quán quân thứ 18 của Carey tại Billboard Hot 100, giúp bà phá vỡ kỷ lục của Elvis Presley cho nghệ sĩ đơn ca có nhiều đĩa đơn dẫn đầu nhất lịch sử xếp hạng tại Hoa Kỳ. Ngoài ra, Carey có tổng cộng 79 tuần đứng đầu Hot 100, lần nữa san bằng với Presley cho nghệ sĩ có nhiều tuần giữ vị trí cao nhất trong lịch sử xếp hạng Billboard. E=MC² mở đầu tại vị trí quán quân Billboard 200 với 463.000 bản, doanh số ra mắt lớn nhất trong sự nghiệp của bà. Vào năm 2008, Carey còn vào vai ca sĩ Krystal trong Tennessee và góp mặt trong bộ phim You Don't Mess with the Zohan của Adam Sandler. Carey gặp gỡ diễn viên Nick Cannon trong lúc ghi hình video âm nhạc "Bye Bye" trên một hòn đảo gần bờ biển Antigua. Vào ngày 30 tháng 4 năm 2008, Carey kết hôn cùng Cannon tại Bahamas. Dù Carey dự định thực hiện một chuyến lưu diễn quảng bá cho E=MC², bà đột ngột hủy chương trình vào đầu tháng 12 năm 2008. Carey sau đó khẳng định lúc đó mình đang mang thai và sau đó bị sảy thai, buộc bà phải dừng chương trình. Vào ngày 20 tháng 1 năm 2009, Carey trình bày "Hero" tại Buổi dạ vũ nhậm chức của Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama. Vào ngày 7 tháng 7 năm 2009, Carey cùng Trey Lorenz trình bày "I'll Be There" trong chương trình tưởng nhớ cố nhạc sĩ Michael Jackson. Vào năm 2009, bà xuất hiện trong Precious, chuyển thể điện ảnh từ tiểu thuyết Push (1996) của Sapphire. Bộ phim cùng diễn xuất của Carey được các nhà phê bình đánh giá tích cực, giúp bà nhận "Giải thưởng diễn xuất đột phá" tại Liên hoan phim quốc tế Palm Springs. Vào ngày 25 tháng 9 năm 2009, album phòng thu thứ 12 của Carey, Memoirs of an Imperfect Angel được phát hành. Phản hồi đến album đa phần là trái chiều; Stephen Thomas Erlewine của AllMusic gọi đây là "album thú vị nhất của bà ấy trong một thập kỷ", trong khi Jon Caramanica từ The New York Times phàn nàn việc lạm dụng giọng ca ở quãng thấp của Carey. Về mặt thương mại, album mở đầu ở vị trí thứ 3 trên Billboard 200 và từng là album có doanh số thấp nhất của Carey. Đĩa đơn mở đầu cho album, "Obsessed" ra mắt ở vị trí thứ 11 và vươn đến vị trí thứ 7 trên Hot 100, trở thành đĩa đơn đạt top 10 thứ 27 của Carey, giúp bà đồng hạng với Elton John và Janet Jackson ở vị trí thứ 5 trong số các nghệ sĩ có nhiều đĩa đơn top 10 nhất. Đĩa đơn tiếp theo, một phiên bản trình bày lại "I Want to Know What Love Is" của Foreigner, phá vỡ kỷ lục phát thanh tại Brazil, với 27 tuần dẫn đầu Brasil Hot 100 Airplay, trở thành bài hát quán quân lâu nhất lịch sử xếp hạng. Vào ngày 31 tháng 12 năm 2009, Carey mở đầu chuyến lưu diễn Angels Advocate Tour, xuyên khắp khu vực Bắc Mỹ và kết thúc vào ngày 26 tháng 9 năm 2010. Một album phối lại của Memoirs of an Imperfect Angel; mang tựa đề Angels Advocate được dự định phát hành vào ngày 30 tháng 3 năm 2010, nhưng sau cùng lại bị hủy bỏ. 2010–14: Merry Christmas II You và Me. I Am Mariah... The Elusive Chanteuse Sau khi hủy phát hành Angels Advocate, Carey thông báo trở lại xưởng thu để thực hiện album phòng thu thứ 13. Sau đó, thông tin được tiết lộ đây là phần tiếp nối của album Merry Christmas (1994). Trong album này, bà hợp tác cùng nhiều cộng tác viên lâu năm như Jermaine Dupri, Johntá Austin, Bryan-Michael Cox và Randy Jackson. Album mang tựa đề Merry Christmas II You ra mắt ngày 2 tháng 11 năm 2010; danh sách bài hát bao gồm 6 bài hát mới và một phiên bản phối lại của "All I Want for Christmas Is You". Merry Christmas II You ra mắt tại vị trí thứ 4 trên Billboard 200 với doanh số 56.000 bản, trở thành album đạt top 10 thứ 16 của Carey tại Hoa Kỳ. Album này mở đầu tại vị trí số 1 trên R&B/Hip-Hop Albums, trở thành album Giáng sinh thứ hai dẫn đầu tại bảng xếp hạng này. Vào tháng 5 năm 2010, Carey rút khỏi dự án For Colored Girls, chuyển thể điện ảnh từ vở kịch For Colored Girls Who Have Considered Suicide When the Rainbow Is Enuf, với lý do sức khỏe. Vào tháng 2 năm 2011, Carey thông báo bắt đầu sáng tác cho album phòng thu thứ 14. Bà còn tham gia trong một bài hát với Tony Bennett trong album Duets II (2011), mang tựa đề "When Do The Bells Ring For Me". Sau 35 tuần mang thai, Carey hạ sinh một cặp song sinh, Monroe và Moroccan, vào ngày 30 tháng 4 năm 2011. Vào tháng 10 cùng năm, Carey thu âm lại "All I Want for Christmas Is You" cùng Justin Bieber trong album Under the Mistletoe. 1 tháng sau, bà xuất hiện trong phiên bản phối lại của đĩa đơn "Warning" do Uncle Murda trình bày, cùng với 50 Cent và Young Jeezy. Vào ngày 1 tháng 3 năm 2012, Carey trình diễn tại Gotham Hall Thành phố New York, đánh dấu lần đầu tiên bà trình diễn từ khi mang thai. Bà được mời biểu diễn ba ca khúc tại một quỹ đặc biệt cho Tổng thống Mỹ Barack Obama tại Plaza Hotel, New York. Một bài hát mới mang tên "Bring It On Home" do Carey sáng tác để ủng hộ Obama tái đắc cử tổng thống trong nhiệm kỳ thứ hai. Vào tháng 8 năm 2012, Carey ra mắt một đĩa đơn mới mang tên "Triumphant (Get 'Em)" do bà hợp tác với Rick Ross và Meek Mill. Carey thế chỗ Jennifer Lopez trong ban giám khảo Thần tượng âm nhạc Mỹ mùa thứ 12, cùng Randy Jackson, Nicki Minaj và Keith Urban. Vào tháng 11 năm 2013, bà phát biểu mình ghét phải làm việc cùng Thần tượng âm nhạc Mỹ và bình luận về tranh cãi với Minaj trong chương trình "giống như phải làm việc hàng ngày trong địa ngục với quỷ Satan vậy". Carey xuất hiện trong bộ phim The Butler (2013) của Lee Daniels, kể về một người quản gia tại Nhà trắng phục vụ qua 8 đời Tổng thống Hoa Kỳ trong 3 thập kỷ. Carey góp giọng lồng tiếng trong loạt phim hoạt hình dành cho người lớn American Dad! vào ngày 24 tháng 11 năm 2013. Vào tháng 2 năm 2013, Carey thu âm và phát hành bài hát "Almost Home" cho bộ phim của hãng Walt Disney Studios, Oz the Great and Powerful. Bà thông báo về album phòng thu sắp tới vào tháng 3 năm 2013, trước khi phát hành đĩa đơn mở đầu "Beautiful", có sự góp mặt của ca sĩ Miguel, vào tháng 5 năm 2013, vươn đến vị trí thứ 15 trên Hot 100. Bà trình bày "Beautiful" cùng nhiều bài hát khác trong đêm chung kết Thần tượng âm nhạc Mỹ vào ngày 15 tháng 5 năm 2013. Bà phát hành thêm hai bài hát khác, "The Art of Letting Go" và "You're Mine (Eternal)", trước khi chính thức ra mắt album phòng thu Me. I Am Mariah... The Elusive Chanteuse vào ngày 27 tháng 5 năm 2014. Album ra mắt tại Hoa Kỳ ở vị trí thứ 3 với 58.000 bản, trở thành album phòng thu không thuộc ngày lễ có doanh số mở đầu thấp nhất của bà. Album xuất hiện tổng cộng 8 tuần lễ trên Billboard 200, thời gian xếp hạng ngắn ngủi nhất trong bất kỳ album phòng thu nào của Carey. Tính đến tháng 4 năm 2015, album đã tiêu thụ 122.000 bản tại Hoa Kỳ. Vào tháng 8 năm 2014, Cannon xác nhận đã ly thân với Carey vài tháng trước và đệ đơn ly dị cùng bà vào tháng 12 năm 2014. 2015–nay: Chương trình cố định, A Christmas Melody, Mariah's World và các dự án khác Đầu năm 2015, Carey thông báo về chương trình cố định tại The Colosseum at Caesars Palace, Las Vegas mang tên Number Ones và chính thức rời hãng Def Jam Recordings của Universal Music Group để sáp nhập cùng hãng L.A. Reid và Sony Music thông qua Epic Records. Cùng với chương trình cố định, Carey phát hành album tổng hợp #1 to Infinity bao gồm 18 đĩa đơn quán quân Billboard Hot 100 của bà cùng đĩa đơn mới "Infinity". Carey lần đầu tham gia đạo diễn trong bộ phim Giáng sinh A Christmas Melody trên kênh Hallmark Channel, bà cũng thủ vai chính trong phim. Phim phát hành vào tháng 12 năm năm 2015, thu hút 3.94 triệu người xem. Cùng tháng đó, Carey thông báo chuyến lưu diễn The Sweet Sweet Fantasy Tour kéo dài 27 tuần, bắt đầu từ tháng 3 năm 2016. Ngày 21 tháng 1 năm 2016, Carey và tỷ phú người Úc James Packer thông báo đính hôn. Ngày 15 tháng 3 năm 2016, Carey thông báo ghi hình Mariah's World, một series phim tài liệu cho đài E!, ghi lại chuyến lưu diễn Sweet Sweet Fantasy Tour và lên kế hoạch đám cưới. Chương trình lên sóng vào tháng 12 năm 2016, hai tháng sau khi bà và Packer thông báo hủy hôn. Tháng 10 năm 2016, Carey góp mặt trong loạt phim nhạc kịch Empire trong vai ca sĩ Kitty và trình bày ca khúc "Infamous" với Jussie Smollett. Ngày 5 tháng 12 năm 2016, Carey tham gia đêm nhạc từ thiện VH1 Divas: Holiday: Unsilent Night cùng Vanessa Williams, Chaka Khan, Patti Labelle và Teyana Taylor. Đêm ngày 31 tháng 12 năm 2016, màn trình diễn của Carey trên Dick Clark's New Year's Rockin' Eve ở Quảng trường Thời đại gặp trục trặc kỹ thuật ở tai nghe, khiến The New York Times phải thốt lên: "một tiết mục thảm họa." Ngày 3 tháng 2 năm 2017, Carey phát hành đĩa đơn "I Don't" kết hợp cùng YG. Trong MV của ca khúc, Carey đốt chiếc váy cưới đắt tiền mà cô định diện trong lễ thành hôn tỷ phú James Parker song cả hai đã chia tay vào phút chót. Ngày 8 tháng 2 năm 2017, bà tham gia lồng tiếng nhân vật Thị trưởng thành phố Gotham trong bộ phim hoạt hình The Lego Batman Movie. Vào tháng 4 năm 2017, Carey ra mắt hãng thu âm riêng của mình Butterfly MC Records, một đối tác chung với Epic Records. Vào tháng 7 năm 2017, Carey xuất hiện trong bộ phim hài Girls Trip, với sự tham gia của Nữ hoàng Latifah, Jada Pinkett Smith và Regina Hall. Cùng tháng đó, Carey bắt tay vào một chuyến lưu diễn cùng Lionel Richie All the Hits Tour. Carey góp giọng trong bản remix chính thức cho đĩa đơn "Unforgettable" cùng với Swae Lee. Tháng 10 năm 2017, Carey phát hành một đĩa đơn mới mang tên "The Star", đồng thời đây là bài hát chủ đề cho bộ phim cùng tên vào dịp Giáng sinh và nhận được một đề cử Quả cầu vàng cho Bài hát nhạc phim xuất sắc nhất. Carey cũng tham gia sản xuất bộ phim hoạt hình Giáng sinh có tựa đề "Mariah Carey's All I Want For Christmas Is You", cùng với một soundtrack có tên "Lil 'Snowman'". Bộ phim được phát hành vào ngày 14 tháng 11 năm 2017. Cũng trong tháng 11 năm 2017, Carey tiếp tục một chuỗi concert mới mang tên All I Want for Christmas Is You, a Night of Joy and Festivity. Đêm ngày 31 tháng 12 năm 2017, đúng 1 năm sau sự cố thảm họa tại Quảng trường Thời đại, Carey đã trở lại sân khấu này. Không có bất kỳ một sự cố nào xảy ra, bà có màn trình diễn hoàn mỹ với hai bản hit "Vision Of Love" và "Hero" trước sự hưởng ứng của đông đảo khán giả. Trong năm 2018, bà thực hiện tour diễn The Number Ones Tour. Carey đồng sản xuất cùng với Brett Ratner một bộ phim truyền hình về cuộc đời cô Starz. Bộ phim sẽ tập trung vào sự nổi tiếng sớm của Carey từ khi còn là một thiếu nữ ở thành phố New York. Năm 2018, Carey ký kết hợp đồng với Live Nation Entertainment. Điều khoản đầu tiên trong hợp đồng là tổ chức buổi hòa nhạc The Butterfly Returns vào tháng 7 năm 2018. Mười hai chương trình biểu diễn đầu tiên của buổi hòa nhạc vào năm 2018 đã thu về 3,6 triệu đô-la Mỹ. Sau khi hoàn thành The Butterfly Returns, Carey bắt đầu chuyến lưu diễn Mariah Carey: Live in Concert tại châu Á và châu Âu cùng với chuỗi concert All I Want for Christmas Is You của bà. Khi đang thực hiện chuyến lưu diễn, người đại diện của Sony Music Châu Á-Thái Bình Dương trao tặng Carey chứng chỉ đạt được 1,6 tỷ đơn vị bán hàng ở Châu Á-Thái Bình Dương. Bà cũng phát hành các cảnh quay trực tiếp về màn trình diễn "All I Want For Christmas Is You" trên YouTube. Vào tháng 9 năm 2018, Carey công bố kế hoạch phát hành album phòng thu thứ mười lăm của mình vào cuối năm nay. Dự án này được công bố cùng với việc phát hành bài hát mới có tên "GTFO", bà đã biểu diễn trực tiếp ca khúc này lần đầu tiên vào ngày 21 tháng 9 năm 2018 tại iHeartRadio Music Festival. Đĩa đơn chính của album "With You", được phát hành vào tháng 10 và được trình diễn lần đầu tiên tại American Music Awards 2018. Đĩa đơn trở thành một bài hát xếp hạng cao trên Adult Contemporary ở Mỹ kể từ "We Belong Together", và là bài hát xếp hạng cao thứ ba trong sự nghiệp của bà trên bảng xếp hạng này, đồng thời trở thành đĩa đơn top 10 ở Hungary. Đĩa đơn thứ hai "A No No", được phát hành vào tháng 3 năm 2019 và đạt vị trí thứ 17 tại Adult R&B Songs của Mỹ. Album mang tên Caution được phát hành vào ngày 16 tháng 11 năm 2018 và nhận được nhiều lời khen ngợi. Đến tháng 12 năm 2018, album được xuất hiện trong nhiều bảng xếp hạng âm nhạc cuối năm của các nhà phê bình và ấn phẩm âm nhạc. Vào tháng 2 năm 2019, Carey bắt đầu chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới Caution World Tour để quảng bá album. Buổi biểu diễn diễn ra trong ba ngày của nữ ca sĩ tại Royal Albert Hall, Michael Cragg của The Guardian mô tả "những màn trình diễn vui nhộn, đáng kinh ngạc" của Carey như một "diva nhạc pop mạ vàng". Tương tự, Kate Solomon của tờ Daily Telegraph ca ngợi các buổi biểu diễn là "một chương trình giới thiệu siêu thực nhưng cực kỳ thú vị về mặt tươi sáng hơn, vui nhộn hơn của biểu tượng nhạc pop". Nữ ca sĩ cũng tham gia một loạt các dự án kinh doanh và truyền hình. Vào ngày 29 tháng 5 năm 2019, bộ phim Always Be My Maybe, lấy cảm hứng từ bài hát "Always Be My Baby" được phát hành trên Netflix. Bộ phim đã nhận được đánh giá khen ngợi từ các nhà phê bình và là một thành công thương mại. Vào ngày 25 tháng 8 năm 2019, Carey đã ký hợp đồng quảng cáo trị giá 12 triệu đô-la Mỹ với nhãn hiệu Walkers. Carey xuất hiện trong quảng cáo của Walkers được phát hành vào ngày 2 tháng 11 năm 2019; nó được các nhà phê bình khen ngợi vì sự hài hước. Ngoài ra, Carey phát hành "In the Mix", bài hát chủ đề cho phim truyền hình "Mixed-ish" vào ngày 18 tháng 9 năm 2019. Ngày 1 tháng 11 năm 2019, Carey phát hành lại album Merry Christmas kỷ niệm 25 năm ra mắt. Album làm lại bao gồm album gốc, một đĩa CD ghi lại các buổi biểu diễn trực tiếp từ buổi hòa nhạc năm 1994 của Carey tại Nhà thờ St. John the Divine, một số bài hát từ Merry Christmas II You, cũng như các đĩa đơn khác như "Lil Snowman" và "The Star". Ngày 5 tháng 12 năm 2019, có thông báo rằng bài hát tiếp theo "All I Want for Christmas Is You" sẽ được sản xuất và ra mắt trên Amazon Music; nó được ra mắt vào cuối tháng đó. Đứng ở vị trí số 1 trên Billboard Hot 100 lần đầu tiên trong năm, bài hát đã kết thúc năm 2019 với việc Carey đứng đầu bảng xếp hạng thứ mười chín của cô tại Hoa Kỳ, không chỉ lập kỷ lục là nghệ sĩ solo với nhiều đĩa đơn đạt vị trí số 1 Hot 100 nhất và là nghệ sĩ duy nhất trong lịch sử có bài hát đạt vị trí số một trong bốn thập kỷ liên tiếp. Tháng 1 năm 2020, Carey sẽ được giới thiệu vào Songwriters Hall of Fame trong buổi lễ cùng năm vào ngày 11 tháng 6 năm 2020 tại khách sạn Marriott Marquis ở thành phố New York. Cùng tháng đó, người ta cũng đã tiết lộ rằng nữ ca sĩ sẽ phát hành cuốn hồi ký về mình, có tựa đề I Had A Vision of Love vào ngày 17 tháng 9 năm 2020, được phân phối thông qua cả Pan Macmillan và Henry Holt and Company. Ngày 29 tháng 3 năm 2020, Carey tham gia biểu diễn tại iHeart Living Room Concert for America do Elton John tổ chức, nơi bà biểu diễn bản hit Always Be My Baby. Sự kiện này đã gây quỹ được hơn 8 triệu đô la trong cuộc chiến chống lại dịch COVID-19. Phong cách nghệ thuật Ảnh hưởng Carey từng chia sẻ cảm hứng âm nhạc của bà đến từ Billie Holiday, Sarah Vaughan, hay những nghệ sĩ Soul/R&B như Gladys Knight và Aretha Franklin. Âm nhạc của bà còn có ảnh hưởng mạnh mẽ từ nhạc Phúc âm và bà kể tên The Clark Sisters, Shirley Caesar và Edwin Hawkins như là nguồn cảm hứng từ lúc còn bé. Khi Carey bắt đầu đưa hip-hop vào âm nhạc của mình, có suy đoán cho rằng bà tận dụng sự phổ biến của thể loại này, nhưng bà đã kể với tờ báo Newsweek, "Mọi người hoàn toàn không hiểu rằng tôi đã lớn lên với loại nhạc này". Bà bày tỏ sự tôn kính đến những rapper như The Sugarhill Gang, Eric B. & Rakim, Wu-Tang Clan, Notorious B.I.G. và Mobb Deep và với những người đã cộng tác cùng bà trong ca khúc "The Roof (Back in Time)" (1998). Carey còn mang những ảnh hưởng to lớn từ Minnie Riperton và bắt đầu thử nghiệm quãng sáo trong thời gian tập luyện quãng giọng. Trong sự nghiệp của Carey, giọng hát, phong cách âm nhạc và mức độ thành công của bà thường xuyên bị so sánh với Whitney Houston, người cũng được bà xem là nguồn cảm hứng, và Celine Dion. Trong cuốn sách She Bop II: The Definitive History of Women in Rock, Pop and Soul (2002), tác giả Lucy O'Brien đã so sánh "phong cách showgirl cổ điển" của Barbra Streisand với Carey và Dion và mô tả họ với Whitney Houston là "được tô vẽ và phóng đại đến sự hoàn hảo". Sự biến chuyển về âm nhạc của Carey sử dụng nhiều trang phục táo bạo hơn từ cuối thập niên 1990, góp phần làm xa rời hình ảnh cũ. Một vài nhận định cho thấy, khác với Whitney Houston và Celine Dion, Carey tự viết và sản xuất hầu hết các bài hát cho mình. Phong cách âm nhạc Tình yêu là đề tài chính trong lời ca của Carey, mặc dù bà cũng sáng tác về các chủ đề như phân biệt chủng tộc, cái chết, sự tha hóa xã hội và sự duy linh. Bà chia sẻ các tác phẩm của mình đều mang tính tự truyện; tạp chí Time có viết vào thời điểm mở đầu sự nghiệp của Carey: "Giá như âm nhạc của Mariah Carey có những sóng gió như ở đời thực của bà. Các bài hát ấy thường đường mật và mang chất soul ngọt ngào giả tạo. Đời sống của bà ấy lại mang niềm đam mê và xung đột nhiều hơn". Tác giả sau đó gọi khả năng sáng tác của bà được cải thiện và mang tính trưởng thành nhiều hơn qua thời gian. Jim Faber từ New York Daily News đánh giá rằng "Đối với Carey, xướng âm là phần trình diễn, không phải ở những cảm xúc tác động mà nên. Ca hát, đối với bà ấy, đại diện cho một thử thách về thể chất, thay vì bộc lộ cảm xúc." Trong khi nhận xét Music Box, Stephen Holden từ Rolling Stone cho rằng Carey hát với "niềm đam mê bền vững", trong khi Arion Berger của Entertainment Weekly nhận thấy trong một vài thời điểm, Carey trở nên "quá choáng ngợp khi chuyển niềm say mê thành lời." Các nhạc phẩm của Mariah Carey có sử dụng nhiều âm thanh của các nhạc cụ điện tử như trống điện tử, keyboard và máy hòa âm. Nhiều bài hát còn có tiếng đàn piano khi bà được học đàn từ hồi 6 tuổi. Carey khẳng định mình không biết đọc tờ nhạc bướm và thích được cộng tác với các nghệ sĩ piano khi sáng tác nhạc, trong khi nhận thấy việc sáng tác các giai điệu nhanh và ít "truyền thống" cùng các chuỗi hợp âm có vẻ dễ dàng hơn, cho rằng: "Giọng hát chính là nhạc cụ của tôi, nó vẫn luôn thế". Carey bắt đầu tham gia phối lại những sáng tác vào thuở đầu sự nghiệp và luyện tập thu âm hoàn toàn bằng chất giọng mới trong những phối lại. DJ David Morales nhiều lần hợp tác cùng Carey, bắt đầu với "Dreamlover" (1993), đưa phong cách house vào các bài hát R&B truyền thống, được tạp chí Slant vinh danh là một trong những bài hát dance vĩ đại nhất. Kể từ "Fantasy", Carey sáp nhập các nhà sản xuất hip-hop và house để giúp đỡ sáng tác album. Entertainment Weekly xếp hai bản phối lại của "Fantasy" vào danh sách thu âm xuất sắc nhất của Carey vào năm 2005. "Fantasy" cũng được xem là nhân tố hình thành nên trào lưu hợp tác R&B/hip-hop tiếp diễn đến thập niên 2000, ở các nghệ sĩ như Ashanti và Beyoncé. Giọng hát Loại giọng: Soprano Quãng giọng: F2 ~ A5 ~ F#6 ~ F#8 (6 quãng tám 1 bán âm) Quãng hỗ trợ thời prime: E3 ~ F5/F#5 ~ Bb5 (bao gồm giọng óc) Nốt belt cộng hưởng cao nhất :G5 Số nốt nhiều nhất chạy trong 1 giây: 13~16 nốt/s Carey sở hữu chất giọng trải dài 5 quãng tám và có khả năng vượt ngưỡng 7 quãng tám. Bà chia sẻ "Tôi có hạch ở dây thanh quản. Mẹ tôi bảo như thế từ khi tôi còn nhỏ. Đó là lý do vì sao tôi có quãng giọng cao nhưng vẫn mang giọng khàn [...] Tôi học được cách hát thông qua dây thanh quản của mình." Dù Carey khẳng định mình mang chất giọng alto, nhiều nhà phê bình lại cho rằng bà mang giọng hát soprano. Jon Pareles từ The New York Times mô tả quãng giọng alto thấp "màu mỡ, trầm khàn" đã mở rộng thêm "quãng sáo cao vút" của Carey. Cuối những năm 1990, Carey bắt đầu sử dụng chất giọng thở trong những sáng tác của mình; Trong khi Tim Levell từ BBC News mỏ tả chất giọng của bà "gợi cảm", USA Today lại cho rằng "Không thể nào chối bỏ những ảnh hưởng từ phong cách ca hát của bà [...] ở những ngôi sao nhạc pop và R&B trẻ tuổi ngày nay." Sasha Frere-Jones từ The New Yorker cho rằng chất giọng timbre của bà thể hiện nhiều sắc thái khác nhau, "âm thanh của Carey thay đổi ở gần như mọi câu hát, biến đổi từ giọng điệu đanh thép sang tiếng gầm rền vang, rồi tiếng thủ thỉ nhẹ nhàng." Bà còn có khả năng thực hiện quãng sáo, khi "chỉ trong một chốc, bà dường như vừa gầm và thét cùng một lúc." Được Sách Kỷ lục Guinness tôn vinh là "chim sơn ca tuyệt đỉnh", bà dẫn đầu danh sách "22 giọng ca vĩ đại nhất trong âm nhạc" của MTV và Blender. Nói về kết quả của cuộc bình chọn này, Carey cho biết: "Điều thực sự có ý nghĩa là tôi đã được góp mặt cùng MTV. Tất nhiên, danh hiệu này là một lời khen ngợi tuyệt vời dành cho tôi, nhưng tôi thực sự không cảm thấy như vậy về bản thân mình". Bà còn xếp thứ nhì trong danh sách "100 giọng ca pop nổi bật" của tạp chí Cove. Từ thiện và hoạt động khác Carey tham gia nhiều hoạt động từ các tổ chức từ thiện. Bà liên kết cùng Fresh Air Fund vào đầu những năm 1990 và là người đồng sáng lập nên trại dành cho trẻ em yêu thích nghệ thuật tại Fishkill, New York. Mang tên "Trại Mariah", chương trình ghi nhận những ủng hộ và đóng góp của bà cho quỹ Fresh Air, giúp bà nhận giải thưởng Congressional Horizon. Bà quyên góp lợi nhuận của bài hát "Hero" và "One Sweet Day" cho tổ chức từ thiện. Carey cũng được cả nước biết đến trong việc hợp tác với quỹ tài trợ Make-A-Wish để đem đến những ước mơ tới trẻ bị bệnh hiểm nghèo và giành giải Foundation's Wish Idol vào tháng 11 năm 2006. Carey còn xung phong tham gia vào liên đoàn điền kinh của Cảnh sát thành phố New York và đóng góp tại New York Presbyterian Hospital. Phần trăm doanh thu của MTV Unplugged đã được trích ra để đóng góp cho nhiều quỹ từ thiện khác. Vào năm 2008, Carey được vinh danh là Đại sứ đói nghèo bởi World Hunger Relief Movement. Vào tháng 2 năm 2010, bài hát "100%" được sử dụng làm bài hát chủ đề cho Thế vận hội Mùa đông 2010, với toàn bộ doanh thu được quyên góp cho Team USA. Một trong những buổi hòa nhạc gây quỹ đáng chú ý của Mariah Carey là sự xuất hiện trong Divas Live của VH1 (1998), nơi bà biểu diễn cùng với một số diva nổi tiếng khác để ủng hộ quỹ tài trợ Âm nhạc. Bà cũng xuất hiện trong America: A Tribute to Heroes sau những hậu quả to lớn của Sự kiện 11 tháng 9, đến tháng 12 năm đó bà bay tới Kosovo để biểu diễn trước lực lượng gìn giữ hòa bình tại khu vực này. Bà còn nhận vai trò người dẫn chương trình trong chương trình truyền hình đặc biệt của đài CBS At Home for the Holidays, kể về cuộc sống thực của những đứa trẻ mồ côi và gia đình nhận nuôi chúng. Năm 2005, bà biểu diễn trong chương trình Live 8 tại Luân Đôn và trong chương trình truyền hình Shelter From The Storm nhằm cứu trợ cho những nạn nhân của cơn bão Katrina. Tháng 8 năm 2008, Carey cùng các nghệ sĩ khác bao gồm Beyoncé, Rihanna và Mary J. Blige đã cùng nhau thu âm ca khúc "Just Stand Up!" để giúp chống lại căn bệnh ung thư cho chương trình từ thiện "Stand Up to Cancer". Vào tháng 3 năm 2011, nhà đại diện Cindi Berger của Carey khẳng định lợi nhuận của bài hát "Save The Day" sẽ được quyên góp cho các quỹ từ thiện gây nên nhận thức về nhân quyền. Từ chối xuất hiện trong các quảng cáo tại Hoa Kỳ khi khởi đầu sự nghiệp, Carey chủ động tham gia quảng bá nhãn hiệu máy tính cá nhân Intel Centrino, dòng trang sức và phụ kiện cho thiếu niên, Glamorized tại các cửa hiệu Claire's và Icing Hoa Kỳ vào năm 2006. Trong thời gian này, Carey hợp tác cùng Pepsi và Motorola thu âm và quảng bá một loạt nhạc chuông độc quyền, bao gồm "Time of Your Life". Bà ký một hợp đồng cùng hãng mỹ phẩm Elizabeth Arden và phát hành dòng nước hoa "M" vào năm 2007. Hợp đồng cùng The Elizabeth Arden mang về cho bà 150 triệu đô-la Mỹ. Vào năm 2007, Forbes xếp bà là người phụ nữ giàu có thứ 5 trong ngành công nghiệp, với tài sản ước tính trị giá 270 triệu đô-la Mỹ. Vào tháng 11 năm 2011, tài sản của bà được ghi nhận vượt ngưỡng 500 triệu đô-la Mỹ. Vào ngày 29 tháng 11 năm 2010, bà ra mắt bộ sưu tập nữ trang, quần áo và trang sức trên HSN. Vào tháng 11 năm 2011, Carey trở thành đại sứ toàn cầu mới của Jenny Craig, khi giảm với hệ thống này sau khi hạ sinh một cặp song sinh vào tháng 4. Di sản Phong cách âm nhạc của Mariah Carey mang những ảnh hưởng đáng kể trong ngành âm nhạc đương đại. Nhà phê bình âm nhạc G. Brown từ The Denver Post khẳng định "âm vực trải dài 5 quãng tám của Mariah Carey cùng kỹ thuật hát luyến đã gây ảnh hưởng đến thế hệ của nhiều ca sĩ nhạc pop." Theo Rolling Stone, "Kỹ thuật hát luyến của bà, những nốt dao động trang hoàng nên những bài hát như 'Vision of Love' đã gây cảm hứng đến lối hát theo kiểu Thần tượng âm nhạc Mỹ và hầu hết nữ ca sĩ R&B khác kể từ thập niên 90." Theo The New Yorker, bài hát được mệnh danh là bản hiến chương melisma" Jody Rosen từ Slate viết rằng Carey là một trong những giọng ca gây ảnh hưởng nhất trong hai thập kỷ qua. Dù mang giọng hát mạnh mẽ, kỹ thuật của Carey lại chủ yếu nằm ở việc sử dụng hát luyến và belting, tạo nên tranh cãi vì nhiều ca sĩ trẻ thường mô phỏng phong cách của bà trong trình diễn trực tiếp. Album thứ 2 của bà là Emotions, Albumđược mệnh danh là "bản hiến chương whistle register". Với các kĩ thuật showcase whistle khó như up-scale, runs, vibrato...Bà đã thể hiện rất nhiều kỹ thuật nhưng nó lại hợp lý và trở nên iconic vô cùng. Tư duy kỹ thuật vượt bậc của cô gái 18 tuổi lúc bấy giờ đã làm cho giới truyền thông phải nói chuyện nhiều. Đồng thời album cũng làm phổ biến whistle hơn bao giờ hết. Album thứ 4 của Mariah Carey là Merry Christmas đã làm phổ biến album-nhạc Giáng Sinh ở giới trẻ, trong khi trước đây, những thể loại về ngày lễ hội chỉ được viết bởi các nghệ sĩ lâu năm và coi như là món quà kết thúc hợp đồng với hãng đĩa. Và All I want for Christmas is you của bà được Rolling Stones mô tả bài hát là một "tiêu chuẩn cho mùa lễ hội" và xếp vào danh sách "Những bài hát Giáng sinh vĩ đại nhất của kỷ nguyên Rock and Roll" Nhiều nghệ sĩ gọi Carey là nguồn ảnh hưởng chính, như Aneeka, Ariana Grande, Britney Spears, Beyoncé, Katy Perry Lady Gaga Bridgit Mendler, Christina Aguilera, Jessica Simpson, Rihanna, Grimes, Kelly Clarkson, Nelly Furtado, Leona Lewis, Brandy Norwood, Pink, Mary J. Blige, Melanie Fiona, Missy Elliott và Jessica Sanchez. Theo Stevie Wonder, "Khi người ta nhắc đến ca sĩ mang nhiều ảnh hưởng vĩ đại, họ đề cập đến Aretha, Whitney và Mariah. Đó là điều chứng minh tài năng của bà ấy. Quãng giọng của bà thật tuyệt vời." Beyoncé gọi Carey và "Vision of Love" là điều gây cảm hứng để cô tập luyện giọng hát khi còn nhỏ, cũng như giúp cô theo đuổi nghiệp ca hát. Pier Dominguez, tác giả của Christina Aguilera: A star is made, Aguilera khẳng định chính Carey là nguồn ảnh hưởng lớn nhất đến phong cách ca hát và hình tượng phụ nữ trưởng thành của mình. Philip Brasor từ The Japan Times chỉ ra phong cách ca hát và luyến láy của Carey gây ảnh hưởng lớn đến ca sĩ châu Á, trong đó có ca sĩ người Nhật Utada Hikaru. Kelefa Sanneh của The New York Times bình luận rằng "Vào giữa thập niên 1990, Carey tiên phong trong một tiểu thể loại mà vài người gọi là song ca "thug-love". Giờ đây nhiều ngôi sao nhạc pop trong sạch được trông đợi hợp tác với nhiều rapper nổi loạn, nhưng khi Carey hợp tác với Ol' Dirty Bastard của Wu-Tang Clan trong bản nhạc thành công "Fantasy (Remix)" 1995, đó là một điều bất ngờ và đạt tiếng vang lớn". Sasha Frere-Jones, biên tập viên của tờ The New Yorker cho rằng Carey là "tiêu chuẩn cho các ngôi sao R&B/hip-hop như Missy Elliott và Beyoncé kết hợp giai điệu cùng phần rap. Các ngôi sao nhạc pop da trắng—bao gồm Britney Spears, 'N Sync và Christina Aguilera—đã trải qua gần 1 thập niên thực hiện nhạc pop mang ảnh hưởng đậm nét R&B." Hơn nữa, Jones còn cho rằng "Ý tưởng bắt cặp giữa một giọng ca nữ và một trưởng nam MC của dòng nhạc hip-hop đã thay đổi dòng nhạc R&B và sau cùng là tất cả nhạc pop. Cho dù ngày nay mọi người đều thực hiện ý tưởng này một cách công khai, thành công này của "Mimi" vẫn còn mãi thuộc về Carey." Judnick Mayard, tác giả của TheFader, cho rằng trong cuộc hợp tác giữa R&B và hip hop, "Người thắng cuộc trong cuộc phong trào này là Mariah Carey." Mayard còn khẳng định "Cho đến nay ODB và Mariah có thể vẫn là sự hợp tác xuất sắc và ngẫu nhiên nhất mọi thời đại", mà nhờ bản thu âm "Fantasy," "R&B và hip hop là anh em kế xuất sắc nhất." Thành tựu Trong xuyên suốt sự nghiệp, Carey đã giành được nhiều danh hiệu và giải thưởng, bao gồm giải thưởng Âm nhạc Thế giới cho "Nữ nghệ sĩ bán chạy nhất thiên niên kỷ", giải Grammy cho "Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất" vào năm 1991 và "Giải thưởng Thành tựu đặc biệt cho Nghệ sĩ của thập niên" của Billboard. Trong hơn hai thập kỷ hoạt động và làm việc, Carey đã bán ra hơn 200 triệu đĩa thu âm trên toàn cầu, giúp bà trở thành một trong những nghệ sĩ âm nhạc có doanh số lớn nhất mọi thời đại. Carey là nữ nghệ sĩ bán chạy nhất trong kỷ nguyên Nielsen SoundScan, với hơn 52 triệu đĩa tiêu thụ. Carey dẫn đầu danh sách "22 giọng ca vĩ đại nhất trong âm nhạc" của MTV và Blender, trong khi xếp thứ nhì trong danh sách "100 giọng ca pop nổi bật" của tạp chí Cove. Theo tạp chí Billboard, bà là nghệ sĩ thành công bậc nhất thập niên 1990 tại Hoa Kỳ. Bà cũng giành giải Chopard Diamond vào năm 2003, công nhận doanh số vượt 100 triệu album trên toàn cầu. Theo Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA), Carey đứng thứ ba trong số những nữ nghệ sĩ âm nhạc có lượng đĩa bán chạy nhất tại quốc gia này, với 63.5 triệu chứng nhận album. Tại Nhật Bản, Carey có 4 album bán chạy hàng đầu mọi thời đại bởi một nghệ sĩ ngoài châu Á. Carey có 82 tuần nắm giữ vị trí số 1 tại Billboard Hot 100, nhiều hơn bất kể nghệ sĩ nào trong lịch sử xếp hạng Hoa Kỳ. Cũng tại bảng xếp hạng này, bà có tổng cộng 19 đĩa đơn quán quân, con số lớn nhất từng được ghi nhận bởi một nghệ sĩ đơn ca (chỉ đứng sau ban nhạc The Beatles). Vào năm 1994, Carey phát hành album ngày lễ Merry Christmas, chạm mốc 15 triệu bản trên toàn cầu và là album Giáng sinh bán chạy nhất mọi thời đại. Đĩa đơn "All I Want for Christmas Is You" trích từ album này trở thành bài hát ngày lễ và nhạc chuông duy nhất đạt chứng nhận đa Bạch kim tại Hoa Kỳ. Tại Nhật Bản, Number 1's bán hơn 3.250.000 bản và là album bán chạy nhất mọi thời đại tại quốc gia này bởi một nghệ sĩ ngoài châu Á. Đĩa đơn "One Sweet Day" mà Carey hợp tác cùng Boyz II Men có 16 tuần liên tiếp dẫn đầu Billboard Hot 100 vào năm 1996, lập nên kỷ lục cho đĩa đơn quán quân có thời gian trụ hạng dài nhất lịch sử xếp hạng Hoa Kỳ. Sau khi Carey đạt thành công tại châu Á với Merry Christmas, Billboard gọi Carey là nghệ sĩ hải ngoại thành công nhất tại Nhật Bản. Vào năm 2008, Billboard liệt "We Belong Together" vào vị trí thứ 9 trong danh sách Billboard Hot 100 All-Time Top Songs và vị trí thứ 2 trên Top Billboard Hot 100 R&B/Hip-Hop Songs. Đây cũng là bài hát phổ biến nhất thập niên 2000, do Billboard bình chọn. Vào năm 2009, phiên bản trình bày lại "I Want to Know What Love Is" của Carey trở thành bài hát đạt vị trí quán quân lâu nhất trong lịch sử xếp hạng Brazil, với tổng cộng 27 tuần liên tiếp. Ngoài ra, Carey còn có 3 bài hát mở đầu tại vị trí số 1 trên Billboard Hot 100: "Fantasy", "One Sweet Day" và "Honey", nhiều hơn bất kể nghệ sĩ nào trong lịch sử 52 năm xếp hạng; "Fantasy" cũng là bài hát đầu tiên bởi một nữ nghệ sĩ ra mắt tại ngôi quán quân Hot 100. Vào ngày 19 tháng 11 năm 2010, Billboard xếp Carey vào danh sách "50 Nghệ sĩ R&B/Hip-Hop dẫn đầu 25 năm qua", nằm ở vị trí thứ 5 trong danh sách "Billboard Hot 100 All-Time Top Artists", giúp Carey trở thành nữ nghệ sĩ thành công thứ nhì trong lịch sử xếp hạng Hoa Kỳ. VH1 liệt bà ở vị trí Á quân trong danh sách "100 người phụ nữ vĩ đại nhất trong âm nhạc". Vào tháng 8 năm 2015, Carey được vinh danh bằng một ngôi sao tại Đại lộ Danh vọng Hollywood. Danh sách đĩa nhạc Mariah Carey (1990) Emotions (1991) Music Box (1993) Merry Christmas (1994) Daydream (1995) Butterfly (1997) Rainbow (1999) Glitter (2001) Charmbracelet (2002) The Emancipation of Mimi (2005) E=MC² (2008) Memoirs of an Imperfect Angel (2009) Merry Christmas II You (2010) Me. I Am Mariah... The Elusive Chanteuse (2014) Caution (2018) Sự nghiệp điện ảnh The Bachelor (1999) Glitter (2001) WiseGirls (2002) Death of a Dynasty (2003) State Property 2 (2005) Tennessee (2008) You Don't Mess with the Zohan (2008) Precious (2009) The Butler (2013) A Christmas Melody (2015) Popstar: Never Stop Never Stopping (2016) The Keys of Christmas (2016) The Lego Batman Movie (2017) Girls Trip (2017) The Star (2017) All I Want for Christmas Is You (2017) Lưu diễn Trình diễn chính Music Box Tour (1993) Daydream World Tour (1996) Butterfly World Tour (1998) Rainbow World Tour (2000) Charmbracelet World Tour (2003–04) The Adventures of Mimi (2006) Angels Advocate Tour (2009–10) The Elusive Chanteuse Show (2014) The Sweet Sweet Fantasy Tour (2016) Mariah Carey: Live in Concert (2018) Caution World Tour (2019) Chương trình cố định All I Want For Christmas Is You, A Night of Joy & Festivity tại nhà hát Beacon, Thành phố New York. (2014–15; tổ chức vào tháng 12 mỗi năm) Mariah Carey #1's tại The Colosseum at Caesars Palace, Las Vegas. (2015–16)
Trận Di Lăng (chữ Hán: 夷陵之戰 Di Lăng chi chiến) hay còn gọi là trận Khiêu Đình (猇亭之戰 Khiêu Đình chi chiến) hoặc trận Hào Đình, là trận chiến giữa nước Thục Hán và nước Đông Ngô năm 221-222 thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Đây là cuộc chiến đầu tiên nổ ra sau khi 3 nước Tào Ngụy, Thục Hán và Đông Ngô chính thức hình thành. Thục và Ngô đã có một thời gian liên minh cùng chống Tào Ngụy hùng mạnh ở phương Bắc, nhưng vì việc tranh chấp địa bàn chiến lược Kinh châu khiến liên minh 2 nước dần dần rạn nứt; sau một vài trận xung đột nhỏ đã xảy ra việc Đông Ngô đánh úp chiếm hết phần Kinh châu của Thục, dẫn tới cuộc chiến quy mô lần này. Trong Tam Quốc diễn nghĩa, trận chiến cũng được La Quán Trung mô tả là cuộc chiến mà Đông Ngô "lấy ít địch nhiều", như trận Xích Bích trước đây. Bối cảnh và nguyên nhân Vấn đề Kinh châu Kinh châu vốn là vùng đất chiến lược với cả 3 phe Tào Ngụy, Thục Hán và Đông Ngô thời Tam Quốc. Sau trận Xích Bích, mỗi phe chiếm một phần Kinh châu. Để có bàn đạp tấn công lên trung nguyên, Lưu Bị phải “mượn” huyện Giang Lăng thuộc Nam quận từ tay Tôn Quyền, là địa bàn có tính chiến lược về quân sự. Từ năm 214, Lưu Bị chiếm được Tây Xuyên của Lưu Chương, Tôn Quyền đòi lại Giang Lăng, Nam quận nhưng Lưu Bị không trả. Quan hệ giữa Tôn Quyền và tướng trấn thủ của Lưu Bị là Quan Vũ ngày càng căng thẳng. Năm 218-219, Lưu Bị từ Tây Xuyên đánh chiếm Hán Trung của Tào Tháo. Sau trận đó, Quan Vũ nhân đà thắng lợi, từ Giang Lăng tiến lên đánh Tương Dương và Phàn Thành của Tào Tháo do Tào Nhân trấn thủ. Trong khi chiến sự Phàn Thành có lợi cho Quan Vũ thì Tôn Quyền sai Lã Mông và Lục Tốn đánh úp Giang Lăng và các quận Kinh châu còn lại của Lưu Bị. Quan Vũ thua trận ở Phàn Thành trở về, bị Đông Ngô bắt giết. Sau khi chiếm các quận Nghi Đô, Nam Quận và Vũ Lăng từ tay Quan Vũ, Tôn Quyền chủ động xưng thần với Tào Tháo nên được Tào Tháo thừa nhận làm Châu mục Kinh châu. Bản thân Tôn Quyền lập lại Lưu Chương (vốn bị Lưu Bị an trí ở thành Công An) làm Ích châu mục, sai đóng ở Tỉ Quy để làm tiền đồn chống Lưu Bị. Như vậy Tôn Quyền không thừa nhận địa vị của Lưu Bị ở cả Ích châu lẫn Kinh châu như trước. Năm 220, Tào Tháo qua đời, cuối năm đó con là Tào Phi cướp ngôi Hán Hiến Đế lập ra nhà Ngụy. Tháng 4 năm 221, Lưu Bị cũng xưng đế, lập quốc hiệu là Hán để kế tục Hán Hiến Đế, rồi quyết định khởi binh đánh Đông Ngô. Toàn bộ phần Kinh châu thuộc Thục đã mất vào tay Đông Ngô. Mất Kinh châu và Quan Vũ là tổn thất lớn cho Lưu Bị. Quan Vũ là tướng mạnh và thân thiết. Có nhiều ý kiến thường nhìn nhận rằng Lưu Bị vì tình riêng mà đánh Ngô, là sai lầm không coi trọng đại cục. Nhưng các sử gia xem xét việc này có lý do chính đáng từ phía Lưu Bị. Lưu Bị có tình nghĩa với Quan Vũ phải báo thù, nhưng không chỉ vì một mình Quan Vũ mà khởi binh. Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng: sau khi Quan Vũ mất, Lưu Bị không truy phong danh hiệu cho Quan Vũ mà lo việc lên ngôi hoàng đế của mình trước (danh hiệu Tráng Mậu hầu của Quan Vũ mãi năm 260 Lưu Thiện mới truy phong); khi Quan Vũ chết (tháng chạp năm 219), Lưu Bị không khởi binh ngay mà 1 năm rưỡi sau, tới tháng 5 năm 221 mới thực hiện. Việc đánh Ngô có lý do chủ yếu ở phương châm đã định, vì lấy Kinh châu làm 1 bàn đạp tấn công trung nguyên đã nằm trong chiến lược Long Trung đối sách mà Gia Cát Lượng vạch ra, nên khi Kinh châu mất thì phải đoạt lại. Ngoài ra, xét về thực lực lúc đó, Tào Phi mạnh hơn Tôn Quyền, do đó Lưu Bị tự lượng thực lực của mình dễ đánh thắng Tôn Quyền hơn là đánh thắng Tào Phi, nhất là trong bối cảnh các danh tướng Đông Ngô như Chu Du, Lỗ Túc, Lã Mông đều đã qua đời. Ngoài ra, việc Tào và Tôn bắt tay nhau không thừa nhận địa vị của Lưu Bị, khiến ông càng thêm tức giận. Vì vậy sau khi xưng đế, ông quyết định thân chinh cầm quân đi đánh Đông Ngô. Quyết sách của Lưu Bị Trước quyết định của Lưu Bị, một số tướng lĩnh ra sức can gián. Đầu tiên là Triệu Vân, ông cho rằng kẻ thù của Thục Hán là họ Tào chứ không phải họ Tôn, nên phải đánh Tào Ngụy trước để phục hưng nhà Hán. Lưu Bị không nghe theo. Học sĩ Ích châu là Tần Mật tiếp tục dùng thiên văn can gián. Lưu Bị tức giận tống giam Tần Mật. Tướng Hoàng Quyền cũng khuyên Lưu Bị không nên mạo hiểm thân chinh mà chỉ cần sai một viên tướng đi đông chinh, bản thân Hoàng Quyền tình nguyện lãnh trách nhiệm đánh Ngô, nhưng Lưu Bị cũng không chịu, nhất quyết thân chinh đi đánh Ngô. Do thái độ tức giận và kiên quyết của Lưu Bị, không ai dám can gián nữa. Ông giao cho thừa tướng Gia Cát Lượng giúp thái tử Lưu Thiện giữ Thành Đô, đích thân cầm quân ra trận. Trong khi toàn quân đang tập hợp chưa xuất phát thì ông lại mất Trương Phi vì bị các thủ hạ Phạm Cương, Trương Đạt sát hại vào tháng 5 năm 221. Hai người này sang hàng Đông Ngô. Lưu Bị đau đớn, muốn trút hết căm giận lên Tôn Quyền. Tháng 7 năm đó ông hạ lệnh tập trung quân ở huyện Giang châu, Ba quận. Lực lượng hai bên Phía Thục Hán, Lưu Bị lựa chọn 4 vạn quân. Vì Hoàng Trung, Trương Phi đã mất, ông lại phải để Ngụy Diên và Mã Siêu phòng Tào Ngụy phía bắc, nên tham gia chiến dịch đông chinh có các tướng Mã Lương, Hoàng Quyền, Trình Kỳ, Trương Nam, Ngô Ban, Phùng Tập và Triệu Vân. Tam Quốc diễn nghĩa kể rằng Lưu Bị mang hết quân trong nước, tới 70 vạn người đi đánh Ngô. Các con Quan Vũ và Trương Phi là Quan Hưng và Trương Bào cũng làm tướng tham chiến để báo thù cho cha. Các sử gia lý giải việc Lưu Bị không mang nhiều quân đi đánh Ngô có 2 nguyên nhân: Nhân khẩu Ích châu không nhiều tới mức có thể điều động đến 70 vạn người như La Quán Trung nêu trong Tam Quốc diễn nghĩa. Ông phải bố trí số quân đáng kể phòng thủ sự xâm phạm của Tào Ngụy ở phía bắc Phía Đông Ngô, Tôn Quyền giao binh mã cho Lục Tốn, theo sự tiến cử của Lã Mông trước khi qua đời. Quân Ngô có tổng số 5 vạn người, nhiều hơn so với lực lượng của quân Thục. Sau khi Trình Phổ, Chu Du, Lỗ Túc và Lã Mông mất, các danh tướng Chu Thái, Cam Ninh cũng đang phải giữ chiến tuyến Hợp Phì để đối phó với quân Tào thường xuyên xâm lấn nên Tôn Quyền không thể điều động họ. Ông huy động Chu Nhiên, Phan Chương, Tống Khiêm, Hàn Đương, Tôn Hoàn và Từ Thịnh. Bản thân Ngô vương Tôn Quyền tự mình cầm quân đóng ở quận Vũ Xương. Qua bố trí lực lượng tướng và quân hai bên, các sử gia khẳng định từ đầu quân Ngô đã có ưu thế hơn quân đông chinh của Lưu Bị. Diễn biến Tôn Quyền cầu hòa Khi đến huyện Giang châu, Lưu Bị lệnh cho tướng Triệu Vân (từng can gián mình) đóng quân ở lại làm