text
stringlengths
0
512k
Lê Mộng Nguyên (5 tháng 5 năm 1930 – 19 tháng 5 năm 2023) là tác giả ca khúc nổi tiếng Trăng mờ bên suối. Ông còn là giáo sư, tiến sĩ Luật và Khoa Học Chính trị, được bầu vào Hàn lâm Viện Khoa học Hải ngoại của Pháp. Ngoài ra, Lê Mộng Nguyên còn viết văn và làm thơ. Tiểu sử Lê Mộng Nguyên sinh ngày 5 tháng 5 năm 1930, tại Phú Xuân, Huế. Lê Mộng Nguyên dùng tên thật cho hầu hết các sáng tác, đôi khi ông dùng một bút danh khác là Yên Hà hoặc Lan Đào. Ông là con trai áp út của một gia đình nho giáo, điền chủ ở tỉnh Thừa Thiên. Cha ông tên Lê Viết Mưu, mẹ là bà Hồ Thị Ngô. Ông bà có bảy người con, trong đó Lê Mộng Hoàng, anh của Lê Mộng Nguyên là một đạo diễn điện ảnh nổi tiếng. Lúc nhỏ, Lê Mộng Nguyên bắt đầu đi học ở trường làng Phú Xuân, rồi vào học trường Tiểu học (École Primaire) Chaigneau ở Huế. Sau đó ông thi tuyển vào trường trung học Khải Định và là một trong ba người đỗ đầu, được Chính phủ cấp học bổng. Ông học ở đó từ 1943 đến khi thi Tú tài năm 1950. Lê Mộng Nguyên làm thơ, nhạc và viết văn từ thuở nhỏ, lúc 9 tuổi khởi sự làm thơ và có nhiều bài được đăng trong nội san của trường trung học Khải Định với bút danh Yên Hà. Năm 15 tuổi, trong một cuộc thi Văn chương Học sinh trường Trung học, ông viết một bài về Phan Đình Phùng và đạt giải thưởng Hoàng Đế Bảo Đại, năm đó ông cũng sáng tác ca khúc đầu tay "Xuân Tươi" (dưới bút hiệu Lan Đào), được báo ‘’Quốc gia’’ đăng trong ‘’Đặc San Mùa Xuân’’. Năm 18 tuổi Lê Mộng Nguyên đã được cấp thẻ nhà báo, cộng tác cùng nhiều tờ báo khi đó: Phật giáo Văn Tập, Quốc gia, Việt Nam Tân Báo, Đường Mới. Năm 1950, sau khi tốt nghiệp Tú tài toàn phần tại Việt Nam, Lê Mộng Nguyên sang Pháp du học, được ông Nguyễn Khoa Nam bảo lãnh tại Paris. Ban đầu ông muốn theo học hòa âm tại Trường âm nhạc Paris nhưng sau đó bỏ ý định, quay sang học luật tại Khoa luật và Khoa học Kinh tế Đại học Paris 1 Panthéon Sorbonne (Faculté de Droit et de Sciences Economiques). Năm 1954, Lê Mộng Nguyên tốt nghiệp cử nhân Luật. Từ năm 1955 tới năm 1958, ông được mời làm tùy viên kinh tế và xã hội cạnh Tòa đại sứ Việt Nam tại Paris (Attaché économique et social près l'Ambassade du Vietnam à Paris) dưới quyền của đại sứ Việt Nam Phạm Duy Khiêm. Sau đó ông quay lại trường đại học và thi đậu cuộc thi để được hành nghề luật sư. Năm 1962, ông đậu Tiến sĩ quốc gia (Doctorat d'État) với ba bằng cao học về Droit public, Droit privé và Sciences Politiques. Sau khi thôi hành nghề luật sư, năm 1967, Lê Mộng Nguyên dạy luật Hiến pháp (Droit constitutionnel) và Khoa học Chính trị (Sciences politiques) tại trường Đại học thành phố Besançon, miền Đông nước Pháp. Năm 1985 ông quay lại Paris và giảng dạy tại Đại học Paris 8 Saint Denis đến khi về hưu năm 1997. Trong thời gian đó, ông cũng sáng tác nhiều ca khúc, nhưng không phổ biến. Tuy ít tham gia vào sinh hoạt của cộng đồng người Việt tại Pháp, nhưng ông cũng đã ký tên ủng hộ việc cứu trợ nạn thuyền nhân vượt biển. Sau khi về hưu, ông cộng tác với vài báo chí Việt tại hải ngoại, trong đó có nguyệt san Nghệ thuật của nhạc sĩ Lê Dinh và Hồn Việt của ký giả Vương Huyền. Lê Mộng Nguyên thành hôn với Nicole Moulin, một phụ nữ người Pháp vào ngày 8 tháng 1 năm 1959. Trước đó hai năm, họ gặp nhau sau một cuộc biểu tình tại quận La Tinh Paris. Hai người không có con. Ông cũng chưa từng về lại Việt Nam từ khi đi du học năm 1950. Ông qua đời vào ngày 19 tháng 5 năm 2023 tại Pháp và đã được hỏa thiêu 9 ngày sau đó. Hội viên Hàn lâm Viện Khoa học Hải ngoại Pháp Ngày 5 tháng 12 năm 1997, Lê Mộng Nguyên được bầu vào Hàn lâm Viện Khoa học Hải ngoại (Académie des Sciences d'Outre-Mer) của Pháp, thay thế cho Cựu Hoàng Bảo Đại. Người được bầu vào Hàn Lâm Viện này phải có những tác phẩm được xuất bản, những công trình nghiên cứu đáp ứng đường lối của hàn lâm viện trong công cuộc phát triển văn hóa, khoa học, kinh tế, kỹ thuật hay nhân loại của những quốc gia hải ngoại trong khối Pháp. Lê Mộng Nguyên là người Pháp gốc Việt đầu tiên được bầu làm hội viên chính thức (membre titulaire), có thể được bầu làm chủ tịch Hàn Lâm Viện này và có quyền bầu để chọn người vào làm hội viên. Trước đó, đã có một số người Việt làm hội viên liên lạc (membre correspondant) như Phạm Quỳnh, Phạm Duy Khiêm, Nguyễn Tiến Lãng; hội viên cộng tác (membre associé) Thái Văn Kiểm. Cựu Hoàng Bảo Đại cũng là hội viên chính thức tự do (membre titulaire libre), có nghĩa là hội viên thực thụ không thuộc ban (section) nào cả nhưng có quyền bỏ phiếu hay tranh cử bất cứ chức vụ nào của Hàn Lâm Viện. Sự nghiệp âm nhạc Lê Mộng Nguyên tự học nhạc từ khi còn nhỏ, học đánh đàn mandoline với một người bạn học cùng lớp, sau đó có học guitar và violon. Ông sáng tác ca khúc đầu tay Xuân tươi vào năm 15 tuổi ký tên Lan Đào. Bài nhạc Mừng Khánh Đản đã được Thượng tọa Minh Châu nhờ Lê Mộng Nguyên sáng tác vào năm 1948 nhân dịp khánh thành Chùa Từ Đàm. Nhạc phẩm nổi tiếng nhất của Lê Mộng Nguyên Trăng mờ bên suối được viết ngày 13 tháng 11, năm 1949 khi ông mới 19 tuổi. Trăng mờ bên suối nói lên nỗi lòng của tác giả khi nhớ người yêu, nhớ sông Hương núi Ngự trước khi lên đường sang Pháp du học vào năm 1950. Trong một bức thư trả lời một người bạn, Lê Mộng Nguyên viết: "Bài trăng mờ bên suối viết ngày 13 tháng 11 năm 1949 (tôi còn giữ bản thảo), một buổi chiều không mưa ở nhà một mình tôi ở Huế (đường Gia Long), với cây lục huyền cầm Y Pha nho, vừa nhạc vừa lời song song với nhau, rất mau lẹ (từ 20 đến 30 phút là xong), trong một cuốn vở có phân ly (papier millimétré) đầy ký chú những bài học Lý Hóa ở trường Khải Định". Lời hát của Trăng mờ bên suối cổ điển và sang trọng, khá giống với Suối mơ của Văn Cao: Người hẹn cùng ta đến bên bờ suối Rừng chiều mờ sương ánh trăng mờ chiếu Một đêm thiết tha rồi đây xa cách Rồi đây hai ngả biết tới phương nào... Suối mơ... lời hẹn ước ven bờ suối xưa Nhớ chăng... người phương xa trong khói điêu tàn Suối ơi... vờn theo bóng trăng vàng ngày xanh Nào những lúc trên thuyền say sưa Nhìn trăng vừa lên, ai hay chia lìa Sương khói biên thùy hiu hắt người đi xa trường sa... Tuy được viết vào cuối năm 1949, nhưng Trăng mờ bên suối được xem như một ca khúc tiền chiến và đã trở thành bất hủ của tân nhạc Việt Nam. Nhạc sĩ, ca sĩ Thu Hồ là người hát Trăng mờ bên suối đầu tiên trên đài phát thanh Pháp Á năm 1949. Lê Mộng Nguyên cũng là nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên sáng tác về Huế, miền Trung, ca tụng nơi ông đã sinh ra và lớn lên. Ngoài những nhạc phẩm có tính cách tranh đấu như Vó ngựa giang hồ (1949), hay Mùa lúa mới và Trường ca Quân tiến, từ thời thiếu niên Lê Mộng Nguyên đã sáng tác nhiều ca khúc lãng mạn "để tiếp theo hứng cảm của các tác giả mà ông yêu chuộng như Văn Cao, Đặng Thế Phong...". Từ ngày sang Pháp học, ông viết các bản nhạc nói lên nỗi nhớ quê hương như Xuân tha hương, Lá thư cho mẹ, Trời Âu... Lê Mộng Nguyên cũng viết bản Bụi đời, Người đã trở về cho bộ phim Bụi đời do anh trai ông là Lê Mộng Hoàng đạo diễn năm 1957. Khoảng 1990, tại Việt Nam, một tuyển tập nhạc Phật giáo gồm 25 bài do Lê Mộng Nguyên viết trước năm 20 tuổi đã được Giáo hội Phật giáo Việt Nam xuất bản. Tác phẩm Âm nhạc Bài Thơ Huế Bên Dòng Sông Seine Bụi Đời Chiều Thu Chiều Vàng Bến Chợ Đông Ba Chiều Vàng Năm Xưa Cô Gái Huế Đôi Mắt Nhung Gia đình Thân Ái Giao Mùa Hoàng Hoa Thôn Hướng Phật Đài Kiếp Giang Hồ Lá Thư Cho Mẹ Ly Hương Ma Vie Sans Toi (Đời Không Có Em) Mơ Đà Lạt Một Chiều Thương Nhớ Mưa Huế Mùa Lúa Mới Mừng Khánh Đản Người Đã Trở Về Nhớ Huế Quê Tôi Trái Tim Đau Lời Cuối Của Anh Hồi Hướng Tìm Lại Ngày Xưa Thề Non Nước (Thơ Tản Đà) Thu Sầu Thu Trên Sông Seine Tìm Lại Ngày Xưa Trăng Mờ Bên Suối Trời Âu Trọng Thủy Mỵ Châu Trường Ca Quân Tiến Về Chơi Thôn Vỹ Việt Nam Thắm Tươi Vó Ngựa Giang Hồ Xuân Tha Hương Xuân Về Nhớ Mãi Quê Hương Xuân Tươi Nhớ Cha Nhung Nhớ Em Cho Anh Tình Yêu Hòa nhịp yêu thương Giao Mùa Soi Gương Yêu anh em làm thơ Bến Đời Không Ước Hẹn Các tác phẩm khác La Constitution de la Vème République de Charles de Gaulle à François Mitterrand (4ème édition, 1994, Ed. STH) Hiến pháp đệ Ngũ cộng hòa từ Charles de Gaulle tới François Mitterrand Les systèmes politiques démocratiques contemporains (4ème édition, 1994, Ed. STH) Những hệ thống chính trị dân chủ cận đại Initiation au droit (1996, Ed. L'Hermès) Hành trình đi vào luật pháp La Constitution de 1958 (1996, ed. L'Hermès) Hiến pháp 1958 Le Budget de l'Etat (1997, ed. L'Hermès) Ngân Quỹ Quốc gia Finances Publiques (1997, ed. L'Hermès) Tài chính Công Cộng Bốn sách tổng hợp: Les agglomérations urbaines dans les Pays du Tiers Monde (1971, ed. de l'Institut de Sociologie, Bruxelles, Bỉ) Vùng thành thị trong các quốc gia đệ Tam thế giới Le Vietnam au temps présent (1992, Đường Mới) Xứ Việt Nam đương thời Đảng Cộng sản trước thực trạng Việt Nam (1994, Đường Mới) Những Vấn đề Cấp Thiết của Việt Nam" (1995, Tiếng Gọi Dân tộc xuất bản) Tập thơ Đời Không Có Em (1998) Cùng hơn một trăm bài xã viết về Hiến pháp và Dân Chủ cho nhiều tạp chí Âu châu tiếng tăm. Chú thích
Hiệu quả Pareto hay tối ưu Pareto là tình huống mà ở đó không có lợi ích của một cá nhân nào được cải thiện mà không phải hi sinh lợi ích của một người khác. Khái niệm này được đặt theo tên của Vilfredo Pareto (1848–1923), kỹ sư dân dụng và nhà kinh tế người Ý, người đã sử dụng khái niệm này trong các nghiên cứu của mình về hiệu quả kinh tế và phân phối thu nhập. Ba khái niệm sau đây có liên quan chặt chẽ với nhau: Với tình huống ban đầu, cải thiện Pareto là tình huống mà một số cá nhân sẽ được lợi và không có cá nhân nào bị mất. Một tình huống được gọi là tối ưu Pareto hoặc hiệu quả Pareto nếu không có thay đổi nào có thể dẫn đến việc cải thiện sự hài lòng của một cá nhân mà không một cá nhân nào mất hoặc tương đương, tức là không thể cải thiện Pareto hơn nữa. Khái niệm Pareto ban đầu sử dụng từ tối ưu, nhưng vì nó mô tả tình huống mà một số người (hữu hạn) được cải thiện tốt hơn với nguồn lực hữu hạn, và nó không tính đến bình đẳng hoặc phúc lợi xã hội, định nghĩa của nó tập trung vào “tính hiệu quả”. Ngoài bối cảnh hiệu quả phân bổ, khái niệm Pareto cũng xuất hiện trong bối cảnh hiệu quả sản xuất với tính phi hiệu quả X: một tập hợp các hàng hóa đầu ra đạt được hiệu quả Pareto nếu không có sự tái phân bổ về sản xuất sao cho đầu ra của một sản phẩm tăng lên trong khi đầu ra của sản phẩm khác cũng tăng hoặc không đổi. Bên cạnh lĩnh vực kinh tế học, khái niệm về hiệu quả Pareto đã được áp dụng để lựa chọn các giải pháp thay thế trong kỹ thuật và sinh học.Trước tiên mỗi lựa chọn được đánh giá theo nhiều tiêu chí, và sau đó một tập hợp con các lựa chọn được xác định với thuộc tính mà không lựa chọn nào khác tốt hơn lựa chọn đã chỉ định. Đó là tình trạng mà không thể cải thiện một biến mà không làm tổn hại đến các biến khác trong chủ đề tối ưu hóa đa mục tiêu (còn được gọi là tối ưu hóa Pareto). Tổng quan Về mặt hình thức, một trạng thái là tối ưu Pareto nếu không có trạng thái thay thế nào có thể cải thiện được phúc lợi của ít nhất một người tham gia mà không làm giảm phúc lợi của bất kỳ người tham gia nào khác. Nếu có sự thay đổi trạng thái thỏa mãn điều kiện này, trạng thái mới được gọi là "cải tiến Pareto". Khi không thể cải tiến Pareto, trạng thái này được gọi là "tối ưu Pareto". Một trường hợp đặc biệt của trạng thái này là sự phân bổ các nguồn lực. Khái niệm kinh tế này được trình bày như sau: xem xét một nền kinh tế với n cá nhân và k hàng hóa. Phân bổ {x1, ...,  xn} với với mọi , là tối ưu Pareto nếu không có một phân bổ khả thi sao cho hàm lợi ích cho mỗi cá nhân   cho mọi và ui(xi’)>  ui(xi) cho một vài . Ở đây, trong một nền kinh tế giản đơn, tính khả thi đề cập đến sự phân bổ mà tổng số lượng của mỗi hàng hóa được phân bổ không nhiều hơn tổng số lượng hàng hóa trong nền kinh tế. Trong những nền kinh tế phức tạp hơn, một phân bổ sẽ bao gồm cả vectơ tiêu dùng và vectơ sản xuất, và tính khả thi yêu cầu tổng số lượng của mỗi hàng hóa được tiêu thụ không lớn hơn tài sản ban đầu cộng với số lượng được sản xuất. Theo giả định của định lý phúc lợi thứ nhất, cạnh tranh dẫn đến hiệu quả Pareto. Kết quả này được chứng minh bằng toán học bởi hai nhà kinh tế học Kenneth Arrow và Gérard Debreu. Tuy nhiên, kết quả chỉ đúng dưới các điều kiện giả định: tồn tại thị trường cho tất cả các hàng hóa có thể có, không có ngoại ứng, thị trường cạnh tranh hoàn hảo và những người tham gia trên thị trường có được thông tin hoàn hảo. Trong trường hợp không có thông tin hoàn hảo hoặc thị trường hoàn chỉnh, các kết quả nói chung sẽ không đạt hiệu quả theo Pareto, theo định lý Greenwald – Stiglitz. Định lý phúc lợi thứ hai về cơ bản là đảo ngược của định lý phúc lợi thứ nhất. Nó nói rằng theo các giả định của định lý, tương tự, bất kỳ mức tối ưu Pareto nào cũng có thể đạt được bằng một số điểm cân bằng cạnh tranh, hoặc hệ thống thị trường tự do, mặc dù nó cũng có thể yêu cầu chuyển toàn bộ của cải. Hiệu quả Pareto yếu Hiệu quả Pareto yếu là một tình trạng không thể được cải thiện nghiêm ngặt đối với mỗi cá nhân. Về mặt hình thức, một cải tiến Pareto mạnh mẽ được định nghĩa là một tình huống trong đó tất cả các đại lý đều khá giả (trái ngược với chỉ "cải tiến Pareto", yêu cầu rằng một đại lý hoàn toàn khá giả và các tác nhân khác ít nhất cũng tốt). Một tình huống là Pareto hiệu quả yếu nếu nó không có những cải tiến mạnh mẽ của Pareto. Bất kỳ cải tiến Pareto mạnh nào cũng là một cải tiến Pareto yếu. Điều ngược lại là không đúng; ví dụ: hãy xem xét một vấn đề phân bổ tài nguyên với hai tài nguyên, mà Alice có giá trị là {10, 0} và George có giá trị là {5, 5}. Hãy xem xét việc phân bổ cung cấp tất cả tài nguyên cho Alice, trong đó hồ sơ tiện ích là (10, 0): Đây là một PO yếu, vì không có sự phân bổ nào khác tốt hơn cho cả hai tác nhân (không có cải tiến Pareto mạnh mẽ nào). Nhưng nó không phải là một PO mạnh, vì việc phân bổ trong đó George nhận được tài nguyên thứ hai là tốt hơn cho George và tốt hơn một cách yếu cho Alice (đó là một cải tiến Pareto yếu) - hồ sơ tiện ích của nó là (10, 5). Một thị trường không yêu cầu ký sinh tại địa phương để đạt được mức tối ưu Pareto yếu. Hiệu quả Pareto hạn chế Hiệu quả Pareto bị hạn chế là sự suy yếu của tính tối ưu Pareto, do thực tế là một nhà hoạch định tiềm năng (ví dụ: chính phủ) có thể không cải thiện được kết quả của thị trường phi tập trung, ngay cả khi kết quả đó không hiệu quả. Điều này sẽ xảy ra nếu nó bị hạn chế bởi các ràng buộc về thông tin hoặc thể chế giống như các tác nhân riêng lẻ. Một ví dụ là bối cảnh mà các cá nhân có thông tin cá nhân (ví dụ: thị trường lao động nơi công nhân biết năng suất của chính công nhân nhưng không được sử dụng lao động tiềm năng biết đến hoặc thị trường ô tô đã qua sử dụng nơi chất lượng của ô tô được biết đến người bán chứ không phải người mua) dẫn đến rủi ro đạo đức hoặc lựa chọn bất lợi và kết quả dưới mức tối ưu. Trong trường hợp như vậy, một nhà hoạch định mong muốn cải thiện tình hình khó có thể tiếp cận bất kỳ thông tin nào mà những người tham gia thị trường không có. Do đó, người lập kế hoạch không thể thực hiện các quy tắc phân bổ dựa trên các đặc điểm riêng của từng cá nhân; ví dụ, "nếu một người thuộc loại A, họ trả giá p1, nhưng nếu thuộc loại B, họ trả giá p2" (xem giá Lindahl). Về cơ bản, chỉ cho phép các quy tắc ẩn danh (thuộc loại "Mọi người đều trả giá p") hoặc các quy tắc dựa trên hành vi có thể quan sát được; "nếu bất kỳ người nào chọn x với giá px, thì họ sẽ được trợ cấp 10 đô la, và không có gì khác". Nếu không tồn tại quy tắc được phép nào có thể cải thiện thành công kết quả thị trường, thì kết quả đó được cho là "tối ưu Pareto có giới hạn" Hiệu quả Pareto phân số Hiệu quả Pareto phân số là sự tăng cường hiệu quả Pareto trong bối cảnh phân bổ mặt hàng công bằng. Việc phân bổ các mục không thể phân chia là hiệu quả Pareto theo từng phần (fPE hoặc fPO) nếu nó không bị Pareto chi phối ngay cả khi phân bổ trong đó một số mục được phân chia giữa các tác nhân. Điều này trái ngược với hiệu quả Pareto tiêu chuẩn, vốn chỉ xem xét sự thống trị bằng cách phân bổ khả thi (rời rạc). Ví dụ: hãy xem xét một vấn đề phân bổ mục với hai mục, mà Alice đặt giá trị ở {3, 2} và giá trị của George là {4, 1}. Hãy xem xét việc phân bổ đưa mục đầu tiên cho Alice và mục thứ hai cho George, trong đó hồ sơ tiện ích là (3, 1): Nó là Pareto hiệu quả, vì bất kỳ phân bổ rời rạc nào khác (không chia nhỏ các mục) đều khiến ai đó trở nên tồi tệ hơn. Tuy nhiên, nó không hiệu quả theo tỷ lệ Pareto, vì nó bị Pareto chi phối bởi việc phân bổ cho Alice 1/2 của mục đầu tiên và toàn bộ mục thứ hai, và 1/2 còn lại của mục đầu tiên cho George - tiện ích của nó hồ sơ là (3,5, 2). Hiệu quả Pareto trước đó Khi quá trình quyết định là ngẫu nhiên, chẳng hạn như trong phân công ngẫu nhiên công bằng hoặc lựa chọn xã hội ngẫu nhiên hoặc biểu quyết chấp thuận theo phân đoạn, sẽ có sự khác biệt giữa hiệu quả Pareto trước và sau: Hiệu quả Pareto hậu kỳ có nghĩa là bất kỳ kết quả nào của quá trình ngẫu nhiên là hiệu quả Pareto. Hiệu quả Pareto trước đây có nghĩa là xổ số được xác định bởi quy trình là hiệu quả Pareto đối với các tiện ích mong đợi. Đó là: không có xổ số nào khác mang lại tiện ích kỳ vọng cao hơn cho một đại lý và ít nhất là tiện ích kỳ vọng cao cho tất cả các đại lý. Nếu một số xổ số L là PE trước kỳ hạn, thì nó cũng là PE cũ. Chứng minh: giả sử rằng một trong các kết quả x của L bị Pareto chi phối bởi một số kết quả khác y. Sau đó, bằng cách di chuyển một số khối lượng xác suất từ ​​x sang y, người ta đạt được một xổ số khác L 'mà trước đây Pareto chiếm ưu thế L'. Điều ngược lại là không đúng: PE cũ mạnh hơn PE cũ hơn. Ví dụ, giả sử có hai đối tượng - một chiếc ô tô và một ngôi nhà. Alice định giá chiếc xe là 2 và ngôi nhà là 3; George định giá chiếc xe là 2 và ngôi nhà là 9. Hãy xem xét hai giải xổ số sau: Với xác suất 1/2, đưa ô tô cho Alice và nhà cho George; nếu không, hãy đưa xe hơi cho George và nhà cho Alice. Tiện ích mong đợi là (2/2 + 3/2) = 2,5 đối với Alice và (2/2 + 9/2) = 5,5 đối với George. Cả hai cách phân bổ đều là PE cũ, vì người có xe không thể trở nên khá giả hơn mà không gây hại cho người có nhà. Với xác suất 1 thì đưa ô tô cho Alice, sau đó với xác suất 1/3 thì đưa nhà cho Alice, ngược lại thì đưa cho George. Tiện ích mong đợi là (2 + 3/3) = 3 đối với Alice và (9 × 2/3) = 6 đối với George. Một lần nữa, cả hai phân bổ đều là PE cũ. Trong khi cả hai giải xổ số đều là PE trước sau, xổ số 1 không phải là PE trước, vì nó bị xổ số 2 chi phối bởi Pareto. Một ví dụ khác liên quan đến sở thích phân đôi. Có 5 kết quả có thể xảy ra (a, b, c, d, e) và 6 người bỏ phiếu. Các bộ phê duyệt của cử tri là (ac, ad, ae, bc, bd, be). Tất cả năm kết quả đều là PE, vì vậy mọi cuộc xổ số đều là PE trước sau. Nhưng xổ số chọn c, d, e với xác suất 1/3 mỗi người không phải là PE cũ, vì nó mang lại hiệu quả kỳ vọng là 1/3 cho mỗi cử tri, trong khi xổ số chọn a, b với xác suất 1/2 mỗi người cho một tiện ích dự kiến ​​là 1/2 cho mỗi cử tri. Pareto hiệu quả và công bằng Mặc dù một kết quả có thể được coi là một cải tiến Pareto, nhưng điều này không có nghĩa là kết quả đó thỏa mãn hoặc công bằng. Có thể là sự bất bình đẳng vẫn tồn tại ngay cả sau khi Pareto được cải thiện. Mặc dù thực tế là nó thường được sử dụng cùng với ý tưởng về sự tối ưu của Pareto, thuật ngữ "hiệu quả" đề cập đến quá trình tăng năng suất xã hội. Một xã hội có thể có hiệu quả Pareto đồng thời có mức độ bất bình đẳng cao. Hãy xem xét tình huống sau: có một chiếc bánh và ba người; cách công bằng nhất sẽ là chia chiếc bánh thành ba phần bằng nhau. Tuy nhiên, nếu chiếc bánh được chia đôi và được chia cho hai người, nó được coi là Pareto hiệu quả - nghĩa là người thứ ba không bị thua (mặc dù thực tế là anh ta không nhận được một phần của chiếc bánh). Khi đưa ra đánh giá, điều quan trọng là phải xem xét nhiều khía cạnh, bao gồm hiệu quả xã hội, phúc lợi tổng thể và các vấn đề như giá trị biên giảm dần. Hiệu quả Pareto và thất bại thị trường Để hiểu đầy đủ về sự thất bại của thị trường, trước tiên người ta phải hiểu được thành công của thị trường, được định nghĩa là khả năng của một tập hợp các thị trường cạnh tranh lý tưởng nhằm đạt được sự phân bổ cân bằng các nguồn lực là Pareto-tối ưu về mặt phân bổ nguồn lực. Theo định nghĩa của thất bại thị trường, đó là một trường hợp mà kết luận của định lý cơ bản đầu tiên về phúc lợi là sai lầm; nghĩa là, khi việc phân bổ thông qua các thị trường không hiệu quả Trong thị trường tự do, thất bại thị trường được định nghĩa là sự phân bổ nguồn lực không hiệu quả. Do thực tế là khả thi để cải thiện, thất bại thị trường cho thấy Pareto kém hiệu quả. Ví dụ, tiêu thụ quá nhiều các mặt hàng giảm giá (ma túy/thuốc lá) dẫn đến chi phí bên ngoài cho những người không hút thuốc, cũng như tử vong sớm cho những người hút thuốc không bỏ thuốc. Việc tăng giá thuốc lá có thể thúc đẩy mọi người bỏ thuốc lá đồng thời gây quỹ cho việc điều trị các bệnh liên quan đến hút thuốc. Hiệu quả Pareto gần đúng Với một số ε> 0, một kết quả được gọi là hiệu quả ε-Pareto nếu không có kết quả nào khác cung cấp cho tất cả các tác nhân ít nhất cùng một tiện ích và một tác nhân có tiện ích cao hơn ít nhất (1 + ε). Điều này thể hiện quan điểm rằng các cải tiến nhỏ hơn (1 + ε) là không đáng kể và không nên bị coi là vi phạm hiệu quả. Sử dụng trong kỹ thuật Khái niệm về hiệu suất Pareto đã được sử dụng trong kỹ thuật. Đưa ra một tập hợp các lựa chọn và cách định giá chúng, Pareto front (hoặc Pareto set hoặc Pareto frontier) là tập hợp các lựa chọn có hiệu quả Pareto. Bằng cách hạn chế sự chú ý vào tập hợp các lựa chọn có hiệu quả Pareto, một nhà thiết kế có thể thực hiện đánh đổi trong tập hợp này, thay vì xem xét toàn bộ phạm vi của mọi tham số. Sử dụng trong chính sách công Lý thuyết kinh tế vi mô hiện đại đã dựa nhiều vào khái niệm hiệu quả Pareto để tạo cảm hứng. Pareto và những người kế nhiệm của ông đã có xu hướng mô tả định nghĩa kỹ thuật này về phân bổ nguồn lực tối ưu trong bối cảnh nó là trạng thái cân bằng về mặt lý thuyết có thể đạt được trong một mô hình trừu tượng về cạnh tranh thị trường. Do đó, nó thường được coi là sự chứng thực cho quan niệm "bàn tay vô hình" của Adam Smith. Cụ thể hơn, nó đã thúc đẩy cuộc tranh luận về "chủ nghĩa xã hội thị trường" trong những năm 1930. Tuy nhiên, vì khó đánh giá kết quả hiệu quả Pareto trong thế giới thực khi các vấn đề bao gồm thông tin bất cân xứng, tín hiệu, lựa chọn bất lợi và rủi ro đạo đức được đưa ra, nên hầu hết mọi người không coi các định lý của kinh tế học phúc lợi là mô tả chính xác về thế giới thực. . Do đó, tầm quan trọng của hai định lý phúc lợi của kinh tế học nằm ở khả năng của chúng trong việc tạo ra một khuôn khổ đã thống trị tư duy tân cổ điển về chính sách công. Khuôn khổ đó là các định lý kinh tế học phúc lợi cho phép nghiên cứu kinh tế chính trị trong hai tình huống sau: "thất bại thị trường" và "vấn đề phân phối lại". Phân tích "thất bại thị trường" có thể được hiểu bởi các tài liệu xung quanh ngoại cảnh. Khi so sánh nền kinh tế "thực" với nền kinh tế thị trường dự phòng hoàn chỉnh (được coi là hiệu quả), sự kém hiệu quả trở nên rõ ràng. Sau đó, những yếu tố không hiệu quả hoặc ngoại tác này có thể được giải quyết bằng các cơ chế, bao gồm quyền sở hữu tài sản và thuế khắc phục. Phân tích "vấn đề tái phân phối" giải quyết câu hỏi chính trị quan sát được về cách sử dụng thuế thu nhập hoặc hàng hóa. Định lý cho chúng ta biết rằng không có cách đánh thuế nào là hiệu quả Pareto và việc đánh thuế có phân phối lại là Pareto không hiệu quả. Do đó, hầu hết các tài liệu đều tập trung vào việc tìm kiếm các giải pháp khi đã có cơ cấu thuế, làm thế nào cơ cấu thuế có thể quy định một tình huống mà không ai có thể trở nên tốt hơn bằng sự thay đổi các loại thuế hiện có. Sử dụng trong sinh học Tối ưu hóa Pareto cũng đã được nghiên cứu trong các quá trình sinh học. Ở vi khuẩn, các gen được tạo ra hoặc rẻ tiền (tiết kiệm tài nguyên) hoặc dễ đọc hơn (hiệu quả dịch mã). Chọn lọc tự nhiên hoạt động để đẩy các gen được biểu hiện cao về phía biên giới Pareto để sử dụng tài nguyên và hiệu quả dịch mã. Các gen gần biên giới Pareto cũng được chứng minh là tiến hóa chậm hơn (cho thấy rằng chúng đang mang lại lợi thế chọn lọc). Quan niệm sai lầm phổ biến Sẽ không đúng nếu coi hiệu quả Pareto tương đương với tối ưu hóa xã hội, vì khái niệm này là một khái niệm chuẩn tắc, đó là một vấn đề diễn giải thường giải thích cho hệ quả của mức độ bất bình đẳng trong phân phối. Một ví dụ sẽ là việc giải thích một khu học chánh có doanh thu từ thuế bất động sản thấp so với một khu học chánh khác có doanh thu cao hơn nhiều như là một dấu hiệu cho thấy sự phân phối bình đẳng hơn xảy ra với sự trợ giúp của chính phủ phân phối lại Sự chỉ trích Một số nhà bình luận tranh luận rằng hiệu quả Pareto có thể đóng vai trò như một công cụ tư tưởng. Với việc nó ngụ ý rằng chủ nghĩa tư bản tự điều chỉnh nó, có khả năng là các vấn đề cơ cấu bao hàm như thất nghiệp sẽ bị coi là đi chệch khỏi trạng thái cân bằng hoặc chuẩn mực, và do đó bị bỏ qua hoặc giảm giá trị. Hiệu quả Pareto không đòi hỏi sự phân phối của cải hoàn toàn công bằng, đó là một khía cạnh khác thu hút sự chỉ trích. Một nền kinh tế trong đó một số ít người giàu nắm giữ phần lớn các nguồn lực có thể hiệu quả Pareto. Một ví dụ đơn giản là việc phân phối một chiếc bánh cho ba người. Phân phối công bằng nhất sẽ chỉ định một phần ba cho mỗi người. Tuy nhiên, ví dụ, việc chỉ định một nửa phần cho mỗi hai cá nhân và không phần nào cho phần thứ ba cũng là tối ưu Pareto mặc dù không công bằng, bởi vì không ai trong số những người nhận có thể trở nên tốt hơn mà không giảm phần của người khác; và có nhiều ví dụ phân phối khác như vậy. Một ví dụ về việc phân phối chiếc bánh không hiệu quả theo Pareto sẽ là phân bổ một phần tư chiếc bánh cho mỗi người trong số ba chiếc, với phần còn lại bị loại bỏ. Nghịch lý tự do được Amartya Sen giải thích cho thấy rằng khi mọi người có sở thích về những gì người khác làm, mục tiêu hiệu quả Pareto có thể mâu thuẫn với mục tiêu tự do cá nhân. Cuối cùng, người ta đề xuất rằng hiệu quả Pareto ở một mức độ nào đó đã hạn chế thảo luận về các tiêu chí hiệu quả có thể có khác. Như giáo sư Ben Lockwood của Trường Wharton lập luận, một lý do có thể xảy ra là bất kỳ tiêu chí hiệu quả nào khác được thiết lập trong lĩnh vực tân cổ điển sẽ giảm xuống hiệu quả Pareto ở giai đoạn cuối. Kinh tế học Lý thuyết trò chơi Kinh tế học phúc lợi Tối ưu hóa (toán học)
Đan Trường (sinh năm 1919 - mất ngày 16 tháng 1 năm 2011), tên thật Ngô Đức Vân Quỳnh, là một nhạc sĩ Việt Nam, tác giả nhạc phẩm Trách người đi. Tiểu sử Ông sinh năm 1919 tại làng Đạo Ngạn, Phủ Lạng Thương, Bắc Giang. Năm 20 tuổi Đan Trường qua Pháp du học và có tham gia Chiến tranh thế giới thứ hai từ 1939 đến 1945. Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, ông ở lại nước Pháp, và trở thành một thư ký tòa soạn cho đài Phát thanh Pháp. Những năm 1950, khi Pháp có đài truyền hình, ông viết kịch bản cho phim Giá hạnh phúc (1953), và đóng vai đầu bếp. Lần tới, ông đóng vai một sĩ quan Việt Minh, trong phim Pháo đài của những thằng điên vào năm 1954. Sau khi về hưu năm 1982, nhạc sĩ Đan Trường sống tại vùng Bretagne, nước Pháp. Những năm trước khi ông qua đời, ông thường hay về Việt Nam thăm gia đình. Ông từng nói ông rất muốn về sống tại Việt Nam, tuy nhiên hoàn cảnh lại không cho phép điều đó. Ông qua đời ngày 16 tháng 1 năm 2011 tại tỉnh Bretagne, Pháp. Âm nhạc Đan Trường bắt đầu viết nhạc vào năm 1943, khi ông 24 tuổi. Trong các sáng tác của ông, nổi tiếng hơn cả là bản Trách người đi được ông viết bên Pháp rồi gửi về Hà Nội. Ca khúc là nỗi nhớ nhung của những đôi lứa phải xa cách nhau vào những năm đầu của thập niên 1940. Nó cũng chính là tâm sự của người yêu nhạc sĩ Đan Trường khi ông lên đường sang Pháp du học mà không hẹn ngày trở về. Sau khi nghe tin đồn Đan Trường chết trong Thế chiến, cô người yêu đó đi lấy chồng. Sương lam tuôn rơi hắt hiu trên cành thông sáng reo vi vu Khiến xui bao nhiêu nhớ nhung tràn lòng ước mơ Người đi phương xa đâu ngờ Miền quê ai đang mong chờ Đau đớn sót thầm từ ngày biệt ly... Trách người đi của Đan Trường được phổ biến trên Đài phát thanh, trở thành một trong những nhạc phẩm tiền chiến nổi tiếng. Nhiều ca sĩ nổi tiếng như Khánh Ly, Sĩ Phú, Mai Hương, Thu Minh đã trình bày ca khúc này. Tác phẩm Ngoài Trách người đi, nhạc sĩ Đan Trường còn sáng tác một số ca khúc khác: Chiếc áo the thâm tàn (1953) Cảnh làng quê (1953) Miếng trầu duyên (1953) Biệt quê (1953) Ba cô xinh xinh (1953) Đêm vắng đò xuôi (1953) Một cảnh đêm hè (1953) Ông đồ Hành (1954) Trăng mờ miếu cũ (1953) Đêm vắng xuôi đò
Chi Sẻn trong tiếng Hán gọi là chi Xuyên tiêu hay chi Hoa tiêu, chi Hoàng mộc (danh pháp khoa học: Zanthoxylum, từ tiếng Hy Lạp ξανθὸν ξύλον, "gỗ màu vàng") (không nhầm với Họ Hoàng mộc) là một chi khoảng 175-250 loài cây thân gỗ và cây bụi có lá sớm rụng hoặc thường xanh trong họ Rutaceae, có nguồn gốc ở vùng ôn đới ấm áp hay cận nhiệt đới trên toàn thế giới. Các tên gọi phổ biến trong chi này bằng tiếng Việt có thể là sẻn, xuyên tiêu, sơn tiêu, hoa tiêu, sưng, hoàng lực v.v.. Tại Trung Quốc, quả của một số loài như Z. piperitum, Z. simulans, Z. sancho được sử dụng làm gia vị, gọi là tiêu Tứ Xuyên. Một số loài Zanthoxylum acanthopodium - sẻn, hoa tiêu lông gai Zanthoxylum ailanthoides - hoa tiêu lá (cây) xư Zanthoxylum alatum - hoa tiêu có cánh Zanthoxylum americanum - hoa tiêu bắc Zanthoxylum armatum - sẻn gai Zanthoxylum avicennae - muồng truổng, hoàng mộc dài, hoa tiêu dài Zanthoxylum beecheyanum Zanthoxylum bifoliolatum - hoa tiêu Maricao Zanthoxylum bungeanum - hoa tiêu Zanthoxylum caribaeum - hoa tiêu vàng Zanthoxylum clava-herculis - hoa tiêu nam Zanthoxylum collinsiae (đồng nghĩa: Z. scabrum) - dây khắc dung Zanthoxylum coreanum - hoa tiêu Triều Tiên Zanthoxylum coriaceum - hoa tiêu Biscayne Zanthoxylum cucullatipetalum? - hoàng mộc cánh bầu Zanthoxylum dipetalum - kawa'u Zanthoxylum dimorphophyllum - hoa tiêu gai lá lạ Zanthoxylum dissitum - đơn diện châm Zanthoxylum esquirolii - nham tiêu Zanthoxylum evodiifolium? - sẻn lá dấu dầu, hoàng mộc phi Zanthoxylum fagara - hoa tiêu chanh Zanthoxylum flavum - sơn tiêu Tây Ấn Zanthoxylum hawaiiense - hoa tiêu Hawaii Zanthoxylum hirsutum Zanthoxylum kauaense - hoa tiêu Kauai Zanthoxylum laetum - hoàng mộc sai Zanthoxylum martinicense - hoa tiêu trắng Zanthoxylum molle - đóa tiêu Zanthoxylum monophyllum - tiêu vàng Zanthoxylum myriacanthum - hoàng mộc nhiều gai Zanthoxylum nitidum - hoàng lực, sang, sang láng, sưng, đắng cay, sâng, sẻn, mac khen, xuyên tiêu, sơn tiêu, hoàng liệt, lưỡng diện châm, chứ xá, hoa tiêu lá sáng Zanthoxylum nitiolum - sung, sân Zanthoxylum oahuense - hoa tiêu Oahu Zanthoxylum parvum Zanthoxylum piasezkii - hoa tiêu Tứ Xuyên-Thiểm Tây Zanthoxylum piperitum - hoa tiêu Nhật Bản Zanthoxylum planispinum - hoa tiêu lá trúc Zanthoxylum punctatum - hoa tiêu đốm Zanthoxylum rhetsa? - mắc khén, hoàng mộc hôi, cóc hôi, vàng me, xong Zanthoxylum sancho Zanthoxylum scandens - hoàng mộc leo, đắng cay Zanthoxylum schinifolium - hương tiêu Zanthoxylum simulans - xuyên tiêu, hoa tiêu dại Zanthoxylum spinifex - niaragato Zanthoxylum stenophyllum - hoa tiêu lá hẹp Zanthoxylum thomasianum - hoa tiêu St Thomas Các loài trong chi Zanthoxylum bị ấu trùng của một số loài côn trùng thuộc Lepidoptera phá hoại như Ectropis crepuscularia.
Tam giác Vàng có thể là: Địa danh: Tam giác Vàng (Đông Nam Á), một trong các trung tâm sản xuất ma tuý của thế giới. Tam giác Vàng (Trung Quốc), khu vực phát triển nhanh chóng. Tam giác Vàng (New South Wales), khu vực có năng suất sản xuất nông nghiệp rất cao. Anh Quốc: Tam giác Vàng (Cheshire), khu vực nổi tiếng về giàu có. Tam giác Vàng (Norwich) Hoa Kỳ: Tam giác Vàng (New Hampshire) Tam giác Vàng (Pittsburgh), vùng thịnh vượng. Tam giác Vàng (Texas), khu vực giàu dầu mỏ. Tam giác Vàng (Missouri), khu vực phát triển kinh tế nhanh. Tam giác Vàng (Mississippi) Tam giác Vàng (California), Tam giác Vàng (Rocky Mountains), nơi câu cá bằng ruồi Khác: Tam giác Vàng (Đại học Anh Quốc), nơi có những nghiên cứu nổi tiếng. Tam giác tỷ lệ vàng Bí mật Tam giác Vàng, phim truyền hình Việt Nam trên VTV của đạo diễn Nguyễn Dương.
Chloroxylon swietenia là danh pháp khoa học cho một loài cây có tên gọi là sơn tiêu Ceylon, sơn tiêu Đông Ấn hay buruta). Nó là loài cây thân gỗ cứng vùng nhiệt đới và là loài duy nhất trong chi Chloroxylon. Nó có nguồn gốc ở khu vực miền nam Ấn Độ và Sri Lanka. Sơn tiêu Ceylon là cây thân gỗ lá sớm rụng kích thước trung bình, cao tới 15–20 m, với lớp vỏ cây dày, nứt, hơi giống bần (li e) và lá hình lông chim. Hoa nhỏ, màu trắng kem, mọc thành dạng chùy hoa; quả nang thuôn dài chia ba phần, có kích thước 2,5–4,5 cm, chứa 1–4 hạt trong mỗi phần. Sử dụng Gỗ từ cây này có màu vàng kim loại với sự óng ánh phản chiếu dưới ánh sáng. Gỗ được dùng để làm các mặt hàng nhỏ đắt tiền và lớp gỗ bọc trong các mặt hàng đồ gỗ. Nó là một trong những loại sơn tiêu được biết đến nhiều nhất. Hình ảnh
Vũ Hoàng Chương (Chữ Hán: 武黃遧; 14 tháng 5 năm 1915 – 6 tháng 9 năm 1976) là một nhà thơ người Việt Nam. Ông sinh tại Nam Định, nguyên quán tại làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, nay là xã Phù Ủng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Văn phong của ông được cho là sang trọng, có dư vị hoài cổ, giàu chất nhạc, với nhiều sắc thái Đông phương. Tiểu sử Thuở nhỏ, ông học chữ Hán ở nhà rồi lên học tiểu học tại Nam Định. Năm 1931 ông nhập học trường Albert Sarraut ở Hà Nội, đỗ Tú tài năm 1937. Năm 1938 ông vào Trường Luật nhưng chỉ được một năm thì bỏ đi làm Phó Kiểm soát Sở Hỏa xa Đông Dương, phụ trách đoạn đường Vinh - Na Sầm. Năm 1941, ông bỏ Sở hỏa xa đi học Cử nhân toán tại Hà Nội, rồi lại bỏ dở để đi dạy ở Hải Phòng. Trong suốt thời gian này, ông không ngừng sáng tác thơ và kịch. Sau đó trở về Hà Nội lập "Ban kịch Hà Nội" cùng Chu Ngọc và Nguyễn Bính. Năm 1942 đoàn kịch công diễn vở kịch thơ Vân muội tại Nhà hát Lớn. Cũng năm đó ông gặp Đinh Thục Oanh, chị ruột nhà thơ Đinh Hùng và hai người thành hôn năm 1944. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông về Nam Định và cho diễn vở kịch thơ Lên đường của Hoàng Cầm. Kháng chiến toàn quốc nổ ra, Vũ Hoàng Chương tản cư cùng gia đình về Thái Bình, làm nghề dạy học. Đến 1950, gặp lúc quân Pháp càn đến ruồng bắt cả nhà, ông bỏ miền quê, hồi cư về Hà Nội nơi dạy toán rồi chuyển sang dạy văn và làm nghề dạy văn này cho đến 1975. Năm 1954, Vũ Hoàng Chương di cư vào Nam ở Sài Gòn, tiếp tục sáng tác và dạy học ở các trường trung học và Đại học Văn khoa Sài Gòn. Năm 1959 ông đoạt "Giải Văn học Nghệ thuật Toàn quốc" của Việt Nam Cộng hòa với tập thơ Hoa đăng. Trong năm này ông sang Âu châu tham dự Hội nghị Thi ca Quốc tế tại Bỉ. Năm 1964 ông tham dự Hội nghị Văn bút Á châu họp tại Bangkok; năm sau, 1965 lại tham dự Hội nghị Văn bút Quốc tế họp tại Bled, Nam Tư. Năm 1967, ông lại tham dự Hội nghị Văn bút Quốc tế họp tại Abidjan, thủ đô Côte d'Ivoire. Thời gian 1969-1973 Vũ Hoàng Chương là Chủ tịch Trung tâm Văn bút Việt Nam. Năm 1972 ông đoạt giải thưởng văn chương toàn quốc lần thứ hai. Ông còn được vinh danh là "Thi bá" Việt Nam. Năm 1972, Vũ Hoàng Chương lần đầu tiên được đề cử giải Nobel văn học nhưng người đoạt giải là nhà thơ Heinrich Böll của Đức, bản thân Heinrich Böll đã từng được đề cử liên tục từ năm 1960 và mãi đến năm 1972 mới đoạt được giải. Sự kiện này chỉ được Viện Hàn lâm Thụy Điển công bố năm 2023 vì theo quy định thì sau 50 năm kể từ khi trao giải, Viện Hàn lâm Thụy Điển mới công bố danh sách những người được đề cử Giải Nobel văn học của năm đó. Ngày 13 tháng 4 năm 1976, bị Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam bắt giam tại khám Chí Hòa. Bệnh nặng đưa về nhà được 5 ngày thì ông mất ngày 6 tháng 9 năm 1976 tại Sài Gòn. Mười năm sau, 1986, mộ Vũ Hoàng Chương được cải táng về chôn tại nghĩa địa của chùa Giác Minh tại Gò Vấp. Các tác phẩm tiêu biểu Các tập thơ: Thơ say (1940), 32 bài thơ Mây (1943), 25 bài thơ Thơ lửa (cùng Đoàn Văn Cừ, 1948) Rừng phong (1954), 39 bài thơ Hoa đăng (1959), 50 bài thơ Tâm sự kẻ sang Tần (1961) Trời một phương (1961), 26 bài thơ Lửa từ bi (1963), 15 bài thơ Ánh trăng đạo lí (1966), 30 bài thơ Bút nở hoa đàm (1967), 51 bài thơ Cành mai trắng mỏng (1968), 62 bài thơ Ta đợi em từ 30 năm (1970) Đời vắng em rồi say với ai (1971), 36 bài thơ Ngồi quán (1971), 69 bài thơ Chúng ta mất hết chỉ còn nhau (1973), 12 bài thơ Kịch thơ: Trương Chi (1944) Vân muội (1944) Hồng diệp (1944) Bình luận và nhận xét "...Ý giả Vũ Hoàng Chương định nối cái nghiệp những thi hào-xưa của Đông Á: cái nghiệp say. Người say đủ thứ: say rượu, say đàn, say ca, say tình đong đưa. Người lại còn "hơn" cổ nhân những thứ say mới nhập-cảng: say thuốc phiện, say nhảy đầm. Bấy nhiêu say sưa đều nuôi bằng một say sưa to hơn mọi say sưa khác: say thơ.... cái say sưa của Vũ Hoàng Chương là một thứ say sưa có chừng mực, say sưa mà không hẳn là trụy lạc, mặc dầu từ say sưa đến trụy lạc đường chẳng dài chi. Nhưng trụy lạc hay say sưa đều mang theo một niềm ngao ngán. Niềm ngao ngán ấy ta vốn đã gặp trong thơ xưa. Duy ở đây có cái vị chua chát, hằn học, và bi đát riêng... (Hoài Thanh - Hoài Chân, "Thi nhân Việt Nam") Chú thích
Bưởi bung cũng là một trong các tên gọi của Glycosmis pentaphylla (Correa) cùng họ, được biết dưới các tên gọi khác như cây cơm rượu, bái bài, cứt sát v.v, là một cây dùng làm thuốc. Xem bài Cơm rượu. Chi Bưởi bung (danh pháp khoa học: Acronychia) là một chi 44 loài thực vật, chủ yếu là cây bụi thuộc về họ Cửu lý hương (Rutaceae). Chúng phân bố rộng khắp ở Ấn Độ, Malesia, Úc và các đảo thuộc miền tây Thái Bình Dương. Tại Australia có 19 loài, chúng nói chung được gọi là aspen (cây dương lá rung) mặc dù chúng không có quan hệ họ hàng gì với cây dương lá rung thuộc chi Populus trong họ Liễu (Salicaceae). Tương tự như các thành viên khác trong họ Rutaceae, lá của chúng có mùi thơm khi bị nghiền nát. Một nghiên cứu năm 2015 cho thấy chi Maclurodendron (hiện nay coi là chứa 6 loài hoa đơn tính, phân bố trong khu vực từ Sumatra, bán đảo Mã Lai, Borneo, Philippines tới Việt Nam, đảo Hải Nam và Quảng Đông (Trung Quốc)) lồng sâu trong chi Acronychia và chúng có quan hệ họ hàng gần với loài phổ biến rộng Acronychia pedunculata. Các loài Danh sách loài và khu vực phân bố lấy theo Plants of the World Online. Acronychia aberrans T.G.Hartley: Queensland (bán đảo Cape York). Acronychia acidula F.Muell.: Đông bắc Queensland. Acronychia acronychioides (F.Muell.)T.G.Hartley: Queensland. Acronychia acuminata T.G.Hartley: Queensland (bán đảo Cape York). Acronychia arfakensis Gibbs: Tây New Guinea. Acronychia baeuerlenii T.G.Hartley: Từ Queensland tới đông bắc New South Wales. Acronychia brassii T.G.Hartley: New Guinea. Acronychia carrii T.G.Hartley: Papua New Guinea. Acronychia cartilaginea T.G.Hartley: Papua New Guinea. Acronychia chooreechillum (F.M.Bailey) C.T.White: Queensland (bán đảo Cape York). Acronychia crassipetala T.G.Hartley: Queensland. Acronychia cuspidata Lauterb.: Đông bắc New Guinea. Acronychia dimorphocalyx T.G.Hartley: New Guinea. Acronychia emarginata Lauterb.: New Guinea. Acronychia eungellensis T.G.Hartley & B.Hyland: Queensland. Acronychia foveata T.G.Hartley: New Guinea. Acronychia glauca T.G.Hartley: New Guinea. Acronychia goniocarpa Merr. & L.M.Perry: Tây New Guinea. Acronychia gurakorensis T.G.Hartley: Papua New Guinea. Acronychia imperforata F.Muell.: Queensland, New South Wales. Acronychia intermedia T.G.Hartley: Papua New Guinea (vịnh Milne). Acronychia kaindiensis T.G.Hartley: Papua New Guinea. Acronychia laevis J.R.Forst. & G.Forst.: Queensland, vùng tây nam Thái Bình Dương. Acronychia ledermannii Lauterb.: New Guinea. Acronychia littoralis T.G.Hartley & J.Williams: New South Wales. Acronychia macrocalyx T.G.Hartley: Papua New Guinea. Acronychia montana T.G.Hartley: New Guinea. Acronychia murina Ridl.: New Guinea. Acronychia normanbiensis T.G.Hartley: Papua New Guinea (vịnh Milne). Acronychia oblongifolia (A.Cunn. ex Hook.) Endl. ex Heynh.: Từ đông nam Queensland tới đông nam Victoria. Acronychia octandra (F.Muell.)T.G.Hartley: Australia. Acronychia papuana Gibbs: Tây New Guinea. Acronychia parviflora C.T.White: Đông bắc Queensland. Acronychia pauciflora C.T.White: Từ đông trung Queensland tới đông bắc New South Wales. Acronychia pedunculata (L.) Miq.: Nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Á (từ Ấn Độ, Trung Quốc tới Papua New Guinea). Tên Việt: bưởi bung, giáng chân hương, cam dầu núi, bí bái, bai bái. Acronychia peninsularis T.G.Hartley: Queensland. Acronychia pubescens (F.M.Bailey) C.T.White: Từ đông nam Queensland tới tây bắc New South Wales. Acronychia pullei Lauterb.: New Guinea. Acronychia reticulata Lauterb.: New Guinea. Acronychia richards-beehleri Takeuchi: Papua New Guinea. Acronychia rubescens Lauterb.: Đông bắc Papua New Guinea. Acronychia rugosa T.G.Hartley: New Guinea. Acronychia schistacea T.G.Hartley: Papua New Guinea (vịnh Milne). Acronychia similaris T.G.Hartley: Tây New Guinea. Acronychia smithii T.G.Hartley: New Guinea. Acronychia suberosa C.T.White: Từ đông nam Queensland tới đông bắc New South Wales. Acronychia trifoliolata Zoll. & Moritzi: Đảo Christmas, Java, quần đảo Tiểu Sunda, Maluku, New Guinea, quần đảo Solomon, Sulawesi. Acronychia vestita F.Muell.: Đông bắc Queensland. Acronychia wabagensis T.G.Hartley: New Guinea (miền tây vùng Cao Nguyên). Acronychia wilcoxiana (F.Muell.)T.G.Hartley: Từ Queensland tới New South Wales. Acronychia wisseliana T.G.Hartley: New Guinea. Chú thích
Phúc Thọ là một huyện ngoại thành phía tây thành phố Hà Nội, Việt Nam. Địa lý Huyện Phúc Thọ nằm ở đồng bằng Bắc Bộ, cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 35 km về phía tây. Huyện nằm bên bờ hữu ngạn của sông Hồng và sông Đáy; có vị trí địa lý: Phía tây giáp thị xã Sơn Tây Phía nam giáp huyện Thạch Thất và huyện Quốc Oai Phía đông giáp huyện Đan Phượng và huyện Hoài Đức với ranh giới là sông Đáy. Phía bắc giáp huyện Yên Lạc và huyện Vĩnh Tường thuộc tỉnh Vĩnh Phúc với ranh giới là sông Hồng Tại các xã Vân Hà, Vân Nam, Vân Phúc, Hát Môn, Thanh Đa và Tam Thuấn xưa là vùng lòng hồ Vân Cốc có cửa sông Hát Môn. Sông Hát là tên cổ, ngày nay được gọi phổ biến là sông Đáy, lấy nước từ sông Hồng. Tại đây có Đập Đáy do người Pháp xây dựng năm 1934. Diện tích tự nhiên của huyện là 117,3 km². Dân số năm 2021 là 196.000 người. Lịch sử Tên cũ xưa kia là Phúc Lộc. Tên huyện Phúc Thọ có từ năm 1822, thuộc Tỉnh Sơn Tây. Ngày 21 tháng 4 năm 1965, Sơn Tây sáp nhập với Hà Đông, Phúc Thọ thuộc tỉnh Hà Tây. Ngày 27 tháng 12 năm 1975, Hà Tây sáp nhập với Hòa Bình, Phúc Thọ thuộc tỉnh Hà Sơn Bình, gồm 17 xã: Cẩm Đình, Hát Môn, Long Xuyên, Ngọc Tảo, Phúc Hòa, Phụng Thượng, Phương Độ, Sen Chiểu, Tam Thuấn, Thanh Đa, Thọ Lộc, Thượng Cốc, Vân Hà, Vân Nam, Vân Phúc, Võng Xuyên và Xuân Phú. Ngày 29 tháng 12 năm 1978, Phúc Thọ được sáp nhập về Hà Nội . Ngày 17 tháng 2 năm 1979, sáp nhập thêm 3 xã của huyện Quốc Oai là Tam Hiệp, Hiệp Thuận và Liên Hiệp nâng tổng số xã lên 20. Ngày 2 tháng 6 năm 1982, chuyển 2 xã Tích Giang và Trạch Mỹ Lộc của huyện Ba Vì về huyện Phúc Thọ quản lý, tổng cộng là 22 xã. Ngày 12 tháng 8 năm 1991, huyện Phúc Thọ lại chuyển về thuộc tỉnh Hà Tây . Ngày 29 tháng 8 năm 1994, thành lập thị trấn Phúc Thọ trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và nhân khẩu của hai xã Phúc Hòa và Thọ Lộc. Tổng số đơn vị trực thuộc là 23. Ngày 1 tháng 8 năm 2008, tỉnh Hà Tây sáp nhập vào thành phố Hà Nội, huyện Phúc Thọ lại trực thuộc thành phố Hà Nội cho đến nay. Ngày 1 tháng 3 năm 2020, sáp nhập xã Sen Chiểu và xã Phương Độ thành xã Sen Phương; sáp nhập xã Xuân Phú và xã Cẩm Đình thành xã Xuân Đình, còn 1 thị trấn và 20 xã. Hành chính Huyện Phúc Thọ hiện có 21 đơn vị hành chính cấp xã , bao gồm 01 thị trấn Phúc Thọ (huyện lỵ) và 20 xã: Hát Môn, Hiệp Thuận, Liên Hiệp, Long Xuyên, Ngọc Tảo, Phúc Hòa, Phụng Thượng, Sen Phương, Tam Hiệp, Tam Thuấn, Thanh Đa, Thọ Lộc, Thượng Cốc, Tích Giang, Trạch Mỹ Lộc, Vân Hà, Vân Nam, Vân Phúc, Võng Xuyên, Xuân Đình. Kinh tế Theo Phê duyệt Quy hoạch chung xây dựng huyện Phúc Thọ, tỷ lệ 1/10.000 của Hà Nội, huyện được xác định là vùng sinh thái xanh với nông nghiệp là chủ yếu. Trên địa bàn Phúc Thọ nổi tiếng với sản phẩm Bưởi Tam Vân ở 3 xã Vân Nam, Vân phúc, Vân Hà; dâu tằm ở xã Hiệp Thuận và táo ở xã Tam Thuấn. Tất cả đều nằm ở vùng bãi bồi cửa sông Đáy. Quy hoạch cũng gồm một số khu công nghiệp làng nghề như May Tam Hiệp, KCN Nam Phúc Thọ Một số làng nghề khác như Mộc Long Xuyên, Tủ bếp Hát Môn, Bột sắn Liên Hiệp, Hoa cây cảnh ở Tích Giang... Văn hóa Đến tháng 6/2015, toàn huyện có 194 di tích lịch sử - văn hóa, gồm: 78 chùa; 59 đình; 34 đền, miếu, quán, phủ; 21 nhà thờ họ, công giáo và 02 di tích Cách mạng và lưu niệm sự kiện. Di tích quốc gia đặc biệt: Đền Hát Môn (xã Hát Môn), Đình Tường Phiêu (xã Tích Giang), Đình Hạ Hiệp (xã Liên Hiệp) Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia: Lễ hội truyền thống đền Hát Môn 7/3 âm lịch gắn liền với Cửa Hát Môn nơi Hai Bà Trưng mở hội thề và tuẫn tiết. Danh nhân Hai Bà Trưng: vua Việt Nam, chống quân xâm lược Đông Hán. Lê Hiến Mai: Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Thiếu tướng đợt đầu tiên năm 1948. Quê Trạch Mỹ Lộc. Khuất Duy Tiến: nhà cách mạng, Đại biểu Quốc hội khóa I, nguyên Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội, Phó Chủ tịch UBTP Hà Nội. Quê Trạch Mỹ Lộc. Đào Văn Bình: Đại biểu Quốc hội khoá XIII, Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Quê Tam Hiệp. Trần Hiếu: ca sĩ, Nghệ sĩ nhân dân. Quê Tam Hiệp. Trần Tiến: nhạc sĩ nổi tiếng, tác giả các bài hát Sao em nỡ vội lấy chồng, Sắc màu, Vết chân tròn trên cát... Quê Tam Hiệp. Đoàn Thúy Trang: quán quân Sao Mai điểm hẹn 2011, nổi tiếng với ca khúc Tình yêu màu nắng. Khuất Văn Khang: cầu thủ CLB bóng đá Viettel, tuyển thủ ĐTQG Việt Nam. Giao thông Đường bộ có quốc lộ 32 (tên cũ là QL.11A, đổi tên năm 1976) chạy dọc phía nam huyện, từ Hà Nội qua thị trấn Phúc Thọ lên Sơn Tây. Ngoài ra còn tỉnh lộ 82 và 421. Đường thủy chỉ có sông Hồng vì đoạn đầu nguồn sông Đáy nay đã không còn. Các tuyến xe buýt có: 20A (Cầu Giấy - Bến xe Sơn Tây), 20B (Nhổn - Bến xe Sơn Tây), 67 (Phùng - Bến xe Sơn Tây), 89 (Bến xe Yên Nghĩa - Thạch Thất - Bến xe Sơn Tây), 92 (Nhổn - Phú Sơn (Ba Vì)), 117 (Hòa Lạc - Nhổn), 157 (Bến xe Mỹ Đình - Bến xe Sơn Tây). Làng nghề Phúc Thọ có khá nhiều ngành nghề tiểu thủ công nghiệp. Toàn huyện có 54 thôn, xóm và cụm dân cư có nghề trong đó có 7 làng nghề đã được cấp bằng công nhận gồm 3 làng nghề thuộc nhóm chế biến lương thực, thực phẩm và nông sản; 2 làng nhóm dệt may; nhóm hoa, sinh vật cảnh và mộc mỗi nhóm 1 làng. Riêng 3 làng nghề là làm bột sắn Hạ Hiệp, Hiếu Hiệp và dệt thảm thôn Đông hoạt động kém hiệu quả có nguy cơ mai một. Các làng nghề, làng nghề truyền thống và làng có nghề như: Làng nghề may Thượng Hiệp (Tam Hiệp) Nghề mộc thôn Đường Hồng (Thanh Đa) Làng nghề làm bột sắn Hiếu Hiệp (Liên Hiệp) Nghề mộc, may thôn Hiệp Thuận (Hiệp Thuận Nghề đồng nát Bảo Lộc (Võng Xuyên Nghề mộc thôn Tăng Non (Thanh Đa) Làng hoa cây cảnh Cung Sơn (Tích Giang) Làng nghề may Hiệp Cát (Tam Hiệp) Nghề nuôi rắn thôn Tây (Phụng Thượng) Nghề mộc thôn Đường Hồng (Thanh Đa) Nghề may mặc thôn Táo (Tam Thuấn) Làng nghề mộc Triệu Xuyên (Long Xuyên) Giết mổ gia súc Kỳ Úc (thị trấn Phúc Thọ) Làng may, cà dầm tương Hòa Thôn (Tam Hiệp) Làng nghề dệt thảm, rắn thôn Đông (Phụng Thượng) Nghề mộc thôn Phú Đa (Thanh Đa) Làng hoa cây cảnh Tường Phiêu (Tích Giang) Làng nghề may Mỹ Giang (Tam Hiệp) Làng nghề làm bột sắn Hạ Hiệp (Liên Hiệp) Nghề mộc thôn Vĩnh Lộc (Vân Nam) Nghề mộc thôn Thanh Mạc (Thanh Đa) Làng bún, đậu Linh Chiểu (Sen Phương) Làng nghề mộc, tủ bếp Hát Môn (Hát Môn) Làng nghề mộc Tế Giáp (Thanh Đa) Nghề làm tương ở Thượng Cốc Làng nghề may Đại Điền (Tam Hiệp) Làng nghề mộc Phú An (Thanh Đa). Chú thích
Hồ Cẩm Đào (sinh ngày 21 tháng 12 năm 1942) là một cựu chính trị gia Trung Quốc. Ông nguyên là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa 16-17, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, và là người kế nhiệm Giang Trạch Dân trong thế hệ lãnh đạo thứ tư của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông là người tiếp tục chính sách cải cách kinh tế của ông Đặng Tiểu Bình và có tư tưởng ôn hòa về kiểm duyệt báo chí. Tiểu sử Ông sinh ra và lớn lên tại Thái Châu, Giang Tô, quê gốc ở Tích Khê, An Huy, trong một gia đình kinh doanh. Cha ông là Hồ Tăng Ngọc. Ông học phổ thông ở Thái Châu, mùa hè năm 1959, thi đỗ vào khoa Thủy lợi của Đại học Thanh Hoa. Trong quá trình học tập tại đại học, Hồ Cẩm Đào được đánh giá là sinh viên xuất sắc, năm 1962 ông được chọn vào lớp bồi dưỡng tài năng, tham gia nghiên cứu công trình mang số hiệu 930, một công trình quan trọng của nhà nước Trung Quốc lúc bấy giờ. Tháng 4 năm 1964 ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Trung Quốc, tháng 7 năm 1965 tốt nghiệp đại học loại ưu. Trong quá trình học đại học ông còn là thành viên đội múa của trường Thanh Hoa. Ông đã từng diễn rất nhiều vở như Châu Phi đang gào thét, Quét sạch, En-đốt. Trong thời gian học đại học ông đã gặp và yêu Lưu Vĩnh Thanh, bạn học cùng lớp, sau này là vợ ông. Sự nghiệp chính trị Hồ Cẩm Đào bắt đầu sự nghiệp ở Cam Túc, cơ quan đầu tiên của ông là Ủy ban Xây dựng tỉnh Cam Túc nay là Sở Xây dựng tỉnh Cam Túc. Và cất cánh từ đây để bay tới đỉnh cao chính trị tại Bắc Kinh. 1980: Giữ chức phó chủ nhiệm Ủy ban xây dựng tỉnh Cam Túc. Một thời gian ngắn sau, cũng trong năm này ông được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh đoàn Cam Túc (bí thư tỉnh đoàn trẻ nhất Trung Quốc khi đó). 1983: Giữ chức Bí thư thứ hai Trung ương Đoàn thanh niên. 1984: Được bầu là Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn thay cho Vương Triệu Quốc. Tháng 7 năm 1985: Giữ chức bí thư tỉnh ủy Quý Châu, bí thư tỉnh ủy trẻ nhất Trung Quốc khi đó (43 tuổi). Tại Quý Châu ông đã có những thúc đẩy lớn trong việc cải cách việc đưa tin của ngành báo chí. Năm 1987: Khi Quý Châu bầu đại biểu dự đại hội XIII Đảng cộng sản Trung Quốc Hồ Cẩm Đào được bầu với số phiếu cao nhất. Cuối năm 1988: Được Bộ Chính trị giao giữ chức bí thư đảng ủy khu tự trị Tây Tạng khi Tây Tạng đang xảy ra hỗn loạn. Năm 1992: Tại Đại hội XIV Đảng Cộng sản Trung Quốc được bầu là ủy viên thường vụ bộ chính trị. Năm 1993: Là ủy viên thường vụ Bộ Chính trị phụ trách công tác đảng, giữ chức hiệu trưởng trường Đảng Trung ương. Tháng 3 năm 1998: Tại kì họp thứ nhất Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc khóa IX được bầu làm Phó Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Năm 1999: Hội nghị Trung ương 4 Khóa XV Đảng Cộng sản Trung Quốc bầu Hồ Cẩm Đào giữ chức Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương. Ngày 15 tháng 11 năm 2002: Tại Đại lễ đường nhân dân Trung Hoa, sau hội nghị Trung ương lần thứ nhất khóa XVI, Hồ Cẩm Đào được bầu giữ chức Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc. Năm 2003: Được bầu giữ chức Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Năm 2004: Kế nhiệm Giang Trạch Dân giữ chức Chủ tịch Quân ủy Trung ương. Sự kiện này đánh dấu Hồ Cẩm Đào cùng 8 ủy viên thường vụ Bộ chính trị khác là: Ôn Gia Bảo, Tăng Khánh Hồng, Giả Khánh Lâm, Ngô Bang Quốc, Hoàng Cúc, Ngô Quan Chính, Lý Trường Xuân, La Cán chính thức lãnh đạo toàn cục chính trường Trung Quốc, kết thúc thời kì của Giang Trạch Dân, Lý Bằng và Chu Dung Cơ. Năm 2013: Về hưu, chuyển giao quyền lãnh đạo cho Tập Cận Bình. Những thách thức trong thời kỳ "chính trị Hồ và kinh tế Ôn" Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo đều là những người ôn hòa, xuất thân từ sa mạc Gobi gian khổ của vùng Cam Túc và là những cán bộ khoa học của ngành kĩ thuật. Hai ông cùng chèo lái đất nước Trung Quốc trong một thời vận mới, thời vận Trung Quốc tiến lên công nghiệp và sự cạnh tranh, đối đầu đang ngày càng gia tăng từ nhiều phía. Về kinh tế: Vấn đề tam nông đang trở nên gay gắt hơn lúc nào hết, khi mà khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị gia tăng mạnh. Việc Trung Quốc đăng cai Thế vận hội 2008 là cơ hội phát triển nhưng sự phát triển quá nóng của nền kinh tế cũng dễ đưa Trung Quốc vào một cuộc khủng hoảng có thể sẽ tồi tệ hơn khủng hoảng tài chính năm 1997. Về chính trị: Trung Quốc liên tục có những sự căng thẳng trong tranh chấp lãnh thổ với Việt Nam, Nhật Bản, Philippines, Malaysia, Ấn Độ, Hàn Quốc. Vấn đề Đài Loan cũng là thách thức lớn cho bản thân Hồ Cẩm Đào, bên cạnh đó là vấn đề "một nước hai chế độ" của Hồng Kông và Ma Cao, một vấn đề không hề đơn giản cho sự thống nhất trong quyết sách lãnh đạo của Trung Quốc. Hai vụ bạo động Bạo động Tây Tạng, tháng 3 năm 2008 Bạo động Tân Cương 2009 Ngày 25 tháng 8 năm 2009, Hồ Cẩm Đào lần đầu tiên đến viếng thăm Tân Cương sau vụ bạo động chủng tộc đẫm máu vào tháng 7/2009, ra lệnh cho các giới chức chính quyền địa phương và lực lượng an ninh phải chú trọng vào việc duy trì an ninh trật tự và ổn định xã hội trong vùng và cảnh cáo rằng thành phần đòi ly khai "thế nào cũng thất bại". Đài truyền hình trung ương nhà nước Trung Quốc chiếu hình ảnh Hồ Cẩm Đào gặp gỡ đại diện các sắc tộc và dân chúng địa phương, viếng thăm nhà máy và nói chuyện với binh sĩ. Hồ Cẩm Đào ra lệnh cho giới hữu trách phải "coi việc giữ gìn ổn định xã hội là ưu tiên hàng đầu và duy trì sức mạnh để bảo đảm thắng lợi trong cuộc đấu tranh duy trì ổn định ở Tân Cương". Hồ Cẩm Đào cũng nói chuyện với một nhóm binh sĩ và công an từng tham dự trấn áp vụ bạo loạn. Theo phương Tây thì gần 200 người thiệt mạng và 1.700 người khác bị thương trong vụ bạo loạn. Cuộc biến động này đánh dấu bạo loạn chủng tộc trầm trọng nhất ở Trung Quốc từ nhiều thập niên qua, cho thấy có sự bất mãn sâu xa trong thành phần dân thiểu số Duy Ngô Nhĩ và sự hận thù trong giới dân gốc Hán. Bạo động xảy ra ngày 5 tháng 7 năm 2009 sau khi công an ngăn chặn một cuộc biểu tình ôn hòa của giới trẻ Duy Ngô Nhĩ, khiến đám đông nổi giận, đập phá cửa tiệm, đốt xe và tấn công người gốc Hán. Hai ngày sau đó, người Hán mở ra các cuộc tấn công trả thù nhắm vào nơi sinh sống của cộng đồng Duy Ngô Nhĩ. Người Duy Ngô Nhĩ tại Tân Cương từ lâu nay vẫn than phiền là bị người Hán kỳ thị và gạt ra ngoài sự phát triển kinh tế ở vùng này khi người Hán di cư ồ ạt kéo tới nơi vẫn là khu vực sinh sống bao đời của họ. Gia đình Cha Hồ Cẩm Đào là Hồ Tăng Ngọc, mẹ là Lý Văn Đoan, bà qua đời khi Hồ Cẩm Đào mới 7 tuổi. Ông là con trai một trong gia đình, ông có hai em gái là Hồ Cẩm Dung và Hồ Cẩm Lai. Phu nhân Hồ Cẩm Đào là Lưu Vĩnh Thanh, họ có một con trai Hồ Hải Phong, và một con gái là Hồ Hải Thanh. Hồ Hải Phong tốt nghiệp đại học Thanh Hoa với bằng thạc sĩ vật lý chế tạo, được nhận ngay vào làm phụ tá cho tổng giám đốc công ty Nuctech (Công ty Công nghệ Hạt nhân) và sau đó làm Bí thư Đảng bộ của tập đoàn Thanh Hoa. Năm 2009, Công ty Nuctech bị điều tra về tham nhũng tại Namibia và bị cáo buộc có hành vi 'phá giá phi pháp' ở Anh Quốc.. Hiện nay ông Phong đang giữ chức Thị trưởng Thành phố Gia Hưng, tỉnh Chiết Giang.
(sinh ngày 9 tháng 8 năm 1939) là Thủ tướng Ý. Ông cũng là Thủ tướng Ý từ năm 1996 đến 1998 và Chủ tịch Ủy ban châu Âu từ 1999 đến 2004. Sau kỳ tổng tuyển cử tháng 4 năm 2006, ông trở thành thủ tướng một lần nữa: kết quả bầu cử gần ngang phiếu giữa liên minh trung tả l'Unione (tiếng Ý, "Liên minh") đứng đầu là ông Prodi và liên minh trung hữu Nhà Tự do (Casa delle Libertà) đứng đầu là Silvio Berlusconi. Ngày 19 tháng 4 năm 2006, Tòa án Tối cao Ý công nhận sự thắng cử của l'Unione. Ông là hội viên của Câu lạc bộ Madrid. Năm 1969 ông cưới Flavia Franzoni; hai vợ chồng có hai đứa trai, Giorgio và Antonio. Gia đình ông vẫn ở Bologna.
Chi Chôm chôm (danh pháp khoa học: Nephelium) là một chi của khoảng 23 loài thực vật có hoa trong họ Bồ hòn (Sapindaceae), có nguồn gốc ở khu vực Đông Nam Á, Assam, Bangladesh và miền đông Trung Quốc. Một vài loài đã du nhập vào Angola, Costa Rica, quần đảo Tiểu Sunda, Sri Lanka, Trinidad và Tobago. Các loài cây trong chi này là cây thường xanh thân gỗ với lá kép hình lông chim và quả dạng quả hạch ăn được; trong đó một loài là N. lappaceum (chôm chôm) là loài cây cung cấp quả có giá trị thương mại. Chi này có quan hệ họ hàng gần gũi với các chi như chi Vải (Litchi) và nhãn (Dimocarpus). Các loài Nephelium aculeatum Nephelium compressum Nephelium costatum Nephelium cuspidatum Nephelium cuspidatum var. bassacense Nephelium cuspidatum subvar. beccarianum Nephelium cuspidatum subvar. dasyneurum Nephelium cuspidatum var. eriopetalum Nephelium cuspidatum var. multinerve Nephelium cuspidatum var. ophiodes Nephelium cuspidatum var. robustum Nephelium daedaleum Nephelium hamulatum Nephelium havilandii Nephelium hypoleucum Nephelium juglandifolium Nephelium lappaceum (đồng nghĩa: Dimocarpus crinita, Euphoria nephelium) - chôm chôm Nephelium lappaceum thứ lappaceum (đồng nghĩa: Nephelium glabrum) Nephelium lappaceum thứ pallens (đồng nghĩa: Nephelium chryseum, Nephelium mutabile thứ pallens) - chôm chôm vàng, vải lông Nephelium lappaceum thứ xanthioides (đồng nghĩa: Nephelium xanthioides) Nephelium laurinum Nephelium macrophyllum Nephelium maingayi Nephelium meduseum Nephelium melanomiscum Nephelium melliferum Nephelium papillatum Nephelium ramboutan-ake (đồng nghĩa: N. mutabile, Litchi ramboutan-ake) - pulasan Nephelium reticulatum Nephelium subfalcatum Nephelium toong Nephelium topengii (đồng nghĩa: Nephelium lappaceum thứ topengii, Xerospermum topengii) - chôm chôm Hải Nam Nephelium uncinatum'' Chú thích
Chi Nhãn (danh pháp khoa học: Dimocarpus) là một chi của khoảng 20 loài thực vật có hoa trong họ Bồ hòn (Sapindaceae), có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới Đông Nam Á và miền bắc khu vực Australasia từ Sri Lanka và miền nam Trung Quốc kéo dài về phía nam tới miền bắc bang Queensland của Australia. Quả của các loài này ăn được, với nhãn (D. longan) là loài cây được trồng để sản xuất quả có quy mô thương mại. Các loài cây trong chi này là các loại cây thân gỗ thường xanh lớn, có thể cao tới 25–40 m, với các lá hình lông chim. Các hoa nhỏ, không dễ thấy và mọc thành chùy hoa lớn. Quả là loại quả hạch hình bầu dục dài 3–5 cm chứa một hạt duy nhất được bao bọc bởi cùi thịt nhiều nước màu trắng mờ và có vỏ mỏng nhưng cứng màu vàng ánh da cam hay đỏ. Danh sách loài Dimocarpus australianus. Phân bố: Queensland. Dimocarpus dentatus. Phân bố: Đông và bắc Borneo. Dimocarpus foveolatus. Phân bố: Philippines. Dimocarpus fumatus. Phân bố: Borneo, Indonesia, Lào, bán đảo Mã Lai, Philippines, Thái Lan, Trung Quốc, Việt Nam. Dimocarpus fumatus fumatus. Phân bố: Borneo, Lào, bán đảo Mã Lai, Thái Lan, Việt Nam. Dimocarpus fumatus subsp. calcicola. Phân bố: Trung và nam Trung Quốc. Dimocarpus fumatus subsp. indochinensis. Phân bố: Lào, Thái Lan, trung nam và đông nam Trung Quốc, Việt Nam. Dimocarpus fumatus subsp. javensis. Phân bố: Java, Sumatra Dimocarpus fumatus subsp. philippinensis. Phân bố: Philippines. Dimocarpus gardneri. Phân bố: Sri Lanka. Dimocarpus leichhardtii ?. Phân bố: Queensland. Có thể là Dimocarpus longan longan. Dimocarpus longan - nhãn. Dimocarpus longan longan. Phân bố: Ấn Độ (quần đảo Andaman, Assam, quần đảo Nicobar), Bangladesh, Campuchia, Đông Himalaya, bán đảo Mã Lai, Myanmar, Sri Lanka, Thái Lan, Trung Quốc (đông nam và trung nam, đảo Hải Nam), Việt Nam. Du nhập vào Borneo, Đài Loan, Java, Lào, Tiểu Sunda, New Guinea, Philippines, Réunion, đảo Society. Dimocarpus longan var. echinatus. Phân bố: Borneo, Philippines. Dimocarpus longan var. longetiolatus. Phân bố: Miền nam Việt Nam. Dimocarpus longan subsp. malesianus - nhãn Mã Lai. Phân bố: Campuchia, Indonesia (Borneo, Maluku, Sulawesi, Sumatra), Lào, Malaysia (Borneo, bán đảo Mã Lai), Myanmar, Philippines, Thái Lan, Việt Nam. Dimocarpus longan var. obtusus. Phân bố: Lào, Thái Lan, Việt Nam. Dimocarpus scandens. Phân bố: Thái Lan. Dimocarpus yunnanensis - nhãn Vân Nam. Phân bố: Trấn Cẩm Bình, huyện Cảnh Đông, địa cấp thị Phổ Nhĩ, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Chú thích
Ethiopia (phiên âm tiếng Việt: Ê-ti-ô-pi), tên đầy đủ Cộng hòa Dân chủ Liên bang Ethiopia là một quốc gia nội lục ở vùng sừng châu Phi có chung biên giới với Eritrea về phía bắc, Djibouti về phía đông bắc, Somalia về phía đông, Kenya về phía nam, Nam Sudan về phía tây và Sudan về phía tây bắc. Với hơn 109 triệu dân tính đến năm 2019, Ethiopia là quốc gia đông dân thứ 12 trên thế giới, quốc gia đông dân thứ hai trên lục địa châu Phi chỉ sau Nigeria và là quốc gia không giáp biển đông dân nhất trên thế giới. Quốc gia này có tổng diện tích 1.100.000 km vuông. Thủ đô và thành phố lớn nhất của nó là Addis Ababa, nằm cách Khe nứt Đông Phi vài cây số về phía tây, chia cắt đất nước thành các mảng kiến ​​tạo châu Phi và Somali. Bản sắc dân tộc Ethiopia được đặt trong vai trò lịch sử và đương đại của Cơ đốc giáo và Hồi giáo, và sự độc lập của Ethiopia khỏi sự cai trị của ngoại bang bắt nguồn từ các vương quốc Ethiopia cổ xưa khác nhau. Trong hầu hết chiều dài lịch sử, Ethiopia theo chế độ quân chủ lập hiến và dấu vết về triều đại phong kiến ở Ethiopia bắt đầu từ thế kỷ II TCN. Ethiopia cũng là một trong những địa điểm cổ nhất mà con người từng sinh sống. Nơi đây có thể là khu vực mà những người Homo sapiens xây dựng nên Trung Đông đầu tiên và các điểm xung quanh đó. Bên cạnh La Mã, Trung Quốc và Ba Tư, Vương quốc Aksum của Ethiopia được xem là một trong 4 quốc gia có sức mạnh lớn nhất thế giới vào thế kỷ III. Trong suốt thời kỳ Tranh giành châu Phi, Ethiopia là quốc gia châu Phi duy nhất bên cạnh Liberia giữ vững được chủ quyền như là một quốc gia độc lập, và là một trong 4 thành viên châu Phi thuộc Hội Quốc Liên. Sau một giai đoạn ngắn bị người Ý chiếm đóng, Ethiopia trở thành thành viên sáng lập của Liên hiệp quốc. Khi các quốc gia khác được trao trả độc lập sau thế chiến thứ 2, một số quốc gia đó sử dụng màu cờ của Ethiopia, và Addis Ababa trở thành nơi đặt trụ sở của nhiều tổ chức quốc tế ở châu Phi. Ethiopia là quốc gia có tiềm năng thủy điện lớn thứ 2 ở châu Phi, với hơn 85% nguồn nước có từ các dòng của sông Nile, và có đất đai màu mỡ nhưng quốc gia này từng trải qua hàng loại các đợt đói trong thập niên 1980, và các đợt đói này càng trở nên trầm trọng hơn bởi ảnh hưởng của địa chính trị và các cuộc nội chiến, làm cho hàng trăm ngàn người chết. Tuy nhiên, quốc gia này đã bắt đầu hồi phục một cách chậm chạp, và Ethiopia ngày nay là nền kinh tế lớn nhất Đông và Trung Phi tính theo GDP. và là một trong những nền kinh tế có tốc độ phát triển nhanh nhất trên thế giới. Quốc gia này nắm nhiều quyền lực trong vùng sừng châu Phi và đông Phi. Gần đây, vi phạm nhân quyền dưới ở Ethiopia thời thủ tướng Meles Zenawi đã được báo cáo, mặc dù quốc gia này có quyền lực chính trị, ngoại giao và kinh tế dẫn đầu ở châu Phi. Lịch sử Cổ đại Cuối thế kỷ I TCN, trên bờ Hồng Hải châu Phi xuất hiện vương quốc Aksum của dân tộc Sabae (tiếng Do Thái cổ là Sheba). Quốc gia do dòng họ Solomon cai quản, họ gọi mình là dòng dõi trực tiếp của thánh đế Solomon và hoàng hậu Saba (Sheba). Kitô giáo trở thành giáo hội quốc gia của vương quốc Aksum vào thế kỷ thứ IV dưới thời vua 'Ezana, khiến đây là nơi thứ 3 trên thế giới công nhận Kitô giáo là quốc giáo, sau Armenia và Gruzia. Từ thế kỷ VII, vương quốc dần dần mất đi sự hùng mạnh và ảnh hưởng của mình, đồng thời mất cả lãnh thổ. Đầu thế kỷ X, dòng họ Solomon bị triều đại Zagve lật đổ, đó là những người cai quản vùng Lasta cũng trên cao nguyên Ethiopia. Khoảng năm 1260, dòng họ Solomon giành được quyền lực trên phần lớn Ethiopia, nhưng các tín đồ Hồi giáo vẫn kiểm soát vùng bờ biển và miền đông nam. Trong thời gian thống trị của Zara Jacob (năm 1434 – 1468) việc quản lý giáo hội Ethiopia được cải tổ. Lúc đó đã xuất hiện hệ thống chính trị đặc trưng cho quyền lực của tuyệt đối của quốc vương, những nét căn bản của hệ thống này được gìn giữ cho đến giữa thế kỷ XX. Khi những tín đồ Islam Harera xâm nhập vào Ethiopia (năm 1527), hoàng đế, giờ đây các nhà cầm quyền bắt đầu gọi như vậy, cầu cứu những người Tây Ban Nha. Nhờ sự giúp đỡ của họ, Ethiopia giành được quyền chiến thắng vào năm 1542, sự cố gắng của nhà truyền giáo dòng Tên định hướng hoàng đế theo Công giáo Rôma đã không thành công. Vài thế kỷ tiếp theo (thế kỷ XVII – XIX), được đánh dấu là những thời kỳ thịnh vượng của nền văn hóa dân tộc. Trong đó, những truyền thống Hồi giáo và Kitô giáo kết hợp một cách đáng ngạc nhiên. Có những thời kỳ dài bất ổn định và phân tán, trong những năm nặng nề này, giáo hội là sức mạnh liên kết chủ yếu. Trong những năm 1870 của thế kỷ XIX, kẻ thù chính của đế quốc (lúc này là các nhóm quốc gia bán độc lập) là Ai Cập. Năm 1875 Ai Cập và những tín đồ Islam Harera cùng tấn công Ethiopia từ phía bắc và phía đông. Cuộc tấn công bị chặn lại nhưng Ai Cập vẫn tiếp tục chiếm đóng các cảng ở Hồng Hải và ở Somalia, gây khó khăn trong việc cung cấp cho quân đội Ethiopia và cả dân thường. Năm 1898 hoàng đế Joan IV mất trong một cuộc xung đột quân sự với Sudan. Hoàng đế mới là Menelic đã sáp nhập vào Ethiopia những lãnh thổ mới và thành lập thủ đô mới Addis Ababa. Cùng với sự khai mở kênh đào Suez, năm 1869 các thủ lĩnh châu Âu chú ý đến bờ dải Hồng Hải. Năm 1872, Ý chiếm cảng Aseb và năm 1885 chiếm Massau. Năm 1895, giữa Ý và Ethiopia nổ ra cuộc chiến tranh, kết cuộc là Ý thất bại vào năm sau ở Adua. Năm 1930, Tafari Maconnen lên ngôi, tuyên bố mình là hoàng đế Haile Selassie I. Đồng thời phát xít Ý chuẩn bị cuộc xâm lược mới. Năm 1935, Ý bắt đầu chiếm Ethiopia. Năm sau Mussolini tuyên bố vua Victor Emmanuel III là hoàng đế của Ethiopia. Haile Selassie buộc phải rời bỏ đất nước, nhưng năm 1941 ông trở lại ngai vàng sau khi quân đội Anh và Ethiopia thắng quân Ý. Theo quyết định của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc năm 1952, Eritrea, thuộc địa cũ của Ý sáp nhập vào Ethiopia. Trong những năm 1960 và 1970, sau khi củng cố quyền lực của mình trong nước, Haile Selassie chú ý đến các vấn đề quốc tế. Ông đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập khối châu Phi thống nhất, trong cuộc tiến hành nhiều cuộc đàm phán thế giới giữa các quốc gia thù địch của đại lục. Hơn nữa, chính Ethiopia lúc này đang chiến tranh với Somalia (năm 1964) xung đột với Sudan (năm 1965 và 1967). Nghèo đói, bất bình đẳng xã hội bao trùm cả nước, tình trạng biển thủ công quỹ phát triển. Bổ sung thêm cho các tai họa là nạn hạn hán khủng khiếp năm 1972 và 1975. Năm 1974, phái quân sự loại Haile Selassie khỏi chính quyền, chế độ quân chủ bị tiêu diệt và Ethiopia trở thành nước cộng hòa. Năm 1976 – 1977, nhân vật chính trị chủ yếu của Ethiopia là đại tá Mengistu Haile Mariam. Năm 1984, Ethiopia trở thành quốc gia theo hướng chủ nghĩa xã hội và Mengistu là tổng bí thư của Đảng Công nhân vừa tái lập. Đầu những năm 1990, do chấm dứt sự giúp đỡ của Liên Xô, vị trí của Mengistu lung lay nghiêm trọng. Năm 1990, những người chống đối từ tỉnh Tigre (Mặt trận cách mạng Dân chủ Nhân dân Ethiopia) và những người phân lập từ Eritrea kiểm soát các tỉnh miền bắc đất nước. Năm 1991, những người khởi nghĩa chiếm Addis Ababa. Năm 1993, Eritrea tuyên bố độc lập. Một năm sau mặt trận Cách mạng Dân Chủ Nhân dân Ethiopia giành được thắng lợi trong cuộc bầu cử ở Hội đồng hiến pháp. Tên gọi của đất nước và cả đường lối chính trị được thay đổi. Vương triều Selassie Đầu thế kỷ XX được đánh dấu bằng sự cai trị của Hoàng đế Haile Selassie, người lên nắm quyền sau khi Iyasu V đã bị lật đổ. Ông đã tiến hành hiện đại hóa Ethiopia từ năm 1916, từ thời Zewditu nắm quyền và sau này khi đã trở thành nhà lãnh đạo trên thực tế của đế quốc Ethiopia. Sau cái chết của Zewditu, ông đã được lên ngôi Hoàng đế ngày 2 tháng 11 năm 1930. Sự độc lập của Ethiopia bị gián đoạn bởi chiến tranh Italo - Abyssinian lần thứ hai và sự xâm lược của Ý (1936-1941). Trong thời gian này, Haile Selassie kêu gọi Liên Hợp Quốc hỗ trợ mình vào năm 1935. Sau khi Ý tham gia vào thế chiến thứ II, các lực lượng của Đế quốc Anh, cùng với những người yêu nước Ethiopia, đã chính thức giải phóng Ethiopia trong chiến dịch Đông Phi năm 1941. Một chiến dịch du kích Ý vẫn tiếp tục cho đến năm 1943. Tiếp theo đó là sự công nhận đầy đủ chủ quyền của Anh đối với Ethiopia (tức là không có bất kỳ ưu đãi đặc biệt của Anh), với việc ký kết Hiệp định Anh-Ethiopia vào tháng 12 năm 1944. Ngày 26 tháng 8 năm 1942, Haile Selassie đã đưa ra một tuyên bố bãi bỏ chế độ nô lệ ở nước này. Ethiopia có từ hai đến bốn triệu người nô lệ trong những năm đầu thế kỷ XX, trong tổng dân số khoảng mười một triệu. Năm 1952, Ethiopia liên kết với Eritrea, và bởi tầm quan trọng chiến lược của Eritrea, do bờ biển Biển Đỏ và tài nguyên khoáng sản, cùng với lịch sử chung của nó với Ethiopia, là nguyên nhân chính dẫn đến việc sáp nhập Eritrea như là tỉnh thứ 14 của Ethiopia vào năm 1962. Mặc dù Haile Selassie được coi là một anh hùng dân tộc, nhưng người dân Ethiopia đã quay lưng lại với ông do cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973 trên toàn thế giới, gây ra sự tăng mạnh của giá xăng bắt đầu từ ngày 13 tháng 2 năm 1974, tình trạng thiếu lương thực, các cuộc chiến tranh biên giới, và sự bất mãn trong tầng lớp trung lưu được tạo ra thông qua sự hiện đại hóa, đã dẫn đến các cuộc biểu tình lớn bắt đầu từ ngày 18 tháng 2 năm 1974. Sinh viên và công nhân tại Addis Ababa đã bắt đầu biểu tình phản đối chính phủ ngày 20 tháng 2 năm 1974. Thủ tướng Akilou Habte Wolde bị lật đổ. Một chính phủ mới được thành lập do Endelkachew Makonnen làm Thủ tướng Chính phủ.. Cuối cùng triều đại Haile Selassie đã kết thúc vào ngày 12 tháng 9 năm 1974, khi lực lượng quân sự do Đại tá Mengistu Haile Mariam đứng đầu dưới sự hậu thuẫn của Liên Xô, lật đổ ông. Hội đồng Cách mạng Lâm thời mới được thành lập với một nhà nước cộng sản độc đảng và đất nước được đổi tên gọi là Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Ethiopia. Thời kì Cộng sản Vào những năm 1970 của thế kỉ XX, nước Ethiopia lâm vào một cuộc khủng hoảng kinh tế và xã hội sâu sắc. Ethiopia diễn ra nạn đói nhiều năm làm nhiều người bị chết. Ngày 13 tháng 2 năm 1971, nhân dân thủ đô Addis Ababa xuống đường biểu tình chống lại chính phủ của Hoàng đế Haile Selassie I. Phong trào ủng hộ lan rộng ra khắp cả nước. Tháng 2 năm 1974, được sự ủng hộ của nhân dân, các lực lượng quân đội bắt giữ Hoàng đế và cả triều đình, chính quyền về tay Ủy ban phối hợp các Lực lượng vũ trang. Ủy ban phối hợp các Lực lượng vũ trang và sau đó là Hội đồng Quân chính lâm thời đã tịch thu toàn bộ tài sản hoàng gia như các lâu đài, cung điện... Tháng 9 năm 1974, Hội đồng Quân chính lâm thời được thành lập thay cho Ủy ban phối hợp các Lực lượng vũ trang do lãnh tụ cuộc cách mạng là Mengistu Haile Mariam làm chủ tịch Hội đồng Quân chính lâm thời có nhiệm vụ như là một chính phủ lâm thời. Hội đồng Quân sự Hành chính Lâm thời đã công bố bản "Hiến pháp", theo đó Ethiopia theo chủ nghĩa xã hội và thời kì 1974 đến 1987, thế giới quen gọi Ethiopia là nước Ethiopia xã hội chủ nghĩa. Năm 1987, Ethiopia đổi tên là Cộng hòa Dân chủ nhân dân Ethiopia và thay đổi về hệ thống chính trị với cương vị lãnh đạo nhà nước là Chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Ethiopia nhưng cương vị này đến khi bị bãi bỏ vẫn do Nguyên Chủ tịch Hội đồng Quân chính lâm thời nắm giữ. Về một số chính sách của Ban lãnh đạo Nhà nước đã xây dựng những trại định cư cho nhân dân ở những nơi có nguồn nước và đặc biệt hơn cả là chống lại sự xâm lược của quân Somalia. Nhưng những vấn đề về nông nghiệp vẫn không được Nhà nước chú ý và quan tâm đúng mức. Từ năm 1983 đến 1985, ở Ethiopia đã xảy ra nạn đói làm khoảng 1 triệu người chết. Đó là nguyên nhân của những cuộc nổi dậy của các lực lượng chống đối. Đặc biệt là vào tháng 5 năm 1991, sau khi nhiều nước xã hội chủ nghĩa bị sụp đổ, các cuộc nổi dậy tiến sát vào thủ đô Addis Ababa. Trước tình hình đó Mengistu tuyên bố từ bỏ chức vụ và lưu vong sang Zimbabwe. Các lực lượng chống đối lên nắm chính quyền, thay đổi quốc hiệu, quốc huy, quốc khánh thiết lập nhà nước phi cộng sản. Tình hình chính trị Ethiopia vẫn diễn ra phức tạp, các phe phái vẫn xung đột dữ dội từ đó cho tới nay Chính trị Ethiopia từng theo Xã hội chủ nghĩa và là thành viên của phe này, có tên là nước Ethiopi xã hội chủ nghĩa (đến năm 1987, sau cải cách chính trị và sự thông qua Hiến pháp mới, đổi tên nước là Cộng hoà Dân chủ nhân dân Ethiopi), có quan hệ với Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa khác. Ethiopia cũng đứng về phía Liên Xô trong thời kì Trung - Xô chia rẽ. Quốc gia này từng là quan sát viên của SEV với Lào, Triều Tiên, Nam Tư và Algérie. Sau khi Liên Xô và các quốc gia Đông Âu sụp đổ, Ethiopia cũng thay đổi hệ thống chính trị, thực hiện đa đảng về chính trị, áp dụng nền kinh tế thị trường. Chính trị hiện nay của Ethiopia diễn ra trong khuôn khổ của một nước cộng hòa nghị viện liên bang, theo đó Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu chính phủ. Quyền hành pháp thuộc chính phủ. Quyền lập pháp liên bang được trao cho cả hai phía chính phủ và lưỡng viện của quốc hội. Trên cơ sở Điều 78 của hiến pháp Ethiopia năm 1994, tư pháp hoàn toàn độc lập với hành pháp và lập pháp Theo Chỉ số dân chủ được công bố bởi Cơ quan Tình báo kinh tế vào cuối năm 2010, Ethiopia là một "chế độ độc tài", đứng thứ 118 trong số 167 quốc gia được khảo sát. Ethiopia đã giảm 12 điểm trong danh sách từ năm 2006, và các báo cáo mới nhất cho rằng sự sụt giảm là do các cuộc đàn áp của chế độ đối với các hoạt động đối lập, phương tiện truyền thông và xã hội dân sự trước khi cuộc bầu cử quốc hội diễn ra năm 2010, báo cáo đã lập luận rằng Ethiopia một nhà nước độc đảng trên thực tế. Cuộc bầu cử 547 thành viên quốc hội lập hiến của Ethiopia đã được tổ chức trong tháng 6 năm 1994. Hiến pháp của nước Cộng hòa Dân chủ Liên bang Ethiopia được thông qua vào tháng 12 năm 1994. Các cuộc bầu cử lựa chọn các đại biểu quốc hội và cơ quan lập pháp khu vực được tổ chức lần đầu tiên vào tháng 5 và tháng 6 năm 1995. Hầu hết các đảng đối lập đã chọn tẩy chay các cuộc bầu cử này. Đã có một chiến thắng vang dội dành cho đảng Mặt trận Dân chủ Nhân dân Cách mạng của Ethiopia (EPRDF). Các quan sát viên quốc tế và các tổ chức phi chính phủ đã kết luận rằng các đảng đối lập đã có thể tham gia nếu họ chọn để làm như vậy. Chính phủ hiện thời của Ethiopia được thành lập vào tháng 8 năm 1995. Tổng thống đầu tiên là Negasso Gidada. Chính phủ EPRDF nằm dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Meles Zenawi đã thúc đẩy chính sách của liên bang dân tộc, phân cấp các quyền hạn đáng kể cho khu vực, chính quyền dựa trên chủng tộc. Ethiopia ngày nay có chín khu vực hành chính bán tự trị có quyền lực cao. Chính phủ của thủ tướng Zenawi được bầu vào năm 2000, trong cuộc bầu cử đa đảng đầu tiên của Ethiopia, tuy nhiên kết quả đã bị chỉ trích nặng nề bởi các quan sát viên quốc tế và tố cáo gian lận của phe đối lập. Đảng EPRDF cũng giành chiến thắng trong cuộc bầu cử năm 2005 đưa Zenawi trở lại nắm quyền lực. Mặc dù tỷ lệ bỏ phiếu tăng trong cuộc bầu cử, nhưng cả phe đối lập và các quan sát viên đến từ Liên minh châu Âu và các nơi khác nói rằng cuộc bầu cử đã không đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế cho các cuộc bầu cử công bằng và tự do. Cảnh sát Ethiopia được cho là đã tàn sát 193 người biểu tình, chủ yếu là ở thủ đô Addis Ababa trong các cuộc biểu tình bạo lực sau bầu cử tháng 5 năm 2005. Chính phủ bắt đầu cuộc đàn áp do những lo ngại về các cuộc nổi dậy và khủng bố bằng cách sử dụng tra tấn, bỏ tù, và các phương pháp đàn áp khác để bịt miệng các nhà phê bình sau cuộc bầu cử, đặc biệt là những người có cảm tình với đảng đối lập là đảng Quốc gia Oromo (ONC). Chính phủ đã tham gia vào một cuộc xung đột với quân nổi dậy ở khu vực Ogaden từ năm 2007. Đảng đối lập lớn nhất trong năm 2005 là Liên minh Đoàn kết vì Dân chủ (CUD). Sau các cuộc chia rẽ nội bộ khác nhau, hầu hết các nhà lãnh đạo đảng CUD đã thành lập nên 2 đảng mới là đảng Đoàn kết vì Dân chủ và đảng Tư pháp do Thẩm phán Birtukan Mideksa đứng đầu. Một thành viên của nhóm dân tộc Oromo, bà Birtukan Mideksa là người phụ nữ đầu tiên lãnh đạo một đảng chính trị ở Ethiopia. Tính đến năm 2008, năm đảng đối lập hàng đầu là đảng Thống nhất vì Dân chủ và Công lý do Thẩm phán Birtukan Mideksa, Lực lượng Dân chủ Ethiopia dẫn đầu bởi Dr.Beyene Petros, Phong trào Liên minh Dân chủ Oromo do Tiến sĩ Bulcha Demeksa lãnh đạo, đảng Quốc hội Nhân dân Oromo dẫn đầu bởi Tiến sĩ Merera Gudina, và đảng Dân chủ Medhin do Lidetu Ayalew lãnh đạo. Địa lý Địa hình Với diện tích , Ethiopia là quốc gia rộng hàng 27 trên thế giới, tương đương với kích thước của Bolivia. Quốc gia này nằm giữa vĩ độ 3°B và 15°B, và kinh độ 33°Đ và 48°Đ. Ethiopia nằm ở Đông Phi, Bắc giáp Eritrea, Nam giáp Kenya, Đông giáp Djibouti và Somalia, Tây giáp Sudan và Nam Sudan. Hơn một nửa lãnh thổ của Ethiopia là cao nguyên Ethiopia (cao trung bình 1.600 – 2.000m), bị nhiều sông và hẻm sâu xuyên cắt. Cao nguyên bị cắt ngang bởi thung lũng Lớn – vùng đứt gãy của vỏ Trái Đất. Trong phạm vi của thung lũng Lớn có vào hồ kiến tạo lớn (Tana, Turcana và các hồ khác), những núi cao nhất cũng nằm ở đây (núi Ras – Dashen, 4.620m). Vùng lũng hẹp dài Rift Valley gồm một số hồ rải rác và sông Awash kéo dài theo hướng Đông Bắc-Tây Nam, chia vùng cao nguyên Tây Bắc và khối núi Harar. Các vùng đồng bằng ngoại biên phần lớn là sa mạc. Các sông chính: Sông Nil Xanh (đoạn chảy qua Ethiopia dài khoảng 1.370 km), sông Dawa, sông Awash, sông Shebele. Các hồ chính: Hồ Tana, hồ Abbé, hồ Zway, hồ Abeba, hồ Turkana. Tài nguyên thiên nhiên: Vàng (trữ lượng nhỏ), platin, đồng, bồ tạt, khí đốt, thủy điện. Khí hậu: Vùng phía Bắc và phía Đông có khí hậu rất nóng, vùng cao nguyên và núi có khí hậu ôn hòa hơn. Môi trường: Nạn phá rừng; đất bị xói mòn; tình trạng chăn thả quá mức; thiếu đồng cỏ; sa mạc hóa; nạn đói. Khí hậu Khí hậu chủ yếu ở Ethiopia là nhiệt đới gió mùa, với sự thay đổi do địa hình gây ra. Hầu hết các thành phố lớn của đất nước nằm ở độ cao khoảng 2.000-2.500 m (6,562-8,202 ft) trên mực nước biển, bao gồm cả thủ đô lịch sử như Gondar và Aksum. Thủ đô hiện đại Addis Ababa nằm ở chân núi Entoto ở độ cao khoảng 2.400m với khí hậu trong lành và dễ chịu. Với nhiệt độ quanh năm tương đối ổn định, các mùa ở Addis Ababa chủ yếu được xác định bởi lượng mưa, với một mùa khô từ tháng 2, một mùa mưa tháng 9. Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1.200mm. Có trung bình 7 giờ nắng mỗi ngày, có nghĩa là nắng khoảng 60% thời gian ban ngày. Mùa khô là thời điểm nắng nhất của năm, mặc dù ngay cả ở đỉnh cao của mùa mưa vào tháng 7 và tháng 8 vẫn còn vài giờ mỗi ngày có ánh nắng mặt trời. Nhiệt độ trung bình hàng năm tại Addis Ababa là 16 °C (60,8 °F), với nhiệt độ tối đa hàng ngày trung bình 20-25 °C (68-77 °F) trong suốt cả năm, và giảm xuống thấp vào đêm trung bình 5-10 °C (41-50 °F). Thành phố lớn nhất và các điểm du lịch ở Ethiopia nằm ở độ cao tương tự như Addis Ababa và cũng có khí hậu tương tự. Ở các vùng thấp hơn, đặc biệt là vùng đồng cỏ và cây bụi ở phía đông của đất nước, khí hậu nóng và khô hơn đáng kể. Đối nội Sau khi lên nắm quyền, Mặt trận Cách mạng Dân chủ nhân dân Ethiopia (EPRDF) chủ trương hoà giải dân tộc nhằm tạo sự ổn định, xây dựng lại đất nước và đã để cho Eritrea tuyên bố độc lập. Năm 2002, Ethiopia và Eritrea chấp thuận ký Hiệp định hòa bình tuân thủ phán quyết của Ủy ban Quốc tế về biên giới, theo đó xác định vùng đất Badme và một số vùng lãnh thổ ở khu vực biên giới giữa Ethiopia và Eritrea là thuộc chủ quyền của Eritrea, kết thúc chiến tranh kéo dài nhiều năm. Hai bên thành lập vùng đệm, do lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc kiểm soát. Nhưng đến năm 2005, tình hình lại có dấu hiệu căng thẳng trở lại vì Eritrea cho rằng Ethiopia đã không tuân thủ những cam kết trong Hiệp định. Để phản ứng lại thái độ thờ ơ của Liên Hợp quốc trước sự vi phạm Hiệp định của Ethiopia, tháng 10/2005, Chính phủ Eritrea đã ra lệnh cấm máy bay trực thăng vào không phận cũng như mọi phương tiện tuần tra của lực lượng gìn giữ hòa bình được hoạt động vào ban đêm trên lãnh thổ của mình. Hiện Liên Hợp Quốc vẫn đang nỗ lực giải quyết tranh chấp này và đề nghị Eritrea dỡ bỏ lệnh cấm vận đối với lực lượng Liên Hợp Quốc đang có mặt ở vùng biên giới Eritrea và Ethiopia. Từ khi lên cầm quyền, chính phủ chuyển tiếp Ethiopia đã thông qua chính sách kinh tế chuyển tiếp (TEP). Nội dung chính là: hạn chế vai trò của Nhà nước, đề cao vai trò của tư bản tư nhân, khuyến khích viện trợ của bên ngoài. Chính sách này bước đầu đã gây được sự chú ý của các công ty nước ngoài, các nước EC đã quyết định tăng viện trợ cho Ethiopia. Tuy nhiên, kinh tế Ethiopia vẫn ở trong tình trạng rất khó khăn. Đối ngoại Ethiopia thực hiện đường lối đối ngoại hoà bình, hữu nghị, hợp tác với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị và đặt lợi ích dân tộc lên trên hết. Ethiopia tranh thủ tối đa viện trợ của các nước để cứu đói và phục hồi kinh tế. Hiện nay, Ethiopia đã được nhiều nước phương Tây, Mỹ, Trung Quốc quan tâm giúp đỡ những hầu hết mới chỉ dưới hình thức viện trợ nhân đạo. Ethiopia là nước Kitô giáo nằm giữa 2 nước Hồi giáo (Sudan, Somalia). Ethiopia lại có quan hệ khá mật thiết với Israel nên các nước Hồi giáo vừa gây sức ép, vừa tranh thủ Ethiopia. Libya muốn lôi kéo Ethiopia gia nhập Liên đoàn Ả Rập. Quan hệ Ethiopia với Sudan, Somalia khá căng thẳng và đã xảy ra xung đột. Hai bên tố cáo nhau giúp đỡ lực lượng chống đối lật đổ chính quyền. Ethiopia và Somalia có tranh chấp về vùng Ogaden và đã nổ ra chiến tranh giữa hai nước. Với vị trí trung tâm ở vùng Sừng châu Phi, cửa ngõ của khu vực Đông phần châu Phi, Ethiopia là nơi đóng trụ sở của hơn 90 tổ chức quốc tế và khu vực như UN, UNDP, WB, AU... Hành chính Ethiopia được chia thành 11 bang: Kinh tế Mặc dầu có nhiều tiềm năng quan trọng, nhưng Ethiopia là một trong những nước nghèo và kém phát triển. 3/4 dân số sống bằng trồng trọt cây lương thực ngô, lúa mạch, lúa miến. Cà phê là mặt hàng nông sản xuất khẩu chính. Ngành chăn nuôi (bò, lừa, cừu) tập trung trên các đồng cỏ cao nguyên và ở các vùng duyên hải. Ngành công nghiệp mỏ ít được chú trọng khai thác. Công nghiệp còn trong tình trạng phôi thai: công nghiệp dệt và nông thực phẩm. Ethiopia là một nước kinh tế nông nghiệp chậm phát triển. Sản phẩm công nghiệp gồm có: Thực phẩm chế biến, thức uống, kim loại, xi măng, hàng dệt, hóa chất. Sản phẩm nông nghiệp gồm có: Cà phê, ngũ cốc, lạc, khoai tây, mía, hạt có dầu, cây qat; da động vật sống, bò, cừu (Cừu Đông Phi), dê (Dê Đông Phi). Tổng sản phẩm quốc nội theo sức mua năm 2006 là 74,880,000,000 USD. Thu nhập bình quân đầu người 979 USD/người Giao thông vận tải Ethiopia có 681 km đường sắt từ Addis Ababa đi Djibouti, tất cả 1.000 mm (3 ft 3+3⁄8 in) tầm hẹp. Hiện tại đường sắt nằm dưới sự kiểm soát công giữa Djibouti và Ethiopia, nhưng đang dưới sự đàm phán của tư nhân cho phương tiện tiện ích này. Với một phần đầu tiên cho một chương trình phát triển 10 năm cho đường sá, giữa 1997 và 2002 chính phủ Ethiopian bắt đầu duy trì nỗ lực nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng đường sá. Kết quả là năm 2002 Ethiopia có tổng (Liên tỉnh và khu vực) 33.297 km đường, gồm rải nhựa và rải sỏi. Dân số Dân số Ethiopia tăng từ 33,5 triệu năm 1983 lên 75,1 triệu năm 2006., trong khi dân số trong thế kỷ XIX chỉ có khoảng 9 triệu. Theo điều tra dân số và nhà cửa năm 2007, dân số Ethiopia tăng với mức trung bình hàng năm là 2,6% giữa năm 1994 và 2007, giảm từ 2,8% trong giai đoạn 1983–1994. Tốc độ tăng dân số hiện nay của quốc gia này nằm trong nhóm 10 nước dẫn đầu thế giới. Theo dự báo dân số nước này có thể tăng lên hơn 210 triệu vào năm 2060 dựa theo tỷ lệ tăng của năm 2011 là khoảng 2,5%. Dân số Ethiopia bao gồm hơn 80 sắc tộc. Theo thống kê năm 2007 các nhóm sắc tộc chiếm đa số là Người Oromo 32.1%, Amara 30.1%, Tigraway 6.2%, Somali 5.9%, Guragie 4.3%, Sidama 3.5%, Welaita 2.4%, các dân tộc khác 15.4%. Đa số dân Ethiopia nói tiếng Amhara, nhưng cũng có nhiều ngôn ngữ khác được sử dụng rộng rãi như tiếng Tigrinya, tiếng Orominga, tiếng Guaraginga, tiếng Somali, tiếng Ả Rập, tiếng Anh. Sức khỏe Chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng còn yếu kém. Các căn bệnh như dịch tả, sốt rét, sốt vàng da, suy dinh dưỡng... khá phổ biến. Theo người đứng đầu của Chương trình phòng chống HIV/AIDS, Ethiopia chỉ có 1 bác sĩ y khoa trên 100.000 người. Tuy nhiên, báo cáo năm 2006 của Tổ chức Y tế Thế giới đưa ra con số là khoảng 2,6 trên 100.000 người. Vấn đề sức khỏe chính của Ethiopia được cho là bệnh truyền nhiễm do vệ sinh kém và suy dinh dưỡng. Những vấn đề này càng trầm trọng thêm do tình trạng thiếu nhân lực được đào tạo và cơ sở y tế. Vấn đề chăm sóc sức khỏe là tương đối tốt hơn ở các thành phố. Tỷ lệ sinh, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh tương đối thấp hơn ở các thành phố so với vùng nông thôn, do tiếp cận tốt hơn với các chính sách chăm sóc sức khỏe. Tuổi thọ trung bình cao hơn ở mức 53 tuổi ở thành thị so với 48 tuổi trong các khu vực nông thôn. Mặc dù vệ sinh là một vấn đề lớn, nhưng việc sử dụng nguồn nước sạch đã được cải thiện hơn, 81% người dân ở các thành phố được dùng nước sạch so với 11% ở khu vực nông thôn. Điều này khuyến khích nhiều người di chuyển đến các thành phố với hy vọng có điều kiện sống tốt hơn. Có 119 bệnh viện (12 tại Addis Ababa) và 412 trung tâm y tế ở Ethiopia. Ethiopia có tuổi thọ trung bình tương đối thấp (58 tuổi). Tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh là tương đối rất cao, trên 8% trẻ sơ sinh chết trong hoặc ngay sau khi sinh, (mặc dù điều này là giảm đáng kể từ 16% vào năm 1965) trong khi các biến chứng liên quan đến sinh sản đã ảnh hưởng đến nhiều phụ nữ ở Ethiopia. Giáo dục Chương trình giáo dục không bắt buộc. Giáo dục tiểu học bắt đầu từ năm 7 tuổi và trung học từ năm 13 tuổi. Khoảng 50% số trẻ em đến tuổi được đến trường. Ethiopia có một trường Đại học Tổng hợp ở thủ đô Adis Abeba và một số trường đại học khác. Tôn giáo Theo cuộc điều tra dân số năm 2007, Kitô giáo chiếm 62,8%, trong đó Chính thống giáo Cổ Đông phương (Giáo hội Chính thống Ethiopia) chiếm 43,5%, Tin lành 18,6% và Công giáo Rôma (Giáo hội Công giáo Ethiopia) chiếm 0,7%. Hồi giáo chiếm 33,9%, các tín ngưỡng vật linh chiếm 2,6%, tôn giáo khác và không tôn giáo chiếm 0,7%.
