text
stringlengths 0
512k
|
---|
Đông Hải là một huyện nằm ở phía tây nam tỉnh Bạc Liêu, Việt Nam.
Địa lý
Huyện Đông Hải nằm ở phía tây nam tỉnh Bạc Liêu, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp huyện Hoà Bình
Phía tây giáp thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau
Phía nam giáp huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau và Biển Đông
Phía bắc giáp thị xã Giá Rai.
Sông Gành Hào là địa giới của huyện với tỉnh Cà Mau, đổ ra biển bằng cửa biển Gành Hào tại khu vực thị trấn Gành Hào. Đông Hải là huyện có đường bờ biển dài nhất tỉnh Bạc Liêu (khoảng 23 km), thuận lợi cho việc làm muối và đánh bắt hải sản.
Địa hình
Nhìn chung tương đối bằng phẳng, bề mặt bị chia cắt bởi hệ thống sông, kênh rạch chằng chịt. Cao độ trung bình từ 0,4m – 1,3m; có xu hướng thấp dần
từ bờ biển vào sâu trong nội đồng. Do đó, đã tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp và du lịch sinh thái. Tuy nhiên, cũng gây khókhăn cho việc xây dựng hạ tầng kỹ thuật, phát triển giao thông đường bộ và ảnh hưởng đến đời sống, sinh hoạt của người dân.
Khí hậu
Huyện nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa và chịu ảnh hưởng của biển Đông với những đặc trưng chủ yếu sau:
Chế độ nhiệt: nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 26,6°C, thường tháng 1 có nhiệt độ thấp nhất khoảng 24,8°C, tháng 5 có nhiệt độ cao nhất khoảng 29,4°C.
Chế độ mưa: mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 tới tháng 4 năm sau, lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1.730mm, tập trung chủ yếu vào mùa mưa (chiếm trên 90% tổng lượng mưa).
Chế độ ẩm: cao và ổn định, ít biến đổi qua các năm, trung bình cả năm khoảng 85%, thấp nhất vào mùa khô, cao nhất vào mùa mưa.
Chế độ nắng: số giờ nắng trong năm khá cao, khoảng 2.409 giờ/năm.
Chế độ gió: có 2 hướng gió thịnh hành là Đông Bắc và Tây Nam.
Thủy văn
Chế độ thủy văn trên địa bàn huyện chịu tác động bởi chế độ bán nhật triều không đều của Biển Đông, chế độ dòng chảy của các sông, kênh, rạch trên
địa bàn. Thủy triều Biển Đông là tác nhân chủ yếu đưa xâm nhập mặn vào nội địa theo các sông, kênh, rạch. Trong đó, độ mặn trong các sông, kênh, rạch có sự khác nhau tùy theo vùng (vùng phía Đông Nam mặn nhiều, vùng phía Tây Bắc mặn ít). Riêng ở vùng phía nam Quốc lộ 1 do chế độ bán nhật triều biển Đông chi phối hoàn toàn với lưu tốc dòng chảy mạnh, biên độ khá lớn tạo thuận lợi cho việc tiêu nước tự chảy và rửa mặn, rửa phèn, lấy nước mặn từ biển để làm muối, nuôi trồng thủy sản, phát triển rừng ngập mặn. Mặt khác, theo kết quảnghiên cứu đất đai ven biển huyện Đông Hải trên 30 năm qua cho thấy vùng ven biển của huyện thường xảy ra vấn đề xói lở và bồi tụ, trong đó, đoạn từ thị trấn Gành Hào đến hợp tác xã Long Hà (xã Long Điền Tây) bị xói lở mạnh từ 0,1–0,5km và đoạn từ hợp tác xã Long Hà đến kênh Cống Cái Cùng (xã Long Điền Đông) được bồi từ 0,4 – 1,5km.
Tài nguyên đất
Hiện nay trên địa bàn huyện Đông Hải có 3 nhóm đất chính là đất mặn, đất phèn tiềm tàng – mặn trung bình và đất nhân tác, Trong đó:
Nhóm đất mặn, diện tích khoảng 11.592,09 ha, chiếm 20% diện tích tự nhiên (DTTN), phân bố chủ yếu ở phần bãi bồi ven biển và bờ biển. Thành phần cơ giới đất có tỷ lệ cát và bột thấp (22-27%), cấp hạt cát không vượt quá (25%), khả năng sử dụng thích hợp cho trồng rừng phòng hộ, nuôi trồng thủy sản và làm muối.
Nhóm đất phèn tiềm tàng – mặn trung bình, diện tích khoảng 36.088 ha, chiếm 62,27% DTTN, phân bố đều trên địa bàn các xã, thị trấn; khả năng sử dụng thích hợp cho nuôi trồng thủy sản và sản xuất nông nghiệp.
Nhóm đất nhân tác, có diện tích khoảng 8.680,07 ha, chiếm 15,29% DTTN; phân bố tập trung dọc theo các kênh, rạch, các trục lộ giao thông lớn, các cụm dân cư tập trung; thành phần lý hóa tính đã bị thay đổi nhiều do quá trình sử dụng. Ngoài ra, đất sông, kênh, rạch có diện tích 1.413,02 ha, chiếm 4,09% DTTN, phân đều trên địa bàn huyện.
Tài nguyên nước
Nước mặt: có 2 nguồn chính là nước ngọt và nước mặn, trong đó:
Nước ngọt: được cung cấp từ nước mưa và hệ thống sông, kênh rạch khá dày đặc trên địa bàn. Nguồn nước chủ yếu phục vụ cho mục đích sản xuất nông nghiệp, sinh hoạt của người dân, đồng thời dùng để cải tạo đất, rửa chua, phèn và phục vụ giao thông thủy.
Nước mặn: được cung cấp từ Biển Đông nên rất dồi dào, chủ yếu phục vụ cho nuôi trồng thủy sản, trồng rừng, sản xuất muối và giao thông thủy.
Nước dưới đất: trên địa bàn huyện ở độ sâu khoảng từ 80–500m có 4 tầng chứa nước với trữ lượng lớn, chất lượng khá tốt. Tuy nhiên, hiện nay chủ
yếu khai thác ở độ sâu từ 80 - 150m để phục vụ cho mục đích công nghiệp chế biến và sinh hoạt của nhân dân.
Tài nguyên rừng
Hiện tại, huyện có khoảng 1.563,87 ha đất rừng, toàn bộ là rừng phòng hộ, được phân bố trên địa bàn các xã ven biển như: Long Điền Đông, Điền Hải, Long Điền Tây và thị trấn Gành Hào với một số cây chiếm ưu thế như: đước, mắm, vẹt,... chủ yếu đóng vai trò hạn chế xói mòn, giảm ô nhiễm môi trường, tạo cảnh quan đẹp cho phát triển du lịch sinh thái ven biển.
Tài nguyên biển
Huyện Đông Hải có chiều dài bờ biển khoảng 23km, với các cửa sông lớn như Gành Hào, Cái Cùng nên rất thuận lợi trong khai thác, chế biến và dịch vụ thủy sản. Đặc biệt, khu vực biển của huyện có nhiều loại hải sản với trữ lượng lớn và giá trị kinh tế cao như: tôm biển các loại, cá Hồng, cá Gộc, cá Sao, cá Thu, cá Chim,... nên huyện có điều kiện thuận lợi để phát triển thành trung tâm cung cấp các dịch vụ cho đánh bắt và chế biến thủy hải sản. Nước biển có độ mặn cao, thuận lợi cho phát triển sản xuất, chế biến muối và các sản phẩm sau muối.
Hành chính
Huyện Đông Hải có 11 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Gành Hào (huyện lỵ) và 10 xã: An Phúc, An Trạch, An Trạch A, Điền Hải, Định Thành, Định Thành A, Long Điền, Long Điền Đông, Long Điền Đông A, Long Điền Tây với 84 ấp.
Lịch sử
Trước năm 2001, địa bàn huyện Đông Hải ngày nay là một phần huyện Giá Rai (nay là thị xã Giá Rai).
Ngày 24 tháng 12 năm 2001, Chính phủ ban hành Nghị định số 98/2001/NĐ-CP về việc thành lập huyện Đông Hải trên cơ sở 52.786,36 ha diện tích tự nhiên và 123.440 nhân khẩu của huyện Giá Rai.
Huyện Đông Hải trên cơ sở 52.786,36 ha diện tích tự nhiên và 123.440 nhân khẩu, gồm 8 đơn vị hành chính trực thuộc là các xã: An Trạch, An Phúc, Định Thành, Long Điền, Long Điền Tây, Long Điền Đông, Long Điền Đông A và thị trấn Gành Hào. Huyện lỵ của huyện đặt tại thị trấn Gành Hào.
Ngày 24 tháng 12 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 166/2003/NĐ-CP về việc thành lập xã Định Thành A trên cơ sở 2.986,50 ha diện tích tự nhiên và 9.410 nhân khẩu của xã Định Thành.
Ngày 01 tháng 8 năm 2008, Nghị định 85/2008/NĐ-CP về việc:
Thành lập xã An Trạch A trên cơ sở điều chỉnh 4.807,48 ha diện tích tự nhiên và 11.238 nhân khẩu của xã An Trạch
Thành lập xã Điền Hải trên cơ sở điều chỉnh 3.400,04 ha diện tích tự nhiên và 9.408 nhân khẩu của xã Long Điền Tây.
Huyện Đông Hải có 56.160,17 ha diện tích tự nhiên và 138.983 nhân khẩu, có 11 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm thị trấn Gành Hào và 10 xã: Long Điền, Long Điền Đông, Long Điền Đông A, Long Điền Tây, Điền Hải, An Phúc, An Trạch, An Trạch A, Định Thành và Định Thành A.
Kinh tế - xã hội
Kinh tế
Huyện Đông Hải phát huy có hiệu quả các tiềm năng, lợi thế và tạo nên những bước đột phá mới cho phát triển kinh tế biển, Ban Chấp hành Tỉnh ủy (khóa XV) đã ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TU về xây dựng Đông Hải trở thành huyện trọng điểm về kinh tế biển, phấn đấu từng bước đạt các tiêu chí nâng lên thị xã. Đây là điều kiện để huyện đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng huyện trở thành trọng điểm về kinh tế biển.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của huyện giai đoạn 2016-2020 đạt 7,16%. Cơ cấu kinh tế (theo giá hiện hành): khu vực nông, lâm và thủy sản tăng 40,63%; khu vực công nghiệp – xây dựng 20,34%; khu vực thương mại – dịch vụ 34,11%.
Nông nghiệp – thủy sản
Nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế chính của huyện. Tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2011-2020 bình quân 14,5%/năm, tổng giá trị sản xuất năm 2020 đạt 11.283 tỷ đồng tăng 8.367 tỷ đồng so với năm 2010 (2.916 tỷ đồng). Những năm qua, huyện đã đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, cải tạo diện tích vườn kém hiệu quả để phát triển các mô hình trồng rau, màu; phát triển mô hình chăn nuôi gia súc, gia cầm theo hướng đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm; đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng vùng nuôi tôm công nghiệp, bán công nghiệp, tăng cường công tác tập huấn khuyến ngư, chuyển giao ứng dụng kỹ thuật vào sản xuất, đảm bảo an toàn cho ngư dân và phương tiện đánh bắt trên biển, từng bước phát triển
dịch vụ hậu cần nghề cá,.. Do đó, kinh tế nông nghiệp của huyện tiếp tục phát triển ổn định theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
Công nghiệp – xây dựng
Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp trong những năm qua đã phát huy được các tiềm năng lợi thế về nguồn nguyên liệu nên đã đóng góp tích cực vào tăng trưởng chung của huyện, góp phần tạo ra sự thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội, tạo công ăn việc làm, tác động tích cực đối với các ngành nông nghiệp và dịch vụ.... Giai đoạn 2011-2020, giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh năm 2010) tăng bình quân 11,6%/năm, đạt 2.101 tỷ đồng năm 2020 và tăng
1.400 tỷ đồng so với năm 2010 (701 tỷ đồng).
Dịch vụ
Hoạt động thương mại, dịch vụ duy trì và phát triển ổn định; hệ thống chợ từng bước đầu tư và mở rộng; chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế đã tạo cho lượng hàng hóa dồi dào, nhiều chủng loại và đa dạng. Giai đoạn 2011-2020, tổng mức bán lẻ, doanh thu dịch vụ tăng bình quân 15,4%/năm, đạt 5.876 tỷ đồng năm 2020 và tăng 4.472 tỷ đồng so với năm 2010 (1.404 tỷ đồng).
Xã hội
Giáo dục
Năm 2018, toàn huyện có 51 trường học với hơn 630 phòng học. Đến nay, huyện có 100% phòng học được xây dựng cơ bản và bán cơ bản, 11/51 trường đạt chuẩn quốc gia, 55% giáo viên đạt chuẩn và gần 42% giáo viên đạt trên chuẩn. Lĩnh vực giáo dục - đào tạo tiếp tục phát triển, từng bước nâng cao chất lượng dạy và học. Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học được đầu tư cơ bản đáp ứng yêu cầu. Tỷ lệ học sinh hoàn thành chương trình tiểu học đạt 99,95%, THCS đạt 99,28%, tốt nghiệp THPT đạt 100%.
Y tế
Cơ sở vật chất khám và điều trị bệnh ở Bệnh viện đa khoa huyện và Trạm y tế xã, thị trấn được tăng cường. Hiện nay huyện có trên 70% xã đạt chuẩn quốc gia về y tế, 100% trạm y tế có bác sĩ phục vụ và làm tốt công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân.
Dân số
Huyện Đông Hải có diện tích tự nhiên là 579,63 km², dân số năm 2016, dân số toàn huyện là 149.056 người, trong đó: dân tộc Kinh 145.158 người; dân tộc Hoa 237 người; dân tộc Khmer 3.818 người; dân tộc khác 20 người. Dân số 2018 là 149.814 người, mật độ dân số của huyện là 259 người/km². Trong đó, dân số sống ở thành thị là 17.893 người chiếm tỉ lệ 11,94% và dân số sống ở nông thôn là 131.975 người chiếm tỉ lệ 88,06%.
Theo thống kê năm 2019, huyện Đông Hải có diện tích 579,63 km², dân số là 152.788 người, mật độ dân số đạt 264 người/km².
Năm 2019, dân số toàn huyện Đông Hải là 153.771 người, trong đó, dân số thành thị là 14.114 người chiếm 9,18%, dân số nông thôn là 139.657 người chiếm 90,82%.
Theo thống kê ngày 1 tháng 11 năm 2021, dân số huyện Đông Hải là 154.607 người, trong đó: dân số thành thị là 14.327 (9,27%), dân số nông thôn là 140.280 người (90,73%).
Huyện Đông Hải có diện tích 579,53 km², dân số năm 2022 là 153.771 người, trong đó khu vực thành thị 14.114 người, chiếm 9,18%; khu vực nông thôn 139.657 người, chiếm 90,82%.
Văn hóa - Du lịch
Trên địa bàn huyện, có 3 dân tộc cùng sinh sống là Kinh (chiếm 97,28%), Khmer (chiếm 2,55%), Hoa (chiếm 0,15%) nên luôn có các Lễ hội gắn liền với đời sống tâm linh của các dân tộc, tôn giáo như Lễ hội Kỳ yên ở Đình thần Long Điền, xã Long Điền và Đình Nguyễn Trung Trực, xã An Trạch A. Đặc biệt, do là huyện vùng ven biển nên hằng năm tại cửa biển Gành Hào, cư dân biển đều tổ chức Lễ hội Nghinh Ông với nhiều hoạt động sôi nổi như: tổ chức cho các tàu thuyền đánh bắt hải sản đồng loạt diễu hành ra biển; lễ thỉnh Ông Nam Hải; thả tôm giống ra biển; Hội chợ thương mại.... cùng nhiều hoạt động văn hoá văn nghệ, các trò chơi dân gian, giao lưu ẩm thực. Ngoài các hoạt động truyền thống của ngư dân, đây còn là dịp để Đông Hải quảng bá hình ảnh, giới thiệu phong tục, tập quán đến người dân trong và ngoài nước, cũng như khách du lịch nên góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội của huyện.
Đến nay 100% hộ dân có phương tiện nghe, nhìn. Trên 95% hộ gia đình và trên 90% ấp đạt chuẩn văn hóa, 2 xã đạt chuẩn văn hóa.
Huyện đã hỗ trợ và xây dựng gần 1.000 căn nhà tình nghĩa. Vận động quỹ Vì người nghèo, quỹ An sinh xã hội 12 tỷ đồng, triển khai xây dựng trên 6800 căn nhà tình thương và nhà 167 cho người nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 22.46%. Tổng thu ngân sách Nhà nước 10 năm qua trên 370 tỷ đồng, riêng năm 2011 là 57 tỷ đồng, tăng 6,4 lần so với năm 2002.
Lễ hội
Huyện có 3 dân tộc: Kinh, Hoa, Khmer, hằng năm có các lễ hội như Lễ hội nghinh Ông của ngư dân Gành Hào, Lễ Kỳ yên và các lễ hội khác của người Khmer.
Với những nỗ lực trên, ngày 1/3/2012 Đảng bộ và nhân dân huyện Đông Hải vinh dự đón nhận Huân chương Lao động hạng III trong ngày kỷ niệm 10 năm thành lập huyện.
Du lịch
Đặc biệt, tại ấp Rạch Rắn xã Long Điền hiện có khu di tích nơi thành lập chi bộ Đảng đầu tiên của tỉnh Bạc Liêu.
Đẩy mạnh phát triển du lịch sinh thái rừng ngập mặn ven biển theo tuyến đê biển Đông, vườn chim Lập Điền (xã Long Điền Tây), Lăng Ông Gành Hào.
Giao thông
Giao thông đường bộ
Trên địa bàn huyện, mạng lưới giao thông bộ
phát triển khá nhanh, đến nay có 10/10 xã thuộc huyện đã có đường nhựa cho xe ô tô lưu thông đến trung tâm xã theo tiêu chuẩn của Bộ Giao thông Vận tải. Nhìn chung, tỷ lệ nhựa hóa, cứng hóa đạt cao, nhất là các tuyến quan trọng. Cụ thể, như sau:
Đường tỉnh: có 5 tuyến với tổng chiều dài khoảng 97,4 km, mặt đường được láng nhựa, cấp phối hoặc đất đen. Gồm các tuyến như ĐT.977 dài 10,6 km; ĐT.979B dài 13,5 km; ĐT.980 dài 26,6 km; ĐT.982 dài 31 km; ĐT.981B dài 15,7 km.
Đường huyện: có 14 tuyến với tổng chiều dài 212,6 km. Các tuyến đường đạt cấp V hoặc cấp VI đồng bằng, mặt đường được láng nhựa, bêtông xi măng hoặc đường đất. Do đó, khả năng khai thác còn hạn chế, không ổn định và bị giới hạn về tải trọng vận chuyển.
Đường giao thông nông thôn: có tổng chiều dài khoảng 525 km; mặt đường đá cấp phối, bê tông xi măng, đất, rộng từ 2-3 m, đồng thời vào mùa mưa lũ thường xuyên bị ngập nước và sói lở nên chưa đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ trên địa bàn.
Đường thủy
Huyện Đông Hải có bờ biển dài khoảng 23km, với hai cửa sông lớn thông ra biển là Gành Hào và Cái Cùng, trên địa bàn còn có các tuyến kênh lớn như kênh Hộ Phòng – Gành Hào; kênh xáng Tắc Vân; kênh Cái Cùng
– Xóm Lung, cùng nhiều tuyến vừa và nhỏ khác được phân bố tương đối đều trên địa bàn nên đáp ứng tốt cho nhu cầu đi lại của nhân dân, đặc biệt rất thuận lợi để phát triển vận tải hàng hóa bằng đường sông và đường biển.
Kết nghĩa
Huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, Việt Nam.
Hình ảnh |
Phủ Giám chức Thánh Giá và Opus Dei (, thường gọi là Opus Dei), là một đoàn thể của Giáo hội Công giáo Rôma với giáo huấn rằng mọi người đều được gọi để nên thánh và cuộc sống đời thường là một con đường để đạt tới sự thánh thiện. Đa số thành viên là giáo dân, cùng với các linh mục triều dưới quyền quản lý của một giám chức (còn gọi là giám quản, thường là một giám mục nhưng với Tự sắc “Để bảo vệ đoàn sủng” (Ad charisma tuendum), công bố hôm 22/07/2022, có hiệu lực từ ngày 04/08/2022 thì Bề trên Giám hạt sẽ không có chức giám mục, nhưng vì lý do chức vụ, vị bề trên được dùng tước hiệu “Đức ông”, cấp cao nhất, gọi là “Công chứng viên tông tòa ngoại ngạch” (Protonotario apostolico sopranumerario)), được bầu chọn bởi các thành viên đặc biệt rồi được bổ nhiệm bởi Giáo hoàng. Opus Dei trong tiếng Latinh có nghĩa là 'Công nghiệp của Thiên Chúa' (tiếng Anh: Work of God); do đó các thành viên và người ủng hộ thường gọi tổ chức này là the Work.
Được thành lập tại Tây Ban Nha năm 1928 bởi linh mục Công giáo thánh Josemaría Escrivá, Opus Dei sau đó được chuẩn thuận của Giáo hội vào năm 1950 bởi Giáo hoàng Piô XII. Năm 1982, với Tự sắc “Ut Sit” của Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Giáo hội Công giáo thiết lập đoàn thể này là một Phủ giám chức tòng nhân (personal prelature) - tức là, thẩm quyền của vị giám mục Opus Dei sẽ bao quát mọi thành viên bất chấp địa điểm họ đang ở, phần nào giống như một giáo phận không có lãnh thổ, điều này khác với các giáo phận tòng thổ (được giới hạn theo phạm vi địa lý).
Opus Dei là một tổ chức Công giáo do Thánh Josemaría Escrivá sáng lập. Sứ mệnh của tổ chức này là truyền bá thông điệp dạy rằng công việc và mọi hoàn cảnh sống bình thường đều là những cơ hội để trở nên gắn bó hơn với Thiên Chúa, để phục vụ tha nhân, và để cải thiện xã hội.
Opus Dei bổ sung cho hoạt động của hội thánh địa phương bằng cách tổ chức các lớp học, các buổi mạn đàm, những buổi sinh hoạt chuyên đề và sự chăm lo mục vụ nhằm giúp mọi người phát huy đời sống tâm linh và hoạt động tông đồ của mình.
Như Công Đồng Vatican II đã nêu rõ, mọi người đã chịu Phép Rửa được mời gọi noi gương Đức Kitô bằng cách sống theo Phúc Âm và truyền bá Phúc Âm cho người khác. Mục đích của Opus Dei là góp phần vào sứ mệnh rao giảng Phúc Âm của Giáo hội bằng cách thúc đẩy Kitô hữu thuộc mọi tầng lớp xã hội sống trung kiên với đức tin ngay trong những hoàn cảnh sống bình thường của họ, và nhất là thông qua sự thánh hóa công việc của bản thân.
Sau đây là một số điểm chính của tinh thần Opus Dei:
Vị thế là con Thiên Chúa. Thánh Josemaría Escrivá, Đấng sáng lập Opus Dei, đã nói:" Vị thế là con Thiên Chúa là nền tảng của tinh thần Opus Dei ". Kitô hữu trở nên con của Thiên Chúa nhờ phép Rửa. Do đó, sự rèn luyện tâm linh mà Giáo Đoàn này đặt ra nhằm củng cố nơi tín hữu Kitô giáo sự ý thức sâu sắc về địa vị là con cái của Thiên Chúa, và giúp họ hành xử một cách tương xứng với vị thế đó. Opus Dei củng cố lòng trông cậy vào sự quan phòng của Thiên Chúa, sự bình dị trong đối thoại với Thiên Chúa, ý thức sâu sắc về phẩm hạnh của từng con người, và sự cần thiết về tình anh em nơi mọi người, tình thương yêu đích thực đối với thế giới và đối với mọi thực trạng nhân sinh mà Thiên Chúa đã tạo dựng, và một tinh thần an nhiên và lạc quan.
Cuộc đời thường. " Chính nơi giữa mọi vật chất của thế gian chúng ta mới phải thánh hóa bản thân đồng thời phục vụ Thiên Chúa và nhân loại ", Thánh Giuse Maria đã nói như thế. Gia đình, đời sống hôn nhân, công việc – tất cả hoạt động của chúng ta – đều là những cơ hội để tiếp xúc và noi gương Đức Giêsu Kitô, ra sức làm phúc bố thí, thực thi tính nhẫn nại, khiêm nhường, liêm chính, vui tươi và những đức tính khác của con người và của Kitô hữu.
Thánh hóa công việc làm. Thánh hóa công việc làm là làm việc với tinh thần của Đức Giêsu Kitô, làm việc với hết khả năng và hợp đạo lý, với mục đích yêu mến Thiên Chúa và phục vụ tha nhân, và như thế tức là thánh hóa thế gian từ trong lòng của nó, làm cho Tin Mừng hiện diện nơi mọi công việc cho dù đó là công việc có tiếng tăm hay chỉ là công việc khiêm tốn và thầm lặng. Dưới mắt Thiên Chúa, điều quan trọng là tình yêu đặt vào công việc, chứ không phải là thành công của con người nơi công việc đó.
Cầu nguyện và hy sinh hãm mình. Sự rèn luyện tâm linh đặt ra bởi Opus Dei khuyến khích sự cầu nguyện và hy sinh hãm mình để duy trì nỗ lực thánh hóa công việc bình thường của bản thân. Do đó, các thành viên Opus Dei luôn ra sức kết hợp trong đời sống của mình những thể hiện về lòng mộ đạo của Kitô hữu như đọc kinh, cầu nguyện, dự thánh lễ hằng ngày, xưng tội, đọc và suy niệm Phúc Âm. Tình yêu dâng cho Mẹ Maria chiếm một chỗ quan trọng trong lòng họ. Đồng thời, để noi gương Đức Giêsu Kitô, các thành viên luôn cố gắng mặc lấy tinh thần ăn năn, thống hối bằng những hy sinh, hãm mình, nhất là những hy sinh sẽ giúp họ chu toàn bổn phận tôn giáo của mình và làm cuộc sống tươi vui hơn cho tha nhân; những hy sinh hãm mình như ăn chay, bố thí, bỏ bớt những ham vui...
Sự hợp nhất cuộc sống. Thánh Giuse Maria giảng rằng Kitô hữu làm việc nơi thế trần này không nên sống " một kiểu sống nước đôi. Một bên là cuộc sống nội tâm, cuộc sống kết hợp với Thiên Chúa; còn một bên là cuộc sống gia đình, xã hội, nghề nghiệp khác biệt và tách rời cuộc sống trên ". Trái lại, " Chỉ có một cuộc sống hợp bởi thể xác và linh hồn. Và chính cuộc sống này, cả hồn và xác, phải được thánh hóa và tràn đầy ơn Thiên Chúa ".
Quyền tự do. Thành viên của Opus Dei là những công dân bình thường, có các quyền và những nghĩa vụ như mọi công dân khác. Trong các hoạt động liên quan đến nghề nghiệp, gia đình, chính trị, tài chính hoặc văn hóa, họ hành xử với quyền tự do và trách nhiệm cá nhân, không lôi kéo Giáo hội hoặc Opus Dei vào những quyết định của họ, không trình bày những quyết định đó như là giải pháp thuần túy Công giáo. Điều này bao hàm sự tôn trọng quyền tự do và quan điểm của người khác.
Hoạt động từ thiện. Gặp gỡ Đức Kitô là tìm thấy một kho báu mà chúng ta không thể không san sẻ. Kitô hữu là những chứng nhân cho Đức Giêsu Kitô và truyền bá sứ điệp hy vọng của Ngài cho những người đồng hành bằng gương lành và lời nói của mình. Thánh Giuse Maria đã viết:" Kề cận bên các đồng nghiệp, bạn hữu và họ hàng thân thuộc, và cùng san sẻ quyền lợi với nhau, chúng ta có thể giúp những người đó gần gũi hơn với Đức Kitô ". Mong muốn làm cho người khác biết Đức Kitô, vốn là kết quả trực tiếp của hoạt động từ thiện (tức là yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình), không thể tách rời khỏi mong ước được góp phần vào việc tìm kiếm giải pháp cho những nhu cầu vật chất và các vấn đề xã hội tại môi trường sống của mình.
Chú thích
Linh đạo Công giáo
Giáo hoàng Gioan Phaolô II
Lịch sử Giáo hội Công giáo Rôma |
Các Chiến hữu Nghèo của Chúa Kitô và Đền Solomon (tiếng Latinh: paupers commilitones Christi Templique Solomonici), thường được gọi tắt là Hiệp sĩ dòng Thánh, Hiệp sĩ dòng Đền hay Hiệp sĩ Đền Thánh, là một trong những dòng tu quân đội Kitô giáo nổi tiếng nhất của ngày xưa. Được thành lập từ sau cuộc thập tự chinh thứ nhất năm 1096 để bảo vệ người Âu Châu đi hành hương tới Jerusalem sau khi thành phố này bị xâm chiếm, dòng tu này tồn tại khoảng 2 thế kỷ trong thời Trung cổ.
Hiệp sĩ dòng Đền là một dòng tu đặc biệt bởi vì họ đồng thời vừa là thầy tu vừa là chiến sĩ, trở thành một trong những nhóm "thầy tu chiến sĩ" sớm nhất ở Tây Phương. Thành viên của dòng tu này đã đóng vai quan trọng trong nhiều trận đánh của các cuộc thập tự chinh, cơ sở hạ tầng của dòng tu đã cải tiến nhiều kỹ thuật về tài chính có thể được coi là nền tảng của ngành ngân hàng hiện đại. Thành viên và quyền lực của dòng tu gia tăng khắp châu Âu cho đến khi có mâu thuẫn với vua Philippe IV của Pháp và bị cưỡng bức phải giải tán đột ngột vào đầu thế kỷ 14.
Dòng Đền (khoảng 1120 đến khoảng 1312) là dòng tu hiệp sĩ thứ hai sau Dòng tu Thánh Gioan được thành lập trong các cuộc thập tự chinh. Tên "Đoàn hiệp sĩ nghèo của Chúa Kitô và Đền Solomon" có liên quan đến việc vua Baldwin II của Jerusalem đã mời dòng tu ngụ trong một tòa lâu đài của ông, Đền thờ Al-Aqsa trên Núi Đền tại Jerusalem, được xây dựng trên nền của đền thờ của Vua Solomon.
Lịch sử
Sự kiện trong những năm đầu tiên của dòng Đền chưa được lịch sử xác định rõ rệt. Nguồn quan trọng nhất về những sự việc này là bản tường thuật của Tổng Giám mục Wilhelm von Tyros. Thế nhưng Wilhelm sinh ra đời vào khoảng năm 1130 và vì thế không phải là nhân chứng hay người sống đương thời. Các mô tả khác có nguồn gốc từ Jacques của Vitry (Giám mục của Acre (hay Akko) trong thế kỷ 13).
Thành lập
Năm 1119 tại Jerusalem, một hiệp sĩ vùng Champagne tên Hughues de Payns cùng vài hiệp sĩ Pháp khác đã cùng Godfrey xứ Bouillon đứng ra thành lập dòng Đền. Lúc đầu họ lấy tên là Đoàn hiệp sĩ nghèo của Đức Ki-tô, áp dụng giáo điều của thánh Augustine đồng thời gia nhập lực lượng cảnh binh để giúp đỡ và bảo vệ những người hành hương đến Jerusalem. Vua Jerusalem là Baldwin II cho họ cư ngụ ngay sát đền thờ của Vua Solomon cũ.
Trong thời gian này Jerusalem là một điểm thu hút cho những người hành hương và mạo hiểm từ châu Âu. Ngay sau cuộc Thập tự chinh lần thứ nhất, đường biển đã thông suốt. Thế nhưng những đường bộ từ bờ biển vào sâu trong đất liền vẫn còn rất không an toàn. Số lượng đông đảo những người hành hương trong các vùng đồi núi của đoạn đường từ Tel Aviv qua Ramehleh đến Jerusalem đã thu hút nhiều kẻ cướp giật. Phần lớn đạo quân hiệp sĩ thập tự chinh đã quay trở về châu Âu, vì thế mà gần như không còn ai bảo vệ chống lại cướp giật. Có thể chính vì thế mà Hugo của Payens, Gottfried của Saint-Omer và 7 người hiệp sĩ người Pháp nữa đã thành lập một dòng tu với nhiệm vụ bảo vệ những người hành hương đạo Thiên Chúa trên các con đường của đất thánh. Các hiệp sĩ đã tuyên thệ một lời thề của dòng tu trước giáo trưởng của Jerusalem. Bên cạnh các lời thề nguyền "cổ điển" về nghèo, trong sạch và phục tùng, các thành viên của dòng tu còn nhận nhiệm vụ bảo vệ những người hành hương.
Những thành viên thành lập khác ngoài Hugo của Payens và Gottfried của Saint-Omer là Andreas của Montbard (chú bác của Bernhard của Clairvaux), Gundomar, Gudfried, Roland, Payen của Montdidier, Gottfried Bisol và Archibald của Saint Amand. Vào năm 1119, vị vua mới của Jerusalem, Baldwin II, nhượng cho các hiệp sĩ dòng Đền dinh thự của ông, được cho là xây dựng trên đất của Đền Thờ của Vua Solomon cũ. Ông tự chuyển về một dinh thự mới được xây gần Tháp David. Từ đấy dòng tu tự xưng là Pauperes commilitones Christi templique Salomonici Hierosalemitanis (Chiến hữu nghèo của Chúa Kitô và Đền Solomon tại Jerusalem), từ đấy mà dẫn xuất các tên gọi thông dụng ngày nay (knights templar trong tiếng Anh, Ordre du Temple trong tiếng Pháp hay Templer trong tiếng Đức).
Trong năm 1125 dòng Đền trải qua lần hưng thịnh đầu tiên khi Bá tước Hugo của Champagne gia nhập dòng tu, một người bạn của tu viện trưởng Bernhard của Clairvaux. Bernhard là một trong những tu sĩ quan trọng nhất trong thời của ông. Sau những nghi ngại ban đầu, từ năm 1129 ông đã ủng hộ cực lực dòng Đền và cuộc Thập tự chinh lần thứ hai.
Năm 1127 Hugo của Payens cùng 5 thành viên thành lập khác trở về châu Âu để tìm thành viên mới cho dòng tu. Thêm nữa, từ ý tưởng hợp nhất hiệp sĩ và thầy tu đã nảy sinh ra nhiều câu hỏi được tranh cãi mà những người hiệp sĩ dòng Đền muốn trình bày lên các vị lãnh đạo về tư tưởng của Thiên Chúa giáo. Trong thời gian này tại Jerusalem hẳn đã phải có rất nhiều thành viên của dòng tu vì ngay từ 1129 việc xây dựng mở rộng đền thờ Hồi giáo Al Aqsa trở thành thành trì và trụ sở của hiệp sĩ dòng Đền đã hoàn thành. Việc này rất khó được tiến hành chỉ bởi 4 thành viên còn lại ở Jerusalem.
Từ năm 1127 ngày càng có nhiều đất đai được tặng cho dòng tu, đặc biệt là ở Pháp nhưng cũng ở Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Ý. Một phần không nhỏ của các trao tặng này xuất phát từ ảnh hưởng của Bernhard của Clairvaux, tu viện trưởng của nhà tu tại Clairvaux.
Trong tháng 1 năm 1128 hay 1129 đã có một hội nghị tại Troyes. Theo lời mở đầu của điều luật dòng tu, những người tham dự hội nghị này bao gồm hồng y giáo chủ Matthias của Albano, một vài Tổng Giám mục, các trưởng tu viện Hugo của Mâcon từ Pontigny, Berhard của Clairvaux, Etienne Harding của Cîteaux cũng như là nhiều giáo sĩ và người dân thường khác; trong số những hiệp sĩ dòng Đền có Hugo của Payens, Andreas của Montbard và có thể là nhiều thành viên dòng tu khác đã tham dự cuộc gặp gỡ này. Điều luật của dòng tu được ghi lại thành văn kiện. Chúng mang dấu ấn của Augustinus của Hippo, thế nhưng ảnh hưởng của dòng tu xitô (tiếng La tinh: Ordo Cisterciensis) cũng được nhận thấy, đối với một số người thì điều đấy có nghĩa là Berhard đã tham gia vào việc thành lập các điều luật này. Đi cùng với số lượng lớn người gia nhập là tăng trưởng thu nhập từ tiền quyên góp. Trong Đất Thánh, Baghras, Roche Roussel và Darbsak thuộc vào trong số những sở hữu lâu đời nhất của hiệp sĩ dòng Đền. Các thành viên bị buộc tuân thủ một giáo luật khắt khe: thành viên của dòng tu phải là các hiệp sĩ xuất thân quý tộc, các thầy dòng, linh mục và giáo sĩ
Vào ngày 29 tháng 3 năm 1139 tổ chức của hiệp sĩ dòng Đền một lần nữa được Giáo hoàng Innocent II công nhận thông qua Sắc lệnh vàng Omne datum Optimum và đặt dòng tu này trực tiếp dưới Giáo hoàng. Vì thế những người thống trị ngoài đạo gần như không được phép đụng chạm đến dòng tu. Dòng tu không những không phải đóng thuế cho vua chúa hay Giáo hội mà còn có quyền tự thu thuế. Ngoài ra họ còn cho mượn tiền lấy lãi (điều thật ra là bị cấm, nhưng lại được im lặng chấp nhận). Hiệp sĩ dòng Đền bắt đầu tập trung ngày càng nhiều vào việc kinh doanh này. Chính Hiệp sĩ Dòng Đền là những ông tổ đã khai sinh ra nghề Ngân Hàng. Những ngân hàng đầu tiên tại châu Âu được họ lập ra và phát triển đến khi họ bị giải tán vào năm 1312.
Hoạt động của dòng Đền
Lần ra quân đầu tiên của dòng Đền vào dịp bao vây Damascus trong năm 1129 đã thảm bại hoàn toàn. Rất nhiều – nếu không là phần lớn – hiệp sĩ dòng Đền đã hy sinh. Thế nhưng đội ngũ lại được bổ sung và các hiệp sĩ dòng Đền lại tiếp tục tham gia các cuộc chinh chiến cho đến khi Outremer sụp đổ vào năm 1291. Cũng như các dòng tu khác, hiệp sĩ dòng Đền phụ thuộc vào Vương quốc Jerusalem và trở thành một thế lực chính trị độc lập.
Sau khi Acre, thủ đô Kitô giáo của Outremer, thất thủ vào ngày 18 tháng 5 năm 1291, đền thờ ở đấy vẫn còn được bảo vệ cho đến 10 ngày sau đó, mãi đến khi lực lượng bị hao mòn tổn thất và cuối cùng bị tấn công đánh chiếm bởi các đạo quân của vua Hồi giáo. Các hiệp sĩ dòng Đền rút lui và bỏ rơi hai thành trì cuối cùng trên đất liền, hai pháo đài Tortosa và Athlit trong tháng 8. Hòn đảo không có nước ngọt nằm trước Tortosa, đảo Arwad, vẫn do các hiệp sĩ dòng Đền chiếm giữ cho đến năm 1303.
Hiệp sĩ dòng Đền không chỉ đi chinh chiến: thu nhập từ các cơ sở ở châu Âu phải được chuyển đến Outremer, quốc gia La tinh trong Đất Thánh. Việc lưu chuyển này đã tạo cơ sở cho các hoạt động tài chính của dòng Đền. Lúc đầu các cơ sở của dòng Đền ở phương Đông chỉ là kho bạc và thường chỉ là nơi chứa báu vật, nhưng ngay từ năm 1135 các hoạt động đảm bảo cho vay đầu tiên đã được tiến hành. Vào khoảng cuối thế kỷ 12, việc cho vay tiền trở thành hoạt động kinh doanh chính thức của dòng Đền. Tiếng tăm về tài chính của dòng Đền lên cao đến mức ngay cả những người theo đạo Hồi cũng đến vay mượn. Các hiệp sĩ dòng Đền nghĩ ra một hình thức riêng của tín thư cho vay, tiền thân của tiền giấy ngày nay, cũng như nhiều kỹ thuật tiến bộ trong kế toán.
Vào khoảng 15.000 thành viên của dòng tu đã quản lý khoảng 9.000 dinh cơ là sở hữu của dòng Đền nằm rải rác trên khắp châu Âu. Thuộc vào những sở hữu được biết đến nhiều nhất là khu đất Tempelhove ở Berlin và hai "trụ sở chính": Temple ở Paris và Temple Church ở Luân Đôn. Làng Tempehove ngày nay được biết đến dưới tên Berlin-Tempelhof. Phần duy nhất còn lại của làng dòng Đền ngày xưa, nghĩa trang trong Công viên Cũ (Alter Park), vẫn còn tồn tại mặc dù nhà thờ của làng đã bị phá hủy trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Tổ chức
Tổ chức nội bộ của dòng tu mang định hướng đẳng cấp xã hội. Tuy là lúc đầu tất cả những người tự do đều có thể gia nhập dòng tu nhưng một hệ thống cấp bậc đã hình thành nhanh chóng sau đó:
Hiệp sĩ (knight, chevalier, Ritter ) thường xuất thân từ giới quý tộc, họ là những người duy nhất được mang áo choàng màu trắng trên áo thầy tu trắng, ngoài ra được phép có ba con ngựa, những người có chức sắc được phép có 4 ngựa.
Hạ sĩ quan (Sarjanz de mestier) tức những người phục vụ trong cùng dòng tu được chia thành những người được vũ trang, chiến đấu như kỵ binh nhẹ và người lao động, làm những việc cần thiết như rèn, làm yên ngựa, công việc đồng áng.
Giáo sĩ là thầy tu của dòng đền lo việc hành lễ nhà thờ và nghe xưng tội.
Người hầu mang áo choàng màu nâu và hỗ trợ các hiệp sĩ trong trận.
Trong các cơ sở ở phương Đông và Tây Ban Nha, giáo sĩ và các người đồng giáo chiến đấu có nhiều hơn trong khi tại các cơ sở của dòng Đền trong phương Tây lại rất ít. Thêm vào đó có thể là thành viên dưới nhiều hình thức khác:
Milites ad terminum là những hiệp sĩ chiến đấu được phân về cho dòng Đền trong một thời gian nhất định.
Turkopolen là lính đánh thuê phục vụ dòng Đền. Đấy là những người theo Kitô giáo từ vùng Đất Thánh, chiến đấu theo kiểu người Saracen (người Hồi giáo Ả Rập).
Fratres as sucurendum là những người bình thường, chỉ gia nhập dòng Đền lúc sắp chết (để linh hồn được giải thoát).
Donates tự hiến mình (và một phần tài sản của họ) cho dòng Đền. Việc hiến tặng này thường chỉ có hiệu lực vào lúc tuổi già.
Confratres là những người ủng hộ vật chất cho dòng Đền và đặc biệt là hưởng lợi từ uy tín của dòng Đền. Những người này cũng có thể là phụ nữ.
Người lãnh đạo tối cao của dòng Đền được bầu một cách dân chủ. Các đẳng cấp tiếp theo là:
Tổng chỉ huy giám sát kho báu của dòng tu, giám sát việc phòng thủ
Đại thống chế giám sát về vũ khí và quân sự
Bác sĩ chịu trách nhiệm chăm sóc người bệnh
Tiếp theo đó là những người chịu trách nhiệm về quân phục, hành chính và tài chính
Biểu tượng dòng Đền
Các thánh giá của dòng Đền có vẻ mang một thông điệp nào đó: dòng này không có thánh giá duy nhất mà có nhiều thánh giá và các thánh giá này không liên quan đến phẩm trật của các chức sắc lẫn địa phương mà họ được bổ nhiệm. người ta thấy trên vai áo choàng của chức sắc dòng Đền những thánh giá có nguồn gốc từ thánh giá của người Celt với các nhánh bung ra như ngọn lửa, biểu tượng của thuật giả kim, và những thánh giá hình học có tám đầu nhọn, biểu tượng của sự nhập định. Các thánh giá có vẻ ám chỉ một phẩm trật theo trật tự bí ẩn nào đó.
Lãnh đạo dòng Đền
Hugo của Payens (1118/19 - 24 tháng 5 1136)
Robert de Craon (tháng 6 năm 1136 - 13 tháng 1 1147)
Everard des Barres (tháng 1 năm 1147 - 25 tháng 11 1174, từ chức vào tháng 4/tháng 5 năm 1151, sau đó tu tại Clairvaux)
Bernard de Tromelai (tháng 6 năm 1151 - 16 tháng 8 1153)
André de Montbard (14 tháng 8 năm 1153 - 17 tháng 1 1156)
Bertrand de Blanquefort (tháng 10 năm 1156 - 2 tháng 1 1169)
Philippe de Milly hay de Naplouse (Nablus) (27 tháng 1 1169 - 3 tháng 4 1171, từ chức đầu năm 1171)
Eudes de Saint-Amand (tháng 4 năm 1171 - 19 tháng 10 1179)
Arnaud de Toroga (1179 - 30 tháng 9 1184)
Gérard de Ridefort (tháng 10 năm 1184 - 1 tháng 10 1189)
Robert de Sablé (cuối năm 1189 - 13 tháng 1 1193)
Gilbert Erail (tháng 2 1193 - 20 tháng 12 1200)
Philippe de Plessiez (đầu năm 1201 - 12 tháng 11 1209)
Guillaume de Chartres (1210 - 26 tháng 8 1218)
Pedro de Montaigu (1219-1232)
Armand de Périgord (1232 - 17/20 tháng 10 1244)
Richard de Bures (1244-1247)
Guillaume de Sonnac (1247 - 3 tháng 7 1250 (chết trong trận Mansurah)
Renaud de Vichiers (tháng 7 năm 1250 - 19 tháng 1 1252)
Thomas Bérard (tháng 2 năm 1252 - 25 tháng 3 1273)
Guillaume de Beaujeu (tháng 3 năm 1273 - 18 tháng 5 1291 (chết tại Acre, Israel)
Thibaud Gaudin (tháng 8 1291 - 16 tháng 4 1292)
Jacques de Molay (tháng 5 năm 1292 - 19 tháng 3 1314 tại Paris)
Kết thúc
Lý do kết thúc dòng Đền rất đa dạng. Về một mặt, giữa 1100 và 1300 cấu trúc của các vương quốc ngày càng vững chắc. Trước kia người ta đầu tiên là người Kitô giáo rồi mới là thần dân, thí dụ như là của vua Pháp, thì tương quan này dần dần bị đảo ngược lại. Các vị vua nhìn những dòng tu được tổ chức dưới quyền của Giáo hoàng với cặp mắt ngày càng nghi ngại, đặc biệt là vì các dòng tu quân đội chính là đạo quân lớn nhất và có nhiều kinh nghiệm chiến trường nhất. Khác với dòng Đền, hai dòng tu lớn còn lại đã biết cách phòng giữ các khu đất đai thuộc quyền của họ: Dòng tu thánh John hay là dòng Hiệp sĩ Cứu Tế (tiếng Anh: Order of St. John) trên Rhodos và Dòng tu Hiệp sĩ Đức trong vương quốc Phổ. Thêm vào đó, người dòng Đền đã từ chối đơn xin gia nhập của vua Philippe IV (Pháp).
Ngoài ra, sau khi Outremer thất thủ, nhiều vị quan đã bí mật khuyến cáo vua Pháp nên tổ chức một cuộc thập tự chinh. Một phần tiền cần thiết có thể thu được bằng cách tiêu diệt dòng Đền và tịch thu tài sản của họ. Do thiếu nợ rất nhiều mà ngoài những nơi khác cũng thiếu nợ dòng Đền, nên vua Philipp IV đã nghe theo lời khuyên này, nhưng lại không nghĩ đến cuộc thập tự chinh. Mặc dù vậy ngay đến vua Philippe IV cũng không thể nào tiến hành kế hoạch một cách quá lộ liễu: các luật sư đặc biệt nhấn mạnh đến việc tài sản bị tịch thu phải được dùng để giúp đỡ Kitô giáo trong Đất Thánh.
Năm 1305 các thành viên của dòng Đền cuối cùng bị kết án là "dị giáo" và kê gian. Trong thời gian này Giáo hoàng phụ thuộc vào vua Pháp, vì thế mà dòng tu có rất ít cơ hội. Philippe IV đưa việc này trở thành quốc sự. Nhà vua khéo léo tạo áp lực với Giáo hoàng Clemens V vốn xuất thân từ Pháp và đã chuyển nơi ngự trị về Avignon, đe dọa sẽ đưa người tiền nhiệm và đồng thời là người thầy của ông là Bonifatius VIII ra kiện tụng với lý do là Giáo hoàng có con riêng. Nhà vua cũng đe dọa sẽ chia cắt nhà thờ Pháp, nếu như Giáo hoàng không chấm dứt ủng hộ dòng Đền.
Cuối cùng, vào thứ sáu ngày 13 tháng 10 năm 1307, nhận được mật chỉ từ trước của Philippe IV và có sự cho phép của Giáo Hoàng, tất cả các cơ sở của Dòng Đền trên đất Pháp đều bị lính ập vào khám xét ngay khi gà vừa gáy sáng. Rất nhiều người không liên quan hay chỉ làm tạp vụ trong các cơ sở này cũng bị bắt tống ngục. Việc bắt bớ rất nhiều người và gần như cùng một lúc hoàn toàn bất ngờ đối với dòng Đền. Phía nhà vua khoe khoang là chỉ có 12 hiệp sĩ trốn thoát được, trong số đó chỉ có một chức sắc duy nhất của dòng Đền. Tại Paris có 138 người bị bắt giam. Một ủy ban Giáo hoàng vẫn còn đếm đến 546 người bị giam giữ tại Paris vào năm 1309. Nhà vua cùng Tòa án dị giáo lấy cung và tra tấn họ nhằm buộc họ phải nhận rằng họ đã gây ra nhiều tội ác. Vụ xét xử được bắt đầu từ năm 1307 đến năm 1314 mới kết thúc. Vì những điều bất thường của vụ án nên Giáo hoàng có lúc phản đối. Ngày 17/1/1307, Giáo hoàng yêu cầu đích thân xét xử, các bị cáo được giao lại cho ngài nhưng nhà vua lại can thiệp khiến việc điều tra lại được giao cho người của nhà vua. Năm 1309, cuộc điều tra tiếp tục, 36 tù nhân bị tra tấn đến chết. Tháng 5 năm 1310, 54 người bị đưa lên giàn hỏa. Vị đại giáo chủ Jacques de Molay đầu tiên nhận tội vì bị tra tấn nhưng sau đó lại phản cung. Vụ xét xử kéo dài 7 năm và kết thúc với án tử hình.
Dưới áp lực của vua Philipp IV, vào ngày 22 tháng 3 năm 1312 Giáo hoàng Clemens V giải tán dòng Đền trong cuộc Hội nghị tôn giáo Vienne (Pháp). Tháng 11 năm 1312, Đức Giáo hoàng giao vụ án cho 3 Đức Hồng y, ban xét xử này kết án các hiệp sĩ tù chung thân nếu họ chịu nhận tội. Nhưng giáo trưởng Jacques de Monlay và các chiến hữu quyết liệt phản đối nên họ bị đưa lên giàn hỏa thiêu vào tháng 3 năm 1314. Tài sản của dòng Đền được giao về cho Dòng tu Thánh Gioan sau khi trừ ra một số tiền án phí cao đáng kinh ngạc. Nhưng cũng có vài tài liệu cho rằng tài sản của họ đã biến mất một cách bí ẩn
Ngày nay nơi mà Jacques de Molay bị đưa lên giàn hỏa là một hòn đảo trên sông Seine ở Paris, gần đó có cây cầu Pont Neuf nổi tiếng. Từ cây cầu có thể nhìn thấy rõ một tấm biển tưởng niệm cắm trên đảo: Tại địa điểm này, Jacques de Molay, vị đại Huynh trưởng cuối cùng của Hiệp sĩ Dòng Đền, bị thiêu vào ngày 18 tháng 3 năm 1314.De Molay được người ta nói rằng vẫn tỏ ra thách thức đến chết, ông yêu cầu được trói theo cách mà ông có thể vẫn quay mặt về phía Nhà thờ Đức Bà và tiếp tục giữ các bàn tay của theo tư thế cầu nguyện. Người ta kể rằng trên giàn hỏa đang bốc cháy, Molay liên tục nguyền rủa Giáo Hoàng Clemens V cùng Philippe IV và con cháu ông ta. Chả biết có phải lời nguyền linh ứng hay không mà cả vua Philipp IV và cả Giáo hoàng đều chết ngay sau đó. Philippe IV bị đột quỵ não trong một cuộc chuyến đi săn tại Pont-Sainte-Maxence (Rừng Halatte), và qua đời vài tuần sau đó, vào ngày 29 tháng 11 năm 1314, tại Fontainebleau, nơi ông được sinh ra., còn Giáo Hoàng Clemens V lại chết một cách đáng sợ: Theo một lời kể lại, đêm 20 tháng 4 năm 1314, trời chợt nổi cơn giông, một tia sét đánh bể cả mái ngói nhà thờ, trúng vào giường nằm của ông và phát cháy dữ dội, khi người ta dập được lửa thì Clemens V cũng… ra tro. Sau cái chết của Philippe IV, lần lượt ba người con trai của ông lên nối ngôi vua Pháp nhưng đều yểu mạng và … tuyệt tự (không có con trai nối dõi), đồng thời làm cho vua Anh có cái cớ để đòi quyền thừa kế ngai vàng nước Pháp, dẫn đến cuộc chiến tranh Trăm Năm nổi tiếng trong lịch sử.
Dòng Đền sau khi bị giải tán
Mặc dù theo các nguồn thông tin chính thức gần như toàn bộ những người của dòng Đền ở Pháp đã bị bắt giam nhưng trên thực tế chỉ có rất ít án tử hình được thi hành và cũng chỉ ở Pháp. Thí dụ như ở Avignon, nguyên là nơi ngự trị của Giáo hoàng, không một bản án tử hình nào được thi hành. Ngoài vùng dưới quyền lực trực tiếp của vua Philipp IV chỉ một phần những người dòng Đền là bị truy nã, một phần lại được để yên ổn hoàn toàn. Thế nhưng vì mất đi giới tinh hoa lãnh đạo về tinh thần và kinh tế và mất đi trung tâm của dòng Đền tại Paris, quyền lực của dòng Đền bị bẻ gãy. Các hoạt động của họ chỉ còn mang tính địa phương hay trong một khu vực nhất định. Ở Kypros và những nơi khác, các chức sắc bị giam giữ cho đến chết, nhưng ở Tây Ban Nha rất nhiều người thuộc dòng Đền được tuyên bố tự do. Ngày nay, cũng từ một lá thư của Giáo hoàng, người ta biết rằng việc lên án toàn bộ dòng Đền là không có cơ sở. Chỉ có một vài cá nhân riêng lẻ là có phạm tội (chủ yếu là cho vay và cầm cố tài sản). Rất nhiều hiệp sĩ dòng Đền sống sót đã chạy trốn đến Scotland vì ở đấy mệnh lệnh của Giáo hoàng không được tuyên bố và vì thế dòng Đền vẫn tiếp tục tồn tại.
Năm 1319 vua Dionysiua ở Bồ Đào Nha thành lập Dòng tu đoàn hiệp sĩ Jesu Christi (Dòng tu Christi, tiếng Anh: Order of Christ). Tài sản của dòng Đền ở Bồ Đào Nha được chuyển giao qua dòng tu của những người "Hiệp sĩ Christi". Thêm nữa các hiệp sĩ của Dòng tu đoàn hiệp sĩ Jesu Christi phải sống theo điều lệ của dòng tu hiệp sĩ Calatrava. Vì việc thành lập đã được chuẩn bị trước từ nhiều năm nên dòng tu mới đã được Giáo hoàng công nhận. Rất nhiều hiệp sĩ dòng Đền trốn chạy vua Philippe IV đã được kết nạp. Bồ Đào Nha không tham gia vào việc truy nã dòng Đền vì điều này đi ngược lại lợi ích riêng. Từ đấy dòng Đền chỉ còn được nhắc đến trong lịch sử.
Huyền thoại về dòng Đền
Chỉ từ thế kỷ 18, người ta mới bắt đầu lại quan tâm đến dòng Đền. Trong tiến trình "Phục Hưng dòng Đền", nhiều tổ chức khác nhau đã thành hình, tự xưng là "hiệp sĩ dòng Đền" hay khẳng định là họ có liên quan đến dòng Đền trong lịch sử. Các tổ chức dòng Đền tồn tại hiện nay có nhiều định hướng: từ Công giáo, qua hợp nhất Thiên Chúa giáo cho đến không có tôn giáo, từ thuần túy giải trí xã hội (tổ chức các cuộc thi đấu hiệp sĩ) qua Hội Tam Điểm cho đến
Dòng Đền "hiện đại" nổi tiếng nhất có lẽ là Ordo Templi Orientis (Dòng Đền phương Đông). Thế nhưng đáng tin cậy nhất có lẽ lại là "Dòng tu Hiệp sĩ của Đền thờ tại Jerusalem" – Ordo Spremus Militaris Templi Hierosolymitani (OSMTH) – thành lập vào năm 1705, được Napoléon Bonaparte công nhận là dòng tu vào năm 1705 và hiện nay có vào khoảng 5.000 thành viên với rất nhiều tổ chức được tách ra hay tu viện độc lập. Dòng tu không tự khẳng định là người kế thừa trực tiếp của dòng Đền mà chỉ kế thừa về mặt truyền thống. OSMTH là dòng Đền duy nhất được Liên Hợp Quốc công nhận là tổ chức giúp đỡ phi quốc gia ở địa vị tư vấn.
Liên quan đến dòng Đền có rất nhiều truyền thuyết hình thành chung quanh tác động, bí mật và kho báu của dòng Đền:
Khởi xướng phong cách Gothic trong kiến trúc châu Âu và xây dựng các nhà thờ lớn theo kiểu Gothic
Ly khai của Tu viện Sion
Khám phá Bắc Mỹ: hạm đội dòng Đền dưới quyền chỉ huy của Henry Sinclair và người đi biển Antonio Zeno được cho là đã rời cảng đăng ký La Rochelle với những cánh buồm mang huy hiệu chữ thập của dòng Đền 90 năm sau khi dòng Đền chấm dứt, đi về hướng châu Mỹ. Nicolo Zeno, hậu duệ của Antonio Zeno, công bố một bản viết tay và một bản đồ của hành trình này vào năm 1558.
Chiếm thuộc địa ở Nam Mỹ (kể cả việc khai thác bạc)
Gìn giữ Chén Thánh
Tìm thấy Hộp đựng pháp điển
Tinh thông thuật giả kim nhờ vào Chén Thánh, biến bạc ở Nam Mỹ thành vàng.
Chủ mưu của cuộc Cách mạng Pháp
Tiếp tục tồn tại ở Scotland (vì tại đấy dòng Đền chưa từng bị giải tán công khai) và vì thế được cho rằng đã dẫn đến việc thành lập Hội Tam Điểm. |
Bộ Bầu bí (danh pháp khoa học: Cucurbitales) là một bộ thực vật có hoa, nằm trong nhánh hoa Hồng (rosids) của thực vật hai lá mầm thật sự. Bộ này chủ yếu có mặt tại khu vực nhiệt đới, với một lượng rất hữu hạn tại khu vực cận nhiệt đới và ôn đới. Bộ này có một số ít các loại cây bụi hay cây thân gỗ còn chủ yếu là cây thân thảo hay dây leo. Một trong các đặc trưng đáng chú ý của bộ Cucurbitales là sự có mặt của hoa đơn tính, phần lớn là 5 cánh, với các cánh hoa nhọn và dày (Matthews và Endress, 2004). Thụ phấn chủ yếu nhờ côn trùng, nhưng cũng có thể nhờ gió (các họ Coriariaceae và Datiscaceae).
Bộ này có khoảng 2.300 loài trong 7 họ và 129 chi. Các họ lớn nhất là Begoniaceae với 1.400 loài trong 2-3 chi và họ Cucurbitaceae với 825-845 loài trong 118 chi.
Các họ lớn của bộ Cucurbitales chứa một số loài có tầm quan trọng kinh tế. Đặc biệt, họ Cucurbitaceae chứa một số loài được biết đến nhiều như bầu (Lagenaria siceraria), bí ngô (chi Cucurbita), mướp (chi Luffa), dưa hấu (Citrullus lanatus), dưa vàng (Cucumis melo) và dưa chuột (Cucumis sativus). Họ Begoniaceae (thu hải đường) được biết đến vì có trên 130 loài được trồng làm cảnh.
Phân loại
Trong hệ thống Cronquist cũ thì các họ Cucurbitaceae, Begoniaceae, Datiscaceae, Tetramelaceae được đặt trong bộ Hoa tím (Violales), trong phạm vi phân lớp Sổ (Dilleniidae), với họ Tetramelaceae gộp lại trong họ Datiscaceae. Các họ còn lại được sắp xếp trong các bộ khác. Phân loại trong bài này lấy theo APG II (2003).
Anisophylleaceae: Khoảng 34 loài trong 4 chi, phân bổ tại khu vực miền bắc Nam Mỹ, Trung Phi, miền nam Ấn Độ, Malaysia và Indonesia.
Begoniaceae: Họ thu hải đường. Phân bổ chủ yếu tại Trung Mỹ, Nam Mỹ, châu Phi (khu vực hạ Sahara), Ấn Độ, Trung Quốc, Đông Nam Á.
Coriariaceae: Họ mã tang. Khoảng 6 loài trong 1 chi, phân bổ tại các đảo nam Thái Bình Dương, bán đảo Iberia, miền nam Trung Quốc, Nhật Bản, Trung và Nam Mỹ, dọc theo dãy Andes.
Corynocarpaceae: Khoảng 6 loài trong 1 chi, phân bổ tại Papua New Guinea, hạn chế ở miền đông Úc.
Cucurbitaceae: Họ bầu, bí, mướp. Phân bổ rộng khắp, chủ yếu tại khu vực nhiệt đới và ôn đới.
Datiscaceae: Khoảng 2 loài trong 1 chi. Phân bổ tây nam Hoa Kỳ, Kavkaz, Trung Á.
Tetramelaceae: Họ thung (đăng, tung). Hai loài trong 2 chi, phân bổ Đông Nam Á và Papua New Guinea.
Họ Apodanthaceae có thể cũng thuộc về bộ này.
Phát sinh chủng loài
Biểu đồ phát sinh chủng loài dưới đây lấy theo Wang và ctv. (2009), với tên gọi các bộ lấy từ website của Angiosperm Phylogeny.. Các nhánh với mức hỗ trợ tự khởi động thấp hơn 50% bị bỏ qua. Các nhánh khác có mức hỗ trợ 100% ngoại trừ những nơi có con số chỉ ra mức hỗ trợ cụ thể.
Phát sinh chủng loài trong phạm vi bộ Bầu bí như sau: |
Đông Hải hay là Biển Đông có thể chỉ:
Biển
Khái niệm Biển Đông của Việt Nam
Khái niệm Đông Hải Trung Quốc.
Đông Hải Triều Tiên.
Biển Đông Siberi.
Ngoài ra, trong một số ngôn ngữ, hay là thơ văn, Biển Đông (hay Đông Hải, East Sea, Eastern Sea) cũng có thể hàm ý chỉ đến:
Biển Nhật Bản
Biển Baltic
Đại Tây Dương, được gọi là East Sea hoặc Eastern Sea, trong thơ văn cổ tại Bắc Mỹ.
Thái Bình Dương
Đơn vị hành chính
Việt Nam
Huyện Đông Hải thuộc tỉnh Bạc Liêu
Phường Đông Hải, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng
Phường Đông Hải, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận
Phường Đông Hải, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa
Xã Đông Hải, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh
Xã Đông Hải, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình
Xã Đông Hải, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh
Phường cũ Đông Hải thuộc quận Hải An, thành phố Hải Phòng; nay tương ứng với địa bàn hai phường Đông Hải 1 và Đông Hải 2.
Xã cũ Đông Hải thuộc huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình; nay là một phần xã Đông Trà.
Trung Quốc
Huyện Đông Hải thuộc thành phố Liên Vân Cảng, tỉnh Giang Tô. |
Bầu bí có thể chỉ đến:
Bộ Bầu bí
Họ Bầu bí
Nhưng cũng có thể nói đến việc mang thai của người phụ nữ. |
The New York Times (tên tiếng Việt: Thời báo New York) là một nhật báo được xuất bản tại Thành phố New York bởi Arthur O. Sulzberger Jr. và được phân phối ở khắp Hoa Kỳ và nhiều nơi trên thế giới. Nó trực thuộc Công ty New York Times, công ty đó cũng xuất bản khoảng 40 tờ báo khác, trong đó có International Herald Tribune, một phiên bản quốc tế của The New York Times, bây giờ đổi tên là International New York Times và The Boston Globe. The Times đã giành được 132 giải Pulitzer, nhiều nhất so với bất kỳ tờ báo nào khác. Nó được xếp hạng thứ 18 trên thế giới theo lượng phát hành và thứ 3 ở Mỹ.
The New York Times, một trong những tờ báo quan trọng nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, được thành lập ngày 18 tháng 9 năm 1851 bởi Henry Jarvis Raymond và George Jones. Ông Raymond cũng là một trong những giám đốc thành lập Associated Press năm 1856. Adolph Ochs mua báo Times năm 1896, và dưới chỉ huy của ông, tờ báo này xây phạm vi phát hành quốc tế và được nổi tiếng trên toàn thế giới. Năm 1897, ông đặt ra khẩu hiệu "All The News That's Fit To Print" của báo này, nhiều người coi nó là một câu chọc đến những tờ báo cạnh tranh với nó ở Thành phố New York (hai tờ New York World và New York Journal American) mà nổi tiếng về mang tính giật gân. Sau khi di chuyển tòa soạn của tờ báo đến tòa nhà mới trên Đường số 42, khu vực đó được đặt tên Quảng trường Times năm 1904. Chín năm sau, tờ Times mở cửa một nhà phụ ở số 229 Đường 43, vị trí hiện nay, về sau họ bán Tòa nhà Times năm 1961.
Tờ Times đầu tiên chỉ có mục đích in bản mỗi sáng trừ sáng chủ nhật; tuy nhiên, trong Nội chiến Hoa Kỳ, tờ Times bắt đầu in ra tờ chủ nhật giống các nhật báo khác. Nó được trao giải Pulitzer cho những bản tin tức và bài về Chiến tranh thế giới thứ nhất vào năm 1918. Năm 1919, tờ báo được gửi qua Đại Tây Dương bằng khí cầu tới Luân Đôn lần đầu tiên.
Bởi vì tờ báo này được đọc ở nhiều nơi, nó được xuất bản ở những thành phố Ann Arbor, Michigan; Austin, Texas; Atlanta, Georgia; Billerica, Massachusetts; Canton, Ohio; Chicago, Illinois; College Point, New York; Concord, California; Dayton, Ohio (chỉ vào chủ nhật); Denver, Colorado; Fort Lauderdale, Florida; Gastonia, Bắc Carolina; Edison, New Jersey; Lakeland, Florida; Phoenix, Arizona; Minneapolis, Minnesota; Springfield, Virginia; Kent, Washington; Torrance, California; và Toronto (Canada). |
{{Thông tin nhạc sĩ
| Nền = ca sĩ hát đơn
| Tên = Hồng Nhung
| image = Hồng Nhung at concert 26-10-2012 cropped.jpg
| caption = Hồng Nhung tại một buổi hòa nhạc năm 2012.
| imagesize = 250px
| Tên khai sinh = Lê Hồng Nhung
| Sinh ngày =
| Nơi sinh = Hà Nội, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
| Nguyên quán = Hà Nội
| Nghề nghiệp = Ca sĩ, Nhạc sĩ, Người viết lời bài hát, Diễn viên
| Nhạc cụ = Mezzo-soprano vocal, guitar, piano
| Thể loại = Nhạc thiếu nhi, ca khúc về Hà Nội, nhạc tiền chiến, nhạc trẻ, nhạc Trịnh, nhạc phản chiến, nhạc đỏ, pop, ballad, folk, world music, jazz, rock, new-age, nhạc điện tử, nhạc kịch, dân ca quan họ
| năm hoạt động = 1985–nay
| Ca khúc = Trường ca Đoá hoa vô thường, Lời của gió, Nhớ về Hà Nội, Ngẫu hứng sông Hồng, Nhớ mùa thu Hà Nội, Hạ trắng, Cô bé vô tư, Có phải em mùa thu Hà Nội, Vẫn hát lời tình yêu, Cho em một ngày, Ru tình, Một mình, Họa mi hót trong mưa, Một ngày mới, Ru em từng ngón xuân nồng
| Tên thân mật = Bống
| Nhạc sĩ tiêu biểu = Trịnh Công Sơn, Dương Thụ
| nghệ danh = *Diva Việt Nam
Ngôi sao ca nhạc
}}
Lê Hồng Nhung (sinh ngày 15 tháng 3 năm 1970, tại Hà Nội), thường được biết đến với nghệ danh Hồng Nhung, tên thân mật là "Bống", là một nữ ca sĩ người Việt Nam, từng giành được 8 đề cử cho giải Cống hiến. Cô đã thành công trong việc đổi mới nhạc Trịnh từ những năm đầu thập niên 90. Hồng Nhung là một nghệ sĩ có sức ảnh hưởng lớn và được công nhận là một trong Bộ tứ Diva của Việt Nam bên cạnh Thanh Lam, Mỹ Linh và Trần Thu Hà.
Hồng Nhung được công chúng biết đến khi tuổi đời còn trẻ, gây ấn tượng với một giọng hát đầy nội lực mà tinh tế, sáng và vang. Cô chịu ảnh hưởng lớn từ Sinéad O'Connor và Whitney Houston. Hồng Nhung cũng là một nghệ sĩ tích cực tham gia nhiều chiến dịch như trở thành đại biểu của Việt Nam lên tiếng về vấn đề bảo vệ loài tê giác, gấu; tham gia dự án âm nhạc chống nạn ấu dâm, các hoạt động thiện nguyện. Ngoài ra, cô cũng nổi tiếng về sự thông minh, khéo léo trong giao tiếp cũng như cách làm việc của cô.
Hồng Nhung từng thể hiện thành công những bài hát của nhiều nhạc sĩ nổi tiếng như Văn Cao, Dương Thụ, Trần Tiến, Phú Quang, Quốc Trung, Thanh Tùng, Hồng Đăng, Từ Huy, Duy Thái, Trần Quang Lộc, Lã Văn Cường, Bảo Chấn, Bảo Phúc, Quốc Bảo, Huy Tuấn... nhưng thành công nhất vẫn là những nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn.
Tiểu sử
Hồng Nhung sinh ra trong một gia đình Hà Nội trí thức. Ông nội của Hồng Nhung là họa sĩ Lê Văn Ngoạn; ông ngoại là nhà ngôn ngữ học Đới Xuân Ninh; bố cô là dịch giả Lê Văn Viện. Cô có họ hàng với ca sĩ Bằng Kiều (gọi bằng chú). Bố mẹ Hồng Nhung chia tay khi cô chưa đầy 2 tuổi. Vì là con một nên khi chia tay, ông đã kiên quyết nhận nuôi Hồng Nhung. Từ đó, cô sống với bố và ông bà nội nhưng những ngày cuối tuần thì đến thăm mẹ. Bố Hồng Nhung tái hôn với một người phụ nữ tên Mai, hơn cô 10 tuổi.
Năm 1983, Hồng Nhung có tên trong danh sách những học sinh giỏi toàn thành phố, được Thủ tướng Phạm Văn Đồng tặng bằng khen. Đồng thời cũng là học sinh giỏi toàn diện 7 năm liền và tốt nghiệp PTCS với số điểm 36/40, từng được cử đi thi học sinh giỏi Văn cấp thành phố rồi đi thi Học sinh giỏi Quốc gia. Hồng Nhung tốt nghiệp đại học khoa Tiếng Anh của Đại học Khoa học và Xã hội Nhân Văn, Thành phố Hồ Chí Minh.
Sự nghiệp
Thời thơ ấu và khởi nghiệp
Năm 10 tuổi, Hồng Nhung thi tuyển vào đội Họa mi của Cung Văn hóa Thiếu nhi Hà Nội và trở thành thành viên của đội Họa mi. Năm 11 tuổi, Hồng Nhung được tới Đài Tiếng nói Việt Nam thu âm bài hát đầu tiên mang tên "Lời chào của em", do Nghiêm Bá Hồng sáng tác, và biểu diễn trong Đội nghệ thuật Măng non Hà Nội.
Năm 1984, lần đầu tiên được cử đi dự "Liên hoan nghệ thuật quốc tế" ở Libya, trở thành giọng hát thiếu nhi được yêu mến tại Hà Nội lúc bấy giờ. Năm 1985, khi mới 15 tuổi, cô đoạt Huy chương vàng "Hội diễn chuyên nghiệp toàn quốc" lần thứ 4 tại Hải Phòng với "Diều ơi cho em bay" của Nguyễn Cường. Cô gặp gỡ nhạc sĩ Dương Thụ và được ông dìu dắt vào nghề. Khoảng hơn 1 năm sau, Hồng Nhung gặp nhạc sĩ Quang Vinh, gia nhập Đoàn ca nhạc nhẹ Trung ương và bắt đầu bước vào con đường ca hát chuyên nghiệp rồi nhanh chóng trở thành một hiện tượng nhạc trẻ bấy giờ. Năm 1987, được chọn đi thi "Giọng hát hay Hà Nội", lúc đó cô mới học năm thứ nhất hệ trung cấp ở Trường nghệ thuật Hà Nội và giành giải nhất với ca khúc "Nhớ về Hà Nội". Đây là một bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp ca hát của cô.
Năm 1988, ra mắt album Tiếng hát Hồng Nhung, được tái bản nhiều lần. Cô chính thức gia nhập Đoàn ca múa nhạc nhẹ Trung ương. Năm 1989, cô biểu diễn tại liên hoan nhạc nhẹ ở Berlin, Cộng hòa Dân chủ Đức và biểu diễn tại Festival thế giới lần thứ 19 tại Triều Tiên. Năm 1990, cô lưu diễn tại Iraq. Năm 1991, sau chuyến lưu diễn tại Trung Quốc và Singapore, Hồng Nhung chính thức gia nhập Đoàn ca nhạc nhẹ Sài Gòn và đoạt giải nhất "Cuộc thi đơn ca nhạc nhẹ toàn quốc năm 1991", các ca khúc trong cuộc thi đã được đưa vào album Sao anh không đến với 5 ca khúc Việt Nam và 4 ca khúc nước ngoài. Năm 1992, cô lưu diễn tại Nga, Ba Lan, Hàn Quốc, Trung Quốc.
Tháng 9 năm 1991, Hồng Nhung đoạt giải nhất "Đơn ca nhạc nhẹ toàn quốc lần thứ 2" với các ca khúc "Hãy đến với em" (Duy Thái), "Vì sao anh không đến" (Từ Huy) và "Nothing Compares to You" (Sinéad O'Connor).
Năm 1992, Năm 20 tuổi, cô theo bố vào Thành phố Hồ Chí Minh, may mắn gặp gỡ nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và tạo nên một mối nhân duyên âm nhạc vô cùng đẹp và cũng là bước ngoặt lớn làm thay đổi cuộc đời âm nhạc của Hồng Nhung, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến cá tính âm nhạc và con đường âm nhạc của Hồng Nhung. Cô hát nhạc Trịnh Công Sơn bằng phong cách mới, tạo ấn tượng mạnh.
Năm 1993, album nhạc Trịnh Công Sơn Bống bồng ơi ra mắt nhanh chóng trở thành hiện tượng âm nhạc, một bước ngoặt lớn đối với sự nghiệp ca hát của Hồng Nhung và mang dấu ấn lịch sử đối với âm nhạc Trịnh Công Sơn. Bống bồng ơi là cầu nối chuyển giao thế hệ từ Khánh Ly sang Hồng Nhung, khơi thông mạch chảy có "linh hồn" cho dòng nhạc Trịnh trong đời sống âm nhạc Việt sau năm 1975.
Năm 1994, Hồng Nhung phát hành album Lênh đênh - 10 ca khúc Hồng Đăng, cùng ca sĩ Thanh Lam thu âm băng nhạc Từ Huy chủ đề "Ngày anh đến"; cùng Phương Thanh thu thanh album Tôn Thất Lập - Tình ca mùa xuân. Tham gia chương trình Duyên dáng Việt Nam một với ca khúc "Bống bồng ơi" của Trịnh Công Sơn được chính tác giả giới thiệu, dẫn chuyện trước khi Hồng Nhung ra biểu diễn.
Năm 1995, hợp tác với nhạc sĩ Đức Trí sản xuất album Chợt nghe em hát – được coi là album chủ đề đầu tiên của nhạc Việt với các sáng tác lần đầu tiên được ra mắt của hai nhạc sĩ Lã Văn Cường và Trần Quang Lộc.
Năm 1996, tiếp tục hợp tác cùng Đức Trí, Tam Ca Áo Trắng ra mắt album "Hát mừng giáng sinh", thành công vượt ngoài mong đợi với hơn 100.000 bản băng cassettte được tiêu thụ trở thành album giáng sinh được yêu thích nhất ở Việt Nam, tái bản liên tục cả trong nước (Viết Tân Studio phát hành) và hải ngoại (Trung tâm Mưa hồng phát hành). Gây ấn tượng mạnh với khán giả truyền hình trong đêm chung kết SV96 với ca khúc "Nhớ mùa thu Hà Nội" (Trịnh Công Sơn). Là đại diện duy nhất của Việt Nam được mời tham gia chương trình "Dream come true" do hãng truyền hình NHK - Nhật Bản tổ chức tại Tokyo - một chương trình dành cho các ngôi sao âm nhạc hàng đầu Châu Á, Hồng Nhung đã trình diễn "Hạ trắng" của Trịnh Công Sơn. Năm 1996, Hồng Nhung tạo nên hiện tượng trên sân khấu biểu diễn Thành phố Hồ Chí Minh cùng ca khúc "Cho em một ngày" của Dương Thụ với bản phối của nhạc sĩ Nguyễn Hà cùng ghita Vĩnh Tâm.
1997–1999: Đoản khúc thu Hà Nội, Hồng Nhung & những bài Topten và Bài hát ru cho anh
Năm 1997, Hồng Nhung tổ chức chuyến lưu diễn xuyên Việt đầu tiên mang tên Hồng Nhung và Bống bồng ơi với 9 đêm diễn tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Đà Nẵng vào tháng 12 năm 1997). Ngày 21 tháng 7 cùng năm, cô ra mắt album phòng thu đầu tay Đoản khúc thu Hà Nội với phần hòa âm, phối khí của nhạc sĩ Bảo Chấn đã tạo được tiếng vang lớn về nghệ thuật và số lượng đĩa tiêu thụ, trở thành album Hà Nội kinh điển, đoạt giải thưởng "Đĩa hát vàng 97" và gắn thương hiệu Hồng Nhung với dòng nhạc viết về Hà Nội. Tháng 9 năm 1997 chương trình Làn Sóng Xanh ra đời, Hồng Nhung là ca sĩ có nhiều bài nhất lọt Topten LSX 97 với thứ hạng cao, Ca Khúc " Có Đôi Khi " sáng tác Lã Văn Cường đoạt giải Làn Sóng Xanh đầu tiến năm 1997. Ngoài ra tiêu biểu là ca khúc "Đóa hoa vô thường" chiếm lĩnh hạng nhất trên bảng xếp hạng 4 tuần tháng 11 năm 1997. Video âm nhạc "Đóa hoa vô thường" của Hồng Nhung được phát hành trên truyền hình và băng đĩa tạo nên hiện tượng âm nhạc đặc biệt, ngoài phần âm nhạc xuất sắc thì điểm nhấn độc đáo là video âm nhạc được dàn dựng thành một câu chuyện có mở kết hoàn chỉnh, mang đậm dấu ấn văn hóa Phương Đông, đây là một bước tiến so với thời điểm bấy giờ. "Đóa hoa vô thường" được đánh giá một trong những video âm nhạc đỉnh cao của nhạc nhẹ Việt Nam.
Năm 1998, Hồng Nhung phát hành album phòng thu thứ hai, Hồng Nhung & những bài Topten, bao gồm 9 ca khúc lọt Bảng xếp hạng Topten Làn Sóng Xanh 97; tiếp tục hợp tác thành công với nhạc sĩ Đức Trí trong album phòng thu thứ ba, Bài hát ru cho anh, phát hành ngày 4 tháng 12 năm 1998. Album phác họa đầy đủ, sinh động nhất chân dung âm nhạc của Dương Thụ, nhạc sĩ đánh giá Hồng Nhung là người hát hay nhất và thành công nhất nhạc của ông. Cùng lúc đó ca khúc " Vườn Yêu ' sáng tác tác Nhạc sỹ Lã Văn Cường do Đức Trí hoà âm phối khí đoạt Giai thưởng Làn Sóng Xanh 98. Cô cũng hợp tác cùng MC Lại Văn Sâm và VTV3 tổ chức chương trình Khách mời VTV3 – Bắt đầu từ hôm qua dành cho hơn 10 ngàn cho sinh viên tại Trường Đại học Y Hà Nội, chương trình truyền hình được khán giả yêu thích nhất năm 1998 của VTV3 với số thư yêu cầu nhiều nhất và số lần phát lại nhiều nhất.
Năm 1999, Hồng Nhung tổ chức thành công chuyến lưu diễn xuyên Việt lần thứ hai mang tên Bài hát ru 99 – Vì cuộc sống trẻ thơ với sự tham gia của đạo diễn sân khấu Phạm Hoàng Nam, nhạc sĩ hòa âm Đức Trí, ban nhạc Hy vọng và ca sĩ Bằng Kiều, chương trình đã tạo được tiếng vang lớn không chỉ về mặt nghệ thuật và cả về ý nghĩa nhân văn, Bài hát ru 99 gắn với Tuyên truyền và gây quỹ ủng hộ phòng chống sốt xuất huyết cho các em nhỏ, Hồng Nhung đã dành trọn 200 triệu tiền vé thu được để ủng hộ quỹ.
2000–2002: Ru tình, Cháu vẽ ông mặt trời và Ngày không mưa
Năm 2000, Hồng Nhung cho ra mắt album phòng thu thứ tư, Ru tình, với 10 tình khúc Trịnh Công Sơn, Bảo Chấn, Thanh Tùng, Phú Quang do Đức Trí hòa âm, Hồng Nhung hát theo phong cách tự do, ngẫu hứng, thiên về kỹ thuật hát nói, bài hát "Một mình", do Thanh Tùng sáng tác, lần đầu tiên được Hồng Nhung thu âm. Với phần trình diễn đột phá về nghệ thuật trên sân khấu Duyên dáng Việt Nam 9 với ca khúc "Ru con giữa rừng đại ngàn" của Dương Thụ, Hồng Nhung chia sẻ: "Nhung rất thích ca khúc "Ru con giữa rừng đại ngàn".
Năm 2001, Hồng Nhung phát hành album phòng thu thứ năm, Cháu vẽ ông mặt trời, với 11 ca khúc, album thiếu nhi nhưng được êkip Hồng Nhung, Bảo Chấn, Dương Thụ thực hiện rất công phu, độc đáo, chuyên nghiệp, trở thành một dấu ấn đẹp trong sự nghiệp của Hồng Nhung.
Năm 2001, Hồng Nhung được mời hát chính cho bộ phim điện ảnh Người mỹ trầm lặng của đạo diễn Phillip Noyce và tham gia vai phụ ca sĩ phòng trà trong bộ phim, Hồng Nhung sang Anh thu âm phần nhạc phim cùng Craig Armstrong với ca khúc "Thiên Thai" và "Nothing in this World" (với Craig Armstrong).
Năm 2003, cô được Đề cử "Best Original Song Written Directly for a Film" cho giải World Soundtrack Award ở Bỉ cho ca khúc "Nothing in This World".
Hồng Nhung lần đầu tiên hợp tác cùng Quốc Trung và ban nhạc Phương Đông ra mắt album Ngày không mưa vào ngày 20 tháng 11 năm 2001. Hồng Nhung đoạt giải thưởng Ca sỹ được yêu thích nhất Làn Sóng Xanh 2002; ca khúc "Ngày không mưa" cũng đạt giải 10 ca khúc được yêu thích nhất của Làn sóng xanh 2002. Ngoài ra Hồng Nhung còn thắng lớn tại VTV – Bài hát tôi yêu ở hạng mục Ca sĩ được yêu thích nhất và giải Ca khúc được yêu thích nhất cho hai bài hát "Họa mi hót trong mưa" và "Ngày không mưa". Cũng trong năm 2002, Hồng Nhung là ca sĩ Việt Nam đầu tiên được mời tham dự Liên hoan âm nhạc Châu Á tổ chức thường niên ở Singapore cùng Trần Mạnh Tuấn với các ca khúc "Inh lả ơi", "Ngày không mưa", "Ru tình" và "Hồ trên núi".
2003–2005: Thuở Bống là người, Một ngày mới và Khu vườn yên tĩnh
Năm 2003, Hồng Nhung trở thành ca sĩ tâm điểm của năm với giải thương Mai Vàng hạng mục Nữ ca sĩ được yêu thích nhất với ca khúc "Một ngày mới". Video âm nhạc "Một ngày mới" giữ vị trí dẫn đầu trên bảng xếp hạng chung cuộc VTV – Bài hát tôi yêu lần thứ 2 với giải Ca khúc được yêu thích nhất, năm thứ 7 liên tiếp đoạt giải Ca sĩ được yêu thích nhất của Làn Sóng Xanh và là một trong những giọng ca chính thể hiện ca khúc "Vì một thế giới ngày mai", bài hát chính thức của Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2003 tổ chức tại Hà Nội. Cùng năm đó, Hồng Nhung cho ra mắt album phòng thu thứ bảy, Thuở Bống là người, gồm 11 ca khúc viết về thân phận con người, triết lý đời sống, tình yêu do chính nhạc sĩ Trịnh Công Sơn biên tập cùng Hồng Nhung trước khi ông qua đời.
Cũng trong năm 2003, Hồng Nhung cùng nhạc sĩ Quốc Trung và Huy Tuấn ra mắt album phòng thu thứ tám, Một ngày mới, giới thiệu một hình ảnh mới trẻ trung, tràn đầy năng lượng của Hồng Nhung. Album được thực hiện trong khoảng thời gian 3 tháng, gây sốt với công chúng trẻ tuổi, hơn 10.000 bản CD đã được tiêu thụ trong tuần đầu tiên phát hành. Ngày 28 tháng 10 năm 2004, Hồng Nhung ra mắt album phòng thu thứ chín, Khu vườn yên tĩnh, một album chủ đề được lấy cảm hứng từ khu vườn tại ngôi nhà của Hồng Nhung ở Thành phố Hồ Chí Minh.
2006–2016: Như cánh vạc bay, Vòng tròn và các dự án âm nhạc khác
Năm 2006, Hồng Nhung lần đầu hợp tác cùng nhạc sĩ Hoài Sa với dự án nhạc Trịnh Công Sơn Như cánh vạc bay, bao gồm album phòng thu thứ mười cùng tên và hai đêm trình diễn của buổi hòa nhạc Như cánh vạc bay tại Nhà hát lớn TP. Hồ Chí Minh với 16 ca khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, được hòa âm, trình diễn theo phong cách mới mẻ. Hai bài hát "Ru em từng ngón xuân nồng" và "Tuổi đá buồn" nhanh chóng trở thành hai bản hit của Hồng Nhung trên các sân khấu lớn trong và ngoài nước. Hồng Nhung đoạt giải Sự nghiệp tỏa sáng của giải thưởng Ngôi sao Bạch Kim.
Năm 2007, cô ra mắt dự án song ca Hồng Nhung - Quang Dũng, Vì ta cần nhau (CD & live show) do nhạc sĩ Đức Trí sản xuất, hòa âm; CD Vì ta cần nhau là một trong mười album bán chạy nhất năm 2007 và live show Vì ta cần nhau được bình chọn là 1 trong 10 sự kiện văn hóa tiêu biểu năm 2007 của VTV3 và Báo Thể thao & Văn hóa. Cuối năm, Hồng Nhung nhận giải Ca sỹ được yêu thích nhất của 10 năm Làn Sóng Xanh và giải Nghệ sĩ ăn mặc lịch sự nhất năm 2007.
Năm 2009, Hồng Nhung tiếp tục hợp tác cùng nhạc sĩ Hoài Sa ra mắt dự án song ca nhạc Trịnh Công Sơn cùng Quang Dũng chủ đề Có đâu bao giờ (CD&Live show) theo phong cách New Age.
Năm 2011, Hồng Nhung ra mắt album phòng thu thứ mười một, Vòng tròn, theo thể loại nhạc điện tử. Album được Hồng Nhung viết kịch bản văn học, Quốc Trung viết kịch bản âm nhạc, sau đó được các nhạc sĩ khác viết theo đơn đặt hàng. Với kỹ thuật thanh nhạc điêu luyện và kinh nghiệm biểu diễn, cô luôn được chọn làm người hướng dẫn cho các thí sinh trong các cuộc thi ca hát như Vietnam Idol, Giọng hát Việt. Năm 2011, cô là giám khảo cuộc thi Sáng bừng sức sống, một chương trình truyền hình thực tế tìm kiếm nhóm nhạc nữ Việt Nam. Năm 2013, Hồng Nhung đảm nhiệm vị trí một trong 4 huấn luyện viên (cùng Quốc Trung, Đàm Vĩnh Hưng và Mỹ Linh) của Giọng hát Việt mùa 2.
2017–nay: Phố à, phố ơi... và Tuổi thơ tôi
Năm 2017, cô ra mắt album phòng thu thứ 11 có tựa đề Phố à, phố ơi... tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 16 tháng 12 năm 2017, cô tổ chức buổi họp báo chính thức ra mắt album phòng thu thứ 11 có tựa đề Phố à, phố ơi... tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trong buổi họp báo còn có sự góp mặt của Hoa hậu Hoàn vũ 2007 Riyo Mori và Vũ Cát Tường. Ngày 6 tháng 5 năm 2018, Hồng Nhung tham gia chương trình The Oriental Mood của Trần Mạnh Tuấn và Nguyên Lê tại nhà hát VOH Music One, Thành phố Hồ Chí Minh. Với vai trò là khách mời, cô đã biểu diễn ca khúc "Bèo dạt mây trôi". Ngày 26 tháng 5 năm 2018, nhân dịp sinh nhật lần thứ 50 của Thái tử Frederik, cô được mời dự tiệc tại cung điện Christiansborg, Copenhagen Đan Mạch. Ngày 20 tháng 6 năm 2018, sự kiện hưởng ứng Ngày hội âm nhạc diễn ra tại Hà Nội do Đại sứ Ý Cecilia Piccioni tổ chức. Trong sự kiện, cô đã thể hiện "Voi che sapete" (Mozart) và "Nhớ mùa thu Hà Nội"' (Trịnh Công Sơn) dưới phần đệm đàn của Đăng Quang.
Ngày 26 tháng 5 năm 2018, nhân dịp sinh nhật lần thứ 50 của Thái tử Frederik, cô được mời dự tiệc tại cung điện Christiansborg, Copenhagen Đan Mạch.
Ngày 1 tháng 3 năm 2019, Hồng Nhung tham gia Chương trình Ánh dương mùa xuân để chào mừng nhà lãnh đạo Kim Jong-un do Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam thực hiện. Trong chương trình, cô đã song ca "Hạ trắng" cùng Quán quân Sao Mai 2017 dòng nhạc nhẹ Thu Thủy trong vào đúng dịp kỷ niệm 80 năm ngày sinh của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Ngay sau đó, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu thể hiện thêm một tác phẩm khác
Đời tư
Năm 21 tuổi, sau khi vào TP Hồ Chí Minh lập nghiệp, Hồng Nhung gặp Trịnh Công Sơn. Hồng Nhung có mối tình với Nhạc sỹ. Sau đó mối tình tan vỡ. Tuy nhiên, Theo Dịch giả Bửu Ý, Trịnh Công Sơn lại không coi Hồng Nhung là người tình.
Hồng Nhung đã kết hôn hồi tháng 7 năm 2011 với một doanh nhân mang quốc tịch Mỹ tên Kevin Gilmore, anh có một trụ sở kinh doanh ở Mỹ và một ở Hồng Kông. Trước đó, cả hai tổ chức lễ đính hôn vào cuối tháng 6 năm 2007 tại Vũng Tàu. Năm 2012, cô sinh đôi một trai, một gái vào dịp lễ Phục sinh tức ngày 8 tháng 4 tại Mỹ. Hai con của cô có tên là Aiden và Lea, tên thường gọi là Tôm và Tép.
Tháng 6 năm 2018, Hồng Nhung xác nhận đã ly hôn với Gilmore. Trước khi kết hôn với Kevin Gilmore, Hồng Nhung đã từng có một cuộc hôn nhân ngắn khác với một người chồng ngoại quốc.
Năm 2022, Hồng Nhung hẹn hò với kiến trúc sư người Đức Gerhard Heusch
Ngoài ra, Hồng Nhung là cháu họ gọi Bằng Kiều là chú, vì ông nội của cô và bố của Bằng Kiều là hai anh em ruột.
Phong cách nghệ thuật
Giọng hát
Loại giọng: Lirico mezzo-soprano (nữ trung trữ tình).
Quãng giọng: D3 ~ G5 ~ C#6 (2 quãng tám 5 nốt và 1 bán âm)
Quãng trầm: D3 - A3
Quãng belt giọng pha: G4 - G5
Quãng giọng óc: A4 - C#6
Longest note (note dài nhất): 20 giây.
Qua âm nhạc, Hồng Nhung đã truyền được nguồn cảm hứng và tư duy âm nhạc lớn đến những thế hệ ca sĩ sau này như Mỹ Tâm, Tùng Dương, Hà Anh Tuấn, Noo Phước Thịnh, Uyên Linh, Vũ Cát Tường, Phạm Hà Linh, Phạm Thu Hà,...
Hồng Nhung với âm nhạc Trịnh Công Sơn
Cuộc gặp gỡ giữa Trịnh Công Sơn và Hồng Nhung được xem là định mệnh. Điều này đã mở ra cho làng nhạc Việt một hơi thở mới. Hồng Nhung là người đã mang dương tính vào nhạc Trịnh. "Lặng lẽ nơi này" là ca khúc đánh dấu lịch sử khi lần đầu tiên Hồng Nhung hát nhạc của ông. Có thể nói cô là người hát nhạc của vị nhạc sĩ tài hoa này nhiều nhất trong thập niên 90 và 2000.
Khi còn trên "cõi tạm", Trịnh Công Sơn khẳng định: "Hồng Nhung là một người quá gần gũi không biết phải gọi là ai. Hồng Nhung làm mới lại những ca khúc của tôi. Có người thích, có người không thích. Tuy nhiên tôi thích vì đó là cách biểu hiện mới phù hợp với tiết tấu của thời đại - một sự lãng mạn mới. Nó giúp mình có được chỗ ngồi trong hiện tại chứ không phải kẻ nhắc tuồng từ quá khứ".
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết tặng Hồng Nhung 3 ca khúc: "Bống bồng ơi" (1993), "Bống không là Bống" (1994), "Thuở Bống là người" (1997).
Album nhạc Trịnh Công Sơn - Hồng Nhung đã phát hành:
Album đầu tiên Bống bồng ơi (1993) với 11 ca khúc do Bảo Phúc biên tập & hoà âm. Tái bản 2006 với tên Em hãy ngủ đi (10 ca khúc)
Album Níu tay nghìn trùng Album Thuở Bống là người (2003) với 11 ca khúc do Trịnh Công Sơn & Hồng Nhung biên tập; Bảo Phúc & Trần Mạnh Tuấn hoà âm (Album bắt đầu thực hiện từ năm 2000).
Album Như cánh vạc bay (2006) với 9 ca khúc do Hoài Sa hoà âm.
Album Có đâu bao giờ (2009) với 10 ca khúc (song ca cùng Quang Dũng) do Hoài Sa hoà âm.
Live show nhạc Trịnh - Hồng Nhung đã thực hiện:
2003: Liveshow Thuở Bống là người 2006: Liveshow Như cánh vạc bay 2009: Liveshow Có đâu bao giờ (cùng Quang Dũng)
2023: Liveshow Bống là ai? Giải thưởng
Giải thưởng Âm nhạc Cống hiến
Các giải thưởng khác
Năm 1982: Giải nhất (A1) Liên hoan giọng hát học sinh thủ đô Hà Nội với bài "Mùa xuân và tuổi hoa"
Năm 1983: Giải nhất (A2) Liên hoan giọng hát học sinh thủ đô Hà Nội với bài "Lê - na Bê - li - cô - ra"
Năm 1984: Giải nhất (A1) Liên hoan giọng hát học sinh thủ đô Hà Nội với bài "Mùa hè, mùa thi"
Năm 1985: Huy chương vàng Hội diễn ca nhạc chuyên nghiệp toàn quốc tại Hải Phòng với bài hát "Diều ơi cho em bay" của nhạc sĩ Nguyễn Cường.
Năm 1987: Giải nhất giọng hát hay Hà Nội với bài hát "Nhớ về Hà Nội" (Hoàng Hiệp) và bài "Papa" (Paul Anka)
Tháng 9 năm 1991: Giải nhất "Đơn ca nhạc nhẹ toàn quốc lần thứ 2" với các ca khúc "Hãy đến với em" (Duy Thái), "Vì sao anh không đến" (Từ Huy) và "Nothing Compares to You" (Sinead O'Connor).
Năm 1996: Nhận giải ca sĩ được yêu thích nhất của báo Đại Đoàn Kết
Năm 1996, Giải ca sĩ được yêu thích nhất của báo Đại Đoàn Kết. Được NHK (Nhật Bản) mời làm đại diện duy nhất của Việt Nam tham dự chương trình "Dreams Come True" cùng 30 ca sĩ hàng đầu Châu Á tại Tokyo
Năm 1997, 1998, 1999, 2000, 2001, 2002, 2003: 7 năm liên tiếp nhận giải "ca sĩ được yêu thích nhất" của Làn sóng xanh
Năm 1997: Giải Topten ca nhạc 97 với "Giọt sương trên mi mắt" của VTV3 và Báo Thể thao Văn hóa tổ chức
Năm 1997: Album "Đoản khúc thu Hà Nội" được Cục tổ chức biển diễn và Quỹ văn hoá Hà Nội trao giải "Đĩa hát vàng 1997" về số lượng đĩa bán chạy nhất trong năm
Năm 1998: Giải ca sĩ được yêu thích nhất của báo Người Lao động
Năm 1998: Giải ca sĩ được yêu thích nhất của báo Mực Tím
Năm 1998: Chương trình "Bắt đầu từ hôm qua" được bình chọn là chương trình truyền hình được yêu thích nhất và được yêu cầu phát lại nhiều nhất của VTV3.
Năm 1999: Nhận giải "Nghệ sĩ mốt nhất 99" do báo Mốt trao tặng
Năm 2000: Nhận giải Ca sĩ hát về Hà Nội hay nhất, nhân kỷ niệm 990 năm Thăng Long Hà Nội do bạn đọc báo Người lao động bình chọn.
Năm 2001: Nhận giải Ca sĩ được yêu thích nhất của 10 năm báo Hoa học trò
Năm 2002: Nhận giải ca sĩ được yêu thích nhất của báo Thiếu niên Tiền phong
Năm 2002: Nhận giải ca sĩ được yêu thích nhất của VTV – Bài hát tôi yêu lần 1
Năm 2003: Nhận giải Ca khúc được yêu thích nhất của VTV – Bài hát tôi yêu lần 2 với bài hát "Một ngày mới" dẫn đầu bảng bình chọn
Năm 2003: Nhận giải "Nữ ca sĩ được yêu thích nhất" Mai vàng 2003 với ca khúc Một ngày mới (Huy Tuấn)
Năm 2003: Đề cử "Best Original Song Written Directly for a Film" cho giải World Soundtrack Award ở Bỉ cho ca khúc "Nothing in This World" trong phim "The Quiet American"
Năm 2006: Nhận giải "Sự nghiệp tỏa sáng" của Ngôi sao bạch kim do báo Điện ảnh kịch trường tổ chức
Năm 2007: Nhận giải "Ca sĩ được yêu thích nhất 10 năm Làn sóng xanh" (1997 – 2007)
Năm 2007: Nhận giải "Nghệ sĩ ăn mặc lịch sự nhất 2007" do báo Mốt trao tặng
Năm 2007: Liveshow "Vì ta cần nhau" được VTV3 và báo Thể thao văn hoá bình chọn vào top 10 sự kiện văn hoá tiêu biểu nhất năm 2007
Năm 2007: Album "Vì ta cần nhau" là một trong 10 album bán chạy nhất năm 2007
Năm 2011: MV Vòng Tròn tham gia "Giải thưởng video nhạc Việt" của kênh MTV Vietnam đoạt 3 giải: Nghệ sĩ được tạo hình xuất sắc nhất, Hình ảnh đẹp nhất, Tác phẩm âm nhạc xuất sắc nhất
Năm 2012: Giải thưởng "Bài hát yêu thích tháng 8" với "Vòng tròn"
Năm 2014: Bài hát có tỉ lệ bình chọn cao nhất trong tháng 2 và xuất hiện trong Gala của chương trình "Giai điệu tự hào" với ca khúc "Mùa xuân đầu tiên"
Thành công/Đánh giá
"Chuyện Hồng Nhung không còn răng khểnh không làm giảm tình yêu của tôi với cô ấy. Đặc biệt đó lại là người Trịnh Công Sơn đã chọn để hát ca khúc của ông. Tôi tin ông ấy không bao giờ chọn lầm. Quả thật, nàng rất xứng đáng.""Chị Nhung nói đã vang rồi, chưa cần hát."
"Linh có thiên hướng hát lúc nào cũng tròn trịa, lên sân khấu cách trình diễn vừa phải, nhả chữ đẹp, tròn vành rõ chữ. Chị Lam có vẻ là người hơi bất ổn, thất thường nhưng là giọng hát đặc biệt. Khi chị ấy kiềm chế được tình cảm bồng bột hát rất hay. Chị Lam thường hát bốc quá không kìm chế được. Chị Hồng Nhung giỏi trong chuyện luôn làm mới hình ảnh. Tức là nếu Mỹ Linh hướng đến sự tròn trịa về hát, Hồng Nhung hướng đến hình ảnh hoàn hảo, lên sân khấu luôn phải đẹp, nói chuyện duyên dáng, vừa phải. Chị Nhung là người giỏi, làm nghề lâu năm nhưng mỗi lần xuất hiện vẫn gây được sức hút lớn với người xem."
— Ca sĩ Trần Thu Hà
Học trò
Năm 2013, Hồng Nhung đảm nhiệm một trong bốn vị trí "Huấn luyện viên" Chương trình truyền hình Giọng hát Việt (mùa 2).
Vũ Cát Tường
Phạm Hà Linh
Âu Bảo Ngân
Hoàng Nhật Minh
Trương Thảo Nhi
Nguyễn Đức Tùng (Nhóm O-plus)
Nguyễn Xuân Lân
Đỗ Thành Nam
Trần Cao Cẩm Tú
Ngoài ra, cô còn hướng dẫn các thí sinh trong Chương trình truyền hình Vietnam Idol: Thần tượng Âm nhạc Việt Nam, Học viện ngôi sao với tư cách là khách mời. Hồng Nhung đã hướng dẫn cho hàng loạt các ca sĩ thành danh sau này Uyên Linh, Văn Mai Hương, Yasuy, Hoàng Quyên, Bảo Trâm,...
Danh sách đĩa nhạc Đoản khúc thu Hà Nội (1997)Hồng Nhung & những bài Topten (1998)Bài hát ru cho anh (1998)Ru tình (2000)Cháu vẽ ông mặt trời (2001)Ngày không mưa (2001)Thuở Bống là người (2003)Một ngày mới (2003)Khu vườn yên tĩnh (2004)Như cánh vạc bay (2006)Vòng tròn (2011)Phố à, phố ơi... (2017)Tuổi thơ tôi (2020)Bống là ai? (2023)
Liveshow
Năm 1997: Liveshow xuyên Việt đầu tiên mang tên "Hồng Nhung – Bống bồng ơi" với 9 đêm diễn tại Sài Gòn, Đà Nẵng, Hà Nội.
Năm 1998: Đêm nhạc "Hồng Nhung – Bắt đầu từ hôm qua" thuộc chuỗi chương trình "Khách mời của VTV3" dành cho hơn 10 ngàn sinh viên Đại học Y Hà Nội.
Năm 1999: Liveshow xuyên Việt "Hồng Nhung – Bài hát ru'99" với chủ đề "Vì cuộc sống trẻ thơ" với 9 đêm diễn tại Sài Gòn, Đà Nẵng, Hà Nội.
Năm 2003: Liveshow nhạc Trịnh Công Sơn "Thuở Bống là người" tại Bình Quới với sự tham dự của hơn 5000 khán giả.
Năm 2003: Liveshow "Một ngày mới" mở màn cho loạt chương trình "Âm nhạc và những người bạn" của VTV3.
14/11/2004: Liveshow "Khu vườn yên tĩnh" thuộc chương trình "Giai điệu bè bạn" của HTV7 Đài truyền hình TP. Hồ Chí Minh.
Năm 2006: Liveshow nhạc Trịnh Công Sơn "Như cánh vạc bay" tại Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 2007: Liveshow cùng Quang Dũng với chủ đề "Vì ta cần nhau" tại Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 2009: Liveshow nhạc Trịnh Công Sơn cùng Quang Dũng mang tên "Có đâu bao giờ".
04/10/2012: Liveshow tại Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội.
05/12/2013: Liveshow "Phố à phố ơi... Bống à Bống ơi!" tại Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội.
18/06/2017: Liveshow "In the spotlight: Tuổi thơ tôi" tại Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội - với Bằng Kiều, Nhật Minh và Ngọc Linh.
11-12/03/2023: Liveshow nhạc Trịnh Công Sơn "Bống là ai?"'' tại Nhà hát lớn Hà Nội
Phim |
Sir Winston Leonard Spencer Churchill (30 tháng 11 năm 187424 tháng 1 năm 1965) là một chính khách, binh sĩ và cây bút người Anh. Ông từng hai lần giữ cương vị Thủ tướng Vương quốc Anh: lần một từ năm 1940 đến năm 1945 trong Thế chiến thứ hai, và lần hai từ năm 1951 đến năm 1955. Ngoại trừ từ năm 1922 đến năm 1924, ông ngồi ghế Nghị sĩ (MP) từ năm 1900 đến năm 1964, đại diện cho tổng cộng 5 khu vực bầu cử thuộc Vương quốc Anh. Với hệ tư tưởng ngả về chủ nghĩa tự do kinh tế và chủ nghĩa đế quốc, ông là thành viên của Đảng Bảo thủ suốt phần lớn sự nghiệp trên chính trường, thậm chí từng lãnh đạo đảng này từ năm 1940 đến năm 1955. Ngoài ra, ông tham gia Đảng Tự do từ năm 1904 đến năm 1924.
Churchill chào đời tại Oxfordshire trong gia đình Spencer giàu sang và quyền quý, mang cả gốc Anh lẫn Mỹ. Ông gia nhập Quân đội Anh vào năm 1895, từng tham chiến tại Ấn Độ thuộc Anh, Sudan, và Nam Phi, nổi tiếng với vai trò phóng viên chiến sự và những hồi ký kể lại cuộc chiến. Ông được bầu làm MP Bảo thủ vào năm 1900, song từ bỏ để gia nhập Đảng Tự do vào năm 1904. Dưới chính phủ Tự do thời H. H. Asquith, Churchill được bổ nhiệm làm Chủ tịch Ban Giao thương và Bộ trưởng Nội vụ. Trong giai đoạn này, ông lên tiếng đòi cải cách hệ thống nhà tù và an ninh xã hội cho người lao động. Giữ chức Đệ nhất Đại thần Hải quân hồi Thế chiến thứ nhất, ông là người chịu trách nhiệm chính cho Chiến dịch Gallipoli; song sau khi rõ ràng đây là một thảm bại hoàn toàn, Churchill bị giáng chức Tướng quốc Lãnh địa Công tước Lancaster. Ông xin từ chức vào tháng 11 năm 1915 để gia nhập trung đoàn Royal Scots Fusilier ở Mặt trận phía Tây trong vòng 6 tháng. Năm 1917, ông quay về phục vụ cho chính phủ thời David Lloyd George, kiêm nhiệm chức Bộ trưởng Đạn dược, Quốc vụ khanh Chiến tranh, Quốc vụ khanh Không quân, và Quốc vụ khanh Thuộc địa. Ông được giao phó phận sự giám sát Hiệp định Anh-Ireland và chính sách đối ngoại của Đế quốc Anh ở Trung Đông. Sau hai năm ngồi ghế Nghị viện, ông được phong chức Bộ trưởng Ngân khố dưới chính phủ Bảo thủ thời Stanley Baldwin.
Nghỉ công vụ trong "những năm tháng hoang dại" hồi thập niên 30, Churchill dẫn đầu nỗ lực kêu gọi chính phủ tái vũ trang quân đội để phòng ngừa chủ nghĩa quân quốc đang trỗi dậy ở Đức Quốc xã. Khi Thế chiến thứ hai nổ ra, ông được tái bổ nhiệm chức Đệ nhất Đại thần Hải quân. Tháng 5 năm 1940, ông nối gót Neville Chamberlain nhậm chức Thủ tướng Anh, sau đó giám sát đốc thúc nỗ lực chiến tranh của phe Đồng minh chống lại phe Trục, thành quả là chiến thắng vào năm 1945. Sau khi Đảng Bảo thủ thất cử trong cuộc tổng tuyển cử năm 1945, Churchill trở thành Lãnh đạo phe Đối lập trong nghị viện Anh. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, ông đã ra thông cáo nổi tiếng rằng, một "bức màn sắt" đã buông xuống vì ảnh hưởng sâu rộng của Liên Xô ở Đông Âu, đồng thời liên tục nhấn mạnh sự đoàn kết của toàn thể châu Âu. Giữa hai nhiệm kỳ Thủ tướng, ông chắp bút viết nhiều hồi ký về cuộc chiến và vinh dự nhận Giải Nobel Văn học vào năm 1953. Ông thất cử năm 1950, song tái nhiệm vào năm 1951. Chính phủ trong nhiệm kỳ hai của Churchill hầu hết phải giải quyết nhiều vấn đền liên quan đến đối ngoại, đặc biệt là quan hệ song phương Anh-Mỹ và những di sản của Đế quốc Anh sau khi Ấn Độ giành được độc lập. Về đối nội, Churchill chú trọng vào các chính sách xây dựng nhà ở, cũng như hoàn thành dự án chế tạo bom hạt nhân được khởi xướng bởi người tiền nhiệm. Do sức yếu, ông thôi chức Thủ tưởng vào năm 1955, song vẫn giữ một ghế MP cho tới năm 1964. Churchill qua đời vào năm 1965; một lễ quốc tang đã được cử hành để tưởng nhớ ông.
Được công nhận rộng rãi là nhân vật lịch sử cực kỳ quan trọng của thế kỷ 20, Churchill vẫn rất nổi tiếng ở các nước Anh ngữ; những nơi coi ông như một thủ lĩnh thời chiến lỗi lạc, đã góp phần bảo vệ nền tự do dân chủ của châu Âu trước nguy cơ chủ nghĩa phát xít lan rộng. Tuy vậy, ông cũng hứng chịu nhiều chỉ trích vì một số sự kiện thời chiến và quan điểm đế quốc chủ nghĩa của mình.
Đầu đời
Tuổi thơ và giáo dục: 1874–1895
Churchill chào đời ngày 30 tháng 11 năm 1874 tại ngôi nhà lâu đời của dòng họ, Cung điện Blenheim ở Oxfordshire. Dòng dõi phía nội của Churchill là quý tộc Anh, theo đó ông là hậu duệ trực tiếp của Đệ nhất Công tước xứ Marlborough. Cha ông, Lord Randolph Churchill, là đại biểu của Đảng Bảo thủ, từng được ứng cử làm Nghị sĩ (MP) của Woodstock vào năm 1873. Mẹ ông, Jennie, là con gái của Leonard Jerome, một doanh nhân người Mỹ giàu có.
Năm 1876, ông nội của Churchill, John Spencer-Churchill, Đệ thất Công tước xứ Marlborough, được bổ nhiệm làm Phó vương Ireland, lãnh thổ mà bấy giờ vẫn thuộc Vương quốc Liên hiệp Anh-Ireland. Randolph trở thành thư ký riêng của Spencer-Churchill và cả gia đình chuyển đến sống ở Dublin. Em trai ông, Jack, chào đời tại đây vào năm 1880. Vào những năm 1880, Randolph và Jennie trở nên xa cách nhau, việc nuôi nấng hai anh em do vậy được đảm nhận bởi bảo mẫu Elizabeth Everest. Khi bà mất vào năm 1895, Churchill kể lại rằng "cô ấy là người bạn gần gũi và trìu mến nhất của tôi trong suốt 20 năm cuộc đời".
Năm lên 7, Churchill bắt đầu học nội trú ở Trường St George tại Ascot, Berkshire, song học không giỏi và nhiều khi tỏ thái độ xấu. Năm 1884, ông chuyển tới học tại Trường Brunswick ở Hove, nơi thành tích học tập khá lên ít nhiều. Tháng 4 năm 1888, lúc 13 tuổi, ông suýt soát vượt qua bài kiểm tra đầu vào của Trường Harrow. Cha Churchill muốn con trai mình sẵn sàng cho binh nghiệp, nên ba năm cuối cấp ở Harrow được dành để rèn luyện quân sự cho Churchill. Sau hai nỗ lực bất thành để vào được Học viện Quân sự Hoàng gia, Sandhurst, ông rốt cuộc được nhận ở lần thứ ba, trở thành học viên sĩ quan kỵ binh kể từ tháng 9 năm 1893. Cha ông không may qua đời vào tháng 1 năm 1895, một tháng sau khi Churchill đỗ Sandhurst.
Cuba, Ấn Độ, và Sudan: 1895–1899
Tháng 2 năm 1895, Churchill được ủy nhiệm làm thiếu úy của Trung đoàn Hussar 4 thuộc Quân đội Anh, đặt bản doanh tại Aldershot. Do rất muốn tận mắt chứng kiến cảnh quân đội hành động, ông lợi dụng ảnh hưởng của mẹ để được ra ngoài chiến trường. Mùa thu năm 1895, Churchill đồng hành cùng Reggie Barnes tới Cuba để quan sát cuộc chiến tranh giành độc lập ở đây, đồng thời giúp đỡ quân đội Tây Ban Nha đàn áp các chiến sĩ độc lập. Churchill gửi báo cáo chiến sự cho tờ Daily Graphic ở London. Sau đó, ông tiếp tục du hành tới Thành phố New York, và với sự ngưỡng mộ Hoa Kỳ lớn lao, đã viết thư gửi mẹ rằng "người Mỹ quả là một dân tộc phi thường!". Tháng 10 năm 1896, Churchill cùng đoàn Hussar đổ bộ Bombay, đóng quân ở Bangalore. Trong 19 tháng lưu trú ở Ấn Độ, ông đã tới thăm Calcutta ba lần và tham gia các đoàn viễn chinh tới Hyderabad và North West Frontier.
Ở Ấn Độ, Churchill bắt đầu quá trình tự học, nghiền ngẫm các tác phẩm của Platon, Edward Gibbon, Charles Darwin và Thomas Babington Macaulay do mẹ ông gửi. Hai mẹ con ông cũng thường xuyên trao đổi thư từ với nhau. Vì muốn tìm hiểu về chính trị, ông đã yêu cầu mẹ gửi cho cuốn niên giám The Annual Register. Trong một bức thư năm 1898, ông đã giãi bày quan điểm tôn giáo của mình với người mẹ kính yêu như sau: "Con không chấp nhận Kitô giáo hay bất cứ một hình thức tín ngưỡng nào khác". Tuy Churchill đã được rửa tội bởi Giáo hội Anh, song theo chia sẻ thì ông đã trải qua giai đoạn chống-Kitô hiểm độc thời niên thiếu, khiến ông hoài nghi về sự tồn tại của Thiên Chúa khi lớn lên. Trong một bức thư khác gửi anh em họ, ông đã gọi tôn giáo là "thứ thuốc mê khoái khẩu", đồng thời đề cao Kháng Cách giáo hơn Công giáo La Mã vì cho rằng đó là "một bước gần hơn đến Lý lẽ".
Hứng thú với công việc của nghị viện Anh, Churchill tuyên bố bản thân là "đảng viên Tự do chỉ trên danh nghĩa", vì rằng ông sẽ không đời nào chấp thuận sự ủng hộ của Đảng Tự do đối với nền độc lập tự chủ của Ireland. Thay vào đó, ông đã chọn ủng hộ cánh dân chủ Tory của Đảng Bảo thủ. Trên đường về nhà, ông dừng chân tại Claverton Down, gần Bath, để đọc một bài diễn văn thay mặt Liên minh Primrose thuộc Đảng Bảo thủ cho công chúng lắng nghe; đây cũng là diễn văn chính trị đầu tiên của ông. Kết hợp hai lập trường bảo thủ và cải lương, ông ủng hộ một nền giáo dục phi-giáo phái và thế tục, song phản đối quyền bầu cử của phụ nữ.
Churchill tình nguyện tham gia Lực lượng Malakand của Bindon Blood trong chiến dịch càn quét phiến quân Mohmand ở Thung lũng Swat phía tây bắc Ấn Độ. Blood chấp nhận với điều kiện Churchill phải làm phóng viên chiến sự; đánh dấu khởi đầu cho nghiệp viết lách của ông. Ông quay về Bangalore vào tháng 10 năm 1897 và viết cuốn The Story of the Malakand Field Force, nhận được nhiều đánh giá tích cực. Ông cũng sáng tác một cuốn tiểu thuyết lãng mạn Ruritania có nhan đề là Savrola. Churchill cứ lúc nào rảnh là chắp bút viết, nhất là vào những khoảng thời gian ông không giữ chức vụ nào trên chính trường; Roy Jenkins gọi đó là "toàn bộ thói quen" của Churchill. Viết lách là thứ che chở ông khỏi căn bệnh trầm cảm định kỳ, hay "con chó ma" theo cách gọi của ông.
Sử dụng các mối liên lạc ở London, Churchill nhận chức trung úy của đoàn Thương kỵ 21 của Tướng Kitchener đang được điều đến Sudan, đồng thời cũng đóng góp các bài viết cho tờ The Morning Post. Sau khi tham chiến tại Trận Omdurman vào ngày 2 tháng 9 năm 1898, Đoàn Thương kỵ 21 nhận lệnh thoái lui. Tháng 10 cùng năm, Churchill về Anh và chắp bút viết cuốn The River War, một hồi ký chiến tranh được xuất bản vào tháng 11 năm 1899; đây cũng là thời điểm ông quyết định rời quân ngũ. Churchill tỏ ra khá bất bình đối với các hành động của Kitchener trong cuộc chiến, nhất là vì ông này đã đối xử không nhân đạo đối với những người lính địch bị thương, hơn nữa còn bất nhã mạo phạm lăng mộ của Muhammad Ahmad ở Omdurman.
Ngày 2 tháng 12 năm 1898, Churchill khởi hành đi Ấn Độ để hoàn thiện thủ tục giải ngũ và xin thôi chức trong trung đoàn Hussar 4. Ông dành phần lớn thời gian ở đó chơi polo, môn bóng duy nhất mà ông yêu thích. Sau khi thôi chức, ông rời bến Bombay vào ngày 20 tháng 3 năm 1899, hướng về Anh với quyết tâm theo nghiệp chính trị.
Chính trị và Nam Phi: 1899–1901
Kiếm tìm một sự nghiệp trong nghị viện, Churchill thường phát biểu tại các cuộc họp của Đảng Bảo thủ và được chọn làm một trong hai ứng cử viên nghị sĩ của đảng này cho cuộc bầu cử phụ tháng 6 năm 1899 ở Oldham, Lancashire. Trong khi vận động bầu cử tại đây, Churchill tự xưng là "một đảng viên Bảo thủ và Dân chủ Tory". Tuy Đảng Bảo thủ kiểm soát nhiều ghế Oldham, kết quả lại là một chiến thắng suýt soát của Đảng Tự do.
Nhận thấy Chiến tranh Boer thứ hai sắp nổ ra giữa Anh quốc và Cộng hòa Boer, Churchill giong buồm xuống Nam Phi với vai trò phóng viên của tờ The Morning Post do James Nicol Dunn chủ bút. Vào tháng 10, ông lữ hành đến vùng tranh chấp Ladysmith, không may rơi vào vòng vây của quân Boer, bèn đổi hướng đến Colenso. Sau khi con tàu ông đi bị trật ray do pháo kích của quân Boer, ông bị bắt giữ làm tù binh chiến tranh (POW) và bị áp giải tới trại tập trung ở Pretoria. Vào tháng 12, Churchill tẩu thoát và lẩn trốn những kẻ lùng sục bằng cách đi chui trên một chuyến tàu chở hàng rồi nấp trong một khu mỏ, rốt cuộc toàn mạng chạy sang được Mozambique thuộc Bồ Đào Nha. Cuộc tẩu thoát đáng nể của ông rất đình đám trên các mặt báo.
Tháng 1 năm 1900, ông tái nhập ngũ một thời gian ngắn, đảm chức trung úy của trung đoàn Khinh kỵ Nam Phi, tham gia cùng Redvers Buller để hóa giải Cuộc vây hãm Ladysmith và chiếm cứ Pretoria. Ông thuộc trong số những chiến sĩ Anh đầu tiên tới cả hai nơi. Ông và người anh họ, Đệ cửu Công tước Marlborough, đã đích thân buộc 52 lính gác Boer phải đầu hàng. Suốt cuộc chiến, ông công khai chỉ trích các định kiến chống-Boer, kêu gọi đối xử với họ bằng "sự rộng lượng và bao dung", và sau chiến tranh thì ông khuyên người Anh nên cảm thấy cao thượng về thắng lợi đó. Vào tháng 7, sau khi thôi chức trung úy, ông trở về Anh. Các trình thuật cho Morning Post của ông đã được xuất bản dưới nhan đề London to Ladysmith via Pretoria và bán rất chạy.
Churchill thuê một căn hộ ở Mayfair thuộc London, sống ở đó suốt 6 năm tới. Ông tiếp tục tranh cử với tư cách ửng cử viên Bảo thủ tại Oldham trong cuộc tổng tuyển cử tháng 10 năm 1900, giành được chiến thắng suýt soát và trở thành Nghị sĩ khi mới 25 tuổi. Cùng tháng đó, ông xuất bản cuốn Ian Hamilton's March, kể về trải nghiệm của ông khi còn ở Nam Phi, sau trở thành tâm điểm của chuyến du thuyết Anh, Mỹ và Canada vào tháng 11. Vì Nghị sĩ lúc đó không được trả lương, nên chuyến công du này là cần thiết. Ở Mỹ, Churchill gặp gỡ Mark Twain, Tổng thống McKinley và Phó Tổng thống Theodore Roosevelt; ông và Roosevelt không quá tâm đầu ý hợp. Vào mùa xuân năm 1901, ông còn sang Paris, Madrid và Gibraltar để thuyết giảng.
Nghị sĩ Đảng Bảo thủ: 1901–1904
Tháng 2 năm 1901, Churchill nhận ghế Hạ Nghị viện, với bài phát biểu nhậm chức được giới báo chí đặc biệt chú ý. Ông giao du với nhóm Bảo thủ có tên là Hughligans, song bất đồng với chính phủ Bảo thủ ở rất nhiều vấn đề, nhất là về ngân sách quốc phòng. Ông muốn chính phủ đầu tư tập trung vào hải quân. Ý kiến này đã làm phật lòng các nghị sĩ Bảo thủ thuộc hàng ghế trước song nhận được sự ủng hộ lớn của các đảng viên Tự do, những người mà Churchill ngày càng thân thiết, đặc biệt là cánh chủ nghĩa Đế quốc Tự do như H. H. Asquith. Với bối cảnh đó, Churchill sau này kể lại rằng ông "đã dần trôi về cánh tả" của chính trị nghị viện. Ông đã cân nhắc kín đáo về "việc sáng tạo dần dần, thông qua một quá trình tiến hóa, một cánh Dân chủ hoặc Cấp tiến với Đảng Bảo thủ", hay nói cách khác là ông có ý đồ thành lập một "Đảng Trung tâm" gắn kết giữa Bảo thủ và Tự do.
Tới năm 1903, rạn nứt giữa Churchill và Đảng Bảo thủ đã bộc lộ rõ hơn bao giờ hết, phần lớn vì ông phản đối chính sách bảo hộ kinh tế của họ. Trên danh nghĩa ủng hộ thương mại tự do, ông tham gia vào việc thành lập Liên minh Lương thực Miễn phí. Churchill cảm thấy sự thù hằn của các đảng viên sẽ cản trở ông có được một chức vị Nội các Bảo thủ. Mặt khác, Đảng Tự do lúc đó lại đang trên đà thăng tiến, thế nên sự bội đảng vào năm 1904 của Churchill có lẽ bắt nguồn một phần từ tham vọng chính trị của riêng ông. Ông bắt đầu hùa theo các lá phiếu Tự do chống chính phủ. Ví dụ, ông chống quyết định tăng chi tiêu quốc phòng của chính phủ; ủng hộ dự luật của phái Tự do nhằm khôi phục quyền pháp lý cho các công đoàn; và chống quyết định đánh thuế quan các sản phẩm nhập khẩu vào Đế quốc Anh, tự miêu tả bản thân là "kẻ ngưỡng mộ có chừng mực" các quy tắc của tự do thương mại. Tháng 10 năm 1903, chính phủ thời Arthur Balfour công bố pháp chế bảo hộ kinh tế. Hai tháng sau, do phẫn nộ trước các lời chỉ trích của Churchill, Hiệp hội Bảo thủ Oldham đã thông tin với ông rằng họ sẽ không hậu thuẫn ông trong cuộc tổng tuyển cử kế tiếp.
Tháng 5 năm 1904, Churchill phản đối Dự luật Ngoại kiều của chính phủ, được đề ra nhằm kiểm soát dòng di cư Do Thái vào Anh. Ông phát biểu rằng, dự luật sẽ "cổ súy định kiến thiển cận về người nước ngoài, định kiến chủng tộc về người Do Thái, và định kiến lao động về sự cạnh tranh" và ủng hộ "truyền thống bao dung và rộng lượng cũ về sự tự do nhập cư và tị nạn chính trị mà đất nước này bấy lâu vẫn noi theo và cực kỳ hưởng lợi". Ngày 31 tháng 5 năm 1904, ông "vượt sàn", bỏ Đảng Bảo thủ để ngồi bên phía Đảng Tự do trong Hạ Nghị viện.
Nghị sĩ Đảng Tự do: 1904–1908
Với tư cách đảng viên Tự do, Churchill đả kích chính sách của chính phủ và xây dựng tên tuổi là người cấp tiến dưới trướng John Morley và David Lloyd George. Tháng 12 năm 1905, Balfour từ chức Thủ tướng và Vua Edward VII đã ngỏ ý mời lãnh đạo Đảng Tự do Henry Campbell-Bannerman lên thay thế. Hy vọng đảm bảo được đa số ghế trong Hạ Nghị viện, Campbell-Bannerman đã phát động một cuộc tổng tuyển cử vào tháng 1 năm 1906, với kết quả là chiến thắng của Đảng Tự do. Churchill đắc cử ghế nghị viện Tây Bắc Manchester. Cùng tháng đó, cuốn tiểu sử về cha ông được xuất bản; Churchill lĩnh £8,000 tiền thù lao trả trước. Tác phẩm được đón nhận tích cực. Trong khoảng thời gian này, tiểu sử về bản thân Churchill, viết bởi đảng viên Tự do Alexander MacCallum Scott, cũng được xuất bản.
Trong chính phủ mới, Churchill giữ chức Thứ Quốc vụ khanh của Văn phòng Thuộc địa, chức vụ nghị viện cấp thấp mà trước đó ông đã yêu cầu. Ông công tác dưới quyền Quốc vụ khanh Thuộc địa, Victor Bruce, Đệ cửu Bá tước Elgin, và chọn Edward Marsh làm thư ký riêng; Marsh gắn bó với công việc này trong suốt 25 năm. Nhiệm vụ đầu tiên của Churchill là trợ giúp thảo bản hiến pháp cho Transvaal; đồng thời quản đốc sự thành lập chính phủ Thuộc địa Sông Orange. Đối với châu Phi, ông tìm phương án đảm bảo sự công bình giữa dân Anh và dân Boer. Churchill cũng công bố giảm thiếu dần dần sự cần thiết của lao động giao kèo Trung Quốc ở Nam Phi; vì lẽ ông và chính phủ cho rằng một lệnh cấm thẳng thừng sẽ khiến các thuộc địa không hài lòng và có thể gây phương hại đến nền kinh tế. Ông tỏ ra quan ngại trước quan hệ giữa thực dân châu Âu và thổ dân châu Phi; sau khi người Zulu kích động cuộc khởi nghĩa Bambatha ở Natal, Churchill đã chê trách sự "chém giết một cách đáng ghê tởm dân bản địa" của người châu Âu.
Chính phủ thời Asquith: 1908–1915
Chủ tịch Ban Giao thương: 1908–1910
Asquith kế nhiệm Thủ tướng Campbell-Bannerman vào ngày 8 tháng 4 năm 1908 và, bốn ngày sau, Churchill được bổ nhiệm làm Chủ tịch Ban Giao thương tiếp nối Lloyd George, người đã sang làm Bộ trưởng Tài chính. Mới 33 tuổi, Churchill là thành viên Nội các trẻ nhất vào năm 1866. Về mặt pháp lý, các bộ trưởng Nội các mới được bổ nhiệm bắt buộc phải tái ứng cử trong một cuộc bầu cử phụ; vào ngày 24 tháng 4, Churchill thất bại trước một ứng cử viên Bảo thủ ở cuộc bầu cử phụ khu vực Tây Bắc Manchester. Ngày 9 tháng 5, Đảng Tự do ủy thác cho ông ghế an toàn của Dundee, nơi mà ông chiến thắng suôn sẻ.
Về đời tư, Churchill hỏi cưới bà Clementine Hozier và chính thức kết hôn vào ngày 12 tháng 9 năm 1908 tại St Margaret's, Westminster, rồi dành tuần trăng mật ở Baveno, Venice, và Lâu đài Veverí ở Moravia. Họ chung sống ở số 33 Quảng trường Eccleston, London, và vào tháng 7 năm 1909 hạ sinh con gái đầu lòng, đặt tên là Diana. Churchill và Clementine gắn bó với nhau suốt 56 năm cho tới khi ông qua đời. Sự thành công trong hôn nhân của hai người họ, bắt nguồn từ tình yêu chung thủy của Clementine đối với Churchill, đã củng cố và đảm bảo hậu phương vững chắc cho sự nghiệp chính trị của ông.
Một trong những nhiệm vụ đầu tiên của Churchill trong nội các là hòa giải mâu thuẫn giữa những người thợ thuyền và chủ lao động trên Sông Tyne. Rút kinh nghiệm từ vụ này, ông đã thành lập Tòa án Trọng tài Thường trực để giải quyết các mâu thuẫn công nghiệp trong tương lai, xây dựng được uy tín như một người điều đình tài ba. Trong Nội các, ông cộng tác với Lloyd George để bênh vực cải cách xã hội. Ông tuyên truyền cái gọi là "mạng lưới can thiệp và điều tiết Quốc gia", phỏng theo mô hình của Đức lúc bấy giờ.
Tiếp nối công lao của Lloyd George, Churchill giới thiệu Đạo luật Tám tiếng Hầm mỏ, theo đó cấm thợ mỏ làm việc hơn tám tiếng một ngày. Ông cũng giới thiệu Đạo luật Thương mại, theo đó thành lập nhiều phòng Thương mại có thẩm quyền kiện tụng các chủ lao động bóc lột công nhân. Được thông qua bởi đa số nghị sĩ, đạo luật này đã đảm bảo mức lương tối thiểu và quyền được nghỉ ăn trưa cho công nhân. Tháng 5 năm 1909, ông đề xuất Đạo luật Trao đổi Lao động, qua đó thành lập hơn 200 sở lao động có chức năng hỗ trợ tìm việc làm cho người lao động. Ông cũng có sáng kiến về một phương án bảo hiểm cho người thất nghiệp với khoản tài trợ một phần từ nhà nước.
Để đảm bảo nguồn vốn cho cải cách, Lloyd George và Churchill công kích chính sách mở rộng hải quân của Reginald McKenna, từ chối viễn cảnh về một cuộc chiến không thể tránh khỏi với Đức. Trên cương vị Bộ trưởng Tài chính, Lloyd George đã trình bày bài luận "Ngân sách của Nhân dân" vào ngày 29 tháng 4 năm 1909, khẳng định rằng xóa bỏ đói nghèo chính là công việc của ngân sách chiến tranh. Với sự hậu thuẫn vững chắc của Churchill, Lloyd George đề xuất áp thuế thật mạnh tầng lớp giàu có nhằm tài trợ cho chương trình phúc lợi xã hội của Đảng Tự do. Ý kiến này bị phủ quyết bởi các đồng sự bên Đảng Bảo thủ, lúc đó đang thống trị Thượng Nghị viện. Nhận thấy chính sách cải cách bị đe dọa, Churchill trở thành chủ tịch của Liên minh Ngân sách (Budget League), và cảnh cáo rằng sự cản trở này của tầng lớp thượng lưu sẽ kích động nhân dân lao động Anh nổi dậy và dẫn đến chiến tranh giai cấp. Chính phủ kêu gọi tổng tuyển cử vào tháng 1 năm 1910, và kết quả là một chiến thắng suýt soát của Đảng Tự do; Churchill vẫn giữ ghế của Dundee. Sau cuộc bầu cử, ông đề xuất giải tán Thượng Nghị viên trong một bức thư báo cho nội các, gợi ý tiếp nối nó bằng một hệ thống nhất viện mới hẳn hoặc tái lập một nghị viện thứ cấp nhỏ hơn nhằm tước đi lợi thế bấy lâu của Đảng Bảo thủ trong Thượng viện Anh. Vào tháng 4, các Thượng Nghị sĩ mủi lòng cho phép thông qua Ngân sách của Nhân dân. Churchill tiếp tục vận động chống lại Thượng viện và hỗ trợ việc thông qua Đạo luật Nghị viện 1911, theo đó giảm thiểu và hạn chế quyền lực của Thượng viện.
Bộ trưởng Nội vụ: 1910–1911
Tháng 2 năm 1910, Churchill trở thành Bộ trưởng Nội vụ, nắm quyền kiểm soát lực lượng cảnh sát và hệ thống nhà tù. Ông ngay lập tức thực thi chương trình cải cách nhà tù; đưa vào quy chế phân biệt tù nhân phạm tội và tù nhân chính trị, đồng thời nới lỏng các điều luật xoay quanh tù nhân chính trị. Biện pháp giáo dục bằng thư viện trong tù cũng được áp dụng, và các nhà tù bắt buộc phải tổ chức tạp kỹ giải trí ít nhất bốn dịp trong năm cho tù nhân. Luật biệt giam cũng được nới lỏng ít nhiều, và Churchill đề xuất bãi bỏ luật giam giữ những người không có khả năng trả phí phạt. Ông cũng bãi bỏ luật giam giữ các phạm nhân trong độ tuổi từ 16 đến 21, ngoại trừ những trường hợp nghiêm trọng. Trong nhiệm kỳ của mình, Churchill đã ân giảm 21 trong số 43 án tử hình đã được thông qua.
Một trong những vấn đề nhức nhối ở Anh lúc bấy giờ là quyền bầu cử của phụ nữ. Churchill ủng hộ điều này, song với điều kiện là phần đông cử tri nam giới cũng phải thuận theo. Giải pháp của ông là tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý, song lại không được sự ủng hộ của Asquith và quyền bầu cử của phụ nữ vấn tiếp tục là chủ đề gây tranh cãi cho tới năm 1918. Nhiều nhà đấu tranh nữ quyền coi Churchill là kẻ thù của phong trào giành quyền bầu cử của họ, nên họ thường nhắm vào các cuộc họp của ông để biểu tình. Tháng 11 năm 1910, nhà đấu tranh Hugh Franklin đã tấn công Churchill bằng một cái roi; Franklin bị bắt giữ và giam cầm suốt sáu tuần.
Mùa hè năm 1910, bạo loạn Tonypandy nổ ra ở Thung lũng Rhondda vì thợ mỏ nơi đây bất bình với điều kiện làm việc tệ bạc. Cảnh sát trưởng của Glamorgan yêu cầu binh lính chi viện để giúp đỡ lực lượng địa phương dập tắt bạo loạn. Churchill, khi hay tin quân lính đã được cử đi, cho phép họ tiến tới Swindon và Cardiff, nhưng ngăn cản không cho triển khai tác chiến vì lo lắng đổ máu vô ích. Thay vào đó, ông cử 270 chiến sĩ cảnh sát London, không trang bị hỏa khí, tới trợ giúp các đồng sự Wales. Với sự kéo dài bạo loạn, ông đành cho phép người biểu tình chất vấn trọng tài công nghiệp trưởng của chính phủ, và những người biểu tình liền chấp nhận. Về phần mình, Churchill nhận xét rằng cả chủ lẫn công nhân của khu mỏ này đều "rất phi lý". The Times và các mặt báo khác cáo buộc ông còn quá mềm mỏng đối với những người biểu tình; trái lại thì các đảng viên của Đảng Lao động, có liên hệ với các công đoàn, lại phê phán ông là quá mạnh tay. Cũng từ đây mà Churchill bắt đầu phát sinh sự ngờ vực lâu dài đối với phong trào lao động nói chung.
Asquith kêu gọi tổ chức tổng tuyến cử vào tháng 12 năm 1910; các đảng viên Tự do đều tái đắc cử và Churchill vẫn giữ ghế an toàn của Dundee. Tháng 1 năm 1911, Churchill đã tận mắt chứng kiến cuộc vây bắt Phố Sidney, theo đó ba tên trộm người Latvia đã sát hại nhiều sĩ quan cảnh sát trước khi lẩn trốn trong một ngôi nhà ở khu East End của London; lực lượng cảnh sát đã mau chóng phong tỏa khu vực. Churchill đứng cùng cảnh sát song không trực tiếp điều hành chiến dịch này. Sau khi ngôi nhà bốc cháy ngùn ngụt, ông đã can ngăn các chiến sĩ cứu hỏa xông vào vì e sợ những tên trộm có vũ trang. Do không được cứu hộ, hai tên trộm đã chết bên trong. Tuy bị chỉ trích vì quyết định trên, ông phát biểu rằng "thà cho ngôi nhà cháy rụi, còn hơn là đánh đổi những mạng người Anh quý giá để cứu mấy thằng nhãi ác man ấy".
Đệ nhất Đại thần Hải quân
Tháng 10 năm 1911, Asquith bổ nhiệm Churchill chức Đệ nhất Đại thần Hải quân, và ông chính thức cư trú tại Nhà Đô đốc. Ông lập ra ban tham mưu chiến tranh và, trong hai năm rưỡi tới, tập trung nâng cao cảnh giác cho hải quân, đi thăm các quân trạm và quân cảng, tìm cách cải thiện nhuệ khí binh sĩ, đồng thời theo dõi sát sao sự phát triển của hải quân Đức. Sau khi chính phủ Đức thông qua Luật Hải quân 1912 nhằm đẩy mạnh sản xuất chiến thuyền, Churchill đã thề rằng: cứ một chiến thuyền mà người Đức đóng, Anh quốc sẽ đóng hai chiếc tương đương.
Churchill thúc bách tăng lương và xây dựng cơ sở giải trí cho sĩ quan hải quân, đẩy mạnh ngành đóng tàu ngầm, và quan tâm hơn đến lực lượng không quân thuộc Hải quân Hoàng gia, theo đó khuyến khích thử nghiệm để tìm ra cách vận dụng máy bay vào trong chiến đấu. Ông đề ra thuật ngữ "seaplane" (thủy phi cơ) và hạ lệnh lắp ghép 100 mẫu máy bay mới này. Một số đảng viên Tự do chống đối sự đầu tư của Churchill cho hải quân; vào tháng 12 năm 1913, ông dọa sẽ từ chức nếu yêu sách vào năm 1914–15, về việc đóng thêm bốn chiến hạm mới, không được thông qua. Tháng 6 năm 1914, ông thuyết phục Hạ viện bắt chính phủ phải mua 51 phần trăm trữ lượng dầu mỏ dôi thừa được sản xuất bởi Công ty Dầu mỏ Anh-Ba Tư, nhằm đảm bảo nguồn cung liên tiếp cho Hải quân Hoàng gia.
Vấn đề trọng điểm lúc bấy giờ ở Anh là sự tự chủ của Ireland và, vào năm 1912, chính phủ Asquith đã giới thiệu Đạo luật Tự trị Quê nhà. Churchill ủng hộ và thúc đẩy Đảng Liên hiệp Ulster chấp thuận nó, vì lẽ ông không muốn chia cắt Ireland. Quan ngại rằng Ireland sẽ tách đôi, Churchill khẳng định: "Dù quyền của Ulster có là gì đi chăng nữa, nó không thể nào ngáng đường sự thống nhất phần còn lại của Ireland. Một nửa cái tỉnh không thể áp đặt phiếu phủ quyết vô hạn lên toàn quốc gia. Một nửa cái tính không thể cản trở mãi mãi sự hòa giải giữa hai nền dân chủ Anh và Ireland". Trước Hạ viện vào ngày 16 tháng 2 năm 1922, Churchill đã phát biểu: "Điều mà người Ireland trên toàn thế giới mong muốn nhất lúc này không phải là thù oán với đất nước ta, mà là sự thống nhất đất nước của họ". Sau đó, tuân theo quyết định của Nội các, ông tăng cường hiện diện của hải quân ở Ireland để đề phòng một cuộc nổi dậy của phái Liên hiệp. Muốn đi tới thỏa hiệp, Churchill gợi ý rằng Ireland nên tiếp tục liên bang với Vương quốc Anh, song điều này đã làm phật lòng Đảng Tự do và phái dân tộc chủ nghĩa Ireland.
Trên cương vị Đại thần Đô đốc, Churchill được giao phó việc giám sát nỗ lực chiến tranh của hải quân Anh khi Thế chiến thứ nhất nổ ra vào tháng 8 năm 1914. Cùng tháng đó, hải quân chuyên chở 120.000 lính Anh sang Pháp và phong tỏa các cảng Biến Bắc của Đức. Churchill cử tàu ngầm tới Biển Baltic để hỗ trợ Hải quân Nga và điều động Lữ đoàn Thủy quân đánh bộ tới Ostend, buộc Đức phải tái bố trí lực lượng. Vào tháng 9, Churchill nắm toàn quyền đối với hệ thống quốc phòng trên không của Anh. Vào ngày 7 tháng 10, Clementine sinh đứa con thứ ba, đặt tên là Sarah. Vào tháng 10, Churchill thẩm tra tuyến phòng thủ Antwerp của Bỉ trước nguy cơ bị Đức vây hãm, cam đoan sẽ chi viện kịp thời cho thành phố. Tuy nhiên, Antwerp thất thủ không lâu sau và Churchill đã bị chỉ trích khá nặng nề trên truyền thống vì vụ này. Song ông cho rằng hành động của mình đã giúp kéo dài cuộc kháng cự và cho phép Đồng minh chiếm được Calais và Dunkirk. Vào tháng 11, Asquith triệu tập Hội đồng Chiến tranh, bao gồm bản thân ông, Lloyd George, Edward Grey, Kitchener, và Churchill. Churchill sử dụng nguồn ngân sách Hải quân để hối thúc dự án phát triển xe tăng.
Churchill chuyển hướng chú ý sang mặt trận Trung Đông. Vì muốn giảm bớt áp lực cho quân Nga ở Kavkaz, ông vạch ra kế hoạch đánh Dardanellia để thu hút lực lượng Thổ Nhĩ Kỳ với hy vọng rằng, nếu thành công, thì người Anh có thể chiếm luôn Constantinopolis. Đề xuất này được thông qua, và vào tháng 3 năm 1915, lực lượng biệt kích Anh-Pháp nã pháo vào tuyến phòng thủ của Thổ Nhĩ Kỳ ở Dardanellia. Tháng 4 cùng năm, Lực lượng Viễn chinh Địa Trung Hải, bao gồm Quân đoàn Lục quân Úc và New Zealand (ANZAC), đổ bộ đánh chiếm Gallipoli. Cả hai chiến dịch thất bại ê chề và Churchill đã bị nhiều MP, nhất là từ Đảng Bảo thủ, đổ trách nhiệm lên đầu.
Vào tháng 5, Asquith đồng ý dưới áp lực từ nghị viện để lập ra chính phủ liên minh toàn đảng, song Đảng Bảo thủ chỉ tham gia nếu Churchill bị đào thải khỏi Văn phòng Hải quân. Churchill cố gắng biện hộ với Asquith và lãnh đạo Đảng Bảo thủ Bonar Law, song rốt cuộc vẫn bị giáng xuống chức Tướng quốc Lãnh địa Công tước Lancaster.
Trở lại quân ngũ: 1915–1916
Ngày 25 tháng 11 năm 1915, Churchill xin từ chức nội các chính phủ, vẫn giữ ghế nghị viện. Asquith khước từ thỉnh cầu cho vị trí Toàn quyền Đông Phi thuộc Anh của Churchill.
Churchill quyết định nhập ngũ và được biên chế cho tiểu đoàn 2 thuộc Vệ binh Ném lựu đạn đóng ở Mặt trận phía Tây. Tháng 1 năm 1916, ông giữ tạm thời quân hàm trung tá và được bàn giao Tiểu đoàn 6 thuộc Trung đoàn Fusilier Scotland Hoàng gia. Sau một thời gian huấn luyện, tiểu đoàn được điều lên Mặt trận Bỉ gần Ploegsteert. Trong hơn ba tháng tiếp theo, họ hứng chịu pháo kích triền miên nhưng không phải đối đầu với cuộc tiến công nào từ quân Đức. Trong chuyến thăm của Đệ cửu Bá tước Marlborough, Churchill đã suýt mất mạng vì một mảnh đạn pháo rơi giữa hai người họ. Tháng 5 cùng năm, tiểu đoàn 6 Fusilier Scotland Hoàng gia được hợp nhất với sư đoàn 15. Churchill không yêu cầu vị trí chỉ huy mới mà xin phép rời khỏi chiến tuyến. Hàm trung tá tạm thời của ông mãn hạn vào ngày 16 tháng 5 năm 1916.
Quay về Hạ viện, Churchill lên tiếng về vấn đề chiến tranh, kêu gọi mở rộng lệnh gọi nhập ngũ cho cả người Ireland, công nhận rộng rãi hơn lòng anh dũng của binh lính, và phân phát mũ sắt cho binh lính trên tiền tuyến. Tháng 11 năm 1916, ông thảo bài luận "Ứng dụng tốt hơn sức mạnh cơ giới để đạt được công kích trên bộ ", song bị phớt lờ. Ông nản chí do phải ngồi hàng ghế sau, và bị đổ lỗi liên tiếp vì vụ Gallipoli, phần lớn từ các đài báo Bảo thủ. Churchill phân trần trước Ủy ban Dardanellia, và họ đã xuất bản báo cáo thanh minh cho ông.
Chính phủ thời Lloyd George: 1916–1922
Bộ trưởng Đạn dược: 1917–1919
Tháng 10 năm 1916, Asquith từ chức Thủ tướng và được thay thế bởi Lloyd George. Tháng 5 năm 1917, vị thủ tướng mới cử Churchill đi thanh tra nỗ lực chiến tranh của người Pháp. Tháng 7 cùng năm, Churchill được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Đạn dược. Ông nhanh chóng đàm phán chấm dứt cuộc đình công ở nhà máy bên Sông Clyde, đồng thời đẩy mạnh sản xuất đạn dược. Trong thỉnh thư gửi Nội các vào tháng 10 năm 1917, ông đã vạch ra kế hoạch tấn công cho năm sau, điều rốt cuộc đã mang lại thắng lợi cho khối Đồng minh. Ông dập tắt một cuộc đình công nữa vào tháng 6 năm 1918, bằng cách dọa bắt công nhân phải nhập ngũ. Ở Hạ viện, Churchill đầu phiếu cho Dự luật Đại diện của Nhân dân 1918, cho phép một bộ phận phụ nữ Anh có quyền bầu cử. Tháng 11 năm 1918, bốn ngày sau khi Hòa ước được ký kết, đứa con thứ tư của Churchil, Marigold, chào đời.
Quốc vụ khanh Chiến tranh và Không quân: 1919–1921
Với sự khép lại của cuộc chiến, Lloyd George kêu gọi tổng tuyển cử bắt đầu từ Thứ Bảy, ngày 14 tháng 12 năm 1918. Trong chiến dịch tranh cử, Churchill hô hào quốc hữu hóa đường sắt, kiểm soát chặt độc quyền, cải cách thuế, và thành lập Hội Quốc Liên. Ông trở lại ghế MP của Dundee và, tuy Đảng Bảo thủ chiếm thế thượng phong, Lloyd George vẫn giữ chức Thủ tướng. Tháng 1 năm 1919, Lloyd George thuyên chuyển Churchill sang công tác ở Văn phòng Chiến tranh, với vai trò vừa là Quốc vụ khanh Chiến tranh, vừa là Quốc vụ khanh Không quân.
Churchill chịu trách nhiệm giải ngũ Lục quân Anh, song ông đã thuyết phục Lloyd George giữ lại một triệu lính cho Quân đội Anh ở sông Rhine. Churchill là một trong số ít chính khách phản đối sự trừng trị mạnh tay đối với nước Đức bại trận, và ông đã góp ý rằng không nên giải giáp hoàn toàn Lục quân Đức mà phải tận dụng nhằm đề phòng mối đe dọa mới từ Nga Xô viết. Ông là đối thủ thắng thắn chống lại chính quyền cộng sản do Vladimir Lenin mới lập ra ở Nga. Ông ban đầu ủng hộ việc triển khai binh lính để giúp đỡ lực lượng Bạch vệ chống cộng trong Nội chiến Nga, song dần nhận ra rằng nguyện vọng của nhân dân Anh là đưa họ về nhà. Sau khi Xô viết giành thắng lợi, Churchill đề xuất thành lập một cordon sanitaire nhằm kìm hãm cuộc cách mạng Bolshevik, không cho nó lan rộng.
Trong Chiến tranh giành độc lập Ireland, ông tán thành cho tổ chức bán quân sự Black and Tans chiến đấu với quân cách mạng Ireland. Khi hay tin lực lượng Anh ở Iraq đụng độ với phiến quân Kurd, Churchill đã cử ngay hai sư đoàn đến chi viện, đề xuất trang bị cho họ khí mù tạt để "trừng trị bọn thổ dân ngang bướng mà không làm chúng bị trọng thương", song ý kiến này không được tiếp thu. Nhìn thoáng ra, ông cho rằng sự chiếm đóng Iraq đang làm khánh kiệt nước nhà và đề xuất, tuy bất thành, rằng chính phủ nên trao trả miền trung và nam Iraq về tay Thổ Nhĩ Kỳ.
Quốc vụ khanh Thuộc địa: 1921–1922
Churchill trở thành Quốc vụ khanh Thuộc địa vào tháng 2 năm 1921. Vào tháng sau, bức tranh đầu tiên do ông vẽ được trưng bày khuyết danh ở một triển lãm tại Paris. Vào tháng 5, mẹ ông qua đời. Vào tháng 8, con gái Marigold hai tuổi của ông cũng qua đời do nhiễm trùng huyết. Cái chết của Marigold đã khiến vợ chồng Churchill suy sụp đáng kể và ông bị ám ảnh bởi bi kịch này suốt phần đời còn lại.
Churchill tham dự đàm phán với các thủ lĩnh Đảng Sinn Féin và góp sức thảo Hiệp ước Anh-Ireland. Ngoài ra, ông cũng chịu trách nhiệm giảm thiểu chi phí cho sự chiếm đóng Trung Đông, đồng thời hậu thuẫn cho hai vương triều Faisal I của Iraq và Abdullah I của Jordan. Trong thời gian này, Churchill tới thăm Lãnh thổ ủy trị Palestine và, với tư tưởng ủng họ chủ nghĩa phục quốc Do Thái, đã khước từ lời thỉnh cầu cấm người Do Thái nhập cư Palestine của người Ả-Rập Palestine. Tuy vậy, ông chấp nhận một số hạn chế theo sau cuộc bạo loạn Jaffa 1921.
Tháng 9 năm 1922, khủng hoảng Chanak khơi mào do Thổ Nhĩ Kỳ đe dọa đánh chiếm vùng trung lập Dardanelles, lúc bấy giờ đang nằm dưới sự kiểm soát của lực lượng trị an Anh đóng ở Chanak (hiện là Çanakkale). Churchill và Lloyd George ủng hộ kháng cự quân sự nhưng phần lớn Đảng Bảo thủ phản đối. Sự việc này đã kéo theo một cuộc tranh cãi nảy lửa, khiến Đảng Bảo thủ phải thoái lui khỏi chính phủ, rồi dẫn đến cuộc tổng tuyển cử tháng 11 năm 1922.
Cũng vào tháng 9, đứa con út của Churchill, tên là Mary, chào đời. Cùng tháng đó, ông mua ngôi nhà ở Chartwell, Kent. Tháng 10 năm 1922, Churchill phẫu thuật cắt ruột thừa, và trong khi ông nằm liệt viện, liên minh của Lloyd George đã bị giải tán. Trong cuộc tổng tuyển cử 1922, Churchill để mất ghế Dundee cho Edwin Scrymgeour. Ông tả hóm hỉnh mình lúc đó "không chức, không ghế, không đảng, và không ruột thừa". Dù vậy, ông vẫn được tôn vinh là một trong 50 Cộng sự Danh dự trên danh sách Danh dự Giải thể Nghị viện của Lloyd George vào năm 1922.
Nghề nghiệp giữa hai cuộc chiến
Trong cuộc Tổng tuyển cử năm 1923, ông lại sát cánh cùng phe Tự do, và thua cử ở Leicester, nhưng vài tháng sau đó, ông lại quay sang Đảng Bảo thủ, mặc dù ban đầu sử dụng chiêu bài "Chống người xã hội" và là "người theo chủ nghĩa hợp hiến".
Chưa tới một năm sau, trong cuộc Tổng tuyển cử năm 1924, ông được bầu làm đại biểu cho vùng Epping với tư cách "người theo chủ nghĩa hợp hiến" và với sự hỗ trợ của Đảng bảo thủ (một bức tượng để vinh danh ông ở Woodford Green đã được dựng lên khi Woodford Green còn là một khu bên trong vùng bầu cử Epping). Năm sau đó, ông chính thức gia nhập Đảng bảo thủ, và gượng chống chế rằng "Bất kỳ ai đều có thể rời bỏ đảng, nhưng tất nhiên là cũng cần khá nhiều khéo léo để gia nhập trở lại."
Ông được chỉ định làm Bộ trưởng Tài chính năm 1924 dưới thời Stanley Baldwin và có nhiệm vụ phụ trách việc phục hồi hệ thống bản vị vàng đầy tai hại, khiến cho lạm phát, thất nghiệp, và những vụ đình công của công nhân mỏ nổi lên dẫn tới cuộc Tổng đình công năm 1926. Quyết định này đã khiến nhà kinh tế John Maynard Keynes phải viết cuốn sách "Những hậu quả kinh tế của Churchill", đưa ra lý lẽ chính xác rằng việc quay lại áp dụng bản vị vàng sẽ dẫn tới giảm phát kinh tế thế giới. Sau này Churchill coi đây là một trong những quyết định tồi nhất trong cuộc đời chính trị của ông. Để công bằng, cũng phải nói rằng ông không phải là một nhà kinh tế và rằng ông đã hành động theo lời khuyên của Thống đốc Ngân hàng Anh Quốc, Montagu Norman (Keynes đã nói về ông này, "Luôn rất quyến rũ, và luôn rất sai lầm.")
Trong cuộc Tổng đình công năm 1926, Churchill bị cho rằng đã đề xuất sử dụng súng máy để đối phó với những thợ mỏ đình công. Churchill làm chủ bút tờ báo của chính phủ, tờ British Gazette (Công báo Anh), và trong cuộc tranh luận ông đã đưa ra lý lẽ rằng "hoặc đất nước sẽ đập tan được cuộc Tổng đình công, hoặc cuộc Tổng đình công sẽ đập tan đất nước". Hơn nữa, ông tuyên bố trong cuộc tranh luận rằng Chủ nghĩa phát xít của Benito Mussolini đã "giúp đỡ cả thế giới", cho rằng nó có "một con đường để chiến đấu với những lực lượng có âm mưu lật đổ" - có nghĩa là, ông coi chế độ phải là một lực lượng bảo vệ chống lại mối đe doạ xâm nhập của cách mạng cộng sản. Ở một quan điểm, Churchill còn đi xa tới mức gọi Mussolini là "Thiên tài của Roma nhà lập pháp lớn nhất của loài người".
Chính phủ bảo thủ bị đánh bại tại cuộc Tổng tuyển cử năm 1929. Trong hai năm tiếp theo, Churchill tỏ vẻ ghẻ lạnh với ban lãnh đạo đảng Bảo thủ về những vấn đề thuế quan bảo hộ và phong trào đòi độc lập Ấn Độ, mà ông phản đối. Ông bôi nhọ người cha phong trào đòi độc lập Ấn Độ, Mahatma Gandhi, là "một thầy tu khổ hạnh bán khoả thân" người "cần phải bị đập cho một trận, trói chân tay vào cổng thành Delhi và sau đó mang ra cho một con voi lớn với vị phó vương cưỡi trên lưng giẫm đạp".
Khi Ramsay MacDonald thành lập Chính phủ quốc gia năm 1931, Churchill không được mời tham gia. Lúc ấy ông đang ở giai đoạn tồi tệ nhất về nghề nghiệp, giai đoạn được gọi là "những năm tháng thất lạc". Ông dành thời gian mấy năm tiếp sau đó để tập trung vào viết lách, gồm cuốn "Marlborough: Cuộc đời và thời đại" - một cuốn tiểu sử về tổ tiên ông là John Churchill, Quận công Marlborough thứ nhất - và "Một lịch sử của những người nói tiếng Anh" (cuốn này không được xuất bản mãi tới sau Chiến tranh thế giới thứ hai). Ông trở nên nổi tiếng nhất về những câu nói chống lại việc trao lại độc lập cho Ấn Độ (xem Ủy ban Simon và Đạo luật Chính phủ Ấn Độ 1935).
Dù vậy, sự chú ý của ông ngay lập tức chuyển sang sự nổi lên nhanh chóng của Adolf Hitler và những mối nguy từ việc tái vũ trang của nước Đức. Trong một thời gian, ông là người duy nhất kêu gọi nước Anh phải tự tăng cường sức mạnh nhằm chống lại tình trạng chuẩn bị chiến tranh của Đức. Churchill là một người chỉ trích mãnh liệt chính sách nhân nhượng của Neville Chamberlain đối với Hitler, dẫn đầu phe bảo thủ phản đối Hiệp ước München mà Chamberlain đã tuyên bố là "hoà bình trong thời đại của chúng ta". Ông cũng tuyên bố là người ủng hộ vua Edward VIII trong thời gian xảy ra cuộc khủng hoảng thoái vị, dẫn tới một số suy đoán rằng ông có thể được chỉ định làm Thủ tướng nếu nhà vua từ chối nghe lời khuyên của Baldwin và vì thế buộc chính phủ phải từ chức. Tuy nhiên, điều này đã không xảy ra và Churchill thấy mình bị cô lập về chính trị và bị bôi bác tới bầm dập trong khoảng thời gian sau đó.
Thủ tướng thời chiến: 1940–1945
Từ Dunkirk tới Trân Châu Cảng: tháng 5 năm 1940 – tháng 12 năm 1941
Thành lập chính phủ thời chiến
Vào tháng 5, phần lớn Đảng Bảo thủ và Công Đảng vẫn rất ngờ vực về vai trò lãnh đạo của Churchill. Chamberlain là thủ lĩnh Đảng Bảo thủ cho tới tháng 10, khi sức khỏe suy sụp khiến ông phải từ chức. Tại thời điểm đó, Churchill đã chiếm được cảm tình của nhiều thành phần nghi kỵ và sự kế thừa vai trò lãnh đạo đảng của Churchill được coi là thể thức.
Ông khởi đầu nhiệm kỳ thủ tướng đầu tiên của mình với việc thành lập nội các thời chiến gồm năm thành viên: Chamberlain giữ chức Viện trưởng Viện Cơ mật, Clement Attlee giữ chức Quốc khanh ấn triện cơ mật (sau giữ chức Phó Thủ tướng), Halifax giữ chức Ngoại trưởng và Arthur Greenwood giữ chức Bộ trưởng không bộ. Trên thực tế, năm thành viên này được cố vấn tăng cường bởi các thủ trưởng tham mưu và các bộ trưởng tham dự phần lớn các cuộc họp. Bên cạnh đó, nội các liên tục thay đổi suốt cuộc chiến và không có con số thành viên cố định. Đáp lại các chỉ trích trước đó về vấn đề thiếu vắng một vị trí bộ trưởng trung ương nhằm điều hành chiến sự, Churchill đã lập ra và giữ luôn chức Bộ trưởng Quốc phòng, khiến ông trở thành vị thủ tướng nắm giữ nhiều quyền lực nhất trong lịch sử Anh Quốc. Churchill cũng bổ nhiệm thêm các chuyên gia bên ngoài để thực hiện trọn vẹn các chức năng trọng yếu của chính phủ, nhất là đối với Mặt trận Hậu phương. Trong số những nhân vật được trọng dụng gồm có Ngài Beaverbrook và Frederick Lindemann, cả hai đều trở thành những cố vấn khoa học thời chiến.
Cương quyết kháng chiến
Cuối tháng 5, trước cuộc thoái lui về Dunkirk của Lực lượng Viễn chinh Anh và nguy cơ nước Pháp thất thủ kề cận, Halifax đề nghị chính phủ cân nhắc đi đến một hòa ước với Đức thông qua trung gian là Mussolini. Từ 26-28 tháng 5, các phiên họp cao cấp liên tiếp được chủ trì, trong đó có hai phiên với sự góp mặt của thủ tưởng Pháp Paul Reynaud. Churchill quyết liệt chủ chiến, ngay cả nếu Pháp đầu hàng, song chỉ khi Chamberlain ủng hộ ông thì cả thảy nội các mới thuận theo. Churchill được sự ủng hộ của hai thành viên nội các Công Đảng nhưng biết rõ rằng Chamberlain và Halifax mới là hai mắt xích quan trọng nhất. Rốt cuộc, thông qua đồng thuận của nội các bên ngoài, Churchill nẫng tay trên của Halifax và chiếm được sự ủng hộ của Chamberlain. Churchill tin rằng lựa chọn duy nhất của nước Anh là tiếp tục kháng chiến; tài hùng biện của ông đã thuyết phục công chúng bác bỏ quan điểm về việc đi đến hòa bình, đồng thời chuẩn bị tinh thần cho nhân dân Anh chịu đựng cuộc chiến dai dẳng ở phía trước – Jenkins nhận xét rằng các bài diễn văn của Churchill "là một niềm cảm hứng cho nhân dân, và là một sự giải phóng xúc cảm [catharsis] cho chính Churchill".
Từ Trân Châu Cảng tới Ngày D: tháng 12 năm 1941 – tháng 6 năm 1944
Trận Trân Châu Cảng và sự tham chiến của Hoa Kỳ
Vào hai ngày 7–8 tháng 12 năm 1941, Nhật tấn công Trân Châu Cảng và xâm lược Mã Lai. Vào ngày 8, Churchill tuyên chiến với Nhật. Ba ngày sau, Đức và Ý tuyên chiến với Hoa Kỳ. Cùng tháng đó, Churchill gặp mặt Roosevelt tại Hội nghị Washington lần một (mật danh Arcadia) để thảo luận về vấn đề ưu tiên chiến thắng ở châu Âu trước các nỗ lực chiến tranh ở Thái Bình Dương. Người Mỹ đồng ý với Churchill rằng Hitler là kẻ thù chính và sự chiến bại của Đức là chìa khóa chiến thắng của Đồng minh. Họ cũng đồng tình rằng cuộc tấn công phối hợp đầu tiên giữa Anh và Hoa Kỳ sẽ được thực hiện trong Chiến dịch Bó đuốc, một phần của cuộc càn quét Bắc Phi thuộc Pháp (nay là Algeri và Ma-rốc). Ban đầu chiến dịch được ấn định vào mùa hè năm 1942, song phải tận cuối năm 1942 thì trận El Alamein lần hai mới mở màn.
Ngày 26 tháng 12, Churchill phát biểu trước Quốc hội Hoa Kỳ. Đêm hôm đó, ông bị đau tim nhẹ và được bác sĩ Sir Charles Wilson (sau là Lord Moran) chẩn đoán mắc bệnh thoái hóa mạch vành. Tuy được khuyên phải nghỉ ngơi lấy sức, ông tiếp tục hành trình sang Ottawa hai ngày sau bằng tàu hỏa, nơi ông phát biểu trước Nghị viện Canada.
Singapore thất thủ, đánh mất Miến Điện và nạn đói Bengal
Churchill đã có sẵn quan ngại về chất lượng lính Anh như có thể thấy tại các trận chiến trước đó tại Na Uy, Pháp, Hy Lạp và Crete. Theo sau sự thất thủ của Singapore trước quân Nhật vào ngày 15 tháng 2 năm 1942, ông đã phải thừa nhận rằng: "(đây là) thảm họa tồi tệ nhất và cuộc đầu hàng lớn nhất trong lịch sử quân sự Anh quốc". Tin xấu lại ập đến vào ngày 11 tháng 2 sau khi Kriegsmarine thực hiện thành công cuộc "Vượt Kênh" qua mắt Hạm đội Anh. Những sự biến này đã có tác động hết sức lớn đối với nhuệ khí của Churchill.
Qua đời
Năm 1963, Tổng thống Mỹ John F. Kennedy đã trao tặng giải Công Dân Danh Dự Hoa Kỳ cho Churchill. Vì già yếu, Churchill không dự được buổi lễ ở Nhà Trắng, con và cháu ông thay mặt nhận giải.
Churchill sống trong âm thầm những năm cuối cuộc đời. Ông và người con trai (Randolph Churchill) không hàn gắn được mối liên hệ khúc mắc giữa hai người. Con gái trưởng là Diana tự vẫn vào mùa thu 1963; con gái thứ Sarah ngày càng nghiện rượu hơn. Trong lễ đại thọ 90 tuổi của ông vào tháng 11 năm 1964, ông đứng trước cửa sổ nhà số 28 Cửa Hyde Park (Luân Đôn) cho phóng viên chụp ảnh. Ông trông già nua và thiểu não.
Ngày 15 tháng 1 năm 1965, Churchill một lần nữa bị tắc nghẽn mạch máu não và mê man. Ông mất tại tư gia chín ngày sau đó, vào lúc sau tám giờ sáng ngày Chủ Nhật 24 tháng 1 năm 1965, hưởng thọ 91 tuổi.
Gia đình và dòng họ
Hôn nhân và con cái
Churchill kết hôn với bà Clementine Hozier vào tháng 9 năm 1908. Hôn nhân của hai người họ bền vững suốt 57 năm. Churchill nhận thức rõ sự nghiệp chính trị của ông ảnh hưởng thế nào đến mối quan hệ vợ chồng. Theo nhà sử học Colville, ông có lẽ đã từng ngoại tình với Doris Castlerosse vào khoảng những năm 1930, song điều này bị bác bỏ bởi Andrew Roberts.
Người con đầu lòng của gia đình Churchill, Diana, chào đời tháng 7 năm 1909. Người con thứ hai, Randolph, chào đời tháng 5 năm 1911. Người con thứ ba, Sarah, chào đời tháng 10 năm 1914, và người con thứ tư, Marigold, chào đời tháng 11 năm 1918. Marigold qua đời vào tháng 8 năm 1921 do nhiễm trùng họng, được chôn cất tại Nghĩa trang Kensal Green. Mặc dù thi hài của bé được di dời đến sân nhà thờ Bladon vào năm 2019 cùng nơi an nghỉ của gia đình, hiện vẫn có một cột đá cenotaph tưởng niệm được dựng ở Kensal Green. Người con cuối của Churchill, Mary, chào đời ngày 15 tháng 9 năm 1922. Cùng tháng đó, gia đình Churchill mua dinh thự Chartwell và sống ở đây đến khi Winston qua đời vào năm 1965. Theo Jenkins, Churchill là một "người cha yêu thương và nhiệt tình" song đặt nặng kỳ vọng vào con cái.
Phả hệ
Chú thích |
Tổng thống là nguyên thủ quốc gia và là nhà lãnh đạo cao nhất của hầu hết các quốc gia theo thể chế cộng hòa cũng như theo hệ thống tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa tự do. Cũng giống như thủ tướng, quyền hành và phạm vi của họ phụ thuộc vào những quy định được đưa ra từ tổ chức lập pháp cao nhất của các quốc gia đó.
Tổng thống được bầu ra qua sự lựa chọn của người dân một cách trực tiếp hay gián tiếp, theo hiến pháp của một quốc gia. Phạm vi quyền lực của họ nhiều khi vượt xa hơn những quy định thông thường, ví dụ như họ sẽ được đề cử làm tổng tư lệnh của lực lượng vũ trang quốc gia nếu họ nhận được sự ủng hộ lớn trong quân đội.
Tổng thống trong nhiều thể chế cộng hòa khác nhau có thể có những quyền hạn khác nhau. Ở cộng hòa đại nghị, tổng thống thường có quyền hành pháp giới hạn và mang tính tượng trưng, quyền lực thường nằm ở thủ tướng và quốc hội. Mặt khác, cộng hòa tổng thống chế và cộng hòa bán tổng thống chế có tổng thống với quyền hạn cao hơn, có thể kiêm nhiệm chức vụ của người đứng đầu chính phủ.
Trong tiếng Anh và tiếng Pháp, hai từ tổng thống và chủ tịch nước đều lần lượt được dịch là President và Président nhưng trong tiếng phổ thông, tiếng Quảng Châu và tiếng Nhật lại có sự khác biệt giữa 2 từ này.
Hiện nay, phần lớn các quốc gia trên thế giới có nguyên thủ quốc gia là Tổng thống (ngoại trừ một số quốc gia xã hội chủ nghĩa).
Tổng thống có thể là người không theo đảng phái hoặc cũng có thể là người theo đảng phái. Họ là những cá nhân được nhân dân bầu ra và phải được sự chấp thuận của Quốc hội nên họ có những quyền lợi cơ bản sau:
Bổ nhiệm và bãi nhiệm các thẩm phán tòa án tối cao
Trưng cầu dân ý
Lịch sử
Chức vụ Tổng thống được nhắc đến và được áp dụng chính thức lần đầu tiên trong Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787. Trên thực tế, Nhà nước Hợp chúng quốc Hoa Kỳ đã được thành lập từ năm 1776. Cho đến 1787, Chính phủ Hoa Kỳ vẫn chưa thể tách rời hoàn toàn toàn khỏi Quốc hội Lục địa để trở thành một nhánh hành pháp mạnh mẽ và độc lập. Người đứng đầu Quốc hội Lục địa vào lúc đó được gọi là Chủ tịch Quốc hội Lục địa. Cả Chủ tịch Quốc hội Lục địa và Tổng thống Hoa Kỳ trong tiếng Anh đều được gọi là President of the United States. Tuy vậy, Chủ tịch Quốc hội Lục địa có quá ít quyền lực để có thể coi là nguyên thủ quốc gia. Hiến pháp Hoa Kỳ, được ban hành năm 1787, đã xác lập chức vụ Tổng thống Hoa Kỳ. George Washington là người đầu tiên nắm gữ chức vụ này. Vì vậy có thể coi Mỹ là cái nôi của chức vụ Tổng thống.Sau Hoa Kỳ, các nước Mỹ Latinh cũng đứng lên giành độc lập. Dưới sự lãnh đạo của những nhà cách mạng lớn như Simón Bolívar hay José de San Martín, các quốc gia như Colombia, Venezuela, Ecuador, Peru, Bolivia, Chile, Argentina đã đánh đuổi thực dân Tây Ban Nha và tuyên bố độc lập. Do ảnh hưởng bởi Cách mạng Hoa Kỳ, các quốc gia mờ này cũng chọn Tổng thống làm chức danh nguyên thủ quốc gia. Ví dụ như Simón Bolívar từng làm Tổng thống của Venezuela, của Colombia, của Bolivia, của Peru. Sau châu Mỹ, phong trào Cách mạng 1848 cũng bùng nổ tại châu Âu, dẫn đến sự ra đời của các quốc gia cộng hoà tư sản mới. Các nước cộng hoà mới này cũng áp dụng Tổng thống làm chức vụ dành cho nguyên thủ quốc gia. Như Louis-Napoleon Bonaparte trở thành Tổng thống Cộng hòa Pháp vào tháng 12-1852.