tiếp viện, cho Ngô Ban làm tiên phong, dẫn quân ra Tam Hiệp, tiến vào Kinh châu. Tôn Quyền thấy Lưu Bị tiến vào Kinh châu, vội sai Thái thú Nam quận là Gia Cát Cẩn đi giảng hòa. Gia Cát Cẩn biết Lưu Bị đang rất căm giận Tôn Quyền nên lấy danh nghĩa cá nhân viết thư phân tích với ý tứ như Triệu Vân (xem Tào Phi làm đối thủ chính vì nợ nước với nhà Hán). Sau khi Lỗ Túc mất, chỉ còn Gia Cát Cẩn là người bên Đông Ngô từng có quan hệ với Lưu Bị. Vì vậy bức thư của Gia Cát Cẩn là cơ hội cuối cùng cho hai bên có cơ hội thu xếp điều đình với nhau. Tuy nhiên, Lưu Bị không chấp nhận lời đề nghị của Gia Cát Cẩn, thúc quân tiếp tục đông tiến. Vì vậy chiến tranh giữa hai bên chính thức nổ ra. Tam Quốc diễn nghĩa kể rằng Tôn Quyền theo kế của Bộ Trắc, bắt thủ phạm giết Trương Phi là Phạm Cương, Trương Đạt giao nộp cho Lưu Bị, trả lại đầu Trương Phi, đồng thời xin trao trả cả Kinh châu và đưa Tôn phu nhân sang Thục; nhưng Lưu Bị vẫn không chấp nhận và quyết giết cho được Tôn Quyền. Lo sợ nguy cơ từ phía Tào Ngụy ở phía bắc sẽ đến khi giao tranh nổ ra với Lưu Bị, sau khi biết tin Gia Cát Cẩn giảng hòa thất bại, tháng 8 năm 221, Tôn Quyền vội vã sai sứ tới Lạc Dương gặp Tào Phi dâng biểu xưng thần, đồng thời trao trả Vu Cấm từng bị Quan Vũ bắt sống và giam cầm ở Giang Lăng cho Tào Phi. Tào Phi tiếp nhận đề nghị của Tôn Quyền, không nghe theo ý kiến của Lưu Diệp tập kích Đông Ngô mà sai Hình Trinh đi sứ Kiến Nghiệp, phong Tôn Quyền làm Ngô vương. Vì vậy Tôn Quyền tạm thời yên tâm mặt bắc để đối phó với Lưu Bị. Lưu Bị thắng thế Chiến tranh bùng nổ. Hai tướng tiên phong Ngô Ban, Trần Thức đánh bại đạo quân Ngô của Lý Dị và Lưu A, chiếm huyện Vu và Tỉ Quy. Lục Tốn xuất quân xung đột với quân Thục một trận nhỏ. Quân Ngô phá tan 5 dinh quân của Lưu Bị, giết được 5 viên tướng Thục. Tuy nhiên đây chỉ là thắng lợi nhỏ, Lục Tốn mang quân đóng ở Di Lăng. Ông thận trọng giữ thế phòng ngự. Tháng 2 năm 222, sau khi ở Tỉ Quy nửa năm, Lưu Bị dự định tiến quân đến Di Lăng, Hào (Khiêu) Đình. Hoàng Quyền can ông nên đề phòng quân Ngô thông thạo thủy chiến, do đó không nên khinh suất khiêu chiến mà Lưu Bị nên giữ hậu đội phía sau để Hoàng Quyền tự làm tiên phong giao tranh với quân Ngô trước. Lưu Bị bỏ qua lời đề nghị của Hoàng Quyền, lệnh cho Hoàng Quyền làm Trấn bắc tướng quân, thống lĩnh quân Giang Bắc đề phòng quân Tào Ngụy đánh xuống, còn tự mình đích thân chỉ huy đại quân xuôi dòng tiến đánh Di Lăng. Lục Tốn thấy quân Thục đang hăng hái, quyết định không đối đầu để tránh thương vong mà hạ lệnh cho tiền quân vứt bỏ Di Lăng, rút về Khiếu Đình (hay Hào Đình) củng cố phòng tuyến, tự mình đặt đại bản doanh ở Di Đạo phía nam Trường Giang cố thủ. Thấy quân Ngô rút lui, Lưu Bị bèn chiếm đóng Di Lăng, lập doanh trại. Sau đó ông chia quân làm 2 đường, cánh trái do Phùng Tập chỉ huy vượt qua Khiếu Đình của Đông Ngô và bày trận ở phía bắc Di Đạo; cánh phải do Ngô Ban chỉ huy vượt sông ở Khiếu Đình đánh vào trại chính của Đông Ngô ở Di Đạo. Lục Tốn phòng thủ Lục Tốn thấy quân chủ lực Thục Hán đóng ở Giang Bắc, cũng tự mình ra đóng trại tại Giang Bắc để đối trận. Nghe tin một cánh quân Thục đánh vào Di Đạo, Lục Tốn lệnh cho đạo quân dự bị của Tôn Hoàn phòng thủ nơi này. Ngô Ban tấn công vào trại nhiều ngày, Tôn Hoàn kiên cường phòng thủ, quân Thục không hạ được. Lưu Bị hạ lệnh cho quân thủy lên bộ hạ trại. Giữa Tỉ Quy và Hào Đình cách nhau 700 dặm, Lưu Bị lập ra liên tiếp mấy chục doanh trại bằng gỗ cây rừng. Lập liên trại với khoảng cách xa như vậy là sai lầm của Lưu Bị, tối kỵ đối với nhà binh. Tào Phi ở Lạc Dương nghe tin này cũng đoán Lưu Bị sẽ thất bại. Thấy Lưu Bị lập doanh trại cách nhau quá xa, quân Thục bị phân tán, các tướng Ngô đề nghị Lục Tốn lập tức phản kích. Lục Tốn không đồng tình, ông cho rằng quân Thục đang hăng hái chưa thể giao tranh, cần đợi khi quân Thục mệt mỏi, giảm nhuệ khí mới có thể đánh thắng. Hai bên giằng co nhau trong 4 tháng, từ tháng 2 đến tháng 6. Lưu Bị nhiều lần khiêu chiến nhưng quân Ngô không ra. Lưu Bị không có cách gì phá được phòng tuyến của Đông Ngô, chỉ có thể sai Phùng Tập và Trương Nam nắm quân tình ở Di Đạo, còn bản thân mình dẫn quân tới đóng ở giữa Tỷ Quy và Khiếu Đình để chỉ huy toàn cục. Lâu ngày không hạ được Di Đạo và không xuyên qua được phòng tuyến của Lục Tốn, Lưu Bị lo lắng vì quân Thục đã vào sâu đất địch, tuy xuôi dòng sông Trường Giang nhưng phải vận chuyển lương thực đường xa rất tốn kém. Ông bèn hạ lệnh cho Ngô Ban siết chặt vòng vây ở thành Di Đạo, tự mình dẫn quân vượt bờ bắc, chia làm 2 cánh đánh vào hậu phương của Lục Tốn, lại cho 8000 binh sĩ mai phục để chờ quân Ngô ra. Các tướng Ngô thấy quân Thục ít, định ra tấn công ngay, nhưng Lục Tốn cho rằng đó chỉ là kế lừa của Lưu Bị nên một mực giữ thế thủ. Lưu Bị thấy quân Ngô không trúng kế, đành phải lệnh cho Ngô Ban trở về bờ nam. Các tướng Ngô vẫn coi thường Lục Tốn nhát gan không chịu ra quân, từ khi thấy ông dự liệu chính xác mới tỏ ra khâm phục. Lục Tốn phản công Giữa mùa hè, cuối tháng 6 năm 222, Lục Tốn thấy quân Thục đã mỏi mệt, bèn ngầm viết thư về Vũ Xương cho Tôn Quyền, khẳng định ông sẽ nắm được thời cơ để đánh bại Lưu Bị. Tháng 6 nhuận năm 222, vùng Hoa Trung có gió đông nam thổi mạnh, Lục Tốn hạ lệnh cho Chu Nhiên theo đường thủy ngược dòng đánh lên vào đại bản doanh của Lưu Bị ở Khiếu Đình, trên thuyền dùng nhiều cỏ khô và củi lửa để đốt; Hàn Đương và Phan Chương đi đường vòng bên phải đến Trác Hương để chặn đường rút của đội tiên phong Thục Hán; Từ Thịnh và Tống Khiêm đi giải vây cho Di Đạo, sau đó sẽ cùng tiến vào đại trại quân Thục. Lưu Bị có 40 trại từ Khiếu Đình đến Tỉ Quy trải dài 700 dặm. Nhằm tiết kiệm nhân lực, Lục Tốn chủ trương chỉ tấn công vào 20 trại cách nhau và gây ra hỗn loạn cho quân Thục. Quân do thám của Thục Hán biết quân Ngô chuẩn bị tấn công, liền phi báo cho Lưu Bị. Lưu Bị được tin liền lệnh cho Phùng Tập, Trương Nam sẵn sàng nghênh chiến, và lệnh cho Ngô Ban bỏ đánh Di Đạo mà vượt sông lên phía bắc, chuẩn bị đánh vào quân chủ lực của Đông Ngô. Tuy nhiên, Lục Tốn không điều quân như Lưu Bị dự liệu (đối đầu với Phùng Tập và Trương Nam), mà cho quân đi đường thủy ngược dòng đánh vào đại trại Khiếu Đình. Nửa đêm, quân Ngô áp sát trại Thục và nổi lửa tấn công. Mùa hè nóng nực, trại quân Thục nằm trong rừng nhiều cây nên lửa rất dễ bén. Các doanh trại quân Thục nhanh chóng bốc lửa và quân Thục trở nên hỗn loạn, giẫm đạt lên nhau, bị thương vong khá nhiều. Tế tửu Trình Kỳ vội hộ tống Chiêu Liệt Đế Lưu Bị chạy về phía tây, và báo cho các trại về hộ giá. Trương Nam và Phùng Tập nghe tin đại trại bị tấn công, phải bỏ mục tiêu đánh quân chủ lực của Lục Tốn mà rút về cứu vua. Ngô Ban để một ít quân ở lại Di Đạo, mang quân vượt sang bờ bắc đánh vào trại quân Ngô nhưng tới nơi không thấy người vội vã lui về cứu đại trại bị cháy. Từ Thịnh và Tống Khiêm tới giải vây cho Di Đạo, đánh tan số quân Thục còn lại của Ngô Ban. Tôn Hoàn trong thành cũng giáp công, quân Thục bị thiệt hại khá nhiều, chạy tan tác, một số đầu hàng Ngô. Khắp từ Khiếu Đình tới Di Lăng lửa bốc cháy. Lưu Bị chỉ biết vượt qua Di Lăng để lui về phòng thủ ở Tỉ Quy. Song lúc đó Hàn Đương và Phan Chương đã chiếm được Trác Hương, cắt đứt đường lui của quân Thục. Từ Thịnh, Tống Khiêm và Tôn Hoàn cũng từ Di Đạo tiến tới trợ chiến. Quân Chu Nhiên theo đường thủy cũng giáp công. Thục Hán bại binh Các cánh quân của Trương Nam, Phùng Tập bị thua tan tác, hợp lại với nhau làm một. Ngô Ban cầm quân cảm tử đi trước, đánh vào cánh quân của Hàn Đương, còn Trương Nam hộ tống Lưu Bị, để Phùng Tập đi đoạn hậu, nhằm hướng núi Mã Yên ở phía đông bắc Trác Hương. Ngô Ban tuy phá được vòng vây của Hàn Đương ra ngoài, nhưng quân của Phan Chương lập tức tiến lên thế chỗ, khiến Ngô Ban còn ít quân, muốn cứu Lưu Bị ra nhưng không thực hiện được, đành dẫn tàn quân qua thành Tỉ Quy, chạy về Giang châu báo cho Triệu Vân đến cứu viện. Trương Nam và Phùng Tập giao tranh với quân Ngô, cuối cùng đẩy lui được Phan Chương và Hàn Đương để đưa Lưu Bị ra ngoài. Phùng Tập cùng quân Ngô ác chiến để Lưu Bị có thời gian chạy xa, cuối cùng quân chết gần hết, bị Từ Thịnh giết tại trận. Trương Nam cùng phó tướng Phó Đồng và Trình Kỳ hộ giá Lưu Bị chạy ra, bị lạc nhau. Trương Nam và Lưu Bị chạy về tới núi Mã Yên. Từ Thịnh, Chu Nhiên và Tống Khiêm truy kích lại gần. Trương Nam để các tướng sĩ đưa Lưu Bị chạy trước, còn mình ở lại đánh chặn và cuối cùng cũng bị tử trận. Tham mưu Trình Kỳ được Phó Đồng bảo vệ chạy đến bờ sông, nghe tin Lưu Bị chạy về núi Mã Yên, vội cùng nhau tới chi viện. Trình Kỳ đi trước, Phó Đồng đi sau. Quân Thục thế yếu, không đương nổi mấy cánh quân Ngô. Thấy quân sĩ xung quanh đều chết, Trình Kỳ liền tự sát. Hồ vương Sa Ma Kha ở quận Việt Huề dẫn quân dự bị tới Tỉ Quy, nghe tin quân Thục bại trận liền tới cứu viện, gặp cánh quân Hàn Đương và Phan Chương. Hai tướng Ngô đánh bại và giết chết Ma Sa Kha. Phó Đồng chạy theo Trình Kỳ tới núi Mã Yên, tới nơi thì Trình Kỳ đã chết. Phó Đồng hộ tống Lưu Bị, Lục Tốn thúc quân tới vây núi Mã Yên. Quân Thục liều chết kháng cự hơn 1 ngày, bị thương vong rất nhiều. Do thành Tỉ Quy đã mất, Lưu Bị và Phó Đồng cố sức phá vây, chỉ còn đường nhắm tới đích là thành Bạch Đế ở Vu huyện. Quân Thục đột phá vòng vây tiến ra. Lưu Bị sai Phó Đồng chặn hậu, cho chất các xe quân nhu lại, thiêu hủy làm vật cản quân Ngô. Lưu Bị chạy thoát, Phó Đồng đến Tỉ Quy thì bị Từ Thịnh, Chu Nhiên vây đánh. Phó Đồng không chống nổi quân Ngô, cuối cùng bị tử trận. Lưu Bị chạy qua đường sạn đạo Di Lăng rồi phá đường này để ngăn quân Ngô đuổi theo. Cuối cùng ông chạy thoát về thành Bạch Đế trong tình cảnh rất thê thảm. Tướng Thục là Hoàng Quyền đóng quân ở bờ bắc, định tiến về cứu viện nhưng bị quân Lục Tốn phong tỏa hết đường đi. Hoàng Quyền không còn đường chạy về theo Lưu Bị, lại không muốn hàng Ngô, bất đắc dĩ phải mang quân sang hàng Tào Phi. Triệu Vân đóng quân ở Giang châu, được tin Ngô Ban báo toàn quân đại bại, vội dẫn quân ra chi viện, nhưng khi chưa tới mặt trận thì Lưu Bị đã rút về thành Bạch Đế, nên chia quân ra đóng ở Vu huyện, dựa vào địa hình hiểm trở để phòng thủ. Tam Quốc diễn nghĩa kể rằng Triệu Vân ra hộ tống Lưu Bị ở núi Mã Yên, giết được Chu Nhiên và đẩy lui quân Đông Ngô, trên thực tế trong suốt chiến dịch Triệu Vân không ra khỏi Vu huyện và không tham chiến. Ngoài ra, Chu Nhiên trên thực tế sống thọ hơn Triệu Vân. Nghe tin Lưu Bị lui về thành Bạch Đế, Từ Thịnh và Phan Chương đề nghị với Tôn Quyền tấn công sẽ bắt được Lưu Bị. Tuy nhiên Lục Tốn dự đoán Tào Phi sẽ đánh sau lưng Đông Ngô, nên cho toàn quân lui về phòng bị, không nên ham truy đuổi. Tôn Quyền nghe theo, bèn hạ lệnh lui quân. Tam Quốc diễn nghĩa kể rằng Lục Tốn ham truy kích Lưu Bị tới Vu huyện thì bị lọt vào Bát trận đồ mà Gia Cát Lượng đã giăng sẵn, không sao tìm được đường ra. Cha vợ Khổng Minh là Hoàng Thừa Ngạn đã dẫn Lục Tốn ra khỏi Bát trận đồ. Lục Tốn sợ hãi phải lui binh. Các sử gia lý giải rằng, dù Bát trận đồ là sa bàn đóng quân có thực mà Khổng Minh tạo ra, nhưng Lục Tốn chưa từng tiến quân tới Vu huyện và không bị lọt vào Bát trận đồ này. Tổn thất và nguyên nhân Không rõ thương vong của quân Ngô. Quân Thục đại bại, tổng số quân bị giết tại Di Lăng – Khiếu Đình có vài vạn người, xác chết xuôi theo dòng sông Trường Giang trôi xuống làm tắc cả dòng sông. Chiến thuyền, khí giới, xe cộ quân nhu bên Thục Hán bị mất gần hết. Chỉ trừ cánh quân của Nha môn tướng Hướng Sủng, trong lúc hoảng loạn vẫn duy trì được kỷ luật, không bị tổn thất một người nào, cuối cùng rút lui an toàn về thành Bạch Đế, cùng với Triệu Vân trở thành lực lượng bảo vệ cho Chiêu Liệt đế Lưu Bị. Gần như toàn bộ các tướng chỉ huy chiến dịch Di Lăng của Thục Hán bị xóa sổ: Mã Lương tử trận ở Ngũ Khê, Trương Nam, Phùng Tập, Phó Đồng đều tử trận khi bảo vệ Lưu Bị chạy khỏi vòng vây, Man vương Ma Sa Kha cũng tử trận, Trình Kỳ tự sát, Hoàng Quyền chạy sang hàng Ngụy. Chỉ còn lại Ngô Ban, Hướng Sủng trở về, còn tướng cánh quân dự bị Triệu Vân chưa tham chiến. Lưu Bị thất bại vì sai lầm trầm trọng về chiến thuật. Trước hết, ông quá nôn nóng muốn đánh bại Đông Ngô, tiến thẳng tới diệt Tôn Quyền, nên ra quân gấp gáp; ngược lại phía Đông Ngô, Lục Tốn lại rất trầm tĩnh và tỉnh táo xét đoán tình hình. Như Lục Tốn từng nói khi viết thư cho Tôn Quyền, nếu Lưu Bị tận dụng thế mạnh, cho quân thủy bộ cùng tiến thì quân Ngô rất nguy khốn, nhưng vua Thục Hán lại dồn hết quân thủy lên bờ, lập liên trại. Hơn nữa, khi đóng quân chọn rừng rậm nhiều cây để có bóng mát cũng là sai lầm, tạo điều kiện cho kẻ địch đánh hỏa công; vật liệu dựng trại không dùng đất đá mà lại lấy cành cây làm vật liệu nên khi quân Ngô nổi lửa, trại Thục nhanh chóng bị thiêu. Ngoài ra, Lưu Bị còn một sai lầm nữa khi quyết định đổ bộ lập trại, là dàn 4 vạn quân trải suốt 700 dặm, phạm vào điều đại kỵ về phân tán binh lực của nhà binh. Chiến thuật mà Lục Tốn áp dụng trong chiến dịch Khiếu Đình được các sử gia đánh giá giống với Tào Quệ nước Lỗ thời Xuân Thu đánh bại Tề Hoàn công: mặc cho quân địch xung trận lần đầu không xuất kích vì khí thế địch đang hăng, bỏ qua quân địch xung trận lần thứ 2 không ứng chiến khi nhuệ khí địch bắt đầu giảm, đến lần 3 khi quân địch xung phong, nhuệ khí đã cạn kiệt thì quân mình mới ra trận ứng chiến là đánh chắc thắng. Lục Tốn tuy đông quân hơn nhưng vẫn trầm tĩnh và lạnh lùng ứng phó trước sự nôn nóng của Lưu Bị, để cho Lưu Bị chiếm mấy trăm dặm đất với những điểm cao, nhưng cuối cùng bất ngờ phản công giành được toàn thắng. Các nhà nghiên cứu cho rằng, Lưu Bị thất bại còn có nguyên nhân vì quá coi thường Lục Tốn là người ít kinh nghiệm chiến trường. Hậu quả và ý nghĩa Thất bại Di Lăng – Khiêu Đình là đòn nặng nề đối với cá nhân Lưu Bị và chính quyền Thục Hán mới thành lập. Tuy quân số tham gia chiến dịch không lớn tới 70 vạn người mà Tam Quốc diễn nghĩa mô tả, nhưng thất bại này khiến Kinh châu không thể khôi phục, chiến lược “từ Kinh, Ích giáp công đánh trung nguyên” mà Gia Cát Lượng đã vạch ra trong Long Trung đối sách không còn khả năng thực hiện được. Phần Kinh châu thuộc Thục bị mất toàn bộ vào tay Đông Ngô không khôi phục được; địa bàn Kinh châu chỉ còn do Ngô và Ngụy chia nhau nắm giữ, trong đó Đông Ngô chiếm phần lớn ở phía nam. Thất bại Di Lăng là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử quân sự và chính trị của nhà Thục Hán. Sức quân, sức nước của Thục Hán bộc lộ suy yếu rõ ràng; bản thân chính quyền tự xưng là kế thừa ngôi chính thống của nhà Đông Hán bắt đầu đi vào con đường gập ghềnh. Cũng vì thất bại này mà Lưu Bị suy sụp tinh thần, lâm bệnh rồi mất tại thành Bạch Đế một năm sau (223). Đúng như phân tích của đại thần Hoa Hâm bên phía Tào Ngụy: hai nước Ngô và Thục vốn nhỏ bé, nếu liên minh còn có thể đứng vững, song lại quay ra đánh nhau thì càng dễ mất. Hai nước nhỏ tranh chiến làm cả hai bị hao tổn khiến Tào Ngụy hưởng lợi. Với hoàn cảnh đó, chỉ có một mình Tào Ngụy có đủ khả năng thực hiện thống nhất. Trong Tam quốc diễn nghĩa Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, La Quán Trung cũng coi nguyên nhân chính khiến Lưu Bị đánh Ngô vì căm giận Tôn Quyền đã giết Quan Vũ và chí báo thù muốn giết bằng được Tôn Quyền của Lưu Bị khiến ông mất hết sáng suốt. Ông đã dốc hết 70 vạn quân trong nước ra mặt trận. Lão tướng Hoàng Trung cũng vì tham chiến bị tử trận lúc đầu khiến thù Thục-Ngô càng chồng chất. Các con Quan Vũ và Trương Phi là Quan Hưng, Trương Bào làm tướng ra trận, giết được tướng Ngô đã hại Quan Vũ là Phan Chương và Mã Trung. Nhưng ngay cả khi Tôn Quyền giết các hung thủ sát hại Trương Phi như Phạm Cương, Trương Đạt mang nộp Lưu Bị, lại hứa trả lại Kinh châu và đưa Tôn phu nhân sang cho Lưu Bị; Lưu Bị vẫn không chấp nhận và quyết giết cho được Tôn Quyền. Mao Tông Cương khi bình giảng Tam Quốc diễn nghĩa cũng nhận xét về Lưu Bị là “quá quắt”, đồng thời lý giải rằng điều đó đề cao tình nghĩa huynh đệ của ông mà không ai có thể sánh được. Tuy phóng đại rằng Lưu Bị mang 70 vạn quân đánh Ngô, La Quán Trung vẫn trung thành với một số tình tiết sử học khi nói mô tả diễn biến trận đánh, như đề cập tới việc Lưu Bị chỉ có 8.000 tinh binh mà ông dự định dùng để mai phục nếu nhử được quân Ngô ra trận (không thành công). Khi Lưu Bị lập liên trại cách nhau tới 700 dặm, Mã Lương đã về Thành Đô hỏi ý kiến Khổng Minh. Khổng Minh dậm chân than thở quân Thục sẽ thua lớn. Mã Lương trở lại mặt trận không kịp, đúng lúc Lục Tốn đã nổi lửa thiêu quân Thục. Các tướng phá vây hộ vệ Lưu Bị không phải Trương Nam, Phùng Tập, Phó Đồng mà là Quan Hưng, Trương Bào và Phó Đồng. Chỉ có Trình Kỳ tự sát được mô tả như trong sử sách. Trương Nam, Phùng Tập được mô tả vây đánh Di Lăng không thành, quay lại cứu Lưu Bị thì bị quân Ngô giết. Triệu Vân xung trận cứu Lưu Bị và giết được Chu Nhiên. Tôn phu nhân ở nước Ngô nghe tin đồn Lưu Bị tử trận, nên đâm đầu xuống sông tự vẫn. Với hư cấu về số quân đông đảo của Thục Hán, trận chiến này, dưới lăng kính của Tam Quốc diễn nghĩa, được nhìn nhận là trận đánh quy mô lớn thứ 2 mà Đông Ngô đã dùng số quân ít đánh thắng số quân nhiều, sau trận Xích Bích. Do đó, thất bại của Lưu Bị càng trầm trọng hơn và chiến thắng cũng bằng hỏa công của Lục Tốn được Mao Tông Cương viết trong lời bình đánh giá ca ngợi, coi ngang với công trạng của Chu Du trong trận Xích Bích.