Nhiễm trùng huyết hay nhiễm trùng máu hoặc sốc nhiễm trùng huyết và hội chứng rối loạn chức năng đa cơ quan là những tập hợp bệnh lý rất thường gặp trong lâm sàng và đặc biệt nhất là trong các đơn vị hồi sức. Chỉ riêng ở Hoa Kỳ thì mỗi năm có khoảng 750.000 mắc bệnh và 215.000 trường hợp tử vong chiếm 9,3% tổng số tử vong tại đất nước này. Như vậy đứng về số lượng thì tử vong do nhiễm trùng huyết tương đương với tử vong do nhồi máu cơ tim cấp và AIDS và ung thư vú. Thời gian nằm viện trung bình là 19.6 ngày và chi phí điều trị cho mỗi trường hợp là 22 100 USD tức là khoảng 16,7 tỷ USD nếu tính trên toàn Hoa Kỳ. Mặc dù có nhiều tiến bộ vượt bậc trong hiểu biết cơ chế sinh lý bệnh của nhiễm trùng huyết cũng như sự phát triển của các phương tiện và kỹ thuật hồi sức tích cực nhưng tỉ lệ mắc bệnh cũng như tỉ lệ tử vong ngày càng tăng cao đều đặn trong những thập kỷ vừa qua. Định nghĩa Nhiễm trùng (Infection): Phản ứng viêm của tổ chức đối với sự hiện diện của vi sinh vật hoặc sự xâm nhập của vi sinh vật vào các tổ chức bình thường vốn vô trùng. Vãng khuẩn huyết (Bacteremia): Có sự hiện diện của vi khuẩn sống trong máu. Hội chứng đáp ứng viêm hệ thống (Systemic Inflammatory Response Syndrome -SIRS): Đáp ứng viêm hệ thống của cơ thể đối với các tác nhân cấp tính nặng khác nhau, đặc trưng bởi hai hay nhiều các triệu chứng lâm sàng sau: Nhiệt độ tăng > 38 °C hoặc < 36 °C Tần số tim > 90 lần/phút (Trên + 2SD so với giá trị bình thường theo tuổi ở trẻ em). Tần số thở > 20 lần/phút hoặc PaCO2 < 32 mmHg (tự thở). (Trên + 2SD sơ với giá trị bình thường theo tuổi ở trẻ em). Bạch cầu > 12 000 hoặc < 4000/ mm3, hoặc > 10% bạch cầu non (bạch cầu dạng đũa) Nhiễm trùng huyết (Sepsis): Phản ứng hệ thống đối với nhiễm trùng biểu hiện bằng hai hay nhiều các triệu chứng sau đây Nhiệt độ tăng > 38 °C hoặc < 36 °C Tần số tim > 90 lần/phút (ở trẻ em trên + 2SD so với lứa tuổi) Tần số thở > 20 lần/phút hoặc PaCO2 < 32 mmHg (tự thở). (ở trẻ em trên + 2SD so với lứa tuổi) Bạch cầu > 12 000 hoặc < 4000/ mm3, hoặc > 10% bạch cầu non (bạch cầu dạng đũa). Nhiễm trùng huyết nặng (Severe Sepsis): Nhiễm trùng huyết kèm với rối loạn chức năng cơ quan, giảm tưới máu. Giảm tưới máu và bất thường tưới máu có thể bao gồm hạ huyết áp, rối loạn phân bố máu, thiểu niệu hoặc thay đổi đột ngột tình trạng ý thức nhưng không chỉ giới hạn ở các biểu hiện này. Hội chứng nhiễm trùng huyết (Sepsis Syndrome): Đáp ứng viêm hệ thống đối với nhiễm trùng đặc trưng bởi hai hay nhiều các triệu chứng sau đây: a. Nhiệt độ cơ thể > 38 °C hoặc < 36 °C b. Tần số tim > 90 lần/phút (ở trẻ em trên + 2SD so với lứa tuổi) c. Tần số thở > 20 lần/phút hoặc PaCO2 < 32 mm Hg (tự thở). (ở trẻ em trên + 2SD so với lứa tuổi). d. Có ít nhất một trong các dấu hiệu sau: Thay đổi chức năng não (rối loạn ý thức). PaO2 < 75 mmHg (thở bằng không khí phòng, bệnh nhân không có bệnh lý phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) trước đó) Tăng cao nồng độ lactate huyết thanh Thiểu niệu: < 30 ml/h hay < 0,5 ml/kg/h kéo dài trên 1 giờ. Hội chứng rò rỉ mao mạch (Capillary Leak Syndrome): Là tình trạng tăng tính thấm của màng mao mạch đối với những đại phân tử do tổn thương trực tiếp cấu trúc màng mao mạch do các chất trung gian hoặc do tác động của các chất có tác động trên huyết động học (Catecholamine, Serotonin, Histamin). Hạ huyết áp do nhiễm trùng huyết (Sepsis-Induced Hypotension): Hạ huyết áp do nhiễm trùng huyết được định nghĩa huyết áp tâm thu < 90 mm Hg, Hoặc huyết áp tâm thu giảm ≥ 40 mm Hg so với giá trị bình thường mà không do các tác nhân gây hạ huyết áp khác. Ở trẻ em, giá trị này là thấp hơn – 2SD so với giá trị bình thường theo tuổi. Sốc nhiễm trùng huyết (Septic Shock): Sốc nhiễm trùng huyết là sốc gây ra do nhiễm trùng huyết biểu hiện bằng hạ huyết áp mặc dù được bù đầy đủ thể tích dịch, đi kèm với nhưng rối loạn về phân bố lưu lượng máu. Bệnh nhân được dùng các thuốc tăng co bóp tim hay vận mạch có thể không có hạ huyết áp lúc đo. Sốc nhiễm trùng huyết kháng trị (Refractory Septic Shock): sốc nhiễm trùng huyết không có đáp ứng đối với đổ đầy tĩnh mạch (ví dụ 500ml huyết tương trong 30 phút và thuốc hoạt mạch như Dopamine 10μg/kg/phút). Hội chứng rối loạn chức năng đa cơ quan (Multiple Organ Dysfunction Syndrome-MODS): Hiện diện rối loạn chức năng các cơ quan trong bệnh lý cấp tính mà nếu không có sự can thiệp thì hằng định nội môi của cơ quan đó không thể tái thiết lập. Lưu ý: Thuật ngữ septicaemia trước đây được dùng để chỉ tình trạng nhiễm trùng có bằng chứng về sự sinh trưởng mạnh của vi khuẩn trong máu, thường hay được hiểu như là sepsis. Hiện nay thuật ngữ này không còn thông dụng và khuynh hướng bị loại bỏ hoàn toàn. Dịch tễ học Một khảo sát tiến cứu dựa theo mức độ của SIRS và nhiễm trùng huyết đã cho thấy rằng tỉ lệ tử vong tăng lên khi bệnh nhân có nhiều tiêu chuẩn của SIRS hoặc có nhiều biểu hiện của nhiễm trùng huyết. Tỉ lệ tử vong cao 3% ở những bệnh nhân không có tiêu chuẩn chẩn đoán SIRS, 7% khi có hai tiểu chuẩn SIRS, 10% khi có 3 tiêu chuẩn SIRS, 17% khi có 4 tiêu chuẩn SIRS, 16% khi có biểu hiện nhiễm trùng huyết, 20% trong nhiễm trùng huyết nặng và 46% trong sốc nhiễm trùng huyết. Mặc dù có sự khác nhau về con số cụ thể của nhiễm trùng huyết theo các nghiên cứu khác nhau, một điều thống nhất là tỉ lệ mắc bệnh ngày càng tăng rõ ràng. Tỉ lệ mắc mới (incidence) khoảng 1.06 lần trên 1000 bệnh nhân ngày đến 16 đến 260 lần trên 1000 bệnh nhân ngày. Có nhiều yếu tố khác nhau chịu trách nhiệm cho việc tăng cao tỉ lệ mới mắc này. Yếu tố quan trọng nhất có lẽ là sự tăng cao tỉ lệ hiện mắc (prevalence) các bệnh lý liên quan đến tình trạng suy giảm miễn dịch mạn tính như AIDS, các thuốc ức chế miễn dịch hay độc tế bào, suy dinh dưỡng, nghiện rượu, bệnh lý ác tính, suy thận phụ thuộc vào thẩm phân, đái tháo đường, và tăng số lượng các trường hợp bệnh nhân ghép tạng. Các yếu tố khác có thể là gia tăng việc cấy các dụng cụ y khoa dài ngày vào cơ thể (catheter tĩnh mạch, các dụng cụ chỉnh hình…), các vi sinh vật đề kháng xuất hiện ngày càng nhiều và càng ngày càng nhiều bệnh nhân cao tuổi hoặc bệnh nhân mắc bệnh mạn tính. Sinh lý bệnh Trong những thập niên vừa qua, y học đã đạt được những tiến bộ to lớn trong việc tìm hiểu nhiễm trùng huyết.Điều đáng tiếc là hiện nay các nhà nghiên cứu y học vẫn chưa thể đưa ra một cơ chế sinh lý bệnh hoàn chỉnh,có thể giải thích được tất cả những biểu hiện của nhiễm trùng huyết. Có những giả thuyết khác nhau được đề nghị. Mỗi giả thuyết đều có những ưu điểm và những hạn chế của nó. Thuyết đáp ứng viêm quá mức Thuyết đáp ứng viêm quá mức (excessive inflammatory response) trở nên phổ biến nhờ các công trình của Lewis Thomas. Thomas cho rằng: "chính đáp ứng của cơ thể đối với sự hiện diện của vi khuẩn đã gây nên bệnh. Kho vũ khí chống vi khuẩn của chúng ta quá ư mạnh mẽ đến nỗi nó trở nên nguy hiểm hơn bản thân kẻ xâm lược". Theo giả thuyết này, nhiễm trùng huyết là hậu quả của đáp ứng viêm hệ thống của cơ thể đối với nhiễm trùng nặng,xuất hiện khi những đáp ứng ban đầu của cơ thể trở nên mạnh mẽ và khuếch đại quá mức đến mức không thể kiểm soát được. Trước sự xâm nhập của vi khuẩn,hệ miễn dịch tiên thiên (innate immune system) của cơ thể sẽ hoạt hóa nhiều hệ thống phòng vệ tế bào cũng như dịch thể khác nhau. Hậu quả của quá trình hoạt hóa quá mức này là sự giải phóng các chất trung gian gây viêm (proinflammatory mediator) từ tế bào nội mô, tế bào biểu bì cũng như bạch cầu đa nhân trung tính, đại thực bào và các tế bào lympho. Kết quả cuối cùng của đáp ứng viêm không kiểm soát được này là rối loạn tưới máu các cơ quan cũng như rối loạn vi tuần hoàn (microcirculation), rối loạn đông máu đưa đến hội chứng rối loạn chức năng đa cơ quan (MODS) và đây chính là nguyên nhân gây chết ở bệnh nhân nhiễm trùng huyết. Thuyết suy giảm miễn dịch Thuyết đáp ứng viêm quá mức không thể giải thích được tại sao một số bệnh nhân nhiễm trùng huyết lại có những biểu hiện của ức chế miễn dịch như mất hiện tượng quá mẫn muộn(delayedhypersensitivity), mất khả năng làm sạch vi khuẩn và có khuynh hướng dễ mắc nhiễm trùng bệnh viện (nosocomial infection). Hơn nữa các nghiên cứu lâm sàng sử dụng các chất chống viêm đã không mang lại hiệu quả như mong muốn. Nguyên nhân thứ nhất có thể là do có hiện tượng chuyển từ pha tăng viêm (pro-inflammatory phase) trong giai đoạn sớm của bệnh sang pha chống viêm (anti-inflammatory phase) trong giai đoạn sau khi bệnh đã tiến triển. Người ta cũng phát hiện được rằng các tế bào CD4 được hoạt hóa có thể sản xuất các cytokine gây viêm và ngược lại cũng có thể giải phóng các cytokine kháng viêm. Trong trường hợp thứ nhất, các tế bào CD4 này có chức năng giống tế bào T hỗ trợ type 1 (type 1 helper T cell), nghĩa là chúng sản xuất các chất trung gian điều hòa viêm rất mạnh như yếu tố hoại tử khối u alpha (Tumor Necrosis Factor alpha ), interferon-gamma và interleukin-2. Trong trường hợp thứ hai, các tế bào CD4 này có chức năng giống tế bào T hỗ trợ type 2 (type 2 helper T cell), nghĩa là chúng sản xuất các cytokine chống viêm như interleukin-4 và interleukin-10. Cơ chế nào quy định khi nào tế bào CD4 sẽ có chức năng như tế bào T hỗ trợ type 1 và khi nào chúng sẽ có chức năng như tế bào T hỗ trợ type 2 vẫn chưa được biết đến. Nguyên nhân thứ hai của tình trạng ức chế miễn dịch rất có thể là do hiện tượng chết tế bào theo chương trình (programmed cell death hay apoptosis). Trong nhiễm trùng huyết, các tế bào lympho, là tế bào chịu trách nhiệm chính trong miễn dịch tập nhiễm, các tế bào niêm mạc đường tiêu hóa, tuyến ức, gan, cơ vân... đều rơi vào hiện tượng chết tế bào theo chương trình này. Hiện tượng này nếu xảy ra càng mạnh mẽ thì hệ miễn dịch của cơ thể càng suy yếu. Thuyết đông miên tế bào Khám nghiệm tử thi những bệnh nhân tử vong vì nhiễm trùng huyết phát hiện rằng các tổn thương mô học không phù hợp với mức độ trầm trọng của hội chứng rối loạn chức năng đa cơ quan ở những cá thể này. Hiện tượng chết tế bào ở các cơ quan như tim, gan, thận, phổi tương đối nhẹ nhàng nếu so với biểu hiện lâm sàng suy giảm chức năng các cơ quan này. Rất có thể nhiễm trùng huyết đã làm cho tế bào trong cơ thể trở về trạng thái ít hoạt động nhất mặc dù tổn thương thực thể không quá nặng. Hiện tượng này được gọi là đông miên tế bào (cellular hibernation). Vai trò của các yếu tố di truyền Dựa trên các nghiên cứu so sánh biểu hiện và tiên lượng của nhiễm trùng huyết giữa các cặp sơ sinh và giữa các trẻ khác nhau là con nuôi trong một gia đình, người ta nhận thấy yếu tố di truyền đóng một vai trò rất quan trọng trong nhiễm trùng huyết. Các đột biến hoặc tính đa hình của các gene mã hóa cho các receptor TNF alpha, Interleukin-1 receptor và Toll-like receptor quyết định mức độ phản ứng viêm và phản ứng kháng viêm trong nhiễm trùng huyết. Cơ chế gây rối loạn chức năng đa cơ quan Nguyên nhân gây tử vong ở bệnh nhân nhiễm trùng huyết là rối loạn chức năng đa cơ quan. Một cách điển hình, đầu tiên bệnh nhân sẽ xuất hiện rối loạn chức năng một cơ quan ví dụ như suy hô hấp cần phải thông khí nhân tạo và sau đó nếu bệnh không được kiểm soát thì dần dần các cơ quan khác cũng bị suy chức năng. Có một mối tương quan chặt chẽ giữa độ nặng của suy chức năng cơ quan ở thời điểm nhập viện vào phòng hồi sức với xác suất sống sót và tương quan giữa số lượng các cơ quan bị rối loạn chức năng với nguy cơ tử vong. Nếu có 4 đến 5 cơ quan cùng bị rối loạn chức năng thì tỉ lệ tử vong lên đến 90% mặc dù được điều trị tốt đến mức độ nào đi nữa. Bệnh sinh của rối loạn chức năng đa cơ quan do nhiều nguyên nhân và cũng chưa được biết tường tận. Giảm tưới máu tổ chức và thiếu oxy tế bào là những yếu tố then chốt. Các cơ chế này liên quan đến sự lắng đọng fibrin lan tỏa gây nên tắc nghẽn vi tuần hoàn. Tình trạng tăng tính thấm vi mạch (microvascular hyperpermeability) cũng làm tồi tệ hơn nữa sự cung cấp oxy cho tế bào và các rối loạn hằng định nội môi của vi tuần hoàn đưa đến sự sản xuất các chất vận mạch như yếu tố hoạt hóa tiểu cầu (Platelet Activating Factor: PAF), histamine và các prostanoid. Thâm nhiễm tế bào, đặc biệt là bạch cầu đa nhân trung tính, đưa đến hiện tượng phá hủy tổ chức do phóng thích các enzyme tiêu thể (lysosomic enzyme) và các gốc tự do oxy hóa (oxydative free radicals) có nguồn gốc từ superoxide (O2-). TNF- và các cytokine khác làm tăng biểu hiện của men tổng hợp Nitric Oxide (NO) cảm ứng (inducible nitric oxide synthase: iNOS) và sự tăng sản xuất NO này làm cho mạch máu càng mất ổn định và cũng có thể góp phần vào ức chế cơ tim trực tiếp trong nhiễm trùng huyết. Thiếu oxy tổ chức xuất hiện trong nhiễm trùng huyết được phản ánh bằng khái niệm nợ oxy- nghĩa là sự chênh lệch giữa lượng oxy cung cấp và lượng oxy theo nhu cầu. Mức độ nợ oxy có liên quan đến tiên lượng của nhiễm trùng huyết và các chiến lược điều trị được thiết kế nhằm tối ưu hóa khả năng cung cấp oxy cho tổ chức có thể cải thiện khả năng sống sót. Ngoài hiện tượng thiếu oxy, tế bào còn có thể mắc chứng loạn sử dụng oxy (dysoxygenation), nghĩa là tế bào không có khả năng sử dụng oxy vốn đã ít ỏi trong nhiễm trùng huyết. Các dữ liệu gần đây gợi ý rằng đây có thể là hậu quả của tình trạng NO tăng cao quá mức vì các mẫu sinh thiết tế bào cơ vân ở bệnh nhân nhiễm trùng huyết cho thấy bằng chứng của suy giảm hô hấp ở ti thể (mitochondrion). Chuỗi hô hấp này bị ức chế bởi NO. Chẩn đoán Chẩn đoán xác định Chẩn đoán nhiễm trùng huyết phải có bằng chứng nhiễm trùng trên lâm sàng cộng với ít nhất hai trong các dấu hiệu lâm sàng sau đây: Tăng thân nhiệt (nhiệt độ hậu môn > 38,3 °C hoặc hạ thân nhiệt (nhiệt độ hậu môn < 35,6 °C). Tim nhanh > 90 lần/phút.(Ở trẻ em tần số tim trên +2SD so với giá trị bình thường theo tuổi). Thở nhanh > 20 lần/phút hoặc tình trạng nhược thán PaCO2 < 32 mm Hg. (Ở trẻ em tần số tim trên +2SD so với giá trị bình thường theo tuổi). cộng với ít nhất một thông số chứng tỏ có tình trạng giảm tưới máu cơ quan hoặc rối loạn chức năng cơ quan hay thay đổi trạng thái tinh thần. PaO2 ≤ 75 mm Hg (không khí phòng). Tăng Lactate huyết thanh. Thể tích nước tiểu < 30ml/h. Ở trẻ em nước tiểu < 0,5ml/kg/h). Nhóm "Veterans administration systemic sepsis cooperative study group" đưa ra các tiêu chuẩn để chẩn đoán nhiễm trùng huyết: tình trạng lâm sàng gợi ý nhiễm trùng huyết cộng với ít nhất 4 trong các triệu chứng sau đây: Ớn lạnh hay tăng thân nhiệt (nhiệt độ hậu môn > 38,9 °C) hay hạ thân nhiệt (nhiệt độ hậu môn < 35,5 °C). Thở nhanh (> 28 lần/phút) hoặc nhược thán (PaCO2 < 32 mm Hg). Tần số tim nhanh > 100lần/phút. Hạ huyết áp < 90 mmHg (tâm thu). Số lượng bạch cầu bất thường < 3 500/mm3 hoặc ≥ 15 000/mm3. Tiểu cầu giảm (< 100 000/mm3). Can thiệp phẫu thuật hay thủ thuật trong vòng 48 giờ trước đó hoặc có ổ nhiễm trùng rõ. Các dấu hiệu chẩn đoán nhiễm trùng huyết không bắt buộc: Cấy máu dương tính. Test Limulus dương tính (tìm nội độc tố). Giảm tiểu cầu (< 100 000/mm3). Lượng tiểu cầu hạ > 30 % giá trị bình thường. Giảm Antithrombin-III (< 70 % giá trị chuẩn). Chẩn đoán giai đoạn Các giai đoạn của nhiễm trùng huyết có thể phân chia thành ba giai đoạn dựa trên biểu hiện lâm sàng: Giai đoạn I: Khởi đầu sốc: Nhiệt độ hậu môn > 38,4 °C. Số lượng tiểu cầu trong giới hạn bình thường. Tăng thông khí tự phát. Tần số tim nhanh nhưng ổn định. Giai đoạn này cần có những theo dõi sát sao và điều trị tích cực sớm. Giai đoạn II: Sốc nhiễm trùng huyết: Sốc tăng động hoặc giảm động. Giảm tiểu cầu. Cần thông khí hỗ trợ. Hiện diện tình trạng vãng khuẩn huyết. Biểu hiện tình trạng nhiễm độc nội độc tố. Giai đaọn IIIa: Sốc lùi: Tình trạng lâm sàng và huyết động cải thiện. Cai máy thở. Không cần theo dõi đặc biệt. Tuy nhiên bệnh có thể không cải thiện mà tiếp tục xấu hơn sang giai đoạn IIIb mặc dù được điều trị tích cực. Giai đoạn IIIb: Sốc kháng trị: Tình trạng lâm sàng xấu hơn. Huyết động ngày càng khó kiểm soát. Biểu hiện giảm tưới máu tổ chức và thiếu oxy tế bào. Rối loạn chức năng đa cơ quan và tử vong. Điều trị Kháng sinh Tùy theo kết quả xét nghiệm vi sinh mà thầy thuốc có thể chọn lựa kháng sinh thích hợp (dịch hầu họng/đàm, dịch tiết khí quản, nước tiểu, cấy máu…). Tuy nhiên trong một số trường hợp không thể chọn lựa kháng sinh hướng nguyên nhân được (ví dụ trong trường hợp xét nghiệm vi khuẩn âm tính, tình trạng bệnh không cho phép đợi chờ kết quả, thậm chí đôi khi không cho phép chờ đợi lấy bệnh phẩm xét nghiệm) thì cần dùng kháng sinh theo kinh nghiệm và ngay sau khi có kết quả thì điều chỉnh thích hợp. Có nhiều liệu trình kháng sinh khác nhau tùy theo dịch tễ của từng vùng, từng bệnh viện. Nhiễm khuẩn không xác định được tác nhân: Kháng sinh thường dùng đầu tiên là Cephalosporin thế hệ III (Ví dụ Cefotaxime 2 g x 3 lần/ ngày). Theo dõi đáp ứng lâm sàng và cận lâm sàng chặt chẽ. Thay kháng sinh nếu trong 48 giờ mà không có sự cải thiện rõ ràng. Lúc này kháng sinh được chọn là Piperacillin liều 4 g x 3 lần/ ngày phối hợp với Aminoglycoside (ví dụ Gentamicine 3 – 5 mg/kg/ngày) phối hợp thêm với Clindamycine liều 600 mg x 3 lần/ ngày. Nhiễm trùng đường tiểu hoặc nhiễm trùng huyết tiêu điểm tiết niệu: Kháng sinh thường dùng Ampicilline liều 2 g x 3 lần/ngày phối hợp Aminoglycoside (ví dụ Gentamicine 3 – 5 mg/kg thể trọng/ngày). Các kháng sinh trên đều dùng đường tĩnh mạch. Protein C hoạt hóa Protein C hoạt hóa (activated protein C-APC), một chất chống đông (anticoagulant), là tác nhân có tính kháng viêm đầu tiên có hiệu quả trên lâm sàng. Một thử nghiệm lâm sàng quy mô đa trung tâm đã cho thấy protein C hoạt hóa người tái tổ hợp (recombinant human APC) làm giảm đáng kể tỉ lệ tử vong ở các bệnh nhân nhiễm trùng huyết đặc biệt là bệnh nhân nhiễm trùng huyết nặng. APC bất hoạt các yếu tố đông máu Va và VIIIa (a-activated: hoạt hóa) nên làm giảm sự hình thành thrombin. Ức chế hình thành thrombin do APC làm giảm viêm thông qua ức chế quá trình hoạt hóa tiểu cầu, ức chế huy động bạch cầu đa nhân trung tính và sự phóng hạt của các tế bào mast. APC cũng có tác dụng chống viêm trực tiếp bao gồm ngăn cản các monocyte sản xuất cytokine và ức chế bám dính tế bào. APC rất hiệu quả trong điều trị nhiễm trùng huyết nhưng đồng thời nó lại cũng có khả năng tăng nguy cơ xuất huyết đặc biệt là xuất huyết não. Hồi sức bồi phụ dịch Trong nhiễm trùng huyết, các chất trung gian điều hòa gây nên tình trạng giãn mạch, tăng tính thấm vi mạch và thoát protein từ mao mạch. Các hiện tượng bệnh lý này gây nên giảm thể tích dịch trong lòng mạch, giảm tiền tải (preload), giảm cung lượng tim (cardiac output) giảm tưới máu và cung cấp oxy cho tổ chức. Chính vì lý do này mà liệu pháp hồi sức bồi phụ dịch đóng vai trò thiết yếu trong hồi phục và duy trì thể tích trong lòng mạch cũng như cung cấp oxy cho tế bào. Hiện nay liệu pháp bồi phụ dịch thường được sử dụng sớm trước khi có những dấu hiệu của sốc. Có thể dùng dung dịch dạng tinh thể (crystalloid) như dung dịch Ringer’s Lactate, dung dịch NaCl 0,9% hoặc các dung dịch dạng keo nhân tạo (artificial colloid) chẳng hạn dung dịch gelatin và kể cả dung dịch albumin người. Chưa có một nghiên cứu trên quy mô lớn nào khẳng định được dung dịch nào có nhiều ưu điểm hơn một cách rõ ràng. Thuốc vận mạch và trợ tim Nhằm đảm bảo lượng oxy cung cấp cho tổ chức một cách thỏa đáng, huyết áp động mạch hệ thống phải được duy trì ở một giá trị nào đó để cung lượng tim được phân bố một cách hợp lý. Mục tiêu này có thể đạt được bằng liệu pháp vận mạch/tăng co bóp cơ tim sau khi đã bồi phụ tương đối đủ dịch trong lòng mạch. Các thuốc thường dùng là nhóm kích thích giao cảm (sympathomimetics) gồm norepinephrine, dopamine, phenylephrine, dobutamine và epinephrine. Dobutamine thường được sử dụng cho các bệnh nhân nhiễm trùng huyết có tình trạng ức chế cơ tim biểu hiện trên lâm sàng bằng giảm cung lượng tim mặc dù đã được bồi phụ dịch đầy đủ. Vasopressin, một chất co mạch mạnh, cũng rất hữu ích trong duy trì huyết áp động mạch hệ thống. Vasopressin, thông qua tác dụng lên các V1a receptor, tạo nên những hiệu ứng có lợi trong sốc gồm giãn mạch ở các cơ quan sinh tử như não, mạch vành và phổi nhưng co mạch ở các cơ quan không quan trọng như cơ vân và da. Liệu pháp Insuline tích cực Những bệnh nhân bị bệnh cấp tính nặng, trong đó có nhiễm trùng huyết, thường có hiện tượng tăng đường máu (hyperglycemia) và đề kháng insulin. Đây là nguy cơ của các biến chứng khác nữa như bội nhiễm vi khuẩn (bacterial surinfection), bệnh lý dây thần kinh trong bệnh nặng (critical illness polyneuropathy), rối loạn chức năng đa cơ quan và tử vong. Điều trị insulin tích cực ở bệnh nhân hồi sức nhằm duy trì đường máu trong khoảng 4.4 (80 mg/l) to 6.1 mmol/L (110 mg/l) làm hạ tỷ lệ tử vong rất rõ so với nhóm điều trị theo liệu trình thông thường, là nhóm có đường máu trong khoảng 10.0 to 11.1 mmol/L. Đây là một khuynh hướng mới mở ra nhiều triển vọng cho nghiên cứu và thực hành lâm sàng. Tuy nhiên một vấn đề cần quan tâm trong liệu pháp điều trị insulin tích cực là nguy cơ hạ đường máu. Các nghiên cứu gần đây khuyến cáo không sử dụng liệu pháp insulin tích cực với đích điều trị là 80–110 mg/L mà thay vào đó là đích 140–180 mg/l để làm giảm nguy cơ hạ đường huyết. Một số nghiên cứu ban đầu sử dụng các máy theo dõi đường huyết liên tục cũng cho kết quả hứa hẹn. Tuy nhiên việc quyết định điều trị ínulin và mức đường huyết đích phụ thuộc vào điều kiện của từng cơ sở điều trị. Điều quan trọng nhất là tránh làm hạ đường huyết nguy hiểm. Liệu pháp Corticosteroide Trước đây, do hiểu cơ chế bệnh sinh của nhiễm trùng huyết là đáp ứng viêm quá mức (xem phần sinh lý bệnh) nên corticosteroid đã được sử dụng với liều chống viêm tương đối cao. Các nghiên cứu theo hướng này đã cho thấy tỉ lệ tử vong ở nhóm điều trị tăng cao hơn so với nhóm chứng. Gần đây các nghiên cứu dùng corticosteroid liều thấp ở bệnh nhân có dấu hiệu của suy chức năng tuyến thượng thận trong nhiễm trùng huyết cho thấy có cải thiện tỉ lệ tử vong. Tuy nhiên cần có nhiều thử nghiệm đa trung tâm quy mô lớn nữa mới có thể có kết luận cuối cùng. Liệu pháp thay thế chức năng thận và lọc máu Thẩm phân máu (hemodialysis) và lọc máu ('hemodiafiltration), một dạng của thẩm phân, cũng được dùng trong điều trị nhiễm trùng huyết. Ngoài tác dụng điều trị suy thận cấp thì các phương pháp này cũng có tác dụng lọc các chất có hại như nội độc tố, cytokine (tùy theo kích thước màng lọc sử dụng). Kết quả lâm sàng không thống nhất. Một số thử nghiệm đạt kết quả tốt, một số khác không thấy sự khác biệt có ý nghĩa nào so với nhóm đối chứng. Dinh dưỡng điều trị Suy dinh dưỡng (malnutrition) rất thường gặp ở bệnh nhân điều trị tại các đơn vị hồi sức, đặc biệt là các bệnh nhân điều trị dài ngày. Các nghiên cứu can thiệp dinh dưỡng cho thấy cải thiện dinh dưỡng làm tăng khả năng sống sót, giảm biến chứng và rút ngắn thời gian nằm viện. Nuôi dưỡng qua đường tiêu hóa (oral feeding) sớm có kết quả tốt hơn so với nuôi dưỡng hoàn toàn bằng đường tĩnh mạch (Total Parenteral Nutrition-TPN). Nuôi dưỡng qua đường tiêu hóa sớm có tác dụng duy trì cấu trúc giải phẫu và chức năng của tế bào niêm mạc ruột, hạn chế tình trạng phát tán vi khuẩn và nội độc tố từ đường tiêu hóa vào tuần hoàn (bacterial and endotoxin translocation), duy trì chức năng các cơ quan tiêu hóa khác như tụy và gan. Ngoài ra, việc nuôi dưỡng hoàn toàn bằng đường tĩnh mạch còn làm tăng nguy cơ nhiễm trùng bệnh viện liên quan đến catheter. Các liệu pháp điều trị trong tương lai Protein nhóm B1 có tính di động cao (High-mobility group B1 protein - HMGB1) Yếu tố ức chế di chuyển đại thực bào (Macrophage migration inhibitory factor - MIF) Bổ thể C5a và receptor của nó (C5aR) Các chất ức chế chết tế bào theo chương trình (Apoptosis inhibitors'')
Abraham Jacobi (6 tháng 5 năm 1830 – 10 tháng 7 năm 1919) được coi là "cha đẻ của ngành nhi khoa". Cuộc đời Abraham Jacobi sinh tại Hartum, ngày nay thuộc Hille ở bang Nordrhein-Westfalen, Đức. Gia đình ông rất nghèo túng nên đã phải hy sinh và cố gắng rất nhiều để Jacobi theo đuổi con đường học vấn. Tốt nghiệp đại học y khoa tại Bonn năm 1851. Là một người khao khát dân chủ và luôn lên tiếng đấu tranh chống lại những bất công ngay từ khi còn là sinh viên. Không bao lâu sau khi tốt nghiệp, ông tham gia vào phong trào cách mạng vào cuối thập niên 1840 ở Đức và bị nhốt tù ở Köln và Minden trong 2 năm. Trốn thoát khỏi nhà tù năm 1853, Jacobi đi sang Anh Quốc ở đây chỉ trong một thời gian ngắn. Theo lời khuyên của bạn ông, Carl Schurtz, là người cũng đã tham gia tích cực vào các hoạt động cách mạng, Jacobi rời Anh Quốc để đến New York vào năm 1853. Abraham Jacobi có một cuộc sống riêng tư không phải suôn sẻ. Hai người vợ đầu của ông đều bị chết khi sinh nở. Người vợ thứ ba của ông, Mary Putnam Jacobi, sinh cho ông một con trai và một người con gái. Bất hạnh là người con trai cũng bị chết năm 7 tuổi vì bệnh bạch hầu (điều đáng nói là Jacobi đã có những công trình rất quan trọng về chứng bệnh nguy hiểm này). Mary Putnam Jacobi cũng là một thầy thuốc nổi tiếng đương thời. Bà là một nhà văn, một nhà lâm sàng và một người đấu tranh không mệt mỏi cho quyền lợi của phụ nữ trong y khoa. Tốt nghiệp bác sĩ ở Trường Y khoa Pennsylvania năm 1864 và tốt nghiệp y khoa tại Trường Y Khoa L'École de Médecine, Paris năm 1871. Bà là sinh viên nữ đầu tiên của trường y khoa này. Bà cũng là thành viên nữ đầu tiên của Viện Hàn lâm Y học New York (New York Academy of Medicine). Sự nghiệp Đến New York vào năm 1853 như một trong một phần tư triệu người Đức, hàng trăm ngàn người Ireland và người châu Âu khác, Jacobi không phải không gặp những khó khăn nhất định. Tuy nhiên bằng tài năng và nhiệt huyết của mình, ông đã nhanh chóng có được chỗ đứng trong giới y khoa và có những ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với lịch sử y khoa đặc biệt là nhi khoa của Hoa Kỳ và của thế giới. Đầu tiên ông mở phòng khám tư ở Bowery (New York). Bắt đầu làm việc chính thức vào năm 1861 tại Trường Y khoa New York (New York Medical College) ông trở thành giáo sư chuyên về bệnh lý nhi khoa. Tại đây chỉ trong vòng vài năm, Jacobi cùng với Emil Noeggerath đã cho xuất bản một cuốn sách quan trọng về các bệnh lý ở phụ nữ và trẻ em. Từ năm 1867 đến năm 1870, ông là trưởng khoa y của trường Đại học Thành phố New York (City University of New York). Jacobi cũng từng giảng dạy tại Đại học Columbia từ năm 1870 đến 1902 với cương vị giáo sư lâm sàng nhi khoa. Năm 1880 ông thành lập và trở thành chủ tịch của Tiểu ban Nhi khoa thuộc Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ. Năm 1880 ông được bầu làm chủ tịch Hiệp hội Nhi khoa Hoa Kỳ - hiệp hội chuyên ngành đầu tiên của nền y khoa Hoa Kỳ. Vào nửa cuối thế kỷ 19, lịch sử nhi khoa Hoa kỳ mang đậm dấu ấn của bác sĩ Abraham Jacobi. Ông là tâm điểm của hầu như tất cả các tư tưởng tiến bộ cũng như phương pháp giảng dạy trong nhi khoa thời bấy giờ. Sữa mẹ đối với các bác sĩ nhi khoa thời đó đúng là một vấn đề sức khỏe cộng đồng. Theo họ, sữa mẹ không chỉ bị nhiễm bẩn mà còn không phù hợp với trẻ em. Jacobi đã nhận thấy những trẻ em được nuôi bằng sữa mẹ có tốc độ phát triển nhanh hơn, tỉ lệ sống cũng cao hơn so với nhóm trẻ được nuôi bằng sữa bò. Chính vì vậy ông đã tích cực đấu tranh cho việc nuôi con bằng sữa mẹ. Theo ông chỉ khi nào mẹ không có sữa thì mới cho dùng sữa bò và phải nấu chín. Không chỉ giảng dạy cho sinh viên về kiến thức chuyên môn, ông còn khuyến khích họ quan tâm đến các vấn đề dân sự và cả chính trị. Theo ông thầy thuốc cần phải có tiếng nói mạnh mẽ hơn nữa trong các lĩnh vực hoạch định chính sách của quốc gia. Jacobi là chủ tịch của các tổ chức sau đây: Hội Nhi khoa Hoa Kỳ (American Pediatric Society) Hội Sản khoa New York (New York Obstetrical Society) Hội Bệnh lý học New York (New York Pathological Society) Hội Y khoa Hạt và Bang New York (New York County and State Medical Society) Hội nghị Nội khoa Paris (Internal Medicine Congress Paris) Viện Hàn lâm Y học New York (New York Academy of Medicine) Hiệp hội Thầy thuốc Hoa Kỳ (Association of American Physicians) Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ (Americam Medical Association) Năm 1963, Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ và Viện Hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ (American Academy of Pediatrics) đã đồng sáng lập nên Giải thưởng Jacobi. Giải thưởng này được lập ra nhằm vinh danh Bác sĩ Abraham Jacobi, người được xem là đã có công sáng lập nên ngành nhi khoa của thế giới. Theo các nhà nghiên cứu lịch sử y học thì chính Jacobi là người đầu tiên đã xem nhi khoa là một chuyên ngành trong y học. Ông được các đồng nghiệp đương thời và hậu thế gọi là "kẻ nổi loạn đáng kính".
Từ khi sinh ra cho đến 6 tuổi, trẻ em sẽ thay đổi theo một số mốc phát triển. Không phải em nào cũng phải theo y khuông các mốc này. Nhưng nếu cha mẹ cảm thấy con mình bị tụt lại khá xa, nên hỏi bác sĩ. Nguồn: Developmental Milestones Author: RxPG Team
Viêm Đế (tiếng Trung: 炎帝) hay Hỏa Đức Vương (火德王) là một vị vua cổ đại huyền thoại của Trung Quốc vào thời kỳ tiền triều đại. Học thuật hiện đại đã xác định núi Dương Đầu ngay phía bắc Bảo Kê trong tỉnh Thiểm Tây là quê hương và lãnh thổ của ông. Một cuộc tranh luận kéo dài đã tồn tại về việc liệu Viêm Đế có phải là nhân vật huyền thoại Thần Nông hay không. Một hội thảo học thuật được tổ chức tại Trung Quốc vào năm 2004 đã đạt được sự đồng thuận chung rằng Viêm Đế và Thần Nông là một người. Một khả năng khác là thuật ngữ "Hỏa Đức Vương" là một tước hiệu, được nắm giữ theo kế vị triều đại của các lãnh chúa bộ lạc, với Thần Nông được biết đến với tên gọi Viêm Đế có lẽ sau khi đã qua đời. Theo đó, thuật ngữ các "Hỏa Đức Vương" nói chung sẽ chính xác hơn. Sự kế vị của các vị Hỏa Đức Vương này, từ Thần Nông - vị Hỏa Đức Vương đầu tiên - cho đến thời điểm vị Hỏa Đức Vương cuối cùng bị Hoàng Đế đánh bại, có thể đã khoảng 500 năm. Ghi chép lịch sử Không có ghi chép thành văn nào được biết là tồn tại từ thời trị vì của Viêm Đế. Tuy nhiên, ông và Thần Nông được nhắc đến trong nhiều tác phẩm kinh điển của Trung Quốc cổ đại. Viêm theo nghĩa đen có nghĩa là "lửa", ngụ ý rằng người dân của Viêm Đế có thể coi biểu tượng lửa như các vật tổ bộ lạc của họ. Ngô Quốc Trinh (吳國楨, Wu K. C.) phỏng đoán rằng danh xưng này có thể liên quan đến việc sử dụng lửa để đốt ruộng nương trong nông nghiệp kiểu đốt rừng làm nương rẫy. Trong mọi trường hợp, có vẻ như những cải tiến nông nghiệp của Thần Nông và hậu duệ của ông đã góp phần vào một số thành công kinh tế-xã hội, làm họ tự phong mình là đế (帝), thay vì là hầu (侯) như trong trường hợp của các thủ lĩnh các bộ lạc nhỏ hơn. Vào thời điểm này, dường như mới chỉ có những khởi đầu thô sơ của chữ viết, và để duy trì việc ghi chép thì một hệ thống các dây thắt nút (có lẽ tương tự như quipu ở Nam Mỹ) đã được sử dụng. Tả truyện ghi lại rằng vào năm 525 TCN các hậu duệ của Viêm Đế được công nhận là những bậc thầy về lửa từ lâu và đã sử dụng lửa trong họ tên của họ. Viêm Đế cũng được coi là "Hoàng đế của phương Nam". Sụp đổ Vị Viêm Đế cuối cùng đã kết thúc triều đại của mình trong trận đánh thứ ba trong chuỗi ba trận chiến, được gọi là trận Phản Tuyền. Vị trí chính xác của trận chiến này vẫn còn tranh cãi giữa các nhà sử học hiện đại, do nhiều địa điểm sử dụng cùng một tên gọi ở các thời điểm khác nhau trong lịch sử. Các ứng cử viên có thể bao gồm huyện Trác Lộc và huyện Hoài Lai ở Trương Gia Khẩu, tỉnh Hà Bắc; quận Diên Khánh ở Bắc Kinh; huyện Phù Câu ở Chu Khẩu, tỉnh Hà Nam, và quận Diêm Hồ ở Vận Thành, tỉnh Sơn Tây. Viêm Đế vừa mới phải rút lui trước cuộc xâm lăng trong thời gian ngay trước đó của các lực lượng của Xi Vưu thì đã xảy ra xung đột lãnh thổ với các bộ tộc Hữu Hùng láng giềng do Hoàng Đế lãnh đạo. Viêm Đế bị đánh bại sau ba trận chiến liên tiếp và đầu hàng Hoàng Đế, người tự xưng là cộng chủ (共主) và đồng ý hợp nhất hai bộ lạc thành một liên minh mới - bộ lạc Viêm Hoàng. Dưới sự lãnh đạo của Hoàng Đế, các bộ tộc mới được kết hợp sau đó đã tham chiến và đánh bại Xi Vưu trong trận Trác Lộc, đồng thời thiết lập sự thống trị về văn hóa và chính trị của họ ở Trung Quốc. Tính lịch sử Vì trận Phản Tuyền được Tư Mã Thiên coi như một sự kiện lịch sử trong Sử ký của ông, nên có vẻ như đây là điểm chuyển tiếp quan trọng giữa huyền thoại và lịch sử. Trớ trêu thay, Viêm Đế chỉ đi vào lịch sử với sự khất phục trước ý chí của Hoàng Đế. Trong mọi trường hợp, tước hiệu Hỏa Đức Vương dường như mất hiệu lực sau thời gian này, trong khi các hậu duệ của bộ lạc của ông được cho là tồn tại mãi mãi thông qua hôn nhân liên bộ lạc với các hậu duệ của bộ lạc của Hoàng Đế, và người Hán trong suốt lịch sử tự gọi mình là Viêm Hoàng tử tôn. Trong văn hóa truyền thống Trong một số khía cạnh, cả Hoàng Đế và Viêm Đế đều được coi là tổ tiên của văn hóa và người Trung Hoa. Ngoài ra, truyền thống liên kết một màu nhất định với một triều đại cụ thể có thể đã bắt đầu từ các Hỏa Đức Vương. Theo mô hình ngũ hành thì màu đỏ hay màu lửa lửa là hành Hỏa sẽ được kế tục bằng màu vàng, màu đất là hành Thổ - nghĩa là Viêm Đế được kế tục bởi Hoàng Đế. Danh sách các Viêm Đế/Hỏa Đức Vương Thuyết về việc Viêm Đế truyền được 8 đời bắt nguồn từ sách chiêm nghiệm tốt xấu Xuân Thu mệnh lịch tự (春秋命歷序) (khuyết danh, thời Hán). Danh sách phổ biến nhất do Hoàng Phủ Mật (215-282) trong sách Đế vương thế kỷ, Từ Chỉnh (thế kỷ 3) trong sách Tam Ngũ lịch ký (thất truyền, tồn tại vài đoạn trong Thái Bình ngự lãm thời Tống và Nghệ văn loại tụ thời Đường), và Tư Mã Trinh (679-732) trong sách Sử ký tác ẩn: Phả hệ Phả hệ lấy theo Thông giám tục biên, Sử toản thông yếu, Độc thư kỉ sổ lược, Đại Việt Sử ký toàn thư. Trong Sơn hải kinh Danh sách do Sơn hải kinh đưa ra:
Algérie (, phiên âm: "An-giê-ri"; tiếng Ả Rập: الجزائر, , tiếng Berber (Tamazight): Lz̦ayer , ), tên chính thức Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Algérie, là một nước tại Bắc Phi, và là nước lớn nhất trên lục địa Châu Phi (Sudan lớn hơn nhưng đã chia làm 2 nước Sudan và Nam Sudan). Nước này có chung biên giới với Tunisia ở phía đông bắc, Libya ở phía đông, Niger phía đông nam, Mali và Mauritanie phía tây nam, và Maroc cũng như một vài kilômét lãnh thổ phụ thuộc, Tây Sahara, ở phía tây. Theo hiến pháp, nước này được xác định là một quốc gia Hồi giáo, Ả Rập và Amazigh (Berber). Algiers là thủ đô và là thành phố lớn nhất nước này. Tên gọi "Algérie" xuất phát từ tên thành phố Algiers, và chính thức từ al-jazā’ir trong tiếng Ả Rập, có nghĩa là "hòn đảo", để chỉ bốn hòn đảo nằm ngoài khơi thành phố này trước khi chúng trở thành một phần lục địa năm 1525. Sách tiếng Việt cuối thế kỷ 19 còn gọi xứ này bằng tên A Lợi Tư. Địa lý Algérie nằm ở Bắc Phi, Bắc giáp Địa Trung Hải, Nam giáp Niger, Mali, Mauritanie, Đông giáp Tunisia và Libya, Tây giáp Maroc. Lãnh thổ được chia thành ba vùng địa lý tự nhiên nối tiếp nhau từ Bắc đến Nam: Những đồng bằng nhỏ hẹp ven biển không liên tục, xen kẽ với vùng đồi núi Atlas Tell, thích hợp cho việc phát triển lúa mì và các loại cây cận nhiệt đới. Phía nam dãy Atlas Tell là những cao nguyên rộng lớn rải rác những hồ mặn, một khu vực thuận lợi cho việc chăn nuôi cừu, trồng ô liu. Vùng phía nam là bộ phận của sa mạc Sahara chiếm 80% diện tích đất nước, nơi có tiềm năng khổng lồ về dầu mỏ, khí đốt và nhiều khoáng sản giá trị khác. Đa phần vùng bờ biển có nhiều đồi, thỉnh thoảng thậm chí là các dãy núi, và có ít bến cảng tốt. Vùng ngay phía nam bờ biển, được gọi là Tell, khá màu mỡ. Xa hơn nữa về phía nam là dãy núi Atlas và sa mạc Sahara. Algiers, Oran và Constantine là các thành phố lớn. Khí hâu Algérie khô cằn và nóng, dù khí hậu vùng bờ biển khá dễ chịu, mùa đông tại các vùng núi có thể rất khắc nghiệt. Algérie có nhiều gió nóng ẩm, một loại gió nóng mang theo bụi và cát đặc biệt thường xảy ra vào mùa hè. Lịch sử Algérie từng là nơi sinh sống của người Berber (hay Imazighen) từ ít nhất năm 10.000 TCN. Từ năm 1000 TCN trở về sau, người Carthage bắt đầu tạo lập ảnh hưởng tại đây, thành lập nên những khu định cư dọc bờ biển. Các vương quốc Berber bắt đầu xuất hiện, nổi tiếng nhất là Numidia, lợi dụng cơ hội sau Các cuộc chiến tranh Punic để trở thành độc lập với Carthage nhưng ngay sau đó lại bị Cộng hòa La Mã chiếm năm 200 TCN. Khi Đế chế Tây La Mã sụp đổ, người Berber một lần nữa giành lại độc lập trong khi người Vandal chiếm nhiều vùng khác cho tới khi bị các vị tướng của Hoàng đế Byzantine, Justinian I trục xuất khỏi nơi này. Sau đó, Đế chế Byzantine tạm thời kiểm soát được vùng phía đông đất nước cho tới khi người Ả Rập xuất hiện vào thế kỷ thứ VIII. Sau một số thập kỷ kháng chiến dữ dội dưới sự lãnh đạo của Kusayla và Kahina, người Berbers chấp nhận Hồi giáo en masse (theo số đông), nhưng hầu như ngay lập tức trục xuất umayyad Caliphate ra khỏi Algérie, thành lập nên một nhà nước Ibadi của những người Rustamid. Sau khi đã cải đạo Kutama của người Kabylie sang đạo của mình nhà Fatima Shia lật đổ Rustamids, và chinh phục Ai Cập. Họ để lại Algérie và Tunisia cho những kẻ chư hầu Zirid; sau này người Zirid nổi loạn và theo dòng Hồi giáo Sunni, họ đồng hóa với một bộ lạc Ả Rập đông dân, bộ lạc Banu Hilal, để làm yếu bộ lạc đó, nhưng điều đó bất ngờ lại dẫn tới quá trình Ả Rập hoá vùng nông thôn. Almoravid và Almohad, các triều đại của người Berber từ phía tây do những người cải cách tôn giáo lập nên đã mang lại một giai đoạn khá ổn định và phát triển; tuy nhiên với sự sụp đổ của Almohads, Algérie trở thành một chiến trường cho ba quốc gia tiếp theo, Zayyanid của Algérie, Hafsid của Tunisia, và Marinid của Maroc. Trong thế kỷ mười lăm và mười sáu, Tây Ban Nha bắt đầu tấn công chiếm giữ nhiều thành phố ven biển, tìm cách lôi kéo sự hỗ trợ từ Đế chế Ottoman. Algérie được gộp vào trong Đế chế Ottoman bởi Khair ad-Din và em trai ông là Aruj, người đã lập ra những biên giới hiện đại của Algérie ở phía bắc và biến bờ biển nước này thành cơ sở cho những tên cướp biển; cướp biển phát triển mạnh nhất tại trong những năm 1600. Việc cướp bóc các tàu buôn Hoa Kỳ trên Địa Trung Hải dẫn tới cuộc chiến Berber thứ nhất và thứ hai với Hoa Kỳ. Viện lý do coi thường Lãnh sự của mình, Pháp xâm chiếm Algiers năm 1830; tuy nhiên, nhiều cuộc kháng chiến do các cá nhân như Abdelkader ibn Muhieddine, Ahmed Bey và Fatma N'Soumer tiến hành khiến công cuộc chinh phục Algérie của Pháp diễn ra chậm chạp, về mặt kỹ thuật chỉ hoàn thành vào cuối những năm 1900 khi Tuareg cuối cùng bị chinh phục. Tuy nhiên, trong lúc ấy Pháp đã biến Algérie thành một phần lãnh thổ của mình, tình trạng này chỉ chấm dứt với sự sụp đổ của nền Đệ Tứ Cộng hoà. Hàng chục nghìn người định cư từ Pháp, Ý, Tây Ban Nha và Malta đã tới sống tại các trang trại trên đồng bằng ven biển Algérie và chiếm đa số những vùng ưu thế tại các thành phố ở Algérie, lợi dụng việc sung công các đất do các cộng đồng sở hữu của Pháp, và ứng dụng các công nghệ nông nghiệp mới để tăng diện tích đất canh tác. Hậu duệ của những người châu Âu tại Algérie (được gọi là "chân đen" - Pieds-Noirs), cũng như những người gốc Algérie theo Do Thái (thường có nguồn gốc Sephardic), trở thành các công dân Pháp thực sự bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX; trái lại, đa phần dân Hồi giáo Algérie (thậm chí cả những cựu chiến binh trong quân đội Pháp) không được nhận Pháp tịch cũng như quyền bầu cử. Kết cấu xã hội Algérie đã bị đẩy tới mức căng thẳng tột cùng trong giai đoạn này: tỷ lệ biết chữ giảm sút, trong khi việc quốc hữu hóa đất đai đã khiến nhiều người dân trở thành vô gia cư. Tuy nhiên, dân số vẫn tăng đều đặn. Năm 1954, Mặt trận Giải phóng Quốc gia (có lúc gọi là Mặt trận giải phóng Dân tộc Algérie (FLN) bắt đầu một cuộc chiến tranh giành độc lập cho Algérie; sau gần một thập kỷ chiến đấu cả tại thành thị và vùng nông thôn, họ đã thành công trong việc hất cẳng Pháp năm 1962. Đa phần trong số 1.025.000 người "chân đen", cũng như 91.000 người "harki" (người Hồi giáo Algérie ủng hộ Pháp trong quân đội Pháp), chiếm khoảng 10% dân số Algérie năm 1962, đã di cư sang Pháp trong vài tháng giữa năm đó. Tổng thống đầu tiên của Algérie, người lãnh đạo Mặt trận Giải phóng Quốc gia Ahmed Ben Bella, bị cựu đồng minh cũ và là bộ trưởng quốc phòng Houari Boumédiènne lật đổ năm 1965. Dưới thời Ben Bella chính phủ đi theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa và chiều hướng này tiếp tục kéo dài tới thời chính phủ Boumedienne; tuy vậy, Boumedienne tiếp tục dựa nhiều vào quân đội, giảm bớt vai trò của Đảng cầm quyền duy nhất chỉ còn mang tính tượng trưng. Nông nghiệp được hợp tác hoá, và một phong trào công nghiệp hóa rộng rãi được triển khai. Các cơ sở khai thác dầu khí được tư nhân hóa giúp tăng tài sản quốc gia, đặc biệt sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, nhưng nền kinh tế Algérie dần trở nên phụ thuộc vào dầu mỏ, khiến nó gặp khó khăn khi giá dầu thế giới giảm mạnh trong thập kỷ 1980. Trong chính sách đối ngoại Algérie là một thành viên và lãnh đạo của phong trào các quốc gia "không liên kết". Sự tranh giành Tây Sahara với Maroc hầu như đã đưa hai nước tới bờ vực chiến tranh. Bất đồng chính trị ít được nhân nhượng và sự kiểm soát của nhà nước đối với phương tiện truyền thông cũng như việc đặt các Đảng chính trị không phải Phong trào Giải phóng Quốc gia ra ngoài vòng pháp luật được thể chế hóa theo hiến pháp hà khắc năm 1976. Boumédienne chết năm 1978, nhưng thời cầm quyền của người kế vị, Chadli Bendjedid, cũng không mang lại nhiều cải cách hơn. Nhà nước mang nặng tính quan liêu và tham nhũng tràn lan. Hiện đại hóa đã mang lại những thay đổi lớn trong nhân khẩu Algérie. Các truyền thống làng xã trải qua những thay đổi lớn cùng với sự tăng lên của quá trình đô thị hoá, các ngành công nghiệp mới xuất hiện, nông nghiệp bị thu hẹp ai trò, và giáo dục, vốn không phát triển ở thời thuộc địa, đã được mở rộng ra khắp đất nước, nâng tỷ lệ biết chữ từ chưa tới 10% thành hơn 60%. Những cải thiện trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe gây ra sự tăng trưởng rất cao ở tỷ lệ sinh (7-8 trẻ trên mỗi phụ nữ) gây ra hai hậu quả: một dân số rất trẻ và sự khủng hoảng chỗ ở. Thế hệ mới đấu tranh để liên hệ với nỗi ám ảnh văn hóa những năm chiến tranh và hai phong trào phản kháng bắt đầu phát triển: những người cánh tả, gồm các phong trào của người Berber, và những người bảo vệ Hồi giáo. Cả hai đều chống lại sự cầm quyền độc Đảng nhưng cũng xung đột với nhau cả trong các trường đại học và trên đường phố trong thập kỷ 1980. Những cuộc tuần hành đông đảo của hai phe trong mùa thu năm 1988 buộc Benjedid phải chấm dứt chế độ cầm quyền một Đảng và cuộc bầu cử tự do được tuyên bố diễn ra năm 1991. Tháng 12 năm 1991, Mặt trận Bảo vệ Hồi giáo thắng lợi tại vòng một cuộc bầu cử đa Đảng đầu tiên của nước này. Quân đội sau đó đã hủy bỏ vòng hai, buộc tổng thống khi ấy là Bendjedid từ chức và cấm Mặt trận Bảo vệ Hồi giáo. Những cuộc xung đột tiếp sau nhận chìm Algérie vào vòng bạo lực với cuộc Nội chiến Algérie. Hơn 100.000 người đã thiệt mạng, thường là trong những cuộc thảm sát dân thường vô có. Câu hỏi về người chịu trách nhiệm cho những cuộc thảm sát đó vẫn gây tranh cãi trong những nhà quan sát trong quốc hội; nhiều vụ bị gán cho các Nhóm vũ trang Hồi giáo. Sau năm 1998, cuộc chiến tranh gần tàn lụi và tới năm 2002 các nhóm du kích chính hoặc đã bị tiêu diệt hoặc đầu hàng đưa lại cơ hội cho một chương trình ân xá quốc gia, dù những cuộc xung đột lẻ tẻ vẫn diễn ra ở một số vùng. Các cuộc bầu cử được tiến hành lại năm 1995, và vào ngày 27 tháng 4 năm 1999, sau thời kỳ cầm quyền ngắn của một loạt tướng lĩnh quân đội, Abdelaziz Bouteflika được bầu làm tổng thống. Vấn đề bản sắc và ngôn ngữ Berber ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt sau cuộc phản kháng Kabyle đông đảo năm 2001 và cuộc tẩy chay hầu như hoàn toàn cuộc tuyển cử tại Kabylie; chính phủ nhượng bộ và coi Tamazight (tiếng Berber) là ngôn ngữ quốc gia sử dụng trong các trường học. Đa phần các lĩnh vực Algérie hiện đã phục hồi, phát triển trở thành một nền kinh tế đang nổi. Giá dầu mỏ và khí gas cao là nhân tố giúp chính phủ cải thiện cơ sở hạ tầng đất nước và đặc biệt cải thiện công nghiệp và nông nghiệp. Những khoản đầu tư nước ngoài vào Algérie đã gia tăng gần đây. Giáo dục Giáo dục ở Algérie là bắt buộc và miễn phí 9 năm (bắt đầu từ năm 6 tuổi). Học sinh được giảng dạy chủ yếu bằng tiếng Ả Rập (trước đây là tiếng Pháp). Algérie có một số trường đại học ở các thành phố lớn Alger, Oran và Qacentina (Constantine). Cơ cấu hệ thống trường Căn bản Kiểu trường cung cấp dịch vụ giáo dục này: Retared, Trường cơ sở Thời gian chương trình: 9 năm Độ tuổi: 6 tới 15 tuổi Chứng nhận/bằng được cấp: Bằng giáo dục cơ sở Trung học phổ thông Kiểu trường cung cấp dịch vụ giáo dục này: Trung học phổ thông, trung học đa ngành Thời gian chương trình: 3 năm Độ tuổi: 15 tới 18 Chứng nhận/bằng được cấp: Bằng trung học phổ thông Trung học kỹ thuật Kiểu trường cung cấp dịch vụ giáo dục này: Trung học kỹ thuật Thời gian chương trình: 3 năm Chứng nhận/bằng được cấp: Tú tài kỹ thuật Chính trị Thể chế Cộng hòa Tổng thống, dân chủ đa nguyên. Tổng thống được lựa chọn thông qua bầu cử phổ thông đầu phiếu, nhiệm kỳ của Tổng thống là 5 năm. Hiến pháp sửa đổi vào tháng 11 năm 2008 huỷ bỏ giới hạn mỗi người chỉ được 2 nhiệm kỳ Tổng thống liên tiếp. Tổng thống có quyền cao nhất, đứng đầu lực lượng vũ trang, chỉ định Thủ tướng và xét duyệt thành phần các bộ trưởng trong Chính phủ, giải tán Hạ viện (nếu cần), tổ chức bầu cử sớm, trưng cầu dân ý… Cơ quan lập pháp Gồm 2 Viện: Hội đồng Dân tộc (Thượng viện) và Đại hội đồng nhân dân (Hạ viện). Hạ viện có 389 ghế, đại biểu được bầu qua phổ thông đầu phiếu, nhiệm kỳ 5 năm. Thượng viện có 144 ghế, 1/3 số đại biểu do Tổng thống chỉ định, 2/3 do bầu gián tiếp thông qua đại biểu Hội đồng nhân dân huyện, tỉnh, nhiệm kỳ 6 năm, hiến pháp quy định cứ 3 năm phải bầu lại ½ số đại biểu Thượng viện. Cơ quan lập pháp làm luật, thông qua ngân sách, luật tài chính và kiểm soát hoạt động của Chính phủ. Đảng phái chính trị Mặt trận giải phóng dân tộc (FLN-Đảng cầm quyền), Tập hợp quốc gia dân chủ (RND), Phong trào xã hội vì hòa bình (MSP), Tập hợp vì văn hóa và dân chủ (RCD), Phong trào cải cách quốc gia (MRN), Mặt trận các lực lượng xã hội (FFS), Đảng lao động (PT), Mặt trận quốc gia Algérie (FNA). Trong suốt thập niên 1960, Algérie đã ủng hộ nhiều phong trào độc lập vùng Hạ Sahara tại châu Phi, nước này là một lãnh đạo Phong trào không liên kết. Trong khi cùng có nhiều di sản lịch sử và văn hóa chung với Maroc, hai nước lại có quan hệ thù địch với nhau kể từ khi Algérie giành lại độc lập. Điều này xuất phát từ hai nguyên nhân: những vùng đất tranh chấp tại tây Algéria của Maroc (dẫn tới Chiến tranh Sand năm 1963), và việc Algérie ủng hộ Polisario, một nhóm vũ trang của người tị nạn Sahrawi đang tìm cách đòi độc lập cho vùng Tây Sahara thuộc quyền quản lý của Maroc, bên trong biên giới nước này tại thành phố Tindouf. Căng thẳng giữa Algérie và Maroc, cũng như các vấn đề liên quan tới cuộc Nội chiến Algérie, đã đặt ra nhiều vật cản trên con đường củng cố Liên đoàn Maghreb Ả Rập, trên danh nghĩa được thành lập năm 1989 nhưng ít có vai trò thực tiễn, với các nước láng giềng dọc bờ biển. Đối ngoại Algérie là thành viên của Liên Hợp Quốc (UN), Liên minh châu Phi (AU), Phong trào không liên kết (NAM), Liên đoàn Ả Rập (ACL), Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC), Tổ chức các nước Ả Rập xuất khẩu dầu mỏ (OAPEC), Khối Maghreb (UMA)...vv. Khu vực hành chính Kinh tế Kinh tế Algérie gặp nhiều khó khăn, dân số tăng cao làm cho tình hình trở nên trầm trọng hơn. Cơ cấu nông nghiệp bị xáo trộn do chính sách tập thể hóa (1971) và tư nhân hóa (1990). Sản lượng lương thực không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ trong nước, phải nhập khẩu thực phẩm. Việc lựa chọn phát triển các ngành công nghiệp nặng đã để lộ ra những nhược điểm tai hại: các sản phẩm của ngành công nghiệp luyện kim và công nghiệp hóa học không phù hợp với nhu cầu nội địa và xuất khẩu gặp nhiều khó khăn. Lợi nhuận thu được từ xuất khẩu dầu mỏ và khí đốt đã làm giảm bớt những tác động của khủng hoảng. Lĩnh vực năng lượng hóa thạch là xương sống của nền kinh tế, chiếm khoảng 60% thu ngân sách, 30% GDP, và hơn 95% thu nhập xuất khẩu. Nước này xếp hạng 14 về trữ lượng dầu khí, với 11.8 tỷ thùng trữ lượng đã được chứng minh và ước tính số thực có thể vượt mức trên. Cơ quan Thông tin Năng lượng đã thông báo rằng năm 2005, Algérie có 160 tỷ feet khối (Tcf) trữ lượng khí tự nhiên đã được khảo sát, đứng hàng thứ 8 thế giới. Các chỉ số tài chính và kinh tế Algérie đã được cải thiện ở giữa thập niên 1990, một phần nhờ chính sách cải cách được Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) hỗ trợ và việc tái cơ cấu nợ của Câu lạc bộ Paris. Tình hình tài chính Algérie trong năm 2000 và 2001 có bước cải thiện nhờ giá dầu tăng và chính sách thuế chặt chẽ của chính phủ, dẫn tới tăng trưởng mạnh thặng dư thương mại, và đạt mức cao kỷ lục về dự trữ ngoại tệ, giảm mạnh nợ nước ngoài. Những nỗ lực tiếp theo của chính phủ nhằm đa dạng hóa nền kinh tế bằng cách thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài ra các lĩnh vực khác ngoài dầu khí mang lại ít thành công về mặt giảm mức độ thất nghiệp cao và cải thiện tiêu chuẩn sống. Năm 2001, chính phủ đã ký kết một thỏa ước liên hiệp với Liên minh châu Âu cho phép hạ thấp các mức thuế và tăng cường thương mại giữa hai bên. Tháng 3 năm 2006, Nga đã đồng ý xoá 4.74 tỷ dollar nợ của Algérie với Liên bang Xô viết cũ sau chuyến thăm viếng của Tổng thống Vladimir Putin tới nước này, lần đầu tiên của một nhà lãnh đạo Nga sau nửa thế kỷ. Đổi lại, tổng thống Abdelaziz Bouteflika đồng ý mua số máy bay chiến đấu, các hệ thống phòng không và các loại vũ khí khác của Nga trị giá 7.5 tỷ dollar, theo công ty xuất khẩu vũ khí nhà nước Nga Rosoboronexport. Năm 2006 Algérie cũng đá quyết định trả hết toàn bộ số nợ 8 tỷ dollar cho Câu lạc bộ Paris trước thời hạn. Điều này giúp giảm số nợ của Algérie xuống còn chưa tới 5 tỷ dollar vào cuối năm 2006. Câu lạc bộ Paris cho rằng động thái này phản ánh sự hồi phục kinh tế Algérie trong những năm gần đây. Nhờ nguồn tài nguyên dầu mỏ và khí gas phong phú, họ được lợi nhờ tăng giá năng lương. Nhân khẩu Dân số Dân số hiện tại của Algérie là 43.378.027 người (ước tính tháng 7 năm 2019). Báo cáo từ các nguồn quốc tế và phi chính phủ về số dân hiện tại khoảng 40 tới 50 triệu người. Khoảng 70% người Algérie sống ở miền bắc, vùng ven biển; một bộ phận nhỏ sống tại sa mạc Sahara và chủ yếu tập trung tại các ốc đảo, có khoảng 1.5 triệu người vẫn sống kiểu du mục hay bán du mục. Chín chín phần trăm dân số được xếp hạng theo chủng tộc Ả Rập/Berber và là tín đồ Hồi giáo; các tôn giáo khác chỉ hạn chế trong những cộng đồng rất nhỏ, chủ yếu là người nước ngoài. Người châu Âu chiếm chưa tới 1% dân số. Trong thời thuộc địa, có một cộng đồng châu Âu lớn (chủ yếu là người Pháp) "chân đen" tại Algérie, tập trung ở ven biển và tạo thành một cộng đồng đa số trong nhiều thành phố. Hầu như toàn bộ số người này đã rời đi ngay sau khi nước này giành lại độc lập từ Pháp. Đa phần người dân Algérie là người Ả Rập theo ngôn ngữ và đặc tính, và có tổ tiên hòa trộn giữa Berber-Ả Rập. Người Berbers đã sống ở Algérie trước khi các bộ lạc Ả Rập tới đây trong thời đạo Hồi bành trướng ảnh hưởng ở thế kỷ thứ VII. Vấn đề chủng tộc và ngôn ngữ đã trở thành khá nhạy cảm sau nhiều năm hạn chế văn hóa Berber (hay Imazighen, như một số người muốn dùng) của chính phủ. Ngày nay, vấn đề Ả Rập-Berber thường là về việc tự đồng hóa hay đồng hóa thông qua ngôn ngữ và văn hoá, chứ không phải là vấn đề phân biệt nguồn gốc hay chủng tộc. Khoảng chừng 20% dân số tự cho mình là người Berber, và chủ yếu sử dụng các ngôn ngữ Berber (cũng được gọi bằng thuật ngữ Tamazight), và được chia thành nhiều nhóm chủng tộc, đáng chú ý gồm Kabyle (lớn nhất) ở vùng núi phía bắc miền trung, Chaoui ở phía đông núi Atlas, Mozabite sống tại thung lũng M'zab, và Tuareg ở cực nam. Ngôn ngữ Ngôn ngữ lớn nhất đồng thời là ngôn ngữ chính thức của Algérie, tiếng Ả Rập, là tiếng mẹ đẻ ở hình thức thổ ngữ ("Darja") của 80% dân số, và giống như toàn bộ thế giới Ả Rập, được sử dụng như biến thể của tiếng Ả Rập tiêu chuẩn hiện đại trên các phương tiện truyền thông đại chúng và các dịp nghi lễ chính thức. Khoảng 20% dân số, tự coi mình là người Berber hay Imazighen, có tiếng mẹ đẻ không phải Ả Rập mà là một kiểu thổ ngữ Tamazight. Tuy nhiên, nhiều người Algérie sử dụng thành thạo cả hai ngôn ngữ trên. Tiếng Ả Rập là ngôn ngữ chính thức duy nhất của Algérie, dù tiếng Tamazight gần đây cũng được công nhận là ngôn ngữ quốc gia cùng với nó. Nghiên cứu phong tục học cho thấy có 18 ngôn ngữ tại Algérie, chia thành hai nhóm chính là tiếng Ả Rập và Tamazight, ngoài ra còn có tiếng Korandje. Về mặt chính trị, vấn đề ngôn ngữ khá nhạy cảm, đặc biệt đối với cộng đồng thiểu số Berber, vốn đã trở nên yếu thế sau khi quốc gia chấp nhận Ả Rập hoá. Chính sách ngôn ngữ và sự Ả Rập hóa một phần là sự phản ứng trước sự thực rằng 130 năm thuộc địa hoá của Pháp đã để lại cho đất nước cả nền hành chính và giáo dục bậc cao đều hoàn toàn bằng tiếng Pháp, cũng như sự thúc đẩy của chủ nghĩa quốc gia Ả Rập do nhiều chính phủ liên tiếp tại Algérie tiến hành. Tiếng Pháp vẫn là ngôn ngữ được học nhiều nhất trong số các ngoại ngữ, và được sử dụng rộng rãi (vượt xa ngoại ngữ thứ hai là tiếng Anh), nhưng hiếm khi được coi là tiếng mẹ đẻ. Từ khi giành độc lập, chính phủ đã theo đuổi một chính sách Ả Rập hóa ngôn ngữ giáo dục và hành chính, đã mang lại một số thành công, dù nhiều giáo trình đại học vẫn được giảng dạy bằng tiếng Pháp. Tôn giáo Hồi giáo là tôn giáo chiếm ưu thế với 99% dân số tin theo. Hầu như tất cả người Hồi giáo Algérie đều thuộc Hồi giáo Sunni, và một cộng đồng nhỏ 200.000 người theo giáo phái Ibadis trong thung lũng M'zab của Ghardaia. Ước tính có khoảng 10.000 tín hữu Kitô giáo tại Algérie vào năm 2008. Sau cuộc cách mạng dẫn đến sự độc lập của Algérie, có tất cả 6500 trong tổng số 140.000 người Do Thái của nước này rời khỏi đất nước, trong đó khoảng 90% chuyển sang Pháp và 10% chuyển đến Israel. Văn hoá Văn học hiện đại Algérie, bị phân chia giữa Ả Rập và Pháp, bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi lịch sử gần đây của đất nước. Các nhà văn nổi tiếng thế kỷ XX gồm Mohammed Dib, Albert Camus và Kateb Yacine, còn Assia Djebar là nhà văn có số lượng tác phẩm được dịch khá lớn. Những nhà văn nổi bật thập niên 1980 gồm Rachid Mimouni, sau này là phó chủ tịch tổ chức Ân xá Quốc tế, và Tahar Djaout, bị một nhóm Hồi giáo giết hại năm 1993 vì các quan điểm thế tục của ông. Ngay từ thời La Mã, Apuleius, sinh tại Mdaourouch, đã có tư tưởng về một quốc gia Algérie. Trong triết học và nhân loại học, Malek Bennabi và Frantz Fanon được chú ý về các tư tưởng của họ với quá trình giải thực, trong khi Augustine thành Hippo sinh tại Tagaste (khoảng 60 dặm từ thành phố Annaba hiện nay), và Ibn Khaldun, dù sinh tại Tunis, đã viết ra Muqaddima khi đang sống ở Algérie. Văn hoá Algérie đã bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi Hồi giáo, tôn giáo chính của quốc gia này. Các tác phẩm của gia đình Sanusi thời tiền thuộc địa và của Emir Abdelkader và Sheikh Ben Badis thời thuộc địa, rất đáng chú ý. Thể loại âm nhạc Algérie nổi tiếng nhất trên thế giới là raï, một loại nhạc có khuynh hướng pop, dựa trên âm nhạc dân gian, được các ngôi sao quốc tế như Khaled và Cheb Mami thể hiện. Tuy nhiên, tại chính Algérie kiểu âm nhạc cổ điển hơn, biểu diễn rõ từng chữ là chaabi lại phổ biến hơn, với các ngôi sao như El Hadj El Anka hay Dahmane El Harrachi, trong khi thể loại âm nhạc có các giai điệu du dương Kabyle, được Idir, Ait Menguellet, hay Lounès Matoub biểu diễn, thu hút được rất đông thính giả. Về các thị hiếu âm nhạc cổ điển hơn, âm nhạc cổ điển Andalusia, do những người tị nạn Morisco từ Al-Andalus đưa tới, vẫn được gìn giữ trong nhiều thị trấn cổ ven biển. Trong lĩnh vực hội họa, Mohammed Khadda và M'Hamed Issiakhem là hai khuôn mặt đáng chú ý trong những năm gần đây.