Đến thế kỷ 20, Phong trào giải phóng dân tộc bùng nổ khắp nơi, hệ thống thuộc địa của các nước đế quốc phương Tây dần tan rã. Các quốc gia thuộc địa sau khi giành được độc lập (đặc biệt là các nước châu Phi) đã áp dụng mô hình Tổng thống chế hoặc Bán tổng thống chế, theo đó Tổng thống là nguyên thủ quốc gia.
Ngày nay, hầu hết các quốc gia theo thể chế cộng hoà trên thế giới đều có Tổng thống làm nguyên thủ (ngoại trừ một số nước theo chế độ cộng sản như Việt Nam hay CHND Trung Hoa). Tuỳ theo Hiến pháp mỗi quốc gia mà nhiệm vụ và quyền hạn của Tổng thống giữa các nước có sự khác biệt.
Nhiệm vụ và quyền hạn
Cộng hoà Tổng thống chế
Ở các nước cộng hoà tổng thống (như Hoa Kỳ, Brasil, Hàn Quốc, Indonesia, Philippines, Nicaragua,...), không có sự phân biệt rõ ràng giữa nguyên thủ quốc gia, và người đứng đầu chính phủ. Theo Hiến pháp của những quốc gia này, Tổng thống đồng thời kiêm nhiệm chức vụ Thủ tướng, do đó mà quyền hành trở nên rất lớn. Ví dụ như tại Hoa Kỳ, Tổng thống có quyền phủ quyết các đạo luật do Nghị viện ban hành, bổ nhiệm và bãi miễn các bộ trưởng, nắm quyền Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang,... Tổng thống tại các nước cộng hoà tổng thống thường được bầu lên theo hình thức phổ thông đầu phiếu (riêng tại Hoa Kỳ được bầu bởi các Đại cử tri Đoàn). Các quốc gia theo hệ thống này thường tập trung tại châu Mỹ và châu Phi.
Cộng hoà Đại nghị chế
Tổng thống tại các nước cộng hòa đại nghị (như Đức, Áo, Ấn Độ, Singapore, Israel,...) thường có quyền lực hạn chế và chủ yếu mang tính nghi lễ. Quyền lực chủ yếu tập trung vào tay Quốc hội và Thủ tướng. Cá biệt có những quốc gia đại nghị như Cộng hoà Nam Phi thì Tổng thống còn kiêm luôn cả chức vụ người đứng đầu chính phủ và có quyền hành rất lớn, nhưng cũng do Quốc hội bầu ra. Hình thức bầu cử tổng thống ở các các quốc gia này rất đa dạng: bầu cử trực tiếp, do Quốc hội bầu, hoặc do Đại cử tri đoàn (Ấn Độ).
Cộng hoà lưỡng tính
Các nước cộng hoà bán tổng thống (như Pháp, Nga, Ai Cập, Ukraine,...) thường có một nguyên thủ quốc gia và một người đứng đầu chính phủ. Quyền Hành pháp được phân chia giữa tổng thống và thủ tướng. Quyền hạn của tổng thống là có thể giải tán quốc hội khi cần thiết, thống lĩnh Quân đội và giải quyết các vấn đề ngoại giao. Hình thức bầu cử phổ biến là phổ thông đầu phiếu.
Nhà nước đơn đảng
Bài chi tiết: Chủ tịch nước
Cách xưng hô
Cách xưng hô dành cho Tổng thống trong tiếng Anh thường thêm chữ Mr. (Ngài)/Mrs. (Bà)(trong trường hợp Tổng thống là nữ giới) vào trước từ President thành "Mr./Mrs. President" (Ngài/Bà Tổng thống. Một số cách xưng hô không chính thức khác như "The Honorable" hay trong quan hệ ngoại giao là "His/Her Exellency". |
Lịch sử thế giới hay còn gọi là lịch sử loài người, bắt đầu từ thời đại đồ đá cũ đến nay trong quá trình tiến hóa loài người. Khác với lịch sử Trái Đất (nó gồm cả lịch sử địa chất Trái Đất và lịch sử tiến hóa sự sống trước khi có sự xuất hiện của con người), lịch sử thế giới được nghiên cứu qua khảo cổ học và các ghi chép, truyền miệng còn sót lại từ thuở xưa. Lịch sử cổ đại được lưu giữ lần đầu tiên qua các tài liệu lưu trữ.
Tuy nhiên nguồn gốc của nền văn minh loài người trải dài từ trước khi có sự xuất hiện của chữ viết.
Thời tiền sử mở đầu từ kỷ Paleolithic (hay thời đại đồ đá cũ), tiếp sau là kỷ Neolithic (hay thời đại đồ đá mới) và chuyển tiếp dân số thời đại đồ đá mới (Neolithic Revolution) (hay cuộc cách mạng nông nghiệp) (khoảng 8000 đến 5000 năm trước Công nguyên) tại vùng đồng bằng trăng lưỡi liềm. Cuộc cách mạng nông nghiệp là mốc dấu thay đổi lịch sử loài người, con người bắt đầu tìm ra phương pháp làm nông nghiệp với những cây trồng trong tự nhiên và động vật thuần hóa từ hoang dã.khoảng 3000 năm trước đây , cư dân ở Tây Á và Nam Á là những người đầu tiên biết đúc và sử dụng đồ bằng sắt
Sự tăng trưởng của nông nghiệp dẫn đến việc con người chuyển dần từ lối sống du cư sang định cư lâu dài. Lối sống du cư vẫn duy trì tại nhiều nơi khác, đặc biệt tại những vùng lãnh thổ bị tách biệt do tự nhiên với vài loài súc vật và thực vật.
Nhu cầu liên kết tự vệ và sự gia tăng sản phẩm nông nghiệp đã cho phép các cộng đồng người mở rộng thành các đơn vị ngày càng lớn hơn, càng được thúc đẩy hơn bởi sự phát triển của giao thông vận tải.
Khi nông nghiệp phát triển, canh tác cây lương thực trở nên phức tạp hơn và thúc đẩy việc phân công lao động để tích trữ sản phẩm lương thực dư thừa giữa các mùa cây trồng sinh trưởng. Phân công lao động dẫn đến có nhiều thời gian nhàn hạ cho lớp người thượng lưu và sự phát triển của các thành phố. Xã hội ngày càng phức tạp của con người đòi hỏi phải có hệ thống chữ viết và kế toán.
Nhiều thành phố phát triển cạnh hồ và sông. Khoảng đầu năm 3000 TCN, có những điểm nổi bật đầu tiên, các khu định cư ở vùng đồng bằng Lưỡng Hà , vùng bờ sông Nin và thung lũng sông Indus mọc lên và phát triển mạnh mẽ. Nền văn minh tương tự có lẽ cũng phát triển dọc các sông chính tại Trung Quốc
Lịch sử của cựu thế giới (đặc biệt ở châu Âu và vùng Địa Trung Hải) thông thường chia thành lịch sử cổ đại (Antiquity), đến năm 476 CN; Trung Cổ từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ XV, gồm thời đại hoàng kim của đạo Hồi (750 CN- 1258 CN) và giai đoạn đầu thời kỳ Phục Hưng (bắt đầu từ khoảng 1300 CE); thời kỳ cận đại (từ TK 15 đến cuối TK 18), bao gồm Thời kỳ khai sáng; và thời kỳ hiện đại, từ cuộc cách mạng công nghiệp đến hiện tại, gồm cả lịch sử đương đại.
Văn minh Tây Á, Hy Lạp cổ đại, La Mã cổ đại là những văn minh nổi bật trong thời kỳ cổ đại.
Trong lịch sử của nền văn minh Tây Âu, sự sụp đổ của đế quốc Tây La Mã dưới thời trị vì của hoàng đế Romulus Augustulus năm 476 do sự tấn công của các bộ tộc German, nó được coi là mốc đánh dấu kết thúc thời kỳ cổ đại và là khởi đầu của thời kỳ Trung Cổ. Trong khi đó vùng Đông Âu trải qua sự chuyển tiếp từ đế quốc La Mã sang đế quốc Byzantine, đế chế này còn tồn tại vài thế kỷ mới suy tàn.
Vào khoảng giữa thế kỷ XV, Johannes Gutenberg phát minh ra máy in ấn hiện đại , sử dụng đầu mô di động làm nên cuộc cách mạng về truyền tin, là nhân tố kết thúc thời kỳ Trung Cổ, báo hiệu sự khởi đầu của cuộc cách mạng khoa học. Đến thế kỷ XVIII, sự tích lũy tri thức và công nghệ, đặc biệt là ở châu Âu, đã đạt đến khối lượng tới hạn dẫn đến cuộc cách mạng công nghiệp.
Thời tiền sử
.
Bình minh loài người
Bằng chứng khoa học dựa trên di truyền học và nghiên cứu hóa thạch, dựa vào Đồng hồ phân tử (Molecular clock) chỉ ra rằng nòi giống loài khỉ hình người, loài tiến hóa thành nhánh Homo sapiens và loài tiến hóa thành nhánh Chimpanzee (sinh vật sống có quan hệ gần gũi nhất với loài người hiện đại) đã rẽ nhánh khoảng 5 triệu năm trước.
Chi người vượn phương nam Australopithecine được cho là loài khỉ không đuôi đầu tiên đứng thẳng đi bộ bằng 2 chân, cuối cùng tiến hóa thành chi loài Homo.
Về phương diện giải phẫu loài người hiện đại, Homo sapiens (người Khôn ngoan) tiến hóa ở châu Phi khoảng 200.000 năm trước, đạt tới hành vi hiện đại khoảng 50.000 năm trước .
Giống người hiện đại di cư ra khỏi châu Phi khoảng 70.000 năm trước, đến châu Âu khoảng 40.000 năm trước; và Đông Nam châu Á khoảng 50.000 năm trước.
Sự lan rộng nhanh chóng của loài người đến Bắc Mỹ và châu Đại Dương đã diễn ra đỉnh điểm ở kỷ băng hà gần đây nhất, khi những vùng ôn đới của ngày nay đã từng vô cùng khắc nghiệt.
Tuy nhiên con người đã xâm chiếm gần như toàn bộ các vùng băng giá vào thời điểm cuối kỷ băng hà, khoảng 12.000 năm trước.
Các giống khỉ hình người khác như Người đứng thẳng (Homo erectus) đã sử dụng gỗ và đá làm công cụ trong cả thiên niên kỷ, theo thời gian các công cụ ngày càng trở nên tinh xảo. Tại một số thời điểm, con người bắt đầu sử dụng lửa để sưởi ấm và nấu ăn. Họ cũng bắt đầu phát triển ngôn ngữ vào giai đoạn Thời đại đồ đá cũ, và ý niệm về âm nhạc, phương thức chôn cất cho người chết và trang điểm cho người sống.
Sự thể hiện nghệ thuật đầu tiên có thể được tìm thấy dưới dạng bức tranh hang động và tác phẩm điêu khắc làm từ gỗ và xương. Trong thời điểm này, tất cả loài sống bằng săn bắt - hái lượm, và nói chung là du cư.
Các xã hội săn bắt - hái lượm có khuynh hướng rất nhỏ, mặc dầu trong một số trường hợp họ đã phát triển sự phân tầng xã hội và những tiếp xúc ở khoảng cách xa đã có thể diễn ra ở trường hợp những "xa lộ" bản xứ Australia.
Cuối cùng đa số các xã hội săn bắt - hái lượm đã phát triển, hay buộc phải bị hấp thu vào những tổ chức xã hội nông nghiệp lớn hơn. Những xã hội không hội nhập bị tiêu diệt, hay vẫn trong tình trạng cách ly, những xã hội săn bắt hái lượm nhỏ đó hiện vẫn tồn tại ở những vùng xa xôi.
Sự đi lên của văn minh loài người
Cuộc cách mạng nông nghiệp, bắt đầu từ khoảng 8000 năm TCN, sự phát triển của nông nghiệp đã gây ra thay đổi mạnh mẽ phương thức sống của con người. Nông nghiệp cho phép tập trung dân số dày hơn, theo thời gian nó chuyển biến thành các thành bang. Nông nghiệp cũng tạo ra lượng dư lương thực, cấp dưỡng cho những người không trực tiếp tham gia vào sản xuất lương thực. Sự phát triển nông nghiệp cho phép tạo ra các thành phố đầu tiên. Đây là các trung tâm thương mại, sản xuất thủ công nghiệp và quyền lực chính trị mà bản thân nó gần như không có sản xuất nông nghiệp. Sự hình thành các thành phố đi kèm là sự cộng sinh với các vùng nông thôn xung quanh nó, tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp, và cung cấp lại các sản phẩm thủ công nghiệp và nhiều cấp độ khác nhau về kiểm soát quân sự và bảo vệ lãnh thổ.
Sự phát triển của các thành phố đồng nghĩa với sự đi lên của nền văn minh.
Nền văn minh xuất hiện sớm nhất là ở vùng Lưỡng Hà(3500 năm TCN). Tiếp sau là nền văn minh Ai Cập cổ đại dọc dòng sông Nin (3000 năm TCN) và văn minh lưu vực sông Ấn ở thung lũng sông Ấn (hiện tại là Ấn Độ và Pakistan; 2500 năm TCN). Các xã hội này phát triển dựa trên một số đặc điểm thống nhất, gồm một chính quyền trung ương, một nền kinh tế và cấu trúc xã hội phức tạp, hệ thống ngôn ngữ và chữ viết phức tạp, nền văn hóa và tôn giáo khác biệt. Chữ viết là mấu chốt trong lịch sử phát triển của loài người, vì nó giúp chính quyền của các thành phố biểu đạt ý nghĩ dễ dàng hơn.
Nền văn minh trở nên phức tạp kéo theo làm phức tạp về tôn giáo, và dạng đầu tiên cũng bắt nguồn từ giai đoạn này. Các thực thể như mặt trời, mặt trăng, Trái Đất, bầu trời và biển thường được tôn sùng. Các đền thờ được xây dựng, phát triển, và dần hoàn thiện với hệ thống cấp bậc như linh mục,thầy tế và các chức danh khác. Điển hình của thời kỳ đồ đá này là có xu hướng thờ các vị thần mang hình dáng con người. Trong số những văn bản kinh tôn giáo lâu đời nhất còn tồn tại là các văn bản kim tự tháp Ai Cập (khoảng giữa 2400 đến 2300 TCN). Một số nhà khảo cổ học cho rằng, dựa trên dấu tích khai quật được ở ngôi đền Göbekli Tepe (Potbelly Hill) ở miền nam Thổ Nhĩ Kỳ, có niên đại từ 11500 năm trước, tôn giáo hình thành trước khi xảy ra cuộc cách mạng nông nghiệp chứ không phải sau như suy nghĩ trước đó.
Thời đại đồ đồng là một phần trong hệ thống ba thời đại (thời đại đồ đá mới, thời đại đồ đồng, thời đại đồ sắt), là thuật ngữ mô tả nền văn minh cổ đại từng tạo ảnh hưởng tại một số khu vực trên thế giới. Trong thời đại này những vùng đất màu mỡ đã sản sinh ra những thành bang và những nền văn minh này bắt đầu phát triển hưng thịnh ở một số nơi trên thế giới. Các nền văn minh đều nằm trên lưu vực ven sông bởi nước có vai trò thiết yếu trong một xã hội nông nghiệp, và các dòng sông cũng hỗ trợ cho nhu cầu giao thông vận tải được trở nên thuận tiện.
Sự xuất hiện các nền văn minh
Vùng Lưỡng Hà
Lưỡng Hà là vùng đất thuộc vùng đồng bằng trăng lưỡi liềm, nơi khai sinh ra các nhà nước thành bang cổ đại. Vùng giao nhau của sông Tigris và sông Euphrates đã tạo nên một vùng đất màu mỡ và nguồn cung cấp nước cho tưới tiêu. Những nền văn minh nổi lên xung quanh hai con sông này là những nền văn minh lâu đời nhất không du canh- du cư được biết cho đến nay. Vùng Lưỡng Hà này sản sinh ra những nền văn minh như Sumerian, Akkadian, Assyrian, and Babylonian .
Sumerian, một trong những nền văn minh phát triển mạnh trong khu vực Lưỡng Hà là nền văn minh phức tạp đầu tiên được biết đến cho đến nay, phát triển từ một số thành bang vào thiên niên kỷ thứ 4 trước Công nguyên. Nền văn minh này phát minh ra gạch, bánh xe, công cụ cày bừa, và đồ gốm lần đầu tiên trong lịch sử.
Nền văn minh Sumerian nổi lên trong suốt thời kỳ Ubaid (Ubaid period) (6500-3800 TCN) và những thành phố cổ đại Uruk, Eridu phát triên ổn định trong giai đoạn đầu thời kỳ Ubaid. Tại thành phố cổ Eridu (miền nam Lưỡng Hà) những ngôi đền thờ nằm xen lẫn với các khu định cư cổ đại (khoảng 5000 năm TCN).
Nông nghiệp Sumerian phát triển trên lưu vực sông Tigris và sông Euphrates. Lương thực dư thừa dẫn đến phân công lao động, không cần phải ai cũng tham gia vào nông nghiệp, cuối cùng hình thành các tầng lớp xã hội. Trên là vua Sumerian, thầy tế, và quan chức chính quyền dưới là các người phụ việc, thương gia, nông dân, ngư dân. Đáy xã hội là những người nô lệ. Nô lệ thường là một phạm nhân, tù nhân, hoặc những người trong nợ nần.
Trong khu vực Lưỡng Hà, dạng chữ viết đầu tiên đã xuất hiện là chữ hình nêm (Cuneiform) có nguồn gốc từ hệ thống chữ tượng hình. Những hình ảnh đại diện của nó dần trở nên đơn giản hơn. Chữ hình nêm được viết trên đá phiến sét, những chữ cái được viết bằng cây sậy có tác dụng như bút trâm (Stylus). Cùng với sự thành lập của các trạm chuyển phát sự quản lý quốc gia trở nên dễ dàng hơn. Với người Sumerian chỉ những con cái nhà giàu, quý tộc mới được học chữ. Chúng được học tại một nơi gọi là Edubba, chỉ có con trai được học.
Các văn bản lịch sử văn hóa đã góp phần vào sự tồn tại của nền văn minh này. Một trong những văn bản cổ nhất trên thế giới, có tên Sử thi Gilgamesh, có nguồn gốc từ nền văn minh này.
Năm 2400 TCN, đế chế Akkadian được tạo dựng ở vùng Lưỡng Hà.
Vài thế kỷ tiếp sau, đế chế Assyria nổi lên, tiếp theo đó là đế chế của người Babylon.
Lưu vực sông Nin
Lưu vực sông Nin ở Bắc Phi là nơi ra đời nền văn minh Ai Cập cổ đại. Khoảng 6000 năm TCN, xuất hiện các vương quốc của xã hội tiền Ai Cập cổ đại (trước khi xuất hiện chế độ quân chủ ở Ai Cập) có kĩ năng trồng trọt và chăn thả gia súc.
Những hình ảnh ban đầu đó có thể quan sát được qua những biểu tượng trên đồ gốm của nền văn hóa Gerzeh, khoảng 4000 năm TCN, giống với chữ tượng hình của Ai Cập cổ đại. Vữa hồ bắt đầu được sử dụng từ khoảng 4000 năm TCN, đồ gốm sứ bắt đầu được sản xuất từ khoảng 3500 năm TCN. Bệnh viện và trung tâm phục vụ y tế bắt đầu có từ 3000 năm TCN.
Bằng chứng khảo cổ cho thấy sự hiện diện của con người ở khu vực tây nam Ai Cập, gần biên giới với Sudan, khoảng 8000 năm TCN. Khoảng 7000-3000 TCN, khí hậu sa mạc Sahara ẩm ướt hơn ngày hôm nay, do đó cho phép các hoạt động canh tác trên đất mà bây giờ trở nên khô hạn. Biến đổi khí hậu bắt đầu từ sau năm 3000 TCN dẫn đến quá trình khô cằn dần dần trong khu vực. Do tác động của những biến đổi này, các cư dân của bộ lạc cổ đại tại sa mạc Sahara buộc phải di chuyển đến khu vực xung quanh sông Nin khoảng năm 2500 TCN. Ở đó, họ phát triển một nền kinh tế và xã hội nông nghiệp và hệ thống xã hội phức tạp hơn. Bộ tộc người từ lâu đã sinh sống hai bên bờ sông Nin cũng đã phát triển cộng đồng của họ một cách độc lập. Gia súc được nhập từ châu Á khoảng 7500-4000 năm TCN.
Người Ai Cập cổ đại được biết đến với nhiều thành tựu và phát minh trong lịch sử, bao gồm cả việc xây dựng các kim tự tháp khổng lồ, phẫu thuật cổ đại, khoa học toán học, và vận tải bằng thuyền.
Sự nổi lên của triều đại Ai Cập bắt đầu khi thống nhất Thượng và Hạ Ai Cập khoảng 3200 năm TCN, và kết thúc vào khoảng năm 340 TCN, bắt đầu từ triều đại Nhà Achaemenes trên lãnh thổ Ai Cập. Vương quốc của Ai Cập dẫn đầu bởi một vị vua nắm giữ cung điện Pharaon. Lúc đỉnh điểm, đế chế của ông trải dài từ đồng bằng sông Nin đến núi Gebel Barkal, Sudan.
Xã hội Ai Cập cổ đại tạo dựng sự cân bằng giữa con người với thiên nhiên, đặc biệt là dựa vào dòng sông Nin trong tưới tiêu nông nghiệp của họ. Quốc gia cổ đại này được biết qua những văn bản chữ tượng hình, công trình kim tự tháp, đền thờ và các lăng mộ dưới lòng đất; sử dụng xe ngựa chiến để tăng cường sức mạnh quân đội.
Có sự khác biệt lớn giữa các tầng lớp xã hội. Hầu hết các thành viên cộng đồng là nông dân, nhưng họ không được hưởng sản phẩm họ trồng được. Sản phẩm nông nghiệp thuộc sở hữu của nhà nước, đền thờ, hoặc gia đình quý tộc có đất nông nghiệp. Chế độ nô lệ cũng tồn tại, nhưng chi tiết về họ trong xã hội Ai Cập cổ đại vẫn chưa rõ ràng.
Lưu vực sông Ấn
Văn minh lưu vực sông Ấn xuất hiện khoảng 3300 năm TCN. Giai đoạn đầu xuất hiện trước 4000 năm TCN. Trung tâm của nền văn minh là nằm bao quanh sông Ấn (chủ yếu thuộc lãnh thổ của Pakistan, và một phần nhỏ là thuộc Afghanistan, Iran và Ấn Độ), mở rộng về phía đông đến lưu vực sông Ghaggar-Hakra và ngược dòng vươn tới sông Hằng- sông Yamuna. Phía tây mở rộng tới bờ biển Makran thuộc Balochistan (Pakistan), phía nam đến làng Daimabad, tỉnh Maharashtra, Ấn Độ.
Sự phát triển của nền văn minh được chia thành nhiều giai đoạn và đánh dấu sự phát triển của các thành phố trong tiểu lục địa Ấn Độ..
Đây là nền văn minh đầu tiên xuất hiện hoạt động nông nghiệp ở Nam Á.
Lúa mì (tiểu mạch), đại mạch, và táo tàu (Jujube) được trồng khoảng 9000 năm trước Công nguyên; dê và cừu nuôi sau đó. Nền nông nghiệp và chăn nuôi phát triển tại Mehrgarh khoảng 8000-6000 năm TCN. Thời kỳ này cũng xuất hiện sự kiện thuần hóa loài voi.
Khoảng thiên niên kỷ thứ 5 trước Công nguyên, một cộng đồng nông nghiệp nằm rải rác ở khu vực Kashmir.
Tại các bãi khảo cổ của nền văn minh này người ta tìm thấy các vật dụng như giỏ, công cụ bằng đá, công cụ bằng xương, vòng cổ, vòng tay, hoa tai, vỏ động vật giáp xác biển, đá vôi, ngọc lam, sa thạch và đồng.
Nền văn minh này phát triển thịnh vượng các thành phố gồm: Harappa (3300 TCN), Dholavira (2900 TCN), Mohenjo-Daro (2500 TCN), Lothal (2400 TCN), và Rakhigarhi, và hơn 1000 thị trấn và ngôi làng nhỏ khác. Kiến trúc đô thị của nền văn minh này được xây bằng gạch, có hệ thống thoát nước bên đường, và nhà ở tập trung liền sát nhau (Terraced house). Các thành phố lớn có bề rộng khoảng một dặm, và có khoảng cách lớn giữa các thị trấn và nhiều khả năng là dấu hiệu của sự tập trung chính trị, hoặc dưới dạng của 2 thành bang, hoặc dưới dạng một đế chế không có thủ đô cố định hay có lẽ thay thế Harappa, Mohenjo-Daro, do bị phá hủy bởi lũ lụt không chỉ một lần.
Nền văn minh này cũng được biết đến với việc sử dụng hệ thống đo lường thập phân cổ đại.
Vào cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên, sự phát triển của văn minh lưu vực sông Indus bước vào thời kỳ Vệ Đà. Bộ sách thánh ca Vệ đà tiếng Phạn theo ước tính được soạn thảo từ 1700-1100 TCN, bộ sưu tập các bài thánh ca này trở thành nền tảng của Ấn Độ giáo và xu hướng của các xã hội tiền Ấn Độ khác.
Vào một thời điểm không chắc chắn khoảng cuối thế kỷ thứ VI TCN, có một người tiên phong tạo nên Ấn Độ giáo, tôn giáo mà còn tồn tại đến ngày nay.
Lưu vực sông Hoàng Hà
Khởi phát nền văn minh Trung Quốc nằm cách không xa sông Hoàng Hà (dọc theo sông Trường Giang) do xung quanh khu vực tìm thấy nhiều di tích của thời Trung Quốc tiền sử.
Các nền văn minh thời đại đồ đá mới tìm thấy được ở Trung Quốc là văn minh Bành Đầu Sơn (Pengtoushan) (sông Trường Giang) và văn minh Bùi Lý Cương (Kebudayaan Peiligang), tất cả chúng đều xuất hiện khoảng 7000 năm TCN hoặc sớm hơn.
Giai đoạn văn hóa Bành Đầu Sơn khó xác định, kết quả các tính toán cho biến thiên từ 9000-5500 năm TCN, tại di chỉ của nền văn hóa này tìm thấy dấu tích của lúa gạo từ khoảng 7000 năm TCN.
Tại di chỉ Giả Hồ (Jiahu) cổ đại tìm thấy vài bằng chứng về việc trồng lúa. Một khám phá quan trọng tại Giả Hồ là cây sáo cổ có niên đại khoảng 7000-6000 năm TCN.
Văn minh Bùi Lý Cương là một trong những nền văn minh lâu đời nhất tại Trung Quốc có sản xuất đồ gốm.
Cả nền văn minh Bành Đầu Sơn và nền văn minh Bùi Lý Cương đều phát triển hoạt động trồng Kê, chăn nuôi, lưu trữ và phân phối thực phẩm. Bằng chứng khảo cổ cũng cho thấy sự hiện diện của các thợ thủ công, đày tớ.
Lối chữ hình vẽ (Pictogram) được cho là khởi đầu của hệ thống chữ viết Trung Quốc bắt nguồn từ các hoạt động nông nghiệp và chăn nuôi tại Trung Quốc.
Tại di chỉ Giả Hồ tìm thấy một số lối chữ hình vẽ, nó không được xem là có hệ thống chữ viết nhưng những ký hiệu đó dẫn đến hệ thống chữ viết.
Tại văn hóa Đại Mạch Địa (Damaidi), Ninh Hạ có hàng ngàn dấu chạm khắc trên vách đá có từ 6000-5000 năm TCN, mang những đặc trưng của lối chữ hình vẽ giống với mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, thánh thần, các khung cảnh đi săn và trông nom gia súc. Lối chữ hình vẽ tại đây gần như tương đồng với các ký tự Trung Quốc cổ đại được biết cho đến nay.
Văn hóa Bành Đầu Sơn được thay thế bởi văn hóa Ngưỡng Thiều (Yangshao culture) (5000-3000 năm TCN) ảnh hưởng của nền văn hóa này bao trùm phía Bắc Trung Quốc. Nền văn hóa này cũng đã thay thế nền văn hóa Long Sơn (Yangshao culture) khoảng 2500 năm TCN. Tại địa điểm khảo cổ di chỉ Tam Tinh Đôi (Sanxingdui) và văn hóa Nhị Lý Đầu (Erlitou culture) có bằng chứng của văn minh đồ đồng. Con dao bằng đồng với hình thái cổ xưa nhất (khoảng 3000 năm TCN) được tìm thấy tại di chỉ văn hóa Mã Gia Diêu (Majiayao culture) (thuộc tỉnh Cam Túc và tỉnh Thanh Hải).
Theo lịch sử Trung Quốc, sông Hoàng Hà được sử dụng cho tưới tiêu khoảng năm 2200 TCN thời vua Hạ Vũ, người đặt nền móng nhà Hạ. Nhà Hạ (khoảng 2100-1600 TCN) được đề cập là triều đại đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, nó được nhắc đến trong sử ký Tư Mã Thiên và Trúc thư kỉ niên. Mặc dù có sự tranh cãi về triều đại thần thoại này, có vài bằng chứng khảo cổ học chứng minh cho sự tồn tại của nó. Tư Mã Thiên nói rằng triều đại này thành lập được thành lập khoảng năm 2200 TCN nhưng mốc thời gian này không thuyết phục. Hiện nay nhiều nhà khảo cổ học kết nối được sự tồn tại của triều đại nhà Hạ bởi cuộc khai quật ở tỉnh Hà Nam, nơi khám phá ra những nội thất đồ đồng khoảng năm 2000 TCN.
Triều đại lịch sử đầu tiên được công nhận là triều đại nhà Thương, khoảng năm 1500 TCN. Bằng chứng khảo cổ học cho sự tồn tại của triều đại nhà Thương là các đồ tạo tác bằng đồng và giáp cốt văn, mai rùa hay xương thú được khắc các ký tự Trung Quốc cổ, các văn tự này được tìm thấy ở lưu vực sông Hoàng Hà tại thủ đô Triều Ca nhà Thương. Các di tích mai rùa của nhà Thương có niên đại 1500 năm TCN, tính toán theo công nghệ Cacbon phóng xạ.
Thay thế nhà Thương là nhà Chu, vào khoảng thế kỷ XI TCN. Thời điểm kết thúc nhà Chu đã ra đời 2 nhà triết học nổi tiếng Trung Quốc là Khổng Tử (người thiết lập Khổng giáo) và Lão Tử (người thiết lập Đạo giáo.
Hy Lạp cổ đại
Trong hang động Franchthi, phía đông nam Argolis, Hy Lạp có bằng chứng về hoạt động nông nghiệp của Hy Lạp cổ đại. Xấp xỉ 11000 năm TCN, canh tác ngũ cốc, các loạt hạt, lúa mì xảy ra đồng thời, trong khi yến mạch và đại mạch xuất hiện khoảng 10500 năm TCN; đậu Hà Lan và Lê thì khoảng 7300 năm TCN.
Khu vực định cư thời đồ đá mới rải rác khắp Hy Lạp cùng với hoạt động nông nghiệp và sản xuất đồ gốm. Những địa điểm nổi tiếng như Sesklo và Dimini, đã có đường giao thông, quảng trường. Nó là một ví dụ về không gian thành phố cổ trong lục địa châu Âu. Một địa điểm quan trọng khác là Dispilio nơi phát hiện ra một phiến đá cổ xưa với đường nét như văn bản cổ.
Văn minh Minoan là nền văn minh thời đại đồ đồng đầu tiên tại Hy Lạp.
Nền văn minh phát sinh trên đảo Crete và phát triển mạnh mẽ khoảng 2700-1500 năm TCN, nhưng thời điểm khởi đầu phát triển của nó xảy ra rất xa trước đó. Con người bắt đầu sinh sống trên đảo Crete ít nhất từ 128.000 năm TCN, trong thời kỳ đồ đá cũ. Các hoạt động nông nghiệp ngày lớn, phức tạp hơn, và dẫn đến nền văn minh dần được khởi tạo vào khoảng 5000 năm TCN. Sự tồn tại của các nền văn minh này đã bị lãng quên đến khi nó được phát hiện vào đầu thế kỷ XX bởi nhà khảo cổ học người Anh Sir Arthur Evans. Will Durant nhìn nhận nền văn minh là "xâu chuỗi đầu tiên trong sợi dây lịch sử châu Âu".
Nền văn minh Mycenae phát triển tại phía bắc của đảo Crete khoảng năm 1600 TCN, khi nền văn hóa Helladik trên đất liền Hy Lạp chuyển đổi dưới ảnh hưởng của nền văn hóa Minoan của đảo Crete.
Không giống như người Minoan người dựa vào thương mại. Nền văn minh Mycenae có cộng đồng thích đi xâm chiếm, thống trị bởi tầng lớp hiệp sĩ quý tộc Aristocracy.
Khoảng năm 1400 TCN, người dân Mycenae mở rộng phạm vi quyền lực của họ cho Crete do trung tâm của nền văn minh Minoan gặp phải vụ phun trào Minoa tại đảo Santorini, và họ chấp nhận hệ thống chữ viết Linear A để viết ngôn ngữ Hy Lạp cổ đại, hệ thống chữ viết phát triển trong suốt văn minh Mycenae gọi là Linear B.
Truyền thuyết về các cuộc xâm chiếm giữa các thành bang ở Hy Lạp không chỉ là Mycenae, thành bang Troy được đề cập đến trong sử thi Iliad như là một đối thủ của Mycenae. Vì chỉ có duy nhất nguồn sử liệu của Hómēros về lịch sử thành Troy và cuộc chiến tranh thành Troia nên có thể nó không có thật. Năm 1876, nhà khảo cổ học người Đức Heinrich Schliemann khám phá ra các di tích tại Hisarlik, vùng phía tây bán đảo Tiểu Á thuộc Thổ Nhĩ Kỳ ngày này và công bố rằng nó là địa điểm của thành Troy. Chắc chắn rằng địa điểm của thành Troy được nhắc đến bởi Hómēros vẫn còn tiếp tục bị bàn cãi
Nền văn minh Hy Lạp đã ảnh hưởng rất lớn đến các nền văn minh châu Âu sau đó, đặc biệt là nền văn minh La Mã. Trong Hy Lạp cổ các thành bang Athena, Sparta, Corinth, và Thebes có nền chính trị độc lập, và mối quan hệ ít căng thẳng với nhau. Nếu một thành phố không đủ nhu cầu lương thực để duy trì toàn bộ dân số, thì họ sẽ rời đi một phần để thiết lập một thành phố mới, thị trấn mới có vai trò thuộc địa, lệ thuộc vào thành phố ban đầu để cùng bảo vệ trước các mối đe dọa, trước các cuộc chiến với bên ngoài.
Dãy Andes
Trung Bộ châu Mỹ
Sự phát triển của nông nghiệp
Một sự thay đổi lớn, được miêu tả bởi nhà tiền sử học Vere Gordon Childe như là một "cuộc cách mạng," đã diễn ra khoảng thiên niên kỷ 9 TCN với việc hình thành nghề nông. Mặc dầu nghiên cứu có khuynh hướng tập trung vào vùng đất Trăng lưỡi liềm màu mỡ ở Trung Đông, khảo cổ học ở châu Mỹ, Đông Á và Đông Nam Á cho thấy rằng những hệ thống nông nghiệp trồng cấy nhiều loại ngũ cốc khác nhau và sử dụng các loại gia súc khác nhau có thể đã phát triển hầu như đồng thời ở một số nơi.
Một bước tiến nữa ở nông nghiệp Trung Đông xảy ra với sự phát triển tưới tiêu có tổ chức và sử dụng lực lượng lao động chuyên biệt, bởi những người Sumer, bắt đầu vào khoảng 5.500 TCN. Đồng và sắt thay thế đá để trở thành công cụ trong nông nghiệp và chiến tranh. Tới tận lúc đó những xã hội nông nghiệp định cư hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào các công cụ đá. Ở Âu Á, các công cụ đồng đỏ và đồng thau, những đồ trang trí và vũ khí bắt đầu trở nên dồi dào vào khoảng năm 3000 TCN. Sau đồ đồng, vùng Đông Địa Trung Hải, Trung Đông và Trung Quốc bắt đầu sử dụng công cụ và vũ khí bằng sắt.
Những người dân châu Mỹ có thể không hề biết tới công cụ kim loại cho tới tầng Chavin năm 900 TCN. Chúng ta cũng biết rằng Moche có áo giáp, những con dao và bộ đồ ăn bằng kim loại. Thậm chí người Inca vốn ít dùng đồ kim loại cũng có những chiếc cày mũi kim loại, ít nhất sau khi chinh phục Chimor. Tuy nhiên, ít có những tìm kiếm khảo cổ học ở Peru và hầu như toàn bộ khipus (những vật sáng chế để ghi lại thông tin, dưới hình thức các nút thắt, người Incas từng sử dụng) đã bị đốt cháy khi diễn ra Cuộc chinh phục Peru của người Tây Ban Nha. Toàn bộ các thành phố vẫn đang được khám phá vào năm 2004. Một số khai quật khảo cổ cho thấy rằng có thể thép đã từng được chế tạo tại đây trước khi nó phát triển ở châu Âu.
Các vùng lưu vực ven sông trở thành những cái nôi của những nền văn minh đầu tiên như lưu vực sông Hoàng Hà ở Trung Quốc, sông Nin ở Ai Cập, và lưu vực sông Ấn ở Pakistan. Một số dân tộc du cư, như những người Thổ dân Australia và thổ dân Nam Phi ở phía Nam châu Phi, không biết tới nông nghiệp cho tới tận thời hiện đại.
Nhiều nhóm người không thuộc về các quốc gia trước 1800. Trong số những nhà khoa học, đã có sự bất đồng về thuật ngữ "bộ lạc" phải được sử dụng để miêu tả loại xã hội của những người sống trong đó. Những phần rộng lớn của thế giới có thể là lãnh thổ của những "bộ lạc" đó trước khi người châu Âu bắt đầu tiến hành thực dân hoá. Nhiều "bộ lạc" chuyển thành quốc gia khi họ bị đe dọa hay bị ảnh hưởng bởi các quốc gia. Ví dụ như Marcomanni và Lát via. Một số "bộ lạc", như Kassites và Mãn Châu, chinh phục các quốc gia và lại bị chúng đồng hoá.
Nông nghiệp đã tạo cơ hội cho các xã hội phức tạp hơn, cũng được gọi là những nền văn minh. Các cuộc gia và các thị trường xuất hiện. Các kỹ thuật cải thiện khả năng của con người nhằm kiểm soát thiên nhiên và phát triển giao thông và thông tin.
Sự phát triển của tôn giáo
Đa số các nhà sử học truy nguyên sự khởi đầu của Đức tin tôn giáo ở thời Đồ đá mới. Đa số các đức tin tôn giáo thời kỳ này cốt ở sự thờ phụng một Đức mẹ nữ thần, một Cha bầu trời, và cũng có sự thờ phụng Mặt trời và Mặt Trăng như các vị thần. (xem thêm sự thờ phụng Mặt trời)
Phát triển của văn minh
Quốc gia
Nông nghiệp dẫn tới nhiều thay đổi lớn. Nó cho phép một xã hội đông đúc hơn rất nhiều, và nó tự tổ chức mình vào trong những quốc gia. Đã có nhiều định nghĩa được sử dụng cho thuật ngữ "quốc gia" Max Weber và Norbert Elias định nghĩa quốc gia là một tổ chức những người có một độc quyền về sự sử dụng hợp pháp vũ lực trong một vùng địa lý riêng biệt.
Những quốc gia đầu tiên xuất hiện ở Lưỡng Hà, Ai Cập cổ đại và lưu vực sông Ấn Độ vào cuối thiên niên kỷ thứ 4 và đầu thiên niên kỷ thứ ba TCN. Ở Lưỡng Hà, có nhiều thành bang. Ai Cập cổ đại khởi đầu là một quốc gia không có các thành phố, nhưng nhanh chóng sau đó các thành phố xuất hiện. Một quốc gia cần một quân đội để thực hiện việc sử dụng vũ lực hợp pháp. Một quân đội cần một bộ máy quan liêu để duy trì nó. Ngoại trừ duy nhất là trường hợp văn minh lưu vực sông Ấn Độ vì thiếu bằng chứng về một lực lượng quân sự.
Các quốc gia đã xuất hiện ở Trung Quốc vào cuối thiên niên kỷ thứ ba đầu thiên niên kỷ thứ hai TCN. Các cuộc chiến tranh lớn nổ ra giữa các quốc gia ở Trung Đông. Hiệp ước Kadesh, một trong những hiệp ước hòa bình đầu tiên, được ký kết giữa người Hittites và Ai Cập cổ đại khoảng 1275 TCN. Vào thế kỷ thứ VI TCN, Hoàng đế Cyrus II (Cyrus Đại Đế) trỗi dậy kiến lập Đế quốc Ba Tư cường thịnh, chinh phạt được các nước Media, Lydia và Babylon. Ai Cập cũng rơi vào tay của con trai ông là Hoàng đế Cambyses II. Ngoài ra, lịch sử thế giới cổ đại cũng có những quốc gia hùng mạnh khác như đế quốc Maurya (thế kỷ thứ IV TCN), Trung Quốc (thế kỷ thứ III TCN), và Đế quốc La Mã (thế kỷ thứ I TCN).
Đụng độ giữa các đế quốc diễn ra vào thế kỷ thứ VIII, khi Khalip của Ả Rập (cai trị từ xứ Tây Ban Nha cho đến Iran) và nhà Đường bên Trung Quốc (cai trị từ Triều Tiên) đã đánh nhau trong hàng thập kỷ để giành quyền kiểm soát Trung Á. Rộng lớn hơn cả trong thời đại này là đế quốc Mông Cổ vào thế kỷ thứ XIII. Lúc ấy, đa số người dân ở châu Âu, châu Á, Bắc Phi đều thuộc vào các quốc gia. Cũng có các quốc gia ở México và tây Nam Mỹ. Các quốc gia tiếp tục kiểm soát ngày càng nhiều vùng lãnh thổ và dân chúng trên thế giới; vùng đất cuối cùng chưa có quốc gia bị các quốc gia chia sẻ với nhau theo Hiệp ước Berlin năm (1878).
Thành phố và thương mại
Nông nghiệp cũng tạo nên và cho phép sự tích trữ lương thực thặng dư có thể dùng để cung cấp cho những người không dính dáng trực tiếp tới việc sản xuất lương thực. Sự phát triển của nông nghiệp cho phép sự xuất hiện của những thành phố đầu tiên. Chúng là những trung tâm của quốc gia và hầu như không tự mình sản xuất ra lương thực. Các thành phố là những kẻ ăn bám và được cung cấp lương thực từ những vùng nông thôn xung quanh, nhưng trái lại nó cung cấp sự bảo vệ quân sự ở nhiều mức độ khác nhau.
Sự phát triển của các thành phố dẫn tới cái được gọi là văn minh: đầu tiên Văn minh Sumerian ở hạ Lưỡng Hà (3500 TCN), tiếp theo là văn minh Ai Cập dọc sông Nin (3300 TCN) và nền văn minh Harappan ở lưu vực sông Ấn (3300 TCN). Đã có bằng chứng về những thành phố phức tạp với những mức độ xã hội cao và nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, những nền văn minh này khá khác biệt so với nhau bởi vì chúng hầu như có nguồn gốc độc lập. Chính ở thời gian này chữ viết và thương mại ở tầm rộng bắt đầu xuất hiện.
Tại Trung Quốc, những xã hội tiền thành thị có thể đã phát triển từ 2500 TCN, nhưng triều đình đầu tiên được khảo cổ học xác định là nhà Thương. Thiên niên kỷ thứ 2 TCN chứng kiến sự nổi lên của nền văn minh ở Crete, lục địa Hy Lạp và trung tâm Thổ Nhĩ Kỳ. Ở châu Mỹ, các nền văn minh như Maya, Moche và Nazca nổi lên ở Mesoamerica và Peru vào cuối thiên niên kỷ thứ 1 TCN. Những đồng tiền xu đã được sử dụng ở Lydia.
Những con đường thương mại tầm xa xuất hiện lần đầu thiên niên kỷ thứ 3 TCN, khi những người Sumerians ở Lưỡng Hà buôn bán với nền văn minh Harappan ở lưu vực sông Ấn. Những con đường thương mại cũng xuất hiện ở phía đông Địa Trung Hải vào thiên niên kỷ thứ 4 TCN. Con đường tơ lụa giữa Trung Quốc và Syria bắt đầu từ thiên niên kỷ thứ 2 TCN. Các thành phố ở Trung Á và Ba Tư là nơi ngã ba đường của những con đường thương mại đó. Các nền văn minh Phoenician và Hy Lạp đã lập ra các đế quốc ở lưu vực Địa Trung Hải vào thế kỷ thứ I TCN dựa trên thương mại. Người Ả Rập thống trị các con đường thương mại ở Ấn Độ Dương, Đông Á, và Sahara vào cuối thiên niên kỷ thứ 1 và đầu thiên niên kỷ thứ 2. Những người Ả Rập và Do Thái cũng thống trị thương mại ở Địa Trung Hải vào cuối thiên niên kỷ thứ 1. Người Ý chiếm vai trò này vào đầu thiên niên kỷ thứ 2.
Các thành phố người Flemish và Đức nằm ở trung tâm các con đường thương mại ở Bắc Âu vào đầu thiên niên kỷ thứ 2. Ở mọi vùng, các thành phố chính phát triển ở những ngã ba đường dọc theo những con đường thương mại.
Tôn giáo và Triết học
Những triết học và tôn giáo mới xuất hiện ở cả phía đông và phía tây, đặc biệt là vào khoảng thế kỷ thứ VI TCN. Cùng với thời gian, một tập hợp đa dạng các tôn giáo phát triển trên thế giới, với Ấn Độ giáo và Phật giáo ở Ấn Độ, Hỏa giáo ở Ba Tư là một trong số những đức tin lớn và sớm nhất. Ở phía đông, ba trường phái tư tưởng ngự trị Trung Quốc cho đến tận ngày nay. Chúng gồm Đạo giáo, Pháp gia, và Khổng giáo. Truyền thống Khổng giáo, sau này đạt được vị trí thống trị, không tìm cách tăng cường luật pháp, mà là tìm kiếm quyền lực và những tấm gương truyền thống cho đạo đức chính trị. Ở phía tây, truyền thống triết học Hy Lạp, được thể hiện qua các tác phẩm của Plato và Aristotle, đã được truyền bá ra khắp châu Âu và Trung Đông qua các cuộc chinh phục của vua Alexandros Đại Đế xứ Macedonia vào thế kỷ thứ IV TCN.
Những vùng và những nền văn minh lớn
Tới những thế kỷ cuối cùng TCN, vùng Địa Trung Hải, sông Hằng và sông Dương Tử đã trở thành khu vực phát sinh của các đế quốc mà các nhà cai trị về sau này sẽ phải tìm cách học tập. Trong lịch sử Ấn Độ, đế quốc Maurya cai trị đa phần tiểu lục địa Ấn Độ, trong khi người Pandyas cai trị phần nam Ấn Độ. Trong lịch sử Trung Quốc, nhà Tần và nhà Hán đã mở rộng sự cai trị của đế quốc thông qua sự thống nhất chính trị, cải thiện thông tin và nổi tiếng nhất là việc thành lập nhà nước độc quyền của vua Hán Quang Vũ Đế. Ở phía tây, những người La Mã bắt đầu mở rộng lãnh thổ của mình thông qua các cuộc chinh phục và thực dân hóa từ thế kỷ III TCN. Dưới thời cai trị của Hoàng đế Augustus, khoảng thời điểm ra đời của Giêsu thành Nazareth, La Mã kiểm soát mọi vùng đất bao quanh Địa Trung Hải.
Các đế quốc vĩ đại dựa trên khả năng khai thác quá trình sáp nhập thông qua quân sự và việc thành lập những vùng định cư được bảo vệ để trở thành những trung tâm nông nghiệp. Hòa bình mà họ mang lại thúc đẩy thương mại quốc tế, mà nổi tiếng nhất là sự phát triển của con đường tơ lụa. Họ cũng phải đối mặt với các vấn đề thông thường, như những vấn đề liên quan tới việc duy trì những đội quân đông đảo và ủng hộ một chế độ quan liêu trung tâm. Các chi phí đó đều đổ lên đầu nông dân, trong khi những lãnh chúa đất ngày càng trốn tránh quyền kiểm soát từ trung ương và cũng không chịu nộp thuế cho nhà nước. Áp lực của các bộ lạc du cư ở biên giới cũng đẩy nhanh quá trình tan rã từ bên trong. Vương triều nhà Hán rơi vào nội chiến năm 220, trong khi Đế quốc La Mã bắt đầu giảm tập trung hóa và cũng bị phân chia vào thời gian đó.
Trên các vùng khí hậu ở Âu Á, châu Mỹ và Bắc Phi, các đế quốc lớn tiếp tục nổi lên và sụp đổ. Tại Ba Tư, Vương triều nhà Sassanid phát triển hùng mạnh, với các Hoàng đế Ardashir I, Shapur I, Shapur II và Khosrow I.
Sự tan rã dần dần của đế quốc La Mã, đã tồn tại qua nhiều thế kỷ, từ sau thế kỷ thứ II, trùng khớp với sự mở rộng của Ki-tô giáo về phía tây từ Trung Đông. Phần phía tây của Đế quốc La Mã rơi vào tay của nhiều bộ lạc người Đức vào thế kỷ thứ V, và những xã hội đó dần phát triển thành một số chiến quốc, tất cả đều liên kết với Giáo hội Công giáo La Mã theo cách này hay cách khác. Phần còn lại của đế quốc La Mã ở phía đông Địa Trung Hải từ đó được gọi là đế quốc Đông La Mã. Nhiều thế kỷ sau, một sự hợp nhất có giới hạn đã phục hồi lại tây Âu thông qua sự thành lập đế quốc La Mã thần thánh, gồm một số quốc gia hiện thuộc Đức và Ý.
Tại Trung Quốc, các triều đại nổi lên rồi lại sụp đổ giống như nhau. Những người du cư từ phía bắc bắt đầu xâm chiếm từ thế kỷ thứ IV, cuối cùng chinh phục hầu như toàn bộ miền bắc Trung Quốc và lập nên nhiều tiểu quốc. Nhà Tuỳ tái thống nhất Trung Quốc năm 581, và dưới thời nhà Đường (618-907) Trung Quốc lần thứ hai trải qua thời cực thịnh của họ. Tuy nhiên, nhà Đường cũng tan vỡ và, sau khoảng nửa thế kỷ hỗn loạn, nhà bắc Tống thống nhất Trung Quốc năm 982. Tuy nhiên, áp lực từ các quốc gia du cư phía bắc ngày càng cấp bách. Toàn bộ miền bắc Trung Quốc rơi vào tay người Nữ Chân năm 1141 và đế quốc Mông Cổ đã chinh phục toàn bộ Trung Quốc năm 1279, cũng như hầu như toàn bộ vùng Âu Á, chỉ còn lại vùng tây Âu và trung Âu, Nhật Bản và Đông Nam Á- hoặc là lệ thuộc như Cao Ly hoặc là đánh thắng như Việt Nam.
Miền bắc Ấn Độ được cai trị bởi đế quốc Gupta vào thời đó. Ở miền nam Ấn, ba vương quốc của bật của người Tamil xuất hiện, là Chera, Chola, và Pallava. Sự ổn định tiếp sau đó góp phần báo trước thời đại hoàng kim của văn hoá Ấn Độ giáo vào thế kỷ thứ IV và thế kỷ V.
Các xã hội rộng lớn cũng bắt đầu được dựng lên ở Trung Mỹ vào thời kỳ đó, người Maya và người Aztec ở Mesoamerica là những xã hội phát triển nhất. Khi nền văn hoá nguyên gốc của người Olmec dần tàn lụi, các thành bang lớn của người Maya chậm rãi vượt lên cả về số lượng và tầm ảnh hưởng, và văn hoá Maya phát triển ra khắp Yucatán và các vùng xung quanh. Đế quốc về sau này của người Aztec được xây dựng trên những nền văn hoá láng giềng và bị ảnh hưởng từ những dân tộc đã bị chinh phục, như người Toltec.
Nam Mỹ chứng kiến sự trỗi dậy của người Inca vào thế kỷ thứ XIV và thế kỷ thứ XV. Đế chế Inca ở Tawantinsuyu trải dài ra toàn bộ vùng Andes và có kinh đô ở Cusco. Inca thời ấy rất thịnh vượng và tiến bộ, được biết tới nhờ hệ thống đường sá Inca tuyệt vời và các công trình xây dựng lớn.
Hồi giáo, khởi đầu từ vùng Ả Rập vào thế kỷ thứ VII, cũng là một trong những thế lực đáng chú ý nhất trong suốt lịch sử thế giới, từ khởi đầu với một số ít tín đồ nó đã trở thành nền tảng cơ bản của nhiều đế quốc rộng lớn tại Ấn Độ, Trung Đông và Bắc Phi.
Ở vùng Đông Bắc Phi, Nubia và Ethiopia, cả hai nước từ lâu đã có quan hệ với vùng Địa Trung Hải, vẫn thuộc ảnh hưởng của Ki-tô giáo trong khi phần còn lại của châu Phi phía bắc đường xích đạo đã đổi sang Hồi giáo. Cùng với Hồi giáo là những kỹ thuật mới đã lần đầu tiên cho phép thương mại chính yếu vượt qua Sahara. Nguồn thuế từ thương mại đó dẫn tới sự thịnh vượng ở Bắc Phi và sự nổi lên của nhiều vương quốc vùng Sahel.
Thời kỳ này được ghi dấu bởi sự cải tiến kỹ thuật chậm chạp nhưng chắc chắn, với những sự phát triển có tầm ảnh hưởng quan trọng như bàn đạp yên ngựa và bừa (mouldboard plough) xuất hiện cách nhau chỉ vài thế kỷ.
Sự trỗi dậy của châu Âu
Bối cảnh sự tiến bộ của châu Âu
Các đế chế nông nghiệp ban đầu bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi môi trường của họ. Sản lượng còn thấp và các thảm hoạ thiên nhiên thường là nguyên nhân chính tác động vào vòng xoay thịnh vượng rồi suy tàn gây nên sự trỗi dậy và sụp đổ của chúng. Nhưng tới năm 1000, đã có một sự thay đổi về chất trong lịch sử thế giới. Tiến bộ kỹ thuật và sự thịnh vượng được thương mại thúc đẩy dần ngày càng có ảnh hưởng lớn hơn. Những thay đổi đó thường xảy ra ở những vùng có sản lượng nông nghiệp cao nhất: Trung Quốc, Ấn Độ và các khu vực trong thế giới Hồi giáo.
Trung Quốc có những người nông dân tự do không còn bị phụ thuộc, họ có thể bán hoa lợi và tham gia hăng hái vào thị trường. Nông nghiệp có sản lượng cao. Nhưng, sau những cuộc tấn công dữ đội đầu tiên của người Nữ Chân, những gì sót lại của Vương triều nhà Tống đã bị người Mông Cổ chinh phục năm 1279.
Bên ngoài, cuộc Phục hưng của châu Âu (bắt đầu vào thế kỷ XIV). Nó đã mang lại một nền văn hoá mang nhiều tính tò mò và sau cùng dẫn tới chủ nghĩa nhân đạo, cách mạng khoa học, và cuối cùng là sự chuyển đổi vị đại của cách mạng công nghiệp. Tuy nhiên, cách mạng khoa học ở thế kỷ XVII không gây ảnh hưởng lập tức tới công nghệ. Chỉ ở nửa sau của thế kỷ XIX những tiến bộ khoa học mới được áp dụng cho các phát minh thực tiễn. Những sự tiến bộ của châu Âu được phát triển vào giữa thế kỷ XVIII gồm cả hai: một nền văn hoá thương mại và sự giàu có nhờ thương mại ở Đại Tây Dương.
Một số ý kiến được đưa ra để giải thích tại sao, từ 1750 trở đi, châu Âu trỗi dậy và vượt qua các nền văn minh khác, trở thành nơi phát sinh cách mạng công nghiệp, và thống trị phần còn lại của thế giới. Max Weber cho rằng nó nhờ vào một tác dụng về mặt đạo đức của Tin lành (Protestant work ethic) đã thúc đẩy những người châu Âu làm việc hăng hái hơn và lâu dài hơn so với những thế hệ trước. Một giải thích kinh tế - xã hội khác lại lưu ý tới nhân khẩu học: châu Âu với giới tăng lữ sống độc lập, với sự di cư thuộc địa, những trung tâm thành thị có tỷ suất tử cao, những cuộc chiến triền miên, và có độ tuổi kết hôn muộn nên gây trở ngại lớn tới sự tăng trưởng dân số của nó so với các nền văn hoá châu Á. Sự thiếu hụt lao động đồng nghĩa với việc những thặng dư được đầu tư vào tiến bộ kỹ thuật nhằm tiết kiệm nhân công như các bánh xe và các cối xay, các xa quay tơ và khung cửi chạy bằng nước, động cơ hơi nước, và vận chuyển bằng tàu thủy chứ không mất chi phí vào việc mở rộng đơn giản quy mô dân số. Nhiều người cho rằng các thể chế của châu Âu cũng có tính ưu việt, rằng những quyền sở hữu và những nền kinh tế thị trường tự do ở châu Âu mạnh mẽ hơn ở bất kỷ nơi nào khác trên thế giới.
Địa lý châu Âu cũng có thể đóng một vai trò quan trọng. Trung Đông, Ấn Độ và Trung Quốc tất cả đều bị bao quanh bởi các dãy núi, nhưng một khi vượt qua được các biên giới bên ngoài đó thì đất đai lại khá phẳng. Trái lại, dãy Alps, Pyrenees, và các rặng núi khác chạy xuyên suốt châu Âu, và lục địa bị phân chia bởi nhiều biển. Điều này làm cho châu Âu có được sự bảo vệ khỏi mối nguy hiểm từ những kẻ xâm lược vùng Trung Á. Ở thời kỳ trước khi có súng cầm tay, tất cả vùng Âu Á đều bị đe doạ bởi những kỵ sĩ vùng thảo nguyên Trung Á. Những dân tộc du cư đó có ưu thế về quân sự so với các nước nông nghiệp ở vùng rìa lục địa và nếu họ tràn vào bên trong các đồng bằng phía bắc Ấn Độ hay những vùng châu thổ Trung Quốc thì không có cách nào để ngăn cản được họ. Những cuộc xâm lấn đó thường gây tàn phá và huỷ hoại. Thời đại hoàng kim của Hồi giáo đã chấm dứt khi quân Mông Cổ cướp phá kinh thành Baghdad năm 1258, và cả Ấn Độ cùng Trung Quốc cũng là mục tiêu của các cuộc xâm lược từ Đế quốc Mông Cổ hùng mạnh. châu Âu, đặc biệt là tây Âu cách khá xa khỏi mối đe doạ đó.
Địa lý cũng góp phần vào những khác biệt địa chính trị quan trọng. Trong đa phần lịch sử của mình Trung Quốc, Ấn Độ và Trung Đông đều thống nhất dưới một quyền lực cai trị duy nhất và nó mở rộng cho đến khi chạm tới những vùng núi non và sa mạc. Vào năm 1600, Đế quốc Ottoman kiểm soát hầu như toàn bộ Trung Đông, nhà Minh cai quản Trung Quốc, và Đế quốc Mughal từng cai trị toàn bộ Ấn Độ. Trái lại, châu Âu hầu như luôn bị chia rẽ trong số các nước chiến quốc. Các đế quốc "toàn Âu", ngoại trừ Đế quốc La Mã, sớm trước đó, đều có khuynh hướng suy sụp sớm ngay sau khi họ nổi lên. Nghịch lý, sự cạnh tranh dữ dội giữa các nước đối nghịch thường được miêu tả như là một nguồn gốc của sự thành công của châu Âu. Ở những vùng khác, sự ổn định thường được ưu tiên hơn so với sự phát triển. Ví dụ, sự nổi lên của Trung Quốc với tư cách cường quốc trên biển đã bị Hai jin nhà Minh ngăn cản. Ở châu Âu sự cấm đoán như vậy là không thể xảy ra vì có sự bất hoà, nếu bất kỳ một nước nào áp đặt lệnh cấm đó, nó sẽ nhanh chóng bị bỏ lại sau so với những kẻ cạnh tranh với nó.
Một yếu tố địa lý quan trọng khác góp phần vào sự trỗi dậy của châu Âu là Địa Trung Hải, trong hàng nghìn năm, nó hoạt động như một siêu xa lộ trên biển tạo thuận lợi cho những trao đổi hàng hoá, con người, ý tưởng và những phát minh.
Một Tây Âu thực dân và một Đông Âu hùng mạnh
Vào thế kỷ mười bốn, thời kỳ Phục hưng đã bắt đầu ở châu Âu. Một số học giả hiện nay đã đặt ra câu hỏi về việc thời kỳ nở rộ về nghệ thuật và chủ nghĩa nhân đạo này có ảnh hưởng thế nào đối với khoa học, nhưng quả thực thời kỳ này đã chứng kiến một sự hợp nhất quan trọng giữa kiến thức Ả rập và châu Âu. Một trong những phát triển có tầm quan trọng nhất là thuyền buồm, nó tích hợp buồm tam giác của người Ả Rập với buồm vuông của người châu Âu để tạo ra những chiếc tàu đầu tiên có thể chạy một cách an toàn trên Đại Tây Dương. Cùng với những phát triển quan trọng trong nghề hàng hải, kỹ thuật này đã cho phép Christopher Columbus năm 1492 đi ngang qua Đại tây dương và nối từ Phi-Âu Á đến Châu Mỹ.
Việc này có những ảnh hưởng to lớn tới cả hai lục địa, là một trong những vấn đề ngoài phạm vi sử học nổi tiếng nhất. Người châu Âu đem theo họ bệnh tật mà người châu Mỹ chưa từng bao giờ biết tới, và một số lượng không chắc chắn, có lẽ hơn 90% người thổ dân châu Mỹ đã bị giết hại trong một lô những vụ lan truyền bệnh dịch kinh khủng. Người châu Âu cũng có những tiến bộ khoa học về ngựa, sắt thép và súng cho phép họ có khả năng vượt trội so với các Đế chế của người Aztec và Inca, cũng như các nền văn hoá khác ở Bắc Mỹ.
Vàng và các nguồn tài nguyên từ châu Mỹ bắt đầu bị cướp đoạt khỏi tay những người châu Mỹ và được chất lên thuyền đem về châu Âu, cùng lúc đó số lượng lớn những người châu Âu thực dân bắt đầu di cư về phía tây. Để đáp ứng nh cầu lớn về lao động ở các thuộc địa mới, sự xuất khẩu ồ ạt những người châu Phi làm nô lệ bắt đầu. Ngay sau đó nhiều người châu Mỹ bắt đầu có đặc điểm di truyền từ các nô lệ. Ở Tây Phi, một loạt những quốc gia giàu có đã phát triển dọc theo Bờ biển nô lệ, bắt đầu trở nên thịnh vượng từ khai thác và bóc lột những người châu Phi nô lệ.
Sự mở rộng hàng hải của châu Âu, nhờ vào vị trí địa lý của họ, phần lớn là nhờ ở các nước lục địa gần bờ biển Đại tây dương: Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh Quốc, Pháp, Hà Lan. Đế quốc Bồ Đào Nha và Đế quốc Tây Ban Nha ban đầu là những kẻ chinh phục lớn mạnh nhất và có ảnh hưởng lớn nhất, nhưng chỉ một thời gian ngắn sau nó đã được chuyển giao cho Anh Quốc, Pháp và Hà Lan những nước này thống trị Đại Tây Dương. Trong một loạt những cuộc chiến, diễn ra vào thế kỷ XVII và thế kỷ XVIII, lên tới cực điểm với những cuộc chiến thời Napoleon, Anh Quốc nổi lên là siêu cường đầu tiên của thế giới. Nó là một đế quốc trải dài khắp quả đất, kiểm soát, ở lúc cực điểm, gần một phần tư bề mặt lục địa thế giới, trên đó "Mặt trời không bao giờ lặn".
Lúc ấy, những cuộc viễn du của Đô đốc Trịnh Hòa bị nhà Minh, triều đình được thành lập sau khi đánh đuổi được người Mông Cổ ở Trung Quốc, cấm đoán. Một cuộc cách mạng thương mại Trung Quốc, thỉnh thoảng được miêu tả như là giai đoạn "chủ nghĩa tư bản sơ khai," cũng sớm chết yểu. Nhà Minh cuối cùng lại rơi vào tay những người Mãn Châu, trở thành nhà Thanh, và đó là một giai đoạn yên tĩnh và thịnh vương, nhưng càng ngày càng trở nên một con mồi đối với sự xâm lấn từ phương tây.
Ngay sau khi xâm chiếm châu Mỹ, người châu Âu đã sử dụng tiến bộ kỹ thuật của mình để chinh phục các dân tộc ở châu Á. Đầu thế kỷ XIX, nước Anh chiếm quyền kiểm soát tiểu lục địa Ấn Độ, Ai Cập và Bán đảo Malaysia; Người Pháp chiếm Đông Dương; trong khi người Hà Lan chiếm Đông Ấn. Người Anh cũng chiếm nhiều vùng khi ấy chỉ có những bộ tộc ở trình độ văn minh thời kỳ đồ đá mới, gồm Australia, New Zealand và Nam Phi, và, giống như trường hợp châu Mỹ, rất nhiều kẻ thực dân Anh bắt đầu di cư sang các vùng đó. Vào cuối thế kỷ mười chín, những vùng cuối cùng ở châu Phi còn chưa bị xâm chiếm bị các nước mạnh ở châu Âu đem ra chia chác với nhau.
Vào các thế kỷ XVIII và XIX, các liệt cường Đông Âu phát triển cường thịnh. Trong suốt 149 năm kể từ khi Nga hoàng Aleksei I mất vào năm 1676 cho đến khi Nga hoàng Aleksandr I mất vào năm 1825, Vương triều nhà Romanov đã đưa đất nước từ một cường quốc địa phương non trẻ lên thành một "tên sen đầm của châu Âu" bất khả chiến baị. Trong khi Nga hoàng Aleksei I lên ngôi cùng thập niên với vua Pháp là Louis XIV thì ông chẳng được biết đến mấy tại Hoàng cung Versailles, thì Nga hoàng Aleksandr I đã đánh tan tác quân Pháp mà thẳng tiến vào kinh thành Paris. Nga hoàng Pyotr I (trị vì: 1682 - 1725) và Nữ hoàng Ekaterina II (trị vì: 1762 - 1796) đều được tôn vinh là "Đại Đế", với tài năng phi thường họ đã cống hiến không nhỏ đến sự phát triển cường thịnh của nước Nga. Nước Nga giành thắng lợi trong nhiều cuộc chiến tranh và Đại Công quốc Moskva vươn lên thành một "Đế quốc của toàn dân Nga". Lực lượng Quân đội Nga trở nên hùng cường. Đế quốc Nga cường thịnh đã dẹp tan tác mọi mối đe dọa trước đây từ quân Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman và quân Thụy Điển. Danh tiếng của nước Nga vang xa trong cuộc Chiến tranh Bảy năm, dù Nữ hoàng Elizaveta thất bại trong việc xâm lược nước Phổ. Vua nước Phổ là Friedrich II cũng thoát khỏi chính sách bành trướng của nước Nga trong những năm tháng sau đó.
Trong cùng thời gian đó, Vương quốc Phổ nhanh chóng phát triển hùng cường. Nước Phổ trở thành một tấm gương sáng, phản ánh truyền thống châu Âu nhân văn: với một bộ máy hành chính chính phủ hữu hiệu, một chính sách khoan dung tôn giáo và một bộ máy dân sự không tham nhũng. "Hào khí Phổ" trỗi dậy với niềm trung quân, niềm nhiệt huyết với nền quân sự, và niềm tự hào với sự phát triển của nền văn hóa đất nước. Các vua Friedrich I (trị vì: 1688 - 1713) và Friedrich Wilhelm I (trị vì: 1713 - 1740) phát triển đất nước, tham chiến trong các cuộc Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha và Đại chiến Bắc Âu, chiếm được những vùng đất quan trọng như Stettin và Tây Pomerania. Vua Friedrich Wilhelm I ra sức xây dựng một lực lượng Quân đội Phổ hùng mạnh. Vào ngày 16 tháng 12 năm 1740, tân vương Friedrich II (được tôn vinh là Friedrich Đại Đế hay Friedrich Độc Đáo) đem 27 nghìn quân chinh phạt được tỉnh Silesia của Đế quốc Áo. Ông tiến hành những cải cách tiến bộ, và giữ vững được toàn bộ đất nước trong cuộc Chiến tranh Bảy năm chống cả liên quân Pháp - Áo - Nga - Thụy Điển. Vị vua xuất chúng này được những người đương thời thán phục và các nhà sử học mê say. Sau này, ông còn thiết lập "Liên minh các Vương hầu" thắng lợi, trở thành vị minh chủ của các tiểu quốc Đức trong Đế quốc La Mã Thần thánh.
Thời kỳ này ở châu Âu chứng kiến Thời đại Lý tính dẫn tới cách mạng khoa học, làm thay đổi sự hiểu biết của chúng ta về thế giới và tạo cơ sở cho cách mạng công nghiệp, một sự chuyển đối căn bản của các nền kinh tế thế giới. Nó bắt đầu ở nước Anh và việc sử dụng những hình thức sản xuất mới như các nhà máy, sản xuất hàng loạt, và cơ giới hoá để sản xuất ra nhiều loại sản phẩm với tốc độ nhanh hơn và tốn ít nhân công hơn các cách thức sản xuất trước đó. Thời đại của lý trí cũng dẫn tới sự khởi đầu của dân chủ như chúng ta biết hiện nay, trong những cuộc cách mạng ở Mỹ và ở Pháp vào cuối thế kỷ XVIII. Dân chủ sẽ phát triển để có một ảnh hưởng sâu rộng lên các sự kiện thế giới và chất lượng cuộc sống. Trong thời cách mạng công nghiệp, kinh tế thế giới nhanh chóng dựa trên than, cũng như những hình thức giao thông mới, như đường sắt và tàu hơi nước, làm cho thế giới trở nên nhỏ hơn. Trong lúc ấy, ô nhiễm công nghiệp và những tổn hại đối với môi trường thiên nhiên, đã hiện diện từ khi khám phá ra lửa và sự bắt đầu của nền văn minh, đã được đẩy nhanh gấp hàng chục lần.
Thế kỷ XX
Thế kỷ XX chứng kiến sự giảm sút mức độ thống trị đối với thế giới của châu Âu, một phần vì những thiệt hại và sự tàn phá khốc liệt của Chiến tranh thế giới thứ nhất và Chiến tranh thế giới thứ hai cùng với sự hiện diện của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ và Liên bang Xô viết với tư cách là những siêu cường mới. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Liên hiệp quốc được thành lập với hy vọng rằng ngăn chặn các cuộc xung đột giữa các quốc gia và làm cho chiến tranh không thể xảy ra trong tương lai - những hy vọng vẫn chưa bao giờ có thể thực hiện được. Sau năm 1990, Liên bang Xô viết sụp đổ và Hợp chúng quốc Hoa Kỳ trở thành siêu cường duy nhất trên thế giới. (Xem "Pax Americana.")
Thế kỷ này cũng chứng kiến sự trỗi dậy của những hệ tư tưởng mới. Đầu tiên, sau năm 1917 là chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô, nó lan rộng ra khắp Đông Âu sau năm 1945, và Trung Quốc năm 1949, cùng những nước khác thuộc Thế giới thứ ba trong những năm thuộc thập kỷ 1950 và 1960. Thập kỷ 1920 là giai đoạn chủ nghĩa độc tài phát xít quân phiệt chiếm được quyền lãnh đạo ở Đức, Ý, Nhật và Tây Ban Nha.
Những sự chuyển giao quyền lực đó đã dẫn tới các cuộc chiến tranh với tầm vóc và mức độ huỷ diệt khác nhau. Chiến tranh thế giới thứ nhất đã tiêu diệt nhiều chế độ quân chủ cũ tại châu Âu, và làm suy yếu Pháp và Anh Quốc. Chiến tranh thế giới thứ hai dẫn tới sự sụp đổ của những chế độ độc tài quân sự ở châu Âu và sự trỗi dậy của cộng sản chủ nghĩa ở Đông Âu và châu Á, gây ra cuộc Chiến tranh lạnh, sự căng thẳng kéo dài bốn mươi năm giữa Hoa Kỳ với Liên bang xô viết và đồng minh của họ. Toàn bộ nhân loại bị đặt trước nguy cơ hủy diệt bởi sự phát triển của các loại vũ khí hạt nhân. Sau khi có bước tiến bộ vượt bậc về vũ khí, thế giới lại phải chứng kiến sự tan rã của Liên bang Xô viết thành những quốc gia riêng lẻ, một số những nước cộng hoà cũ tái gia nhập với Nga vào trong một khối thịnh vượng chung, các nước khác hợp với Tây Âu.
Thế kỷ này cũng là thời điểm công nghệ tiến bộ vượt bật, tuổi thọ con người và tiêu chuẩn sống tăng lên đáng kể. Khi kinh tế thế giới chuyển từ căn bản dựa trên than đá chuyển qua dựa trên dầu mỏ, kỹ thuật thông tin và giao thông tiếp tục làm thế giới trở nên phát triển hơn. Những thành tựu công nghệ trong thế kỷ này cũng góp phần giảm các vấn đề ô nhiễm môi trường tại thành phố so với thời dùng than.
Nửa sau của thế kỷ XX là giai đoạn phát triển của thời đại tin học và toàn cầu hoá làm thuận tiện hơn trong thương mại và trao đổi văn hoá tăng lên ở mức đáng kinh ngạc. Thám hiểm vũ trụ mở rộng ra toàn bộ hệ mặt trời. DNA, mức độ bản nguyên nhất của sự sống đã được khám phá và bộ gene của con người cũng đã được nối kết đầy đủ, hứa hẹn sẽ mang lại một thay đổi về tình trạng bệnh tật của loài người. Số lượng những bài báo khoa học hiện nay vượt quá tổng số lượng của chúng trước năm 1900 , và cứ 15 năm lại tăng gấp đôi. Tỷ lệ biết chữ tiếp tục tăng lên, và phần trăm nhân lực cần thiết để sản xuất ra đủ lượng lương thực cho thế giới ngày càng giảm bớt khi chúng ta đạt tới (thời đại của những máy móc trí tuệ).
Cũng trong giai đoạn này đã xuất hiện nguy cơ về sự kết thúc của lịch sử loài người, là kết quả của những nguy cơ không thể điều tiết được của quá trình toàn cầu hoá: sự phát triển vũ khí hạt nhân, hiệu ứng nhà kính và các hình thức khác của sự suy giảm chất lượng thiên nhiên có nguyên nhân từ "những nhà máy sử dụng nguyên liệu hoá thạch," những cuộc xung đột quốc tế có nguyên nhân từ sự suy giảm của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự lan truyền nhanh chóng của các loại dịch bệnh như HIV, và sự di chuyển gần Trái Đất của các tiểu hành tinh và sao chổi.
Sự phát triển của các quốc gia cũng làm gia tăng mong ước chiếm đoạt và nỗi sợ hãi vì bị thiệt hại. Ý thức đồng nhất quốc gia luôn được viện tới trong mọi cuộc xung đột với bên ngoài và được coi là một nguy cơ tiềm tàng. Khi thế kỷ XX chấm dứt, thế giới cũng chứng kiến sự trỗi dậy của một số nước được coi là cường quốc mới, là Liên minh châu Âu. Một số bước chuẩn bị đầy toan tính đã được thực hiện nhằm cạnh tranh với Liên minh châu Âu từ các nước Châu Á, Châu Phi và Nam Mỹ. Sự trỗi dậy, cuộc sống và sự sụp đổ của các quốc gia, được tổ chức với nhiều sắc dân đông đảo và cho mục đích hoàn thành các mục tiêu của loài người, tiếp tục là một nguy cơ của chiến tranh, với sự thiệt hại đi cùng về nhân mạng, vật chất, bệnh tật, đói nghèo và diệt chủng.
Toàn cầu hóa và Tây phương hóa
Về mặt chính trị, thế giới được thống nhất bởi người châu Âu, những người đã lập nên các thuộc địa ở đa phần những vùng lãnh thổ thế giới bên ngoài châu Âu. Văn hóa phương Tây được hiện đại hóa nhanh chóng nhờ vào cuộc cách mạng công nghiệp và bắt đầu thống trị thế giới trong thế kỷ XIX và XX, nhưng nó cũng bị ảnh hưởng lớn từ các nền văn minh khác. Vẫn có nhiều khác biệt sâu sắc về văn hóa giữa các vùng trên thế giới, mặc dù khuynh hướng hiện tại là thống nhất dưới sự ảnh hưởng của phương Tây.
Các đế quốc thương mại như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Pháp và Anh Quốc từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX đã thống trị trên các vùng biển. Công nghiệp hóa và những thay đổi về chính trị cũng như xã hội ở phương Tây trong thế kỷ XVIII và XIX đã dẫn tới một cảm giác ưu việt trong số những nhà tư tưởng và chính trị phương Tây. Châu Phi và đa phần Châu Á trở thành những vùng nằm dưới quyền kiểm soát của châu Âu, trong khi những hậu duệ của người châu Âu cai quản Australia và Châu Mỹ.
Các ý tưởng mới nảy sinh với mục đích sửa đổi lại hình thức thế giới. Những người theo chủ nghĩa xã hội Darwin và những người theo chủ nghĩa đế quốc thường tin rằng người da trắng là ưu việt hơn và rằng họ sẽ "khai hóa" cho những dân tộc còn ở trình độ sơ khai (những nền văn hóa khác) bằng cách đưa tới đó cách thức sản xuất phương Tây (kinh tế) và những ý thức hệ phương tây như Ki-tô giáo. Nhờ vậy, những dân tộc sơ khai có thể có một cách sống ‘tốt hơn’, ‘đạo đức hơn’, mặc dù họ cho rằng những dân tộc đó sẽ không bao giờ văn minh được bằng với người da trắng. Những người theo chủ nghĩa xã hội và tự do cũng muốn khai hóa văn minh cho tầng lớp lao động ở các nước phương Tây. Những người theo chủ nghĩa xã hội và tự do ở Hoa Kỳ tin rằng (và hiện vẫn đang tin tưởng như vậy) xã hội, trong tổng thể, chịu trách nhiệm về cách ứng xử của các công dân của nó và rằng xã hội phải được thay đổi để làm cho thế giới tốt đẹp hơn . Những người bảo thủ tại Mỹ, những người tự do tại châu Âu, và tất cả những người theo chủ nghĩa tự do tin vào (và vẫn tiếp tục tin như vậy) tự do và những lực lượng thị trường và muốn rằng cá nhân tự chịu trách nhiệm về chính mình và rằng xã hội phải đảm bảo tự đo để cá nhân có thể phát triển một cách đầy đủ. Những người Ki-tô giáo, bất kể thuộc hệ tư tưởng chính trị nào, tin rằng các mối quan hệ của cá nhân với Nhà thờ và/hay Thiên Chúa là nhân tố chủ chốt của một đời sống thoả mãn. Những người theo Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Phật giáo và các tôn giáo khác có những khái niệm tôn giáo của riêng họ.
Thế kỷ XX diễn ra một cuộc phân cực lớn giữa các hệ tư tưởng đó. Chủ nghĩa Darwin xã hội đã bị ảnh hưởng lớn khi nước Đức phát xít bị đánh bại trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Hoa Kỳ và Liên Xô thúc đẩy tiến trình giải thực. Phong trào nhân quyền và phong trào hippie phản đối văn hoá trong thập kỷ 1960 dẫn tới sự thống trị trên toàn thế giới của tư tưởng nhân văn vẫn còn tồn tại dai dẳng cho tới ngày nay ở các nước phương Tây.
Những người theo chủ nghĩa xã hội cố gắng thay đổi xã hội bằng nhiều phương cách khác nhau. Hai phong trào lớn nhất là dân chủ xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Các nhà dân chủ xã hội tìm cách đạt tới một xã hội xã hội chủ nghĩa bằng cách thay đổi xã hội thông qua liên kết với các đảng chính trị khác. Quốc gia hệ thống phúc lợi xã hội được thiết lập ở nhiều nước phương tây. Cánh tả Ki-tô giáo và những người theo chủ nghĩa tự do cùng chiếm ưu thế tại quốc gia kiểu này. Hiện nay quốc gia hệ thống phúc lợi xã hội không được phổ biến bởi các nhà tư bản, họ nghĩ ngăn cản phát triển kinh tế vì đầu tư không hiệu quả. Những người cộng sản tìm cách lập ra một xã hội xã hội chủ nghĩa bằng cách thay đổi xã hội cũ, những tầng lớp cũ và tất cả mọi ý thức hệ cạnh tranh. Nó là một mô hình ý niệm tốt tuy nhiên lại thiếu thực tế và bị phản đối mạnh mẽ ở các tầng lớp tư bản cao, vì nó ảnh hưởng đến quyền lợi trực tiếp của họ. Có nhiều ý kiến trái ngược về mô hình này. Các nhà lãnh đạo Xô viết và Trung Quốc và tầng lớp trí thức nhận ra rằng kiểu sản xuất của ‘phương Tây’ với trách nhiệm cá nhân dẫn tới tiến bộ liên tục trong khi các xã hội cộng sản theo mô hình Liên Xô lại rơi vào giảm phát kinh tế liên tục, vì thế họ bắt buộc phải thay đổi bằng cách tìm ra mô hình phù hợp vừa đảm bảo được sự phát triển kinh tế vừa không vi phạm những quy tắc cơ bản về xã hội chủ nghĩa.
Các nền văn minh ngoài phương tây ban đầu bị thực dân phương Tây thống trị, và họ thường đối xử rất ác nghiệt với dân bản xứ. Những người quốc gia và những phong trào cộng sản lan tràn khắp các quốc gia đó đã tuyên truyền cho dân chúng những ý tưởng đầu tiên về các phong trào độc lập, muốn yêu cầu quyền lợi công bằng trên thế giới. Nhiều thuộc địa châu Phi và châu Á bắt đầu giành lại độc lập trong thập kỷ 1960. Cuối cùng, đã có suy nghĩ lạc quan rằng những nước kém phát triển sẽ trở thành những nước phát triển, nhưng tình hình kinh tế của họ nói chung là rất kém sau khi đã giành được độc lập. Các cuộc nội chiến và những kẻ độc tài làm suy yếu các xã hội và các nền kinh tế địa phương – nguyên nhân của nó thỉnh thoảng là bắt nguồn từ chủ nghĩa thực dân mới và một phần vì Hoa Kỳ (xem Chủ nghĩa Sô vanh, và học thuyết quốc gia phụ thuộc). Hiện nay, nhiều quốc gia Mỹ Latin và châu Á đang bắt đầu chuyển tiếp để trở thành quốc gia thuộc thế giới thứ nhất; đa số các nước châu Phi và Trung Đông, tuy vậy, vẫn còn đang ở tình trạng trì trệ.
Những người bảo thủ và người theo chủ nghĩa quốc gia trên thế giới sợ rằng những xã hội của họ sẽ sụp đổ vì hiện đại hoá và các ý tưởng mới vì vậy họ tìm cách ngăn chặn làn sóng thay đổi. Chủ nghĩa bảo thủ đang càng ngày càng trở nên phổ biến trên nhiều vùng của thế giới, với việc chủ nghĩa bảo thủ mới hiện đang thống trị trong chính phủ Hoa Kỳ. Những người (tự xưng) Hồi giáo chính thống tìm cách ngăn chặn sự phi tôn giáo hóa bằng cách gây nên chiến tranh chống lại văn minh phương Tây. Nhiều lãnh đạo quốc gia và trí thức ở Trung Đông và vùng Hạ Sahara châu Phi chỉ trích phương tây vì cách sống "vô đạo đức" của họ. Chủ nghĩa bảo thủ được nuôi dưỡng, phần lớn nhờ ở niềm tin tôn giáo vào đời sống kiếp sau với những lo sợ hiện hữu về sự trừng phạt mãi về sau này.
Những nỗ lực nhằm thống nhất thế giới bằng sự chinh phục quân sự hay bằng các cuộc cách mạng đã không thành công. Quốc gia dân tộc trở thành cơ sở quan trọng nhất trong thế giới phương tây. Các đế quốc thực dân ở thế kỷ thứ XIX dựa trên quốc gia dân tộc, vốn từng kiểm soát phần lớn những vùng đất đai sinh sống của các sắc dân bộ lạc. Các quốc gia dân tộc thống nhất với nhau thành liên bang trong thế kỷ XX. Trong thời gian giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, Liên đoàn các quốc gia không thể đóng vai trò to lớn trong việc ngăn chặn các cuộc chiến tranh. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Liên hiệp quốc (cũng không có vai trò gì nhiều) đã tìm cách giải quyết nhiều vấn đề mà từng nước riêng biệt không thể giải quyết. Liên đoàn quốc gia và Liên hiệp quốc phụ thuộc vào ý nguyện tham gia và kinh phí đóng góp tự nguyện của các quốc gia thành viên. Các tổ chức đó không thể hoạt động mà không có được sự ủng hộ của các quốc gia lớn, như đã từng xảy ra trong thập niên 1920 và 1930 và trong thời gian Chiến tranh lạnh. Nhiều quốc gia không chính xác (về mặt quy cách) là quốc gia dân tộc, nhưng tồn tại như nhiều dân tộc (hạ Saharan châu Phi), hay chỉ có một tỷ lệ nhỏ của một dân tộc bên trong biên giới lãnh thổ của họ (như tại các nước Ả rập).
Số lượng và kích cỡ của các nền kinh tế thị trường tự do ngày càng tăng trưởng nhanh chóng kể từ thế kỷ XIX, nhưng các nền kinh tế do nhà nước kiểm soát vẫn có thể tồn tại với tư cách thời kỳ chuyển tiếp, cho tới khi Liên bang Xô viết tan rã năm 1991. Các nền kinh tế thị trường tự do dẫn tới tăng trưởng to lớn trong đời sống người dân. Một thị trường tự do toàn cầu đã mang lại thành quả chung. Tự do trao đổi hàng hóa và thông tin dẫn tới sự phụ thuộc lẫn nhau của các quốc gia và muốn có lợi ích riêng thì cần phải hợp tác với các quốc gia khác. Quá trình này được gọi là toàn cầu hóa.
Dân số quá đông cũng bị coi là một trong những vấn đề to lớn nhất trên khắp thế giới. Vấn đề này từng được các nhà tư tưởng như Malthus và Max Weber đưa ra. Weber sợ rằng Ấn Độ và Trung Quốc sẽ phát triển những nền kinh tế lớn của họ với cái giá phải trả của châu Âu, và ủng hộ chủ nghĩa chủ nghĩa đế quốc kiểu Đức để ngăn chặn sự nghèo đói cho dân tộc Đức. Sự phát triển kỹ thuật và kinh tế của thế kỷ XX chỉ ra rằng các nước tây phương có thể có được phát triển kinh tế thông qua phát triển từ bên trong. Các nước châu Âu ở thời Max Weber có thể coi như là các quốc gia thuộc Thế giới thứ ba hiện nay. Trung Quốc, Ấn Độ và các nước Mỹ Latin đã phát triển trong vài thập kỷ gần đây, và hậu quả của nó là sự thất nghiệp ở các nước phương tây. Dân số tăng cũng dẫn tới sự tăng trưởng nhanh chóng của nhu cầu đòi chia sẻ các nguồn tài nguyên hạn chế và tăng nhanh sự phá hủy môi trường khi sử dụng các nguồn tài nguyên đó.
Văn hoá Mỹ đã có ảnh hưởng lớn trên thế giới. Các bộ phim Hollywood và nhạc jazz thống trị trên toàn thế giới phương Tây từ thập kỷ 1920. Văn hóa thanh niên đã bắt đầu ở Mỹ. Quần Jeans, áo T-shirt, phong cách quảng cáo Mỹ và nhạc pop đã thống trị toàn thế giới trong thập kỷ 1960 và 1970. Những cải cách kinh tế của Mỹ và Anh trong thập kỷ 1980 đã trở thành mẫu mực cho toàn thế giới.
Thế kỷ XXI
Thế kỷ thứ 21 được đánh dấu bằng sự phát triển kinh tế toàn cầu hóa và hội nhập, hệ quả là gia tăng rủi ro cho các nền kinh tế liên kết, như trong Đại suy thoái vào cuối thập niên 2000 và đầu những năm 2010. Thời kỳ này cũng chứng kiến sự phát triển của các phương thức liên lạc bằng điện thoại di động và internet, điều này tạo ra những thay đổi xã hội cơ bản trong kinh doanh, chính trị và đời sống cá nhân. Internet và điện thoại di động cũng mở rộng không gian cho hành vi tội phạm về phía các cá nhân, tổ chức, tập đoàn và các quốc gia bất hảo.
Đầu thế kỷ 21 chứng kiến nhiều cuộc nội chiến và xung đột quốc tế leo thang ở vùng Cận Đông và Afghanistan, các mối thù giữa những sắc tộc và giáo phái và vụ tấn công Trung tâm Thương mại Thế giới ở thành phố New York năm 2001. Trong khi Mùa xuân Ả Rập, một làn sóng nổi dậy mang tính cách mạng ở các vùng Bắc Phi và Cận Đông vào đầu những năm 2010 đã tạo ra những khoảng trống quyền lực lớn dẫn đến sự hồi sinh của chủ nghĩa chuyên chế và sự ra đời của các nhóm phản động như Tổ chức Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS).
Sự can thiệp của quân đội Hoa Kỳ vào vùng Cận Đông và Afghanistan, cùng với cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế đã làm cạn kiệt nguồn lực kinh tế của nước này vào thời điểm mà Hoa Kỳ và các nước phương Tây khác đang gặp phải tình trạng trật tự kinh tế xã hội trở nên trầm trọng hơn do robot hóa trong công việc và xuất khẩu các ngành công nghiệp đến các nước có lực lượng lao động rẻ hơn. Trong khi đó, các nền văn minh châu Á cổ đại và đông dân như Ấn Độ và đặc biệt là Trung Quốc trở thành đối thủ kinh tế và chính trị tiềm năng của các cường quốc phương Tây.
Cạnh tranh trên toàn thế giới về tài nguyên đã làm gia tăng dân số và quá trình công nghiệp hóa ngày càng phát triển, đặc biệt là ở Ấn Độ, Trung Quốc và Brazil. Điều đó đang góp phần làm suy thoái môi trường và hiện tượng ấm lên toàn cầu, với sự gia tăng mạnh mẽ của xoáy thuận nhiệt đới, lũ lụt, hạn hán, cháy rừng và tỷ lệ tử vong do tăng thân nhiệt.
Sự căng thẳng quốc tế đang gia tăng liên quan đến nỗ lực của một số nước có vũ khí hạt nhân để khiến Bắc Triều Tiên từ bỏ vũ khí hạt nhân và đồng thời ngăn cản Iran phát triển chương trình vũ khí hạt nhân của nước này. |
Bộ Cử hay còn gọi bộ dẻ, bộ giẻ, bộ sồi (danh pháp khoa học: Fagales) là một bộ thực vật có hoa, bao gồm một số loài cây được nhiều người biết đến như Cử cuống dài, dẻ gai, sồi, dẻ, óc chó, cáng lò, trăn. Chúng thuộc về nhánh Hoa hồng (rosids) của thực vật hai lá mầm thật sự. Các họ hiện nay được chấp nhận thuộc về bộ này là:
Các họ
Betulaceae - Họ cáng lò, cáng lò, trăn, phỉ, bạch dương. Khoảng 130-145 loài trong 6 chi. Chủ yếu vùng ôn đới Bắc bán cầu, kéo dài tới dãy Andes ở Nam Mỹ và Sumatra ở châu Á. Gần như không có tại châu Phi, trừ vùng rìa phía bắc.
Casuarinaceae - Họ phi lao. Khoảng 70-95 loài trong 3-4 chi. Phân bố trong khu vực Đông Nam Á và Malesia tới các đảo tây nam Thái Bình Dương, đặc biệt phổ biến tại Úc. Cũng có tại Madagascar.
Fagaceae - Họ Cử, khoảng 670-900 loài trong 7-9 chi. Phân bố chủ yếu tại Bắc Mỹ, châu Âu, Đông Á và Đông Nam Á.
Juglandaceae (bao gồm cả đuôi ngựa tại miền bắc Việt Nam và miền nam Trung Quốc) - Họ óc chó, Khoảng 50 loài trong 8-11 chi. Phân bố trong khu vực từ ven dãy núi Himalaya tới Malesia và từ México tới Colombia.
Myricaceae - Họ thanh mai. Khoảng 37-57 loài trong 3 chi. Rộng khắp tại Đông Á, Đông Nam Á, Bắc Mỹ, Trung Mỹ và miền bắc Nam Mỹ, tây bắc châu Âu, châu Phi hạ Sahara (bao gồm cả Madagascar) và New Caledonia.
Nothofagaceae - Họ Sồi phương Nam. Khoảng 35 loài trong 1 chi tại Nam Mỹ, New Guinea, Australia, New Zealand.
Ticodendraceae: Chỉ có 1 loài trong 1 chi ở Trung Mỹ.
Như vậy, bộ này chứa khoảng 1.050-1.250 loài trong 30-33 chi thuộc 8 họ.
Các hệ thống và văn bản phân loại thực vật, tuân theo hệ thống Cronquist, chẳng hạn như bảng liệt kê của Kew (xem liên kết ngoài dưới đây), chỉ đưa vào bộ này bốn họ là Betulaceae, Corylaceae, Fagaceae, Ticodendraceae.
Họ Corylaceae hiện nay được đưa vào trong họ Betulaceae). Các họ còn lại được đưa vào trong các bộ khác, thuộc về phân lớp Kim lũ mai (Hamamelidae). Bộ Casuarinales bao gồm duy nhất một họ là Casuarinaceae, bộ Juglandales bao gồm hai họ là Juglandaceae và Rhoipteleaceae, còn bộ Myricales chứa những họ còn lại (cùng với chi Balanops hiện nay thuộc họ Balanopaceae). Có thay đổi này là do các nghiên cứu cho rằng bộ Myricales, khi được định nghĩa như vậy, là nhóm cận ngành với hai nhóm khác.
Phát sinh chủng loài
Biểu đồ phát sinh chủng loài dưới đây lấy theo Wang và ctv. (2009), với tên gọi các bộ lấy từ website của Angiosperm Phylogeny.. Các nhánh với mức hỗ trợ tự khởi động thấp hơn 50% bị bỏ qua. Các nhánh khác có mức hỗ trợ 100% ngoại trừ những nơi có con số chỉ ra mức hỗ trợ cụ thể. |
Phân lớp Kim lũ mai (danh pháp: Hamamelididae hay ở dạng không được công nhận là Hamamelidae) là một danh pháp khoa học ở cấp độ phân lớp. Hệ thống được nhiều người biết đến có sử dụng các tên gọi như thế là hệ thống Cronquist, mặc dù trong dạng phát âm không được công nhận là Hamamelidae. Trong phiên bản gốc năm 1981 của hệ thống này thì định nghĩa phân lớp này là:
Phân lớp Hamamelidae
bộ Trochodendrales
bộ Hamamelidales
bộ Daphniphyllales
bộ Didymelales
bộ Eucommiales
bộ Urticales
bộ Leitneriales
bộ Juglandales
bộ Myricales
bộ Fagales
bộ Casuarinales
Một thực tế cho bất kỳ tên gọi khoa học nào trong thực vật học là định nghĩa của phân lớp này sẽ thay đổi theo hệ thống phân loại được sử dụng; yêu cầu duy nhất là nó phải bao gồm họ Kim lũ mai (Hamamelidaceae). Hệ thống APG II, được chấp nhận sử dụng trong Wikipedia khi viết về phân loại thực vật, vì thế trong các bài viết tại Wikipedia sẽ không dùng các tên gọi hình thức ở cấp độ cao hơn bộ: Trong Wikipedia tên gọi này về mặt phân loại học là không được định nghĩa. APG II đặt phần lớn các đơn vị phân loại vào trong phân nhóm Hoa hồng (rosid).
Lưu ý
Trong một số tài liệu về thực vật của Việt Nam gọi phân lớp này là phân lớp Sau sau, lấy theo tên loài sau sau (Liquidambar formosane), hiện nay được sắp xếp lại và thuộc họ Tô hạp (Altingiaceae), bộ Tai hùm. Rõ ràng tên gọi phân lớp sau sau là thiếu chính xác, trong khi chi cơ bản để có dẫn xuất của tên gọi cho phân lớp này là chi Hamamelis (các loài cây kim lũ mai). |
Đuôi ngựa hay đuôi chó hoặc roi tê (danh pháp hai phần: Rhoiptelea chiliantha) là loài duy nhất trong chi Rhoiptelea. Hệ thống APG II xếp chi Rhoiptelea vào họ của chính nó là họ Đuôi ngựa – Rhoipteleaceae, tuy nhiên APG III không còn chấp nhận họ này và đưa chi Rhoiptelea vào họ Óc chó (Juglandaceae).
Loài này được phát hiện năm 1932, được tìm thấy tại miền nam Trung Quốc (Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam) và miền bắc Việt Nam.
Nó là một loại cây thân gỗ lá sớm rụng cao tới 20 m và đường kính thân cây tới 60 cm, nhìn bề ngoài rất giống với cây cơi (Pterocarya tonkinensis), với các lá kép hình lông chim, mọc so le, dài 15–40 cm với 9-11 lá chét, mỗi lá chét dài 6–9 cm, mép lá có răng cưa. Hoa là loại hoa đuôi sóc phức, dài 15–30 cm, hoa cái sau khi thụ phấn sẽ phát triển thành loại quả kiên nhỏ dài 2–3 mm, với các cánh thuôn tròn dài 5–8 mm trên cả hai bên của mỗi quả. Tên gọi trong tiếng Trung của nó là 马尾树 (mã vĩ thụ = cây đuôi ngựa). Gỗ của nó được dùng trong xây dựng hay làm đồ nội thất. |
Cầu Nhật Tân là một cây cầu tại thủ đô Hà Nội, đây là cây cầu dây văng lớn nhất Việt Nam hiện tại được xây dựng với tổng mức đầu tư hơn 13.626 tỷ đồng nằm trong tổng số 7 cầu bắc qua sông Hồng đoạn Hà Nội trong AH 1077 nối quận Tây Hồ với huyện Đông Anh, kết cấu nhịp của cầu chính theo dạng cầu dây văng nhiều nhịp với 5 trụ tháp hình thoi và 6 nhịp dây văng, bắt đầu tại phường Phú Thượng, quận Tây Hồ đến điểm cuối giao với quốc lộ 5 tại km 7+100, xã Vĩnh Ngọc, huyện Đông Anh. Cầu được khởi công ngày 7 tháng 3 năm 2009, ngay sau khi hoàn thành cầu Thanh Trì và hoàn thành nhân kỷ niệm giải phóng miền Nam 23 năm. Theo dự án, cầu được kết cấu kiểu dây văng liên tục bê tông cốt thép dự ứng lực, thi công bằng phương án đúc hẫng cân bằng. Cầu Nhật Tân được khánh thành vào ngày 4/1/2015, đồng bộ với đường Nhật Tân - Nội Bài tạo nên một tuyến cao tốc nội đô hiện đại, rút ngắn thời gian di chuyển từ Cảng hàng không quốc tế Nội Bài tới trung tâm Hà Nội. Cầu được xem là biểu tượng mới của Thành phố Hà Nội với 5 nhịp dây văng tượng trưng cho 5 cửa ô, và cũng tượng trưng cho 5 cánh hoa đào của làng đào Nhật Tân - Thành phố Hà Nội.
Mặt cầu rộng 43,2 m với 8 làn xe cho cả hai chiều, chia thành 4 làn xe cơ giới, 2 làn xe máy, 2 làn xe buýt phân cách giữa, đường dành cho người đi bộ. Cầu dài 3,9 km và có đường dẫn 5,27 km, trong đó phần chính của cầu qua sông dài 2,5 km.
Vì cầu được xây dựng dưới sự tư vấn thiết kế và giám sát thi công của các đơn vị đến từ Nhật Bản, và cũng vì 5 trụ cầu tượng trưng cho 5 cánh hoa anh đào Nhật Bản, tượng trưng cho mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Nhật Bản, nên Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam trong thời điểm đó - ông Hiroshi Fukada - cũng đã đưa ra ý kiến đổi tên cầu thành "cầu hữu nghị Việt - Nhật". |
Bộ Cúc hay bộ hoa Cúc hoặc bộ Hướng dương (danh pháp khoa học: Asterales) là một bộ thực vật có hoa bao gồm họ lớn là họ Cúc (Asteraceae hay họ Hoa hợp (Compositae)) chứa các loài hướng dương và cúc cũng như các họ có quan hệ gần khác.
Bộ này phân bổ rộng khắp thế giới và chủ yếu là các loài cây thân thảo, mặc dù có một lượng nhỏ là cây thân gỗ (chi Lobelia) và cây bụi.
Bộ Asterales có thể được đặc trưng ở mức độ phân tử và hình thái học. Các đặc điểm chung bao gồm nhóm các oligosacarit nguồn gốc tự nhiên (các phân tử đường sacaroza liên kết với nhau) như là nơi lưu trữ chất dinh dưỡng và các nhị hoa thông thường được tập hợp lại dày dặc xung quanh vòi nhụy hoặc thậm chí được hợp nhất lại thành ống xung quanh nó. Thuộc tính thứ hai có lẽ gắn liền với sự thụ phấn đầu cơ (hay thứ cấp) và điều này rất phổ biến trong các họ của bộ này.
Các họ
Bộ Asterales bao gồm khoảng 11 họ, 1649 chi và 25.790 loài, trong đó các họ lớn nhất là họ Cúc (Asteraceae) với khoảng 23.600 loài và họ Hoa chuông với khoảng 2.380 loài. Các họ còn lại có tổng cộng không quá 500 loài. Hai họ lớn nhất có phân bố rộng khắp thế giới với trung tâm nằm ở Bắc bán cầu, còn những họ nhỏ hơn thông thường phân bố ở Úc và các vùng xung quanh, hoặc đôi khi ở Nam Mỹ.
Trong hệ thống Cronquist, họ Asteraceae là họ duy nhất trong bộ, nhưng các hệ thống mới hơn (chẳng hạn APG II hay APG III) đã mở rộng nó.
Tiến hóa và địa sinh học
Các loài trong bộ Asterales có lẽ xuất hiện vào thời gian của kỷ Phấn trắng tại phần phía đông siêu đại lục Gondwana, trong khu vực ngày nay là Malesia, Úc, New Guinea và New Zealand. Mặc dù các loài còn tồn tại hiện nay chủ yếu là cây thân thảo, nhưng việc giám định các họ cơ bản trong bộ này cho thấy tổ tiên chung của bộ có lẽ là cây thân gỗ.
Các chứng cứ hóa thạch của bộ Asterales là rất hiếm và chỉ thuộc về những kỷ nguyên gần đây, vì thế việc ước lượng chính xác niên đại của bộ này là cực kỳ khó khăn. Phấn hoa trong thời kỳ thế Oligocen đã được tìm thấy đối với các họ Asteraceae và Goodeniaceae, còn hạt có niên đại từ các thế Oligocen và Miocen đã được tìm thấy đối với các họ Menyanthaceae và Campanulaceae.
Bộ Asterales chứa khoảng 10-17% sự đa dạng của thực vật hai lá mầm thật sự. Các hóa thạch có thể gán cho bộ này được biết đến từ thế Oligocen, khoảng 29 triệu năm trước (nhưng về cơ bản chúng chỉ từ nhánh Menyanthaceae-Asteraceae). Wikström và ctv. (2003) đề xuất niên đại khoảng 96-93 Ma cho nhóm chỏm cây, còn theo Bremer và ctv. (2004) thì là 96-93 Ma cho nhóm chỏm cây và 112 Ma cho nhóm thân cây, Janssens và ctv. (2009) xác định niên đại cho nhóm thân cây của bộ Asterales tới 104±12,1 Ma và cho nhóm chỏm cây là tới 94±11,2 Ma, còn Magallón và Castillo (2009) đề xuất các ước tính khoảng 94 và 84 Ma cho các xác định niên đại hợp lý bù đắp yếu và cưỡng ép cho nhóm thân cây và chỏm cây của bộ Asterales.
Một vài họ, đáng chú ý là Campanulaceae và khu vực chứa họ Asteraceae, có các dạng phô bày phấn hoa thứ cấp; Leins 2000; Leins và Erbar (1997) và Leins (2000) cũng như Leins và Erbar (2006, 2010) thảo luận chi tiết đáng kể về về sự tiến hóa của các cơ chế phô bày phấn hoa này.
Các fructan (polyme của fructoza) có thể ổn định màng tế bào trong các điều kiện khô hạn và/hoặc băng giá.
Phát sinh chủng loài
Biểu đồ chỉ ra mối quan hệ phát sinh chủng loài của bộ Cúc với các bộ khác trong nhánh Cúc như sau:
Phát sinh chủng loài trong phạm vi bộ Cúc lấy theo Tank & Donoghue (2010) như sau:
Tầm quan trọng kinh tế
Họ Asteraceae chứa một số loài được trồng để làm thực phẩm, chẳng hạn hướng dương (Helianthus annuus) hay rau diếp xoăn (chi Cichorium). Nhiều loài là cây thuốc cũng nằm trong bộ này.
Trong số các loại cây trồng để lấy hoa có họ Asteraceae (chi Chrysanthemum) và họ Campanulaceae. |
Động đất và sóng thần Ấn Độ Dương 2004, được biết đến trong cộng đồng khoa học như là Cơn địa chấn Sumatra-Andaman, là trận động đất mạnh 9.3 Mw xảy ra dưới đáy biển Ấn Độ Dương lúc 00:58:53 UTC (07:58:53 giờ địa phương) ngày 26 tháng 12 năm 2004. Trận động đất kích hoạt một chuỗi các đợt sóng thần chết người lan tỏa khắp Ấn Độ Dương, những con sóng cao 30 m (100 ft) tàn phá các cộng đồng dân cư sinh sống ven biển ở Indonesia, Sri Lanka, Ấn Độ, Thái Lan, Myanmar và những nơi khác, cướp đi sinh mạng 227,898 người thuộc 11 quốc gia, từ Châu Á tới Châu Phi. Cho đến nay, thiên tai này là một trong những thảm họa gây nhiều tử vong nhất trong lịch sử thế giới hiện đại. Các phương tiện truyền thông quốc tế và người dân châu Á gọi nó là Sóng thần Á châu, trong khi tại Úc, New Zealand, Canada, Mỹ và Anh người ta gọi nó là Sóng thần ngày lễ Từ thiện (Boxing Day) bởi vì nó xảy ra ngay vào ngày lễ này.
Cường độ của trận động đất lúc đầu đo được 9.0 (trên thang Richter), nhưng sau tăng lên ở khoảng giữa 9.1 và 9.3. Với cường độ này, đây là trận động đất lớn thứ hai từng được ghi nhận bởi địa chấn kế, chỉ đứng sau trận động đất lớn ở Chile ngày 22 tháng 5 năm 1960 có cường độ 9.5. Cơn địa chấn Ấn Độ Dương làm rung chuyển mặt đất với cường độ 100 lần mạnh hơn trận động đất Loma Prieta xảy ra năm 1989. Nó có thời gian kéo dài lâu nhất mà người ta có thể ghi nhận được, từ 500 đến 600 giây. Cường độ và độ lan tỏa của nó đủ lớn để có thể khiến tinh cầu của chúng ta dịch chuyển ít nhất là nửa inch, tức là hơn một centimeter. Nó cũng kích hoạt các trận động đất ở những khu vực khác, đến tận Alaska.
Cơn địa chấn khủng khiếp này khởi phát ở Ấn Độ Dương ngay phía bắc đảo Simeulue, ngoài khơi bờ biển phía tây của miền bắc Sumatra, Indonesia. Những đợt sóng thần sản sinh từ nó đã tàn phá vùng duyên hải Indonesia, Sri Lanka, Nam Phi, Thái Lan và những quốc gia khác với những con sóng cao đến 30 m (100 ft), gây thiệt hại nghiêm trọng và mang chết chóc đến tận bờ biển phía đông châu Phi, nơi xa nhất có ghi nhận tử vong do sóng thần là ở Cảng Elizabeth, Nam Phi, 8000 km (5.000 ml) cách xa chấn tâm đến cả một đại dương.
Hoàn cảnh nguy ngập của dân chúng tại những quốc gia bị ảnh hưởng đã khiến dấy lên làn sóng trợ giúp nhân đạo trên toàn cầu.
Đặc điểm của sóng thần
Sự dâng cao đột ngột của đáy biển lên đến vài mét, xảy ra suốt trong cơn địa chấn, làm dịch chuyển những cột nước khổng lồ, tạo ra những đợt sóng thần đánh vào bờ biển Ấn Độ Dương. Sóng thần gây thiệt hại ở những khu vực xa nguồn của nó thường được gọi là "sóng thần xa" (teletsunami), hình thành bởi chuyển động thẳng đứng của đáy biển hơn là bởi chuyển động ngang (Earthquakes and tsunamis, Lorca et al.).
Sóng thần chuyển động trong nước sâu khác với trong vùng cạn. Ở vùng nước sâu ngoài đại dương, sóng thần chỉ là những đợt sóng nhấp nhô, khó nhận biết và vô hại, di chuyển với tốc độ rất cao từ 500 đến 1.000 km/h (310 đến 620 mph); ở vùng nước cạn gần bờ, vận tốc của nó chỉ còn 10 km/h nhưng đó là lúc bắt đầu hình thành những đợt sóng lớn có sức công phá khủng khiếp. Các nhà khoa học điều tra thiệt hại ở Aceh tìm ra chứng cớ cho thấy sóng thần ở đây lên đến độ cao 24 m (80 ft) khi đến gần bờ và di chuyển dọc theo những dải đất rộng; tại một vài khu vực, khi vào đến đất liền độ cao của chúng nâng lên 30 m (100 ft).
Vệ tinh radar đã ghi nhận được chiều cao của sóng thần trong biển sâu: hai giờ sau cơn địa chấn, độ cao tối đa là 60 cm (2 ft). Đây là những quan sát đầu tiên được ghi nhận, mặc dù chúng không được dùng để đưa ra cảnh báo, bởi vì người ta không sử dụng các vệ tinh cho mục đích cảnh báo và vì những dữ liệu này cần có thời gian để phân tích.
Theo Tad Murty, Phó chủ tịch Hiệp hội Sóng thần, tổng năng lượng của những đợt sóng thần là xấp xỉ 5 megaton TNT (20 petajoule), gấp hai lần năng lượng của toàn bộ chất nổ được sử dụng trong Chiến tranh thế giới thứ hai (kể cả hai quả bom nguyên tử), nhưng chỉ là hai bậc trên thang đo lường thấp hơn cường độ năng lượng phóng ra bởi cơn địa chấn. Tại nhiều nơi, các đợt sóng thần đã tiến sâu vào đất liền đến 2 km.
Theo những báo cáo ban đầu, cường độ của trận động đất là 9.0. Đến tháng 1 năm 2005, các nhà khoa học ước tính cường độ lên đến 9.3. Mặc dù Trung tâm Cảnh báo Sóng thần Thái Bình Dương chấp nhận ước tính mới này, Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ cho đến nay vẫn giữ ước tính cường độ là 9.1. Hầu hết các nghiên cứu gần đây trong năm 2006 tin rằng cường độ địa chấn là Mw 9.1 đến 9.3. Tiến sĩ Hiroo Kanamori thuộc Viện Công nghệ California tin rằng Mw = 9.2 có thể xem là định lượng tiêu biểu cho tầm cỡ của cơn địa chấn này.
Chấn tâm của trận động đất chính ở tọa độ tại Ấn Độ Dương, khoảng 160 km (100 mi) phía bắc đảo Simeulue, ngoài khơi bờ biển phía tây của bắc Sumatra, ở độ sâu 30 km dưới mặt nước biển (báo cáo ban đầu chỉ có 10 km). Người ta có thể cảm nhận được cơn địa chấn (không tính đến trận sóng thần) tại Bangladesh, Ấn Độ, Malaysia, Myanmar, Thái Lan, Singapore và quần đảo Maldives.
Bởi vì có đến 1.200 km (745.6 ml) đường phay bị ảnh hưởng bởi trận động đất hầu như trải dài theo hướng nam-bắc, nên cường độ lớn nhất của sóng thần đi theo hướng đông-tây. Do vậy, Bangladesh, ở cuối phía bắc của Vịnh Bengal, ít bị thiệt hại mặc dù xứ sở vùng đất thấp này tương đối gần chấn tâm. Cũng hưởng lợi nhờ yếu tố này là cơn địa chấn di chuyển chậm hơn trong vùng gãy phía bắc, làm giảm đáng kể sức tàn phá của nước khi dịch chuyển trong vùng.
Những bờ biển có các vùng đất rộng chắn giữa chúng và vị trí ban đầu của sóng thần thường được an toàn; dù vậy, đôi khi sóng thần tìm cách đi vòng qua vùng đất rộng, điển hình là bang Kerala của Ấn Độ, dù là vùng duyên hải phía tây Ấn Độ, vẫn bị những đợt sóng thần tấn công; bờ biển phía tây của Sri Lanka cũng chịu ảnh hưởng tương tự. Ở xa chấn tâm cũng không đồng nghĩa với an toàn, Somalia bị tàn phá nặng nề hơn Bangladesh mặc dù ở xa hơn rất nhiều.
Vì phải di chuyển trong một địa bàn rất rộng, sóng thần mất từ 15 phút đến 7 giờ (trường hợp của Somalia) để đến các bờ biển khác nhau. Sóng thần tiến rất nhanh đến đảo Sumatra, nhưng nó phải mất 90 phút đến hai giờ đồng hồ để tìm thấy Sri Lanka và bờ biển phía đông Ấn Độ. Trong khi đó, nó chỉ đến được Thái Lan sau khoảng hai giờ đồng hồ mặc dù đất nước này ở gần chấn tâm hơn, vì phải di chuyển chậm qua vùng biển cạn ngoài khơi bờ biển phía tây Biển Andaman.
Sóng thần đến tận Struisbaai thuộc Nam Phi, tức là phải vượt qua khoảng cách 8.500 km (5.300 ml), ở đây nó mang đến những đợt triều cường cao 1,5 m (5 ft) năm giờ sau cơn địa chấn. Nó phải tiêu tốn khá nhiều thời gian để đến điểm cực nam này của châu Phi, có lẽ bởi vì thềm lục địa rộng lớn của Nam Phi và bởi vì sóng thần phải đi dọc bờ biển Nam Phi từ đông sang tây.
Một phần năng lượng của sóng thần được phân phối vào Thái Bình Dương, ở đây nó tạo ra những đợt sóng nhỏ dọc theo bờ tây của Bắc và Nam Mỹ, trung bình chỉ cao khoảng 20 đến 40 cm (7.9 đến 15.7 in).
Dấu hiệu và cảnh báo
Mặc dù khoảng cách thời gian giữa lúc khởi phát cơn địa chấn và thời điểm sóng thần tiếp cận đất liền lên đến vài tiếng đồng hồ, hầu hết nạn nhân đều hoàn toàn bất ngờ khi đột nhiên thấy mình bị chụp bắt bởi thảm hoạ; không hề có hệ thống cảnh báo sóng thần nào trên Ấn Độ Dương để phát hiện sóng thần, hoặc quan trọng không kém, để cảnh báo cư dân đang sống trên bờ. Không dễ dàng gì để dò tìm sóng thần trong khi chúng đang còn ở biển sâu, vì vậy cần có một mạng lưới các thiết bị cảm ứng để phát hiện chúng. Lắp đặt một cấu trúc hạ tầng các thiết bị truyền thông để có thể đưa ra những cảnh báo kịp thời là một vấn đề còn khó khăn hơn, nhất là ở những khu vực chưa phát triển của thế giới.
Sóng thần xảy ra còn thường xuyên hơn trong vùng biển Thái Bình Dương do ảnh hưởng của các cơn địa chấn thuộc "Vành đai lửa", nhưng khu vực này từ lâu đã được lắp đặt hệ thống cảnh báo sóng thần. Mặc dù mép phía tây của "Vành đai lửa" kéo dài đến Ấn Độ Dương, không hề có bất cứ hệ thống cảnh báo sóng thần nào hiện diện tại đây. Khu vực này tương đối ít có sóng thần, mặc dù động đất vẫn thường xảy ra tại Indonesia. Cơn sóng thần quan trọng lần cuối cùng được ghi nhận vào năm 1883 khi núi lửa Krakatoa thức giấc. Cũng nên biết rằng không phải hễ có động đất là có sóng thần; Ngày 28 tháng 3 năm 2005, một cơn địa chấn 8.7 độ richter đánh vào ngay khu vực này của Ấn Độ Dương nhưng không tạo ra một đợt sóng thần nào.
Sau khi xảy ra thảm họa, người ta bắt đầu quan tâm đến nhu cầu lắp đặt một hệ thống cảnh báo sóng thần cho vùng biển Ấn Độ Dương. Liên Hợp Quốc khởi xướng vận động cho hệ thống cảnh báo này và tiến hành những bước đầu tiên vào cuối năm 2005. Có một số đề nghị thiết lập hệ thống cảnh báo sóng thần liên kết toàn cầu, bao gồm cả khu vực Đại Tây Dương và vùng biển Caribbean.
Chưa quen với dấu hiệu cảnh báo
Dấu hiệu cảnh báo đầu tiên về sóng thần chính là trận động đất. Dù vậy, sóng thần có thể đánh vào một khu vực cách xa đó hàng ngàn dặm, dù tại đây chỉ có thể cảm nhận được địa chấn rất yếu hoặc ngay cả không có gì hết. Tương tự, trong ít phút trước khi sóng thần đánh vào bờ, nước biển thường rút ra xa. Cư dân ven Thái Bình Dương đã quen với sóng thần và thường nhận ra hiện tượng này để chạy vội lên các vùng đất cao. Ngược lại, ở vùng ven Ấn Độ Dương hiện tượng hiếm hoi này đã khiến nhiều người, kể cả trẻ em, tò mò tìm đến để quan sát và lượm bắt cá bị trôi dạt vào một bờ biển dài 2,5 km (1,6 ml) mà không biết tai họa chết người đã gần kề.
Một trong những vùng duyên hải mà cư dân đã kịp di tản trước khi sóng thần đánh vào là đảo Simeulue thuộc Indonesia, rất gần với chấn tâm. Những bài dân ca trên đảo đã kể lại câu chuyện động đất và sóng thần xảy ra năm 1907, và cư dân trên đảo vội chạy lên vùng đồi ngay sau đợt rung chuyển đầu tiên, kịp lúc trước khi sóng thần đánh vào. Trên bãi tắm Maikhao phía bắc Phuket, Thái Lan, một bé gái mười tuổi người Anh tên Tilly Smith, vốn đã nghiên cứu về sóng thần trong lớp địa lý ở trường, nhận ra dấu hiệu bất thường của biển khi nước đang rút ra xa và sủi bọt. Cô bé cùng cha mẹ cảnh báo những người đang có mặt tại bãi tắm, tất cả đã tìm được chỗ trú ẩn an toàn. John Chroston, một giáo viên sinh học đến từ Scotland, cũng nhận ra những dấu hiệu của sóng thần tại Vịnh Kamala, bắc Phuket, vội lấy một chiếc xe buýt chất đầy du khách và dân địa phương và kịp đưa họ đến nơi an toàn ở nơi cao.
Chu kỳ sóng thần
Sóng thần là một chuỗi các con sóng, xảy ra theo chu kỳ triệt thoái và dâng cao trong một giai đoạn kéo dài hơn 30 phút giữa hai con sóng lớn. Con sóng thứ ba là mạnh nhất và cao nhất xảy ra khoảng một giờ rưỡi sau con sóng thứ nhất, sau đó những đợt sóng thần nhỏ tiếp tục xuất hiện cho đến hết ngày.
Thiệt hại và thương vong
Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ lúc đầu đưa ra con số tổn thất nhân mạng là 283.100 người, 14.100 người mất tích và 1.126.900 người phải di tản. Những bản tin ban đầu đưa ra con số thương vong là hàng trăm, nhưng dần dà con số này tiếp tục gia tăng trong những tuần lễ kế tiếp. Tuy vậy, số liệu gần đây nhất của Liên Hợp Quốc cho thấy số người thiệt mạng là 186.983, có 42.883 trường hợp mất tích trong tổng số 230.000 nạn nhân, Đó là không kể có từ 400 đến 600 người được cho là đã thiệt mạng ở Myanmar, mặc dù con số thương vong chính thức chính phủ nước này đưa ra chỉ là 61 người. Nếu báo cáo không chính thức từ Myanmar là chính xác thì số tử vong của trận động đất lên đến 230 000 người. Như thế, thảm họa này sẽ được liệt kê là một trong 10 trận động đất tệ hại nhất mà lịch sử đã ghi lại, và là cơn sóng thần gây ra số thương vong cao nhất trong lịch sử.
Theo tường trình của các tổ chức cứu trợ, một phần ba số người chết là trẻ em, một phần là do trẻ em chiếm tỷ trọng cao trong tổng số cư dân tại những khu vực bị ảnh hưởng, phần khác là do trẻ em là những nạn nhân không có khả năng tự vệ trước những đợt sóng dữ. Tổ chức Oxfam còn thêm rằng, trong một vài khu vực, số phụ nữ thiệt mạng cao gấp bốn lần số đàn ông, bởi vì lúc ấy họ đang có mặt trên bãi biển, chờ đợi các ngư phủ trở về và trông chừng con cái trong nhà.
Ngoài số lượng lớn nạn nhân là cư dân trong vùng, có đến 9.000 du khách (phần lớn đến từ Âu châu, nhất là từ vùng Scandinavia) đến nghỉ lễ Tết dương lịch, bị thiệt mạng hoặc mất tích. Quốc gia Âu châu có số nạn nhân cao nhất là Thụy Điển với 428 người chết và 116 người mất tích.
Tình trạng khẩn cấp được công bố tại Sri Lanka, Indonesia, và Maldives. Liên Hợp Quốc tuyên bố một chiến dịch cứu trợ lớn nhất chưa từng có. Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc Kofi Annan phát biểu rằng công cuộc tái thiết phải mất từ năm đến mười năm. Các chính phủ và những tổ chức phi chính phủ quan ngại rằng con số tử vong sau cùng sẽ tăng cao do dịch bệnh, vội vàng thúc đẩy cuộc vận động cứu trợ quy mô lớn.
Nếu tính theo số người chết, thì đây là một trong mười trận động đất tồi tệ nhất được ghi nhận trong lịch sử, cũng như là cơn sóng thần duy nhất gây thiệt hại nặng nề nhất trong lịch sử.
Những quốc gia bị ảnh hưởng
Trận động đất và sóng thần ảnh hưởng đến nhiều quốc gia trong vùng Đông Nam Á và xa hơn nữa, gồm có Indonesia, Sri Lanka, Ấn Độ, Thái Lan, Malaysia, Seychelles và các nước khác. Một số nước Âu châu và Úc có nhiều công dân đang du lịch trong vùng vào kỳ nghỉ lễ. Thụy Điển và Đức có hơn 500 công dân thiệt mạng trong thảm họa.
Indonesia
Indonesia là quốc gia gần chấn tâm nhất, hứng chịu những đợt sóng khổng lồ đầu tiên. Các thành phố Banda Aceh, Melabouh, các thị trấn ven biển đều bị những đợt sóng cao đến 33m san phẳng hoàn toàn, chỉ những nhà thờ Hồi Giáo là còn trụ vững và các ngôi nhà kiên cố nhất.
Đợt sóng với độ cao lên đến hơn 30m đã cuốn trôi hàng trăm ngàn ngôi nhà, hàng chục ngàn người ra biển. Sau khi sóng rút đi, khắp Aceh, tỉnh thiệt hại nặng nhất, chỉ còn là những đống hoang tàn, xác người đầy bùn đất nằm khắp nơi. Theo ghi nhận, Indonesia là quốc gia chịu tổn thất nặng nề nhất với hơn 160.000 người chết, gần như toàn bộ các thị trấn, thành phố bờ Tây đảo Sumatra đổ nát hoàn toàn, hơn 800 km đường bờ biển bị phá hủy khắp quốc đảo. Những vùng đất tại khu vực Aceh phải mất đến nhiều năm mới có thể hồi phục lại hệ sinh thái và cộng đồng dân cư như ban đầu.
Thái Lan
Sau khi động đất xảy ra, 2 tiếng sau, sóng đánh vào bờ biển phía Nam Thái Lan. Phuket, Phang Nga, Patong là các bãi biển bị thiệt hại do sóng thần. Chiều cao sóng khoảng 7-10m, nhưng cực đại là 19,6m. Sóng đã gây hậu quả lớn cho các điểm du lịch nổi tiếng của Thái Lan, nhiều nơi sóng tiến vào sâu đến hàng trăm mét, phá hủy nhiều khách sạn, nhà dân, bể bơi ven biển. Ước tính, khoảng 5.400 người Thái Lan lẫn khách du lịch đã thiệt mạng.
Sri Lanka
Đây là quốc gia bị sóng thần đánh vào cả bờ biển Đông và Tây. Sau động đất, sau khi vượt một chặng đường dài khoảng 90 phút, sóng đến được Sri Lanka, ập vào bờ biển Đông của đảo quốc. Sau khi đã tấn công, những đợt sóng theo sau đi chuyển xuống phía dưới, tàn phá các thị trấn từ Đông xuống Nam. Sau đó, những đợt sóng sau bị dội lại, tấn công tiếp bờ Tây Sri Lanka, tràn vào đất liền, san bằng những ngôi nhà có kết cấu yếu. Hơn 35.000 người Sri Lanka đã thiệt mạng trong thảm họa. Ghi nhận đợt sóng cao từ 10-12,5m.
Ấn Độ
Sóng lúc này đã tiêu hao một phần năng lượng, nên bắt đầu giảm sức mạnh. Dù vậy, nó vẫn gây ra nỗi kinh hoàng cho người dân Ấn Độ. Bang Tamil Nadu bị sóng thần ập vào với độ cao 9m, làm 16.000 người thiệt mạng, hàng ngàn ngôi nhà sập đổ.
Các quốc gia khác
Sóng thần còn tấn công Malaysia, Myanmar, Maldives,... đến các quốc gia Châu Phi như Somalia, Nam Phi. Tuy nhiên con số thương vong không cao.
Những thảm họa trong Lịch sử
Đây là trận động đất mạnh thứ tư kể từ năm 1900, con số tử vong được xác nhận là 229.886 - 230.000 người do sóng thần phát sinh từ cơn địa chấn. Những trận động đất gây thiệt hại nhân mạng lớn nhất kể từ năm 1900 gồm có trận động đất ở Đường Sơn, Trung Quốc năm 1976 giết hại ít nhất 255.000 người, trận động đất năm 1927 ở Tây Ninh, Thanh Hải, Trung Quốc cướp sinh mạng của 200.000 người, trận động đất lớn Kanto đánh vào Tokyo năm 1923 (143.000 nhân mạng), và Cam Túc, Trung Quốc năm 1920 (200.000 người). Trận động đất gây thiệt hại nhân mạng nhiều nhất từng được biết trong lịch sử xảy ra năm 1556 tại Thiểm Tây, Trung Quốc với con số tử vong ước tính là 830.000 người mặc dù sau một thời gian dài những con số như thế có thể không đáng tin cậy.
Riêng đợt sóng thần năm 2004 là thảm họa sóng thần giết hại nhiều người nhất trong lịch sử. Trước đây, có ghi nhận về đợt sóng thần gây tử vong cao nhất xảy ra ở Thái Bình Dương năm 1782 khi 40.000 người thiệt mạng do sóng thần tại Biển Đông. Sóng thần gây ra bởi núi lửa Krakatoa năm 1883 được cho là đã cướp mạng sống của 36.000 người. Trong quãng thời gian từ năm 1900 đến 2004, đợt sóng thần đánh vào Messina, Ý, trên bờ biển Địa Trung Hải, cùng với cơn địa chấn cướp sinh mạng của 70.000 người, là sóng thần gây thiệt hại nhân mạng cao nhất trong quãng thời gian này. Còn cơn sóng thần có số tử vong cao nhất xảy ra ở vùng biển Đại Tây Dương do trận động đất Lisboa năm 1755, tính luôn số nạn nhân hoả hoạn gây ra bởi động đất, tổng cộng hơn 100.000 nhân mạng.
Như vậy, có thể xem trận động đất và sóng thần năm 2004 là thiên tai gây chết chóc nhiều nhất kể từ cơn địa chấn Đường Sơn hoặc trận bão xoáy Bhola năm 1970.
Con người góp phần vào thiên tai
Một bài viết trên Tạp chí Wall Street ngày 31 tháng 12 năm 2004 cho rằng việc con người huỷ phá các rặng san hô bảo vệ bờ biển là một nhân tố quan trọng góp phần làm tăng tổn thất nhân mạng và thiệt hại trong vùng. Bài báo dẫn chứng trường hợp đảo Surin ngoài khơi bờ biển Thái Lan, coi đó là một minh chứng cho tính năng bảo vệ của rặng san hô khi chưa bị con người tàn phá. Tại những nơi này, số người tử vong thấp hơn nhiều so với những nơi khác; nhưng cũng cần biết rằng ở đây dân cư khá thưa thớt. Người ta đã cho nổ tung những khu vực có đá ngầm bao quanh Ấn Độ Dương vì xem chúng là chướng ngại vật cản trở tàu bè vận chuyển hàng hoá, vốn là một phần quan trọng của nền kinh tế Nam Á.
Tương tự, việc dọn sạch những rừng đước ven bờ được coi là đã làm tăng sức công phá của sóng thần tại một số khu vực. Thường mọc dọc theo bờ biển, các rừng đước đã bị phát quang để làm nơi sinh sống cho cư dân trong vùng. Nếu được bảo vệ đầy đủ, các cánh rừng này sẽ là tường thành bảo vệ người dân trước sóng thần. Một nhân tố khác giúp bảo vệ con người trước sự công phá của sóng thần lại bị con người rời bỏ là những đụn cát ven bờ biển.
Ảnh hưởng Nhân đạo, Kinh tế và Môi trường
Nhân đạo
Cần có một chiến dịch rộng lớn vận động trợ giúp nhân đạo mới có thể bù đắp những thiệt hại nặng nề về hạ tầng cơ sở, thiếu thốn nước, thực phẩm và những thiệt hại về kinh tế. Dịch bệnh cũng là một quan ngại đặc biệt do mật độ dân số cao và khí hậu nhiệt đới tại những vùng bị ảnh hưởng. Mối quan tâm chính của các tổ chức nhân đạo và các cơ quan chính phủ là cung cấp các phương tiện vệ sinh và nước sạch để kiểm soát sự lây lan các loại bệnh như tiêu chảy, bệnh bạch hầu, bệnh lỵ, thương hàn và viêm gan siêu vi A & B.
Cũng có những quan ngại về việc số tử vong cao sẽ làm lây lan dịch bệnh cũng như nạn đói. Tuy nhiên, do được xử lý kịp thời, những nguy cơ này đã được giảm thiểu.
Trong những ngày sau thảm họa, người ta phải làm việc cật lực để chôn cất tử thi hầu tránh bùng nổ dịch bệnh. Chương trình Lương thực Thế giới đã trợ giúp cho hơn 1, 3 triệu người là nạn nhân sóng thần.
Các quốc gia trên khắp thế giới cung cấp hơn 3 tỉ USD trợ giúp những vùng bị thiệt hại; chính phủ Úc hứa hẹn 819, 9 triệu USD (trong đó có khoản viện trợ trọn gói 760,6 triệu USD cho Indonesia), chính phủ Đức 660 triệu USD, chính phủ Nhật Bản 500 triệu USD, chính phủ Canada 425 CAD, chính phủ Na Uy 170 triệu USD, chính phủ Mỹ lúc ban đầu là 35 triệu, Ngân hàng Thế giới 250 triệu. Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) cho biết Hoa Kỳ cam kết ngân quỹ bổ sung trong khuôn khổ của chương trình trợ giúp dài hạn dành cho nạn nhân sóng thần xây dựng lại cuộc sống. Ngày 9 tháng 2 năm 2005, Tổng thống George W. Bush yêu cầu Quốc hội gia tăng cam kết đóng góp của Hoa Kỳ lên đến 950 triệu USD. Các viên chức ước tính phải cần đến hàng tỉ USD. Bush yêu cầu cha, cựu tổng thống George H. W. Bush, và cựu tổng thống Bill Clinton, dẫn đầu một nỗ lực của Hoa Kỳ cung cấp những trợ giúp tư nhân cho nạn nhân sóng thần.
Đến trung tuần tháng Ba, theo tường trình của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), số tiền hơn 4 tỉ USD mà các chính phủ hứa hẹn bị giải ngân chậm. Sri Lanka báo cáo rằng họ không nhận được khoản viện trợ nào từ chính phủ nước ngoài, trong khi những trợ giúp cá nhân từ hải ngoại thì dồi dào. Các tổ chức từ thiện nhận nhiều đóng góp hào phóng từ công chúng chẳng hạn như ở Anh, số tiền quyên góp của dân chúng lên đến gần 600 triệu USD, vượt quá mức đóng góp của chính phủ, tính trung bình mỗi người dân Anh tặng 10 USD, trong số đó có cả người vô gia cư và trẻ em.
Kinh tế
Người ta có thể dễ dàng nhận ra những tác hại trên cộng đồng ngư dân và những người sống bằng nghề nuôi trồng thủy sản, một số được xem là nghèo nhất vùng, mất kế sinh nhai, mất luôn tàu thuyền và phương tiện đánh bắt. Ở những vùng duyên hải thuộc Sri Lanka, nơi mà nghề đánh bắt thủ công là nguồn cung cấp chính các loại cá cho chợ búa trong vùng và công nghiệp thủy hải sản là hoạt động kinh tế chính, thu hút nhân công trực tiếp khoảng 250.000 người. Trong những năm gần đây, công nghiệp này trở nên khu vực xuất khẩu năng động, tạo ra nguồn thu ngoại thương căn bản cho đất nước. Song, theo ước tính ban đầu, đến 66% đội tàu đánh bắt hải sản và cơ sở hạ tầng công nghiệp trong vùng duyên hải đã bị tàn phá bởi những đợt sóng thần, làm đảo ngược hiệu quả kinh tế của địa phương và quốc gia.
Có một số kinh tế gia cho rằng thiệt hại kinh tế của những quốc gia bị ảnh hưởng là không nghiêm trọng, vì những tổn thất trong ngành du lịch và đánh bắt hải sản chiếm tỉ trọng tương đối nhỏ trong GDP. Nhưng có những cảnh báo về thiệt hại cơ sở hạ tầng, xem đó là một nhân tố khó lường. Trong một số khu vực, đồng ruộng và nguồn cung cấp nước uống bị ô nhiễm trong nhiều năm do nước biển tràn vào.
Động đất và sóng thần có thể ảnh hưởng đến thủy lộ đi qua Eo biển Malacca vì làm thay đổi độ sâu đáy biển, làm xáo trộn các phao hoa tiêu và những xác tàu chìm. Thiết lập hải đồ hoa tiêu mới phải mất hàng tháng hoặc hàng năm.
Các quốc gia trong vùng nỗ lực kêu gọi du khách trở lại, chỉ ra rằng hầu hết cơ sở hạ tầng du lịch vẫn còn nguyên vẹn. Dù vậy, du khách không mặn mà với ý tưởng trở lại những nơi ấy vì những lý do tâm lý. Ngay cả những khu nghỉ dưỡng ven bờ Thái Bình Dương của Thái Lan, không bị tàn phá bởi sóng thần, nhưng bị suy sụp vì du khách huỷ bỏ kỳ nghỉ. Tuy nhiên, một năm sau thảm hoạ sóng thần, ngành du lịch bắt đầu khởi sắc trở lại, với mong đợi được phục hồi hoàn toàn vào năm 2006.
Môi trường
Còn lớn hơn những tổn thất nhân mạng, cơn địa chấn Ấn Độ Dương gây ra những thiệt hại khổng lồ về môi trường, ảnh hưởng đến các quốc gia trong vùng trong nhiều năm tới. Có những bản tường trình về sự thiệt hại nghiêm trọng tác hại đến các hệ sinh thái như rừng đước, rặng san hô, rừng cây, vùng đất ngập mặn duyên hải, hệ thực vật, đồi cát, cấu tạo đá, nguồn nước ngầm và tính đa dạng sinh học động vật và thực vật. Hơn nữa, sự phát tán chất thải rắn và lỏng cùng các loại hoá chất, tình trạng ô nhiễm nguồn nước, sự tàn phá hệ thống cống rãnh và những nhà máy xử lý đang đe doạ môi trường theo hướng khó lường. Cần phải có nhiều thời gian và nguồn tài nguyên dồi dào mới có thể thẩm định hết những tác hại trên môi trường.
Theo các chuyên gia, tác hại lớn nhất là ô nhiễm nguồn nước và ô nhiễm đất do nước mặn từ biển thâm nhập vào đất liền, cấu tạo một lớp muối trên bề mặt đất trồng trọt. Tại Maldives, có từ 16 đến 17 đảo san hô vòng (coral reef atoll) bị tràn ngập bởi sóng biển nên hoàn toàn không còn nước ngọt và được xem là không thể phục hồi trong vài thập niên tới. Vô số giếng nước phục vụ các cộng đồng dân cư bị vùi lấp bởi đất, cát và nước biển; những tầng nước ngầm (aquifer) bị đá tàng ong xâm lấn. Đất bị ngập nước biển trở nên cằn cỗi, không dễ dàng gì mà lại tốn kém nếu muốn phục hồi chúng thành đất nông nghiệp. Nước biển làm chết cây cối và huỷ diệt các loại vi sinh vật rất cần cho đất. Hàng ngàn cánh đồng trồng lúa và nông trang trồng xoài và chuối ở Sri Lanka bị huỷ hoại hoàn toàn và phải mất nhiều năm để phục hồi chúng.
Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) đang hợp tác với các chính phủ trong vùng xác định độ nghiêm trọng của những tác hại sinh thái và tìm cách định danh (để xử lý) chúng. UNEP đã dành 1 triệu USD cho quỹ khẩn cấp và thành lập một lực lượng đặc nhiệm cho mục đích này. Theo yêu cầu của chính phủ Maldives, chính phủ Úc gởi những chuyên gia sinh thái đến giúp phục hồi môi trường biển và những rặng san hô – là huyết mạch của công nghiệp du lịch Maldives. Phần lớn kiến thức chuyên ngành sinh thái được thu thập từ các hoạt động tại rặng san hô Great Barrier thuộc lãnh hải đông bắc Úc.
Những Ảnh hưởng khác
Nhiều chuyên gia y tế và nhân viên viện trợ báo cáo về những sang chấn tâm lý sau thảm hoạ sóng thần. Niềm tin lâu đời của cư dân trong vùng đòi hỏi họ có bổn phận chôn cất tử tế người chết; điều này trở nên một sự dằn vặt và dần dà hình thành những chấn thương tâm lý.
Aceh, vùng gánh chịu sự tàn phá lớn nhất của thảm hoạ, là một xã hội Hồi giáo bảo thủ; ở đây không có du lịch, cũng không có sự hiện diện của người phương Tây trong những năm gần đây vì sự xung đột vũ trang giữa chính phủ Indonesia và phiến quân ly khai. Nhiều người tin rằng thảm họa sóng thần là sự trừng phạt vì cớ những người Hồi giáo trốn tránh lễ cầu nguyện hằng ngày cũng như theo đuổi một cuộc sống chuộng vật chất, trong khi những người khác tin rằng ấy là do Allah nổi cơn thịnh nộ đối với việc người Hồi giáo tàn sát lẫn nhau.
Chỉ có một điều duy nhất được xem là hệ quả tích cực của sóng thần là nước đã cuốn trôi cát lưu cữu hàng thế kỷ trên những phế tích của thành phố cổ 1.200 năm tuổi tại Mahabalipuram ở bờ biển phía nam Ấn Độ. Phế tích này có những kiến trúc quan trọng như tượng sư tử bằng đá granite chôn nửa thân người, nằm kế cận đền thờ Mahablipuram có từ thế kỷ thứ bảy, và những tượng đắp nổi hình một con voi, đây là một phần trong điều mà các nhà khảo cổ tin là một thành phố cảng cổ đại đã bị chìm sâu dưới đáy biển hàng trăm năm trước.
Tưởng niệm
Ngày 24 tháng 12 năm 2009, khắp châu Á người dân tưởng niệm trận động đất. Một ngày cầu nguyện và tưởng nhớ long trọng để đánh dấu một trong những thiên tai tệ hại nhất của thế giới được tổ chức tại tỉnh Aceh của Indonesia, nơi mất mát khoảng 170.000 người. Những buổi cầu nguyện được tổ chức tại các giáo đường trên khắp tỉnh phần lớn là người Hồi giáo này, và cạnh những nấm mồ tập thể gần thủ phủ Banda Aceh của tỉnh. Tại một trong số các ngôi mộ tập thể, nơi chôn cất hơn 14.000 nạn nhân không được xác nhận lý lịch, một bà cụ ngồi trên mặt đất vừa khóc vừa đọc những lời kinh Koran cho 40 người trong gia đình cụ đã thiệt mạng. "Không có ai trong gia đình tôi sống sót trong trận sóng thần. Các con, các cháu, anh chị em tôi, tất cả đều ra đi bỏ lại tôi một mình ở đây," Siti Aminah, 72 tuổi, nói với thông tấn xã AFP. "Đây là ngôi mộ tập thể nằm gần những khu nhà của chúng tôi. Họ có thể được chôn ở đây hoặc có thể đã bị nước cuốn ra biển vì chúng tôi sống cạnh bãi biển. Mặc dù tôi không biết chắc nơi họ được chôn cất, tôi luôn luôn tới đây mỗi năm để cầu nguyện cho họ để họ được yên nghỉ."
Phó Tổng thống Indonesia Boediono dẫn đầu một lễ cầu nguyện cách đó hai kilômét tại hải cảng Ulee Lheu, để tưởng niệm những người đã mất. "Năm năm sau, người dân Aceh với sự trợ giúp của các cộng đồng quốc tế đã tìm cách vươn lên trở lại và khởi sự tái xây dựng đời sống xã hội, kinh tế và văn hóa của họ trong một khung cảnh hòa bình," ông nói với khoảng 1.000 cư dân, học sinh và các viên chức.
Tại Sri Lanka, Tổng thống Mahinda Rajapakse mở đầu những buổi lễ tưởng niệm bằng hai phút im lặng cho các nạn nhân sóng thần. Các đài truyền thanh và truyền hình ngưng phát trong hai phút vào lúc 9 giờ 25 phút sáng giờ địa phương, trùng với giờ mà cơn sóng thần ập lên những vùng bờ biển phía Nam của hòn đảo. Những buổi lễ tôn giáo cũng được tổ chức trên khắp hòn đảo để tưởng niệm khoảng 31.000 người thiệt mạng năm năm về trước. Những lễ tưởng niệm ít rầm rộ cũng được tổ chức tại miền Nam Ấn Độ, nơi hứng chịu vụ thiên tai nặng nề nhất trong nước, với khoảng 6.500 người chết. Trên các hòn đảo Andaman và Nicobar của Ấn Độ, những buổi cầu nguyện chung của nhiều tôn giáo được tổ chức tại thủ phủ Port Blair của quần đảo cho khoảng 4.000 người bị sóng thần giết chết trên dãy đảo.
Tại Thái Lan, nơi sóng thần giết chết 5.395 người, theo một con số chính thức, các buổi lễ được tổ chức trên bãi biển ở Phang Nga trên duyên hải phía Tây, là nơi bị thiệt hại nặng nề nhất, và trên địa điểm du lịch Phuket ở phía Nam. Theo cảnh sát, khoảng 1.000 người Thái và người ngoại quốc tham dự buổi lễ tại Ban Namkhem ở Phang Nga sáng ngày 26 tháng 12 năm 2009, trong khi khoảng 200 người tụ tập trên bãi biển Patong ở Phuket để cầu nguyện và chứng kiến việc đặt các vòng hoa tưởng niệm.
Nghệ thuật
Thảm họa này được đưa làm nội dung chính bộ phim The Impossible, sản xuất năm 2012, đạo diễn bởi J.A. Bayona với 2 diễn viên chính là Naomi Watts và Ewan McGregor.
Chú thích |
Sông Ranh là một con sông chảy trên địa phận tỉnh Quảng Bình, bắt nguồn từ khu vực ven núi Cô Pi cao 2.017 m thuộc dãy Trường Sơn, chảy qua địa phận các huyện Minh Hóa, Tuyên Hóa, Bố Trạch, Quảng Trạch và thị xã Ba Đồn để đổ ra biển Đông ở Cửa Ranh.
Đặc điểm
Dòng chảy ở thượng nguồn theo hình chữ V với hướng chủ đạo là tây nam-đông bắc. Từ điểm giáp ranh ba xã Thanh Thạch, Hương Hóa, Kim Hóa bắt đầu chảy theo hướng tây bắc-đông nam. Tới ranh giới hai xã Kim Hóa và Lệ Hóa nó tiếp nhận thêm nước từ một chi lưu nhỏ phía hữu ngạn, chảy về từ phía tây. Phía dưới thị xã Ba Đồn khoảng 3 km, sông Gianh tiếp nhận thêm nước từ chi lưu phía hữu ngạn, chảy ra từ khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng.
Sông Gianh dài khoảng 160 km, cắt qua Quốc lộ 1 ở tây bắc Cửa Gianh 5 km. Diện tích lưu vực 4.680 km², độ cao trung bình 360 m, độ dốc trung bình 19,2%, lượng nước năm 7,95 km³ ứng với lưu lượng nước trung bình năm 252 m³/s, môđun dòng chảy năm 53,8 l/s.km². Mùa lũ từ tháng 9 đến tháng 11, chiếm khoảng 60-75% lượng dòng chảy hàng năm. Dòng cát bùn khoảng 1,93x105 tấn/năm, ứng với độ đục trung bình năm 192 g/m³ và hệ số xâm thực 168 tấn/km² năm. Tàu thuyền có thể qua lại đoạn sông ở hạ lưu, từ Cửa Gianh đến Ba Đồn 6 km, đến thị trấn Đồng Lê huyện Tuyên Hóa là 47 km.
Đoạn thượng lưu từ Khe Nét trở về nguồn dài khoảng 70–80 km, lòng sông nhiều thác ghềnh. Khoảng 20 km đầu nguồn đá đổ ngổn ngang trong lòng sông. Tới Đồng Tâm, lòng sông rộng khoảng 80 – 90 m, lớn nhất 110–115 m. Đoạn từ các xã Phù Hóa, Quảng Tiên tới thị xã Ba Đồn (), lòng sông có 5 cồn, đảo nhỏ trên sông, trong đó đảo dài nhất khoảng 3,8 km rộng nhất khoảng 0,8 km. Ngay dưới Ba Đồn lòng sông rộng tới 1 km.
Sông Ranh trong lịch sử, văn hoá Việt Nam
Sông Gianh và Đèo Ngang là biểu trưng địa lý của tỉnh Quảng Bình. Phần thượng lưu sông Gianh có tên là Rào Nậy với những đặc điểm địa vật lý và địa chất dị thường của Rào Nậy - Hoành Sơn, một nhánh khác là Rào Son có động Phong Nha (vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, di sản thiên nhiên thế giới). Cửa sông có cảng biển gọi là Cảng Gianh.
Trong lịch sử, sông Gianh được gọi theo tên chữ là Linh Giang (chữ Hán: 江). Nếu Đèo Ngang là ranh giới thời Đại Cồ Việt và Chiêm Thành sau khi người Việt giành được độc lập từ 939 đến năm 1069, thì sông Gianh là ranh giới thời Trịnh-Nguyễn phân tranh giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài (1570-1786) với xung đột vũ trang gần nửa thế kỷ (1627-1672). Chiến trường chính là miền Bố Chính (Quảng Bình). Đèo Ngang gắn với huyền thoại "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân" của Trạng Trình. Năm 1558, Nguyễn Hoàng, một danh tướng thời nhà Lê trung hưng, con thứ của Nguyễn Kim, sợ bị Trịnh Kiểm mưu hại, đã xin vào trấn thủ Thuận Hóa, mở đầu nhà Nguyễn sau này.
Trong cuộc chiến tranh Trịnh Nguyễn, quân Trịnh án ngữ ở đèo Ngang, nhưng thực sự ranh giới chia cắt Bắc - Nam của Việt Nam là sông Gianh từ 1627 đến 1774. Bờ bắc sông có chợ Ba Đồn là nơi quân Trịnh mua đồ ăn uống và trao đổi hàng hóa.
Vào tháng 7 năm 1885, vua Hàm Nghi, người bị Pháp phế truất vì thiếu cộng tác và đã phát động kêu gọi nhân dân khởi nghĩa, quân Cần vương (“Giúp vua”) lánh nạn ở thượng nguồn sông, một vùng hoang dã ò núi và rừng rậm. Chính ở đó, tại ngôi làng nhỏ Ò Vé, ông đã bị bắt vào ngày 2 tháng 11 năm 1888 và bị đày đến Algiers, nơi ông mất năm 1943. |
Silesia (tiếng Séc: Slezsko, tiếng Ba Lan: Śląsk, tiếng Đức: Schlesien ()) là một vùng cổ của Trung Âu. Từ thế kỷ XII - XIV, vùng Silesia đã hình thành nên hơn 20 công quốc, được lịch sử gọi là Các công quốc Silesia. Ban đầu, vùng đất Silesia thuộc về Ba Lan, và trước năm 1526, trở thành thái ấp của các vua Bohemia, đến năm 1742 thì nó trở thành một phần của Lãnh thổ vương quyền Bohemia của Quân chủ Habsburg. Trong thời gian Silesia thuộc Ba Lan, nơi đây từng diễn ra trận đánh Legnica vào năm 1241 giữa quân Ba Lan và quân xâm lược Mông Cổ, kết thúc với thất bại thảm hại của quân kháng chiến Ba Lan.
Lịch sử
Tỉnh Silesia từng là một tỉnh giàu có của Đế quốc Áo do Gia tộc Habsburg trị vì. Vào năm 1740, Nữ hoàng Maria Theresia lên kế ngôi vua cha Karl VI. Tận dụng cơ hội, vua nước Phổ là Friedrich II Đại Đế thân chinh thống lĩnh 27 nghìn quân tinh nhuệ đi chinh phạt tỉnh Silesia. Không lâu sau, toàn bộ tỉnh Silesia (kể cả thủ phủ Breslau) đã rơi vào tay quân Phổ. Với cuộc chinh phạt nhanh chóng này, Nữ hoàng nước Áo tức giận và những cuộc chiến tranh liên minh bùng nổ. Nhưng rồi, nhà vua nước Phổ đại thắng quân Áo trong trận Mollwitz vào năm 1741. Sau lần đó, ông vẫn không ngừng cải thiện ba quân, cuối cùng các chiến binh thiện chiến Phổ lại một lần nữa thắng lớn trong trận Chotusitz vào năm 1742. Maria Theresia phải xin hòa, chấm dứt cuộc chiến tranh Silesia lần thứ nhất (1740 - 1742).
Trong Mùa Hè năm 1744, cuộc chiến tranh Silesia lần thứ hai (1744 - 1745) do nhà vua Friedrich II Đại Đế nhận thấy hiểm họa từ đại quân Áo. Vào tháng 6 năm 1745, quân Áo xâm lược Silesia, đoàn quân bé nhỏ của ông hành binh suốt đêm và đột kích quân địch trong trận Hohenfriedberg. Quân Áo thảm bại và bị đánh đuổi khỏi Silesia. Sau đó, ông vẫn tiếp tục đánh tan nát mọi đạo quân Áo định thôn tính Silesia. Trong ngày Giáng Sinh năm 1745, Maria Theresia lại phải chịu thua. Theo Hiệp định Aachen vào năm 1748, nước Phổ làm chủ tỉnh Silesia. Tức giận, Nữ hoàng nước Áo liên minh với Pháp và Nga nhằm giành lại Silesia. Trong cuộc chiến tranh Silesia lần thứ ba (1756 - 1763), Friedrich II Đại Đế chủ động tấn công, nhưng tình hình bế tắc. Vào đầu tháng 12 năm 1757, tại ngôi làng Leuthen (Silesia), 3 vạn quân tinh nhuệ của ông chạm trán với 86 nghìn đại quân Áo. Nhờ có chiến thuật "đánh dọc sườn" trứ danh, đoàn quân Phổ đại thắng. Quân Áo tháo chạy về Bohemia với tổn thất nặng nề. Sau đó, Friedrich II Đại Đế vẫn tiếp tục đánh tan nát quân Áo trong trận Liegnitz (1760) phá vỡ vòng vây của liên quân Áo - Nga, và vào năm 1762 thì đoàn quân của ông lại thắng to trong trận Burkersdorf. Nước Phổ toàn thắng vào năm 1763. Cuối cùng Triều đình Áo phải chịu thua và tuyên bố rằng họ sẽ chẳng bao giờ dám cướp lại tỉnh Silesia cho đến khi Friedrich II Đại Đế qua đời.
Tại Silesia vào năm 1769, vua Friedrich II Đại Đế gặp gỡ Hoàng đế Áo là Joseph II của Thánh chế La Mã - con trai của Maria Theresia và cũng là đồng trị vì của bà. Hiện giờ, phần lớn của vùng nằm tại Ba Lan, phần còn lại nằm tại Cộng hòa Séc và nước Đức. |
Cầu Trường Tiền hay cầu Tràng Tiền là chiếc cầu dài 402,60 m, gồm 6 nhịp dầm thép hình vành lược, khẩu độ mỗi nhịp 67 m. Khổ cầu 6 m , được thiết kế theo kiến trúc Gothic, bắc qua sông Hương. Đầu cầu phía bắc thuộc phường Đông Ba, đầu cầu phía nam thuộc phường Phú Hội tại trung tâm thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam.
Lịch sử và tên gọi
Căn cứ bài thơ "Thuận Hóa thành tức sự" của nhà thơ Thái Thuận , thi sĩ Quách Tấn đã cho rằng dưới thời vua Lê Thánh Tông, sông Hương đã có cầu. Chiếc cầu đó, được làm bằng song mây bó chặt lại với nhau và nối liền nhau, nên có tên là cầu Mây. Vì cầu có hình cái mống úp lên sông, nên còn có tên là cầu Mống . Trải bao năm tháng, không biết khi nào, cầu Mống được làm lại bằng gỗ, mặt cầu lát bằng ván gỗ lim.
Nguyên cây cầu bằng sắt này do Hãng Schneider et Cie et Letellier thiết kế, khởi công vào tháng 5 năm 1899 và khánh thành vào ngày 18 tháng 12 năm 1900. Cơ bản cầu có 6 vài, mỗi vài dài 66,66 mét. Mặt cầu rộng 4.5 m và có hai lề đường hai bên, mỗi bên rộng 0,75m. Chí phí hoàn thành là 732.456 Francs
Trận lụt năm Thìn (11/9/1904) đã cuốn trôi 4 vài xuống sông.
Hãng Daydé et Pillé (hãng thiết kế cầu Long Biên) được giao cho việc sửa chữa hai vài cầu còn lại và làm 4 vài cầu mới khác theo kiểu cũ.
Năm 1907, khi vua Thành Thái bị thực dân Pháp đày sang đảo Réunion, thì chính quyền thực dân Pháp cho đổi tên là cầu Clémenceau, theo tên của Georges Clemenceau, một Thủ tướng Pháp thời Thế chiến thứ nhất
Trong những năm 1905-1915, mặt cầu được phủ lớp bê tông cốt sắt. Cầu bị xuống cấp do gỉ sét và lưu lượng qua lại ngày càng nhiều nên chính phủ thời đó đã thương lượng với Hãng Eiffel (tên lúc đó là Công ty Xây dựng Levallois Perret - La Société Constructions Levallois-Perret) tìm phương pháp tu bổ cây cầu này. Theo đó, các nhà chuyên môn đã quyết định: thay thế những khung dầm sắt bị hư hỏng, mặt cầu đúc xi măng cốt sắt, lòng đường rộng hơn, hai lề đường cho người đi bộ rộng 1,95, làm ra phía ngoài và mỗi chỗ trụ cầu phải nới rộng hơn để làm chỗ tránh. Toàn bộ cầu được sơn phủ nhiều lớp để tránh gỉ sét. Chi phí nâng cấp lần này là 435.000 $.
Ngày 20 tháng 6 năm 1937, Hãng Eiffel - lúc đó mang tên mới là Anciens Etablissements Eiffel - dưới sự chỉ huy của giám đốc - kỹ sư Martin André đã tiến hành thi công mở rộng cầu. Vào tháng 11/1939, sau 29 tháng thi công, cầu Tràng Tiền hoàn thành.
Năm 1945 chính phủ Trần Trọng Kim đổi tên là cầu Nguyễn Hoàng.
Năm 1946, trong chiến tranh Việt - Pháp, cầu bị Việt Minh đặt mìn, giật sập hai nhịp phía tả ngạn. Hai năm sau cầu được tu sửa tạm để qua lại. Năm 1953, cầu được sửa chữa hoàn chỉnh như cũ.
Trong Sự kiện Tết Mậu Thân, trụ 3 và nhịp 4 bị phá hủy , khi quân Mặt trận Giải phóng miền Nam cho giật sập để cắt đường phản công của quân đội Việt Nam Cộng hòa. Sau đó, một chiếc cầu phao được dựng tạm lên bên cạnh để nối đôi bờ; rồi cầu được tu sửa tạm thời.
Tới năm 1991 cầu được trùng tu. Ở lần trùng tu này do Công ty Cầu 1 Thăng Long đảm nhiệm, kéo dài trong 5 năm (1991-1995), có nhiều thay đổi quan trọng, đó là việc dỡ bỏ các ban công ở hành lang hai bên tại vị trí các trụ cầu, lòng cầu (cả đường chính và phụ) bị hẹp lại do phải nẹp thêm hai ống lan can, màu sơn ghi xám thay cho màu nguyên bản từ xưa của cầu là màu nhũ bạc...
Từ Festival Huế năm 2002, cầu Tràng Tiền được lắp đặt một hệ thống chiếu sáng đổi màu hiện đại...
Trong Văn học Nghệ thuật
Mặc dù trải nhiều tên gọi, nhưng từ rất lâu, cái tên cầu Trường Tiền (vì chiếc cầu nằm gần một công trường đúc tiền, gọi tắt là Trường Tiền của nhà Nguyễn và phố Trường Tiền do vua Thành Thái lập năm 1899) vẫn được người dân quen gọi và đã đi vào nhiều bộ môn nghệ thuật...
Tên Cầu Mống đã xuất hiện trong thơ Thái Thuận:
Thuận Hóa thành tức sự
(Quách Tấn dịch)
Ghe thuyền đua
Cầu Mống giăng sông cửa nước chừa.Mây lẫn bóng non trời rộng mở,
Gió dồn tiếng sóng biển xa đưa.Chợ chiều tấp nập thân là lụa,
Nét bút bồi hồi nhịp trúc tơ.Ca nữ quản bao dòng huyết hận,
Địch đài trổi khúc lạc mai xưa.
Sau Cầu Mống, là cầu Trường Tiền. Và công trình này đã nhanh chóng trở thành một thắng cảnh nổi tiếng, và là đề tài của nhiều bộ môn nghệ thuật. Trích giới thiệu:
Cầu Trường Tiền trong những câu ca:
Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp
Em theo không kịpTội lắm anh ơi!
Bấy lâu mang tiếng chịu lờiAnh có xa em đi nữa
Cũng tại ông Trời nên xa .
Năm 1905, chiếc cầu được pháp mua
Chợ Đông Ba đem ra ngoài giạiCầu Trường Tiền đúc lại xi-mon
Ơi người lỡ hội chồng conVề đây gá nghĩa vuông tròn nước non...Năm 1946, trong chiến tranh Pháp - Việt, cầu bị đặt mìn giật sập. Sau đó, lại có câu:Cầu Trường Tiền bấy nhiêu niên (năm) qua lại,
Kể tự đời Thành Thái nay.
Chạnh lòng biết hỏi ai đây,Việc chi nên nỗi đang tay dứt cầu?Và có ai đó đã đáp lại rằng:Chí quyết thắng nước Nên cầu nầy phải phá,Qua sông còn nhiều ngã
Đừng buồn bã em ơi.Nước non khôi phục được rồi,
Cầu nầy bắc lại, không mấy hồi đó em...
Trong thời gian Nguyễn Bính lưu lạc đến Huế, cầu Trường Tiền cũng đã xuất hiện trong thơ ông:Cầu cong như chiếc lược ngà
Sông dài mái tóc cung nga buông hờĐôi bờ đôi cánh tay vua ăn Cung nga úp mặt làm thơ thất tình...
...Bồng bồng sáu nhịp cầu caoThờ ơ bóng mát nơi nào cũng xanh...(trích trong Vài nét Huế, 1941)
Sau sự kiện Tết Mậu Thân, cầu Trường Tiền bị bom đạn gây hư hại nặng. Quá xúc cảm, nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng viết bài hát Chuyện một chiếc cầu đã gãy để nói lên sự việc này, có những câu:...Cầu thân ái đêm nay gãy một nhịp rồi
Nón lá sầu khóc điệu Nam Ai tiếc thương lời vắn dàiVì sao không thương mến nhau còn gây khổ đau làm lỡ nhịp cầu...
Ngoài ra, cầu Trường Tiền cũng đã được in trong bộ tem thư của Việt Nam.
Sáu vài, mười hai nhịp
Theo Từ điển tiếng Việt, cái gọi là vài cầu (hay vì cầu), "là kết cấu nối hai nhịp giữa hai mố cầu và tựa lên các mố đó", còn nhịp cầu cũng theo từ điển này là "khoảng cách giữa hai trụ cầu và mố cầu liền nhau". Theo đó, TS. Trần Đức Anh Sơn cho rằng cầu Trường Tiền thực sự là "mười hai vài, sáu nhịp" chứ không phải là "sáu vài, mười hai nhịp". Ca dao có câu:Chợ Đông Ba đem ra góc thành,
Cầu Trường Tiền sáu nhịp bến đò Ghềnh bắc ngang.
Hay:
Cầu Trường Tiền sáu nhịp bắc qua,Tả Thanh Long, hữu Bạch Hồ đợi khúc âu ca thái bình.Song đôi khi, để thuận tai, để có vần, có điệu, một vài tác giả dân gian đã đổi từ "mười hai vài, sáu nhịp" sang "sáu vài mười hai nhịp", như ở câu:Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịpAnh theo không kịp
Tội lắm em ơi!.... |
Huân chương Sao Vàng là huân chương cao quý nhất của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam), được đặt ra lần đầu theo sắc lệnh số 58/SL ngày 6 tháng 6 năm 1947 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đặt ra lần hai theo Luật Thi đua - Khen thưởng (ban hành ngày 26 tháng 11 năm 2003).
Huân chương Sao Vàng để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân có công lao to lớn, đặc biệt xuất sắc và tặng cho tập thể lập được thành tích xuất sắc trong sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam và của dân tộc Việt Nam. Huân chương Sao vàng không chia hạng. Thẩm quyền tặng, truy tặng Huân chương Sao vàng do Chủ tịch nước quyết định.
Huân chương Sao Vàng không chia hạng. Đến nay Việt Nam đã tặng và truy tặng Huân chương Sao Vàng cho trên 140 tập thể, cá nhân trong nước và tặng 28 cá nhân nước ngoài.
Chủ tịch Tôn Đức Thắng là người đầu tiên được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng (năm 1958).
Miêu tả
1. Mẫu cũ (trước khi ban hành Luật Thi đua - Khen thưởng): Huân chương Sao Vàng gồm 2 phần:
Cuống huân chương viền ngoài màu vàng, trong bằng tơ Rayon dệt màu đỏ cờ, cốt bằng đồng đỏ mạ vàng.
Thân huân chương hình sao vàng năm cánh, dập nổi, màu vàng, chất liệu bằng đồng đỏ mạ vàng.
2. Mẫu mới (sau khi ban hành Luật Thi đua - Khen thưởng): Huân chương Sao Vàng gồm 3 phần:
Cuống huân chương viền ngoài màu vàng, trong bằng tơ Rayon dệt hai màu 1/2 bên trái màu đỏ cờ, 1/2 bên phải màu vàng, cốt bằng đồng đỏ mạ vàng hợp kim nico dày 3 micron; kích thước 28 mm × 14 mm.
Dải huân chương hình chữ A cách điệu bằng tơ Rayon dệt hai màu: 1/2 bên trái màu đỏ cờ, 1/2 bên phải màu vàng; cốt bằng đồng đỏ mạ vàng hợp kim nico dày 3 micron; kích thước 28 mm × 51 mm × 41 mm × 51 mm.
Thân huân chương hình sao vàng năm cánh, dập nổi, màu vàng, chính giữa nền đỏ là ngôi sao vàng năm cánh xung quanh có dòng chữ "Huân chương Sao Vàng Việt Nam" màu vàng, đường kính 5 đỉnh sao bằng 52 mm, chất liệu bằng đồng đỏ mạ vàng hợp kim nico, dày 3 μm.
Đối tượng và tiêu chuẩn khen thưởng
Huân chương Sao Vàng để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân đạt một trong các tiêu chuẩn sau:
Người tham gia cách mạng từ năm 1935 về trước, hoạt động liên tục, có công lao to lớn đặc biệt xuất sắc trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, không phạm khuyết điểm lớn, đã đảm nhiệm một trong các trọng trách: Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam; Chủ tịch nước; Chủ tịch Quốc hội; Thủ tướng Chính phủ; ủy viên Bộ Chính trị; Bí thư Trung ương Đảng; Phó Chủ tịch nước; Phó Chủ tịch Quốc hội; Phó Thủ tướng Chính phủ; Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Phó Bí thư Trung ương Cục; Thường vụ xứ ủy; Bí thư khu ủy; Trưởng ban của Đảng ở Trung ương, Bộ trưởng và các chức vụ tương đương, Thượng tướng Lực lượng vũ trang nhân dân;
Người tham gia hoạt động cách mạng trước năm 1945, hoạt động liên tục, có công lao to lớn, đặc biệt xuất sắc trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, không phạm khuyết điểm lớn, đã đảm nhiệm một trong các trọng trách: Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam; Chủ tịch nước; Chủ tịch Quốc hội; Thủ tướng Chính phủ; ủy viên Bộ Chính trị; Bí thư Trung ương Đảng; Phó Chủ tịch nước; Phó Chủ tịch Quốc hội; Phó Thủ tướng Chính phủ; Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Đại tướng lực lượng vũ trang nhân dân;
Người có quá trình tham gia liên tục trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (từ 1945 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975), có công lao to lớn, đặc biệt xuất sắc trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, không phạm khuyết điểm lớn, đã đảm nhiệm một trong các trọng trách: Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Đại tướng Lực lượng vũ trang nhân dân trước ngày 30 tháng 4 năm 1975;
Người có quá trình công tác liên tục từ kháng chiến chống Mỹ (từ 1954 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975) và thời kỳ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc (từ ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay), có công lao to lớn, đặc biệt xuất sắc trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, không phạm khuyết điểm lớn, đã đảm nhiệm một trong các trọng trách: Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, 2 nhiệm kỳ;
Người có công lao to lớn, có công trình, tác phẩm đặc biệt xuất sắc, có tác động sâu rộng, tạo ra sự chuyển biến tích cực thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, được nhà nước thừa nhận, tôn vinh;
Nguyên thủ nước ngoài có công lao to lớn đối với dân tộc Việt Nam được nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thừa nhận, tôn vinh.
Huân chương Sao Vàng để tặng cho tập thể đạt các tiêu chuẩn sau:
Đã được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh;
Có quá trình xây dựng và phát triển từ 45 năm trở lên (trường hợp chưa được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh thì phải có quá trình xây dựng và phát triển từ 50 năm trở lên);
Lập được thành tích xuất sắc liên tục từ 10 năm trở lên trước thời điểm đề nghị, trong thời gian đó 5 lần được tặng cờ thi đua của Chính phủ hoặc bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, nội bộ đoàn kết, tổ chức Đảng, đoàn thể trong sạch, vững mạnh.
Tặng thưởng Huân chương Sao vàng lần thứ hai: tập thể có thành tích đặc biệt xuất sắc 10 năm trước thời điểm đề nghị, trong thời gian đó 5 lần được tặng cờ thi đua của Chính phủ hoặc bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, nội bộ đoàn kết, tổ chức Đảng, đoàn thể trong sạch, vững mạnh và đã có thời gian 20 năm kể từ khi được tặng thưởng Huân chương Sao vàng lần thứ nhất.
Huân chương Sao vàng để tặng cho tập thể người nước ngoài có công lao đặc biệt to lớn đối với dân tộc Việt Nam, được nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thừa nhận, tôn vinh. |
Huân chương Hồ Chí Minh là huân chương bậc cao thứ nhì của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam), được đặt ra lần đầu theo Sắc lệnh 58-SL ngày 6 tháng 6 năm 1947 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đặt ra lần hai theo Luật Thi đua - Khen thưởng được ban hành ngày 26 tháng 11 năm 2003).
Huân chương Hồ Chí Minh để tặng cho tập thể lập được thành tích xuất sắc; tặng hoặc truy tặng cho cá nhân có công lao to lớn, có nhiều thành tích xuất sắc ở một trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn học, nghệ thuật, khoa học, công nghệ, quốc phòng, an ninh, ngoại giao hoặc các lĩnh vực khác. Thẩm quyền tặng, truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh do Chủ tịch nước quyết định.
Khi mới được đặt ra lần đầu, Huân chương Hồ Chí Minh có 3 hạng được phân biệt bằng số sao đính trên dải và cuống huân chương: hạng Nhất có 3 sao, hạng Nhì có 2 sao, hạng Ba có 1 sao. Theo Pháp lệnh số 10-HĐNN ngày 28 tháng 3 năm 1981 của Hội đồng Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và theo Luật Thi đua - Khen thưởng thì Huân chương Hồ Chí Minh không chia hạng.
Huân chương Hồ Chí Minh không chia hạng. Đến nay Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tặng và truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh cho trên 600 tập thể, cá nhân trong nước và trên 50 tập thể cá nhân nước ngoài.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp là người đầu tiên được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh và cũng là người 2 lần được tặng thưởng (lần thứ nhất năm 1950 và lần thứ hai năm 1979).
Đối tượng và tiêu chuẩn khen thưởng
Huân chương Hồ Chí Minh để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân có công lao to lớn, có nhiều thành tích xuất sắc ở một trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn học, nghệ thuật, khoa học, công nghệ, quốc phòng, an ninh, ngoại giao hoặc các lĩnh vực khác, đạt một trong các tiêu chuẩn sau:
Người tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1935 về trước, hoạt động liên tục, có công lao to lớn, có nhiều thành tích xuất sắc trong sự nghiệp của Đảng Cộng sản Việt Nam, của dân tộc, không phạm khuyết điểm lớn, đã đảm nhiệm một trong các trọng trách: Bí thư, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Phó ban Đảng ở Trung ương, Thứ trưởng hoặc chức vụ tương đương, Trung tướng Lực lượng vũ trang nhân dân;
Người tham gia hoạt động cách mạng trước năm 1945, hoạt động liên tục, có công lao to lớn, có nhiều thành tích xuất sắc trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, không phạm khuyết điểm lớn, đã đảm nhiệm một trong các trọng trách: Trưởng ban Đảng ở Trung ương, Xứ ủy viên, Khu ủy viên, Bộ trưởng hoặc chức vụ tương đương, Thượng tướng Lực lượng vũ trang nhân dân;
Người có quá trình tham gia liên tục trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (từ 1945 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975), có công lao to lớn, có nhiều thành tích xuất sắc trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, không phạm khuyết điểm lớn, đã đảm nhiệm một trong các trọng trách: Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch Quốc hội, Phó Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc chức vụ tương đương 1 nhiệm kỳ, Đại tướng Lực lượng vũ trang nhân dân;
Người có quá trình công tác liên tục từ kháng chiến chống Mỹ (từ 1954 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975) và thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (từ ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay), có công lao to lớn, có nhiều thành tích xuất sắc, không phạm khuyết điểm lớn, đã đảm nhiệm một trong các trọng trách:
Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ 1 nhiệm kỳ.
Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch Quốc hội, Phó Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc các chức vụ tương đương liên tục 2 nhiệm kỳ, Đại tướng Lực lượng vũ trang nhân dân 10 năm trở lên.
Người có công lao to lớn, có công trình, tác phẩm đặc biệt xuất sắc có tác động sâu rộng thúc đẩy sự phát triển một trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn học, nghệ thuật, khoa học công nghệ, quốc phòng, an ninh, ngoại giao… được nhà nước thừa nhận, tôn vinh;Người nước ngoài'' có công lao to lớn đối với dân tộc Việt Nam, được Nhà nước Việt Nam thừa nhận, tôn vinh.
Huân chương Hồ Chí Minh để tặng cho tập thể đạt các tiêu chuẩn sau:
Đã được tặng Huân chương Độc lập hạng nhất hoặc Huân chương Quân công hạng nhất;
Có quá trình xây dựng và phát triển từ 35 năm trở lên (trường hợp chưa được tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng nhất hoặc Huân chương Quân công hạng nhất phải có quá trình xây dựng và phát triển từ 40 năm trở lên);
Lập được thành tích xuất sắc liên tục từ 5 năm trở lên trước thời điểm đề nghị, trong thời gian đó 3 lần được tặng Cờ Thi đua của Chính phủ hoặc Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ; nội bộ đoàn kết, tổ chức Đảng, đoàn thể trong sạch, vững mạnh.
Huân chương Hồ Chí Minh để tặng cho tập thể nước ngoài có nhiều thành tích xuất sắc đối với dân tộc Việt Nam, được Nhà nước Việt Nam thừa nhận, tôn vinh.
Mô tả
Quy định mẫu huân chương Hồ Chí Minh
Điều 7 Nghị định số 50/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2006 của Chính phủ quy định mẫu Huân chương, Huy chương, Huy hiệu, Bằng Huân chương, Bằng Huy chương, Cờ Thi đua, Bằng khen, Giấy khen:
Cuống Huân chương viền ngoài màu vàng, trong bằng tơ Rayon dệt màu đỏ cờ, có ba vạch vàng, cốt bằng đồng đỏ mạ vàng hợp kim Nico dày 3 micron; kích thước 28mm x 14mm.
Dải Huân chương hình chữ A cách điệu, bằng tơ Rayon dệt màu đỏ cờ có ba vạch vàng, cốt bằng đồng đỏ mạ vàng hợp kim Nico dày 3 micron; kích thước 28mm x 51mm x 41mm x 51mm.
Thân Huân chương hình tròn đường kính bằng 39mm, giữa là hình Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt trên đài Hoa sen, phía trên có dòng chữ "Huân chương Hồ Chí Minh", phía dưới có dòng chữ "Việt Nam" (dập nổi), chất liệu bằng đồng đỏ mạ vàng hợp kim Nico dày 3 micron.
Danh sách các tập thể và cá nhân được trao Huân chương Hồ Chí Minh
Chú thích
Huân chương Hồ Chí Minh
Huân chương và huy chương Việt Nam
Khởi đầu năm 1947 ở Việt Nam |
Khóa ngoại lai, thường gọi là khoá ngoại hay khóa ngoài, (tiếng Anh: foreign key) là một trường (field) hay một nhóm trường trong một bản ghi (record) của một bảng (table), trỏ (point) đến khóa của một bản ghi khác của một bảng (thường thì hai bảng này khác nhau). Thông thường, khóa ngoài trong một bảng trỏ đến khóa chính (primary key) của một bảng khác. Kiểu tham chiếu này có thể liên kết các thông tin lại với nhau và nó là một phần quan trọng của quá trình chuẩn hóa dữ liệu. Khóa ngoài tham chiếu tới chính bảng chứa nó được gọi là khóa ngoài đệ quy.
Ví dụ, người gửi một bức thư điện tử giới thiệu về một cuốn sách không cần phải đưa toàn bộ nội dung cuốn sách vào trong bức thư. Thay vào đó, họ có thể ghi số đăng ký xuất bản (ISBN) của cuốn sách, và người quan tâm có thể dùng số hiệu đó để lấy thông tin về quyển sách hoặc chính cuốn sách đó. Số hiệu xuất bản là khóa chính của cuốn sách, và nó được dùng làm khóa ngoài trong bức thư điện tử.
Việc sử dụng khóa ngoài thường đi kèm với giả thiết rằng nó là một khóa chính ở đâu đó. Quan hệ khóa chính/khóa ngoài không đúng là nguồn gốc của rất nhiều rắc rối trong cơ sở dữ liệu (xem thêm tính toàn vẹn tham chiếu).
Một ràng buộc khóa ngoại lai là một ràng buộc rằng không được xóa dữ liệu làm khóa ngoại lai trong một bản ghi khi còn có những bản ghi khác giả thiết rằng nó vẫn tồn tại.
Mô hình hóa dữ liệu
Hệ quản trị cơ sở dữ liệu
Cơ sở dữ liệu
SQL
de:Schlüssel (Datenbank)#Fremdschlüssel
no:Nøkkel (database)#Fremmednøkkel
zh:关系键#外键 |
Sông Nhật Lệ chảy qua địa phận tỉnh Quảng Bình, bắt nguồn từ núi U Bò, Co Roi (Trường Sơn) chảy ra Biển Đông tại cửa Nhật Lệ.
Đặc điểm
Sông có chiều dài 85 km với hai nhánh chính: sông Long Đại (hay Đại Giang) chảy qua huyện Quảng Ninh và sông Kiến Giang chảy qua huyện Lệ Thủy, gặp nhau ở Trần Xá.
Sông Nhật Lệ trong lịch sử Việt Nam
Sông Nhật Lệ cùng sông Gianh, đèo Ngang là những địa danh nổi tiếng của tỉnh Quảng Bình trong dòng chảy lịch sử,văn hoá của dân tộc Việt. Sông Nhật Lệ còn có tên là Đại Uyên được đổi thành sông Nhật Lệ khoảng năm 1069-1075. Theo Đại Nam nhất thống chí, từ thời Văn Lang, Âu Lạc (năm 2879 đến 257 trước Công nguyên) thuở vua Hùng dựng nước thì nước ta đã có 15 bộ (xấp xỉ 15 tỉnh). Từ Hoành Sơn trở vào gọi là bộ Việt Thường. Đến các Triều đại Tần, Hán, Đường bên Trung Quốc thì nước ta bị thôn tính và chia làm quận huyện để cai trị. Thời nhà Tần (221-206 trước Công nguyên), vùng đất Quảng Bình thuộc quận Tượng Lâm, đến thời nhà Triệu (207-111 trước Công nguyên) đổi thành quận Cửu Chân, sang thời Tây Hán (111 trước Công nguyên đến 39 sau Công nguyên) thuộc quận Nhật Nam. Cuối thời Đông Hán, bộ tộc Khu Liên lợi dựng nhà Đông Hán suy yếu đã nổi dậy chiếm Tượng Quận và Nhật Nam lập nên Lâm Ấp (sau này gọi là Chiêm Thành). Quảng Bình là vùng ranh giới thời Đại Việt và Chiêm Thành sau khi người Việt giành được độc lập (939) và trước thời kỳ Nam Tiến của người Việt (1069).
Vua Lý Thánh Tông năm 1054 đã đổi tên nước thành Đại Việt. Do Chiêm Thành thường ra quấy nhiễu, năm 1063 vua Lý Thánh Tông đã đích thân nam chinh. Vua chọn thái uý Lý Thường Kiệt làm nguyên soái tiên phong chỉ huy 5 vạn quân theo đường thủy tiến vào cửa biển Nhật Lệ, đánh bại quân Chiêm, bắt sống Chế Củ. Vua Chiêm đã chuộc mạng bằng cách tôn trọng chủ quyền của Đại Việt ở 3 châu Bố Chính (Tuyên Hoá, Quảng Trạch & Bố Trạch ngày nay), Địa Lý (Lệ Thủy và Quảng Ninh bây giờ), Ma Linh (Quảng Trị hiện tại). Năm 1074, Chế Củ chết, người kế vị lại đánh chiếm 3 châu. Năm 1075, vua Lý Nhân Tông cử Lý Thường Kiệt vào bình định lại, chính thức vẽ bản đồ cương giới 3 châu, đổi lại tên của nhiều địa danh, giữ tên châu Bố Chính, đổi tên châu Địa Lý thành châu Lâm Bình, châu Ma Linh thành châu Minh Linh, xuống chiếu mộ dân vào giữ vùng đất mới và tổ chức việc cai trị. Đây là đợt di dân đầu tiên để vào giữ đất và khai khẩn đất phương Nam. Tên sông Nhật Lệ dường như được đặt lại trong dịp đó.
Thời Trịnh-Nguyễn phân tranh (1570-1786) với xung đột vũ trang gần nửa thế kỷ (1627-1672) giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài thì chiến trường chính là miền Bố Chính, từ đèo Ngang đến Nhật Lệ. Trong cuộc chiến Trịnh-Nguyễn, quân Trịnh án ngữ ở đèo Ngang đến bờ bắc sông Gianh. Bờ nam sông Gianh đến sông Nhật Lệ là tuyến phòng thủ của quân Nguyễn với những thành lũy chắc chắn do Đào Duy Từ tổ chức xây đắp, luỹ Thầy dài 18 km, luỹ Trường Dục dài 10 km. Di tích Lũy Thầy, Quảng Bình quan, thành quách của thời Trịnh-Nguyễn nay vẫn còn.
Trong Chiến tranh Việt Nam (1954-1975), không lực Hoa Kỳ đã đánh phá miền Bắc Việt Nam ác liệt nhất tại tỉnh Quảng Bình. Những trọng điểm nổi tiếng ác liệt, lưu dấu nhiều chứng tích chiến tranh là phà Long Đại (nay là cầu Long Đại), phà Xuân Sơn, phà sông Gianh (nay là cầu sông Gianh), đèo Ngang, quốc lộ 1, đường 15, hệ thống đường 559 (đường Trường Sơn), thành phố Đồng Hới, cửa biển Nhật Lệ.
Sông Nhật Lệ là thắng cảnh du lịch
Nhật Lệ là dòng sông tuyệt đẹp của vùng đất miền Trung. Tên sông có nghĩa là "sự rực rỡ của ánh sáng mặt trời" đã được ngợi ca trong câu thơ cổ của Hồ Thiên Du "nhật chi lệ bất vô chi chúc giả" nghĩa là "sự rực rỡ của ánh sáng mặt trời thì không nơi nào là nó không chiếu đến được". Khi mặt trời nhô lên khỏi cồn cát Bảo Ninh, đứng ở bờ nam sông Nhật Lệ nhìn về hướng đông sẽ thấy con sông lấp lánh sáng rực rỡ suốt dọc chiều dài hàng trăm mét. "Người Đồng Hới vẫn có cái thú ra bờ sông ngắm mặt trời mọc. Dẫu có đến ngàn lần thì cứ vẫn háo hức như mới thấy lần đầu".
Ngay tại thành phố Đồng Hới du khách dễ dàng tham quan thành Đồng Hới, Quảng Bình quan, lũy Thầy. Trong một bán kính không xa từ thành phố Đồng Hới, về hướng đông nam là bãi tắm Nhật Lệ và di tích Bàu Tró, làng du lịch Bảo Ninh; về hướng tây là khu di sản thiên nhiên thế giới Phong Nha - Kẻ Bàng, các di tích lịch sử đường Hồ Chí Minh, khu thương mại cửa khẩu quốc tế Cha Lo-Nà Phàu; về phía bắc là các khu danh thắng Lý Hòa, xa hơn một chút là sông Gianh, Đèo Ngang, Vũng Chùa – Đảo Yến; về hướng nam du khách có thể tham quan nhà lưu niệm Võ Nguyên Giáp, đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh, suối nước khoáng nóng Bang (nguồn nước khoáng duy nhất tại Việt Nam có nhiệt độ sôi tại lỗ phun là 105 độ C), tham quan hồ An Mã với cảnh đẹp nên thơ và nhiều di tích văn hoá, lịch sử khác. |
Telenovela hay tiểu thuyết kịch phẩm là một thể loại phim truyền hình dài tập hoặc soap opera được sản xuất chủ yếu ở châu Mỹ Latinh. Tên gọi này được ghép từ chữ tele (kịch vô tuyến) và novela (tiểu thuyết). Chúng có hình thức giống kịch xà phòng thịnh hành tại các nước sử dụng tiếng Anh.
Lịch sử
Những phim truyền hình này được sản xuất và trình chiếu trong những giờ cao điểm trong mọi nước sử dụng tiếng Tây Ban Nha, Brasil (sử dụng tiếng Bồ Đào Nha, nơi chúng được gọi là novela), Đức, Bồ Đào Nha, và Hoa Kỳ. Các telenovela sản xuất tại Brasil cũng được lồng âm ra tiếng Tây Ban Nha để tiêu thụ tại thị trường châu Mỹ Latinh. Chúng cũng được trình chiếu trong những giờ cao điểm. Hai hãng phim nổi tiếng sản xuất thể loại này là Telemundo và RTI Colombia
Những telenovela đầu tiên được sản xuất tại Brasil, Cuba, México, với Sua vida me pertence ("Đời em là của ta", Brasil, 1950) được trình chiếu hai lần mỗi tuần, và Senderos de amor ("Những con đường tình ái", Cuba, 1951), và Ángeles de la calle ("Những thiên thần từ đường phố", Mexico, 1951) một lần mỗi tuần. Mexico sản xuất telenovela đầu tiên trong dạng trình chiếu từ thứ hai đến thứ sáu được trình chiếu trong những năm 1957 và 1958 với tên Senda prohibida ("Con đường cấm đoán") của Fernanda Villeli và Brasil trong năm 1963 với 2-5499 Ocupado ("2-5499 bận"). Venezuela sản xuất telenovela đầu tiên với tên La criada de la granja ("Đứa ở của tá điền"). Puerto Rico sản xuất telenovela đầu tiên năm 1955 với tên Ante la ley ("Trước pháp luật"). Telenovela Colombia đầu tiên là El 0597 está ocupado ("Số 0597 đang bận", 1959). Peru thì sản xuất Bar Cristal ("Thanh pha lê", 1959) và Panamá với En la esquina del Infierno ("Trong góc địa ngục", 1964).
Telenovela đầu tiên được xem tại nhiều quốc gia khác nhau là Đơn giản, tôi là Maria (Simplemente Maria, Perú, 1969). Sau đó telenovela Người giàu cũng khóc (Los ricos también lloran, Mexico, 1979) đã được trình chiếu tại Nga, Trung Quốc, Hoa Kỳ, và ngay cả Việt Nam. Phim Brasil Escrava Isaura ("Nô tì Isaura", 1976), cũng thành công rực rỡ vì đã được 450 triệu người tại Trung Quốc xem, đưa tên tuổi của nữ diễn viên Lucélia Santos vào đất nước này.
Ngày nay, các telenovela này càng hấp dẫn người xem truyền hình với các bộ phim như Khi bình minh đến, Pasión de Gavilanes, Hành trình trở về, Chuyện tình Marina. Các telenovela nổi tiếng nhất đến từ Mexico, Brasil, Colombia, và Venezuela. Tại Tây Ban Nha chúng được gọi là culebrón ("rắn dài") vì chúng có cốt truyện dài và khó hiểu. |
Giải bóng đá A1 toàn quốc lần thứ VII là giải vô địch bóng đá Việt Nam lần thứ 7 đã diễn ra từ 1 tháng 3 đến 7 tháng 6 năm 1987. Mùa giải gồm 27 đội bóng, trong đó có ba đội bóng tham gia giải lần đầu tiên (Long An, Điện Hải Phòng và Công an Quảng Nam-Đà Nẵng) và sáu đội quay trở lại giải (Tổng cục Đường sắt, Tiền Giang, Công nhân Xây dựng Hà Nội, Dệt Nam Định và An Giang) được chia làm 3 bảng thi đấu vòng tròn 2 lượt chọn 4 đội dẫn đầu mỗi bảng vào giai đoạn 2. Ở giải đoạn 2, 12 tiếp tục được chia vào 3 nhóm thi đấu vòng tròn 1 lượt chọn 2 đội đứng đầu mỗi bảng và 2 đội thứ 3 có thành tích tốt nhất vào tứ kết. Ở giai đoạn 1, trận hoà thứ năm của mỗi đội sẽ không được tính điểm. Giải tiếp tục không có đội xuống hạng.
Giai đoạn 1
Bảng A
Bảng B
Bảng C
Giai đoạn 2
Nhóm 1
Nhóm 2
Nhóm 3
Tứ kết
Bán kết
Tranh hạng ba
Chung kết |
Hồng nhung hay Hồng Nhung có thể có nghĩa:
Thực vật
Một loại hoa hồng.
Ngoài ra, Hồng nhung còn có thể là tên của một số loài thực vật sau:
Một số loài lan trong Phân họ Lan biểu sinh như
Hồng nhung nam hay hồng nhung trung Renanthera annamensis
Hồng nhung vàng chanh, phượng vĩ vàng Renanthera citrina
Diospyros blancoi, một loài trong Họ Thị
Động vật
Cá hồng nhung
Nhân vật
Hồng Nhung, một nữ danh ca của Việt Nam, có tên thân mật là Bống.
Hồng Nhung, nghệ sĩ cải lương (em gái nghệ sĩ ưu tú Vũ Linh, mẹ của nghệ sĩ Hồng Phượng)
Nguyễn Hồng Nhung, một ca sĩ của Việt Nam, người từng tham gia Sao Mai điểm hẹn 2004 và hiện đã định cư ở Hoa Kỳ. |
Vera Viktorovna Kiperman (; , Vira Viktorivna Halushka; sinh ra 3 tháng 2 1982), được biết đến với nghệ danh Vera Brezhneva (), là một ca sĩ nhạc pop người Ukraine, người dẫn chương trình truyền hình và nữ diễn viên. |
Chi Mận mơ (danh pháp khoa học: Prunus) là một chi của một số loài (khoảng 200) cây thân gỗ và cây bụi, trong đó có các loài như mận hậu, mơ, đào, anh đào và hạnh đào. Theo truyền thống nó được đặt trong họ Hoa hồng (Rosaceae) như là một phân họ là phân họ Prunoideae (hay Amygdaloideae), nhưng đôi khi được đặt thành một họ riêng của chính nó là Prunaceae (hay Amygdalaceae). Phân loại gần đây của Potter et al. (2007) đặt chi này trong tông Amygdaleae của phân họ Spiraeoideae mở rộng.
Chi này có 430 loài, chúng phân bổ rộng khắp khu vực ôn đới của Bắc Bán cầu. Hoa của chúng thường có màu từ trắng tới hồng, với 5 cánh và 5 đài hoa. Hoa mọc đơn hay thành kiểu các hoa tán với 2–6 hoa hoặc nhiều hơn trên mỗi cành hoa. Quả của mọi loài Prunus là loại quả hạch với "hột" tương đối lớn. Lá đơn và thông thường có hình mũi mác, không thùy và có răng cưa ở mép lá.
Phân loại
Một số hệ thống phân loại tách chi này ra thành vài chi khác nhau, nhưng sự phân chia như thế ít được công nhận hơn so với sự phân chia ở cấp độ phân chi. ITIS chỉ công nhận một chi duy nhất Prunus, với danh sách các loài được chỉ ra ở hộp bên phải.
Phân chi Amygdalus: đào và hạnh đào. Các chồi nách lá mọc thành cụm ba (chồi sinh dưỡng ở trung tâm, hai chồi hoa ở bên). Ra hoa vào đầu mùa xuân, không cuống hoặc gần như thế, không ở trên các cành lá. Quả có rãnh khía dọc theo một bên; hạt bị khía sâu. Loài điển hình là Prunus dulcis (hạnh nhân).
Phân chi Prunus: mận hậu, mận Âu, mơ ta, mơ tây... Các chồi nách lá mọc đơn. Ra hoa vào đầu mùa xuân, có cuống, không ở trên các cành lá. Quả có rãnh khía dọc theo một bên; hạt xù xì. Loài điển hình Prunus domestica (mận).
Phân chi Cerasus: anh đào. Các chồi nách lá mọc đơn. Ra hoa vào đầu mùa xuân thành ngù, cuống dài, không ở trên các cành lá. Quả không có rãnh khía, hạt nhẵn. Loài điển hình Prunus cerasus (anh đào chua).
Phân chi Lithocerasus: anh đào lùn. Các chồi nách lá mọc thành cụm ba. Ra hoa vào đầu mùa xuân thành ngù, cuống dài, không ở trên các cành lá. Quả không có rãnh khía; hạt nhẵn. Loài điển hình Prunus pumila (anh đào cát).
Phân chi Padus: anh đào dại. Các chồi nách lá mọc đơn. Ra hoa vào cuối mùa xuân thành các cành hoa trên các cành lá, cuống ngắn. Quả không có rãnh khía; hạt nhẵn. Loài điển hình Prunus padus (anh đào dại châu Âu).
Phân chi Laurocerasus: anh đào nguyệt quế. Các chồi nách lá mọc đơn. Ra hoa vào đầu mùa xuân thành các cành hoa, không trên các cành lá, cuống ngắn. Quả không có rãnh khía; hạt trơn. Phần lớn là cây thường xanh (tất cả các phân chi khác là cây sớm rụng lá). Loài điển hình Prunus laurocerasus (anh đào nguyệt quế châu Âu).
Sử dụng
Chi Prunus bao gồm các loài cây phổ biến như hạnh đào, mơ, anh đào, đào, mận hậu..., tất cả chúng đều có các giống được trồng cho sản xuất quả ở cấp độ thương mại như đào, anh đào, mận, mơ tây..., hoặc hạt. Cũng có một số loài, giống lai và giống được trồng chỉ thuần túy để làm cây cảnh, thông thường là vì vẻ đẹp của hoa, hoặc đôi khi là lá hay thân cây. Chi Prunus bao gồm một số loại hoa truyền thống nối tiếng của vùng Đông Á như anh 樱 (anh đào), mai 梅 (mơ ta), đào 桃, lý 李 (mận), hạnh 杏 (mơ tây)...
Do giá trị đáng kể của chúng trong vai trò của nguồn cung cấp quả và hoa, nhiều loài Prunus đã được đưa vào trồng ở nhiều khu vực không phải là bản địa của chúng. Nhiều loài nguồn gốc Cựu thế giới được trồng làm cảnh hay lấy quả và được trồng rộng khắp thế giới; trong số đó nhiều loài đã hợp thủy thổ và vượt xa ra ngoài khu vực nguồn gốc của chúng. Các loài Prunus bị ấu trùng của nhiều loài côn trùng thuộc bộ Cánh vẩy (Lepidoptera) phá hại - xem Danh sách các loài cánh vảy phá hại chi Prunus.
Một số loài theo châu lục
Lưu ý: Danh sách này chưa hoàn thiện.
Cựu thế giới
Prunus africana - anh đào châu Phi. Sinh trưởng ở các khu vực rừng núi của hạ Sahara và Madagascar.
Prunus armeniaca - Mơ tây (hạnh). Trung Á tới Trung Quốc.
Prunus avium - anh đào hoang, còn gọi là anh đào ngọt, là nguồn gốc của nhiều loại anh đào ăn quả. Sinh trưởng ở châu Âu tới Tây Á.
Prunus brigantina - mơ Briançon. Đông nam Pháp.
Prunus campanulata - anh đào hoa chuông. Miền nam Trung Quốc, Đài Loan.
Prunus canescens - anh đào lá xám. Trung Quốc.
Prunus cantabridgensis - anh đào Cambridge. Nguồn gốc không rõ, có thể là ở miền đông châu Á và cũng có thể là giống lai.
Prunus caspica
Prunus cerasoides - đây là cây anh đào được trồng phổ biến ở Đà Lạt.
Prunus cerasus - anh đào chua hay anh đào Morello. châu Âu và Tây Nam Á.
Prunus cerasifera - mận Myrobalan hay mận anh đào. Đông nam châu Âu và tây nam châu Á.
Prunus cocomilia - mận Naples. Đông nam châu Âu (Italy, Balkan).
Prunus cornuta - anh đào dại Himalaya. Himalaya.
Prunus dasycarpa - mơ đen. Có lẽ là giống lai của P. armeniaca x P. cerasifera.
Prunus davidiana - đào David. Trung Quốc.
Prunus divaricata
Prunus domestica - mận châu Âu, mận tía. Được cho là giống lai, có lẽ từ Tây Á và Caucasus.
Prunus dulcis - hạnh nhân. Đông nam châu Âu, tây nam châu Á.
Prunus fruticosa - anh đào lùn, anh đào Siberi. Đông nam châu Âu, Bắc Á.
Prunus grayana - anh đào dại xám. Nhật Bản.
Prunus incana - anh đào liễu. Tiểu Á, Caucasus.
Prunus incisa - anh đào Fuji. Nhật Bản.
Prunus insititia
Prunus italica
Prunus jacquemontii - anh đào Afghanistan. Tây bắc Himalaya ở Afghanistan và Pakistan.
Prunus laurocerasus - anh đào nguyệt quế. Balkan và Tây Á.
Prunus lusitanica - nguyệt quế Bồ Đào Nha. Iberia.
Prunus maackii - anh đào Mãn Châu. Đông bắc châu Á.
Prunus mahaleb - anh đào St Lucie, hay anh đào Mahaleb. châu Âu.
Prunus mume - mơ ta hay mơ Nhật Bản. Trung Quốc và Nhật Bản.
Prunus nipponica - anh đào núi cao Nhật Bản. Nhật Bản.
Prunus padus - anh đào dại. miền bắc đại lục Á-Âu.
Prunus persica - đào, nguồn gốc không chắc chắn, có lẽ từ Tây Á.
Prunus prostrata - anh đào trườn hay anh đào núi khu vực Địa Trung Hải và Tây Á.
Prunus ramburii
Prunus salicina - mận hậu. Bắc Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản.
Prunus sargentii - anh đào Sargent. miền bắc Nhật Bản.
Prunus serrula - anh đào Tây Tạng. Miền tây Trung Quốc tới Trung Á.
Prunus serrulata - anh đào Nhật Bản (Sakura). Đông Á.
Prunus sibirica - mơ Siberi. Đông bắc châu Á.
Prunus simonii - mận mơ. miền bắc Trung Quốc.
Prunus sogdiana
Prunus speciosa - anh đào Oshima. Các đảo Oshima & Izu của Nhật Bản.
Prunus spinosa - mận gai. châu Âu, Bắc Phi, Tây Á.
Prunus subhirtella - nguồn gốc không chắc chắn, có lẽ từ Đông Á.
Prunus tenella - hạnh lùn Nga. Khu vực biển Đen.
Prunus tomentosa - anh đào lông. Tây nam Trung Quốc, Himalaya.
Prunus ussuriensis
Prunus ursina
Prunus yedoensis - anh đào Yoshino. Nhật Bản, có thể có nguồn gốc là cây lai giống.
Bắc Mỹ
Prunus allegheniensis - mận Allegheny. Trong dãy núi Appalachian.
Prunus americana - mận Mỹ. Phần lớn ở Hoa Kỳ về phía đông của Đại Bình nguyên (Great Plains) và miền cực nam Canada.
Prunus andersonii - đào sa mạc. Tây nam Hoa Kỳ.
Prunus angustifolia - mận Chickasaw. Đông nam Hoa Kỳ.
Prunus besseyi - anh đào cát phương tây. Đại bình nguyên & và đông dãy núi Rocky.
Prunus caroliniana - anh đào nguyệt quế Carolina. Đông nam Hoa Kỳ.
Prunus emarginata - anh đào đắng. Từ British Columbia tới Oregon.
Prunus hortulana - mận Hortulan. Chủ yếu ở Missouri và Illinois cũng như khu vực xung quanh.
Prunus ilicifolia. anh đào lá nhựa ruồi. California.
Prunus maritima - mận bờ biển. Đông bắc bờ biển Đại Tây Dương.
Prunus mexicana - mận cây lớn. Đông nam Đại bình nguyên.
Prunus munsoniana - mận ngỗng trời. Chủ yếu ở Missouri và miền đông Kansas và các khu vực xung quanh.
Prunus nigra - mận Canada. Miền cực đông nam Canada về phía tây tới Manitoba và miền cực đông bắc Hoa Kỳ.
Prunus pensylvanica - anh đào ghim. Nửa miền nam Canada và miền cực bắc Hoa Kỳ.
Prunus pumila - anh đào cát. Đông nam, trung-nam Canada và miền bắc Hoa Kỳ về phía tây tới Wyoming.
Prunus serotina - anh đào đen. Miền cực đông nam Canada và phần lớn miền đông Hoa Kỳ ở Đại bình nguyên, cũng thấy ở Arizona và Guatemala.
Prunus subcordata - mận Oregon. Oregon, California.
Prunus virginiana - anh đào dại. Miền nam Canada và phần lớn miền đông Hoa Kỳ, ngoại trừ phần cực nam. |
AOL Instant Messenger (viết tắt AIM, phát âm như "êm" trong tiếng Anh) là một chương trình nhắn tin nhanh có quảng cáo mà được phát hành bởi AOL vào tháng 10 năm 1997, nó sử dụng giao thức nhắn tin nhanh OSCAR và giao thức TOC. Các phiên bản mới nhất là AIM Triton 1.0.4, được phát hành ngày 26 tháng 1 năm 2006 (cho Windows 2000/XP); AIM Triton Beta 1.2.10.3, ngày 14 tháng 2 năm 2006 (Windows 2000/XP); AIM 5.9.3861, ngày 10 tháng 8 năm 2005 (Windows 98/ME/2000/XP); AIM 4.8.2540, ngày 26 tháng 11 năm 2001 (Windows 95); AIM 4.7.1333, ngày 18 tháng 2 năm 2004 (Mac OS X); và AIM 1.5.286 (cho các phiên bản Linux khác nhau). AOL gọi công nghệ này là một phương tiện "giao thông ngay lập tức xuyên qua Internet". |
Georgia là một tiểu bang tại Đông Nam Hoa Kỳ.
Đây là nơi sinh của Tổng thống Jimmy Carter (tại Plains).
Địa lý
Georgia nằm giáp với Florida về phía nam, với Đại Tây Dương và Nam Carolina về phía đông, với Alabama về phía tây, và với Tennessee và Bắc Carolina về phía bắc. Miền bắc của tiểu bang này nằm trên dãy núi Blue Ridge, một dãy núi thuộc hệ thống núi của dãy Appalachian. Vùng piedmont ở miền trung kéo dài từ chân núi tới đường thác nước, ở đường này các sông chảy xuống thác nước tới cao độ của đồng bằng ven biển của lục địa ở phần nam của tiểu bang. Nơi cao nhất ở Georgia là Brasstown Bald (núi Brasstown) có cao độ 1.458 mét (4.784 foot); những nơi thấp nhất của tiểu bang bằng với mực nước biển.
Thủ phủ của Georgia là Atlanta, nằm ở miền trung bắc của tiểu bang, và quả đào là trái cây tượng trưng cho tiểu bang. Các sản phẩm nông nghiệp quan trọng của Georgia là cây hồ đào (pecan), bông, cây thuốc lá, và lâm sản, nhất là những cái gọi "naval store", như là nhựa và colophan được lấy từ những rừng cây thông.
Georgia là tiểu bang lớn nhất theo diện tích nằm về phía đông của sông Mississippi, kể từ khi Tây Virginia ly khai khỏi Virginia trong Nội chiến Hoa Kỳ. Michigan (250.494 kilômét vuông hay 96.716 dặm vuông), Florida (170.451 km² hay 65.768 dặm vuông), và Wisconsin (169.790 km² hay 65.603 dặm vuông) đều lớn hơn Georgia (154.077 km² hay 59.441 dặm vuông) khi tính vào cả diện tích đất và nước.
Các vùng dưới quyền của Dịch vụ Vườn Quốc gia (NPS) bao gồm:
Khu lưu niệm Quốc gia Andersonville tại Andersonville
Đường mòn Appalachian
Khu vực giải trí Quốc gia sông Chattahoochee gần Atlanta
Công viên quân đội Quốc gia Chickamauga và Chattanooga tại Fort Oglethorpe
Bờ biển Quốc gia đảo Cumberland gần Saint Marys
Đài kỷ niệm Quốc gia Fort Frederica trên Đảo St. Simons
Đài kỷ niệm Quốc gia Fort Pulaski tại Savannah
Nơi lịch sử Quốc gia Jimmy Carter gần Plains
Công viên Chiến trường Quốc gia núi Kennesaw gần Kennesaw
Nơi lịch sử Quốc gia Martin Luther King, Jr. tại Atlanta
Đài kỷ niệm Quốc gia Ocmulgee tại Macon
Đường lịch sử Quốc gia Con đường Nước mắt
Các thành phố quan trọng
Lịch sử
Mới đầu, nhiều nhà thám hiểm Tây Ban Nha tới vùng nội địa của Georgia, để lại phá hoại ở chỗ nào đến. Nền văn hóa xây địa phương được miêu tả bởi Hernando de Soto năm 1540 đã bị phá hết vào 1560.
Cuộc xung đột giữa Tây Ban Nha và Vương quốc Anh về quyền đất Georgia bắt đầu thực sự vào khoảng 1670, khi dân Anh di chuyển về hướng nam từ thuộc địa Carolina ở Nam Carolina ngày nay và gặp quân đội Tây Ban Nha đang lên từ căn cứ tại Florida. Năm 1724, miền này được một người đề nghị gọi thuộc địa Anh này là Địa phận Georgia để kỷ niệm Quốc vương George II của Anh.
Người Anh bắt đầu tới ở rất nhiều vào năm 1732 do James Oglethorpe, người Anh phục vụ trong Nghị viện Anh, ông đề xướng một kế hoạch để sử dụng miền này là tù người mắc nợ. Ngày 12 tháng 2 năm 1733, 113 tù nhân đi tàu HMS Anne và đổ bộ tại Savannah ngày nay. Ngày này hiện được gọi Ngày Georgia, đó không phải là ngày lễ chung nhưng được những trường học và một số hội công dân địa phương tổ chức. Năm 1752, Georgia được trở thành thuộc địa hoàng gia. Hiến pháp đầu tiên của Georgia được phê chuẩn năm 1777 nhưng bị thay đổi sau đó.
Georgia là một trong 13 thuộc địa mà nổi dậy chống cải trị Anh trong Cách mạng Mỹ. Nó là thuộc địa cuối được tăng cấp thành thuộc địa, nhưng nó được trở thành tiểu bang thứ tư sau khi họ phê chuẩn Hiến pháp Hoa Kỳ ngày 2 tháng 1 năm 1788. |
WiMAX (viết tắt của Worldwide Interoperability for Microwave Access) là tiêu chuẩn IEEE 802.16 cho việc kết nối Internet băng thông rộng không dây ở khoảng cách lớn.
Theo Ray Owen, giám đốc sản phẩm WiMax tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương của tập đoàn Motorola: WiMax hoàn toàn không phải là phiên bản nâng cấp của Wi-Fi có tiêu chuẩn IEEE 802.11, WiMax và WiFi tuy gần gũi nhưng là 2 sản phẩm khác nhau và cũng không phải phát triển từ WiBro (4G), hay 3G.
WiMAX là kỹ thuật viễn thông cung cấp việc truyền dẫn không dây ở khoảng cách lớn bằng nhiều cách khác nhau, từ kiểu kết nối điểm - điểm cho tới kiểu truy nhập tế bào. Dựa trên các tiêu chuẩn IEEE 802.16, còn được gọi là WirelessMAN. WiMAX cho phép người dùng có thể duyệt Internet trên máy laptop mà không cần kết nối vật lý bằng cổng Ethernet tới router hoặc switch. Tên WiMAX do WiMAX Forum tạo ra, bắt đầu từ tháng 6 năm 2001 đề xướng việc xây dựng một tiêu chuẩn cho phép kết nối giữa các hệ thống khác nhau. Diễn đàn này cũng miêu tả WiMAX là "tiêu chuẩn dựa trên kỹ thuật cho phép truyền dữ liệu không dây băng thông rộng giống như với cáp và DSL."
Khoá họp Hội đồng thông tin vô tuyến 2007 (RA-07) của Liên minh viễn thông thế giới (ITU), được tổ chức tại Genève, Thụy Sĩ từ ngày 15-19/10/2007, đã thông qua việc bổ sung giao diện vô tuyến OFDMA TDD WMAN (WiMAX di động) vào họ giao diện vô tuyến IMT-2000 (thường vẫn được biết dưới tên 3G).
Chuẩn IMT-2000 hiện có 5 giao diện vô tuyến CDMA Direct Spread (thường được biết dưới tên WCDMA), CDMA Multi-Carrier (thường được biết dưới tên CDMA 2000), CDMA TDD, TDMA Single-Carrier, FDMA/TDMA. Sau khi được bổ sung, chuẩn giao diện OFDMA TDD WMAN sẽ là chuẩn giao diện vô tuyến thứ sáu của họ IMT-2000.
Các chỉ tiêu về đặc tính phát xạ (phát xạ giả, phát xạ ngoài băng) của các trạm thu phát (BTS) và máy di động (MS) của WiMAX di động cũng đã được bổ sung vào các chuẩn hiện áp dụng cho IMT-2000.
RA-07 cũng thông qua khuyến nghị về việc sử dụng băng tần 2500-2690 MHz cho IMT-2000. Theo đó có 3 phương án (C1, C2, C3) sử dụng băng tần. Phương án C1 và C2 dành 2x70 MHz (đoạn 2500-2570 MHz và 2620-2690 MHz) sử dụng cho phương thức song công FDD để phù hợp với các công nghệ di động truyền thống như HSPA, LTE. Phương án C3 cho phép dùng linh hoạt giữa FDD và TDD, tạo thuận lợi cho việc sử dụng công nghệ TDD như WiMAX di động. Đây sẽ là cơ sở quan trọng cho việc quy hoạch tần số cho băng tần 2500-2690 MHz của các nước, cũng như ở Việt Nam.
Sở dĩ Diễn đàn WiMAX và các công ty ủng hộ WiMAX ra sức vận động để đưa WiMAX di động vào IMT-2000 là do WiMAX di động được phát triển dựa trên chuẩn 802.16e của IEEE và sản phẩm phải phù hợp với các bộ tiêu chí (profile) của Diễn đàn WiMAX (mỗi profile gồm nhiều tiêu chí, trong đó có băng tần sử dụng, phương thức song công). Tuy nhiên, cả IEEE lẫn Diễn đàn WiMAX lại không có vai trò trong việc đưa ra các quyết định liên quan đến băng tần số được sử dụng.
Trong khi đó băng tần 2500-2690 MHz, băng tần chính của WiMAX di động, lại được ITU phân bổ và hiện được nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là châu Âu dành cho IMT-2000. Dự kiến đây sẽ là băng tần của các công nghệ mới phát triển từ công nghệ di động thế hệ 2 (GSM, CDMA) lên như HSPA, LTE, UMB sử dụng phương thức song công FDD. Vì vậy, WiMAX ít có hoặc không có cơ hội được sử dụng tại các nước đó.
Do đó, việc được kết nạp vào họ tiêu chuẩn IMT-2000 của ITU, sẽ giúp gạt bỏ các trở ngại pháp lý, mở ra cơ hội để WiMAX di động có thể được sử dụng các băng tần dành cho IMT-2000, được tham gia vào một thị trường rộng lớn.
Tuy nhiên, tại RA-07, Trung quốc, Đức và một số nhà sản xuất viễn thông cho rằng WiMAX di động chưa đáp ứng được các tiêu chí kỹ thuật cần thiết của IMT-2000 như các tham số về đặc tính phát xạ, hệ số dò kênh lân cận (ACLR), chất lượng các dịch vụ của mạng chuyển mạch kênh, yêu cầu về chuyển vùng (seamless handover),.. Vì vậy, mặc dù thông qua việc bổ sung WiMAX di động, nhưng RA-07 yêu cầu cần tiếp tục nghiên cứu gấp về các vấn đề còn tồn tại này.
Hơn nữa, việc được kết nạp vào họ IMT-2000 không nghĩa sẽ đảm bảo được thành công về mặt thương mại cho WiMAX di động. Ngay trong 5 chuẩn của họ IMT-2000 trước đây, chỉ có WCDMA là đang có sự thành công tương đối trên thị trường, 4 chuẩn còn lại vẫn còn rất ít được sử dụng trong thực tế.
Bên cạnh vấn đề kết nạp WiMAX, RA-07 đã thông qua cách gọi liên quan đến IMT-2000, các hệ thống sau IMT-2000 và IMT tiên tiến (IMT-2000 Advanced). Do định nghĩa về IMT-2000 (3G) của ITU đã được xây dựng từ nhiều năm trước, nhiều công nghệ sau này như HSDPA, HSUPA, LTE, WiMAX di động có khả năng cung cấp tốc độ kết nối cao hơn so với tốc độ do ITU định nghĩa, nên nhiều hãng đã tận dụng để quảng cáo các hệ thống của mình là 3.5G, 3.9G thậm chí là 4G.
Trong khoá họp lần này, RA-07 đã quyết định cải tổ lại cơ cấu các nhóm nghiên cứu về thông tin vô tuyến. Theo đó ITU thành lập nhóm nghiên cứu 5 về các nghiệp vụ thông tin vô tuyến mặt đất trên cơ sở sáp nhập 2 nhóm nghiên cứu Nhóm nghiên cứu 8 về các nghiệp vụ thông tin vô tuyến di động, Nhóm nghiên cứu 9 về nghiệp vụ cố định. Các hoạt động nghiên cứu liên quan đến vệ tinh nằm rải rác ở Nhóm nghiên cứu 6, 8, 9 cũng được gom về nhóm nghiên cứu 4 để thành Nhóm nghiên cứu về các nghiệp vụ vệ tinh. Nhiệm vụ chính của các Nhóm nghiên cứu vô tuyến là nghiên cứu các vấn đề đặt ra trong lĩnh vực thông tin vô tuyến, quản lý phổ tần từ đó xây dựng các khuyến nghị (ITU-R Recommendation), các Báo cáo (Report), các Sổ tay (Handbook). Các Nhóm nghiên cứu của ITU-R còn đống vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị nội dung cho các Hội nghị thông tin vô tuyến thế giới.
Ngay sau khi kết thúc RA-07, Hội nghị thông tin vô tuyến thế giới 2007 (WRC-07) sẽ được tổ chức từ ngày 22/10 đến 16/11/2007 tại ITU
Bảo mật
Giới thiệu về WiMAX
WiMAX (tiếng Anh: Worldwide Interoperability for Microwave Access) là viết tắt của sự tương tác mạng diện rộng bằng sóng vô tuyến. WiMAX tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi dữ liệu tốc độ cao qua mạng không dây ở các đô thị (WMANs). Với những lợi thế như triển khai nhanh, tính chuyển đổi cao, chi phí nâng cấp thấp, Wimax góp phần giải quyết vấn đề nghẽn cổ chai. IEEE 802.16 là tiêu chuẩn, khuyến cáo hỗ trợ sự phát triển và triển khai công nghệ Wimax.
Tiêu chuẩn IEEE 802.16-2001 [1], xuất bản vào năm 2002. Định nghĩa điểm-đa điểm (PMP) kiểm tra sự truy cập mạng không dây giữa trạm gốc (BS) và các trạm thuê bao (SSs). IEEE 820.16-2001 dải tầng hoạt động là 10–66 GHz, ta có thể gọi đó là tầm nhìn thẳng (LOS) viễn thông. Tiêu chuẩn 802.16-2004 [2] được xuất bản năm 2004 mở rộng các đặc điểm kĩ thuật của WiMAX ở dải tầng số 2–11 GHz, ta có thể gọi là tầm nhìn không thẳng (NLOS) viễn thông. 802.16-2004 mô tả hồ sơ hệ thống WiMAX và sự phù hợp tiêu chuẩn đến môi trường mạng không dây tự động, giới thiệu về kiểu mắt lưới. IEEE 802.16-2004 là khả năng truyền từ node tới các node xung quanh. Tiêu chuẩn mới nhất IEEE 802.16-2005 [3], được xuất bản tháng 12 năm 2005. Quy định về phân chia đa tầng số (SOFDM), IEEE 802.16-2005 cung cấp đầy đủ hỗ trợ hình ảnh lưu thông cho cả được phép và không được phép. Những tiêu chuẩn WiMAX đã được nêu trên là những công cụ cho sự truy cập băng thông rộng nó như là một chiếc cầu cho dải thông không thích ứng và tới người sử dụng.
Như minh họa hình 1, những tiêu chuẩn của WiMAX xác định cấu trúc ở cả lớp điều khiển môi trường truy nhập (MAC) và lớp vật lý (PHY). PHY hỗ trợ các thao tác qua mạng diện rộng linh động qua một phạm vi phân bổ tần số (từ 2 đến 66 GHz), bao gồm sự thay đổi kênh trong dải thông, chia đôi tần số, và chia đôi thời gian. Lớp MAC là những quy định đặc tính chung cho sự đa dạng ở thiết bị ở lớp vật lý. Chức năng chính của MAC là sắp xếp ban đầu, entry mạng, yêu cầu về băng thông, quản lý hướng kết nối, cũng như bảo mật trong môi trường kết nối WiMAX.
Truyền thông trong WiMAX là hướng kết nối. Tất cả dịch vụ từ lớp nghi thức lên WiMAX MAC, bao gồm những kết nối dịch vụ, là những bản đồ kết nối giữa SS và BS trong lớp MAC. Một SS có thể có nhiều kết nối đến BS với mục đích cung cấp nhiều dịch vụ đến người sử dụng. Kết nối được xác định bằng 16-bit (CIDs). Như tạo điều kiện thuận lợi dải thông cho kết nối nền và sự giúp đỡ QoS trong môi trường kết nối không dây tự động. Như vậy lớp MAC quy định về hướng kết nối dịch vụ.
Trong số ba lớp con của lớp MAC, lớp dịch vụ (CS) kết nối lớp MAC với các lớp trên. Sau đó phân loại các dịch vụ (SDUs) từ các giao thức lớp trên, lớp CS liên kết các SDUs phù hợp với định luồng (SFID) MAC và CID. Với những giao thức khác, như ATM, Ethernet, và IP, lớp CS định nghĩa các thông số phù hợp. Do đó, những phần chung của lớp con MAC (CPS) không cần hiểu định dạng của nó hay phân tích bất kỳ thông tin nào đến từ CS payload. Lớp CPS của WiMAX MAC chụi trách nhiệm về cung cấp chức năng, bao gồm truy nhập, định vị dải thông, và thiết lập kết nối WiMAX và bảo trì. Trao đổi, MAC SDUs (MSDUs) với các CSs khác.
Bảo mật ở lớp con bắt đầu từ khóa role trong chứng thực, khóa thiết lập, cũng như thông tin mã hóa. Trao đổi đơn vị dữ liệu giao thức MAC (MPDUs) với PHY trực tiếp. Vào cuối xử lý môi trường tự động không dây, WiMAX chỉ định một bộ bảo mật và cơ chế quản lý khóa. Hai thành phần ở lớp bảo mật là giao thức đóng gói và giao thức quản lý khóa riêng (PKM). Giao thức đóng gói mã hóa dữ liệu qua BWA, trong khi giao thức (PKM) đảm bảo phân phối khóa chủ và cho phép truy cập giữa SS và BS. Bảo vệ đến tốc độ truy nhập băng thông linh động, lớp bảo vệ cung cấp SS riêng và bảo vệ BS khỏi tấn công.
Bài này giới thiệu tổng quan cơ chế an toàn WiMAX, đặc biệt sơ đồ quản lý riêng cho người thuê bao và an toàn cho dịch vụ. Mục 2 mô tả những thách thức tới sự an toàn WiMAX. Mục 3 mô tả PMK Version 1 (PKMv1), cơ chế an toàn cơ bản cho truyền WiMAX. Mục 4 chi tiết PKM Version 2 (PKMv2), một cơ chế bảo mật cao với cải thiện amajor chứng thực lẫn nhau. Mục 5 kết luận.
Bảo mật trong WiMAX.
Những vấn đề ở lớp physical
Hai tín hiệu gây nhiễu chính ở lớp PHY là jamming và scrambling. Jamming có được khi nhiễu mạnh nhiều hơn so với công suất kênh WiMAX. Các thông tin và thiết bị cần để thực hiện gây nhiễu dễ dàng có được. Khả năng phục hồi tín hiệu khi bị Jamming được tăng lên bằng cách tăng công suất tín hiệu hay làm tăng băng thông của tín hiệu thông qua các kĩ thuật truyền như nhảy tần hoặc trải phổ chuỗi trực tiếp. Trên thực tế, người ta chọn một máy phát có công suất lớn, anten phát có độ lợi cao, hoặc anten thu có độ lợi cao. Tín hiệu jamming rất dễ dò thu phát bởi thiết bị nhận. Luật cưỡng chế cũng giúp ngăn chặn thiết bị làm nhiễu. Jamming dễ dàng phát hiện và dò địa chỉ, do đó nó không gây ra một tác động đáng kể lên cả người dùng WiMAX và hệ thống.
Scrambling thường bị kích hoạt trong khoảng thời gian ngắn và mục tiêu là các frames hoặc các phần frames của WiMAX. Scrambling có thể được loại bỏ bằng bộ lọc điều khiển Scrambling hoặc gói tin quản lý với mục đích là thao tác mạng bình thường. Những khe của luồng dữ liệu nhắm đến SSs có thể chọn lọc scrambling, ép nó phát lại.
Attacker, giả làm một SS qua đó làm giảm băng thông của người bị tấn công. Tức là, khác SSs và tăng tốc độ xử lý dữ liệu của chính họ bằng cách chọn lọc Scrambling bởi những đường uplink của SSs khác. Không giống như trạng thái ngẫu nhiên của WiMAX jammer, scrambler cần thông tin điều khiển phiên dịch WiMAX đúng và để phát sinh nhiễu đúng khoản thời gian. Tấn công từ scrambling là làm gián đoạn, và làm tăng dữ liệu dò tìm. Theo dõi sự bất thường ở xa theo định dạng là dò tìm scrambling and scramblers.
Những vấn đề ở lớp MAC
MPDU là dữ liệu được truyền trong lớp WiMAX MAC. Như trong hình 2, MPDU sử dụng những mẫu khác nhau để mang những thông tin khác nhau. Mẫu chung của MPDU nằm ở MAC header, service data, và CRC (cyclic redundancy check). Không có trở ngại chung ở cấu trúc chứa MAC header chứa thông tin mã. Mã hóa là đặt vào MAC PDU payload.
Tất cả các thông báo quản lý MAC được gởi mà không cần mã hóa để tạo điều kiện cho cài đặt, sắp xếp, và thao tác MAC. Các gói tin quản lý mang theo MPDU như hình 2. WiMAX sẽ không mã hóa MAC headers và gói tin quản lý MAC, nhằm mục đích là thao tác với những hệ thống khác nhau ở lớp MAC. Bởi vậy, hacker có thể nghe lén kênh WiMAX, và khôi phục lại các thông tin từ những gói tin quản lý MAC không được mã hóa. Nghe trộm những gói tin không được quản lý này giúp tin tặc biết được topo mạng, tấn công SSs cũng như hệ thống WiMAX. WiMAX cần sự chứng thực cao hơn. Ý tưởng là sử dụng thiết bị RSA (Rivest-Shamir-Adleman)/X.509 chứng nhận số. Chứng nhận số được sử dụng cho xác thực và dò tìm quản lý. Thiết bị không nhận thực khóa nghe trộm từ mạng.
Ăn trộm căn cước đe dọa đến những dịch vụ của WiMAX. Thiết bị giả có thể sử dụng địa chỉ phần cứng giả để đăng ký thiết bị bằng cách chia những gói tin quản lý ra ngoài. Một lần thành công hacker có thả giả làm BS, làm cho SSs liên hệ đến BS giả cuối cùng các dịch vụ được cung cấp bởi BS giả, kết quả chất lượng dịch vụ bị giảm sút hay không thể đáp ứng được dịch vụ.
WiMAX sử dụng đa truy cập phân chia theo thời gian (TDMA). Để trộm căn cước attacker phải truyền trong khi BS thật là phát. Tín hiệu của attacker phải nhắm đến đúng SSs và phải mạnh hơn tín hiệu BS thật trong giải nền. Từ đó dữ liệu truyền được chia ra những time slots, attacker đóng vai trò là một phiên dịch time slots được cấp phát đến hợp pháp hóa BS một cách thành công, và dò tín hiệu BS chính xác. Xác thực lẫn nhau làm giảm khả năng ăn trộm căn cước.
Privacy Key Management Protocol Version
Thủ tục bảo mật.
WiMAX đi theo sau thủ tục bảo mật trong PKMv1 nhằm bảo đảm sự truy nhập an toàn kết nối. Như hình 3, chứng thực là bước đầu tiên trước khi truyền data. Khi SS kết nối vào WiMAX, BS sẽ xác minh SS bằng cách trao đổi các khóa. Khi SS được xác nhận thì kết nối được thiết lập, BS đăng ký SS vào trong mạng và khóa được dùng để mã hóa data truyền qua kết nối WiMAX.
Chứng thực
Authorization là quá trình để xác nhận căn cước SS bởi BS. SS bắt đầu Authorization bằng cách gởi một gói tin thông báo đến BS, chứa thông tin nhà sản xuất SS hoặc là cơ quan quản lý nó. Theo sau authentication là gói tin thông báo, authorization yêu cầu những gói tin này phải được gởi ngay lập tức đến BS tới yêu cầu khóa chứng thực. Quá trình chứng thực được mô tả trong hình 4. Trong quá trình chứng thực, chuẩn WiMAX xác định thuật ngữ "security asso-ciation" để chỉ rõ thông tin an toàn giữa BS và SS (hoặc SSs) dùng chung. SA nhận dạng với SAID thực chất là thông tin an an toàn BS và SSs hỗ trợ cho bảo mật. Bao gồm mã hóa và giải mã khóa.
Với quá trình chứng thực, SS được BS xác nhận trả phí cho dịch vụ, từ đây các dịch vụ truyền data của thuê bao được chấp nhận. Trao đổi khóa AK, BS xác định căn cước của SS và các dịch vụ SS được truy cập. Từ khi BS xác nhận SS thì SS được bảo vệ chống lại attacker từ SS ảo, và làm cho SS truy nhập hợp pháp.PKMv1 với sự hướng dẫn của X.509 xác thực số cùng với giải thuật mã hóa RSA public-key để chứng thực.
Trao đổi khóa
Có tất cả năm kiểu khóa được sử dụng để bảo mật WiMAX: AK, key encryption key (KEK), downlink hash function-basedmessage authenticationcode (HMAC) key, uplink HMAC key, and traffic encryption key (TEK). AK hoạt động trong lúc BS xác thực. Bí mật giữa SS và BS, AK sử dụng bảo mật kế tiếp trao đổi khóa trong PKMv1.
128-bit AK dùng để sinh ra 128-bit KEK bởi BS. KEK dùng để mã hóa và phân phối TEK.
Downlink HMAC key và uplink HMAC key cung cấp dữ liệu xác thực của bản tin phân phối khóa từ BS đến SS từ SS đến BS tương ứng. Cả hai được sinh ra từ AK tương tự như KEK. Quá trình trao đổi TEK trên downlink HMAC key và uplink HMAC key để gởi những gói tin an toàn.
Mã hóa dữ liệu
Trước khi hoàn thành và trao đổi khóa, dữ liệu giữa BS và SS sử dụng TEK cho mã hóa. Mã hóa dữ liệu tiêu chuẩn với khối số thay đổi (DES-CBC) làm bộ mã hóa cho trường MPDU payload. Cả header lẫn CRC đều không mã hóa nhằm đa dạng dịch vụ. Lớp an toàn con phát sinh từ MPDU được kiểm tra SA kết nối đúng và nhận vector khởi tạo (IV). MPDU IV được sinh ra bởi XOR SA IV với trường đồng bộ trên PHY frame header. Giải thuật DES-CBC mã hóa payload gốc của MPDU bằng cách sinh ra MPDU IV và xác thực TEKs. Điều khiển mã hóa (EC) là trường của MAC header gán bằng 1 để chỉ payload trong mã hóa MPDU. Trình tự khóa mã hóa (EKS) 2-bits chỉ TEK được dùng. Trường CRC được cập nhật trong thỏa thuận với sự thay đổi cả ở payload và MAC header.
Thách thức
PKMv1 sử dụng mô hình client/server cho quản lý khóa. SS là client là nơi hỏi khóa và BS là server nơi trả lời. Thách thức đến từ xác thực một hướng. PKMv1 đảm bảo là SS chỉ nhận được duy nhất một khóa thật được cấp bởi BS. Ví dụ: BS xác nhận SS trong lúc diễn ra chứ không phải là sau khi, điều này có nghĩa là SS không thể nhận biết được BS giả, và hacker có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho hệ thống. PKMv2 giúp SS nhận biết được BS tốt hơn bằng cách sử dụng chứng thực lẫn nhau được giới thiệu rõ hơn ở mục 4.
Privacy Key Management Protocol Version 2
Chứng thực lẫn nhau.
Quá trình chứng thực giữa SS và BS, theo bước:
BS xác nhận căn cước của SS.
SS xác nhận căn cước của BS.
BS cung cấp AK, KEK và key chứng thực cho SS.
BS cung cấp xác nhận SS với căn cước và những thuộc tính của SAs đến SS tồn tại tồn tại key mã cho những kết nối kế tiếp.
Địa chỉ khóa cho phép
PKMv2 key hierarchy xác định loại khóa và giải thuật được sinh ra khóa. Quá trình chứng thực tìm ra khóa nguồn. Từ khóa gốc key hierarchy sẽ được sử dụng để sinh ra những khóa khác để quản lý gói tin toàn vẹn và chuyên chở khóa mã hóa. Tất cả PKMv2 key xuất xứ từ công thức nền Dot16KDF.
PKMv2 hỗ trợ chứng thực lẫn nhau: cho phép RSA-based và chứng thực EAP-based. AK được suy ra bởi BS và SS, từ PAK qua thủ tục cho phép RSA-based và PMK qua thủ tục chứng thực EAP-based.
Trước khi hoàn thành chứng thực lẫn nhau, pre primary authorization key (ple-PAK) được mã hóa với public key của SS chứng thực và được phát từ BS đến SS. pre-PAK được dùng với địa chỉ MAC của SS và trạm chứng thực nền (BSID) sinh ra từ 160-bit PAK.
Kiểu chứng thực EAP, 160-bit long EAP integrity key (EIK) được tính từ pre-PAK. The master session key (MSK) là 512-bit long, là khóa từ trao đổi EAP. khóa này biết để chứng thực, nhận thực và tính cước (AAA). SS và BS được suy ra từ pairwise master key (PMK) bằng cách cắt 160 bits MSK mỗi bên.
Sau khi nhận thực EAP-based thành công, SS hay BS lại tiếp tục đàm phán các chính sách nhận thực khác như là "xác nhận EAP sau EAP", SS và BS thực hiện hai lần EAP. Sau khi hoàn thành EAP lần đầu tiên, SS bắt đầu EAP lần hai. Lần hai thành công thì cả BS và SS đều sinh ra AK.
Bảo mật trong WiMAX trong tương lai
Mặc dù giao thức PKMv2 có tiến bộ trong bảo mật WiMAX và được chấp nhận bởi những đặc tính mới như là chứng thực lẫn nhau. Quản lý khóa linh hoạt, nhưng nó còn lỗ hỏng ngay trong chính tiêu chuẩn đó.
Thứ nhất, những thông báo quản lý MAC truyền không được mã hóa, thông tin có thể bị đánh cắp. Ví dụ, attacker có thể nghe thông tin giữa SS và BS, chặn những thông báo quản lý, xác minh lại bằng chính nội dung thông báo quản lý, và hack.
Thứ hai, cơ chế quản lý chìa khóa phụ thuộc trên 2-bit EKS trên miền xác định TEK đang được sử dụng. Giá trị là từ 3 đến 0 cho mọi khóa thứ 4, do đó nó dễ dàng bị tấn công bởi xen vào sử dụng lại TEKs.
Thứ ba, chính giải thuật DES-CBC sử dụng ngẫu nhiên IV đến sự mã hóa bảo mật, trong khi PKMv1 và PKMv2 IV được sinh ra từ kết quả XOR của SA’s IV và miền đồng bộ của PHY. Cách thức này có thể đoán được làm suy yếu đi sự an toàn dữ liệu. Hơn nữa, giải thuật DES-CBC chỉ an toàn cho một giới hạn dữ liệu. DES-CBC sẽ mất an toàn sau khi mã hóa 232 sử dụng khối dữ liệu cùng TEK với từng khối chứa 64 bits. Mỗi TEK là thời gian sống, DES-CBC không thể giữ an toàn dữ liệu lớn hơn thời gian sống của TEK là 64×232 bits.
Mặt khác dịch vụ băng thông rộng sử dụng trên WiMAX, liên quan đến bảo mật sẽ được nảy sinh. Ví dụ, kiểu mắt lưới trong WiMAX dễ bị tấn công hơn kiểu PMP. Với mỗi node có khả năng truyền lưu lượng đến những node kề bên, vấn đề lớn như nút gần độc và cho phép các nút giả thách thức sự riêng tư của người sử dụng và thao tác hệ thống phức tạp. Hơn nữa, WiMAX an toàn với người sử dụng lưu động có ước muốn tạo điều kiện thuận lợi cho kết nối khi di chuyển qua những vùng khác nhau.
Kết luận
WiMAX được điều khiển bởi IEEE và diễn đàn công nghiệp, WiMAX được hỗ trợ nhiều hơn từ nhà cung cấp dịch vụ cho truy cập không dây băng thông rộng. WiMAX không an toàn từ kênh mở giúp cho cả LOS và NLOS phổ linh động với người sử dụng di chuyển.Tiêu điểm đề tài là các giao thức PKM, mà vai trò quan trọng là sự an toàn trong kết nối và truyền qua BWA. Quá trình chứng thực của người sử dụng, trao đổi khóa, và mã hóa dữ liệu tổng quát với sự nhấn mạnh chứng thực và xác thực, xuất xứ của khóa, mã hóa MDPU payload, tương ứng. Tuy vậy, những đặc tính bảo mật mới trong những tiêu chuẩn gần đây đã được bao trùm và một số vấn đề mở của bảo mật WiMAX định hướng cho những nghiên cứu tương lai. |
Thược dược còn là tên gọi của một vài loài mẫu đơn (chi Paeonia).
Thược dược (danh pháp khoa học: Dahlia, đồng nghĩa: Georgina) là một chi cây lâu năm thân củ rậm rạp, nở hoa về mùa hè và mùa thu, có nguồn gốc ở México và tại đây chúng là quốc hoa.
Năm 1872 một hộp cây thược dược non đã được gửi từ México tới Hà Lan. Chỉ có một cây sống sót sau chuyến đi, nhưng nó đã tạo ra các bông hoa đỏ ngoạn mục với các cánh hoa nhọn. Các vườn ươm đã nhân giống loài cây này, khi đó được đặt tên khoa học là Dahlia juarezii với các loài thược dược được phát hiện sớm hơn và những giống này là tổ tiên của tất cả các loại thược dược lai ngày nay. Kể từ đó, các nhà nhân giống thực vật đã tích cực trong việc nhân giống thược dược để tạo ra hàng trăm giống mới, thông thường được chọn vì các bông hoa có màu sắc lộng lẫy của chúng.
Các loài thược dược bị ấu trùng của một số loài cánh vẩy (Lepidoptera) phá hại, bao gồm Phlogophora meticulosa, Korscheltellus lupulina, Hepialus humuli, Noctua pronuba.
Tên gọi Dahlia được đặt theo tên của một nhà thực vật học người Thụy Điển thế kỷ 18 là Anders Dahl.
Hoa thược dược cũng là loài hoa chính thức của thành phố Seattle, bang Washington.
Các loài
Các loài trong chi này bao gồm:
Tổ Pseudodendron Sherff
Dahlia campanulata Saar, Sørensen, & Hjerting
Dahlia excelsa Bentham (uncertain)
Dahlia imperialis Rozel ex Ortgies
Dahlia tenuicaulis Sørensen
Tổ Entemophyllon Sørensen
Dahlia congestifolia Sørensen
Dahlia dissecta S. Watson
Dahlia foeniculifolia Sherff
Dahlia linearis Sherff
Dahlia rupicola Sørensen
Dahlia scapigeroides Sherff
Dahlia sublignosa (Sørensen) Saar & Sørensen
Tổ Dahlia Sherff
Dahlia apiculata (Sherff) Sørensen
Dahlia atropurpurea Sørensen
Dahlia australis (Sherff) Sørensen
Dahlia barkeriae Knowles & Westcott
Dahlia brevis Sørensen
Dahlia coccinea Cavanilles
Dahlia cordifolia (Sessé & Moc.) McVaugh, đồng nghĩa D. cardiophylla
Dahlia cuspidata Saar, Sørensen, & Hjerting
Dahlia hintonii Sherff
Dahlia hjertingii Hansen & Sørensen
Dahlia mollis Sørensen
Dahlia moorei Sherff
Dahlia neglecta Saar
Dahlia parvibracteata Saar & Sørensen
Dahlia pteropoda Sherff
Dahlia purpusii Brandg.
Dahlia rudis Sørensen
Dahlia sherffii Sørensen
Dahlia scapigera (A. Dietrich) Knowles & Westcott
Dahlia sorensenii Hansen & Hjerting
Dahlia spectabilis Saar, Sørensen, & Hjerting
Dahlia tenuis Robinson & Greenman
Dahlia tubulata Sørensen
Phân tổ Merckii Sørensen
Dahlia merckii Lehm. (đôi khi viết là Dahlia merkii)
Tổ Epiphytum Sherff
Dahlia macdougallii Sherff
Chưa dung giải
Dahlia pinnata điển hình (có lẽ chính xác hơn phải là D. x pinnata) Rất có thể là = D. coccinea x D. sorensenii.
Dahlia variabilis Desf.
Hình ảnh |
500 bài hát vĩ đại nhất (tiếng Anh: The 500 Greatest Songs of All Time) là một số báo đặc biệt của tạp chí Hoa Kỳ Rolling Stone, số báo 963, được phát hành vào ngày 9 tháng 12 năm 2004, một năm sau khi phát hành danh sách 500 album vĩ đại nhất. Danh sách được lựa chọn qua sự bầu chọn của 172 nhạc sĩ, nhà phê bình âm nhạc.
Top 25 trong danh sách
Thống kê
Gần như toàn bộ danh sách bao gồm những bài hát của Hoa Kỳ và Anh. Trong 500 bài hát, 352 bài từ Hoa Kỳ và 117 bài từ Anh quốc; tiếp đến là Ireland với 12 bài (8 bài của U2), 10 bài từ Canada, 7 bài từ Jamaica, 3 bài của Úc (2 bài của AC/DC) và 1 bài từ Thuỵ Điển (của ABBA)
Chỉ có duy nhất một bài hát không được viết bằng tiếng Anh – "La Bamba" của Ritchie Valens (#345).
Phần lớn các bài hát trong danh sách nằm trong khoảng thập niên 1960
Có 2 bài hát xuất hiện trong thập niên 1940 là "I'm So Lonesome I Could Cry" của Hank Williams (112) và "Rollin' Stone" của Muddy Waters. Có 3 bài hát xuất hiện trong thập niên 2000 là "Hey Ya!" của Out Kast, "Lose Yourself" và "Stan" của Eminem
Với 23 bài hát trong danh sách, The Beatles là ca sĩ có nhiều bài hát trong danh sách nhất. John Lennon là nhạc sĩ duy nhất có 2 bài hát nằm trong top 10 (trong vai trò ca sĩ solo và thành viên nhóm nhạc The Beatles). Sau The Beatles có The Stones (14 bài), Bob Dylan (13 bài), Elvis Presley (11 bài); U2 (8 bài); và The Beach Boys cùng The Jimi Hendrix Experience (7 bài).
3 bài hát xuất hiện trong danh sách 2 lần, được thể hiện bởi hai nhạc sĩ khác nhau: "Mr. Tambourine Man" của Bob Dylan và của The Byrds (lần lượt đứng ở vị trí 106 và 79), "Blue Suede Shoes" của Elvis Presley (#423) và Carl Perkins (#95) và "Walk This Way" của Aerosmith (#336) và Run-DMC (#287)
Bài hát ngắn nhất là bài "Summertime Blues" (#73) của Eddie Cochran dài 1:45, "Great Balls Of Fire" (#96) của Jerry Lee Lewis và "Rave On" (#154) của Buddy Holly, dài 1:50.
Bài hát dài nhất là bài "Rapper's Delight" của The Sugarhill Gang dài 14:37, "Papa Was A Rolling Stone" của The Temptations dài 11:45, "The End" của The Doors dài 11:44, "Desolation Row" của Bob Dylan dài 11:23, và "Marquee Moon" của Television dài 10:47.
Phiên bản 2010
Tháng 5 năm 2010, Rolling Stone xuất bản thêm một danh sách thứ hai qua dạng ấn phẩm trên tạp chí và trên mạng cho ứng dụng iPod và iPad. Danh sách có sự thay đổi so với danh sách cũ, với sự xuất hiện của các bài trong thập niên 2000s ngoại trừ hai bài "Juicy" của The Notorious B.I.G. (1994) và "Big Pimpin'" của Jay-Z (1999). Toàn bộ top 25 không đổi. Mặc dù top 100 có nhiều xáo trộn, bài hát mới duy nhất là bài hát "Crazy" của Gnarls Barkley (#100)
Thập niên 1960 vẫn là thập niên có nhiều bài hát nhất, với 195 bài trong danh sách
U2 và Jay-Z đều có hai bài mới trong danh sách, mặc dù Jay-Z còn xuất hiện trong hai bài hát nữa với chức năng song ca: bài "Crazy in Love" của Beyoncé Knowles, và "Umbrella" của Rihanna:
"Crazy" của Gnarls Barkley (#100)
"Crazy in Love" của Beyonce và Jay-Z (#118)
"Moment of Surrender" của U2 (#160)
"99 Problems" của Jay-Z (#172)
"Rehab" của Amy Winehouse (#194)
"Paper Planes" của M.I.A. (#236)
"Mississippi" của Bob Dylan (#260)
"Jesus Walks" của Kanye West (#273)
"Seven Nation Army" của The White Stripes (#286)
"One More Time" của Daft Punk (#307)
"Take Me Out" của Franz Ferdinand (#327)
"Beautiful Day" của U2 (#345)
"Maps" của Yeah Yeah Yeahs (#386)
"Umbrella" của Rihanna và Jay-Z (#412)
"Juicy" của The Notorious B.I.G. (#424)
"American Idiot" của Green Day (#432)
"In da Club" của 50 Cent (#448)
"Get Ur Freak On" của Missy Elliott (#466)
"Big Pimpin'" của Jay-Z và UGK (#467)
"Last Nite" của The Strokes (#478)
"Since U Been Gone" của Kelly Clarkson (#482)
"Cry Me a River" của Justin Timberlake (#484)
"Clocks" của Coldplay (#490)
"Time to Pretend" của MGMT (#493)
"Ignition" của R. Kelly (#494)
"The Rising" của Bruce Springsteen (#497)
The Crystals là nhóm nhạc duy nhất có 2 bài bị rơi khỏi danh sách. Các bài bị rơi khỏi danh sách gồm:
"Da Doo Ron Ron" của The Crystals (#114)
"Lose Yourself" của Eminem (#166)
"Sh-Boom" của The Chords (#215)
"Band of Gold" của Freda Payne (#391)
"Kicks" của Paul Revere & the Raiders (#400)
"I Believe I Can Fly" của R. Kelly (#406)
"Crossroads" của Cream (#409)
"Lola" của The Kinks (#422)
"Devil With A Blue Dress On/Good Golly Miss Molly" của Mitch Ryder & The Detroit Wheels (#428)
"Keep A-Knockin'" của Little Richard (#442)
"By the Time I Get to Phoenix" của Glen Campbell (#450)
"Stagger Lee" của Lloyd Price (#456)
"One Fine Day" của The Chiffons (#460)
"Search and Destroy" của The Stooges (#468)
"It's Too Late" của Carole King (#469)
"Free Man in Paris" của Joni Mitchell (#470)
"On the Road Again" của Willie Nelson (#471)
"One Nation Under a Groove" của Funkadelic (#474)
"Graceland" của Paul Simon (#485)
"Rhiannon" của Fleetwood Mac (#488)
"You Don't Have to Say You Love Me" của Dusty Springfield (#491)
"Then He Kissed Me" của The Crystals (#493)
"Desperado" của Eagles (#494)
"Rainy Night in Georgia" của Brook Benton (#498)
"The Boys Are Back in Town" của Thin Lizzy (#499)
"More Than a Feeling" của Boston (#500) |
Đồng tiền hay cúc đồng tiền (danh pháp khoa học: Gerbera L.) là một chi của một số loài cây cảnh trong họ Cúc (Asteraceae).
Tên gọi Gerbera được đặt theo tên nhà tự nhiên học người Đức Traugott Gerber, một người bạn của Carolus Linnaeus.
Chi này có khoảng 30-100 loài sống hoang dã, phân bổ ở Nam Mỹ, châu Phi đại lục, Madagascar và vùng nhiệt đới châu Á. Miêu tả khoa học đầu tiên về chi Gerbera đã được J.D. Hooker thực hiện trong tạp chí thực vật Curtis năm 1889 khi ông miêu tả Gerbera jamesonii, một loài ở Nam Phi được biết dưới tên gọi cúc Transvaal hay cúc Barberton.
Các loài trong chi Gerbera có cụm hoa dạng đầu lớn với các chiếc hoa tia hai môi nổi bật có màu vàng, da cam, trắng, hồng hay đỏ. Cụm hoa dạng đầu có bề ngoài dường như là một bông hoa, trên thực tế là tập hợp của hàng trăm hoa nhỏ riêng biệt. Hình thái của các hoa nhỏ phụ thuộc nhiều vào vị trí của chúng trong cụm hoa.
Chi Gerbera rất phổ biến và được trồng làm cây trang trí trong các mảnh vườn hay được cắt để cắm. Các giống trồng tại vườn chủ yếu là lai ghép chéo giữa Gerbera jamesonii và một loài khác ở Nam Phi là Gerbera viridifolia. Giống lai ghép chéo này có tên khoa học là Gerbera hybrida. Hiện nay tồn tại hàng trăm giống khác nhau. Chúng dao động mạnh về hình dạng và kích thước hoa.Màu sắc có thể là trắng, vàng, da cam, đỏ hay hồng. Ở phần trung tâm của bông hoa đôi khi có màu đen. Thông thường trên một hoa các cánh hoa có thể có một vài màu khác nhau.
Gerbera là một chi quan trọng về mặt thương mại. Nó đứng hàng thứ năm trong số các loại hoa được cắt để bán trên thế giới (chỉ sau hoa hồng, cẩm chướng, cúc đại đóa và tulip). Nó cũng được dùng như là sinh vật mô hình trong các nghiên cứu về sự hình thành của hoa.
Các loài trong chi Gerbera chứa các dẫn xuất của coumarin nguồn gốc tự nhiên.
Các loài
Gerbera aberdarica
Gerbera abyssinica
Gerbera ambigua
Gerbera anandria: Cúc ma
Gerbera anandria anandria
Gerbera anandria densiloba
Gerbera anandria integripetala
Gerberia anadria bonatiana
Gerbera aspleniifolia
Gerbera aurantiaca: Cúc Hilton
Gerbera bojeri
Gerbera bonatiana
Gerbera bracteata
Gerbera brevipes
Gerbera burchellii
Gerbera burmanni
Gerbera candollei
Gerbera cavaleriei
Gerbera chilensis
Gerbera cineraria
Gerbera connata
Gerbera conrathii
Gerbera cordata
Gerbera coronopifolia
Gerbera curvisquama
Gerbera delavayi
Gerbera discolor
Gerbera diversifolia
Gerbera elegans
Gerbera elliptica
Gerbera emirnensis
Gerbera ferruginea
Gerbera flava
Gerbera galpinii
Gerbera glandulosa
Gerbera henryi
Gerbera hieracioides
Gerbera hirsuta
Gerbera hypochaeridoides
Gerbera integralis
Gerbera integripetala
Gerbera jamesonii: Cúc đồng tiền, cúc Barberton, cúc Gerbera, cúc Transvaal
Gerbera knorringiana
Gerbera kokanica
Gerbera kraussii
Gerbera kunzeana
Gerbera lacei
Gerbera lagascae
Gerbera lanuginosa
Gerbera lasiopus
Gerbera latiligulata
Gerbera leandrii
Gerbera leiocarpa
Gerbera leucothrix
Gerbera lijiangensis
Gerbera lynchii
Gerbera macrocephala
Gerbera nepalensis
Gerbera nervosa
Gerbera nivea
Gerbera parva
Gerbera peregrina
Gerbera perrieri
Gerbera petasitifolia
Gerbera piloselloides: Cúc đồng tiền dại
Gerbera plantaginea
Gerbera plicata
Gerbera podophylla
Gerbera pterodonta
Gerbera pulvinata
Gerbera pumila
Gerbera randii
Gerbera raphanifolia
Gerbera ruficoma
Gerbera saxatilis
Gerbera semifloscularis
Gerbera serotina
Gerbera speciosa
Gerbera tanantii
Gerbera tomentosa
Gerbera tuberosa
Gerbera uncinata
Gerbera viridifolia
Gerbera welwitschii
Gerbera wrightii
Khả năng lọc không khí
Bông cúc Gerbera Daisy thuộc loài Gerbera jamesonii là một trong số các loại cây được trung tâm không gian NASA sử dụng trong quá trình nghiên cứu làm trong sạch không khí. Nó có khả năng lọc các chất khí độc Trichloroethylene và Benzen rất hiệu quả.
Chú thích |
Đào (danh pháp khoa học: Prunus persica) là một loài cây được trồng để lấy quả hay hoa. Nó là một loài cây sớm rụng lá, thân gỗ nhỏ, có thể cao tới 5–10 m. Lá của nó có hình mũi mác, dài 7–15 cm và rộng 2–3 cm. Hoa nở vào đầu mùa đông, trước khi ra lá; hoa đơn hay có đôi, đường kính 2,5–3 cm, màu hồng với 5 cánh hoa. Quả đào cùng với quả của anh đào, mận, mơ là các loại quả hạch.Quả của nó có một hạt giống to được bao bọc trong một lớp vỏ gỗ cứng (gọi là "hột"), cùi thịt màu vàng hay ánh trắng, có mùi vị thơm ngon và lớp vỏ có lông tơ mềm như nhung.
Tên gọi khoa học persica có lẽ có từ niềm tin ban đầu của người châu Âu cho rằng đào có nguồn gốc ở khu vực Ba Tư (Persia), nay là Iran. Sự đồng thuận lớn trong giới các nhà thực vật học ngày nay đã cho rằng nó có nguồn gốc từ Trung Quốc và được đưa vào Ba Tư cũng như khu vực Địa Trung Hải theo con đường tơ lụa vào khoảng thời gian ban đầu của lịch sử nhân loại, có lẽ vào khoảng thiên niên kỷ 2 TCN (Huxley và những người khác, 1992).
Các giống đào trồng được chia thành hai loại là "hột rời" và "hột dính", phụ thuộc vào việc hột có dính với cùi thịt hay không; cả hai loại này đều có cùi thịt trắng hay vàng. Quả đào với cùi thịt trắng thông thường có vị rất ngọt và ít vị chua, trong khi loại có cùi thịt màu vàng thông thường có vị chua kèm theo vị ngọt, mặc dù điều này cũng có sự dao động lớn. Cả hai màu thông thường đều có các vệt đỏ trong lớp thịt của chúng. Loại đào cùi trắng, ít chua là phổ biến nhất tại Trung Quốc, Nhật Bản và các quốc gia châu Á xung quanh, trong khi người châu Âu và Bắc Mỹ ưa thích loại có cùi thịt màu vàng và có vị chua hơn. Ở Việt Nam, hoa đào được sử dụng để chưng Tết, phổ biến ở miền Bắc .
Năm 2018, Trung Quốc sản xuất 62% tổng sản lượng đào và mận trên toàn thế giới. Tây Ban Nha, Ý, Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp, tất cả nằm trong khu vực Địa Trung Hải, cũng là những nhà sản xuất quan trọng của loại trái cây này.
Nguyên gốc từ
Tên khoa học persica, cùng với từ "đào" chính mình - và các từ tương đồng trong nhiều ngôn ngữ châu Âu - xuất phát từ quan niệm của người châu Âu trong thời kỳ sớm rằng loại trái cây đào có nguồn gốc từ Ba Tư (nay là Iran). Người La Mã cổ đại gọi đào là ("táo Ba Tư"), sau đó trở thành từ "pêche" trong tiếng Pháp và từ đó tạo nên từ "peach" trong tiếng Anh. Tên khoa học Prunus persica có nghĩa "mận Ba Tư", bởi vì nó có sự liên quan chặt chẽ đến loại mận.
Miêu tả
trái|nhỏ|Hoa đào
Cây Đào (Prunus persica) có thể đạt chiều cao và chiều rộng tối đa lên đến , nhưng khi được tạo dáng chăm sóc đúng cách, thường cao và rộng khoảng . Các lá có hình dạng mũi lao, dài từ , rộng từ , và có gân ven theo kiểu lồng cầu. Hoa nở vào đầu mùa xuân trước khi lá nảy lên; chúng thường nở đơn độc hoặc thành cặp, có đường kính từ 2.5 đến 3 cm, màu hồng, với năm cánh hoa. Trái đào có mùi thơm dịu và có thịt màu vàng hoặc trắng, với vỏ có thể mịn (đào) hoặc nhám (mận) tùy theo từng giống cây. Thịt trái đào rất mỏng và dễ bị tổn thương ở một số giống cây, nhưng lại khá cứng ở một số giống thương mại, đặc biệt khi trái còn xanh. Hạt đào lớn, duy nhất, có màu đỏ nâu, hình dáng bầu dục, dài từ 1.3 đến 2 cm, và được bao quanh bởi một lớp vỏ giống gỗ. Đào, cùng với anh đào, mận và mơ, thuộc nhóm các loại trái cây hạt (drupe). Một số giống truyền thống bao gồm 'Đào Ấn Độ', hoặc 'Đào Máu Ấn Độ', mà có thể chín vào cuối mùa hè và có màu từ đỏ và trắng, đến màu tím.
Các cây đào được trồng cho mục đích thương mại được phân thành hai loại, bám gốc và tự do, tùy thuộc vào việc thịt trái dính vào hạt hay không; cả hai loại có thể có thịt trắng hoặc vàng. Trái đào màu trắng thường rất ngọt và ít có axit, trong khi trái đào màu vàng thường có vị chua kết hợp với vị ngọt, mặc dù điều này cũng có sự biến đổi. Cả hai màu thường có một ít màu đỏ trên vỏ. Trái đào màu trắng, ít axit, là loại phổ biến nhất tại Trung Quốc, Nhật Bản và các nước châu Á lân cận, trong khi người châu Âu và Bắc Mỹ thường ưa chuộng các giống đào màu vàng có vị chua.
So với một số loại cây trái khác, cây đào có tuổi thọ ngắn. Ở một số vùng, các vườn đào thường được trồng lại sau 8 đến 10 năm, trong khi ở những vùng khác, cây có thể sản xuất trái tốt trong khoảng 20 đến 25 năm hoặc hơn, phụ thuộc vào sự kháng bệnh, sâu bệnh và thiệt hại mùa đông của chúng.
Lịch sử
nhỏ|Quả đào khô, quả mơ, và hạt đào từ Lahun, Fayum, Ai Cập, thời kỳ Trung đại muộn, Bảo tàng Khảo cổ học Ai Cập Petrie, Luân Đôn
Mặc dù được gọi là Prunus persica (cây đào Ba Tư), nhưng các nghiên cứu di truyền cho thấy rằng đào có nguồn gốc từ Trung Quốc, nơi chúng đã được trồng trọt từ thời kỳ Thời kỳ Kỷ nguyên đá. Trước đây, người ta nghĩ rằng việc trồng đào bắt đầu vào khoảng năm 2000 TCN. Tuy nhiên, các bằng chứng gần đây cho thấy quá trình thuần hóa đã xảy ra từ cách đây ít nhất vào năm 6000 TCN tại Tỉnh Chiết Giang của Trung Quốc. Đào đã được đề cập trong văn bản và văn học Trung Quốc từ thế kỷ thứ nhất TCN.
Ở Nhật Bản, loại đào thuần hóa xuất hiện sớm vào khoảng năm 4700–4400 TCN, trong thời kỳ Thời kỳ Jōmon. Nó đã tương đối giống với các dạng đào trồng trọt hiện đại, với viên hạt đào lớn hơn và bị nén hơn so với trước đó. Loại đào này được đưa vào Nhật Bản từ Trung Quốc. Tuy nhiên, ở Trung Quốc, loại đào này chỉ được ghi nhận vào một thời điểm sau đó, vào khoảng năm 3300 đến 2300 TCN.
Tại Ấn Độ, đào xuất hiện lần đầu vào khoảng năm 1700 TCN, trong thời kỳ Văn minh lưu vực sông Ấn. Nó cũng được tìm thấy ở nơi khác ở Tây Á trong thời kỳ cổ đại. Việc trồng đào đã đến Hy Lạp vào năm 300 TCN. Có thông tin cho rằng Alexander Đại đế có thể đã đưa chúng vào Hy Lạp sau khi chinh phục Ba Tư, nhưng không có bằng chứng lịch sử nào để chứng minh điều này. Tuy nhiên, đào đã trở nên rất nổi tiếng với người La Mã vào thế kỷ thứ nhất sau CN; những hình ảnh nghệ thuật cổ nhất về loại quả này được tìm thấy trong hai mảnh tranh tường, có niên đại vào thế kỷ thứ nhất sau CN, tại Herculaneum, được bảo tồn do phun trào núi lửa Vesuvius vào năm 79 sau CN, và hiện được giữ tại Bảo tàng Khảo cổ học Quốc gia ở Naples. Các khám phá khảo cổ cho thấy đào đã được trồng rộng rãi ở phía tây bắc lục địa châu Âu thời kỳ La Mã, nhưng sản xuất đào sụp đổ vào khoảng thế kỷ sáu; sau đó, một số sự phục hồi trong sản xuất đã xảy ra trong Phục hưng Carolingian của thế kỷ thứ chín.
Một bài viết về việc trồng cây đào tại Tây Ban Nha được ghi lại trong tác phẩm nông nghiệp thế kỷ 12 của Ibn al-'Awwam, Sách về Nông nghiệp. Cây đào đã được đưa vào châu Mỹ bởi các nhà thám hiểm Tây Ban Nha vào thế kỷ 16, và sau đó nó đã đến Anh và Pháp vào thế kỷ 17, nơi nó được coi là một món ăn quý giá và đắt đỏ. Người làm vườn George Minifie được cho là đã mang cây đào đầu tiên từ Anh vào các thuộc địa Bắc Mỹ của nó vào đầu thế kỷ 17, và đã trồng chúng tại địa điểm Buckland ở Virginia. Mặc dù Thomas Jefferson đã trồng cây đào tại Monticello, người nông dân Mỹ không bắt đầu sản xuất thương mại cho đến thế kỷ 19 tại Maryland, Delaware, Georgia, South Carolina, và cuối cùng là Virginia.
Đào mật ong Shanghai từng là một phần quan trọng của văn hóa thực phẩm và kinh tế nông nghiệp ở khu vực nơi thành phố hiện đại Shanghai đứng. Đào đã đóng vai trò quan trọng trong văn hóa vườn ươm của Shanghai trong thời kỳ đầu. Tuy nhiên, khi quá trình hiện đại hóa và tây hoá lan tỏa trong thành phố, đào mật ong Shanghai gần như biến mất hoàn toàn. Hầu hết phần lớn của Shanghai hiện đại đã được xây dựng trên những khu vườn và vườn đào này.
Vào tháng 4 năm 2010, một liên minh quốc tế, International Peach Genome Initiative, bao gồm các nhà nghiên cứu từ Hoa Kỳ, Ý, Chile, Tây Ban Nha và Pháp, đã công bố rằng họ đã xác định trình tự gen của cây đào (doubled haploid Lovell). Họ đã công bố trình tự gen cây đào và các phân tích liên quan. Trình tự này bao gồm 227 triệu nucleotide, sắp xếp thành tám pseudomolecule đại diện cho tám nhiễm sắc thể cây đào (2n = 16). Ngoài ra, họ đã dự đoán có 27.852 gen mã hóa protein và 28.689 mã hóa protein khác nhau.
Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích đa dạng di truyền trong nguồn gen cây đào và cách nó được tạo ra bởi hoạt động của con người như thuần hóa và lai giống. Họ đã phát hiện ra rằng có hai hạn chế quan trọng trong lịch sử, một liên quan đến quá trình thuần hóa gốc có thể đã diễn ra tại Trung Quốc khoảng 4.000-5.000 năm trước đây, và cái thứ hai liên quan đến nguồn gen phương Tây do việc đưa cây đào từ Trung Quốc sang châu Âu sớm hơn và các hoạt động lai giống gần đây ở Hoa Kỳ và châu Âu. Những hạn chế này đã làm giảm đáng kể đa dạng di truyền liên quan đến thuần hóa và lai giống.
Hóa thạch
Hóa thạch của phần endocarp với đặc điểm giống hệt với những trái đào hiện đại đã được tìm thấy trong các tầng cuối thời kỳ Pliocene tại Kunming, có niên đại khoảng 2,6 triệu năm trước. Vì không có bằng chứng cho thấy các cây này giống hệt với cây đào hiện đại theo các cách khác, nên tên Prunus kunmingensis đã được đặt cho những hóa thạch này.
Sản xuất
Vào năm 2020, sản lượng đào trên toàn cầu (kết hợp với mận để báo cáo) đạt 24,6 triệu tấn, dẫn đầu bởi Trung Quốc với 61% tổng sản lượng trên thế giới (bảng).
Tiểu bang Georgia của Hoa Kỳ được gọi là "Tiểu bang Đào" do sản xuất đáng kể đào từ cách đây cả đến năm 1571, với việc xuất khẩu đến các tiểu bang khác bắt đầu từ khoảng năm 1858. Năm 2014, Georgia xếp thứ ba trong sản xuất đào ở Hoa Kỳ, sau California và South Carolina.
Dinh dưỡng
Thịt đào tươi sống chứa 89% nước, 10% hydrat cacbon (carbohydrates), 1% protein, và không có chứa động vật béo (fat) đáng kể. Một quả đào tươi sống kích thước vừa, nặng khoảng , cung cấp 39 calo, và chứa một lượng nhỏ các thành phần dinh dưỡng cần thiết, nhưng không có thành phần nào chiếm tỷ lệ đáng kể của Giá trị Dinh dưỡng Hằng ngày (DV). Một quả mận tươi sống cũng có nội dung dinh dưỡng thấp tương tự. Chỉ số lượng đường trong máu (glycemic load) của một quả đào trung bình (120 gram) là 5, tương tự như các loại trái cây ít đường khác.
Một quả đào trung bình cũng chứa 2% hoặc nhiều hơn Giá trị Dinh dưỡng Hằng ngày của vitamin E và K, niacin, folate, sắt, cholin, kali, magiê, photpho, mangan, kẽm và đồng. Đào tươi cung cấp một lượng tương đối của các chất chống oxi hóa và vitamin C, một loại vitamin cần thiết cho việc xây dựng mô nối bên trong cơ thể con người.
Hợp chất Thực vật
Tổng hợp chất polyphenol trong 100 g trọng lượng tươi là 14–102 trong đào mỡ màu trắng, 18–54 trong đào mỡ màu vàng, 28–111 trong đào không mỡ màu trắng, và 21–61 trong đào không mỡ màu vàng. Các hợp chất phenolic chính trong đào bao gồm axit chlorogenic, catechin và epicatechin, cùng với các hợp chất khác được xác định bằng HPLC, bao gồm axit gallic và axit ellagic. Rutin và isoquercetin là những flavonol chính trong đào có hạt lớn.
Mận có thịt màu đỏ là nguồn giàu anthocyanin, đặc biệt là cyanidin glucosides, có mặt trong sáu loại mận và sáu loại lê. Ngoài ra, chúng còn chứa malvin glycosides trong loại mận lõi lớn.
Tương tự như nhiều loại cây thuộc họ hoa hồng khác, hạt của mận cũng chứa cyanogenic glycosides, bao gồm chất amygdalin (chú ý đến phân loại subgenus: Amygdalus). Những hợp chất này có khả năng phân giải thành đường và khí hydrogen cyanide (cyanua hydro). Tuy cyanogenic glycosides có độc tính khi tiêu thụ ở liều lượng lớn, nhưng việc tiêu thụ lớn lượng các hợp chất này từ bất kỳ nguồn nào cũng có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe của động vật và con người.
Dị ứng hoặc không dung nạp đối với mận là một dạng phản ứng thường gặp đối với các protein có trong mận và các loại trái cây tương tự (như hạnh nhân). Triệu chứng có thể từ những hiện tượng cục bộ (như hội chứng dị ứng miệng, phản ứng da tiếp xúc) đến những phản ứng hệ thống nghiêm trọng hơn, bao gồm cả việc gây ra cơn sốc phản vệ (như phát ban mề đay, sưng nước, triệu chứng tiêu hóa và hô hấp). Những phản ứng này có thể phụ thuộc vào "tình trạng tươi mới" của trái mận, trong khi trái mận đã bóc vỏ hoặc đóng hộp thường có thể dung nạp.
Hương thơm
Mận có khoảng 110 hợp chất hóa học góp phần vào hương thơm, bao gồm cồn, keton, aldehit, este, polyphenol và terpenoid.
Đào trơn
Đào trơn còn gọi là du đào, xuân đào (P. p. var. nucipersica hay P. p var. nectarina) là một nhóm giống cây trồng hay một thứ của đào mà quả có lớp vỏ trơn, không lông tơ. Mặc dù về mặt thương mại, đào lông và đào trơn được xem là những loại quả khác nhau và người ta thường nhầm rằng đào trơn là giống lai tạo giữa đào lông và mận nhưng thực tế thì đào trơn thuộc về cùng một loài với đào lông. Nhiều nghiên cứu di truyền chỉ ra rằng đào trơn là kết quả của gien lặn, trong khi ở đào lông là gien trội. Quả đào trơn cũng có thể mọc lên từ cây đào lông, trường hợp này thường do biến dị chồi. Cùi thịt quả đào trơn có thể màu trắng hay vàng, và có thể dính hay không dính với hột. Thường thì đào trơn nhỏ hơn và ngọt hơn đào lông một chút. Việc thiếu lông tơ khiến cho quả đào trơn trông đỏ hơn quả đào lông và điều này cũng có nghĩa là vỏ đào trơn dễ bị thâm hơn đào lông. Lịch sử ra đời của đào trơn không rõ ràng; những ghi chép đầu tiên có đề cập tới nó tại Anh là vào năm 1616, nhưng có lẽ nó đã được trồng sớm hơn thế rất nhiều tại Trung Á và Đông Á.
Trong văn hóa đại chúng
Trung Quốc
Hoa đào được coi trọng rất cao trong văn hóa Trung Quốc. Người Trung Quốc xưa tin rằng cây đào có sức sống mạnh mẽ hơn bất kỳ cây nào khác vì hoa đào nở trước khi lá nảy mầm. Khi các vị vua sớm của Trung Quốc thăm các lãnh thổ của họ, họ thường được tiền đàn pháp sư mang theo cây đào để bảo vệ họ khỏi các thế lực ma quỷ. Vào đêm Giao thừa, quan địa phương thường cắt nhánh cây đào và đặt chúng trước cửa nhà họ để bảo vệ khỏi ảnh hưởng của tà ma. Gỗ đào cũng được sử dụng cho những vị thần cửa biết đến sớm nhất trong thời đại Nhà Hán.
Gỗ đào và các tượng gỗ đào thường được đặt ở cửa và cổng để bảo vệ, như một tài liệu của triều đại Hán ghi, "thủ đô trở nên yên bình và trong lành." Công cụ khác để chống lại linh hồn ác là gậy gỗ đào, được sử dụng trong tang lễ và lễ trừ tà ở Trung Quốc. Hạt đào (桃仁 táo rén) thường dùng trong y học truyền thống Trung Quốc để giải độc máu và giảm viêm nhiễm.
Trong tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa, nhân vật Lưu Bị, Quan Vũ, và Trương Phi đã tạo kết bái huynh đệ dưới một vườn đào đang nở hoa. Tác phẩm "Khu Vườn Hoa Đào" của nhà thơ Đào Viên Minh cũng mô tả một khu vườn đào là biểu tượng cho thiên đàng utopia. Cây đào trên vách đá là nơi Đạo sư Trương Đào Lăng kiểm tra các đệ tử của ông.
Hàn Quốc
Tại Hàn Quốc, đào đã được trồng từ lâu đời. Theo Samguk Sagi, cây đào đã xuất hiện trong thời kỳ Tam Quốc Triều Tiên, và Sallim gyeongje cũng ghi chép về cách trồng cây đào. Đào được xem là biểu tượng của hạnh phúc, giàu có, danh dự và sự trường thọ. Loại đào hiếm có hai hạt được coi là điềm lành của mùa đông ôn hòa. Nó cũng thuộc danh sách 10 loài cây và động vật bất tử, nên hình ảnh đào thường xuất hiện trong tranh dân gian minhwa. Tại Hàn Quốc, đào và cây đào còn được cho là có khả năng đuổi xa linh hồn ma quỷ, nên chúng không bao giờ xuất hiện trên bàn thờ tổ tiên (jesa), điều này khác biệt so với các loại trái cây khác.
Nhật Bản
Loại đào ngọt nhất thế giới được trồng tại Fukushima, Nhật Bản. Kỷ lục thế giới về đào ngọt nhất hiện đang được giữ bởi một quả đào trồng tại Kanechika, Nhật Bản, có hàm lượng đường 22,2%. Tuy nhiên, một trang trại trái cây ở vùng nông thôn Fukushima, Koji đã trồng loại đào ngọt hơn nhiều, với chỉ số Brix là 32°. Độ Brix đo lường hàm lượng đường trong trái cây, thường nằm trong khoảng từ 11 đến 15 cho đào thông thường trong siêu thị.
Việt Nam
Theo truyền thuyết Việt Nam, vào mùa xuân năm 1789, sau chiến thắng lớn trước binh đoàn xâm lược của triều đại Nhà Thanh Trung Quốc tại Ngọc Hồi, Hoàng đế Quang Trung đã gửi một người đặc biệt đến Phú Xuân (nay là Huế) để đưa một cành đào nở cho Hoàng hậu Lê Ngọc Hân. Sự kiện này diễn ra vào ngày thứ năm của tháng Giêng âm lịch, hai ngày trước dự đoán kết thúc của trận chiến. Cành đào nở từ phía Bắc đến trung tâm của Việt Nam không chỉ là thông điệp chiến thắng từ Hoàng đế đến Hoàng hậu mà còn đánh dấu mùa xuân mới của hòa bình và hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam. Ngoài ra, do vùng Nhật Tân đã tự nguyện tặng cành hoa đào cho Hoàng đế, nên nó trở thành vườn đào trung thành của triều đình.
Trong tác phẩm Truyện Kiều, những nhân vật chính đã phát sinh tình cảm yêu nhau dưới gốc cây đào, và tại Việt Nam, hoa đào nở là biểu tượng của mùa xuân. Cuối cùng, cây đào bonsai thường được sử dụng để trang trí trong dịp Tết Nguyên Đán ở miền Bắc Việt Nam.
Châu Âu
Nhiều nghệ sĩ nổi tiếng đã vẽ tranh với quả đào nổi bật. Các nghệ sĩ như Caravaggio, Vicenzo Campi, Pierre-Auguste Renoir, Claude Monet, Édouard Manet, Henri Fantin-Latour, Severin Roesen, Peter Paul Rubens, và Van Gogh đã sáng tạo trong việc vẽ quả đào và cây đào trong nhiều tình huống khác nhau. Một số học giả cho rằng nhiều bức tranh này mang tính biểu tượng, và một số khác có ý định giới thiệu hiện thực. Ví dụ, Tresidder cho biết các họa sĩ thời Phục Hưng thường sử dụng quả đào để biểu trưng cho trái tim và lá đào gắn vào quả đào như biểu tượng cho lưỡi, từ đó ám chỉ nói lời thật từ trái tim; một quả đào chín cũng là biểu tượng của sự khỏe mạnh. Các bức tranh của Caravaggio mang tính chất hiện thực bằng cách vẽ lá đào thường bị thay màu, bị thâm, hoặc có lỗ sâu từ sâu bọ - điều phổ biến trong việc trồng đào hiện đại.
Trong văn học, Roald Dahl đặt tên cuốn tiểu thuyết thần thoại dành cho trẻ em của ông là James và Quả Đào Khổng Lồ vì quả đào "đẹp hơn, to hơn và mềm hơn so với quả anh đào."
Hoa Kỳ
Năm 1984, tiểu bang South Carolina đã chọn quả đào là thực phẩm chính thức của tiểu bang. Quả đào trở thành cây trái chính thức của tiểu bang Georgia, được biệt danh là "Tiểu Bang Quả Đào," vào năm 1995. Sản xuất quả đào ở miền Nam Hoa Kỳ bắt đầu từ những cây tự nhiên và sau đó chuyển sang trồng thương mại vào những năm 1850, khi bọ bông tấn công vào mùa bông bạt vùng này. Khi tiểu bang Georgia đạt đỉnh sản xuất vào những năm 1920, các lễ hội hoành tráng đã được tổ chức để tôn vinh loại trái cây này. Đến năm 2017, sản lượng đào của Georgia đại diện cho 3–5% tổng sản lượng của Hoa Kỳ. Alabama chọn quả đào là "trái cây cây trồng chính thức của tiểu bang" vào năm 2006. Delaware đã chọn hoa đào là hoa chính thức của mình từ năm 1995, và bánh đào trở thành món tráng miệng chính thức của tiểu bang vào năm 2009.
Chú thích
Hình ảnh |
Fort Lauderdale hay Pháo đài Lauderdale, được biết đến như "Venice của Mỹ" nhờ hệ thống kênh rộng rãi và phức tạp của thành phố, là thành phố nằm tại Quận Broward, Florida, Hoa Kỳ. Thành phố đôi khi được nhắc đến như "Fort Liquordale" bởi những bãi biển, những quán bar, hộp đêm, và toàn bộ không khí tiệc tùng của nó. Theo sự điều tra số dân của Mỹ năm 2005, thành phố có tổng cộng 170.823 người.
Chính quyền
Danh sách thị trưởng của Fort Lauderdale
Danh sách này chưa đầy đủ
1991 - đến nay Jack Seiler
1991 - 2009 Jim Naugle
1988 - 1991 Robert Cox
1975 - 1981 E. Clay Shaw, Jr.
1973 - 1975 Virginia Young
1965 Cy Young
1956 - 1959 Porter G. Reynolds
1954 C. M. Carlisle
1953 Lewis E. Moore
1926 J.W. "Jack" Tidball
1911 - William H. Marshall (thị trưởng đầu tiên)
Địa lý
Lịch sử
Kinh tế |
Danh sách sau liệt kê những bộ môn thể dục thể thao, được chia theo thể loại. Nhiều môn thể thao khác có thể thêm vào. Trong danh sách này, một số môn thể thao có thể thích hợp với nhiều thể loại khác nhau, nhưng ở đây, chúng chỉ được kê khai một lần.
Điền kinh
Nhảy
Nhảy ba bước
Nhảy xa
Nhảy cao
Nhảy sào
Chạy marathon
Chạy nước rút
Chạy cự ly trung bình
Chạy cự ly dài
Chạy tiếp sức
Chạy vượt rào
Chạy vượt chướng ngại vật
Chạy việt dã
Chạy bền
Ném
Ném đĩa
Ném búa (tạ xích)
Phóng lao (ném lao)
Atlatl
Đẩy tạ
Đi bộ
Đi bộ cự ly ngắn
Đi bộ cự ly trung bình
Đi bộ cự ly dài
Đi bộ việt dã
Môn thể thao có động vật
Đấu bò
Đua lạc đà
Cưỡi ngựa
Cưỡi ngựa vượt chướng ngại vật
Kĩ năng cưỡi ngựa (bao gồm nhảy qua lưng ngựa, trình diễn trên lưng ngựa và đua ngựa 3 ngày liên tiếp)
Đua ngựa
Đua ngựa có yên
Đua chó
Đua lợn
Thể thao võ thuật
Vovinam
Vịnh Xuân quyền
Judo
Karate
Kick boxing
Kung-fu
Muay Thai
Pencak Silat
Sumo
Taekwondo
Thái cực quyền
Vật
Võ thuật Việt Nam
Wushu
Kendo
Aikido
WWE
Đấu kiếm
Đạp xe
Các môn dùng xe đạp hay thiết bị chuyển động được nhờ đạp.
Bicycle polo
BMX racing
Cycloball
Cyclocross
Mountain bicycling
Mountain unicycling
Road bicycle racing
Track cycling
Đua xe đạp lòng chảo
Thể thao mạo hiểm
Trượt ván (skateboard)
Patanh
Patanh một hàng bánh (Inline skate/Roller blading)
Patanh hai hàng bánh
Mô tô địa hình
Ô tô địa hình
Xe đạp địa hình
Leo núi
Leo tường
Parkour
Thể dục - Thể hình
Thể dục nghệ thuật
Thể dục nhịp điệu
Thể dục dụng cụ
Thể dục tự do
Xà đơn
Xà kép
Ngựa gỗ
Vòng treo
Ngựa tay quai
Cầu thăng bằng
Xà lệch
Thể hình
Đua xe
Thể thao tốc độ
Đua ô tô
Đua mô tô
Đua xe công thức một
Đua xe công thức hai
Đua xe công thức ba
Đua Motogp
Những môn thể thao mạo hiểm khác
Những môn không dựa trên một sân thi đấu cụ thể.
Nhảy dù
Lướt sóng
Thể thao dùng vợt
Các môn trong đó vận động viên dùng vợt đánh bóng hay các vật khác.
Cầu lông
Bóng bàn
Quần vợt
Bóng quần
Thể thao trên băng, tuyết
Trượt băng nghệ thuật
Khúc côn cầu trên băng
Trượt băng trên bánh xe
Trượt băng tốc độ
Trượt tuyết đường núi
Khúc côn cầu trên tuyết
Trượt tuyết việt dã
Trượt tuyết trên cỏ
Trượt tuyết trên bánh xe
Thể thao phục vụ công nghệ giải trí
Vận động trường
Thể thao bãi biển
Bóng đá bãi biển
Bóng chuyền bãi biển
Bóng rổ bãi biển
Bóng ném bãi biển
Khúc côn cầu bãi biển
Thể thao có nhắm vào bia, đích
Bắn cung
Bắn súng
Bắn nỏ
Darts
Thể thao đồng đội
Các môn đòi hỏi có đội khi chơi.
Bóng đá
Bóng rổ
Bóng chuyền
Bóng chày
Cricket
Futsal (bóng đá trong nhà)
Bóng ném
Cầu mây
Đá cầu
Bóng bầu dục
Khúc côn cầu (hockey)
Bóng đá kiểu bầu dục
Thể thao dưới nước
Các môn chơi trong nước hay gần chỗ có nước:
Bơi
Bóng nước
Bơi Nghệ thuật (Synchronize swimming)
Nhảy cầu
Đua thuyền canoe và kayak
Đua thuyền buồm
Rowing
Lặn biển
Thể thao trí tuệ
Các trò chơi bài
Các trò chơi chiến thuật
Arimaa
Backgammon
Checkers
Cờ Othello
Cờ tướng
Cờ vây
Cờ vua
Cờ cá ngựa
Chess960 (Fischer Random Chess)
Domino
Draughts
Renju
Scrabble
Shogi
Các môn thể thao khác
Năm môn phối hợp
Ba môn phối hợp
Hai môn phối hợp
Mười môn phối hợp
Billiards snooker
Bowling
Bóng mềm
Câu cá thể thao
Đánh gôn
Bi sắt
Thể thao điện tử |
Công viên Hồ Tây thành lập ngày 19 tháng 5 năm 2000, là khu giải trí nằm trong địa phận phường Nhật Tân, quận Tây Hồ, Hà Nội. Thuộc quản lý của Công ty Cổ phần Dịch vụ Giải trí Hà Nội. Với tổng diện tích 8,1 ha, Công viên Hồ Tây với thiết kế độc đáo, hiện đại màu sắc rực rỡ sôi động của một tổ hợp vui chơi giải trí đa năng, Công viên đã trở thành điểm đến quen thuộc hấp dẫn của người dân Thủ đô và du khách trong cũng như ngoài nước trong hơn 10 năm trở lại đây.
Công viên nước
Công viên nước mở cửa từ 14/4/2001 có các khu bể và các khu đường trượt đa dạng phong phú, hệ thống lọc nước tuần hoàn theo tiêu chuẩn châu Âu:
Đường khổng lồ và đường ống đen
Đường đa làn (6 làn)
Hai đường phiêu lưu (xoáy hở)
Hai đường cao tốc
Hai đường xoáy Đỏ - Vàng
Sông lười
Bể tạo sóng
Bể hành động
Bể massage (bể sủi)
Bể lặn (Bể nhảy cầu)
Đường trượt nhỏ (dành cho trẻ em)
Đường trượt lớn (dành cho trẻ em)
Lâu đài nước
Bể con trâu
Bể voi vầy
giá vé:
Người lớn:
Ngày thường: 180.000 đ
Ngày lễ, thứ 7, cn: 200.000 đ
Trẻ em:
Ngày thường: 60.000 đ
Ngày lễ, thứ 7, cn: 80.000 đ
Công viên Mặt Trời Mới
Công viên Mặt Trời Mới khai trương ngày 2 tháng 7, 2000 với diện tích 2.9 ha. Công viên có 19 trò chơi phần lớn dành cho trẻ em, bao gồm các trò:
Rồng thép Thăng Long
Đu quay Bạch Tuộc
Tàu điện trên không
Đu quay khổng lồ
Thuyền lắc
Ô tô đụng
Đu quay xoắn
Đu quay dây văng
Đu quay Hào Hoa
Phòng chiếu phim thực tế ảo
Thuyền đụng
Nhà bóng
Mô tô tự lái
Ôtô tự lái
Khu vực trò chơi lâu đài gỗ
Khu vực trò chơi liên hoàn |
Công viên Văn hóa Đầm Sen là công viên giải trí nằm trên đường Hòa Bình, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh. Công viên có diện tích 50 hecta gồm 20% là mặt hồ và 60% cây xanh và vườn hoa.
Lịch sử hình thành
Trước năm 1975, mảnh đất thuộc Công viên Văn hóa Đầm Sen hiện nay là một khu đầm lầy bỏ hoang.
Trong các năm 1976-1978, theo lời kêu gọi của Thành ủy, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, hàng chục ngàn lao động từ khắp các quận, huyện trong thành phố được huy động đến để nạo vét, trồng cây ở khu vực này.
Năm 1983, công trình bước đầu đưa vào sử dụng khoảng 30 ha vừa mặt nước, vừa thảm xanh. Thành phố giao cho Quận 11 quản lý. UBND Quận 11 giao cho 3 đơn vị: Công ty Ăn uống Q.11, Công ty Văn hóa tổng hợp và Xí nghiệp nuôi trồng thủy sản khai thác.
Năm 1989, công trình được giao cho Công ty Dịch vụ Du lịch Phú Thọ - đơn vị vừa mới tách ra từ Công ty Ăn uống Q.11 - quản lý và đầu tư cho đến nay.
Các đặc điểm chính
Toàn công viên trải dài trên một diện tích rộng gồm 30 khu vực: Khu trò chơi điện tử, Sân khấu cổ tích, Lâu đài cổ tích, Sân khấu quảng trường, Hồ Tây thu nhỏ, Nam tú thượng uyển, Non bộ - thủy cung, Đảo khiêu vũ, Nhà sinh vật biển, Rối nước, Vườn chim thiên nhiên, Chùa cổ Giác Viên, Vườn bướm thiên nhiên (đã đóng cửa), Khu câu cá, Khu trưng bày kỳ long, Quán trà đạo, Khu trò chơi mạo hiểm, Hồ thiên nga, Hồ ngựa phi, Vườn hoa châu Âu, Quảng trường La Mã, Quảng trường văn hoá, Sân khấu nhạc nước, Khu bowling, Khu dịch vụ thể thao, Hồ câu tôm, Nhà hàng thủy tạ, Khu trò chơi thiếu nhi, Đèn tạo hình, Cầu cửu khúc, Nhà ga Monorail, đường ray Monorail, câu cá sấu, băng đăng...
Một hòn non bộ cao 22m với nhiều thác ghềnh, hang động mà tầng hang động lớn nhất được bố trí thành thủy cung với đủ các loài cá nhiều màu. Rồi Nam tú thượng uyển với một hệ thống vườn phong lan, các loại cây cảnh bonsai phong phú và đa dạng. Với đối tượng thiếu niên ưa hiếu động trong công viên có khá nhiều sân chơi hấp dẫn: sân trượt patanh, xe ô tô điện, tàu trượt cao tốc, công viên nước... Đặc biệt trong công viên nước Đầm Sen có những công trình mà chưa thêm thể loại hình ảnh và tài liệu công viên nào trong nước có: Tàu du lịch trên không (Monorail). Ngồi trên tàu chạy trên cao 5m so với mặt đất và với chiều dài gần 2000m du khách có thể quan sát toàn bộ cảnh trí công viên Đầm Sen với góc nhìn đẹp nhất. Bạn nào ưa trò mạo hiểm có thể thử sức với thuyền mạo hiểm vượt thác. Con thuyền sẽ đưa bạn qua thác ghềnh, hang động, và lao xuống theo thác nước dựng đứng. Công trình gây ấn tượng nhiều nhất có lẽ là vườn châu Âu - Quảng trường La Mã: đây là hệ thống vườn hoa kiểu châu Âu được tạo dáng bằng các bồn hoa hồng nhiều màu sắc, các cột trụ La Mã uy nghi, những tượng đá duyên dáng và sân khấu nhạc nước gồm 3.000 chỗ ngồi...
Sân khấu Laser Nhạc Nước được xây dựng năm 2005 với số vốn đầu tư 12 tỷ đồng, vị trí nằm phía sau vườn hoa châu Âu, sân khấu có mái che với sức chứa 3.000 chỗ ngồi. Sân khấu Laser Nhạc Nước là một loại hình nghệ thuật độc đáo, hiện đại, duy nhất tại Việt Nam mà các kỹ sư Đầm Sen đã học được từ mô hình nhạc nước ở đảo Sentosa (Singapore). Đây là sự kết hợp giữa chương trình ca nhạc với sân khấu thiết kế chuyên biệt có hệ thống phun nước và đèn laser, chiếu phim trên màn hình nước cao 28m. Phối hợp yếu tố nghệ thuật với kỹ thuật, những vòi phun nước chuyển động huyền ảo với ánh sáng, màu sắc và âm nhạc. Lưu ý các trò chơi sẽ bảo trì vào thứ 6 hàng tuần. Công viên Văn hóa Đầm Sen mở cửa hàng ngày từ 9:00 sáng đến 5:00 chiều.
Đặc điểm
Đầm Sen là một trong những khu du lịch lớn đặc sắc nhất nước Việt Nam. Kiến trúc được kết hợp một cách hoàn mĩ nền văn hóa Đông-Tây và một chút vẻ đẹp thời La Mã. Ngoài những khu vui chơi, Đầm Sen còn có những nhà hàng, khách sạn và hàng chục các loại hình khác để phục vụ khách du lịch. Đầm Sen là nơi vui chơi giải trí rất hấp dẫn cho người trong và ngoại nước.
Đặc biệt "Thủy cung Đầm Sen" là một công trình phục vụ tham quan giải trí mới của Công viên văn hoá Đầm Sen do Tổng công ty Dịch vụ Du lịch Phú Thọ và Công ty TNHH TM & DV Hải Thanh làm chủ đầu tư. Thủy cung toạ lạc tại vườn Nam Tú Thượng Uyển - khu A Công viên văn hoá Đầm Sen. Công trình mới khai trương giai đoạn 1 vào ngày 04/08/2013 và hiện tại đang tiếp tục xây dựng giai đoạn 2 với những công trình phụ mới lạ và đặc sắc nhằm phục vụ du khách.
Thủy cung Đầm Sen có diện tích trên 3000m2 với tổng thể tích nước trên 2500m3, là nơi sinh sống của hơn 6000 cá thể sinh vật thuộc hàng trăm loài sinh vật đa dạng dưới nước. Thủy cung Đầm Sen bao gồm các điểm tham quan chính sau:
Hệ thống hồ cá ngoài trời với hơn 1000 cá thể thuộc hai loài cá Koi và cá Ali, du khách có thể thoả thích ngắm nhìn những chú cá đẹp, lạ mắt, nhiều màu sắc bơi thành từng đàn và cho cá ăn, vui đùa với cá.
Thành phố huyền thoại Atlantic chìm sâu dưới đáy biển là nơi sinh sống của những loài cá quý hiếm như cá Khổng Tước, cá Hoàng Đế, cá Hoàng Hậu, cá Hoàng Yến, cá Hoàng Gia,...
Hồ cá mập có thể tích lớn nhất Việt Nam với nhiều chủng loại cá mập khác nhau như cá mập Mã Lai, cá mập vây đen, cá mập vây trắng, cá mập da beo,... và nhiều loài sinh vật có thể sống chung với cá mập như các loài cá mú, các loài rùa biển, các loài chình biển, các loài cá đuối,...
Hồ cá Ali với hàng trăm con mang 18 màu sắc thuộc nhiều họ khác nhau.
Lưu vực sông Mê Kông với các loài cá nước ngọt quý hiếm như cá Tra Dầu, cá Éc Mọi, cá Duồng, cá Hô, cá Thành Cát Tư Hãn,... cùng những con cá Koi lớn, mỗi con là một bức tranh nghệ thuật.
Hồ trung tâm mô phỏng lại rạn san hô Trường Sa. Đây là ngôi nhà của hơn 1000 cá thể sinh vật. Trong đó có những loài đặc biệt quý hiếm được chuyển từ Trường Sa về.
Hệ thống hồ chuyên đề với những loài sinh vật đặc sắc như cá Nemo, cá Bắp Nẻ, hải quỳ, san hô sống, trai Tai Tượng, trai Tai Nghé, cá Mặt Quỷ, cá Ngựa, ca Thiên Long, cá Nóc,...
Đa dạng sắc màu của vùng biển Việt Nam với hàng trăm loài cá cảnh biển có giá trị kinh tế cao như cá Bò Bông Bi, cá Mao Tiên, cá Sú Mì với đường chân mày sau mắt, cá Nóc Nhím, cá Mó Nanh, cá Bò Đuôi Én,...
Sự đa dạng sinh học của dòng sông Amazon là các loài cá quý hiếm khổng lồ như cá Hải Tượng, cá Hồng Vỹ Mỏ Vịt, cá Phúc Lộc Thọ, cá Piranha,...
Năm 1994, Thủy cung Đầm Sen là thủy cung đầu tiên tại Việt Nam với nhiều loài cá cảnh khác nhau thu hút hàng triệu lượt khách đến tham quan.
Năm 2013, Thủy cung Đầm Sen được xây mới lại hoàn toàn với nhiều cải tiến đặc sắc như vẻ ngoài mang hình con cua khổng lồ, bên trong là những hệ thống hồ được áp dụng công nghệ cao để xây dựng và vận hành các hệ thống hồ nhằm tạo môi trường phù hợp cho hàng trăm loài cá đa dạng, sặc sỡ, quý hiếm sinh sống. Thủy cung Đầm Sen đang tiếp tục được xây dựng giai đoạn 2 với những công trình phụ mới lạ nhằm phục vụ du khách đến tham quan, học tập, nghiên cứu và giải trí ngày một tốt hơn.
Thành tích
Huân chương Lao động hạng nhất (ngày 14 tháng 1 năm 2003)
Huân chương Lao động hạng nhì (ngày 15 tháng 10 năm 1998)
5 Bằng khen của Bộ Văn hoá Thông tin
Cờ Thi đua xuất sắc năm 1999
2 Bằng khen của Tổng cục Du lịch
2 Bằng khen của UBND Thành phố Hà Nội
9 Bằng khen của UBND Thành phố Hồ Chí Minh
Hình ảnh
Chú thích |
Walter Elias Disney (; 5 tháng 12 năm 190115 tháng 12 năm 1966) là một doanh nhân, nhà làm phim hoạt hình, diễn viên lồng tiếng và nhà sản xuất phim người Mỹ. Ông là người tiên phong của ngành công nghiệp hoạt hình Hoa Kỳ và mang lại một số bước tiến lớn trong ngành sản xuất phim hoạt hình. Với cương vị là nhà sản xuất phim, Walt Disney nắm giữ kỷ lục là người giành được nhiều giải Oscar nhất, với 22 lần đoạt giải và 59 lần đề cử. Ông cũng được trao tặng 2 giải Quả cầu Vàng cho Thành tựu Đặc biệt và 1 giải Emmy, cũng như nhiều giải thưởng danh giá khác. Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đã đưa một số bộ phim của ông vào Viện lưu trữ phim quốc gia.
Sinh năm 1901 tại Chicago, Disney sớm đã bộc lộ niềm say mê với hội họa ngay từ khi còn nhỏ. Ông tham gia các lớp học mỹ thuật từ lúc còn là một đứa trẻ và trở thành một họa sĩ thương mại vào năm 18 tuổi. Đầu thập niên 1920, Disney chuyển đến California và thành lập Disney Brothers Studio cùng với anh trai Roy. Năm 1928, ông hợp tác cùng họa sĩ Ub Iwerks xây dựng nên nhân vật chuột Mickey và đạt được thành công vang dội đầu tiên. Disney cũng đóng vai trò là người lồng tiếng cho chuột Mickey trong quãng thời gian ban đầu. Khi xưởng hoạt hình ngày càng phát triển, Disney càng có nhiều quyết định táo bạo hơn như đưa đồng bộ âm thanh vào phim, sử dụng kỹ thuật ba dải màu đầy đủ màu sắc của Technicolor, sản xuất phim hoạt hình thời lượng dài và áp dụng những tiến bộ trong kỹ thuật ghi hình. Kết quả là ông cho ra đời nhiều bộ phim chủ chốt góp phần thúc đẩy sự phát triển của phim hoạt hình như Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn (1937), Pinocchio, Fantasia (1940) và Bambi (1942). Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, ông tiếp tục cho ra đời bộ phim hoạt hình và người đóng bao gồm Cô bé Lọ Lem (1950) và Mary Poppins (1964). Cả hai bộ phim đều đạt được thành công về mặt chuyên môn và tính riêng Mary Poppins đã giành được 5 giải Oscar.
Vào thập niên 1950, Disney quyết định lấn sân sang lĩnh vực công viên giải trí và vào năm 1955, ông cho khai trương công viên Disneyland ở Anaheim, California. Để gây quỹ cho dự án, ông đã bắt đầu sản xuất các chương trình truyền hình, chẳng hạn như Walt Disney's Disneyland và The Mickey Mouse Club. Ông cũng tham gia vào việc quy hoạch cho Triển lãm quốc gia Hoa Kỳ tại Moskva năm 1959, Thế Vận hội Mùa đông năm 1960 và Hội chợ Quốc tế New York năm 1964. Năm 1965, ông bắt đầu phát triển một công viên chủ đề khác mang tên Disney World, trung tâm của công viên là thành phố kiểu mới được gọi là "Xã hội tương lai kiểu mẫu" (EPCOT). Disney là người nghiện hút thuốc lá trong suốt cuộc đời nên ông đã qua đời vì bệnh ung thư phổi vào tháng 12 năm 1966 trước khi kịp chứng kiến công viên và dự án EPCOT hoàn thành.
Disney là một người nhút nhát, tự ti nhưng lại có một trái tim ấm áp và cởi mở với công chúng. Ông luôn đặt ra các tiêu chuẩn cao và kỳ vọng ở những người mà ông đã từng làm việc cùng. Mặc dù có những cáo buộc cho rằng ông phân biệt chủng tộc hoặc bài Do Thái nhưng nhiều người quen biết ông đã phủ nhận điều đó. Quan điểm về Disney dần thay đổi trong những năm sau khi ông qua đời, từ một con người yêu nước chất phác trở thành đại diện cho chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Tuy nhiên, ông vẫn là một nhân vật rất quan trọng trong lịch sử ngành phim hoạt hình và lịch sử văn hóa của Hoa Kỳ, nơi ông được coi là một biểu tượng văn hóa quốc gia. Các tác phẩm điện ảnh của ông tiếp tục được trình chiếu và chuyển thể, trong khi đó hãng phim và công ty cùng tên của ông vẫn duy trì các tiêu chuẩn cao trong việc sản xuất các chương trình giải trí nổi tiếng. Kể cả những công viên giải trí Disney cũng phát triển về quy mô và số lượng để thu hút du khách từ nhiều quốc gia trên khắp thế giới.
Cuộc đời và sự nghiệp
1901–1920: Thời niên thiếu
Walt Elias Disney sinh ngày 5 tháng 12 năm 1901 tại ngôi nhà số 1249 ở Đại lộ Tripp, thuộc khu phố Hermosa của Chicago, Hoa Kỳ. Cha ông, Elias Disney là người sinh ra trong một gia đình gốc Ireland ở tỉnh Canada, còn mẹ ông, Flora (nhũ danh Call) là người Mĩ mang hai dòng máu Anh và Đức. Disney là con trai thứ tư trong gia đình có năm người con, với ba anh trai Herbert, Raymond, Roy và người em út là Ruth, sinh vào tháng 12 năm 1903. Khi Disney lên 4 tuổi vào năm 1906, gia đình ông chuyển đến sinh sống ở một trang trại thuộc thành phố Marceline, Missouri, nơi người chú Robert của ông vừa mới mua đất. Tại Marceline, Disney bắt đầu thích thú với hội họa khi ông được trả tiền để vẽ con ngựa của người bác sĩ hàng xóm đã về hưu. Elias là độc giả của tờ báo Appeal to Reason, và Disney đã tranh thủ tập vẽ bằng cách sao chép các tranh biếm họa của Ryan Walker được đăng trên trang nhất của báo. Disney cũng ngày càng bộc lộ năng khiếu hội họa với màu nước và sáp màu. Ông sống gần tuyến đường sắt Atchison, Topeka và Santa Fe nên dần có niềm đam mê với xe lửa. Ông và cô em gái Ruth nhập học cùng lúc tại Trường Park ở Marceline vào cuối năm 1909.
Năm 1911, Disney chuyển đến sống ở Thành phố Kansas, Missouri. Tại đây, ông theo học tại Trường Tiểu học Benton và gặp gỡ người bạn học Walter Pfeiffer. Xuất thân từ gia đình hâm mộ nghệ thuật sân khấu, Pfeiffer chính là người đã mang Disney đến với tạp kĩ và phim ảnh. Càng ngày, Disney càng dành nhiều thời gian ở nhà Pfeiffer hơn ở nhà mình. Cũng trong thời gian này, Elias mua được suất giao báo cho hai tờ The Kansas City Star và Kansas City Times, và kể từ đó, hai anh em Disney và Roy phải thức dậy lúc 4 giờ rưỡi mỗi sáng để giao báo cho tờ Times trước giờ học, còn sau khi tan học thì họ giao báo cho tờ Star. Lịch làm việc dày đặc khiến Disney thường bị điểm kém vì hay ngủ gật trong lớp, dù vậy, ông vẫn tiếp tục làm công việc giao báo trong hơn 6 năm tiếp theo. Ngoài giờ giao báo, ông còn tham gia các khóa học vào thứ Bảy hàng tuần tại Viện Nghệ thuật Thành phố Kansas và tham gia chương trình học hàm thụ về vẽ tranh biếm họa.
Năm 1917, Elias mua cổ phiếu của công ty sản xuất thạch O-Zell ở Chicago và cùng gia đình quay lại thành phố này. Disney đã ghi danh vào Trường Trung học McKinley và trở thành họa sĩ biếm họa cho tờ báo của trường, chuyên vẽ những bức tranh về đề tài yêu nước trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Ông cũng tham gia vào khóa học đêm tại Trường Nghệ thuật Chicago. Vào giữa năm 1918, Disney định gia nhập Quân đội Hoa Kỳ để chiến đấu chống lại quân Đức ở Mặt trận phía Tây nhưng bị từ chối vì còn quá trẻ. Sau khi khai man ngày tháng năm sinh trên giấy khai sinh của mình, ông tham gia Hội Chữ thập đỏ vào tháng 9 năm 1918 và trở thành tài xế xe cứu thương. Ông được thuyên chuyển đến Pháp nhưng mãi đến tận tháng 11 mới tới nơi, sau khi khối Hiệp ước và Đế Quốc Đức hoàn thành việc ký kết hiệp định đình chiến. Ông từng vẽ tranh biếm họa để trang trí xe cứu thương của mình và đăng một số tác phẩm lên báo quân đội Stars and Stripes. Disney trở về Thành phố Kansas vào tháng 10 năm 1919 và làm họa sĩ học việc tại Xưởng nghệ thuật thương mại Pesmen-Rubin. Trong thời gian ở đây, ông vẽ tranh minh họa thương mại cho quảng cáo, chương trình sân khấu và catalog, đồng thời kết bạn với người họa sĩ đồng nghiệp là Ub Iwerks.
1920–1928: Sự nghiệp ban đầu
trái|nhỏ|Phong bì kinh doanh của Walt Disney có bức chân dung tự họa
Vào tháng 1 năm 1920, Pesmen-Rubin sa thải Disney và Iwerks vì thu nhập của xưởng bị sụt giảm sau Giáng sinh. Họ bắt đầu công việc kinh doanh ngắn hạn khi lập ra công ty riêng mang tên Công ty Nghệ sĩ Thương mại Iwerks-Disney. Cảm thấy không thể thu hút nhiều khách hàng, Disney và Iwerks thống nhất rằng Disney nên tạm thời rời công ty riêng để đi kiếm tiền tại Công ty Quảng cáo Phim Thành phố Kansas, do A. V. Cauger điều hành. Iwerks cũng gia nhập Công ty Quảng cáo này vào ngay tháng sau đó vì nhận thấy bản thân không thể điều hành công ty riêng một mình. Công ty Kansas chuyên sản xuất quảng cáo sử dụng kỹ thuật hoạt hình cắt dán. Disney bắt đầu quan tâm đến hoạt hình mặc dù ông vẫn thích những tác phẩm tranh biếm họa như Mutt and Jeff và Koko the Clown hơn. Ông bắt đầu thử nghiệm tại nhà sau khi mượn được cuốn sách về hoạt hình và một chiếc máy ghi hình. Trong quá trình thử nghiệm, ông đi đến kết luận rằng hoạt hình cel sẽ có nhiều triển vọng hơn là hoạt hình cắt dán. Disney quyết định mở công việc kinh doanh mới với đồng nghiệp Fred Harman vì không thể thuyết phục Cauger thử làm phim hoạt hình cel tại công ty. Khách hàng chính của họ là Rạp phim Newman ở địa phương, và phim hoạt hình mà họ sản xuất được bán với tên gọi "Newman's Laugh-O-Gram". Disney đã tham khảo loạt phim Ngụ ngôn Aesop của Paul Terry để làm mẫu và 6 tập "Laugh-O-Grams" đầu tiên đều là những câu chuyện cổ tích kiểu hiện đại.
thumbtime=2|nhỏ|Newman Laugh-O-Gram (1921)
Vào tháng 5 năm 1921, thành công của "Laugh-O-Grams" đã dẫn đến việc thành lập Xưởng phim Laugh-O-Gram, nơi ông thuê nhiều họa sĩ diễn hoạt bao gồm Hugh Harman (em trai của đồng nghiệp Fred Harman), Rudolf Ising và cả Iwerks. Phim hoạt hình Laugh-O-Grams không cung cấp đủ lợi tức để duy trì hoạt động kinh doanh của công ty, vì vậy, Disney đã bắt đầu sản xuất phim câm ngắn Alice's Wonderland dựa trên nguyên tác Alice ở xứ sở thần tiên của Lewis Carroll. Bộ phim là sự kết hợp giữa người đóng và hoạt hình, với nữ diễn viên nhí Virginia Davis được Disney lựa chọn vào vai chính. Tuy nhiên, bộ phim một cuộn thời lượng 12 phút rưỡi lại hoàn thành quá muộn để có thể cứu Laugh-O-Gram Studio khỏi phá sản vào năm 1923.
Disney chuyển đến Hollywood vào tháng 7 năm 1923. Mặc dù New York lúc bấy giờ là trung tâm của ngành công nghiệp phim hoạt hình nhưng ông vẫn thích Los Angeles hơn, và cũng vì người anh Roy của ông bị mắc bệnh lao và đang dưỡng bệnh ở đó. Vào thời điếm này, ông cũng có hoài bão trở thành đạo diễn phim người đóng. Disney cố hết sức để bán Alice's Wonderland nhưng mọi nỗ lực đều vô vọng cho đến khi ông nghe tin từ nhà phân phối phim Margaret J. Winkler ở New York. Bà Winkler lúc này đang mất quyền phân phối đối với cả hai loạt phim hoạt hình Out of the Inkwell và Felix the Cat nên cần một loạt phim mới. Vào tháng 10 năm 1923, họ ký hợp đồng cho 6 tập phim Alice Comedies với một tùy chọn cho hai loạt phim thêm của mỗi 6 tập. Disney và Roy sau đó thành lập Disney Brothers Studio, tiền thân của Công ty Walt Disney để sản xuất các bộ phim. Họ thuyết phục Virginia Davis và gia đình cô chuyển đến Hollywood để tiếp tục sản xuất phim, với mức lương cho cô bé là 100 đô la một tháng. Vào tháng 7 năm 1924, Disney cũng thuê Iwerks, thuyết phục được Iwerks chuyển từ Thành phố Kansas đến Hollywood.
Đầu năm 1925, Disney thuê nghệ sĩ vẽ mực Lillian Bounds. Disney và Lillian kết hôn vào tháng 7 cùng năm tại nhà anh trai của Lillian ở quê nhà Lewiston, Idaho. Theo Lillian, cuộc hôn nhân nói chung là hạnh phúc, mặc dù theo người viết tiểu sử về Disney tên Neal Gabler thì Lillian không "chấp nhận các quyết định của Disney một cách khiêm nhường hoặc [không chịu nổi] tình thế [bấp bênh] của ông một cách rõ ràng, và bà [cũng] thú nhận rằng Disney luôn bảo với mọi người là 'ông rất sợ vợ'." Lillian không mấy quan tâm đến phim ảnh hay bối cảnh xã hội Hollywood đương thời, và theo lời của nhà sử học Steven Watts thì bà "bằng lòng với việc quán xuyến việc nhà và chu cấp hỗ trợ cho chồng." Họ có với nhau 2 cô con gái trong suốt cuộc hôn nhân, với con đầu lòng tên là Diane sinh vào tháng 12 năm 1933 và người con thứ là Sharon, nhận nuôi vào tháng 12 năm 1936 khi được 6 tuần tuổi. Trong gia đình, cả Disney và vợ ông đều không giấu sự thật là Sharon được nhận làm con nuôi. Dù vậy, họ sẽ trở nên khó chịu nếu những người ngoài gia đình nhắc đến chuyện này. Hai vợ chồng Disney luôn cẩn thận giữ cho con gái họ tránh xuất hiện trước công chúng càng nhiều càng tốt, đặc biệt là sau vụ bắt cóc Lindbergh. Disney thực hiện những biện pháp cần thiết để đảm bảo rằng con gái mình không bị báo chí chụp ảnh.
thế=A cartoon rabbit is driving a tramcar; other cartoon rabbits are in, under, on and around the car.|nhỏ|Áp phích rạp cho bộ phim Trolley Troubles (1927)
Đến năm 1926, Winkler giao quyền phân phối loạt phim Alice cho nhà sản xuất phim Charles Mintz, và cũng đồng thời là chồng bà. Tuy vậy, mối quan hệ giữa Mintz và Disney đôi lúc có căng thẳng. Loạt phim Alice kéo dài đến tháng 7 năm 1927, vào thời điểm mà Disney bắt đầu cảm thấy chán và muốn thay đổi định dạng nửa người đóng, nửa hoạt hình sang toàn bộ hoạt hình. Sau khi Mintz yêu cầu một ý tưởng mới để phân phối thông qua Universal Pictures, Disney và Iwerks đã tạo ra Thỏ may mắn Oswald, một nhân vật mà Disney muốn nó phải "hăng hái, lanh lợi, nhí nhảnh và ưa mạo hiểm, [cách ăn mặc] của nó cũng phải luôn gọn gàng và chỉnh tề".
Vào tháng 2 năm 1928, Disney hi vọng có thể thương lượng một khoản chi phí lớn hơn để sản xuất loạt phim Oswald nhưng nhận ra là Mintz đang muốn cắt giảm các khoản tiền công. Mintz cũng thuyết phục nhiều nghệ sĩ liên quan làm việc trực tiếp cho mình, bao gồm Harman, Ising, Carman Maxwell và Friz Freleng. Disney cũng phát hiện ra rằng Universal nắm giữ quyền sở hữu trí tuệ đối với Oswald. Mintz đe dọa sẽ thành lập xưởng phim riêng và tự sản xuất loạt phim nếu Disney từ chối việc cắt giảm tiền công. Disney khước từ lời tối hậu thư của Mintz và mất gần hết ê kíp làm phim hoạt hình, ngoại trừ Iwerks, người quyết định đi theo ông.
1928–1933: Sáng tạo ra Chuột Mickey và Giải Oscar đầu tiên
Disney và Iwerks đã xây dựng nên Chuột Mickey để thay thế cho Oswald. Nhân vật mới này được cho là lấy cảm hứng từ một con chuột cưng mà Disney nuôi khi còn làm việc tại Xưởng phim Laugh-O-Gram, dù vậy không ai dám chắc về nguồn gốc thực sự của nó. Ban đầu, Disney định đặt tên cho nhân vật là Chuột Mortimer nhưng Lillian thấy tên quá rình rang nên thay vào đó đề xuất là Mickey. Iwerks đã sửa lại các bản phác thảo tạm thời của Disney để cho nhân vật dễ vẽ hoạt hình hơn. Trong khoảng thời gian này, Disney bắt đầu tách mình khỏi quá trình làm phim hoạt hình và chuyển sang lồng tiếng cho Chuột Mickey đến năm 1947. Theo lời của một nhân viên Disney, "Ub là người thiết kế ngoại hình cho Mickey, nhưng [chính] Walt là người thổi hồn cho nó."
Chuột Mickey xuất hiện lần đầu vào tháng 5 năm 1928 trong buổi chiếu thử nghiệm đơn lẻ của phim ngắn Plane Crazy, nhưng tại lần xuất hiện thứ hai ở bộ phim The Gallopin' Gaucho thì lại không tìm được nhà phân phối. Sau bộ phim The Jazz Singer gây ấn tượng mạnh vào năm 1927, Disney quyết định sử dụng đồng bộ âm thanh trong đoạn phim ngắn thứ ba mang tên Tàu hơi nước Willie nhằm tạo ra phim hoạt hình có âm thanh hậu kỳ đầu tiên. Disney đã ký hợp đồng với giám đốc điều hành cũ của Universal Pictures là Pat Powers để sử dụng hệ thống thu âm "Powers Cinephone". Cinephone đã trở thành nhà phân phối mới cho các bộ phim hoạt hình âm thanh thời kỳ đầu của Disney. Những tác phẩm này đã trở nên nổi tiếng một cách nhanh chóng.
Để cải thiện chất lượng của âm nhạc, Disney đã thuê nhà soạn nhạc và chuyển soạn chuyên nghiệp Carl Stalling. Stalling là người gợi ý cách kể chuyện thông qua việc sử dụng âm nhạc cho loạt phim Silly Symphony. Iwerk là người vẽ và hoạt họa toàn bộ tập đầu tiên của series với tựa đề The Skeleton Dance (1929). Disney vào thời điểm này cũng thuê một số họa sĩ địa phương, mà vài người trong số họ gắn bó với công ty trong vai trò là họa sĩ diễn hoạt nòng cốt. Nhóm người này về sau được gọi là Chín Ông già. Cả Chuột Mickey lẫn loạt phim Silly Symphony đều thành công nhưng Disney và anh trai ông cảm thấy phần lợi nhuận mà họ nhận từ Powers không đúng với công sức mà họ bỏ ra. Vào năm 1930, Disney cố gắng cắt giảm chi phí từ quá trình diễn hoạt bằng cách thúc giục Iwerks từ bỏ việc hoạt họa cho từng cel riêng biệt để thay vào đó dùng kỹ thuật vẽ dáng chính (key pose) hiệu quả hơn. Việc vẽ chèn thêm dáng vào giữa (inbetween) sẽ giao cho các trợ lý có lương thấp hơn. Disney yêu cầu Powers tăng thêm tiền công cho phim hoạt hình. Powers từ chối và ký hợp đồng với Iwerks làm việc cho Powers. Stalling bỏ việc không lâu sau đó vì nghĩ rằng nếu không có Iwerks thì Xưởng phim Disney sẽ đóng cửa. Disney bị suy nhược thần kinh vào tháng 10 năm 1931. Ông trách móc sự mưu toan của Powers và sự làm việc quá sức của bản thân, nên quyết định cùng với Lillian đi nghỉ mát dài ngày ở Cuba và đi du thuyền đến Panama để hồi phục.
Sau khi mất Powers với tư cách là nhà phân phối, xưởng phim Disney ký hợp đồng với Columbia Pictures để phân phối loạt phim hoạt hình Chuột Mickey. Chú chuột ngày càng trở nên nổi tiếng khi tên tuổi bắt đầu lan ra toàn thế giới. Disney luôn muốn nắm bắt công nghệ mới và làm phim Flowers and Trees (1932) bằng kỹ thuật ba dải màu đầy đủ màu sắc của Technicolor. Ông cũng có thể thương lượng để đạt được thỏa thuận cho phép ông độc quyền sử dụng quy trình ba dải màu đến ngày 31 tháng 8 năm 1935. Tất cả các phim hoạt hình Silly Symphony tiếp theo đều có màu. Flowers and Trees được nhiều khán giả yêu thích và giành giải Oscar cho phim hoạt hình ngắn hay nhất tại lễ trao giải năm 1932. Bộ phim khác của Disney là Mickey's Orphans cũng được đề cử cho hạng mục đó. Ông còn được trao giải thưởng danh dự "cho việc tạo ra Chuột Mickey".
Năm 1933, Disney sản xuất bộ phim Ba chú heo con, và được nhà lịch sử truyền thông Adrian Danks mô tả là "phim hoạt hình ngắn thành công nhất mọi thời đại". Bộ phim giúp Disney giành Giải Oscar khác cho hạng mục phim hoạt hình ngắn. Thành công của bộ phim đã giúp cho hãng phim tăng thêm nhiều nhân sự, với con số gần 200 người vào cuối năm. Disney nhận ra tầm quan trọng của việc kể những câu chuyện giàu cảm xúc sẽ khiến khán giả thích thú. Ông đầu tư hẳn một "ban viết truyện" tách biệt với họa sĩ diễn hoạt, cũng như các họa sĩ kịch bản phân cảnh chuyên trình bày chi tiết cốt truyện cho phim của Disney.
1934–1941: Thời kỳ hoàng kim của phim hoạt hình
Đến năm 1934, Disney trở nên không hài lòng với việc sản xuất hoạt hình ngắn theo khuôn sáo, cũng như tin rằng phim hoạt hình thời lượng dài sẽ mang lại nhiều lợi nhuận hơn. Hãng phim bắt đầu sản xuất Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn trong suốt 4 năm dựa trên nguyên tác truyện cổ tích. Khi tin tức về dự án bị rò rỉ, nhiều người trong ngành điện ảnh dự đoán rằng bộ phim sẽ khiến công ty phá sản. Một số người trong ngành còn đặt cho phim biệt danh là "Sự dại dột của Disney". Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn là phim hoạt hình dài đầu tiên thực hiện với đầy đủ màu sắc và âm thanh, tiêu tốn hơn 1,5 triệu đô la để sản xuất – gấp ba lần ngân sách. Để đảm bảo cho bộ phim hoạt hình chân thực nhất có thể, Disney đã cử các họa sĩ diễn hoạt tham gia khóa học tại Học viện Nghệ thuật Chouinard. Ông đưa động vật vào trong xưởng phim và thuê diễn viên để các họa sĩ diễn hoạt có thể nghiên cứu chuyển động thực tế. Để miêu tả sinh động sự thay đổi góc nhìn của hậu cảnh khi máy quay di chuyển qua một cảnh, các họa sĩ diễn hoạt của Disney đã phát triển nên một loại máy quay đa mặt phẳng (multiplane camera). Loại máy quay này cho phép những hình vẽ trên tấm kính được đặt ở nhiều khoảng cách khác nhau từ máy quay, từ đó tạo cho khán giả ảo giác về chiều sâu của cảnh. Tấm kính có thể di chuyển để tạo ra cảm giác là máy qua vừa lướt qua cảnh. Tác phẩm đầu tiên sử dụng máy quay kiểu này là The Old Mill (1937) của loạt phim Silly Symphony. Bộ phim này đã giành Giải Oscar cho phim hoạt hình ngắn hay nhất vì phương pháp trực quan gây ấn tượng mạnh của nó. Mặc dù Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn hoàn thành phần lớn vào thời điểm máy quay đa mặt phẳng được làm xong nhưng Disney vẫn yêu cầu vẽ lại một số cảnh để sử dụng hiệu ứng mới.
Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn công chiếu vào tháng 12 năm 1937, và nhận được nhiều lời tán dương từ giới phê bình cũng như công chúng. Bộ phim đã trở thành phim chuyển động thành công nhất năm 1938. Tính đến tháng 5 năm 1939, tác phẩm đạt tổng doanh thu 6,5 triệu đô la, giúp nó trở thành phim có âm thanh thành công nhất từng thực hiện vào lúc bấy giờ. Disney một lần nữa được trao Giải Oscar danh dự, bao gồm 1 bức tượng Oscar kích thước đầy đủ và 7 bức tượng Oscar thu nhỏ. Thành công của Nàng Bạch Tuyết báo trước một trong những kỷ nguyên năng suất nhất của xưởng phim. Bảo tàng Gia đình Walt Disney gọi những năm tiếp theo là "Thời kỳ hoàng kim của phim hoạt hình". Sau khi hoàn thành Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn, studio bắt đầu sản xuất Pinocchio vào đầu năm 1938 và Fantasia vào tháng 11 cùng năm. Cả hai bộ phim đều phát hành vào năm 1940 và không đạt thành tích tốt tại phòng vé, một phần là do doanh thu từ châu Âu sụt giảm sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu vào năm 1939. Xưởng phim làm ăn thua lỗ ở cả hai bộ phim và lâm vào cảnh nợ nần chồng chất trong cuối tháng 2 năm 1941.
Để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính, Disney và Roy bắt đầu đợt phát hành cổ phiếu đầu tiên của công ty ra công chúng vào năm 1940, đồng thời thực hiện việc cắt giảm lương mạnh. Việc cắt giảm lương của Disney thỉnh thoảng có phần mạnh tay và thiếu tế nhị với nhân viên nên các họa sĩ diễn hoạt vì thế mà tổ chức cuộc đình công kéo dài 5 tuần. Trong khi hòa giải viên liên bang từ Ủy ban Quan hệ Lao động Quốc gia đến đàm phán với cả hai bên, Disney chấp nhận lời đề nghị từ Văn phòng Điều phối các Vấn đề Liên Mỹ để thực hiện một chuyến đi thiện chí đến Nam Mỹ nhằm đảm bảo rằng ông sẽ tạm vắng trong cuộc hòa giải mà ông biết trước là sẽ không có lợi gì cho xưởng phim. Hậu quả của cuộc đình công và tình hình tài chính lúc bấy giờ của công ty đã khiến nhiều họa sĩ diễn hoạt rời khỏi xưởng phim. Mối quan hệ giữa Disney với các nhân viên khác rơi vào tình trạng căng thẳng kéo dài. Cuộc đình công tạm thời làm gián đoạn việc ra mắt sản phẩm tiếp theo của xưởng phim là Dumbo (1941). Bộ phim này được sản xuất bằng phương pháp đơn giản và tốn ít chi phí, dù vậy vẫn nhận phản hồi tích cực từ phía khán giả cũng như giới phê bình.
1941–1950: Chiến tranh thế giới thứ hai và sau đó
Ngay sau khi phát hành Dumbo vào tháng 10 năm 1941, Hoa Kỳ bước vào Chiến tranh thế giới thứ hai. Disney đã thành lập Đơn vị làm phim Huấn luyện Walt Disney trong công ty để sản xuất những bộ phim hướng dẫn cho quân đội Hoa Kỳ như Four Methods of Flush Riveting và Aircraft Production Methods. Disney cũng gặp gỡ với Bộ trưởng Ngân khố Hoa Kỳ lúc bấy giờ là Henry Morgenthau Jr. và đồng ý sản xuất phim hoạt hình ngắn về Vịt Donald để thúc đẩy trái phiếu chiến tranh. Bên cạnh đó, Disney còn cho sản xuất một số tác phẩm tuyên truyền, bao gồm bộ phim ngắn như Der Fuehrer's Face đạt Giải Oscar vào năm 1943 và phim điện ảnh thời lượng dài Victory Through Air Power (1943).
Các bộ phim quân sự chỉ tạo ra doanh thu đủ để bù đắp chi phí, và bộ phim điện ảnh dài Bambi sản xuất từ năm 1937 lại tỏ ra kém hiệu quả khi phát hành vào tháng 4 năm 1942, gây thất thu 200 nghìn đô la phòng vé. Ngoài khoản thu nhập thấp từ Pinocchio và Fantasia, công ty còn có nợ 4 triệu đô la từ ngân hàng Bank of America vào năm 1944. Tại cuộc họp với các giám đốc điều hành của Bank of America để thảo luận về tương lai của công ty Disney, chủ tịch kiêm người sáng lập ngân hàng là Amadeo Giannini đã nói với các giám đốc điều hành của mình rằng: "Tôi đã theo dõi khá kỹ những bộ phim hoạt hình của Disney vì tôi biết rằng chúng ta đã cho họ vay tiền vượt xa mức rủi ro tài chính. ... Năm này họ [có thể] tốt, năm sau cũng thế và năm sau nữa cũng vậy. ... Các anh cứ thư giãn và cho họ thời gian để tiếp thị sản phẩm." Việc sản xuất phim ngắn của Disney suy giảm vào cuối thập niên 1940 khi gặp phải sự cạnh tranh ngày càng tăng trên thị trường hoạt hình từ các đối thủ như Warner Bros. và Metro-Goldwyn-Mayer. Roy Disney đề nghị sản xuất nhiều hơn nữa sản phẩm hoạt hình kết hợp người đóng vì lý do tài chính. Năm 1948, Disney khởi xướng một loạt các bộ phim người đóng nổi tiếng về đề tài tự nhiên có tựa đề là True-Life Adventures. Seal Island là tác phẩm đầu tiên của loạt phim và đã giành Giải Oscar cho phim ngắn hay nhất.
Càng về già, Disney càng trở nên bảo thủ về mặt chính trị. Ban đầu, ông là người ủng hộ cho Đảng Dân chủ nhưng đến năm 1940 thì chuyển sang trung thành với Đảng Cộng hòa. Khi Thomas E. Dewey tranh cử tổng thống vào năm 1944, Disney là nhà tài trợ hào phóng cho chiến dịch tranh cử. Năm 1946, ông là thành viên sáng lập của Liên minh Điện ảnh Bảo tồn Lý tưởng Hoa Kỳ, một tổ chức tuyên bố rằng họ "tin tưởng và yêu thích Lối sống Mỹ... chúng ta tự thấy mình đang nổi dậy quyết liệt để chống lại làn sóng của chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa phát xít và các chủ nghĩa tương tự đang tìm cách phá hoại và thay đổi lối sống này bằng các biện pháp lật đổ". Vào năm 1947, trong thời kỳ Khiếp sợ đỏ thứ hai, Disney là người làm chứng trước Ủy ban Hạ viện Kiểm tra Hành động chống Hoa Kỳ (HUAC). Tại Ủy ban, ông cáo buộc những họa sĩ diễn hoạt và người tổ chức công đoàn trước đây gồm Herbert Sorrell, David Hilberman và William Pomerance là phần tử kích động cộng sản. Disney tuyên bố rằng cuộc đình công năm 1941 do các họa sĩ lãnh đạo là một phần nỗ lực của phe cộng sản có tổ chức nhằm tranh giành ảnh hưởng ở Hollywood. Năm 1993, The New York Times cáo buộc Disney đã chuyển thông tin mật cho FBI từ năm 1940 cho đến khi ông qua đời vào năm 1966. Đổi lại cho việc trao đổi thông tin này là J. Edgar Hoover cho phép Disney quay phim trong trụ sở FBI ở Washington. Disney được phong làm "Đặc vụ liên lạc chính thức" vào năm 1954.
Năm 1949, Disney và gia đình chuyển đến sống ở một ngôi nhà mới thuộc quận Holmby Hills, Los Angeles. Với sự giúp đỡ của Ward và Betty Kimball, những người đã có đường sắt ở sân sau nhà cho riêng mình, Disney liền phát triển một bản thiết kế và ngay lập tức bắt tay vào việc tạo dựng một tuyến đường sắt tàu hơi nước thu nhỏ cho sân sau nhà ông. Đường sắt có tên là Carolwood Pacific Railroad, xuất phát từ vị trí nhà Disney trên đường Carolwood. Kỹ sư Roger E. Broggie của Disney Studios là người thiết kế đầu máy hơi nước hoạt động thu nhỏ, và Disney đặt tên cho đầu máy là Lilly Belle theo tên vợ ông. Sau ba năm, Disney cất đầu máy xe lửa vào cửa hàng cơ khí của xưởng phim vì xảy ra sự cố với khách tham quan.
1950–1966: Công viên giải trí, truyền hình và các sở thích khác
Đầu năm 1950, Disney sản xuất Cô bé Lọ Lem, bộ phim hoạt hình thời lượng dài đầu tiên của xưởng phim sau tám năm. Kể từ khi ra mắt, tác phẩm đã trở nên nổi tiếng trong mắt giới phê bình cũng như khán giả. Bộ phim có kinh phí là 2,2 triệu đô la và thu về gần 8 triệu đô la trong năm đầu tiên. Disney ít tham gia vào Cô bé Lọ Lem hơn so với những phim hoạt hình trước đây, vì ông bận bắt tay vào hai bộ phim người đóng toàn bộ đầu tay của mình là Đảo giấu vàng (1950) và The Story of Robin Hood and His Merrie Men (1952). Cả hai tác phẩm đều được quay ở Anh. Nối tiếp hai bộ phim là những sản phẩm phim người đóng thời lượng dài khác, với một trong số đó là chủ đề yêu nước. Ông cũng tiếp tục cho ra đời các bộ phim hoạt hình dài gồm Alice ở xứ sở thần tiên (1951) và Peter Pan (1953). Từ đầu đến giữa thập niên 1950, Disney bắt đầu ít chú trọng đến ban hoạt hình hơn và giao phần lớn hoạt động của bộ phận này cho nhóm Chín Ông già. Dù vậy, ông vẫn luôn có mặt trong các buổi họp kịch bản truyện. Trong giai đoạn này, ông chủ yếu tập trung vào những hoạt động kinh doanh khác.
Trong nhiều năm, Disney tính đến việc xây dựng một công viên giải trí. Khi ông tham quan Công viên Griffith ở Los Angeles cùng với con gái mình, ông cảm thấy muốn hòa mình vào một công viên sạch sẽ, thuần khiết, nơi mà cả trẻ em và các bậc phụ huynh có thể vui chơi. Trong lần đến thăm Công viên Tivoli ở Copenhagen, Đan Mạch, Disney thấy ấn tượng mạnh bởi sự sạch sẽ và cách bài trí của công viên. Vào tháng 3 năm 1952, ông nhận giấy phép quy hoạch để xây dựng một công viên giải trí ở Burbank, gần Disney Studios. Tuy nhiên, đất xây dựng ở đây có vẻ quá nhỏ, nên Disney mua miếng đất lớn hơn ở Anaheim cách 35 dặm (56 km) về phía nam của xưởng phim. Disney muốn tách dự án khỏi xưởng phim nhằm tránh thu hút sự chỉ trích từ các cổ đông. Để thực hiện điều này, Disney thành lập WED Enterprises (nay là Walt Disney Imagineering) và sử dụng tiền riêng của mình để tài trợ cho một nhóm các nhà thiết kế cùng với họa sĩ diễn hoạt nhằm thực hiện kế hoạch. Những người tham gia vào dự án đều được gọi là "Imagineer". Sau khi nhận vốn từ ngân hàng, ông mời thêm các cổ đông khác gồm American Broadcasting-Paramount Theatres, bộ phận của American Broadcasting Company (ABC) và Western Publishing. Vào giữa năm 1954, Disney phái những Imagineer đến mọi công viên giải trí ở Hoa Kỳ để phân tích xem chúng hoạt động như thế nào, có bất trắc gì không và các vấn đề ở từng địa điểm khác nhau. Dựa vào đó, ông sẽ tổng hợp những phát hiện của họ vào trong bản thiết kế. Công việc xây dựng bắt đầu vào tháng 7 năm 1954 và Disneyland mở cửa vào tháng 7 năm 1955. Lễ khánh thành phát sóng trên ABC đã thu hút 70 triệu người theo dõi. Công viên được thiết kế như một chuỗi các vùng đất theo chủ đề liên kết với nhau bởi Main Street, U.S.A, bản sao của con phố chính ở Marceline, quê hương Disney. Các khu vực theo chủ đề được kết nối là Adventureland, Frontierland, Fantasyland và Tomorrowland. Công viên cũng có đường sắt khổ hẹp tên là Disneyland Railroad đóng vai trò là mắt xích giữa những vùng đất. Bao quanh bên ngoài công viên là một bức tường cao để ngăn cách công viên với thế giới bên ngoài. Một bài xã luận trên tờ The New York Times cho rằng Disney đã "kết hợp một cách khéo léo một số điều thú vị của ngày hôm qua với sự tưởng tượng và những giấc mơ của ngày mai". Mặc dù công viên ban đầu có một số vấn đề nhỏ nhưng nó vẫn là một thành công. Sau một tháng hoạt động, Disney đón hơn 20.000 lượt khách ghé thăm mỗi ngày. Vào cuối năm đầu tiên, công viên đã thu hút 3,6 triệu lượt khách tham quan.
Tiền từ ABC phụ thuộc vào các chương trình truyền hình của Disney. Hãng phim đã tham gia vào một chương trình truyền hình đặc biệt vào Lễ Giáng sinh năm 1950 kể về quá trình thực hiện tác phẩm Alice ở xứ sở thần tiên. Roy tin rằng chương trình giúp tăng thêm hàng triệu đô la vào doanh thu phòng vé. Trong một lá thư gửi cho cổ đông vào tháng 3 năm 1951, ông viết rằng "truyền hình có thể là phương tiện hỗ trợ kiếm tiền hiệu quả nhất, đồng thời cũng là một nguồn thu. Có lẽ chúng ta sẽ dấn thân vào truyền hình theo tiền đề này." Vào năm 1954, ABC cho phát sóng chương trình Walt Disney's Disneyland sau khi đồng ý tài trợ cho Disneyland. Chương trình là một tuyển tập bao gồm phim hoạt họa, phim người đóng thời lượng dài và các nguồn phim khác từ thư viện của xưởng phim. Nó đã thành công về mặt lợi nhuận và hiệu suất khi tỉ lệ khán giả đạt trên 50%. Việc ABC hài lòng với kết quả thu được dẫn đến sự ra mắt của chương trình truyền hình hàng ngày đầu tiên của Disney là The Mickey Mouse Club, một chương trình tạp kỹ dành riêng cho trẻ em. Chương trình thường đi kèm với việc bán hàng thương phẩm thông qua các công ty khác nhau (ví dụ như Western Printing đã sản xuất sách tô màu và truyện tranh trong hơn 20 năm, cùng với đó là tạo ra một số mặt hàng liên quan đến chương trình). Một trong những phân đoạn của Disneyland có năm phần miniseries Davy Crockett mà theo Gabler nhận xét là "trở thành một hiện tượng chỉ sau một đêm". Bài hát chủ đề của chương trình là "The Ballad of Davy Crockett" đã trở nên phổ biến trên toàn thế giới với mười triệu đĩa được bán. Kết quả là Disney quyết định thành lập công ty sản xuất và phân phối đĩa hát với tên gọi Disneyland Records cho riêng mình.
Cùng với việc xây dựng Disneyland, Disney còn thực hiện một số dự án khác bên ngoài xưởng phim. Ông làm chuyên gia tư vấn của Triển lãm Quốc gia Hoa Kỳ năm 1959 tại Moskva. Bên cạnh đó, Disney Studios cũng đóng góp cho Hội chợ Quốc tế Brussels 1958 bộ phim America the Beautiful. Đây là một tác phẩm với thời lượng 19 phút được chiếu ở rạp Circarama với góc quay 360 độ, một trong những điểm thu hút nhiều người xem nhất. Ở năm tiếp theo, ông đóng vai trò chủ tịch Ủy ban Cảnh trí cho Thế Vận hội Mùa đông 1960 ở Squaw Valley, California. Tại Thế Vận hội, ông là người thiết kế lễ khai mạc, bế mạc và trao huy chương.
Bất chấp những yêu cầu từ các dự án không thuộc hãng phim, Disney vẫn tiếp tục làm việc với nhiều dự án phim và truyền hình. Năm 1955, ông bắt tay vào sản xuất "Man in Space", một tập của loạt phim Disneyland được thực hiện với sự hợp tác của Wernher von Braun, nhà thiết kế tên lửa NASA. Disney cũng đảm nhận việc giám sát từng khía cạnh của các bộ phim dài đầy đủ như Tiểu thư và chàng lang thang (phim hoạt hình CinemaScope đầu tiên) công chiếu vào năm 1955, Người đẹp ngủ trong rừng (phim hoạt hình đầu tiên phát hành dưới định dạng Technirama 70 mm) vào năm 1959, Một trăm linh một chú chó đốm (phim hoạt hình dài đầu tiên sử dụng Xerox cel) ra mắt vào năm 1961, và Thanh gươm trong đá (1963).
Năm 1964, Disney sản xuất Mary Poppins dựa trên bộ sách cùng tên của P. L. Travers. Ông đã cố gắng mua bản quyền câu chuyện từ thập niên 1940. Nó trở thành bộ phim thành công nhất của Disney trong thập niên 1960, mặc dù Travers cực kỳ không thích tác phẩm chuyển thể này và cảm thấy hối hận vì đã bán bản quyền. Cùng năm đó, ông cũng tham gia vào kế hoạch mở rộng Học viện nghệ thuật California (thường gọi là CalArts), đồng thời nhờ một kiến trúc sư thiết kế bản vẽ cho một tòa nhà mới.
Disney chuẩn bị đầy đủ cho 4 màn trình diễn tại Hội chợ Quốc tế New York năm 1964; ông đã nhận vốn từ các nhà tài trợ hàng đầu cho dự án này. Ông biết rằng PepsiCo muốn lên kế hoạch bày tỏ lòng kính trọng với UNICEF nên quyết định triển khai It's a Small World, một chuyến du thuyền với những con búp bê cử động và có âm thanh miêu tả về trẻ em trên khắp thế giới. Những màn trình diễn còn lại gồm: Great Moments with Mr. Lincoln, một vở diễn sân khấu có sự góp mặt của một con rối Abraham Lincoln tự cử động (animatronic) đọc trích dẫn từ diễn văn tổng thống; Carousel of Progress thì khuyến khích về tầm quan trọng của năng lượng điện; và Ford's Magic Skyway diễn tả quá trình phát triển của nhân loại. Cả 4 cuộc triển lãm đều đã được cài đặt lại tại Disneyland, chủ yếu là qua khái niệm và kỹ thuật. Dù vậy, It's a Small World vẫn là cuộc dạo chơi gần giống với phiên bản gốc nhất.
Từ đầu đến giữa thập niên 1960, Disney lên kế hoạch cho một khu nghỉ dưỡng trượt tuyết ở Mineral King, khu vực thung lũng băng ở Sierra Nevada thuộc California. Ông thuê một số chuyên gia như Willy Schaeffler, huấn luyện viên trượt tuyết Olympic kiêm nhà thiết kế khu trượt tuyết nổi tiếng. Với thu nhập từ Disneyland chiếm tỉ trọng ngày càng lớn trong thu nhập của hãng phim, Disney tiếp tục tìm kiếm địa điểm để xây dựng các điểm tham quan khác. Vào cuối năm 1965, ông tuyên bố kế hoạch phát triển một công viên chủ đề tên là "Disney World" (nay là Walt Disney World), dự tính sẽ xây dựng ở nơi cách vài dặm về phía tây nam của Orlando, Florida. Disney World sẽ bao gồm "Magic Kingdom", một phiên bản lớn hơn và công phu hơn của Disneyland với sân gôn và khách sạn bổ sung. Trung tâm của Disney World sẽ là "Xã hội tương lai kiểu mẫu" (EPCOT), mà Disney mô tả là:
Trong suốt năm 1966, Disney thúc đẩy các hoạt động kinh doanh để kiếm tiền tài trợ cho EPCOT. Ông tích cực tham gia vào những bộ phim của hãng và đóng góp nhiều cho việc xây dựng cốt truyện trong The Jungle Book, The Happiest Millionaire (cả hai bộ phim đều chiếu vào năm 1967) và phim hoạt hình ngắn Winnie the Pooh and the Blustery Day (1968).
Bệnh tật, qua đời và giai đoạn sau này
Disney nghiện thuốc lá nặng kể từ thời Chiến tranh thế giới thứ nhất. Ông không hút thuốc lá có đầu lọc mà sử dụng tẩu thuốc từ khi còn trẻ. Tháng 11 năm 1966, ông được chẩn đoán là mắc bệnh ung thư phổi và phải điều trị bằng phương pháp xạ trị cobalt. Vào ngày 30 tháng 11 năm 1966, ông cảm thấy không khỏe và được đưa đến Bệnh viện St. Joseph ở Burbank, California. Đến ngày 15 tháng 12 cùng năm, 10 ngày sau sinh nhật lần thứ 65 của bản thân, ông qua đời vì trụy tuần hoàn do căn bệnh ung thư. Hài cốt của ông được hỏa táng hai ngày sau đó và tro cốt của ông được bảo quản tại Công viên Tưởng niệm Forest Lawn ở Glendale, California, Hoa Kỳ.
Việc phát hành The Jungle Book và The Happhest Millionaire vào năm 1967 đã nâng tổng số phim dài mà Disney tham gia lên con số 81. Khi Winnie the Pooh and the Blustery Day phát hành vào năm 1968, nó đã mang về cho Disney một Giải Oscar cho phim hoạt hình ngắn hay nhất. Ông được trao giải sau khi mất. Kể từ khi Disney qua đời, hãng phim của ông vẫn tiếp tục sản xuất rất nhiều phim người đóng nhưng bỏ bê việc làm phim hoạt hình cho đến cuối thập niên 1980. Giai đoạn này trở về sau được tờ The New York Times mô tả là "Thời kỳ Phục hưng của Disney" bắt đầu với bộ phim Nàng tiên cá (1989). Những công ty của Disney vẫn tiếp tục sản xuất phim ảnh, truyền hình, sân khấu giải trí và đạt được nhiều thành công.
Kế hoạch của Disney về thành phố tương lai EPCOT không trở thành hiện thực. Sau khi ông từ trần, anh trai Roy phải tạm hoãn nghỉ hưu để nắm toàn bộ quyền kiểm soát các công ty. Roy thay đổi trọng tâm của dự án từ một thị trấn thành một điểm thu hút khách tham quan. Tại lễ khánh thành năm 1971, Roy đã dâng tặng Walt Disney World cho em trai mình. Walt Disney World tiếp tục mở rộng với việc khai trương Epcot Center vào năm 1982. Tầm nhìn của Disney về một thành phố thiết thực dường như được thay thế bằng một công viên giống với triển lãm thế giới lâu dài hơn. Năm 2009, Bảo tàng Gia đình Walt Disney do Diane và con trai bà là Walter E. D. Miller thiết kế đã khai trương tại Presidio của San Francisco. Bảo tàng là nơi trưng bày hàng nghìn hiện vật về cuộc đời và sự nghiệp của Disney, trong đó có rất nhiều giải thưởng mà ông nhận được. Các công viên giải trí của Disney trên khắp thế giới đã đón khoảng 134 triệu lượt khách vào năm 2014.
Disney được khắc họa rất nhiều lần trong các tác phẩm hư cấu. H. G. Wells từng đề cập đến Disney trong cuốn tiểu thuyết năm 1938 The Holy Terror. Trong tác phẩm, Kẻ Độc tài Thế giới Rud sợ rằng Vịt Donald có ý định chống lại y. Len Cariou đã đóng vai Disney trong bộ phim truyền hình năm A Dream Is a Wish Your Heart Makes: The Annette Funicello Story (1995). Tom Hanks cũng thể hiện vai diễn Disney trong bộ phim điện ảnh Cuộc giải cứu thần kỳ (2013). Năm 2001, soạn giả người Đức Peter Stephan Jungk đã xuất bản cuốn Der König von Amerika (tạm dịch: Vua nước Mỹ), một tác phẩm hư cấu tái hiện hình ảnh Disney của những năm về sau là một kẻ phân biệt chủng tộc khao khát quyền lực.
Vinh danh
Disney nhận được 59 đề cử Giải Oscar và thắng 22 giải trong số đó. Cả hai con số này đều là kỷ lục cho một cá nhân. Ông được đề cử cho 3 Giải Quả cầu vàng nhưng không giành chiến thắng, dù vậy ông vẫn nhận hai giải Thành tựu đặc biệt cho Bambi (1942) và The Living Desert (1953), cùng với Giải Cecil B. DeMille. Ông cũng nhận được bốn đề cử Giải Emmy, và giành chiến thắng một lần ở hạng mục Nhà sản xuất xuất sắc nhất cho loạt phim truyền hình Disneyland. Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đã đưa một số phim của ông vào Viện lưu trữ phim quốc gia vì chúng có "ý nghĩa về mặt lịch sử, văn hóa và mỹ học". Những bộ phim được đưa vào bao gồm: Tàu hơi nước Willie, Ba chú heo con, Nàng Bạch tuyết và bảy chú lùn, Fantasia, Pinocchio, Bambi, Dumbo và Mary Poppins. Năm 1998, Viện phim Mỹ công bố danh sách 100 bộ phim hay nhất của Mỹ với sự đánh giá của các chuyên gia trong ngành. Danh sách đó gồm Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn (ở vị trí 49), và Fantasia (ở vị trí 58).
Vào tháng 2 năm 1960, Disney được vinh danh trên Đại lộ Danh vọng Hollywood với hai ngôi sao, một cho phim điện ảnh và một cho chương trình truyền hình. Chuộc Mickey nhận được một ngôi sao riêng cho phim điện ảnh vào năm 1978. Disney cũng được đưa vào Đại sảnh Danh vọng Truyền hình vào năm 1986, Đại sảnh Danh vọng California vào tháng 12 năm 2006, và là chủ nhân đầu tiên của một ngôi sao trên đại lộ sao Anaheim vào năm 2014.