Cuộc biểu tình tại Quảng trường Thiên An Môn, ở Trung Quốc được gọi là Sự kiện ngày 4 tháng 6 (), là tên gọi cuộc biểu tình do sinh viên lãnh đạo được tổ chức tại Quảng trường Thiên An Môn, Bắc Kinh trong năm 1989. Các cuộc biểu tình bắt đầu vào ngày 15 tháng 4 và kéo dài hàng chục ngày. Sau khi một số người biểu tình quá khích tấn công, giết hại một số binh lính và đốt các đoàn xe, ngày 4 tháng 6, chính phủ tuyên bố thiết quân luật và cử Giải phóng quân Nhân dân tấn công nhằm dẹp tan những người biểu tình đang đóng tại Quảng trường Thiên An Môn. Ước tính số người chết trong các vụ đụng độ là từ 241 đến 3000, với hàng nghìn người bị thương. Các cuộc biểu tình này đôi khi được gọi là Phong trào Dân chủ '89' () hoặc Sự kiện Thiên An Môn (). Các cuộc biểu tình bắt đầu sau cái chết của tổng bí thư ủng hộ cải cách Hồ Diệu Bang vào tháng 4 năm 1989 trong bối cảnh biến động xã hội ở Trung Quốc thời hậu Mao. Những cải cách trong những năm 1980 đã dẫn đến một nền kinh tế thị trường non trẻ tăng trưởng nhanh, mang lại lợi ích cho nhiều người nhưng lại gây bất lợi cho những người khác. Những bất bình phổ biến vào thời điểm đó bao gồm lạm phát, tham nhũng, sự chuẩn bị hạn chế của sinh viên tốt nghiệp cho nền kinh tế mới Mặc dù rất vô tổ chức và có mục tiêu khác nhau, các sinh viên đều kêu gọi trách nhiệm giải trình cao hơn, quy trình hợp hiến, dân chủ, tự do báo chí và tự do ngôn luận. Vào đỉnh điểm của cuộc biểu tình, khoảng một triệu người đã tập trung tại Quảng trường. Đến tháng 5, một cuộc tuyệt thực do sinh viên thực hiện đã thu hút sự chú ý trên khắp cả nước, và các cuộc biểu tình đã lan ra khoảng 400 thành phố. Trong số những lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Thủ tướng Lý Bằng, bát đại nguyên lão Lý Tiên Niệm và Vương Chấn đã kêu gọi hành động dứt khoát bằng việc dẹp tan cuộc biểu tình, và cuối cùng lôi kéo được Lãnh đạo tối cao Đặng Tiểu Bình và Chủ tịch Dương Thượng Côn ủng hộ quan điểm của họ. Sau khi một số người biểu tình quá khích tấn công, giết hại một số binh lính và đốt các đoàn xe vào ngày 20 tháng 5, Quốc vụ viện tuyên bố thiết quân luật và huy động tới 300.000 quân đến Bắc Kinh. Quân đội đã tiến vào các khu vực trung tâm Bắc Kinh vào sáng sớm ngày 4 tháng 6, các vụ đụng độ đã gây thương vong cho cả người biểu tình và binh sĩ. Các hoạt động nằm dưới sự đồng chỉ huy của Tướng Dương Bạch Băng, anh trai cùng cha khác mẹ của Dương Thượng Côn. Chính phủ Trung Quốc đã bắt giữ trên diện rộng những người cầm đầu biểu tình, dẹp tan các cuộc biểu tình khác xung quanh Trung Quốc, trục xuất các nhà báo nước ngoài, kiểm soát chặt chẽ báo chí trong nước, củng cố an ninh nội bộ, cách chức hoặc bắt giữ các quan chức mà họ cho là có thiện cảm với người biểu tình. Thủ tướng Singapore, ông Lý Quang Diệu cho rằng hành động dứt khoát của Trung Quốc là cần thiết để duy trì trật tự và luật pháp, nếu không bạo loạn sẽ lan rộng và đất nước rộng lớn này sẽ sớm tan vỡ và lâm vào nội chiến Các chính phủ và tổ chức nhân quyền phương Tây thì lên án chính phủ Trung Quốc. Nhiều nước phương Tây áp đặt lệnh cấm vận vũ khí đối với Trung Quốc. Tình báo của phương Tây đã phát động Chiến dịch Chim hoàng yến, giúp các nhân vật lãnh đạo cuộc biểu tình trốn ra nước ngoài qua ngả Hồng Kông nhằm đưa họ trở thành các lãnh đạo phong trào chống Nhà nước Trung Quốc trong tương lai Chiến dịch này về sau được tiết lộ, càng làm củng cố quan điểm của chính phủ Trung Quốc rằng phong trào biểu tình này là kết quả của sự giật dây từ các thế lực phương Tây nhằm gây chia rẽ và nội chiến hòng lật đổ nhà nước Trung Quốc, một chiến lược đã được phương Tây lặp lại trong các phong trào Cách mạng màu, Mùa xuân Ả Rập tại Đông Âu, Trung Đông vào thập niên 2000. Cuộc trấn áp đã kết thúc những cuộc cải cách chính trị bắt đầu từ năm 1986 và tạm dừng các chính sách tự do hóa của những năm 1980, sau này chỉ được nối lại một phần sau chuyến công du phía Nam của Đặng Tiểu Bình vào năm 1992. Phản ứng đối với các cuộc biểu tình đã đặt ra các giới hạn về biểu hiện chính trị trong đất nước Trung Quốc, những giới hạn kéo dài cho đến tận ngày nay. Các cuộc biểu tình này vẫn là một trong những chủ đề nhạy cảm và bị kiểm duyệt gắt gao nhất ở Trung Quốc. Tên gọi Các sự kiện thường được đặt tên theo ngày trong tiếng Trung được quy ước theo mã số tháng và ngày, theo sau là loại sự kiện. Do đó, tên tiếng Trung phổ biến cho sự kiện này là Sự kiện mùng 4 tháng 6 (六四事件 - lục tứ sự kiện). Tên được đặt theo cách đặt tên của hai vụ biểu tình khác cũng từng xảy ra ở quảng trường Thiên An Môn: Phong trào mùng 4 tháng 5 năm 1919 (Phong trào Ngũ Tứ) và Phong trào mùng 5 tháng 4 năm 1976. Khi nói đến toàn bộ phong trào, Phong trào mùng 4 tháng 6 (六四运动 - lục tứ vận động) hoặc Phong trào Dân chủ 89 (tiếng Trung: 八九民运, bát cửu dân vận) được sử dụng để mô tả toàn bộ sự kiện này. Bối cảnh Cuộc cách mạng văn hóa kết thúc với cái chết của Mao Trạch Đông năm 1976. Do Mao khởi xướng, phong trào này đã gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho kết cấu kinh tế và xã hội ban đầu của Trung Quốc. Đất nước này bị sa lầy trong nghèo đói khi sản xuất kinh tế chậm lại hoặc dừng hẳn. Tư tưởng chính trị là tối quan trọng trong cuộc sống của người dân thường cũng như hoạt động nội bộ của chính Đảng Cộng sản. Tại Hội nghị Trung ương 3 của Ủy ban Trung ương 11 vào tháng 12 năm 1978, Đặng Tiểu Bình nổi lên như nhà lãnh đạo thực tế của Trung Quốc. Đặng đưa ra một chương trình toàn diện để cải cách nền kinh tế Trung Quốc. Trong vài năm, hướng đi của Trung Quốc hoàn toàn thay đổi. Sự tập trung vào sự tinh khiết về ý thức hệ đã được thay thế bằng một động lực mạnh mẽ để đạt được sự thịnh vượng về vật chất. Để điều hành chương trình cải cách của mình, Đặng đã đẩy các đồng minh của mình lên các chức vụ hàng đầu của chính phủ và đảng. Hồ Diệu Bang trở thành Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản vào năm 1982, trong khi Triệu Tử Dương được bổ nhiệm làm Thủ tướng, người đứng đầu chính phủ, vào tháng 9 năm 1980. Những thách thức của cải cách Các cải cách nhằm giảm vai trò của nhà nước trong nền kinh tế và dần dần đưa ra các hình thức sản xuất tư nhân trong nông nghiệp và công nghiệp. Đến năm 1981, khoảng 73% trang trại nông thôn đã ngừng hoạt động và 80% doanh nghiệp nhà nước được phép giữ lại lợi nhuận. Trong một vài năm, sản xuất tăng lên với những bước nhảy vọt, và nghèo đói đã giảm đáng kể. Trong khi các cải cách nói chung được công chúng đón nhận, các mối lo ngại gia tăng về một loạt các vấn đề xã hội mà những thay đổi mang lại, bao gồm tham nhũng và gia đình trị của các quan chức đảng ưu tú. Hệ thống định giá do nhà nước ủy quyền, được áp dụng từ những năm 1950, từ lâu đã giữ giá ổn định ở mức thấp. Các cải cách ban đầu đã tạo ra một hệ thống hai mức giá trong đó một số giá được cố định trong khi các giá khác được phép dao động. Trong một thị trường thiếu hụt kinh niên, điều này cho phép những người có quan hệ tốt mua hàng hóa với giá thấp và sau đó bán lại với giá thị trường. Các quan chức đảng đột nhiên thấy mình chịu trách nhiệm về một chế độ nhà nước đang phát triển về quản lý kinh tế và khuyến khích to lớn cho việc ăn chênh lệch giá. Bất bình về tham nhũng của công chúng đạt đến mức cao, và nhiều người, đặc biệt là những người trong cộng đồng trí thức, bắt đầu tin rằng chỉ có cải cách dân chủ và pháp quyền có thể hoạt động như một thuốc chữa bách bệnh cho các bệnh tật của đất nước. Sau cuộc họp Bắc Đới Hà năm 1988, lãnh đạo đảng dưới thời Đặng Tiểu Bình đã đồng ý chuyển đổi sang hệ thống định giá dựa trên thị trường. Tin tức về việc nới lỏng kiểm soát giá đã kích hoạt làn sóng rút tiền mặt, mua và tích trữ hàng hóa trên khắp Trung Quốc. Chính phủ đã hoảng loạn và hủy bỏ cải cách giá cả trong vòng chưa đầy hai tuần, nhưng tác động của nó đã duy trì lâu hơn nhiều. Lạm phát tăng vọt. Các chỉ số chính thức báo cáo rằng chỉ số giá tiêu dùng tăng 30% tại Bắc Kinh trong khoảng từ 1987 đến 1988, dẫn đến sự hoảng loạn trong những người làm công ăn lương rằng họ không còn đủ khả năng mua hàng hóa chủ lực. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường mới, các doanh nghiệp nhà nước không có lãi đã bị áp lực phải cắt giảm chi phí. Điều này đe dọa một tỷ lệ lớn dân số vốn phải dựa vào "vựa lúa sắt", tức là một loạt các lợi ích xã hội như bảo đảm việc làm, chăm sóc y tế và nhà ở được trợ cấp. Các biến động xã hội Các nhà lãnh đạo cải cách đã hình dung vào năm 1978 rằng trí thức sẽ đóng một vai trò hàng đầu trong việc hướng dẫn đất nước thông qua các cải cách, nhưng điều này đã không xảy ra như kế hoạch. Mặc dù đã mở các trường đại học mới và tăng tuyển sinh, hệ thống giáo dục do nhà nước chỉ đạo không tạo ra đủ sinh viên tốt nghiệp để đáp ứng nhu cầu thị trường gia tăng trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp nhẹ, dịch vụ và đầu tư nước ngoài. Thị trường việc làm đặc biệt hạn chế đối với sinh viên chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn. Hơn nữa, các công ty tư nhân không còn cần phải chấp nhận giao việc cho sinh viên theo yêu cầu của nhà nước, và nhiều công việc lương cao đã được cung cấp trên cơ sở gia đình trị và sự thiên vị. Đạt được một vị trí tốt được nhà nước phân công có nghĩa là điều hướng một bộ máy quan liêu kém hiệu quả, trao quyền cho các quan chức có ít chuyên môn trong lĩnh vực quản lý của họ. Đối mặt với một thị trường việc làm ảm đạm và cơ hội ra nước ngoài hạn chế, trí thức và sinh viên đã tập trung quan tâm nhiều hơn vào các vấn đề chính trị. Các nhóm nghiên cứu nhỏ, như "Salon dân chủ" và "Salon vườn" (Caodi Shalong), bắt đầu xuất hiện trong khuôn viên trường đại học Bắc Kinh. Các tổ chức này thúc đẩy các sinh viên tham gia chính trị. Đồng thời, hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa của đảng phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng về tính hợp pháp khi nó dần dần áp dụng các thực tiễn quản lý kinh tế của tư bản chủ nghĩa. Doanh nghiệp tư nhân đã tạo điều kiện cho những kẻ trục lợi, họ giàu lên bằng cách lợi dụng các quy định pháp luật lỏng lẻo và thường phô trương sự giàu có của họ trước những người nghèo hơn. Sự bất mãn phổ biến tập trung vào sự phân phối của cải không công bằng. Nhiều người cho rằng sự tham lam chứ không phải kỹ năng dường như trở thành yếu tố quan trọng nhất của thành công, và họ vỡ mộng công khai về tương lai của đất nước. Những người này muốn thay đổi tình hình, nhưng sức mạnh để xác định "con đường chính xác" tiếp tục chỉ nằm trong tay của chính phủ mà họ không được bầu chọn. Những cải cách toàn diện và rộng khắp đã tạo ra những khác biệt chính trị về tốc độ thị trường hóa và sự kiểm soát đối với hệ tư tưởng đi kèm với nó, mở ra một lỗ hổng sâu sắc trong giới lãnh đạo trung ương. Các nhà cải cách ("cánh hữu", do Hồ Diệu Bang lãnh đạo) ủng hộ tự do hóa chính trị và đa nguyên tư tưởng như là một kênh để nói lên sự bất mãn của công chúng, và thúc đẩy cải cách hơn nữa. Những người bảo thủ ("cánh tả", do Trần Vân lãnh đạo) nói rằng các cải cách đã đi quá xa, và ủng hộ việc quay trở lại kiểm soát chặt chẽ hơn của nhà nước để đảm bảo sự ổn định xã hội và phù hợp hơn với hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa của đảng. Tuy nhiên, cả hai bên đều cần sự ủng hộ của nhà lãnh đạo tối cao Đặng Tiểu Bình để thực hiện các quyết định chính sách quan trọng. Biểu tình sinh viên năm 1986 Vào giữa năm 1986, giáo sư vật lý thiên văn Phương Lệ Chi trở về từ một vị trí tại Đại học Princeton và bắt đầu một chuyến du lịch cá nhân quanh các trường đại học ở Trung Quốc; diễn thuyết về tự do, nhân quyền và phân chia quyền lực. Phương là một phần của dòng chảy ngầm rộng lớn hơn trong cộng đồng trí thức ưu tú nghĩ rằng nghèo đói và kém phát triển của Trung Quốc, và thảm họa của Cách mạng Văn hóa, là kết quả trực tiếp của hệ thống chính trị độc đoán và nền kinh tế chỉ huy cứng nhắc. Quan điểm rằng cải cách chính trị là câu trả lời duy nhất cho các vấn đề đang diễn ra của Trung Quốc đã thu hút được sự ủng hộ rộng rãi của các sinh viên, khi các bài phát biểu được ghi âm lại của Phương trở nên phổ biến rộng rãi trên cả nước. Đáp lại, Đặng Tiểu Bình cảnh cáo rằng Phương tôn sùng một cách mù quáng lối sống phương Tây, chủ nghĩa tư bản và hệ thống đa đảng, đồng thời phá hoại tư tưởng xã hội chủ nghĩa, giá trị truyền thống và sự lãnh đạo của đảng. Lấy cảm hứng từ Fang và các phong trào 'sức mạnh nhân dân' khác trên khắp thế giới, vào tháng 12 năm 1986, những người biểu tình đã tổ chức các cuộc biểu tình chống lại tốc độ cải cách chậm chạp. Các vấn đề được nêu ra có phạm vi rộng, và bao gồm các yêu cầu về tự do hóa kinh tế, dân chủ và pháp quyền. Trong khi các cuộc biểu tình ban đầu được tổ chức tại Hợp Phì, nơi Fang sống, chúng nhanh chóng lan sang Thượng Hải, Bắc Kinh và các thành phố lớn khác. Điều này đã báo động giới lãnh đạo trung ương, và lãnh đạo đã buộc tội các sinh viên xúi giục hỗn loạn theo kiểu Cách mạng Văn hóa. Tổng Bí thư Đảng Hồ Diệu Bang bị quy trách nhiệm vì có thái độ mềm mỏng và xử lý sai các cuộc biểu tình, do đó làm suy yếu sự ổn định xã hội. Ông đã bị những người bảo thủ lên án gay gắt và bị buộc thôi chức Tổng bí thư ngày 16 tháng 1 năm 1987. Sau đó, đảng bắt đầu "Chiến dịch chống tự do hóa tư sản ", nhắm vào Hồ, tự do hóa chính trị và các ý tưởng lấy cảm hứng từ phương Tây nói chung. Chiến dịch này ngăn chặn các cuộc biểu tình của sinh viên và thắt chặt môi trường chính trị, nhưng Hồ Diệu Bang vẫn nổi tiếng trong giới tiến bộ trong đảng, giới trí thức và sinh viên. Biểu tình phát triển Cái chết của Hồ Diệu Bang Khi Hồ Diệu Bang đột ngột qua đời vì đau tim vào ngày 15 tháng 4 năm 1989, các sinh viên đã phản ứng mạnh mẽ, hầu hết họ tin rằng cái chết của ông có liên quan đến việc ông từ chức. Cái chết của Hồ đã tạo động lực ban đầu cho sinh viên tập hợp lại với số lượng lớn. Trong khuôn viên trường đại học, nhiều áp phích xuất hiện tưởng nhớ Hồ, kêu gọi hồi sinh di sản của ông. Trong vài ngày, hầu hết các áp phích đã viết về các vấn đề chính trị rộng lớn hơn, như tự do báo chí, dân chủ và tham nhũng. Những cuộc tụ tập nhỏ tự phát để bày tỏ thương tiếc Hồ bắt đầu vào ngày 15 tháng 4 xung quanh Đài tưởng niệm các Anh hùng Nhân dân tại Quảng trường Thiên An Môn. Cùng ngày, nhiều sinh viên tại Đại học Bắc Kinh (PKU) và Đại học Thanh Hoa đã dựng lên các bàn thờ, và tham gia vào cuộc họp mặt tại Quảng trường Thiên An Môn theo kiểu từng phần. Các cuộc họp mặt sinh viên có tổ chức cũng bắt đầu ở quy mô nhỏ ở Tây An và Thượng Hải vào ngày 16 tháng 4. Ngày 17 tháng 4, sinh viên tại Đại học Khoa học Chính trị và Luật Trung Quốc (CUPL) đã làm một vòng hoa lớn để tưởng nhớ Hồ Diệu Bang. Buổi khánh thành vòng hoa diễn ra vào ngày 17 tháng 4 và một đám đông lớn hơn mong đợi được tập hợp. Vào lúc 17:00, 500 sinh viên CUPL đã đến cổng phía đông của Đại lễ đường Nhân dân, gần Quảng trường Thiên An Môn, để bày tỏ lòng thương tiếc Hồ Diệu Bang. Các diễn giả nổi bật từ các hoàn cảnh khác nhau tụ tập lại và đưa ra các bài diễn văn ghi công Hồ trước công chúng và thảo luận về các vấn đề xã hội. Tuy nhiên, nó đã sớm bị coi là cản trở hoạt động của Đại lễ đường, vì vậy cảnh sát đã cố gắng thuyết phục các sinh viên giải tán. Nhiều cuộc tụ tập tự phát nhỏ của người dân để tưởng nhớ Hồ Diệu Bang đã diễn ra vào ngày 15 tháng Tư quanh Đài tưởng niệm các anh hùng nhân dân tại Quảng trường Thiên An Môn. Bắt đầu vào đêm ngày 17 tháng 4, ba nghìn học sinh của trường Đại học Bắc Kinh đã diễu hành từ trường đến Quảng trường Thiên An Môn, cùng với gần một ngàn sinh viên từ Tsinghua đã tham gia. Khi đến nơi, họ nhanh chóng gia nhập lực lượng với những người đã tụ tập tại quảng trường. Dần dần, cuộc tập hợp quần chúng quy mô lớn này đã phát triển thành một cuộc biểu tình, khi các sinh viên bắt đầu phác thảo một danh sách những lời thỉnh cầu và đề xuất gửi tới Đảng Cộng sản Trung Quốc, trong đó họ kêu gọi chính phủ: Công nhận quan điểm của Hồ Diệu Bang về dân chủ và tự do là chính xác; Thừa nhận rằng các chiến dịch chống tha hóa tinh thần và chống chủ nghĩa tự do tư sản của chính phủ đã sai lầm Công khai thông tin về thu nhập của các lãnh đạo nhà nước và thành viên gia đình của họ Cho phép báo chí tư nhân hoạt động và ngừng kiểm duyệt báo chí Tăng nguồn kinh phí đầu tư cho giáo dục và tăng lương cho giới trí thức Kết thúc việc kìm hãm cuộc biểu tình ở Bắc Kinh Công khai những đòi hỏi của sinh viên trên các phương tiện truyền thông chính thức Sáng ngày 18 tháng 4, sinh viên vẫn tụ tập ở Quảng trường. Một số người tập trung quanh Đài tưởng niệm Anh hùng Nhân dân hát những bài hát yêu nước và lắng nghe những bài phát biểu ngẫu hứng của ban tổ chức sinh viên, những người khác tập trung tại Đại lễ đường. Trong khi đó, một vài ngàn sinh viên đã tập trung tại cổng Tân Hoa, lối vào Trung Nam Hải, trụ sở của lãnh đạo đảng, tại đó họ yêu cầu đối thoại với lãnh đạo. Cảnh sát đã ngăn chặn các sinh viên đi vào đó. Các sinh viên sau đó thực hiện một cuộc biểu tình ngồi. Vào ngày 20 tháng 4, hầu hết các sinh viên đã bị thuyết phục rời khỏi Cổng Tân Hoa. Để giải tán khoảng 200 sinh viên còn lại, cảnh sát đã sử dụng dùi cui; báo cáo đã có đụng độ nhỏ. Nhiều sinh viên cảm thấy bị cảnh sát lạm dụng, và những tin đồn về sự tàn bạo của cảnh sát lan truyền nhanh chóng. Vụ việc này khiến các sinh viên trong khuôn viên trường tức giận, dẫn đến những sinh viên vốn không hoạt động chính trị quyết định tham gia các cuộc biểu tình. Cũng vào ngày này, một nhóm công nhân tự xưng là Liên đoàn tự trị Công nhân Bắc Kinh đã ban hành hai tờ rơi thách thức ban lãnh đạo trung ương. Tang lễ nhà nước của Hồ Diệu Bang diễn ra vào ngày 22 tháng Tư. Vào tối ngày 21 tháng 4, khoảng 100.000 sinh viên đã diễu hành trên Quảng trường Thiên An Môn, phớt lờ các mệnh lệnh từ chính quyền thành phố Bắc Kinh rằng Quảng trường sẽ phải đóng cửa để thực hiện tang lễ. Tang lễ diễn ra bên trong Đại lễ đường và có sự tham gia của lãnh đạo, được truyền hình trực tiếp tới các sinh viên. Tổng Bí thư Triệu Tử Dương đọc điếu văn. Đám tang dường như vội vã, và chỉ kéo dài 40 phút, khi cảm xúc dâng trào trên Quảng trường. Các sinh viên đã khóc. An ninh đã chặn lối vào phía đông đến Đại lễ đường Nhân dân, nhưng một số sinh viên đã tiến về phía trước. Một số ít được phép vượt qua dòng người cảnh sát. Ba trong số những sinh viên này (Zhou Yongjun, Guo Haifeng và Zhang Zhiyong) quỳ xuống trên các bậc thang của Đại lễ để trình bày kiến nghị và yêu cầu được gặp Thủ tướng Lý Bằng. Đứng bên cạnh họ, một sinh viên thứ tư (Ngô Nhĩ Khai Hy) đã có một bài phát biểu ngắn gọn, đầy cảm xúc cầu xin Lý Bằng ra và nói chuyện với họ. Số lượng lớn hơn các sinh viên vẫn còn ở Quảng trường nhưng bên ngoài hàng rào, đôi khi rất xúc động, hét lên những yêu cầu hoặc khẩu hiệu và lao về phía cảnh sát. Ngô Nhĩ Khai Hy làm dịu đám đông xuống khi họ chờ Thủ tướng xuất hiện. Tuy nhiên, không có nhà lãnh đạo nào đi ra khỏi Đại lễ đường, khiến các sinh viên thất vọng và tức giận; một số kêu gọi bãi khóa. Vào ngày 21 tháng 4, sinh viên bắt đầu tổ chức lại dưới danh nghĩa của các tổ chức chính thức. Vào ngày 23 tháng 4, trong một cuộc họp của khoảng 40 sinh viên từ 21 trường đại học, Liên đoàn tự trị của sinh viên Bắc Kinh (còn gọi là Liên minh) đã được thành lập. Liên đoàn đã bầu sinh viên CUPL Zhou Yongjun làm chủ tịch. Wang Dan và Ngô Nhĩ Khai Hy cũng nổi lên như những người lãnh đạo. Liên minh này sau đó kêu gọi bãi khóa ở tất cả các trường đại học ở Bắc Kinh. Một tổ chức độc lập như vậy hoạt động bên ngoài thẩm quyền của đảng đã gióng lên hồi chuông báo động cho các lãnh đạo. Vào ngày 22 tháng 4, lúc gần chạng vạng tối, bạo loạn nghiêm trọng đã nổ ra ở Trường Sa và Tây An. Ở Tây An, những kẻ bạo loạn đã phá hủy xe hơi và nhà cửa, và nạn cướp bóc xảy ra tại các cửa hàng gần cổng Tây Hoa của thành phố. Tại Trường Sa, 38 cửa hàng đã bị những kẻ cướp bóc phá hủy. Hơn 350 người đã bị bắt ở cả hai thành phố. Tại Vũ Hán, sinh viên đại học đã tổ chức các cuộc biểu tình phản đối chính quyền tỉnh. Khi tình hình trở nên biến động hơn trên toàn quốc, Triệu Tử Dương đã gọi nhiều cuộc họp của Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị (PSC). Triệu nhấn mạnh ba điểm: không khuyến khích sinh viên tiếp tục biểu tình và yêu cầu họ quay trở lại lớp học, sử dụng tất cả các biện pháp cần thiết để chống bạo loạn và các hình thức đối thoại cởi mở với các sinh viên ở các cấp chính quyền khác nhau. Thủ tướng Lý Bằng kêu gọi Triệu Tử Dương lên án những người biểu tình và nhận ra sự cần thiết phải có hành động nghiêm trọng hơn. Triệu đã bác bỏ quan điểm của Lý. Mặc dù đã có những lời kêu gọi ông ở lại Bắc Kinh, Triệu Tử Dương đã rời Trung Quốc để thực hiện chuyến thăm cấp nhà nước theo lịch trình tới Bắc Triều Tiên vào ngày 23 tháng 4. Bước ngoặt: Xã luận ngày 26 tháng 4 Sự rời đi của Triệu tới Bắc Triều Tiên đã khiến Lý Bằng trở thành quyền lãnh đạo cao nhất tại Bắc Kinh. Vào ngày 24 tháng 4, Lý Bằng và PSC đã gặp gỡ với Bí thư Bắc Kinh Li Ximing và thị trưởng Trần Hy Đồng để đánh giá tình hình tại Quảng trường. Các quan chức thành phố muốn giải quyết nhanh chóng cuộc khủng hoảng và đóng khung các cuộc biểu tình như một âm mưu lật đổ hệ thống chính trị của Trung Quốc và các nhà lãnh đạo đảng lớn, bao gồm cả Đặng Tiểu Bình. Với sự vắng mặt của Triệu, Ủy ban đã đồng ý rằng phải có hành động kiên quyết chống lại biểu tình. Vào sáng ngày 25 tháng 4, Chủ tịch nước Dương Thượng Côn và Thủ tướng Lý Bằng đã gặp Đặng Tiểu Bình tại dinh thự của Đặng. Đặng tán thành lập trường cứng rắn và cho biết một 'cảnh báo' thích hợp phải được phổ biến thông qua các phương tiện thông tin đại chúng để hạn chế các cuộc biểu tình tiếp theo. Cuộc họp đã thiết lập vững chắc sự đánh giá chính thức đầu tiên về các cuộc biểu tình từ ban lãnh đạo, và nhấn mạnh việc Đặng có 'tiếng nói cuối cùng' về các vấn đề quan trọng. Lý Bằng sau đó đã truyền lệnh soạn thảo các quan điểm của Đặng như một thông cáo và ban hành cho tất cả các quan chức Đảng Cộng sản cấp cao với nỗ lực nhằm huy động bộ máy đảng chống lại người biểu tình. Vào ngày 26 tháng 4, tờ nhật báo chính thức của đảng Nhân Dân nhật báo đã phát hành một bài xã luận trên trang nhất có tiêu đề " Cần phải có lập trường rõ ràng chống lại các xáo trộn." Ngôn ngữ trong bài xã luận đã mô tả một cách hiệu quả phong trào sinh viên là