Bệnh bạch hầu là một nhiễm trùng gây ra bởi vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae. Dấu hiệu và triệu chứng khác nhau từ nhẹ đến nặng, thường bắt đầu khoảng hai đến năm ngày sau khi phơi nhiễm. Các triệu chứng thường xuất hiện từ từ, bắt đầu bằng đau họng và sốt. Trong trường hợp nặng, một mảng màu xám hoặc trắng phát triển trong cổ họng. Mảng này có thể làm nghẹt đường thở và gây nên ho khan giống bệnh yết hầu. Cổ có thể bị sưng một phần do các hạch bạch huyết phình lên. Một thể của bệnh bạch hầu gây ảnh hưởng đến da, mắt và bộ phận sinh dục cũng từng được ghi nhận. Các biến chứng có thể bao gồm viêm cơ tim, viêm dây thần kinh, những vấn đề ở thận, và xuất huyết do lượng tiểu cầu thấp. Viêm cơ tim có thể gây ra rối loạn nhịp tim và viêm dây thần kinh có thể gây liệt. Bạch hầu thường lây truyền giữa người thông qua tiếp xúc trực tiếp hoặc không khí. Nó cũng có thể lây truyền qua các vật mang mầm bệnh. Một số người mang vi khuẩn nhưng không có triệu chứng, vẫn có thể truyền bệnh sang người khác. Ba týp chính của C. diphtheriae gây ra các mức độ nghiêm trọng của bệnh khác nhau. Những triệu chứng là do một độc tố do vi khuẩn sản sinh ra. Chẩn đoán thường có thể được thực hiện dựa vào thăm khám cổ họng kèm theo xác nhận có được từ nuôi cấy vi sinh. Việc đã từng nhiễm bệnh trước kia có thể không thể bảo vệ chống lại việc tái nhiễm trong tương lai. Vắc-xin bạch hầu có hiệu quả trong việc phòng ngừa và có thể được tích hợp chung trong một số công thức vắc-xin. Ba hoặc bốn liều, được tiêm cùng với vắc-xin uốn ván và vắc-xin ho gà, được khuyến nghị tiêm cho trẻ em. Nên tiêm thêm các liều vắc-xin ho gà-uốn ván mỗi mười năm một lần. Khả năng phòng bệnh có thể được xác định bằng cách đo nồng độ của kháng độc tố trong máu. Bạch hầu có thể được chữa bằng kháng sinh erythromycin hoặc benzylpenicillin. Phẫu thuật mở khí quản đôi khi là cần thiết để mở đường thở trong các trường hợp nghiêm trọng. Vào năm 2015, trên toàn thế giới đã có 4,500 ca được ghi nhận, giảm so với gần 100,000 trường hợp trong năm 1980. Vào trước thập niên 1980, số ca bệnh trong một năm được tin rằng là vào khoảng một triệu. Bệnh bạch hầu hiện nay thường xảy ra ở Châu Phi Hạ Sahara, Ấn Độ, và Indonesia. Vào năm 2015, nó làm thiệt mạng 2,100 người, giảm so với 8,000 ca tử vong trong năm 1990. Ở những khu vực mà bệnh còn phổ biến, hầu hết trẻ em đều nhiễm bệnh. Bệnh hiếm xảy ra ở những nước phát triển do việc tiêm phòng đã được phổ cập nhưng vẫn có thể tái xuất hiện nếu tỉ lệ tiêm phòng giảm. Ở Hoa Kỳ, có 57 trường hợp đã được báo cáo từ năm 1980 đến 2004. Tử vong chiếm từ 5% đến 10% trong số các ca bệnh đã được chẩn đoán. Bệnh được Hippocrates lần đầu tiên mô tả vào thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên. Vi khuẩn được xác định vào năm 1882 bởi Edwin Klebs. Dấu hiệu và triệu chứng Các triệu chứng của bạch hầu thường bắt đầu từ hai đến bảy ngày sau khi nhiễm bệnh, bao gồm sốt 38 °C (100.4 °F) hoặc hơn; ớn lạnh; mệt mỏi; da tím tái; đau họng; khan tiếng; ho; nhức đầu; nuốt khó; nuốt đau; khó thở; thở nhanh; mũi hôi và chảy máu; và sưng hạch. Trong hai đến ba ngày, bạch hầu có thể phá hủy những mô khỏe mạnh trong hệ hô hấp. Mô chết hình thành một lớp màng bao dày, màu xám trong họng hoặc mũi, gọi là "giả mạc". Nó có thể bao quanh những mô trong mũi, amidan, thanh quản, và họng, gây khó thở và khó nuốt. Các triệu chứng cũng có thể bao gồm rối loạn nhịp tim, viêm cơ tim, liệt dây thần kinh sọ và ngoại biên. Bạch hầu thanh quản Bạch hầu thanh quản có thể dẫn đến sưng cổ và họng đặc trưng, hay còn gọi là "cổ bò". Sưng họng thường kèm theo tình trạng hô hấp nghiêm trọng, đặc trưng bởi tiếng ho khan, ran, thở rít, khàn giọng, và thở khó; trong quá khứ nó được gọi với nhiều tên khác nhau "bệnh bạch yết hầu", "bệnh yết hầu thật", hoặc đôi khi chỉ đơn giản là "bệnh yết hầu". Bạch hầu thanh quản cực kỳ hiếm ở những quốc gia tiêm phòng vắc-xin bạch hầu mở rộng. Do đó, thuật ngữ "bệnh yết hầu" ngày nay thường được sử dụng để chỉ một bệnh do virus không liên quan với bệnh bạch hầu cũng có các triệu chứng tương tự nhưng nhẹ hơn. Lây truyền Bạch hầu lây truyền từ người sang người thường xảy ra thông qua không khí khi một bệnh nhân ho hoặc hắt xì. Hít phải các hạt do người bệnh phóng thích ra ngoài dẫn đến nhiễm trùng. Tiếp xúc với bất kỳ vết loét trên da nào cũng có thể làm lây bệnh bạch hầu, nhưng thường ít xảy ra. Nhiễm bệnh gián tiếp cũng có thể xảy ra, khi một bệnh nhân chạm vào một vật hoặc bề mặt, có thể để lại vi khuẩn vẫn hoạt động. Ngoài ra, một số bằng chứng cho thấy động vật cũng có khả năng lây bệnh bạch hầu, nhưng chưa được khẳng định. Corynebacterium ulcerans được phát hiện trên một số động vật, do đó có khả năng lây truyền từ động vật. Bệnh sinh Vi khuẩn C. diphtheriae chỉ sản sinh độc tố bạch hầu khi bị nhiễm một thể thực khuẩn tích hợp những yếu tố truyền mã hóa độc tố. Độc tố bạch hầu là một protein đơn, khối lượng phân tử 60-kDa, gồm hai chuỗi peptide, đoạn A và đoạn B được nối với nhau bởi liên kết disulfua. Đoạn B là một tiểu đơn vị nhận biết để đưa độc tố vào tế bào chủ bằng cách liên kết với domain giống-EGF của yếu tố tăng trưởng giống EGF gắn với heparin (HB-EGF) trên bề mặt tế bào. Nó phát tín hiệu cho tế bào đưa độc tố vào trong một endosome nhờ sự nhập bào thông qua thụ thể trung gian. Trong endosome, độc tố được một protease giống-trypsin cắt thành 2 đoạn A và B riêng lẻ. Tính axít của endosome làm cho đoạn B tạo thành những lỗ trên màng của endosome, do đó xúc tác cho sự giải phóng đoạn A vào tế bào chất của tế bào. Đoạn A ức chế sự tổng hợp protein mới trong tế bào bị nhiễm bằng cách xúc tác vào ADP-ribosylation của yếu tố kéo dài EF-2—một protein rất cần thiết trong bước phiên dịch của quá trình tổng hợp protein. ADP-ribosylation của EF-2 được đảo ngược bằng nicotinamide liều cao (một dạng vitamin B3), do đây là một trong những thành phẩm của phản ứng, và một lượng lớn có thể đảo chiều phản ứng. Chẩn đoán Định nghĩa ca lâm sàng hiện tại của bệnh bạch hầu được dùng ở Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (Hoa Kỳ) dựa trên cả tiêu chí phòng thí nghiệm lẫn lâm sàng. Tiêu chí phòng thí nghiệm Phân lập C. diphtheriae từ phương pháp nhuộm Gram hoặc cấy trùng cổ họng từ một mẫu bệnh phẩm, Chẩn đoán mô bệnh học của bạch hầu bằng phương pháp nhuộm Albert Phát hiện độc tố Xét nghiệm in vivo (tiêm cho chuột lang nhà): xét nghiệm tiêm dưới da và nội sọ Xét nghiệm in vitro: xét nghiệm kết tủa gel của Elek, phát hiện gen độc tố PCR, ELISA, ICA Tiêu chí lâm sàng Bệnh đường hô hấp trên với viêm họng Sốt nhẹ (hiếm khi trên ) Một giả mạc dính, dày, màu xám bao quanh yết hầu: trong những trường hợp nặng, nó có thể bịt kén cả đường hô hấp. Phân loại ca bệnh Có khả năng: một trường hợp có dấu hiệu lâm sàng nhưng không được xác định bằng xét nghiệm và không có mối liện hệ dịch tễ với một ca bệnh đã được xác định bằng xét nghiệm Chắc chắn: một trường hợp có dấu hiệu lâm sàng và được xác định bằng xét nghiệm hoặc có liên quan dịch tễ với một ca đã được xác định bằng xét nghiệm Phòng ngừa Quinvaxem là một loại vắc-xin 5 trong 1 được áp dụng rộng rãi, gồm năm loại vắc-xin được tích hợp trong một mũi giúp trẻ phòng ngừa bệnh bạch hầu và các bệnh trẻ em phổ biến khác. Vắc-xin bạch hầu thường được kết hợp ít nhất là với vắc-xin uốn ván (Td) và cũng thường với vắc-xin ho gà (DTP, DTaP, TdaP, Tdap). Điều trị Bệnh có thể được kiểm soát, nhưng trong những trường hợp nặng, các hạch bạch huyết ở cổ có thể sưng, thở và nuốt khó. Bệnh nhân trong trường hợp này nên được chăm sóc y tế ngay lập tức, vì tắt nghẽn ở cổ họng có thể cần phải được đặt nội khí quản hoặc phẫu thuật mở khí quản. Loạn nhịp tim có thể xuất hiện ở giai đoạn đầu của bệnh hoặc vài tuần sau, và có thể gây suy tim. Bạch hầu cũng có thể gây liệt ở mắt, cổ, họng, hoặc cơ hô hấp. Bệnh nhân bị nặng được đưa vào phòng chăm sóc đặc biệt của bệnh viện và được tiêm kháng độc tố bạch hầu (chứa kháng thể được phân lập từ huyết thanh của những con ngựa được tiêm độc tố bạch hầu). Do kháng độc tố không thể trung hòa được độc tố đã gắn với mô, cho nên sử dụng trễ có thể làm tăng nguy cơ tử vong. Do đó, quyết định dùng kháng độc tố bạch hầu phải dựa trên chẩn đoán lâm sàng và không nên chờ xác nhận từ xét nghiệm. Kháng sinh chưa được chứng minh là có ảnh hưởng đến việc chữa trị nhiễm trùng cục bộ ở những bệnh nhân bạch hầu được chữa bằng kháng độc tố. Kháng sinh được dùng cho bệnh nhân hoặc người mang mầm bệnh để tiêu diệt C. diphtheriae và phòng ngừa sự lây truyền. Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (Hoa Kỳ) khuyến nghị: Metronidazole Erythromycin (uống hoặc tiêm) trong 14 ngày (40 mg/kg mỗi ngày với liều tối đa 2 g/d), hoặc Procaine penicillin G tiêm bắp trong 14 ngày (300,000 U/d cho bệnh nhân có cân nặng <10 kg và 600,000 U/d có cân nặng >10 kg); bệnh nhân bị dị ứng với penicillin G hoặc erythromycin có thể thay bằng rifampin hay clindamycin. Trong những trường hợp mà tiến triển của bệnh vượt khỏi phạm vi nhiễm trùng ở họng, thì độc tố bạch hầu theo máu phát tán và có thể dẫn đến các biến chứng có khả năng đe dọa đến tính mạng như ảnh hưởng đến các cơ quan, chẳng hạn như tim và thận. Tổn thương tim do độc tố gây nên có thể ảnh hưởng đến khả năng bơm máu hoặc chức năng lọc của thận. Nó cũng có thể gây nên tổn thương thần kinh dẫn đến liệt. Khoảng 40% đến 50% những người không được điều trị có thể chết. Dịch tễ Khoảng từ 5% đến 10% số ca bạch hầu bị tử vong. Ở trẻ em dưới năm tuổi và người lớn trên 40 tuổi, tỉ lệ tử vong lên tới 20%. Trong năm 2013, bạch hầu làm chết 3,300 người, giảm so với 8,000 ca tử vong năm 1990. Số lượng ca nhiễm thay đổi trong suốt 2 thập kỉ qua, đặc biệt là ở những nước đang phát triển. Chất lượng cuộc sống được cải thiện tốt hơn, miễn dịch cộng đồng, chẩn đoán được cải thiện, điều trị kịp thời, và việc chăm sóc sức khỏe hiệu quả hơn dẫn đến sự giảm các trường hợp mắc bệnh trên toàn thế giới. Tuy nhiên, mặc dù dịch rất hiếm khi bùng phát, nhưng nó vẫn còn xảy ra, đặc biệt ở những nước phát triển chẳng hạn như Đức do trẻ không tiêm chủng. Thời Đức Quốc Xã, các bệnh truyền nhiễm như bạch hầu là một trong những nguyên nhân gây bệnh hàng đầu; số ca tăng "sau giữa thập kỷ 1920, tăng gấp đôi vào giữa năm 1932 và 1937, đạt đỉnh điểm vào thời chiến và chỉ giảm nhanh chóng sau đó". Sau khi Liên Xô cũ tan rã vào đầu thập niên 1990, tỉ lệ tiêm chủng ở các quốc gia thành viên cũ giảm đến mức quá thấp nên đã làm bùng phát bệnh bạch hầu. Trong năm 1991, 2,000 ca bạch hầu đã xảy ra ở Liên Xô cũ. Từ năm 1991 đến 1998 có tới 200,000 ca ở Cộng đồng các Quốc gia Độc lập đã được báo cáo, với 5,000 trường hợp tử vong. Lịch sử Năm 1613, Tây Ban Nha hứng chịu trận đại dịch bạch hầu. Năm này được gọi là El Año de los Garrotillos (Năm Bạch Hầu) trong lịch sử của Tây Ban Nha. Năm 1735, một đại dịch bạch hầu quét qua New England. Trước năm 1826, bạch hầu được gọi bằng nhiều tên khác nhau trên thế giới. Ở Anh, nó gọi là viêm họng Boulogne, do nó lây từ Pháp. Năm 1826, Pierre Bretonneau đặt tên bệnh là diphthérite (từ tiếng Hy Lạp diphthera "miếng da") mô tả giả mạc trong họng. Năm 1856, Victor Fourgeaud mô tả một đại dịch bạch hầu ở California. Năm 1878, con gái của Nữ vương Victoria của Anh, Vương nữ Alice và gia đình của bà bị nhiễm bạch hầu, làm hai người chết là Đại Công nữ Marie xứ Hessen và Rhine và cả Vương nữ Alice. Năm 1883, Edwin Klebs xác định được vi khuẩn gây bệnh bạch hầu và đặt tên là vi khuẩn Klebs-Loeffler. Hình que của vi khuẩn này giúp cho Edwin phân biệt nó với vi khuẩn khác. Qua một khoảng thời gian, nó được gọi là Microsporon diphtheriticum, Bacillus diphtheriae, và Mycobacterium diphtheriae. Danh pháp hiện tại là Corynebacterium diphtheriae. Friedrich Loeffler là người đầu tiên nuôi cấy C. diphtheriae vào năm 1884. Ông đã sử dụng nguyên tắc Koch để chứng minh mối liên hệ giữa C. diphtheriae và bệnh bạch hầu. Ông cũng chỉ ra rằng trực khuẩn sản sinh ra ngoại độc tố. Joseph P. O’Dwyer giới thiệu ống O'Dwyer để đặt nội khí quản cho những bệnh nhân bị nghẽn thanh quản vào năm 1885. Nó đã sớm thay thế phẫu thuật mở khí quản như là phương pháp đặt ống khẩn cấp ở bệnh nhân bạch hầu. Năm 1888, Emile Roux và Alexandre Yersin chỉ ra rằng một chất do C. diphtheriae sản xuất gây ra những triệu chứng của bạch hầu ở động vật. Năm 1890, Shibasaburo Kitasato và Emil von Behring tiêm độc tố bạch hầu đã được xử lý nhiệt cho những con chuột lang nhà. Họ cũng tiêm cho dê và ngựa và cho thấy rằng một "kháng độc tố" được tạo từ huyết thanh của những động vật được tiêm chủng có thể chữa được bệnh cho những động vật không được tiêm phòng. Behring đã sử dụng kháng độc tố này (now known to consist of antibodies that neutralize the toxin produced by C. diphtheriae) cho những thử nghiệm ở người vào năm 1891, nhưng thất bại. Điều trị thành công cho người bằng kháng độc tố chiết xuất từ ngựa bắt đầu vào năm 1894, sau khi việc sản xuất và định lượng kháng độc tố đã được tối ưu hóa. Von Behring đoạt giải Nobel ở lĩnh vực y học vào năm 1901 cho công trình của ông về bệnh bạch hầu. Năm 1895, Công ty H. K. Mulford ở Philadelphia bắt đầu sản xuất và thử nghiệm kháng độc tố bạch hầu ở Hoa Kỳ. Năm 1901, 10 trong số 11 đứa trẻ ở St. Louis chết do tiêm kháng độc tố bạch hầu bị nhiễm khuẩn. Con ngựa được chiết xuất kháng độc tố đã chết vì uốn ván. Sự cố này kèm theo dịch uốn ván ở Camden, New Jersey, đóng một phần quan trọng trong việc khởi xướng quy định liên bang về các sản phẩm sinh học. Năm 1905, Franklin Royer, từ Bệnh viện thành phố Philadelphia, đã xuất bản một bài báo kêu gọi điều trị kịp thời bệnh bạch hầu và tiêm đủ liều thuốc chống độc. Năm 1906, Clemens Pirquet và Béla Schick đã mô tả bệnh huyết thanh ở những đứa trẻ được tiêm một lượng lớn kháng độc tố có nguồn gốc từ ngựa. Giữa năm 1910 và 1911, Béla Schick phát triển phương pháp xét nghiệm Schick để phát hiện khả năng miễn dịch bạch hầu từ trước ở một người bị phơi nhiễm. Chỉ những người không bị phơi nhiễm bạch hầu mới cần được tiêm phòng. Một chiến dịch lớn kéo dài năm năm do tiến sĩ Schick thực hiện. Là một phần của chiến dịch, 85 triệu tác phẩm văn chương đã được Công ty Bảo hiểm Nhân thọ Metropolitan phân phối với lời kêu gọi các bậc cha mẹ hãy "Cứu con bạn khỏi bạch hầu." Một vắc xin đã được phát triển trong thập niên kế tiếp, và số tử vong bắt đầu giảm đáng kể vào năm 1924. Năm 1919, ở Dallas, Texas, 10 trẻ đã mất mạng và 60 trẻ khác bị bệnh nghiêm trọng do kháng độc tố bị nhiễm độc mà vẫn vượt qua được kiểm định của Sở Y tế bang New York. Công ty Mulford ở Philadelphia (nhà sản xuất) đã bồi thường thiệt hại cho các nạn nhân. Vào thập niên 1920, mỗi năm có khoảng 100,000 đến 200,000 ca bạch hầu và 13,000 đến 15,000 trường hợp tử vong ở Hoa Kỳ. Các ca nhiễm và tử vong chủ yếu là ở trẻ em. Một trong những trận dịch bạch hầu khét tiếng ở Nome, Alaska; " Cuộc đua Nhân từ Vĩ đại" để vận chuyển thuốc chống độc bạch hầu được thực hiện bởi Iditarod Trail Sled Dog Race (do chó kéo). Chú thích Đọc thêm "Antitoxin dars 1735 and 1740." The William and Mary Quarterly, 3rd Ser., Vol 6, No 2. p. 338.
Bénin (, phiên âm thành "Bê-nanh"), tên chính thức Cộng hoà Bénin (tiếng Pháp: République du Bénin), là một quốc gia Tây Phi, tên cũ là Dahomey (cho tới năm 1975) hay Dahomania. Nó có chung biên giới với Togo ở phía tây, Nigeria ở phía đông và Burkina Faso cùng Niger ở phía bắc; bờ biển ngắn ở phía nam nước này dẫn tới Eo Benin. Thủ đô của Bénin là Porto Novo, nhưng chính phủ đóng trụ sở tại Cotonou. Tên Benin có tên đầy đủ là "Cộng hòa Benin", nằm ở phần đông nam của Tây Phi, nam giáp vịnh Guinea. Tên nước lấy tên từ vương quốc Benin với Benin làm trung tâm kiến lập ở đồng bằng hạ du sông Niger. "Benin" trong tiếng địa phương có nghĩa là "nô lệ". Năm 1580, những người Bồ Đào Nha đầu tiên đến Veda - duyên hải Benin tiến hành hoạt động buôn bán nô lệ. Năm 1894, thực dân Pháp dùng vũ lực chiếm lĩnh toàn bộ Benin, gọi chung lãnh địa vịnh Benin thuộc Pháp bao gồm vương quốc Abomey và các vùng đất thuộc địa khác là "Dahomey". Về ý nghĩa của "Dahomey" có nhiều cách giải thích khác nhau. Một thuyết cho rằng "daan" là xưng hiệu thế tập của người sáng lập vương quốc Dahomey khi lên làm tù trưởng, "homey" trong tiếng dân tộc Fon mang nghĩa "nhà ở", "Dahomey" hợp lại có nghĩa là "nhà của tù trưởng". Một thuyết khác cho rằng, tương truyền năm 1645 có một vị hoàng tử đưa ra yêu cầu về lãnh thổ với vương quốc Daan. Daan phẫn nộ nói: "Hoàng tử trẻ tuổi kia, ngươi thật tham lam quá đỗi, nếu ta không đề phòng, ngươi có thể đem ngôi nhà xây trên bụng ta". Về sau Daan bị đánh bại, vị hoàng tử đã dựng một ngôi nhà lá trên vùng đất mai táng ông ta, đặt tên là "Danhome Houegbe", nghĩa là "ngôi nhà trên bụng Daan". Sau dùng để chỉ cả một vùng. "Danhome" biến thành "Dahomey". Khoảng thế kỷ XVI, nơi đây hình thành nhiều tiểu vương quốc và các bộ lạc. Năm 1580, người Bồ Đào Nha xâm nhập vào Benin. Năm 1626, thực dân Pháp xâm chiếm Benin. Năm 1913, trở thành thuộc địa của Pháp. Tháng 12 năm 1958, thành nước tự trị trong khối Cộng đồng Pháp. Ngày 1 tháng 8 năm 1960 tuyên bố độc lập, thành lập "Cộng hòa Dahomey". Ngày 30 tháng 11 năm 1975, đổi tên thành "Cộng hòa Nhân dân Benin". Ngày 1 tháng 3 năm 1990 định tên là "Cộng hòa Benin". Lịch sử Vương quốc Dahomey tại Châu Phi được một nhóm sắc tộc bản địa thành lập tại đồng bằng Abomey. Nhà sử học IA Akinjogbin đã đưa ra lý thuyết cho rằng sự mất an ninh do tình trạng buôn bán nô lệ có thể đã góp phần vào việc di cư hàng loạt của các nhóm người khác nhau, gồm cả một thành phần gia đình hoàng gia tại thành phố Allada, tới Abomey. Các nhóm đó kết hợp xung quanh một nền văn minh quân sự chặt chẽ với mục tiêu đảm bảo an ninh và cuối cùng là mở rộng các biên giới của vương quốc nhỏ bé. Dahomey được biết tới với nền văn hóa và các truyền thống riêng biệt của nó. Các chú bé được cho học nghề với những người lính từ khi còn rất nhỏ, và học về các truyền thống quân sự của vương quốc cho tới khi đủ tuổi gia nhập quân đội. Dahomey cũng nổi tiếng về một đội ngũ binh lính nữ ưu tú, được gọi là "Ahosi" hay "những người mẹ của chúng ta" trong tiếng Fon gbè, nhưng thường được chuyển tự sang tiếng Anh là Dahomean Amazons. Sự nhấn mạnh trên nguyên tắc quân sự và thành công này khiến người Dahomey được những nhà nghiên cứu châu Âu như Sir Richard Francis Burton đặt biệt hiệu "những Sparta đen nhỏ bé". Hiến tế người là việc thường xuyên, theo các nguồn tin đương thời; vào những ngày lễ và những dịp đặc biệt, hàng ngàn nô lệ và tù binh chiến tranh bị chém đầu trước công chúng. Một số niềm tin tôn giáo Dahomey cho rằng việc chém đầu người sẽ làm tăng uy danh và quyền lực của nhà vua Dahomey cũng như cho các chiến binh của họ. Dù những người thành lập Dahomey dường như ban đầu đã chống lại nó, việc buôn bán nô lệ luôn có trong tôn giáo của Dahomey trong hầu như suốt ba trăm năm, dẫn tới việc vùng này được gọi là "Bờ biển Nô lệ". Những nhu cầu nghi lễ triều đình, đòi hỏi một phần tù nhân bị bắt giữ qua các trận chiến phải được đem ra chặt đầu, dẫn tới việc giảm số lượng nô lệ xuất khẩu từ vùng này. Con số này đã giảm từ 20.000 ở cuối thế kỷ XVII xuống còn 12.000 vào đầu thập niên 1800. Sự suy giảm một phần do nhiều quốc gia thuộc địa đã tuyên bố việc buôn bán nô lệ là trái pháp luật. Sự sụt giảm này tiếp tục kéo dài tới năm 1885, khi con tàu buôn cuối cùng của Bồ Đào Nha rời cảng với những người nô lệ trên boong từ một nơi thuộc Bénin ngày nay. Cùng với vương quốc hùng mạnh Dahomey, một số lượng các quốc gia khác tại những vùng có người ở sau này sẽ trở thành Cộng hoà Bénin. Những quốc gia đáng chú ý gồm Ketu, Icha, Dassa, Anago, và các phụ nhóm của người nói tiếng Yoruba. Những nhóm này có quan hệ chặt chẽ với các phụ nhóm ở Nigeria ngày nay, và thường là kẻ đối địch với người Dahomey. Tuy nhiên, một số người lại là công dân của Dahomey và theo các tôn giáo như tại Porto Novo hiện nay, giữa hai nhóm có hôn nhân lai chủng. Các dân tộc phía bắc là Borgu, Mahi, và nhiều nhóm sắc tộc khác tạo nên dân số hiện nay của quốc gia. Tới giữa thế kỷ XIX, Dahomey bắt đầu đánh mất vị trí và sức mạnh trong vùng, khiến người Pháp có cơ hội chiếm toàn bộ vùng này năm 1892. Năm 1899, vùng đất trở thành một phần của thuộc địa Tây Phi thuộc Pháp, vẫn giữ tên gọi là Dahomey. Năm 1958, nó được trao quyền tự trị với tên gọi Cộng hoà Dahomey, và bắt đầu có quyền độc lập hoàn toàn từ ngày 1 tháng 8 năm 1960. Trong 12 năm tiếp theo, những xung đột sắc tộc dẫn tới một giai đoạn hỗn loạn. Nhiều cuộc đảo chính, thay đổi chế độ, với ba nhân vật chính là Sourou Apithy, Hubert Maga và Justin Ahomadegbé, mỗi người trong số họ đều đại diện cho một vùng đất trong nước. Ba người này đã quyết định thành lập hội đồng tổng thống sau khi bạo lực đã ngăn cản cuộc bầu cử năm 1970. Năm 1972, một cuộc đảo chính quân sự do Mathieu Kérékou lãnh đạo đã lật đổ hội đồng. Ông lập ra một chính phủ theo Chủ nghĩa Marx dưới quyền kiểm soát của Hội đồng Quân đội Cách mạng (CNR), và đất nước được đổi tên thành Cộng hòa Nhân dân Bénin năm 1975. Năm 1979, Hội đồng Quân đội Cách mạng giải tán và cuộc bầu cử diễn ra. Tới cuối thập niên 1980, Kérékou đã từ bỏ Chủ nghĩa Marx sau một cuộc khủng hoảng kinh tế và quyết định tái lập hệ thống nghị viện tư bản. Ông bị đánh bại năm 1991 trong cuộc bầu cử trước Nicéphore Soglo, trở thành tổng thống da đen đầu tiên của châu Phi thôi chức sau một cuộc bầu cử. Ông quay trở lại nắm quyền sau chiến thắng tại cuộc bầu cử năm 1996. Năm 2001, một cuộc bầu cử với kết quả sít sao khác khiến Kérékou tiếp tục thắng cử một nhiệm kỳ nữa. Những đối thủ của ông đã đưa ra một số lời buộc tội gian lận trong bầu cử. Tổng thống Kérékou và cựu Tổng thống Soglo không ra tranh cử trong cuộc bầu cử năm 2006, cả hai đều bị hiến pháp Bénin ngăn cấm tranh cử vì tuổi tác và Tổng thống Kérékou đã giữ hai nhiệm kỳ liên tiếp trước đó. Tổng thống Kérékou được nhiều người ca ngợi vì đã không tìm cách sửa đổi hiến pháp để có thể tiếp tục tại vị hay tranh cử nhiệm kỳ thứ ba, không giống như một số lãnh đạo châu Phi khác. Một cuộc bầu cử, được cho là công bằng và tự do, đã được tổ chức ngày 5 tháng 3 năm 2006, và dẫn tới vòng loại trực tiếp giữa Yayi Boni và Adrien Houngbédji. Vòng loại trực tiếp được tổ chức ngày 19 tháng 3 với thắng lợi của Yayi Boni, ông lên nhậm chức ngày 6 tháng 4. Thắng lợi của cuộc bầu cử đa Đảng tại Bénin được ca ngợi rộng rãi, và Bénin được nhiều bên coi là một hình mẫu dân chủ tại châu Phi. Chính trị Chính trị Bénin dựa trên mô hình Cộng hòa đại diện dân chủ tổng thống, theo đó Tổng thống Bénin vừa là nguyên thủ quốc gia vừa là lãnh đạo chính phủ, và trên một hệ thống đa Đảng đa dạng. Quyền hành pháp do chính phủ đảm nhận. Quyền lập pháp vừa do chính phủ vừa do nhánh lập pháp đảm nhận. Tư pháp độc lập với hành pháp và lập pháp. Hệ thống chính trị hiện nay được thành lập theo Hiến pháp Bénin năm 1990 và cuộc chuyển tiếp dân chủ sau đó năm 1991. Chính sách ngoại giao Bénin là thành viên Liên Hợp Quốc, thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc (2004-2005), Phong trào không liên kết, Liên minh châu Phi (AU), Cộng đồng Pháp ngữ (Francophonie), FAO, IMF, WTO, ECOWAS (Cộng đồng Kinh tế Tây Phi) và nhiều tổ chức quốc tế và khu vực khác. Bénin tham gia tích cực vào các hoạt động gìn giữ hoà bình do ECOWAS và Liên Hợp Quốc khởi xướng tại châu Phi như đóng góp quân cho lực lượng của Liên hiệp Quốc ONUCI tại Bờ Biển Ngà, MONUC tại Cộng hòa Dân chủ Công Gô. Chính sách đối ngoại của Bénin là ưu tiên hợp tác khu vực, coi trọng quan hệ với phương Tây, nhất là Pháp và các tổ chức quốc tế, tài chính quốc tế để tranh thủ vốn và kỹ thuật. Khu vực hành chính Trong nhiều thập kỷ Bénin được chia thành sáu khu hay tỉnh, mỗi khu đã được chia ra làm hai năm 1999. Các tỉnh được chia thành 77 làng. Mười hai tỉnh của Bénin gồm: Alibori (từ phía bắc Borgou) Atakora Atlantique Borgou Collines (từ bắc Zou) Donga (từ nam Atakora) Kouffo (từ bắc Mono) Littoral (vùng Cotonou, chia từ Atlantique) Mono Ouémé Plateau (từ bắc Ouémé) Zou Địa lý Trải dài giữa sông Niger ở phía bắc và Eo Benin ở phía nam, cao độ của Bénin hầu như bằng nhau trên toàn đất nước. Đa phần dân số sống tại những đồng bằng ven biển phía nam, nơi có những thành phố lớn nhất nước, gồm Porto Novo và Cotonou. phía bắc đất nước đa phần gồm đồng cỏ và cao nguyên bán khô cằn. Khí hậu Bénin nóng và ẩm với lượng mưa khá nhỏ so với các nước Tây Phi khác, dù có hai mùa mưa (tháng 4, tháng 6 và tháng 9 tháng 11). Trong mùa đông gió bụi harmattan có thể khiến trời đêm lạnh hơn. Thành phố lớn nhất và là thủ đô là Cotonou. Cái tên Cotonou xuất phát từ câu (tại hồ thần chết) trong tiếng Fon, là phá ở bên cạnh. Đây là một minh chứng cho niềm tin rằng các ngôi sao rơi xuống tượng trưng cho những linh hồn người chết ở thế giới bên kia. Chuyện kể rằng khi Cotonou được thành lập, ánh sáng của các làng ven hồ Ganvié suốt dọc phá chiếu ánh lung linh trên mặt nước, cho thấy những ngôi sao rơi bên dưới. Ganvié là một làng chài gồm những nhà sàn ven hồ ở bờ phía tây phá. Thị trấn Ouidah là thủ đô tín ngưỡng của vodun, được dân bản địa gọi là glexwe. Đây từng là một cảng nô lệ lớn thời Bồ Đào Nha. Thị trấn Abomey là thủ đô cũ của Vương quốc Dahomey, và các vị vua Fon luôn sống ở đó. Tại tỉnh Atakora, các khu định cư Betamaribe bên cạnh biên giới Togolese được gọi là tata somba (nhà Somba); chúng nổi tiếng vì các pháo đài, với các ngôi nhà bên trong và những người dân ngủ trong các túp lều giữa các kho thóc trên mái. Kinh tế Kinh tế Bénin còn ở tình trạng chưa phát triển và dựa chủ yếu vào nông nghiệp, sản xuất bông và thương mại vùng. Tăng trưởng sản xuất thực trung bình ở mức ổn định 5% trong sáu năm qua, nhưng mức tăng dân số quá nhanh khiến con số trên không còn mang ý nghĩa. Lạm phát đã giảm xuống trong những năm gần đây. Đề tăng mức tăng trưởng kinh tế hơn nữa, Bénin đã đưa ra các kế hoạch nhằm thu hút đầu tư nước ngoài, nhấn mạnh hơn trên du lịch, khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp chế biến thực phẩm mới và sản phẩm nông nghiệp, cũng như tăng cường công nghệ thông tin và tin học. Chính sách tư nhân hóa năm 2001 cần tiếp tục thực hiện ở cả lĩnh vực viễn thông, nước, điện, và nông nghiệp, dù chính phủ ban đầu có e ngại trong các lĩnh vực đó. Câu lạc bộ Paris và các chủ nợ đã giãn nợ cho Bénin, tuy nhiên vẫn thúc ép nước này tăng tốc cải cách cơ cấu. Tài nguyên thiên nhiên có sắt (trữ lượng 1 tỷ tấn), phosphat, vàng, đá trắng và dầu lửa ở thềm lục địa. Nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, chiếm 80% thu nhập quốc dân. Nông nghiệp Bénin lạc hậu, sản phẩm chủ yếu là lương thực và bông ngoài ra còn có dầu cọ, ngô, lạc, kê, ca cao v.v... Ngành chăn nuôi có cừu, dê. Bénin vẫn phải nhập phần lớn lương thực. Công nghiệp Bénin nhỏ bé, chủ yếu là ngành công nghiệp ép dầu cọ và khai thác sắt. Nền kinh tế ngầm (buôn bán lậu qua biên giới) chiếm đến 50% nền kinh tế Bénin. Cảng Cotonu là bến quá cảnh của nhiều nước trong vùng Vịnh Bénin đã tạo nguồn thu ngoại tệ lớn cho Bénin. Bénin xuất khẩu bông, các sản phẩm từ cọ, dừa; nhập thực phẩm, các sản phẩm dầu lửa, thiết bị. Các bạn hàng chính: Trung Quốc, Mỹ, Ấn Độ, Thái Lan, Niger, Nigeria. Nhân khẩu Có hàng chục nhóm ngôn ngữ tại Bénin, đại diện ba ngữ hệ chính của châu Phi: Niger-Congo, Nin-Sahara và Phi-Á. Các ngôn ngữ Phi-Á (Aforasiatic) được đại diện bởi tiếng Hausa chủ yếu là những lái buôn sống ở phía bắc trong khi các ngôn ngữ Nilo-Sahara được đại diện bởi , hậu duệ của Đế chế Songhai. ngôn ngữ chiếm ưu thế dọc theo sông Niger ở miền cực bắc, và được dùng như một lingua franca trong các cộng đồng Hồi giáo trên toàn miền bắc, tại các tỉnh Alibori, Borgou và Donga. Trong ngữ hệ Niger-Congo năm nhóm chính gồm: Nhóm Mande của người Boko hay Busa, hiện ở phía cực đông bắc (nam Alibori-bắc Borgou), nhưng trước kia đã từng được sử dụng rộng rãi bởi người Bariba Nhóm Tây Đại Tây Dương bởi các bộ lạc du mục Fulbe rải rác phía đông bắc Nhóm Benue-Congo bởi người Yoruba tại các tỉnh Collines và tỉnh cao nguyên, như cựu vương quốc Sakete, và thành phố thủ đô Porto-Novo, đã mở rộng ra phía bắc từ và trong giai đoạn thế kỷ XII đến thế kỷ XIX Nhóm Gur (Voltaic) chiếm ưu thế tại bốn tỉnh phía bắc, với (Bariba) của cựu Vương quốc Borgou (Bariba) chiếm đa phần miền thôn quê tại các tỉnh chia tách của nó sau này là Borgou và Alibori, cũng như thủ phủ tỉnh Parakou; Yom tại đa phần tỉnh Donga và thủ phủ Djougou của nó; cùng nhiều nhóm tại Atakora, gồm cả của vùng nông thôn Otammari xung quanh thủ phủ Natitingou, Biali, Waama của Tanguiéta, và Gulmàceba. Nhóm Kwa, đặc biệt là nhóm Gbe được người Tado ở các tỉnh trung và nam sử dụng: người Aja đã từng sinh sống tại tỉnh Kouffo từ nước láng giềng Togo dẫn tới sự hiện diện của những người Tado tại Bénin, ngoại trừ người Mina của tỉnh Mono, họ đến đây rải rác từ Togo hay Ghana: Văn hoá tập trung ở tỉnh Zou xung quanh thủ đô cũ Abomey, nhưng cũng chiếm ưu thế tại Cotonou và các vùng nam Đại Tây Dương như Ouidah; Maxi ở trung Collines, đặc biệt xung quanh Savalou; trung Đại Tây Dương (Allada); Xwla và Xueda tại các phá dọc bờ biển; của Ouémé; và Gun của Porto-Novo. Nhóm Kwa được người Anii ở phía nam Donga trong vùng Bassila sử dụng, và ở phía tây Donga gần thị trấn Ouaké. Theo số lượng, ngôn ngữ đông đảo nhất là tiếng Fon với 1.7 người sử dụng (2001), tiếp theo là các nhóm Yoruba (1.2 triệu), Aja (600.000), Bariba (460.000), Ayizo (330.000), Fulbe (310.000) và Gun (240.000). Gần các cảng ở phía nam có những người dân da sáng hơn, họ là hậu duệ của những nô lệ quay trở về từ Brasil. Cũng có một số nhỏ người Âu, chủ yếu là người Pháp, người Á, chủ yếu là Liban và Ấn Độ. Các tôn giáo bản xứ được đa số người dân tin theo gồm cả các tôn giáo duy linh tại Atakora (các tỉnh Atakora và Donga), và Vodun trong các cộng đồng người Yoruba và Tado ở miền trung và nam đất nước. Thị trấn Ouidah ở bờ biển miền trung là trung tâm của Beninese vodun. Các vị thần Yoruba và Tado rất giống nhau: Thần tối cao Mawu (trong tiếng Fon) hay Olodumare (trong tiếng Yoruba) Thần đất hay đậu mùa, Sakpata hay Cankpana Thần sấm, Xevioso hay Cango Thần chiến tranh hay sắt, Gu hay Ogun Các tôn giáo du nhập lớn nhất gồm Hồi giáo, bởi Đế chế Songhai và những nhà buôn Hausa, hiện có nhiều tín đồ trên khắp các tỉnh Alibori, Borgou, và Donga, cũng như trong cộng đồng Yoruba, với từ 10 đến 15% dân số; và Thiên chúa giáo, trên danh nghĩa có 10-15% tín đồ trên khắp miền trung và miền nam Bénin và tại Otammari ở Atakora. Tuy nhiên, đa số tín đồ Thiên chúa giáo tiếp tục giữ đức tin Vodun và đã đưa những vị thần Thiên chúa giáo vào trong các tín ngưỡng Vodun. Văn hoá Mọi người tin rằng Vodun (hay "Voodoo", như thường được gọi) có nguồn gốc tại Bénin và đã được đưa tới Brasil, các quần đảo Caribbean, và nhiều phần Bắc Mỹ bởi các nô lệ từ thời vùng này còn là Bờ biển Nô lệ. Tôn giáo bản xứ Bénin được khoảng 60% tin theo. Từ năm 1992 Vodun đã được công nhận là một trong những tôn giáo chính thức của Bénin, và Ngày lễ Quốc gia Vodun được tổ chức vào ngày 10 tháng 1 hàng năm. Nhiều người Bénin ở phía nam đất nước có tên dựa trên Akan thể hiện ngày sinh của họ trong tuần. Những cặp sinh đôi rất quan trọng trong văn hoá Bénin, và những tên đặc biệt thường được sử dụng cho chúng. Các ngôn ngữ địa phương được sử dụng như các ngôn ngữ giáo dục ở cấp tiểu học, tiếng Pháp chỉ được sử dụng sau cấp này. Các ngôn ngữ tại Bénin nói chung được ghi bằng các ký tự riêng biệt cho mỗi âm (phoneme), chứ không sử dụng dấu phụ như trong tiếng Pháp hay chữ ghép như trong tiếng Anh. Cả tiếng Yoruba của Bénin, tại Nigeria được viết bằng cả dấu phụ và chữ ghép. Ví dụ, các ngữ âm giữa viết é è, ô, o trong tiếng Pháp được viết trong các ngôn ngữ tại Bénin, trong khi các phụ âm được viết ng và sh hay ch trong tiếng Anh được viết ŋ và c. Tuy nhiên, dấu phụ được dùng cho ngữ âm mũi và các phụ âm môi kp và gb, như ở tên của ngôn ngữ Fon Fon gbe , và các dấu phụ được dùng như các dấu thanh. Trong những văn bản xuất bản bằng tiếng Pháp, phép chính tả lai Pháp và Bénin thường được sử dụng. Chủ đề khác Viễn thông Bénin Các trạm phát sóng TV - TV Quốc gia Kênh thương mại TV3, trụ sở tại Cotonou Quan hệ nước ngoài Bénin Danh sách các thành phố tại Bénin Quân đội Bénin Nhà báo không biên giới Chỉ số tự do báo chí thế giới 2004: 27 trong số 167 quốc gia Vận tải Bénin
Botswana, tên chính thức Cộng hoà Botswana (phiên âm Tiếng Việt: Bốt-xoa-na; tiếng Tswana: Lefatshe la Botswana), là một quốc gia nằm kín trong lục địa tại Nam Phi. Trước kia nó là quốc gia bảo hộ Bechuanaland bởi Vương quốc Anh, Botswana đã đổi tên mới và trở thành một quốc gia độc lập bên trong Khối thịnh vượng chung Anh Quốc vào ngày 30 tháng 9 năm 1966. Nước này có chung biên giới với Nam Phi ở phía nam và đông nam, Namibia ở phía tây, Zambia ở phía bắc, và Zimbabwe phía đông bắc. Về kinh tế, nước này có quan hệ chặt chẽ với Nam Phi, chủ yếu dựa vào khai mỏ (đặc biệt là kim cương), chăn nuôi gia súc, và du lịch. Đất nước được đặt tên theo nhóm sắc tộc lớn nhất, người Tswana. Lịch sử Từ thế kỷ XIII, nhiều bộ lạc du mục từ miền Bắc châu Phi, trong đó có người Suana, đã đến sinh sống ở vùng đất ngày nay thuộc Botswana. Cuối thế kỷ XIX, sự thù địch xảy ra giữa người Shona sống tại Botswana và các bộ lạc Ndebele di cư tới lãnh thổ này từ Sa mạc Kalahari. Căng thẳng cũng tăng lên với người định cư Boer từ Transvaal. Sau những lời kêu gọi trợ giúp của các lãnh đạo Batswana Khama III, Bathoen và Sebele, Ngày 31 tháng 3 năm 1885 chính phủ Anh đặt "Bechuanaland" dưới quyền bảo hộ của nước này. Lãnh thổ phía bắc tiếp tục nằm dưới quyền cai trị trực tiếp với tư cách là Quốc gia bảo hộ Bechuanaland và trở thành Botswana hiện nay, trong khi lãnh thổ phía nam trở thành một phần của Thuộc địa Cape và hiện là một phần của tỉnh phía tây bắc Nam Phi, với đa số người nói tiếng Setswana hiện sống tại Nam Phi. Khi Liên minh Nam Phi được thành lập năm 1910, những thuộc địa chính của Anh Quốc trong vùng: Quốc gia bảo hộ Bechuanaland, Basutoland (hiện là Lesotho), và Eswatini ("Các Lãnh thổ Cao Ủy") không thuộc vào đó, mà được dự định để sáp nhập với nhau sau này. Tuy nhiên, việc sáp nhập sẽ do nhân dân tại vùng đó quyết định, và dù các chính phủ sau này của Nam Phi không ngừng tìm cách đòi Anh Quốc chuyển giao chúng, Anh vẫn giữ các lãnh thổ này và cuối cùng việc chuyển giao đã không xảy ra. Cuộc bầu cử chính phủ Quốc gia năm 1948, dẫn tới việc thiết lập chế độ apartheid, và Nam Phi rút khỏi Khối thịnh vượng chung năm 1961, chấm dứt bất kỳ tham vọng sáp nhập vùng đất này vào Nam Phi. Việc Anh Quốc mở rộng quyền lực trung ương và khuynh hướng chính phủ bộ lạc dẫn tới việc thành lập hai hội đồng tư vấn đại diện Người Phi và Người Âu vào năm 1920. Các tuyên bố năm 1934 quy định quyền của bộ lạc. Một hội đồng tư vấn Âu-Phi được thành lập năm 1951, và hiến pháp năm 1961 thành lập một hội đồng tư vấn lập pháp. Tháng 6, 1964, Anh Quốc chấp nhận những đề xuất về một chính phủ dân chủ tự quản tại Botswana. Vị trí trụ sở chính phủ được chuyển từ Mafikeng ở Nam Phi tới Gaborone năm 1965. Hiến pháp năm 1965 dẫn tới những cuộc tổng tuyển cử đầu tiên và nền độc lập ngày 30 tháng 9 năm 1966. Seretse Khama, một lãnh đạo của phong trào độc lập và là người thích hợp nhất cho vị trí lãnh đạo Ngwato, được bầu làm tổng thống đầu tiên, ông tái cử thêm hai lần nữa và chết khi đang tại chức năm 1980. Quyền lực tổng thống được chuyển sang phó tổng thống, Ketumile Masire, ông chính thức trúng cử năm 1984 và tái nhiệm năm 1989 và 1994. Masire nghỉ hưu năm 1998. Chức vụ tổng thống lại được giao cho phó tổng thống, Festus Mogae, ông này chính thức trúng cử năm 1999 và tái trúng cử năm 2004. Địa lý và môi trường Chủ yếu là cao nguyên bằng phẳng hơi lồi lõm; Sa mạc Kalahari nằm ở phía tây nam Diện tích 600.370 km² (231.788 dặm²), Botswana là nước lớn thứ 45 trên thế giới (sau Ukraina). Kích thước nước này tương đương với Madagascar, và hơi nhỏ hơn bang Texas của Hoa Kỳ. Diện tích Botswana chủ yếu bao phủ bởi Sa mạc Kalahari, tới 70% diện tích đất nước. Đồng bằng Okavango, đồng bằng trong đất liền lớn nhất thế giới, nằm ở phía tây bắc. Lòng chảo Makgadikgadi, một lòng chảo muối lớn nằm ở phía bắc. Botswana có nhiều vùng thiên nhiên hoang dã đa dạng, gồm đồng bằng Okavango, sa mạc Kalahari, các đồng cỏ và savanna, các savana và đồng cỏ là nơi sinh sống của linh dương đầu bò xanh và nhiều loài linh dương cũng như các loại động vật có vú khác. Chính trị Chính trị Botswana dựa trên mô hình cộng hoà đại diện dân chủ tổng thống, theo đó Tổng thống Botswana vừa là nguyên thủ quốc gia vừa là lãnh đạo chính phủ, và trên một hệ thống đa đảng đa nguyên. Quyền hành pháp do chính phủ đảm nhận. Quyền lập pháp do chính phủ và Nghị viện Botswana đảm nhận. Từ khi giành lại độc lập, hệ thống đảng phái do Đảng Dân chủ Botswana thống trị. Nhánh tư pháp độc lập với lập pháp và hành pháp. Khu vực hành chính Botswana được chia thành 9 quận: Các quận lại được chia thành 28 khu dưới cấp quận. Các khu vực đông dân cư nhất (theo thứ tự giảm dần) Các thành phố Gaborone Francistown Thị trấn và Làng mạc Quân đội Ở thời độc lập Botswana không có các lực lượng quân đội. Chỉ sau khi bị quân đội Rhodesia tấn công, Botswana mới thành lập Lực lượng Phòng vệ Botswana (BDF) để tự vệ năm 1977. Tổng thống là tổng tư lệnh và một ủy ban quốc phòng được tổng thống chỉ định. BDF hiện gồm khoảng 12.000 thành viên. BDF là một lực lượng vũ trang tốt và có kỷ luật. Sau những thay đổi chính trị tích cực tại Nam Phi và trong vùng, các nhiệm vụ của BDF ngày càng chú trọng vào các hoạt động chống săn trộm, ngăn ngừa thảm hoạ, và giữ gìn hòa bình quốc tế. Hoa Kỳ là nước cung cấp viện trợ duy nhất và lớn nhất cho sự phát triển của BDF, và một phần lớn sĩ quan trong lực lượng này đã được huấn luyện quân sự từ Hoa Kỳ. BDF là một tổ chức phi chính trị và chuyên nghiệp. Quan hệ nước ngoài Botswana đặt ưu tiên hàng đầu cho việc hội nhập kinh tế và chính trị vào Nam Phi. Nước này tìm cách biến Cộng đồng Phát triển Nam châu Phi (SADC) thành một tổ chức hữu hiệu để phát triển kinh tế và tăng cường các nỗ lực nhằm đưa vùng này ngày càng có khả năng tự quyết cao hơn trong đối ngoại, giải quyết xung đột, và quản lý tốt. Sau khi chấm dứt thời kỳ apartheid Nam Phi cũng đang tích cực tham gia vào những nỗ lực trên. Botswana có chung quan điểm với châu Phi về hầu hết các vấn đề quốc tế và hiện họ là thành viên của các tổ chức quốc tế như Liên hiệp quốc, Khối thịnh vượng chung và Liên minh châu Phi (AU). Botswana cũng là thành viên của Tòa án Tội phạm Quốc tế với một Thỏa thuận Miễn trừ Song phương bảo vệ cho quân đội Hoa Kỳ (như được quy định trong Điều 98). Kinh tế Từ khi độc lập, Botswana có mức tăng trưởng thu nhập trên đầu người cao nhất thế giới Tăng trưởng kinh tế trung bình ở mức 9% trong giai đoạn 1966 tới 1999. Chính phủ luôn duy trì một chính sách thuế lành mạnh, dù có thâm hụt ngân sách trong giai đoạn 2002 và 2003, và mức độ nợ nước ngoài không đáng kể. Nước này có tỷ lệ tín dụng tốt nhất Châu Phi và có kho dữ trữ ngoại tệ (hơn $5.1 tỷ năm 2003/2004) tương đương mức nhập khẩu trong hai năm rưỡi. Kỷ lục đáng chú ý của kinh tế Botswana được xây dựng trên nền tảng sử dụng thông minh nguồn thu và số tiền có được từ khai thác kim cương cung cấp cho phát triển kinh tế thông qua các chính sách thuế đáng tin cậy và chính sách đối ngoại cẩn trọng. Debswana, công ty mỏ kim cương duy nhất hoạt động tại Botswana, thuộc 50% sở hữu nhà nước và cung cấp một nửa nguồn thu cho chính phủ. Tuy nhiên, chi tiêu phát triển kinh tế đã bị cắt giảm 10% giai đoạn 2002-2003 hậu quả của sự tái phát thâm hụt ngân sách và tăng chi tiêu cho các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ. Botswana bị ảnh hưởng rất nặng bởi đại dịch AIDS; tuổi thọ bình quân chỉ xấp xỉ 40, chỉ hơn Zimbabwe và Eswatini. Gần một phần ba người dân Batswana có HIV, khiến Botswana trở thành nước có tỷ lệ người có HIV đứng hàng thứ hai thế giới, chỉ sau Eswatini. Chính phủ nhận biết rằng HIV/AIDS sẽ ảnh hưởng tới nền kinh tế và đang tìm cách ngăn chặn đại dịch, gồm cung cấp thuốc miễn phí và một chương trình ngăn chặn bệnh truyền từ mẹ sang con trên khắp đất nước. Một số khoản thâm hụt ngân sách của Botswana có nguyên nhân từ chi phí quân sự cao (khoảng 4% GDP năm 2004, theo CIA World Factbook), mà những lời chỉ trích cho rằng không cần thiết trong hoàn cảnh ít có khả năng xảy ra xung đột quốc tế (dù chính phủ Botswana cũng sử dụng đội quân này cho các chiến dịch đa bên và những hỗ trợ). Phát triển lĩnh vực tư nhân và đầu tư nước ngoài Botswana đang tìm cách đa dạng hóa nền kinh tế, không còn phụ thuộc nhiều vào khai thác mỏ, vốn chiếm tới một phần ba GDP, và đã giảm từ mức một nửa GDP trong thập kỷ 1990. Đầu tư và quản lý nước ngoài đang được khuyến khích tại Botswana. Botswana đã hủy bỏ việc kiểm soát trao đổi ngoại tệ năm 1999, và có mức thuế tổng thể thấp (15%), không cấm người nước ngoài sở hữu các công ty, và giữ được mức lạm phát trung bình (7.6% tháng 11 năm 2004). Chính phủ Botswana hiện dự kiến đưa ra các chính sách mới nhằm thúc đẩy khả năng cạnh tranh, gồm cả một Chiến lược Quản lý Đầu tư Nước ngoài mới, Chính sách Cạnh tranh, Kế hoạch Tư nhân hoá, và Chiến lược Phát triển Xuất khẩu Quốc gia. Với những thành tựu quản lý kinh tế tốt đã được chứng minh, Botswana được Tổ chức Minh bạch Thế giới xếp hạng là nước có tỷ lệ tham nhũng thấp nhất Châu Phi năm 2004, đứng trước cả nhiều nước Châu Âu và Châu Á. Diễn đàn Kinh tế Thế giới coi Botswana là một trong hai quốc gia mức độ tính cạnh tranh kinh tế cao nhất châu Phi. Năm 2004 Botswana từng một lần nữa được Moody's và Standard & Poor's xếp hạng "A" theo tỷ lệ tín dụng. Thứ hạng này đồng nghĩa Botswana có mức rủi ro tín dụng thấp nhất châu Phi và hơn cả nhiều nước tại Trung Âu, Đông Á và Mỹ La tinh. Đầu tư của Mỹ tại Botswana còn ở mức độ khá thấp, nhưng vẫn đang tiếp tục tăng. Các công ty lớn của Mỹ, như H.J. Heinz và AON Corporation, hiện đang có mặt thông qua các dự án đầu tư trực tiếp, trong khi các công ty khác như Kentucky Fried Chicken và Remax, hiện diện thông qua các chi nhánh. Tỷ lệ quyền tín dụng theo Moody's và Standard & Poor's đã cho thấy rõ ràng rằng, dù vẫn còn những thách thức như thị trường nhỏ, không có cảng biển, thủ tục hành chính còn rườm ra, Botswana vẫn là một trong những địa điểm đầu tư tốt nhất trong số các nước đang phát triển. Botswana có một Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ gồm 90 thành viên chấp nhận tư cách thành viên từ những chi nhánh công ty Hoa Kỳ. Vì yếu tố lịch sử và địa lý, Botswana có mối quan hệ bền chặt và tư lâu đời về kinh tế với Nam Phi. Liên minh Thuế quan Nam Phi (SACU), gồm Botswana, Lesotho, Eswatini, và Nam Phi, được thành lập từ năm 1910, và là liên minh thuế quan lâu đời nhất thế giới. Namibia tham gia liên minh năm 1990. Theo thỏa thuận liên minh, Nam Phi đã thu các khoản thuế quan, mua bán và thực hiện nghĩa vụ thuế cho tất cả năm thành viên, và chia theo tỷ lệ nhập khẩu của mỗi thành viên. Công thức chia chính xác và việc đưa ra quyết định về thuế quan — thuộc quyền riêng của Chính phủ Nam Phi — ngày càng gây nhiều tranh cãi, và các thành viên đang tái đàm phán lại thỏa thuận năm 2001. Cơ cấu mới đã được chính thức phê chuẩn và một Ban thư ký SACU đã được thành lập tại Windhoek, Namibia. Sau khi Nam Phi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Botswana cũng tham gia vào tổ chức này; vì thế nhiều loại thuế của SACU đã sụt giảm, khiến các sản phẩm từ biên ngoài có tính cạnh tranh cao hơn trong Botswana. Hiện các nước thành viên SACU và Hoa Kỳ đang đàm phán một hiệp định thương mại tự do. Botswana cũng đang đàm phán một hiệp định thương mại tự do với Mercosur và một Thỏa thuận Đối tác Kinh tế với Liên minh châu Âu như một phần của SADC. Tiền tệ của Botswana, đồng Pula, hoàn toàn chuyển đổi được và được định giá theo một rổ tiền tệ, đặc biệt theo đồng Rand của Nam Phi. Lợi tức và đầu tư trực tiếp có thể được đưa ra bên ngoài không bị hạn chế tại Botswana. Chính phủ Botswana đã giải phóng mọi biện pháp quản lý trao đổi ngoại tệ năm 1999. Ngân hàng Trung ương đã phá giá đồng Pula 7.5% vào tháng 2 năm 2004 trong nỗ lực nhằm giữ khả năng cạnh tranh chống lại sự tăng giá của đồng Pula. Tháng 5 năm 2005, một lần nữa đồng Pula lại bị phá giá 12% và chính sách "hạn chế thay đổi tỷ giá" đã được thông qua. Đa số (70%) lượng điện của Botswana được nhập khẩu từ công ty Eskom của Nam Phi. 80% sản xuất trong nước tập trung ở một nhà máy, Morupule Power Station gần Palapye. Gaborone là nơi đóng trụ sở của Cộng đồng Phát triển Nam châu Phi (SADC), hậu duệ của Hội nghị Phối hợp Phát triển Nam châu Phi (SADCC-được khởi động năm 1980), tập trung vào việc tự do hóa phát triển kinh tế vùng không phụ thuộc vào nước Nam Phi đang còn dưới chế độ apartheid. SADC thu nhận Nam Phi với tư cách một thành viên dân chủ mới từ năm 1994 và đã có nhiều biện pháp khuyến khích tăng trưởng, phát triển và hội nhập kinh tế sâu rộng hơn nữa của Nam Phi. Nghị định thư Thương mại của SADC được đưa ra ngày 1 tháng 9 năm 2000, kêu gọi bãi bỏ mọi hàng rào thuế quan và phi thuế quan cho thương mại vào năm 2008 giữa 11 nước thành viên đã ký kết. Nếu thành công, nó sẽ tạo cho các công ty Botswana quyền tự do tiếp cận các thị trường rộng lớn trong vùng. Thất bại của SADC trong việc cô lập chính phủ Mugabe tại Zimbabwe đã gây phương hại tới một số cơ hội hợp tác giữa tổ chức này và Hoa Kỳ. Botswana hiện đang trong quá trình vạch ra một Chương trình Hành động nhằm hạn chế tình trạng lao động trẻ em, được cho là sẽ được thông qua năm 2006-2007. Tình hình kinh tế năm 2010 Mặc dù chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới trong năm 2009 (tăng trưởng âm 5,2%) nhưng nhờ có sự ổn định tương đối về chính trị, quản lý tài chính – ngân sách chặt chẽ, hiệu quả và có nguồn tài nguyên khoáng sản giàu có, kinh tế Botswana đã thoát ra khỏi suy thoái và có mức tăng trưởng đạt 3,1% trong năm 2010. Về ngoại thương, trong năm 2010, Botswana xuất khẩu một lượng hoá trị giá 4,4 tỷ USD trong đó chủ yếu là các mặt hàng khoáng sản như kim cương, đồng, niken. Dệt may chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong kim ngạch xuất khẩu của nước này. Kim ngạch nhập khẩu hàng hoá năm 2010 đạt mức 4,5 tỷ USD với hàng hoá nhập khẩu chủ yếu là thực phẩm, máy móc, xăng dầu… Du lịch Du lịch đóng một vai trò quan trọng tại Botswana. Một số vườn quốc gia và các khu bảo tồn, với sự phong phú các loài động thực vật hoang dã, đang là nơi thu hút nhiều du khách. Botswana là khung cảnh cho loạt truyện trinh thám được nhiều người ưa thích của Alexander McCall Smith, The No. 1 Ladies' Detective Agency, và cũng là nơi quay bộ phim năm 1980 The Gods Must Be Crazy. Văn hoá Nghệ thuật Ở vùng phía bắc Botswana, phụ nữ trong các làng Etsha và Gumare nổi tiếng về nghề thủ công làm thúng từ Cọ Mokola và các loại thuốc nhuộm địa phương. Những chiếc thúng này nói chung được đan theo ba kiểu: lớn, thúng có nắp để đựng, thúng lớn không nắp để đội các vật trên đầu hay chứa thóc đã quạt sạch, và các thúng dẹt để đựng các loại gạo đã giã. Tính nghệ thuật của những chiếc thúng này được nâng cao nhờ việc sử dụng màu sắc và kiểu thiết kế, hiện tại chúng ngày càng được sản xuất chủ yếu cho mục đích thương mại. Các cộng đồng thủ công nổi tiếng khác gồm Gốm Thamaga và Dệt Oodi, cả hai đều ở vùng đông nam Botswana. Những bức họa cổ nhất tại cả Botswana và Nam Phi đều thể hiện cảnh săn bắn, gồm cả những hình người và thú vật, chúng được người Khoisan (!Kung San/Bushmen) sáng tác từ 20.000 năm trước tại sa mạc Kalahari. Văn học Bessie Head thường được coi là nhà văn nổi tiếng Botswana. Bà đã chạy trốn chế độ apartheid tại Nam Phi sang sống và sáng tác tại Botswana. Bà đã sống ở đây từ năm 1964 (khi nó vẫn là Quốc gia Bảo hộ Bechuanaland) cho tới khi mất khi 49 tuổi năm 1986. Bà đã sống tại Serowe, và những cuốn sách nổi tiếng nhất của bà, When Rain Clouds Gather, Maru, và A Question of Power đều được sáng tác ở đây. Botswana là khung cảnh của nhiều tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng của Alexander McCall Smith. Vai chính trong những tiểu thuyết đó, Precious Ramotswe, sống tại Gaborone. Cuốn đầu tiên, The No. 1 Ladies' Detective Agency xuất hiện năm 1998 tại UK (và 2001 tại US). Những cuốn sách vui vẻ được đón nhận nồng nhiệt vì sự quan tâm tới con người và các màu sắc địa phương. Norman Rush, là một đạo diễn tại Peace Corps ở Botswana từ năm 1978 đến 1983, thường lấy khung cảnh đất nước làm nền cho những cuốn sách của ông, nói chung thường tập trung vào các cộng đồng xa xứ. Unity Dow (sinh năm 1959) là một thẩm phán, nhà văn, nhà hoạt động nhân quyền Botswana. Bà xuất thân từ vùng nông thôn và thường coi trọng các giá trị truyền thống châu Phi. Mẹ bà không thể đọc tiếng Anh, và thường mọi quyết định đều do người đàn ông trong nhà đưa ra. Bà đã học để trở thành một luật sư và đa số thời gian học tập đều diễn ra ở phương tây. Khi còn là luật sư bà đã được ca ngợi vì những lập trường về nữ quyền của mình. Bà đã đứng nguyên đơn trong một vụ kiện cho phép con cái các phụ nữ quốc tịch bên ngoài được coi là người Batswana. Truyền thống và luật pháp về vấn đề quốc tịch này thường chỉ xét tới quốc tịch người cha. Bà sau này trở thành người phụ nữ đầu tiên làm Thẩm phán Tòa án Botswana. Bà đã sáng tác ba cuốn sách. Chúng thường đề cập tới sự lo ngại về các vấn đề liên quan tới sự đấu tranh giữa các giá trị truyền thống và Phương Tây. Chúng cũng thể hiện sự quan tâm của bà tới vấn đề giới và sự nghèo đói của đất nước. Ngày lễ Tôn giáo Ước tính có khoảng 70% công dân của nước này tự nhận mình là Kitô hữu. Anh giáo, Methodist chiếm đa số trong các Kitô hữu. Ngoài ra còn có Giáo hội Luther, người Công giáo La Mã, Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm, Báp-tít, Mennonites, Mặc Môn, Nhân chứng Jehovah, và giáo phái Kitô giáo khác. Theo điều tra dân số năm 2001, cả nước có khoảng 5.000 người Hồi giáo, chủ yếu là gốc Nam Á, 3.000 người theo đạo Hindu và 700 người đạo Bahá'í. Khoảng 20% ​​người dân không tôn giáo. Giáo dục Botswana đã có những bước tiến bộ vượt bậc trong giáo dục kể từ khi giành lại độc lập năm 1966. Thời ấy có rất ít người trong nước có học thức và chỉ một số phần trăm nhỏ dân cư được đến trường. Với việc phát hiện ra kim cương và khoản thu do nó mang lại, hệ thống giáo dục đã được chú trọng phát triển lớn. Tất cả học trò đều được đảm bảo mười năm giáo dục căn bản, để được cấp Chứng nhận giáo dục dưới đại học. Gần một nửa số người trong độ tuổi đi học theo học tiếp hai năm dự bị để được cấp Chứng nhận Giáo dục Tổng quát Botswana (BGCSE). Sau khi rời trường, học sinh có thể theo một trong số sáu trường cao đẳng kỹ thuật trong nước, hay trải qua các khóa học nghề. Các sinh viên giỏi nhất vào Đại học Botswana tại Gaborone, một trường hiện đại với số lượng sinh viên lên tới hơn mười nghìn người. Số lượng không phải lúc nào cũng tương xứng với chất lượng. Các trường tiểu học đặc biệt thiếu thốn cơ sở vật chất và các giáo viên được trả lương thấp hơn đồng nghiệp cấp dự bị. Chính phủ Botswana hy vọng bằng cách đầu tư một khoản tiền lớn vào giáo dục, nền kinh tế đất nước sẽ ít phụ thuộc hơn vào nguồn thu từ kim cương, cũng như vào số lượng lao động lành nghề từ bên ngoài. Tháng 1 năm 2006, Botswana đã thông báo việc tái thu phí giáo dục sau hai thập kỷ bao cấp dù chính phủ vẫn cấp học bổng toàn phần và chi phí ăn ở cho mọi sinh viên đại học trong nước, cũng như tại trường Đại học Botswana hay nếu công dân muốn theo học những khoa chưa có trong nước, như y tế, họ sẽ được cấp học bổng để theo học ở nước ngoài. Ghi chú và Tham khảo Denbow, James and Thebe, Phenyo C., Culture and Customs of Botswana
Burundi ( hoặc ), tên chính thức Cộng hòa Burundi (, hoặc ) là một quốc gia ở phía đông châu Phi. Lịch sử Vào thế kỷ XV, những người du mục Tutsi (còn gọi là người Watutsi), được xem là một dân tộc từ Ethiopia đến, bắt đầu cuộc chinh phục người Hutu. Họ thành lập vương quốc Mwami và thống trị theo thể chế quân chủ chuyên chế. Những người châu Âu đầu tiên đến thám hiểm vùng hồ Tanganyika từ năm 1858. Vùng lãnh thổ này bị sáp nhập vào Đông Phi thuộc Đức năm 1891 và cùng nước láng giềng tạo thành lãnh thổ Rwanda-Urundi đặt dưới sự ủy trị của Bỉ từ sau Chiến tranh thế giới thứ I. Năm 1962, Burundi giành được độc lập và trở thành vương quốc dưới sự cai trị của Quốc vương Mwami Mwambutsa IV thuộc sắc tộc Tutsi. Cuộc nổi loạn của người Hutu diễn ra vào năm 1965 dẫn đến sự trả đũa man rợ của người Tutsi. Năm 1966, Mwambutsa bị con trai là Ntaré truất phế. Đến lượt người này, Quốc vương Ntaré, lại bị một sĩ quan người Tutsi là Michel Micombero lật đổ trong cùng năm ấy. Cuộc xung đột sắc tộc giữa người Hutu và nhóm thiểu số người Tutsi dẫn đến tàn sát lẫn nhau (1972-1973). Năm 1976, trung tá J. B. Bagaza chỉ huy nhóm sĩ quan người Tutsi lật đổ Tổng thống M. Micombero. Năm 1987, Tổng thống J. B. Bagaza bị một sĩ quan người Tutsi là P. Buyoya lật đổ trong cuộc đảo chính quân sự. Cuộc xung đột sắc tộc lại xảy ra năm 1988. Tiến trình dân chủ hóa được xúc tiến từ năm 1988, cán cân quyền lực giữa người Hutu và người Tutsi được quân bình. Hiến pháp năm 1992 thông qua thể chế đa đảng. Năm 1993, Melchi N'Dadaye, đại diện đầu tiên của người Hutu đắc cử Tổng thống, nhưng N'Dadaye bị quân đội thuộc nhóm người Tutsi ám sát. Người kế nhiệm là Tổng thống C. Ntaryamira cùng Tổng thống Juvénal Habyarimana của Rwanda bị chết trong vụ nổ máy bay tại thủ đô Kigali (Rwanda) năm 1994. Bạo lực lại bùng nổ giữa quân đội người Tutsi và người Hutu. Năm 1996, quân đội tiến hành cuộc đảo chính và đưa Tổng thống P. Buyoya trở lại cầm quyền. Hơn 200.000 người bị giết kể từ khi cuộc xung đột bắt đầu, cả quân đội người Tutsi và lực lượng nổi loạn người Hutu phải chịu trách nhiệm cuộc tàn sát này. Ông Nelson Mandela được chỉ định làm người trung gian hòa giải cho cuộc chiến này vào đầu năm 2000. Tháng 7 năm 2001, một Hiệp định hòa bình mong manh và thỏa thuận chia sẻ quyền lực được ký kết giữa Chính phủ và 18 phe nhóm chính trị, nhưng phe nổi loạn Hutu đấu tranh chống Chính phủ không đồng ý tham dự. Nội chiến lại tiếp tục trong năm 2002, những cố gắng nhằm ký một hiệp định ngừng bắn không đạt được thành công nào. Tháng 7 năm 2005, Burundi đã bầu Hạ viện và Thượng viện theo chế độ đa đảng. Ngày 19 tháng 8 năm 2005, Hạ viện đã bầu ông Pierre Nkurunziza làm Tổng thống. Chính trị Chính trị của Burundi diễn ra trong khuôn khổ của một nước cộng hòa tổng thống, với một hệ thống chính trị đa đảng. Tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia và vừa lãnh đạo Chính phủ. Tổng thống được bầu trực tiếp bởi người dân theo một nhiệm kỳ 7 năm và có quyền tái cử 1 lần. Tổng thống bổ nhiệm Phó Tổng thống và Thủ tướng để giúp mình lãnh đạo các công việc hằng ngày của Chính phủ. Quyền hành pháp được trao cho chính phủ. Quyền lập pháp được cả chính phủ và lưỡng viện Quốc hội nắm giữ. Quốc hội (tiếng Pháp: Assemblée nationale) có 118 thành viên, được bầu cho một nhiệm kỳ năm năm. Thượng viện (Senat) có 49 thành viên, được bầu cho một nhiệm kỳ năm năm trong bầu cử của hội đồng xã. Tình hình chính trị xã hội của Burundi nhiều năm không ổn định do tranh giành quyền lực giữa hai bộ tộc chính người Hutu và Tutsi. Sau cuộc bầu cử năm 2005 đến nay, tình hình Burundi được cải thiện nhưng vẫn còn tồn tại những thách thức về an ninh và phát triển. Hành chính Burundi được chia thành 17 tỉnh, 117 xã và 2.638 làng. Chính quyền cấp tỉnh được cấu trúc theo những ranh giới. Năm 2000, tỉnh Bujumbura được tách thành hai tỉnh, Bujumbura và Bunjumbura Mairie. Các tỉnh là: Bubanza Bujumbura Mairie Bujumbura Rural Bururi Cankuzo Cibitoke Gitega Karuzi Kayanza Kirundo Makamba Muramvya Muyinga Mwaro Ngozi Rutana Ruyigi Địa lý Quốc gia ở Trung Phi, Bắc giáp Rwanda, Đông và Nam giáp Tanzania, Tây giáp Cộng hòa Dân chủ Congo và hồ Tanganyika. Đất nước nằm trong đất liền, phần lớn lãnh thổ là đồi núi và cao nguyên. Khí hậu Burundi nằm trong vùng khí hậu xích đạo. Các vùng thấp ở rìa phía Bắc và phía Đông nóng ẩm, vùng cao nguyên và núi có khí hậu ôn hòa hơn. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 17 độ C đến 23 độ C. Lượng mưa trung bình khoảng 1.500 mm/năm, mùa mưa từ tháng 2 đến tháng 5 và từ tháng 9 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 6 đến tháng 8 và từ tháng 12 đến tháng 1. Môi trường Đất bị xói mòn do chăn thả quá mức và mở rộng nông nghiệp; nạn phá rừng (diện tích rừng bị thu hẹp do không kiểm soát được tình trạng khai thác gỗ bừa bãi); nguy cơ thú rừng bị tuyệt chủng do mất nơi cư trú. Kinh tế Trong giai đoạn năm 1993 – 1999, do các cuộc nội chiến liên miên và lệnh cấm vận của nước ngoài (1996), GDP của Burundi giảm đi 20%, tỷ lệ vốn đầu tư giảm từ 18% xuống còn 6% và lạm phát năm 1999 lên tới 21%. Cuộc nội chiến kết thúc cùng với tình hình chính trị ổn định đã thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và sự giúp đỡ từ bên ngoài. Tuy nhiên, nước này vẫn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn do tình trạng nghèo đói, thất học, sự yếu kém trong quản lý hành chính và hệ thống luật pháp còn lỏng lẻo. Burundi là một nước nông nghiệp lạc hậu. Ngành kinh tế lớn nhất là nông nghiệp với trên 90% dân số sống bằng nghề nông. Burundi có các loại khoáng sản quý như kim cương, vàng, niken, coban, platin, urani, wolfram... thu nhập từ kim cương chiếm 10% tổng giá trị hàng xuất khẩu. Burundi là một trong những nước nghèo nhất thế giới. Công nghiệp kém phát triển chủ yếu là chế biến các sản phẩm nông nghiệp. Nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp chiếm khoảng 35% GDP và sử dụng hơn 90% dân số. Burundi xuất khẩu chính là cà phê và chè, chiếm 90% thu nhập ngoại tệ. Mặc dù GDP Burundi tăng khoảng 4% hàng năm từ 2006 đến nay, nhưng hiện tại, đang tiềm ẩn những yếu kém (tỷ lệ đói nghèo cao, hệ thống pháp luật yếu, mạng lưới giao thông kém, các tiện ích quá tải, và năng lực hành chính thấp…) mang đến nguy cơ phá hoại kế hoạch cải cách kinh tế của Chính phủ Burundi. Burundi đang phụ thuộc nhiều vào viện trợ từ các nhà tài trợ song phương và đa phương. Burundi là nước nghèo tài nguyên, công nghiệp kém phát triển. Kinh tế chủ yếu dựa vào trồng trọt (cà phê, ngô, đậu, lúa miến, chè, bông vải, dầu cọ) và chăn nuôi (dê, cừu, bò). Khoảng 90% dân số sống nhờ vào nông nghiệp. Các mặt hàng xuất khẩu gồm cà phê, chè và chuối. Kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào xuất khẩu cà phê (chiếm đến 80% ngoại tệ thu được) Vì vậy khả năng thanh toán hàng hóa nhập khẩu không ổn định, tùy vào thị trường cà phê thế giới. Từ tháng 10 năm 1993, đất nước này trải qua những cuộc bạo động, xung đột lớn về sắc tộc làm khoảng 250.000 người chết và 800.000 người mất nhà cửa. Thực phẩm, thuốc men, điện nước không đủ đáp ứng. - Tài nguyên thiên nhiên có kim cương, vàng, nikel, uranium, platinum, wolfram... - Cơ cấu kinh tế: Nông nghiệp 33,3%, Công nghiệp 21%, Dịch vụ 45,8% - Mặt hàng xuất khẩu: chủ yếu là cà phê, chè, bông và đường. - Mặt hàng nhập khẩu: gạo, vải vóc, xăng dầu, thực phẩm. - Bạn hàng nhập khẩu: Ả Rập Xê Út, Kenya, Nhật Bản, Trung Quốc, Nga. - Bạn hàng xuất khẩu: Thụy Sĩ, EU, Pakistan, Rwanda, Ai Cập. - Burundi hiện là thành viên các tổ chức kinh tế IMF, WTO, COMESA. GDP: 1,469 tỉ USD (2010) GDP bình quân đầu người: 131 USD (2010) Tỷ lệ tăng trưởng GDP: 3,9% (2010) Dân số Dân số Burundi hiện nay khoảng 10.216.190 (2010). Dân số Burundi chủ yếu sống ở nông thôn, trong khi 11% dân số sống ở khu vực đô thị vào năm 2010. Mật độ dân số khoảng 315 người trên mỗi km vuông, là nước có mật độ dân số cao thứ hai trong tiểu vùng Sahara. Khoảng 85% dân số là người Hutu, 15% là người Tutsi, và ít hơn 1% là người Pygmy. Burundi có mức sinh cao thứ năm trên thế giới, tại 6,08 con sinh ra / người phụ nữ (2012 ước tính). Tôn giáo Ước tính Kitô giáo chiếm 75% dân sô trong đó Công giáo La Mã là nhóm lớn nhất chiếm 60%. Tin Lành và Anh giáo chiếm 15% còn lại. Ước tính có khoảng 20% ​​dân số tuân thủ các niềm tin tôn giáo bản địa truyền thống. Dân số Hồi giáo được ước tính ở mức 5%, đa số sống ở các vùng đô thị. Người Sunni chiếm đa số dân số Hồi giáo, còn lại là Shi'a.