Bảo tàng Gia đình Walt Disney ghi lại rằng Disney "cùng với các nhân viên của mình nhận được hơn 950 danh hiệu và tước hiệu từ khắp nơi trên thế giới". Nước Pháp đã phong ông làm Chevalier (hiệp sĩ) của Légion d'honneur (Quân đoàn danh dự) vào năm 1935. Vào năm 1952, Disney được nước Pháp trao tặng Officer d'Academie, huân chương nghệ thuật cao quý nhất của đất nước. Những giải thưởng quốc gia khác bao gồm Huân chương Vương miện Thái Lan (1960), Huân chương Công trạng Đức (1956), Huân chương Thập tự phương Nam Brazil (1941) và Huân chương Đại bàng Aztec Mexico (1943). Tại Hoa Kỳ, ông được phong tặng Huân chương Tự do Tổng thống vào ngày 14 tháng 9 năm 1964 và được truy tặng Huân chương Vàng Quốc hội vào ngày 24 tháng 5 năm 1968. Bên cạnh đó, ông cũng nhận Giải thưởng Bầu sô của Thế giới từ Hiệp hội các chủ rạp phim quốc gia. Trong năm 1955, Hội Audubon Quốc gia truy tặng cho Disney danh hiệu cao quy nhất là Huân chương Abudon, vì ông đã góp phần nâng cao "nhận thức và hiểu biết về môi trường tự nhiên" thông qua bộ phim True-Life Adventures. Năm 1980, nhà thiên văn học Lyudmila Karachkina phát hiện ra một hành tinh vi hình và đặt tên cho nó là 4017 Disneya. Disney cũng được Đại học Harvard, Đại học Yale, Đại học Nam California và Đại học California, Los Angeles trao bằng danh dự.
Tính cách và danh tiếng
Hình ảnh của Disney trước công chúng rất khác so với cuộc sống đời thường. Nhà soạn kịch Robert E. Sherwood mô tả ông là người "gần như nhút nhát... thiếu tự tin" và tự ti. Theo người viết tiểu sử Richard Schickel thì Disney che giấu sự ngượng ngùng và cảm giác bất an của mình trước công chúng. Kimball lại lập luận rằng Disney đã "đóng vai một nhà tài phiệt bẽn lẽn, bối rối trước công chúng" và ông cố tình làm như vậy. Disney thừa nhận vẻ bề ngoài của mình và kể với một người bạn rằng "Tôi không phải là Walt Disney. Tôi làm rất nhiều điều mà Walt Disney sẽ không làm. Walt Disney không hút thuốc. Tôi hút. Walt Disney không uống rượu. Tôi uống." Nhà phê bình Otis Ferguson của tờ The New Republic nhận xét Disney lúc ở một mình là "bình dị và đời thường, không hề khó gần, không hề khó hiểu, không bị đè nén mà cũng chẳng phải nhà tài trợ hay gì. Chỉ [đơn giản] là Disney mà thôi." Nhiều người trong số những người từng làm việc với Disney nhận xét rằng ông rất ít khi khích lệ nhân viên vì ông kỳ vọng ở họ rất nhiều. Norman hồi tưởng lại khoảnh khắc mà Disney nói rằng "Hiệu quả đấy", đó là dấu hiệu Disney dành lời khen ngợi cho nhân viên. Thay vì thể hiện trực tiếp, Disney thường thưởng tiền cho nhân viên làm việc năng suất hoặc giới thiệu một số cá nhân có thành tích tốt cho những người khác, với hi vọng rằng lời khen ngợi của ông sẽ truyền tải đến mọi người.
Quan điểm về Disney cùng với tác phẩm của ông có sự thay đổi theo thời gian. Mark Langer viết trong cuốn American Dictionary of National Biography rằng "Những đánh giá trước đây về Disney luôn ca ngợi ông là một người yêu nước, một nghệ sĩ nhân dân và là người truyền bá văn hóa. Còn trong thời gian gần đây, Disney lại bị xem như hình mẫu của chủ nghĩa đế quốc và kỳ thị Mỹ, đồng thời là kẻ hủy hoại văn hóa." Steven Watts thì viết rằng một số người đã lên án Disney "là kẻ thao túng vô liêm sỉ bằng những thủ đoạn văn hóa và thương mại". Trong khi PBS thuật lại rằng các nhà phê bình đã khiển trách tác phẩm của Disney vì "vẻ bề ngoài giàu tình cảm ngọt xớt và lạc quan một cách cố chấp, viết lại lịch sử Hoa Kỳ theo kiểu tô hồng". Mặc dù phim của Disney nổi tiếng, được đánh giá cao và thành công về mặt thương mại theo thời gian nhưng vẫn nhận những lời chỉ trích từ giới phê bình. Caroline Lejeune nhận xét trên tờ The Observer rằng Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn (1937) "có nhiều lỗi hơn bất kỳ phim hoạt hình Disney nào trước đó. Nó có thể bị các chuyên gia không ngừng chỉ trích gay gắt. Đôi lúc muốn nói thẳng ra là phim vẽ rất tệ." Robin Allen viết cho tờ The Times rằng Fantasia (1940) "đáng bị lên án vì tính thô tục và càng lúc càng trở nên lố bịch đến cùng cực". Lejeune thì cảm thấy bộ phim Alice ở xứ sở thần tiên (1951) "có thể khiến những người yêu quý Lewis Carroll trở nên phát điên". Peter Pan (1953) cũng bị chỉ trích trên tờ The Times là "một tác phẩm kinh điển dành cho trẻ em bị thô tục hóa" với "Tinker Bell... bị biến tấu thành một cô em người Mỹ xinh xắn". Nhà phê bình nhận định rằng Disney "đã giết chết tác phẩm tốt của Barrie và thay thế nó bằng một bộ phim Disney hạng hai".
Disney bị tố là bài Do Thái mặc dù không có nhân viên nào của ông từng buộc tội ông là buông lời gièm pha hoặc chế nhạo Do Thái, kể cả nhà làm phim hoạt hình cực kỳ ghét ông là Art Babbitt. Bảo tàng Gia đình Walt Disney thừa nhận rằng định kiến về sắc tộc khá phổ biến trong những bộ phim thập niên 1930, bao gồm cả một vài phim hoạt hình. Disney thường xuyên quyên góp cho các tổ chức từ thiện của người Do Thái, và được chi nhánh của tổ chức B'nai B'rith ở Beverly Hills vinh danh là "Người đàn ông của năm 1955". Hãng phim của ông cũng tuyển dụng một số người Do Thái với một trong số họ nắm giữ những vị trí có tầm ảnh hưởng. Nhà văn đầu tiên có quyền truy cập không hạn chế vào cơ quan lưu trữ của Disney là Gabler kết luận rằng chứng cứ hiện có không ủng hộ cho các cáo buộc bài Do Thái và Disney "không [bài Do Thái] theo cách hiểu thông thường của chúng ta về một người bài Do Thái". Gabler tổng kết rằng "mặc dù bản thân Walt, theo đánh giá của tôi không phải là người bài Do Thái. Tuy nhiên, ông sẵn sàng làm bạn với những người bài Do Thái [tức thành viên của Liên minh Điện ảnh Bảo tồn Lý tưởng Mỹ], và [kết quả là] ông bị gán vào cái danh đó. Ông không bao giờ có thể thực sự loại bỏ nó trong suốt cuộc đời mình." Disney tự tách mình ra khỏi Liên minh Điện ảnh vào thập niên 1950.
Disney cũng bị cáo buộc vào các hình thức phân biệt chủng tộc khác, vì một vài sản phẩm của ông phát hành từ thập niên 1930 đến thập niên 1950 chứa nội dung phân biệt chủng tộc. Các nhà phê bình đương đại, Hiệp hội Quốc gia vì sự tiến bộ của người da màu và một số người khác đã chỉ trích phim dài Song of the South vì có định kiến với người da đen. Tuy nhiên, Disney sau đó đã vận động thành công cho một ngôi sao của họ giành Giải Oscar danh dự, người đó là James Baskett, diễn viên da đen đầu tiên nhận được vinh dự như vậy. Gabler tranh luận rằng "Walt Disney không phân biệt chủng tộc. Ông ấy không bao giờ công khai hay ngấm ngầm đưa ra những nhận xét miệt thị về người da đen hoặc khẳng định người da trắng thượng đẳng. Tuy nhiên, giống như hầu hết những người Mỹ da trắng cùng thế hệ, ông ấy không nhạy cảm với vấn đề chủng tộc." Floyd Norman, họa sĩ diễn hoạt da đen đầu tiên của hãng phim, người làm việc thân cận với Disney trong thập niên 1950 và 1960 cho biết "Tôi chưa bao giờ thấy Disney có dấu hiệu nào về hành vi phân biệt chủng tộc mà mọi người thường cáo buộc sau khi ông mất. Cách mà ông ấy đối xử với người, và ý tôi là với tất cả mọi người, chỉ có thể được gọi là gương mẫu."
Watts lập luận rằng nhiều bộ phim thời kỳ hậu Chiến tranh thế giới thứ hai của Disney "là một dạng của Kế hoạch Marshall trên lĩnh vực văn hóa. Họ đã nuôi dưỡng một chủ nghĩa đế quốc văn hóa toàn cầu, thống trị phần còn lại của thế giới một cách kỳ diệu bằng những giá trị, kỳ vọng, và hàng hóa dành cho tầng lớp trung lưu khá giả ở Hoa Kỳ." Nhà sử học điện ảnh Jay P. Telotte thừa nhận rằng nhiều người coi hãng phim Disney là "công cụ để thao túng và đàn áp". Dù vậy, ông nhận xét rằng hãng đã "nỗ lực trong suốt chiều dài lịch sử để tên tuổi của họ gắn liền với ý niệm vui nhộn, gia đình, và kỳ ảo". Trong nghiên cứu Cultural Imperialism, John Tomlinson đã xem xét tác phẩm Para leer al Pato Donald (tạm dịch: Làm sao để hiểu Vịt Donald) của Ariel Dorfman và Armand Mattelart. John tìm thấy đoạn xác định rằng "có mùi của... đế quốc 'ẩn' đằng sau vẻ ngoài trong sáng, lành mạnh của thế giới Walt Disney". Hai tác giả cho rằng thế giới này là một công cụ quyền lực vì "nó tự thể hiện như một sản phẩm giải trí vô hại dành cho trẻ em." Tomlinson coi lập luận của họ là thiếu sót vì "họ chỉ đơn giản cho rằng việc đọc nhiều truyện tranh Mỹ, xem quảng cáo, tranh ảnh về lối sống [Yankee] giàu có... là có thể bị ảnh hưởng trực tiếp theo".
Một số bình luận viên cho rằng Disney là một biểu tượng văn hóa. Bàn về sự qua đời của Disney, giáo sư báo chí Ralph S. Izard bình luận rằng phim của Disney "được xem là có giá trị trong xã hội Cơ đốc giáo Hoa Kỳ", bao gồm "tính đề cao cá nhân, sự đoan chính, ... tình yêu thương đối với đồng loại, sự công bằng và khoan dung". Cáo phó của Disney trên tờ The Times gọi phim của ông là "bổ ích, ấm áp, giải trí... có tính nghệ thuật độc nhất vô nhị và vẻ đẹp chạm đến cảm xúc [người xem]". Nhà báo Bosley Crowther lý luận rằng "thành tựu [của Disney] với tư cách là người sáng tạo ra sản phẩm giải trí cho công chúng gần như không có giới hạn và với tư cách là một nhà kinh doanh tài ba với các sản phẩm của mình có thể sánh vai với những nhà tư bản công nghiệp thành công nhất trong lịch sử." Phóng viên Alistair Cooke gọi Disney là "anh hùng dân tộc và là Pied Piper của Hollywood". Gabler thì xem Disney là người "định hình lại văn hóa và ý thức hệ của người Mỹ".
Chú thích
Ghi chú |
Nàng tiên cá (; ) là truyện cổ tích nổi tiếng của nhà văn, nhà thơ người Đan Mạch Hans Christian Andersen, kể về một nàng tiên cá nhỏ mong muốn từ bỏ cuộc sống dưới đáy biển và thân phận người cá của nàng để có được một linh hồn của con người và tình yêu của chàng hoàng tử loài người.
Ban đầu được sáng tác cho một vở balê, truyện được xuất bản lần đầu vào năm 1837 và đã được chuyển thể thành nhiều thể loại bao gồm nhạc kịch và phim hoạt hình.
Nội dung
Nàng tiên cá nhỏ sống trong một vương quốc dưới nước cùng với cha của nàng – vua biển cả, mẹ của nàng, bà nội nàng và năm người chị, mỗi người chỉ hơn kém nhau có một tuổi. Khi mỗi một nàng tiên cá đủ 15 tuổi, nàng sẽ được phép bơi lên mặt nước để nhìn ngắm thế giới phía trên. Khi các chị nàng đủ tuổi, mỗi người họ bơi lên mặt nước và khi trở về, nàng tiên cá lắng nghe một cách thèm muốn những miêu tả của các chị nàng về mặt đất và loài người.
Khi đến lượt nàng tiên cá nhỏ, nàng bơi lên mặt nước và thấy một con tàu với một chàng hoàng tử đẹp trai và đem lòng yêu chàng từ ngoài xa. Một cơn bão lớn kéo đến và nàng tiên cá cứu được chàng hoàng tử trước khi chàng chết đuối. Nàng mang hoàng tử còn đang mê man vào bờ gần một ngôi đền. Nàng đợi ở đó đến khi một cô gái từ ngôi đền đi đến và tìm thấy chàng. Chàng hoàng tử chưa bao giờ nhìn thấy nàng tiên cá nhỏ.
Nàng tiên cá nhỏ hỏi bà nội nàng nếu con người không chết đuối thì họ có bất tử không. Bà nội nàng giải thích rằng tuổi thọ của con người ngắn hơn của loài tiên cá 300 năm, nhưng khi tiên cá chết, họ sẽ biến thành bọt biển, trong khi con người có một linh hồn bất diệt sống trên Thiên đàng. Nàng tiên cá nhỏ, ao ước có được chàng hoàng tử và một linh hồn bất diệt, cuối cùng tìm đến Phù thủy Biển. Phù thủy Biển trao cho nàng một lọ thuốc để nàng có được đôi chân, đổi lại nàng phải đưa lưỡi của nàng cho mụ, vì nàng có một giọng hát mê hồn, hay nhất trần gian. Tuy nhiên, Phù thủy Biển cảnh báo nàng, một khi trở thành con người, nàng sẽ không bao giờ trở lại biển được nữa. Chất thuốc đó uống vào sẽ khiến nàng cảm thấy như có một lưỡi kiếm xuyên qua người, khi hồi phục, nàng sẽ có một đôi chân tuyệt đẹp và có thể nhảy múa đẹp hơn bất cứ con người nào. Tuy nhiên, mỗi bước đi sẽ khiến nàng cảm thấy như đi trên những lưỡi dao sắc, khiến chân nàng chảy máu. Thêm vào đó, nàng sẽ chỉ có thể có được một linh hồn nếu nàng có được nụ hôn của tình yêu chân thật và nếu chàng hoàng tử yêu và cưới nàng, thì một phần linh hồn của chàng sẽ chảy sang người nàng. Nếu không, khi chàng hoàng tử cưới một người con gái khác, thì bình minh ngay ngày hôm sau, trái tim nàng tiên cá nhỏ sẽ tan vỡ, nàng sẽ chết và tan biến thành bọt biển.
Nàng tiên cá nhỏ uống thuốc và gặp được hoàng tử. Chàng say đắm vẻ đẹp và sự duyên dáng của nàng mặc dù nàng bị câm. Trên hết, chàng yêu thích điệu nhảy của nàng. Nàng tiên cá nhảy múa vì chàng dù mỗi lần chân chạm đất, nàng như dẫm lên dao sắc. Khi cha hoàng tử yêu cầu chàng cưới công chúa của vương quốc láng giềng, chàng hoàng tử nói với nàng tiên cá nhỏ là chàng sẽ không đồng ý, bởi chàng không yêu công chúa. Chàng còn nói chàng yêu người con gái của ngôi đền bên bờ biển mà chàng nghĩ là người đã cứu chàng. Nhưng hóa ra nàng công chúa lại là người con gái của ngôi đền, được gửi đến đó để học hành. Chàng hoàng tử yêu nàng công chúa nước láng giềng và đám cưới được cử hành ngay sau đó.
Hoàng tử và công chúa kết hôn, trái tim của nàng tiên cá nhỏ tan vỡ. Nàng nghĩ đến tất cả những thứ nàng đã từ bỏ, những nỗi đau mà nàng đã phải chịu đựng. Nàng tuyệt vọng, nghĩ rằng cái chết đang chờ đợi nàng, nhưng trước khi bình minh đến, các chị nàng mang cho nàng một con dao mà Phù thủy Biển cho họ, đổi bằng bộ tóc dài của các chị nàng. Nếu nàng tiên cá nhỏ đâm hoàng tử với con dao ấy mà để máu chàng chảy xuống chân nàng, nàng sẽ trở lại là tiên cá, tất cả những nỗi đau nàng chịu đựng sẽ chấm dứt và nàng sẽ sống cho hết tuổi thọ của mình.
Nàng tiên cá không thể giết chàng hoàng tử đang ở bên cô dâu của chàng vì chàng không hề biết sự thật. Khi bình minh đến, nàng gieo mình xuống biển. Cơ thể nàng tan thành bọt biển, nhưng thay vì thôi tồn tại, nàng cảm thấy được ánh mặt trời ấm áp; nàng đã trở thành một linh hồn, một người con gái của không trung. Những người con gái khác nói với nàng rằng nàng trở thành người giống họ vì nàng đã cố gắng bằng tất cả tấm lòng vì một linh hồn bất diệt. Nàng sẽ có được một linh hồn của riêng nàng bằng cách làm điều thiện trong 300 năm; với mỗi một đứa trẻ ngoan nàng tìm được, thời hạn đó sẽ rút ngắn một năm, và với mỗi một đứa trẻ hư hỏng, nàng sẽ khóc và mỗi giọt nước mắt sẽ thêm một tháng vào thời gian thử thách và cuối cùng, nàng sẽ bay vào vương quốc của Chúa.
Chuyển thể
Hãng phim Walt Disney đã làm một bộ phim hoạt hình cùng tên vào năm 1989 và đã thay đổi kết cục câu chuyện là nàng tiên cá Ariel lấy hoàng tử Eric, đánh mụ phù thủy dưới đáy biển là Ursula, được sự chấp thuận của vua Triton là cha của Ariel, hai người lấy nhau và sống mãi mãi hạnh phúc bên nhau. Disney đã làm một bộ live-action cùng tên vào năm 2013. |
Tượng nàng tiên cá nằm trên đá tại cảng Copenhagen, Đan Mạch. Bức tượng bé nhỏ và "không oai nghiêm" này tượng trưng cho thành phố du lịch Copenhagen. Kích thước bé nhỏ của bức tượng làm những du khách đến xem lần đầu ngạc nhiên. Bức tượng Nàng tiên cao mỗi 1.25 m và nặng khoảng 175 kg.
Lịch sử
Tượng được Carl Jacobsen, con trai người sáng lập ra Carlsberg, đặt làm năm 1909 sau khi ông bị vở ba lê về truyện cổ tích Nàng tiên cá mê hoặc. Nhà điêu khắc Edward Eriksen tạo ra bức tượng, khánh thành ngày 23 tháng 8 năm 1913. Ông lấy hình mẫu cho bức tượng từ vợ mình là Eline Eriksen. Tượng này được đặt ở khu cảng Langelinie của Copenhagen.
Năm 2010 tượng Nàng tiên cá được đưa sang Thượng Hải trong 6 tháng nhân dịp Expo 2010 Thượng Hải Trung Quốc. Đến ngày 20.11.2010, tượng này được chở về đặt ở vị trí cũ.
Phá hoại
Bức tượng này bị phá hoại nhiều lần, nhưng lần nào cũng được sửa chữa lại. Ngày 24 tháng 4 năm 1964, đầu của bức tượng bị những nghệ sĩ hoạt động chính trị cưa và lấy đi, trong số đó có Jørgen Nash. Đầu cũ không bao giờ được gắn lại và người ta đã chế ra chiếc đầu mới, gắn trả vào bức tượng.
Ngày 22 tháng 7 năm 1984, cánh tay của tượng bị cưa, nhưng hai ngày sau đó hai kẻ phá hoại trẻ tuổi đã trả lại sau cơn bối rối. |
Cô bé bán diêm là truyện cổ tích do tác giả người Đan Mạch Hans Christian Andersen sáng tác. Truyện kể về một cô bé nghèo khổ phải đi bán diêm giữa mùa đông giá lạnh và từ giã cõi đời trong đêm giao thừa (có bản khác ghi là trong đêm Giáng sinh).
Truyện được xuất bản lần đầu tiên năm 1848 trong phần năm của quyển Nye Eventyr (Những truyện cổ tích mới) với nhan đề Den Lille Pige Med Svovlstikkerne (Cô gái bé nhỏ với những que diêm). Truyện này cũng đã được công bố ngày 30 tháng 3 năm 1863 như một phần của Fairy Tales and Stories (1863), Tập 2 (Eventyr og Historier) (1863).
Tóm tắt truyện
Cô bé bán diêm đã từng sống trong sự hạnh phúc, đầy đủ của một gia đình khá giả, nhưng từ khi người mẹ và người bà yêu quý ra đi thì tài sản nhà em cũng tiêu tán. Em phải chui rúc trong một xó tối tăm, lạnh lẽo, luôn luôn chịu đựng những lời mắng nhiếc , chửi rủa của người bố tàn nhẫn và phải đi bán diêm kiếm sống. Trong một đêm Giao Thừa , khi mọi người đã trở về nhà bên gia đình để đón giao thừa thì em vẫn lặng lẽ mưu sinh trên từng con phố với bộ quần áo rách rưới. Không một ai quan tâm đến sự có mặt của em, em cũng không muốn trở về nhà vì chưa bán được que diêm nào. Em đành ngồi lại một xó, co ro bên mép tường giữa hai ngôi nhà, quẹt diêm để sưởi ấm.
Mỗi lần quẹt que diêm cháy sáng là một mộng tưởng đến với em. Lần thứ nhất, em thấy lò sưởi; lần thứ hai em thấy bàn ăn và con ngỗng quay; lần thứ ba em thấy cây thông Nô-en hiện ra, lần thứ tư bà hiện về, vì sợ bà đi mất nên cô bé đã quẹt hết một bao diêm để níu giữ bà ở lại. Cuối cùng em đã chết vì rét.
Buổi sáng đầu năm, người ta thấy một em bé ngồi giữa những bao diêm trong đó có một bao diêm đốt hết nhẵn. Người ta bảo cô bé đã chết nhưng đôi má vẫn ửng hồng và đôi môi em đang mỉm cười. "Chắc là nó muốn sưởi ấm" – mọi người nói. Không ai biết được những điều đẹp đẽ mà em đã thấy, nhất là khi em đã hạnh phúc như thế nào khi đi cùng bà vào năm mới.
Đặc điểm nghệ thuật
Truyện Cô bé bán diêm có một nhân vật, đó là một em bé bán diêm không có tên. Ba người trong gia đình em là bà, mẹ và cha đều không được miêu tả trực tiếp. Mẹ được nhắc đến thông qua đôi giày quá khổ, cha hiện diện trong nỗi sợ hãi khi cô bé bán diêm nghĩ đến việc phải về nhà khi chưa bán được xu nào và bà thì trong ảo ảnh của những que diêm cháy. Với lối dẫn chuyện đa dạng: miêu tả cảnh vật, miêu tả tâm trạng, lời độc thoại, lời đối thoại một chiều và dẫn lời gián tiếp, câu truyện trở nên hấp dẫn, tránh được sự đơn điệu. Xuyên suốt câu truyện là sự tương phản giữa cảnh ngộ của cô bé bán diêm với khung cảnh rực rỡ, đầm ấm xung quanh trong buổi tối giao thừa, với ảo ảnh đẹp đẽ nhưng ngắn ngủi do những que diêm mang lại. Cảnh ngộ đó còn đáng thương hơn khi con người xung quanh cũng lạnh giá như mùa đông khắc nghiệt. Đỉnh điểm của câu truyện là cái chết của em bé bán diêm giữa đêm giao thừa, một kết cục không giống như cổ tích truyền thống, tính cổ tích có chăng là đôi má hồng và nụ cười của em khi lên cõi thiên đàng, giải thoát khỏi mọi khổ đau.
Phóng tác
Đã có nhiều tác phẩm nghệ thuật dựa trên câu truyện cổ tích nổi tiếng này, ngoài một số tiểu thuyết, truyện ngắn phóng tác, những phim, nhạc phẩm đáng chú ý là:
Cô Bé Bán Diêm
Trung thành với cốt truyện hoặc khác biệt không nhiều:
Cô bé bán diêm (La Petite Marchande d'Allumettes), phim câm của Jean Renoir, Pháp,1928. In this attraction, use is made of the Pepper's ghost technique.
Cô bé bán diêm (The Little Match); chủ nhiệm: Charles Mintz, đạo diễn Arthur Davis; do Hãng phim Columbia, Mỹ phát hành năm 1937 và được đề cử Giải Oscar cho thể loại phim hoạt hình ngắn cùng năm.
Hansu Kurushitan Anderusan no sekai (phát hành tại Mỹ với tiêu đề The World of Hans Christian Andersen - Thế giới của Hans Christian Andersen) do hãng phim hoạt hình Toei, Nhật Bản hợp tác với Mỹ sản xuất và phát hành năm 1971, đoạn kết của phim là câu truyện về Cô bé bán diêm.
Thay đổi, thậm chí thay đổi hẳn so với cốt truyện:
Cô bé bán diêm (The Little Match Girl), phim truyền hình Anh, Richard Bramall và Tom Robertson đạo diễn, phát hành năm 1974.
Cô bé bán diêm (The Little Match Girl), phim video Mỹ, đạo diễn Mark Hoeger và Wally Broodbent, phát hành năm 1983
Cô bé bán diêm (The Little Match Girl), phim truyền hình Anh Richard Bramall và Tom Robertson đạo diễn, phát hành năm 1987
Cô bé bán diêm (The Little Match Girl), phim nhạc của Anh, đạo diễn Michael Custance, phát hành năm 1987.
Cô bé bán diêm (The Little Match Girl), phim truyền hình Mỹ, Michael Lindsay-Hogg đạo diễn, phát hành năm 1987.
Cô bé bán diêm (The Little Match Girl), phim hoạt hình Mỹ, Michael Sporn đạo diễn, phát hành năm 1991.
Cô bé bán diêm (The Little Match Girl), phim nhựa Canada, James Ricker đạo diễn, phát hành năm 2004.
Cô bé bán diêm (H.C. Andersens eventyrlige verden: Den lille pige med svovlstikkerne), phim hoạt hình Đan Mạch, đạo diễn Jørgen Bing nằm trong một series phim hoạt hình dựa trên truyện cổ Andersen của ông, phát hành năm 2005.
Cô bé bán diêm (The Little Match Girl), phim hoạt hình Mỹ, Roger Allers đạo diễn, phát hành năm 2006 và được đề cử Giải Oscar cho phim hoạt hình ngắn hay nhất trong năm đó.
Cô bé bán diêm (The Little Match Girl), phim hoạt hình ngắn năm 2011 do hãng phim True-D Animation Studios của Việt Nam sản xuất (Xem trên YouTube).
Nhạc
Cô bé bán diêm (The Little Match Girl), opera một hồi của nhà soạn nhạc Đan Mạch August Enna viết năm 1897.
Cô bé bán diêm (Das Mädchen mit dem Schwefelhölzern ), opera của nhà soạn nhạc người Đức Helmut Lachenmann, hoàn thành năm 1996.
Cô bé bán diêm (The Little Match Girl), nhạc phẩm của tay guitar điện Loren Mazzacane Connors, ra đời năm 2001.
Ấn tượng 12 (Striking 12), nhạc phẩm của ban nhạc Mỹ GrooveLily dựa trên câu truyện này, trình diễn lần đầu năm 2004.
Ở Việt Nam: bài hát Em bé bán diêm, ca sĩ Ngọc Lễ sáng tác, phát hành trong album Ru cho con và em năm 2000; nhạc sĩ Nguyễn Minh Phương cũng có bài hát cùng tên, phát hành trong album Bụi Phấn năm 2007; Một que diêm, một ước mơ của tác giả Nguyễn Hoàng Linh năm 2009. |
Trong khoa học máy tính, trình thông dịch () là một chương trình máy tính trực tiếp thực thi các lệnh được viết bằng một ngôn ngữ lập trình hay ngôn ngữ kịch bản, mà không yêu cầu phải biên dịch trước thành một chương trình ngôn ngữ máy. Trình thông dịch thường sử dụng một trong các chiến lược sau để thực thi chương trình:
Phân tích cú pháp mã nguồn và thực hiện trực tiếp hành vi của nó;
Dịch mã nguồn thành một vài biểu diễn trung gian có tính hiệu quả (intermediate representation) và thực thi ngay lập tức;
Thực thi rõ ràng mã lưu trữ được biên dịch trước được tạo ra bởi một trình biên dịch như là một phần của hệ thống thông dịch. |
Lê Chí Trực (28 tháng 2 năm 1928 – 31 tháng 12 năm 1967), hay còn được biết đến rộng rãi với bút danh Hoàng Việt, là một nhạc sĩ người Việt Nam. Ông là một trong những nhạc sĩ đáng chú ý trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam với nhiều tác phẩm nổi tiếng được sáng tác như "Tình ca", "Nhạc rừng", "Lên ngàn", "Lá xanh", "Quê hương".
Nhạc phẩm "Tình ca" do ông sáng tác năm 1957 đã ra đời trong những năm đầu Việt Nam bị chia cắt, là một trong ca khúc nổi tiếng nhất của ông, mở ra dòng ca khúc đấu tranh thống nhất đất nước trong lịch sử âm nhạc Việt Nam. Ngay sau khi ra đời, "Tình ca" đã được ca sĩ Quốc Hương thu thanh và phát trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam và gây được sự chú ý của thính giả trong và ngoài nước. Tuy nhiên, ca khúc đã bị một số quan chức văn hóa và cả một số văn nghệ sĩ phê phán, khiến cho ca khúc nhanh chóng bị cấm phát hành. Hoàng Việt còn là một trong những nhạc sĩ tiên phong trong sáng tác và phát triển nhạc giao hưởng tại Việt Nam. Bản giao hưởng sử thi đồ sộ "Quê hương" được ông sáng tác năm 1964 là tác phẩm đầu tiên của nền âm nhạc hàn lâm Việt Nam. Năm 1966, Hoàng Việt cùng một số văn nghệ sĩ vào phục vụ chiến trường miền Nam. Ông qua đời ngày 31 tháng 12 năm 1967 tại quê ngoại của mình, tỉnh Tiền Giang sau khi tham gia chiến đấu trong chiến tranh Việt Nam.
Hoàng Việt được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996. Ngày 22 tháng 11 năm 2011, ông được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cùng 4 nhạc sĩ đương thời nổi tiếng khác. Tuy cuộc đời và sự nghiệp nghệ thuật không kéo dài nhưng Hoàng Việt được nhiều nhạc sĩ, nghệ sĩ và khán giả nhận định ông đã để lại cho nền âm nhạc Việt Nam nhiều tác phẩm giá trị.
Đầu đời
Hoàng Việt tên khai sinh là Lê Chí Trực. Ông sinh ngày 28 tháng 2 năm 1928 tại một nhà thương ở Chợ Lớn (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh) theo lời kể của người cha tu hành. Quê cha của ông ở thị xã Bà Rịa (nay là thành phố Bà Rịa), tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu còn quê mẹ ở xã An Hữu, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Ông là con út nhưng cũng là con trai duy nhất trong gia đình với 5 người chị gái. Tuy mẹ qua đời sớm nhưng ông sống và trưởng thành ở quê mẹ Tiền Giang.
Hoàng Việt có năng khiếu âm nhạc bẩm sinh. Từ nhỏ, ông đã có niềm đam mê với âm nhạc, biết chơi nhiều loại nhạc cụ như mandolin, vĩ cầm, ghi-ta, accordeon. Niềm cảm hứng đưa ông vào con đường nghiên cứu và sáng tác âm nhạc được cho là Lê Minh nhạc đoàn và ABC nhạc đoàn.
Sự nghiệp
Những năm đầu
Từ những năm học trung học ở Sài Gòn, Hoàng Việt đã viết những ca khúc như "Chí cả", "Biệt đô thành" và "Tiếng còi trong sương đêm" với bút danh Lê Trực. Trong đó ca khúc theo điệu tango "Tiếng còi trong sương đêm" được người dân Sài Gòn và Nam Bộ yêu thích qua tiếng hát của Khánh Vân. Ngày 23 tháng 9 năm 1945 ở tuổi 17, Hoàng Việt tham gia công tác tại Ty Công an Bà Rịa. Thực dân Pháp lúc ấy đang chiếm đóng gần hết đất Bà Rịa, khiến ông phải chuyển về sống ở Sài Gòn. Vốn có năng khiếu bẩm sinh và lòng đam mê âm nhạc, ông tham gia hoạt động trong nhóm Thăng Long ở Sài Gòn. Đây là một nhóm trẻ yêu nước hoạt động bí mật, trong nhóm có một số thành viên am hiểu âm nhạc.
Cái tên Lê Trực khi ấy gây được tiếng vang một thời ở Sài Gòn. Khoảng cuối năm 1949, nhóm Thăng Long bị bại lộ nên các thành viên phải ly tán, được cho là để tránh “phòng nhì” đang truy tìm. Nhạc sĩ Hoàng Việt cùng vợ đang mang thai con trai đầu lòng đã chạy về An Hữu, Cái Bè và dự định vào khu giải phóng ở Đồng Tháp Mười. Khi vào vùng giải phóng thuộc địa phận Cái Bè, ông gặp ngay du kích xã. Ông tự xưng mình là nhạc sĩ Lê Trực. Người du kích xã đã ngay lập tức nói: “Lê Trực là nhạc sĩ lãng mạn, nhạc sĩ phản động ở Sài Gòn” và bắt ông giải về trại giáo hóa của huyện, sau đó được đưa về trại giáo hóa của tỉnh Mỹ Tho. Hai vợ chồng ông bị giam ở trại trong 3 tháng. Tổ quân nhạc Khu 8 khi ấy được thành lập. Hai vợ chồng ông được đưa bảo lãnh đưa về Tổ Quân nhạc (lúc đó đóng ở địa phận Thiên Hộ, Đồng Tháp Mười). Ông từng lấy bút danh trong khoảng thời gian này là "Hoàng Việt Hận". Mặc dù sống trong điều kiện gian nan tại trại giáo hóa nhưng Hoàng Việt vẫn sáng tác được một số bài hát trong đó có "Mong ngày về". Sau khi đã về Tổ Quân nhạc Khu 8, ông tiếp tục cho ra đời hàng loạt bài hát mới, trong đó có "Lá xanh". Năm 1948, bút danh bấy giờ của ông chỉ còn chữ "Hoàng Việt", còn chữ “Hận” đã được loại bỏ.
Tham gia cách mạng và gây dựng sự nghiệp
Năm 1951, Hoàng Việt được điều lên chiến khu Miền Đông Nam Bộ. Ông tham gia Ban Tuyên truyền Phân liên khu, rồi nhập vào Đoàn Văn công Phân Liên khu miền Đông. Năm 1952, bài hát "Lên ngàn" được Hoàng Việt sáng tác sau trận lũ lụt, khi đó ông cùng nhà thơ Bảo Định Giang có dịp cùng đi công tác ở Đước Hòa Bình và nghe người dân nơi đây phản ánh cuộc sống nhiều vấn đề về nạn lụt cũng như tỏ ra bi quan trước tình hình khó khăn ngày càng chồng chất. Năm 1954, Hoàng Việt tập kết ra miền Bắc Việt Nam, để lại người vợ và ba đứa con ở miền Nam. Ngay khi tập kết ra Hà Nội, ca khúc "Mùa lúa chín" của ông nhận được giải thưởng "ca khúc toàn quốc". Năm 1957, sau hơn hai năm không liên lạc, Hoàng Việt nhận được thư vợ từ miền Nam gửi ra, lá thư đã phải di chuyển qua tận Pháp rồi mới về được Hà Nội để đến tay ông. Ông sáng tác bài hát "Tình ca" trong căn phòng nhỏ gác 2 ngôi nhà số 13 phố Cao Bá Quát, Hà Nội vào một đêm mùa xuân năm 1957 (đây là địa điểm của Trường Âm nhạc Việt Nam khi mới thành lập). Ông viết một mạch đến sáng thì hoàn thành. Nhạc phẩm "Tình ca" đã ra đời trong những năm đầu đất nước bị chia cắt, là một trong ca khúc nổi tiếng nhất của ông, mở ra dòng ca khúc đấu tranh thống nhất đất nước trong lịch sử âm nhạc Việt Nam. Ngay sau khi ra đời, "Tình ca" đã được ca sĩ Quốc Hương thu thanh và phát trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam và gây được sự chú ý của thính giả trong và ngoài nước. Lúc đầu, Hoàng Việt không có ý sáng tác hai lời. Nhưng trước khi gửi đến Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, ông được nhạc sĩ Lưu Hữu Phước khuyên viết thêm lời hai cho có "chất chính trị, tuyên truyền." Tuy vậy ca khúc đã bị một số quan chức văn hóa và cả một số văn nghệ sĩ phê phán là "bi lụy, yếu đuối" và lập tức bị cấm. "Tình ca" vì vậy bị xếp lại, đến sau 1967 mới dần dần được hát. Từ đó ông ngừng sáng tác trong một khoảng thời gian dài.
Khi ở miền Bắc xuất hiện thể loại nhạc tình ca (Romance) thì Hoàng Việt đã nổi lên bản "Tình ca" mà tới bây giờ, bài hát này vẫn được nhiều người thuộc lòng và yêu thích. Những bài hát Hoàng Việt viết trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam ở Nam Bộ đều được phổ biến rộng khắp ở miền Nam. Sau năm 1954, nhũng bài hát kháng chiến của nhạc sĩ được phát hành rộng rãi và đến với mọi người qua làn sóng đài phát thanh và được đông đảo nhân dân Việt Nam đón nhận.
Du học, trở về nước chiến đấu và tiếp tục sáng tác
Hoàng Việt bắt đầu những năm tháng học chính quy tại chuyên ngành sáng tác khóa đầu tiên với 15 học viên khác khi Trường âm nhạc Việt Nam (nay là Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam) thành lập năm 1956. Trong thời gian này, nhạc sĩ đã viết các nhạc phẩm gửi cho miền Nam như "Tìm em ở đâu", "Quê mẹ"... và tiểu phẩm "Nhớ quê hương" cho cello và piano. Năm 1958, Hoàng Việt được cử đi học tiếp tại Nhạc viện Quốc gia Sofia (Bulgaria). Tại đây, dưới sự giáo dưỡng trực tiếp của vị giáo sư âm nhạc Goléminiff, Hoàng Việt đã hoàn thành bản giảo hưởng "Quê hương" cung Đô trưởng, bản giao hưởng đầu tiên của Việt Nam, cũng là tác phẩm lớn đầu tiên và cuối cùng của Hoàng Việt. Bản giao hưởng này đánh đã dấu được sự ra đời một thể loại lớn của nhạc bác học – hàn lâm Việt Nam và được thế giới thời bấy giờ chú ý. Trước đó, Việt Nam cũng đã có tác phẩm giao hưởng nhưng là giao hưởng thơ 1 chương hay Tổ khúc giao hưởng ngắn gọn.
Trở về Việt Nam năm 1964 với bằng tốt nghiệp hạng ưu, Hoàng Việt công tác tại Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Năm 1965, sau khi trình diễn báo cáo bản giao hưởng của mình tại Nhà hát Lớn Hà Nội, ông xin được trở lại chiến trường miền Nam để tham gia chiến đấu và tiếp tục viết những bản giao hưởng khác.
Năm 1966, Hoàng Việt cùng một số văn nghệ sĩ (trong đó có Lưu Hữu Phước, Nguyễn Quang Sáng...) vào chiến trường Nam Bộ và làm việc tại Đoàn Văn công Quân giải phóng miền Nam. Thập niên 1960, nhiều nhạc sĩ đã vào chiến trường miền Nam để sáng tác âm nhạc bằng những bút danh mới. Đầu năm 1966, nhạc sĩ Hoàng Việt vượt Trường Sơn vào chiến trường miền Nam. Trong lá thư viết ngày 9 tháng 3 năm 1966 gửi về Hội Nhạc sĩ Việt Nam, ông thổ lộ: “Những đêm đi rừng từ 2 giờ khuya leo dốc băng rừng, đi suốt đêm 7 giờ tối hôm sau mới đến chỗ nghỉ, chân đau khập khiễng bước một mình theo sau đoàn, xa cả một, hai cây số […] Leo một bậc đá, chân đau buốt óc, nhói tim. Dốc cao, đường dài dằng dặc...” Tuy vậy, trên đường đi, ông vẫn tranh thủ phác thảo vở nhạc kịch "Bông Sen". Vào đến Căn cứ trung ương Cục miền Nam, Hoàng Việt lập tức sáng tác ca khúc "Bài ca thanh niên miền Nam thành đồng". Được phân công về miền Tây Nam bộ, ông đeo ba lô ra tiền tuyến. Cuối năm 1966, Hoàng Việt công tác ở chiến trường R với bút danh Lê Quỳnh. Những năm tháng ở Trường Sơn, dưới bút danh Lê Quỳnh, ông không ngừng viết "ký sự chiến trường" bằng ca khúc và đã hoàn thành vở nhạc kịch một màn "Bông sen". Từ cuối năm 1966 đến giữa năm 1967, ông đã hoàn thành 12 ca khúc và vở nhạc kịch "Bông sen" kể chuyện anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Lịch với 102 trang phần đệm piano để gửi ra miền Bắc. Ông còn viết nhạc cho hai điệu múa của Văn công R, rồi chuyển tác phẩm "Bông sen" từ thể loại lớn opera thành một nhạc cảnh nhỏ để Văn công R có thể biểu diễn phục vụ tại chiến trường.
Qua đời
Tháng 12 năm 1967, Hoàng Việt định vượt qua lộ 4, trở về sông Cửu Long để viết bản Giao hưởng số 2 của mình. Theo nhà báo Lê Hà viết trên báo Ấp Bắc phát hành ngày 27 tháng 12 năm 1967 có đoạn: “Bức thư Hoàng Việt viết cho tôi lần đó dày 52 trang có bản đề cương ba chương Giao hưởng số 2 anh đang tiếp tục xây dựng tiếp theo các phần đã khởi thảo ở Vác-na…”. Nhưng Hoàng Việt chưa kịp qua lộ 4, khi đó Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam bắn chiếc trực thăng của quân Mỹ, chiếc trực thăng sau đó bị bốc cháy và đâm đầu xuống kinh Á Rặt, làng Mỹ Thiện, gần hầm núp của Hoàng Việt. Một loạt máy bay trực thăng đã thay nhau thả hỏa tiễn. Nhiều hỏa tiễn đã nổ vào hầm núp của ông. Sau đó, dân làng đến hầm núp của ông nhưng đã không nhận ra được căn hầm, chỉ còn nhặt được một chùm tóc bạc, và chùm tóc bạc đó được cho là của Hoàng Việt. Hoàng Việt qua đời mà chưa kịp hoàn thành bản giao hưởng thứ hai mang tên "Cửu Long".
Đại tá, NSƯT, nhạc sĩ Vũ Thành kể lại: “Trong chuyến đi này, khi chia tay [...], anh ôm con và nói: Không biết sau này ba đón con hay con lại đón ba trở về. Sau trận đánh ác liệt hôm đó, thi hài nhạc sĩ cùng nhiều đồng đội khác đến nay vẫn chưa tìm thấy. Có nhân chứng kể lại, chỉ tìm thấy một chùm tóc bạc được cho là của nhạc sĩ Hoàng Việt sau trận oanh tạc dữ dội của máy bay Mỹ." Một thời gian sau qua đường giao liên, ca khúc "Đêm trăng qua đất Kiến Tường" được xem là tác phẩm cuối cùng của ông.
Chôn cất và tưởng nhớ
Sau khi tìm được chùm tóc bạc, thi thể của ông được dân làng đưa về chôn cất ở sân chùa làng Mỹ Thiện. Sau ngày kết thúc chiến tranh, biết Hoàng Việt là một nhạc sĩ nổi tiếng và có công, tỉnh Tiền Giang đã đưa thi thể ông về nghĩa trang của tỉnh nhưng huyện Cái Bè mong muốn được giữ thi hài cố nhạc sĩ nằm lại tại đây.
Nhà thơ Bảo Định Giang từng bày tỏ sự tiếc thương Hoàng Việt: "Hoàng Việt mất, chẳng những đất nước mất một tài năng còn có ức bay cao, bay xa mà anh em đồng nghiệp còn mất một bạn đường rất quý." NSND Trần Hiếu khi nghe tin Hoàng Việt qua đời đã bày tỏ: "Với nền âm nhạc Việt Nam, đó cũng là một mất mát lớn." Năm 2007, Nhạc viện thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức buổi biểu diễn kỷ niệm 40 năm ngày mất của nhạc sĩ Hoàng Việt.
Đời tư
Năm 1949, Hoàng Việt kết hôn với Lâm Thị Ngọc Hạnh tại Sài Gòn, người được cho là hình mẫu trong bài hát "Tình ca". Ông có tất cả bốn người con với bà Ngọc Hạnh. Con trai cả của ông là Lê Chí Dũng, một đạo diễn quay phim. Người con trai thứ hai là nhà văn Lê Hữu Dụng. Người con thứ ba là con gái tên Lê Thị Thanh Bình. Con trai út của ông là Lê Trùng Phùng được sinh ra sau khi Hoàng Việt qua đời. Trong số cháu ngoại của Hoàng Việt, có một người được gia đình đặt tên là Nguyễn Thụy Tình Ca nhằm gợi nhớ tới nhạc sĩ.
Phong cách sáng tác và nghệ thuật
Cuộc đời hoạt động nghệ thuật không kéo dài bao lâu nhưng Hoàng Việt đã để lại cho nền âm nhạc Việt Nam nhiều tác phẩm giá trị. Hoàng Việt sáng tác nhiều thể loại nhạc khác nhau. Ông là một trong số rất ít các nhạc sĩ Việt Nam thành công ở nhiều thể loại. Hoàng Việt thường không hát nhạc do mình sáng tác mà thường hát các tác phẩm của Văn Cao, Đỗ Nhuận, sau cùng mới hát bài của mình. Không chỉ dừng lại ở việc xây dựng hình tượng âm nhạc thông qua ngôn ngữ âm nhạc dân gian Nam Bộ, ông còn thành công trong việc sử dụng ngôn ngữ âm nhạc mới để thể hiện những điều muốn nói. Đối tượng sáng tác chính của Hoàng Việt vẫn là người chiến sĩ, nhưng Hoàng Việt cũng tự đề ra cho mình “hướng hoạt động của một nhạc sĩ bộ đội đã bắt sáng tác không ngừng cho yêu cầu các mặt”. Trên một tấm hình chụp bản thân từ Nhạc viện Quốc gia Sofia gửi về bạn bè ở Hà Nội năm 1960, nhạc sĩ đã ghi: “Cho đến chết mới hết sáng tác cho đời”. Những sáng tác của ông được nhìn chung là "những giai điệu trong sáng, lạc quan, sôi nổi, trữ tình và sâu lắng".
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã chia quá trình sáng tác của nhạc sĩ Hoàng Việt làm 3 giai đoạn: trước ngày tham gia kháng chiến; trong kháng chiến chống Pháp từ 1948–1954. Riêng giai đoạn thứ ba có 3 thời kỳ: Ở Hà Nội (1954–1958), học ở Nhạc viện Sofia và khi từ Hà Nội trở về chiến trường miền Nam. Trong 3 giai đoạn với những sự biến chuyển thời cuộc khác nhau, ông cho biết "giai đoạn nào nhạc sĩ Hoàng Việt cũng có những ca khúc đầy ấn tượng, dù năm tháng trôi qua, tên anh và lời ca của anh vẫn đọng trong lòng người”. Nhạc sĩ Nguyễn Thụy Kha cho biết khi tập kết ở Hà Nội, ông được mến mộ vì "có cái riêng thực sự của mình."
Trong lá thư gửi cho nhạc sĩ Đỗ Nhuận, tổng thư ký Hội Nhạc sĩ Việt Nam vào tháng 5 năm 1967, Hoàng Việt nói rằng dù rất tích cực sáng tác phục vụ kịp thời nhưng ông vẫn không quên dồn tâm sức sáng tác những tác phẩm lớn góp phần đánh dấu giai đoạn tiến triển mới của âm nhạc cách mạng miền Nam. Hoàng Việt còn bày tỏ với nhạc sĩ Đỗ Nhuận khát vọng đưa âm nhạc cách mạng thâm nhập sâu vào đời sống tinh thần của người dân miền Nam.
Mối quan hệ với những nghệ sĩ, nhạc sĩ khác
Trong suốt sự nghiệp hoạt động nghệ thuật và cách mạng, Hoàng Việt từng xây dựng nhiều mối quan hệ hợp tác về âm nhạc với những nghệ sĩ, nhạc sĩ và nhà văn đương thời. Cuối năm 1948, nhạc sĩ Hoàng Việt nhập ngũ vào Tổ quân nhạc khu 8 hoạt động ở Đồng Tháp Mười, cũng là lúc nhạc sĩ Nguyễn Văn Nam được gặp và làm quen với Hoàng Việt. Hoàng Việt rất quan tâm đến Nguyễn Văn Nam và thường thân ái gọi ông là bé Năm. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Nam đã coi Hoàng Việt không chỉ là người anh đồng đội, đồng nghiệp mà xem ông là một "người nhạc sĩ tài hoa". Quốc Hương cũng được coi là người "có duyên nợ" với Hoàng Việt khi ông là người đầu tiên thể hiện thành công ca khúc "Tình ca", cũng là ca khúc gắn liền với tên tuổi của Quốc Hương. Hoàng Việt và nhà văn Nguyễn Quang Sáng cũng có với nhau một mối quan hệ bạn bè thân thiết. Mùa đông năm 1955, Hoàng Việt từng ghé thăm một căn phòng của Nguyễn Quang Sáng trong ngõ đường Lý Thường Kiệt, Hà Nội để hỏi mượn áo đi dự hội nghị âm nhạc ở nhà hát thành phố. Trong những ngày học ở Bulgaria, Hoàng Việt từng viết một bức thư dài gửi Nguyễn Quang Sáng về bản giao hưởng "Quê hương", sau đó Nguyễn Quang Sáng cũng được dự buổi công diễn đầu tiên của bản giao hưởng năm 1965 tại Nhà hát lớn Hà Nội. Khi Hoàng Việt trở lại Nam Bộ và bằng kiến thức âm nhạc ông tu nghiệp được ở Bulgaria, ông đã trợ giúp nhạc sĩ Xuân Hồng nắm chắc kiến thức về phức điệu âm nhạc để Xuân Hồng sáng tác “Tiếng chày trên sóc Bom Bo”.
Thời điểm tập kết ra Bắc để học tại trường Âm nhạc Việt Nam, Hoàng Việt và nhạc sĩ Huy Thục từng ở chung một phòng trong căn nhà mới ở số 13 phố Cao Bá Quát, Hà Nội, là nơi ông sáng tác bài "Tình ca". Trong thời gian hoạt động Cách mạng, Hoàng Việt cũng thiết lập được mối quan hệ với nhạc sĩ Phạm Minh Tuấn. Hoàng Việt đã dạy Phạm Minh Tuấn chuyên môn, giúp sửa chữa, chỉnh sửa nhiều bài hát của các nhạc sĩ từ các chiến trường gửi về để sau đó Nguyễn Tấn Thi và Phạm Minh Tuấn dịch mật mã chuyển qua Thông tấn xã Giải phóng gửi ra Hà Nội đến nhà thơ Bảo Định Giang, từ đó các tác phẩm văn học nghệ thuật miền Nam được công bố ra trong và ngoài nước Việt Nam.
Đánh giá chung
Nhiều nhạc sĩ và nhà nghiên cứu âm nhạc tại Việt Nam như Ca Lê Thuần, Quang Hải hay Xuân Hồng, Nguyễn Thụy Kha... đã nhận xét Hoàng Việt là người đặt nền móng cho tình ca cách mạng và cũng là người đặt nền móng cho nhạc giao hưởng Việt Nam, là những nền tảng cốt lõi góp phần xây dựng cho âm nhạc Việt Nam hiện đại. Một số ca khúc của ông cũng được nhận xét là "những ca khúc tình cảm, có nội tâm cao."
Trong hoàn cảnh gian nan của cuộc chiến tranh, âm nhạc của ông sáng tác cũng được cho là "có một sự vui tươi, nhẹ nhàng đến lãng mạn được thể hiện ở từng ca khúc". Chất chiến đấu và trữ tình trong âm nhạc của Hoàng Việt cũng được cho là kết hợp với nhau "như một hợp kim vừa đẹp, vừa bền". Nhà lý luận phê bình Phùng Văn Khai ở tạp chí Văn nghệ quân đội cho biết: "Bài Tình ca được Hoàng Việt sáng tác tại nhà số 4 Lý Nam Đế là cái nôi cho ra đời nhiều tác phẩm nổi tiếng của các văn nghệ sĩ quân đội một thời." NSND Trần Hiếu đã nhận định "Hoàng Việt là một trong những nhạc sĩ mang được lại những gì đẹp nhất của âm nhạc mang lại cho cuộc đời".
Báo chí Việt Nam nhận xét các sáng tác của Hoàng Việt thường mang âm hưởng cách mạng, đồng thời cho rằng tên tuổi cùng các tác phẩm mà ông sáng tác mang đậm dấu ấn trong lòng công chúng.
Vinh danh
Hoàng Việt được Nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật đợt I vào năm 1996. Vào năm 2010, Hội Âm nhạc thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức hội thảo nhằm lập hồ sơ đề nghị Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân cho Hoàng Việt. Vào ngày 22 tháng 11 năm 2011, ông là một trong 5 nhạc sĩ đầu tiên của âm nhạc Việt Nam (cùng với Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Đỗ Nhuận, Nguyễn Xuân Khoát) được Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang ký quyết định truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Năm 1985, một con đường ở Thành phố Hồ Chí Minh và một rạp hát ở An Hữu, Cái Bè mang tên Hoàng Việt. Một trường tiểu học khác cũng ở Thành phố Hồ Chí Minh được đặt tên là Lê Trí Trực, tên khai sinh của ông. Hoàng Việt cũng từng được nhắc tới trong sách giáo khoa Âm nhạc & Mĩ thuật Việt Nam lớp 7 năm 2011, cụ thể là tiểu sử về cuộc đời của ông và bài hát "Nhạc rừng". Hãng phim Thời sự Tài liệu Việt Nam cũng đã hoàn thành và cho ra mắt khán giả bộ phim tài liệu video về nhạc sĩ Hoàng Việt với tiêu đề "Hoàng Việt – tình ca Việt Nam".
Tranh cãi
Ca khúc đầu tay của Hoàng Việt tuy được người dân Sài Gòn và Nam bộ yêu mến nhưng vẫn bị cho là có ca từ và giai điệu "ủ ê". Nhưng theo NSƯT Minh Trị thì hình tượng "Tiếng còi trong sương đêm" là hình bóng của Việt Minh, một đoàn "hùng binh âm thầm xông lướt trong đêm". Bài hát "Tình ca" do Hoàng Việt đã từng có thời gian bị gắn nhãn là "tiểu tư sản" và bị cấm. Sau khi nhạc sĩ qua đời và với ảnh hưởng của sự cởi mở trong thời kỳ mới, ca khúc đã được cho phép phát hành trở lại.
Ca khúc "Tình ca 2"
Sau khi Hoàng Việt qua đời, vợ ông là bà Ngọc Hạnh vẫn lưu giữ tất cả những gì ông gửi về từ Bulgaria một cách cẩn thận và không cho phép bất kỳ người nào tiếp cận đến chúng. Chính vì vậy mà tất cả bốn người con của ông bà đều không hề biết trong tủ còn có nhiều tác phẩm của Hoàng Việt chưa từng được công bố. Vào năm 2006, bà Ngọc Hạnh chợt nhớ là còn lưu giữ một số bản nhạc của ông gửi về khi xưa. Trong số các bản nhạc này có bài "Tình ca 2". Sau đó, tác phẩm được xuất bản sau gần 50 năm bị lãng quên, và Việt Hoàn là người đầu tiên thu âm, phát hành ca khúc này ở Việt Nam. Tuy nhiên theo báo Dân trí, ca khúc "Vẳng từ quê mẹ" cũng được coi như bản "Tình ca 2" vì theo tờ báo này tiết lộ, nhạc sĩ nghĩ ca khúc này không phù hợp với giai đoạn thời kỳ đó nên ông đã không công bố cho bạn bè và công chúng, cho đến khi có một người đi mua hoa vô tình thấy tờ giấy gói hoa là bản nhạc này nên đã gửi về Đài Tiếng nói Việt Nam.
Danh sách tác phẩm
Bút danh Lê Trực
Các tác phẩm sau đây sáng tác từ năm 1944–1946:
"Chí cả"
"Tiếng còi trong sương đêm"
"Biệt đô thành"
"Gió hờn"
"Lời chinh phụ"
"Đêm tàn trên bãi chiến"
"Chim lạc đàn"
"Nghệ sĩ vô danh"
"Tàn một mùa thu"
"Một thời gian sau"
"Lưu luyến"
"Tiếng hát ngày xuân"
"Bài hát ngày xưa"
"Chim lồng"
Bút danh Hoàng Việt
Các tác phẩm sau đây sáng tác từ năm 1948–1965:
"Về đi anh"
"Sở Thượng giang"
"Mong Bác vô thăm"
"Trường Quân chính Khu 8"
"Ca mừng xuân"
"Giờ đã đến"
"Ngày 9-1"
"Chiến dịch xuân"
"Lá xanh"
"Lên ngàn"
"Nhạc rừng"
"Mùa lúa chín"
"Lực lượng ta hùng mạnh"
"Tìm em ở đâu"
"Nhớ quê hương"
"Tình ca"
"Tình ca 2"
"Quê mẹ"
"Tình em"
"Quê hương"
"Giết giặc Mỹ cứu nước"
Bút danh Lê Quỳnh
Các tác phẩm sau đây sáng tác từ năm 1966–1967:
"Bài ca thanh niên miền Nam thành đồng"
"Tuyến lửa Đông Xuân 66-67"
"Gửi anh cao xạ pháo Hà Nội"
"Bản đàn xuân chọn bốn âm thanh"
"Bông sen"
"Đêm trăng trên đất Kiến Tường"
Chú thích |
Cam là một loại quả của nhiều loài cây có múi khác nhau thuộc họ Cửu lý hương (Rutacea)) (xem danh sách các loài thực vật được gọi là cam); nó chủ yếu đề cập đến Citrus × sinensis, mà còn được gọi là cam ngọt, để phân biệt với Citrus × aurantium có liên quan, được gọi là cam chua. Cam ngọt sinh sản vô tính (apomixis thông qua phôi nucellar); giống cam ngọt phát sinh do đột biến.
Cam là trái lai từ quả chanh và quả bưởi. Bộ gen lục lạp, và do đó là dòng ngoại, là bộ gen của bưởi. Quả cam ngọt đã có trình tự bộ gen đầy đủ.
Cam có nguồn gốc ở một khu vực bao gồm Nam Trung Quốc, Đông Bắc Ấn Độ và Myanmar, và người ta nhắc đến cam ngọt sớm nhất trong văn học Trung Quốc vào năm 314 trước Công nguyên. , cây cam được coi là cây ăn quả được trồng nhiều nhất trên thế giới. Cây cam được trồng rộng rãi ở các vùng khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới để cho quả ngọt. Quả của cây cam có thể ăn tươi hoặc chế biến lấy nước cốt hoặc vỏ thơm. , cam ngọt chiếm khoảng 70% sản lượng cam quýt.
Nguyên gốc từ
Từ "Cam" có nguồn gốc từ Tiếng Tamil () hoặc Tiếng Dravidian cổ điển. Từ này sau đó nhập vào Tiếng Phạn ( hoặc ), có nghĩa là 'cây cam'. Từ Phạn lan truyền đến Ngôn ngữ châu Âu qua Tiếng Ba Tư () và từ Ả Rập ().
Từ "cam" nhập vào tiếng Anh trung đại vào thế kỷ 14 qua Tiếng Pháp Cổ (trong cụm từ ). Từ Pháp này, lần lượt, có nguồn gốc từ Tiếng Provençal cổ , dựa trên từ Ả Rập. Ở một số ngôn ngữ, chữ "n" đầu tiên bị bỏ đi vì có thể bị nhầm là một phần của một mạo từ không xác định kết thúc bằng âm thanh "n". Trong tiếng Pháp, ví dụ, có thể đã được nghe là . Sự thay đổi ngôn ngữ này được gọi là mất điểm nối. Màu cam được đặt tên theo quả cam, và từ "cam" để chỉ màu sắc được ghi nhận đầu tiên trong tiếng Anh vào năm 1512.
Trồng trọt và sử dụng
Trồng cam là một hình thức thương mại quan trọng và là một phần đáng kể trong nền kinh tế Hoa Kỳ (tiểu bang Florida và California), hầu hết các nước Địa Trung Hải, Brasil, México, Pakistan, Trung Quốc, Ấn Độ, Iran, Ai Cập, và Thổ Nhĩ Kỳ và đóng góp một phần nhỏ hơn trong nền kinh tế của Tây Ban Nha, Cộng hòa Nam Phi và Hy Lạp.
Sản xuất trên thể giới
Lượng sản xuất cam tính theo tấn (trong năm 2004) được xếp hạng như sau (theo FAOSTAT):
Brasil 18.256.500
Hoa Kỳ 11.729.900
México 3.969.810
Ấn Độ 3.100.000
Tây Ban Nha 2.883.400
Ý 2.064.099
Trung Quốc 1.977.575
Iran 1.900.000
Ai Cập 1.750.000
Thổ Nhĩ Kỳ 1.280.000
Giữa 1974 và 2004 lượng sản xuất của cam đã gia tăng 99,8%.
Lượng sản xuất (tấn):
1974 31.428.199
1984 38.979.349
1994 54.733.848
2004 62.814.424
Năm 2019, 79 triệu tấn cam đã được trồng trên toàn thế giới, trong đó Brasil sản xuất 22% tổng số, tiếp theo là Trung Quốc và Ấn Độ. Trong năm 2021, sản xuất cam trên toàn cầu đạt 76 triệu tấn, do Brazil dẫn đầu với 21% tổng sản lượng, tiếp theo là Ấn Độ, Trung Quốc, Mexico và Hoa Kỳ là các nhà sản xuất chính khác (bảng).
Tại Hoa Kỳ, vùng trồng cam chủ yếu nằm ở Florida, California và Texas. Hầu hết sản phẩm cam của California được bán làm trái cây tươi, trong khi cam Florida thường được sử dụng cho sản phẩm nước ép. Vùng Indian River của Florida nổi tiếng với chất lượng cao của nước ép cam, thường được bán tươi tại Hoa Kỳ và thường được pha trộn với nước ép sản xuất ở các vùng khác vì cây ở Indian River cho ra cam ngọt đường rất ngon, nhưng số lượng không nhiều.
Nước cam được giao dịch quốc tế dưới dạng nước cam đông lạnh tập trung để giảm thiểu khối lượng sử dụng, từ đó giảm chi phí lưu trữ và vận chuyển.
Nước cam và các sản phẩm khác từ cam
Cam được trồng rộng rãi ở những nơi có khí hậu ấm áp, và vị cam có thể biến đổi từ ngọt đến chua. Cam thường lột vỏ và ăn lúc còn tươi, hay vắt lấy nước. Vỏ cam dày, có vị đắng, thường bị vứt đi nhưng có thể chế biến thành thức ăn cho súc vật bằng cách rút nước bằng sức ép và hơi nóng. Nó cũng được dùng làm gia vị hay đồ trang trí trong một số món ăn. Lớp ngoài cùng của vỏ có thể được dùng làm "zest" để thêm hương vị cam vào thức ăn. Phần trắng của vỏ cam là một nguồn pectin.
Sản phẩm làm từ cam gồm có:
Nước cam, Brazil là nước sản xuất nước cam nhiều nhất thế giới, sau đó là Florida, Hoa Kỳ.
Dầu cam, được chế biến bằng cách ép vỏ. Nó được dùng làm gia vị trong thực phẩm và làm hương vị trong nước hoa. Dầu cam có khoảng 90% d-Limonene, một dung môi dùng trong nhiều hóa chất dùng trong gia đình, cùng với dầu chanh dùng để làm chất tẩy dầu mỡ và tẩy rửa nói chung. Chất tẩy rửa từ tinh chất cam hiệu quả, thân thiện với môi trường, và ít độc hại hơn sản phẩm cất từ dầu mỏ, đồng thời có mùi dễ chịu hơn.
Thành phần
Giá trị dinh dưỡng
Thịt cam chứa 87% nước, 12% hydrat cacbon, 1% protein, và có ít chất béo (xem bảng). Với lượng tham khảo 100 gram, thịt cam cung cấp 47 calo, và là nguồn giàu vitamin C, cung cấp 64% của giá trị dinh dưỡng hằng ngày. Không có vi chất vi lượng nào có mặt ở mức độ đáng kể (xem bảng).
Hợp chất thực vật
Cam chứa nhiều phytochemical đa dạng, bao gồm carotenoid (beta-carotene, lutein và beta-cryptoxanthin), flavonoid (ví dụ như naringenin) và nhiều hợp chất hữu cơ bay hơi tạo ra mùi hương cam, bao gồm các aldehit, este, terpen, rượu, và keton.
Nước cam chỉ chứa khoảng một phần năm lượng axit citric so với nước cam chanh hoặc nước cam chanh và chanh dây (có khoảng 47 g/L).
Ảnh
Chú thích |
Cam trong tiếng Việt có thể chỉ:
Thực vật
Cam (Citrus × sinensis) - loài cây ăn trái cùng họ với bưởi
Trong nghĩa rộng hơn có thể dùng cho một số loài cây khác trong Chi Cam chanh.
Cam đường hay cam mật: Các loại cam ngọt
Cam giấy: Loại cam vỏ mỏng
Cam quýt: Dùng để gọi chung các loài, giống, thứ trong Chi Cam chanh
Cam sành: Một loại cam ngọt, vỏ dày
Cam cúc: tên gọi một cách không rõ ràng một vài loài thực vật trong họ Cúc (Asteraceae) do bề ngoài và hoa của chúng khá giống nhau như:
Anthemis cotula
Anthemis nobilis (đồng nghĩa: Chamaemelum nobile) và một vài loài khác trong chi Anthemis
Matricaria discoides (đồng nghĩa: Matricaria matricarioides)
Matricaria recutita (đồng nghĩa M. chamomilla)
Cam thảo: một loài thực vật có danh pháp khoa học Glycyrrhiza glabra thuộc họ Đậu (Fabaceae)
Cam tùng: một loài thực vật có danh pháp khoa học Nardostachys grandiflora thuộc họ Nữ lang (Valerianaceae) có tinh dầu thơm
Kỹ thuật
Cam (cơ khí), một thuật ngữ trong ngành cơ khí để chỉ một bộ phận có tác dụng chuyển đổi chuyển động quay tròn thành chuyển động thẳng, có tác dụng nâng hay hạ đòn bẩy trong động cơ đốt trong nhằm đóng mở các van hút hay xả
Các thuật ngữ liên quan: xích cam, trục cam, bánh răng cam v.v.
CAM (Computer-Aided Manufacturing) - sản xuất với sự trợ giúp của máy tính
Khác
Màu da cam - màu của vỏ nhiều loại cam (một số loại cam khác có vỏ màu xanh lục) và là màu nước bên trong đa số loại cam
Họ Cam, họ người Á Đông
Chảy máu cam - máu chảy từ mũi ra
Cam tẩu mã hay bệnh cam - bệnh trẻ em, thường do thiếu dinh dưỡng
Bánh cam, tên gọi khác của bánh rán
Tên gọi tắt của camera (máy ảnh)
Tên gọi tắt của Campuchia |
Phương án bính âm Hán ngữ (giản thể: 汉语拼音方案, phồn thể: 漢語拼音方案, Hán Việt: Hán ngữ bính âm phương án), thường gọi ngắn là bính âm, phanh âm hay pinyin, là cách thức sử dụng chữ cái Latinh để thể hiện cách phát âm các chữ Hán trong tiếng phổ thông Trung Quốc (tức Latinh hóa tiếng Trung), tác giả là Chu Hữu Quang. Bính âm được phê chuẩn năm 1958 và được thi hành năm 1979 tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Nó đã thay thế các hệ thống Latinh hóa cũ hơn như Wade-Giles (1859, sửa đổi năm 1912) và Hệ thống phiên âm Bưu điện, và thay thế chú âm phù hiệu trong việc dạy cách đọc chữ Hán tại Trung Quốc đại lục.
Tổng quan
Cho tới nay, bính âm Hán ngữ đã được sử dụng như một hệ thống chuyển tự Latinh chữ Hán trong việc dạy và học Hán ngữ tiêu chuẩn tại Singapore, Malaysia, CHND Trung Hoa, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), Hồng Kông, Ma Cao. Năm 1979, Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế (ISO) đã chọn bính âm làm hệ thống Latinh hóa chuẩn cho Hán ngữ (ISO-7098:1991). Bính âm đã trở thành một công cụ hữu dụng trong việc học tiếng Trung Quốc.
Vào cuối thập niên 1990, Trung Hoa Dân quốc (Đài Loan) đã lập ra bính âm thông dụng (通用拼音 tōngyòng pīnyīn, Hán Việt: "Thông dụng bính âm") dựa trên bính âm và có một số khác biệt so với phiên âm Hán ngữ. Hệ thống này được sử dụng chính thức tại Đài Loan. Từ ngày 1 tháng 1 năm 2009, bính âm Hán ngữ đã trở thành hệ chuyển tự Latinh tiếng Trung tiêu chuẩn của Đài Loan.
Hệ thống ngữ âm phanh âm biểu thị
Hệ thống ngữ âm phanh âm biểu thị là hệ thống ngữ âm của tiếng phổ thông Trung Quốc. Ngữ âm tiêu chuẩn của tiếng phổ thông Trung Quốc được thiết lập dựa trên ngữ âm của tiếng Bắc Kinh. Mọi thanh mẫu, vận mẫu và thanh điệu trong tiếng phổ thông Trung Quốc đều tồn tại trong tiếng Bắc Kinh, cách phát âm của từ ngữ trong tiếng Bắc Kinh là cơ sở để xác định cách phát âm tiêu chuẩn cho từ ngữ của tiếng phổ thông Trung Quốc nhưng không phải mọi cách phát âm của từ ngữ trong tiếng Bắc Kinh đều được lấy làm cách phát âm tiêu chuẩn của từ ngữ tiếng phổ thông Trung Quốc, cách phát âm của một từ trong tiếng Bắc Kinh không phải lúc nào cũng là cách phát âm tiêu chuẩn của từ đó trong tiếng phổ thông Trung Quốc, có những từ ngữ trong tiếng phổ thông Trung Quốc được phát âm khác âm khác với tiếng Bắc Kinh. Ví dụ:
Bảng chữ cái
Bính âm sử dụng 26 chữ cái Latinh. Trong đó chữ cái V chỉ dùng để phiên âm tiếng nước ngoài, tiếng dân tộc thiểu số và tiếng địa phương.
Nguyên âm (Vận mẫu 韻母/韵母)
Hệ thống ngữ âm Trung Quốc có 36 nguyên âm (vận mẫu), gồm 6 nguyên âm đơn, 13 nguyên âm kép, 16 nguyên âm mũi và 1 nguyên âm uốn lưỡi. Các nguyên âm này được thể hiện như sau trong bính âm.
Nguyên âm đơn
a: cách phát âm: mồm há to, lưỡi xuống thấp. Là nguyên âm dài, không tròn môi.
o: cách phát âm: lưỡi rút về phía sau, gốc lưỡi nâng cao ở vị trí giữa, hai môi tròn và nhô ra một tí.
e: cách phát âm: lưỡi rút về phía sau, gốc lưỡi nâng cao ở vị trí giữa, mồm há vừa. Là nguyên âm dài, không tròn môi.
i: cách phát âm: đầu lưỡi dính với răng dưới, phía trước mặt lưỡi nâng sát ngạc cứng, hai môi dẹp, bành ra. Là nguyên âm dài, không tròn môi.
u: cách phát âm: gốc lưỡi nâng cao, lưỡi rút về phía sau, hai môi tròn, nhô ra trước. Là nguyên âm dài, tròn môi.
ü: cách phát âm: đầu lưỡi dính với răng dưới, phía trước mặt lưỡi nâng sát ngạc cứng, hai môi tròn, nhô ra trước. Là nguyên âm dài, tròn môi.
Nguyên âm kép
ai: cách phát âm: phát nguyên âm "a" trước, sau đó dần dần chuyển sang phát nguyên âm "i".
ei: cách phát âm: phát nguyên âm "e" trước, sau đó lập tức chuyển sang phát nguyên âm "i".
ao: cách phát âm: phát nguyên âm "a" trước, sau đó dần dần chuyển sang phát nguyên âm "o".
ou: cách phát âm: phát nguyên âm "o" trước, sau đó lập tức chuyển sang phát nguyên âm "u".
ia: cách phát âm: phát nguyên âm "i" trước, sau đó lập tức chuyển sang phát nguyên âm "a".
ie: cách phát âm: phát nguyên âm "i" trước, sau đó lập tức chuyển sang phát nguyên âm "e".
ua: cách phát âm: phát nguyên âm "u" trước, sau đó lập tức chuyển sang phát nguyên âm "a".
uo: cách phát âm: phát nguyên âm "u" trước, sau đó dần dần chuyển sang phát nguyên âm "o".
üe: cách phát âm: phát nguyên âm "ü" trước, sau đó dần dần chuyển sang phát nguyên âm "e".
iao: cách phát âm: phát nguyên âm "i" trước, sau đó lập tức chuyển sang phát nguyên âm kép "ao".
iou: cách phát âm: phát nguyên âm "i" trước, sau đó lập tức chuyển sang phát nguyên âm kép "ou".
uai: cách phát âm: phát nguyên âm "u" trước, sau đó lập tức chuyển sang phát nguyên âm kép "ai".
uei: cách phát âm: phát nguyên âm "u" trước, sau đó lập tức chuyển sang phát nguyên âm kép "ei".
Nguyên âm er
Phát nguyên âm "e" trước, sau đó, lưỡi dần dần cuốn lên. "er" là một nguyên âm đặc biệt. "er" là một âm tiết riêng, không thể ghép với bất cứ nguyên âm và phụ âm nào.
Nguyên âm mũi
an: phát nguyên âm a trước, sau đó, chuyển sang phát phụ âm n.
en: phát nguyên âm "e" trước, sau đó chuyển sang phát phụ âm "n".
in: phát nguyên âm "i" trước, sau đó chuyển sang phát phụ âm "n".
ün: phát nguyên âm "ü" trước, sau đó chuyển sang phát phụ âm "n".
ian: phát nguyên âm "i" trước, sau đó chuyển sang phát nguyên âm mũi "an".
uan: phát nguyên âm "u" trước, sau đó chuyển sang phát nguyên âm mũi "an"
üan: phát nguyên âm "ü" trước, sau đó chuyển sang phát nguyên âm mũi "an".
uen (un): phát nguyên âm "u" trước, sau đó chuyển sang phát phụ âm "en".
ang: phát nguyên âm "a" trước, sau đó, chuyển sang phát âm "ng".
eng: phát nguyên âm "e" trước, sau đó, chuyển sang phát âm "ng".
ing: phát nguyên âm "i" trước, sau đó, chuyển sang phát âm "ng".
ong: phát nguyên âm o trước, sau đó, chuyển sang phát âm "ng".
iong: phát nguyên âm "i" trước, sau đó, chuyển sang phát nguyên âm mũi "ong".
iang: phát nguyên âm "i" trước, sau đó, chuyển sang phát nguyên âm mũi "ang".
uang: phát nguyên âm "u" trước, sau đó, chuyển sang phát nguyên âm mũi "ang".
ueng: phát nguyên âm "u" trước, sau đó, chuyển sang phát nguyên âm mũi "eng".
Âm ng
Cách đọc như sau: gốc lưỡi nâng cao, dính chặt vào ngạc mềm, lưỡi con rủ xuống, không khí từ xoang mũi thoát ra. Âm "ng" chỉ có thể đứng sau nguyên âm mà không thể đứng trước nguyên âm như trong tiếng Việt.
Phụ âm (Thanh mẫu 聲母/声母)
Hệ thống ngữ âm Trung Quốc có 21 phụ âm (thanh mẫu), trong đó có 18 phụ âm đơn, 3 phụ âm kép, trong phụ âm đơn có một phụ âm uốn lưỡi:
b: là âm đôi môi. Cách phát âm: hai môi dính tự nhiên, sau đó tách ra, luồng không khí từ hang mồm thoát ra. Là một âm tắc, vô thanh, không bật hơi.
p: là âm đôi môi. Cách phát âm: hai môi dính tự nhiên, sau đó tách ra, luồng không khí từ hang mồm thoát ra. Là một âm tắc, vô thanh, có bật hơi.
m: là âm đôi môi. Cách phát âm: hai môi dính tự nhiên, luồng không khí từ khoang miệng thoát ra. Là một âm mũi, hữu thanh.
f: là âm môi răng. Cách phát âm: môi dưới dính nhẹ với răng trên, luồng không khí từ khe giữa răng và môi thoát ra. Là một âm xát, vô thanh.
d: là âm đầu lưỡi giữa. Cách phát âm: đầu lưỡi dính vào lợi trên, hình thành trở ngại, sau đó bỗng hạ thấp, luồng không khí từ hang mồm thoát ra. Là một âm tắc, vô thanh, không bật hơi.
t: là âm đầu lưỡi giữa. Cách phát âm: đầu lưỡi dính vào lợi trên, hình thành trở ngại, sau đó bỗng hạ thấp, luồng không khí từ hang mồm thoát ra. Là một âm tắc, vô thanh, có bật hơi.
n: là âm đầu lưỡi giữa. Cách phát âm: đầu lưỡi dính vào lợi trên, hình thành trở ngại, luồng không khí từ hang mũi thoát ra. Là một âm mũi, hữu thanh.
l: là âm đầu lưỡi giữa. Cách phát âm: đầu lưỡi dính vào lợi trên, luồng không khí từ hai mép lưỡi thoát ra. Là một âm biên, hữu thanh.
g: là âm gốc lưỡi. Cách phát âm: gốc lưỡi áp vào ngạc mềm, hình thành trở ngại, sau đó bỗng tách ra, luồng không khí từ khoang miệng thoát ra. Là một âm tắc, vô thanh, không bật hơi.
k: là âm gốc lưỡi. Cách phát âm: gốc lưỡi áp vào ngạc mềm, hình thành trở ngại, sau đó bỗng tách ra, luồng không khí từ khoang miệng thoát ra. Là một âm tắc, vô thanh, có bật hơi.
h: là âm gốc lưỡi. Cách phát âm: gốc lưỡi nâng cao, nhưng không áp vào ngạc mềm, hình thành trở ngại, luồng không khí từ giữa thoát ra. Là một âm xát, vô thanh.
j: là âm mặt lưỡi. Cách phát âm: mặt lưỡi áp nhẹ vào ngạc cứng, sau đó tách ra, luồng không khí từ giữa thoát ra. Là một âm bán tắc, vô thanh, không bật hơi.
q: là âm mặt lưỡi. Cách phát âm: mặt lưỡi áp nhẹ vào ngạc cứng, sau đó tách ra, luồng không khí từ giữa thoát ra. Là một âm bán tắc, vô thanh, có bật hơi.
x: là âm mặt lưỡi. Cách phát âm: mặt lưỡi nâng cao sát ngạc cứng, luồng không khí từ giữa thoát ra. Là một âm xát, vô thanh.
z: là âm đầu lưỡi trước. Cách phát âm: đầu lưỡi áp vào lợi trên, sau đó tách ra một tí, luồng không khí từ giữa thoát ra. Là một âm bán tắc, vô thanh, không bật hơi.
c: là âm đầu lưỡi trước. Cách phát âm: đầu lưỡi áp vào lợi trên, sau đó tách ra một tí, luồng không khí từ giữa thoát ra. Là một âm bán tắc, vô thanh, có bật hơi.
s: là âm đầu lưỡi trước. Cách phát âm: đầu lưỡi nâng sát lợi trên, luồng không khí từ giữa thoát ra. Là một âm xát, vô thanh.
zh: là âm đầu lưỡi sau. Cách phát âm: đầu lưỡi áp vào ngạc cứng trước, sau đó tách ra một tí, luồng không khí thoát ra khoang miệng. Là một âm bán tắc, vô thanh, không bật hơi, lúc phát âm phải uốn lưỡi.
ch: là âm đầu lưỡi sau. Cách phát âm: đầu lưỡi áp vào ngạc cứng, sau đó tách ra một tí, luồng không khí thoát ra khoang miệng. Là một âm bán tắc, vô thanh, có bật hơi, lúc phát âm phải uốn lưỡi.
sh: là âm đầu lưỡi sau. Cách phát âm: đầu lưỡi áp vào ngạc cứng trước, luồng không khí thoát ra miệng theo một đường nhỏ và hẹp. Là một âm xát, vô thanh, lúc phát âm phải uốn lưỡi.
r: là âm đầu lưỡi sau. Cách phát âm: đầu lưỡi nâng sát ngạc cứng trước, luồng không khí thoát ra miệng thoe một đường nhỏ và hẹp. Là một âm xát, hữu thanh, lúc phát âm phải uốn lưỡi.
Dấu thanh (Thanh điệu 聲調/声调)
Ký hiệu dấu thanh
Hệ thống ngữ âm tiếng Trung phổ thông có 4 thanh điệu cơ bản. Trong bính âm, các thanh điệu này được ký hiệu là:
Thanh thứ nhất: cũng gọi là "âm bình (陰平/阴平)", là thanh cao, rất đều. Gần giống thanh "ngang" trong tiếng Việt. Ký hiệu trong bính âm là "¯". Trong chú âm, thanh "ngang" lại không có ký hiệu.
Thanh thứ hai: cũng gọi là "dương bình (陽平/阳平)", là thanh cao, đều, từ thấp lên cao. Gần giống thanh "sắc" trong tiếng Việt. Ký hiệu trong bính âm và chú âm là "´".
Thanh thứ ba: cũng gọi là "thượng thanh (上聲/上声)", là thanh thấp, xuống thấp lại lên cao. Gần giống thanh "hỏi" trong tiếng Việt. Ký hiệu trong bính âm và chú âm là "ˇ".
Thanh thứ tư: cũng gọi là "khứ thanh (去聲/去声)", là thanh từ cao xuống thấp. Ngắn và nặng hơn thanh "huyền", dài và nhẹ hơn thanh "nặng" trong tiếng Việt. Ký hiệu trong bính âm và chú âm là "ˋ".
Ngoài ra còn một thanh nữa, gọi là thanh nhẹ (輕聲/轻声, khinh thanh). Thanh này chỉ dùng khi muốn làm nhẹ một âm phía trước. Trong bính âm, thanh nhẹ không có ký hiệu, nhưng trong chú âm thì nó được ký hiệu là "." (dấu khuyên nhỏ).
Cách đánh dấu thanh
Dấu 4 thanh điệu trong hệ thống bính âm phải đánh trên nguyên âm chủ yếu của một âm tiết (tức là một chữ):
Cách đánh dấu của nguyên âm đơn: dấu trực tiếp đánh trên nguyên âm đơn:
"a": Dấu trực tiếp đánh trên nguyên âm "a".
"o": Dấu trực tiếp đánh trên nguyên âm "o".
"e": Dấu trực tiếp đánh trên nguyên âm "e".
"i": Dấu trực tiếp đánh trên nguyên âm "i".
"u": Dấu trực tiếp đánh trên nguyên âm "u".
"ü": Dấu trực tiếp đánh trên nguyên âm "ü".
Cách đánh dấu của nguyên âm kép và nguyên âm mũi:
Nếu trong nguyên âm kép hoặc nguyên âm mũi có nguyên âm đơn "a", thì dấu đánh trên nguyên âm "a". Ví dụ: "ai", "ao", "an", "ang", dấu đánh trên nguyên âm "a".
Nếu trong nguyên âm kép hoặc nguyên âm mũi không có nguyên âm đơn "a", thì dấu đánh trên nguyên âm "o". Ví dụ: "ou", "ong", "iou", "iong", "uo", dấu đánh trên nguyên âm "o".
Nếu trong nguyên âm kép hoặc nguyên âm mũi không có nguyên âm đơn "a", thì dấu đánh trên nguyên âm "e". Ví dụ: "ei", "en", "eng", "ie", "uei", "uen", "ueng", "üe", dấu đánh trên nguyên âm "e".
Nguyên âm kép "iu", dấu đánh trên nguyên âm "u".
Nguyên âm kép "ui", dấu đánh trên nguyên âm "i", dấu chấm trên nguyên âm "i" phải bỏ đi.
Quy tắc viết chữ
Các nguyên âm "ü", "üe", "üan", "ün", khi ghép với các phụ âm "y", "j", "q", "x" lúc viết phải bỏ hai dấu chấm trên nguyên âm "ü". Ví dụ: yu, yue, yuan, yun, ju, jue, juan, jun, qu, que, quan, qun, xu, xue, xuan, xun.
Các nguyên âm "ü". "üe", khi ghép với phụ âm "l", "n", lúc viết hai dấu chấm trên nguyên âm "ü" phải giữ nguyên. Ví dụ: nü, nüe, lü, lüe.
Nếu trước nguyên âm "u" không ghép với phụ âm, lúc viết phải thêm bán nguyên âm "w" ở phía trước: Ví dụ: u - wu.
Các nguyên âm "ua", "uo", "uai", "uei", "uan", "uen", "uang", "ueng", nếu phía trước không ghép với phụ âm khi viết bỏ chữ "u" ở phía trước, thay bằng bán nguyên âm "w". Ví dụ: ua - wa, uo - wo, uai - wai, uei - wei, uan - wan, uen - wen, uang - wang ueng - weng.
Các nguyên âm "uei", "uen" nếu phía trước ghép với phụ âm, lúc viết phải bỏ "e" ở giữa đi. Ví dụ: sui, dui, dun, cui, cun, rui, run.
Nguyên âm "iou", nếu phía trước ghép với phụ âm, lúc viết phải bỏ "o" ở giữa. Ví dụ: qiu, niu, jiu, liu.
Các nguyên âm: "i", "in", "ing", nếu phía trước không ghép với phụ âm, lúc viết phải thêm bán nguyên âm "y" ở trước, ví dụ: i - yi, in - yin, ing - ying.
Các nguyên âm "ia", "ie", "iao", "iou", "ian", "iang", "iong", nếu phía trước không ghép với phụ âm, lúc viết phải thay nguyên âm "i" bằng bán nguyên âm "y", ví dụ: ia - ya, ie - ye, iao - yao, iou - you, ian - yan, iang - yang, iong - yong.
Các âm tiết có nguyên âm "a", "o", "i" đứng đầu, khi đặt phía sau âm tiết khác, nếu xuất hiện hiện tượng ranh giới giữa hai âm tiết bị lẫn lộn phải dùng dấu cách âm (') tách ra. Ví dụ;
+) píng'ān (平安), có nghĩa là bình an, từ này có hai âm tiết, âm tiết sau có nguyên âm "a" đứng đầu nếu không dùng dấu cách âm tách ra có khi đọc thành "pín gān" không có nghĩa gì.
+) jiāo'ào (驕傲) có nghĩa là kiêu ngạo, từ này có hai âm tiết, âm tiết sau có nguyên âm "a" đứng đầu, nếu không dùng dấu cách âm tách ra thì rất khó đọc.
Những danh từ riêng như tên người, địa danh, cơ quan, đoàn thể, đảng phái... chữ cái đầu phải viết hoa. Chữ cái đứng đầu mỗi câu, mỗi đoạn phải viết hoa.
Bảng ghép chữ
Dựa trên các thanh mẫu, vận mẫu và quy tắc viết chữ. Chúng tra có bảng quy tắc ghép chữ thể hiện tất cả các từ trong tiếng Trung.
Cách ngắt chữ
Tiếng Hán là ngôn ngữ đơn âm tiết, vì thế quy tắc cơ bản để ngắt chữ trong bính âm Hán ngữ là ngắt sau mỗi từ đơn. Trong trường hợp các danh từ cố hữu được tạo nên từ nhiều từ đơn thì hết cả danh từ mới ngắt.
Gõ trên máy tính
Do bính âm Hán ngữ dùng ký tự Latinh, nên vấn đề khó khăn chỉ là thể hiện được thanh điệu. Đối với các văn bản dạng html, có thể gõ ra các ký hiệu thanh điệu với UTF-8 trong Unicode hoặc với GB2312 của Trung Quốc. Trong các trường hợp khác, người ta phải dùng con số để thể hiện thanh điệu.
Ví dụ: để gõ bính âm của 我是越南人, nếu không gõ được Wǒ shì Yuènán rén có thể gõ Wo3 shi4 Yue4nan2 ren2. |
Wikimedia Commons (cũng được gọi tắt là Commons hay Wikicommons) là kho hình ảnh, âm thanh, và tập tin phương tiện khác có nội dung tự do. Dự án này trực thuộc Quỹ Hỗ trợ Wikimedia. Các tập tin được truyền lên kho này được sử dụng ở các wiki khác của Wikimedia, kể cả Wikipedia, Wikibooks, và Wikinews, giống như các tập tin được truyền thẳng lên các wiki đó.
Dự án này do Erik Möller đề nghị vào tháng 3 năm 2004 và mở cửa ngày 7 tháng 9 năm 2004. Kho dùng chung này được thiết lập với một lý do quan trọng là để không cần phải làm việc nhiều lần quá giữa các dự án và phiên bản ngôn ngữ của Wikimedia, bởi vì một tập tin phải được truyền lên nhiều lần trên nhiều wiki riêng trước khi Commons được thành lập. Tính năng để sử dụng những tập tin của Commons ở dự án nào của Wikimedia được thực hiện và bật lên vào tháng 10 năm 2004.
Vẫn có thể truyền tập tin thẳng lên một wiki riêng, nhưng tại vì Commons có quy định tác quyền ngặt hơn phần nhiều dự án khác, tính năng truyền lên vẫn được giữ ở những wiki đó để truyền lên những tập tin không được vào Commons, như là hình ảnh được sử dụng hợp lý. Vào năm 2006, Wikimedia Commons nói riêng không cho phép truyền lên tập tin dưới điều kiện sử dụng hợp lý hay giấy phép phi tự do, chẳng hạn như các giấy phép mà hạn chế sử dụng thương mại hoặc cấm làm tác phẩm phái sinh. Các giấy phép hợp với dự án có Giấy phép Văn bản Tự do GNU (GFDL) và các loại giấy phép Attribution (ghi công) và ShareAlike (phát hành cùng giấy phép) của Creative Commons; dự án này cũng nhận các tập tin thuộc phạm vi công cộng và các tập tin mà Wikimedia giữ quyền.
Hình ảnh tiêu biểu
Chú thích |
Nàng tiên cá có thể là:
Nàng tiên cá (một nhân vật trong truyền thuyết).
Truyện cổ tích Nàng tiên cá của Hans Christian Andersen
Phim Nàng tiên cá của Disney
Tượng nàng tiên cá ở Copenhagen, Đan Mạch
Bài thơ Nàng tiên cá của A.S.Puskin |
Mizuage (水揚げ) là một nghi lễ mà các maiko (người học nghề vũ nữ Nhật) phải trải qua để tượng trưng cho sự trưởng thành của mình. Khi những kỹ nữ huấn luyện cho một maiko nghĩ rằng cô ta đã sẵn sàng để hoàn toàn trở thành một vũ nữ, một người đàn ông xa lạ và danh vọng sẽ được quyền lấy đi sự trinh bạch của maiko đó với một giá nào đó. Người đàn ông này thường được gọi là danna của maiko (một từ cổ dành cho chồng), hay là người bảo trợ; mối quan hệ này không hoàn toàn được hiểu rõ, nhưng chắc chắn người này phải có khả năng bảo trợ về tài chính cho maiko trong tương lai. Giá phải trả cho nghi lễ này có thể là số tiền lớn nhất mà cô ta có thể kiếm được trong suốt cuộc đời hành nghề của mình.
Sau khi nghi lễ được tiến hành, đôi khi lên đến cả bảy ngày, maiko sẽ hoàn toàn trở thành một vũ nữ Nhật và được phép "đổi cổ áo". Nghĩa là bây giờ cô ta được phép thay cổ áo đỏ (của người học nghề) thành cổ áo trắng (của vũ nữ Nhật). Kiểu tóc của cô ta cũng được thay đổi tới ofuku mang bởi những người lớn hơn, từ kiểu tóc "chia ra những quả đào", một dấu hiệu để nhận biết là maiko.
Mizuage không phải là một nghi thức bắt buộc đối với maiko. Ngày nay, nghi thức này đã bị bãi bỏ, Maiko và những vũ nữ Nhật hiện đại không phải trải qua nghi thức này vì nó trái với Bộ luật phòng chống hoạt động mại dâm được Nhật Bản ban hành năm 1958. |
Kính vạn hoa là một bộ truyện dài nhiều tập của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Bộ truyện gồm 54 tập truyện mang tính hài hước kể về những chuyện vui buồn trong giới học trò, những trò nghịch ngợm, những trò chơi thú vị, những bài học cuộc sống sâu sắc và đầy ý nghĩa. Những nhân vật chính là Quý ròm, nhỏ Hạnh, Tiểu Long cùng các nhân vật khác. Mỗi tập là một câu chuyện khác nhau xung quanh ba bạn nhỏ này. Những tập Kính vạn hoa có thể coi là những cuốn sách tâm lý của tuổi học trò.
Kính vạn hoa hiện nay đã được dựng thành phim và 3 phần của bộ phim (sản xuất năm 2005, 2006, 2008) đều đã được chiếu trên kênh HTV9 Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh. Bộ phim đã gây được sự chú ý không chỉ của giới học trò mà đủ các lứa tuổi. Hiện nay, nhà xuất bản Kim Đồng đã tái bản (năm 2012) bộ truyện này thành 9 tập khổ lớn và 54 tập khổ nhỏ.
Năm 2016, Nhà xuất bản Kim Đồng xuất bản ấn bản Kính vạn hoa mới gồm 18 tập với minh họa của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường – bạn tri âm tri kỷ, người đồng hành với các tác phẩm của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh suốt hơn ba thập kỷ qua.
Nhân vật
==== Quý ròm ====
Là thần đồng các môn Toán,Lý và Hóa của trường Tự Do (trong các tập mới nhất, nhân vật học lớp 10 ở trường Đức Trí), rất được thầy cô yêu quý. Cùng với nhỏ Hạnh, cậu là một trong 2 bộ óc điện tử của nhóm. Nhiệt tình vì bạn bè, tự trọng cao đến nỗi nhiều khi thành tự ái vặt, lém lỉnh, mồm mép và thỉnh thoảng ba hoa quá trớn, có tài nói phét trơn như bôi mỡ, rất khéo léo trong môn bóng đá dù thể chất yếu, đó là những đặc điểm nổi bật của cậu. Tuy rất tốt, nhưng cậu lại có tính hay nôn nóng, mỗi khi giảng bài cho thằng bạn Tiểu Long khù khờ là quát tháo om sòm, khiến Tiểu Long rất sợ. Nạn nhân thường xuyên của những trò nạt nộ khi giảng bài này là nhỏ Diệp, em cậu, dù thật sự cậu rất thương em. Chân tay gầy khẳng gầy kheo nhưng lúc nào cũng ba hoa chuyện đánh nhau. Dù rất tốt bụng nhưng nhiều khi lại hơi vô tâm. Và ngoài đối với chuyện học hành và thí nghiệm, cậu lại là một đứa trẻ lười biếng, thường xuyên đùn đẩy công việc nhà cho em gái và bà. Ngoài ra, cậu còn rất nhát gan (dù trong đa số trường hợp, tính tò mò của một nhà khoa học và tính tự ái thường lấn át tính nhát gan). Giỏi ảo thuật, mê toán và hóa học, thần tượng nhà ảo thuật đại tài David Copperfield. Trong tập 29: Hoa Tỉ muội, Quý ròm đã có những rung động đầu tiên khi quen biết được Thùy Dung (Tỉ Tỉ) và Thuỳ Dương (Muội Muội) (chủ yếu là với Thuỳ Dương) nhưng chân thật nhất, rõ ràng nhất là với nhân vật Hường ở tập 47. Ngủ quên trên đồi. Từng giúp việc nhà ở nhà nhỏ Gái (46. Người giúp việc khác thường) Cậu đã có lần diễn ảo thuật để kiếm tiền mua gấu bông cho nhỏ Oanh, em Tiểu Long.
Tiểu Long
Tên thật là Nguyễn Minh Long. Khi Quý ròm nghe cậu mơ ước trở thành võ sư quốc tế, Quý đã trêu chọc cậu bằng cách đổi tên thành Tiểu Long. Là võ sinh huyền đai đệ nhị đẳng Taekwondo, rất giỏi võ, tay chân cứng như thép nguội, nổi tiếng với môn "thiết đầu công" - đưa đầu ra đỡ đòn của đối thủ. Tuy giỏi võ như vậy nhưng sức học chỉ thuộc loại trung bình yếu, trừ môn thể dục ra thì các môn còn lại đều yếu. Từ sợ học đâm ra sợ thầy cô, hễ thấy thầy cô là cậu tránh đi. Thần tượng diễn viên hành động Lý Tiểu Long, mơ ước sau này trở thành diễn viên võ thuật hoặc võ sư. Tính tình hiền lành, nhường nhịn, điềm đạm, trái ngược hẳn với tính cách nóng như lửa của ông bạn ròm, nhưng lại khá cù lần nên cậu thường bị Quý ròm át giọng và chỉ huy. Sinh ra trong gia đình nghèo nên tính tình giản dị, khiêm tốn, luôn mong muốn đỡ đần cho gia đình, đặc biệt rất thương nhỏ Oanh - em gái mình. Tuy cù lần nhưng đôi khi nhờ phương châm "chậm mà chắc", lại giúp cả bọn giải quyết vấn đề như ở trong tập 16, cậu đã phát hiện ra nhóm Hải Âu đã cố tình viết "Chôn từ trăm năm trước" thành "Chôn từ năm trăm trước" và trong tập 18, cậu cũng đã phát hiện ra phe đối phương đã rút sai quân bài trong trò ảo thuật. Trong tập 50: Cửa hàng bánh kẹo, nhân vật này đã có những cảm tình đầu tiên với nhân vật Gia Nhân (em Gia Nghĩa), nhưng vì bị cả hai anh em nhà Gia Nghĩa châm chọc nên cậu không còn cảm tình với Gia Nhân nữa.
Hạnh
Là người con gái duy nhất trong nhóm. Có "bộ óc điện tử" còn vượt trội hơn Quý ròm, học giỏi đều các môn học chứ không chỉ Toán,Lý và Hóa như Quý ròm. Tính tình dịu dàng, kiên nhẫn, tốt bụng, điềm đạm, ham học và đọc rất nhiều sách, nên thông thái đến mức được mệnh danh là "bộ từ điển biết đi". Tuy nhiên tay chân lại rất vụng về. Rất mê món bò viên, nên thường bị Quý ròm đem ra trêu chọc. Mê bò viên đến nỗi mơ ước sau này sẽ đi bán hủ tiếu bò viên, ước mơ kỳ quái đến mức ai nghe cũng phải lắc đầu. Cô nhát gan thậm chí có phần hơn Quý ròm, và rất được thầy cô trong trường yêu quý. Đã từng dạy kèm cho Tiểu Long. Là nhân vật duy nhất gọi tên thật của Tiểu Long. Luôn là người tìm ra các chiêu thức trong những trò ảo thuật của Quý ròm
Các tập truyện
Nhà ảo thuật
Những con gấu bông (p)
Thám tử nghiệp dư (p)
Ông thầy nóng tính (p)
Xin lỗi mày, Tai To! (p)
Người bạn lạ lùng (p)
Bí mật kẻ trộm (p)
Bắt đền hoa sứ (p)
Con mả con ma (p)
Cô giáo Trinh (p)
Theo dấu chim ưng (p)
Tiền chuộc (p)
Khu vườn trên mái nhà
Thủ môn bị từ chối
Thi sĩ hạng ruồi
Balo màu xanh (p)
Lọ thuốc tàng hình (p)
Cuộc so tài vất vả
Cú nhảy kinh hoàng
Anh và em
Tướng quân
Tấm huy chương vàng
Cỗ xe ngựa kỳ bí (p)
Giải thưởng lớn
Hiệp sĩ ngủ ngày
Tiết mục bất ngờ
Phù thủy (p)
Mùa hè bận rộn (p)
Hoa tỉ muội (p)
Quán kem
Thằng thỏ đế (p)
Bên ngoài cửa lớp
Họa mi một mình (p)
Cháu của bà (p)
Trúng số độc đắc (p)
Mười lăm ngọn nến (p)
Lớp phó trật tự
Mẹ vắng nhà (p)
Đoàn kịch tỉnh lẻ
Lang thang trong rừng (p)
Kho báu dưới hồ (p)
Gia sư (p)
Khách sạn Hoa Hồng (p)
Quà tặng ba lần (p)
Kính vạn hoa (Nguyễn Nhật Ánh quyết định kết thúc bộ truyện lần thứ nhất ở tập này năm 2002, nhưng 5 năm sau (năm 2007), ông tái bút).
Người giúp việc khác thường
Ngủ quên trên đồi
Kẻ thần bí
Bạn gái
Cửa hàng bánh kẹo
Một ngày kì lạ
Tóc ngắn tóc dài
Má lúm đồng tiền
Cà phê áo tím
(p) là các tập truyện đã được dựng thành bộ phim truyện cùng tên.
Đặc điểm các tập truyện
Các tập chủ yếu kéo dài 10 chương (trừ tập 45. Kính vạn hoa có 56 chương). Các tập truyện được viết theo dòng thời gian đầu năm lớp 8 đến đầu năm lớp 10 của các nhân vật. Mặc dù đa số các tập có cốt truyện độc lập và có thể đọc theo bất kì thứ tự nào, một số chi tiết, tên gọi thường được sử dụng lại trong truyện, hoặc chi tiết nhỏ trong tập này được phát triển trong tập khác (Như tập 24: Giải thưởng lớn và 25: Hiệp sĩ ngủ ngày). Một số câu chuyện có thể kéo dài lên 2 tập (hoặc các tình tiết được sử dụng liên tục trong 2 hoặc 3 tập liền kề):
Tập 1: Nhà ảo thuật và tập 2: Những con gấu bông.
Tập 8: Bắt đền hoa sứ và tập 9: Con mả con ma.
Tập 11: Theo dấu chim ưng và tập 12: Tiền chuộc
Tập 16: Ba lô màu xanh, tập 17: Lọ thuốc tàng hình và tập 18: Cuộc so tài vất vả
Tập 24: Giải thưởng lớn và tập 25: Hiệp sĩ ngủ ngày
Tập 28: Mùa hè bận rộn và tập 29: Hoa tỉ muội
Tập 40: Lang thang trong rừng và tập 41: Kho báu dưới hồ
Tập 46: Người giúp việc khác thường và tập 47: Ngủ quên trên đồi
Tập 48: Kẻ thần bí và tập 49: Bạn gái.
Ngoài ra, còn có một số tập mà một (hoặc hai) trong 3 nhân vật chính vắng mặt (nhất là các tập viết về thời gian nghỉ hè của các nhân vật) hoặc chỉ đóng vai trò phụ:
Tập 1: Nhà ảo thuật
Tập 5: Xin lỗi mày, Tai To!
Tập 8: Bắt đền hoa sứ
Tập 9: Con mả con ma
Tập 13: Khu vườn trên mái nhà
Tập 22: Tấm huy chương vàng
Tập 27: Phù thủy
Tập 28: Mùa hè bận rộn
Tập 29: Hoa Tỉ muội
Tập 30: Quán kem
Tập 32: Bên ngoài cửa lớp
Tập 37: Lớp phó trật tự
Tập 46: Người giúp việc khác thường
Tập 47: Ngủ quên trên đồi
Tập 50: Cửa hàng bánh kẹo.
Tập 52: Tóc ngắn tóc dài
Tập 53: Má lúm đồng tiền
Các nhân vật khác
* Gia đình Quý ròm
Ba của Quý ròm
Ba Quý ròm là giáo viên dạy ở trường Họa mi - cũng là trường mà nhỏ Diệp học. Biết Quý ròm đam mê khoa học nên ông luôn tạo mọi điều kiện để nuôi dưỡng đam mê của Quý.
Bà của Quý ròm
Bà Quý ròm rất hay bênh vực và thường nhận tội thay Quý mỗi khi trong nhà có đồ đạc hỏng hóc do thí nghiệm hóa học của Quý.
Nhỏ Diệp
Em gái Quý ròm, tinh quái không thua gì ông anh. Tốt bụng và dễ thương, nhưng nhiều khi lại hay khóc, nhất là khi bị ông anh quát mắng và cốc đầu trong lúc giảng bài. Dù thường gây gổ với ông anh nhưng cũng rất thương anh mình, hay hỏi cung anh mình và hay bị Quý ròm mắng vì cái tội nhiều chuyện.
Anh Vũ
Anh trai của Quý ròm mê thơ, thích làm thơ nhưng chưa từng được ai công nhận. Thường ghét những thí nghiệm hóa học của Quý vì hay làm hư đồ đạc và đã từng gọi chúng là "những trò nhảm nhí". Bạn gái của anh Vũ là chị Ngần, lại yêu thích khoa học và rất ngưỡng mộ Quý ròm.
Mạnh
Em họ của Quý ròm, sống ở Vũng Tàu với mẹ - cô Tư của Quý, có máu trinh thám, hình sự nhưng hơi nhát gan. Là nhân vật chính cùng với bộ ba trong nhiều tập. (Tập 3: Thám tử nghiệp dư, tập 11: Theo dấu chim ưng, tập 12: Tiền chuộc, tập 16: Ba lô màu xanh [chỉ xuất hiện ở chương 10], tập 17: Lọ thuốc tàng hình (là nhân vật chính), tập 18: Cuộc so tài vất vả, tập 20: Anh và em (nhân vật ngoài lề), tập 40: Lang thang trong rừng và tập 41: Kho báu dưới hồ.
Cô Tư
Em gái ruột của bố Quý ròm, mẹ của Mạnh.
* Gia đình Tiểu Long
Ba, mẹ của Tiểu Long
Gia đình Tiểu Long khó khăn. Ba làm thợ hồ, mẹ buôn bán nhỏ trước đầu hẻm.
Anh Tuấn, Anh Tú
2 anh trai song sinh của Tiểu Long, anh Tuấn làm bảo vệ ở xí nghiệp may, anh Tú làm ở nhà máy giày dép, cả hai anh đều học võ (Karate và Vovinam). Anh Tuấn xuất hiện trong tập 19: Cú nhảy kinh hoàng
Nhỏ Oanh
Em gái Tiểu Long, bạn học cùng lớp với Diệp. Cũng như anh trai, cô bé chững chạc hẳn so với tuổi của mình. Rất ngoan và rất thương anh. Tuy nhiên, do chơi thân với nhỏ Diệp lâu nên đôi lúc cũng bị nhiễm tính lém lỉnh và nhõng nhẽo của bạn. Xuất hiện trong tập 2: Những con gấu bông
Lượm
Em họ của Tiểu Long, sống cùng với ông nội và cha mẹ dưới quê (cùng nơi với Dế Lửa và Tắc Kè Bông). Lượm nhát gan, mê tín (thể hiện trong tập 28: mùa hè bận rộn, khi mà Lượm tin có "ma" ở nhà ông Sáu Cảnh) xen kẽ sự lém lĩnh và thông minh và hơi nhiều chuyện khác hẳn ông anh họ của mình đã tạo nên một cậu bé Lượm rất đỗi giản dị và đáng yêu.
Tắc Kè Bông
Tên thật là Bông, là anh em kế của Lượm, con ruột của thím Năm Sang. Hiếu động và thường hay bắt nạt mọi người chẳng khác gì Dế Lửa nhưng lại có phần lép vế hơn. Cậu được gọi là "Thủ lĩnh xóm Trên". Xuất hiện lần đầu trong Tập 8: Bắt đền hoa sứ
Chú Năm Chiểu
Cha ruột của Lượm, cha dượng của Bông.
Thím Năm Sang
Mẹ kế của Lượm, thương Lượm như con, tính tình hiền hậu.
Ông nội
Ông đã già yếu, lúc mệt lúc khỏe. Ông rất thương Tiểu Long vì Tiểu Long ở xa và tính tình giản dị.
Gia đình Hạnh
Ba nhỏ Hạnh
Sự xuất hiện của ông thường không đáng kể, phần lớn chỉ là để làm nền cho các nhân vật, tuy nhiên ông lại tạo được thiện cảm, bởi ông là một người cha mẫu mực, thông cảm với con cái, biết tạo cơ hội cho con phát triển. Ông là một nhà báo, vì vậy mà ông có tầm hiểu biết và kinh nghiệm sống rộng. Có thể nói ít nhiều tính tốt của Hạnh là do ông dạy dỗ.
Tùng
Em trai của Hạnh, tính cách khá nóng tính và lười học. Đặc biệt ghét chú chó Tai To khi nó mới được đem về nuôi ở nhà của Hạnh. Nhưng sau đó Tai To đã cứu Tùng và từ đó cậu biết cách yêu thương động vật (Tập 5: Xin lỗi mày, Tai To!). Hơi lém lỉnh và đôi khi cũng có máu trinh thám giống Mạnh. Rất tin vào ông già Noel.
Tai To
Thú cưng của gia đình Hạnh, lúc đầu nhận nuôi bị Tùng ghét và hành hạ trong tập 5: Xin lỗi mày, Tai To!. Tuy nhiên, Tai To đã cứu Tùng và sau đó chú đã được Tùng yêu thương nhiều hơn.
Cô Bảy, Bốc, Phệ, Trang
Sống ở Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng, cô Bảy là em gái của ba Hạnh, Trang là con cô Bảy. Bốc, Phệ là hàng xóm của cô Bảy. Xuất hiện trong tập 27: Phù thủy
Gia đình của Văn Châu
Văn Châu
Tên thật là Trần Thị Văn Châu. Là một người bạn của nhóm Quý ròm. Là con gái nhưng hình dáng, ăn mặc, tính cách và cả sở thích đều giống con trai. Là một cao thủ judo, giỏi võ ngang ngửa Tiểu Long, một người đá bóng có khả năng tinh thần rất cao, ngoài ra còn là cao thủ game Giang Hồ Thánh Chiến tập 48: Kẻ thần bí. Dù là con nhà giàu nhưng tính tình lại giản dị, bộc trực, chân thành và tốt bụng, tuy nhiên hơi ngang ngạnh. Bị bố mẹ cấm cửa nhưng vẫn tìm cách chơi với nhóm Quý ròm, Tiểu Long, Hạnh. Rất yêu quý người ông bị lòa của mình.
Hồng Lam, Ngọc Diệu, Bạch Kim
Là 2 chị gái và em trai của Văn Châu. Theo ông Văn Châu nhận xét: "Học hành chẳng đến đầu đến đũa, suốt ngày cứ cắm hoa với làm bánh. Con Hồng Lam tính nết còn đỡ, chứ con Ngọc Diệu thì hư quá. Tới thằng Bạch Kim thì xem như hết cách dạy. Nó là con trai một, đã vậy lúc sinh nó ra thì ba mẹ nó làm ăn phất lên, thôi thế là một điều "quý tử" hai điều "quới nhân", đố mà dám mắng mỏ nó một tiếng. Thế là thằng bé đâm hỏng, nghịch ngợm, hỗn láo, chả ai bảo được."
Gia đình Dũng cò
Dũng cò
Thủ lĩnh băng Chim Ưng, từng đụng độ nhóm Quý ròm khi cướp sổ liên lạc của nhóm thằng Tùng, em Hạnh. Cậu cũng là em họ của Văn Châu. Dũng cò đã cải tà quy chính và làm nghề bán báo ở tập 35: Trúng số độc đắc.
Ba, mẹ Dũng cò
Từng làm công nhân, sau vụ giá nhà lên trong tập 12: Tiền chuộc thì bố Dũng cò thành người nghiện rượu còn mẹ thì trở thành người chơi bài bạc. Họ đã nhận ra được lỗi lầm của mình trong tập 35: Trúng số độc đắc.
Bạn cùng lớp với Long, Quý, Hạnh từng xuất hiện trong truyện
Tần
Một học sinh chung lớp của bộ ba vai chính. Một thủ môn lẫy lừng được gọi là "Đôi tay nhựa" của lớp 8A4, 9A4 và 10A9. Do có quá khứ từng bị ghẻ ngứa nên phải cạo trọc đầu (tập 14: Thủ môn bị từ chối) nên hay bị trêu là Tần ghẻ. Khi lên học cấp III, nhân vật này đã có cảm tình với nhân vật Minh Trung trong tập 52: Tóc ngắn tóc dài. Xuất hiện đặc biệt trong các tập 14: Thủ môn bị từ chối, tập 36: Mười lăm ngọn nến và tập 52: Tóc ngắn tóc dài.
Dưỡng
Bạn thân của Tần, rất thích ca hát (đặc biệt là các bài dân ca như Trống cơm, Lý kéo chài, Ru con,...), nhưng do giọng ca không được kiềm chế nên được tác giả miêu tả là ''có sức công phá như bom nguyên tử'' (Tập 26: Tiết mục bất ngờ và tập 33. Họa mi một mình)
Hiền Hoà
Là người còn lại trong nhóm bạn thân của Tần. Thường bị thầy cô gọi nhầm với nhân vật Hiển Hoa. Là người có giọng ca hay nên được mệnh danh là hoạ mi trong ''Tam ca áo trắng''. Xuất hiện đặc biệt trong tập 33: Hoạ mi một mình.
Lâm
Thủ lĩnh băng "Tứ quậy" (Kể từ các tập mới nhất từ tập 48 - tập 54 thì trở thành "Tam quậy"), thích chọc phá bạn bè nhưng cũng có tấm lòng nhân hậu. Trái ngược với ''thi sĩ Bình Minh'' Quý ròm. Lâm tự xưng là ''Thi sĩ Hoàng hôn'' (Tập 15: Thi sĩ hạng ruồi). Danh xưng này cũng xuất hiện trong một số tập trong phần sau của truyện. Có cảm tình lần đầu với nhân vật Hải Ngọc (Tập 37: Lớp phó trật tự), nhưng rõ ràng nhất là với nhân vật Thủy Tiên (Tập 49: Bạn gái). Xuất hiện đặc biệt trong các tập 24: Giải thưởng lớn, tập 25. Hiệp sĩ ngủ ngày, tập 48: Kẻ thần bí và tập 49: Bạn gái.
Quốc Ân, Quới Lương, Hải quắn
Ba thành viên còn lại của nhóm "Tứ quậy" (khi chuyển qua học lớp 10, Quốc Ân học ở trường Thanh niên). Kể từ khi sang học cấp III, mỗi người có những chuyển biến trong suy nghĩ, thái độ học tập và tình bạn. Qưới Lương có cảm tình với nhân vật Vòng Ngọc Thạch Anh (Tập 53: Má lúm đồng tiền) và Hải quắn có cảm tình với nhân vật Quỳnh Như (Tập 42: Gia sư) trong tập cuối cùng 54: Cà phê áo tím.
Xuyến Chi, Vành Khuyên, Minh Vương
Lần lượt là Lớp trưởng, lớp phó văn thể mỹ và lớp phó trật tự trong lớp học của bộ ba Quý, Long, Hạnh khi còn học cấp II. (Khi lên cấp III, lớp phó trật tự đổi thành Minh Trung, lớp phó Văn thể mỹ thì trường Đức Trí không có chức vụ này.)
Lan Kiều, Cung, Kim Em, Cẩm Vân, Đỗ Lễ, Đặng Đạo
Những người bạn khác trong lớp của Long, Quý, Hạnh. Lan Kiều có tài năng về thơ phú, trong khi Cung là ''họa sĩ'' của lớp học. Các nhân vật còn lại cũng thường xuyên xuất hiện, tạo tình tiết cho truyện.
Duy Dương
Nhân vật xuất hiện trọn vẹn trong tập 31: Thằng thỏ đế. Bề ngoài là một thư sinh nhút nhát, bị băng "Tứ quậy" hiếp đáp nhưng thực ra lại là một người có võ nghệ cao cường và tấm lòng nghĩa hiệp.
Quỳnh Như, Quỳnh Dao
Quỳnh Như học cùng lớp với Long, Quý, Hạnh. Quỳnh Dao là em gái ruột của Quỳnh Như, xuất hiện ở tập 42: Gia sư và tập 54: Cà phê áo tím
Bá
Xuất hiện lần đầu trong tập 43: Khách sạn hoa hồng.
Bạn dưới quê Tiểu Long
Dế Lửa
Bạn của Long và Quý ở dưới quê, vốn là một người hiếu động, cả tin và háo danh, cậu đã từng xưng bá mình là "Thủ Lính Xóm Dưới" và thường hay bắt nạt trẻ con trong làng nhưng không vì vậy mà Dế Lửa bị mọi người căm ghét vì cậu cũng không kém phần tốt bụng, lém lỉnh và thậm chí là nhát gan.
Chuyển thể
Kính vạn hoa (phim truyền hình) sê ri phim truyền hình 2004-2008 |
Geisha (tiếng Nhật: 藝[芸]者 - Nghệ giả, nghĩa đen là "con người của nghệ thuật") là nghệ sĩ vừa có tài ca múa nhạc lại vừa có khả năng trò chuyện, là một nghệ thuật giải trí truyền thống của Nhật Bản.
Thời thế kỷ 18 và 19 đã có rất nhiều geisha. Ngày nay các geisha vẫn còn hoạt động, tuy nhiên số lượng ngày càng giảm.
Có nhiều nhầm lẫn, đặc biệt ở bên ngoài Nhật Bản, về bản chất của nghề geisha. Những nhầm lẫn đó coi Geisha là một hình thức mại dâm trá hình. Sự nổi tiếng của tiểu thuyết Hồi ức của một geisha (tiếng Anh: Memoirs of a Geisha) và bộ phim cùng tên càng làm những nhầm lẫn này trở nên phổ biến. Đúng là một số geisha thời cổ phải trải qua nghi thức mizuage (bán trinh tiết cho một người đàn ông trả giá cao nhất), nhưng nghi thức này là không bắt buộc, và nó cũng đã bị bãi bỏ từ lâu do Luật chống hoạt động mại dâm được Nhật Bản ban hành năm 1956. Công việc thông thường của một geisha là mua vui, nói chuyện tán tỉnh và đùa cợt khêu gợi (tuy nhiên được nghệ thuật hóa theo các cách truyền thống), nhưng họ không bao giờ có quan hệ tình dục (chỉ quan hệ tình cảm) với khách hàng. Geisha là một loại hình biểu diễn văn nghệ văn hoá lành mạnh, cao cấp, hoàn toàn không có hành vi bán dâm, dung tục, rẻ tiền, tức chỉ "mại nghệ, không mại dâm". Một số geisha có thể quyết định có quan hệ với một trong những nhà bảo trợ hoặc khách quen của mình, nhưng đó là khi họ ra ngoài và không còn biểu diễn với tư cách của một geisha (tương tự như việc có những diễn viên đi bán dâm khi không đóng phim, nhưng không thể vì thế mà chúng ta đánh đồng nghề diễn viên với mại dâm).
Geisha có vài nét tương đồng với ả đào trong văn hóa Việt xưa, hay sorikkun và kỹ sinh của văn hóa Triều Tiên hay nghệ kỹ trong văn hóa Trung Quốc.
Từ nguyên và các tên gọi
Từ "nghệ giả" được hình thành từ hai chữ gei (藝 nghệ) và sha (者 giả) xuất phát từ phương ngữ Tokyo, được các ngôn ngữ phương Tây tiếp nhận dưới dạng geisha. Tiếng Nhật chuẩn gọi là "nghệ kĩ", Geigi (藝妓, "nữ nghệ sĩ"), và họ được gọi theo phương ngữ Kansai (関西 Quan Tây) là "nghệ tử", Geiko (藝子). Geisha trong thời gian học việc được gọi là "bán ngọc", Han'gyoku (半玉) (tại Tōkyō) hay "vũ tử", Maiko (舞子), hoặc "vũ kĩ", Maigi (舞妓), (tại Kyoto).
Geisha, phát âm (gei- phát âm như gây), là thuật ngữ quen thuộc nhất đối với người nói tiếng Anh và cũng thường được sử dụng ở Nhật Bản.
Phát âm tiếng Anh (gei- phát âm như ghi), như trong nhóm từ geisha girl, mang nghĩa rộng là gái mại dâm. Điều này liên quan đến thời kỳ Hoa Kỳ chiếm đóng Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khi những phụ nữ trẻ cần tiền đã tự gọi mình là geisha và bán dâm cho lính Mỹ.
Ở Việt Nam, có người dịch geisha là "kỹ nữ Nhật". Tuy nhiên, cách dịch này dễ gây hiểu nhầm, vì trong tiếng Việt, từ "kỹ nữ" có ý chỉ phụ nữ hoạt động mại dâm . Có từ điển dịch geisha là "vũ nữ Nhật". Tuy nhiên, cách dịch này không chính xác vì múa chỉ là một trong các loại hình nghệ thuật truyền thống mà geisha biểu diễn. Ngoài ra, có ít người sử dụng cách dịch này..
Lịch sử và sự tiến hóa
Văn hoá Bushido đã góp phần đưa tới sự ra đời văn hoá Geisha. Võ sĩ đạo là một hệ thống luân lý đạo đức hoàn mỹ – một bộ giới luật bất thành văn mà người võ sĩ (samurai) phải tuân theo: ngay thẳng, quang minh chính đại, cao thượng, nghĩa hiệp... Là tầng lớp quý tộc Nhật, các samurai sống rất có văn hoá, lấy thi ca, nhã nhạc, thư pháp làm trò giải trí. Họ ưa được hưởng sự phục vụ từ phía nữ giới dưới hình thức văn hoá lành mạnh, phù hợp với tâm hồn võ sĩ, chứ không phải hình thức phục vụ tình dục. Nhu cầu giải trí tao nhã ấy dẫn tới sự ra đời của Geisha, chứ hoàn toàn không phải để thỏa mãn ham muốn tình dục.
Geisha khởi nguồn là những người giải trí chuyên nghiệp, ban đầu họ hầu hết là nam giới. Geisha sử dụng kỹ năng nghệ thuật truyền thống Nhật Bản, trong đó có âm nhạc, múa và kể chuyện. "Geisha thành phố" (machi geisha) hoạt động tự do tại các buổi tiệc bên ngoài các khu phố giải trí, trong khi các "geisha khu phố" (kuruwa geisha) làm giải trí cho khách trong các buổi tiệc trong các khu phố giải trí. Trong khi các kỹ năng nghệ thuật của gái điếm hạng sang suy giảm, thì kỹ năng của các geisha, cả nam lẫn nữ, trở nên được yêu cầu cao hơn.
Geisha nam (đôi khi được gọi là hōkan) đã dần dần suy giảm, và cho đến năm 1800, sô lượng các geisha nữ (ban đầu được gọi là onna geisha với nghĩa là "geisha nữ") đã gấp ba lần số geisha nam, và tên gọi geisha bắt đầu được hiểu với nghĩa như ngày nay là người phụ nữ làm nghề giải trí với trình độ cao.
Theo truyền thống, geisha bắt đầu được huấn luyện từ khi còn nhỏ. Một số cô gái đã được bán cho các nhà geisha từ khi còn là trẻ con và bắt đầu học nhiều thể loại nghệ thuật truyền thống gần như ngay lập tức.
Trong thời thơ ấu, giai đoạn đầu tiên, đôi khi geisha làm việc với vai trò người hầu gái hay người giúp việc cho các geisha có kinh nghiệm, và tiếp theo, trong giai đoạn huấn luyện là vai trò geisha học việc (maiko). Kiểu đào tạo này cũng tồn tại trong các truyền thống khác của Nhật Bản, khi học viên sống trong nhà, bắt đầu với việc làm việc nhà và giúp đỡ người thợ chính, và cuối cùng chính người đó sẽ trở thành một người thợ chính.
Theo truyền thống, geisha không được liên quan đến các hoạt động tình dục.
Geisha hiện đại
Các geisha hiện đại vẫn sống trong những ngôi nhà geisha truyền thống gọi là okiya tại các khu vực gọi là hanamachi (花街 - "hoa nhai" - khu phố hoa), đặc biệt trong thời gian học việc của họ. Tuy nhiên, nhiều geisha giàu kinh nghiệm lại chọn cách sống trong những căn hộ của chính mình. Thế giới thanh lịch và văn hóa cao mà các geisha là một phần trong đó được gọi là karyūkai (花柳界, "hoa liễu giới" - thế giới của hoa và liễu).
Hiện nay, những người phụ nữ trẻ muốn được trở thành geisha thường bắt đầu đợt đào tạo sau khi đã hoàn thành trung học cơ sở hay thậm chí trung học phổ thông hoặc đại học, nhiều người bắt đầu nghề nghiệp của họ khi đã ở tuổi trưởng thành. Geisha vẫn học những nhạc cụ truyền thống như shamisen, shakuhachi (sáo trúc), và trống, cũng như những bài hát truyền thống, múa cổ điển Nhật, trà đạo, ikebana (cắm hoa Nhật), văn học và thơ ca. Từ việc quan sát các geisha khác cùng với sự giúp đỡ của chủ nhà geisha, những người học việc cũng trở nên điêu luyện trong các truyền thống phức tạp xung quanh việc lựa chọn và mặc kimono, cũng như cách cư xử với khách hàng.
Ngày nay, Kyoto là nơi có truyền thống geisha còn lại mạnh nhất. Hai trong số các khu phố geisha truyền thống và danh tiếng nhất là Gion và Pontochō đều ở Kyoto. Geisha trong các khu phố này được gọi là geiko. Các "khu phố hoa" Shimbashi, Asakusa và Kagurazaka tại Tokyo cũng nổi tiếng.
Ở Nhật Bản hiện đại ngày nay, người ta hiếm khi nhìn thấy geisha và maiko. Vào năm 1920, tại Nhật Bản có trên 80 nghìn geisha, nhưng ngày nay chỉ còn dưới 1000 người. Tuy nhiên, các du khách đến khu Gion ở Kyoto rất dễ nhìn thấy một maiko đang trên đường đến hoặc về từ một cuộc hẹn.
Sự suy tàn của truyền thống geisha có nguyên nhân từ nền kinh tế ì trệ, sự suy giảm của mối quan tâm đến các loại hình nghệ thuật truyền thống, bản chất khó nhìn thấu được của thế giới hoa liễu, và chi phí cao cho việc được geisha giải trí.
Geisha thường được thuê để tham dự các buổi tiệc và tụ họp, theo truyền thống là tại các quán trà (茶屋, chaya) hoặc tại các nhà hàng Nhật Bản truyền thống (ryōtei). Thời gian làm việc của họ được đo theo thời gian một cây hương cháy hết, và được gọi là senkōdai (線香代, tuyến hương đại) hoặc gyokudai (玉代 ngọc đại - "giá ngọc"). Một từ khác để miêu tả chi phí là "ohana", hay phí hoa. Khách hàng thỏa thuận sắp xếp qua văn phòng hiệp hội geisha (検番 kenban), nơi quản lý lịch làm việc của từng geisha và sắp xếp các cuộc hẹn của cô trong cả việc huấn luyện lẫn tiếp khách.
Geisha và mại dâm
Vẫn có một số nhầm lẫn, đặc biệt ở bên ngoài Nhật Bản, về bản chất của nghề geisha. Vấn đề này đã bị làm cho thêm phần rắc rối bởi gái mại dâm Nhật, đặc biệt tại các bể tắm onsen, những người muốn lợi dụng hình ảnh nổi tiếng của geisha bằng cách tự quảng cáo dối trá với các khách du lịch (cả người Nhật và người nước ngoài) rằng mình là "geisha". Các miêu tả không chính xác về geisha trong văn hóa đại chúng phương Tây, chẳng hạn trong tiểu thuyết và bộ phim Hồi ức của một geisha (tiếng Anh: Memoirs of a Geisha), cũng góp phần gây ra các hiểu nhầm về geisha.
Theo truyền thống, geisha không được kết hôn (hoặc khi kết hôn thì phải kết thúc sự nghiệp), tuy việc họ có con không phải là chuyện đặc biệt. Mặc dù nhiệm vụ của geisha thường bao gồm cả tán tỉnh và đùa cợt khêu gợi (tuy được mã hóa theo các cách truyền thống), nhưng họ không bao giờ có quan hệ tình dục với khách hàng và không được trả tiền cho hoạt động đó. Tuy nhiên, một số geisha có thể quyết định quan hệ với một trong những nhà bảo trợ hoặc khách quen (patron) của mình bên ngoài thời gian làm việc với vai trò geisha. Và vì những mối quan hệ đó có liên quan đến việc một khách hàng có khả năng trả tiền để được hưởng các phục vụ truyền thống của một geisha, người ta có thể dễ hiểu lầm rằng đây chẳng qua chỉ là một hình thức mại dâm bị bóp méo.
Cũng theo truyền thống, một geisha đã được công nhận có thể có một danna, hay người bảo trợ. Một danna thường là một người đàn ông giàu có, đôi khi đã có gia đình, người có điều kiện tài trợ những khoản chi tiêu rất lớn cho việc huấn luyện truyền thống và các chi phí đáng kể khác. Ngày nay, việc này đôi khi cũng xảy ra.
Mặc dù một geisha và người bảo trợ của mình có thể yêu nhau, nhưng theo tục lệ, mối quan hệ này phụ thuộc vào khả năng cung cấp tài chính của người bảo trợ cho geisha. Các truyền thống và giá trị bên trong quan hệ này rất phức tạp và khó hiểu, ngay cả đối với nhiều người Nhật.
Ngoại hình
Ngoại hình của một geisha thay đổi theo nghề nghiệp, từ kiểu trang điểm trẻ trung, đậm của một maiko, cho đến diện mạo được trang điểm trầm hơn của một geisha lớn tuổi và đã có tiếng.
Trang điểm
Ngày nay, việc trang điểm truyền thống của một geisha tập sự là một trong những nét đặc trưng có thể nhận ra họ, tuy nhiên, chỉ trong các buổi trình diễn đặc biệt, các geisha từng trải nói chung vẫn được trang điểm với bộ mặt dày lớp phấn trắng mà tạo nên tính cách của maiko.
Trang điểm truyền thống của một geisha tập sự bao gồm một lớp phấn nền dày, màu trắng với son môi màu đỏ và phần sắc đỏ và đen quanh mắt và lông mày.
Việc trang điểm này khó có thể đạt đến sự hoàn hảo và là một quá trình bị chi phối bởi thời gian. Trang điểm được thực hiện trước khi mặc trang phục để tránh làm bẩn bộ kimono. Đầu tiên, một ít sáp ong hoặc dầu, được gọi là bintsuke-abura, được bôi lên da. Tiếp theo, phấn trắng được trộn với một ít nước để tạo thành một hỗn hợp sền sệt và được bôi lên mặt với một cây cọ được làm từ tre. Lớp phấn trắng này sẽ bao phủ khắp mặt, cổ, ngực và đôi bàn tay, và để lại hai hoặc ba vùng tối (vùng có dạng hình chữ "W" hoặc "V") bên trái gáy, để làm nhấn mạnh vùng gợi dục truyền thống, và có chừa lại một đường viền không đánh xung quanh chân tóc, đường này tạo nên cảm giác "mặt nạ" của khuôn mặt sau khi trang điểm.
Sau khi đã phủ xong lớp phấn nền, một miếng bọt biển sẽ được sử dụng để dặm cho phấn đều khắp mặt, cổ, ngực và gáy để làm mất độ ẩm dư thừa và lớp phấn được mịn. Tiếp theo, phần mắt và lông mày được vẽ lại. Bút chì than truyền thống được sử dụng để vẽ mắt, nhưng ngày nay, người ta sử dụng các dụng cụ trang điểm hiện đại. Lông mày và các viền mắt được tô màu đen; một maiko thường tô một màu đỏ quanh mắt.
Người ta sử dụng một cây cọ nhỏ để tô đôi môi. Màu đỏ để tô lấy từ một ống nhỏ, màu có thể tan trong nước. Đường kết tinh sau đó được cho thêm vào để đôi môi được bóng hơn.
Trong ba năm đầu tiên, một maiko luôn phải trang điểm dày như thế này. Trong giai đoạn khởi đầu của mình, maiko sẽ được một "người chị" giúp đỡ phần trang điểm (một geisha kinh nghiệm sẽ cố vấn cho cô) hoặc "mẹ" (okami) của ngôi nhà mà geisha đang ở và tập sự. Dần dần, maiko sẽ tự trang điểm lấy cho bản thân.
Sau khi geisha đã làm việc được ba năm, cô sẽ thay đổi trang điểm sang phong cách dịu hơn. Lý do cho việc làm này là cô đã trở thành một geisha thuần thục, và kiểu trang điểm đơn giản sẽ cho thấy nét đẹp tự nhiên của cô. Trong một vài buổi tiệc trang trọng các geisha thuần thục sẽ vẫn trang điểm kiểu lớp phấn trắng dày. Đối với các geisha trên ba mươi tuổi, việc trang điểm dày chỉ được thực hiện khi biểu diễn múa đặc biệt vì tính chất buổi diễn đòi hỏi như vậy.
Trang phục
Geisha thường xuyên mặc kimono. Geisha tập sự mặc bộ kimono có nhiều màu sắc với nơ lưng (obi) rất to. Geisha lớn tuổi hơn mặc trang phục với kiểu dáng và hoa văn dịu nhẹ hơn.
Màu sắc, hoa văn và kiểu kimono cũng phụ thuộc vào mùa trong năm và sự kiện mà geisha tham dự. Vào mùa đông, bên ngoài áo kimono, geisha có thể khoác một chiếc áo choàng có chiều dài khoảng bằng 3/4 so với kimono, áo choàng này được lót bằng lớp vải lụa có hoa văn vẽ bằng tay. Áo kimono có trần thêm vải lót sẽ được mặc khi thời tiết lạnh hơn, còn áo không trần được mặc vào mùa hè. Để may một chiếc kimono có thể cần đến 2 hoặc 3 năm do phải thêu và vẽ lên vải.
Khi ra ngoài, geisha đi dép có đế phẳng zori, còn khi ở nhà chỉ đi tabi (tất chân có sẻ ngón màu trắng). Vào lúc thời tiết khắc nghiệt, geisha sẽ đi một đôi guốc bằng gỗ, được gọi là geta. Maiko thường đi đôi guốc gỗ được sơn màu đen, gọi là okobo
Kiểu tóc
Kiểu tóc của geisha đã thay đổi nhiều qua các thời kỳ lịch sử. Trong quá khứ, có thời kỳ phụ nữ thường để xoã tóc, có thời kỳ họ lại vấn tóc lên. Trong thế kỷ 17, những người phụ nữ lại bắt đầu cột tóc lên lần nữa và trong thời gian này đã phát triển kiểu tóc truyền thống shimada - một dạng của kiểu tóc chignon mà đa số geisha thực thụ sử dụng.
Có bốn loại kiểu tóc shimada chính: kiểu taka shimada, kiểu này thường có búi tóc cao, được những cô gái trẻ, chưa chồng sử dụng; kiểu tsubushi shimada, có búi tóc thấp hơn được những người phụ nữ nhiều tuổi hơn sử dụng; kiểu uiwata, kiểu tóc có búi tóc được vấn với một mảnh vải bông màu; và kiểu tóc mà được chia múi tương tự như quả đào, chỉ được các maiko sử dụng.
Các kiểu tóc được trang điểm cầu kỳ với lược và trâm. Vào thế kỷ 17 và thời kỳ sau cải cách Minh Trị, những chiếc lược khá to và dễ thấy, nói chung là với phụ nữ thuộc tầng lớp càng cao thì kiểu dáng lược càng lộng lẫy hơn. Sau thời kỳ cải cách Minh Trị và đến giai đoạn hiện đại, những chiếc lược nhỏ hơn và ít lộ liễu hơn đã trở nên thông dụng hơn.
Trước đây, các geisha đã được huấn luyện việc ngủ không dùng gối mà chỉ kê gáy lên một cái kệ nhỏ (takamakura), để họ có thể giữ cho kiểu tóc của mình được hoàn hảo sau giấc ngủ. Để rèn luyện thói quen này, những người hướng dẫn của họ rắc gạo quanh cái kê gáy. Nếu trong khi ngủ, đầu của geisha lăn khỏi kệ, những hạt gạo sẽ dính vào tóc và mặt họ.
Nhiều geisha hiện đại sử dụng tóc giả trong cuộc sống chuyên nghiệp của họ. Các bộ tóc giả đó phải được bảo dưỡng định kỳ bởi các nghệ nhân có kỹ năng cao. Làm tóc theo kiểu truyền thống là một nghệ thuật đang lụi tàn dần.
Geisha trong văn hóa đại chúng
Sự quan tâm ngày càng cao đối với geisha và ngoại hình đặc biệt của họ đã khơi lên nhiều hiện tượng văn hóa đại chúng ở cả Nhật Bản và phương Tây. Gần đây nhất là phong cách trang điểm "kiểu geisha" đã được đề xướng sau thành công và sự nổi tiếng của tiểu thuyết "Hồi ức của một geisha" (Memoirs of a Geisha) và bộ phim cùng tên.
Năm 1999, ca sĩ Mỹ Madonna đã xuất hiện trong video âm nhạc Nothing Really Matters trong trang phục kiểu geisha với bộ áo giống một chiếc kimono và trang điểm rất đậm với phấn nền màu trắng.
Hình ảnh |
Vụ PMU 18 (PMU viết tắt theo tiếng Anh cho Project Management Unit, có nghĩa là Đơn vị quản lý dự án), là một vụ bê bối liên quan đến tham nhũng trong Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) đầu năm 2006. Vụ này đã gây xôn xao dư luận tại Việt Nam cũng như các nước và tổ chức cung cấp viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam , đã khiến Bộ trưởng Bộ GTVT Đào Đình Bình phải từ chức và Thứ trưởng Thường trực Nguyễn Việt Tiến bị bắt giam.
Cũng liên quan đến vụ việc này, có thêm nhiều quan chức cấp cao khác bị tố cáo tham gia chạy án cho các bị can. Trong đó phải kể đến Thiếu tướng công an Cao Ngọc Oánh (Tổng cục Phó Tổng cục Cảnh sát Nhân dân, Thủ trưởng cơ quan điều tra Bộ Công an) và ông Nguyễn Văn Lâm (Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ). Chính vì việc này mà ông Cao Ngọc Oánh mất cơ hội vào Trung ương cũng như thăng chức lên Thứ trưởng Bộ Công an. Dư luận nghi ngờ đây là cuộc "đấu đá nội bộ". Sau khi lên làm Thủ tướng, Nguyễn Tấn Dũng đã yêu cầu 2 nhân vật này không giữ các vị trí quan trọng khi công tác điều tra đang diễn ra. Đến cuối tháng 1 năm 2007, cơ quan điều tra mới khẳng định ông Cao Ngọc Oánh không liên quan tới việc chạy án.
Sau thời gian 18 tháng điều tra, cơ quan công an đã truy tố Bùi Tiến Dũng và 5 thuộc cấp, miễn truy tố trách nhiệm hình sự đối với ông Nguyễn Việt Tiến, đồng thời khởi tố một số nhà báo và các cảnh sát viên điều tra vụ án này.
Bối cảnh và diễn biến
Đầu tháng 1 năm 2006, Bùi Tiến Dũng, Tổng Giám đốc Ban Quản lý Các Dự án PMU-18 bị bắt giữ và cáo buộc đã cá độ bóng đá với số tiền trên 1,8 triệu đô la cho đường dây cá độ Bùi Quang Hưng. Ông bị tố cáo đã dùng tiền thắng để bao gái. Công an đã tìm thấy tài liệu trong máy tính của đơn vị cho thấy trên 200 nhân viên đã tham gia cá độ.
PMU-18 nguyên là một đơn vị đặt ra từ năm 1993 để điều hành một số dự án xây cất cầu cống cho Bộ Giao thông Vận tải. Trong thời gian 13 năm từ 1993 đến 2006, đơn vị này quản lý khoảng 2 tỷ đô la do Ngân hàng Quốc tế (World Bank), Nhật Bản và một số quốc gia Âu châu tài trợ và nhà nước Việt Nam góp vốn. Một số tờ báo lớn như An ninh Thủ đô, Tuổi trẻ, và Thanh niên đều loan tin vụ cá độ cực lớn bằng tiền công quỹ và còn đặt nghi vấn về cựu tổng giám đốc của PMU-18 là Nguyễn Việt Tiến, lúc bấy giờ đã thăng chức làm thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải, có dính líu về vụ nhũng lạm tài chính này không.
Ngày 4 Tháng Tư thì Nguyễn Việt Tiến bị công an bắt nhưng vì cáo trạng lạm quyền khác: lấy xe của công dùng cho việc tư, chấp thuận việc xây một đoạn đường sáu cây số để tư lợi cho gia đình, và trong khi giám sát việc cất một cây cầu mà đã cố ý bội chi hơn hai Mỹ kim.
Ngày 13 Tháng Tư, báo Tiền phong đăng tin là năm ngày trước khi Bùi Tiến Dũng bị bắt, một buổi tiệc tại khách sạn Melia, Hà Nội do người của ông Dũng dàn xếp đã mời Đoàn Mạnh Giao, người điều hành văn phòng thủ tướng; Nguyễn Văn Lâm, phụ tá văn phòng thủ tướng; và Thiếu tướng công an Cao Ngọc Oánh, thủ trưởng cơ quan điều tra Bộ Công an đến gặp để nói chuyện nhưng có lẽ để chạy án.
Ngày 16 Tháng Tư báo Thanh niên tiết lộ là 40 quan chức nhà nước cũng đã nhận hối lộ để ém nhẹm vụ vỡ lở. Quan sát viên ngoại quốc thì cho là những viên chức cao cấp nhất có thể bị liên lụy vì Đặng Hoàng Hải, một người thân cận với Bùi Tiến Dũng cũng là con rể của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh.
Trong khi báo chí còn đang sốt sắng loan tin về vụ PMU-18 thì Tháng Tư năm 2006 cũng là lúc Đảng Cộng sản Việt Nam nhóm họp kỳ đại hội đảng nhưng khi đại hội kết thúc thì có lệnh ngưng không cho báo chí đăng thêm tin tức về PMU-18 nữa mà chuyển sang những bài báo về chính sách chống tham nhũng của nhà nước.
Điều tra - xét xử
Sau 18 tháng điều tra, nguyên thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Việt Tiến đã được miễn trách nhiệm hình sự và khôi phục sinh hoạt Đảng vào ngày 7 tháng 5 năm 2008, còn Bùi Tiến Dũng và năm thuộc cấp bị truy tố lần lượt về hành vi "cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng" và "tham ô tài sản". Dũng lãnh án 13 năm tù (sáu năm vì tội cá độ, bảy năm vì nhận hối lộ). Bảy người khác cũng bị kết án tù. Tòa án kết luận là Cao Ngọc Oánh không liên hệ gì đến vụ chạy án.
Diễn biến sau phiên tòa và hậu quả đến truyền thông
Sai sự thật trong quá trình điều tra
Một thời gian sau khi vụ án được tuyên bố kết thúc, cơ quan điều tra đã bắt tạm giam và khám xét nơi ở và nơi làm việc của hai nhà báo kỳ cựu chuyên viết mảng nội chính của Báo Tuổi trẻ và Báo Thanh niên về tội "lợi dụng chức vụ và quyền hạn trong khi thi hành công vụ" (điều 281 Bộ luật Hình sự nằm trong mục A chương XXI về các "Tội phạm tham nhũng") trong việc đưa tin bài về vụ tham nhũng tại Ban quản lý các dự án 18 (PMU 18). Phóng viên Nguyễn Việt Chiến (báo Thanh Niên) bị phạt án 2 năm tù, còn Nguyễn Văn Hải (báo Tuổi Trẻ) bị phạt mức 24 tháng cải tạo không giam giữ .
Ngoài ra, thiếu tướng Phạm Xuân Quắc nguyên Cục trưởng Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội (C14), Bộ Công an, nguyên Phó thủ trưởng cơ quan cảnh sát điều tra, cùng với cấp dưới của mình, cũng bị khởi tố về tội "Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ" theo điều 281 Bộ luật Hình sự vào ngày 13 tháng 5 năm 2008.
Sự kiện liên quan
Ngày 1 tháng 8 năm 2008, Thứ trưởng Bộ Thông tin Truyền thông Đỗ Quý Doãn đã ký quyết định thu hồi thẻ nhà báo của 7 cán bộ, phóng viên có vi phạm nghiêm trọng, trong đó có Nguyễn Quốc Phong, Phó tổng biên tập báo Thanh Niên, Bùi Văn Thanh, Phó tổng biên tập báo Tuổi Trẻ, Huỳnh Kim Sánh, Tổng Thư ký tòa soạn báo Thanh Niên, ông Dương Đức Đà Trang, Trưởng Văn phòng đại diện báo Tuổi Trẻ TP HCM tại Hà Nội, phóng viên Nguyễn Việt Chiến (báo Thanh Niên), và phóng viên Nguyễn Văn Hải (báo Tuổi Trẻ), với lý do họ vi phạm các Điều 7, Điều 10 và Điều 15 của Luật Báo chí Việt Nam, cụ thể là "đã trực tiếp viết, biên tập, duyệt đăng các tin bài về vụ PMU 18, trong đó có những thông tin sai sự thật nghiêm trọng"
Nguyên thứ trưởng Nguyễn Việt Tiến, người vừa được "trắng án" trong vụ PMU 18, đã được khôi phục tư cách đảng viên ngày 7 tháng 5 nhưng đến ngày 12 tháng 8, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã họp xét kỷ luật ông, cách chức hết các chức vụ trong Đảng, yêu cầu Thủ tướng Chính phủ cách chức Thứ trưởng Bộ Giao thông - Vận tải đối với ông Nguyễn Việt Tiến.
Tháng 8/2008, Masayoshi Taga, cựu chủ tịch công ty Pacific Consultants International (PCI) của Nhật và ba quan chức đồng nhiệm đã bị nhà chức trách Nhật bắt vì bị tình nghi đã hối lộ 2 lần tổng cộng 820.000 đôla trong tháng 12/2003 và tháng 8/2006 cho người đứng đầu ban quản lý phụ trách giao thông công chính ở TP HCM và Ban Quản lý PMU Đông-Tây. Theo báo Yomiuri Shimbun, ông Masayoshi Taga đã cáo buộc ban Quản lý dự án PMU tại TP HCM đòi 15% tiền hoa hồng để đổi lấy việc trao thầu tư vấn cho PCI trong hai dự án tám năm trước. Báo chí Nhật cũng cho rằng sự kiện này có thể chỉ là "phần nổi của tảng băng" hối lộ và nghi ngờ tính hiệu quả trong việc sử dụng nguồn vốn viện trợ phát triển (ODA) của Việt Nam. Chính phủ Việt Nam thì cho rằng truyền thông báo chí không nên đưa tin về vụ Công ty Nhật hối lộ quan chức Việt Nam khi sự việc chưa ngã ngũ.
Ngày 11 tháng 7 năm 2009, bị can Phạm Tiến Dũng, 36 tuổi, nguyên trưởng phòng kinh tế - kế hoạch PMU 18 đã bất ngờ đột tử trong trại giam. Ông Dũng bị tạm giam từ 3/3/2006 vì tình nghi liên quan tiêu cực tại PMU 18, gồm vụ tham ô tại dự án cầu Bãi Cháy và sai phạm trong quản lý tại PMU 18.
Đề cập trong tác phẩm điện ảnh
Vụ án này được nói sơ qua trong phim truyền hình Chạy án 2.
Chú thích |
Kính vạn hoa, hay kiếng vạn hoa, có thể chỉ đến:
Đồ chơi kính vạn hoa
Truyện thiếu nhi Kính vạn hoa (Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh)
Phim thiếu nhi Kính vạn hoa (dựa trên bộ truyện) (Hãng phim TFS). |
Chi Cam chanh (danh pháp khoa học: Citrus) là một chi thực vật có hoa trong họ Cửu lý hương (Rutaceae), có nguồn gốc từ khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới ở đông nam châu Á. Các loại cây trong chi này là các cây bụi lớn hay cây thân gỗ nhỏ, cao tới 5–15 m tùy loại, với thân cây có gai và các lá thường xanh mọc so le có mép nhẵn. Hoa mọc đơn hay thành cụm hoa nhỏ, mỗi hoa có đường kính 2–4 cm với 5 (ít khi 4) cánh hoa màu trắng và rất nhiều nhị hoa. Hoa thông thường có mùi thơm rất mạnh. Quả là loại quả có múi, một dạng quả mọng đặc biệt, hình cầu hay cầu thuôn dài, chiều dài 4–30 cm và đường kính 4–20 cm, bên trong quả khi bóc lớp vỏ và cùi sẽ thấy lớp vỏ mỏng, dai, màu trắng bao quanh các múi bên trong chứa nhiều tép mọng nước. Chi này có vai trò quan trọng về mặt thương mại do nhiều loài (hoặc cây lai ghép) được trồng để lấy quả. Quả được ăn tươi hay vắt, ép lấy nước.
Quả của chi Citrus đáng chú ý vì mùi thơm của chúng, một phần là do các terpen chứa trong lớp vỏ, và chủ yếu là do nó chứa nhiều nước. Nước quả có hàm lượng axít citric cao, tạo ra hương vị đặc trưng của chúng. Chúng cũng là nguồn cung cấp vitamin C và các flavonoit đáng chú ý.
Sự phân loại nội bộ trong chi này rất phức tạp và hiện nay người ta vẫn không biết chính xác số lượng loài có nguồn gốc tự nhiên, do nhiều loài được coi là có nguồn gốc lai ghép. Các loại cây trong chi Citrus được trồng có thể là con cháu của chỉ 4 loài tổ tiên. Hiện nay có hàng loạt các loại cây lai ghép tự nhiên hay do con người nuôi trồng, bao gồm nhiều loại quả có giá trị thương mại như cam ngọt, chanh vàng, bưởi chùm, chanh ta, quýt, bưởi v.v. Các nghiên cứu gần đây cho rằng các chi có quan hệ họ hàng gần như Fortunella, và có lẽ cả Poncirus, Microcitrus, Eremocitrus, cần được gộp lại trong chi Citrus.
Nuôi trồng
Do các loại cây trong chi Citrus rất dễ dàng trong việc lai ghép (ví dụ cây chanh ta có thể dễ dàng sinh ra quả giống như quả bưởi chùm), nên tất cả các loại cây trồng thương mại trong chi này hầu như đều sử dụng các cây được tạo ra nhờ chiết, ghép cành để tạo ra các giống trên các cây chủ (thân rễ) được chọn lọc để nâng cao tính đề kháng trước sâu bệnh.
Màu đặc trưng (vàng, da cam) của quả các loại cây trong chi này chỉ có thể được tạo ra trong những khu vực có mùa đông mát mẻ. Trong các khu vực cận kề xích đạo và không có mùa đông thì quả của chúng vẫn giữ màu xanh cho đến cả khi chín, vì thế người ta mới có những quả cam (có vỏ) màu xanh mà không phải màu da cam. Các loại chanh ta đặc biệt nhạy cảm với các điều kiện mát lạnh, vì thế do không tiếp xúc với điều kiện đủ lạnh nên nó không thể phát triển màu vàng của quả. Nếu nó được trồng trong khu vực có mùa đông mát lạnh thì vỏ quả sẽ dần dần đổi sang màu vàng. Nhiều loại quả trong chi này được thu hái khi còn xanh và chúng sẽ chín trên đường vận chuyển tới của hàng.
Các loại cam, chanh nói chung không chịu được điều kiện giá rét. Citrus reticulata có lẽ là loài chịu rét tốt nhất và nó có thể chịu được nhiệt độ tới -10 °C trong thời gian ngắn, nhưng trên thực tế nó cần nhiệt độ không dưới -2 °C để có thể phát triển được [1]. Một số giống lai ghép có thể chịu được nhiệt độ dưới -0 °C khá tốt nhưng cũng không thể tạo ra quả có chất lượng. Một loài có họ hàng, cam ba lá hay cam đắng Trung Quốc (Poncirus trifoliata) có thể chịu được nhiệt độ dưới -20 °C [2]; quả của nó đắng và không thể ăn được nếu như không được chế biến.
Các loại cây trong chi này ưa các điều kiện môi trường nhiều nắng, ẩm ướt với đất tốt và lượng mưa hay lượng nước tưới đủ lớn. Mặc dù có tán lá rộng, nhưng chúng là cây thường xanh và không rụng lá theo mùa, ngoại trừ khi bị ép. Chúng nở hoa vào mùa xuân và tạo quả chỉ một thời gian ngắn sau đó. Quả bắt đầu chín vào mùa thu hay đầu mùa đông, phụ thuộc vào các giống được trồng, cũng như gia tăng độ ngọt sau đó. Một vài giống quýt chín vào mùa đông. Một vài giống, chẳng hạn bưởi chùm, cần tới 18 tháng để quả có thể chín.
Các khu vực chính trồng các loại cây cam, chanh ở mức độ thương mại là miền nam Trung Quốc, khu vực ven Địa Trung Hải, Nam Phi, Australia, khu vực cực miền nam của Hoa Kỳ và một phần Nam Mỹ. Tại Hoa Kỳ thì Florida, Texas và California là các khu vực sản xuất chính, trong khi các bang khác dọc theo miền nam Hoa Kỳ cũng có trồng ở quy mô nhỏ.
Các loại cây cam, chanh cũng đã được trồng trong chậu và được che phủ về mùa đông là một đặc trưng của các nhà vườn thời Phục sinh, kể từ khi công nghệ sản xuất thủy tinh đã phát triển đủ mạnh để có thể sản xuất kính có độ trong suốt thích hợp. Các vườn cam tại cung điện Louvre vào khoảng năm 1617, đã truyền cảm hứng cho các vườn mô phỏng nó và không bị lu mờ đi cho đến tận khi người ta nghĩ ra nhà kính hiện đại hơn vào thập niên 1840. Vườn cam là một đặc trưng của các nơi ở của tầng lớp quý tộc châu Âu trong suốt thế kỷ 17 và 18. Tại Hoa Kỳ thì vườn cam còn tồn tại có sớm nhất là tại Tayloe House, Mount Airy, Virginia.
Một số những người đam mê vẫn còn trồng các loại cam, chanh lùn trong chậu hay nhà kính tại những khu vực có khí hậu quá lạnh để có thể trồng chúng trong vườn. Khí hậu thích hợp, đủ nắng và tưới nước thích hợp là điều cơ bản để cây có thể phát triển và ra quả. Đối với những khu vực rét lạnh, chanh ta hay chanh vàng đều không thể trồng, do chúng rất nhạy cảm với giá rét hơn là các loại cây khác. Quýt, quất, cam đắng có thể trồng ngoài vườn ngay cả những khu vực có nhiệt độ mùa đông dưới 0 °C, mặc dù điều này có thể ảnh hưởng tới chất lượng quả. Các giống lai với quất vàng (hay kim quất - chi Fortunella) có sức chống chịu lạnh tốt.
Sâu hại và bệnh tật
Citrus dễ bị nhiễm bệnh bởi các loài rệp (siêu họ Aphidoidea), tí thân trắng (họ Aleyrodidae) và rệp sáp (siêu họ Coccoidea). Lá cũng bị ấu trùng của một số loài bướm thuộc bộ Cánh vẩy (Lepidoptera) ăn, như Hemithea aestivaria, Gymnoscelis rufifasciata, Ecpantheria scribonia, Hypercompe eridanus, Hypercompe icasia và Hypercompe indecisa.
Sử dụng
Nhiều loại quả trong chi này, như cam, quýt, bưởi chùm và cam clement, nói chung được ăn tươi. Nói chung vỏ của chúng dễ bóc bằng tay và dễ dàng tách các múi. Quả của bưởi chùm và bưởi phải bóc vỏ bằng dao trước khi ăn. Nước cam và bưởi chùm là những đồ uống phổ biến khi ăn sáng. Những loại quả chua hơn như chanh vàng và chanh xanh nói chung ít được ăn trực tiếp. Nước chanh thường phải thêm đường vào để bớt chua trước khi uống. Chanh cũng được dùng làm gia vị trong nhiều món ăn. Người ta cũng làm mứt từ cam hay chanh.
Quả Cam đường dùng để ăn có nhiều tác dụng; lại được dùng làm thuốc giải nhiệt, trị sốt, điều trị chứng xuất tiết và giúp ăn ngon miệng. Ở Ấn Độ, dịch quả cũng được dùng trong bệnh đau về mật và ỉa chảy ra mật. Vỏ quả cam có thể dùng thay vỏ quýt nhưng tác dụng kém hơn, làm thuốc kích thích tiêu hóa, chữa đau bụng, đầy bụng, ợ chua, đi ngoài. Ta còn dùng vỏ cam chữa bệnh sau khi đẻ bị phù. vỏ tươi dùng xát vào mặt làm thuốc điều trị mụn trứng cá. Lá cam dùng chữa tai chảy nước vàng hay máu mủ. Hoa Cam thường dùng cất tinh dầu và nước cất hoa cam dùng pha chế thuốc. Chỉ ăn toàn cam trong ba ngày liền có tác dụng như một liều thuốc tẩy độc rất tốt. Uống nước vỏ cam nấu chín có tác dụng kính thích nội tiết nước mật, làm tăng nhu động ruột, chống bệnh táo bón.[3]
Các loài, giống, thứ
nhỏ|phải|Quả chanh vàng
Citrus amblycarpa (đồng nghĩa: Citrus × limonellus thứ amblycarpa: quýt ta
Citrus annamensis: cam hôi
Citrus assamensis (đồng nghĩa: Citrus pennivesiculata thứ assamensis):
Citrus × aurantiifolia (đồng nghĩa: Citrus medica thứ acida, Citrus acida, Citrus lima, Citrus medica thứ acida, Citrus × aurantium aurantifolia, Citrus × aurantium thứ aurantifolia, Citrus hystrix acida: chanh ta
Citrus × aurantiifolia thứ aromatica
Citrus × aurantiifolia thứ italica.
Citrus × aurantiifolia thứ lumia (đồng nghĩa: Citrus lumia): chanh Pháp
Citrus × aurantium (đồng nghĩa: Citrus × aurantium amara, Citrus × aurantium aurantium): cam đắng, cam chua, toan đăng
Citrus × aurantium bergamia (đồng nghĩa: Citrus × aurantium thứ bergamia, Citrus bergamia): cam Bergamot
Citrus × aurantium thứ amara (đồng nghĩa: Citrus × aurantium thứ daidai, Citrus daidai, Citrus × aurantium giống 'Daidai': hoa đại đại
Citrus × aurantium thứ bigaradia (đồng nghĩa: Citrus bigarradia, Citrus bigaradia, Citrus vulgaris: cam Bigarade.
Citrus × aurantium thứ cyathifera (đồng nghĩa: Citrus rokugatsu):
Citrus × aurantium thứ myrtifolia (đồng nghĩa: Citrus myrtifolia): cam Chinotto, cam lá sim, cam cảnh.
Citrus × aurantium giống 'Seville thô': cam Seville, cam Tây Ban Nha.
Citrus × aurantium giống 'Seville trơn': cam Seville da trơn
Citrus depressa (đồng nghĩa: Citrus oto, Citrus reticulata hybrid: chanh Hirami, chanh vỏ thô, chanh lõm, nhan
Citrus depressa thứ semi-inflata: chanh vỏ thô
Citrus depressa thứ voangasay (đồng nghĩa Citrus vangasay)
Citrus genshokan
Citrus glaberrima: cam vỏ lụa.
Citrus grandis (đồng nghĩa: Citrus maxima): bưởi chùm Thái Lan.
Citrus grandis giống 'Szechipow':
Citrus grandis thứ pinshanyu (đồng nghĩa: Citrus grandis giống 'Pinshanyu': quýt Bình Sơn
Citrus grandis thứ pyriformis (đồng nghĩa: Citrus grandis giống 'Shatinyu': quýt đất cát, bưởi dạng lê
Citrus grandis thứ shangyuan: (đồng nghĩa: Citrus wilsonii: chanh hương viên
Citrus grandis thứ tomentosa: (đồng nghĩa: Citrus grandis giống 'Huajuhong': quýt Hóa Châu
Citrus grandis thứ wentanyu: (đồng nghĩa: Citrus grandis giống 'Wentanyu': quýt Văn Đán
Citrus hanaju
Citrus hassaku: cam Hassaku
Citrus hystrix: (đồng nghĩa: Citrus torosa, Citrus hystrix, Papeda hystrix): chanh Kaffir, chanh sác, trấp, trúc
Citrus ichangensis: chanh Nghi Xương
Citrus iyo: cam iyo
Citrus inflata:
Citrus jambhiri: chanh vỏ thô
Citrus junos: quýt Yuzu
Citrus kotokan: cam đầu hổ, bưởi đầu hổ
Citrus kizu: kizu
Citrus × latifolia: (đồng nghĩa: Citrus aurantiifolia thứ latifolia, Citrus aurantiifolia thứ tahiti: chanh không hạt, chanh tứ quý.
Citrus latipes: (đồng nghĩa: Citrus ichangensis latipes, Citrus × aurantium ichangensis thứ latipes: chanh Khasi.
Citrus × limon: (đồng nghĩa: Citrus medica limon, Citrus × limonum, Citrus × limonum thứ vulgaris, Citrus medica thứ limon, Citrus medica thứ limonum): chanh vàng.
Citrus × limon giống 'Eureka': chanh Eureka, chanh Ý, chanh Mỹ.
Citrus × limon giống 'Lisbon': chanh Lisboa, chanh Bồ Đào Nha.
Citrus × limon thứ variegata: chanh thịt trắng, chanh thịt hồng
Citrus limonum thứ pusilla: chanh nhỏ Ai Cập
Citrus limetta: chanh ngọt Địa Trung Hải, chanh ngọt
Citrus limettoides: chanh ngọt Ấn Độ, chanh ngọt Brasil.
Citrus limonellus
Citrus limonia: (đồng nghĩa: Citrus limonelloides, Citrus limunum, Citrus medica thứ limonum: chanh kiên, chanh Hà Nội, chanh Quảng Tây.
Citrus limonia thứ gaoganensis: chanh Gaogan
Citrus limonia thứ hainanensis: chanh Hải Nam
Citrus limonia thứ khatta: cam Khatta
Citrus limonia thứ otaitensis: cam Otahite
Citrus limonia thứ rangpur: (đồng nghĩa: Citrus reticulata thứ austera): chanh Rangpur
Citrus limonia giống 'Volkameriana': (đồng nghĩa: Citrus volkameriana): chanh Volkamer
Citrus limonimedica: (đồng nghĩa: Citrus medica bajoura, Citrus medica thứ ethrog, Citrus medica giống 'Ethrog'): thanh yên, thanh yên Bajoura, thanh yên Israel, thanh yên Ethrog
Citrus longilimon: chanh quả dài, chanh Assam.
Citrus macrophylla: chanh lá to.
Citrus macroptera: (đồng nghĩa: Citrus papuana, Citrus × aurantium saponacea): cam Melanesia
Citrus macroptera thứ annamensis: (đồng nghĩa: Citrus combara): cam núi.
Citrus macroptera thứ kerrii: (đồng nghĩa: Citrus kerrii)
Citrus madurensis: (đồng nghĩa: Citrus microcarpa, Citrus mitis, Citrus mitis thứ microcarpa): cam Trung Quốc, quýt bốn mùa, cam Panama, chanh Kalamansi, chanh vàng
Citrus maxima: (đồng nghĩa: Citrus grandis, Citrus decumana, Citrus grandis thứ grandis, Aurantium maximum, Citrus × aurantium thứ grandis, Citrus decumana (không hợp lệ)): bưởi
Citrus medica: (đồng nghĩa: Citrus medica thứ cedrata, Citrus medica thứ medica): cẩu duyên, hương duyên, chỉ xác (quả)
Citrus medica giống ' Palestin': Thanh yên Palestin.
Citrus medica bajoura (đồng nghĩa: Citrus × limonimedica)
Citrus medica thứ dulcis: (đồng nghĩa: Citrus × limonum thứ dulcis): cam núi Trung Quốc, cam ngọt Trung Quốc.
Citrus medica thứ sarcodactylis: (đồng nghĩa: Citrus medica thứ digitata): phật thủ
Citrus natsudaidai: quýt đắng Nhật Bản
Citrus oto: cam vàng
Citrus paratangerina: quýt Ladu
Citrus pennivesiculata
Citrus ponki
Citrus pseudogulgul
Citrus pseudo-sunki
Citrus pyriformis: (đồng nghĩa: Citrus × limon thứ pyriformis, Citrus × limon giống 'American Wonder'): cam hình lê.
Citrus reshni: (đồng nghĩa: Citrus reticulata giống 'Cleopatra', Citrus reticulata giống 'Spice'): quất quả nhỏ vỏ rời.
Citrus reshni thứ canaliculata
Citrus reticulata: (đồng nghĩa: Sinocitrus reticulata, Citrus nobilis): cam ngọt, quýt ngọt, khoan bì cam, khoan bì quất.
Citrus nobilis thứ microcarpa: niêm bì quất, quýt vỏ dính, sảnh, cam sành.
Citrus nobilis thứ nobilis: cam sành.
Citrus nobilis thứ typica: cam
Citrus reticulata giống 'Tangerine': (đồng nghĩa: Citrus tangerina): Quýt
Citrus reticulata nhóm trồng Tangerine giống 'Clementin': Citrus clementina, Citrus nobilis thứ chrysocarpa, Citrus reticulata thứ clementina: quất vỏ rời, quýt tiếu.
Citrus reticulata nhóm trồng Tangerine giống 'Red Tangerine': quất hồng
Citrus reticulata nhóm trồng Tangerine giống 'Dancy Tangerine'
Citrus reticulata thứ chachiensis: (đồng nghĩa: Citrus reticulata giống 'Chachi ', Sinocitrus chachiensis, Citrus chachiensis): cam cành chè
Citrus reticulata thứ deliciosa: (đồng nghĩa: Citrus nobilis, Citrus nobilis thứ deliciosa, Citrus reticulata, Citrus deliciosa, Citrus tangerina, Citrus reticulata giống 'Tangerina', Citrus reticulata giống 'Fuju'): quýt xiêm, phúc quất, mật quất
Citrus reticulata thứ erythrosa: (đồng nghĩa: Citrus reticulata giống 'Zhuju', Citrus erythrosa): quýt đỏ
Citrus reticulata thứ kinokuni: (đồng nghĩa: Citrus reticulata giống 'Kinokuni', Citrus kinokuni): quýt ngọt Nam Phong, quýt ngọt tiền vàng.
Citrus reticulata thứ poonensis: Citrus poonensis, Citrus reticulata giống 'Oneco', Citrus reticulata giống 'Poongan': cam ngọt Trung Quốc
Citrus reticulata thứ salicifolia: quýt lá liễu
Citrus reticulata thứ satsuma: (đồng nghĩa: Citrus unshiu thứ satsuma): cam ngọt Ôn Châu, cam Satsuma.
Citrus reticulata thứ suavissima: (đồng nghĩa: Citrus reticulata giống 'Suavissima', Citrus suavissima): cam Âu
Citrus reticulata thứ subcompressa: (đồng nghĩa: Citrus reticulata giống 'Subcompressa', Citrus subcompressa): quýt ngọt hoàng nham
Citrus reticulata thứ succosa: (đồng nghĩa: Citrus reticulata giống 'Succosa', Citrus succosa): quýt ngọt thiên thai
Citrus reticulata thứ suhoiensis: (đồng nghĩa: Citrus reticulata giống 'Suhoiensis', Citrus suhoiensis): cam tứ hồi
Citrus reticulata thứ tankan: (đồng nghĩa: Citrus reticulata giống 'Jiaogan', Citrus tankan): tiêu cam
Citrus reticulata thứ tardiferax: (đồng nghĩa: Citrus reticulata giống 'Tardiferax'):
Citrus reticulata thứ unshiu: (đồng nghĩa: Citrus reticulata giống 'Wenzhou', Citrus reticulata giống 'Wenzhou Migan', Citrus unshiu, Citrus reticulata giống 'Unshu', Citrus nobilis thứ unshiu): cam ngọt Ôn Châu, cam Nhật Bản, cam Satsuma
Citrus unshiu thứ praecox
Citrus rocarpa
Citrus × sinensis: (đồng nghĩa: Citrus × aurantium thứ sinensis, Aurantium sinense): cam ngọt, cam
Citrus × sinensis giống 'Jaffa': (đồng nghĩa: Citrus × sinensis giống 'Shamouti'): cam Palestin.
Citrus × sinensis giống 'Valencia': cam Valencia
Citrus × sinensis thứ brasiliensis: Citrus × sinensis (nhóm Navel) giống 'Bahia'.: cam Bahia, cam Brasil
Citrus × sinensis (nhóm Blood) giống 'Maltese Blood'
Citrus × sinensis (nhóm Blood) giống 'Ruby Blood'
Citrus × sinensis (nhóm Blood) giống 'Sanguine': cam máu
Citrus × sinensis (nhóm Blood) giống 'Saint Michael' (đồng nghĩa: Citrus × sinensis (nhóm Blood) giống 'St Michael')
Citrus × sinensis (nhóm Navel) giống 'Lane's Late': cam Úc
Citrus × sinensis (nhóm Navel) giống 'Leng': cam Leng navel, cam vỏ mỏng
Citrus × sinensis (nhóm Navel) giống 'Washington' (đồng nghĩa: Citrus × sinensis giống 'Washington Navel'): cam "Washington Navel".
Citrus sudachi
Citrus suhuiensis (đồng nghĩa: Citrus reticulata thứ austera)
Citrus sulcata
Citrus sunki (đồng nghĩa: Citrus reticulata thứ austera): quýt chua
Citrus taiwanica: Cam Đài Loan.
Citrus takuma-sudachi
Citrus tamurana
Citrus × tangelo: quả lai giữa quýt và bưởi được gọi là tangelo. Mặc dù được lai với bưởi nhưng quả này không có vị đắng của bưởi mà chỉ có vị ngọt của quýt.
Citrus tardiva (đồng nghĩa: Citrus reticulata thứ austera, Citrus sunki?): cam ngọt Nhật Bản
Citrus temple
Citrus x paradisi: Citrus paradisi, Citrus grandis thứ racemosa, Citrus decumana: bưởi đắng, bưởi chùm
Citrus x paradisi giống 'Marsh'
Citrus x paradisi giống 'Wheeny'
Citrus x paradisi (nhóm cùi hồng) giống 'Foster'
Citrus x paradisi (nhóm cùi hồng) giống 'Red Blush': (đồng nghĩa: Citrus x paradisi (nhóm cùi hồng) giống 'Ruby'.)
Citrus yatsushiro: quýt yatsushiro. |
Prolog là một ngôn ngữ lập trình. Tên gọi Prolog được xuất phát từ cụm từ tiếng Pháp Programmation en logique, nghĩa là "lập trình theo lô gíc". Xuất hiện từ năm 1972 (do Alain Colmerauer và Robert Kowalski thiết kế), mục tiêu của Prolog là giúp người dùng mô tả lại bài toán trên ngôn ngữ của logic, dựa trên đó, máy tính sẽ tiến hành suy diễn tự động dựa vào những cơ chế suy diễn có sẵn (hợp nhất, quay lui và tìm kiếm theo chiều sâu) để tìm câu trả lời cho người dùng.
Prolog được sử dụng nhiều trong các ứng dụng của trí tuệ nhân tạo và ngôn ngữ học trong khoa học máy tính (đặc biệt là trong ngành xử lý ngôn ngữ tự nhiên vì đây là mục tiêu thiết kế ban đầu của nó). Cú pháp và ngữ nghĩa của Prolog đơn giản và sáng sủa, nó được người Nhật coi là một trong những nền tảng để xây dựng máy tính thế hệ thứ năm mà ở đó, thay vì phải mô tả cách giải quyết một bài toán trên máy tính, con người chỉ cần mô tả bài toán và máy tính sẽ hỗ trợ họ nốt phần còn lại.
Cú pháp
Một chương trình Prolog bao gồm các luật được biểu diễn dưới dạng mệnh đề Horn. Một mệnh đề Horn có dạng
Head:-Body.
Head là một vị từ logic, còn Body có thể là rỗng hoặc là một tập các vị từ logic. Ví dụ như sau:
chẵn(X):- X chia_dư 2 = 0.