một cuộc nổi dậy chống đảng, chống chính phủ. Bài báo làm các sinh viên phẫn nộ, và cho rằng bài báo như một bản cáo trạng trực tiếp về các cuộc biểu tình và nguyên nhân của nó. Bài xã luận đã gây ra phản tác dụng. Thay vì ép sinh viên phải nhận thua, bài báo đã đẩy sinh viên vào thế chống lại chính quyền. Bản chất phân cực của bài xã luận khiến nó trở thành điểm nhấn chính cho phần còn lại của các cuộc biểu tình. Bài xã luận gợi lên những ký ức của cuộc Cách mạng Văn hóa, sử dụng thuật hùng biện tương tự như sử dụng trong sự kiện Thiên An Môn năm 1976 - sự kiện mà ban đầu được dán nhãn là một âm mưu chống chính phủ nhưng sau đó đã được phục hồi như là một phong trào "yêu nước" dưới sự lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình. Các cuộc biểu tình ngày 27 tháng 4 Được tổ chức bởi Liên minh vào ngày 27 tháng 4, khoảng 50.000 -100.000 sinh viên từ tất cả các trường đại học Bắc Kinh đã diễu hành qua các đường phố của thủ đô đến Quảng trường Thiên An Môn, phá vỡ các hàng rào do cảnh sát thiết lập và nhận được sự ủng hộ rộng rãi của công chúng dọc đường, đặc biệt là từ các công nhân nhà máy. Các nhà lãnh đạo sinh viên, mong muốn thể hiện bản chất yêu nước của phong trào, cũng giảm bớt các khẩu hiệu chống Đảng cộng sản, chọn cách trình bày thông điệp là "chống tham nhũng, chống chủ nghĩa thân hữu", nhưng "ủng hộ đảng". Trớ trêu là các phe phái sinh viên thực sự kêu gọi lật đổ Đảng Cộng sản đã có được sự ủng hộ do kết quả của bài xã luận ngày 26 tháng 4. Thành công rực rỡ của cuộc tuần hành đã buộc chính phủ phải nhượng bộ và gặp gỡ các đại diện sinh viên. Vào ngày 29 tháng 4, phát ngôn viên của Hội đồng Nhà nước Yuan Mu đã gặp gỡ các đại diện được chỉ định của các hiệp hội sinh viên do chính phủ lập ra. Trong khi các cuộc thảo luận đã thảo luận về một loạt các vấn đề, bao gồm cả bài xã luận, sự kiện Cổng Tân Hoa và tự do báo chí, các sinh viên đã đạt được rất ít kết quả đáng kể. Các nhà lãnh đạo sinh viên độc lập như Ngô Nhĩ Khả Hy đã từ chối tham dự cuộc họp. Giọng điệu của chính phủ ngày càng thiên về hòa giải khi Triệu Tử Dương trở về từ Bình Nhưỡng vào ngày 30 tháng 4 và tiếp tục quyền hành pháp của mình. Theo quan điểm của Triệu, phương pháp tiếp cận cứng rắn là không hiệu quả và nhượng bộ là phương án duy nhất. Triệu yêu cầu báo chí được cởi mở để báo cáo phong trào một cách tích cực, và đưa ra hai bài phát biểu cảm thông vào ngày 3-4 tháng 5. Trong các bài phát biểu, Triệu nói rằng những lo ngại của sinh viên về tham nhũng là hợp pháp và bản chất của phong trào sinh viên là yêu nước. Các bài phát biểu về cơ bản phủ nhận thông điệp của bài xã luận ngày 26 tháng 4. Trong khi khoảng 100.000 sinh viên diễu hành trên đường phố Bắc Kinh vào ngày 4 tháng 5 để kỷ niệm Phong trào Ngũ Tứ và lặp lại yêu cầu từ các cuộc tuần hành trước đó, nhiều sinh viên hài lòng với những nhượng bộ của chính phủ. Ngày 4 tháng 5, tất cả các trường đại học Bắc Kinh trừ PKU và BNU đều tuyên bố chấm dứt tẩy chay. Sau đó, phần lớn các sinh viên bắt đầu mất hứng thú với phong trào. Biểu tình leo thang Chuẩn bị đối thoại Ban lãnh đạo Đảng đã chia rẽ về cách đáp ứng với phong trào kể từ giữa tháng Tư. Sau khi Triệu Tử Dương trở về từ Bắc Triều Tiên, căng thẳng phe phái gia tăng giữa phe tiến bộ và phe bảo thủ. Những người ủng hộ tiếp tục đối thoại và cách tiếp cận mềm mỏng với các sinh viên đã tập hợp phía sau Triệu Tử Dương, trong khi những người bảo thủ cứng rắn phản đối phong trào tập hợp đằng sau Thủ tướng Lý Bằng. Triệu và Lý đã đụng độ tại một cuộc họp Ủy ban Thường vụ vào ngày 1 tháng 5. Lý cho rằng nhu cầu ổn định sẽ lấn át tất cả những thứ khác, trong khi Triệu nói rằng đảng nên thể hiện sự ủng hộ để tăng thêm dân chủ và minh bạch. Triệu yêu cầu đối thoại thêm nữa. Để chuẩn bị đối thoại, Hội sinh viên tự trị đã bầu đại diện vào một phái đoàn chính thức. Tuy nhiên, đã có một số xích mích, vì các nhà lãnh đạo Liên minh đã miễn cưỡng để phái đoàn đơn phương kiểm soát phong trào. Phong trào bị chậm lại do thay đổi cách tiếp cận thong thả hơn, đã bị rạn nứt bởi sự bất hòa trong nội bộ, và ngày càng bị làm loãng bởi sự tham gia ngày càng giảm từ lực lượng sinh viên. Trong bối cảnh này, một nhóm các nhà lãnh đạo có khả năng lôi cuốn, bao gồm Wang Dan và Ngô Nhĩ Khả Hy, mong muốn lấy lại động lực. Họ cũng không tin vào những lời đề nghị 'đối thoại' của chính phủ, coi đối thoại chỉ là một mưu đồ được chính phủ thiết kế để câu giờ và làm dịu các sinh viên. Để thoát khỏi cách tiếp cận vừa phải và gia tăng từ từ hiện đang được các nhà lãnh đạo sinh viên lớn khác áp dụng, những sinh viên cấp tiến này bắt đầu kêu gọi quay trở lại các biện pháp đối đầu hơn. Họ tổ chức một kế hoạch vận động sinh viên tuyệt thực vào ngày 13   tháng 5. Những nỗ lực ban đầu để huy động những người khác cùng tham gia chỉ gặp được thành công khiêm tốn cho đến khi Sài Linh đưa ra lời kêu gọi đầy cảm xúc vào đêm trước khi cuộc tuyệt thực dự kiến bắt đầu. Cuộc tuyệt thực bắt đầu Các sinh viên bắt đầu tuyệt thực vào ngày 13 tháng 5, hai ngày trước chuyến thăm Trung Quốc cấp nhà nước được công bố rộng rãi của nhà lãnh đạo Liên Xô Mikhail Gorbachev. Biết rằng buổi lễ chào đón Gorbachev đã được lên kế hoạch tổ chức trên Quảng trường, các nhà lãnh đạo sinh viên muốn sử dụng cuộc tuyệt thực ở đó để buộc chính phủ phải đáp ứng yêu cầu của họ. Hơn nữa, cuộc tuyệt thực đã giành được sự đồng cảm rộng rãi từ dân chúng và tạo ra cho phong trào sinh viên tinh thần rất cao mà nó tìm kiếm. Đến chiều ngày 13 tháng 5, khoảng 300.000 người đã tập trung tại Quảng trường. Lấy cảm hứng từ quá trình của các sự kiện ở Bắc Kinh, các cuộc biểu tình và đình công bắt đầu tại các trường đại học ở các thành phố khác, với nhiều sinh viên đi tới Bắc Kinh để tham gia biểu tình. Nói chung, cuộc biểu tình tại Quảng trường Thiên An Môn đã được sắp xếp hợp lý, với các cuộc tuần hành hàng ngày của các sinh viên từ các trường đại học khác nhau ở Bắc Kinh thể hiện sự đoàn kết của họ với sự tẩy chay của lớp và với yêu cầu của cuộc biểu tình. Các sinh viên đã hát The Internationale trên đoạn đường đi đến Quảng trường và tại Quảng trường. Sợ rằng phong trào sẽ vượt khỏi tầm kiểm soát, Đặng Tiểu Bình đã ra lệnh dọn dẹp Quảng trường để đón chuyến thăm của Gorbachev. Thực hiện yêu cầu của Đặng, Triệu Tử Dương một lần nữa sử dụng một cách tiếp cận mềm, và chỉ đạo cấp dưới của mình phối hợp đàm phán với sinh viên ngay lập tức. Zhao tin rằng ông có thể lôi cuốn lòng yêu nước của sinh viên và các sinh viên hiểu các dấu hiệu hỗn loạn nội bộ trong hội nghị thượng đỉnh Xô-Trung sẽ là sự xấu hổ cho quốc gia (không chỉ chính phủ). Vào sáng ngày 13 tháng 5, Yan Mingfu, người đứng đầu Mặt trận Thống nhất của Đảng Cộng sản, đã yêu cầu một cuộc họp khẩn cấp, tập hợp các nhà lãnh đạo và trí thức nổi tiếng, bao gồm Lưu Hiểu Ba, Chen Ziming và Wang Juntao. Yan cho biết chính phủ đã được chuẩn bị để tổ chức đối thoại trực tiếp với đại diện sinh viên, nhưng lễ chào đón Gorbachev tại Thiên An Môn sẽ bị hủy bỏ dù các sinh viên có rút khỏi Quảng trường hay không - điều này đồng nghĩa với việc loại bỏ quyền lực thương lượng mà các sinh viên nghĩ rằng họ sở hữu. Thông báo đã khiến ban lãnh đạo sinh viên rơi vào tình trạng hỗn loạn. Chuyến thăm của Mikhail Gorbachev Hạn chế báo chí đã được nới lỏng đáng kể trong thời gian từ đầu đến giữa tháng 5. Truyền thông nhà nước bắt đầu phát sóng những đoạn phim gây thiện cảm với người biểu tình và phong trào, bao gồm cả những người tuyệt thực. Vào ngày 14 tháng 5, những trí thức do Dai Qing lãnh đạo đã xin phép Hu Qili để vượt qua sự kiểm duyệt của chính phủ và đưa ra những quan điểm tiến bộ của trí thức quốc gia trên Quang minh nhật báo. Các trí thức sau đó đã đưa ra một lời kêu gọi khẩn cấp yêu cầu các sinh viên rời khỏi Quảng trường trong một nỗ lực để giảm bớt xung đột. Tuy nhiên, nhiều sinh viên tin rằng các trí thức đang phát ngôn cho chính phủ, và từ chối di chuyển. Tối hôm đó, các cuộc đàm phán chính thức đã diễn ra giữa các đại diện chính phủ do Yan Mingfu dẫn đầu và đại diện sinh viên do Shen Tong và Xiang Xiaoji dẫn đầu. Yan khẳng định bản chất yêu nước của phong trào sinh viên và khẩn khoản xin sinh viên rút khỏi Quảng trường. Trong khi sự chân thành rõ ràng xin được thỏa hiệp của Yan làm một số sinh viên thỏa mãn, cuộc đàm phán ngày càng trở nên hỗn loạn khi các phe phái sinh viên cạnh tranh nhau chuyển tiếp các đòi hỏi không nhất quán và rời rạc tới các lãnh đạo. Ngay sau khi các nhà lãnh đạo sinh viên biết rằng sự kiện này đã không được phát sóng trên toàn quốc như lời hứa ban đầu của chính phủ, cuộc họp đã sụp đổ. Yan sau đó đích thân đến Quảng trường để kêu gọi các sinh viên, thậm chí đề nghị sinh viên giữ chính ông lại làm con tin. Yan cũng đưa lời cầu xin của học sinh đến Lý Bằng vào ngày hôm sau, yêu cầu Lý xem xét chính thức việc rút lại Xã luận ngày 26 tháng 4 và đổi nhãn hiệu cho phong trào là "yêu nước và dân chủ"; Lý đã từ chối. Các sinh viên vẫn ở Quảng trường trong chuyến thăm của Gorbachev; lễ đón của ông đã được tổ chức tại sân bay. Hội nghị thượng đỉnh Xô-Trung, lần đầu tiên trong khoảng 30 năm, đánh dấu sự bình thường hóa quan hệ Xô-Trung, và được coi là một bước đột phá có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Tuy nhiên, quá trình diễn ra suôn sẻ của nó đã bị phong trào sinh viên phá hỏng; điều này tạo ra một sự bối rối lớn ("mất mặt ") cho các lãnh đạo Trung Quốc trên sân khấu toàn cầu, và đẩy nhiều người trong chính phủ từ ôn hòa tới con đường 'cứng rắn' hơn. Hội nghị thượng đỉnh giữa Đặng và Gorbachev diễn ra tại Đại lễ đường Nhân dân giữa bối cảnh hỗn loạn và biểu tình ở Quảng trường. Khi Gorbachev gặp Triệu Tử Dương vào ngày 16 tháng 5, Triệu nói với Gorbachev, và xét về một phương diện mở rộng là với báo chí quốc tế, rằng Đặng vẫn là 'lãnh đạo tối cao' ở Trung Quốc. Đặng cảm thấy rằng nhận xét này là nỗ lực của Triệu để đổ lỗi cho việc xử lý phong trào sinh viên sai lầm sang cho Đặng. Việc Triệu Tử Dương bảo vệ cá nhân mình chống lại cáo buộc này bằng cách thông báo riêng cho các nhà lãnh đạo thế giới rằng Đặng là trung tâm quyền lực thực sự vốn là quy trình vận hành tiêu chuẩn; Lý Bằng đã có những tuyên bố riêng gần như giống hệt với tổng thống Hoa Kỳ George H.W. Bush vào tháng 2 năm 1989. Tuy nhiên, tuyên bố này đánh dấu sự chia rẽ mang tính quyết định giữa hai nhà lãnh đạo cấp cao nhất của đất nước Trung Quốc. Lấy đà Các cuộc tuyệt thực đã làm ủng hộ cho các sinh viên tăng vọt và khơi dậy sự cảm thông trên cả nước. Khoảng một triệu cư dân Bắc Kinh từ mọi tầng lớp đã thể hiện sự đoàn kết từ ngày 17-18 tháng 5. Những người này bao gồm nhân viên quân đội, sĩ quan cảnh sát và các quan chức đảng cấp thấp. Nhiều tổ chức Đảng và Đoàn Thanh niên cơ sở, cũng như các công đoàn lao động do chính phủ tài trợ, đã khuyến khích thành viên của họ đi biểu tình. Ngoài ra, một số tổ chức không cộng sản của Trung Quốc đã gửi thư cho Lý Bằng bày tỏ ủng hộ của họ đối với các sinh viên. Hội Chữ thập đỏ Trung Quốc đã đưa ra một thông báo đặc biệt và gửi một số lượng lớn nhân viên đến cung cấp dịch vụ y tế cho những người tuyệt thực trên Quảng trường. Sau khi Mikhail Gorbachev ra về, nhiều nhà báo nước ngoài vẫn ở lại thủ đô Trung Quốc để đưa tin về các cuộc biểu tình, khiến phong trào trở nên nổi bật trên bình diện quốc tế. Các chính phủ phương Tây kêu gọi Bắc Kinh giữ kiềm chế. Phong trào, vốn suy yếu vào cuối tháng 4, giờ đã lấy lại được đà. Đến ngày 17 tháng 5, khi các sinh viên từ khắp đất nước đổ về thủ đô để tham gia phong trào, các cuộc biểu tình với quy mô khác nhau đã xảy ra ở khoảng 400 thành phố của Trung Quốc. Sinh viên biểu tình tại trụ sở đảng cấp tỉnh ở Phúc Kiến, Hồ Bắc và Tân Cương. Do các lãnh đạo Bắc Kinh không có ý kiến rõ ràng, chính quyền địa phương không biết làm thế nào để trả lời. Bởi vì các cuộc biểu tình bây giờ bao gồm một loạt các nhóm xã hội, mỗi nhóm mang theo những bất bình riêng, nên ngày càng không rõ chính phủ nên đàm phán với ai, và những yêu cầu của dân chúng là gì. Chính phủ Trung Quốc, vốn vẫn chia rẽ về cách đối phó với phong trào, đã thấy thẩm quyền và tính hợp pháp của nó dần bị xói mòn khi những người tuyệt thực dần trở nên nổi bật và nhận được sự đồng cảm rộng rãi. Những hoàn cảnh kết hợp này gây áp lực to lớn, ép chính quyền hành động, và thiết quân luật đã được thảo luận như một phản ứng khả thi. Tình hình trở nên khó xử, nên sức nặng của việc quyết định hành động đã đặt trên vai nhà lãnh đạo tối cao Đặng Tiểu Bình. Tình thế lâm vào đối đầu vào ngày 17 tháng 5, trong một cuộc họp của Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị tại nhà riêng của Đặng. Tại cuộc họp, chiến lược dựa trên nhượng bộ của Triệu Tử Dương, kêu gọi rút lại bài Xã luận ngày 26 tháng 4, đã bị chỉ trích triệt để. Lý Bằng, Diêu Y Lâm và Đặng khẳng định rằng bằng cách phát biểu lời hòa giải với Ngân hàng Phát triển châu Á vào ngày 4 tháng 5, Triệu đã bộc lộ sự chia rẽ trong giới lãnh đạo cao nhất và thúc đẩy các sinh viên. Đặng cảnh báo rằng "không có cách nào lùi xuống mà không có tình trạng mất kiểm soát", và vì vậy "quyết định là chuyển quân vào Bắc Kinh để tuyên bố thiết quân luật" nhằm cho thấy lập trường không khoan nhượng của chính phủ. Để biện minh cho thiết quân luật, những người biểu tình được mô tả là những công cụ của "chủ nghĩa tự do tư sản", là những người đang giật dây phía sau hậu trường, cũng như là các công cụ của các thành phần trong đảng muốn tiếp tục các tham vọng cá nhân của họ. Trong phần còn lại của cuộc đời, Triệu Tử Dương khẳng định rằng quyết định cuối cùng nằm trong tay của Đặng: trong số năm thành viên Ủy ban có mặt tại cuộc họp, ông và Hu Qili phản đối việc áp dụng thiết quân luật; còn Lý Bằng và Diêu Y Lâm kiên quyết ủng hộ; và Kiều Thạch vẫn tỏ ra trung lập một cách cẩn thận và không theo bên nào. Đặng bổ nhiệm ba người Lý, Diêu và Kiều để thực hiện quyết định này. Vào tối ngày 17 tháng 5, Ủy ban thường vụ đã họp tại Trung Nam Hải để hoàn thiện các kế hoạch cho quân luật. Tại cuộc họp, Triệu tuyên bố rằng ông đã sẵn sàng đi "nghỉ phép", với lý do ông không thể tự mình thực hiện thiết quân luật. Các trưởng lão tham dự cuộc họp, Bạc Nhất Ba và Dương Thượng Côn, kêu gọi Ủy ban tuân theo mệnh lệnh của Đặng. Triệu Tử Dương không coi cuộc bỏ phiếu của ủy ban, vốn không có kết luận rõ ràng, có ý nghĩa ràng buộc về mặt pháp lý đối với việc sử dụng thiết quân luật; Dương Thượng Côn, với tư cách là Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương, đã tiếp tục huy động quân đội di chuyển vào Bắc Kinh. Lý Bằng gặp sinh viên lần đầu tiên vào ngày 18 tháng 5 trong một nỗ lực để xoa dịu mối quan tâm của công chúng về cuộc tuyệt thực. Trong các cuộc hội đàm, các nhà lãnh đạo sinh viên một lần nữa yêu cầu chính phủ hủy bỏ Xã luận 26 tháng 4 và khẳng định phong trào sinh viên là "yêu nước". Li Peng cho biết mối quan tâm chính của chính phủ là đưa những sinh viên tuyệt thực đến bệnh viện. Các cuộc thảo luận mang tính đối đầu và mang lại ít tiến bộ hoặc đối thoại, nhưng đã khiến các lãnh đạo sinh viên trở nên nổi bật trên truyền hình quốc gia. Đến thời điểm này, những người kêu gọi lật đổ đảng và cá nhân Lý Bằng và Đặng trở nên nổi bật cả ở Bắc Kinh và các thành phố khác. Những khẩu hiệu nhắm vào cá nhân họ Đặng, ví dụ như gọi ông là "quyền lực đằng sau ngai vàng". Vào sáng sớm ngày 19 tháng 5, Triệu Tử Dương đã đi cùng với Ôn Gia Bảo. Lý Bằng cũng đến Quảng trường, nhưng đã rời đi ngay sau đó. Lúc 4:50 sáng Triệu đã có một bài phát biểu với loa trước đám đông sinh viên, kêu gọi các sinh viên chấm dứt tuyệt thực. Một phần bài diễn văn của ông đã trở thành câu trích dẫn nổi tiếng: "Hỡi các sinh viên, chúng tôi đã đến quá muộn. Chúng tôi xin lỗi. Các bạn nói về chúng tôi, chỉ trích chúng tôi, tất cả những điều đó đều cần thiết. Lý do tôi đến đây không phải là để yêu cầu các bạn tha thứ cho chúng tôi. Tất cả những gì tôi muốn nói là các sinh viên đang rất yếu, đây là ngày thứ 7 kể từ khi các bạn tuyệt thực, các bạn không thể tiếp tục như thế này được. [...] Các bạn vẫn còn trẻ, vẫn còn nhiều ngày tháng ở phía trước, các bạn phải sống khỏe mạnh, để nhìn thấy ngày mà Trung Quốc hoàn thành bốn hiện đại hóa. Các bạn không giống chúng tôi, chúng tôi đã già, nó không còn quan trọng với chúng tôi nữa".. Bài phát biểu đầy cảm xúc của Zhao được một số học sinh hoan nghênh. Đây là lần xuất hiện trước công chúng cuối cùng của ông. Vào ngày 19 tháng 5, Ủy ban Thường vụ đã gặp gỡ các nhà lãnh đạo quân sự và nguyên lão trong đảng. Đặng Tiểu Bình chủ trì cuộc họp và nói rằng thiết quân luật là lựa chọn duy nhất để đảm bảo an ninh. Trong cuộc họp, Đặng tuyên bố rằng ông đã "nhầm lẫn" khi chọn những người đã tỏ thái độ vô trách nhiệm như Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương làm người kế vị, và ông quyết tâm sẽ loại Triệu khỏi vị trí Tổng Bí thư. Đặng cũng tuyên bố sẽ kiên quyết đối phó với những người có thái độ ủng hộ Triệu và bắt đầu công việc tuyên truyền. Trên toàn quốc và ở bên ngoài Trung Quốc đại lục Buổi đầu phong trào, truyền thông Trung Quốc có cơ hội hiếm hoi để thông tin một cách tự do và chính xác. Đa số họ được tự do viết và thông báo sự kiện đang diễn ra vì không bị các cơ quan địa phương và chính phủ quản lý. Tin tức nhanh chóng lan rộng trên khắp lục địa. Theo báo cáo của truyền thông Trung Quốc, sinh viên và công nhân tại hơn 400 thành phố, gồm cả các thành phố tại Nội Mông, cũng tổ chức lại và bắt đầu phản kháng. Mọi người cũng kéo tới thủ đô để gia nhập cuộc phản kháng tại Quảng trường Thiên An Môn. Sinh viên đại học tại Thượng Hải cũng xuống đường để kỷ niệm cái chết của Hồ Diệu Bang và phản đối một số chính sách của chính phủ. Trong nhiều trường hợp, họ được sự ủng hộ của các uỷ ban đảng của trường. Giang Trạch Dân, khi ấy là bí thư đảng uỷ thành phố, diễn thuyết trước các sinh viên, bày tỏ sự cảm thông bởi ông cũng từng là một sinh viên hoạt động tích cực trước năm 1949. Cùng lúc ấy, ông nhanh chóng hành động điều các lực lượng cảnh sát tới kiểm soát đường phố và thanh trừng các lãnh đạo Đảng Cộng sản ủng hộ sinh viên. Ngày 19 tháng 4, các biên tập viên tờ Thế giới kinh tế đạo báo, một tạp chí có khuynh hướng cải cách, quyết định xuất bản, trong số 439 ngày 24 tháng 4, một mục bình luận về Hồ Diệu Bang. Bên trong là một bài viết của Nghiêm Gia Kỳ, với lời lẽ ủng hộ những sinh viên phản kháng tại Bắc Kinh ngày 18 tháng 4, và kêu gọi đánh giá lại việc thanh trừng ông năm 1987. Ngày 21 tháng 4, một quan chức Đảng tại Thượng Hải đã yêu cầu tổng biên tập, Khâm Bản Lập, thay đổi một số đoạn. Khâm Bản Lập từ chối và Trần phải quay sang Giang Trạch Dân, người yêu cầu kiểm duyệt bài báo. Tới thời điểm ấy, đợt báo in đầu tiên đã được phát hành. Số còn lại được xuất bản với một trang trống. Ngày 26 tháng 4, Nhân dân Nhật báo xuất bản bài xã luận lên án cuộc phản kháng của sinh viên. Giang hành động theo hướng này và đình chỉ chức vụ của Khâm Bản Lập. Ông nhanh chóng nổi lên nắm quyền lực sau khi quả quyết dẹp yên những cuộc biểu tình năm 1989. Tại Hương Cảng, ngày 27 tháng 5 năm 1989, hơn 300.000 người đã tụ họp tại trường đua ngựa Bào Mã Địa trong một sự kiện được gọi là "Những bài hát dân chủ dành cho Trung Quốc". Nhiều nhân vật nổi tiếng người Hồng Kông và Đài Loan đã cùng hát và thể hiện sự ủng hộ của họ với các sinh viên tại Bắc Kinh. Hôm sau, ngày 28 tháng 5, một đám diễu hành do Martin Lee, Szeto Wah và nhiều người khác dẫn đầu đã đi suốt hòn đảo Hồng Kông; 1.5 triệu người đã tham gia. Cũng có những cuộc biểu tình tại Đài Loan. Chính phủ đã thông qua một điều luật cho rằng họ sẽ cung cấp một hộ chiếu Trung Hoa Dân quốc và hỗ trợ tài chính cho bất kỳ người Trung Quốc nào từ bỏ hộ chiếu Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Trên khắp thế giới, ở những nơi có nhiều người Trung Quốc sinh