Cabo Verde ( (), , phiên âm: "Ca-bô Ve-đê" hay "Cáp-ve", nghĩa là "Mũi Xanh"), tên chính thức là Cộng hòa Cabo Verde (tiếng Bồ Đào Nha: República de Cabo Verde) là một quốc đảo gồm một quần đảo san hô 10 đảo nằm ở trung tâm Đại Tây dương, cách bờ biển Tây Phi khoảng 570 km, gồm 10 đảo núi lửa với tổng diện tích đất khoảng . Các đảo này có khoảng cách giữa về phía tây Cabo Verde nằm ở điểm cực tây của lục địa Châu Phi. Các đảo Cabo Verde là một phần của vùng sinh thái Macaronesia, cùng với Azores, quần đảo Canary, Madeira và quần đảo Savage . Quần đảo Cabo Verde đã không có người ở cho đến thế kỷ 15, khi các nhà thám hiểm của Bồ Đào Nha khám phá và thuộc địa hóa quần đảo này, do đó thiết lập khu định cư đầu tiên của người Châu Âu ở vùng nhiệt đới. Vì các đảo ở Cabo Verde nằm ở một vị trí thuận tiện để đóng một vai trò trong buôn bán nô lệ Đại Tây Dương, Cabo Verde trở nên thịnh vượng về kinh tế trong suốt thế kỷ 16 và 17, thu hút các thương gia, các tàu lùng và cướp biển. Quần đảo này suy giảm kinh tế vào thế kỷ 19 do sự đàn áp của việc buôn bán nô lệ ở Đại Tây Dương, và nhiều cư dân của quần đảo đã di cư trong thời kỳ đó. Tuy nhiên, Cabo Verde dần dần phục hồi kinh tế khi trở thành một trung tâm thương mại quan trọng và điểm dừng chân hữu ích dọc các tuyến đường vận tải biển chính. Năm 1951, Cabo Verde được hợp nhất như một bộ tỉnh hải ngoại của Bồ Đào Nha, nhưng cư dân của quần đảo vẫn tiếp tục chiến dịch giành độc lập mà họ đã đạt được vào năm 1975. Kể từ đầu những năm 1990, Cabo Verde đã là một quốc gia theo thể chế dân chủ đại diện ổn định, và vẫn là một trong những quốc gia dân chủ và phát triển nhất ở châu Phi. Thiếu tài nguyên thiên nhiên, nền kinh tế đang phát triển của quốc gia này chủ yếu theo hướng dịch vụ, với trọng tâm ngày càng tăng vào du lịch và đầu tư nước ngoài. Dân số khoảng 483.628 người vào năm 2021 chủ yếu là người gốc Phi và châu Âu di sản và chủ yếu là Công giáo, theo phản ánh di sản của sự cai trị của Bồ Đào Nha. Một cộng đồng ngoại kiều Cabo Verde lớn tồn tại trên khắp thế giới, đặc biệt là ở Hoa Kỳ và Bồ Đào Nha, và đông hơn đáng kể cư dân trên các hòn đảo. Cabo Verde là một quốc gia thành viên của Liên minh châu Phi. Ngôn ngữ chính thức của Cabo Verde là tiếng Bồ Đào Nha. Nó là ngôn ngữ của sự hướng dẫn và chính phủ. Nó cũng được sử dụng trên báo chí, truyền hình và đài phát thanh. Lịch sử Trước đây, quần đảo này không có cư dân. Người Bồ Đào Nha đến Cabo Verde năm 1460 và chiếm Cabo Verde làm thuộc địa từ năm 1495. Phần lớn dân cư ngày nay là người lai giữa người Bồ Đào Nha và người châu Phi. Với vị trí nằm ngay trên thương lộ nối châu Phi, châu Âu và châu Mỹ, Cabo Verde từng là trung tâm buôn bán nô lệ sầm uất, nhưng đến năm 1876 khi chế độ nô lệ bị bãi thì vị thế quần đảo này phai nhạt dần. Năm 1951, về mặt hành chánh Cabo Verde trở thành một tỉnh hải ngoại của Bồ Đào Nha. Năm 1961, chính phủ Bồ Đào Nha trao quyền công dân cho mọi người dân Cabo Verde, xem họ bình đẳng trước luật pháp như dân ở chính quốc. Phong trào độc lập dưới sự lãnh đạo của Đảng châu Phi vì Độc lập Guiné-Bissau và Cabo Verde (PAIGC), thành lập từ năm 1956. Biến cố đảo chính năm 1974 ở Bồ Đào Nha đánh dấu một trang sử mới khi chính phủ Lisboa theo đuổi chính sách "giải thực" trao độc lập cho các xứ thuộc địa. Sự việc này diễn ra ngày 20 tháng 12 khi Bồ Đào Nha chính thức ký kết trả độc lập cho Cabo Verde. Cabo Verde tuyên bố độc lập ngày 5 tháng 7 năm 1975. Đảng châu Phi vì Độc lập Guiné-Bissau và Cabo Verde nắm quyền lãnh đạo đất nước. Năm 1977, Đại hội lần thứ 3 PAIGC chủ trương liên kết kinh tế Guiné-Bissau và Cabo Verde, tiến tới hợp nhất 2 nước thành 1 nước cộng hoà nhưng tháng 11 năm 1980, tướng Joao Bernado Vieira (người Guiné-Bissau) tiến hành đảo chính lật đổ Tổng thống Louis Cabral và lên nắm quyền. Sau sự kiện này, Guiné-Bissau và Cabo Verde cắt quan hệ, bộ phận Đảng của Cabo Verde trong PAIGC tách thành PAICV (Đảng người Phi vì Độc lập của Cabo Verde). Năm 1990, Cabo Verde tiến hành cải cách hiến pháp, tách chức năng của đảng ra khỏi chức năng Nhà nước, chấp nhận chế độ đa đảng. Cuộc tuyển cử đa đảng đầu tiên kể từ khi độc lập diễn ra ngày 13 tháng 1 năm 1991. Đảng Phong trào vì dân chủ giành được đa số phiếu, ứng cứ viên đảng này, Antonio Monteiró trở thành Tổng thống và tái đắc cử năm 1996. Tháng 12 năm 1995, đảng Phong trào Dân chủ (MPD) lại giành được thắng lợi trong cuộc bầu cử Quốc hội, chiếm 59% số phiếu bầu (50/72 ghế Quốc hội). Trong cố gắng phát triển ưu thế về vị trí thuận lợi cả đường biển và đường không xuyên Đại Tây Dương, Nhà nước Cabo Verde tiến hành mở rộng các phi cảng và hải cảng. Các đoàn tàu đánh bắt cá biển và công nghiệp chế biến cá cũng được hiện đại hóa. Tình trạng nghèo đói, thất nghiệp tiếp tục gia tăng, chương trình tư nhân hóa của Chính phủ không mấy thành công đã làm cho đảng Phong trào vì dân chủ thất bại trong cuộc bầu cử năm 2001, José Maria Neves thuộc đảng châu Phi vì Độc lập của Cabo Verde trở thành Thủ tướng. Chính trị Cabo Verde là nước cộng hòa nghị viện. Hiến pháp được phê chuẩn vào năm 1980 và sửa đổi năm 1992, 1995 và 1999. Tổng thống là người đứng đầu nhà nước và được người dân bầu chọn với nhiệm kỳ 5 năm. Thủ tướng là người đứng đầu chính phủ. Thủ tướng được đề cử bởi Quốc hội và được tổng thống chỉ định. Các thành viên của Quốc hội được bầu theo phổ thông đầu phiếu cho nhiệm kỳ 5 năm. Ba đảng phái hiện có ghế trong Quốc hội là PAICV 40 ghế, MPD 30 ghế, và Liên minh Dân chủ Cabo Verde độc lập (UCID) 2 ghế. Hệ thống tư pháp bao gồm một Tòa án tối cao mà các thành viên được bổ nhiệm bởi Tổng thống, Quốc hội và Hội đồng quản trị của ngành Tư pháp và các tòa án khu vực. Tòa án riêng biệt khác nhau sẽ xét xử các vụ dân sự, vi phạm hiến pháp và hình sự. Đối ngoại Cabo Verde theo đường lối độc lập dân tộc, không liên kết, quan hệ mật thiết với các nước thuộc địa cũ của Bồ Đào Nha, chú trọng quan hệ với Bồ Đào Nha, Pháp. Địa lý Cabo Verde là một quần đảo nhỏ ở Tây Phi, nằm ở phía Tây Sénégal. Cabo Verde là một quần đảo núi lửa ở Đại Tây Dương, được chia thành hai nhóm: nhóm Ilhas do Barlavento ở phía Bắc, gồm các đảo Santo Antão (754 km²), Boa Vista (622 km²), São Vincente (246 km²), Sal (298 km²) và Santa Luzia (34 km²); và nhóm Ilhas do Sotavento ở phía Nam gồm có các đảo São Tiago (992 km²), Fogo (477 km²) có một núi lửa còn đang hoạt động, Maio (267 km²) và Brava (65 km²). Địa hình ở các đao này chủ yếu là núi với các vùng đất có nhiều rãnh sâu do xói mòn và nhiều đảo nhỏ. Khí hậu Khí hậu tương đối ôn hòa, mùa hè nóng và ẩm. Lượng mưa thấp và thất thường. Trung bình nhiệt độ hàng ngày dao động từ 23 °C (73 °F) trong tháng 2 đến 29 °C (84,2 °F) trong tháng 9. Cabo Verde là một phần của vành đai khô cằn Sahel. Mưa không đều giữa tháng 8 và tháng 10 với những trận mưa lớn thường xuyên nhưng không kéo dài. Môi trường Nạn phá rừng để lấy gỗ làm nhiên liệu; đất bị xói mòn do tình trạng chăn thả quá mức và sử dụng đất không đúng cách; sa mạc hóa; môi trường bị hủy hoại đe dọa đời sống một số loài chim và bò sát; tình trạng đánh bắt cá quá mức. Hành chính Cabo Verde được chia thành 22 thành phố (concelhos) và 32 giáo xứ (freguesias), các giáo xứ này đã tồn tại trong thời kỳ thuộc địa trên cơ sở giáo xứ của Công giáo: Kinh tế Kinh tế hướng tới các ngành dịch vụ: thương mại, giao thông vận tải và dịch vụ công cộng chiếm khoảng 70% GDP. Mặc dầu gần 70% dân số sống ở nông thôn nhưng nông nghiệp chỉ chiếm 8% GDP, trong đó ngư nghiệp chiếm khoảng 15% (năm 1995). Cabo Verde phải nhập khẩu đến 90% lương thực. Tiềm năng nghề cá, chủ yếu là tôm hùm và cá ngừ, còn chưa được quan tâm khai thác. Tình trạng thâm hụt hàng năm cao, phải nhờ vào viện trợ của quốc tế và tiền gửi của khoảng 60.000 người di cư (số tiền gửi này đóng góp hơn 20% GDP). Những cải cách kinh tế do Chính phủ dân chủ mới đưa ra năm 1991 đã hướng vào phát triển khu vực kinh tế tư nhân và thu hút đầu tư nước ngoài để đa dạng hóa nền kinh tế. Trước đây Cabo Verde là vùng núi lửa, nay là bán sa mạc, khô cằn, ít mưa, luôn bị hạn, kinh tế nghèo nàn, thiếu lương thực. Nguồn thu nhập chính là thuê sân bay, hải cảng, muối. Đóng góp của kiều dân Cáp-ve ở nước ngoài là nguồn thu nhập ngoại tệ đáng kể của nền kinh tế nước này. Từ năm 2000 đến năm 2009, GDP tăng trung bình hơn 7% một năm, cao hơn mức trung bình so với các nước tiểu vùng Sahara và nhanh hơn so với các nền kinh tế ở các quốc đảo nhỏ nhất trong khu vực. Hoạt động kinh tế phất triển mạnh mẽ do sự góp phần của ngành công nghiệp du lịch được xem là phát triển nhanh nhất trên thế giới, cũng như dòng vốn đầu tư nước ngoài đáng kể cho phép Cabo Verde phát triển mạnh kinh tế. Tỷ lệ thất nghiệp đã giảm nhanh chóng, và đất nước đang đi đúng hướng để đạt được hầu hết các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ do Liên Hợp Quốc đề ra, bao gồm giảm một nửa mức nghèo đói trong năm 1990. Trong năm 2007, Cabo Verde gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và trong năm 2008 thoát khỏi danh sách Các quốc gia kém phát triển nhất (LDC) trở thành nước có thu nhập trung bình (MIC). GDP (thực tế): 1,68 tỷ USD (2009). GNP bình quân: 3.900 USD (2009). Tăng trưởng: 1,8% (2009). Giáo dục Giáo dục tiểu học tại Cabo Verde là bắt buộc trong độ tuổi từ 6 đến 14 và miễn phí cho trẻ em từ 6 đến 12 tuổi. Năm 2008, tỷ lệ nhập học tiểu học là 84%. Khoảng 85% tổng dân số trên 15 tuổi biết chữ. Sách giáo khoa được cung cấp miễn phí tới 90% học sinh, và 90% các giáo viên được tham dự dịch vụ đào tạo giáo viên. Mặc dù hầu hết trẻ em được tiếp cận với giáo dục, nhưng cũng còn một số vấn đề lớn trong việc giáo dục. Ví dụ, nhiều sinh viên và một số giáo viên nói tiếng Creole ở nhà và họ nói không rành tiếng Bồ Đào Nha (ngôn ngữ giảng dạy); không có đủ chi phí cho dụng cụ học tập, và có một tỷ lệ lưu ban cao. Y tế Dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng miễn phí, tuy nhiên chất lượng y tế không cao (thiếu thốn trang thiết bị và nhân viên). Khu vực nông thôn chỉ có khoảng 1/2 số dân được sử dụng nước sạch. Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh tại Cabo Verde là 18 trên 1.000 ca, và tỷ lệ tử vong ở mẹ là 53,7 ca tử vong trên 100.000 ca. Tỷ lệ nhiễm AIDS là thấp - có khoảng 1.700 bệnh nhân HIV/AIDS trong cả nước, với hơn một nửa trong số này nằm ở Praia. Nhân khẩu học Số liệu thống kê nhân khẩu học của ESA nói Cabo Verde có dân số 567.000 trong năm 2010. Dân tộc Phần lớn dân số là người Creole (lai giữa người da đen và da trắng). Một nghiên cứu di truyền cho thấy tổ tiên của người Cabo Verde chủ yếu là người châu Âu trong dòng nam và Tây Phi trong dòng nữ; tính với nhau tỷ lệ này là 57% châu Phi và 43% châu Âu. Tôn giáo Khoảng 95% dân số là Kitô giáo. Hơn 85% dân số là trên danh nghĩa là Công giáo La Mã,. Các giáo phái Tin Lành lớn nhất là Giáo hội Nazarene;. Các nhóm khác bao gồm Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm, Mặc Môn, Phong trào Ngũ Tuần và Tin Lành khác. Có một cộng đồng Hồi giáo nhỏ. Những người vô thần được ước tính ít hơn 1% dân số. Văn hóa Văn học đất mũi Verdean Âm nhạc Âm nhạc đảo quốc này là sự kết hợp giữ âm nhạc Bồ Đào Nha, Caribe, châu Phi, và ảnh hưởng của âm nhạc Brazil. âm nhạc quốc gia tinh túy của Cabo Verde là Morna, một hình thức hát u sầu và trữ tình thường hát bằng tiếng Creole. Thể loại âm nhạc phổ biến nhất sau morna là coladeira tiếp theo funaná và âm nhạc batuque. Thế giới biết đến nền âm nhạc Cabo Verde qua những ca sĩ nổi tiếng thế giới như Ildo Lobo và Cesária Évora mà các bài hát của họ đã trở thành một biểu tượng và nền văn hóa của đất nước. Ngoài ra còn có các nghệ sĩ nổi tiếng thế giới được sinh ra ở Cabo Verde. Trong số đó có các nghệ sĩ như nghệ sĩ piano và jazz Horace Silver, nghệ sĩ saxophone Paul Gonsalves Duke Ellington, Paul Pena, anh em Tavares và ca sĩ Lura. Ngôn ngữ Ngôn ngữ chính thức của Cabo Verde là tiếng Bồ Đào Nha. Nó là ngôn ngữ được giảng dạy và là ngôn ngữ chính thức của chính phủ. Tuy nhiên, tiếng Creole được sử dụng một cách thông dụng và được xem là tiếng mẹ đẻ của hầu như tất cả người Cabo Verde. Giao thông vận tải Ở Cabo Verde, giao thông vận tải giữa các đảo được thực hiện bằng máy bay. Có các chuyến bay thường xuyên đến và đi từ các đảo chính (Santiago, Sal và São Vicente), với các chuyến bay ít hơn đối với các đảo khác. Giao thông vận tải bằng thuyền cũng có sẵn, mặc dù không được sử dụng rộng rãi cũng như sự an toàn không được bảo đảm. Trong các thành phố lớn, xe buýt công cộng chạy theo định kỳ và taxi là phương tiện di chuyển phổ biến. Ở các thị trấn nhỏ, phương tiện giao thông vận tải chủ yếu là xe khác Toyota hiaces hoặc taxi. Báo chí Báo chí trực tuyến Chủ đề hỗn hợp
Cameroon hay Cameroun, tên chính thức là nước Cộng hòa Cameroon (phiên âm tiếng Việt: Ca-mơ-run, , ), là một quốc gia ở phía tây của khu vực Trung Phi. Cameroon có biên giới quốc tế với Nigeria ở phía tây; với Tchad ở phía đông bắc; với nước Cộng hòa Trung Phi ở phía đông; và với Guinea Xích Đạo, Gabon, và nước Cộng hòa Congo ở phía nam. Bờ biển của Cameroon nằm ven vùng lõm Bonny thuộc vịnh Guinea và Đại Tây Dương. Quốc gia này thường được gọi là "châu Phi thu nhỏ" do đa dạng về địa chất và văn hóa. Các đặc điểm tự nhiên của Cameroon gồm có các bãi biển, hoang mạc, dãy núi, rừng mưa, và xa van. Đỉnh cao nhất quốc gia là núi Cameroon ở phía tây nam, và các thành thị lớn nhất là Douala, Yaoundé và Garoua. Cameroon là nơi có trên 200 nhóm ngôn ngữ khác nhau. Quốc gia nổi tiếng với các phong cách âm nhạc bản địa, đặc biệt là makossa và bikutsi, và sự thành công của đội tuyển bóng đá quốc gia. Tiếng Pháp và tiếng Anh là các ngôn ngữ chính thức của Cameroon. Các cư dân ban đầu trên khu vực này gồm các cư dân thuộc nền văn minh Sao quanh hồ Tchad và những người Baka săn bắn-hái lượm tại rừng mưa đông nam bộ. Các nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha đến bờ biển của khu vực vào thế kỷ XV và đặt tên cho khu vực là Rio dos Camarões (sông Tôm), rồi trở thành Cameroon trong tiếng Anh. Các quân nhân người Fula thành lập nên Tù trưởng quốc Adamawa ở phía bắc khu vực trong thế kỷ XIX, và nhiều dân tộc ở phía tây và tây bắc thành lập nên các tù bang hùng mạnh. Cameroon trở thành một thuộc địa của Đức vào năm 1884. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, lãnh thổ Kamerun thuộc Đức được phân chia giữa Pháp và Anh Quốc với danh nghĩa Hội Quốc Liên ủy thác. Chính đảng Liên minh Nhân dân Cameroun (UPC) chủ trương đòi độc lập, song bị người Pháp cấm vào thập niên 1950. Năm 1960, phần lãnh thổ Cameroon do Pháp quản lý được độc lập với tên nước Cộng hòa Cameroun, dưới quyền Tổng thống Ahmadou Ahidjo. Phần phía nam của các lãnh thổ Cameroon thuộc Anh hợp nhất với Cộng hòa Cameroun vào năm 1961 để hình thành Cộng hòa Liên bang Cameroon. Quốc gia đổi tên thành Cộng hòa Liên hiệp Cameroon vào năm 1972 rồi Cộng hòa Cameroon vào năm 1984. So với các quốc gia khác tại châu Phi, Cameroon có ổn định tương đối cao về chính trị và xã hội. Điều này cho phép sự phát triển của nông nghiệp, đường bộ, đường sắt, và các ngành công nghiệp dầu mỏ và đốn gỗ. Tuy thế, một số lượng lớn người dân Cameroon sống trong nghèo khổ với sinh kế là nông nghiệp. Kể từ năm 1982, quyền lực nằm chắc trong Tổng thống Paul Biya, và Đảng Phong trào Dân chủ Nhân dân Cameroon của ông. Các lãnh thổ nói tiếng Anh của Cameroon ngành cáng xa lánh chính phủ trung ương, và các chính trị gia từ các khu vực này đã yêu cầu về việc phân quyền lớn hơn hay thậm chí là ly khai. Lịch sử Lãnh thổ nay là Cameroon có người định cư đầu tiên từ thời đại đồ đá mới. Các cư dân sinh sống liên tục lâu nhất là các nhóm người như Baka (một nhóm người Pygmy). Từ đây, các cuộc di cư của người Bantu đến phía đông, phía nam, và trung bộ châu Phi được cho là bắt đầu khoảng 2.000 năm trước. Văn hóa Sao xuất hiện quanh hồ Tchad vào khoảng năm 500 CN và bị Kanem thay thế, quốc gia kế thừa của Kanem là Bornu. Các vương quốc, tù bang xuất hiện tại phía tây. Các thủy thủ người Bồ Đào Nha đến bờ biển khu vực vào năm 1472, họ nhận thấy có nhiều tôm ma Lepidophthalmus turneranus trên sông Wouri và đặt tên cho sông là (sông Tôm), tên gọi này trở thành Cameroon trong tiếng Anh. Trong vài thế kỷ sau, người châu Âu quan tâm đến mậu dịch chính quy hóa với các cư dân duyên hải, và các nhà truyền giáo Ki-tô mở rộng vào nội địa. Vào đầu thế kỷ XIX, Modibo Adama lãnh đạo các quân nhân người Fula trong một thánh chiến ở phía bắc chống lại các dân tộc phi Hồi giáo và cục bộ Hồi giáo và thiết lập nên Tù trưởng quốc Adamawa. Việc định cư những người chạy trốn quân Fula tạo ra một sự tái phân bổ nhân khẩu lớn. Phần phía bắc của Cameroon là một phần quan trọng trong mạng lưới buôn bán nô lệ. Đế quốc Đức tuyên bố chủ quyền đối với lãnh thổ với địa vị là thuộc địa Kamerun vào năm 1884 và bắt đầu thúc đẩy bình định vùng nội địa. Họ đề xướng các kế hoạch nhằm cải tiến cơ sở hạ tầng của thuộc địa, dựa trên một hệ thống lao động cưỡng bách khắc nghiệt. Với việc Đức chiến bại trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Kamerun trở thành một lãnh thổ ủy thác của Hội Quốc Liên, và được phân chia thành Cameroun thuộc Pháp và các lãnh thổ Cameroon thuộc Anh vào năm 1919. Pháp tích hợp kinh tế Cameroun vào kinh tế Pháp và cải tiến cơ sở hạ tầng với các đầu tư tư bản, công nhân lành nghề, và tiếp tục duy trì lao động cưỡng bách. Người Anh quản lý các lãnh thổ Cameroon của họ từ Nigeria, người địa phương than phiền rằng việc này khiến họ bị sao lãng khi là một "thuộc địa của một thuộc địa". Các công nhân nhập cư người Nigeria đổ xô đến Nam Cameroon, kết thúc tình trạng lao động cưỡng bách song khiến nhân dân bản địa giận dữ. Trách nhiệm ủy thác của Hội Quốc Liên được chuyển đổi sang trách nhiệm ủy trị của Liên Hợp Quốc vào năm 1946, và độc lập trở thành một vấn đề cấp bách tại Cameroun thuộc Pháp. Pháp cấm chính đảng cấp tiến nhất là Liên minh Nhân dân Cameroun (UPC), vào năm 1955. Hành động này thúc đẩy một cuộc chiến du kích kéo dài và vụ ám sát thủ lĩnh đảng là Ruben Um Nyobé. Tại các lãnh thổ Cameroon thuộc Anh, vấn đề là thống nhất với Cameroun thuộc Pháp hay gia nhập Nigeria. Ngày 1 tháng 1 năm 1960, Cameroun thuộc Pháp giành được độc lập từ Pháp, nằm dưới quyền Tổng thống Ahmadou Ahidjo. Đến ngày 1 tháng 10 năm 1961, Nam Cameroon thuộc Anh cũ hợp nhất với Cameroun thuộc Pháp cũ để hình thành Cộng hòa Liên bang Cameroon. Ahmadou Ahidjo sử dụng cuộc chiến đang diễn ra với UPC để tập trung quyền lực về tổng thống, song điều này vẫn tiếp tục sau khi UPC bị đàn áp vào năm 1971. Ahmadou Ahidjo là thành viên của Liên minh Dân tộc Cameroon (CNU), tổ chức này trở thành chính đảng hợp pháp duy nhất vào ngày 1 tháng 10 năm 1966 và đến năm 1972, hệ thống chính phủ theo thể thức liên bang bị bãi bỏ để hình thành Cộng hòa Thống nhất Cameroon, với thủ đô là Yaoundé. Ahmadou Ahidjo theo đuổi một chính sách kinh tế tự do chủ nghĩa kế hoạch, ưu tiên các cây trồng kinh tế và khai thác dầu mỏ. Chính phủ sử dụng lợi nhuận từ dầu mỏ để tạo nên dự trữ tiền mặt quốc gia, chi trả cho nông dân, và cung cấp tài chính cho các dự án lớn về phát triển; tuy nhiên, nhiều sáng kiến thất bại do Ahmadou Ahidjo bổ nhiệm các đồng minh không đủ trình độ của ông làm người chỉ đạo chúng. Ahmadou Ahidjo từ chức vào ngày 4 tháng 11 năm 1982 và giao lại quyền lực cho Paul Biya. Tuy nhiên, Ahmadou Ahidjo duy trì quyền kiểm soát CNU và cố gắng nhằm điều hành quốc gia trong hậu trường. Paul Biya và các đồng minh của người này sau đó buộc Ahmadou Ahidjo phải từ chức, Paul Biya bắt đầu thời kỳ quản lý quốc gia của mình với việc chuyển đổi hướng đến một chính phủ dân chủ hơn, song một đảo chính bất thành khiến ông lại hướng sang phong cách lãnh đạo của người tiền nhiệm. Một khủng hoảng kinh tế diễn ra tại Cameroon từ giữa thập niên 1980 đến cuối thập niên 1990, bắt nguồn từ tình hình kinh tế quốc tế, hạn hán, giá dầu thô suy giảm, và nhiều năm tham nhũng, quản lý yếu kém, và nhậm dụng thân tín. Cameroon chuyển sang nhận viện trợ nước ngoài, cắt giảm chi tiêu công, và tư hữu hóa công nghiệp. Tháng 12 năm 1990, Cameroon chuyển sang chính trị đa đảng, từ đó có các nhóm từ những khu vực Cameroon từng thuộc Anh đòi hỏi quyền tự trị lớn hơn, và Hội đồng Dân tộc Nam Cameroons thì chủ trương ly khai hoàn toàn để trở thành nước Cộng hòa Ambazonia. Địa lý Cameroon có tổng diện tích , là quốc gia rộng thứ 53 trên thế giới. Quốc gia này nằm ở vùng Trung Phi và Tây Phi, bên vũng Bonn thuộc vịnh Guinea và Đại Tây Dương. Tài liệu du lịch miêu tả Cameroon là "châu Phi thu nhỏ" vì nơi này có tất cả các khí hậu và hệ thực vật chính của lục địa: duyên hải, hoang mạc, núi, rừng mưa, và xa van. Các quốc gia lân cận là Nigeria ở phía tây; Tchad ở phía đông bắc; nước Cộng hòa Trung Phi ở phía đông; và Guinea Xích Đạo, Gabon, và nước Cộng hòa Congo ở phía nam. Cameroon được phân thành ba đới địa lý chính, phân biệt qua các đặc điểm về tự nhiên, khí hậu, và thực vật. Đồng bằng duyên hải trải rộng vào nội địa tính từ vịnh Guinea và có cao độ trung bình là . Dải đồng bằng này rất nóng và ẩm và có một mùa khô ngắn, có mật độ rừng dày đặc và có một số trong số những nơi ẩm nhất trên Trái Đất, và là một phần của vùng rừng duyên hải Cross-Sanaga-Bioko. Đồng bằng Nam Cameroon nổi lên từ đồng bằng duyên hải đến cao độ bình quân . Rừng mưa Xích Đạo chiếm ưu thế tại khu vực này, song do có mùa mưa và mùa khô luân phiên nên khu vực này kém ẩm hơn vùng duyên hải. Khu vực này là một phần của vùng sinh thái rừng duyên hải Xích Đạo Đại Tây Dương. Mỗi chuỗi các núi, đồi, và cao nguyên không đều được gọi là dãy Cameroon kéo dài từ núi Cameroon (đỉnh cao nhất tại Cameroon với cao độ ) gần đến hồ Tchad tại biên giới bắc bộ của Cameroon. Khu vực này có khí hậu ôn hòa, đặc biệt tại Cao nguyên Tây bộ, song có lượng mưa lớn. Đất đai của khu vực này thuộc vào hàng phỉ nhiêu nhất tại Cameroon, đặc biệt là quanh núi lửa Cameroon. Các hiện tượng núi lửa tạo ra hồ miệng núi lửa, một trong số đó là hồ Nyos từng phun ra Cacbon dioxide và khiến từ 1.700 đến 2.000 người thiệt mạng vào năm 1986. Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên mô tả khu vực này là vùng sinh rái rừng cao địa Cameroon. Cao nguyên nam bộ nổi lên về phía bắc cho đến cao nguyên Adamawa đầy cỏ và gồ ghề. Đặc điểm này trải dài từ vùng núi tây bộ và tạo thành một rào chắn giữa bắc và nam Cameroon. Cao độ trung bình là , và nhiệt độ trung bình dao động từ đến và có mưa nhiều từ tháng 4 đến tháng 10 với cao điểm là tháng 7 và tháng 8. Vùng đất thấp bắc bộ kéo dài từ rìa của Adamawa đến hồ Tchad với cao độ trung bình là . Thực vật đặc trưng của khu vực là cây bụi xa van và đồng cỏ. Đây là khu vực khô hạn với mưa rải rác và nhiệt độ trung bình ở mức cao. Cameroon có bốn lưu vực: Tại phía nam, các sông chính là Ntem, Nyong, Sanaga, và Wouri, chúng chảy theo hướng tây nam hoặc theo hướng tây và đổ trực tiếp vào vịnh Guinea. Sông Dja và Kadéï chảy theo hướng đông nam rồi hợp lưu với sông Congo. Tại bắc bộ Cameroon, sông Bénoué River chảy theo hướng bắc và tây rồi hợp lưu với sông Niger. Sông Logon chảy theo hướng bắc và đổ vào hồ Tchad, hồ này được phân chia giữa Cameroon và ba quốc gia khác. Chính trị và chính phủ Tổng thống Cameroon có quyền lực rộng, đơn phương trong việc hoạch định chính sách, quản lý các cơ quan chính phủ, chỉ huy các lực lượng vũ trang, đàm phán và ký kết các hiệp định, và tuyên bố tình trạng khẩn cấp. Tổng thống bổ nhiệm các quan chức chính phủ ở mọi cấp, từ thủ tướng đến người đứng đầu các đơn vị hành chính cấp dưới. Tổng thống được bầu theo thể thức phổ thông đầu phiếu cho mỗi nhiệm kỳ bảy năm. Hệ thống tư pháp của Cameroon dựa phần lớn vào dân luật Pháp và chịu các ảnh hưởng của thông luật. Bộ máy tư pháp độc lập trên danh nghĩa, song nằm dưới quyền uy của Bộ Tư pháp thuộc nhánh hành pháp. Tổng thống bổ nhiệm các thẩm phán ở mọi cấp. Bộ máy tư pháp về chính thức được phân thành tòa án sơ thẩm, tòa án thượng tố, và tòa án tối cao. Quốc hội bầu ra chín thành viên của Tòa án Công lý cao đẳng, Tòa án này xét xử các thành viên cấp cao trong chính phủ trong trường hợp họ bị buộc tội phản quốc hoặc gây tổn hại đến an ninh quốc gia. Quốc hội là cơ quan lập pháp, và gồm có 180 thành viên được bầu cho mỗi nhiệm kỳ 5 năm, họp ba lần mỗi năm. Các đạo luật được thông qua theo nguyên tắc đa số phiếu, hiếm khi quốc hội thay đổi hoặc chặn các dự luật do tổng thống đệ trình. Hiến pháp năm 1996 thiết lập Tham nghị viện gồm 100 ghế, cơ quan này được thành lập chính thức vào tháng 4 năm 2013, theo hiến pháp thì chủ tịch tham nghị viện là người kế vị tổng thống trong trường hợp chức vụ này bị khuyết. Chính phủ công nhận quyền uy của các tù trưởng trong việc cai quản ở cấp địa phương và giải quyết tranh chấp, miễn là những sự cai trị này không xung đột với luật pháp quốc gia. Phong trào Dân chủ Nhân dân Cameroon (CPDM) là chính đảng hợp pháp duy nhất cho đến tháng 12 năm 1990, sau đó một số phe nhóm chính trị cấp địa phương được hình thành. Tổ chức đối lập chính là Mặt trận Xã hội Dân chủ (SDF), căn cứ của nhóm này phần lớn nằm tại khu vực Anh ngữ của quốc gia và John Fru Ndi giữ chức chủ tịch từ năm 1990. Paul Biya và CPDM của ông duy trì quyền kiểm soát đối với chức vụ tổng thống và quốc hội thông qua các cuộc bầu cử, song các đối thủ cho rằng các cuộc bầu cử này không công bằng. Các tổ chức nhân quyền cáo buộc rằng chính phủ Cameroon đàn phán các quyền tự do của các nhóm đối lập bằng cách ngăn cản biểu tình, làm gián đoạn các cuộc họp, và bắt giữ các lãnh đạo và ký giả đối lập. Cameroon là thành viên của cả Thịnh vượng chung các quốc gia và Cộng đồng Pháp ngữ. Chính sách ngoại giao của quốc gia là gắn chặt với đồng minh chính là Pháp. Cameroon phụ thuộc nhiều vào Pháp về quốc phòng, song chi tiêu quân sự của quốc gia này ở mức cao so với chi tiêu trong các lĩnh vực khác. Hành chính Hiến pháp phân chia Cameroon thành 10 vùng bán tự trị, mỗi vùng nắm dưới quyền quản lý của một hội đồng khu vực được bầu lên. Một sắc lệnh tổng thống vào ngày 12 tháng 11 năm 2008 chính thức bắt đầu việc chuyển từ tỉnh (province) sang vùng. Đứng đầu mỗi vùng là một thống đóc do tổng thổng bổ nhiệm. Các lãnh đạo này có bổn phận thi hành ý định của tổng thống, báo cáo tình hình và điều kiện chung của vùng, quản lý công vụ, duy trì hòa bình, và giám sát người đứng đầu của các đơn vị hành chính nhỏ hơn. Thống đốc có quyền hạn rộng lớn: họ có thể ra lệnh tuyên truyền trong địa bàn của họ và triệu tập quân đội, hiến binh, và cảnh sát. Toàn bộ quan chức chính phủ địa phương là nhân viên của Bộ Quản lý lãnh thổ của chính phủ trung ương, chính phủ địa phương cũng nhận được hầu hết ngân sách của họ từ bộ này. Các vùng được chia thành 58 tỉnh (French ). Đứng đầu mỗi tỉnh là tỉnh trưởng () do tổng thống bổ nhiệm. Các tỉnh được chia tiếp thành các phân vùng (), đứng đầu là phó tỉnh trưởng (). Các huyện trưởng () là người đứng đầu các huyện, đây là đơn vị hành chính nhỏ nhất. Ba vùng ở viễn bắc là Viễn Bắc (), Bắc (), và Adamawa (). Thẳng phía nam của chúng là Trung () và Đông (). Nam () nằm ven vịnh Guinea và biên giới phía nam. Khu vực tây bộ của Cameroon được phân chia giữa bốn vùng nhỏ hơn: Littoral và Tây Nam () nằm ven biển, và các vùng Tây Bắc () cùng Tây () nằm trên thảo nguyên tây bộ. Kinh tế Trong một phần tư thế kỷ sau khi giành lại độc lập, Cameroon là một trong những nước đông dân nhất tại châu Phi. Sự hạ giá các mặt hàng xuất khẩu chính của nước này — dầu mỏ, dừa, cà phê, và bông — ở giữa thập niên 1980, cộng với một đồng tiền tệ được đánh giá quá cao, tham nhũng tràn lan cũng như quản lý kinh tế kém cỏi đã dẫn tới sự giảm phát kéo dài một thập kỷ. GDP thực trên đầu người giảm hơn 60% trong giai đoạn 1986 tới 1994. Tiền gửi, thâm hụt tài chính cũng như nợ nước ngoài tăng cao. Tuy vậy nhờ nguồn tài nguyên dầu mỏ và các điều kiện thuận lợi cho nông nghiệp, Cameroon vẫn là một trong những nền kinh tế tốt nhất vùng Hạ Saharan châu Phi. Như trường hợp nhiều nước đang phát triển khác, quá trình đô thị hóa nhanh chóng đã tạo ra sức ép lên nền kinh tế. Hoạt động kinh tế lớn nhất tại Cameroon vẫn là nông nghiệp. Nhiều trở ngại khác đang cản trở sự phát triển của Cameroon; mức độ quan liêu cao, hạ tầng cơ sở kém cỏi, tham nhũng ăn sâu. Gần đây, chính phủ đã tuyên bố đang nỗ lực tiêu diệt tham nhũng và tạo ra môi trường kinh doanh minh bạch hơn. Nhân khẩu Dân cư Cameroon được ước tính gồm 250 sắc tộc riêng biệt, có thể chia thành năm vùng văn hóa chính: dân cư cao nguyên phía tây (Bán-Bantu hay dân sống trên đồng cỏ), gồm người Bamileke, Bamun (hay Bamoun), và các nhóm Tikar nhỏ hơn khác ở phía tây bắc (ước tính 38% tổng dân số); dân cư vùng rừng nhiệt đới ven biển, gồm người Bassa, Duala (hay Douala), và nhiều nhóm nhỏ hơn khác ở phía tây nam (12%); dân cư vùng rừng nhiệt đới phía nam, gồm Beti-Pahuin, Bulu (một phụ nhánh của Beti-Pahuin), Fang (phụ nhánh của Beti-Pahuin), Maka, Njem, và các nhóm người pygmy Baka (18%); đa số dân Hồi giáo vùng bán khô cằn phía bắc (Sahel) và cao nguyên trung tâm, gồm Fulani (hay Peuhl trong tiếng Pháp) (14%); và "Kirdi", người không Hồi giáo hay mới theo Hồi giáo ở xa mạc phía bắc và cao nguyên trung tâm (18%). Tôn giáo Cameroon là nước đa dạng tôn giáo và hiến pháp nước này đảm bảo sự tự do tôn giáo của người dân. Tôn giáo chủ yếu của Cameroon chủ yếu là Kitô giáo, được thực hành bởi khoảng 2/3 dân số, trong khi Hồi giáo là một tôn giáo thiểu số, chiếm khoảng 1/5 dân số. Ngoài ra, tín ngưỡng truyền thống bản địa cũng được nhiều người dân thực hiện. Người Hồi giáo tập trung nhiều nhất ở miền Bắc, trong khi các Kitô hữu tập trung chủ yếu ở khu vực phía nam và phía tây, tuy nhiên tín đồ của hai tôn giáo này cũng có thể được tìm thấy trên khắp đất nước. Hầu hết các thành phố lớn đều có tín đồ của hai tôn giáo này. Người dân ở phía Tây Bắc và các tỉnh miền Tây Nam phần lớn là Tin Lành, và các vùng nói tiếng Pháp của khu vực phía nam và phía tây chủ yếu là Công giáo Rôma. các dân tộc miền Nam chủ yếu theo tín ngưỡng vật linh Phi Kitô giáo hoặc truyền thống, hoặc một sự kết hợp giữa tín ngưỡng bản địa và Kitô giáo. Ở miền Bắc, nơi người Fulani là dân tộc chiếm ưu thế chủ yếu theo Hồi giáo, nhưng tổng dân số là khá đồng đều phân chia giữa người Hồi giáo, Thiên chúa giáo và những người theo tín ngưỡng tôn giáo bản địa (gọi là Kirdi ("ngoại đạo") của Fulani). Người Bamum của khu vực Tây phần lớn là Hồi giáo. Tôn giáo truyền thống bản địa được thực hành ở các vùng nông thôn trong cả nước nhưng hiếm khi được thực hành công khai ở các thành phố. Người Hồi giáo chiếm khoảng 24% trong tổng số 21 triệu dân của Cameroon. Khoảng 27% trong số đó tự nhận mình là người Hồi giáo Sunni và 3% là người Hồi giáo Shia, trong khi phần lớn số tín đồ còn lại không liên kết mình với một giáo phái nào cụ thể. Người Fulani, một nhóm dân tộc du mục, đã truyền bá Hồi giáo vào Cameroon đầu thế kỷ XIX chủ yếu thông qua hoạt động thương mại. Ở các tỉnh phía Bắc, nơi người Fulani chiếm ưu thế tôn giáo áp đảo là Hồi giáo. Các dân tộc khác, được gọi chung là Kirdi, thường thực hành một số hình thức của đạo Hồi. Các tộc người Bamoun ở các tỉnh phía Tây cũng phần lớn là người Hồi giáo. Ước tính có khoảng 4,25 triệu người Công giáo Rôma được rửa tội tại Cộng hòa Cameroon, chiếm 26% dân số. Cả nước có 24 giáo phận, 1.350 linh mục và 2.600 tu sĩ nam nữ trong các dòng tu. Enoch Olinga, người Uganda là người đầu tiên đưa đạo Bahá'í đến nước này năm 1953. Năm 2003, ước tính có khoảng 40.000 tín đồ của đạo Bahá'í ở Cameroon và đã tăng lên 50.800 người trong năm 2005. Văn hóa Người Kirdi và người Matakam ở các vùng núi phía tây sản xuất ra các loại đồ gốm riêng biệt. Các mặt nạ có nhiều uy quyền của Bali, theo hình dạng đầu voi, thường được sử dụng trong những dịp tang lễ và các bức tượng Bamileke nhỏ được tạc có mặt người hay động vất. Người Tikar nổi tiếng vì có những chiếc tẩu trang trí rất đẹp, người Ngoutou nổi tiếng về các mặt nạ hai mặt và người Bamum về các mặt nạ cười. Viện châu Phi Đen của Pháp có một thư viện tại Douala chuyên ngành xã hội học, dân tộc học và Lịch sử châu Phi. Trong số nhiều bảo tàng, Bảo tàng Diamare và Maroua có nhiều bộ sưu tập nhân loại học liên quan tới những người Sudan và Bảo tàng Cameroon tại Douala có trưng bày nhiều đồ vật tiền sử và lịch sử tự nhiên. Các tổ chức văn hóa gồm Hiệp hội Văn hóa Cameroun, Tổ chức Xã hội Cameroun, và Trung tâm Văn hóa và Ngôn ngữ. Ngoài ra cũng có nhiều hiệp hội phụ nữ (gồm Hiệp hội phụ nữ Tây bắc vì sự phát triển nông thôn), các tổ chức thanh niên và tổ chức thể thao. Không giống như các tổ chức phụ nữ mới được các cơ quan phát triển phương Tây thành lập gần đây ở các nơi như Trung Á, các hiệp hội phụ nữ Tây Phi đã có một lịch sử phát triển lâu dài. Ở nước Cameroon hiện nay, chúng thường được đăng ký như những Nhóm Cộng đồng Sáng kiến hay CIG's, vì thế chúng tiếp tục truyền thống đoàn kết phụ nữ để hỗ trợ tình cảm và kinh tế lẫn nhau. Dù các nhóm đó dựa trên cơ sở phụ nữ giải quyết vấn đề của phụ nữ (như chăm sóc trẻ em, làm ruộng/tích trữ lương thực gia đình, công bằng xã hội vân vân) chúng không phải là độc quyền của phụ nữ và trẻ em cũng như đàn ông đều có thể gia nhập. Ngoài ra, những ngày nghỉ lễ khác gồm: Thiên chúa giáo: Thứ sáu rộng lượng, Chủ nhật Phục sinh và Thứ hai Phục sinh Hồi giáo: 'Id al-Fitr và 'Id al-Adha
Comoros ( , , phát âm tiếng Việt: Cô-mô-rốt, Cô-mô-rô hoặc Cô-mo), tên đầy đủ là Liên bang Comoros (tiếng Pháp: Union des Comores; tiếng Comoros: Udzima wa Komori; , ) là một quốc đảo ở châu Phi, nằm giữa eo biển Mozambique trên Ấn Độ Dương. Đây là quốc gia có diện tích nhỏ thứ tư châu Phi. Thủ đô và thành phố lớn nhất của Comoros là Moroni. Comoros là thành viên của Liên Hợp Quốc, Liên minh châu Phi, Tổ chức Hợp tác Hồi giáo, Cộng đồng Pháp ngữ, và là thành viên duy nhất của Liên đoàn Ả Rập nằm ở Nam Bán cầu. Lịch sử Trước khi thực dân xâm lăng Những cư dân trên quần đảo này đến từ châu Phi, Madagascar và vịnh Ba Tư, phần lớn là người Hồi giáo. Người Bồ Đào Nha khám phá ra quần đảo này năm 1503 và người Pháp đến đây năm 1517. Thực dân Pháp và tiếp xúc châu Âu Pháp lập chế độ bảo hộ từ năm 1886, Comoros trở thành vùng lãnh thổ hải ngoại của Pháp từ năm 1958. Comoros Độc lập đến nay Comoros tuyên bố độc lập ngày 6 tháng 7 năm 1975, riêng đảo Mayotte tuyên bố ở lại trong Cộng hòa Pháp trong cuộc trưng cầu ý dân năm 1976. Ahmed Abdallah được bầu làm Tổng thống tháng 7 năm 1975, bị một ủy ban cách mạng do Ali Soilih lãnh dạo truất phế tháng 8 năm 1975. Đến lượt Soilih bị cựu Tổng thống Abdallah lật đổ với sự giúp đỡ của lính đánh thuê nước ngoài tháng 5 năm 1978 và quần đảo lấy tên là Cộng hòa Liên bang Hồi giáo Comoros. Tháng 11 năm 1989, Tổng thống Abdallah lại bị chính quân lính đánh thuê ám sát và Said M. Djohar lên thay thế năm 1990. Sau nhiều tháng phản đối và xung đột với lực lượng an ninh, đảo Anjouan (Ndzouani) tuyên bố độc lập ngày 3 tháng 8 năm 1997. Tháng 7-1997, lực lượng của Tổng thống Mohamed Taki cố gắng chiếm lại đảo Anjouan nhưng thất bại. Taki tuyên bố tình trạng khẩn cấp. Các cuộc đàm phán hòa bình đầu năm 1999 giữa đại diện của đảo Anjouan và Chính phủ không mang lại kết quả nào. Tháng 4 năm 1999, Đại tá Trali Assoumani cầm đầu cuộc đảo chính lật đổ quyền Tổng thống Tadjidine, Đảo Anjouan tiếp tục cuộc đấu tranh chống lại Chính phủ ở đảo Qomor Lớn trong cả năm 1999. Tháng 3 năm 2000, Tổ chức Thống nhất châu Phi (OAU) cắt đứt liên lạc với Anjouan nhằm chấm dứt cuộc nổi dậy. OAU yêu cầu Tổng thống Assoumani áp đặt lệnh cấm vận thương mại và trao trả quyền lại cho giới dân sự tại Comoros. Tháng 2 năm 2001, Tổng thống ký một hiệp ước hòa giải với các nhà lãnh đạo chính trị ở ba đảo, kể cả nhà lãnh đạo nhóm li khai của đảo Anjouan, Đại tá Said Abeid. Tháng 3 năm 2002, một hiến pháp mới được thông qua, ba đảo được thống nhất lại. Mỗi đảo bầu một Tổng thống riêng và Assoumani được bầu làm Tổng thống liên bang. Địa lý Comoros nằm ở Đông Phi, gồm ba đảo núi lửa (Ngazidja, Moili và Ndzouani) ở Ấn Độ Dương nằm về phía Tây Bắc Madagascar. Địa hình chủ yếu là các cao nguyên đất bazan thoải dần về phía các dải đồng bằng hẹp ven biển. Với diện tích 2.235 km2, đảo quốc này là một trong những quốc gia nhỏ nhất trên thế giới. Comoros cũng cóyêu cầu bồi thường 320 km2 lãnh hải đối với các nước láng giềng. Khí hậu nhiệt đới với hai mùa phân biệt tương đối rõ rệt. Nhiệt độ đạt trung bình 29-30 °C (84-86 °F) trong tháng 3, tháng nóng nhất trong mùa mưa (gọi là kashkazi) là tháng 12, và nhiệt đọ thấp nhất là 19 °C (66 °F) trong mùa lạnh, mùa khô gọi là Kusi, bắt đầu từ tháng năm đến tháng mười một. Chính trị Chính trị của Comoros diễn ra trong khuôn khổ của một nước cộng hòa tổng thống liên bang, theo đó Tổng thống Comoros là nguyên thủ quốc gia và là người đứng đầu chính phủ, và một hệ thống chính trị đa đảng. Hiến pháp của Comoros đã được phê duyệt bởi cuộc trưng cầu dân ý ngày 23 tháng 12 năm 2001. Nước này trước đây đã được coi là một chế độ độc tài quân sự, và sự chuyển giao quyền lực từ tướng Azali Assoumani sang Tổng thống Ahmed Mohamed Abdallah Sambi vào tháng 5 năm 2006 là cuộc chuyển giao quyền lực hòa bình đầu tiên trong lịch sử Comoros. Quyền hành pháp thuộc chính phủ. Quyền lập pháp liên bang được trao cho cả chính phủ và quốc hội. Lời nói đầu của Hiến pháp bảo đảm Hồi giáo có mặt trong chính trị cũng như cam kết về nhân quyền, và một số quyền được liệt kê cụ thể trong đó có dân chủ được áp dụng cho tất cả người dân Comoros. Các đảo (theo Tiêu đề II của Hiến pháp) có quyền tự trị lớn trong liên bang, bao gồm có hiến pháp riêng của họ (hoặc Luật cơ bản), có chủ tịch và Quốc hội riêng. Tổng thống và Hội đồng Liên bang được giao xoay vòng giữ người đứng đầu chính phủ các đảo. Hệ thống pháp luật Comoros dựa trên luật Hồi giáo. Già làng, kadis hoặc tòa án dân sự giải quyết hầu hết các tranh chấp. Cơ quan tư pháp độc lập với cơ quan lập pháp và hành pháp. Tòa án tối cao hoạt động như một Hội đồng Hiến pháp trong việc giải quyết vấn đề hiến pháp và giám sát cuộc bầu cử tổng thống. Quân đội Quân đội Comoros bao gồm một đội quân nhỏ và một lực lượng cảnh sát 500 thành viên, cũng như một lực lượng quốc phòng 500 thành viên. Một hiệp ước quốc phòng với Pháp cung cấp các nguồn lực hải quân để bảo vệ các vùng lãnh hải, đào tạo cán bộ quân sự Comoros, và giám sát không phận. Pháp duy trì vài cán bộ cao cấp có mặt tại Quốc đảo Comoros theo yêu cầu của chính phủ nước này. Pháp duy trì một cơ sở hàng hải nhỏ nằm trên Mayotte. Quan hệ với nước ngoài Trong tháng 11 năm 1975, Comoros trở thành thành viên 143 của Liên Hợp Quốc. Comoros cũng là thành viên của Liên minh châu Phi, Liên đoàn Ả Rập, Quỹ Phát triển châu Âu, Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ủy ban Ấn Độ Dương, và Ngân hàng Phát triển châu Phi. Vào ngày 10 tháng 4 năm 2008, Comoros trở thành quốc gia thứ 179 chấp nhận Nghị định thư Kyoto. Quốc đảo này lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam ngày 24 tháng 9 năm 2015. Kinh tế Kinh tế dựa trên hai lãnh vực chính: nông nghiệp trồng cây lương thực (lúa, sắn), cây công nghiệp (cà phê, dừa, vani, đinh hương và một số cây cho tinh dầu) và mậu dịch đường biển. Du lịch ít phát triển. Comoros là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới. Đất đai cằn cỗi và bị xói mòn. Tỉ lệ tăng dân số cao, nguồn tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn. Trình độ học vấn của lực lượng lao động thấp, tình trạng thất nghiệp cao, phụ thuộc nhiều vào sự tài trợ của nước ngoài. Hiện nay Chính phủ ra sức nâng cao trình độ giáo dục và huấn luyện kĩ thuật, tiến hành tư nhân hóa các xí nghiệp thương mại và công nghiệp, cải thiện hệ thống y tế, đa dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu, khuyến khích phát triền ngành du lịch và giảm tỉ lệ tăng dân số. Dân số Dân số nước này chưa đến một triệu người, Comoros là một trong những quốc gia ít dân nhất trên thế giới, nhưng cũng là một trong những nước có mật độ dân số cao nhất, với trung bình 275 người trên mỗi km vuông. Trong năm 2001, 34% dân số được sống ở là đô thị, nhưng được dự kiến ​​sẽ tăng, trong khi mức tăng dân số vẫn còn tương đối cao. Gần một nửa dân số của Quốc đảo Comoros ở độ tuổi dưới 15 và sống tập trung tại các trung tâm đô thị lớn bao gồm Moroni, Mutsamudu, Domoni, Fomboni, và Tsémbéhou. Có từ 200.000 và 350.000 người Comoros sống tại Pháp. Các đảo của Comoros có người dân chủ yếu là nguồn gốc châu Phi-Ả Rập. Hồi giáo Sunni là tôn giáo chiếm ưu thế, đại diện cho 98% dân số. Mặc dù văn hóa Ả Rập được thiết lập vững chắc trên khắp quần đảo, nhưng cũng có một thiểu số dân số của Mayotte, chủ yếu là người nhập cư từ Pháp, là người Công giáo La Mã. Người Malagasy (theo Cơ Đốc giáo) và Ấn Độ (chủ yếu là giáo phái Ismaili) là những dân tộc thiểu số. Người Trung Quốc cũng có mặt trên Mayotte và các bộ phận của Grande Comore (đặc biệt là Moroni). Ngôn ngữ phổ biến nhất trong Quốc đảo Comoros là tiếng Comorian hay còn gọi là Shikomor, một ngôn ngữ chịu ảnh hưởng từ tiếng Swahili và tiếng Ả Rập nặng, với bốn biến thể khác nhau (Shingazidja, Shimwali, Shinzwani, và Shimaore) được nói trên bốn hòn đảo chính tạo nên nước này. Tiếng Pháp và tiếng Ả Rập cũng là ngôn ngữ chính thức, cùng với Comorian. Tiếng Ả Rập được biết đến rộng rãi như một ngôn ngữ thứ hai, là ngôn ngữ giảng dạy kinh Coran. Tiếng Pháp là ngôn ngữ hành chính và ngôn ngữ của ngành giáo dục. Một số ngôn ngữ khác như tiếng Malagasy, Shibushi, được nói bởi khoảng một phần ba dân số của Mayotte. Khoảng 57% dân số biết chữ và viết được ngôn ngữ của mình bằng chữ cá Latinh trong khi hơn 90% biết đọc biết viết tiếng Ả Rập, tổng số biết đọc biết viết được ước tính là 62,5%. Comoros không có chữ viết bản địa, vì vậy chữ Ả Rập và chữ Latinh được sử dụng để ghi lại ngôn ngữ quốc gia. Giáo dục Hệ thống giáo dục của Comoros được tổ chức dựa theo mô hình của Pháp. Giáo dục tiểu học miễn phí, mỗi làng có một trường tiểu học. Tuy nhiên, chỉ khoảng 1/3 số trẻ em học xong tiểu học và một số ít học lên trung học. Comoros không có hệ thống đại học ngoài một số trường sư phạm. Y tế Chăm sóc y tế chưa được coi trọng. Ở thành phố và thị trấn cũng có các bệnh viện nhưng thiếu các phương tiện và thiết bị. Các bệnh dịch như sốt rét, tiêu chảy và các bệnh đường ruột khác khá phổ biến. Phương tiện truyền thông Có một tờ báo quốc gia của chính phủ là Al-Watwan, xuất bản ở Moroni. Đài phát thanh Quốc đảo Comoros là dịch vụ phát thanh quốc gia và truyền hình quốc gia Comoros là dịch vụ truyền hình chính.
Cộng hòa Congo (), cũng được gọi là Congo-Brazzaville hay đơn giản là Congo, là một quốc gia có chủ quyền nằm ở Trung Phi. Nó giáp ranh với năm quốc gia: Gabon và Đại Tây Dương về phía tây; Cameroon về phía tây bắc; Cộng hòa Trung Phi về phía đông bắc; Cộng hòa Dân chủ Congo về phía đông và nam; và tỉnh Cabinda thuộc Angola ở phía tây nam. Congo-Brazzaville từng là một phần của thuộc địa châu Phi Xích Đạo của Pháp. Sau khi giành được độc lập năm 1960, cựu thuộc địa Congo thuộc Pháp trở Cộng hòa Congo. Cộng hòa Nhân dân Congo là một nhà nước đơn đảng theo chủ nghĩa Marx-Lenin tồn tại từ 1970 tới 1991. Sau đó, các cuộc bầu cử đa đảng đã được tổ chức từ năm 1992, dù chính quyền dân cử đã bị trục xuất năm 1997 trong cuộc Nội chiến Cộng hòa Congo và Denis Sassou Nguesso đã giữ chức tổng thống từ năm đó. Lịch sử Thời kỳ tiền thuộc địa Những nhóm người Bantu đã lập nên các bộ lạc tại khu vực này từ 1500 trước công nguyên. Nhiều vương quốc Bantu—đáng chú ý là đế quốc Kongo, vương quốc Loango, và vương quốc Anziku (Teke)—đã xây dựng những còn đường thương mại dẫn vào vùng lưu vực sông Congo. Nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha Diogo Cão đến cửa sông Congo năm 1484. Mối quan hệ thương mại nhanh chóng phát triển giữa các vương quốc Bantu trong nội địa và các nhà buôn châu Âu, trao đổi nhau nhiều loại hàng hóa, sản phẩm và cả nô lệ. Sau nhiều thế kỷ làm trung tâm giao thương lớn, thực dân châu Âu bắt đầu biến vùng lưu vực sông Congo thành thuộc địa của mình vào cuối thế kỷ XIX. Năm 1910, Congo bị sáp nhập vào thuộc địa châu Phi Xích đạo thuộc Pháp và Brazzaville trở thành thủ đô. Việc lạm dụng sức lao động của những người làm công dẫn đến sự phản đối công khai chống lại thực dân Pháp. Năm 1956, tu sĩ Fulbert Youlou thành lập Liên minh dân chủ bảo vệ quyền lợi châu Phi. Năm 1960, Cộng hòa Congo, còn gọi là "Congo-Brazzaville" tuyên bố độc lập. Tu sĩ F. Youlou trở thành Tổng thống và từ chức sau cuộc nổi dậy của nhân dân năm 1963. Alphonse Massamba Débat lên nắm quyền. Năm 1968, Marien Ngouabi tiến hành cuộc đảo chính quân sự và tuyên bố nền Cộng hòa nhân dân (1970). Năm 1977, M. Ngouabi bị ám sát và Denis Sassou Nguesso trở thành Tổng thống (1979). Từ năm 1990, thể chế đa đảng được thông qua. Năm 1992, lãnh đạo đảng Dân chủ đối lập, Pascal Lissouba, đắc cứ Tổng thống. Tháng 6 năm 1997, xảy ra các cuộc xung đột đẫm máu giữa phe ủng hộ cựu Tổng thống S. Nguesso và phe ủng hộ Tổng thống đương nhiệm P. Lissouba. Sau khi đánh bại Tổng thống Lissouba, S. Nguesso tuyên bố trở thành Tổng thống. Tuy nhiên, các cuộc xung đột tiếp tục xâu xé đất nước. Cuối năm 1999, một hiệp định hòa bình được ký kết giữa Sasou Nguesso và nhóm nổi dậy ở miền Nam. Tình trạng thời kì hậu chiến cũng không kém phần bi đát: căn bệnh buồn ngủ và một số bệnh dịch khác tràn lan khắp đất nước. Tháng 3 năm 2002, Tổng thống Denis Sassou Ngueso tái đắc cử với 89,4% số phiếu. Các đối thủ của ông hoặc bị ngăn chặn không thể về nước hoặc rút lui khỏi cuộc bầu cử. Quân đội nổi dậy tiếp tục các cuộc chiến chống lại lực lượng Chính phủ. Điều này đã dẫn đến chiến tranh Pool vòa năm 2016. Chính trị Congo-Brazzaville theo thể chế chính trị đa đảng từ đầu thập niên 1990, mặc dù vậy tổng thống Denis Sassou Nguesso vẫn nắm trong tay rất nhiều quyền lực và gần như không có đối thủ trong các cuộc bầu cử. Địa lý Quốc gia ở Trung Phi, Bắc giáp Cameroon và Cộng hòa Trung Phi, Nam và Đông giáp Cộng hòa Dân chủ Congo, Tây giáp Gabon, Tây Nam giáp Angola và Đại Tây Dương. Ngoại trừ dải đồng bằng hẹp ven biển, địa hình phần lớn là cao nguyên và đồi. Sông Oubangi và sông Congo tạo thành biên giới tự nhiên với Cộng hòa Dân chủ Congo. Vùng rừng rậm bao phủ ở phía Bắc đường xích đạo và chuyển dần thành các đồng cỏ ở vùng nhiệt đới phía Nam. Kinh tế Cuối những năm 1970, Congo tìm ra dầu lửa. Năm 1987 khai thác 6,3 triệu tấn, chiếm 60% thu nhập quốc dân và hơn 85% thu nhập xuất khẩu. Nền kinh tế Cộng hoà Congo pha trộn giữa nông nghiệp làng xã và các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp; khu vực công nghiệp chủ yếu dựa vào dầu mỏ, trụ cột của nền kinh tế, cung cấp nguồn thu và nguồn xuất khẩu chủ yếu cho chính phủ. Sau cuộc nội chiến, tháng 10 năm 1997, chính phủ đã công khai thể hiện mối quan tâm của mình trong việc tiếp tục đẩy mạnh cải cách kinh tế, tư nhân hoá và đổi mới sự hợp tác với các tổ chức tài chính quốc tế. Nhưng những tiến bộ của nền kinh tế đã nhanh chóng bị ảnh hưởng bởi biến động của giá dầu và những cuộc xung đột vũ trang trong nước vào tháng 12 năm 1998 và gây ra sự thâm hụt ngân sách nghiêm trọng và gây khó khăn cho nền kinh tế. Nhưng việc giá dầu hồi phục trong thời gian gần đây đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, năm 2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước này đạt 10,5%. Trong khi đó tỷ lệ lạm phát giữ ở mức độ ổn định, khoảng 5,2%. Năm 2010, GDP của Congo đạt 11,88 tỷ USD, GDP bình quân đầu người đạt 3000 USD/người/năm. Tuy nhiên, phân phối thu nhập là không đồng đều chỉ tập trung vào một nhóm người và phần đông dân số vẫn sống dưới mức nghèo khổ. Nông nghiệp chỉ đóng góp vào 4,4% GDP. Các nông sản chủ yếu là: gạo, đường, ngô, rau, cà phê, ca cao, sắn, đậu phộng, lâm sản. Công nghiệp của Congo đóng góp vào 63,7% GDP của nước này. Công nghiệp dựa chủ yếu vào dầu mỏ với sản lượng 274,4 nghìn thùng/ngày (năm 2009). Ngoài ra còn có các ngành công nghiệp khác như xi măng, xà phòng, công nghiệp làm gỗ, thuốc lá… Về ngoại thương, năm 2010, Congo xuất khẩu 9,2 tỷ USD. Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là dầu mỏ, xi măng, gỗ xẻ, gỗ dán, đường, ca cao, cà phê, kim cương. Các bạn hàng xuất khẩu của Congo là Mỹ (23%), Belarus(14%), Đức, Ý, Đài Loan, Trung Quốc. Năm 2010, Congo nhập khẩu khoảng 3,6 tỷ USD, trong đó các mặt hàng mà nước này nhập nhiều là trang thiết bị, vật liệu xây dựng và lương thực. Các bạn hàng nhập khẩu của Congo là Pháp, Mỹ, Đức, Trung Quốc và Hà Lan. Cơ cấu kinh tế: nông nghiệp 10%, công nghiệp 48%, dịch vụ 42%. Congo phải nhập phần lớn lương thực. Hiện nay kinh tế Congo đang suy thoái nghiêm trọng do hậu quả của nội chiến. Từ sau khi xảy ra xung đột tháng 5 năm 1997, cơ sở vật chất bị tàn phá nặng nề, tài chính kệt quệ, hệ thống giáo dục, y tế xuống cấp nghiêm trọng, thất nghiệp tăng nhanh. Xuất nhập khẩu: năm 2007, Congo xuất khẩu dầu lửa (chiếm 50%), gỗ, gỗ dán, đường, dừa, cà phê, kim cương chủ yếu sang các nước: Mỹ (35,9%), Trung Quốc (31,4%), Đài Loan(9,9%), Hàn Quốc (8%); nhập sản phẩm dầu lửa, thiết bị, vật liệu xây dựng và thực phẩm chủ yếu từ Pháp (23%), Trung Quốc (13,2%), Mỹ (7,6%), Ấn Độ(7%). Ngành nông nghiệp trồng trọt cây lương thực là cơ sở của nền kinh tế. Dầu mỏ là sản phẩm xuất khẩu chính và đóng góp 60% vào ngân sách quốc gia. Ngành đánh bắt cá biển và khai thác gỗ cũng mang lại nguồn lợi đáng kể. Brazzaville và Pointe-Noire là hai trung tâm kinh tế chính của Cộng hòa Congo. Tình trạng nợ nước ngoài chồng chất, Chính phủ thực hiện các biện pháp tự do hóa nhằm khôi phục lại đầu tư của khu vực tư nhân. Cộng hòa Congo là một trong những quốc gia có diện tích rừng lớn nhất tại châu Phi (ước khoảng 25 triệu ha rừng), do đó quốc gia Trung Phi này đang tìm kiếm đầu tư của các công ty nước ngoài vào ngành công nghiệp sản xuất, chế biến gỗ - lĩnh vực kinh tế quan trọng chỉ đứng thứ hai sau dầu mỏ. Với 250 triệu ha rừng trong đó 57% nằm ở CH Dân chủ Congo và 10% thuộc CH Congo (hay Congo Brazzaville), khu vực lưu vực sông Congo là lá phổi sinh học lớn thứ hai thế giới sau vùng rừng Amazone. Lưu vực này bao trùm lên lãnh thổ của các nước Angola, Burundi, Cameroun, Congo-Brazzaville, Gabon, Guinea Xích đạo, Cộng hòa Trung Phi, CH Tchad, Cộng hòa Dân chủ Congo]], Rwanda và São Tomé và Principe. So với các khu vực rừng nhiệt đới khác, rừng ở lưu vực sông Congo còn tương đối nguyên vẹn. Tuy nhiên, nếu tình trạng phá rừng còn tiếp tục diễn ra với nhịp độ như hiện nay (30.000-40.000ha/năm) thì những khu rừng ở đây sẽ bị phá hủy giống như tại khu vực Đông và Tây Nam Á. Trong một nghiên cứu mới đây của Tổ chức Nông Lương Liên hiệp quốc (FAO) về tình trạng tài nguyên rừng thế giới, năm 2011, khu vực Trung Phi chiếm 37% tổng diện tích rừng trên Trái Đất. Tại CH Congo, rừng bao phủ 25 triệu ha, tương đương khoảng 70% lãnh thổ quốc gia. Đây là nước có diện tích rừng lớn thứ hai ở châu Phi sau Cộng hòa Dân chủ Congo. Ngoài rừng tự nhiên, Congo còn trồng mới 86.000 ha chủ yếu là bạch đàn (73.000 ha), limba (7.500 ha), thông (4.500 ha), các loại cây khác (1000 ha). Tiềm năng khai thác gỗ ước đạt 2 triệu m3/năm, tuy nhiên nước này chưa bao giờ đạt sản lượng trên con số 850.000 m3. Những cây gỗ chính gồm có cây trám hồng, gỗ tếch, gụ, bạch đàn, gỗ limba, gỗ xoan đào (sapelli). Ngành lâm nghiệp của Cộng hòa Congo vẫn bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới tuy nhiên đã bắt đầu có dấu hiệu phục hồi. Đóng góp vào GDP là rất nhỏ (3%). Sản xuất gỗ tròn, gỗ xẻ giảm từ 77.109 m3 trong năm 2009 xuống còn 14.662 m3 trong năm 2010 do giá gỗ xẻ trên thị trường quốc tế vẫn thấp. Tuy nhiên, sự gia tăng nhu cầu từ các nước châu Á đặc biệt là từ Trung Quốc (70% gỗ của Congo được xuất sang Trung Quốc), Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đang mở ra triển vọng mới cho ngành khai thác gỗ của nước này. Ở Congo hiện có 2 công ty chi phối ngành sản xuất gỗ là Olam - tập đoàn có trụ sở tại Singapore và công ty gỗ CIB của Congo, chi nhánh của tập đoàn Đan Mạch Dalhoff Larsen & Horneman. Năm 2011, Congo tiếp tục duy trì các biện pháp nhằm giảm những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng đối với ngành gỗ như xuất khẩu đến 30% gỗ tươi và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thanh toán thuế đốn cây. Việc chế biến gỗ vẫn là một lựa chọn ưu tiên của Congo với việc chú trọng đào tạo nguồn nhân lực. Hơn nữa, việc áp dụng giấy phép chứng nhận gỗ sẽ giúp nước này thu được nhiều lợi ích. Mục tiêu của chính sách lâm nghiệp Cộng hòa Congo là bảo đảm phát triển kinh tế, xã hội và sinh thái của đất nước trên cơ sở quản lý bền vững các nguồn tài nguyên rừng và hệ động vật trong đó: Về mặt công nghiệp, Congo chủ trương chế biến gần như toàn bộ gỗ sản xuất trong nước. Phát triển một ngành công nghiệp gỗ tích hợp có năng suất cao và về trung hạn, cơ cấu lại các nhà máy chế biến gỗ hiện nay; Nâng cao hiệu quả của các đơn vị công nghiệp phụ trách những rừng trồng bạch đàn và thông. Ứng dụng những thành tựu khoa học, kỹ thuật cho ngành công nghiệp gỗ. Về mặt xuất khẩu, cho phép xuất khẩu có thời hạn các loại gỗ có giá trị gia tăng cao hơn giá trị mà ngành công nghiệp chế biến gỗ địa phương mang lại. Tuy nhiên, những giao dịch này không được vượt quá một số mức trần quy định đối với các loại gỗ tươi. Thiết lập một loại phí đối với gỗ xuất khẩu thu theo hướng giảm dần tùy theo mức độ chế biến xuống còn 0% đối với hàng thành phẩm. Tăng cường việc kiểm soát gỗ xuất khẩu và theo dõi các thị trường xuất khẩu nhằm tối ưu hóa các nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Về mặt thuế, dành cho các công ty lâm nghiệp những ưu đãi thuế quan bằng cách áp dụng bộ luật đầu tư sửa đổi. Áp dụng hệ thống thuế lâm nghiệp linh hoạt có tính đến những vùng sản xuất gỗ khó tiếp cận. Nâng cao giá trị gia tăng của gỗ ngay tại địa phương. Ông Henri Djombo, Bộ trưởng Môi trường và Lâm nghiệp Cộng hòa Congo cho biết Congo mong muốn phát huy thế mạnh của ngành công nghiệp gỗ bằng cách kêu gọi doanh nghiệp của những nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ, Brasil... hợp tác, đầu tư vào lĩnh vực này. Đối ngoại Cộng hòa Congo thành viên của Liên hợp quốc, Tổ chức Pháp ngữ, Phong trào KLK, IMF, WTO... Nước này đang triển khai đường lối đối ngoại mở cửa, tranh thủ vốn và kỹ thuật của Mỹ, phương Tây (chủ yếu là Pháp) và các tổ chức quốc tế (như World Bank và IMF) nhằm khôi phục hạ tầng cơ sở, cải thiện mức sống của nhân dân, đưa Congo, một nước dầu mỏ trở lại con đường phát triển kinh tế sau nhiều năm nội chiến. Congo cắt quan hệ ngoại giao với Sahraoui Dân chủ sau chuyến thăm của Charles Ganao sang Maroc (tháng 9 năm 1996). Ngày 26 tháng 12 năm 1998, Congo ký Hiệp ước không xâm lược với Cộng hòa Dân chủ Congo (Congo K) của chính quyền Kabila. Hành chính Cộng hòa Congo được chia thành 12 bang. Các bang được chia thành xã và huyện. Đó là: Bouenza Cuvette Cuvette-Ouest Kouilou Lékoumou Brazzaville Likouala Niari Plateaux Pool Sangha Pointe Noire Dân cư Cộng hòa Congo có số lượng dân cư thưa thớt, phần lớn dân số tập trung ở phần phía Tây Nam của đất nước, để lại những khu vực rộng lớn của khu rừng nhiệt đới ở miền Bắc hầu như không có người ở. Do đó, Congo là một trong những nước có mức đô thị hóa cao nhất ở châu Phi, với 70% tổng dân số sống ở khu vực đô thị, cụ thể là tại Brazzaville, Pointe-Noire hoặc một trong những thành phố nhỏ, làng dọc theo chiều dài 534 km đường sắt nối liền hai thành phố lớn này. Trong khu vực nông thôn, hoạt động công nghiệp và thương mại đã giảm nhanh chóng trong những năm gần đây, để lại nền kinh tế nông thôn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của chính phủ và tự cung tự cấp. Dân tộc và ngôn ngữ của Cộng hòa Congo là đa dạng. Nước này công nhận 62 ngôn ngữ được nói trong nước, nhưng cia thành ba loại ngôn ngữ chính. Các bộ tộc thuộc sắc tộc Kongo là nhóm dân tộc lớn nhất chiếm khoảng một nửa dân số. Các nhóm đáng chú ý nhất của Kongo là Laari sống tại tại Brazzaville, Pool, Vili và xung quanh Pointe-Noire và dọc theo bờ biển Đại Tây Dương. Nhóm lớn thứ hai là người Teke sống ở phía bắc Brazzaville chiếm 17% dân số. Người Boulangui (M'Boshi) sống ở phía tây bắc và ở Brazzaville chiếm 12% dân số.Người Pygmy chiếm 2% dân số Congo. Trước khi cuộc chiến tranh năm 1997, có khoảng 9.000 người châu Âu và các quốc gia châu Phi sống ở Congo, nhất là những người Pháp, hiện giờ chỉ có một phần nhỏ của con số này vẫn còn ở lại. Khoảng 300 người Mỹ cư trú tại Congo. Người dân Cộng hòa Congo phần lớn theo Công giáo và Tin Lành, khoảng 50,5% và 40,2% dân số. Phần lớn các Kitô hữu trong nước là Công giáo Rôma, trong khi số còn lại bao gồm nhiều giáo phái Kitô giáo khác. Tín đồ Hồi giáo chiếm 1,3% dân số, chủ yếu là do một làn sóng lao động nước ngoài sang ở tại các trung tâm đô thị. Giáo dục Giáo dục công về mặt lý thuyết là miễn phí và bắt buộc cho trẻ dưới 16 tuổi, nhưng trong thực tế, chi phí cho việc học tập vẫn tồn tại. Tỷ lệ học sinh tiểu học là 44% trong năm 2005, ít hơn nhiều so với 79% vào năm 1991. Giáo dục ở độ tuổi từ sáu đến mười sáu là bắt buộc. Học sinh hoàn thành sáu năm học tiểu học, bảy năm trung học cơ sở mới có được bằng tú tài. Ở trường đại học, sinh viên học cử nhân trong ba năm và thạc sĩ là bốn năm. Đại học Marien Ngouabi cung cấp các khóa học trong y học, pháp luật và một số các lĩnh vực khác, đây là đại học công lập duy nhất của đất nước. Hệ thống giáo dục ở Cộng hòa Congo gần như hoàn toàn theo mô hình hệ thống giáo dục của Pháp. Cơ sở hạ tầng giáo dục đã xuống cấp nghiêm trọng do hậu quả của cuộc khủng hoảng chính trị và kinh tế. Không có ghế trong hầu hết các lớp học, buộc trẻ em ngồi trên sàn nhà.
Cộng hòa Dân chủ Congo (tiếng Pháp: République Démocratique du Congo) là một quốc gia ở Trung Châu Phi. Cộng hòa Dân chủ Congo còn được gọi là Congo-Leopoldville, hay Congo-Kinshasa vì thủ đô là Kinshasa, hay Zaire. Đây là quốc gia có diện tích lớn thứ hai ở châu Phi. Mặc dù nằm ở tiểu vùng Trung Phi theo cách xác định của Liên Hợp Quốc, song quốc gia này hay được xem thuộc vùng Nam châu Phi vì là một thành viên của Cộng đồng Phát triển Nam Phi (SADC). Quốc gia này có biên giới với Cộng hòa Trung Phi và Nam Sudan ở phía Bắc, Uganda, Rwanda, Burundi, Tanzania ở phía Đông, Zambia và Angola ở phía Nam, và Cộng hòa Congo ở phía Tây. Quốc gia có đường bờ biển dài chỉ 40 km ở Muanola, trong đó có tới khoảng 9 km là cửa sông Congo đổ vào vịnh Guinea ở Đại Tây Dương. Cái tên Congo (nghĩa đen: Người đi săn) được đặt theo tên sắc tộc Kongo sống ở lưu vực sông Congo. Vốn là một thuộc địa của Bỉ (Congo thuộc Bỉ), quốc gia này giành được độc lập vào năm 1960, mang tên "Cộng hòa Congo" cho đến ngày 01 tháng 10 năm 1971 thì được tổng thống Mobutu đổi tên thành Zaire, phát âm từ Bồ Đào Nha của chữ Nzere hay Nzadi của Kikogo, được dịch là "Dòng sông nuốt chửng tất cả các dòng sông". Sau cuộc chiến Congo lần thứ nhất lật đổ Mobutu vào năm 1997, đất nước này lại được đổi tên là Cộng hòa Dân chủ Congo. Từ năm 1998 đến năm 2003, đất nước đã chịu nhiều đau khổ từ sự tàn phá của cuộc chiến Congo lần thứ hai (đôi khi được gọi là Chiến tranh thế giới ở châu Phi). Địa lý Cộng hòa Dân chủ Congo nằm ở Trung Phi, đường xích đạo đi ngang qua, nằm chếch về phía trên. Cộng hòa dân chủ Congo có diện tích lớn hàng thứ ba ở châu Phi, sau Sudan và Algérie, Bắc giáp Cộng hòa Trung Phi và Sudan; Tây Nam giáp Angola và Nam giáp Zambia; Đông giáp Uganda, Rwanda, Burundi và Tanzania; Tây giáp Đại Tây Dương và Cộng hòa Congo Quốc gia này chỉ có một hành lang hẹp thông ra Đại Tây Dương. Lãnh thổ cả nước trải rộng trên vùng chậu được bao phủ bởi rừng rậm xích đạo ẩm và nóng, tương ứng với khoảng 2/3 diện tích vùng lưu vực sông Congo. Ở phía Đông, Cộng hòa Dân chủ Congo tựa lưng vào những vùng đất cao của Đông Phi, tiếp đó là dãy lũng hẹp dài có các hồ Albert (Mobutu), Edward, Kivu, Tanganyika đặt mốc cho biên giới chung với các nước ở phía Đông. Cư dân tập trung ở các vùng cao thuộc rìa phía Đông có khí hậu trong lành, nhất là ở một phần ba lãnh thổ phía Nam, tại đó rừng thưa và các đồng cỏ xen nhau (Kinshasa và Kangtaga). Nhìn chung, nhân dân Congo gồm chừng 60 tộc người gia tăng mạnh ở các thành phố (44,3% số dân). Các sông chính có Sông Congo (4.700 km, lưu lượng lớn nhất châu Phi), sông Lualaba (1.770 km), sông Lomami (1.500 km), sông Aruwimba, sông Uélé, sông Tahuapa, sông Lukénie, sông Kasai. Lịch sử Vùng lãnh thổ thuộc Cộng hòa Dân chủ Congo là nơi định cư của hai nhóm sắc tộc Bantu và Pygmy, bị phân chia thành những địa hạt tù trưởng và các vương quốc. Lịch sử vùng này được đánh dấu bởi sự ra đời của ba vương quốc lớn. Vương quốc Kongo được thành lập trên phần lãnh thổ phía Bắc Angola hiện nay, bên vùng cửa sông Congo từ thế kỷ XIV. Vương quốc của người Luba (hoặc Baluba) được thành lập từ thế kỷ XVI trong vùng cao nguyên Katanga. Vương quốc Lunda gồm một phần của vùng Kasai, được thành lập vào thế kỷ XVII. Các vương quốc này xâu xé nhau bởi các cuộc tranh chấp trong vùng và bị tàn phá do chế độ buôn bán nô lệ. Nhà nước Congo tự do (1870 – 1908) Sau các cuộc thám hiểm của Henry Stanley tiến sâu vào lãnh thổ bên trong bằng đường sông Congo (1874-1884), Nhà nước Tự do Congo được thành lập (Hội nghị Berlin, 1885) và thuộc quyền sở hữu cá nhân của vua Bỉ, Léopold II, ông ta đã thâu tóm một gia tài khổng lồ từ ngà voi và cao su do bóc lột sức lao động của nô lệ. Khoảng 10 triệu người đã chết do lao động cưỡng bức, đói khát và bị giết chết trong suốt thời kì cai trị thuộc địa của Leopold. Sự quản lý của Bỉ (1908 – 1960) Từ năm 1908, Congo trở thành thuộc địa của Bỉ. Bỉ đã xây dựng và phát triển mạng lưới đường bộ và đường sắt tại thuộc địa này để chuyên chở các sản phẩm khai thác từ hầm mỏ và các đồn điền về chính quốc. Cư dân thành thị và công nhân phát triển mạnh làm xuất hiện các phong trào dân tộc chủ nghĩa. Chính trị khủng hoảng (1960 – 1965) Năm 1960, Congo giành được độc lập. Vùng Katanga, dưới sự lãnh đạo của Moise Tschombé, tuyên bố li khai. Đồng thời, chính quyền trung ương lại chia thành những người ủng hộ thể chế liên bang của Tổng thống Kasanubu và những người ủng hộ chế độ hợp nhất của Thủ tướng Lumumba. Năm 1961, Thủ tướng Lumumba bị ám sát, nội chiến vẫn tiếp tục kéo dài. Liên Hợp Quốc gởi quân đội đến can thiệp (1961-1963) và lực lượng lính dù của Bỉ được phái đến để tiêu diệt quân phiến loạn ủng hộ Thủ tướng Lumumba (1964). Năm 1965, Tướng Mobutu lên nắm quyền sau cuộc đảo chính, mở ra một thời kì tương đối ổn định. Cộng hòa Congo, còn gọi Congo-Kinshasa được đổi tên thành Zaire năm 1971. Thời kỳ Zaire (1971 – 1997) Năm 1977, Tổng thống Mobutu kêu gọi sự giúp đỡ của Pháp khi phải đối mặt với những nguy cơ đòi li khai ngày càng phát triển mạnh. Từ năm 1990, làn sóng phản đối ngày càng tăng cao buộc Tổng thống Mobutu phải nhượng bộ. Năm 1994, khoảng một triệu người Hutu và Rwanda sang tị nạn ở miền đông Congo, làm cho cuộc khủng hoảng chính trị thêm trầm trọng. Năm 1997, cuộc đấu tranh chống lại sự kiểm soát của quyền lực trung ương đã dẫn dến việc ra đi của Tổng thống Mobutu. Xung đột và sự chuyển tiếp (1996 – nay) Laurent-Désiré Kabila lên cầm quyền và tuyên bố đổi tên nước thành Cộng hòa Dân chủ Congo. Năm 1998, các lực lượng liên minh cũ của Tổng thống L. D. Kabila nhờ sự ủng hộ của Rwanda và Uganda, đã nổi dậy chống lại chính quyền trung ương, đẩy đất nước vào cuộc chiến tranh mới. Tháng 1 năm 2001. Tổng thống Kabila bị ám sát và con trai là Joseph Kabila lãnh đạo đất nước. Tổng thống Kevin tiến hành các cuộc đàm phán nhằm - chấm dứt cuộc nội chiến. Tháng 4 năm 2002, chính phủ đồng ý một thỏa thuận chia sẻ quyền lực với quân nổi dậy do Uganda hậu thuẫn. Tháng 7 năm 2002, Tổng thống Cộng hòa Dân chủ Congo và Tổng thống Rwanda cùng ký hiệp ước: Rwanda hứa rút 35.000 quân khỏi biên giới phía Đông Cộng hòa Dân chủ Congo, còn Cộng hòa Dân chủ Congo sẽ giải trừ vũ khí của hàng ngàn dân quân Hutu đang đóng trên lãnh thổ Cộng hòa Dân chủ Congo và đe doạ đến an ninh Rwanda - nhiều người trong số họ đã ủng hộ hoặc tham gia cuộc diệt chủng người Tutsi Rwanda năm 1994. Tháng 9 năm 2002, Uganda và Cộng hòa Dân chủ Congo ký hiệp định hòa bình. Một Chính phủ chuyển tiếp đã ra đời vào tháng 7 năm 2003, đứng đầu là Tổng thống Joseph Kabila và 4 phó Tổng thống là các đại diện của Chính phủ trước đây, lực lượng nổi dậy và phe đối lập. Chính phủ chuyển tiếp đã tổ chức thành công cuộc trưng cầu dân ý về Hiến pháp tháng 12 năm 2005. Trong cuộc bầu cử Tổng thống vào tháng 8 năm 2006, ông Kabila đã tái đắc cử và tiếp tục điều hành đất nước. Theo hiến pháp nước này, Thủ tướng do Tổng thống chỉ định. Cuộc bầu cử tiếp theo sẽ được dự kiến tổ chức vào tháng 11 năm 2011. Từ tháng 3 năm 2012, nhóm phiến quân nổi loạn, được gọi là M23, đã nổi dậy buộc 470.000 người ở Bắc Kivu, tỉnh giàu khoáng sản ở miền Đông Cộng hoà Dân chủ Congo và nằm sát biên giới chung với Uganda và Rwanda, phải đi lánh nạn. Đầu tháng bảy vừa qua, M23 tuyên bố đã giành quyền kiểm soát nhiều thị trấn, trong đó có vị trí chiến lược Rutshuru tại tỉnh Bắc Kivu. M23, nhóm nổi loạn nguyên là quân đội người Tutsi sáp nhập vào quân đội Cộng hoà dân chủ Congo từ năm 2009 nhưng đầu năm nay đã đào ngũ với lý do bất đồng về lương bổng và các điều kiện sinh hoạt. Nhóm nổi loạn cũng đã đặt ra các điều kiện với Chính phủ Cộng hoà Dân chủ Congo như người tị nạn Congo ở Rwanda được hồi hương, thúc đẩy dân chủ cũng như xác nhận vị trí cấp bậc mà các thành viên M23 từng giữ trong quân đội Cộng hoà Dân chủ Congo. Liên Hợp Quốc đã gửi quân đến để hỗ trợ lực lượng chính phủ trấn áp phe nổi loạn. Cho đến tháng 8 năm 2012, tình hình an ninh tại CHDC Congo tại một số vùng vẫn chưa ổn định. Hành chính Các tỉnh Quốc gia này được chia thành 10 tỉnh và 01 thành phố cấp tỉnh. Đến lượt các tỉnh lại chia thành các huyện và huyện chia thành các vùng lãnh thổ. Khí hậu Khí hậu nhiệt đới nóng và ẩm ở các khu vực trũng hai bên bờ sông thuộc vùng xích đạo; mát và khô hơn ở các vùng cao nguyên phía Nam; mát và ẩm hơn các vùng cao nguyên phía Đông. Vùng phía Bắc xích đạo: mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 2; vùng phía Nam xích đạo: mùa mưa từ tháng 10 đến tháng 4, mùa khô từ tháng 4 đến tháng 10. Môi trường Tình trạng ô nhiễm nguồn nước; nạn phá rừng; đất bị xói mòn; nạn săn bắt trái phép và nguy cơ thú rừng bị tuyệt chủng. Chính trị Ngày 30 tháng 7 năm 2006, Cộng hòa Dân chủ Congo bầu cử Tổng thống và Quốc hội theo chế độ đa đảng. Đây là cuộc tổng tuyển cử đa Đảng đầu tiên trong hơn 40 năm qua tại Cộng hòa Dân chủ Congo, dưới sự giám sát của 1.500 quan sát viên nước ngoài; hơn 17.000 binh lính thuộc lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc và 1.000 binh sĩ thuộc Liên minh châu Âu bảo đảm an ninh cho cuộc bầu cử. Sau vòng 2, ông Joseph Kabia đã giành thắng lợi với 58,05% số phiếu. Chính quyền của Tổng thống J. Kabila có nhiều nỗ lực nhằm ổn định tình hình, khắc phục hậu quả nặng nề do nội chiến để lại và thực hiện hoà giải, hoà hợp dân tộc; song vẫn còn các cuộc đụng độ phe phái - sắc tộc, nhất là ở khu vực phía Đông có sự dính líu của Rwanda và Uganda. Tháng 1 năm 2008, tại Goma, thủ phủ tỉnh Bắc Kivu (North Kivu), Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Congo và lực lượng nổi dậy thuộc Phong trào Mai Mai và tướng đào ngũ Laurent Nkunda đã ký Hiệp định nhằm chấm dứt nội chiến kéo dài ở miền Đông nước này. Kinh tế Cộng hòa Dân chủ Congo (CHDC) Congo nằm trong số những nước nghèo nhất thế giới, với GDP thấp đứng hàng thứ hai. CHDC Congo được nhiều nước giàu có chú ý tới bởi nguồn tài nguyên phong phú của quốc gia này; các mỏ nguyên liệu khoáng thô chưa được khai thác của quốc gia này có trị giá hơn 24 tỷ đô la. Tuy nhiên, nền kinh tế của CHDC Congo đã bị suy thoái từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX. Vào thời điểm độc lập năm 1960, CHDC Congo là một nước công nghiệp hóa thứ 2 ở châu Phi sau Nam Phi, dựa chủ yếu vào ngành công nghiệp khai thác mỏ và nền nông nghiệp tương đối có hiệu quả. Hai cuộc chiến trong thời gian sau đó, bắt đầu từ năm 1996, đã làm sản xuất và nguồn thu ngân sách giảm sút nghiêm trọng, trong khi đó nợ nước ngoài lại tăng. Cuộc chiến còn cướp đi sinh mạng của 3,5 triệu người do bạo lực, nạn đói và bệnh tật. Những nhà kinh doanh cắt giảm các hoạt động đầu tư do lo ngại các cuộc xung đột, thiếu cơ sở hạ tầng, và môi trường kinh doanh khó khăn. Tình hình đã được cải thiện vào cuối năm 2002 khi mà lực lượng chiếm đóng bắt đầu rút quân khỏi Congo. Chính phủ chuyển tiếp đã nối lại quan hệ với các thiết chế tài chính và các nhà tài trợ quốc tế. Tổng thống Kabila bắt đầu tiến hành cải cách. Nhiều các dự án được tiến hành thúc đẩy tăng trưởng GDP. Kinh tế CHDC Congo bắt đầu tăng trưởng ổn định trong giai đoạn 2003 – 2005 bất chấp những khó khăn do khuôn khổ pháp lý chưa rõ ràng, nạn tham nhũng, và các chính sách mở cửa chưa thông thoáng. Suy thoái kinh tế toàn cầu đã khiến cho tốc độ tăng trưởng của nước này năm 2009 giảm 1 nửa so với năm 2008, tuy nhiên chỉ số này đã hồi phục và tăng trưởng 6% năm 2010. Năm 2010, tổng sản phẩm quốc nội của CHDC Congo tăng trưởng 6%, đạt 12,6 tỷ USD. Và GDP bình quân đầu người của nước này là 176 USD/người/năm. Mặc dù đã có nhiều tiến bộ trong ổn định nền kinh tế, nhưng tỷ lệ lạm phát của nước này là khá cao, khoảng 26,2%. Nông nghiệp Congo là một nước nông nghiệp. Phần đông dân cư sống bằng nghề nông. Hàng năm, nông nghiệp đóng góp khoảng 37,4% GDP cho đất nước này. Các loại nông sản chính của Congo là: cà phê, đường, dầu cọ, chè, miến, chuối, ngô, hoa quả và các sản phẩm gỗ, cao su… Công nghiệp CHDC Congo là nước có nguồn dự trữ về tài nguyên và khoáng sản vô cùng phong phú. Công nghiệp của Congo chủ yếu là khai khoáng, là nhà sản xuất cobalt lớn nhất thế giới. Congo có 70% trữ lượng coltan của thế giới, và hơn 30% kim cương. chủ yếu là dạng kim cương nhỏ, công nghiệp. Năm 2002, thiếc đã được phát hiện ở phía đông của quốc gia này nhưng cho đến nay việc khai thác chỉ ở quy mô nhỏ. Buôn lậu liên quan đến khoáng sản, coltan và cassiterit như đã đổ thêm dầu vào lửa cho các cuộc chiến tranh ở miền đông Congo. Katanga Mining Limited, một công ty của Thụy Sĩ, sở hữu nhà máy luyện kim Luilu, có công suất 175.000 tấn đồng và 8.000 tấn cobalt mỗi năm, là nhà sản tinh chế cobalt lớn nhất thế giới. Sau một chương trình phục hồi lớn, công ty này đã khởi động lại vào tháng 12 năm 2007 và sản xuất cobalt vào tháng 5 năm 2008. CHDC Congo cũng sở hữu 50% diện tích rừng ở châu Phi và hệ thống sông suối cung cấp nhiều thuận lợi cho khai thác thủy điện, theo báo cáo của UN về ý nghĩa chiến lược và vai trò tiềm năng của quốc gia này thì đây được xem là một động lực kinh tế ở Trung Phi. Ngoài ra còn có các ngành công nghiệp phục vụ tiêu dùng (dệt may, giày dép, sản xuất đồ ăn và đồ uống), sửa chữa tàu.. Hàng năm, công nghiệp đóng góp vào khoảng 11% GDP của nước này. Dịch vụ Dịch vụ hàng năm đóng góp khoảng 1/3 GDP cho đất nước. Tuy nhiên ngành dịch vụ du lịch chịu ảnh hưởng nặng nề bởi các cuộc nội chiến liên miên trước đây và đại dịch COVID-19. Ngoại thương Về ngoại thương, năm 2009, CHDC Congo xuất khẩu 3,8 tỷ USD hàng hoá các loại. Trong đó các mặt hàng xuất khẩu chủ chốt là kim cương, đồng, cà phê, dầu thô và côban. Các bạn hàng xuất khẩu chính của nước này là: Bỉ, Phần Lan, Mỹ, Trung Quốc. Kim ngạch nhập khẩu năm 2009 của Congo đạt 3,8 tỷ USD. Các mặt hàng mà Congo thường nhập khẩu là lương thực, xăng dầu và các thiết bị vận tải. Các đối tác nhập khẩu hàng từ CHDC Congo là Nam Phi, Bỉ, Pháp, Zambia, Kenya, Mỹ, Đức. Nhân khẩu Dân số 60.085.000 người (ước tính 2005) Mật độ dân số Xấp xỉ 19 người/km2. Sắc tộc Trong số các nhóm dân tộc Phi, dân tộc Bantu chiếm đa số; có 4 bộ lạc lớn nhất là Mongo, Luba, Kongo (tất cả thuộc dân tộc Bantu), và Mangbetu-Azande (Hamities), chiếm khoảng 45% tổng số dân. Ngôn ngữ Tiếng Pháp; tiếng Lingala (một ngôn ngữ thương mại Pháp), tiếng Kingwana (tiếng Kiswahili hay Swahili), tiếng Kikongo, tiếng Tshiluba cũng được sử dụng. Tôn giáo Thiên Chúa giáo 50%, Tin lành 20%, Giáo hội Kimbanguist 10% một nhánh Tin lành được sáng lập tại Conggo, Hồi giáo 10%, tôn giáo khác (bao gồm giáo phái đồng bộ và tín ngưỡng bản địa) 10%. Cộng hòa Dân chủ Congo cũng là quốc gia có số dân theo đạo Công giáo lớn nhất châu Phi với hơn 28 triệu tín hữu. Giáo dục Hệ thống giáo dục Congo chưa phát triển, cơ sở vật chất nghèo nàn và rất thiếu cán bộ, tỷ lệ học sinh đến trường thấp. Năm 2001, tỉ lệ người biết chữ được ước tính là 67,2% (80,9% ở nam và 54,1% ở nữ). Hệ thống giáo dục của CHDC Congo được quản lý bởi 3 bộ thuộc chính phủ: Ministère de l'Enseignement Primaire, Secondaire et Professionnel(Bộ tiểu học, trung học và chuyên nghiệp), Ministère de l'Enseignement Supérieur et Universitaire (Bộ Đại học và sau đại học) và Ministère des Affaires Sociales (Bộ Xã hội). Hệ thống giáo dục của CHDC Congo giống của Bỉ. Năm 2002, có hơn 19.000 trường tiểu học với 160.000 học sinh; và 8.000 trường trung học với 110.000 học sinh. Giáo dục tiểu học là miễn phí và bắt buộc (điều 43 của Hiến pháp Congo 2005). Tỉ lệ nhập học thô được tính dựa trên số học sinh đăng ký chính thức ở các trường tiểu học và sau đó không cần thiết phản ảnh qua số học sinh thực tế theo học. Năm 2000, 65% trẻ ở độ tuổi 10-14 đã đi học. Do ảnh hưởng của cuộc nội chiến 6 năm, hơn 5,2 triệu trẻ em ở quốc gia này phải thất học. Giao thông Giao thông đường bộ ở CHDC Congo rất khó khăn do nhiều yếu tố địa hình và khí hậu cản trở, và khoảng cách đi lại giữa những khu vực trên đất nước này rất lớn. Hơn nữa, quản lý kinh tế yếu kém kéo dài và xung đột nội bộ đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến đầu tư trong nhiều năm qua. Ngoài ra, đất nước này có hàng ngàn km đường thủy, và vận tải đường thủy truyền thống có thể di chuyển trong khoảng 2/3 chiều dài đất nước này. Tất cả các nhà vận tải đường không được CHDC Congo cấp phép đều bị cấm khai thác ở các sân bay của Liên minh châu Âu do không đủ tiêu chuẩn an toàn. Sinh vật Rừng nhiệt đới ở CHDC Congo có độ đa dạng sinh học rất cao, sở hữu nhiều loài đặc hữu và quý hiếm như tinh tinh thông thường và tinh tinh lùn, voi rừng, khỉ đột núi, hươu đùi vằn và tê giác trắng. Năm trong số các vườn quốc gia của đất nước này được xếp vào danh sách các di sản thế giới gồm: Garumba, Kahuzi-Biega, Salonga và vườn quốc gia Virunga, và Khu dự trữ động vật hoang dã Okapi. Cuộc nội chiến và các điều kiện kinh tế yếu kém đã đe dọa sự đa dạng sinh học ở đây. Tất cả các vườn quốc gia được liệt kê ở trên đều trong diện Di sản bị đe dọa.
Hoàng Trọng (1922 – 1998) là một nhạc sĩ nhạc tiền chiến Việt Nam. Ông được biết đến qua một số ca khúc như, "Cánh hoa yêu", "Ngàn thu áo tím" và "Tiễn bước sang ngang". Ông còn được xem là "Vua Tango" của nền âm nhạc Việt Nam. Tiểu sử Hoàng Trọng tên thật là Hoàng Trung Trọng, sinh năm 1922 tại Hải Dương. Đến năm 1927, cả gia đình ông chuyển về sinh sống tại Nam Định. Năm 1933, ông bắt đầu học nhạc qua người anh của ông là Hoàng Trung Quý. Đến năm 1937, ông học nhạc tại trường dòng Saint Thomas Nam Định. Đến năm 1941, ông bắt đầu học nghiên cứu hàm thụ âm nhạc tại một trường âm nhạc tại Paris. Khi ông lên 15 tuổi, ông cùng các anh em trong gia đình và một số nhạc sĩ như Đan Thọ, Bùi Công Kỳ, Tạ Phước, Đặng Thế Phong thành lập một ban nhạc. Mãi sau này, đến năm 1945, ông mới lấy tên ban nhạc là Thiên Thai, dựa theo tên phòng trà mà ông mở tại Nam Định. Năm 1946, do chiến tranh, ông di tản từ Nam Định qua Nho Quan, Phát Diệm và đến năm 1947, ông đã định cư tại Hà Nội. Năm 1950, ông gia nhập quân đội và làm trưởng ban Quân nhạc Bảo Chính Đoàn trình diễn tại vườn hoa cạnh bưu điện Hà Nội. Năm 1954, ông cùng ba người con, bao gồm Hoàng Nhạc Đô, Hoàng Bạch La và Hoàng Cung Fa di cư vào Nam. Khi mới vào Sài Gòn, ông sống tại khu vực đường Phan Văn Trị tại Chợ Lớn và có mở một lớp dạy nhạc tại đây. Thời điểm này, ông có phụ trách cho một số ban nhạc trên Đài Phát thanh Sài Gòn. Đến năm 1967, ông phụ trách cho ban hợp xướng Tiếng Tơ Đồng. Ban nhạc của ông gồm một số ca sĩ thời điểm đó, như Thanh Sơn, Lệ Thanh, Mai Hương,...và hợp tác với ba ca sĩ Mộc Lan, Châu Hà, Kim Tước để thành lập ban tam ca Kim Mộc Châu. Sau năm 1975, ông chỉ sáng tác thánh ca và một số bài hát lưu hành trong gia đình. Năm 1992, ông sang Hoa Kỳ định cư và qua đời ngày 16 tháng 7 năm 1998. Ông kết hôn với một người ở Nam Định và có ba người con. Ba người con của ông đều được đặt tên theo nốt nhạc, trong đó có Hoàng Nhạc Đô sau này là một nhạc sĩ. Tuy nhiên, do vợ ông nghĩ rằng ông có người khác bên ngoài nên đã chia tay khi con gái ông chỉ ba tháng tuổi. Năm 1978, ông kết hôn với Thu Tâm, là một ca sĩ trong ban "Tiếng Tơ Đồng" của ông. Sự nghiệp Năm 1938, lúc ông 16 tuổi, ông đã viết ca khúc đầu tay là bài hát "Đêm trăng". Ông còn viết thêm một số bài hát khác trong thời điểm đó, như "Tiếng đàn tôi",...Sau đó, ông đã viết rất nhiều bài theo điệu Tango, như bài "Phút chia ly" khi ông đi tản cư, "Buồn nhớ quê hương", "Nhạc sầu tương tư", "Khóc biệt kinh kỳ" khi ông di cư vào Nam năm 1954. Riêng ca khúc Buồn nhớ quê hương đã đoạt giải thưởng sáng tác vào năm 1952. Hoàng Trọng được xem là "Vua Tango" của nền tân nhạc Việt Nam vì ông đã viết hơn rất nhiều ca khúc theo điệu Tango được công chúng biết đến, như "Lạnh lùng", "Mộng lành", "Tiễn bước sang ngang", "Ngỡ ngàng",... Riêng một phần bài "Tiễn bước sang ngang" đã từng được truyền miệng sang miền Bắc với tên "Giã từ" và để tên tác giả là "Nhạc Liên Xô". Ông sáng tác hơn 200 bài nhạc, tuy nhiên chỉ có 40 bài do ông tự đặt lời, còn lại là do một số nhạc sĩ hay nhà thơ như Hồ Đình Phương, Hoàng Dương, Vĩnh Phúc,... viết lời. Ông còn viết nhạc cho một số nhạc phim như Xin nhận nơi này làm quê hương, Giã từ bóng tối, Người tình không chân dung, Sau giờ giới nghiêm, Bão tình,... Riêng nhạc phim mà ông viết cho phim "Triệu phú bất đắc dĩ", ông được giải thưởng Văn học Nghệ thuật của Việt Nam Cộng hòa trong năm 1972 - 1973. Sau năm 1975, ông chỉ viết một số bài hát Thánh ca và một số bài tình ca, trong đó có bài "Chiều rơi đó em" viết năm 1979. Sau này, khi ông được bảo lãnh sang Hoa Kỳ, ông viết thêm 3 bản nhạc nữa cho đến khi qua đời. Tác phẩm Hồ Đình Phương viết lời Bạn lòng Bắc một nhịp cầu Bên bờ đại dương Chiều nhớ mẹ Đầy bình minh Gió mùa xuân tới Gửi hương cho gió Hai mối tình yêu Hương yêu Hương mùa thanh bình Khúc hát mùa chiêm Mộng ban đầu (thơ Hồ Đình Phương) Mộng lành Mộng đẹp ngày xanh Mộng đẹp tình xuân Mộng ngày hồi hương Mùa lúa mới Ngỡ ngàng Nguồn mến yêu Nhớ thương Nhớ về Đà Lạt Thuyền chờ Tiễn bước sang ngang Thôi đừng lưu luyến em ơi Trăng lên Trăng về Tình đầu Tình trăng Viết riêng Bẽ bàng Bên sông đưa người Bến mơ Bơ vơ Bóng trăng xưa Buồn nhớ quê hương Cánh hoa xưa Châu Đốc miền quê yêu Chiều mưa Chiều rơi đó em Chiều về thôn xưa Chiều vũng tàu Dừng bước giang hồ Đêm trăng Đêm về Đường về Đường về dĩ vãng Gió lạnh chiều đông Hai phương trời cách biệt Hẹn gió xuân về Hoa xuân Hồn thanh niên Hương đời đẹp tươi Khóc biệt kinh kỳ Khúc ca màu xanh Khúc đàn tâm Khúc nhạc xuân Khúc tình ca ngày cưới Lá rụng Mộng cô đơn Một người lên xe hoa Một nụ cười Một thuở yêu đàn Mùa hoa thắm Nhặt lá vàng Nhớ hoài Nhớ thương Rồi ngày sẽ trôi qua Say say say Thu qua Tiếng đàn tôi Tiếng lòng Tìm lại hương yêu Tìm một ánh sao Tình thơ mộng Tôi vẫn yêu hoa màu tím Trang nhật ký Trăng sầu viễn xứ Vào mộng Vui cảnh xây đời Khác Bão tình (lời Duy Viêm) Cánh hoa yêu (thơ Vĩnh Phúc) Chiều tha hương (thơ Quách Đàm) Còn gì cho nhau (lời Song Hương) Dừng bước giang hồ (lời Quang Khải) Hững hờ (lời Châu Kỳ) Hình ảnh quê xưa (lời Y Vân) Muôn kiếp ngậm ngùi (thơ Mai Trung Tĩnh) Lạnh lùng (lời Quách Đàm) Ngàn thu áo tím (thơ Vĩnh Phúc) Nhạc sầu tương tư (lời Hoàng Dương) Nhịp võng ngày xanh (lời Thanh Nam) Người tình không chân dung (Anh là ai) (lời Dạ Chung) Người đi chưa về (thơ Vĩnh Phúc) Phút chia ly (lời Nguyễn Túc) Tình thơ mộng (lời Vĩnh Phúc) Thương về quê cha (thơ Vĩnh Tâm) Thanh bình nhạc khúc (với Đinh Sơn Cầm) Trao nhau lời cuối (lời Hoài Linh) Vui cảnh mùa hè (lời Hoàng Dương) Em còn nhớ không em (Bốn mùa thương nhớ) (lời Thanh Nam) Đẹp giấc mơ hoa (lời Thanh Nam) Chiều mưa nhớ bắc (lời Thanh Nam) Khói chiều (thơ Đinh Sơn Cầm) Hương ngọc lan (lời Lan Đình - Song Hương) Chú thích
Hiệp định về Nông nghiệp (tiếng Anh: Agreement on Agriculture, viết tắt là AoA) là một trong các hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Nó được ký kết tại Vòng đàm phán Uruguay và có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1995, cũng là ngày mà WTO chính thức đi vào hoạt động. Hiệp định đưa ra ba loại trợ cấp nông nghiệp đó là: Trợ cấp màu hổ phách (bị cấm), trợ cấp màu xanh da trời (có thể bị kiện) và trợ cấp màu xanh lá cây (không bị kiện). Mục tiêu của Hiệp định về Nông nghiệp là tiến hành cải cách trong lĩnh vực nông nghiệp và xây dựng các chính sách nông nghiệp có định hướng thị trường hơn nữa. Hiệp định cũng nhằm nâng cao khả năng dự đoán trước các thay đổi và đảm bảo an ninh lương thực cho các nước xuất khẩu cũng như nhập khẩu. Các quy định và cam kết trong Hiệp định Nông nghiệp được xây dựng xoay quanh ba nhóm vấn đề chính được gọi là ba trụ cột (pillars). Đó là: Tiếp cận thị trường: giảm bớt các rào cản thương mại đối với hàng nông sản nhập khẩu Trợ cấp nội địa: đưa ra các quy định và cam kết quản lý trợ cấp cho sản xuất trong nước cũng như các chương trình tương tự khác, bao gồm cả các chương trình kích thích tăng giá nông sản do các trang trại bán ra hoặc các chương trình đảm bảo thu nhập cho người nông dân. Trợ cấp xuất khẩu: đưa ra các quy định và cam kết quản lý trợ cấp đối với hàng nông sản xuất khẩu hay những biện pháp tương tự khác khiến cho hàng nông sản xuất khẩu có tính cạnh tranh giả tạo trên thị trường quốc tế. Hiệp định cho phép các chính phủ khuyến khích khu vực kinh tế nông thôn, nhưng nên thông qua các chính sách ít làm biến dạng thương mại. Hiệp định cho phép có sự linh động trong việc thực thi các cam kết. Các nước đang phát triển không cần phải giảm bớt trợ cấp hay cắt giảm thuế quan nhiều như các nước phát triển. Họ cũng có thời gian chuyển tiếp dài hơn để thực hiện các cam kết của mình. Các nước kém phát triển hoàn toàn không phải thực hiện những cam kết giống như của các nước phát triển và đang phát triển. Hiệp định cũng có những điều khoản đặc biệt giải quyết mối quan tâm của các nước phải nhập khẩu lương thực và các nước kém phát triển.
Hiệp định về Hàng Dệt may (tiếng Anh: Agreement on Textiles and Clothing, viết tắt là ATC) được ký kết cùng với đa số các hiệp định khác của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) tại Vòng đàm phán Uruguay. Nó thay thế cho Thỏa thuận Đa sợi (MFA) để quản lý thương mại quốc tế trong lĩnh vực hàng dệt may. Đây là hiệp định duy nhất của WTO có điều khoản tự huỷ. Theo quy định được ghi trong hiệp định, nó đã hết hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2005, và thương mại hàng dệt may đã quay về áp dụng theo các quy định chung của GATT 1994. Điều đó có nghĩa là chấm dứt chế độ hạn ngạch đối với hàng dệt may và các nước nhập khẩu không còn có thể có các biện pháp phân biệt đối xử đối với hàng dệt may của các nước xuất khẩu khác nhau. Về nguyên tắc, Hiệp định về Hàng Dệt may cho phép các nước thành viên áp dụng hạn ngạch đối với hàng dệt may. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian 10 năm (từ 1995 đến 2004), các thành viên phải dần dần dỡ bỏ rào cản này. Việc dỡ bỏ được thực hiện theo 4 bước, cho phép cả nước xuất khẩu lẫn nước nhập khẩu điều chỉnh theo tình hình mới. Hạn ngạch ban đầu của một nước thành viên được áp dụng theo hạn ngạch mà nước đó đặt ra tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 1994. Hiệp định quy định tỷ lệ hàng dệt may phải đưa vào áp dụng quy định chung của GATT 1994 tại mỗi bước nêu trên. Nếu trong số đó có các mặt hàng dệt may đang áp dụng hạn ngạch thì hạn ngạch phải bị dỡ bỏ. Những tỷ lệ này được quy định dựa theo mức trao đổi thương mại hàng dệt may của nước nhập khẩu vào năm 1990. Hiệp định cũng quy định rằng khối lượng nhập khẩu cho phép theo hạn ngạch phải được tăng lên mỗi năm theo một tỷ lệ nhất định, và qua mỗi bước, tỷ lệ này cũng phải tăng lên. Tỷ lệ tăng lên đó được xác định dựa trên một công thức tính với giá trị là tốc độ tăng nhập khẩu qua các năm áp dụng Thỏa thuận Đa sợi.
ATC có thể là chữ viết tắt của: Giao thông vận tải Aviation Điều khiển không lưu (air control service) Khoa học, công nghệ Hệ thống phân loại giải phẫu - điều trị - hoá học, một hệ thống phân loại thuốc của tổ chức y tế thế giới. Kinh tế Hiệp định về Hàng Dệt may (Agreement on Textiles and Clothing), một hiệp định quốc tế hoạt động từ 1994 đến hết năm 2004. Doanh nghiệp ATC Furniture (Ánh Tân Cương), một công ty chuyên sản xuất và cung cấp nội thất mây nhựa được thành lập năm 2006 tại Việt Nam. Giải trí Nhóm nhạc ATC (A Touch of Class), Nhóm nhạc pop đến từ Đức (1999–2003)
Vải còn gọi lệ chi (danh pháp hai phần: Litchi chinensis) là một loài thực vật có hoa thuộc họ Bồ hòn (Sapindaceae). Loài này được Pierre Sonnerat miêu tả khoa học đầu tiên năm 1782. Mô tả Vải là loại cây ăn quả thân gỗ vùng nhiệt đới, có nguồn gốc từ miền nam Trung Quốc; tại đó người ta gọi là 荔枝 (bính âm: lìzhī, Hán-Việt: lệ chi), phân bố trải dài về phía nam tới Indonesia và về phía đông tới Philippines (tại đây người ta gọi nó là alupag). Vải là cây thường xanh với kích thước trung bình, có thể cao tới 15–20 m, có lá hình lông chim mọc so le, mỗi lá dài 15–25 cm, với 2-8 lá chét ở bên dài 5–10 cm và không có lá chét ở đỉnh. Các lá non mới mọc có màu đỏ đồng sáng, sau đó chuyển dần thành màu xanh lục khi đạt tới kích thước cực đại. Hoa nhỏ màu trắng ánh xanh lục hoặc trắng ánh vàng, mọc thành các chùy hoa dài tới 30 cm. Quả là loại quả hạch, hình cầu hoặc hơi thuôn, dài 3–4 cm và đường kính 3 cm. Lớp vỏ ngoài màu đỏ, cấu trúc sần sùi, không ăn được nhưng dễ dàng bóc được. Bên trong là lớp cùi thịt màu trắng mờ, ngọt và giàu vitamin C, có kết cấu tương tự như của quả nho. Ở giữa quả là một hạt màu nâu, dài 2 cm và đường kính cỡ 1-1,5 cm. Hạt - tương tự như hạt của quả dẻ ngựa - có độc tính nhẹ và không nên ăn. Quả chín vào giai đoạn từ tháng 6 (ở các vùng gần xích đạo) đến tháng 10 (ở các vùng xa xích đạo), khoảng 100 ngày sau khi cây ra hoa. Một số loài phụ: Litchi chinensis subsp. chinensis: phân bố ở Trung Quốc, bán đảo Đông Dương. Lá có 4-8 lá chét (ít khi 2). Litchi chinensis subsp. javanensis: phân bố ở đảo Java Litchi chinensis subsp. philippinensis (Radlk.) Leenh (đồng nghĩa: Euphoria didyma Blanco, Litchi philippinensis Radlk., Nephelium didymum (Blanco) Crai): phân bố ở Philippines, Indonesia. Lá với 2-4 lá chét (ít khi 6). Trồng và sử dụng Vải được trồng nhiều tại miền nam Trung Quốc cũng như ở khu vực Đông Nam Á, Ấn Độ, miền nam Nhật Bản và gần đây là tại Florida và Hawaii (Hoa Kỳ) cũng như các khu vực ẩm ướt thuộc miền đông Australia. Vải cần có khí hậu nóng vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới không có sương giá hoặc chỉ có mùa đông rét nhẹ với nhiệt độ không xuống dưới -4 °C và với mùa hè nóng bức, nhiều mưa và độ ẩm cao. Nó phát triển tốt trên các loại đất thoát nước tốt, hơi chua và giàu chất hữu cơ (mùn). Có nhiều giống cây trồng, với các giống chín sớm thích hợp với khí hậu nóng hơn còn các giống chín muộn thích hợp với khí hậu mát hơn. Ở một vài nơi người ta còn trồng vải làm cây cảnh. Quả vải nói chung được bán để ăn tươi tại các chợ khu vực (trong những năm gần đây nó cũng được bán rộng rãi tại các siêu thị phương Tây). Vỏ màu đỏ chuyển thành nâu sẫm khi quả được vận chuyển bằng các phương tiện đông lạnh, nhưng mùi vị gần như không bị ảnh hưởng. Dưới dạng đóng hộp nó được bầy bán quanh năm. Nguồn dẫn chiếu lịch sử chính thức đầu tiên của Trung Quốc về cây/quả vải có ở thời nhà Đường, khi nó là loại quả ưa thích của Dương Quý Phi, người thiếp yêu của hoàng đế Đường Huyền Tông (Đường Minh Hoàng). Người Quảng Đông cho rằng "ăn một quả vải bằng giữ ba ngọn đuốc trong người" (nguyên văn: 一啖荔枝三把火, nhất đạm lệ chi tam bả hỏa). Điều này muốn nói đến thuộc tính dương (nóng) của loại quả này. Ăn quá nhiều vải làm khô môi và có thể gây chảy máu cam ở một số người, cũng như có thể gây ra mụn nhọt hay loét miệng. Ngược lại, loại quả từ cây có quan hệ họ hàng là nhãn lại được coi là có các tính chất bổ dưỡng. Việt Nam Giống vải được ưa chuộng nhất ở Việt Nam là vải thiều trồng tại khu vực huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Tuy nhiên, vải được trồng nhiều nhất ở huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Quả vải tại vùng Thanh Hà (Hải Dương) thông thường có hương vị thơm và ngọt hơn vải được trồng ở các khu vực khác (mặc dù cũng lấy giống từ đây). Một giống vải khác chín sớm hơn, có tên gọi dân gian là "vải tu hú", có hạt to hơn và vị chua hơn so với vải thiều. Nguyên do có tên gọi như vậy có lẽ là vì gắn liền với sự trở lại của một loài chim di cư là chim tu hú. Vải ra hoa vào tháng 3 dương lịch và chín vào tháng 6. Thời điểm vải chín rộ thường bắt đầu từ giữa tháng 6 tới giữa tháng 7. Khoảng thời gian thu hoạch vải thiều thường ngắn, khoảng 2 tuần. Vì vậy nên với sản lượng lớn, người ta thường chế biến bằng cách sấy khô, sản phẩm sau đó gọi là vải khô. Trong lịch sử Việt Nam, vải gắn liền với hai nhân vật lịch sử của Việt Nam là Mai Thúc Loan và Nguyễn Trãi. Mai Thúc Loan xuất thân là phu khuân vải cống nạp cho nhà Đường của Trung Quốc. Ông đã lãnh đạo dân chúng khởi nghĩa và sau lên ngôi làm Mai Hắc Đế. Vải còn được biết đến ở Việt Nam qua vụ án Lệ Chi Viên (Vụ án vườn vải) liên quan đến Nguyễn Trãi.
Chi Vải (danh pháp khoa học: Litchi) là chi thực vật có hoa thuộc họ Sapindaceae được nhà thực vật Sonn. mô tả khoa học lần đầu năm 1782. Các loài Litchi chinensis Sonn. Litchi chinensis var. euspontanea H.H.Hsue Litchi chinensis subsp. javensis Leenh. Litchi chinensis subsp. philippinensis (Radlk.) Leenh. Litchi litchi Britton Litchi philippinensis Radlk. ex Whitford Litchi sinensis J.F.Gmel. Danh pháp đồng nghĩa Euphoria Comm. ex Juss.
{{Thông tin nhân vật | tên = Phú Lê | hình = | alt = | ghi chú hình = | tên khai sinh = Lê Văn Phú | ngày sinh = | nơi sinh = Yên Bái, Việt Nam | cư trú = Phường Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai, Hà Nội | nơi mất = | quốc gia = Việt Nam | năm hoạt động = 2015 – nay | nổi tiếng = * Ca sĩ nghiệp dư Phát ngôn gây sốc | notable_works = | module = {{Infobox YouTube personality|embed=yes | name = Phú Lê | channels = | years_active = 2015–nay | subscribers = 2.070.000<ref>{{chú thích web|title=Phú Lê's YouTube
Hiệp định về Chống bán Phá giá là một trong những hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được ký kết tại Vòng đàm phán Uruguay. Tên đầy đủ của Hiệp định là Hiệp định về việc Thực thi Điều VI của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994 (GATT 1994). Điều VI của GATT 1994 cho phép các thành viên có biện pháp chống lại hành vi bán phá giá. Hiệp định về Chống bán Phá giá quy định chi tiết các điều kiện để các thành viên WTO có thể thực hiện các biện pháp như vậy. Cả Hiệp định và Điều VI được sử dụng cùng nhau để điều chỉnh các biện pháp chống bán phá giá. Điều kiện áp dụng Định nghĩa đầy đủ của hành vi bán phá giá được quy định trong Hiệp định. Nói một cách vắn tắt, đó là hành vi của một công ty bán một mặt hàng xuất khẩu thấp hơn giá thông thường mà họ bán mặt hàng đó tại thị trường trong nước. Để áp dụng biện pháp chống bán phá giá, nước nhập khẩu là thành viên WTO phải chứng minh được ba điều kiện sau: Có hành động bán phá giá: được tính bằng độ chênh lệch giữa giá của mặt hàng nhập khẩu với giá của mặt hàng tương tự bán tại thị trường của nước xuất khẩu (gọi là biên độ phá giá). Có thiệt hại vật chất đối với ngành sản xuất của nước nhập khẩu đang cạnh tranh trực tiếp với hàng nhập khẩu. Hành động bán phá giá là nguyên nhân gây ra thiệt hại vật chất, hoặc đe dọa gây ra thiệt hại vật chất nêu trên. Biện pháp áp dụng Khi thỏa mãn được ba điều kiện trên, Hiệp định cho phép thành viên WTO được phép áp dụng biện pháp chống bán phá giá với mặt hàng nhập khẩu bị điều tra. Các biện pháp này thường là áp thêm một khoản thuế nhập khẩu đối với sản phẩm bị coi là bán phá giá nhằm đưa mức giá của sản phẩm đó xấp xỉ với "giá trị thông thường" của nó hoặc để khắc phục thiệt hại đối với ngành sản xuất của nước nhập khẩu. Các biện pháp này nếu trong điều kiện bình thường là những hành vi vi phạm các nguyên tắc của WTO về ràng buộc thuế suất nhập khẩu và không phân biệt đối xử hàng nhập khẩu. Tuy nhiên, biện pháp chống bán phá giá chỉ mang tính tạm thời nhằm loại trừ ảnh hưởng tiêu cực của hàng hoá nhập khẩu phá giá trên thị trường quốc gia nhập khẩu vì vậy các quốc gia chỉ được phép áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng hoá nhập khẩu thời hạn nhất định - tối đa là 5 năm. Miễn trừ Điều tra chống bán phá giá sẽ kết thúc ngay lập tức mà không đưa ra biện pháp chống bán phá giá nào nếu cơ quan chức năng xác định rằng biên độ phá giá không đáng kể (nhỏ hơn 2% giá xuất khẩu). Điều tra cũng chấm dứt nếu khối lượng hàng bán phá giá là không đáng kể (khối lượng hàng phá giá từ một nước bị điều tra nhỏ hơn 3% tổng nhập khẩu, đồng thời tổng khối lượng hàng phá giá từ tất cả các nước bị điều tra nhỏ hơn 7% tổng nhập khẩu). Cơ quan theo dõi Hiệp định cũng quy định các thành viên phải báo cáo chi tiết ngay lập tức cho Ủy ban phụ trách các Hành động Chống bán Phá giá của WTO khi họ bắt đầu tiến hành điều tra sơ bộ cũng như khi đưa ra kết luận cuối cùng. Họ cũng phải báo cáo tổng kết hai lần mỗi năm cho Ủy ban tất cả những cuộc điều tra của họ. Khi có sự tranh cãi, các thành viên được khuyến khích tiến hành tham vấn lẫn nhau. Nếu tham vấn không đạt được kết quả, họ có thể sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để giải quyết và phải chấp nhận kết quả giải quyết theo cơ chế này.