Phần lớn các bộ dịch của các chương trình Prolog đều yêu cầu vị từ logic ở phần đầu của một mệnh đề Horn là một vị từ dương (không có dấu phủ định đi kèm), còn các vị từ trong phần Body có thể có dấu phủ định đi kèm. Chương trình logic mà không có sự xuất hiện của dấu phủ định đi kèm gọi là chương trình logic xác định, còn không thì được gọi là chương trình logic thường.
Dữ kiện
Dữ kiện là những mệnh đề Horn mà phần Body là rỗng. Kiểu mệnh đề này thường được sử dụng để mô tả các dự kiện của bài toán, ví dụ như việc khai báo "tôm" là một con mèo:
mèo(tôm).
Khoảng cách từ Hà Nội vào thành phố Hồ Chí Minh là khoảng 2000Km:
khoảng_cách(Hà_Nội,TP_Hồ_Chí_Minh,2000).
Luật
Phần còn lại của các mệnh đề trong một chương trình Prolog được gọi là luật. Nó thường thể hiện những phát biểu logic trong bài toán, ví dụ như nếu công tắc đèn bật thì đèn sáng:
đèn_sáng(X):- công_tắc_bật(X).
Toán tử ":-" được dịch thô là "nếu", trong logic thì nó đại diện cho toán tử suy ra "<-". Phát biểu trên được phát biểu dưới dạng văn xuôi là "Nếu công tắc của đèn X bật thì đèn X sẽ sáng". Tất nhiên, bạn có thể chưa thoả mãn với phát biểu này và bổ sung vào nó để có một phát biểu chặt chẽ hơn:
đèn_sáng(X):- công_tắc_bật(X), có_điện.
Dấu phẩy "," trong mệnh đề trên được dịch là toán tử "và"; biến trong Prolog được quy ước bắt đầu là một chữ cái hoa.
Ngữ nghĩa
Một chương trình logic có ngữ nghĩa của riêng nó. Ngữ nghĩa quyết định những kết luận "đúng" nào có thể rút ra được từ một chương trình Prolog. Ví dụ một chương trình Prolog gồm một dữ kiện:
mèo(tôm).
Khi đó, ta có thể rút ra duy nhất một dữ kiện đúng là "tôm là một con mèo". Trong một ứng dụng Prolog, bạn có thể hỏi một trong hai câu hỏi sau để có được trả lời đúng:
?- mèo(tôm).
yes.
Và
?- mèo(X).
X = tôm;
no.
Trong ví dụ trên, "no" có nghĩa là không còn câu trả lời nào nữa. Mọi câu hỏi khác đều cho trả lời là sai. Điều này có nghĩa là trong một chương trình Prolog, người ta sử dụng giả thiết thế giới đóng, mọi thứ bạn khai báo là đúng, nếu không thì nó là sai. Vì vậy trong ví dụ trên, khi bạn hỏi "mitu có phải là một con mèo hay không", bạn sẽ nhận được câu trả lời "no".
Với một chương trình Prolog xác định, ngữ nghĩa của nó được định nghĩa là một mô hình tối thiểu của nó.
Với một chương trình Prolog bình thường, có nhiều loại ngữ nghĩa được sử dụng như ngữ nghĩa đầy đủ, ngữ nghĩa tối thiểu, ngữ nghĩa hoàn chỉnh,...
Đa số các chương trình biên dịch Prolog phổ thông (SWI-Prolog, GNU-Prolog) sử dụng ngữ nghĩa đầy đủ mà đi kèm là thủ tục suy diễn SLDNF.
Ví dụ
Phần này trình bày một số chương trình ví dụ, nó có thể chạy tốt trong SWI-PROLOG.
QuickSort
split(H, [A|X], [A|Y], Z):-
order(A, H), split(H, X, Y, Z).
split(H, [A|X], Y, [A|Z]):-
not(order(A, H)), split(H, X, Y, Z).
split(_, [], [], []).
quicksort([], X, X).
quicksort([H|T], S, X):-
split(H, T, A, B),
quicksort(A, S, [H|Y]),
quicksort(B, Y, X).
Tháp Hà Nội
hanoi(N):- move(N, left, centre, right).
move(0, _, _, _):-!.
move(N, A, B, C):-
M is N-1,
move(M, A, C, B), inform(A, B), move(M, C, B, A).
inform(X, Y):-
write([move, a, disc, from, the, X, pole, to, the, Y, pole]),
nl.
Đại số
/* Tính đạo hàm */
d(X,X,1):-!. /* d x dx = 1 */
d(C,X,0):- atomic(C). /* d c dx = 0 */
d(-U,X,-A):- d(U,X,A). /* d -u dx = - d u dx */
d(U+V,X,A+B):- d(U,X,A), d(V,X,B). /* d u+v dx = d u dx + d v dx */
d(U-V,X,A-B):- d(U,X,A), d(V,X,B). /* d u-v dx = d u dx - d v dx */
d(C*U,X,C*A):- atomic(C), C \= X, d(U,X,A),!. /* d c*u dx = c*d u dx */
d(U*V,X,B*U+A*V):- d(U,X,A), d(V,X,B). /* d u*v dx = u*d v dx + v*d u dx */
d(U/V,X,A):- d(U*V^(-1),X,A). /* d u/v dx = d (u*v)^-1 dx */
d(U^C,X,C*U^(C-1)*W):- atomic(C), C \= X, d(U,X,W). /* d u^c dx = c*u^(c-1)*d u dx */
d(log(U),X,A*U^(-1)):- d(U,X,A). /* d ln(u) dx = u^-1 * d u dx */
/* Tính tích phân */
i(0,X,0):-!. /* Int 0 dx = 0 */
i(X,X,(X*X)/2):-!. /* Int X dx = (X^2)/2 */
i(C,X,C*X):- atomic(C). /* Int c dx = c*x */
i(-U,X,-A):- i(U,X,A). /* Int -U dx = - Int U dx */
i(U+V,X,A+B):- i(U,X,A), i(V,X,B). /* Int U+V dx = Int U dx + Int V dx */
i(U-V,X,A-B):- i(U,X,A), i(V,X,B). /* Int U-V dx = Int U dx - Int V dx */
i(C*U,X,C*A):- atomic(C), C \= X, i(U,X,A),!. /* Int cU dx = c (Int U dx) */
i(X^C,X,(X^(C+1))/(C+1)):- atomic(C),!. /* Int x^c dx = x^(c+1)/(c+1) */
i(U,V,U*V-A):- d(V,U,A),!. /* Int u dv = u*v - Int v du */
/* Một số luật đơn giản */
s(+,X,0,X). /* x + 0 = x */
s(+,0,X,X). /* 0 + x = x */
s(+,X,Y,X+Y). /* x + y = x + y */
s(+,X,Y,Z):- integer(X), integer(Y), Z is X+Y. /* x + y = z <- Calculate */
s(*,_,0,0). /* anything * 0 = 0 */
s(*,0,_,0). /* 0 * anything = 0 */
s(*,1,X,X). /* 1 * x = x */
s(*,X,1,X). /* x * 1 = x */
s(*,X,Y,X*Y). /* x * y = x * y */
s(*,X*Y,W,X*Z):- integer(Y), integer(W), Z is Y*W.
s(*,X,Y,Z):- integer(X), integer(Y), Z is X*Y. /* x * y = z <- Calculate */
/* Đơn giản hoá */
simp(E,E):- atomic(E),!.
simp(E,F):- E =.. [Op, La, Ra], simp(La,X), simp(Ra,Y), s(Op,X,Y,F).
Bảng so sánh
*Giao diện với C/Java cũng có thể được sử dụng cho đồ hoạ và các điều khiển. |
Quốc lộ 5 là đường giao thông huyết mạch nối cụm cảng Hải Phòng với thủ đô Hà Nội, miền Bắc Việt Nam. Nó còn là một phần của đường Xuyên Á AH14.
Lộ trình
Điểm đầu từ Nút giao Kim Chung (trước đây bắt đầu từ Cầu Chui – Long Biên – Hà Nội), điểm cuối là Cảng Chùa Vẽ, giao với đường tỉnh 356 tại thành phố Hải Phòng. Chiều dài toàn tuyến 116 km. Quốc lộ 5 đi qua địa phận Đông Anh, Long Biên, Gia Lâm (Hà Nội), Văn Lâm, Yên Mỹ, Mỹ Hào (Hưng Yên), Bình Giang, Cẩm Giàng, thành phố Hải Dương, Kim Thành (Hải Dương), An Dương, Hồng Bàng, Hải An (Hải Phòng). Các đô thị nằm dọc quốc lộ 5 là Quận Long Biên, Hà Nội, các thị trấn Trâu Quỳ (Gia Lâm), Như Quỳnh (Văn Lâm), Lai Cách (Cẩm Giàng), Phú Thái (Kim Thành); Thị xã: Mỹ Hào, Tỉnh Hưng Yên; Thành phố: Hải Dương (Thành phố), Tỉnh Hải Dương và các Quận của Hải Phòng.
Tình trạng kỹ thuật
Đường cấp 1 đồng bằng, đi qua địa hình đồng bằng châu thổ sông Hồng, dân cư đông đúc, có mạng đường dọc, đường ngang, đường bổ trợ khá hoàn chỉnh và phát triển;
Nền đường: từ 26 đến 35 m, mặt đường 18 đến 23 m (từ km 0 đến km6+600 mặt đường 6 làn xe bằng 30 m) thảm bê tông nhựa. Từ km 6+600 (Phú Thụy – Gia Lâm – Thành phố Hà Nội) đến Cảng Chùa Vẽ – Hải Phòng, mặt đường phổ biến từ 18 đến 23 m (4 làn xe) có dải phân cách cứng rộng 1,2 – 1,5 m. Quốc lộ 5 bảo đảm thông xe 2 mùa.
Có 12 cầu chính trên đường vượt chướng ngại nước và vượt đường bộ, đường sắt là cầu bê tông có tải trọng cho xe H30.
Cầu dân sinh qua đường bằng các cầu chui có chiều dài phổ biến từ 18 đến 23 m, cao 2,5 m, rộng 3–4 m bằng vật liệu bê tông dự ứng lực.
Nhiều đoạn dải phân cách đã bị người dân phá để lấy lối qua đường. Vì vậy, tuyến quốc lộ này thường xuyên xảy ra tai nạn giữa xe cơ giới và người đi bộ.
Nắn đường: quốc lộ 5 ngày nay đã được nâng cấp mở rộng trên cơ sở đường quốc lộ 5 cũ. Một số đoạn được nắn lại như ở Văn Lâm, Mỹ Hào, thành phố Hải Dương, An Dương và trung tâm thành phố Hải Phòng.
Tu bổ
Tổng cục Đường bộ Việt Nam (Bộ GTVT) vừa có công điện khẩn, yêu cầu Tổng Công ty Phát triển hạ tầng và đầu tư tài chính Việt Nam (Vidifi) đẩy nhanh tiến độ thực hiện các gói thầu của dự án sửa chữa mặt đường Quốc lộ 5 (QL5), nếu không sẽ bị dừng thu phí. Theo PGS.TS Ngô Trí Long, từ năm 2016 đến nay, không dưới 3 lần QL5 bị hư hỏng và cũng từng ấy lần những "tối hậu thư" với nội dung "sẽ dừng thu phí nếu không sửa đường kịp thời" đều vô tác dụng.
Tổng chiều dài Quốc lộ 5 có tổng chiều dài 119 km. Quy mô: 4 - 10 làn xe. Nền đường rộng: 25,8m - 45,5m. Vận tốc thiết kế: Tối đa: 80 km/h và tối thiểu: 20 km/h.
Lịch sử
Tiền thân của Quốc lộ 5 là đường thuộc địa số 5, được xây dựng từ thời Pháp thuộc. Quốc lộ 5 được cải tạo, nâng cấp từ tháng 6 năm 1996 và hoàn thành tháng 6 năm 1998. Trên quốc lộ 5 có 2 trạm thu phí sử dụng, một tại địa phận tỉnh Hưng Yên và một tại địa phận thành phố Hải Phòng.
Song song với quốc lộ 5 là tuyến đường sắt Hà Nội – Hải Phòng dài khoảng 110 km. Do đoạn từ cầu Chui (Long Biên) đến nút giao Kim Chung mới được xây dựng nên nó còn được gọi là Quốc lộ 5 kéo dài. |
Hành tinh khỉ là một tiểu thuyết do Pierre Boulle, xuất bản lần đầu vào năm 1963 bằng tiếng Pháp có tên là La Planète des Singes. Nghĩa của từ singe bao gồm cả "vượn" và "khỉ".
Tóm tắt nội dung
Truyện được bắt đầu với cuộc đối thoại của một cặp có tên là Jinn và Phillys. Họ đang đi trên một tàu vũ trụ và bỗng bắt gặp một cái lọ thủy tinh đang trôi bồng bềnh trong không gian, bên trong có chứa một bản thảo. Bản thảo đó do một người đàn ông có tên là Ulysse Mérou viết với mục đích để cảnh báo người khác tránh khỏi một mối nguy hiểm đang đe dọa loài người, ông đã tường thuật lại toàn bộ nội dung sự việc kinh hoàng đã xảy ra với ông như sau:
Vào năm 2500, có một chuyến du hành vũ trụ thám hiểm không gian gồm 3 người bao gồm: một nhà báo (chính là người đang kể lại câu chuyện), một vị giáo sư tên là Antelle chuyên về thiên văn học, đã phát minh ra con tàu du hành vũ trụ có thể đi với vận tốc gần bằng vận tốc ánh sáng, và học trò của ông, Levain, một nhà vật lý giỏi. Họ đã quyết định đi đến vùng không gian của một ngôi sao khổng lồ có tên là Betelgeuse, đây chính là ngôi sao Alpha trong nhóm có 7 ngôi sao của chòm sao Orion thuộc vùng Xích đạo. Để đi đến đó mất khoảng 350 năm, nhưng với tốc độ của phi thuyền này thì chỉ khoảng hơn 2 năm đối với những người trên phi thuyền. Vì tốc độ của phi thuyền là rất nhanh nên họ sẽ mất khoảng 12 tháng để gia tốc và 12 tháng để giảm tốc, giữa khoảng thời gian đó là khoảng vài giờ họ bay với tốc độ thực sự.
Khi tới được Betelgeuse, họ nhận ra rằng hành tinh thứ hai của ngôi sao này không khác gì Trái Đất, cũng có đầy đủ sông biển, cây cối, động vật, thực vật v.v...chỉ có hình dáng các đại lục thì không giống như ở Trái Đất. Tại đây, họ gặp một sinh vật đầu tiên có hình dạng giống hệt con người, là một cô gái rất xinh đẹp, tỷ lệ cơ thể rất hoàn hảo, nhưng không mặc quần áo, không biết nói, chỉ phát ra được một số âm thanh giống tiếng kêu của động vật, còn đôi mắt thì không hề biểu lộ thần thái như một con người. Họ đã gọi hành tinh này là Cô Em, vì giống như chị em song sinh với Trái Đất, còn gọi cô gái đó là Nova, do sự liên tưởng đến việc xuất hiện một ngôi sao mới.
Sau một vài giờ làm quen và khám phá vùng đất nơi cả đoàn đã đặt chân, nhóm người đã phát hiện ra một điều là những con người ở đây hoàn toàn không có nhận thức, họ sống trong các khu rừng, ngủ ở các tổ trên cây, chơi các trò rất đơn giản, chủ yếu là đuổi bắt, không có khả năng nói hay cười. Thỉnh thoảng có các cuộc săn bắt diễn ra ở trong rừng, đi săn lại là những con khỉ, con vượn và đười ươi biết mặc quần áo và sử dụng công cụ như súng, dây, cưỡi ngựa hay hút xì gà v.v...rất thành thạo và chuyên nghiệp. Trông chúng không khác gì con người trên Trái Đất ngoại trừ hình dáng, bộ lông và đôi bàn tay đi găng tay da màu đen để có thể sử dụng khi di chuyển trên cao khi cần thiết. Các bộ quần áo này có kiểu giống như quần áo ở thế kỷ 20 trên Trái Đất.
Sau một cuộc đi săn như vậy, không may Levain đã bị bắn chết như những con người khác trên ngôi sao này và vị giáo sư Antelle cùng với Ulysse, cô gái Nova đều bị bắt về và đưa vào Sở thú của Thành phố của loài khỉ. Thành phố này giống hệt như các thành phố ở Trái Đất trong thế kỷ 20, ngoại trừ phần đường giao thông, nơi có làn đường đi bộ bắc ngang qua thì họ lại làm những giàn thép cao để các con khỉ nơi đây đu lên đó mà đi sang đường, đó cũng là lý do chúng sử dụng đôi găng tay da một cách thường xuyên. Ulysse Mérou bị bắt giam cùng chuồng với Nova và anh bị sử dụng trong các cuộc thí nghiệm về trí thông minh của loài người tại hành tinh này. Các con khỉ đã dùng các thí nghiệm về phản xạ có điều kiện và vô điều kiện giống như thí nghiệm của Pavlov trên loài chó.
Qua các cuộc thí nghiệm, Ulysse đã cố gắng chứng tỏ mình là một con người hoàn toàn khác những con người nơi đây. Anh không phản ứng theo những gì những con khỉ đó dự đoán và trong việc nghiên cứu về hành vi tính dục của con người, anh cũng không thể hiện phản xạ như những con đực khác là nhảy múa, ve vãn con cái và rồi cuối cùng là sự giao phối. Các biểu hiện khác thường của anh được Zira, một con vượn cái đồng thời là một nhà khoa học trẻ để ý đến và anh đã tranh thủ sự chú ý này để ra hiệu, giao tiếp và học hỏi dần ngôn ngữ chính của hành tinh này.
Cũng nhờ qua các công thức toán học, vật lý, các sơ đồ trong không gian, vị trí các hành tinh v.v... mà Ulysse đã thuyết phục được cô vượn cái tin rằng mình là một con người đến từ hành tinh khác trong không gian. Anh đã được Zira ủng hộ và cho đi chơi, tham quan các nơi trong thành phố và anh (tuy nhiên vẫn phải có xích đeo vào cổ) giống một con vật nuôi trong nhà được đi theo người chủ của mình vậy và không được mặc quần áo.
Anh đã được gặp vị hôn thê của Zira, tên là Cornélius, một nhà khoa học trẻ đầy triển vọng. Với sự giúp đỡ của Cornélius, Ulysse đã hoàn thành được một bài diễn văn khá quan trọng để đọc trước Hội đồng Khoa học của Thành phố. Ở hành tinh này không phân chia nhiều quốc gia mà chỉ có một và nói chung ngôn ngữ. Với bài diễn văn rất thành công của mình, Ulysse đã gây một sự bất ngờ lớn và lấy được niềm tin của toàn bộ Hội đồng khoa học, anh lại được trả lại tự do và mặc quần áo như một con người thực thụ. Bọn họ đã xếp cho anh vào làm tại Viện nghiên cứu về con người nơi đây.
Sau một vài tháng, anh đã tìm hiểu được rõ về hành tinh này. Công nghệ và văn hóa dường như phát triển cực kỳ chậm chạp hay có thể nói là không hề phát triển trong một thời gian khá dài. Nhưng điểm xuất phát nền văn minh của họ dường như lại là một thành tựu lớn chứ không phải là từ con số không. Những thành tựu công nghệ hiện nay không cao hơn so với điểm xuất phát ban đầu là mấy. Nhưng sau một lần đi xem dấu vết đổ nát của thành phố cổ, Ulysse và Cornélius đã khám phá ra một điều rất quan trọng, khác hoàn toàn với những lý thuyết về tổ tiên loài vượn ở hành tinh này.
Theo thuyết tiến hóa của hành tinh này, cây tiến hóa cũng giống như lược đồ biểu diễn quá trình phát triển của thế giới động thực vật trên Trái Đất, nhưng khi đến nhánh của loài người thì bị dừng lại, còn thân cây chính tiếp tục đi lên, sinh ra các loài khỉ tiền lịch sử để rồi cuối cùng đi đến ba mũi quá độ của sự phát triển bao gồm 3 loài đang thống trị cùng nhau trên hành tinh này gồm đười ươi, khỉ, vượn. Lý luận của các cư dân nơi đây là bộ não của khỉ đã được phát triển ngày càng có tổ chức và phức tạp hơn, do sử dụng được cả bốn chi, họ luôn tiếp cận và sinh hoạt với thế giới theo cả ba chiều không gian, còn bộ não con người thì không thay đổi mấy do chỉ sử dụng có 2 chi, hạn chế không gian tiếp cận và không có tiếng nói, một yếu tố quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của bộ não.
Giả thuyết này đã được tin chắc như vậy hàng bao nhiêu năm nay, nhưng việc phát hiện ra một con búp bê trong đống đổ nát thành phố cổ đã nói lên điều ngược lại. Con búp bê này được mặc áo, váy, quần lót giống như những em bé khỉ khác trên hành tinh (điều này rất quan trọng vì không có khái niệm con người lại được mặc quần áo) và quan trọng hơn, nó còn có thể phát âm từ "papa", theo tiếng của loài người (ở đây là tiếng Pháp) và tiếng khỉ cũng có nghĩa là "bố ơi". Họ cũng đã phát hiện ra một khu vực lớn xương người được xếp theo một trật tự giống như nghĩa địa của loài khỉ.
Sau khi phát hiện điều thú vị trên, Cornélius đã làm một số nghiên cứu nữa để làm sáng tỏ thêm nguồn gốc của loài khỉ. Bằng việc lắp một thiết bị với sự tác động của dòng điện đã làm trỗi dậy trí nhớ không những của bản thân mà còn là trí nhớ của giống nòi đã hằn sâu trong ký ức, anh đã làm cho hai người, một đàn ông và một là đàn bà, trong lúc ngủ do bị đánh thuốc mê, đã nói hết mọi điều ấn tượng mạnh với họ từ ngàn đời. Họ đã nói rất nhiều, với các giọng già, trẻ khác nhau, khi thì là một bà nội trợ, khi thì là một cô giáo, khi thì là người dạy thú, v.v... về việc nổi dậy, về những suy nghĩ mới, về tính khí bất thường của con khỉ, vật nuôi hằng ngày của họ và dần dần chúng đã làm cho họ khiếp sợ dẫn đến việc phải bỏ chạy vào rừng để sống thành một bầy đoàn người với nhau. Điều này xảy ra do con người đã phát minh nhiều phương tiện kỹ thuật hiện đại, các lao động giản đơn đã để cho máy móc và khỉ làm. Càng ngày con người càng lười lao động, lười suy nghĩ, mọi vấn đề đều phụ thuộc vào loài khỉ và bị chúng áp đảo.
Ulysse cũng đã không quên đến thăm vị giáo sư Antelle ở sở thú. Nhưng một điều đau buồn là sau một thời gian sinh hoạt chung cùng chuồng với những con người khác và việc không tranh đấu, không tự bảo vệ mình và khẳng định mình, ông đã bị thuần hóa và có biểu hiện giống như những con người nơi đây. Ông đã không nhận ra Ulysse, nhìn anh với cặp mắt vô hồn và tiếp tục các trò phản ứng vô điều kiện trong các thí nghiệm của loài khỉ. Ulysse đã cố gắng mọi cách nhưng không thể kéo ông trở về với bản chất ban đầu là một vị giáo sư hết sức lỗi lạc. Trong thời gian này thì Nova, cô gái được nhốt chung chuồng cùng với Ulysse từ hồi anh bị bắt đã có thai với anh và đến ngày sinh đẻ. Cô được nhốt riêng để chăm sóc.
Điều này cũng đồng thời có nghĩa là một thế hệ con người mới sắp được sản sinh ở đây. Việc này không thể được các giáo sư khỉ, vượn, đười ươi ở đây chấp nhận, chấp nhận điều này có nghĩa là họ sẽ phải viết lại giả thuyết của mình, rằng con người mới chính là tổ tiên của loài vượn, khỉ; rằng những phát minh, những công cụ, thiết bị đang sử dụng hiện nay là phần lớn là do con người phát minh ra, còn bọn họ chỉ là sử dụng một cách bắt chước và có cải tạo đi một chút cho phù hợp mà thôi. Thế giới khỉ đã quyết định phải thủ tiêu Ulysse cùng gia đình của anh. May sao Cornélius, Zira cùng những người bạn của họ là những nhà khoa học chân chính đã giúp gia đình anh lên một con tàu khác, phóng ra ngoài không gian và nhập vào phi thuyền cũ của anh từ lâu vẫn đang chạy trên quỹ đạo của hành tinh khỉ.
Một lần nữa, con tàu lại tiếp tục chuyến du hành trở về Trái Đất. Con tàu này đã được bố trí một hệ thống trồng cây và vật nuôi khá tốt, đảm bảo lương thực thực phẩm trong suốt quá trình đi. Sau 700 năm, Ulysse đã trở về Trái Đất. Con anh lúc này được 2 tuổi rưỡi, nói được rất nhiều từ và Nova đã tập phát âm và học bập bõm được một số tiếng người từ cậu con trai của mình. Anh xuống Trái Đất tại một địa điểm bên ngoài thành phố Paris. Tuy nhiên, khi bước chân xuống đất, anh đã nhận ra rằng, toàn bộ Trái Đất bây giờ cũng đang bị thống trị bởi loài khỉ như ở trên hành tinh anh vừa trốn chạy. Nova hốt hoảng bế con trai chạy vội về khoang tàu và anh vội vã cho tàu quay trở về không gian ngoài. Anh đã viết một bức thư kể lại toàn bộ sự việc, cho vào trong lọ và ném vào vũ trụ để cảnh báo sự việc.
Câu truyện kết thúc trở về với đôi mà đã tìm thấy cái lọ thủy tinh, chính đôi này cũng là một đôi khỉ. Họ chế giễu về cái gọi là loài người, làm sao mà loài người có thể chế tạo được ra tàu du hành vũ trụ và kết luận rằng, câu chuyện đã được viết ra bởi trò đùa của một con khỉ nào đó.
Ý nghĩa của truyện
Với "Hành tinh khỉ", Pierre Boulle muốn cảnh tỉnh con người bằng một câu chuyện mang tính triết lý và giáo dục sâu sắc. Ở hành tinh Cô Em, loài người đã không ý thức được mình, để cho những thuộc tính xấu phát triển như sự lười nhác, quen hưởng thụ, bỏ mặc đồng loại, sống ích kỷ phát triển. Vì thế, một xã hội văn minh đã được xây dựng ngàn đời bị tiêu diệt. Họ vẫn là hình hài con người nhưng mọi hành động và suy nghĩ không hơn con vật là bao nhiêu. Những con khỉ trước kia vốn chịu sự chỉ đạo của con người thì nay chúng lại là chủ nhân của một xã hội văn minh, chi phối cuộc sống con người, do giống khỉ ham bắt chước, chịu động não.
Con người đang sống trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển, như thống kê, cứ 3 phút có một vụ tự tử, 1,5 phút lại có một vụ ly hôn, rồi chiến tranh liên miên xảy ra ở nhiều nơi... Việc cương quyết chống lại mọi tư tưởng, hành động trái với bản chất con người, đó mới là thuộc tính tốt đẹp của con người. Con người ngày càng hoàn thiện những thuộc tính đó thì Trái Đất này mới giữ được màu xanh, con người mới đúng là NGƯỜI nhất.
Các chuyển thể
Câu truyện về một xã hội loài khỉ cũng đã được phổ biến ở các thể loại khác. Ý tưởng trong truyện của Boulle dã được chuyển thể thành phim video, phim truyền hình và những tiểu thuyết khác mô phỏng theo.
Phim
Planet of the Apes (1968) là một bộ phim khoa học viễn tưởng gây chấn động, dựa trên tiểu thuyết của Boulle, được đạo diễn bởi Franklin J. Schaffner và do Charlton Heston đóng vai chính. Đó chính là tầm nhìn của nhà sản xuất Arthur P. Jacobs, người được Rod Serling uỷ quyền viết kịch bản, nhưng phiên bản cuối cùng lại được viết bởi Michael Wilson. Jacobs đã tranh thủ Heston (người đã tranh thủ tình cảm của Schaffner) làm tốt công việc, và Heston là người hỗ trợ chính cho tài chính của bộ phim. Họ đã được sự ủng hộ của Mort Abrahams sau khi sản xuất ra một phiên bản demo ngắn của bộ phim, phần này chỉ ra rằng sự hóa trang (lúc đầu do Ben Nye, Sr., nhưng rõ ràng với sự thiết kế hoàn hảo của John Chambers cho bộ phim chính) đủ sức thuyết phục rằng phần lớn các bộ quần áo khỉ không đến nỗi kỳ dị lắm. Một điều rất thú vị rằng, trong khi bộ phim được sản xuất bằng tiếng Anh thì những con vượn cảm thấy xúc phạm khi bị gọi là khỉ, nhưng trong truyện thì không thấy nói đến điều này vì "singes" theo tiếng Pháp có nghĩa vừa là "vượn" vừa là "khỉ".
Có 4 quyển truyện được làm theo phim của Schaffner, thực chất có khác so với nội dung truyện của Boulle:
Ở dưới hành tinh khỉ (1970)
Chạy trốn từ hành tinh khỉ (1971)
Chinh phục hành tinh khỉ (1972)
Trận chiến trên hành tinh khỉ (1973)
Bộ phim làm năm 1968 được làm lại vào năm 2001 - xem Hành tinh khỉ.
Phim truyền hình
Có hai bộ phim truyền hình:
Hành tinh khỉ (1974)
Hành tinh khỉ (phim hoạt hình) (1975)
Tiểu thuyết
Hành tinh khỉ được viết bởi Pierre Boulle 1968
Các bộ phim mô phỏng
Ở dưới hành tinh khỉ do Michael Avallone đạo diễn năm 1974
Chạy trốn từ hành tinh khỉ do Dag Moench đạo diễn
Chinh phục hành tinh khỉ do John Jakes đạo diễn
Trận chiến trên hành tinh khỉ do David Gerrold đạo diễn
Các bộ phim mô phỏng, phiên bản làm năm 2001
Hành tinh khỉ do William Thomas Quick dạo diễn năm 2001
Hành tinh khỉ:Sự sụp đổ do William Thomas Quick đạo diễn năm 2002
Hành tinh khỉ:Thuộc địa do William Thomas Quick đạo diễn năm 2003
Hành tinh khỉ do John Whitman đạo diễn năm 2001
Sự chống cự (Hành tinh khỉ) do John Whitman đạo diễn năm 2002
Quyền lực (Hành tinh khỉ) do John Whitman đạo diễn năm 2002
Tiểu thuyết đồ họa
Tiểu thuyết dài hành tinh khỉ, Tập 1: Old Gods do Ian Edginton viết
Tập phim truyền hình mô phỏng
Hành tinh khỉ - Sự lánh nạn của loài người do George Alec Effinger đạo diễn
Hành tinh khỉ - Chúa tể của khỉ do George Alec Effinger đạo diễn
Hành tinh khỉ - Trốn chạy cho ngày mai do George Alec Effinger đạo diễn
Hành tinh khỉ - Chuyến du hành kinh hoàng do George Alec Effinger đạo diễn
Bản dịch tiếng Việt
Một bản dịch của Mai Thế Sang với tựa đề Hành tinh khỉ, Nhà xuất bản Đà Nẵng phát hành năm 1988.
Một bản dịch khác của Lưu Đình Tuân được Nhà xuất bản Hải Phòng phát hành năm 2002, có tựa đề Trên hành tinh khỉ. |
Văn miếu Trấn Biên là "Văn miếu" đầu tiên được xây dựng (xây năm 1715) tại xứ Đàng Trong, để tôn vinh Khổng Tử, các danh nhân văn hóa nước Việt và là nơi đào tạo nhân tài phục vụ cho chế độ. Năm 1861, nơi thờ phụng trên đã bị thực dân Pháp phá bỏ. Mãi đến năm 1998, Văn miếu Trấn Biên mới được khởi công khôi phục lại nơi vị trí cũ, và hoàn thành vào năm 2002. Hiện nay toàn thể khu vực uy nghi đẹp đẽ này tọa lạc tại khu đất rộng thuộc phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
Lịch sử
Xây dựng
Năm 1698, khi Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào đến xứ Đồng Nai, thì vùng đất ấy đã khá trù phú với một thương cảng sầm uất, đó là Cù lao Phố.
Để có nơi bảo tồn, phát huy và tôn vinh các giá trị văn hóa giáo dục xưa và nay của dân tộc Việt ở vùng đất mới, 17 năm sau, tức năm Ất Mùi (1715), chúa Nguyễn Phúc Chu sai trấn thủ Nguyễn Phan Long và ký lục Phạm Khánh Đức xây dựng Văn miếu Trấn Biên. Đây là "Văn miếu" đầu tiên được xây dựng tại xứ Đàng Trong, có trước cả văn miếu ở Vĩnh Long, Gia Định và Huế.
Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức
Văn miếu Trấn Biên được xây dựng tại thôn Tân Lai, tổng Phước Dinh, huyện Phước Chánh (nay thuộc phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa).
Và theo mô tả của Đại Nam nhất thống chí, thì Văn miếu Trấn Biên được xây dựng trên thế đất đẹp: Phía nam trông ra sông Phước Giang, phía bắc dựa vào núi Long Sơn, là một nơi cảnh đẹp thanh tú, cỏ cây tươi tốt...Bên trong rường cột chạm trổ, tinh xảo... Trong thành trăm hoa tươi tốt, có những cây tòng, cam quýt, bưởi, hoa sứ, mít, xoài, chuối và quả hồng xiêm đầy rẫy, sum sê, quả sai lại lớn....
Trước năm 1802, hằng năm, đích thân chúa Nguyễn Phúc Ánh đến Văn miếu Trấn Biên để hành lễ hai lần vào mùa xuân và mùa thu. Nhưng từ khi chúa Nguyễn lên ngôi ở Huế, thì quan tổng trấn thành Gia Định, thay mặt vua, cùng với trấn quan Biên Hòa và quan đốc học đến hành lễ...
Tương tự Văn miếu Huế, bên cạnh có Quốc tử giám để giảng dạy học trò. ở Biên Hòa, bên cạnh Văn miếu Trấn Biên là Tỉnh học (trường học tỉnh Biên Hòa). Trường học lớn của cả tỉnh này mãi đến đời vua Minh Mạng mới dời về thôn Tân Lại (nay thuộc phường Hòa Bình, Biên Hòa).
Như vậy, ngoài vai trò thờ phụng, Văn miếu Trấn Biên còn đóng vai trò như một trung tâm văn hóa, giáo dục của thành phố Biên Hòa xưa và của cả Nam Bộ trước khi Văn miếu Gia Định ra đời.
Trùng tu
Văn miếu Trấn Biên có hai lần được trùng tu lớn:
Lần trùng tu thứ nhất vào năm Giáp Dần (1794). Khi ấy, chúa Nguyễn Phúc Ánh sai Lễ bộ Nguyễn Hồng Đô lo việc trùng tu, "giữa làm Đại Thành điện và Đại Thành môn, phía Đông làm Thần miếu, phía Tây làm Dục Thánh từ, trước xây tường ngang, phía tả có cửa Kim Thanh, phía hữu có cửa Ngọc Chấn, chính giữa sân trước dựng Khuê Văn các treo trống chuông trên đấy, phía tả có Sùng Văn đường, phía hữu có Duy Lễ đường. Chu vi bốn mặt ngoài xây thành vuông, mặt tiền làm cửa Văn miếu, phía tả phía hữu có cửa Nghi môn, rường cột chạm trổ, quy chế tinh xảo, đồ thờ có những thần bái, khám vàng, ve chén và đồ phủ quỹ biên đậu đều chỉnh nhã tinh khiết" (theo Trịnh Hoài Đức - Gia Định thành thông chí).
Lần trùng tu thứ hai vào năm Tự Đức thứ 5 (Nhâm Tý, 1852). Sau khi hoàn thành văn miếu có quy mô lớn hơn trước: "Văn miếu chính đường và tiền đường đều 5 gian, lại dựng thêm 2 dãy tả vu và hữu vu, mỗi dãy 5 gian, đền Khải Thánh, chính đường và tiền đường đều 3 gian, một tòa cửa giữa 3 gian, một tòa cửa trước 1 gian, một tòa kho đồ thờ 3 gian, một tòa Khuê Văn các 2 tầng, ba gian hai chái; phía trước, biển "Đại Thành điện" đổi làm "Văn miếu điện" và "Khải Thánh điện" đổi làm "Khải Thánh từ"
Được khôi phục
Ngày 9 tháng 12 năm 1998, một công trình mới mang tên Văn miếu Trấn Biên được khởi công khôi phục lại trên nền văn miếu cũ tại phường Bửu Long, TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; cách trung tâm thành phố khoảng 3 km, và gần Trung tâm Văn hóa Du lịch Bửu Long trong phạm vi khoảng 2 ha, với số tiền đầu tư gần 20 tỷ đồng.
Công trình được khánh thành vào ngày mùng 3 Tết Nhâm Ngọ (nhằm ngày 14 tháng 2 năm 2002) với tổng diện tích gần 5 héc ta, trong đó khu trung tâm rộng khoảng 2 héc ta
Ngày 18 tháng 8 năm 2016, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có quyết định về việc xếp hạng cấp Quốc gia di tích lịch sử Văn miếu Trấn Biên.
Kiến trúc, thờ phụng
Đây là công trình được xây dựng theo kiến trúc Văn Miếu - Quốc Tử Giám ở Hà Nội, gồm các hạng mục: nhà thờ chính, tả vu hữu vu, sân hành lễ... thể hiện truyền thống tôn sư trọng đạo, kính trọng hiền tài.
Nổi bật giữa vùng không gian thoáng đãng, nhiều cây xanh, là những vòm mái cong, lợp ngói lưu ly màu xanh ngọc (gốm tráng men).
Từ Văn miếu môn lần lượt là nhà bia truyền thống Trấn Biên - Đồng Nai, Khuê Văn Các, hồ Tịnh Quang, cổng tam quan, nhà bia thứ hai thờ Khổng Tử và sau cùng là nhà thờ chính rộng lớn. Ở đây có tấm bia lớn có khắc dòng chữ to: "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia".
thờ phụng
Nhà thờ chính xây dựng kiểu nhà ba gian hai chái, theo kiến trúc cổ, sơn son thếp vàng, nền lát gạch tàu, trên các cột nhà treo đôi liễn đối, như:
Nguyễn Hữu Cảnh định nghiệp Trấn Biên,Lớp lớp anh tài giang lục tỉnh.
Võ Trường Toản mở trường Gia Định,
Đời đời sĩ khí nối tam gia.
Ở gian giữa có bàn thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên tường có biểu tượng trống đồng tượng trưng cho nền văn hóa Việt Nam và Quốc Tổ Hùng Vương.
Bên trái nhà là nơi thờ các danh nhân văn hóa Việt Nam như Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn,... bên phải thờ danh nhân đất Nam Bộ như Võ Trường Toản, Nguyễn Đình Chiểu, Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Định, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Thông...
Trong gian thờ này, đặc biệt có trưng bày 18 kg đất và 18 lít nước mang về từ đền Hùng, biểu trưng cho 18 đời vua Hùng, cội nguồn của dân tộc Việt.
Phía trước hai bên nhà thờ chính còn có hai ngôi miếu, miếu bên trái thờ Tiên sư, miếu bên phải thờ Tiền hiền-Hậu hiền. Phía trước hai bên nhà thờ chính: Là Văn Vật Khố (nơi trưng bày 4 làng nghề truyền thống của Biên Hòa – Đồng Nai: nghề đồng, nghề mộc, nghề đá, nghề gốm). Đăng đối hài hòa với Văn Vật khố là Thư khố - nơi trưng bày các thư tịch cổ, các tài liệu, sách báo... viết về lịch sử, văn hóa, con người vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai xưa và nay.
Ngoài ra, nơi Văn miếu Trấn Biên còn có khu sinh hoạt truyền thống gồm có nhà truyền thống, bia truyền thống, và các công trình phụ cận. Bia truyền thống Trấn Biên–Đồng Nai khắc bài văn khái quát về truyền thống văn hóa, giáo dục của Biên Hòa xưa và nay.
Nhà truyền thống chủ yếu dùng để trưng bày và ghi danh những đơn vị, cá nhân đạt được các danh hiệu cấp nhà nước.
Du lịch
Hiện nay, du khách đến thăm Văn Miếu Trấn Biên ngày càng đông do phong cảnh rộng thoáng, với vẻ đẹp vừa cổ kính vừa trang nhã. Văn Miếu là nơi bảo tồn, gìn giữ và tôn vinh các giá trị văn hóa-giáo dục xưa và nay của dân tộc và của đất Đồng Nai. Nơi đây còn rất gần với Khu du lịch văn hóa Bửu Long.
Tại Văn Miếu Trấn Biên thường tổ chức các lễ viếng các bậc tiền nhân, các lễ báo công, tuyên dương tài năng trên các lĩnh vực, đặc biệt trên lĩnh vực văn hóa-giáo dục, các hoạt động mang tính văn hóa dân gian như lễ hội, biểu diễn nghệ thuật, thả thuyền trên hồ... Văn Miếu Trấn Biên là nơi đón nhiều đoàn khách trong nước và quốc tế khi đến thăm Đồng Nai. |
Chi Thị (danh pháp khoa học: Diospyros) là một chi (bao gồm cả những loài trước đây có tên chi là Maba) của từ khoảng 450-500 cho tới 750 loài (Tại PlantSystematics.org liệt kê tới 1.159 danh pháp khoa học, nhưng có lẽ trong đó có nhiều tên gọi là từ đồng nghĩa của nhau) cây thân gỗ lá thường xanh hay sớm rụng. Phần lớn trong chúng có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới, với chỉ một ít loài sinh sống ở khu vực ôn đới. Chi này bao gồm một số loài có giá trị thương mại quan trọng, hoặc là để lấy quả ăn (bao gồm các loài hồng, thị, cậy như D. kaki và D. virginiana) hoặc là để lấy gỗ. Có hai nhóm gỗ có giá trị thương mại là gỗ mun trơn: loại gỗ mun đen thuần túy (đáng chú ý là D. ebenum, D.mun, nhưng còn có một số loài khác) và gỗ mun sọc: (mun vàng hay mun Macassar - D. celebica). Trong phần lớn các loài thuộc chi này thì gỗ kiểu gỗ mun đen là gần như hoàn toàn không có: gỗ của những loài này có công dụng rất hạn chế, ví dụ D. virginiana (tức thị, thị châu Mỹ, thị Mỹ, mun trắng).
Các loài trong chi Diospyros bị ấu trùng của một số loài bướm thuộc bộ Cánh vẩy (Lepidoptera) phá hại, như Gymnoscelis rufifasciata, Eupseudosoma aberrans và Hypercompe indecisa.
Các loài
Dưới đây chỉ liệt kê một số loài
Diospyros acris.
Diospyros armata
Diospyros apiculata: Thị lọ nồi
Diospyros australis: Bờ biển phía đông Australia.
Diospyros bangoiensis: Thị ba ngòi, thị núi
Diospyros baranensis: Thị bà ran
Diospyros bejaudii: Thị lân, thị bejaud
Diospyros blancoi (đồng nghĩa: Cavanillea philippensis, Diospyros discolor, Diospyros philippensis): Thị Đài Loan, thị lông. Có nguồn gốc từ Philippines. Quả màu đỏ tươi khi chín.
Diospyros bonii: Thị muong
Diospyros brandisiana: Đồ an
Diospyros buxifolia: Thị vảy ốc, vảy ốc, sang hột, dàn da
Diospyros canaliculata (đồng nghĩa Diospyros cauliflora, Diospyros xanthochlamys).
Diospyros candolleana: Thị candolle
Diospyros castanea (đồng nghĩa: Maba castanea): Thị dẻ
Diospyros cauliflora: Đồ an hoa thân, thị hoa thân
Diospyros celebica: mun vàng, mun Macassar.
Diospyros chevalieri: Co khi, thị chevalier
Diospyros chloroxylon.
Diospyros choboensis: Thị Chợ Bờ, cay da
Diospyros crassiflora: Mun châu Phi, mun Benin, thị châu Phi
Diospyros confertifolia. Đông Nam Á.
Diospyros corallina
Diospyros crumenata: Thị đen, thị da
Diospyros curranii: Thị curran
Diospyros dasyphylla: Thị to, thị lá ngắn
Diospyros decandra: Thị, thị trái, thị mười nhị
Diospyros dictyoneura: Thị vam, vam
Diospyros digyna (đồng nghĩa: Diospyros ebeneaster, Diospyros nigra, Diospyros obtusifolia): thị đen. Có nguồn gốc ở México, quả có vỏ màu xanh và cùi thịt trắng khi còn xanh và chuyển thành đen khi chín.
Diospyros dinhensis
Diospyros dodecandra: Thị tram
Diospyros ebenaster.
Diospyros ebenum (đồng nghĩa: Diospyros hebecarpa, Diospyros glaberrima): Thị huyền, ô mộc, mun Ceylon, thị Ceylon, mun Mauritius, mun thị. Loài cây của vùng nhiệt đới châu Á với gỗ lõi có màu sẫm được dùng trong đồ gỗ mỹ nghệ.
Diospyros ehretioides: Thị mâm, thị cùm rụm
Diospyros eriantha: Thị lọ nồi, nho nghẹ, nhọ nồi gõ, lọ nghẹ, thị lông đỏ
Diospyros fasciculosa: Australia.
Diospyros ferrea = Diospyros vera: Xang hot, thị ny hom
Diospyros filipendula: Thị lắc, thị vảy ốc
Diospyros fischeri (đồng nghĩa: Royena fischeri).
Diospyros fleuryana: Thị fleury
Diospyros frutescens: Da nghé, thị roi, bú dù
Diospyros haivanensis: Thị Hải Vân
Diospyros hasseltii: Thị hasselt
Diospyros hayatae: Thị hayata
Diospyros hirsuta: Thị lông cứng, thị lông phún
Diospyros insularis: Mun New Guinea.
Diospyros kaki: hồng, thị Nhật Bản, thị Trung Quốc. Loài cây được trồng rộng rãi nhất trong chi này để lấy quả ăn. Loài cây này có nguồn gốc ở Trung Quốc, là cây lá sớm rụng, các lá cứng, bản rộng. Việc trồng trọt nó đầu tiên diễn ra ở khu vực Đông Á và sau đó đã được giới thiệu vào California và Nam Âu trong thế kỷ 19.
Diospyros kerrii: Thị Kerr
Diospyros kurzii: Cẩm thị, cẩm Andaman.
Diospyros lanceifolia: Sang đen, thị lá mác. Đông Nam Á.
Diospyros latisepala: Thị lá rộng
Diospyros lobata: Cậy, thị trầm, sang đen, thị trâm thơm
Diospyros longibracteata: Thị lá bắc dài
Diospyros longipedicellata: Thị cọng dài, thị cuống hoa dài
Diospyros lotus: Cậy (thị sen, thị bị, táo đen, mận chà là). Có nguồn gốc ở Tây Nam Á và đông nam châu Âu. Được người Hy Lạp cổ đại biết đến như là "quả của Thượng đế", tức dios pyros, từ đây mà có tên khoa học của chi này. Quả nhỏ có mùi vị giống như cả mận và chà là.
Diospyros mabacea: Mun quả đỏ, miền bắc New South Wales - loài đang nguy cấp cao độ.
Diospyros macassar: Mun Macassar, mun Ấn Độ
Diospyros macrocalyx (đồng nghĩa: Diospyros loureiroana, Royena macrocalyx).
Diospyros major: bờ biển phía đông Australia.
Diospyros malabarica (đồng nghĩa: Diospyros embryopteris, Diospyros peregrina): Cườm thị, thị đầu heo, thị Ấn Độ, mun núi, bam, vam
Diospyros malabarica thứ malabarica: thị dại Ấn Độ
Diospyros malabarica thứ siamensis: thị dại Thái Lan, mun dại Thái Lan
Diospyros maritima: Cẩm thị, vàng nghệ, thị cam
Diospyros marmorata: Mun Andaman.
Diospyros martabanica: Thị trâm
Diospyros melanoxylon: mun Đông Ấn. Lá của loài này được thu hái để làm thuốc lá bidi của người Ấn Độ.
Diospyros mespiliformis: mun châu Phi
Diospyros moi: Thị mọi, thị thượng.
Diospyros mollis: Mặc nưa
Diospyros montana: Thị núi, thị tim, nhôn
Diospyros morrisiana: Thị Morris, la phù thị
Diospyros multiflora.
Diospyros mun: Mun, mung
Diospyros nebulorum: Thị may, thị Hải Vân
Diospyros nhatrangensis: Thị hồng, thị Nha Trang
Diospyros nitida: Thị đen
Diospyros oleifera: Thị dầu
Diospyros pentamera: mun sim, thị xám - bờ biển phía đông Australia.
Diospyros rubra: thị rừng
Diospyros rumphii (đồng nghĩa: Diospyros utilis): mun đen, mun Macassar
Diospyros saletti: mun sọc
Diospyros samoensis.
Diospyros sandwicensis: Loài cây đặc hữu của Hawaii, tại đây gọi là lama.
Diospyros siamang: (đồng nghĩa Diospyros elliptifolia)
Diospyros siamensic: cẩm thị, thị Thái Lan
Diospyros sinensis: thị núi, thị Trung Quốc
Diospyros texana: thị Texas. Cây bụi nhiều cành hay cây thân gỗ nhỏ có nguồn gốc ở miền trung và tây Texas cũng như tây nam Oklahoma, tại đây chúng sống trên các sườn núi đá khô cằn. Quả nhỏ hơn của cây thị châu Phi, được nhiều loài chim và thú ăn. Nó đã từng được người Mỹ bản địa dùng làm thuốc nhuộm để thuộc da.
Diospyros tomentosa: mun Nepal
Diospyros tonkinensis: mun sọc
Diospyros trichophylla (đồng nghĩa: Diospyros pruriens).
Diospyros variegata: Thị lọ nồi, thị trổ
Diospyros venosa (đồng nghĩa: Diospyros hermaphroditica): Săng đen, thị gân
Diospyros villosa (đồng nghĩa: Royena villosa).
Diospyros virginiana: thị châu Mỹ, thị Mỹ, mun trắng. Có nguồn gốc ở miền đông Bắc Mỹ.
Chú thích |
Quốc lộ 1 có thể chỉ đến:
Quốc lộ 1 tại Ấn Độ
Quốc lộ 1 tại Campuchia
Quốc lộ 1 tại Iceland
Quốc lộ 1 tại New Zealand
Quốc lộ 1 tại Úc
Quốc lộ 1A, Quốc lộ 1B, Quốc lộ 1C, Quốc lộ 1D hay Quốc lộ 1K tại Việt Nam |
Nhật thực là hiện tượng xảy ra khi Mặt Trăng đi qua giữa Trái Đất và Mặt Trời trên cùng một đường thẳng và quan sát từ Trái Đất, lúc đó Mặt Trăng che khuất hoàn toàn hay một phần Mặt Trời. Điều này chỉ có thể xảy ra tại thời điểm trăng non khi nhìn từ Trái Đất, lúc Mặt Trời bị Mặt Trăng che khuất và bóng của Mặt Trăng phủ lên Trái Đất. Trong lúc nhật thực toàn phần, đĩa Mặt Trời bị che khuất hoàn toàn. Với nhật thực một phần hoặc hình khuyên, đĩa Mặt Trời chỉ bị che khuất một phần.
Nếu Mặt Trăng có quỹ đạo tròn hoàn hảo, gần hơn Trái Đất một chút, và trong cùng mặt phẳng quỹ đạo, sẽ có nhật thực toàn phần xảy ra mỗi lần trong một tháng. Tuy nhiên, quỹ đạo của Mặt Trăng nghiêng hơn 5° so với mặt phẳng quỹ đạo của Trái Đất quanh Mặt Trời (xem mặt phẳng hoàng đạo), do vậy bóng của Mặt Trăng lúc trăng non thường không chiếu lên Trái Đất. Để hiện tượng nhật thực cũng như nguyệt thực xảy ra, Mặt Trăng phải đi qua mặt phẳng quỹ đạo của Trái Đất. Hơn nữa, quỹ đạo của Mặt Trăng có hình elip, và nó thường ở đủ xa Trái Đất khiến cho kích cỡ biểu kiến của nó không đủ lớn để che khuất hoàn toàn Mặt Trời lúc nhật thực. Mặt phẳng quỹ đạo của Mặt Trăng và của Trái Đất mỗi năm cắt nhau tại các điểm nút lên và nút xuống của quỹ đạo; và có ít nhất là 2 và nhiều nhất là 5 lần nhật thực xảy ra trong một năm, cũng không thể có nhiều hơn hai lần nhật thực toàn phần trong cùng một năm. Tuy nhiên, tại một nơi cụ thể trên Trái Đất, hiện tượng nhật thực toàn phần xảy ra là rất hiếm bởi vì bóng của Mặt Trăng trong lúc hiện tượng này xảy ra đổ lên Trái Đất theo một dải hẹp và trong thời gian ngắn, với lần lâu nhất khoảng 7 phút (nhật thực toàn phần ngày 20 tháng 7 năm 1955).
Hiện tượng che khuất là hiện tượng của tự nhiên. Tuy thế, trong lịch sử cổ đại và quan niệm của một số người hiện đại, nhật thực thuộc về hiện tượng siêu nhiên. Hiện tượng nhật thực toàn phần gây ra sự sợ hãi đối với người dân thời cổ đại do thiếu hiểu biết về thiên văn học, khi Mặt Trời dường như biến mất vào ban ngày và bầu trời tối đen trong vài phút.
Rất nguy hiểm cho mắt khi nhìn trực tiếp vào Mặt Trời. Do vậy để quan sát hiện tượng nhật thực trực tiếp cần sử dụng các loại kính bảo vệ mắt hoặc quan sát gián tiếp hình ảnh lúc nhật thực. Nhưng khi xảy ra hiện tượng nhật thực toàn phần, mắt có thể an toàn quan sát hiện tượng này trong lúc Mặt Trăng che khuất hoàn toàn Mặt Trời. Những người ưa thích hiện tượng này thường đi du lịch đến những nơi sắp xảy ra để chứng kiến và chụp ảnh.
Từ nguyên
Chữ Hán: 日食, nghĩa: "mặt trời bị ăn".
Các kiểu nhật thực
Có bốn kiểu nhật thực:
Nhật thực toàn phần xảy ra khi đĩa tối của Mặt Trăng che khuất hoàn toàn Mặt Trời và người quan sát nằm trong bóng tối của Mặt Trăng, cho phép quan sát được vầng hào quang bao quanh Mặt Trời hay vành nhật hoa bằng mắt với dụng cụ bảo vệ. Trong thời gian xảy ra bất kỳ một lần nhật thực nào, chỉ có thể quan sát thấy nhật thực toàn phần từ một dải hẹp trên bề mặt Trái Đất.
Nhật thực hình khuyên xảy ra khi Mặt Trời và Mặt Trăng nằm chính xác trên một đường thẳng, nhưng kích cỡ biểu kiến của Mặt Trăng nhỏ hơn kích cỡ biểu kiến của Mặt Trời. Vì thế Mặt Trời vẫn hiện ra như một vòng đai rực rỡ bao quanh Mặt Trăng. Thời gian diễn ra nhật thực hình khuyên lâu hơn nhật thực toàn phần nhưng cũng chỉ kéo dài trong vài phút.
Nhật thực lai là một kiểu trung gian giữa nhật thực toàn phần và nhật thực hình khuyên. Ở một số điểm trên Trái Đất, nó được quan sát thấy là nhật thực toàn phần; ở những nơi khác nó lại là nhật thực hình khuyên. Thuật ngữ chung cho nhật thực toàn phần, hình khuyên hay nhật thực lai là nhật thực trung tâm. Nhật thực lai rất hiếm khi xảy ra.
Nhật thực một phần xảy ra khi Mặt Trời và Mặt Trăng không nằm chính xác trên cùng một đường thẳng, và Mặt Trăng chỉ che khuất một phần của Mặt Trời. Hiện tượng này thường được quan sát thấy ở nhiều nơi trên Trái Đất bên ngoài đường đi của nhật thực trung tâm. Tuy nhiên, một số kiểu nhật thực chỉ có thể quan sát thấy như là nhật thực một phần, khi vùng bóng tối (umbra) trượt qua một trong hai vùng cực Trái Đất và đường trung tâm lúc này không cắt qua bề mặt của Trái Đất. Nhật thực một phần thường không có ảnh hưởng đáng kể tới độ sáng của Mặt Trời, vì cần có độ che khuất lớn hơn 90% để sự tối có thể nhận thấy được bằng mắt thường. Ngay cả với 99% đĩa Mặt Trời bị che khuất, bóng tối vẫn không tối hơn chạng vạng dân dụng. Tất nhiên, nhật thực một phần (hay pha một phần của các loại nhật thực khác) vẫn có thể quan sát được nếu ta xem Mặt Trời qua một kính lọc tối (nên được sử dụng để đảm bảo an toàn cho mắt).
Khoảng cách Mặt Trời đến Trái Đất xấp xỉ bằng 400 lần khoảng cách Mặt Trăng đến Trái Đất, và đường kính của Mặt Trời bằng khoảng 400 lần đường kính của Mặt Trăng. Bởi vì hai tỉ số này xấp xỉ bằng nhau, khi nhìn từ Trái Đất, Mặt Trời và Mặt Trăng có kích thước biểu kiến gần bằng nhau: khoảng 0,5 độ góc.
Một loại nhật thực khác mà Mặt Trời bị che khuất bởi một hành tinh khác ngoài Mặt Trăng khi nhìn từ một điểm trong không gian vũ trụ. Ví dụ, đoàn du hành vũ trụ Apollo 12 đã chụp được ảnh Trái Đất che khuất Mặt Trời năm 1969 và tàu không gian Cassini cũng chụp được ảnh Sao Thổ che khuất Mặt Trời năm 2006.
Quỹ đạo của Mặt Trăng quanh Trái Đất cũng như quỹ đạo của Trái Đất quanh Mặt Trời là hình elip. Do vậy kích cỡ biểu kiến của Mặt Trời và Mặt Trăng biến đổi theo vị trí trên quỹ đạo. Độ lớn của một lần thiên thực xác định bằng tỉ số giữa kích cỡ biểu kiến của Mặt Trăng trên kích cỡ biểu kiến của Mặt Trời trong thời gian xảy ra thiên thực. Sự kiện thiên thực (bao gồm nhật thực và nguyệt thực) xảy ra khi Mặt Trăng ở gần điểm cận địa (điểm gần Trái Đất nhất) có thể trở thành hiện tượng thiên thực toàn phần bởi vì khi đó Mặt Trăng sẽ đủ lớn để che khuất hoàn toàn đĩa sáng của Mặt Trời, hay quang quyển; và lúc này độ lớn thiên thực có giá trị lớn hơn 1. Ngược lại, sự kiện thiên thực xảy ra khi Mặt Trăng ở điểm viễn địa (điểm xa Trái Đất nhất) chỉ có thể là hiện tượng thiên thực hình khuyên bởi vì khi đó Mặt Trăng có kích thước biểu kiến nhỏ hơn so với của Mặt Trời; độ lớn thiên thực lúc này có giá trị nhỏ hơn 1. Trung bình, hiện tượng nhật thực hình khuyên xảy ra nhiều hơn nhật thực toàn phần, bởi vì Mặt Trăng nằm khá xa Trái Đất để có thể bao phủ hoàn toàn Mặt Trời. Hiện tượng nhật thực lai xảy ra khi độ lớn thiên thực trong thời gian diễn ra chuyển từ giá trị nhỏ hơn 1 sang lớn hơn 1, do vậy tại một nơi trên Trái Đất có thể quan sát thấy nhật thực toàn phần trong khi ở những nơi khác lại quan sát thấy nhật thực hình khuyên.
Khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trời thay đổi trong một năm do quỹ đạo elip. Điều này cũng làm cho kích thước biểu kiến của Mặt Trời biến đổi trong năm, nhưng sự biến đổi này không nhiều bằng so với kích thước biểu kiến của Mặt Trăng. Khi Trái Đất nằm xa Mặt Trời nhất vào tháng 7, và nếu hiện tượng nhật thực xảy ra thì khả năng nhiều là hiện tượng nhật thực toàn phần, trong khi nếu hiện tượng nhật thực xảy ra lúc Trái Đất nằm gần Mặt Trời nhất vào tháng 1 thì nhiều khả năng đó là nhật thực hình khuyên.
Thuật ngữ nhật thực trung tâm
Nhật thực trung tâm là thuật ngữ chung để miêu tả các hiện tượng nhật thực toàn phần, hình khuyên hay nhật thực lai. Tuy nhiên, định nghĩa thuật ngữ này không hoàn toàn đúng và bổ sung thêm: nhật thực trung tâm là hiện tượng nhật thực xảy ra khi đường nối "tâm" của đĩa Mặt Trăng với "tâm" của đĩa Mặt Trời cắt bề mặt Trái Đất. Nhưng có trường hợp, và rất hiếm, một phần của vùng bóng tối (nguyên bóng, umbra) phủ lên bề mặt Trái Đất (và do vậy tạo ra nhật thực hình khuyên hay toàn phần) nhưng đường nối 2 tâm không cắt bề mặt Trái Đất. Hiện tượng này gọi là nhật thực toàn phần (hay hình khuyên) không trung tâm. Nhật thực không trung tâm xảy ra sắp tới vào ngày 29 tháng 4 năm 2014 và là nhật thực hình khuyên. Nhật thực không trung tâm toàn phần sẽ xảy ra vào ngày 9 tháng 4 năm 2043 (và như vậy nhật thực không trung tâm rất hiếm gặp!).
Người ta phân chia ra 5 pha trong một lần nhật thực toàn phần đó là:
Tiếp xúc đầu tiên—khi rìa đĩa Mặt Trăng tiếp xúc chính xác với đĩa Mặt Trời.
Tiếp xúc lần hai—bắt đầu bằng hiệu ứng vòng hạt Baily (ánh sáng Mặt Trời đi qua các khe núi trên Mặt Trăng do địa hình gồ ghề của nó) hay còn gọi là hiệu ứng "nhẫn kim cương". Gần như toàn bộ đĩa Mặt Trời đã bị che khuất.
Mặt Trăng che khuất hoàn toàn đĩa Mặt Trời, và chỉ có thể quan sát thấy vành nhật hoa bao quanh nó.
Tiếp xúc lần ba—khi ánh sáng Mặt Trời lần đầu tiên ló trở lại và bóng tối của Mặt Trời dần biến mất. Một lần nữa, hiện tượng nhẫn kim cương có thể xảy ra.
Tiếp xúc lần bốn—khi rìa đĩa Mặt Trăng tiếp xúc lần cuối cùng với đĩa Mặt Trời và kết thúc hiện tượng nhật thực.
Tại một nơi quan sát, toàn bộ 5 pha này có thể kéo dài trong vài giờ, nhưng thời gian cho pha nhật thực toàn phần chỉ kéo dài trong vài phút.
Tiên đoán nhật thực
Hình học
Hai hình bên phải cho thấy vị trí của Mặt Trời, Mặt Trăng và Trái Đất trong lần nhật thực. Ở hình thứ hai và thứ ba, vùng màu đen nằm giữa Trái Đất và Mặt Trăng gọi là vùng bóng tối (umbra), nơi Mặt Trời hoàn toàn bị che khuất bởi Mặt Trăng. Vùng đen nhỏ trên bề mặt Trái Đất là nơi có thể quan sát thấy nhật thực toàn phần. Phạm vi rộng hơn màu xám là vùng nửa tối (penumbra), nơi đứng trên Trái Đất có thể thấy nhật thực một phần. Một người quan sát nếu đứng trong vùng đối của vùng bóng tối (antumbra), có thể thấy nhật thực hình khuyên.
Quỹ đạo của Mặt Trăng nghiêng khoảng 5° so với mặt phẳng quỹ đạo của Trái Đất. Do điều này, vào lúc trăng non, Mặt Trăng thường ở phía trên hay phía dưới Mặt Trời (xem thêm minh họa ở hình trên). Nhật thực chỉ xảy ra lúc trăng non và khi Mặt Trăng nằm gần các giao điểm của mặt phẳng hoàng đạo và mặt phẳng quỹ đạo của nó (gọi là các điểm nút quỹ đạo).
Mặt Trăng có quỹ đạo elip, do vậy khoảng cách của nó đến Trái Đất biến thiên khoảng 6% so với giá trị trung bình. Vì thế mà kích thước biểu kiến của nó cũng thay đổi theo khoảng cách (biến đổi khoảng 13%) khi nhìn từ Trái Đất, và điều này ảnh hưởng đến hiện tượng nhật thực toàn phần hay hình khuyên. Khoảng cách giữa Trái Đất và Mặt Trời cũng thay đổi trong năm nhưng tỉ số tương đối là nhỏ, vì vậy kích thước biểu kiến của Mặt Trời không thay đổi nhiều. Trung bình, khi nhìn từ Trái Đất, Mặt Trăng hiện lên nhỏ hơn Mặt Trời, do đó phần lớn nhật thực trung tâm là nhật thực hình khuyên. Chỉ khi Mặt Trăng đủ gần Trái Đất hơn so với trung bình (gần điểm cận địa) thì nhật thực toàn phần xảy ra. Chẳng hạn, trong giai đoạn 1900 đến 1999, có tất cả 239 lần nhật thực, gồm 84 lần nhật thực một phần, 71 lần nhật thực hình khuyên, 62 lần nhật thực toàn phần, và 22 lần nhật thực lai.
Chu kỳ quỹ đạo của Mặt Trăng xấp xỉ 27,3 ngày, tính theo những ngôi sao cố định ở xa. Thời gian này tương ứng với tháng thiên văn. Tuy nhiên, trong thời gian 1 tháng thiên văn, Trái Đất cũng đã di chuyển được một quãng đường trên quỹ đạo quanh Mặt Trời, khiến thời gian trung bình giữa hai lần trăng mới kéo dài hơn tháng thiên văn, xấp xỉ 29,5 ngày, hay chính là chu kỳ giao hội của Mặt Trăng. Các nhà thiên văn học gọi đây là tháng giao hội, và dựa trên đó phân ra dương lịch hay âm lịch.
Mặt Trăng đi từ phía nam lên phía bắc của mặt phẳng hoàng đạo tại điểm nút lên, và ngược lại tại điểm nút xuống. Tuy nhiên, các điểm nút của quỹ đạo Mặt Trăng dần dần di chuyển thay đổi theo thời gian do ảnh hưởng hấp dẫn của Mặt Trời lên chuyển động quỹ đạo của Mặt Trăng, và các điểm nút quỹ đạo có chu kỳ gần 18,6 năm Trái Đất. Sự tiến dịch này làm cho khoảng thời gian giữa mỗi lần Mặt Trăng đi qua điểm nút lên ngắn hơn tháng giao hội. Khoảng thời gian này được các nhà thiên văn gọi là tháng giao điểm thăng. (xem Phương pháp tiên đoán ở dưới)
Mặt khác do ảnh hưởng của nhiễu loạn hấp dẫn mà điểm cận địa của Mặt Trăng cũng tiến động theo thời gian trên quỹ đạo, và điểm cận địa có chu kỳ khoảng 8,85 năm. Khoảng thời gian Mặt Trăng hoàn thành giữa hai lần đi qua điểm cận địa hơi dài hơn tháng giao điểm thăng và người ta gọi đó là tháng điểm cận địa.
Quỹ đạo Mặt Trăng cắt mặt phẳng hoàng đạo tại hai điểm nút cách nhau 180°. Do vậy, khi những lần trăng mới xuất hiện gần các điểm nút theo chu kỳ trong một năm cách nhau xấp xỉ sáu tháng (173,3 ngày), lúc đó có ít nhất một lần nhật thực xảy ra trong những thời điểm này. Thỉnh thoảng khi lần trăng mới xuất hiện đủ gần một điểm nút dẫn đến trong hai tháng liên tiếp xảy ra 2 hiện tượng nhật thực một phần. Có nghĩa là, trong một năm bất kỳ, sẽ có ít nhất 2 lần nhật thực và nhiều nhất là 5 lần nhật thực xảy ra.
Hiện tượng thiên thực chỉ có thể xảy ra khi Mặt Trời nằm cách một điểm nút khoảng cách góc 15° đến 18°, (10° đến 12° cho hiện tượng nhật thực trung tâm). Và đây là giới hạn cho hiện tượng thiên thực. Trong thời gian Mặt Trăng trở lại điểm nút (tháng giao điểm thăng), vị trí biểu kiến của Mặt Trời di chuyển trong phạm vi rộng 29° so với các điểm nút. Do giới hạn thiên thực có phạm vi tới 18° x 2 = 36° với điểm nút N1 hoặc N2 ở chính giữa (24° cho nhật thực trung tâm), nó mở ra cơ hội cho hiện tượng thiên thực một phần xảy ra (hoặc nhật thực một phần và nhật thực trung tâm xảy ra, nhưng hiếm hơn) trong hai tháng kế tiếp nhau.
Đường đi của bóng Mặt Trăng và phạm vi quan sát
Trong lần nhật thực trung tâm, vùng bóng tối của Mặt Trăng - umbra (hoặc vùng đối bóng tối - antumbra, trong trường hợp nhật thực hình khuyên) di chuyển rất nhanh từ tây sang đông trên bề mặt Trái Đất. Trái Đất quay quanh trục từ tây sang đông, với vận tốc khoảng 28 km/min tại xích đạo, nhưng Mặt Trăng cũng chuyển động trên quỹ đạo theo cùng hướng tự quay của Trái Đất với vận tốc 61 km/min, do vậy vùng bóng tối (umbra) gần như luôn luôn di chuyển theo hướng tây-đông trên bề mặt với vận tốc quỹ đạo của Mặt Trăng trừ đi vận tốc tiếp tuyến của vận tốc tự quay của Trái Đất bằng 33 km/min.
Bề rộng của vùng bóng tối lúc nhật thực toàn phần hay lúc nhật thực hình khuyên phụ thuộc theo khoảng cách của Mặt Trăng đến Trái Đất và do đó là đường kính biểu kiến của Mặt Trăng và Trái Đất. Trong những lần nhật thực đặc biệt nhất, khi nhật thực toàn phần xảy ra khi Mặt Trăng rất gần điểm cận địa, bề rộng (hay đường kính vùng bóng tối) của đường đi có thể trên 250 km, và tại một vị trí trên Trái Đất thời gian xảy ra nhật thực toàn phần kéo dài trên 7 phút. Bên ngoài vùng bóng tối trung tâm, vùng quan sát thấy nhật thực một phần có diện tích khá lớn. Trung bình, vùng bóng tối có đường kính khoảng 100–160 km, trong khi đường kính của vùng nửa tối có thể trên 6.400 km. (Xem thêm ảnh động ở đầu bài)
Phương pháp tiên đoán
Từ thời cổ đại, sớm nhất từ 1350 TCN, trong đó các nhà thiên văn học Babylon (khoảng 730 TCN) đã phát hiện ra Mặt Trăng tuân theo chu kỳ Saros, tên gọi do Edmund Halley đặt, các hiện tượng thiên thực lặp lại cứ sau xấp xỉ 18 năm 11 ngày 8 giờ (6585d 8h). Chu kỳ này do sự trùng hợp thời gian giữa ba loại chu kỳ Mặt Trăng:
223 tháng giao hội (giữa hai lần trăng mới): 29,530589 ngày x 223 = 6585,3223 ngày = 6585d 07h 43m
239 tháng điểm cận địa (giữa hai lần cận địa): 27,554550 ngày x 239 = 6585,5375 ngày = 6585d 12h 54m
242 tháng giao điểm thăng (giữa hai lần đi qua điểm nút lên): 27,212221 ngày x 242 = 6585,3575 ngày = 6585d 08h 35m
Do nhật thực thường xảy ra những lúc trăng mới và Mặt Trăng gần điểm nút quỹ đạo (nếu ở thêm điểm cận địa thì khả năng xảy ra nhật thực toàn phần), vì vậy hai lần thiên thực cách nhau bởi chu kỳ Saros có những tính chất hình học giống nhau. Chúng xuất hiện ở cùng một điểm nút mà Mặt Trăng có cùng khoảng cách đến Trái Đất và ở cùng thời điểm trong năm. Bởi vì chu kỳ Saros không chẵn ngày (dư ra 8 giờ), khiến điều hạn chế lớn nhất của nó đó là những lần nhật thực tiếp sau sẽ xuất hiện ở những nơi khác nhau trên toàn cầu. Lượng dư 1/3 ngày có nghĩa là Trái Đất phải quay thêm ~8 giờ hoặc thêm một góc ~120º đối với mỗi chu kỳ. Đối với nhật thực, kết quả này làm dịch chuyển đường đi của bóng tối Mặt Trăng khoảng ~120º về phía tây ở lần nhật thực sau. Do đó, sau 3 chu kỳ Saros, nhật thực lặp lại tại cùng phạm vi địa lý trên Trái Đất (54 năm và 34 ngày). Dựa trên chu kỳ Saros, nếu đã biết được hiện tượng thiên thực xảy ra từ trước thì sẽ tiên đoán khá chính xác hiện tượng này sẽ xảy ra trong tương lai gần ở vị trí địa lý nào.
Năm 1824, nhà toán học và thiên văn học người Đức Friedrich Bessel đưa ra phương pháp tính mới tiên đoán vị trí và thời gian xảy ra hiện tượng thiên thực bằng các tham số Bessel cho theo hệ quy chiếu của bóng Mặt Trăng so với tâm của Trái Đất. Phương pháp này rất chính xác và là công cụ mạnh cùng với máy tính cho việc tiên đoán các hiện tượng thiên thực không những trên Trái Đất mà đối với cả các hành tinh và sao khác. Một mặt phẳng gọi là mặt phẳng cơ bản đi qua tâm Trái Đất và vuông góc với trục của bóng Mặt Trăng (trục nối tâm Mặt Trời và Mặt Trăng). Các tọa độ x, y và z lần lượt chỉ theo hướng đông, bắc và song song với trục của bóng Mặt Trăng. Các tham số Bessel là x và y cho bóng Mặt Trăng, l1 và l2 lần lượt là bán kính của vùng nửa tối và vùng bóng tối trên mặt phẳng cơ bản. Hướng của trục z trên thiên cầu được cho theo hai tọa độ xích vĩ d và góc giờ μ, và góc của đường bao vùng tối và vùng nửa tối so với trục bóng Mặt Trăng lần lượt là f1 và f2. Tám tham số Bessel (x, y, l1, l2, d, μ, f1, f2) cùng với tỉ số bán kính Mặt Trăng trên bán kính Trái Đất k, được cho theo bảng in sẵn hoặc được lập trình theo nhiều chương trình dự đoán nhật thực và nguyệt thực. Chi tiết về tính toán thiên thực có thảo luận tại một số cuốn chuyên khảo về lịch thiên văn và nhật thực.
Tần suất và thời gian xảy ra
Tại một nơi trên Trái Đất, nhật thực toàn phần là một hiện tượng hiếm gặp. Mặc dù nó xảy ra trên hành tinh trung bình khoảng 18 tháng một lần nhật thực toàn phần,. Người ta tính được hiện tượng này lặp lại tại một nơi bất kỳ trung bình khoảng từ 360 đến 410 năm. Nhật thực toàn phần kéo dài trong vài phút tại từng nơi bất kỳ, bởi vì vùng bóng tối của Mặt Trăng di chuyển về phía tây với tốc độ trên 1700 km/h. Tại một nơi, thời gian quan sát thấy nhật thực toàn phần không bao giờ kéo dài quá 7 phút 31 giây, và thường ngắn hơn 5 phút: trong mỗi thiên niên kỷ thường có ít hơn 10 lần nhật thực toàn phần kéo dài quá 7 phút. Lần gần đây nhất là nhật thực toàn phần ngày 30 tháng 6 năm 1973 với 7 phút 3 giây. Lần này, các nhà thiên văn đã sử dụng một máy bay Concorde bay theo vệt tối của Mặt Trăng và quan sát được nhật thực toàn phần trong thời gian khoảng 72 phút. Lần nhật thực toàn phần tiếp theo có thời gian kéo dài hơn 7 phút sẽ là vào ngày 25 tháng 6 năm 2150. Lần nhật thực toàn phần kéo dài lâu nhất trong giai đoạn 8.000 năm từ 3.000 TCN đến 5.000 sẽ xảy ra vào ngày 16 tháng 7 năm 2186, khi thời gian diễn ra tại một nơi đặc biệt vào khoảng 7 phút 29 giây. Để so sánh, lần nhật thực toàn phần lâu nhất trong thế kỷ XX là 7 phút 8 giây vào ngày 20 tháng 6 năm 1955 và không có lần nhật thực toàn phần nào kéo dài trên 7 phút trong thế kỷ XXI.
Nếu ngày và thời gian của những lần nhật thực đã biết, người ta có thể tiên đoán những lần nhật thực trong tương lai bằng sử dụng chu kỳ nhật thực. Chu kỳ Saros là một trong những chu kỳ nổi tiếng và chính xác nhất mà các nhà thiên văn học cổ đại từng áp dụng (xem ở trên). Chu kỳ Saros bằng 6.585,3 ngày (trên 18 năm), có nghĩa là sau mỗi chu kỳ này một sự kiện thiên thực giống hệt sẽ diễn ra. Nhưng có sự khác biệt về kinh độ địa lý bị dịch chuyển khoảng 120° (do dư 0,3 ngày) và lệch một ít về vĩ độ (do độ nghiêng của mặt phẳng quỹ đạo Mặt Trăng). Chuỗi Saros luôn luôn bắt đầu bằng thiên thực một phần gần một trong hai vùng cực của Trái Đất, sau đó dịch chuyển trên toàn cầu thông qua những lần thiên thực hình khuyên và toàn phần, và kết thúc chuỗi bằng nhật thực một phần tại vùng cực đối đỉnh. Chuỗi Saros kéo dài khoảng từ 1226 đến 1550 năm với 69 đến 87 lần thiên thực, trong đó 40 đến 60 lần là thiên thực trung tâm.
Số lần trong mỗi năm
Một năm có ít nhất hai lần nhật thực và nhiều nhất năm lần nhật thực. Từ khi áp dụng lịch Gregory năm 1582, các năm có 5 lần nhật thực xảy ra đó là 1693, 1758, 1805, 1823, 1870, và 1935. Năm tiếp theo sẽ là 2206.
Nhật thực toàn phần cuối cùng
Nhật thực xảy ra nhờ cấu hình hình học đặc biệt của Mặt Trăng, Trái Đất và Mặt Trời. Tuy đối với con người ở trên Trái Đất, hiện tượng nhật thực toàn phần là hiếm gặp và ngắn ngủi, nhưng trong hàng trăm triệu năm trước trong quá khứ, Mặt Trăng nằm khá gần Trái Đất để nhiều lần che khuất hoàn toàn Mặt Trời giống như nhật thực toàn phần ngày nay; và trong một tỷ năm tới nó vẫn có thể che lấp Mặt Trời.
Do ảnh hưởng của gia tốc thủy triều, quỹ đạo của Mặt Trăng quanh Trái Đất hiện tại mỗi năm dịch ra xa khoảng 3,8 cm. Người ta tính được rằng trong ít hơn 1,4 tỷ năm nữa, khoảng cách từ nó đến Trái Đất sẽ tăng thêm 23.500 km. Trong thời gian này, đường kính góc của Mặt Trăng sẽ giảm dần, trong khi Mặt Trời thì không có sự biến đổi nhiều trong 1,4 tỷ năm nữa và do vậy Mặt Trăng không thể hoàn toàn che khuất được đĩa Mặt Trời khi nhìn từ Trái Đất. Điều này sẽ đúng khi Mặt Trăng ở điểm cận địa và Trái Đất ở điểm viễn nhật. Do vậy, khả năng sẽ không còn hiện tượng nhật thực toàn phần trong 1,4 tỷ năm nữa.
Nhật thực và nguyệt thực
Nhật thực có khả năng quan sát thấy ít hơn nguyệt thực, mặc dù trên thực tế tần suất nhật thực nhiều hơn. Lý do là nguyệt thực có thể quan sát thấy bởi một nửa số người trên Trái Đất nằm trong nửa tối, còn nhật thực chỉ có thể quan sát trong bóng hẹp của Mặt Trăng đổ xuống Trái Đất.
Quan sát
Nhìn trực tiếp vào quang quyển của Mặt Trời, đĩa sáng của Mặt Trời, ngay cả trong vài giây, sẽ làm phá hủy nặng nề võng mạc của mắt do cường độ ánh sáng mạnh và bức xạ vô hình phát ra từ quang quyển. Sự phá hủy này làm giảm thị lực, dẫn đến bị mù. Võng mạc không nhạy với vết đau, và hiệu ứng của nguyên nhân phá hủy võng mạc không cảm thấy được trong vài giờ sau đó, do vậy không có dấu hiệu cảnh báo nào của vết thương võng mạc mà người bị cảm thấy được.
Trong những điều kiện thông thường, Mặt Trời rất sáng và không thể quan sát trực tiếp. Tuy nhiên, trong thời gian nhật thực, với nhiều phần Mặt Trời bị che khuất, sẽ dễ hơn để quan sát nó với các dụng cụ bảo vệ mắt. Thực tế, nhìn vào Mặt Trời trong thời gian nhật thực cũng nguy hiểm khi nhìn vào nó lúc không có hiện tượng này, ngoại trừ trong một thời gian ngắn của nhật thực toàn phần, khi toàn bộ đĩa Mặt Trời bị che khuất hoàn toàn bởi Mặt Trăng. Cảnh báo: không được dùng mắt quan sát trực tiếp đĩa Mặt Trời thông qua bất kỳ một thiết bị hỗ trợ quang học nào (ống nhòm, kính thiên văn, hay máy ảnh camera) vì điều này sẽ làm mù mắt trong vài phần giây.
Nhật thực một phần và hình khuyên
Quan sát nhật thực một phần và hình khuyên (và trong quá trình nhật thực toàn phần khi Mặt Trời không hoàn toàn bị che khuất bởi Mặt Trăng) cần những dụng cụ bảo hộ mắt hoặc quan sát theo phương pháp gián tiếp để tránh hỏng mắt. Quan sát đĩa Mặt Trời nên sử dụng kính mắt quan sát nhật thực chuyên dụng để lọc bớt những bức xạ nguy hiểm từ Mặt Trời. Kính râm không an toàn khi dùng để quan sát Mặt Trời. Chỉ nên sử dụng những kính đạt tiêu chuẩn với thiết kế riêng cho quan sát nhật thực trực tiếp. Đặc biệt, với những dụng cụ tự chế như từ ổ đĩa mềm, đĩa CD, phim âm bản...nên tránh sử dụng.
Cách an toàn nhất để quan sát nhật thực đó là quan sát đĩa Mặt Trời một cách gián tiếp. Bằng cách sử dụng ống nhòm hoặc kính thiên văn với tờ bìa một lỗ nhỏ đặt trước kính và chiếu ảnh Mặt Trời lên một tờ giấy trắng. Lúc đó ảnh chiếu của Mặt Trời có thể quan sát an toàn; kỹ thuật này cũng được sử dụng để quan sát vết đen Mặt Trời. Cũng cần phải đề phòng để không ai nhìn trực tiếp qua ống nhòm hay kính thiên văn. Quan sát đĩa Mặt Trời thông qua màn hình video của camera ghi hình là an toàn, mặc dù camera có thể bị phá hủy bởi chịu tác động trực tiếp của ánh sáng Mặt Trời. Có thể đặt trước máy quay camera hoặc máy ảnh một kính lọc sáng giúp bảo vệ các bộ CCD của máy và cho phép quan sát an toàn. Cần phải có kỹ năng thành thục khi đặt bộ kính lọc trước máy để không gây ảnh hưởng đến ảnh quan sát và tác hại tới máy. Trong nhật thực một phần không thể quan sát thấy vành nhật hoa hoặc bầu trời không tối hoàn toàn, phụ thuộc vào diện tích đĩa Mặt Trời bị che khuất mà có thể cảm nhận được bầu trời tối đi hay không. Nếu hơn ba phần từ diện tích đĩa Mặt Trời bị che khuất thì ánh sáng ban ngày sẽ mờ đi rõ rệt, tuy bầu trời đã tối đi nhưng các vật vẫn in bóng xuống mặt đất.
Nhật thực toàn phần
trái|nhỏ|172x172px|Hiệu ứng vòng hạt Baily trong nhật thực toàn phần ngày 21 tháng 8, 2017.
Trong lúc nhật thực toàn phần, khi phần sáng của đĩa Mặt Trời rất nhỏ, lúc này sẽ hình thành hiệu ứng vòng hạt Baily. Hiệu ứng này xuất hiện bởi ánh sáng Mặt Trời vẫn đến được Trái Đất do địa hình gồ ghề của bề mặt Mặt Trăng. Hiện tượng này còn được biết đến là hiệu ứng nhẫn kim cương, những ánh sáng cuối cùng của Mặt Trời trước lúc nhật thực toàn phần.
Trong lúc nhật thực toàn phần, Mặt Trời bị che khuất hoàn toàn bởi Mặt Trăng, có thể nhìn trực tiếp hiện tượng này bằng mắt thường một cách an toàn, nhưng không thể tiếp tục quan sát khi giai đoạn nhật thực toàn phần kết thúc. Lúc này hình ảnh Mặt Trời rất mờ thông qua bộ lọc ánh sáng. Và có thể nhìn thấy vành nhật hoa bao quanh đĩa tối, cũng như sắc quyển, tai lửa Mặt Trời, hay thậm chí là vết loe Mặt Trời (solar flare). Cuối pha nhật thực toàn phần, hiệu ứng nhẫn kim cương lại xuất hiện về phía đối diện của đĩa Mặt Trăng.
Chụp ảnh
Thú chụp ảnh nhật thực có thể thực hiện bằng các máy chụp ảnh thông thường. Nhưng để hiện rõ đĩa Mặt Trời/Mặt Trăng thì cần những camera với thấu kính phóng đại tiêu cự lớn (ít nhất 200 mm cho camera 35 mm), và để thu được hình ảnh của đĩa trong hầu hết các khung hình, cần một thấu kính tiêu cự lớn hơn (trên 500 mm). Khi ngắm chỉnh hướng thông qua kính ngắm, cần phải thận trọng để không bị hỏng võng mạc nếu chẳng may nhìn trực tiếp vào Mặt Trời qua ống ngắm.
Lịch sử quan sát
Các lần nhật thực trong lịch sử là một dữ liệu tham chiếu quý giá cho các nhà sử học, cho phép họ suy ra ngày tương ứng với một sự kiện lịch sử một cách chính xác. Như lần nhật thực 15 tháng 6 năm 763 TCN được người Assyria ghi lại trong văn tự là một dấu mốc quan trọng giúp các nhà lịch sử xác định rõ niên đại lịch sử cận Đông. Cũng có những ghi chép về nhật thực sớm hơn trong lịch sử. Vua Trọng Khang nhà Hạ, cách nay gần 4.000 năm, đã từng xử trảm hai nhà chiêm tinh vì họ đã đoán sai về nhật thực. Có lẽ đề cập về nhật thực sớm nhất được ghi lại nhưng chưa được minh chứng, đó là của nhà khảo cổ Bruce Masse, ông cho rằng nhật thực xảy ra ngày 10 tháng 5 năm 2807 TCN cùng với sự kiện một thiên thạch rơi xuống Ấn Độ Dương gây ra những trận lụt/sóng thần huyền bí trong truyền thuyết mà để cập đến hai sự kiện này xảy ra đồng thời với nhau.
Người cổ đại từng coi hiện tượng thiên thực là điềm gở báo hiệu sắp có sự kiện xấu trong tương lai gần. Nhà lịch sử Hy Lạp cổ đại Herodotus viết rằng Thales của Miletus tiên đoán sẽ có hiện tượng nhật thực xảy ra trong thời gian chiến tranh giữa người Medes và Lydia. Điều này đã khiến cả hai phía hạ vũ khí và thỏa ước hòa bình do sự kiện nhật thực xảy ra. Ngày chính xác xảy ra nhật thực vẫn còn là vấn đề tranh cãi giữa nhiều nhà lịch sử cổ đại và hiện đại. Một trong những khả năng đó là nhật thực ngày 28 tháng 5 năm 585 TCN, có lẽ xảy ra gần sông Halys ở Tiểu Á. Một lần nhật thực mà Herodotus ghi lại được trước khi vua Xerxes rút lui đoàn quân của ông khi chống lại người Hy Lạp, mà có lẽ vào những năm 480 TCN, mà John Russell Hind tính toán rằng có nhật thực hình khuyên xảy ra tại Sardis ngày 17 tháng 2 năm 478 TCN. Người Ba Tư cũng ghi chép lại nhật thực một phần vào ngày 2 tháng 10 năm 480 TCN. Herodotus cũng ghi lại lần nhật thực ở Sparta trong thời gian người Ba Tư xâm lược Hy Lạp lần hai. Ngày xảy ra nhật thực mà ông ghi chép (1 tháng 8 năm 477 TCN) lại không phù hợp chính xác với ngày xâm lược mà đa số các nhà sử học hiện đại chấp nhận.
Ghi chép về nhật thực của Trung Hoa cổ đại bắt đầu có từ 720 TCN. Nhà thiên văn thế kỷ thứ IV TCN Thạch Thân (石申) đã miêu tả cách tiên đoán nhật thực bằng cách sử dụng vị trí tương đối của Mặt Trăng và Mặt Trời. Tư tưởng về ánh sáng từ Mặt Trăng là do bề mặt của nó phản chiếu ánh sáng từ Mặt Trời có từ khoảng thế kỷ thứ VI TCN, mặc dù nhà triết học Vương Sung (王充) đã phản đối lập luận này vào thế kỷ I. Các nhà thiên văn Hy Lạp cổ đại, như Parmenides và Aristotle, cũng nêu ra tư tưởng cho rằng Mặt Trăng phát sáng là do phản xạ ánh sáng Mặt Trời.
Một trong những giả thuyết về chính xác ngày thứ sáu Tuần Thánh, ngày mà chúa Giê-su bị đóng thánh giá, chính là một ngày xảy ra nhật thực. Giả thuyết này chưa được công nhận rộng rãi, và thứ sáu Tuần Thánh được ghi lại với lễ Vượt Qua mà xảy ra vào lúc trăng tròn. Ở Tây bán cầu, có một vài tư liệu tin cậy ghi lại nhật thực trước năm 800, cho đến khi có sự ra đời của các đài quan sát Ả Rập và tu viện thời trung cổ. Quan sát đầu tiên về nhật hoa được ghi lại ở Constantinople năm 968.
Người cổ đại cũng đã xây dựng một số công trình làm nơi tế thần cũng như sử dụng để quan sát và tiên đoán hiện tượng thiên thực. Stonehenge là một công trình bao gồm các tảng đá lớn xếp thành những vòng tròn đồng tâm, mà nhiều nhà khảo cổ cho rằng một trong những công dụng của nó là sử dụng để tiên đoán nhật thực.
Quan sát nhật thực bằng kính thiên văn đầu tiên có lẽ là vào năm 1706 tại Pháp. Chín năm sau, nhà thiên văn người Anh Edmund Halley đã quan sát nhật thực ngày 3 tháng 5 năm 1715. Cho đến giữa thế kỷ XIX, những hiểu biết khoa học về Mặt Trời đã tiến triển thêm nhờ quan sát vành nhật hoa trong thời gian nhật thực toàn phần. Vành nhật hoa được phát hiện đầu tiên trong lần nhật thực xảy ra ngày 8 tháng 7 năm 1842, và bức ảnh đầu tiên về nhật thực toàn phần chụp ngày 28 tháng 7 năm 1851.
Những quan sát khác
Nhật thực toàn phần là một cơ hội hiếm có để quan sát thấy vành nhật hoa (lớp bên ngoài của khí quyển Mặt Trời). Thông thường không thể quan sát thấy nó do quang quyển sáng hơn nhiều vành nhật hoa. Tùy theo Mặt Trời vào ở giai đoạn hoạt động của nó, chu kỳ Mặt Trời, mà vành nhật hoa có thể nhỏ và đối xứng hoặc lớn nhưng mờ. Các nhà khoa học đã không biết đến điều này nếu không quan sát thông qua nhật thực toàn phần và rất khó để tiên đoán tính chất của vành nhật hoa.
Có một hiệu ứng liên quan đến quá trình xảy ra nhật thực đó là những dải tối, tương tự như những dải tối ở đáy hồ bơi. Chúng chỉ xuất hiện trước và sau nhật thực toàn phần, khi hình ảnh lưỡi liềm Mặt Trời chiếu xuống khí quyển và coi như một nguồn sáng không đồng đều theo mọi hướng.
Phát hiện heli có trên Mặt Trời
Trong lần quan sát nhật thực toàn phần xảy ra ngày 18 tháng 8 năm 1868 tại Guntur, Ấn Độ, nhà thiên văn học người Pháp Pierre Janssen lần đầu tiên thu được chứng cứ về vạch phổ của nguyên tử heli, vạch sáng màu vàng trong quang phổ từ sắc quyển của Mặt Trời. Ban đầu ông cho rằng vạch này là của natri. Ngày 20 tháng 10 trong cùng năm, nhà thiên văn học người Anh Norman Lockyer cũng quan sát thấy vạch màu vàng trong quang phổ Mặt Trời và ông ký hiệu nó là vạch D3 trong vạch phổ Fraunhofer, bởi vì nó nằm gần vạch D1 và D2 của natri. Ông kết luận rằng vạch này là của một nguyên tố mới xuất hiện trên Mặt Trời và chưa tìm thấy ở Trái Đất. Lockyer cùng nhà hóa học người Anh Edward Frankland đặt tên cho nguyên tố mới theo tiếng Hy Lạp cho Mặt Trời là ἥλιος (helios).
Năm 1882, nhà vật lý Italia Luigi Palmieri lần đầu tiên phát hiện ra heli có trên Trái Đất, thông qua vạch phổ D3, khi ông thực hiện phân tích dung nham từ núi lửa Vesuvius.
Ngày 26 tháng 3 năm 1895, nhà hóa học Scottland Sir William Ramsay cô tách được heli từ khoáng vật cleveite (một loại khoáng uraninit chứa ít hơn 10% nguyên tố đất hiếm) bằng axít. Mục đích của Ramsay là tìm kiếm argon nhưng sau khi tách được nitơ và oxy từ khí thoát ra từ acid sulfuric, ông nhận thấy vạch màu vàng trong quang phổ phù hợp với vạch D3 quan sát trong quang phổ Mặt Trời.
Quan sát năm 1919
Tháng 11 năm 1915, Albert Einstein hoàn tất công trình thuyết tương đối rộng khi ông tìm ra được phương trình trường hấp dẫn. Trong bài báo của mình, ông đưa ra ba hệ quả đầu tiên của thuyết tương đối rộng, bao gồm sự tiến động của điểm cận nhật Sao Thủy-mà giá trị tìm được khớp với các quan sát trước đó của Urbain Le Verrier, dịch chuyển đỏ do hấp dẫn, và ánh sáng bị lệch bởi trường hấp dẫn. Einstein tính ra kết quả ánh sáng bị lệch khoảng 1,73" gấp đôi giá trị mà ông từng tiên đoán vào năm 1907.
Quan sát ánh sáng đi lệch thực hiện đầu tiên bằng cách khảo sát sự thay đổi vị trí của các ngôi sao khi chúng ở gần Mặt Trời trên thiên cầu. Do ánh sáng Mặt Trời quá sáng sẽ làm mờ hình ảnh các sao, vì vậy để có thể quan sát được chúng phải tận dụng cơ hội những lần nhật thực toàn phần. Năm 1919, tuy mới kết thúc chiến tranh thế giới thứ nhất, nhà thiên văn học người Anh Sir Arthur Eddington và cộng sự đã đến đảo Príncipe thưộc châu Phi để chụp lại hình ảnh các ngôi sao - thời điểm này các ngôi sao thuộc chòm sao Kim Ngưu-trong lúc nhật thực toàn phần diễn ra ngày 29 tháng 5. Trong khi đó một đoàn thám hiểm khác cũng đến Sobral, Ceará ở Brasil để thực hiện quan sát và chụp ảnh. Bằng cách so sánh vị trí biểu kiến của những ngôi sao, với khi có và không có Mặt Trời lúc chụp ảnh, Arthur Eddington thông báo quả thực ánh sáng bị lệch theo như tiên đoán của Einstein. Kết quả được xem là một trong những tin tức giật gân và xuất hiện trên hầu hết các tờ báo lớn hồi đó. Thực nghiệm đã làm Einstein và lý thuyết tương đối tổng quát của ông trở lên nổi tiếng. Khi người trợ lý của ông hỏi rằng, nếu như kết quả quan sát nhật thực của Eddington và Dyson năm 1919 là sai so với tiên đoán lý thuyết thì ông sẽ nghĩ sao, Einstein đáp lại rằng: "Lúc đó tôi cảm thấy tiếc cho Chúa. Lý thuyết là đúng đắn hoàn toàn."
Tuy nhiên độ chính xác ban đầu là khá thô. Một số người đã cho rằng độ lệch đo được là do sai số hệ thống và do vậy kết quả của Eddington là quá lỏng lẻo, mặc dù những phân tích hiện đại về bảng dữ liệu của ông cho thấy phân tích của Eddington là chính xác. Việc kiểm chứng độ lệch ánh sáng đã được lặp lại nhiều lần trong những lần nhật thực toàn phần tiếp theo, như của đội các nhà thiên văn từ Đài quan sát Lick thực hiện năm 1922 cho kết quả khớp với kết quả năm 1919, hoặc các nhà thiên văn ở Đài quan sát Yerkes quan trắc năm 1953 và một đội các nhà khoa học thuộc Đại học Texas quan sát nhật thực toàn phần năm 1973 đều cho kết quả như tiên đoán của thuyết tương đối tổng quát.
Dị thường hấp dẫn
Có một lịch sử dài trong quan sát hiệu ứng ảnh hưởng của hấp dẫn liên quan đến nhật thực, đặc biệt trong thời gian xảy ra nhật thực toàn phần. Năm 1954 và vào năm 1959, Maurice Allais thông báo quan sát thấy sự dịch chuyển kỳ lạ và không giải thích được trong suốt quá trình nhật thực toàn phần. Hiệu ứng này ngày nay được gọi là hiệu ứng Allais. Tương tự, Erwin Saxl và Mildred Allen năm 1970 quan sát thấy sự thay đổi bất thường trong chuyển động của con lắc xoắn, và người ta gọi là hiệu ứng Saxl.
Một quan sát công bố trong lần nhật thực 1997 của Wang và cộng sự gợi ra khả năng về hiệu ứng lá chắn hấp dẫn, và dấy lên một cuộc tranh luận về vấn đề này. Sau đó vào năm 2002, Yang và Wang cho đăng dữ liệu phân tích cho thấy vấn đề của họ vẫn chưa giải thích được.
Thiên thực và sự đi ngang qua
Về nguyên lý, sự kiện xuất hiện đồng thời nhật thực và hiện tượng một hành tinh đi ngang qua đĩa Mặt Trời là có thể. Nhưng sự trùng hợp này là rất hiếm bởi vì chúng xảy ra trong thời gian ngắn. Sự kiện nhật thực và Sao Thủy đi ngang qua đĩa Mặt Trời xảy ra đồng thời sẽ xuất hiện vào ngày 5 tháng 7 năm 6757, và nhật thực đi kèm với sự đi ngang qua của Sao Kim sẽ xảy ra vào ngày 5 tháng 4 năm 15232.
Thường gặp hơn, đó là sự kiện giao hội của một hành tinh (đặc biệt không chỉ Sao Thủy và Sao Kim) tại thời điểm nhật thực toàn phần, khi đó hành tinh sẽ nhìn thấy ở gần Mặt Trời trong thời gian nhật thực toàn phần, và khi kết thúc nhật thực nó sẽ bị lu mờ bởi ánh sáng chói lòa của Mặt Trời. Đã có thời người ta đề xuất có hành tinh ở phía trong quỹ đạo Sao Thủy gọi là hành tinh Vulcan; nhưng nếu nó tồn tại thì các nhà thiên văn sẽ quan sát thấy nó trong những lần nhật thực toàn phần hoặc sự kiện nó đi qua đĩa Mặt Trời, và hiện tại hành tinh này là không tồn tại.
Chụp từ vệ tinh nhân tạo
Các vệ tinh nhân tạo cũng vượt qua đĩa Mặt Trời khi nhìn từ Trái Đất nhưng không đủ lớn để gây ra hiện tượng che khuất. Ví dụ, tại độ cao của Trạm Vũ trụ Quốc tế một vật thể cần có đường kính ít nhất 3,35 km mới có thể che khuất hoàn toàn đĩa Mặt Trời. Những lần các vệ tinh nhân tạo đi ngang qua đĩa là khó quan sát, bởi vì chúng rất nhỏ và tác động của ánh sáng Mặt Trời. Thông thường, các vệ tinh vượt qua đĩa Mặt Trời chỉ trong vài giây.
Cũng có những bức ảnh quan sát về thiên thực từ tàu không gian hay vệ tinh nhân tạo quay trên quỹ đạo quanh Trái Đất. Phi hành đoàn Gemini 12 đã chụp ảnh nhật thực toàn phần từ không gian năm 1966. Pha nhật thực một phần trong lần nhật thực toàn phần ngày 11 tháng 8 năm 1999 cũng được các nhà du hành vũ trụ trên trạm Mir chụp lại.
Những lần nhật thực gần đây và sắp tới
Thiên thực chỉ xảy ra trong thời điểm Mặt Trời ở gần điểm nút lên hoặc điểm nút xuống của Mặt Trăng khi nhìn từ Trái Đất. Mỗi lần thiên thực cách nhau bằng 1, 5 hay 6 tháng giao hội, và khoảng thời gian Mặt Trời di chuyển từ điểm nút này đến điểm nút kia là khoảng 173,3 ngày. Chu kỳ này hơi nhỏ hơn nửa năm Công lịch bởi vì các điểm nút của Mặt Trăng cũng tiến động. Như lập luận ở trên, 223 tháng giao hội gần bằng 239 tháng điểm cận địa và 242 tháng giao điểm thăng, hiện tượng thiên thực sẽ có cùng tính chất hình học sau 223 tháng giao hội (khoảng 6.585,3 ngày). Hay các nhà thiên văn gọi đây là chu kỳ Saros (18 năm 11,3 ngày). Bởi vì 223 tháng giao hội không vừa bằng 239 tháng điểm cận địa hay 242 tháng giao điểm thăng, chu kỳ Saros không lặp vĩnh viễn hay không phải xảy ra tại cùng một nơi sau 1 chu kỳ này. Mỗi chu kỳ bắt đầu bằng nhật thực với bóng Mặt Trăng phủ lên vùng gần cực bắc hoặc cực nam Trái Đất, và những lần nhật thực sau bóng của Mặt Trăng sẽ tiến dần về phía cực kia cho đến khi bóng tối Mặt Trăng không còn phủ lên Trái Đất và kết thúc 1 chu kỳ Saros. Chu kỳ Saros được đánh số; và hiện tại là các chu kỳ 117 đến 156. |
nhỏ|300px|Biểu đồ thời gian lịch sử Trái Đất
Lịch sử Trái Đất trải dài khoảng 4,55 tỷ năm, từ khi Trái Đất hình thành từ Tinh vân Mặt Trời cho tới hiện tại. Bài viết này đưa ra một khái quát chung, tóm tắt những lý thuyết khoa học được nhiều người công nhận hiện tại.
Trong bài này, để giúp độc giả dễ tưởng tượng, toàn bộ lịch sử Trái Đất được miêu tả trong một khoảng thời gian tượng trưng bằng 24 giờ. Thời điểm bắt đầu là 0 giờ, chính xác vào 4,55 tỷ năm trước, và kết thúc, 24 giờ, ở thời điểm hiện tại. Mỗi giây tượng trưng trong khoảng thời gian này tương đương với khoảng 53.000 năm.
Vụ nổ lớn và nguồn gốc của vũ trụ, được ước tính đã xảy ra khoảng 13,8 tỷ năm trước, tương đương với việc ta lấy mốc của nó là 3 ngày trước đây – 2 ngày trước khi chiếc đồng hồ của riêng chúng ta (Hệ Mặt Trời) bắt đầu chuyển động.
Nguồn gốc
Trái Đất được hình thành cùng với Hệ Mặt Trời từ khi Hệ Mặt Trời ban đầu tồn tại như một đám mây bụi và khí lớn, quay tròn, gọi là tinh vân Mặt Trời. Tinh vân này gồm hydro và heli được tạo ra từ Vụ Nổ Lớn, và những nguyên tố hóa học nặng hơn khác được tạo ra từ các ngôi sao đã chết. Sau đó, vào khoảng 4,6 tỷ năm trước (15 đến 30 phút trước khi chiếc đồng hồ tưởng tượng của chúng ta bắt đầu chạy), có thể một ngôi sao ở gần đó bắt đầu trở thành một siêu tân tinh. Vụ nổ gây sóng chấn động về hướng tinh vân Mặt Trời và làm nó bị nén vào. Vì đám mây tiếp tục quay, lực hấp dẫn và quán tính làm đám mây trở nên phẳng như hình dạng một cái đĩa, vuông góc so với trục quay của nó. Đa phần khối lượng tập trung ở giữa và bắt đầu nóng lên. Lúc ấy, khi trọng lực làm cho vật chất cô đặc lại xung quanh các hạt bụi vật chất, phần còn lại của đĩa bắt đầu tan rã thành những vành đai. Các mảnh nhỏ va chạm vào nhau và tạo thành những mảnh lớn hơn..
Những mảnh nằm trong tập hợp nằm cách trung tâm khoảng 150 triệu kilômét tạo thành Trái Đất. Khi Mặt Trời ngày càng đặc lại, nó nóng lên, phản ứng hạt nhân bùng nổ và tạo nên gió Mặt Trời thổi bay đa phần những vật chất ở trong đĩa vẫn còn chưa bị cô đặc vào những tập hợp vật chất lớn hơn.
Mặt Trăng
Nguồn gốc của Mặt Trăng hiện nay còn chưa chắc chắn, mặc dù đa số bằng chứng tồn tại ủng hộ Giả thuyết vụ va chạm lớn. Trái Đất có thể không phải là hành tinh duy nhất được tạo thành ở khoảng cách 150 triệu km từ Mặt trời. Một giả thuyết cho rằng một tập hợp vật chất khác với khoảng cách 150 triệu km từ cả Trái Đất và Mặt Trời, ở điểm Lagrange thứ tư hay thứ năm. Hành tinh này được gọi là Theia, nó được cho là nhỏ hơn so với Trái Đất lúc đó, có lẽ có cùng kích thước và khối lượng như Sao Hoả. Quỹ đạo của nó ban đầu là ổn định nhưng về sau khi Trái Đất ngày càng có khối lượng lớn hơn khi thu thập thêm vật chất ở xung quanh, thì quỹ đạo của Theia trở nên bất ổn định. Theia lui theo Trái Đất cho tới khi, cuối cùng, cách nay khoảng 4.533 tỷ năm (có lẽ 0 giờ 05 phút đêm theo giờ của chúng ta), nó va chạm vào Trái Đất theo một góc thấp và chéo. Tốc độ chậm và góc nhỏ không đủ để nó tiêu diệt Trái Đất, nhưng một tỷ lệ lớn lớp vỏ của nó bị bắn ra. Những phần tử nặng từ Theia chìm sâu vào vỏ Trái Đất, trong khi những phần còn lại và vật chất phóng ra tập hợp lại thành một vật thể duy nhất trong vài tuần. Dưới ảnh hưởng của trọng lực của chính nó, có lẽ trong một năm, nó trở thành một vật thể có hình cầu: là Mặt Trăng. Sự va chạm cũng được cho rằng đã làm thay đổi trục của Trái Đất làm nó nghiêng đi 23,5°, trục quay nghiêng gây ra mùa trên Trái Đất. (Một hình thức lý tưởng và đơn giản về nguồn gốc hành tinh sẽ có các trục nghiêng 0° và không gây ra mùa.) Có thể nó cũng đã làm tốc độ quay của Trái Đất tăng thêm và khởi động những kiến tạo địa tầng.
Liên đại Hỏa Thành (Thái Viễn Cổ)
Trái Đất buổi ban đầu, ở thời gian Liên đại Hỏa Thành hay Thái Viễn Cổ, rất khác biệt so với Trái Đất của chúng ta ngày nay. Trái Đất không có các đại dương và cũng không có oxy trên khí quyển. Hành tinh luôn bị bắn phá bởi các tiểu hành tinh và các vật chất khác còn sót lại sau khi hình thành nên Hệ Mặt Trời. Cuộc bắn phá dữ dội này, cộng với sức nóng từ sự phân chia kích hoạt phóng xạ, sức nóng còn sót lại, sức nóng từ áp lực co ngót, làm cho hành tinh ở giai đoạn này hầu như bị nấu chảy ra. Những vật chất nặng chìm vào tâm trong khi những vật chất nhẹ hơn nổi lên bề mặt, tạo ra nhiều lớp của Trái Đất (xem "Cấu trúc Trái Đất"). Khí quyển ban đầu của Trái Đất có thể gồm những vật liệu bao quanh bên ngoài từ tinh vân mặt trời, đặc biệt là các khí nhẹ như hydro và heli, nhưng gió mặt trời và chính nhiệt lượng của Trái Đất có thể đã thổi bay khí quyển đó. Bề mặt dần lạnh đi, tạo nên vỏ cứng trong vòng 150 triệu năm (khoảng 4,4 tỷ năm trước). Hơi nước thoát ra từ lớp vỏ khi các khí gas bị núi lửa phun lên, tạo cho Trái Đất một khí quyển thứ hai. Nước được cung cấp thêm từ những cuộc va chạm của sao băng. Hành tinh lạnh đi. Các đám mây được tạo thành. Mưa tạo nên các biển trong vòng 750 triệu năm (3,8 tỷ năm trước, khoảng 4:00 giờ sáng theo đồng hồ của chúng ta), nhưng cũng có thể sớm hơn. (Những bằng chứng gần đây cho thấy các đại dương có thể đã bắt đầu được tạo nên từ 4,2 tỷ năm trước — 1:50 sáng theo đồng hồ của chúng ta.) Khí quyển mới có lẽ có chứa amonia, mêtan, hơi nước, cacbon dioxide, và nitơ, cũng như một lượng nhỏ các chất khí khác. Hoạt động núi lửa tăng lên, và vì không có một lớp ozone để ngăn cản, bức xạ tia cực tím thâm nhập khắp bề mặt Trái Đất.
Khởi nguồn sự sống
Các chi tiết về nguồn gốc sự sống vẫn còn chưa được khám phá, mặc dù các nguyên lý rộng đã được lập nên. Một thiểu số các nhà khoa học tin rằng cuộc sống, hay ít nhất là các thành phần hữu cơ, có thể đã tới Trái Đất từ vũ trụ (xem "Thuyết tha sinh"); tuy vậy, những cơ cấu theo đó sự sống có thể được phát sinh được tin là tương tự với những sự sống có nguồn gốc trên Trái Đất. Đa số các nhà khoa học tin rằng sự sống có nguồn gốc Trái Đất, nhưng thời gian của sự kiện này rất khác biệt – có lẽ là vào khoảng 4 tỷ năm trước (khoảng 3:00 giờ sáng theo đồng hồ của chúng ta). Vì một lý do chưa xác định, trong sự hoạt động hóa học mạnh mẽ thời kỳ đầu của Trái Đất, một phân tử (hay thậm chí là một thứ gì khác) đã có khả năng tự phân chia thành các bản sao của chính nó. Bản chất của phân tử này vẫn còn chưa được biết tới, từ đó các chức năng của nó được truyền lại cho các thế hệ bản sao về sau này, DNA. Khi tự mô phỏng, bản sao không phải bao giờ cũng thể hiện chính xác tương tự như thế hệ trước: một số bản sao có chứa "lỗi". Nếu sự thay đổi tiêu diệt khả năng tự mô phỏng của phân tử, thì nó sẽ mất đi, và con đường phát triển bị "tắt ngấm". Nếu không, một số thay đổi hiếm hoi sẽ làm cho phân tử được mô phỏng và được tái tạo một cách nhanh chóng hơn và với khả năng tốt hơn: những "dòng dõi" đó sẽ trở nên đông đảo và "thành công" hơn. Khi sự lựa chọn các vật liệu thô (thức ăn) trở nên thiếu thốn, các dòng dõi sau đó có thể khai thác các nguyên liệu khác, hay có lẽ là học cách tiến triển của các kiểu dòng dõi khác, và trở nên đông đảo hơn.
Nhiều kiểu phát triển khác nhau đã được đưa ra nhằm giải thích tại sao một bản sao lại có thể phát triển hơn. Nhiều bản sao đã được thử nghiệm, gồm cả các hóa chất hữu cơ như các protein hiện đại của các acid nucleic, phospholipid, tinh thể, hay thậm chí các hệ lượng tử. Hiện nay không có phương pháp nào có thể xác định kiểu nào trong số các kiểu trên, nếu có, là tương thích nhất với nguồn gốc sự sống trên Trái Đất. Một trong những lý thuyết trước kia, và là một lý thuyết đã chứng minh là đúng đắn về một số mặt, sẽ được đem ra làm ví dụ về việc tại sao quá trình này có thể xảy ra. Năng lượng cao từ các núi lửa, sét, và bức xạ tia cực tím có thể làm cho các phản ứng hóa học tạo ra nhiều phân tử phức tạp hơn từ các hợp chất đơn giản như mêtan và amoniắc. Trong số chúng có nhiều hợp chất hữu cơ đơn giản là những nguyên tố căn bản của sự sống. Khi số lượng của những "hợp chất hữu cơ" đó tăng lên, các phân tử khác nhau phản ứng lẫn nhau. Thỉnh thoảng các phân tử phức tạp hơn có thể tạo thành các cơ thể sống, tạo ra một tổ chức để tập hợp và tập trung các vật chất hữu cơ. Sự hiện diện của một số phân tử có thể làm tăng tốc một phản ứng hóa học. Tất cả chúng tiếp diễn trong một thời gian dài, với các phản ứng thường hay ít xảy ra ngẫu nhiên, tới khi nó may mắn tạo nên một phân tử mới: phân tử tái tạo. Nó có tính chất kỳ dị thúc đẩy các phản ứng hóa học tạo thành bản sao của chính nó, và tiến trình phát triển thực sự bắt đầu. Các lý thuyết khác đưa ra các kiểu tái tạo khác. Trong bất kỳ trường hợp nào, DNA chiếm vai trò chức năng của các phần tử tái tạo; tất cả các hình thức sự sống từng được biết (ngoại trừ một số loại virus) sử dụng DNA làm hình thức tái tạo của chúng trong hầu hết phương pháp tái tạo.
Tế bào đầu tiên
Sự sống hiện đại có nguyên liệu tái tạo được đóng gói gọn bên trong một màng tế bào. Tìm hiểu nguồn gốc màng tế bào dễ dàng hơn so với việc tìm hiểu nguồn gốc chất tái tạo, bởi vì các phân tử phospholipid tạo thành màng tế bào thường ở dạng hai lớp (bilayer) tự sinh khi được đặt trong nước. Dưới một số điều kiện, nhiều quả cầu như vậy có thể được hình thành (xem "Lý thuyết bong bóng"). Vẫn chưa biết được liệu quá trình này diễn ra trước hay sau khởi nguồn của chất tái tạo (hay có lẽ nó từng là chất tái tạo). Thuyết phổ biến nhất cho rằng chất tái tạo, có lẽ RNA tới lúc ấy (lý thuyết thế giới RNA), cùng bộ máy tái tạo của nó và có lẽ cả các biomolecules khác đã có tham gia vào quá trình. Các tiền tế bào ban đầu có lẽ đã đơn giản vỡ ra khi chúng phát triển quá lớn; những thứ bên trong có lẽ đã xâm lấn sang các "bong bóng" khác. Các protein làm ổn định màng, hay sau này giúp vào quá trình phân chia có trật tự, đã thúc đẩy quá trình tăng trưởng của các tế bào đó. RNA cũng có thể là một ứng cử viên của một chất tái tạo ban đầu bởi vì nó vừa có thể lưu giữ thông tin di truyền vừa làm xúc tác cho các phản ứng. Ở một số mặt, DNA đã chiếm giữ vai trò lưu giữ di truyền của RNA, và các protein được gọi là enzym chiếm vai trò xúc tác, để RNA chuyển thông tin và điều chỉnh quá trình này. Ngày càng có nhiều người tin rằng những tế bào ban đầu đó có thể đã tham gia cùng với các chất thoát từ miệng núi lửa dưới đáy biển được gọi là "khói đen", hoặc thậm chí với đất đá nóng và sâu. Tuy nhiên, mọi người tin rằng trong vô số những tế bào hay những tiền tế bào này chỉ có một còn sống sót. Những bằng chứng hiện nay cho thấy vị tổ tiên của thế giới đã sống trong buổi đầu thời kỳ Archean, có lẽ khoảng 3,5 tỷ năm trước (5:30 sáng theo chiếc đồng hồ tưởng tượng của chúng ta) hay sớm hơn. Tế bào này là tổ tiên của mọi tế bào và vì thế là tổ tiên của mọi sự sống trên Trái Đất. Có lẽ nó là một sinh vật nhân sơ, có một màng tế bào và có lẽ cả ribosome, nhưng không có nhân hay các cơ quan tế bào ngoài màng như ty thể hay lục lạp. Giống như mọi tế bào hiện đại, nó sử dụng DNA làm mã di truyền, RNA để trao đổi thông tin và tổng hợp protein, và các enzyme làm xúc tác cho phản ứng. Một số nhà khoa học tin rằng tế bào này không chỉ là một cá thể duy nhất mà là một số lượng các sinh vật trao đổi gen trong trao đổi gen bên.
Quang hợp và oxy
Có lẽ tất cả các tế bào ban đầu đều là tế bào dị dưỡng, sử dụng những phân tử hữu cơ (kể cả từ những tế bào khác) như nguyên liệu sống và một nguồn năng lượng. Vì nguồn cung cấp dinh dưỡng hạn chế, một số tế bào đã phát triển cách thức hấp thụ dinh dưỡng mới. Thay vì dựa vào số lượng các phân tử hữu cơ tồn tại tự do đang ngày càng giảm sút, những tế bào này hấp thụ ánh sáng mặt trời như một nguồn năng lượng. Các con số ước lượng được đưa ra không đồng nhất, nhưng vào khoảng 3 tỷ năm trước (khoảng 8:00 giờ sáng trên chiếc đồng hồ của chúng ta), một thứ tương tự như sự quang hợp hiện đại ngày nay có lẽ đã bắt đầu phát triển. Việc này khiến không chỉ sinh vật tự dưỡng mà cả sinh vật dị dưỡng lợi dụng được năng lượng mặt trời. Quang hợp sử dụng dioxide cacbon và nước vốn rất phong phú cùng với năng lượng từ ánh sáng mặt trời để sản xuất những phân tử hữu cơ giàu năng lượng (hydrat carbon). Ngoài ra, khí oxy được sản xuất như một phế phẩm của quá trình quang hợp. Đầu tiên nó liên kết với đá vôi, sắt, và những chất khoáng khác; nhưng khi các khoáng chất đã được sử dụng hết, oxy bắt đầu tích tụ trong khí quyển. Dù mỗi tế bào chỉ sản xuất ra một lượng oxy nhỏ, tổng các quá trình trao đổi chất của nhiều tế bào sau những khoảng thời gian dài dằng dặc đã biến khí quyển Trái Đất trở thành tình trạng như hiện nay. Và đây là thời kỳ khí quyển thứ ba của Trái Đất. Một số oxy phản ứng để hình thành nên ôzôn, tạo thành một lớp nằm ở phần trên cùng của khí quyển. Tầng ozon đã hấp thụ, và vẫn đang hấp thụ, một lượng lớn bức xạ cực tím mà trước kia có thể xuyên qua khí quyển. Điều này cho phép các tế bào di chuyển lên bề mặt đại dương và cuối cùng là đất liền: Nếu không có tầng ôzôn, bức xạ cực tím sẽ đi tới bề mặt Trái Đất và gây ra tình trạng biến đổi lớn cho các tế bào. Bên cạnh việc tạo ra phần lớn lượng năng lượng cần thiết cho các hình thức sự sống và ngăn cản bức xạ tia cực tím, các tác động của quang hợp còn có một tác dụng thứ ba khác đưa tới sự thay đổi mang tầm quan trọng lớn trên thế giới. Oxy là chất độc đối với nhiều dạng sống vào thời kỳ này; có lẽ đa phần sự sống trên Trái Đất đã biến mất khi lượng oxy tăng lên (Thảm họa oxy). Sau thảm họa oxy, các hình thái sự sống mới thích nghi được với bầu khí quyển oxy đã tồn tại và phát triển, và một số đã phát triển khả năng sử dụng oxy để tăng cường sự trao đổi chất và hấp thu được nhiều năng lượng hơn từ cùng loại thực phẩm.
Nội cộng sinh và ba vực của sự sống
Phép phân loại hiện đại chia sự sống thành ba vực. Thời điểm khởi đầu của các vực đó chỉ có thể được suy đoán. Vực Bacteria có lẽ là sự chia tách đầu tiên khỏi những hình thức sự sống khác (thỉnh thoảng được gọi là Neomura), nhưng sự phỏng đoán này còn gây tranh cãi. Ngay sau đó, khoảng 2 tỉ năm trước (khoảng lúc 2:00 giờ chiều theo chiếc đồng hồ của chúng ta), Neomura phân chia thành Archarea và Eukarya. Các tế bào Eukarya lớn và phức tạp hơn các tế bào prokaryotic (Bacteria và Archaea), và nguồn gốc sự phức tạp đó hiện đang dần được khám phá. Ở khoảng trong thời kỳ này một tế bào vi khuẩn có liên quan tới Rickettsia ngày nay đã xâm nhập một tế bào prokaryotic lớn hơn. Có lẽ tế bào lớn đã không thành công khi tiêu hóa tế bào nhỏ (có lẽ vì quá trình phát triển khả năng tự vệ của con mồi). Có lẽ tế bào nhỏ tìm cách ký sinh trên tế bào lớn. Dù thế nào chăng nữa, tế bào nhỏ đã sống sót bên trong tế bào lớn. Sử dụng oxy, nó đã có thể chuyển hóa các phế phẩm của tế bào lớn và thu được nhiều năng lượng. Một số năng lượng dư đó được chuyển trở lại cho vật chủ. Tế bào nhỏ tái tạo bên trong tế bào lớn, và nhanh chóng sau đó một mối quan hệ cộng sinh ổn định được thiết lập. Cùng với thời gian, tế bào chủ nhận được một số gene của tế bào nhỏ, và chúng trở nên phụ thuộc lẫn nhau: tế bào lớn không thể sống được nếu không có năng lượng do tế bào nhỏ tạo ra, và tế bào nhỏ cũng không thể tồn tại khi không có nguyên liệu thô do tế bào lớn cung cấp. Sự cộng sinh phát triển giữa tế bào lớn và cộng đồng tế bào nhỏ bên trong nó phát triển cao tới mức chúng được coi là đã trở thành một sinh vật duy nhất, các tế bào nhỏ được xếp loại là cơ quan tế bào được gọi là ty thể (mitochondria). Một sự kiện tương tự cũng diễn ra với sự quang hợp cyanobacteria chui vào trong các tế bào dị dưỡng và trở thành các lục lạp. Có lẽ vì các thay đổi đó, một dòng tế bào có khả năng quang hợp đã tách ra khỏi các eukaryotes khác ở khoảng thời gian nào đó chừng 1 tỷ năm trước (khoảng 6:00 giờ chiều theo chiếc đồng hồ của chúng ta). Nếu con số chính xác, có lẽ đã có nhiều sự kiện tương tự diễn ra. Bên cạnh lý thuyết nội cộng sinh (endosymbiotic) có cơ sở khá vững chắc về nguồn gốc tế bào với ty thể và các lục lạp (chloroplast), cũng có lý thuyết cho rằng các tế bào đã hình thành peroxisomes, spirochete hình thành nên cilia và flagella, và có lẽ một virus DNA đã tạo nên nhân tế bào, dù không một lý thuyết nào trong số đó được chấp nhận rộng rãi.
Đa bào
Archaeans, bacteria, và eukaryotes tiếp tục đa dạng hóa và trở nên tinh vi cũng như thích ứng tốt hơn với môi trường của chúng. Mỗi vực lại liên tiếp chia thành nhiều giống, dù chúng ta còn biết rất ít về lịch sử archaea và bacteria. Khoảng 1.1 tỷ năm trước (6:15 chiều trên chiếc đồng hồ của chúng ta), siêu lục địa Rodinia bắt đầu hình thành; những sự di chuyển lục địa trước đó chưa được biết rõ. Thực vật, động vật, và các loài nấm đều đã phân chia, dù chúng vẫn tồn tại như những tế bào đơn độc. Một số chúng sinh sống thành các tập đoàn, và dần dần một số hành vi phân công lao động bắt đầu diễn ra; ví dụ, các tế bào ngoại biên có thể bắt đầu đảm nhận một số vai trò khác biệt so với các tế bào bên trong. Dù sự phân chia giữa một tập đoàn với các tế bào chuyên biệt và một sinh vật đa bào không phải lúc nào cũng rõ ràng, khoảng 1 tỷ năm trước (khoảng 7:00 giờ tối theo đồng hồ chúng ta), các thực vật đa bào đầu tiên xuất hiện, có lẽ là tảo lục. Có thể vào khoảng 900 triệu năm trước (7:15 tối theo đồng hồ của chúng ta), đa bào thực sự đã xuất hiện ở động vật. Ban đầu có lẽ là một thứ gì đó tương tự với đa bào của hải miên ngày nay, theo đó tất cả các tế bào đều mang tính toàn năng (totipotent) và một cơ quan bị mất có thể tự tái tạo. Khi sự phân chia lao động trở nên đầy đủ hơn trong mọi giống sinh vật đa bào, các tế bào bắt đầu chuyên biệt hóa hơn và phụ thuộc vào nhau hơn; các tế bào riêng biệt sẽ chết. Tới khoảng 750 triệu năm trước (8:00 giờ tối theo đồng hồ của chúng ta) Rodinia bắt đầu tan vỡ.
Xâm chiếm mặt đất
Như chúng ta đã thấy, sự tích tụ khí oxy trong khí quyển Trái Đất dẫn tới việc hình thành ôzôn, tạo nên một lớp ngăn chặn đa phần bức xạ tia cực tím của mặt trời. Vì thế, các sinh vật đơn bào đi lên mặt đất sẽ có cơ hội sống sót cao hơn, và các sinh vật chưa có nhân đã bắt đầu sinh sôi và trở nên thích ứng tốt hơn với môi trường sống bên ngoài đại dương. Có lẽ các sinh vật chưa có nhân đã chinh phục mặt đất ngay từ 2,6 tỷ năm trước (10:17 sáng), thậm chí trước cả khi sinh vật nhân chuẩn xuất hiện. Trong một thời gian dài, lục địa vẫn là nơi không thể sinh sống đối với các sinh vật đa bào. Siêu lục địa Pannotia đã hình thành từ khoảng 600 triệu năm trước và đã vỡ thành nhiều mảnh 50 triệu năm sau đó (từ khoảng 8:50 chiều tới 9:05 chiều trên chiếc đồng hồ tưởng tượng). Cá, những động vật có xương sống sớm nhất, đã bắt đầu xuất hiện tại các đại dương từ khoảng 530 triệu năm trước (9:10 chiều). Một cuộc tuyệt chủng đã xảy ra thời kỳ cuối kỷ Cambri, kỷ này chấm dứt 488 triệu năm trước (9:25 chiều).
Nhiều triệu năm trước, thực vật (có lẽ giống với tảo) và nấm bắt đầu mọc trên rìa mặt nước, và sau đó tách hẳn khỏi nó. Những hóa thạch nấm và thực vật cổ nhất trên đất liền có niên đại từ 480–460 triệu năm trước (9:28–9:34 chiều), dù bằng chứng phân tử cho thấy nấm có thể đã xâm chiếm đất liền ngay từ 1 tỷ năm trước (6:40 chiều) và thực vật là 700 triệu năm (8:20 chiều). Ban đầu chúng vẫn ở gần mặt nước, các sự kiện đột biến và biến thể khiến chúng ngày càng xâm chiếm sâu hơn vào môi trường mới. Thời gian những động vật đầu tiên rời đại dương hiện vẫn chưa được biết chính xác: bằng chứng rõ rệt sớm nhất là những động vật chân đốt trên đất liền khoảng 450 triệu năm trước (9:40 chiều), có lẽ chúng đã phát triển và trở nên thích nghi với môi trường nhờ vào nguồn thực phẩm phong phú từ các loài thực vật trên đất liền. Cũng có một số bằng chứng chưa được xác nhận cho rằng những động vật chân đốt có thể đã xuất hiện trên mặt đất ngay từ 530 triệu năm trước (9:12 chiều). Khoảng 380 tới 375 triệu năm trước (10:00 chiều) những động vật bốn chân đầu tiên xuất hiện từ loài cá. Mọi người cho rằng có lẽ các vây đã phát triển để trở thành chi cho phép những động vật bốn chân đầu tiên nhấc cao đầu khỏi mặt nước để hít thở không khí. Điều này giúp chúng sống được ở những vùng nước ít oxy hay đuổi theo những con mồi nhỏ vào trong vùng nước nông. Có thể sau này chúng đã tiến vào đất liền trong những khoảng thời gian ngắn. Cuối cùng, một số loài trở nên thích ứng tốt đến mức chấp nhận cuộc sống trên mặt đất và toàn bộ thời gian trưởng thành chúng đều sống trên đất liền, dù chúng sinh sản trong nước và quay lại đó để đẻ trứng. Đây là nguồn gốc của các động vật lưỡng cư. Khoảng 365 triệu năm trước (10:04 chiều), một giai đoạn tuyệt chủng khác diễn ra, có lẽ là do sự lạnh đi toàn cầu. Thực vật tiến hóa thêm hạt, giúp chúng tiến sâu hơn rất nhiều vào đất liền, khoảng thời gian này (khoảng 360 triệu năm trước hay 10 giờ).
Khoảng 20 triệu năm sau (340 triệu năm trước, 10:12 chiều theo đồng hồ của chúng ta), quá trình tiến hóa màng ối đã cho phép trứng được ấp trên đất liền, chắc chắn đó là một lợi thế tồn tại cho phôi của loài động vật bốn chân. Điều này dẫn tới sự phân nhánh động vật có màng ối ra khỏi động vật lưỡng cư. 30 triệu năm sau nữa (310 triệu năm trước, 10:22 chiều) sự phân nhánh giữa Synapsida (gồm các loài động vật có vú) với Sauropsida (gồm các loài chim và những loài bò sát không bay hay không phải là động vật có vú) diễn ra. Tất nhiên, những nhóm sinh vật khác tiếp tục tiến hóa và phân nhánh thành cá, côn trùng, vi khuẩn và các loài khác, nhưng chúng ta không có nhiều thông tin chi tiết như các loài trên. 300 triệu năm trước (10:25 chiều) siêu lục địa gần đây nhất hình thành, được gọi là Pangaea. Sự kiện tuyệt chủng lớn nhất cho tới nay diễn ra 250 triệu năm trước (10:40 chiều theo đồng hồ của chúng ta), ở khoảng thời gian phân tách giữa kỷ Permi và Trias; 95% các loài sinh vật trên Trái Đất biến mất. Nhưng sự sống vẫn tồn tại, và khoảng 230 triệu năm trước (10:47 chiều theo đồng hồ của chúng ta), các loài khủng long bắt đầu chia tách khỏi tổ tiên bò sát của chúng. Một cuộc tuyệt chủng ở thời gian giữa hai kỷ Trias và Jura 200 triệu năm trước (10:56 chiều) nhưng không ảnh hưởng tới nhiều loài khủng long, chúng nhanh chóng chiếm vai trò thống trị trong số động vật có xương sống. Dù một số loài có vú cũng bắt đầu phân chia tương tự trong thời gian này, các loài có vú thời đó có lẽ đều nhỏ như chuột chù ngày nay. 180 triệu năm trước (11:03 chiều), Pangea vỡ thành Laurasia và Gondwana. Ranh giới giữa các loài khủng long bay và không bay là không rõ ràng nhưng Archaeopteryx, theo truyền thống thường được coi là một trong những con chim đầu tiên, sống vào khoảng 150 triệu năm trước (11:12 chiều). Bằng chứng sớm nhất về thực vật hạt kín tiến hóa thành các loài có hoa là ở thời kỳ kỷ Creta, khoảng 20 triệu năm sau (132 triệu năm trước, 11:18 tối) Cuộc cạnh tranh với những loài chim khiến nhiều loài thằn lằn bay tuyệt chủng, và những con khủng long có lẽ cũng đã ở thời kỳ suy thoái vì một số nguyên nhân khi, 65 triệu năm trước (11:39 chiều), một thiên thạch đường kính 10 kilômét dường như đã đâm vào Trái Đất ngay ngoài khơi bán đảo Yucatán, tung một lượng lớn vật chất và hơi nước lên không, che khuất ánh sáng Mặt Trời, ngăn cản quang hợp. Đa số các loài động vật lớn, gồm cả những loài khủng long không bay, bị tuyệt chủng., đánh dấu sự chấm dứt thời kỳ kỷ Creta và đại Trung Sinh. Sau đó, ở thời kỳ thế Paleocen, các loài động vật có vú nhanh chóng phân chia, trở nên lớn hơn và chiếm vai trò thống trị trong số các động vật có xương sống. Có lẽ vài triệu năm sau (khoảng 63 triệu năm trước, 11:40 chiều), vị tổ tiên chung cuối cùng của toàn bộ động vật linh trưởng đã có mặt. Tới cuối thời kỳ thế Eocen, 34 triệu năm trước (11:49 chiều), các loài động vật có vú trên mặt đất đã quay trở về biển để trở thành các loài động vật như Basilosaurus sau này sẽ trở thành các loài cá heo và cá voi.
Loài người xuất hiện
Một loài khỉ họ người châu Phi đã có mặt khoảng sáu triệu năm trước đây (11:58 chiều theo chiếc đồng hồ của chúng ta) là loài vật cuối cùng có con cháu gồm cả loài người hiện đại và loài tinh tinh, họ hàng gần nhất của con người. Chỉ hai nhánh trong cây dòng họ của nó là có hậu duệ tồn tại tới ngày nay. Ngay sau khi phân nhánh, vì các lý do hiện còn chưa được xác định, các giống khỉ họ người trong một nhánh đã phát triển khả năng đứng thẳng. Kích thước não tăng nhanh chóng, và hai triệu năm trước đây (11:59:22 chiều, hay 38 giây trước lúc nửa đêm) những động vật đầu tiên được xếp loại Con người đã xuất hiện. Tất nhiên, giới hạn giữa các loài khác nhau hay thậm chí giữa các loại khá rộng bởi vì các sinh vật tiếp tục thay đổi theo từng thế hệ. Cùng khoảng thời gian này, nhánh kia chia thành các tổ tiên của tinh tinh thông thường và tổ tiên của tinh tinh lùn khi quá trình phát triển tiếp tục diễn ra đồng thời ở mọi dạng sự sống. Khả năng kiểm soát lửa dường như đã bắt đầu có ở Homo erectus (hay Homo ergaster), có lẽ ít nhất từ 790.000 năm trước nhưng có thể sớm từ 1.5 triệu năm trước (từ mười lăm tới hai mươi giây trước). Rất khó để xác định nguồn gốc của ngôn ngữ; chúng ta không biết liệu Homo erectus có thể nói hay khả năng này chỉ xuất hiện từ Homo sapiens. Khi kích thước não tăng lên, trẻ em được sinh ra sớm hơn, trước khi đầu chúng trở nên quá to để đi lọt xương chậu. Vì thế, chúng có quãng thời gian sống phụ thuộc dài hơn, mềm yếu hơn, và có khả năng học tập tốt hơn. Các kỹ năng xã hội trở nên phức tạp hơn, ngôn ngữ phát triển, và các công cụ được chế tạo tinh vi hơn. Điều này khiến sự hợp tác trở nên chặt chẽ cũng như lại kéo theo sự phát triển thêm của não. Về mặt giải phẫu con người hiện đại—Homo sapiens—được cho là đã có nguồn gốc xuất hiện từ khoảng 200.000 năm (hai trăm thiên niên kỷ) hay sớm hơn tại châu Phi; những hóa thạch cổ nhất có niên đại từ khoảng 160.000 năm trước. Con người đầu tiên thể hiện bằng chứng về khả năng tinh thần là người Neanderthal (thường được xếp loại là một giống riêng biệt và không có hậu duệ còn tồn tại ngày nay); họ biết chôn người chết, thường chôn theo cả thực phẩm hay công cụ. Tuy nhiên, bằng chứng về những đức tin phức tạp hơn, như những bức tranh tường Cro-Magnon giai đoạn sớm (có lẽ có ý nghĩa ma thuật hay tôn giáo) chỉ xuất hiện khoảng 32.000 năm trước (0.6 giây). Người Cro-Magnon cũng để lại những bức tượng đá nhỏ như Vệ nữ Willendorf, có lẽ cũng thể hiện đức tin tôn giáo. Tới 11.000 năm (0.2 giây) trước, Homo sapiens đã mở rộng phạm vi sinh sống tới mũi phía nam Nam Mỹ, lục địa có người ở cuối cùng. Kỹ năng sử dụng công cụ và ngôn ngữ tiếp tục được cải thiện; những quan hệ giữa các cá nhân trong cộng đồng trở nên phức tạp hơn.
Văn minh
Trong hơn chín mươi phần trăm thời gian lịch sử của mình, Homosapiens sống thành những nhóm nhỏ kiểu du mục săn bắt – hái lượm. Khi trí thông minh tăng thêm và ngôn ngữ trở nên phức tạp hơn, khả năng nhớ và truyền đạt thông tin dẫn tới một hình thức tái truyền tải thông tin mới: meme. Các ý tưởng có thể được trao đổi nhanh chóng và truyền lại cho những thế hệ sau. Quá trình phát triển văn hoá đạt bước tiến nhảy vọt so với quá trình phát triển sinh học, và lịch sử thực sự bắt đầu. Thời điểm nào đó trong khoảng 8500 tới 7000 trước Công Nguyên (0.20 tới 0.17 giây trước), con người ở vùng Đồng bằng lưỡi liềm màu mỡ tại Lưỡng Hà bắt đầu tiến hành trồng cấy và chăn nuôi có hệ thống: sự khởi đầu của nông nghiệp. Cách thức trồng cấy mới nhanh chóng lan rộng ra các vùng lân cận, và nó cũng được phát triển độc lập tại những vùng khác trên thế giới. Không còn kiểu sống du mục, con người bắt đầu thiết lập những khu định cư lâu dài. Sự phụ thuộc an ninh lẫn nhau cũng như tăng cao năng suất thu hoạch cho phép mở rộng dân số. Nông nghiệp có một ảnh hưởng quan trọng; con người bắt đầu tác động đến môi trường, ở mức chưa từng có trước đây. Thặng dư lương thực cho phép tầng lớp cai trị và thầy cúng xuất hiện, tiếp đó là sự phân công lao động. Điều này dẫn tới sự xuất hiện nền văn minh đầu tiên trên Trái Đất tại Sumer vùng Trung Đông, khoảng 4000 tới 3000 trước Công nguyên (khoảng 0.10 giây trước). Các nền văn minh khác nhanh chóng xuất hiện tại Ai Cập cổ và Châu thổ sông Indus.
Bắt đầu từ khoảng năm 3000 trước Công nguyên (0.09 giây trước), Hindu giáo, một trong những tôn giáo cổ nhất Trái Đất còn tồn tại đến ngày nay, bắt đầu hình thành.
Các tôn giáo khác cũng nhanh chóng xuất hiện. Sự phát minh ra chữ viết cho phép các xã hội phức tạp hơn xuất hiện: những thư khố và các thư viện trở thành nơi lưu giữ những hiểu biết của nhân loại cũng như tăng cường sự chuyển giao văn hóa và thông tin. Con người không còn dùng toàn bộ thời gian để kiếm sống – tính tò mò và giáo dục khiến mọi người nhanh chóng có được sự hiểu biết và khôn ngoan. Nhiều môn học, gồm cả khoa học, xuất hiện. Các nền văn minh mới mở rộng, trao đổi thương mại với nhau và lao vào các cuộc chiến tranh giành lãnh thổ và các nguồn tài nguyên: các đế chế bắt đầu hình thành. Tới khoảng năm 500 trước Công Nguyên (0.048 giây trước), các đế chế đã xuất hiện tại Trung Đông, Ấn Độ, Trung Quốc và Hy Lạp, hầu như đều dựa trên cùng một cơ sở tương tự; khi một đế chế phát triển tới cực điểm, nó sẽ giảm sút và tàn lụi sau này.
Những năm 1300 (khoảng 0.012 giây trước), thời kỳ Phục hưng bắt đầu xuất hiện tại Italia với những phát triển về tôn giáo, nghệ thuật và khoa học. Bắt đầu từ khoảng năm 1500 (0.0096 giây trước), nền văn minh châu Âu bắt đầu trải qua những thay đổi dẫn tới các cuộc cách mạng khoa học và công nghiệp: lục địa này bắt đầu chiếm lĩnh vị trí thống trị đối với các xã hội loài người trên khắp hành tinh. Từ năm 1914 đến 1918 (khoảng 0.0017 giây trước) và 1939 tới 1945 (khoảng 0.0012 giây trước), các quốc gia trên khắp Trái Đất lao vào các cuộc chiến tranh thế giới. Hội quốc liên, tổ chức được thành lập sau Chiến tranh thế giới thứ nhất là bước đầu tiên tiến tới việc hình thành một chính phủ thế giới; sau Chiến tranh thế giới thứ hai tổ chức này được thay thế bởi Liên hiệp quốc. Năm 1992, nhiều nước châu Âu đã cùng gia nhập hình thành nên Liên minh châu Âu. Khi vận tải và thông tin phát triển, các nền kinh tế và các công việc chính trị của các quốc gia trên thế giới ngày càng trở nên phụ thuộc lẫn nhau. Sự toàn cầu hoá này thường gây ra bất hoà, dù sự hợp tác lẫn nhau cũng được tăng cường mạnh mẽ hơn.
Các sự kiện gần đây
Sự thay đổi tiếp tục diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh trong phần nghìn giây cuối cùng của 24 giờ tưởng tượng của chúng ta, từ giữa thập niên 1950 tới hiện nay. Chúng ta ngày càng nhận thức được tác động của con người gây ra với môi trường thiên nhiên, cũng như sự cần thiết phải có những hành động hạn chế hay tiêu diệt những nguy cơ đó; và hiện nay ngày càng có nhiều ý kiến lo ngại về sự tuyệt chủng hàng loạt và sự ấm lên toàn cầu. Những người bi quan cho rằng hiện đã là quá muộn để đảo ngược thảm họa sinh thái học này trong khi những người lạc quan cho rằng những tiến bộ khoa học và kỹ thuật với tốc độ ngày càng nhanh chóng sẽ giúp chúng ta có được các giải pháp cho vấn đề đó.
Trong số những khám phá khoa học gần đây nhất, công nghệ gene (genetic engineering) có thể là khám phá quan trọng nhất. Hiện nay con người đã có thể trực tiếp sửa đổi vật liệu gene của các loài vật khác, một quá trình từng là lĩnh vực riêng biệt của tự nhiên. Hơn nữa: khoa học đã giải thích được mã gene của chính Con người (Homosapiens), trong Dự án bản đồ gene người.
Con người cũng đã đặt những bước chân đầu tiên bên ngoài Trái Đất. Năm 1957, Liên bang xô viết phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên lên quỹ đạo và không lâu sau đó, Yuri Gagarin trở thành người đầu tiên đi vào vũ trụ. Năm cơ quan vũ trụ, đại diện cho hơn mười lăm nước, đã cùng hợp tác để xây dựng Trạm vũ trụ quốc tế. Bắt đầu từ năm 2000, trên trạm vũ trụ luôn có sự hiện diện của con người. Hiện nay ta chỉ có thể hình dung một cách đại cương những phát triển trong tương lai, nhưng những tiến bộ tiềm năng trong toán học, vật lý học, hóa học, sinh học, điện tử và toàn bộ các môn học khác một ngày kia có thể cho phép chúng ta hiện diện thường xuyên trên vũ trụ hay thậm chí chiếm làm thuộc địa những thế giới xa xôi. |
Trong thuyết về nguồn gốc vũ trụ, tinh vân Mặt Trời là đám mây thể khí từ đó Hệ Mặt Trời của chúng ta được cho là đã hình thành nên. Giả thuyết tinh vân Mặt Trời này lần đầu tiên được đưa ra năm 1734 bởi Emanuel Swedenborg. Một mô hình khác tương tự được Pierre-Simon Laplace đưa ra năm 1796.
Khái quát
Lý thuyết cho rằng hệ Mặt Trời khi mới hình thành chỉ là một đám mây hình cầu với những khí liên hành tinh rất lạnh, tinh vân mặt trời, có đường kính khoảng 100 AU và có khối lượng lớn bằng từ 2 đến 3 lần khối lượng Mặt Trời. Đó chính là một phần của một đám mây phân tử lớn hơn. Thành phần của tinh vân mặt trời tương tự như thành phần của mặt trời ngày nay: khoảng 98% (theo khối lượng) là hydro và heli đã hiện diện từ Vụ Nổ Lớn, và 2% những nguyên tố nhẹ hơn được tạo ra từ các thế hệ sao trước đó đã chết và phóng chúng ra ngoài khoảng không liên sao (xem xu hướng tổng hợp hạt nhân).
Khởi động
Muốn tinh vân mặt trời có mật độ đủ lớn để bị nén lại dưới sức ép của sức hấp dẫn của chính nó, cần có áp suất nén đến từ một sự kiện xảy ra gần đó, ví dụ như một sóng xung kích từ một siêu tân tinh xô vào đám mây phân tử. Một khi đã xảy ra, sự nén ép trọng lực của tinh vân mặt trời chậm chạp tăng lên và không thể đảo ngược được.
Khi nó sụp đổ, ba quá trình vật lý ảnh hưởng tới hình dáng của tinh vân: nó nóng lên, nó quay nhanh thêm, và nó phẳng ra.
Thứ nhất, tinh vân bị nóng lên bởi vì các nguyên tử chuyển động nhanh thêm khi chúng bị ảnh hưởng lớn hơn của trọng lực và ngày càng trở nên đặc, khi va chạm thường xảy ra hơn: thế năng của lực hấp dẫn được chuyển thành động năng của các nguyên tử, hay nhiệt năng.
Thứ hai, dù ban đầu là không thể nhận thấy, tinh vân có một vận tốc góc trung bình nhỏ, và bởi vì mô men động lượng được bảo toàn, tinh vân quay nhanh hơn khi mô men quán tính giảm do kích thước co lại.
Cuối cùng, tinh vân phải phẳng ra thành một cái đĩa, gọi là đĩa tiền hành tinh, khi những vụ va chạm và liên kết của các vật chất khí vượt khỏi mức trung bình mà động lượng của chúng có thể giữ được hướng theo mô men động lượng thực tế.
Tiền Mặt Trời
Ở trung tâm, trọng tâm của tinh vân mặt trời, tiền mặt trời ngày càng có mật độ lớn hơn. Tiền mặt trời dần đặc hơn, cho tới khoảng 10-15 tỷ năm trước, cuối cùng nó đạt tới các điều kiện về nhiệt độ và áp suất cần thiết để bắt đầu khởi động quá trình chuỗi tổng hợp hạt nhân, và Mặt Trời phát sáng. Giống như các tiền sao hay những ngôi sao trẻ (một ngôi sao kiểu T Tauri), Mặt Trời trẻ tạo ra gió mặt trời mạnh hơn ở thời điểm hiện tại, cuối cùng nó đã thổi bay các khí ra bên ngoài vành đĩa, và kết thúc quá trình tăng tốc (đặc biệt đối với các sao khí). Giống như đa số các quá trình trong cuộc đời một ngôi sao, thời gian của giai đoạn tiền sao phụ thuộc vào khối lượng: các ngôi sao lớn sụp đổ nhanh chóng hơn.
Tiền hành tinh
Khí trong đĩa tiền hành tinh, lúc ấy, dần lạnh đi do bức xạ, sau khi đã bị nóng lên vì thế năng trọng lực khi nó sụp đổ, và khi nó lạnh đi, bụi (các kim loại và silicate) và băng (các hợp chất hydro như nước, methan và amoniắc) kết thành chất rắn. Những hạt đó va chạm với những hạt xung quanh và dính vào với nhau bởi lực tĩnh điện, bắt đầu quá trình tăng tốc. Các nguyên tử khí và các phân tử hiện diện với số lượng lớn, nhưng không thể được tăng tốc, bởi vì chúng chuyển động quá nhanh để có thể giữ lại bằng lực tĩnh điện. Hydro và heli, 98% khối lượng của đĩa, vẫn thuộc thể khí trong toàn bộ đĩa tinh vân mặt trời, và không bao giờ chuyển thành chất rắn.
Ban đầu ‘các hạt giống’ vật chất cứng dần tăng lên về kích thước và trở thành những tiền hành tinh. Khi chúng lớn thêm, trên thực tế, chúng to ra rất nhanh: các vật thể lớn có diện tích bề mặt lớn dẫn tới tỷ lệ va chạm với các vật thể nhỏ và tích gộp chúng tăng thêm nữa, lực hấp dẫn giúp chúng ngày cảng thu hút được nhiều vật thể nhỏ.
Tuy nhiên, những tiền hành tinh tốn khá nhiều thời gian để đạt tới kích thước lớn hơn vài trăm km. Khi đã có khối lượng lớn, những tiền hành tinh có sự tương tác lẫn nhau qua lực hấp dẫn, thay đổi quỹ đạo bay từ đường tròn thành quỹ đạo lệch tâm hơn, đặc biệt đối với các tiền hành tinh có khối lượng nhỏ. Bởi vì các quỹ đạo đó cắt lẫn nhau, thỉnh thoảng các tiền hành tinh lại va chạm mãnh liệt, và lại bị tan vỡ thành các mảnh. Các tiểu hành tinh được cho là những phần còn sót lại của các tiền hành tinh, lúc ấy lại tiếp tục đâm vào nhau để ngày càng vụn ra thành những mảnh nhỏ hơn nữa. Vì vậy, các thiên thạch là những hình mẫu của các tiền hành tinh và chúng cung cấp cho chúng ta một lượng thông tin to lớn về sự thành tạo hệ Mặt Trời của chúng ta. Những thiên thạch kiểu nguyên thủy là phần rắn chắc của những mảnh hành tinh khối lượng nhỏ còn sót lại sau khi va đập, và không hề có sự can thiệp của lực hấp dẫn, trong khi những thiên thạch kiểu tiến hoá là những phần rắn chắc còn lại sau khi va chạm của các mảnh hành tinh có khối lượng lớn. Chỉ những tiền hành tinh to lớn nhất còn tồn tại sau những vụ va chạm năng lượng lớn đó với những mảnh nhỏ hơn, và tiếp tục phát triển to thêm.
Kiểu Trái Đất
Tuy nhiên, nhiệt độ của đĩa tiền hành tinh không đồng đều, và đây là nguyên nhân chính giải thích sự khác biệt giữa sự tạo thành hành tinh kiểu Trái Đất và hành tinh kiểu Sao Mộc.
Bên trong đường lạnh giá, nhiệt độ quá cao (trên 150 độ K) để các hợp chất hydro có thể tụ đặc lại: chúng vẫn ở thể khí. Vì thế, những hạt giống duy nhất của quá trình bồi tụ là các kim loại nặng và các hạt giống bụi silicate. Các tiền hành tinh trong vùng này gồm đa phần là đá và kim loại giống như các tiểu hành tinh, và tạo nên những hành tinh kiểu Trái Đất.
Kiểu Sao Mộc
Bên ngoài đường lạnh giá, các hợp chất hydro như nước, methan và amonia có thể đặc lại thành những hạt giống ‘băng’, và lớn dần lên. Các hạt giống đá và kim loại cũng có, nhưng các hợp chất hydro nhiều hơn (và nặng hơn) rất nhiều so với chúng, bởi vì các hợp chất này hiện diện ở khắp mọi nơi. Vì thế các mảnh tiền hành tinh ở vùng này là các vật thể băng với một lượng nhỏ đá và kim loại trộn lẫn. Các vật thể ở vành đai Kuiper và mây Oort, các sao chổi, vệ tinh tự nhiên vĩ đại của Sao Hải Vương và có lẽ cả Sao Diêm Vương và vệ tinh tự nhiên của nó là Charon, đều là những ví dụ về các tiền hành tinh kiểu ‘quả cầu băng trộn’ đó. Những vụ va chạm ở vòng ngoài ít xảy ra hơn vì các thiên thể có quỹ đạo lớn hơn. Những mảnh lớn nhất trong số các mảnh hành tinh đó rất to lớn (khoảng 10 lần lớn hơn khối lượng của Trái Đất) sức hút hấp dẫn của chúng bắt đầu thu thập và giữ lại khí heli và sau đó là các khí hydro. Một khi quá trình này đã xảy ra, các mảnh đó lớn lên nhanh chóng, bởi vì hydro và heli chiếm tới 98% khối lượng đĩa, và thu hút cá khí đó sẽ làm tăng khối lượng dẫn tới tăng sức hút hấp dẫn.
Các tiền hành tinh kiểu Sao Mộc nhanh chóng trở nên khác biệt so với những vật thể băng nguồn gốc của chúng. Việc chúng chứa ít hay nhiều hydro và heli phụ thuộc vào số khí chúng hấp dẫn được. Chúng dần trở thành những đám mây khí to lớn với nhân đặc. Sau đó, các quả cầu khí kiểu Sao Mộc đó, tương tự như hệ Mặt Trời, dần sụp đổ vì lực hấp dẫn, nóng lên, quay nhanh thêm và phẳng ra. Các vệ tinh tự nhiên của những hành tinh khí khổng lồ đó được tạo nên theo những quá trình giống như các hành tinh, hợp nhất lại từ những hạt giống đặc trong đĩa được tạo ra khi đám khí tiền hành khổng lồ đó sụp đổ. Điều này giải thích tại sao mọi hành tinh kiểu Sao Mộc đều có nhiều vệ tinh tự nhiên và vành đai trên cùng bề mặt ngang với nó, và tại sao các hành tinh kiểu Sao Mộc lại quay nhanh. Quá trình phát triển của các hành tinh kiểu Sao Mộc kết thúc khi gió mặt trời từ Mặt Trời trẻ tuổi thổi bay những khí và bụi còn lại ra ngoài đĩa bay vào trong không gian liên sao.
Sự khác biệt giữa các hành tinh kiểu Sao Mộc cũng được giải thích theo kiểu này. Mảnh hành tinh kiểu Sao Mộc đầu tiên có đủ khối lượng để thu hút khí heli và sao đó là khí hydro là mảnh ở trong cùng. Bởi vì tốc độ quỹ đạo nhanh hơn, độ đặc của đĩa cũng cao hơn và sự sụp đổ diễn ra nhanh hơn. Sao Mộc là hành tinh lớn nhất vì nó hấp thụ khí trong khoảng thời gian dài hơn, tiếp theo là Sao Thổ. Các thành phần cấu tạo của hai hành tinh này phần lớn là hydro và heli (khoảng 97 và 90% theo khối lượng). Các tiền hành tinh của Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương đạt tới kích cỡ tới hạn muộn hơn, vì thế cũng hấp thu được ít khí heli và hydro hơn, nên chúng chỉ chiếm khoảng 1/3 khối lượng.
Giai đoạn bắn phá
Cuối cùng, một thời gian dài sau khi gió mặt trời đã thổi bay khí ra khỏi đĩa, các hành tinh kiểu Sao Mộc (đặc biệt là Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương) dần quét sạch nốt các mảnh tiền hành tinh ra bên ngoài tới phạm vi mây Oort (khoảng 50.000 đơn vị thiên văn), bằng cách thổi bay chúng hay tác động vào quỹ đạo của chúng dẫn tới chúng va chạm vào kia hành tinh (hay tạo cho chúng một quỹ đạo ổn định hơn như vành đai tiểu hành tinh). Giai đoạn "bắn phá dữ dội" này kéo dài khoảng vài trăm triệu năm, và bằng chứng còn để lại là những miệng hố thiên thạch tới nay còn quan sát được trên các vật thể đã chết về mặt địa chất (không có hoạt động địa chất bên trong) trong Hệ Mặt Trời. Các tiền hành tinh tạo nên Trái Đất được cho là đã mang tới cho Trái Đất nước và các hợp chất hydro khác. Mặc dù không được chấp nhận rộng rãi, một số người tin rằng chính sự sống cũng đã tới Trái Đất theo cách này (được gọi là thuyết tha sinh).
Quan trọng hơn, sự bắn phá và những vụ va chạm của các mảnh hành tinh và các tiền hành tinh có thể giải thích những vệ tinh tự nhiên không bình thường, những quỹ đạo vệ tinh tự nhiên, những trục hành tinh nghiêng, và những sự khác biệt về chuyển động so với chuyển động nguyên thủy rất có trật tự. Một lý thuyết va chạm khổng lồ của một tiền hành tinh có kích thước bằng Sao Hoả được cho là nguyên nhân hình thành Mặt Trăng lớn bất thường của Trái Đất, thành phần và độ đặc chắc của nó tương đương với lớp vỏ Trái Đất và có thể đồng thời làm cho trục quay của Trái Đất nghiêng ở mức độ hiện nay là 23.5° so với mặt phẳng quỹ đạo cũ của nó.
Trong mô hình tinh vân mặt trời, các hành tinh kiểu Trái Đất có thể có vệ tinh tự nhiên nhờ vào lực hấp dẫn chúng. Hai Mặt Trăng nhỏ bé của Sao Hoả rõ ràng là các tiểu hành tinh, và những ví dụ hấp dẫn vệ tinh khác có rất nhiều trong các hệ kiểu Sao Mộc.
Các tương tác hấp dẫn thông thường của Sao Mộc (xem cộng hưởng quỹ đạo) cũng là nguyên nhân khiến cho các vật chất từng tồn tại ở vành đai tiểu hành tinh không thể dần lớn lên để có thể đạt tới kích cỡ hành tinh kiểu Trái Đất. Đa số các vật chất đó từ lâu đã bị ném vào các quỹ đạo lệch tâm và va chạm với những vật chất khác; tổng khối lượng của vành đai tiểu hành tinh hiện nay chưa bằng một phần mười khối lượng Mặt Trăng của Trái Đất.
Tổng kết
Lý thuyết tinh vân giải thích một cách hiệu quả mọi đặc điểm chính của hệ Mặt Trời của chúng ta:
những chuyển động đều của các hành tinh và các vệ tinh tự nhiên (tất cả đều quay gần mặt phẳng hoàng đạo, với các quỹ đạo gần tròn, cùng hướng quay của Mặt Trời, và hầu như tất cả cũng cùng chuyển động theo một hướng).
tất cả những khác biệt căn bản giữa các hành tinh kiểu Trái Đất và kiểu Sao Mộc (khối lượng, khoảng cách từ Mặt Trời, vệ tinh tự nhiên và những hệ thống vành đai)
các vật thể nhỏ (tiểu hành tinh và sao chổi, cả sao chổi ngắn hạn và dài hạn)
những sự loại trừ đối với phương hướng (các vệ tinh tự nhiên kiểu Trái Đất, các trục nghiêng, các vệ tinh tự nhiên kiểu Sao Mộc không đồng phẳng, Triton)
Những thách thức hiện nay đối với thuyết tinh vân mặt trời là phải giải thích:
sự mất khối lượng trong vành đai Kuiper
quá trình bắt giữ Triton
sự phát hiện hành tinh ngoài hệ Mặt Trời, các "Sao Mộc nóng"
sự phát hiện các hành tinh ngoài hệ Mặt Trời trong các hệ sao đôi và sao ba
Ý nghĩa của sự bồi đắp dần
Sử dụng thuật ngữ đĩa bồi đắp dần cho đĩa tiền hành tinh dẫn tới sự lộn xộn trong quá trình bồi đắp hành tinh.
Thỉnh thoảng đĩa tiền hành tinh được coi là một đĩa bồi đắp, bởi vì trong khi sao trẻ T Tauri kiểu tiền mặt trời vẫn đang nén ép lại, các vật chất khí có thể vẫn tiếp tục rơi vào, và làm bồi thêm, bề mặt của nó bờ bên trong của đĩa.
Tuy nhiên, ý nghĩa đó không nên bị lầm lẫn với quá trình thành tạo theo kiểu bồi đắp của các hành tinh. Trong trường hợp này, bồi đắp được quy cho quá trình lạnh đi, các hạt giống bụi và băng đặc chắc quay quanh tiền mặt trời trong đĩa tiền hành tinh, va chạm vào nhau và hấp thụ lẫn nhau để dần lớn lên, cho tới khi đủ khả năng (phát triển thành hành tinh) và gồm cả những va chạm năng lượng cao giữa các mảnh hành tinh cỡ lớn.
Nếu điểu này cũng không phải là lầm lẫn lớn, các hành tinh kiểu Sao Mộc, có thể có đĩa bồi đắp của riêng chúng, theo đúng nghĩa ban đầu của từ này. Các đám mây gồm hydro và heli đã bị hấp dẫn và đặc lại, quay nhanh thêm, phẳng ra, và làm lắng khí vào trong bề mặt của mỗi tiền hành tinh kiểu Sao Mộc, trong khi các hạt giống rắn chắc bên trong đĩa đó tụ vào với nhau thành các tiền hành tinh và cuối cùng tạo nên các vệ tinh tự nhiên của các hành tinh kiểu Sao Mộc.
Lịch sử các lý thuyết về sự hình thành hệ mặt trời
Cuối thế kỷ 19 lý thuyết tinh vân Kant-Laplace bị James Clerk Maxwell chỉ trích. Ông cho rằng nếu vật chất của các hành tinh đã được biết từng được phân phối xung quanh Mặt Trời dưới dạng một cái đĩa, các lực quay chênh lệch sẽ ngăn cản không cho quá trình đặc lại của riêng từng hành tinh diễn ra. Một phản đối khác là Mặt trời có mô men động lượng nhỏ hơn so với kiểu hệ của Kant-Laplace đưa ra. Trong nhiều thập kỷ, đa số các nhà thiên văn học đều ủng hộ giả thuyết va chạm gần, theo đó các hành tinh được coi là đã được tạo nên nhờ sự xích lại gần của một số ngôi sao về hướng Mặt trời. Sự trượt qua ở khoảng cách gần này có thể đã khiến cho một khối lượng lớn vật chất của mặt trời và ngôi sao kia bị bắn ra vì các lực thủy triều ảnh hưởng lẫn nhau của chúng, những vật chất này sau đó đặc lại thành các hành tinh.
Những sự phản đối dành cho giả thuyết va chạm gần này cũng xuất hiện nhiều trong thập kỷ 1940, hình thức tinh vân đã được cải tiến tới mức nó đã được chấp nhận rộng rãi. Trong những hình mẫu đã được cải tiến sau này, khối lượng nguyên thủy của tiền hành tinh được giả định lớn hơn, và sự khác biệt về động lượng góc được quy cho các lực từ tính. Có nghĩa là, Mặt trời trẻ chuyển một số động lượng góc của nó cho đĩa tiền hành tinh và các mảnh hành tinh thông qua các sóng Alven, giống như được cho rằng là xảy ra ở những ngôi sao T Tauri.
Lý thuyết tinh vân sửa đổi được phát triển dựa hoàn toàn trên các quan sát hệ mặt trời của riêng chúng ta, bởi ví nó là hệ duy nhất được biết tới cho đến tận giữa thập kỷ 1990. Nó không được chấp nhận rộng rãi là có thể đem áp dụng vào những hệ hành tinh khác, mặc dù các nhà khoa học rất muốn kiểm tra lý thuyết tinh vân bằng cách tìm kiếm các đĩa tiền hành tinh hay thậm chí là các hành tinh bay xung quanh các ngôi sao khác, được gọi là các hành tinh bên ngoài hệ mặt trời.
Tinh vân mặt trời hay đĩa tiền hành tinh hiện đã được quan sát thấy ở tinh vân Orion, và một số vùng thành tạo sao, khi các nhà khoa học sử dụng kính thiên văn vũ trụ Hubble. Một số chúng có đường kính lên tới 1000 AU.
Và sự khám phá ra hơn 180 hành tinh ngoài hệ mặt trời vào tháng 1 năm 2006, đã gây ra nhiều ngạc nhiên, và lý thuyết tinh vân phải được sửa đổi để thích hợp với các hệ hành tinh mới được khám phá đó, hay những lý thuyết mới sẽ phải được đưa ra. Không có sự nhất trí về việc làm cách nào để giải thích ‘những Sao Mộc nóng’ đã được phát hiện, nhưng một ý tưởng hiện đang được số đông chấp nhân là sự di cư hành tinh. Ý tưởng này cho rằng các hành tinh phải có khả năng di trú từ quỹ đạo nguyên thủy của nó tới một quỹ đạo khác gần ngôi sao hơn, thông qua một số quá trình vật lý có thể xảy ra, như va chạm quỹ đạo khi đĩa tiền hành tinh vẫn còn đầy khí hydro và heli.
Trong những năm gần đây, một lý thuyết khác giải thích sự hình thành hệ mặt trời là Lý thuyết bắt giữ. Lý thuyết này đã được phát triển và có thể giải thích được các đặc điểm của hệ mặt trời mà Lý thuyết tinh vân mặt trời không thể giải thích được. Lý thuyết này đã được đề cập dưới đây:
M M Woolfson 1969, Rep. Prog. Phys. 32 135-185
M M Woolfson 1999, Mon. Not. R. Astr. Soc.304, 195-198. |
Với entropy trong lý thuyết thông tin, xem entropy thông tin. Kết hợp của cả hai, xem Entropy trong nhiệt động học và lý thuyết thông tin. Với các cách dùng khác, xem Entropy (định hướng), và các bài viết khác trong :Thể loại:Entropy.
Entropy là một khái niệm khoa học, cũng như một thuộc tính vật lý có thể đo lường được, dùng để chỉ trạng thái mất trật tự, ngẫu nhiên hoặc không chắc chắn. Thuật ngữ và khái niệm này được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, từ nhiệt động lực học cổ điển, đến các mô tả vi mô trong vật lý thống kê và các nguyên tắc của lý thuyết thông tin. Entropy ứng dụng sâu rộng trong các hệ hóa học, vật lý và sinh học và mối quan hệ của các hệ này với cuộc sống, trong vũ trụ học, kinh tế học, xã hội học, Khoa học khí quyển, biến đổi khí hậu và hệ thống thông tin bao gồm truyền phát thông tin trong viễn thông.
Trong nhiệt động lực học, entropy nhiệt động lực (hay gọi đơn giản là entropy) ký hiệu là , là một đơn vị đo nhiệt năng phát tán, hấp thụ khi một hệ vật lý chuyển trạng thái tại một nhiệt độ tuyệt đối xác định (). Trong cơ học thống kê, entropy được định nghĩa như là một đơn vị đo lường khả năng mà một hệ có thể rơi vào trạng thái độ trong một tình trạng, nó thường được gọi là "sự lộn xộn" hay "tính bừa" thể hiện trong một hệ. Thứ nguyên của entropy theo hệ SI là joule trên độ Kelvin (J/K).
Lịch sử
Lịch sử của entropy bắt đầu với công trình của nhà toán học người Pháp Lazare Carnot, quyển Các nguyên lý cơ bản của cân bằng và chuyển động (1803). Trong tác phẩm này, ông đã đề xuất nguyên lý cho rằng tất cả những sự gia tốc và va chạm của các phần đang chuyển động trong mọi cơ cấu đều có hiện diện của những hao tổn về "moment hoạt động". Nói cách khác, trong bất kỳ một quá trình tự nhiên nào đều tồn tại một xu hướng cố hữu của sự tiêu tán năng lượng hữu ích. Dựa trên công trình này, năm 1824 con trai của Lazare là Sadi Carnot đã xuất bản cuốn Những suy ngẫm về năng lượng phát động của lửa (Reflections on the Motive Power of Fire). Trong đó, ông nêu ra quan điểm rằng trong mọi động cơ nhiệt, mỗi khi calo, mà ngày nay gọi là nhiệt, "rơi" do một sự sai khác nhiệt độ, thì công hay năng lượng phát động có thể được sinh ra từ những tác dụng của "sự rơi calo" giữa một vật nóng và một vật lạnh. Đây là những nhận thức ban đầu về nguyên lý thứ hai của nhiệt động lực học.
Carnot đã xây dựng quan điểm về nhiệt của mình một phần dựa vào "Giả thuyết Newton" (đầu thế kỉ 18). Giả thuyết này cho rằng cả nhiệt và ánh sáng là những loại khác nhau của những dạng vật chất không thể phá hủy, bị hút và đẩy bởi những vật chất khác. Ông cũng dựa vào quan niệm của Count Rumford, người đã chỉ ra rằng nhiệt có thể được sinh ra do ma sát như khi các nòng đại bác nã đạn. Do đó, Carnot đã suy luận rằng nếu một vật thể chứa vật chất sinh công, chẳng hạn như một vật chứa hơi nước, được đưa lại điều kiện ban đầu của nó (nhiệt độ và áp suất) ở cuối của một chu trình máy, thì "không có thay đổi nào trong trạng thái của vật sinh công." Chú thích này sau đó được thêm vào như là những chú thích nhỏ ở cuối trang trong quyển sách của ông, và chính nó đã dẫn đến sự phát triển của khái niệm entropy.
Trong thập niên 1850 và 1860, nhà vật lý người Đức Rudolf Clausius đã phản đối mạnh mẽ giả thuyết trên của Carnot. Clausius cho rằng phải có sự thay đổi trạng thái của vật sinh công và đưa ra cách giải thích toán học cho sự thay đổi đó, bằng cách nghiên cứu bản chất của sự tự hao tổn nhiệt hữu ích khi thực hiện công, chẳng hạn như khi nhiệt được sinh ra do ma sát. Quan điểm này trái ngược với các quan điểm trước đó, dựa vào lý thuyết của Newton, rằng nhiệt là hạt bền vững có khối lượng. Sau đó, các nhà khoa học như Ludwig Boltzmann, Willard Gibbs, và James Clerk Maxwell đã chỉ ra cơ sở thống kê của entropy; Carathéodory đã kết hợp entropy với một định nghĩa toán học của sự bất thuận nghịch.
Định nghĩa của entropy theo động lực học cổ điển
Tính không bảo toàn của entropy
Khó khăn trong việc đưa ra một định nghĩa chính xác về entropy của một hệ chính là việc entropy không có tính bảo toàn. Đại lượng này có thể tăng một cách đột ngột trong một quá trình không thuận nghịch. Thật vậy, theo định luật hai nhiệt động lực học, entropy của một hệ cô lập không thể giảm, mà chỉ có thể tăng hoặc giữ nguyên giá trị trong trường hợp quá trình biến đổi là thuận nghịch.
Những biến đổi mang tính thuận nghịch
Một sự biến đổi mang tính thuận nghịch trong nhiệt động học khi nó mang tính 'gần cân bằng' và không gây ra ma sát dẫn đến sự thoát nhiệt nào. Trong những điều kiện như trên, sự biến đổi của hệ có thể coi như cấu thành từ một loạt các trạng thái cân bằng liên tiếp. Nếu chúng ta đảo ngược những điều kiện của môi trường bên ngoài - yếu tố ảnh hưởng đến sự biến đổi của hệ, ta sẽ quay ngược lại trạng thái ban đầu qua những trạng thái cân bằng y hệt như trên nhưng theo thứ tự ngược lại. Sở dĩ có điều này là vì không có hiện tượng thất thoát (nhiệt, vật chất..) Vì thế, ta có thể mô phỏng được sự biến đổi của hệ và mô tả chính xác trạng thái cân bằng của hệ ở từng thời điểm.
Vì những giả thiết đã đặt ra như trên, những biến đổi mang tính thuận nghịch được coi là một mô hình lý tưởng (giống như mô hình khí lý tưởng, khi chúng ta giả thiết rằng không có sự va chạm giữa các phân tử khí với nhau). Từ mô hình này, chúng ta có thể miêu tả những quá trình biến đổi thực bằng cách đảm bảo rằng những quá trình đó được thực hiện với tốc độ rất chậm, sự tác động làm mất cân bằng của các hàm trạng thái là rất ít và ma sát cũng được giảm thiểu tối đa.