sống, những cuộc tụ tập và tuần hành diễn ra. Nhiều chính phủ, như Hoa Kỳ, Nhật Bản... cũng đưa ra những cảnh báo, khuyến cáo công dân nước mình không tới Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Chính phủ giải tán cuộc biểu tình Thiết quân luật Chính phủ Trung Quốc đã tuyên bố thiết quân luật vào ngày 20 tháng 5, và huy động khoảng 250.000 quân đến thủ đô Bắc Kinh. Sự xâm nhập của quân đội vào thành phố đã bị chặn tại các vùng ngoại ô bởi đám đông những người biểu tình. Hàng chục ngàn người biểu tình đã bao vây các xe quân sự, ngăn cản họ tiến lên hoặc rút lui. Những người biểu tình đã thuyết phục binh lính tham gia vào sự nghiệp đấu tranh của họ; họ cũng cung cấp cho binh lính đồ ăn, nước và nơi trú ẩn. Nhận thấy không có cách nào để tiến về phía trước, chính quyền đã ra lệnh cho quân đội rút quân vào ngày 24 tháng Năm. Tất cả các lực lượng chính phủ rút lui về căn cứ bên ngoài thành phố. Trong lúc ấy, những cuộc biểu tình vẫn tiếp diễn. Cuộc tuyệt thực đang tiến dần tới tuần thứ ba và chính phủ đã giải quyết được nó trước khi có những người phải chết vì đói. Sau các cuộc bàn cãi trong giới lãnh đạo, việc sử dụng lực lượng quân đội giải quyết khủng hoảng được đưa ra và dẫn tới một sự chia rẽ sâu sắc trong Bộ chính trị. Tổng Bí thư Triệu Tử Dương bị gạt khỏi ban lãnh đạo vì ông tỏ ra ủng hộ sinh viên.. Binh sĩ và xe tăng thuộc Quân đoàn 27 và 28 Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc được gửi tới kiểm soát thành phố. Quân đoàn 27 nằm dưới quyền chỉ huy của một sĩ quan có quan hệ với Dương Thượng Côn. Trong một cuộc họp báo, Tổng thống Hoa Kỳ George H. W. Bush đã thông báo những lệnh trừng phạt với Trung Hoa, sau những lời kêu gọi hành động từ phía các thành viên Nghị viện như Thượng nghị sĩ Jesse Helms. Tổng thống Bush cho rằng thông tin tình báo ông nhận được cho thấy một số chia rẽ trong giới chỉ huy quân sự Trung Quốc, và thậm chí cả khả năng những vụ xung đột bên trong quân đội trong những ngày đó. Các báo cáo tình báo cũng cho thấy các đơn vị thuộc Quân đoàn 27 và 28 đã được đưa tới từ các tỉnh bên ngoài bởi các đơn vị địa phương của Quân đội Giải phóng Nhân dân được cho là có cảm tình với những người phản kháng và nhân dân trong thành phố. Các phóng viên miêu tả các binh sĩ thuộc Quân đoàn 27 là nhân tố chủ chốt gây thương vong cho dân thường. Sau cuộc tấn công vào quảng trường, Quân đoàn 27 được cho là đã thiết lập các địa điểm phòng thủ tại Bắc Kinh - không phải là kiểu bố trí phòng ngự trước các cuộc tấn công của nhân dân, mà trước những cuộc tấn công của các đơn vị quân đội khác. Người biểu tình quá khích tấn công các binh sĩ Không giống như một số lãnh đạo phong trào biểu tình có xu hướng ôn hòa, Sài Linh (1 nữ lãnh đạo phong trào) dường như sẵn sàng ủng hộ việc người biểu tình có một cuộc xung đột bạo lực với chính quyền. Trong một cuộc phỏng vấn được thực hiện vào cuối tháng 5, Sài Linh trả lời rằng chỉ khi phong trào biểu tình kết thúc bằng một cuộc xung đột gây đổ máu, người Trung Quốc mới nhận ra tầm quan trọng của phong trào này, dù vậy cô ta cảm thấy rằng mình không thể chia sẻ quan điểm ủng hộ bạo lực này với các sinh viên tham gia biểu tình. Sài Linh cũng tuyên bố rằng không phải chỉ riêng cô ta có ý muốn này, vì cô đã nghe thấy Li Lu (1 lãnh đạo khác của phong trào) bày tỏ mong muốn về việc cuộc biểu tình sẽ bị trấn áp bằng bạo lực. Vào tối ngày 2 tháng 6, sau khi nghe được tin đồn rằng một chiếc xe máy ủi của quân đội đã vô tình cán chết ba thường dân, những người biểu tình lo sợ rằng quân đội và cảnh sát đang cố gắng tiến vào Thiên An Môn . Lãnh đạo sinh viên đã ra lệnh khẩn cấp để thiết lập rào chắn tại các giao lộ chính với mục đích ngăn chặn việc quân đội xâm nhập vào trung tâm thành phố Sáng ngày 03 Tháng 6, sinh viên và người dân phát hiện có những binh lính mặc thường phục đang đưa vũ khí vào bên trong thành phố . Các sinh viên đã tịch thu chúng và đưa vũ khí cho Cảnh sát Bắc Kinh. Các sinh viên kéo tới phản đối bên ngoài Trung Nam Hải đã bị cảnh sát bắn hơi cay giải tán. Quân đội không vũ trang xuất hiện từ Đại lễ đường Nhân dân và nhanh chóng chạm trán đám đông người biểu tình. Một số người biểu tình đã cố gắng tấn công quân đội khi họ đụng độ bên ngoài Đại lễ đường Nhân dân, buộc binh sĩ phải rút lui, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn Theo những báo cáo mà Đại sư quán Đức gửi cho Helmut Schmidt (Thủ tướng Tây Đức từ 1974 tới 1982), đoàn biểu tình ban đầu ôn hòa, quân đội Trung Quốc cũng chỉ trang bị thô sơ và không có kế hoạch dùng bạo lực để đàn áp. Tuy nhiên những người biểu tình về sau đã quá khích ném bom xăng, gạch đá tấn công quân đội, và từ đó chính phủ Trung Quốc mới quyết định dùng vũ lực để dẹp tan cuộc biểu tình.. 3 và 4 tháng 6: Dọn dẹp quảng trường Vào 16:30 ngày 3 tháng 6, Bộ Chính trị Trung Quốc đã họp và đã chính thức thông qua quyết định dập tắt cuộc biểu tình: Các hoạt động để dập tắt cuộc bạo loạn phản cách mạng sẽ bắt đầu lúc 9 giờ tối giờ địa phương. Các đơn vị quân đội phải tập hợp trên Quảng trường trước 1 giờ sáng ngày 4 tháng 6 và Quảng trường phải được dọn dẹp trước 6 giờ sáng. Không có sự chậm trễ nào được dung thứ. Không ai được phép cản trở bước tiến của quân đội khi thi hành thiết quân luật. Quân đội được phép hành động tự vệ và sử dụng bất kỳ phương tiện nào để xóa bỏ những trở ngại. Phương tiện truyền thông nhà nước sẽ phát sóng cảnh báo cho công dân Vào tối ngày 3 tháng 6, truyền hình nhà nước cảnh báo người dân ở lại trong nhà nhưng một số đông người dân đã xuống đường, để ngăn chặn quân đội tiến vào thành phố. Các đơn vị Quân Giải phóng tiến vào Bắc Kinh từ mọi hướng. Quân đoàn số 38, 63 và 28 tiến đến từ phía tây, Quân đoàn số 15, Quân đoàn số 20, 26 và 54 từ phía nam, Quân đoàn số 39 và Sư đoàn 1 tới từ phía đông cùng với Quân đoàn 40 và 64 từ phía bắc. Đại lộ Trường An Vào khoảng 22:00, xảy ra vụ nổ súng của Quân đoàn số 38 Quân giải phóng tại ngã tư Wukesong trên Đại lộ Trường An, cách Quảng trường Thiên An Môn khoảng 10 km về phía tây Đám đông người biểu tình đã đáp trả lại bằng việc chửi bới và ném đạn pháo. Song Xiaoming, một kỹ thuật viên hàng không vũ trụ 32 tuổi, bị giết tại Wukesong, là ca tử vong được xác nhận đầu tiên trong đêm đó . Tờ PBS cho rằng có bằng chứng cho thấy quân đội đã sử dụng đạn nở, một loại đạn bị cấm sử dụng trong chiến tranh để bắn vào người biểu tình. Vào khoảng 22:30 3/6, bước tiến của quân đội đã bị chặn lại một thời gian ngắn tại Muxidi, cách Quảng trường khoảng 5 km về phía tây, nơi những chiếc xe đẩy có khớp nối được đặt trên một cây cầu và đốt cháy . Đám đông người dân từ các khu chung cư gần đó đã cố gắng vây quanh đoàn xe quân sự và tìm cách tấn công binh lính. Quân đoàn 38 đã nổ súng đánh trả, gây thương vong đáng kể. Theo bảng liệt kê của website các bà mẹ Thiên An Môn, 36 người đã chết tại Muxidi, trong đó có Wang Weiping, một bác sĩ chăm sóc cho những người bị thương . Những người lính bắn vào các tòa nhà chung cư, và một số người bên trong hoặc trên ban công của tòa nhà đã bị bắn trúng. Quân đoàn 38 cũng sử dụng các xe bọc thép chở quân (APC) để đâm xuyên qua các xe buýt. Họ tiếp tục chiến đấu với những người biểu tình, những người đã nhanh chóng dựng lên các chướng ngại vật để cản bước tiến của quân đội . Khi quân đội tiếp tục tiến quân, xung đột gây tử vong được ghi lại dọc theo Đại lộ Trường An, tại Nanlishilu, Fuxingmen, Xidan, Liubukou và Thiên An Môn. Trong số những người bị giết là Duan Changlong, một sinh viên tốt nghiệp Đại học Thanh Hoa, bị bắn vào ngực khi anh ta cố gắng thương lượng với binh lính tại Xidan . Ở phía nam, những ca tử vong của dân thường đã được ghi nhận tại Hufangqiao, Zhushikou, Tianqiao và Qianmen . Một số người trong số người biểu tình đã tấn công binh lính bằng gậy, đá, một số người biểu tình quá khích đã tấn công binh lính bằng gậy, đá và chai cháy molotov, đốt cháy xe quân sự và đánh chết những người lính bên trong xe. Trên một đại lộ ở phía tây Bắc Kinh, những người biểu tình chống chính phủ đã tấn công một đoàn xe quân sự gồm hơn 100 xe tải và xe bọc thép. Chính phủ Trung Quốc và những người ủng hộ họ đã cố gắng lập luận rằng quân đội chỉ chiến đấu để tự vệ và nêu ra những thương vong của binh sỹ để biện minh cho việc sử dụng vũ lực Phóng viên tờ Tạp chí Phố Wall đã tường thuật rằng: Sau khi những chiếc xe tăng và hàng chục ngàn binh sĩ tiếp cận khu vực Thiên An Môn, nhiều đội quân đã được thiết lập bởi đám đông người biểu tình giận dữ, họ hét lên những từ "Phát xít". Hàng chục binh sĩ đã bị họ kéo ra khỏi xe tải, bị hành hung dữ dội và bị bỏ lại bên đường cho đến chết. Tại một ngã tư phía tây quảng trường, thi thể của một người lính trẻ, người đã bị đánh đến chết, bị lột trần truồng và treo bên hông xe buýt. Xác chết của một người lính khác bị treo lên tại một ngã tư phía đông quảng trường. Vào khoảng 00:15, pháo sáng được bắn lên bầu trời và chiếc xe bọc thép đầu tiên xuất hiện trên Quảng trường từ phía tây. Lúc 00:30 sáng, hai APC khác đến từ phía Nam. Các sinh viên đã ném các khối xi măng vào các xe này. Một xe APC bị đứng lại, có lẽ bởi các thanh kim loại đã kẹt vào bánh xe của nó, và những người biểu tình đã bao phủ chiếc APC này với những chiếc chăn tẩm xăng và đốt cháy nó. Sức nóng dữ dội đã đẩy ba binh sĩ ở trong phải chạy ra, và bị những người biểu tình vây chặt. Các xe APC đã được báo cáo đã đè bẹp hàng loạt lều dựng tạm và nhiều người trong đám đông muốn đánh lại những người lính. Nhưng các học sinh đã tạo ra một tường dây bảo vệ và hộ tống ba binh sĩ đến trạm y tế gần Bảo tàng Lịch sử ở phía đông của Quảng trường. Áp lực đè lên giới lãnh đạo của học sinh sinh viên, thúc ép họ chuyển sang bạo lực và trả thù. Tại một thời điểm, Sài Linh nhấc loa lên và kêu gọi các bạn học sinh sinh viên chuẩn bị "tự vệ" chống lại "chính phủ đáng xấu hổ". Nhưng cô và Li Lu sau đó đồng ý tuân thủ đấu tranh hòa bình và tịch thu đá, gậy và chai thủy tinh của sinh viên. Vào khoảng 01:30 sáng, đội tiên phong của Quân đội 38 và lính dù từ Quân đoàn 15 đến phía Bắc và phía Nam của Quảng trường. Họ bắt đầu bao vây Quảng trường, ngăn không cho quân tiếp viện của học sinh và cư dân đi vào, ngăn chặn người biểu tình đang cố gắng vào Quảng trường. Trong khi đó, Quân đội 27 và 65 đổ ra khỏi Đại lễ đường Nhân dân ở phía tây và Quân đội 24 xuất hiện từ phía sau Bảo tàng Lịch sử về phía đông. Các sinh viên còn lại, số lượng vài nghìn người, hoàn toàn bị bao vây tại Đài tưởng niệm Anh hùng Nhân dân ở trung tâm Quảng trường. Vào lúc 2 giờ sáng, quân đội đã bắn các phát súng qua đầu các học sinh tại Đài tưởng niệm. Các sinh viên nói qua loa với các lực lượng quân đội: "Chúng tôi cầu xin bạn vì hòa bình, vì dân chủ và tự do của quê hương, vì sức mạnh và thịnh vượng của dân tộc Trung Quốc, hãy tuân thủ ý chí của nhân dân và không sử dụng vũ lực với những sinh viên biểu tình một cách hòa bình." Vào khoảng 02:30 sáng, một số công nhân gần Đài tưởng niệm đã đoạt được một khẩu súng máy từ toán binh lính và thề sẽ trả thù. Hou Dejian đã thuyết phục họ từ bỏ vũ khí. Các công nhân cũng đã giao một khẩu súng trường không có đạn, và Liu Xiaobo phá hỏng nó bằng cách đập nó vào lan can bằng đá cẩm thạch của Đài tưởng niệm. Shao Jiang, một sinh viên đã chứng kiến ​​vụ nổ súng tại Muxidi, cầu xin những người trí thức lớn tuổi hơn rút lui, nói rằng có quá nhiều người đã phải chết. Ban đầu, Liu Xiaobo đã miễn cưỡng, nhưng cuối cùng đã cùng với Zhou Tuo, Gao Xin và Hou Dejian đồng ý cho các nhà lãnh đạo sinh viên rút lui. Chai Ling, Li Lu và Feng Congde ban đầu từ chối ý tưởng rút lui. Vào lúc 03:30 sáng, theo đề nghị của hai bác sĩ ở trại Chữ thập đỏ, Hou Dejian và Zhuo Tuo đã đồng ý để đàm phán với những người lính. Họ lái xe cứu thương đến góc phía đông bắc của quảng trường và nói chuyện với Ji Xinguo, ủy viên chính trị của Trung đoàn 336 của Lục Quân 38, người đã chuyển yêu cầu ra lệnh cho tổng hành dinh, đồng ý cấp lối đi an toàn cho học sinh ở phía đông nam. Chính trị viên Ji nói với Hou, "nếu bạn có thể thuyết phục các sinh viên rời khỏi Quảng trường thì đó là một thành công lớn". Lúc 04:00, đèn trên Quảng trường đột ngột tắt, và loa của chính phủ bắt đầu lên tiếng: "Việc dọn dẹp Quảng trường bắt đầu ngay bây giờ. Chúng tôi đồng ý với yêu cầu rời khỏi Quảng trường của các sinh viên." Các học sinh đã hát Quốc tế ca và chuẩn bị cho lần đối đầu cuối cùng. Hou trở lại và thông báo cho các nhà lãnh đạo sinh viên về thỏa thuận của mình với lực lượng quân đội. Vào lúc 4:30 sáng, đèn bật sáng và quân đội bắt đầu tiến lên Tượng đài từ mọi phía. Vào khoảng 04:32 sáng, Hou Dejian bật loa và kể lại cuộc gặp gỡ của anh với lực lượng quân đội. Nhiều sinh viên lần đầu tiên được biết về cuộc đàm phán này, đã phản ứng giận dữ và cáo buộc Hou là kẻ hèn nhát. Những người lính ban đầu dừng lại cách các sinh viên khoảng 10 mét. Hàng binh sĩ đầu tiên đã nhắm mục tiêu với súng máy chờ sẵn. Đằng sau họ, các binh lính ngồi xổm và đứng với súng trường tấn công trong tay. Ở giữa là là cảnh sát chống bạo động với các tấm chắn. Xa hơn nữa là các xe tăng và xe APC. Feng Congde bật loa và giải thích rằng không còn thời gian để tổ chức một cuộc họp. Thay vào đó, một cuộc bỏ phiếu bằng giọng nói sẽ quyết định hành động tập thể của nhóm. Mặc dù tiếng "ở lại" to hơn "ra đi", Feng nói "ra đi" đã thắng thế. Vào thời điểm đó, vào khoảng 4:40 sáng, một đội quân đặc nhiệm với đồng phục ngụy trang đã chạy lên Đài tưởng niệm và bắn hỏng dàn loa của sinh viên. Các binh sĩ khác đánh đập và đạp vào hàng chục sinh viên tại Đài tưởng niệm, giật và đập vỡ máy ảnh và các thiết bị thu âm. Một sĩ quan cầm loa kêu gọi "các bạn sinh viên hãy rời khỏi, nếu không chuyện này sẽ không có kết thúc tốt đẹp." Một số sinh viên và giáo sư thuyết phục những người khác vẫn đang ngồi trên các bậc thấp hơn của Đài tưởng niệm đứng dậy và rời đi, trong khi những người lính sử dụng dùi cui và báng súng để đánh đập họ hoặc đâm họ bằng lưỡi lê. Có nhân chứng đã nghe thấy tiếng súng nổ Vào khoảng 5:10 sáng, các sinh viên bắt đầu rời khỏi Đài tưởng niệm. Những người từ chối rời đi đã bị lính đánh đập và ra lệnh họ tham gia đoàn sinh viên đang rời khỏi Quảng trường. Sau khi loại bỏ các học sinh ra khỏi Quảng trường, binh sĩ đã được lệnh từ bỏ đạn dược của họ, sau đó họ được phép rút lui từ 07:00 đến 09:00 sáng . Đến 06:00 sáng ngày 4 tháng 6, khi một nhóm các sinh viên rời Quảng trường đang đi về phía tây trong làn đường dành cho xe đạp dọc theo Đại lộ Trường An, ba xe tăng quân đội đã đuổi theo họ từ Quảng trường, bắn khí cay và chèn qua đám đông, giết chết 11 sinh viên, làm bị thương một số người khác . Sau đó Sau cuộc trấn áp tại Bắc Kinh ngày 4 tháng 6, có những cuộc biểu tình lớn tại Hồng Kông, nơi người dân mặc đồ đen tham gia biểu tình. Có những cuộc biểu tình tại Quảng Châu, và có những cuộc biểu tình lớn tại Thượng Hải và một cuộc tổng đình công. Cũng có những cuộc biểu tình tại các nước khác với nhiều người đeo băng tang đen. Tuy nhiên, chính phủ nhanh chóng giành lại quyền kiểm soát. Dù không có thông báo về những vụ giết hại với số lượng lớn khi các cuộc biểu tình chấm dứt ở những thành phố khác, một cuộc thanh trừng chính trị đã diễn ra trong đó các quan chức chịu trách nhiệm về việc tổ chức hay tha thứ cho những cuộc biểu tình đều bị mất chức, và các lãnh đạo cuộc biểu tình bị tống giam. Chiến dịch Chim hoàng yến của tình báo phương Tây Chiến dịch Chim hoàng yến là một chiến dịch tình báo của phương Tây để giúp các nhân vật lãnh đạo cuộc biểu tình tại Thiên An Môn thoát khỏi sự bắt giữ của chính phủ Trung Quốc bằng cách giúp họ bí mật trốn ra nước ngoài qua ngả Hồng Kông Bộ Ngoại giao Pháp cũng như các cơ quan tình báo phương Tây như Cơ quan tình báo mật của Anh (MI6) và Cơ quan tình báo trung ương Hoa Kỳ (CIA) đã tham gia vào chiến dịch này, bao gồm việc bí mật đưa vào Trung Quốc các loại vũ khí, kính nhìn đêm và các thiết bị gây nhiễu sóng Những người tham gia khác bao gồm các chính khách, người nổi tiếng, doanh nhân và cả Hội Tam Hoàng (mafia Hồng Kông) Chiến dịch này bắt đầu vào cuối tháng 6 năm 1989, ngay sau Văn phòng Công an thành phố Bắc Kinh ban lệnh vào ngày 13 tháng 6 năm 1989 để bắt giữ các nhà lãnh đạo của "Liên đoàn sinh viên tự trị Bắc Kinh" (tổ chức lãnh đạo cuộc biểu tình) đang chạy trốn. Chiến dịch đã kéo dài cho đến năm 1997. Chiến dịch đã đưa thành công hơn 400 nhân vật bất đồng chính kiến chống chính phủ Trung Quốc bí mật sang Hồng Kông, sau đó đưa họ sang các nước phương Tây. Nhiều nhân vật lãnh đạo cuộc biểu tình đã trốn thoát nhờ chiến dịch này, bao gồm Ngô Nhĩ Khai Hy, Sài Linh, Lí Lục, Phong Tòng Đức, Chen Yizi, và Su Xiaokang Theo tờ Washington Post, ngay sau khi cuộc biểu tình ở Bắc Kinh bị đập tan, "Liên minh ủng hộ các phong trào dân chủ yêu nước ở Trung Quốc" (một tổ chức chính trị Hồng Kông) đã lập ra một danh sách ban đầu gồm 40 nhân vật bất đồng chính kiến ​​mà họ tin rằng có thể tạo thành hạt nhân của "một phong trào dân chủ Trung Quốc lưu vong", với sự giúp đỡ về nhân lực, vật lực của các cơ quan tình báo phương Tây. Các nhóm buôn lậu, thậm chí cả Hội Tam Hoàng (Mafia Hồng Kông) đã được thuê để bí mật đưa những nhân vật này tới Hồng Kông bằng đường biển. Một cuộc giải cứu trung bình tốn 5.000 đôla, mặc dù một số nhà lãnh đạo chống chính phủ nổi bật có giá tới 70.000 đôla. Tổng chi phí của chiến dịch tốn kém ít nhất là 2 triệu USD. Chính quyền Anh (khi đó quản lý Hồng Kông) đã đồng ý cho phép Chiến dịch Chim hoàng yến tiếp tục miễn là những nhân vật đó rời khỏi một cách im lặng và nhanh chóng đến một nước thứ ba Trong một cuộc phỏng vấn với Bloomberg, Alistair Asprey, cựu Bộ trưởng An ninh tại Hồng Kông, nói rằng các quan chức phương Tây đã gặp gỡ các nhân viên của lãnh sự quán nước ngoài vào những dịp khác nhau để hỏi về việc nước họ có nên chấp nhận đón những người bị Trung Quốc truy nã Chu Yiu-ming, một thành viên cốt lõi của Liên minh, cũng đã gửi thư cho các chính phủ nước ngoài yêu cầu họ chấp thuận đơn xin tị nạn. Ba nhà hoạt động ở Hồng Kông liên quan đến Chiến dịch đã bị chính quyền Trung Quốc bắt giữ ở đại lục, nhưng sau đó được thả sau khi có sự can thiệp của chính phủ Hồng Kông Nhờ chiến dịch này, 7 trong số 21 nhân vật lãnh đạo cuộc biểu tình bị truy nã gắt gao nhất đã trốn thoát khỏi Trung Quốc Bảy người trốn thoát gồm Ngô Nhĩ Khai Hy, Sài Linh, Lí Lục, Phong Tòng Đức, Liang Qingtun, Wang Chaohua và Trương Bá Lạp, 14 người khác ra đầu thú hoặc bị bắt 7 người này, sau khi tới Mỹ hoặc Pháp, đã tiếp tục những hoạt động chống chính phủ Trung Quốc tại hải ngoại trong suốt 30 năm sau đó. Số người chết Số người chết và bị thương trong vụ này vẫn chưa rõ ràng vì những sự khác biệt lớn giữa những ước tính khác nhau. Chính phủ Trung Quốc không bao giờ đưa ra dữ liệu chính thức chính xác hay danh sách những người chết. Chính phủ Trung Quốc vẫn cho rằng không có người chết bên trong quảng trường, dù những đoạn video được quay ở thời điểm đó cho thấy có những tiếng đạn bắn. Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc vụ viện tuyên bố rằng "hàng trăm binh sĩ Quân đội Giải phóng Nhân dân đã chết và số người bị thương còn nhiều hơn thế". Yuan Mu, phát ngôn viên Quốc vụ viện, đã nói tổng cộng khoảng 300 người chết, trong đó có 23 sinh viên của Trường đại học Bắc Kinh, cùng với một số người được ông miêu tả là "những tên lưu manh". Theo Trần Hy Đồng, thị trưởng Bắc Kinh, 200 dân thường và vài chục binh sĩ thiệt mạng. Vào ngày 19 tháng 6, Bí thư Đảng ủy Bắc Kinh Li Ximing báo cáo với Bộ Chính trị rằng số ca tử vong đã được xác nhận là 241, bao gồm 218 thường dân (trong đó có 36 sinh viên), 10 lính PLA và 13 Cảnh sát vũ trang nhân dân, cùng với 7.000 người bị thương. Các nguồn khác cho rằng 3.000 thường dân và 6.000 binh sĩ bị thương. Tháng 5 năm 2007, thành viên Chính hiệp Toàn quốc Trung Quốc tại Hương Cảng, Chang Ka-mun, nói 300 tới 600 người bị giết tại quảng trường Thiên An Môn. Ông cho rằng "có những kẻ sát nhân vũ trang trà trộn trong các nhóm sinh viên". Các nhà báo nước ngoài, những người chứng kiến vụ việc thì lại tuyên bố có ít nhất 3.000 người chết. Một số bảng liệt kê con số thương vong còn cho rằng con số lên tới 5.000. Thống kê và ước tính từ nhiều nguồn và nhóm khác nhau cho thấy: 4.000 tới 6.000 thường dân chết - Edward Timperlake 2.600 đã chết chính thức vào buổi sáng ngày 4 tháng 6 (số liệu này sau đó bị bác bỏ) - Hội Chữ thập đỏ Trung Quốc. Một "nhân viên Chữ thập Đỏ Trung Quốc giấu tên" ước tính rằng tổng cộng 5.000 người chết và 30.000 bị thương\ Nicholas D. Kristof, lúc đó là giám đốc văn phòng Bắc Kinh của tờ New York Times, tin rằng khoảng một chục binh sĩ và cảnh sát đã bị giết, cùng với 400 đến 800 thường dân thiệt mạng. 1.000 người chết - Ân xá Quốc tế 7.000 người chết (6.000 thường dân 1.000 binh sĩ) - tình báo NATO Tổng cộng 10.000 người chết - các ước tính của Khối Xô viết Hơn 3.700 người chết, gồm cả những người mất tích hoặc chết một cách bí mật hoặc những người từ chối được điều trị y tế - "một người đào tẩu giấu tên" từ Quân đội Giải phóng Nhân dân tuyên bố đã đọc một tài liệu mật trong giới sĩ quan 186 thường dân có tên tuổi được xác nhận đã chết vào cuối tháng 6 năm 2006 - Giáo sư Đinh Tử Lâm Những phủ nhận về "vụ thảm sát Thiên An Môn" Phía Trung Quốc khẳng định không có vụ thảm sát sinh viên tại quảng trường Thiên An Môn và trên thực tế quân lính đã giải tán người biểu tình mà không nổ súng. Chính phủ Trung Quốc thừa nhận rằng đã nổ ra bạo lực, nhưng chủ yếu là bằng vũ khí thô sơ như gậy gộc, dùi cui giữa binh sĩ với những nhóm biểu tình. Theo thống kê của chính phủ Trung Quốc, khoảng 240 người đã chết trong các cuộc đụng độ vào ngày 4/6 và nhiều người trong số đó là binh lính Trung Quốc, họ chết do bị những người biểu tình tấn công bằng gậy gộc hoặc bom xăng. Tờ Washington Post cho rằng: "Trên truyền hình giờ đây chỉ phát sóng những hình ảnh về người biểu tình đang ném đá binh lính, đánh họ bằng gậy gộc, và trong một số bức ảnh đặc biệt ấn tượng thì xe cứu hỏa, xe buýt và thậm chí cả xe bọc thép cũng đã bị đốt cháy. Trong một số trường hợp, những người lính vẫn ở bên trong vào thời điểm đó. Trên một đại lộ ở phía tây Bắc Kinh, những người biểu tình đã đốt cháy toàn bộ đoàn xe quân sự gồm hơn 100 xe tải và xe bọc thép. Hình ảnh trên không của đám cháy và cột khói đã ủng hộ mạnh mẽ cho lập luận của chính phủ Trung Quốc rằng quân đội của họ là nạn nhân, không phải đao phủ. Cảnh khác cho thấy xác chết binh lính và người biểu tình tước súng trường tự động của những binh lính không chống cự... Bằng cách trộn lẫn những cảnh như vậy với cảnh những thanh niên ủ rũ, xấu hổ khi bị cảnh sát giam giữ, chính phủ dường như đang cố gắng miêu tả những người tham gia phong trào dân chủ là một băng đảng trộm cắp và phá hoại". Ông Helmut Schmidt (Thủ tướng Tây Đức từ 1974 tới 1982) là một quan chức cấp cao phương Tây phủ nhận sự mô tả về "vụ thảm sát" đối với sự kiện Thiên An Môn. Theo ông tường thuật, đoàn biểu tình ban đầu ôn hòa, quân đội Trung Quốc cũng chỉ trang bị thô sơ và không có kế hoạch dùng bạo lực để đàn áp. Tuy nhiên những người biểu tình về sau đã ném bom xăng, gạch đá tấn công quân đội và từ đó bạo lực mới xảy ra. Ông Helmut Schmidt nói thêm: Trong vụ Thiên An Môn, quân đội Trung Quốc chỉ tự vệ và con số 2.600 người chết là "cực kỳ phóng đại”. Thời điểm đó, đại sứ Đức tại Bắc Kinh báo cáo rất chi tiết sự kiện với con số người chết nhỏ hơn nhiều. Vào năm 2012, Wikileaks đã tiết lộ về vụ Thiên An Môn từ điện tín gửi về Mỹ của tòa đại sứ Mỹ tại Bắc Kinh vào thời điểm vụ Thiên An Môn xảy ra, cho thấy quân lính Trung Quốc thực sự đã không nổ súng bắn người biểu tình tại Quảng trường Thiên An Môn, mà chỉ có những vụ nổ súng lẻ tẻ ở bên ngoài trung tâm Bắc Kinh khi binh lính đang tiến từ phía tây vào Quảng trường và bị tấn công bởi người biểu tình: "Từ 10.000 đến 15.000 quân nhân mũ sắt vũ trang di chuyển về phía Bắc Kinh vào buổi chiều muộn của ngày 03 tháng 6...". Bức điện kết luận: "...không có bất cứ vụ xả súng nào vào sinh viên trên quảng trường cũng như ở tượng đài... thỉnh thoảng có nghe tiếng súng nhưng những người lính vào quảng trường chỉ được trang bị "vũ khí chống bạo động"...". Bức điện khẳng định chỉ "thỉnh thoảng có nghe tiếng súng" tại bên ngoài quảng trường, tại khu vực trung tâm của thành phố, còn binh lính tiến vào quảng trường thì chỉ có "vũ khí chống bạo động". Trong năm 2009, James Miles, phóng viên BBC tại Bắc Kinh vào thời điểm đó, thừa nhận rằng ông đã "truyền đạt ấn tượng sai lầm" và cho biết rằng "không hề có vụ thảm sát nào tại Quảng trường Thiên An Môn, mặc dù đã có một vụ thảm sát tại Bắc Kinh". Gregory Clark đã đăng một nghiên cứu năm 2008 trên tờ Japan Times, kết luận "vụ thảm sát tại Quảng trường là một huyền thoại", ông giải thích cách mà New York Times và các phương tiện truyền thông phương Tây đã mô tả sự kiện tại Thiên An Môn như là "thảm sát", trong khi tất cả các bằng chứng đều đưa ra kết luận rằng không có vụ thảm sát diễn ra tại Quảng trường Thiên An Môn. Hậu quả Những vụ bắt giữ sau đó Trong và sau cuộc biểu tình, chính quyền đã tìm cách bắt giữ và truy tố một số sinh viên lãnh đạo Phong trào Dân chủ Trung Quốc, đáng chú ý nhất là Vương Đan, Sài Linh, Triệu Thường Thanh và Örkesh Dölet (ئۆركەش دۆلەت). Vương Đan đã bị bắt, kết án và tống giam, sau đó đã được phép di cư tới Hoa Kỳ vì lý do y tế. Vì là gương mặt kém nổi bật hơn của phong trào, Triệu Thường Thanh đã được thả chỉ sau sáu tháng ngồi tù. Tuy nhiên, anh ta một lần nữa bị tống giam vì tiếp tục yêu cầu cải cách chính trị tại Trung Quốc. Örkesh Dölet bỏ trốn sang Đài Loan. Anh ta đã lập gia đình và làm việc như một nhà bình luận chính trị trên kênh truyền hình quốc gia Đài Loan. Sài Linh bỏ trốn sang Pháp, và sau đó tới Hoa Kỳ. Các hoạt động biểu tình nhỏ hơn tiếp tục diễn ra ở các thành phố khác trong vài ngày. Một số cán bộ các trường đại học và sinh viên, những người đã chứng kiến các vụ giết hại tại Bắc Kinh đã tổ chức lại hay khuyến khích khác sự kiện tưởng nhớ khi họ quay về. Tuy nhiên, những hành động đó nhanh chóng bị dập tắt, và những người tổ chức bị thanh trừng. Giới chức Trung Quốc nhanh chóng xét xử và hành quyết nhiều công nhân bị bắt giữ tại Bắc Kinh. Trái lại, các sinh viên - nhiều người trong số họ xuất thân từ các gia đình có ảnh hưởng và có quan hệ tốt với chính quyền - bị kết án nhẹ hơn. Thậm chí Vương Đan, lãnh đạo sinh viên và là người đứng đầu trong danh sách truy nã, cũng chỉ bị kết án bảy năm tù. Tuy thế, nhiều sinh viên và cán bộ các trường đại học bị ghi vào sổ đen chính trị, một số người không bao giờ được bổ dụng lần nữa. Giới lãnh đạo Đảng trục xuất Triệu Tử Dương khỏi Ủy ban Thường trực Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc, vì ông phản đối thiết quân luật, Triệu Tử Dương bị quản thúc tại gia cho tới khi chết. Hồ Khởi Lập, một thành viên khác của Uỷ ban thường trực Bộ chính trị phản đối thiết quân luật bị tước quyền bỏ phiếu, và cũng bị trục xuất khỏi uỷ ban. Tuy nhiên, ông vẫn giữ được đảng tịch, và sau khi "thay đổi quan điểm", được tái bổ nhiệm Thứ trưởng Bộ Công nghiệp Máy xây dựng và Điện tử. Những lãnh đạo Trung Quốc có đầu óc cải cách khác như Vạn Lý bị quản thúc tại gia ngay lập tức khi ra khỏi máy bay sau một chuyến công du nước ngoài bị cắt ngắn tại Sân bay Quốc tế Thủ đô Bắc Kinh, với lời giải thích chính thức vì "các lý do sức khoẻ". Khi Vạn Lý được bãi bỏ quản thúc tại gia sau khi "đã thay đổi ý kiến" ông ta, giống như Kiều Thạch, được chuyển tới một ví trí khác tương đương nhưng chỉ có thực quyền nghi lễ. Sự kiện này giúp Giang Trạch Dân - khi ấy là thị trưởng Thượng Hải và không liên quan tới sự kiện này - trở thành Chủ tịch Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Các thành viên chính phủ đã chuẩn bị một sách trắng giải thích quan điểm của chính phủ về những cuộc biểu tình. Một nguồn không được tiết lộ bên trong chính phủ Trung Quốc đã đưa lậu văn bản ra khỏi Trung Quốc và Public Affairs đã xuất bản nó vào tháng 1 năm 2001 với tên gọi Tiananmen Papers (Hồ sơ Thiên An Môn). Hồ sơ này bao gồm một đoạn trích từ câu nói của cựu lãnh đạo Đảng Vương Chấn ám chỉ sự đối phó với cuộc biểu tình của chính phủ. Hai phóng viên đưa tin về sự kiện này ngày 4 tháng 6 trong bản tin hàng ngày lúc 19:00 trên Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc đã bị sa thải bởi họ thể hiện tình cảm đau xót. Ngô Tiểu Dũng, con trai một thành viên Uỷ ban Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc, và cựu bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc và phó thủ tướng Ngô Học Khiêm bị đuổi khỏi Ban tiếng Anh Đài Phát thanh Quốc tế Trung Quốc. Tiền Lý Nhân, giám đốc Nhân dân Nhật báo (tờ báo của Đảng Cộng sản Trung Quốc), cũng bị cách chức vì các bài viết bày tỏ cảm tình với các sinh viên trên tờ báo này. Phản ánh của truyền thông Những vụ biểu tình tại Quảng trường Thiên An Môn gây ảnh hưởng rất nhiều tới danh tiếng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại phương Tây. Truyền thông phương Tây đã được mời tới để đưa tin cuộc viếng thăm của Mikhail Sergeyevich Gorbachyov trong tháng 5, và vì thế họ có cơ hội tuyệt vời để đưa tin trực tiếp về vụ việc này thông qua các mạng lưới như BBC và CNN. Những người phản kháng cũng nắm lấy cơ hội này, tạo ra các biểu ngữ và biểu tượng được thiết kế đặc biệt cho khán giả truyền hình quốc tế. Việc đưa tin càng dễ dàng hơn nhờ những cuộc xung đột gay gắt trong chính phủ Trung Quốc về cách giải quyết vấn đề. Vì thế báo chí không bị ngăn cản ngay lập tức. Sau này tất cả các mạng truyền thông quốc tế đều bị ra lệnh ngừng đưa tin từ thành phố khi chính phủ ngăn cấm tất cả các cuộc truyền tin qua vệ tinh. Các phóng viên đã tìm cách lách luật, đưa tin qua điện thoại. Những đoạn phim nhanh chóng được đưa lậu ra khỏi Trung Quốc, gồm cả hình ảnh "Người biểu tình vô danh". Mạng truyền thông duy nhất ghi được một số hình ảnh trong đêm là TVE. Phóng viên CBS Richard Roth và người quay phim của mình đã bị tống giam khi đưa tin trực tiếp vụ việc. Roth bị bắt khi đang đưa tin từ quảng trường qua điện thoại di động. Với giọng nói như đang phát điên, mọi người nghe được anh ta kêu những tiếng giống như "Ôi, không! Ôi, không!" trước khi điện thoại bị tắt. Sau này anh ta đã được thả ra, chỉ bị thương nhẹ trên mặt sau một cuộc ẩu đả với các nhân viên an ninh Trung Quốc đang tìm cách tịch thu chiếc điện thoại. Roth sau này đã giải thích thực tế anh ta nói, "Đi thôi!" Cuộc trấn áp biểu tình đã được truyền thông phương Tây lan truyền với đoạn video và những bức ảnh nổi tiếng về một người đàn ông đơn độc mặc áo sơ mi trắng đứng trước một đoàn xe tăng đang tiến vào Quảng trường Thiên An Môn. Được chụp ngày 5 tháng 6 khi đoàn xe đang đi trên giao lộ thuộc Đại lộ Trường An, với hình ảnh một người không vũ khí đứng ở giữa đường, cản bước đoàn xe tăng. Anh ta được cho là đã nói: "Tại sao các anh lại ở đây? Các anh không mang lại gì ngoài sự nghèo khổ." Khi người lính lái tăng tìm cách đi vòng tránh, "Người biểu tình vô danh" tiếp tục cản đường. Anh ta tiếp tục đứng trước đoàn tăng trong một khoảng thời gian, sau đó leo lên tháp pháo chiếc xe dẫn đầu và nói chuyện với những người lính bên trong. Sau khi quay về vị trí chặn đường, anh ta bị những người xung quanh kéo ra, có lẽ họ sợ anh ta sẽ bị bắn hay bị đè nát. Time Magazine đã đặt cho anh cái tên "Người biểu tình vô danh" và sau này coi anh là một trong 100 người có ảnh hưởng nhất thế kỷ 20. Bản tin ngắn trên tờ Sunday Express của Anh đã cho rằng đây là sinh viên Vương Duy Lâm, 19 tuổi, tuy nhiên, sự chân thực của tin này còn đang bị nghi ngờ. Điều gì đã xảy ra với "Người biểu tình vô danh" sau cuộc phản kháng vẫn chưa được biết. Trong một bài phát biểu trước President's Club năm 1999, Bruce Herschensohn — cựu phó trợ lý đặc biệt của Tổng thống Richard Nixon — đã thông báo rằng anh ta đã bị hành quyết 14 ngày sau đó. Trong cuốn Red China Blues: My Long March from Mao to Now (Những nỗi buồn Trung Quốc Cộng sản: Cuộc Trường chinh của tôi từ Mao tới Hiện tại), Jan Wong đã viết rằng người này vẫn đang sống và giấu mặt tại Trung Quốc đại lục. Trong Tử Cấm Thành, tác gia viết cho trẻ em người Canada William Bell tuyên bố rằng người đàn ông đó tên là Vương Ái Dân và đã bị giết hại ngày 9 tháng 6 sau khi bị bắt giam. Tuyên bố chính thức cuối cùng từ phía chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về "Người biểu tình vô danh" là của Giang Trạch Dân trong một cuộc phỏng vấn năm 1990 với Barbara Walters; khi được hỏi về "Người biểu tình vô danh", Giang đã trả lời "chàng thanh niên đó không bao giờ, không bao giờ bị giết." Những hình ảnh về vụ biểu tình - cùng với sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản xảy ra cùng thời gian ấy tại Liên bang Xô viết và Đông Âu - đã góp phần mạnh mẽ hình thành nên các quan điểm và chính sách của phương Tây với Trung Quốc trong thập niên 1990 và trong cả thế kỷ 21. Các sinh viên biểu tình nhận được nhiều cảm tình từ phương Tây. Hầu như ngay lập tức, cả Hoa Kỳ và Cộng đồng Kinh tế châu Âu thông báo một lệnh cấm vận vũ khí, và hình ảnh một quốc gia đang cải cách cũng như một đồng minh giá trị chống lại Liên bang Xô viết của Trung Quốc đã bị thay thế bằng một chế độ độc tài. Các cuộc phản kháng tại Thiên An Môn thường dẫn tới các cuộc tranh luận về tự do hóa thương mại với Trung Quốc lục địa và bởi Blue Team của Hoa Kỳ như một bằng chứng rằng chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một mối đe doạ với hòa bình thế giới và các lợi ích của Hoa Kỳ. Trong giới sinh viên Hoa kiều, các cuộc phản kháng tại Thiên An Môn đã dẫn tới việc thành lập các mạng lưới tin tức Internet như China News Digest và Tổ chức phi chính phủ China Support Network. Như một hậu quả từ sự kiện Thiên An Môn, các tổ chức như China Alliance for Democracy (Liên minh Trung Quốc vì Dân chủ) và Hiệp hội Tự trị Sinh viên và Học giả Trung Quốc đã được thành lập, dù các tổ chức này có ít ảnh hưởng chính trị từ sau thời gian giữa thập niên 1990. Nhận thức của phương Tây Các học giả đã chỉ ra rằng tuy nhiều người ở châu Âu và châu Mỹ đánh giá các sự kiện đó theo các quan điểm văn hóa của riêng họ, phong trào này không tách biệt khỏi văn hóa Trung Quốc là khởi nguồn của nó. Đây không phải là một cuộc thể hiện của chủ nghĩa tự do tư sản mang hơi hướng dân chủ kiểu phương Tây. Như một nhà sử học đã lưu ý "Các sinh viên đưa nguyên tắc thống nhất lên trên tất cả các quy luật chính khác, trong khi nhận thức về dân chủ của họ không cho phép một sự cạnh tranh tự do giữa các ý tưởng khác nhau và chính nó mang khuynh hướng chủ nghĩa ưu thế. Theo nhiều cách các sinh viên trong sự kiện năm 1989, như các học giả Khổng giáo truyền thống, tiếp tục chấp nhập rằng quyền chỉ huy xã hội thuộc về một nhóm ưu thế có đạo đức và có giáo dục". Một poster được treo lên trong những cuộc biểu tình tháng 4 thể hiện tình cảm chung của những người biểu tình rằng người dân nông thôn không phải là lực lượng nắm quyền lực hàng đầu mà "ít nhất các công dân đô thị, các trí thức và các thành viên Đảng Cộng sản đã sẵn sàng cho dân chủ như bất kỳ một công dân nào sẵn sàng sống trong các xã hội dân chủ. Vì thế chúng ta phải tiến hành dân chủ toàn diện bên trong Đảng Cộng sản và bên trong các vùng đô thị". Chủ nghĩa ưu thế thành thị này đã làm ảnh hưởng tới việc khuấy động phong trào tại các vùng nông thôn. Ảnh hưởng trên các khuynh hướng chính trị trong nước Các cuộc biểu tình trên Quảng trường Thiên An Môn đã làm mất đi quan niệm tự do hóa chính trị đang phát triển trong dân chúng hồi cuối thập niên 1980; vì thế, nhiều cải cách dân chủ được đề xuất trong thập niên 1980 đã bị bãi bỏ. Dù có đã có một số quyền tự do cá nhân được ban hành từ thời điểm đó, những cuộc tranh luận về những sự thay đổi cơ cấu trong chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và vai trò của Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn là một chủ đề cấm kỵ. Tại Hồng Kông, các cuộc biểu tình trên Quảng trường Thiên An Môn đã dẫn tới những lo ngại rằng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sẽ không thực hiện các cam kết một quốc gia, hai chế độ khi nhận lại hòn đảo này năm 1997. Một hậu quả của nó là việc vị toàn quyền mới, Chris Patten, đã tìm cách mở rộng quyền cho Hội đồng Lập pháp Hồng Kông dẫn tới sự xích mích với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đã có những cuộc thắp nến tưởng niệm thu hút hàng chục nghìn người ở Hồng Kông hàng năm từ năm 1989 và những cuộc tưởng niệm đó vẫn tiếp tục diễn ra sau khi quyền lực đã được chuyển giao cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1997. Những cuộc phản kháng cũng đánh dấu một sự thay đổi trong các quy ước chính trị, là đầu mối của các chính sách tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Trước cuộc phản kháng, theo hiến pháp năm 1982, Chủ tịch nước chủ yếu chỉ là một chức vụ mang tính biểu tượng. Theo quy ước, quyền lực được phân chia giữa ba chức vụ Chủ tịch, Thủ tướng và Tổng thư ký Đảng Cộng sản Trung Quốc, mỗi người trong số họ đều đại diện cho một nhóm khác nhau, nhằm ngăn chặn sự độc quyền thái quá kiểu Mao Trạch Đông. Tuy nhiên, sau khi Dương Thượng Côn sử dụng quyền lực người đứng đầu nhà nước của mình để huy động quân đội, chức Chủ tịch một lần nữa lại là chức vụ nắm quyền lực thực sự. Vì thế, Chủ tịch nước đồng thời là Tổng thư ký Đảng cộng sản Trung Quốc, và được coi là người nắm quyền thực sự. Năm 1989, cả quân đội Trung Quốc và cảnh sát Bắc Kinh đều không có phương tiện chống bạo động thích hợp, như đạn cao su, hơi cay vẫn thường được sử dụng ở phương Tây đối phó với các cuộc bạo loạn. Sau các cuộc biểu tình trên Quảng trường Thiên An Môn, cảnh sát chống bạo động tại các thành phố Trung Quốc đã được trang bị các vũ khí không gây chết người để kiểm soát bạo loạn. Ảnh hưởng kinh tế Các cuộc biểu tình Thiên An Môn không đánh dấu sự chấm dứt của cải cách kinh tế. Như một hậu quả trực tiếp sau những cuộc phản kháng, phe bảo thủ trong Đảng Cộng sản Trung Quốc tìm cách xoá bỏ một số cải cách thị trường tự do đang được tiến hành như một phần của cải cách kinh tế Trung Quốc, và tái lập quyền kiểm soát hành chính với nền kinh tế. Tuy nhiên, những nỗ lực này đã gặp phải sự phản đối kiên quyết của các quan chức địa phương và đã hoàn toàn mất tác dụng hồi đầu thập niên 1990 sau sự sụp đổ của Liên bang Xô viết và chuyến đi về phương nam của Đặng Tiểu Bình. Sự tiếp tục của cải cách kinh tế dẫn tới tăng trưởng kinh tế trong thập niên 1990, cho phép chính phủ giành lại hầu hết sự ủng hộ của dân chúng mà họ đã mất năm 1989. Ngoài ra, không một lãnh đạo nào hiện nay của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đóng vai trò chủ chốt trong quyết định đàn áp biểu tình, và một gương mặt chính trị quan trọng là Thủ tướng Ôn Gia Bảo đã từng là trợ thủ của Triệu Tử Dương tháp tùng ông tới gặp các sinh viên biểu tình. Các lãnh đạo cuộc biểu tình tại Thiên An Môn không thể lập ra một phong trào hay một ý thức hệ chặt chẽ có khả năng tồn tại sau khoảng giữa thập niên 1990. Đa số lãnh đạo sinh viên đều xuất thân từ tầng lớp khá cao trong xã hội và được coi là ngoài tầm với của người dân thường. Một số trong số họ là những người theo chủ nghĩa xã hội và muốn đưa Trung Quốc trở về với con đường của chủ nghĩa xã hội. Nhiều tổ chức bắt đầu xuất hiện sau sự kiện Thiên An Môn nhanh chóng tan rã vì những cuộc đấu đá lẫn nhau. Nhiều nhà hoạt động dân chủ ở nước ngoài ủng hộ việc hạn chế thương mại với Trung Quốc đại lục dần mất tần ảnh hưởng cả trong và ngoài Trung Quốc. Một số tổ chức phi chính phủ có trụ sở tại Hoa Kỳ, với mục tiêu đưa cải cách dân chủ vào Trung