Họ Lạc tiên (danh pháp khoa học: Passifloraceae) là một họ thực vật có hoa chứa khoảng 935 loài trong khoảng 27 chi. Chúng bao gồm các loại cây thân gỗ, cây bụi, dây leo và chủ yếu tìm thấy trong khu vực nhiệt đới. Họ này có tên gọi từ hoa lạc tiên thuộc chi Passiflora, là chi bao gồm cả các loại cây cho quả ăn được như Passiflora edulis cũng như các loại cây trồng trong vườn như lạc tiên hoa tía (Passiflora incarnata) và lạc tiên hoa vàng (Passiflora lutea) hay dưa gang tây (Passiflora quadrangularis). Trong hệ thống Cronquist cũ thì người ta đặt họ này vào trong bộ Violales, nhưng trong các hệ thống phân loại gần đây chẳng hạn hệ thống của Angiosperm Phylogeny Group thì nó được đưa vào trong bộ Malpighiales. Phân loại Phân loại dưới đây lấy theo hệ thống APG III năm 2009: Passifloroideae Burnett (= Passifloraceae nghĩa APG II): Khoảng 16-18 chi, 705 loài. Phân bố trong khu vực nhiệt đới tới ôn đới ấm, đặc biệt đa dạng tại châu Phi và châu Mỹ. Các chi đa dạng nhất: Passiflora (525 loài), Adenia (100 loài). Tông Passifloreae: 10 chi, 675 loài. Phân bố tại khu vực nhiệt đới tới ôn đới ấm, đặc biệt tại châu Phi và châu Mỹ. Adenia (bao gồm cả Blepharanthes, Clemanthus, Echinothamnus, Erythrocarpus, Jaeggia, Keramanthus, Kolbia, Machadoa, Microblepharis, Modecca, Ophiocaulon, Paschanthus) Ancistrothyrsus Basananthe (bao gồm cả Carania, Tryphostemma) Crossostemma Deidamia (bao gồm cả Thompsonia) Dilkea Efulensia (bao gồm cả Giorgiella, Sematanthera) Mitostemma Passiflora (bao gồm cả Anthactinia, Asephananthes, Baldwinia, Ceratosepalum, Cieca, Decaloba, Disemma, Granadilla, Hollrungia, Monactineirma, Murucuja, Pentaria, Poggendorffia, Tacsonia, Tetrapathaea, Tetrastylis) Schlechterina Tông Paropsieae: 6 chi với khoảng 22 loài. Chi đa dạng nhất là Paropsia (12 loài). Phân bó tại vùng nhiệt đới, đặc biệt là Tây Phi. Androsiphonia Barteria Paropsia (bao gồm cả Hounea) Paropsiopsis Smeathmannia Viridivia Malesherbioideae Burnett (đồng nghĩa: Malesherbiaceae D. Don): 1 chi, 24 loài. Tại khu vực Andes ở Nam Mỹ, từ Peru kéo dài về phía nam, đạc biệt đa dạng tại miền bắc Chile. Malesherbia (bao gồm cả Gynopleura) Phân họ Turneroideae Eaton: Phân họ Hoa thời chung (đồng nghĩa: Piriquetaceae Martynov, Turneraceae de Candolle): 10 chi, 205 loài. Các chi đa dạng nhất là Turnera (122 loài), Piriquetia (44 loài). Phân bố: Nhiệt đới tới ôn đới ấm thuộc châu Mỹ và châu Phi. Adenoa Erblichia Hyalocalyx Loewia Mathurina Piriqueta Stapfiella Streptopetalum Tricliceras (bao gồm cả Wormskioldia) Turnera: Chi Đông hầu Chú thích
Thuật ngữ Bo mạch chủ thường dùng nhiều nhất trong ngành công nghiệp máy tính nói chung như một từ dành riêng, mặc dù có rất nhiều thiết bị khác cũng có thể có Bảng mạch chính được gọi là "bo mạch chủ". Bài viết này nói đến Bo mạch chủ trong các máy tính nói chung mà chú trọng nhiều hơn là của máy tính cá nhân. Bo mạch chủ của máy tính trong tiếng Anh là motherboard hay mainboard và thường được nhiều người gọi tắt là: mobo, main. Các thiết bị thường có mặt trên bo mạch chủ Trong các thiết bị điện tử Bo mạch chủ là một bản mạch đóng vai trò là trung gian giao tiếp giữa các thiết bị với nhau. Một cách tổng quát, nó là mạch điện chính của một hệ thống hay thiết bị điện tử. Có rất nhiều các thiết bị gắn trên bo mạch chủ theo cách trực tiếp có mặt trên nó, thông qua các kết nối cắm vào hoặc dây dẫn liên kết, phần này trình bày sơ lược về các thiết bị đó, chi tiết về các thiết bị xin xem theo các liên kết đến bài viết cụ thể về chúng. Bộ vi xử lý, hay là CPU: thành phần trọng tâm của một hệ thống máy tính. CPU có thể được hàn chết trên bo mạch chủ hoặc là một bộ phận rời được gắn vào thông qua socket Bộ nhớ hay là RAM: Chipset: Các vi mạch phụ có chức năng liên kết CPU với bộ nhớ và các bộ phận ngoại vi khác. ROM chứa phần sụn hệ thống, còn thường gọi là BIOS Khe cắm mở rộng cho phép kết nối các thiết bị ngoại vi như ổ đĩa, card màn hình, card mạng v.v thông qua bus mở rộng Các đầu nối vào/ra như VGA/HDMI, USB, PS/2, cổng nối tiếp/song song v.v Đầu nối nguồn máy tính Một số bộ phận ngoại vi thường được tích hợp trên bo mạch chủ: GPU hay trình điều khiển đồ họa: thường được tích hợp vào chipset hay CPU Trình điều khiển ổ đĩa như PATA/IDE (cũ) hay SATA (mới hơn) Trình điều khiển mạng Cấu trúc bo mạch chủ Cấu trúc sử dụng CPU của hãng Intel Cấu trúc bo mạch chủ sơ lược giải nghĩa như sau: CPU kết nối với Chipset cầu bắc (North Bridge), tại đây chipset cầu bắc giao tiếp với RAM và bo mạch đồ hoạ. Nói chung, cấu trúc máy tính cá nhân dùng bộ xử lý Intel đến thời điểm năm 2007 CPU sử dụng RAM thông qua chipset cầu bắc. Chipset cầu bắc được nối với chipset cầu nam thông qua bus nội bộ. Do tính chất làm việc "nặng nhọc" của chipset cầu bắc nên chúng thường toả nhiều nhiệt, bo mạch chủ thường có các tản nhiệt cho chúng bằng các hình thức khác nhau. Chipset cầu nam nối với các bộ phận còn lại, bao gồm các thiết bị có tính năng nhập/xuất (I/O) của máy tính bao gồm: các khe mở rộng bằng bus PCI, ổ cứng, ổ quang, USB, Ethernet... Cấu trúc sử dụng CPU của hãng AMD Về cơ bản, cấu trúc bo mạch chủ sử dụng CPU của hãng AMD giống như cấu trúc của bo mạch chủ sử dụng CPU của hãng Intel. AMD cũng như nhiều hãng khác đều chưa đưa ra định hướng riêng của mình mà phải theo cấu trúc của Intel bởi sự phát triển của máy tính cá nhân ngay từ thời điểm sơ khai đã phát triển theo cấu trúc nền tảng của các hãng IBM - Intel. Phần này chỉ nói ra những sự khác biệt nhỏ trong cấu trúc bo mạch chủ sử dụng CPU của AMD so với bo mạch chủ sử dụng CPU của hãng Intel: về một số cấu trúc bo mạch chủ cho bộ xử lý AMD có thể cho phép CPU giao tiếp trực tiếp với RAM mà điều này cải thiện đáng kể sự "thắt cổ chai" thường thấy ở cấu trúc bo mạch chủ sử dụng CPU của hãng Intel. Với thế hệ chipset X58/P5x/H5x, Intel đã giảm tải cho chíp cầu bắc bằng việc chuyển các bus giao tiếp với Ram và VGA lên CPU quản lý. Cấu tạo bản mạch in của bo mạch chủ Bản mạch in của bo mạch chủ có cấu tạo khác biệt một chút so với các bản mạch in của các thiết bị điện tử thường thấy khác. Đa số các bản mạch in ở các mạch điện đơn giản đều có cấu tạo hai mặt (mặt trước và mặt sau) để chứa các đường dẫn trên nó. Do có rất nhiều các đường dẫn hoạt động với tần số khác nhau nên (theo quy tắc chung) bản mạch phải được thiết kế với các đường dẫn không gây nhiễu sang nhau, đây là một điểm khác biệt khiến việc thiết kế bản mạch của bo mạch chủ khác với các bo mạch thông thường. Ở bo mạch chủ, do chứa nhiều linh kiện với các đường dẫn lớn nên chúng được thiết kế từ 3 đến 5 lớp (thậm chí nhiều hơn): Ngoài hai lớp mặt trước và mặt sau thì ở giữa của bo mạch cũng có các đường dẫn. Ngoài tác dụng để cắm và dán các linh kiện trên bề mặt nó, bo mạch chủ còn được thiết kế để truyền một phần nhiệt từ các thiết bị toả nhiệt trên nó và truyền nhiệt ra một diện tích rộng để được làm mát bằng không khí. ASUS là một hãng phần cứng của Đài Loan thường rất thành công trong việc thiết kế tản nhiệt ra bản mạch của bo mạch chủ. Tản nhiệt trên bo mạch chủ Do có nhiều linh kiện có thể phát nhiệt tại trực tiếp hoặc được cắm, gắn trên bo mạch chủ nên vấn đế tản nhiệt rất được coi trọng trong thiết kế. Phương thức tản nhiệt thường thấy trên bo mạch chủ bao gồm: Sử dụng các tấm, phiến tản nhiệt bằng nhôm hoặc đồng độc lập với cách truyền nhiệt tự nhiên ra môi trường xung quanh hoặc tận dụng luồng gió từ quạt CPU thổi ra. Sử dụng quạt tạo sự tản nhiệt cưỡng bức, tuy nhiên cách dùng quạt hiện nay dần ít được dùng bởi sự rủi ro có thể xảy đến khi bo mạch chủ được sử dụng sau vài năm và quạt có thể bị hư hỏng dẫn đến thiết bị được tản nhiệt bằng quạt này sẽ bị hư hỏng. Sử dụng công nghệ ống truyền nhiệt để liên kết các cụm chi tiết cần tản nhiệt với nhau. Các cụm được gắn kết với nhau thường là: Chipset cầu bắc-Chipset cầu nam-Transistor điều tiết điện năng cho CPU và bo mạch chủ. Cho phép sự tản nhiệt bằng nước với các hệ thống tản nhiệt nước gắn ngoài bằng cách thiết kế các đầu cắm ống nước chờ sẵn. Các thiết bị cần tản nhiệt trên bo mạch chủ: Chipset cầu bắc là thiết bị mà bất kỳ bo mạch chủ nào cũng phải tản nhiệt cho nó bởi sự phát nhiệt lớn tỏa ra bởi chúng là cầu nối quan trọng của hệ thống và làm việc liên tục. Nhiều bo mạch chủ tích hợp sẵn bo mạch đồ hoạ trong chipset cầu bắc khiến chúng càng toả nhiệt nhiều hơn. Chipset cầu nam mới được coi trọng sự tản nhiệt trong thời gian gần đây (trước đây chúng thường được để trần mà không được gắn bất kỳ một tấm tản nhiệt nào) bởi các tính năng và thiết năng mở rộng có thể làm nó hoạt động mạnh hơn và phát nhiệt nhiều hơn. Các transistor trường cho phần điều chế nguồn của bo mạch chủ và CPU: Nhiều bo mạch chủ thiết kế áp mặt lưng của các transistor này xuống trực tiếp bo mạch để tản nhiệt ra bo mạch, một số bo mạch chủ thiết kế các tấm phiến tản nhiệt riêng, số ít các bo mạch chủ cao cấp thiết kế ống truyền nhiệt liên kết chúng với các thiết bị tản nhiệt khác. Thiết kế riêng của các nhà sản xuất phần cứng Các nhà sản xuất phần cứng luôn tạo ra các sự thay đổi trong thiết kế cấu trúc của bo mạch chủ nên mỗi hãng khác nhau sẽ tạo ra một sự thay đổi nào đó so với các kiến trúc thông thường để hướng sự chú ý của khách hàng. Chính điều đó đã thúc đẩy công nghệ phát triển, tạo ra sự phát triển không ngừng. Sự thay đổi thiết kế có thể kể đến: Tăng số khe cắm PCI-Express X16 lên 3-4 khe để có thể hoạt động với đồng thời 2-4 bo mạch đồ hoạ hỗ trợ công nghệ CrossFire. Tạo ra những phương thức tản nhiệt hiệu quả. Cho phép ép xung của hệ thống. Thay đổi các loại linh kiện truyền thống bằng các linh kiện tốt hơn, bền hơn và chịu đựng được nhiệt độ cao hơn: Ví dụ việc sử dụng các tụ rắn thay cho tụ hoá thông thường. Các chuẩn bo mạch chủ thông dụng đến năm 2007 Chuẩn ATX ATX là chuẩn bo mạch chủ thông dụng nhất hiện nay, chúng được phát triển có chọn lọc trên nền các chuẩn cũ (Baby-AT và LPX) với sự thay đổi của thiết kế và liên quan nhiều đến việc thay đổi đầu nối nguồn với nguồn máy tính, tính năng quản lý điện năng thông minh và sự thay đổi nút khởi động một phiên làm việc. Một thay đổi khác là sự tập hợp các cổng kết nối vào/ra về phía sau của hệ thống máy tính cá nhân (bao gồm các khe cắm mở rộng ở phía dưới và cụm cổng vào/ra ở phía trên (I/O connector panel) đối với vỏ máy tính kiểu đứng). Hình minh hoạ đầu tiên của bài viết này là một bo mạch chủ theo chuẩn ATX. Đầu nối nguồn cho bo mạch chủ theo chuẩn ATX: Đầu nối nguồn cho bo mạch chủ theo chuẩn ATX bao gồm hai loại đầu: 20 chân và 24 chân. Hình phần trên: Đầu nối 24 chân cung cấp điện năng cho bo mạch chủ; hình dưới: Đầu nối vào bo mạch chủ cung cấp nguồn +12V cho CPU Theo sự quy ước (như hình) thì các đầu nối 20 chân chỉ khác biệt 4 chân dưới cùng. Nếu bỏ các chân 11, 12, 23, 24 (theo quy ước như hình) thì đầu nối 24 chân trở thành đầu nối 20 chân. Chính vì điều này mà một số nguồn máy tính đã thiết kế loại đầu cắm 20+4 chân phù hợp cho cả hai loại bo mạch chủ. Thay đổi nút Power so với các chuẩn cũ: Nút power ở các chuẩn cũ thuộc thể loại "công tắc", chúng có nguyên lý hoạt động giống như các công tắc bật đèn thông thường trong dân dụng (đây là điều tạo nên sự dễ phân biệt các chuẩn ATX và chuẩn cũ). Theo chuẩn ATX thì nút "Power" trên vỏ máy tính là một nút nhấn "mềm" (chúng tự đàn hồi về trạng thái 0 sau khi bấm), nút này có thể được lựa chọn tuỳ biến thành các chức năng khác nhau khi máy tính đã khởi động vào hệ điều hành (Ví dụ có thể trở thành một trong các nút: Stand by, Hibernate, Shutdown). Chuẩn BTX BTX là một chuẩn mới xuất hiện và thường chỉ dùng cho các hệ thống máy tính cá nhân cao cấp, điểm đặc biệt của bo mạch chủ theo chuẩn này là sự sắp xếp lại vị trí của các thiết bị trên bo mạch chủ nhằm tạo ra sự lưu thông không khí tối ưu trong thùng máy. CPU được chuyển gần ra phía trước của thùng máy cùng với quạt tản nhiệt CPU thiết kế kiểu thổi ngang (song song với bo mạch chủ) sẽ lấy gió từ phía mặt trước của vỏ máy (được thiết kế bắt buộc các lưới thoáng). Cách thiết kế này cải tiến so với chuẩn ATX bởi CPU theo chuẩn ATX có thể sử dụng luồng gió luẩn quẩn nếu không được thiết kế thông thoáng và định hướng gió hợp lý hoặc sử dụng vỏ máy tính theo chuẩn 38°. Luồng gió đầu vào sau khi làm mát CPU có thể tiếp tục làm mát bo mạch đồ hoạ, một phần thoát ra phía sau theo quạt thông gió của vỏ máy tính phía sau, một phần qua RAM để thoát ra ngoài thông qua nguồn máy tính. Kết nối nguồn của chuẩn BTX không có khác biệt so với của chuẩn ATX 24 chân. BTX hiện nay chưa trở thành thông dụng với đa số người dùng do đó các hãng sản xuất phần cứng cũng chưa cho ra đời nhiều loại bo mạch chủ theo chuẩn này. Các chuẩn kích thước của bo mạch chủ Kích thước của bo mạch chủ thường được chuẩn hoá để đảm bảo tương thích với các vỏ máy tính. Có các loại kích thước sau: Các chuẩn cổ điển trước đây Baby-AT: 216 mm × 254–330 mm Full-size AT: 305 mm × 279–330 mm LPX: 229 mm × 279–330 mm WTX: 355.6 mm × 425.4 mm ITX: 215 mm x 191 mm Các chuẩn hiện tại BTX: 305 x 272mm microBTX: 264 x 267 mm pico BTX: 203 x 267 mm ATX: 305 x 244 mm mini ATX: 284 x 208 mm microATX: 244 x 220 mm flexATX: 229 x 191 mm Mini-ITX: 170 x 170 mm Kích thước không theo chuẩn Trong một số trường hợp các nhà sản xuất máy tính có thể sản xuất các bo mạch chủ với kích thước riêng của họ nhưng loại này chỉ được lắp ráp tại các máy tính đồng bộ mà không được bán riêng lẻ ra thị trường Kết nối thông thường Các công ty sản xuất ASRock Asus Biostar EVGA Corporation Gigabyte Technology MSI (Micro-Star International) Intel Danh sách các nhà sản xuất bo mạch chủ:: Acer ACube Systems Albatron AMAX Information Technologies AOpen Chassis Plans DFI (bo mạch chủ công nghiệp), ngừng sản xuất bo mạch chủ LanParty vào năm 2009 ECS (Elitegroup Computer Systems) EPoX (một phần không còn tồn tại) First International Computer Foxconn Fujitsu Gumstix Hewlett-Packard IBM Intel (NUC và bo mạch chủ máy chủ) Lanner Inc (bo mạch chủ công nghiệp) Leadtek Lite-On NZXT Pegatron [] ]] Sapphire Technology Shuttle Inc. Simmtronics Supermicro Tyan VIA Technologies Vigor Gaming ZOTAC
Khánh Băng (1935–2005) là một nhạc công, nhạc sĩ người Việt Nam. Ông là tác giả của nhiều ca khúc được yêu thích, trong đó nổi tiếng nhất là bài Sầu đông. Sự nghiệp Ông tên thật là Phạm Văn Minh, sinh năm 1935 tại Thắng Tam, Vũng Tàu. Năm 1949, Khánh Băng lên học trung học ở trường Huỳnh Khương Ninh, Sài Gòn. Ông cùng vài người bạn như Vân Hùng, Tùng Lâm... lập một ban nhạc cùng nhau thường xuyên tập dượt và chơi miễn phí cho các đám cưới. Nghệ danh Khánh Băng được ghép từ tên của hai cô bạn học từ thời tiểu học, một người là Khanh còn người kia tên Băng, ông thêm dấu "sắc" vào chữ "Khanh" thành Khánh Băng. Năm 1954, dưới sự hướng dẫn và giúp đỡ của nhạc sĩ Võ Đức Thu, Khánh Băng thi đậu vào làm nhạc công đàn mandolin ở Đài phát thanh Sài Gòn. Tiếp sau đó, ông được Tùng Lâm tiến cử với nghệ sĩ Trần Văn Trạch chơi đàn ở đoàn Sầm Giang lẫn ban kịch Dân Nam và Đài phát thanh Pháp Á. Từ năm 1955 đến 1959, ông thường xuất hiện trên các sân khấu đại nhạc hội và phụ diễn ca nhạc với tiết mục độc tấu guitar thùng. Năm 1960, ông chuyển qua chơi guitar điện và biểu diễn hàng đêm tại phòng trà ca nhạc do chính ông làm chủ ở Thị Nghè. Khánh Băng được coi là người Việt Nam đầu tiên sử dụng đàn guitar điện trên sân khấu vào thập niên 1960. Năm 1962, ông thành lập ban nhạc với những thành viên ban đầu gồm ông, Phùng Trọng, Dương Quang Định và Dương Quang Lê Minh. Đến năm 1967, ban nhạc của ông trở thành ban nhạc thường trực của Đài Truyền hình Sài Gòn. Khánh Băng viết nhạc từ những năm học tiểu học, bản thân ông cũng không nhớ bản nhạc đầu tay của mình. Bản nhạc đầu tiên của ông được phát thanh là Nụ cười thơ ngây, do Minh Trang và Anh Ngọc song ca trên Đài Phát thanh Sài Gòn ngày 15 tháng 3 năm 1955. Sau đó, ông bắt đầu được biết đến với bài Vọng ngày xanh viết năm 1956. Bài hát này được nhà văn nữ nổi tiếng Françoise Sagan viết lời Pháp và nhờ vậy, ông được Hội Tác quyền âm nhạc Pháp mời gia nhập. Khánh Băng viết rất nhiều ca khúc có tiết tấu nhanh, sôi động, thường được gọi là thể loại nhạc kích động. Những bài Sầu đông, Có nhớ đêm nào, Tiếng mưa rơi... do ông sáng tác vào khoảng năm 1962 được coi là những bài nhạc trẻ đầu tiên ở Việt Nam. Riêng bài Sầu đông còn được ông viết thêm lời Pháp Jonhny Mon Amour và có thêm lời tiếng Anh do một người khác viết. Ông cũng viết các ca khúc trữ tình dưới bút danh Anh Minh, Nhật Hà, Thủy Thanh Lam và Thanh Hà. Trong khoảng thời gian từ 1991 đến 1996, trước khi bị mù do ảnh hưởng của bệnh tiểu đường, ông vẫn còn sáng tác được hơn 100 bài, trong đó có những bài hát phổ biến như Chờ người, Chiều đồng quê, Trên nhịp cầu tre,... mang phong cách dân ca Nam Bộ. Ông mất ngày 9 tháng 2 năm 2005 (mùng một Tết Ất Dậu) tại nhà riêng quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh. Thi hài ông được an táng ở quê nhà Vũng Tàu. Sáng tác Bút danh khác 6 tháng quân trường (Nhật Hà) Chung niềm tâm sự (Nhật Hà) Chuyện (Anh Minh) Đóa hoa tình thương (Nhật Hà) Đường trần vạn nẻo (Thanh Hà) Giờ này anh ở đâu? (Nhật Hà) Gối mộng (Nhật Hà) Hoa cưới nhà ai (Thủy Thanh Lam) Một chiều gặp gỡ (Nhật Hà) Nếu có xa nhau (Nhật Hà) Nỗi buồn đêm đông (Anh Minh) Tình yêu là gì (Thủy Thanh Lam) Trăng thề (Nhật Hà) Vườn tao ngộ (Nhật Hà) Khánh Băng 2 người lính trẻ 10 năm giã biệt Bên ánh đèn đêm Bước giang hồ Bốn mùa thương nhớ Cánh én ngày xuân Chiều đồng quê Chiều hoang Chiều hoang giã biệt Chiều thủ đô Chiều vàng với mái nhà tranh (lời Việt) Chờ người Chung tình Chuyện đôi ta Có nhớ đêm nào Còn chi nữa Con đường mang tên chúng ta Cung đàn lãng tử Cuộc tình nuối tiếc Đà Lạt một chiều mơ Đêm cô đơn Đêm hành quân Đôi bờ Đôi cánh thiên thần Đôi ngả chia ly Đừng trách người đi Em gái quê Em ơi đừng đến nữa Gió thu Khi đã yêu em Lời thì thầm Màu nắng quê hương Miền Nam ca khúc Mối duyên quê Mộng chiều Một chiều gặp gỡ Một cuộc tình sầu Nếu Nếu biết em Nếu có nhớ đến Nếu có xa nhau Nếu có yêu em Nếu một ngày Ngày về quê cũ Người lính chung tình Người tình và quê hương Người về sau cuộc chiến Nhắn nhủ Nhắn cánh chim chiều Nhịp bước ngày xuân Nhớ cánh chim xưa Những giọt mưa sầu Pháo hồng tiễn biệt Sầu đông Sương rơi Tại vì anh Thà đừng yêu nhau Thần kinh non nước hữu tình Tiếc thương Tiếng mưa rơi Tìm ánh sao rơi Tìm yêu Tình cho không Tình đầu dang dở Tình đầu hạ Tình đẹp muôn thuở Tình đẹp quê hương Tình đêm trăng thu Tình khúc giao duyên Tình mơ Tình yêu là thế Tôi muốn quên người Trả lại cho tôi Trách hờn Trăng thanh nhạc khúc Trăng và thủy thủ Trăng Vũng Tàu Trên nhịp cầu tre Tủi phận Vọng áng mây chiều Vọng cố nhân Vọng ngày xanh Vòng hoa mùa cưới Vui trọn đêm nay Xin nhớ tìm nhau Xuân cố hương Xuân đến rồi bạn ơi Xuân liên hoan Chú thích
Phân lớp Sổ (Dilleniidae) là một danh pháp thực vật ở cấp độ phân lớp. Định nghĩa của phân lớp này thay đổi theo hệ thống phân loại được sử dụng; yêu cầu duy nhất là nó phải bao gồm họ Sổ (Dilleniaceae). Wikipedia chấp nhận hệ thống APG III trong đó không sử dụng các danh pháp thực vật chính thức ở cấp độ cao hơn bộ và vì thế trong phạm vi Wikipedia thì tên gọi này sẽ không được định nghĩa về mặt phân loại học. Hệ thống được nhiều người biết đến có sử dụng tên gọi này là hệ thống Cronquist và trong phiên bản nguyên gốc năm 1981 của hệ thống này thì định nghĩa của phân lớp Sổ là: Phân lớp Dilleniidae bộ Dilleniales - bộ Sổ bộ Theales - bộ Chè bộ Malvales - bộ Cẩm quỳ bộ Lecythidales - bộ Lộc vừng bộ Nepenthales - bộ Nắp ấm bộ Violales - bộ Hoa tím bộ Salicales - bộ Liễu bộ Capparales - bộ Màn màn bộ Batales - bộ Lê mộc bộ Ericales - bộ Thạch nam bộ Diapensiales - bộ Nham mai bộ Ebenales- bộ Thị, hồng, cậy, mun bộ Primulales - bộ Anh thảo APG II và APG III đưa các loại thực vật trong phân lớp này vào các nhánh asterids và rosids.
Bộ Sổ (danh pháp khoa học: Dilleniales) là một bộ thực vật có hoa. Tên gọi này đã được sử dụng trong hệ thống Cronquist. Trong phiên bản năm 1981 của hệ thống này thì bộ (nằm trong phân lớp Sổ - Dilleniidae) có định nghĩa bao gồm 2 họ: họ Sổ (Dilleniaceae) và họ Mẫu đơn (Paeoniaceae). Trong hệ thống APG II (sử dụng trong Wikipedia) thì họ thứ nhất được đưa vào nhóm thực vật hai lá mầm thật sự (eudicots) nhánh hai lá mầm thực thụ phần lõi (core eudicots), không được xếp như là một bộ, còn họ thứ hai được đặt trong bộ Tai hùm (Saxifragales). Tuy nhiên, trên website của APG, truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2009, người ta lại công nhận bộ này với chỉ 1 họ (họ Sổ), 10 chi và 300 loài.
Bộ Chè (tên khoa học Theales) là một danh pháp thực vật ở cấp độ bộ. Tên gọi này được sử dụng trong hệ thống Cronquist cho một bộ nằm trong phân lớp Sổ (Dilleniidae) và trong phiên bản năm 1981 của hệ thống này thì người ta định nghĩa bộ này như sau: bộ Theales họ Actinidiaceae - họ Đằng lê (dương đào), kivi họ Caryocaraceae họ Clusiaceae - họ Bứa, măng cụt, mù u v.v họ Dipterocarpaceae - họ Dầu họ Elatinaceae họ Marcgraviaceae họ Medusagynaceae - họ Sứa (thực vật) ở đảo Mahé, Seychelles họ Ochnaceae - họ Mai (vàng, đỏ, tứ quý v.v) họ Oncothecaceae họ Paracryphiaceae họ Pellicieraceae họ Pentaphylacaceae - họ Ngũ liệt họ Quiinaceae họ Sphaerosepalaceae họ Scytopetalaceae họ Tetrameristaceae họ Theaceae - họ Chè Trong hệ thống APG II (sử dụng trong Wikipedia) thì các họ được cho vào bộ này được xếp lại trong nhiều bộ khác nhau, trong số đó chủ yếu là hai bộ Malvales (bộ Cẩm quỳ) và Malpighiales (bộ Sơ ri). Chú thích
Bộ Lộc vừng (danh pháp khoa học: Lecythidales) là danh pháp thực vật ở cấp bộ. Tên gọi này được sử dụng trong hệ thống Cronquist cho một bộ thuộc phân lớp Sổ (Dilleniidae). Bộ này chỉ bao gồm một họ duy nhất là họ Lộc vừng (Lecythidaceae). Họ này hiện nay (trong hệ thống APG II) được đặt trong bộ Thạch nam (hay bộ Đỗ quyên) (Ericales). Lưu ý là chi Lecythis có lẽ không có mặt tại Việt Nam, nên người ta gọi tên bộ này theo chi có chứa cây lộc vừng hoa chùm (Barringtonia racemosa) là chi Barringtonia.
Anh hùng dân tộc là những người có công lao kiệt xuất trong công cuộc đấu tranh bảo vệ và phát triển của một dân tộc, được nhân dân ca ngợi và lịch sử dân tộc ghi nhận. Anh hùng dân tộc thường xuất hiện khi lịch sử dân tộc gặp biến cố to lớn, góp phần thay đổi vận mệnh của dân tộc. Là biểu tượng và là một niềm tự hào bất diệt của dân tộc. Theo quốc gia Hoa Kỳ Từ thời kỳ 13 tiểu bang nội địa đầu tiên nổi dậy đấu tranh giành độc lập khỏi Đế quốc Anh cùng với sự ra đời của Nhà nước Hợp Chúng quốc Hoa Kỳ (1776) cho đến nay, quốc gia này đã xuất hiện rất nhiều vị tổng thống được các sử gia đánh giá là những vị tổng thống vĩ đại nhất trong lịch sử, đồng thời cũng được ca ngợi là những vị anh hùng dân tộc kiệt xuất là: George Washington, John Adams, Thomas Jefferson, James Madison, Abraham Lincoln, Franklin D. Roosevelt, John F. Kennedy, Ronald Reagan và George H.W. Bush. Việt Nam Trong suốt lịch sử hàng nghìn năm bảo vệ và phát triển đất nước của dân tộc Việt Nam đã xuất hiện nhiều anh hùng dân tộc tiêu biểu. Ngày 21 tháng 6 năm 2013, tại văn bản số 2296/BVHTTDL-MTNATL, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam đã đưa ra danh sách 14 vị anh hùng dân tộc tiêu biểu nhất trong lịch sử Việt Nam theo thứ tự thời gian như sau: Quốc tổ Hùng Vương, Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế (Lý Bí), Ngô Quyền, Đinh Tiên Hoàng (Đinh Bộ Lĩnh), Lê Đại Hành (Lê Hoàn), Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn), Lý Thường Kiệt, Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo (Trần Quốc Tuấn), Lê Thái Tổ (Lê Lợi), Nguyễn Trãi, Quang Trung (Nguyễn Huệ), Hồ Chí Minh. Trung Quốc Lịch sử của đất nước Trung Quốc thường gắn bó với những cuộc nội chiến, những cuộc tranh giành quyền lực giữa các phe phái trong nước, những cuộc xâm lược nhằm bành trướng lãnh thổ đến các nước lân bang. Tuy nhiên, quốc gia này cũng có những vị anh hùng được sinh ra trong những thời kỳ xã hội đất nước bị bần cùng hóa, đất nước bị chủ nghĩa đế quốc đô hộ như: Tổ Địch, Dương gia tướng, Nhạc Phi, Hàn Thế Trung, Lý Cương, Tông Trạch, Văn Thiên Tường, Trương Thế Kiệt, Lục Tú Phu, Vu Khiêm, Thích Kế Quang, Viên Sùng Hoán, Tần Lương Ngọc, Sử Khả Pháp, Lâm Tắc Từ, Quan Thiên Bồi, Phùng Tử Tài... Ấn Độ Lịch sử của đất nước Ấn Độ thường gắn liền với hình ảnh vị lãnh tụ Mahatma Gandhi vĩ đại. Ông được xem là người anh hùng dân tộc đã lãnh đạo nhiều phong trào yêu nước chống lại sự cai trị của Đế quốc Anh vào giữa thế kỷ 20 Philippines José Rizal, nhà cách mạng và là người anh hùng đấu tranh bất bạo động cho phong trào giành độc lập của Philippines từ đế chế Tây Ban Nha ở thế kỷ 19 Thổ Nhĩ Kỳ Sultan Mehmed II là Nhà chinh phạt quang vinh, vị Sultan vĩ đại của dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ vào thế kỷ 15. Ông là người có công thống suất ba quân tiến hành cuộc chinh phạt thành Constantinopolis, tiêu diệt Đế quốc Đông La Mã và lập nên một kinh đô mới cho Đế quốc Ottoman ngày một lớn mạnh. Không những gặt hái những chiến thắng, mở rộng bờ cõi khiến cho dân châu Âu phải khiếp sợ, ông còn là vị Sultan bảo trợ nền khoa học và nghệ thuật nở rộ. Mustafa Kemal Atatürk là người anh hùng giải phóng đã mang lại một loạt chiến thắng vẻ vang cho Quân đội Ottoman trong chiến dịch ác liệt ở bán đảo Gallipoli (Chiến tranh thế giới lần thứ nhất) trước quân xâm lược Anh - Pháp - Nga. Sau khi Đế quốc Ottoman đầu hàng, ông lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc Chiến tranh Giải phóng Dân tộc đánh đuổi liên quân Anh - Pháp - Ý - Hy Lạp, đồng thời lật đổ Vương triều Ottoman và sáng lập ra nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại đầu thế kỷ 20. Ba Tư cổ Cyrus Đại Đế là vị vua khai quốc của Đế quốc Ba Tư, là người có công hợp nhất các dân tộc Media và Ba Tư thành một quốc gia. Trong khắp Đế quốc Ba Tư, người Ba Tư hết mực kính nể gọi ông là "Quốc tổ", người Babylon gọi ông là "Nhà Giải phóng", người Hy Lạp gọi ông là "Đấng ban luật" và người Do Thái gọi ông là "Người xức dầu của Chúa Trời", do ông thực chính sách công bình giữa các dân tộc. Ông cũng là một nhà chiến thuật và chiến lược đại tài. Venezuela Simón Bolívar, người anh hùng lãnh đạo giành độc lập thành công cho Venezuela từ đế chế Tây Ban Nha ở đầu thế kỷ 19 Argentina José de San Martín, nhà cách mạng và là người anh hùng lãnh đạo giành độc lập thành công cho Argentina từ đế chế Tây Ban Nha ở đầu thế kỷ 19 Chile Bernardo O'Higgins, nhà cách mạng và là người anh hùng lãnh đạo giành độc lập thành công cho Chile từ đế chế Tây Ban Nha ở đầu thế kỷ 19 Scotland Nhà yêu nước William Wallace, thủ lĩnh cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Scotland chống lại ách đô hộ của Vương quốc Anh, vào thế kỷ 13. Ông được mệnh danh là "Người hộ vệ của Scotland". Robert the Bruce - một nhà quý tộc Scotland, đã bị ý chí của William Wallace thức tỉnh bản tính hèn nhát của mình, để từ đó sau khi Wallace bị hành hình, cũng như ông trở thành vua Scotland (vua bù nhìn). Ông đã đứng lên thay Wallace lãnh đạo khởi nghĩa giành độc lập cho Scotland, bắt vua Edward I tàn bạo phải thừa nhận nền độc lập của Scotland,và sau khi Scotland độc lập, ông trở thành vị vua chính thức của Scotland. Ông được biết đến như một anh hùng dân tộc và là tấm gương để người đời học tập về sự đấu tranh với bản thân Đức Tù trưởng Hermann (Arminius) của thị tộc Cherusci, là người có công lãnh đạo liên minh các thị tộc trên khắp miền Germania đánh tan tác các binh đoàn Lê dương La Mã trong trận rừng Teutoburg vào đầu thế kỷ 1, giải phóng miền đất Germania và mở ra thời kỳ phát triển văn hóa, chủ quyền của dân tộc Đức, cùng truyền thống quân sự hào hùng của dân tộc. Là một trang tù trưởng anh dũng, ông luôn luôn được vinh danh trong thi ca Đức như một vị danh tướng, và là một trong những người lãnh đạo quả cảm nhất của nước Đức thời cổ xưa. Đầu thế kỷ 16 có nhà thần học Martin Luther người xứ Sachsen-Anhalt, là người anh hùng "Hercules trên đất Đức" và là "chim sơn ca trên đất Đức". Ông là người có công lớn tiến hành cuộc cải cách tôn giáo Kháng Cách. Trong hội nghị của các vua chúa Đức tại Worms, ông vẫn khẳng khái bảo vệ đức tin của mình. Cuối thế kỷ 17 có Tuyển hầu tước Vĩ đại Friedrich Wilhelm I, là người đã đưa lãnh địa phong kiến Phổ - Brandenburg từ một quốc gia nghèo nàn, bị chiến tranh tàn phá, trở thành một Nhà nước lớn mạnh, đưa dân tộc Phổ - Đức đến giai đoạn huy hoàng đầu tiên của họ. Ông xây dựng lực lượng Quân đội thường trực hùng mạnh, tạo tiền đề cho Phổ lớn mạnh. Thoạt đầu ông đánh tan tác quân Ba Lan và giành độc lập cho xứ Phổ khỏi ách chư hầu của Vương triều Ba Lan, sau đó ông lập chiến công rạng rỡ đánh tan nát quân xâm lược Thụy Điển trong trận Fehrbellin. Ông trở thành một vị lãnh chúa lỗi lạc trong khi lãnh địa của ông ngày một vinh quang. Với ông, một bộ máy Chính phủ hữu hiệu được xây dựng. Giữa thế kỷ 18 có vị vua - chiến binh Friedrich II Đại Đế nước Phổ, là một nhà văn hóa kiệt xuất, lại còn có tài dụng binh trị nước. Ông đã chinh phạt tỉnh Silesia của Áo. Trong cuộc Chiến tranh Bảy Năm, ông thắng trận và đặc biệt mang lại huy hoàng cho toàn thể dân tộc Đức với cuộc đại phá tan nát liên quân Pháp - Áo hùng mạnh trong trận Rossbach, cùng chiến công hào hùng đập tan tác đại binh Áo trong trận Leuthen, mở đường cho vận mệnh sáng soi của dân tộc. Những cuộc chinh phạt hiển hách của ông đã đem lại di sản đồ sộ về quân sự cho nước Đức. Cuối đời, với thành công của việc thiết lập Liên minh các Vương hầu Đức bảo vệ đức tin Kháng Cách cùng quyền lợi của nước Phổ, ông trở thành vị anh hùng Đại đức rạng rỡ, mở đường cho một nước Đức thống nhất. Không những thế, ông còn là vị Quân vương có tư tưởng tiến bộ nhất thời đại, là ông vua - triết học viết nhiều sách. Đầu thế kỷ 19 có Bá tước August Neidhardt von Gneisenau nước Phổ, là một Sĩ quan Tham mưu đại tài. Lúc Vương quốc lâm nguy, ông là người lãnh đạo quân dân Phổ dũng mãnh giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh bảo vệ pháo đài Colberg trước cuộc xâm lược của quân tinh nhuệ Pháp, mang lại niềm tự hào cho dân tộc Đức. Là người có tầm nhìn xa trông rộng, ông nỗ lực cải cách đưa Quân đội Phổ trở thành một lực lượng hùng mạnh, toàn thắng cuộc Chiến tranh Giải phóng đánh đuổi quân Pháp ra khỏi bờ cõi. Với thiên tài quân sự của mình, ông cũng góp phần mang lại chiến thắng quyết định của liên quân chống Pháp trong trận Waterloo, nhờ đó ông trở thành một trong số ít những vĩ nhân lịch sử đã hạ gục Hoàng đế Napoléon Bonaparte. Cùng thời đó có Thống chế Gebhard Leberecht von Blücher nước Phổ, cũng là một kình địch không đội trời chung của Napoléon. Ông vốn đã nuôi chí căm hờn người Pháp và kiên quyết sẽ giải phóng quốc gia. Là một nhà yêu nước Phổ, vị danh tướng xuất sắc này đã làm việc thân cận với các nhà quân sự lỗi lạc khác như Gneisenau, góp phần lật nhào chế độ Napoléon (tỷ như trận Leipzig), đẩy quân Pháp về sào huyệt Paris trong cảnh ngộ thất thế. Ông là người tung đại quân Phổ vào họp binh với quân Anh trong trận Waterloo, góp phần quyết định đè bẹp hoàn toàn Napoléon Bonaparte. Trong trận thắng quyết định này ông hợp tác chặt chẽ với Gneisenau. Ông trở thành một huyền thoại sống trong đời mình, vì những chiến tích của ông đại thắng Napoléon. Cuối thế kỷ 19 có Thủ tướng Otto von Bismarck nước Phổ là một lãnh đạo sáng suốt, có ảnh hưởng lớn nhất ở châu Âu. Ông là nhà chính trị thiên tài và dày dạn kinh nghiệm, là một nhà ngoại giao bậc thầy, đã hoàn thành công cuộc nhất thống các quốc gia ở Đức thành một Đế chế Đức. Là một nhân vật hiếm có trong lịch sử châu Âu, ông thực hiện chính sách "Chính trị thực dụng" (Realpolitik), mang lại thành quả cho Phổ - Đức. Thoạt đầu, ông giành chiến thắng lừng lẫy trong cuộc Chiến tranh Schleswig lần thứ hai chống Đan Mạch. Tiếp theo đó, ông đánh thắng cuộc Chiến tranh chống Áo, rồi lại toàn thắng cuộc chiến tranh chống Pháp (trận đánh quyết định tiêu biểu nhất là trận Sedan). Với những công tích rực rỡ ấy, ông đã thiết lập ra Đế chế Đức hùng cường, dũng mãnh. Là một quốc gia non trẻ nhưng Đế chế Đức có lực lượng Quân đội tinh nhuệ nhất Âu châu và là nỗi lo sợ của các nước láng giềng. Sang thế kỷ 20 nước Đức có Thống chế Paul von Hindenburg là một huyền thoại sống, một vị anh hùng dân tộc trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Khi quân Nga xâm lược vùng Đông Phổ, ông dẫn dắt quân sĩ giành chiến thắng hào hùng trong trận Tannenberg, đưa ông trở thành người anh hùng trong mắt toàn dân Đức. Nhân dân coi ông là vị mãnh tướng trả thù cho chiến bại của các Hiệp sĩ Teuton trước người Slavơ trong trận Tannenberg thời Trung Cổ. Khi quân Nga sang tái xâm phạm, ông lại quét sạch quân địch trong trận hồ Masurian lần thứ nhất - một chiến tích vang lừng khó quên trong lịch sử quân sự nước Đức. Sau khi cuộc Đại chiến kết thúc, vì những chiến công hiển hách của ông mà ông được bầu làm Tổng thống nước Cộng hòa Weimar. Trong mắt biết bao người Đức, ông là biểu hiện của giá trị truyền thống Phổ với tinh thần kỷ cương, tuân lệnh, trách nhiệm, thượng võ. Anh Vua nước Phổ Friedrich II Đại Đế, với những chiến công hiển hách đại phá quân Pháp và quân Áo tại Rossbach và Leuthen, được nhân dân Anh Quốc coi là người anh hùng. Nhờ có liên minh với ông, nước Anh dễ dàng đánh bại liên minh Pháp - Tây Ban Nha, đưa đất nước trở nên vinh quang, cường thịnh. Không những thế, liên minh với ông cũng hỗ trợ cho người Anh giải phóng xứ Hanover chư hầu. Với một loạt chiến thắng đầu tiên (như trận đánh sông Nin) rồi đến chiến thắng trước thủy binh Pháp trong trận Trafalgar vào năm 1805, Đô đốc Horatio Nelson trở thành anh hùng dân tộc Anh. Thụy Điển Vị vua nước Thụy Điển vào thế kỷ 18, Karl XII, đã đấu tranh trong suốt 18 năm trời để bảo vệ đất nước, tuy thất bại nhưng các nhà dân tộc chủ nghĩa lãng mạn Thụy Điển coi là anh hùng dân tộc. Nga Thời Trung Cổ có Đại Vương công xứ Vladimir là Aleksandr Yaroslavich Nevsky đã đánh tan tác quân xâm lược Thụy Điển và các Hiệp sĩ Teuton. Không những thế, ông còn đập tan quân Litva, và trở thành anh hùng dân tộc của Nga. Thời Đế quốc Nga, nổi bật lên là Mikhail Kutuzov, người đã đánh bại đội quân hùng mạnh của Napoleon I và góp phần quan trọng trong việc làm sụp đổ Đế chế Pháp. Thời kì Liên bang Xô Viết, có rất nhiều vị tướng tham gia trong Chiến tranh vệ quốc vĩ đại, trong đó tiêu biểu nhất là nhà lãnh đạo Iosif Stalin, linh hồn của Liên Xô trong cuộc chiến và là nhà lãnh đạo tái thiết Liên Xô sau chiến tranh cũng như xây dựng Liên Xô thành cường quốc. Georgi Zhukov - Nguyên soái Liên bang Xô Viết, là vị tướng trải qua rất nhiều trận mạc từ châu Âu đến châu Á, ông là nỗi khiếp sợ của quân đội phát xít và được coi là vị tướng số một của Liên Xô trong Chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Chú thích
Giải đua ô tô Công thức 1 châu Âu là một trong nhiều giải thuộc giải đua xe Công thức 1 vô địch thế giới diễn ra hàng năm. Các đội đua sẽ thi đấu trên đường đua Nürburgring tại Nürburg, Đức. Các thông số kỹ thuật của đường đua Nürburgring Tham dự giải Công thức 1 từ: 1983 Số lần tham dự giải Công thức 1: 16 Chiều dài một vòng đua: 5,15 km Số vòng đua: 60 Tốc độ tối đa: 325 km/h Sức chứa tối đa: 140.000 người Kỷ lục chạy một vòng nhanh nhất: 1 phút 29,468 giây của Michael Schumacher (Ferrari F1) năm 2004 Năm 2006 Thời gian: 7 tháng 5 Đội đua Super Aguri: Franck Montagny thay thế Yuji Ide. Các cá nhân và đội đua vô địch
Xem các chợ cùng tên khác tại chợ Âm Phủ Chợ Âm Dương (còn gọi là chợ Âm Phủ) là một chợ đặc biệt theo quan niệm là nơi người chết và người sống có thể gặp nhau, họp tại một vài nơi trên cả nước, đặc biệt là ở Bắc Ninh, Việt Nam có 2 chợ âm dương là chợ Ó và chợ Chằm. .Chợ Ó - Võ Cường, Tp. Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh Họp chợ Chợ họp ở địa phận làng Ó, xã Võ Cường, thành phố Bắc Ninh. Tương truyền ngày xưa đó là bãi chiến trận và đã có rất nhiều người chết trong các cuộc giao tranh. Là chợ đặc biệt nên chợ Âm Dương chỉ họp duy nhất mỗi năm một lần vào đêm mùng 4 rạng mùng 5 Tết Nguyên Đán (tức mùng 4, mùng 5 tháng Giêng âm Lịch). Theo quan niệm của mọi người dân trong vùng, thì chợ họp là cơ hội hiếm có cho người chết và người sống được gặp nhau. Chợ bắt đầu họp vào lúc "lên đèn" trên một bãi đất trống, cạnh một ngôi miếu có tiếng linh thiêng trong vùng. Đây là chợ mà không có lều quán, không sử dụng đèn nến để thắp sáng. Nhiều người đi chợ thường mang theo một con gà đen được chăm sóc cẩn thận trước đó để làm vật tế thần. Tuy không có lều quán nhưng trong chợ cũng có nhiều hàng mã, hương, nến, cau, trầu... Hàng hóa Chợ không phải là nơi mua may bán rủi như nhiều chợ nơi khác. Trong chợ người mua không ai mặc cả, người bán không đếm lại tiền người mua trả. Trong bóng đêm chỉ thấy bóng người đi lại và tiếng thì thào to nhỏ. Người ta hầu như không quan tâm nhiều đến việc "mua may bán rủi" như ở một số chợ khác. Chợ họp là dịp để người cõi trần gặp người cõi âm. Ở đầu chợ, người ta đặt một chậu nước để thử tiền âm hay tiền dương. nếu đồng tiền đó nổi lên thì là tiền người âm còn chìm xuống là tiền của người dương Sáng hôm sau, có người xem trong túi đựng tiền của mình chỉ toàn là vỏ hến, lá dong... thậm chí có cả mẩu yếm sồi. Ý nghĩa Những ai đi chợ đều vui vẻ, thoải mái, họ quan niệm rằng đó là dịp làm phúc, làm điều thiện với người đã chết. Cuộc sống tâm linh của họ sẽ thanh thản hơn. Chợ tan khi còn đêm. Sau khi tan chợ, những người đi chợ lại mời nhau uống nước ăn trầu và hát quan họ Bắc Ninh. Đây là một hình thức sinh hoạt văn hóa mang đậm màu sắc tín ngưỡng dân gian rất đặc trưng của vùng Kinh Bắc. Người ta quan niệm rằng, có như vậy thì việc làm ăn hay mùa vụ năm đó mới được thuận lợi. .Chợ Chằm - Mão Điền, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh Họp chợ "Chợ âm dương" họp ở xã Mão Điền, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh: có tên gọi là "chợ Chằm". Chợ Chằm là một chợ dân sinh nhỏ, phục vụ nhu cầu mua sắm của nhân dân trong xã Mão Điền cũng như vùng lân cận. Bình thường, chợ không họp liên tục, mà chỉ họp ấn định vào các ngày mùng 4, 9, 14, 18, 24, 28 trong tháng, theo lịch âm. Tuy nhiên chỉ có phiên chợ tết ngày mùng 4 tháng Giêng (4/1 - âm lịch) là được gọi là "chợ âm dương". Nguồn gốc Bởi vì, tương truyền nơi đây trước kia cũng là nơi chiến trường đẫm máu (từ thời phong kiến xa xưa), số người chết nhiều không kể xiết. Theo quan niệm duy tâm xưa, các oan hồn này không được siêu thoát, mà bị lưu vong ở dưới địa ngục (không được đầu thai), chỉ đến dịp tết hàng năm mới được "hồn lên dương thế" quay lại nơi mình đã chết trước kia. Chuyện kể rằng, từ sau năm có chiến tranh không lâu, người dân họp chợ ngày mùng 4 tháng Giêng hay gặp những chuyện lạ thường như: đi mua bán hay bị đưa tiền giả, mang về nhà mới biết (tiền xu bị biến thành đất, lá chuối khô,...), người dân nghi là do các oan hồn chiến sĩ đã về đi chợ mua hàng, họ trả tiền âm phủ, ở chợ có quá nhiều âm khí nên không nhận ra được. Ban đầu nhân dân trong vùng cũng nhờ thầy về cúng xua đuổi tà ma, nhưng không nổi vì âm khí quá nặng. Sau đó họ được thầy bày cho cách là khi đi chợ thì mang theo một thau nước (nhất là người bán), kiểm tra tiền chỉ cần thả vào nước là biết, nếu chìm là tiền thật, nổi là tiền giả! Do đã có cách phân biệt tiền âm, tiền dương, hơn nữa mỗi năm người âm cũng chỉ lên có một lần, nên người ta vẫn tiến hành họp chợ bình thường. Cho đến thời gian gần đây (thời phong kiến trước Cách mạng tháng Tám), mặc dù không mua bán được bằng tiền âm, nhưnng dường như các hồn vẫn muốn tranh thủ cơ hội lên trần đi chợ ngắm cảnh, tham quan - nên người ta vẫn thi thoảng có những câu chuyện ly kỳ chứng tỏ người âm lên trần, mặc dù thưa thớt dần đi. Hiện tại Cho đến bây giờ, thì người dân trong vùng đã không đi họp chợ vào ngày mùng 4 tháng Giêng nữa, coi như nhường hẳn cho người âm không gian khu chợ trong ngày đó. Cũng chính vì có chợ Âm - Dương đặc biệt này đã kéo theo một phong tục khác là ngày hóa vàng sau dịp tết ở Mão Điền mọi nhà đều cúng vào sáng mồng 4 tết âm lịch, với ý nghĩa để linh hồn tổ tiên (cõi âm) đi chợ luôn ngày hôm đó (trong khi các địa phương khác lân cận thường cúng hóa vàng hết tết vào mồng 3 tết âm lịch, hoặc không cố định, tùy gia đình). .Tài liệu tham khảo "Phong Thổ Mão Điền" - Nguyễn Duy Hợp; Mão Điền - Mảnh đất nghìn năm .Xem thêm Bao giờ cho đến tháng Mười, phim của đạo diễn Đặng Nhật Minh Chợ Âm phủ ở Hà Nội .Liên kết ngoài Việt Nam Đất nước - Con người
Cồn Cỏ là một huyện đảo thuộc tỉnh Quảng Trị, Việt Nam. Địa lý Vị trí địa lý Cồn Cỏ cách Mũi Lay 27 km về phía đông, có vị trí ở 17°10' vĩ bắc và 107°21' kinh đông. Trước khi thành lập huyện đảo Cồn Cỏ, đảo thuộc xã Vĩnh Quang, huyện Vĩnh Linh và do Bộ CHQS tỉnh Quảng Trị quản lý. Cồn Cỏ là một đảo nhỏ ở Biển Đông, thuộc tỉnh Quảng Trị, miền Trung. Diện tích của đảo trước đây gần 4 km², nay khoảng 2,2 km². Nhìn trên bản đồ, đảo có hình dạng tương đối tròn. Vai trò địa lý Đảo Cồn Cỏ được coi là dấu mốc để bắt đầu vẽ đường cơ sở của lãnh hải Việt Nam. Lịch sử Theo các nhà khảo cổ học với những phát hiện mới nhất, ở khu vực Bến Nghè của đảo đã tìm thấy nhiều công cụ đá của con người thời đá cũ cách đây hàng vạn năm. Trong thời gian của những thế kỷ đầu Công nguyên, Cồn Cỏ đã từng là địa bàn cư dân Chămpa đặt chân đến. Trong khoảng thế kỷ 17 - thế kỷ 18, trên con đường giao lưu buôn bán, cư dân Đại Việt cũng đã coi Cồn Cỏ là một điểm dừng. Những phát hiện khảo cổ học ở khu vực Bến Tranh trong tháng 7 năm 1994 đã ghi nhận điều đó. Tương truyền rằng, dưới thời nhà Nguyễn, Cồn Cỏ là nơi đầy ải của những người có tội. Ở đây, bộ đội đảo khi khơi một giếng cũ (không rõ được đào từ thời nào) đã tình cờ phát hiện một bộ hài cốt cùng với xích cùm bằng sắt. Huyện Cồn Cỏ được thành lập theo nghị định số 174/2004/NĐ-CP ngày 1 tháng 10 năm 2004, trên cơ sở đảo Cồn Cỏ thuộc xã Vĩnh Quang (nay là thị trấn Cửa Tùng), huyện Vĩnh Linh. Tỉnh Quảng Trị đã làm lễ ra mắt huyện đảo này ngày 18 tháng 4 năm 2005. Trong tư liệu và bản đồ hàng hải nước ngoài như An Nam đại quốc họa đồ (1838) hoặc Bản đồ Xiêm và Cochin China (Việt Nam) (năm 1820-1829) do John Crawfurd vẽ, cồn Cỏ được gọi là Hòn Cổ, Tigris Insula, Tiger's Island, Đảo Cọp, Đảo Hổ. Hành chính Huyện không tổ chức bộ máy cấp xã, hiện tại có KDC Thanh niên xung phong với 13 hộ dân, trong đó có trưởng KDC. Bộ máy tổ chức cấp huyện gồm: Huyện Ủy, HĐND, UBND, UBMTTQ, các tổ chức đoàn thể và các tổ chức khác. Huyện Ủy (Ban xây dựng đảng và UBKT) HĐND huyện (Ban KTXH) UBND huyện (Văn phòng HĐND&UBND và Phòng Kinh tế - Xã hội) Ủy ban MTTQ huyện Đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện Hội Liên hiệp Phụ Nữ huyện Liên Đoàn lao động huyện Hội Cựu chiến binh huyện Hội khuyến học huyện BCH Quân sự huyện Công An huyện Chi cục Thuế huyện Trung tâm Dịch vụ Du lịch Đồn Biên phòng Cồn Cỏ Trạm Ra đa Cồn Cỏ Trường Mầm non Hoa Phong Ba. Cơ sở vật chất Tháng 11/2015, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Trị phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo (Việt Nam) tổ chức khánh thành Trường mầm non - tiểu học Hoa Phong Ba. Đây là ngôi trường kiên cố đầu tiên được xây dựng trên đảo này kể từ ngày đảo này chuyển từ đảo quân sự thành đảo dân sự. Tổng vốn đầu tư xây dựng trường gần 5 tỉ đồng, do Tổng công ty cổ phần Khoan và dịch vụ khoan dầu khí tài trợ.
Doãn Mẫn (1919 – 2007), còn được viết Dzoãn Mẫn, là một nhạc sĩ nhạc tiền chiến nổi tiếng, thuộc thế hệ tiên phong của tân nhạc Việt Nam. Tiểu sử Doãn Mẫn sinh ngày 15 tháng 10 năm 1919 tại thôn Đoài làng Hoàng Mai (kẻ Mơ) (phường Hoàng Văn Thụ) quận Hoàng Mai Hà Nội. Cha của ông là Doãn Tính, một viên chức ở ga Hàng Cỏ (xếp ga vào những năm 1930-1940), nhưng mê âm nhạc dân tộc và chơi đàn bầu rất hay. Được cha hướng dẫn, từ nhỏ Doãn Mẫn đã biết chơi đàn tứ và một vài nhạc cụ truyền thống khác. Sau khi tốt nghiệp Trường nam Sư phạm, ông vào làm thư ký tại bệnh viện Bạch Mai. Doãn Mẫn tự học nhạc qua sách tiếng Pháp. Ông cũng học một người Pháp tên Banal, nguyên chỉ huy một dàn nhạc Quân đội Pháp, trong khoảng thời gian 4 tháng chủ yếu là về phối âm, phối khí. Trước khi là nhạc sĩ, Doãn Mẫn từng là nhạc công biểu diễn nhiều nơi. Cũng như nhiều thanh niên thời đó, Doãn Mẫn bị dòng nhạc phương Tây, mà chủ yếu là nhạc Pháp cuốn hút. Ông cùng Văn Chung và Lê Yên lập nhóm nhạc Tricéa tụ tập trao đổi về âm nhạc và sáng tác. Tên nhóm Tricéa có nghĩa: 3 chữ C và 3 chữ A được viết tắt từ tiếng Pháp: Collection Des Chants Composés Par Des Artistes Annamites Associés: "Tuyển chọn các tác phẩm âm nhạc của nhóm người viết nhạc Annam". Cùng nghe những đĩa nhạc của Tino Rossi, Josephine Baker, họ cùng nhau sáng tác những bài hát của riêng mình: Văn Chung có Bóng ai qua thêm, Đôi mắt huyền và Lê Yên có Bẽ bàng, Vườn xuân. Theo đánh giá của Phạm Duy, thì: Doãn Mẫn là người thành công nhất trong 3 thành viên nhóm nhạc Tricéa. Ngay những năm đầu thời tân nhạc Việt Nam, Doãn Mẫn đã sáng tác liên tiếp khoảng 10 ca khúc hay, như: Sao hoa chóng tàn, Biệt ly, Cô lái thuyền, Tiếng hát đêm thu, Một hình bóng, Một buổi chiều mơ, Gió xa khơi, Nhạc chiều, Trở lại cùng anh,... Nhạc của Doãn Mẫn dành riêng cho Ghi-ta Hawaii, loại nhạc cụ sở trường của ông, và thuần túy soạn trên âm giai thất cung (heptatonic, bảy nốt) của phương Tây, mà không dùng âm giai ngũ cung của nhạc dân tộc. Doãn Mẫn sáng tác ca khúc đầu tay Tiếng hát đêm thu năm 1937, lời của Văn Chung. Sau đó nhiều nhạc phẩm khác lần lượt ra đời Gió thu (1937), Một buổi chiều thu (1939), và Biệt ly (1939). Những năm cuối thập kỷ 1930, ga Hàng Cỏ Hà Nội là nơi chia ly của nhiều đôi tình nhân, khi các thanh niên lên đường làm lính lê dương cho quân đội Pháp. Chứng kiến nhiều cuộc chia tay ở đó, Doãn Mẫn đã viết bài Biệt ly, nhạc phẩm nổi tiếng nhất của ông. "Tôi viết Biệt ly năm tôi vừa 20 tuổi. Hồi đó, cha tôi làm việc ở ga Hàng cỏ, Hà Nội. Nhà ở gần ga nên tôi thường hay ra ga chơi, chứng kiến nhiều cuộc chia tay đầy nước mắt trên sân ga, nhất là những đôi trai gái yêu nhau nhưng vì hoàn cảnh phải ly biệt. Điều đó khơi dậy trong lòng tôi nhiều cảm xúc và tôi có ý định sáng tác một bài hát về đề tài chia ly. Tôi nghĩ rằng tôi sáng tác bài Biệt ly với rất nhiều kỷ niệm. Qua những cuộc chia ly mà tôi được chứng kiến ở sân ga Hà Nội, ở bến cảng Hải Phòng đã cho tôi rất nhiều xúc động. Tôi đã dự kiến làm bài Biệt ly này từ năm 1937, tức là năm tôi bắt đầu sáng tác. Nhưng mà rồi có nhiều trường hợp khác cho nên tôi lại viết về chủ đề khác, cho đến năm 1939, có mấy việc dồn dập đến, tôi trở lại cái đề tài này. Có những buổi biểu diễn ở các rạp, một phần nữa do các anh em ở trường Bưởi làm ca cảnh, cho nên cái bài đó mới được phổ biến." Doãn Mẫn từng giữ chức trưởng phòng giáo vụ của Nhạc viện Hà Nội, ông làm việc ở đó khoảng 20 năm. Thời gian đó ông không sáng tác gì, vì theo lời của Doãn Mẫn, ông "phải đi lo cả việc... học viên có con nhỏ không ăn được thì phải làm thế nào, chỗ ăn, ở, nhà vệ sinh bẩn thỉu thì làm sao". Ngoài 70 tuổi, Doãn Mẫn có viết nhạc trở lại. Ông qua đời ngày 13 tháng 4 năm 2007 (25 tháng 2 âm lịch) tại Hà Nội. 5 tháng sau khi đứa chắt thứ hai chào đời. Trong sự nghiệp của mình, Doãn Mẫn viết khoảng 50 ca khúc, trong đó nhiều bài được đánh giá vượt thời gian như Biệt ly, Hương cố nhân. Tác phẩm Ca khúc Bến yêu đương Biệt ly Cô lái thuyền Dũng tiến Gió thu Gió xa khơi Gọi nghé trên đồng Hương cố nhân Một buổi chiều mơ Một buổi chiều thu Một hình bóng Nhạc chiều Nhắn người chiến sĩ Những mầm sống Sao hoa chóng tàn Sông Thao Tiếng hát đêm thu Trở lại cùng anh Từ đâu tiếng tơ Sách nhạc lý và nghiên cứu âm nhạc Tự học xướng âm, là cuốn cẩm nang vào nghề của nhiều nhạc sĩ tên tuổi ở Việt Nam, như: Nguyễn Thụy Kha, Hồng Đăng,... Góp phần tìm hiểu sự hình thành nền âm nhạc cải cách Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 Những bước phát triển trong công tác đào tạo cán bộ âm nhạc từ Cách mạng tháng Tám đến năm 1975 Nguồn dẫn và chú thích
Bùi Thiện Ngộ (1929 – 2006) - Thượng tướng Công an nhân dân Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ trưởng Bộ Nội vụ (Từ năm 1998 được đổi tên thành Bộ Công an) - Huân chương Hồ Chí Minh. Thân thế sự nghiệp • Ông sinh ngày 24 tháng 10 năm 1929, tại Tân Định, Sài Gòn (nay là phường Tân Định, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh). • Ông tham gia hoạt động Việt Minh trong phong trào Cách mạng tháng 8 năm 1945, được kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 7 năm 1947. Từ năm 1948, ông công tác trong lực lượng công an tại tỉnh Biên Hòa, sau là tỉnh Thủ Biên, Miền Nam Việt Nam. • Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, công tác tại Ban Thống nhất Trung ương và Bộ Công an, làm cán bộ Vụ Bảo vệ chính trị, sau đó làm giảng viên Trường Công an Trung ương. • Năm 1965, ông được phân công vào công tác tại Ban An ninh Trung ương Cục miền Nam, làm Phó Văn phòng, sau đó làm Phó Tiểu ban Bảo vệ chính trị của Ban An ninh. • Sau năm 1975, ông tiếp tục công tác trong lực lượng Công an rồi chuyển sang công tác chính quyền. • Tháng 11 năm 1976, ông trở lại ngành Công an, giữ chức Phó Cục trưởng Cục Chống gián điệp, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an). Tháng 7 năm 1979, ông là Giám đốc Công an Đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo, sau đó được bầu làm Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Đặc khu. • Tháng 1 năm 1984, ông chuyển công tác về Bộ Nội vụ và đến tháng 11 năm 1985, làm Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh Nhân dân. • Năm 1986, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI, được cử làm Phó Bí thư Đảng ủy Công an Trung ương, Thứ trưởng, rồi Thứ trưởng Thường trực Bộ Nội vụ. Tháng 1 năm 1989, ông được phong cấp Trung tướng. • Năm 1991, ông được bầu là Ủy viên Bộ Chính trị (khóa VII) và được cử giữ chức Bộ trưởng Nội vụ thay ông Mai Chí Thọ. Ông giữ chức vụ này đến năm 1996. Trong thời gian này, ông còn là đại biểu Quốc hội khóa IX, và là Ủy viên Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội. • Tháng 12 năm 1992, ông được phong cấp Thượng tướng. • Bùi Thiện Ngộ qua đời khi đang điều trị tại Bệnh viện Chợ Rẫy, Thành phố Hồ Chí Minh vào lúc 3 giờ 55 phút sáng, ngày 1 tháng 7 năm 2006 (tức 7 tháng 6 năm Bính Tuất), ông được an táng tại Nghĩa trang Thành phố Hồ Chí Minh (quê hương Bùi Thiện Ngộ). Tặng thưởng Quân hàm Phần thưởng cao quý Tháng 4 năm 2006, ông được trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh ••• và nhiều huân huy chương cao quý khác. Tên của ông được đặt cho một tuyến phố nằm trong khu đô thị Việt Hưng thuộc quận Long Biên, thành phố Hà Nội và đường châu thổ trên cao tại Khu đô thị mới Thủ Thiêm, Thành phố Hồ Chí Minh. Chú thích
Đình (chữ Nho: 亭 hay 庭) là một công trình kiến trúc cổ truyền ở làng quê Việt Nam, là nơi thờ Thành hoàng, những người có công, anh hùng tín ngưỡng và cũng là nơi hội họp của người dân trong cộng đồng.Ở miền nam, những ngôi đình làng còn được gọi là Đình thần Lịch sử Trước kia theo tình hình chung của cả nước, đình của các làng mạc Việt Nam chỉ là quán để nghỉ. Năm 1231, thượng hoàng Trần Huy Tông xuống chiếu cho đắp tượng Phật ở đình quán. Tháng 10 âm lịch năm 1491, Lê Thánh Tông cho xây dựng Quảng Văn đình ngoài cửa Đại Hưng (nay là khu vực Cửa Nam, Hà Nội), là nơi để dân chúng đánh trống kêu oan và nơi ban bố, giảng giải các chính sách của nhà nước phong kiến tại Thăng Long. Ngôi đình làng với chức năng là nơi thờ thành hoàng và là nơi hội họp của dân chúng có lẽ bắt đầu vào thời Lê sơ và định hình vào thời nhà Mạc. Có lẽ sự phát triển của Nho giáo vào cuối thế 15 đã cấy dần Thành hoàng vào đình làng. Nhưng hiện nay dấu vết sớm nhất của đình làng thì Thành hoàng chỉ gặp từ thế kỷ 16. Trước đây đình thường chỉ có 3 gian và 2 chái. Gian giữa không có sạp, trong gian thờ Thành hoàng. Cuối thế kỷ 17 từ gian giữa và kéo dài về sau gọi là chuôi vồ, tạo cho đình làng mang kiểu chữ Đinh. Cuối thế kỷ 17, nhất là thế kỷ 18, đình làng được bổ sung tòa tiền tế. Kiến trúc Bố cục của đình theo trục thường gồm: Hồ nước, Nghi môn, Nhà Tiền tế, Đại đình – Hậu cung, hai bên có hành lang tả hữu mạc. Kiến trúc truyền thống được xây dựng dựa trên những nguyên tắc của thuật phong thủy. Địa điểm của đình khác đền chùa. Trong khi chùa và đền chuộng địa điểm tĩnh mịch, có khi u tịch, khuất lối thì đình làng chủ yếu lấy địa điểm trung tâm. Lý tưởng nhất là đình có địa điểm thoáng đãng nhìn ra sông nước. Nếu không có được ao hồ thiên nhiên thì dân làng có khi đào giếng khơi để có mặt nước phía trước đình cho đúng thế "tụ thủy" vì họ cho đó là điềm thịnh mãn cho làng. Kiểu xây dựng bằng gỗ bao gồm các yếu tố nghiêng về trang trí và chạm khắc. Đình làng thường là một ngôi nhà to, rộng được dựng bằng những cột gỗ tròn to thẳng tắp đặt trên những hòn đá tảng lớn. Vì, kèo, xà ngang, xà dọc, xà gồ của đình cũng làm toàn bằng gỗ tốt như gỗ lim. Tường đình xây bằng gạch. Mái đình lợp ngói mũi hài, hai đầu hồi xây bít đốc hoặc làm bốn góc đầu đao cong. Trên nóc đình là hai con rồng chầu mặt nguyệt, tục gọi là "lưỡng long chầu nguyệt" hay "lưỡng long tranh châu". Sân đình được lát gạch. Trước đình có hai cột trụ cao vút, trên đình được tạc hình con nghê. Trong đình, gian giữa có bàn thờ, thờ một vị thần của làng gọi là Thành hoàng. Một chiếc trống cái cũng được để trong đình để đánh vang lên theo nhịp ngũ liên thúc giục dân làng về đình tụ họp bàn tính công việc của làng. Nhiều đình có có tấm bình phong, điêu khắc thường thấy là đồ án Long Mã hoặc tạc hình con hổ nhìn ra để trấn trạch (trong miền Nam hay gọi là Bia ông Hổ). Các ngôi đình tiêu biểu Việt Nam Dân gian có câu: "cầu Nam - chùa Bắc - đình Đoài" có ý nghĩa ca ngợi xứ Sơn Nam nổi tiếng với những cầu cổ có giá trị như: cầu ngói Phát Diệm, cầu ngói chợ Lương; xứ Kinh Bắc nổi tiếng với những ngôi chùa như: chùa Dâu, chùa Bút Tháp, chùa Phật Tích; còn xứ Đoài nổi tiếng với những ngôi đình đẹp nhất. Hiện 8 trên tổng số 9 ngôi đình được công nhận là Di tích quốc gia Đặc biệt ở Việt Nam nằm ở khu vực Xứ Đoài (nay là Hà Nội, Vĩnh Phúc, Phú Thọ). Cụ thể Hình ảnh
Ku Klux Klan (), thường được gọi là KKK hoặc Klan, là một nhóm thù ghét của những người Mỹ da trắng, có mục tiêu chính là người Mỹ gốc Phi. Ku Klux Klan đã tồn tại ở ba thời kỳ khác nhau tại các thời điểm khác nhau trong lịch sử Hoa Kỳ. Mỗi giai đoạn của tổ chức này đã ủng hộ các lập trường cực đoan khác nhau nhưng nhìn chung, các lập trường này là "kim chỉ nam" của KKK như: chủ nghĩa dân tộc trắng, chống nhập cư, phân biệt chủng tộc và đặc biệt là trong các lần lặp lại sau này - Chủ nghĩa Bắc Âu và chủ nghĩa chống Công giáo. Trong giai đoạn Klan đệ nhất thì các thành viên của tổ chức này đã sử dụng khủng bố và bạo lực để chống lại những người da đen tham gia hoạt động chính trị và cả những người da trắng theo đảng Cộng hòa hay ủng hộ cộng đồng da màu ở các bang miền Nam nước Mỹ (địa bàn của KKK) vào cuối những năm 1860 cho đến khi bị chính phủ Hoa Kỳ thẳng tay đàn áp vào năm 1872. Tất cả ba phong trào đều kêu gọi "thanh lọc" xã hội Mỹ và tất cả đều được coi là các tổ chức cực đoan cánh hữu. Trong mỗi thời đại, tư cách thành viên Klan là bí mật và ước tính tổng số thành viên đã bị cả bạn bè và kẻ thù của tổ chức này cường điệu hóa lên. Klan đầu tiên phát triển mạnh ở miền Nam Hoa Kỳ vào cuối những năm 1860 trong Giai đoạn Tái thiết, sau đó chết dần vào đầu những năm 1870. Nó đã tìm cách lật đổ các chính phủ nhà nước Cộng hòa ở miền Nam, đặc biệt là bằng cách sử dụng bạo lực chống lại các nhà lãnh đạo người Mỹ gốc Phi. Mỗi chi nhánh đều được tự chủ và rất bí mật về tư cách thành viên cũng như kế hoạch hành động. K.K.K đệ nhất chính thức chìm vào quên lãng khi chúng bị chính quyền Hoa Kỳ dập tắt hoạt động vào năm 1872, thông qua thực thi pháp luật liên bang. Các thành viên của tổ chức này tự làm trang phục, thường có nhiều màu sắc trên nền trắng: áo choàng trắng có vòng tròn màu đỏ (Clan-Klan) với cây thánh giá màu trắng và giọt máu đỏ ở giữa cây thánh giá (tình huynh đệ gắn kết như giọt máu bên trong cơ thể-brotherhood-kyklos-Ku Klux (tiếng Hi Lạp)), mặt nạ và mũ hình chóp khoét mắt, tất cả cũng đều màu trắng, được thiết kế để trở nên đáng sợ hơn và để che giấu danh tính của họ. Thời kỳ thứ hai bắt đầu với quy mô nhỏ ở bang Georgia vào năm 1915. KKK đệ nhị trở lên lớn mạnh trên toàn nước Mỹ trong thập niên 1920 và thập niên 1930. "Địa bàn" hoạt động chính của 3K bao gồm các khu vực đô thị ở các bang thuộc miền Trung Tây, Tây và Nam Hoa Kỳ. Lấy cảm hứng từ bộ phim câm chính kịch-sử thi của DW Griffith, The Birth of a Nation, côngchiếu năm 1915, đã thần thoại hóa việc thành lập Klan thời đầu, nó sử dụng các kỹ thuật tiếp thị và một cấu trúc tổ chức huynh đệ phổ biến. Bắt nguồn từ các cộng đồng Tin lành địa phương, nó tìm cách duy trì quyền lực tối cao, thường có lập trường ủng hộ Cấm rượu, chống lại người Công giáo, người Do Thái, người da màu, người nhập cư,... đồng thời luôn thể hiện sự phản đối với quyền lực chính trị được cho là của Giáo hoàng và Giáo hội Công giáo ở Hoa Kỳ. 3K đệ nhị tự tổ chức và phân bổ tài chính cho các hoạt động của tổ chức. Nguồn tiền hoạt động của hội đến từ phí gia nhập hội và phí mua trang phục tiêu chuẩn. Các thành viên của K.K.K đệ nhị trước khi nhập hội thì bắt buộc phải đóng 2 khoản phí này. Hội này không thu lệ phí theo kì hạn như các hội kín khác. Nó đã sử dụng những từ K tương tự như những từ được sử dụng bởi Klan đầu tiên. Chúng thường xuyên thực hiện những nghi thức như: đốt thánh giá, hò hét, diễu hành, bạo lực để đe dọa các đối tượng mà chúng thù ghét. K.K.K đệ nhị nhanh chóng suy giảm trong nửa cuối thập niên 1930, và đi tới chấm dứt vào giữa thập niên 1940 trước hàng loạt các biến động xảy ra với nước Mỹ vào thời điểm đó. Giai đoạn thứ ba và hiện tại của KKK xuất hiện sau năm 1950, dưới hình thức các nhóm địa phương hóa và độc lập sử dụng tên KKK. Các nhóm này đã tập trung vào việc phản đối phong trào dân quyền, thường sử dụng bạo lực và giết người để đàn áp các nhà hoạt động. Nó được Liên đoàn Chống phỉ báng (ADL) và Trung tâm Luật Nghèo miền Nam (SPLC) phân loại là một nhóm thù hận. , trong khi Liên đoàn Chống phỉ báng đưa tổng số thành viên KKK trên toàn quốc vào khoảng 3.000 thành viên, thì Trung tâm Luật Nghèo đói miền Nam đưa ra con số là vào khoảng 6.000 thành viên. Các giai đoạn phát triển thứ hai và thứ ba của Ku Klux Klan thường xuyên nhắc đến dòng máu " Anglo-Saxon " của Mỹ, quay trở lại với chủ nghĩa bản địa của thế kỷ 19. Mặc dù các thành viên của KKK thề sẽ đề cao đạo đức Kitô giáo, nhưng hầu như mọi giáo phái Kitô giáo ở Mỹ đều đã chính thức lên án KKK và một số cha xứ Tin lành người Mỹ còn coi tổ chức này là khủng bố. 3 Klan Sự hình thành của KKK KKK đầu tiên được thành lập ở Pulaski, bang Tennessee trong khoảng thời gian từ tháng 12 năm 1865 đến tháng 8 năm 1866 bởi 6 cựu sĩ quan của quân đội Liên minh Miền Nam ủng hộ chế độ nô lệ là: Frank McCord, Richard Reed, John Lester, John Kennedy, J. Calvin Jones và James Crowe. Ban đầu, KKK là một câu lạc bộ xã hội được lấy cảm hứng từ tổ chức "Những đứa con của Marta" (Sons of Marta) trước đó. Những trò nhập môn, truyền đạo, khai tâm kệch cỡm, lố bịch của KKK cũng được lấy cảm hứng từ SoM. Tên gọi được tạo nên bởi sự kết hợp giữa một từ trong tiếng Hy Lạp là kyklos (hình tròn) với từ clan (đoàn, nhóm...)". Cái tên này còn mang ý nghĩa là "Vòng tròn của những người anh em". Hội viên Trong một cuộc phỏng vấn báo chí năm 1868, Bedford Forrest đã tuyên bố hùng hồn rằng Klan là một tổ chức rộng lớn trải khắp Liên bang, với hơn 550.000 hội viên và rằng ông ta không phải là hội viên của Klan, mà ông chỉ bày tỏ sự ủng hộ đối với sứ mệnh của họ và chung sức cùng cộng tác với họ để hoàn thành sứ mệnh đó mà thôi. Và chính ông có thể tập hợp được 4 vạn hội viên Klan mà chỉ cần báo trước 5 ngày. Mặc dù Klan nói rằng nó chỉ có những hội viên là "công dân có tư cách", những người da trắng, nhưng trên thực tế thì không hoàn toàn như vậy. Hội viên của Klan mang rất nhiều đặc điểm khác nhau, nó không phải là một thể thống nhất, mà như lời phát biểu của nhà sử học Elaine Frantz Parsons thì khi: "cởi bỏ cái mặt nạ trên đầu Klan đi thì đã để lộ một vẻ hỗn loạn, với vô số các hội viên của các nhóm bài da đen, những người nông dân da trắng nghèo bất mãn, những tàn quân du kích thời chiến, những người đàn ông trẻ tuổi, những kẻ bạo dâm (sadist), những tên hiếp dâm, những công nhân da trắng luôn lo sợ sự cạnh tranh từ những đồng nghiệp da đen, những tên trộm vặt vãnh... và thậm chí cả những đảng viên đảng Cộng hòa da trắng..." Các hoạt động của Klan Klan đầu tiên đã tiến hành nhiều hoạt động chống lại việc giải phóng nô lệ, cũng như chống lại việc tái thiết liên bang. Nó nhanh chóng tham gia vào các hoạt động với chủ trương hoạt động vũ trang, sử dụng bạo lực. Trong thời kỳ tái thiết sau nội chiến các hội viên của KKK đã tham gia vào việc giết hại hơn 150 người Mỹ gốc Phi ở một hạt thuộc bang Florida. Ảnh hưởng chính trị Tuy không có được cơ cấu tổ chức thật hoàn chỉnh, nhưng Klan thứ nhất đã được rất nhiều người biết tới nhờ danh tiếng của nó. Điều này còn được nâng lên rất nhiều bởi những kiểu trang phục lạ lùng, kỳ dị và những hoạt động hết sức liều lĩnh và rất dã man của nó. Trong thời kỳ này Klan đã có nhiều hoạt động để từ đó mang đến cho nó nhiều danh tiếng trong chính trị, đó là các hoạt động chống bãi nô, chống người nhập cư... Những hoạt động này đã kéo theo sự ủng hộ của một bộ phận không nhỏ công chúng, thậm chí là cả sự ủng hộ của các đảng viên Cộng hòa, các chính trị gia... Sự suy tàn Trên thực tế thì Klan đầu tiên đã không được tổ chức tốt, nó chưa thực sự là có một cơ cấu tổ chức hoàn thiện. Klan giống như một hội bí mật hay là một hội nhóm "vô hình". Hội kín này không có một danh sách chính xác về các hội viên cũng như không có chế độ trả lương, thưởng cho hội viên. Nó không có lấy những phương tiện đi lại cốt yếu, không báo chí, không có người phát ngôn, không tăng hội, không có các hội sở ở địa phương, không có văn phòng chính thức... Klan đầu tiên đã đi vào giai đoạn suy tàn từ năm 1868 cho đến 1870. Và hội kín này đã chính thức bị xóa sổ vào đầu thập niên 1870 bởi đạo luật quyền dân sự năm 1871 (Civil Act of 1871), thường được biết đến như là "Đạo luật Ku Klux Klan". Đạo luật do Benjamin Franklin Butler soạn thảo và năm 1871 đã được Tổng thống Ulysses S. Grant ký thông qua. Klan thứ hai Sự tạo lập Klan thứ hai được William Joseph Simmons chủ lực tạo lập nên vào năm 1915. Sự tạo lập năm 1915 này là của một nhóm gồm nhiều người khác nhau, họ đã sử dụng cùng một cái tên đã được truyền cảm hứng bởi sức mạnh mới được tìm ra của các phương tiện truyền thông đại chúng hiện đại, mới xuất hiện. Trong năm này đã có 3 sự kiện liên hệ mật thiết tới việc hình thành Klan thứ 2 đó là: Bộ phim The Birth of a Nation đã huyền thoại hóa và tô điểm cho Klan đầu tiên. Leo Frank, một người Do Thái đã bị buộc tội hiếp dâm và giết chết một cô gái trẻ người da trắng là Mary Phagan, và đã bị hành quyết. Ku Klux Klan thứ hai được tạo lập với chương trình chống người nhập cư và bài Do Thái mới. Phần lớn trong số những người tạo lập nên Klan thứ hai đều đến từ một tổ chức tự xưng là Những hiệp sĩ vì Mary Phagan và một tổ chức mới đã đấu tranh phản đối phiên bản hư cấu của Klan nguyên thủy trong bộ phim The Birth of a Nation. Hội viên Klan thứ hai đã tổ chức các hội viên với một cấu trúc chính thể hoàn thiện. Với cấp độ cao nhất là cấp quốc gia, hay cấp Liên bang, và các cấp tiểu bang, địa phương dưới đó. Với cấu trúc hoàn chỉnh, có chỉ đạo tổng thể, Klan đã trả lương cho hàng ngàn hội viên để tổ chức nên các nghiệp đoàn địa phương bao trùm lên toàn Liên bang. Hàng triệu người đã xin gia nhập vào Klan thứ hai và tại thời kỳ hoàng kim của nó, trong thập niên 1920 hội kín này đã có số hội viên lên tới 15% "dân số có tư cách" của toàn Liên bang. (nation's eligible population), xấp xỉ 4 - 5 triệu người. Chia rẽ nội bộ, những hành vi phạm pháp luật của những người lãnh đạo và sự chống đối công khai giữa các thành viên trong hội, đã được đưa ra khoảng 30,000 vụ vào năm 1930. Tổ chức đã tàn lụi dần trong những năm 1940. Hoạt động và ảnh hưởng chính trị KKK rao giảng về thuyết "chủ nghĩa Mỹ 100%" và yêu cầu thanh lọc nền chính trị, kêu gọi các giá trị đạo đức nghiêm ngặt và thi hành tốt hơn lệnh cấm sản xuất, vận chuyển và buôn bán đồ uống có cồn. Chính sách tuyên truyền chính thức của nó tập trung vào việc đe dọa Giáo hội Công giáo, sử dụng thuyết bài Công giáo và thuyết chủ nghĩa địa phương, cho rằng công dân sinh ra ở địa phương ưu việt hơn người nhập cư. Lời kêu gọi của phong trào KKK thứ hai nhằm vào người theo đạo Tin lành da trắng. Phong trào này chống đối người da đen, người Công giáo, người Do Thái và những người nhập cư từ Nam Âu, chẳng hạn như người Ý. Một số nhóm địa phương đe dọa bạo lực chống lại những người buôn lậu rượu và những người phạm các tội ác đạo đức nghiêm trọng. Các vụ bạo lực do KKK gây ra chủ yếu diễn ra ở các bang miền Nam. Klan ngày nay Ngày nay, hội KKK được cho là đã kết thúc, mặc dù vẫn tồn tại một số hoạt động của các nhóm lẻ tẻ. Một cựu thành viên của KKK, cũng là người duy nhất đang làm việc cho Chính phủ liên bang Mỹ là Robert Byrd từ West Virginia. Ông này nói ông hối hận sâu sắc vì đã tham gia 3K gây nên một sự kiện tại Greensboro, vào chủ nhật ngày 3.11.1979, lực lượng công nhân lao động trong vùng tổ chức diễu hành chống nạn phân biệt chủng tộc. Một đoàn 9 chiếc xe dừng lại trước đoàn biểu tình, khoảng 40 tên thành viên 3K lao ra bắn xối xả trong vòng 1 phút khiến 5 công nhân chết tại chỗ và hàng chục người bị thương nặng. Những phiên tòa sau đó đều xử trắng án cho 40 tên với những lời biện hộ như "Các bị cáo thể hiện lòng yêu nước cao độ: Họ tiễu trừ cộng sản tại Bắc Carolina", gây nên làn sóng phẫn nộ trong dư luận Mĩ. Chú thích
Bệnh tan máu bẩm sinh (Thalassemia hay Thalassaemia) là tên chung cho một nhóm bệnh thiếu máu. Mỗi năm, trên thế giới có khoảng 100.000 em bé sinh ra mắc phải loại bệnh trầm trọng của nhóm này - phần lớn là dân Ý, Hy Lạp, Trung Đông, Nam Á và châu Phi. Phân loại bệnh Thalassemia Nguyên nhân của Thalassemia là cấu tạo bất bình thường của hemoglobin trong hồng cầu. Hai thể dạng bất thường chính được gọi là alpha-Thalassemia và beta -Thalassemia, tùy theo phần nào của chất hemoglobin bị thiếu. (Hemoglobin là một cấu trúc đạm có khả năng giữ dưỡng khí oxygen trong hồng cầu) Dưới dạng bệnh nặng nhất của alpha-thalassemia, thấy nhiều nhất trong các sắc dân ở Đông Nam Á, Trung Quốc và Philippines thường làm hư thai hay trẻ con chết khi sinh. Phần lớn những người có bệnh alpha-thalassemia bị thiếu máu kinh niên - một số bị nặng trầm trọng, không sống được lâu. Phần kế tiếp trong bài này liên hệ đến beta-thalassemia. Loại bệnh này cũng bao gồm một số trường hợp từ trầm trọng cho đến nhẹ, đôi khi không có ảnh hường đến sức khỏe: Thalassemia dạng trầm trọng, còn được gọi là bệnh thiếu máu Cooley, theo tên người bác sĩ đầu tiên miêu tả căn bệnh này vào năm 1925. Thalassemia dạng trung Thalassemia dạng nhẹ (hay gọi là "có dấu tích thalassemia"), thường không có ảnh hưởng đến sức khỏe, chỉ biết khi thử máu. Triệu chứng của bệnh Khi mới sinh ra, trẻ bị dạng bệnh nặng của thalassemia trông có vẻ khoẻ mạnh bình thường. Nhưng trong vòng vài tháng hay một hai năm, trẻ sẽ khó chịu, mệt mỏi, biếng ăn. Trẻ sẽ chậm lớn và da hay ửng màu vàng (xem vàng da). Nếu không chữa trị, lá lách, gan và tim sẽ sưng to. Xương bị xốp và dễ gãy, cấu trúc của xương mặt bị thay đổi. Vì hồng cầu vỡ sớm hơn bình thường nên tủy xương phải làm việc quá sức (để sản xuất hồng cầu), khiến xương biến dạng. Ở những trẻ bị Thalassemia nặng, trán gồ lên, mũi tẹt, xương hàm trên nhô ra do tăng sản tủy xương (trẻ em bị thalassemia nặng hay trông giống nhau vì cấu trúc xương mặt đều bị biến dạng tương tự). Trẻ sẽ chết sớm, nhất là vì suy tim hay nhiễm trùng. Trẻ mắc phải dạng thalassemia Trung Đông khi phát bệnh cũng trầm trọng như trên, nhưng phần đông chúng bị nhẹ hơn trong hai thập niên đầu. Điều trị Truyền máu thường xuyên và sử dụng thuốc kháng sinh giúp trẻ bị thalassemia dạng trầm trọng có đời sống khả quan hơn. Truyền máu thường xuyên (một tuần 3-4 lần) có thể làm giảm bớt những biến chứng của bệnh (như suy tim hay xốp xương). Nhưng khi truyền máu quá nhiều như thế, chất sắt sẽ ứ thừa trong cơ thể, gây hại cho gan và tim. Hiện nay, khi được chữa trị, người bệnh dạng trầm trọng thalassemia có thể sống thêm từ 20 đến 30 năm. Một số rất ít có thể chữa bằng phương pháp thay tủy. Khả năng di truyền Thalassemia là bệnh di truyền dạng lặn của nhiễm sắc thể thường (tiếng Anh: autosomal recessive). Bệnh này không có thể lây từ trẻ này sang trẻ khác. Mỗi con người đều có hai gene (một từ cha và một từ mẹ) liên hệ đến cấu tạo hemoglobin của hồng cầu. Tạm gọi gene này là gene 'R' (màu xanh trong thí dụ hình dưới) và tạm gọi gene có dấu tích thalassemianày là gene 'r' (màu đỏ trong thí dụ hình dưới). Ở một người bình thường, cả hai gene đều không có dấu tích thalassemia (R và R). Một số người có 1 một trong hai gene này có dấu tích thalassemia (R và r). Tuy chỉ có 1 gene bình thường (R), gene này vẫn có khả năng tạo hemoglobin gần hoàn hảo, và những người này thường không có triệu chứng gì cả - chỉ có khi nào họ thử máu mới biết mình có mang dấu tích bệnh thalassemia. Khi cả hai gene đều bất bình thường, (r và r), thì hemoglobin sẽ bị cấu tạo sai - gây ra bệnh thalssemia dạng trầm trọng. Thí dụ các trường hợp di truyền: Khi cha có gene ngầm (R - r) nhưng mẹ hoàn toàn bình thường (R -R) thì người con có thể nằm vào một trong những trường hợp sau: 1. R (từ cha) - R (từ mẹ) không có gene thalassemia 2. r (từ cha) - R (từ mẹ) có gene ngầm thalassemia Tức là người con có 50% nguy cơ bị mang dấu tích thalassemia, và 50% đứa trẻ sinh ra bình thường. Khi cả cha lẫn mẹ đều có gene ngầm (R - r) thì người con có thể nằm vào một trong những trường hợp sau: 1. R (từ cha) - R (từ mẹ) không có gene thalassemia 2. R (từ cha) - r (từ mẹ) có gene ngầm thalassemia 3. r (từ cha) - R (từ mẹ) có gene ngầm thalassemia 4. r (từ cha) - r (từ mẹ) bị thalassemia dạng nặng Tức là người con có 25% cơ hội hoàn toàn bình thường, 50% có nguy cơ bị mang dấu tích thalassemia và 25% bị bệnh thalassemia dạng nặng. Xét nghiệm Khám nghiệm máu sẽ cho biết bệnh nhân có bị thalassemia hay không và thuộc dạng nào. Một khi biết có mang dấu tích gene thalassemia, chồng hay vợ của bệnh nhân cũng nên kiểm tra máu. Khám nghiệm nhau hay nước ối của thai sẽ giúp bác sĩ biết tính trạng của đứa bé chưa sinh. Phòng ngừa Bệnh này chưa thể phòng ngừa được, ngoài việc thử nghiệm chồng, vợ hay bào thai, giúp giáo dục họ về cơ hội xác suất con cái họ có thể mang mầm bệnh hay bị bệnh nặng. Những nghiên cứu đang được tiến hành Tìm cách làm giảm độ ứ thừa của sắt trong cơ thể của bệnh nhân sau khi được truyền nhiều máu. Giới khoa học đang tìm và thử các chất có khả năng thu nhận sắt vào để giúp bài tiềt chất này ra khỏi cơ thể. Điều trị bằng gen Có thể có những phương hướng sau: tìm cách đưa một gene bình thường vào tế bào sơ khai (stem cells) của bệnh nhân dùng thuốc hay cách gì đó để kích thích những gene tiếp tục tạo hemoglobin F - loại hemoglobin này do tủy em bé tạo ra trong khi còn nằm trong thai nhưng thường bị "tắt" đi khi những loại hemoglobin khác bắt đầu được cấu tạo. Thay tủy
Thủ đô Việt Nam hiện nay là thành phố Hà Nội. Sau đây là danh sách các kinh đô/thủ đô – hiểu theo nghĩa rộng – là các trung tâm chính trị của chính thể nhà nước trong lịch sử Việt Nam, và cả của các vương quốc cổ/cựu quốc gia từng tồn tại trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay. Kinh đô và Thủ đô của Việt Nam qua các thời kỳ Phần này liệt kê các kinh đô/thủ đô trong lịch sử Việt Nam, theo trình tự thời gian. Các kinh đô được in đậm là các kinh đô độc lập của Việt Nam, còn các kinh đô được in nghiêng là các kinh đô trong giai đoạn Việt Nam bị nước khác đô hộ hoặc là bù nhìn của nước khác. Kinh đô không chính thức [cần dẫn nguồn] Ngoài ra còn có các kinh đô phụ tồn tại song song với kinh đô chính thức như: Thiên Trường – thời Trần, nay thuộc Nam Định. Vũ Lâm – thời Trần, nay thuộc Ninh Bình Lỗ Giang – thời Trần, nay thuộc Hồng Minh, Hưng Hà, Thái Bình. Lam Kinh – thời Hậu Lê, nay thuộc Thanh Hóa Dương Kinh – thời Mạc, nay thuộc Hải Phòng. Phục Hòa – thời Mạc, nay thuộc Hòa Thuận, Phục Hòa, Cao Bằng. Nà Lữ - thời Mạc, nay thuộc Hoàng Tung, Hòa An, Cao Bằng. Thành nhà Mạc – nay thuộc Lũng Hoài, Hòa An, Cao Bằng. Thành nhà Mạc – nay thuộc Đàm Thủy, Trùng Khánh, Cao Bằng. Thành cổ Tuyên Quang – thời Mạc. Thành nhà Mạc – thời Mạc, nay thuộc Lạng Sơn. Thành cổ Lạng Sơn - nay thuộc Chi Lăng, Lạng Sơn. Yên Trường – thời Lê trung hưng, nay thuộc thôn 2 Yên Trường, Thọ Lập, Thọ Xuân, Thanh Hóa. Cổ Bi – thời Lê - Trịnh, nay thuộc Trâu Quỳ, Gia Lâm, Hà Nội. Phủ Trịnh - thời Trịnh, nay thuộc Vĩnh Hùng, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Phượng Hoàng Trung Đô – thời Tây Sơn, nay thuộc Nghệ An (dự định). Lị sở của 12 sứ quân như: Hồi Hồ, Tam Đái, Tiên Du, Siêu Loại, Đường Lâm, Tây Phù Liệt, Đỗ Động Giang, Tế Giang, Đằng Châu, Bố Hải Khẩu, Bình Kiều,... Đà Lạt – thủ phủ nghỉ dưỡng thời Liên bang Đông Dương. Việt Bắc – phía bắc Bắc Bộ, là chiến khu và là nơi tập trung các cơ quan đầu não của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong thời kỳ Chiến tranh Đông Dương với Pháp, đây được xem là Thủ đô gió ngàn. Kinh đô của vương quốc Chăm Pa cổ Kinh đô các vương quốc cổ và cựu quốc gia khác Thống kê Hà Nội là nơi đóng đô của nhiều triều đại và chế độ nhất Việt Nam, không tính giai đoạn đô hộ và thuộc địa: Cổ Loa thời Nhà Thục và Nhà Ngô Mê Linh thời Hai Bà Trưng Long Biên thời Nhà Tiền Lý (đang tranh cãi) Tống Bình thời Họ Phùng Đại La thời Họ Khúc Thăng Long thời Nhà Lý và Nhà Trần Đông Kinh thời Nhà Hậu Lê, Nhà Mạc và Chúa Trịnh Hà Nội thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày nay Ninh Bình là nơi đóng đô nhiều thứ hai. không tính giai đoạn đô hộ và thuộc địa:: Hoa Lư thời Nhà Đinh, Nhà Tiền Lê và Nhà Lý giai đoạn đầu Mô Độ thời Nhà Hậu Trần Thừa Thiên Huế là nơi đóng đô nhiều thứ ba, không tính giai đoạn đô hộ và thuộc địa:: Phú Xuân thời Chúa Nguyễn và Nhà Tây Sơn của Quang Trung Huế thời Nhà Nguyễn Thanh Hóa là nơi đóng đô nhiều thứ tư, không tính giai đoạn đô hộ và thuộc địa:: Tây Đô cuối thời Trần và thời Nhà Hồ Vạn Lại thời Hậu Lê giai đoạn đầu Lê trung hưng Các triều đại và chế độ từng đóng đô ở 2 kinh đô/thủ đô là: Nhà Lý ở Hoa Lư (1009 – 1010) và Thăng Long (1010 – 1225) Nhà Trần ở Thăng Long (1225-1397) và Tây Đô (1397-1400) Nhà Hậu Lê ở Đông Kinh (1428 – 1527), Vạn Lại (1533 – 1597) rồi về lại Đông Kinh (1597 – 1789) Nhà Mạc ở Đông Kinh (1527 – 1592) và Cao Bình (1592 – 1677) Nhà Tây Sơn ở Qui Nhơn (1778 – 1793) và Phú Xuân (1786 – 1802) Ảnh một số di tích kinh đô Cố đô của Việt Nam Cố đô là cách gọi tôn vinh những nơi từng là thủ đô chính thống trong lịch sử Việt Nam. Hiện ở Việt Nam có các nơi sau được gọi là cố đô gồm: đất tổ Phong Châu, cố đô Hoa Lư, cố đô Huế; với sự nhìn nhận và đánh giá lại về vương triều nhà Hồ, Thanh Hóa cũng được xem là một cố đô của Việt Nam. Cố đô Hoa Lư và cố đô Huế là 2 tên gọi thông dụng, thường thấy nhất. Các di tích cố đô thường sở hữu một trong các danh hiệu UNESCO ở Việt Nam như Phong Châu có tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là di sản văn hóa phi vật thể; Hoàng thành Thăng Long, cố đô Hoa Lư, thành nhà Hồ, quần thể di tích Cố đô Huế đều thuộc những vùng di sản thế giới. Hiện nay Việt Nam có 5 tỉnh, thành được gọi là các "vùng kinh đô" gồm: Hà Nội, Phú Thọ, Ninh Bình, Thanh Hóa và Thừa Thiên Huế. 5 vùng kinh đô này được ngành văn hóa cho phép tổ chức và tham gia nhiều sự kiện lớn như: cuộc thi người đẹp các vùng kinh đô, hiệp hội văn học nghệ thuật các vùng kinh đô, triển lãm ảnh ngũ đại cố đô của Việt Nam, Hành trình di sản thế giới... Năm du lịch Quốc gia 2015 diễn ra ở Thanh Hóa và các tỉnh, thành phố có Kinh đô cổ và di sản văn hoá thế giới có chuyên đề "Hành trình về Kinh đô cổ Việt Nam".