Ngược lại, một sự biến đổi được coi là không thuận nghịch nếu như không thỏa mãn những điều kiện như ở trên. Điều này giống như trường hợp quả trứng bị vỡ khi va chạm với sàn nhà cứng: chúng ta có thể thấy nếu sự biến đổi là thuận nghịch: quả trứng sẽ tự ghép các mảnh vỡ lại rồi bay lên trên không, trở về trạng thái ban đầu. Ở ví dụ này, chúng ta thấy có sự thể hiện của mũi tên thời gian.
Những biến đổi mang tính không thuận nghịch
Những sự biến đổi trong thực tế thường là những biến đổi không thuận nghịch do luôn có sự thất thoát, và mất trong nhiều môi trường khác nhau. Do đó mà hệ không bao giờ trở về một cách tức thời về trạng thái ngay trước đó. Năng lượng bị mất của hệ dưới dạng nhiệt lượng sẽ đóng góp vào sự gia tăng của sự 'hỗn loạn' chung. Mà sự 'hỗn loạn' lại được đo bằng hàm trạng thái entropy, ký hiệu là được giới thiệu thông qua định luật thứ hai của nhiệt động học.
Nếu như định luật thứ nhất là định luật bảo toàn năng lượng của hệ thì định luật thứ hai là định luật về sự biến đổi của hệ: Tất cả các sự biến đổi thực đều được thực hiện với sự tăng lên của sự 'hỗn loạn' chung (bao gồm hệ + môi trường ngoài); sự hỗn loạn được đo bằng entropy. Ở đây, chúng ta nói rằng có sự tăng entropy.
Phương trình của định luật thứ hai mô tả sự tăng entropy:
Trong trường hợp biến đổi là lý tưởng (thuận nghịch), không có sự tạo ra entropy:
Tính "cộng được"
Nhiệt động học cổ điển định nghĩa entropy như một đại lượng mang tính "cộng được", điều này có nghĩa là chúng ta có thể thu được entropy của hệ bằng cách cộng toàn bộ entropy thành phần (ngược lại, nhiệt độ không mang tính "cộng được" vì nhiệt độ của hệ không bằng tổng nhiệt độ các thành phần)
Khi tất cả các biến đổi là thuận nghịch, chúng ta có thể mô tả entropy như một đại lượng được bảo toàn. Do có thể được truyền từ hệ này qua hệ khác hoặc ra môi trường bên ngoài, entropy được coi như một loại 'tiền xu' trao đổi. Đơn vị của entropy là Joule trên Kelvin, ký hiệu J.K−1, thể hiện lượng entropy lấy được bởi hệ khi hệ nhận được 1 Joule nhiệt lượng trên độ Kelvin. Tổng quát hóa, khi hệ nhận được joule nhiệt lượng trong một quá trình thuận nghịch vi mô ở nhiệt độ , entropy của nó tăng:.
Từ đây, với một biến đổi thuận nghịch được thực hiện ở nhiệt độ không đổi: Entropy là một hàm trạng thái, nghĩa là chỉ phụ thuộc vào trạng thái đầu và cuối của hệ mà không phụ thuộc vào cách thức biến đổi giữa hai trạng thái này.Do entropy của một thể đồng chất, ở không độ Kelvin, bằng không do hệ hoàn toàn 'có trật tự' (ngược lại với một hệ hỗn loạn), chúng ta có thể xây dựng một thang đo tuyệt đối cho entropy.
Nếu như biến đổi không thuận nghịch, nhiệt lượng sử dụng trở thành vì nhiệt lượng phụ thuộc vào cách thức biến đổi giữa hai trạng thái đầu và cuối. Hơn nữa, chúng ta đã thấy ở trên rằng sự biến đổi không thuận nghịch sinh ra entropy và tổng entropy sẽ dương:
Mà môi trường ngoài nhận vào nhiệt lượng cung cấp bởi hệ một giá trị bằng .Sự biến thiên entropy của môi trường ngoài do đó bằng: Tổng entropy trở thành: Từ đây, chúng ta thu được bất đẳng thức xây dựng bởi Clausius cho những biến đổi không thuận nghịch:
Kết quả thu được từ bất đẳng thức Clausius về công năng thực hiện bởi hệ
Ở nhiệt độ T, xét một biến đổi của hệ từ trạng thái nhiệt động học ban đầu, ký hiệu là đến trạng thái cân bằng cuối cùng, ký hiệu là .
Sự biến thiên entropy của hệ gây ra do sự biến đổi này, có thể được viết như sau:
Có thể tiến hành biến đổi này một cách thuận nghịch hoặc không thuận nghịch. Sự biến thiên của entropy là giống nhau trong cả hai trường hợp. Ngược lại, nhiệt năng và công năng do phụ thuộc vào cách thức biến đổi và do đó, chúng ta có: và .
Áp dụng định luật thứ hai:
Do đó,
Áp dụng định luật thứ nhất về bảo toàn nội năng U:
Trong một hệ (máy nhiệt, máy điện,...) mà chức năng chủ yếu là sản sinh ra công năng cho môi trường bên ngoài, công năng sinh ra được tính âm theo quy ước về dấu:
Do đó mà chúng ta cần tính đến giá trị tuyệt đối của công sinh ra và bất đẳng thức đảo ngược như sau:
Do vậy, công sinh ra bởi hệ càng lớn nếu như biến đổi càng thuận nghịch.
Lưu ý:
Ma sát là thành tố chủ yếu gây ra sự không thuận nghịch, do đó, cần phải làm giảm ma sát. Đó là mục đích của việc bôi trơn dầu mỡ tại những chi tiết có sự tương tác cơ học.
Vận tốc cũng là một thành tố gây ra sự không thuận nghịch: chiếc xe ô tô càng đi nhanh bao nhiêu thì năng lượng sẽ tiêu tốn nhiều bấy nhiêu. Do đó với cùng một lượng xăng, ô tố đi càng nhanh thì quãng đường đi được càng ít.
Pin điện cung cấp nhiều điện năng hơn khi quá trình chuyển đổi năng lượng của nó, từ hóa năng sang điện năng, càng gần với một biến đổi mang tính thuận nghịch.
Định nghĩa của entropy theo vật lý thống kê
Vật chất được cấu thành từ các hạt (phân tử, nguyên tử, electron...) chuyển động không ngừng (tác động nhiệt) tạo ra giữa chúng một loại lực tương tác hút nhau mà cường độ của loại lực này giảm dần khi khoảng cách tương tác tăng. Với thể khí, khoảng cách giữa các hạt là tương đối lớn, do đó, các tương tác thường yếu và các hạt có thể được coi như tự do di chuyển trong không gian giới hạn. Tuy nhiên do không gian giới hạn nên các hạt này sẽ chịu những va chạm giữa chúng dấn đến sự biến thiên năng lượng. Ở thể lỏng, khoảng cách giữa các hạt nhỏ hơn và các phân tử do đó ít tự do di chuyển hơn (có thể di chuyển trong thể tích của chất lỏng nhưng không thể thoát ra ngoài). Ở thể rắn, mỗi phân tử liên kết đàn hồi với các phân tử bên cạnh và dao động quanh một vị trí cố định. Trong tất cả các trường hợp, vị trí và năng lượng của các hạt hoàn toàn phân bố ngẫu nhiên.
Tổng năng lượng của tất cả các hạt trong một hệ được gọi là nội năng U của hệ. Một hệ là cô lập, nghĩa là không có sự trao đổi năng lượng cũng như vật chất với môi trường ngoài. Trạng thái vĩ mô của hệ được xác định bằng thể tích V và nội năng U. Tuy nhiên, các hạt có thể được sắp xếp trong cũng một thể tích bằng nhiều cách khác nhau; tương tự như vậy, nội năng cũng có thể được phân bố trên các hạt theo nhiều phương cách khác nhau. Mỗi cách đặt các phân tử vào một thể tích và phân bổ nội năng cho các phân tử đó được gọi là một 'cấu hình vi mô' của trạng thái vĩ mô xác định bởi thể tích V và nội năng U. Số hạt trong một hệ vĩ mô là rất lớn (cỡ 1023), số lượng cấu hình vi mô cũng rất lớn. Định nghĩa entropy (hàm số của và ) như sau:
trong đó được gọi là hằng số Boltzmann.
Đẳng thức này được đưa ra bởi Ludwig Boltzmann vào những năm 1870 khi mà khái niệm về trạng thái vi mô còn khá trừu tượng vì kiến thức về nguyên tử và các tính chất lượng tử của chúng còn chưa được hiểu thấu đáo. Boltzman đã bị chế nhạo khá nhiều bởi nhiều nhà khoa học đương thời và điều này được coi là nguyên nhân chính dẫn đến việc tự sát của ông. Ngày nay, ông được coi là cha đẻ của nhiệt động học thống kê. Mộ của ông ở Viên có khắc công thức về nguồn gốc của entropy.
Một hệ chuyển đổi liên tục từ cấu hình vi mô này sang cấu hình vi mô khác, cho đến khi đạt cân bằng. Chúng ta thừa nhận nguyên lý cơ bản sau đây:
Khi một hệ cô lập khi ở trạng thái cân bằng, các trạng thái vi mô có thể đạt được của hệ có xác suất xuất hiện bằng nhau.
Tiên đề này là phát biểu kĩ nhất của nguyên lý thứ hai của nhiệt động học.
Do entropy là đại lượng có tính chất cộng được, ta có thể viết:
Từ đây, số lượng cấu hình vi mô của hệ .
Định nghĩa nhiệt động lực học
Vào những năm đầu thập kỉ 1850, Rudolf Clausius đã đưa ra khái niệm về năng lượng phân hủy. Đặc biệt hơn, ông đã đưa ra tiếp khái niệm về hệ nhiệt động học và đã tạo nên một cuộc tranh luận gắt gao về vấn đề rằng trong bất ki một quá trình phản ứng một chiều nào thì một phần nhỏ năng lượng cũng sẽ thoát ra ngoài hệ. Năm 1876, kĩ sư hóa học Willard Gibbs, dựa trên những nghiên cứu của Clausius và Hermann von Helmholtz, đã đưa ra cách nhìn mới về năng lượng tự do Gibbs, trong nhiệt động học sử dụng giá trị T.ΔS để chỉ phần năng lượng mất đi của hệ ΔH. Những khái niệm về nhiệt động học tiếp tục được phát triển bởi James Clerk Maxwell (1871) và Max Planck [1903].
Định nghĩa nhiệt động học theo Carathéodory (1908)
Định nghĩa nhiệt động học theo Lieb-Yngvason (1997) |
Nhục bồ đoàn () là một tác phẩm văn học của Trung Quốc sử dụng mặt trái để nói mặt phải, nói con người luôn trông ngóng xa xôi chứ không biết nhìn gần.
Câu chuyện bắt đầu vào đời Nguyên (1280-1368), khoảng năm Chí Hòa (1328).
Nhân vật chính
Nhân vật chính của truyện là Bán Dạ Sinh, một chàng trai thư sinh trẻ đẹp như Phan An, nhưng bản tính đam mê tửu sắc, thích ban đêm mà không thích ban ngày, thích lúc nửa đêm mà không thích sau nửa đêm. Đây là người không thích công danh, tự phụ là người thông minh tài hoa nhất trên đời và muốn có những người đẹp nhất thiên hạ.
Nội dung
Nghe danh một nhà ẩn tu có tiếng, một lần Bán Dạ Sinh đến và nhận lời khuyên từ người này nhưng tuổi trẻ vẫn không thể bỏ phí sự vui chơi.
Một vị túc nho "Thiết phi đạo nhân" có con gái tên Quý Hương xinh đẹp, danh giá và học thức, sau nhiều lần bị thuyết phục đã chấp nhận gả con cho Bán Dạ Sinh nhưng với điều kiện phải ở rể. Lúc đầu, với những gì được giáo dục từ nhỏ, cô gái không chấp nhận những việc sai trái. Sau đó do sự thuyết phục khéo léo mà cô gái đã sa đà vào bản ngã của mình.
"Thiết phi đạo nhân" là người cố chấp, thích chất phác, không ưa phong lưu nên không hợp với chàng rể. Chàng rể Bán Dạ Sinh ra đi, kết bạn với "Tái côn lôn", một siêu trộm tự phụ cho rằng không gì không trộm được, và có thể lặp lại bất cứ khi nào cũng được.
Một thuật sĩ đã trợ giúp Bán Dạ Sinh bằng cách ghép dương vật của chó với của anh ta để tăng sức mạnh cũng như độ lớn.
Các cuộc tình
Người đầu tiên là vợ của Quyền Lão Thực (người bán tơ), nhũ danh Diễm Phương, là một người con gái dáng vẻ xinh đẹp sống với quan niệm làm phận đàn bà thì chuyện dâm dục nếu không làm thì thôi, đã làm thì nên làm cho tới nơi tới chốn, mà hưởng đời được chút nào hay chút ấy, chớ có làm cẩu thả mà uổng phí xuân xanh một đời. Chồng của thị là người nghèo không quyền thế nên đã bán lại vợ cho Bán Dạ Sinh qua tay "Tái côn lôn". Diễm Phương nhanh chóng có thai và sinh ra hai gái.
Người thứ hai là Hương Vân ở kế vách. Chồng nàng tên Hiên Hiên Tử, là một gã Hiếu liêm tuy tài cao nhưng hạnh đoản, tuy danh trọng nhưng phẩm đê, tuổi đã ngoài năm mươi, vợ trước đã chết, Hương Vân là kế thất, đang mở trường dạy học. Hiên Hiên tử trọ ngoài tỉnh, mỗi tháng chỉ về ngủ với vợ một hai tối mà thôi.
Cô Thần, tên đầy đủ là Hoa Thần là cô của Hương Vân, cháu cô Thần là Thuỵ Châu, Thuỵ Ngọc. Ba người này với Hương Vân thành bộ tứ chơi trác táng với Bán Dạ Sinh trong thời gian Diễm Phương dưỡng thai.
Sự trả giá
Quyền Lão Thực do yếu thế chấp nhận bán vợ nhưng không nguôi ý trả thù đã đổi tên là Lã Toại Tâm và tìm đến Quý Hương (vợ ở quê của Bán Dạ Sinh). Với quyết tâm trả thù, anh ta lấy được cảm tình của "Thiết phi đạo nhân", được gả cho ả a hoàn Như Ý và sống trong gia trang của cha vợ Bán Dạ Sinh.
Quý Hương do sự trống vắng lại đọc những quyển sách dâm dật của Bán Dạ Sinh để lại, đã không kiềm được dục vọng khi thấy Quyền Lão Thực hành sự với Như Ý. Sự thể không như dự tính, lòng dâm khó dừng Quý Hương có thai đã rủ Quyền Lão Thực thu thập đồ dùng và trốn đi.
Ham tìm của mới lạ, sau khi từ gửi Diễm Phương và hai con cho "Tái Côn Lôn" về nhận được tin vợ cũ mất, Bán Dạ Sinh đi tìm danh kỹ mà tiếng đồn khắp đế kinh không ngờ lại là vợ cũ Quý Hương. Quý Hương thấy chồng tìm đến mình thì xấu hổ nên tự vẫn.
Khi nghe tin Diễm Phương cũng như Quý Hương bỏ nhà trốn theo trai, Bán Dạ Sinh đã đến với Cô phong hòa thượng và trở thành một hòa thượng với tên Ngu Sa.
Chuyển thể
Phim "Tình dục và Thiền" (Sex and Zen, 玉蒲團之偷情寶鑑) năm 1991. Đạo diễn Michael Mak Kwok-fung, diễn viên Lawrence Ng Kai Wah, Kent Cheng, La Liệt, Diệp Tử My, Từ Cẩm Giang
Phim "Tình dục và Thiền II" (Sex and Zen II, 玉蒲团之玉女心经) năm 1996, có sự than gia diễn xuất của Thư Kỳ và Từ Cẩm Giang
Phim "Tình dục và Thiền III" (Sex and Zen III, 玉蒲团之官人我還要) năm 1998
Phim 3D 3D肉蒲團之極樂寶鑑 năm 2011 |
Beast Boy (Garfield Logan) là một siêu anh hùng hư cấu xuất hiện trong truyện tranh Mỹ được xuất bản bởi DC Comics, thường là thành viên của các đội Teen Titans và Doom Patrol. Được tạo bởi nhà văn Arnold Drake và nghệ sĩ Bob Brown, lần đầu tiên anh xuất hiện trong The Doom Patrol # 99 (tháng 11 năm 1965).
Tiểu sử
Khi còn là một đứa trẻ, Garfield nhiễm một loại bệnh hiếm gặp gọi là đạo sĩ sơn tùng mặt toàn phân và được chữa trị nhờ một loại huyết thanh từ một con khỉ xanh. Loại huyết thanh này vô tình biến da và tóc cậu thành màu xanh lá cây mà còn mang lại khả năng biến hình thành bất kỳ con vật nào mà cậu thích.
Trong Titan
Trong phim hoạt hình Teen Titans trong Cartoon network, Beast Boy là một trong 5 thành viên của nhóm, những người còn lại là Raven, Cyborg, Robin và Starfire |
Ở động vật có vú, âm đạo (tiếng Latinh: vagina, tiếng Hy Lạp: kolpos) là phần ống cơ, đàn hồi của đường sinh dục nữ. Ở người, âm đạo kéo dài từ tiền đình đến cổ tử cung. Bên ngoài cửa âm đạo thường được bao phủ một phần bởi một lớp mô niêm mạc mỏng được gọi là màng trinh. Ở tận cùng bên trong, tiếp giáp với tử cung với phần cổ tử cung lồi vào trong âm đạo. Chức năng chính của âm đạo là: quan hệ tình dục và sinh sản; bên cạnh đó, cơ quan này cũng thực hiện chức năng bài tiết khi tiết ra các chất dịch để tự làm sạch hoặc đào thải các dịch tiết từ cổ tử cung, tử cung và cũng là đường dẫn để kinh nguyệt thoát ra ngoài định kỳ theo chu kỳ kinh nguyệt, xảy ra ở người và các loài linh trưởng.
Mặc dù có rất ít các nghiên cứu về âm đạo đối với các loài động vật khác nhau, nhưng về vị trí, cấu trúc và kích thước của âm đạo giữa các loài được ghi nhận là khác nhau. Ở động vật có vú giống cái thường có hai lỗ mở bên ngoài ở âm hộ; đó là lỗ mở vào niệu đạo của đường tiết niệu và cửa âm đạo (lỗ mở vào âm đạo) của đường sinh dục. Điều này khác với động vật có vú giống đực thường chỉ có một lỗ mở duy nhất cho cả việc bài tiết nước tiểu và sinh sản. Ở người, cửa âm đạo lớn hơn nhiều so với lỗ mở niệu đạo và cả hai đều được bảo vệ bởi các môi âm hộ. Đối với động vật lưỡng cư, chim, bò sát và động vật đơn huyệt, lỗ huyệt là lỗ mở duy nhất bên ngoài cho cả đường tiêu hóa, tiết niệu và sinh sản.
Để giúp âm đạo dễ dàng thâm nhập hơn trong quá trình quan hệ tình dục hoặc các hoạt động tình dục khác, độ ẩm âm đạo tăng lên trong quá trình kích thích tình dục ở phụ nữ và các động vật có vú giống cái khác. Sự gia tăng độ ẩm này giúp bôi trơn âm đạo, làm giảm ma sát. Kết cấu của thành âm đạo tạo ra ma sát khi quan hệ tình dục và kích thích dương vật xuất tinh, tạo điều kiện cho quá trình thụ tinh. Cùng với hạnh phúc và sự gắn kết, hành vi tình dục của phụ nữ với người khác (bao gồm các hoạt động tình dục khác giới hoặc đồng tính nữ) có thể dẫn đến các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STIs), tuy nhiên, nguy cơ mắc bệnh này có thể được giảm thiểu bằng các biện pháp tình dục an toàn được khuyến nghị. Các vấn đề sức khỏe khác cũng có thể ảnh hưởng đến âm đạo của con người.
Âm đạo và âm hộ đã gây ra những phản ứng mạnh mẽ ở xã hội loài người trong suốt lịch sử, bao gồm các nhận thức và ngôn ngữ mang xu hướng tiêu cực, những điều cấm kỵ trong văn hóa đến việc sử dụng chúng làm biểu tượng cho tình dục nữ, tâm linh hoặc tái sinh sự sống. Trong cách nói thông thường, từ âm đạo thường được dùng để chỉ âm hộ hoặc bộ phận sinh dục nữ nói chung. Tuy nhiên, theo từ điển và các định nghĩa giải phẫu, âm đạo chỉ đề cập đến cấu trúc bên trong cụ thể, với việc hiểu được sự khác biệt có thể nâng cao kiến thức về cơ quan sinh dục nữ và hỗ trợ giao tiếp chăm sóc sức khỏe.
Từ nguyên và định nghĩa
Thuật ngữ âm đạo có nguồn gốc từ tiếng Latinh có nghĩa là "vỏ bọc" hoặc " bao kiếm ". Âm đạo cũng có thể được gọi là kênh sinh trong bối cảnh mang thai và sinh nở. Mặc dù theo từ điển và các định nghĩa giải phẫu, thuật ngữ âm đạo chỉ đề cập đến cấu trúc bên trong cụ thể, nhưng nó vẫn thường được sử dụng một cách thông tục để chỉ âm hộ hoặc cả âm đạo và âm hộ.
Sử dụng thuật ngữ âm đạo có nghĩa là "âm hộ" có thể gây nhầm lẫn về y tế hoặc pháp lý; ví dụ: cách giải thích vị trí của một người có thể không khớp với cách giải thích vị trí của người khác. Về mặt y học, một mô tả về âm đạo nói rằng nó là một kênh nằm giữa màng trinh (hoặc tàn dư của màng trinh) và cổ tử cung, trong khi có một mô tả pháp lý khác cho rằng nó bắt đầu từ tam giác niệu sinh dục (giữa môi âm hộ). Có thể việc sử dụng không chính xác thuật ngữ âm đạo là do không có nhiều suy nghĩ khi đi sâu vào giải phẫu bộ phận sinh dục nữ cũng như nghiên cứu về bộ phận sinh dục nam, và điều này đã góp phần vào việc thiếu từ vựng chính xác cho cơ quan sinh dục ngoài của phụ nữ trong cả cộng đồng nói chung và các chuyên gia y tế nói riêng. Để hiểu rõ hơn về cơ quan sinh dục nữ có thể giúp chống lại các tác hại về mặt tình dục và tâm lý liên quan đến sự phát triển của nữ giới nên các nhà nghiên cứu tán thành thuật ngữ chính xác cho âm hộ.
Cấu tạo
Giải phẫu tổng quát
Âm đạo của con người là một ống cơ đàn hồi kéo dài từ âm hộ đến cổ tử cung. Cửa âm đạo nằm trong tam giác niệu sinh dục. Tam giác niệu sinh dục là một vùng nằm phía trước đáy chậu, bao gồm lỗ mở vào niệu đạo và các bộ phận liên quan của cơ quan sinh dục ngoài. Âm đạo có hướng thẳng đứng và ngửa ra sau, giữa niệu đạo ở phía trước và trực tràng ở phía sau. Phần trong cùng tiếp giáp với tử cung hợp thành một góc xấp xỉ 90 độ. Cửa âm đạo và lỗ mở niệu đạo được bảo vệ bởi môi âm hộ.
Khi không được kích thích tình dục, âm đạo là một ống bị xẹp xuống, thành phía trước và phía sau được áp vào nhau. Các thành bên (đặc biệt là khu vực ở giữa chúng), tương đối cứng hơn. Do đó, khi ở trạng thái bình thường, âm đạo sẽ có tiết diện hình chữ H. Thành sau của âm đạo được ngăn cách với trực tràng bởi túi trực tràng tử cung ở phần phía trên, phần ở giữa được ngăn cách bởi mô liên kết lỏng lẻo, và phần phía dưới được ngăn cách bởi cơ đáy chậu. Phần lòng âm đạo bao quanh cổ tử cung, được chia thành bốn vùng liên tiếp (cùng đồ âm đạo); bao gồm các: cùng đồ trước, sau, bên phải và bên trái. Cùng đồ sau sâu hơn cùng đồ trước.
Hỗ trợ nâng đỡ âm đạo có các cơ và dây chằng được chia làm ba phần: trên, giữa và dưới. Một phần ba trên là cơ nâng hậu môn và dây chằng ngang cổ tử cung, xương mu và xương cùng, được hỗ trợ bởi các phần trên của dây chằng chính và parametrium. Một phần ba giữa của âm đạo liên quan đến cơ hoành niệu sinh dục, được hỗ trợ bởi cơ nâng hậu môn và phần dưới của dây chằng cardinal. Một phần ba dưới được hỗ trợ bởi cơ đáy chậu, hoặc cơ hoành niệu sinh dục và vùng chậu, cũng có thể được mô tả là được hỗ trợ bởi cơ đáy chậu và phần mu âm đạo của cơ nâng hậu môn.
Cửa âm đạo và màng trinh
Cửa âm đạo (cửa mình) nằm ở dưới cùng của tiền đình âm đạo, phía dưới lỗ mở vào niệu đạo, thường bị môi âm hộ (môi âm đạo) che khuất, nhưng có thể lộ ra sau khi sinh thường.
Màng trinh là một lớp mô niêm mạc mỏng bao quanh hoặc che phủ một phần cửa âm đạo. Tác động của giao hợp và sinh con lên màng trinh là khác nhau. Khi bị rách, nó có thể biến mất hoàn toàn hoặc để lại tàn dư. Mặt khác, nếu màng trinh có độ đàn hồi cao, nó có thể trở lại vị trí bình thường. Ngoài ra, màng trinh có thể bị rách do bệnh tật, chấn thương, khám bệnh, thủ dâm hoặc khi vận động. Vì những lý do này, trinh tiết không thể được xác định chắc chắn bằng cách kiểm tra màng trinh.
Các biến thể và kích thước
Chiều dài của âm đạo ở mỗi người phụ nữ là khác nhau trong độ tuổi sinh sản. Do sự hiện diện của cổ tử cung ở thành trước của âm đạo nên có sự khác biệt về chiều dài giữa thành trước (khoảng 7,5 cm (2,5 đến 3 in)) và thành sau (khoảng 9 cm (3,5 in)). Trong quá trình kích thích tình dục, âm đạo mở rộng cả về chiều dài và chiều rộng. Nếu người phụ nữ đứng thẳng, âm đạo sẽ hướng lên trên và tạo thành một góc khoảng 45 độ với tử cung. Cửa âm đạo và màng trinh cũng có kích thước và hình dạng khác nhau; ở trẻ em, mặc dù thông thường màng trinh thường có hình lưỡi liềm, nhưng cũng có thể có nhiều hình dạng khác.
Phát triển
Tấm âm đạo là tiền thân của âm đạo. Trong quá trình phát triển, tấm âm đạo bắt đầu phát triển nơi các đầu hợp nhất của ống dẫn cận thận (ống Müllerian) đi vào thành sau của xoang niệu sinh dục dưới dạng củ xoang. Khi tấm phát triển, nó ngăn cách đáng kể cổ tử cung và xoang niệu sinh dục; cuối cùng, các tế bào trung tâm của tấm vỡ ra để tạo thành lòng âm đạo. Điều này thường xảy ra vào tuần thứ 20 đến 24 của thai kỳ. Nếu lòng ống không hình thành hoặc không đầy đủ, các màng được gọi là vách ngăn âm đạo có thể sẽ xuất hiện phía trên hoặc xung quanh đường âm đạo, gây tắc nghẽn âm đạo sau này.
Trong quá trình phân chia giới tính, nếu không có testosterone, xoang niệu sinh dục vẫn sẽ tồn tại như tiền đình của âm đạo. Hai nếp gấp niệu sinh dục của nốt sần sinh dục tạo thành môi nhỏ, và chỗ sưng ở môi nhỏ sẽ phình to ra tạo thành môi lớn.
Có nhiều quan điểm trái ngược nhau về nguồn gốc phôi thai của âm đạo. Quan điểm được đa số đồng thuận là mô tả của Koff năm 1933, cho rằng hai phần ba trên của âm đạo bắt nguồn từ phần đuôi của ống Müllerian, trong khi phần dưới của âm đạo được phát triển từ xoang niệu sinh dục. Các quan điểm khác là mô tả của Bulmer năm 1957 cho rằng biểu mô âm đạo chỉ bắt nguồn từ biểu mô xoang niệu sinh dục, và nghiên cứu của Witschi năm 1970, đã xem xét lại mô tả của Koff và kết luận rằng các củ xoang âm đạo giống như các phần dưới của ống Wolffian. Quan điểm của Witschi được hỗ trợ bởi nghiên cứu của Acién và các cộng sự (Bok và Drews). Robboy và cộng sự đã xem xét các lý thuyết của Koff và Bulmer, đồng thời hỗ trợ mô tả của Bulmer dựa trên nghiên cứu của chính họ. Các cuộc tranh luận bắt nguồn từ sự phức tạp của các mô liên kết với nhau và sự vắng mặt của một mô hình động vật phù hợp với sự phát triển âm đạo của con người. Do đó, nghiên cứu về sự phát triển âm đạo con người đang được tiến hành và có thể giúp giải quyết các dữ liệu mâu thuẫn.
Giải phẫu vi mô
Thành âm đạo từ lòng âm đạo ra ngoài bao gồm: Đầu tiên là niêm mạc của biểu mô vảy phân tầng không sừng hóa, với lớp đệm (một lớp mô liên kết mỏng) bên dưới; tiếp theo là một lớp cơ trơn với các bó sợi tròn bên trong các sợi dọc (những sợi chạy dọc); cuối cùng, là một lớp mô liên kết bên ngoài được gọi là lớp vỏ ngoài. Một số văn bản liệt kê bốn lớp bằng cách đếm riêng hai lớp con của niêm mạc (biểu mô và lớp đệm).
Lớp cơ trơn của âm đạo có lực co bóp yếu có thể tạo ra một số áp lực trong lòng âm đạo; lực co bóp mạnh hơn (chẳng hạn như trong khi sinh nở) đến từ các cơ ở sàn chậu được liên kết với cơ quan sinh dục xung quanh âm đạo.
Lớp đệm rất giàu mạch máu và các kênh bạch huyết. Lớp cơ bao gồm các sợi cơ trơn, bên ngoài có lớp cơ dọc, lớp bên trong là cơ tròn, giữa là các sợi cơ xiên. Lớp bên ngoài, lớp phiêu sinh, là một lớp mô liên kết mỏng, dày đặc và nó trộn lẫn với mô liên kết lỏng lẻo chứa các mạch máu, mạch bạch huyết và các dây thần kinh nằm giữa các cơ quan vùng chậu. Niêm mạc âm đạo không có các tuyến, nó tạo thành các nếp gấp (gờ ngang), nổi rõ hơn ở một phần ba bên ngoài của âm đạo; chức năng của chúng là tăng diện tích bề mặt cho âm đạo để mở rộng và kéo dài.
Biểu mô của cổ tử cung (phần cổ tử cung lồi vào âm đạo) là phần mở rộng và có chung ranh giới với biểu mô âm đạo. Biểu mô âm đạo được tạo thành từ các lớp tế bào, bao gồm tế bào đáy, tế bào cạnh đáy, tế bào vảy phẳng bề mặt và tế bào trung gian. Lớp cơ bản của biểu mô là hoạt động phân bào mạnh nhất và tái tạo các tế bào mới. Các tế bào bề mặt bong ra liên tục và các tế bào cơ bản sẽ thay thế chúng. Estrogen làm cho các tế bào trung gian và bề mặt chứa đầy glycogen. Các tế bào từ lớp đáy bên dưới chuyển từ hoạt động trao đổi chất tích cực sang dừng hẳn (apoptosis). Ở những lớp giữa của biểu mô này, các tế bào bắt đầu mất ty thể cùng với các bào quan khác. Các tế bào giữ lại mức glycogen thường cao so với các mô biểu mô khác trong cơ thể.
Dưới ảnh hưởng bởi estrogen của mẹ, âm đạo của trẻ sơ sinh được lót bởi biểu mô lát tầng dày (hoặc niêm mạc) trong hai đến bốn tuần đầu sau khi sinh. Khi đến tuổi dậy thì, biểu mô vẫn mỏng chỉ với một vài lớp tế bào hình khối không có glycogen. Biểu mô cũng có ít nếp gấp và có màu đỏ trước tuổi dậy thì. Khi tuổi dậy thì bắt đầu, niêm mạc dày lên và một lần nữa trở thành biểu mô vảy phân tầng với các tế bào chứa glycogen, dưới ảnh hưởng của nồng độ estrogen tăng lên của bé gái. Cuối cùng, biểu mô mỏng đi trong thời kỳ mãn kinh và cuối cùng không còn chứa glycogen, do thiếu estrogen.
Các tế bào vảy phẳng có khả năng chống mài mòn và nhiễm trùng tốt hơn. Tính thấm của biểu mô cho phép hệ thống miễn dịch phản ứng hiệu quả vì các kháng thể và các thành phần miễn dịch khác có thể dễ dàng tiếp cận bề mặt. Biểu mô âm đạo khác với các mô tương tự của da. Lớp biểu bì của da có khả năng chống nước tương đối tốt vì nó chứa hàm lượng lipid cao. Ngược lại, biểu mô âm đạo chứa hàm lượng lipid thấp hơn. Điều này cho phép nước và các chất hòa tan trong nước dễ dàng đi qua mô.
Quá trình sừng hóa xảy ra khi biểu mô tiếp xúc với không khí khô bên ngoài. Trong những trường hợp bất thường, chẳng hạn như sa cơ quan vùng chậu, niêm mạc âm đạo có thể tiếp xúc với không khí, trở nên khô và sừng hóa.
Mạch máu và thần kinh
Máu được cung cấp cho âm đạo chủ yếu qua động mạch âm đạo (xuất phát từ một nhánh của động mạch chậu trong) và nhánh âm đạo
của động mạch tử cung (từ động mạch tử cung). Một số nhánh của động mạch âm đạo được nối dọc theo một bên âm đạo hợp cùng với các nhánh cổ tử cung của động mạch tử cung; tạo thành động mạch azygos (nhánh âm đạo của động mạch tử cung hay động mạch azygos của âm đạo), trải dài ở phần giữa của âm đạo trước và sau (mặt trước và mặt sau của âm đạo). Các động mạch khác cung cấp máu cho âm đạo bao gồm: động mạch trực tràng giữa, động mạch thẹn trong, và tất cả các nhánh của động mạch chậu trong. Ba nhóm mạch bạch huyết đi kèm với các động mạch này; nhóm trên đi cùng với các nhánh âm đạo của động mạch tử cung; nhóm giữa đi kèm với động mạch âm đạo; và nhóm dưới, dẫn lưu bạch huyết từ khu vực bên ngoài màng trinh đến hạch bẹn. 95% các mạch bạch huyết của âm đạo nằm trong vòng 3 mm độ dày bề mặt của âm đạo.
Có hai tĩnh mạch chính dẫn máu từ âm đạo, một bên trái và một bên phải. Chúng tạo thành một mạng lưới các tĩnh mạch nhỏ hơn, được gọi đám rối tĩnh mạch âm đạo, ở hai bên của âm đạo, kết nối với các đám rối tĩnh mạch tương tự của tử cung, bàng quang và trực tràng. Sau đó đổ dồn vào các tĩnh mạch chậu trong.
Nguồn cung cấp thần kinh của phần âm đạo trên (hướng tử cung) đến từ các vùng giao cảm và đối giao cảm của đám rối vùng chậu. Phần âm đạo dưới (hướng âm hộ) được cung cấp bởi dây thần kinh thẹn (pudenda).
Chức năng
Bài tiết
Dịch tiết âm đạo chủ yếu là từ tử cung, cổ tử cung và biểu mô âm đạo cùng với một lượng nhỏ chất bôi trơn âm đạo tiết ra từ tuyến Bartholin khi hưng phấn tình dục. Ở trạng thái bình thường, lượng dịch tiết ra rất ít đủ để làm ẩm âm đạo; dịch tiết có thể tăng lên khi hưng phấn tình dục, trong hoặc trước kỳ kinh nguyệt và trong khi mang thai. Kinh nguyệt (còn được gọi là "đến kỳ" hoặc "đến tháng") là sự giải phóng máu và mô niêm mạc từ lớp lót bên trong của tử cung qua âm đạo. Màng nhầy âm đạo thay đổi về độ dày và thành phần trong chu kỳ kinh nguyệt, là sự thay đổi tự nhiên, thường xuyên xảy ra trong hệ thống sinh sản nữ (cụ thể là tử cung và buồng trứng) giúp mang thai. Các sản phẩm vệ sinh khác như băng vệ sinh dạng ống, cốc nguyệt san và băng vệ sinh được dùng để thấm hoặc giữ máu kinh nguyệt.
Các tuyến Bartholin, nằm gần cửa âm đạo, ban đầu được coi là nguồn bôi trơn chính của âm đạo, nhưng các nghiêm cứu thêm cho thấy chúng chỉ cung cấp một vài giọt chất nhờn. Bôi trơn âm đạo chủ yếu được cung cấp bởi sự rò rỉ huyết tương được gọi là dịch thấm từ thành âm đạo. Điều này ban đầu hình thành dưới dạng từng giọt (giống như mồ hôi) và được gây ra bởi sự gia tăng áp suất chất lỏng trong mô của âm đạo (sự tắc nghẽn mạch máu), dẫn đến việc giải phóng huyết tương dưới dạng thẩm thấu từ các mao mạch qua biểu mô âm đạo.
Trước và trong khi rụng trứng, các tuyến chất nhầy trong cổ tử cung tiết ra các biến thể khác nhau, cung cấp môi trường kiềm, màu mỡ cho âm đạo thuận lợi để tinh trùng có thể tồn tại. Sau thời kỳ mãn kinh, chất bôi trơn âm đạo sẽ giảm dần một cách tự nhiên.
Hoạt động tình dục
Các đầu dây thần kinh trong âm đạo có thể mang lại cảm giác dễ chịu khi âm đạo được kích thích trong hoạt động tình dục. Phụ nữ có thể đạt được khoái cảm từ một phần của âm đạo, hoặc từ cảm giác gần gũi và sung mãn khi thâm nhập âm đạo. Vì âm đạo không có nhiều đầu dây thần kinh như âm vật nên phụ nữ thường không nhận đủ kích thích tình dục hoặc đạt cực khoái khi chỉ thâm nhập âm đạo. Mặc dù các tài liệu thường trích dẫn sự tập trung nhiều hơn của các đầu dây thần kinh và do đó độ nhạy cao hơn gần lối vào âm đạo (một phần ba bên ngoài hoặc một phần ba phía dưới), một số kiểm tra khoa học về sự bảo tồn của thành âm đạo cho thấy không có khu vực riêng lẻ nào phân bố mật độ đầu dây thần kinh lớn hơn các khu vực khác trong âm đạo. Nghiên cứu khác chỉ ra rằng chỉ một số phụ nữ là có mật độ đầu dây thần kinh ở thành trước âm đạo nhiều hơn. Do không có quá nhiều dây thần kinh nên cơn đau khi sinh sẽ dễ chịu hơn rất nhiều.
Khoái cảm có thể được bắt nguồn từ âm đạo theo nhiều cách khác nhau. Ngoài việc dương vật thâm nhập, khoái cảm có thể đến từ thủ dâm, dùng ngón tay, quan hệ tình dục bằng miệng (cunnilingus) hoặc đến từ các tư thế quan hệ tình dục cụ thể (chẳng hạn như tư thế truyền giáo hoặc tư thế úp thìa). Các cặp đôi dị tính có thể thực hiện hành vi cunnilingus hoặc dùng ngón tay như một hình thức dạo đầu để kích thích ham muốn tình dục trước khi bắt đầu quan hệ tình dục, hoặc như một hình thức tránh thai, giữ gìn trinh tiết. Ít phổ biến hơn, họ có thể sử dụng các hành vi tình dục không phải dương vật-âm đạo như một phương tiện chính để đạt khoái cảm tình dục. Ngược lại, những người đồng tính nữ và những phụ nữ khác có quan hệ tình dục với phụ nữ thường tham gia vào cunnilingus hoặc sử dụng ngón tay như hình thức hoạt động tình dục chính. Một số phụ nữ và các cặp vợ chồng sử dụng đồ chơi tình dục, chẳng hạn như máy rung hoặc dương vật giả, để tạo khoái cảm cho âm đạo. Kinh Kama – một văn bản Hindu cổ do Vātsyāyana viết, bao gồm một số tư thế quan hệ tình dục – cũng có thể được sử dụng để tăng khoái cảm tình dục, đặc biệt nhấn mạnh đến sự thỏa mãn tình dục của phụ nữ.
Phần lớn phụ nữ đều yêu cầu kích thích trực tiếp âm vật để đạt cực khoái. Âm vật đóng vai trò kích thích âm đạo. Nó là một cơ quan sinh dục có cấu trúc nhiều mặt phẳng chứa vô số đầu dây thần kinh, với phần bám rộng vào vòm mu và mô nâng đỡ rộng rãi cho môi âm hộ. Có nghiên cứu chỉ ra rằng nó tạo thành một cụm mô nhỏ với âm đạo. Mô này có thể rộng hơn ở một số phụ nữ, điều này có thể góp phần tạo ra cực khoái dễ dàng hơn qua đường âm đạo.
Trong quá trình kích thích tình dục, và đặc biệt là kích thích âm vật, các thành của âm đạo sẽ tiết ra chất bôi trơn. Điều này bắt đầu sau 10 đến 30 giây kích thích tình dục và sẽ tiết ra nhiều hơn khi người phụ nữ bị kích thích lâu hơn. Nó làm giảm ma sát hoặc chấn thương có thể gây ra khi đưa dương vật đi vào âm đạo hoặc các hình thức xâm nhập khác vào âm đạo trong hoạt động tình dục. Âm đạo dài ra trong quá trình kích thích và có thể tiếp tục dài ra khi chịu áp lực; khi người phụ nữ được kích thích hoàn toàn, âm đạo sẽ mở rộng cả về chiều dài và chiều rộng, trong khi cổ tử cung sẽ co lại. Với hai phần ba trên của âm đạo mở rộng và dài ra, tử cung nhô lên vào khung chậu lớn và cổ tử cung được nâng lên trên sàn âm đạo, tạo thành một hình vòm với âm đạo. Điều này được gọi là hiệu ứng lều hoặc bong bóng. Khi các thành đàn hồi của âm đạo căng ra hoặc co lại, với sự hỗ trợ từ các cơ vùng chậu, để quấn quanh dương vật (hoặc vật thể khác) được đưa vào, điều này tạo ra ma sát cho dương vật và giúp nam giới đạt cực khoái và xuất tinh, qua đó cho phép thụ tinh.
Một vùng trong âm đạo có thể là vùng nhạy cảm, được gọi là điểm G. Nó thường được định nghĩa là nằm ở thành trước của âm đạo, cách lối vào vài cm hoặc vài inch, và một số phụ nữ cảm thấy khoái cảm mãnh liệt, và đôi khi là cực khoái, nếu khu vực này được kích thích trong quá trình hoạt động tình dục. Cực khoái tại điểm G có thể là nguyên nhân dẫn đến xuất tinh ở phụ nữ, khiến một số bác sĩ và nhà nghiên cứu tin rằng khoái cảm tại điểm G đến từ các tuyến Skene, một tuyến tương đồng với tuyến tiền liệt nữ, chứ không phải bất kỳ vị trí cụ thể nào trên thành âm đạo; các nhà nghiên cứu khác coi mối liên hệ giữa các tuyến của Skene và khu vực điểm G là thiếu cơ sở. Sự tồn tại của điểm G (và sự tồn tại như một cấu trúc riêng biệt) vẫn đang bị tranh cãi vì các báo cáo về vị trí của nó có thể khác nhau giữa phụ nữ với phụ nữ, nó dường như không tồn tại ở một số phụ nữ và nó được giả thuyết là một phần mở rộng của âm vật.
Sinh sản
Âm đạo là kênh sinh để sinh em bé. Khi gần chuyển dạ, một số dấu hiệu có thể xảy ra, bao gồm tiết dịch âm đạo và vỡ màng ối (vỡ ối). Vỡ màng ối sẽ khiến một dòng nước ối phun ra hoặc chảy ra từ âm đạo. Vỡ ối thường xảy ra nhất khi bắt đầu chuyển dạ. Nó xảy ra trước khi chuyển dạ nếu màng ối bị vỡ sớm ( khoảng 10% trường hợp). Ở những phụ nữ sinh con lần đầu, các cơn co thắt Braxton Hicks bị nhầm với các cơn co thắt thực sự, nhưng thay vào đó, chúng là cách để cơ thể chuẩn bị cho quá trình chuyển dạ thực sự. Chúng không báo hiệu sự bắt đầu chuyển dạ, nhưng chúng thường rất mạnh trong những ngày trước khi chuyển dạ.
Khi cơ thể chuẩn bị cho việc sinh nở, cổ tử cung mềm ra, mỏng đi, di chuyển về phía trước và bắt đầu mở ra. Điều này cho phép thai nhi ổn định vào khung xương chậu, một quá trình được gọi là sa bụng. Khi thai nhi ổn định trong khung xương chậu, có thể xảy ra cơn đau do dây thần kinh hông, tăng tiết dịch âm đạo và tăng tần suất đi tiểu. Mặc dù hiện tượng sa bụng có thể xảy ra sau khi quá trình chuyển dạ bắt đầu đối với những phụ nữ đã sinh con trước đó, nhưng hiện tượng này có thể xảy ra từ mười đến mười bốn ngày trước khi chuyển dạ đối với những phụ nữ trải qua quá trình chuyển dạ lần đầu tiên.
Thai nhi bắt đầu mất đi sự hỗ trợ của cổ tử cung khi các cơn co thắt bắt đầu. Với độ giãn cổ tử cung đạt 10 cm để chứa đầu thai nhi, để di chuyển từ tử cung đến âm đạo. Tính đàn hồi của âm đạo cho phép nó co giãn gấp nhiều lần đường kính bình thường để sinh em bé.
Sinh thường phổ biến hơn, nhưng nếu có nguy cơ biến chứng, sinh mổ (C-section) có thể được thực hiện. Niêm mạc âm đạo có hiện tượng tích tụ dịch bất thường (phù nề), mỏng và có ít bọng nước sau khi sinh. Niêm mạc dày lên và các nếp gấp sẽ trở lại sau khoảng ba tuần khi buồng trứng lấy lại chức năng bình thường và lượng estrogen được phục hồi. Cửa âm đạo sẽ mở ra và giãn ra, cho đến khi trở lại trạng thái gần đúng như trước khi mang thai từ sáu đến tám tuần sau khi sinh, được gọi là thời kỳ hậu sản; tuy nhiên, âm đạo sẽ tiếp tục có kích thước lớn hơn trước đây.
Sau khi sinh, có một giai đoạn tiết dịch âm đạo được gọi là sản dịch, có thể thay đổi đáng kể về số lượng và thời gian tiết ra nhưng có thể kéo dài đến sáu tuần.
Hệ vi sinh âm đạo
Hệ vi sinh âm đạo là một hệ sinh thái phức tạp thay đổi trong suốt cuộc đời, từ khi sinh ra đến khi mãn kinh. Hệ vi sinh vật âm đạo cư trú trong và trên lớp ngoài cùng của biểu mô âm đạo. Hệ vi sinh vật này bao gồm các loài và chi thường không gây ra triệu chứng hoặc nhiễm trùng ở phụ nữ có khả năng miễn dịch bình thường. Hệ vi sinh âm đạo bị chi phối bởi các loài Lactobacillus. Những loài này chuyển hóa glycogen, phân hủy nó thành đường. Lactobacilli chuyển hóa đường thành glucose và axit lactic. Dưới ảnh hưởng của các hormone, chẳng hạn như estrogen, progesterone và hormone kích thích nang trứng (FSH), hệ sinh thái âm đạo trải qua những thay đổi theo chu kỳ hoặc định kỳ.
Ý nghĩa lâm sàng
Khám vùng chậu
Sức khỏe âm đạo có thể được đánh giá khi khám vùng chậu, cùng với sức khỏe của hầu hết các cơ quan trong hệ thống sinh sản nữ. Các lần kiểm tra như vậy có thể bao gồm xét nghiệm Pap (hoặc phết tế bào cổ tử cung). Tại Hoa Kỳ, việc sàng lọc bằng xét nghiệm Pap được khuyến nghị bắt đầu từ khoảng 21 tuổi cho đến 65 tuổi. Tuy nhiên, các quốc gia khác không khuyến nghị xét nghiệm pap ở phụ nữ chưa quan hệ tình dục. Hướng dẫn về tần suất thay đổi từ ba đến năm năm một lần. Khám vùng chậu định kỳ cho phụ nữ trưởng thành không mang thai và không có triệu chứng có thể có hại hơn là có lợi. Một phát hiện bình thường khi khám vùng chậu của phụ nữ mang thai là thành âm đạo có màu hơi xanh.
Khám vùng chậu thường được thực hiện nhất khi có các triệu chứng như: tiết dịch không rõ nguyên nhân, đau, chảy máu bất thường hoặc các vấn đề về tiết niệu. Khi khám vùng chậu, cửa âm đạo được đánh giá về vị trí, tính đối xứng, sự hiện diện của màng trinh và hình dạng. Bác sĩ sẽ đánh giá bên trong âm đạo bằng ngón tay khi đeo găng, trước khi đưa mỏ vịt vào, để ghi nhận những bất thường, khối u hoặc nốt sần. Viêm và tiết dịch sẽ được ghi nhận nếu có. Trong thời gian này, các tuyến của Skene và Bartolin được sờ nắn để xác định những bất thường trong các cấu trúc này. Sau khi kiểm tra kỹ thuật số âm đạo hoàn tất, mỏ vịt, một dụng cụ để nhìn vào các cấu trúc bên trong, được cẩn thận đưa vào để có thể nhìn thấy cổ tử cung. Kiểm tra âm đạo cũng có thể được thực hiện trong quá trình tìm kiếm khoang.
Vết rách hoặc các vết thương khác đối với âm đạo có thể xảy ra khi bị tấn công tình dục hoặc lạm dụng tình dục. Đây có thể là vết rách, vết bầm tím, viêm và trầy xước. Tấn công tình dục bằng đồ vật có thể làm tổn thương âm đạo và kiểm tra bằng tia X có thể cho thấy sự hiện diện của vật thể lạ. Nếu được đồng ý, khám vùng chậu là một phần của quá trình đánh giá hành hung tình dục. Khám vùng chậu cũng được thực hiện trong thời kỳ mang thai và phụ nữ mang thai có nguy cơ cao sẽ được khám thường xuyên hơn.
Điều trị
Đặt âm đạo là một cách điều trị trong đó thuốc được đưa vào âm đạo dưới dạng kem hoặc viên nén. Về mặt dược lý, điều này có lợi thế tiềm năng là phát huy tác dụng điều trị chủ yếu ở âm đạo hoặc các cấu trúc lân cận (chẳng hạn như phần giáp âm đạo của cổ tử cung) với các tác dụng phụ toàn thân hạn chế so với các cách dùng khác. Các loại thuốc được sử dụng để làm chín cổ tử cung và gây chuyển dạ thường được sử dụng qua bằng cách này, cũng như estrogen, thuốc tránh thai, propranolol và thuốc chống nấm. Vòng âm đạo cũng có thể được sử dụng để cung cấp thuốc, bao gồm cả biện pháp tránh thai. Chúng được đưa vào âm đạo và cung cấp lượng thuốc liên tục, liều thấp và nhất quán trong âm đạo và khắp cơ thể.
Trước khi em bé ra đời, một mũi tiêm để kiểm soát cơn đau khi sinh có thể được tiêm qua thành âm đạo và gần dây thần kinh thẹn. Bởi vì dây thần kinh thẹn mang các sợi vận động và cảm giác chi phối âm đạo và các cơ vùng chậu nên ức chế dây thần kinh này giúp giảm đau khi sinh. Thuốc không gây hại cho trẻ và không có biến chứng gì đáng kể.
Nhiễm trùng, bệnh tật và quan hệ tình dục an toàn
Nhiễm trùng âm đạo hoặc các bệnh bao gồm nhiễm trùng nấm men, viêm âm đạo, nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STIs) và ung thư. Lactobacillus gasseri cùng với các loài Lactobacillus khác trong hệ vi sinh âm đạo cung cấp một số biện pháp bảo vệ khỏi nhiễm trùng bằng cách tiết ra bacteriocin và hydro peroxide. Âm đạo khỏe mạnh của phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có tính axit, với độ pH thường nằm trong khoảng từ 3,8 đến 4,5. Độ pH thấp ngăn cản sự phát triển của nhiều chủng vi khuẩn gây bệnh. Sự cân bằng axit của âm đạo cũng có thể bị ảnh hưởng khi mang thai, kinh nguyệt, tiểu đường hoặc các bệnh khác, thuốc tránh thai, một số loại kháng sinh, chế độ ăn uống kém và căng thẳng (chẳng hạn như do thiếu ngủ). Bất kỳ thay đổi nào trong số này đối với sự cân bằng axit của âm đạo đều có thể góp phần gây nhiễm trùng nấm men. Độ pH cao (trên 4,5) của dịch âm đạo có thể do sự phát triển quá mức của vi khuẩn như trong bệnh viêm âm đạo do vi khuẩn hoặc bệnh nhiễm trùng trichomonas do ký sinh trùng, cả hai đều có triệu chứng viêm âm đạo. Hệ vi sinh âm đạo có nhiều loại vi khuẩn khác nhau đặc trưng cho bệnh viêm âm đạo do vi khuẩn làm tăng nguy cơ mắc rủi ro thai kỳ. Khi khám vùng chậu, các mẫu dịch âm đạo có thể được lấy để sàng lọc các bệnh lây truyền qua đường tình dục hoặc các bệnh nhiễm trùng khác.
Vì âm đạo có khả năng tự làm sạch nên thường không cần vệ sinh đặc biệt. Các bác sĩ lâm sàng thường không khuyến khích thực hiện hành vi thụt rửa để duy trì sức khỏe cho âm hộ-âm đạo. Vì hệ vi sinh âm đạo luôn bảo vệ chống lại bệnh tật nên sự mất cân bằng này có thể dẫn đến nhiễm trùng và tiết dịch bất thường. Dịch tiết âm đạo có thể biểu hiện tình trạng nhiễm trùng âm đạo qua màu sắc và mùi, hoặc các triệu chứng do dịch tiết ra, chẳng hạn như kích ứng hoặc nóng rát. Tiết dịch âm đạo bất thường có thể do STI, tiểu đường, thụt rửa, xà phòng thơm, tắm bong bóng, thuốc tránh thai, nhiễm trùng nấm men (thường là do sử dụng kháng sinh) hoặc một dạng viêm âm đạo khác. Mặc dù viêm âm đạo là tình trạng viêm nhiễm ở âm đạo và được cho là do nhiễm trùng, các vấn đề về nội tiết tố hoặc chất kích thích, co thắt âm đạo là hiện tượng cơ âm đạo co thắt không tự chủ trong quá trình thâm nhập âm đạo do phản xạ có điều kiện hoặc bệnh lý gây ra. Dịch tiết âm đạo do nhiễm trùng nấm men thường đặc, có màu kem và không mùi, trong khi dịch tiết do viêm âm đạo do vi khuẩn có màu trắng xám và dịch tiết do nhiễm trichomonas thường có màu xám, loãng và đặc. mùi tanh.Trong 25% trường hợp nhiễm trichomonas có dịch tiết màu vàng xanh.
HIV/AIDS, vi rút gây u nhú ở người (HPV), mụn rộp sinh dục và nhiễm trichomonas là một số bệnh lây truyền qua đường tình dục có thể ảnh hưởng đến âm đạo và các nguồn y tế khuyến nghị thực hiện hành vi tình dục an toàn (hoặc phương pháp bảo vệ) để ngăn ngừa sự lây truyền của những bệnh này và các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác. Tình dục an toàn thường liên quan đến việc sử dụng bao cao su và đôi khi là bao cao su nữ (giúp phụ nữ kiểm soát nhiều hơn). Cả hai loại đều có thể giúp tránh thai bằng cách ngăn không cho tinh dịch tiếp xúc với âm đạo. Tuy nhiên, có rất ít nghiên cứu về việc liệu bao cao su nữ có hiệu quả như bao cao su nam trong việc ngăn ngừa các bệnh lây truyền qua đường tình dục hay không, và chúng kém hiệu quả hơn một chút so với bao cao su nam trong việc ngừa thai, điều này có thể là do bao cao su nữ không khít hơn bao cao su nam hoặc vì nó có thể trượt vào âm đạo và làm tràn tinh dịch.
Các hạch bạch huyết âm đạo thường bẫy các tế bào ung thư bắt nguồn từ âm đạo. Những nốt sần này có thể được dùng để đánh giá cho sự hiện diện của bệnh. Phẫu thuật loại bỏ có chọn lọc (chứ không phải loại bỏ toàn bộ và xâm lấn hơn) các hạch bạch huyết âm đạo làm giảm nguy cơ biến chứng có thể xảy ra khi phẫu thuật triệt để hơn. Các nốt sần chọn lọc này hoạt động như các hạch bạch huyết lính gác. Thay vì phẫu thuật, các hạch bạch huyết được chú ý đôi khi được điều trị bằng xạ trị dùng cho các hạch bạch huyết vùng chậu, bẹn hoặc cả hai.
Ung thư âm đạo và ung thư âm hộ rất hiếm gặp và chủ yếu ảnh hưởng đến phụ nữ lớn tuổi. Ung thư cổ tử cung (tương đối phổ biến) và nó làm tăng nguy cơ ung thư âm đạo, đó là lý do tại sao ung thư âm đạo có nguy cơ cao xảy ra cùng lúc hoặc sau ung thư cổ tử cung. Có thể là nguyên nhân của cả hai là như nhau. Ung thư cổ tử cung có thể được ngăn ngừa bằng xét nghiệm phết tế bào cổ tử cung và vắc-xin HPV, nhưng vắc-xin HPV chỉ bao gồm các loại HPV 16 và 18, nguyên nhân của 70% trường hợp ung thư cổ tử cung. Một số triệu chứng của ung thư cổ tử cung và ung thư âm đạo là giao hợp đau, chảy máu âm đạo hoặc tiết dịch âm đạo bất thường, đặc biệt là sau khi quan hệ tình dục hoặc mãn kinh. Tuy nhiên, hầu hết các bệnh ung thư cổ tử cung đều không có triệu chứng (hiện tại không có triệu chứng). Liệu pháp áp sát trong khoang âm đạo (VBT) được sử dụng để điều trị ung thư nội mạc tử cung, âm đạo và cổ tử cung. Một dụng cụ được đưa vào âm đạo để cho phép chiếu xạ càng gần vị trí ung thư càng tốt. Tỷ lệ sống sót tăng với VBT khi so sánh với xạ trị chùm tia bên ngoài. Bằng cách đặt bộ phát vào âm đạo càng gần sự phát triển ung thư càng tốt, tác dụng toàn thân của xạ trị sẽ giảm và tỷ lệ chữa khỏi ung thư âm đạo sẽ cao hơn. Nghiên cứu vẫn chưa chỉ rõ liệu điều trị ung thư cổ tử cung bằng xạ trị có làm tăng nguy cơ ung thư âm đạo hay không.
Ảnh hưởng của lão hóa và sinh sản
Tuổi và mức độ hormone tương quan đáng kể với độ pH của âm đạo. Estrogen, glycogen và lactobacilli tác động đến các mức này. Khi mới sinh, âm đạo có tính axit với độ pH xấp xỉ 4,5, và sẽ có tính kiềm khi trẻ được ba đến sáu tuần tuổi. Độ pH âm đạo trung bình là 7,0 ở trẻ gái trước tuổi dậy thì. Mặc dù có sự thay đổi lớn về thời gian, các bé gái khoảng từ bảy đến mười hai tuổi sẽ tiếp tục phát triển môi âm hộ khi màng trinh dày lên và âm đạo dài ra khoảng 8 cm. Niêm mạc âm đạo dày lên và độ pH trong âm đạo có tính axit trở lại. Các bé gái cũng có thể bị tiết dịch âm đạo mỏng, màu trắng được gọi là bệnh bạch cầu. Hệ vi sinh âm đạo của các cô gái vị thành niên từ 13 đến 18 tuổi tương tự như phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, những người có độ pH âm đạo trung bình là 3,8–4,5, nhưng nghiên cứu không rõ ràng về việc liệu điều này có giống nhau đối với thời kỳ tiền mãn kinh hay không. Độ pH âm đạo trong thời kỳ mãn kinh là 6,5–7,0 (không dùng liệu pháp thay thế hormone) hoặc 4,5–5,0 với liệu pháp thay thế hormone.
Sau khi mãn kinh, cơ thể sản xuất ít estrogen hơn. Điều này gây ra viêm teo âm đạo (làm mỏng và viêm thành âm đạo), có thể dẫn đến ngứa âm đạo, nóng rát, chảy máu, đau nhức hoặc khô âm đạo (giảm khả năng bôi trơn). Khô âm đạo có thể tự gây khó chịu hoặc khó chịu hoặc đau khi quan hệ tình dục. Bốc hỏa cũng là đặc trưng của thời kỳ mãn kinh. Thời kỳ mãn kinh cũng ảnh hưởng đến thành phần cấu trúc nâng đỡ âm đạo. Các cấu trúc mạch máu trở nên ít hơn theo tuổi tác. Collagens cụ thể trở nên thay đổi trong thành phần và tỷ lệ. Người ta cho rằng sự suy yếu của các cấu trúc hỗ trợ của âm đạo là do những thay đổi sinh lý trong mô liên kết này.
Các triệu chứng mãn kinh có thể được xoa dịu bằng kem bôi âm đạo có chứa estrogen, thuốc không kê đơn, không chứa nội tiết tố, vòng estrogen âm đạo như Femring, hoặc các liệu pháp thay thế hormone khác, nhưng cũng có rủi ro (bao gồm cả tác dụng phụ) liên quan đến liệu pháp thay thế hormone. Kem bôi âm đạo và vòng estrogen âm đạo có thể không có rủi ro giống như các phương pháp điều trị thay thế hormone khác. Liệu pháp thay thế hormone có thể điều trị khô âm đạo, nhưng chất bôi trơn cá nhân có thể được sử dụng để khắc phục tạm thời tình trạng khô âm đạo đặc biệt khi quan hệ tình dục. Một số phụ nữ tăng ham muốn tình dục sau thời kỳ mãn kinh. Có thể là những phụ nữ mãn kinh vẫn tiếp tục hoạt động tình dục thường xuyên sẽ cảm thấy bôi trơn âm đạo tương tự như mức độ ở những phụ nữ chưa bước vào thời kỳ mãn kinh và có thể tận hưởng quan hệ tình dục một cách trọn vẹn. Họ có thể ít bị teo âm đạo hơn và ít gặp các vấn đề liên quan đến quan hệ tình dục hơn.
Những thay đổi ở âm đạo xảy ra khi lão hóa và sinh nở bao gồm dư thừa niêm mạc, làm tròn mặt sau của âm đạo với việc rút ngắn khoảng cách từ đầu xa của ống hậu môn đến cửa âm đạo, di tinh hoặc gián đoạn cơ mu do hồi phục kém, rạch tầng sinh môn, và bọng nước có thể nhô ra ngoài khu vực cửa âm đạo. Những thay đổi âm đạo khác liên quan đến lão hóa và sinh nở là tiểu không tự chủ do căng thẳng, sa trực tràng và sa bàng quang. Những thay đổi về thể chất do mang thai, sinh con và mãn kinh thường góp phần gây ra chứng tiểu không tự chủ do căng thẳng. Nếu một phụ nữ có cơ sàn chậu yếu và tổn thương mô do sinh con hoặc phẫu thuật vùng chậu, thì việc thiếu estrogen có thể làm suy yếu thêm các cơ vùng chậu và góp phần gây ra chứng tiểu không tự chủ. Sa cơ quan vùng chậu, chẳng hạn như sa trực tràng hoặc sa bàng quang, được đặc trưng bởi sự sa xuống của các cơ quan vùng chậu từ vị trí bình thường của chúng và chạm vào âm đạo. Việc giảm estrogen không gây ra sa trực tràng, sa bàng quang hoặc sa tử cung, nhưng việc sinh nở và suy yếu các cấu trúc hỗ trợ vùng chậu có thể gây ra. Sa tử cung cũng có thể xảy ra khi sàn chậu bị thương trong quá trình cắt bỏ tử cung, điều trị ung thư phụ khoa hoặc khiêng vác nặng. Các bài tập sàn chậu như bài tập Kegel có thể được sử dụng để tăng cường cơ sàn chậu, ngăn ngừa hoặc ngăn chặn sự tiến triển của sa tử cung. Không có bằng chứng nào cho thấy thực hiện các bài tập Kegel đẳng trương hoặc với một số dạng tạ là tốt hơn; có nhiều rủi ro hơn khi sử dụng tạ vì có vật lạ được đưa vào âm đạo.
Trong giai đoạn thứ ba của quá trình chuyển dạ, khi em bé chào đời, âm đạo trải qua những thay đổi đáng kể. Có thể thấy máu chảy ra từ âm đạo ngay trước khi em bé chào đời. Các vết rách ở âm đạo có thể xảy ra trong khi sinh khác nhau về độ sâu, mức độ nghiêm trọng và mức độ liên quan đến các mô lân cận. Vết rách có thể rộng đến mức ảnh hưởng đến trực tràng và hậu môn. Điều này có thể đặc gây lo lắng đối với một người lần đầu làm mẹ. Khi điều này xảy ra, tình trạng són phân sẽ phát triển và phân có thể thoát ra ngoài qua âm đạo. Gần 85% các trường hợp sinh thường đều bị rách ở một mức độ nào đó. Trong số này, 60–70% cần khâu vết thương. Không phải lúc nào vết rách do chuyển dạ cũng xảy ra.
Phẫu thuật
Âm đạo, bao gồm cả cửa âm đạo, có thể bị thay đổi do phẫu thuật như cắt tầng sinh môn, cắt bỏ âm đạo, tạo hình âm đạo hoặc tạo hình môi âm hộ. Những người trải qua phẫu thuật tạo hình âm đạo thường lớn tuổi và đã qua sinh nở. Kiểm tra kỹ lưỡng âm đạo trước khi tạo hình âm đạo là tiêu chuẩn cần thiết, cũng như giới thiệu đến bác sĩ tiết niệu để chẩn đoán các rối loạn âm đạo có thể xảy ra. Đối với tạo hình môi bé, việc thu nhỏ môi bé diễn ra nhanh chóng mà không gặp trở ngại, các biến chứng ít và hiếm gặp đồng thời có thể điều chỉnh được. Bất kỳ vết sẹo nào từ quy trình là tối thiểu và các vấn đề lâu dài chưa được xác định.
Trong quá trình rạch tầng sinh môn, một vết rạch phẫu thuật được thực hiện trong giai đoạn thứ hai của quá trình chuyển dạ để mở rộng cửa âm đạo cho em bé chui qua. Mặc dù việc sử dụng nó thường xuyên không còn được khuyến khích, và việc không rạch tầng sinh môn được cho là có kết quả tốt hơn so với rạch tầng sinh môn, đây là một trong những thủ thuật y tế phổ biến nhất được thực hiện đối với phụ nữ. Vết rạch được thực hiện qua da, biểu mô âm đạo, mỡ dưới da, thân tầng sinh môn, cơ ngang tầng sinh môn và kéo dài từ âm đạo đến hậu môn. Rạch tầng sinh môn có thể gây đau sau khi sinh. Phụ nữ thường cho biết họ bị đau khi quan hệ tình dục cho đến ba tháng sau khi rạch tầng sinh môn hoặc sau khi hồi phục vết rách. Một số kỹ thuật phẫu thuật dẫn đến ít đau hơn những kỹ thuật khác. Hai loại rạch tầng sinh môn được thực hiện là rạch ở giữa và rạch ở giữa bên. Đường rạch giữa là đường rạch vuông góc giữa âm đạo và hậu môn và là đường rạch phổ biến nhất. Vết rạch ở giữa bên được thực hiện giữa âm đạo theo một góc và ít có khả năng bị rách đến hậu môn. Vết rạch ở giữa bên cần nhiều thời gian để lành hơn so với vết rạch ở giữa.
Phẫu thuật cắt bỏ âm đạo là phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ hoặc một phần âm đạo và thường được sử dụng để điều trị bệnh ác tính. Việc loại bỏ một số hoặc toàn bộ cơ quan sinh sản và cơ quan sinh dục ngoài có thể dẫn đến tổn thương dây thần kinh và để lại sẹo hoặc gây dính. Do đó, chức năng tình dục cũng có thể bị suy giảm, như trong trường hợp một số ca phẫu thuật ung thư cổ tử cung. Những phẫu thuật này có thể ảnh hưởng đến cơn đau, độ đàn hồi, bôi trơn âm đạo và kích thích tình dục. Điều này thường được cải thiện và hồi phục sau một năm nhưng cũng có thể lâu hơn.
Phụ nữ, đặc biệt là những người lớn tuổi đã trải qua nhiều lần sinh nở, có thể chọn phương pháp phẫu thuật để khắc phục tình trạng âm đạo bị lỏng lẻo. Phẫu thuật này được mô tả là thắt chặt hoặc trẻ hóa âm đạo. Mặc dù một người phụ nữ có thể cải thiện hình ảnh bản thân và khoái cảm tình dục bằng cách thắt chặt hoặc trẻ hóa âm đạo, nhưng vẫn có những rủi ro liên quan đến các thủ thuật, bao gồm nhiễm trùng, hẹp cửa âm đạo, thắt chặt không đủ, giảm chức năng tình dục (chẳng hạn như đau khi quan hệ tình dục ), và gây ra cả lỗ rò trực tràng. Những phụ nữ trải qua thủ thuật này có thể vô tình mắc phải một vấn đề y tế, chẳng hạn như sa tử cung và nỗ lực khắc phục điều này cũng được thực hiện trong quá trình phẫu thuật.
Phẫu thuật trên âm đạo có thể là theo ý muốn hoặc thẩm mỹ. Những phụ nữ tìm đến phẫu thuật thẩm mỹ có thể mắc các bệnh bẩm sinh, khó chịu về thể chất hoặc muốn thay đổi diện mạo bộ phận sinh dục của họ. Những lo ngại về ngoại hình hoặc số đo trung bình của bộ phận sinh dục hầu như không có sẵn khiến việc xác định kết quả thành công cho các ca phẫu thuật như vậy trở nên khó khăn. Một số ca phẫu thuật chuyển đổi giới tính dành cho người chuyển giới. Mặc dù không phải tất cả các tình trạng liên giới tính đều cần điều trị bằng phẫu thuật, nhưng một số người chọn phẫu thuật bộ phận sinh dục để điều chỉnh các tình trạng giải phẫu không điển hình.
Bất thường và các vấn đề sức khỏe khác
Dị tật âm đạo là những khiếm khuyết dẫn đến âm đạo bất thường hoặc không có. Dị tật tắc nghẽn âm đạo phổ biến nhất là màng trinh không lỗ, tình trạng màng trinh cản trở dòng chảy kinh nguyệt hoặc các dịch tiết âm đạo khác. Một dị tật âm đạo khác là vách ngăn âm đạo ngang, ngăn chặn một phần hoặc hoàn toàn âm đạo. Nguyên nhân chính xác của tắc nghẽn phải được xác định trước khi phẫu thuật, vì phẫu thuật khắc phục là khác nhau tùy thuộc vào nguyên nhân. Trong một số trường hợp, chẳng hạn như hẹp âm đạo, cơ quan sinh dục ngoài có thể trông bình thường.
Các lỗ mở bất thường được gọi là lỗ rò có thể khiến nước tiểu hoặc phân đi vào âm đạo, dẫn đến tiểu không tự chủ. Âm đạo dễ bị hình thành lỗ rò do gần đường tiết niệu và đường tiêu hóa. Các nguyên nhân cụ thể rất đa dạng và bao gồm chuyển dạ bị cản trở, cắt bỏ tử cung, bệnh ác tính, phóng xạ, cắt tầng sinh môn và rối loạn đường ruột. Một số ít có lỗ rò âm đạo là do bẩm sinh. Các phương pháp phẫu thuật khác nhau được sử dụng để điều trị lỗ rò. Nếu không được điều trị, lỗ rò có thể dẫn đến khuyết tật đáng kể và có tác động sâu sắc đến chất lượng cuộc sống.
Sa ruột qua âm đạo là một biến chứng nghiêm trọng của phẫu thuật cắt bỏ tử cung qua đường âm đạo, xảy ra khi vòng bít âm đạo bị rách, làm cho ruột non nhô ra ngoài qua âm đạo.
U nang cũng có thể ảnh hưởng đến âm đạo. Nhiều loại u nang âm đạo có thể phát triển trên bề mặt của biểu mô hoặc ở các lớp sâu hơn của âm đạo và có thể phát triển lớn đến 7 cm. Thông thường, chúng được phát hiện tình cờ khi khám phụ khoa định kỳ. U nang âm đạo có thể trông giống các cấu trúc khác nhô ra khỏi âm đạo như sa trực tràng và sa bàng quang. Các u nang có thể xuất hiện bao gồm u nang Müllerian, u nang Gartner và u nang biểu bì. U nang âm đạo có nhiều khả năng phát triển ở phụ nữ trong độ tuổi từ 30 đến 40. Ước tính cứ 200 phụ nữ thì có 1 người bị u nang âm đạo. U nang tuyến Bartholin có nguồn gốc từ âm hộ hơn là âm đạo, nhưng nó biểu hiện dưới dạng một khối u ở cửa âm đạo. Nó phổ biến hơn ở phụ nữ trẻ và thường không có triệu chứng, nó có thể gây đau nếu hình thành áp xe, chặn lối vào tiền đình âm đạo nếu đủ lớn, và cản trở việc đi lại hoặc gây đau đớn khi quan hệ tình dục.
Xã hội và văn hoá
Nhận thức, biểu tượng và thông tục
Nhiều nhận thức khác nhau về âm đạo đã tồn tại trong suốt lịch sử, bao gồm cả niềm tin rằng nó là trung tâm của ham muốn tình dục, một phép ẩn dụ cho cuộc sống thông qua sinh nở, kém hơn dương vật, không hấp dẫn về thị giác hoặc khứu giác, thô tục,... Những quan điểm này phần lớn có thể là do sự khác biệt về giới tính và cách giải thích. David Buss, một nhà tâm lý học tiến hóa, tuyên bố rằng vì dương vật lớn hơn đáng kể so với âm vật cũng như có thể dễ dàng nhìn thấy trong khi âm đạo thì không, và nam giới đi tiểu qua dương vật, nên từ nhỏ các bé trai đã được dạy chạm vào dương vật của mình trong khi các bé gái thường được dạy rằng họ không nên chạm vào cơ quan sinh dục của chính mình, điều này ngụ ý rằng làm như vậy sẽ có hại. Buss cho rằng đây là lý do khiến nhiều phụ nữ không quen thuộc với cơ quan sinh dục của họ và các nhà nghiên cứu cho rằng những khác biệt giới tính này giải thích tại sao con trai học cách thủ dâm trước con gái và làm như vậy thường xuyên hơn.
Từ âm đạo thường bị tránh trong các cuộc trò chuyện, nhiều người nhầm lẫn về giải phẫu của âm đạo và có thể không biết rằng nó không được sử dụng để đi tiểu. Điều này càng trở nên trầm trọng hơn bởi những cụm từ như "con trai có dương vật, con gái có âm đạo", khiến trẻ nghĩ rằng con gái chỉ có một lỗ mở ở vùng xương chậu. Tác giả Hilda Hutcherson tuyên bố: "Bởi vì nhiều [phụ nữ] đã bị quy định từ khi còn nhỏ thông qua các tín hiệu bằng lời nói và phi ngôn ngữ để nghĩ rằng bộ phận sinh dục [của họ] xấu xí, hôi hám và ô uế, [họ] không thể tận hưởng trọn vẹn những cuộc gặp gỡ thân mật" vì sợ rằng đối tác của họ sẽ không thích nhìn, ngửi hoặc nếm bộ phận sinh dục của họ. Cô lập luận rằng phụ nữ, không giống như nam giới, không có kinh nghiệm trong phòng thay đồ ở trường, nơi họ so sánh bộ phận sinh dục của nhau, đó là một lý do khiến nhiều phụ nữ thắc mắc liệu bộ phận sinh dục của họ có bình thường không. Học giả tuyên bố rằng có âm đạo đồng nghĩa với việc cô ấy thường sẽ bị đối xử kém tốt hơn so với những người không có âm đạo và phải chịu sự bất bình đẳng (chẳng hạn như bất bình đẳng trong công việc), mà cô ấy xếp vào loại bị đối xử như công dân hạng hai.
Quan điểm tiêu cực về âm đạo đồng thời tương phản với quan điểm cho rằng nó là biểu tượng mạnh mẽ của tình dục, tâm linh hoặc cuộc sống của phụ nữ. Tác giả Denise Linn nói rằng âm đạo "là một biểu tượng mạnh mẽ của nữ tính, cởi mở, chấp nhận và tiếp thu. Đó là tinh thần thung lũng bên trong." Sigmund Freud đặt giá trị quan trọng cho âm đạo, đưa ra khái niệm rằng cực khoái âm đạo tách biệt với cực khoái âm vật, và khi đến tuổi dậy thì, phản ứng thích hợp của phụ nữ trưởng thành là chuyển sang cực khoái âm đạo (có nghĩa là cực khoái mà không có bất kỳ kích thích âm vật nào). Lý thuyết này khiến nhiều phụ nữ cảm thấy không thỏa đáng, vì phần lớn phụ nữ không thể đạt được cực khoái chỉ với quan hệ tình dục. Về tôn giáo, tử cung đại diện cho một biểu tượng mạnh mẽ như yoni trong Ấn Độ giáo đại diện cho "sức mạnh nữ tính", và điều này có thể cho thấy giá trị mà xã hội Ấn Độ giáo đã dành cho nữ giới và khả năng mang lại sự sống của âm đạo; tuy nhiên, yoni với tư cách là đại diện cho "womb" không phải là biểu thị chính.
Trong khi, vào thời cổ đại, âm đạo thường được coi là tương đương (tương đồng) với dương vật, với nhà giải phẫu học Galen (129 CN – 200 CN) và Vesalius (1514–1564) cho rằng cả hai cơ quan đều giống nhau về cấu trúc ngoại trừ âm đạo bị đảo ngược, các nghiên cứu giải phẫu trong các thế kỷ sau cho thấy âm vật mới là cơ quan tương đương với dương vật. Một nhận thức khác về âm đạo là việc tiết dịch âm đạo sẽ chữa khỏi hoặc khắc phục một số bệnh; nhiều phương pháp khác nhau đã được sử dụng trong nhiều thế kỷ để giải phóng "hạt giống cái (female seed)" (thông qua chất bôi trơn âm đạo hoặc xuất tinh của phụ nữ) như một phương pháp điều trị chứng (nghẹt thở trong bụng mẹ, lit. 'nghẹt thở vì hạt bị giữ lại'), bệnh xanh, và có thể là chứng cuồng loạn ở phụ nữ. Các phương pháp điều trị được báo cáo bao gồm nữ hộ sinh cọ xát thành âm đạo, đưa dương vật hoặc các vật có hình dương vật vào âm đạo. Các triệu chứng của chẩn đoán hysteria nữ – một khái niệm không còn được các cơ quan y tế công nhận là một rối loạn y tế – bao gồm ngất xỉu, căng thẳng, mất ngủ, giữ nước, nặng bụng, co thắt cơ, khó thở, khó chịu, chán ăn hoặc tình dục, và có xu hướng gây rắc rối. Có thể những phụ nữ bị coi là mắc chứng cuồng loạn nữ đôi khi sẽ được "xoa bóp vùng chậu" – bác sĩ kích thích bộ phận sinh dục cho đến khi người phụ nữ trải qua "cơn kịch phát cuồng loạn" (tức là cực khoái). Trong trường hợp này, kịch phát được coi là một phương pháp điều trị y tế chứ không phải là một sự giải phóng tình dục.
Âm đạo và âm hộ đã được đặt cho nhiều tên thô tục, trong số đó nổi bật nhất là: lồn (cunt, twat, pussy). Cunt được sử dụng như một biệt danh xúc phạm đề cập đến những người thuộc cả hai giới. Việc sử dụng này chỉ mới xuất hiện gần đây, từ cuối thế kỷ XIX. Phản ánh các cách sử dụng khác nhau của các quốc gia, lồn được mô tả là "một người khó chịu hoặc ngu ngốc" trong Từ điển tiếng Anh Compact Oxford, trong khi Merriam-Webster có cách sử dụng thuật ngữ này là "thường mang tính miệt thị và tục tĩu: phụ nữ", cho rằng nó được sử dụng ở Hoa Kỳ như là "một cách xúc phạm để chỉ phụ nữ". Random House định nghĩa đó là "một kẻ đáng khinh bỉ, đáng khinh hoặc ngu xuẩn". Một số nhà nữ quyền của những năm 1970 đã tìm cách loại bỏ những thuật ngữ mang tính miệt thị như lồn. Twat được sử dụng rộng rãi như một biệt danh xúc phạm, đặc biệt là trong tiếng Anh Anh, đề cập đến một người bị coi là đáng ghét hoặc ngu ngốc. Pussy có thể biểu thị "sự hèn nhát hoặc yếu đuối", và để chỉ "âm hộ hoặc âm đạo của con người" hoặc nói rộng ra là "quan hệ tình dục với phụ nữ". Trong tiếng Anh đương đại, việc sử dụng từ pussy để chỉ phụ nữ bị coi là xúc phạm hoặc hạ thấp phẩm giá, coi mọi người là đối tượng tình dục.
Trong văn học nghệ thuật đương đại
Loquens âm đạo, hay "âm đạo biết nói", là một truyền thống quan trọng trong văn học và nghệ thuật, bắt nguồn từ mô-típ văn hóa dân gian cổ đại về "cái lồn biết nói". Những câu chuyện này thường liên quan đến việc âm đạo nói chuyện do tác dụng của ma thuật hoặc bùa chú, và thường thừa nhận sự mất trinh tiết. Những câu chuyện dân gian khác liên quan đến âm đạo có răng (tiếng Latinh: vagina dentala). Những điều này mang hàm ý rằng quan hệ tình dục có thể dẫn đến thương tích, suy nhược hoặc thiến cho người đàn ông tham gia. Những câu chuyện này thường được kể như những câu chuyện mang tính cảnh báo cảnh báo về sự nguy hiểm của những phụ nữ lạ mặt và để ngăn chặn hành vi hiếp dâm.
Năm 1966, nghệ sĩ người Pháp Niki de Saint Phalle hợp tác với nghệ sĩ Dadaist Jean Tinguely và Per Olof Ultvedt trong một tác phẩm sắp đặt điêu khắc lớn mang tên , có nghĩa là "cô ấy là thánh đường") cho Moderna Museet, ở Stockholm, Thụy Điển. Hình thức bên ngoài là một tác phẩm điêu khắc khổng lồ, nằm nghiêng của một người phụ nữ mà du khách có thể bước vào qua một cửa âm đạo có kích thước bằng cánh cửa ở giữa hai chân đang dang rộng của cô ấy.
The Vagina Monologues, vở kịch nhiều tập năm 1996 của Eve Ensler, đã góp phần biến tình dục nữ trở thành chủ đề bàn tán của công chúng. Nó bao gồm nhiều đoạn độc thoại khác nhau do một số phụ nữ đọc. Ban đầu, Ensler tự mình diễn mọi đoạn độc thoại, với các màn trình diễn tiếp theo có ba nữ diễn viên; các phiên bản sau có một nữ diễn viên khác nhau cho mỗi vai diễn. Mỗi đoạn độc thoại đề cập đến một khía cạnh của trải nghiệm nữ tính, đề cập đến các vấn đề như hoạt động tình dục, tình yêu, hiếp dâm, kinh nguyệt, cắt bỏ bộ phận sinh dục nữ, thủ dâm, sinh nở, cực khoái, các tên gọi phổ biến khác nhau của âm đạo, hoặc đơn giản là một trải nghiệm thể chất khía cạnh của cơ thể. Chủ đề lặp đi lặp lại xuyên suốt các tác phẩm là âm đạo như một công cụ trao quyền cho phụ nữ và là hiện thân cuối cùng của cá tính.
Ảnh hưởng đến thay đổi
Quan điểm xã hội, bị ảnh hưởng bởi truyền thống, thiếu kiến thức về giải phẫu hoặc phân biệt giới tính, có thể ảnh hưởng đáng kể đến quyết định thay đổi cơ quan sinh dục của chính họ hoặc của người khác. Phụ nữ có thể muốn thay đổi cơ quan sinh dục của mình (âm đạo hoặc âm hộ) vì họ tin rằng vẻ ngoài của nó, chẳng hạn như chiều dài của môi âm hộ nhỏ bao phủ cửa âm đạo, là không bình thường hoặc vì họ muốn cửa âm đạo nhỏ hơn hoặc âm đạo chặt hơn. Phụ nữ có thể muốn duy trì sự trẻ trung về ngoại hình và chức năng tình dục. Những quan điểm này thường bị ảnh hưởng bởi các phương tiện truyền thông, bao gồm nội dung khiêu dâm, và kết quả là khiến phụ nữ có thể có lòng tự trọng thấp. Họ có thể xấu hổ khi khỏa thân trước mặt bạn tình và có thể khăng khăng muốn quan hệ tình dục khi tắt đèn. Khi phẫu thuật chỉnh sửa được thực hiện hoàn toàn vì lý do thẩm mỹ, nó thường bị coi là kém cỏi, và một số bác sĩ đã so sánh những ca phẫu thuật như vậy với việc cắt bỏ bộ phận sinh dục nữ (FGM).
Cắt bỏ bộ phận sinh dục nữ là chỉnh sửa bộ phận sinh dục không có lợi cho sức khỏe. Hình thức nghiêm trọng nhất là FGM Loại III, là tình trạng viêm nhiễm và liên quan đến việc loại bỏ tất cả hoặc một phần môi âm hộ và âm đạo sẽ bị đóng lại. Một lỗ nhỏ được để lại cho nước tiểu và máu kinh nguyệt đi qua, và âm đạo được mở ra để giao hợp và sinh con.
Tranh cãi đáng kể xung quanh việc cắt bỏ bộ phận sinh dục nữ, với việc Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và các tổ chức y tế khác vận động chống lại các thủ tục nhân danh nhân quyền, tuyên bố rằng đó là "vi phạm nhân quyền của trẻ em gái và phụ nữ " và "phản ánh sự bất bình đẳng sâu xa giữa hai giới". Việc cắt xén bộ phận sinh dục nữ đã tồn tại ở điểm này hay điểm khác ở hầu hết các nền văn minh của loài người, phổ biến nhất là để kiểm soát hành vi tình dục, bao gồm cả thủ dâm, của trẻ em gái và phụ nữ. Nó được thực hiện ở một số quốc gia, đặc biệt là ở Châu Phi và ở một mức độ thấp hơn ở các khu vực khác ở Trung Đông và Đông Nam Á, đối với các bé gái từ vài ngày tuổi đến giữa tuổi vị thành niên, thường là để giảm ham muốn tình dục nhằm cố gắng bảo tồn trinh tiết âm đạo. Comfort Momoh cho biết có thể việc cắt bỏ bộ phận sinh dục nữ đã được "thực hiện ở Ai Cập cổ đại như một dấu hiệu phân biệt giữa các tầng lớp quý tộc"; có báo cáo rằng dấu vết của sự đốt cháy có trên các xác ướp Ai Cập.
Phong tục và truyền thống là những lý do thường được trích dẫn nhất cho việc thực hành cắt bỏ bộ phận sinh dục nữ. Một số nền văn hóa tin rằng việc cắt bỏ bộ phận sinh dục nữ là một phần trong quá trình bắt đầu bước vào tuổi trưởng thành của một cô gái và việc không thực hiện nó có thể phá vỡ sự gắn kết xã hội và chính trị. Trong những xã hội này, một cô gái thường không được coi là người lớn trừ khi cô ấy trải qua thủ thuật.
Ở các loài động vật khác
Âm đạo là một cấu trúc của động vật trong đó con cái được thụ tinh bên trong chứ không phải thụ tinh bên ngoài được sử dụng bởi một số động vật không xương sống. Hình dạng của âm đạo khác nhau giữa các loài động vật khác nhau. Ở động vật có vú và thú có túi có nhau thai, âm đạo dẫn từ tử cung ra bên ngoài cơ thể con cái. Thú có túi cái có hai âm đạo bên, dẫn đến hai tử cung riêng biệt, nhưng cả hai đều có chung một lỗ mở; còn một kênh thứ ba, được gọi là âm đạo giữa, và có thể tạm thời hoặc vĩnh viễn, được sử dụng để sinh sản. Linh cẩu đốm cái không có cửa âm đạo bên ngoài. Thay vào đó, âm đạo thông ra ngoài qua âm vật, cho phép con cái đi tiểu, giao hợp và sinh con. Âm đạo của con sói cái co lại trong quá trình giao cấu, tạo thành một buộc giao cấu.
Các loài chim, động vật đơn huyệt và một số loài bò sát có một phần ống dẫn trứng dẫn đến lỗ huyệt. Gà có lỗ âm đạo mở ra từ đỉnh thẳng đứng của ổ nhớp. Âm đạo kéo dài lên trên từ khẩu độ và trở thành tuyến trứng. Ở một số loài cá không hàm, không có ống dẫn trứng cũng như âm đạo mà thay vào đó, trứng di chuyển trực tiếp qua khoang cơ thể (và được thụ tinh bên ngoài như ở hầu hết các loài cá và lưỡng cư). Ở côn trùng và các động vật không xương sống khác, âm đạo có thể là một phần của ống dẫn trứng. Các loài chim có một lỗ huyệt trong đó đường tiết niệu, đường sinh sản (âm đạo) và đường tiêu hóa trống rỗng. Con cái của một số loài chim nước đã phát triển cấu trúc âm đạo gọi là túi cụt và cuộn theo chiều kim đồng hồ để tự bảo vệ mình khỏi bị ép buộc tình dục.
Việc thiếu nghiên cứu về âm đạo và các cơ quan sinh dục nữ khác, đặc biệt là đối với các loài động vật khác nhau, đã làm hạn chế kiến thức về giải phẫu cơ quan sinh dục nữ. Một lời giải thích cho lý do tại sao cơ quan sinh dục nam được nghiên cứu nhiều hơn bao gồm việc phân tích dương vật đơn giản hơn đáng kể so với các khoang sinh dục nữ, bởi vì bộ phận sinh dục nam thường nhô ra và do đó dễ đánh giá và đo lường hơn. Ngược lại, bộ phận sinh dục nữ thường được giấu kín hơn và đòi hỏi phải mổ xẻ nhiều hơn, do đó cần nhiều thời gian hơn. Một cách giải thích khác là chức năng chính của dương vật là thụ thai, trong khi bộ phận sinh dục nữ có thể thay đổi hình dạng khi tương tác với các cơ quan nam giới, đặc biệt là có lợi hoặc cản trở thành công sinh sản.
Các loài linh trưởng không phải người là mô hình tối ưu cho nghiên cứu y sinh của con người vì con người và các loài linh trưởng không phải người có chung các đặc điểm sinh lý là kết quả của quá trình tiến hóa. Mặc dù kinh nguyệt có liên quan nhiều đến phụ nữ (loài người) và có đặc điểm rõ rệt nhất, nhưng nó cũng là đặc trưng của các loài: vượn và khỉ. Khỉ cái có kinh nguyệt, với độ dài chu kỳ trong suốt cuộc đời tương đương với chu kỳ của con người. Estrogen và progestogen trong chu kỳ kinh nguyệt, trong thời kỳ tiền mãn kinh và sau mãn kinh cũng có sự giống nhau giữa người và khỉ cái; tuy nhiên, chỉ ở khỉ, quá trình sừng hóa của biểu mô mới xảy ra trong giai đoạn nang trứng. Độ pH âm đạo của khỉ cũng khác nhau, với các giá trị trung bình gần như trung tính đến hơi kiềm và rất khác nhau, điều này có thể là do chúng thiếu lactobacilli trong hệ vi sinh âm đạo. Đây là một lý do tại sao khỉ được sử dụng để nghiên cứu sự lây truyền HIV và thử nghiệm thuốc diệt vi khuẩn, mô hình động vật thường không được sử dụng trong nghiên cứu các bệnh lây truyền qua đường tình dục, chẳng hạn như bệnh trichomonas. Một lý do khác là nguyên nhân của những tình trạng như vậy gắn bó chặt chẽ với cấu trúc di truyền của con người, khiến cho kết quả từ các loài khác khó áp dụng cho con người. |
Iran ( ), gọi chính thức là Cộng hòa Hồi giáo Iran ( ), còn được gọi là Ba Tư (Persia), là một quốc gia có chủ quyền tại khu vực Tây Á. Iran có biên giới về phía tây bắc với Armenia, Azerbaijan; phía bắc giáp biển Caspi; phía đông bắc giáp Turkmenistan; phía đông giáp Afghanistan và Pakistan; phía nam giáp vịnh Ba Tư và vịnh Oman; còn phía tây giáp Thổ Nhĩ Kỳ và Iraq. Iran có dân số gần 80 triệu người tính đến năm 2017, là quốc gia đông dân thứ 18 trên thế giới. Lãnh thổ Iran rộng 1.648.195 km², là quốc gia rộng thứ nhì tại Trung Đông và đứng thứ 17 thế giới. Iran có vị thế địa chính trị quan trọng do nằm tại phần trung tâm của đại lục Á-Âu và gần với eo biển Hormuz. Tehran là thủ đô và thành phố lớn nhất của Iran, cũng như là trung tâm kinh tế và văn hoá. Iran là một quốc gia đa văn hoá với nhiều nhóm dân tộc và ngôn ngữ, trong đó các cộng đồng dân cư lớn nhất là người Ba Tư (61%), người Azeri (16%), người Kurd (10%) và người Lur (6%).
Iran là một trong các nền văn minh cổ nhất trên thế giới, bắt đầu là các vương quốc Elam vào thiên niên kỷ 4 TCN. Người Media thống nhất Iran vào thế kỷ VII TCN, lãnh thổ Iran được mở rộng cực độ dưới thời Cyrus Đại đế của Đế quốc Achaemenes vào thế kỷ VI TCN - là quốc gia rộng lớn nhất trên thế giới vào thời điểm đó. Tuy nhiên, quốc gia này thất thủ trước Alexandros Đại đế vào thế kỷ IV TCN, song Đế quốc Parthia nhanh chóng tái lập. Năm 224, Parthia bị thay thế bằng Đế quốc Sasanid, Sasanid trở thành một cường quốc hàng đầu thế giới trong bốn thế kỷ sau đó. Người Ả Rập theo đạo Hồi chinh phục Sasanid vào thế kỷ VII, kết quả là Hồi giáo thay thế các tín ngưỡng bản địa như Hoả giáo và Minh giáo. Iran có đóng góp lớn vào thời kỳ hoàng kim Hồi giáo (thế kỷ VIII-XIII), sản sinh nhiều nhân vật có ảnh hưởng về nghệ thuật và khoa học.
Sau hai thế kỷ dưới quyền người Ả Rập là một giai đoạn các vương triều Hồi giáo bản địa, song tiếp đó Iran lại bị người Thổ và người Mông Cổ chinh phục. Người Safavid nổi lên vào thế kỷ XV, rồi tái lập một nhà nước Iran thống nhất. Iran sau đó cải sang Hồi giáo Shia, đánh dấu một bước ngoặt của quốc gia này cũng như lịch sử Hồi giáo. Đến thế kỷ XVIII, dưới quyền Nader Shah, Iran trong một thời gian ngắn từng được cho là đế quốc hùng mạnh nhất đương thời. Xung đột với Đế quốc Nga trong thế kỷ XIX khiến Iran mất đi nhiều lãnh thổ. Cách mạng Hiến pháp năm 1906 lập ra một chế độ quân chủ lập hiến. Sau một cuộc đảo chính vào năm 1953, Hoàng gia Iran dần liên kết mật thiết với phương Tây và ngày càng chuyên quyền. Bất mãn trước sự can thiệp của nước ngoài và sự đàn áp chính trị đã dẫn đến Cách mạng Hồi giáo năm 1979, lập ra chế độ Cộng hoà Hồi giáo. Trong thập niên 1980, Iran xảy ra chiến tranh với Iraq, cuộc chiến gây thương vong cao và tổn thất tài chính lớn cho hai nước. Từ giữa cuối thập niên 2000, chương trình hạt nhân gây tranh cãi của Iran khiến cho cộng đồng quốc tế, đặc biệt là Hoa Kỳ lo ngại, dẫn đến hệ quả là nhiều lệnh trừng phạt, cấm vận kinh tế được áp đặt lên nước này, ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế và đời sống của người dân.
Iran là một thành viên sáng lập của Liên Hợp Quốc, Phong trào không liên kết, Tổ chức Hợp tác Hồi giáo và Tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa. Iran được công nhận là một cường quốc khu vực và một cường quốc bậc trung. Quốc gia này có trữ lượng lớn về nhiên liệu hoá thạch, là nhà cung cấp khí đốt lớn đồng thời có trữ lượng dầu mỏ được chứng minh lớn thứ 4 trên thế giới, do vậy, Iran có ảnh hưởng đáng kể đến an ninh năng lượng quốc tế và kinh tế thế giới. Iran sở hữu nhiều di sản văn hoá phong phú, với 22 di sản thế giới được UNESCO công nhận tính đến năm 2017, đứng thứ 3 tại châu Á.
Từ nguyên
Ở thời Achaemenid người Ba Tư gọi đất nước của họ là Pārsa, tên theo tiếng Ba Tư cổ có nghĩa họ hàng của Cyrus Đại đế. Thời Sassanid, họ gọi nó là Iran, có nghĩa "Vùng đất của những người Aryan". Người Hy Lạp gọi nước này là Persis; chuyển sang tiếng Latin thành Persia, cái tên được sử dụng rộng rãi ở Phương Tây.
Ở thời hiện đại, đã có sự tranh cãi về nguồn gốc các tên gọi của thực thể – Iran và Persia (Ba Tư). Ngày 21 tháng 3 năm 1935, Reza Shah Pahlavi đưa ra một nghị định yêu cầu các phái đoàn nước ngoài phải sử dụng thuật ngữ Iran trong các văn bản ngoại giao. Sau khi các học giả lên tiếng phản đối, Mohammad Reza Pahlavi thông báo năm 1959 rằng cả hai cái tên Persia (Ba Tư) và Iran đều có giá trị và có thể sử dụng thay thế lẫn nhau. Cuộc Cách mạng năm 1979 dẫn tới việc thành lập nhà nước thần quyền Cộng hòa Hồi giáo Iran. Tuy nhiên, danh từ Persia và tính từ Persian vẫn được sử dụng thường xuyên.
Hiện nay, tại xứ này người Ba Tư (Persia) chỉ chiếm khoảng 51% dân số. Danh từ Iran (tộc Âu Ấn) bao gồm người Ba Tư và thêm vài dân tộc khác như Kurd, Baloch,... chỉ định được khoảng 70% dân số nên được nhiều người trong xứ thích dùng hơn.
Lịch sử
Iran đã là nơi sinh sống của con người từ thời tiền sử và những khám phá gần đây bắt đầu cho thấy những dấu tích về các nền văn hóa thời kỳ sớm ở Iran, hàng thế kỷ trước khi những nền văn minh sớm nhất bắt đầu xuất hiện ở gần Lưỡng Hà. Sử ghi chép của Ba Tư (Iran) bắt đầu từ khoảng năm 3200 TCN ở nền văn minh Tiền-Elamite và tiếp tục với sự xuất hiện của người Aryan và sự thành lập Triều đại Medes, tiếp đó là Đế chế Achaemenid năm 546 TCN. Alexandros Đại đế đã chinh phạt Ba Tư năm 331 TCN, hai triều đại tiếp sau Parthia và Sassanid cùng với Achaemenid là những Đế chế tiền Hồi giáo vĩ đại nhất của Ba Tư.
Sau cuộc chinh phục Ba Tư của Hồi giáo, nước này trở thành trung tâm Thời đại Hoàng kim Hồi giáo, đặc biệt ở thế kỷ thứ IX và thế kỷ thứ XI. Thời kỳ Trung Đại là thời gian diễn ra nhiều sự kiện lớn trong vùng. Từ năm 1220, Ba Tư bị Đế quốc Mông Cổ dưới quyền Thành Cát Tư Hãn, tiếp đó là Timur xâm chiếm. Quốc gia Hồi giáo Shi'a Ba Tư đầu tiên được thành lập năm 1501 dưới Triều đại Safavid. Ba Tư dần trở thành nơi tranh giành của các cường quốc thuộc địa như Đế quốc Nga và Đế chế Anh.
Cùng với sự trỗi dậy của chủ nghĩa cộng sản và quá trình hiện đại hoá ở cuối thế kỷ XIX, mong ước thay đổi dẫn tới cuộc Cách mạng Hiến pháp Ba Tư năm 1905–1911. Năm 1921, Reza Shah Pahlavi tiến hành một cuộc đảo chính lật đổ Triều đình Qajar. Là người ủng hộ hiện đại hoá, Reza Shah đưa ra các kế hoạch phát triển công nghiệp, xây dựng đường sắt, và thành lập một hệ thống giáo dục quốc gia, nhưng sự cầm quyền độc tài của ông khiến nhiều người Iran bất mãn.
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Anh và Liên Xô xâm chiếm Iran từ 25 tháng 8 đến 17 tháng 9 năm 1941, chủ yếu để bảo vệ các giếng dầu của Iran và hành lang hậu cần của họ. Đồng Minh buộc Shah phải thoái vị nhường chỗ cho con trai, Mohammad Reza Pahlavi, người họ hy vọng sẽ ủng hộ phe Đồng Minh hơn. Năm 1953, sau vụ quốc hữu hoá Công ty dầu mỏ Anh-Iran, vị Thủ tướng dân bầu, Mohammed Mossadegh, tìm cách thuyết phục Shah rời bỏ đất nước. Shah từ chối, và chính thức cách chức vị Thủ tướng. Mossadegh không chấp nhận rời bỏ chức vụ, và khi ông ta rõ ràng bộc lộ ý định chiến đấu, Shah buộc phải sử dụng tới kế hoạch mà Anh/Mỹ đã trù tính trước cho ông, đôi khi kế hoạch cũng được gọi là "Chiến dịch Ajax", bay tới Baghdad rồi từ đó sang Rome, Italy.
Nhiều vụ phản kháng đông đảo nổ ra khắp đất nước. Những người ủng hộ và phản đối chế độ quân chủ đụng độ với nhau trên đường phố, khiến 300 người thiệt mạng. Quân đội can thiệp, xe tăng của những sư đoàn ủng hộ Shah bắn vào thủ đô và máy bay ném bom vào dinh Thủ tướng. Mossadegh đầu hàng và bị bắt ngày 19 tháng 8 năm 1953. Mossadegh bị xét xử tội phản quốc và bị kết án ba năm tù.
Triều đình Shah được tái lập, quyền lực được Anh và Mỹ trao vào tay Shah Mohammad Reza Pahlavi. Ông này ngày càng trở nên độc tài, đặc biệt vào cuối thập kỷ 1970. Với sự ủng hộ mạnh mẽ từ phía Anh và Mỹ, triều đình Shah từ chối tiếp tục hiện đại hóa các ngành công nghiệp Iran, nhưng lại đàn áp phe đối lập trong tầng lớp tăng lữ dòng Hồi giáo Shia và những người ủng hộ dân chủ.
Thập kỷ 1970, Ayatollah Ruhollah Khomeini chiếm được cảm tình của đa số dân Iran. Những người Hồi giáo, cộng sản và những người theo đường lối tự do tiến hành cuộc Cách mạng Iran năm 1979, triều đình Shah bỏ chạy khỏi đất nước, sau đó Khomeini lên nắm quyền lực lập ra một nhà nước Cộng hòa Hồi giáo. Hệ thống mới lập ra những luật lệ Hồi giáo và quy định quyền cai trị trực tiếp ở mức cao nhất từ trước tới nay cho giới tăng lữ. Chính phủ chỉ trích mạnh mẽ phương Tây, đặc biệt là Mỹ vì đã ủng hộ triều đình Shah. Các quan hệ với phương Tây trở nên đặc biệt căng thẳng năm 1979, sau khi các sinh viên Iran bắt giữ các nhân viên Đại sứ quán Mỹ. Sau này, Iran đã tìm cách xuất khẩu cuộc cách mạng của mình ra nước ngoài, ủng hộ các nhóm quân sự chống phương Tây như nhóm Hezbollah ở Liban. Từ năm 1980 đến 1988, Iran và nước láng giềng Iraq lao vào một cuộc chiến đẫm máu Chiến tranh Iran-Iraq.
Ngày nay cuộc đấu tranh giữa những người theo đường lối cải cách và bảo thủ vẫn đang diễn ra thông qua các cuộc bầu cử chính trị, và là vấn đề trung tâm trong cuộc Bầu cử tổng thống Iran 2005, kết quả Mahmoud Ahmadinejad thắng cử. Kết quả bầu cử đã bị tranh cãi rộng rãi, và dẫn đến các cuộc biểu tình rộng khắp, cả ở Iran và các thành phố lớn bên ngoài đất nước, tạo ra Cách mạng Xanh Iran.
Hassan Rouhani được bầu làm tổng thống vào ngày 15 tháng 6 năm 2013, sau khi đánh bại Mohammad Bagher Ghalibaf và bốn ứng cử viên khác. Chiến thắng của Rouhani đã cải thiện tương đối mối quan hệ của Iran với các quốc gia khác trong khu vực.
Một loạt các cuộc biểu tình xảy ra trên khắp Iran trong suốt hai năm 2017 và 2018. Ban đầu, các cuộc biểu tình được tổ chức nhằm phản đối giá cả sinh hoạt đắt đỏ, nhưng sau đó đã phát triển thành nhiều yêu cầu chính trị sâu rộng. Một số nhà phân tích cho rằng tình hình kinh tế vô cùng khó khăn là nguyên nhân thực sự của các cuộc biểu tình. Một số người khác khẳng định sự không hài lòng với nền độc tài thần quyền của Cộng hòa Hồi giáo Iran và mưu cầu về một nền dân chủ là nguyên nhân của tình trạng bất ổn.
Tháng 12 năm 2019, một loạt các cuộc biểu tình dân sự xảy ra ở nhiều thành phố trên khắp Iran, nhưng sau đó đã mở rộng để phản đối chế độ hiện tại ở Iran và Lãnh đạo tối cao Ali Khamenei. Các cuộc biểu tình bắt đầu vào tối ngày 15 tháng 11 và trong vòng vài giờ đã lan đến 21 thành phố khi các video về cuộc biểu tình bắt đầu lan truyền trên mạng. Hình ảnh về các cuộc biểu tình bạo lực đã được chia sẻ trên internet với các cuộc biểu tình đạt đến cấp độ quốc tế.. Để ngăn chặn việc chia sẻ thông tin liên quan đến các cuộc biểu tình và cái chết của hàng trăm người biểu tình trên các nền tảng truyền thông xã hội, chính phủ đã chặn Internet trên toàn quốc, dẫn đến mất hoàn toàn kết nối Internet gần như toàn bộ khoảng sáu ngày. Dựa trên tường thuật của Tổ chức Ân xá Quốc tế và Đài phát thanh Farda, loạt cuộc biểu tình này có thể là bạo lực và nghiêm trọng nhất kể từ Cách mạng Iran năm 1979.
Chính phủ đã giết hại khoảng 1.500 công dân Iran tham gia cuộc biểu tình
. Cuộc đàn áp của chính phủ đã gây ra phản ứng dữ dội từ những người biểu tình, họ đáp trả bằng việc phá hủy 731 ngân hàng chính phủ bao gồm ngân hàng trung ương Iran, các giáo đường Hồi giáo, xé các bảng quảng cáo chống Mỹ, và áp phích và tượng của Lãnh tụ tối cao Ali Khamenei. 50 căn cứ quân sự của chính phủ cũng bị người biểu tình tấn công.
Thành phố Piranshahr là nền văn minh lâu đời nhất của Iran với lịch sử 8000 năm.
Chính trị
Hành pháp
Hệ thống chính trị nước Cộng hòa Hồi giáo dựa trên Hiến pháp năm 1979 được gọi là "Qanun-e Asasi" ("Luật pháp cơ bản"). Hệ thống gồm nhiều kết nối phức tạp giữa các cơ quan chính phủ, đa số lãnh đạo đều do chỉ định. Chế độ ở Iran là chế độ phi dân chủ , thường xuyên đàn áp và bắt bớ những người chỉ trích chính phủ cũng như chỉ trích lãnh đạo tối cao, và hạn chế nghiêm ngặt sự tham gia của các ứng cử viên trong các cuộc bầu cử phổ biến cũng như các hình thức hoạt động chính trị khác. Quyền phụ nữ ở Iran được mô tả là vô cùng tồi tệ., và quyền trẻ em đã bị vi phạm nghiêm trọng, với nhiều tội phạm trẻ em bị xử tử ở Iran hơn bất kỳ quốc gia nào khác trên thế giới . Hoạt động tình dục giữa những người đồng giới là bất hợp pháp và bị trừng phạt đến chết . Từ những năm 2000, chương trình hạt nhân gây tranh cãi của Iran đã gây lo ngại, đây là lý do dẫn đến các lệnh trừng phạt quốc tế đối với nước này.
Lãnh tụ tối cao Iran chịu trách nhiệm phác họa và giám sát "các chính sách chung của Nhà nước Cộng hòa Hồi giáo Iran". Lãnh tụ tối cao là Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang, kiểm soát tình báo quân đội và các hoạt động an ninh; và có độc quyền tuyên chiến. Các lãnh đạo tư pháp, mạng lưới phát thanh, truyền hình trong nước, chỉ huy cảnh sát và các lực lượng quân đội cùng sáu trong số mười hai thành viên Hội đồng bảo vệ Cách mạng được Lãnh tụ tối cao chỉ định. Hội đồng Chuyên gia bầu và bãi nhiệm Lãnh tụ tối cao dựa trên cơ sở đánh giá và sự quý trọng của nhân dân. Hội đồng chuyên gia chịu trách nhiệm giám sát Lãnh tụ tối cao thi hành các trách nhiệm theo pháp luật.
Hiến pháp quy định Tổng thống là người nắm quyền cao nhất quốc gia sau Lãnh tụ tối cao. Tổng thống được bầu theo phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ bốn năm. Các ứng cử viên tổng thống phải được Hội đồng bảo vệ Cách mạng phê chuẩn trước khi được ra tranh cử. Tổng thống chịu trách nhiệm việc áp dụng Hiến pháp và thực hiện các quyền hành pháp, trừ những việc liên quan trực tiếp tới Lãnh tụ tối cao. Tổng thống chỉ định và giám sát Hội đồng bộ trưởng, phối hợp các quyết định của chính phủ, và lựa chọn các chính sách chính phủ để đưa ra trước nhánh lập pháp. Tám phó tổng thống và nội các gồm 21 bộ trưởng phục vụ dưới quyền Tổng thống, tất cả các viên chức này đều phải được nhánh lập pháp thông qua. Không giống như các quốc gia khác, nhánh hành pháp ở Iran không quản lý các lực lượng vũ trang. Dù Tổng thống chỉ định Bộ trưởng Tình báo và Quốc phòng, thông thường Tổng thống phải tham khảo ý kiến của Lãnh tụ tối cao trước khi đưa ra quyết định lựa chọn hai chức vụ đó để nhánh lập pháp bỏ phiếu tín nhiệm.
Nhánh lập pháp Iran chỉ có một viện là Majles-e Shura-ye Eslami (Hội đồng cố vấn Hồi giáo), gồm 290 thành viên được bầu với nhiệm kỳ bốn năm. Majlis chịu trách nhiệm làm luật, phê chuẩn các hiệp ước quốc tế, và thông qua ngân sách quốc gia. Mọi ứng cử viên và thành viên Majlis đều phải được phê chuẩn từ Hội đồng bảo vệ Cách mạng.
Lãnh tụ tối cao chỉ định người đứng đầu nhánh tư pháp, và người này lại chỉ định ra lãnh đạo các Tòa án tối cao và các trưởng công tố. Iran có nhiều kiểu tòa án, gồm cả các tòa công chúng để xử các vụ dân sự và tội phạm, các "tòa án cách mạng" xử một số loại hành vi, như tội chống lại an ninh quốc gia. Các quyết định của tòa án cách mạng là tối cao và không thể được tái thẩm. Tòa án Tăng lữ Đặc biệt xử lý các vụ tội phạm được cho là do các tăng lữ thực hiện, dù nó cũng xử cả các vụ liên quan tới người thế tục. Các chức năng của Tòa án Tăng lữ Đặc biệt độc lập với cơ cấu tòa án thông thường và chỉ tuân theo Lãnh tụ tối cao. Những phán xử của tòa này là tối cao và không được tái thẩm.
Các hội đồng
Hội đồng bảo vệ Cách mạng gồm 12 nhà làm luật (religious jurists), sáu người trong số đó do chỉ định của Lãnh tụ tối cao. Bộ trưởng tư pháp(cũng do Lãnh tụ tối cao chỉ định) sẽ giới thiệu nốt sáu thành viên kia, và họ sẽ được Nghị viện chính thức chỉ định. Hội đồng này có trách nhiệm giải thích hiến pháp và có thể phủ quyết Nghị viện. Nếu luật pháp không phù hợp với hiến pháp hay Sharia (luật Hồi giáo), nó sẽ được trao lại cho Nghị viện sửa đổi. Trong một lần thi hành quyền lực của mình, Hội đồng đã gây tranh cãi khi căn cứ trên một cách hiểu hẹp của hiến pháp Iran, phủ quyết các ứng cử viên nghị viện.
Hội đồng chuyên gia họp một tuần mỗi năm, gồm 86 tăng lữ "đạo đức và thông thái" được bầu bởi những cá nhân trưởng thành có quyền bầu cử với nhiệm kỳ tám năm. Tương tự như các cuộc bầu cử tổng thống và nghị viện, Hội đồng bảo vệ Cách mạng là cơ quan quyết định tư cách của ứng cử viên vào Hội đồng này. Hội đồng chuyên gia bầu ra Lãnh tụ tối cao và có quyền theo hiến pháp cách chức Lãnh tụ tối cao ở bất kỳ thời điểm nào. Tuy nhiên, Hội đồng này chưa từng phản đối bất kỳ một quyết định nào của Lãnh tụ tối cao.
Hội đồng lợi ích có quyền giải quyết các tranh chấp giữa Nghị viện và Hội đồng bảo vệ Cách mạng, và cũng là một cơ quan tư vấn của Lãnh tụ tối cao, biến nó trở thành một trong những cơ quan nắm nhiều quyền lực chính phủ nhất trong nước.
Các hội đồng địa phương được bầu theo kiểu phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ 4 năm tại mọi thành phố và làng mạc ở Iran. Theo điều 7, Hiến pháp Iran, các hội đồng địa phương đó cùng với Nghị viện là những "tổ chức đưa ra quyết định và hành chính của quốc gia". Đoạn này của hiến pháp không được áp dụng cho tới tận năm 1999 khi các cuộc bầu cử hội đồng địa phương đầu tiên được tổ chức trên khắp đất nước. Các hội đồng có nhiều trách nhiệm, gồm bầu cử thị trưởng, giám sát các hoạt động tại khu vực; nghiên cứu xã hội, văn hoá, giáo dục, sức khoẻ, kinh tế và những yêu cầu chăm sóc xã hội bên trong khu vực của mình; đặt kế hoạch và phối hợp hành động với quốc gia trong việc thi hành các chương trình xã hội, kinh tế, xây dựng, văn hoá, giáo dục và các chương trình an sinh khác.
Hành chính
Iran được chia thành năm khu vực với 31 tỉnh (Ostān), mỗi tỉnh được cai quản bởi một tỉnh trưởng được chỉ định (Ostāndār). Các tỉnh được chia thành các hạt (šahrestān), các quận (baxš) và các tiểu huyện (dehestā).
Đất nước này là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng đô thị cao nhất thế giới. Từ năm 1950 đến 2002, tỷ lệ dân số thành thị tăng từ 27% lên 60%. Liên Hợp Quốc dự đoán đến năm 2030, 80% dân số sẽ là dân thành thị. Hầu hết những người di cư đã định cư xung quanh các thành phố Tehran, Isfahan, Ahvaz và Qom
Tehran, với dân số khoảng 8,8 triệu người (điều tra dân số năm 2016), là thủ đô và thành phố lớn nhất của Iran. Đây là một trung tâm kinh tế và văn hóa, và là trung tâm thông tin liên lạc và giao thông của cả nước.
Mashhad, thành phố đông dân thứ hai của đất nước, với khoảng 3,3 triệu người (điều tra dân số năm 2016) và là thủ phủ của tỉnh Razavi Khorasan. Đền Imam Reza tọa lạc tại thành phố này, đây là một thánh địa linh thiêng trong Hồi giáo Shia. Khoảng 15 đến 20 triệu người hành hương viếng thăm đền thờ mỗi năm.
Isfahan có dân số khoảng 2,2 triệu người (điều tra dân số năm 2016) và là thành phố đông dân thứ ba của Iran. Đây là thủ phủ của tỉnh Isfahan, và cũng là thủ đô thứ ba của Đế chế Safavid. Đây là nơi có nhiều di tích lịch sử, bao gồm Quảng trường Shah nổi tiếng, Siosepol và các nhà thờ tại phố Jolfâ-ye của người Armenia. Đây cũng là nơi có trung tâm mua sắm lớn thứ bảy thế giới, Trung tâm thành phố Isfahan.
Thành phố đông dân thứ tư của Iran, Karaj, có dân số khoảng 1,9 triệu người (điều tra dân số năm 2016). Đây là thủ phủ của tỉnh Alborz, và nằm cách Teheran 20 km về phía tây, dưới chân dãy núi Alborz. Là một thành phố công nghiệp lớn ở Iran, với các nhà máy lớn sản xuất đường, dệt, may và rượu.
Với dân số khoảng 1,7 triệu người (điều tra dân số năm 2016), Tabriz là thành phố đông dân thứ năm của Iran và là nơi đông dân thứ hai cho đến cuối những năm 1960. Đây là thủ đô đầu tiên của Đế chế Safavid và hiện là thủ phủ của tỉnh Đông Azerbaijan. Nó cũng được coi là thành phố công nghiệp lớn thứ hai của đất nước (sau Tehran).
Shiraz, với dân số khoảng 1,8 triệu người (điều tra dân số năm 2016), là thành phố đông dân thứ sáu của Iran. Đây là thủ phủ của tỉnh Fars, và cũng là thủ đô của Iran dưới triều đại của vương triều Zand. Nó nằm gần tàn tích Persepolis và Pasargadae, hai trong số bốn thủ đô của Đế chế Achaemenid.
Địa lý
Iran có chung biên giới với Azerbaijan (chiều dài: 432 km / 268 dặm) và Armenia (35 km / 22 dặm) ở phía tây bắc, với Biển Caspia ở phía bắc, Turkmenistan (992 km / 616 dặm) ở phía đông bắc, Pakistan (909 km / 565 dặm) và Afghanistan (936 km / 582 dặm) ở phía đông, Thổ Nhĩ Kỳ (499 km / 310 dặm) và Iraq (1.458 km / 906 dặm) ở phía tây, và cuối cùng giáp với Vịnh Péc xích và Vịnh Oman ở phía nam. Diện tích lãnh thổ Iran 1.648.000 km² ≈ 636.300 dặm vuông (Đất liền: 1.636.000 km² ≈631.663 mi², Nước: 12.000 km² ≈ 4.633 mi²), gần tương đương Alaska.
Lãnh thổ Iran phần lớn là các dãy núi lởm chởm chia tách các lưu vực và cao nguyên. Khu vực đông dân cư ở phía tây cũng là vùng nhiều đồi núi nhất với các dãy Caucasus, Zagros và Núi Alborz—trên núi Alborz có điểm cao nhất Iran, Chỏm Damavand cao 5.604 m (18.386 ft). Vùng phía đông phần lớn là các lưu vực sa mạc không có người ở như vùng nhiễm mặn Dasht-e Kavir, và một số hồ muối.
Những đồng bằng lớn duy nhất nằm dọc theo Biển Caspia và phía bắc Vịnh Ba Tư, nơi biên giới Iran chạy tới cửa sông Arvand (Shatt al-Arab). Những đồng bằng nhỏ, đứt quãng nằm dọc theo phần bờ biển còn lại của Vịnh Péc xích, Eo Hormuz và Biển Oman.
Khí hậu Iran phần lớn khô cằn hay bán khô cằn cho tới cận nhiệt đới ở dọc bờ biển Caspia. Ở rìa phía bắc đất nước (đồng bằng ven biển Caspia) nhiệt độ hầu như ở dưới không và khí hậu ẩm ướt quanh năm. Nhiệt độ mùa hè hiếm khi vượt quá 29°C (84°F). Lượng mưa hàng năm đạt 680 mm (26 in) ở vùng phía đông đồng bằng và hơn 1.700 mm (75 in) ở phía tây. Về phía tây, những khu dân cư tại các lưu vực núi Zagros thường có nhiệt độ thấp, khí hậu khắc nghiệt, tuyết rơi dày. Các lưu vực phía đông và trung tâm cũng có khí hậu khô cằn, lượng mưa chưa tới 200 mm (8 in) và có xen kẽ các sa mạc. Nhiệt độ trung bình mùa hè vượt quá 38 °C (100 °F). Các đồng bằng ven biển Vịnh Péc xích và Vịnh Oman ở phía nam Iran có mùa đông dịu, mùa hè rất nóng và ẩm. Lượng mưa hàng năm từ 135 đến 355 mm (6 to 14 in).
Kinh tế
Kinh tế Iran là sự hoà trộn giữa tập trung hoá kế hoạch, quyền sở hữu nhà nước với các công ty dầu mỏ và các doanh nghiệp lớn, nông nghiệp làng xã, và các công ty thương mại, dịch vụ tư nhân nhỏ. Tính đến năm 2016, tổng sản phẩm nội địa của Iran đạt 412.304 USD (đứng thứ 27 thế giới, đứng thứ 8 châu Á và đứng thứ 2 Trung Đông sau Ả Rập Xê Út). Iran được Ngân hàng Thế giới xếp hạng là nền kinh tế có thu nhập trung bình cao . Vào đầu thế kỷ 21, khu vực dịch vụ đóng góp tỷ lệ lớn nhất trong GDP, tiếp theo là công nghiệp (khai thác và sản xuất) và nông nghiệp .
Ngân hàng Trung ương của nước Cộng hòa Hồi giáo Iran chịu trách nhiệm cho việc phát triển và duy trì đồng Rial Iran, đồng tiền chính thức của đất nước. Chính phủ không công nhận các công đoàn khác ngoài các hội đồng lao động Hồi giáo, vốn phải được sự chấp thuận của chủ lao động và các dịch vụ an ninh. Mức lương tối thiểu trong tháng 6 năm 2013 là 487 triệu rial một tháng ($ 134) . Thất nghiệp vẫn ở mức trên 10% kể từ năm 1997 và tỷ lệ thất nghiệp của phụ nữ gần gấp đôi so với nam giới .
Chính quyền hiện tại tiếp tục theo đuổi các kế hoạch cải cách thị trường của chính phủ tiền nhiệm và đã thông báo rằng họ sẽ thay đổi nền kinh tế dựa nhiều vào dầu mỏ của Iran. Chính quyền đang tìm cách thực hiện mục tiêu trên thông qua việc đầu tư các khoản lợi nhuận vào các lĩnh vực như sản xuất ô tô, công nghiệp hàng không vũ trụ, hàng điện tử tiêu dùng, hoá dầu và công nghệ hạt nhân. Iran cũng hy vọng thu hút được hàng tỷ dollar đầu tư nước ngoài bằng cách tạo ra một môi trường đầu tư dễ chịu hơn, như giảm các quy định hạn chế và thuế nhập khẩu, thiết lập các vùng thương mại tự do như Chabahar và đảo Kish. Nước Iran hiện đại có một tầng lớp trung lưu mạnh và một nền kinh tế tăng trường nhưng vẫn tiếp tục phải đương đầu với tình trạng lạm phát và thất nghiệp ở mức cao.
Thâm hụt ngân sách Iran từng là một vấn đề kinh niên, một phần vì những khoản trợ cấp to lớn của nhà nước – tổng cộng lên tới 7.25 tỷ dollar một năm–gồm thực phẩm và đặc biệt là xăng dầu. Iran là nước sản xuất dầu lớn thứ hai trong OPEC, mỗi ngày nước này xuất khẩu từ bốn đến năm triệu barrels dầu mỏ, Iran chiếm 10% lượng dữ trự dầu đã được xác nhận trên thế giới. Iran cũng là nước có trữ lượng khí tự nhiên thứ hai thế giới (sau Nga). Thị trường dầu mỏ phát triển mạnh năm 1996 giúp nước này giải toả bớt sức ép tài chính và cho phép Tehran kịp chi trả các khoản nợ.
Lĩnh vực dịch vụ đã có sự tăng trưởng lâu dài lớn nhất theo tỷ lệ đóng góp vào GDP, nhưng vẫn còn chưa vững chắc. Đầu tư nhà nước đã giúp nông nghiệp phát triển mạnh với việc tự do hoá sản xuất và cải thiện đóng gói cũng như tiếp cận thị trường giúp phát triển các thị trường xuất khẩu mới. Các dự án tưới tiêu lớn, và các sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu mới như chà là, hoa và quả hồ trăn, khiến lĩnh vực này có được sự tăng trưởng cao nhất so với toàn bộ nền kinh tế trong phần lớn thời gian thập niên 1990. Dù trải qua nhiều năm hạn hán liên tiếp: 1998, 1999, 2000 và 2001 khiến sản lượng giảm mạnh, nông nghiệp vẫn là một trong những khu vực sử dụng nhiều lao động nhất, chiếm 22% nguồn nhân lực theo cuộc điều tra năm 1991. Iran cũng đa phát triển công nghệ sinh học, công nghệ nano, và công nghiệp dược phẩm. Về năng lượng, nước này hiện đang dựa vào các phương pháp quy ước, nhưng tới tháng 3 năm 2006, việc tinh chế uranium - chướng ngại lớn cuối cùng trên con đường phát triển năng lượng hạt nhân — đã diễn ra.
Các đối tác thương mại chính của Iran là Pháp, Đức, Ý, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Từ cuối thập kỷ 1990, Iran đã tăng cường hợp tác kinh tế với các nước đang phát triển khác như Syria, Ấn Độ, Cuba, Venezuela và Nam Phi. Iran hiện đang mở rộng quan hệ thương mại với Thổ Nhĩ Kỳ và Pakistan và cùng có chung mục đích thiết lập một thị trường kinh tế duy nhất ở Tây và Trung Á với các đối tác.
Các biện pháp trừng phạt kinh tế đối với Iran, như lệnh cấm vận đối với dầu thô của Iran, đã ảnh hưởng đến nền kinh tế nước này. Những biện pháp trừng phạt này đã dẫn đến sự sụt giảm mạnh về giá trị của đồng rial và tính đến tháng 4 năm 2013, một đô la Mỹ trị giá 26.000 rial, so với 16.000 vào đầu năm 2012 .
Dân cư
Dân số Iran đã tăng trưởng mạnh trong nửa cuối thế kỷ XX, đạt tới khoảng 81 triệu người vào năm 2018. Trong những năm gần đây, có vẻ chính phủ Iran đã đưa ra các biện pháp kiểm soát mức độ tăng dân số cao và nhiều cuộc nghiên cứu đã cho thấy rằng tỷ lệ tăng dân số của Iran chỉ có thể giảm sau khi đạt tới mức sinh thay thế và ổn định vào năm 2050 (100 triệu người).
Cộng đồng Do Thái ở Iran được ước tính hơn ba triệu người, đa số họ đã di cư sang Bắc Mỹ, Tây Âu, và Nam Mỹ, sau cuộc Cách mạng Iran. Iran cũng có số lượng người tị nạn đông nhất thế giới, với hơn một triệu người, đa số từ Afghanistan và Iraq. Chính sách chính thức của chính phủ và các nhân tố xã hội muốn tái hồi cư số người này.
Đa số dân chúng sử dụng một trong những ngôn ngữ Iran, gồm ngôn ngữ chính thức, tiếng Ba Tư. Trong khi về số lượng, tỷ lệ và cách định nghĩa các dân tộc khác nhau ở Iran hiện vẫn còn đang gây tranh cãi, các nhóm sắc tộc chính và thiểu số gồm người Ba Tư (51%), Azeris (24%), Gilaki và Mazandarani (8%), Kurds (7%), Ả rập (3%), Baluchi (2%), Lurs (2%), Turkmens (2%), Qashqai, Armenia, Ba Tư Do Thái, Gruzia, người Assyri, Circassia, Tats,Pashtuns và các nhóm khác (1%). Số lượng người sử dụng tiếng Ba Tư là tiếng mẹ đẻ tại Iran được ước tính khoảng 40 triệu. Phương tiện truyền thông đại chúng, hệ thống giáo dục và việc di cư tới các thành phố lớn khiến đa số dân Iran nói và hiểu được tiếng Ba Tư. Iran có tỷ lệ biết đọc viết là 79.4%.
Đa số dân Iran là người Hồi giáo; 90% thuộc nhánh Shi'a của Đạo Hồi, tôn giáo chính thức của quốc gia và khoảng 9% thuộc nhánh Sunni (đa số họ là người Kurds), đồng thời Iran cũng là quốc gia có số dân theo đạo Hồi đông nhất Trung Đông. Số còn lại là thiểu số theo các tôn giáo phi Hồi giáo, chủ yếu là Bahá'ís, Mandeans, Hỏa giáo, Do Thái giáo và Thiên chúa giáo. Ba nhóm thiểu số tôn giáo cuối cùng ở trên được công nhận và bảo vệ, và được dành riêng ghế bên trong Majles (Nghị viện). Trái lại, Đức tin Bahá'í, thiểu số tôn giáo lớn nhất ở Iran, không được chính thức công nhân, và từng bị đàn áp trong thời gian tồn tại ở Iran. Từ cuộc cách mạng năm 1979 những vụ đàn áp và hành quyết ngày càng tăng. Những vụ đàn áp Bahá'ís gần đây khiến Cao uỷ nhân quyền Liên hiệp quốc phải đề cập trong bản báo cáo ngày 20 tháng 3 năm 2006 rằng "những hành động đàn áp tôn giáo ngày càng tăng gần đây cho thấy tình hình đối xử với các thiểu số tôn giáo ở Iran, trên thực tế, đang xấu đi."
Văn hoá
Iran có một lịch sử nghệ thuật, âm nhạc, kiến trúc, thi ca, triết học, truyền thống, và hệ tư tưởng dài lâu.
Văn học Ba Tư được các học giả Ba Tư cũng như nước ngoài đánh giá rất cao. Ngôn ngữ Ba Tư đã được sử dụng trong hơn 2.500 năm và để lại những dấu ấn rõ rệt trong ngôn ngữ viết. Thơ ca Iran được cả thế giới chú ý vì những dòng thơ và bài ca tuyệt đẹp với các nhà thơ như Hafez, Rumi, Omar Khayyam, và Firdowsi.
Với 300 giải thưởng quốc tế trong hai nhăm năm qua, các bộ phim Iran tiếp tục được đón nhận trên khắp thế giới. Có lẽ đạo diễn nổi tiếng nhất là Abbas Kiarostami. Toàn bộ các phương tiện truyền thông ở Iran đều bị kiểm soát trực tiếp hay gián tiếp từ nhà nước và phải được Bộ hướng dẫn Hồi giáo cho phép. Trong số này gồm cả Internet, đang ngày càng trở thành phương tiện tiếp cận thông tin và thể hiện bản thân phổ biến nhất của giới trẻ. Iran là nước có số lượng bloggers đứng thứ tư thế giới.
Sự tìm kiếm công bằng xã hội và sự công bằng là một đặc điểm quan trọng trong văn hoá Iran. Sự tôn trọng người già và sự hiếu khách cũng là một phần không thể thiếu trong phép xã giao Iran.
Năm mới của Iran (Norouz) diễn ra ngày 21 tháng 3, ngày đầu tiên của mùa xuân. Norouz được UNESCO liệt vào danh sách Các di sản truyền khẩu và phi vật thể Nhân loại năm 2004.
Trong cuốn sách, New Food of Life của mình, Najmieh Batmanglij đã viết rằng "thức ăn ở Iran có nhiều điểm chung với văn hoá ẩm thực vùng Trung Đông, nhưng thường được coi là tinh vi và sáng tạo nhất trong số đó, nhiều màu sắc và phức tạp như một tấm thảm Ba Tư."
Ngành dệt thảm của Iran có nguồn gốc từ thời đại đồ đồng, và là một trong những biểu hiện nổi bật nhất của nghệ thuật Iran. Iran là nhà sản xuất và xuất khẩu thảm thủ công lớn nhất thế giới, sản xuất 3/4 tổng sản lượng thảm của thế giới và chiếm 30% thị phần xuất khẩu của thế giới |
Giải đua ô tô Công thức 1 San Marino là một trong nhiều giải thuộc giải đua xe Công thức 1 vô địch thế giới diễn ra hàng năm. Các đội đua sẽ thi đấu trên đường đua Autodromo Enzo e Dino Ferrari ở Imola, một thị trấn nhỏ của Ý. Giải San Marino trở thành một chặng đua giải Công thức 1 từ năm 1981. Tuy nhiên, đường đua Autodromo Enzo e Dino Ferrari đã từng tham gia giải Công thức 1 năm 1980 - giải đua ô tô Công thức 1 Ý. Ngoài ra, ở đây đã diễn ra 2 giải đua xe Công thức 1 (không tranh chức vô địch thế giới) vào các năm 1963 và 1979.
Các thông số kỹ thuật của đường đua Imola
Tham dự giải Công thức 1 từ: 1981
Số lần tham dự giải Công thức 1: 25
Chiều dài một vòng đua: 4,93 km
Số vòng đua: 62
Tốc độ tối đa: 325 km/h
Sức chứa tối đa: 60.000 người
Kỷ lục chạy một vòng nhanh nhất: 1 phút 21,858 giây của Michael Schumacher (Ferrari F1) năm 2004
Các cá nhân và đội đua vô địch |
Albert Benjamin Simpson (15 tháng 12 năm 1843 – 29 tháng 10 năm 1919) là nhà thuyết giáo người Canada, nhà thần học, tác gia, và là nhà sáng lập Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp (C&MA), một hệ phái thuộc trào lưu Tin Lành trong cộng đồng Kháng Cách, với tôn chỉ truyền bá phúc âm đến mọi nơi trên thế giới.
Tuổi trẻ
Simpson ra đời tại Cavendish, đảo Prince Edward, Canada, là con thứ ba trong gia đình có bốn người con của James Simpson, Jr. và Janet Clark.
Harold H. Simpson đã thiết lập được bản gia phả về các dòng tộc tại Cavendish với tựa đề Cavendish: Lịch sử và Con người, cho thấy dòng họ Clark (họ ngoại của A.B. Simpson) là một trong những gia đình thành lập Cavendish vào năm 1790, cũng như tìm ra rằng A.B. Simpson và Lucy Maud Montgomery, tác giả loạt truyện thiếu nhi nổi tiếng Anne of Green Gables, có cùng một tổ phụ.
Cậu bé Albert được nuôi dưỡng theo truyền thống nghiêm khắc của Thanh giáo và của Giáo hội Trưởng Lão Scotland. Albert tiếp nhận đức tin Cơ Đốc trong một cuộc phục hưng năm 1859 dưới sự dẫn dắt của Henry Grattan Guinness, một nhà truyền bá Phúc âm đến từ Ái Nhĩ Lan.
Simpson đến sống một thời gian ở Chatham, bang Ontario, theo học thần học tại Trường Knox thuộc Đại học Toronto. Sau khi tốt nghiệp năm 1865, Simpson được phong chức mục sư Giáo hội Trưởng Lão Canada.
Lúc 21 tuổi, Simpson nhận lời mời đến làm quản nhiệm tại một nhà thờ lớn gần Hamilton, Ontario, Nhà thờ Trưởng Lão Knox (đóng cửa năm 1971). Tháng 12 năm 1873, ở tuổi 30, Simpson rời Canada đến quản nhiệm giáo đoàn Trưởng Lão lớn nhất thành phố Louisville, tiểu bang Kentucky, Nhà thờ Chesnut Street Presbyterian.
Năm 1880, Simpson được mời làm quản nhiệm Nhà thờ Trưởng Lão đường 13 tại Thành phố New York, ở đó ông xuất bản tạp chí truyền giáo The Gospel in All Lands, tạp chí truyền giáo bằng tranh đầu tiên. Simpson cũng thành lập và bắt đầu xuất bản tạp chí minh hoạ The Word, Work, and World. Năm 1911, tạp chí này đổi tên thành Alliance Weekly, nay là Alliance Life, là tạp chí chính thức của Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp.
Quan tâm đến người nghèo, Simpson dần dần rời bỏ giáo hội Trưởng Lão và khởi đầu mục vụ dành cho những người bị ruồng bỏ đang sống trong Thành phố New York.
Thần học Simpson
Simpson phát triển một nền thần học đã tạo ảnh hưởng đáng kể trên các nhóm tôn giáo có nguồn gốc từ Phong trào Thánh khiết, đặc biệt trong vòng các giáo phái thuộc Phong trào Ngũ Tuần và C&MA. Nền thần học được biết đến với tên Phúc âm Tứ diện: "Chúa Giê-xu là Cứu Chúa, Đấng Thánh hoá, Đấng Chữa lành và Vua Hầu đến". Phúc âm Tứ diện được thể hiện trên biểu trưng của Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp.
Luôn bị bệnh tật từ khi còn thơ ấu, Simpson theo đuổi một đức tin bền vững vào sự chữa bệnh bằng quyền năng thiên thượng. Ông thường nhấn mạnh đến xác tín này trong Phúc âm Tứ diện. Song, chính sự giảng dạy này đã làm cho ông và C&MA bị cô lập.
Lúc đầu, C&MA không phải là một hệ phái mà chỉ là một phong trào với mục tiêu phối hợp để truyền bá phúc âm trên khắp thế giới. Đến nay, C&MA thủ giữ vai trò lãnh đạo trong lãnh vực truyền giảng phúc âm toàn cầu.
Trong tác phẩm A Larger Christian Life (Nếp sống Cơ Đốc rộng mở), Simpson thảo luận về tầm nhìn của ông về hội thánh:
Simpson cũng viết lời cho một bản thánh ca của ông, "Tiếng gọi Truyền giáo",
"Chúa đang đến gần.
Con của Con người sắp tái lâm
Vương quốc của ngài đã gần kề.
Nhưng trước khi ngày vinh hiển ấy đến,
Chúng ta phải rao giảng Phúc âm của Vương quốc trên khắp đất".
(Thánh ca của Cuộc sống Cơ Đốc)
Chú thích |
Aiden Wilson Tozer (21 tháng 4 năm 1897 – 12 tháng 5 năm 1963) là quản nhiệm, nhà thuyết giáo, tác giả, biên tập và diễn giả tại các hội nghị về Kinh Thánh. Để vinh danh ông vì những cống hiến, Tozer được trao tặng hai học vị tiến sĩ danh dự.
Tiểu sử
Chào đời ở La Jose (nay là Newburg), một cộng đồng nông trang nhỏ ở miền tây tiểu bang Pennsylvania, khi còn là một thiếu niên, Tozer tiếp nhận đức tin Cơ Đốc tại Akron, tiểu bang Ohio. Trên đường về nhà từ chỗ làm là một công ty sản xuất vỏ xe, tình cờ nghe tiếng nói của một truyền đạo đang thuyết giảng trên đường phố: "Nếu bạn không biết làm sao để được cứu rỗi..... chỉ hãy kêu cầu Thiên Chúa". Về đến nhà, Tozer leo lên căn gác xếp, và làm theo lời khuyên của người truyền đạo.
Năm 1919, năm năm sau trải nghiệm qui đạo, không hề qua một chương trình đào tạo thần học chính thức nào, Tozer chấp nhận lời mời đến làm quản nhiệm một nhà thờ nhỏ. Đó là sự khởi đầu cho 44 năm mục vụ của ông, cộng tác với Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp (C&MA), một hệ phái thuộc trào lưu Tin Lành (Evangelical) trong cộng đồng Kháng Cách (Protestant); 33 năm trong quãng thời gian này, Tozer làm quản nhiệm cho nhiều hội thánh địa phương. Giáo đoàn đầu tiên ông đến quản nhiệm là một nhà thờ nhỏ ở mặt tiền phố tại Nutter Fort, tiểu bang Tây Virginia. Tozer là quản nhiệm cho nhà thờ Southside Alliance ở Chicago trong ba mươi năm (1928 - 1959), những năm cuối của cuộc đời ông đến quản nhiệm nhà thờ Avenue Road ở Toronto, Canada. Từ những trải nghiệm thuộc linh và từ những quan sát trong bốn mươi bốn năm mục vụ, Tozer nhận thấy rằng hội thánh đang trên đà rơi vào nguy cơ thỏa hiệp với tinh thần thế tục.
Năm 1950, Tozer được bầu chọn làm biên tập tạp chí Alliance Weekly, nay đổi tên là Alliance Life, cơ quan chính thức của giáo phái C&MA. Ngay trong bài xã luận đầu tiên đề ngày 3 tháng 6 năm 1950, ông đã viết:"Sẽ phải trả giá để có thể bước đi chậm rãi trong cuộc diễu hành của các thời đại, những người vội vã trong cuộc chạy đua với thời gian dễ dàng lẫn lộn động năng với tiến bộ. Song, cần phải trả giá cho những mục tiêu lâu dài, và người tín hữu Cơ Đốc thật không quan tâm đến bất kỳ điều gì khác hơn những mục tiêu ấy".
Có ít nhất hai trong số những cuốn sách ông viết, được xem là những tác phẩm Cơ Đốc kinh điển: The Pursuit of God và The Knowledge of the Holy. Ông cũng là tác giả của cuốn That Incredible Christian. How Heaven’s children live on Earth. Sách của ông hướng độc giả về sự cần thiết và tính khả thi cho một mối tương giao mật thiết với Thiên Chúa.
Sống cuộc đời giản dị và không quan tâm đến vật chất, Tozer và vợ, Ada Cecilia Pfautz, chưa bao giờ có xe hơi, mà chỉ sử dụng xe buýt và tàu lửa làm phương tiện đi lại. Khi đã là một tác giả Cơ Đốc nổi tiếng, Tozer dành phần lớn số tiền nhuận bút cho những người đang thiếu thốn.
Tozer có bảy người con, sáu trai và một gái. Sau khi qua đời, ông được an táng tại Akron, bia mộ chỉ ghi hàng chữ: "A. W. Tozer - Người của Thiên Chúa".
Cầu nguyện là nhân tố có tính sống còn đối với Tozer. "Sự giảng dạy và trước tác của ông chỉ đơn giản là sự nối dài của cuộc đời cầu nguyện", nhận xét của James L. Snyder, người viết tiểu sử Tozer trong tác phẩm In Pursuit of God: The Life Of A. W. Tozer. "Ông có biệt tài buộc người nghe phải đối diện với chính họ trong ánh sáng của lời Thiên Chúa đang phán bảo với họ", Snyder viết như thế về Tozer.
Leonard Ravenhill, một nhà trước tác, có lần nói về Tozer:"Tôi e rằng chúng ta không bao giờ có thể thấy ai khác được như Tozer. Những người giống ông không cần được đào tạo ở trường đại học, nhưng được dạy dỗ bởi Chúa Thánh Linh".
Trích dẫn
Nhận xét về những nhà thờ hiện đại đang cố phát triển cách vội vã, Tozer cảnh báo:
"Hoạt động tôn giáo của chúng ta cần phải sắp xếp như thế nào để chúng ta còn có thời gian mà vun trồng kết quả trong cô đơn và tĩnh lặng."
"Cần tin quyết rằng Thiên Chúa không thể ban phước dư dật cho một người trừ khi ngài (đã rèn tập) người ấy bằng những tổn thương nghiệt ngã."
Về mối tương giao giữa cá nhân ông với Thiên Chúa:
"Tôi đã nhận ra rằng Thiên Chúa là thân tình và hào phóng, thật thoải mái khi chung sống với ngài."
"Một vài người bạn gọi tôi cách chế giễu - những người khác với đôi chút cay đắng – là một người "thần bí". Tôi muốn nói đôi điều về tính thần bí mà người ta gán cho tôi. Nếu thiên sứ trưởng từ trời đến gặp tôi, nói chuyện với tôi, dạy dỗ và giáo huấn tôi, tôi sẽ tra vấn thiên sứ về nội dung mà hỏi rằng, "Tôi muốn biết những điều đó ở đâu trong Kinh Thánh, vì tôi không tin bất cứ sự dạy dỗ nào không có trong Kinh Thánh, hoặc đối nghịch Kinh Thánh, hoặc chỉ trông giống Kinh Thánh. Tôi tin rằng tôi phải nhấn mạnh vào điều Chúa muốn, và tiếp tục làm như thế để luận giải Kinh Thánh và để trung thành với Kinh Thánh. Ngay cả nếu tôi nhìn thấy ánh sáng lớn hơn ánh sáng mặt trời, tôi sẽ ngậm miệng lại mà không nói gì về chúng cho đến khi tôi kiểm tra chúng với sách Daniel và sách Khải Huyền và với các sách còn lại trong Kinh Thánh để xem chúng có phù hợp với chân lý không. Bởi vì tôi không tin bất cứ điều gì không phù hợp với Kinh Thánh hoặc chống lại Kinh Thánh."
Tác phẩm
Sách
Let My People Go
Man: the Dwelling Place of God
Paths to Power
The Divine Conquest
The Knowledge of the Holy, (1961) New York: Harper & Row, ISBN 0-06-068412-7
The Pursuit of God, (1957) Camp Hill, PA: Christian Publications, ISBN 0-87509-522-4 (Online E-text )
The Root of the Righteous
Wingspread
Các Ấn phẩm khác
Có nhiều bài thuyết giáo và các trước tác khác của Tozer được Christian Publications, Inc., xuất bản sau khi ông mất. Sau đây là danh sách chưa đầy đủ:
The Attributes of God, Volume One with study guide by David E. Fessenden (1997) ISBN 0-87509-957-2
The Attributes of God, Volume Two with study guide by David E. Fessenden (2001) ISBN 0-87509-988-2
The Best of A. W. Tozer, Book 1 (1979) ISBN 0-87509-458-9
The Best of A. W. Tozer, Book 2 (1995) ISBN 0-87509-594-1
Christ the Eternal Son (1991) ISBN 978-1-60066-047-4
Echoes from Eden: The Voices of God Calling Man (1981) ISBN 0-87509-227-6 Originally published as, The Tozer Pulpit Vol. 8: Ten Sermons on the Voices of God Calling Man
Faith Beyond Reason ISBN 1-60066-033-9
Gems from Tozer (1979) ISBN 0-87509-163-6
God Tells the Man Who Cares (1992) ISBN 0-87509-508-9
I Call It Heresy! (1974) ISBN 0-87509-209-8
I Talk Back to the Devil: Essays in Spiritual Perfection (1990) ISBN 0-87509-437-6
Jesus, Author of Our Faith (1988) ISBN 0-87509-406-6
Jesus, Our Man in Glory (1987) ISBN 0-87509-390-6
Knowledge of the Holy (1978) ISBN 0-06-068412-7
The Knowledge of the Holy (1992) ISBN 0-06-069865-9
The Knowledge of the Holy: The Attributes of God: Their Meaning in Christian Life (1997) ISBN 0-8027-2707-7
Man: The Dwelling Place of God (1992) ISBN 0-87509-415-5
The Pursuit of God ISBN 1-60066-015-0
The Pursuit Of God With Study Guide ISBN 1-60066-106-8
The Radical Cross (2005) ISBN 0-88965-236-8
Renewed Day by Day: Daily Devotional (1980) ISBN 0-87509-292-6
Signposts: A Collection of Sayings from A.W. Tozer ISBN 0-89693-583-3
That Incredible Christian (1977) 0-84237-025-0
Tozer on the Almighty God: A 366-Day Devotional ISBN 0-87509-972-6
The Tozer Topical Reader (1999) ISBN 0-87509-838-X
A Treasury of A. W. Tozer (1980) ISBN 0-8010-8851-8
Warfare Of The Spirit ISBN 1-60066-059-2
Whatever Happened to Worship? (1985) ISBN 0-87509-367-1
When He is Come (1968) ISBN 0-87509-221-7
Who Put Jesus on the Cross? (1975) 0-87509-212-8
The Worship-Driven Life: The Reason We Were Created (2008) ISBN 1-85424-877-4
Chú thích
Đọc thêm
Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp
Albert Benjamin Simpson
Ravi Zacharias |
Ravi Zacharias (tên đầy đủ Frederick Antony Ravi Kumar Zacharias, 26 tháng 3 năm 1946 gần Madras, Ấn Độ - 19 tháng 5 năm 2020) là người Mỹ gốc Canada và là nhà biện giáo và truyền bá phúc âm thuộc trào lưu Tin Lành (Evangelical).
Zacharias là tác giả của nhiều ấn phẩm Cơ Đốc, trong đó có quyển Can Man Live Without God? được trao giải Gold Medallion Book năm 1995, một quyển sách khác của ông cũng thuộc hạng bán chạy nhất Light in the Shadow of Jihad, và quyển The Grand Weaver. Ông hiện là Chủ tịch Mục vụ Quốc tế Ravi Zacharias, đang đảm trách một chương trình phát thanh hằng tuần, và là giáo sư thỉnh giảng môn biện giáo và truyền bá phúc âm tại trường Wycliffe thuộc Đại học Oxford, Trước đó, Zacharias đến nghiên cứu tại Đại học Cambridge, và là trưởng bộ môn Truyền bá Phúc âm và Tư tưởng Đương đại tại Chủng viện Thần học Alliance từ năm 1981 đến 1984.
Tiểu sử
Zacharias là hậu duệ của một dòng tộc tu sĩ Ấn giáo (thuộc giai cấp Nambudiri Brahmin). Trong một bài diễn thuyết, ông kể lại rằng một linh mục Đức gốc Thụy Sĩ đã nói chuyện với một trong những tổ phụ của ông về Cơ Đốc giáo, sau đó chi nhánh của dòng tộc này cải đạo và đổi họ từ Namburidi thành Zacharias. Zacharias lớn lên trong một gia đình theo Anh giáo, nhưng niềm tin chỉ thể hiện trên hình thức, còn bản thân ông là một người vô thần cho đến 17 tuổi, khi ông cố tự tử bằng thuốc độc nhưng không thành công. Theo một trong những cuốn sách của Zacharias, Cries of the Heart, có một người hướng dẫn mẹ ông đọc Phúc âm Giăng cho ông nghe khi đang nằm trong bệnh viện ở Dehli. Sau đó Zacharias quyết định chấp nhận đức tin Cơ Đốc.
Năm 1966, Zacharias cùng gia đình nhập cư Canada, ông hoàn tất chương trình cử nhân năm 1972 tại Trường Kinh Thánh Ontario (nay là Đại học & Chủng viện Tyndale), và nhận học vị Thạc sĩ Thần học (M. Div.) tại Đại học Quốc tế Trinty.
Tháng 5 năm 1972, Zacharias kết hôn với Margaret (Margie) Reynolds, Zacharias và Reynolds gặp nhau khi cùng sinh hoạt trong một nhóm bạn trẻ ở nhà thờ Họ có ba con đã trưởng thành: Sarah, Naomi, và Nathan.
Zacharias được Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp (C&MA) phong chức mục sư và ủy thác nhiệm vụ truyền bá phúc âm. Năm 1984, ông thành lập tổ chức Mục vụ Quốc tế Ravi Zacharias để đáp ứng ơn gọi phụng sự trong cương vị một "nhà truyền bá phúc âm theo phong cách cổ điển trong một lãnh vực đầy sự phản kháng từ giới trí thức."
Mục vụ
Zacharias đã được mời đến thuyết giáo tại Việt Nam năm 1971 khi đang là sinh viên thần học. Sau khi tốt nghiệp, ông nhận nhiệm vụ truyền đạo lưu hành cho C&MA tại Canada. Năm 1974, C&MA gởi Zacharias đến Campuchia một thời gian ngắn trước khi Khmer Đỏ lên cầm quyền. Năm 1977, sau khi tốt nghiệp Đại học Trinity, ông được ủy thác nhiệm vụ truyền bá phúc âm trên toàn cầu.
Năm 1983, Zacharias được mời đến Amsterdam để diễn thuyết tại hội nghị thường niên các nhà truyền bá phúc âm do Hội Truyền bá Phúc âm Billy Graham tổ chức. Tại đây, ông đưa ra nhận xét rằng lĩnh vực biện giáo Cơ Đốc hiện còn đang bỏ trống. Zacharias dành trọn mùa hè năm đó trở về Ấn Độ để truyền bá phúc âm, ông càng nhận thức tầm quan trọng của thuật biện giáo Cơ Đốc trong nỗ lực dẫn dắt con người đến với Chúa Cơ Đốc và huấn luyện các nhà lãnh đạo hội thánh. Tháng 8 năm 1984, ông tiến hành thành lập Mục vụ Quốc tế Ravi Zacharias tại Toronto, Canada. Hiện nay trụ sở đặt tại Atlanta, Georgia, tổ chức còn có văn phòng đại diện ở Canada, Anh Quốc, Ấn Độ, Singapore, và Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất.
Năm 1989, sau khi Bức tường Berlin sụp đổ, Zacharias được mời đến diễn thuyết tại Moskva. Ông nói chuyện với sinh viên Học viện Quân sự Lenin, và với các chính trị gia tại Trung tâm Chiến lược Địa Chính trị. Sự kiện này mở đầu cho nhiều cơ hội kế tiếp giúp ông tiếp cận với thế giới chính trị. Năm 1993, Zacharias đến Bogota, Colombia để trình bày trước ủy ban tư pháp về tầm quan trọng của một nền tảng đạo đức kiên định.
Năm 1990, Zacharias đến nghiên cứu tại Đại học Cambridge, tham dự các buổi diễn thuyết của các nhân vật nổi tiếng như Stephen Hawking, và nghiên cứu dưới sự dẫn dắt của các giáo sư John Polkinghorne và Don Cuppit. Tại đây, ông cho ra đời tác phẩm đầu tiên của mình A Shattered Visage: The Real Face of Atheism.
Năm 1993, Zacharias được mời đến Đại học Harvard diễn thuyết tại Diễn đàn Veritas, và là diễn giả chính tại Diễn đàn Urbana. Từ đó, Zacharias là diễn giả thường xuyên tại các diễn đàn này. Ông cũng thường tổ chức các buổi họp mặt để nói chuyện và giải đáp thắc mắc cho sinh viên tại các học viện như Đại học Georgia, Đại học Michigan, và Đại học Tiểu bang Pennsylvania.
Năm 2004, Giáo hội Mormon mời Zacharias đến thuyết giảng tại Nhà thờ Salt Lake đã trở thành sự kiện thu hút sự chú ý của giới truyền thông. Trong hơn một thế kỷ, ông là nhà truyền bá phúc âm bên ngoài giáo hội Mormon được mời thuyết giáo tại đây kể từ Dwight L. Moody năm 1871. Zacharias trình bày bài giảng tựa đề "Ai là Chân lý, Chúa Giê-xu là Con đường, Chân lý và Sự sống" trước cử tọa 7 000 tín hữu và học giả đến từ giáo hội Mormon và các giáo hội Kháng Cách. Điều này được xem như là sự khởi đầu cho tiến trình đối thoại giữa các niềm tin khác nhau.
Một số tín hữu Tin Lành chỉ trích Zacharias vì ông không sử dụng cơ hội này để trực tiếp trình bày những "dị biệt căn bản và sâu sắc" giữa đức tin Cơ Đốc lịch sử và giáo lý Mormon. Nhưng Zacharias tin rằng tín hữu Cơ Đốc không nên phê phán trực tiếp thần học Mormon mà nên "hòa nhã xây dựng từng bước một tiến tới việc truyền đạt đức tin cách minh bạch và xác định rõ ràng."
Zacharias cũng là diễn giả chính cho các sự kiện trong cộng đồng Tin Lành như hội nghị Future of Truth năm 2004, Đại hội năm 2005 của Hội Phát thanh Tôn giáo Toàn quốc, Hội nghị Biện giáo Cơ Đốc Toàn quốc năm 2006, và Đại hội Truyền giáo Toronto năm 2007.
Vào các đêm kế tiếp nhau trong tháng 10 năm 2007, Zacharias nói chuyện với sinh viên và ban giáo sư Đại học Bách khoa Virginia, rồi cộng đồng dân cư ở Balcksburg, Virginia, về chủ đề tội ác và sự đau khổ, sau vụ thảm sát diễn ra trong khuôn viên đại học ngày 16 tháng 4. Zacharias còn là nhân vật đại diện cho cộng đồng Tin Lành tại Bữa Ăn sáng Cầu nguyện Thường niên của Liên Hợp Quốc, và Bữa Ăn sáng Cầu nguyện của Liên minh châu Phi ở Maputo, Mozambique, cũng như được mời làm chủ tịch danh dự ban tổ chức Ngày Cầu nguyên Quốc gia năm 2008.
Zacharias tin rằng một thế giới quan mạch lạc cần phải giải đáp thỏa đáng bốn câu hỏi: căn nguyên của con người, ý nghĩa, đạo đức, và số phận của họ. Ông cho rằng trong khi các tôn giáo lớn của nhân loại đều tuyên bố sở hữu chân lý, đức tin Cơ Đốc là xác tín duy nhất có thể giải đáp bốn câu hỏi trên, Zacharias thường xuyên nhấn mạnh đến tính mạch lạc và sự nối kết chặt chẽ của thế giới quan Cơ Đốc, ông tin rằng Cơ Đốc giáo đủ sức đứng vững trước những đả kích mạnh mẽ nhất. Theo Zacharias, nhà biện giáo cần phải luận giải đức tin Cơ Đốc theo ba cấp độ: lý thuyết (trình bày những luận cứ chặt chẽ và nhất quán), nghệ thuật minh họa, sau cùng là thảo luận cởi mở và thân mật (kitchen table talk) để kết thúc với những đúc kết và ứng dụng thực tiễn.
Trong biện giáo, Zacharias đặc biệt chú trọng đến lời giải đáp của đức tin Cơ Đốc cho các tra vấn về sự hiện hữu và ý nghĩa của cuộc sống, hơn là đối phó với những hoài nghi của khoa học về sự hiện hữu của Thiên Chúa.
Tác phẩm
A Shattered Visage: The Real Face of Atheism (1994, 2004) ISBN 0801065119
Can Man Live Without God? (1994, 1996) ISBN 0849939437
Deliver Us From Evil (1996, 1998) ISBN 084993950X
Cries of the Heart (1998, 2002) ISBN 0849943876
The Merchant and the Thief (1999) (Children’s) ISBN 0781432960
The Broken Promise (2000) (Children's) ISBN 0781434513
Jesus Among Other Gods (2000, 2002) ISBN 0849943272
Jesus Among Other Gods (Youth Edition) (2000) ISBN 0849942179
The Lotus and the Cross: Jesus Talks with Buddha (2001) ISBN 157673854X
Sense and Sensuality: Jesus Talks with Oscar Wilde (2002) ISBN 1590520149
Light in the Shadow of Jihad: The Struggle For Truth (2002) ISBN 1576739899
Recapture the Wonder (2003) ISBN 1591452767
Is Your Church Ready?: Motivating Leaders to Live an Apologetic Life (2003) (Editor, with Norman Geisler) ISBN 0310250617
Who Made God? And Answers to Over 100 Other Tough Questions of Faith (2003) (General Editor, with Norman Geisler) ISBN 0310247101
The Kingdom of the Cults (2003) (Editor) ISBN 0764228218
I, Isaac Take Thee, Rebekah: Moving From Romance to Lasting Love (2004) ISBN 0849908221
The Prince and the Prophet: Jesus Talks With Mohammed (Copyright 2004, to be released posthumously) ISBN 1590523199
The Lamb and the Führer: Jesus Talks with Hitler (2005) ISBN 1590523946
Walking From East to West: God in the Shadows (With R.S.B. Sawyer) (2006) ISBN 0310259150
The Grand Weaver: How God Shapes Us Through the Events of Our Lives (2007) ISBN 0310269520
Beyond Opinion: Living the Faith We Defend (2008) ISBN 0849919681
The End of Reason: A Response to the New Atheists (2008) ISBN 0310282519
Is There Not a Cause (2008) (National Day of Prayer Feature Book)
New Birth or Rebirth: Jesus Talks with Krishna (2008) ISBN 1590527259
Kingdoms at War: Points of Tension Between Islam and Christianity (Forthcoming, February 2009) ISBN 1590527267 |
Mục vụ Bạn của Tù nhân Quốc tế (tiếng Anh: Prison Fellowship International – PFI) là một tổ chức quốc tế phi chính phủ (NGO) liên kết các tổ chức Bạn của Tù nhân trên 112 quốc gia.
Sứ mạng
Mục tiêu của Mục vụ Bạn của Tù nhân là “vận động và hỗ trợ cộng đồng Cơ Đốc giáo trong mục vụ dành cho tù nhân, cựu tù, nạn nhân và gia đình của họ; trong mục tiêu thăng tiến và phục hồi công lý”.
Khởi nguyên
Bạn của Tù nhân Quốc tế (PFI) được thành lập năm 1979, ba năm sau khi tổ chức Bạn của Tù nhân Hoa Kỳ ra đời cùng với sự hình thành của các tổ chức anh em tại Anh, Úc, Canada và Costa Rica. Tổ chức Bạn của Tù nhân tại Mỹ được thành lập bởi Charles Colson, sau khi ông mãn hạn tù. Colson thụ án tù vì một tội danh liên quan đến vụ Watergate, một vụ tai tiếng xảy ra trong nhiệm kỳ tổng thống của Richard Nixon.
Hoạt động
Giúp đỡ tù nhân
Các tổ chức cấp quốc gia của Mục vụ Bạn của Tù nhân hoạt động nhằm hỗ trợ công tác tuyên uý (chaplaincy) trong các nhà tù và giúp đỡ các công tác khác của giáo hội bên trong nhà tù.
Qua Chương trình Hỗ trợ Toàn cầu của PFI, các tổ chức cấp quốc gia tìm cách đáp ứng những nhu cầu y tế cấp bách và những trường hợp cấp cứu tại các nhà tù bằng cách cộng tác với các chuyên gia y tế tình nguyện làm việc trong ngắn hạn.
Hỗ trợ sau khi thụ án
Những tình nguyện viên, thường là tín hữu thuộc các hội thánh địa phương, nỗ lực tạo một nhịp cầu giữa nhà tù và cộng đồng.
Geo Trust là một chương trình tín dụng được thiết kế để cung cấp những khoản tín dụng khởi nghiệp dành cho những người vừa ra khỏi tù muốn làm lại cuộc đời bằng cách tạo dựng các doanh nghiệp nhỏ, đồng thời cung cấp những phương tiện nhằm hỗ trợ gia đình của họ với mục tiêu giúp họ theo đuổi một cuộc sống hữu ích bên trong cộng đồng.
Bên cạnh công tác trợ giúp cựu tù vào thời điểm họ phải đối diện với những thách thức trong việc tái hội nhập cộng đồng, nhiều tổ chức cấp quốc gia thuộc Mục vụ Bạn của Tù nhân xúc tiến các chương trình “hậu chăm sóc” nhằm cung ứng những hỗ trợ về nhà ở.
Trợ giúp con em và gia đình tù nhân
Chương trình Cây Thiên thần là một nỗ lực vươn đến con em của tù nhân vào dịp lễ Giáng sinh. Thuộc viên các nhà thờ địa phương tình nguyện bảo trợ các em bằng cách gởi đến chúng những món quà Giáng sinh dựa trên thông tin về các em thu lượm được bởi các thiện nguyện viên của Mục vụ Bạn của Tù nhân và các tuyên uý nhà tù.
Hoạt động đồng bộ với Chương trình Cây Thiên thần của PFI là các chương trình khác như cắm trại, nghỉ dưỡng, các hoạt động đa dạng được tổ chức quanh năm và những dịch vụ hỗ trợ nhằm giúp con em của người tù không bị lôi cuốn vào các hoạt động tội phạm.
Mục vụ Bạn của Tù nhân tại ba quốc gia đang điều hành các cơ sở gia cư chăm sóc hơn 200 con em của tù nhân.
Hoà giải nạn nhân và người gây án
Đề án Cây vả rừng (Sycamore) của PFI được thiết kế nhằm khuyến khích đối thoại giữa nạn nhân và người gây án để tiến tới hoà giải. Chương trình kéo dài từ 8 đến 12 tuần tại nhà tù, tạo cơ hội gặp gỡ giữa các nhóm nạn nhân và người gây án qua những buổi thảo luận được chuẩn bị chu đáo hướng về sự hối cải, tha thứ và hoà giải.
Phục hồi Công lý
Qua Trung tâm Công lý và Hoà giải của PFI, tổ chức này tìm cách cổ xuý những nguyên lý và ứng dụng của Phục hồi Công lý (Restorative Justice) - một lý thyết chuyên ngành tội phạm học, tập chú vào việc hàn gắn các mối quan hệ, sửa chữa các thiệt hại gây ra bởi tội phạm, và giúp người gây án gây dựng cho mình một cuộc sống có ý nghĩa trong xã hội.
Trung tâm Công lý và Hoà giải điều hành trang điện tử Restorative Justice Online , đồng thời cung cấp thông tin và tư vấn cho các tổ chức cấp quốc gia thuộc Mục vụ Bạn của Tù nhân, các chính phủ, Liên Hợp Quốc và những tổ chức khác.
Cổ xuý các nhà tù có niềm tin tôn giáo
Mô phỏng APAC, một mô hình các cộng đồng nhà tù trên nền tảng tôn giáo tại Barsil, các tổ chức quốc gia thuộc Mục vụ Bạn của Tù nhân xúc tiến các đề án APAC của chính họ.
Tư vấn
Là một tổ chức phi chính phủ, PFI duy trì vai trò tư vấn (thể loại II) với Hội đồng Kinh tế Xã hội Liên hiệp Quốc (UNESCO) và là một thành viên hoạt động tích cực trong Liên minh LHQ của các tổ chức NGO về ngăn ngừa tội phạm và tội phạm học. |
Châu Đốc là một thành phố trực thuộc tỉnh An Giang, Việt Nam.
Địa lý
Thành phố Châu Đốc nằm trên bờ sông Hậu, cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 210 km về phía tây, cách thành phố Cần Thơ khoảng 115 km, cách thành phố Long Xuyên khoảng 55 km về phía tây bắc và cách thủ đô Phnôm Pênh (Campuchia) khoảng 149 km về phía nam theo Quốc lộ 91.
Thành phố Châu Đốc có địa giới hành chính:
Phía bắc giáp huyện An Phú và Campuchia
Phía đông giáp huyện Phú Tân và thị xã Tân Châu
Phía nam giáp huyện Châu Phú
Phía tây giáp Campuchia
Phía tây nam giáp thị xã Tịnh Biên.
Thành phố Châu Đốc nằm sát biên giới Việt Nam và Campuchia. Thành phố hiện đang là đô thị loại II.
Dân cư, tôn giáo
Dân cư
Dân cư thành phố Châu Đốc sinh sống tập trung ở khu vực ven sông Hậu, ven Quốc lộ 91, tại các phường trung tâm thành phố, tại các khu dân cư,... với cơ cấu dân số trẻ, dân cư đô thị chiếm gần 80%.
Tôn giáo
Gồm có Phật giáo, Công giáo, Đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Tin Lành, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Hồi Giáo.
Khí hậu
Hành chính
Thành phố Châu Đốc có 7 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 5 phường: Châu Phú A, Châu Phú B, Núi Sam, Vĩnh Mỹ, Vĩnh Nguơn và 2 xã: Vĩnh Châu, Vĩnh Tế được chia thành 52 khóm - ấp.
Lịch sử
Nguồn gốc tên gọi
Nguồn gốc của tên gọi Châu Đốc cho đến ngày nay vẫn còn là một vấn đề gây tranh cãi.
Một số người cho rằng tên gọi này chỉ là cách nói trại ra từ một tiếng Cam Bốt là Meàth Chruk, có nghĩa là mõm heo hoặc miệng sông có tiếng heo kêu.
Hoặc nó được gọi theo tên trước đây của Cù lao Kết, nơi được hình thành bởi Sông Tiền và Sông Hậu, sông Naréa và Sông Vàm Nao. Người Khmer cũng gọi cù lao này là SlaKét (cây cau dại).
Một vài người lại dựa vào những Hán tự dùng để viết chữ Châu Đốc (chữ Hán: 朱篤) mà giải nghĩa.
Hiện nay, thành phố Châu Đốc không còn là tỉnh lỵ của tỉnh An Giang nữa (tỉnh lỵ tỉnh An Giang nay là thành phố Long Xuyên). Tuy nhiên, Châu Đốc lại từng là tỉnh lỵ của tỉnh Châu Đốc cũ vào thời Pháp thuộc trước năm 1956 và trong giai đoạn 1964-1975 dưới thời Việt Nam Cộng hòa. Đặc biệt, Châu Đốc lại là lỵ sở của toàn bộ tỉnh An Giang vào thời nhà Nguyễn độc lập. Địa bàn tỉnh An Giang khi đó bao gồm tỉnh An Giang, thành phố Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng, một phần các tỉnh Đồng Tháp, Hậu Giang và Bạc Liêu ngày nay.
Thời chúa Nguyễn và nhà Nguyễn độc lập
Lãnh thổ Châu Đốc nguyên là đất thuộc nước Chân Lạp, gọi là Tầm Phong Long (Kompong Long). Năm 1757, vua Chân Lạp nhường cho chúa Nguyễn, chúa Nguyễn giao cho Nguyễn Cư Trinh vào và thành lập đạo Châu Đốc cùng với đạo Tân Châu và đạo Đông Khẩu (Sa Đéc).
Sau khi vua Gia Long lên ngôi, năm 1805 niên hiệu Gia Long thứ 3, đã đặt lại địa giới hành chính Châu Đốc thuộc trấn Hà Tiên, Châu Đốc lúc này gọi là Châu Đốc Tân Cương. Năm 1808, Châu Đốc thuộc huyện Vĩnh Định, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh, thuộc Gia Định thành. Năm 1815, triều Nguyễn cho xây thành Châu Đốc. Đến 1825, Châu Đốc tách riêng thành Châu Đốc trấn.
Năm 1832 niên hiệu Minh Mạng 13, vua Minh Mạng đổi trấn thành tỉnh, phủ Gia Định chia thành Nam Kỳ lục tỉnh: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, Hà Tiên và An Giang. Trấn Châu Đốc đổi thành tỉnh An Giang. Thành Châu Đốc, vùng đất mà nay là thành phố Châu Đốc, là tổng Châu Phú thuộc huyện Tây Xuyên và trở thành tỉnh lỵ của tỉnh An Giang nhà Nguyễn (thành Châu Đốc khi đó nằm ở khoảng giữa của huyện Tây Xuyên, huyện này gồm cả phần đất nay thuộc đông nam tỉnh Takeo Campuchia). Đồng thời Minh Mạng cho đặt chức tổng đốc An Hà, lỵ sở tại thành Châu Đốc, cai quản 2 tỉnh An Giang và Hà Tiên (gồm phần lớn đồng bằng sông Cửu Long ngày nay). Để xứng đáng là tỉnh lỵ của một trong sáu tỉnh Nam Kỳ (tỉnh An Giang thời đó bao gồm các phần đất mà nay là các tỉnh thành An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, một phần của các tỉnh Đồng Tháp, Bạc Liêu của Việt Nam, và một phần của tỉnh Takeo Campuchia), năm 1831 niên hiệu Minh Mạng 12, vua Minh Mạng cho triệt phá thành (đồn) Châu Đốc cũ (1815), xây dựng thành Châu Đốc mới theo hình bát quái, ở phía đông đồn Châu Đốc cũ. Theo Nghiên cứu địa bạ Nam Kỳ Lục tỉnh 1836 của Nguyễn Đình Đầu, tổng Châu Phú khoảng những năm 1836-1839 có các thôn làng sau: Vĩnh Tế Sơn, Vĩnh Ngươi, Vĩnh Phước, Vĩnh Hội, Vĩnh Khánh, Nhơn Hội, Nhơn Hòa, Long Thạnh, Bình Thạnh, An Thạnh, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Thành, An Nông, Hưng An, Khánh An, Phú Cường, Vĩnh Bảo, Vĩnh Thọ, Vĩnh Thông, Vĩnh Lạc, Vĩnh Điều, Vĩnh Trung, Vĩnh Trường, Thới Hưng, Thân Nhơn Lý,...