Quốc không ngừng đưa ra các cáo buộc vi phạm nhân quyền tại Trung Quốc vẫn còn đó. Một trong những tổ chức lâu đời và có ảh hưởng nhất là China Support Network (CSN), được thành lập năm 1989 bởi một nhóm nhà hoạt động người Mỹ và Trung Quốc sau sự kiện Quảng trường Thiên An Môn. Một hố sâu ngăn cách thế hệ Lớn lên với ít kỷ niệm về sự kiện Quảng trường Thiên An Môn năm 1989 và không biết gì về cuộc Cách mạng Văn hóa, nhưng lại được tận hưởng sự thịnh vượng và tầm ảnh hưởng ngày càng tăng của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đang có trên trường quốc tế cũng như trước những khó khăn nước Nga đang gặp phải từ cuối cuộc Chiến tranh Lạnh, nhiều người Trung Quốc không còn coi việc tự do hóa chính trị là một vấn đề bức thiết nữa, thay vào đó là những chuyển đổi từ từ sang sự dân chủ hóa. Nhiều thanh niên Trung Quốc, trước sự trỗi dậy của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, hiện quan tâm nhiều hơn tới phát triển kinh tế, chủ nghĩa quốc gia, bảo vệ môi trường, việc duy trì tầm ảnh hưởng trên các sự kiện quốc tế và nhận thức những sự yếu kém của chính phủ như trong vấn đề Vị thế chính trị Đài Loan hay quần đảo Điếu Ngư (Nhật Bản gọi là quần đảo Senkaku) đang tranh chấp với Nhật Bản. Trong giới trí thức ở Trung Hoa lục địa, dấu ấn của các cuộc biểu tình trên Quảng trường Thiên An Môn dường như đã tạo nên một kiểu chia tách thế hệ. Giới trí thức, những người ở tuổi 20 khi các cuộc biểu tình diễn ra thường ít có cảm tình với chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hơn những sinh viên trẻ sinh ra sau những cuộc cải cách của Đặng Tiểu Bình. Trong giới công nhân thành thị, việc tiếp tục các cuộc cải cách thị trường trong thập niên 1990 đã mang lại cho họ tiêu chuẩn sống cao hơn cũng như một sự đảm bảo tốt hơn về mặt kinh tế. Năm 2006, chương trình "Frontline" trên kênh PBS của Mỹ phát sóng một đoạn phim được quay tại Đại học Bắc Kinh, nhiều sinh viên ở trường này từng tham gia vào cuộc biểu tình năm 1989. Bốn sinh viên được hỏi về bức ảnh "Người biểu tình vô danh" nhưng không ai trong số họ biết sự kiện đó là gì. Một số trả lời đó là một cuộc duyệt binh hay một bức hình minh hoạ. Các vấn đề liên quan ngày nay Chủ đề cấm tại Lục địa Trung Quốc Những vấn đề quanh sự kiện vẫn là một chủ đề cấm bởi chính phủ Trung Quốc, tuy một nhà chức trách Trung Quốc nói rằng "đây không phải một chủ đề nhạy cảm" và nó không nhạy cảm bằng việc bàn luận về những sai lầm trong cuộc Cách mạng Văn hóa. Trong khi thông tin về Cách mạng Văn hóa có thể thấy trên sách báo, trang web của chính phủ Trung Quốc thì sự kiện này hoàn toàn bị biến mất trên các phương tiện truyền thông của chính phủ Trung Quốc. Tuy nhiên, các chương trình đưa tin tại Trung Quốc coi việc trấn áp cuộc biểu tình là một hành động cần thiết để đảm bảo sự ổn định. Với giới trẻ Trung Quốc, thông thường họ không biết gì về những người biểu tình trên Quảng trường Thiên An Môn. Hàng năm, có một cuộc tuần hành lớn tại Hồng Kông, nơi mọi người tưởng niệm các nạn nhân và yêu cầu Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thay đổi quan điểm chính thức của mình, nhưng đến đầu thế kỷ 21 thì những cuộc tuần hành ngày càng nhỏ dần do không còn nhiều người quan tâm nữa. Những bức thư thỉnh cầu về vụ việc vẫn thỉnh thoảng xuất hiện, đáng chú ý nhất là của Tiến sĩ Tưởng Ngạn Vĩnh và Những bà mẹ Thiên An Môn, một tổ chức được bà mẹ của một trong những nạn nhân bị giết hại năm 1989 lập ra để các gia đình tìm kiếm sự thực, sự bồi thường cho những đứa con đã mất, và quyền nhận quà tặng, đặc biệt là từ nước ngoài. Quảng trường Thiên An Môn được tuần tra chặt chẽ trong ngày kỷ niệm mùng 4 tháng 6 hàng năm để ngăn chặn bất kỳ hành động tưởng niệm nào có thể diễn ra tại đây. Sau khi chính phủ trung ương Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cải tổ nhân sự năm 2004, nhiều thành viên nội các đã đề cập tới sự kiện Thiên An Môn. Tháng 10 năm 2004, trong chuyến thăm của Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào tới Pháp, ông đã lặp lại rằng "chính phủ tiến hành biện pháp kiên quyết để dẹp yên cơn bão chính trị năm 1989, và cho phép Trung Quốc có một chính phủ ổn định". Ông nhấn mạnh rằng quan điểm của chính phủ về sự kiện này sẽ không thay đổi, rằng đó là việc cần thiết để giữ đất nước không lâm vào khủng hoảng và tan vỡ. Tháng 3 năm 2004, Thủ tướng Ôn Gia Bảo đã nói trong một cuộc họp báo rằng trong thập niên 1990 đã có một cơn bão chính trị tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, trong bối cảnh tan rã của Liên Xô và những thay đổi tận gốc rễ ở Đông Âu. Ông nói rằng Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản đã thành công trong việc đưa ra chính sách mở cửa ổn định và bảo vệ "Sự nghiệp Chủ nghĩa Xã hội mang màu sắc Trung Quốc". Năm 2005, Lý Ngao, một nhà hoạt động chính trị Đài Loan và một nhân vật truyền hình nổi tiếng, đã có một bài nói chuyện tại Đại học Bắc Kinh. Ông đã ám chỉ đến cuộc biểu tình năm 1989 khi nhắc tới sự kiện Bonus March tại Hoa Kỳ gần 50 năm trước, trong cuộc Đại Khủng hoảng. Trong bài nói này, ông thêm rằng bất kỳ một chính phủ quốc gia nào trên thế giới đều phải dùng tới sức mạnh quân sự khi quyền lực của họ bị đe doạ. Hiện tại, vì chính sách kiểm duyệt của chính phủ Trung Quốc gồm cả việc kiểm duyệt Internet, truyền thông bị cấm đưa bất kỳ tin nào liên quan tới chủ đề này. Phần lịch sử này đã biến mất trên hầu hết các phương tiện truyền thông Trung Quốc, gồm cả internet. Không ai được phép tạo bất kỳ một website nào liên quan tới sự kiện. Mọi lệnh tìm kiếm trên Internet tại Trung Quốc đại lục đa phần sẽ chỉ là con số không, ngoài một phiên bản chính thức của chính phủ với quan điểm của họ, chủ yếu thuộc website của Nhân dân Nhật báo và các phương tiện truyền thông bị kiểm soát chặt chẽ khác . Tháng 1 năm 2006, Google đã đồng ý kiểm duyệt site của họ tại Trung Quốc đại lục (http://www.google.cn/) để loại bỏ các thông tin về vụ thảm sát trên quảng trường Thiên An Môn năm 1989, cũng như các chủ đề khác như Độc lập Tây Tạng, phong trào tinh thần đã bị cấm Pháp Luân Công và Vị thế chính trị Đài Loan. Khi mọi người tìm kiếm các thông tin bị kiểm duyệt đó, sẽ có thông báo sau xuất hiện ở cuối mỗi trang liệt kê kết quả tìm kiếm: "Theo pháp luật pháp quy và chính sách nơi này, một bộ phận kết quả tìm kiếm chưa thể hiển thị". Các bài viết của Wikipedia về cuộc biểu tình năm 1989 cả bằng tiếng Anh và trên Wikipedia Trung văn, là một nguyên nhân dẫn tới sự phong tỏa Wikipedia của chính quyền đại lục. Ngày 15 tháng 5 năm 2007, lãnh đạo Liên minh Dân chủ về sự Cải tiến ở Hương Cảng ủng hộ Bắc Kinh đã bị nhiều người chỉ trích khi tuyên bố "đó không phải là một vụ thảm sát", bởi không có "phát bắn có chủ đích và bừa bãi nào". Ông nói điều này cho thấy Hương Cảng "chưa đủ chín chắn" khi tin vào những tuyên bố bừa bãi của nước ngoài rằng đã xảy ra một vụ thảm sát. Ông nói vì Hương Cảng thiếu chủ nghĩa yêu nước và tính đồng nhất quốc gia, nên "chưa sẵn sàng cho dân chủ cho tới năm 2022". Những lời tuyên bố của ông đã bị lên án mạnh mẽ. Ngày 4 tháng 6 năm 2007, ngày kỷ niệm vụ thảm sát một đoạn quảng cáo với dòng chữ "Để tỏ lòng kính trọng tới những bà mẹ kiên cường của những nạn nhân ngày 4 tháng 6" đã xuất hiện trên Thành Đô vãn báo. Sự việc đang được chính phủ Trung Quốc điều tra, và ban biên tập viên đã bị sa thải. Người thư ký thông qua đoạn quảng cáo này được cho là chưa từng nghe về vụ đàn áp ngày 4 tháng 6 và đã được nói rằng nó chỉ đề cập tới ngày kỷ niệm một thảm hoạ hầm mỏ. Cấm vận vũ khí Hoa Kỳ-Liên minh châu Âu Lệnh cấm bán vũ khí cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa của Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu đã được đưa ra sau sự đàn áp bằng bạo lực những cuộc biểu tình trên Quảng trường Thiên An Môn, hiện vẫn có hiệu lực. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã kêu gọi dỡ bỏ lệnh cấm từ nhiều năm nay và đang được một số ủng hộ từ phía các thành viên Hội đồng Liên minh châu Âu. Đầu năm 2004, Pháp đã dẫn đầu một phong trào vận động dỡ bỏ lệnh cấm bên trong EU. Cựu Thủ tướng Đức Gerhard Schröder đã công khai ủng hộ lập trường của cựu Tổng thống Pháp Jacques Chirac về việc xóa bỏ cấm vận. Lệnh cấm vận vũ khí đã được thảo luận tại một cuộc họp thượng đỉnh Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa-EU tại Hà Lan từ ngày 7 đến ngày 9 tháng 12 năm 2004. Trong khi cuộc họp thượng đỉnh diễn ra, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã tìm cách gia tăng sức ép lên Hội đồng EU để dỡ bỏ lệnh cấm vận khi cảnh báo rằng lệnh này sẽ làm tổn hại tới những mối quan hệ Trung Hoa-EU. Thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Zhang Yesui gọi lệnh này là "lỗi thời", và ông nói với các nhà báo "nếu lệnh cấm được duy trì, quan hệ song phương chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng". Cuối cùng, Hội đồng châu Âu vẫn không dỡ bỏ lệnh cấm vận. Người phát ngôn EU Françoise le Bail nói vẫn còn có những lo ngại về cam kết của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về nhân quyền. Nhưng ở thời điểm đó, EU thực sự có cam kết đàn phán để dỡ bỏ lệnh cấm vận. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tiếp tục gây áp lực đòi dỡ bỏ lệnh này, và một số quốc gia thành viên đã bắt đầu từ bỏ quan điểm của mình. Jacques Chirac đã yêu cầu hủy bỏ lệnh này từ giữa năm 2005. Tuy nhiên, "Luật Chống chia cắt đất nước" của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thông qua tháng 3 năm 2005 đã làm gia tăng căng thẳng giữa hai bờ eo biển Đài Loan, đe dọa những nỗ lực dỡ bỏ cấm vận, và nhiều thành viên Hội đồng châu Âu đã thay đổi ý định. Các thành viên Hạ viện Hoa Kỳ cũng đã đề xuất những hạn chế trong việc chuyển giao các kỹ thuật quân sự cho EU nếu họ dỡ bỏ lệnh cấm vận. Vì thế Hội đồng châu Âu không đạt được sự đồng nhất, dù Pháp và Đức vận động cho việc này, lệnh cấm vận vẫn được duy trì. Anh Quốc nắm chức Chủ tịch EU tháng 7 năm 2005, khiến việc dỡ bỏ lệnh này trong thời gian giữ chức vụ của họ không thể diễn ra. Anh Quốc luôn giữ một số quan điểm trong việc dỡ bỏ cấm vận và muốn để nó sang một bên, hơn là làm xấu đi quan hệ EU-Hoa Kỳ. Các vấn đề khác như sự thất bại của Hiến pháp châu Âu và sự bất đồng tiếp diễn về Ngân sách châu Âu cũng như Chính sách Nông nghiệp chung khiến lệnh cấm vận càng ít được chú ý. Anh Quốc muốn dùng chức chủ tịch của mình để tăng cường cải cách bán xỉ trong EU, vì thế việc dỡ bỏ cấm vận càng không có cơ hội xảy ra. Việc José Manuel Barroso trúng cử chức Chủ tịch Ủy ban châu Âu càng gây khó khăn cho việc dỡ bỏ cấm vận. Tại một cuộc gặp gỡ với các lãnh đạo Trung Quốc hồi giữa tháng 7 năm 2005, ông nói thành tích nhân quyền kém cỏi của Trung Quốc sẽ cản trở bất kỳ thay đổi nào trong lệnh cấm bán vũ khí cho Trung Quốc của EU. Chính trị cũng đã thay đổi tại các quốc gia từng ủng hộ việc dỡ bỏ cấm vận. Schröder thất bại trong cuộc bầu cử liên bang Đức năm 2005 trước Angela Merkel, bà trở thành Thủ tướng ngày 22 tháng 11 năm 2005 - Merkel tỏ rõ quan điểm phản đối việc dỡ bỏ lệnh cấm. Jacques Chirac đã tuyên bố ông không ra tranh cử chức Tổng thống Pháp một lần nữa năm 2007. Người kế nhiệm ông, Nicolas Sarkozy, có khuynh hướng thân Mỹ hơn và cũng không ủng hộ việc dỡ bỏ lệnh cấm. Ngoài ra, Nghị viện châu Âu luôn phản đối việc dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí cho Trung Quốc. Dù việc không cần có sự đồng ý của cơ quan này trong việc hủy bỏ lệnh cấm, nhiều người cho rằng điều này phản ánh đúng lòng mong muốn của nhân dân châu Âu hơn vì đây là cơ quan đại biểu do người dân châu Âu trực tiếp bầu ra— Hội đồng châu Âu được chỉ định bởi các quốc gia thành viên. Nghị viện châu Âu đã nhiều lần phản đối bất kỳ một sự dỡ bỏ lệnh cấm buôn bán vũ khí nào với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa: Nghị quyết ngày 28 tháng 4 năm 2005, về Báo cáo hàng Năm về Nhân quyền trên Thế giới năm 2004 và chính sách của EU về vấn đề này, tiếp tục tuyên bố duy trì lệnh cấm vận vũ khí với Trung Quốc Nghị quyết ngày 23 tháng 10 năm 2003, về báo cáo hàng năm từ Ủy ban thuộc Nghị viện châu Âu về các khía cạnh chính và các lựa chọn cơ bản của CFSP, nhấn mạnh trên một giải pháp hòa bình cho vấn đề Đài Loan thông qua thương lượng giữa hai bờ Eo biển Đài Loan và kêu gọi Trung Quốc rút tên lửa khỏi các tỉnh ven eo biển Đài Loan, và Nghị quyết về quan hệ giữa EU, Trung Quốc và Đài Loan và an ninh vùng Viễn Đông ngày 7 tháng 7 năm 2005. EP đã nhiều lần tuyên bố rằng tình trạng nhân quyền hiện tại ở Trung Quốc, với những quyền dân sự căn bản, quyền tự do văn hóa và chính trị không đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế được Trung Quốc công nhận. Lệnh cấm vẫn vũ khí ngăn cản việc lựa chọn mua trang bị vũ khí của Trung Quốc. Trong số các nguồn nhập khẩu vũ khí được Trung Quốc tìm kiếm thay thế gồm các nước từng thuộc Liên Xô (ví dụ như Nga, Ucraina, Belarus...) mà mối quan hệ đã được bình thường hóa sau khi Liên Xô sụp đổ. Các nhà cung cấp khác gồm Israel và Nam Phi, nhưng áp lực từ phía Hoa Kỳ đã hạn chế những sự hợp tác tương lai. Bồi thường Dù chính phủ Trung Quốc chưa bao giờ cho rằng việc dập tắt cuộc biểu tình là hành động sai, trong tháng 4 năm 2006 đã có một khoản chi cho gia đình của một trong những nạn nhân, trường hợp bồi thường công khai đầu tiên của chính phủ với gia đình nạn nhân liên quan tới sự kiện Thiên An Môn. Khoản chi được gọi là "hỗ trợ khó khăn" cho Đường Đức Anh, con trai của bà Chu Quốc Thông, chết khi 15 tuổi trong khi bị cảnh sát giam giữ tại Thành Đô ngày 6 tháng 6 năm 1989, hai ngày sau khi Quân đội Trung Quốc giải tán những người phản kháng trên quảng trường Thiên An Môn. Người phụ nữ này được thông báo đã nhận được 70.000 tệ (xấp xỉ $8700 USD). Hành động này đã được nhiều nhà hoạt động người Trung Quốc đón nhận, nhưng bị một số người coi là hành động giữ ổn định xã hội và không tin có sự thay đổi trong quan điểm chính thức của Đảng Cộng sản. Nhận định về hành động của chính phủ Trung Quốc Ngày 9 tháng 6 năm 1989, Đặng Tiểu Bình có bài phát biểu trước các cán bộ quân đội ở Bắc Kinh: Cuộc khủng hoảng này dù sớm hay muộn, nó sẽ phải xảy ra. Đó chỉ là vấn đề thời gian và quy mô. Diễn ra bây giờ thì tốt hơn cho chúng ta. Chúng ta có một số lượng lớn các đồng chí dày dạn kinh nghiệm. Họ đã trải qua nhiều cuộc khủng hoảng và hiểu được lợi ích của người dân. Họ ủng hộ hành động kiên quyết chống lại các cuộc bạo loạn. Mặc dù một số đồng chí trong thời gian vừa qua không hiểu rõ vấn đề, cuối cùng các đồng chí đó sẽ hiểu ra và sẽ ủng hộ quyết định tập thể của trung ương. ...Khi mọi thứ nổ ra, rất rõ ràng. Khẩu hiệu chính của chúng chủ yếu là 2 việc, một là lật đổ Đảng Cộng sản, và hai là lật đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa. Mục đích của chúng là thiết lập một nền cộng hòa tư sản. Người dân yêu cầu chính phủ chống tham nhũng, và chắc chắn chúng ta chấp nhận yêu cầu đó. Khẩu hiệu chống tham nhũng được đưa ra bởi những người có động cơ ngầm cũng nên được chấp nhận như những ý kiến tốt. Tuy nhiên, khẩu hiệu này chỉ là một trong những chiêu bài của chúng, và mục đích cốt lõi của những kẻ đó là đánh bại Đảng Cộng sản và lật đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa... Vậy đường lối cơ bản của cải cách mở cửa là sai ư? Không có gì sai cả. Không có cải cách và mở cửa, làm sao đất nước có ngày hôm nay? Thủ tướng Singapore, ông Lý Quang Diệu cho rằng vụ dập tắt cuộc biểu tình ở Thiên An Môn của Trung Quốc là hành động cần thiết để duy trì trật tự và luật pháp, nếu không bạo loạn sẽ lan rộng và đất nước rộng lớn này sẽ sớm tan vỡ thành nhiều mảnh bởi các lực lượng nổi loạn cát cứ ở các địa phương, và dẫn tới nội chiến đẫm máu giống như Thời đại quân phiệt hồi đầu thế kỷ 20: "Tôi hiểu Đặng Tiểu Bình khi ông ấy nói, "nếu phải bắn, hãy bắn ngay"... Bởi vì nhiều khả năng Trung Quốc sẽ đại loạn trong 100 năm tới. Đặng hiểu, ông ấy thả lỏng dần dần. Không có Đặng, Trung Quốc đã vỡ tan."". Dấu ấn trong văn hóa Âm nhạc Ban nhạc The Hooters đã ghi âm bài hát "500 Miles" (500 dặm) thời Nội chiến Mỹ năm 1989 trong album Zig Zag của họ, với bộ ba nhạc dân gian Peter, Paul and Mary, và thêm vào những lời mới đề cập tới cuộc biểu tình (A hundred tanks along the square, One man stands and stops them there - Một trăm chiếc xe tăng dọc theo quảng trường, Một người đứng chặn chúng ở đó). Bài hát với chủ đề lịch sử "We Didn't Start the Fire" (Chúng ta không khởi động trận bắn giết) ("Trung Quốc dưới thiết quân luật") của Billy Joel "Democracy" của Leonard Cohen ("...from those nights in Tiananmen Square" -...từ những đêm đó trên Quảng trường Thiên An Môn) Bài hát "Trung Quốc" của Joan Baez năm 1989 "The Tiananmen Man" của Nevermore "Watching TV" trong album solo Amused to Death của Roger Waters năm 1992 "Karate" của Tenacious D "Hypnotize" của System of a Down "The Flower of Freedom" của Thomas Chow "Faith" của The Cure cùng ngày với vụ thảm sát, dành tặng những người đã mất Cùng khoảng thời gian diễn ra sự kiện, nhiều ca sĩ nhạc pop Đài Loan đã tụ họp hát một bài ca đặc biệt với tên gọi "Vết thương của lịch sử". Bài hát này đã trở thành một trong những bài hát cho tới ngày nay vẫn làm dâng tràn cảm xúc trong lòng những người Hoa ở nước ngoài, đặc biệt là những người ủng hộ dân chủ, vì ảnh hưởng sâu sắc của cuộc phản kháng tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. "Arrested in Shanghai" của Rancid trong album Indestructible có một dòng: So I protest the massacres at the Tiannamen Square (Vì thế tôi phản đối các vụ thảm sát tại Quảng trường Thiên An Môn) "Roll Right" của Rage Against the Machine gồm đoạn: Lick off the shot my stories shock you like Ellison, main line adrenalin, Gaza to Tiananme "Tin Omen" của nhóm nhạc Canada Skinny Puppy có những lời nói tới những cuộc phản kháng cũng như cuộc phản kháng tại Đại học Kent State Trong video ca nhạc "They Don't Care About Us" của ca sĩ Michael Jackson cũng có một số hình ảnh của sự kiện Thiên An Môn. Truyền hình Trong bộ phim hoạt hình The Simpsons, phần "Goo Goo Gai Pan", có một cảnh với một tấm bảng viết "On this spot in 1989, nothing happened" (Ở nơi này vào năm 1989, không có điều gì xảy ra). Ngoài ra, Selma còn xuất hiện phía trước một chiếc xe tăng do một sĩ quan Trung Quốc điều khiển. Cảnh quay từ cùng góc như bức ảnh "Người biểu tình vô danh" nổi tiếng. Phóng viên tin tức kỳ cựu của CNN Kyra Phillips đã đưa ra những lời chỉ trích vào tháng 3 năm 2006 khi bà so sánh Các cuộc phản kháng lao động tại Pháp năm 2006, trong đó không một người nào thiệt mạng, với những cuộc phản kháng trên Quảng trường Thiên An Môn, nói "Phần nào thấy lại những kỷ niệm về Quảng trường Thiên An Môn, khi bạn thấy những nhà hoạt động đó phía trước những chiếc xe tăng". Chris Burns của CNN đã nói với Bộ trưởng ngoại giao Pháp Philippe Douste-Blazy rằng những lời so sánh của bà là "đáng tiếc".
Châu Ô (chữ Nho: 烏州, tiếng Chăm: Vuyar) là tên cũ của vùng đất từ đèo Lao Bảo đến lưu vực sông Thạch Hãn (hay là sông Quảng Trị) phía Nam tỉnh Quảng Trị. Châu Ô cùng với Châu Lý là vùng đất cũ của Vương quốc Chăm Pa (xem Châu Lý). Năm 339, nhà Đông Tấn Trung Quốc suy yếu, vương quốc Chăm Pa, một nước mới thành lập ở phía Nam đèo Hải Vân, đem quân đánh chiếm vùng đất bộ Việt Thường. Vùng đất này trở thành biên địa phía Bắc của vương quốc Chăm Pa độc lập với cơ cấu 5 châu: Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh, Ô và Lý (Rí). Thị xã Quảng Trị ngày nay thuộc địa phận châu Ô. Năm 1306, vua Chăm Pa là Chế Mân sai sứ dâng chiếu cầu hôn công chúa Huyền Trân đến vua Trần Anh Tông của Đại Việt. Vua Trần bằng lòng gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân và nhận hai châu Ô và Lý mà Chế Mân đã dâng làm vật sính lễ. Nhà Trần đổi châu Ô làm Thuận Châu, và châu Lý làm Hoá Châu. Chú thích