Phong Châu có thể là một trong số các địa danh sau: Địa danh Phong Châu, được cho là kinh đô của triều đại Hùng Vương Phường Phong Châu, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ Thị trấn Phong Châu, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ Xã Phong Châu, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình Xã Phong Châu, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng Huyện cũ Phong Châu thuộc tỉnh Vĩnh Phú, sau thuộc tỉnh Phú Thọ.
Bà mẹ Việt Nam anh hùng là danh hiệu vinh dự được Nhà nước Việt Nam phong tặng hoặc truy tặng những phụ nữ Việt Nam có nhiều cống hiến, hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế. Danh hiệu này được quy định lần đầu tiên tại Pháp lệnh Quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước "Bà mẹ Việt Nam Anh hùng" ngày 29 tháng 8 năm 1994, sau đó được sửa đổi bổ sung bởi Pháp lệnh số 05/2012/UBTVQH13 ngày 20 tháng 10 năm 2012 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc điểm a, khoản 2, Điều 58 Luật Thi đua, khen thưởng 2003. Hoàn cảnh ra đời Giữa tháng 5/1994, Ban Bí thư Trung ương Đảng triệu tập cuộc họp do Tổng bí thư Đỗ Mười chủ trì để nghe Tổng cục Chính trị báo cáo tình hình công tác chính sách. Tham dự cuộc họp có lãnh đạo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính và đại diện các cơ quan, ngành có liên quan. Sau khi nghe báo cáo, Tổng bí thư Đỗ Mười yêu cầu mọi người tập trung thảo luận và đề xuất giải quyết những vấn đề quan trọng, bức thiết đặt ra. Trong phần kết luận cuộc họp, Tổng bí thư nhấn mạnh: Nhiều năm qua, Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách. Quân đội cùng các ngành, các địa phương và toàn dân đã có nhiều cố gắng tổ chức thực hiện những chính sách đã ban hành. Kết quả đó góp phần ổn định tình hình chính trị – xã hội trên từng địa phương và trong cả nước. Tuy nhiên, tính đến thời điểm này, chưa có chính sách đãi ngộ thỏa đáng cả về tinh thần và vật chất đối với một đối tượng đặc biệt – đó là những người mẹ đã hiến dâng cho Tổ quốc những người con ưu tú. Xét đến cùng, các mẹ là những người có công lớn nhất trong chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc. Ban Bí thư yêu cầu Tổng cục Chính trị phối hợp với các ngành – nhất là Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội – triển khai nghiên cứu xây dựng một chính sách xứng đáng đối với các bà mẹ có nhiều cống hiến. Có thể khẳng định rằng, ý tưởng về chính sách "Bà mẹ Việt Nam anh hùng" bắt nguồn từ cuộc họp đó của Ban Bí thư Trung ương Đảng. Chấp hành kết luận của Tổng bí thư, ông Lê Khả Phiêu (Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị) và ông Đặng Vũ Hiệp (Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị) đã giao cho Cục Chính sách nghiên cứu đề án. Trong một thời gian ngắn, Cục Chính sách đã cử cán bộ về các địa phương khảo sát số lượng, tình hình đời sống của các bà mẹ có nhiều con là liệt sĩ, cũng như nguyện vọng đề đạt của nhân dân. Trên cơ sở đó, Cục Chính sách đã xây dựng đề án, phối hợp nghiên cứu, tiến hành xin ý kiến của các cơ quan có liên quan trong và ngoài quân đội. Tiếp đến, Cục Chính sách đã giúp Tổng cục Chính trị, Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng xây dựng tờ trình lên Ban Bí thư, Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội về chính sách với các nội dung bao gồm: Xác định đối tượng, tiêu chuẩn, hình thức khen thưởng, chế độ được hưởng và thủ tục, quy trình xét tặng. Ban đầu, trong quá trình nghiên cứu và ý kiến tại các cuộc hội thảo, có nhiều ý kiến đề xuất các phương án khác nhau về tên gọi của danh hiệu vinh dự. Cuối cùng, tên gọi "Bà mẹ Việt Nam Anh hùng" là phương án tối ưu, được các cơ quan thống nhất cao. Ngày 29/8/1994, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh Quy định Danh hiệu vinh dự Nhà nước "Bà mẹ Việt Nam Anh hùng". Ngày 10/9/1994, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký Lệnh công bố Pháp lệnh Quy định Danh hiệu vinh dự Nhà nước "Bà mẹ Việt Nam Anh hùng". Ngày 20/10/1994, Chính phủ ban hành Nghị định 167-CP thi hành Pháp lệnh Quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước "Bà mẹ Việt Nam Anh hùng". Ngày 17/12/1994, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký quyết định tặng và truy tặng danh hiệu "Bà mẹ Việt Nam Anh hùng" đợt đầu tiên cho 19.879 bà mẹ trong cả nước, trong đó có các bà mẹ tiêu biểu: Mẹ Nguyễn Thị Thứ ở Điện Thắng, Điện Bàn, Quảng Nam có 9 con, 1 rể, 2 cháu ngoại là liệt sĩ; Mẹ Phạm Thị Ngư ở Hàm Hiệp, Hàm Thuận, Bình Thuận có 8 con là liệt sĩ, bản thân mẹ là Anh hùng LLVT nhân dân; Mẹ Trần Thị Mít ở Hải Phú, Hải Lăng, Quảng Trị có 9 con là liệt sĩ; Mẹ Nguyễn Thị Rành, ở Phước Hiệp, Củ Chi, TP Hồ Chí Minh có 8 con là liệt sĩ, bản thân mẹ là Anh hùng LLVT nhân dân; Mẹ Nguyễn Thị Dương ở Triệu Thành, Triệu Phong, Quảng Trị có 8 con thì 5 con là liệt sĩ (3 người con khác là: Đại tướng Đoàn Khuê, Trung tướng Đoàn Chương và Đại tá Đoàn Thúy)… Ngày 19/12/1994, nhân kỷ niệm 50 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam – Ngày hội Quốc phòng toàn dân, Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam đã tổ chức trọng thể Lễ tuyên dương Danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng lần đầu tiên cho 59 Bà mẹ Việt Nam anh hùng tiêu biểu, đại diện cho gần 2 vạn bà mẹ được phong tặng. Hưởng ứng Lời kêu gọi của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhiều năm qua, các địa phương, các ngành, đoàn thể trong cả nước đã dấy lên phong trào "Phụng dưỡng các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng". Cùng với chế độ đãi ngộ theo quy định của Nhà nước, việc phụng dưỡng của các đơn vị quân đội, các tổ chức đoàn thể xã hội và nhân dân các địa phương đã góp phần nâng cao đời sống tinh thần, vật chất của những Mẹ còn sống. Dưới sự chỉ đạo của Tổng cục Chính trị, Cục Chính sách là cơ quan chủ trì việc nghiên cứu đề xuất và chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực hiện chính sách "Bà mẹ Việt Nam anh hùng". Ông Nguyễn Mạnh Đẩu với cương vị Cục trưởng đã cùng các ông: Phạm Lam, Đỗ Quang Bích (Phó cục trưởng), Nguyễn Văn Tinh, Lê Thế Hải (Phòng Khen thưởng) và một số cán bộ nghiên cứu thuộc Cục Chính sách giữ vai trò điều tra, khảo sát, phản ánh và là những người trực tiếp "chắp bút", "biên tập" các văn kiện. Tiêu chuẩn Tiêu chuẩn đạt danh hiệu "Bà mẹ Việt Nam Anh hùng" (kể cả là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam) dành cho những phụ nữ đạt một trong những tiêu chuẩn sau: Có 2 con trở lên là liệt sĩ; Có 2 con mà 1 con là liệt sĩ, 1 con là thương binh với thương tật từ 81% trở lên. Chỉ có 1 con mà người đó là liệt sĩ; Có 1 con là liệt sĩ, chồng hoặc bản thân là liệt sĩ. Người con là liệt sĩ bao gồm con đẻ và con nuôi của Bà mẹ đã được pháp luật xác nhận, và đã được Chính phủ tặng Bằng "Tổ Quốc Ghi Công". Bà mẹ có đủ 1 trong 4 trường hợp nêu trên do phải chịu đựng nỗi đau mất con, mất chồng mà bị bệnh tâm thần, vẫn được tặng danh hiệu "Bà mẹ Việt Nam Anh hùng" Người chồng là liệt sĩ nói ở trên đây là người đã được Chính phủ tặng Bằng "Tổ quốc ghi công" mà Bà mẹ là vợ của người đó được hưởng chế độ tuất liệt sĩ. Danh hiệu này do Chủ tịch nước ký tặng hoặc truy tặng theo đề nghị của Chính phủ. Người được tặng (truy tặng) được cấp bằng và huy hiệu "Bà mẹ Việt Nam Anh hùng". Thống kê Từ tháng 12/1994 đến hết năm 2001, Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phong tặng và truy tặng danh hiệu cao quý "Bà mẹ Việt Nam anh hùng" cho: Cả nước: 44.253 bà mẹ Miền Bắc: 15.033 mẹ. Miền Nam: 29.220 mẹ. Tỉnh Quảng Nam là tỉnh có nhiều Bà mẹ Việt Nam anh hùng nhất với 11.658 mẹ. Trong đó: có con độc nhất là liệt sĩ: 9.903 người. có 2 con đều là liệt sĩ: 1.535 người. có 3 con là liệt sĩ: 10.067 người. có 4 con là liệt sĩ: 1.535 người. có 5 con là liệt sĩ: 258 người. Tính đến tháng 7/2020, Nhà nước Việt Nam đã phong tặng hoặc truy tặng 139.275 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, trong đó tỉnh Quảng Nam có số lượng được phong tặng và truy tặng cao nhất (15.261 mẹ), tiếp theo là Bến Tre với 6.905 mẹ, Quảng Ngãi có 6.802 mẹ, Hà Nội có 6.723 mẹ. Từ thập niên 1990, do đất nước đã hòa bình nên rất hãn hữu mới có trường hợp được phong tặng Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Bà Lê Thị Minh Thủy (56 tuổi) ở Nha Trang (Khánh Hòa) là Mẹ Việt Nam anh hùng mới nhất, được phong tặng vào tháng 7/2018, bà có chồng và 1 con trai cùng là liệt sĩ (cả 2 đều là phi công, hy sinh khi bay huấn luyện). Một số bà mẹ Việt Nam anh hùng tiêu biểu Một số bà mẹ Việt Nam anh hùng tiêu biểu: Nguyễn Thị Thập: quê quán Long Hưng, Châu Thành, Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang), có chồng và có con là liệt sĩ. Liên tục từ khóa I đến khóa VI, bà được bầu vào Quốc hội và giữ chức vụ Phó Chủ tịch Quốc hội từ khóa II đến khóa VI. Trước khi được trao danh hiệu này, bà đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng – Huân chương cao quý nhất của Nhà nước Việt Nam. Nguyễn Thị Thứ: quê quán thôn Thanh Quýt, Điện Thắng, Điện Bàn, Quảng Nam, có chồng, 9 con và 1 con rể, 2 cháu ngoại là liệt sĩ. Con gái cả của bà là Lê Thị Trị cũng được trao tặng danh hiệu bà mẹ Việt Nam anh hùng vào ngày 30 tháng 4 năm 2007, vì có chồng và hai con gái là liệt sĩ. Phạm Thị Ngư (1912-2002): quê quán Hàm Hiệp, Hàm Thuận, Bình Thuận, có 5 con trai, 2 con gái và 1 con rể là liệt sĩ, bản thân bà là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Suốt nhiều năm chống Mỹ, mẹ Ngư cùng bà con cơ sở đã chuyển ra vùng căn cứ giải phóng nhiều tấn lương thực, thực phẩm, thuốc men tiếp tế cho cách mạng, góp phần đáng kể vào thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ ở địa phương. Ngày 6/11/1978, mẹ Phạm Thị Ngư đã được Quốc hội và Nhà nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, ngày 11/7/1985 mẹ được Hội đồng Nhà nước tặng thưởng huân chương Độc lập hạng Nhất, huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhất. Ngày 17/12/1994, mẹ Ngư được Nhà nước phong danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Lê Thị Hẹ: quê quán: Thôn Linh An, Triệu Trạch, Triệu Phong, Quảng Trị. Cả gia đình và họ hàng gần của bà có 7 bà Mẹ Việt Nam anh hùng và 15 liệt sĩ đã hi sinh xương máu vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Riêng gia đình bên chồng của bà có 5 Bà mẹ VNAH và 11 liệt sĩ. Bản thân mẹ cùng 1 con gái, 3 con dâu là Bà mẹ VNAH. Trong số 15 liệt sĩ có 2 con đẻ, 1 con dâu, 1 con rể, 4 cháu nội, 2 cháu ngoại và 4 người cháu gọi mẹ bằng cô ruột. Trần Thị Viết: ngụ ấp Cả Dứa, Tuyên Bình Tây, Vĩnh Hưng, Long An. Cụ Nguyễn Văn Dành là chồng mẹ (sinh năm 1888), là con của một gia đình nghĩa binh tham gia kháng Pháp thời Cần Vương, quê ở miền Trung, để tránh sự truy lùng của quân Pháp đã dạt vào Đồng Tháp Mười sống ẩn dật. Mẹ có 10 người con (8 trai, 2 gái). Kế thừa truyền thống yêu nước của cha ông, cả 8 con trai của mẹ đều tham gia kháng chiến giải phóng đất nước, và 7 người đã hy sinh (trong đó có 2 người hy sinh khi chưa có vợ và không tìm được mộ). Năm 1966, cụ Dành qua đời, mẹ Viết bèn xuống tóc quy y ở chùa Thanh Lập (quận Mỹ An, tỉnh Kiến Phong, nay là Đồng Tháp), với pháp danh Diệu Mãnh. Một hôm giặc ập đến chùa bắt mẹ vào trại giam, chúng đánh đập nhưng không khai thác được gì, cũng không thể bắt mẹ gọi các con từ bỏ cách mạng, nên đành phải thả mẹ ra. Ngày 17/12/1994, mẹ Viết được Nhà nước phong danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Bản thân bà là Mẹ Việt Nam anh hùng sống thọ nhất, cũng được sách kỷ lục Việt Nam ghi nhận là người phụ nữ cao tuổi nhất Việt Nam vào năm 2010. Mẹ có hơn 40 cháu nội - ngoại, hơn 150 chắt, khoảng 300 cháu cố 5 đời. Mẹ hưởng thượng thọ 120 tuổi (sinh năm 1892, mất ngày 19/6/2011). Trần Thị Mít: quê quán Hải Phú - Hải Lǎng - Quảng Trị, có chồng, 6 người con đẻ, 1 con dâu và 1 cháu nội là liệt sĩ. Nguyễn Thị Rành: ấp Trúc Đèn, xã Phước Hiệp, huyện Củ Chi, có 8 con trai và 2 cháu là liệt sĩ, bản thân bà là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Lê Thị Tự: quê quán Thanh Quýt - Điện Thắng - Điện Bàn - Quảng Nam Đà Nẵng, có 12 con thì 9 con là liệt sĩ. Phạm Thị Khánh: quê quán Hòn Đất - Kiên Giang, có 8 con trai thì 7 con là liệt sĩ. Vǎn Thị Thừa: quê quán Duy Xuyên - Quảng Nam Đà Nẵng có chồng và 4 con là liệt sĩ, bản thân bà là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Hồ Thị Hạnh và con gái là Trần Thị Thêu: quê quán Ấp Hưng Hoà - Phiến Cầu - Trà Vinh; trong gia đình có 10 người con là liệt sĩ. 2 chị em Nguyễn Thị Dương, Nguyễn Thị Lạnh, nơi ở 12A Lý Nam Đế và 7/30 Lý Nam Đế - Hà Nội; bà Dương có 8 con thì 5 con là liệt sĩ, bà Lạnh có 1 con duy nhất là liệt sĩ. 3 chị em ruột Bùi Thị Hai, Bùi Thị Dị, Bùi Thị Sáu ở Hàm Chính - Hàm Thuận - Bình Thuận. Bà Hai có chồng và 4 con là liệt sĩ; bà Dị có 3 con là liệt sĩ; bà Sáu có 4 con là liệt sĩ. Lê Thị Cháu (tên thật là Lê Thị Lý), dân làng quen gọi là ông bà Diêu Cháu quê ở làng Mai Xá (Gio Mai, Gio Linh, Quảng Trị), chính là người mẹ quặn lòng nuốt hận mang thúng đi lấy đầu con bị giặc Pháp chặt rồi bêu giữa chợ về khâm liệm, mai táng, được nhạc sĩ Phạm Duy ca ngợi trong ca khúc cách mạng "Bà mẹ Gio Linh". Vinh danh Ngoài được tặng danh hiệu, trợ cấp,... họ luôn được mọi người kính mến gọi là ''Mẹ''. Bài hát ''Hát về mẹ Việt Nam anh hùng'' của nhạc sĩ An Thuyên là bài hát vô cùng nổi bật về những bà mẹ vĩ đại, đã hi sinh tất cả để góp công giành lại độc lập cho dân tộc; Ở Quảng Nam, có Tượng đài Mẹ Việt Nam anh hùng lấy nguyên mẫu từ Mẹ Thứ nhằm tôn vinh Mẹ nói riêng và tất cả những Bà mẹ Việt Nam anh hùng khác nói chung.
Thành Cổ Loa là kinh đô của nhà nước Âu Lạc dưới thời An Dương Vương vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên và của nhà nước phong kiến dưới thời Ngô Quyền thế kỷ 10 tại vùng đất xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội. Bối cảnh địa lý Vào thời Âu Lạc, Cổ Loa nằm vào vị trí đỉnh của tam giác châu thổ sông Hồng và là nơi giao lưu quan trọng của đường thủy và đường bộ. Từ đây có thể kiểm soát được cả vùng đồng bằng lẫn vùng sơn địa. Cổ Loa là một khu đất đồi cao ráo nằm ở tả ngạn sông Hoàng. Con sông này qua nhiều thế kỷ bị phù sa bồi đắp và nay đã trở thành một con lạch nhỏ, nhưng xưa kia sông Hoàng là một con sông nhánh lớn quan trọng của sông Hồng, nối liền sông Hồng với sông Cầu, con sông lớn nhất trong hệ thống sông Thái Bình. Như vậy, về phương diện giao thông đường thủy, Cổ Loa có một vị trí vô cùng thuận lợi hơn bất kỳ ở đâu tại đồng bằng Bắc Bộ vào thời ấy. Đó là vị trí nối liền mạng lưới đường thủy của sông Hồng cùng với mạng lưới đường thủy của sông Thái Bình. Hai mạng lưới đường thủy này chi phối toàn bộ hệ thống đường thủy tại Bắc bộ Việt Nam. Qua con sông Hoàng, thuyền bè có thể tỏa đi khắp nơi, nếu ngược lên sông Hồng là có thể thâm nhập vào vùng Bắc hay Tây Bắc của Bắc Bộ, nếu xuôi sông Hồng, thuyền có thể ra đến biển cả, còn nếu muốn đến vùng phía Đông Bắc bộ thì dùng sông Cầu để thâm nhập vào hệ thống sông Thái Bình đến tận sông Thương và sông Lục Nam. Địa điểm Cổ Loa chính là Phong Khê, lúc đó là một vùng đồng bằng trù phú có xóm làng, dân chúng đông đúc, sống bằng nghề làm ruộng, đánh cá và thủ công nghiệp. Việc dời đô từ Phong Châu về đây, đánh dấu một bước ngoặt phát triển của dân cư Việt cổ, giai đoạn người Việt chuyển trung tâm quyền lực từ vùng Trung du bán sơn địa về định cư tại vùng đồng bằng. Việc định cư tại đồng bằng chứng tỏ một bước tiến lớn trong các lãnh vực xã hội, kinh tế trong giao tiếp, trao đổi con người dễ dàng đi lại bằng đường bộ hay bằng đường thủy; trong nông nghiệp có bước tiến đáng kể về kỹ thuật trồng lúa nước, mức độ dân cư cũng đông đúc hơn. Trung tâm quyền lực của các cư dân Việt ở đồng bằng sông Hồng cũng thể hiện sự phát triển về chiều rộng của Văn hóa Đông Sơn. Thành Cổ Loa được xây bằng đất do thời ấy ở Âu Lạc chưa có gạch nung. Khu vực Cổ Loa được coi là một nền đất yếu nên việc xây dựng thành Cổ Loa có thể khó khăn và thành bị đổ nhiều lần là dễ hiểu. Khi xẻ dọc thành để nghiên cứu, các nhà khảo cổ học phát hiện kỹ thuật gia cố thành của Thục Phán: chân thành được chẹn một lớp tảng đá. Hòn nhỏ có đường kính 15 cm, hòn lớn có đường kính 60 cm. Xung quanh Cổ Loa, một mạng lưới thủy văn dày đặc đã được tạo ra thành một vùng khép kín, thuận lợi cho việc xây dựng căn cứ thủy binh hùng mạnh. Thuở ấy, sông Thiếp – Ngũ Huyền Khê - Hoàng Giang thông với sông Cầu ở Thổ Hà, Quả Cảm (Hà Bắc) thông với sông Hồng ở Vĩnh Thanh (Đông Anh). Ngay sau khi xây thành, Thục Phán An Dương Vương đã chiêu tập những thợ mộc giỏi, sử dụng gỗ ở địa phương đóng thuyền chiến. Nhân dân cũng được điều tới khai phá rừng đa (Gia Lâm), rừng Mơ (Mai Lâm), rừng dâu da (Du Lâm)... thành ruộng. Những hiệp thợ chuyên rèn vũ khí cũng xuất hiện, chế tạo côn, kiếm, giáo, mác và nỏ liên châu, mỗi phát bắn nhiều mũi tên. Có nhiều bằng chứng khảo cổ về sự tồn tại của hàng chục vạn mũi tên đồng, có thể dùng nỏ liên châu ở đây. Xem thêm Truyền thuyết Cổ Loa. Cấu trúc Thành Cổ Loa Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là "tòa thành cổ nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ". Khi xây thành, người Việt cổ đã biết lợi dụng tối đa và khéo léo các địa hình tự nhiên. Họ tận dụng chiều cao của các đồi, gò, đắp thêm đất cho cao hơn để xây nên hai bức tường thành phía ngoài, vì thế hai bức tường thành này có đường nét uốn lượn theo địa hình chứ không băng theo đường thẳng như bức tường thành trung tâm. Người xưa lại xây thành bên cạnh con sông Hoàng để dùng sông này vừa làm hào bảo vệ thành vừa là nguồn cung cấp nước cho toàn bộ hệ thống hào vừa là đường thủy quan trọng. Đầm Cả rộng lớn nằm ở phía Đông cũng được tận dụng biến thành bến cảng làm nơi tụ họp cho đến cả hàng trăm thuyền bè. Chất liệu chủ yếu dùng để xây thành là đất, sau đó là đá và gốm vỡ. Đá được dùng để kè cho chân thành được vững chắc. Các đoạn thành ven sông, ven đầm được kè nhiều đá hơn các đoạn khác. Đá kè là loại đá tảng lớn và đá cuội được chở tới từ các miền khác. Xen giữa đám đất đá là những lớp gốm được rải dày mỏng khác nhau, nhiều nhất là ở chân thành và rìa thành để chống sụt lở. Các cuộc khai quật khảo cổ học đã tìm thấy một số lượng gốm khổng lồ gồm ngói ống, ngói bản, đầu ngói, đinh ngói. Ngói có nhiều loại với độ nung khác nhau. Có cái được nung ở nhiệt độ thấp, có cái được nung rất cao gần như sành. Ngói được trang trí nhiều loại hoa văn ở một mặt hay hai mặt. Thành Cổ Loa theo tương truyền gồm 9 vòng xoáy trôn ốc, nhưng căn cứ trên dấu tích hiện còn, các nhà khoa học nhận thấy thành có 3 vòng, trong đó vòng thành nội rất có thể được làm về sau, dưới thời Ngô Quyền. Chu vi vòng ngoài 8 km, vòng giữa 6,5 km, vòng trong 1,6 km, diện tích trung tâm lên tới 2 km². Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy dốc thẳng đứng, mặt trong thoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4–5 m, có chỗ cao đến 8–12 m. Chân lũy rộng 20–30 m, mặt lũy rộng 6–12 m. Khối lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu mét khối. Thành nội hình chữ nhật, cao trung bình 5 m so với mặt đất, mặt thành rộng từ 6–12 m, chân rộng từ 20–30 m, chu vi 1.650 m và có một cửa nhìn vào tòa kiến trúc Ngự triều di quy. Thành trung là một vòng thành không có khuôn hình cân xứng, dài 6.500 m, nơi cao nhất là 10 m, mặt thành rộng trung bình 10 m, có bốn cửa ở các hướng đông, bắc, tây bắc và tây nam, trong đó cửa đông ăn thông với sông Hồng. Thành ngoại cũng không có hình dáng rõ ràng, dài hơn 8.000m, cao trung bình 3–4 m (có chỗ tới hơn 8 m). Mỗi vòng thành đều có hào nước bao quanh bên ngoài, hào rộng trung bình từ 10m đến 30m, có chỗ còn rộng hơn. Các vòng hào đều thông với nhau và thông với sông Hoàng. Sự kết hợp của sông, hào và tường thành không có hình dạng nhất định, khiến thành như một mê cung, là một khu quân sự vừa thuận lợi cho tấn công vừa tốt cho phòng thủ. Sông Hoàng được dùng làm hào thiên nhiên cho thành ngoại ở về phía tây nam và am. Phần hào còn lại được đào sát chân tường thành từ gò Cột Cờ đến Đầm Cả. Con hào này nối với hào của thành trung ở Đầm Cả và Xóm Mít, chảy qua cửa Cống Song nối với năm con lạch có hình dáng như bàn tay xòe và với một nhánh của con lạch này, nước chảy thông vào vòng hào của thành Nội. Thuyền bè đi lại dễ dàng trên ba vòng hào để đến trú đậu ở Đầm Cả hoặc ra sông Hoàng và từ đó có thể tỏa đi khắp nơi. Theo truyền thuyết, Thục Phán An Dương Vương thường dùng thuyền đi khắp các hào rồi ra sông hồng . Giá trị của thành Cổ Loa Trong cấu trúc chung của thành Cổ Loa còn có một yếu tố khác làm phong phú thêm tổng thể kiến trúc này. Đó là những gò đất dài hoặc tròn được đắp rải rác giữa các vòng thành hoặc nằm ngoài thành ngoại. Không biết được có bao nhiêu ụ, lũy như thế, nhưng một số được dân chúng gọi là Đống Dân, Đống Chuông, Đống Bắn... Các lũy này được dùng làm công sự, có nhiệm vụ của những pháo đài tiền vệ, phối hợp với thành, hào trong việc bảo vệ và chiến đấu. Đây cũng là một điểm đặc biệt của thành Cổ Loa. Cổ Loa cũng được biết đến là một trong những đô thị đầu tiên trong lịch sử nước ta. Về mặt quân sự, thành Cổ Loa thể hiện sự sáng tạo độc đáo của người Việt cổ trong công cuộc giữ nước và chống ngoại xâm. Với các bức thành kiên cố, với hào sâu rộng cùng các ụ, lũy, Cổ Loa là một căn cứ phòng thủ vững chắc để bảo vệ nhà vua, triều đình và kinh đô. Đồng thời là một căn cứ kết hợp hài hòa thủy binh cùng bộ binh. Nhờ ba vòng hào thông nhau dễ dàng, thủy binh có thể phối hợp cùng bộ binh để vận động trên bộ cũng như trên nước khi tác chiến. Về mặt xã hội, với sự phân bố từng khu cư trú cho vua, quan, binh lính, thành Cổ Loa là một chứng cứ về sự phân hóa của xã hội thời ấy. Thời kỳ này, vua quan không những đã tách khỏi dân chúng mà còn phải được bảo vệ chặt chẽ, sống gần như cô lập hẳn với cuộc sống bình thường. Xã hội đã có giai cấp rõ ràng và xã hội có sự phân hóa giàu nghèo rõ ràng hơn thời Vua Hùng. Về mặt văn hóa, là một tòa thành cổ nhất còn để lại dấu tích, Cổ Loa trở thành một di sản văn hóa, một bằng chứng về sự sáng tạo, về trình độ kỹ thuật cũng như văn hóa của người Việt cổ. Đá kè chân thành, gốm rải rìa thành, hào nước quanh co, ụ lũy phức tạp, hỏa hồi chắc chắn và nhất là địa hình hiểm trở ngoằn ngoèo, tất cả những điều này làm chứng cho nghệ thuật và văn hóa thời An Dương Vương. Hàng năm, vào ngày 6 tháng giêng âm lịch, cư dân Cổ Loa tổ chức một lễ trang trọng để tưởng nhớ đến những người xưa đã có công xây thành, và nhất là để ghi ơn An Dương Vương. Hiện nay Cổ Loa là một trong 21 Khu du lịch Quốc gia của Việt Nam, và vào ngày 27/9/2012 Di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ Cổ Loa được Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt. Di vật khảo cổ Trên địa phận thành, các nhà khảo cổ đã từng khai quật được nhiều mộ cổ, hàng vạn mũi tên đồng ba cạnh, khuôn đúc mũi tên, rìu lưỡi xéo bằng đồng, trống đồng và thậm chí cả ngói ống.
Chiến sĩ thi đua là danh hiệu vinh dự tặng thưởng cho cá nhân lập thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua, chiến đấu hoặc sản xuất ở Việt Nam. Danh hiệu này đặt ra theo Nghị quyết 104/CP ngày 18 tháng 7 năm 1963 sau đó thay thế bằng Nghị định số 156/1998/NĐ-CP ngày 30 tháng 7 năm 1998 của Chính phủ Việt Nam. Trong Quân đội Nhân dân Việt Nam, Chiến sĩ thi đua thường được lựa chọn sau khi kết thúc một nhiệm vụ tác chiến, công tác..., một cuộc vận động hoặc tổng kết thi đua hằng năm. Trong các ngành sản xuất và nghiên cứu khoa học kĩ thuật, chiến sĩ thi đua được lựa chọn trong các kì tổng kết công tác hằng năm và kế hoạch 5 năm. Phong trào thi đua yêu nước do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động từ năm 1948. Đại hội thi đua lần thứ nhất khai mạc 1/5/1952 tại Đại Từ, Thái Nguyên; có 154 chiến sĩ thi đua công, nông, binh và lao động trí óc toàn quốc về dự. Cũng tại đại hội này, các chiến sĩ thi đua lần đầu tiên được phong tặng tiêu biểu như Cao Viết Bảo, Giáp Văn Khương, Vũ Viết Thân, Phạm Thị Thành Quy định Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở (xã, phường, xí nghiệp, công ty, trường học, bệnh viện và cấp tương đương), xét chọn mỗi năm một lần khi kết thúc năm kế hoạch Nhà nước. Chiến sĩ thi đua cấp huyện, quận, thị xã và cấp tương đương là những người tiêu biểu, xuất sắc nhất trong số những chiến sĩ thi đua ở các cơ sở do huyện trực tiếp quản lý. Chiến sĩ thi đua cấp huyện, quận, thị xã và cấp tương đương xét chọn mỗi năm một lần. Chiến sĩ thi đua cấp tỉnh, thành phố và đặc khu trực thuộc Trung ương là những người tiêu biểu, xuất sắc nhất trong số những chiến sĩ thi đua huyện, chiến sĩ thi đua của các ngành thuộc tỉnh, thành phố, đặc khu và chiến sĩ thi đua của các cơ sở Trung ương đóng tại địa phương. Chiến sĩ thi đua cấp tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương xét chọn vào năm thứ ba và năm cuối của kế hoạch Nhà nước 5 năm. Chiến sĩ thi đua ngành (cả nước) là những người tiêu biểu, xuất sắc nhất trong số những chiến sĩ thi đua của các cơ sở thuộc ngành kể cả các cơ sở cùng ngành do tỉnh quản lý. Chiến sĩ thi đua ngành xét chọn vào năm thứ ba và năm cuối của kế hoạch Nhà nước 5 năm. Chiến sĩ thi đua ngành có thể mang một tên riêng phù hợp với nghề nghiệp do Thủ trưởng ngành định, sau khi có sự thoả thuận của Hội đồng thi đua toàn quốc. Chiến sĩ thi đua toàn quốc là những người tiêu biểu xuất sắc nhất trong số những chiến sĩ thi đua của ngành. Chiến sĩ thi đua toàn quốc xét chọn 5 năm một lần. Văn bản Chiến sĩ thi đua ở Việt Nam được quy định trong các văn bản sau: Nghị định số 104-CP ngày 18-7-1963 của Hội đồng Chính phủ ban hành Điều lệ quy định các danh hiệu và tiêu chuẩn thi đua Nghị định Số: 247/HĐBT ngày 23 tháng 09 năm 1985 về quy định cụ thể danh hiệu chiến sĩ thi đua Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001; Luật Thi đua, Khen thưởng ngày 26 tháng 11 năm 2003 và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng ngày 14 tháng 6 năm 2005; Nghị định số 121/2005/NĐ-CP ngày 30 tháng 9 năm 2005 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng;
Áo tắm hai mảnh hay bikini là một kiểu đồ bơi phụ nữ có đặc trưng được chia làm hai mảnh riêng biệt gồm một mảnh che vòng 1 một mảnh che vòng 3 khoảng thân thể khác để phơi trần. Hình dạng của hai mảnh bikini rất giống với đồ lót phụ nữ, và phần dưới của bikini vì thế có thể chỉ đơn giản là một dải dây hay nhiều vải hơn giống kiểu quần soóc. Đồ hai mảnh phụ nữ dùng trong thể thao từng xuất hiện trong các hình vẽ trên bình thời Hy Lạp ngay từ năm 1400 TCN. Thỉnh thoảng từ bikini còn được sử dụng để gọi kiểu đồ bơi nam giới cũng thường được gọi là speedos. Nguồn gốc hiện đại Theo chính sử, bikini hiện đại do một kỹ sư người Pháp là Louis Réard và nhà thiết kế thời trang Jacques Heim phát minh tại Paris năm 1946 và đưa ra giới thiệu ngày 5 tháng 7 tại một cuộc trình diễn thời trang ở Piscine Molitor, Paris. Đó là một bikini dây với một mảnh vải nhỏ (g-string) phía sau. Bộ đồ này được đặt theo tên Đảo san hô Bikini, địa điểm diễn ra cuộc thử nghiệm vũ khí hạt nhân vài ngày trước đó ở Quần đảo Marshall, với lý do nó cũng gây nhiều kích động như sự kiện hạt nhân đó. Tuy nhiên, phụ nữ tại Paris đã mặc bikini một năm trước khi nó được "phát minh". Sự thực này đã được đề cập với ảnh chụp trong ấn bản ngày 16 tháng 7 năm 1945 của tạp chí Life. Bộ phim về những người đi nghỉ tại Đức trong thập kỷ 1930 đã có những cảnh phụ nữ mặc đồ tắm hai mảnh. Tất nhiên tờ tạp chí không gán cái tên "bikini" cho bộ đồ tắm đó. Ở thời điểm đó, vụ thử bom hạt nhân vẫn còn chưa diễn ra và rõ ràng chưa ai từng nghe tới cái tên Đảo san hô Bikini. Thay vào đó họ gọi nó là "Đồ bơi Pháp". Nhưng dù cái tên vẫn chưa được chấp nhận, bộ đồ bơi phụ nữ Paris mặc rõ ràng đã được công nhận là những bộ bikini đầu tiên theo kiểu dáng và diện tích che phủ. Một sự trùng khớp ngẫu nhiên, ngày xuất bản tạp chí, 16 tháng 7, 1945, cũng là ngày quả bom hạt nhân đầu tiên được giới thiệu ở sa mạc bên ngoài Alamogordo, New Mexico. Bộ đồ của Reard là sự cải tiến tác phẩm trước đó của Jacques Heim, hai tháng trước, ông này đã đưa ra giới thiệu "Atome" (nguyên tử - được đặt tên theo kích thước của nó) và quảng cáo đó là "bộ đồ tắm nhỏ nhất thế giới". Reard đã chia nhỏ "atome" ra nữa, nhưng ông không tìm ra được người mẫu nào dám mặc nó. Cuối cùng ông thuê Micheline Bernardini, một vũ nữ thoát y từ Sòng bài Paris làm người mẫu. Trở nên phổ biến Phải mất mười lăm năm bộ bikini mới được chấp nhận tại Hoa Kỳ. Năm 1951 việc mặc bikini đã bị cấm trong cuộc thi Hoa hậu Thế giới. Tuy nhiên, năm 1957 bộ bikini của Brigitte Bardot trong bộ phim Và Chúa đã tạo ra Đàn bà đã mở ra một thị trường mới cho đồ tắm tại Hoa Kỳ và trong năm 1960, bài hát nhạc pop "Itsy Bitsy Teenie Weenie Yellow Polka Dot Bikini" của Brian Hyland đã gây nên một cao trào mua đồ bơi bikini. Cuối cùng bikini trở nên nổi tiếng vào năm 1963, bộ phim Beach Party, với diễn viên Annette Funicello (thật sự không mặc bikini, theo yêu cầu cá nhân của Walt Disney) và Frankie Avalon, đã dẫn tới một làn sóng phim đưa bikini lên làm biểu tượng của văn hoá pop. Tại Malta mất nhiều thời gian mới trở nên thông dụng. Trong thập kỷ 1960 cảnh sát đã bác bỏ đề xuất của Giám mục Michael Gonzi cấm những khách du lịch mặc bikini vì sợ làm ảnh hưởng tới hình ảnh du lịch của nơi này. Những phụ nữ theo Đảng Lao động Malta cảm thấy mình được bảo vệ khi mặc bikini tham gia những bữa tiệc trên bờ biển nhưng điều này lại không thể chấp nhận được với những người theo Đảng Quốc gia. Những người hiểu biết về lịch sử Đảo san hô Bikini —đặc biệt là những người phản đối phát triển vũ khí hạt nhân— có thể coi từ nguyên và việc sử dụng tên "bikini" đặt cho một loại trang phục là không thích hợp, bởi vì danh tiếng "nổi như cồn" một cách mỉa mai của nó đã làm giảm sự chú ý tới mức độ nghiêm trọng của một cuộc khủng hoảng nhân đạo trong lịch sử— một cuộc khủng hoảng vẫn còn để lại ảnh hưởng trong nền chính trị Quần đảo Marshall— chỉ còn lại đơn giản là một biểu tượng sex của văn hóa pop trong ý thức đa số mọi người. Thuật ngữ "hai mảnh" được coi là sự thay thế trung lập nhất. Nhiều tạp chí cũng đã tự đánh bóng tên tuổi của mình bằng cách in ảnh những người đẹp mặc bikini lên trang bìa. Vì có ảnh hưởng của truyền thông, phụ nữ tìm cách giảm cần trước mùa hè để có được một "thân hình bikini" lý tưởng. Những mục tiêu giảm cân này thường là phi hiện thực và không có lợi cho sức khoẻ. Các loại bikini Trong những năm gần đây, thuật ngữ monokini (bikini một mảnh) đã được sử dụng để chỉ những phụ nữ mặc đồ tắm hở ngực: nếu bikini có hai mảnh thì monobikini chỉ có mảnh bên dưới. Ở những nơi có nhiều phụ nữ mặc như vậy, từ bikini có thể được dùng một cách bỡn cợt để gọi bộ đồ hai mảnh gồm một mảnh dưới và một chiếc mũ che nắng. Thuật ngữ này do Rudi Gernreich đưa ra. Tankini là một bộ đồ tắm gồm một tank top bên trên và một bikini bên dưới. Bikini dây là kiểu cải tiến của bikini truyền thống thường gồm những mảnh vải nhỏ nhất có thể để che phần trên và phần dưới, cả hai phần đều chỉ là những mảnh vải nhỏ màu tam giác, nối với nhau bằng dây. Đối với một số phụ nữ, thực tế là kiểu bikini đẹp nhất. Bikini dây thích hợp nhất với những phụ nữ ngực nhỏ. Vì phụ nữ ngực nhỏ không cần đến áo ngực với nhiều vật liệu đỡ, một áo ngực tam giác kiểu truyền thống phía trên có thể cải thiện hình dạng và tăng đường cong ngực. Hơn nữa, áo ngực tam giác với dây kín bên trong có thể hoạt động tương tự như một áo ngực kiểu push-up để làm tăng kích thước ngực. Phần phía dưới của bikini còn được giảm kích thước hơn nữa trong thập niên 1970 để trở thành kiểu thong của Brasil, phần phía sau của nó nhỏ tới mức nó biến mất vào khe mông. Những vận động viên bóng chuyền bãi biển nữ chuyên nghiệp thường phải mặc đồ hai mảnh khi thi đấu. Tuy nhiên, vì để phục vụ thể thao nên loại bikini này thường dày hơn, bền và kín đáo hơn so với bikini thông thường. Miêu tả truyền thông Sự khêu gợi của loại trang phục này đã là cảm hứng cho nhiều bộ phim và chương trình truyền hình ngay khi quan niệm đạo đức thay đổi và mọi người chấp nhận nó. Trong số này có nhiều phim lướt sóng ngay từ đầu thập kỷ 1960 và loạt chương trình truyền hình, Baywatch. Những phim miêu tả hình tượng bikini gồm Ursula Andress với vai Bond girl Honey Ryder trong phim Dr. No (1962), Raquel Welch trong vai cô gái trong hang thời tiền sử ở bộ phim One Million Years B.C. năm 1966 và Phoebe Cates trong bộ phim tuổi teen Fast Times at Ridgemont High năm 1982. Những cảnh đó gần đây đã được Chanel 4 (Anh Quốc) xếp hạng thứ 1, 86, và 84 trong bảng xếp hạng 100 Thời điểm Sexy Vĩ đại nhất (trong phim) . Ngoài ra, một biến thể khác của bikini thường thấy trong văn học tưởng tượng là một bộ bikini chế tạo bằng sắt (không mang tính hiện thực) giáp sắt, thỉnh thoảng được gọi là một "bikini áo giáo" hay "bikini đồng"; nhân vật Red Sonja là một ví dụ điển hình. Một thuật ngữ để gọi nó, khi mục đích gợi tình quan trọng hơn tính hiện thực là "babes-at-arms" (được nhại lại thành "men-at-arms" để chỉ các binh sĩ được trang bị tận răng). Trong phim khoa học viễn tưởng, Sự trở lại của Jedi có bộ Bikini của công chúa Leia, nó được nhân vật Công chúa Leia mặc khi cô bị bắt giữ ở đoạn phim mở đầu. Bộ bikini đặc biệt này từ đấy đã được đưa lên trở thành biểu tượng của văn hóa pop, làm xuất hiện nhiều kiểu bắt chước và lời nói nhại (đáng chú ý nhất là 1 tập phim Friends). Bị loại bỏ trong các cuộc thi Hoa hậu Trong lịch sử thi hoa hậu, đã có không ít lần trang phục bikini bị phản đối. Tại cuộc thi Hoa hậu Thế giới đầu tiên vào năm 1951 đã có phần thi bikini. Giáo hoàng Pius XII lúc đó đã ra tuyên cáo lên án, coi việc trình diễn loại trang phục hở hang đó là một tội lỗi rất nghiêm trọng và là sự hủy hoại các giá trị đạo đức Ki-tô giáo. Các tổ chức đấu tranh vì quyền phụ nữ trên thế giới đã phê phán phần thi bikini trong các cuộc thi sắc đẹp, vì ở đó công chúng thoải mái buông ra những lời nhận xét khiếm nhã (dù vô tình hay cố tình) có thể làm tổn thương phụ nữ. Màn thi bikini đã trực tiếp cổ vũ tâm lý coi cơ thể phụ nữ là vật trưng bày mua vui, hạ thấp nhân phẩm phụ nữ, nhiều cô gái tham dự đã trở thành đối tượng bị chê bai, xúc phạm nặng nề chỉ vì cơ thể họ có khiếm khuyết Cuộc đấu tranh lâu dài của các nhóm nữ quyền đã bước đầu có kết quả và làm ban tổ chức các cuộc thi hoa hậu ở các quốc gia khác phải suy nghĩ lại. Đến đầu thập niên 2010, nhiều cuộc thi hoa hậu trên thế giới bắt đầu loại bỏ phần thi trang phục bikini do những chỉ trích về văn hóa và đạo đức. Các cuộc thi này nhận thấy việc buộc thí sinh mặc trang phục bikini diễu qua lại trước đông đảo người xem không phải là "tôn vinh nét đẹp", mà là sự thiếu tôn trọng đối với phụ nữ, đó là một dạng lợi dụng cơ thể hở hang, thiếu vải của phụ nữ để câu khách. Một xã hội văn minh, coi trọng nhân phẩm phụ nữ cần phải chấm dứt những màn thi buộc phụ nữ phải mặc trang phục hở hang, thiếu vải, chịu sự săm xoi của khán giả về những ưu khuyết điểm trên cơ thể họ. Trong xã hội hiện nay, vấn đề bình đẳng giới, quyền phụ nữ ngày càng được coi trọng, nâng cao thì việc thi bikini bị loại bỏ ở các cuộc thi nhan sắc được coi là chuyện sớm muộn sẽ xảy ra. Hoa hậu Thế giới Năm 2013, ban tổ chức Hoa hậu Thế giới (cuộc thi hoa hậu quốc tế lớn nhất thế giới) đã phải chuyển từ phần thi bikini sang trang phục đi biển kín đáo trước sức ép của người dân Đạo hồi ở nước chủ nhà Indonesia. Hội đồng Hồi giáo Indonesia, cho rằng màn trình diễn bikini cần phải bị hủy bỏ vì nó thúc đẩy "chủ nghĩa khoái lạc, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa tiêu dùng," và rằng "thi bikini chỉ là một cái cớ để khoe mẽ các bộ phận cơ thể của phụ nữ vốn cần phải kín đáo" Sau đó, Hoa hậu Thế giới 2014 diễn ra tại Anh đã không còn phần trình diễn trang phục bikini trong đêm thi chung kết. Đồng thời, bà Julia Morley - chủ tịch cuộc thi Hoa hậu Thế giới thông báo phần thi bikini chính thức bị loại bỏ khỏi đấu trường nhan sắc lớn nhất thế giới này kể từ năm 2015. Bà cho rằng phần thi bikini không còn cần thiết và muốn các thí sinh cạnh tranh nhau ở vẻ đẹp trí tuệ, cách ứng xử, lòng nhân ái... hơn là vẻ đẹp hình thể, và đó mới là phương châm "sắc đẹp vì mục đích cao cả" mà cuộc thi theo đuổi Bà Julia Morley thể hiện quan điểm rằng bà không muốn nhìn những cô gái diễu qua lại trên sân khấu trong những bộ áo tắm: “Nó không có tác dụng gì với phụ nữ và cũng không có bất cứ tác dụng nào với bất cứ ai trong chúng ta". Thay vào đó, Hoa hậu Thế giới sẽ tập trung vào trí tuệ, sự nhân hậu và tinh thần mạnh mẽ của các cô gái. Quyết định của bà Morley được đánh giá là bước đi tiên phong, tạo bước chuyển về bản chất của các cuộc thi sắc đẹp, để các thí sinh không còn bị đánh giá chỉ bởi vẻ bề ngoài cũng như phải hứng chịu những bình luận khiếm nhã về cơ thể họ. Hoa hậu Trái Đất Tại phần trình diễn hình thể mở đầu cuộc thi Hoa hậu Trái Đất 2017, mặt các thí sinh đều phải che lại trong khi tạo dáng với áo tắm nhằm làm người xem không rõ đó là ai. Sự thay đổi này của cuộc thi nhằm xoa dịu những chỉ trích về vấn đề buộc thí sinh phải trình diễn bikini trong cuộc thi. Hoa hậu Mỹ (Miss America) Năm 2018, cuộc thi Hoa hậu Mỹ (Miss America) đã quyết định loại bỏ phần thi bikini nhằm ủng hộ phong trào #MeToo (phong trào chống quấy rối tình dục và bình phẩm vẻ ngoài phụ nữ) đang lan rộng, đặc biệt là sau khi những người lãnh đạo cũ của cuộc thi gặp bê bối lộ email phân biệt giới tính và gọi các thí sinh là "gái điếm". Bà Gretchen Carlson, Chủ tịch mới của Tổ chức Hoa hậu Mỹ và cũng là Hoa hậu Mỹ 1989, nói rằng “Tôi đã trò chuyện với rất nhiều cô gái trẻ và họ nói với tôi rằng họ muốn tham gia cuộc thi nhưng không muốn sải bước trên sân khấu trong bộ đồ bikini. Tôi hiểu điều đó. Và chúng tôi sẽ không chấm điểm bạn chỉ dựa trên diện mạo bên ngoài của bạn. Chúng tôi đang tiến về phía trước và thay đổi để phù hợp với cuộc cách mạng văn hoá này”. Theo đó, cuộc thi người đẹp nói riêng và việc đánh giá phụ nữ nói chung cần tập trung vào những thành tựu học thức, sự nghiệp, đóng góp xã hội của họ, phần thi áo tắm có thể làm ảnh hưởng xấu đến thông điệp đó. Cuộc thi sẽ là một cuộc đua thực sự về trí tuệ, tài năng, lòng nhân ái chứ không chỉ là nơi trình diễn sắc đẹp. 9 thành viên của Hội đồng quản trị cuộc thi Miss America, trong đó 7 người là phụ nữ đã nhất trí với sự thay đổi này. Theo Blain Roberts, ở thời điểm phong trào phụ nữ đòi quyền bình đẳng và cần được đánh giá đúng về bản thân, không chỉ ở vẻ ngoài, thì mục đích và tiêu chí của cuộc thi Hoa hậu Mỹ cần thay đổi cho phù hợp. Hoa hậu Mỹ 2015, Kira Kazantsev, chia sẻ trên tờ Times: "Hoa hậu Mỹ sẽ phải thăm nhiều thành phố, di chuyển nhiều, trở thành đại sứ cho các dự án từ thiện... Tất cả đòi hỏi hoa hậu phải là người nhanh nhẹn, khỏe khoắn, truyền cảm hứng... không có nghĩa người đó bắt buộc phải mặc bikini đẹp. Nói thật, tôi thích phần thi bikini. Tôi thích sải bước trên sân khấu ở khoảnh khắc ấy vì nó phù hợp tính cách của mình. Nhưng khi nhìn lại, tôi nhận ra nó chẳng đóng góp gì cho trách nhiệm hoa hậu tôi phải làm. Ngược lại, phần thi ấy cản trở công việc của tôi. Những người tôi gặp sẽ không đánh giá tôi nghiêm túc, thậm chí đưa ra những nhận xét dâm dục, chế nhạo tôi". Hoa hậu Tuổi Teen Mỹ Năm 2016, tổ chức Hoa hậu Hoàn vũ (tổ chức từng nắm quyền điều hành ba cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ, Hoa hậu Mỹ và Hoa hậu Tuổi Teen Mỹ) đưa ra thông báo sẽ loại bỏ phần thi áo tắm khỏi sân chơi sắc đẹp dành cho đối tượng từ 15-19 tuổi này. Theo đó, phần thi áo tắm sẽ được thay thế bằng trang phục thể thao. Bà Paula Shugart, chủ tịch tổ chức Miss Universe, cho biết sự thay đổi này mang ý nghĩa tích cực, nhằm tôn vinh vẻ đẹp, sức mạnh của phụ nữ theo một cách khác. "Quyết định này phản ánh sự biến đổi văn hóa quan trọng. Chúng ta đang tôn vinh những người phụ nữ mạnh mẽ, có khả năng làm chủ cuộc sống của mình và khuyến khích người khác làm theo. Chúng tôi hy vọng khán giả cũng sẽ nhận ra đó là những cô gái tràn đầy năng lượng và truyền cảm hứng" - bà Paula Shugart nói. Ở các nước khác Năm 2005, cuộc thi Hoa hậu Pháp bắt đầu xem xét lại về màn thi bikini, 12 người vào vòng chung kết sẽ trình diễn bikini trong khi các ứng viên còn lại sẽ trình diễn áo tắm một mảnh. Bà Geneviève de Fontenay, Chủ tịch Ủy ban Hoa hậu Pháp, nói với phóng viên AFP rằng quyết định này là thể hiện sự tôn trọng khán giá truyền hình, bởi bikini là trang phục gây phản cảm với người già, trẻ nhỏ hoặc các tín đồ tôn giáo: Năm 2012, ban tổ chức cuộc thi Hoa hậu Italia thông báo cấm thí sinh mặc bikini dự thi. Họ chỉ chấp nhận những bộ áo tắm một mảnh hoặc áo tắm kiểu cổ điển, kín đáo như ở thập niên 1950. Patrizia Mirigliani - nhà tổ chức Miss Italia - cho hay quyết định này nằm trong nỗ lực nhằm đưa cuộc thi về với "vẻ đẹp cổ điển". Việc loại bỏ bikini cũng đồng thời mang lại "yếu tố tao nhã" cho sàn đấu sắc đẹp này. Ngoài quy định cấm mặc bikini, Miss Italia cũng cấm thí sinh phẫu thuật thẩm mỹ, xăm trổ và xỏ khuyên trên cơ thể. Năm 2019, lần đầu tiên trong lịch sử, cuộc thi Hoa hậu Venezuela sẽ không công bố số đo 3 vòng (vòng ngực, vòng eo, vòng hông) của 24 thí sinh tham dự nữa, dù đây là quốc gia nổi tiếng về thi hoa hậu. Quyết định không công bố số đo 3 vòng của các thí sinh được đưa ra trong bối cảnh các cuộc thi nhan sắc đang đối mặt với những chỉ trích của công luận vì quá chú trọng tới vẻ đẹp hình thể. Cô Gabriela Isler, người phát ngôn của cuộc thi Hoa hậu Venezuela và cũng là Hoa hậu Hoàn vũ 2013, nói: "Vẻ đẹp của một phụ nữ không phải là 90, 60, 90… Nó được đo bằng tài năng của mỗi người" Ở Nam Phi, cuộc thi Hoa hậu Namibia (được diễn ra từ năm 1980) đã quyết định loại bỏ phần trình diễn áo tắm từ năm 2019. Họ đi theo xu hướng quốc tế giống với Hoa hậu Thế giới năm 2015. Các tiêu chí đánh giá bao gồm: vòng phỏng vấn, cách biểu hiện trên sân khấu, trang phục dạ hội và trả lời câu hỏi từ ban giám khảo. Ở Hàn Quốc, chuyên gia vũ đạo Lee Myeong Seok - người nhiều năm là tổng đạo diễn đêm chung kết các cuộc thi hoa hậu - cho biết vài năm gần đây, các cuộc thi người đẹp ở Hàn Quốc ngày một suy giảm, một phần nguyên nhân là quan niệm công chúng đã nâng lên, họ nhận ra các cuộc thi người đẹp chỉ là một hình thức kinh doanh lợi dụng thân thể, nhan sắc của người phụ nữ. Cuộc thi Hoa hậu Thế giới người Trung Quốc cũng loại bỏ phần thi áo tắm kể từ năm 2015. Ông Vu Tử Xuyên, thư ký ban tổ chức Hoa hậu Thế giới Trung Quốc vừa cho biết việc bỏ phần thi áo tắm nhằm thể hiện sự tôn trọng với phụ nữ và sự đa dạng văn hóa. Việc các thí sinh mặc trang phục áo tắm thiếu vải, phô diễn cơ thể cho thấy sự thiếu tôn trọng đối với phụ nữ và đây cũng là quan niệm sai lầm tại các cuộc thi nhan sắc. "Một cuộc thi nhan sắc tận dụng hình ảnh những cô gái mặc đồ bơi để câu khách là không thể hiện sự tôn trọng đối với phụ nữ và đưa ra những thông điệp sai lầm trong quan niệm về cái Đẹp ở những cuộc thi nhan sắc" - Ủy ban khẳng định. Ban tổ chức sẽ loại bỏ phần thi áo tắm để cuộc thi trở nên gần gũi với thuần phong mỹ tục Trung Quốc, thay vào đó họ sẽ tập trung chủ yếu vào việc phô diễn tài năng về nghệ thuật, văn hóa truyền thống. Ủy ban đặt ra tiêu chí rằng các thí sinh tham gia cuộc thi Hoa hậu Thế giới người Trung Quốc đều phải hiểu biết sâu về văn hóa Trung Hoa để giúp mở rộng tầm phủ sóng của văn hóa Trung Quốc ra thế giới Chú thích
Jean P. Sasson là nhà văn và nhà báo (New York Times) Mỹ. Tiểu sử Bà sinh tại thành phố nhỏ Troy, tiểu bang Alabama, Mỹ. Từ khi còn bé, bà bị mê hoặc bởi những câu chuyện về những đất nước và nền văn hóa khác nhau. Năm 1978, bà sang Ả Rập Xê-út để làm điều phối viên nhà nước tại Bệnh viện Nhà vua Faisal và Trung tâm nghiên cứu tại Riyadh. Bà sinh sống và làm việc tại đây 12 năm, từ năm 1978 đến 1991. Từ đó, bà đã đi thăm 59 nước trên thế giới. Hiện giờ, bà đang sinh sống tại tiểu bang Atlanta, Mỹ. Những tác phẩm Cuốn sách đầu tiên của bà, Sự hâm hiếp tại Kuwait, được xuất bản năm 1992. Jean Sasson phần lớn viết những câu truyện thật về những vấn đề liên quan đến phụ nữ, mặc dù cuốn sách Đứa con của Ester là chuyện lịch sử về người thật. Những cuốn sách của bà được xuất bản hơn 60 lần, bằng hơn 30 ngôn ngữ. Bà là người theo chủ nghĩa nhân đạo nổi tiếng và khi không nghiên cứu hay viết sách, bà dùng thì giờ vào những vấn đề nhân đạo khác nhau. Những vấn đề mà bà quan tâm đến nhiều nhất là vấn đề về phụ nữ và quyền lợi động vật. Danh sách Sự hâm hiếp tại Kuwait Công chúa: Câu chuyện thật phía sau mạng che mặt tại Ả Rập Xê-út Công chúa Xuntana Và Các Con Gái, biên dịch: Mai Quảng và Minh Anh Công chúa Xuntana và những người thân Đứa con của Ester Mayada: Đứa con Iraq Jawan: Người đàn bà Kurdistan, sẽ được xuất bản năm 2007
Công chúa: Câu chuyện thật phía sau mạng che mặt tại Ả Rập Xê-út là cuốn sách của nhà văn Mỹ, Jean Sasson. Cuốn sách được xuất bản lần đầu tiên tại New York năm 1992, nói lên sự thật về cuộc sống bất tự do của những phụ nữ người Ả Rập Xê-út, nơi bà sinh sống và làm việc 12 năm, từ 1978 đến 1991. Chủ đề Tại buổi họp mặt đại sứ Ý năm 1983, Sasson gặp nàng công chúa Ả Rập Xê Út, "Sultana" - một người phụ nữ nghị lực và dám chống đối sự bất bình đẳng giữa nam và nữ giới. Sultana đã kể cho Jean những câu chuyện khó tin về những người phụ nữ phải cam chịu sự đày đọa của những người đàn ông ham quyền lực và phụ nữ trong đất nước mình. Năm 1985, cô yêu cầu Jean viết lên câu chuyện của mình, để tất cả mọi người trên thế giới biết và hiểu được những sự đau khổ của phụ nữ Ả Rập Xê Út.
Cephalotus là chi duy nhất chứa loài duy nhất Cephalotus follicularis trong họ Cephalotaceae ở tây nam Úc. Nó là một dạng cây nắp ấm, nói chung cũng hay được gọi là nắp ấm Úc, nắp ấm Albany, cây bắt ruồi hay cây mocassin hoặc nắp ấm Tây Australia. Loài cây này sinh ra hai loại lá: một loại có chức năng bắt côn trùng, một loại không có chức năng này. Loại có chức năng bắt côn trùng nhìn bề ngoài giống như một chiếc giày moccasin nhỏ màu xanh lục. Giống như nhiều loài nắp ấm khác, cây nắp ấm này có lông răng, là một vòng tròn chứa các gai nhỏ hướng xuống dưới và bao quanh lối vào ấm (lá hình ấm), và một nắp. Nắp này có tác dụng ngăn không cho nước mưa vào quá nhiều để hòa tan hết các enzym tiêu hóa của nó. Nắp có các miếng chứa các tế bào trong mờ nhằm làm cho côn trùng bị lúng túng nhờ bề ngoài tương tự như một mảng của bầu trời. Sự phân loại họ Cephalotaceae vào trong bộ Tai hùm (Saxifragales) đã bị từ bỏ. Trong các hệ thống phân loại đang phát triển và mới thì họ này được đưa vào trong bộ Chua me đất (Oxalidales); những hệ thống khác đặt nó (có lẽ sai lầm) vào trong bộ Hoa hồng (Rosales). Chú thích
Bộ Nắp ấm (tên khoa học Nepenthales) hay còn có tên gọi khác là Nắp bình là một danh pháp thực vật cho một bộ thực vật có hoa. Tên gọi này được sử dụng trong hệ thống Cronquist cho bộ thuộc phân lớp Sổ (Dilleniidae) và trong phiên bản năm 1981 của hệ thống này thì nó bao gồm các họ sau: bộ Nepenthales họ Droseraceae - họ Gọng vó, cẩm địa la, mao cao họ Nepenthaceae - họ Nắp ấm ở Cựu thế giới. họ Sarraceniaceae - họ Nắp ấm (Tân thế giới). APG II và APG III Hệ thống APG II và hệ thống APG III đưa họ cuối cùng vào trong bộ Thạch nam (Ericales) và hai họ đầu tiên vào bộ Cẩm chướng (Caryophyllales). Điều này là ngược lại với cái mà người ta có thể mong chờ khi chỉ xem xét theo phương pháp bắt côn trùng. Theo phương pháp bắt côn trùng thì họ Droseraceae đứng riêng, các loài cây gọng vó bắt côn trùng bằng các giọt nhỏ ra chất keo dính và trong họ này thì cây bắt ruồi Venus (Dionaea muscipula) bắt côn trùng trong lá bằng các răng cài vào nhau. Hai họ còn lại là các loài cây nắp ấm, chúng giết chết con mồi bằng cách dìm cho chúng chết trong dung dịch nước (chứa các enzym tiêu hóa hay vi khuẩn) bên trong ấm của chúng. Hình ảnh Lưu ý Lưu ý là còn một loại cây nữa cũng được gọi là nắp ấm, chỉ có ở miền tây nam Úc. Loài này thuộc về bộ Chua me đất (Oxalidales). Xem bài Nắp ấm (Úc). Chú thích
Nhạc cách mạng (tiếng Anh: revolutionary music) hay ca khúc cách mạng (tiếng Anh: revolutionary song) là những bài hát chính trị hướng đến ủng hộ hoặc ca ngợi cách mạng. Chúng được dùng để thúc đẩy tinh thuần và nhuệ khí cũng như phục vụ mục đích tuyên truyền chính trị hoặc khích động quần chúng. Các ca khúc cách mạng nổi tiếng nhất có thể kể đến như "La Marseillaise" của Pháp và "Quốc tế ca" của những người Cộng sản. Theo quốc gia Cách mạng Pháp Cách mạng Mỹ Cách mạng Hy Lạp Cách mạng Nga Nội chiến Tây Ban Nha Châu Âu Trung Quốc Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên Việt Nam Cuba và Mỹ Latinh Cách mạng Hồi giáo
Mạc Đĩnh Chi (chữ Hán: 莫挺之 1272 - 1346), tên tự là Tiết Phu (節夫), hiệu là Tích Am (僻庵) là một quan đại thần và nhà ngoại giao nổi tiếng triều Trần trong lịch sử Việt Nam. Năm 1304, đời vua Trần Anh Tông niên hiệu Hưng Long thứ 12, ông thi đỗ trạng nguyên. Nhờ thông minh, hiểu biết sâu rộng, ông nhiều lần được cử đi sứ sang Trung Quốc. Ngoài ra, ông còn được biết đến như là tổ tiên trực hệ của các đời Hoàng đế nhà Mạc, được Mạc Thái Tổ truy tôn thụy là Kiến Thủy Khâm Minh Văn Hoàng Đế (建始欽明文皇帝). Xuất thân Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Mạc Đĩnh Chi quê ở xứ làng Bàng Hà và Ba Điểm. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên năm 1287 đã theo hàng quân Nguyên. Nhà Trần sau chiến thắng đã trị tội cả làng, bắt dân làm lính hầu cho các vương hầu nhà Trần, không cho làm quan, nhưng sau này năm 1304, Mạc Đĩnh Chi vẫn được ứng thi và làm quan. Theo Lịch triều hiến chương loại chí, Mạc Đĩnh Chi là người làng Lũng Động, huyện Chí Linh, Hải Đông (nay là thôn Long Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương), tổ tiên là Mạc Hiển Tích đỗ khoa Thái học sinh năm Bính Dần đời vua Lý Nhân Tông. Ông thông minh hơn người, nhưng tướng mạo xấu xí. Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc mở học đường, tập hợp văn sĩ bốn phương, chu cấp cho ăn mặc, đào tạo nhiều nhân tài, trong đó có Mạc Đĩnh Chi. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng: Ích Tắc là con thứ của Thượng hoàng, thông minh hiếu học, thông hiểu lịch sử, lục nghệ, văn chương nhất đời. Dù nghề vặt như đá cầu, đánh cờ, không nghề gì không thông thạo; từng mở học đường ở bên hữu phủ đệ, tập hợp văn sĩ bốn phương cho học tập, cấp cho ăn mặc, đào tạo thành tài như Mạc Đĩnh Chi ở Bàng Hà, Bùi Phóng ở Hồng Châu,... gồm 20 người, đều được dùng cho đời. Sự nghiệp Năm 1304 đời vua Trần Anh Tông niên hiệu Hưng Long thứ 12, triều đình mở khoa thi Cống sĩ lấy 44 người đỗ Thái học sinh (tiến sĩ). Mạc Đĩnh Chi đỗ Trạng nguyên; Bùi Mộ đỗ bảng nhãn, Trương Phóng đỗ thám hoa. Khi mới đỗ nhà vua chê ông xấu, Mạc Đĩnh Chi bèn làm bài phú Ngọc tỉnh liên (Sen trong giếng ngọc) để tự ví mình với sen. Trong bài phú có đoạn: Há rằng trống rỗng bất tài Thuyền quyên lắm kẻ lỡ thời thương thay. Nếu ta giữ mực thẳng ngay. Mưa sa gió táp xem nay cũng thường Vua Trần Anh Tông xem rồi khen hay, thăng làm Thái học sinh dũng thủ, sung chức Nội thư gia. Tham dự triều chính Thời vua Trần Minh Tông, Mạc Đĩnh Chi càng được tin dùng hậu đãi. Ông là người liêm khiết, vua biết muốn thử ông, sai người đem 10 vạn quan tiền để trước cửa nhà ông. Sáng hôm sau Đĩnh Chi đem túi tiền lên triều, tâu nhà vua, Vua nói: "Không ai nhận tiền ấy, thì cho khanh lấy mà chi dùng". Ông đã từ chối và không nhận vì cho rằng người mất sẽ lo lắng , lúc này vua cho biết rằng chỉ thử lòng và trao cho Mạc Đĩnh Chi phần thường vì lòng chính trực. Mạc Đĩnh Chi cùng với các vị Trần Thời Kiến, Đoàn Nhữ Hài, Độ Thiên Lư, Nguyễn Dũ, Phạm Mại, Phạm Ngộ, Nguyễn Trung Ngạn,... được sử quan Ngô Thì Sĩ nhận định trong Việt sử tiêu án: Các ông này khi làm quan, ngạnh trực dám nói thẳng, có phong độ đại thần và nhân tài thịnh nhất hơn triều các vua khác. Thời vua Trần Hiến Tông ông làm chức Nhập nội hành khiển, Lang trung hữu ty, chuyển sang làm Lang trung tả ty trải đến chức Tả bộc xạ ở hàng quan to. Đi sứ nhà Nguyên Năm 1308 đời vua Trần Anh Tông, Mạc Đĩnh Chi đi sứ nhà Nguyên, mừng vua Nguyên Vũ Tông mới lên ngôi. Đó là lúc mới 20 năm sau chiến tranh chống quân Nguyên thứ 3 (1287-1288), sứ bộ bị nắn gân cốt rất mạnh. Tuy nhiên trong hoạt động bang giao ông đã tỏ rõ khí phách và tài năng của mình. Hoạt động và tài năng văn chương của ông đã để lại nhiều giai thoại nổi tiếng. Sau đó năm Nhâm Tuất (1322) ông đi sứ lần 2, nhưng chưa tìm được nguồn tin. Giai thoại đi sứ Tại cửa ải Thử thách văn chương đầu tiên là do trời mưa nên Sứ bộ đến cửa ải Pha Lũy (nay là ải Nam Quan) bị trễ. Quan trấn ải phía Trung Quốc không chịu mở cổng thành, song vì biết danh tiếng ông, nên thử tài bằng câu đối: Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan Nghĩa là: Qua cửa quan trễ, cửa quan đóng, mời khách qua đường qua cửa quan. Ông đã đáp lại: Tiên đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối Nghĩa là: Ra câu đối trước thì dễ, đối câu đối mới khó, xin tiên sinh đối trước. Quan giữ ải phục tài, lập tức mở cửa ải đón sứ bộ và tiếp đãi rất long trọng. Buổi tiếp kiến đầu tiên Khi đến Đại Đô (nay là Bắc Kinh, Trung Quốc), thấy Mạc Đĩnh Chi người thấp bé, nên người Nguyên tỏ ý khinh thường. Trong buổi tiếp kiến đầu tiên người triều Nguyên đã ra câu đối: Nhật hoả vân yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thố Nghĩa là: Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày thiêu cháy vừng trăng. Hàm ý là đại quốc đủ sức đốt cháy nước nhỏ. Mạc Đĩnh Chi đã đối lại: Nguyệt cung tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô Nghĩa là: Trăng là cung, sao là đạn, buổi chiều tối bắn rụng mặt trời. Hàm ý là nước nhỏ cũng có thể chống lại nước lớn trong hoàn cảnh thích hợp. Vế đối này của Mạc Đĩnh Chi còn lấy điển tích Hậu Nghệ xạ nhật, hay Hậu Nghệ bắn rụng chín mặt trời làm gốc. Kim Ô, hay Quạ Mặt Trời, ban ngày bay lên tai hoạ nhân gian. Hậu Nghệ bèn lấy cung bắn rụng chín con, chỉ chừa lại một con duy nhất để chiếu sáng nhân gian. Bức tranh chim sẻ ở phủ Tể tướng Khi Tể tướng triều Nguyên mở tiệc chiêu đãi sứ bộ Việt, ông thấy trong phủ Tể tướng có bức tranh thêu chim sẻ vàng đậu trên cành trúc rất đẹp. Đĩnh Chi kéo con chim sẻ xuống xé nát ra, người Nguyên hỏi cớ sao ? Ông nói:Cổ nhân có vẽ mai và tước, chưa thấy vẽ trúc và tước (sẻ). Trúc là quân tử, tước là tiểu nhân, bức trướng thêu này là kẻ tiểu nhân lấn lướt người quân tử, nay tôi vì Thánh triều mà trừ mối tệ ấy đi. Bài minh cái quạt Khi vào chầu vua Nguyên Vũ Tông, đang cuối mùa hè oi bức, có người của Sát Hợp Đài hãn quốc dâng cái quạt, ông phụng mệnh làm bài minh vào cái quạt. Sứ thần nước Cao Ly làm xong trước, có 4 câu, 16 chữ, Mạc Đĩnh Chi trông thế bút viết, biết được bài của sứ thần Cao Ly rồi, liền theo ý mà làm phiên câu văn đi, lại dẫn thêm 3 câu ở trong truyện làm câu kết, được khen thưởng hơn, đủ biết ông có tài và nhanh lắm, người Nguyên càng thêm thán phục. Bài minh của sứ Cao Ly: Uẩn long trùng trùng, Y Doãn, Chu Công. Vũ tuyết thê thê, Bá Di, Thúc Tề. Bài của Đĩnh Chi: Lưu Kim thước thạch thiên địa vi lô, nhĩ ư tư thời hề Y Chu cự nho; Bắc phong kỳ thê vũ tuyết tái đồ, nhĩ ư tư thời hề Di Tề ngã phu. Y, dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng, duy ngã dữ nhĩ hữu thi phù. Văn tế công chúa Trong thời gian sứ bộ lưu ở Đại Đô, có một công chúa nhà Nguyên chết, sứ thần Việt Mạc Đĩnh Chi được cử đọc văn tế. Để thử tài sứ giả nước Việt, quan Bộ Lễ trao cho ông trang giấy chỉ có 4 chữ Nhất. Thật là một tình thế hết sức hiểm nghèo, nhưng rồi ông rất bình tĩnh ứng khẩu đọc: Thanh thiên nhất đóa vân, Hồng lô nhất điểm tuyết, Thượng uyển nhất chi hoa, Dao Trì nhất phiến nguyệt. Y ! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết ! Dịch nghĩa: Trời xanh có một áng mây, Hồng lô có một bông tuyết, Thượng uyển có một cành hoa, Dao Trì có một mảnh trăng. Than ôi ! Mây tán, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết ! Ý rằng: trên trời có một đám mây, trong lò lửa có một bông tuyết, trong vườn hoa có một nhành hoa, nước Dao Trì có một mặt trăng ! Than ôi ! Mây tan hết, tuyết rã rồi, hoa tàn héo, trăng không tròn ! Tuy nhiên trên thực tế, bài văn tế này là của một tác giả Trung Quốc, sống ở thời Tống và người đời sau đã đem gán cho Mạc Đĩnh Chi cách sau đời Tống đến trên ba thế kỷ, đã tạo thành một câu chuyện giai thoại, và theo Lê Quý Đôn thì bài văn còn được gán cho Nguyễn Đăng Cảo (1619 - ?) sống cách đời Tống sau 600 năm. Câu đố chết người Khi sứ bộ bái biệt vua Nguyên Vũ Tông để về nước, thì họ ra câu đố hiểm hóc: Có một chiếc thuyền, trong đó có vua, thầy học, và cha mình (quân, sư, phụ) bơi đến giữa sông chẳng may gặp sóng lớn đắm thuyền. Khi ấy ngươi ở trên bờ ra cứu, nhưng chỉ có thể cứu được một người thôi, thế thì ngươi cứu ai? Vào thời kỳ đó, trả lời sai sẽ bị tội phanh thây, chém đầu hoặc lưu giữ lại, dẫn đến nước Việt mất nhân tài. Nhưng ông đã trả lời: Thần đứng trên bờ, thấy thuyền bị đắm, tất phải vội vã nhẩy xuống sông bơi ra cứu, hễ thần gặp ai trước thì thần cứu người ấy trước, bất kể người ấy là vua, thầy học hay cha mình. Cuối cùng ông được ra về. Gia đình Tổ tiên là Mạc Hiển Tích đỗ khoa Thái học sinh năm Bính Dần đời vua Lý Nhân Tông sinh ra Mạc Hiển Đức, Hiển Đức sinh Hiển Tuấn, Hiển Tuấn sinh Đĩnh Kỳ. Mạc Đĩnh Kỳ sinh Mạc Đĩnh Chi. Mạc Đĩnh Chi sinh ra Mạc Cao, Mạc Cao sinh ra Mạc Thúy, Mạc Thúy sinh ra Mạc Tung, dời sang ở xã Lan Khê, huyện Thanh Hà rồi sinh ra Mạc Bình, Mạc Bình lại dời sang xã Cổ Trai, huyện Nghi Dương rồi trú tại đó. Bình sinh ra Mạc Hịch, Mạc Hịch lấy con gái trưởng của Đặng Xuân người cùng xã, sinh được ba con trai, con trưởng là Mạc Đăng Dung, con thứ là Mạc Đăng Đốc, con út là Mạc Đăng Quyết. Mạc Đăng Dung có sức khoẻ, vì đỗ võ cử, được sung vào quân túc vệ, đến đây phong cho chức này. Mạc Đăng Dung sau làm vua - Mạc Thái Tổ của triều Mạc. Năm 1406, nhà Minh xâm lược nước Đại Ngu, Mạc Địch, Mạc Thúy, Mạc Viễn và Nguyễn Huân mạo nhận là họ Mạc đều là những kẻ bất đắc chí, đón hàng quân Minh, người Minh đều trao cho quan chức. Sau Mạc Thúy làm đến Tham chính; Mạc Địch làm đến Chỉ huy sứ; Mạc Viễn làm đến Diêm vận sứ; Huân làm đến Bố chính; (Thúy, Địch, Viễn là cháu Mạc Đĩnh Chi). Hậu duệ ở Triều Tiên Trong thời gian đi sứ Trung Hoa, sứ bộ nước Việt giao lưu rất thân thiết với sứ bộ nước Cao Ly. Sự tương đồng hoàn cảnh của hai nước trước cường quốc Trung Hoa, cùng với tài năng của Mạc Đĩnh Chi làm sứ thần Cao Ly mến mộ. Vị sứ thần Cao Ly đã mời ông sang chơi và gả cháu gái cho ông. Người thiếp này sinh được 1 nữ, và lần ông đi sứ thứ hai thì sinh 1 nam, từ đó lập ra một dòng họ ở bên đó. Một hậu duệ của ông đã tìm đến Việt Nam, bút đàm hán tự với ông Lê Khắc Hòe. Sau đó ông Hòe có viết bài "Người Triều Tiên đi bán sâm là hậu duệ của Mạc Đĩnh Chi", muốn tìm họ Mạc để nhận họ, đăng trên An Nam tạp chí số 4 năm 1926. Sau này Vũ Hiệp sưu tập và đăng trên tạp chí Nghiên cứu Sử số 2, 1996 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Chỉ dẫn
Phong Châu (峯州) hay bộ Văn Lang (文郎) là kinh đô của nhà nước Văn Lang. Vị trí của kinh đô này nằm trải từ thành phố Việt Trì ngày nay cho tới khu vực Đền Hùng thuộc huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Vị trí Do thời Hùng Vương các tư liệu lịch sử để lại rất ít, các di tích khảo cổ cũng chưa được phát hiện nhiều cho nên tới nay, người ta vẫn chưa xác định được chính xác vị trí đặt kinh thành thời Hùng Vương. Nhiều ý kiến cho rằng kinh đô thời này, nằm giữa khoảng từ thành phố Việt Trì ngày nay cho tới khu vực Đền Hùng thuộc huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ do Kiều Công Hãn sau này tiếp tục làm Thứ sử Phong Châu sử dụng. Những phát hiện khảo cổ tại Làng Cả (phường Thọ Sơn, thành phố Việt Trì) cuối năm 2005 cho thấy nhiều khả năng địa điểm này xưa kia chính là kinh đô Phong Châu. Thời Loạn 12 sứ quân, Phong Châu là một trong 12 căn cứ lỵ sở quân sự của sứ quân, đây là nơi đóng quân của sứ quân Kiều Công Hãn.
Nguyễn Hiền (chữ Hán: 阮賢, 11 tháng 3, 1234 - 05 tháng 9, 1256) là trạng nguyên trẻ nhất trong lịch sử khoa cử Việt Nam, khi mới mười ba tuổi. Cuộc đời ông gắn với nhiều giai thoại dân gian Việt Nam còn lưu truyền đến nay. Cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Hiền sinh năm 1234-1256 tại làng Dương A, huyện Thượng Hiền, phủ Thiên Trường (nay là Thôn Dương A, xã Nam Thắng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định). Ông thi đỗ trạng nguyên khi mới 13 tuổi, trở thành trạng nguyên trẻ nhất trong lịch sử khoa cử Việt Nam, tại khoa thi tháng 2 năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 16 (1247) thời vua Trần Thái Tông. Cùng năm đó có Lê Văn Hưu (黎文休) 17 tuổi đỗ bảng nhãn và Đặng Ma La (鄧麻羅) 14 tuổi đỗ thám hoa. Đây cũng là khoa thi Nho học đầu tiên trong lịch sử Việt Nam đặt ra danh vị tam khôi, bao gồm trạng nguyên, bảng nhãn và thám hoa. Khi ông đỗ trạng nguyên, vì còn thiếu niên nên vua Trần Thái Tông cho ông về quê 3 năm tu dưỡng thêm rồi mới gọi ra làm quan. Hết 3 năm, vua tuyển ông vào học tiếp Tam giáo chủ khoa, tức đạo Lão, đạo Phật, đạo Khổng. Về sau bổ nhiệm làm quan đến chức Thượng thư bộ Công. Ông có đi sứ nhà Nguyên vài lần. Những năm làm quan trong triều, Nguyễn Hiền có nhiều kế sách hay để phò vua giúp nước. Năm Ất Mão (1255), Đại Việt bị Chiêm Thành xâm lược, vua Trần Thái Tông rất lo bèn giao cho Trạng nguyên Nguyễn Hiền đánh giặc giữ nước. Chỉ ít lâu sau, quân giặc thất bại, trạng Hiền thu quân về Vũ Minh Sơn mở tiệc khao quân và tâu lên vua. Nhà vua vô cùng vui mừng và phong cho ông danh hiệu "Đệ nhất hiển quý quan". Về nông nghiệp, ông cho đắp đê quai vạc sông Hồng, phát triển sản xuất mùa màng thắng lợi. Về quân sự, ông cho mở mang võ đường để rèn quân luyện sĩ. Ngày 14 tháng 8 năm Bính Thìn (1256), Trạng nguyên Nguyễn Hiền lâm bệnh nặng rồi qua đời, hưởng dương 21 tuổi. Vua Trần Thái Tông thương tiếc truy phong ông là "Đại vương thành hoàng" và tôn làm thần ở 32 nơi, trong đó có đình Lại Đà ở xã Đông Hội, huyện Đông Anh, Hà Nội. Hiện nay, tại đền thờ Trạng nguyên Nguyễn Hiền ở quê hương ông, thôn Dương A (Nam Thắng, Nam Trực, Nam Định) còn giữ được nhiều bài vị, sắc phong, câu đối, đại tự, đặc biệt bảo tồn được cuốn Ngọc phả nói về sự nghiệp của ông, trong đó có câu ca ngợi tài năng của Nguyễn Hiền như sau: Thập nhị tuế khôi khai lưỡng quốc Vạn niên thiên tuế lập tam tài Tạm dịch là: Mười hai tuổi khai khoa hai nước Nghìn năm ghi mãi chữ tam tài Sau khi ông mất, để tỏ lòng tôn kính một nhân tài mệnh yểu, vua cho đổi tên huyện Thượng Hiền thành Thượng Nguyên để kiêng tên húy của ông. Giai thoại Thần đồng từ nhỏ Nguyễn Hiền mồ côi cha từ nhỏ, bà mẹ đã cho ông theo học sư cụ chùa Hà Dương ở làng Dương A. Tương truyền, lúc đầu vào học sư mới viết được 10 trang giấy, Hiền liền đọc ngay được như người đã từng đi học rồi, sư cụ lấy làm lạ. Một đêm, sư cụ nằm mộng thấy Phật quở rằng: "Trạng nguyên mỗi lần vào chùa thường nghịch ngợm, sao nhà ngươi không răn đe, ngăn chặn?". Sư tỉnh dậy, đốt đuốc khắp chùa thấy sau lưng các pho tượng đều có viết chữ "phạt 30 roi", riêng hai pho hộ pháp ghi "phạt 60 roi", sư nhận ra ngay chữ của Hiền. Một hôm, sư lên lớp bèn lấy một câu trong sách: "Kính quỷ thần mà phải lánh xa" mà dặn Hiền rằng: "Phật tức quỷ thần, trò không được nhạo báng". Hiền liền nhận lỗi và tự lau sạch những chữ mình đã viết. Từ đó, Hiền càng chăm chỉ học tập, học đến đâu nhớ đến đấy, xuất khẩu thành chương. Năm 11 tuổi, Hiền đã nổi tiếng và được mệnh danh là "thần đồng". Bấy giờ có người họ Đặng tự cho mình là đã đọc biết hết các sách, nghe tiếng tăm Hiền liền tìm đến nhà Hiền thử tài, ra đầu đề bài phú: Phượng hoàng sào a, kỳ lân du úc và ra hạn cho Hiền số câu, mỗi câu phải có tiếng chỉ một loài cầm thú. Hiền liền ứng khẩu: Phi long kiên chiếu Mã bất xuất hà Ý bi Hữu Hùng chi thế Ấp vu Trác Lộc chi a. Dịch là: Rồng không bay lên nơi ao, hồ Ngựa không từ sông phi ra Đẹp thay đời có họ Hữu Hùng Làm nhà ở nơi Trác Lộc. Người họ Đặng hết sức thán phục Hiền và tấm tắc khen là "Thiên tài". Đỗ Trạng nguyên nhưng chưa được bổ nhiệm Đến năm thi Đinh Mùi (1247), Nguyễn Hiền dự kỳ thi đình với bài phú "Áp tử từ kê mẫu du hồ phú" (bài phú về gà con từ giã mẹ gà đi chơi hồ nước). Vua hỏi, Hiền trả lời trôi chảy cả văn lẫn ý, vua khen ngợi và hỏi: - Học thầy nào? Nguyễn Hiền trả lời: - Thần không phải là người sinh ra đã biết, nhưng khi có một đôi chữ không biết thì hỏi thầy chùa. Vua lại nói: - Vì còn nhỏ mà trạng nguyên ăn nói chưa biết lễ, cần cho về nhà học lễ 3 năm mới bổ dụng. Vì thế trạng Hiền chưa được ban áo mão. Xâu chỉ qua vỏ ốc Nguyễn Hiền trở về quê nuôi dưỡng mẹ, ngày ngày đọc sách. Hiền vẫn rất ham chơi, thường lúc rỗi rãi vẫn cùng trẻ làng chơi khăng, thả diều... Một lần, triều đình tiếp sứ Trung Hoa, viên sứ đưa ra một con ốc xoắn nhờ xâu qua ruột nó bằng một sợi chỉ mảnh. Được như vậy y mới chịu vào thành. Ấy là viên sứ muốn thử tài người Nam ra sao. Vua truyền cho các quan tìm cách xâu thử, nhưng vị nào cũng lè lưỡi, lắc đầu. Bấy giờ vua chợt nghĩ đến trạng nguyên trẻ Nguyễn Hiền, bèn cho triệu trạng về kinh. Viên quan được giao việc đến quê gặp trạng, gặp ngay một lũ trẻ chăn trâu nghịch đất đầu làng, thấy trong đó có một cậu bé mặt mũi khôi ngô đang bày cho lũ bạn đắp một con voi bằng đất mà bốn chân lẫn tai, vòi… có thể ngoe nguẩy được. Sứ giả đồ chừng đó là trạng Hiền, bèn buông một câu thăm dò: Tự là chữ, cắt giằng đầu, chữ tử là con, con nhà ai đấy? Cậu bé nghe được, không ngước mặt lên, cũng thủng thẳng buông một câu: Vu là chưng, bỏ ngang lưng, chữ đinh là đứa, đứa hỏi ta chi! Chủ ý của viên quan xuất một vế đối theo lối chiết tự chữ Hán. Chữ "tự" (字) có hai bộ phận, trên như cái giằng xay, dưới là chữ "tử" (子). Để nguyên "tự" có nghĩa là chữ, bỏ giằng trên còn lại chữ "tử" nghĩa là con, và gắn luôn với vế đối nôm tiếp đó thành một câu hỏi nửa Hán nửa Nôm. Câu hỏi cũng có sắc thái của người trên hỏi kẻ dưới. Trạng Hiền cũng đối lại bằng cách chiết tự chữ Hán kết hợp với một phần Nôm: chữ "vu" (于) là chưng có hai nét ngang và một nét móc, bỏ nét ngang (一) ở giữa thành chữ "đinh" (丁), nghĩa là đứa, đi với đứa nào đứa này là một vế đối rất chỉnh và rất xược. Sứ biết đó chính là trạng Hiền, bèn xuống ngựa, truyền lại ý vua vời trạng về kinh. Nhưng trạng Hiền không chịu, viện lẽ rằng, trước vua cho trạng kém lễ buộc về, nhưng lần này vua cho vời trạng lên cũng không giữ đúng lễ. Viên quan không biết làm thế nào, phải trần tình đầu đuôi câu chuyện sứ giả nước ngoài đưa câu đố mà chưa ai giải được. Trạng Hiền nghe chỉ mỉm cười, trở lại với đám trẻ chăn trâu. Chờ khi viên quan lên ngựa, Hiền mới xui đám trẻ cùng hát: Tích tịch tình tang! Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng Bên thì lấy giấy mà bưng Bên thì bôi mỡ kiến mừng kiến sang Tích tịch tình tang! Viên quan nghe nhẩm thuộc lời ấy, biết trạng đã chỉ cách giải, vui vẻ trở về kinh. Bài thơ chữ "Điền" Tương truyền sứ thần Trung Hoa đem một bài thơ ngụ ngôn sang thử nhân tài nước Nam. Bài thơ như sau: Dịch là: Vua và các quan trong triều không ai giải nghĩa được là gì. Một viên quan tâu với vua xin mời Trạng nguyên Nguyễn Hiền (mà vua cho là bé đang ở nhà để rèn luyện thêm) đến để hỏi nghĩa. Các quan đến quê mời gặp lúc Nguyễn Hiền đang nô đùa với chúng bạn, Nguyễn Hiền nói với các quan: - Trước đây vua nói ta chưa biết lễ, thì nay chính vua cũng không biết lễ. Không ai đi mời Trạng nguyên về kinh lại không có lễ nghĩa. Quan về tâu lại với vua, rồi đem đồ lễ và xe ngựa đến đón, Nguyễn Hiền mới chịu về kinh. Về đến kinh đô, vua đưa bài thơ của sứ Tàu ra, trạng Hiền liền giải thích như sau: Câu thứ nhất có ý nói là hai chữ "nhật" (日) xếp ngang hàng nhau. Câu thứ hai nghĩa là bốn chữ "sơn" (山) xoay ngược xuôi. Câu thứ ba nói về hai chữ "vương" (王) xếp chồng lên nhau. Câu thứ tư là bốn chữ "khẩu" (口) xếp ngang dọc cạnh nhau. Tóm lại, tất cả bài thơ chỉ nói đến chữ "điền" (田), có nghĩa là ruộng đất. Giải xong, trạng Hiền viết thư đưa cho sứ Trung Hoa, ông ta phải chịu là nước Nam có nhân tài.
Nguyễn Hiền có thể là: Trạng nguyên Nguyễn Hiền: Một thần đồng đỗ Trạng nguyên năm 12 tuổi đời vua Trần Thái Tông. Nhạc sĩ Nguyễn Hiền. Thiếu tướng Nguyễn Hiền. Trường phổ thông trung học Nguyễn Hiền, Thành phố Hồ Chí Minh.