Thời Pháp thuộc
Ngày 22 tháng 6 năm 1867, Pháp đem quân đánh chiếm Châu Đốc. Năm 1868, sau khi quân Pháp đánh chiếm 3 tỉnh miền Tây của Nam Kỳ lục tỉnh: (An Giang, Vĩnh Long, Hà Tiên), nhà cầm quyền thực dân chia Nam Kỳ thành 24 hạt Tham biện. Trong đó, hạt Châu Đốc trông coi hạt Long Xuyên (sở lỵ gần chợ Đông Xuyên) và hạt Sa Đéc, thành Châu Đốc bị hạn chế bớt vai trò trung tâm vùng của nó so với thời nhà Nguyễn độc lập (giai đoạn 1832-1867).
Ngày 20 tháng 12 năm 1899, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định đổi hạt Tham biện thành tỉnh; chia phần lớn đất An Giang cũ của nhà Nguyễn thành 5 tỉnh Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Cần Thơ, Sóc Trăng. Thành Châu Đốc chỉ còn vai trò là thủ phủ của tỉnh Châu Đốc, một trong 21 tỉnh của Nam Kỳ thuộc Pháp. Lúc bấy giờ, tỉnh lỵ Châu Đốc nằm trên địa bàn làng Châu Phú thuộc tổng Châu Phú, quận Châu Thành.(Cochinchine Francaise).
Năm 1919, quận Châu Thành đổi thành quận Châu Phú thuộc tỉnh Châu Đốc. Tuy nhiên năm 1939 lại đổi về tên quận Châu Thành như cũ. Thời Pháp thuộc, làng Châu Phú vừa đóng vai trò là quận lỵ quận Châu Thành và là tỉnh lỵ tỉnh Châu Đốc.
Trong Cách mạng tháng Tám, lực lượng cách mạng khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Châu Đốc vào ngày 24 tháng 8 năm 1945. Đến ngày 20 tháng 1 năm 1946, quân Pháp chiếm lại Châu Đốc.
Theo sự phân chia của chính quyền Cách mạng, ngày 06 tháng 3 năm 1948, vùng đất Châu Đốc ngày nay thuộc huyện Châu Phú A của tỉnh Long Châu Hậu. Đến cuối năm 1950, huyện Châu Phú A thuộc tỉnh Long Châu Hà. Năm 1954, vùng đất Châu Đốc lại trở về thuộc huyện Châu Phú, tỉnh Châu Đốc.
Thời Việt Nam Cộng hòa
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm quyết định sáp nhập tỉnh Châu Đốc với tỉnh Long Xuyên để thành lập tỉnh An Giang. Lúc này ở vùng đất cả hai tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc trước đó đều có quận Châu Thành cả. Tuy nhiên, do tỉnh lỵ tỉnh An Giang có tên là "Long Xuyên" và được đặt ở quận Châu Thành thuộc tỉnh Long Xuyên cũ, cho nên quận Châu Thành thuộc tỉnh Châu Đốc cũ được đổi tên là quận Châu Phú như ở giai đoạn 1919-1939. Lúc này, xã Châu Phú chỉ còn đóng vai trò duy nhất là quận lỵ quận Châu Phú. Vai trò tỉnh lỵ của tỉnh An Giang được chuyển từ Châu Đốc sang Long Xuyên, từ đó Châu Đốc không còn là trung tâm tỉnh lỵ của tỉnh An Giang nữa.
Ngày 8 tháng 9 năm 1964, Thủ tướng chính quyền mới của Việt Nam Cộng hòa ký Sắc lệnh số 246/NV quy định kể từ ngày 01 tháng 10 năm 1964 tái lập tỉnh Châu Đốc trên cơ sở các quận Châu Phú, Tân Châu, An Phú, Tri Tôn và Tịnh Biên cùng thuộc tỉnh An Giang trước đó.
Quận Châu Phú trở lại thuộc tỉnh Châu Đốc cho đến năm 1975. Sau năm 1965, tất cả các tổng đều bị giải thể. Lúc bấy giờ, xã Châu Phú thuộc quận Châu Phú vừa đóng vai trò là quận lỵ quận Châu Phú và đồng thời cũng là tỉnh lỵ tỉnh Châu Đốc trong giai đoạn 1964-1975. Tỉnh lỵ tỉnh Châu Đốc khi đó lại có tên là "Châu Phú", do nằm trong khu vực xã Châu Phú, quận Châu Phú.
Năm 1957, chính quyền Cách mạng cũng đặt huyện Châu Phú thuộc tỉnh An Giang, giống như sự phân chia của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Giữa năm 1966, tách xã Châu Phú ra khỏi huyện Châu Phú để thành lập thị xã Châu Đốc trực thuộc tỉnh An Giang.
Trong giai đoạn 1964-1971, chính quyền Cách mạng vẫn đặt huyện Châu Phú và thị xã Châu Đốc cùng thuộc tỉnh An Giang.
Năm 1971, thị xã Châu Đốc vẫn thuộc tỉnh An Giang sau khi tách đất tỉnh An Giang để thành lập tỉnh Châu Hà. Cho đến tháng 5 năm 1974, thị xã Châu Đốc và huyện Châu Phú cùng thuộc tỉnh Long Châu Hà theo Hội nghị thường trực Trung ương Cục cho đến 30/4/1975.
Sau năm 1975
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn đặt thị xã Châu Đốc trực thuộc tỉnh Long Châu Hà.
Tháng 2 năm 1976, thị xã Châu Đốc thuộc tỉnh An Giang, bao gồm 2 xã: Châu Phú A và Châu Phú B.
Ngày 27 tháng 1 năm 1977, nhận thêm xã Vĩnh Nguơn của huyện Châu Phú theo Quyết định số 199/TC.UB của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang.
Ngày 25 tháng 4 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 181-CP năm 1979. Theo đó:
Chuyển 2 xã Châu Phú A và Châu Phú B thành 2 phường có tên tương ứng
Sáp nhập một phần diện tích và dân số của phường Châu Phú A vào phường Châu Phú B
Thành lập xã Vĩnh Mỹ trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích, dân số của của xã Mỹ Đức (thuộc huyện Châu Phú) và phường Châu Phú B.
Ngày 23 tháng 8 năm 1979, sáp nhập xã Vĩnh Tế thuộc huyện Châu Phú vào thị xã Châu Đốc.
Từ đó, thị xã Châu Đốc có 5 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 2 phường: Châu Phú A, Châu Phú B và 3 xã: Vĩnh Mỹ, Vĩnh Nguơn, Vĩnh Tế.
Ngày 22 tháng 3 năm 2002, chia xã Vĩnh Tế thành 2 đơn vị hành chính: phường Núi Sam và xã Vĩnh Tế.
Ngày 19 tháng 5 năm 2003, chia xã Vĩnh Mỹ thành 2 đơn vị hành chính: phường Vĩnh Mỹ và xã Vĩnh Châu.
Ngày 1 tháng 9 năm 2007, thị xã Châu Đốc được Bộ Xây dựng công nhận là đô thị loại III trực thuộc tỉnh An Giang.
Cuối năm 2012, thị xã Châu Đốc có 7 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 4 phường: Châu Phú A, Châu Phú B, Núi Sam, Vĩnh Mỹ và 3 xã: Vĩnh Châu, Vĩnh Nguơn, Vĩnh Tế.
Ngày 19 tháng 7 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 86/NQ-CP. Theo đó:
Chuyển xã Vĩnh Nguơn thành phường Vĩnh Nguơn.
Thành lập thành phố Châu Đốc trên cơ sở toàn bộ 10.529,05 ha diện tích tự nhiên và 157.298 người của thị xã Châu Đốc.
Sau khi thành lập, thành phố Châu Đốc có 5 phường và 2 xã như hiện nay.
Ngày 15 tháng 4 năm 2015, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ban hành quyết định số 499/QĐ-TTg, công nhận thành phố Châu Đốc là đô thị loại II trực thuộc tỉnh An Giang.
Kinh tế - xã hội
Kinh tế
Kinh tế Châu Đốc tăng trưởng nhanh và mạnh. Năm 2012, tốc độ tăng trưởng GDP của thành phố Châu Đốc đạt 16,10%, thu nhập bình quân đầu người trên 35,36 triệu đồng, tổng vốn đầu tư phát triển gần 2.720 tỷ đồng, lĩnh vực thương mại - dịch vụ - du lịch tiếp tục phát huy thế mạnh, với mức tăng trưởng đạt 18,01% và chiếm 70,47% tỷ trọng cơ cấu kinh tế địa phương Ngoài ra, thành phố cũng tập trung phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn phường Vĩnh Mỹ và xã Vĩnh Châu.
Năm 2014, thu nhập bình quân đầu người của thành phố Châu Đốc đạt 60,32 triệu đồng và tăng trưởng kinh tế 3 năm gần nhất đạt 16,03%; tỷ lệ hộ nghèo là 1,0%.
Thương mại - dịch vụ
Với tiềm năng là một thành phố du lịch nên thương mại-dịch vụ của thành phố là một ngành mũi nhọn trong phát triển kinh tế thành phố. Hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại, chợ, các trung tâm mua bán phân bố rộng khắp trên địa bàn thành phố. Hàng hóa phân bố rộng khắp đến các địa bàn trong thành phố. Dịch vụ nhà hàng khách sạn cũng phát triển, với một chuỗi các khách sạn, nhà hàng lớn như Victoria Châu Đốc (4,5 sao), Victoria Núi Sam (3 sao), Châu Phố (3 sao), Bến Đá (3 sao), Đông Nam (2 sao), Song Sao (2 sao), Trung Nguyễn (2 sao), Hải Châu (2 sao),...
Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
Đây không phải là một ngành trọng điểm của thành phố nhưng cũng đóng góp một phần vào sự phát triển của thành phố. Các cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp được thành phố quan tâm đầu tư và phát triển đã giải quyết một phần cho lao động nhàn rỗi nông thôn.
Nông nghiệp
Đây là một ngành đã hình thành và phát triển từ rất lâu đời ở thành phố. Loại hình nông nghiệp đô thị là một thế mạnh của thành phố. Các cánh đồng đã được cơ giới hóa trong công tác trước, trong và sau thu hoạch do đó năng suất không ngừng tăng và chất lượng nông phẩm cũng tăng lên.
Các dự án phát triển kinh tế - xã hội ở Châu Đốc
Dự án trung tâm văn hóa - thể thao thành phố Châu Đốc.
Dự án khu đô thị Ngọc Hầu.
Dự án biệt thự vườn Thoại Ngọc Hầu.
Dự án cầu Châu Đốc (nối Châu Đốc - Tân Châu)
Dự án công viên văn hóa Núi Sam.
Dự án nhà văn hóa - truyền thống khu di tích lịch sử Núi Sam.
Dự án mở rộng đường Mậu Thân - kênh Hoà Bình rộng 30m.
Dự án khu đô thị The New City Châu Đốc do công ty CP Tập đoàn Đầu tư bất động sản Thiên Minh đầu tư.
Dự án khu đô thị Thành phố Lễ hội Phúc An Asuka do tập đoàn Trần Anh Group đầu tư.
Dự án cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng.
Xã hội
Giáo dục
Một số cơ sở giáo dục tại Châu Đốc:
Trung học phổ thông Châu Thị Tế
Trung cấp kinh tế kỹ thuật Châu Đốc
Trường Trung học phổ thông Chuyên Thủ Khoa Nghĩa tại đường Nguyễn Đình Chiểu, phường Châu Phú A
Trung học phổ thông Võ Thị Sáu tại đường Lê Lợi, phường Châu Phú B
Trung học phổ thông dân tộc nội trú An Giang
Trung học cơ sở Nguyễn Trãi tại đường Nguyễn Trường Tộ, phường Châu Phú B
Trung học cơ sở Nguyễn Đình Chiểu tại đường Thủ Khoa Nghĩa, phường Châu Phú A
Trung học cơ sở Trương Gia Mô tại đường Công Binh, phường Núi Sam
Trung học cơ sở Thủ Khoa Huân tại đường Quốc lộ 91, phường Châu Phú B
Trung học cơ sở Vĩnh Tế tại đường Quốc lộ 91, xã Vĩnh Tế
Trung học cơ sở Vĩnh Mỹ
Trung học cơ sở Vĩnh Châu.
Quy hoạch phát triển giáo dục
Xây dựng Trường Cao đẳng Quốc tế Châu Đốc tại Vĩnh Mỹ.
Y tế
Danh sách các cơ sở y tế ở thành phố Châu Đốc:
Bệnh viện Đa khoa khu vực tỉnh (500 giường). Địa chỉ: 917 Tôn Đức Thắng, phường Vĩnh Mỹ, thành phố Châu Đốc
Bệnh viện Đa khoa Nhật Tân (200 giường). Địa chỉ: đường Phạm Ngọc Thạch, phường Châu Phú B
Bệnh viện thành phố Châu Đốc (150 giường). Địa chỉ: Quốc lộ 91, phường Châu Phú A
Bệnh viện Bình An (150 giường). Địa chỉ: đường Thủ Khoa Nghĩa, phường Châu Phú A.
Giao thông
Đường bộ
Có quốc lộ 91, quốc lộ 91C và đường cao tốc Châu Đốc – Cần Thơ – Sóc Trăng đi qua.
Đường thủy
Có sông Hậu chảy qua.
Các tuyến đường chính trên địa bàn
Tôn Đức Thắng (quốc lộ 91)
Nguyễn Tri Phương (quốc lộ 91)
Hoàng Diệu (quốc lộ 91)
Tân lộ Kiều Lương (quốc lộ 91)
Đường vòng Núi Sam (quốc lộ 91)
Lê Lợi
Nguyễn Văn Thoại
Thủ Khoa Huân
Thủ Khoa Nghĩa
Trưng Nữ Vương
Trần Hưng Đạo
Phan Đình Phùng
Lê Đại Cương
Mậu Thân
Hoàng Đạo Cật
Lê Hồng Phong
Nguyễn Thị Minh Khai
Cử Trị
Tên đường của Châu Đốc trước năm 1975
Đường Louis Pasteur, Gia Long và Trần Hưng Đạo nay là đường Trần Hưng Đạo.
Đường Thượng Đăng Lễ nay là đường Sương Nguyệt Anh.
Đường Đốc Phủ Thủ nay là đường Đống Đa.
Đường Bảo Hộ Thoại nay là đường Nguyễn Văn Thoại.
Đường Hùng Vương nay là đường Huyền Trân Công Chúa.
Thành phố Châu Đốc có hơn 15 km Quốc lộ 91 chạy ngang. Năm 2011, Bộ trưởng Bộ GTVT ký quyết định cho nâng cấp tỉnh lộ 956 tại An Giang (nối Châu Đốc - Long Bình) lên thành quốc lộ 91C . Đây là một thuận lợi để thành phố giao lưu, buôn bán với các địa phương trong tỉnh, trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và nước bạn Campuchia. Ngoài ra, còn có tuyến đường vành đai chạy qua ngoại ô. Khu vực trung tâm thành phố và khu Thương mại Dịch vụ (phường A, phường B,p hường Núi Sam) có hệ thống giao thông nội ô tương đối hoàn thiện.
Thành phố có các tuyến đường nội ô gồm: Lê Lợi, Nguyễn Văn Thoại, Thủ Khoa Nghĩa, Thủ Khoa Huân, Bạch Đằng, Chi Lăng, Trưng Nữ Vương, Phan Văn Vàng, Núi Sam-Châu Đốc, Phan Đình Phùng, Hậu Miếu Bà, Cử Trị, Quang Trung.
Quy hoạch giao thông
Thành phố đang tiếp tục hoàn thiện hệ thống giao thông nội ô,nâng cấp, mở rộng, nối dài các tuyến đường trong trung tâm thành phố. Quy hoạch tuyến N1 nối kết thành phố với các tỉnh,thành khu vực Nam Bộ. Trong tương lai gần sẽ có tuyến cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng đi qua thành phố.
Di tích lịch sử - Văn hóa
Châu Đốc có khu danh thắng Núi Sam, với nhiều lịch sử - Văn hóa được xếp hạng cấp quốc gia, trong đó có Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam. Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ được tổ chức hằng năm thu hút đông đảo du khách đến tham quan, cúng bái. Bên cạnh đó, vùng đất giàu truyền thống này cũng từng ghi đậm dấu ấn của các danh tướng, như Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Văn Thoại, Doãn Uẩn,... và những bậc tiền hiền có công khai phá, mở mang bờ cõi, giữ vững biên cương cho Việt Nam.
Các di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia tại Châu Đốc gồm:
Lăng Thoại Ngọc Hầu tại đường Quốc lộ 91, phường Núi Sam
Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam tại đường Quốc lộ 91, phường Núi Sam
Chùa Phước Điền tại đường Quốc lộ 91, phường Núi Sam
Chùa Tây An tại đường Quốc lộ 91, phường Núi Sam
Đình Châu Phú tại đường Trần Hưng Đạo, phường Châu Phú A.
Hình ảnh
Chú thích |
Guinée (cũng viết là Guinea theo tiếng Anh, , tên chính thức Cộng hòa Guinée , Tiếng Việt: Cộng hòa Ghi-nê), là một đất nước nằm ở miền Tây Phi. Trước đây quốc gia này được biết với cái tên Guinée thuộc Pháp (Guinée française), đôi khi từ Guinée-Conakry hay Guinea-Conakry được dùng để chỉ quốc gia này để phân biệt các quốc gia khác có "Guinea" trong tên và khu vực cùng tên, chẳng hạn như Papua New Guinea, Tây New Guinea, Guinea-Bissau và Guinea Xích Đạo. Guinée có dân số 12.4 triệu người và diện tích .
Quốc gia có chủ quyền Guinea là một nước cộng hòa có tổng thống do nhân dân trực tiếp bầu ra; chức vụ này vừa là nguyên thủ quốc gia vừa là người đứng đầu chính phủ. Quốc hội Guinea là một quốc hội đơn viện và là cơ quan lập pháp của đất nước này, và các thành viên của nó cũng do người dân trực tiếp bầu ra. Nhánh tư pháp được lãnh đạo bởi Tòa án Tối cao Guinea, tòa án phúc thẩm cao nhất và cuối cùng trong cả nước.
Guinea là một quốc gia chủ yếu là Hồi giáo, với 85% dân số theo đạo Hồi. Người dân Guinea thuộc 24 nhóm sắc tộc. Tiếng Pháp, ngôn ngữ chính thức của Guinea, là ngôn ngữ giao tiếp chính trong trường học, trong quản lý chính phủ và các phương tiện truyền thông, nhưng hơn 24 ngôn ngữ bản địa cũng được sử dụng.
Nền kinh tế của Guinea phần lớn phụ thuộc vào nông nghiệp và khai thác khoáng sản. Đây là nước có sản lượng khai thác bô xít lớn thứ hai thế giới, và có trữ lượng kim cương và vàng phong phú. Đất nước này là tâm điểm của đợt bùng phát dịch Ebola năm 2014. Nhân quyền ở Guinea vẫn còn là một vấn đề gây tranh cãi. Năm 2011, chính phủ Hoa Kỳ tuyên bố rằng việc tra tấn của lực lượng an ninh và lạm dụng phụ nữ và trẻ em (bao gồm cả cắt bộ phận sinh dục nữ) là những vấn đề nhân quyền đang còn tồn tại.
Từ nguyên
Guinea được đặt tên theo khu vực Guinea. Guinea là tên truyền thống của khu vực châu Phi nằm dọc theo Vịnh Guinea. Khu vực này trải dài về phía bắc qua các vùng nhiệt đới có rừng và kết thúc ở Sahel. Thuật ngữ trong tiếng Anh Guinea bắt nguồn trực tiếp từ từ tiếng Bồ Đào Nha Guiné, xuất hiện vào giữa thế kỷ 15 để chỉ các vùng đất sinh sống của người Guineus, một thuật ngữ chung để chỉ các dân tộc châu Phi da đen ở phía nam sông Senegal, trái ngược với "màu xám "Zenaga Berbers ở trên vùng này, vốn được họ gọi là Azenegues hoặc Moors.
Lịch sử
Vùng đất ngày nay là Guinea thuộc về một loạt đế chế châu Phi cho đến khi Pháp đô hộ nó vào những năm 1890, và biến nó thành một phần của Tây Phi thuộc Pháp. Guinea tuyên bố độc lập khỏi Pháp vào ngày 2 tháng 10 năm 1958. Từ khi giành độc lập cho đến cuộc bầu cử tổng thống năm 2010, Guinea đã bị một số lãnh đạo chuyên quyền cai trị.
Các đế quốc và vương quốc Tây Phi ở Guinea
Khu vực bây giờ là Guinea nằm trong rìa của các đế chế lớn ở Tây Phi. Đế chế Ghana đầu tiên tại đây đã phát triển nhờ thương mại nhưng cuối cùng đã sụp đổ sau các cuộc xâm lăng lặp đi lặp lại của các vua nhà Almoravid. Vào thời kỳ này, Hồi giáo lần đầu tiên được truyền bá đến đây thông qua các thương nhân Bắc Phi.
Đế quốc Sosso (thế kỷ 12 đến thế kỷ 13) phát triển trong một thời gian ngắn trong khoảng trống, nhưng Đế quốc Mali trở nên nổi bật khi Soundiata Kéïta đánh bại người cai trị Sosso Soumangourou Kanté trong trận Kirina, ở c. 1235. Đế chế Mali được cai trị bởi Mansa (Hoàng đế), đáng chú ý nhất là Kankou Moussa, người đã thực hiện một hajj nổi tiếng tới Mecca vào năm 1324. Ngay sau khi ông trị vì, Đế chế Mali bắt đầu suy tàn và cuối cùng bị các nước chư hầu thay thế vào thế kỷ 15.
Thành công nhất trong số này là Đế quốc Songhai, mở rộng quyền lực từ khoảng năm 1460 và cuối cùng vượt qua Đế chế Mali về cả lãnh thổ và sự giàu có. Đế quốc tiếp tục thịnh vượng cho đến khi một cuộc nội chiến, liên tiếp xảy ra, sau cái chết của Askia Daoud vào năm 1582. Đế chế suy yếu đã rơi vào tay những kẻ xâm lược Maroc trong trận Tondibi chỉ ba năm sau đó. Tuy nhiên, người Maroc không thể cai trị vương quốc này một cách hiệu quả và nó bị phân chia thành nhiều vương quốc nhỏ.
Sau sự sụp đổ của các đế chế lớn ở Tây Phi, nhiều vương quốc khác nhau đã tồn tại ở nơi ngày nay là Guinea. Người Hồi giáo Fulani di cư đến Futa Jallon ở Trung Guinea, và thành lập một nhà nước Hồi giáo từ năm 1727 đến năm 1896, với một hiến pháp thành văn và những người cai trị thay thế. Đế chế Wassoulou hay Wassulu trong một thời gian ngắn (1878–1898), do Samori Toure lãnh đạo đã chiếm cứ khu vực chủ yếu là Malinké của vùng ngày nay là thượng lưu Guinea và tây nam Mali (Wassoulou). Đế chế này chuyển đến Bờ Biển Ngà trước khi bị người Pháp chinh phục.
Thời kỳ thuộc địa
Các thương nhân châu Âu đến đây vào thế kỷ 16. Nô lệ đã được xuất khẩu để làm việc ở nơi khác trong thương mại tam giác. Các thương nhân đã sử dụng các tập quán nô lệ trong khu vực đã tồn tại trong nhiều thế kỷ để buôn bán người.
Thời kỳ thuộc địa của Guinea bắt đầu với quân đội Pháp xâm nhập vào khu vực này vào giữa thế kỷ 19. Sự thống trị của Pháp được khẳng định bởi sau khi đánh bại quân đội của Samori Touré, Mansa (hoặc Hoàng đế) của bang Ouassoulou và thủ lĩnh của người gốc Malinké vào năm 1898, và giúp Pháp kiểm soát vùng đất ngày nay là Guinea và các khu vực lân cận.
Pháp đã đàm phán về ranh giới hiện tại của Guinea vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 với người Anh để trao đổi Sierra Leone, người Bồ Đào Nha về thuộc địa Guinea của họ (nay là Guinea-Bissau) và Liberia. Dưới thời Pháp, đất nước hình thành Lãnh thổ Guinea bên trong Tây Phi thuộc Pháp, do một thống đốc cư trú tại Dakar quản lý. Các thống đốc cấp trung quản lý các thuộc địa riêng lẻ, bao gồm cả Guinea.
Độc lập (1958)
Năm 1958, Đệ tứ Cộng hòa Pháp sụp đổ do bất ổn chính trị và những thất bại trong việc đối phó với các thuộc địa của mình, đặc biệt là Đông Dương và Algeria. Việc thành lập nền Cộng hòa thứ năm được người dân Pháp ủng hộ, trong khi Tổng thống Pháp Charles de Gaulle đã nói rõ vào ngày 8 tháng 8 năm 1958 rằng các thuộc địa của Pháp phải được lựa chọn rõ ràng giữa quyền tự trị nhiều hơn trong một Cộng đồng Pháp mới hoặc độc lập ngay lập tức trong cuộc trưng cầu dân ý. sẽ được tổ chức vào ngày 28 tháng 9 năm 1958. Các thuộc địa khác đã chọn trước đây, nhưng Guinea - dưới sự lãnh đạo của Ahmed Sékou Touré với Đảng Dân chủ Guinea-Phi Dân chủ (PDG) đã giành được 56 trong số 60 ghế trong cuộc bầu cử lãnh thổ năm 1957 — đã bỏ phiếu áp đảo quyết định độc lập. Người Pháp nhanh chóng rút lui, và vào ngày 2 tháng 10 năm 1958, Guinea tự xưng là một nước cộng hòa có chủ quyền và độc lập, với Sékou Touré làm tổng thống.
Đáp lại cuộc bỏ phiếu đòi độc lập, những người Pháp định cư ở Guinea đã khá gay gắt trong việc cắt đứt quan hệ với Guinea. Washington Post nhận xét người Pháp đã tàn bạo như thế nào khi vứt bỏ tất cả những gì họ nghĩ là đóng góp của họ cho Guinea: "Để phản ứng lại, và như một lời cảnh báo cho các vùng lãnh thổ nói tiếng Pháp khác, người Pháp đã rút khỏi Guinea trong khoảng thời gian hai tháng, mang theo mọi thứ họ có thể. Họ tháo các bóng đèn, vứt bỏ các kế hoạch cho đường ống dẫn nước thải ở thủ đô Conakry, và thậm chí đốt các dược phẩm thay vì để lại cho người dân Guinea. "
Chế độ hậu thuộc địa (1958–2008)
Sau đó, Guinea nhanh chóng liên kết với Liên Xô và áp dụng các chính sách xã hội chủ nghĩa. Liên minh này tồn tại trong thời gian ngắn; tuy nhiên, khi Guinea tiến tới một mô hình chủ nghĩa xã hội của Trung Quốc. Mặc dù vậy, nước này vẫn tiếp tục nhận được đầu tư từ các nước tư bản, chẳng hạn như Hoa Kỳ. Đến năm 1960, Touré đã tuyên bố PDG là đảng chính trị hợp pháp duy nhất của đất nước, và trong 24 năm tiếp theo, chính phủ và PDG là một. Touré đã được bầu lại không ứng cử với bốn nhiệm kỳ bảy năm với tư cách là tổng thống, và cứ 5 năm một lần cử tri được trình bày với một danh sách duy nhất các ứng cử viên PDG cho Quốc hội. Ủng hộ Chủ nghĩa xã hội lai châu Phi trong nước và chủ nghĩa Liên châu Phi ở nước ngoài, Touré nhanh chóng trở thành một nhà lãnh đạo phân cực, với việc chính phủ của ông trở nên không khoan dung với những bất đồng chính kiến, bỏ tù hàng nghìn người và bóp nghẹt báo chí.
Trong suốt những năm 1960, chính phủ Guinea đã quốc hữu hóa đất đai, loại bỏ các thủ lĩnh truyền thống và do người Pháp bổ nhiệm khỏi quyền lực, và có quan hệ căng thẳng với chính phủ Pháp và các công ty Pháp. Chính phủ của Touré dựa vào Liên Xô và Trung Quốc để viện trợ và phát triển cơ sở hạ tầng, nhưng phần lớn số tiền này được sử dụng cho các mục đích chính trị chứ không phải kinh tế, chẳng hạn như xây dựng các sân vận động lớn để tổ chức các cuộc mít tinh chính trị. Trong khi đó, đường bộ, đường sắt và các cơ sở hạ tầng khác của đất nước bị suy yếu, và nền kinh tế đình trệ.
Vào ngày 22 tháng 11 năm 1970, các lực lượng Bồ Đào Nha từ nước láng giềng Guinea thuộc Bồ Đào Nha đã tổ chức Chiến dịch Biển Xanh, một cuộc đột kích vào Conakry của hàng trăm lực lượng đối lập Guinea lưu vong. Trong số các mục tiêu của họ, quân đội Bồ Đào Nha muốn giết hoặc bắt Sekou Toure do sự ủng hộ của ông với PAIGC, một phong trào đòi độc lập và nhóm phiến quân đã thực hiện các cuộc tấn công vào bên trong Guinea thuộc Bồ Đào Nha từ các căn cứ của họ ở Guinea. Sau khi giao tranh ác liệt, các lực lượng do Bồ Đào Nha hậu thuẫn đã rút lui, giải thoát cho vài chục tù nhân chiến tranh Bồ Đào Nha đang bị PAIGC giam giữ ở Conakry, nhưng không lật đổ được Touré. Trong những năm sau cuộc đột kích, chính phủ Touré đã tiến hành các cuộc thanh trừng lớn, và ít nhất 50.000 người (1% dân số Guinea) đã thiệt mạng. Vô số người khác bị bỏ tù và đối mặt với tra tấn. Thông thường, trong trường hợp là người nước ngoài, họ bị buộc phải rời khỏi đất nước, sau khi vợ hoặc chồng người Guinea của họ bị bắt và con cái của họ bị nhà nước quản thúc.
Năm 1977, với kinh tế suy giảm, giết người hàng loạt, bầu không khí chính trị ngột ngạt và lệnh cấm mọi giao dịch kinh tế tư nhân đã dẫn đến " Cuộc nổi dậy của phụ nữ ở chợ", là những cuộc bạo loạn chống chính phủ do những phụ nữ làm việc ở Chợ Madina của Conakry bắt đầu. Điều này khiến Touré phải thực hiện những cải cách lớn. Touré chuyển từ ủng hộ Liên Xô sang ủng hộ Hoa Kỳ. Cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980 chứng kiến một số cải cách kinh tế, nhưng sự kiểm soát tập trung của Touré đối với nhà nước vẫn còn. Ngay cả mối quan hệ với Pháp cũng được cải thiện; Sau khi Valéry Giscard d'Estaing được bầu làm tổng thống Pháp, kim ngạch thương mại tăng lên và hai nước đã có các chuyến thăm ngoại giao.
Sékou Touré qua đời vào ngày 26 tháng 3 năm 1984, sau một ca phẫu thuật tim ở Hoa Kỳ, và được thay thế bằng Thủ tướng Louis Lansana Beavogui, người giữ chức tổng thống lâm thời, trong khi chờ các cuộc bầu cử mới. PDG bầu một nhà lãnh đạo mới vào ngày 3 tháng 4 năm 1984. Theo hiến pháp, người đó sẽ là ứng cử viên duy nhất cho chức tổng thống. Tuy nhiên, vài giờ trước cuộc họp đó, các Đại tá Lansana Conté và Diarra Traoré đã lên nắm quyền trong một cuộc đảo chính không đổ máu. Conté đảm nhận vai trò tổng thống, với Traoré giữ chức thủ tướng cho đến tháng 12.
Conté ngay lập tức tố cáo sai lầm của chế độ trước về nhân quyền, thả 250 tù nhân chính trị và khuyến khích khoảng 200.000 người nữa trở về sau cuộc sống lưu vong. Ông cũng nói rõ là quay lưng lại với chủ nghĩa xã hội. Điều này không giúp giảm bớt đói nghèo và đất nước không có dấu hiệu ngay lập tức để tiến tới dân chủ.
Năm 1992, Conté tuyên bố trở lại chế độ dân sự, với một cuộc thăm dò tổng thống vào năm 1993, sau đó là cuộc bầu cử vào quốc hội năm 1995 (trong đó đảng của ông - Đảng Thống nhất và Tiến bộ - giành được 71 trong số 114 ghế.) Bất chấp cam kết của ông đối với dân chủ, Conté vẫn duy trì quyền lực rất chặt chẽ. Vào tháng 9 năm 2001, thủ lĩnh phe đối lập Alpha Condé đã bị bỏ tù vì gây nguy hiểm cho an ninh quốc gia, mặc dù ông đã được ân xá 8 tháng sau đó. Sau đó, ông đã phải sống lưu vong ở Pháp.
Năm 2001, Conté tổ chức và giành chiến thắng trong một cuộc trưng cầu dân ý để kéo dài nhiệm kỳ tổng thống, và năm 2003, ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ ba, sau khi các cuộc bầu cử bị phe đối lập tẩy chay. Vào tháng 1 năm 2005, Conté sống sót sau một vụ ám sát bị nghi ngờ trong khi xuất hiện hiếm hoi trước công chúng ở thủ đô Conakry. Những người chống đối ông cho rằng ông là một "nhà độc tài mệt mỏi", người mà sự ra đi là không thể tránh khỏi, trong khi những người ủng hộ ông tin rằng ông đang chiến thắng trong trận chiến với những người bất đồng chính kiến. Guinea vẫn phải đối mặt với những vấn đề rất thực tế, và theo Foreign Policy, có nguy cơ trở thành một quốc gia thất bại.
Vào năm 2000, Guinea đã bị cuốn vào tình trạng bất ổn từ lâu đã ảnh hưởng đến phần còn lại của Tây Phi, khi quân nổi dậy từ các nước láng giềng vượt qua biên giới với Liberia và Sierra Leone tràn sang nước này. Có vẻ đất nước này đang đứng trước bờ vực của nội chiến. Conté đổ lỗi cho các nhà lãnh đạo láng giềng vì thèm muốn tài nguyên thiên nhiên của Guinea, mặc dù những tuyên bố này đã bị bác bỏ một cách gay gắt. Năm 2003, Guinea đồng ý lên kế hoạch với các nước láng giềng của mình để đối phó với quân nổi dậy. Năm 2007, có nhiều cuộc biểu tình lớn chống lại chính phủ, dẫn đến việc bổ nhiệm một thủ tướng mới.
Lịch sử 2008-nay
Conté vẫn nắm quyền cho đến khi qua đời vào ngày 23 tháng 12 năm 2008. Vài giờ sau khi ông qua đời, Moussa Dadis Camara đã giành quyền kiểm soát trong một cuộc đảo chính, tuyên bố mình là người đứng đầu một chính phủ quân sự. Các cuộc biểu tình phản đối cuộc đảo chính trở nên bạo lực, và 157 người đã thiệt mạng khi vào ngày 28 tháng 9 năm 2009, chính quyền ra lệnh cho binh lính tấn công những người tụ tập để phản đối nỗ lực trở thành tổng thống của Camara. Những người lính đã tiến hành hãm hiếp, cắt xẻo và giết người, khiến nhiều chính phủ nước ngoài không ủng hộ chế độ mới này.
Vào ngày 3 tháng 12 năm 2009, một phụ tá đã bắn Camara trong một cuộc tranh chấp trong cơn thịnh nộ vào tháng Chín. Camara đã được đưa đến Maroc để được chăm sóc y tế. Phó Tổng thống (và Bộ trưởng Quốc phòng) Sékouba Konaté đã bay về từ Liban để điều hành đất nước, khi Camara vắng mặt. Sau cuộc họp tại Ouagadougou vào ngày 13 và 14 tháng 1 năm 2010, Camara, Konaté và Blaise Compaoré, Tổng thống Burkina Faso, đã đưa ra một tuyên bố chính thức về mười hai nguyên tắc hứa hẹn sẽ đưa Guinea trở lại chế độ dân sự trong vòng sáu tháng.
Cuộc bầu cử tổng thống Guinea được tổ chức vào ngày 27 tháng 6, với cuộc bầu cử thứ hai được tổ chức vào ngày 7 tháng 11, do những cáo buộc gian lận bầu cử. Tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu cao và các cuộc bầu cử diễn ra tương đối suôn sẻ. Alpha Condé, lãnh đạo đảng đối lập Rally of the Guinean People (RGP), đã thắng cử, hứa hẹn sẽ cải tổ lĩnh vực an ninh và xem xét các hợp đồng khai thác mỏ.
Vào cuối tháng 2 năm 2013, bạo lực chính trị bùng phát ở Guinea sau khi những người biểu tình xuống đường bày tỏ lo ngại về tính minh bạch của cuộc bầu cử tháng 5 năm 2013 sắp tới. Các cuộc biểu tình được thúc đẩy bởi quyết định của liên minh đối lập từ bỏ quy trình bầu cử, để phản đối sự thiếu minh bạch trong việc chuẩn bị cho các cuộc bầu cử. Chín người đã thiệt mạng trong các cuộc biểu tình và khoảng 220 người bị thương. Nhiều người chết và bị thương khi lực lượng an ninh sử dụng đạn thật bắn vào người biểu tình.
Bạo lực chính trị cũng dẫn đến các cuộc đụng độ liên sắc tộc giữa những người Fula và Malinke. Người Malinke ủng hộ Tổng thống Condé, còn người Fula chủ yếu ủng hộ phe đối lập.
Vào ngày 26 tháng 3 năm 2013, đảng đối lập đã rút lui khỏi các cuộc đàm phán với chính phủ, trong cuộc bầu cử ngày 12 tháng 5 sắp tới. Phe đối lập nói rằng chính phủ đã không tôn trọng họ, và không giữ bất kỳ lời hứa nào mà họ đã hứa hẹn.
Vào ngày 25 tháng 3 năm 2014, Tổ chức Y tế Thế giới cho biết Bộ Y tế Guinea đã báo cáo một đợt bùng phát dịch bệnh do vi rút Ebola ở Guinea. Đợt bùng phát ban đầu này có tổng cộng 86 trường hợp mắc, trong đó có 59 trường hợp tử vong. Đến ngày 28/5, có 281 trường hợp mắc, 186 trường hợp tử vong. Người ta tin rằng trường hợp đầu tiên là Emile Ouamouno, một cậu bé 2 tuổi sống ở làng Meliandou. Ông lâm bệnh vào ngày 2 tháng 12 năm 2013 và mất vào ngày 6 tháng 12. Vào ngày 18 tháng 9 năm 2014, tám thành viên của một nhóm chăm sóc sức khỏe giáo dục Ebola đã bị sát hại bởi dân làng ở thị trấn Womey. Tính đến ngày 1 tháng 11 năm 2015, đã có 3.810 ca nhiễm và 2.536 ca tử vong ở Guinea.
Vào tháng 10 năm 2020, tổng thống Alpha Condé đã thắng cử tổng thống. Condé nắm quyền từ năm 2010 và ông đã tiếp tục nắm quyền tới nhiệm kỳ thứ ba. Phe đối lập đã không chấp nhận kết quả bầu cử của ông vì những cáo buộc gian lận. Tổng thống cho biết một cuộc trưng cầu dân ý về hiến pháp vào tháng 3 năm 2020 cho phép ông tranh cử bất chấp giới hạn hai nhiệm kỳ.
Vào ngày 5 tháng 9 năm 2021, trong một cuộc đảo chính rõ ràng, Trung tá Mamady Doumbouya đã giành quyền kiểm soát truyền hình nhà nước và tuyên bố rằng chính phủ của Tổng thống Alpha Conde đã bị giải tán và biên giới của Guinea bị đóng cửa, một thông báo được đưa ra sau nhiều giờ nổ súng dữ dội gần dinh tổng thống.
Chính trị
Quốc gia này là một nước cộng hòa. Tổng thống do nhân dân trực tiếp bầu ra, vừa là nguyên thủ quốc gia vừa là người đứng đầu chính phủ. Quốc hội đơn viện là cơ quan lập pháp của đất nước này, các thành viên của Quốc hội do nhân dân trực tiếp bầu ra. Nhánh tư pháp được đứng đầu bởi Tòa án Tối cao Guinea, tòa án phúc thẩm cao nhất và cuối cùng trong cả nước.
Guinea là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế, bao gồm Liên minh Châu Phi, Cơ quan Cộng đồng nói tiếng Pháp, Ngân hàng Phát triển Châu Phi, Cộng đồng Kinh tế các Quốc gia Tây Phi, Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Hồi giáo, IMF và Liên Hợp Quốc.
Văn hoá chính trị
Cựu Tổng thống Alpha Condé có được sự ủng hộ từ nhóm dân tộc thứ nhất và có dân số lớn thứ hai của Guinea, Malinke. Nhóm đối lập Guinea có được ủng hộ từ nhóm sắc tộc Fula, những người này chiếm khoảng 45,9 phần trăm dân số.
Hành pháp
Tổng thống Guinea thường được bầu theo phương thức phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ 5 năm; ứng cử viên chiến thắng phải nhận được đa số phiếu bầu để được bầu làm tổng thống. Tổng thống quản lý Guinea, với sự hỗ trợ từ một hội đồng gồm 25 bộ trưởng dân sự do ông chỉ định. Chính phủ quản lý đất nước thông qua tám khu vực, 33 quận, hơn 100 quận và nhiều huyện (được gọi là xã ở Conakry và các thành phố và làng lớn khác, hoặc "mỏ đá" ở nội địa). Các chức danh lãnh đạo cấp huyện được bầu; tổng thống bổ nhiệm các quan chức cho tất cả các cấp khác của cơ quan hành chính với mức độ tập trung cao.
Kể từ cuộc bầu cử tổng thống năm 2010, nguyên thủ quốc gia là Alpha Condé. Tuy nhiên, vị trí nguyên thủ quốc gia của Condé đã bị thách thức bởi vụ đảo chính Guinea năm 2021.
Lập pháp
Quốc hội Guinea, cơ quan lập pháp của đất nước này, đã không họp từ năm 2008 đến năm 2013, khi nó bị giải tán sau cuộc đảo chính quân sự vào tháng 12. Các cuộc bầu cử đã bị hoãn nhiều lần kể từ năm 2007. Vào tháng 4 năm 2012, Tổng thống Condé đã hoãn vô thời hạn các cuộc bầu cử, với lý do cần đảm bảo rằng các cuộc bầu cử này "minh bạch và dân chủ".
Bầu cử lập pháp Guinean năm 2013 được tổ chức vào ngày 24 tháng 9 năm 2013. Đảng của Tổng thống Alpha Condé , Cuộc biểu tình của Nhân dân Guinea (RPG), đã giành được đa số ghế trong Quốc hội Guinea, với 53 trên 114 ghế. Các đảng đối lập đã giành được tổng cộng 53 ghế, và các nhà lãnh đạo đối lập đã tố cáo kết quả bầu cử chính thức là gian lận.
Đối nội
Ghi-nê theo thể chế Cộng hòa Tổng thống
Tổng thống được tranh cử nhiều lần. Kể từ năm 2003, nhiệm kỳ của Tổng thống kéo dài 7 năm.
Năm 1992, Guinée thực hiện chế độ đa đảng. Hiện nay ở Guinée có hơn 40 đảng phái, trong đó có các đảng chính:
Đảng Thống nhất và Tiến bộ (PUP)
Liên minh Tiến bộ và Đổi mới (UPR)
Liên minh vì tiến bộ của Guinée (UPR)
Liên minh vì Nhân dân của Guinée (UPG)
Đảng Nhân dân Guinée (PPG)
Đối ngoại
Trong những năm 1960, 1970 Guinée là một trong những nước cách mạng tiến bộ nhất châu Phi. Chính quyền của Tổng thống Sékou Touré thực hiện chính sách đối ngoại tích cực chống thực dân, đế quốc, quan hệ hữu nghị với các nước châu Phi tiến bộ và xã hội chủ nghĩa nên Ghi-nê có uy tín lớn ở châu Phi và trên thế giới. Những năm 80, do khó khăn về kinh tế, phải dựa vào viện trợ của phương Tây, Mỹ và các nước Ả Rập thân Mỹ, chính quyền Sékou Touré ngày càng có chiều hướng ngả sang Mỹ và phương Tây. Sau khi Tổng thống Lassana Conté lên cầm quyền, Guinée tuyên bố tiếp tục duy trì đường lối đối ngoại Không liên kết nhưng thực chất thân phương Tây và đối với các vấn đề quốc tế lớn Guinée thường tránh bày tỏ lập trường.
Guinée là thành viên của Phong trào không liên kết, UN, AU, Francophonie, IMF, WB...
Quân đội
Lực lượng vũ trang của Guinea được chia thành năm nhánh — quân, hải quân, không quân, Lực lượng hiến binh quốc gia bán quân sự và Lực lượng Vệ binh Cộng hòa — mà các thủ lĩnh báo cáo với Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng, người trực thuộc Bộ trưởng Quốc phòng. Ngoài ra, lực lượng an ninh của chế độ bao gồm Lực lượng Cảnh sát Quốc gia (Sûreté Nationale). Lực lượng Hiến binh, chịu trách nhiệm về an ninh nội bộ, có lực lượng khoảng vài nghìn người.
Quân đội, với khoảng 15.000 nhân viên, cho đến nay là nhánh lớn nhất của các lực lượng vũ trang. Nó chịu trách nhiệm chính trong việc bảo vệ biên giới bang, an ninh của các vùng lãnh thổ được quản lý và bảo vệ lợi ích quốc gia của Guinea. Tổng số lính không quân khoảng 700 người. Trang bị của lực lượng này bao gồm một số máy bay chiến đấu và vận tải cơ do Nga cung cấp. Hải quân có khoảng 900 người và vận hành một số tàu tuần tra nhỏ và sà lan.
Nhân quyền
Đồng tính luyến ái là bất hợp pháp ở Guinea. Quan hệ đồng giới được coi là một điều cấm kỵ mạnh mẽ và thủ tướng nước này đã tuyên bố vào năm 2010 rằng ông không coi xu hướng tình dục là một quyền chính đáng của con người.
Guinea là một trong những quốc gia có tỷ lệ cắt bộ phận sinh dục nữ cao nhất thế giới theo Anastasia Gage, phó giáo sư tại Đại học Tulane và Ronan van Rossem, phó giáo sư tại Đại học Ghent. Việc cắt bộ phận sinh dục nữ ở Guinea đã được thực hiện trên 98% phụ nữ, tính đến năm 2009. Ở Guinea hầu như tất cả các nền văn hóa, tôn giáo và sắc tộc đều thực hành cắt bộ phận sinh dục nữ. Điều tra Nhân khẩu học và Sức khỏe năm 2005 báo cáo rằng 96% phụ nữ đã trải qua việc cắt xẻo bộ phận sinh dục của mình. Không ai truy tố những người thực hiện hành vi này.
Khu vực và quận
Guinée được chia thành 7 khu vực hành chính và 33 quận.
Thủ đô Conakry được xếp hạng là một khu vực đặc biệt.
Địa lý
Guinée nằm ở Tây Phi, bên bờ Đại Tây Dương có chung biên giới với Guiné-Bissau, Sénégal, Mali, Bờ Biển Ngà, Liberia và Sierra Leone. Vùng đồng bằng ven biển tiếp giáp với khôi núi Fouta-Djalon. Vùng cao nguyên phía Đông phần lớn là các đồng cỏ nơi có thượng lưu sông Niger chảy qua; phía Đông Nam là các khối núi cao có các khu rừng rậm bao phủ.
Kinh tế
Năm 1985, Guinée thực hiện cải cách kinh tế theo hướng đẩy mạnh quá trình tư nhân hoá và chuyển sang cơ cấu kinh tế thị trường, nhà nước chỉ quản lý các ngành kinh tế lớn như năng lượng, viễn thông, khai khoáng.
Hiện Guinée đang cố gắng tìm lại hình ảnh và kêu gọi hỗ trợ từ các nhà tài trợ quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), và các nước tài trợ... Trong năm 2008, đồng Fanc Guinée giảm giá mạnh do giá cả các mặt hàng thiết yếu trong nước vượt quá mức tiêu dùng của người dân.
Nông nghiệp: Nông nghiệp chiếm khoảng hai phần ba lực lượng lao động. Guinée có khoảng 9 triệu ha đất trồng trọt ít chịu ảnh hưởng của sa mạc hoá, thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Sản phẩm chính có cà phê, chuối, lúa, ngô, dứa... Do chính sách nông nghiệp không kích thích được sản xuất, nên sản xuất nông nghiệp của Guinée không phát triển. Hàng năm Guinée phải nhập khẩu từ 150.000 đến 200.000 tấn gạo/năm. Guinée sớm thực hiện cải cách kinh tế và từng bước thực hiện cải cách chính trị. Mặc dù Guinée là nước sản xuất lúa lớn thứ hai tại châu Phi sau Nigeria nhưng sản xuất vẫn chưa đủ đáp ứng nhu cầu trong nước. Với diện tích canh tác là 450.000 ha, sản lượng trung bình năm là 800.000 tấn thóc tương đương 533.000 tấn gạo, nước này hiện phải nhập khẩu 325.000 tấn gạo mỗi năm, tức là tăng 40% so với cách đây 10 năm. Mỗi người dân tiêu thụ gần 100 kg gạo mỗi năm. Phần lớn gạo địa phương được tiêu thụ và kinh doanh dưới dạng gạo đồ. Các nước cung cấp chính là Indonesia, Ấn Độ, Ai Cập và Việt Nam.
Công nghiệp: Guinée là nước giàu tài nguyên khoáng sản. Guinée có trữ lượng bauxite 18 tỉ tấn (chiếm 1/2 trữ lượng thế giới, đứng thứ 2 thế giới về sản xuất bauxite), sắt 13 tỉ tấn, kim cương 5 triệu carats... Khai thác bô xít là ngành công nghiệp chính của Guinée, sản xuất 12 triệu tấn/năm, ngoài ra còn khai thác vàng, kim cương. Ngành khai thác mỏ chiếm 70% giá trị xuất khẩu của Guinée. Thời gian gần đây, mỗi năm trung bình Guinée xuất khẩu khoảng 1,5 tỷ USD gồm các mặt hàng bô xít, nhôm, vàng, kim cương, cà phê, cá, sản phẩm nông nghiệp. Các đối tác xuất khẩu chính gồm Ấn Độ, Tây Ban Nha, Nga, Đức, Hoa Kỳ, Ireland, Pháp và Ukraina. Guinée nhập khẩu cũng khoảng 1,5 tỷ USD mỗi năm gồm sản phẩm dầu khí, kim loại, thiết bị vận tải, dệt may, ngũ cốc và thực phẩm khác. Các đối tác nhập khẩu chính gồm Trung Quốc, Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha, Hoa Kỳ, Bỉ và Ấn Độ.
GDP (thực tế): 10,64 tỷ USD (2009)
GDP bình quân (thực tế): 1100 USD (2009)
Tăng tưởng GDP: -2,5% (2009)
Cơ cấu kinh tế: nông nghiệp 23,7%, công nghiệp 36,1%, dịch vụ 40,2%.
Giao thông vận tải
Dân số
Dân số khoảng 10, 057 triệu người. Bao gồm các nhóm sắc tộc: người Peuhl 40%, Malinke 30%, Soussou 20%, các bộ tộc nhỏ 10%.
Ngôn ngữ chính thức của Guinea là tiếng Pháp. Ngôn ngữ quan trọng khác được nói là tiếng Pular (Fulfulde hoặc Fulani), Maninka (Malinke), susu, Kissi, Kpelle, và Loma.
Tôn giáo
Hồi giáo là tôn giáo chiếm đa số. Khoảng 85% dân số là người Hồi giáo, trong khi 8% là Kitô giáo, và 7% giữ niềm tin duy linh truyền thống. Hồi giáo Guinea nói chung là dòng Sunni và Sufi; có rất ít người Hồi giáo Shia ở Guinea. Kitô giáo giáo bao gồm Công giáo La Mã, Anh giáo, Baptist, Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm, và các nhóm Tin Lành khác. Nhân chứng Jehovah hiện đang hoạt động trong cả nước và được công nhận bởi Chính phủ. Có một cộng đồng Bahá'í nhỏ. Có một số lượng nhỏ của người Hindu, Phật giáo và các tôn giáo truyền thống của Trung Quốc trong cộng đồng người nước ngoài.
Quân đội
Lực lượng vũ trang Guinea được chia thành năm nhánh - lục quân, hải quân, không quân, hiến binh bán quân sự và Cảnh sát. Ngoài ra, lực lượng an ninh chế độ bao gồm Lực lượng Cảnh sát Quốc gia (Sûreté). Đội hiến binh, chịu trách nhiệm về an ninh nội bộ.
Lục quân, với khoảng 15.000 người, đến nay là nhánh lớn nhất của lực lượng vũ trang. Chủ yếu chịu trách nhiệm bảo vệ biên giới, an ninh của vùng lãnh thổ quản lý, và bảo vệ lợi ích quốc gia Guinea. Lực lượng không quân tổng số khoảng 700 người. Thiết bị của lực lượng bao gồm một số máy bay chiến đấu của Nga cung cấp. Hải quân có khoảng 900 người và hoạt động với một số tàu tuần tra nhỏ và sà lan.
Y tế
Dịch vụ chăm sóc y tế của Guinée rất yếu kém (chỉ những người giàu mới được tiếp cận đầy đủ). Khoảng 1/2 số bác sĩ sinh sống ở thủ đô Conakry. Một số trung tâm y tế được mở ra ở nông thôn, cung cấp dịch vụ chăm sóc cơ bản với giá rẻ. Suy dinh dưỡng ở trẻ em khá phổ biến. Guinée có tỉ lệ tử vong trẻ sơ sinh vào loại khá cao trên thế giới.
Năm 2014, một đợt bùng phát virus Ebola đã xảy ra ở Guinée. Vào đầu tháng 8 năm 2014, Guinée đã đóng cửa biên giới của mình với Sierra Leone và Liberia để giúp ngăn chặn sự lây lan của virus. Mặc dù là nơi khởi phát virus Ebola, nhưng theo báo cáo Guinea có số ca nhiễm là 3.811 ca với 2.543 trường hợp tử vong, thấp hơn nhiều so với 2 quốc gia láng giềng. Dịch được công bố kết thúc ngày 1 tháng 6 năm 2016, nhưng đã tái phát trở lại vào tháng 1 đến tháng 2 năm 2021.
Các trường hợp đầu tiên nhiễm HIV/AIDS được báo cáo vào năm 1986. Mặc dù mức độ nhiễm AIDS thấp hơn so với một số quốc gia châu Phi khác, nhưng đến năm 2005, Tổ chức Y tế Thế giới cho biết Guinée đang đối mặt với căn bệnh này một cách phổ biến. Ước tính có khoảng 170.000 người lớn và trẻ em bị nhiễm căn bệnh này vào cuối năm 2004. Sự lây lan của HIV/AIDS được cho là do các yếu tố như giáp với các quốc gia có tỷ lệ người dân nhiễm HIV/AIDS cao, đón nhận lượng người tỵ nạn lớn, v.v.
Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em cao và dịch sốt rét là những vấn đề nghiêm trọng tại Guinée.
Văn hóa
Ngôn ngữ
Tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thức, các thổ ngữ khác được sử dụng rộng rãi.
Thể thao
Bóng đá là môn thể thao phổ biến nhất ở Guinea, được điều hành bởi Liên đoàn bóng đá Guine. Hiệp hội quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia, cũng như giải đấu quốc gia. Nó được thành lập vào năm 1960 và là thành viên của FIFA năm 1962 và Liên đoàn bóng đá châu Phi năm 1963.
Chế độ đa thê
Chế độ đa thê thường bị luật pháp ở Guinea cấm nhưng ở một vài địa phương vẫn còn tồn tại. UNICEF báo cáo rằng 53,4% phụ nữ Guinea trong độ tuổi 15–49 có hôn nhân đa thê. |
Burkina Faso (phiên âm Tiếng Việt: Buốc-ki-na Pha-xô) (Tiếng Fula:𞤄𞤵𞤪𞤳𞤭𞤲𞤢 𞤊𞤢𞤧𞤮) là một quốc gia nằm ở Tây Phi và có biên giới với Mali, Niger, Bénin, Togo, Ghana và Bờ Biển Ngà. Trước đây, nước này gọi là nước Cộng hòa Thượng Volta, sau đó tháng 4 năm 1984, tổng thống Thomas Sankara đổi tên gọi để có nghĩa "Đất nước của những người ngay thẳng" trong tiếng Moré và Dioula, ngôn ngữ dân tộc chính của nước này.
Burkina Faso giành độc lập từ Pháp năm 1960, ngay sau đó là những bất ổn về chính trị trong thời gian từ thập niên 1970 đến 1980. Cuộc bầu cử đa đảng phái đầu tiên của nước này được tổ chức vào những năm 1990.
Lịch sử
Thời kỳ nguyên thủy
Giống như tất cả các xứ phía tây của châu Phi, Burkina Faso có dân cư từ khá sớm. Từ khoảng năm 12.000 đến 5000 TCN, ở phía bắc của đất nước đã có những người đi săn và người hái lượm; những công cụ của họ (nạo, đục và tên) đã được phát hiện vào năm 1973. Những người làm nông nghiệp đã đến cư trú ở đất nước này vào khoảng 3600 đến 2600 TCN, họ để lại những kiến trúc gây ấn tượng cho cả thời nay. Việc sử dụng đồ sắt, đồ gốm và đồ đá mài nhẵn phát triển vào thời kỳ giữa 1500 và 1000 TCN. Đời sống tinh thần cũng phát triển trong thời kỳ này, thể thể hiện qua các di chỉ được tìm thấy trong các nơi chôn cất người chết.
Những di tích Dogon được tìm thấy trong trung tâm phía bắc, phía bắc và vùng tây bắc. Vào giữa thế kỷ XV và thế kỷ XVI TCN, những chủ nhân của chúng đã rời bỏ vùng này và chuyển tới vùng vách đá đứng ở Bandiagara. Người ta đã phát hiện các bức tường cao tại các địa phương ở phía tây nam của Burkina Faso (cũng như tại Côte d'Ivoire). Nhưng hiện vẫn chưa biết chủ nhân của chúng là ai.
Burkina Faso là một vùng kinh tế rất quan trọng của đế quốc Songhai vào thế kỷ XV và thế kỷ XVI.
Từ thuộc địa tới độc lập
Sau một thập niên của sự giằng xé và cạnh tranh giữa Anh và Pháp, thông qua hiệp ước quy định đội quân viễn chinh dưới quân đội và những người tiên phong dân sự, vào năm 1896, Thực dân Pháp đánh thắng Vương quốc Ouagadougou, và bắt buộc họ phải trở thành một nước bảo hộ thuộc Pháp. Vào khoảng năm 1898, lãnh thổ tương đương Burkina Faso hôm nay đã được lấy lại, mặc dù điều khiển nhiều phần vẫn còn không ổn định. Pháp và Anh thỏa thuận ngầm ngày 14 tháng 6 năm 1898, chấm dứt sự tranh giành giữa hai quyền thuộc địa và cơ bản không để lại dấu vết đường biên giới giữa họ. Dựa trên Pháp đã đứng ngoài cuộc chiến tranh giành lại những cộng đồng địa phương và các thế lực chính trị tiếp tục cho đến chừng 5 năm. Vào năm 1904 đế quốc thuộc địa Tây Phi thuộc Pháp với phạm vi lớn được tổ chức lại, bây giờ phần lớn được bình định lãnh thổ của lòng chảo sông Volta được hợp nhất vào Thượng Senegal-Niger (Haut-Sénégal et Niger). Thuộc địa vốn có của nó có thủ phủ là Bamako, là thủ đô của nước Mali ngày nay.
Những quân dịch từ lãnh thổ tham gia mặt trận châu Âu của chiến tranh thế giới thứ nhất trong các tiểu đoàn bộ binh Senegal (Tirailleurs sénégalais). Giữa năm 1915 và 1916 các vùng phía phía tây nơi mà bây giờ là Burkina Faso và Biên giới phía đông của Mali trở thành phạm vi hoạt động của một trong những lực lượng vũ trang quan trọng chống lại chính phủ thuộc địa (được biết đến như cuộc chiến tranh Volta-Bani). Chính phủ Pháp cuối cùng phải đàn áp phong trào, nhưng chỉ khi sau việc bị thất bại vì được huy động lực lượng quân viễn chinh lớn nhất của nó lịch sử thuộc địa bước sang trang. Lực lượng vũ trang đối lập cũng phá hoại phía bắc xứ Sahel, trong khi người Tuareg và nhóm liên minh vùng Dori chấm dứt sự ngừng bắn của họ với chính phủ. Đồng thời cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc vào ngày 01 tháng 3 năm 1919, sợ hãi sự tái diễn đều đặn của nổi dậy bằng vũ trang và các cân nhắc kinh tế dẫn đến chính phủ thuộc địa phân ra lãnh thổ hiện thời là Burkina Faso từ Thượng Sénégal et Niger nhằm tăng cường quản lý nó. Thuộc địa mới được đặt tên là Thượng Volta và François Charles Alexis Édouard Hesling trở thành thống đốc đầu tiên của nó. Hesling bắt đầu thực hiện một chương trình đầy tham vọng và đã xúc tiến trồng bông xuất khẩu. Chính sách bông, dựa vào sự bắt buộc, thất bại và thu nhập đình trệ. Thuộc địa đã bị phá bỏ vào ngày 5 tháng 9 năm 1932, và lãnh thổ của nó đã được chia cắt giữa Côte d’Ivoire, Mali và Niger, sự chia cắt nhiều nhất là dân số và các thành phố của Ouagadougou và Bobo-Dioulasso trải dài tới Côte d'Ivoire.
Quyết định đã đảo ngược trong thời điểm quần chúng chống đối mạnh thuộc địa, mãi cho đến kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai và ngày 4 tháng 9 năm 1947, Thượng Volta đã được tái lập lại ranh giới của nó có từ năm 1932. Vào ngày 11 tháng 12 năm 1958, nó được trao quy chể tự trị trở thành một nước cộng hòa và là thành viên cộng đồng Pháp-Phi (La Communauté Franco-Africaine). Năm 1960 đã đạt được độc lập đầy đủ. Năm 1966 sự kiện quân đội đầu tiên được lập; chế độ dân sự trở lại năm 1978. Đã có những tác động khác thường, theo chủ trương của Saye Zerbo vào năm 1980, với chiều hướng đã bị lật đổ năm 1982. Một sự táo bạo chống lại giới thiệu năm 1983, mà mang lại thuyết phục người thủ lĩnh Thomas Sankara lên lãnh đạo. Vào năm 1984 chính phủ cách mạng đã thay đổi tên nước là "Burkina Faso" và đặt lại quốc kỳ, quốc ca. Tổng thống hiện thời là Blaise Compaoré, người đã nắm quyền lực từ năm 1987 sau cuộc đảo chính giết chết Thomas Sankara.
Chính trị
Hiến pháp ngày 2 tháng 6 năm 1991 thiết lập một chế độ bán tổng thống (có cả tổng thống và thủ tướng) và một nghị viện. Tổng thống có quyền giải tán nghị viện. Tổng thống được bầu chọn và có nhiệm kì 7 năm. Tuy nhiên vào năm 2000, một hiến pháp quy định giảm nhiệm kì của tổng thống từ 7 năm xuống 5 năm. Đáng lẽ đã có một sửa đổi hiến pháp nữa vào năm 2005 nhằm ngăn tổng thống đương nhiệm Blaise Compaoré tái ứng cử thêm một nhiệm kỳ nữa. Tuy nhiên, vì không gặp phải thách thức nào từ những ứng viên là những lãnh tụ đảng khác, vào tháng 10 năm 2005 hội đồng hiến pháp quyết định rằng bởi vì Compaoré đương nhiệm từ năm 2000, nên hiến pháp sửa đổi sẽ không có hiệu lực với ông khi kết thúc nhiệm kỳ tổng thống lần hai. Nó đã dọn đường cho ông này tái cử vào năm 2005. Vào ngày 13 tháng 11 năm 2005, Compaoré tái cử dễ dàng do các phe đối lập thiếu đoàn kết.
Nghị viện được chia làm hai viện: Thượng viện và Hạ viện. Có một tòa án hiến pháp bao gồm 10 thành viên, và một hội đồng kinh tế và xã hội có vai trò là tư vấn thuần túy.
Đối ngoại
Burkina Faso thực hiện đường lối không liên kết, quan hệ hữu nghị với tất cả các nước nhưng ưu tiên láng giềng khu vực và đẩy mạnh quan hệ với các nước phương Tây nhất là Pháp để tranh thủ đầu tư vốn và kỹ thuật.
Năm 1996, sau khi Burkina Faso lập quan hệ ngoại giao với Đài Loan, Trung Quốc đã cắt đứt quan hệ ngoại giao với nước này. Với vai trò là trung gian tích cực giải quyết xung đột nội bộ, sắc tộc tại một số nước Tây Phi (Togo, Niger), vị thế của Burkina Faso ngày càng được các nước trong khu vực và quốc tế coi trọng.
Burkina Faso là thành viên của Liên Hợp Quốc, Phong trào không liên kết, AU, WTO, Francophonie, ECOWAS và từng là thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc (khoá 2008-2009).
Hành chính
Burkina Faso được chia thành 13 vùng, 45 tỉnh, và 301 huyện. Các vùng gồm:
Boucle du Mouhoun
Cascades
Centre
Centre-Est
Centre-Nord
Centre-Ouest
Centre-Sud
Est
Hauts-Bassins
Nord
Plateau-Central
Sahel
Sud-Ouest
Điều kiện tự nhiên
Địa lý
Burkina Faso tạo được hai kiểu địa lý chính:
Phần lớn của đất nước được bao bọc bởi một bán bình nguyên với địa hình phong cảnh hữu tình gợn sóng, tại vài vùng có một ít ngọn đồi cô lập, những vết tích cuối cùng của một vùng đất sơ khai.
phía tây nam thuộc những dạng mẫu thôn quê với dãy núi cát, nơi này đỉnh núi cao nhất là Ténakourou (749 m, 2.450 ft) tọa lạc. Dãy núi có những dốc đá dựng đứng 150 m (490 ft).
Độ cao trung bình của Burkina Faso là 400 m (1.300 ft), không có sự chênh lệch nhiều lắm giữa nơi có địa hình cao nhất và thấp nhất. Bởi vậy Burkina Faso là một nước tương đối bằng phẳng, với một vài địa phương là ngoại lệ.
Thủy văn
Tên đầu tiên của Burkina Faso là Thượng Volta, theo tên ba dòng sông được chảy qua đất nước: Mouhoun (trước đây gọi là Volta đen), Nakambé (Volta trắng) và Nazinon (Volta đỏ). Mouhoun là một trong hai dòng sông duy nhất của đất nước này có nước chảy quanh năm, dòng sông còn lại là Komoé.
Những phụ lưu sông Niger (Béli, Gorouol, Goudébo và Dargol) là những dòng chảy theo mùa, và chỉ chảy khoảng từ 4 đến 6 tháng trong một năm những có thể gây ra những nạn lụt lớn. Những hồ lớn ở nước này là Tingrela, Bam, Dem, Oursi, Béli, Yomboli và Markoye.
Thiếu nước thường là một vấn đề, đặc biệt là phía bắc đất nước.
Khí hậu
Burkina Faso có khí hậu xích đạo điển hình với hai mùa rõ rệt. Mùa mưa có lượng mưa đo được từ 600 and 900 mm. Còn vào mùa khô, gió harmattan từ sa mạc Sahara thổi tới mang theo hơi nóng. Mùa mưa có thể kéo dài xấp xỉ khoảng bốn tháng, tháng năm hay tháng sáu tới tháng chín. Mùa mưa ở miền Bắc ngắn hơn.
Có thể chia làm ba khu vực khí hậu lớn:
Khu vực Sahel
Vùng Sahel ở miền bắc có các đặc trưng: tiếp nhận ít hơn 24 inch (600 mm) mưa mỗi năm và nhiệt độ cao từ 5-47 °C (40-115 °F). Khí hậu nhiệt đới tương đối khô ráo. Khu vực này mở rộng bên ngoài Burkina Faso, từ mỏm châu Phi đến Đại Tây Dương. Biên giới phía bắc của vùng Sahel giáp sa mạc Sahara, và vùng đất phì nhiêu của Sudan tới phía nam.
Khu vực Sudan-Sahel
Vị trí được xác định là giữa 11°3’ và 13°5’ độ vĩ bắc, vùng Sudan-Sahel là một vùng trung chuyển xét cả về mưa và nhiệt độ.
Khu vực Sudan-Guinée
Xa hơn nữa về phía nam, khu vực Sudan-Guinée nhận được 900 mm lượng mưa mỗi năm và có nhiệt độ bình quân thấp hơn.
Tài nguyên thiên nhiên
Burkina Faso có nhiều tài nguyên thiên nhiên, bao gồm: mangan, phosphat, đá bọt, muối và một ít lượng vàng tự nhiên.
Kinh tế
Burkina Faso là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới. Thu nhập (GDP) bình quân đầu người của nước này chỉ có 1.200 USD, là nước nghèo thứ 27 thế giới. Nông nghiệp chiếm 32% sản lượng nội địa và tạo việc làm cho 80% dân chúng. Chủ yếu là chăn nuôi gia súc, nhưng ở miền nam và tây nam, người ta cũng trồng cây lúa miến, cây kê ngọc trai, ngô, cây lạc, lúa và bông.
Thiếu việc làm đã thúc đẩy di cư. Có tới ba triệu người từ Burkina Faso sang sống ở Côte d'Ivoire. Theo Ngân hàng Trung ương Tây Phi, những người di cư mỗi năm gửi 10 tỉ Euro về Burkina Faso. Kể từ sự việc Ghana trục xuất người nhập cư năm 1967, việc di cư đã liên tục gây ra những sự căng thẳng ở những nước đến. Cuộc khủng hoảng gần đây nhất là vào năm 2003 ở Côte d'Ivoire dẫn tới sự hồi hương của 300.000 người di trú.
Một bộ phận lớn hoạt động kinh tế của Burkina Faso được tài trợ bằng viện trợ quốc tế.
Đơn vị tiền tệ hiện tại của Burkina Faso là đồng franc CFA Tây Phi.
Ngành khai mỏ khai gồm đồng, sắt, mangan và trên hết là vàng.
Burkina Faso cũng là chủ nhà của hội chợ hàng thủ công mỹ nghệ Ouagadougou, được biết đến nhiều hơn với tên tiếng Pháp là SIAO (Le Salon International de L Artisanat de Ouagadougou), một trong những hội chợ hàng thủ công quan trọng nhất châu Phi.
Hiện nay, Burkina Faso đang đẩy mạnh chính sách mở cửa, tập trung vốn, kỹ thuật vào việc phát triển nông nghiệp để tiến tới tự túc được lương thực. Ngoài việc đẩy mạnh hợp tác ở khu vực Tây Phi và ngoài các bạn hàng truyền thống như Pháp, Trung Quốc, Ấn Độ, Singapore và Thái Lan, Burkina Faso đang tìm cách mở rộng quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế và các nước khác trong đó có Việt Nam.
Dân số
Người Burkina Faso có tuổi thọ dự tính lúc sinh là 50. Độ tuổi trung vị của dân cư là 17.
Tốc độ tăng trưởng dân số: 3% (2006).
Dân cư tập trung chủ yếu phía nam và trung tâm đất nước, đôi khi có mật độ hơn 48 người/km². Mật độ dân cư cao là căn nguyên hàng năm của việc hàng trăm nghìn dân di cư lao động mùa vụ.
Xấp xỉ 50% dân số là người Hồi giáo; ước chừng 30% theo Cơ đốc giáo và những người theo tôn giáo truyền thống châu Phi được khoảng 20%. Nhiều tín đồ Cơ đốc giáo kết hợp những nét truyền thống vào trong tôn giáo của họ.
Văn hóa
Hai yếu tố chính của văn hóa Burkina Faso là mặt nạ và khiêu vũ. Những mặt nạ được dùng trong nghi lễ hy sinh tới những vị thần và tinh thần hồn nhiên và vui vẻ trong làng, thể hiện sự ao ước của nông dân bởi lời nguyện cầu nơi chốn thiêng liêng.
Nhà hát quần chúng trong thủ đô Ouagadougou, là một trung tâm văn hóa xã hội của đất nước. Ouagadougou là một trong những trục bánh xe của châu Phi, hoạt động kéo theo vào rạp chiếu phim. Mỗi năm gọi FESPACO là chủ nhân liên hoan phim châu Phi Pan. Liên hoan phim và truyền hình châu Phi của Ouagadougou là một mối quan tâm lớn của thế giới. Văn hóa nghệ thuật thì được trình bày xa hơn ở tại Laongo, những nghệ sĩ từ toàn bộ thế giới được mời đến một vùng có đá hoa cương được bày và điêu khác trên tảng đá Idrissa Ouedraogo. Có lẽ giám đốc ở châu Phi thành công về thương mại nhất từ Burkina Faso.
Giáo dục
Giáo dục ở Burkina Faso được chia thành tiểu học, trung học và đại học. Tuy nhiên, muốn đến trường phải đóng học phí. Học phí trung học trị giá xấp xỉ 65 USD (33.000 franc CFA Tây Phi) một năm, cao hơn nhiều thu nhập bình quân của các gia đình ở quốc gia này. Học sinh nam nhận được nhiều ưu tiên hơn trong trường học; như thế, giáo dục dành cho trẻ em gái và tỉ lệ biết chữ chung thấp hơn nhiều. Nhiều kỳ thi quốc gia được tổ chức hằng năm. Các tổ chức giáo dục đại học bao gồm Đại học Ouagadougou và Đại học Bách khoa Bobo-Dioulasso.
Có một trường quốc tế ở Ouagadougou (ISO), là một trường tư của Mỹ đặt trong thủ đô Ouagadougou.
Theo báo cáo của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc, Burkina Faso là một trong số các quốc gia mù chữ nhất thế giới, với chỉ 12,8% dân số biết đọc biết viết. |
Thái Bình là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Thái Bình, Việt Nam.
Thành phố Thái Bình là trung tâm kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, quốc phòng... của tỉnh và cũng là một trong 8 thành phố của vùng duyên hải Bắc Bộ. Nằm cách thủ đô Hà Nội 110 km, đồng thời là đầu mối giao thông của tỉnh; thuận lợi giao lưu với các tỉnh, thành phố trong vùng như Hải Phòng, Nam Định, đồng bằng sông Hồng qua quốc lộ 10.
Địa lý
Thành phố Thái Bình nằm ở vị trí trung tâm của tỉnh, cách thủ đô Hà Nội 110 km về phía đông nam, cách thành phố Hải Phòng 60 km về phía tây nam, cách thành phố Nam Định 19 km về phía đông. có vị trí địa lý:
Phía đông nam và phía nam giáp huyện Kiến Xương
Phía tây và phía tây nam giáp huyện Vũ Thư
Phía bắc giáp huyện Đông Hưng.
Thành phố Thái Bình có diện tích 67,71 km², dân số theo tổng điều tra ngày 1/4/2019 là 206.037 người.
Sông Trà Lý chảy qua giữa thành phố, ngoài ra còn có sông Kiến Giang chảy ở phía nam và sông Vĩnh Trà.
Thành phố Thái Bình là vùng đất bằng phẳng, có cao độ 2,6 m, có sông Trà Lý chảy qua với chiều dài 6,7 km, có hệ thống sông đào đã được nâng cấp, kè bờ. Chất đất ở đây có nguồn gốc phát sinh từ các cồn và bãi cát biển nhưng được bồi đắp phù sa nên rất thích hợp cho việc gieo trồng lúa nước và cây rau màu. Nơi đây cũng rất ổn định về địa chất, phù hợp với việc phát triển các ngành công nghiệp hay xây dựng những công trình cao tầng. Nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, tiểu vùng khí hậu duyên hải. Thành phố có 2 mùa rõ rệt trong năm: mùa nóng ẩm mưa nhiều kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10, còn lại là mùa khô hanh ít mưa. Nhiệt độ trung bình ở đây là 23 độ C, lượng mưa trung bình từ 1.500-1.900mm, độ ẩm không khí dao động 70-90%, số giờ nắng khoảng 1.600-1.800 giờ mỗi năm.
Hành chính
Thành phố Thái Bình có 19 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 10 phường: Bồ Xuyên, Đề Thám, Hoàng Diệu, Kỳ Bá, Lê Hồng Phong, Phú Khánh, Quang Trung, Tiền Phong, Trần Hưng Đạo, Trần Lãm và 9 xã: Đông Hoà, Đông Mỹ, Đông Thọ, Phú Xuân, Tân Bình, Vũ Chính, Vũ Đông, Vũ Lạc, Vũ Phúc.
Danh sách các đơn vị hành chính thuộc thành phố Thái Bình
Lịch sử
Bố Hải Khẩu là tên một đất cổ từ thời Ngô, nay thuộc phường Kỳ Bá, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. Vào thế kỉ 10, là cửa biển, do sứ quân Trần Lãm chiếm giữ làm căn cứ. Đinh Bộ Lĩnh liên kết với Trần Lãm để mở rộng thế lực trong cuộc đấu tranh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước. Năm 1030, vua Lý Thái Tông cày tịch điền ở Bố Hải Khẩu. Sau Bố Hải Khẩu được bồi lấp dần thành xã Kỳ Bố, huyện Vũ Tiên, trấn Sơn Nam Hạ (thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay). Đến năm 1890 khi thành lập tỉnh Thái Bình tách ra từ Nam Định, nơi đây được chọn làm tỉnh lỵ của tỉnh, lấy tên là Thái Bình cho đến bây giờ.
Năm 1894, toàn quyền Đông Dương Jean-Marie de Lanessan ra quyết định quy hoạch thành lập thị xã Thái Bình.
Ngày 4 tháng 2 năm 1895, Kinh lược sứ Bắc Kỳ ra quyết định sáp nhập các làng Kỳ Bá, Bồ Xuyên vào phủ lỵ Kiến Xương để lập thị xã Thái Bình. Gọi là thị xã song thực ra chỉ có hai con đường trục của làng Bồ Xuyên và Kỳ Bá. Một con đường từ phủ đường qua cầu Kiến Xương (cách nhà Bảo tàng 200m) đi huyện Trực Định. Đường trục làng Bồ Xuyên và Kỳ Bá đều có đoạn dài xấp xỉ 1 km nhưng ngoằn nghèo.
Ngày 20 tháng 1 năm 1906, phủ Thống sứ ra Nghị định hoạch định chu vi thị xã.
Ngày 26 tháng 10 năm 1932, ra nghị định về kế hoạch điều chỉnh ba con đường cho thẳng hàng:
Phố phía Bắc gọi là Đệ Nhất, tên Tây là Jules Piquet, vì qua cửa đền Mẫu nên còn gọi là phố Đền Mẫu (nay là phố Lê Lợi).
Phố phía Nam gọi là Đệ Nhị, tên Tây là Armand Rousseau, vì có nhà Vọng Cung (nơi quan lại Nam triều tế lễ vào các ngày sóc vọng) nên còn gọi phố Vọng Cung.
Phố phía Đông cắt từ đền Trần Lãm cũ (sau là dinh Công sứ - nay thuộc khu vực Tỉnh ủy). Chỉ từ đấy ra đến bờ mương, đài độ 300m gọi là phố Đệ Tam, tên Tây là De Miribel, vì cạnh sông bán nhiều tre nứa còn gọi là phố Giá Nứa.
Phố Đệ Nhất và Đệ Tam dài 1,2 km khi gặp nhau ở An Tập, tụ điểm vài tiệm cô đầu. Cạnh bờ sông có toà Công sứ và dinh Tổng đốc xây kiểu Tây, 2 tầng; 1 trường tiểu học; 1 nhà thương (bệnh viện) nhỏ; 1 nhà dây thép (bưu điện)... Dân toàn thành phố có trên 3.000 người, song ở phố chỉ độ 1.600 khẩu, 80% dân vẫn ở trong làng. Người Tây lúc đông có gần 50 khẩu, người Hoa có 25 hộ. Người Tây thì ăn lương, người Hoa bốc thuốc, buôn bán vặt và mở tiệm ăn. Diện mạo thị xã như một thị trấn nhỏ ngày nay, nhưng tiều tuỵ không có nhiều nhà cao cửa rộng.
Năm 1954, thành lập các tiểu khu: Đề Thám, Lê Hồng Phong, Quang Trung.
Ngày 19 tháng 4 năm 1963, sáp nhập 3 thôn: Kỳ Bá, An Tập, Đồng Lôi thuộc xã Vũ Lãm (sau đổi là xã Trần Lãm) của huyện Vũ Tiên và thôn Bồ Xuyên thuộc xã Tiền Phong của huyện Thư Trì (sau này huyện Vũ Tiên hợp nhất với huyện Thư Trì thành huyện Vũ Thư) vào thị xã Thái Bình.
Sau năm 1975, thị xã Thái Bình có 5 phường: Bồ Xuyên, Đề Thám, Kỳ Bá, Lê Hồng Phong, Quang Trung.
Ngày 8 tháng 4 năm 1982, chuyển 2 xã: Tiền Phong, Trần Lãm thuộc huyện Vũ Thư về thị xã Thái Bình quản lý.
Ngày 20 tháng 3 năm 1986, chuyển 2 xã: Đông Hòa, Hoàng Diệu thuộc huyện Đông Hưng và 3 xã: Phú Xuân, Vũ Phúc, Vũ Chính của huyện Vũ Thư về thị xã Thái Bình quản lý.
Ngày 21 tháng 6 năm 1989, thành lập phường Phú Khánh trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích và dân số của 2 xã Phú Xuân và Vũ Phúc.
Ngày 12 tháng 4 năm 2002, chuyển 2 xã: Tiền Phong, Trần Lãm thành 2 phường có tên tương ứng.
Cuối năm 2003, thị xã Thái Bình có 8 phường: Bồ Xuyên, Đề Thám, Kỳ Bá, Lê Hồng Phong, Phú Khánh, Quang Trung, Tiền Phong, Trần Lãm và 5 xã: Đông Hòa, Hoàng Diệu, Phú Xuân, Vũ Chính, Vũ Phúc.
Ngày 18 tháng 4 năm 2003, thị xã Thái Bình được công nhận là đô thị loại III.
Ngày 29 tháng 4 năm 2004, thành lập thành phố Thái Bình, thành phố tỉnh lỵ tỉnh Thái Bình trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Thái Bình. Thành phố Thái Bình có 8 phường và 5 xã.
Ngày 13 tháng 12 năm 2007, mở rộng thành phố Thái Bình trên cơ sở sáp nhập 2 xã: Đông Thọ và Đông Mỹ thuộc huyện Đông Hưng, 2 xã: Vũ Lạc và Vũ Đông thuộc huyện Kiến Xương và xã Tân Bình thuộc huyện Vũ Thư; chuyển xã Hoàng Diệu thành phường Hoàng Diệu và thành lập phường Trần Hưng Đạo từ một phần diện tích tự nhiên và dân số của các phường Quang Trung, Tiền Phong, Bồ Xuyên và xã Phú Xuân.
Từ đó, thành phố Thái Bình có 10 phường và 9 xã như hiện nay.
Ngày 12 tháng 12 năm 2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2418/QĐ-TTg công nhận thành phố Thái Bình là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Thái Bình.
Kinh tế - xã hội
Kinh tế
Năm 2014, tổng giá trị sản xuất trên địa bàn thành phố ước đạt 19.868,3 tỷ đồng, tăng 10,02% so với năm 2013. Trong đó:
Công nghiệp - xây dựng 13.865,4 tỷ đồng, tăng gần 10% so với năm 2013;
Thương mại - dịch vụ 5.276,1 tỷ đồng, tăng 9,5% so với năm 2013;
Nông nghiệp đạt 726,8 tỷ đồng,
Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp, xây dựng chiếm 69,56%; thương mại, dịch vụ chiếm 26,83%; nông nghiệp chiếm 3,61%;
Tổng thu ngân sách trên địa bàn ước đạt 1.841,5 tỷ đồng, đạt 140,8% dự toán, tăng 19,6% so với năm 2013;
Tổng chi ngân sách địa phương ước đạt 821,5 tỷ đồng, đạt 163,7% dự toán;
Tổng số lao động toàn thành phố trên 100 nghìn người. Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp đạt trên 70%.
Khu - Cụm Công nghiệp:
KCN Nguyễn Đức Cảnh; diện tích 102 ha (xã Phú Xuân - phường Trần Hưng Đạo - phường Tiền Phong)
KCN Phúc Khánh; diện tích 300 ha (xã Phú Xuân - phường Phúc Khánh)
KCN Tiền Phong: diện tích 56 ha (phường Tiền Phong)
KCN Sông Trà; diện tích 250 ha (xã Tân Bình)
KCN Gia Lễ; diện tích 85 ha (xã Đông Thọ - xã Đông Mỹ, thành phố Thái Bình & xã Đông Dương - xã Đông Xuân, huyện Đông Hưng)
KCN Hoàng Diệu*; diện tích 50 ha (phường Hoàng Diệu)
CCN Phong Phú; diện tích 78 ha (phường Tiền Phong)
CCN Trần Lãm; diện tích 9,33 ha (phường Trần Lãm)
Các KCN và CCN trên đã thu hút hàng trăm dự án với số vốn đầu tư hàng chục ngàn tỷ đồng, và tạo việc làm cho trên 50.000 lao động.
Phấn đấu duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011 - 2015 đạt 18,9%/năm; cơ cấu kinh tế đến năm 2015 nâng tỷ trọng công nghiệp - xây dựng chiếm 64,6%, thương mại - dịch vụ chiếm 33,1%, giảm tỷ trọng nông nghiệp xuống còn 2,3%. GDP bình quân đầu người năm 2015 đạt khoảng 60 triệu đồng.
Giáo dục
Hệ thống cơ sở giáo dục toàn diện với các trường Đại học, Cao đẳng, THPT và nhiều trường tiểu học & THCS
Có 6 trường Đại học và Cao đẳng:
Trường Đại học Y Dược Thái Bình.
Trường Đại học Thái Bình
Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Thái Bình.
Trường Cao đẳng Y tế Thái Bình.
Trường Cao đẳng Sư phạm Thái Bình.
Trường Cao đẳng nghề số 19 Bộ Quốc phòng.
Trên địa bàn thành phố có 5 trường THPT:
Trường Trung học phổ thông chuyên Thái Bình.
Trường THPT Nguyễn Đức Cảnh.
Trường THPT Lê Quý Đôn.
Trường THPT Nguyễn Thái Bình.
Trường THPT Nguyễn Công Trứ.
Y tế
Các cơ sở y tế trên địa bàn thành phố Thái Bình hiện bao gồm:
Tuyến khu vực, ngành: Bệnh viện Đại học Y Thái Bình 200 giường, trực thuộc Bộ Y tế.
Tuyến tỉnh: Bệnh viện Đa khoa Tỉnh; Bệnh viện Phụ sản; Bệnh viện Nhi; Bệnh viện Tâm thần; Bệnh viện Mắt; Bệnh viện da liễu; Bệnh viện Lao và bệnh phổi; Bệnh viện Điều dưỡng phục hồi chức năng; Bệnh viện Y học cổ truyền Thái Bình; các bệnh viện tư nhân gồm BVĐK Lâm Hoa, BVĐK Hoàng An và BV Phụ sản An Đức Với tổng số giường bệnh là hơn 1.600 giường.
Tuyến Thành phố: Bệnh viện đa khoa thành phố; Trung tâm y tế thành phố, với 100 giường bệnh.
Tuyến phường, xã: bao gồm 19 trạm y tế trong các phường, xã với gần 100 giường.
Tuyến ngoài công lập như: Bệnh viện Đa khoa Lâm Hoa 50 giường; Bệnh viện Đa khoa Hoàng An quy mô 45 giường.
Dự án Khu Trung tâm Y tế Thái Bình rộng 42ha có các dự án như: Bệnh viện Đa khoa tỉnh 1.000 giường bệnh, Bệnh viện Nhi, Bệnh viện Mắt, Bệnh viện Tâm thần, Trung tâm vận chuyển cấp cứu 115, Trung tâm giám định Y khoa, Bệnh viện đa khoa tư nhân Lâm Hoa (cơ sở II), Bệnh viện phụ sản tư nhân, Bệnh viện đa khoa cộng đồng và Trung tâm xét nghiệm - chẩn đoán chất lượng cao, Phòng khám tư vấn chăm sóc sức khỏe và Vận chuyển cấp cứu... đang được triển khai nhưng công tác xây dựng khá là chậm so với tiến độ đề ra.
Văn hóa
Thái Bình có Nhà hát Chèo Thái Bình, có Nhà hát cải lương, Đoàn ca múa nhạc, Nhà bảo tàng, Trung tâm thông tin triển lãm, Thư viện khoa học tỉnh.
Bảo tàng Thái Bình là một trong những Bảo tàng lớn nhất của cả nước. Nơi đây lưu giữ nhiều cổ vật quý hàng ngàn năm tuổi khai quật được ở mảnh đất Thái Bình như: Trống đồng, Gạch nung cổ, các loại đồ kim loại cổ, sứ cổ. Ngoài ra còn trưng bày các kỷ vật thời nay như xe tăng của Bùi Quang Thận, máy bay của Phạm Tuân.
Thư viện khoa học tổng hợp Thái Bình được thành lập năm 1955, đến nay còn lưu giữ hơn 155 nghìn bản sách và tư liệu.
Thành phố đang xây dựng khu liên hiệp thể thao tại xã Đông Hoà và phường Hoàng Diệu gồm nhiều hạng mục như sân vận động với 25.000 chỗ ngồi, nhà thi đấu đa năng, bể bơi trong nhà, ngoài trời, khu tập luyện dành cho vận động viên,...
Thể dục thể thao Thái bình đang được chú trọng phát triển. Đặc biệt có đội tuyển bóng chuyền nữ PiOl Vital Thái Bình là CLB chuyên nghiệp thuộc hạng vào các câu lạc bộ mạnh nhất quốc gia. Đội tuyển đã nhiều năm vô địch bóng chuyền chuyên nghiệp vào các năm: 2007, 2008, 2010. Đạt giải nhì vào các năm 2009. Và đạt giải nhất trong trận thi đấu giải Cúp các câu lạc bộ Hùng Vương trước đội Bộ tư lệnh thông tin năm 2010.
Các môn thể thao khác thì không được quan tâm nên thành tích chưa được tốt.
Để phục vụ nhu cầu giải trí của người dân, TP có các công trình văn hóa như Trung tâm văn hóa, thể thao thanh thiếu niên tỉnh, Trung tâm TDTT TP, Nhà Văn hóa trung tâm tỉnh, Nhà văn hóa Lao động tỉnh, Nhà văn hóa thiếu nhi tỉnh, Thư viện tỉnh, Bảo tàng tỉnh… Có các công trình thể dục thể thao quy mô lớn đáp ứng được nhu cầu tổ chức các sự kiện thi đấu thể dục thể thao toàn TP, tỉnh cũng như quốc tế.
Đặc sản ẩm thực
Ổi Bo (phường Hoàng Diệu)
Bún cá, canh cá, bún ốc (phường Trần Hưng Đạo)
Bánh chưng Cầu Báng (cầu Báng - xã Tân Bình).
Bánh cáy Thái Bình (đặc sản làng Nguyễn)
Kết nghĩa
Thành phố Niigata
Quận Marzahn - Hellersdorf, Berlin
Giao thông
TP. Thái Bình có hệ thống giao thông tương đối thuận lợi cả về đường thủy và đường bộ:
Đường bộ:
QL10 mở rộng với mặt cắt 45m (Ngoài đô thị được nâng cấp đạt tiêu chuẩn đường đồng bằng cấp II).
QL39 mở rộng với mặt cắt là 32m (Ngoài đô thị được nâng cấp đạt tiêu chuẩn đường đồng bằng cấp II).
QL39B đoạn từ cầu Thái Bình đi huyện Kiến Xương mở rộng với mặt cắt là 45m (Ngoài đô thị được nâng cấp đạt tiêu chuẩn đường đồng bằng cấp II).
TL454 (phố Lý Bôn) mở rộng với mặt cắt là 36m (Ngoài đô thị được nâng cấp đạt tiêu chuẩn đường đồng bằng cấp III).
Vành đai 1: Hình thành trên cơ sở kết nối khép kín một số tuyến đường chính gồm: Trần Thái Tông – Long Hưng – Quang Trung – Hai Bà Trưng.
Vành đai 2: Hình thành do kết nối tuyến đường vành đai phía Bắc (tuyến tránh Quốc lộ 10) với tuyến đường vành đai phía Nam (đang thi công). Đường xây dựng mới & đạt tiêu chuẩn đường cấp 1 đồng bằng với tốc độ thiết kế là 80km/h
Vành đai 3: định hướng có cự ly từ 3 – 5 km so với vành đai 1, đi qua địa phận của các huyện lân cận. Tuyến này nhằm gia tăng năng lực của hệ thống giao thông Thành phố, các khu vực phụ cận, đồng thời gia tăng năng lực của các tuyến giao thông cấp vùng đi như cao tốc Ninh Bình - Hải Phòng - Quảng Ninh, đường sắt, đường QL10, QL39, ĐT 39B, ĐT 454.
Đường thủy:
Nâng cấp, cải tạo các tuyến đường sông qua Thành phố đảm bảo cho các phương tiện đi lại phục vụ du lịch, giải trí, sản xuất và chuyên chở vật liệu. Trong đó sông Trà Lý đạt tiêu chuẩn đường thủy nội địa cấp II.
Giao thông nội thị
Một số đường nội thành chính: Hai Bà Trưng, Lê Lợi, Quang Trung, Trần Hưng Đạo, Trần Thái Tông, Lý Bôn, Lê Quý Đôn...
Cầu:
Giữ nguyên 03 cầu hiện có qua sông Trà Lý: cầu Bo (cầu Độc Lập), cầu Thái Bình, cầu Hoà Bình.
Tiếp tục xây dựng cầu trên đường vành đai II (đường vành đai phía Nam Thành phố).
Dự kiến xây dựng mới 1 cầu mới nối cực phát triển phía Bắc và phía Đông, gia tăng hướng đối ngoại với vùng phía Đông. Ngoài Thành phố, trên tuyến vành đai III, đề nghị nghiên cứu thêm 2 cầu mới cho định hướng phát triển dài hạn.
Các cầu khác: được cải tạo, xây mới phù hợp với yêu cầu chung của mạng giao thông Thành phố.
Bến xe:
Giữ nguyên vị trí, diện tích, cải tạo bến xe Thành phố hiện nay tại đường Trần Thái Tông, dự kiến bến xe này chỉ phục vụ cho các dịch vụ giao thông trong thành phố Thái Bình như bến xe buýt, bãi đỗ xe công cộng.
Dự kiến xây dựng mới 4 tổ hợp bến xe đối ngoại, kết hợp với các dịch vụ vận tải khác tại các cửa ngõ Tây, Bắc, Đông, Nam của thành phố, diện tích trung bình 5-7ha:
Bến xe phía Bắc thuộc xã Đông Mỹ, nằm tại nút giao giữa QL39 với QL10; hướng đi thị trấn Đông Hưng, An Bài, Diêm Điền, thành phố Hải Phòng.
Bến xe phía Nam khu vực xã Vũ Chính nằm tại nút giao giữa QL39B (phố Hoàng Văn Thái) với đường vành đai phía Nam dự kiến; hướng đi thị trấn Thanh Nê, Tiền Hải, Khu du lịch Đồng Châu, Cồn Vành, thành phố Nam Định.
Bến xe phía Đông khu vực xã Vũ Đông nằm tại nút giao giữa nhánh đường QL10 kéo dài từ khu vực nhà thờ Sa Cát qua sông Trà Lý về phía xã Vũ Đông với đường vành đai phía Nam dự kiến; hướng đi thị trấn Tiền Hải, Khu du lịch Đồng Châu, Cồn Vành, cao tốc ven biển dự kiến, đi thành phố Hải Phòng.
Bến xe phía Tây khu vực xã Phú Xuân nằm tại nút giao giữa phố Lý Bôn với đường vành đai phía Bắc (đường tránh QL10) hướng đi thị trấn Hưng Hà, Quỳnh Phụ, thành phố Hưng Yên, Hải Dương.
Tuyến xe buýt nội tỉnh qua TP. Thái Bình
1, Tuyến 01 Hoàng Hà: TP. Thái Bình - KCN Tiền Hải.
Lộ trình: Cầu Phúc Khánh - Đường Trần Thái Tông - Đường Lý Bôn (Vườn Hoa, Bến xe khách Thái Bình, Bệnh viện Đa khoa Thái Bình) - Đường Lê Lợi - Đường Lý Thường Kiệt - Quốc lộ 39 B (Thị trấn huyện Kiến Xương, Thị trấn huyện Tiền Hải) - Khu vực ngã tư xã Đông Minh huyện Tiền Hải.
2, Tuyến 02 Hoàng Hà: TP. Thái Bình - TT. Diêm Điền.
Lộ trình: Trường CĐSP Thái Bình - Đường Quang Trung - Đường Lý Bôn (Vườn Hoa, Bến xe khách Thái Bình) - Quốc lộ 10 - Quốc lộ 39 (huyện Đông Hưng) - Cống Thóc thị trấn Diêm Điền - Hồng Quỳnh huyện Thái Thụy.
3, Tuyến 03 Hoàng Hà: TP. Thái Bình - Cầu Triều Dương
Lộ trình: Trường CĐSP Thái Bình - Đường Quang Trung - Ngô Thì Nhậm - Đường Lý Bôn (Vườn Hoa, Bến xe khách Thái Bình) - Quốc lộ 10 (huyện Đông Hưng) - Quốc lộ 39 (huyện Hưng Hà) - Cầu Triều Dương
4, Tuyến 04 Hoàng Hà: TP. Thái Bình - Phố Bến Hiệp
Lộ trình: Trường CĐSP Thái Bình - Đường Quang Trung - Ngô Thì Nhậm - Đường Lý Bôn (Vườn Hoa, Bến xe khách Thái Bình) - Quốc lộ 10 (huyện Đông Hưng) - Ngã ba Đọ - Thị trấn Quỳnh Côi - Bến Hiệp huyện Quỳnh Phụ
5, Tuyến 05 Hoàng Hà: TP. Thái Bình - Bến xe Chợ Lục
Lộ trình: Trường CĐSP Thái Bình - Đường Quang Trung - Đường Lý Bôn (Vườn Hoa, Bến xe khách Thái Bình) - Quốc lộ 10 - Quốc lộ 39 (huyện Đông Hưng) - Thái Giang - Thái Hà - Thái Phúc - Chợ Lục, Thái Ninh huyện Thái Thụy
6, Tuyến 06 Hoàng Hà: TP. Thái Bình - Tịnh Xuyên – Hưng Hà- Đền Trần.
Lộ trình: Trường CĐSP Thái Bình - Cầu Cống Trắng - Đường Ngô Thì Nhậm - Đường Phan Bá Vành - Đường Lý Bôn - Bệnh viện Đa khoa Thái Bình - Vincom Thái Bình - Bến xe khách Hoàng Hà - Ngã tư Tân Bình (Trường ĐH Thái Bình) - Tân Hòa - Minh Lãng - Song Lãng - Hiệp Hòa - Xuân Hòa – Cầu Tịnh Xuyên - Minh Hoà - Độc Lập (Đền thờ Lê Quý Đôn) - Minh Tân - Hồng An - Giao cắt ĐT 453 và Đường Thái Bình Hà Nam - Đền Trần-Thái Bình
7, Tuyến 07 Phiệt Học: TP. Thái Bình - Vô Hối - Diêm Điền - Thụy Tân.
Lộ trình: Thành phố Thái Bình - Long Hưng - Gia Lễ - Vô Hối - Diêm Điền - Thụy Tân.
8, Tuyến 08 Phiệt Học: TP. Thái Bình - Kiến Xương - Tiền Hải - Cồn Vành.
Lộ trình: CĐSP Thái Bình - Quang Trung -Trần Thái Tông - Lý Bôn -Ngô Quyền - Lê Quý Đôn -Cầu Trắng - đường 39B (Vũ Quý, Thanh Nê, Tiền Hải) - đường trục xã Tây Giang - BVĐK Tiền Hải - Nam Hà - Nam Hải - Nam Hồng - Nam Trung - Nam Phú - Cồn Vành.
9, Tuyến 209 Huy Hoàng: Thành phố Thái Bình - Quý Cao - Thành phố Hải Dương.
Lộ trình: Thành phố Thái Bình - thị trấn Đông Hưng - Cầu Nghìn - Vĩnh Bảo - Quý Cao - Tứ Kỳ - Thành phố Hải Dương.
Du lịch
Trung tâm thành phố:
Nhà Văn hoá tỉnh
Các siêu thị mua sắm:HC, Điện Máy Xanh, May 10, Victory Plaza, Vincom Plaza, Thế giới di động, FPT Shop, Viettel,...
Quảng trường 14/10
Công viên 30-6
Công viên Kỳ Bá
Công viên Lê Quý Đôn
Nhà thờ Thái Bình
Bảo tàng tỉnh Thái Bình.
Bờ Sông Trà: Nơi hằng đêm có các hoạt động ca nhạc, vui chơi ngoài trời.
Cầu Bo, Cầu Thái Bình, Cầu Hoà Bình.
Các tuyến phố: Tuyến kinh doanh đêm Trần Hưng Đạo, Minh Khai, Lý Bôn, Hai Bà Trưng, Quang Trung, Lê Lợi, Phan Bá Vành, Lê Quý Đôn, Hoàng Công Chất...
Đền Quan: là di tích lịch sử nổi tiếng ở thành phố Thái Bình, Đền Quan là nơi thờ vị thần triều Đinh là “Tiết Chế Nam Đạo Đại Thần Tướng". Ngài họ Trần – húy Thắng, là tướng của sứ quân Trần Lãm trấn giữ Thái Bình. Việt Thắng Đại Vương là người có công dẹp loạn và giúp dân trị thủy sông Trà. Ngài sinh và mất ở thế kỷ 10. Trải các triều Đinh, Lê, Lý, Trần, Hậu Lê đều được tu bổ; Đền hiện tại được đại tu vào năm Duy Tân thứ 2.
Chú thích |
Quốc lộ 6 là con đường nối thủ đô Hà Nội với các tỉnh vùng Tây Bắc của Việt Nam. Chiều dài toàn tuyến của đường là 425 km và đi qua 4 tỉnh và thành phố (Hà Nội, Hòa Bình, Sơn La và Điện Biên).
Lộ trình
Điểm đầu của Quốc lộ 6 là nút giao đường vành đai 3 (Hà Nội) – đường Nguyễn Trãi, quận Thanh Xuân (trước đây bắt đầu tại ngã năm đường Chu Văn An – Điện Biên Phủ – Tôn Thất Đàm – Chùa Một Cột thuộc phường Điện Biên, quận Ba Đình). Điểm cuối là nơi giao với quốc lộ 12 tại thị xã Mường Lay, tỉnh Điện Biên.
Đoạn từ cầu sông Nhuệ đến thành phố Hòa Bình dài 62 km.
Từ Km 65 đến Km 321 (thành phố Hòa Bình đến thành phố Sơn La) dài 256 km.
Đoạn từ thành phố Sơn La đến ngã ba Tuần Giáo dài 86 km dài 78 km.
Đoạn từ Tuần Giáo đến thị xã Mường Lay dài 100 km dài 86 km.
Trên toàn tuyến có 10 đèo dốc lớn có chiều dài từ 4 đến 32 km. Đèo dài nhất là đèo Pha Đin từ Km 360 đến Km 392 dài 32 km, độ dốc 10%.
Trên toàn tuyến có 48 cầu chính, dài nhất là cầu Mai Lĩnh dài 172,6 m bắc qua sông Đáy và ngắn nhất là cầu Tân Mã bắc qua kênh Cò Nòi chỉ dài 4 m.
Đoạn từ đèo Pha Đin xuống đường Nguyễn Văn Linh mặt đường khá gồ ghề và có nhiều ổ gà gây cản trở cho phương tiện giao thông. Thế nhưng vào năm 2007 chính phủ đã nâng cấp đoạn này để dễ dàng trong việc lưu thông hơn.
Từ năm 2001 đến năm 2004 có 254 km từ thành phố Hòa Bình đến thành phố Sơn La đã được Nhà nước nâng cấp và sửa chữa lớn để phục vụ cho Nhà máy Thủy điện Sơn La.
Đoạn từ thành phố Sơn La đến ngã ba Tuần Giáo đã được nâng cấp xong, đèo Pha Đin đỡ cua gấp nhưng dốc dài hơn.
Lịch sử
Tiền thân của quốc lộ 6 là một tuyến đường cổ có từ thời phong kiến, đoạn gần tỉnh thành Hà Nội được gọi một cách dân dã là Đường đi phủ Thanh Oai.
Thời Pháp thuộc, người Pháp đã tiến hành nối dài và cải tạo con đường này thành đường cấp thuộc địa, gọi là đường thuộc địa số 6 (Tiếng Pháp: Route coloniale № 6), nhằm phục vụ việc khai thác tài nguyên ở vùng Tây Bắc. Về mặt kỹ thuật, nó bắt đầu từ ngã tư Sở, ngoại thành Hà Nội. |
Tiếng Ả Rập (, hay ) là một ngôn ngữ Trung Semit đã được nói từ thời kỳ đồ sắt tại tây bắc bán đảo Ả Rập và nay là lingua franca của thế giới Ả Rập. Ả Rập là một thuật ngữ ban đầu được dùng để mô tả những nhóm người sống trong khu vực từ Lưỡng Hà ở phía đông tới dãy núi Anti-Liban ở phía đông, và từ tây bắc bán đảo Ả Rập tới Sinai (سيناء, sina`a) ở phía nam.
Một số dạng tiếng Ả Rập không thể thông hiểu lẫn nhau. Điều này có nghĩa là nếu chỉ xem xét về mặt ngôn ngữ học, tiếng Ả Rập thực chất gồm nhiều hơn một ngôn ngữ, nhưng chúng thường được gộp chung vào nhau vì lý do chính trị và tôn giáo. Nếu được chia ra nhiều ngôn ngữ, thì thứ tiếng phổ biến nhất sẽ là tiếng Ả Rập Ai Cập với 89 triệu người nói—vẫn nhiều hơn bất kỳ ngôn ngữ Phi-Á nào. Tiếng Ả Rập còn là ngôn ngữ hành lễ của 1,6 tỷ người Hồi giáo. Đây cũng là một trong sáu ngôn ngữ chính thức của Liên Hợp Quốc.
Ngôn ngữ viết hiện đại (Tiếng Ả Rập chuẩn hiện đại) xuất phát từ tiếng Ả Rập kinh Qur’an (được gọi tiếng Ả Rập cổ điển hay tiếng Ả Rập Qur’an). Nó được giảng dạy rộng rãi trong trường học và đại học, và được dùng ở nhiều mức độ tại nơi làm việc, chính phủ, và trong truyền thông. Hai dạng ngôn ngữ viết này (tiếng Ả Rập chuẩn hiện đại, và tiếng Ả Rập cổ điển) được gọi chung là tiếng Ả Rập văn học, là ngôn ngữ chính thức của 26 quốc gia và ngôn ngữ hành lễ của Hồi giáo. Tiếng Ả Rập chuẩn hiện đại phần nhiều có cùng ngữ pháp với tiếng Ả Rập Qur'an, với phần từ vựng không thay đổi nhiều. Tuy vậy, nó đã loại bỏ những từ vựng không còn tồn tại trong ngôn ngữ nói nữa, đồng thời tiếp nhận từ vựng cho các khái niệm trong thời kỳ hậu Qur'an và đặc biệt thời hiện đại.Hiện nay, ngôn ngữ này có trên 12.300.000 từ vựng và tiếng Ả Rập được nói bởi 422 triệu người (bản ngữ và phi bản ngữ) trong thế giới Ả Rập, khiến nó trở thành một trong những ngôn ngữ phổ biến nhất thế giới.
Tiếng Ả Rập được viết bằng chữ Ả Rập, một hệ chữ abjad và được viết từ phải sang trái.
Phân loại
Tiếng Ả Rập thường được xếp vào nhóm các ngôn ngữ Semit Trung và có mối liên hệ với các ngôn ngữ khác cùng thuộc ngữ tộc Semit (Semit Bắc, Nam, Đông và Tây), đơn cử như các tiếng A-ram, Syriac, Hê-bơ-rơ, Ugarit, Phê-ni-xi, Ca-na-an, A-mô-rít, Am-môn, Ebla, văn khắc tiếng Bắc Ả Rập cổ đại, văn khắc tiếng Nam Ả Rập cổ đại, tiếng Ê-thi-ô-bi, tiếng Nam Ả Rập hiện đại, và một số thứ tiếng cổ đại cùng hiện đại khác. Các nhà ngôn ngữ học vẫn đang tranh cãi về việc nhất trí cách phân loại các phân nhóm ngôn ngữ Semit tối ưu nhất. Các ngôn ngữ thuộc ngữ tộc Semit chứng kiến sự thay đổi lớn, cụ thể là về ngữ pháp, giữa tiếng Tiền Semit và sự xuất hiện của các ngôn ngữ Semit Trung. Một số sự cải tiến của các ngôn ngữ Semit Trung (đều được phản ánh trong tiếng Ả Rập) là:
Chuyển từ cấu trúc biểu thị trạng thái thông qua chia tiếp vĩ ngữ (jalas-) thành thì quá khứ.
Chuyển từ cấu trúc thì quá khứ thông qua chia tiếp đầu ngữ (yajlis-) thành thì hiện tại.
Loại bỏ các cấu trúc chứa thức hoặc thể có được thông qua chia tiếp đầu ngữ (ví dụ như chia thì hiện tại bằng cách nhân đôi gốc từ ở vị trí giữa, chia thể hoàn thành bằng cách thêm trung tố /t/ sau nguyên âm đầu tiên của gốc từ, chia thức mệnh lệnh (jussive) bằng cách đổi vị trí trọng âm) để thay thế bằng các thức mới có được thông qua gán đuôi vào các cấu trúc đã chia tiếp đầu ngữ (ví dụ như đuôi -u để chia thức chỉ định, -a để chia thức giả định, không đuôi để chia thức mệnh lệnh (jussive) và đuôi -an hay -anna để chia thức nhấn mạnh).
Sự phát triển của thể bị động biến đổi nguyên âm trung gian (internal passive).
Có một số điểm chung giữa tiếng Ả Rập Cổ điển, các biến thể tiếng Ả Rập hiện đại cũng như các dòng chữ khắc Safaitic và Hismaic mà chưa được chứng minh là tồn tại trong bất kỳ loại ngôn ngữ Trung Semitic nào khác, bao gồm cả các ngôn ngữ Dadanitic và Taymanitic dùng ở khu vực miền Bắc Hejaz. Và các điểm chung này là một bằng chứng chứng minh rằng chúng thuộc cùng một dòng chung phát sinh từ tiếng Tiền Ả Rập, một ngôn ngữ thủy tổ theo giả thuyết. Ta có thể phục dựng lại một cách đáng tin cậy các đặc điểm sau của tiếng Tiền Ả Rập:
các phân từ phủ định m * /mā/; lʾn */lā-ʾan/ thành lan trong tiếng Ả Rập cổ điển.
lập phân từ bị động loại G với mafʿūl
các giới từ và trạng từ f, ʿn, ʿnd, ḥt, ʿkdy
thức giả định với đuôi -a
từ chỉ định dạng t
phân cấp tha hình đuôi -at của đuôi giống cái
hai loại liên từ phụ thuộc ʾn
đưa mệnh đề khiếm khuyết vào bằng f-
đại từ chỉ vật độc lập dạng (ʾ)y
dấu tích của nun-hóa (thêm dấu phụ để tạo phụ âm đuôi n)
Lịch sử
Tiếng Ả Rập cổ
Tiếng Hejazi cổ và tiếng Ả Rập cổ điển
Tiếng Tân Ả Rập
Ngôn ngữ Ả Rập cổ điển, chuẩn hiện đại và ngôn ngữ nói
Tiếng Ả Rập thường được gọi bằng một trong 3 dạng ngôn ngữ sau: Tiếng Ả Rập cổ điển, Tiếng Ả Rập chuẩn hiện đại và Tiếng Ả Rập thông tục hay các phương ngữ. Tiếng Ả Rập cổ điển được tìm thấy trong Qu'ran, được dùng trong các giai đoạn từ thời Ả Rập tiền Hồi giáo đến triều đại Abbasid. Về mặt lí thuyết, tiếng Ả Rập cổ điển được coi là tiêu chuẩn, theo các cú pháp và mẫu ngữ pháp được ghi bởi các nhà ngữ học cổ điển (như Sibawayh) và từ vựng được xác định bởi các từ điển cổ điển (như cuốn Lisān al-ʻArab). Trong thực tiễn, các tác giả hiện đại hầu như không viết Tiếng Ả Rập thuần khiết, thay vào đó dùng một ngôn ngữ văn học với các mẫu ngữ pháp và từ vựng riêng, thường được biết đến với tên Tiếng Ả Rập chuẩn hiện đại.
Tiếng Ả Rập chuẩn hiện đại là ngôn ngữ được dùng phổ biến hiện nay: các nhà Xuất bản tiếng Ả Rập, nói bởi một số nhà Truyền thông Ả Rập ở Trung Đông và Bắc Phi, và được hiểu bởi đa số người nói tiếng Ả Rập có học thức.
Ngôn ngữ và các phương ngữ
Ảnh hưởng của tiếng Ả Rập lên các ngôn ngữ khác
Ảnh hưởng của Tiếng Ả Rập là quan trọng bậc nhất đối với các quốc gia Hồi giáo, vì nó là ngôn ngữ của thánh kinh Đạo Hồi, Qu'ran. Tiếng Ả Rập cũng là một nguồn từ vựng quan trọng đối với các ngôn ngữ như tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Hindi. Bộ trưởng Giáo dục Pháp gần đây nhấn mạnh việc học và sử dụng tiếng Ả Rập trong các trường học của họ.
Thêm vào đó, Tiếng Anh có nhiều từ mượn tiếng Ả Rập, một số trực tiếp, nhưng đa số thông qua các ngôn ngữ Địa Trung Hải khác. Ví dụ của các từ mượn là admiral, adobe, alchemy,...
Ảnh hưởng của các ngôn ngữ khác lên tiếng Ả Rập
Những ngôn ngữ liên quan: tiếng Ba Tư, tiếng Urdu, tiếng Uyghur,...và các ngôn ngữ khác
Bảng chữ cái và Chủ nghĩa quốc gia
Ngôn ngữ của Kinh Qu'ran và ảnh hưởng của nó lên thi ca
Châm ngôn tượng trưng của Qu'ran
Văn hóa và Qu'ran
Tiếng Ả Rập và Đạo Hồi
Các phương ngữ và hậu duệ
Ví dụ
Tiếng Koiné
Các nhóm phương ngữ
Nhóm Lberia
Nhóm Maghreb
Nhóm Bedouin
Nhóm sông Nile
Nhóm Levant
Nhóm Lưỡng Hà
Nhóm bán đảo
Nhóm Viễn Nam
Nhóm ngôn ngữ Ả Rập Do Thái
Hệ thống âm vị
Lịch sử
Tiếng Ả Rập văn chương
Nguyên âm
Ghép chữ:
ب +َ = بَ(b + a= ba)
Tương tự các chữ cái khác cũng làm như vậy
Tương tự các chữ cái khác cũng như vậy
Phụ âm
Cách đánh vần
Trọng âm
Các cấp độ phát âm
Sự đa dạng của từ thông tục
Ngữ pháp
Ngôn ngữ Văn chương
Danh từ và tính từ
Động từ
Nguồn gốc từ
Hệ thống chữ viết
Thư pháp
Sự La Mã hóa
Số đếm
Sự điểu chỉnh chuẩn ngôn ngữ |
Hành tinh khỉ có thể chỉ đến:
Tiểu thuyết Hành tinh khỉ của nhà văn Pierre Boulle, xuất bản lần đầu năm 1963.
Phim khoa học viễn tưởng Hành tinh khỉ được làm năm 1968, đạo diễn bởi Franklin J. Schaffner.
Phim truyền hình Hành tinh khỉ được sản xuất năm 1974.
Phim hoạt hình Hành tinh khỉ được sản xuất năm 1975.
Phim khoa học viễn tưởng Hành tinh khỉ được làm năm 2001, đạo diễn bởi Tim Burton, với diễn xuất của Mark Wahlberg, Tim Roth
Helena Bonham Carter, Michael Clarke Duncan, Paul Giamatti, Estella Warren, Cary-Hiroyuki Tagawa, David Warner, Kris Kristofferson và Charlton Heston |
Quốc lộ 2 dài 300 km, chạy qua địa bàn năm tỉnh và thành phố: Hà Nội, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Tuyên Quang và Hà Giang. Chiều dài toàn tuyến là 300 km. Quốc lộ 2 có điểm đầu tại ngã ba Phù Lỗ, giao với Quốc lộ 3 tại Km 18, và điểm cuối tại cửa khẩu Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang.
Tình trạng kỹ thuật
Đoạn từ Km 0 (ngã ba Phù Lỗ) đến thành phố Việt Trì dài 56 km.
Đoạn từ Km 57 (thành phố Việt Trì) đến thành phố Tuyên Quang km 136 dài 79 km.
Đoạn từ Km 136 (thành phố Tuyên Quang) đến Km 313 (cửa khẩu Thanh Thủy, tỉnh Hà Giang) dài 177 km.
Toàn tuyến có 89 cầu đường bộ, cầu lớn nhất là cầu Đoan Hùng ở km111+300, cầu có chiều dài 450 m và rộng 12 m.
Đoạn từ Km 0 (Phù Lỗ) đến Km 109 (Đoan Hùng) thuộc tuyến AH14 (Hải Phòng – Cửa khẩu Lào Cai/Hà Khẩu – Côn Minh) trong các Hiệp định đường bộ GMS và ASEAN.
Quốc lộ 2 ngoài tuyến chính còn có 2 tuyến nhánh:
Quốc Lộ 2B: Vĩnh Yên – Tam Đảo.
Quốc Lộ 2C: Sơn Tây – Vĩnh Yên – TP. Tuyên Quang.
Quốc lộ 2B
Quốc lộ 2B: Vĩnh Yên – Tam Đảo.
Quốc lộ 2C
Quốc lộ 2C: Sơn Tây – Vĩnh Yên – TP. Tuyên Quang. |
Điện Capitol Hoa Kỳ hay Tòa Quốc hội Hoa Kỳ là trụ sở của Quốc hội, cơ quan lập pháp của chính phủ liên bang Hoa Kỳ. Nó được xây tại Washington, D.C., trên Đồi Capitol ở cuối phía đông của National Mall. Tuy nó không nằm tại trung tâm địa lý của Đặc khu Columbia, Điện Capitol là tiêu điểm của quy hoạch thành phố, cho nên các phần tư của địa hạt bắt đầu từ chỗ này.
Điện này nổi tiếng về mái vòm lớn đứng trên rotunda. Điện có 1 cánh cho mỗi viện Quốc hội: cánh phía bắc của Thượng Nghị viện và cánh phía nam của Hạ Nghị viện. Ở trong mỗi cánh này có phòng chính của viện, trên đó có phòng để người thường có thể xem những hành động của Thượng Nghị viện và Hạ Nghị viện.
Lịch sử
Điện Capitol hiện hành là công trình thứ tư được sử dụng bởi Quốc hội, trước đó là Trụ sở Nghị viện Maryland tại Annapolis, Maryland (1783–1784), Liên Bang Phủ (Federal Hall) tại Thành phố New York (1789–1790), và Hội trường Độc lập (Independence Hall; lúc đó là Congress Hall, "Hội trường Quốc hội") tại Philadelphia, Pennsylvania (1790–1800).
Điện Capitol bắt đầu được xây dựng vào năm 1793. George Washington đặt xuống viên đá đầu tiên, nhưng người ta vẫn chưa tìm thấy viên đá đó nằm ở vị trí nào ngày nay. Điện Capitol được xây dựng và được mở rộng sau đó vào thập niên 1850 do lao động của các nô lệ, "họ xẻ khúc gỗ, đặt xuống đá, và nung gạch". Kế hoạch đầu tiên là để mượn người từ Âu Châu để xây lên điện này; tuy nhiên, họ không tìm được đủ người ở đấy, cho nên các người Mỹ gốc Phi – cả người tự do và nô lệ – trở thành phần lớn của lực lượng lao động.
Cánh Thượng Nghị viện được xây xong vào năm 1800, còn cánh Hạ Nghị viện được xong vào năm 1811. Điện Capitol đăng cai phiên họp Quốc hội đầu tiên ngày 17 tháng 11 năm 1800. Tối cao Pháp viện cũng họp trong Điện Capitol đến khi tòa riêng của họ (đằng sau Mặt Đông) được xây dựng xong vào năm 1935. Không lâu sau khi vừa được xây xong, nó bị cháy một phần bởi quân đội Anh trong cuộc Chiến tranh năm 1812. Việc tái xây dựng bắt đầu vào năm 1815 và kết thúc khoảng năm 1830. Kiến trúc sư Benjamin Latrobe được biết đến phần nhiều về việc xây dựng lần đầu tiên và chế nhiều đặc điểm ở trong; người nối nghiệp, kiến trúc sư nổi tiếng Charles Bulfinch, cũng có vai trò quan trọng.
Tòa nhà này được mở rộng rất nhiều vào thập niên 1850. Do các phần mở rộng, mái vòm đầu tiên mà được xây bằng gỗ vào năm 1818 sẽ không còn đúng tỷ lệ. Thomas U. Walter chịu trách nhiệm đặt kế hoạch cho những phần mở rộng và mái vòm "bánh đám cưới" mới bằng gang, cao hơn mái vòm đầu tiên gấp ba và có đường kính 30 mét (100 foot), nó phải dựa trên các cột trụ nề đã tồn tại. Giống mái vòm của Mansart tại Les Invalides (ông Walter đã đi xem nó vào năm 1838), mái vòm của Walter thực sự là vòm đôi, có lỗ oculus lớn ở trong vòm trong. Khi nhìn vào lỗ đó, người ta có thể ngắm bức tranh Apotheosis of Washington được vẽ trên trần mái vòm dome. Những cột trụ cũng chống lên mặt ngoài và cái tholos mà chống lên Tự do, bức tượng khổng lồ mà được dựng lên trên mái vòm vào năm 1863. Trọng lượng phần gang của mái vòm này đã được cho là 4.041.100 kilôgam (8.909.200 pound) sắt.
Mái vòm của Điện Capitol cuối cùng được xây xong, nhưng bị xây lớn hơn kế hoạch đầu tiên nhiều, cho nên bề ngoài đồ sộ của nó chế ngự tỷ lệ của các cột ở Cổng Đông, được xây năm 1828. Mặt Đông của Điện Capitol được tái xây dựng năm 1904 theo hãng kiến trúc Carrère và Hastings thiết kế, họ cũng đặt thiết kế cho các Tòa nhà Văn phòng Thượng Nghị viện và Hạ Nghị viện. Mặt Đông mới được xây bằng cẩm thạch đằng trước mặt cũ (nó bằng sa thạch) 10,2 m (33,5 foot) trong những năm 1958–1962, và một phần nối mới làm một tường ngoài thành một tường trong. Cùng lúc, việc dời cổng cũ nghĩa là các cột Corinth lịch sử bị không còn chỗ nữa, đến khi người thiết kế vườn Russell Page xây một nơi hợp cho nó ở bãi cỏ lớn tại Vườn cây Quốc gia, những cột đứng bên cạnh hồ nước, nó làm một số khách khó chịu vì nhắc đến Persepolis.
Điện Capitol được cho rằng chính là mục tiêu khủng bố thứ 4 của Chuyến 93 United Airlines đã bị không tặc khống chế trong Sự kiện ngày 11 tháng 9 trước khi nó rơi xuống tại Quận Somerset, Pennsylvania sau khi các hành khách trên máy bay cố gắng giành lại máy bay khỏi những tên không tặc. |
Sông là dòng nước chảy thường xuyên tương đối ổn định trên bề mặt lục địa các dòng sông hầu hết đều đổ ra biển; nơi tiếp giáp với biển được gọi là cửa sông. Trong một vài trường hợp, sông chảy ngầm xuống đất hoặc khô hoàn toàn trước khi chúng chảy đến một cửa sông hoặc khu vực nước khác. Các con sông nhỏ cũng có thể được gọi bằng nhiều tên khác nhau như suối, sông nhánh hay rạch. Không có một chuẩn nào để gọi tên gọi cho các yếu tố địa lý như sông, suối, mặc dù ở một số quốc gia, cộng đồng thì người ta gọi dòng chảy là sông, rạch tùy thuộc vào kích thước của nó.
Các con sông là một thành phần quan trọng trong vòng tuần hoàn nước, nó là các bồn thu nước từ nước mưa chảy tràn, tuyết hoặc nước ngầm và vận chuyển các loại nước này ra biển.
Phân loại
Thông thường, sông được chia làm hai loại là sông chính và sông nhánh (hay nhánh sông). Sông chính là sông có độ dài lớn nhất hoặc có diện tích lưu vực hay lượng nước lớn nhất; sông nhánh là sông chảy vào sông chính.
Phân loại theo bậc sông
Ở mức độ chi tiết hơn người ta còn phân cấp sông: theo Horton–Strahler, các sông ở đầu nguồn được đánh số 1. Hai sông cấp 1 nhập lại tạo thành một dòng sông cấp 2. Một sông cấp 1 hợp với sông cấp 2 thì chỉ tạo thành sông cấp 2; nhưng hai sông cấp 2 nhập lại thành một sông cấp ba. Nghĩa là, hai sông phải có cùng cấp thì hợp lại được thành sông có cấp cao hơn một đơn vị. Cứ như vậy đánh số cho đến cửa sông.
Theo địa hình
Các con sông nhìn chung có thể phân thành sông chảy trên vùng có bồi tích hoặc sông chảy trên vùng có đá gốc hoặc hỗn hợp. Các con sông chảy trên vùng có bồi tích có các lòng dẫn và đồng bãi bồi là do chúng tự tạo thành sông chảy trên đá gốc hình thành khi dòng sông xâm thực sâu cắt qua khỏi lớp trầm tích hiện đại và cắt vào lớp đá gốc nằm bên dưới. Quá trình này diễn ra ở những khu vực từng trải qua các kiểu biến động địa chất như nâng lên (làm tăng gradient của sông) hoặc ở những khu vực có thành phần đá cứng làm cho con sông dốc đến mức nó không thể tích tụ các bồi tích hiện đại. Sông chảy trên đá gốc thường rất ít có bồi tích trên đáy của chúng; các vật liệu này là đối tượng dễ xâm thực trong lòng sông.
Các sông bồi tích có thể phân chia theo hình dạng kênh dẫn như uốn khúc, bện tết, lang thang, móng ngựa,hoặc thẳng. Hình dạng của một con sống bồi tích bị khống chế bởi các yếu tố như nguồn cung cấp trầm tích, thành phần vật chất, lưu lượng nước, thực vật trong lưu vực sông và nâng cao đáy sông.
Thế kỷ 20 William Morris Davis đưa ra một phương pháp chu kỳ xâm thực để phân loại các con sông dự trên độ "tuổi" của nó. Mặc dù hệ thống phân loại của Davis vẫn có thể tìm thấy trong một số sách hiện nay, sau thập niên 1950 và 1960 nó ngày càng bị các nhà địa mạo học chỉ trích và không chấp nhận do cách phân loại của ông không dựa trên một giả thiết có thể kiểm chứng và do đó được cho là không khoa học. Các ví dụ về phân loại sông của Davis:
Sông trẻ: là một con sông có độ dốc, có ít dòng chảy nhánh và có dòng chảy nhanh. Các lòng dẫn của nó xâm thực sâu phát triển mạnh hơn xâm thực ngang. Ví dụ như sông Brazos, Trinity và Ebro.
Sông trưởng thành: là một con sông có độ dốc nhỏ hơn sông trẻ và có dòng chảy chậm hơn. Sông trưởng thành có nhiều nhánh sông đổ vào và có lưu lượng lớn hơn sông trẻ. Lòng sông xâm thực ngang lớn hơn xâm thực sâu như sông Mississippi, Saint Lawrence, Danube, Ohio, Thames và Paraná.
Sông già: là một con sông có độ dốc thấp và có năng lượng xâm thực nhỏ. Các sông già đặc trưng bởi các bãi bồi tụ như Hoàng Hà, sông Hằng, Tigris, Euphrates, sông Ấn và Nile.
Sông trẻ lại: là sông có độ dốc lên tạo ra bởi sự nâng lên của các mảng kiến tạo.
Địa hình
Một dòng sông bắt đầu tại một nguồn (hoặc thường xuyên hơn là một vài nguồn), đi theo một con đường gọi là một dòng chảy, và kết thúc tại một hay nhiều cửa sông. Nước trong sông thường bị giới hạn trong một kênh, được tạo thành từ một lòng suối giữa hai bờ. Ở những con sông lớn hơn, thường có một vùng lũ rộng hơn được hình thành bởi lũ lụt - nước tràn qua kênh. Lũ lụt có thể rất rộng liên quan đến kích thước của kênh sông. Sự khác biệt này giữa kênh sông và vùng ngập lũ có thể bị xóa nhòa, đặc biệt là ở các khu vực đô thị nơi vùng ngập lũ của một dòng sông có thể được phát triển rất nhiều bởi nhà ở và công nghiệp. Các dòng sông có thể chảy xuống núi, qua các thung lũng (vùng trũng) hoặc dọc theo đồng bằng và có thể tạo ra hẻm núi.
Thuật ngữ thượng dòng (hoặc thượng nguồn) dùng để chỉ hướng về nguồn của dòng sông, tức là ngược với hướng của dòng chảy. Tương tự, hạ dòng (hoặc hạ lưu) mô tả hướng về phía cửa sông, trong đó lớp dòng chảy lưu thông. Thuật ngữ tả ngạn chỉ bờ bên trái theo hướng dòng chảy, hữu ngạn chỉ bờ bên phải.
Kênh sông thường chứa một dòng nước, nhưng một số dòng sông chảy như một số dòng nước liên kết với nhau, tạo ra một dòng sông bện. Các dòng sông bện rộng rãi hiện chỉ được tìm thấy ở một số khu vực trên toàn thế giới,[ cần dẫn nguồn ] như Đảo Nam của New Zealand. Chúng cũng xảy ra trên các đồng cỏ và một số vùng đồng bằng sông lớn hơn. Sông Anastamose tương tự như sông bện và khá hiếm. Chúng có nhiều kênh hình sin mang khối lượng trầm tích lớn. Có rất ít trường hợp phân nhánh sông trong đó một dòng sông phân chia và dòng chảy kết thúc ở các vùng biển khác nhau. Một ví dụ là sự phân chia của sông Nerodime ở Kosovo.
Một dòng sông chảy trong kênh của nó là một nguồn năng lượng hoạt động trên kênh sông để thay đổi hình dạng và hình dạng của nó. Năm 1757, nhà thủy văn học người Đức Albert Brahms theo kinh nghiệm đã quan sát thấy rằng trọng lượng chìm của các vật thể có thể bị một dòng sông mang đi tỷ lệ thuận với sức mạnh thứ sáu của tốc độ dòng chảy của dòng sông. Công thức này đôi khi cũng được gọi là luật của Airy. Do đó, nếu tốc độ của dòng chảy tăng gấp đôi, dòng chảy sẽ đánh bật các vật thể có trọng lượng ngập gấp 64 lần. Trong các vùng lũ núi, đây có thể được coi là các kênh xói mòn thông qua các tảng đá cứng và tạo ra cát và sỏi từ sự phá hủy của các tảng đá lớn hơn. Một thung lũng sông đã được tạo ra từ một hình chữ U phủ băng thung lũng, thường có thể dễ dàng được xác định bởi kênh hình chữ V mà nó đã khắc. Ở giữa, nơi một dòng sông chảy qua vùng đất phẳng hơn, uốn khúc có thể hình thành thông qua sự xói mòn của các bờ sông và lắng đọng ở bên trong các khúc cua. Đôi khi, dòng sông sẽ cắt đứt một vòng, rút ngắn kênh và tạo thành hồ oxbow hoặc billabong. Các dòng sông mang một lượng lớn trầm tích có thể phát triển đồng bằng dễ thấy ở miệng của chúng. Các con sông có miệng ở vùng nước thủy triều mặn có thể hình thành cửa sông.
Trong suốt dòng sông, tổng khối lượng nước được vận chuyển về hạ lưu thường sẽ là sự kết hợp của dòng nước tự do cùng với một khối lượng đáng kể chảy qua các đá và sỏi dưới mặt nước dưới lòng sông và vùng ngập lũ của nó (được gọi là vùng hyporheic). Đối với nhiều con sông trong các thung lũng lớn, thành phần dòng chảy vô hình này có thể vượt quá dòng chảy nhìn thấy được.
Luồng dưới bề mặt
Hầu hết nhưng không phải tất cả các dòng sông chảy trên bề mặt. Các dòng sông ngầm chảy ngầm trong hang động hoặc hang động. Những con sông như vậy thường được tìm thấy ở các khu vực có thành tạo địa chất đá vôi. Các dòng subglacial là những con sông bện lại chảy dưới đáy sông băng và các tảng băng, cho phép nước tan chảy ra ở phía trước sông băng. Do độ dốc của áp suất do trọng lượng quá lớn của sông băng, những dòng như vậy thậm chí có thể chảy lên dốc.
Tính lâu dài của dòng chảy
Một dòng sông không liên tục (hoặc dòng sông phù du) thỉnh thoảng chỉ chảy và có thể khô trong vài năm. Những con sông này được tìm thấy ở những vùng có lượng mưa hạn chế hoặc biến đổi cao, hoặc có thể xảy ra do các điều kiện địa chất như lòng sông rất dễ thấm. Một số dòng sông phù du chảy trong những tháng mùa hè nhưng không phải vào mùa đông. Những dòng sông như vậy thường được nuôi dưỡng từ các tầng chứa nước đá phấn lấy lại từ lượng mưa mùa đông. Ở Anh, những con sông này được gọi là bournes và đặt tên của chúng cho những nơi như Bournemouthvà Eastbourne. Ngay cả ở những vùng ẩm ướt, vị trí nơi dòng chảy bắt đầu trong các dòng nhánh nhỏ nhất thường di chuyển ngược dòng để đáp ứng với lượng mưa và hạ lưu trong sự vắng mặt của nó hoặc khi thảm thực vật mùa hè hoạt động chuyển hướng nước để thoát hơi nước. Các dòng sông khô thông thường trong khu vực khô cằn thường được xác định là arroyos hoặc các tên khu vực khác. Các nước tan ra từ mưa đá lớn có thể tạo ra một bùn nước, mưa đá và cát hoặc đất, tạo thành sông tạm thời.
Danh sách các sông
10 sông dài nhất thế giới
Việc đo chiều dài của một con sông rất khó, phần nhiều tại vì càng đo chính xác hơn thì những sông càng dài hơn. Ngoài ra, việc xác định nguồn và cửa sông cũng khó, bởi vì phần đầu của nhiều sông chỉ là dòng suối hay hồ từng mùa hoặc đầm lầy.
Đây là những con số trung bình:
Nil (6.650 km)
Amazon (6.400 km)
Dương Tử (Trường Giang; 6.300 km)
Mississippi–Missouri (6.275 km)
Obi–Irtysh (5.570 km)
Enisei–Angara (5.550 km)
Hoàng Hà (5.464 km)
Hắc Long Giang (4.410 km)
Congo (4.380 km hay 4.670 km)
Lena (4.260 km)
Những sông nổi tiếng
Sông Amazon, dòng sông lớn nhất thế giới (có lưu vực rộng nhất)
Sông America, nhánh của sông Sutter's Mill
Sông Amu Darya
Sông Amur (Hắc Long Giang), dòng sông chính của vùng đông Siberia và là biên giới tự nhiên giữa Nga và Trung Quốc
Sông Arkansas, dòng chính của sông Mississippi
Arno, dòng sông chảy xuyên qua Firenze, Ý
Arvandrud (Shatt al-Arab), biên giới giữa Iran và Iraq
Sông Brahmaputra, dòng sông chính ở Đông Bắc Ấn Độ và Tân Cương
Chao Phraya, dòng sông chính của Thái Lan
Sông Clyde, chảy qua Glasgow (Scotland)
Colorado (ở Argentina)
Colorado (ở Hoa Kỳ), dòng sông chính của miền Tây Mỹ
Sông Columbia, dòng sông chính ở Bắc Thái Bình Dương
Congo, sông chính của vùng Trung Phi.
Sông Danube, dòng sông chảy qua vùng trung tâm châu Âu
Río de la Plata, sông rộng nhất thế giới
Sông Ebro, Tây Ban Nha
Sông Elbe, sông chính của Đức, Hamburg nằm bên cạnh bờ sông
Sông Euphrates, cùng với sông Tigris là hai nhánh của sông Mesopotamia (Iraq)
Sông Hằng, dòng sông quan trọng của Ấn Độ; cũng chảy qua Bangladesh
Sông Hán, dòng sông chảy qua Seoul, Hàn Quốc
Sông Helmand, dòng sông chính của Afghanistan
Sông Hoàng Hà, một trong những dòng sông chính của Trung Quốc
Sông Hudson, dòng sông chính của New York
Sông Ấn, con sông chính của Pakistan
Jordan, sông chính của Israel
Sông Karun, Iran
Sông Kaveri, Ấn Độ
Sông Lena, dòng sông chính vùng Siberia, Nga
Sông Mackenzie, dòng sông dài nhất Canada
Magdalena, Colombia
Sông Main, Đức
Sông Mê Kông (Cửu Long), sông dài nhất Đông Nam Á
Sông Mersey, chảy qua Liverpool
Sông Maas, sông giữa Hà Lan và Bỉ. Khu vực cửa sông có cảng Rotterdam
Sông Mississippi, Hoa Kỳ
Sông Missouri, Hoa Kỳ
Sông Murray, (Murray-Darling) Úc
Niger, châu Phi
Sông Nin, dòng sông dài nhất thế giới, nguồn cung cấp phù sa cho Ai Cập
Sông Obi, Siberia, Nga
Oder, châu Âu
Sông Ohio
Sông Orinoco, Venezuela
Parana', sông chính vùng Nam Mỹ
Paraguay, dòng sông quan trọng ở Brasil, Bolivia, Paraguay và Argentina.
Po, chảy qua khu công nghiệp miền bắc nước Ý.
Sông Potomac, sông chảy qua Washington, D.C. và là ranh giới giữa 2 bang Maryland và Virginia, Hoa Kỳ
Sông Rhein, châu Âu, đang gánh chịu ảnh hưởng ô nhiễm từ các khu công nghiệp miền Tây nước Đức.
Rhone, Pháp
Sông Rio Grande, biên giới giữa Mỹ và México
Sông Saint Lawrence, vùng Hồ Lớn
Sông Seine, chảy qua Paris
Sông Segura, Tây Ban Nha
Sông Severn, sông dài nhất nước Anh
Shinano-gawa, dài nhất Nhật Bản.
Sông Snake
Sông Tajo, sông lớn nhất ở bán đảo Iberia
Sông Tay, Scotland
Thames, chảy qua Luân Đôn
Sông Tiber, Roma
Sông Tigris, vùng Lưỡng Hà - một trong những cái nôi của văn minh nhân loại.
Tonegawa, Nhật Bản
Sông Vistula, Ba Lan
Sông Vltava, Praha (Cộng hòa Séc)
Sông Volga, Nga - con sông dài nhất Châu Âu.
Sông Trường Giang, sông dài nhất Trung Quốc
Yenisei, Siberia
Yukon, Alaska và Lãnh thổ Yukon
Sông Zambezi, châu Phi
Hình ảnh
Đọc thêm
Beyond the Bridges Life on American Rivers told by Riverlorian, Jerry Hay. indianawaterways.com for more information
— a non-technical primer on the geomorphology và hydraulics of water.
Chú thích |
Các điểm Lagrange (IPA: ; cũng gọi là L-point, hay điểm đu đưa), là năm vị trí trong không gian liên hành tinh nơi một vật thể nhỏ chỉ bị ảnh hưởng bởi lực hấp dẫn về lý thuyết có thể đứng yên so với hai vật thể lớn hơn (như một vệ tinh nhân tạo so với Trái Đất và Mặt Trăng). Chúng tương tự với các quỹ đạo địa tĩnh theo đó chúng cho phép một vật thể luôn nằm ở một vị trí xác định trong vũ trụ chứ không phải là một quỹ đạo theo đó nó luôn thay đổi vị trí liên tục.
Một định nghĩa chính xác hơn về mặt kỹ thuật là các điểm Lagrange là các tình trạng yên tĩnh của các vòng tròn bị hạn chế luận đề ba vật thể. Ví dụ, có hai vật thể quay theo quỹ đạo tròn xung quanh một khối lượng vật thể trung tâm, có năm điểm trong không gian nơi một vật thể thứ ba, hay một khối lượng không đáng kể, có thể hiện diện và giữ nguyên vị trí tương đối của nó so với hai vật thể lớn kia. Như được thấy trong một cơ cấu tham khảo mà sự quay của nó có cùng thời gian với hai vật thể cùng quỹ đạo ở trên, trường hấp dẫn của hai vật thể lớn tổng hợp lại với một lực ly tâm cân băng tại các điểm Lagrange, cho phép vật thể thứ ba nằm yên so với hai vật thể kia.
Lịch sử của các khái niệm
Năm 1772, nhà toán học tên tuổi người Italy – Pháp là Joseph Louis Lagrange nghiên cứu về Bài toán ba vật thể nổi tiếng, ông đã khám phá ra một sự ngẫu nhiên trong các kết quả. Ban đầu, ông đã tìm ra một cách để dễ dàng tính toán sự tác động lẫn nhau về sức hút trọng lực giữa một số lượng các vật thể tùy ý trong hệ, bởi vì cơ học Newton kết luận rằng một hệ như vậy sẽ khiến cho các vật thể quay một cách hỗn loạn cho tới khi xảy ra một sự va chạm, hay một vật thể sẽ bị tống ra khỏi hệ vì thế sự thăng bằng sẽ diễn ra. Logic phía sau kết luận này là hệ với một vật thể thì là thông thường, vì nó chỉ có liên quan tương đối so với chính nó; một hệ với hai vật thể cũng dễ dàng giải quyết được, vì các vật thể bay trên quỹ đạo của chúng quanh một tâm trọng lực. Tuy nhiên, một khi có nhiều hơn hai vật thể trong hệ, những tính toán toán học trở nên rất phức tạp. Một tình huống xảy ra khi bạn không thể tính toán mọi sự tác động lẫn nhau giữa mọi vật thể nào ở mọi điểm dọc theo quỹ đạo của nó.
Tuy nhiên, Lagrange, muốn làm điều này trở nên đơn giản hơn. Ông đã làm việc đó với một kết luận đơn giản: "Quỹ đạo của một vật thể được quyết định bằng cách tìm ra một con đường làm giảm tối thiểu tác dụng theo thời gian." Điều này được tìm ra khi trừ thế năng cho động năng. Theo cách suy nghĩ như vậy, Lagrange tái lập cơ học của Newton để tạo ra Cơ học Lagrange. Với hệ thống tính toán mới của mình, công trình của Lagrange đưa ông tới lý thuyết tại sao một vật thể thứ ba với một khối lượng không đáng kể sẽ bay quanh hai vật thể chính vốn đã quay quanh lẫn nhau, những điểm đặc biệt trên quỹ đạo của nó sẽ là đứng yên so với các vật thể chính, các (hành tinh). Các điểm đó được gọi là "các điểm Lagrange" để vinh danh ông.
Trong một trường hợp thông thường hơn của các quỹ đạo hình elíp, không có các "điểm" đứng yên nếu xét theo cùng một nghĩa: nó trở thành một "vùng" Lagrange. Các điểm Lagrange tạo nên tại mỗi điểm trong thời gian cũng như trong trường hợp tròn đứng yên của các quỹ đạo elíp giống với quỹ đạo của các vật thể có khối lượng. Điều này tuân theo Định luật số hai của Newton (). Khi p = mv (p là động lượng, m là khối lượng, và v là tốc độ) là bất biến nếu lực và vị trí tỷ lệ với nhau theo cùng nhân tố. Một vật thể ở điểm Lagrange quay với cùng khoảng thời gian so với hai vật thể có khối lượng lớn trong trường hợp tròn, ngụ ý rằng nó có cùng tỷ lệ về lực hấp dẫn so với khoảng cách. Sự thực này là độc lập với dáng tròn của các quỹ đạo, và nó ngụ ý rằng các quỹ đạo elíp được tính ra từ các điểm Lagrange cũng là những đáp án của sự cân bằng chuyển động của vật thể thứ ba.
Các điểm Lagrange
Năm điểm Lagrange được xác định và định nghĩa như sau:
L1
Điểm L1 nằm trên đường được xác định bởi hai khối lượng lớn M1 và M2, và ở giữa chúng.
Ví dụ: Một vật thể quay quanh Mặt trời ở khoảng cách gần hơn so với Trái Đất sẽ đương nhiên có thời gian quỹ đạo ngắn hơn Trái Đất, và không bị ảnh hưởng bởi lực kéo hấp dẫn của Trái Đất. Nếu vật thể nằm chính giữa Trái Đất và Mặt trời, thì hiệu ứng do lực hấp dẫn của Trái Đất sẽ làm yếu lực kéo vật thể đó bay quanh Mặt trời, và vì thế làm tăng khoảng thời gian quỹ đạo của nó. Vật thể càng ở gần Trái Đất, hiệu ứng này càng lớn. Tại điểm L1, thời gian quỹ đạo của vật thể trở thành tương đương với thời gian quỹ đạo của Trái Đất.
Điểm L1 của Mặt trời – Trái Đất là điểm lý tưởng để quan sát Mặt trời. Các vật thể tại đó không bao giờ bị Trái Đất hay Mặt Trăng che khuất. Vệ tinh quan sát Mặt trời (SOHO) nằm trên quỹ đạo Halo tại điểm L1 và vệ tinh thám hiểm cấu tạo (ACE) nằm trên quỹ đạo Lissajous, cũng tại điểm L1. Điểm L1 của Trái Đất – Mặt Trăng cho phép dễ dàng tiếp cận các quỹ đạo Trái Đất và Mặt Trăng với mức delta-v nhỏ nhất, và là điểm lý tưởng để đặt một trạm vũ trụ trung gian vận chuyển con người và hàng hóa tới và quay về từ Mặt Trăng.
L2
Điểm L2 nằm trên đường thẳng được xác định bởi hai vật thể, gần phía vật thể nhỏ hơn.
Ví dụ: Ở phía Trái Đất đối diện với Mặt trời, thời gian quỹ đạo của một vật thể sẽ đương nhiên dài hơn thời gian quỹ đạo của Trái Đất. Lực kéo hấp dẫn bù thêm của Trái Đất sẽ làm giảm thời gian quỹ đạo của vật thể, và tại điểm L2 thời gian quỹ đạo của vật thể sẽ tương đương thời gian quỹ đạo của Trái Đất.
Điểm L2 của Mặt trời – Trái Đất là một điểm tốt để đặt các đài quan sát thiên văn vũ trụ. Bởi vì một vật thể ở điểm L2 sẽ giữ nguyên hướng đối với Mặt trời và Trái Đất, việc bảo vệ và kiểm tra sẽ đơn giản hơn. Tàu thăm dò Wilkinson Microwave Anisotropy Probe hiện đã ở trên quỹ đạo quanh điểm L2 Mặt trời – Trái Đất L2. Đài thiên văn Herschel Space Observatory trong tương lai cũng như kính viễn vọng James Webb Space Telescope sẽ đều được đặt trên điểm L2 Mặt trời – Trái Đất. Điểm L2 Trái Đất – Mặt Trăng L2 là vị trí tốt để đặt vệ tinh thông tin quan sát mặt sau của Mặt Trăng.
Nếu M2 nhỏ hơn M1, thì L1 và L2 ở những khoảng cách r gần bằng nhau từ M2, tương đương bán kính của phạm vi ảnh hưởng của hành tinh, có theo:
với R là khoảng cách giữa hai vật thể,M2 là khối lượng của vật thể quay vật thể chủ và M1 là khối lượng vật thể chủ.
Khoảng cách này có thể được miêu tả như thế nào để thời gian quỹ đạo, tương đương với một quỹ đạo tròn với khoảng cách đó như bán kính quanh M2 khi không có M1, là bán kính của M2 quanh M1, được chia với .
Ví dụ:
Mặt trời và Trái Đất: 1.500.000 km từ Trái Đất
Trái Đất và Mặt Trăng: 61.500 km từ Mặt Trăng
L3
Điểm L3 nằm trên đường thẳng được xác định bởi hai vật thể lớn, gần hơn về phía vật thể lớn hơn của hệ.
Ví dụ: Điểm L3 trong hệ Mặt trời – Trái Đất nằm ở phía đối diện của Mặt trời, hơi xa hơn so với khoảng cách của Trái Đất, nơi tổng lực kéo của cả Trái Đất và Mặt Trời khiến vật thể bay trên quỹ đạo có cùng thời gian quỹ đạo với Trái Đất. Điểm L3 của Mặt trời – Trái Đất là vị trí thường được dùng để đặt một "Counter-Earth" trong khoa học viễn tưởng và trong các cuốn sách vui.
L4 và L5
Các điểm L4 và L5 nằm tại điểm thứ ba của một tam giác đều với cạnh được xác định bởi hai vật thể, như các điểm phía trước, hay phía sau, vật thể nhỏ hơn trên quỹ đạo của nó quanh vật thể lớn.
Các điểm L4 và L5 thỉnh thoảng được gọi là các điểm Lagrange tam giác hay các điểm Troia.
Ví dụ: Điểm L4 và L5 của Mặt trời – Trái Đất là các điểm nằm 60° phía trước và 60° phía sau Trái Đất trên quỹ đạo của nó quanh Mặt trời. Các điểm này có chứa bụi liên hành tinh. Các điểm L4 và L5 của Mặt trời – Sao Mộc là nơi có các tiểu hành tinh Troia.
Lý thuyết vụ va chạm lớn cho rằng một vật thể tên là Theia được hình thành tại điểm L4 hay L5 và đã va chạm với Trái Đất sau khi quỹ đạo của nó mất ổn định, tạo nên Mặt Trăng.
Tính ổn định
Ba điểm Lagrange đầu tiên về mặt kỹ thuật chỉ ổn định trên mặt phẳng vuông góc với đường nối hai vật thể. Điều này có thể dễ dàng quan sát thấy khi xem xét điểm L1. Một khối lượng thử nghiệm được đặt vuông góc với đường trung tâm sẽ bị một lực tác dụng đẩy nó ngược về hướng điểm thăng bằng. Điều này bởi vì các lực hấp dẫn của hai vật thể lớn tác dụng từ hai bên sẽ làm tăng cường độ lực này, trong khi hợp lực dọc theo trục giữa chúng sẽ làm cân bằng. Tuy nhiên, nếu một vật thể nằm tại điểm L1 gần một vật thể hơn, lực hấp dẫn từ vật thể đó sẽ mạnh hơn, và nó sẽ bị kéo lại gần hơn. (Mô hình này rất giống với mô hình các lực thủy triều.)
Dù các điểm L1, L2, và L3 trên danh nghĩa không ổn định, nhưng vẫn có thể tồn tại các quỹ đạo chu kỳ ổn định xung quanh các điểm đó, ít nhất trong giới hạn ba vật thể. Những quỹ đạo chu kỳ hoàn hảo này, được gọi là các quỹ đạo "halo", không tồn tại trong một hệ thống vận động n-vật thể như hệ mặt trời. Tuy nhiên, các quỹ đạo Lissajous gần như chu kỳ (ví dụ có giới hạn nhưng không lặp lại chính xác hoàn toàn) thực sự có tồn tại trong hệ thống n-vật thể. Những quỹ đạo gần như chu kỳ đó là toàn bộ những điểm đu đưa mà các chương trình vũ trụ của con người sử dụng từ trước tới nay. Dù chúng không ổn định một cách hoàn hảo, nhưng một lực khá nhỏ đã là đủ để giữ ổn định tàu vũ trụ trên một quỹ đạo Lissajous trong một khoảng thời gian dài. Một điều hiển nhiên khác, ít nhất đối với các chương trình vũ trụ sử dụng điểm L1 của hệ Mặt trời – Trái Đất, đặt tàu trên quỹ đạo Lissajous độ cao lớn (100.000 – 200.000 km) thay vì tại điểm đu đưa sẽ có lợi thế hơn bởi vì việc này giúp tàu tránh khỏi đường thẳng trực tiếp Mặt trời – Trái Đất và do đó giảm hiệu ứng nhiễu mặt trời đối với kênh thông tin liên lạc giữa tàu và Trái Đất. Một lợi thế khác của các điểm đu đưa cộng tuyến và các quỹ đạo Lissajous kết hợp với các điểm này là chúng như những "cửa ngõ" kiểm soát các quỹ đạo hỗn loạn của Mạng lưới Giao thông Liên hành tinh.
Trái với các điểm đu đưa cộng tuyến, các điểm tam giác (L4 và L5) có độ cân bằng ổn định (cf. attractor), khi tỷ lệ các khối lượng M1/M2 là > 24.96. Đây là trường hợp của hệ thống Mặt trời – Trái Đất và Trái Đất – Mặt Trăng, dù ở trường hợp Trái Đất – Mặt Trăng tỷ lệ có nhỏ hơn. Khi một vật thể tại các điểm đó bất ổn định, nó sẽ dời chỗ, nhưng hiệu ứng Coriolis sẽ hoạt động, và đẩy đường đi vật thể vào một quỹ đạo ổn định hình hạt đậu xung quanh điểm đó (như trong cơ cấu quay tham khảo).
Những chương trình vũ trụ sử dụng điểm đu đưa
Các quỹ đạo điểm đu đưa có những đặc tính duy nhất khiến chúng trở thanh lựa chọn hàng đầu khi thực hiện một số chương trình vũ trụ. NASA đã đặt một số tàu vũ trụ tại các điểm L1 và L2 của hệ Mặt trời – Trái Đất, gồm:
L5 Society là tiền thân của National Space Society, và sẽ cung cấp khả năng thiết lập một cơ sở sản xuất và cư trú trên quỹ đạo quanh các điểm L4 và/hay L5 của hệ Trái Đất – Mặt Trăng (xem Xâm chiếm vũ trụ).
Các ví dụ trong tự nhiên
Trong hệ Mặt trời – Sao Mộc có hàng ngàn tiểu hành tinh, thường được gọi là các tiểu hành tinh Troia, nằm trên các quỹ đạo xung quanh các điểm L4 và L5 của hệ. Ta cũng có thể thấy các vật thể khác trong hệ Mặt trời – Sao Thổ, Mặt trời – Sao Hoả, Sao Mộc – vệ tinh Jovian, và Sao Thổ – hệ thống vệ tinh Sao Thổ. Chúng ta chưa phát hiện thấy các vật thể lớn tại các điểm Troia của hệ Mặt trời – Trái Đất, nhưng các đám mây bụi bao quanh các điểm L4 và L5 đã được phát hiện trong thập kỷ 1950. Các đám mây bụi, được gọi là các đám mây Kordylewski, thậm chí còn mờ nhạt hơn cả gegenschein, chúng cũng hiện diện tại các điểm L4 và L5 của hệ Trái Đất – Mặt Trăng.
Mặt Trăng Tethys của Sao Thổ có hai Mặt Trăng nhỏ tại các điểm L4 và L5 của nó, là Telesto và Calypso. Mặt Trăng Dione của Sao Thổ cũng có hai Mặt Trăng cùng quỹ đạo là Helene tại điểm L4 và Polydeuces tại điểm L5. Các Mặt Trăng lang thang theo góc phương vị quanh các điểm Lagrange, và Polydeuces có độ lệch hướng lớn nhất, lên tới 32 độ từ điểm L5 của hệ Sao Thổ – Dione. Tethys và Dione có khối lượng gấp hàng trăm lần so với những vật thể "hộ tống" của nó (xem các bài viết về Mặt Trăng để có con số kích thước chính xác; trong nhiều trường hợp không có các con số khối lượng), và Sao Thổ còn có khối lượng lớn hơn nữa, giúp toàn hệ hệ thống được ổn định.
Các quỹ đạo chung khác
Vật thể cùng đôi với Trái Đất, 3753 Cruithne, nằm trên một quỹ đạo Troia quanh Trái Đất, nhưng không thực sự như một thiên thể Troia. Trái lại, nó chiếm một trong hai quỹ đạo đều quanh mặt trời, theo chu kỳ thay đổi từ quỹ đạo này sang quỹ đạo khác khi đụng độ gần với Trái Đất. Khi tiểu hành tinh áp sát Trái Đất, nó nhận được năng lượng quỹ đạo từ Trái Đất và di chuyển sang một quỹ đạo cao, lớn hơn và có năng lượng nhiều hơn. Một thời gian sau, Trái Đất đuổi kịp tiểu hành tinh (đang có quỹ đạo lớn và chậm hơn), khi ấy Trái Đất lấy lại năng lượng và vì thế tiểu hành tinh lại rơi vào một quỹ đạo nhỏ và nhanh hơn và cuối cùng lại đuổi kịp Trái Đất để bắt đầu một chu kỳ mới. Điều này không gây ảnh hưởng có thể nhận thấy trên chiều dài năm của Trái Đất, bởi vì khối lượng Trái Đất lớn gấp hơn 20 tỷ lần khối lượng 3753 Cruithne.
Epimetheus và Janus là các vệ tinh của Sao Thổ và cũng có mối quan hệ tương tự như vậy, dù chúng có khối lượng khác nhau và thay đổi quỹ đạo cho nhau theo chu kỳ. (Janus có khối lượng lớn gấp 4 lần, nhưng vẫn đủ nhẹ để bị ảnh hưởng làm thay đổi quỹ đạo.) Một ví dụ tương tự khác là cộng hưởng quỹ đạo, theo đó các vật thể quỹ đạo thường có xu hướng có các chu kỳ tỷ lệ nguyên, vì sự tương tác giữa chúng. |
Quốc lộ 10 là tuyến đường liên tỉnh chạy dọc theo vùng duyên hải Bắc Bộ qua bảy tỉnh và thành phố: Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình và Thanh Hóa.
Quốc lộ 10 có tổng chiều dài 212 km, riêng chiều dài tính từ điểm đầu tại ngã ba Bí Chợ (thành phố Uông Bí, Quảng Ninh) tới điểm nút giao với Quốc lộ 1 tại thành phố Ninh Bình là 135 km, tại vị trí này, quốc lộ 10 đổi hướng đông nam qua các huyện Yên Khánh, Kim Sơn (Ninh Bình) rồi theo hướng tây nam qua các huyện Nga Sơn, Hậu Lộc (Thanh Hóa). Điểm cuối của tuyến đường lại gặp Quốc lộ 1 tại phường Tào Xuyên (thành phố Thanh Hóa).
Tình trạng kỹ thuật
Từ km0 (ngã ba Bí Chợ) đến km73 (cầu Nguyễn, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình) dài 73 km.
Từ km73 (cầu Nguyễn) đến km106 (thành phố Nam Định) dài 33 km.
Từ km106 (thành phố Nam Định) đến km135 (thành phố Ninh Bình) dài 29 km.
Trên đường có 42 cầu chính (nhiều cầu lớn như: cầu Non Nước, cầu Tân Đệ, cầu Đá Bạc, cầu Quý Cao, cầu Tiên Cựu, cầu Kim Chính).
Bảo đảm giao thông được cả hai mùa.
Lưu lượng thông xe từ 700 đến 900 xe/ngày đêm.
Quốc lộ 10 cũ
Điểm đầu của quốc lộ 10 cũ là điểm giao với quốc lộ 18 tại Biểu Nghi thuộc phường Minh Thành, thị xã Quảng Yên, Quảng Ninh. Quốc lộ 10 cũ đi qua phà Rừng, thị trấn Núi Đèo, Thủy Nguyên rồi qua cầu Bính vào nội thành Hải Phòng và gặp Quốc lộ 10 mới tại ngã ba Quang Thanh, thị trấn An Lão (Hải Phòng).
Đoạn quốc lộ 10 mới từ ngã ba Bí Chợ (Uông Bí, Quảng Ninh) đến ngã ba Quang Thanh (thị trấn An Lão, Hải Phòng) còn được gọi là quốc lộ 10A. Tuyền đường này có một đoạn ngắn đi qua Quý Cao (Tứ Kỳ, Hải Dương).
Các đô thị trên quốc lộ 10
Quốc lộ 10 đi qua các đô thị sau đây:
Quảng Ninh
Thành phố Uông Bí (đoạn quốc lộ 10A)
Thị xã Quảng Yên (đoạn quốc lộ 10 cũ)
Hải Phòng
Thị trấn Núi Đèo, huyện Thủy Nguyên (đoạn quốc lộ 10 cũ)
Nội thành Hải Phòng (đoạn quốc lộ 10 cũ)
Thị trấn Trường Sơn, huyện An Lão (đoạn quốc lộ 10 cũ)
Thị trấn An Lão, huyện An Lão
Thị trấn Vĩnh Bảo, huyện Vĩnh Bảo
Hải Dương
Phố Quý Cao Xã Nguyên Giáp, huyện Tứ Kỳ
Thái Bình
Thị trấn An Bài, huyện Quỳnh Phụ
Thị trấn Đông Hưng
Thành phố Thái Bình
Thị trấn Vũ Thư
Nam Định
Thành phố Nam Định
Thị trấn Gôi, huyện Vụ Bản
Ninh Bình
Thành phố Ninh Bình
Thị trấn Yên Ninh, huyện Yên Khánh
Thị trấn Phát Diệm, huyện Kim Sơn
Thanh Hoá
Thị trấn Nga Sơn
Thị trấn Hậu Lộc
Thị trấn Bút Sơn, huyện Hoằng Hóa
Phường Tào Xuyên, thành phố Thanh Hóa
Hình ảnh |
Shan Sa là bút danh của Yan Ni-Ni (Diêm Ni; sinh ngày 26 tháng 10 năm 1972), một nhà văn người Pháp, được biết đến ở Trung Quốc và Việt Nam với tên Sơn Táp (山颯). Cô thuộc thế hệ thứ ba của các nhà văn Hoa kiều ở Pháp.
Tiểu sử
Shan Sa sinh ra trong một gia đình trí thức cao cấp ở Bắc Kinh và rời Trung Quốc để đến Paris vào năm 1990. Năm lên 8, cô đã có thơ in thành tuyển tập. Năm 14 tuổi, cô đã được giải thưởng văn học thiếu nhi toàn quốc, gây chấn động văn đàn Trung Quốc, cô đã xuất bản được 4 tập thơ khi còn ở trong nước. Năm 1990 cô tốt nghiệp trung học tại trường Trung học phụ thuộc Đại học Bắc Kinh, cùng năm đó được nhà thơ Ngải Thanh tiến cử đi du học tại Pari và định cư tại Pháp. Cô sang Paris theo cha là giáo sư dạy ở Đại học Sorbonne từ trước đó. Từ năm 1994 đến năm 1996, cô làm thư ký cho họa sĩ Balthus. Năm 1997, với bút danh Shan Sa, cô từng bước chiếm lĩnh văn đàn Paris. Thiếu nữ đánh cờ vây là tác phẩm đầu tiên của cô đã được xuất bản trong và ngoài nước Pháp, được 4 giải văn học lớn của Pháp đề cử và đoạt giải thưởng văn học Goncourt dành cho giới trẻ.
Sơn Táp nói cô rất thích núi, thích nghe tiếng thông reo và đọc sách. Bút danh Sơn Táp của cô được gợi ý từ bài thơ cổ ngũ ngôn "Tùng thanh" của Bạch Cư Dị: "hàn sơn táp táp vũ, thu cầm lãnh lãnh huyền" (ào ào núi rét sa mưa, đờn cầm thu nẩy dây tơ lạnh lùng–Tản Đà dịch).
Cuối năm 2003, Shan Sa trở thành tâm điểm của giới báo chí và xuất bản Pháp vì một trận chiến ầm ĩ giữa hai Nhà xuất bản là Albin Michel và Grasset để giành quyền ấn hành cuốn Impératrice (Vương hậu) của cô.
Tác phẩm chính
Porte de la paix céleste (Thiên An môn) (1997).
Les quatre vies du saule (Bốn kiếp thuỳ liễu) (1999).
La Joueuse de Go (Thiếu nữ đánh cờ vây) (2001).
Impératrice (Empress) (Nữ hoàng) (2003), dựa trên cuộc đời của Võ Tắc Thiên
Les conspirateurs (Conspirators) (Mưu phản) (2005).
La cithare nue (The naked zither) (Đàn cổ cầm khỏa thân) (2010).
Các tác phẩm in nghiêng: đã có bản dịch tiếng Việt
Giải thưởng
Giải Goncourt cho tiểu thuyết đầu tay năm 1998 (với truyện Porte de la paix céleste)
Giải thưởng Cazes năm 1999 (với truyện Les quatre vies du saule)
Giải thưởng Goncourt cho giới trẻ ở Pháp năm 2001 và giải thưởng Kiriyama ở Mỹ (với truyện Thiếu nữ đánh cờ vây) |
Nepal (phiên âm tiếng Việt: Nê-pan; ), tên chính thức là nước Cộng hòa Dân chủ Liên bang Nepal ( ), là một quốc gia nội lục tại Nam Á. Dân số quốc gia Himalaya này đạt 26,4 triệu vào năm 2011, sống trên lãnh thổ lớn thứ 93 thế giới. Nepal giáp với Trung Quốc về phía bắc, giáp với Ấn Độ về phía nam, đông và tây. Nepal cách Bangladesh 27 km tính từ mũi đông nam. Nepal đa dạng về địa lý, có các đồng bằng phì nhiêu, các đồi rừng cận núi cao, và có 8 trong số 10 núi cao nhất thế giới, trong đó có núi Everest. Kathmandu là thủ đô và thành phố lớn nhất của Nepal. Nepal là một quốc gia đa dân tộc, tiếng Nepal là ngôn ngữ chính thức.
Lãnh thổ Nepal có lịch sử được ghi nhận từ thời đồ đá mới. Tên gọi "Nepal" xuất hiện lần đầu trong các văn bản từ thời kỳ Vệ Đà, là thời kỳ hình thành Ấn Độ giáo. Vào giữa thiên niên kỷ 1 TCN, người sáng lập Phật giáo là Gautama Buddha sinh tại miền nam Nepal. Nhiều nơi thuộc miền bắc Nepal đan xen với văn hoá Tây Tạng. Thung lũng Kathmandu tại miền trung Nepal có nền văn minh đô thị phức tạp, là trụ sở của liên minh Newar thịnh vượng mang tên Nepal Mandala. Nhánh Himalaya của con đường tơ lụa cổ đại do các thương nhân của thung lũng này chi phối. Đến thế kỷ XVIII, Vương quốc Gorkha thống nhất được Nepal. Triều đại Shah thành lập Vương quốc Nepal và sau đó lập liên minh với Đế quốc Anh, với thực quyền thuộc gia tộc Rana truyền thế nắm chức thủ tướng. Nepal chưa từng bị thuộc địa hóa, song đóng vai trò là vùng đệm giữa Đại Thanh và Ấn Độ thuộc Anh. Trong thế kỷ XX, Nepal kết thúc thế cô lập và tạo dựng quan hệ vững chắc với các cường quốc khu vực. Chế độ nghị viện được thi hành vào năm 1951, song bị quốc vương đình chỉ hai lần vào năm 1960 và 2005. Nội chiến Nepal dẫn đến kết quả là tuyên bố thành lập nước cộng hoà vào năm 2008.
Nepal hiện nay là một nước cộng hoà nghị viện thế tục liên bang, gồm có bảy bang. Nepal là một quốc gia đang phát triển, có chỉ số phát triển con người HDI xếp thứ 144 thế giới vào năm 2016. Quốc gia này có mức độ nghèo đói cao, song tình hình dần cải thiện và chính phủ tuyên bố cam kết đưa quốc gia thoát khỏi tình trạng kém phát triển vào năm 2022. Nepal cũng có tiềm năng khổng lồ về thủy điện để xuất khẩu. Nepal gia nhập Liên Hợp Quốc vào năm 1955, ký kết các hiệp định hữu nghị với Ấn Độ vào năm 1950 và với Trung Quốc vào năm 1960. Nepal là thành viên của Hiệp hội Nam Á vì sự Hợp tác Khu vực (SAARC), Phong trào không liên kết và Sáng kiến Vịnh Bengal. Nepal nổi tiếng với lịch sử các binh sĩ Gurkha, đặc biệt là trong hai thế chiến, và có đóng góp quan trọng trong các hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên Hợp Quốc.
Lịch sử
Cổ trung đại
Phát hiện được các công cụ đồ đá mới tại thung lũng Kathmandu, chỉ ra rằng loài người sống tại Himalaya ít nhất là 11.000 năm. Lớp cư dân cổ nhất được cho là tổ tiên của người Kusunda hiện nay. Theo Hogdson vào năm 1847, những cư dân ban đầu này có lẽ là gốc Australoid nguyên thủy.
Nepal được đề cập lần đầu trong Atharvaveda Pariśiṣṭa vào cuối thời Vệ Đà khi là một nơi xuất khẩu chăn, và trong Atharvashirsha Upanishad hậu Vệ Đà. Trên cột trụ Allahabad của Samudragupta, Nepal được mô tả là một quốc gia ngoại biên. Skanda Purana có một chương riêng gọi là "Nepal Mahatmya" trong đó giảng giải chi tiết hơn về vẻ đẹp và sức mạnh của Nepal. Nepal cũng được đề cập trong các văn bản Ấn Độ giáo như Narayana Puja. Người nói tiếng thuộc hệ Tạng-Miến có lẽ sống tại Nepal từ 2500 năm trước. Các cư dân ban đầu của Nepal có gốc Dravidia, họ có lịch sử từ đầu thời kỳ đồ đồng tại Nam Á, trước khi các dân tộc Tạng-Miến và Ấn-Arya đến.
Khoảng năm 500 TCN, các vương quốc nhỏ và liên minh các thị tộc xuất hiện tại các vùng phía nam của Nepal. Từ một thực thể trong số đó là Shakya, nổi lên một vị hoàng tử từ bỏ địa vị của mình và trải qua cuộc sống khổ hạn, hình thành Phật giáo, được gọi là Phật Thích Ca (niên đại truyền thống là 563–483 TCN).
Đến năm 250 TCN, các khu vực phía nam nằm dưới ảnh hưởng của Đế quốc Maurya tại Bắc Ấn Độ và nhiều nơi của Nepal sau đó trở thành một nhà nước chư hầu dưới trướng Đế quốc Gupta vào thế kỷ IV. Bắt đầu vào thế kỷ III, Vương quốc Licchavi quản lý thung lũng Kathmandu và khu vực xung quanh miền trung Nepal. Vương triều Licchavi suy thoái vào cuối thế kỷ VIII, có lẽ là do áp lực từ Thổ Phồn, và kế tiếp là một thời kỳ Newar hoặc Thakuri từ năm 879, song không rõ về phạm vi kiểm soát của họ. Trong thế kỷ XI, nó dường như bao gồm cả khu vực Pokhara. Đến cuối thế kỷ XI, miền nam Nepal chịu ảnh hưởng của Vương triều Chalukya tại Nam Ấn Độ. Dưới thời Chalukya, cơ sở tôn giáo của Nepal biến đổi do các quốc vương bảo trợ Ấn Độ giáo thay vì Phật giáo vốn đang thịnh hành.
Vào đầu thế kỷ XII, các thủ lĩnh nổi lên tại cực tây Nepal có tên kết thúc bằng hậu tố tiếng Phạn malla ("đô vật"). Các quốc vương này củng cố quyền lực trong hai trăm năm sau đó, cho đến khi vương quốc bị tan rã thành nhiều tiểu quốc. Một triều đại Malla khác bắt đầu với Quốc vương Jayasthiti xuất hiện tại thung lũng Kathmandu vào cuối thế kỷ XIV, và phần lớn miền trung Nepal lại nằm dưới quyền cai trị thống nhất. Năm 1482, vương quốc này bị phân thành ba vương quốc: Kathmandu, Patan, và Bhaktapur.