Thủy điện Sơn La nằm trên sông Đà tại thị trấn Ít Ong, huyện Mường La, tỉnh Sơn La, Việt Nam. Nhà máy có công suất lắp máy 2.400 MW, với 6 tổ máy, khởi công xây dựng ngày 2 tháng 12 năm 2005. Sau 7 năm xây dựng, Thủy điện Sơn La được khánh thành vào ngày 23 tháng 12 năm 2012, sớm hơn kế hoạch 3 năm, trở thành nhà máy thủy điện lớn nhất Việt Nam và cả khu vực Đông Nam Á tại thời điểm đó. Thông số kỹ thuật chính Thủy điện Sơn La có mực nước dâng bình thường là 215 m; Mực nước gia cường: 217m; Mực nước chết: 175m. Diện tích hồ chứa: 224 km². Dung tích toàn bộ hồ chứa: 9,26 tỉ mét khối nước. Công suất lắp máy: 2.400 MW, gồm 6 tổ máy, mỗi tổ máy là 400MW. Điện lượng bình quân hằng năm: 10,2 tỉ KWh Tổng vốn đầu tư: 42.476,9 tỷ đồng (bao gồm vốn đầu tư ban đầu là 36.786,97 tỷ đồng và lãi vay trong thời gian xây dựng là 5.708 tỷ đồng). Vốn thực tế 60.196 tỷ đồng, tăng khoảng 60% so với ban đầu. Diện tích lưu vực: 43.760 km² Chủ đầu tư: Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN). Chủ thầu chính: Tổng công ty Sông Đà Nhà thầu: Tổng công ty Lilama, Công ty Cổ phần Sông Đà 5, Công ty cổ phần Sông Đà 7, Công ty cổ phần sông đà 9... Tổng số hộ dân phải di chuyển: 17.996 hộ tại 3 tỉnh Sơn La, Lai Châu, Điện Biên. Quá trình xây dựng Nhà máy được khởi công vào năm 2005 nhưng trước đó 30 năm những chuyến khảo sát đầu tiên đã được thực hiện bởi các chuyên gia viện Thủy điện và công nghiệp Moskva, công ty Electricity and Power Distribution của Nhật Bản, Cty Designing Research and Production Shareholding của Nga và SWECO của Thụy Điển. Năm 2001, dự án Thủy điện Sơn La được đưa ra Quốc hội khóa X thảo luận, gây ra nhiều tranh cãi về tính an toàn do mực nước thiết kế cao lại nằm trong khu vực có thể có động đất, lo ngại các tác động về môi trường sinh thái, an ninh quốc phòng... Do đó ngày 29 tháng 6 năm 2001, dự án Thủy điện Sơn La được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư, nhưng chưa quyết phương án xây dựng. Tháng 12 năm 2002, Báo cáo nghiên cứu khả thi được thông qua tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XI. Phương án xây dựng công trình cũng được Quốc hội thông qua với mục tiêu phát điện tổ máy số 1 vào năm 2012 và hoàn thành toàn bộ công trình vào năm 2015. Năm 2003, EVN đã hoàn chỉnh Báo cáo nghiên cứu khả thi thực hiện phương án Sơn La. Công tác tái định cư cũng được bắt đầu triển khai thực hiện. Tháng 12/2003, những người thợ đầu tiên thuộc Tổng công ty Sông Đà có mặt tại công trường để triển khai xây dựng mặt bằng công trường và đồng thời tận dụng thời gian chuẩn bị công trường trong 2 năm (2004-2005) để thi công các công trình dẫn dòng. Ngày 15/1/2004, Thủ tướng đã ra quyết định số 09/QĐ-TTg phê duyệt dự án Thủy điện Sơn La. Ngày 2/12/2005, công trình Thủy điện Sơn La được khởi công xây dựng. Trong quá trình thiết kế, thi công dự án đã được thay đổi nhiều so với phương án ban đầu như cao trình được hạ xuống từ khoảng 295 xuống còn 215-230, thay biện pháp đổ bê tông đập dâng bằng công nghệ dầm lăn với phụ gia khoáng là tro bay của Nhiệt điện Phả Lại, thay phương án từ nhà máy 8 tổ máy (8 x 300 MW) sang phương án nhà máy 6 tổ máy (6x400 MW); thay phương án máy biến áp 1 pha bằng máy biến áp 3 pha... Để tăng tính an toàn của đập các chuyên gia nước ngoài từ Nga, Châu Âu, Trung Quốc đã được mời giám sát, đóng góp bổ sung thêm những tiêu chuẩn rất chặt chẽ.... Ngày 11 tháng 1 năm 2008, những khối bê tông đầm lăn đầu tiên được sản xuất. Tới ngày 25 tháng 8 năm 2010 kết thúc quá trình đổ bê tông đầm lăn đập chính nhà máy. Tháng 4 năm 2010 sau hơn 7 năm triển khai, các tỉnh Sơn La, Điện Biên và Lai Châu đã hoàn thành công tác di chuyển toàn bộ các hộ dân ra khỏi vùng lòng hồ Thủy điện Sơn La. Ngày 15 tháng 5 năm 2010, các đơn vị thi công đã tiến hành đóng kênh dẫn dòng tích nước hồ chứa. Ngày 5 tháng 11 năm 2010, hồ chứa đã tích nước đến cao trình 189,3m đáp ứng cho phát điện tổ máy số 1. Ngày 20 tháng 8 năm 2010, rotor tổ máy số 1 đã được lắp đặt thành công. Ngày 7 tháng 1 năm 2011, tổ máy số 1 phát điện chính thức. Ngày 26 tháng 9 năm 2012, tổ máy 6 (tổ máy cuối cùng) của Nhà máy Thủy điện Sơn La đã hòa thành công vào điện lưới quốc gia. Ngày 23 tháng 12, công trình Thủy điện Sơn La chính thức khánh thành trở thành đập thủy điện lớn nhất Đông Nam Á với cao độ đỉnh đập 228,1 m; dài 961,6 m; chiều rộng đáy đập 105 m; chiều rộng đỉnh đập 10 m. Dung tích hồ chứa thủy điện 9,26 tỷ m3, với tổng công suất lắp máy 2.400 MW, sản lượng điện bình quân hàng năm trên 10 tỷ kWh, bằng gần 1/10 sản lượng điện của Việt Nam năm 2012 Kỷ lục Việt Nam Thủy điện Sơn La là nhà máy thủy điện công suất lớn nhất Việt Nam tính đến năm 2022 và có thể giữ vị trí này trong một thời gian dài nữa. Chú thích
Cao Bá Quát (; 1808 – 1855), biểu tự Chu Thần (周臣), hiệu Mẫn Hiên (敏軒), lại có hiệu Cúc Đường (菊堂), là quân sư trong cuộc nổi dậy Mỹ Lương, và là một nhà thơ nổi danh ở giữa thế kỷ 19 trong lịch sử văn học Việt Nam. Thân thế Ông là người làng Sủi, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc; nay thuộc thôn Phú Thụy, xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Có ý kiến khác nhau về tên tự của Cao Bá Quát. Theo GS. Dương Quảng Hàm thì Cao Bá Quát có hiệu là Chu Thần (周臣). Theo các tác giả gần đây như GS. Nguyễn Lộc, GS. Vũ Khiêu, GS. Thanh Lãng, GS. Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế ... thì tự của ông là Chu Thần, còn Mẫn Hiên (閔軒) chỉ là hiệu hoặc là biệt hiệu. Theo gia phả của dòng họ Cao ở Phú Thị: "Thân sinh ra Cao Bá Quát tên là Cao Huy Tham, có tên tự là Bộ Hiên. Ông nội Cao Bá Quát có tên tự là Ngọ Hiên. Cao Bá Quát có tên tự là Mẫn Hiên, lúc sinh thời, ông thường dùng các bút hiệu như: Chu Thần, Cao Chu Thần, hoặc Cao Tử". Ông nội Cao Bá Quát tên là Cao Huy Thiềm (1761-1821) sau đổi là Cao Danh Thự, một danh y nổi tiếng trong vùng. Thân sinh Cao Bá Quát tên là Cao Huy Sâm (1784-1850) sau đổi là Cao Huy Tham, cũng là một thầy thuốc giỏi . Cao Bá Quát là em song sinh với Cao Bá Đạt, và là chú của Cao Bá Nhạ. Phục vụ nhà Nguyễn Thuở nhỏ, Cao Bá Quát sống trong cảnh nghèo khó, nhưng nổi tiếng là trẻ thông minh, chăm chỉ và văn hay chữ tốt. Năm Tân Tỵ (1821), ông thi khảo hạch ở trường lúc đó mới 13 tuổi, nhưng thi Hương (lần đầu) không đỗ. Năm Tân Mão (1831) đời vua Minh Mạng, ông thi Hương đỗ Á Nguyên tại trường thi Hà Nội, nhưng đến khi duyệt quyển, bị Bộ Lễ kiếm cớ xếp xuống cuối bảng xếp ông xuống hạng cuối cùng trong số 20 người đỗ cử nhân. Năm Nhâm Thìn (1832), Cao Bá Quát vào kinh đô Huế dự thi Hội nhưng không đỗ. Sau đó, ông vào kinh dự thi mấy lần nữa, nhưng lần nào cũng hỏng. Năm 1841 đời vua Thiệu Trị, được quan tỉnh Bắc Ninh tiến cử, Cao Bá Quát được triệu vào kinh đô Huế bổ làm Hành tẩu ở bộ Lễ. Tháng 8 (âm lịch) năm đó, ông được cử làm sơ khảo trường thi Thừa Thiên. Thấy một số bài thi hay nhưng có chỗ phạm trường quy, ông bàn với bạn đồng sự là Phan Nhạ lấy son hòa với muội đèn chữa lại. Việc bị phát giác, ông bị bắt giam vào ngục Trấn Phủ (ngày 7 tháng 9 âm lịch), rồi chuyển đến ngục Thừa Thiên (21 tháng 1 âm lịch năm Nhâm Dần, 1842). Suốt thời gian dài bị giam cầm, ông thường bị nhục hình tra tấn. Nhưng khi án đưa lên, vua Thiệu Trị đã giảm cho ông từ tội "trảm quyết" xuống tội "giảo giam hậu", tức được giam lại đợi lệnh. Sách Đại Nam thực lục(Tập 23) chép việc: Năm Tân Sửu (1841), tháng 8...Cao Bá Quát và Phan Nhạ làm Sơ khảo trường thi Thừa Thiên, chữa văn sĩ nhân (chữa 09 chữ trong một số quyển thi phạm húy). Bộ Lễ và Viện Đô sát tra xét, nghị tội: Quát và Nhạ phải tội xử tử. Nguyễn Văn Siêu (làm Phân khảo) phải tội trượng, đồ. Chủ khảo và Giám khảo bị cách chức, giáng chức. Vua xét lại, tha cho Quát, Nhạ tội xử tử và chuyển thành giảo giam hậu. Siêu chỉ bị cách chức, tha cho tội đồ; Chủ khảo Bùi Quỹ và Phó khảo Trương Sĩ Tiến bị cách lưu làm việc. 5 cử nhân có bài được sửa đều phải thi lại cả ba kỳ và đều được lấy đỗ trở lại . Sau gần ba năm bị giam cầm khổ sở, khoảng cuối năm Quý Mão (1843), Cao Bá Quát được triều đình tạm tha, nhưng bị phát phối đi Đà Nẵng, chờ ngày đi "dương trình hiệu lực" (tức đi phục dịch để lấy công chuộc tội). Tháng 12 (âm lịch), ông theo Đào Trí Phú (trưởng đoàn) xuống tàu Phấn Bằng đi hiệu lực đến vùng Giang Lưu Ba (Indonesia). Cùng lúc ấy, Phan Nhạ theo Nguyễn Công Nghĩa (trưởng đoàn) xuống thuyền Thần Dao đi hiệu lực sang Tân Gia Ba (Singapore) Tháng 7 năm Giáp Thìn (1844), đoàn công cán trên thuyền Phấn Bằng về đến Việt Nam. Sau đó, Cao Bá Quát được phục chức ở bộ Lễ, nhưng chẳng bao lâu thì bị thải về sống với vợ con ở Thăng Long. Ông trở về sống với vợ con ở Hà Nội. Trước đây, nhà ông vốn ở phố Đình Ngang (nay gần phố Nguyễn Thái Học), năm 1834 khi ông vào Huế thi Hội, thì vợ ông ở nhà đã xin phép cha chồng cho sửa lại một ngôi nhà gần Cửa Bắc về phía Hồ Tây và Hồ Trúc Bạch. Thời gian này, những lúc thư nhàn, ông thường xướng họa với các danh sĩ đất Thăng Long như Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Văn Lý, Trần Văn Vi, Diệp Xuân Huyên... Sau ba năm bị thải về, Cao Bá Quát nhận được lệnh triệu vào Huế (1847) làm ở Viện Hàn Lâm, lo việc sưu tầm và sắp xếp văn thơ. Thời gian ở Kinh đô Huế lần này, ông kết thân với một số thi nhân nổi tiếng như Nguyễn Hàm Ninh, Đinh Nhật Thận, Nguyễn Phúc Miên Thẩm, Nguyễn Phúc Miên Trinh...và ông đã được mời tham gia Mạc Vân Thi xã do hai vị hoàng thân này sáng lập. Năm Canh Tuất (1850), do không được lòng một số quan lớn tại triều, Cao Bá Quát đã bị đầy đi làm giáo thụ ở phủ Quốc Oai (Sơn Tây cũ). Khởi nghĩa chống nhà Nguyễn Khoảng cuối năm Canh Tuất (1850) đời vua Tự Đức, Cao Bá Quát lấy cớ về quê chịu tang cha và sau đó xin ở lại nuôi mẹ già rồi xin thôi chức Giáo thụ ở phủ Quốc Oai. Khoảng tháng 6, tháng 7 âm lịch năm Giáp Dần 1854, nhiều tỉnh ở miền Bắc gặp đại hạn, lại bị nạn châu chấu làm cho mùa màng mất sạch, đời sống người nhân dân hết sức cực khổ; Cao Bá Quát bèn vận động một số sĩ phu yêu nước, các thổ hào ở các vùng Quốc Oai, Vĩnh Phúc, Cao Bằng, Lạng Sơn... cùng nhau tôn Lê Duy Cự làm minh chủ chống lại nhà Nguyễn. Cao Bá Quát làm quốc sư, họp với thổ mục Sơn Tây là Đinh Công Mỹ và Bạch Công Trân dựng cờ nổi dậy tại Mỹ Lương, thuộc vùng Sơn Tây chống lại triều đình đương thời. Đang trong quá trình chuẩn bị khởi nghĩa, do có người tố giác nên kế hoạch bị bại lộ. Trước tình thế cấp bách, Cao Bá Quát buộc phải phát lệnh tấn công vào cuối năm 1854. Buổi đầu ông cùng các thổ mục ở Sơn Tây là Đinh Công Mỹ và Bạch Công Trân đem lực lượng đánh phá phủ Ứng Hòa, huyện Thanh Oai, huyện thành Tam Dương, phủ Quốc Oai, Yên Sơn... Tuy giành được một số thắng lợi, nhưng sau khi quan quân triều đình tập trung phản công thì quân khởi nghĩa liên tiếp bị thất bại. Tháng Chạp năm Giáp Dần (tháng 12 năm này rơi vào năm dương lịch 1855 ), sau khi bổ sung lực lượng (chủ yếu là người Mường và người Thái ở vùng rừng núi Mỹ Lương, nay là vùng đất phía Tây sông Đáy thuộc các huyện Chương Mỹ, Mỹ Đức của Hà Nội, và các huyện Lương Sơn, Kim Bôi tỉnh Hòa Bình), Cao Bá Quát đem quân tấn công huyện lỵ Yên Sơn lần thứ hai (huyện lỵ huyện Yên Sơn cũng là phủ lỵ phủ Quốc Oai, ngày nay là thị trấn Quốc Oai huyện Quốc Oai). Phó lãnh binh Sơn Tây là Lê Thuận đem quân nghênh chiến. Cuộc đối đầu đang hồi quyết liệt tại vùng núi Yên Sơn (giáp Sài Sơn), thì Cao Bá Quát bị suất đội Đinh Thế Quang bắn chết tại trận. Tiếp theo, Nguyễn Kim Thanh và Nguyễn Văn Thực cũng lần lượt bị quân triều đình bắt được, sau cả hai đều bị xử chém. Ngoài những thiệt hại này, hơn trăm quân khởi nghĩa bị chém chết và khoảng 80 quân khác bị bắt (theo sử nhà Nguyễn). Nghe tin đại thắng, vua Tự Đức lệnh cho ban thưởng và cho đem thủ cấp của nghịch Quát bêu và rao khắp các tỉnh Bắc Kỳ rồi giã nhỏ quăng xuống sông. Sự thật về cái chết của Cao Bá Quát cho đến nay vẫn còn là một vấn đề nghi vấn cần làm sáng tỏ hơn . Sau khi dẹp được cuộc khởi nghĩa, triều đình ra lệnh tru di tam tộc dòng họ Cao của ông. Anh trai song sinh của ông là Cao Bá Đạt đang làm Tri huyện Nông Cống tỉnh Thanh Hóa, và có tiếng là một viên quan mẫn cán và thanh liêm, cũng phải chịu tội và bị giải về kinh đô Huế. Dọc đường, Cao Bá Đạt làm một tờ trần tình gửi triều đình rồi dùng dao đâm cổ tự vẫn. Tác phẩm Ngay sau khi cuộc nổi dậy ở Mỹ Lương (tỉnh Sơn Tây) bị thất bại (1855-1856), các tác phẩm của Cao Bá Quát đã bị triều đình nhà Nguyễn cho thu đốt, cấm tàng trữ và lưu hành, nên đã bị thất lạc không ít. Tuy vậy, trước 1984, nhóm biên soạn sách Thơ văn Cao Bá Quát, đã tìm đến kho sách cổ của Thư viện Khoa học kỹ thuật trung ương (Hà Nội), và sau khi loại trừ những bài chắc chắn không phải của ông, thì số tác phẩm còn sót lại cũng còn được trên ngàn bài được viết bằng thứ chữ Nôm và chữ Hán. Cụ thể là hiện còn 1353 bài thơ và 21 bài văn xuôi, gồm 11 bài viết theo thể ký hoặc luận văn và 10 truyện ngắn viết theo thể truyền kỳ. Trong số này về chữ Nôm, có một số bài hát nói, thơ Đường luật và bài phú Tài tử đa cùng (Bậc tài tử lắm cảnh khốn cùng). Về chữ Hán, khối lượng thơ nhiều hơn, được tập hợp trong các tập: Cao Bá Quát thi tập Cao Chu Thần di thảo Cao Chu Thần thi tập Mẫn Hiên thi tập Sự nghiệp văn chương Trích đánh giá trong Từ điển văn học (bộ mới): Cao Bá Quát là một nhà thơ rất có bản lĩnh. Từ những tác phẩm đầu tiên đã thấy lòng tin của nhà thơ vào ý chí và tài năng của mình. Ông sống nghèo, nhưng khinh bỉ những kẻ khom lưng uốn gối để được giàu sang, và tin rằng mình có thể tự thay đổi đời mình. Đến khi làm quan, muốn đem tài năng ra giúp đời, nhưng rồi Cao Bá Quát sớm nhận ra rằng vấn đề không hề đơn giản như ông tưởng. Có những lúc ông cảm thấy bất lực trước những bất công trong xã hội, ông cũng muốn nhàn hưởng lạc thú như Nguyễn Công Trứ. Thế nhưng mỗi khi nghĩ đến những người cùng khổ bị áp bức, ông lại thấy cách đó là không thể, mà phải tìm một con đường khác. Cuối cùng, con đường mà ông chọn là đến với phong trào nông dân khởi nghĩa chống lại triều đình. Ngoài những chủ đề nêu trên, ông còn viết về vợ con, bè bạn, học trò và quê hương. Bài nào cũng thắm thiết, xúc động. Ông cũng có một số bài đề cao những anh hùng trong lịch sử, để qua đó thể hiện hoài bão của mình. Ông cũng có một số bài thơ viết về chuyện học, chuyện thi mà ông cho rằng chỉ là chuyện "nhai văn nhá chữ". Trong dịp ông đi công cán ở vùng Hạ Châu, ông cũng có những bài thơ phản ảnh cảnh bất công giữa người da trắng với người da đen... Về mặt nghệ thuật, Cao Bá Quát là một nhà thơ trữ tình với một bút pháp đặc sắc. Ông làm thơ nhanh, có lúc "ứng khẩu thành chương", nhưng vẫn thể hiện được cảm xúc dồi dào và sâu lắng. Và mặc dù hình tượng trong thơ ông thường bay bổng, lãng mạn, nhưng trong những bài viết về quê hương thì ông lại sử dụng rất nhiều chi tiết hiện thực gợi cảm. Ngoài ra, đối với thiên nhiên, ông cũng hay nhân cách hóa, coi đó như những người bạn tri kỷ tri âm... Trích thêm một số nhận xét khác: GS. Dương Quảng Hàm:Cao Bá Quát là một văn hào có nhiều ý tứ mới lạ, lời lẽ cao kỳ . GS. Thanh Lãng:Tư tưởng độc lập của Cao Bá Quát khác cái chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ. Ông Trứ lập nghiệp là để giúp vua, để chu toàn nghĩa quân thần; còn ông Quát mang cả cái mộng thay đổi thời cuộc và chuyển vần số mệnh...Về mặt nghệ thuật, sở trường của ông là thể phú và thể ca trù. Hai thể này, với ông đã vươn tới một trình độ nghệ thuật tuyệt vời. Có điều ông hay lạm dụng chữ Nho và điển tích, vì vậy có thua kém Nguyễn Công Trứ về thể loại ca trù . Thi sĩ Xuân Diệu: Cao Bá Quát trước mắt chúng ta, tượng trưng cho tài thơ và tinh thần phản kháng. Còn triết lý của ông chính là bền bỉ phục vụ cho đời . Vài vấn đề liên quan Năm sinh, năm mất Phỏng đoán Cao Bá Quát sinh năm 1808 là căn cứ bài "Thiên cư thuyết" của ông. Trong bài có câu (dịch): "Với tuổi ta mới hai kỷ mà đã thấy núi sông, thành quách cũ thay đổi đến ba lần". Cuối bài ghi: "Tháng mạnh thu, năm Nhâm Thìn (1832), Chu thần thị viết bài thuyết này". Hai kỷ tức 24 năm, suy ra ông sinh năm 1808. Tuy nhiên cứ liệu này chỉ có giá trị tương đối. Theo GS Vũ Khiêu và nhóm nghiên cứu về Cao Bá Quát thì khẳng định ông sinh năm 1809. Từ điển Bách khoa Việt Nam cũng ghi ông sinh năm 1809.. Về năm mất, có một vài tác giả cho rằng Cao Bá Quát mất năm 1854. Nhưng theo Trần Công Nghị thì: Cao Bá Quát mất ngay tại trận tiền vào tháng Chạp năm Giáp Dần. Khi chuyển qua dương lịch thì: Ngày 1 tháng 12 năm Giáp Dần nhằm ngày 18 tháng 1 năm 1855. Ngày 30 tháng Chạp, năm Giáp Dần nhằm ngày 16 tháng 2 năm 1855. Như vậy nguyên tháng Chạp năm này đều rơi vào năm 1855. Cho nên năm qua đời của Cao Bá Quát phải ghi là năm 1855 mới đúng. Những giai thoại Hiện vẫn còn tồn tại nhiều giai thoại liên quan đến nhân cách và tài thơ của Cao Bá Quát (như Bịa thơ tài hơn vua, Chữa câu đối của vua, Cá đớp cá-người trói người, Trên dưới đều chó, Câu thơ thi xã v.v...). Tuy nhiên, theo GS. Vũ Khiêu thì đa phần chúng đều thiếu căn cứ và chưa được xác minh. Bởi vậy theo ông chỉ có thể hiểu Cao Bá Quát và đánh giá đúng tư tưởng cùng hành động của ông trên cơ sở phân tích nguồn gốc xã hội đương thời, diễn biến trong cuộc đời và trong thơ văn của ông mà thôi . Ở một đoạn khác, giáo sư lại viết: Khác với một số giai thoại có ý nói Cao Bá Quát là một con người kiêu căng, ngỗ ngược; và qua số một bài thơ cùng bài hát nói được gán cho ông, có người còn muốn coi ông là kẻ thích hưởng lạc, rượu chè, trai gái...Trái lại, qua cuộc đời và thơ văn của ông, chỉ thấy ông là một người biết giữ gìn phẩm hạnh, đối xử đúng mực với cha mẹ, anh em, vợ con, hàng xóm và biết yêu quý đất nước, quê hương. Đề cập đến Trần tình văn của Cao Bá Nhạ, theo giáo sư thì rất có thể người cháu này đã đỗ lỗi cho chú để minh oan cho mình.
Chăm sóc trẻ em là hoạt động nuôi dưỡng, giáo dục, theo dõi quá trình phát triển của trẻ nhỏ. Trẻ nhỏ từ khi mới lọt lòng mẹ cần sự chăm sóc về dinh dưỡng cũng như giáo dục về tinh thần. Trong nhiều xã hội hiện đại, công việc này được chia sẻ cho cả cha và mẹ đứa bé. Một số gia đình có thêm người giúp đỡ cho việc này, thường gọi là vú em. Ở nhiều xã hội, các thành viên khác của gia đình, như ông bà, cũng tham gia việc chăm sóc trẻ. Trẻ nhỏ sau độ tuổi 12 tháng ở nhiều quốc gia có thể đến trường mẫu giáo để nhận được sự chăm sóc, giúp cha mẹ của chúng có thời gian hoạt động xã hội. Từ sau 6 năm tuổi, nhiều quốc gia quy định trẻ phải bắt buộc đến trường tiểu học. Trong trường hợp cha mẹ của trẻ bị mất tích hay chết, hoặc không đủ khả năng chăm sóc trẻ, trẻ có thể nhận được sự trợ giúp của cộng đồng, ví dụ như trường trẻ em mồ côi. Việc thuê vú em để giúp chăm sóc trẻ nhỏ là một chủ đề có thể gây tranh cãi. Một số nghiên cứu cho thấy việc trẻ em nhận được sự chăm sóc liên tục của cha mẹ từ khi lọt lòng, đặc biệt là trong giáo dục, đạo đức, kỷ luật và giao tiếp xã hội sẽ làm tăng cơ hội giúp trẻ được phát triển hết tiềm năng. Đa số các quốc gia có luật lệ liên quan đến bảo vệ trẻ em (và bà mẹ), ngăn chặn việc lạm dụng trẻ em. Chăm sóc trẻ dưới 1 tuổi Trẻ dưới 1 tuổi cần được quan tâm chăm sóc đặc biệt về dinh dưỡng. Dinh dưỡng Nhiều nghiên cứu cho thấy sữa mẹ là thức ăn tốt nhất dành cho trẻ sơ sinh và trẻ còn ẵm ngửa. Các chế độ ăn cho trẻ sơ sinh và trẻ còn ẵm ngửa thường được xây dựng với thực đơn chính là sữa mẹ. Một chế độ nuôi dưỡng có thể được áp dụng là Sau khi trẻ đã được cắt rốn chừng 30 phút: bú sữa mẹ. Sữa mẹ lúc này còn được gọi là sữa non; nó có chứa các kháng thể của mẹ ít có ở các sữa sau này; có tác dụng giúp trẻ chống đỡ tốt hơn các nguồn bệnh. Trong 4 tháng đầu: bú sữa mẹ. Việc cho trẻ uống nước chỉ áp dụng khi trẻ bị bệnh cần bổ sung nước như ỉa chảy. Trong trường hợp mẹ thiếu sữa, các sản phẩm sữa trẻ em đảm bảo chất lượng có thể dùng thay thế. Thời gian này, trẻ chưa ăn bột hoặc cháo. Có nguồn cho biết tại các vùng nông thôn Việt Nam, trẻ dưới 4 tháng tuổi vẫn uống nước thường xuyên, ăn bột sớm, thậm chí ngay từ tháng đầu. Bột có thể làm quá tải bộ máy tiêu hóa chưa hoàn thiện của trẻ; còn nước không đảm bảo vệ sinh sẽ mang bệnh đến cho trẻ. Các nghiên cứu và quan sát thực nghiệm cho thấy trong sữa mẹ đã có đủ nước cho trẻ rồi. Cai sữa cho trẻ Trẻ em từ 0 đến 6 tháng tuổi được khuyên nên bú hoàn toàn bằng sữa mẹ. Từ tháng thứ 6 trở đi, có thể bắt đầu cho trẻ ăn dặm, kèm theo bú sữa mẹ kết hợp sữa bình. Thức ăn dặm cho trẻ thường được điều chỉnh, thay đổi thường xuyên nhằm giúp trẻ đỡ ngán và cung cấp nguồn dinh dưỡng hợp lý cho trẻ. Nhưng trẻ em khi đã đến độ tuổi thích hợp cần được tiến hành cai sữa, điều này tốt cho sự phát triển của bé và cả người mẹ. Mỗi người làm cha mẹ khi tiến hành cai sữa cho con, cần trang bị đủ kiến thức, học hỏi kinh nghiệm cũng như tâm lý sẵn sàng để giúp trẻ cai sữa thành công. Sức khỏe
Luật bóng chày có đôi chút khác biệt tùy theo giải đấu, nhưng nhìn chung đều có chung các quy định chơi cơ bản. Cách chơi Trò chơi diễn ra giữa 2 đội, mà trong suốt trận đấu, sẽ thay phiên nhau tấn công và phòng thủ. Một mùa bóng diễn ra suốt nhiều tháng bởi nhiều đội, gọi là liên đoàn (league). Mỗi đội trong liên đoàn đấu với mọi đội khác thuộc liên đoàn một số lần cố định, chứ không phải là luân phiên đấu (cơ chế round robin). Cuối mùa bóng, đội thắng nhiều nhất sẽ là vô địch của mùa. Mục tiêu của trò chơi là ghi điểm, gọi là run theo ngôn ngữ của bóng chày. Đội có nhiều runs nhất tại cuối trận đấu sẽ thắng. Một run được ghi khi mà cầu thủ, trong khi tấn công, có thể đi qua hết các chốt (bases), tạo thành một hình vuông gọi là kim cương. Bóng chày dùng quả bóng màu trắng (dù màu khác vẫn có thể dùng) với viền đỏ cỡ bằng kích thước 1 nắm tay. Bóng mềm dùng banh trắng hay vàng (hay dùng hơn) với viền trắng cỡ bằng 2 nắm tay. Mỗi đội gồm 9 hoặc 10 người chơi. Góc của sân bóng kim cương nơi diễn ra trận đấu được đặt tên theo thứ tự ngược chiều kim đồng hồ như sau: chốt nhà (home plate), chốt 1, chốt 2 và chốt 3. Để bắt đầu trò chơi, đội nhà chơi phòng thủ trước, có 9 cầu thủ phòng thủ ra sân, cố gắng để ngăn cầu thủ đội khác ghi điểm. Đội khách chơi tấn công trước, vì thế sẽ cố gắng ghi điểm run. Run được ghi như sau: bắt đầu từ vị trí dĩa nhà, mỗi cầu thủ tấn công sẽ cố gắng lấy được quyền để chạy (ngược chiều kim đồng hồ), đến căn cứ kế tiếp, và chạm người vào căn cứ ở tại góc đó, tiếp đến căn cứ kế tiếp (theo trật tự), và cuối cùng trở về chốt nhà, khi đó là một điểm (run) đã được ghi. Để có được quyền chạy, sẽ nói ở dưới. Trước khi có thể chạy đến các căn cứ, cầu thủ phòng thủ làm vai trò ném bouce(pitcher,) sẽ đứng ở trung tâm của sân kim cương ở vị trí định sẵn, gọi là mô đất (mound) hay rubber - để ám chỉ hình chữ nhật nằm ở trung tâm của mô đất. Tám (hay chín) người chơi còn lại đứng ở trong sân, đồng thời với ngưới ném bóng, chiếm các vị trí khác nhau. Cầu thủ tấn công được gọi là người đánh (batter) đứng ở tại dĩa nhà, cầm cây gậy (dài, cứng, đường kính khoảng 2 inch (5 centimeters), chưa tính tay cầm, tay cầm đường kính dài khoảng 1-inch (2.5 centimeters), làm bằng gỗ hay nhôm tùy thuộc vào phiên bản của trò chơi. Người đánh banh đợi người ném bóng ném trái banh về phía dĩa nhà. Tại thời điểm thích hợp, người ném banh ném banh, về phía người đánh, người này sẽ cố gắng đánh trái banh đi bằng cây gậy. Nếu người đánh banh đánh trúng trái banh, thì ngay lập tức bỏ cây gậy xuống, và bắt đầu chạy về phía gôn 1. Còn có nhiều cách khác để có thể có quyền chạy về căn cứ, như là đi bộ khi bị ném banh trúng người. Khi người đánh bắt đầu chạy, anh ta sẽ được gọi là người chạy (runner). Tại thời điểm này, người chạy sẽ cố gắng để chạy về phía gôn 1, khi đến được thì gọi là an toàn (safe), còn không thì gọi là bị loại (out). Khi bị loại, người chạy phải rời khỏi sân (trở về hàng ghế), nơi mà các cầu thủ dự bị và huấn luyện viên đang quan sát trận đấu. Có nhiều cách để đội phòng thủ có thể loại một cầu thủ tấn công. Nhưng để đơn giản, chỉ đưa ra ở đây 5 cách đơn giản nhất: "Strike-out": khi đang còn ở dĩa nhà, cầu thủ đánh banh không thể kiếm được quyền để chạy tới căn cứ. Strike-out xảy ra khi người ném banh cản trở thành công nỗ lực đánh banh của người tấn công. "Ground out": khi người đánh banh đánh banh xuống đất, mà cầu thủ phòng thủ có thể lấy được banh, và ném về phía cầu thủ phòng thủ khác đang đứng ở căn cứ đầu tiên trước khi runner chạy kịp đến cơ sở đó. "Force out": xảy ra khi runner bắt buộc phải chạy về căn cứ (theo quy định) nhưng không đến kịp trước khi banh đến được tay cầu thủ phòng ngự đứng tại căn cứ đó. Loại "ground out" là một trong nhiều kiểu của loại "force outs." "Fly out": xảy ra khi người đánh banh đánh thành công trái banh lên không trung, nhưng cầu thủ phòng ngự có thể chụp được trước khi nó rơi xuống đất, thì sẽ bị loại. "Tag out": trong khi đang còn ở giữa 2 căn cứ, runner sẽ bị loại nếu cầu thủ phòng ngự, đang cầm banh, chạm được vào người của runner. Một trận bóng chày được chia thành nhiều lượt đấu (innings,) nơi mỗi đội sẽ thay phiên nhau tấn công và phòng thủ, và ngược lại. Một lượt đấu kết thúc khi có 6 lần bị loại (outs) xảy ra, 3 lần cho mỗi đội. Khi đội phòng thủ loại được 3 cầu thủ tấn công, vai trò mỗi đội sẽ được hoán đổi - phóng thủ chuyển sang tấn công và ngược lại. Tùy thuộc vào loại bóng được dùng, mỗi đội có thể có tối đa 9 cơ hội để ghi điểm (runs).
Học thuyết sử dụng hợp lý (tiếng Anh: fair use) tại Hoa Kỳ dựa trên các tự do ngôn luận do Tu chính án số 1 của Hiến pháp Hoa Kỳ bảo vệ. Trong phạm vi của luật bản quyền Hoa Kỳ, học thuyết này cho phép trích dẫn hoặc sao chép các tư liệu của người khác đã đăng ký bản quyền một cách phi lợi nhuận mà không cần xin phép, trong tác phẩm của tác giả khác, theo cuộc thử nghiệm cân nhắc (balancing test) có bốn điều kiện. Thuật ngữ "sử dụng hợp lý" chỉ được sử dụng tại nước Mỹ; một nguyên tắc tương tự, xử sự hợp lý (fair dealing), tồn tại ở một số phạm vi khác mà sử dụng hệ thống luật tập tục. Luật nhãn hiệu Hoa Kỳ cũng có điều kiện "sử dụng hợp lý". Tuy điều kiện đó có tên giống, học thuyết đó thực sự khác hẳn với "sử dụng hợp lý" trong luật bản quyền. Luật bản quyền tại Philippines cũng có học thuyết sử dụng hợp lý phần lớn hay tất cả dựa trên học thuyết được chấp nhận tại Hoa Kỳ.
Đỗ Nhuận (1922 – 1991) là một nhạc sĩ Việt Nam. Ông là Tổng thư ký đầu tiên của Hội nhạc sĩ Việt Nam khóa I và II từ 1958 đến 1983, một trong những nhạc sĩ tiên phong của âm nhạc cách mạng. Đỗ Nhuận còn là nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên viết opera với vở Cô Sao, cũng là tác giả của bản "Du kích sông Thao" nổi tiếng. Tiểu sử Đỗ Nhuận sinh ngày 10 tháng 12 năm 1922, quê ở thôn Hoạch Trạch, xã Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Rời Cẩm Bình từ rất nhỏ, Đỗ Nhuận từng sống nhiều năm ở thành phố cảng Hải Phòng, nơi cha ông phục vụ trong đội quân nhạc với vai trò "lính kèn Tây". Hải Phòng những năm cuối thập niên 1930 là một trong những cái nôi của tân nhạc với những Văn Cao, Lê Thương, Hoàng Quý... Năm 14 tuổi, Đỗ Nhuận tham gia hướng đạo sinh, hát những ca khúc Pháp và châu Âu. Ông cũng tự học âm nhạc dân tộc và biết chơi sáo trúc, tiêu, đàn nguyệt, đàn tứ, đàn bầu. Sau đó, khi âm nhạc cải cách bước đầu nhen nhóm, Đỗ Nhuận cũng bắt đầu tiếp xúc với tân nhạc, học đàn guitar, banjo, kèn harmonica và ghi âm. Sau ông còn học thêm violon, baian với các nhạc công người Nga lưu vong ở Hà Nội. Năm 1939, Đỗ Nhuận sáng tác ca khúc đầu tay vào tuổi 17, bản "Trưng Vương", nhân ngày kỷ niệm Hai Bà Trưng ở tỉnh Hải Dương. "Trưng Vương" được phổ biến rộng rãi và đã xuất bản ngay trong năm đó. Tiếp theo, từ cảm hứng lịch sử, ông soạn nhiều ca khúc như: "Chim than", "Lời cha già", "Đường lên ải Bắc"... là cơ sở soạn nên vở ca cảnh Nguyễn Trãi - Phi Khanh gồm 3 ca khúc "Chim than", "Lời cha già", "Đường lên ải Bắc" được ông viết trong hai năm 1940, 1941. Thời gian đó Đỗ Nhuận cũng bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng. Năm 1943, vì in và rải truyền đơn tuyên truyền cho cách mạng nên ông bị bắt giam vào nhà tù Hải Dương, rồi đưa lên Hỏa Lò và sau bị đày lên Sơn La. Thời gian trong tù, Đỗ Nhuận đã viết nhiều bài hát cách mạng như: "Chiều tù", "Côn Đảo", "Hận Sơn La", "Tiếng gọi tù nhân", "Viếng mồ tử sĩ", "Du kích ca"... Sau khi được trả tự do, Đỗ Nhuận tiếp tục sáng tác và hoạt động cách mạng. Ông viết nhiều bài hát và được khá phổ biến thời bấy giờ: "Nhớ chiến khu", "Đường trường vô Nam", "Tiếng súng Nam Bộ", "Bé yêu Bác Hồ", "Ngày Quốc hội"... Trong thời gian chiến tranh, ông có những ca khúc về du kích cùng nhiều nhạc phẩm khác: "Du kích ca", "Đoàn lữ nhạc", "Hành quân xa", "Trên đồi Him Lam", "Chiến thắng Điện Biên", "Tình Việt Bắc", "Lửa rừng", "Tiếng hát đầu quân", "Áo mùa đông", "Đèo bông lau"... Trong số đó phải kể đến "Hành quân xa" với câu hát nổi tiếng "Đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi" và "Đoàn lữ nhạc" cùng trường ca bất hủ "Du kích sông Thao" vẫn được các ca sĩ nổi tiếng của Sài Gòn về sau trình bày. Thời kỳ này, có thể nói Đỗ Nhuận đã ảnh hưởng nhiều nhạc sĩ cách mạng khác như Trần Quý, Lê Lan, Doãn Nho,Nguyên Nhung... Nǎm 1955, chùm ca khúc Điện Biên Phủ của ông đã được trao giải nhất của Hội Vǎn nghệ Việt Nam. Cho đến nay, giai điệu của bài "Chiến thắng Điện Biên" là một trong những nhạc hiệu quen thuộc của đài phát thanh và đài truyền hình. Sau hòa bình 1954 Đỗ Nhuận tiếp tục sáng tác và có mặt trong lĩnh vực khí nhạc Việt Nam qua các tác phẩm: khúc biến tấu trên chủ đề dân ca cho flute và piano Mùa xuân trên rừng (1963), tứ tấu đàn dây Tây Nguyên (1964), ba biến tấu cho violon và piano (1964), tổ khúc giao hưởng Điện Biện (1965), giao hưởng thơ Đimit'rov (1981)... Ngoài ra, còn phải kể đến kịch múa rối Giấc mơ bé Rồng (1968), kịch múa Mở biển (1973) và nhạc nền trong các phim tài liệu và phim truyện: Chiến thắng Điện Biên (1954), Nguyễn Vǎn Trỗi (1965), Mở đường Trường Sơn (1972), Lǎng Bác Hồ (1975). Đỗ Nhuận cũng là nhạc sĩ duy nhất trong thế hệ đầu của tân nhạc được đào tạo bài bản, ông đi học tại đại học tại Nhạc viện Tchaikovsky từ năm 1960 đến 1962. Ông là một trong những người đặt nền móng cho thể loại nhạc kịch theo truyền thống của opera phương Tây. Những thể nghiệm đầu tiên của ông xuất hiện từ những nǎm 1950 là các ca kịch ngắn: Cả nhà thi đua, Sóng cả không ngã tay chèo, Anh Pǎn về bản, Hòn đá. Những năm 1970, 1980, Đỗ Nhuận viết các vở nhạc kịch: Chú Tễu, Ai đẹp hơn ai, Trước giờ cưới, Quả dưa đỏ... Đỗ Nhuận là nhạc sĩ Việt Nam đầu viết opera với vở Cô Sao (1965), rồi sau đó là Người tạc tượng (1971). Đỗ Nhuận còn có những tác phẩm khí nhạc như Vũ khúc Tây Nguyên cho violon và dàn nhạc... Nhưng tên tuổi ông vẫn gắn bó với những ca khúc như "Việt Nam quê hương tôi", "Tôi thích thể thao" (một bài hát vui, bắt đầu bằng toàn chữ T), "Em là thợ quét vôi", "Đường bốn mùa xuân"... Ngoài sáng tác, Đỗ Nhuận còn viết báo, tham gia phê bình. Nổi bật trong số đó là bài báo tấn công nặng nề nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm, cụ thể là Trần Dần năm 1958, không lâu sau khi ông nhận chức Tổng thư ký Hội nhạc sĩ. Đỗ Nhuận mất vào ngày 18 tháng 5 nǎm 1991 tại Hà Nội. Giải thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì Giải thưởng Hồ Chí Minh Huân chương Chiến sĩ hạng Nhì Huân chương Chiến thắng hạng Nhì Một vài chi tiết Con trai của ông là Đỗ Hồng Quân, cũng là một nhạc sĩ nổi tiếng, hiện giữ chức Chủ tịch Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Con dâu của ông là NSƯT Chiều Xuân, một diễn viên nổi tiếng. Du kích Sông Thao được nhiều ca sĩ nổi tiếng của Sài Gòn trước 1975 như Anh Khoa, Thái Thanh, Mai Hương, Kim Tước trình bày, nhưng đổi tên thành Khúc hát Sông Thao hay Tiếng hát Sông Thao. Lời hát nhiều đoạn cũng bị thay đổi. Hiện nay, tên của ông được đặt tên cho một đường phố ở Hà Nội, đi từ đường Phạm Văn Đồng đến khu đoàn ngoại giao Xuân Đỉnh, đi bên cạnh Công viên Hòa Bình. Tác phẩm Ca khúc Nhạc khí Khúc biến tấu trên chủ đề dân ca cho flute và piano Mùa xuân trên rừng (1963) Tứ tấu đàn dây Tây Nguyên (1964) Ba biến tấu cho violon và piano (1964) Tổ khúc giao hưởng Điện Biện (1965) Giao hưởng thơ Đimit'rov (1981) Violon và dàn nhạc Vũ khúc Tây Nguyên Nhạc kịch Ca kịch ngắn Ai đẹp hơn ai Anh Pǎn về bản Cả nhà thi đua Chú Tễu Đêm vui không ngủ Hòn đá Nguyễn Trãi - Phi Khanh (1940 - 1941), 3 ca khúc Chim than Lời cha già Đường lên Ải Bắc Ông Đá Quả dưa đỏ Sóng cả không ngã tay chèo Trước giờ cưới Nhạc kịch Cô Sao (1965) Người tạc tượng (1971) Nguyễn Trãi (1980) Ngoài ra, có thể kể đến kịch múa rối Giấc mơ bé Rồng (1968), kịch múa Mở biển (1973) và nhạc nền trong các phim tài liệu và phim truyện: Chiến thắng Điện Biên (1954), Nguyễn Vǎn Trỗi (1965), Mở đường Trường Sơn (1972), Lǎng Bác Hồ (1975).
Lịch Gregorius, hay lịch Gregory, còn gọi là Tây lịch, Công lịch, Dương lịch, là lịch được sử dụng ở hầu hết các nơi trên thế giới. Nó được đặt theo tên của Giáo hoàng Grêgôriô XIII, ông đã giới thiệu lịch này vào tháng 10 năm 1582. Lịch này dùng năm nhuận để làm cho năm trung bình của nó dài 365,2425 ngày, xấp xỉ với năm nhiệt đới 365,2422 ngày được xác định bởi vòng quay của Trái Đất quanh Mặt trời. Quy tắc cho năm nhuận là: Năm nào chính xác chia hết cho bốn là năm nhuận, ngoại trừ những năm chia hết cho 100, nhưng những năm chẵn trăm này sẽ là năm nhuận nếu chúng chính xác chia hết cho 400. Ví dụ, những năm 1700, 1800 và 1900 không phải là năm nhuận, còn những năm 1600 và 2000 lại là năm nhuận. Lịch này là một bản sửa đổi của lịch Julius và có hai khía cạnh khác biệt. Nó đã rút ngắn (lịch) trung bình của năm đi 0,0075 ngày để ngăn chặn sự trôi dạt của lịch đối với các điểm phân. Để đối phó với sự sai lệch kể từ khi lịch Julius được sửa, ngày lịch mới đã được nâng lên 10 ngày; Thứ năm ngày 4 tháng 10 năm 1582 được theo sau là thứ sáu ngày 15 tháng 10 năm 1582. Có sự liên tục trong chu kỳ các ngày trong tuần và kỷ nguyên lịch Anno Domini. Cuộc cải cách này cũng thay đổi chu kỳ âm lịch được Giáo hội sử dụng để tính ngày cho Lễ Phục sinh, khôi phục nó về thời gian trong năm như ban đầu được Giáo hội sơ khai cử hành. Kỷ nguyên lịch này có tên thế tục thay thế là "Kỷ nguyên chung". Việc cải cách lịch này ban đầu đã được các nước Công giáo ở Châu Âu và các thuộc địa ở nước ngoài của họ áp dụng. Trong ba thế kỷ tiếp theo, các nước Tin lành và Chính thống giáo phương Đông cũng chuyển sang cái mà họ gọi là lịch Cải tiến, với Hy Lạp là quốc gia châu Âu cuối cùng áp dụng lịch vào năm 1923. Để chỉ định rõ ràng một ngày trong giai đoạn chuyển tiếp (hoặc trong các văn bản lịch sử), niên đại kép đôi khi được sử dụng để chỉ định ngày Kiểu cũ và Kiểu mới (viết tắt là OS và NS). Trong suốt thế kỷ 20, hầu hết các nước không phải phương Tây cũng áp dụng lịch, ít nhất là cho các mục đích dân sự. Mô tả Lịch Gregorius là lịch dương có 12 tháng, mỗi tháng 28-31 ngày. Một năm Gregorius thông thường bao gồm 365 ngày, nhưng trong một số năm nhất định được gọi là năm nhuận có một ngày nhuận được thêm vào tháng 2. Năm Gregorius được xác định bằng các số năm liên tiếp nhau. Ngày lịch được chỉ định đầy đủ theo năm (được đánh số theo kỷ nguyên lịch, trong trường hợp này là Anno Domini hoặc Thời đại chung), tháng (được xác định bằng tên hoặc số), và ngày trong tháng (được đánh số liên tục bắt đầu từ 1). Mặc dù năm dương lịch hiện chạy từ ngày 1 tháng 1 đến ngày 31 tháng 12, tại các thời điểm trước đó, các con số của năm dựa trên một điểm bắt đầu khác trong lịch (xem phần "đầu năm" bên dưới). Trong lịch Julius, một năm nhuận xảy ra 4 năm một lần và ngày nhuận được thêm vào bằng cách nhân đôi ngày 24 tháng Hai. Cải cách lịch Gregorius đã bỏ qua ba ngày nhuận trong mỗi 400 năm và giữ nguyên ngày nhuận. Tuy nhiên, nó đã trở thành thông lệ trong thời kỳ hiện đại để đánh số ngày một cách tuần tự không có khoảng cách, và ngày 29 tháng 2 thường được coi là ngày nhuận. Trước khi sửa đổi Lịch La Mã năm 1969, Giáo hội Công giáo La Mã đã trì hoãn các ngày lễ tháng Hai sau ngày 23 một ngày trong những năm nhuận; Các thánh lễ được cử hành theo lịch trước đây vẫn phản ánh sự chậm trễ này. Chu kỳ lịch lặp lại hoàn toàn sau mỗi 400 năm, tương đương với 146.097 ngày. Trong số 400 năm này, 303 là năm thông thường 365 ngày và 97 năm là năm nhuận gồm 366 ngày. Một năm dương lịch trung bình là ngày = 365,2425 ngày, hoặc 365 ngày, 5 giờ, 49 phút và 12 giây. Cải cách lịch Gregorius Lịch Gregorius là một cuộc cải cách của lịch Julius. Nó được chính thức hóa bằng một tông sắc Inter gravissimas do Giáo hoàng Grêgôriô XIII thiết lập ngày 24 tháng 2 năm 1582, sau đó lịch được đặt tên theo vị giáo hoàng này. Động lực cho việc điều chỉnh là đưa ngày cử hành Lễ Phục sinh vào thời điểm trong năm mà lễ này được cử hành bởi Giáo hội sơ khai. Sai sót trong lịch Julius (giả định rằng có chính xác 365,25 ngày trong một năm) đã dẫn đến ngày điểm phân theo lịch trôi đi so với thực tế được quan sát, và do đó một lỗi đã được đưa vào tính toán ngày của lễ Phục sinh. Mặc dù một khuyến nghị của Công đồng Nicaea đầu tiên vào năm 325 quy định rằng tất cả các Ki tô hữu nên tổ chức Lễ Phục sinh vào cùng một ngày, nhưng phải mất gần 5 thế kỷ trước khi hầu như tất cả các Ki tô hữu đạt được mục tiêu đó bằng cách áp dụng các quy tắc của Giáo hội Alexandria (xem Lễ Phục sinh để biết các vấn đề phát sinh). Bối cảnh Vì ngày lễ Phục sinh dựa trên tính toán của ngày xuân phân (bán cầu bắc), Giáo hội Công giáo coi là không thể chấp nhận được sự khác biệt ngày càng tăng giữa ngày chính tắc của điểm phân và thực tế được quan sát. Lễ Phục sinh được tổ chức vào Chủ nhật sau ngày trăng tròn của Giáo hội vào hoặc sau ngày 21 tháng 3, được coi là gần đúng với ngày phân tháng 3. Các học giả châu Âu đã biết rõ về sự trôi dạt lịch từ đầu thời kỳ trung cổ. Bêđa, viết vào thế kỷ 8, cho thấy rằng sai số tích lũy trong thời gian ông sống là hơn ba ngày. Roger Bacon trong khoảng năm 1200 ước tính chênh lệch là bảy hoặc tám ngày. Dante, viết c. 1300, nhận thức được sự cần thiết của một cuộc cải cách lịch. Nỗ lực đầu tiên để tiến tới một cuộc cải cách như vậy được Giáo hoàng Sixtus IV thực hiện, người vào năm 1475 đã mời Regiomontanus đến Vatican cho mục đích này. Tuy nhiên, dự án đã bị gián đoạn bởi cái chết của Regiomontanus ngay sau khi ông đến Rome. Sự gia tăng kiến thức thiên văn và độ chính xác của các quan sát vào cuối thế kỷ 15 khiến vấn đề này trở nên cấp bách hơn. Nhiều ấn phẩm trong những thập kỷ tiếp theo đã kêu gọi cải cách lịch, trong số đó có hai bài báo do Đại học Salamanca gửi tới Vatican vào năm 1515 và 1578, nhưng dự án đã không được tiếp tục cho đến những năm 1540, và chỉ được thực hiện dưới thời Giáo hoàng Grêgôriô XIII (r. 1572–1585). Chuẩn bị Năm 1545, Hội đồng Trent ủy quyền cho Giáo hoàng Phaolô III cải cách lịch, yêu cầu ngày xuân phân phải được khôi phục lại thành ngày mà nó đã tổ chức vào thời điểm của Công đồng Nicaea lần thứ nhất vào năm 325 và yêu cầu một sự thay đổi lịch được được thiết kế để ngăn chặn sự chênh lệch ngày trong tương lai. Điều này sẽ cho phép lên lịch chính xác và nhất quán hơn cho lễ Phục sinh. Năm 1577, một Bản tổng hợp được gửi đến các nhà toán học chuyên nghiệp bên ngoài ủy ban cải cách để lấy ý kiến. Một số chuyên gia, bao gồm Giambattista Benedetti và Giuseppe Moleto, tin rằng Lễ Phục sinh nên được tính toán từ chuyển động thực của Mặt Trời và Mặt Trăng, thay vì sử dụng phương pháp bảng, nhưng những khuyến nghị này đã không được chấp nhận. Cải cách được thông qua là sự sửa đổi đề xuất của bác sĩ người Calabria Aloysius Lilius (hay Lilio). Đề xuất của Lilius bao gồm việc giảm số năm nhuận trong bốn thế kỷ từ 100 xuống 97, bằng cách biến ba trong số bốn năm trung bình là phổ biến thay vì năm nhuận. Ông cũng đưa ra một kế hoạch thực tế và nguyên bản để điều chỉnh thời gian diễn ra của Mặt trăng khi tính toán ngày Lễ Phục sinh hàng năm, giải quyết một trở ngại lâu đời đối với việc cải cách lịch. Bảng biểu thời cổ cung cấp kinh độ trung bình của Mặt trời. Nhà toán học người Đức Christopher Clavius, kiến trúc sư của lịch Gregorius, lưu ý rằng các bảng thống nhất không thống nhất về thời điểm Mặt trời đi qua điểm phân cực cũng như về độ dài của năm nhiệt đới trung bình. Tycho Brahe cũng nhận thấy sự khác biệt này. Quy tắc năm nhuận Gregorius (97 năm nhuận trong 400 năm) do Petrus Pitatus của Verona đưa ra vào năm 1560. Ông lưu ý rằng nó phù hợp với năm nhiệt đới của bảng Alfonsine và với năm nhiệt đới trung bình của Copernicus (De Revolutionutionibus) và Erasmus Reinhold (bảng Prutenic). Ba năm nhiệt đới trung bình trong các phép tính theo giới tính của người Babylon là thời gian vượt quá 365 ngày (theo cách chúng sẽ được trích xuất từ bảng kinh độ trung bình) là 0; 14,33,9,57 (Alfonsine), 0; 14,33,11, 12 (Copernicus) và 0; 14,33,9,24 (Reinhold). Trong ký hiệu thập phân, chúng tương ứng bằng 0,24254606, 0,24255185 và 0,24254352. Tất cả các giá trị đều giống nhau đến hai chữ số thập phân (0;14,33, bằng 0,2425 thập phân) và đây cũng là độ dài trung bình của năm Gregorius. Vì vậy, giải pháp của Pitatus sẽ được các nhà thiên văn học khen ngợi. Đề xuất của Lilius có hai thành phần. Đầu tiên, ông đề xuất điều chỉnh độ dài của năm. Năm chí tuyến trung bình dài 365,24219 ngày. Một giá trị thường được sử dụng vào thời của Lilius, từ các bảng Alfonsine, là 365,2425463 ngày. Vì độ dài trung bình của một năm Julius là 365,25 ngày, nên năm Julius dài hơn gần 11 phút so với năm chí tuyến trung bình. Sự khác biệt dẫn đến sự chênh lệch khoảng ba ngày sau mỗi 400 năm. Đề xuất của Lilius dẫn đến một năm trung bình là 365,2425 ngày. Vào thời điểm Gregorius cải tổ, đã có 10 ngày trôi qua kể từ Hội đồng Nicaea, dẫn đến điểm xuân phân rơi vào ngày 10 hoặc 11 tháng 3 thay vì ngày cố định theo giáo hội là ngày 21 tháng 3, và nếu không được sửa đổi thì nó sẽ trôi đi xa hơn. Lilius đề xuất rằng sự trôi dạt 10 ngày nên được điều chỉnh bằng cách xóa ngày nhuận Julius trên mỗi lần trong số mười lần xuất hiện của nó trong khoảng thời gian bốn mươi năm, do đó tạo điều kiện cho điểm phân quay trở lại dần dần vào ngày 21 tháng 3. Tác phẩm của Lilius đã được Christopher Clavius mở rộng trong một tập 800 trang được lập luận chặt chẽ. Sau đó ông bảo vệ công việc của mình và của Lilius trước những lời gièm pha. Ý kiến của Clavius là sự điều chỉnh nên diễn ra trong một động thái, và chính lời khuyên này đã thuyết phục được Grêgôriô. Thành phần thứ hai bao gồm một ước tính sẽ cung cấp một lịch chính xác nhưng đơn giản, dựa trên quy tắc. Công thức của Lilius là một hiệu chỉnh trong 10 ngày để hoàn nguyên sự trôi dạt kể từ Hội đồng Nicaea, và việc áp đặt một ngày nhuận chỉ trong 97 năm vào 400 thay vì 1 năm trong 4. Quy tắc được đề xuất là các năm chia hết cho 100 sẽ chỉ là năm nhuận nếu chúng cũng chia hết cho 400. Chu kỳ 19 năm được sử dụng cho âm lịch cũng được sửa lại một ngày sau mỗi 300 hoặc 400 năm (8 lần trong 2500 năm) cùng với việc sửa chữa cho những năm không còn là năm nhuận (tức là 1700, 1800, 1900, 2100, v.v. Trên thực tế, một phương pháp mới để tính toán ngày Lễ Phục sinh đã được giới thiệu. Khi lịch mới được đưa vào sử dụng, lỗi tích lũy trong 13 thế kỷ kể từ Hội đồng Nicaea đã được sửa chữa bằng cách xóa đi 10 ngày. Ngày đầu tiên của lịch Julius là thứ Năm, ngày 4 tháng 10 năm 1582 được theo sau bởi ngày đầu tiên của lịch Gregory, thứ sáu, ngày 15 tháng 10 năm 1582 (chu kỳ các ngày trong tuần không bị ảnh hưởng). Lịch Gregorius in lần đầu tiên Một tháng sau khi ra quyết định cải tổ, giáo hoàng (với bản tóm tắt là ngày 3 tháng 4 năm 1582) đã trao cho một Antoni Lilio quyền độc quyền xuất bản lịch trong thời hạn mười năm. Lunario Novo secondo la nuova riforma low được in bởi Vincenzo Accolti, một trong những cuốn lịch đầu tiên được in ở Rome sau cuộc cải cách, ghi chú ở cuối rằng nó đã được ký với sự ủy quyền của Giáo hoàng và Lilio (Con licentia delli Superiori... et permissu Ant (onii) Lilij). Bản tóm tắt của Giáo hoàng bị thu hồi vào ngày 20 tháng 9 năm 1582, vì Antonio Lilio tỏ ra không thể đáp ứng kịp nhu cầu về các bản sao. Áp dụng Mặc dù cải cách của Grêgôriô đã được ban hành theo những hình thức trang trọng nhất dành cho Giáo hội, tông sắc của ông không có thẩm quyền ngoài Giáo hội Công giáo và Lãnh địa Giáo hoàng. Những thay đổi mà ông đề xuất là những thay đổi đối với lịch dân sự mà ông không có thẩm quyền. Họ yêu cầu các cơ quan dân sự ở mỗi quốc gia phải thông qua để có hiệu lực pháp lý. Tông sắc Inter gravissimas đã trở thành luật của Giáo hội Công giáo vào năm 1582, nhưng nó không được các Giáo hội Tin lành, Giáo hội Chính thống giáo Đông phương, Giáo hội Chính thống giáo cổ Đông phương và một số giáo hội khác công nhận. Do đó, những ngày mà Lễ Phục sinh và các ngày lễ liên quan được cử hành bởi các Giáo hội Cơ đốc khác nhau là khác nhau. Vào ngày 29 tháng 9 năm 1582, Philip II của Tây Ban Nha ra lệnh thay đổi từ lịch Julius sang lịch Gregorius. Điều này ảnh hưởng phần lớn đến Châu Âu theo Công giáo La Mã, vì lúc đó Philip là người cai trị Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha cũng như phần lớn nước Ý. Tại các vùng lãnh thổ này, cũng như trong Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Litva  (do Anna Jagiellonka cai trị) và ở Lãnh địa Giáo hoàng, lịch mới được thực hiện vào ngày do tông sắc trên chỉ định, với Thứ Năm Julius, ngày 4 tháng 10 năm 1582, tiếp theo là Thứ Sáu Gregorius, ngày 15 tháng 10 năm 1582. Các thuộc địa của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đã theo sau trên thực tế một chút vì sự chậm trễ trong liên lạc. Nhiều quốc gia theo Kháng Cách ban đầu phản đối việc áp dụng một sự đổi mới lịch của Công giáo; một số người theo Kháng Cách lo sợ lịch mới là một phần của âm mưu đưa họ trở lại với dòng Công giáo. Ví dụ, người Anh không dám áp dụng hệ thống lịch của Công giáo một cách rõ ràng: Phụ lục về Lịch của họ (Phong cách mới) Đạo luật năm 1750 đã thiết lập một phép tính cho ngày Lễ Phục sinh đạt được kết quả tương tự như các quy tắc của Grêgôriô, mà không thực sự nhắc đến ông. Anh và Đế quốc Anh (bao gồm cả phần phía đông của vùng ngày nay là Hoa Kỳ) đã thông qua lịch Gregorius vào năm 1752. Thụy Điển cũng áp dụng lịch này vào năm 1753. Trước năm 1917, Thổ Nhĩ Kỳ sử dụng âm lịch Hồi giáo với thời đại Hegira cho các mục đích chung và lịch Julius cho các mục đích tài chính. Ngày bắt đầu năm tài chính cuối cùng được ấn định vào ngày 1 tháng 3 và số năm gần tương đương với năm Hegira (xem lịch Rumi). Vì năm mặt trời dài hơn năm âm lịch, điều này ban đầu dẫn đến việc sử dụng "năm thoát" thường xuyên khi con số của năm tài chính sẽ tăng vọt. Từ ngày 1 tháng 3 năm 1917, năm tài chính trở thành năm theo lịch Gregorius thay vì theo lịch Julius. Vào ngày 1 tháng 1 năm 1926, việc sử dụng lịch Gregorius đã được mở rộng để bao gồm việc sử dụng cho các mục đích chung và số của năm trở nên giống như ở hầu hết các quốc gia khác. Áp dụng theo quốc gia Sự khác biệt giữa ngày lịch Gregorius và lịch Julius Phần này luôn đặt ngày nhuận vào ngày 29 tháng 2 mặc dù nó luôn được lấy bằng cách nhân đôi hai ngày 24 tháng 2 (bissextum (hai lần thứ sáu) cho đến cuối thời Trung cổ. Lịch Gregorius được giả lập cho các mốc ngày trước 1582, và sự khác biệt giữa Gregorius và ngày lịch Julius tăng ba ngày mỗi bốn thế kỷ (đã bao gồm tất cả các phạm vi ngày). Phương trình sau đây cho biết số ngày (thực tế là ngày) mà lịch Gregorius đi trước lịch Julius, được gọi là sự khác biệt thế tục giữa hai lịch. Một sự khác biệt giá trị âm có nghĩa là lịch Julius đi trước lịch Gregorius. với là sự khác biệt thế tục và là năm sử dụng cách đánh số năm thiên văn, tức là sử dụng cho các năm trước Công nguyên. có nghĩa là nếu kết quả của phép chia không phải là số nguyên thì nó được làm tròn xuống số nguyên gần nhất. Do đó trong những năm 1900, 1900/400 = 4, trong khi −500s, −500/400 = −2. Quy tắc chung, trong những năm là năm nhuận trong lịch Julius nhưng không phải là lịch Gregorius, là: Tính đến ngày 28 tháng 2 trong lịch đang được chuyển đổi from thêm một ngày ít hoặc trừ một ngày nhiều hơn giá trị tính toán. Cho tháng Hai số ngày thích hợp để chuyển đổi sang lịch. Khi trừ ngày để tính Gregorius tương đương với ngày 29 tháng 2 (Julius), thì ngày 29 tháng 2 bỏ không đếm. Do đó, nếu giá trị được tính toán là −4 thì tương đương với Gregorius của ngày này là ngày 24 tháng Hai. Ngày đầu năm Năm được sử dụng trong các ngày trong thời Cộng hòa La Mã và Đế chế La Mã là năm lãnh sự, bắt đầu vào ngày các quan lãnh sự lần đầu tiên nhậm chức — có thể là ngày 1 tháng 5 trước năm 222 trước Công nguyên, ngày 15 tháng 3 từ năm 222 trước Công nguyên và ngày 1 tháng 1 từ năm 153 trước Công nguyên. Lịch Julius, bắt đầu từ năm 45 trước Công nguyên, tiếp tục sử dụng ngày 1 tháng 1 là ngày đầu tiên của năm mới. Mặc dù năm được sử dụng cho ngày thay đổi, năm dân sự luôn hiển thị các tháng của nó theo thứ tự từ tháng 1 đến tháng 12 từ thời Cộng hòa La Mã cho đến nay. Trong thời Trung cổ, dưới ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo, nhiều quốc gia Tây Âu đã chuyển đầu năm sang một trong những lễ hội quan trọng của Cơ đốc giáo — 25 tháng 12 (được cho là Lễ giáng sinh của Giê-su), 25 tháng 3 (Truyền tin), hoặc Lễ Phục sinh (Pháp), trong khi Đế chế Byzantine bắt đầu thành niên vào ngày 1 tháng 9 và Nga làm như vậy vào ngày 1 tháng 3 cho đến năm 1492 khi năm mới được chuyển sang ngày 1 tháng 9. Theo cách sử dụng phổ biến, ngày 1 tháng 1 được coi là Ngày đầu năm mới và được tổ chức như vậy, nhưng từ thế kỷ 12 cho đến năm 1751, năm hợp pháp ở Anh bắt đầu vào ngày 25 tháng 3 (Ngày Phụ nữ). Vì vậy, ví dụ, hồ sơ của Nghị viện liệt kê vụ hành quyết Charles I vào ngày 30 tháng 1 như xảy ra vào năm 1648 (vì năm đó không kết thúc cho đến ngày 24 tháng 3), mặc dù các sử sách sau đó điều chỉnh thời điểm bắt đầu năm thành ngày 1 tháng 1 và ghi lại vụ hành quyết xảy ra vào năm 1649. Hầu hết các nước Tây Âu đã thay đổi ngày bắt đầu của năm thành ngày 1 tháng 1 trước khi họ áp dụng lịch Gregorius. Ví dụ, Scotland đã thay đổi ngày bắt đầu của Năm mới Scotland thành ngày 1 tháng 1 năm 1600 (điều này có nghĩa là năm 1599 là một năm ngắn ngủi). Anh, Ireland và các thuộc địa của Anh đã thay đổi ngày bắt đầu của năm thành ngày 1 tháng 1 năm 1752 (vì vậy năm 1751 là một năm ngắn chỉ có 282 ngày) mặc dù ở Anh, ngày bắt đầu của năm tính thuế vẫn là ngày 25 tháng 3 (OS), ngày 5 tháng 4 (NS) cho đến năm 1800, khi nó chuyển sang ngày 6 tháng 4. Sau đó vào năm 1752 vào tháng 9, lịch Gregorius đã được giới thiệu trên khắp nước Anh và các thuộc địa của Anh. Hai cải cách này được thực hiện bởi Đạo luật Lịch (kiểu mới) năm 1750. Ở một số quốc gia, một nghị định hoặc luật chính thức quy định rằng ngày bắt đầu của năm phải là ngày 1 tháng Giêng. Đối với những quốc gia như vậy, một năm cụ thể khi ngày 1 tháng Giêng trở thành tiêu chuẩn có thể được xác định. Ở các quốc gia khác, phong tục tập quán khác nhau, và thời điểm đầu năm di chuyển qua lại do thời trang và ảnh hưởng từ các quốc gia khác quyết định nhiều phong tục khác nhau. Cả tông sắc của Giáo hoàng và các giáo luật đính kèm của nó đều không ấn định ngày như vậy một cách rõ ràng, mặc dù nó được ngụ ý bởi hai bảng ngày của các thánh, một bảng được dán nhãn 1582 kết thúc vào ngày 31 tháng 12 và bảng khác cho bất kỳ năm nào bắt đầu vào ngày 1 tháng Giêng. Nó cũng chỉ định thời gian của nó liên quan đến ngày 1 tháng 1, trái ngược với lịch Julius, nó chỉ định nó liên quan đến ngày 22 tháng 3. Ngày cũ bắt nguồn từ hệ thống tiếng Hy Lạp: Supputatio Romana trước đó đã chỉ định nó liên quan đến ngày 1 tháng Giêng. Lịch Gregorius trên thế giới Vì sự thông tin chậm trễ và vì lý do tôn giáo, nhiều nước không áp dụng lịch Gregorius ngay sau đó. Nước Anh (và Hoa Kỳ lúc còn là thuộc địa của Anh) mãi đến 1752 mới theo lịch này, và khi đó phải bỏ bớt 11 ngày trong lịch (do đó George Washington sinh ngày 11 tháng 2 năm 1732, nhưng Hoa Kỳ ăn mừng sinh nhật của ông vào ngày 22 tháng 2). Nga chỉ theo lịch này sau năm 1917, do đó Cách mạng tháng Mười Nga diễn ra vào tháng 11 dương lịch. Một số nhà thờ Chính thống giáo (ví dụ như ở Nga, Serbia và Georgia) tiếp tục tổ chức lễ hội tôn giáo theo lịch Julius. Lễ Giáng sinh của họ (ngày 25 tháng 12) hiện tại vào ngày 7 tháng 1 (lịch Gregorius). Tất cả các nhà thờ Chính thống đều tính lễ Phục sinh và các lễ hội di chuyển khác theo đầu xuân lịch Julius và theo trăng tròn; lễ hội do đó chỉ trùng hợp thỉnh thoảng với ngày lễ Phục sinh của các hội thánh phương Tây; thường là một, bốn hoặc năm tuần sau đó ở phương Tây. Tại Việt Nam, Tây lịch được áp dụng ở các công sở khi người Pháp ép triều đình Huế nhận nền bảo hộ vào cuối thế kỷ 19. Tuy nhiên lịch Hiệp kỷ vẫn được nhà Nguyễn duy trì song hành. Lịch Gregorius chính thức được dùng kể từ năm 1946 trở đi.
Myosotis là một nhóm nhạc thời kỳ tiền chiến. Lịch sử Myosotis có nghĩa là hoa lưu ly, nhóm nhạc này gồm các nhạc sĩ Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Phạm Văn Nhượng, Trần Dư, Vũ Khánh... trong đó hai thành viên quan trọng nhất là Thẩm Oánh và Dương Thiệu Tước. Năm 1938 khi tân nhạc Việt Nam hình thành sau những buổi trình diễn của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên, nhiều nhóm nhạc ở miền Bắc cùng tung ra các ca khúc của mình. Trong số đó đáng kể hơn cả là Myosotis và nhóm Tricéa. Myosotis được đánh giá là có chủ trương sáng tác rõ rệt hơn. Hai xu hướng chính của nhóm là: Sáng tác nhạc mới nhưng có âm hưởng nhạc dân tộc do Thẩm Oánh chủ trương. Sáng tác hoàn toàn theo nhạc ngữ Tây phương do Dương Thiệu Tước chủ trương. Thẩm Oánh theo con đường trung dung. Ông từng tuyên bố trên báo Ngày Nay của Nhất Linh, tờ hậu thuẫn cho tân nhạc thời hình thành đó: "Âm nhạc cải cách phải theo ý nhạc Việt Nam và phải có cảm tưởng thuần túy Á Đông". Trong khi đó, Dương Thiệu Tước thì chủ trương phải sáng tác theo âm điệu Tây phương hoàn toàn. Ông viết trên báo Việt Nhạc số 5, ngày 16 tháng 10 năm 1948: "Nếu đã có nhà văn Việt Nam viết văn bằng tiếng Pháp, thì nhà soạn nhạc Việt Nam cũng có thể viết được những bản nhạc có âm điệu Tây Phương". Có thể thấy rằng cả hai đã rất trung thành với chủ trương của mình. Sáng tác của Thẩm Oánh rất Á Đông, còn nhạc Dương Thiệu Tước đầy âm điệu khiêu vũ phương Tây. Từ năm 1938, nhóm Myosotis cũng đứng ra xuất bản các ca khúc mới, những bài như Đôi Oanh Vàng, Hoa Tàn, Phút Vui Xưa... cùng những bản nhạc không lời của Dương Thiệu Tước. Các ca sĩ nổi tiếng như Ái Liên và Kim Thoa được hãng đĩa Beka thuê thu thanh các bài hát này trên đĩa hát 78 vòng. Từ 1938 cho tới 1942, nhóm Myosotis với hai nhạc sĩ chính là Thẩm Oánh và Dương Thiệu Tước đã để lại nhiều nhạc phẩm giá trị, phần lớn theo phong cách trữ tình lãng mạn. Theo Phạm Duy: "Tác phẩm của nhóm Myosotis rất là nhiều, nhưng không lưu truyền cho tới về sau, trừ một số bài nào đó, ngẫu nhiên được một giọng ca lớn nào đó, ví dụ giọng Thái Thanh hay Kim Tước, hát lại trong những thập niên sau". Sau một thời gian ngắn tồn tại, Myosotis không còn là một nhóm thuần nhất. Các thành viên chia tay, tiếp tục đi theo con đường sáng tác riêng của mình.
Tricéa là một nhóm nhạc thời tiền chiến với ba thành viên Văn Chung, Lê Yên và Doãn Mẫn. Tên nhóm Tricéa có nghĩa: 3 chữ C và 3 chữ A được viết tắt từ Collection Des Chants Composés Par Des Artistes Annamites Associés trong tiếng Pháp và có nghĩa là "Tuyển chọn các tác phẩm âm nhạc của nhóm người viết nhạc Annam". Trước khi tân nhạc Việt Nam được chính thức khai sinh với những buổi diễn của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên, Tricéa đã có những sinh hoạt âm nhạc. Nhưng chỉ sau khi Nguyễn Văn Tuyên công bố hai bản nhạc, hai nhóm Tricéa và Myosotis mới cho in những bản nhạc của mình. Sư hình thành của nhạc cải cách khi đó được hậu thuẫn của tờ Ngày Nay do Nhất Linh là chủ bút. Theo nhạc sĩ Vũ Thành, người đã có những sinh hoạt tân nhạc từ thời đó, Nhất Linh từng đảm trách việc thổi kèn clarinette trong một ban nhạc tài tử do hai nhóm kể trên phối hợp để trình diễn vào một ngày mùa thu năm 1939. Trong nhóm Tricéa, Văn Chung được coi như người có bài hát được dân chúng ưa thích cho nên Thẩm Oánh của nhóm Myosotis đã từng phê bình trong báo Việt Nhạc số 5: "Nhóm Tricéa chủ trương đi sát quần chúng", ngụ ý là loại nhạc thấp. Trong một bài phỏng vấn của báo Thể thao Văn hóa năm 2002, Doãn Mẫn có kể lại một câu chuyện về nhóm Tricéa: "Năm 1935, Lê Yên viết bài Bẽ bàng rất hay nhưng mãi không sao viết được câu kết, nghe anh kể tôi liền bảo: Anh đàn lên đi, khi nghe xong, tôi tức khắc ứng khẩu, bạn tôi mừng như vớ được vàng. Đến năm 1955, tôi làm bài Gọi nghé trên đồng, cũng không kết được và Lê Yên chính là người giúp tôi viết tiếp. Lúc đó, anh ấy nói với tôi: 20 năm mình mới trả nợ được cậu". Những năm khoảng 1939, nhiều ca khúc của nhóm được quần chúng yêu thích như: Ca khúc ban chiều, Trên thuyền hoa, Bóng ai qua thềm của Văn Chung; Biệt ly, Sao hoa chóng tàn, Tiếng hát đêm thu của Doãn Mẫn; Bẽ bàng, Vườn xuân của Lê Yên. Cả ba nhạc sĩ của Tricéa đều thành công, trong đó hơn cả là Doãn Mẫn. Họ đã để lại nhiều nhạc phẩm giá trị, một số trong đó được đánh giá vượt thời gian: Doãn Mẫn: Biệt ly, Hương cố nhân Văn Chung: Bóng ai qua thêm, Trên thuyền hoa Lê Yên: Ngựa phi đương xa, Bẽ bàng, Xuân nghệ sĩ hành khúc
Họ Liễu hay họ Dương liễu (danh pháp khoa học: Salicaceae) là một họ thực vật có hoa. Các nghiên cứu di truyền học gần đây của Angiosperm Phylogeny Group đã mở rộng định nghĩa và phạm vi của họ này tới 57 chi. Trong hệ thống Cronquist cũ thì họ Salicaceae được xếp vào một bộ riêng của chính nó là bộ Liễu (Salicales), và chỉ chứa có 3 chi là (Salix, Populus và Chosenia, với Chosenia hiện nay được coi là đồng nghĩa của Salix), nhưng APG lại đưa họ này vào trong bộ Sơ ri (Malpighiales). Các chi bổ sung thêm vào thì trước đây được đặt trong họ Bồ quân (Flacourtiaceae), nhưng nói chung chúng có lịch sử hỗn tạp trước khi có điều này và đã từng được đặt trong các họ như Bembiciaceae, Caseariaceae, Homaliaceae, Poliothyrsidaceae, Prockiaceae, Samydaceae và Scyphostegiaceae. Chi Gerrardina hiện tại được coi là chi duy nhất của họ tách biệt, gọi là Gerrardinaceae Các chi Một số tác giả, như Mac H. Alford, lại tách các chi Tetrathylacium, Lunania, Ryania, Trichostephanus, Osmelia, Pseudosmelia, Ophiobotrys, Euceraea, Neoptychocarpus, Casearia, Laetia, Zuelania, Hecatostemon và Samyda ra thành họ Samydaceae. Chi Scyphostegia với 1 loài duy nhất Scyphostegia borneensis đôi khi cũng được tách ra thành họ đơn loài có danh pháp là Scyphostegiaceae. Họ Salicaceae sau khi tách hai họ này ra cũng được coi là họ Liễu nghĩa hẹp. Chú thích
Hiệp định về Trợ cấp và các Biện pháp đối kháng (Hiệp định SCM) là một trong các hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Hiệp định được ký cùng với các hiệp định khác của WTO tại Vòng đàm phán Uruguay. Hiệp định có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1995. Hiệp định đưa ra các quy định về việc sử dụng các biện pháp trợ cấp cũng như các quy định về những hành động một thành viên WTO có thể sử dụng để đối phó lại ảnh hưởng của các biện pháp trợ cấp. Theo Hiệp định, một thành viên WTO có thể sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để yêu cầu một thành viên khác rút lại biện pháp trợ cấp mà họ đang áp dụng, hoặc có những phương thức khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của biện pháp trợ cấp đó. Thành viên bị ảnh hưởng cũng có thể thực hiện điều tra riêng của mình và có thể áp một mức thuế nhập khẩu bổ sung (được gọi là thuế chống trợ cấp) đối với hàng nhập khẩu được trợ cấp mà theo kết quả điều tra gây tổn hại đến ngành sản xuất trong nước. Phạm vi điều chỉnh Hiệp định có định nghĩa cụ thể về trợ cấp. Áp dụng đối với trợ cấp công nghiệp. Hiệp định cũng đưa ra khái niệm về "trợ cấp cụ thể", là trợ cấp chỉ áp dụng đối với một doanh nghiệp, một ngành, một nhóm doanh nghiệp hoặc nhóm ngành tại nước trợ cấp. Các quy định trong Hiệp định chỉ áp dụng với trợ cấp cụ thể. Trợ cấp cụ thể đó có thể là trợ cấp trong nước hoặc trợ cấp xuất khẩu. Hiệp định đưa ra 3 dạng trợ cấp là: trợ cấp đèn đỏ (bị cấm), trợ cấp đèn vàng (có thể bị kiện) và trợ cấp đèn xanh (không bị kiện). Phân loại trợ cấp Hiệp định phân trợ cấp thành hai nhóm: trợ cấp bị cấm và trợ cấp có thể áp dụng. Trước đây, trợ cấp còn có thể thuộc một nhóm thứ ba: trợ cấp có thể không được áp dụng. Nhóm này tồn tại trong vòng 5 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, tức là đến ngày 31 tháng 12 năm 1999, và không được gia hạn thêm. Hiệp định áp dụng đối với cả hàng nông sản cũng như hàng chế tạo, ngoại trừ các khoản trợ cấp được miễn trừ theo "điều khoản hòa bình" của Hiệp định về Nông nghiệp. Điều khoản này cũng đã hết hạn vào cuối năm 2003. Trợ cấp bị cấm: là các khoản trợ cấp yêu cầu người nhận phải đáp ứng được những mục tiêu xuất khẩu nhất định, hoặc phải sử dụng hàng trong nước thay cho hàng nhập khẩu. Chúng bị cấm vì chúng được xây dựng nhằm làm biến dạng thưưong mại quốc tế, và do đó có khả năng tác động tiêu cực đến trao đổi thương mại của các thành viên khác. Những trợ cấp này phải bị dỡ bỏ dần theo một thời gian biểu quy định. Chúng có thể bị đưa ra cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO nếu không tuân theo thời gian biểu dỡ bỏ đó. Nếu cơ chế giải quyết tranh chấp kết luận rằng một khoản trợ cấp thuộc nhóm bị cấm, khoản trợ cấp đó phải được dỡ bỏ ngay lập tức. Nếu không được dỡ bỏ, nước nguyên đơn có thể có những biện pháp phản kháng lại khoản trợ cấp đó. Trong trường hợp ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại bởi hàng nhập khẩu được trợ cấp, thuế chống trợ cấp có thể được áp dụng đối với hàng nhập khẩu. Trợ cấp có thể áp dụng: đối với những khoản trợ cấp trong nhóm này, nước nguyên đơn phải chứng minh được rằng khoản trợ cấp đó có tác động tiêu cực đối với lợi ích của họ. Nếu không chứng minh được điều đó, khoản trợ cấp được phép áp dụng. Hiệp định quy định ba hình thức thiết hại có thể gây ra bởi các khoản trợ cấp thuộc nhóm này. Thứ nhất, trợ cấp của một nước có thể gây thiệt hại đến ngành sản xuất nội địa của nước nhập khẩu. Thứ hai, trợ cấp của một nước có thể gây thiệt hại đến xuất khẩu của một nước khác khi hàng của 2 nước cạnh tranh với nhau trên thị trường của một nước thứ ba. Thứ ba, trợ cấp nội địa của một nước có thể gây thiệt hại đối với hàng xuất khẩu của các nước khác được bán trên thị trường của nước áp dụng biện pháp trợ cấp. Nếu Hội đồng Giải quyết Tranh chấp kết luận rằng khoản trợ cấp đang được xem xét đúng là có gây tác động tiêu cực, khoản trợ cấp đó phải được dỡ bỏ, hoặc tác động tiêu cực đó phải được khắc phục. Cũng giống như trường hợp trên, khi ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại bởi hàng nhập khẩu được trợ cấp, thuế chống trợ cấp có thể được áp dụng đối với hàng nhập khẩu. Điều tra Một số quy định của Hiệp định về Trợ cấp và các Biện pháp chống Trợ cấp cũng tương tự như các quy định của Hiệp định về Chống bán Phá giá. Thuế chống trợ cấp, tương tự như thuế chống bán phá giá, chỉ có thể được áp dụng khi nước nhập khẩu đã tiến hành điều tra tỷ mỷ về hành động trợ cấp. Hiệp định có những quy định chi tiết về việc kết luận khi nào một mặt hàng bị coi là được trợ cấp, các tiêu chí để xác định một mặt hàng nhập khẩu được trợ cấp có gây thiệt hại đến ngành sản xuất trong nước hay không, thủ tục để mở một cuộc điều tra và các bước thự hiện nó, cách thức và thời gian có hiệu lực của các biện pháp chống trợ cấp. Một giải pháp khác tránh cho việc áp dụng các biện pháp trợ cấp là người xuất khẩu được trợ cấp có thể đồng ý tăng giá xuất khẩu của họ. Miễn trừ Hiệp định công nhận rằng trợ cấp có thể đóng một vai trò quan trọng ở các nước phát triển cũng như trong việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang các nền kinh tế thị trường. Các nước kém phát triển và các nước đang phát triển có thu nhập bình quân đầu người ít hơn 1.000 đô-la Mỹ/năm được miễn áp dụng các quy định về trợ cấp xuất khẩu bị cấm. Các nước đang phát triển khác có thời hạn đến năm 2003 để dỡ bỏ các khoản trợ cấp xuất khẩu của mình. Tuy nhiên, các nước kém phát triển phải dỡ bỏ các khoản trợ cấp thay thế nhập khẩu (các khoản trợ cấp được xây dựng để trợ giúp sản xuất hàng trong nước thay thế hàng nhập khẩu) không chậm hơn năm 2003. Thời hạn này đối với các nước đang phát triển là năm 2000. Các nước đang phát triển sẽ nhận được đối xử ưu đãi hơn trong trường hợp hàng xuất khẩu của họ chịu sự điều tra để áp dụng thuế chống trợ cấp. Đối với các nền kinh tế chuyển đổi, các khoản trợ cấp bị cấm phải được dỡ bỏ chậm nhất là năm 2002.
Bộ Lanh (Linales) là một danh pháp thực vật cho một bộ thực vật có hoa. Hệ thống Cronquist phiên bản năm 1981 sử dụng tên gọi này cho bộ nằm trong phân lớp Hoa hồng (Rosidae) với định nghĩa và giới hạn như sau: bộ Linales họ Erythroxylaceae - họ Côca họ Humiriaceae - ? họ Hugoniaceae - ? họ Ixonanthaceae - họ Hà nu họ Linaceae - họ Lanh Hệ thống APG II, được sử dụng trong Wikipedia, đưa các loài thực vật trong bộ này vào bộ Sơ ri (Malpighiales). Chú thích
Pháp gia là một trường phái tư tưởng có mục đích tiếp cận tới cách phân tích các vấn đề pháp luật đặc trưng ở lý lẽ lý thuyết nhắm vào việc đưa ra văn bản pháp luật ứng dụng, ví dụ như một hiến pháp, pháp chế, hay quy tắc dựa theo phong tục tập quán, hơn là nhắm tới xã hội, kinh tế, hay tình huống chính trị. Nói theo cách khái quát, pháp gia duy trì quan niệm rằng cơ cấu vốn có của quyền lực hành pháp đã chứa đựng luân lý duy nhất và đã được quyết định thích hợp cho mọi vấn đề pháp luật có thể gặp phải; và rằng nhiệm vụ của người phân xử là xác định rõ câu trả lời duy nhất và đã được quyết định trước đó thông qua một quá trình xử lý cần thiết. Trường phái phương Tây ủng hộ việc áp dụng pháp luật theo kiểu này không có quan hệ gì nhiều với trường phái chính trị Pháp gia Trung Quốc tuy cả hai cùng được đặt một tên và chúng ta sẽ xem xét vấn đề ở dưới đây. Pháp gia ở Trung Quốc Trong Lịch sử Trung Quốc, Pháp gia (法家; bính âm Fǎjiā) là một trong bốn trường phái triết lý ở thời Xuân Thu và thời Chiến Quốc (gần cuối thời nhà Chu từ khoảng thế kỷ thứ 6 TCN cho tới khoảng thế kỷ thứ 3 TCN). Trên thực tế, nó mang nhiều tính cách triết lý chính trị thực tiễn, với châm ngôn kiểu "khi thời đại thay đổi, những đường lối cũng thay đổi" làm nguyên tắc chính của mình, hơn là một triết học về luật. Trong hoàn cảnh đó, "Pháp gia" ở đây có thể mang ý nghĩa "triết lý chính trị tán thành sự cai trị của pháp luật" và vì thế, khác biệt so với ý nghĩa của Pháp gia phương Tây. Hàn Phi Tử tin rằng một nhà cai trị phải cai quản các thần dân của mình theo ba quy tắc sau: Pháp (法 fǎ) trong luật pháp: phải được trình bày rõ ràng và thông báo rộng rãi cho công chúng. Tất cả thần dân của nhà cai trị đều bình đẳng trước pháp luật. Luật pháp phải thưởng cho những người tuân phục và trừng phạt những người bất tuân. Vì thế, nó đảm bảo được rằng mọi phán xét của pháp luật là đều có thể suy luận theo hệ thống để biết trước được (từ khi phát sinh hành động liên quan tới pháp luật, đã có thể đoán trước phán xét của pháp luật cho hành động đó là như thế nào). Hơn nữa, hệ thống luật pháp cai quản đất nước, chứ không phải là nhà vua cai trị. Nếu có thể làm cho pháp luật có hiệu lực, thậm chí một vị vua kém tài cũng trở nên mạnh mẽ. Thuật (術 shù) trong bí thuật: Những thủ đoạn đặc biệt và "bí mật" được vị vua cai trị dùng để đảm bảo rằng những người khác (quan lại...) không thể chiếm quyền kiểm soát quốc gia. Điều đặc biệt quan trọng là không một ai có thể biết được những động cơ thực sự của những hành động của nhà vua, và vì thế không ai biết được cách đối xử thế nào để có thể tiến thân, ngoại trừ việc tuân theo "pháp" hay các luật lệ. Thế (勢 shì) trong thế trị: tính chính thống, quyền lực hay uy tín. Chính vị trí của nhà vua cai trị, chứ không phải nhà vua, nắm giữ quyền lực. Vì thế việc phân tích khuynh hướng, hoàn cảnh và những yếu tố thực tại là điều căn bản của một vị vua cai trị thực sự. Quyền lực chính trị Pháp gia là tư tưởng trung tâm trong triều đình nhà Tần, lên tới cực điểm của nó khi Trung Quốc thống nhất dưới thời ‘Hoàng đế đầu tiên’ (Tần Thủy Hoàng). Tư tưởng pháp gia thường được đem ra so sánh với tư tưởng chính trị của nhà triết học người Italia Niccolo Machiavelli và Arthashastra ở Kautilya (theo quan điểm châu Âu). Áp dụng thực tiễn Luật được áp dụng để tạo ra sự nghịch biện, bằng cách ấy các quan lại của Hoàng đế có thể tìm kiếm và lựa chọn ra điều luật để áp dụng. "Thế" chính là mưu mẹo khôn khéo để vượt trên pháp luật, dù xét theo từng điều một thì pháp luật là rõ ràng và đơn giản, nhưng nó vẫn là một cơ cấu mà theo đó một sự vi phạm pháp luật dù là nhỏ nhất, mà bất kỳ ai ở bất kỳ địa vị nào đều có thể phạm phải, cũng không thể bày tỏ được nếu không có khả năng chứng minh. Khi ấy, "những thủ đoạn đặc biệt" bắt đầu mang lại kết quả, bởi vì quyền lựa chọn luật pháp để mang ra thi hành chỉ nằm trong tay Hoàng đế. Sự vượt trên pháp luật vừa diễn ra bằng quy trình tố tụng vừa bằng sự lựa chọn luật tố tụng, và bằng sự vắng mặt hay sự đình chỉ tố tụng bởi một điều luật mâu thuẫn. Lúc ấy tất cả mọi người buộc phải hiểu được tính bí ẩn trong cách hành xử của Hoàng đế. Thậm chí cả những người đại diện cho Hoàng đế nắm quyền lực trong tay cũng chính là những đối tượng của mạng lưới luật pháp phức tạp theo học thuyết này của pháp gia. Rất khó để hiểu được động cơ hành động của Hoàng đế, vì việc áp dụng luật kiểu này này lại dễ dàng khiến nó trở nên xung đột với một kiểu áp dụng khác. Vì thế, chỉ có Hoàng đế là hoàn hảo. Lợi thế kiểm soát luôn nằm trong tay nhà vua, người luôn giám sát việc lựa chọn (hay tạo ra) luật lệ quyết định cuối cùng để áp dụng cho mọi tình huống. Đa số các nhà triết học và tư tưởng chính trị Trung Quốc có cái nhìn rất tiêu cực đối với Pháp gia, buộc tội nó là một xã hội mà ngày nay chúng ta gọi là xã hội chuyên chế. Nhiều học giả Trung Quốc tin rằng chính một phản ứng chống lại pháp gia đã làm cho chính trị đế quốc Trung Quốc mang nhiều đặc tính cá nhân và đạo đức hơn là sự nhấn mạnh vào sự cai trị của pháp luật. Tuy nhiên, quan điểm này về nhà Tần có thể là có thành kiến, bởi vì đa số các sách sử Trung Quốc đều do các học giả Khổng giáo viết ra, mà những nhà nho Khổng giáo lại bị đàn áp ở thời Tần. Vai trò của Nhà cai trị Ban đầu các thành viên của tầng lớp cai trị, những người theo Pháp gia nhấn mạnh rằng hoàng đế với tư cách người đứng đầu quốc gia luôn gắn liền với "sự bí ẩn của chính quyền", và như thế những quyết định của chính quyền buộc người dân phải kính trọng và tuân thủ. Nhà vua đại diện cho tính chính thống. Khi nhấn mạnh quyền lực của vương quyền, những người pháp gia như Thận Đáo (kh. 350-275 TCN) và Thân Bất Hại tìm cách làm giảm tầm quan trọng của một nhà cai trị có đạo đức (đối với nhân dân). Vì thế, thần dân bắt buộc phải tuân theo những mệnh lệnh dù là đê hèn, tàn nhẫn nhất và/hay những vị vua cai trị dù là bất tài nhất. Những nhà cai trị tài năng được tôn kính, nhà cai trị khôn khéo thì giữ kín mình. Vì vậy, theo lý thuyết, bằng cách che giấu đi những mong ước, những ý định của mình, vị vua của pháp gia biết được kẻ nịnh bợ và buộc quan lại phải lưu ý về tính độc tài của chính quyền. Trong khi Thương Ưởng (Tể tướng của Tần Hiếu Công) vẫn để cho những vị vua cai trị say đắm vào nữ nhạc hơn là chú tâm tới chính sách đối ngoại, Hàn Phi Tử (học giả Pháp gia được Tần Thủy Hoàng kính trọng nhất) lại yêu cầu một nhà cai trị khôn ngoan. Một lãnh đạo giỏi, theo các tiêu chuẩn của Hàn Phi Tử, phải biết từ chối chấp nhận lời đề nghị của những vị quan trung thành khi chúng có sai sót, nhưng cũng phải tỏ ra nhã nhặn với những kẻ dưới quyền và không quá tham lam. Vị vua cai trị tài giỏi cũng phải hiểu được tầm quan trọng của sự khắt khe ngay cả khi đang rộng lượng. Mặc dù mong rằng nhà vua cai trị không phải là gia trưởng, pháp gia nhấn mạnh rằng tỏ ra quá nhân đức có thể làm hại đến tính quần chúng và đe doạ trật tự bên trong của quốc gia. Khá ngạc nhiên, là theo nhà sử học vĩ đại thời nhà Hán là Tư Mã Thiên (kh. 145-86 TCN), trong khi vị Hoàng đế đầu tiên nhà Tần giấu mình khỏi thế giới (có lẽ vì muốn đạt tới bất tử) và vì thế ít được biết đến, ông lại không cần phải theo mọi đề xuất của pháp gia trong vai trò của nhà cai trị. Vai trò của Quan lại trong tư tưởng Pháp gia Để giúp đỡ vị vua cai trị và ngăn chặn quản lý kém, Thân Bất Hại – vị tướng quốc nước Hàn – đã lập nên quan niệm những "thuật" cai trị, hay là hình thức quan liêu hành chính có mục đích thúc đẩy sự áp dụng chương trình cai trị của pháp gia. Đối với những nhà pháp gia, vị quan giỏi phải là người hỗ trợ đắc lực nhất cho nhà vua. Trong khi trách nhiệm của quan là phải hiểu được cụ thể từng việc thì trách nhiệm của vua là phải chỉnh lý lại công việc của quan. Nhấn mạnh quan điểm rằng các vị quan và những viên chức khác thường muốn có ảnh hưởng đối với những nước xung quanh bằng cách lạm dụng địa vị của mình, Hàn Phi Tử thúc giục vua cai trị kiểm soát các cá nhân đó bằng hai cách, trừng phạt và khen thưởng. Các vị quan lại bị buộc phải đảm bảo rằng sự thực hiện trách nhiệm của mình không tốt hơn mà cũng không kém hơn công việc đã được giao. Theo nhà Hán học kiệt xuất Robin Yates, những bộ luật mới được tìm thấy của nhà Tần cho thấy các quan lại bị buộc phải tính toán số lượng chính xác nhân công cần thiết cho mọi công việc thủ công; nếu người thợ bị bắt phải thực hiện công việc nhiều hơn hay ít hơn, vị quan đó sẽ có trách nhiệm phải giải thích. Vì thế, theo lý thuyết pháp gia, các quan lại và viên chức bị ngăn chặn không thể thực hiện một số trách nhiệm của người khác và bị trừng phạt nếu họ có ý định che giấu vua bằng lời lẽ hay không thể cảnh báo vua về nguy hiểm. Hệ quả của việc này là vị quan phải luôn giải thích với vua về những nguy cơ có thể gây hại cho vua trong khi đó nhà vua lại không bao giờ phải nhận trách nhiệm cá nhân. Tuy nhiên, bằng cách nhấn mạnh sự thực thi nhiệm vụ thông qua phương pháp nguỵ biện, pháp gia hy vọng hạn chế tham nhũng trong quan lại và mưu đồ bên trong chế độ quan liêu bằng sự đe doạ trừng phạt. Mục đích của Luật lệ Trong khi những luật lệ do phái pháp gia đưa ra bề ngoài có vẻ là để mang lại lợi ích cho người dân thì trên thực tế nó lại có mục đích mang lại lợi ích cho đất nước bằng cách đặt chiến tranh và nông nghiệp lên vị trí những chính sách hàng đầu của đất nước. Đặc biệt, Thương Ưởng nhấn mạnh nông nghiệp và chiến tranh là những nhân tố quan trọng nhất trong cai trị. Luật pháp tốt đảm bảo rằng người dân thường sẽ không được tiếp cận giáo dục và sẽ không hiểu biết chút gì về thuật cai trị, cho phép sử dụng họ làm binh sĩ, và nông dân. Nghệ sĩ, thợ thủ công, và thương nhân đều bị coi là những công dân vô dụng, những người không thể chiến đấu cũng không thể sản xuất ra lúa gạo cho quân đội. Pháp gia nhấn mạnh trên chiến tranh là một công cụ nền tảng quan trọng cho sự sống còn của quốc gia và yêu cầu có một quần chúng hăm hở tham gia chiến tranh. Để tạo ra một quần chúng ham thích chiến tranh, pháp gia nhấn mạnh rằng chính phủ phải tăng cường các biện pháp gây nên sự thù nghịch để làm yếu người dân và sau đó khiến họ trở thành nô lệ vào lợi ích của quốc gia. Tuy thế, những pháp luật do pháp gia ủng hộ là biện pháp ủng hộ quốc gia, nhà vua, và gia đình hoàng gia, cũng là những biện pháp có tính cải cách và đổi mới. Về lý thuyết, pháp gia tin rằng nếu những sự trừng phạt là nặng nề và pháp luật được áp dụng bình đẳng thì kể cả người có quyền lực và người dân thường đều không thể thoát khỏi sự quản lý của nhà nước. Pháp gia đặc biệt nhấn mạnh tính thực dụng chứ không phải địa vị và phong tục là những nền tảng của pháp luật. Được hướng dẫn theo những tư tưởng pháp gia, Hoàng đế đầu tiên nhà Tần làm yếu đi quyền lực của các lãnh chúa địa phương (mặc dù không hoàn toàn như đã được ghi ở trên), phân chia các đế chế thống nhất thành ba mươi sáu đơn vị hành chính (gọi là quận), và tiêu chuẩn hoá chữ viết. Phản ánh tham vọng của pháp gia về trật tự và cơ cấu, các binh sĩ Tần chỉ được tập trung khi cả hai thành phần (một do vua nắm giữ và một nửa do vị tướng chỉ huy) được tập hợp với nhau. Cũng như vậy, tất cả các tài liệu trong đế chế phải được ghi chép lại năm mà chúng được viết ra, người sao chép chúng, và giờ giao chuyển chính xác. Chấp nhận những sự nhấn mạnh trước kia của Thương Ưởng về tiêu chuẩn hoá đo lường và trọng lượng, Thủy Hoàng đế cũng chấp nhận triết lý của Thương Ưởng rằng không một cá nhân nào trong nước có thể đứng trên luật pháp (bằng cách đảm bảo trừng trị nghiêm khắc cho tất cả những trường hợp bất tuân) và rằng các gia đình phải được phân chia thành những hộ nhỏ hơn. Trong khi có lý do để nghi ngờ rằng Tư Mã Thiên đã tuyên bố rằng Hoàng đế đầu tiên trên thực tế đã chia các gia đình thành những nhóm mười nhà, chắc chắn những ví dụ khác về tiêu chuẩn hoá và tổ chức hành chính do Hoàng đế đầu tiên đưa ra có ảnh hưởng quan trọng từ tư tưởng Pháp gia trong luật pháp nhà Tần. Dựa vào việc phát triển các nguồn lợi quốc gia, pháp luật nhà Tần là một công cụ vừa để kiểm soát dân chúng vừa để ngăn ngừa tội phạm. Pháp gia và Quyền cá nhân Các triết gia pháp gia nhấn mạnh tính vượt trội của nhà nước so với quyền cá nhân. Cá nhân cô độc không có các quyền cá nhân hợp pháp và bất kỳ quyền tự do cá nhân nào cũng phải bị hạn chế để tăng cường sức mạnh của vị vua cai trị. Đặc biệt, Hàn Phi Tử, rất nghiêm khắc đối với những khái niệm về quyền cá nhân. Từ một quan điểm nền tảng, phái pháp gia coi những người bình dân và những hành động của họ là có hại và ngu ngốc. Vì thế, theo truyền thuyết đời xưa, con người vốn ít và rải rác nên nói chung là có sự dư dật, pháp gia cho rằng thời của họ quá đông dân và thiếu hụt hàng hoá. Vì thế, theo Thương Ưởng, chính người dân muốn nhà cai trị phải phát hành ra luật lệ. Ổn định xã hội ở đất nước pháp gia có nghĩa rằng người dân không bao giờ thoát khỏi sự trừng phạt. Ví dụ, Nhà Tần đã sử dụng người dân để giám sát lẫn nhau vì nếu một nhà xảy ra chuyện gì thì tất cả các nhà kia đều bị liên quan. Chính sách thực dụng này cuối cùng cũng làm những người pháp gia cắn xé lẫn nhau. Thương Ưởng, khi ủng hộ quyền nhà nước trừng phạt cả thế tử, thì cuối cùng khi thế tử lên ngôi là Huệ công nhà Tần (r. 338-311 BC) đã quay lại chống đối ông. Ông từng có quyền trục xuất những kẻ đối nghịch (và vì thế, ngăn chặn các chỉ trích cá nhân) ra những vùng biên giới, cuối cùng ông nhận hình phạt "Ngũ mã phanh thây". Tương tự như thế, Hàn Phi Tử cũng bị đồng môn cũ là Lý Tư ép phải uống thuốc độc, nhưng đến lượt mình Lý Tư cũng bị giết (theo luật mà ông đã đặt ra) bởi Tần Nhị Thế, người mà ông đã đưa lên ngôi. Suy tàn Trong những Triều đại về sau, Pháp gia bị mất uy tín và không còn là một trường phái tư tưởng độc lập nữa. Tuy nhiên, những nhà quan sát chính trị Trung Quốc cả thời trước và hiện nay đều cho rằng một số tư tưởng pháp gia đã trộn lẫn vào xu thế của Khổng giáo và vẫn giữ một vai trò trong chính quyền. Thời Thục Hán, thừa tướng nổi tiếng Gia Cát Lượng có chỉnh lý các thiên Thân Bất Hại, Hàn Phi Tử, Quản Tử cho vua Hán Hoài Đế học. Gần đây hơn, Mao Trạch Đông, người có một số kiến thức về chính trị cổ Trung Quốc, đã so sánh mình với Tần Thủy Hoàng và công nhiên ủng hộ một số phương pháp của pháp gia. Tuy nhiên, từ thập kỷ 1990 khái niệm có liên quan về pháp trị đã trở nên khá phổ biến. Những nhân vật quan trọng Hàn Phi và Lý Tư, hai học trò theo trường phái Pháp gia của nhà Nho Tuân Tử Thương Ưởng là nhà chính trị gia, pháp gia nổi tiếng, giữ chức đại lương tạo của nước tần. Một đại biểu xuất sắc của tư tưởng Pháp gia. Những cải cách của ông đã làm cho nước Tần từ thời Tần Hiếu Công trở nên lớn mạnh, mở đường cho việc thống nhất Trung Quốc của Tần Thủy Hoàng sau này. Các triết lý liên quan Khổng giáo Chế độ nhân tài Mặc học Chủ nghĩa Platon Chủ nghĩa hiện thực (Triết lý chính trị) Các triết lý đối nghịch Đạo giáo Chủ nghĩa khắc kỷ Pháp gia Triều Tiên Lịch sử Pháp gia tại Triều Tiên có từ Gyeonggukdaejeon, một cuốn sách luật được biên soạn vào thời nhà Triều Tiên. Có một sự nhận thức pha trộn về pháp gia bên trong xã hội Hàn Quốc, khi mà chế độ quân sự hậu chiến tranh thế giới thứ hai đã sử dụng tư tưởng của pháp gia làm công cụ cai trị của mình. Những tư tưởng đó liên quan tới pháp gia Trung Quốc, nhưng thường có thể phân biệt vì người Hàn Quốc không thích việc sử dụng pháp gia của Trung Quốc để nhằm chính thống hoá tư tưởng đế quốc Hán triều.