Vương quốc Nepal
Đến giữa thế kỷ XVIII, một quốc vương người Gurkha là Prithvi Narayan Shah tập hợp thành Nepal ngày nay. Sau một số xung đột đổ máu, ông chinh phục được thung lũng Kathmandu vào năm 1769. Quyền thế của người Gurkha đạt đỉnh khi lãnh thổ của các vương quốc Kumaon và Garhwal tại phía tây đến Sikkim tại phía đông nằm dưới quyền cai trị của Nepal. Ở quy mô tối đa, Đại Nepal mở rộng đến sông Teesta tại phía đông, đến Kangra, qua sông Sutlej tại phía tây cũng như xa về phía nam đến đồng bằng Terai. Tranh chấp lãnh thổ giữa Nepal với Tây Tạng khiến Đại Thanh khởi động Chiến tranh Trung Quốc – Nepal (1788–1789), kết quả quân Nepal bị đẩy lui và phải trả bồi thường cao cho Bắc Kinh.
Kình địch giữa Vương quốc Nepal và Công ty Đông Ấn Anh về việc thôn tính các tiểu quốc giáp biên với Nepal cuối cùng dẫn đến Chiến tranh Anh – Nepal (1815–16). Ban đầu, người Anh đánh giá thấp người Nepal và thất bại cho đến khi có tăng viện. Họ rất ấn tượng trước lòng dũng cảm và năng lực của người Nepal, khởi đầu cho danh tiếng của các binh sĩ Gurkha. Chiến tranh kết thúc với kết quả là Nepal phải nhượng lại các phần đất mới chiếm của Sikkim và đất đai tại Terai, cũng như quyền tuyển binh.
Chủ nghĩa bè phái trong hoàng tộc dẫn đến một giai đoạn bất ổn. Năm 1846, một âm mưu bị phát giác tiết lộ rằng nữ vương có kế hoạch lật đổ một thủ lĩnh quân sự là Jung Bahadur Kunwar, dẫn đến thảm sát trong triều đình. Jung Bahadur Kunwar thắng lợi và lập ra triều đại Rana. Dưới triều đại này, quốc vương là một nhân vật danh nghĩa, trong khi chức vụ thủ tướng đầy quyền lực và được kế tập. Gia tộc Rana ủng hộ Anh và hỗ trợ người Anh trong Khởi nghĩa Ấn Độ 1857, cũng như trong hai thế chiến. Người Anh trao cho Nepal một số nơi tại khu vực Terai dù cư dân tại đó không phải người Nepal, đây là một cử chỉ hữu nghị do Nepal giúp Anh trấn áp khởi nghĩa tại Ấn Độ. Năm 1923, Anh và Nepal chính thức ký kết một hiệp ước hữu nghị. Chế độ nô lệ bị bãi bỏ tại Nepal vào năm 1924.
Đến cuối thập niên 1940, các phong trào ủng hộ dân chủ và chính đảng mới xuất hiện tại Nepal chỉ trích chế độ chuyên quyền Rana. Trong khi đó, quân đội Trung Quốc xâm chiếm Tây Tạng trong thập niên 1950, Ấn Độ tìm cách đối trọng bằng cách thực hiện các bước đi nhằm khẳng định ảnh hưởng hơn nữa tại Nepal. Ấn Độ bảo trợ cho cựu vương Tribhuvan tái đăng cơ vào năm 1951, và cũng bảo trợ một chính phủ mới gồm hầu hết là thành viên Đảng Đại hội Nepal, do đó kết thúc quyền bá chủ của gia tộc Rana tại Nepal.
Sau nhiều năm tranh chấp quyền lực giữa quốc vương và chính phủ, Quốc vương Mahendra (trị vì 1955–72) bãi bỏ thử nghiệm dân chủ vào năm 1959, và một hệ thống Panchayat không đảng phái được lập ra để quản lý Nepal cho đến năm 1989, khi "Jan Andolan" (Phong trào Nhân dân) buộc Quốc vương Birendra (trị vì 1972–2001) chấp thuận các cải cách hiến pháp và lập một quốc hội đa đảng trong năm 1991. Năm 1991–92, Bhutan trục xuất khoảng 100.000 người gốc Nepal, hầu hết họ đến sống trong các trại tị nạn tại miền đông Nepal.
Năm 1996, Đảng Cộng sản Nepal (Maoist) bắt đầu một nỗ lực nhằm thay thế hệ thống nghị viện hoàng gia bằng một nước cộng hoà nhân dân bằng phương thức bạo lực, dẫn đến nội chiến Nepal làm hơn 12.000 người thiệt mạng. Ngày 1 tháng 6 năm 2001, xảy ra thảm sát trong hoàng cung Nepal, Quốc vương Birendra cùng vương hậu và nhiều thành viên vương thất khác bị giết, Thái tử Dipendra được cho là thủ phạm và tự tử ngay lúc đó. Sau sự việc, em trai của Quốc vương Birendra là Gyanendra kế thừa vương vị. Ngày 1 tháng 2 năm 2005, Quốc vương Gyanendra giải tán toàn bộ chính phủ và đảm nhiệm đầy đủ quyền lực hành pháp nhằm dập tắt phong trào Maoist (tư tưởng Mao Trạch Đông)..
Cộng hoà
Đối diện với phong trào dân chủ vào năm 2006, Quốc vương Gyanendra chấp thuận trao lại quyền chủ quyền cho nhân dân. Hạ nghị viện sau đó bỏ phiếu cắt bớt quyền lực của quốc vương và tuyên bố Nepal là một nhà nước thế tục, kết thúc vị thế vương quốc Ấn Độ giáo. Ngày 28 tháng 12 năm 2007, một dự luật được quốc hội thông qua với nội dung tuyên bố Nepal là một nước cộng hoà liên bang, đồng nghĩa với việc bãi bỏ chế độ quân chủ. Dự luật có hiệu lực vào ngày 28 tháng 5 năm 2008. Đảng Cộng sản Thống nhất Nepal (Maoist) giành nhiều ghế nhất trong bầu cử Hội đồng Lập pháp vào ngày 10 tháng 4 năm 2008, lập ra một chính phủ liên minh. Tháng 10 năm 2015, Bidhya Devi Bhandari trở thành nữ tổng thống đầu tiên của Nepal. Ngày 20 tháng 9 năm 2015, hiến pháp mới được Tổng thống Ram Baran Yadav công bố, hội đồng lập pháp chuyển đổi thành một nghị viện. Theo hiến pháp, Nepal chuyển thành một nước cộng hoà dân chủ liên bang gồm bảy bang.
Ngày 25 tháng 4 năm 2015, một trận động đất mạnh tấn công Nepal. Đến ngày 12 tháng 5, một trận động đất mạnh khác lại tấn công Nepal, chúng khiến hơn 8.500 người thiệt mạng và khoảng 21.000 người bị thương.
Địa lý
Nepal có lãnh thổ gần giống hình thang, dài 800 km và rộng 200 km, có diện tích 147.181 km². Nepal nằm giữa vĩ tuyến 26° và 31° Bắc, kinh tuyến 80° và 89° Đông. Nepal thường được chia thành ba khu vực địa văn học: núi, đồi và Terai. Các vành đai sinh thái này kéo dài theo chiều đông tây và giao cắt với các hệ thống sông lớn chảy từ bắc xuống nam.
Vùng đồng bằng đất thấp miền nam còn gọi là Terai, nó giáp với Ấn Độ và là bộ phận của rìa phía bắc đồng bằng Ấn-Hằng. Nó hình thành và được tưới tiêu từ ba sông lớn của Himalaya là Kosi, Narayani, và Karnali cũng các sông nhỏ khởi nguồn bên dưới đường tuyết vĩnh cửu. Khu vực này có khí hậu cận nhiệt đới đến nhiệt đới. Khu chân núi ngoại biên nhất mang tên vùng đồi Sivalik hoặc dãy Churia cao từ 700 đến 100m, đánh dấu giới hạn của đồng bằng sông Hằng, tuy nhiên các thung lũng rộng và thấp gọi là các thung lũng Nội Tarai nằm tại một vài nơi về phía bắc của các khu chân núi này.
Vùng Đồi (Pahad) giáp các ngọn núi và độ cao là từ 800m đến 4000m, có khí hậu biến đổi từ cận nhiệt đới ở nơi cao dưới 1.200m đến núi cao ở nơi cao trên 3.600m. Dãy Hạ Himalaya có độ cao 1500m đến 3000m là giới hạn phía nam của vùng này, với các thung lũng sông cận nhiệt đới và "đồi" xen kẽ đến phía bắc của dãy này. Mật độ dân số tại các thung lũng ở mức cao song ít hơn đáng kể ở độ cao trên 2000 m và rất thấp ở độ cao trên 2.500 mét do tuyết thường rơi vào mùa đông.
Khu vực núi (Himal) nằm trên dãy Đại Himalaya, chiếm phần phía bắc của Nepal. Khu vực này có những điểm cao nhất thế giới như núi Everest (Sagarmāthā trong tiếng Nepal) cao 8848 m trên biên giới với Trung Quốc. Bảy trong số 14 đỉnh cao trên 8000 m của thế giới nằm tại Nepal hoặc trên biên giới Nepal-Trung Quốc: Lhotse, Makalu, Cho Oyu, Kangchenjunga, Dhaulagiri, Annapurna và Manaslu.
Xói mòn của dãy Himalaya là một nguồn trầm tích rất quan trọng, chảy qua một số sông lớn như sông Ấn, sông Hằng và sông Brahmaputra ra Ấn Độ Dương.
Va chạm giữa tiểu lục địa Ấn Độ và mảng Á-Âu bắt đầu từ kỷ Paleogen và tiếp tục cho đến nay, tạo ra dãy Himalaya và cao nguyên Thanh-Tạng. Nepal nằm hoàn toàn trong đới va chạm này, chiếm phần trung tâm của dãy Himalaya, gần một phần ba chiều dài 2.400 km của dãy núi. Mảng Ấn Độ tiếp tục di chuyển về phía bắc so với châu Á với mức độ khoảng 5 cm mỗi năm. Khi lớp vỏ lục địa của mảng Ấn Độ hút chìm dưới lớp vỏ tương đối yếu của Tây Tạng, nó tạo nên dãy Himalaya.
Nepal có năm vùng khí hậu, đại thể tương ứng theo độ cao. Vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới nằm dưới 1.200 m, vùng ôn đới từ 1.200m đến 2.400m, vùng lạnh từ 2.400m đến 3.600m, vùng cận cực từ 3.600m đến 4.400m, và vùng băng giá trên 4.400m. Nepal có năm mùa: hè, gió mùa, thu, đông và xuân. Dãy Himalaya ngăn gió lạnh từ Trung Á vào mùa đông và tạo thành giới hạn phía bắc của mô hình gió mùa. Nepal từng có rừng bao phủ dày đặc, song phá rừng là một vấn đề lớn tại tất cả các vùng, gây ra xói mòn và suy thoái hệ sinh thái.
Nepal nổi tiếng với những nhà leo núi, có nhiều đỉnh cao nhất và thử thách nhất thế giới. Về kỹ thuật, sườn đông nam của Everest thuộc Nepal dễ leo hơn nên hầu hết mọi người chuộng lên núi từ Nepal thay vì Tây Tạng.
Các núi cao nhất tại Nepal:
Khác biệt đáng kể về độ cao tại Nepal dẫn đến đa dạng về quần xã sinh vật, từ xa van nhiệt đới dọc biên giới với Ấn Độ, đến rừng lá rộng và rừng lá kim cận nhiệt đới tại vùng đồi, đến rừng là rộng và rừng lá kim ôn đới trên sườn của dãy Himalaya, đến các đồng cỏ và vùng cây bụi núi cao cùng đá và băng trên những nơi cao nhất. Tại những nơi có độ cao thấp, có vùng sinh thái xa van và đồng cỏ Terai-Duar, rừng lá rộng cận nhiệt đới Himalaya xuất hiện từ độ cao 500 m đến 1000 m và bao gồm Thung lũng Nội Terai. Rừng thông cận nhiệt đới xuất hiện từ độ cao 1000 m đến 2.000 m. Trên 2000 m, địa lý sinh vật của Nepal về đại thể được phân chia thành đông và tây qua sông Gandaki. Vùng sinh thái phía đông có xu hướng nhiều mưa hơn và phong phú về loài hơn, còn vùng phía tây thì khô hơn và có ít loài hơn. Từ độ cao 1500 m đến 3000 m là rừng lá rộng ôn đới, phân thành vùng phía đông và phía tây. Từ độ cao 3000 m đến 4000 m là rừng lá kim phía đông và phía tây cận cực Himalaya. Dưới 5500 m là cây bụi và bãi cỏ vùng cực phía đông và phía tây Himalaya.
Chính trị
Nepal trải qua biến đổi chính trị nhanh chóng trong những thập niên gần đây. Nepal từng là một quốc gia quân chủ do quốc vương nắm quyền hành pháp, đến năm 1990 do áp lực từ phong trào cộng sản chống chế độ quân chủ chuyên chế, Quốc vương Birendra chấp thuận cải cách chính phủ quy mô lớn và tạo ra một chế độ quân chủ lập hiến. Các chính phủ tại Nepal có xu hướng không ổn định cao độ, bị hạ bệ thông qua sụp đổ nội bộ hoặc quốc vương giải tán nghị viện theo khuyến nghị của thủ tướng; không chính phủ nào tồn tại quá hai năm kể từ năm 1991. Tháng 12 năm 2007, nghị viện lâm thời thông qua một dự luật đưa Nepal thành một nước cộng hoà liên bang, nguyên thủ quốc gia là tổng thống. Bầu cử hội đồng lập hiến được tổ chức vào ngày 10 tháng 4 năm 2008, kết quả là đảng Maoist (tư tưởng Mao Trạch Đông) dành nhiều ghế nhất. Nghị viện mới phê chuẩn dự luật năm 2007 trong phiên họp đầu tiên, và Quốc vương Gyanendra phải rời khỏi vương cung tại Kathmandu vào ngày 11 tháng 6.
Đảng Cộng sản Thống nhất Nepal (Maoist) khi đó lập ra một chính phủ liên minh, thủ tướng là Pushpa Kamal Dahal. Tuy nhiên, căng thẳng chính trị và tranh giành quyền lực tiếp tục tại Nepal. Trong tháng 5 năm 2009, chính phủ do phe Maoist lãnh đạo bị hạ bệ và một chính phủ liên minh khác được thành lập song không có phe Maoist. Madhav Kumar Nepal thuộc Đảng Cộng sản Nepal (Marxist–Leninist Thống nhất) trở thành thủ tướng của chính phủ liên minh. Đến tháng 2 năm 2011, chính phủ của Madhav Kumar bị hạ bệ, và Jhala Nath Khanal cũng thuộc Đảng Cộng sản Nepal (Marxist–Leninist Thống nhất) trở thành thủ tướng. Đến tháng 8 năm 2011, chính phủ của Jhala Nath Khanal bị hạ bệ và Baburam Bhattarai cũng thuộc Đảng Cộng sản Nepal (Maoist) trở thành thủ tướng. Các chính đảng không thể soạn thảo một hiến pháp trong thời gian quy định, dẫn đến giải tán hội đồng lập hiến và mở đường cho cuộc bầu cử mới, Chánh án Khil Raj Regmi trở thành chủ tịch của chính phủ lâm thời. Dưới quyền Regmi, Nepal tổ chức bầu cử hoà bình để chọn hội đồng lập pháp, các thế lực lớn trong hội đồng lập pháp khoá trước là phe Maoist và Madhesi đạt kết quả kém.
Trong tháng 2 năm 2014, sau nhất trí giữa hai chính đảng lớn nhất trong hội đồng lập hiến, Sushil Koirala tuyên thệ nhậm chức thủ tướng của Nepal. Ngày 20 tháng 9 năm 2015, hiến pháp mới được công bố, hội đồng lập pháp chuyển thành một nghị viện, Nepal thực tiễn trở thành một nước cộng hoà dân chủ liên bang gồm bảy bang chưa có tên. Tháng 10 năm 2015, Bidhya Devi Bhandari trở thành nữ tổng thống đầu tiên của Nepal. Khadga Prasad Oli thuộc Đảng Cộng sản Nepal (Maoist-Trung dung) trở thành thủ tướng vào tháng 10 năm 2015. Pushpa Kamal Dahal thuộc Đảng Cộng sản Nepal (Maoist-Trung dung) trở thành thủ tướng vào tháng 8 năm 2016. Sher Bahadur Deuba thuộc Đảng Đại hội Nepal lần thứ tư trở thành thủ tướng vào tháng 6 năm 2017. Khadga Prasad Oli tái nhậm chức thủ tướng vào tháng 2 năm 2018
Nepal nằm trong số ít quốc gia tại châu Á bãi bỏ hình phạt tử hình. Năm 2008, Toà án tối cao của Nepal ra phán quyết cấp quyền đầy đủ cho các cá nhân LGBT, bao gồm quyền kết hôn và toà án tối cao vào năm 2007 cho phép đăng ký quyền công dân với giới tính thứ ba. Tuy nhiên, chính phủ chưa ban hành luật về hôn nhân đồng giới
Hiến pháp Nepal hiện hành có hiệu lực vào ngày 20 tháng 9 năm 2015, thay thế cho hiến pháp lâm thời từ năm 2007. Hiến pháp là luật cơ bản của Nepal, nó xác định Nepal là một quốc gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ, đa tôn giáo, đa văn hoá với nguyện vọng chung của nhân dân sống trong các khu vực địa lý đa dạng, cam kết và đoàn kết thông qua ràng buộc trung thành với độc lập quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích và thịnh vượng của Nepal.
Hiến pháp Nepal định nghĩa ba cơ quan của chính phủ, Hình thức quản lý của Nepal sẽ là hệ thống nghị viện cộng hoà dân chủ liên bang đa đảng cạnh tranh, dựa theo đa số.
Chính phủ
Quyền lực hành pháp thuộc về Hội đồng Bộ trưởng, tổng thống sẽ bổ nhiệm thủ lĩnh của chính đảng chiếm đa số trong hạ nghị viện làm thủ tướng, người này đứng đầu Hội đồng bộ trưởng. Quyền lực hành pháp cấp tỉnh thuộc về Hội đồng Bộ trưởng cấp tỉnh, tỉnh tưởng thi hành quyền hành pháp trong trường hợp không có tổ chức hành pháp khi có tình huống khẩn cấp hoặc thực thi lệnh của liên bang. Mỗi tỉnh sẽ có một tỉnh trưởng, người này là đại biểu của chính phủ liên bang do tổng thống bổ nhiệm. Tỉnh trưởng sẽ bổ nhiệm thủ lĩnh của đảng chiếm đa số trong hội đồng cấp tỉnh làm thủ hiến và người này đứng đầu Hội đồng bộ trưởng cấp tỉnh.
Nghị viện liên bang gồm có hai viện là Chúng nghị viện (House of Representatives) tức hạ viện, và Quốc hội (National Assembly) tức thượng viện. Chúng nghị viện sẽ có nhiệm kỳ 5 năm, trừ khi bị giải tán trước thời hạn. Chúng nghị viện gồm 275 đại biểu, trong đó 165 đại biểu được bầu ra từ 165 khu vực bầu cử phân theo địa lý và dân số, theo thể thức đa số đơn thuần; 110 đại biểu được bầu theo hệ thống đại diện tỷ lệ, do cử tri bầu theo danh sách đảng. Nhiệm kỳ của thành viên Quốc hội là sáu năm, gồm có 59 thành viên. Trong đó 56 người được bầu từ cử tri đoàn gồm thành viên hội đồng cấp tỉnh, chủ tịch cùng phó chủ tịch các làng và thị trưởng cùng phó thị trưởng, mỗi tỉnh đều có tám đại biểu, trong đó ít nhất phải có ba nữ giới, một người Dalit (tiện dân), một đại biểu khuyết tật hoặc thiểu số. Ba thành viên còn lại của Quốc hội do tổng thống bổ nhiệm theo khuyến nghị của chính phủ, và phải có ít nhất là một nữ giới.
Quyền lực tư pháp tại Nepal do các toà án và thể chế tư pháp khác thi hành, phù hợp với các điều khoản trong hiến pháp, các pháp luật và nguyên tắc tư pháp được công nhận khác. Hệ thống toà án Nepal gồm có Toà án tối cao, Toà án cấp cao, Toà án cấp huyện.
Ngoại giao - Quốc phòng
Nepal có quan hệ mật thiết với hai quốc gia láng giềng là Ấn Độ và Trung Quốc. Theo một hiệp định lâu dài, các công dân Ấn Độ và Nepal có thể qua lại quốc gia kia mà không cần hộ chiếu hoặc thị thực. Công dân Nepal có thể làm việc tại Ấn Độ mà không gặp hạn chế về pháp lý. Lục quân Ấn Độ duy trì bảy trung đoàn Gorkha gồm các binh sĩ hầu hết tuyển từ Nepal. Tuy nhiên, từ khi chính phủ Nepal do các phái cộng sản chi phối còn chính phủ Ấn Độ do phái hữu khuynh hơn kiểm soát, Ấn Độ tái vũ trang biên giới Ấn Độ-Nepal với lý do kiềm chế các tổ chức Hồi giáo xâm nhập. Nepal thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc vào năm 1955, quan hệ giữa hai bên từ đó dựa trên 5 nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình. Nepal từng viện trợ Trung Quốc sau Động đất Tứ Xuyên 2008, và Trung Quốc cung cấp viện trợ kinh tế cho cơ sở hạ tầng của Nepal. Hai quốc gia hợp tác tổ chức rước đuốc Thế vận hội 2008 trên đỉnh Everest. Nepal kiềm chế người Tây Tạng lưu vong biểu tình phản đối Trung Quốc.
Lục quân Nepal bao gồm cả Cục Hàng không Lục quân. Lực lượng cảnh sát Nepal là lực lượng dân sự còn Lực lượng Quân cảnh Nepal là lực lượng bán vũ trang. Phục vụ quân đội là tình nguyện, tuổi tối thiểu tuyển quân là 18. Phần lớn thiết bị quân sự được nhập khẩu từ Ấn Độ. Hoa Kỳ từng cung cấp các loại vũ khí như M16, M4 cho Nepal để chiến đấu với phiến quân cộng sản (Maoist). Súng trường tiêu chuẩn của Lục quân Nepal là Colt M16. Theo quy định từ năm 2013 của Lục quân Nepal, nữ binh sĩ bị ngăn việc tham gia trong tình huống chiến đấu và chiến đấu tại tiền tuyến chiến tranh. Tuy nhiên, họ được phép tham gia lục quân trong các lĩnh vực như tình báo, bộ chỉ huy, tín hiệu.
Hành chính
Tính đến năm 2015, Nepal được chia thành 7 tỉnh và 75 huyện. Tồn tại bốn đô thị, 13 phó đô thị, 246 hội đồng đô thị và 481 hội đồng làng chính thức. Hiến pháp trao 22 quyền lực tuyệt đối cho các đơn vị địa phương, và họ chia sẻ 15 quyền nữa với chính phủ trung ương và cấp tỉnh.
Tỉnh Koshi
1 – Huyện Bhojpur
2 – Huyện Dhankuta
3 – Huyện Ilam
4 – Huyện Jhapa
5 – Huyện Khotang
6 – Huyện Morang
7 – Huyện Okhaldhunga
8 – Huyện Panchthar
9 – Huyện Sankhuwasabha
10 – Huyện Solukhumbu
11 – Huyện Sunsari
12 – Huyện Taplejung
13 – Huyện Terhathum
14 – Huyện Udayapur
Tỉnh Madhesh
1 – Huyện Bara
2 – Huyện Dhanusa
3 – Huyện Mahottari
4 – Huyện Parsa
5 – Huyện Rautahat
6 – Huyện Saptari
7 – Huyện Sarlahi
8 – Huyện Siraha
Tỉnh Bagmati
1 – Huyện Bhaktapur
2 – Huyện Chitwan
3 – Huyện Dhading
4 – Huyện Dolakha
5 – Huyện Kathmandu
6 – Huyện Kavrepalanchok
7 – Huyện Lalitpur
8 – Huyện Makwanpur
9 – Huyện Nuwakot
10 – Huyện Ramechhap
11 – Huyện Rasuwa
12 – Huyện Sindhuli
13 – Huyện Sindhulpalchok
Tỉnh Gandaki
1 – Huyện Baglung (phần phía đông)
2 – Huyện Gorkha
3 – Huyện Kaski
4 – Huyện Lamjung
5 – Huyện Manang
6 – Huyện Mustang
7 – Huyện Myagdi
8 – Huyện Nawalparasi (phía đông của Bardaghat Susta)
9 – Huyện Parbat
10 – Huyện Syangja
11 – Huyện Tanahu
Tỉnh Lumbini
1 – Huyện Arghakhanchi*
2 – Huyện Baglung (phần phía tây)
3 – Huyện Banke
4 – Huyện Bardiya
5 – Huyện Dang Deukhuri
6 – Huyện Gulmi*
7 – Huyện Kapilvastu
8 – Huyện Nawalparasi (phía tây của Bardaghat Susta)
9 – Huyện Palpa*
10 – Huyện Pyuthan*
11 – Huyện Rolpa*
12 – Huyện Rukum (phần phía đông)*
13 – Huyện Rupandehi
Tỉnh Karnaki
1 – Huyện Dailekh
2 – Huyện Dolpa
3 – Huyện Humla
4 – Huyện Jajarkot
5 – Huyện Jumla
6 – Huyện Kalikot
7 – Huyện Mugu
8 – Huyện Rukum (phần phía tây)
9 – Huyện Salyan
10 – Huyện Surkhet
Tỉnh Sudurpashchim
1 – Huyện Achham
2 – Huyện Baitadi
3 – Huyện Bajhang
4 – Huyện Bajura
5 – Huyện Dadeldhura
6 – Huyện Darchula
7 – Huyện Doti
8 – Huyện Kailali
9 – Huyện Kanchanpur
* – các huyện được đề xuất chuyển sang Tỉnh Số 4 và Tỉnh Số 6
Kinh tế
GDP danh nghĩa của Nepal vào năm 2016 là hơn 24 tỷ USD. Năm 2010, nông nghiệp chiếm 36,1%, dịch vụ chiếm 48,5%, và công nghiệp chiếm 15,4% GDP của Nepal. Trong khi phần đóng góp của nông nghiệp và công nghiệp đang thu hẹp, thì đóng góp của lĩnh vực dịch vụ lại gia tăng.
76% lực lượng lao động nằm trong lĩnh vực nông nghiệp, tiếp đến là dịch vụ với 18% và chế tạo cùng thủ công nghiệp chiếm 6%. Nông sản chủ yếu được trồng tại khu vực Terai giáp với Ấn Độ, gồm có trà, gạo, ngô, lúa mì, mía, các loại củ, sữa, và thịt trâu. Công nghiệp chủ yếu liên quan đến chế biến nông sản, gồm có đay, mía, thuốc lá và ngũ cốc. Nepal thiếu hụt nghiêm trọng lao động có kỹ năng.
Tăng trưởng kinh tế của Nepal tiếp tục bị ảnh hưởng bất lợi do biến động chính trị. Tuy thế, tăng trưởng GDP thực được ước tính là gần 5% năm 2011–2012, cao hơn 3,5% năm 2010–2011. Nguồn gốc tăng trưởng gồm có nông nghiệp, xây dựng, tài chính và các ngành dịch vụ khác. Đóng góp của tiêu thụ cho tăng trưởng được thúc đẩy từ kiều hối. Kiều hối được ước tính tương đương 25–30% GDP (2012). Lạm phát năm 2012 giảm xuống mức thấp là 7% trong ba năm tính đến 2012. Đồng rupee Nepal gắn với rupee Ấn Độ theo tỷ giá hối đoái 1,6 trong nhiều năm. Kể từ khi nới lỏng kiểm soát tỷ giá vào đầu thập niên 1990, thị trường chợ đen về trao đổi ngoại tệ đã biến mất.
Tỷ lệ người nghèo giảm đáng kể từ năm 2003, tỷ lệ người sống dưới ngưỡng nghèo quốc tế (1,25 USD mỗi ngày) giảm một nửa trong vòng bảy năm tính đến 2012. Theo đó, tỷ lệ người nghèo giảm từ 53,1% vào năm 2003/2004 xuống 24,8% vào năm 2010/2011. Theo ngưỡng nghèo 2 USD mỗi ngày, tỷ lệ nghèo giảm đến một phần tư xuống 57,3%. Tuy nhiên, phân phối thu nhập vẫn còn rất bất bình đẳng.
Nepal có cảnh quan ngoạn mục, có văn hoá đa dạng và kỳ lạ nên có tiềm năng đáng kể về du lịch, song tăng trưởng trong lĩnh vực này bị cản trở do bất ổn chính trị và hạ tầng yếu kém. Mặc dù vậy, trong năm 2012 lượng du khách quốc tế đến Nepal đạt 598.204, tăng 10% so với năm trước. Du lịch đóng góp gần 3% cho GDP quốc gia vào năm 2012 và là nguồn thu nước ngoài lớn thứ nhì sau kiều hối.
Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm đạt đến một nửa dân số trong độ tuổi lao động. Do đó, nhiều công dân Nepal chuyển đến các quốc gia khác tìm việc, các điểm đến gồm có Ấn Độ, Qatar, Hoa Kỳ, Thái Lan, Anh, Ả Rập Saudi, Nhật Bản, Brunei, Úc và Canada. Nepal nhận được 50 triệu USD mỗi năm từ các binh sĩ Gorkha phục vụ trong quân đội của Ấn Độ và Anh. Năm 2010, tổng giá trị kiều hối là khoảng 3,5 tỷ USD. Trong năm 2009, kiều hối đóng góp tới 22,9% GDP của quốc gia.
Một hiệp định kinh tế lâu năm củng cố quan hệ mật thiết với Ấn Độ. Nepal nhận viện trợ nước ngoài từ Anh, Ấn Độ, Nhật Bản, Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc, Thụy Sĩ và các quốc gia Scandinavia.
Hàng hoá xuất khẩu chính của Nepal là thảm, quần áo, gai dầu, hàng da thuộc, hàng đay và ngũ cốc. Hàng hoá nhập khẩu chính là vàng, máy móc và thiết bị, sản phẩm dầu mỏ và phân bón. Liên minh châu Âu, Hoa Kỳ và Đức là các đối tác xuất khẩu chính. Liên minh châu Âu là khách hàng lớn nhất của quần áo may sẵn từ Nepal. Các đối tác nhập khẩu quan trọng của Nepal là Ấn Độ, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Trung Quốc.
Cơ sở hạ tầng
Phần lớn năng lượng tại Nepal lấy từ gỗ nhiên liệu, phế phẩm nông nghiệp, phân động vật, và nhiên liệu hoá thạch nhập khẩu theo số liệu năm 2012. Nepal không phát hiện được dầu mỏ, khí đốt hoặc than đá, song có một số trữ lượng than non. Toàn bộ nhiên liệu hoá thạch thương mại (chủ yếu là dầu và than đá) được nhập khẩu từ Ấn Độ hoặc thị trường quốc tế qua ngả Ấn Độ và Trung Quốc. Nhập khẩu nhiên liệu chiếm hơn 25% thu nhập ngoại hối của Nepal. Chỉ có 1% nhu cầu năng lượng được đáp ứng bằng điện năng. Tính chất quanh năm của các sông tại Nepal và độ dốc lớn của địa hình tạo điều kiện lý tưởng để phát triển một số dự án thủy điện lớn nhất thế giới. Ước tính cho biết tiềm năng thủy điện khả thi về kinh tế của Nepal là khoảng 83.000 MW từ 66 điểm dự án thủy điện. Chỉ có khoảng 40% dân chúng Nepal tiếp cận được điện năng (2012). Tỷ lệ điện khí hoá tại các khu vực đô thị là 90%, trong khi tỷ lệ của các khu vực nông thôn chỉ là 5%. Điện có thể bị cắt tới 22 tiếng mỗi ngày vào giai đoạn nhu cầu đạt đỉnh vào mùa đông khi nhu cầu tăng đến gần gấp đôi công suất.
Nepal cô lập với các tuyến vận chuyển lớn của thế giới cả trên bộ, trên không và trên biển. Tại Nepal, hàng không có tình trạng tốt hơn, với 47 sân bay, trong đó 11 sân bay có đường băng được trải nhựa; các chuyến bay thường xuyên và hỗ trợ chuyên chở quy mô lớn. Địa hình đồi núi tại hai phần ba phía bắc của quốc gia khiến việc xây dựng đường và các hạ tầng khác trở nên khó khăn và tốn kém. Năm 2007, Nepal chỉ có hơn 10.142 km đường bộ được trải bề mặt, và 7.140 km đường chưa được trải, và có một tuyến đường sắt dài 59 km tại phía nam. Trên một phần ba dân cư sống trong khu vực cách các tuyến đường bộ quanh năm gần nhất từ hai tiếng trở lên, 15 trong số 75 trụ sở huyện không được liên kết bằng đường bộ. Ngoài ra, khoảng 60% mạng lưới đường bộ và hầu hết đường nông thôn không sử dụng được trong mùa mưa. Cửa ngõ hàng hải duy nhất trên thực tế của hàng hoá từ Kathmandu là Kolkata của Ấn Độ. Tình trạng phát triển kém của mạng lưới đường bộ khiến việc tiếp cận chợ, trường học, và phòng khám là một thách thức.
Thông tin và truyền thông
Theo một báo cáo vào năm 2012, có bảy nhà khai thác và tổng cộng số thuê bao điện thoại là trên 16 triệu, đạt tỷ lệ thâm nhập 61,42%. Dịch vụ điện thoại cố định chiếm 9,37%, điện thoại di động chiếm 64,63%, và các dịch vụ khác (LM, GMPCS) chiếm 3,76% tổng tỷ lệ thâm nhập. Tương tự, số thuê bao dịch vụ data/internet là hơn 4,6 triệu, đạt tỷ lệ thâm nhập 17,53%.
Tuy vậy, có chênh lệch đáng kể giữa mức độ bao phủ cao trong các thành thị và mức độ bao phủ hiện hữu tại các khu vực nông thôn kém phát triển. Trong số 3,914 hội đồng phát triển làng trong nước, 306 không có dịch vụ điện thoại tính đến tháng 12 năm 2009. Nhằm đáp ứng nhu cầu tương lai, ước tính Nepal cần đầu tư khoảng 135 triệu USD mỗi năm vào lĩnh vực viễn thông. Năm 2009, lĩnh vực viễn thông đóng góp 1% cho GDP quốc gia. Tính đến ngày 30 tháng 9 năm 2012, Nepal có 1.828.700 tài khoản Facebook.
, nhà nước vận hành hai đài truyền hình cũng như các đài phát thanh quốc gia và khu vực. Tồn tại khoảng 30 kênh truyền hình độc lập có đăng ký, song chỉ khoảng một nửa trong đó hoạt động định kỳ. Gần 400 đài phát thanh có giấy phép với khoảng 300 đài hoạt động. Theo điều tra nhân khẩu năm 2011, tỷ lệ hộ gia đình có máy thu thanh là 50,82%, truyền hình là 36,45%, truyền hình cáp là 19,33%, máy vi tính là 7,23%. có 2.038 báo chí đăng ký tại Nepal, trong đó 514 báo phát hành. Năm 2013, [[Phóng viên không biên giới] xếp hạng Nepal đứng thứ 118 thế giới về tự do báo chí.
Giáo dục
Tỷ lệ biết chữ tổng thể (đối với người từ 5 tuổi trở lên 5) tăng từ 54,1% vào năm 2001 lên 65,9% vào năm 2011. Tỷ lệ biết chữ của nam giới là 75,1% còn của nữ giới là 57,4%. Tỷ lệ biết chữ cao nhất được ghi nhận tại huyện Kathmandu (86,3%) và thấp nhất tại huyện Rautahat (41,7%). Tỷ lệ nhập học tiểu học thuần đạt 74% vào năm 2005; tăng lên 90% vào năm 2009.
Tuy nhiên, việc tăng tỷ lệ tiếp cận giáo dục trung học (lớp 9-12) vẫn gặp thách thức lớn. Trên một nửa học sinh tiểu học không học lên trung học, và chỉ một nửa số còn lại tốt nghiệp trung học. Ngoài ra, số trẻ nữ vào trung học thấp hơn số trẻ nam, chênh lệch còn cao hơn nữa sau lớp 10.
Nepal có bảy đại học: Đại học Tribhuvan, Đại học Kathmandu, Đại học Pokhara, Đại học Purbanchal, Đại học Mahendra Sanskrit, Đại học Far-western, và Đại học Nông lâm. Có một số đại học được đề xuất như Đại học Phật giáo Lumbini, Đại học Mid-Western.
Y tế
Dịch vụ y tế tại Nepal được cung cấp từ cả khu vực công và tư. Theo điều tra nhân khẩu năm 2011, trên một phần ba (38,17%) tổng số hộ không có phòng vệ sinh. Nước vòi là nguồn nước uống chính của 47,78% số hộ. Giếng bơm là nguồn nước chính của khoảng 35% số hộ. Theo dữ liệu năm 2010 của WHO, Nepal xếp hạng 139 về dự tính tuổi thọ, ở mức 65,8 năm.
Bệnh tật tại Nepal phổ biến hơn các quốc gia Nam Á khác, đặc biệt tại các khu vực nông thôn. Các bệnh hàng đầu là tiêu chảy và các bệnh tiêu hóa, bướu cổ, ký sinh trùng đường ruột, phong và lao. Khoảng 4 trong số 1.000 người thành niên từ 15 đến 49 tuổi có virus HIV, và tỷ lệ nhiễm HIV là 0,5%. Suy dinh dưỡng còn ở mức rất cao: Khoảng 47% trẻ em dưới 5 tuổi bị còi cọc, và 36% bị thiếu cân, dù tình hình được cải thiện trong những năm qua song vẫn đáng báo động. Tuy vậy, y tế có nhiều cải thiện, đáng chú ý nhất là trong chăm sóc bà mẹ-trẻ em, vào năm 2012 tỷ lệ tử vong trẻ dưới 5 tuổi là 4,1%. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Nepal đạt 0,77 về y tế vào năm 2011, xếp 126 trong số 194 quốc gia, tăng so với 0,444 vào năm 1980.
Nhân khẩu
Dân số Nepal tăng từ 9 triệu vào năm 1950 lên 26,5 triệu vào năm 2011. Từ năm 2001 đến năm 2011, quy mô gia đình trung bình giảm từ 5,44 người xuống 4,9 người. Điều tra cũng ghi nhận khoảng 1,9 triệu người vắng mặt, hầu hết họ là lao động nam làm việc tại nước ngoài, chủ yếu là tại Nam Á và Trung Đông. Điều này khiến tỷ số giới tính sụt giảm còn 94,41 so với 99,80 vào năm 2001. Mức gia tăng dân số hàng năm là 1,35%.
Nepal có cư dân mang nhiều nguồn gốc dân tộc khác nhau, do đó "người Nepal" gắn với quyền công dân và lòng trung thành. Nepal đa dạng về văn hóa và dân tộc do đây là quốc gia hình thành bằng việc chiếm đóng một số vương quốc nhỏ trong thế kỷ XVIII. Các khu dân cư cổ nhất tại Mithila và Tharuhat là của người Maithil thuộc nhóm Ấn-Arya. Khu vực núi cao trên 3000 m có cư dân thưa thớt, song tại miền trung và miền tây của Nepal, dân tộc Sherpa và Lama cư trú tại các thung lũng khô hạn còn cao hơn về phía bắc của Himalaya. Thung lũng Kathmandu nằm tại vùng đồi trung tâm, chỉ chiếm một phần nhỏ diện tích quốc gia song là nơi có mật độ dân cư cao nhất và chiếm 5% dân số toàn quốc. Cư dân Nepal là hậu duệ của ba nhóm di dân chính riêng biệt từ Ấn Độ, Tây Tạng, Bắc Myanmar cùng Vân Nam qua Assam.
Mặc dù một phần đáng kể dân chúng di cư đến Madhesh (các đồng bằng miền nam) trong thời gian dần đây, song đa số người Nepal vẫn sống tại vùng đất cao trung tâm; vùng núi phía bắc có dân cư thưa thớt. Kathmandu có dân số trên 2,6 triệu người, là thành phố lớn nhất Nepal và là trung tâm văn hóa cùng kinh tế.
Theo một báo cáo vào năm 2008 của USCRI, Nepal là nơi cư trú của khoảng 130.000 người tị nạn và tìm kiếm tị nạn vào năm 2007. Trong đó, khoảng 109.200 đến từ Bhutan và 20.500 người đến từ Trung Quốc. Chính phủ Nepal hạn chế người tị nạn Bhutan trong bảy trại tại các huyện Jhapa và Morang, và người tị nạn không được phép làm việc trong hầu hết các ngành nghề.
Ngôn ngữ
Di sản ngôn ngữ đa dạng của Nepal bắt nguồn từ ba nhóm ngôn ngữ chính: Ấn-Arya, Tạng-Miến, và nhiều ngôn ngữ bản địa tách biệt. Các ngôn ngữ chính tại Nepal (bản ngữ) theo điều tra nhân khẩu năm 2011 là tiếng Nepal (44,6%), Maithil (11,7%), Bhojpur (Awadh) (6,0%), Tharu (5,8%), Tamang (5,1%), Nepal Bhasa (3,2%), Bajjika và Magar, Dotel, Urdu và Sunwar. Nepal có ít nhất bốn ngôn ngữ ký hiệu bản địa.
Tiếng Nepal bắt nguồn từ tiếng Phạn và được viết bằng chữ cái Devanagari. Tiếng Nepal là ngôn ngữ chính thức và giữ vai trò là ngôn ngữ chung của người Nepal thuộc nhiều nhóm dân tộc ngôn ngữ khác nhau. Nhiều người Nepal trong chính quyền và kinh doanh nói tiếng Maithil làm ngôn ngữ chính. Các biến thể tiếng Tạng được nói trên và phía bắc của vùng cao Himalaya, tại đó tiếng Tạng văn học tiêu chuẩn được hiểu rộng rãi trong giới giáo dục tôn giáo. Các phương ngữ bản địa tại Terai và vùng đồi hầu hết không có chữ viết, có các nỗ lực nhằm phát triển hệ thống chữ viết cho chúng bằng chữ Devanagari hoặc chữ Latinh.
Tôn giáo
Đại đa số cư dân Nepal tin theo Ấn Độ giáo. Shiva được cho là thần hộ mệnh của quốc gia. Nepal có đền thờ Shiva nổi tiếng là đền Pashupatinath, là nơi tín đồ Ấn Độ giáo từ khắp thế giới đến hành hương. Theo thần thoại Ấn Độ giáo, nữ thần Sita trong sử thi Ramayana sinh tại Vương quốc Mithila của Quốc vương Janaka Raja. Lumbini là một thánh địa hành hương Phật giáo, và là một di sản thế giới UNESCO, nằm tại huyện Kapilavastu. Nơi đây theo truyền thống được cho là nơi sinh của Đức Phật vào năm 563 TCN, ông là một hoàng tử thuộc đẳng cấp Kshatriya của thị tộc Sakya. Toàn bộ ba nhánh của Phật giáo đều tồn tại trong Nepal và người Newar có nhánh tín ngưỡng Phật giáo riêng của mình. Phật giáo cũng là tôn giáo chi phối tại các khu vực miền bắc có dân cư thưa thớt, là nơi có các dân tộc có liên hệ với người Tạng như người Sherpa.
Khác biệt giữa tín đồ Ấn Độ giáo và Phật giáo tại Nepal là rất ít do pha trộn về văn hoá và lịch sử của hai đức tin. Hơn nữa, Phật giáo và Ấn Độ giáo tại Nepal chưa từng là hai tôn giáo riêng biệt nếu xét theo quan điểm kiểu phương Tây. Tại Nepal, các tín ngưỡng chia sẻ chung các đền thờ và thờ cúng các vị thần chung. Trong số những dân tộc bản địa tại Nepal, các dân tộc chịu ảnh hưởng nhiều hơn từ Ấn Độ giáo là Magar, Sunwar, Limbu, Rai cùng Gurkhas. Ảnh hưởng của Ấn Độ giáo kém nổi bật hơn trong các nhóm người Gurung, Bhutia và Thakali, họ mời các nhà sư Phật giáo đến tế lễ tôn giáo. Most of the festivals in Nepal are Hindu. Lễ hội Machendrajatra của Ấn Độ giáo Shiva, song cũng được nhiều tín đồ Phật giáo tại Nepal cử hành với vị thế là một lễ hội lớn. Do người ta tin rằng Ne Muni thành lập Nepal, Hồi giáo là tôn giáo thiểu số tại Nepal, chiếm 4,2% dân số theo điều tra nhân khẩu năm 2006. Mundhum, Cơ Đốc giáo và Jaina giáo là các tín ngưỡng thiểu số khác.
Văn hóa
Văn hóa dân gian là bộ phận không thể tách rời của xã hội Nepal. Các câu chuyện truyền thống có nguồn gốc từ thực tế trong sinh hoạt thường nhật, các truyện kể về tình yêu, tình cảm và chiến tranh cũng như ma quỷ và do đó phản ánh phương thức sinh hoạt, văn hóa và đức tin địa phương. Nhiều truyện dân gian Nepal được thuật lại bằng vũ đạo và âm nhạc.
Hầu hết các nhà tại nông thôn vùng thấp của Nepal làm từ khung tre và vách làm từ hỗn hợp bùn và phân bò. Những căn nhà này mát vào mùa hè và giữ ấm vào mùa đông. Nhà ở tại vùng đồi thường làm bằng gạch không nung cùng mái tranh hoặc ngói. Tại vùng cao, nhà ở làm từ đá và có thể sử dụng đá bảng trên mái.
Quốc kỳ Nepal là quốc kỳ duy nhất không có hình chữ nhật. Nepal có 36 ngày lễ công cộng mỗi năm, đứng hàng đầu thế giới. Một năm theo lịch Nepal bắt đầu vào ngày đầu tiên của tháng Baisakh trong lịch Ấn Độ giáo chính thức của Nepal là Bikram Sambat, rơi vào giữa tháng 4 và một năm được chia thành 12 tháng. Thứ Bảy là ngày nghỉ lễ hàng tuần chính thức. Các ngày lễ chính hàng năm là ngày Liệt sĩ (18 tháng 2), và các lễ hội hỗn hợp Ấn Độ giáo và Phật giáo như Dashain vào mùa thu, Tihar vào giữa thu và Chhath vào cuối thu. Trong lễ hội Swanti, người Newars cữ hành lễ Mha Puja để kỷ niệm tết theo lịch Nepal Sambat. Do là một quốc gia thế tục, Nepal cũng có ngày nghỉ lễ vào các lễ hội chính của tôn giáo thiểu số.
Các món ăn quốc gia của Nepal là Dhindo và Gundruk. Bữa ăn chính của người Nepal là dal bhat, dal là canh đậu lăng, và đi kèm với bhat (cơm), cùng tarkari (rau nấu cà ri) và achar (rau giầm) hoặc chutni (món gia vị làm từ nguyên liệu tươi). Nó gồm có các món mặn và chay. Dầu mù tạc là phương thức chế biến phổ biến và gồm có nhiều gia vị, như thì là, rau mùi, hạt tiêu, mè, nghệ, tỏi, gừng, cỏ ca ri, lá nguyệt quế, đinh hương, quế, ớt và mù tạt được sử dụng trong nấu nướng. Momo là một loại bánh hấp với nhân thịt hoặc rau, và là món ăn nhanh phổ biến tại nhiều khu vực của Nepal.
Bóng đá là môn thể thao phổ biến nhất tại Nepal và được chơi lần đầu vào năm 1921. Sân vận động quốc tế duy nhất của Nepal là Sân vận động Dasarath Rangasala, cũng là sân nhà của đội tuyển quốc gia.Cricket được phổ biến trong thời gian gần đây, đội tuyển quốc gia Nepal thi đấu trên sân nhà tại Sân Cricket Quốc tế Đại học Tribhuvan.
Dù Nepal áp dụng hệ mét làm tiêu chuẩn chính thức từ năm 1968, song các đơn vị đo lường truyền thống vẫn còn phổ biến. Các đơn vị truyền thống về diện tích được áp dụng tại khu vực Terai– như katha hay bigha. – giống như tại những nơi khác của Nam Á. Tuy nhiên, tiêu chuẩn đo lường diện tích của chúng lại khác nhau, như một katha tại Nepal tương đương 338,63 m², trong khi một katha tại Bangladesh tương đương khoảng 67 m². Ngoài các đơn vị bản địa, hệ đế quốc Anh liên quan đến chiều dài (cụ thể là inch và foot), và hệ mét như kg và lít cũng khá phổ biến trong giao thương hàng ngày. |
Một vệ tinh nhân tạo hay gọi ngắn gọn là vệ tinh, là bất kỳ 1 vật thể nào do con người chế tạo nên quay quanh 1 vật thể khác.
Cần phân biệt với vệ tinh tự nhiên, ví dụ mọi vật thể thuộc Hệ Mặt Trời gồm cả Trái Đất, đều là vệ tinh tự nhiên của Mặt Trời; hoặc vệ tinh tự nhiên của Trái Đất là Mặt Trăng.
Định nghĩa vật thể nào là vệ tinh không phải luôn đơn giản khi xét đến một cặp 2 vật thể. Bởi vì mọi vật thể đều có sức hút của trọng lực, chuyển động của vật thể chính cũng bị ảnh hưởng bởi vệ tinh của nó. Nếu hai vật thể có khối lượng tương đương, thì chúng thường được coi là một hệ đôi và không một vật thể nào bị coi là vệ tinh; một ví dụ là tiểu hành tinh kép 90 Antiope. Tiêu chuẩn chung để một vật thể được coi là vệ tinh là trung tâm khối lượng của hệ nằm bên trong vật thể chính.
Trong cách nói thông thường, thuật ngữ "vệ tinh" thường để chỉ một vệ tinh nhân tạo, nó là một vật thể do con người chế tạo và bay quanh Trái Đất (hay một thiên thể khác). Tuy nhiên, các nhà khoa học cũng có thể sử dụng thuật ngữ đó để chỉ các vệ tinh thiên nhiên, hay các Mặt Trăng. Nói chung, trong cách dùng thông thường, "vệ tinh thiên nhiên" là thuật ngữ để chỉ các Mặt Trăng.
Các vệ tinh nhân tạo
Vệ tinh nhân tạo đầu tiên
Người đầu tiên đã nghĩ ra vệ tinh nhân tạo dùng cho truyền thông là nhà viết truyện khoa học giả tưởng Arthur C. Clarke vào năm 1945 ( ). Ông đã nghiên cứu về cách phóng các vệ tinh này, quỹ đạo của chúng và nhiều khía cạnh khác cho việc thành lập một hệ thống vệ tinh nhân tạo bao phủ thế giới. Ông cũng đề nghị 3 vệ tinh địa tĩnh (geostationary) sẽ đủ để bao phủ viễn thông cho toàn bộ Trái Đất.
Tuy nhiên, vệ tinh nhân tạo đầu tiên là Sputnik 1 được Liên Xô phóng lên ngày 4/10/1957.
Các loại vệ tinh
Vệ tinh vũ trụ là các vệ tinh được dùng để quan sát các hành tinh xa xôi, các thiên hà và các vật thể ngoài vũ trụ khác.
Vệ tinh thông tin là các vệ tinh nhân tạo nằm trong không gian dùng cho các mục đích viễn thông sử dụng sóng radio ở tần số vi ba. Đa số các vệ tinh truyền thông sử dụng các quỹ đạo đồng bộ hay các quỹ đạo địa tĩnh, mặc dù các hệ thống gần đây sử dụng các vệ tinh tại quỹ đạo Trái Đất tầm thấp.
Vệ tinh quan sát Trái Đất là các vệ tinh được thiết kế đặc biệt để quan sát Trái Đất từ quỹ đạo, tương tự như các vệ tinh trinh sát nhưng được dùng cho các mục đích phi quân sự như kiểm tra môi trường, khí tượng học, lập bản đồ, vân vân. (Xem thêm Hệ thống quan sát Trái Đất)
Vệ tinh hoa tiêu (navigation satellite) là các vệ tinh sử dụng các tín hiệu radio được truyền đi theo đúng chu kỳ cho phép các bộ thu sóng di động trên mặt đất xác định chính xác được vị trí của chúng. Sự quang đãng (không có vật cản) của đường truyền và thu tín hiệu giữa vệ tinh (nguồn phát) và máy thu trên mặt đất tích hợp với những cải tiến mới về điện tử học cho phép hệ thống vệ tinh hoa tiêu đo đạc khoảng cách với độ chính xác khoảng một vài mét.
Vệ tinh tiêu diệt là các vệ tinh được thiết kế để tiêu diệt các vệ tinh "đối phương", các vũ khí và các mục tiêu bay trên quỹ đạo khác. Một số vệ tinh này được trang bị đạn động lực, một số khác sử dụng năng lượng và/hay các vũ khí hạt nhân để phá huỷ các vệ tinh, ICBMs, MIRVs. Cả Hoa Kỳ và Liên Xôđều có các vệ tinh này. Các đường dẫn bàn luận về các "Vệ tinh tiêu diệt", ASATS (Vệ tinh chống vệ tinh) gồm USSR Tests ASAT weapon và ASAT Test . Xem thêm IMINT.
Vệ tinh trinh sát là những vệ tinh quan sát Trái Đất hay vệ tinh truyền thông được triển khai cho các ứng dụng quân sự hay tình báo. Chúng ta hiện không biết nhiều về năng lực thực sự của các vệ tinh này vì các chính phủ điều hành chúng thường giữ tuyệt đối bí mật về thông tin cho các vệ tinh loại này.
Vệ tinh năng lượng Mặt trời là các vệ tinh được đề xuất là sẽ bay trên quỹ đạo Trái Đất tầm cao sử dụng cách truyền năng lượng viba để chiếu năng lượng mặt trời tới những angten cực lớn trên mặt đất, nơi nó có thể được dùng để thay thế cho những nguồn năng lượng quy ước thông thường.
Trạm vũ trụ là các cơ cấu do con người chế tạo, được thiết kế để con người sống được trong vũ trụ. Một trạm vũ trụ được phân biệt với những tàu vũ trụ ở điểm nó không có động cơ đầy chính hay các thiết bị hạ cánh — thay vào đó, người ta dùng các thiết bị khác để vận chuyển lên và xuống trạm. Các trạm vũ trụ được thiết kế để có thể duy trì sự sống trong một khoảng thời gian trung bình trên quỹ đạo, các khoảng thời gian có thể là tuần, tháng, hay thậm chí là năm.
Vệ tinh thời tiết là các vệ tinh có mục đích chính là để quan sát thời tiết và/hay khí hậu của Trái Đất.
Vệ tinh thu nhỏ là các vệ tinh có trọng lượng và kích thước nhỏ hơn thông thường. Những tiêu chí xếp hạng mới để đánh giá các vệ tinh đó: tiểu vệ tinh (500–200 kg), vệ tinh siêu nhỏ (dưới 200 kg), vệ tinh cỡ nano (dưới 10 kg), vệ tinh cỡ pico (dưới 1 kg) và vệ tinh cỡ femto (dưới 100 g).
Vệ tinh sinh học là các vệ tinh có mang các tổ chức sinh vật sống, nói chung là cho mục đích thực nghiệm khoa học.
Các loại quỹ đạo
Đa số các vệ tinh thường được mô tả đặc điểm dựa theo quỹ đạo của chúng. Mặc dù một vệ tinh có thể bay trên một quỹ đạo ở bất kỳ độ cao nào, các vệ tinh thường được xếp theo độ cao của chúng.
Quỹ đạo Trái Đất tầm thấp (LEO: 200 đến 2000 km bên trên bề mặt Trái Đất)
Quỹ đạo Trái Đất tầm trung (ICO hay MEO: 2000 đến 35786 km)
Quỹ đạo Trái Đất đồng bộ (GSO)
Quỹ đạo địa tĩnh (GEO: quỹ đạo đồng bộ không nghiêng, cách xích đạo Trái Đất 35 786 km)
Quỹ đạo Trái Đất tầm cao (HEO: trên 35786 km)
Các quỹ đạo sau là các quỹ đạo đặc biệt cũng thường được dùng để xác định đặc điểm của vệ tinh:
Quỹ đạo Molniya
Quỹ đạo đồng bộ Mặt Trời
Quỹ đạo cực
Quỹ đạo di chuyển Mặt Trăng
Quỹ đạo di chuyển Hohmann Đối với kiểu quỹ đạo này thì vệ tinh thường là một tàu vũ trụ
Quỹ đạo siêu đồng bộ hay quỹ đạo trôi dạt — quỹ đạo bên trên GEO. Các vệ tinh sẽ trôi dạt theo hướng tây.
(GEO + 235 km + (1000 × CR × A/m) km)
nếu CR là hệ số bức xạ áp suất của Mặt Trời (thường giữa 1.2 và 1.5) và A/m là vùng tương quan [m²] với tỷ lệ khối lượng [kg] khô
Quỹ đạo dưới đồng bộ hay quỹ đạo trôi dạt - quỹ đạo gần nhưng bên dưới GEO. Được sử dụng cho các vệ tinh đang trải qua những thay đổi tình trạng ổn định theo hướng đông.
Các vệ tinh cũng có thể quay quanh các điểm đu đưa.
Các nước có khả năng phóng vệ tinh nhân tạo
Danh sách này bao gồm những quốc gia có khả năng độc lập để tự phóng vệ tinh lên quỹ đạo, gồm cả việc sản xuất ra khí cụ cần thiết để phóng. Ghi chú: nhiều nước khác cũng có khả năng thiết kế hay chế tạo vệ tinh - việc này, nói chung, không tốn nhiều tiền và cũng không đòi hỏi khả năng khoa học và kỹ thuật lớn – nhưng không thể phóng chúng lên, thay vào đó họ dùng các dịch vụ phóng vệ tinh của nước ngoài. Danh sách này không nhắc tới các quốc gia đó mà chỉ liệt kê những nước có khả năng phóng vệ tinh và ngày khả năng này lần đầu tiên được thể hiện.
Cả CHDCND Triều Tiên và Iraq đã tuyên bố những vụ phóng vệ tinh lên quỹ đạo nhưng điều này còn chưa được xác định. Na Uy đã phóng các vệ tinh trong nước và quốc tế từ trung tâm vũ trụ của họ ở Andøya. Tới năm 2006, chỉ có 8 quốc gia đã phóng các vệ tinh lên quỹ đạo một cách độc lập với phương tiện phóng của chính họ chế tạo – theo thứ tự thời gian: Liên Xô, Hoa Kỳ, Pháp, Nhật Bản, Trung Quốc, Anh, Ấn Độ và Israel. Khả năng phóng vệ tinh của Anh và Pháp hiện được quy cho Liên minh châu Âu, và khả năng của Liên Xô được chuyển cho Nga, làm giảm số lượng những thực thể chính trị với khả năng phóng vệ tinh thực tế xuống còn 7 cường quốc vũ trụ chính: Hoa Kỳ, Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản – và một cường quốc vũ trụ "nhỏ": Israel. Nhiều quốc gia khác như Hàn Quốc, Pakistan và Brasil đang ở giai đoạn đầu chương trình phát triển khả năng phóng vệ tinh ở mức độ nhỏ của họ, và đang tìm cách trở thành các tiểu cường quốc vũ trụ - các nước khác có thể có khả năng về khoa học và công nghệ, nhưng không có khả năng kinh tế hay không có tham vọng về chính trị.
Vệ tinh đầu tiên của các quốc gia
Vệ tinh nhân tạo của Việt Nam
Tháng 4/2008, Việt Nam đã thuê Pháp phóng thành công vệ tinh Vinasat-1 (mua của Mỹ) lên quỹ đạo địa tĩnh, với việc phóng được vệ tinh nhân tạo Việt Nam đã tiết kiệm 10 triệu USD mỗi năm. Việt Nam là nước thứ 93 phóng vệ tinh nhân tạo và là nước thứ 6 tại Đông Nam Á. Theo các nguồn thông tin nước ngoài, tổng trị giá của dự án Vinasat-1 là 250 triệu USD, trong đó bao gồm chi phí mua vệ tinh và phí phóng vệ tinh, xây dựng trạm mặt đất, bảo hiểm... Dự tính vệ tinh hoạt động được từ 15 - 20 năm và được khoảng 20 công ty phụ trách.
Năm 2007, sau khi được thành lập, Viện Công nghệ Vũ trụ Việt Nam đã tiến hành dự án chế tạo vệ tinh nhỏ pico (10x10x10cm, 1 kg).
Năm 2008, công ty FPT thành lập Phòng nghiên cứu không gian FSpace với mục tiêu thiết kế chế tạo vệ tinh nhỏ vệ tinh nano F-1 (10x10x20cm, 2 kg).
Ngày 16/5/2012, lúc 5g13p, tên lửa Arian 5 mang theo vệ tinh Vinasat-2 rời bãi phóng Kouru của Guyana. Sau 36 phút bay, lúc 5g49p, vệ tinh Vinasat-2 rời khỏi tên lửa Arian 5, vào quỹ đạo an toàn. Vinasat-2 với nhiệm vụ và thiết kế tương tự như Vinasat-1. |
Ngô Thì Nhậm (; còn gọi là Ngô Thời Nhiệm -吳時任- do kỵ huý với tên của vua Tự Đức là "Nguyễn Phúc Hồng Nhậm"); sinh ngày 25 tháng 10 năm 1746 – Mất năm 1803, tự là Hy Doãn (希尹), hiệu là Đạt Hiên (達軒), về sau xuất gia lấy pháp hiệu Hải Lượng Thiền sư, là một tu sỹ Phật giáo, danh sĩ, nhà văn đời Hậu Lê và Tây Sơn, người có công lớn trong việc giúp triều Tây Sơn đánh lui quân Thanh.
Sự nghiệp
Ngô Thì Nhậm thông minh, học giỏi, sớm có những công trình về lịch sử. Ông xuất thân trong một gia đình vọng tộc tại Bắc Hà, là con của Ngô Thì Sĩ, người làng Tả Thanh Oai, ngày nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội. Nhờ truyền thống gia đình văn học và nhờ tư chất thông minh, Ngô Thì Nhậm thành công rất sớm. Mười sáu tuổi đã viết cuốn "Nhị thập tứ sử toát yếu". Mười chín tuổi đỗ đầu kỳ thi Hương. Hai mươi tuổi viết "Tứ gia thuyết phả".
Năm 1768, 23 tuổi, ông thi đỗ giải Nguyên, được bổ Hiến sát phó sứ Hải Dương.
Năm 1771, 26 tuổi, ông dự khảo thí ở Quốc tử giám, đỗ ưu hạng đồng thời hoàn thành "Hải đông chí lược", một tập địa phương chí của Hải Dương.
Năm 1775, ông thi đỗ thứ năm hàng Tiến sĩ tam giáp, cùng khoa với Phan Huy Ích. Đạt được học vị cao nhất của thang giá trị học vấn thời đó. Được chúa Trịnh Sâm rất quý mến và nhận xét là "Tài học không ở dưới người". Sau khi đỗ đạt, ông được bổ làm quan Hộ khoa cấp sự trung ở bộ Hộ dưới triều Lê – Trịnh.
Năm 1776, ông được bổ làm Giám sát Ngự sử đài đạo Sơn Nam, sau đó thăng Đốc đồng trấn Kinh Bắc.
Năm 1778, ông vẫn giữ chức Đốc đồng Kinh Bắc nhưng kiêm thêm chức Đốc đồng Thái Nguyên. Khi đó cha ông làm Đốc đồng Lạng Sơn. Cha con đồng triều, nổi tiếng văn chương trong thiên hạ.
Không phụ lòng tin yêu của vương thượng, Ngô Thì Nhậm dâng nhiều kế sách hay trong đạo trị nước, trong đó có các bài biểu nổi tiếng như Giáo nghị, Pháp nghị và Chính nghị. Tuy nhiên, do triều đại Lê – Trịnh đang ở vào thời suy vi, nên dù rất khen kế sách của ông, Trịnh Sâm cũng không thể áp dụng nó vào thực tế.
Sau Vụ án năm Canh Tý (1780), Ngô Thì Nhậm được thăng làm Công bộ Hữu thị lang. Vụ này khiến cho giới sĩ phu Bắc Hà nghi ngờ Ngô Thì Nhậm là người tố giác Trịnh Khải, nên phải bỏ trốn về quê vợ ở Bách Tính, Nam Định (nay là Bách Tính, xã Nam Hồng, huyện Nam Trực, Nam Định) lánh nạn.
Cha ông mất cùng năm sau vụ án Canh Tý (Trịnh Sâm dẹp tan âm mưu đảo chính của phe cánh Trịnh Tông muốn diệt trừ phe cánh Đặng Thị Huệ và Quận Huy), do bạo bệnh sau một chuyến đi Nam quan cho việc quan. Do đó Nhậm mới bị cái tiếng "sát tứ phụ nhi thị lang" (giết bốn cha để được chức Thị lang. Bốn cha ý chỉ Ngô Thì Sĩ và ba người bạn vong niên của ông Sĩ là Nguyễn Khản - anh trai Nguyễn Du, Nguyễn Phương Đĩnh và Nguyễn Khắc Tuân).
Với tư tưởng lấy trung làm đầu, khi Nguyễn Huệ mang quân ra đất Bắc lần thứ nhất, Ngô Thì Nhậm đã từng gọi Nguyễn Huệ là giặc, từ bỏ đất kinh kì đi "lánh nạn", hưởng thú vui "nhắm rượu với cua béo".
Năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ hai, xuống lệnh "cầu hiền" tìm kiếm quan lại của triều cũ. Danh sĩ Bắc Hà đã đầu quân cho nhà Tây Sơn từ trước đó mới chỉ có Trần Văn Kỉ, Ngô Văn Sở và Đặng Tiến Đông.
Tuy vậy, tới thời điểm này thì cả vua Lê lẫn chúa Trịnh đều đã đổ. Ngô Thì Nhậm và một số thân sĩ Bắc Hà khác như Phan Huy Ích, Bùi Dương Lịch; các tiến sĩ Ninh Tốn, Nguyễn Thế Lịch, Nguyễn Bá Lan; Đoàn Nguyễn Tuấn (anh rể Nguyễn Du); Vũ Huy Tấn; Nguyễn Huy Lượng (tác giả "Tụng Tây Hồ phú")... lần lượt ra làm quan cho nhà Tây Sơn. Ngô Thì Nhậm là người đầu tiên trong đám nhân sĩ Bắc Hà tới trình diện ở bộ Lễ. Sau đó, ông nhận được lòng tín nhiệm tuyệt đối của Nguyễn Huệ.
Sử cũ viết khi được Thì Nhậm, Nguyễn Huệ mừng mà rằng: "Thật là trời để dành ông cho ta vậy", và phong cho ông chức Tả thị lang bộ Lại, tước Tĩnh phái hầu, cùng với Võ Văn Ước coi tất cả quan văn võ của triều Lê.
Chỉ chưa đầy một tháng phục vụ chủ mới, Thị lang Ngô Thì Nhậm đã tập hợp được một số cựu thần nhà Lê và soạn ngay một tờ biểu suy tôn để xin Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế. Công việc có chiều hấp tấp và lộ liễu đó không được mấy người hưởng ứng, những người có tư cách đều không ra, có kẻ bị ép thà tự tử.
Không thể đóng quân mãi ở xa đại bản doanh, thả mồi bắt bóng, ngày chậm tháng chầy có thể đưa đến những bất lợi, Nguyễn Huệ đành phải để một đại tướng trấn giữ miền Bắc, hậm hực kéo quân trở về Thuận Hóa chờ cơ hội khác. Sau ông lại thăng làm Thượng thư bộ Lại - chức vụ cao cấp nhất trong Lục bộ.
Cuối năm Mậu Thân (1788), do vua Lê Chiêu Thống cầu viện, 29 vạn quân Thanh kéo sang Đại Việt, với chiêu bài diệt Tây Sơn dựng lại nhà Lê.
Ngô Thì Nhậm đã có kế lui binh về giữ phòng tuyến Tam Điệp – Biện Sơn (Ninh Bình) góp phần làm nên chiến thắng của nhà Tây Sơn. Ông nhận định: "Nay, ta giữ quân mà rút về chỗ hiểm Tam Điệp, không bị mất một mũi tên. Cho giặc vào Thăng Long ngủ trọ một đêm, rồi tung quân ra đánh, đuổi chúng đi, có mất gì đâu?".
Đánh giá về công lao của Ngô Thì Nhậm, vua Quang Trung nói với tướng sĩ rằng: "Các người đều là chiến tướng, tự nhiên gặp giặc là đánh, mà lâm cơ cần ứng biến thì không đủ tài. Mấy tháng trước, ta phải để Ngô Thì Nhậm ở lại, cộng sự với các ngươi, chính là lo sẵn cho chỗ đó".
Năm 1790, vua Quang Trung đã giao cho Ngô Thì Nhậm giữ chức Binh bộ thượng thư. Tuy làm ở bộ Binh, nhưng Thì Nhậm chính là người chủ trì về các chính sách và giao dịch ngoại giao với Trung Hoa. Ông là người đứng đầu một trong những sứ bộ ngoại giao sang Trung Hoa.
Vốn là người văn chương nức tiếng bấy giờ, phần lớn các thư từ bang giao giữa Đại Việt và nhà Thanh đều do chính tay ông soạn thảo. Những văn kiện ngoại giao của Ngô Thì Nhậm thể hiện rõ nguyên tắc về chủ quyền lãnh thổ, danh dự quốc gia với các chính sách mềm dẻo, linh hoạt, cứng rắn. Ngoài ra, Ngô Thì Nhậm hai lần đi sứ sang nhà Thanh vào những dịp rất quan trọng, khoảng các năm 1790, 1792-1793. Khi đi sứ nhà Thanh năm 1790 (đời vua Càn Long), ông ghé thăm mộ của Nhạc Phi ở Hàng Châu và viết bài thơ Đề Nhạc Vũ Mục vương miếu (nghĩa là "Đề miếu Nhạc Vũ Mục vương"), sau đó ông ghé thăm Miếu thờ Nhạc Phi ở Yển Thành (thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc ngày nay) và viết bài thơ Đề Yển Thành Nhạc vương miếu (nghĩa là "Đề miếu Nhạc vương ở Yển Thành"). Ông dốc toàn tài năng cho nhà Tây Sơn. Chính sách ngoại giao khôn khéo đối với nhà Thanh, không nghi ngờ gì nữa, là tác phẩm của Ngô Thì Nhậm, không phải là công trạng của Quang Trung.
Theo sách Hoàng hoa đồ phả, trong những lần đi sứ phương Bắc, ông luôn cố gắng để đến tất cả những danh thắng ở Trung Quốc mà người Việt chỉ biết qua sách vở, cũng như tìm kiếm dấu vết của lịch sử Việt Nam trên đất khách.
Sau khi ổn định an ninh một dải đất dài từ ải Nam quan vào tới Bến Ván, Quang Trung đã nghe theo lời cố vấn của hai văn thần quan trọng là Trần Văn Kỷ và Ngô Thì Nhậm để tổ chức lại guồng máy hành chánh, thuế khóa.
Sau một thời gian chiến tranh liên miên, đồng ruộng hoang hóa, xóm làng điêu tàn đổ nát, dân cư xiêu tán, kinh tế kiệt quệ, Quang Trung phải đối phó với những khó khăn chồng chất của thời bình. Trong các kế hoạch bình định, chắc chắn Ngô Thì Nhậm soạn thảo cho Quang Trung kế hoạch tái phối trí dân số và phát triển nông nghiệp, vì văn bản chính thức của kế hoạch này, "Tờ Chiếu Khuyến nông", được dòng họ Ngô Thì lưu giữ và ghi vào tập "Hàn các anh hoa" của Ngô Thì Nhậm.
Năm 1792, sau khi Quang Trung mất, ông không còn được tin dùng, quay về nghiên cứu Phật học. Ông lập thiền viện, soạn công án, trở thành Hải Lượng thiền sư. Từ một nhà nho nhiệt tín, một nhà chính trị nhiệt tín, ông trở thành đệ tứ tổ của Thiền tông Việt Nam. Ông đã hoàn thành một tác phẩm rất có giá trị là Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh (1796).
Năm 1802, sau khi Gia Long tiêu diệt nhà Tây Sơn, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thế Lịch và một số viên quan triều Tây Sơn bị đánh bằng roi tại Văn Miếu năm 1803. Nhưng vì có mâu thuẫn trước đó với Ngô Thì Nhậm, Đặng Trần Thường đã cho người tẩm thuốc vào roi để đánh ông. Sau trận đánh đòn, về nhà, Ngô Thì Nhậm chết.
Câu ứng đối nổi tiếng
Tương truyền Ngô Thì Nhậm và Đặng Trần Thường có quen biết với nhau.
Chuyện xưa kể lại rằng, học trò của cụ Ngô Thì Sĩ ngày ấy khá đông, nhưng xuất sắc nhất chỉ có người con trai là Ngô Thì Nhậm và con rể của cụ là Phan Huy Ích. Một lần vui miệng, để khuyến khích cả con rể và con trai, cụ Sĩ bảo hai người hãy cố chiếm lấy cho được vị trí trong cuộc tranh đua khoa giáp. Lúc ông bảo ban như vậy có mặt cả một người học trò khác tên là Đặng Trần Thường. Không thấy thầy nhắc gì đến mình, Đặng Trần Thường cảm thấy bị bẽ mặt, từ đó trong thâm tâm nảy sinh ghen ghét, bực bội với hai người kia.
Nhưng quả thực là lực học của Đặng Trần Thường không bằng hai người họ Ngô và Phan được. Sau kỳ thi Hội, hai người này đều đỗ cao, còn Đặng Trần Thường thì bị hỏng. Từ đó, lòng đố kỵ lại tăng lên, Đặng muốn tỏ ra khinh thường bạn để thỏa nỗi bực mình. Vì thế, chọn đúng ngày Ngô Thì Nhậm vinh quy được rước về làng, Thường ra chặn ngay đầu đường kéo quần xuống đái. Các quan và chức dịch sở tại thấy vậy đuổi bắt và đánh Thường mấy chục roi. Thường cho đây là chủ tâm của Ngô Thì Nhậm muốn làm nhục mình, nên từ đó càng căm giận, nhất quyết trả thù cho bằng được.
Lúc Ngô Thì Nhậm được vua Quang Trung trọng dụng thì Đặng Trần Thường đến xin Nhậm tiến cử. Trông thấy vẻ khúm núm làm mất phong độ của kẻ sĩ, Nhậm thét bảo Thường:
Ở đây cần dùng người vừa có tài vừa có hạnh, giúp vua cai trị nước. Còn muốn vào luồn ra cúi thì đi nơi khác.
Có chuyện lại kể, Nhậm thấy vẻ khúm núm, hèn hạ, xin xỏ của Thường thì khẽ cười mà rằng:
Công hầu, khanh tướng, vòng trần ai (đại ý nói rằng danh tước, công hầu làm con người thành bi kịch chốn trần ai).
Đặng Trần Thường nghe mà căm tím ruột, hổ thẹn ra về, rồi vào Nam theo Nguyễn Phúc Ánh.
Sau khi nhà Tây Sơn mất, các võ tướng và một số quan văn bị giải về Hà Nội để bị xử phạt đánh bằng roi ở Văn Miếu, trong số đó có Phan Huy Ích và Ngô Thì Nhậm. Chủ trì cuộc phạt đánh đòn đó là Đặng Trần Thường.
Trong thế đối nghịch nhau, nhớ lại chuyện xưa, Đặng Trần Thường kiêu hãnh ra vế câu đối cho Ngô Thì Nhậm:
Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai đã biết ai
Ngô Thì Nhậm khẳng khái đáp:
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Có thuyết nói rằng, nguyên câu đối lại của Ngô Thì Nhậm là: Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, dù thời thế, thế nào cũng thế hoặc là: Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế nào vẫn thế. Đặng Trần Thường bắt ông phải sửa lại như câu nói "thế đành theo thế" (hay thế thời theo thế hoặc là thế thì phải thế). Ngô Thì Nhậm không nói lại. Thường tức giận sai người dùng roi tẩm thuốc độc đánh ông.
Sau trận đòn về nhà, Phan Huy Ích không bị đánh bằng thuốc độc nên còn sống. Còn Ngô Thì Nhậm bị thuốc độc ngấm vào tạng phủ, biết mình không qua khỏi, trước khi qua đời ông có làm bài thơ gửi tặng Đặng Trần Thường như sau:
Ai tai Đặng Trần Thường
Chân như yến xử đường
Vị Ương cung cố sự
Diệc nhĩ thị thu trường
Nghĩa là: Thương thay Đặng Trần Thường. Nay quyền thế lắm đấy, nhưng khác nào như chim yến làm tổ trong cái nhà sắp cháy, rồi sẽ khốn đến nơi. Giống như Hàn Tín giúp Hán Cao tổ, rồi bị Cao tổ giết ở cung Vị Ương. Kết cục của ngươi rồi cũng thế đó.
Dịch thơ:
Thương thay Đặng Trần Thường
Tổ yến nhà xử đường
Vị Ương cung chuyện cũ
Tránh sao kiếp tai ương?
Quả nhiên sau này bài thơ ứng nghiệm, Thường bị Gia Long xử tử.
Tác phẩm chính
Bang giao hảo thoại (văn)
Bang giao tập (văn)
Kim mã hành dư (văn)
Hàn các anh hoa (văn, thơ)
Doãn thi văn tập (văn, thơ)
Yên đài thu vịnh (thơ)
Hoàng hoa đồ phả (thơ)
Cúc đường bách vịnh (thơ)
Hải Dương chí lược
Hy Doãn thi văn tập
Xuân Thu quản kiến
Tam thiên tự giải âm (tức Tự học toản yếu). Sách này về sau dịch ra quốc ngữ là Tam Thiên Tự. Sách được học giả Đoàn Trung Còn biên soạn, sao lục, Chí Đức tùng thư xuất bản lần đầu năm 1959 là sách căn bản để học tiếng Hán
Hình ảnh công cộng
Ngày nay tại Việt Nam đang có những con đường, phố và ngôi trường mang tên ông. Trong khi đó, ở các tỉnh miền Trung và miền Nam lại viết là Ngô Thời Nhiệm. |
Cao Hành Kiện (chữ Hán: 高行健; bính âm: Gāo Xíngjiàn; sinh 4 tháng 1 năm 1940) là một nhà văn, nhà viết kịch, nhà phê bình người Trung Quốc đầu tiên và là công dân Pháp thứ 13 được trao Giải Nobel Văn học trong suốt 100 năm qua. Ông cũng còn được biết đến với tư cách là một dịch giả, đạo diễn sân khấu và họa sĩ.
Tiểu sử
Ông sinh ra và lớn lên ở Cống/Cám Châu, Giang Tây, Trung Quốc. Ông tốt nghiệp trường Đại học Ngoại ngữ Bắc Kinh năm 1962 ngành tiếng Pháp. Sau khi tốt nghiệp ông được phân công đến Cục xuất bản ngoại văn làm phiên dịch. Trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa (1966-1976) ông đã bị đưa vào trại học tập cải tạo và phải âm thầm thiêu hủy cả một va-li đầy bản thảo tác phẩm của mình, trong đó có một vài cuốn tiểu thuyết chỉ chờ ngày xuất bản và 15 vở kịch. Sau đó, ông bị gửi vào trại cải tạo giáo dục mất 7 năm. Năm 1975 ông trở về Bắc Kinh, làm việc tại Cục xuất bản Ngoại văn. Đến năm 1978 ông nhận chức phiên dịch cho Hiệp hội tác gia Trung Quốc. Năm 1980 ông về làm công tác biên kịch tại Kịch viện Nghệ thuật Nhân dân Bắc Kinh. Cao Hành Kiện là một trong những văn nghệ sĩ tiền phong của Trung Quốc đã cổ vũ, đấu tranh cho quyền sáng tác văn nghệ tự do và đích thực. Chính phủ Trung Quốc đã từng coi ông là một phần tử chống đối và các tác phẩm của ông đã bị cấm lưu hành từ năm 1986. Ông đã bỏ Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1989 sau vụ thảm sát Thiên An Môn.
Năm 1988, ông sang Pháp sinh sống và nhập quốc tịch Pháp từ 1998, hiện cư ngụ tại ngoại ô Paris, khu Bagnolet. Mười chín năm sống ở Pháp, ông đã tập trung vào viết sách, soạn kịch và triển lãm nghệ thuật. Vào năm 1992 ông đã giành được giải Chevalier de l'Ordre des Arts et des Lettres (Huân chương về Văn học và Nghệ thuật) của Chính phủ Pháp. Sau khi ông đoạt giải Nobel năm 2000, báo chí Trung Quốc không rầm rộ về việc này, nhưng tờ báo ra hằng ngày Tin tức buổi chiều Dương Thành (羊城晚報 "Dương Thành vãn báo"), vào năm 2001, trong một cuộc chỉ trích về Linh Sơn đã gọi ông là một "nhà văn dở tệ" và nói rằng việc ông đoạt giải Nobel thật là lố bịch.
Linh Sơn là một tác phẩm nổi tiếng của ông, tổng hợp nhiều hình thái và thể loại văn chương gồm hồi ký, chuyện tình, phóng sự xã hội, thực tế, hư cấu, triết lý, đối thoại, độc thoại... hoà quyện vào nhau. Giáo sư Lee Mabel, người dịch tác phẩm Linh Sơn sang tiếng Anh (Soul Mountain) đã nhận định: "Linh Sơn là câu chuyện của người đi tìm sự an bình và tự do bên trong".
Cao Hành Kiện còn là một họa sĩ vẽ tranh thủy mặc độc đáo. Ông đã cho tổ chức khoảng 30 cuộc triển lãm tranh khắp nơi trên thế giới và nhận được nhiều lời khen ngợi.
Tác phẩm chính
Truyện
Linh Sơn (1989)
Thánh kinh của một con người (1999)
Bờ bến khác
Kẻ rừng rú
Kịch
Đào vong (1989)
Báo động (1982)
Trạm xe buýt (1963)
Au bord de la Vie (Bên bờ cuộc sống)
Le Somnambule (Kẻ miên hành)
Giải thưởng
Huân chương Kỵ sỹ về Nghệ thuật và văn học do Chính phủ Pháp trao tặng vào năm 1992
Giải Nobel Văn học vào năm 2000
Giải thưởng về văn học do thủ đô Roma, Ý trao tặng vào năm 2000 |
Một sao đôi được tạo thành từ một hệ thống gồm hai ngôi sao chuyển động trên quỹ đạo của khối tâm hai ngôi sao. Đối với mỗi ngôi sao, sao kia là "bạn đồng hành" của nó. Các nghiên cứu ngày nay đã chỉ ra rằng có một lượng lớn ngôi sao trong những hệ thống khác nhau là có ít nhất hai ngôi sao. Sao đôi rất quan trọng trong vật lý thiên văn, bởi vì việc quan sát quỹ đạo của chúng sẽ giúp cho việc xác định khối lượng của chúng. Khối lượng của nhiều ngôi sao đơn sẽ được xác định bằng cách ngoại suy từ những sao đôi.
Sao đôi không tương tự như sao đôi quang học, vốn có vẻ gần nhau khi được quan sát từ Trái Đất, nhưng có thể không ràng buộc với nhau bằng lực hấp dẫn. Các sao đôi vừa có thể được nhận ra bằng quang học (sao đôi thị giác), hoặc gián tiếp bằng các thiết bị kỹ thuật như là quang phổ kế, sao đôi quang phổ. Nếu sao đôi chuyển động trên mặt phẳng song song với phương quan sát, chúng sẽ che khuất nhau; trường hợp này được gọi là các sao đôi che nhau.
Những hệ gồm nhiều hơn hai thành viên, được gọi là các đa sao, cũng không phải là hiếm và thường cũng được xếp hạng bằng cùng cái tên đó. Các thành viên trong các hệ sao đôi có thể trao đổi khối lượng, đưa quy trình tiến hóa của chúng tới những giai đoạn mà những ngôi sao đơn không thể đạt được. Những ví dụ về các hệ sao đôi gồm Algol (một hệ sao đôi che nhau), Sirius, và Cygnus X-1 (một thành viên của hệ này có thể là một hố đen).
Thuật ngữ
Thuật ngữ "binary" để chỉ sao đôi trong tiếng Anh có lẽ đã được Sir William Herschel đưa ra năm 1802 để chỉ "một sao đôi thực sự — sự kết hợp của hai ngôi sao được thành tạo cùng nhau trong một hệ thống tuân theo các định luật hấp dẫn". Bất kỳ hai ngôi sao nào nằm gần nhau trên thiên cầu đều có thể là một sao đôi, trường hợp hay được dẫn chứng nhất là Mizar và Alcor thuộc chòm sao Đại Hùng. Tuy nhiên, cũng có lúc cặp sao chỉ "nhìn" giống như một hệ sao đôi trên bầu trời, do chúng nằm cùng trên một hướng quan sát từ điểm quan sát của chúng ta, nhưng thực tế lại cách nhau rất xa. Những "hệ sao đôi giả" đó được gọi theo thuật ngữ sao đôi quang học. Khi kính viễn vọng được sáng chế ra, nhiều cặp sao như vậy đã được phát hiện. Năm 1780, Herschel đã đo đạc khoảng cách và các hướng của hơn 700 cặp sao hiện diện giống như những hệ sao đôi và thấy rằng khoảng 50 cặp đã có sự thay đổi về hướng sau hai thập kỷ quan sát, và do đó không phải là sao đôi thực sự.
Một sao đôi thực sự là một cặp sao được gắn kết nhau bởi lực hẫp dẫn. Khi chúng có thể được phân biệt bằng một kính viễn vọng đủ mạnh (nếu cần thiết sẽ được hỗ trợ của các biện pháp đo giao thoa) chúng được gọi là những sao đôi thị giác. Trong các trường hợp khác, dấu hiệu duy nhất của sao đôi là hiệu ứng Doppler của ánh sáng phát ra. Những hệ đó được gọi là những sao đôi quang phổ, gồm những cặp sao nằm gần nhau tới mức các đường quang phổ trong ánh sáng từ mỗi ngôi sao ban đầu bị dịch chuyển xanh, sau đó bị dịch chuyển đỏ khi nó đầu tiên di chuyển về phía chúng ta, rồi lại di chuyển ra xa chúng ta, trong khi chúng chuyển động quanh khối tâm chung, với chu kỳ quỹ đạo chung của chúng.
Nếu mặt phẳng quỹ đạo gần như dọc theo tầm quan sát của chúng ta, hai ngôi sao đó che khuất nhau một phần hay toàn phần theo chu kỳ và hệ đó được gọi là một sao đôi che nhau, Algol chính là trường hợp đặc trưng nhất của kiểu hệ này.
Các ngôi sao đôi vừa là sao đôi thị giác, vừa là sao đôi quang phổ thì rất hiếm, và nếu được phát hiện, chúng là những nguồn cung cấp thông tin quý giá. Những sao đôi thị giác thường cách nhau khá xa và thường có những tốc độ quỹ đạo quá nhỏ để có thể đo đạc được bằng quang phổ. Trái lại, những sao đôi quang phổ di chuyển nhanh trên quỹ đạo của chúng bởi vì chúng ở gần nhau—thường thường là quá gần để có thể phát hiện ra như những sao đôi thị giác. Do vậy, các sao đôi vừa là sao đôi thị giác vừa là sao đôi quang phổ thường khá gần Trái Đất.
Các nhà khoa học đã khám phá ra một số ngôi sao có vẻ đang quay quanh một không gian trống rỗng. Ví dụ, các sao đôi dao động astrometric binaries, thường là một ngôi sao nằm khá gần sao đồng hành và có thể được quan sát thấy đang dao động xung quanh một điểm chung nhưng lại không thấy được ngôi sao đồng hành của nó. Đối với một số sao đôi dao động, chỉ quan sát được một tập hợp những đường di chuyển tới lui. Các công thức toán học áp dụng cho những sao đôi thông thường cũng có thể đem áp dụng để tính ra khối lượng của ngôi sao đồng hành không quan sát thấy kia. Ngôi sao đồng hành có thể rất tối, vì vậy thực tế là không thể tìm ra hay bị che khuất bởi ánh sáng của ngôi sao thứ nhất kia, hay nó có thể là một vật thể không phát ra ánh sáng, thậm chí không phát ra bất kỳ một bức xạ điện từ nào, giống một sao neutron. Trong một số trường hợp, ta có thể đưa ra một giả thiết rằng trên thực tế ngôi sao đồng hành kia là một hố đen—một vật thể có sức hút hấp dẫn mạnh đến nỗi ánh sáng cũng không thể thoát khỏi nó. Có lẽ trường hợp ví dụ tốt nhất cho kiểu hệ này là Cygnus X-1, ở đó khối lượng của vật thể không thể thấy được kia gấp khoảng mười lần khối lượng Mặt Trời —vượt xa hơn rất nhiều so với khối lượng lý thuyết tối đa của một ngôi sao neutron, một ứng cử viên khác của ngôi sao đồng hành kia.
Các sao đôi cung cấp biện pháp tốt nhất cho các nhà thiên văn học để xác định khối lượng của một ngôi sao ở xa xôi. Lực hấp dẫn giữa chúng khiến chúng bay trên quỹ đạo quanh khối tâm chung. Từ mô hình quỹ đạo của một sao đôi thị giác, hay từ sự biến đổi thời gian của quang phổ của một sao đôi quang phổ, ta có thể xác định được khối lượng của những ngôi sao trong hệ đó.
Bởi vì đa số các ngôi sao tồn tại trong các hệ sao đôi, các sao đôi là rất quan trọng để chúng ta khám phá ra quá trình hình thành lên các ngôi sao. Đặc biệt, chu kỳ quỹ đạo và các khối lượng của sao đôi cho chúng ta biết về mô men động lượng của hệ. Do định luật bảo toàn mômen động lượng, các sao đôi cung cấp cho chúng ta những manh mối quan trọng về các điều kiện theo đó các ngôi sao được hình thành.
Trong một hệ sao đôi, ngôi sao có khối lượng lớn hơn thường được gọi là sao "A" và ngôi sao đồng hành kia được gọi là "B". Vì thế ngôi sao chính và sáng của hệ Sirius được gọi là Sirius A, trong khi ngôi sao lùn trắng đồng hành có khối lượng nhỏ hơn là Sirius B. Tuy nhiên, nếu hai sao này cách nhau xa, chúng có thể được đặt tên bằng những con số mũ như trường hợp Zeta Reticuli (ζ1 Ret and ζ2 Ret),
Phân loại
Hiện tại, các sao đôi được phân thành bốn kiểu theo những tính chất có thể quan sát được của chúng:
Sao đôi thị giác
Sao đôi quang phổ
Sao đôi che nhau
Sao đôi dao động
Bất kỳ ngôi sao nào đều có thể có nhiều trong số các tính chất trên, ví dụ, nhiều sao đôi quang phổ cũng là những sao đôi che nhau.
Cũng có thể phân loại thành ba kiểu dựa trên khoảng cách giữa các sao, so với kích thước của chúng:
Sao đôi tách rời
Sao đôi bán tách rời
Sao đôi tiếp xúc
Những khám phá từ nghiên cứu
Trong 200 năm qua, một lượng lớn các nghiên cứu đã được thực hiện về các sao đôi dẫn tới một số kết luận chính.
Mọi người tin rằng ít nhất một phần tư tổng số sao là những hệ đôi, với khoảng 10% số hệ đó có chứa hơn hai ngôi sao (sao ba,...).
Có một sự tương quan trực tiếp giữa chu kỳ quỹ đạo của một sao đôi vào độ lệch tâm của quỹ đạo của nó, các hệ có chu kỳ quỹ đạo ngắn thì có độ lệch tâm ít hơn. Các sao đôi có thể được tìm thấy ở bất cứ một khoảng cách nào có thể tưởng tượng được, từ các cặp quay gần nhau tới mức trên thực tế chúng hầu như tiếp xúc với nhau, tới những cặp sao xa nhau tới nỗi sự liên kết giữa chúng chỉ được thể hiện bởi sự chuyển động quay quanh nhau chậm chạp của chúng. Đáng lưu ý, trong số những hệ sao đôi có khuynh hướng liên kết với nhau bởi sức hút hấp dẫn, có tồn tại một phân bố xác suất về các chu kỳ quỹ đạo, với đa số các hệ đó quay với chu kỳ chừng 100 năm.
Trong những cặp mà hai ngôi sao tương đương nhau về cấp sao, thì chúng cũng có kiểu quang phổ như nhau. Trong những hệ có cấp sao khác nhau, ngôi sao mờ hơn thì xanh hơn nếu ngôi sao sáng hơn là một sao khổng lồ, và đỏ hơn nếu ngôi sao sáng hơn thuộc về dãy sao chính (main sequence).
Bởi vì khối lượng chỉ có thể được xác định thông qua sức hút hấp dẫn, và những ngôi sao duy nhất (ngoại trừ Mặt Trời, và những ngôi sao là thấu kính hấp dẫn), mà ta có thể xác định được khối lượng với độ chính xác cao là những ngôi sao đôi, do đó chúng rất quan trọng.
Trong trường hợp một sao đôi thị giác, sau khi đã xác định được quỹ đạo và thị sai sao của hệ, tổng khối lượng của hai ngôi sao có thể được tính toán ra bởi việc áp dụng trực tiếp định luật Kepler.
Tuy nhiên, không thể có được quỹ đạo hoàn chỉnh của một sao đôi quang phổ trừ khi nó cũng là một sao đôi thị giác hay sao đôi che nhau, vì thế từ các vật thể đó chúng ta chỉ có thể xác định tâm khối lượng chung và sin của góc nghiêng với đường quan sát. Vì vậy, nếu không có thêm thông tin về góc nghiêng, khối lượng chỉ có thể được suy luận theo một phán đoán thống kê.
Trong trường hợp các sao đôi che nhau đồng thời là sao đôi quang phổ, có thể tìm ra một đáp án hoàn chỉnh để xác định (khối lượng, mật độ, kích thước, cấp sao, và hình dạng gần đúng) của cả hai ngôi sao trong hệ.
Khoa học viễn tưởng thường miêu tả các hành tinh của các sao đôi hay sao ba. Trên thực tế, đa số các quỹ đạo của chúng không cân bằng bền (hành tinh có thể bị đẩy khỏi quỹ đạo của nó khá nhanh chóng, có thể bị bắn hoàn toàn khỏi hệ hay bị chuyển sang một quỹ đạo lệch vào trong hay lùi ra ngoài hơn), trong khi những quỹ đạo khác lại thực sự khắc nghiệt cho việc hình thành sinh quyển bởi vì chúng có khác biệt rất lớn về nhiệt độ bề mặt ở những khoảng cách quỹ đạo khác nhau. Việc khám phá các hành tinh quay quanh các hệ đa sao cũng đưa ra nhiều khó khăn về kỹ thuật, có thể vì vậy mà cho tới tận tháng 7 năm 2005 chỉ một hành tinh như vậy được tìm thấy: HD 188753 Ab.
Những ví dụ về sao đôi
.
Algol (ba sao, sao đôi che nhau)
Alpha Centauri (ba sao)
Castor (sáu sao)
Procyon
Sirius
Antares
Rigel (bốn sao)
Những sao đôi trong viễn tưởng
Tác phẩm Nightfall (Hoàng hôn) của Isaac Asimov được đặt trong một hệ sáu mặt trời.
Trò chơi máy tính Little Big Adventure (năm 1994) diễn ra tại một hành tinh nằm ổn định giữa hai ngôi sao.
Hành tinh Tatooine trong phim Chiến tranh giữa các vì sao (Star Wars) quay quanh hệ sao đôi Tatoo. Tên của hai ngôi sao là Tatoo 1 và Tatoo 2.
Hệ Manticore là một sao đôi trong truyện Honorverse của David Weber với ba hành tinh có thể ở được, hai trong số đó (thủ đô Manticore và Sphinx) quay quanh Manticore A và một (Gryphon) quay quanh Manticore B.
Trong phim Star Trek: Enterprise phần "Singularity" con tàu đã ghé qua một hệ sao ba.
Chú thích |
Sông Hằng (tiếng Hindi: गंगा, tiếng Bengal: গঙ্গা, tiếng Phạn: गङ्गा / Ganga, Hán – Việt: 恆河 / 恒河 / Hằng hà) là con sông quan trọng nhất của tiểu lục địa Ấn Độ. Sông Hằng dài 2.510 km bắt nguồn từ dãy Hymalaya của Bắc Trung Bộ Ấn Độ, chảy theo hướng Đông Nam qua Bangladesh và chảy vào vịnh Bengal. Tên của sông được đặt theo tên vị nữ thần Hindu Ganga. Sông Hằng có lưu vực rộng 907.000 km², một trong những khu vực phì nhiêu và có mật độ dân số cao nhất thế giới.
Sông Hằng là sông linh thiêng nhất đối với Ấn Độ Giáo. Con sông là nguồn sống của hàng triệu người Ấn Độ sống dọc theo nó và phụ thuộc vào nó hàng ngày. Con sông có vai trò quan trọng về lịch sử với nhiều thủ đô, thủ phủ của các đế quốc trước đây (như Pataliputra, Kannauj, Kara, Kashi, Allahabad, Murshidabad, Munger, Baharampur, Kampilya, và Kolkata) nằm dọc theo bờ sông này.
Sông Hằng được xếp thứ 5 trên thế giới về mức độ ô nhiễm năm 2007. Sự ô nhiễm đe dọa không chỉ đối với con người mà còn hơn 140 loài cá, 90 loài lưỡng cư và cá heo sông Hằng. Chương trình Hành động sông Hằng với mục tiêu nhằm cải thiện tình trạng ô nhiễm môi trường của sông hầu như thất bại hoàn toàn, do thiếu chuyên môn kỹ thuật, thiếu quy hoạch môi trường tốt, và thiếu sự hỗ trợ của các chức sắc tôn giáo.
Dòng chảy
Thượng lưu
Sông Hằng được tạo thành ở nơi hợp lưu hai con sông đầu nguồn là sông Bhagirathi và sông Alaknanda ở dãy núi Himalaya của bang Uttaranchal thuộc Ấn Độ. Nguồn nước thường được mọi người thừa nhận là sông Bhagirathi, một con sông bắt nguồn từ động băng Gomukh tại độ cao 3.892 m ở tận cùng của sông băng Gangotri và là con sông nhỏ hơn trong hai phụ lưu chính ở đầu nguồn của sông Hằng. Sông Alaknanda được tạo thành từ những khối băng tuyết tan ra từ các đỉnh núi như Nanda Devi(7,816 m/25,643 ft),Trisul(7,120 m/23,360 ft) và Kamet (7.756 m/25.446 ft), hai sông nhánh này chảy về phía Nam qua trung độ Haymalaya đến nơi hội tụ của chúng để tạo nên sông Hằng.
Ngoài sông Bhagirathi và sông Alaknada, còn có bốn sông khác cũng được coi là các nguồn của sông Hằng là sông Dhauliganga, sông Nandakini, sông Pindar và sông Mandakini. Năm chỗ hợp lưu của chúng gọi là Prayag Panch, tất cả đều nằm dọc theo sông Alaknanda, theo thứ tự từ thượng nguồn trở xuống là:
Sông Alaknanda hợp lưu với sông Dhauliganga ở Vishnuprayag;
Sông Alaknanda hợp lưu với sông Nandakini ở Nandprayag;
Sông Alaknanda hợp lưu với sông Pindar ở Karnaprayag;
Sông Alaknanda hợp lưu với sông Mandakini ở Rudraprayag;
Sông Alaknanda hợp lưu với sông Bhagirathi ở Devprayag tạo thành sông Hằng.
Trung lưu
Sau khi chảy hơn 200 km (125 dặm), sông Hằng đến thành phố Haridwar (độ cao 310 m/1.020 ft), nơi nó xẻ dọc Dãy núi Siwalik và bắt đầu chảy theo hướng nhìn chung là Đông-Nam qua Đồng bằng sông Hằng. Tại Haridwar, một con đập đã chuyển hướng nước đến Kênh thượng lưu sông Hằng.
Chảy qua thành phố Haridwar, sông Hằng tiếp tục chảy thêm một khoảng cách gần 800 km (500 dặm) qua các thành phố Kannauj, Farukhabad và Kanpur một cách ngoằn ngoèo và không thể lưu thông bằng tàu thuyền được do có nhiều chỗ nông và thác ghềnh. Ở đoạn này, sông Hằng hợp lưu với sông Ramganga, một con sông có lưu lượng trung bình khoảng 500 m³/s(18,000 cu ft/s) chảy xuống từ dãy Hymalaya.
Tại thành phố Allahabad, sông Hằng được sông Yamuna, phụ lưu lớn nhất của nó theo chiều dài, bắt nguồn từ sông băng Yamunotri ở Hymalaya nhập vào từ hướng Tây Nam. Hai dòng sông này hợp lưu ở Triveni Sangam- Prayag ở giữa Allahabad, đây cũng là một chỗ hợp lưu linh thiêng đối với Hindu giáo giống như các chỗ hợp lưu ở thượng nguồn sông Hằng. Ở chỗ hợp lưu, sông Yamuna thậm chí còn rộng hơn cả sông Hằng với làn nước màu xanh lục, tỉnh lặn và sâu thẳm, có lưu lượng khoảng 2,950 m3/s (104,000 cu ft/s), chiếm tới khoảng 58.5% tổng lưu lượng sông Hằng ở đây; còn sông Hằng thì nông cạn hơn, chảy xiết hơn và nước trong hơn.
Sông Hằng chảy theo hướng Đông, hợp lưu với sông Tamsa(còn được gọi là sông Ton), một con sông có lưu lượng khoảng 190 m3/s (6,700 cu ft/s) chảy từ dãy núi Kaimur lên phía Bắc. Sau khi hợp lưu với sông Tamsa, sông Hằng tiếp tục hợp lưu với sông Gomti, một con sông có lưu lượng khoảng 234 m3/s (8,300 cu ft/s) chảy từ dãy Hymalaya xuống phía Nam.
Sau đó, sông Hằng hợp lưu với phụ lưu lớn nhất của nó tính theo lưu lượng và lớn thứ hai tính theo độ dài là sông Ghaghara, có lưu lượng khoảng 2,990 m3/s (106,000 cu ft/s), nhập vào sông Hằng ở tả ngạn. Sông Ghaghara được tạo thành ở nơi hợp lưu của hai con sông đầu nguồn là sông Karnali bắt nguồn từ sông băng Mapchachungo ở Tây Tạng và sông Sarda bắt nguồn ở Hymalaya. Cả hai con sông này cùng cắt xẻ dãy Hymalaya rồi chảy xuống đồng bằng Ấn-Hằng nhập lại thành sông Ghaghara.
Sau khi hợp lưu với sông Ghaghara, sông Hằng được sông Son, phụ lưu lớn nhất của nó chảy từ phía Nam lên với lưu lượng khoảng 1,000 m3/s (35,000 cu ft/s) nhập vào. Sông Hằng tiếp đó được sông Gandaki, một con sông có lưu lượng khoảng 1,654 m3/s (58,400 cu ft/s), bắt nguồn ở biên giới Tây Tạng (Trung Quốc) – Nepal trên dãy Hymalaya chảy theo xuống phía nam hợp lưu với sông Hằng. Sau khi sông Gandaki hợp lưu với sông Hằng, Sông Kosi, phụ lưu lớn thứ ba của sông Hằng sau sông Yamuna và sông Ghaghara, bắt nguồn từ Tây Tạng, có lưu lượng khoảng 2,166 m3/s (76,500 cu ft/s) hợp lưu với sông Hằng.
Từ thành phố Allahabad đến thành phố Malda của bang West Bengal, sông Hằng lần lượt chảy qua các thành phố khác như Chunar, Mirzapur, Varanasi, Ghazipur, Patna, Bhagalpur, Ballia, Buxar, Simaria, Sultanganj, và Saidpur.
Hạ lưu
Qua Bhagalpur, sông chạy quanh dãy đồi Rajmahal tại biên giới Bangladesh và bắt đầu chảy theo hướng Nam-Đông Nam. Ở đây, qua hướng Nam là Đồng bằng châu thổ sông Hằng, cách Allahabad khoảng 900 km về phía thượng lưu và cách Vịnh Bengal 450 km về phía hạ lưu. Gần Pakaur, Ấn Độ, sông Hằng chia nhánh. Nhánh Bhagirathi-Hooghly chảy về hướng Nam để tạo nên sông Hoogly, là nhánh cực Tây của đồng bằng châu thổ, cũng như là kênh vận chuyển đường thủy chính của khu vực đồng bằng này. Các tàu biển có thể chạy vào Hoogly từ cửa sông Hằng ở Vịnh Bengal đến thành phố Kolkata nằm cách cửa sông khoảng 130 km phía thượng lưu. Từ giữa thập niên 1970, Ấn Độ đã chuyển hướng nước vào sông Hoogly hay lắng bùn để tăng khả năng vận chuyển đến thành phố Kolkata nhưng điều này đã dẫn đến tranh chấp về quyền sử dụng nước với quốc gia láng giềng Bangladesh. Sông Hoogly được tạo thành từ sự hợp lưu của sông Bhagirathi-Hoogly và sông Jalangi ở thành phố Nabadwip. Con sông cũng có những phụ lưu riêng của nó, trong đó lớn nhất là sông Damodar dài 541 km (336 mi) và có lưu vực rộng 25,820 km² (9,970 sq mi). Nơi sông Hoogly đổ vào vịnh Bengal nằm ở gần đảo Sagar. Từ thành phố Malda đến cửa sông Hoogly, con sông này đã lần lượt chảy qua các thị trấn và thành phố như Murshidabad, Nabadwip, Kolkata and Howrah.
Nhánh chính của sông Hằng tiếp tục chảy qua Bangladesh, nơi có đoạn nó được gọi là sông Padma. Sông Hằng đã tạo ra nhiều nhánh sông tạo thành một mạng lưới đường thủy cũng như tạo ra một trong những đồng bằng châu thổ rộng lớn và phì nhiêu nhất thế giới. Do sông Hằng mang theo trong mình lượng phù sa lớn nên vùng đồng bằng châu thổ do nó tạo ra tiếp tục mở rộng về phía vịnh. Ở phía nam đồng bằng là quần đảo Sundarbans-một trong ba quần đảo lớn của Ấn Độ, gồm một hệ thống các đảo do phù sa sông Hằng tạo nên và được rừng ngặp mạn bao phủ. Sundarbans đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới.
Sông Padma tiếp tục chảy theo hướng Nam và được nhận thêm nước từ sông Jamuna đổ vào. Đây là phân lưu lớn nhất của sông Brahmaputra, một con sông hùng mạnh bắt nguồn từ sông băng Angsi ở sơn nguyên Tây Tạng, nó đã tạo thành nên hẻm núi lớn nhất thế giới- hẻm núi Yarlung-Tsangpo trên sơn nguyên này rồi cắt xẻ dãy Hymalaya trước khi chảy xuống đồng bằng Ấn-Hằng. Sông Jamuna là một con sông lớn, rộng khoảng 8–13 km (5–8 miles) từ bờ này sang bờ kia vào mùa mưa lũ và khoảng 3.2–4.8 km (2–3 miles) vào mùa khô, độ sâu trung bình của sông là khoảng 38 m, lưu lượng của nó thậm chí còn lớn hớn cả sông Padma tại chỗ hợp lưu, vào khoảng 19,300 m3/s (681,600 cu ft/s). Sau khi hợp lưu với sông Jamuna, sông Padma đã mở rộng ra rất nhiều, sâu khoảng vài trăm mét, lưu lượng trung bình lên đến 35,000 m³/s (1,200,000 cu ft/s).
Sau khi hợp lưu với sông Jamuna, sông Padma tiếp tục hợp lưu từ sông Meghna. Giống như sông Padma, sông Meghna cũng được nhận thêm nước từ sông Brahmaputra thông qua các phân lưu khác của nó như sông Brahmaputra cũ, sông Sitaiakhya và sông Dhaleshwari. Ngoài các phân lưu của sông Brahmaputra trên, sông Meghna còn có những phụ lưu khác, tiêu biểu là sông Gumti, sông Feni,... Sau khi hợp lưu, sông Padma được đổi tên thành sông hạ Meghna. Do nhận được nước từ cả ba hệ thống sông lớn là hệ thống sông Hằng, hệ thống sông Brahmaputra-Yarlung Tsangpo, hệ thống sông sông Meghna-Surma-Barak nên sông hạ Meghna là con sông lớn nhất đổ vào vịnh Bengal, nó rộng 30 km và có lưu lượng rất lớn là 42,470 m3/s (1,499,814 cu ft/s), đứng thứ ba thế giới sau sông Amazon và sông Congo vào mùa cạn và đứng thứ hai thế giới chỉ sau sông Amazon vào mùa lũ. Sông hạ Meghna đổ vào vịnh Bengal qua bốn cửa sông: Tetulia, Shahbazpur, Hatia, and Bamni.
Thủy lợi và Thủy điện
Sông Hằng và các chi lưu của nó, đặc biệt là sông Yamuna, đã được sử dụng cho tưới tiêu từ thời cổ đại. Các đập và kênh đào đã phổ biến ở đồng bằng sông Hằng từ thế kỷ 4 TCN. Lưu vực sông Hằng-Brahmaputra-Meghna có tiềm năng thủy điện rất lớn, ước tính vào khoảng 200.000 đến 250.000 MW, gần phân nửa trong số đó dễ dàng khai thác. Đến năm 1999, Ấn Độ đã khai thác khoảng 12% tiềm năng thủy điện của sông Hằng và chỉ 1% tiềm năng to lớn của Brahmaputra.
Tầm quan trọng về kinh tế
Lưu vực sông Hằng là khu vực đông dân nhất, sản xuất nông nghiệp lớn nhất và rộng lớn nhất ở Ấn Độ. Ở châu Á, chỉ có vùng Bình nguyên Hoa Bắc của Trung Quốc và đồng bằng sông Hồng của Việt Nam là có mật độ dân cư tương tự ở lưu vực này. Ở phần phía Tây của đồng bằng sông Hằng, con sông này cung cấp nước tưới và một hệ thống kênh rạch chằng chịt với các kênh huyết mạch chính là Kênh Thượng lưu sông Hằng và Kênh Hạ lưu sông Hằng. Các loại lương thực và hoa màu trồng trọt và thu hoạch ở khu vực này có: lúa, mía đường, đậu lăng, hạt có dầu, khoai tây và lúa mỳ. Hầu như cả khu vực đồng bằng sông Hằng đã bị khai hoang hết rừng cây và cỏ để phục vụ cho nông nghiệp.
Thông thường, hai bên bờ sông Hằng có các vùng đầm lầy và các hồ nước. Ở các khu vực đầm lầy và các khu vực ao hồ này, người ta trồng rau, lúa, ớt, cây mù tạc, vừng (mè) và cây đay. Một số khu vực khác có rừng đước và có cá sấu sinh sống.
Do sông Hằng được cấp nước từ các đỉnh núi phủ băng tuyết, lượng nước của nó vẫn giữ mức cao quanh năm và dòng sông vẫn được sử dụng làm thủy lợi thậm chí vào mùa khô và nóng từ tháng 4 đến tháng 6. Vào mùa mưa mùa Hè, lượng mưa lớn có thể gây lũ lụt hoành hành, đặc biệt là vùng đồng bằng châu thổ.
Tầm quan trọng về tôn giáo
Những người dân tộc Hindu, dân tộc chiếm đa số trong dân số Ấn Độ, xem sông Hằng là một dòng sông thiêng: Ganga là con gái của thần núi Himavan hay Himalaya. Theo tín ngưỡng Hindu, tắm trên sông Hằng được xem là gột rửa mọi tội lỗi, và nước sông được sử dụng rộng rãi trong các nghi lễ thờ cúng. Uống nước sông Hằng trước khi chết là một điềm lành và nhiều người Hindu đã yêu cầu được hỏa thiêu dọc hai bên sông Hằng và lấy tro thiêu của họ rải lên dòng sông.
Những người hành hương Hindu hành hương đến các thành phố thánh Varanasi, nơi các nghi lễ tôn giáo thường được cử hành; Haridwar được tôn sùng vì nó là nơi sông Hằng rời dãy Himalaya; còn Allahabad, nơi dòng sông Saraswati huyền thoại được người ta tin là chảy vào sông Hằng. Mỗi 12 năm, một lễ hội Purna Kumbha (Vạc Đầy) được tổ chức ở Haridwar và Allahabad mà trong các lễ hội này hàng triệu người đến để tắm trong sông Hằng. Những người hành hương cũng đến các địa điểm linh thiêng khác gần các thượng nguồn sông Hằng, bao gồm đền thờ dưới núi băng Gangotri.
Ô nhiễm
Sông Hằng đang gánh chịu các mức ô nhiễm cực kỳ cao, với sự ảnh hưởng của 400 triệu dân sống gần con sông. Nước cống từ các thành phố dọc theo các đoạn sông, chất thải công nghiệp và vật dâng hiến tôn giáo bao bọc bởi các túi nhựa không thể phân hủy là những nguồn gây ô nhiễm chính đối với con sông khi nó chảy qua các khu đông dân cư. Vấn đề càng trầm trọng hơn bởi một thực tế rằng nhiều người nghèo phụ thuộc vào con sông từ các nhu cầu thiết yếu như tắm giặt và nấu nướng. Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới chi phí chăm sóc sức khỏe từ nguồn nước ô nhiễm ở Ấn Độ bằng 3% GDP của Ấn Độ. Cũng có nhận định rằng 8% tất cả các bệnh ở Ấn Độ và 1/3 ca tử vong có thể là do các bệnh liên quan đến nguồn nước.
Varanasi, thành phố 1 triệu dân có nhiều người hành hương đến để tắm nước thánh trong sông Hằng, đã thải ra khoảng 200 triệu lít nước cống rãnh mỗi ngày của con người chưa qua xử lý, làm cho làm lượng vi khuẩn faecal coliform tăng cao. Theo các tiêu chuẩn hiện hành, nước an toàn cho tắm không chứa quá 500 con F. Coli trên 100ml nước, tuy vậy, thượng nguồn các ghat (bậc thang xuống sông) ở Varanasi nước sông đã chứa lượng vi khuẩn F. Coli gấp 120 lần vào khoảng 60.000 faecal coliform/100 ml.
Sau khi hỏa táng những người quá cố ở các bậc đá của Varanasi, xương và tro được ném xuống sông Hằng. Tuy nhiên, trong quá khứ từng có hàng ngàn xác không được hỏa táng ném xuống sông trong các trận dịch tả, làm phát tán dịch bệnh. Thậm chí ngày nay, holy men, phụ nữ mang thai, người có bệnh phong/thủy đậu, người bị rắn cắn, người tự tử, người nghèo và trẻ em dưới 5 tuổi không được hỏa táng tại các bậc đá nhưng được thả trôi để phân hủy trong nước. Ngoài ra, những người không có đủ một lượng gỗ lớn để hỏa táng toàn bộ thi thể, bỏ lại nhiều phần cơ thể bị đốt phân nửa.
Sau khi đi qua Varanasi, và tiếp nhận 32 dòng nước thải chưa xử lý của thành phố, hàm lượng F. Coli trong sông tăng lên từ 60.000 đến 1,5 triệu, với giá trị đỉnh quan sát được là 100 triệu/100 ml. Uống và tắm trong dòng nước này có nguy cơ bị lây nhiễm rất cao.
Trong khoảng năm 1985 và 2000, 10 tỉ Rs. tương đương 226 triệu USD được tiêu tốn cho chương trình hành động sông Hằng, đây là một sáng kiến môi trường trong nỗ lực làm sạch một dòng sông ô nhiễm nhất trên thế giới." Chương trình hành động sông Hằng đã được miêu tả theo nhiều cách khác nhau là một sự thất bại hoặc một thất bại lớn.
Sự thất bại của chương trình này từ nhiều lý do khác nhau như "quy hoạch môi trường mà không hiểu đúng những mối tương tác giữa con người-môi trường," "tập quán và tín ngưỡng" của người Ấn Độ," "tham nhũng và thiếu kiến thức về công nghệ" và "thiếu sự hỗ trợ từ các cơ quan tôn giáo."
Tháng 12 năm 2009, Ngân hàng Thế giới đồng ý cho Ấn Độ vay 1 tỉ USD trong vòng 5 năm tới để giúp cứu vãn con sông. Theo ước tính của Ủy ban Kế hoạch, cần số vốn đầu tư 70 tỉ Rs (tương đương 1,5 tỉ USD) để làm sạch con sông.
Tháng 11 năm 2008, sông Hằng là sông duy nhất của Ấn Độ được công nhận là "Sông quốc gia", nhằm mở đường so sự hình thành Cơ quan quản lý lưu vực sông Hằng, là một cơ quan có quyền cao hơn trong việc quy hoạch, thực hiện và giám sát các biện pháp bảo vệ con sông.
Tỷ lệ mắc bệnh từ nước và ruột - chẳng hạn bệnh đường tiêu hóa, tả, lỵ, viêm gan A và thương hàn - trong số những người người sử dụng nước sông để tắm, rửa bát và đánh răng là cao, khoảng 66% mỗi năm.
Nghiên cứu gần đây của Hội đồng nghiên cứu y học Ấn Độ (ICMR) nói rằng sông như vậy là đầy đủ các chất ô nhiễm giết người mà những người sống dọc theo các bờ sông ở bang Uttar Pradesh, Bihar và Bengal dễ bị ung thư hơn so với bất cứ nơi nào khác trong cả nước. Thực hiện bởi Chương trình Đăng ký ung thư quốc gia thuộc ICMR, nghiên cứu đưa ra những phát hiện gây sốc cho thấy sông chứa đầy kim loại năng và các hóa chất gây chết người gây ra ung thư. Theo Phó Tổng Giám đốc NCRP A. Nandkumar, tỷ lệ mắc bệnh ung thư cao nhất trong cả nước ở những khu vực thóa nước từ Sông Hằng và nói rằng vấn đề sẽ được nghiên cứu sâu sắc và với những phát hiện được trình bày trong một báo cáo của Bộ Y tế nước này.
Sinh thái và môi trường
Cá heo sông Hằng
Cá heo sông Hằng từng được sử dụng trong các trường học lớn ở các trung tâm đô thị ở cả sông Hằng và sông Brahmaputra, hiện nay bị đe dọa nghiêm trọng do ô nhiễm và việc xây đập. Số cá thể của chúng hiện giảm xuống còn 1/4 so với số lượng cách đây 15 năm, và hiện đã tuyệt chủng ở một số nhánh chính của sông Hằng. Một cuộc khảo sát gần đây của Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên chỉ thấy còn 3000 cá thể thuộc lưu vực của hai sông này.
Cá heo sông Hằng là một trong 4 loài cá heo nước ngọt trên thế giới. Ba loài khác là cá heo sông Dương Tử (Lipotes vexillifer) sống trên sông Dương Tử ở Trung Quốc, hiện có thể đã tuyệt chủng; bhulan của sông Ấn ở Pakistan; và boto của sông Amazon ở Brazil. Có nhiều loài cá heo biển mà dãi phân bố của chúng cũng bao gồm các môi trường nước ngọt, nhưng 4 loài này là các loài chỉ có thể sống trong môi trường nước ngọt ở sông hoặc hồ.
Cạn kiệt nguồn nước
Cùng với sự gia tăng ô nhiễm chưa từng thấy, sự cạn kiệt nguồn nước ngày càng trở nên tệ ở dòng sông này. Một số đoạn sông đã cạn kiệt hoàn toàn. Khu vực quanh Varanasi, dòng sông từ có độ sâu trug bình , nhưng ở một số nơi hiện nay chỉ sâu . |
Sông Cả có thể là:
Sông Lam: con sông bắt nguồn từ Lào và chảy qua các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh của Việt Nam
Sông Cả (Bình Định): một nhánh của sông La Tinh, con sông nhỏ chảy trên địa bàn hai huyện Phù Cát và Phù Mỹ |
Chu Vệ Tuệ (chữ Hán: 周卫慧; thường được biết đến với cái tên Vệ Tuệ; sinh năm 1973 tại Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang) là một nhà văn người Trung Quốc, cô thuộc dòng văn học lánh loại (另类, lìnglèi ), sở trường là viết truyện ngắn.
Tiểu sử
Sau khi tốt nghiệp khoa Ngôn ngữ và Văn học của trường Đại học Phúc Đán vào năm 1995, cô lại làm một công việc khác chuyên ngành, là một nhà báo và biên tập trong truyền hình. Nhưng cô vẫn thường xuyên viết truyện ngắn và tiểu thuyết. Vệ Tuệ đã từng gây chấn động văn đàn Trung Quốc về đề tài tính dục vào những năm thập kỷ 90. Cuốn "Cục cưng Thượng Hải" của cô từng bị báo chí Trung Quốc lên án và bị cấm lưu hành trong cả nước vì nội dung đồi trụy, trụy lạc (theo nhận định của cơ quan quản lý sách báo Trung Quốc).
Cô đã từng tự sự:"...Tôi thường ngồi viết trong tiếng hát rất hay nhưng mang tính hủy diệt của Kurt Cobain, viết những chữ hay, rất hay, để tôi và bạn bè của tôi phân biệt với những người tương tự tôi, viết những chữ như đóa hoa bí ẩn, là đóa hoa bí ẩn...".
Tác phẩm của Vệ Tuệ là những câu chuyện không hẳn là chuyện mà là một cách nhìn, một cách sống, một tuyên ngôn mới cho một lớp trẻ mới, mà tác giả là đại diện. Truyện của cô chỉ xoay quanh một chủ đề, đó là tính dục, với những nhân vật có những cuộc tình không có tình yêu mà gần như chỉ bằng sự nổi loạn của thân xác. Tuy nhiên, so với các nhà văn cùng thời, Vệ Tuệ được báo giới đánh giá cao qua các truyện ngắn với tính nghệ thuật, ngôn từ và lối hành văn chuyên nghiệp.
Tác phẩm "Thượng Hải bảo bối", một cuốn tiểu thuyết viết theo lối bán tự truyện, sẽ được dựng thành phim và đây lại là một thành công nữa của cô sau những tác phẩm được phát hành bằng 30 thứ tiếng trên thế giới.
Tác phẩm chính
Điên cuồng như Vệ Tuệ.
Cục cưng Thượng Hải (hay "Thượng Hải bảo bối").
Ngải Hạ
Thiền trong tôi
Tiếng kêu của bươm bướm
Linh hồn lạc lối
Giải thưởng |
Bhutan (phiên âm tiếng Việt: Bu-tan; tiếng Dzongkha: ), tên chính thức là Vương quốc Bhutan ( ), là một quốc gia nội lục tại miền đông Dãy Himalaya thuộc Nam Á. Bhutan có biên giới với Trung Quốc về phía bắc và với Ấn Độ về phía nam, đông và tây. Bhutan tách biệt với Nepal qua bang Sikkim của Ấn Độ; và xa hơn về phía nam bị tách biệt với Bangladesh qua các bang Assam và Tây Bengal của Ấn Độ. Thimphu là thủ đô và thành phố lớn nhất của Bhutan.
Quốc vương Bhutan có hiệu là , nghĩa là "Quốc vương rồng sấm". Cảnh quan Bhutan biến đổi từ các đồng bằng cận nhiệt đới phì nhiêu tại phía nam đến các núi thuộc Dãy Himalaya tại phía bắc, có các đỉnh vượt 7.000 m. Núi cao nhất tại Bhutan là Gangkhar Puensum, là một ứng cử viên chính của danh hiệu núi cao nhất chưa bị chinh phục trên thế giới.
Bhutan có liên kết văn hóa mạnh mẽ với Tây Tạng và nằm trên Con đường tơ lụa giữa Trung Quốc và tiểu lục địa Ấn Độ. Lãnh thổ Bhutan từng bao gồm nhiều thái ấp nhỏ xung khắc lẫn nhau cho đến đầu thế kỷ XVII. Khi đó một lạt ma và thủ lĩnh quân sự tên là Ngawang Namgyal thống nhất khu vực và gây dựng một bản sắc Bhutan riêng biệt. Đến đầu thế kỷ XX, Bhutan thiết lập quan hệ với Đế quốc Anh. Khi chủ nghĩa cộng sản giành thắng lợi tại Trung Quốc và truyền bá đến Tây Tạng, Bhutan ký kết hiệp ước hữu nghị với Ấn Độ vào năm 1949. Quốc gia này từ giã vị thế cô lập có tính lịch sử của mình dưới thời Quốc vương Jigme Singye Wangchuck. Năm 2008, Bhutan chuyển đổi từ chế độ quân chủ chuyên chế sang chế độ quân chủ lập hiến và tổ chức tổng tuyển cử lần đầu tiên. Trong cùng năm, vương vị được chuyển giao cho Jigme Khesar Namgyel Wangchuck.
Bhutan là một thành viên của Liên Hợp Quốc, có quan hệ ngoại giao với 52 quốc gia và Liên minh châu Âu, tuy nhiên không duy trì quan hệ chính thức với năm thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Bhutan là một đối tác chiến lược mật thiết với Ấn Độ láng giềng. Đây là một thành viên sáng lập của Hiệp hội Nam Á vì sự Hợp tác Khu vực (SAARC), và cũng là một thành viên của BIMSTEC. Kinh tế Bhutan phụ thuộc rất lớn vào xuất khẩu thủy điện. Thu nhập bình quân đầu người của Bhutan cao thứ nhì tại Nam Á, đứng sau Maldives.
Từ nguyên
Không rõ về từ nguyên chính xác của "Bhutan", song có vẻ nó bắt nguồn từ "Bod" (Tây Tạng) trong tiếng Tây Tạng. Theo truyền thống, nó được cho là bắt nguồn từ một chuyển tự của tiếng Phạn là Bhoṭa-anta "cuối của Tây Tạng", ám chỉ vị trí của Bhutan là cực nam của cao nguyên và văn hóa Tây Tạng.
Từ đầu thế kỷ XVII, tên chính thức của Bhutan trong tiếng bản địa là Druk yul (quốc gia của dòng Drukpa, Người Rồng, hoặc Đất của Rồng Sấm, ám chỉ phái Phật giáo chi phối toàn quốc), còn Bhutan chỉ xuất hiện trong các thư từ chính thức bằng tiếng Anh.
Các tên gọi tương tự Bhutan — bao gồm Bohtan, Buhtan, Bottanthis, Bottan và Bottanter — bắt đầu xuất hiện tại châu Âu khoảng thập niên 1580. Sáu Hành trình của Jean-Baptiste Tavernier vào năm 1676 có ghi chép đầu tiên về tên gọi Boutan. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, chúng có vẻ miêu tả không phải Bhutan hiện đại mà là Vương quốc Tây Tạng. Phân biệt thời hiện đại giữa hai thực thể Tây Tạng và Bhutan chỉ bắt đầu sau hành trình của thám hiểm Scotland George Bogle vào năm 1774 — nhận thức khác biệt giữa hai khu vực, văn hóa và nhà nước, báo cáo chung cuộc của ông cho Công ty Đông Ấn Anh chính thức đề xuất định danh cho vương quốc của Druk Desi (nhiếp chính Bhutan) là "Boutan" và vương quốc của Ban Thiền Lạt Ma là "Tibet" (Tây Tạng). Một nhà địa lý học của Công ty này là James Rennell Anh hóa tên gọi trong tiếng Pháp thành Bootan và sau đó phổ biến khác biệt giữa quốc gia này và Tây Tạng.
Lịch sử
Các công cụ, vũ khí và voi làm bằng đá, và tàn tích của các công trình kiến trúc đá lớn cung cấp bằng chứng rằng Bhutan có người cư trú từ 2000 TCN, song không có ghi chép còn tồn tại từ thời kỳ này. Các sử gia đưa ra giả thuyết rằng nhà nước của người Lhomon (nghĩa là "da đen sạm miền nam"), hoặc Monyul ("Đất ngăm đem", ám chỉ người Monpa, cư dân nguyên trú của Bhutan) có thể hiện diện từ 500 TCN đến 600 CN. Các tên gọi Lhomon Tsendenjong (Quốc gia đàn hương), và Lhomon Khashi, hoặc Nam Mon (quốc gia có bốn lối vào), được phát hiện trong các biên niên sử Bhutan và Tây Tạng.
Phật giáo lần đầu được đưa truyền bá đến Bhutan vào thế kỷ VII CN. Tán phổ Tùng Tán Cán Bố (trị vì 627–649) là một người cải sang Phật giáo, ông bành trướng Đế quốc Thổ Phồn (Tây Tạng) đến Sikkim và Bhutan, hạ lệnh cho xây dựng hai chùa tại Bumthang thuộc miền trung Bhutan và tại Kyichu (gần Paro) thuộc Thung lũng Paro. Phật giáo được truyền bá sốt sắng vào năm 746 dưới thời Quốc vương Sindhu Rāja (còn gọi là Künjom; Sendha Gyab; Chakhar Gyalpo), một quốc vương người Ấn lưu vong lập chính phủ trong Cung Chakhar Gutho tại Bumthang.
Không rõ hầu hết lịch sử sơ khởi của Bhutan do hầu hết ghi chép bị phá hủy do hỏa hoạn tại cố đô Punakha vào năm 1827. Đến thế kỷ X, phát triển chính trị của Bhutan chịu ảnh hưởng mạnh từ lịch sử tôn giáo tại đây. Nhiều phái Phật giáo xuất hiện, được các quân phiệt người Mông Cổ khác nhau bảo trợ. Sau khi nhà Nguyên diệt vong vào thế kỷ XIV, các giáo phái này ganh đua lẫn nhau để giành quyền tối cao trong chính trị và tôn giáo, cuối cùng dẫn đến uy thế của Dòng Drukpa vào thế kỷ XVI.
Cho đến đầu thế kỷ XVII, Bhutan gồm nhiều thái ấp tương tranh, đến lúc này khu vực được thống nhất bởi một lạt ma và thủ lĩnh quân sự người Tây Tạng là Ngawang Namgyal, ông là người đào thoát khủng bố tôn giáo tại Tây Tạng. Nhằm phòng thủ quốc gia chống lại các cuộc cướp phá không liên tục từ Tây Tạng, Namgyal cho xây một hệ thống dzong (công sự) vững chắc, và ban bố bộ luật Tsa Yig nhằm giúp đưa các lãnh chúa địa phương vào quyền kiểm soát tập trung. Nhiều dzong như vậy vẫn tồn tại và là các trung tâm hữu hiệu về tôn giáo và hành chính. Các tu sĩ Dòng Tên người Bồ Đào Nha là Estêvão Cacella và João Cabral là những người Âu đầu tiên được ghi nhận là đến Bhutan, trong hành trình đến Tây Tạng của họ. Họ diện kiến Ngawang Namgyal, dâng lên súng cầm tay, thuốc súng và kính thiên văn, và đề nghị được giúp đỡ trong chiến tranh chống Tây Tạng, song Zhabdrung từ chối đề xuất. Sau khi dành gần tám tháng tại đây, Cacella viết một bức thư dài từ Chùa Chagri kể lại về hành trình, đây là một ghi chép hiếm hoi còn tồn tại về Shabdrung.
Sau khi Ngawang Namgyal mất vào năm 1651, việc ông qua đời được giữ bí mật trong 54 năm; sau một thời kỳ thống nhất, Bhutan lâm vào xung đột nội bộ. Đến năm 1711, Bhutan bước vào chiến tranh chống Đế quốc Mogul và phiên vương quốc Cooch Behar chư hầu của đế quốc này nằm về phía nam. Trong các hỗn loạn sau đó, người Tây Tạng tấn công bất thành Bhutan vào năm 1714.
Đến thế kỷ XVIII, Bhutan xâm chiếm và chiếm đóng phiên vương quốc Cooch Behar. Năm 1772, Cooch Behar thỉnh cầu Công ty Đông Ấn Anh và được giúp đỡ đẩy lui người Bhutan và sau đó tấn công chính Bhutan vào năm 1774. Một hòa ước được ký kết, theo đó Bhutan đồng ý triệt thoái về biên giới trước năm 1730. Tuy nhiên, hòa bình trở nên mong manh và các vụ chạm trán biên giới với người Anh tiếp tục trong nhiều năm sau đó. Các vụ chạm trán cuối cùng dẫn đến Chiến tranh Duar (1864–65) nhằm tranh giành kiểm soát vùng đồng bằng và chân đồi gần biên giới Bhutan ngày nay. Sau khi Bhutan chiến bại, Hiệp định được ký kết giữa Ấn Độ thuộc Anh và Bhutan, theo đó các khu vực này bị cắt nhượng cho Anh, toàn bộ hành vi thù địch giữa Ấn Độ thuộc Anh và Bhutan kết thúc.
Trong thập niên 1870, đấu tranh quyền lực giữa hai thung lũng kình địch là Paro và Tongsa dẫn đến nội chiến tại Bhutan, kết quả chung cuộc là uy thế của Ugyen Wangchuck, ponlop (thống đốc) của Tongsa. Từ căn cứ quyền lực của mình tại miền trung Bhutan, Ugyen Wangchuck đánh bại các địch thủ chính trị của mình và thống nhất quốc gia sau một số cuộc nội chiến và khởi nghĩa trong giai đoạn 1882–85.
Năm 1907, một hội đồng gồm các tăng lữ Phật giáo, quan chức chính phủ, và thủ lĩnh các gia tộc trọng yếu nhất trí lựa chọn Ugyen Wangchuck là quốc vương thế tập của quốc gia. Chính phủ Anh nhanh chóng công nhận chế độ quân chủ mới, và đến năm 1910 Bhutan ký kết Hiệp ước Punakha, một kiểu liên minh bảo hộ mà theo đó người Anh kiểm soát ngoại vụ của Bhutan và có nghĩa là Bhutan được đối đãi như một phiên vương quốc Ấn Độ. Hiệp ước ít có hiệu lực thực tế, không có tác động đến quan hệ truyền thống của Bhutan với Tây Tạng. Sau khi Ấn Độ độc lập từ Anh vào năm 1947, Bhutan trở thành một trong các quốc gia đầu tiên công nhận Ấn Độ độc lập. Ngày 8 tháng 8 năm 1949, một hiệp ước được ký kết, theo đó Ấn Độ được quyền kiểm soát ngoại vụ của Bhutan giống như Anh trước đó.
Năm 1953, Quốc vương Jigme Dorji Wangchuck cho lập Quốc hội gồm 130 thành viên nhằm xúc tiến dân chủ trong cai trị. Năm 1965, ông cho lập Hội đồng Cố vấn Vương thất, và đến năm 1968 ông cho lập nội các. Năm 1971, Bhutan được nhận vào Liên Hợp Quốc, giữ vị trí quan sát viên trong ba năm. Đến tháng 7 năm 1972, Jigme Singye Wangchuck đăng cơ sau khi cha mất.
Hệ thống chính trị của Bhutan gần đây được cải biến từ chế độ quân chủ chuyên chế sang chế độ quan chủ lập hiến Quốc vương Jigme Singye Wangchuck chuyển giao hầu hết quyền lực hành pháp của ông cho Hội đồng bộ trưởng nội các và cho phép luận tội Quốc vương bởi đa số hai phần ba trong Quốc hội. Năm 1999, chính phủ dỡ bỏ lệnh cấm đối với truyền hình và Internet, khiến Bhutan là quốc gia cuối cùng du nhập truyền hình. Quốc vương nói rằng truyền hình là một bước then chốt nhằm hiện đại hóa Bhutan cũng như đóng góp lớn vào tăng trưởng hạnh phúc quốc dân, song cảnh báo "lạm dụng" truyền hình có thể làm xói mòn các giá trị Bhutan truyền thống.
Một bản hiến pháp mới được đệ trình vào năm 2005. Đến tháng 12 năm 2005, Quốc vương Jigme Singye Wangchuck tuyên bố ông sẽ thoái vị để nhường ngôi cho con vào năm 2008. Ngày 14 tháng 12 năm 2006, ông tuyên bố lập tức thoái vị. Các cuộc bầu cử nghị viện đầu tiên tại Bhutan diễn ra trong tháng 12 năm 2007 và tháng 3 năm 2008. Ngày 6 tháng 11 năm 2008, Jigme Khesar Namgyel Wangchuck đăng cơ làm quốc vương.
Địa lý
Vùng phía bắc gồm một vòng cung những đỉnh núi băng với khí hậu rất lạnh trên độ cao lớn. Đa số các đỉnh ở phía bắc cao hơn 7.000 m (23.000 foot) trên mực nước biển; đỉnh cao nhất được cho là Kula Kangri, 7.553 m (24.780 foot), nhưng những nghiên cứu chi tiết về địa hình cho thấy Gangkhar Puensum, hiện là núi cao nhất chưa được chinh phục trên thế giới, cao hơn ở mức 7.570 m (24.835 foot). Được những con sông tuyết cung cấp nước, các thung lũng trên núi tại vùng này mang lại các đồng cỏ chăn nuôi cho những người nông dân chăn thả du mục thưa thớt tại đây. Núi Đen tại miền trung Bhutan hình thành một đường phân thủy giữa hai hệ thống sông chính: Mo Chhu và Drangme Chhu. Các đỉnh Núi Đen ở độ cao trong khoảng 1500 m tới 2.700 m (4.900 foot và 8.900 foot) trên mực nước biển, và những con sông chảy nhanh đã đào thành những máng sâu tại những vùng núi thấp hơn. Những khu rừng vùng trung tâm cung cấp hầu hết các sản phẩm lâm nghiệp của Bhutan. Torsa, Raidak, Sankosh, và Manas là những con sông chính tại Bhutan, chảy xuyên qua vùng này. Đa số dân cư sống tại những cao nguyên trung tâm.
Ở phía nam, Đồi Shiwalik được bao phủ bởi những rừng cây sớm rụng (deciduous) dày đặc, các thung lũng đất bồi và núi non với độ cao lên tới 1.500 m (4.900 foot) trên mực nước biển. Những đồi thấp chân núi chạy xuống tới đồng bằng cận nhiệt đới Duars. Đa số đồng bằng Duars nằm trong lãnh thổ Ấn Độ, dù có một dải rộng 10–15 km (6–9 mile) kéo dài vào Bhutan. Đồng bằng Duars Bhutan được chia thành hai phần: bắc và nam Duars. Bắc Duars, tiếp giáp với những đồi thấp dưới chân Himalaya, là vùng đất gồ ghề, dốc và khô, đất xốp với nhiều loại động thực vật. Nam Duars có đất đai khá màu mỡ, những đồng cỏ savanna, rừng cây và những con suối. Những con sông từ trên núi, được cấp nước từ tuyết tan hay những cơn mưa gió mùa, dẫn nước vào sông Brahmaputra tại Ấn Độ. Dữ liệu do Bộ nông nghiệp đưa ra cho thấy tại thời điểm tháng 10 năm 2005 nước này có 64% diện tích rừng che phủ.
Khí hậu Bhutan khác biệt theo vĩ độ, từ cận nhiệt đới ở phía nam tới ôn hoà trên các cao nguyên và khí hậu cực trên những đỉnh núi cao quanh năm tuyết phủ ở phía bắc. Bhutan có năm mùa riêng biệt: mùa hè, gió mùa, mùa thu, mùa đông và mùa xuân. Tây Bhutan có những cơn mưa gió mùa lớn nhất; nam Bhutan có mùa hè ẩm và mùa đông lạnh; vùng trung và đông Bhutan ôn hòa và khô hơn phía tây với mùa hè ấm và mùa đông lạnh.
Bhutan hiện là đất nước duy nhất trên thế giới có lượng khí thải cacbon mức âm nhờ diện tích rừng rậm che phủ quá nửa diện tích đất nước. Hiện tại hơn 72% diện tích đất đai Bhutan là rừng rậm tự nhiên, khu bảo tồn quốc gia.
Kinh tế
Dù kinh tế Bhutan là một trong những nền kinh tế nhỏ nhất thế giới, nó có tốc độ tăng trưởng rất nhanh chóng ở mức khoảng 8% năm 2005 và 14% năm 2006. Tới tháng 3 năm 2006, thu nhập trên đầu người của Bhutan đạt 1.321 dollar Mỹ, cao nhất tại Nam Á. Tiêu chuẩn sống tại Bhutan đang tăng dần và hiện cũng ở mức cao tại Nam Á.
Nền kinh tế nhỏ của Bhutan phụ thuộc vào nông nghiệp, lâm nghiệp, và việc bán thủy điện cho Ấn Độ. Nông nghiệp là phương tiện sinh sống của hơn 80% dân số. Hoạt động nông nghiệp chủ yếu là canh tác và chăn nuôi gia súc. Các sản phẩm thủ công, đặc biệt là sản phẩm dệt và các sản phẩm thủ công tôn giáo phục vụ việc thờ cúng trong gia đình là một ngành công nghiệp nhỏ và một nguồn thu nhập cho một số dân cư. Với sự đa dạng địa hình từ đồi núi cho tới những dãy núi gồ ghề khiến việc xây dựng đường sá, và các cơ sở hạ tầng khác, trở nên khó khăn và đắt đỏ. Điều này, và sự thiếu hụt đường tiếp cận ra biển, khiến Bhutan chưa bao giờ có thể thu lợi đúng mức từ việc buôn bán các sản phẩm do nó làm ra. Hiện tại Bhutan không có một hệ thống đường sắt, dù Indian Railways đang có kế hoạch nối miền nam Bhutan với mạng lưới đường sắt rộng lớn của nó theo một thỏa thuận được ký tháng 1 năm 2005. Những con đường thương mại lịch sử qua dãy núi cao Himalayas, nối Ấn Độ với Tây Tạng, đã bị đóng cửa từ năm 1959 khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm Tây Tạng (dù hoạt động buôn lậu vẫn đưa hàng hóa từ Trung Quốc vào Bhutan).
Lĩnh vực công nghiệp còn nhỏ bé, sản phẩm làm ra theo kiểu công nghiệp gia đình. Đa số các dự án phát triển, như xây dựng đường sá, phụ thuộc vào nguồn nhân công thuê từ Ấn Độ. Sản phẩm nông nghiệp gồm gạo, ớt, các sản phẩm sữa, kiều mạch, lúa mạch, cây lấy rễ, táo và cam quýt cùng ngô ở những nơi có độ cao thấp. Các ngành công nghiệp gồm xi măng, gỗ, chế biến hoa quả, đồ uống có còn và calcium carbide.
Đồng tiền tệ Bhutan, đồng ngultrum, được ấn định tỷ giá theo đông Rupee Ấn Độ. Đồng rupee cũng được coi là đồng tiền tệ chính thức trong nước. Thu nhập từ Nu 100.000 mỗi năm sẽ bị đánh thuế, nhưng rất ít người đạt mức thu nhập này. Tỷ lệ lạm phát tại Bhutan được ước tính khoảng 3% năm 2003. Bhutan có Tổng sản phẩm quốc nội khoảng 2.913 tỷ USD (đã được quy đổi theo Sức mua tương đương), biến nó trở thành nền kinh tế đứng thứ 162 trên thế giới. Thu nhập trên đầu người khoảng 1.400 dollar (€1.170), xếp hạng 124. Tổng nguồn thu chính phủ đạt $146 triệu (€122 triệu), dù số chi lên tới $152 triệu (€127 triệu). Tuy nhiên, 60% chi tiêu ngân sách được Bộ ngoại giao Ấn Độ cung cấp. Xuất khẩu của Bhutan, chủ yếu là điện, bạch đậu khấu, thạch cao, gỗ, đồ thủ công, xi măng, hoa quả, đá quý và gia vị, tổng cộng $154 triệu (€128 triệu) (ước tính 2000). Tuy nhiên, nhập khẩu lên tới $196 triệu (€164 triệu), dẫn tới tình trạng thâm hụt thương mại. Các sản phẩm nhập khẩu chính gồm nhiên liệu và dầu nhờn, ngũ cốc, máy, xe cộ, sợi và gạo. Các đối tác thương mại chính của Bhutan là Ấn Độ, chiếm 87.9% hàng xuất khẩu. Bangladesh (4.6%) và Philippines (2%) cũng là hai đối tác xuất khẩu khác. Bởi biên giới với Tây Tạng đã bị đóng cửa, thương mại giữa Bhutan và Trung Quốc hiện không tồn tại. Các đối tác nhập khẩu của Bhutan gồm Ấn Độ (71.3%), Nhật Bản (7.8%) và Áo (3%).
Đáp trả lời buộc tội năm 1987 của một nhà báo Anh Quốc trên tờ Financial Times rằng tốc độ phát triển tại Bhutan còn thấp, nhà Vua đã nói rằng "Tổng Hạnh phúc Quốc gia còn quan trọng hơn Tổng Sản phẩm Quốc nội". Lời tuyên bố này dường như đã đi trước những khám phá gần đây của các nhà tâm lý học kinh tế phương Tây, gồm cả người đoạt giải thưởng Nobel năm 2002 Daniel Kahneman, rằng vấn đề về sự liên quan giữa mức độ thu nhập và hạnh phúc. Nó cho thấy sự cam kết của nhà Vua trong việc xây dựng một nền kinh tế thích hợp cho nền văn hóa độc nhất của Bhutan, dựa trên các giá trị tinh thần Phật giáo, và là định hướng thống nhất cho nền kinh tế. Ngoài ra, chính sách dường như đã gặt hái được những kết quả mong muốn bởi trong một cuộc khảo sát gần đây do Đại học Leicester tại Anh Quốc tổ chức, Bhutan được xếp hạng là địa điểm hạnh phúc thứ 8 trên thế giới .
Tính đến năm 2016, GDP của Bhutan đạt 2.085 USD, đứng thứ 165 thế giới, đứng thứ 44 châu Á và đứng thứ 8 Nam Á.
Chính phủ và chính trị
Chính trị Bhutan theo cơ cấu quân chủ chuyên chế đang phát triển trở thành một nền quân chủ lập hiến. Năm 1999, đức vua thứ tư của Bhutan đã lập lên một cơ cấu mười thành viên gọi là Lhengye Zhungtshog (Hội đồng Bộ trưởng). Quốc vương Bhutan là nguyên thủ quốc gia. Quyền hành pháp thuộc hội đồng bộ trưởng. Quyền lập pháp thuộc cả Quốc vương và Nghị viện Bhutan bao gồm Hội đồng Quốc gia (Thượng viện) và Quốc hội (Hạ viện). Hiện đất nước đang chuẩn bị cho một sửa đổi mang tích lịch sử khi nền dân chủ nghị viện đang được đặt kế hoạch trở thành hiện thực vào năm 2008, những công việc đang được tiến hành và các đảng chính trị được phép hoạt động. Quyền tư pháp thuộc tất cả các tòa án Bhutan. Chánh án là lãnh đạo hành chính của tư pháp.
Đồng tiền giấy Ngultrums hiện nay của Bhutan hiện đang được sửa đổi và loại tiền mới sẽ được phát triển thay thế loại cũ. Hiện tại, đồng một và năm ngultrum đã được đưa ra. Những đồng tiền xu cũng được sử dụng nhiều tại Bhutan.
Quận, huyện
Vì các mục đích hành chính, Bhutan được chia thành bốn dzongdey (vùng hành chính). Mỗi dzongdey được chia tiếp thành dzongkhag (khu). Có 20 dzongkhag tại Bhutan. Các dzongkhag lớn được chia tiếp thành các đơn vị dưới khu được gọi là dungkhag. Ở mức độ căn bản, các nhóm làng hình thành lên một đơn vị cử tri được gọi là gewog (xã) và được quản lý bởi một gup (xã trưởng), do dân bầu ra.
Bumthang
Chukha (cách đánh vần cũ: Chhukha)
Dagana
Gasa
Haa
Luentse
Mongar
Paro
Pemagatshel (Pemagatsel)
Punaka
Samdrup Jongkhar
Samtse (Samchi)
Sarpang
Thimphu
Trashigang (Tashigang)
Trashiyangse
Trongsa (Tongsa)
Tsirang (Chirang)
Wangdue Phodrang (Wangdi Phodrang)
Zhemang (Shemgang)
Thành phố và thị trấn
Jakar - các trụ sở hành chính của Quận Bumthang và là nơi Phật giáo truyền bá vào Bhutan.
Mongar
Paro - Nơi có một sân bay quốc tế
Punakha - Thủ đô cũ
Phuentsholing - Trung tâm thương mại Bhutan.
Samdrup Jongkhar
Thimphu - thành phố lớn nhất và thủ đô Bhutan
Trashigang
Trongsa
Quân đội và Ngoại giao
Các bài chính: Quân đội Bhutan, Quan hệ nước ngoài Bhutan
Quân đội Hoàng gia Bhutan là lực lượng quân đội Bhutan. Nó gồm Cận vệ Hoàng gia và Cảnh sát Hoàng gia Bhutan. Việc tham gia do tự nguyện, và tuổi tối thiểu để được tuyển mộ là 18. Số lượng quân thường trực khoảng 6.000 người và được Quân đội Ấn Độ huấn luyện. Lực lượng này có ngân sách hàng năm khoảng 13.7 triệu dollar — 1.8% GDP.
Dù Hiệp ước năm 1949 với Ấn Độ vẫn thỉnh thoảng bị diễn giải sai mang nghĩa rằng Ấn Độ kiểm soát quan hệ ngoại giao của Bhutan, Bhutan ngày nay giữ quyền với mọi quan hệ ngoại giao của mình gồm cả vấn đề phân chia ranh giới nhạy cảm (với Ấn Độ) với Trung Quốc. Bhutan có quan hệ ngoại giao với 22 nước, gồm Liên minh châu Âu, với phái bộ tại Ấn Độ, Bangladesh, Thái Lan và Kuwait. Nước này có hai phái bộ tại Liên Hợp Quốc, một tại New York và một tại Geneva. Chỉ Ấn Độ và Bangladesh có Đại sứ quán tại Bhutan, còn Thái Lan có một văn phòng lãnh sự tại Bhutan.
Theo một hiệp ước đã có từ lâu, người Ấn Độ và Bhutan có thể đi lại sang nước kia không cần hộ chiếu hay visa mà chỉ cần chứng minh thư quốc gia của họ. Công dân Bhutan có thể làm việc tại Ấn Độ mà không gặp hạn chế pháp luật. Bhutan không có quan hệ ngoại giao chính thức với nước láng giềng phương bắc là Trung Quốc, dù những cuộc thăm viếng lẫn nhau ở nhiều mức độ đã gia tăng đáng kể trong thời gian gần đây. Thỏa thuận song phương đầu tiên giữa Trung Quốc và Bhutan đã được ký kết năm 1998, và Bhutan cũng đã thiết lập các lãnh sự quán tại Ma Cao và Hồng Kông. Biên giới của Bhutan với Trung Quốc phần lớn vẫn chưa được phân định và vì thế đang ở tình trạng tranh chấp tại một số địa điểm.
Ngày 13 tháng 11 năm 2005, binh sĩ Trung Quốc đã tràn qua biên giới vào Bhutan trong hoàn cảnh tình hình thời tiết buộc họ phải triệt thoái về phía nam từ Himalaya. Chính phủ Bhutan đã cho phép sự việc này (sau khi sự việc đã diễn ra) vì lý do nhân đạo. Ngay sau đó, Trung Quốc đã bắt đầu xây dựng đường sá và cầu cống trong lãnh thổ Bhutan. Bộ trưởng Ngoại giao Bhutan Khandu Wangchuk đã đề cập vấn đề này với chính quyền Trung Quốc sau khi sự việc gây ra tranh cãi trong nghị viện Bhutan. Để đáp lại, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Qin Gang nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã nói rằng biên giới đang ở tình trạng tranh cãi (hoàn toàn bỏ qua hoàn cảnh chính thức của vụ việc) và rằng hai bên tiếp tục làm việc một cách hòa bình để tìm ra một giải pháp hòa bình và thân thiện cho cuộc tranh chấp. Cả chính phủ Bhutan lẫn Ấn Độ (Ấn Độ vẫn kiểm soát một số quan hệ ngoại giao của Bhutan) chưa từng thông báo bất kỳ một tiến bộ nào về việc này (hòa bình, thân thiện vân vân), và Trung Quốc tới giờ vẫn tiếp tục xây dựng cơ sở hạ tầng và gia tăng đồn trú trong lãnh thổ Bhutan. Một sĩ quan tình báo Ấn Độ đã nói rằng một phái đoàn Trung Quốc tại Bhutan nói với người dân Bhutan rằng họ đang "phản ứng quá mức." Tờ Kuensel của Bhutan đã nói rằng Trung Quốc có thể sử dụng đường sá để tăng thêm nữa tuyên bố lãnh thổ của họ dọc biên giới.
Bhutan đã thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước khu vực Nam Á; Đông Á (Nhật Bản 1986; Hàn Quốc 1987); Đông Nam Á (Thái Lan 1991, Singapore 2002, Việt Nam 2012); với Úc 2002; và một số nước khác trên thế giới. Bhutan không có quan hệ ngoại giao với kể cả Trung Quốc hay Đài Loan. Bhutan đang ngày càng mở rộng thiết lập quan hệ hợp tác với nhiều nước, đặc biệt các nước Châu Âu và các đối tác lớn Áo, Đan Mạch, Phần Lan, Thuỵ Điển, EU, Mỹ, Nhật Bản...
Ấn Độ vẫn là một hướng quan trọng trong chính sách đối ngoại của Bhutan. Quốc vương Bhutan thăm Ấn Độ tháng 7 năm 2006, hai bên đã ký hiệp ước thân thiện sửa đổi, theo đó, Bhutan độc lập hơn về đối ngoại. Ấn Độ cam kết nâng trợ giúp cho kế hoạch năm năm lần thứ 09 của Bhutan (2002-2007). Ấn Độ cũng đồng ý hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật cho chính phủ Bhutan xây dựng 3 nhà máy thủy điện Chukha (336MW), Kurichhu (60MW), và Tala (1020MW).
Bhutan là thành viên Liên Hợp Quốc, Phong trào không liên kết, IOC, SAARC và nhiều tổ chức quốc tế và khu vực khác.
Nhân khẩu
Dân số Bhutan, từng được ước tính ở mức nhiều triệu người, hiện theo chính phủ Bhutan đã giảm bớt còn 750.000, sau một cuộc điều tra dân số đầu thập niên 1990. Một cuộc điều tra dân số toàn quốc thực hiện tháng 6 năm 2005 cho thấy dân số còn giảm tiếp chỉ còn 672.425 người . Tuy vậy Chính phủ chưa đưa ra con số chi tiết thành phần của số dân này. Đa số tin rằng số dân đã được cố ý thổi phồng trong thập niên 1970 vì nhận thức khi ấy cho rằng những quốc gia với dân số dưới một triệu người sẽ không được chấp nhận vào Liên Hợp Quốc. Vì thế con số do Liên hiệp quốc đưa ra cao hơn con số chính thức của chính phủ nước này. CIA World Factbook đưa ra con số 2.279.723 người (tháng 7 năm 2006) tuy cũng ghi chú rằng một số ước tín đưa ra con số chỉ ở mức 820.000.
Mật độ dân số, 45 người trên km² (117/sq. mi), khiến Bhutan trở thành một trong những nước có mật đô dân số thưa thớt nhất châu Á. Khoảng 20% dân số sống tại các vùng đô thị gồm các thị trấn nhỏ chủ yếu dọc theo thung lũng trung tâm và biên giới phía nam. Phần trăm số dân này đang gia tăng nhanh chóng bởi làn sóng di cư từ nông thôn ra thành thị đang tăng lên. Thành phố lớn nhất là thủ đô Thimphu, với dân số 100.000 người. Các vùng đô thị khác với số dân khá lớn gồm Paro và Phuentsholing.
Trong số dân Bhutan, nhiều nhóm sắc tộc chính có thể được phân biệt với nhau. Nhóm chủ chốt là người Ngalop, một nhóm Phật giáo sinh sống ở phần phía tây đất nước. Văn hóa của họ rất tương đồng với văn hóa Tây Tạng. Người Sharchop ("người phía đông"), gắn liền với phần phía đông Bhutan (nhưng theo truyền thống theo Nyingmapa chứ không phải hình thức chính thức Drukpa Kagyu của Phật giáo Tây Tạng cũng có nhiều điểm tương đồng). Hai nhóm đó được gọi gộp chung là người Bhutan. 15% dân số còn lại là sắc tộc Nepal, đa số họ là tín đồ Hindu.
Tỷ lệ biết chữ chỉ là 42.2% (56.2% nam giới và 28.1% nữ). Người từ 14 tuổi trở xuống chiếm 39.1% dân số, trong khi người từ 15 tới 59 tuổi chiếm 56.9%, và người trên 60 tuổi chỉ chiếm 4%. Nước này có độ tuổi trung bình 20.4. Tuổi thọ bình quân tại Bhutan là 62.2 năm (61 cho nam giới và 64.5 cho nữ) theo dữ liệu gần đây nhất của Ngân hàng Thế giới. Có 1.070 nam trên 1.000 nữ trong nước.
Ngôn ngữ
Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Dzongkha, một trong 53 ngôn ngữ trong nhóm ngôn ngữ Tạng. Chữ viết Dzongkha, được gọi là Chhokey ("Ngôn ngữ Đạt ma"), đồng nhất với hệ chữ viết tiếng Tạng cổ điển. Tiếng Dzongkha là ngôn ngữ giảng dạy tại trường học. Ethnologue liệt kê 24 hiện được nói ở Bhutan, tất cả số này đều thuộc về ngữ tộc Tạng-Miến, trừ tiếng Nepal, một ngôn ngữ Indo-Arya.
Nhiều trong số những ngôn ngữ tại Bhutan này chưa được ghi nhận một cách hàn lâm và khoa học về mặt ngữ pháp. Tính đến thập niên 1980, Lhotshampa (cộng đồng nói tiếng Nepal), chủ yếu sống ở miền Nam Bhutan, chiếm xấp xỉ 30% dân số.
Văn hoá
Tuy người Bhutan được tự do đi du lịch nước ngoài, Bhutan bị coi là không thể xâm nhập với người nước ngoài. Nhận thức sai lầm của nhiều người cho rằng Bhutan đã đặt ra những hạn chế trong việc cấp visa du lịch, thuế du lịch cao và yêu cầu khách phải đi theo tour được tổ chức dường như đã dẫn tới cảm giác này.
Trang phục truyền thống cho đàn ông Ngalong và Sharchop là gho, một áo choàng dài tới đầu gối được buộc ngang eo bằng một dải thắt lưng được gọi là kera. Phụ nữ mặc trang phục dài tới mắt cá chân, kira, bị cắt cụt ở một bên vai và thắt ngang lưng. Một vật bổ sung cho kira là một áo choàng dài tay, được mặt bên trong lớp trang phục ngoài. Vị thế xã hội và cấp bậc sẽ quyết định kiểu dệt, màu sắc và trang trí của những đồ trang phục. Khăn quàng và khăn choàng cũng là những yếu tố cho thấy vị thế xã hội, bởi theo truyền thống Bhutan là một xã hội phong kiến. Phụ nữ có đeo khuyên tai. Một điều gây nhiều tranh cãi, luật pháp Bhutan hiện yêu cầu tất cả công dân nước mình đều phải mặc những y phục đó.
Gạo, và ngô với vị trí ngày càng gia tăng, là những loại thực phẩm chính trong nước. Chế độ ăn ở vùng đồi giàu protein bởi người dân ở đây ăn nhiều thịt, chủ yếu là gia cầm, bò Tây Tạng và bò. Các món súp thịt, gạo và rau khô với gia vị là ớt và phó mát là món được ưa thích trong những mùa lạnh. Các thực phẩm chế biến từ sữa, đặc biệt là bơ và phó phát từ bò Tây Tạng và bò, cũng phổ biến, và vì thế hầu hết sữa đều được dành chế biến bơ và pho mát. Các đồ uống dân dã gồm trà bơ, chè, rượu gạo địa phương và bia. Bhutan là quốc gia duy nhất trên thế giới có lệnh cấm hút thuốc và bán thuốc lá.
Môn thể thao quốc gia tại Bhutan là bắn cung, và những cuộc thi được tổ chức thường xuyên tại hầu hết các làng. Nó khác với các tiêu chuẩn Olympic không chỉ ở các chi tiết kỹ thuật như vị trí đặt bia và không khí. Có hai bia được đặt cách 100 mét và các đội bắt từ một phía sang phía kia. Mỗi thành viên trong đội bắn hai mũi mỗi vòng. Bắn cung truyền thống Bhutan là một sự kiện xã hội và những cuộc thi được tổ chức giữa các làng, thị trấn và các đội không chuyên. Thường có rất nhiều đồ ăn, uống cùng với hát hò nhảy múa từ phía những người vợ và cổ động viên dành cho các đấu thủ. Họ thường cố gắng làm giảm tập trung của đội bạn bằng cách đứng xung quanh bia và trêu chọc khả năng bắn của vận động viên. Phi tiêu (khuru) là một môn thể thao theo đội ngoài trời được nhiều người ưa thích, trong đó những mũi lao bằng gỗ nặng, đầu được đóng một cây đinh 10 phân được phóng vào bia giấy cách xa khoảng mười tới hai mươi mét.
Một môn thể thao truyền thống khác là digor, có thể được miêu tả chính xác nhất như một shot put gộp với ném móng ngựa. Bóng đá là môn thể thao ngày càng được ưa chuộng. Năm 2002, đội bóng đá quốc gia Bhutan đã thi đấu với Montserrat - được quảng cáo là 'Trận chung kết khác', một trận đấu cùng ngày với trận chung kết giữa Brazil và Đức, nhưng Bhutan và Montserrat là hai đội bóng xếp hạng thấp nhất thế giới. Trận đấu được tổ chức tại Sân vận động Quốc gia Changlimithang tại Thimphu và Bhutan đã thắng với tỷ số 4-0. Một bộ phim tài liệu về trận đấu đã được nhà làm phim Hà Lan Johan Kramer tiến hành. Rigsar là kiểu âm nhạc đại chúng mới xuất hiện, được chơi bằng cả các nhạc cụ truyền thống và điện tử, và đã xuất hiện từ đầu thập niên 1990; nó có ảnh hưởng từ âm nhạc đại chúng Ấn Độ, một hình thức lai của các ảnh hưởng truyền thống và phương Tây. Các thể loại truyền thống gồm zhungdra và boedra.
Đặc thù của vùng là một kiểu pháo đài được gọi là kiến trúc dzong.
Bhutan có nhiều ngày nghỉ lễ, đa số chúng tập trung quanh những lễ hội truyền thống theo mùa, thế tục và tôn giáo. Chúng gồm đông chí (khoảng 1 tháng 1, phụ thuộc theo lịch âm), Năm mới Âm lịch (tháng 2 hay tháng 3), sinh nhật Nhà vua và kỷ niệm ngày đăng quang, ngày bắt đầu chính thức của mùa gió mùa (22 tháng 9), Quốc khánh (17 tháng 12), và nhiều lễ hội Phật giáo và Hindu giáo. Thậm chí những ngày nghỉ lễ phi tôn giáo cũng có phụ thêm ý nghĩa tôn giáo, gồm những cuộc nhảy múa tôn giáo và cầu nguyện.
Nhảy múa với mặt nạ và những buổi diễn kịch là hình thức truyền thống tại những ngày lễ hội, thường đi cùng với âm nhạc truyền thống. Những vũ công khỏe mạnh, đeo những chiếc mặt nạ gỗ hay vật liệu khác nhiều màu sắc với kiểu trang phục riêng, thể hiện các anh hùng, ma quỷ, yêu ma, đầu người chết, thú vật, thần thánh, và biếm hoạ những nhân vật đời thường. Những vũ công được sự bảo trợ của hoàng gia và gìn giữ âm nhạc dân gian truyền thống cùng các trang phục tôn giáo và lưu giữ toàn bộ những hiểu biết và nghệ thuật chế tạo mặt nạ.
Bhutan chỉ có một tờ báo của chính phủ (Kuensel) và hai tờ báo khác mới xuất hiện gần đây, một đài truyền hình thuộc sở hữu nhà nước và nhiều đài phát thanh FM.
Tôn giáo
Người ta ước tính rằng khoảng hai phần ba dân số Bhutan theo Phật giáo Kim cương thừa, và đây cũng là quốc giáo. Khoảng một phần tư đến một phần ba là tín đồ của Ấn Độ giáo. Các tôn giáo khác chiếm ít hơn 1% dân số. Khung pháp lý hiện hành của Bhutan, trên nguyên tắc đảm bảo quyền tự do tôn giáo, nhưng việc truyền đạo bị cấm theo quyết định của chính phủ hoàng gia và Hiến pháp Bhutan quy định Phật giáo là quốc giáo, một tôn giáo được truyền đến Bhutan trong thế kỷ thứ VII. |
I Want to Break Free là một bài hát được trình diễn bởi ban nhạc Queen, do John Deacon sáng tác. Nó có trong album năm 1984 The Works. Trong bảng xếp hạng của Anh, nó được xếp vị trí thứ 3 và giữ nguyên vị trí này trong 15 tuần.
Video nhại lại theo bộ phim truyền hình dài tập (soap opera) Coronation Street của Anh. Trong đoạn video, các thành viên đã đóng các vai diễn giống như các vai được nhìn thấy trong bộ phim truyền hình lúc đó. Video cũng miêu tả ban nhạc theo cách xuất hiện trong một cái hang tối và cũng có thêm một đoạn múa với đoàn Ballet Hoàng gia Anh, và để làm việc này thì Freddie Mercury đã cạo đi bộ ria mép trứ danh của mình để đóng giả Vaslav Nijinsky. Video đã bị kênh MTV cấm, nhưng nó đã được quảng cáo rùm beng vào năm 1991, khi kênh VH1 đã sử dụng nó trong một chương trình đặc biệt của Queen có tên là Thế hệ của tôi. Bài hát đã trở nên phổ biến khi nó được dùng chiến dịch quảng cáo cho Coca-Cola C2.
Khi Queen biểu diễn bài hát tại buổi diễn Rock in Rio, Mercury đi ra sân khấu một cách thất thểu, đã nhận được các tiếng la ó phản đối từ khán giả; đám đông không nhận thức được sự nhại lại vở kịch Coronation Street nên họ nghĩ rằng Mercury đã làm hỏng bài hát.
Vào năm 1992 tại buổi diễn tưởng niệm Freddie Mercury, Lisa Stansfield đã hát lại bài hát này. Cô đã tới sân vận động Wembley với mái tóc cuộn và đẩy một cái máy hút bụi để gợi nhớ lại tính chất của bài hát. |
Phytoestrogen, ghép từ tiếp đầu ngữ phyto có nghĩa là thực vật (cây cỏ) và hormone nữ estrogen, có thể viết là plant estrogen, tạm gọi là thực vật nữ tố, là các chất chiết xuất từ thực vật hoặc các chất chuyển hoá của chúng, có thể tạo nên đáp ứng sinh học ở động vật có xương sống phỏng theo hoặc giống như tác dụng của các estrogen nội sinh, thông thường bằng cách gắn với các thụ thể estrogen.
Phytoestrogen là thành phần có thể gặp với hàm lượng tương đối cao ở nhiều thực phẩm quen thuộc của cộng đồng dân cư Á châu, đặc biệt trong đậu nành và các thực phẩm được chế biến từ đậu nành. Việc sử dụng các thực phẩm này, đặc biệt là các loại giàu isoflavon bước đầu tỏ ra có tác dụng có lợi trên một số rối loạn quanh-hậu mãn kinh.
Phân loại
Đa số các phytoestrogen nằm trong một nhóm các chất có nhân phenol có tên là các flavonoid. Flavonoid được tìm thấy trong nhiều loại thực vật, một số chứa đến 7% trong trọng lượng khô . Nhóm các flavonoid được chia thành 3 lớp: các coumestan, các flavonoid được prenyl hoá và các isoflavon, trong đó các isoflavon có hoạt tính estrogen mạnh nhất.
Bên cạnh nhóm các flavonoid là nhóm các lignan với hoạt tính estrogen yếu hơn.
Các isoflavon có trong thức ăn có nguồn gốc thực vật bao gồm: genistein, daidzein, glycitein, biochanin A và formononetin, trong đó chủ yếu là genistein và daidzein.
Chiết xuất
Cho đến nay, đậu nành được xem là nguồn thực phẩm chính cung cấp các phytoestrogen. Các sản phẩm từ đậu nành được chứng minh có chứa hàm lượng isoflavon đáng kể, trong đó hạt đậu và bột đậu chứa hàm lượng cao nhất (tương ứng là 1400–1530 mg/kg và 1310–1980 mg/kg). Các sản phẩm lên men đậu nành bao gồm tương đặc (miso) và đậu phụ cũng có hàm lượng isoflavon khá cao (290 – 530 mg/kg).
Coumestrol được tìm thấy với nồng độ cao nhất trong chồi cỏ ba lá đỏ (Trifolium pratense) (5611 mg/kg) và cỏ linh lăng (Medicago sativa) (720 mg/kg), sau đó là giá đậu xanh (47 mg/kg). Hublon có trong bia chứa nhiều các flavonoid prenyl hoá
Cơ chế tác dụng
Khi phytoestrogen gắn với thụ thể estrogen có thể tạo nên nhiều đáp ứng sinh học khác nhau. Nếu sau khi gắn kết nó kích thích thụ thể thì hoạt tính thu được gọi là chủ vận. Tuy nhiên có loại phytoestrogen sau khi gắn kết với thụ thể sẽ ức chế đáp ứng sinh học dạng estrogen, khi đó nó có tác dụng đối vận.
Một yếu tố chủ chốt quyết định đến tác dụng chủ vận hay đối vận của phytoestrogen là ái tính gắn kết với thụ thể estrogen. Nếu đáp ứng sinh học được tạo ra với nồng độ phytoestrogen tương đương với nồng độ estradiol thì chúng được xem là chất chủ vận. Ngược lại, các thành phần có tác dụng estrogen yếu đòi hỏi nồng độ rất cao để tạo nên tác dụng với mức độ như estradiol. Điều này cũng đúng đối với các chất đối vận. Một số phytoestrogen là các chất chủ vận cực kỳ yếu, thậm chí không thể kích thích thụ thể estrogen cả ở liều rất cao và có thể có cả tác dụng đối vận, chúng được xem là chất đối vận một phần .
Dịch tế học và lâm sàng
Cho đến nay, nhiều nghiên cứu dịch tễ học, chủ yếu so sánh các nhóm phụ nữ châu Á với nhóm phụ nữ Âu - Mỹ đã được báo cáo và cho thấy các chế độ ăn giàu phytoestrogen cải thiện các triệu chứng thiếu hụt estrogen ở phụ nữ mãn kinh và có thể dự phòng ung thư vú, loãng xương và bệnh lý tim mạch . Tuy nhiên các chất này thể hiện tác dụng sinh học thông qua các cơ chế cực kỳ phức tạp. Tác dụng của chúng trên tế bào phụ thuộc vào lượng thụ thể α và β của estrogen .
Trong một nghiên cứu công bố năm 1998, Albertazzi và cộng sự đã ghi nhận sự cải thiện các biểu hiện của cơn bốc hoả ở các phụ nữ hậu mãn kinh sử dụng tinh chất protein đậu nành so với nhóm dùng casein. Trong nghiên cứu kéo dài 12 tuần trên 104 phụ nữ này, sử dụng hàng ngày 40g protein đậu nành chứa 76 mg isoflavon đã làm giảm 25% các trường hợp có triệu chứng bốc hoả nặng .
Có các dữ liệu lâm sàng chắc chắn về tác dụng bảo vệ của đậu nành lên hệ tim mạch, chủ yếu là nhờ ảnh hưởng có lợi lên cân bằng lipoprotein. Tuy nhiên người ta chưa rõ liệu tác dụng có lợi này chỉ do thành phần isoflavon hay là của cả các thành phần khác có trong đậu nành .
Vào năm 2000, một nghiên cứu tổng hợp đã chỉ ra rằng các isoflavon có tác dụng bảo vệ yếu trên sự mất xương hậu mãn kinh .
Đặc biệt mối liên quan giữa chế độ ăn giàu phytoestrogen và tần suất thấp mắc phải ung thư vú và ung thư niêm mạc tử cung đã được khảo sát rất kỹ lưỡng và được khẳng định, đặc biệt trên quần thể phụ nữ sinh sống ở Đông Á (Nhật Bản, Đài Loan) và Hawai. Sử dụng nhiều chế phẩm đậu nành trong thời gian dài tỏ ra có liên quan đến giảm nồng độ nội tiết tố sinh dục nữ do buồng trứng tiết ra và có tác dụng bảo vệ trên nguy cơ ung thư vú. Một nghiên cứu tiến cứu trên 22.000 phụ nữ Nhật Bản được công bố năm 2003 đã chỉ ra rằng chế độ ăn giàu isoflavon với xúp miso và chao làm giảm gần 50% nguy cơ tương đối mắc phải ung thư vú . |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.