Theo lịch Gregory, năm 1789 là năm thường bắt đầu từ ngày Thứ năm. Sự kiện Tháng 1 Quang Trung, vị vua triều Tây Sơn, chỉ huy quân đội của mình tiêu diệt 20 vạn quân nhà Thanh, Trung Quốc trong trận Ngọc Hồi - Đống Đa. Tháng 2 Ngày 4: George Washington được Đại hội đại biểu cử tri nhất trí bầu làm Tổng thống đầu tiên của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6 Tháng 7 Ngày 14: Cách mạng Pháp thành công. Tháng 8 Ngày 7: Bộ Chiến tranh Hoa Kỳ được chính thức thành lập. Cuối tháng 8 năm 1789, Quốc hội Pháp thông qua Tuyên Ngôn Nhân quyền và Dân quyền, nêu khẩu hiệu nổi tiếng :"Tự do - Bình đẳng - Bác ái". Tháng 9 Tháng 10 Tháng 11 Tháng 12 Sinh 4 tháng 1: Benjamin Lundy, Nhà hoạt động bãi nô người Mỹ (mất 1839) 21 tháng 1: William Machin Stairs, thương nhân người Canada (mất 1865) 16 tháng 3: Georg Ohm, Nhà vật lý người Đức, người tìm ra định luật Ohm (mất 1854) 17 tháng 7: John Martin, Họa sĩ người Anh (mất 1854) 21 tháng 8: Augustin Louis Cauchy, Nhà toán học người Pháp (mất 1857) Mất 7 tháng 4: Abdulhamid I, Hoàng đế của Đế quốc Ottoman (sinh 1725) Lý Hóa Long, võ tướng nhà Thanh, chết trận tại Việt Nam
Dương lịch có thể chỉ đến: Khái niệm Lịch Gregory là một loại dương lịch.
Cúp các câu lạc bộ đoạt cúp bóng đá quốc gia châu Âu (tiếng Anh: UEFA Cup Winners' Cup; tên thường gọi: Cúp C2) là giải bóng đá hàng năm do Liên đoàn bóng đá châu Âu tổ chức cho các câu lạc bộ vô địch cúp quốc gia ở châu Âu. Giải tổ chức từ năm 1960 và sáp nhập vào Cúp UEFA năm 1999. Lịch sử Các trận chung kết Các kỷ lục Đội vô địch nhiều nhất : Barcelona (4 lần; 1979, 1982, 1989, 1997) Đất nước có nhiều câu lạc bộ vô địch nhất : Anh (8 lần)
nhỏ|Thung lũng Calchaquí ở Argentina. nhỏ|Hẻm núi hình chữ U ở vườn quốc gia Glacier, bang Montana, Hoa Kỳ. nhỏ|Hẻm núi Romsdalen ở Tây Na Uy có vách núi dốc gần như thẳng đứng. nhỏ|Lũng sông Fljótsdalur, nằm ở Đông Iceland. nhỏ|Hẻm núi Frades ở bang Rio de Janeiro, Brasil. nhỏ|Khe suối Baemsagol ở vườn quốc gia Jirisan, Hàn Quốc. nhỏ|Thung lũng xói mòn băng ở Mount Hood Wilderness có hình chữ U đặc trưng, có mạt vụn của đá ở phần đáy và vai núi rộng. Thung lũng, hoặc gọi là lũng, khe, nghĩa gốc: dòng nước chảy giữa hai vách núi hoặc sườn dốc, là địa hình âm hẹp và dài do hai bên địa hình dương kẹp chặt và đứng đối mặt với nhau, thường có sự phát triển của chi lưu, dòng sông và hồ chằm, thung lũng dốc gần như thẳng đứng có khả năng có dòng bùn đá, ở trên bản đồ địa hình đường đẳng cao biểu hiện là một nhóm đường đẳng cao nhô ra hướng về phía chỗ cao. Căn cứ nguyên nhân hình thành, thung lũng được chia thành hai loại lớn: thung lũng kiến tạo và thung lũng xói mòn. Thung lũng kiến tạo là thung lũng bị kiến tạo địa chất kiểm soát, nó phát triển dọc theo đường kiến tạo địa chất; thung lũng xói mòn do xói mòn thuỷ lực mà hình thành, thung lũng xói mòn không bị kiến tạo địa chất ảnh hưởng, nó có thể tuỳ ý cắt xuyên qua đường kiến tạo. Phân loại Loại hình thung lũng thường thấy có: Lũng núi, hoặc gọi là sơn cốc, chỉ nguyên lúc đầu có hai con sông bị đường phân thuỷ ngăn cách, sau khi trải qua tranh đoạt sông, hình thành một dải thung lũng xuyên suốt. Khe suối, hoặc gọi là khê cốc, chỉ thung lũng nhỏ, hai bên là gò đồi hoặc đồi núi nhỏ, ở giữa là địa hình khe, suối hoặc dòng nước trong núi mà hình thành; địa hình loại này phân bố ở vùng đồi, vùng gò, khu vực gò đồi, núi thấp, phần lớn biểu hiện là sườn dốc của núi nhỏ. Thường dùng để miêu tả về địa hình có khu vực ở trong phạm vi nhỏ. Lũng sông, hà cốc, là địa hình trong đó hai bên do dãy núi hoặc núi lớn, ở giữa là dòng sông mà hình thành. Lũng sông phần lớn nằm ở gò đồi, vùng núi, địa hình lũng sông hình thành "đồng bằng lũng sông", địa thế của đồng bằng lũng sông khá bằng phẳng, dòng kênh rạch ở giữa bằng phẳng, thong thả. Hẻm núi, hoặc gọi là hạp cốc, hai bên do đỉnh núi dốc gần như thẳng đứng hoặc ven rìa dãy núi, cao nguyên mà hình thành. Căn cứ vào hình thái có thể chia nhỏ thành hẻm núi hình chữ V và hẻm núi hình chữ U. Thung lũng xói mòn băng (glacial valley), hoặc gọi là thung lũng sông băng, chỉ tốc độ xói mòn băng ở dòng chính có tốc độ nhanh hơn chi lưu, hình thành chi lưu treo lơ lửng trên sườn dốc của dòng chính, làm lộ ra chi lưu chảy vào dòng chính bằng phương thức thác nước. Băng đẩu (cirque), hoặc gọi là khuyên cốc, là một loại vùng trũng có dạng sân khấu hình bán nguyệt hoặc dạng ghế tròn. Nham thạch ở ven rìa vết tích tuyết lâu năm, bộ phận lõm xuống của sườn núi sát gần đường băng tuyết vì tác dụng đóng băng và tan băng dồn dập thường xuyên cho nên sạt lở thành mạt vụn, vận tải đến chỗ thấp dưới tác dụng kết hợp của trọng lực và dòng chảy thẳng từ tuyết tan, khiến cho mặt sau của vết tích tuyết, bề mặt phía dưới của vết tuyết, thì dần dần xói mòn hạ thấp, trở thành vùng trũng do tuyết bào mòn. Sau khi quá trình tích tuyết diễn hoá thành băng sông băng, tác dụng khoét mòn của sông băng đối với mặt sàng thấp khiến cho vùng trũng càng thêm sâu, đồng thời ở phía trước tạo thành hố đá trái hướng sườn núi, và vách dốc đứng của mặt sau bị tác dụng khoét mòn của sông băng mà rút về sau, trở nên cao, từ đó hình thành băng đẩu. Thung lũng đứt gãy (fault valley), chỉ dưới tác dụng đứt gãy, hình thành một đường thung lũng song song với đường đứt gãy. Căn cứ nguyên nhân hình thành, thung lũng được chia thành hai loại lớn: thung lũng kiến tạo và thung lũng xói mòn. Thung lũng kiến tạo Thung lũng kiến tạo (strucural valley) là thung lũng bị kiến tạo địa chất kiểm soát, nó phát triển dọc theo đường kiến tạo địa chất, thí dụ như thung lũng nếp lõm, thung lũng đứt gãy,... đều thuộc về thung lũng kiến tạo. Thung lũng kiến tạo chia thành hai loại: một loại là dòng sông chảy vào trong vùng trũng do kiến tạo địa chất mà sinh thành, nước sông đào khoét ra thành lũng sông, loại lũng sông này gọi là thung lũng kiến tạo, thí dụ như thung lũng nếp lõm và thung lũng tách giãn địa hào. Một loại khác là, dòng sông chảy dọc theo đới kiến tạo suy yếu, lũng sông hoàn toàn bị bản thân nước chảy bào mòn, loại lũng sông này gọi là thung lũng kiến tạo thích ứng, cũng gọi là thung lũng kiến tạo xói mòn, thí dụ như thung lũng đứt gãy, thung lũng nếp lồi , thung lũng đơn nghiêng,... Thung lũng xói mòn Thung lũng xói mòn (erosional valley) là chỉ lũng sông bị dòng sông cắt xuống, phát triển dọc theo nền đất nguyên thuỷ của địa hình mà thành. Thung lũng xói mòn phát triển thành lũng sông thành hình thông thường chia làm ba giai đoạn: hẻm núi, thung lũng ngập lũ và lũng sông. Hẻm núi Hẻm núi (canyon hoặc gorge) là chỉ lũng núi có sườn thung lũng dốc gần như thẳng đứng, chiều sâu lớn hơn chiều rộng, căn cứ vào hình thái có thể chia nhỏ thành hẻm núi hình chữ V và hẻm núi hình chữ U. Nó thông thường phát triển ở đoạn đất có chuyển động kiến tạo nâng lên và sườn thung lũng do đá cứng (đá trầm tích, đá magma, đá biến chất,...) hợp thành, khi tốc độ nâng lên của mặt đất phối hợp nhịp nhàng với tác dụng bổ xuống, dễ dàng hình thành hẻm núi. Hẻm núi Tam Hiệp sông Trường Giang là đoạn đất lí tưởng xây dựng móng đập và hồ chứa nước. Hẻm núi là lũng núi do bức vách cao chót vót vây quanh, thông thường do dòng sông xói mòn trong một khoảng thời gian dài mà hình thành. Thung lũng ngập lũ Thung lũng ngập lũ là do hẻm núi hình chữ V phát triển mà thành, mặt cắt ngang của hẻm núi có dạng hình hộp, sườn thung lũng thoai thoải, rìa thung lũng mở rộng, dòng nước ở thời kì nước bằng tập trung ở trong lòng sông, có bãi ngập lũ ở hai bên lòng sông, nó rộng hơn lòng sông từ vài lần đến vài chục lần, bề mặt bằng phẳng hoặc hơi có nhấp nhô. Bởi vì sự xói mòn bên của dòng sông gia tăng mãnh liệt, khiến cho hẻm núi mở rộng thêm, đồng thời hình thành dòng uốn khúc, tuỳ theo sự tiến triển của xói mòn bên mà bờ lõm liên tục không ngừng lùi về sau; tác dụng bồi tích ở bờ lồi khiến cho doi lưỡi liềm (point bar) không ngừng khuếch đại. Kết quả phát triển dòng uốn khúc (meander) khiến cho hẻm núi gia tăng bề rộng, bãi ngập lũ khuếch đại, hình thành thung lũng ngập lũ. Lũng sông Lũng sông (river valley) là khu vực hình máng do tác dụng địa chất của sông mà hình thành ở bề mặt Trái Đất. Nó được hình thành và phát triển dưới tác dụng xói mòn của nước sông: dòng nước mang theo xói mòn phù sa khiến cho thung lũng cắt xuống; xói mòn bên của dòng nước khiến cho sườn thung lũng lùi về sau khi bào mòn, bao gồm xói mòn tấm (sheet erosion), xói mòn rãnh (gully erosion) và sạt lở đồi núi ở trên sườn thung lũng; xói mòn hướng về nguồn/ xói mòn ngược dòng (headward erosion) khiến cho thung lũng kéo dài hướng lên trên, làm tăng độ dài thung lũng. Ba loại phương thức xói mòn này thông thường tiến hành cùng lúc, chỉ là ở thời gian và đoạn đất khác nhau thì chúng khác nhau. Sự phát triển của lũng sông bị khí hậu và kiến tạo ảnh hưởng. Hình thái và cấu trúc của lũng sông hiện đại là kết quả trải qua tác dụng lâu dài của dòng nước, trên sơ sở nham thạch học và kiến tạo địa chất nhất định. Lũng sông phát triển hoàn chỉnh bao gồm ba bộ phận cấu tạo: đỉnh thung lũng, sườn thung lũng và đáy thung lũng, có nhiều loại tiểu đơn vị địa mạo như lòng sông, bãi ngập lũ và thềm sông. Chiếu theo quan hệ lũng sông và kiến tạo địa chất, chia thành: thung lũng nếp lồi (anticlinal valley), thung lũng nếp lõm (synclinal valley), thung lũng đơn nghiêng (monoclinal valley), thung lũng đứt gãy (fault valley), thung lũng dọc (longitudinal valley), thung lũng ngang (transverse valley), thung lũng lệch (insequent valley), v.v; chiếu theo hình dạng mặt cắt ngang của thung lũng, chia thành thung lũng hình chữ V và thung lũng hình chữ U. Hình thái và cấu trúc của lũng sông đều có liên quan mật thiết đối với việc xác định vị trí, hình thức kết cấu, bố trí đầu mối giao thông trọng yếu, phương pháp thi công và xử lí nền móng của công trình thuỷ lợi. Từ mặt cắt ngang mà nhìn, có thể chia thành hai bộ phận: đáy thung lũng và sườn thung lũng. Đáy thung lũng bao gồm lòng sông, bãi ngập lũ; sườn thung lũng là sườn bờ của hai bên thung lũng, thường có sự phát triển của thềm sông. Chỗ giáp giới giữa sườn thung lũng và đáy thung lũng gọi là chân sườn thung lũng. Từ mắt cắt dọc mà nhìn, lũng sông vùng thượng du thì chật hẹp, nhiều thác, trung du mở rộng, phát triển bãi ngập lũ và thềm sông, hạ du có độ dốc lòng sông khá nhỏ, phần lớn hình thành hình thành dòng uốn cong và các sông nhánh, cửa sông hình thành tam giác châu hoặc tam giác vịnh - cửa sông hình dạng loa (ví dụ cửa sông Tiền Đường ở vịnh Hàng Châu, cửa sông La Plata ở Nam Mĩ). Dòng sông hình thành xói mòn trong quá trình chảy. Thời kì đầu, tác dụng xói mòn chủ yếu ở hạ du dòng sông, lũng sông liên tục gia tăng độ sâu và kéo dài. Sau khi đợi dòng nước bồi bằng (mặt cắt hình chữ V), dòng sông xói mòn vào bờ trũng, bồi tụ bờ lồi, khiến cho dòng sông càng thêm uốn cong. Cuối cùng hình thành dòng sông uốn khúc, ngoằn ngoèo. Lũng sông do hỏm rãnh, khe núi phát triển mà thành. Giáng thuỷ của khí quyển, nước tan từ băng và tuyết tập hợp ở hỏm rãnh, khe núi, hình thành dòng nước ở hỏm rãnh, khe núi. Thuỷ lượng của dòng nước lớn, chảy nhanh, năng lượng tập trung. Bởi vì những đặc điểm này, cho nên chủ yếu xói mòn xuống và xói mòn hướng lên. Xói mòn xuống đến mức độ nhất định, cắt xuống đến tầng nước dưới đất, nước dưới đất trở thành nguồn cấp nước cho hỏm rãnh, khe núi. Khi dòng nước được nước dưới đất cung cấp ổng định, đến lúc này hỏm rãnh, khe núi trở thành thung lũng hình chữ V. Nguyên nhân hình thành các loại thung lũng Địa hào biến thành thung lũng Địa hào biến thành thung lũng, cũng gọi là thung lũng ríp-tơ, lúc các mảng kiến tạo của Trái Đất tách giãn, đường khâu nối giữa hai mảng sẽ dần dần mở rộng (một năm khoảng vài centimet), đồng thời dần dần hình thành một vùng đất thấp (lowland), vùng đất thấp này sẽ dần dần mở rộng liên tục không ngừng, trở thành thung lũng. Ví dụ: Thung lũng tách giãn Lớn, bồn địa Biển Chết, bồn địa Quan Trung và hồ Crater. Nếp lồi biến thành thung lũng Nếp lồi biến thành thung lũng, lúc mảng kiến tạo dồn ép và gấp nếp, sự nhô ra của nham tầng (rock formation) sẽ dần dần bị bào mòn. Nham tầng mềm (ví dụ như đá phiến sét) sẽ bị bào mòn nhanh hơn một chút so với đá cứng (ví dụ như đá hoa cương). Đá mềm ở phần lõi của nếp lồi rất giòn, dễ gãy, dễ bị ngoại lực bào mòn thành thung lũng. Ví dụ: bồn địa Elk, thung lũng Nittany. Nếp lõm biến thành thung lũng Nếp lõm biến thành thung lũng, bởi vì sự dồn ép của các mảng kiến tạo, có một số rìa mảng sẽ xuất hiện cao thấp không bằng phẳng, khu vực thấp trở thành thung lũng nếp lõm. Ví dụ: bồn địa sông Powder, bồn địa Rainbow. Thung lũng điển hình Hẻm núi lớn Hoa Kỳ nhỏ|Hẻm núi lớn Colorado ở bang Arizona, Hoa Kỳ. Hẻm núi lớn (chữ Anh: Grand Canyon), nằm trên cao nguyên Colorado ở trong bang Arizona, Hoa Kỳ, có sông Colorado từ giữa chảy qua. Là một kì quan nổi tiếng cả thế giới, bởi vì sông Colorado chảy xuyên trong đó, cho nên còn gọi là hẻm núi lớn Colorado. Nó là một trong những di sản thiên nhiên do Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên Hợp Quốc bầu chọn cần được bảo vệ. Tổng chiều dài 446 kilômét, chỗ sâu nhất khoảng 1.800 mét, ước chừng cao khoảng 500 tầng lầu, chỗ rộng nhất 13 kilômét, ở trên hai vách núi của nó chạm khắc lịch sử phát triển Trái Đất - có khoảng 1/3 là lịch sử của sự vận động vỏ Trái Đất được ghi chép sâu sắc ở trên vách đá, những tảng đá ở đáy thung lũng đã trải qua sự biến thiên năm tháng khoảng 2 tỉ năm, bằng một nửa tuổi của Trái Đất. Hẻm núi lớn Hoa Kỳ có hoá thạch sinh vật mang tính đại biểu của thời kì địa chất, cho nên có danh xưng là "sách giáo khoa lịch sử địa chất sống". Cao nguyên Colorado là "cao địa dạng bàn" điển hình, cũng gọi là "núi bàn", tức là núi có phần đỉnh bằng phẳng, mặt bên dốc dựng đứng. Loại địa hình này là do tác dụng bào mòn (bổ xuống và tách ra) mà hình thành. Vào thời kì bào mòn, nham tầng trong cao nguyên tương đối cứng chắc tạo thành mũ bảo hộ cho các khu vực giữa lũng sông, cho nên tác dụng xói mòn ở trong lũng sông hoạt động mạnh mẽ. Kết quả này đã tạo thành núi lớn kiểu mái nhà hoặc núi nhỏ hình dạng pháo đài. Hẻm núi lớn Yarlung Tsangpo nhỏ|Hẻm núi lớn Yarlung Tsangpo ở Tây Tạng, Trung Quốc. Hẻm núi lớn Yarlung Tsangpo là hẻm núi sâu nhất trên Trái Đất, có sông Yarlung Tsangpo từ giữa chảy qua, nằm ở huyện Mễ Lâm và huyện Mặc Thoát, thành phố Lâm Chi, Tây Tạng, Trung Quốc, sát gần huyện Upper Siang, bang Arunachal Pradesh, Ấn Độ, có tổng chiều dài 504,6 kilômét, chỗ sâu nhất 6.009 mét, độ sâu trung bình 2.268 mét, cũng là hẻm núi lớn nhất thế giới. Có bốn nhóm thác nước lớn hiếm thấy ở trên lòng sông của hẻm núi trong vùng trung tâm của hẻm núi, nơi không có người ở, trong đó một số thác chính có mức nước chênh lệch của lòng sông so với mặt biển đều từ 30 - 50 mét. Hẻm núi có sẵn 9 đới tự nhiên thẳng đứng (altitudinal zonation) từ đới băng, tuyết ở núi cao cho đến rừng rậm nhiệt đới ở lũng sông thấp, đã tụ hợp nhiều loại tài nguyên sinh vật, bao gồm 2/3 loài thực vật bậc cao đã biết trên cao nguyên Thanh Tạng, 1/2 động vật có vú đã biết, 4/5 côn trùng đã biết, cùng với 3/5 macrofungi đã biết. Nó chia tách hàng rào đồi núi giữa cao nguyên Thanh Tạng và hơi nước ở Ấn Độ Dương qua lại với nhau, liên tục không ngừng vận chuyển hơi nước vào bên trong cao nguyên, khiến cho phía đông nam cao nguyên Thanh Tạng từ đó trở thành một thế giới xanh. Chỗ có địa thế cao và hiểm trở nhất, cốt lõi nhất trong hẻm núi lớn Yarlung Tsangpo là một đoạn sông từ Bạch Mã Cẩu Hùng đi xuống khoảng 100 kilômét, hẻm núi sâu thẳm tối tăm, dòng nước tung toé bọt sóng gào thét giận dữ, cho đến nay vẫn không có người có khả năng vượt qua, nó gian nan và nguy hiểm, bị gán biệt danh là "nơi bí mật cuối cùng của loài người". Bởi vì môi trường của hẻm núi lớn Yarlung Tsangpo ác liệt, tai hoạ thường xuyên, tạo thành rào cản và khoảng cách khiến cho mọi người rất khó vượt qua, sự lạc hậu và bế tắc của nó khiến cho huyện Mặc Thoát trở thành "hòn đảo cô lập" trên cao nguyên, chốn "bồng lai tiên cảnh" cách xa xã hội hiện đại có rất ít người đặt chân đến. Năm 1994, các nhà khoa học Trung Quốc tập hợp thành một đội khảo sát khoa học, tiến hành khảo sát khoa học đối với hẻm núi lớn Yarlung Tsangpo, thì mới vén mở một góc bức màn bí mật của hẻm núi lớn Yarlung Tsangpo. Hẻm núi lớn Mai Lí Hẻm núi lớn Mai Lí sông Lan Thương, nằm ở Vườn quốc gia núi tuyết Mai Lí thuộc huyện Dêqên, Địch Khánh, Vân Nam, là hẻm núi lớn ở thượng nguồn sông Mê Kông, có sông Lan Thương từ giữa chảy qua. Phía bắc bắt đầu từ xã Phật Sơn, phía nam cho đến xã Yến Môn, dài 150 kilômét, nơi này là chỗ có chênh lệch độ cao lớn nhất ở tỉnh Vân Nam. Mặt sông của hẻm núi có độ cao 2.006 mét so với mực nước biển, núi tuyết Mai Lí ở tả ngạn có đỉnh Kawagarbo cao 6.740 mét so với mực nước biển, núi tuyết Bạch Mã ở hữu ngạn có đỉnh Zhalaqueni cao đến 5.460 mét, chênh lệch độ cao lớn nhất của hẻm núi đạt 4.734 mét, khoảng cách mặt sườn núi tính từ mặt sông đến đỉnh núi là 14 kilômét, cứ mỗi kilômét trung bình tăng lên 337 mét, hẻm núi có một mặt sườn núi dốc gần như thẳng đứng. Sông Lan Thương - thượng nguồn sông Mê Kông, sau khi từ Tây Tạng chảy vào hẻm núi Mai Lí, mặt sông bó hẹp, dòng nước chảy xiết, không có ai dám vượt qua, toàn bộ dựa vào zip line để qua sông. Hẻm núi lớn Mai Lí sông Lan Thương không chỉ nổi tiếng về độ sâu và chiều dài, mà còn nổi tiếng về dòng nước chảy xiết. Mùa đông nước trong và chảy xiết, mùa hè nước đục và sóng vỗ mênh mông, lượng chảy mặt hằng năm của sông là 838 triệu mét khối. Chênh lệch độ rơi trong chiều dài 150 kilômét là 504 mét, gradient bỉ giáng là 3,4%, sóng dữ trên mặt sông chật hẹp đập vào bờ, tiếng nước như sấm, hoàn toàn hùng tráng, địa hình thung lũng dọc, núi cao dốc gần như thẳng đứng như vậy, thực sự hiếm thấy trên thế giới. Năm 1974, cao tốc Vân Nam - Tây Tạng thông xe xuyên qua hẻm núi lớn Mai Lí, khi bạn đứng ở đèo hẹp của núi tuyết Bạch Mã cao 4.292 mét, cúi nhìn hẻm núi sâu thẳm hùng vĩ và nguy hiểm, nhìn ra xa đỉnh núi tuyết Mai Lí trong suốt và cao chót vót, thì mới chấn động trước phong cảnh sông núi hùng vĩ. Những thung lũng ngoài Trái Đất Mặt Trăng của Trái Đất cũng như nhiều tiểu hành tinh, hành tinh khác trong hệ Mặt Trời đều có nhiều thung lũng. Nhất là những hành tinh có tầng khí quyển mỏng. Trên Mặt Trăng các thung lũng được tạo thành là do sự va chạm của các mảnh thiên thạch, hay do bị các sao chổi quét đuôi qua. Thung lũng lớn nhất Hệ Mặt Trời là thung lũng Marineris (do Schiaparelli phát hiện đầu tiên vào năm 1877) nằm trên đường xích đạo của Sao Hoả. Đó là một hệ thống các hẻm núi khổng lồ, với kích thước lên tới 4.500 x 600 km.
nhỏ|Bánh gai Tứ Trụ được gói từng 5 chiếc một Bánh gai là một loại bánh ngọt truyền thống của Việt Nam, bắt nguồn vùng Đồng bằng Bắc bộ ở Việt Nam. Bánh có dạng hình vuông, màu đen màu của lá gai, mùi thơm đặc trưng của đỗ xanh và gạo nếp. Một loại bánh tương tự, đặc sản của tỉnh Bình Định ở Nam Trung bộ là bánh ít lá gai, được gói bằng lá chuối tươi thành hình chóp như bánh ít. Chế biến Bánh gai về cơ bản gồm vỏ và nhân. Nguyên liệu thường dùng có lá gai, gạo nếp, đỗ xanh, mứt bí, thị mỡ tẩm đường, dầu chuối vali, đường kính, vừng. Vỏ bánh gồm: Bột gạo nếp (sau khi phơi khô, giã nhuyễn) Lá cây gai (hay còn gọi là cây trữ ma - Boehmeria nivea thuộc họ Tầm ma/Gai (Urticaceae)) phơi khô và luộc kỹ, giã để lấy xác của lá trộn chung với bột để làm vỏ bánh. Nhân bánh gồm: Mỡ lợn thái nhỏ, trộn đường đem ủ cho miếng mỡ trong Tinh dầu thực vật như tinh dầu chuối v.v. Dừa nạo hoặc thái miếng nhỏ Đỗ xanh nấu hoặc hấp chín, giã nhuyễn.. Bí đao thái miếng, bỏ vỏ và ruột. nấu chín bằng đường trắng, gọi là mứt bí Vạt vừng rang chín Hạt sen nấu chín bằng Đường Sau khi đã chuẩn bị nhân và vỏ, gói bằng lá chuối khô, sau đó hấp chín. Thưởng thức Bánh gai có thể được thưởng thức như đồ tráng miệng sau bữa ăn chính hoặc làm quà biếu. Bánh có vị ngọt, bùi, thơm ngậy do nhân bánh mang lại và dẻo, mát nhờ vào vỏ bánh. Thơ ca Muốn ăn bánh ít lá gai Lấy chồng Bình Định sợ dài đường đi hay vùng Phú Yên: Tiếng đồn bánh ít lá gai Dẫu rằng có dốt, cũng trai Hà Bằng . Các biến thể Bánh gai Tứ Trụ Bánh gai Tứ Trụ hay bánh gai làng Mía là loại bánh đặc sản của làng Mía, xã Tứ Trụ thuộc tổng Diên Hào, phủ Thọ Xuân, nay thuộc xã Thọ Diên, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. Trong các dịp cúng giỗ Lê Lợi và Lê Lai ("hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi"), bánh gai Tứ Trụ được chọn làm thức cúng tế. Trước đây, bánh gai Tứ Trụ thường chỉ được làm trong các dịp giỗ tết, đình đám và đặc biệt để cúng tiến trong các ngày lễ tết, ngày hội, ngày giỗ húy nhật của thành hoàng. Hiện nay, bánh được làm quanh năm để phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng. nhỏ|267x267px|Bánh gai Tứ Trụ. Nguyên liệu làm bánh gai gồm có lá gai, gạo nếp, đậu xanh, dầu chuối, đường, mật mía, thịt lợn nạc, nước mắm, vừng. Lá gai được hái từ trong rừng hoặc từ bãi bồi ven sông Chu, tước bỏ cuống lá, gân lá, xơ lá rồi phơi thật khô, cất kỹ. Đến khi làm bánh, đem lá gai khô ngâm nước, rửa sạch rồi đem luộc thật kỹ. Sau đó vớt ra, tiếp tục rửa sạch rồi lại luộc, thời gian luộc của hai lần khoảng 24 giờ, xong vắt khô kiệt nước, giã nhuyễn. Hiện nay, người ta đưa lá vào ép cho kiệt nước rồi đem nghiền. Gạo nếp, thường là nếp nương hoặc nếp hoa cau, được xay hoặc giã nhỏ bằng cối đá rồi dùng rây bột để gạn đi những hạt to. Trộn kỹ bột lá gai, bột nếp và mật mía rồi ủ trong một đêm, sau đó đem luyện bằng cách giã trong cối, đến khi bột nhuyễn, dẻo quánh. Bột sau khi luyện không được nhão quá hoặc cứng quá, sẽ không thành bánh. Hiện nay, người ta dùng máy để giã bột. Nhân bánh được làm từ đậu xanh, dầu chuối. Đậu xanh xay vỡ, ngâm và đãi võ, sau đó nấu hoặc đồ lên. Khi đậu chín, cho vào cối giã cùng với đường đến khi thu được hỗn hợp mịn và đều. Ngoài ra, còn sử dụng một ít dừa nạo rang khô; dầu chuối cần cho vừa đủ, nếu nhiều sẽ bị đắng còn ít quá thì không dậy mùi. Bột bánh được nặn từng cục tròn rồi dàn mỏng trên lòng bàn tay, đặt nhân vào giữa, vê lại cho nhân nằm gọn giữa lòng chiếc bánh, xoa cho bánh tròn thì lăn bánh trên chiếc mâm đã rải đều hạt vừng. Dùng lá chuối khô, thường là lá chuối tiêu để gói lại thành từng chiếc bánh vuông vắn, quấn một chiếc lạt giang bên ngoài. Hấp bánh còn gọi là đồ bánh. Thời gian để hấp chín bánh phụ thuộc vào số lượng bánh đồ trong chõ to hay nhỏ, ít hay nhiều, nhiệt độ cao hay thấp, nhưng thường vào khoảng 1 giờ. Bánh chín được vớt ra nia rồi mở ra (không bóc) cho ráo, để cho bánh nguội tự nhiên và ráo nước. Công đoạn này còn phải làm động tác vuốt lại bánh để bánh nhẵn và có hình mai rùa. Khi bánh đã nguội, dùng lạt giang đã nhuộm đỏ để gói từng 5 chiếc một. Bánh gai Tứ Trụ thường được ăn sau khi hấp khoảng 10 giờ. Bánh gai thành phẩm phải mịn và thơm ngon, có vị dẻo thơm của lá gai và gạo nếp, hương thơm của dầu chuối, vị ngọt của mật mía, mùi thơm thanh dịu của đậu, vị béo ngậy của thịt, mùi thơm thoảng của vừng và hương vị tự nhiên của lá chuối khô. Bánh có hương vị đặc trưng do sử dụng mật mía, thịt lợn nạc, nước mắm… lại không sử dụng hạt sen, thịt mỡ như bánh gai Nam Định, bánh gai Ninh Giang. Khác với bánh gai Ninh Giang sử dụng mật đun nóng, ở Thọ Diên người ta sử dụng mật nguội và không quá loãng. Giá mỗi chiếc bánh gai tùy thuộc vào từng loại. Vào thời điểm 2013, bánh loại rẻ nhất là 3 nghìn, loại trung bình là 5 nghìn, loại đắt có thể đến 10 nghìn đồng Việt Nam.
Hội chứng Churg–Strauss (HCCS), còn gọi là viêm mạch và đa u hạt dị ứng (tiếng Anh: Eosinophilic granulomatosis with polyangiitis (EGPA)), là một rối loạn đa hệ thống đặc trưng bởi viêm mũi dị ứng, hen và tăng bạch cầu ái toan máu ngoại biên. Cơ quan thường bị tổn thương nhất là phổi, tiếp đó là da. Tuy nhiên HCCS cũng có thể ảnh hưởng lên bất cứ hệ cơ quan nào, gồm các hệ tim mạch, dạ dày ruột, tiết niệu (thận) và thần kinh trung ương. Chẩn đoán chính xác HCCS thường khó khăn vì các yếu tố gây nhầm lẫn như sau: Từng biểu hiện của hội chứng có thể xuất hiện riêng biệt nhau. Một số biểu hiện có thể tồn tại nhiều năm trước khi các biểu hiện khác xuất hiện trên lâm sàng. Thí dụ, gần 40% bệnh nhân HCCS có biểu hiện đám mờ phổi, hen và tăng bạch cầu ái toan ngoại biên trước khi phát triển viêm mạch hệ thống (viêm đa mạch) (Lanham, 1984). Các biểu hiện bệnh học chính của HCCS - đa u hạt, viêm mạch và tăng bạch cầu ái toan - cũng là đặc điểm của vài bệnh khác. Thí dụ như viêm phổi tăng bạch cầu ái toan mạn tính cũng có các đặc điểm của HCCS, nhưng viêm phổi tăng bạch cầu ái toan mạn tính thường không có u hạt trên mẫu sinh thiết và nhìn chung không có biểu hiện ở các cơ quan khác. Triệu chứng ở phổi không phải luôn luôn gặp. Dịch tễ học Dịch tễ học của HCCS chưa được biết rõ do tính không chắc chắn của chẩn đoán. Khoảng 10% người mang một thể chính của viêm mạch được xem là có HCCS. Trong số các viêm mạch chính, tần suất HCCS đứng thứ hai chỉ sau đa u hạt Wegener. HCCS không biểu hiện liên quan đến giới tính. Tuổi trung bình của chẩn đoán là 50, nhưng pha viêm mạch hệ thống thường rõ ràng ở bệnh nhân cuối những năm 30 tuổi. HCCS không là nguyên nhân gây viêm mạch thường gặp ở bệnh nhân trên 65 tuổi, chiếm khoảng 5% viêm mạch được chứng minh bằng mô học trong số 38 bệnh nhân lớn tuổi với các thể viêm mạch hệ thống khác nhau (Mouthon, 2002). Căn nguyên học Mặc dù căn nguyên học của HCCS chưa được biết, bệnh này hầu như xảy ra do quá trình tự miễn, với những bằng chứng sau: Sự nổi bật của các triệu chứng dị ứng (viêm mũi dị ứng, hen và thử nghiệm da dương tính) Miễn dịch tế bào T tăng (đa u hạt quanh mạch [angiocentric] phổi) Miễn dịch dịch thể bị thay đổi (tăng gamma-globulin máu, đặc biệt là IgE, tăng yếu tố thấp) Bệnh phức hợp miễn dịch (viêm mạch với sự hiện diện của phức hợp miễn dịch trong tuần hoàn chứa IgE tuần hoàn và kháng thể bào tương kháng neutrophil quanh nhân (anti-myeloperoxidase) ở khoảng 30% bệnh nhân). Chất đối kháng thụ thể leukotriene Hội chứng tương tự HCCS là một biến chứng hiếm gặp xảy ra ở bệnh nhân hen phụ thuộc steroid điều trị thành công với chất đối kháng (antagonist) thụ thể leukotriene (như zafirlukast, montelukast, pranlukast) giúp giảm liều glucocorticoid đường uống. Biến chứng này thường liên quan với quá trình cai steroid được hỗ trợ bởi các thuốc này, từ đó bộc lộ HCCS bên dưới, hơn là bản thân các thuốc này. Trường hợp nhận biết HCCS tương tự cũng xảy ra ở bệnh nhân cai steroid đường uống bằng cách dùng steroid hít. Trong một số hiếm trường hợp, hội chứng này xảy ra khi chất đối kháng thụ thể leukotriene được dùng thay thế cho steroid hít, mà không trải qua cai steroid uống trước đó. Mối liên hệ ít gặp giữa viêm mạch giống HCCS và việc dùng cocain không chứa base (free base cocaine) cũng đã được ghi nhận. Đặc điểm lâm sàng Biểu hiện lâm sàng của hội chứng Churg-Strauss diễn ra trong các pha kế tiếp nhau: Pha tiền triệu: ở bệnh nhân ở thập kỉ thứ 2 và thứ ba của cuộc đời, đặc trưng với bệnh cơ địa dị ứng, viêm mũi dị ứng và hen. Pha tăng bạch cầu ái toan: bạch cầu ái toan tăng ở máu ngoại biên và tẩm nhuận bạch cầu ái toan ở nhiều cơ quan, đặc biệt là phổi và ống tiêu hoá. Pha viêm mạch: viêm mạch hệ thống đe doạ tính mạng ở các mạch máu trung bình và nhỏ xảy ra ở thập kỉ thứ 3 và thứ tư của cuộc đời, và thường liên hệ với đa u hạt mạch máu và ngoài mạch. Pha viêm mạch có thể được báo trước bởi các triệu chứng thể chất không đặc hiệu, đặc biệt là sốt, giảm cân, khó ở, mệt mỏi. Hen Hen là đặc điểm chủ yếu của HCCS (xảy ra ở trên 95% bệnh nhân) và thường đi trước pha viêm mạch khoảng 8 - 10 năm. Tuy nhiên, HCCS đôi khi có thể xảy ra cùng lúc với biểu hiện lần đầu của hen. Hen thường mạn tính và đủ nặng để cần điều trị lâu dài với corticosteroid. Khi đến pha viêm mạch, độ nặng và số đợt trở nặng của hen có thể tăng. Ở một số trường hợp hiếm, triệu chứng hen giảm ở giai đoạn đầu của pha viêm mạch. Điều trị hen kéo dài với corticosteroid có thể một phần hoặc toàn bộ ức chế các dấu hiệu lâm sàng của HCCS không được điều trị. Vì vậy bệnh có thể không biểu hiện cho đến khi ngưng hoặc giảm liều steroid. Bệnh mũi và xoang Viêm mũi dị ứng là biểu hiện thường gặp ở HCCS. Các biểu hiện mũi và các xoang quanh mũi cũng thường gặp (tắc mũi, viêm xoang tái phát, polyp mũi) và có thể xảy ra trước hen.Phân biệt viêm mũi dị ứng và viêm xoang Lồi mắt có thể phục hồi, viêm tai mạn, mất nghe, tẩm nhuận u hạt bạch cầu ái toan ở nền sọ là các biến chứng hiếm gặp. Sang thương hoại tử mũi hầu và đường dẫn khí trên điển hình hơn ở đa u hạt Wegener, và ít gặp ở HCCS. Điều trị biến chứng tai của có thể cần phẫu thuật nội soi, kháng sinh và mở thông màng nhĩ (myringotomy) đặt ống dẫn lưu. Tuy nhiên, tất cả năm bệnh nhân trong một nghiên cứu biến chứng viêm tai giữa và viêm xoang chũm mạn tính đáp ứng nhanh chóng với điều trị tấn công bằng steroid đường uống (Ishiyama, 2001). Bệnh da Biểu hiện da là một trong các biểu hiện thường gặp nhất của pha viêm mạch của HCCS. Hai phần ba bệnh nhân HCCS có sang thương da, thường ở dạng các nốt dưới da trên mặt duỗi của cánh tay, nhất là khuỷu, bàn tay, và chân. Sang thương có thể là: Ban sờ được Hồng ban dát hoặc sẩn Sang thương xuất huyết, từ chấm xuất huyết đến khối xuất huyết lan rộng Nốt mềm ở da hoặc dưới da, với u hạt trên mẫu sinh thiết. Bệnh tim mạch Biểu hiện tim mạch của HCCS gồm viêm màng ngoài tim cấp (32% bệnh nhân), viêm màng ngoài tim co thắt, suy tim (47%), nhồi máu cơ tim (Hasley, 1990). Bệnh tim mạch gây ra phân nửa trường hợp tử vong do HCCS. Bệnh thần kinh Bệnh thần kinh ngoại biên, thường là viêm đơn dây thần kinh đa ổ gặp ở 75% bệnh nhân HCCS. Nếu không điều trị, bệnh này có thể diễn tiến sang bệnh đa dây thần kinh đối xứng hay không đối xứng. Ngoài ra, xuất huyết và nhồi máu não là các nguyên nhân quan trọng gây tử vong. Bệnh thận Biểu hiện thận có lẽ thường gặp hơn những gì được báo cáo. Thí dụ, trong số 19 bệnh nhân HCCS thì có 16 người có bệnh thận ở mức độ nào đó (Clutterbuck, 1990). Trên mẫu sinh thiết thận, viêm thận cầu thận khu trú từng phần (85%), và thường đi kèm hoại tử và mào. U hạt và tẩm nhuận bạch cầu ái toan ngoại mạch tương đối hiếm gặp. Tăng huyết áp hệ thống tương đối thường gặp (29% bệnh nhân) và có thể phản ánh tần số nhồi máu thận ở HCCS. Không như đa u hạt Wegener, suy thận hiếm xảy ra ở HCCS (dưới 10% bệnh nhân). Bệnh đường tiêu hoá Viêm dạ dày ruột tăng bach cầu ái toan, biểu hiện với đau bụng (59% bệnh nhân), tiêu chảy (33%), xuất huyết dạ dày ruột (18%) và viêm đại tràng, có thể đi trước hay đồng thời với pha viêm mạch của HCCS. Bệnh cơ xương Đau cơ, đau đa khớp di chuyển và viêm khớp đơn thuần tương đối hiếm gặp và thường chỉ trong pha viêm mạch của HCCS. Bất thường về xét nghiệm Không có xét nghiệm đặc hiệu cho HCCS. Tăng bạch cầu ái toan máu ngoại biên (thường từ 5000 đến 9000/μl) là biểu hiện điển hình nhất. Tuy nhiên, tăng bạch cầu ái toan đôi khi bị bỏ sót vì số lượng bạch cấu ái toan có thể biến động hoặc giảm ngẫu nhiên hay gây ra do steroid. Tăng bạch cầu ái toan mô cũng có thể vẫn được thấy ở bệnh nhân không tăng bạch cầu ái toan ở máu ngoại biên. Các bất thường không đặc hiệu khác gồm Thiếu máu đẳng sắc, đẳng bào Tốc độ lắng hồng cầu tăng đáng kể Tăng bạch cầu Tăng IgE: thường gặp, có thể thay đổi theo hoạt tính của quá trình viêm mạch Phức hợp miễn dịch tuần hoàn Tăng gamma-globulin máu Yếu tố thấp dương tính ở chuẩn độ thấp Rửa khí quản-phế nang cho thấy tỉ lệ phần trăm bạch cầu ái toan cao trong dịch rửa (thường hơn 33%), tuy nhiên không đặc hiệu cho HCCS. Một nghiên cứu theo dõi liên tục 16 bệnh nhân đáp ứng định nghĩa HCCS của Hội nghị Chapel Hill 1992 với thời gian trung bình 4,5 năm, và nhận thấy bệnh nhân ở giai đoạn bệnh hoạt động có sự gia tăng đáng kể eosinophil cationic protein (ECP), thụ thể interleukin-2 hoà tan (soluble interleukin-2, sIL-2R) và nồng độ thrombomodulin hoà tan (sTM) so với bệnh nhân ở giai đoạn lui bệnh. Nồng độ sIL-2R có liên hệ chặt với nồng độ sTM - chất đánh dấu tổn thương tế bào nội mô, gợi ý nguyên nhân tổn thương có liên quan với hoạt hoá tế bào T. Nồng độ sIL-2R và ECP tăng ở HCCS biểu hiện tổn thường điều hoà miễn dịch liên hệ với viêm mạch và tăng bạch cầu ái toan. Kháng thể bào tương kháng bạch cầu trung tính Kháng thể bào tương kháng bạch cầu trung tính (antineutrophil cytoplasmic antibody, ANCA) có ở một số viêm mạch hệ thống, gồm HCCS, đa u hạt Wegener, viêm đa mạch vi thể và viêm mạch giới hạn ở thận. Ở HCCS, 38 - 59% bệnh nhân có ANCA dương tính. Đa số (70 - 75%) bệnh nhân có ANCA dương tính có kháng thể kháng myeloperoxidase ở mẫu nhuộm quanh nhân (P-ANCA). HCCS có ANCA dương tính và âm tính có thể khác nhau. Điều này được gợi ý từ một phân tích cắt ngang đa trung tâm 112 bệnh nhân với chẩn đoán mới HCCS. Tình trạng ANCA dương tính có liên hệ với tổn thương thận, bệnh thần kinh ngoại biên và viêm mạch trên sinh thiết, trong khi tình trạng ANCA âm tính liên hệ với bệnh tim và sốt. Đặc điểm X quang Bất thường X quang ở bệnh nhân HCCS khá phong phú, bao gồm: Mờ thoáng qua và rải rác (75% bệnh nhân), không phân bố theo phân thuỳ hay vùng Mờ đối xứng phân bố ở vùng nách và ngoại biên Mờ toả ra từ rốn phổi kèm hạch (adenopathy) ở rốn phổi Mờ mô kẽ hay đốm nhỏ lan toả Xuất huyết phổi gây mờ rộng Bệnh nốt, 2 bên, không tạo hang Bệnh tuyến rốn phổi (ít gặp) Tràn dịch màn phổi, gặp ở 30% bệnh nhân, thường dịch tiết và tăng bạch cầu ái toan. Chụp CT scan với độ phân giải cao cho thấy động mạch phổi ngoại biên phình rộng đáng kể (khi so sánh với phế quản tương ứng) kèm với hình dạng hình sao hoặc bất thường của một số động mạch phổi (được xem là dấu hiệu viêm mạch) có thể giúp ích gợi ý chẩn đoán HCCS. Cũng có thể gặp dày quanh phế quản, các vùng dày vách, các ổ đông đặc rải rác, không rõ ràng, rộng khắp. Một nghiên cứu cho thấy đông đặc nhu mô và hình ảnh kính mờ có ở 10 trong số 17 bệnh nhân (Worthy, 1998). Chụp mạch máu ở HCCS cho thấy phình mạch ở gan và thận, có thể nhầm với viêm đa động mạch nốt Xét nghiệm chức năng phổi Kết quả xét nghiệm chức năng phổi có thể cho thấy tổn thương tắc nghẽn phù hợp với hen. Chẩn đoán Chẩn đoán HCCS được gợi ý từ bệnh cảnh lâm sàng và sau đó được xác nhận bằng sinh thiết phổi hay sinh thiết mô bị ảnh hưởng trên lâm sàng, như sinh thiết mù dây thần kinh hiển ngoài ở bệnh nhân bệnh thần kinh với nghi ngờ HCCS. Xét nghiệm ANCA không có ích để thiết lập hoặc loại trừ chẩn đoán vì tần suất thử nghiệm ANCA dương tính thấp ở bệnh nhân HCCS. Đặc điểm bệnh học Sinh thiết phổi qua phẫu thuật là "tiêu chuẩn vàng" trong chẩn đoán HCCS. Ngược lại, sinh thiết phổi xuyên phế quản nhìn chung không có ích. Các dữ kiện mô học chính: Tẩm nhuận bạch cầu ái toan Vùng hoại tử nổi bật và đôi khi khá rộng Viêm mạch tế bào lớn, tằng bạch cầu ái toan, đặc biệt là động mạch nhỏ và tĩnh mạch U hạt hoại tử mô kẽ và quanh mạch Bệnh tuyến lympho tăng bạch cầu ái toan (30 - 40% bệnh nhân) Tiêu chuẩn phân loại Một số hệ thống phân loại khác nhau cho HCCS đã được đề nghị và so sánh. Hội Khớp học Hoa Kỳ (American College of Rheumatology) đã thiết lập 6 tiêu chuẩn phân loại HCCS ở bệnh nhân được ghi nhận viêm mạch. Sự có mặt từ 4 tiêu chuẩn trở lên cho độ nhạy 85% và độ đặc hiệu 99,7% HCCS: Hen (tiền sử thở khò khè hoặc tìm thấy tiếng rít âm sắc cao lan toả khi thở ra) Tăng bạch cầu ái toan > 10% trên mẫu đếm bạch cầu Bệnh đơn dây thần kinh (bao gồm đa ổ) hay bệnh đa dây thần kinh Đám mờ phổi thoáng qua hoặc di chuyển phát hiện trên X quang Bất thường xoang cạnh mũi Sinh thiết chứa mạch máu cho thấy tích tụ bạch cầu ái toan ở vùng ngoại mạch Điều trị Hầu hết bệnh nhân HCCS đáp ứng thuận lợi với điều trị corticosteroid liều cao. Liều từ 0,5 - 1.5 mg/kg/d thường được dùng nhất trong 6 - 12 tuần hoặc cho đến khi bệnh đã hoàn toàn được giải quyết. Liều cao hơn cần ở bệnh nhân viêm mạch, đặc biệt nếu chức năng tim hoặc thận bị tổn thương, hoặc khi hiện diện bệnh thần kinh. Theo dõi đáp ứng với điều trị và tái phát bằng số lượng bạch cầu ái toan và tốc độ lắng hồng cầu. ANCA duong tính dai dẳng ở HCCS cũng là dấu hiệu của diễn tiến bệnh cơ bản, nhưng không đủ phản ánh mức hoạt động của bệnh, do đó không được dùng để quyết định thay đổi trong điều trị. Biểu hiện X quang có thể vẫn ổn định hoặc thoái lui nhanh chóng với điều trị corticosteroid. Hiếm gặp tái phát muộn sau một đáp ứng thành công với điều trị. Do đó, điều trị có thể được chấm dứt ở hầu hết bệnh nhân. Tuy nhiên, ngưng điều trị sớm có thể dẫn đến tái phát. Tăng huyết áp nên được điều trị theo phương pháp tiêu chuẩn, nhưng có thể khó kiểm soát. Các điều trị khác Steroid hít: điều trị bệnh đường hô hấp trên và dưới Cyclophosphamine, azathioprine và globulin miễn dịch tiêm mạch liều cao có thể được dùng ở bệnh nặng, bộc phát, và ở bệnh nhân không đáp ứng với corticosteroid. Phương thức này được dùng theo cùng kiểu như trong đa u hạt Wegener. Một số bệnh nhân không đáp ứng với corticosteroid và cyclophosphamide có thể cải thiện với phác đồ gồm corticosteroid và interferon-alpha. Thay huyết tương thỉnh thoảng được dùng cùng với các điều trị khác, nhưng một nghiên cứu hồi cúu trên 140 bệnh nhân viêm thận cầu thận do HCCS hay viêm đa mạch vi thể cho thấy thay huyết tương không mang thêm ích lợi vào điều trị với corticosteroid, kèm hoặc không kèm cyclophosphamide (Guillevin, 1997). Tiên lượng Mặc dù tiên lượng của HCCS không rõ ràng, điều trị có vẻ làm giảm đáng kể tỉ lệ tử vong. Trước khi dùng steroid, 50% bệnh nhân không điều trị tử vong trong vòng 3 tháng khởi phát viêm mạch. Ngày nay tỉ lệ sống sót hơn 70% sau 5 năm. Hầu hết tử vong do biến chứng của pha viêm mạch, thường do: Suy tim và/hoặc nhồi máu cơ tim Xuất huyết não Suy thận Xuất huyết dạ dày ruột Cơn hen ác tính Sự có mặt/không có mặt của một số đặc điểm lâm sàng liên hệ mạnh với tỉ lệ tử vong. Năm yếu tố có vẻ ảnh hưởng quan trọng đến dự hậu của bệnh nhân HCCS: Triệu chứng ở tim Bệnh dạ dày ruột Suy thận (nồng độ creatinine huyết tương > 1,6 mg/dl [141 mmol/l]) Protein niệu (> 1 g/d) Triệu chứng thần kinh trung ương Trong số đó, sự hiện diện của bệnh tim mạch hay dạ dày ruột có vẻ là dấu hiệu mạnh nhất cho một dự hậu xấu. Tỉ lệ tử vong sau 5 năm là 12% nếu không có yếu tố nào trong 5 yếu tố trên hiện diện, 26% nếu 1 yếu tố hiện diện, 46% nếu từ 3 yếu tố trở lên hiện diện (Guillevin, 1996). Một giai đoạn hen ngắn trước khi khởi phát viêm mạch cũng cho thấy dự hậu xấu hơn. Vai trò của việc đo ANCA trong dự hậu vẫn chưa được biết đến.
Nguyễn Trọng Cảnh có thể là: Trần Quốc Hoàn: tên thật là Nguyễn Trọng Cảnh (23 tháng 1 năm 1916 - 1986) là Bộ trưởng Công an đầu tiên của Việt Nam và tại chức trong thời gian dài nhất từ năm 1952 đến năm 1981. Nguyễn Trọng Cảnh (nhà khoa học): được biết đến vì đạt điểm tuyệt đối 42/42, huy chương vàng Olympic Toán học Quốc tế lần thứ 44 năm 2003; Khi đạt huy chương với điểm tuyệt đối, Cảnh đang là học sinh của Trường Trung học phổ thông Chuyên, Đại học Sư phạm Hà Nội. Nguyễn Trọng Cảnh sau đó theo học với học bổng về Toán và Vật lý Lý thuyết tại các trường đại học hàng đầu của Pháp và hiện là 1 nhà nghiên cứu về Trí tuệ Nhân tạo.
Họ Côca (danh pháp khoa học: Erythroxylaceae) là một họ thực vật có hoa, chứa 4 chi và khoảng 240 loài. Loài được biết đến nhiều nhất là cây côca (Erythroxylum coca). Các chi Aneulophus Erythroxylum: Khoảng 230 loài Nectaropetalum (bao gồm cả Peglera) Pinacopodium Phát sinh chủng loài Cây phát sinh chủng loài dưới đây lấy theo Schwarzbach A. E. và Ricklefs R. E. (2000). Ghi chú
Họ Lanh (danh pháp khoa học: Linaceae) là một họ thực vật có hoa, chủ yếu là cây thân thảo hoặc đôi khi là cây thân gỗ, rất ít khi là các cây thân gỗ lớn ở vùng nhiệt đới. Các lá đơn mép trơn gần như luôn luôn mọc so le, đôi khi có lá kèm. Các hoa lưỡng tính, dạng tỏa tia là các loại hoa 5 cánh, rất ít khi 4 cánh (gặp trong vùng nhiệt đới). Họ này phân bổ rộng khắp thế giới với khoảng 250 loài. Trong họ này có 8 chi với chi lớn nhất là chi Lanh (Linum) có khoảng 180-200 loài. Các chi Anisadenia Cliococca Hesperolinon Linum Radiola Reinwardtia Sclerolinon Tirpitzia Trong hệ thống Cronquist cũ thì họ Linaceae được đặt trong bộ riêng của chính nó là bộ Linales. Các phân loại mới hơn đặt nó trong bộ Sơ ri (Malpighiales). Chú thích
Đông Ba là một danh từ riêng, có thể chỉ: Chợ Đông Ba: ngôi chợ lớn nhất tại Huế Phường Đông Ba thuộc thành phố Huế Cửa Đông Ba: tên gọi dân gian của cửa Chánh Đông Kinh thành Huế Sông Đông Ba: con sông đào chạy dọc theo ranh giới phía đông Kinh thành Huế Chữ Đông Ba (东巴文), một loại chữ viết được sử dụng trong nền văn hóa Đông Ba của người Nạp Tây.
Cầu là một phương tiện nối liền 2 hay nhiều điểm khác nhau, giúp việc di chuyển giữa các vị trí ấy được dễ dàng hơn. Cầu là một công trình giao thông được bắc qua các chướng ngại nước như: rãnh nước, dòng suối, dòng sông, hồ, biển, thung lũng, hay các chướng ngại khác như: đường bộ, đường sắt... đảm bảo cho giao thông được liên tục. Từ nguyên Cầu là một từ Hán Việt cổ, bắt nguồn từ cách phát âm trong tiếng Hán thượng cổ của một từ tiếng Hán được viết bằng chữ Hán là "橋". Chữ Hán "橋" có âm Hán Việt tiêu chuẩn hiện đại là kiều. William H. Baxter và Laurent Sagart phục nguyên cách phát âm trong tiếng Hán thượng cổ của từ "橋" là *[g](r)aw. Lịch sử Cầu đã ra đời cách ngày nay rất lâu. Thể thức ban đầu của những cây cầu là tác phẩm của tự nhiên, là khúc cây đổ bắc ngang qua dòng nước. Thời gian đầu, người ta thường làm cầu từ một tấm ván mỏng, từ những cây gỗ đơn, tre, thậm chí là từ những tảng đá. Các cầu loại này thường không chịu được tải trọng lớn và cường độ giao thông cao. Những cây cầu vòm bằng đá và đường máng dẫn nước (aqueduct) được xây dựng đầu tiên thời Đế chế La Mã, một số còn tồn tại đến ngày nay như cầu Alcántara qua sông Tagus ở Tây Ban Nha. Tại nhiều vùng lãnh thổ khác cũng xây dựng nhiều loại cầu bằng những vật liệu khác nhau như gỗ, đá (Trung Quốc), gạch xây vữa (châu Âu), cầu treo đơn giản bằng dây thừng của thổ dân (Inca Nam Mĩ)...Cho đến thế kỉ 19 khi xảy ra cách mạng công nghiệp, các cầu bằng sắt rèn, rồi tiến đến bằng thép ra đời. Ngày nay, các loại cầu bằng bêtông trở nên phổ biến cùng với cầu thép. Nhịp cầu ngày càng được kéo dài, từ vài trăm mét như loại cầu dầm, cầu giàn bêtông ứng suất trước hoặc thép, và lên đến 2000 mét như cầu treo dây võng Akashi-Kaikyo (Nhật Bản). Cấu trúc, sự tiến triển và cách phân loại Hình ảnh về những mẫu cầu phổ biến Kết cấu cầu Kết cấu cầu là một lĩnh vực thuộc kết cấu xây dựng. Độ khó trong xây dựng cầu nằm tại kết cấu của nó, nên việc thiết kế cầu vẫn chủ yếu do các kỹ sư xây dựng thực hiện mà ít có đóng góp của kiến trúc sư. Kết cấu nhịp Kết cấu nhịp cầu bao gồm: mặt cầu (gồm có bản mặt bằng bêtông cốt thép hoặc thép hoặc gỗ, các lớp phủ như lớp chống nước, bêtông asphalt...), dầm dọc và dầm ngang, kết cấu nhịp chịu tác dụng của tải trọng bản thân cầu gọi là tĩnh tải, cùng với tải trọng người, xe trên cầu gọi là hoạt tải, ngoài ra còn có tác dụng của gió, của động đất (trường hợp đặc biệt), toàn bộ tải trọng này được truyền xuống đất qua hệ thống mố trụ cầu Mố cầu Bộ phận ở hai đầu cầu và nối tiếp giữa cầu với đường gọi là mố cầu. Mố cầu ở cuối cầu và tạo thành cấu trúc chuyển tiếp từ đường tới mặt cầu. Nó tiếp nhận một phần tải trọng của kết cấu nhịp truyền xuống và chịu tác dụng của đất đắp sau mố (đường tiếp nối vào cầu). Cấu trúc của mố cầu bằng bê tông cốt thép và bao ngoài bằng đá hộc, đá tảng gắn kết bằng xi măng mác cao. Trụ cầu Bộ phận giữa hai mố cầu để cho kết cấu nhịp tựa lên gọi là trụ cầu. Do nhiều yêu cầu về kinh tế kĩ thuật chiều dài kết cấu nhịp không thể quá dài. Để vượt được khoảng cách lớn yêu cầu phải có cọc chống đỡ trung gian dó là trụ cầu. Trụ cầu truyền tải từ kết cấu nhịp xuống móng công trình. Đối với loại cầu dây văng hoặc cầu treo thì trụ cầu thường được làm cao hẳn hơn bản mặt cầu, để treo, neo dây cáp chịu lực, gọi là trụ tháp. Mố trụ cầu rất quan trọng trong tổng thể của công trình cầu vì vậy khi thiết kế mố trụ cần chú ý đến nhiều yếu tố không những phải chịu được lực truyền từ kết cấu nhịp bên trên xuống mà còn các yếu tố khác tác dụng vào mố trụ: đối với mố là lực đẩy ngang của đất, đối với trụ là sự va đập của các phương tiện giao thông: tàu thuyền vào trụ cầu (cầu vượt sông), xẹ cộ (cầu cạn); ngoài ra trụ cầu qua sông còn phải chịu các yếu tố thủy lực như lực đẩy nổi, lực do dòng chảy tác động. Những yếu tố ăn mòn cũng tác động mạnh đến trụ cầu; như han rỉ. Móng cầu Móng cầu là bộ phận bên dưới cùng của một cây cầu, làm bằng bê tông cốt thép. Móng có tác dụng truyền và phân bố toàn bộ tải trọng xuống nền đất sao cho toàn bộ kết cấu đứng vững trên đất mà không bị phá hoại do nền đất bị vượt quá sức chịu tải...
Họ Hà nu (danh pháp khoa học: Ixonanthaceae) là một họ thực vật có hoa, chứa khoảng 30 loài trong 4 hoặc 5 chi, phân bổ ở vùng nhiệt đới châu Mỹ, châu Phi và châu Á. Loài được biết đến nhiều nhất ở Việt Nam là hà nu (Ixonanthes cochinchinensis). Hình ảnh Chú thích
Họ Sơ ri hay còn gọi là họ Kim đồng, họ Dùi đục (danh pháp khoa học: Malpighiaceae) là một họ của khoảng 65-70 chi thực vật có hoa trong bộ Sơ ri (Malpighiales), có nguồn gốc ở các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới, chủ yếu phân bổ ở khu vực Nam Mỹ. Các chi Hình ảnh Ghi chú Davis, C. C., and W. R. Anderson. 2010. A complete phylogeny of Malpighiaceae inferred from nucleotide sequence data and morphology. American Journal of Botany 97: 2031–2048.
Chi Cùm rìa (Xơ ri vuông) (danh pháp khoa học: Malpighia) là một chi của khoảng 45 loài cây bụi hoặc cây thân gỗ nhỏ trong họ Sơ ri (Malpighiaceae), có nguồn gốc ở khu vực Caribe, Trung Mỹ, và miền bắc Nam Mỹ. Các loài có thể cao tới 1–6 m, với tán lá dày, thường có gai. Lá thường xanh dạng lá đơn, dài 0,5–15 cm, với mép lá trơn hoặc có răng cưa. Hoa đơn hoặc mọc thành tán với từ 2 hoa trở lên trong một cụm, mỗi hoa có đường kính khoảng 1–2 cm với 5 cánh hoa có màu trắng, hồng, đỏ hay tía. Quả là loại quả mọng màu đỏ, da cam hay tía, chứa 2-3 hạt cứng. Nó là loại quả có vị ngọt và nhiều nước, rất giàu vitamin C. Một số loài điển hình Malpighia aquifolia Malpighia coccigera Malpighia cubensis Malpighia emarginata Malpighia glabra (sơ ri) Malpighia mexicana Malpighia suberosa Malpighia urens Chú thích
Cầu Bosphorus (Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Boğaziçi Köprüsü hay 1. Boğaziçi Köprüsü) là cây cầu treo ở Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ bắc qua eo biển Bosphorus, là eo biển nằm giữa 2 lục địa Á-Âu. Cây cầu treo có chiều dài 1.510 m, chiều rộng 39 m. Khoảng cách giữa những tháp (giữa những nhịp chính) là 1.074 m (dài thứ 12 thế giới vào năm 2004). Chiều cao thông thuyền là 64 m.
Cầu trong tiếng Việt có nhiều nghĩa: Cầu: một công trình kiến trúc, bắc qua các chướng ngại vật, làm cho giao thông được thông suốt Mặt cầu: hình cầu trong không gian Cầu (nha khoa): bộ phận làm giả để thay chiếc răng bị mất Cầu nguyện Cầu (âm nhạc): cái cầu đàn của đàn tranh Cầu (thể thao): một dụng cụ thể thao Cầu (xe): một bộ phận của ô tô Cầu (kinh tế): là một thuật ngữ dùng để diễn đạt thái độ của người mua và khả năng mua về một loại hàng hóa. Chỉ lượng cầu của người tiêu dùng, của thị trường, của nền kinh tế Cầu, một thuật ngữ dùng trong xổ số Tên một con sông thuộc hệ thống sông Thái Bình: sông Cầu.
Hạ calci máu (tiếng Anh: hypocalcemia) được định nghĩa là nồng độ calci huyết tương toàn phần thấp hơn 2,2 mmol/l (hay 8,8 mg/dL). Một cách chính xác hơn, hạ calci máu được định nghĩa khi nồng độ calci ion hóa trong huyết tương thấp hơn 1,16 mmol/l (hay 4,6 mg/dL) bởi chính phần calci ion hóa này mới là phần calci lưu hành có tác dụng sinh học và được điều hòa bởi các hormone của cơ thể. Tổng quan Calci là chất khoáng thiết yếu cho hoạt động bình thường của rất nhiều quá trình nội và ngoại bào khác nhau bao gồm co cơ, dẫn truyền thần kinh, phóng thích hormone và đông máu. Ngoài ra, ion calci còn đóng một vai trò then chốt trong hệ thống truyền tin nội bào và liên quan đến quá trình điều hòa hoạt động của nhiều enzyme khác nhau. Do đó duy trì hằng định nội môi calci có ý nghĩa sống còn đối với cơ thể. Nồng độ calci nội và ngoại bào đều được kiểm soát và điều hòa một cách chặt chẽ nhờ quá trình vận chuyển calci theo hai hướng qua màng bào tương và màng các bào quan như hệ thống lưới nội bào tương, hệ thống lưới nội bào tương của tế bào cơ và ty lạp thể. Sự vận chuyển ra khỏi khu vực bào tương vào bên trong các bào quan chứa nhiều protein gắn calci này có tác dụng duy trì nồng độ ion calci trong bào tương ở mức rất thấp, chỉ ở mức μmol (thấp hơn 1/1000 so với nồng độ calci huyết tương). Bởi vì calci hiện diện trong bào tương ở nồng độ thấp như vậy nên nó rất thích hợp cho hoạt động của nó trong vai trò chất truyền tin nội bào thứ hai. Mặc dù có vai trò nội bào rất quan trọng nhưng khoảng 99% lượng calci của cơ thể được dự trữ ở xương (khoảng 1 kg calci). Tại đây calci liên kết với các ion khác để tạo nên các dạng tinh thể hydroxyapatite. Khoảng 1% calci của xương có thể trao đổi tự do với dịch ngoại bào và như vậy lượng calci này có vai trò đệm, hạn chế những dao động trong cân bằng calci. Thuật ngữ "calci máu" (calcemia) là một thuật ngữ không chuẩn xác nhưng vẫn thường được dùng để miêu tả nồng độ của calci huyết tương. Nồng độ calci huyết tương toàn bộ dao động từ 8,8 đến 10,4 mg/dL (2,20 đến 2,60 mmol/L). Khoảng 40% calci toàn phần gắn với các protein huyết tương, chủ yếu là albumin. Khoảng 50% calci toàn phần ở dạng tự do ion hóa, là dạng có hoạt tính sinh học quan trọng nhất. Phần còn lại gắn với các hợp chất vô cơ khác như với phosphate và citrate. Định lượng calci ion hóa cung cấp những thông tin có giá trị chẩn đoán cao ở những bệnh nhân nghi ngờ có sự rối loạn nồng độ các protein gắn Ca. Duy trì lượng calci dự trữ của cơ thể cũng như nồng độ calci huyết tương phụ thuộc vào lượng calci thu nhận hằng ngày qua ăn uống, hấp thu tại ống tiêu hóa và bài tiết ở thận. Mỗi ngày, lượng calci trong thức ăn được tiêu hóa vào khoảng 1000 mg. Cơ thể bài tiết vào ống tiêu hóa khoảng 200 mg/ngày theo dịch mật và các dịch tiết khác. Tùy thuộc vào nồng 1,25-dihydroxyvitamin D lưu hành mà có từ 200 đến 400 mg calci được hấp thu từ ống tiêu hóa. Phần còn lại từ 800 đến 1000 mg (20 to 25 mmol) mất qua phân. Cân bằng calci thực sự được duy trì thông qua sự bài tiết calci ở thận vào khoảng 200 mg/ngày (5 mmol/ngày). Điều hòa chuyển hóa calci Chuyển hóa calci và phosphate (PO4-) có liên quan mật thiết với nhau. Điều hòa hằng định nội môi của cả Ca và PO4 chịu ảnh hưởng lớn bởi nồng độ lưu hành của hormone cận giáp (PTH), vitamin D, và các hormone khác như calcitonin, T3, glucocorticoide nhưng ở mức độ ít hơn. Nồng độ calci và phosphate vô cơ cũng phụ thuộc vào khả năng phản ứng giữa chúng với nhau để hình thành muối calcium phosphate. Bình thường thì tích số nồng độ của Ca và PO4 (tính theo mEq/L) trong cơ thể vào khoảng 60. Khi tích số của Ca và PO4 hòa tan vượt quá 70, nguy cơ kết tủa tinh thể calcium phosphate ở các mô mềm là rất lớn. Kết tủa tinh thể này tại tổ chức mạch máu có ý nghĩa bệnh lý rất lớn vì nó đẩy nhanh tốc độ hình thành bệnh xơ cứng mạch máu. PTH là một polypeptide có 84 amino acid được sản xuất và giải phóng bởi tuyến cận giáp. Hormone này có một số chức năng khác nhau nhưng chắc chắn chức năng quan trọng nhất vẫn là chống hạ calci máu. Nồng độ Ca huyết tương sẽ tăng lên trong vòng vài phút dưới nhiều tác động khác nhau của PTH bao gồm tăng tái hấp thu Ca tại thận, tăng hấp thu Ca và nhanh chóng huy động Ca và PO4 từ xương (bone resorption). Vitamin D được biến đổi tại thận nhờ enzyme 1- -hydroxylase thành dạng hoạt động sinh học mạnh nhất là 1,25-dihydroxycholecalciferol [hay còn gọi là 1,25(OH)2D3]. 1,25(OH)2D3 tăng vận chuyển Ca qua ruột một phần thông qua khả năng điều hòa tổng hợp các protein gắn Ca ở niêm mạc ruột. PTH tăng cường hấp thu Ca từ ruột do thúc đẩy sản xuất 1,25(OH)2D3. Mặc dù PTH có tác dụng làm tăng hấp thu Ca tại đường tiêu hóa nhưng nếu PTH tăng cao kéo dài thì sẽ gây nên tình trạng hấp thu xương do ức chế chức năng của tạo cốt bào (osteoblast) và tăng cường chức năng của hủy cốt bào (osteoclast). Calcitonin là một hormone có bản chất polypeptide chứa 32 amino acid được bài tiết bởi tế bào C của tuyến giáp. Calcitonin có tác dụng làm hạ nồng độ Ca huyết tương thông qua kích thích tế bào thu nhận Ca, tăng thải qua thận và tăng hình thành xương. Các tác dụng của calcitonin trên xương yếu hơn nhiều so với PTH và vitamin D. Nguyên nhân Hạ Ca máu xuất hiện khi lượng Ca mất từ khoang ngoại bào vượt quá lượng Ca cung cấp từ ruột và xương. Như vậy hạ Ca máu là hậu quả của (1) hoặc là tình trạng mất quá nhiều Ca ion hóa lưu hành trong tuần hoàn (do lắng đọng vào các tổ chức, vào xương, mất qua nước tiểu, gắn kết quá nhiều với albumine hoặc các hợp chất vô cơ khác) (2) hoặc là giảm lượng Ca đi vào tuần hoàn (ruột kém hấp thu, giảm huy động Ca từ xương). Thiểu năng cận giáp Thiểu năng cận giáp là tình trạng giảm hoặc không có PTH. Bệnh được đặc trưng bởi hạ Ca máu và tăng phosphate máu và thường đi kèm với tetany mạn tính. Thiểu năng cận giáp thường là hậu quả của sự cắt bỏ nhầm hoặc sự tổn thương của một vài tuyến cận giáp trong phẫu thuật cắt tuyến giáp. Các trường hợp thiểu năng cận giáp mắc phải khác rất hiếm gặp là do các bệnh lý lắng đọng tại tuyến cận giáp như nhiễm thiết sắc tố (hematocromatosis), bệnh Wilson, u hạt hay ung thư di căn. Thiếu vitamin D Thiếu viatmin D là nguyên nhân quan trọng của hạ Ca máu. Thiếu vitamin D có thể do lượng cung cấp không đủ hoặc do giảm hấp thu là hậu quả của các bệnh lý gan mật hoặc kém hấp thu do nguyên nhân tại ruột. Thiếu vitamin D cũng có thể xảy ra do thay đổi chuyển hóa của vitamin D dưới tác dụng của một số thuốc (phenytoin, phenobarbital và rifampin) hoặc do da ít tiếp xúc với ánh nắng. Một số rối loạn di truyền có liên quan đến chuyển hóa vitamin D thành dạng hoạt tính cũng gây nên còi xương. Bệnh lý ống thận Các bệnh lý ống thận như hội chứng Fanconi do các chất độc thận chẳng hạn kim loại nặng và chứng nhiễm toan ống lượn xa (distal renal tubular acidosis) có thể gây nên hạ Ca máu trầm trọng do mất Ca bất thường qua thận cũng như giảm chuyển vitamin D thành vitamin D dạng hoạt động. Đặc biệt cadmium gây hạ Ca máu do làm tổn thương các tế bào ống lượn gần và cản trở chuyển đổi vitamin D. Bệnh lý ống thận có thể gây nên chứng loãng xương nhưng chủ yếu loãng xương trong trường hợp này là của tình trạng nhiễm toan mạn tính. Suy thận Suy thận có thể gây nên hạ Ca máu, hậu quả của giảm hình thành 1,25(OH)2D3 do tổn thương trực tiếp các tế bào thận cũng như do tăng phosphate vì thận giảm bài tiết chất này. Thiếu hụt magnesi Kém hấp thu từ đường tiêu hóa, chứng nghiện rượu kinh niên và điều trị bằng thuốc cisplastine là những nguyên nhân chính gây hạ magnesi máu. Có thể có thiếu PTH tương đối và các cơ quan đích kém nhạy cảm với PTH trong trường hợp thiếu hụt magnesi với nồng độ magnesi trong máu thấp hơn 1,0 mEp/L (< 0,5 mmol/L). Bù magnesi có tác dụng cải thiện nồng độ PTH và cải thiện khả năng giữ Ca của thận. Tình trạng hạ magnesi còn có thể thấy ở những bệnh nhân được nuôi dưỡng bằng đường tĩnh mạch dài ngày, điều trị lợi tiểu và điều trị các kháng sinh thuộc họ aminoglycoside. Mặc dù có tình trạng kém đáp ứng với PTH, phần lớn bệnh nhân hạ Mg máu có nồng độ phosphate huyết thanh bình thường hoặc giảm có lẽ là do lượng phosphate trong thức ăn đưa vào thấp. Trong tất cả trường hợp vừa nói ở trên thì tình trạng hạ Ca máu không thể điều trị thành công bằng việc cung cấp Ca đơn thuần mà điều trị đặc hiệu là bù Magnesi. Do vậy khi đánh giá bệnh nhân nghi ngờ hạ Ca máu, việc xét nghiệm magnesi là bước không thể thiếu. Viêm tụy cấp Viêm tụy cấp gây hạ Ca máu khi Ca tạo chelate với các sản phẩm phân hủy mỡ được giải phóng từ tổ chức tụy bị viêm. Hạ protein máu Hạ protein máu do bất kỳ nguyên nhân gì cũng có thể làm giảm lượng protein gắn với protein. Hạ Ca máu do giảm lượng Ca gắn với protein không gây triệu chứng lâm sàng do lượng Ca ion hóa không thay đổi. Tình trạng này còn được gọi là hạ Ca máu giả tạo (factitious hypocalcemia). Tăng cường tạo xương trong khi lượng cung cấp không đủ Tăng cường tạo xương trong khi lượng cung cấp không đủ cũng có thể gây nên hạ Ca máu. Bệnh thậm chí cũng có thể gặp ở những bệnh nhân điều trị nhiễm toan chuyển hóa dài ngày. Sốc nhiễm trùng huyết Nhiễm trùng huyết gây hạ Ca máu do ức chế giải phóng PTH cũng như ức chế quá trình chuyển 25(OH)D3 thành 1,25(OH)2D3. Tăng phosphate máu Tăng phosphate máu gây nên hạ Ca máu do rất nhiều cơ chế nhưng không có cơ chế nào được biết rõ ràng. Bệnh nhân suy thận gây tăng ứ đọng phosphate thường có khuynh hướng hạ Ca máu. Nguyên nhân do thuốc Các thuốc gây hạ Ca máu là do những thuốc điều trị tăng Ca máu, thuốc chống co giật (phenytoin, phenobarbital) và rifampicin (các thuốc này biến đổi chuyển hóa của vitamin D), các thuốc cản quang chứa ethylenediaminetetraacetate, là một chất tạo chelate hóa trị 2. Tăng tiết calcitonin Về mặt lý thuyết thì khi nồng độ calcitonin trong máu quá cao có thể gây hạ Ca máu nhưng trong thực tế người ta ít gặp trường hợp giảm Ca huyết tương ở bệnh nhân có lượng calcitonin rất cao lưu hành trong máu như trong carcinoma tủy tuyến giáp. Tăng phản ứng tạo chelate của Ca trong lòng mạch Quá trình tạo chelate nội mạch có thể xảy ra khi sử dụng các chất như citrate, lactate, foscanet làm giảm lượng Ca ion hóa mà không làm thay đổi nồng độ Ca toàn phần. Nhiễm toan hô hấp cấp làm tăng quá trình gắn Ca ion hóa vào albumin do đó làm giảm nồng độ Ca ion hóa. Tăng lắng đọng Ca ở khoang ngoại mạch Tăng phosphate máu do suy thận, do dùng phosphate, do ly giải cơ vân (rhabdomyolysis) hoặc do ly giải khối u lớn (ví dụ trong hóa trị liệu chống ung thư) có thể gây nên hạ Ca máu cấp. Trong trường hợp tăng phosphate máu cấp tính, Ca có thể sẽ lắng đọng một lượng rất lớn ở xương nhưng cũng có thể lắng đọng ngoài xương. Một số bệnh nhân ung thư di căn đến xương, đặc biệt là bệnh nhân ung thư vú và ung thư tiền liệt tuyến, có thể biểu hiện tình trạng hạ Ca máu khả năng là do lắng đọng Ca trong các khu vực di căn. Triệu chứng Hạ Ca máu thường không có triệu chứng lâm sàng. Các biểu hiện lâm sàng của hạ Ca máu là do rối loạn điện thế màng tế bào. Cũng tương tự như đối với trường hợp tăng calci máu, triệu chứng của hạ Ca máu phụ thuộc vào mức độ cũng như tốc độ của hạ Ca. Các triệu chứng chủ yếu là hậu quả của tăng kích thích thần kinh cơ. Bệnh nhân hạ Ca máu thường van co cứng cơ vùng lưng và chuột rút ở chân. Nếu hạ Ca máu hình thành trong một thời gian ngắn thì các triệu chứng lâm sàng thường xuất hiện rõ hơn. Nếu tốc độ hạ Ca máu chậm và âm ỉ thì có thể gây nên bệnh lý não lan tỏa mức độ nhẹ. Hạ Ca máu nặng với nồng độ Ca huyết tương < 7 mg/dL (< 1.75 mmol/L) có thể gây nên cơn tetany, co thắt thanh quản hoặc co giật toàn thân. Cơn Tetany là dấu hiệu đặc trưng của hạ Ca máu nặng nề. Nó cũng có thể xuất hiện khi nồng độ Ca ion hóa thấp mặc dù Ca máu toàn phần bình thường như trong trường hợp nhiễm kiềm nặng. Cơn tetany được đặc trưng bằng các trệu chứng cảm giác bao gồm dị cảm ở môi, lưỡi, ngón tay ngón chân, dấu bàn đạp (carpopedal spasm: bàn chân duỗi ra như thể đang đạp xe đạp) có thể kéo dài và gây đau đớn. Trong cơn tetany còn có thể xuất hiện đau cơ toàn thân và co giật các cơ vùng mặt. Cơn tetany có thể là những biểu hiện tự phát hoặc tiềm tàng và cần có các kích thích mới biểu hiện rõ. Cơn tetany tiềm tàng xảy ra khi nồng độ Ca máu giảm nhưng ít trầm trọng hơn: từ 7 đến 8 mg/dL (tương ứng từ 1.75 đến 2.20 mmol/L). Dấu Chvostek (Chvostek's sign) đôi khi có thể gặp ở người có nồng độ calci máu bình thường (khoảng 10%). Dấu hiệu này được miêu tả khi gõ lên dây thần kinh mặt ngay ở trên xương gò má thì thấy miệng của bệnh nhân co giật tự phát nhẹ, không kiểm soát được. Dấu Chvostek thường không có trong hạ Ca máu mạn tính. Dấu Trousseau (Trousseau's sign) xuất hiện khi chúng ta đo huyết áp ở cánh tay bệnh nhân và duy trì áp lực cao hơn huyết áp tâm thu 20 mmHg trong vòng 3 phút. Dấu hiệu dương tính khi cổ tay gập lại, khớp bàn – ngón gập lại, ngón tay cái gập lại trong khi các ngón khác ở tư thế duỗi. Dấu Trousseau cũng xuất hiện trong nhiễm kiềm, hạ Mg máu, hạ kali máu, tăng kali máu và ở khoảng 6% những người không hề có biểu hiện rối loạn điện giải nào. Rối loạn nhịp có thể xuất hiện trong một số trường hợp hạ Ca máu nặng. Điện tim điển hình của hạ Ca máu có QT và ST kéo dài. Thay đổi của quá trình tái cực như sóng T cao nhọn hoặc ngược lại sóng T âm cũng có thể gặp. Trường hợp nặng có thể đưa đến rung thất hoặc bloc nhĩ-thất. Không có một dấu hiệu riêng rẽ nào đặc trưng cho tình trạng hạ Ca máu nhưng khi các dấu hiệu này cùng xuất hiện trên một bệnh nhân thì có ý nghĩa gợi ý chẩn đoán khá tốt. Các dấu hiệu rối loạn chức năng kể trên xảy ra khi hạ Ca máu và cải thiện rõ khi nồng độ Ca máu trở về bình thường. Hạ Ca máu mạn tính gây nên nhiều bất thường khác nhau như da khô và bong vảy, móng tay dễ gãy và tóc khô. Nhiễm nấm candida da cũng có thể gặp trong hạ Ca máu mạn tính nhưng triệu chứng này thường là biểu hiện của thiểu năng cận giáp vô căn (xem phần nguyên nhân). Đục thủy tinh thể có thể gặp trong hạ Ca máu dài ngày và dấu hiệu này không hồi phục khi Ca huyết tương trở về bình thường. Chẩn đoán Chẩn đoán hạ Ca máu khi Ca huyết tương toàn phần < 8.8 mg/dL (< 2.20 mmol/L). Khi có biểu hiện lâm sàng thì Ca huyết tương toàn phần thường ≤ 7 mg/dL (≤ 1.75 mmol/L) nếu không có tình trạng nhiễm kiềm đi kèm. Thiếu hụt PTH được đặc trưng bằng hạ Ca huyết tương, tăng PO4 huyết tương và phosphatase kiềm bình thường. Mặc dù lượng Ca niệu thấp nhưng khi so sánh với mức độ giảm Ca máu thì lượng Ca niệu tăng tương đối. Trong chứng loãng xương hay còi xương, có thể thấy các bất thường điển hình của xương. Nồng độ PO4 huyết tương thường giảm nhẹ và phosphatase kiềm tăng cao phản ánh sự gia tăng huy động Ca từ xương. Định lượng 25(OH)D3 và 1,25(OH)2D3 huyết tương có thể giúp phân biệt thiếu hụt vitamin D với các tình trạng phụ thuộc vitamin D. Còi xương hạ phosphate máu có tính chất gia đình là do mất PO4 qua thận. Nguyên tắc điều trị Điều trị hạ calci máu được bắt đầu bằng dùng calci. Việc chọn lựa các dạng chế phẩm chứa calci cũng như cân nhắc sự cần thiết điều trị bằng các thuốc hỗ trợ hay không tùy thuộc vào mức độ của hạ calci máu cũng như các bệnh lý nguyên nhân. Những bệnh nhân hạ calci máu có triệu chứng lâm sàng hoặc những bệnh nhân có nồng độ calci máu điều chỉnh thấp hơn 1,90 mmol/l (75 mg/l) có thể được điều trị bằng calci đường tĩnh mạch cho đến khi hết triệu chứng hoặc khi nồng độ Ca máu lên trên 1,90 mmol/l. Hạ calci máu mạn tính mức độ trung bình thường được điều trị bằng bù Ca đường uống. Vì calci liên kết với phosphate trong thức ăn và với oxalate để hình thành các dạng muối không hòa tan và không thể hấp thu được qua đường tiêu hóa cho nên Ca uống được hấp thu hiệu quả nhất khi dùng xa bữa ăn. Hiện tại chưa có chế phẩm PTH trên thị trường. Điều trị hạ calci máu cấp tính Hạ calci máu cấp tính thường gây nên các biểu hiện lâm sàng. Bệnh nhân có nồng độ calci huyết tương dưới 1,9 mmol/l cần được điều trị bằng calci tĩnh mạch. Truyền 15 mg/kg (0,375 mmol/kg) calci nguyên tố trong vòng 4 đến 6 giờ có thể làm tăng nồng độ calci máu toàn phần lên 0,5 đến 0,75 mmol/l (20 đến 30 mg/l). Nhiều dạng calci truyền tĩnh mạch khác nhau hiện có trên thị trường. Gluconate de calcium 10% trình bày dưới dạng ống 10 ml chứa 94 mg calci nguyên tố. Trong trường hợp cấp cứu, có thể dùng nguyên ống bơm tĩnh mạch chậm trong 4 phút, sau đó truyền tĩnh mạch liên tục. Không nên dùng chế phẩm dịch truyền nồng độ cao (200 mg Ca trong 100 ml) vì có nguy cơ gây ảnh hưởng chức năng tĩnh mạch và hoại tử trong trường hợp dịch truyền thoát mạch ra tổ chức dưới da. Thông thường người ta hòa 10 ống gluconate de calcium trong 900 ml dung dịch glucose 5% để đạt được một dung dịch chứa 940 mg calci nguyên tố/lít và dung dịch này có thể truyền tốc độ 50 ml/giờ khi mới bắt đầu và sau đó điều chỉnh tốc độ cho phù hợp. Đôi khi trong trường hợp cần thiết, dung dịch này được duy trì trong 4 đến 6 giờ. Glucoheptate de calcium 10% chứa 90 mg calci nguyên tố trong 5 ml dung dịch có thể hữu ích ở những bệnh nhân cần hạn chế dịch đưa vào. Clorure de calcium 10% có nồng độ còn cao hơn nữa (272 mg calci nguyên tố trong 10 ml !!!) có thể làm tăng nhanh chóng nồng độ calci máu. Tuy nhiên chế phẩm này rất độc với tĩnh mạch cho nên không được truyền tĩnh mạch kéo dài. Globionate de calcium sẵn có ở dạng uống chứa 23 mg calci nguyên tố trong 1 ml. Chế phẩm này được hấp thu và dung nạp rất tốt, là một chọn lựa thích hợp cho trẻ em hoặc người lớn không có đường truyền tĩnh mạch. Một số bệnh nhân, đặc biệt là các bệnh nhân thẩm phân máu có tình trạng hạ calci máu nặng sau cắt bỏ bán phần hoặc toàn phần tuyến cận giáp cần được tiêm cấp cứu calci và vitamin D. Ban đầu, calci thường được cho bằng đường tĩnh mạch sau đó tiếp tục với dạng uống kèm với vitamine D. Liều cao vitamine D đường tĩnh mạch thường được sử dụng: 1 đến 3 μg/ngày và giảm dần liều trong các tuần tiếp theo. Việc cho calcitriol và Ca trước khi phẫu thuật cắt bỏ tuyến cận giáp có thể phòng ngừa được tình trạng hạ Ca máu trầm trọng và giảm thiểu phản ứng dội tăng PTH vào giai đoạn sớm trong trường hợp cắt bỏ bán phần tuyến cận giáp. Điều trị hạ calci máu mạn tính Điều trị hạ calci máu mạn tính thường dựa trên cung cấp Ca đường uống và thường dùng kèm với vitamine D để tăng cao sự hấp thu qua đường tiêu hóa. Thông thường dùng một liều đầu tiên 1000 đến 2600 mg Ca (250 đến 650 mmol) chia thành 2–3 lần thậm chí đến 4 lần uống vào khoảng giữa các bữa ăn để tăng hấp thu. Các liều tiếp theo sau đó được điều chỉnh tùy theo nồng độ Ca máu mong muốn đạt được. Dạng thường dùng là carbonate de calcium, trình bày dưới dạng viên 500 đến 750 mg. Citrate de calcium cũng được hấp thu rất tốt nhưng nó lại làm tăng hấp thu nhôm qua đường tiêu hóa và có thể gây nguy cơ ngộ độc nhôm đặc biệt là ở bệnh nhân suy thận. Nên tránh dùng chế phẩm phosphate de calcium vì nó làm tăng phosphate máu cũng như tăng lắng đọng Ca ở di căn xương. Trong trường hợp thiếu vitamine D, thường cần phải bổ sung hormone này. Calcitriol đường uống có tác dụng tức thì vì nó không cần phải chuyển hóa mới có tác dụng sinh lý. Một liều 0,5 đến 1 μg thường là đủ (ngoại trừ trường hợp hạ Ca máu sau phẫu thuật cắt bỏ tuyến cận giáp, trong trường hợp này thì liều calcitriol cần tăng cao hơn nhiều). Dạng hoạt tính của vitamine D, tức là calcitriol, thường tốt hơn dạng tiền chất. Dạng tiền chất thường cần được chuyển đổi bởi quá trình 25-hydroxyl hóa ở gan hoặc 1α- hydroxyl hóa tại thận trong khi đó các quá trình này bị ảnh hưởng trong suy gan hoặc suy thận, trong thiểu năng tuyến cận giáp và còi xương phụ thuộc vitamine D type 1. Hơn nữa thời gian bán hủy ngắn của calcitriol có thể giảm nguy cơ ngộ độc vitamine D và nguy cơ tăng Ca máu thường kéo dài đối với các dẫn xuất chứa một nhóm hydroxyl.
Vòng đàm phán Uruguay là một loạt các cuộc đàm phán thương mại nối tiếp nhau từ tháng 9 năm 1986 cho đến tháng 4 năm 1994. Đây là vòng đàm phán thứ tám của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) với sự tham gia của 125 nước. Vòng đàm phán này mang tính chất lịch sử vì nó đã chuyển GATT thành Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Nó bắt đầu diễn ra tại Punta del Este, Uruguay (vì thế có tên là Vòng đàm phán Uruguay), tiếp theo là các cuộc đàm phán tại Montréal, Genève, Bruxelles, Washington, D.C. và Tokyo. Cuối cùng, các hiệp định của nó được ký trọn gói tại Marrakech, Maroc bao gồm một hiệp định về thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới và các phụ lục đi kèm là các hiệp định quy định về các vấn đề khác nhau trong thương mại quốc tế.
Họ Đại kích hay họ Thầu dầu(Euphorbiaceae) là họ lớn thứ năm trong tất cả các họ thực vật có hoa. Nó gồm khoảng 7,500 loài chia thành 300 chi, 37 tông và ba phân họ. Phần lớn là cây thân thảo, nhưng ở khu vực nhiệt đới cũng tồn tại các loại cây bụi hoặc cây thân gỗ. Một số loài cây là mọng nước, và tương tự như các loài xương rồng, là do tiến hóa hội tụ. Phân bố Họ này phân bổ chủ yếu ở khu vực nhiệt đới và ôn đới ấm trên khắp thế giới, với phần lớn các loài tập trung trong khu vực Indomalaya và sau đó là khu vực nhiệt đới châu Mỹ. Tại khu vực nhiệt đới châu Phi cũng có nhiều loài, giống, thứ, nhưng không đa dạng như hai khu vực kể trên. Tuy nhiên, chi Euphorbia cũng có nhiều loài trong các khu vực không nhiệt đới, chẳng hạn như khu vực Địa Trung Hải, Trung Đông, miền nam châu Phi hay miền nam Hoa Kỳ. Đặc điểm Lá mọc so le, hiếm khi mọc đối, với các lá kèm. Hình dạng lá chủ yếu là lá đơn, nhưng cũng có loài có lá phức, chủ yếu là loại dạng chân vịt, không thấy dạng lông chim. Các lá kèm có thể bị suy thoái thành gai, lông tơ hay các tuyến nhỏ. Hoa đối xứng xuyên tâm (tỏa tia) thường là đơn tính, với hoa đực và hoa cái thường cùng trên một cây. Như có thể dự đoán từ một họ lớn như thế này, ở đây có một sự đa dạng lớn về cấu trúc hoa. Chúng có thể là cùng gốc hay khác gốc. Các nhị hoa (cơ quan đực) có thể từ 1 tới 10 (hoặc nhiều hơn). Hoa cái là loại dưới bầu, có nghĩa là với bầu nhụy lớn. Các chi Euphorbia và Chamaesyce có một dạng cụm hoa đặc biệt khác thường, được gọi là hoa hình chén (cyathium). Nó là một dạng tổng bao tựa như một đài hoa nhỏ chứa các tuyến mật ngoại biên hình móng ngựa bao quanh một vòng các hoa đực, mỗi hoa đực có một nhị hoa. Tại phần giữa của cyathium là hoa cái: một lá noãn đơn với các đầu nhụy phân nhánh. Sự phân bố tổng thể này tạo ra một sự tương tự như một bông hoa đơn độc. Quả thường là loại quả nứt, đôi khi là quả hạch. Loại quả nứt điển hình là regma, một loại quả nang với ba hoặc nhiều hơn các ô, mỗi ô tách ra khi chín thành các phần riêng biệt và sau đó nổ để phân tán các hạt nhỏ. Các loài cây trong họ này chứa một lượng khá lớn độc tố thực vật (các chất có độc tính do cây tiết ra), chủ yếu là các este diterpen, ancaloit, glicozit. Hạt của quả thầu dầu (Ricinus communis) chứa protein liên kết cacbohydrat rất độc là ricin. Nhựa (mủ) dạng sữa hay latex là tính chất đặc trưng của các phân họ Euphorbioideae và Crotonoideae. Nhựa mủ này là độc hại ở phân họ Euphorbioideae, nhưng lại không độc ở phân họ Crotonoideae. Nhựa mủ của cây giá (Excoecaria agallocha) sinh ra các vết phồng rộp ở chỗ tiếp xúc và gây mù lâm sàng nếu tiếp xúc với mắt. Các tên gọi khác là buta buta (tiếng Mã Lai), gewa (tiếng Bengali ở Bangladesh). Phân loại Các nghiên cứu phát sinh chủng loài phân tử chỉ ra rằng Euphorbiaceae theo định nghĩa truyền thống là đa ngành, tạo thành vài nhóm trong bộ Malpighiales. Xử lý trong bài này phản ánh các kết quả của các nghiên cứu này. Các chi trước đây đặt trong phân họ Oldfieldioideae Eg. Köhler & G. L. Webster và Phyllanthoideae Beilschmied, với đặc trưng là 2 noãn trên mỗi ngăn, hiện nay được coi tương ứng là các họ Picrodendraceae và Phyllanthaceae, với 2 chi tách ra từ họ sau để lập thành họ Putranjivaceae; hai họ đầu dường như là các đơn vị phân loại chị em, có lẽ gần với phần còn lại của Euphorbiaceae truyền thống, trong khi đó họ thứ ba được đặt ở nơi khác trong bộ Malpighiales. Các chi còn lại, với đặc trưng 1 noãn trên mỗi ngăn, được coi như là Euphorbiaceae nghĩa hẹp và Peraceae Klotzsch. Bốn phân họ hiện tại được công nhận trong họ Euphorbiaceae nghĩa hẹp. Theo truyền thống, ba phân họ Acalyphoideae Beilschmied, Crotonoideae Beilschmied và Euphorbioideae Beilschmied được công nhận dựa theo sự tồn tại hoặc không tồn tại của tế bào nhựa mủ và hình thái phấn hoa. Các phân tích phát sinh chủng loài các dữ liệu phân tử hỗ trợ tính đơn ngành của Euphorbioideae. Phần lớn các chi của Crotonoideae truyền thống có độ hỗ trợ vừa phải như là nhóm đơn ngành. Các nghiên cứu này cũng hỗ trợ mạnh tính đơn ngành của phần lớn các chi trong Acalyphoideae và sự tách ra của phân họ nhỏ thứ tư là Cheilosoideae K. Wurdack & Petra Hoffmann. Các chi còn lại của Acalyphoideae và Crotonoideae được đặt trong vài nhánh nhỏ mà quan hệ của chúng với nhau và với phân họ thứ tư không được hỗ trợ tốt. Sử dụng Một loạt các loài cây trong họ Đại kích có tầm quan trọng kinh tế đáng kể. Các loài cây đáng chú ý nhất là sắn (Manihot esculenta), thầu dầu (Ricinus communis) và cao su (Hevea brasiliensis). Nhiều loài cây khác được trồng làm cây cảnh, chẳng hạn hoa trạng nguyên (hay nhất phẩm hồng, danh pháp Euphorbia pulcherrima).